Đường lối Cách mạng của ĐCSVN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Hoàn cảnh lịch sử - sự ra đời của ĐCSVN

Hoàn cảnh quốc tế

-                      Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước đế quốc bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức các dân tộc thuộc địa. Mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt. à Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển hết sức mạnh mẽ, những trung tâm đấu tranh đòi độc lập dân tộc ở châu Á, ở các nước Đông Dương hình thành, đều có ảnh hưởng tới cách mạng vô sản Việt Nam.

-                      Chủ nghĩa Mác – Lenin là hệ tư tưởng của ĐCS, được truyền bá vào VN, thúc đẩy phong trào yên nước và phong trào công nhân phát triển theo khuyn hướng CMVS, dẫn tới sự ra đời của ĐCSVN

-                      CM tháng 10 Nga nổ ra và giành thắng lợi, trở thành mốc mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử loài người: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ảnh hưởng của CM tháng 10 Nga đã có tác động lớn đối với những người yêu nước VN lúc bấy giờ (trong đó có Nguyễn Ái Quốc).

Hoàn cảnh trong nước

-                      Đế quốc Pháp đặt ách thống trị trên đất nước ta, làm tính chất của xã hội Việt Nam thay đổi từ xã hội phong kiến sang thuộc địa nửa phong kiến. Về chính trị, quyền hành được thâu tóm vào tay khâm sứ, công sứ Pháp. Về kinh tế, Pháp biến nền kinh tế nước ta hoàn toàn phụ thuộc vào nền kinh tế Pháp và trở thành thị trường tiêu thụ cho Pháp. Về văn hóa, Pháp thực hiện chính sách ngu dân. Dưới tác động của các chính sách này, xã hội Việt Nam đã phân hóa sâu sắc thành các giai cấp: địa chủ, nông dân, công nhân VN, tư sản VN, tiểu tư sản VN, đều mang thân phận người dân mất nước, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột à Lịch sử thực tiễn đã đặt ra hai nhiệm vụ: chống đế quốc giải phóng dân tộc và xóa bỏ phong kiến. Trong đó, chống đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu.

-                      Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản phát triển mạnh, như Phong trào Cần Vương, Cuộc khởi nghĩa Yên Thế - Bắc Giang, và các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp trong thời gian diễn ra chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tất cả đều thất bại do thiếu một giai cấp tiên tiến có khả năng đề ra đường lối đúng đắn cho CMVN. à CMVN lâm vào khủng hoảng sâu sắc về đường lối.

-                      1911 Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong nước, phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản hình thành và phát triển dưới sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, công hội Đỏ…. Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, cuối tháng 3-1929 chi bộ ĐCS đầu tiên của VN ra đời. Tiếp theo sau đó là Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (mùa thu 1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9-1929).

2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong sự thành lập ĐCSVN

-           1911 Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) ra đi tìm đường cứu nước và đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Từ đó khẳng định: “Con đường CMTS không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân VN nói riêng.”

-           7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin và tìm thấy ở đó lời giải pháp cho con đường cách mạng của VN.

-           12-1920, NAQ bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế CS và tham gia thành lập ĐCS Pháp. Cuối cùng Người cũng đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CMVS”.

-           NAQ tích cực truyền bá chủ nghĩa MLN vào Việt Nam thông qua những bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và xuất bản một số ấn phẩm, đặc biệt là Bản án chế độ thực dân Pháp.

-           6-1925, NAQ thành lập Hội VN CM thanh niên. Ngoài ra, còn lựa chọn những sinh viên ưu tú gửi đi đào tạo.

-           NAQ tổ chức ra các tờ báo: Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong nhằm truyền bá chủ nghĩa MLN vào VN, thức tỉnh và giác ngộ quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước phát triển theo khuynh hướng vô sản.

-           1927, tác phẩm Đường cách mệnh (tập hợp những bài giảng của NAQ ở lớp huấn luyện chính trị của Hội VNCM thanh niên), chỉ rõ tính chất, nhiệm vụ và phương pháp của CMVN

3. Hội nghị thống nhất và tuyên bố thành lập ĐCSVN

-           27-10-1929, Quốc tế CS gửi tài liệu ‘Về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương’ yêu cầu khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập một đảng của giai cấp vô sản. NAQ rời Xiêm đến Trung Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, họp từ 6-1 tới 7-2-1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc.

-           Thành phần: 1 đại biểu của Quốc tế CS, 2 đại biểu của Đông Dương CS Đảng, 2 đại biểu của An Nam CS Đảng.

-           Nội dung: nhất trí năm điểm lớn theo đề nghị của NAQ và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là ĐCSVN. Thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của ĐCSVN. Quyết định phương châm, kế hoạch thống nhất các tổ chức CS trong nước, quyết định ra báo, tạp chí của ĐCSVN.

-           24-2-1930, Đông Dương CSLĐ gia nhập ĐCSVN, hoàn tất việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở VN.

4. Hai cương lĩnh chính trị.

Nội dung: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCSVN

-          Phương hướng chiến lược: tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới xã hội CS.

-          Nhiệm vụ: +   Về chính trị: Đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.

+   Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (công nghiệp, vận tải, ngân hàng…) của đế quốc pháp để giao cho chín phủ công nông binh quản lý, tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.

+   Về văn hoá xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền,.. phổ thông giáo dục theo công nông hoá.

Về lực lượng cách mạng: công nhân và nông dân là lực lượng cơ bản, là gốc; đồng thời phải mở rộng rãi hơn các lực lượng khác đó là: tư sản vừa và nhỏ, trung tiểu địa chủ

-        Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

-        Xác định mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: cách mạng Việt Nam là một bộ phận cấu thành của cách mạng thế giới, phải tranh thủ cách mạng thế giới.

Luận cương chính trị tháng 10-1930:

Phương hướng chiến lược của CMVN: “Tiến hành tư sản dân quyền CM, sau khi thắng lợi tiến tới phát triển bỏ qua thời kì tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường XHCN”

Nhiệm vụ của CM tư sản dân quyền:  Đánh đổ các di tích phong liến, đánh đổ mọi cách bóc lột, đánh đổ thực dân Pháp làm Đông Dương hoàn toàn toàn độc lập “trong đó vấn đề thổ địa là cái cốt lõi của CMTSDQ”

Lực lượng CM: giai cấp CN & giai cấp nông dân là động lực chính của CM, còn các tầng lớp bóc lột theo đế quốc tiểu tư sản thì do dự, tri thức phải hăng hái tham gia chống đế quốc lúc đầu chỉ những trí thức thất nghiệp và những phần tử lao khổ đô thị mới theo CM

Phương pháp CM: Đảng phải chuẩn bị cho quần chúng về “con đường võ trang bạo động” và “phải tuân theo khuôn phép nhà binh” đánh đổ chính phủ địch nhân, giành chính quyền

Về quan hệ quốc tế: CMVN là 1 bộ phận của CMTG phải đoàn kết với vô sản TG trước hết là vô sản Pháp và phong trào CM thuộc địa để tăng cường lực lượng của mình

Về Đảng: Phải có 1 Đảng với đường lối chính trị đúng, kỉ luật tập trung liên hệ mật thiết với quần chúng lấy chủ nghĩa Mác – Lenin làm gốc thì lãnh đạo mới đạt mục đích cuối cùng là CN cộng sản

So sánh: Giống:

Về phương hướng: CM tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn TBCN để đi tới xã hội cộng sản

Về nhiệm vụ: chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập dân tộc.

Về lực lượng: chủ yếu là công nhân và nông dân.

Về phương pháp: sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc CM là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông.

Về vị trí quốc tế: CM Việt Nam là một bộ phận khăng khít với CM thế giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.

Lãnh đạo cách mạng: là giai cấp vô sản thông qua Đảng cộng sản, Đảng là đội tiên phong

Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách  tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917

Khác nhau:

5. Giành chính quyền 1945

Tình thế:

-          Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ giữa hai phe đồng minh và phát xít.

-          Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, Nhật tiến vào VN đảo chính Pháp, Pháp đầu hàng Nhật à một cổ hai tròng.

-          Cao trào kháng Nhật cứu nước được hưởng ứng mạnh mẽ trong nước,

-          Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc với thắng lợi nghiêng về phe đồng minh, ở Châu Á, phát xít Nhật thất bại hoàn toàn.

Thời cơ:

-          Pháp đã đầu hàng Nhật, và Phát xít Nhật thất bại, mất hết tinh thần, ủ rũ chờ quân Đồng minh vào giải giáp.

-          Cao trào kháng Nhật cứu nước và khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và có những thành tựu nhất định à ý chí quân dân VN lên đến đỉnh cao.

-          Dân có niềm tin vào Đảng và CHXH.

Chủ trương:

-          Trước khởi nghĩa: phát động một phong trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa.

-          Thời điểm khởi nghĩa: chỉ rõ khẩu hiệu đấu tranh, nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất, kịp thời. Về đối nội: là mười chính sách cơ bản của Việt Minh làm chính sách cơ bản. Về đối ngoại: thực hiện nguyên tắc bình đẳng, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh-Pháp và Mỹ-Tưởng, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.

Phân tích:

Đảng nắm bắt thời cơ hợp lý, khéo léo và khôn ngoan (tán càng nhiều càng tốt). Khởi nghĩa thành công là nhờ vào sự chuẩn bị chu đáo từ lâu, quân dân một lòng, tin tưởng vào Đảng và CNXH, tranh thủ được thời gian trống trước khi quân Đồng minh tiến vào giải giáp Nhật.

Nếu khởi nghĩa sớm, khi phát xít còn chưa thất bại sẽ rất khó thành công, do chênh lệch lực lượng, vũ khí, quân trang, khí giới,… Nếu khởi nghĩa muộn sau khi quân đồng minh vào giải giáp thì VN sẽ lại trở thành thuộc địa của Pháp như trước, tỷ lệ thành công vẫn rất thấp. (chém thêm vào nhưng cái ăn điểm là nhiêu đây)

6. Xây dựng, bảo vệ chính quyền (45-46)

- Hoàn cảnh: Trên thế giới, hệ thống XHCN do Liên xô đứng đầu hình thành, có lòng tin của nhân dân.

                        Nạn đói, giặt dốt hoành hành trong nước, kinh nghiệm quản lý non kém, ngân quỹ gần như trống rỗng. Lực lượng chống phá chính quyền hoạt động mạnh.

-          Chủ trương của Đảng về chính trị: đặt nền móng cho một chế độ xã hội mới, quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp thành lập thông qua bầu cử. Hiến pháp được thông qua và ban hành.

-          Kinh tế, văn hóa: phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia, mở lại trường lớp, xây dựng nền văn hóa mới.

-          Về quân sự: động viên nhân dân kiên cường kháng chiến.

-          Về ngoại giao: tránh đối đầu với Pháp, lợi dụng thời cơ Tưởng đang gặp khó khăn.

--> Bảo vệ nền độc lập, giữ vững chính quyền CM, xây dựng nền móng cơ bản cho một xã hội mới, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.

7. Công nghiệp hóa

Quan điểm, chủ trương của Đảng:

Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.

 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

CNH trước và sau đổi mới

Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới

Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng.

Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu trong nền kinh tế thị trường.

Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.

Sau đổi mới, đường lối CNH được Đảng nhận định lại, thể hiện sự tiến bộ, ưu việt, phù hợp hơn tình hình kinh tế và yêu cầu phát triển của đất nước:

Chuyển từ CNH gắn với quan niệm xây dựng QHSX đi trước mở đường cho sự phát triển của lực lượng SX sang tập trung phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, đồng thơi xây dựng QHSX phù hợp.

Thực hiện CNH chuyển từ cách làm nóng vội, bỏ qua các bước trung gian cần thiết sang thực hiện CNH có bước đi tuần tự, vừa tạo tiền đề cho sự phát triển của giai đoạn sau, vừa cho phép phát triển rút nagứn trên cơ sở đi tắt đón đầu về công nghệ, thành tựu KHKT của TG.

Chuyển từ quan niệm CNH cổ điển, sang quan điểm CNH, HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức.

Xác định lại thứ tự ưu tiên phát triển công nghiệp nói riêng và xác lập cơ cấu kinh tế nói chung phù hợp định hướng CNH HĐH hiện đại.

Từ nên kinh tế hướng nội, quan hệ khép kín sang nền kinh tế mở đa dạng hóa, đa phương hóa, đẩy mạnh xuất khẩu kết hợp chiến lược thay thế nhập khẩu.

Chủ thể thực hiện CNH ko còn chỉ riêng nàh nước và DN nhà nước mà là trách nhiệm của mọi thành phần kinh tế, trong đó nhà nước đóng vai trò chủ đạo.

Cuối cùng, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của NN và theo định hướng XHCN

8. Kinh tế thị trường.

Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường:

Kinh tế thị trường không phải cái riêng có của CNTB mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại --> Kinh tế thị trường tồn tại khách quan --> Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng CNXH ở nước ta --> Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên XHCN(Mục đích phát triển: thực hiện dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh. Phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó nhà nước nắm vai trò chủ yếu. Định hướng XH và phân phối: Tiến bộ và công bằng ngay trong từng bước phát triển, phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,… Về quản lý: Nhà nước pháp quyền XHCN nắm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế)

So sánh kinh tế thị trường TBCH và XHCN

Giống: Là nền kinh tế hàng hóa chịu sự điều khiển của thị trường.

Khác: - Sở hữu: KTXHCN: nhiều chế độ sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhà nước đóng vai trò chủ đạo

KTTBCN: Dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất được pháp luật bảo vệ. Thành phần kinh tế tư nhân quyết định tính hiệu quả của nền kinh tế tư bản, nhà nước chỉ giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo công ăn việc làm cho người dân.

-          Quản lý: KTXHCN có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước XHCN

KTTBCN: Được điều hành bởi cá nhân và các doanh nghiệp tư nhân định hướng đến quyền lợi cá nhân nên kinh doanh trong kinh tế tư bản chủ nghĩa về cơ bản là tự định hướng, tự điều hành, tự phát theo quy luật của thịtrường tự do và quy luật cạnh tranh

-          Phân phối thu nhập: KTXHCN: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanhvà thông qua phúc lợi xã hội

KTTBCN: các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do,cạnh tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải là các khái niệm gắn liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa

-          Cơ chế thị trường: Cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa là việctổ chức guồng máy kinh tế sao cho sự vậnhành của nó phù hợp với quy luật kinh tế cơ bản và các quy luật kinh tế khác của chủ nghĩa xã hội

Cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa là việc tổ chức guồng máy kinh tế sao cho sự vận hành của nó phù hợp với các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, trong đó quy luật sản xuất ra giá trị thặng dư giữ vai trò quyết định, nhằm đem lại lợi nhuận ngày càng nhiều cho các nhà tư bản, các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia.

-          Mục đích: XHCN: tạo nhiều của cải, dân giàu nước mạnh,….

TBCN: tăng tối đa lợi nhuận cho các nhà TB là chủ yếu.

9. Hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới.

Mục tiêu:

Nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

Chủ trương xây dựng Đảng

- Trọng tâm đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ thống. vấn đề mấu chốt là đổi mới phương thức hoạt động của Đảng, khắc phục khuynh hướng Đảng bao biện làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng.

- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị phải:

- được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ đối với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng.

- trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, vừa làm, vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm, quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành.

Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền:

- Đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ; đồng thời, tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận.

Biện pháp  cần thực hiện để xây dựng Nhà nước pháp quyền:

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, tính khả thi của các qui định trong văn bản pháp luật.

- Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát của các cơ quan công quyền.

- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.

- Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người.

- Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân

Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị (cái này chả nhớ có phải học không, thôi học luôn cho lành)

- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.

- Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.

- Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn,…Quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tham xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.

- Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội để khắc phục tình trạng hành chánh hóa, để nâng cao chất lượng hoạt động, làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.

Cái này là tham khảo, đừng có mà học vì có thuộc lòng chép cũng không kịp

Phân biệt quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trước và sau thời kỳ đổi mới.

Ngày nay, sự phát triển nhảy vọt của KHCN, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học; bên cạnh đó là xu thế toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới đang diễn ra nhanh chóng đã đặt các nước đang phát triển như nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nếu không tận dụng tốt những cơ hội để vươn lên. CNH, HĐH là một nhiệm vụ chiến lược để đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững về mọi mặt, xây dựng thành công CNXH. Trước thời kỳ đổi mới, vào những năm 60, Đảng ta đã xác định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển kinh tế, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm. Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”.

Nghiên cứu quá trình CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay, đồng thời so sánh với trước thời kỳ đổi mới sẽ giúp chúng ta hiểu và nhận thức sâu sắc hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từ đó góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong thời gian tới.

Thứ nhất: Những điểm giống nhau về quan điểm, chủ trương thực hiện CNH, HĐH đất nước trước đổi mới và hiện nay được thể hiện là:

- Đảng ta luôn khẳng định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ;

- Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân.

Chúng ta đã biết, xã hội loài người đã và đang trãi qua 5 hình thái kinh tế xã hội, tương ứng với nó là 5 phương thức sản xuất khác nhau. Mỗi phương thức sản xuất chỉ có thể được xác lập vững chắc trên một cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng. Đối với CNXH, giai đoạn thấp của CNCS muốn tồn tại và phát triển cũng cần thiết phải có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công hữu về những TLSX chủ yếu. Nước ta quá độ lên CNXH với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ LLSX ở mức thấp kém, lại trãi qua hàng chục năm chiến tranh tàn phá, do đó cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn toàn chưa thích ứng với CNXH. Để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, củng cố và hoàn thiện QHSX XHCN, đồng thời để củng cố khối liên minh công- nông- trí cần thiết phải tiến hành CNH, HĐH đất nước. Thành công của sự nghiệp CNH, HĐH chính là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH mà toàn Đảng, toàn dân ta đang thực hiện.

Thứ hai: Những điểm khác nhau trong quá trình CNH trước và sau thời kỳ đổi mới thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau:

- Về quan điểm:

+ Trước đổi mới, chúng ta hiểu CNH một cách chưa đầy đủ, cho rằng CNH đơn giản là quá trình chuyển đổi từ lao động thủ công sang lao động máy móc; Trong giai đoạn đổi mới đất nước, vào năm 1994, Đảng ta chính thức xác định CNH, HĐH ở nước ta là: quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

+ Trước đổi mới, CNH ở nước ta đã đặt vấn đề theo hướng hiện đại hoá; Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, do sự phát triển vượt bậc của KHCN và dự kiến trong thời gian tới sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa do đó yêu cầu phải gắn chặt HĐH với CNH đã được đặt ra và ngày càng trở nên bức bách hơn.

+ CNH, HĐH trước đổi mới được thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; Hiện nay, thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, xem thị trường là yếu tố quan trọng góp phần trong việc phân bổ các nguồn lực cho sản xuất, trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, xác định mục tiêu, bước đi, biện pháp tiến hành CNH, HĐH.

Do CNH, HĐH trước đổi mới được thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, vì vậy nó được xem là công việc của nhà nước, nhà nước chỉ đạo các DNQD và kinh tế tập thể thực hiện là chủ yếu; Trong giai đoạn hiện nay, CNH, HĐH được xác định là sự nghiệp của toàn dân, tất cả các thành phần kinh tế đều tham gia, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đây là quan điểm hoàn toàn đúng đắn của Đảng ta vì sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu khách quan, dẫn đến quá trình CNH, HĐH cũng phải do các thành phần kinh tế cùng tham gia thực hiện. Tính tất yếu đó là do: trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trình độ LLSX, cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH còn thấp kém, không thể ngay lập tức làm cho LLSX phát triển đến mức cần thiết để xác lập nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu mà đòi hỏi phải xác lập QHSX XHCN từ thấp đến cao cho phù hợp với trình độ phát triển hiện tại của LLSX; mà do LLSX phát triển chưa đồng đều trong các ngành nghề, lĩnh vực nên tương ứng với mỗi trình độ phát triển đó là các hình thức sở hữu khác nhau về TLSX và các kiểu QHSX khác nhau, từ đó tất yếu sẽ có nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Ngoài ra, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế còn do chế độ xã hội cũ để lại, trong điều kiện chế độ xã hội mới, chúng vẫn mặc nhiên tồn tại.

+ CNH, HĐH trong thời kỳ trước đổi mới chưa chú trọng đến hiệu quả kinh tế, nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch sản xuất cho các đơn vị kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, đồng thời bao tiêu sản phẩm làm ra, do đó không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao; bên cạnh đó, nhà nước chỉ chú trọng đầu tư xây dựng các xí nghiệp quy mô lớn mà chưa chú ý đến tính hiệu quả trong sản xuất. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện CNH, HĐH phải: “Lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả”- (Văn kiện ĐH VIII của Đảng, tr 85).

+ CNH, HĐH trước đổi mới thực hiện trong mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, khép kín, hoặc chỉ quan hệ với các nước trong hệ thống XHCN, đây là mô hình phù hợp trong thời kỳ chống Mỹ-cứu nước; hHện nay, CNH, HĐH được thực hiện trong mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, do đó cần thiết phải mở rộng quan hệ hợp tác theo xu thế quốc tế hoá, hội nhập kinh tế thế giới, cụ thể là: “CNH, HĐH phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước” – (Văn kiên ĐH IX của Đảng, tr 25).

+ Trước đổi mới, khi đất nước còn chiến tranh, nhiệm vụ phát triển kinh tế nhằm để phục vụ cho nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, do đó CNH, HĐH trong giai đoạn này cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Hiện nay, chúng ta xác định: kết hợp chặt chẽ và toàn diện phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường nền quốc phòng- an ninh của đất nước, vì vậy thực hiện CNH, HĐH phải đảm bảo đi đôi với giữ vững quốc phòng- an ninh đất nước.

- Về mục tiêu của CNH, HĐH: Mục tiêu dài hạn của quá trình CNH, HĐH trước đổi mới và hiện nay là giống nhau, tuy nhiên đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta cụ thể thêm mục tiêu trung hạn, đó là: đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

- Về nội dung CNH, HĐH:

+ Trong những năm từ 1960-1981, chúng ta chủ trương CNH phải đi từ công nghiệp nặng và vấn đề ưu tiên phát triển công nghiệp nặng được nâng thành bản chất cốt lõi của CNH, HĐH đất nước do đó đã tập trung đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn lúc này là cơ khí, luyện kim và năng lượng (chủ yếu là thuỷ điện) mà chưa chú ý đến đầu tư cho công nghiệp nhẹ và đặc biệt là nông nghiệp, trong khi tiền đề vật chất cần thiết chưa được tạo ra, cũng như hoàn cảnh chiến tranh và hậu quả của cuộc chiến tranh chưa cho phép. Đến năm 1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5 của Đảng đã xác định phải ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đồng thời đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; tuy nhiên do không đề ra được các chính sách, giải pháp cụ thể, đồng bộ để phát triển nông nghiệp, vì vậy CNH, HĐH vẫn chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp nặng, chưa chú trọng đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp.

+ Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cơ bản của CNH, HĐH được xác định là: đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản; phát triển công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển các ngành chế biến lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng… với bước đi hợp lý, phù hợp với điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, đồng thời phát huy được hiệu quả; mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ; đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Từ những nội dung đó, chúng ta dễ dàng thấy được CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay đã có sự khác biệt nhiều so với trước thời kỳ đổi mới. Từ tập trung ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng nay đã chú ý đến phát triển công nghiệp nhẹ, xem CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước; điều này là hoàn toàn phù hợp bởi vì nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với 75% dân số sống ở nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế và ổn định chính trị đất nước. Từ chỗ chỉ tập trung phát triển công nghiệp nặng với một số ít ngành công nghiệp mũi nhọn nay đã chú ý đến cơ cấu kinh tế ngành, thành phần kinh tế và phát triển hợp lý các vùng, lãnh thổ; chú ý phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và tự động hoá. Từ mô hình kinh tế nhập khẩu nay đã chuyển sang mô hình hướng mạnh xuất khẩu là chính…

Ngoài những khác biệt trên, trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở nước ta đòi hỏi phải không ngừng xây dựng và phát triển những tiền đề sau:

- Phải huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng.

- Phải tạo được nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH trong thời kỳ mới. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi phải chú trọng đến công tác giáo dục- đào tạo, bố trí sử dụng đúng người, đúng việc.

- Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ CNH, HĐH.

- Có đường lối kinh tế đối ngoại đúng đắn, đạt hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc, xây dựng thành công CNXH, bảo vệ vững chắc TQ.

Thực tế CNH,HĐH nổi lên một số tình hình: Đi tắt đón đầu hay là bãi thải công nghiệp (máy móc lạc hậu nhập về ồ ạt, cả công nghệ sinh học); phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội, phát triển văn hóa… song tình trạng vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa (kinh tế, VH-XH). Nguyên nhân do nhận thức; nhiều chủ trương chưa được thực hiện tốt; ỵéu kém về năng lực trong nhập máy móc thiết bị (cả tiêu cực); cơ chế chính sách chưa đầy đủ, kịp thời, nhất là đất đai, khoa học công nghệ, tín dụng, thị trường; việc tổng kết thực tiễn chậm; công tác nghiên cứu, ứng dụng, triển khai KHCN chưa được quan tâm…

Tóm lại, CNH, HĐH đã được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ là lâu dài, với nhiều chạng đường đầy khó khăn, phức tạp, do đó trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được chắc chắn cũng sẽ có lúc gặp trở ngại hoặc sai lầm, dẫn đến hiệu quả không cao; điều quan trọng là phải biết khắc phục những yếu kém, khuyết điểm đó, tranh thủ tốt thời cơ để vươn lên. Từ những thành tựu đạt được qua 20 năm đổi mới, từ những kết quả đạt được trong những năm tiến hành CNH, HĐH theo tinh thần nghị quyết Đại hội VIII của Đảng; chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng vào đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng, tin tưởng sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhất định sẽ thắng lợi, CNXH nhất định sẽ thành công.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#chupbie