CHƯƠNG SÁU

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tôi thừa nhận là một số người phải làm quen với những nơi tồi tệ." Barnard nhận xét như vậy vào cuối tuần đầu tiên ở lại Shangri-La, và chắc chắn đây là một trong nhiều bài học cần phải rút ra. Hồi đó cả bốn người đã quen dần với cái gọi là cuộc sống hàng ngày. Với sự giúp đỡ của tu sĩ Tưởng họ không còn thấy quá buồn tẻ nữa. Họ đã quen với khí hậu và không khí ở đây, thấy nó đã làm cho con người khỏe mạnh lên với điều kiện tránh mang xách nặng hoặc làm việc quá mệt. Họ đã biết là ngày ở đây ấm áp, đêm lạnh giá, tu viện nằm trong một khu vực gần như hoàn toàn không có gió, những đợt tuyết trồi lở thường xảy ra vào khoảng giữa trưa, dưới thung lũng người ta có trồng một thứ thuốc lá rất ngon, một số thức ăn, thức uống ngon thơm hơn những thức khác và mỗi người trong bọn họ cũng có một khẩu vị, những đặc tính riêng. Thực tế họ đã phát hiện thấy ở nhau nhiều điểm như bốn học sinh của một nhà trường mà các học sinh khác đều vắng mặt một cách huyền bí. Tu sĩ Tưởng đã hết sức xoa dịu làm cho không khí êm thắm. Ông đưa bốn người đi dạo chơi, ông gợi ý công việc để làm, ông giới thiệu sách, và mỗi khi tại bữa ăn vì một việc gì đó khó khăn khiến mọi người ngừng lại, thi với giọng nói chậm rãi, lưu loát mà thận trọng, ông gợi chuyện với họ, luôn tỏ ra ôn hòa, lịch sự và tháo vát. Đường ranh giới giữa những thông tin sẵn sàng cung cấp và những thông tin từ chối không đưa ra một cách lễ phép, đã rất rõ khiến những thông tin loại sau không còn gây bực bội, trừ Mallinson tính khí thất thường. Conway vui lòng ghi nhận điều đó, anh cộng thêm một mảng khác vào số những dữ kiện mà anh luôn thâu góp. Barnard, thậm chí còn đùa bỡn với tu sĩ theo kiểu cách và truyền thống trong quy ước của Câu lạc bộ Rotary21[1] miền Trung Tây "Thưa tu sĩ Tưởng, hẳn ông cũng biết đây, đây là một khách sạn hết sức tồi. Ở đây, các ông không có báo chí gì hết ư? Tôi sẵn sàng đổi tất cả những cuốn sách trong thư viện các ông để lấy một tờ Herald- Tribune sáng nay". Tu sĩ trả lời bao giờ cũng nghiêm túc, tuy không cần thiết là sau đây ông ta có coi mọi vấn đề là nghiêm túc hay không. "Ông Barnard, chúng tôi ở đây có nhiều tập báo The Times, đủ số của mấy năm trước đây. Duy có điều tôi phải nói rất tiếc là thiếu tờ London Times."


Conway rất lấy làm mừng khi thấy thung lũng ở đây không phải "cách ly hẳn với thế giới" mặc dầu do khó khăn về leo trèo đường dốc mà người du lịch nếu không có người hộ tống thì không thể leo lên được. Họ đã cùng tu sĩ suốt một ngày đi thăm cái nền xanh ngắt nhìn từ mép vách đá xuống thực là đẹp mắt. Và với Conway, dù sao thì đây cũng là một chuyến đi chơi đầy hứng thú hấp dẫn. Họ ngồi trong những chiếc ghế kiệu lắc lư cực kỳ nguy hiểm qua những vách đứng, trong lúc những người phu khiêng kiệu đàng trước và đàng sau ung dung bước xuống theo con đường dốc thẳng đứng. Đây không phải là con đường đi của những ai hay buồn nôn, nhưng khi cuối cùng, xuống tới khu đất thâp của rừng cấy và chân đồi thì họ thấy cái may mắn tuyệt vời của tu viện này thể hiện rõ ở khắp nơi. Vì toàn bộ khu thung lũng là một thiên đường khép kín, đất cát màu mỡ kỳ lạ; ở đây, cái chiều cao thẳng đứng khác nhau mấy nghìn bộ đã san bằng cái vực sâu giữa ôn đới và nhiệt đới. Cấy cối đủ mọi loài mọc sum sê liên tiếp nhau, không có một tấc đất bỏ hoang. Toàn bộ khu cấy trồng kéo dài có lẽ đến mười hai dặm, bề rộng thay đổi từ một đến năm dặm và tuy hẹp, ở đây vẫn có ánh nắng soi đến vào lúc nóng nhất của ngày. Thật vấy, không khí ngay lúc không có mặt trời vẫn ấm áp một cách dễ chịu, tuy ở một số những con ngòi nhỏ nước giá lạnh như nước đá. Ngẩng nhìn bức tường núi đồ sộ, Conway lại cảm thấy cảnh ở đây có một mối nguy hiểm, mối nguy hiểm hùng vĩ và thanh tú; nếu không có khối đá ngẫu nhiên được đặt ra để chắn thì toàn bộ khu thung lũng rõ ràng đã trở thành một cái hồ, luôn hứng nước đổ xuống từ những đỉnh cao phủ đầy băng ở bốn xung quanh. Nhờ tấm đá chắn, thung lũng không trở thành hồ nước mà chi có một số dòng nước lặng lẽ đổ vào các hồ chứa làm đầy nước và tưới cho những cánh đồng, những khu cấy trồng một cách chu đáo, có kỷ luật, xứng đáng là một kỹ sư phụ trách công tác vệ sinh. Toàn bộ thiết kế hầu như may mắn một cách huyền bí, chừng nào cấu trúc của khung cảnh còn không bị động đất hoặc đất lở làm đảo lộn.

Nhưng ngay cả những nỗi lo sợ mơ hồ về sau này cũng chỉ có thể làm tăng thêm cái vẻ đẹp của hiện nay. Lại một lần nữa, Conway bị cảnh vật quyến rũ, vẫn những cái đẹp và cái chân thực đã khiến cho những năm công tác ở Trung Quốc, anh thấy sung sướng hơn những năm khác. Cái khối đá mông mênh bao quanh đã tạo nên một sự tương phản hoàn toàn với những bãi cỏ nhỏ xíu và những mảnh vườn sạch cỏ, những nhà uống trà có dòng nước trang điểm và những căn nhà nhỏ bé như những đồ chơi trẻ con. Dân ở đây anh thấy dường như là những người lai Trung Quốc và Tây Tạng một


cách rất thành công; họ sạch sẽ hơn, xinh đẹp hơn cỡ người trung bình của hai giống người ấy, và hình như cũng chịu thiệt ít thôi, do tình trạng giao phối thân thuộc là điều không thể tránh được trong một xã hội nhỏ bé như vậy. Thấy những người lạ ngồi ghế kiệu đi qua, họ mỉm cười hoặc cười to và chào tu sĩ Tưởng. Họ vui vẻ, ít tò mò, lịch sự và thanh thản, bận bịu nhiều việc, nhưng bề ngoài không tỏ ra vội vã. Nhìn chung, Conway cho đây là một cộng đồng người dễ chịu nhất anh chưa từng thấy, và ngay cả cô Brinklow vẫn để ý tìm xem có hiện tượng gì là thoái hóa của một kẻ ngoại đạo, cũng phải thừa nhận "nhìn bể ngoài" thì mọi sự đều rất tốt. Cô cảm thấy dễ chịu khi thấy nhưng người thổ dân ở đây đều ăn mặc "chỉnh tề", mặc dù phụ nữ mặc quần chẽn ống ở mắt cá theo kiểu Trung Quốc; và khi vào thăm một nhà chùa, với trí tưởng tượng cao độ để xem xét kỹ lưỡng, cô cũng chỉ thấy có một số ít bức tượng có thể coi là phần nào có dấu vết đáng ngờ của lối thờ tượng dương vật. Tu sĩ Tưởng giải thích chùa này có những tu sĩ của họ, và không chịu sự cai quản chặt chẽ của Shangri-La, tuy họ thuộc một ngành khác. Hình như còn có một đền thờ Lão Tử và một đền thờ Khổng Tử dọc khu thung lũng.

"Viên ngọc vốn có nhiều mặt," Tu sĩ Tưởng nói "Và rất có thể là nhiều đạo giáo cũng chân chính ở mức độ vừa phải."

"Tôi đồng ý với ông về điểm ấy." Barnard vui vẻ nói. "Tôi không bao giờ tin vào những sự đố kỵ về giáo phái. Này, ông Tưởng, ông thực sự là một triết gia, tôi phải nhớ kỹ nhận xét ông vừa nêu: 'Nhiều đạo giáo chân chính ở mức độ vừa phải.' Các ông ở trên núi này hẳn phải là những con người khôn ngoan lịch duyệt mới nghĩ được ra điều ấy. Ông nói cũng đúng. Tôi tin chắc chắn tuyệt đối vào điều đó."

"Nhưng chúng tôi," tu sĩ Tưởng mơ màng đáp lại, "Chúng tôi chỉ tin chắc một cách vừa phải thôi."

Cô Brinklow không quan tâm đến tất cả những điều ấy mà với cô hình như đây chỉ là dâu hiệu của lười biếng thôi. Dù sao thì cô còn bận tâm với những ý nghĩ riêng của cô. "Khi trở về", cô mím chặt miệng rồi nói, "Tôi sẽ yêu cầu hội của tôi cử đến đây một đoàn truyền giáo. Và nếu họ có lầm bầm vì tốn tiền thì tôi sẽ gây áp lực cho đến khi họ phải đồng ý."

Rõ ràng đây là một tinh thần lành mạnh hơn, và ngay cả Mallinson vốn


không có cảm tình mấy đối với các đoàn truyền giáo nước ngoài, cũng không thể không tỏ lời khen ngợi. Anh nói: "Họ phải cử cô thôi, và tất nhiên là nếu cô thích một nơi như ở đây."

"Đây không phải là vấn đề thích," cô Brinklow đáp lại. "Tất nhiên là không ai thích, mà thích làm sao được? Đây là một vấn đề cảm thấy mình có bổn phận phải làm."

Conway nói: "Tôi nghĩ, nếu tôi là một nhà truyền giáo thì tôi sẽ chọn nơi này hơn là vô số nơi khác."

"Trường hợp như vậy," cô Brinklow cướp lời nói, "Sẽ rõ ràng chẳng có gì đáng gọi là công trạng."

"Nhưng tôi không nghĩ đến công lao hay công trạng."

"Vậy càng đáng thương hại hơn. Làm một công việc chi vì mình thích làm thì chẳng có ích gì. Cứ nhìn những người dân ở đây thì thấy!"

"Tất cả họ xem ra rất vui vẻ sung sướng đây chứ."

"Đúng." Cô đáp lại, giọng hơi mạnh mẽ. Cô nói thêm: "Nhưng dù sao, tôi cũng thấy tại sao tôi lại không bắt đầu bằng việc học ngôn ngữ. Ông Tưởng, ông có thể cho tôi mượn một cuốn sách dạy ngôn ngữ ở đây không?"

Tu sĩ Tưởng tỏ ra hết sức ngọt ngào đáp lại: "Thưa bà, rất có thể và với niềm vui thích lớn nhất. Và, nêu được phép nói, tôi nghĩ ý kiến của cô là tuyệt vời. "

Chiều hôm ấy, khi leo trở lại Shangri-La, tu sĩ coi vấn đề này là quan trọng cần đáp ứng ngay. Cô Brinklow thoạt đầu hơi nản lòng với cuốn sách dày cộp do một học giả người Đức ở thế kỷ thứ 19 đã bỏ ra bao nhiêu công sức để soạn (có lẽ lúc đầu cô nghĩ đến một cuốn mỏng hơn như loại Hãy ôn lại tiếng Tây Tạng của anh). Song với sự giúp đỡ của tu sĩ Tưởng và được Conway khuyến khích, cô đã đi được những bước đầu tốt đẹp và chẳng mấy công sức cô bỏ ra đã thu được kết quả khá thỏa mãn.

Conway cũng tìm thấy nhiều điều để anh quan tâm, không kể vấn đề lớn choán hết thời gian mà anh đã tự đặt ra cho mình. Trong những ngày ấm nắng, anh tận dụng thư viện, phòng nhạc, và trong thâm tâm, anh thấy đúng


thực là các vị Lama ở đây có một hình độ văn hóa đặc biệt cao. Các vị có sở thích đọc sách nói về gia tô giáo; những tác phẩm của Plato bằng tiếng Hy Lạp đặt bên tác phẩm của Omar bằng tiếng Anh; Nietzsche ở bên Newton; cả tác phẩm của Thomas More và cũng có cả Hannah More, Thomas Moore, George Moore và Old Moore. Conway ước tính có tất cả từ hai đến ba vạn cuốn; và thực đáng suy nghĩ về cách chọn lựa và mua được những tác phẩm ấy. Anh cũng cố tìm xem những ấn phẩm bổ sung gần đây nhất là vào thời gian nào, nhưng anh không thấy có cuốn nào in sau những tờ Im Westen Nichts Neues in lại rẻ tiền. Tuy nhiên, lần đến thư viện về sau, tu sĩ Tưởng cho anh biết có những cuốn khác xuất bản vào khoảng giữa năm 1930, chắc chắn sẽ được đưa đến bổ sung vào các giá sách, những cuốn đó đã được đưa đến tu viện. Ông ta nói: "Ông xem đấy, chúng tôi luôn giữ cho mình không bị lạc hậu."

Conway mỉm cười đáp lại: "Nhưng cũng có những người không đồng ý với ông về điểm ấy. Hẳn ông cũng biết là có biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra trên thế giới chỉ mới từ năm ngoái thôi."

"Thưa ông, chẳng có gì quan trọng mà không được thấu hiểu rõ hơn vào năm 1940.[1] "

"Vậy các ông không quan tâm đến những sự phát triển mới nhất về cuộc khủng hoảng thế giới hay sao?"

"Tôi sẽ quan tâm sâu sắc đến nó vào đúng lúc."

"Ông Tưởng, ông biết đây, tôi tin là tôi đã bắt đầu hiểu ông. Hướng đi của các ông khác với chúng tôi, sự thể là thế. Thời gian đối với ông không quan trọng như đối với hầu hết mọi người. Nếu tôi ở London tôi cũng sẽ không háo hức săn đón để xem tờ báo chót, và các ông ở Shangri-La các ông cũng không háo hức xem tờ báo cũ của năm trước. Cả hai thái độ ấy, tôi thấy đều hợp lý. Nhân tiện xin hỏi ông, ông tiếp đoàn khách cuối cùng đến đây vào hồi nào?"

"Thưa ông Conway, điều đó, tôi rất không may là không thể nói được."

Kết thúc câu chuyện thường là như vậy và Conway thấy thế còn đỡ khó chịu hơn là cái hiện tượng trái lại mà anh đã phải chịu đựng rất nhiều hồi anh đang công tác - là gắng đến mấy cho gọn, câu chuyện vẫn cứ kéo dài


tưởng chừng không bao giờ dứt. Do gặp nhiều, anh bắt đầu cảm thấy mến tu sĩ Tưởng hơn, tuy anh vẫn phân vân về việc gặp rất ít nhân viên của tu viện; ngay dù cho rằng bản thân các vị Lama thì không gặp được, nhưng còn những người đang chờ được phong chức Lama như tu sĩ Tưởng thì sao?

Tất nhiên còn cô bé Mãn Thanh. Đôi khi vào phòng nhạc, anh vẫn nhìn thấy cô gái; nhưng cô ta không biết tiếng Anh, còn anh thì vẫn chưa muốn để lộ ra mình biết tiếng Trung Quốc. Anh vẫn không thể xác định được rõ là cô bé dạo đàn chỉ để chơi hay là tập đàn. Quả vậy, lối chơi cũng như toàn bộ cách đối xử của cô theo đúng nghi thức một cách tuyệt vời, những bản nhạc cô chọn bao giờ cũng là những bản mẫu mực hơn - của Bach, Corelli, Scarlatti và đôi khi của Mozart. Cô thích chơi đàn Harpsichord hơn dương cầm, nhưng khi Conway dạo dương cầm thì cô lắng nghe vẻ rất nghiêm túc và hầu như cô đánh giá một cách tôn kính. Thực không thể biết được trong đầu óc cô có những ý nghĩ gì cũng như thực khó mà đoán được ngay cả cô bao nhiêu tuổi. Có lúc anh nghĩ cô phải trên ba mươi hoặc dưới mười ba tuổi. Vậy mà, thực kỳ lạ, cả hai điều không chắc đúng ấy lại không thể nào gạt đi bảo là hoàn toàn không thể đúng được.

Mallinson, đôi khi đến nghe nhạc vì chẳng còn biết làm gì hơn, cũng thấy cô bé là một vấn đề rất khó hiểu. Đã nhiều lần anh nói với Conway: "Tôi thực không thể hiểu nổi sao cô ta lại ở đây. Công việc tu hành thì hợp với những người nhiều tuổi như tu sĩ Tưởng, mà một cô gái như cô ta thì bị hấp dẫn bởi cái gì trong cuộc sống tu hành này? Tôi nghĩ không hiểu cô ta đến đây đã được bao lâu rồi?"

"Tôi cũng băn khoăn không hiểu nổi, nhưng đây là một trong số những sự việc mà người ta chắc sẽ không cho chúng ta biết."

"Anh có cho rằng cô ta thích ở đây không?"

"Tôi phải nói là cô ta xem ra không có gì là không thích cuộc sống ở

đây."

"Về vấn đề ấy, cô ta không tỏ ra có ý kiến gì. Cô ta như một con búp

bê bằng ngà hơn là một con người."

"Nhưng dù sao cũng là giống một cái gì hấp dẫn đáng yêu."


"Cứ nhìn vẻ bề ngoài."

Conway mỉm cười: "Và cái vẻ bề ngoài ấy có nhiều đây, chú Mallinson ạ, khi chú nghĩ đến nó. Dù sao thì cô búp bê bằng ngà ấy cũng rất lịch sự, ăn mặc thể hiện rất có khiếu thẩm mỹ, vẻ ngoài trông xinh đẹp, đánh đàn Harpsichord giỏi và không đi lại trong phòng như thể cô đang chơi hockey. Theo trí nhớ của tôi thì vùng Tây Âu có rất nhiều phụ nữ thiếu đức hạnh ấy."

"Anh coi thường phụ nữ quá đáng đây, anh Conway." Conway vốn đã quen người ta chê trách anh về điểm ấy. Thực ra anh không có giao tiếp nhiều với giới nữ, và trong những lần đi phép đến những vùng đổi nghỉ mát thì cái danh tiếng hay nhạo báng phụ nữ cũng dễ chấp nhận như những lời chê trách khác. Sự thực, anh cũng đã có nhiều lần làm bạn bè vui vẻ với phụ nữ, những người này nếu anh hỏi họ hẳn họ cũng đã ưng thuận lấy anh - nhưng anh lại không hề hỏi họ. Có một lần suýt nữa anh đã có tin để báo hỉ đăng trên tờ Morning Post (Bưu điện buổi sáng), song cô gái lại không muốn sống ở Bắc Kinh, còn anh lại không muốn sống ở Tunbridge Wells, hai cái không thích này đã tỏ ra không đánh bật được nhau. Cho đến nay, những kinh nghiệm của anh trong giao du với phụ nữ có chăng chi là ướm thử, gián đoạn và phần nào không đi đến đâu cả. Nhưng xét cho cùng, anh không phải là người coi thường chế nhạo phụ nữ.

Anh cười đáp lại Mallinson: "Tôi ba mươi bảy - chú hai mươi bốn. Tất cả là ở chỗ đó."

Nín lặng một lúc, đột nhiên Mallinson hỏi Conway: "Ồ, vậy anh đoán tu sĩ Tưởng bao nhiêu tuổi?"

"Vào khoảng," Conway nhẹ nhàng đáp: "Giữa bốn mươi lăm và một trăm bốn mươi lăm."

Tuy nhiên, một thông tin như vậy không đáng tin hơn nhiều thông tin khác mà những người mới đến đã nhận được. Vì lẽ những điều họ tò mò muốn biết lại không được giải đáp, nên đi đến chỗ biết bao nhiêu điều mà tu sĩ Tưởng sẵn sàng đưa ra cho mọi người đều trở thành lờ mờ khó hiểu. Chẳng hạn, không có gì là bí mật về những thói quen, tập tục của người dân dưới thung lũng. Conway vốn hay quan tâm đến những vấn đề ấy đã có


những cuộc chuyện trò mà có thể giúp anh viết thành một bản luận án tốt dừng được. Như một sinh viên nghiên cứu về vấn đề giao thiệp, anh đặc biệt quan tâm đến cách thức cai trị người dân thung lũng; qua nghiên cứu kỹ, anh thấy, dường như đây là một chế độ chuyên quyền có phần lỏng lẻo, mềm dẻo mà các vị chức quyền ở tu viện này thi hành với lòng nhân từ không chút gò bó. Chắc chắn chế độ cai trị này là một thành công vững chắc, cứ xuống nhìn cái thiên đường mầu mỡ ở bên dưới là thấy rõ. Conway còn phân vân chưa hiểu rõ về cái cơ sở tối hậu của luật pháp và trật tự; ở đây không có binh lính hoặc cảnh sát, vậy chắc phải có một số điều khoản nào để đối phó với những kẻ bất trị chứ? Tu sĩ Tưởng nói rằng tội phạm ở đây rất hiếm, một phần vì chi những sự vi phạm nghiêm trọng mới gọi là tội phạm, và một phần vì ở đây mọi người đều sống đầy đủ, họ có tất cả những gì mà họ mong ước một cách hợp lý. Phương sách cuối cùng là những người phục vụ riêng của tu viện có đủ sức để khai trừ, đuổi kẻ phạm tội ra khỏi thung lũng - điều này được coi là một sự trừng phạt cuối cùng đáng sợ, chi đôi khi mới phải dùng đến. Nhưng nhân tố chủ yếu của chính quyển Trăng Xanh, tu sĩ Tưởng tiếp tục nói, là sự răn dạy khắc sâu cách cư xử lịch sự, khiến người ta biết những sự việc "không được làm" và nếu làm sẽ bị tước đẳng cấp. "Người Anh các ông ở trường học cũng có răn dạy khắc sâu những điều như vậy, nhưng tôi e là, nhằm mục đích khác. Cư dân ở thung lũng, chúng tôi chẳng hạn, nhận thức "không được làm" để khỏi mất lòng hiếu khách đối với người lạ, để khỏi tranh cãi xâu xé nhau hoặc để khỏi ganh đua đè đầu cưỡi cổ nhau. Cái ý niệm hưởng thụ mà các ông giáo ở Anh gọi là cuộc chiến đấu bắt chước ngoài sân bóng, với người dân thung lũng đây, họ coi là hoàn toàn man rợ - thực vậy, đây là một sự kích thích tồi tệ các bản năng thấp kém của con người."

Conway hỏi thể có những sự cãi cọ nhau vì phụ nữ không?

"Chỉ rất họa hoằn vì lấy một người đàn bà mà người khác ước muốn là không lịch sự."

"Giả dụ có một kẻ nào đó rất thèm muốn người đàn bà ấy đến mức không đếm xỉa đến lịch sự thì sao?"

"Thưa ông, như vậy thì người kia sẽ là người lịch sự nhường lại và người đàn bà cũng phải vui vẻ để tỏ ra lịch sự. Ông Conway, hẳn ông lấy làm ngạc nhiên khi thấy sự áp dụng một chút phép lịch sự ở khắp nơi đã giải


quyết được những vấn đề ấy một cách dễ dàng."

Hẳn là trong những chuyến xuống thăm thung lũng Conway càng thấy thích thú cái tinh thần thiện ý và vui lòng vì anh biết rằng, trong tất cả các nghệ thuật chỉ có nghệ thuật cai trị là kém được hoàn thiện nhất. Tuy vậy, khi anh ngỏ lời khen ngợi thì tu sĩ Tưởng đáp lại: "Nhưng ông thấy đây, chúng tôi tin rằng để cai trị một cách hoàn hảo, cần phải tránh đừng cai trị quá mức."

"Nhưng các ông không có một bộ máy dân chủ nào như việc bầu cử ...

?"

"Ồ, không. Dân chúng ở đây sẽ rất khó chịu khi phải tuyên bố rằng

chính sách này hoàn toàn đúng và chính sách kia hoàn toàn sai." Conway mỉm cười. Anh thấy thái độ ấy dễ thương một cách kỳ lạ.

Trong lúc đó, cô Brinklow có cái thỏa mãn riêng của mình là việc học tiếng Tây Tạng và cũng trong lúc ấy, Mallinson lại cứ tỏ ra phiền muộn, càu nhàu, còn Barnard kiên trì giữ thái độ thản nhiên dường như cũng không kém phần đáng lưu ý, không kể nó là sự thực hay chi là giả vờ.

"Xin nói thật với anh," Mallinson nói, "Thằng cha này khoái chí chi vì hắn đã làm được tôi khó chịu. Tôi hiểu được việc hắn cố tỏ ra bình tĩnh, nhưng việc hắn liên tiếp pha trò đã bắt đầu làm tôi bực mình. Nêu ta không cảnh giác, hắn sẽ trở thành linh hồn của bọn ta đây."

Conway cũng đã hai ba lần ngạc nhiên khi thấy anh chàng người Mỹ đã yên tâm một cách dễ dàng. Anh đáp lời Mallinson: "Anh ta vui vẻ chấp nhận tình thế này chẳng là điều may mắn cho chúng ta đây ư?"

"Riêng cá nhân tôi, tôi thấy thái độ ấy đặc biệt lạ. Anh Conway, anh có biết gì về hắn ta không? Tôi muốn nói là anh có biết hắn là ai không và nhiều điều khác nữa..."

"Tôi cũng chẳng biết gì nhiều hơn chú biết. Tôi biết hắn từ Ba Tư đến và hình như trước đây có làm công việc dò tìm mỏ dầu. Đây là cách hắn dễ dàng chấp nhận sông bình thản - khi dàn xếp việc di tản bằng đường hàng


không, tôi đã khó khăn lắm mới thuyết phục được hắn đi với chúng ta. Hắn chỉ đồng ý ra đi khi tôi bảo rằng tờ hộ chiếu Mỹ không thể ngăn cản được các viên đạn đâu."

"À này, anh có nhìn rõ tờ hộ chiếu của hắn không?"

"Có lẽ tôi đã nhìn qua, nhưng giờ đây tôi cũng không nhớ rõ nữa. Thế, tại sao?"

Mallinson cười. "Tôi e rằng nói ra anh sẽ cho tôi đúng là đã không lo cho công việc của mình. Dù thể nào chăng nữa, hai tháng ở đây cũng sẽ phơi trần hết các điều bí mật của chúng ta, nếu chúng ta có. Xin anh chú ý, sự việc xảy ra hoàn toàn do ngẫu nhiên và tất nhiên là tôi chưa hé miệng nói một lời với ai khác. Ngay với anh, tôi cũng chưa có ý nói để anh biết, song giờ đây, chúng ta đã để cập đến vấn đề thì tôi xin nói."

"Tất nhiên là nói được, nhưng chú hãy cho tôi biết chú muốn nói về chuyện gì?"

"Chuyện này: Barnard đã dùng hộ chiếu giả để đi lại. Hắn không phải là Barnard."

Conway rướn hai hàng lông mày tỏ vẻ quan tâm đến vấn đề, nhưng chẳng hề lo âu. Anh mến Barnard, con người vẫn thực sự khuấy động xúc cảm trong anh, nhưng anh không thể nhăm nhăm để ý xem anh ta thực sự là ai. Anh nói: "Ồ, vậy chú bảo hắn ta là ai?"

"Hắn chính là Chalmers Bryant."

"Quỷ bắt hắn đi! Tại sao chú lại nghĩ vậy?"

"Sáng nay, hắn ta đánh rơi một cuốn sổ tay, tu sĩ Tưởng nhặt được và đã đưa cho tôi vì ông nghĩ là của tôi. Cuốn sổ kẹp đầy những bài báo cắt rời, mấy mẩu rơi ra lúc tôi cầm lấy, nên thú thực tôi đã đưa mắt nhìn qua. Suy cho cùng, bài báo cắt ra không phải là cái riêng tư, hoặc cũng không được coi là riêng tư. Tất cả những mẩu báo đó đều nói về Bryant và việc truy lùng tên này, trên một mẩu tin còn có tấm ảnh nom đặc biệt giống tay Barnard này, chi khác bộ ria mép."

"Thế chú đã nói chuyện này cho chính Barnard biết chưa?"


"Chưa, tôi chỉ đưa lại cho hắn cuốn sổ tay mà không nói gì hết."

"Vậy toàn bộ câu chuyện chỉ căn cứ vào có thế mà buộc tội một người. Tất nhiên, chú có thể đã nghĩ đúng. Tôi không nói hắn ta không phải là Bryant. Nếu đúng vậy thì lý giải khá rõ về thái độ vui vẻ của hắn ta ở đây - hắn khó mà tìm được một chỗ nào tốt hơn để lẩn tránh."

Mallinson xem ra có vẻ thất vọng khi thấy Conway nghe tin này với vẻ thản nhiên bình thường, cái tin mà anh cho là nhất định phải gấy xúc động mạnh. Anh hỏi:

"Vậy thế việc này anh định đoạt ra sao?"

Conway suy nghĩ một lát rồi đáp: "Tôi cũng chưa nghĩ được nhiều lắm.

Có thể là không nghĩ được chút nào. Dù sao thì ta có thể làm được gì đây?" "Nhưng mẹ kiếp, nếu thằng cha ấy là Bryant."

"Chú Mallinson ơi, dù cho thằng cha ấy có là bạo chúa Nero thì lúc này

sự thể vậy cũng không quan hệ gì đến chúng ta! Là thánh hay là kẻ cắp, thì chừng nào còn ở đây chúng ta vẫn cứ phải hết sức sát cánh bên nhau, và tôi nghĩ có tỏ thái độ gì thì cũng chẳng giúp được chúng ta xoay chuyển tình thế. Nếu ở Baskul mà tôi đã nghi ngờ hắn thì tất nhiên tôi đã tìm cách để nói chuyện với Delhi về hắn - khi ấy chỉ là một công việc của chính quyền. Còn bấy giờ tôi nghĩ tôi có thể nói tôi đã hết nhiệm vụ rồi."

"Anh không thấy đây là nhìn nhận sự việc một cách nhu nhược ư?"

"Nhu nhược hay không tôi không tính đến, chừng nào nó là hợp lý." "Vậy có nghĩa là anh khuyên tôi nên quên đi điều tôi vừa phát hiện ra

phải không?"

"Có thể chú không quên được điều ấy, nhưng tôi nghĩ chắc chắn là cả hai chúng ta có thể phải giữ kín chuyện này, không phải vì Barnard hay Bryant hoặc vì bất kỳ người nào khác mà chính là để tránh cho chúng ta khỏi lâm vào hoàn cảnh rắc rối khi chúng ta trở về."

"Anh nói vậy có nghĩa là chúng ta phải để mặc cho hắn tẩu thoát?"

"Ồ, tôi muốn nói hơi khác một chút, là chúng ta sẽ để cho một ai khác


có thích thú được bắt hắn ta. Khi ta đã sống chan hòa với một người nào đó trong mấy tháng, thì xem ra thực là khó coi khi ta báo cho cảnh sát đến còng tay người ấy."

"Theo ý tôi, tôi không đồng tình với cách làm ấy. Thằng cha này là một tên đại bợm - tôi từng biết có bao nhiêu người đã mất tiền với hắn."

Conway nhún vai. Anh khen ngợi lối sống của Mallinson, chất phác, trắng đen rõ rệt; cái đạo đức của nhà trường có thể là thô lỗ, nhưng ít nhất thì nó cũng thẳng thắn. Nếu một người nào đó vi phạm pháp luật, thì tất cả mọi người đều có bổn phận đưa hắn ra công lý - bao giờ cũng vậy, miễn là công lý của một thứ luật pháp không ai được vi phạm. Và luật pháp có liên quan đến những tấm séc, những cổ phần và những bản quyết toán thì nhất định thuộc về loại này. Bryant đã vi phạm pháp luật, và tuy Conway không quan tâm nhiều đến việc này, nhưng anh vẫn có cảm tưởng đây là một việc làm quá ư sai sót về loại đó. Tất cả những gì anh biết được là sự thất bại của nhóm Bryant khổng lồ ở New York đã đưa đến một thất thoát vào khoảng một trăm triệu đô la - một sự đổ vỡ kỷ lục. Bằng cách này hoặc cách khác (Conway không phải là một chuyên gia tài chính), Bryant đã lừa đảo ở phố Wall và kết quả là có giấy trát truy bắt hắn, việc hắn trốn khỏi châu Âu và những lệnh dẫn độ hắn ở năm, sáu nước.

Cuối cùng, Conway nói: "Ồ, nếu chú nghe lời ta khuyên thì chú nên không nói gì về chuyện này hết, làm như vậy không phải vì quyền lợi của hắn mà vì chúng ta. Tất nhiên, chú cũng nên nhó cái khả năng có thể hắn không phải là Bryant."

Nhưng chính hắn đây và sự phát hiện đã lộ ra vào chiều hôm ấy sau bữa ăn. Lúc đó, tu sĩ Tưởng đã rút lui, cô Brinklow quay về với cuốn văn phạm tiếng Tây Tạng; ba chàng lưu đày ngồi đối diện nhau uống cà phê, hút thuốc. Câu chuyện hao đổi trong bữa ăn có thể đã lắng đi mấy bận, nếu không có tu sĩ Tưởng khéo léo và nhã nhặn; giờ đây, khi ông ta không có mặt, một không khí yên lặng nặng nề đã trùm xuống. Lúc này Barnard lần đầu tiên không bông đùa. Conway thầy rõ Mallinson không thể giữ im lặng về sự việc anh chàng người Mỹ coi như không hề có chuyện gì xảy ra, và cũng rõ ràng là Barnard tình ý đã biết được là có điều gì đã xảy ra.

Đột nhiên, anh chàng người Mỹ ném điếu xì gà đi và nói: "Tôi đoán tất


cả mọi người đã biết rõ tôi là ai rồi."

Mallinson đỏ mặt như một cô gái, còn Conway đáp lại vẫn với vẻ bình tĩnh. "Đúng vậy, tôi và Mallinson nghĩ rằng chúng tôi đã biết."

"Một sự vô ý chó chết của tôi đã để đánh rơi những mẩu báo ấy." "Chúng ta ai cũng có lúc vô ý."

"Ồ, các anh rất bình tĩnh trước một sự việc như vậy, ghê thực!"

Lại yên lặng; mãi về sau, cô Brinklow cất tiếng the thé nói: "Ông Barnard, chắc chắn tôi không biết ông là ai, tuy vậy tôi vẫn phải nói rằng, từ trước tôi cũng đã đoán ông đi lại với giấy tờ của người khác." Mọi người quay lại nhìn cô, vẻ dò hỏi; cô nói tiếp: "Tôi nhớ rõ khi ông Conway nói tên tuổi chúng ta sẽ được nêu trên báo chí thì ông nói điều đó ông không quan tâm. Lúc ấy, tôi liền nghĩ có thể Barnard không phải là tên thực của ông."

Anh chàng phạm tội chậm rãi mỉm cười, vừa châm điếu xì gà khác để hút. Rồi hắn nói: "Thưa bà, bà không những là một nhà thám tử tài giỏi mà bà còn tìm được một cụm từ rất tao nhã để nói về cái tình thể của tôi hiện nay, tôi đang đi lại với giấy tờ của người khác. Bà đã nói như vậy và bà hết sức đứng. Còn về các anh, tôi không hề lấy làm buồn về việc các anh đã phát hiện ra tôi. Chừng nào không một ai trong các anh có ý gì nghi hoặc, thì tất cả chúng ta đều kiềm chế lại, nhưng giờ đây sự thể đã như thế này, tôi thấy còn giữ bí mật với các anh là một việc làm rất thiếu tình thần hòa thuận. Các anh đã đối với tôi rất tốt, nên tôi không muốn gây phiền nhiễu cho các anh. Xem ra chúng ta còn phải gắn bó với nhau trong vui sướng hay trong đau khổ trong một thời gian ngắn trước mắt, và bổn phận chúng ta là phải hết sức giúp đỡ nhau. Còn về sau sự thể ra sao, tôi xin thừa nhận là chúng ta có thể để mặc sự việc nó tự thu xếp."

Tất cả những điều Barnard nói, Conway thấy hoàn toàn hợp lý, khiến anh cứ chăm chú nhìn anh ta một cách hết sức thích thú, và thậm chí - tuy vào lúc này, đây là một việc kỳ lạ - anh vẫn phần nào thành thật quý mến. Thực kỳ lạ, khi nghĩ rằng một con người to béo, vui vẻ thế kia với dáng điệu bệ vệ của bậc cha chú, lại là tên lừa đảo lớn nhất thế giới. Anh ta, nhìn kỹ hơn, giống một anh chàng mà nếu được giáo dục thêm một chút thì đã có thể trở thành ông hiệu trưởng được mọi người yêu mến của một trường dự bị.


Đằng sau cái vui vẻ của anh ta, có những dấu hiệu của căng thẳng, buồn phiền xảy ra gần mới đây, nhưng như thế không có nghĩa là một sự vui vẻ gượng ép. Đúng như vẻ bề ngoài, rõ ràng anh ta là một con người vui tính, theo đúng nghĩa thiên hạ vẫn dùng, một con người bản chất là con cừu và chỉ là cá mập trong nghề nghiệp.

Conway nói: "Đúng thế, đây là cách xử sự tốt nhất. Tôi tin chắc như

vậy."

Barnard liền phá ra cười. Như thể anh ta còn có những nguồn dự trữ

sâu hơn nữa về tính vui vẻ mà chỉ bấy giờ anh ta mới có thể lấy ra để dùng. "Kỳ quá, thật kỳ quá," anh ta thốt kêu lên, vừa ngả người trên chiếc ghế dựa. "Tôi muốn nói, cả cái việc chó chết này. Một mạch băng qua châu Âu, rồi qua Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư, cho đến cái thị trấn nghèo nàn ấy! Cảnh sát luôn luôn theo gót tôi, các anh để ý cho - chúng suýt tóm được tôi ở Vienna! Thoạt đầu thì cũng thấy thú vị trong việc bị săn đuổi, nhưng sau đó ít lâu thì thấy bực mình. Tuy nhiên, tôi cũng đã được nghỉ ngơi khá lâu ở Baskul - tôi đã nghĩ tôi được an toàn ở ngay giữa cuộc cách mạng."

"Đúng là ông đã được như vậy," Conway hơi mỉm cười nói, "Trừ với những viên đạn."

"Phải, và đây là cái đã khiến tôi phải phiền muộn vào lúc cuối cùng. Tôi có thể nói với ông rằng tôi đã phải lựa chọn rất gay: Hoặc ở lại Baskul chịu ăn đạn hoặc chấp nhận một chuyến du lịch bằng máy bay của Chính phủ các ông để tìm thấy còng đeo tay ở đầu kia đường bay. Cả hai, tôi thực sự đều không muốn."

"Tôi nhớ, ông đã không thích."

Barnard lại cười: "Ồ, sự thể là như vậy đây, và hẳn ông có thể tự hình dung thấy sự thay đổi kế hoạch khiến tôi bị đưa đến đây đã không khiến tôi buồn phiền nhiều lắm. Đấy là một điều huyền bí hạng nhất. Song, riêng tôi mà nói thì không có nơi nào tốt hơn. Tính tôi vốn không có làu nhàu khi trong lòng thấy thỏa mãn."

Nụ cười trên môi Conway trở nên thực sự thân mật. "Đây là thái độ hết sức khôn ngoan, đúng đắn, tuy tôi nghĩ ông có phần làm quá đi. Tất cả chúng tôi đang bắt đầu lấy làm lạ không hiểu sao ông lại có thể kiềm chế mình để


tỏ ra vui vẻ như vậy."

"Ồ, tôi vui vẻ thực sự mà. Nơi đây không phải là một nơi tồi, khi anh đã quen với nó. Thoạt đầu, không khí có phần gay gắt một chút, song anh đã có đầy đủ các thứ. Và thay đổi như vậy là hay và yên tĩnh. Mùa thu nào tôi cũng đi Palm Beach để nghỉ và chữa bệnh, nhưng ở đấy, vẫn không có được sự thay đổi và yên tĩnh - anh vẫn bị quấy rầy như thường. Còn ở đây, tôi cho rằng tôi đã có được cái mà bác sĩ kê đơn cho tôi, và như vậy đối với tôi thật là tuyệt. Tôi ăn uống theo một chế độ khác, tôi không có băng video23[1] để xem, và lão chủ hiệu cầm đồ không thể quay điện thoại gọi tôi được."

"Tôi dám nói họ mong muốn có thể gọi được đấy."

"Chắc chắn là vậy. Còn phải thu dọn một đống lộn xộn khá lớn, và tôi biết thế."

Hắn ta nói một cách rất hồn nhiên khiến Conway không thể nhịn được phải đáp lại: "Tôi chẳng phải là một nhà có uy tín gì lắm về cái mà người ta gọi là tài chính cao cấp."

Đây là câu dẫn đầu, và anh chàng người Mỹ chấp nhận ngay không chút lưỡng lự. Hắn nói: "Tài chính cao cấp, toàn một lũ ba hoa."

"Tôi cũng thường nghi ngờ như vậy."

"Này, ông Conway, tôi xin giải thích thế này nhé: Một anh chàng làm một công việc anh ta vẫn làm suốt bao nhiêu năm và vô vàn người khác cũng vẫn làm, thế mà đột nhiên thị trường xoay chiều ngược lại. Thế là anh chàng không tránh được, nhưng anh ta vẫn dốc sức chống đỡ để chờ đợi cơ vận xoay chuyển. Song không ngờ cơ vận không trở lại như mọi khi, và khi anh ta đã mất khoảng mười triệu đô la gì đó thì anh ta đọc được trên một tờ báo nào đấy có nói, một giáo sư Thụy Điển cho rằng đây là ngày tận thế. Vậy giờ đây tôi xin hỏi ông, nói như thế có giúp được gì cho thị trường không? Tất nhiên, sự tình có làm anh ta hơi bị sốc, nhưng anh ta vẫn vô phương cứu chữa, cứ nằm đây cho đến lúc cảnh sát đến – nếu anh ta đợi họ. Còn tôi, tôi không đợi."

"Vậy, ông cho tất cả đây chi là do vận rủi mà có phải không?"


"Ồ, chắc chắn là tôi đã có một món tiền lớn."

"Ông cũng đã có tiền của nhiều người khác." Mallinson nói xen vào gay gắt.

"Vâng, đúng thế. Nhưng tại sao chứ? Vì tất cả họ đều muốn kiếm được một cái gì đó từ con số không mà lại không có đầu óc để kiếm ra."

"Tôi không đồng ý như vậy. Đây chỉ vì họ tin ở ông và nghĩ rằng tiền của họ bỏ ra được an toàn."

"Ồ, nó chẳng an toàn chút nào. Nó không thể nào được an toàn. Chẳng ở đâu có an toàn hết và những kẻ nào nghĩ là có thì chẳng khác gì một đám khờ dại định nấp dưới một cái ô giữa con giông tố."

Conway nói để hòa giải: "Ồ, chúng tôi đều thừa nhận ông không tránh được con giông tố."

"Tôi thậm chí không có ý làm gì, khác nào các ông đã chẳng có thể làm gì để thoát khỏi những điều đã xảy ra sau khi chúng ta rời Baskul. Tôi thấy như vậy khi tôi nhìn ông lúc ở trong máy bay rất bình tĩnh còn ông Mallinson ở đây thì cứ rối lên. Ông biết là mình không làm được gì nên ông chẳng quan tâm đến nữa. Đúng như tôi đã cảm thấy khi sự đổ vỡ ập đến."

"Vô lý!" Mallinson kêu lên, "Người ta vẫn có thể không lừa đảo. Đây chỉ là một vấn đề chơi bài theo đúng luật mà thôi."

"Đây là một điều cực khó làm khi toàn bộ ván bài đã tan vỡ. Vả lại, không một ai trên đời này biết được luật ấy ra thế nào. Tất cả giáo sư các Trường Đại học Harvard và Yale cũng không thể nói cho ông biết được."

Mallinson đáp lại, có phần khinh bỉ: "Tôi chỉ nói đến một số thông lệ rất đơn giản trong cách cư xử hàng ngày của con người mà thôi."

"Vậy tôi nghĩ trong cách cư xử hàng ngày của ông không bao hàm những Công ty Tín dụng."

Conway vội xen vào ngay: "Thôi, chúng ta không nên tranh cãi nữa. Tôi không phản đối chút nào việc so sánh giữa công việc của ông và công việc của tôi. Đúng là chúng ta vừa qua đều đã bay đi một cách mù quáng, cả


về nghĩa đen lẫn các nghĩa khác. Nhưng điều quan trọng là lúc này chúng ta đang ở đây, và tôi cũng đồng ý với ông rằng việc cằn nhằn thêm nữa về chuyện này thực là dễ. Thực cũng lạ lùng, khi nghĩ là trong số bốn người ngẫu nhiên bị bắt cóc đưa đến nơi xa xôi hàng ngàn dặm này, lại có ba người có thể tìm thấy điều an ủi trong sự việc xảy ra. Ông, ông đang cần một phương thuốc nghỉ ngơi và một chỗ để ẩn tránh; Cô Brinklow cảm thấy đây là sứ mạng giảng kinh cho những người Tây Tạng vô thần."

"Vậy người thứ ba anh nói là ai?" Mallinson cắt ngang hỏi. "Tôi hy vọng không phải là tôi?"

"Tôi muốn nói bản thân tôi," Conway đáp lại. "Và cái lý do của riêng tôi có lẽ là đơn giản nhất - tôi có phần thích sống ở đây."

Thực tế, một thời gian ngắn về sau, những khi anh đi dạo chơi một mình vào buổi chiều, dọc theo dãy nhà hoặc bên bờ hồ sen, anh cảm thấy cả tinh thần lẫn xác thịt lắng dịu. Thực tế; anh đúng là có phần thích ở Shangri- La, ở đây không khí làm dịu đi trong khi sự bí ẩn lại kích thích và toàn bộ cảm giác là dễ chịu. Mấy hôm gần đây, anh đã dần dần có khuynh hướng đi đến kết luận kỳ lạ về tu viện ở đây và những người dân của nó; đầu óc anh đang bận suy nghĩ về nó, mặc dầu, trong thâm tâm, an rất bình tĩnh. Anh chẳng khác nào một nhà toán học đang suy nghĩ về một bài toán bí hiểm - băn khoăn suy nghĩ về nó song suy nghĩ băn khoăn một cách rất bình tĩnh và không chút riêng tư.

Còn về Bryant, người mà anh quyết định vẫn cứ nghĩ và gọi là Barnard, vấn đề về những hành vi và giấy căn cước của anh ta lập tức mờ đi vào trong bối cảnh, trừ có một câu anh ta nói: "Toàn bộ ván bài đã tan vỡ". Conway thấy chính mình nhớ lại và lặp lại câu nói đó với một ý nghĩ rộng hơn ý nghĩ anh chàng người Mỹ có thể đã nghĩ đến, anh cảm thấy câu nói ấy còn đúng với ngành ngân hàng Mỹ và sự quản lý các công ty tín dụng ở đó, Nó đúng với Baskul, với Delhi và London, với việc tiến hành chiến tranh và xây dựng đế quốc, với các lãnh sự quán, các hãng kinh doanh và những bữa tiệc tại Nhà Chính phủ; có một cái mùi khó chịu của tan vỡ bao trùm cả cái thế giới hồi tưởng lại đó, và cái không may của Barnard có lẽ chỉ được bi kịch hóa một cách đẹp hơn cái không may của chính anh mà thôi. Toàn bộ ván bài đúng là đã tan vỡ, nhưng may mắn thay các người chơi bài không phải theo luật bị đưa ra xét xử vì tội đã không cứu vớt được những mảnh tan


vỡ. Về phương diện này các nhà kinh doanh đã không may.

Nhưng ở đây, tại Shangri-La, tất cả đều nằm trong sự yên lắng sâu xa. Trên bầu trời không trăng, sao sáng dày đặc, một ánh xán lạn xanh nhạt phủ trên đỉnh ngọn Karakal. Khi ấy, Conway thấy nếu do một sự thay đổi kế hoạch nào đó, đám phu khuân vác từ vùng bên ngoài đến đây ngay lập tức, thì có lẽ anh không thấy quá vui mừng vì đã không phải chờ đợi một thời gian. Và cả Barnard cũng vậy, anh nghĩ đến đây lòng mỉm cười. Thực buồn cười; và rồi thốt nhiên, anh biết anh vẫn còn mến Barnard, nếu không anh đã không thấy buồn cười. Không hiểu sao làm mất một trăm triệu đô la lại quá lớn để bỏ tù một người, còn nếu anh ta chỉ ăn trộm một cái đồng hồ đeo tay thôi có lẽ dễ bị bỏ tù hơn. Và suy cho cùng, làm sao người ta lại có thể mất một trăm triệu đô la. Có lẽ chỉ với ý nghĩa như một vị bộ trưởng tuyên bố hão huyền là ông ta đã được người ta "tặng cho cả nước Ấn Độ".

Và rồi anh lại nghĩ đến cái ngày anh sẽ rời Shangri-La với đoàn phu khuân vác trở về. Anh hình dung cuộc hành trình dài dặc, đầy khó khăn và cuối cùng lúc đến trước cửa nhà một chủ đồn điền nào đó ở Sikkim hoặc Baltistan - cái giờ phút đáng lẽ anh phải cảm thấy vui vẻ biết mấy, thì cũng có thể nó sẽ đượm một chút thất vọng. Rồi những cái bắt tay, những lời giới thiệu đầu tiên, những cốc nước giải khát hoặc cốc rượu đầu tiên ngoài hiên câu lạc bộ với những gương mặt nâu bóng vì cháy nắng nhìn anh chằm chằm, vẻ không tin hầu như không che đậy. Tại Delhi, hẳn là có những cuộc tiếp kiến với ngài Phó vương và C.I.C[1], những cái cúi đầu chào của những người phục vụ đầu quấn khăn; những báo cáo liên miên phải chuẩn bị và gửi đi. Có lẽ, thậm chí, lúc trở về Anh và Lầu Trắng Whitehall[2], là những ván cờ trên boong tàu P.&.O; cái bàn tay mềm nhũn của một vị thứ trưởng; những cuộc phỏng vấn của báo chí; những giọng nói gay gắt, chế giễu, khao khát tình dục của phụ nữ. "Này ông Conway, có đúng thật là khi ông ở Tây Tạng...?" Chắc chắn có một điều này;" Có thể vì kể câu chuyện của mình mà anh sẽ được mời ăn ít nhất là suốt một mùa. Nhưng liệu anh có thích thú chuyện đó không? Anh nhớ lại một câu Gordon đã viết trong mấy ngày cuối cùng ở Khartoum[3] "Tôi muốn thà sống như một tu sĩ với thánh Mahdi hơn là đêm đêm đi ăn tiệc ở London." Mối ác cảm, sự không thích của Conway cũng không rõ rệt - đây chỉ là thấy trước được rằng, phải kể câu


chuyện của mình ở thời quá khứ, anh sẽ chán ngấy và hơi buồn.

Thốt nhiên, đang suy nghĩ, anh thấy tu sĩ Tưởng đến gần. "Thưa ông," tu sĩ bắt đầu nói, cái giọng khẽ thì thào nhanh dần lên. "Tôi rất lấy làm vinh dự được mang một tin quan trọng..."

Vậy là những người phu khuân vác đã đến trước thời hạn, thoạt đầu Conway nghĩ như vậy; kỳ cục thật, anh vừa nghĩ đến chuyện ấy lúc nãy. Và anh cảm thấy xúc động mạnh bởi anh chưa chuẩn bị kỹ để đón nhận. "Ồ, chuyện gì vậy?" Anh hỏi.

Tâm trạng của tu sĩ Tưởng lúc ấy gần như phân khích tột độ. "Thưa ông, tôi xin có lời chúc mừng ông," tu sĩ nói tiếp, "Và tôi lấy làm sung sướng vì nghĩ mình cũng có phần nào trách nhiệm trong đó - sau nhiều lần tôi hình bày kỹ lưỡng về ông, đức Lama tu viện trưởng đã đi đến quyết định. Ngài muốn được gặp ông ngay bây giờ."

Conway đưa mắt nhìn tu sĩ, vẻ kỳ quặc. "Tu sĩ Tưởng, lúc này ông nói sao mà không mạch lạc hơn bao giờ hết. Có chuyện gì xảy ra vậy?"

"Đức Lama tu viện trưởng sai mời ông."

"Vậy tôi hiểu rồi. Nhưng có gì mà quan trọng hóa thế?"

"Vì đây là một sự kiện phi thường từ trước chưa từng có - ngay tôi là người vẫn thúc giục để mau chóng có sự việc này mà cũng không nghĩ là nó đã đến. Nửa tháng trước đây ông chưa đến, thế mà giờ đây ông đã sắp được Ngài tiếp. Từ trước đến nay chưa hề thấy điều đó xảy ra sớm thê!"

"Tôi vẫn còn bối rối lắm, ông biết đây. Tôi phải đến gặp ngài Lama tu viện trưởng - tôi hiểu rồi. Nhưng ngoài ra còn có chuyện gì khác nữa không?"

"Thế ông cho là chưa đủ sao?"

Conway cười: "Hoàn toàn đủ lắm rồi, tôi đoán với ông như vậy - ông đừng có nghĩ tôi thiếu lễ độ. Thực tế thoạt đầu tôi nghĩ tới điều khác hẳn. Song, giờ đây ông đừng bận tâm về điều ấy. Tất nhiên, tôi sẽ lấy làm vui


mừng và vinh dự được gặp ngài tu viện trưởng. Thế ngài cho hẹn bao giờ?" "Ngay bây giờ. Tôi được sai đến để đưa ông đến phòng của Ngài." "Thế bây giờ có khuya quá không?"

"Không sao. Thưa ông, lát nữa ông sẽ hiểu rõ được nhiều điều. Và xin phép cho tôi được ngỏ lời nói, chính tôi lấy làm vui mừng là cái quãng thời gian từ dạo nọ - luôn luôn khó chịu - giờ đây chấm dứt. Ông hãy tin tôi, tôi lấy làm khổ tâm đã phải nhiều lần từ chối không nói để ông rõ sự việc, vâng, cực kỳ khổ tâm. Giờ đây, tôi lấy làm vui mừng vì biết rằng sẽ không còn cần đến những phút khó chịu ấy nữa."

"Tu sĩ Tưởng, ông là một con người kỳ quặc." Conway đáp lại. "Nhưng thôi, ta đi đi, đừng bận tâm giải thích thêm nữa. Tôi đã rất sẵn sàng và tôi lấy làm cảm kích trước những lời nhận xét tốt đẹp của ông. Ông đi trước đi."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lichsu