Đức Phật và nàng hoa sen xanh - Tập 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐỨC PHẬT VÀ NÀNG HOA SEN XANH – TẬP 1

Tác giả : Chương Xuân Di

Dịch giả : Lương Hiền

Mã sách : 8935212317313

Nhà xuất bản : NXB Văn Học

Năm xuất bản : 2013

Tủ sách : Sách văn học Amun

Chủng loại : Văn học nước ngoài

Kích cỡ : 14.5x20.5 cm

Loại bìa : Mềm

Trọng lượng : 700 gram

Tổng số trang : 544 trang

Giá bìa : 129.000 VND

Posted by Đông Đông (LPD)

Tiểu hồ ly với bộ lông màu xanh lam tuyệt đẹp mắc bẫy người thợ săn, được một tiểu hòa thượng Tây Tạng cứu giúp trên đường đến Trung Nguyên. Từ đây số phận của hồ ly xinh đẹp gắn liền với cuộc đời của vị đại sư tuổi trẻ tài cao, lừng danh trong lịch sử Phật giáo Tạng truyền – Bát Tư Ba, người đã khiến cho Lạt ma giáo trở thành quốc giáo của các triều đại nhà Nguyên – Mông Cổ và bản thân Bát Tư Ba cũng là vị quốc sư được sùng bái rất mực vào triều đại Hốt Tất Liệt.

Nàng hồ ly Tiểu Lam sau 300 năm tu luyện đã nghe hiểu được tiếng người, nàng trở thành bạn tâm giao của hai anh em Bát Tư Ba và Kháp Na thuở thiếu thời. Tiểu Lam đã chứng kiến số phận “phi thường” của hai anh em Bát Tư Ba trong chuỗi những biến động lớn lao của thời cuộc, của lịch sử, của gia tộc và tôn giáo.

Một ngày nọ, nàng hồ ly hóa thành một cô gái xinh đẹp lạ thường với mái tóc và đôi mắt màu xanh lam kỳ ảo.

Kháp Na chôn chặt tình yêu trong lòng, cúi đầu trước vận mệnh trở thành vật hy sinh của hai cuộc hôn nhân sắp đặt, vì lợi ích của gia tộc.

Bát Tư Ba thông minh trác tuyệt, gánh vác trên vai trọng trách nặng nề của người đứng đầu giáo phái Sakya trong cuộc xung đột tôn giáo khốc liệt trên vùng đất tuyết Tây Tạng bao la.

Tiểu Lam trải đời và thấu hiểu, luôn lặng lẽ đi bên cạnh Bát Tư Ba và Kháp Na, ra sức giúp họ, hy sinh vì họ. Tình yêu sâu đậm dành cho vị đại sư tài ba như ngọn lửa ấm cứ len lỏi và âm thầm lớn dần trong tim nàng.

Thế rồi, Kháp Na kiên quyết chối bỏ trách nhiệm nối dõi tông đường sau hai cuộc hôn nhân thất bại thảm hại. Trách nhiệm đó, giờ đây sẽ thuộc về Bát Tư Ba.

Cuốn sách ngồn ngộn những tri thức quý báu và hiếm có về lịch sử triều đại nhà Nguyên, Mông Cổ, về lịch sử phật giáo Tây Tạng và những biến động to lớn của thời cuộc.

Tiểu thuyết này không dành tặng những ai muốn nhanh chóng tìm kiếm một chuyện tình bay bổng, lãng mạn. Chúng ta buộc phải nhẩn nha thưởng thức chầm chậm những dòng tri thức văn hóa, lịch sử, tôn giáo rất dày, rất sâu chảy cuồn cuộn trong cuốn sách, buộc phải có một cái nhìn thật sự nghiêm túc về tình thân, tình yêu, tình người trong sự hỗn mang của thời cuộc, để từ đó thêm thấu hiểu, thêm yêu thương và trân trọng những gì ta có.

 

Mở đầu

Mùa đông năm 2020, tại một hẻm núi sâu, ít người qua lại trên dãy Côn Luân.

- Cậu tỉnh rồi à?

Hàng mi khẽ rung động, chàng trai từ từ mở mắt. Cậu ta nheo cặp mắt sưng tấy, cố gắng xoay đầu nhìn xung quanh, kinh ngạc quan sát căn nhà gỗ nhỏ bé, đơn sơ của tôi.

- Nơi này là… là thiên đường ư? Cô là tiên nữ à?

Giọng nói khản đặc, bờ môi nứt nẻ, khóe môi vẫn còn vệt máu khô. Chàng trai khẽ cử động, vết nứt toác rộng thêm, những tia máu xối ra, nhuộm đỏ đôi môi tái nhợt, nhưng nhờ vậy, trông cậu ta có sinh khí hơn lúc trước.

- Thiên đường mà đơn giản thế này thôi sao? Và làm gì có cô tiên nào mang dị tật như tôi.

Tôi nhấc ấm trà khỏi lò than, rót cho chàng trai một chén trà bơ rồi tập tễnh về lại chỗ ngồi cạnh chiếc giường.

- Đừng lo lắng, cậu vẫn còn sống. Tôi thấy cậu nằm bất động trên tuyết nên đưa cậu về đây.

Củi than trong lò cháy bùng bùng, chiếu rọi phân nửa gương mặt tôi. Ánh mắt chàng trai bỗng rực sáng, không biết sức mạnh nào kéo cậu ta ngồi dậy, quên cả đón lấy chén trà, cứ nhìn tôi chăm chăm rồi ấp úng:

- Cô… cô… đẹp quá, thật sự là… rất… rất đẹp!

- Cậu không thấy có điều gì kỳ quái sao? - Tôi đã quá quen với những biểu cảm khác nhau của cánh đàn ông khi lần đầu họ thấy tôi nên chỉ mỉm cười. - Mắt xanh, tóc xanh, áo xanh, da trắng, trên trán còn có một vết sẹo nữa. Trông tôi đâu có giống người bình thường.

Anh chàng vẫn ngẩn ngơ nhìn tôi không chớp mắt:

- Có gì lạ đâu. Các cô gái trẻ thời nay còn trang điểm kỳ dị hơn cô nhiều. Cô mới chỉ nhuộm tóc, đeo kính áp tròng và dán hình xăm bông hoa lên trán thôi, ăn thua gì! Mà mắt xanh, tóc xanh càng tôn thêm làn da trắng bóc của cô. Lối phục trang cổ điển với tay áo dài màu xanh lam này càng làm nổi bật khí chất quý phái, tao nhã của cô. - Cậu ta hào hứng bình phẩm, hết lời khen ngợi. - Cô hệt như tiên nữ, chẳng giống người trần mắt thịt chút nào, cô không theo nghiệp diễn viên thì quả là uổng phí.

- Tôi không phải tiên nữ mà là yêu quái. Yêu quái thì mới kỳ dị thế này chứ! - Thấy cậu ta vẫn còn ngẩn ngơ, tôi khẽ nghiêng người sáp đến, nheo mắt, cố giả giọng lạnh lùng, ma mị. - Ngươi không sợ sao?

- Sợ gì? Sợ cô ư? - Cậu ta bật cười ha hả, dường như đã hoàn toàn bình phục. Cậu ta dạn dĩ nhìn vào mắt tôi, không mảy may sợ hãi, còn nháy mắt tinh nghịch. - Dù cô có là yêu quái thì cũng là một yêu quái tốt bụng. Nếu không, cô đã chẳng vất vả cứu tôi, cứ mặc cho tôi chết cóng trên tuyết ấy.

Tôi chăm chú nhìn vào mắt cậu ta vài giây nhưng không tìm được dù chỉ một tia sợ hãi. Giới trẻ ngày nay quả rất dạn dĩ, chẳng hề hoang mang khi nghe về yêu ma, quỷ quái. Tôi mỉm cười, trở lại tư thế cũ, đưa chén trà cho chàng trai:

- Cậu uống đi cho nóng. Nhiệt lượng của loại trà bơ này rất cao, có thể giúp cậu giữ ấm.

Cậu ta đón lấy, chậm rãi thưởng thức, sảng khoái xuýt xoa. Tôi ngồi xuống bên cạnh cậu ta, ngước nhìn bầu trời tối đen như mực qua khung cửa sổ. Gió rít dữ dội, những bông tuyết lớn cuộn tròn trong gió sắc, điên cuồng tìm kiếm những khe hở của căn nhà tồi tàn, ào ào trút giận. Chiếc chuông gió treo ngoài cửa bị lốc cuốn tứ phía, leng keng inh ỏi, hòa với tiếng gió, cùng tấu lên bản nhạc thời tiết ồn ã.

- Khuya rồi đấy, nếu cậu không thấy sợ thì hãy nghỉ lại đây đêm nay. Ngày mai, sau khi xuống núi, cậu phải nhanh chóng tìm bệnh viện gần nhất để khám chữa. Nơi đây là vùng cao nguyên băng giá, cậu vùi mình trong tuyết lạnh lâu như vậy, rất dễ mắc bệnh… - Tôi ngắc ngứ, phải mất một lúc mới tìm ra được từ ngữ diễn đạt chính xác, liền hớn hở vỗ tay. - Đúng rồi, bệnh phù phổi khi leo núi cao.

Chàng trai đặt chén trà xuống, phì cười:

- Cô nói chuyện rất thú vị, có chút hơi hướng cổ điển.

Tôi lấy làm mừng khi gương mặt chàng trai đã hồng hào trở lại. Thanh niên có khác, chỉ một chén trà bơ đã có thể khôi phục thể lực. Đón lấy chiếc chén không, tôi mỉm cười:

- Vậy ư? Tôi đã cố gắng bắt chước cách nói năng của con người thế kỷ 21, nhưng tiếc là tuổi tác đã cao, tôi muốn sửa mà không sửa được, thành ra chẳng giống ai.

Chàng trai trỏ ngón tay vào mình, cười nhạo người đối diện bằng vẻ hách dịch của kẻ bề trên:

- Cô năm nay bao nhiêu tuổi? Có đến mười tám, mười chín không? Cô biết tôi bao nhiêu tuổi rồi không? Tôi hai mươi sáu đó!

Chàng trai sở hữu nước da bánh mật khỏe khoắn, màu da đang rất được ưa chuộng hiện nay, đôi mắt sáng cuốn hút, gương mặt điển trai, chỉ có điều, vài ba nếp nhăn nơi đuôi mắt cộng với gò má sạm đỏ vì thời tiết giá buốt trên núi cao đã bồi tụ lên gương mặt của cậu ta vẻ từng trải và già dặn. Lần đầu gặp mặt, có lẽ ai cũng đoán cậu ta đã ngoài ba mươi.

Tôi bật cười vẻ thích thú:

- Cậu không biết yêu quái có phép thuật giúp giữ gìn nhan sắc à? Các bộ phim điện ảnh, phim truyền hình mà cậu thường xem vẫn có cảnh yêu quái ăn thịt người, uống máu người để duy trì sự trẻ trung và dung nhan đấy thôi.

Cậu ta vỗ ngực bôm bốp, cười sảng khoái:

- Hay lắm, rất thú vị! Không ngờ cô giàu trí tưởng tượng đến thế! Được thôi, nếu cô muốn ăn thịt tôi, tôi sẵn sàng. Dù sao thì chính cô đã cứu tôi. Được chết trong tay người đẹp, còn gì hạnh phúc bằng!

Tôi lắc đầu:

- Tất cả đều do con người tưởng tượng, bịa đặt. Loài hồ ly tu hành thành tinh, không cần phải ăn thịt người.

- Hóa ra cô là tiên nữ hồ ly cơ đấy! - Cậu ta tiếp tục cuộc chuyện trò với vẻ cợt nhả, đùa bỡn. - Xin hỏi cô tiên, năm nay cô mấy tuổi?

Tôi thở dài, ngửa lòng bàn tay phải lên, đếm các đường kẻ tay:

- Hơn một nghìn tuổi. Chính xác là bao nhiêu, tôi không nhớ nổi. Giờ đây đối với tôi, mỗi năm qua đi chỉ là một con số cộng vào tuổi tác, chẳng còn nghĩa lý gì nữa.

Gió lớn ào tới, không khí lạnh tràn vào phòng. Chàng trai quấn chặt tấm chăn lông thú, đột nhiên đưa tay lên nhìn đồng hồ, sau đó cởi chiếc áo khoác có màu sắc và hình thù rất đỗi kỳ dị, đưa cho tôi:

- Chỗ này ở độ cao khoảng hơn bốn nghìn mét so với mực nước biển, băng tuyết quanh năm, các trận bão tuyết liên miên, cô ăn mặc phong phanh như thế, rất dễ cảm lạnh. Cô khoác chiếc áo gió này đi. Đây là loại áo khoác giữ ấm và chống thấm tốt nhất hiện nay. Trong suốt thời gian leo núi Côn Luân, tôi nhờ cậy vào khả năng chống chịu gió tuyết của nó cả đấy.

Tôi lắc đầu, nhấc chén trà chàng trai đặt ở đầu giường, lại tập tễnh đến bên lò sưởi, rót cho cậu ta chén khác.

- Nếu nó hữu dụng đến thế thì vì sao cậu vẫn suýt mất mạng? Mà tôi là yêu quái, tôi có phép thuật, tôi đâu có sợ lạnh.

Cậu ta sực nhớ ra, vỗ tay cười:

- Tôi đoán ra rồi nhé, cô là một nhà văn, một mình lẳng lặng đến vùng núi Côn Luân hẻo lánh này ở ẩn để tìm cảm hứng sáng tác. Cô muốn nhập hồn vào câu chuyện nên phục trang giống như nhân vật. Rất thú vị, tôi đồng ý làm thính giả của cô tối nay, hãy kể cho tôi nghe câu chuyện của cô. Nàng hồ ly thân thế ra sao, nàng từ đâu tới?

Tôi mỉm cười, đưa chén trà cho chàng trai, kể vắn tắt:

- Người thân của tôi chỉ là những hồ ly bình thường, không ai tu luyện đắc đạo nên người thì bị thợ săn bắt sống, cạo lông, lột da, người thì qua đời vì tuổi cao sức yếu. Chỉ có mình tôi vừa ra đời đã là một hồ ly với bộ lông màu lam. Nếu diễn giải bằng ngôn ngữ hiện đại của các cậu thì có thể gọi trường hợp của tôi là hiện tượng đột biến gen, phải mấy trăm năm mới xuất hiện một lần trong dòng tộc hồ ly. Tôi đã may mắn được nằm trong con số ít ỏi đó. Loài hồ ly với bộ lông màu lam ngay từ khi sinh ra đã hấp thụ khí thiêng của trời đất, học được đôi ba thứ phép thuật. Ngoài ra, nhờ cơ duyên tôi lại may mắn có được tu vi của đồng loại nên mới sống lâu như vậy.

- Ha ha, trường sinh bất lão, giấc mơ của bao người.

Giọng điệu đùa cợt ấy cho thấy, đến lúc này cậu ta vẫn không tin những gì tôi nói. Tôi đành thở dài, lòng buồn man mác:

- Nếu cậu là tôi, phải chứng kiến cảnh người thân lần lượt ra đi, chỉ còn lại một mình vò võ trên đời, khi ấy, cậu cũng sẽ như tôi bây giờ, ước gì mình chỉ sống thọ như hồ ly bình thường.

Cậu ta chăm chú quan sát tôi, tiếp tục cười đùa:

- Vậy thì chắc hẳn cô rất cô đơn.

- Cũng không đến nỗi. - Tôi ngước nhìn chiếc chuông gió đang rung lắc dữ dội ngoài kia, mỉm cười. - Mỗi ngày tôi đều nhớ lại quãng thời gian bốn mươi năm quan trọng nhất trong suốt hàng nghìn năm cuộc đời mình. Tôi cứ nhẩn nha, mê mải tận hưởng dư vị của những kỷ niệm đó cho đến khi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay. Họ ở trên trời, biết tôi sợ cô độc nên đêm nào cũng hiện về trong giấc mơ của tôi, quây quần bên tôi. Nhờ vậy, hơn bảy trăm năm của đời tôi trôi đi cũng khá nhanh.

Dường như đã bắt đầu bị cuốn hút bởi câu chuyện của tôi, chàng trai im lặng hồi lâu, bàn tay nâng chén trà sững lại, ánh mắt mơ màng, nhìn tôi đăm đắm. Tôi đọc thấy trong đó nét buồn thương chân thành. Tôi tập tễnh bước lại gần, nhấc chén trà đã cạn trong tay cậu ta. Chàng trai thoáng giật mình, khẽ hắng giọng, ánh mắt lướt trên chân trái của tôi, vẻ quan tâm:

- Chân của cô… bị sao vậy?

- Tôi bị kẹp vào bẫy của thợ săn.

Vẻ nghiêm túc chỉ tồn tại trong thoáng chốc, câu nói vốn không có gì hài hước của tôi đã khiến cậu ta bật cười, lắc đầu:

- Cô không những là một giai nhân tuyệt sắc mà còn có đầu óc tưởng tượng hết sức phong phú. Tôi đã gần tin câu chuyện cô kể là thật và cô chính là nàng hồ ly sống ẩn dật nơi vùng núi hoang vắng này rồi đó.

Tôi đến bên lò sưởi, tiếp thêm củi, nhấc thanh sắt cời than hồng:

- Cậu không tin cũng không sao. Cứ xem như tôi là một bà già độc thân đã lâu không có người trò chuyện, muốn kể lể với một người qua đường là cậu đây những kỷ niệm đáng nhớ nhất của cuộc đời mình. Ngày mai, sau khi xuống núi, cậu muốn gặp tôi cũng chẳng thể tìm được.

Chàng trai trỏ tay về phía tôi, cười vang:

- Cô mà là bà già ư?

Vì cười quá nhiều, cơn ho khan dữ dội ập đến, mất một lúc lâu chàng trai mới ổn định trở lại:

- Được thôi, còn rất nhiều thời gian, ở đây không có ti vi, không có máy vi tính, nghe cô kể chuyện để giết thời gian cũng vui.

- Cậu muốn nghe thật ư?

Tôi ngắm nhìn những đốm lửa bập bùng trong lò than, thần trí mơ màng.

- Thật chứ!

Chàng trai trẻ ngồi xếp bằng trên giường, hệt như nhà sư ngồi thiền. Cậu ta quấn chặt chăn vào người, ánh mắt nhìn tôi hân hoan.

- Một nàng hồ ly đẹp mê hồn thế này, có kẻ phàm phu tục tử nào không xiêu lòng? Tôi xin được rửa tai lắng nghe câu chuyện tình yêu ly kỳ của cô.

- Vậy hãy bắt đầu từ cái chân của tôi nhé! Đó là một ngày mùa đông năm Ngọ, Âm Hỏa, theo lịch của người Tạng, tức niên hiệu Thuần Hựu thứ sáu, nhà Nam Tống. Để tôi thử nhớ lại xem, nếu đổi sang lịch dương mà các cậu vẫn thường dùng thì sẽ là năm bao nhiêu… - Tôi trầm ngâm, xòe những đốt tay ra nhẩm tính. - Phải rồi, đó là năm 1246. Khi ấy tôi còn rất nhỏ, mới tròn ba trăm tuổi, năng lực có hạn, chưa thể hóa phép thành người. Tôi ngây ngô, dại dột nên bị mắc bẫy của thợ săn, thiếu chút nữa thì bị cạo lông làm áo khoác rồi.

- Nàng hồ ly xinh đẹp gặp nạn, chàng học trò nho nhã xuất hiện, diễn vở anh hùng cứu mỹ nhân, sau đó giữa hai người nảy sinh câu chuyện tình yêu sướt mướt, tôi đoán có chuẩn không?

Tôi lắc đầu:

- Đúng là tôi đã được cứu, nếu không, hôm nay tôi đâu thể đứng trước mặt cậu thế này. Nhưng câu chuyện không lãng mạn như cậu tưởng tượng. Tôi tình cờ gặp được một cậu bé mười hai tuổi, xuất thân của cậu bé này hết sức đặc biệt. Anh hùng cứu mỹ nhân ư? Làm gì có chuyện đó! Khi ấy tôi không có pháp lực, chẳng thể biến thành người. Tình yêu, đối với tôi, là thứ quá ư xa vời.

- Ồ!

Chàng trai tỏ ra rất đỗi hứng thú, kéo chăn trùm kín người hơn, nghiêng đầu ngó tôi:

- Cậu bé này đã gắn bó với cô suốt bốn mươi năm ư?

- Chính cậu bé đã đưa tôi đến với gia tộc đặc biệt của cậu ấy. Tôi đã gắn bó với gia tộc đó suốt bốn mươi năm.

Tôi ngước nhìn hư không, đôi mắt tinh anh, trong suốt tựa pha lê, nụ cười mùa xuân ấm áp ấy vẫn đăm đắm hướng về tôi, như hằng đêm trong từng cơn mộng mị. Hơn bảy trăm năm rồi, Bát Tư Ba, vật đổi sao dời, bãi bể nương dâu, còi xe lửa nay đã hú vang trên núi Côn Luân nhưng đôi mắt chàng, chỉ có đôi mắt chàng vẫn vẹn nguyên nét thuần khiết như khoảnh khắc đầu tiên ta gặp nhau, năm chàng mười hai tuổi.

PHẦN I

Thời niên thiếu

Chương 1.1

Lần đầu gặp gỡ

“Người sáng suốt, dù vấp phải bất kể trở ngại gì cũng không hành động dại dột;

Loài chim tước, dù khát đến cháy cổ cũng không chịu uống nước đục trên mặt đất.”

(Cách ngôn Sakya)

Mùa đông năm 1246 – tức năm Ngọ, Âm Hỏa, lịch Tạng – tức niên hiệu Thuần Hựu thứ sáu, nhà Nam Tống – tức niên hiệu Quý Do Hãn thứ nhất, Mông Cổ.

- Thí chủ định bán tiểu hồ ly này bao nhiêu?

Giọng nói khàn khàn của cậu thiếu niên đang trong giai đoạn vỡ tiếng đã giúp tôi thoát khỏi nỗi buồn tủi và tuyệt vọng đang đè nặng, giật mình ngẩng lên.

Chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm, rộng rãi ôm lấy thân hình gầy guộc của cậu bé chừng mười hai, mười ba tuổi. Nước da tuy sạm đen nhưng không sần sùi, thô ráp mà bóng mịn, khỏe khoắn. Hai má đỏ au, gò má hiện rõ hai vệt rám nắng, gương mặt cân đối, khôi ngô, hàng lông mày đậm, dày, phần đuôi hất lên như lưỡi kiếm, sống mũi cao, thẳng… từng đường nét trên khuôn mặt đều sống động như được tạc khắc.

Cậu ấy không để đầu trọc lốc như các nhà sư Trung Nguyên nhưng tóc cũng được cắt ngắn hết mức có thể. So với những người cùng độ tuổi, cậu ấy cao lớn hơn rất nhiều, ống chân và cánh tay thuôn dài, lưng vươn thẳng, chẳng khác nào những cây bạch dương mọc tăm tắp khắp nơi trên đất Lương Châu[1] này, phong thái ấy toát lên sức mạnh của sự rắn rỏi, kiên định, bền bỉ vô chừng. Tuy vẫn còn nhỏ tuổi nhưng không khó để nhận thấy khí khái phi phàm và tài hoa trác tuyệt tiềm ẩn ở cậu bé này.

Áo tăng ni màu đỏ sẫm, vóc dáng cao lớn, làn da ngăm đen, tất cả những đặc điểm đó đều khác biệt so với người Lương Châu bản địa. Dựa vào kinh nghiệm sống ba trăm năm của mình, tôi biết cậu bé đến từ Tufan[2] (Thổ Phồn), là tăng nhân của một trong những giáo phái Phật giáo Tufan. Tuy vương quốc Tufan đã suy vong từ lâu, nơi đây sớm đã được đổi tên thành Wusi[3] (Ô Tư Tạng) nhưng vì vương quốc này từng có một lịch sử huy hoàng nên ngày nay, người ta vẫn gọi những vị khách đến từ vùng núi cao, quanh năm tuyết phủ là người Tufan.

Cậu bé ngồi xuống, ngắm nghía nàng hồ ly tội nghiệp bị nhốt trong lồng, đôi mắt trong veo, tinh khiết như nước suối trên đại ngàn. Sóng mắt long lanh, sống động khiến một tiểu hồ ly phép thuật còn non kém như tôi cũng có thể nhận thấy vầng hào quang rực rỡ bao bọc xung quanh cậu ấy. Tôi giật mình thầm nghĩ, cậu bé này có nội lực siêu phàm, chắc chắn không phải người bình thường.

Tôi ra sức kêu thương, lách bộ vuốt qua khe hở của chiếc lồng sắt, chới với cầu cứu. Cậu bé chìa tay, nhẹ nhàng đón lấy hai chân trước của tôi, hơi ấm tỏa ra từ lòng bàn tay cậu khiến tôi vững tâm hơn. Tôi cảm thấy được an ủi rất nhiều, bèn nũng nịu kêu cầu khẩn thiết.

- Tôi không bán đâu. Mắt và lông của con hồ ly này đều có màu xanh lam tuyệt đẹp, chắc chắn là loài hồ ly quý hiếm, phải mấy trăm năm mới có một con.

Lão thợ săn nhấc chiếc lồng lên, dùng đầu ngón tay chọc mạnh vào bàn chân trước đang cố vươn ra để cầu cứu của tôi. Thấy tôi ấm ức rụt chân lại, lão ta khoái chí cười ha hả:

- Con hồ ly này trông nhỏ thế thôi nhưng nó còn hơn cả tuổi tôi đấy. Trong cả tộc hồ ly, chỉ những con có linh khí đặc biệt mới có thể tu luyện thành tinh. Con hồ ly này là một tuyệt phẩm, ngay từ khi ra đời đã mang trong mình linh khí, rồi đây, qua nhiều năm khổ công tu luyện, mắt và lông của nó sẽ ngày càng xanh hơn.

- Vậy vì sao thí chủ lại bắt được nó?

Tiểu Lạt Ma đứng lên, chắp tay vái lạy. Cậu ấy không thạo tiếng Mông Cổ nên phát âm rất lạ.

- Vì nó tu luyện chưa sâu nên mới mắc bẫy của tôi đó. -

Lão thợ săn lắc lư chiếc lồng sắt, cười đắc ý. – Tuy vậy, loài hồ ly vốn rất khôn ngoan, tôi phải mất rất nhiều công sức mới bắt được nó đấy. Tôi đã thức trắng nhiều đêm trên núi Côn Luân, nhẫn nại theo dõi suốt ba tháng trời, giăng không biết bao nhiêu bẫy mới bắt được con hồ ly này.

Tôi bị lão thợ săn lắc lư đến chóng hết cả mặt, đứng không vững, lảo đảo, ngã xuống, chân sau va vào thanh sắt đau điếng, tôi kêu gào thảm thương. Tiểu Lạt Ma thương xót tôi, vội giữ bàn tay đang đung đưa chiếc lồng của lão thợ săn lại, cất giọng lễ phép:

- Xin hỏi, thí chủ chuẩn bị đi đâu? Đường xa vất vả, chi bằng để bần tăng xách chiếc lồng này giúp ông.

Lão thợ săn khoát tay kiên quyết:

- Không cần đâu, tôi sắp đến nơi rồi. Thầy có nhìn thấy phủ Vương gia Khoát Đoan[4] ở phía trước kia không? Tôi sẽ tới đó.

- Thí chủ định làm gì với tiểu hồ ly này?

Lão thợ săn hồ hởi:

- Cậu cả Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi nhà Vương gia Khoát Đoan sắp bước sang tuổi hai mươi, tôi là thứ dân sinh sống trên đất phong của ngài ấy, tôi muốn dành con hồ ly này làm quà tặng dâng lên công tử Khởi Tất. Con hồ ly hàng trăm tuổi này rất quý hiếm, nước bọt của nó có thể chống sưng tấy, máu của nó có thể chữa lở loét, da của nó có thể làm thành loại áo khoác mà gươm đao không thể chọc thủng, dầm mưa không bị thấm ướt.

Cậu bé giật mình thảng thốt, gương mặt nhuốm vẻ thương cảm:

- Tiểu hồ ly này quý hiếm nhường vậy, thí chủ nỡ lòng nào lấy mạng nó?

- Tôi chẳng thể làm khác. Công tử Khởi Tất biết nó có nhiều tác dụng thần kỳ như vậy, từ lâu đã trông ngóng được mặc áo da hồ ly. Con trai tôi vừa báo tin tôi bắt được loài hồ ly quý hiếm, công tử đã lập tức cho mời thợ may đến, chỉ chờ tôi mang hồ ly về thôi.

Lão thợ săn vừa nói vừa bước đi. Mặc cho vết thương ở chân sau sưng tấy, nhức buốt, tôi ra sức tìm lối thoát, kêu la thảm thiết, cầu cứu tiểu Lạt Ma, lòng như lửa đốt.

- Thí chủ, xin mở lòng từ bi mà tha cho tiểu hồ ly này. Nó còn nhỏ như vậy, lại bị thương ở chân.

Tiểu Lạt Ma can đảm bước lên phía trước, dang rộng hai tay chặn lão thợ săn lại. Tuy thấp bé hơn lão thợ săn kia rất nhiều nhưng khí khái mạnh mẽ toát ra từ thần thái của cậu ấy khiến người đối diện không thể không cảm phục. Giọng cậu trầm ấm mà kiên định:

- Nếu công tử Khởi Tất trách phạt, tôi xin chịu mọi hình phạt!

- Tiểu sư phụ ơi, tôi vốn là người Tangut[5] (Đảng Hạng), từ nhỏ đã tín Phật. Nếu đây chỉ là một con hồ ly bình thường, tôi sẽ tặng cho thầy ngay, xem như làm từ thiện. Nhưng xin thầy hiểu cho, tôi có cái khó của mình.

Lão thợ săn khẽ thở dài, quay đầu ngó nghiêng xung quanh rồi mới hạ thấp giọng, thì thào:

- Hai mươi năm trước, nước Đại Hạ bị Mông Cổ tiêu diệt. Người Mông Cổ vô cùng căm hận vì chúng tôi đã chống trả ngoan cường, khiến cho Thiên Khả hãn[6] Thành Cát Tư Hãn của họ mắc bệnh rồi qua đời trên đường chinh phạt Đại Hạ. Mặc dù sau đó, Đại Hạ đã đầu hàng, nhưng họ không buông tha cho chúng tôi, họ đã tàn sát người Tangut[7]. Các con trai của tôi đã bị chết oan uổng như thế đó. Tôi chỉ còn cậu con út, nó mới mười bốn tuổi nhưng đã phải nhận lệnh theo đoàn quân ra trận, đi đánh nước Tống ở phía nam. Tôi không thể để giọt máu cuối cùng của mình đi nộp mạng, nên đã không quản nhọc nhằn lên núi Côn Luân đặt bẫy, chờ bắt cho được con hồ ly màu lam quý hiếm này. Ngài Khởi Tất đã hứa sẽ miễn cho con trai tôi không phải đi lính. Thầy thấy đấy, tôi không thể thả con hồ ly này được.

[1] Lương Châu: nay là huyện Vũ Uy, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc.

[2] Tên dân tộc thiểu số ở vùng cao nguyên Thanh Tạng, Trung Quốc. Vương quốc Thổ Phồn từng thống trị Tây Tạng vào thời nhà Đường ở Trung Nguyên. (Chú thích của dịch giả – DG)

[3] Người Tây Tạng phát âm hai chữ “Ô Tư” là “Veä” (Usu) nghĩa là “vệ”, do đó còn có tên là Vệ Tạng. “Ô Tư” nghĩa là “trung tâm”, “Tạng” nghĩa là “thanh tịnh”. Ô Tư Tạng có nghĩa là “trung tâm thanh tịnh”, cõi Phật thanh tịnh. Ô Tư Tạng là tên gọi mà nhà Nguyên đặt cho vùng đất Tây Tạng sau khi vương triều Thổ Phồn bị diệt vong. Trước thời nhà Thanh, vùng đất này được gọi là Vệ Tạng, sau mới đổi thành Tây Tạng.

[4] Khoát Đoan là con trai thứ hai của Oa Khoát Đài, tức là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn (Oa Khoát Đài là con trai thứ ba của Thành Cát Tư Hãn).

[5] Tangut: tên dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Trung Quốc. Nhà Tống gọi quốc gia của tộc người này là Tây Hạ, tuy nhiên quốc hiệu chính thức của quốc gia này là Đại Hạ. (DG)

[6] Khả hãn trong tiếng Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa là người đứng đầu đế quốc. (DG)

[7] Mông Cổ tiêu diệt Tây Hạ vào năm 1227, khi ấy, Lương Châu thuộc lãnh thổ Tây Hạ.

1.2

Tiểu Lạt Ma sững sờ, hai hàng lông mày thanh tú nhíu lại. Cậu ngồi xuống, đưa tay vuốt ve chiếc mũi nhọn của tôi, trầm ngâm một lát rồi cất tiếng:

- Vậy bần tăng sẽ cùng thí chủ đến gặp ngài Khởi Tất.

Vừa bước vào Vương phủ, tôi đã thấy rất đông người đang tụ tập ở đó, mấy người đứng ở giữa cất giọng oang oang:

- Công tử, nay phụ thân ngài không có mặt ở Lương Châu, mọi chuyện lớn bé đều do ngài quyết định, xin ngài hãy xử lý thật công minh việc này.

Ngồi ở vị trí trang trọng nhất là một thanh niên vạm vỡ, lông mày rậm, dày, mắt to, khuôn mặt vuông vức. Anh ta mặc áo khoác da dài tay, cao cổ. Phần vạt áo, cổ tay, cổ áo đều được thêu viền lụa hình sóng mây cuồn cuộn. Chiếc áo được quấn một lớp da chồn xung quanh. Chàng thanh niên cất giọng sang sảng:

- Ai có oan uổng gì, hãy trình báo tao nghe!

Ai đó chen lên nói:

- Tối hôm qua, ba anh em chúng tôi đến thuê phòng tại một quán trọ. Tay phục vụ ở đó bảo rằng, phòng hạng sang giá ba mươi quan tiền một đêm. Thế là ba chúng tôi bỏ ra mỗi người mười quan tiền để đặt cọc. Hôm đó đúng ngày ông chủ nhà trọ vừa có thêm quý tử nên ông ta đã vui mừng giảm giá tiền phòng hạng sang xuống còn hai mươi lăm quan tiền một đêm. Ông chủ nhà trọ đưa cho tay phục vụ năm quan tiền, bảo hắn trả lại chúng tôi. Nhưng vì tham lam, hắn trả chúng tôi thiếu ba quan tiền. Sáng nay, tình cờ gặp chủ quán trọ, chúng tôi mới biết việc này. Ngay sau đó, chúng tôi đã đi tìm tay phục vụ, đòi hắn trả lại tiền.

Một người khác cũng chen lên, chỉ tay vào người đàn ông nhỏ thó đang quỳ khóc trên sân mà rằng:

- Nhưng tên tiểu nhị này lại bảo hắn chỉ đút túi có hai đồng. Sao lại như thế được?

Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi chau mày:

- Có gì không đúng?

- Ba chúng tôi mỗi người bỏ ra mười quan tiền, tổng cộng là ba mươi quan tiền. Tiểu nhị trả cho chúng tôi mỗi người một đồng. Vậy có thể xem như chúng tôi đã trả hai mươi bảy đồng. Nhưng tiểu nhị lại bảo rằng hắn chỉ đút túi hai quan tiền. Hai mươi bảy cộng với hai bằng hai mươi chín. Vậy còn một quan tiền nữa đâu?

Đám đông cùng xòe tay ra nhẩm tính rồi gật gù phụ họa. Người trẻ nhất trong số ba anh em khách trọ kia cất giọng oang oang:

- Chắc chắn tên tiểu nhị tham lam này đã giấu nhẹm đi một quan tiền. Hắn cả gan giở trò xỏ lá với chúng tôi nên chúng tôi buộc phải đưa hắn đến đây để công tử giải quyết.

- Dạ thưa, oan uổng quá! Đúng là tiểu nhân không nên nảy lòng tham, bỏ vào túi mình tiền của ba vị, tiểu nhân xin được trả lại. Nhưng quả thật tiểu nhân chỉ lấy hai quan tiền, không phải ba.

Tên tiểu nhị nãy giờ quỳ mọp dưới đất, vừa ngẩng đầu kêu oan, lập tức bị ba người đàn ông kia đá túi bụi.

- Vậy ngươi nói đi, bọn ta bỏ ra hai mươi bảy quan tiền, cộng với hai quan tiền ngươi lén bỏ túi, có phải là hai mươi chín quan tiền không hả?

Đám đông đồng loạt phụ họa:

- Đúng rồi, thiếu mất một quan tiền.

Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi nghiêm mặt, nói:

- Này tiểu nhị, người Mông Cổ chúng ta rất ghét sự dối trá, ngươi hãy ngoan ngoãn nhận tội, nếu không, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc đấy.

- Tiểu nhị không nói dối.

Giọng nói khàn khàn của cậu thiếu niên đang trong giai đoạn vỡ tiếng vang lên, tiểu Lạt Ma lách người qua đám đông, vẻ mặt điềm tĩnh, thần thái an nhiên. Sự tự tin, bình thản toát ra từ dáng vóc và bước đi khoan thai, khí khái bất phàm cộng với vẻ già dặn không tương xứng với tuổi tác phản chiếu từ gương mặt khôi ngô, tuấn tú khiến đám đông bỗng nín lặng, ai nấy đều sững sờ, sau đó chăm chú quan sát.

- Số tiền không hề thiếu, chỉ tại cách tính của ba vị thí chủ này không đúng.

Tiểu Lạt Ma vái chào Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi, sau đó quay lại hỏi ba người khách trọ:

- Ba vị đặt cọc tổng cộng ba mươi quan tiền, chủ quán trả lại năm quan tiền, tức là tiền phòng chỉ còn hai mươi lăm quan tiền, đúng không?

Ba người kia gật đầu.

Tiểu Lạt Ma bình tĩnh nói tiếp:

- Trong số năm quan tiền đó, tiểu nhị giữ lại hai quan tiền, vậy còn ba quan tiền, đúng không?

Ba người kia lại gật đầu.

- Ba quan tiền này, tiểu nhị đã trả lại cho ba thí chủ, đúng không?

Ba người khách tiếp tục gật đầu.

Tiểu Lạt Ma dõng dạc kết luận:

- Vậy thì hai mươi lăm quan tiền ba vị đã trả, cộng với hai quan tiền tiểu nhị bỏ túi riêng và ba quan tiền tiểu nhị đã trả cho các vị, có phải tổng bằng ba mươi quan tiền không?

Ba người đàn ông gật đầu lia lịa theo quán tính. Tiểu Lạt Ma mỉm cười hồn hậu rồi quay lại, chắp tay vái Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi:

- Tiểu nhị chỉ cần trả lại ba vị kia hai quan tiền và nói lời xin lỗi thì việc này coi như đã giải quyết xong. Công tử thấy sao?

Khởi Tất vỗ tay tán thưởng, bật cười ha hả:

- Tuyệt vời! Chuyện có gì to tát đâu mà phải làm ầm ĩ chứ!

Ba người kia vẫn ngẩn ngơ không hiểu, vò đầu bứt tai, thắc mắc:

- Rõ ràng là hai mươi bảy cộng với hai kia mà, sao tiểu Lạt Ma này lại lôi ra được một quan tiền nữa nhỉ?

Tiểu Lạt Ma khiêm cung vái ba người đàn ông:

- Nếu giải thích theo thuyết Nhân minh học[1] trong Phật giáo thì cách tính của ba vị là cộng chi phí mà mình bỏ ra chứ không phải cộng phần mình được trả và người khác được trả. Nhân minh học gọi đây là thủ thuật “thay xà đổi cột”.

Ba người đàn ông lắng nghe giải thích mà đầu óc mụ mị, choáng váng, ngước nhìn tiểu Lạt Ma bằng ánh mắt thán phục. Tiếng vỗ tay tán thưởng rộ khắp Vương phủ, tiểu Lạt Ma bỗng đỏ mặt, nước da ngăm đen chuyển màu sẫm đỏ, đôi mắt to, đen láy và trong suốt như thủy tinh như có ma lực kỳ lạ cuốn hút người khác. Thật không ngờ, một người điềm tĩnh như tiểu Lạt Ma cũng có lúc bẽn lẽn đáng yêu nhường vậy.

Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi rời khỏi ghế ngồi, bước đến trước mặt tiểu Lạt Ma, ngắm nhìn một hồi:

- Tiểu sư phụ là…

Tiểu Lạt Ma điềm tĩnh chắp hai tay vái Khởi Tất, tiếng Mông Cổ tuy không được lưu loát nhưng từng câu từng từ rất mạch lạc:

- Bần tăng là Sa di thuộc giáo phái Sakya ở Tufan, tên gọi Lạc Truy Kiên Tán, theo người bác ruột là đại sư Ban Trí Đạt lặn lội đường xa từ Wusi, ròng rã hai năm trời mới đến được Lương Châu. Bác bần tăng hiện ở nhà trọ chờ cha của công tử, Vương gia Khoát Đoan, về Lương Châu để gặp mặt.

Khởi Tất ôm chầm lấy vai tiểu Lạt Ma, bật cười hoan hỉ:

- Thì ra tiểu sư phụ chính là thần đồng Bát Tư Ba! Chẳng trách tuổi nhỏ mà thông minh trác tuyệt như vậy. Người dân Lương Châu không ai không biết đến danh tiếng của thầy. Nghe nói, ba tuổi thầy đã thuộc lòng phép tu của cuốn kinh Diệu pháp liên hoa, tám tuổi thuộc kinh Phật bản sinh. Ít người biết tên thật của thầy, nhưng không ai ở đất Wusi là không biết tiểu Lạt Ma Bát Tư Ba. Trong tiếng Tây Tạng, Bát Tư Ba có nghĩa là “vị thánh”, đúng vậy không?

Tôi ngỡ ngàng đến nỗi quên cả đau, ngẩn ngơ ngắm nhìn tiểu Lạt Ma khôi ngô, tuấn tú trước mặt. Cậu ấy là Bát Tư Ba ư? Cậu ấy là cậu bé mà tôi đã gặp ba năm về trước?…

r

Chàng trai trẻ vỗ tay kinh ngạc:

- Tiểu Lạt Ma đó là Bát Tư Ba?

Tôi cũng ngạc nhiên không kém:

- Cậu biết người đó ư?

- Tôi từng đến huyện Sakya ở Shigatse và đến thăm ngôi đền Sakya nên có biết sơ sơ. – Chàng trai gật đầu, rồi quay sang nhìn tôi bằng ánh mắt tiếc nuối. – Nhưng Phật giáo Tây Tạng có rất nhiều chi phái, quá ư phức tạp, tôi chẳng thể biết hết. Tôi chỉ biết Bát Tư Ba là quốc sư của triều đại Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, là người đã phát minh ra văn tự Mông Cổ mà người ta đặt tên là chữ Bát Tư Ba. Giáo phái Sakya trở thành một trong những giáo phái Phật giáo lớn mạnh nhất Tây Tạng đều nhờ công lao gây dựng của vị đại sư ấy. Bởi vậy, giáo phái này tôn sùng Bát Tư Ba như là một trong năm vị sư tổ.

Tôi ngước nhìn bầu trời đêm, tưởng như lại được nhìn thấy bóng dáng chiếc áo tăng ni sẫm đỏ thấp thoáng đâu đây, mắt bỗng ướt nhòe, miệng thì thầm:

- Đúng vậy, Bát Tư Ba là một người vĩ đại, một bông tuyết liên thánh khiết mọc trên cao nguyên Thanh Tạng…

Tôi quay lại, mỉm cười với chàng trai trẻ, thở than:

- Những hiểu biết của cậu về vị đại sư này khá nhiều đó. Ngài là người Tạng, lại trở thành triều thần của nhà Nguyên, Mông Cổ, ngài hầu như không có mối quan hệ nào với người Hán. Bởi vậy, người Hán thời nay ít người biết đến ngài và thời đại của ngài.

Chàng trai bật cười, chìa tay về phía lò lửa để sưởi ấm:

- Câu chuyện mới bắt đầu đã thấy hấp dẫn rồi. Không ngờ một tiểu hồ ly lại có thể tham gia vào các sự kiện lịch sử. Tôi cảm thấy rất thích thú, vậy là tôi sắp được bổ túc vốn kiến thức về thời kỳ lịch sử xa lạ đó rồi.

Tôi gật đầu, tiếp tục câu chuyện.

[1] Học thuyết Nhân minh hay còn gọi là logic học Phật giáo. Phật giáo Tây Tạng đặc biệt coi trọng học thuyết này, cũng chính là coi trọng khả năng biện luận.

Hoa sen xanh 2.1

Chương 2

Bậc thánh giả trên vùng núi tuyết

“Những kẻ kém hiểu biết thường tỏ ra kiêu ngạo,

Người học thức uyên thâm thường khiêm tốn,chừng mực;

Suối nhỏ trong rừng sâu cứ róc rách đêm ngày,

Biển lớn trải muôn trùng vẫn hiền hòa bao thuở.”

(Cách ngôn Sakya)

Trong thời gian tu luyện ở núi Côn Luân, tôi đã kết thân với lão gấu xám kém tôi cả trăm tuổi. Linh khí của gấu xám không mấy dồi dào nên tu luyện đến chừng một trăm tuổi thì lão chẳng thể tiếp tục. Lão thành ra già nua, yếu ớt, mắt hoa, chân chậm, tai kém, những dấu hiệu đó cho thấy lão không sống được bao lâu nữa. Thế nhưng lão đã thọ thêm ngót nghét mười năm nhờ chăm chỉ lén theo bậc trí giả

[1]

của đất Wusi, đại sư Ban Trí Đạt, thuộc giáo phái Sakya, để nghe ngài biện kinh, giảng pháp, từ đó giác ngộ và tăng thêm tuổi thọ.

Trong năm năm cuối đời, không biết ma xui quỷ khiến thế nào mà lão gấu xám lại tình cờ lọt vào sơn động của tôi. Đuổi lão đi thì dễ thôi, nhưng tôi quyết định giữ lão ở lại. Lý do rất đơn giản: suốt một trăm năm ròng tôi không có ai để trò chuyện.

Lão gấu xám bị nặng tai nên tôi cứ phải ghé sát tai lão mà gào lên thì lão mới nghe thấu. Tuy giao tiếp khá vất vả nhưng chúng tôi đã sống rất vui vẻ. Lão kể với tôi rất nhiều câu chuyện về Ban Trí Đạt mà lão nghe được hoặc được tận mắt chứng kiến. Tôi có cảm giác lão sùng bái ngài Ban Trí Đạt hơn cả Phật Tổ.

Ba năm trước, ngài Ban Trí Đạt tổ chức một pháp hội rất lớn, lão gấu xám đã dẫn tôi đi nghe lén. Chẳng ngờ hôm đó, ngài Ban Trí Đạt không đăng đàn giảng pháp mà để một cậu bé chín tuổi lên thuyết giảng kinh Phật. Còn nhớ lúc đó, hàng nghìn nhà sư cùng đến nghe giảng pháp, khi nhìn thấy đứa trẻ vắt mũi chưa sạch ấy, họ chỉ trỏ bàn luận, vẻ khinh miệt phơi bày không giấu giếm. Nhưng cậu bé mới chín tuổi ấy đã bước lên pháp đài với vẻ đĩnh đạc, điềm tĩnh, pháp tướng trang nghiêm, cất giọng rành rọt, thuyết giảng cuốn

Kỷ kim cương tục đệ nhị phẩm

.

Cậu bé có giọng nói trong trẻo, thanh thoát ấy đã nêu ra nhiều dẫn chứng nhằm tăng thêm sức thuyết phục cho các luận điểm của mình. Những tăng nhân mới đầu tỏ ra xem thường thì giờ đây cũng đang lắng nghe mê mải, gật đầu lia lịa. Tôi cũng vậy, tôi vốn rất buồn vì không được nghe ngài Ban Trí Đạt thuyết pháp, nhưng sau đó, tôi nhận thấy mình đã “thu hoạch” được rất nhiều từ bài giảng của cậu ấy, và cũng giống những người khác, tôi thực sự thấy khâm phục cậu bé. Câu nói: “tuổi trẻ tài cao” hoàn toàn đúng với trường hợp của cậu bé này.

Lão gấu xám không nghe lọt câu nào, còn tôi, nhờ vào thính giác nhạy bén siêu phàm của loài hồ ly, dù đứng cách rất xa, tôi vẫn nghe rõ từng lời. Tôi vừa nghe vừa ghé sát tai, giảng lại một lượt cho lão gấu xám. Lão cho tôi hay, cậu bé này là cháu trai của ngài Ban Trí Đạt, chính là thần đồng Bát Tư Ba mà người đời xưng tụng là bậc “thánh giả”.

Không lâu sau buổi pháp hội ấy, lão gấu xám qua đời, tôi tiếp tục cuộc sống cô độc. Tôi chôn lão cạnh sơn động, nơi mà trước đó tôi đã lần lượt an táng từng người thân của mình. Những lúc muốn trò chuyện, tôi lại ra đó, lẩm bẩm độc thoại một hồi. Tôi rất muốn được đến nghe giảng kinh một lần nữa, nhưng người ta bảo ngài Ban Trí Đạt đã dẫn Bát Tư Ba đi xa, không biết khi nào trở lại Sakya. Sau đó, tôi bị mắc bẫy của thợ săn. Không thể tin rằng tôi đã gặp lại cậu ấy ở đất Lương Châu xa xôi, cách Sakya cả ngàn dặm này.

Nhưng tôi chẳng còn nhớ rõ hình dáng của cậu bé ấy nữa. Ngày đó đi nghe giảng pháp, chúng tôi biết thân biết phận nên nào dám đến gần chỗ đông người. Đứng từ xa, tôi chỉ thấy bóng chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm thấp thoáng trên pháp đài. Các cậu bé thường lớn rất nhanh, chỉ ba năm thôi cũng có thể khiến dung mạo và hình dáng của họ thay đổi rất nhiều. Lấy ví dụ, giọng nói trong veo ngày ấy giờ đây đã chuyển sang giọng khàn khàn của giai đoạn vỡ tiếng, làm sao nhận ra nổi?

Không hiểu sao, khi biết cậu bé này chính là Bát Tư Ba năm xưa, tôi cảm thấy mừng vui khôn xiết. Tuy rằng cậu ấy không hề biết ba năm trước có một tiểu hồ ly từng đến nghe mình giảng pháp nhưng tôi thì khác, tôi có cảm giác thân thiết như người ta gặp lại người thân của mình nơi đất khách vậy. Trong tôi dấy lên một niềm tin gần như tuyệt đối rằng, Phật Tổ đoái thương, cho tôi gặp được bậc thánh giả Bát Tư Ba, tôi được cứu mạng rồi!

- Đó chỉ là những lời đồn thổi vu vơ, công tử chớ cho là thật, xin cứ gọi bần tăng là Lâu Cát.

Mặt đỏ như gấc chín, cậu ấy bối rối phủ nhận, nhưng còn chưa kịp nói đôi lời khách sáo thì Khởi Tất đã kéo cậu ấy vào phòng khách. Đoán định được tình thế, lão thợ săn vội vã xách chiếc lồng, lặng lẽ bám theo.

- Ồ, Lâu Cát ư? Cái tên này có nghĩa là gì? – Không kìm nổi sự tò mò, Khởi Tất vừa đi vừa hỏi.

- Thưa công tử, từ này có nghĩa là sinh vào năm Mùi. Bần tăng sinh năm Mùi nên người bác và người mẹ quá cố đều gọi bần tăng như vậy.

Khởi Tất trầm ngâm một lát rồi hỉ hả tán thưởng:

- Sinh năm Mùi, tức là năm nay thầy mới mười hai tuổi, quả là tuổi trẻ tài cao!

Vào đến phòng khách, Khởi Tất mời Bát Tư Ba ngồi xếp bằng trên thảm, sau đó khoát tay ra lệnh cho người hầu dâng trà:

- Sáu năm trước, cha ta từng cử bộ tướng tấn công Wusi. Nhưng ngay sau đó, ông nhận thấy sự cần thiết phải mời một vị cao tăng đại đức giữ vai trò là lãnh tụ tinh thần của cả vùng núi cao băng tuyết quanh năm ấy. Đại sư Ban Trí Đạt của giáo phái Sakya là người đức cao vọng trọng, danh tiếng của ngài lan khắp bốn phương. Cha ta đã đích thân viết thư mời ngài đến Lương Châu để bàn bạc về việc thu phục Wusi. Đại sư Ban Trí Đạt là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù, không quản tuổi cao sức yếu, không nề hà đường xa vạn dặm, lặn lội từ Sakya, ròng rã suốt hai năm trời để đến Lương Châu. Hẳn là các vị đã phải vượt qua muôn vàn gian nan, khổ ải trong suốt chuyến đi này.

Bát Tư Ba nhấp một ngụm trà, khẽ thở dài, vẻ mặt đầy trăn trở, âu lo, không tương xứng với tuổi tác chút nào:

- Cảm tạ sự quan tâm của công tử, bần tăng thì không sao, chỉ tội cho cậu em trai Kháp Na Đa Cát của bần tăng, lúc rời khỏi Sakya nó mới có sáu tuổi. Suốt quãng đường đi, dù phải chịu bao nhọc nhằn nó cũng đã gắng gượng chịu đựng, không hề khóc lóc, than vãn khiến kẻ làm anh như bần tăng đây cũng lấy làm khâm phục. Bác của bần tăng khi ấy đã sáu mươi ba tuổi, tuổi cao sức yếu, trên đường đi thường hay hắt hơi, sổ mũi, mình mẩy

đau nhức…

Khởi Tất gật đầu cảm thông, cất lời động viên:

- Lát nữa ta sẽ cho thầy thuốc đến coi bệnh cho ngài. Các vị vừa đến thì cha ta cũng lên đường tham dự hội nghị Kurultai

[2]

. Trong thời gian lưu lại Lương Châu, nếu các vị cần gì, xin cứ nói với ta.

Bát Tư Ba lịch sự cảm ơn, mới mười hai tuổi nhưng phong thái đĩnh đạc, ứng xử nho nhã, biểu cảm chân thành của cậu ấy đã rất được lòng Khởi Tất. Cuộc chuyện trò ngày càng trở nên thân mật:

- Cũng mừng là ta đã nhận được thư của cha, báo rằng đại hội Kurultai đã kết thúc, người bác Quý Do của ta sẽ kế thừa ngôi vị Đại hãn của ông nội Oa Khoát Đài của ta

[3]

nên cha ta đã lên đường trở về Lương Châu. Chắc khoảng một tháng nữa, cha ta và đại sư Ban Trí Đạt có thể gặp nhau.

Khởi Tất nhấp một ngụm trà rồi nhón một viên kẹo sữa chua bỏ vào miệng.

- Các vị có thiếu thốn gì không? Hôm nay được gặp thầy ở đây, ta lấy làm vui mừng khôn xiết, ta nhất định phải tặng thầy món quà gì đó để tỏ lòng hiếu khách truyền thống của người Mông Cổ chúng ta.

Bát Tư Ba liếc nhìn lão thợ săn lúc này đang sợ hãi thu mình trong góc nhỏ. Tôi bám vào thanh sắt, lách chiếc mũi nhọn ra khỏi lồng, van lơn khẩn thiết.

Cậu ấy khẽ gật đầu với tôi, ánh mắt ấm áp mà tự tin, sau đó quay lại chắp tay cung kính thưa với Khởi Tất:

- Công tử có thể tặng bần tăng bất cứ thứ gì bần tăng muốn ư?

- Tất nhiên rồi, ha ha, chỉ cần có thể tìm được thứ đó, ta nhất định sẽ tặng cho thầy. – Khởi Tất hào phóng đập tay xuống chiếc bàn trà thấp. – Người anh em nói ta nghe, thầy muốn có thứ gì?

- Bần tăng muốn có tiểu hồ ly này. – Bát Tư Ba trỏ ngón tay về phía chiếc lồng giam cầm tôi, ánh mắt giàu lòng nhân từ ấy thanh tịnh như một đài hoa sen. Sau đó, cậu quay lại chăm chú quan sát biểu cảm của Khởi Tất. – Loài hồ ly mắt xanh, lông xanh vốn là kết tinh khí thiêng của cả trời và đất, được Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni giáo hóa. Nếu ai đó định sát hại nó, chắc chắn sẽ bị Phật Tổ giáng tội. Cúi xin công tử mở lòng từ bi mà tha cho nó, xem như tích chút công đức cho mình.

[1]

Chỉ những người tài trí hơn người, kiến thức uyên bác, sâu rộng. (DG)

[2]

Còn gọi là hội nghị Hốt Lý Đài hay Hốt Lý Lạc Đài, đại hội lựa chọn ra Đại hãn (vua) của quý tộc Mông Cổ. Ngôi vị Đại hãn của người Mông Cổ không phải “con nối nghiệp cha” theo truyền thống của người Hán, mà do các quý tộc bầu chọn.

[3]

Sau khi Thành Cát Tư Hãn qua đời, người con thứ ba của ông là Oa Khoát Đài đã được chọn làm Đại hãn. Oa Khoát Đài mất năm 1241. Quý Do là con trai cả của Oa Khoát Đài, ông được chọn làm Đại hãn năm 1246.

Hoa sen xanh 2.2

Tôi nhìn nét mặt rất đỗi nghiêm trang của Bát Tư Ba mà không khỏi áy náy. Thực ra tôi chỉ là một yêu tinh nhỏ bé, làm gì có được vinh hạnh được Phật Tổ che chở kia chứ! Khởi Tất sững sờ, đưa mắt về phía lão thợ săn. Lão ta cũng bị bất ngờ mà ngây ra như phỗng, bàn tay xách chiếc lồng bỗng run run. Khởi Tất khẽ hắng giọng:

- Da của con hồ ly này có rất nhiều tác dụng…

Giọng nói của Khởi Tất cho thấy anh ta rất luyến tiếc. Bát Tư Ba đứng lên, bước tới trước mặt Khởi Tất, quỳ gối, chắp tay lại, cầu xin khẩn thiết:

- Nếu công tử bằng lòng tha cho tiểu hồ ly này, Lạc Truy Tán Đức xin kết bằng hữu với công tử, suốt đời tụng đọc kinh Phật cầu phúc cho công tử. Và nếu công tử có yêu cầu gì, bần tăng nguyện hết lòng vì ngài.

Khởi Tất không giấu nổi xúc động, vội đỡ Bát Tư Ba đứng lên, xúc động mà rằng:

- Hay lắm, ta xin được kết huynh đệ với thầy, ngày sau hai ta có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Chẳng qua chỉ là một con hồ ly thôi mà, thầy thích thì ta tặng thầy.

Khởi Tất khoát tay ra hiệu cho lão thợ săn giao tôi cho Bát Tư Ba. Lão thợ săn mặt ủ mày chau bước lên phía trước, trao chiếc lồng cho Bát Tư Ba nhưng bàn tay vẫn cố bám lấy chiếc lồng không chịu buông, miệng lắp bắp không thành tiếng, ánh mắt hướng về phía Bát Tư Ba đầy vẻ cầu khẩn.

Bát Tư Ba thấu hiểu tâm can của lão ta, bèn buông chiếc lồng ra, quay đầu lại gọi:

- Thưa công tử…

Khởi Tất ngắt lời cậu:

- Hãy gọi ta là người anh em

[1]

!

Bát Tư Ba mỉm cười bẽn lẽn, khẽ gọi “người anh em”:

- Người anh em từng hứa với ông lão này rằng sẽ miễn nghĩa vụ cho con trai ông ấy. Huynh vốn là người trọng chữ tín, liệu có thể xác nhận lại một lần nữa để ông lão được yên tâm không?

Khởi Tất vỗ vai Bát Tư Ba, bật cười sảng khoái:

- Người anh em Bát Tư Ba, đệ thật khéo ăn nói. Được, ta đã hứa thì quyết không nuốt lời.

Bát Tư Ba mở cửa lồng, nhẹ nhàng nhấc tôi ra, vuốt ve, an ủi:

- Đừng sợ, ngươi được an toàn rồi, lát nữa ta sẽ đưa ngươi về chữa trị vết thương. Sau đó, nếu ngươi bằng lòng thì ở lại với chúng ta, Kháp Na chắc chắn sẽ rất cưng ngươi. Còn nếu ngươi muốn trở về với núi rừng, ta hứa sẽ không ngăn cản.

Được cậu ấy ôm trong lòng, nụ cười ấm áp và đôi mắt trong veo, thần thánh ấy khiến tôi tìm lại được cảm giác bình yên sau bao sợ hãi. Tôi gối đầu vào ngực cậu ấy, hơi ấm từ cơ thể cậu ấy truyền qua lớp áo tăng ni, bao bọc lấy tôi, tôi thấy mắt mình nhòe ướt.

Nước mắt thấm vào áo Bát Tư Ba, chính khoảnh khắc ấy, tôi đã đưa ra một quyết định làm thay đổi cuộc đời mình: tôi sẽ đi theo cậu ấy!

Cố nhiên là tôi muốn trả ơn cậu ấy, và tất nhiên tôi cũng phải toan tính cho riêng mình. Đi theo cậu ấy đồng nghĩa với việc tôi có thể nghe giảng pháp thường xuyên, thậm chí sẽ được nghe đích thân người bác của cậu ấy – đại sư Ban Trí Đạt – thuyết pháp cũng nên. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc tu hành của tôi. Đâu phải yêu tinh nào cũng may mắn như vậy. Bàn tay ai đó khẽ đặt lên khóe mắt tôi, lau đi những giọt lệ. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, bắt gặp nụ cười thuần khiết, rạng rỡ tựa ánh nắng ấm áp giữa ngày đông giá lạnh, đôi đồng tử đen láy hắt lên thứ ánh sáng lấp lánh, dịu dàng chất ngất. Tôi dụi đầu vào ngực cậu ấy, diễn vẻ ngoan ngoãn, dễ thương hết mức. Tôi biết mình rất có khả năng về khoản này, mỗi khi tôi tỏ ra đáng yêu, ai nấy đều say như điếu đổ. Bát Tư Ba cũng không phải ngoại lệ, nụ cười của cậu ấy ngày càng tươi tắn, chói sáng. Cậu ấy ôm tôi lên ngang tầm mắt, bật cười hoan hỉ:

- Chúng ta về nhà nào!

Tôi ríu rít cất tiếng đáp lại, gật đầu đồng ý. Khi ấy tôi không hề biết rằng, kể từ khoảnh khắc tôi gật đầu đi theo Bát Tư Ba, suốt bốn mươi năm sau đó, tôi không hề trở lại núi Côn Luân. Suốt bốn mươi năm, tôi đã gắn chặt đời mình với cậu ấy và gia tộc của cậu ấy…

r

- Sau đó, Bát Tư Ba đã thực hiện lời hứa, trở thành người bạn thân suốt đời của Khởi Tất. Bát Tư Ba luôn tận tâm tận lực thực hiện mọi yêu cầu của Khởi Tất.

Tôi bỏ thêm vài thanh củi vào lò, căn phòng trở nên ấm cúng hơn, chúng tôi dường như đã quên hẳn trận cuồng phong dữ dội vẫn đang quần đảo ngoài kia.

- Tôi đã đi du lịch Tây Tạng nhiều lần nên có biết đôi chút về giai đoạn lịch sử này. – Chàng trai trẻ gật gù, dáng vẻ tư lự. – Khi ấy, Tứ Xuyên vẫn chịu sự cai quản của nhà Nam Tống. Sở dĩ người Mông Cổ muốn chiếm Tây Tạng là để bảo đảm sự an toàn cho cánh bên khi quân đội của họ tấn công Nam Tống. Nhưng cục diện Tây Tạng lúc đó vô cùng rối ren. Vương triều Tufan sụp đổ từ lâu, các giáo phái đua nhau mọc lên như nấm sau mưa, cát cứ phân tranh liên miên. Tây Tạng lại có địa hình núi cao hiểm trở, dân cư thưa thớt. Dù Khoát Đoan đã dùng vũ lực để trấn áp và thu phục, dù đã hao tổn rất nhiều thời gian và binh lực, nhưng không có gì đảm bảo cả vùng Tây Tạng bao la ấy sẽ nghe theo hiệu lệnh của người Mông Cổ. Bởi vậy, kế sách tốt nhất là tìm kiếm lãnh tụ của một trong những giáo phái Phật giáo Tây Tạng, ra sức phát triển thế lực của giáo phái này để toàn bộ khu vực Tây Tạng phải quy thuận theo giáo phái ấy. Trong bối cảnh chính trị hết sức phức tạp, giáo phái Sakya đã đáp ứng được yêu cầu của thời đại, chuyển mình trở thành một giáo phái hùng mạnh ở Tây Tạng.

Tôi gật đầu tán đồng:

- Cậu nói rất đúng. Khi ấy, giáo phái lớn nhất đất Tạng là Kagyu đã bị chia nhỏ thành các hệ phái như: Drikung Kagyu, Baram Kagyu, Drukpa Kagyu, Karma Kagyu. Những hệ phái này đều chần chừ, e ngại, họ luôn tìm cách né tránh quân đội Mông Cổ, nhiều lần cự tuyệt giao thiệp. Chỉ có đại sư Ban Trí Đạt của phái Sakya ở vùng đất phía sau của Tây Tạng (thường gọi là vùng Hậu Tạng) là người nhìn xa trông rộng, ngài đã lập tức lên đường sau khi nhận được thư mời của Khoát Đoan. Chuyến đi tới Lương Châu của ngài đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ tiến trình lịch sử Tây Tạng nói riêng và lịch sử Trung Quốc nói chung.

Chàng trai nhìn tôi chăm chú:

- Suy nghĩ của cô rất hiện đại.

Tôi phì cười:

- Tuy tôi náu thân nơi núi cao, rừng sâu nhưng không có nghĩa tôi thờ ơ với mọi sự. Tận mắt chứng kiến những đổi thay bãi bể nương dâu hơn bảy trăm năm qua, nhất là những biến động to lớn mấy chục năm gần đây, lẽ nào tôi không chịu ảnh hưởng? Tôi vẫn thường xuyên hóa phép thành người, đi ngao du khắp nơi để trải nghiệm cuộc sống của con người. Các thiết bị điện tử như máy vi tính mà các cậu thường xuyên sử dụng, tôi cũng biết dùng. Các cậu lên mạng tìm tài liệu, tôi cũng làm như vậy. Tôi còn sưu tầm rất nhiều sách vở, tài liệu thuộc đủ các ngôn ngữ khác nhau nữa đó. Tôi không hề bị thời đại này đào thải.

Cậu ta ngẩn ngơ giây lát rồi bật cười ha hả:

- Xem ra yêu tinh cũng phải theo kịp thời đại mới được. Chả trách trò chuyện với cô, tôi có cảm giác rất thân thiện, gần gũi.

Sau một hồi chuyện trò rôm rả, chàng trai vừa chìa tay về phía lò sưởi vừa hào hứng hỏi tôi:

- Sau đó thì sao, cô đã gặp em trai Bát Tư Ba phải không?

Tôi gật đầu, mỉm cười khi thấy vẻ mặt háo hức chờ đợi của chàng trai trẻ. Xem ra, cậu ta đã hoàn toàn bị cuốn hút vào câu chuyện này, không còn tỏ vẻ đùa cợt như lúc đầu nữa.

Hoa sen xanh 3.1

Chương 3

Hoa lan trắng

“Đối với những kẻ ngu muội,

Sách hay cũng chỉ là giấy lộn;

Ngọc ngà châu báu dẫu đẹp đẽ nhường nào,

Trâu đất cũng chẳng buồn ngó đến.”

(Cách ngôn Sakya) 

- Kháp Na, Kháp Na ơi! – Trước mặt công tử Khởi Tất thì điềm đạm, chững chạc là thế, vậy mà vừa bước vào nhà trọ, Bát Tư Ba liền ôm tôi thật chặt, vừa lao đi như bay vừa gọi vang bằng tiếng Tạng. – Mau đến xem ta mang gì về cho đệ này.

Tìm khắp nơi vẫn không thấy ai. Giữa mùa đông giá buốt mà vầng trán nhẵn bóng của Bát Tư Ba lại lấm tấm mồ hôi.

- Kháp Na ơi, không chịu ra đây, ta sẽ không cho đệ chạm vào…

Bỗng từ phía sau cánh cửa, một chú bé loắt choắt chui ra, ngón tay kéo xệ mắt xuống, tạo thành hình thù quái dị, rất buồn cười rồi gầm gừ dọa nạt. Chú nhóc này không mặc áo nhà tu như Bát Tư Ba mà vận đồ dân thường, tóc dài ngang vai, đeo bông tai mã não, áo khoác lụa với những đường may cầu kỳ, thêu hoa văn rực rỡ càng tôn thêm đôi môi đỏ mọng và hàm răng trắng tinh của chú nhóc, đáng yêu vô chừng!

Bát Tư Ba phì cười, vỗ nhẹ đầu em trai:

- Trò này của đệ ta còn lạ gì nữa, không dọa nổi ta đâu, nhưng đừng làm tiểu hồ ly này sợ hãi, nếu không, đệ sẽ ân hận đấy.

Bát Tư Ba thận trọng mở rộng vòng tay, tôi khẽ thò đầu ra ngoài. Ánh nắng rực rỡ giữa ngày đông tràn qua khung cửa sổ, chiếu vào tôi. Chói quá nên tôi vội nhắm mắt, dụi đầu vào áo của Bát Tư Ba.

- Ôi, đáng yêu quá, lông và mắt nó màu xanh này, trên trán còn có cả vết bớt hình bông hoa nữa, đẹp ơi là đẹp! Đệ chưa bao giờ nhìn thấy con vật nào tuyệt vời thế này!

Chú nhóc reo lên sung sướng, chìa tay ra định đón tôi. Nhưng tôi cảnh giác, dựng đứng hai tai, nhe nanh dọa nạt.

- Đệ làm nó sợ rồi đấy.

Bát Tư Ba mỉm cười, nhẹ nhàng đặt tôi vào tay Kháp Na rồi dịu dàng căn dặn:

- Cẩn thận, chân nó đang bị thương đấy. Đệ ôm nó nhé, để ta đi lấy thuốc.

- Vâng.

Giọng nói lanh lảnh của Kháp Na rất giống giọng của Bát Tư Ba ba năm về trước. Chú nhóc bắt chước anh trai, thận trọng nâng tôi lên, trịnh trọng giới thiệu:

- Chào em, ta là Kháp Na Đa Cát, em cứ gọi ta là Kháp Na như anh trai ta cũng được. Hết năm nay là ta tròn chín tuổi.

Tôi sững sờ, đứa bé này trò chuyện với tôi như với con người vậy. Chú nhóc nhỏ xíu, gương mặt trẻ thơ non nớt, mũm mĩm. Đôi mắt trong veo, sáng long lanh như sao Khuê. Hai má cũng sạm nắng giống hệt anh trai, hẳn là họ đã rất vất vả trong chuyến đi vừa qua. Nhưng nước da của chú nhóc trắng trẻo, mịn màng hơn Bát Tư Ba rất nhiều. Và điểm khác biệt rõ rệt nhất giữa hai anh em họ là, khi Kháp Na cười, xuất hiện hai má lúm đồng tiền rất sâu, nó khiến nụ cười của chú nhóc càng thêm rạng rỡ.

Khoảnh khắc tôi say sưa ngắm nhìn nụ cười thuần khiết như ban mai tỏa rạng trên gương mặt thiên thần của Kháp Na, trái tim vốn đã ngủ yên hơn hai trăm năm của tôi bỗng rạo rực, trong tôi bỗng dâng trào thứ cảm xúc mà người ta gọi là “xúc động”. Khi ấy, tôi chưa hiểu hết về tình cảm của con người nên không biết rằng, cậu bé mới lần đầu gặp đã chào hỏi tôi trịnh trọng như với con người ấy ngày sau sẽ đi vào trái tim tôi và vĩnh viễn ở lại nơi đó. Hơn bảy trăm năm đã trôi qua nhưng nụ cười của Kháp Na chưa bao giờ phai nhòa trong tâm trí tôi. Những đêm trường cô quạnh, khi gió bão trên dãy Côn Luân cứ rít gào mãi không thôi ngoài cửa sổ, chỉ cần nhớ đến nụ cười ấm áp của Kháp Na, tôi lại có thể bình yên gối đầu lên ký ức, để nụ cười êm ái ru mình vào giấc ngủ an lành.

- Đại ca, mình gọi nó là gì nhỉ?

- Ta cũng đang nghĩ xem nên đặt cho nó tên gì đây.

Bát Tư Ba nhìn tôi, mỉm cười hồn hậu, ngón tay âu yếm vuốt ve chiếc tai thuôn nhọn của tôi.

- Đôi mắt và bộ lông của nó đều màu xanh, loài vật quý hiếm này có lẽ chỉ có ở trên trời, chi bằng hãy đặt tên cho nó là Lam Kha Mai Đóa

[1]

.

Gương mặt búp bê của Kháp Na bỗng trở nên nghiêm trang, “ông cụ non” lắc đầu cảm khái:

- Lam Kha Mai Đóa, hoa trên trời cao, đại ca quả không hổ danh là thần đồng, cái tên hay quá!

Lam Kha Mai Đóa trong tiếng Tạng có nghĩa là “hoa trên trời”. Kháp Na thường gọi tôi một cách thân mật là Tiểu Lam, còn Bát Tư Ba thì thích gọi tôi là Lam Kha hơn. Trước kia, khi tiếp xúc với con người, tôi biết rằng họ dùng tên để gọi. Giờ đây, sau ba trăm năm, tiểu hồ ly tôi cũng đã có tên gọi, điều này mang lại cho tôi niềm hoan hỉ không sao tả xiết.

Về sau, khi đã gắn bó với hai anh em họ đã lâu, khi hơi thở của con người đã bén vào mạch sống của tôi, tôi ngày càng thích tên gọi này. Và dù hơn bảy trăm năm mươi năm sau, mỗi khi nhẩm gọi Lam Kha Mai Đóa, bên tai tôi lại như văng vẳng giọng nói ấm áp của hai anh em họ, giật mình ngoảnh lại, dưới tàn lửa lung linh, tôi dõi mắt kiếm tìm, nhưng những dáng hình thân quen thuở trước chỉ trở về trong những giấc mơ đêm.

Hai anh em chụm đầu lại, để toàn bộ tâm trí vào việc chữa trị vết thương cho tôi. Một tay Kháp Na ôm lấy tôi, tay kia giữ chân sau bên trái bị thương của tôi, vẻ mặt căng thẳng:

- Tiểu Lam à, lát nữa sẽ đau lắm đấy, ráng chịu đựng nhé!

Bát Tư Ba nhấp một ngụm rượu, phun phì phì vào chân sau của tôi. Hai tiếng kêu thảm thiết bật lên cùng lúc, một của tôi, một của Kháp Na.

- Kháp Na, sao đệ lại kêu lên như thế?

Bát Tư Ba thở phào, chùi bàn tay đẫm mồ hôi vào áo, khẽ cốc đầu, lừ mắt với em trai.

Kháp Na cúi đầu, chiếc môi hình đài sen dẩu lên, phụng phịu:

- Đệ… đệ nghĩ rằng chắc là Tiểu Lam rất đau đớn.

Bát Tư Ba sững sờ, ánh mắt ngập tràn yêu thương, lắc đầu:

- Ôi, cái thằng nhóc này…

Tôi nhận thấy cậu bé mười hai tuổi ấy không trò chuyện với em trai với tư cách một người anh mà giống hệt một người cha. Bất luận Kháp Na có tinh nghịch chừng nào, bất luận Kháp Na có làm việc gì sai trái, Bát Tư Ba vẫn luôn ở bên, chở che, bao bọc em trai, giống như vị thần hộ mệnh của chú nhóc.

Sau khi băng bó cẩn thận, hai chú bé bắt đầu công cuộc rửa ráy cho tôi. Tôi cảm thấy mình như mắc cỡ, tuy họ còn rất nhỏ, nhưng dù sao cũng là giống đực, con người gọi là gì nhỉ? À, “đàn ông”. Tôi muốn bảo họ ra ngoài, nhưng lại e ngại lúc này mà mở miệng lên tiếng sẽ khiến họ khiếp sợ. Tôi định chạy trốn nhưng không sao thoát khỏi vòng tay siết chặt của Kháp Na. Và điều khiến tôi xấu hổ nhất là, hai anh em họ cùng xúm xít lại nghiên cứu xem tôi là giống đực hay giống cái. Họ cười rộ lên sau khi biết kết quả, còn “bà lão” ba trăm tuổi là tôi đây thì ngượng chín mặt, không biết giấu mặt vào đâu.

[1]

Nguyên tác là “Lam Già Mai Đóa” nhưng chúng tôi đã đổi thành Lam Kha Mai Đóa cho phù hợp với cách gọi tên của người Việt Nam. (DG)

Hoa sen xanh 3.2

- Đại ca ơi, hình như Tiểu Lam hiểu những gì chúng ta nói. Huynh xem, mỗi lần chúng ta nói nó đều có phản ứng.

Kháp Na hào hứng nhìn anh trai bằng cặp mắt cong cong tựa vành trăng lưỡi liềm, luồn tay xuống dưới phần bụng của tôi, gãi nhẹ:

- Huynh thấy không, nó đỏ mặt rồi này. Có phải vì chúng ta làm vậy nên nó xấu hổ không?

Bát Tư Ba xoay tôi lại, bàn tay thoăn thoắt tiếp tục công việc tắm rửa cho tôi:

- Lam Kha là loài hồ ly quý hiếm, rất có thể nó không những nghe hiểu tiếng người mà còn trò chuyện được nữa đó.

Kháp Na chớp chớp đôi mắt to tròn, linh động, thích chí “a” lên:

- Biết trò chuyện ư? Nó sẽ nói chuyện bằng tiếng Tạng chứ?

- Tất nhiên rồi. Nó là thú thiêng kia mà, tiếng Tây Tạng, tiếng Mông Cổ, tiếng Hán, tiếng Tangut, nếu muốn, nó đều có thể nói được.

Tôi lừ mắt với Bát Tư Ba, cậu ta vẫn luôn chân luôn tay. Cậu ta thật đáng nể, ngay cả điều này cũng đoán ra được.

- Tuyệt quá! Tiểu Lam ơi, gọi tên ta đi, rồi ta cho ăn kẹo.

Kháp Na khoa chân múa tay, hơi nóng bốc lên từ chậu nước khiến gương mặt vốn đang hào hứng tột độ của chú nhóc càng hồng hào.

Thật nản quá chừng! Tôi ngần này tuổi đầu mà vẫn “bị” một thằng nhóc tám tuổi nựng như nựng trẻ con, oan uổng quá đi mất, tuổi tác ơi là tuổi tác ơi! Tôi trợn mắt với chú nhóc, ta đây đâu dễ mắc lừa. Nếu ta mở lời nói chuyện, sẽ bị các người quy chụp là yêu ma, quỷ quái, các người sẽ rước thầy mo về xua tà đuổi ma, rồi ta sẽ bị cả đám người xúm lại hô hoán, đuổi đánh. Bị kịch đó ta gặp nhiều lần rồi. Ta quyết không ấu trĩ, ngây thơ như trước kia, cho rằng con người đáng tin cậy nữa.

Cuối cùng cũng tắm táp xong xuôi. Tôi rầu rĩ nghĩ rằng, chỉ vì muốn nghe giảng pháp mà mình phải diễn vai thú cưng ở chốn này, thật là khốn khổ. Bỗng đâu một cơn gió nhẹ lọt qua ô cửa sổ dán giấy hồ, len lỏi vào phòng, tôi chợt nảy ra ý định bỏ trốn. Kháp Na phủ một mảnh khăn lên người tôi, chà đi chà lại. Bát Tư Ba kéo tay chú nhóc:

- Nhẹ thôi, đệ làm nó đau đấy.

Bát Tư Ba nhẹ nhàng lau người cho tôi, cảm giác dễ chịu như được mát xa vậy. Tôi nhắm nghiền mắt lại tận hưởng, thầm nghĩ Bát Tư Ba thật dịu dàng và chu đáo, chả bù cho cái tên nhóc tay chân vụng về kia. Lúc tắm rửa cho tôi, tên nhóc đã không ít lần giựt lông tôi, lại còn suýt nữa thì để nước ngấm vào vết thương nữa chứ. Từ nay về sau, phải tránh xa tên nhóc ấy mới được.

Mất khá nhiều thời gian mà bộ lông của tôi vẫn chưa khô hẳn. Bát Tư Ba thay một mảnh khăn bông khô khác, quấn chặt lấy tôi rồi đặt tôi lên giường. Bên ngoài có tiếng gõ cửa:

- Thưa ngài Bát Tư Ba, thưa cậu chủ Kháp Na, đại sư Ban Trí Đạt cho gọi hai vị đến nghe giảng pháp.

Bát Tư Ba đáp lời rồi chuẩn bị bước ra khỏi cửa thì Kháp Na kéo áo cậu lại:

- Đại ca ơi, chúng ta mang Tiểu Lam đi theo nhé?

- Nhưng… – Bát Tư Ba do dự. – Bác rất nghiêm khắc với việc học hành của chúng ta, nếu để bác nhìn thấy, bác sẽ rất buồn.

- Nhưng đệ không yên tâm để Tiểu Lam ở đây một mình. – Kháp Na dẩu môi nũng nịu, đu đưa vạt áo của anh trai, nài nỉ. – Đi mà huynh, chúng mình giấu Tiểu Lam trong áo, bác không phát hiện ra đâu.

Giọng nói lanh lảnh, vẻ nũng nịu dễ thương ấy có lẽ là tuyệt chiêu mà Kháp Na thường dùng với anh trai và hẳn là lần nào cũng hiệu quả. Bát Tư Ba ngoảnh đầu nhìn tôi, tất nhiên là tôi phải nắm bắt cơ hội quý giá này rồi. Tôi vội vàng tốc chiếc khăn phủ trên người ra, thò đầu diễn vẻ mặt đáng thương, cất giọng ư ử khẩn thiết.

- Thôi được. – Rốt cuộc thì Bát Tư Ba không thể nào từ chối, cậu bước đến bên tôi, kéo chiếc khăn bông ra, nhấc bổng tôi lên. – Lam Kha, nhớ là phải ngoan, không được làm ồn nhé!

Tôi gật đầu nhất trí, Kháp Na sung sướng reo hò:

- Đại ca tuyệt vời!

Toàn thân tôi vẫn chưa khô hẳn, nhưng nếu cuộn cả khăn bông sẽ rất khó đặt vào trong áo. Bát Tư Ba suy nghĩ một lát, nới rộng cổ áo, nhẹ nhàng đặt tôi vào trong. Vừa chui vào áo cậu ấy, tôi bỗng sững sờ. Đây… đây… chính là da thịt của con người ư? Không có bộ lông che phủ, thì ra nó trơn mượt, láng bóng và ấm áp như vậy. Cơ thể cậu ấy tỏa ra một mùi thơm rất khó diễn tả, mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương. Tôi không ghét mùi hương này, nhưng không hiểu sao mùi cơ thể của cậu ấy khiến tôi hoang mang.

Tôi khẽ giãy giụa, tìm cách chạy trốn cảm giác hoang mang này. Bát Tư Ba đưa tay lên chạm vào người tôi qua lần áo tăng ni, điều chỉnh lại vị trí để tôi được thoải mái hơn. Phía trước đột nhiên xuất hiện luồng ánh sáng chói chang, không khí trong lành ào đến, tôi há miệng hít lấy hít để, rồi vẩn vơ kết luận, cảm giác lạ lùng khi nãy chắc là do trong này ngột ngạt quá.

Họ đang bước đi, những tiếng thình thịch, thình thịch nối tiếp nhau vang lên rõ mồn một bên tai tôi. Có phải tiếng đập của trái tim cậu ấy? Hay là tim tôi đang gõ nhịp? Xung quanh có tiếng bước chân lạo xạo, có lẽ là của đám người hầu. Bát Tư Ba vừa bước đi vừa trò chuyện với Kháp Na, nhưng tôi chẳng còn tâm trí đâu mà lắng nghe cuộc trò chuyện của họ nữa, vì bên tai tôi lúc này chỉ toàn là âm thanh thình thịch, thình thịch phát ra từ khuôn ngực của cậu ấy. Đây là lần đầu tiên tôi xiếp xúc với con người ở khoảng cách gần đến vậy, tôi không quen chút nào, rất… rất không quen.

Tôi nghe thấy họ bước chân vào một căn phòng rồi đứng lại, cung kính cúi đầu, đồng thanh chào:

- Thưa bác!

  Chàng trai trẻ đang thưởng thức chén trà bơ thứ ba, cậu ta nhấp từng ngụm nhỏ:

- Bát Tư Ba còn anh chị em khác không?

- Còn chứ. Gia đình cậu ấy rất phức tạp. Cha cậu ấy cưới những năm người vợ, nhưng mãi năm năm mươi hai tuổi, ông mới có được người con trai đầu tiên là Bát Tư Ba. Đến năm năm mươi sáu tuổi, khi ông qua đời, trong vòng bốn năm, năm người vợ của ông đã sinh cho ông thêm ba người con trai và bốn người con gái. Kháp Na là con út, Kháp Na và Bát Tư Ba đều là con của người vợ cả.

Chàng trai trẻ gật đầu tổng kết:

- Bởi vậy, trong số chừng ấy anh chị em, tình cảm của Bát Tư Ba và Kháp Na là khăng khít nhất, vì chỉ có Kháp Na là em trai cùng một mẹ sinh ra với cậu ấy. Vả lại, từ thuở ấu thơ, hai người đã cùng nhau rời quê hương, lưu lạc nơi đất khách. Tình anh em ruột thịt keo sơn ấy không gì có thể thay thế.

Mỗi khi nhớ đến Kháp Na, nụ cười rạng rỡ, lúm đồng tiền hút hồn của cậu ấy lại hiện lên sống động trước mắt tôi. Trái tim tôi quặn thắt, tôi không dám nghĩ thêm nữa, gắng bình tĩnh lại, thở dài:

- Bát Tư Ba thương yêu và chiều chuộng em trai vì Kháp Na rất tội nghiệp. Cậu ấy vừa chào đời thì cha mất, năm lên bốn tuổi thì mẹ cũng qua đời. Sáu tuổi rời xa quê hương, lênh đênh trên chặng đường dài gian nan, khổ ải. Và chỉ vài tháng nữa thôi, cậu ấy sẽ phải kết thúc tuổi thơ hồn nhiên, vô lo vô nghĩ của mình…

Chàng trai trẻ thoáng ngẩn ngơ, sau đó lắc đầu, thở dài:

- Tội nghiệp cậu bé…

Hoa sen xanh 4.1

Chương 4

Trí giả Ban Trí Đạt

“Sự cao quý được gìn giữ bởi lời nói và hành động,

Hành vi sai trái sẽ hủy hoại tất thảy;

Ai nấy đều yêu thích gỗ đàn hương,

Nhưng đã đốt thành tro thì còn chi để luyến tiếc.”

(Cách ngôn Sakya)

Tôi rất muốn ghếch đầu lên để được tận mắt chiêm ngưỡng dung mạo nhân vật huyền thoại của Phật giáo Tây Tạng ấy, bởi vì trong buổi pháp hội năm xưa, ngài không đăng đàn giảng pháp mà chỉ lặng lẽ ngồi bên cạnh. Tôi đứng nhìn từ xa, chẳng thể tỏ tường dung mạo, chỉ có cảm giác ở con người ấy toát lên thần khí của rồng thiêng, ánh sáng của trí tuệ. Tôi và lão gấu xám vừa hết lời ca tụng vừa than thở nuối tiếc vì không được nghe ngài thuyết pháp.

Nhưng trong tâm trí tôi, ngài không hề xa lạ. Bởi vì suốt năm năm gắn bó với lão gấu xám, hầu như ngày nào tôi cũng được nghe những câu chuyện, sự tích, huyền thoại về bậc trí giả Ban Trí Đạt ở Sakya, nghe đến thuộc làu, nghe đến rát cả tai.

Theo lời lão gấu xám thì tên thật của ngài Ban Trí Đạt là Cống Cát Kiên Tán. Ngài đi chu du tứ phương, ngay từ khi còn rất trẻ, ngài đã tới rất nhiều ngôi chùa danh tiếng viếng thăm các vị cao tăng. Ngài có học vấn sâu rộng, tinh thông ngũ minh

[1]

, danh tiếng của ngài lan khắp vùng Wusi, người dân nơi đây tôn ngài là bậc trí giả “Ban Trí Đạt

[2]

”.

Truyện kể rằng, năm đó có một nhóm người Thiên Trúc sùng bái đấng Phạm Thiên

[3]

, phản đối Phật giáo, mới tìm đến ngài Ban Trí Đạt đòi thách đấu tranh biện. Ngài Ban Trí Đạt giành chiến thắng và nhóm người kia đã quy y trở thành tín đồ của giáo phái Sakya. Người ta còn nói, các giáo phái khác cũng tỏ ra bất mãn với vị trí giả, họ đã cử nhà tu hành có học vấn sâu rộng nhất lúc bấy giờ là ngài Ngũ Do Ba đến tranh biện. Kết quả, ngài Ngũ Do Ba cũng phải chịu thua tâm phục khẩu phục, bằng lòng quy y làm tín đồ của phái Sakya. Sau đó, Ngũ Do Ba trở thành đệ tử đắc lực nhất của Ban Trí Đạt.

Học giả Ban Trí Đạt viết rất nhiều sách, trong số đó, cuốn sách mà lão gấu xám thuộc lòng và ngày ngày đọc vanh vách là

Cách ngôn Sakya

. Lão gấu xám thường vỗ ngực tự khen chất giọng bò rống của mình là du dương, trầm bổng, nhưng thực tế thì giọng đọc inh tai nhức óc của lão khiến cho cuốn cách ngôn vốn đậm chất trí tuệ trở nên khá hài hước, thú vị. Và đến bây giờ tôi vẫn có thể đọc thuộc một số bài.

Ví như:

“Kẻ nhỏ nhen trút giận lên người rộng lượng,

Người rộng lượng chẳng buồn bực bội;

Loài sói tru lên những tràng dài ngạo mạn,

Sư tử lim dim, cười nhạo đám vô tri.”

Khi ngâm nga bài cách ngôn này, lão gấu xám thường than thở vì sao ngài Ban Trí Đạt không thay “sư tử” bằng “gấu xám”.

Hay một bài khác:

“Phẩm cách của người chính trực không thay đổi,

Ngay cả khi người đó vấp phải nguy nạn trong đời;

Như vàng kia không thể bị biến màu,

Ngay cả khi đem nung trong lửa đỏ.”

Lão gấm xám vốn chậm hiểu và trí nhớ kém, vậy mà cũng có thể đọc thuộc

Cách ngôn Sakya

, điều đó chứng tỏ sức hấp dẫn và tính đại chúng của các tác phẩm của ngài Ban Trí Đạt lớn mức nào.

Hôm nay, đại sư đang ở cách tôi chỉ vài bước chân, trong lòng tôi bỗng ngập tràn niềm vui và xúc động. Nhưng Bát Tư Ba căn dặn tôi không được thò đầu ra ngoài, nên lúc này, tôi cứ bứt rứt không yên.

- Bốn phép quy y của đạo quả pháp

[4]

mà hôm qua ta truyền dạy, các con còn nhớ cả chứ?

Giọng nói trầm ấm, nhuốm màu tuổi tác nhưng rất mực uy nghiêm vang lên.

- Dạ nhớ!

Hai anh em ngồi xếp bằng trên thảm, lễ phép thưa.

Có tiếng vải áo sột soạt, tôi cảm nhận rất rõ Bát Tư Ba chắp tay lại, dẫn dắt Kháp Na cùng lầm rầm tụng niệm:

- Nam mô

[5]

Cách – nhật – bối, nam mô Bố – đạt – nhã, nam mô Đạt – ma – nhã, nam mô Tang – già – nhã.

Giọng nói của đại sư cất lên:

- Bốn câu niệm chú này, theo thứ tự biểu thị sự thành tâm quy y

[6]

Thượng sư Kim Cương

[7]

, quy y Phật, quy y pháp và quy y tăng. Hãy ghi nhớ, không được đảo lộn trật tự. Mỗi lần tụng niệm ba lượt, sau đó quán tưởng

[8]

Thượng sư Kim Cương, quán tưởng Tam bảo: Phật, pháp, tăng hiển hiện trong không trung.

Tiếng bước chân chậm rãi tiến về phía tôi, rồi dừng lại bên cạnh Bát Tư Ba.

- Tam bảo hội hợp, hóa thành quầng sáng ngũ sắc, chiếu rọi những góc tối trong tâm linh của người tu tập rồi lan truyền khắp cơ thể của người đó. Mọi nghiệp chướng, mọi thứ nhơ bẩn sẽ biến thành khí đen, được đào thải ra bên ngoài cơ thể qua các lỗ chân lông. Người tu tập sẽ trở nên thông suốt, sáng láng, trong lòng nhẹ nhõm, yên bình, cảm giác hạnh phúc ngập tràn.

Giọng ngài tuy yếu ớt, già cả nhưng thể hiện sự thông thái, trí độ tuyệt vời. Lắng nghe những lời dạy bảo đầy trí tuệ của ngài, tôi chợt hiểu ra vì sao năm xưa, mỗi khi nhắc đến đại sư Ban Trí Đạt, cặp mắt của lão gấu xám lại rạng ngời đến vậy.

- Sau khi tụng niệm đủ một trăm linh tám lần bốn câu chú trên, kết quả là phát bồ đề tâm, lòng thành hướng về Phật Tổ, phát nguyện quyết tâm tu tập, và sau khi công pháp viên mãn, nhất định phải hướng về chúng sinh, cứu giúp chúng sinh. Nào, hai con hãy cùng ta tụng niệm một lần nữa.

Nghe những âm thanh truyền đến tai mình, tôi biết rằng ngài Ban Trí Đạt đã ngồi xếp bằng trên tấm thảm, hai anh em Bát Tư Ba cùng nhau tụng niệm bốn câu chú quy y. Tôi cũng học theo họ, tuần tự quán tưởng Tam bảo. Một trăm linh tám lượt tụng niệm kết thúc sau một canh giờ, lúc mở mắt, tôi thấy tinh thần hết sức sảng khoái, đầu óc minh mẫn, khí huyết lưu thông. Pháp môn tu tập của Phật giáo rất có ích cho việc tu luyện của loài yêu chúng tôi. Trong lòng mừng thầm, nếu còn sống và biết tôi có được mối duyên kỳ ngộ này, hẳn lão gấu xám phải ghen tị đỏ mắt.

Ngài Ban Trí Đạt tiếp tục thuyết giảng:

- Đạo quả pháp là phép tu truyền thống của phái Sakya, phép tu này chỉ dựa vào khẩu truyền, không có văn tự, tức là phép tu chỉ có thể lĩnh hội, không thể diễn đạt bằng lời. Bốn phép quy y ta truyền dạy cho các con chỉ là một trong những tri thức nền tảng thuộc giai đoạn đầu của đạo quả pháp. Các con phải tu tập bền bỉ, sau khi kết thúc phép tu thứ nhất mới được tiếp tục tu tập phép tu thứ hai, tuyệt đối không được tham lam, nóng vội.

Hai anh em cất tiếng thưa vâng.

- Thưa bác, chúng ta còn phải ở lại đây bao lâu nữa? Con muốn về Sakya. – Đó là giọng nói non nớt, trong veo của Kháp Na. Hẳn là chú nhóc mỏi chân quá, muốn đứng lên rồi đây. – Nơi này rất kỳ quặc, con cứ chạy nhảy một lúc là lại thấy buồn ngủ, đầu đau như búa bổ ạ!

- Kháp Na, ta biết khí hậu nơi đây khác với Sakya. Chúng ta đến từ vùng núi cao quanh năm băng tuyết nên sức khỏe không thích ứng được với thời tiết ở Lương Châu. Con và Lâu Cát đều còn rất nhỏ, hai năm rong ruổi đường xa vạn dặm, tội cho anh em con quá! – Trong giọng nói hiền từ của ngài Ban Trí Đạt có vương chút áy náy, nhưng ngữ khí kiên định. – Nhưng chúng ta chưa thể rời đi được. Và có lẽ chúng ta sẽ phải ở lại đây thêm vài năm nữa. Kháp Na, con hãy cố gắng thích nghi.

- Thưa bác, không sao ạ, bác đừng lo cho chúng con. – Đó là giọng nói khàn khàn của Bát Tư Ba. – Bác đến Lương Châu với trách nhiệm nặng nề, chúng con hứa sẽ không trở thành gánh nặng của bác.

[1]

Ngũ minh là năm kiến thức mà người hoằng pháp cần phải trang bị và am hiểu sâu sắc, bao gồm: nội minh (những tri thức về Phật học), nhân minh (phương pháp luận lý hay logic học), thanh minh (các môn học về văn tự, âm thanh và văn học), công xảo minh (các môn học về công nghệ và kỹ thuật), y phương minh (các môn học về các phương pháp chữa bệnh). Ngoài ra, còn có cách chia ngũ minh thành “đại ngũ minh” (gồm: nội minh, nhân minh, thanh minh, công xảo minh và y phương minh) và “tiểu ngũ minh” (gồm: tu từ học, từ vựng học, vận luật học, hí kịch học và thiên văn hình tướng học).

[2]

Ban Trí Đạt là tôn xưng dành cho những học giả Phật giáo tinh thông ngũ minh ở Ấn Độ khi xưa. (DG)

[3]

Hay Brahma, một trong ba vị thần tối cao của Ấn Độ giáo. Brahma còn có nghĩa là đấng sáng tạo. (DG)

[4]

Đạo quả pháp là những luận lý Phật học và pháp môn tu tập để ngộ đạo và chứng quả của giáo phái Sakya. (DG)

[5]

Nam mô: lời tỏ lòng thành kính. (DG)

[6]

Quy y trong Phật giáo chỉ quy y Tam bảo (Phật, pháp và tăng), có nghĩa là nương nhờ Tam bảo để thoát khỏi mọi khổ não, tâm thức được yên ổn vĩnh viễn. (DG)

[7]

Thượng sư hay Thượng sư Kim Cương là tôn xưng để chỉ những bậc đại đức trong Phật giáo Tây Tạng. Người Tạng thường gọi họ là Lạt Ma (chính là phiên âm tiếng Hán của từ Brahma). (DG) 

[8]

“Quán tưởng” là chữ dùng trong Phật giáo, chỉ sự tập trung ý niệm và tinh thần vào việc quan sát và suy tưởng về một đối tượng nào đó nhằm loại bỏ vọng niệm hoặc tĩnh tâm thiền định. (DG)

Hoa sen xanh 4.2

Hơn bảy trăm năm sau, khi tìm đọc các tài liệu của thời hiện đại tôi mới biết, sở dĩ anh em họ không thích nghi được với điều kiện khí hậu ở Lương Châu là do họ bị “sốc oxy”. Vùng Sakya nằm ở độ cao bốn nghìn ba trăm mét so với mực nước biển, trong khi Lương Châu chỉ cao khoảng một nghìn mét. Từ vùng đồng bằng lên miền núi cao, người ta sẽ dễ bị phản ứng độ cao vì thiếu oxy, còn từ miền núi cao đi xuống đồng bằng, người ta sẽ bị “sốc oxy” vì phải tiếp nhận quá nhiều dưỡng khí một cách đột ngột. Chứng bệnh phản ứng độ cao và sốc oxy xảy ra ở mức độ nặng nhẹ khác nhau tùy vào thể chất của từng người. Nghiêm trọng nhất có thể khiến người ta sưng phổi mà chết. Con người hơn bảy trăm năm trước không thể biết được những tri thức này, cũng không có thuốc thang hỗ trợ, họ chỉ quy kết một cách đơn giản nguyên nhân của hiện tượng trên là không hợp thủy thổ.

Nhưng hai năm qua, ba bác cháu họ, một người già cả và hai đứa trẻ đâu chỉ trải qua và chịu đựng những thách thức về sức khỏe?

- Lâu Cát, Kháp Na, hai con có biết vì sao tuổi đã cao, sức đã yếu, vậy mà ta vẫn phải lặn lội ngàn dặm, vượt qua bao gian nan, thử thách để đến được đất Lương Châu này không? – Giọng nói trầm ấm của ngài ngừng lại một lát, rồi tiếp tục cất lên, nhưng ngài đã chuyển hướng câu chuyện sang một đề tài khác. – Sáu trăm năm trước, người anh hùng Songtsan Gampo (Tùng Tán Cán Bố) của chúng ta đã thống nhất các bộ lạc, dời đô về La-ta

[1]

, lập nên vương triều Tufan. Sau đó, các đời tán phổ

[2]

kế tiếp nhau mở mang bờ cõi thông qua các cuộc chinh phạt.

Tôi không hiểu vì sao ngài Ban Trí Đạt đột nhiên nhắc đến lịch sử Tufan, nhưng tôi linh cảm điều này có liên quan đến việc ngài đến Lương Châu. Tôi rất hào hứng khi được nghe kể về lịch sử vương triều Tufan. Đang chuyên tâm lắng nghe, bỗng tôi cảm thấy một luồng sáng chiếu rọi. Bát Tư Ba khẽ ấn vào người tôi. Tôi chần chừ một lát mới thận trọng ghếch chiếc mũi ra bên ngoài. Bộ lông của tôi đã được hong khô nhờ nhiệt độ cơ thể của Bát Tư Ba, không khí trong lành ào đến, tôi không cảm thấy lạnh mà thấy thoải mái hơn vì không khí đã giúp tôi xua đi mùi vị khiến tôi cảm thấy bồn chồn, hoang mang khi nãy.

Tôi lấy hết can đảm, ngóc đầu lên, rón rén quan sát, cuối cùng tôi cũng đã được nhìn thấy bậc trí giả nổi tiếng nhất vùng Wusi – ngài Ban Trí Đạt của giáo phái Sakya.

Mái đầu trắng xóa, tóc cắt ngắn, lún phún mọc sát da đầu, dáng người cao lớn, lưng hơi còng, đốm đồi mồi mọc chi chít trên gương mặt và bàn tay ngài. So với ba năm trước, ngài già hơn và gầy đi rất nhiều. Nhưng đôi mắt của ngài vẫn rực sáng, vẻ thông tuệ, trác việt vẫn hiển hiện trong thần thái của ngài. Nhìn vào đôi mắt như kết tụ bởi ngàn vì tinh tú ấy, ta có cảm giác như ngài thấu tỏ mọi sự.

Người hầu bước đến, rót thêm trà bơ cho ngài, căn phòng bỗng ngập tràn hương thơm nồng nồng của vị trà bơ. Ngài nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói tiếp:

- Vì sao vương triều Tufan lớn mạnh là thế lại sụp đổ chỉ sau đó vài trăm năm?

Kháp Na chớp chớp đôi mắt to tròn, long lanh, tay bóp cằm, ra chiều nghĩ ngợi, vẻ mặt nghiêm túc, trông rất đáng yêu.

Ngài Ban Trí Đạt thở dài buồn bã:

- Vương quốc Tufan ban đầu không theo tín ngưỡng đạo Phật mà sùng bái đạo Bon

[3]

. Quốc vương Songtsan Gampo kết hôn với Công chúa Văn Thành người Hán và Công chúa Bhrikuti Devi của Nepal. Sau khi đến đất Tạng, hai vị công chúa đã xây dựng đền Jokhang (Đại Chiêu Tự) và đền Ramoche (Tiểu Chiêu Tự), đem tín ngưỡng Phật giáo đến với mảnh đất này, cuộc chiến giữa Bon giáo và Phật giáo cũng bắt đầu từ đó.

Ngài đưa mắt nhìn hai anh em, giọng nói trầm buồn:

- Vị vua cuối cùng là Tán phổ Langdarma đã ra lệnh đàn áp Phật giáo, tăng sĩ bị ép buộc phải hoàn tục, kinh Phật bị thiêu hủy, đền đài, miếu mạo biến thành nơi hành quyết. Kết cục là Langdarma đã bị những người ủng hộ Phật giáo giết chết. Sau khi Nhà vua qua đời, Hoàng hậu và Vương phi câu kết với thế lực hoàng thân quốc thích, vương tôn quý tộc tàn sát lẫn nhau để tranh đoạt vương vị, cuộc nội chiến diễn ra suốt hai mươi năm mà không bên nào giành chiến thắng. Thêm vào đó, hạn hán, mất mùa xảy ra liên miên, ôn dịch hoành hành khắp nơi, nhân dân đói khổ, lầm than, nô lệ vùng lên khởi nghĩa. Cuộc chiến tranh tàn khốc đã xảy ra, mạng người bị xem như cỏ rác, trong vòng năm nghìn dặm, đâu cũng là miền đất chết, máu chảy thành sông. Thế lực của hai bên dần suy yếu và tan rã, từ đó, đất Tạng bị chia năm xẻ bảy, các bộ lạc liên kết với các giáo phái Phật giáo địa phương lập nên chính quyền riêng rẽ, không chịu sự quản thúc của ai, cục diện phân ly này đến nay đã trải qua bốn trăm năm.

Vị trí giả lắc đầu, thở dài ảo não, khẽ khép đôi mắt mẫn tiệp lại, gương mặt đầy nỗi bi ai. Bát Tư Ba đứng lên, lại gần, đấm lưng, bóp vai cho ngài.

- Bác ơi, con biết, bác đến Lương Châu lần này với mong muốn chấm dứt tình trạng hỗn loạn ở Wusi, thống nhất người Tạng về một mối.

Vị trí giả đứng dậy, chầm chậm cất bước, tay chắp sau lưng, dáng vẻ khắc khổ, chiếc cổ dài vằn vện những vết nhăn của tuổi tác. Ngài quay về phía hai anh em Bát Tư Ba, ánh mắt u hoài, giọng thở than:

- Đó là ước nguyện lớn nhất của đời ta. Nhưng nay ta tuổi đã cao, sức đã yếu, chỉ e chẳng thể thực hiện ước nguyện đó. Ta trông cậy cả vào hai anh em con.

Khuôn ngực phập phồng, Bát Tư Ba dường như rất xúc động, cậu cố gắng giữ bình tĩnh, thưa rằng:

- Xin bác đừng lo, Vương gia Khoát Đoan sẽ nhanh chóng quay về Lương Châu. Sau khi gặp ngài, ước nguyện của bác chắc chắn sẽ thành hiện thực.

Kháp Na chớp chớp cặp mắt tròn to, ngước nhìn bác và anh trai ra chiều rất hiểu chuyện. Vị trí giả gật đầu, bàn tay da mồi vuốt ve cái đầu nhỏ xinh của Kháp Na. Sau đó, hai anh em đứng lên chào ngài để về phòng. Vị trí giả bình thản nói với Bát Tư Ba:

- Cho nó ra ngoài đi, đừng làm nó ngạt thở.

Chàng trai trẻ thở dài:

- Vào thời kỳ cực thịnh, vương triều Tufan đã tiêu diệt quốc gia Tuyuhun ở Thanh Hải, ra mặt đối kháng với nhà Đường, vương triều này đã tranh giành được không ít đất đai của Đại Đường. Khi xảy ra loạn An Sử, quân đội của Tufan đã thừa dịp tấn công Trường An và ra sức cướp bóc. Tiếc thay, kể từ vị vua đầu tiên là Songtsan Gampo đến vị vua cuối cùng là Langdarma, vương triều Tufan chỉ kéo dài chừng hai trăm năm rồi sụp đổ hoàn toàn. Cuộc chiến nhằm tranh giành vương vị trong nội bộ hoàng tộc, cùng với cuộc bạo động dữ dội khi tầng lớp nô lệ vùng lên đã tàn sát gần như toàn bộ giới quý tộc Tufan. Cuộc khởi nghĩa nô lệ cũng không giúp tìm ra được người anh hùng có khả năng lãnh đạo, bởi vậy, kể từ đó, Tây Tạng bị chia rẽ, phân ly và cho đến nay vẫn chưa có một vương triều thống nhất.

Tôi buồn rầu, dõi mắt qua khung cửa sổ:

- Sau này tìm đọc nhiều tài liệu liên quan tôi mới biết, cuộc tranh chấp giữa Bon giáo và Phật giáo khi đó chỉ là biểu hiện bên ngoài. Hầu hết các vị vua Tufan đều lên ngôi lúc còn rất nhỏ nên trong khoảng thời gian ấy, hoàng thân quốc thích của nhà vua sẽ tạm thời nắm quyền điều hành đất nước. Đến khi trưởng thành, nhà vua phải ra sức gây dựng và phát triển thế lực thân cận. Thêm vào đó, về đối ngoại, vương triều Tufan ưa dùng vũ lực để mở mang bờ cõi, trong khi đối nội vẫn duy trì chế độ chiếm hữu nô lệ lỗi thời, lạc hậu khiến cho mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Thực chất của cuộc xung đột giữa Phật giáo và Bon giáo, phần nhiều là phe phái này lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để đè bẹp thế lực của phe phái kia.

Chàng trai trẻ búng tay điệu nghệ tỏ vẻ tán thưởng:

- Phải công nhận là cô đã đọc rất nhiều sách lịch sử hiện đại. Có điều, sau khi triều đại Tufan sụp đổ, Phật giáo không hề bị tiêu diệt, mà ngược lại, họ đã liên kết với chính quyền địa phương khiến cho sức ảnh hưởng của Phật giáo ngày càng lan rộng. Các giáo phái lớn của Phật giáo Tây Tạng như: Hồng giáo Nyingma, Bạch giáo Kagyu, giáo phái Kadampa (về sau sáp nhập vào Hoàng giáo Gelug) và Hoa giáo Sakya đều xuất hiện trong khoảng thời gian bốn trăm năm này.

Tôi gật đầu:

- Học giả Ban Trí Đạt của phái Sakya nuôi hoài bão lớn, ngài lại là người nhìn xa trông rộng, tiếc rằng khi ấy, thế lực của các giáo phái khác rất mạnh, nhất là giáo phái Kagyu. Trong khi đó, phái Sakya chỉ có sức ảnh hưởng trong phạm vi vùng Hậu Tạng, thực lực của giáo phái này không đủ để thực hiện việc thống nhất Tây Tạng.

Chàng trai mỉm cười:

- Chắc rằng học giả Ban Trí Đạt đã suy nghĩ rất nhiều về chuyến đi Lương Châu, bởi vì ngài không thể chắc chắn người Mông Cổ với quân đội đã và đang quần đảo khắp thiên hạ của họ sẽ lựa chọn phương cách nào để ứng xử với Tây Tạng.

[1]

Tức Lhasa ngày nay. 

[2]

Tức quốc vương. (DG)

[3]

Đạo Bon là tôn giáo nguyên thủy nhất của Tây Tạng, đạo này tin rằng vạn vật đều có linh hồn của nó. (DG)

Hoa sen xanh 5.1

Chương 5

Ký ức tuổi thơ

“Học giả uyên bác có sức hút mãnh liệt với những người xung quanh;

Hương hoa nồng nàn có sức hút mãnh liệt với bầy ong chăm chỉ.”

(Cách ngôn Sakya)

Bát Tư Ba đỏ mặt, từ từ quỳ xuống, luồn tay vào áo, nhấc tôi ra ngoài nhưng không giao tôi cho ngài Ban Trí Đạt mà ôm chặt trong lòng. Kháp Na cũng sợ xanh mắt, cuống quýt giải thích:

- Thưa… thưa bác, đó là… là… tại con ạ! Con đã nài nỉ đại ca mang Tiểu Lam theo…

Bát Tư Ba bình tĩnh ngắt lời Kháp Na, cúi đầu thưa:

- Tất cả là do Lâu Cát ham chơi, không chịu nghe lời bác, con xin nhận sự trừng phạt.

Ánh mắt sắc bén của ngài Ban Trí Đạt dồn cả vào tôi, ngài trầm ngâm một lúc rồi chậm rãi nói:

- Một con hồ ly ư…

Tôi cảm thấy giọng nói của ngài không mang ngữ khí trách móc nhưng rất sâu xa, khó đoán. Một tiểu yêu như tôi làm sao đoán biết được tâm tư sâu xa của bậc trí giả kia chứ! Dường như ngài biết rõ ý đồ của tôi, tôi sợ hãi, cảm giác như có bàn tay vô hình đang túm chặt lấy mình, vội vàng học theo Bát Tư Ba, chúi đầu xuống, không dám nhìn vào mắt ngài nữa.

- Thưa bác, Lam Kha Mai Đóa chỉ là một con hồ ly, nó rất đáng yêu, lại thông minh, biết nghe lời, hai anh em con rất thích nó… – Kháp Na rón rén giải thích, chốc chốc lại nghếch lên nhìn trộm ngài Ban Trí Đạt.

Biểu cảm trên gương mặt vị trí giả không hề thay đổi, ngài lặng lẽ xắn tay áo:

- Các con thích thì cứ nuôi, nhưng lúc tu tập nhất định phải chuyên tâm, sau này không được phép đưa nó đến nghe giảng pháp.

Ngừng một lát, ngài quay sang Bát Tư Ba:

- Lâu Cát, ta phạt con quỳ trước tượng Bồ Tát Văn Thù sám hối hai canh giờ.

Bát Tư Ba thưa vâng, Kháp Na đang đứng bên anh trai, đột nhiên quỳ mọp xuống, ngước gương mặt dễ thương lên, bật khóc thảm thiết:

- Thưa bác, lỗi tại con mà…

- Kháp Na, con đưa tiểu hồ ly về phòng trước đi.

Giọng nói của ngài vẫn hiền hòa, điềm đạm nhưng như mệnh lệnh nghiêm khắc, không được phép chống lại. Kháp Na nước mắt lưng tròng nhìn anh trai đang quỳ dưới đất. Bát Tư Ba mỉm cười động viên em rồi trao tôi cho chú nhóc.

- Nhớ cho Lam Kha ăn uống nhé! – Lúc trao tôi cho Kháp Na, Bát Tư Ba kề sát vào tai em trai thì thào căn dặn.

Kháp Na nín khóc, vừa bước đi vừa quay đầu lại nhìn, ngài Ban Trí Đạt cất giọng điềm tĩnh:

- Trong vòng hai canh giờ, không được phép đến thăm anh con.

Màn đêm vừa buông xuống, một trận gió lớn nổi lên, tuyết trắng ào ào trút xuống sau một ngày trời u ám. Những bông tuyết va vào cửa sổ, ù ù, rào rào.

Lò lửa bập bùng khiến căn phòng trở nên ấm cúng hơn. Kháp Na đứng ngồi không yên, ôm tôi đi đi lại lại chán lại ngồi lên giường, thở vắn than dài. Tôi cảm thấy rất áy náy nên khi Kháp Na trò chuyện với tôi bằng giọng cằn nhằn, than thở, tôi cũng tỏ ra rất mực lo lắng, phiền muộn. Biểu cảm chân thành đó càng khiến chú nhóc cưng tôi hơn.

Mãi tới khi tiếng mõ báo sang canh vang lên, Bát Tư Ba mới bước vào phòng. Cậu bỏ vạt áo thầy tu che trên đầu xuống, vai cậu phủ một lớp tuyết mỏng, lúc này tôi mới biết, ngoài trời tuyết rơi mù mịt.

- Sao còn chưa ngủ? – Cậu ấy giậm chân giũ tuyết bám trên áo, chìa tay về phía lò than sưởi ấm, cất giọng dịu dàng hỏi em trai.

- Đệ xin lỗi… – Kháp Na nhảy phịch xuống đất, chân trần, lao vào lòng anh trai, giọng nghẹn ngào.

- Không phải tại đệ đâu, tất cả là lỗi của ta. – Bát Tư Ba vỗ nhẹ vào mái tóc dài, đen mượt, thả ngang vai của Kháp Na, ngẩng lên nhìn tôi. – Đệ cho Lam Kha ăn gì chưa?

- Rồi ạ, đệ cho nó ăn bánh. – Kháp Na quên cả buồn phiền, hãnh diện khoe với anh trai.

Tôi tủi thân, rên rỉ mách với Bát Tư Ba, miếng bánh bột mì nhúng sữa bò ấy tôi nuốt không trôi, nó có mùi rất lạ, tôi không ngửi nổi. Tôi chỉ uống làm phép một chút sữa thôi và kiên quyết không ăn miếng bánh nào. Thế mà cái tên quỷ nhỏ kia cứ cố tình ấn đầu tôi xuống đĩa, nước mắt tôi ứa ra, nhưng cậu ấy vô tâm chẳng hề hay biết tôi bực mình thế nào.

Bát Tư Ba giật mình, sau đó lắc đầu cười:

- Đệ không biết loài hồ ly thích ăn gì sao?

Cậu ấy không kịp thay chiếc áo thầy tu đã ướt, vội vã mở cửa, ra ngoài. Nửa canh giờ sau, cậu ấy quay lại với đĩa thịt nóng hổi trên tay. Vừa thoáng ngửi thấy mùi thơm, nước miếng tôi đã nhỏ tong tong, tôi không chờ được nữa, vội vàng vùng thoát khỏi vòng tay của Kháp Na, phi như bay về phía Bát Tư Ba.

Trời ơi, thịt gà, lâu lắm rồi tôi mới lại được ăn món này! Kể từ khi bị lão thợ săn bắt nhốt đến nay, tôi chưa được nếm vị thịt gà lần nào. Đói ăn, thiếu chất, tôi gầy đến mức chỉ còn da bọc xương. Tôi nhai nuốt nhồm nhoàm, chỉ vài miếng đã hết sạch đĩa thức ăn, sau đó tôi liếm sạch mép đĩa, không bỏ sót dù chỉ một giọt mỡ. Bát Tư Ba ôm tôi lên, cánh tay thuôn dài, gầy guộc đưa bát sữa kề sát miệng tôi. Mùi thơm ngào ngạt của sữa bò phả vào mũi tôi khiến tôi thèm thuồng, nuốt nước bọt ừng ực.

Trong thời gian tu luyện ở núi Côn Luân, tôi thường xuống núi, vào nhà dân bắt trộm gà, nhân tiện… uống trộm sữa bò. Nhưng lúc này tôi lại không cảm thấy thoải mái với cái cách Bát Tư Ba chăm sóc tôi, vì cậu ấy làm như thể đang chăm một đứa bé ăn uống vậy.

Tôi muốn phản đối nhưng không cưỡng nổi sức hấp dẫn của sữa bò. Thôi vậy, bà lão này không thèm chấp với bọn trẻ con các người, ta phải uống cho đã đời cái đã. Tôi cứ thế tận hưởng bát sữa bò trên tay Bát Tư Ba, không quên liếm sạch mép bát, sau đó dụi đầu vào áo của cậu ấy bày tỏ sự mãn nguyện.

- Đại ca ơi, điệu bộ lúc uống sữa của Tiểu Lam trông thật buồn cười. – Kháp Na nãy giờ ngồi xổm bên cạnh xem tôi ăn uống, lúc này mới chớp chớp đôi mắt to tròn đen láy, cười tít mắt. – Huynh nhìn kìa, miệng nó dính đầy sữa.

Chú nhóc xòe tay định lau miệng cho tôi nhưng tôi nhe nanh dọa dẫm, sau đó quay đầu đi, không thèm để ý. Tên quỷ này hôm nay đày ải mình, nếu không có Bát Tư Ba, chắc mình chết đói rồi.

Một mảnh khăn nhẹ nhàng đậu trên miệng tôi. Tôi giật mình ngước lên, dưới ánh đèn dầu, tôi bắt gặp đôi đồng tử trong suốt, tinh khôi, từ đó phát ra ánh màu kỳ ảo tựa như hổ phách, khóe môi treo một nụ cười tươi tắn. Cậu ấy nhẹ nhàng lau miệng cho tôi, giọng nói khàn khàn, trầm ấm vẳng bên tai:

- No chưa? Đi ngủ nhé!

Cậu ấy đặt một tấm thảm xuống dưới chân giường, Kháp Na vội kêu lên:

- Đại ca ơi, cho Tiểu Lam ngủ trên giường cùng chúng ta đi. Trời lạnh thế này, một mình nó nằm dưới đất sẽ chết cóng mất.

- Ừ.

Bát Tư Ba ôm tôi lên giường, hai anh em họ cởi áo khoác ngoài, tắt đèn, chui vào trong chăn ấm. Tôi nằm giữa, hơi thở của họ thổi qua mặt tôi. Ngoài kia gió rít ầm ầm, giữa đêm khuya tịch mịch, tiếng ào ào của những trận tuyết lớn nghe càng rõ. Người tôi nóng ran, không biết là do hơi ấm tỏa ra từ chiếc giường kiểu giường lò sưởi hay bởi tim tôi đang đập loạn vì cảm giác khác thường lúc này.

Tôi cứ trằn trọc mãi, không sao ngủ được. Chưa bao giờ ở gần con người đến thế nên tôi cảm thấy không tự nhiên. Bản năng cảnh giác của loài hồ ly khiến tôi hình thành thói quen ngủ ngày thức đêm. Có lẽ tôi sẽ phải thay đổi thói quen này để thích nghi với tập tính của con người.

Trong đêm đen, thị lực của tôi vẫn rất tốt, vì thế tôi có thể nhìn thấy rõ cái đầu nhỏ xíu của Kháp Na đang hướng về phía mình, mái tóc dài, đen như mun rủ xuống che khuất nửa khuôn mặt, hai má lúm đồng tiền đáng yêu ẩn hiện, cái miệng xinh xắn thi thoảng lại bật lên vài câu nói mơ. Bát Tư Ba nằm nghiêng, gương mặt an nhiên, tĩnh tại, hai tay đặt ngay ngắn hai bên hông. Tôi tủm tỉm cười, cậu bé già dặn, quy củ này, ngay cả tư thế nằm ngủ cũng chỉnh tề như vậy.

Kháp Na trở mình, một cánh tay đổ xuống, đè lên chiếc đuôi dài của tôi. Tôi gắng gượng chịu đau, ra sức đẩy cánh tay của cậu nhóc ra. Nhưng rồi tôi nhận ra, so với con người, sức lực của loài hồ ly chỉ như kiến càng lay cổ thụ, châu chấu đá xe mà thôi. Tôi định kêu lên vì không chịu nổi thì bỗng thấy tiếng áo xống sột soạt. Đó là Bát Tư Ba. Không ngờ cậu ấy lại dễ thức giấc như vậy, tiếng kêu khe khẽ của tôi khi gắng sức đẩy cánh tay của Kháp Na đã khiến cậu ấy tỉnh giấc.

Hoa sen xanh 5.2

Bát Tư Ba rón rén ngồi dậy, nhấc cánh tay vô ý của Kháp Na ra khỏi người tôi, sau đó đặt cánh tay đang thò ra bên ngoài của chú nhóc vào trong chăn, kéo cao chăn đắp cho em trai. Xong xuôi, cậu ấy mới nằm xuống, nghiêng người về phía tôi, kéo tôi nằm sát vào người cậu ấy, cánh tay vòng qua người tôi tạo thành một hình vòng cung bao bọc, che chắn cho tôi.

Mùi cơ thể quen thuộc của cậu ấy ùa đến, trái tim lại đập dồn dập vô cớ khiến tôi trằn trọc không sao ngủ được, mãi đến khi những tia nắng đầu tiên của ngày mới lấp ló sau những đám mây xa tít nơi đường chân trời. Tôi thầm nghĩ, giá như khứu giác của loài hồ ly không quá nhạy bén thì tốt biết bao.

Trời sắp sáng, tôi mới mơ màng ngáp ngủ. Giấc ngủ chập chờn bị đánh thức bởi tiếng ho khan khe khẽ của ai đó. Vành tai cảnh giác của tôi dựng đứng, nghe ngóng, không phải Kháp Na mà là Bát Tư Ba. Tôi nghe rõ cậu ấy đang cố kìm giữ cơn ho, những lúc không thể kìm nổi, cậu ấy kéo chăn lên bịt miệng. Tôi thò đầu ra ngoài, ngước nhìn. Vẫn đôi mắt thuần khiết, lấp lánh trước bình minh ngày mới, ngón tay cậu ấy đặt trên môi, khẽ “suỵt” một tiếng, rồi mỉm cười hồn hậu vỗ nhẹ vào đầu tôi.

Sáng hôm sau, mặt mũi và cổ cậu ấy đỏ rần rần, cậu ấy ho khan dữ dội, chắc chắn cậu ấy đã bị cảm lạnh.

Cậu ấy giữ ấm cho tôi bằng cơ thể mình, vì không muốn tôi bị ngạt thở, cậu ấy đã không quấn chặt quần áo, chắc chắn gió lạnh đã thấm vào người, nửa đêm lại phải tỉnh giấc nhiều lần để đắp lại chăn cho em trai, như thế không bị cảm lạnh mới lạ.

Cậu bé này, vì sao không giống bất cứ người nào tôi gặp trước đây?

Tôi vốn rất kỵ mùi thuốc nhưng quyết tâm phá lệ, những ngày Bát Tư Ba dưỡng bệnh, tôi không rời cậu ấy nửa bước. Tôi lặng lẽ ở bên cậu ấy, cùng cậu ấy đọc sách. Mùi thuốc đắng chát lan tỏa khắp căn phòng, thi thoảng cậu ấy lại vuốt ve bộ lông của tôi, mỉm cười với tôi. Ngoài kia gió tuyết vần vũ, nhưng trong căn phòng này, hay ở bất cứ đâu có cậu ấy, nụ cười tỏa rạng từ gương mặt đôn hậu, dịu dàng, an nhiên của cậu ấy tựa như gió xuân hiền hòa, thanh khiết, xua tan cái giá lạnh thấu xương của mùa đông ảm đạm.

Trải qua hơn hai trăm năm tu luyện đơn độc, từ lâu tôi đã quên mất cảm giác có người thân ở bên cạnh là như thế nào, nhưng cậu bé này đã khiến miền ký ức êm đềm đó trong tôi sống lại. Đột nhiên, tôi cảm thấy rất thích được ai đó vỗ vỗ vào đầu và trò chuyện cùng… như thế này.

Mùa đông ở Lương Châu dằng dặc trôi, tôi đi theo hai anh em họ, luôn cố gắng tỏ ra rất mực dễ thương, rất mực đáng yêu để đổi lấy sự cưng chiều ngày càng gia tăng của họ. Giờ đây, mỗi ngày trôi qua tôi đều cảm thấy mãn nguyện, không còn những ngày mùa đông giá lạnh lo ăn từng bữa nữa. Tôi bắt đầu hiểu ra, vì sao loài chó và mèo lại bằng lòng trở thành thú cưng của con người. Còn tôi, tôi bằng lòng làm thú cưng là để được nghe ngài Ban Trí Đạt giảng pháp, thế mà kế hoạch ấy đã bị “phá sản” từ lâu. Tôi lại chẳng dám đi nghe trộm vì sợ rằng, vị trí giả nhạy bén đó sẽ dễ dàng phát hiện ra mục đích của tôi, biết được tôi là một yêu tinh, chứ không phải loài hồ ly bình thường.

Năm mới theo lịch của người Tạng tới gần. Tôi chuẩn bị đón năm mới đầu tiên ở Lương Châu trong vai trò là thú cưng của Bát Tư Ba và Kháp Na.

Vào thời kỳ hoàng kim của vương triều Tufan, các chiến binh Tufan dũng mãnh, thiện chiến đã tiêu diệt quân đội Tuyuhun ở Thanh Hải, chiếm được vùng đất trọng yếu Lương Châu nằm trên hành lang Hà Tây

[1]

, vốn thuộc quyền cai quản của nhà Đường. Khi đó, nhiều người Tufan đã di cư đến Lương Châu, bởi vậy người Tạng ở Lương Châu rất đông, không khí Tết theo lịch Tạng ở đây diễn ra vô cùng náo nhiệt.

Một vài ngày trước thềm năm mới, những người theo hầu ngài Ban Trí Đạt hết sức bận rộn. Họ trộn bơ và bột mì, chiên thành những quả bơ với đủ mọi hình dạng khác nhau. Họ còn xếp những chiếc bánh nướng làm từ lúa mạch trộn với dầu bơ vào những chiếc hộp gỗ có họa tiết phong phú, rồi cắm những bông hoa sặc sỡ được làm từ các hạt ngũ cốc và bơ lên trên. Ngày Hai mươi chín Tết, mọi người cùng nhau quét dọn sạch sẽ khuôn viên khu nhà trọ ở Lương Châu. Dù chỉ là nơi cư trú tạm thời nhưng họ xem nơi đây như nhà mình, trang trí, bày biện rất đẹp mắt.

Đêm Hai mươi chín, mọi người tập trung lại, cùng nhau ăn món bánh canh. Chốc chốc lại có người kêu la om sòm vì cắn phải viên sỏi nhỏ, hay lông cừu hoặc que củi lẫn trong bánh canh khiến mọi người bật cười ha hả. Người đen đủi nhất là Kháp Na, chú nhóc cắn phải miếng ớt, cay đến nỗi nước mắt ngắn nước mắt dài, chạy bổ đi khắp nơi tìm nước uống. Chứng kiến cảnh tượng thê thảm ấy, tôi kiên quyết không động đến bát bánh canh trước mặt.

Sau khi ăn xong, Kháp Na mang theo một đĩa sứ, Bát Tư Ba ôm tôi, hai anh em dắt tay nhau, dung dăng dung dẻ ra đầu phố xem lễ đuổi ma. Lầu trống là nơi huyên náo, tấp nập nhất Lương Châu, tập trung rất đông bà con người Tạng. Người ta đốt một đống lửa lớn ở khu vực trung tâm, thanh niên trai tráng cầm đĩa thức ăn, vừa hò reo vừa chạy vòng quanh, những người khác nô nức chạy đuổi theo, miệng hô vang: “Ô dô, ô dô!” Khi đám người phía sau đuổi đến nơi, các chàng trai sẽ ném đĩa thức ăn vào đống lửa, hô vang những lời chúc tốt đẹp.

Kháp Na cười giòn tan, đòi anh trai đuổi theo mình. Hôm nay, chú nhóc được diện quần áo mới. Bộ áo khoác lông cừu nạm viền lụa bóng dày cộp quấn lấy người chú nhóc, trông cậu giống hệt quả bóng đang lăn. Tiếng cười lanh lảnh, trong veo như chuông bạc ngân vang. Niềm hân hoan vô tư lự ấy đã lan sang tôi. Nếu không bị thương ở chân, chắc chắn tôi sẽ nô đùa tới bến với Kháp Na. Khi đã thấm mệt, chú nhóc mới dừng lại, thở hổn hển, tay giơ cao chiếc đĩa sứ, quẳng mạnh vào đống lửa, sau đó quay sang Bát Tư Ba hô lớn:

- Zhaxidele

[2]

!

Mái tóc dài của Kháp Na tung bay trong gió. Dưới ánh lửa, đôi mắt đen láy của chú nhóc giống hệt viên thủy tinh đã được mài bóng, trong veo, lấp lánh, nụ cười hồn nhiên, má lúm đồng tiền chúm chím, đáng yêu. Bát Tư Ba ôm tôi trên tay, bước đến bên em trai, nắm lấy bàn tay cậu bé, ánh mắt ấm áp:

- Zhaxidele!

Kháp Na gõ ngón tay vào chiếc mũi nhọn của tôi, miệng cười tươi tắn:

- Zhaxidele!

Khi ấy, tôi đã rất muốn đáp lại: “Zhaxidele”, nhưng tôi kịp kiềm chế.

Lò than rực hồng, tôi chăm chú ngắm nhìn ngọn lửa bập bùng, bất giác lòng chùng xuống. Hình ảnh Kháp Na với nụ cười trong sáng và ánh mắt lấp lánh cứ ẩn hiện trước mắt tôi.

- Kỷ niệm xưa chợt ùa về, phải không?

Chàng trai trẻ lại gần, chăm chú quan sát tôi.

- Đúng vậy, người có tuổi thường hoài niệm. Dù hôm nay không trò chuyện với cậu thì ngày ngày tôi vẫn hồi tưởng những kỷ niệm của quá khứ. – Tôi hít một hơi thật sâu, ngẩng lên mỉm cười với chàng trai. – Năm Mùi, Âm Hỏa, theo lịch Tạng, tức năm 1247 theo công lịch đã đến với những lời chúc tốt lành của hai anh em họ.

Năm đó, Bát Tư Ba mười ba tuổi, Kháp Na chín tuổi.

Năm đó là niên hiệu Thuần Hựu thứ bảy, đời vua Tống Lý Tông, nhà Nam Tống ở phương Nam xa xôi. Ba mươi hai năm sau, Lục Tú Phu cõng tiểu hoàng đế tám tuổi nhảy xuống biển, nhà Nam Tống sụp đổ hoàn toàn.

Năm đó, trí giả Ban Trí Đạt của phái Sakya đã được toại nguyện, vì cuối cùng ngài cũng gặp được Vương gia Khoát Đoan…

[1]

Hành lang Hà Tây: hay còn gọi là hành lang Cam Túc, dài khoảng 900km, là con đường huyết mạch nối giữa Trung Quốc lục địa và vùng Tân Cương. Cung đường này nằm ở phía bờ tây sông Hoàng Hà nên có tên gọi là hành lang Hà Tây. (DG)

[2]

Tiếng Tạng, có nghĩa là chúc may mắn, vạn sự như ý.

Hoa sen xanh 6.1

Chương 6

Cuộc hội ngộ ở Lương Châu

“Kẻ nông nổi treo tri thức trên cánh môi,

Người học rộng nuôi hiểu biết trong tâm khảm;

Cỏ nước trôi nổi trên mặt ao,

Đá quý chìm sâu dưới lòng biển.”

(Cách ngôn Sakya)

Kháp Na vừa thở hổn hển vừa ra sức đẩy những quả cầu tuyết mỗi lúc một lớn thêm, lăn qua lăn lại, kéo thành những vệt dài trên sân. Chú nhóc quay đầu lại, mặt đỏ phừng phừng, làn hơi trắng phả ra phì phò từ cái miệng nhỏ xinh, cậu nhảy cẫng lên, hò hét:

- Đại ca mau lại đây đắp người tuyết nào!

Bát Tư Ba đáp lại nhưng ánh mắt không rời cánh cổng khu nhà trọ, dáng vẻ bồn chồn, lo lắng, đứng ngồi không yên. Hôm nay là ngày ngài Ban Trí Đạt đến gặp Vương gia Khoát Đoan. Mới tinh mơ, một đoàn người đã hộ tống ngài rời khỏi nhà trọ, ba canh giờ trôi qua vẫn chưa thấy họ quay về.

Chân tôi chưa lành hẳn nên không chơi cùng Kháp Na được, đành ngoan ngoãn cuộn mình trong lòng Bát Tư Ba. Bỗng tôi phát hiện ra điều gì đó, bèn nhổm dậy, dỏng tai nghe ngóng.

- Lam Kha ơi, có phải bác ta đã về không? – Bát Tư Ba vỗ nhẹ vào đầu tôi, sốt ruột hỏi.

Tôi nghe thấy tiếng bước chân của khoảng hơn chục người nên gật đầu xác nhận với cậu ấy. Bát Tư Ba bật dậy, trao tôi cho Kháp Na rồi phi như bay ra cổng. Kháp Na gọi với theo: “Chờ em”, rồi ôm tôi lon ton chạy theo anh trai.

Chúng tôi vừa ra đến cổng thì gặp lúc đoàn người trở về. Trí giả Ban Trí Đạt hiền từ nhìn hai anh em, mỉm cười nói:

- Lâu Cát, Kháp Na, hãy theo ta vào phòng, ta có chuyện muốn nói với hai con.

Ngài Ban Trí Đạt cho người hầu lui cả ra ngoài, Bát Tư Ba bước đến, rót một chén trà bơ nóng mời bác, rồi thận trọng hỏi:

- Bác ơi, buổi gặp mặt hôm nay diễn ra thế nào ạ?

Ngài Ban Trí Đạt nhấp một ngụm trà, mỉm cười hồn hậu nhìn hai anh em:

- Ta được Vương gia Khoát Đoan đón tiếp rất trọng thị. Trong lúc thương thảo, ta đã đề đạt nhiều kiến nghị và phần lớn đều được ngài chấp thuận. Ta và Vương gia đã trao đổi và thống nhất rằng, toàn bộ vùng Wusi sẽ quy thuộc Mông Cổ, trở thành thuộc địa của Mông Cổ và hằng năm sẽ thực hiện việc cống nạp. Thủ lĩnh của các địa phương chấp nhận quy thuận sẽ được giữ nguyên chức vị nhưng phải do người Mông Cổ ủy nhiệm, đồng thời phải trình báo các thông tin về hộ tịch, nhân khẩu, phải nộp thuế và tuân thủ pháp luật của Mông Cổ.

Bát Tư Ba sững sờ, ngập ngừng hỏi:

- Thưa bác, nếu buộc cả vùng Wusi quy thuận Mông Cổ như thế, liệu các quý tộc và các giáo phái Phật giáo trong vùng có phản đối không?

Ngài Ban Trí Đạt gật đầu, thở dài.

- Tất sẽ có người phản đối. Nhưng Wusi giờ đây không còn là vương triều Tufan hùng mạnh thuở xưa nữa, nếu chúng ta tuyên chiến, chỉ e sự đấu đá, tranh giành trong nội bộ các giáo phái, phe phái ở Wusi sẽ gây ra sự hỗn loạn nghiêm trọng hơn sự cả tấn công của ngoại bang. Chỉ một cánh quân của Vương gia Khoát Đoan mà chúng ta còn không đối phó nổi, nói chi đến việc chống lại cả một đội quân lớn? Đội quân Mông Cổ có lệ rằng, trước cuộc chiến, nếu dân địa phương không chịu hàng thì sau khi chiếm cứ được vùng đó, họ sẽ tàn sát không thương tiếc. Con xem các nước: Đại Hạ, Đại Kim, Khwarezm

[1]

, Nga, có quốc gia nào không từng bị tàn sát? Chỉ có nước Uyghur ngoan ngoãn quy hàng mới thoát cảnh đầu rơi máu chảy, người dân bảo toàn được tính mạng và của cải… Wusi ly loạn suốt bốn trăm năm rồi, không thể tiếp tục tình trạng này nữa. – Vị trí giả vươn thẳng tấm lưng còng, giọng nói tuy yếu ớt nhưng chứa đựng sức mạnh của sự kiên tâm. – Ta muốn hàng triệu người Tạng thoát khỏi cuộc chiến tranh tàn khốc, ta muốn Wusi chấm dứt tình trạng chia năm xẻ bảy, ta sẵn sàng chấp nhận sự chỉ trích từ phía các giáo phái khác…

Cả hai anh em cùng ngước nhìn người bác với ánh mắt kính phục, đồng thanh gọi:

- Bác ơi…

Gương mặt hom hem, vầng trán nhăn nheo già cả nhưng đôi mắt của bậc trí giả vẫn rực sáng như quầng lửa đỏ. Ngài chậm rãi nói tiếp:

- Vương gia Khoát Đoan đã quyết định ủy nhiệm người của phái Sakya giữ chức Darughachi

[2]

, ban cho lệnh bài vàng và lệnh bài bạc. Thủ lĩnh các địa phương ở Wusi đều phải tuân thủ mệnh lệnh của các sứ giả mang theo những lệnh bài này. Quan lại địa phương phải trình báo hộ tịch, không được phép làm theo ý mình. Quan lại Mông Cổ sẽ tới Wusi để cùng người Sakya bàn bạc về vấn đề thuế má.

Cách trò chuyện của ngài Ban Trí Đạt với hai anh em không giống trò chuyện với những đứa trẻ mà như đang đàm đạo chính sự với người lớn. Có lẽ biết mình không còn nhiều thời gian nên ngài muốn giao phó lại mọi việc cho hai anh em. Bát Tư Ba lắng nghe chăm chú, gật đầu tán đồng. Kháp Na vẫn ôm tôi trên tay, cặp mắt như hai hòn bi ve, đảo liên tục, hết nhìn người bác lại nhìn anh trai, lặng lẽ lắng nghe câu chuyện, như thể rất hiểu.

Ngài Ban Trí Đạt đặt chén trà vào khay, ngẩng nhìn hai anh em Bát Tư Ba, ánh mắt dạt dào tình thương. Ngài kêu Kháp Na đến ngồi cạnh mình, dịu dàng vuốt ve mái tóc dài mềm mại của chú nhóc:

- Trong cuộc gặp lần này còn một chuyện nữa liên quan đến hai con.

Hai anh em cùng ngẩng lên nhìn người bác. Ngài Ban Trí Đạt ngừng rất lâu rồi mới cất tiếng:

- Dòng họ Khon của chúng ta ở Sakya cũng có thể xem là danh gia vọng tộc. Hơn một trăm bảy mươi năm trước, cụ nội Konchog Gyalpo

[3]

của ta đã xây dựng tu viện Sakya, lập ra giáo phái Sakya nhưng người không hề xuất gia.

Hai anh em Bát Tư Ba không hiểu vì sao người bác bỗng nhiên nhắc đến tổ tiên của họ nhưng vẫn chăm chú lắng nghe, không dám cất tiếng hỏi.

- Đến năm năm mươi tám tuổi, cụ nội ta vẫn không có con trai. Một ngày nọ, người tình cờ gặp và nảy sinh tình cảm với cô gái múc nước bên sông. Về sau, cô gái ấy đã sinh cho người một cậu con trai kháu khỉnh, đặt tên là Kunga Nyingpo, chính là ông nội ta. Cụ nội qua đời khi ông nội ta mới mười một tuổi, ông nội phải kế tục việc cai quản giáo phái Sakya và kế thừa toàn bộ trang viên của gia tộc. Người cai quản giáo phái Sakya suốt bốn mươi tám năm, thu nhận vô số đệ tử, khiến giáo phái của chúng ta không ngừng lớn mạnh. – Giọng nói của vị học giả trầm ấm, chốc chốc ngài lại trầm tư ngẫm ngợi như đang ôn lại kỷ niệm. -

Ông nội của ta cũng không xuất gia. Người cưới hai chị em gái xứ Chamo, sinh được bốn người con trai. Tiếc thay, người con cả qua đời ở Ấn Độ khi mới hai mươi hai tuổi. Người con trai thứ hai – Sonam Tsemo – ra đời khi ông nội ta đã bước sang tuổi năm mươi mốt. Sonam Tsemo là bác hai của ta, bác ấy là người kế nghiệp ông nội, miệt mài tu tập, cần mẫn viết sách, bác mất năm bốn mươi mốt tuổi. Sau khi bác hai qua đời, phái Sakya được giao cho người bác thứ ba của ta là Dragpa Gyaltsen… Các con còn nhớ mái vòm vĩ đại của tu viện Sakya mà các con được chiêm ngưỡng hồi nhỏ không?

Ngài Ban Trí Đạt ôm vai Kháp Na hỏi, chú nhóc ngoan ngoãn gật đầu. Vị trí giả mỉm cười đôn hậu, tiếp tục

câu chuyện:

- Công trình kiến trúc nguy nga đó do người bác thứ ba của ta xây dựng khi người tiếp quản giáo phái. Dưới sự lãnh đạo của ngài, phái Sakya không ngừng mở rộng và lớn mạnh, tầm ảnh hưởng của chúng ta đã vượt ra khỏi phạm vi vùng Hậu Tạng. Ta là con trưởng nên từ nhỏ đã được bác ấy bồi dưỡng để trở thành người kế nghiệp giáo phái theo truyền thống của gia tộc.

Ngài Ban Trí Đạt ngừng lại, nhấp một ngụm trà bơ.

- Bác hai và bác ba của ta tuy là người kế nghiệp giáo phái nhưng không chính thức xuất gia. Ông nội của ta và họ được tôn làm “ba vị thủy tổ” của giáo phái Sakya.

- Bác ơi, con nhớ ra rồi. – Kháp Na hí hửng reo lên. – Tượng của họ được đặt trong đại điện, ngày nào chúng con cũng phải đến đó quỳ lạy.

Người bác gật đầu.

[1]

Ngày nay là quốc gia Uzbekistan. (DG)

[2]

Chức quan lớn nhất cai quản địa phương, quân đội và quan nha ở Mông Cổ thời xưa và triều Nguyên.

Ngài Konchog Gyalpo xây dựng tu viện Sakya vào năm 1073.

Hoa sen xanh 6.2

- Cha ta, ông Palchen Opochey là con út, cha chào đời khi ông nội ta đã năm mươi chín tuổi. Trong số bốn người con của ông nội, chỉ có cha ta là người gánh trách nhiệm nối dõi tông đường. Ông có hai người con trai, là ta và cha của các con, Sangtsa. – Ngài ngước nhìn không trung, ký ức như trôi về từ miền xa thẳm. – Năm hai mươi bảy tuổi ta đã chịu giới Tỷ khâu, là người đầu tiên xuất gia và trở thành Tỷ khâu của giáo phái Sakya. Còn cha của các con, là con út nên phải gánh vác trách nhiệm duy trì huyết thống của gia tộc, cưới vợ, sinh con, cai quản dòng tộc, vì vậy mới có các con.

- Bác và ngài Khoát Đoan đã bàn bạc và quyết định chuyện gì đó có liên quan đến việc kế nghiệp của giáo phái Sakya, đúng không ạ? – Bát Tư Ba nãy giờ vẫn trầm ngâm không nói, đột nhiên ngước cặp mắt thuần khiết lên nhìn người bác và đặt câu hỏi.

Vị trí giả ngạc nhiên nhìn cậu bé, rồi gật đầu:

- Lâu Cát, con thông minh lắm, ta rất mừng.

Giọng ngài Ban Trí Đạt bỗng trở nên trầm buồn:

- Kể từ khi sáng lập cho đến nay, giáo phái Sakya đều do dòng họ Khon của chúng ta đời đời kế nghiệp, cai quản. Trước đây, thực lực của giáo phái còn non yếu, mà dòng họ ta lại hiếm con muộn cháu nên có thể tạm chấp nhận để một người không chính thức xuất gia kế tục sự nghiệp. Nhưng kể từ thời đại của ta trở đi, chúng ta buộc phải tuân thủ giáo luật của nhà Phật để phát triển giáo phái lớn mạnh vượt ra khỏi phạm vi vùng Sakya nhỏ bé. Thế nên con trưởng sẽ xuất gia làm sư, cai quản giáo phái; con út cưới vợ, sinh con, nối dõi tông đường. Lâu Cát, con là con trưởng, được ta nuôi dưỡng từ nhỏ, mười tuổi ta cho con thọ giới Sa di, mục đích là để ngày sau con sẽ kế tục sự nghiệp của ta.

Hai anh em Bát Tư Ba đưa mắt nhìn nhau, Kháp Na có vẻ chưa hiểu câu chuyện, đôi mắt to đen láy nhấp nháy, cái đầu nghiêng nghiêng ra chiều nghĩ ngợi. Bát Tư Ba cắn môi, lấy hết can đảm, hỏi bác:

- Kết quả cuộc thương thảo của bác và ngài Khoát Đoan liên quan đến con hay Kháp Na?

- Kháp Na. – Ngài Ban Trí Đạt cúi xuống nhìn chú nhóc bên cạnh, mỉm cười. – Ta đã quyết định chuyện hôn nhân của Kháp Na. Mùa hạ năm nay con sẽ thành thân với Công chúa Mukaton, con gái Vương gia Khoát Đoan.

- Sao?

Kháp Na đang mải mê vuốt ve chiếc đuôi dài của tôi, giật mình khi nghe người bác thông báo, ngón tay do không kiểm soát đã ấn quá mạnh vào đuôi của tôi. Chú nhóc sợ hãi nhìn ngài Ban Trí Đạt. Tôi bị chú nhóc làm cho đau điếng, kêu oai oái mấy tiếng chú nhóc mới nhận ra, vội vàng buông tay.

- Bác ơi! – Bát Tư Ba kêu lên. – Kháp Na mới chín tuổi!

- Ta biết. – Ngài Ban Trí Đạt, hai mắt nhắm hờ, thở dài não nề. – Vương gia muốn gả Công chúa cho con, nhưng vì con đã xuất gia, năm hai mươi tuổi con sẽ thọ giới Tỷ khâu, suốt đời không thể kết hôn nên ta và Vương gia đã thống nhất để Kháp Na cưới Công chúa.

- Bác ơi, con… con… con…

Kháp Na nhảy xuống đất, chú nhóc dường như rất hoảng hốt, lo sợ.

- Vương gia là người chủ động đề xuất hôn sự này. Hoàng thất Mông Cổ xưa nay đều muốn gắn kết các vùng thuộc địa bằng các cuộc hôn nhân. – Ngài Ban Trí Đạt kéo Kháp Na vào lòng. – Kháp Na à, kết hôn với Công chúa là mối duyên trời cho, cuộc hôn nhân này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của phái Sakya ngày sau.

- Công chúa bằng tuổi con hả bác? – Kháp Na cất giọng rụt rè.

- Công chúa Mukaton năm nay mười bảy tuổi, hơn con tám tuổi. – Nhận thấy nét mặt kinh ngạc của Kháp Na, ngài Ban Trí Đạt vội vàng an ủi. – Ta nghe nói, Công chúa là một cô gái tài ba, cưỡi ngựa, bắn cung đều rất xuất sắc. Con hãy xem cô ấy như chị gái mình. Chỉ một thời gian nữa thôi, con sẽ trưởng thành.

- Bác ơi… – Kháp Na dẩu đôi môi chín mọng, tỏ ý không bằng lòng.

- Sở dĩ ta sắp xếp chuyện kết hôn của con gấp gáp như vậy cũng có nguyên nhân của nó. – Ngài Ban Trí Đạt ngẩng lên, gương mặt già nua, vằn vện những dấu vết của thời gian, vẻ lo âu trĩu nặng. – Phái Sakya từ xưa đến nay đều hiếm muộn đường con cháu. Ông nội ta chào đời khi cụ nội đã năm mươi chín tuổi, cha ta cũng vậy. Lâu Cát, con ra đời khi cha con đã năm mươi hai tuổi. Kháp Na còn tội nghiệp hơn, vừa chào đời đã không còn cha. Phái Sakya được kế thừa bởi huyết thống của dòng họ Khon, nếu như dòng họ không có người nối dõi, việc kế thừa giáo phái sẽ không thể tiếp tục. Tuổi cao sinh con sẽ dẫn đến nguy cơ con trẻ phải kế nghiệp, mà như vậy, quyền hành buộc phải tạm trao cho đệ tử của giáo phái. Nếu không may trao quyền hành vào tay kẻ có dã tâm thì gia tộc họ Khon chúng ta sẽ gặp nguy hiểm… Bởi vậy, ta quyết định cho con kết hôn sớm vì hy vọng con sớm sinh con đẻ cái để kế tục huyết thống của dòng họ. Trọng trách này chỉ có thể giao phó cho con mà thôi.

Ngừng một lát, ngài Ban Trí Đạt nâng chiếc cằm nhỏ xíu của Kháp Na lên, cất giọng hiền từ:

- Kháp Na, bây giờ con vẫn còn nhỏ, nhưng vài năm nữa thôi, con sẽ hiểu nỗi khổ tâm của ta.

Bát Tư Ba nãy giờ vẫn cúi đầu, cắn chặt môi, lúc này bỗng ngẩng lên, ánh mắt vương nỗi u buồn:

- Nhưng thưa bác, cha con vẫn còn những người con trai khác ngoài hai anh em con kia mà. Em trai thứ hai Rinchen Gyaltsen, em trai thứ ba Yeshe Bernas đều có thể kế thừa gia nghiệp, vì sao nhất định phải bắt Kháp Na cưới vợ khi em con còn bé như vậy?

- Lâu Cát! – Ngài Ban Trí Đạt nghiêm khắc ngắt lời Bát Tư Ba. Tôi chưa thấy ngài nặng lời với anh em họ như thế bao giờ. – Mẹ đẻ của các con, bà Machig Kunchid là vợ cả, lại xuất thân dòng dõi trâm anh thế phiệt, huyết thống cao quý, không người vợ lẽ nào của cha các con có thể sánh bằng. Các con hãy ghi nhớ, phái Sakya nhất định phải do hai anh em con kế thừa!

Kháp Na sợ hãi, mắt đỏ hoe, ngước nhìn người bác và anh trai với vẻ tội nghiệp, đáng thương.

Dường như nhận ra mình khá nặng lời, ngài Ban Trí Đạt ôm Kháp Na, đặt chú nhóc ngồi lên đùi mình, dịu giọng:

- Kháp Na à, sau khi thành thân, con sẽ sống trong phủ của Vương gia Khoát Đoan, từ nay phải mặc trang phục và học nói ngôn ngữ của người Mông Cổ.

- Bác ơi, vậy còn anh con thì sao, huynh ấy có sống trong phủ Vương gia không?

Ngài Ban Trí Đạt lặng lẽ lắc đầu.

Kháp Na chăm chú quan sát biểu cảm nặng nề trên gương mặt người bác, quay sang nhìn anh trai từ nãy đến giờ vẫn cúi đầu im lặng, nước mắt vòng quanh, nhưng chú nhóc cố kìm nén để không bật khóc trước mặt họ. Hôm đó, Kháp Na đã trở thành một cậu bé hiểu chuyện.

Đêm đó, Kháp Na ôm tôi ngủ, Bát Tư Ba ôm em trai. Chú nhóc áp sát cơ thể nhỏ bé của mình vào lưng tôi, nước mắt lặng lẽ tuôn rơi, thấm vào da thịt tôi, từng giọt, từng giọt len vào tim tôi. Đứa bé mới chín tuổi đã phải đối diện với biến cố to lớn trong cuộc đời, phải rời xa những người thân đã gắn bó khăng khít từ thuở lọt lòng để đến sống ở một nơi xa lạ, với vị hôn thê xa lạ. Nỗi hoang mang, sợ hãi khi ấy, có lẽ cả đời cậu chẳng thể quên.

Bát Tư Ba không lên tiếng, chỉ nhẹ nhàng vỗ về cậu em bé bỏng. Không bao giờ tôi quên tuổi thơ của Kháp Na đã kết thúc chóng vánh năm cậu ấy mới chín tuổi.

Vài ngày sau, những lá thư từ nhà trọ ở Lương Châu được gửi đi khắp các địa phương thuộc vùng Wusi. “Bức thư của ngài Ban Trí Đạt, phái Sakya gửi các bậc đại trí đại đức và tín đồ toàn cõi Wusi” thuyết phục các giáo phái và thủ lĩnh các địa phương ở Tây Tạng khi đó quy hàng người Mông Cổ ấy đã liệt kê chi tiết tên gọi các địa phương. Bức thư được lập thành ba bản, một bản gửi Vương gia Khoát Đoan, một bản gửi về Sakya, một bản ngài Ban Trí Đạt lưu giữ.

Cho đến thế kỷ 21, bức thư quý hiếm ấy vẫn được bảo tồn trong tu viện Sakya ở Tây Tạng

 Chàng trai trẻ vỗ nhẹ vào đầu mình.

- Trời ơi, mới có chín tuổi… – Cậu ta lắc đầu, thở dài. -

Khoát Đoan bắt Kháp Na sống trong Vương phủ, mặc trang phục và nói tiếng Mông Cổ chẳng qua là muốn giữ cậu bé làm con tin. Cuộc hôn nhân của hai con người khác xa nhau về cả thói quen sinh hoạt, ngôn ngữ, tuổi tác sao có thể có được hạnh phúc kia chứ?

Tôi cười buồn:

- Thực ra ngài Ban Trí Đạt hiểu rõ điều này, nhưng vì lợi ích chung, ngài không thể từ chối lời đề nghị của Khoát Đoan.

Chàng trai trẻ tỏ ra ngẫm ngợi:

- Tuy nhiên, việc làm này của ngài Ban Trí Đạt có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với Trung Quốc. Tây Tạng quy thuận Mông Cổ tức là quy thuận triều Nguyên, mặc dù vào thời điểm này, triều Nguyên vẫn chưa xuất hiện. Có thể xem đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Tây Tạng trở thành một địa phương, chịu sự quản lý của chính quyền trung ương.

Tôi gật đầu:

- Nếu phân tích và đánh giá theo cách nhìn của lịch sử hiện đại thì cuộc hội kiến giữa Ban Trí Đạt và Khoát Đoan đã thúc đẩy việc thống nhất Trung Quốc, bởi vậy, các nhà sử học đặc biệt xem trọng và đánh giá cao cuộc gặp gỡ này. Tuy nhiên, Ban Trí Đạt chỉ là người đặt nền móng, Tây Tạng thực sự trở thành một phần của Trung Quốc là nhờ công lao của Bát Tư Ba.

Hoa sen xanh 7.1

Chương 7

Chú rể trẻ con

“Không ai muốn gần gũi kẻ xấu, dù hắn thông minh chừng nào đi nữa;

Không ai dám ôm ấp rắn độc, dù bảo bối trên đầu nó quý giá chừng nào đi nữa.”

(Cách ngôn Sakya)

- Tân lang tới!

Người ta dựng rất nhiều lán trại màu trắng trên một bãi cỏ rộng, người qua người lại nô nức, cười nói rộn ràng, tiếng nhạc phát ra từ cây đàn đầu ngựa

[1]

ngân nga, trầm bổng. Mùa hạ ở Lương Châu thoáng đãng, mát mẻ, trời xanh mây trắng, những bông hoa dại màu vàng, màu đỏ rực rỡ, đua nhau khoe sắc trên đồng cỏ, rung rinh trong gió. Không gian thoang thoảng mùi thơm của thịt bò, thịt dê nướng xen lẫn hương cỏ đồng nội ngai ngái, thanh thanh. Một đoàn người ngựa chầm chậm tiến vào giữa tiếng hoan hô dậy sóng. Những cỗ xe ngựa được chăng kết dây hoa rực rỡ, trong xe chất đầy những thùng đồ cao ngất, đó là sính lễ của nhà trai. Kháp Na cưỡi một con ngựa nhỏ đi ở giữa đoàn đón dâu. Hôm nay, chú nhóc mặc bộ áo dài quý phái của người Mông Cổ, thắt lưng bắt mắt, đội chiếc mũ đính tua rua màu đỏ, chóp tròn, đi ủng cao, sau lưng giắt cung tên cỡ nhỏ. Chỉ mới chín tuổi nên mặc dù là nhân vật chính của buổi lễ, chú nhóc vẫn bị chìm nghỉm giữa đám đông thanh niên trai tráng to khỏe, vạm vỡ. Kháp Na mặt buồn thiu, may có Bát Tư Ba luôn ở bên, nở nụ cười hồn hậu động viên em trai.

Tôi giấu mình trong chiếc áo khoác dài của Kháp Na, quan sát mọi thứ xung quanh bằng sự hiếu kỳ. Đoàn rước dâu đến trước một chiếc lều của người Mông Cổ, Kháp Na cưỡi ngựa đi quanh lều một vòng. Đám hầu cận của ngài Ban Trí Đạt xếp thành hàng, trao cho nhà gái một con dê và những lễ vật khác. Sau khi nhà gái nhận lễ, Kháp Na xuống ngựa, trên tay chú nhóc là chiến khăn Ha đa

[2]

. Đoàn hầu cận dâng rượu cho người ngồi chính giữa là Vương gia Khoát Đoan, sau đó lần lượt mời rượu các vị khách quý.

Đây là lần đầu tiên tôi gặp ngài Khoát Đoan, tính tò mò đã thôi thúc tôi thò đầu ra ngoài, quan sát người cháu của nhân vật lừng danh thiên hạ: Thành Cát Tư Hãn. Vương gia Khoát Đoan chừng ngoài bốn mươi, cao lớn, bụng phệ, gương mặt vuông vức, kiểu mặt điển hình của người Mông Cổ, để râu quai nón. Con trai cả Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi của ngài ngồi phía sau, gương mặt khôi ngô, tuấn tú hơn hẳn người cha.

Một đám phụ nữ tập trung ở phía cuối lán trại, người ngồi ở giữa, khoác áo cô dâu màu đỏ thắm, trên mái tóc lúc lắc những chuỗi ngọc ngà châu báu chính là Công chúa Mukaton. Trông cô rất giống cha mình: mắt nhỏ, mũi tẹt, gương mặt tròn trịa, thân hình đẫy đà. Tập tục cưới xin của người Mông Cổ khác với người Hán, cô dâu không cần trùm khăn che mặt, cũng không cần một mình ngồi trong phòng tân hôn chờ chú rể. Kháp Na vừa bước vào lều, Mukaton đã nhìn chú nhóc chằm chằm, ánh mắt lộ vẻ chán nản, tấm tức. Bà mối vội vã ghé vào tai Công chúa thầm thì đôi câu, chừng như để an ủi.

Sau khi đã kính rượu hết lượt khách quý, Kháp Na quỳ xuống trước mặt Khoát Đoan, dập đầu lạy ba lạy, rụt rè gọi:

- Nhạc phụ đại nhân!

Khoát Đoan bật cười, người rung lên, vừa cất giọng đã áp đảo mọi thanh âm xung quanh:

- Tốt lắm! Con rể, hãy đứng lên!

Kháp Na đã tập đi tập lại rất nhiều lần những nghi lễ của người Mông Cổ nhưng giọng nói như sấm dội bên tai của bố vợ khiến cậu bé khiếp vía, đến nỗi lúc đứng lên giẫm cả vào vạt áo, lảo đảo rồi ngã bổ nhào về phía trước. Sự cố xảy ra quá đột ngột nên không ai kịp đỡ chú nhóc. Thế là Kháp Na tội nghiệp ngã sóng soài ra đất.

Lúc sau mới có người chạy đến đỡ chú bé dậy, hỏi han rối rít xem chú bé có bị đau ở đâu không, nhưng Kháp Na chẳng buồn đáp lại vì còn bận cuống quýt nhấc tôi ra khỏi chiếc áo khoác, kiểm tra tỉ mỉ:

- Tiểu Lam, em có sao không?

Tôi không sao cả, vì trước lúc ngã, chú nhóc đã kịp giữ chặt tôi. Tôi kêu lên vài tiếng, nhắc nhở Kháp Na rằng người bị thương chính là chú nhóc đó.

- Cậu chủ Kháp Na, khuỷu tay cậu bị thương rồi.

Lúc này, chú nhóc mới để ý đến vệt máu sẫm đỏ nơi khuỷu tay, những giọt máu đỏ tươi nhỏ xuống áo khoác, chú bé sợ hãi òa khóc. Người hầu vội vã băng bó vết thương, hết lời an ủi:

- Cậu chủ ơi, hôm nay là ngày vui của cậu, không nên khóc.

Những người có mặt khi đó thấy chú nhóc quá yêu chiều, bao bọc tiểu hồ ly thì tỏ ra khinh thường. Kháp Na mặc kệ, vẫn gào khóc thảm thiết, đưa tay áo lên quệt mũi, lau nước mắt, trang phục của chú rể nhàu nhĩ đến thảm hại, chiếc mũ trên đầu cũng lệch sang bên. Vương gia Khoát Đoan thì khó xử, Công chúa Mukaton thì lửa giận bốc ngùn ngụt, cô muốn bật dậy nhưng các bà mối đã ra sức kìm giữ. Chừng như chẳng thể muối mặt thêm nữa, ngài Ban Trí Đạt lẳng lặng ra hiệu cho Bát Tư Ba. Bát Tư Ba đón tôi từ tay Kháp Na, hết lời động viên em trai, cuối cùng Kháp Na cũng nín.

Kháp Na hoàn tất những nghi lễ tiếp theo với đôi mắt đỏ hoe. Lúc khởi hành, Mukaton được một người đức cao vọng trọng trong gia tộc bế lên xe hoa. Theo tục lệ, chú rể phải cưỡi ngựa đi ba vòng quanh xe hoa của cô dâu, nhưng Kháp Na đã quên sạch, thế là Mukaton lại được dịp ném ánh mắt khinh bỉ về phía chú nhóc.

Thực chất của cuộc hôn nhân này là sau hôn lễ, Kháp Na sẽ phải đi ở rể nên người ta sắp xếp các nghi thức rước dâu theo tập tục của người Mông Cổ trên một bãi cỏ rộng ở ngoại thành, sau đó cô dâu, chú rể sẽ vào sống trong khu nhà nhỏ thuộc phủ đệ của Vương gia Khoát Đoan.

Vừa bước vào Vương phủ đã thấy một đống lửa lớn ở sân. Người ta chuẩn bị sẵn rượu sữa ngựa để cô dâu và chú rể tưới vào đống lửa rồi khấu đầu lễ bái. Người chủ lễ đứng bên cạnh tụng đọc văn tế:

- Thánh chủ Thành Cát Tư Hãn đã phát hiện ra đá lửa, phu nhân Ha Ngạch Luân

[3]

là người bảo vệ và gìn giữ ngọn lửa thiêng bằng việc cúng dâng khăn lụa Ha đa và rượu sữa ngựa. Xin mời cô dâu, chú rể quỳ lạy và cầu nguyện! Thần lửa sẽ chứng giám cho hai người. Xin mời cô dâu, chú rể quỳ lạy và khấn nguyện! Cúi xin Phật Tổ phù hộ hai vị sớm sinh quý tử!

Nghe tới chuyện “sớm sinh quý tử”, những tràng cười chế giễu lại được dịp rộ lên. Mukaton ném nỗi bực tức về phía đám đông bằng ánh nhìn sắc nhọn, tiếng cười đùa lập tức im bặt.

Tiệc cưới được tổ chức vào buổi tối, Vương phủ trở nên náo nhiệt lạ thường. Những con dê béo ngậy, vàng ruộm trên bếp nướng, mùi thơm ngào ngạt. Người Mông Cổ múa hát say sưa, nam nữ nắm tay nhau nhảy điệu Guozhuang

[4]

quanh đống lửa. Thanh niên trai tráng để mình trần thi đấu vật, bắn tên, tiếng hoan hô dậy trời. Kháp Na không biết uống rượu, chú nhóc chỉ lẳng lặng quan sát khung cảnh lạ lẫm xung quanh bằng vẻ dè dặt, thận trọng. Hễ có ai đến chúc mừng, chú nhóc sẽ uống trà thay rượu và gật đầu như lật đật.

- Người anh em, đệ không uống được rượu thì uống trà thay vậy. Huynh đệ ta chúc mừng nhau nào! – Khởi Tất cầm bát rượu, hoan hỉ chạm cốc với Bát Tư Ba rồi một hơi uống cạn, kêu người hầu rót tiếp. – Người anh em, thế là chúng ta đã thành người một nhà, chúng ta là anh em thật rồi! Em gái ta được chiều chuộng từ nhỏ, tính tình ngang ngạnh, nếu nó có chỗ nào không phải, gia đình đệ bỏ quá nhé!

Bát Tư Ba khách sáo đáp lễ, Khởi Tất choàng vai Bát Tư Ba, cười ha hả:

- Ông bác của đệ quả là Bồ Tát Văn Thù tái thế, ngài đã chữa khỏi dị tật đeo đẳng trên chân cha ta suốt bao nhiêu năm đó! Các giáo sĩ Kitô, các thầy mo Saman

[5]

trong cung, không ai có thể sánh với trí tuệ và sự thông thái của ngài. Vậy nên hôm qua, cha ta đã sắc phong đại sư Ban Trí Đạt làm “Tế thiên trưởng lão”. Sau này, mọi hoạt động cầu nguyện trong cung sẽ do đại sư chủ trì, giáo sĩ của các giáo phái khác đều phải nghe theo sự chỉ đạo của đại sư.

Bát Tư Ba chắp tay, cúi đầu tạ ơn:

- Vương gia Khoát Đoan hậu đãi bác cháu bần tăng, lại xây đền và giao cho bác bần tăng coi sóc. Bác cháu bần tăng vô cùng cảm kích.

- Thế có là gì! Kêu gọi Wusi quy thuận Mông Cổ, tránh cho lê dân kiếp nạn binh đao, đầu rơi máu chảy, đại sư Ban Trí Đạt mới là người trí cao đức rộng. Một tháng nữa đền Hoán Hóa sẽ được xây cất xong, đến lúc đó, đại sư và đệ có thể dọn tới đó, Kháp Na thì ở lại phủ của cha ta. Hai vị có thể đến thăm cậu ấy bất cứ lúc nào.

Nghe vậy, Kháp Na lại chực mếu, mắt đỏ hoe. Bát Tư Ba lặng lẽ nắm chặt tay em trai, mỉm cười an ủi chú nhóc.

Màn đêm buông xuống, tiệc tàn người tan. Bát Tư Ba tiễn em trai đến cổng khu nhà tân hôn, chỉnh lại trang phục của Kháp Na.

- Đệ phải ngủ cùng cái chị đó thật sao? Đệ muốn ngủ cùng huynh cơ. – Kháp Na mếu máo nắm chặt tay Bát Tư Ba không chịu buông, vẻ mặt sợ hãi. – Chị ta dữ dằn lắm, đệ sợ…

- Kháp Na, ta không ngủ cùng đệ được. Bát Tư Ba buồn bã nhìn em trai, dịu dàng vuốt ve khuôn mặt bầu bĩnh của Kháp Na. – Công chúa là vợ của đệ, hãy sống hòa thuận với cô ấy. Ta hứa sẽ năng đến thăm đệ.

Kháp Na ngước đôi mắt ngấn nước, nghẹn ngào:

- Vậy… huynh để Tiểu Lam ở lại với đệ, được không?

[1]

Đàn đầu ngựa là loại nhạc cụ hai dây của dân tộc Mông Cổ, trên đầu cần đàn có chạm hình đầu ngựa nên gọi là đàn đầu ngựa. (DG)

[2]

Khăn dệt bằng tơ lụa của người Tạng và người Mông Cổ, dùng để tặng nhau khi gặp mặt, tỏ ý kính trọng và chúc mừng. (DG) 

[3]

Mẹ của Thành Cát Tư Hãn. (DG)

[4]

Điệu múa dân gian của người Tạng, Trung Quốc. (DG)

[5]

Saman giáo là hoạt động tín ngưỡng dân gian được phát triển trên nền tảng tín ngưỡng nguyên thủy, xuất hiện từ rất sớm, rất có thể là tôn giáo đầu tiên trên thế giới.

Hoa sen xanh 7.2

Bát Tư Ba gật đầu, trao tôi cho Kháp Na:

- Khuya rồi, đệ vào nhà đi.

Kháp Na vuốt ve lưng tôi, gắng gượng nở nụ cười với anh trai. Dưới bầu trời đêm ngàn sao lấp lánh, nụ cười của chú nhóc trong trẻo, tinh khôi thấm vào từng tấc gan tấc ruột của tôi. Những năm tháng sau đó, khi Kháp Na ngày một trưởng thành, tôi không được thấy lại nụ cười vô tư lự thuở ấu thơ ấy nữa.

- Xéo ra ngoài! – Chiếc cốc bay thẳng về phía Kháp Na cùng với tiếng gào thét, quát nạt. – Tên nhãi ranh như ngươi mà đòi ngủ cùng ta ư?

Kháp Na né được chiếc cốc, sợ sệt thu mình sau cánh cửa, cất giọng rụt rè bằng thứ tiếng Mông Cổ lơ lớ:

- Sao chị lại giận dữ như vậy?

Mukaton gầm gừ bật dậy, thẳng tay bứt những chuỗi trân châu gắn trên tóc, vừa giựt vừa ném:

- Sao ta lại giận dữ như vậy? Sao ta lại phải lấy tên nhóc kém cỏi, chỉ biết ôm khư khư con hồ ly đáng ghét? Trong lúc cử hành hôn lễ, ngươi đã gây ra bao trò lố, rồi đây, mỗi lần bước ra khỏi cửa, ta sẽ bị thiên hạ chỉ trỏ, chê cười.

Bà mối muốn giữ Mukaton lại nhưng sức bà không nhằm nhò gì so với Mukaton cao lớn, bà dễ dàng bị gạt sang bên:

- Ta muốn trở thành vợ của một chàng trai dũng mãnh, chứ không phải một thằng nhóc miệng còn hơi sữa

như ngươi!

Kháp Na nước mắt ngắn nước mắt dài, run rẩy, lập bập:

- Nhưng… tôi sẽ lớn kia mà.

- Chờ ngươi thành người lớn thì ta đã già mất rồi, già rồi! Ta có được mấy năm tuổi xuân chứ hả?

Mukaton càng lúc càng nổi trận lôi đình, vung tay giậm chân, vò đầu bứt tóc, ngọc ngà châu báu, đồ trang sức trút xuống theo các động tác cuồng nộ của cô, vung vãi khắp nền nhà.

Kháp Na bật khóc, nước mắt tuôn trào, gào lên nghẹn ngào:

- Tôi có muốn đâu cơ chứ…

- Ngươi còn dám nói à? Ai thèm lấy một tên người Tạng vô danh tiểu tốt như ngươi! Ta đã cầu mong có người đến cướp dâu! Nhưng ai dám cướp cháu gái của Thành Cát Tư Hãn

[1]

? – Khi nỗi phẫn uất lên đến cực độ, Mukaton bắt đầu chuyển từ gào thét sang gào khóc. – Ôm lấy con hồ ly chết tiệt đó và xéo ra khỏi phòng ta! Sau này, nếu không được ta cho phép, ngươi không được bước chân vào đây nửa bước!

Kháp Na quay lưng chực bước đi nhưng Mukaton đột nhiên chân trần lao ra, lưng tựa vào cửa, nhìn chú nhóc bằng ánh mắt gườm gườm, nghi hoặc:

- Đứng lại! Ngươi định đi đâu?

Kháp Na khựng lại, lấy tay áo quệt nước mắt:

- Tôi đi tìm anh tôi…

- Không được đi! – Mukaton trừng mắt đe nẹt. – Ngươi tưởng ta ngu lắm sao? Ngươi định đi tố tội ta chứ gì?

Kháp Na khóc nấc lên, vẻ mặt khổ sở:

- Nhưng chị bảo tôi ra ngoài kia mà.

Mukaton nghĩ ngợi một lát, lại mở cửa, hung hăng lôi xềnh xệch Kháp Na sang phòng bên cạnh:

- Từ nay ngươi sẽ ngủ ở thư phòng, không được bén mảng đến phòng của ta. Còn nữa, cấm khóc nghe chưa, ngươi mà khóc lóc, ta sẽ đánh đó!

Qua kẽ hở của những ngón tay, Kháp Na trông thấy một bộ mặt dữ tợn, hung hãn, vì quá sợ hãi, chú bé khóc nấc lên. Bỗng bên tai tôi vang lên một tiếng “bốp” chát chúa, Kháp Na sững sờ, gương mặt non nớt của chú bé lập tức in dấu năm ngón tay. Tôi chồm lên, cắn vào cánh tay đang chực giơ lên của Mukaton. Cô ta đau đớn, ra sức vùng vẫy. Tôi không giữ được thăng bằng, bị hất rơi xuống đất, sau khi lăn vài vòng, tôi tiếp tục xông tới, nhưng Kháp Na đã ôm tôi lên, bao bọc tôi trong vòng tay của cậu bé. Mukaton chỉ mặt tôi, nghiến răng chì chiết:

- Ngươi dám trái lời ta, ta sẽ giết chết con hồ ly xấu xa này!

Kháp Na gắng gượng kìm những tiếng nấc nghẹn trong cổ, cúi đầu, thu mình vào một góc, ôm chặt lấy tôi. Mukaton đảo mắt răn đe bà mối và các cô hầu đang run như cầy sấy:

- Còn cả các ngươi nữa, kẻ nào dám tâu với cha và anh trai ta, ta sẽ đánh gãy chân, gãy tay kẻ đó!

Đám người hầu run bắn, cúi đầu không dám ho he.

Nằm trong lòng Kháp Na, tôi ngước nhìn chú nhóc, gương mặt hồng hồng non nớt đã bầm tím bởi cái bạt tai quái ác, lòng quặn thắt. Tôi bực bội với chính mình, thú linh, thú hiếm mà làm gì, trường sinh bất lão, trường sinh bất tử mà làm gì, sống trên đời ngần ấy năm cũng chỉ học được vài thứ tiếng, ba trăm tuổi mà chẳng được cao nhân chỉ đường soi lối nên chẳng học được bất cứ thứ phép thuật gì, chẳng trị nổi đứa con gái nanh ác.

Kháp Na ôm tôi vào lòng và trải qua đêm tân hôn trong thư phòng. Chú nhóc nằm co ro trên giường, nước mắt lưng tròng, khẽ gọi tên những người thân. Tôi nhẹ nhàng liếm gò má sưng đỏ của chú nhóc, nước bọt của tôi có tác dụng chữa sưng tấy rất tốt. Chú nhóc dần hết đau, ôm gọn tôi trong vòng tay, chìm vào giấc ngủ.

Tôi miệt mài liếm khô những vệt nước mắt trên cằm của chú nhóc, khẽ cất tiếng hát bài hát ru đầu tiên mà tôi học được từ con người, bài

Nhịp võng đưa

.

Năm đó, người cháu nhỏ nhất trong dòng họ của tôi cũng già cả và qua đời, cả gia tộc chỉ còn lại mình tôi. Tôi ngồi cạnh nó, liếm khô giọt nước mắt cuối cùng của nó. Nó chẳng còn đủ sức để cất lên thứ tiếng của loài hồ ly nữa, nhưng tôi có thể đọc thấy trong ánh mắt buồn thảm của nó điều này, rằng giọt nước mắt ấy, nó khóc cho tôi. Hẳn là nó thấy xót cho tôi vì những ngày tháng dằng dặc sau này tôi sẽ phải sống đời cô độc.

Sau khi nó ra đi, tôi cô đơn đến phát điên. Lần đầu tiên tôi xuống núi, vào nhà dân không để trộm gà mà trốn trong một góc khuất, nghe họ trò chuyện. Tuy chưa hiểu tiếng người nhưng với tôi khi ấy, được nghe bất cứ tiếng nói nào cũng là điều tuyệt diệu. Và tôi đã nghe thấy người phụ nữ đu đưa cánh võng, khe khẽ cất lời ru con trẻ, khúc hát ru ấy chính là bài

Nhịp võng đưa

.

Tôi ghé sát tai Kháp Na, khe khẽ ầu ơ, hệt như người mẹ hiền từ ru con bên cánh võng năm xưa.

“Ầu ơ, ầu ơ, nhịp võng ru

Ngủ ngoan con yêu, tay mẹ đưa

Mai sau khôn lớn con hãy nhớ

Tình mẹ ngày đêm vẫn đợi chờ.”

Chú nhóc khẽ xoay người, chiếc lưỡi hồng hồng liếm láp làn môi đỏ như son, khóe miệng uốn lên thành vành cong đáng yêu.

Hôm sau, lúc tỉnh dậy, việc đầu tiên chú nhóc làm là ôm tôi vào lòng, hoan hỉ kể:

- Tiểu Lam à, đêm qua ta được gặp mẹ trong mơ đấy. Mẹ đã hát cho ta nghe, giọng hát ngọt ngào như cô tiên vậy. Mẹ còn thơm vào má ta nữa…

Tôi liếm chiếc má bầu bĩnh của Kháp Na, khẽ kêu để chia sẻ niềm vui với chú nhóc.

Chàng trai trẻ lắc đầu:

- Hôn lễ này chẳng khác nào một vở bi hài kịch. Kháp Na kết hôn với người con gái ghê gớm đó, sau này chắc rất khốn khổ.

- Khi ấy tôi cũng nghĩ rằng Mukaton là kẻ kiêu căng, ngạo mạn, hung hãn, tàn bạo, nhưng nhiều năm sau, tôi bắt đầu hiểu cô ấy. Thực ra, cô ấy cũng rất đáng thương, giống như Kháp Na, cô ấy chỉ là vật hy sinh trong cuộc hôn nhân vì mục đích chính trị này. – Tôi thở dài, tiếp thêm củi vào lò than. – Nhiều năm sau đó, Kháp Na vẫn tiếp tục ngủ trong thư phòng. Sống trong hoàn cảnh xa lạ, chú nhóc dần trưởng thành, chín chắn hơn, cũng đáng thương hơn. Tuy rất sợ Mukaton nhưng chú nhóc vẫn làm ra vẻ thuận hòa, vui vẻ, không bao giờ than thở với bác và anh trai. Thời gian đầu, chú nhóc không thích mặc chiếc áo dài thùng thình của người Mông Cổ, không quen đồ ăn Mông Cổ, chật vật khi học tiếng Mông Cổ, nhưng dần dà, chú nhóc đã học cách thích nghi.

Chàng trai trẻ quay đầu lại, nhìn tôi:

- Tôi cứ băn khoăn mãi về điều này, vì sao đại sư Ban Trí Đạt quyết tâm đưa anh em Bát Tư Ba đi cùng trên chặng đường dài đầy gian nan ấy? Bát Tư Ba khi đó mới mười tuổi và Kháp Na mới sáu tuổi. Dắt díu theo hai chú nhóc trải nghìn dặm đường, vượt qua cao nguyên Thanh Tạng quanh năm tuyết phủ, dù là ở thời hiện đại cũng cực kỳ gian khổ, chứ đừng nói vào thời đó, điều kiện đường sá và ăn ở vô cùng thiếu thốn.

Tôi thở dài:

- Thực ra, khi đó trong nội bộ phái Sakya, không ít người lên tiếng phản đối việc đại sư Ban Trí Đạt đưa hai chú bé đi cùng, họ lo ngại trên đường gặp bất trắc. Nhưng đại sư Ban Trí Đạt làm vậy là có lý do. Nếu để hai anh em Bát Tư Ba ở lại Sakya, e rằng tính mạng của họ khó được bảo toàn.

Chàng trai trẻ tròn mắt:

- Sao… sao lại như vậy? Lẽ nào…

[1]

Trong tiếng Mông Cổ thì Thành Cát Tư Hãn có nghĩa là vua của cả thế giới. (DG)

Hoa sen xanh 8.1

Chương 8

Nói tiếng người

“Biển cả chẳng phiền khi đầy nước,

Kho báu chẳng chật lúc nhiều vàng;

Người phàm ai than thừa hạnh phúc,

Học giả ai hiềm tri thức dày.”

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1251, tức năm Hợi, Âm Thiết, theo lịch Tạng, tức niên hiệu Thuần Hựu thứ mười một nhà Nam Tống, tức niên hiệu Mông Kha Hãn thứ nhất, Mông Cổ.

Ban Trí Đạt bảy mươi tuổi, Bát Tư Ba mười bảy tuổi, Kháp Na mười ba tuổi.

Mùa đông, cây cỏ đìu hiu, hơi thở đóng băng, dãy Lục Bàn Sơn như mình rồng uốn lượn, giờ cũng hiền lành náu mình trong chiếc áo tuyết dày cộm, trắng muốt. Dưới chân núi lô nhô lán trại của người Mông Cổ, trong lán trại lớn nhất có rất nhiều người mặc áo giáp trụ. Ngồi ở vị trí cao nhất là một người đàn ông trung niên tráng kiện, gương mặt tròn vành vạnh tựa trăng rằm. Bên cạnh ông là một phụ nữ kiều diễm, đài các. Người đàn ông trung niên uy nghi, đạo mạo, giọng nói trầm hùng:

- Tufan có những vĩ nhân tiêu biểu nào?

Người ngồi ở vị trí gần nhất phía dưới là nhà sư trẻ tuổi mặc áo màu đỏ, dáng vẻ tự tin, cử chỉ khiêm nhường, nhã nhặn. Nhà sư khẽ cúi người khiêm cung, dõng dạc trả lời:

- Thưa Đại vương Hốt Tất Liệt, tổ tiên của người Tufan có ba vị pháp vương đều là hóa thân của các vị Bồ Tát: Pháp vương Songtsan Gampo là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, Pháp vương Trisong Detsen là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát, Pháp vương Tri Ralpacan là hóa thân của Kim Cương Thủ Bồ Tát.

Động tác, cử chỉ của nhà sư khiêm tốn mà không gò bó, lời nói đường hoàng, dõng dạc mà không kiêu căng, ngạo mạn, lưng vươn thẳng như ngọn thông, dáng người cao lớn. Giọng nói đã không còn dấu vết của tuổi dậy thì mà trầm ấm, êm mượt như nhung lụa, cứ thế tuôn chảy vào lòng người. Vầng trán nhẵn bóng ngày nào giờ đã lốm đốm mụn thanh xuân nhưng không hề làm mất đi vẻ tuấn tú, khôi ngô. Vẻ bẽn lẽn thuở thiếu thời đã biến mất nhờ sự dày công bồi dưỡng của người bác, thay vào đó là dáng vẻ tự tin, cởi mở, điềm tĩnh. Con người ấy có sức hút kỳ lạ đối với những người xung quanh.

Đôi đồng tử đen láy đảo quanh một lượt các vị khách có mặt, rồi mới tiếp tục cất giọng ngợi ca:

- Vị vua vĩ đại Songtsan Gampo là người đã góp ba công đức lớn lao đối với đất Tạng. Một là, hơn sáu trăm năm trước, ngài đã thống nhất toàn vùng Wusi. Hai là, ngài ra lệnh xây dựng hệ thống văn tự Tạng. Ba là, ngài đã cưới Công chúa Văn Thành của đất Hán và Công chúa Bhrikuti Devi của Nepal và ra sức phát triển đạo Phật… Cháu đời thứ năm của Vua Songtsan Gampo – Vua Trisong Detsen – là người đã mời vị cao tăng Thiên Trúc – đại sư Liên Hoa Sinh – tới Tufan truyền pháp và xây dựng ngôi đền đầu tiên ở Tufan – đền Samye. Vua Trisong Detsen đã lựa chọn bảy người trong số các con em quý tộc đến Samye để xuống tóc đi tu. Họ chính là những tu sĩ đầu tiên của Tufan, sử sách gọi họ là “bảy tu sĩ Samye”. Dòng họ Khon của bần tăng có địa vị đặc biệt cao quý vào thời kỳ vương triều Tufan. Cụ nội của bần tăng vốn là đại thần trong triều đình Songtsan Gampo, được Nhà vua rất mực nể trọng. Người con cả của cụ chính là một trong “bảy tu sĩ Samye” thời đó.

Tất cả những người có mặt trong lán trại khi ấy đều như bị mê hoặc bởi giọng nói trầm ấm, lay động, ai nấy đều chăm chú hướng mắt về phía thầy tu trẻ. Người phụ nữ xinh đẹp với đôi mắt như biết nói chốc chốc lại ghé tai Hốt Tất Liệt thì thầm nhỏ to.

- Cháu trai của Vua Trisong Detsen – Vua Tri Ralpaca – là người rất sùng đạo Phật, ngài đề cao việc tu tâm dưỡng tính. Ngài đã kết tình hòa hảo với đế quốc Đại Đường ở Trung Nguyên, giao ước không bao giờ xâm phạm lẫn nhau. Bởi vì nhà Đường từng gả Công chúa Văn Thành và Công chúa Kim Thành cho Vua Tufan nên hai nước có mối giao tình đặc biệt. Và bởi vậy, tấm bia kỷ niệm ngày hai nước thiết lập quan hệ đồng minh thân thiết còn gọi là bia “Liên minh cậu cháu”, được đặt trước cổng đền Jokhang ở La-ta. – Bát Tư Ba say sưa thuyết giảng, đến nỗi cậu ấy dường như đang ở tư thế hơi đổ người về phía trước. – Bởi vậy, tuy vương triều Tufan sụp đổ nhưng công đức của ba vị vua là vô cùng to lớn. Họ được người đời sau tôn làm “Tam pháp vương”, tượng của họ được thờ cúng trong tất cả các ngôi đền ở Wusi.

Hốt Tất Liệt vỗ tay cười lớn, vẻ tự tin, cởi mở toát ra từ ngài rất đặc biệt. Ngài gật đầu với người phụ nữ xinh đẹp, sau đó đặt tay lên bàn, tấm tắc khen:

- Các vị tướng lĩnh, hãy xem, Bát Tư Ba mới mười bảy tuổi mà học rộng biết nhiều, tài hoa uyên bác như vậy đấy. Những kẻ làm võ tướng ít học các ngươi có thấy xấu hổ không hả?

Ai nấy vội vàng gật đầu thưa vâng, những tiếng tán thưởng râm ran khắp lều trại. Bát Tư Ba, mặt đỏ như gấc chín, cúi đầu, lí nhí cảm ơn.

Hốt Tất Liệt nhìn quanh khắp lượt, xúc động nói:

- Hẳn các vị đều biết, sau khi Quý Do Hãn qua đời, tháng Sáu vừa qua, anh trai Mông Kha của ta đã được chọn làm Khả hãn

[1]

. Đại hãn Mông Kha ủy thác cho ta thống lĩnh quân đội miền Nam Mông Cổ, đóng quân trên Lục Bàn Sơn này. Trước đó, ta nghe nói, trí giả Ban Trí Đạt của phái Sakya ở Tufan là người có trí tuệ phi thường, nay đang trú ở Lương Châu, nên đã cử sứ giả đi mời ngài. Chẳng ngờ, đại sư tuổi cao sức yếu, không thể đi xa, vì vậy Khởi Tất đã đưa cháu trai của ngài Ban Trí Đạt là Bát Tư Ba đến đây.

Hốt Tất Liệt đứng dậy, chầm chậm bước tới trước mặt Bát Tư Ba, ánh mắt ngưỡng mộ và thán phục không giấu giếm của ngài hướng về nhà sư trẻ:

- Lần đầu gặp Bát Tư Ba, ta đã rất tâm đắc. Vì vậy, ta phải “hối lộ” đứa cháu họ nhỏ mọn một trăm con tuấn mã, nó mới chịu để Bát Tư Ba ở lại. Hơn một tháng qua, mỗi khi nghe Bát Tư Ba giảng pháp, ta đều bội phần khâm phục. Bởi vậy hôm nay, ta mới cho vời các ngươi đến đây, để cùng lắng nghe những lời khuôn vàng thước ngọc của bậc thánh giả, mong sẽ giúp đầu óc u tối của các ngươi được mở mang đôi chút.

Đám tướng lĩnh lập tức phụ họa. Người phụ nữ xinh đẹp rúc rích cười, rồi nàng cất giọng nhỏ nhẹ, mềm mại như lụa:

- Vương gia, nghe nói Bát Tư Ba rất giỏi trong việc chủ trì nghi lễ quán đỉnh Hevajra

[2]

. Chi bằng, nhân dịp này, hãy mời ngài giảng giải cho chúng ta nghe về nghi lễ này, chúng ta phải chịu lễ ra sao, sẽ kết thành thí chủ và phúc điền

[3]

thế nào để mọi người được mở rộng tầm nhìn.

[1]

Mông Kha được chọn làm Khả Hãn năm 1251.

[2]

Hevajra là Phật giáo Kim Cương thừa. Quán đỉnh nghĩa là xối nước lên đầu, đây là một nghi thức quan trọng của dòng truyền thừa, thường diễn ra trong các buổi lễ tiếp nhận đệ tử hoặc lễ kế vị của các bậc cao tăng. (DG)

[3]

Phúc điền là chữ dùng của đạo Phật. Giáo lý Phật giáo giảng rằng, phàm những người thờ Phật, kính tăng, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương người khốn khổ đều được ban hưởng phúc đức, giống như người nông dân được thu hoạch hoa màu sau những tháng ngày trồng cấy vất vả. Bởi vậy, “phúc điền” là từ dùng để chỉ Phật, tăng, cha mẹ và những người khốn khổ trong xã hội.

Hoa sen xanh 8.2

- Vương phi Khabi nói phải lắm.

Tôi trốn trong khóc khuất, hé mắt nhìn trộm, lòng rối như tơ vò. Sau khi nghe cuộc đối thoại giữa Hốt Tất Liệt và Vương phi, tôi lại càng sốt ruột. Lần đầu sử dụng phép thuật chạy nhanh thần tốc, năm trăm dặm mà chỉ mất sáu canh giờ. Nhưng lúc tới nơi, tôi bị hoa mắt chóng mặt, đau đầu buồn nôn. Tôi cố kiềm chế cảm giác nôn nao, khó chịu đó để đi tìm Bát Tư Ba, mãi mới tìm thấy cậu ấy ở đây, trong bối cảnh long trọng này.

Trong lán trại có rất nhiều người nên tôi không dám hiện thân, đành cắn răng chịu đựng cơn chóng mặt vô cùng khó chịu, chờ dịp Bát Tư Ba chỉ có một mình sẽ ra gặp cậu ấy. Nhưng nếu đề nghị của Vương phi được chấp thuận, tôi sẽ phải chờ đợi nhiều canh giờ nữa. Cảm giác chóng mặt ngày càng dữ dội, nếu để mất kiểm soát, tôi sẽ lập tức bị hôn mê bất tỉnh.

Không chần chừ thêm được nữa, tôi lấy hết can đảm, lao đến trước mặt Bát Tư Ba, dùng miệng kéo vạt áo cậu ấy.

- Lam Kha, sao em lại đến đây? Em đang ở Lương Châu với Kháp Na kia mà?

Bát Tư Ba phải ngừng buổi thuyết giảng vì sự xuất hiện đột ngột của tôi. Cậu ấy kinh ngạc ôm tôi lên. Những tiếng xuýt xoa, trầm trồ lao xao xung quanh:

- Ôi! Một con hồ ly tuyệt đẹp, toàn thân nó màu xanh kìa!

Đầu nặng như búa bổ nhưng tôi vẫn cố gắng lắc lắc đầu để vớt vát chút tỉnh táo cuối cùng, nhân lúc mọi người đang ồn ào bàn tán, tôi ghé sát vào tai cậu ấy thì thào mấy câu tiếng Tạng, giọng nhẹ như gió thoảng:

- Bệnh tình của đại sư vô cùng nguy cấp, cậu phải về Lương Châu ngay!

Gương mặt điển trai ngẩn ngơ vì kinh ngạc của cậu ấy cứ mờ dần, mờ dần trước mắt tôi. Tôi không chịu nổi nữa, ngả đầu vào bờ vai gầy guộc của cậu ấy và thiếp đi.

- Tỉnh rồi hả Lam Kha?

Tôi ngẩng lên, bắt gặp cặp mắt long lanh đung đưa trước mắt, đôi đồng tử trong suốt tựa pha lê ấy in sâu vào mắt tôi, khiến trái tim tôi đập nhanh một cách kỳ quặc.

- Em thiếp đi suốt ba ngày ba đêm rồi đó. – Cậu ấy gõ nhẹ vào mũi tôi. – Đói không? Ta đã sai người chuẩn bị sữa bò và thịt gà, em muốn ăn ngay hay để lát nữa?

Vì sao vẫn còn cảm giác quay cuồng vậy nhỉ? Tôi đưa mắt nhìn xung quanh, thì ra mình đang ở trên xe ngựa. Tôi lắc đầu cười, cảm giác quay cuồng là do xe ngựa, vậy mà tôi cứ tưởng mình chưa hết chóng mặt.

- Chúng ta đang trên đường về Lương Châu, xe ngựa chạy ngày đêm không nghỉ, nhưng cũng phải hai ngày nữa mới đến nơi, sẽ vất vả lắm đó. Nếu em thấy mệt thì nói với ta nhé!

Trong xe chỉ có mình cậu ấy, cậu ấy đang nói chuyện với tôi như với bao người khác. Tôi chống hai chân trước lên đùi cậu ấy, nhổm người dậy, cắn môi do dự một lúc mới cất tiếng hỏi:

- Cậu không sợ ư?

- Sợ ư? Vì em biết nói tiếng người? – Cậu ấy mỉm cười, vuốt ve sống lưng tôi. – Ta biết chuyện đó lâu rồi.

Đến lượt tôi bị bất ngờ, suýt nữa ngã nhào:

- Cậu… cậu… cậu biết từ khi nào?

- Lần nào ta tu tập, em cũng lén đến xem. Lúc ta xếp bằng ngồi thiền tụng niệm, em cũng làm theo.

Cậu ấy bóp nhẹ đầu mũi tôi, tinh nghịch nháy mắt với tôi:

- Thế là một lần nọ, ta đã cố ý nói rằng, với câu kệ này, chúng ta phải nhắm mắt lại và tập trung suy tưởng, tụng niệm ba trăm lần mới hiệu quả. Em đã mắc mưu, tuy cố gắng không phát ra tiếng lớn nhưng em đã lẩm nhẩm tụng theo. Lúc em nhắm mắt tụng niệm, ta rón rén lại gần, nhìn trộm em, khẩu hình của em khi ấy rất giống người thường nên ta biết chắc em có thể nói được tiếng người.

Tôi há hốc miệng kinh ngạc. Khi ấy tôi thậm chí đã tin tưởng tuyệt đối rằng, phương pháp tu tập đó rất hiệu quả, vì sau khi tụng niệm, một luồng khí lạ lưu thông toàn thân, khiến bước đi của tôi nhẹ nhàng và nhanh như gió, ngay cả thương tật ở chân sau cũng không hề gây ra trở ngại. Không ngờ, tôi tập trung đến mức cậu ấy ngồi bên cạnh quan sát mà tôi không hay biết.

Tôi trợn mắt lườm cậu ấy:

- Sao cậu không nói gì cả?

- Người ta bảo loài hồ ly là chúa đa nghi, quả nhiên là vậy. Vì em chưa chịu tin tưởng ta và Kháp Na tuyệt đối nên ta đành kiên trì chờ đợi cho đến khi em chủ động lên tiếng. Chờ suốt bốn năm, cuối cùng cũng chờ được đến ngày này.

Cậu ấy nhấc bổng tôi lên ngang mặt. Ngựa phi nước đại, đường sá gập ghềnh. Những đốm sáng hắt vào từ cửa xe, lướt qua gương mặt cậu ấy, nụ cười rạng rỡ, ánh mắt trìu mến, vẻ ân cần, chân thành mà ấm áp.

- Lam Kha, cảm ơn em đã vượt đường xa đến báo tin cho ta.

Tôi làm sao vậy nhỉ? Vì sao tim tôi lại đập nhanh vô cớ? Tôi lắc lư cái đầu, cố thoát khỏi cảm giác khó hiểu này, thở dài:

- Quan ngự y bảo rằng, đại sư tuổi tác đã cao, sức khỏe giảm sút nên nhiều nhất cũng chỉ có thể gắng gượng thêm năm, sáu ngày nữa. Kháp Na đã lập tức cử người đi đón cậu, nhưng từ Lương Châu đến Lục Bàn Sơn, cả đi cả về cũng phải mất ít nhất chục ngày. Đại sư thì kiên trì chờ cậu trở về, còn Kháp Na thì buồn phiền lo lắng, cơm chẳng buồn ăn, nước chẳng buồn uống nên tôi quyết định lẻn ra ngoài và chạy đến đây bằng tốc độ nhanh nhất có thể. Mấy năm nay theo cậu học lỏm phương pháp tu tập, phép thuật của tôi đã tiến bộ rất nhiều, năm trăm dặm mà tôi chỉ chạy trong vòng sáu canh giờ. Bây giờ về gấp, có lẽ cậu vẫn kịp gặp mặt đại sư lần cuối.

Cậu ấy ngỡ ngàng.

- Em quả là loài linh thú, phép tu của nhà Phật đã được em vận dụng và phát huy hiệu quả kỳ diệu như vậy! – Cậu ấy trầm tư một lát, lông mày khẽ nhíu lại. – Kháp Na có biết em tới tìm ta không? Em không nói với đệ ấy rằng em biết nói tiếng người ư?

Tôi lắc đầu, tủi hổ:

- Tiểu Lam trong tâm tưởng của chú nhóc ấy quá hoàn mỹ, tôi không muốn phá hỏng hình ảnh đó… – Tôi ngừng lại, thở dài ảo não rồi lặng lẽ quay đầu. – Tôi đã đưa tin cho cậu, cũng xem như báo đáp ơn cứu mạng của cậu, tôi không theo cậu về đó nữa…

- Em muốn ra đi ư? – Vòng tay cậu ấy siết tôi chặt hơn, giọng nói bất giác mất kiểm soát, vút cao. – Vì sao?

- Vì tôi là yêu tinh, loài người các cậu sợ yêu tinh nhất còn gì!

Nhớ lại năm xưa, từng nhiều lần bị người ta dùng bùa chú nguyền rủa, rải phân và máu chó để xua đuổi, tôi cũng bất giác cao giọng, cười mỉa mai:

- Đám thầy mo, thầy tu các người xem việc xua tà đuổi ma là trách nhiệm của mình đấy thôi.

- Lam Kha!

Cái miệng nhỏ của tôi bị chặn lại, lòng bàn tay của cậu ấy nồng nồng, ẩm ướt. Cậu ấy nhấc tôi lên, cọ đầu vào trán tôi, dịu dàng hỏi:

- Trước đây, em đã chịu rất nhiều tổn thương, đúng không?

Tôi như bị ném vào lò nướng, mọi tế bào sống trên cơ thể như bị thiêu đốt. Tôi dùng móng vuốt, chỉ vào vết sẹo trên trán, cất giọng chua chát:

- Vết sẹo hình hoa sen này đẹp lắm phải không? Ai nhìn thấy cũng xuýt xoa, trầm trồ nhưng chẳng ai biết rằng, đó không phải là vết bớt bẩm sinh… Hai trăm năm trước, khi người thân cuối cùng của tôi ra đi vì tuổi già, sức yếu, cả sơn động chỉ còn lại mình tôi, cảm giác cô đơn vì không còn ai bầu bạn ấy hệt như có hàng vạn con kiến lửa đang cắn xé ruột gan tôi. Tôi quyết định xuống núi, lẻn vào nhà người dân, chỉ để được nghe họ trò chuyện. Hằng ngày nghe bà mẹ trẻ dạy con thơ bi bô tập nói, tôi bắt chước học theo. Lâu dần, tôi nói được tiếng người lúc nào không hay.

Ánh nắng dần nhạt nhòa, bóng chiều thăm thẳm, tâm trạng của tôi cũng trĩu xuống theo hoàng hôn cuối ngày.

- Đứa bé tên gọi Zhaxi ấy, tôi đã lặng lẽ ở bên nó cho đến năm nó mười tuổi, tôi thuộc lòng mọi cử chỉ, hành động của nó, tôi xem nó như người thân của mình. Sau khi suy nghĩ rất kỹ càng, tôi đã lấy hết can đảm, bước đến bên nó khi nó lùa đàn cừu trên thảo nguyên và nói với nó một câu tiếng Tạng: “Chào em!”

Bát Tư Ba vuốt ve vành tai nhọn hoắt của tôi, khẽ hỏi:

- Chú bé đó phản ứng ra sao?

Tôi bật cười ha hả.

Hoa sen xanh 8.3

- Khi đó tôi đã ngây thơ biết bao, tôi đâu biết, một con hồ ly biết nói tiếng người sẽ khiến con người sợ hãi nhường nào. – Tiếng cười đứt đoạn, ký ức đè nặng tâm can, tôi như vẫn còn cảm nhận được rõ ràng nỗi bàng hoàng và đau đớn tột độ khi ấy. – Nó nhặt một hòn đá, ném về phía tôi, vì không có sự phòng bị, tôi bị ném trúng giữa trán, máu chảy như suối.

Cậu ấy nhíu mày, gương mặt nhân từ, thương xót, bàn tay dịu dàng xoa lên trán tôi:

- Nó đã để lại vết sẹo hình hoa sen này sao?

Tôi gật đầu, hậm hực, nheo mắt nhìn ra khoảng trời mịt mù ngoài cửa sổ:

- Sau đó, gia đình thằng bé vội vã chuyển đi nơi khác. Tôi còn ngốc tới mức, không hiểu vì sao họ chuyển nhà… Sau lần đó, tôi phiêu bạt đến rất nhiều nơi, học được rất nhiều ngôn ngữ, nào là tiếng Mông Cổ, tiếng Hán, tiếng Tangut. Mỗi khi tôi có ý định kết bạn với con người, mỗi khi mở miệng cất lời, tôi đều nhận được những ánh mắt khiếp sợ. Ngay sau đó, các thầy mo, nhà sư, đạo sĩ sẽ đến làm phép, họ đốt những tờ giấy kỳ quái, nhảy những điệu nhảy kỳ quái. Cuối cùng thì tôi cũng hiểu, tất cả những điều đó là vì họ sợ tôi. Con người gọi những sinh linh biết phép thuật như tôi là yêu ma…

Tim tôi đau nhói, phải ngừng lại hồi lâu, tôi mới có thể tiếp tục câu chuyện, hai mắt đẫm nước:

- Sau khi trải qua tất cả những điều này, tôi quyết định trở về núi Côn Luân, sống một mình trong sơn động, nơi mà cha mẹ tôi từng sinh sống, và suốt một trăm năm sau đó, tôi không hề mở miệng nói với ai dù chỉ một tiếng.

Cậu ấy nhẹ nhàng vuốt ve lớp lông mịn màng trên lưng tôi, hơi ấm từ lòng bàn tay cậu ấy thấm vào da thịt, cho tôi cảm giác tin cậy, ánh mắt long lanh, giọng nói của cậu ấy trầm ấm:

- Lam Kha, em đừng đi. Dù người đời có đối xử tàn tệ với em thế nào, ta và Kháp Na tuyệt đối không giống họ. Em cũng biết đó, thời gian đầu khi mới đến Lương Châu, cả bác và hai anh em ta đều rất khó thích nghi, sức khỏe không ổn định, lại không biết tiếng Mông Cổ nên ngoài bác ra, anh em ta không còn người thân và bạn bè nào khác. Em đã đến với ta và Kháp Na giữa lúc chúng ta cô đơn nhất. Chỉ cần em bằng lòng, ta và Kháp Na sẽ là người thân của em. Chúng ta sẽ không cho phép bất cứ ai làm em bị tổn thương.

Vì sao sống mũi tôi lại cay sè thế này? Tôi hít một hơi thật sâu, nghiêng đầu về hướng khác:

- Sở dĩ tôi đi theo cậu ngần ấy năm là vì tôi muốn đạt được mục đích nghe giảng pháp.

- Vậy thì em cứ nghe đi. – Cậu ấy nở nụ cười tươi tắn, khóe môi uốn thành một đường cong tuyệt đẹp. – Nếu phép tu tập của ta mà hữu ích cho việc tu luyện của em thì còn gì bằng! Phật pháp sinh ra vốn là để thuyết giảng cho người có duyên với đạo Phật. Phật Tổ công bằng lắm, ngài độ hóa cho mọi sinh linh. Lam Kha, em là thú linh, kết tụ khí thiêng của cả trời và đất, em xứng đáng để tu tập hơn cả những người tu hành như ta đó.

Tôi ngước nhìn cậu ấy, bắt gặp cặp mắt thuần khiết vô ngần, ánh mắt long lanh, rạng rỡ chiếu sáng cả những góc u tối, ẩn sâu trong tim tôi. Khoảnh khắc ấy, tôi như đắm chìm giữa một vực nước trong veo, hun hút. Đáng ghét quá, có thế mà khóe mắt tôi cũng ướt nhòe.

- Mà không lẽ em đành lòng rời xa Kháp Na ư? Mấy năm qua sống trong Vương phủ, tuy đệ ấy không nói nhưng ta biết cuộc sống của đệ ấy không vui vẻ chút nào. Công chúa… – Cậu ấy thở dài, lắc đầu, hai hàng lông mày xô lại, vẻ mặt xót thương. – Mới mười ba tuổi mà đệ ấy đã phải đối diện và chịu đựng những khốn khổ mà chỉ những người trưởng thành mới phải chịu đựng. Ta không thể ở bên bao bọc, che chở cho đệ ấy, nhưng may mà có em, em đã mang lại niềm vui cho đệ ấy nên ta cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều.

Nhắc đến Kháp Na, lòng tôi quặn thắt, nỗi xót thương dâng trào. Chú nhóc đáng thương ấy suốt bốn năm qua đã nếm đủ mùi cay đắng trong phủ Vương gia. Thái độ khinh miệt, lạnh nhạt của Mukaton chỉ là chuyện nhỏ, hễ bực mình là cô ta quăng đồ, đáng ghét hơn là cô ta thường ra tay đánh đập Kháp Na. Thời gian đầu, mỗi lần bị chửi mắng, đánh đập, chú nhóc chỉ biết thu mình vào góc giường, ôm chặt lấy tôi, lặng lẽ khóc. Về sau, bất luận Mukaton có nói gì, làm gì, chú nhóc cũng không hề đáp trả, dù chỉ một tiếng. Hằng ngày, chú nhóc tránh không phải chạm mặt Mukaton như tránh tà, mỗi lần nhìn thấy cô ta là khiếp sợ bỏ chạy như thỏ con đụng phải hổ dữ. Mukaton thường ra ngoài cưỡi ngựa, bắn cung hoặc đi thăm bạn bè, những lúc cô ta không có nhà, Kháp Na mới âm thầm thở phào nhẹ nhõm, tinh thần cũng thoải mái hơn nhiều.

Mỗi ngày, Kháp Na phải học tiếng Mông Cổ một canh giờ, luyện tập cưỡi ngựa, bắn cung, đấu vật một canh giờ, sau đó đến đền Hoán Hóa theo học Phật pháp với bác và anh trai một canh giờ nữa. Ngoài ra, với thân phận là con rể của Vương gia Khoát Đoan, chú nhóc còn phải tham dự các buổi tiệc trong Vương phủ hoặc đi thăm hỏi các quý tộc Mông Cổ trong dòng tộc. Chú bé loắt choắt ấy buộc phải nói những lời khách sáo, lễ nghi của người lớn, phải khoác trên mình đủ mọi thứ mặt nạ của người lớn, phải ép mình đóng vai một người lớn. Tôi cảm thấy xót xa khi nhận thấy nụ cười trên gương mặt chú nhóc ngày càng vắng bóng, mỗi lúc chỉ có hai chúng tôi, tôi ra sức chọc cho chú nhóc cười, cùng chú nhóc chơi những trò chơi con trẻ mà chú nhóc thích. Chỉ những lúc như thế, tôi mới thấy được nụ cười hồn nhiên, tươi tắn nhất mà tôi hằng yêu thích.

Nhiều lần tôi muốn cất lời an ủi chú nhóc nhưng lại không dám. Vết sẹo trên trán cứ mãi ám ảnh và luôn nhắc nhở tôi về những ký ức hãi hùng với vẻ mặt kinh hoàng của con người khi họ nghe tôi nói tiếng nói của họ. Trong lòng tôi, Kháp Na quá ư thuần khiết, đáng yêu nên tôi sợ, nếu biết tôi là yêu tinh, những kỷ niệm đẹp đẽ về chú bé sẽ tan biến trong tôi…

- Nếu biết em nói được tiếng người, chắc chắn Kháp Na sẽ rất vui. – Dường như đọc được suy nghĩ của tôi, Bát Tư Ba mỉm cười, xoa đầu tôi. – Chắc chắn đệ ấy luôn hy vọng em có thể trò chuyện được với đệ ấy…

r

Tôi nhớ lại lịch sử triều Nguyên, trầm ngâm:

- Quý Do Hãn lên ngôi Đại hãn được một năm thì đột tử, sau khoảng thời gian dài chọn lựa, vị trí Khả hãn được trao cho Mông Kha. Mông Kha là con trai của Đà Lôi (con trai út của Thành Cát Tư Hãn), anh ruột của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt. Sau khi Mông Kha lên ngôi, chính quyền Mông Cổ được chuyển từ chi phái Oa Khoát Đài sang chi phái Đà Lôi.

Chàng trai trẻ trầm tư một lát mới cất lời:

- Tôi nhớ, sách sử chép rằng, để đạt được mục tiêu thống trị, mỗi khi công phá thành công một vùng đất, người Mông Cổ sẵn sàng tiếp nhận tất cả các tôn giáo tồn tại ở vùng đất đó. Bởi vậy, ngoài Saman giáo, hoàng thất Mông Cổ còn tin theo các tín ngưỡng Phật giáo, Kitô giáo, Đạo giáo.

Chàng trai trẻ nhíu mày nhìn tôi, vẻ băn khoăn:

- Hốt Tất Liệt gặp Bát Tư Ba lẽ nào chỉ vì muốn nghe giảng pháp?

Tôi giật mình, chàng trai này thông minh quá! Tôi gật đầu tán thưởng:

- Sau khi chính quyền Mông Cổ được chuyển từ chi phái Oa Khoát Đài sang chi phái Đà Lôi, vì là em cùng một mẹ của đương kim Khả hãn nên Hốt Tất Liệt trở thành người có quyền cao chức trọng, được Mông Kha giao nhiệm vụ thống lĩnh quân đội miền Nam. Ông ấy đóng quân ở Lục Bàn Sơn là để chờ dịp chiếm lấy Đại Lý ở Vân Nam. Khi ấy, Tứ Xuyên vẫn thuộc quyền cai trị của nhà Nam Tống, nếu muốn đến được đất Đại Lý, Hốt Tất Liệt buộc phải vượt qua vùng đất của người Tạng ở Cam Túc và Thanh Hải. Hốt Tất Liệt triệu kiến Ban Trí Đạt là để tìm hiểu về văn hóa, lịch sử của người Tạng, đảm bảo cuộc hành quân đến đất Tạng được thuận lợi. Không ngờ, Ban Trí Đạt lại cử nhà sư trẻ Bát Tư Ba mới mười bảy tuổi đi thay mình. Đó là lần gặp gỡ đầu tiên của Bát Tư Ba với Hốt Tất Liệt. Khi ấy, Bát Tư Ba không hề biết rằng, cuộc gặp gỡ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc đời của cậu…

Hoa sen xanh 9.1

Chương 9

Gia tộc “hận thù”

“Người đạo đức giấu mình nơi kín đáo,

Tiếng thơm vẫn truyền khắp thế gian;

Hoa quế nép sâu dưới đáy rương,

Hương thơm vẫn lan khắp bốn phương.”

(Cách ngôn Sakya) 

Chưa vào trong đền, chúng tôi đã nghe thấy có tiếng loảng xoảng trên hành lang, hình như vật gì đó bị ném vỡ. Giọng nói khàn khàn của ai đó đang trong giai đoạn vỡ tiếng cất lên, nộ khí đằng đằng:

- Tiếp tục tìm kiếm! Không được bỏ sót bất cứ cánh rừng nào ở Lương Châu này! Nếu không tìm thấy, các ngươi đừng hòng về đây gặp ta!

Bát Tư Ba vội vã bước lên hành lang, la lớn:

- Kháp Na, đệ làm gì thế?

Cậu thiếu niên mười ba tuổi giật mình ngoảnh lại. Cậu ấy mặc áo choàng dài màu xanh của người Mông Cổ, nửa ống tay áo được xắn gọn và thít vào phần hông, chuỗi hạt to bè lúc lắc trên cổ, giống hệt những người Mông Cổ khác. Nét bầu bĩnh của gương mặt trẻ thơ không còn nữa, thay vào đó là vẻ đẹp hút hồn của cậu bé mới lớn. So với Bát Tư Ba của bốn năm về trước, Kháp Na trông gầy hơn nhiều, dù cậu ấy chẳng mấy khi tươi cười nhưng má lúm đồng tiền vẫn rõ mồn một.

Kháp Na tròn mắt, đôi đồng tử đen láy như dính chặt vào Bát Tư Ba, miệng lập bập:

- Đại ca, huynh… Năm ngày trước đệ mới cử người đến báo tin cho huynh kia mà. Nếu cho xe ngựa chạy cả ngày lẫn đêm thì cũng phải mất sáu ngày, sao huynh có thể trở về đây nhanh như vậy?

Bát Tư Ba không đáp, sải bước đến bên Kháp Na, lập tức chuyển đề tài:

- Đệ bực bội chuyện gì vậy? Bác đang ở đâu?

- Bác nằm trong phòng. Quan ngự y bảo rằng bác không thể gắng gượng thêm nữa… May mà huynh về sớm, vẫn còn kịp… – Kháp Na nói chưa dứt câu, Bát Tư Ba đã lao về phía phòng ngủ của đại sư Ban Trí Đạt. Kháp Na cũng bám theo sau, giọng lo lắng. – Đại ca ơi, Tiểu Lam mất tích rồi, đệ tìm khắp nơi mà không thấy…

- Tiểu Lam… Tiểu Lam… – Tiếng bước chân chậm dần. Kháp Na cúi đầu, sụt sịt, giọng run rẩy. – Đệ không thể sống thiếu Tiểu Lam…

Bát Tư Ba dừng lại, khẽ thở dài, đưa tay vuốt ve mái tóc mềm mượt của em trai, hệt như ngày trước:

- Đệ vẫn luôn giàu tình cảm như thế…

Nói đoạn, cậu ấy nhấc tôi ra khỏi ngực áo, nói với tôi:

- Em tự mình giải thích với đệ ấy đi!

- Tiểu Lam!

Kháp Na mừng rỡ la lên, đón lấy tôi, siết chặt. Cậu ấy khiến tôi suýt ngộp thở. Cậu ấy cọ má vào sống lưng tôi, phụng phịu trách yêu:

- Em đi đâu suốt sáu ngày liền, em có biết là ta lo lắng lắm không? Sao em lại đi cùng đại ca thế?

Bát Tư Ba đang rảo bước về phía căn phòng của ngài Ban Trí Đạt nhưng không quên quay lại nháy mắt với tôi. Tôi lấy hết can đảm, ghé sát tai Kháp Na, thì thào:

- Này cậu nhóc, hãy tìm một căn phòng trống, tôi sẽ kể đầu đuôi câu chuyện cho cậu nghe.

Đôi mắt đẹp của Kháp Na trợn tròn, miệng há hốc thành hình chữ O, lúm đồng tiền hiện rõ. Tôi gãi đầu, lè lưỡi, cười trừ với cậu ấy.

Khi chỉ có hai chúng tôi, tôi đem chuyện đã kể với Bát Tư Ba thuật lại cho Kháp Na nghe. Phản ứng của Kháp Na đúng như dự đoán của anh trai cậu ấy, không hề sợ hãi mà ngược lại, vô cùng mừng rỡ. Cậu ấy cứ trách tôi mãi vì không chịu nói sớm.

Niềm hân hoan rạng ngời trên gương mặt Kháp Na, cậu ấy bóp nhẹ cái mũi nhọn hoắt của tôi, hỏi:

- Tiểu Lam à, những hôm buồn bã, đêm ngủ ta thường mơ thấy mẹ ta hiện về hát ru, bài hát ru đó là em hát

phải không?

Giọng của Kháp Na khản đặc, phần vì cậu ấy đang ở vào giai đoạn dậy thì, phần vì quá lao lực. Cậu ấy đã thức mấy đêm liền bên giường bệnh của người bác, vậy mà lúc này, vẻ mệt mỏi dường như đã tan biến hết, đôi mắt sáng long lanh nhìn tôi không chớp. Tôi gật đầu thừa nhận:

- Đêm nào cậu đạp tung chăn, tôi cũng đắp lại cho cậu.

Kháp Na dẩu môi phụng phịu:

- Em thật là, sao lại giấu chúng tôi chuyện đó? Bốn năm qua, ta và đại ca đối xử với em thế nào, chẳng lẽ em không cảm nhận được ư?

Tôi thở dài:

- Kháp Na ơi, tôi chỉ là loài động vật…

- Tiểu Lam, ta chưa bao giờ coi em là thú cưng, em nghe này… – Kháp Na ngắt lời tôi, vẻ mặt nghiêm túc, nói với tôi bằng ngữ điệu nghiêm trang tôi chưa từng thấy. – Cha mẹ ta đều đã qua đời, tuy rằng ta còn có mấy anh chị em cùng cha khác mẹ nữa, nhưng vì từ nhỏ không sống cùng nhau nên ta thậm chí không biết trông họ thế nào. Trước đây, ta luôn cho rằng bác và anh trai là những người thân thiết nhất của ta, nhưng giờ đây, ta có thêm em nữa. Em nghe này, ta và đại ca chính là người thân của em!

Sống mũi tôi cay sè, tim thắt lại, mắt ướt mèm. Người thân! Đã bao lâu rồi tôi không được nghe hai tiếng thân thương ấy? Tôi khóc ư? Tôi cứ ngỡ mình không còn biết rơi lệ nữa.

Bỗng một tiếng “rầm” xé toang bầu không khí yên ắng, hình như là tiếng cánh cửa bị xô mạnh. Tiếp đó là tiếng la lớn của đám người hầu:

- Ngài Bát Tư Ba…

Kháp Na và tôi đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc, rồi vội vã đẩy cửa lao ra ngoài sân. Bóng chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm lao như bay ra ngoài cổng, Kháp Na đuổi theo, gọi lớn:

- Đại ca!

Bát Tư Ba không buồn ngoảnh lại, tiếp tục lao đi như bay, thoáng chốc đã khuất dạng.

Kháp Na níu một người hầu lại để hỏi:

- Đại ca ta sao vậy?

Người hầu cũng tỏ ra ngạc nhiên không kém:

- Chúng tôi cũng không rõ. Đại sư chỉ cho phép một mình ngài Bát Tư Ba vào phòng, chúng tôi đứng chờ bên ngoài. Họ trò chuyện một lúc thì ngài Bát Tư Ba đẩy cửa lao ra.

Kháp Na chạy ra ngoài cổng, ngó nghiêng xung quanh nhưng không thấy bóng dáng Bát Tư Ba đâu. Tôi rời khỏi vòng tay Kháp Na, lần theo dấu vết của Bát Tư Ba rồi kêu lên ra hiệu. Kháp Na định chạy theo tôi thì một người hầu chạy đến, giữ cậu ấy lại:

- Cậu Kháp Na ơi, nguy mất, đại sư lại bất tỉnh rồi.

Kháp Na cuống quýt căn dặn:

- Tiểu Lam, em đi tìm đại ca đi!

Hoa sen xanh 9.2

Sau đó, cậu ấy vội vã theo người hầu đi về phòng ngài Ban Trí Đạt. Tôi tiếp tục lần theo mùi hương của Bát Tư Ba để đi tìm cậu ấy.

Bóng chiều nhuộm chiếc áo tăng ni của cậu ấy thành một màu đỏ u uẩn, gió ào ạt thổi tà áo phần phật bay. Cậu ấy đứng trên đỉnh núi, dõi mắt về phía xa xăm, hệt như bức tượng đồng tạc giữa hoàng hôn.

Tôi khẽ gọi:

- Lâu Cát…

Cậu ấy quay đầu lại, gương mặt đẫm lệ. Tôi hốt hoảng, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Chuyện gì đã khiến một người điềm tĩnh, vững vàng như cậu ấy trở nên sầu thảm nhường vậy?

Cậu ấy chìa cánh tay về phía tôi, cất giọng nghẹn ngào:

- Lam Kha, lại đây với ta.

Tôi nhảy vào lòng cậu ấy, ngước lên hỏi:

- Đã xảy ra chuyện gì vậy? Kháp Na rất lo cho cậu.

Cậu ấy vẫn chưa hết kích động, khóe môi run run, một lúc lâu sau mới cất giọng mệt mỏi:

- Bác cho ta hay vì sao năm xưa người buộc phải đưa ta và Kháp Na rời khỏi Sakya.

Cậu ấy ôm tôi, tìm một phiến đá bên sườn núi rồi ngồi xuống, ánh mắt vẫn trôi về phía những dãy núi xa tít tắp, mờ ảo trong ráng chiều ảm đạm, khá lâu sau cậu ấy mới bình tĩnh lại và bắt đầu trải lòng:

- Mẹ ta vốn thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt, là người phụ nữ đoan trang, hiền thục, bà được gả cho cha ta năm mười sáu tuổi, khi ấy cha ta đã ba mươi lăm tuổi. Tuy tuổi tác không tương xứng nhưng cha mẹ tâm đầu ý hợp, chung sống rất hạnh phúc. Tiếc thay, nỗi day dứt chẳng thể nguôi ngoai trong lòng cha ta khi mà mười năm trôi qua người chưa có lấy một mụn con. Người là con út trong gia đình, bởi vậy trách nhiệm lớn nhất của người là sinh con nối dõi tông đường và kế nghiệp tổ tông. Cha ta chịu áp lực nặng nề từ phía họ tộc nhưng người kiên quyết không nạp thiếp vì không muốn mẹ ta buồn.

Ánh mắt trĩu buồn, cậu ấy thở dài ảo não, hơi thở phả vào không gian những sợi bàng bạc:

- Năm cha ta năm mươi tuổi, mẹ kiên quyết ép cha cưới một lúc bốn người thiếp trẻ. Những người thiếp kia tưởng rằng khi đã ngoài ba mươi tuổi thì mẹ ta chẳng thể sinh nở được nữa, họ tìm mọi cách để sinh được con trai, giành quyền thừa kế gia sản. Nhưng kỳ tích đã xuất hiện, mẹ đã sinh hạ ta và ta lại là con trưởng. Năm ta được sinh ra, các em trai, em gái cùng cha khác mẹ của ta cũng lần lượt chào đời, họ chỉ kém ta vài tháng tuổi.

Khi đó, tuy đã có vài năm kinh nghiệm chung sống với loài người nhưng tôi vẫn chẳng thể hiểu hết mối quan hệ ruột thịt phức tạp của họ. Bởi vậy, tôi chỉ biết chăm chú ngước nhìn và lắng nghe câu chuyện của cậu ấy. Bạn đời của loài hồ ly rất cố định, hồ ly đực và hồ ly cái chung sống với nhau trọn đời. Tuy sinh ra với thể chất khác thường, chưa từng cảm nhận được sự rung động của con tim nhưng tôi không sao lý giải và cảm thông nổi việc cha cậu ấy yêu mẹ cậu ấy sâu sắc là thế, vậy mà vẫn có thể sinh con với những người phụ nữ khác.

- Khi ta vừa chào đời, cha ta đã lập tức tuyên bố pháp thống dòng họ Khon sẽ do ta cai quản. Quyết định này đã làm dấy lên sự ghen tuông, đố kỵ của các bà vợ lẽ. Để bảo vệ ta, cha đưa bốn người thiếp cùng con cái của họ đến sống ở bốn trang viên khác nhau của gia đình. Bởi vậy, một năm, nhiều nhất, ta và các anh chị em cũng chỉ được gặp nhau một lần. Xa mặt thì cách lòng, tuy là anh chị em cùng cha khác mẹ nhưng tình cảm ruột thịt giữa chúng ta rất nhạt nhòa. Năm ta lên bốn, mẹ ta lại bất ngờ sinh hạ Kháp Na. Kháp Na là con út nên cha ta tuyên bố toàn bộ sản nghiệp của gia đình sẽ do Kháp Na thừa kế, Kháp Na cũng chịu trách nhiệm nối dõi tông đường, bởi vì cha quyết định sẽ không cưới thêm người thiếp nào nữa. – Bát Tư Ba cười buồn, thần sắc u ám. – Như vậy có nghĩa là, các em trai thứ hai và thứ ba của ta không những không được kế thừa pháp thống dòng tộc mà ngay cả gia sản cũng không được hưởng.

Linh tính mách bảo với tôi rằng có điều gì không ổn.

- Kháp Na chào đời chưa được mười ngày thì cha ta qua đời. Trước kia, ta cứ đinh ninh rằng cha ta mất vì bệnh tật và tuổi già, nhưng khi nãy bác nói với ta rằng, cha ta đã bị hạ độc.

Nỗi kích động khiến toàn thân cậu ấy run lên, từng nắm đấm lạnh lùng nện xuống khối đá bên cạnh.

- Hôm đó, dì hai cho người đưa bánh đến chúc mừng mẹ ta, vì đói bụng, cha ta đã ăn một miếng, và rồi ngay tối hôm đó, người đã…

Tôi hoảng hốt, “á” lên một tiếng rồi cuống cuồng giữ chặt nắm tay của cậu ấy. Bàn tay va vào đá rách toạc, máu chảy ròng ròng, tôi liếm láp vết thương, giúp cậu ấy cầm máu, lòng quặn thắt. Lâu Cát siết chặt tôi vào lòng, dường như cậu ấy không hề thấy đau, giọng nói đã lạc đi:

- Dì hai mưu đồ hãm hại mẹ ta, không ngờ người trúng độc lại là cha ta. Chứng cứ rõ ràng, dòng họ định tội, dì hai bị bỏ vào bao tải thả trôi sông, từ đó không rõ sống chết ra sao. Em trai thứ hai Rinchen Gyaltsen của ta được giao cho dì ba nuôi dưỡng.

Bóng chiều dần khuất sau dãy núi phủ tuyết trắng xóa, tia nắng cuối cùng hắt lên không gian dáng núi sẫm tối. Nền trời ảm đạm, gió lạnh ào ạt xâm chiếm, giá rét mùa đông thấu buốt tim gan. Tôi sợ khí lạnh từ phiến đá ngấm vào cơ thể sẽ khiến cậu ấy ốm nên khẽ gọi một tiếng: “Lâu Cát” nhắc nhở cậu ấy về thôi.

Nhưng Bát Tư Ba không hề bận tâm vì cậu ấy vẫn đang đắm chìm trong những hồi ức bi thương:

- Năm ta lên tám, một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra, mẹ ta và Kháp Na bị ngã từ lầu cao xuống. Khi mọi người phát hiện ra thì mẹ ta đã hôn mê bất tỉnh trên bậc cầu thang. Kháp Na khi ấy mới bốn tuổi, may mắn và kỳ diệu thay, đệ ấy không hề bị thương, nhưng đệ ấy không nhìn rõ kẻ nào đã đẩy ngã mình. Mẹ ta bị thương ở đầu, mê man suốt mấy tháng trời, miệng không ngừng gọi tên ta và Kháp Na. Trước lúc lâm chung, mẹ đột nhiên trở nên tỉnh táo lạ thường, mẹ giơ tay chỉ thẳng vào dì năm đang đứng bên giường chăm sóc mẹ, mắt mẹ ngập tràn nỗi phẫn uất. Nhưng mẹ không đủ sức để thốt lên dù chỉ một lời…

Cậu ấy không thể nói tiếp được nữa, gục đầu trên lưng tôi. Những giọt nước mắt ấm nóng thấm vào da thịt tôi, cậu ấy đang khóc.

- Mẹ ta qua đời khi chưa đầy bốn mươi tuổi.

Tôi nhẹ nhàng liếm khô những giọt nước mắt long lanh của cậu ấy, khẽ hỏi:

- Là dì năm ư?

Quả thực là tôi không sao hiểu nổi, lẽ nào vì lợi ích của bản thân, họ sẵn sàng nhẫn tâm như vậy?

Cậu ấy gật đầu, vẻ mặt đau đớn, nghẹn ngào không thốt nên lời, một lúc lâu sau tâm trạng mới ổn định trở lại, cậu ấy cất giọng run run:

- Dì năm từ nhỏ bị cha mẹ bán cho nhà ông bà ngoại ta làm nô lệ. Mẹ ta thương dì ấy nên cho làm người hầu gái thân thiết, sau này còn mai mối để dì ấy trở thành thê thiếp của cha ta, để rồi sau đó sinh hạ em trai thứ ba của ta, Yeshe Bernas. Ta vốn nghi ngờ chính dì năm gây ra chuyện này, nhưng khi đó ở hiện trường chỉ có mẹ ta và Kháp Na, không có chứng cứ, ta không thể buộc người đàn bà ấy phải chịu tội.

Tôi thở dài ảo não.

- Sau khi mẹ qua đời, ta và Kháp Na trở thành trẻ mồ côi, không có ai nương tựa, bởi vậy bác ta mới đưa hai anh em đến tu viện. Buổi tối, hai anh em ta ngủ cùng bác. Ban ngày, lúc chúng ta chơi đùa, luôn có đệ tử thân tín của bác theo sát canh chừng. Chúng ta ăn bất cứ món gì, bác và các đệ tử cũng phải đích thân kiểm tra trước. Dù đã hết sức cẩn trọng nhưng bác vẫn không yên tâm. Năm ấy bác ta đã sáu mươi tuổi, người lo lắng rằng nếu người qua đời, hai anh em ta sẽ gặp nguy hiểm. Thế nên, khi nhận lời mời đến Lương Châu, người đã quyết định bằng mọi giá phải đưa hai anh em ta đi cùng, rời khỏi Sakya, rời xa những người đàn bà độc ác và thế lực của các gia tộc đằng sau họ, như thế mới có thể đảm bảo an toàn cho chúng ta.

Sakya đầy rẫy những mối nguy hiểm rình rập hai đứa trẻ mồ côi nên đưa họ đi xa là cách tốt nhất để bảo vệ họ. Thế là năm ấy, Bát Tư Ba mười tuổi dắt díu Kháp Na sáu tuổi cùng người bác đầu bạc bước vào cuộc hành trình gian nan dằng dặc, từ đó rời xa quê hương hai mươi năm.

Hoa sen xanh 9.3

- Hồi nhỏ, ta không hiểu tường tận những chuyện này, khi nghe bác ta kể lại ta mới biết vì sao ta và Kháp Na sớm mồ côi cha mẹ, phải rời bỏ quê hương.

Tôi nghe trong giọng nói của cậu ấy chất chứa nỗi cô đơn, ánh mắt lạnh băng, bàn tay nắm chặt tiếp tục nện xuống nền đá không thương tiếc, máu đỏ tiếp tục trào ra.

- Lam Kha, ta giận lắm, giận cha mẹ sớm bỏ anh em ta mà đi, chỉ để lại trong ta những ký ức mơ hồ về họ. Ta hận những người đàn bà đầy dã tâm, tìm mọi cách trừ khử anh em ta. Ta hận bản thân mình không đủ sức để bảo vệ em trai.

Những giọt máu đỏ tươi nhỏ xuống trảng cỏ khô héo, nhanh chóng kết lại thành những vệt màu ảm đạm. Tôi hốt hoảng kêu lên:

- Lâu Cát, tay của cậu…

Cậu ấy cười buồn, ngắt lời tôi:

- Hận! Đúng, ta hận! Thật không ngờ, sau bao năm tu tập thiền định, lồng ngực ta vẫn có thể ắp đầy nỗi căm hận như thế này.

Mặc cho dòng máu tiếp tục đổ, cậu ấy bật dậy, ánh mắt hút sâu vào khoảng không u tối mênh mang, vô tận, khuôn ngực phập phồng:

- Em có biết dòng họ Khon nhà ta có nghĩa là gì không? Trong tiếng Tạng, Khon có nghĩa là “thù hận”. Dòng họ của ta được sinh ra bởi sự thù hận.

Hơn ba trăm năm trước, trong buổi gặp gỡ đầu tiên, ngài Yapang Kye đã say đắm dung nhan mỹ miều và cốt cách đoan trang hiền thục của nàng Yadruk Silima, vợ Rakshas. Yapang Kye tuyên chiến với Rakshas để giành lấy Yadruk Silima. Sau trận chiến quyết liệt, Yapang Kye đã giết chết Rakshas, sau đó cưới Simila làm vợ. Simila sinh được một người con trai, Yapang Kye đặt tên đứa bé là Khon Bar Kye, có nghĩa là “sinh ra trong sự thù hận”, ám chỉ mối hận thù truyền kiếp với dòng họ Rakshas. Khon Bar Kye chính là vị thủy tổ của dòng họ Khon. Từ đó, hai chữ “thù hận” trở thành biểu trưng của họ Khon.

Nghe đến đây, tôi thở dài, nhảy lên vai cậu ấy, ghé sát tai thì thầm:

- Lâu Cát, tôi hiểu cảm giác của cậu, vì tôi cũng từng hận bản thân mình yếu đuối, kém cỏi.

Tôi nheo mắt dõi nhìn khoảng không xa tắp, nơi dãy núi điệp trùng mải miết chạy dài, chạm đường chân trời trong hoàng hôn tím tái, những hồi ức đau buồn dội về như thác lũ khiến tim tôi nhói buốt.

Ba trăm năm trước, cha tôi bị sa vào bẫy của thợ săn, mẹ tôi vắt kiệt sức cũng không sao giúp cha tôi thoát ra được. Mẹ đưa anh chị em chúng tôi về hang động, dặn dò không được ra ngoài. Những ngày sau đó, mẹ thường xuyên tha thức ăn đến cho cha, mẹ còn chạy ra tận hồ nước, trữ nước trong miệng, mang về mớm cho cha. Ba ngày sau, gã thợ săn đến tháo bẫy, mẹ đi theo gã về tận nhà và tận mắt chứng kiến gã lột da, róc thịt cha, cắt thành từng miếng nhỏ, bỏ vào lò nướng. Trốn trong góc tối mà mẹ như hóa điên, người dùng miệng bứt liên hồi những sợi lông trên chân trước của mình, máu chảy lênh láng. Sau này, vết thương trên chân của mẹ mãi mãi không

lành lại.

Sau khi mẹ qua đời, tôi đã gặp gã thợ săn ấy, gã quàng trên cổ bộ lông mềm mịn, bóng mượt của cha tôi. Nửa phần mặt của cha vẫn còn đó, mắt người khép chặt, những sợi lông mi rủ xuống như nước mắt. Tôi nghiến răng kèn kẹt, ước gì có thể nhảy bổ tới, sống chết với gã đó một phen cho hả căm hờn. Khoảnh khắc ấy, nỗi hận thù trào dâng trong tôi chắc chắn không thua Lâu Cát.

- Lâu Cát, loài hồ ly chúng tôi là những con vật nhỏ bé, yếu ớt, chúng tôi phải chống lại vô số động vật to khỏe, hung tợn hơn mình trong rừng và cả loài người luôn thèm muốn bộ lông của chúng tôi. Nhưng dù căm hận bao nhiêu đi nữa, tôi cũng chẳng thể làm được gì ngoài việc lẩn trốn. Bởi vậy, tôi đã nỗ lực sống sót và tu luyện phép thuật để bảo vệ bản thân và trả thù cho cha. – Tôi ngừng lại, hồi tưởng chuyện quá khứ, một lúc sau mới tiếp tục. – Nực cười thay, khi tôi học được chút ít phép thuật thì gã thợ săn đó đã chết được mấy trăm năm rồi.

Tôi thở dài ảo não, đứng trên vai Bát Tư Ba, ngước nhìn bầu trời về đêm mịn như nhung:

- Bởi vậy, Lâu Cát à, thời gian chính là liều thuốc hữu hiệu giúp người ta hóa giải hận thù. Không gì có thể địch nổi thời gian.

Trải qua ba trăm năm, chứng kiến biết bao cuộc sinh tử, từ lâu tôi đã biết cần phải rộng lượng, sống đơn giản và xem nhẹ mọi sự.

Cậu ấy không nói, chỉ dõi nhìn không trung. Gió đêm ào ạt thổi vạt áo thầy tu của cậu ấy tung bay phần phật. Cả con người cậu ấy như quyện trong bóng đêm mịt mù vô định.

r

Chàng trai trẻ đăm chiêu giây lát rồi quay sang hỏi tôi:

- Vì sao phái Sakya không áp dụng chế độ “Phật sống chuyển thế” mà kiên trì phương thức trao quyền kế thừa cho các thế hệ của chỉ một dòng họ?

- Vào thời gian đó, chế độ “Phật sống chuyển thế” mới xuất hiện ở đất Tạng. Khi ấy, các giáo phái lớn vẫn áp dụng phương thức kế tục: sư phụ truyền lại cho đệ tử. Nhược điểm của phương thức này là khi số lượng đệ tử của một giáo phái tăng lên, sẽ nảy sinh cuộc tranh giành giữa các hệ phái. Giáo phái Kagyu chính là một ví dụ điển hình. Giáo phái này bị phân tán thành rất nhiều chi phái nhỏ, bởi vậy sức mạnh của giáo phải cũng mỏng dần.

Tôi chợt nhớ đến vị Phật sống đầu tiên của giáo phái Karma Kagyu, ngài Karmapa, người sau này có mối quan hệ nhất định với Bát Tư Ba, trong lòng bỗng chộn rộn niềm vui nho nhỏ, tôi mỉm cười:

- Từ buổi đầu được sáng lập, giáo phái Sakya đã gắn kết với dòng họ Khon thành một thể thống nhất, không thể tách rời, và quy luật sau đã được định hình từ lâu: lãnh tụ của giáo phái nhất định phải được lựa chọn từ các thành viên của dòng họ Khon, thế nên không cần thiết phải lựa chọn “Phật sống chuyển thế” để kế tục.

- Vì vậy, đối với dòng họ Khon càng ngày càng neo người, việc bảo đảm dòng họ luôn có đủ người kế tục sự nghiệp lãnh đạo giáo phái trở thành trách nhiệm nặng nề của toàn gia tộc.

Chàng trai trẻ nhắm mắt lại, như để hồi sức, rồi lại thở dài:

- Thế nhưng chế độ kế tục này cũng gây ra những tranh chấp quyền lợi khốc liệt không kém. Cha mẹ của Bát Tư Ba là những nạn nhân của chế độ này.

- Bánh xe số phận cuốn người ta theo, không cho ai quyền lựa chọn, Kháp Na sau này cũng vậy…

Nhớ đến Kháp Na, lòng tôi quặn thắt, tưởng như không thở nổi. Tôi mệt mỏi đổ người bên lò sưởi, nhắm nghiền mắt lại, chờ đợi cơn đau dần nguôi ngoai.

- Một dòng họ được sinh ra từ sự thù hận, điều này quả là rất đặc biệt. – Chàng trai trẻ không hay biết về những xúc cảm bất thường đang xâm chiếm tim tôi, cứ mải mê than thở. – Nhưng sẽ là quá nặng nề khi đặt toàn bộ tương lai của dòng họ lên vai hai đứa trẻ mới chục tuổi đầu…

Hoa sen xanh 10.1

Chương 10

Đại sư viên tịch

“Không tỏ ra hào hứng khi có người tung hô,

Không tỏ ra phẫn uất khi có kẻ chê trách,

Kiên tâm vững chí theo đuổi học thuật,

Ấy mới là phong thái của bậc trí giả chân chính.”

(Cách ngôn Sakya)

- Tiểu Lam, từ lâu ta đã biết ngươi là một linh thú, biết nói tiếng người, có chút phép lực và ngươi đi theo hai anh em chúng để tu luyện phép thuật.

Tôi nghe mà tim đập chân run, hồn bay phách lạc, ước sao có thể phi thân thoát khỏi chốn này.

Trên giường bệnh, ngài Ban Trí Đạt gầy gò, ốm yếu tưởng chừng chỉ còn da bọc xương, trông ngài chẳng khác nào chiếc lá vàng khô héo, cơn gió nhẹ cũng có thể thổi bay. Khuôn mặt già nua nhăn nheo, chằng chịt những nếp nhăn sâu trũng và những đốm đồi mồi. Ngài đang gắng gượng giữ nhịp thở, chừng như muôn phần vất vả, chỉ có đôi mắt sáng lấp lánh trí tuệ là hiển hiện sức sống.

Có nằm mơ tôi cũng không tưởng tượng nổi, trước lúc lâm chung, ngài Ban Trí Đạt lại cho gọi tôi, còn yêu cầu gặp riêng. Khi Kháp Na nhẹ nhàng đặt tôi bên cạnh giường của đại sư rồi nhẹ nhàng bước ra ngoài, tim tôi đập thình thịch, lòng hoang mang vô hạn. Chẳng ngờ, tôi chưa kịp mở lời, ngài đã nhìn thấu tâm can tôi, thế nên tứ chi tôi mềm nhũn, tôi ấp úng, lập cập giải thích:

- Tôi… nhưng tôi… Thưa đại sư, tôi chưa bao giờ có ý định hãm hại họ…

Đôi mắt khép hờ của ngài bỗng mở to, ngài khẽ nghiêng người về phía tôi, ánh nhìn sắc lẹm:

- Nếu ngươi có ý định hãm hại chúng, lẽ nào ta lại để cho ngươi sống đến tận bây giờ?

Dường như câu nói ấy đã khiến ngài hao tổn rất nhiều sức lực, ngài mệt nhọc đổ người xuống chiếc gối, thở dốc, lúc sau mới nhắm mắt lại, lắc đầu:

- Ngươi đừng lo, ta không có ý trách mắng gì ngươi cả. Mấy năm qua, ta vẫn âm thầm quan sát và nhận thấy ngươi không có ý đồ gì xấu với Lâu Cát và Kháp Na. Ngược lại, ngươi đã giúp đỡ chúng rất nhiều.

Khối đá đè nặng trong lòng tôi nãy giờ đã nhẹ bớt chút đỉnh, tôi thầm thở phào, nhưng vẫn có cảm giác sống lưng lạnh toát.

Đại sư tiếp tục câu chuyện, nhưng ngài đã rất vất vả:

- Sau này ngươi không cần lén lút học cách tu tập nữa. Ngay bây giờ, ta sẽ truyền cho ngươi một bộ phép tu gồm những câu chú tinh diệu, thâm thúy nhất. Người thường học phép tu này chỉ có thể kéo dài tuổi thọ, nhưng loài yêu tinh tu luyện theo phép tu này có thể biến hóa vô cùng, chạy nhanh ngàn dặm.

Nỗi lo lắng trong tôi hoàn toàn tan biến, tôi vui mừng đến mức chỉ muốn nhảy cẫng lên. Tôi vội vàng tập trung tinh thần, chăm chú ngước nhìn đại sư, vẻ mặt khẩn cầu. Đại sư thở gấp một hồi mới lấy lại được hơi sức, ngài nói:

- Nhưng ta có một điều kiện.

Tôi cảm thấy có chút hụt hẫng. Kết giao với loài người nhiều năm, tôi hiểu rằng, không có thứ gì bỗng dưng từ trên trời rơi xuống cả.

Đại sư nhìn tôi bằng ánh mắt sắc nhọn và nghiêm khắc:

- Ngươi phải lập lời thề, sẽ đi theo hai anh em chúng, dốc sức bảo vệ chúng bằng mọi phép thuật mà ngươi có, cho đến khi chúng rời bỏ cõi đời này.

Tôi sững sờ, tôi nghĩ ngài sẽ buộc tôi phải tránh xa anh em họ, nào ngờ… Tôi gật đầu quả quyết, cắn rách ngón chân trước, để máu tươi nhỏ xuống lòng bàn tay đại sư, kết lại thành một vệt sẫm đỏ.

Đó là cách mà loài thú chúng tôi lập lời thề. Loài thú không tùy tiện thề nguyền bởi vì chúng tôi không được phép bội ước, nếu không, sẽ bị trời trừng phạt. Tôi sống thọ hơn loài người rất nhiều, mấy mươi năm ngắn ngủi của đời người có là bao, dùng khoảng thời gian đó để đổi lấy những đạo pháp quý báu, mối giao dịch hời thế này, làm gì có con thú nào từ chối kia chứ! Nhưng lần đầu tiên trong đời lập lời thề, tôi không hề nghĩ tới những điều này, từ tận đáy lòng mình, tôi thật sự mong muốn được ở bên anh em họ.

Tôi quỳ xuống bên giường đại sư, từng câu từng chữ rành rọt cất lên:

- Thưa đại sư, Lam Kha Mai Đóa xin lập lời thề trước Phật Tổ, cả đời sẽ đi theo Lâu Cát và Kháp Na, dốc hết sức mình bảo vệ họ cho đến khi họ lìa xa cõi đời này.

Khi ấy tôi không hề biết rằng, lời thề đó đã theo tôi gần bốn mươi năm. Tôi đã nhìn thấu mọi diện mạo của đời sống con người, nếm trải đủ mùi vị của sự hợp tan, chứng kiến biết bao cuộc sinh ly tử biệt. Kể từ đó, cuộc đời dằng dặc của tôi đã có thêm những chương đoạn hấp dẫn nhất, tuyệt vời nhất, khó quên nhất.

Sau khi tôi lập lời thề, đại sư đổ người xuống chiếc gối dài, thở phào, chừng như thỏa nguyện, yên lòng.

Ngày trận tuyết lớn nhất mùa đông xuất hiện ở Lương Châu cũng là ngày đại sư Ban Trí Đạt trút hơi thở cuối cùng. Hôm đó, đại sư khoác lên mình chiếc áo cà sa rực rỡ, trang trọng, ngồi xếp bằng trên đài sen, sau lưng ngài là tượng Bồ Tát Văn Thù, vị Bồ Tát mà giáo phái Sakya sùng bái, toàn bộ tu sĩ trong đền Hoán Hóa và tín đồ quỳ gối trước ngài. Bát Tư Ba và Kháp Na đứng hai bên, đỡ lấy cơ thể chỉ còn lại chút sự sống yếu ớt của đại sư.

Khi ấy, đại sư Ban Trí Đạt chủ trì nghi lễ sau cùng, cũng là nghi lễ quan trọng nhất cuộc đời ngài: nghi lễ trao quyền lãnh đạo giáo phái.

Ngoài kia, nền trời ảm đạm, những bông tuyết trắng ào ạt tuôn rơi, lớp tuyết phủ trên mặt đất đã cao đến tận đầu gối. Ở đây, giữa đại điện, bầu không khí trầm buồn, yên ắng, chỉ có duy nhất tiếng củi cháy lép bép trên bếp than. Sau khi trao tù và

[1]

và y bát

[2]

cho Bát Tư Ba, đại sư Ban Trí Đạt yêu cầu các môn đồ và tín đồ làm lễ bái lạy vị pháp vương mới. Nghi lễ kết thúc, ánh mắt đại sư dồn về phía Bát Tư Ba:

- Lâu Cát, bây giờ con hãy quỳ xuống trước mặt ta, nhắc lại toàn bộ lời thề mà hôm qua con đã thề với ta trước sự chứng giám của Phật Tổ và các đệ tử, tín đồ phái Sakya có mặt ở đây.

Giọng đại sư tuy yếu ớt nhưng chứa đựng sự uy nghiêm không thể kháng cự. Bát Tư Ba quỳ xuống tấm thảm, thành khẩn vái lạy:

- Xin Phật Tổ chứng giám, xin bác làm chứng cho con: Lạc Truy Kiên Tán xin thề trọn đời náu thân nơi cửa Phật, phụng thờ Phật Tổ, vinh danh giáo phái Sakya, giáo hóa chúng sinh, bảo vệ và thống nhất đất Tạng.

Dưới ánh sáng lung linh của dãy đèn dài, gương mặt cương nghị của Bát Tư Ba toát lên khí khái kiên định, vững vàng, đó là thứ ánh sáng rực rỡ, huyền hoặc của sao Mai đang dần trỗi lên giữa nền trời nhung gấm.

[1]

Loại nhạc cụ được làm từ sừng trâu, sừng bò hoặc vỏ ốc, âm thanh phát ra từ loại nhạc cụ này vang rất xa. Tù và trong tiếng Phạn có tên gọi Dharma Sankha, là khí cụ thường được sử dụng trong các buổi lễ cúng bái của Phật giáo Tây Tạng. Trong các cuốn kinh văn, âm thanh trầm bổng, vang vọng của loại khí cụ này thường được ví với thanh âm kỳ diệu ngân vang khi Phật Tổ thuyết pháp. (DG)

[2]

Chỉ áo cà sa và cái bát của người tu hành, đây là những vật dụng mà các các nhà sư truyền lại cho môn đồ sau khi viên tịch, việc truyền lại y bát cũng tượng trưng cho việc trao lại quyền năng cho người kế tục. (DG)

Hoa sen xanh 10.2

Đại sư Ban Trí Đạt gật đầu hài lòng, nhắm mắt lại nghỉ ngơi lấy sức, một lúc sau mới tiếp tục căn dặn:

- Năm hai mươi tuổi con sẽ thọ giới Cụ túc để trở thành một tăng nhân thực sự. Ta những mong sẽ đích thân thọ giới cho con nhưng xem ra, ta chẳng thể chờ đến ngày ấy. Nhưng ta đã gửi thư về Sakya, sau khi ta qua đời, con hãy lập tức lên đường trở về Sakya, đại đệ tử Ngũ Do Ba sẽ chủ trì buổi lễ thọ giới Cụ túc cho con. – Nhắc đến cố hương, vị đại sư ngước nhìn phía trước, ánh mắt ngập tràn nỗi nhớ thương, lưu luyến. – Ta đã xa quê năm năm, tiếc rằng chẳng còn cơ hội quay lại. Lâu Cát, giờ đây con đã là lãnh tụ của giáo phái Sakya, con nhất định phải trở về chỉnh đốn lại giáo phái.

Bát Tư Ba đáp lời trong tiếng nức nở thống thiết.

Căn dặn Bát Tư Ba xong xuôi, gương mặt mệt mỏi của đại sư quay sang Kháp Na:

- Kháp Na, vì là con út nên trách nhiệm của con là phải sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường, kế tục huyết mạch của dòng họ Khon. Ta biết con và Công chúa chung sống không hòa hợp, bởi vì tuổi tác cách biệt quá lớn, quả thật rất khó cho các con. Nếu Công chúa không thể sinh hạ huyết mạch của nhà họ Khon, ngày sau con hãy cưới người con gái có thân phận cao quý khác làm vợ.

Kháp Na sững sờ, sau đó cúi đầu yên lặng hồi lâu, hẳn là cậu ấy phải quyết tâm lắm mới cất được những tiếng dè dặt:

- Thưa bác, con mới mười ba tuổi, con… con không muốn kết hôn nữa…

- Kháp Na! – Không biết sức mạnh nào đã giúp ngài Ban Trí Đạt lớn tiếng nghiêm khắc như vậy. – Con phải nhớ rằng, trách nhiệm với gia tộc vĩnh viễn quan trọng hơn tình cảm cá nhân!

Vì quá xúc động, đại sư đổ nhào xuống. Bát Tư Ba và Kháp Na vội vã chạy lại đỡ ngài, vuốt ngực cho ngài. Khi đã lấy lại nhịp thở đều đặn, đại sư nghiêm mắt nhìn Kháp Na, cánh tay chực đưa lên lại đổ xuống vì mất sức.

- Trước khi ta qua đời, con hãy thề độc đi.

Bát Tư Ba kéo áo em trai, ra hiệu bằng ánh mắt. Kháp Na quỳ sụp dưới đất, dập đầu trên tấm thảm, cắn răng thốt ra từng tiếng nặng nhọc:

- Phật Tổ trên cao chứng giám, Kháp Na Đa Cát xin thề sẽ nghe theo lời chỉ dạy của bác, nhất định sẽ sinh hạ huyết mạch của dòng họ Khon, nối dõi tông đường.

Khi Kháp Na ngẩng lên, những giọt nước mắt dồn tụ nãy giờ đã tràn khỏi khóe mắt, nhỏ xuống tấm đệm, tựa hồ những hạt trân châu tuôn rơi khi sợi dây gắn kết bị đứt.

Sau khi nghe Kháp Na thề nguyện, gương mặt đại sư Ban Trí Đạt phảng phất nụ cười mãn nguyện trước lúc lâm chung:

- Lâu Cát, Kháp Na, các con phải ghi nhớ những lời thề này suốt cuộc đời…

Ngày Mười bốn tháng Mười một năm 1251, đại sư Ban Trí Đạt của phái Sakya đã viên tịch tại ngôi đền Hoán Hóa, hưởng thọ bảy mươi tuổi. Bát Tư Ba trở thành vị pháp vương thứ năm của giáo phái Sakya khi mới mười bảy tuổi.

Trong buổi đại lễ ra mắt tân pháp vương ngay sau đó, Bát Tư Ba khoác áo cà sa rực rỡ, trang trọng mà trước đó người bác của cậu từng mặc, đầu đội mũ ngũ sắc, tọa trên đài sen tráng lệ, thần thái trang nghiêm khi tiếp nhận nghi thức vái lạy của tín đồ và tăng chúng. Bát Tư Ba ở trên đài cao, lưng vươn thẳng như cây bạch dương, dung mạo thanh tú, thần thái thoát tục, mọi cử chỉ, hành động đều rất mực chỉn chu, khoan thai, đĩnh đạc. Người ta có thể dễ dàng nhận thấy ở cậu phong thái của một bậc cao tăng tương lai.

Dù biết sớm muộn gì cũng sẽ đến ngày này, sớm muộn cậu ấy cũng sẽ trở thành người nhà Phật, nhưng vào khoảnh khắc Bát Tư Ba khoác lên mình chiếc áo cà sa trang trọng ấy, lòng tôi bất giác buồn vô hạn.

Một tháng sau ngày đại sư Ban Trí Đạt viên tịch, Vương gia Khoát Đoan cũng qua đời vì bệnh tật. Sau khi Khoát Đoan qua đời, con cháu của ngài không còn được sống những ngày tháng huy hoàng như trước nữa.

r

Nghe đến đây, chàng trai trẻ đưa ra bình luận sắc sảo:

- Khoát Đoan là con trai của Oa Khoát Đài, em trai của Quý Do. Sau khi quyền lực được chuyển từ chi hệ Oa Khoát Đài sang chi hệ Đà Lôi, chắc chắn con cháu của Oa Khoát Đài sẽ thất thế, gia đình Khoát Đoan cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng.

Tôi bổ sung:

- Sau khi lên ngôi, Mông Kha đã ra tay trừng trị tất cả đám con cháu của Oa Khoát Đài – những kẻ năm xưa phản đối ông ta kế vị Khả hãn. Tuy gia đình Khoát Đoan không bị liên lụy vì quan hệ của Khoát Đoan và Mông Kha xưa nay vẫn rất tốt đẹp, nhưng không vì thế mà nhiều vùng đất thuộc quyền cai quản của Khoát Đoan không bị tước đi, trong đó có cả vùng Tây Tạng. Khi bệnh trạng đã ở vào giai đoạn nguy kịch, Khoát Đoan vẫn lệnh cho con trai Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi hộ tống Bát Tư Ba đến gặp Hốt Tất Liệt, thực ra, mục đích chính của Khoát Đoan là muốn gây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con trai với vị tướng soái khi đó đang nắm giữ quân quyền trong tay.

Chàng trai trẻ chau mày:

- Mông Kha tước bỏ quyền cai trị Tây Tạng của Khoát Đoan, điều này đồng nghĩa với việc vị thế mà Khoát Đoan xây dựng cho phái Sakya ở Wusi cũng tan biến. Thêm vào đó, sau khi Khoát Đoan qua đời, không người nào trong số con cháu của ông ta có thế lực lớn trong vương triều Mông Kha, vậy thì giáo phái Sakya hẳn sẽ lâm vào tình cảnh khốn đốn…

Tôi gật đầu đồng tình:

- Đúng là như vậy! Tuy lúc này ở Lương Châu, Bát Tư Ba và Kháp Na vẫn nhận được sự hậu đãi của gia tộc Khoát Đoan, nhưng ở Tây Tạng, địa vị của giáo phái Sakya đã bắt đầu có dấu hiệu lung lay.

Tôi ngước nhìn màn đêm mịt mù ngoài cửa sổ, buột miệng thở dài:

- Đại sư Ban Trí Đạt ra đi, để lại cho Bát Tư Ba cả một núi nguy cơ chất chồng…

Hoa sen xanh 11.1

Chương 11

Đi theo Hốt Tất Liệt

“Người uyên bác, trí tuệ và đa mưu túc trí,

Sẽ dễ dàng thuyết phục kẻ nắm uy quyền;

Đại bàng tuy thống trị bầu trời,

Nhưng bằng lòng làm vật cưỡi của tiên ông.”

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1253, tức năm Quý Sửu, Âm Hỏa theo lịch Tạng, tức niên hiệu Bảo Hựu thứ nhất, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Mông Kha Hãn thứ ba, Mông Cổ.

Bát Tư Ba mười chín tuổi, Kháp Na mười lăm tuổi, Hốt Tất Liệt ba mươi tám tuổi.

- Em tỉnh rồi à?

Tôi uể oải hé mắt, bắt gặp nụ cười tươi rói, rạng rỡ hơn cả ánh mặt trời đang ghé sát bên mình. Đưa mắt nhìn xung quanh, thấy màn đêm bao phủ, đoàn người dựng trại trên một khu đất trống, bằng phẳng. Tôi thiếp đi trên chiếc chiếu trải trong lán trại của cậu ấy, sợ đêm trên núi khiến tôi bị lạnh, cậu ấy chu đáo đắp cho tôi một mảnh chăn. Bát Tư Ba bóp nhẹ đầu mũi tôi, nở nụ cười ấm áp:

- Lần này tiến bộ nhiều lắm, em chỉ thiếp đi có ba ngày, tám canh giờ, ít hơn lần trước hai canh giờ.

Tôi ngượng ngùng không biết nói sao.

Mười bảy tuổi đã trở thành lãnh tụ của một giáo phái, tháng Tám, năm thứ hai sau khi trở thành tân pháp vương Sakya, Bát Tư Ba tổ chức nghi lễ khai quang

[1]

tòa tháp thờ linh vị đại sư Ban Trí Đạt tại Lương Châu. Sau đó, cậu lên đường trở về Sakya từ hướng Dogans

[2]

theo di nguyện của người bác. Cậu phải trở về Sakya trước sinh nhật lần thứ hai mươi để chịu lễ thọ giới Cụ túc do đại đệ tử Ngũ Do Ba của đại sư Ban Trí Đạt chủ trì. Chuyến đi này kéo dài một năm, Bát Tư Ba đã trải qua sinh nhật tuổi mười chín của mình trong cỗ xe ngựa tròng trành trên những cung đường quanh co, hiểm trở.

Tôi vọt lên lòng cậu ấy, ngước nhìn nụ cười ấm áp của cậu ấy, báo tin khẩn:

- Kháp Na nhờ tôi nói với cậu, cậu ấy nhận được thư từ Sakya gửi đến, báo tin đại sư Ngũ Do Ba đã viên tịch từ hai năm trước, ngài mất sau đại sư Ban Trí Đạt khoảng ba ngày.

Kể từ lúc Bát Tư Ba lên đường, tôi gánh trọng trách đưa tin cho hai anh em họ. Sau khi được đại sư Ban Trí Đạt truyền cho phương pháp tu luyện quý báu, phép thuật của tôi ngày càng tiến bộ, cơ thể nhẹ như chim én, tốc độ nhanh như bay, chỉ bốn hoặc năm canh giờ là tôi có thể chạy cả ngàn dặm đường. Nhưng điều đáng xấu hổ là, cứ chạy đến nơi là tôi ngã vật ra, ngủ li bì mấy ngày liền. Nản quá, rõ ràng là tôi học hành không đến nơi đến chốn đây mà!

Xa quê hương gần mười năm, Bát Tư Ba không còn nhớ rõ dung mạo của đại sư Ngũ Do Ba nữa, chỉ nhớ mang máng rằng, đó là một ông lão hiền từ, nhân hậu. Nghe tin đại sư qua đời, Bát Tư Ba trở nên trầm buồn, cậu chắp tay, nhắm mắt tụng niệm một đoạn kinh văn. Tôi ở bên bầu bạn với cậu, cùng chia sẻ nỗi buồn. Tôi hỏi:

- Bây giờ cậu tính thế nào? Có trở về Sakya nữa không?

Sau một năm trời vượt núi cao, sông sâu, lúc này chúng tôi đang tiến vào địa phận của vùng Đức Khâm, thuộc Vân Nam, cách La-ta, cố đô của vương triều Tufan không còn bao xa nữa. Tuy nhiên, từ La-ta đến Sakya còn phải vượt qua mấy ngọn núi tuyết sừng sững, hiểm trở, hành trình này cũng mất chừng nửa năm. Năm mười tuổi, Bát Tư Ba đã rời xa đất Tạng nên giờ đây, cậu ấy rất khó thích nghi với khí hậu vùng cao nguyên băng giá này, trên đường đi, thường hay bị nhức đầu, khó thở, nhưng cậu ấy luôn kiên cường chịu đựng. Mùa đông sắp tới gần, trên các đỉnh núi, tuyết trắng đã bao phủ, đường đi càng gian nan. Bởi vậy, tôi luôn cầu mong, với lý do này, cậu ấy sẽ không đi tiếp nữa.

Bờ môi của cậu ấy nứt nẻ, tím tái vì thiếu dưỡng khí nhưng vẻ mặt nghiêm nghị, kiên định, từng lời thốt ra chắc như đinh đóng cột:

-  Chắc chắn sẽ về! Ta sẽ viết thư mời các vị cao tăng đại đức khác chủ trì buổi lễ thọ giới Cụ túc cho ta. Ta rời đất Tạng khi tuổi còn quá nhỏ nên mối quan hệ giao hảo với các giáo phái khác ở quê hương không mấy khăng khít. Ta muốn nhân dịp này, mời tôn sư của các giáo phái lớn đến chủ trì lễ thọ giới Cụ túc cho ta, để khỏa lấp những cách ngăn giữa ta với họ bấy lâu nay.

Cậu ấy vuốt ve sống lưng tôi, trầm ngâm hồi lâu, giọng nói bỗng chất chứa nỗi xót xa:

- Tuy bác ta lập ta làm pháp vương, nhưng chỉ e các thế lực khác trong giáo phái Sakya sẽ không chịu phục tùng. Nếu đại sư Ngũ Do Ba còn sống, với danh tiếng của một danh sư đức cao vọng trọng, chắc chắn ngài sẽ thuyết phục được mọi người. Nhưng ngài đã viên tịch, ta lo rằng nội bộ phái Sakya sẽ xảy ra tranh chấp. Bởi vậy, ta nhất định phải trở về.

Trong lòng tôi cũng canh cánh nỗi bất an. Em trai thứ hai và thứ ba của Bát Tư Ba năm nay cũng đã mười chín tuổi, và họ không có chút quyền thừa kế chỉ vì luật lệ đặc biệt của giáo phái này. Bây giờ, khi đại sư Ngũ Do Ba đã viên tịch, rất có thể hai người em trai và các thế lực của gia tộc họ ngoại của họ sẽ sinh lòng đố kỵ, muốn tranh đoạt quyền lực. Thêm vào đó, họ lại sinh ra và trưởng thành ở Sakya, có lợi thế của cư dân bản địa.

- Lâu Cát à, Kháp Na còn một thông tin nữa muốn báo cho cậu. – Tôi gõ gõ bộ vuốt lên đầu, ra sức nhớ lại mớ thông tin khô khan, phức tạp đó. – Mông Kha Hãn ban bố chiếu thư, chia đất Tạng cho các em trai của ngài là Hốt Tất Liệt, Húc Liệt Ngột và A Lý Bất Ca làm đất phong vương.

Mặt mày biến sắc, đôi môi của Bát Tư Ba càng tím tái:

- Vậy… còn phái Sakya thì sao?

- Được cắt cho công tử Khởi Tất. Nhưng công tử Khởi Tất cũng chỉ được cai quản vùng Sakya, vùng đất đai khác thuộc Wusi đều bị tước.

Tôi thở dài ảo não. Sakya thuộc vùng Hậu Tạng nghèo nàn, hẻo lánh, dân không quá vài nghìn, đất canh tác không quá nghìn mẫu. Xem ra, Mông Kha Hãn muốn tống khứ triệt để cháu con nhà Khoát Đoan ra khỏi trung tâm quyền lực của đất Tạng rồi!

Bát Tư Ba đặt tôi xuống chiếu rồi đứng lên, đi đi lại lại trong lán, dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu chiều muộn, gương mặt cương nghị với những đường nét như tạc tượng của cậu toát lên vẻ suy tư, đăm chiêu, già dặn không tương xứng với lứa tuổi của cậu. Cậu ấy trầm tư rất lâu mới quay lại nhìn tôi:

- Lam Kha, ta nhờ em một việc: hãy về đất Tạng trước và nghe ngóng xem phản ứng của các giáo phái lớn đối với chiếu thư của Mông Kha Hãn ra sao.

[1]

Một nghi thức của Phật giáo. Sau khi hoàn tất một tòa tháp, một bức điêu khắc tượng Phật,… tín đồ Phật giáo chọn ngày lành tháng tốt, tổ chức nghi lễ kéo tấm vải niệm đỏ phủ trên công trình kiến trúc xuống, đánh dấu việc bắt đầu thờ cúng tượng Phật, tháp thiêng đó. (DG)

[2]

Dogans: tiếng Trung Quốc cận đại gọi tắt là vùng Khang, chỉ phía đông bắc Xương Đô, Tây Tạng ngày nay, là một bộ phận của khu tự trị tộc người Tạng, huyện Ganzi và huyện Aba, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. (DG)

Hoa sen xanh 11.2

Vừa mới gặp lại cậu ấy, còn chưa kịp hỏi han câu nào đã phải lên đường, tôi thực sự không muốn chút nào nhưng chẳng dám nói ra, chỉ lặng lẽ thở dài, ai bảo tôi đã thề độc trước mặt đại sư Ban Trí Đạt rằng sẽ đi theo hai anh em họ kia chứ!

Đêm đó, tôi nằm cạnh chiếu ngủ của cậu ấy như mọi khi. Sống chung với con người đã lâu nhưng tôi vẫn không thể thích nghi hoàn toàn với thói quen thức giấc khi mặt trời mọc và nghỉ ngơi khi mặt trời lặn của họ. Ban đêm, tôi ngủ rất ít và vẫn rất cảnh giác như trước đây. Ngoài kia, gió lớn ào ào thổi những bông tuyết trắng tuôn rơi ràn rạt. Trong đêm khuya, tôi nằm nghe tiếng ngáy lúc dài lúc ngắn của tên lính gác, tiếng tru của loài sói từ xa vọng lại. Lò than vẫn hồng rực, xua đi cái giá lạnh thấu xương, sưởi ấm giấc ngủ cho người trong lán. Tôi quay lại ngắm nhìn cậu ấy. Dưới ánh sáng lung linh của tàn lửa, khuôn ngực cậu ấy phập phồng, nhịp thở đều đều, những sợi râu lún phún trên chiếc cằm thanh tú, chiếc cổ dài khẽ rung động. Cậu ấy trưởng thành thật rồi. Tôi lẳng lặng liếm những vết nứt nẻ vì giá rét trên bờ môi tím tái của cậu ấy. Làn môi của cậu ấy vẫn mềm mượt, ngọt ngào như hương vị mà tôi quen thuộc suốt mấy năm qua. Sợ cậu ấy giật mình tỉnh giấc, tôi vội vã úp mặt xuống giả vờ ngủ, trong lồng ngực, trái tim tôi loạn nhịp.

Sáng sớm hôm sau, khi cậu ấy còn chưa tỉnh giấc, tôi đã lên đường.

Vài ngày sau, trong cỗ xe ngựa tròng trành, tôi trở về báo cáo tình hình với Bát Tư Ba:

- Các giáo phái lớn đều nhân cơ hội này tạo dựng mối quan hệ với các vương gia. Mông Kha Hãn đã triệu mời đại sư Dorje của phái Pagmodru và đại sư Karmapa của phái Karma Kagyu vào cung điện của ông ta để thuyết giảng Phật pháp.

Bát Tư Ba thoáng sững sờ, xe ngựa rung lắc dữ dội, cậu bị cộc đầu vào khung cửa nhưng chẳng bận tâm đến vết thương, cất giọng khẽ khàng mà chất chứa phiền muộn:

- Phái Sakya không được mời ư?

Phái Sakya không được mời đến hoàng cung, có nghĩa là không được Mông Kha Hãn xem trọng. Tôi thở dài, lẳng lặng liếm vết thương đang sưng tấy trên trán cậu ấy, chần chừ hồi lâu mới thông báo tin tức còn tệ hơn nữa:

- Tôi nghe nói, chỉ vì tranh chấp giáo dân ở vùng Gyantse

[1]

mà hai giáo phái Sakya và Pagmodru đã xảy ra xung đột. Đại sư Shakya Zangpo, người hiện giữ chức bản khâm

[2]

của Sakya thay đại sư Ngũ Do Ba đang trên đường đến La-ta để tranh luận với giáo phái Pagmodru về cuộc xung đột này.

- Quả nhiên là vậy! – Vẻ mặt Bát Tư Ba càng lộ rõ nét ưu tư. – Ta e rằng năm xưa, khi phái Sakya dựa vào thế lực của Vương gia Khoát Đoan để hiệu triệu toàn đất Tạng đã gây nên sự bất mãn trong các giáo phái lớn khác. Giờ đây, Mông Kha Hãn…

Chưa kịp nói hết câu, cỗ xe bỗng nhiên nghiêng ngả dữ dội rồi đột ngột dừng lại.

Tiếng hô hoán ồn ã phía trước xen lẫn tiếng ngựa hí chát chúa. Chúng tôi chưa hết ngạc nhiên thì có người bẩm báo:

- Bẩm ngài, phía trước có một đoàn quân Mông Cổ, khoảng vài trăm nghìn người. Khe núi này quá hẹp, chúng ta phải nhường đường cho họ, e là đêm nay phải dựng trại ở đây.

Bát Tư Ba ôm tôi vào lòng, vén tấm rèm cửa nặng trịch:

- Ai là người dẫn đầu đoàn quân đó?

- Bẩm, là Vương gia Hốt Tất Liệt, người thống lĩnh quân đội phía nam ạ!

Chính là người đó, con trai của con trai út của Thành Cát Tư Hãn, em trai của đương kim Đại hãn Mông Cổ, vị vương gia quyền thế lẫy lừng! Hai năm trước, tại Lục Bàn Sơn, Hốt Tất Liệt từng gặp nhà sư trẻ mười bảy tuổi Bát Tư Ba và hết lời khen ngợi cậu ấy. Nghe nói Mông Kha Hãn cử Hốt Tất Liệt dẫn quân đánh chiếm Vân Nam, chẳng trách lại gặp ngài ở chốn này. Bát Tư Ba lệnh cho đám tùy tùng hạ trại ven đường, sau đó khoác lên mình tấm áo tăng ni sạch sẽ, chuẩn bị đi gặp cố nhân. Tôi mới học được phép ẩn thân, rất muốn biết hiệu quả ra sao nên đã niệm thần chú, lặng lẽ đi theo Bát Tư Ba đến doanh trại của Hốt Tất Liệt.

Vương gia Hốt Tất Liệt khoác áo lông cừu, thân hình cao lớn, tráng kiện, hàm én mày ngài, khuôn mặt vuông vức, dáng vẻ bệ vệ, uy nghi, ở ngài toát lên khí chất của bậc đế vương tương lai. Bụng ngài phệ hơn so với hai năm trước, nếp nhăn nơi khóe mắt sâu hơn nhưng hào khí lẫm liệt như chim ưng sải cánh trên thảo nguyên, vốn là nét đặc trưng của các đấng nam tử Mông Cổ thì vẫn còn nguyên vẹn.

Gặp lại Bát Tư Ba giữa vùng núi non hiểm trở, heo hút của dải đất Vân Nam mênh mông này, ngài mừng lắm. Sau màn chào hỏi xã giao, Vương gia Hốt Tất Liệt mời Bát Tư Ba vào lán trại, hai người chuyện trò, đàm đạo rôm rả. Vương gia nói, sau khi trận chiến Vân Nam kết thúc, ngài sẽ đến Ngũ Hành Sơn bái Phật và trân trọng mời Bát Tư Ba lưu lại trong doanh trại để cùng ngài tới đó. Nghĩ đến lễ thọ giới Cụ túc sắp tới, Bát Tư Ba có phần do dự.

Hốt Tất Liệt nhiệt thành đề nghị Bát Tư Ba đi cùng, ngài vuốt bộ râu quai nón rậm và dày, cười bảo:

- Ta định cử người đến Wusi trưng thu quân lương, mừng thay lại gặp được pháp sư ở đây. Liệu ngài có thể thay ta làm việc đó khi đại quân của ta tiến đánh Vân Nam hay không? Được vậy, đại quân của ta sẽ không phải lo lắng về vấn đề lương thực nữa.

Bát Tư Ba biến sắc mặt, cuống quýt cúi thưa:

- Tufan là vùng xa xôi, hẻo lánh, đất đai cằn cỗi, dân cư thưa thớt, làm sao cáng đáng nổi nhiệm vụ cung cấp lương thực cho cả đại quân Mông Cổ? Xin Vương gia niệm tình lê dân Tufan khốn khổ, nghèo đói mà xá miễn nhiệm vụ này.

Một người ở ngôi cao như Hốt Tất Liệt làm sao chấp nhận được sự cự tuyệt thẳng thắn như thế? Sau câu nói của Bát Tư Ba, ngài sa sầm nét mặt. Nhưng Bát Tư Ba là người rất có nguyên tắc, cậu ấy không bao giờ chịu cúi đầu trước uy quyền. Vị pháp sư trẻ tuổi vẫn hiên ngang đón ánh mắt giận dữ của Vương gia, không hề sợ hãi. Chỉ trong khoảnh khắc, bầu không khí hân hoan lúc đầu đã tan biến. Hốt Tất Liệt hầm hừ nạt nộ:

- Việc quân cơ phải được xếp ở vị trí số một, không thể chỉ vì lòng nhân từ yếu đuối mà lơ là quân dịch được. Nếu muốn thương xót lê dân bá tính thì chờ ngày đại quân giành thắng lợi, ta ban bố lệnh xá miễn quân dịch cũng chưa muộn. Ngài không bằng lòng giúp ta, ta không ép ngài, ta sẽ cử người khác đi vậy.

Tuy già dặn trước tuổi nhưng dù sao Bát Tư Ba cũng chỉ là một thanh niên mười chín tuổi, nghe vậy, cậu liền chắp tay, khảng khái trả lời:

- Nếu đã vậy, tăng nhân của đất Tufan không còn lý do gì để lưu lại đây thêm nữa, xin Vương gia hãy cho phép bần tăng trở về Sakya.

Mất hết thể diện, Hốt Tất Liệt nổi giận đùng đùng, ngài hất tay áo, gằn giọng:

- Được thôi, ngài về đi!

- Kìa Đại vương!

Giọng nói ngọt như mật của ai đó rót vào tai, lập tức xua tan cơn nộ khí đang dần bốc cao của Hốt Tất Liệt. Mỹ nhân kiều diễm ngồi bên cạnh Vương gia nhẹ khàng vén gọn lớp lông chồn gắn ở cổ tay áo, để lộ những ngón tay ngọc ngà, ý nhị ấn khẽ lên mu bàn tay gân guốc của Hốt Tất Liệt:

- Xin Đại vương bớt giận! Hai năm trước gặp đại sư Bát Tư Ba, ngài đã hết lời khen ngợi kia mà, cớ gì hôm nay lại nổi giận vì chút chuyện cỏn con ấy?

Tôi đã từng thấy người phụ nữ tuyệt sắc này trong doanh trại của Hốt Tất Liệt hai năm trước. Cô ấy là Vương phi Khabi, được Hốt Tất Liệt rất mực sủng ái. Thông thường, phụ nữ không được đi theo đoàn quân, nhưng cả hai lần tôi đều được chứng kiến người phụ nữ này đường hoàng ở bên cạnh Vương gia Hốt Tất Liệt, còn tham dự các hội nghị, các buổi yến tiệc cùng tướng sĩ. Hẳn là cô ấy phải có điều gì đó đặc biệt ngoài nhan sắc thì mới khiến Hốt Tất Liệt say mê đến vậy.

[1]

Huyện Gyantse nằm phía nam khu tự trị Tây Tạng, phía đông Shigatse, nằm trên vùng thượng du sông Nyangqu. (DG)

[2]

Bản khâm tương đương với trụ trì, là người cai quản giáo xứ Sakya.

Hoa sen xanh 11.3

Vương phi Khabi ghé sát tai Hốt Tất Liệt thì thào, thính giác nhạy bén giúp tôi nghe được trọn vẹn những lời cô ấy nói:

- Khi chia khu vực Wusi cho các anh em cai quản, Mông Kha Hãn đã chia cho Đại vương vùng đất nghèo nàn nhất, khiến ngài rất bất mãn, ngài còn nhớ chứ? Nghe nói, các anh em của ngài đều đang ra sức gây dựng mối quan hệ khăng khít với các giáo phái lớn ở Wusi, trừ giáo phái Sakya. Sakya từng được Khoát Đoan tôn làm giáo phái thủ lĩnh của vùng Wusi nên có sức ảnh hưởng sâu rộng đến vùng đất bao la ấy. Nếu Đại vương muốn khống chế Wusi thì giáo phái Sakya đang bị ghẻ lạnh hiện nay chính là món quà hậu hĩnh mà Phật Tổ tặng cho ngài. Xin Đại vương đừng bỏ lỡ cô hội ngàn năm có một này!

Tôi giật mình sửng sốt, người phụ này quả không đơn giản, cô ấy suy nghĩ rất thấu đáo và sáng suốt, phản ứng nhanh nhạy, phân tích sắc bén, chả trách Hốt Tất Liệt cầm quân đánh trận cũng đưa cô ấy đi theo. Hốt Tất Liệt như vừa tỉnh cơn mơ, hạ thấp giọng, gật gù:

- Vương phi nói chí phải.

Khabi nháy mắt với Hốt Tất Liệt rồi làm bộ cười nói đon đả, cất cao giọng để những người có mặt đều có thể nghe rõ:

- Đại vương, tuy bên cạnh ngài vẫn có các đại sư phái Shangpa Kagyu nhưng luận về học vấn và công đức, pháp sư Bát Tư Ba tuổi trẻ tài cao của chúng ta đây thì hơn hẳn. Ngài nên giữ pháp sư ở lại với chúng ta. Những chuyện quân cơ quân vụ đó để sau hãy tính, có được không?

Quay sang Bát Tư Ba, Khabi cất giọng hết sức tự nhiên, cởi mở:

- Thần thiếp đang nóng lòng muốn được pháp sư truyền giảng về nghi lễ quán đỉnh Hevajra vô cùng đặc sắc của phái Sakya. Hai năm trước, lúc còn ở Lục Bàn Sơn, thiếp đã có ý này rồi, tiếc thay đại sư Ban Trí Đạt bệnh nặng qua đời, pháp sư phải lập tức trở về Lương Châu nên nguyện vọng của thiếp đành tạm gác lại cho đến hôm nay. Liệu pháp sư có thể giúp thần thiếp được thỏa nguyện hay không?

Bát Tư Ba hiểu rằng Vương phi làm vậy là để xoa dịu bầu không khi căng thẳng khi nãy. Cậu ấy là người thông minh, nhạy bén, biết thời biết thế, ứng xử khéo léo nên lập tức chắp tay thưa rằng:

- Vương phi có lòng thành tâm hướng Phật như vậy, bần tăng đâu thể khước từ.

Khabi cười tươi như hoa, mỗi lời nói thốt ra như nhả ngọc phun châu, mưa xuân phơi phới, đám nam nhi trong lán ai nấy đều gật gù tán đồng. Bằng tài ăn nói khéo léo của mình, Khabi đã giúp cho buổi tiệc trở lại bầu không khí hân hoan lúc đầu.

Tối hôm đó, Bát Tư Ba lưu lại trong doanh trại của Hốt Tất Liệt. Chờ khi chỉ còn một mình cậu ấy trong lán, tôi hóa phép trở lại nguyên hình. Mỗi lần sử dụng phép thuật như vậy, tôi đều rất mệt mỏi, chỉ một lát là chìm vào giấc ngủ mê mệt. Tinh mơ hôm sau, tôi tỉnh lại và hoảng hốt khi bắt gặp hai quầng mắt thâm đen của cậu ấy.

Nhưng Bát Tư Ba chẳng hề bận tâm, cậu ấy bước ra khỏi lán trại, vốc tuyết lên rửa mặt, xong xuôi, cậu ấy phủi sạch tàn tuyết trên tay, hít một hơi thật sâu rồi quay đầu lại nhìn tôi:

- Lam Kha, chúng ta không về Sakya nữa. Nếu như cơ duyên đã cho ta gặp lại Đại vương Hốt Tất Liệt, vậy đây chính là chỉ ý của Phật Tổ. Chúng ta hãy cùng ngài hành hương về Ngũ Đài Sơn.

- Vậy… – Tôi chưa hiểu hết chuyện này. – Vậy còn lễ thọ giới Cụ túc của cậu?

- Ta đành tìm một ngôi chùa nào đó và mời người khác chủ trì buổi lễ vậy. Tình thế cấp bách, ta buộc phải đưa ra quyết định.

Hơi thở của cậu ấy phả vào không gian những sợi trắng bồng bềnh, Bát Tư Ba ngước nhìn dãy núi tuyết trắng xóa uốn lượn trùng điệp, vẻ ưu tư hiển hiện giữa hai hàng lông mày thanh tú:

- Thời điểm này mà trở về Sakya cũng không thể giải quyết được vấn đề gì. Ta phải ở lại bên cạnh Đại vương Hốt Tất Liệt, chờ đợi thời cơ để thay đổi cục diện bất lợi hiện nay của phái Sakya. 

r

- Buồn ngủ chưa? – Tôi mỉm cười hỏi chàng trai trẻ. – Khuya rồi đó.

Ánh mắt nhìn tôi thoáng mơ màng nhưng cậu ta tỉnh lại rất nhanh, lắc đầu quầy quậy:

- Không sao, không sao, trò chuyện cả đêm cũng không hề gì. Cô bảo rằng, khi nào trời sáng, tôi phải rời khỏi đây và sẽ không bao giờ gặp lại cô nữa nên tôi phải tận dụng thời gian lắng nghe câu chuyện của cô.

Tôi lắc đầu cười, lôi trong tủ ra chiếc chăn lông cừu dày bịch, đưa cho chàng trai đắp lên người, tiếp tục câu chuyện:

- Mông Kha Hãn chia đất Tạng cho các anh em làm đất phong, các giáo phái ở Tây Tạng buộc phải suy xét đến sự tồn vong và phát triển của giáo phái mình bằng cách bợ đỡ, dựa dẫm vào hoàng thất Mông Cổ. Kể từ thời điểm này cho đến đời nhà Thanh, nếu một giáo phái muốn chiếm ưu thế tuyệt đối so với các thế lực khác, muốn nắm giữ quyền cai trị Tây Tạng trong tay, đều phải giành sự ủng hộ của triều đình trung ương. Đổi lại, triều đình trung ương cũng cần phò trợ các giáo phái này vì họ chính là người đại diện cho triều đình tại địa phương để đảm bảo an ninh vùng biên cương.

Chàng trai trẻ nhấp một ngụm trà bơ cho dịu giọng, kéo cao tấm chăn, quấn kín người:

- Đúng vậy. Ví như phái Gelug, giáo phái này vốn không phải một giáo phái lớn, nhưng sau khi vị Đạt Lai Lạt Ma thứ năm của họ đến Bắc Kinh diện kiến Hoàng đế Thuận Trị, giáo phái này đã chiếm được ưu thế tuyệt đối và có quyền thống trị đất Tạng.

- Năm 1253, Bát Tư Ba mười chín tuổi, cậu tình cờ gặp lại Hốt Tất Liệt ở Vân Nam. Khi ấy, cảm quan chính trị nhạy bén đã thôi thúc Bát Tư Ba đưa ra quyết định quan trọng là đi theo Hốt Tất Liệt.

Tôi ngước nhìn màn đêm đen như mực ngoài cửa sổ, đêm khuya thanh vắng, chỉ có tiếng chuông gió lanh canh vẫn rộn ràng ngoài hiên.

- Phái Sakya đang lâm vào tình cảnh khốn đốn, họ buộc phải tìm kiếm một cây đại thụ khác. Đúng lúc ấy, một người đầy dã tâm và có thực lực là Hốt Tất Liệt xuất hiện. Kể từ đó, Bát Tư Ba đã đi theo ngài, cho đến khi qua đời.

Hoa sen xanh 12.1

Chương 12

Lễ bái sư

“Muốn lưu tiếng thơm cho mình,

Trước hết hãy làm việc thiện;

Muốn sửa dung nhan, hình vóc

Trước hết phải lau gương soi.”

(Cách ngôn Sakya)

Những tháng cuối năm 1253, thời tiết giá buốt bất thường, đến nỗi hơi thở cũng bị đóng băng. Bát Tư Ba lưu lại trong doanh trại của Hốt Tất Liệt, giữa vùng núi non hiểm trở, heo hút ở Vân Nam, chờ mệnh lệnh tiếp theo của Mông Kha Hãn. Những lúc rảnh rỗi, Hốt Tất Liệt thường cho vời Bát Tư Ba đến để đàm đạo về Phật pháp. Nhà sư tuổi trẻ tài cao, kiến thức uyên thâm, tư duy sắc sảo lại khiêm tốn, nho nhã, lịch duyệt ngày càng được Hốt Tất Liệt yêu mến, nể trọng. Vương phi Khabi nhân dịp này lại đề nghị Bát Tư Ba truyền giảng nghi lễ quán đỉnh Hevajra độc đáo của phái Sakya.

Hốt Tất Liệt không những không phản đối mà còn rất đỗi háo hức muốn tiếp nhận nghi lễ này. Ngài lệnh cho thuộc hạ bày trí lại lán trại thật trang hoàng để chuẩn bị cho nghi lễ quán đỉnh. Các dòng cờ phướn được chăng khắp nơi. Người ta dựng một đài cao giữa lán trại, xung quanh xếp những cành thông và những bó hoa. Giữa mùa đông giá lạnh không kiếm được hoa tươi, Khabi cùng đám tỳ nữ đã miệt mài suốt ba ngày để tết những dải hoa lụa tuyệt đẹp, khó mà phân biệt được là hoa giả hay hoa thật. Sau khi bày biện tinh tươm, trang trí cầu kỳ và đặt thêm bếp lửa, cả lán trại trở nên rực rỡ, rạng ngời như trong ngày xuân nắng ấm.

Bát Tư Ba khoác áo cà sa trang trọng, đầu đội mũ ngũ sắc, vầng hào quang thánh khiết, chói lọi tỏa rạng từ người cậu. Cậu ấy đứng trước bục cao, phong thái đường hoàng, đĩnh đạc, lưng vươn thẳng như cây thông ngạo nghễ giữa mùa đông băng giá, nụ cười rạng rỡ tựa nắng mai ngày xuân. Cậu ấy khiêm cung vái Hốt Tất Liệt và Khabi một vái, cất giọng trầm ấm, giọng nói ấy có sức thu hút thật mãnh liệt:

- Nghi lễ quán đỉnh bắt nguồn từ Thiên Trúc. Vào ngày kế vị của tân quốc vương, thượng sư sẽ tưới lên đầu vị vua mới thứ nước biển được lấy về từ bốn phương, cầu chúc quốc vương an khang, hạnh phúc, quốc thái dân an, quốc gia phồn thịnh. Về sau, nghi lễ này được truyền vào đất Tạng, chia thành lễ quán đỉnh truyền pháp và lễ quán đỉnh kết duyên. Lễ quán đỉnh truyền pháp được tổ chức cho riêng những tín đồ đạo Phật, còn lễ quán đỉnh kết duyên được tổ chức cho những ai muốn tiếp nhận lễ quán đỉnh để từ đó phụng thờ thần Hevajra và tu tập theo phép tu của bản giáo.

Khabi gật đầu nhiệt thành, hôm nay cô ấy vận xiêm y lấp lánh ngọc ngà, châu báu, đài các, quý phái bội phần. Thị nữ thận trọng dâng lên một chiếc hộp bằng gấm, Khabi từ tốn mở nắp hộp, bên trong là một viên minh châu cực lớn, ánh sáng phát ra chói lòa, kỳ ảo.

- Pháp sư, khi ta đi lấy chồng, của hồi môn quý giá nhất mà cha mẹ tặng cho ta chính là viên dạ minh châu được vớt lên dưới lòng biển sâu ở tận Tây phương xa xôi. Viên minh châu này ban đêm phát quang rực rỡ, mang theo bên mình có thể tránh tà. Hôm nay, ta xin dâng tặng món quà này cho pháp sư để tỏ lòng tôn kính của đệ tử với sư phụ.

Hốt Tất Liệt ngồi trên tấm thảm Ba Tư quý hiếm, bật cười ha hả:

- Viên minh châu này là báu vật vô cùng quý hiếm, đáng giá hàng trăm nén vàng, hàng nghìn nén bạc, nó tượng trưng cho lòng thành hướng Phật của Vương phi, thế nên pháp sư hãy giúp nàng thỏa nguyện.

Bát Tư Ba nghiêm cẩn chắp tay lại, khiêm cung cúi đầu nhận lấy hộp lễ vật:

- Tạ ơn Vương phi… Xin mời Vương phi theo bần tăng lên quán đỉnh đàn dâng hoa, kết Phật duyên.

Bát Tư Ba chỉ dẫn Khabi bước đến quán đỉnh đàn dựng giữa lán trại, hướng dẫn Vương phi dâng hoa lụa và quả ngọt lên tượng Bồ Tát Văn Thù được đặt ở giữa quán đỉnh đàn. Sau đó, cậu ấy nhấc chiếc bình pha lê trong suốt ở phía trước tượng Phật lên, dõng dạc tuyên bố:

- Nước được dùng trong lễ quán đỉnh hôm nay vốn là tuyết trắng tinh khiết trên đỉnh núi tuyết, nơi không có dấu chân người. Tuyết trắng tan ra thành nước được đặt trước tượng Bồ Tát Văn Thù đã trải qua bảy bảy bốn mươi chín lần cúng tế. Tuy không phải là thứ nước được lấy về từ biển lớn bốn phương nhưng là thứ nước tinh khiết tuyệt đối, tan chảy từ băng tuyết vĩnh cửu. Dòng nước thánh khiết này sẽ mang lại phúc lộc dồi dào cho người chịu lễ.

Tôi niệm thần chú, trốn ở một góc khuất để quan sát, nghe đến đây, không khỏi vênh vang tự đắc. Tôi đã phải trèo lên ngọn núi cao nhất để lấy thứ tuyết tinh khiết về, không dễ dàng chút nào!

Khabi quỳ trước tượng Bồ Tát Văn Thù, chắp tay vái lạy thành khẩn. Bát Tư Ba vừa tụng kinh vừa tưới những giọt nước trong chiếc bình pha lê lên đầu Khabi, chỉ là tượng trưng vài giọt, rồi thôi. Sau đó, cậu ấy đặt vào tay Khabi một khay gỗ, bên trong đựng ấn vàng khắc bốn chữ “Bồ Tát Văn Thù” và một cuốn kinh bằng tiếng Mông Cổ do chính Bát Tư Ba biên soạn:

- Vương phi, bần tăng đã truyền kim ấn và chân ngôn mật chú

[1]

cho người, kể từ bây giờ, người có thể phụng thờ thần Hevajra và tu tập giáo lý của bản giáo. Ngày mai, bần tăng sẽ truyền giảng đạo quả pháp của phái Sakya cho người.

Khabi đón lấy khay gỗ, mặt mày rạng rỡ. Hốt Tất Liệt đứng bên quan sát, lấy làm thích thú, bèn ngồi xuống, đề nghị Bát Tư Ba làm lễ quán đỉnh cho cả mình nữa. Sau khi lặp lại tuần tự các bước của nghi lễ quán đỉnh cho Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba tuyên bố nghi lễ kết thúc. Cậu ấy tuyên đọc một số giới luật mà đệ tử tu hành tại gia cần tuân theo, rồi gương mặt cậu ấy bỗng nghiêm trang lạ lùng, cậu ấy chậm rãi nói:

- Tuy Đại vương và Vương phi có thân phận cao quý nhưng trước Phật Tổ, mọi chúng sinh đều bình đẳng như nhau, bởi vậy còn một quy định nữa, mong Đại vương và Vương phi tuân thủ.

Hốt Tất Liệt và Khabi tỏ ra rất đỗi ngạc nhiên, Bát Tư Ba dõng dạc nói tiếp:

- Sau khi tiếp nhận nghi lễ quán đỉnh, người chịu lễ phải tuân thủ lời thề trước Phật Tổ, lễ tạ bậc thượng sư của mình.

Khabi gật đầu:

- Đã tiếp nhận quán đỉnh, đệ tử tất phải tuân thủ pháp độ của giáo phái. Có điều, không biết nghi thức bái tạ thượng sư phải thực hiện ra sao?

Bát Tư Ba lặng lẽ liếc sang Hốt Tất Liệt, vẻ mặt bình thản, cất giọng trầm ấm:

- Thượng sư tọa trên đài cao, đệ tử vái lạy và lắng nghe thượng sư răn dạy, không được trái ý thượng sư.

Quả nhiên mặt Hốt Tất Liệt biến sắc:

- Sao có thể thế được! Ta đường đường là một vương gia, thống lĩnh đại quân phía nam, xưa nay chỉ bái lạy tổ tông và vị huynh trưởng hiện là Đại hãn, quyết không bái lạy người ngoài.

[1]

Chân ngôn mật chú là lời nói huyền nhiệm chứa đựng năng lực đưa đến một kết quả siêu nhiên nào đó. Vốn xuất phát từ đạo Bà-la-môn Ấn Độ, chân ngôn mật chú có thể là một âm tiết, một chữ, hoặc một câu kệ. Trong Phật giáo, người tu hành cho rằng, chân ngôn chứa đựng sức mạnh đặc biệt của vũ trụ hoặc biểu hiện một khía cạnh nào đó của Phật tính. Trong nhiều trường phái, chân ngôn mật chú được lặp lại trong các buổi tu tập, đặc biệt trong Kim cương thừa ở Tây Tạng, chân ngôn mật chú trở thành phương tiện trợ giúp tâm thức hành giả. Hành giả luôn luôn vừa đọc chân ngôn vừa quán tưởng một đối tượng và tay giữ kim ấn theo chỉ dẫn. Câu chân ngôn quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng là: Úm ma ni bát ni hồng. (DG)

Hoa sen xanh 12.2

Khi ấy Hốt Tất Liệt ba mươi tám tuổi, là một vương gia quyền cao chức trọng, một lời nói ra, vạn người phải tuân theo, vốn dĩ chỉ có kẻ khác phải vái lạy ngài, giờ đây buộc ngài phải vái lạy và nhận một người tuổi đời chỉ bằng nửa tuổi ngài làm sư phụ, e rằng ngài khó lòng chấp thuận.

Lúc này, Bát Tư Ba mới chắp tay, khẽ cúi người mà rằng:

- Từ xưa đến nay, các đệ tử đều hành lễ với sư phụ như vậy. Đại vương là người có thân phận tôn quý, không bằng lòng vái lạy cũng không sao, nhưng thượng sư nhất định phải được tọa trên ngai cao. Nếu như chút chuyện nhỏ này Đại vương cũng kiên quyết không chấp thuận, vậy xin chớ tôn bần tăng làm thượng sư của ngài và cũng không cần phải tiếp nhận chân ngôn mật chú của phái Sakya làm gì.

Hốt Tất Liệt chừng như tức nghẹn cổ, vì đây không phải lần đầu tiên Bát Tư Ba chống lại ý nguyện của ngài. Thái độ kiên quyết tuân thủ nguyên tắc của Bát Tư Ba khiến người ta vừa bực bội vừa buồn cười. Nhận thấy bầu không khí sắp có chiều hướng xấu đi, Khabi vội vàng bước đến, yêu kiều vái lạy Hốt Tất Liệt, thưa rằng:

- Bẩm Đại vương, thần thiếp có ý thế này.

Nàng đưa mắt quan sát thần sắc của hai người, dịu dàng cất tiếng:

- Lúc nghe giảng pháp và ở những nơi vắng người, thượng sư có thể tọa trên ngai cao. Khi các bậc vương tử, phò mã, quan viên và thần dân tụ họp, Đại vương cần thiết phải thể hiện sự tôn nghiêm, ngài sẽ ngự trên ngai cao. Pháp sư và Đại vương thấy sao?

Hốt Tất Liệt thở phào nhẹ nhõm, giọng nói cũng khoan hòa hơn nhiều:

- Vương phi nói phải lắm, cứ làm theo ý nàng!

Hốt Tất Liệt đã nhượng bộ như vậy, Bát Tư Ba cũng không có lý do gì từ chối. Cậu ấy suy nghĩ một lát, lại bước lên phía trước, tâu rằng:

- Bẩm Đại vương, bần tăng vẫn còn một thỉnh cầu.

Khabi sợ cậu ấy lại nêu ra “yêu sách” gì đó khiến Hốt Tất Liệt bực dọc, vội vàng nháy mắt ra hiệu, nhưng Bát Tư Ba vẫn vờ như không nhìn thấy, cúi gập người, cung kính thưa rằng:

- Những việc liên quan đến Tufan, cúi xin Đại vương thuận theo ý của bần tăng.

Hốt Tất Liệt nhìn chăm chăm vào Bát Tư Ba rất lâu, sau đó khẽ thở dài:

- Những ngày qua cùng thượng sư đàm đạo, ta rất mực nể phục phẩm cách thanh cao và kiến thức sâu rộng của thượng sư. Nay thượng sư đã mở lời thỉnh cầu, vậy ta quyết định thế này, phàm những việc liên quan đến Tufan, ta sẽ nghe theo sự chỉ dạy của thượng sư, nếu thượng sư không đồng ý, ta quyết không ban chiếu chỉ. Còn những việc lớn nhỏ khác, xin thượng sư chớ vì thiện tâm mà cầu xin cho kẻ khác, làm khó cho ta, vì như vậy sẽ khiến ta khó lòng thu phục kẻ dưới.

Bát Tư Ba khẽ giật mình, cậu hiểu một người tôn quý như Hốt Tất Liệt lại hứa hẹn với mình như vậy quả không dễ dàng gì. Bởi vậy, Bát Tư Ba ngước đôi mắt sáng rạng rỡ lên, gật đầu bày tỏ sự đồng ý tuyệt đối.

Khi các vấn đề “gai góc” đều đã được giải quyết ổn thỏa, tâm trạng của Hốt Tất Liệt trở nên hân hoan hơn nhiều, ngài khoát tay ra lệnh cho đám tùy tùng dâng rất nhiều lễ vật quý báu: ngọc ấn mỡ cừu, áo cà sa đính trân châu, ngoài ra, còn có những bộ y phục của tăng sĩ được cắt may rất kỳ công, những tấm đệm dát vàng, v.v… chất đầy cả lán trại.

Hốt Tất Liệt đắc ý nhìn núi lễ vật chất ngất, cười sảng khoái:

- Thượng sư, ta định ban bố một sắc lệnh, chỉ cho phép vùng Wusi được tu tập giáo pháp của giáo phái Sakya, ngài thấy sao?

- Đại vương, tuyệt đối không thể được! – Bát Tư Ba biến sắc mặt, vội bước lên phía trước can gián. – Đất Tạng có rất nhiều giáo phái, các giáo phái lớn đều đã trải qua hàng trăm năm lịch sử với số lượng tín đồ đông đảo, thực lực tương đương nhau. Nếu Đại vương ép buộc họ tin theo giáo phái Sakya, chỉ e sẽ phản tác dụng, khiến cho đất Tạng rối loạn. Sau khi vương triều Tufan sụp đổ, vùng Wusi đã ly loạn suốt mấy trăm năm, không thể để tình trạng này ngày càng trầm trọng. Các giáo phái lớn tuy có nhiều điểm khác biệt nhưng đều phụng thờ Phật Tổ, mỗi giáo phái đều có nét đặc sắc, độc đáo của riêng mình. Sakya đã học hỏi được rất nhiều điều bổ ích từ các giáo phái đó.

Hốt Tất Liệt chừng như rất cảm động, lòng tôn kính đối với Bát Tư Ba lại được dịp tăng thêm:

- Thượng sư không vì lợi ích của giáo phái mình mà suy tính cho đại cục, quả là người có tấm lòng quảng đại.

Sau khi bái Bát Tư Ba làm thượng thư, Hốt Tất Liệt lập tức trao cho Bát Tư Ba một chiếu thư với thân phận vương gia. Chiếu thư mô tả quá trình Hốt Tất Liệt và Khabi quy y cửa Phật và tiếp nhận nghi lễ quán đỉnh. Vương gia Mông Cổ ban chiếu thư vốn là sự kiện hết sức bình thường vào thời điểm đó, hơn nữa Hốt Tất Liệt còn tuyên bố trong chiếu thư rằng, chiếu thư được ban bố là nhờ phúc đức của Thành Cát Tư Hãn và Mông Kha Hãn. Điều đáng nói là, đối với giáo phái Sakya đang trong tình thế khốn đốn, chiếu thư này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì nó tuyên bố với mọi tăng nhân ở đất Tạng rằng, Hốt Tất Liệt và Bát Tư Ba đã kết thành quan hệ thượng sư và đệ tử, và giáo phái Sakya chính thức nằm dưới sự bảo hộ của Hốt Tất Liệt.

Đây là chiếu thư chính thức đầu tiên mà Hốt Tất Liệt ban tặng cho Bát Tư Ba nên cậu ấy xem nó như một món quà quý giá, luôn mang theo bên mình. Về sau, khi cậu ấy trùng tu đền Sakya, bức chiếu thư này đã được cất giữ trong đại điện của ngôi đền, đến tận ngày nay.

Ngày thứ ba sau khi Bát Tư Ba được thụ phong làm thượng sư cũng là ngày người Hán đón năm mới. Tuy là người Mông Cổ nhưng Hốt Tất Liệt đón nhận văn hóa truyền thống của người Hán hết sức cởi mở. Từ khi tiếp nhận trọng trách thống lĩnh quân đội miền Nam, ngài đã chiêu nạp hàng loạt nho sĩ người Hán, thực thi luật pháp của người Hán tại các khu vực mình cai quản. Các quý tộc Mông Cổ khác thường chê trách ngài về điều này nhưng Hốt Tất Liệt bỏ ngoài tai hết thảy.

Vào ngày cuối cùng của năm cũ, Hốt Tất Liệt ban phát rượu thịt cho toàn quân, Khabi cùng với những người hầu gái nô nức dán câu đối và chữ “phúc” khắp các lán trại theo phong tục của người Hán. Đêm Giao thừa, tuyết rơi ào ạt nhưng tiếng cười nói vẫn rộn ràng khắp doanh trại. Vì là đoàn quân viễn chinh nên mọi thứ đều khá đơn sơ, mộc mạc, nhưng không khí ngày Tết không vì thế mà kém phần náo nhiệt. Sau khi yến tiệc kết thúc, Bát Tư Ba trở về lán trại của mình, lập tức ngồi vào bàn viết. Tôi sáp lại, dò hỏi:

- Cậu viết gì thế?

Cậu ấy tặng cho tôi nụ cười rạng rỡ tựa gió xuân, cọ cọ cán bút vào chiếc mũi nhọn hoắt của tôi:

- Viết lời chúc mừng năm mới Đại vương.

Viết xong, cậu ấy nhẩm đọc một lượt, rồi mới thận trọng gập lại, bỏ vào túi gấm, quay lại nhìn tôi, mắt sáng long lanh như sao mai, vành môi uốn cong quyến rũ:

- Lam Kha, zhaxidele, chúc mừng năm mới!

Lòng tôi phơi phới, tôi ngước nhìn nụ cười ấm áp của cậu ấy, khẽ nói:

- Chúc mừng năm mới!

Hoa sen xanh 12.3

Không hiểu sao tôi chẳng thể hân hoan nổi. Mỗi khi nghĩ đến việc sang năm mới cậu ấy sẽ hai mươi tuổi, nghĩ đến số phận không thể khác đi được của cậu ấy, nghĩ đến những thanh quy giới luật mà cậu ấy phải tuân thủ suốt kiếp là lòng tôi lại phiền muộn, không yên.

Trong cung điện nhỏ bé của Hốt Tất Liệt từ lâu đã hình thành thông lệ: vào ngày đầu năm mới theo lịch của người Hán, Hốt Tất Liệt sẽ tiếp nhận lời chúc mừng của triều thần. Bát Tư Ba là người Tạng, vốn chỉ ăn Tết của người Tạng, nhưng sau khi náu thân nơi phủ đệ của Hốt Tất Liệt, cũng nhập gia tùy tục.

Tết năm 1254, Bát Tư Ba dâng lên Hốt Tất Liệt một áng thơ dài, cung chúc đại gia đình Hốt Tất Liệt an khang, hạnh phúc, trường thọ.

Về sau, viết lời chúc Tết trở thành thông lệ, hằng năm, vào ngày đầu tiên của năm mới, dù đang ở nơi nào, Bát Tư Ba cũng đều gửi thư chúc Tết cho Hốt Tất Liệt và việc này đã được duy trì cho đến năm cuối cùng trước khi Bát Tư Ba viên tịch.

Tết của người Hán qua không lâu, sau nhiều tháng trời đóng quân chờ đợi giữa vùng núi non Vân Nam hiểm trở, cuối cùng Hốt Tất Liệt cũng nhận được mệnh lệnh của Mông Kha Hãn: rút quân. Lý do rất nực cười: Hốt Tất Liệt đánh trận nhiều năm, vết thương ở chân chưa lành, bởi vậy Mông Kha Hãn lệnh cho Hốt Tất Liệt dẫn quân lên phía bắc, đến Cam Túc nghỉ ngơi, dưỡng thương. Sau khi mệnh lệnh được chuyển đến doanh trại, Hốt Tất Liệt đã ở lại trong lán một mình rất lâu, ngày hôm sau, ngài ra lệnh nhổ trại, rút quân.

Sau này tôi mới biết, đã có rất nhiều quý tộc Mông Cổ dựng chuyện kể tội Hốt Tất Liệt trước mặt Mông Kha Hãn. Họ nói với Đại hãn rằng, Vương gia đã chiêu nạp rất nhiều mưu sĩ người Hán, ngài đi khắp nơi học hỏi phương cách trị quốc, ngài dùng lịch của người Hán, học tiếng Hán, áp dụng luật pháp của người Hán, ngài tăng gia sản xuất, tích trữ lương thực, hẳn là ngài đã nuôi dã tâm sau khi chiếm đất Hán sẽ lên ngôi vua từ lâu. Mông Kha Hãn vốn rất kiêng nể và đề phòng người em trai tài ba, nắm giữ binh quyền trong tay này nên khi nghe những lời sàm tấu kia, lại càng không muốn Hốt Tất Liệt tiếp tục lập công trạng nữa, hạ lệnh cho Vương gia rút quân về Nội Mông Cổ. Mông Kha Hãn thậm chí đã sắp xếp ổn thỏa đất phong của Hốt Tất Liệt ở Nội Mông Cổ.

Giã từ những ngọn núi tuyết trắng bao phủ, đoàn quân lập tức lên đường hướng về phía bắc. Khi tới Nội Mông Cổ thì đã là mùa xuân ấm áp, cây cỏ tốt tươi, chim chóc bay lượn, vạn vật hồi sinh. Sau khi đại quân đến đất phong, Hốt Tất Liệt lúc ấy mới hay mình đã được ban cho thứ gì. Đó là mảnh đất xa xôi gồm hai thành trì là Hoàn Châu và Phủ Châu. Nhà cửa lụp xụp, tường thành đổ nát, chẳng có nổi một cung điện tươm tất cho Hốt Tất Liệt náu thân. Thuộc hạ của Hốt Tất Liệt, ai nấy đều bất bình, cho rằng Mông Kha Hãn làm vậy thật quá đáng, nhưng Hốt Tất Liệt không hề tỏ ra bất mãn, ngài là người con của thảo nguyên mênh mông, ngài thích được ngắm nhìn những thảm cỏ hoa rực rỡ màu sắc hơn là chui rúc trong những ngôi nhà thấp lè tè ở thành Phủ Châu, vì vậy ngài đã quyết định dựng trại giữa thảo nguyên bao la.

r

- Hốt Tất Liệt đã bái Bát Tư Ba làm thượng sư, giữ nghi lễ sư phụ và đệ tử. Sau khi ngài xưng đế, phương thức mà Vương phi Khabi nêu ra về sự xuất hiện và vai vế của hai người luân phiên trong các bối cảnh khác nhau vẫn tiếp tục được duy trì. Về sau, triều Nguyên tôn Lạt Ma giáo làm quốc giáo, thiết lập chế độ đế sư. Quy định mà Hốt Tất Liệt đặt ra đã được các triều đại nhà Nguyên tuân thủ nghiêm ngặt.

- Tôi thật lòng khâm phục Bát Tư Ba! Sau vài lần khiến Hốt Tất Liệt phải tức giận, có thể nhận thấy tính cách cương trực, thái độ cương quyết và tính nguyên tắc vững vàng ở cậu ấy rất rõ. Tôi đoán rằng, Hốt Tất Liệt cũng nhận thấy hiếm có người nào dám cự lại ông ta như thế.

Chàng trai trẻ hơ tay bên lò sưởi, quay đầu mỉm cười với tôi:

- Vậy thì bằng cách nào cậu ấy có thể chiếm được lòng tin của Hốt Tất Liệt và được ông ta yêu mến như thế?

- Dựa vào nhân cách của chính cậu ấy. – Tôi thấy khóe mắt mình ươn ướt, dường như bóng dáng khiêm nhường, nho nhã, cụ cười rạng rỡ, ấm áp tựa đóa tuyết liên thánh khiết trên miền đất tuyết của người đó lại thấp thoáng đâu đây. – Cậu ấy thông minh, mẫn tiệp, cần cù, hiếu học, kiến thức uyên thâm, lại rất mực khiêm tốn, hòa nhã, không quá câu nệ các nghi lễ giáo điều của nhà Phật. Tuy là bậc thượng thư của Hốt Tất Liệt nhưng cậu ấy không khi nào tỏ ra kiêu ngạo, luôn giữ thái độ điềm đạm, khoan hòa, nho nhã trước mặt nhà vua. Mỗi khi Hốt Tất Liệt phạm phải sai lầm, Bát Tư Ba sẽ tìm cách can gián thật khéo léo, không khiến ngài mất thể diện.

- Bởi vậy, tôi cũng hết sức thán phục Hốt Tất Liệt. Vì ông ta chịu lắng nghe những lời can gián của bậc trung thần nên ông ta trở thành bậc đế vương cũng là lẽ đương nhiên. Đâu là lời a dua nịnh hót, những kẻ bề tôi kia hay dở ra sao, hẳn trong lòng ông ta đều hiểu rõ.

Tôi khẽ gật đầu:

- Mối quan hệ giữa Bát Tư Ba và Hốt Tất Liệt ngày càng khăng khít. Đối với một bậc đế vương, mối quan hệ bằng hữu thân tình không có bất cứ sự xung đột nào về lợi ích này là điều rất đáng quý. Bát Tư Ba rất được lòng Hốt Tất Liệt nên cậu được ban thưởng rất nhiều của cải. Ngoài nhu cầu tối thiểu hằng ngày của bản thân và tùy tùng, Bát Tư Ba không bao giờ lãng phí quân lương. Những lễ vật mà Hốt Tất Liệt ban tặng, Bát Tư Ba đều cất giữ cẩn trọng, sau này, số của cải đó đã được cậu dùng vào việc trùng tu ngôi đền Sakya.

Chàng trai trẻ nghiêng đầu nhìn tôi, mỉm cười:

- Vậy còn những việc liên quan đến Tufan thì sao, Hốt Tất Liệt có giữ đúng lời hứa, trước khi đưa ra quyết định phải xin ý kiến của thượng sư không?

- Lúc này Hốt Tất Liệt vẫn chỉ là một vương gia có thế lực, Đại hãn Mông Cổ là Mông Kha, Hốt Tất Liệt không có quyền phán quyết những việc liên quan đến Tây Tạng. Nhưng Hốt Tất Liệt hứa hẹn như vậy cũng cho thấy rằng ông ấy không hề bằng lòng với việc phân chia đất phong ở Tây Tạng cho các anh em của Mông Kha Hãn. Và dã tâm của ông ấy còn lớn hơn thế rất nhiều. Sau này, khi Hốt Tất Liệt trở thành hoàng đế, ông ấy mới có cơ hội thực hiện lời hứa với Bát Tư Ba.

Hoa sen xanh 13.1

Chương 13

Bí mật của Vương phi

“Làm việc thiện không cầu trả ơn,

Bị đặt điều không màng trả đũa;

Luôn khắc cốt ghi tâm lòng tốt của người khác,

Đó là phẩm cách của con người cao thượng.”

(Cách ngôn Sakya)

Tuy sinh ra nơi thảo nguyên mênh mông nhưng sau nhiều năm tháng chung sống với người Hán, Hốt Tất Liệt đã dần chịu ảnh hưởng bởi văn hóa và truyền thống xây dựng thành trì, cung điện của người Hán. Bởi vậy, trong thời gian cư trú tạm thời trên thảo nguyên Phủ Châu, Hốt Tất Liệt đã thăm thú khắp chốn, tìm kiếm vị trí phù hợp để xây dựng cung điện. Mùa xuân năm đó, Hốt Tất Liệt đã tìm thấy và rất ưng ý một nơi có tên gọi là Long Cương, nằm ở phía đông Hoàn Châu, phía bắc Loan Thủy. Khu vực này đất đai rộng rãi, phòng thủ dễ, tấn công khó, Hốt Tất Liệt đã hạ lệnh xây dựng thành trì ở đây.

Bị tước mất quyền thống lĩnh quân đội, đang chán ngán những tháng ngày an nhàn, tẻ nhạt trên thảo nguyên, giờ đây, Hốt Tất Liệt đã tìm ra cách thức để vận động và giải khuây. Ngài chìm đắm trong kế hoạch xây dựng thành quách, cung điện suốt cả ngày, lúc nào cũng dẫn theo Bát Tư Ba bên mình nên cậu ấy cũng bận rộn liên miên. Tôi được tự do vui chơi, thời gian thoải mái, ngoài những lúc tu luyện, tôi thường lẻn vào trong núi bắt vài con thú hoang để thay đổi khẩu vị.

Một ngày kia, sau khi đã xơi tái một chú thỏ non, sợ bị Bát Tư Ba quở trách vì tội lẻn đi ăn vụng, tôi quyết định “xóa dấu vết” trước khi trở về. Tôi đứng bên ngoài lán trại của Bát Tư Ba, chùi sạch mép, định đi vào thì bỗng nghe thấy tiếng trò chuyện từ bên trong vẳng ra. Thính giác nhạy bén cho tôi biết đó là giọng nói ngọt như mật, êm như nhung và trong như nước suối:

- Thượng sư, thiếp chưa hiểu hết đoạn kinh văn này, ngài hãy giảng lại một lần nữa cho thiếp nghe, được không?

- Xin Vương phi hãy tự trọng!

Đó là giọng nói của Bát Tư Ba. Cậu ấy xưa nay vẫn luôn hiền hòa, nhã nhặn và rất ít khi nổi nóng.

- Bần tăng là người nhà Phật, xin Vương phi chớ làm vậy!

Tôi thót tim, vội lao vào lán. Mỹ nhân với làn da trắng nõn nà, mềm mại, đôi mắt hớp hồn đang phô bày những đường cong quyến rũ của cơ thể trên chiếu khách. Đó chính là Vương phi Khabi – vợ yêu của Vương gia Hốt Tất Liệt. Sao hôm nay cô ta lại ăn mặc diêm dúa, điệu bộ lả lơi như vậy? Tôi nổi giận, xù lông, nhe nanh, gầm gừ đe dọa cô ta.

Khabi lướt đôi mắt lúng liếng về phía tôi, lườm khẽ một cái rồi yểu điệu đứng lên:

- “Trong bụng là rượu thịt, trong tâm là Phật Tổ.” Tình cảm nam nữ vốn là thiên tính của con người, chắc rằng pháp sư đã có người con gái xinh đẹp nhất thế gian ở bên cạnh nên người phụ nữ đã nếm đủ mùi tục lụy như thiếp mới chẳng thể lọt vào mắt xanh của ngài.

Lúc này, Bát Tư Ba đã đứng cách xa ba trượng, xoay lưng về phía Khabi, nghe thấy vậy, cậu chau mày, quay đầu lại, nghiêm giọng:

- Vương phi thật biết nói đùa, bần tăng một lòng thờ Phật, những người theo hầu đều là đàn ông, làm gì có người con gái nào như lời Vương phi nói?

- Pháp sư, người khác không nhận ra không có nghĩa ta không nhận ra. – Khabi ranh mãnh nháy mắt với tôi, đủng đỉnh vén gọn những sợi tóc mai lòa xòa ra sau vành tai, nở nụ cười đong đưa. – Tiểu hồ ly bên cạnh ngài là loài thú linh hiếm có trong trời đất, nếu tu luyện thành người, ắt sẽ là tuyệt sắc giai nhân.

Vốn định xông lên cắn cho cô ta một cái nhưng lời nói của Khabi như tiếng sấm dội bên tai, tôi trợn tròn hai mắt, đầu óc choáng váng, quên sạch mọi thứ đang diễn ra. Tôi… tôi… tôi có thể hóa thành người ư? Và còn là một giai nhân tuyệt sắc ư?

Bát Tư Ba quá đỗi kinh ngạc:

- Vương phi…

Lạ lùng thay, chỉ trong khoảnh khắc, vẻ đong đưa, lơi lả của Khabi đã hoàn toàn biến mất, cô ấy thong thả cúi đầu vái Bát Tư Ba một vái, ngắt lời cậu:

- Xin thượng sư chớ lo lắng, thần thiếp chỉ muốn thử xem ngài có như những gã đàn ông bình thường khác, dễ dàng bị mê hoặc bởi nữ sắc hay không mà thôi.

Khabi lúc này đã trở lại với dáng vẻ đoan trang, hiền thục, cử chỉ nho nhã, lịch duyệt thường thấy. Chỉ trong chớp mắt, thái độ của cô ấy đã xoay chuyển một trăm tám mươi độ, giờ đây, cô ấy lại là Vương phi đài các, quý phái mà chúng tôi quen biết. Cả tôi và Bát Tư Ba đều không hiểu dụng ý của cô ấy, lẳng lặng lắng nghe, không khỏi ngạc nhiên.

Khabi mỉm cười như thể chưa từng xảy ra chuyện khi nãy, cô ấy nhấc gót chuẩn bị bước ra ngoài:

- Thượng sư quả là người kiên định, vững vàng, thần thiếp sẽ trở về bẩm báo với Đại vương, chắc chắn ngài sẽ rất vui mừng.

Cả hai chúng tôi đều há hốc miệng ngạc nhiên. Lẽ nào những cử chỉ, hành động và lời nói đưa đẩy của cô ấy khi nãy chỉ là vì muốn thử lòng Bát Tư Ba? Khi bóng dáng tha thướt, yêu kiều của cô ấy khuất dạng, chúng tôi nhìn nhau rất lâu nhưng không biết phải mở lời ra sao. Đầu óc tôi lúc này chỉ quanh quẩn với câu nói của Khabi: “Tiểu hồ ly bên cạnh ngài là loài thú linh hiếm có trong trời đất, nếu tu luyện thành người, ắt sẽ là tuyệt sắc

giai nhân.”

Không biết tôi đã chìm vào suy tư bao lâu, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, tôi quay đi, lao ra khỏi lán trại.

Lán trại của Khabi nằm kế bên lán trại của Hốt Tất Liệt, được trang trí rất mực cầu kỳ nên không khó để nhận ra. Tôi thấy thị nữ bưng những khay đồ ăn nóng hổi ra vào nườm nượp, phục vụ bữa tối. Tôi hơi do dự, nằm phủ phục bên ngoài lán chờ đợi. Đang mải mê tính toán xem phải tranh thủ lúc không có người, lẻn vào trong lán như thế nào thì đột nhiên tôi thấy mình bị xách cổ, nhấc bổng lên rồi bị tung lên không trung.

Tôi hốt hoảng, chuyện gì thế này? Dù đã gắng sức quẫy đạp nhưng không ăn thua, tôi vẫn chẳng thể thoát khỏi gọng kìm. Chưa biết phải đối phó ra sao, bỗng trước mặt tôi xuất hiện một gương mặt tròn trịa, bầu bĩnh, đó là một chú nhóc bụ bẫm chừng mười tuổi, lông mày dài và đậm, trông rất kháu khỉnh. Chú bé khoác trên mình chiếc áo khoác kiểu Mông Cổ hoa văn sặc sỡ, đường chỉ tinh tế, cầu kỳ, nửa ống tay được thít lại bên hông, hai má phừng phừng, khuôn ngực phập phồng, nhịp thở gấp, có vẻ như chú nhóc vừa chơi đùa hết mình.

- Chà, một con hồ ly! Lông màu xanh này, cả mắt cũng màu xanh nữa, đẹp quá!

Tóc tết đuôi sam thả trước ngực, đính những hạt mã não cỡ bự. Chú bé cười tít mắt, để lộ hai chiếc răng thỏ rất dễ thương, lát sau, chú bé quay đầu về phía lán trại, hét lên đầy phấn khích:

- Mẹ ơi, con bắt được một con hồ ly màu xanh này!

Bàn tay với những ngón ngọc ngà nhẹ nhàng vén rèm cửa, người phụ nữ xinh đẹp trong bộ xiêm y lụa là thả bước yêu kiều tiến về phía chú nhóc. Tôi sững sờ, người đó là Khabi. Tôi vội vàng lên tiếng kêu cứu, cô ấy thấy tôi thì tỏ ra rất đỗi ngạc nhiên:

- Chân Kim, con đi cưỡi ngựa kia mà? Con bắt được con hồ ly này ở đâu vậy?

Chú nhóc tên là Chân Kim ấy lắc lư cái đầu tỏ vẻ đắc ý, dưới bóng hoàng hôn, đôi má ửng đỏ của chú nhóc hắt lên thứ ánh sáng của sự khỏe khoắn, rắn rỏi.

Hoa sen xanh 13.2

- Con tóm được nó trên trảng cỏ phía trước lán trại của mẹ. Chắc là nó ngửi thấy mùi thức ăn nên định tới đây ăn vụng.

Thằng bé đắc chí cười hỉ hả, giơ tay thụi một cái vào mũi tôi. Tôi định cắn nó nhưng nó đã nhanh nhẹn né được. Nó nhảy chân sáo, tung tăng chạy đến trước mặt Khabi, ngước lên, hớn hở nhìn mẹ:

- Mẹ ơi, con muốn nuôi nó. Con chó lông vàng của con chết năm ngoái rồi, con muốn có một con thú cưng khác. Tiểu hồ ly này rất đáng yêu, chắc chắn nó sẽ thú vị hơn con chó lông vàng kia rất nhiều.

Khabi mỉm cười duyên dáng, rút khăn tay lau mồ hôi cho con trai, cất giọng âu yếm:

- Nhưng mẹ được biết là con hồ ly này đã có chủ. Con muốn nuôi nó thì phải xin phép chủ nhân của nó trước.

Mùi mồ hôi trên người Chân Kim tỏa lan tứ phía, bàn tay đang túm cổ tôi của thằng nhóc cũng ướt đầm khiến tôi cảm thấy vô cùng khó chịu. Thằng nhóc cào cào lớp lông trên lưng tôi, cao giọng:

- Ai là chủ nhân của nó vậy ạ? Để con đi nói với người đó nhường nó lại cho con, họ muốn đổi lấy thứ gì cũng được.

- Hoàng tử Chân Kim!

Chân Kim quay đầu lại, đã thấy Bát Tư Ba mỉm cười hồn hậu đứng sau lưng. Chân Kim chớp chớp đôi mắt nhỏ xíu, rồi như chợt nhớ ra:

- Ngài chính là vị Lạt Ma mà cha mẹ ta rất mực nể trọng? Là người mà cha mẹ muốn ta gọi là thượng sư, còn muốn ta theo ngài học Phật pháp?

Bát Tư Ba khiêm nhường hành lễ:

- Trí nhớ của Hoàng tử thật đáng nể, hôm qua ngài mới đến đây, chỉ gặp ta có một lát, chẳng ngờ hôm nay ngài vẫn nhớ rõ, ta rất vui.

- Con hồ ly này là của ngài ư?

Chân Kim tươi cười, không đợi Bát Tư Ba trả lời, đôi mắt hình hai hòn bi ve đảo một vòng chừng như suy nghĩ lung lắm rồi nhấc tôi đưa ra trước mặt:

- Nếu ngài đã là thượng sư của ta, vậy sư phụ có thể tặng cho đệ tử con hồ ly này, xem như quà gặp mặt, được không?

- Bẩm Hoàng tử, thực ra ta không phải chủ nhân của nó. Tiểu hồ ly này đã sống cùng ta và em trai ta gần mười năm qua, chúng ta chưa bao giờ xem nó là thú cưng. Nó muốn trở về với rừng xanh hoặc đi theo chúng ta đều do nó tự quyết định.

Thấy tôi bị chú nhóc túm cổ nhấc bổng lên, Bát Tư Ba chừng như thương xót, bèn ra hiệu cho Chân Kim thả tôi xuống.

- Tiểu hồ ly này là thú thiêng hiếm có, nó rất thông minh, lanh lợi, tốt bụng và hiểu chuyện, ngài nên thử kết bạn với nó, không nên giam hãm và biến nó thành thú cưng.

Chân Kim “xì” một tiếng đầy mỉa mai, tỏ vẻ bất mãn:

-  Kết bạn với một con hồ ly ư?

Bát Tư Ba mỉm cười nhân hậu, “bẻ” lại:

- Vì sao không thể? Vạn vật giữa núi rừng, sông suối, từ nhành cây, ngọn cỏ, hết thảy đều có tình cảm, huống hồ tiểu hồ ly này lại là kết tinh linh khí của cả đất trời. Dám hỏi Hoàng tử, ngài yêu thích tiểu hồ ly này ở điểm gì?

- Nó rất thú vị, đáng yêu, tinh nghịch, lại rất đẹp nữa.

Thằng nhóc túm chặt phần da thịt phía sau cổ tôi, lúc lắc khiến tôi chóng hết cả mặt, tôi khẽ gầm gừ biểu thị vẻ không hài lòng. Tên tiểu quỷ không biết trời cao đất dày, ngươi tưởng bắt nạt ta mà dễ à? Chẳng qua có nhiều người ở đây nên ta không thể thi triển phép thuật thôi nhé! Thằng nhóc lắc tôi mạnh quá khiến tôi phát bực, bèn tung một cú đá trừng phạt. Cú đá nện xuống ngực nó, chẳng khác nào châu chấu đá xe. Thằng nhóc khoái chí bật cười ha hả, khoa chân múa tay chạy nhảy tung tăng:

- Vui quá! Vui quá! Thầy xem, cứ như thể nó hiểu ta vừa nói gì ấy.

Bát Tư Ba đưa tay giữ Chân Kim lại, nghiêm nét mặt, nói:

- Nếu nhốt nó vào lồng, tước bỏ tự do của nó thì dù bộ lông của nó có đẹp chừng nào rồi cũng mất màu, tính cách hoạt bát, lanh lợi của nó rồi cũng không còn, và nó cũng sẽ không nảy sinh thiện cảm với con người. Đến lúc đó, Hoàng tử sẽ chẳng còn thấy nó thú vị nữa.

Khabi nãy giờ đứng quan sát mọi chuyện, lúc này mới hắng giọng, nghiêm nét mặt, giọng nói tuy mềm mại nhưng có sự uy nghiêm của mệnh lệnh:

- Đủ rồi, Chân Kim, đừng đùa nữa, trả lại thượng sư đi con!

Dù không bằng lòng nhưng Chân Kim không dám trái ý mẹ. Xem ra Khabi đã giáo dục con cái rất nghiêm khắc, không hề nuông chiều. Chân Kim trả tôi lại cho Bát Tư Ba nhưng vẻ mặt tiếc nuối vô chừng, ngước bộ mặt phụng phịu lên hỏi:

- Thầy ơi, ta có thể đến chơi với nó thường xuyên không?

- Tất nhiên là được.

Bát Tư Ba vuốt ve đầu tôi, nghĩ một lát, lại bổ sung:

- Nhưng Hoàng tử không được ép buộc nó làm những việc mà nó không thích.

Đừng hòng nhé, việc gì tôi phải chơi cùng với tên nhóc kiêu ngạo đó chứ! Tôi nằm gọn trong lòng Bát Tư Ba, nhe nanh, diễn vẻ mặt hung tợn dọa nạt. Tên nhóc hơi sững sờ, ngay sau đó liền cười tươi rạng rỡ, đầy vẻ lưu luyến. Đúng như dự đoán của tôi, Khabi nhìn tôi chằm chằm, đôi mắt đẹp của cô ấy chứa đầy ẩn ý.

Đêm đó, tôi trằn trọc không yên. Bên cạnh tôi, Bát Tư Ba dường như cũng không ngủ được. Tôi biết thế, nhưng do dự mãi mới khẽ hỏi:

- Lâu Cát… cậu… nếu như… nếu như tôi có thể biến thành người, cậu có đuổi tôi đi không?

- Đừng nói những lời ngốc nghếch.

Cậu ấy vòng tay tạo thành một nơi nương náu an toàn cho tôi, như mọi đêm khi tôi nằm bên cậu ấy. Bóng đêm trùm lên đôi mắt sâu hun hút của cậu ấy. Bát Tư Ba trở mình, xoay lưng về phía tôi, giọng nói nhè nhẹ vẳng bên tai tôi:

- Ngủ đi!

Đêm tịch mịch, vắng lặng, vầng trăng biếng nhác giấu mình trong đám mây lững lờ trôi, những vì sao thôi nhấp nháy, dường như đang chìm dần vào giấc ngủ. Trong lán trại hoa lệ, Khabi nằm nghiêng, thân hình thon thả, tuyệt mỹ ẩn hiện dưới lớp chăn hoa gấm, hương thơm thoang thoảng tỏa lan, gương mặt tuyệt sắc, hơi thở đều đều. Người đẹp, đến cả dáng ngủ cũng đẹp.

Đôi mắt cô ấy đột nhiên mở trừng trừng, những tia sáng màu xanh lam lấp lánh ẩn hiện, ánh nhìn chiếu thẳng vào tôi. Trong bóng đêm, cô ấy ngồi dậy, bật cười khe khẽ, tỏ ra không hề kinh ngạc:

- Đến rồi hả?

Khabi nhẩn nha kéo những lọn tóc rối từ sau lưng thả ra ngước ngực, khuôn ngực khẽ rướn lên, gợi cảm không sao tả xiết:

- Ta đoán chắc cô đã nhận ra từ lâu, nhưng vì sao bây giờ mới đến tìm ta?

Tôi ngồi xuống trước mặt cô ấy, gật gật đầu, rất mực hồi hộp, căng thẳng khi nhìn vào đôi mắt màu lam nhạt của cô ấy, khẽ nói:

- Cô… cô là vương phi, tôi đâu dám tự tiện đến gặp cô. Đây hẳn là bí mật lớn nhất của cô. Nếu như cô không thừa nhận thì việc tôi đến tìm cô chẳng khác nào ôm rơm rặm bụng.

Khóe môi cô ấy treo một nụ cười khó hiểu, không thừa nhận cũng không phủ nhận. Cô ấy thong thả dựng thẳng chiếc gối lên rồi ngả người, bật cười khúc khích:

- Vậy vì sao hôm nay cô lại đến? Không lẽ lại muốn ôm rơm rặm bụng?

- Tôi để ý hôm nay cô không đến lán trại của Hốt Tất Liệt, và chắc chắn rằng buổi tối cô sẽ không cần đến sự hầu hạ của đám tỳ nữ nên tôi mới quyết định đến đây. – Tôi lấy hết can đảm, rốt cuộc cũng lắp bắp được vài câu. – Tôi… tôi đến tìm cô… là để… là vì… muốn học hỏi phép biến hình.

- Phép biến hình? Cô đang đùa đấy à?

Cô ấy phì cười, vươn vai một cái, chiếc váy lụa bó sát người xô lên cao, để lộ làn da trắng muốt, nõn nà, ngay cả tôi nhìn thấy cũng phải nuốt nước bọt. Khabi xua tay biếng nhác:

- Tu luyện đến một trình độ nhất định, phép biến hình tự khắc sẽ đến với cô dễ dàng như việc ăn cơm, uống nước hằng ngày vậy, đâu cần phải học.

Tôi rối trí, cúi đầu xấu hổ:

- Nhưng tôi, nhưng tôi… quả thật không biết…

Cô ấy nhấc bổng tôi lên, đưa ra trước mặt, quan sát tỉ mỉ, vẻ mặt hoài nghi, ngạc nhiên hỏi:

- Không phải chứ, lẽ nào đến bây giờ mà cô vẫn chưa biết biến hình?

Tôi thành thực gật đầu.

Hoa sen xanh 13.3

Hàng lông mày cong cong như mảnh trăng lưỡi liềm của cô ấy chau lại, ánh mắt lấp lánh, cô ấy hỏi khẽ:

- Cô chắc cũng phải ba trăm tuổi rồi nhỉ?

Tôi thật thà gật đầu.

Cô ấy xoay tôi sang trái rồi sang phải, lắc lư một hồi khiến tôi chóng cả mặt, rồi lại cào cào bộ lông của tôi ra quan sát kỹ lưỡng khiến tôi thấy nhói buốt. Sau một hồi kiểm tra soi xét, cô ấy lắc đầu:

- Sao lại thế nhỉ? Cô là hồ ly xanh kia mà, loài hồ ly kết tinh linh khí của trời đất. Hơn nữa, cô đi theo Bát Tư Ba chừng ấy năm, chắc hẳn đã học lỏm được không ít đạo pháp, lẽ ra cô phải biến hình được từ lâu rồi chứ? Vì sao ba trăm tuổi rồi mà vẫn giữ hình hài của một tiểu hồ ly?

Lòng dạ rối bời, tôi gãi gãi đầu, chừng như sắp khóc:

- Tôi… tôi cũng không biết nữa, có ai chỉ dạy tôi đâu…

Ngón trỏ trái của cô ấy chạm vào vết sẹo hình hoa sen trên trán tôi, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú:

- Để ta xem nào.

Một lát sau, như thể vấp phải trở lực nào đó, ngón trỏ của cô ấy đột ngột bắn ra khỏi trán tôi. Cô ấy mở mắt, khẽ hít thở:

- Lạ quá, ai đó đã yểm một đạo bùa lên người cô. Đạo bùa này tuy có thể giúp ích cho việc tu luyện nhưng lại trói buộc linh hồn và thể xác cô.

- Đạo bùa ư? – Tôi băn khoăn ngước nhìn gương mặt kiều diễm của cô ấy. – Nhưng… sao tôi không hề hay biết?

- Người yểm bùa có lẽ không định hãm hại cô, bởi vì đạo bùa này chỉ trói buộc thân thể cô, không khiến cô bị tổn thương nguyên khí.

Như sấm dội bên tai, tôi chao đảo, ngã dúi dụi, đầu va vào chân giường, trong đêm thanh tĩnh, tiếng va đập nghe rất rõ. Khabi vội lao đến kéo tôi lại:

- Khẽ chứ, cô muốn đánh thức đám người hầu ngoài kia à?

Tôi cắn môi, buồn bã nói:

- Chính ngài Ban Trí Đạt. Trước lúc lâm chung, ông ấy đã truyền dạy cho tôi một đoạn kệ, nói rằng sẽ giúp ích cho việc tu luyện của tôi. Mấy năm qua, ngày nào tôi cũng tụng niệm đoạn kệ đó.

- Vị cao tăng danh tiếng lẫy lừng Ban Trí Đạt ư?

Khabi nhấc tôi lên ngang mặt, khẽ chau mày suy ngẫm, sau đó, chừng như hiểu ra mọi chuyện, cô ấy nói:

- Cũng phải thôi, ông ấy có thừa năng lực để làm việc này.

Đột nhiên, tôi thấy buồn vô hạn. Tôi đã giữ đúng lời hứa với ông ấy, ở bên bảo vệ anh em Bát Tư Ba kia mà. Tôi tức giận gào lên:

- Vì sao ông ấy lại làm vậy? Vì sao lại lừa dối tôi?

Khabi vội vàng bịt miệng tôi lại, hầm hừ:

- Vì sao ư? Vì không muốn cô hóa phép thành người.

Tôi sững sờ, chưa kịp hỏi lại thì Khabi đã lên tiếng:

- Cô cũng biết rất rõ rằng, hồ ly xanh là loài đẹp nhất, cao quý nhất trong tộc hồ ly đúng không? Huống hồ cô lại còn là hồ ly xanh thuần chủng. Một khi cô biến hình thành người, chắc chắn trên thế gian này sẽ không cô gái nào có thể so bì nhan sắc với cô. Ngay cả hồ ly tạp chủng là ta đây cũng chỉ có thể ngưỡng mộ và ghen tị mà thôi. Tuy Bát Tư Ba là người tu hành nhưng cậu ấy cũng là một người đàn ông, làm sao không động lòng cho được? Ngài Ban Trí Đạt làm vậy vì không muốn cô mê hoặc cậu ấy.

Tôi như phát sốt, nghiến răng uất ức:

- Tôi… tôi chỉ muốn có hình hài của con người thôi, không bao giờ tôi có ý định mê hoặc người khác…

- Không bao giờ ư? – Khabi ngắt lời tôi, đôi mắt sắc sảo của cô ấy nhìn xoáy vào tôi. – Vậy thì cô cần đến hình hài của con người để làm gì? Cô có dám thề rằng cô không hề có chút tình cảm nào với Bát Tư Ba? Ta thường bắt gặp cô nhìn cậu ấy đắm đuối.

Tôi suýt ngất, đầu lưỡi như cứng lại, ngắc ngứ:

- Tôi… tôi… đó là vì…

Cô ấy lại ngắt lời tôi, nụ cười nhẹ nhàng nở trên môi, chừng như thấu hiểu tất cả:

- Không cần giải thích. Ta là người từng trải, nhiều kinh nghiệm, lẽ nào ta không nhận ra trái tim tiểu hồ ly của cô đang rung động và khao khát! Cô đã ba trăm tuổi, đến lúc rồi đó!

Tôi… tôi rung động, khao khát ư? Lẽ nào những khoảnh khắc tim đập loạn nhịp, những xúc cảm khó hiểu, tâm trạng buồn vui thất thường ấy đều vì nguyên nhân này? Khabi không nói thêm gì nữa, thảnh thơi ngả người xuống gối, hai tay bắt tréo trước ngực. Trong màn đêm mù mịt, đôi mắt màu lam nhạt của cô ấy nhấp nháy, vẻ mặt hả hê như đang được xem kịch vui khiến tôi càng rối bời.

Tôi không biết phải đối đáp ra sao, bèn chuyển đề tài, gặng hỏi:

- Vậy tôi… phải làm sao để gỡ bỏ bùa chú của ngài Ban Trí Đạt?

Khabi bật cười, chỉ dẫn qua quýt:

- Không tu luyện theo đạo pháp mà ông ấy truyền dạy cho cô nữa. Hãy khổ luyện, rất nhanh thôi cô sẽ có được hình hài mà cô mơ ước bấy lâu.

r

- Chúng tôi đã sống trên vùng thảo nguyên ở ngoại thành Phủ Châu suốt ba năm. Với Hốt Tất Liệt, đây là những ngày tháng dằng dặc buồn chán. Tuy sống trong cảnh lụa là, gấm vóc, nhàn hạ, vô ưu nhưng ông ấy đã bị tước mất binh quyền, niềm vui duy nhất của Hốt Tất Liệt lúc này là xây dựng thành quách. Hốt Tất Liệt “bị” cho nghỉ dưỡng ba năm thì công cuộc xây dựng tòa thành cũng kéo dài ba năm, bởi vậy nó rất kiên cố.

Tôi tập tễnh đến bên tủ sách, lật mở cuốn sách giới thiệu về di tích Thượng Đô, nhà Nguyên, chỉ cho chàng trai trẻ bức hình chụp khung cảnh hoang phế của tường thành:

- Sau khi công trình hoàn tất, Hốt Tất Liệt đặt tên cho nó là phủ Khai Bình, nơi đây chính là kinh đô Thượng Đô của nhà Nguyên.

Chàng trai trẻ đón lấy cuốn sách, lật xem:

- Kinh đô của triều Nguyên không phải là Yên Kinh, mà hiện giờ là Bắc Kinh sao? Ngày nay, ở Bắc Kinh vẫn còn di tích tường thành Yên Kinh của nhà Nguyên kia mà.

- Đúng vậy. Nhưng Hốt Tất Liệt làm Đại hãn, mà theo cách nói của người Hán thì tức là lên ngôi ở phủ Khai Bình cũng chính là kinh đô Thượng Đô. Bốn năm sau ông ấy mới xây dựng Yên Kinh.

Tôi ngắm nghía tòa thành đổ nát hoang tàn, chợt bồi hồi nhớ lại những năm tháng phồn hoa rực rỡ đã qua. Mới hơn bảy trăm năm mà tất cả đã thành hoang phế, chỉ còn lại chút tàn tích.

- Đối với Hốt Tất Liệt, Thượng Đô có ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Vì nó đã chứng kiến những năm tháng sa cơ lỡ vận của ông ấy, cũng là nhân chứng cho những năm tháng huy hoàng khi ông ấy lên ngôi hoàng đế. Sau khi dời đô đến Yên Kinh, tình cảm mà Hốt Tất Liệt dành cho Thượng Đô vẫn rất sâu nặng. Bởi vậy ông ấy đã biến Thượng Đô thành “cung điện mùa hè” của mình, và nơi đây cũng được xem là kinh đô thứ hai của nhà Nguyên. Về sau, hoàng thất nhà Nguyên hình thành thông lệ: tháng Tư hằng năm đến Thượng Đô, tháng Chín mùa thu mới trở lại Đại Đô. Thời gian cư trú tại Thượng Đô của các hoàng đế nhà Nguyên kéo dài nửa năm.

Chàng trai trẻ bông đùa:

- Ồ, thì ra truyền thống mùa hè đến sống ở sơn trang Thừa Đức để tránh nắng của các hoàng đế nhà Thanh là học theo người Mông Cổ ư?

Hoa sen xanh 14.1

Chương 14

Biện luận ở Ngũ Đài Sơn

“Học giả thường mờ nhạt trên chính quê hương mình;

Giống như châu báu bị thờ ơ giữa miền hải đảo.”

(Cách ngôn Sakya)

Theo di nguyện của đại sư Ban Trí Đạt thì năm hai mươi tuổi, Bát Tư Ba phải thọ giới Cụ túc để trở thành một nhà sư đúng nghĩa. Nếu không gặp biến cố, giờ này cậu ấy đã thọ giới ở Sakya. Sau khi quyết định đi theo Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba đã lưu lại trong doanh trại quân binh, sau đó rong ruổi cùng đoàn quân trên đất Vân Nam, vì thế việc thọ giới của cậu ấy đành phải lùi lại. Sau khi đến thảo nguyên Phủ Châu và ổn định cuộc sống, Bát Tư Ba tiếp tục trù bị kế hoạch thọ giới của mình. Đường về Sakya xa xôi vạn dặm, phải nửa năm mới đến nơi, lập tức khởi hành cũng không kịp nữa. Vậy nên, Bát Tư Ba dự định sẽ thọ giới tại một ngôi chùa nào đó trên đất Hán.

Khi Bát Tư Ba vẫn đang cân nhắc xem nên mời vị cao tăng nào chủ trì buổi lễ thọ giới thì một sự kiện bất ngờ đã xảy ra khiến cậu phải bỏ dở kế hoạch.

Trong lúc miệt mài với công việc xây dựng thành trì thì Hốt Tất Liệt đột ngột nhận được mệnh lệnh từ Mông Kha Hãn. Không phải lệnh dẫn quân đi đánh trận, cũng không phải chiếu chỉ tiếp tục tước bỏ quyền lực của ông mà là một nhiệm vụ kỳ quặc: chủ trì cuộc tranh biện giữa Phật giáo và Đạo giáo về thực hư của cuốn

Kinh

Lão Tử giáo hóa người Hồ

[1]

.

Vậy căn nguyên của sự việc này ra sao?

Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ

là cuốn sách mỏng, được lưu truyền từ đời Tấn. Theo

Sử ký

của Tư Mã Thiên thì sau khi Lão Tử ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc, không ai biết ông đã đi đâu. Bởi vậy, cuốn sách này đã viết tiếp cuộc hành trình bí ẩn đó của Lão Tử. Sách viết rằng, Lão Tử đi về hướng tây, qua Tây vực, đến Thiên Trúc và truyền đạo cho Phật Thích Ca. Từ đó, cuốn sách khẳng định Phật giáo có nguồn gốc từ Đạo giáo và Đạo giáo uyên thâm hơn Phật giáo. Tuy nhiên, điều khiến các tín đồ Phật giáo phẫn nộ hơn cả là việc cuốn sách đã dựng lên câu chuyện: tinh trùng của Lão Tử được truyền vào miệng người mẹ của Phật Thích Ca, sau đó bà đã mang bầu Đức Phật. Câu chuyện bịa đặt này đã khiến các đệ tử nhà Phật không khỏi nổi giận, bất bình.

Khi đó, hai phái Phật giáo và Đạo giáo như nước với lửa, cuộc xung đột kịch liệt giữa hai phái tập trung vào việc tranh luận thực hư của cuốn sách này.

Vì đây là mệnh lệnh của Mông Kha Hãn nên Hốt Tất Liệt không dám chậm trễ. Phủ Châu cách thánh địa Phật giáo Ngũ Đài Sơn không xa nên Hốt Tất Liệt quyết định tổ chức cuộc tranh biện đặc biệt quan trọng này tại vùng núi nổi tiếng Ngũ Đài Sơn.

Năm 1254, mùa thu năm Bát Tư Ba hai mươi tuổi, cậu đã bỏ dở kế hoạch thọ giới Tỷ Khâu để theo Hốt Tất Liệt đến Ngũ Đài Sơn. Phật giáo và Đạo giáo đều cử những vị cao tăng, đạo sĩ đức cao vọng trọng nhất của mình tham dự cuộc tranh biện quan trọng này. Về phía Phật giáo, Mông Kha Hãn đã cử đại sư Namo, người Kashmir mà ngài tôn làm quốc sư đến tham dự. Hốt Tất Liệt, dĩ nhiên là cử Bát Tư Ba làm người đại diện. Ngoài ra còn có quốc sư Tây Phồn

[2]

, quốc sư Hà Tây, các nhà sư đến từ Uyghur, quốc sư nước Đại Lý, đất Hán thì có đại diện là các vị trưởng lão các chùa Viên Phúc, Phụng Tiên ở Yên Kinh, tổng cộng ba trăm người. Phía Đạo giáo cũng không thua kém, họ cử ra hơn hai trăm người tham dự, dẫn đầu đoàn là Trương chân nhân. Chưa hết, Hốt Tất Liệt còn lệnh cho thuộc hạ của mình là các danh sĩ người Hán: Diêu Khu, Đậu Hán Khanh… giữ vai trò “chứng nghĩa”, tức là người làm chứng cho cuộc tranh biện.

Thư mời bay đi khắp nơi như bông tuyết. Hành cung

[3]

của Hốt Tất Liệt ở Ngũ Đài Sơn lúc nào cũng nườm nượp người ra vào làm nhiệm vụ liên lạc, đưa tin. Chỉ trong vòng một tháng ngắn ngủi, hơn năm trăm khách mời đến từ hai phía đã hội tụ đông đủ về Ngũ Đài Sơn, khiến thánh địa Phật giáo này trở nên náo nhiệt hơn bao giờ hết. Là người đại diện cho phía Phật giáo bên cạnh “chủ nhà” Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba bận rộn với công việc tiếp đón các vị đại sư, cả ngày không lúc nào ngơi nghỉ.

Tuy mỗi bên cử mấy trăm người đến tham dự nhưng không phải tất cả đều được đăng đàn. Kết quả cuối cùng sau khi bàn bạc và thống nhất, mỗi bên chỉ cử ra mười bảy người tham gia cuộc tranh biện, đó đều là những người giỏi nhất, uyên bác nhất. Về phía Phật giáo, Bát Tư Ba hai mươi tuổi là người trẻ nhất. Tuy đứng giữa các vị cao tăng râu tóc bạc phơ nhưng Bát Tư Ba tỏ ra rất mực điềm tĩnh, chững chạc, đối đáp trôi chảy, lưu loát. Trước khi diễn ra buổi tranh biện chính thức, các thành viên của đội tranh biện đã tập trung lại, cả ngày bàn bạc, phân tích, xem xét, đánh giá, họ miệt mài đến mức ăn ngủ cùng nhau. Sau vài ngày trao đổi, thảo luận, các nhà sư đều bày tỏ sự nể phục tư duy sắc bén và tầm kiến thức sâu rộng,

uyên bác của Bát Tư Ba. Ngay cả vị quốc sư Namo lúc đầu tỏ ra hết sức kiêu ngạo cũng có cái nhìn khác đối với Bát

Tư Ba.

Một ngày trước khi diễn ra cuộc tranh biện, lễ đài đã được bố trí xong xuôi tại hành cung của Hốt Tất Liệt. Vẻ mặt của những người tham gia tranh biện đều căng như dây đàn, không khí căng thẳng, hồi hộp và lo lắng bao trùm Ngũ Đài Sơn.

Ngay cả một kẻ chẳng liên quan gì như tôi cũng toát mồ hôi, hơi thở gấp gáp lạ thường.

Trong phòng mình, Bát Tư Ba cho tôi uống sữa bò, rút khăn tay lau miệng cho tôi, mỉm cười nhìn tôi trìu mến:

- Lam Kha, chúng ta đi leo núi nào!

Tôi uống no căng bụng, nghe thấy vậy, giật mình, nấc lên từng hồi:

- Cậu… cậu… Ngày mai diễn ra cuộc tranh biện chính thức rồi. Người ta… người ta ai nấy đều gấp rút chuẩn bị, sao cậu vẫn còn tâm trạng thảnh thơi để leo núi?

Thấy tôi vừa nấc vừa nói, cậu ấy không kìm được bật cười, vuốt nhẹ sống lưng tôi.

- Chính vì ngày mai ta tham gia cuộc tranh biện nên hôm nay càng phải ra ngoài đi dạo cho tinh thần thoải mái.

Vẻ mặt bình thản, vô ưu của cậu ấy khiến người ta có cảm giác cuộc chiến sinh tử diễn ra ngày mai dường như không hề tồn tại. Giọng nói trầm ấm vang lên:

- Đạo tràng ở Ngũ Đài Sơn là nơi năm xưa Bồ Tát Văn Thù hiển linh thuyết pháp. Từ thời Bắc Ngụy, người ta đã dựng chùa ở đây để thờ cúng. Đến thời nhà Đường, thánh địa Phật giáo này phát triển rất rực rỡ. Phái Sakya tôn thờ Bồ Tát Văn Thù, bởi vậy ngay khi đặt chân đến đây, ta đã có ý định thăm thú, chiêm bái và làm lễ nhưng bận rộn nên chưa thực hiện được. Hôm nay, ta không muốn bỏ lỡ cơ hội này.

[1]

Lão Tử: nhà triết học nổi tiếng thời xưa ở Trung Quốc. Ông là người khai sáng ra Đạo giáo, một môn học về vũ trụ, thiên nhiên, vật chất. Người Hồ: theo nghĩa hẹp dùng để chỉ các dân tộc bên ngoài Trung Quốc, thuộc vùng Trung và Tây Á. Trong trường hợp này, “người Hồ” dùng để chỉ người Ấn Độ (Thiên Trúc). Sách

Kinh

Lão Tử giáo hóa người Hồ

, nguyên tác là

Lão Tử hóa Hồ kinh

là tác phẩm của Đạo giáo Trung Quốc nhằm tự đề cao tôn giáo của mình, cho rằng sau khi Lão Tử truyền lại bộ

Đạo đức kinh

cho viên quan Doãn Hỉ trấn giữ Hàm Cốc Quan thì ngài đã cưỡi trâu đi về hướng tây để hóa độ, giáo hóa người Hồ (tức người Ấn Độ) và đã truyền đạo cho Phật Thích Ca và hai mươi tám thiền tổ Ấn Độ. Cuốn sách này từ lâu đã bị xem là ngụy thư (viết về những điều không có thật) và bị đốt bỏ từ đời Đường, Trung Quốc. (DG)

[2]

Tây Phồn: tên gọi chung chỉ vùng Tây vực và khu vực biên giới phía tây của Trung Quốc vào thời cổ đại. (DG)

[3]

Hành cung là nơi ở tạm thời của vua chúa thời xưa khi đi công cán ở địa phương. (DG)

Hoa sen xanh 14.2

Không cần người theo hầu, Bát Tư Ba ôm tôi trên tay, chầm chậm leo lên ngọn núi mỹ lệ nhất Ngũ Đài Sơn – núi Thúy Nham ở Trung Đài

[1]

. Tôi đã nhiều lần bảo với cậu rằng hãy thả tôi xuống để tôi tự đi, nhưng cậu không muốn tôi bị mệt vì thương tật ở chân sau nên cứ ôm tôi và leo lên cao như thế.

Ở trong vòng tay cậu ấy, nghe rõ nhịp tim gấp gáp của cậu ấy, toàn thân tôi nóng bừng. Đây không phải là lần đầu tiên tôi ở sát bên cậu ấy như vậy, nhưng vì sao tôi lại có cảm giác kỳ lạ này? Khabi từng nói trái tim tôi đang thổn thức, giờ đây tôi chợt nhận ra, tôi chẳng thể viện cớ để phản bác được nữa.

Ngày hôm đó, trời thu trong xanh, thoáng đãng, tùng bách vươn cao hai bên lối đi, tre trúc xanh um, rì rào trong gió nhẹ. Những đền đài, lầu các, đình viện ẩn hiện giữa trập trùng núi non, cảnh sắc nên thơ. Trên đường đi, cậu ấy tươi cười trò chuyện với tôi, nụ cười rạng rỡ không lúc nào tắt trên môi. Nếu như không có mối bận tâm về cuộc tranh biện của ngày hôm sau thì chuyến đi Ngũ Đài Sơn lần này của tôi có thể coi là chuyến du ngoạn tuyệt vời nhất trong đời.

Buổi tối, Bát Tư Ba miệt mài bên bàn giấy, tôi cứ ngỡ cậu ấy đang phác thảo những nội dung quan trọng của buổi tranh biện ngày mai nên chỉ lặng lẽ cuộn tròn trên bàn, không dám làm phiền. Lúc viết xong, cậu ấy nhẩm đọc một lượt rồi mỉm cười đẩy trang giấy về phía tôi. Khi ấy tôi mới ngỡ ngàng, thì ra đó là một bài thơ vịnh cảnh Ngũ Đài Sơn. Trời ơi, cậu ấy vẫn còn tâm trạng để làm thơ ư! Ngắm nhìn gương mặt thảnh thơi, thư thái, vẻ an nhiên tự tại của cậu ấy mà tôi vừa bực mình vừa buồn cười. Đêm đó, cậu ấy ngủ say đến lúc trời sáng, còn tôi, lòng cứ bồn chồn không yên, mồ hôi vã ra như tắm.

Người đời sau đã dịch bài thơ bằng tiếng Tạng của Bát Tư Ba sang tiếng Hán, với tiêu đề

Lên Ngũ Đài Sơn chiêm bái Bồ Tát Văn Thù

:

“Ngũ Đài phảng phất chốn Tu Di,

Kiên cố hoàng kim khó sánh bì,

Năm ngọn núi cao khoe dáng đẹp;

Bàn tay tạo hóa khéo tinh vi,

Trung Đài – Sư tử giận oai phong,

Vách núi nguyên sơ, sen trắng trong;

Đông Đài – Voi chúa vươn ngà quý,

Cỏ cây xanh thẳm mấy từng không;

Nam

Đài – Tuấn mã giữa đồng xanh,

Hoa vàng khoe sắc thắm long lanh;

Tây Đài – Khổng tước xòe đuôi múa,

Hào quang chiếu rọi khắp xung quanh;

Bắc Đài – Đại bàng dang cánh lượn,

Cây cao ngọc lục ngạo thiên thanh.”

[2]

Ngày diễn ra cuộc tranh biện, trời xanh, nắng vàng rực rỡ. Dưới ánh mai lấp lánh, năm đỉnh núi có một không hai ở Ngũ Đài Sơn hiện lên xanh ngắt, nguy nga. Nơi diễn ra cuộc biện luận là thiền viện Văn Thù nằm giữa trấn Đài Hoài. Hơn năm trăm vị khách đến từ hai phái Phật giáo và Đạo giáo, cùng rất nhiều quan lại do Hốt Tất Liệt cử đến đã ngồi kín đại điện rộng lớn trong thiền viện. Tôi niệm chú, náu thân trên Phật đài phía trước đại điện, hồi hộp quan sát cuộc tranh luận.

Đại diện của Phật giáo và Đạo giáo ngồi ở hai bên, trên chiếc đệm nổi bật ở vị trí trung tâm là người giữ vai trò chủ tọa của buổi biện luận hôm nay – Vương gia Hốt Tất Liệt. Ngài tuyên bố “khai mạc”: Theo tập tục tranh biện của các giáo phái Thiên Trúc, bên thua cuộc sẽ phải dâng hoa cho bên thắng cuộc và phải theo học giáo lý của đối phương.

Hai bên đồng thanh bày tỏ sự chấp thuận.

Mở đầu cuộc biện luận là nội dung của các kinh văn kinh điển bằng tiếng Hán, vì không thông thạo ngôn ngữ này nên Bát Tư Ba chỉ yên lặng lắng nghe.

Cuộc tranh luận đến hồi cam go, quyết liệt, các đạo sĩ lập luận rằng cuốn

Sử ký

của Tư Mã Thiên là bằng chứng chứng minh tính xác thực của cuốn kinh

Lão Tử giáo hóa người Hồ

. Bát Tư Ba tỏ ra ngạc nhiên như thể đây là lần đầu tiên nghe nhắc đến cuốn sách này. Cậu đứng lên, khiêm tốn đặt câu hỏi:

- Bần tăng là người Tạng, xin thứ lỗi cho bần tăng không thông thạo điển tịch chữ Hán, dám hỏi đạo huynh đây,

Kinh

Lão Tử giáo hóa người Hồ

là sách gì vậy?

Người biện luận chính bên phía Đạo giáo là Trương chân nhân. Ngài vân vê bộ râu dê một hồi, lỗ mũi hướng thiên, vênh mặt ngó tên nhãi kém mình hơn ba chục tuổi ở bên kia chiến tuyến, ánh mắt khinh khỉnh:

- Danh tiếng của Phật sống Bát Tư Ba, người Tufan vang dội khắp đất Hán, ta những tưởng đó phải là một Lạt Ma học vấn sâu rộng, uyên thâm, trác việt, chẳng ngờ chỉ là hư danh mà thôi. Ngay cả cuốnKinh

Lão Tử giáo hóa người Hồ

tiếng tăm lẫy lừng mà cũng không biết ư? Đây là cuốn sách gối đầu giường của các bậc đế vương đời trước đó!

“Trọng tài” Hốt Tất Liệt chừng cũng rất bức xúc vì câu nói đầy mỉa mai, khinh miệt đối với Bát Tư Ba, bèn đằng hắng một tiếng, cất giọng bực bội:

- Nội dung chính của cuộc tranh luận hôm nay là những giáo pháp trong cuốn sách này. Trương chân nhân đâu cần phải mượn uy danh của các đời vua trước để tô điểm cho giáo phái mình.

Trương chân nhân giật mình sợ hãi khi nghe Hốt Tất Liệt quở trách, vội vã cúi đầu nhận lỗi. Bát Tư Ba vẫn tỏ ra rất mực khiêm nhường, tiếp tục chất vấn đối phương:

- Đạo trưởng đưa ra bằng chứng là cuốn

Sử ký

do người Hán viết, vậy xin hỏi đạo trưởng, cuốn

Sử ký

có ghi chép về việc Lão Tử giáo hóa người Hồ ra sao không?

Trương chân nhân lúc này đã nhã nhặn hơn, ông ta trả lời Bát Tư Ba bằng ngữ điệu răn dạy của bề trên đối với kẻ dưới:

- Tất nhiên là có.

- Xin các vị nhìn xem đây có phải là cuốn

Sử ký

không? Các vị là người Hán, chắc chắn thông thuộc cuốn sách này hơn người Tufan chúng tôi.

Bát Tư Ba lấy ra một cuốn sách từ trong áo, đưa đến trước mặt các vị đạo sĩ ở phía đối diện. Sau khi ai nấy đều gật đầu xác nhận, cậu từ tốn lật mở một trang của cuốn sách:

- Đây là chương “Truyện kể về Lão Tử” trong cuốn

Sử ký

. Xin thứ lỗi bần tăng mắt kém, các vị vui lòng cho biết, trang nào trong chương sách này kể chuyện Lão Tử giáo hóa người Hồ?

Một vị đạo sĩ đứng phía sau Trương chân nhân nhanh nhảu lên tiếng:

- Ngươi đã đọc ghi chép về hành tung sau cùng của Lão Tử trong

Sử ký

chưa?

Bát Tư Ba lật đến trang sách đó, cất giọng sang sảng:

- Đạo trưởng muốn nói đến câu cuối cùng này: “Lão Tử ra đi và không rõ đi đâu” phải không?

Vị đạo sĩ đó gật đầu.

Bát Tư Ba mỉm cười, khẽ cúi đầu thưa rằng:

- “Ra đi và không rõ đi đâu” đồng nghĩa với việc “Lão Tử rời khỏi đất Hán, đi về hướng tây để giáo hóa người Hồ” ư? Xin thứ lỗi cho bần tăng kiến thức nông cạn, nhưng thứ logic này bần tăng chưa từng nghe bao giờ.

Trương chân nhân bị một đòn đau, như gà mắc tóc, mặt mày khó coi. Bát Tư Ba không chờ cho đối phương kịp phản ứng, thừa cơ xông tới:

- Nếu như

Sử ký

không có những ghi chép chi tiết, chính xác, vậy xin hỏi các vị đạo trưởng, cuốn sách để đời của Lão Tử là cuốn nào?

Trương chân nhân lúc này mới bình tĩnh trở lại, đáp:

- Tất nhiên là cuốn

Đạo đức kinh

.

- Ngoài cuốn này ra, Lão Tử còn viết cuốn nào khác nữa không?

- Không.

[1]

Một ngọn núi thuộc Ngũ Đài Sơn. Ngũ Đài Sơn là quần thể gồm năm ngọn núi, chia thành bắc, nam, đông, tây và trung, hay còn có tên gọi tương ứng là Diệp Đấu Phong, Cẩm Tú Phong, Vọng Hải Phong, Quải Nguyệt Phong và Thúy Nham Phong. (DG)

[2]

Các hình tượng: Sư tử, Voi chúa, Tuấn mã, Khổng tước, Đại bàng vốn là vật cưỡi của các vị Bồ Tát. Bản dịch thơ của Nguyễn Vĩnh Chi. (DG)

[2]

Tây Phồn: tên gọi chung chỉ vùng Tây vực và khu vực biên giới phía tây của Trung Quốc vào thời cổ đại. (DG)

[3]

Hành cung là nơi ở tạm thời của vua chúa thời xưa khi đi công cán ở địa phương. (DG)

Hoa sen xanh 14.3

Bát Tư Ba lại lấy ra một cuốn sách khác, cung kính trình lên:

- May sao bần tăng cũng có một cuốn

Đạo đức kinh

ở đây, xin mời trưởng lão kiểm chứng.

Các đạo sĩ chuyền tay nhau đọc một lượt, rồi tất cả đều gật đầu xác nhận, nhưng không ai biết Bát Tư Ba định làm gì. Cậu mỉm cười:

- Xin hỏi các vị, trong cuốn

Đạo đức kinh

này, có câu nào Lão Tử thuật lại việc ngài đến Thiên Trúc giáo hóa người Hồ không?

Bị giáng tiếp một đòn nữa, các đạo sĩ mặt mày đều tái xám. Những kiểu câu hỏi chỉ cho phép trả lời đúng hoặc không này khiến các vị không thể xảo biện, đành phải hậm hực trả lời:

- Không có.

Đôi mắt thông thái của Bát Tư Ba lướt quanh một lượt quan khách, nụ cười hồn hậu vẫn nở trên môi, cậu ấy dõng dạc nói tiếp:

- Lão Tử sống vào thời Xuân Thu, Tư Mã Thiên sống vào đầu thời Hán, cách ngài vài trăm năm. Trong cuốn

Sử ký

mà đạo trưởng dùng làm căn cứ không hề có ghi chép nào về việc Lão Tử giáo hóa người Hồ. Cuốn

Đạo đức kinh

do chính Lão Tử viết cũng không có. Vậy xin hỏi, cuốn

Kinh

Lão Tử giáo hóa người Hồ

trên tay đạo trưởng từ đâu mà có, và nó ra đời vào triều đại nào?

Trương chân nhân tái mặt. Các đạo sĩ đứng sau ông ta vẫn chưa chịu nhận thua, ra sức vớt vát:

- Đó là… đó là do người đời sau…

Bát Tư Ba nghiêm nghị ngắt lời đạo sĩ:

- Vậy tức là, đạo trưởng đã thừa nhận cuốn

Kinh

Lão Tử giáo hóa người Hồ

này là do người đời sau sáng tạo ra?

Cậu ấy ngừng lại một lát, người hơi ngả về phía trước, giọng nói nghiêm nghị, ánh mắt sắc lạnh:

- Bởi vậy, những điều trong cuốn sách này là nhảm nhí, vô căn cứ. Người viết ra cuốn sách đã cố tình bịa đặt, dựng chuyện, hòng bôi nhọ thanh danh của Phật giáo, hạ thấp Phật pháp!

Trương chân nhân run rẩy, đứng không vững, ông ta chao đảo rồi ngã ngửa về phía sau. Các đệ tử của ông ta vội đỡ lấy sư phụ nhưng Trương chân nhân đã ngất xỉu. Chỉ trong chốc lát, phía Đạo giáo, người khóc người gào, rối như canh hẹ. Hốt Tất Liệt khoát tay ra hiệu cho mọi người trật tự, sau đó gật đầu với viên quan Thượng thư Diêu Khu đang làm nhiệm vụ ghi chép ở bên cạnh. Diêu Khu lĩnh ý, dõng dạc tuyên bố:

- Đạo giáo thua cuộc!

Lời tuyên bố là kết quả cuối cùng, cuộc tranh biện kết thúc. Phía Phật giáo hò reo vang dội. Tôi hưng phấn đến độ suýt nữa thì hiện hình. Phật giáo Tạng truyền đặc biệt coi trọng logic học Nhân minh, các cao tăng của Phật giáo Tạng truyền đều là những nhà hùng biện xuất chúng, huống hồ Bát Tư Ba lại người xuất sắc nhất trong những người xuất sắc. Nếu như cậu ấy không đưa ra những luận chứng sắc sảo thì cũng khó nói trước phần thắng sẽ thuộc về bên nào.

Bát Tư Ba vẫn rất mực điềm đạm, khiêm nhường. Cậu ấy chắp tay vái lạy Bồ Tát Văn Thù, lầm rầm đọc kệ, ngữ điệu rất mực thành kính:

- Trên trời dưới đất không gì bằng,

Mười phương thế giới cũng không sánh;

Toàn thể thế gian con thấy hết,

Tất cả không ai bằng Phật được.

Hốt Tất Liệt ra lệnh cho các đạo sĩ tuân thủ hình phạt như giao ước, mười bảy vị đạo sĩ tham gia tranh biện sẽ phải xuống tóc làm sư. Hốt Tất Liệt buộc họ lưu lại trong các ngôi chùa ở Ngũ Đài Sơn để tu hành.

Tôi ẩn mình sau lễ đài, ngẩn ngơ ngắm nhìn vẻ an nhiên, tự tại của cậu ấy. Sự tự tin ấy, gương mặt thánh khiết ấy, đôi mắt trong suốt ấy khiến trái tim tôi ngày một chìm sâu vào bể trầm luân. Tôi ước mình mau chóng có được hình hài của con người. Khát khao thầm kín ấy cứ lớn dần và đè nặng lên trái tim nhỏ bé của tôi.

Kể từ hôm đó, ban đêm tôi ngủ rất ít, dành hết thời gian cho việc tu luyện. Những lúc mệt mỏi, hình ảnh thiếu nữ với gương mặt mơ hồ và nụ cười ngọt ngào cứ thấp thoáng trong đầu, giúp tôi hồi sức rất nhanh.

Khi ấy, khát vọng duy nhất của tôi, suy nghĩ duy nhất lấp đầy tâm trí tôi là: tôi phải hóa thành người trước khi cậu ấy thọ giới Cụ túc.

r

- Tuy danh tiếng của Bát Tư Ba lừng lẫy khắp đất Tạng nhưng không nhiều người trong giới Phật giáo Trung Nguyên biết đến cậu. Sau cuộc biện luận này, tiếng tăm của vị Lạt Ma mới hai mươi tuổi đã vang xa khắp chốn. Tuy chỉ là một trong số mười bảy người của phía Phật giáo tham gia biện luận nhưng phần biện luận của Bát Tư Ba lại giữ vai trò then chốt trong việc quyết định thắng thua. Kể từ đó, giới Phật giáo Trung Nguyên không thể không nể trọng Bát Tư Ba.

Sau khi lắng nghe tôi mô tả lại một cách chi tiết và sinh động cuộc biện luận đầy kịch tính, chàng trai trẻ đưa ra một nhận xét sắc bén:

- Phật giáo vốn là tôn giáo ngoại lai, tôn giáo này bắt đầu du nhập vào Trung Quốc từ giữa thời Đông Hán. Thời gian đầu khi mới đến Trung Nguyên, Phật giáo và tôn giáo bản địa không thể tránh khỏi xung đột.

Tôi đồng tình:

- Đúng vậy. Sau khi cuốn sách ra đời, cuộc tranh chấp giữa Phật giáo và Đạo giáo lại càng khốc liệt, thậm chí nhiều đời hoàng đế đã can dự vào cuộc tranh chấp này. Sự can thiệp bằng vũ trang của chính quyền thường khiến cho cục diện giữa Phật giáo và Đạo giáo diễn ra như sau: một bên được sùng bái, một bên bị đồ sát. Lịch sử đã ghi lại những cuộc thảm sát tôn giáo tàn khốc,

đẫm máu.

Lúc này cũng là giai đoạn mà lịch sử Trung Quốc xảy ra những biến động lớn. Người Khiết Đan, người Nữ Chân, người Đảng Hạng, người Mông Cổ luân phiên thống trị miền Bắc Trung Quốc. Xã hội rối ren, mâu thuẫn dân tộc và biết bao áp lực khác đã đè nặng lên vai những con người khốn khổ. Không làm gì để thay đổi được số phận bi thảm, họ chỉ còn cách tìm đến với tôn giáo như một nơi nương tựa về tinh thần. Nhưng của cải thì có hạn, số lượng tín đồ cũng có hạn, cuộc tranh chấp giữa Phật giáo và Đạo giáo tưởng chừng đã lắng xuống vào thời nhà Tống lại được dịp bùng lên dữ dội.

Tôi ngồi bó gối trên đệm trải:

- Khi đó, quý tộc Mông Cổ là những người có thế lực chính trị mạnh nhất. Tín ngưỡng truyền thống của người Mông Cổ là Saman giáo nguyên thủy, nhưng kể từ thời Thành Cát Tư Hãn, hoàng thất Mông Cổ thực hiện chính sách cởi mở, tiếp nhận tất cả các tôn giáo ngoại lai, thu nạp các nhân sĩ của tất cả các giáo phái làm người giúp việc cho mình. Bởi vậy, cả Phật giáo và Đạo giáo đều ra sức giành giật sự ưu ái của người Mông Cổ, ra sức hạ bệ, phỉ báng những tôn giáo khác, quyết không

nhân nhượng.

Chàng trai trẻ diễn vẻ mặt già dặn, rành rẽ sự đời, kết luận:

- Đúng vậy. Thế nên cuộc tranh biện này là khó tránh khỏi.

Hoa sen xanh 15.1

Chương 15

Kháp Na phẫn nộ

“Nơi thánh nhân xuất hiện, học giả trở nên lu mờ;

Khi mặt trời chiếu sáng, sao đêm lùi vào bóng tối.”

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1255, tức năm Mão, Âm Mộc theo lịch Tạng (Ất Mão), tức năm thứ ba niên hiệu Bảo Hựu, nhà Nam Tống, tức năm thứ năm niên hiệu Mông Kha Hãn, Mông Cổ. 

Bát Tư Ba hai mươi mốt tuổi, Kháp Na mười bảy tuổi, Hốt Tất Liệt bốn mươi tuổi.

Tôi cuộn tròn trong chiếc chăn nhỏ trên góc giường của Kháp Na, ngủ mê mệt không biết trời đất gì. Những tiếng cãi vã ồn ào đã đánh thức tôi.

- A hoàn cô bắt về từ phủ của anh trai cô đã phạm tội tày đình gì mà cô nỡ ra lệnh cho đám hầu cận chặt tay người ta?

Giọng nói của người con trai đang trong cơn phẫn nộ ngút trời, đó là Kháp Na. Trong chốc lát, cơn say ngủ hoàn toàn tiêu tan, tôi thò đầu ra khỏi chăn, dõi mắt nhìn. Kháp Na đang đứng giữa thư phòng nói chuyện với vợ cậu ấy, Công chúa Mukaton. Cậu ấy khoác áo choàng màu xanh thẫm kiểu Mông Cổ, mái tóc dài, đen bóng thả xuống ngang vai, vẻ điển trai xuất chúng ấy khiến người ta mê muội. Mấy năm gần đây, Kháp Na lớn như thổi, mới mười bảy tuổi mà cậu ấy đã cao 1m80, nhưng cậu ấy vẫn gầy gò, mảnh khảnh như trước. Bởi vậy, khi đứng cạnh Mukaton lừng lững, đẫy đà, chiều cao của cậu ấy dường như bị át đi vài phần.

Năm đó, Mukaton hai mươi lăm tuổi. Con gái của vương gia người Hán được gọi là quận chúa, nhưng người Mông Cổ không gọi như vậy, họ gọi chung là công chúa. Tuy là công chúa nhưng hành vi, cử chỉ của Mukaton khác hẳn các cô công chúa người Hán được rèn giũa nghiêm khắc về phương cách ứng xử, giao tiếp và nghi lễ cung đình. So với các thiếu nữ người Hán, cử chỉ, hành động và lời nói của các cô gái Mông Cổ lớn lên giữa đại mạc mênh mông, cưỡi ngựa, ăn thịt dê, thịt cừu có phần bỗ bã hơn, làn da thô ráp hơn và gương mặt có vẻ già nua hơn. Những năm gần đây, Mukaton càng ngày ăn càng nhiều, thân hình vốn cao lớn, đẫy đà của cô ấy cứ như quả bóng hơi ngày một phình ra, dần biến thành một tòa tháp kim loại vững chắc.

- Sao kia, ngươi không biết thật à? Ngươi cho rằng vì ta thích được con a hoàn đó hầu hạ nên mới đòi anh trai ta cho nó về đây?

Xưa nay Mukaton vẫn luôn vênh mặt, hất hàm khi nói chuyện với Kháp Na. Cô nàng ngồi phịch xuống ghế, chiếc ghế khốn khổ kêu răng rắc. Bàn tay với những ngón múp míp, mỡ màng của cô nàng vờn nghịch chuỗi hạt cườm đính trên đuôi tóc, thả trước ngực. Cô ta lườm Kháp Na một cái:

- Ngươi thừa hiểu vì sao. Trong bữa tiệc tối qua ở nhà anh trai ta, lúc nó dâng thịt cừu cho ngươi, ngươi cứ nhìn chằm chằm vào cánh tay nó, đến mức con ngươi như sắp lồi ra, rơi xuống đất! Có phải ngươi đã thích mê bàn tay trắng muốt, nõn nà của nó rồi không? Con ranh ấy cứ liếc mắt đưa tình với ngươi, ngươi lại còn tươi cười đáp lại nữa chứ. Các người dám hỗn xược, bày trò mèo mả gà đồng trước mặt ta, coi ta như kẻ mù lòa à?

Kháp Na tức giận, bàn tay nện mạnh xuống mặt bàn khiến Mukaton giật mình. Không chờ Kháp Na lên tiếng, Mukaton chỉ tay vào mặt cậu, xỉa xói:

- Ngươi đập gì mà đập! Tức giận vì ta phá hỏng trò vui của ngươi chứ gì? Vì ngươi thương xót bàn tay của con hầu đó chứ gì?

Kháp Na gạt cánh tay đang chĩa thẳng vào mặt mình sang bên, cậu ấy mạnh tay quá khiến Mukaton gào thét ăn vạ. Kháp Na lùi lại vài bước, nhìn gương mặt nung núc thịt của Mukaton vẻ khiếp hãi.

- Cô thật quá đáng! Tôi đâu có nhìn chằm chằm vào cánh tay nào trong buổi tiệc tối qua! – Rồi như chợt nhớ ra điều gì, Kháp Na nói tiếp. – Tôi nhớ ra rồi, có thể đó là lúc chuỗi tràng hạt của tôi bị mắc vào khe bàn… Tôi có nhìn tay của a hoàn đó đâu! Con dao cắt thịt bị rơi, tôi cúi xuống nhặt lên, không may chuỗi hạt trên cổ mắc vào khe bàn. Tôi phải cúi người một lúc lâu để gỡ chuỗi hạt. Đúng lúc đó, một a hoàn dâng khay đồ ăn, vì không thể ngồi thẳng dậy, tôi cảm thấy khó xử nên mới cười với người ta. Cô ngồi phía sau tôi nên không nhìn thấy chuỗi tràng hạt, chỉ thấy tôi cúi người mà cho rằng tôi chúi mắt vào bàn tay của a hoàn kia.

Giải thích rõ ràng xong, Kháp Na lùi lại phía sau mấy bước, nhìn Mukaton vẻ khiếp đảm như nhìn quái vật. Giọng nói như lạc đi vì nỗi bi phẫn chất ngất:

- Tôi còn chẳng nhớ hình dáng của a hoàn đó nữa là…! Chỉ vì tôi vô tình nhìn vào tay người ta một lát mà cô làm cho người ta bị tàn phế. Cô thật đáng sợ!

- Chỉ cần hôm nay ngươi liếc nó một cái là ngày mai con yêu tinh xấc láo ấy sẽ mò lên giường ngươi ngay, biết không hả?

Biết mình đuối lý nhưng xưa nay Mukaton chưa bao giờ chịu xuống nước trước mặt Kháp Na. Lúc này, gương mặt to bè, ngồn ngộn của cô ta trở nên cau có, dữ tợn. Cô ta tiến đến trước mặt Kháp Na, hai tay chống nạnh, vẻ hùng hổ:

- Đàn ông các người là đám háo sắc. Hễ thấy đứa con gái nào thân hình nuột nà, gương mặt xinh đẹp là bu lại như ruồi ấy. Anh trai ta đấy, trong nhà có bao nhiêu mỹ nữ yêu kiều nhưng thấy ả nào vừa mắt cũng không buông tha.

Kháp Na sợ hãi lùi lại, đưa tay bóp trán, lắc đầu ngán ngẩm, bật cười chua chát:

- Công chúa, tôi làm sao so được với anh trai cô! Cô nhìn xem, trong phủ Phò mã này, người hầu, kẻ hạ đều là đàn ông, tôi làm gì có cơ hội tiếp xúc với phụ nữ? Ngay cả trong căn phòng này, chưa chắc một con ruồi đực đã lọt được vào.

Mukaton giậm chân bình bịch. Động tác dỗi hờn đáng yêu thường thấy của các thiếu nữ ở cô ta trở nên quá đà, mặt đất như cũng rung lên bần bật:

- Nhưng dù là như thế, ngươi cũng không thèm nhìn ta lấy một cái. Chúng ta kết hôn ngần ấy năm, ngươi chưa bao giờ bước vào phòng ta nửa bước. Ngươi tưởng ta không biết ngươi nghĩ gì ư? Ngươi mong muốn một đứa con gái có thân hình thon thả hơn ta, gương mặt xinh xẻo, đáng yêu và giọng nói ngọt như mật chứ gì?

- Cô…

Kháp Na dở khóc dở cười, tay úp mặt, tay xua đuổi, giọng nói mệt mỏi, chán nản cực độ:

- Công chúa, mời cô đi cho, hôm nay tôi không muốn nhìn thấy cô thêm nữa!

Mukaton đã quen thói ngang ngược trước mặt Kháp Na, đâu dễ dàng chấp nhận thái độ xua đuổi cứng rắn của cậu ấy. Cô ả tức tối lao đến, định xoắn một bên tai của Kháp Na:

- Tên ranh, bây giờ ngươi lớn rồi, cứng cáp rồi nên không sợ ta nữa chứ gì?

Hoa sen xanh 15.2

Chàng trai mười bảy tuổi không còn là chú bé yếu đuối, nhịn nhục năm xưa nữa. Trước khi Mukaton ra tay, cậu đã lanh lẹ xoay người ra sau, tránh né. Không muốn tiếp tục đôi co với cô ả, Kháp Na quay đầu bước ra ngoài, Mukaton nhảy lên, định kéo cổ áo Kháp Na lại. Kháp Na xoay người, nhanh như cắt, giữ chặt hai cánh tay của Mukaton, ánh mắt sôi sục như bốc hỏa, một cánh tay của cậu đã vung lên.

Mukaton thừa hiểu Kháp Na không dám làm gì vì cô ta là công chúa, càng được thể lấn tới:

- Ngươi tức giận gì chứ! Nó chỉ là con nô lệ người Đảng Hạng hạ đẳng thôi. Mạng sống của nó chẳng khác nào loài ruồi muỗi, chết cũng không đáng tiếc… Á…

Mukaton bàng hoàng ôm mặt, cặp mắt ti hí nhìn Kháp Na trừng trừng. Kháp Na cũng sững sờ không kém, cậu ấy thu cánh tay đang lơ lửng trên không trung lại, nhìn vào lòng bàn tay để chắc chắn rằng mình không hề động thủ. Gương mặt Mukaton chẳng khác chiếc bánh bao thiu, nở ra nhanh chóng. Đôi má vốn to tròn, giờ càng tròn to hơn, như sắp nứt vỡ. Cô ả gào thét thảm thiết, lao ra ngoài, cơ thể nặng nề thiếu chút nữa thì va vào cửa. Kháp Na nhìn theo bóng Mukaton khuất dần sau cánh cổng phủ, thở dài thườn thượt, quay đầu bước về phía chiếc giường, kéo tấm chăn trùm đầu tôi ra:

- Tiểu Lam, em bày trò phải không?

Tôi lè lưỡi:

- Tôi không nhịn được nên mới dạy cho cô ả một bài học. Cô ta hơi một tí là chửi người ta, đánh người ta, trừng phạt thế vẫn còn nhẹ nhàng chán. Với gương mặt sưng vù ấy, trong vòng vài tháng, cô ả sẽ không thể ra ngoài hãm hại người khác.

Tôi hể hả kể tội Mukaton, nhưng nhác thấy vẻ mặt mệt mỏi vô hạn của Kháp Na, bèn rụt rè kéo áo cậu ấy:

- Kháp Na, cậu bực mình à?

Cậu ấy lặng lẽ ngồi xuống, kéo tôi vào lòng. Tôi cuống cuồng xin lỗi:

- Xin lỗi Kháp Na, tôi giận quá hóa hồ đồ, quên mất thân phận của cô ta. Rồi cô ta sẽ đổ mọi tội lỗi lên đầu cậu và cậu sẽ không được yên.

Kháp Na cười buồn, lắc đầu, áp má lên sống lưng tôi.

- Ta không trách em đâu. Em làm vậy là giúp ta giải tỏa nỗi bất bình. – Cậu ấy vuốt ve cái đầu nhỏ của tôi, dịu dàng bảo. – Cảm ơn em, Tiểu Lam!

Tôi vừa cảm động vừa buồn bã. Cậu ấy mới mười bảy tuổi, cái tuổi bắt đầu biết yêu đương, rung động, biết tương tư những thiếu nữ tuổi trăng tròn như hoa như ngọc. Vậy mà cậu ấy lại phải trói buộc cuộc đời mình bên cạnh một người phụ nữ ghê gớm, nanh ác, sống những ngày buồn chán, ảm đạm. Lòng đầy thương xót, tôi liếm liếm đôi gò má gầy guộc của cậu ấy. Kháp Na lặng lẽ ôm tôi vào lòng, một lát sau mới cất tiếng hỏi:

- Em về đến đây thì ngủ mê mệt suốt mấy ngày, ta chưa kịp hỏi em, có tin tức gì về đại ca của ta không?

Lúc này tôi mới chợt nhớ ra mục đích của chuyến đi, lòng chợt buồn vô hạn:

- Lâu Cát nhờ tôi nhắn với cậu, tháng Năm năm nay, cậu ấy sẽ thọ giới Tỷ khâu ở chùa Sùng Thánh, Hà Châu (nay là Lâm Hạ, Cam Túc). Cậu ấy đã gửi thư cho các vị cao tăng ở đất Tạng, mời họ đến Hà Châu thọ giới cho cậu ấy.

Hai mắt Kháp Na bỗng sáng lên, cậu ấy phấn chấn, bật dậy:

- Tuyệt quá, ta sẽ lập tức lên đường đến Hà Châu tham dự lễ thọ giới của đại ca. Tiểu Lam, chúng ta cùng đi nhé!

Không chờ tôi trả lời, cậu ấy lại lao ra ngoài cửa, gào to:

- Người đâu, mau chuẩn bị đồ đạc cho ta, ta phải lập tức đi Hà Châu.

Tôi tròn xoe mắt nhìn Kháp Na tất bật thu dọn đồ đạc:

- Kháp Na, không cần gấp vậy đâu. Từ Lương Châu đến Hà Châu chỉ mất mười ngày đường, bây giờ mới là đầu tháng Tư, chúng ta còn những một tháng nữa kia mà!

Cậu ấy thoáng giật mình, quay lại nhìn tôi, đôi đồng tử màu mây ấm tuyệt đẹp thấm đẫm nét u buồn khiến người nói chuyện cùng không khỏi tan nát cõi lòng:

- Tiểu Lam ơi, ta không muốn ở lại cái nhà lao băng giá này thêm một khắc nào nữa.

Lòng tôi chùng xuống.

Hôm đó, chúng tôi nhanh chóng rời Lương Châu. Tôi đã hỏi Kháp Na có cần thông báo với Mukaton không, cậu ấy ngồi trên xe ngựa và lắc đầu:

- Ta tin rằng chúng ta chưa ra khỏi phủ Phò mã thì Mukaton đã biết chuyện rồi. May mà em khiến cô ta không thể ra khỏi nhà, bằng không, giờ này cô ta đã đuổi theo làm loạn rồi. Theo suy đoán của ta, chắc chắn cô ta đã cử người theo dõi, nhất cử nhất động của ta ở Hà Châu sẽ không lọt khỏi tầm kiểm soát của cô ta.

Tôi im lặng. Thế thì khác nào bị giam lỏng? Những ngày tháng lao tù thế này đến bao giờ mới kết thúc?

Trên đường đi, Kháp Na không hề cưỡi ngựa, cậu ấy ngoan ngoãn ngồi trong xe ngựa, trò chuyện nhỏ to với tôi. Cậu ấy cũng hạn chế xuất hiện ở chốn đông người, chỉ trừ những lúc phải dùng bữa và nghỉ trọ. Nhưng dù đã tiết chế tối đa việc lộ diện nơi phố phường, chàng thanh niên khôi ngô, tuấn tú, phong độ ngời ngời Kháp Na vẫn thu hút ánh nhìn của vô số cô gái ở bất cứ nơi đâu cậu có mặt. Những thiếu nữ dạn dĩ, thậm chí còn tung hoa, tung khăn về phía cậu. Nhưng Kháp Na xem họ như không khí, lúc nào cũng nghiêm nghị, chừng mực, không trao cho bất cứ cô gái nào dù chỉ là một ánh nhìn vô cớ.

Tôi ngồi bên cửa sổ, cùng cậu ấy ngắm nhìn vầng trăng tròn vành vạnh trên cao. Ngàn vạn vì sao lấp lánh điểm xuyết trên nền trời đêm nhung huyền, mùi ngai ngái của không khí buổi đêm lan trong gió nhẹ, làn hơi nồng ẩm lướt qua mặt tôi. Kháp Na tựa lưng vào thành cửa, vóc dáng dong dỏng, gương mặt dịu dàng, thuần khiết như pha lê.

Tôi ngắm nghía gương mặt điển trai của cậu ấy, tủm tỉm cười, nhớ lại cảnh tượng khi nãy:

- Kháp Na, cậu có biết, trên đường đi có rất nhiều thiếu nữ nhìn trộm cậu không? Lúc chúng ta ăn cơm, cô chủ quán thậm chí đã đích thân bưng đồ ăn cho cậu. Cô ấy cứ mải mê phục vụ cậu, quên hết những người xung quanh. Thái độ đó khiến bọn Wangtso rất tức giận.

Cậu ấy không cười mà sáp lại gần tôi, cọ mũi vào mũi tôi:

- Tiểu Lam, em thấy ta có đẹp trai không?

Tôi ngắm nhìn đôi mắt như suối nước trong veo, gương mặt thanh tú với lúm đồng tiền hút hồn ấy ở khoảng cách rất gần, gật đầu quả quyết:

- Đẹp trai! Xét về ngũ quan và nước da, cậu ăn đứt anh trai cậu. Tôi sống ba trăm năm, từng gặp vô số người thuộc mọi dân tộc, người Tạng, người Đảng Hạng, người Mông Cổ, người Hán, nhưng cậu là người điển trai nhất trong số họ.

Nhưng tôi thầm tiếc, trên gương mặt điển trai có một không hai của cậu ấy lại thiếu nụ cười rạng rỡ của tuổi thanh xuân.

Được tôi khen hết lời như vậy nhưng cậu ấy không có vẻ gì là vui thích, chỉ cười buồn:

- Tiểu Lam, em biết không, ta rất sợ nếu có cô gái nào đó yêu thích dung mạo của ta. Đôi lúc, ta thậm chí còn căm ghét cả gương mặt mình, chỉ muốn dùng dao rạch những đường chằng chịt không bao giờ lành lên gương mặt này.

Tôi giật mình kinh hãi:

- Kháp Na, vì sao vậy?

- Vì nếu các cô gái ở Lương Châu không mải mê ngắm nhìn ta thì họ sẽ không phải chịu tai họa.

Hoa sen xanh 15.3

Cậu ấy ngồi thẳng dậy, dõi mắt ngắm vầng trăng chênh chếch phía trời xa, bờ vai gầy guộc khẽ rung động:

- Họ sẽ bị vu oan, bị tống vào nhà lao, chịu cảnh tù đày. Có người đang đi trên phố thì bị bủa vây, bị đấm đá tới tấp, bị hành hạ thảm thương.

Cậu ấy nghẹn ngào, hai mắt đỏ hoe.

- Thê thảm nhất là cô gái người Đảng Hạng nọ, cha làm nghề mổ lợn. Cô ấy thường lẻn đến cổng phủ Phò mã nhìn trộm ta. Không lâu sau, người của phủ Phò mã đến nhà cô ấy hỏi cưới, cha cô ấy vì hám vinh hoa phú quý đã đồng ý gả con gái. Sau khi kết hôn, ngày nào cô ấy cũng bị chồng đánh đập, chửi bới, cô ấy bị hành hạ tới mức không còn ra hình người nữa, nhưng không dám bỏ đi. Cô ấy liều mạng tìm đến gặp ta, nói với ta rằng, tất cả đều do một tay công chúa sắp đặt. Lúc đó ta mới biết được nỗi oan ức của cô ấy. -

Cậu ấy nuốt nghẹn vào lòng, khóe môi run run. – Sau khi gặp ta, đêm đó cô ấy đã thắt cổ tự vẫn.

Tôi bịt miệng, thốt lên kinh hoàng:

- Vì sao Công chúa lại tàn độc như vậy?

Khi ấy, tôi chưa hiểu hết những tình cảm phức tạp của con người nên không sao lý giải nổi tâm trạng cực đoan của Mukaton khi bị cự tuyệt tình yêu.

- Ta hiểu tâm tư của cô ta. Cô ta muốn có được trái tim ta. Nếu như cô ta không bạo ngược, không gây tổn thương cho người khác, ta bằng lòng trọn đời trọn kiếp chung sống với cô ta. Nhưng ta tuyệt đối không thể trao trái tim mình cho cô ta.

Vẻ u buồn nhuộm sẫm đôi mắt Kháp Na, cậu ấy nắm chặt tay, nện một cú đấm lên thành cửa sổ, giọng đầy phẫn uất:

- Tiểu Lam, người hiểu rõ nhất ta đã phải trải qua tuổi thơ thế nào ở nơi đây chính là em. Hồi đó, ta đã phải chịu đựng quá nhiều lời nhục mạ, chửi bới, dọa dẫm, đến nỗi hễ nghe thấy tiếng của cô ta là ta muốn bỏ chạy. Dù mấy năm gần đây, cô ta không đánh đập, chửi bới ta nữa, thậm chí đã đối xử với ta mềm mỏng hơn rất nhiều, nhưng ta vẫn rất sợ cô ta. Vả lại, cô ta tỏ ra hiền thục, nhu mì chẳng được bao lâu, sau đó mọi việc thế nào thì em biết cả rồi đấy. Cô ta đáng sợ đến mức ta không thể chịu nổi!

Tôi thở dài, liếm khô những ngấn nước bên khóe mắt cậu ấy:

- Kháp Na, trước lúc viên tịch, đại sư Ban Trí Đạt từng nhắc nhở cậu, nếu không thể chung sống hòa thuận với Công chúa, cậu có thể chọn cho mình một người vợ có xuất thân cao quý khác.

- Ta còn có thể ư? Giờ đây, ngay cả ra phố ta còn không dám. Ta chỉ sợ ta đi đến đâu cũng sẽ có những cô gái vì ta mà phải chịu tai họa.

Cậu ấy ôm tôi sát ngực, đăm đắm nhìn bầu trời đêm xa mù, ánh mắt cô đơn, lạc lõng, buồn u uẩn:

- Tiểu Lam ơi, ta không còn cơ hội gặp được người ta yêu thương nữa! Chỉ e đời này, ta chẳng thể yêu như những người bình thường khác.

Tôi mãi mãi không bao giờ quên ánh mắt tuyệt vọng của Kháp Na hôm đó. Bóng dáng gầy guộc của cậu ấy hắt lên vẻ cô liêu, đơn độc, giống như một thân cây lẻ loi bị lãng quên, lặng lẽ phơi mình dưới ánh trăng đêm quạnh quẽ, giá lạnh.

r

- Đúng là số phận! – Chàng trai trẻ xúc động thốt lên. – Đại sư Ban Trí Đạt ở trên trời có linh, hẳn sẽ rất ân hận vì đã tước bỏ hạnh phúc của cháu trai mình.

- Xưa nay các cuộc hôn nhân vì mục đích chính trị đều không mấy hạnh phúc, đồng thời cũng mặc định rằng hai bên không được phép ly hôn. Nhưng nếu họ có thể tôn trọng nhau, không can thiệp vào đời sống của nhau, cố gắng giữ gìn mối quan hệ hình thức thì có lẽ cũng không đến nỗi không thể chung sống. Có điều, Mukaton đã rơi vào bi kịch này. Cô ấy đã đem lòng yêu người đàn ông không bao giờ có thể trao trái tim cho cô ấy.

Nhớ đến ánh mắt u buồn, vẻ mặt thẫn thờ của Kháp Na, lòng tôi lại bị vò xé, tôi cố kìm nén nỗi nghẹn ngào để tiếp tục câu chuyện:

- Kháp Na càng trưởng thành càng khôi ngô, tuấn tú và Mukaton càng say mê cậu hơn. Nhưng vì tình yêu không được đáp lại, Mukaton càng ngày càng trở nên cực đoan. Cô ấy cho rằng dung mạo của mình và những cám dỗ bên ngoài khiến Kháp Na không chịu yêu cô ấy.

Chàng trai trẻ chau mày.

- Không người đàn ông nào có thể yêu thương người phụ nữ bạo ngược, độc ác. Điều này chẳng liên quan gì đến dung mạo, vóc dáng cả. – Cậu ta thở dài, nhìn tôi. – Kháp Na quả thực rất đáng thương. Tôi thành tâm cầu mong cậu ấy sẽ được hạnh phúc.

Tôi lắc đầu chua xót:

- Khi ấy tôi không biết rằng, những bi kịch, đau đớn của cuộc đời Kháp Na còn chưa bắt đầu… 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro