Đường lối CM (21-30)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

21. Kháng chiến toàn dân là gì? Vì sao phải kháng chiến toàn dân?

- Chủ trương này ra đời trong bối cảnh nào.

Ngày 10-6-1946 Ban thường vụ Trung ương đảng đã mở Hội Nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất do tổng bí thư Trường Chinh chủ trì. đường lối kháng chiến của đảng được hoàn thiện tập trung trong 3 văn kiện lứon được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn  quốc bùng nổ. Đó là các văn kiện Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng, Lời kêu gọi toàn quốc kháng  chiến của Hồ Chí Minh và kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh. Trong đó nêu rõ phương châm kháng chiến: chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dự và dựa mình là chính.

Kháng chiến toàn dân là cuộc kháng chiến phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, toàn dân cúng đứng lên kháng chiến, đánh giặc theo khẩu hiệu: mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài.

Phải kháng chiến toàn dân vì:

•   Xuất phát từ lí luận Mác- Lê Nin về vai trò quần chúng trong lịch sử nói chung, lịch sử đấu tranh nói riêng. Theo lí luận chủ nghĩa Mác Lê Nin, quần chúng là động lực phát triển của cách mạng, muốn giành thắng lợi phải có đông đảo quần chúng tham gia, đo đó phải động viên toàn dân kháng chiến.

•   Xuất phát từ truyền thống đoàn kết đấu tranh của dân tộc ta qua các thời kì lịch sử. Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất. Mặt khác, cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, có phát huy sức mạnh toàn dân thì chúng ta mới có thể đánh địch toàn diện và lâu dài.

•   Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và thực dân Pháp lúc này quá chênh lệch. Nhân dân ta vừa giành được độc lập từ ta kẻ thù, đang đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, trong đó có 3 thứ giặc phải đối phó: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Còn quân thù thì không ngừng tăng cường lực lượng bao vây nhằm chống phá cách mạng. Vì vậy, muốn giành thắng lợi chúng ta nhất thiết phải kháng chiến toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân thì mới có khả năng đánh tan thực dân Pháp xâm lược.

• Xuất phát từ lợi ích của mối người dân, vai trò bổn phận của một người dân với đất nước. Thực dân pháp đánh vào mọi người dân, cho nên mọi người dân phải đứng lên chống pháp, chỉ có hợp sức lại đánh tan quân thù thì tất cả sẽ được độc lập và tự do.

• Ta chủ trương kháng chiến toàn diện, lâu dài, nên phải kháng chiến toàn dân để mọi người dân đều được đóng góp khả năng của mình vào sự nghiệp chung của cả nước.

22. Kháng chiến toàn diện là gì? Vì sao phải kháng chiến toàn diện?

Kháng chiến toàn diện là kháng chiến về mọi mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá – giáo dục, ngoại giao…

Phải kháng chiến toàn diện vì:

• Xuất phát từ thực dân Pháp, chúng đánh ta trên tất cả các mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, tư tưởng…vì vậy chúng ta cũng phải đánh địch trên tất cả các mặt thì mới tạo nên chiến thắng toàn diện và buộc chúng phải khuất phục.

• Xuất phát từ nhiệm vụ kiến quốc cũng được tiến hành một cách toàn diện vì vậy khi tiến hành kháng chiến chúng ta cũng phải đánh địch toàn diện nhằm phát huy được sức mạnh nội lực của chính mình.

• Kháng chíên toàn diện thì mới phát huy được sức mạnh toàn dân.

Như vậy, Chúng ta phải xây dựng và sử dụng sức mạnh toàn diện về chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội chống lại cuộc chiến tranh tổng lực của kẻ thù. Để thực hiện mục đích chính trị của cuộc kháng chiến phải đẩy mạnh mặt trận quân sự, nhằm tiêu diệt lực lượng địch, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng nhằm dành lại toàn bộ đất nước.

+ Về chính trị: Đảng ta nhấn mạnh vấn đề xây dựng khối toàn dân đoàn kết. Trong suốt cuộc kháng chiến, đảng ta đã ra sức củng cố khối liên minh công, nông và trí thức, không ngừng mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc. Đảng đặc biệt chăm lo củng cố và xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa, thường xuyên kiện toàn bộ máy kháng chiến từ trung ương đến địa phương; kiên quyết trấn áp bọn phản cm và đẩy mạnh đấu trnah chính trị ở cả thành thị và nông thôn.

+ Về quân sự: đảng đã chăm lo vũ trang toàn dân, xd llvt nhân dân, xđ đánh lâu dài làm phương châm chiến lược, quán triệt tư tưởng tích cực tiến công, kết hợp đánh địch cả bằng chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, cả bằng quân sự, chính trị và binh vận. Phải xd cho được ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Tiến công địch ở cả ba vùng chiến lược: nông thôn, đô thị và miền núi.

+ Về kinh tế, ta vừa phải phá kinh tế địch, vừa xd kinh tế của ta, giảm tức, cải cách ruộng đất, xây dựng nền kt của ta trong thời chiến. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt lên mọi khó khăn, xây dựng nền kt tự chủ, bảo đảm nhu cầu của kháng chiến. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ kháng chiến với kiến quốc.

+ Về văn hóa: ta vừa chống lại văn hóa nô dịch của địch, vừa xd nền văn hóa mới ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng

+ Về ngoại giao: đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, mở rộng quan hệ quốc tế nhằm tranh thủ thêm nhiều bầu bạn, làm cho nhân dân thế giới kể cả nhân dân pháp hiểu và ủng hộ cuộc khán chiến của nhân dân ta.

23. Việt Nam là tiêu điểm của những mâu thuẫn thời đại trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước ?

Sở dĩ Đảng khẳng định như vậy là bởi vì, căn cứ vào bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, Việt Nam tập trung 4 mâu thuẫn lớn của thời đại. Đó là:

• Mâu thuẫn giữa ptrào đấu tranh giải phóng dân tộc với chủ nghĩa đế quốc.

• Mâu thuẫn giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa.

• Mâu thuẫn giữa hai giai cấp: giai cấp vô sản với giai cấp tư sản.

• Mâu thuẫn giữa vấn đề hoà bình với vấn đề chiến tranh.

Việc giải quyêt mâu thuẫn của Việt Nam cũng chính là nhằm giải quyết những mâu thuẫn của thời đại của thế giơí sau 1954 đều chung một mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ, thống nhấthoà bình và tiến bộ xã hội. Vì vậy nó mang tính chất thời đại và tính quốc tế sâu sắc. Những tiêu điểm mâu thuẫn lớn của thời đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lúc này tại Việt Nam cũng chính là mâu thuẫn gay gắt giũa hai hệ thống xã hội, một bên là hệ thống xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là liên xô và hệ thống tư bản chủ nghĩa mà đứng đầu là Mỹ.

24. Điều kiện để cách mạng miền Nam khởi nghĩa vũ trang theo NQ 15 BCH TƯ Đảng khoá 2 ?

Thứ nhất, vì Ban chấp hành trung ương Đảng đã có sự nhìn nhận về chủ trương kháng chiến của Đảng ta  trước đó. Khi đế quốc Mỹ tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị lên miền Nam, Đảng ta đã đề ra chủ trương đấu tranh về chính trị là chủ yếu, nhưng thực tế với một kẻ thù hùng mạnh và xảo quyệt chúng ta không thể giành thắng lợi và vì thế các cuộc chống đối của chúng ta luôn bị đàn áp một cách dã man.

Thứ hai, xuất phát từ kẻ thù. Chúng tiến hành cuộc chiến tranh vũ trang bạo lực trên quy mô rọng lớn và vô cùng tàn ác. Chính quyền tay sai cũng cho thấy sự man rợ của mình khi cùng quân đội Mỹ lê máy chiếm khắp chiến trường miền Nam, đã sát hại biết bao nhiêu người dân vô tội và cả những chiến sĩ cách mạng. Thực tiễn lịch sử lúc này đặt ra là địch đánh ta bảng sức mạnh vũ trang thì chúng ta cũng phải đáu tranh thì mới có khả năng  giành chiến thắng. Đó là một thực tế buộc ban chấp hành trung ương đảng lần thứ hai nhận định và quyết định chủ trương đấu tranh vũ trang.

Thứ ba, xuất phát từ tư tưởng, tinh thần đấu tranh kiên cường và quyết tâm của nhân dân miền Nam. Với chính sách cai trị độc đoán và tàn bạo của đế quốc Mỹ, nhân dân miền Nam đã căm giạn sục sôi và luôn muốn vùng dậy đấu tranh bất cứ lúc nào. Vì vạy, đây chính là nguồn lực tư tưởng to lớn cho chúng ta khi ban thường vụ trung ương đảng đề ra đấu tranh vũ trang chắc chắn sẽ được nhân dân nơi đây hưởng ứng nhiệt tình.

Thứ tư, Xuất phát từ vị trì địa lí của miền Nam có rất nhiều thuận lợi có thể giúp ban thường vụ trung ương đảng đề  ra chủ trương đáu tranh vũ trang. Đây là vùng đồng bằng rộng lớn, có nhiều vùng chiêm trũng vì vậy khi địch dùng chinhs sách càn quét sẽ không thể tiến hành triệt để, có thể chúng không thông thuộc địa hình như nhân dân miền Nam…vì vậy, với lối đánh du kích và khi cần tiến hành trên dịên rọng có thể gây tổn thất sinh lực địch, vì vậy chủ trương đấu tranh vũ trang là hợp lí.

Thứ năm, xuất phát từ chủ trương của đảng về chính sách cán bộ của Đảng, được thể hiện qua 3 chính sách:cs giữ lại một số cán bộ ở miền nam khi thực hiện hiệp định Giơnevơ, luân chuyển cán bộ, công tác tình báo.

Như vậy, từ những vấn đề nêu trên là điều kiện cơ bản và quan trọng giúp Đảng chủ trương khởi ngiã vũ trang ở cách mạng miền Nam lúc này. Đó không chỉ là sự chỉ đạo đúng đắn mà còn thể hiện sự nhạy bén về lãnh đạo cách mạng của Đảng. Tất cả những vấn đề nêu trên là cơ sở quan trọng giúp cách mạng miền Nam có sự chủ đọng và sẵn sàng nổi dậy bất cứ lúc nào.

25. Vì sao nói: mặc dù Mỹ đưa hàng chục vạn quân viễn chinh vào miền Nam nước ta nhưng so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch không có sự thay đổi lớn?

Đầu năm 1945 nhằm cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã mở cuộc “chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và quân chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam. Tình hình đó buộc Đảng ta phải mở các hội nghị nhằm phân tích tình hình để đề ra các đường lối đấu tranh đúng đắn. Hội nghị trung ương lần thứ 11 và 12 đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến trong cả nước. Trên cơ sở đó Đảng cũng nhận định “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa hàng chục vạn quân viễn chinh vào miền Nam nước ta nhưng so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch không có sự thay đổi lớn”.

Vì sao Đảng lại có nhận định như vây? Đảng căn cứ vào 3 vấn đề cơ bản:

Thứ nhất, căn cứ vào thế và lực của ta và địch trên chiến trường. Về phía ta, đang giành thế chủ động tấn công trên mọi mặt trận đã đánh tan chiến lược chiến tranh đặc biệt của kẻ thù, vì vậy tạo niềm tin và sức mạnh tinh thần rất lớn, đặc biệt chúng ta đang ở  thế tiến công. Ngược lại, quân địch rơi vào trạng thái hoang mang lo sợ, bị động do chúng ta đã chiến thắng trên chiến trường. Vì vậy, khi quân địch tăng cường quân viễn chinh mặc dù cũng là cuộc chiến tranh xâm  lược thực dân kiểu mới nhưng buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và thế bị động cho nên chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược.

Thứ hai, các lực lượng tiến bộ trên thế giới phản đối cuộc chiến tranh xâm  lược của Mỹ một cách gay gắt vì vậy chúng tăng cường quân viễn chinh cũng chỉ là hành vi uy hiếp tinh thần, chúng muốn chứng tỏ sức mạnh quân sự của mình nhưng thực chất bọc lộ sự nhu nhược và bất lực. Bởi lẽ, chúng đang tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa nhưng nhân dân ta đang tiến hành cuộc chién tranh chính nghĩa chông lại đế quốc để giành độc lập, tự do, vì vậy luôn được sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Chính điều này cũng phần nào tạo tâm lý lo ngại cho kẻ địch nhưng lại là nguồn lực tinh thần vô cùng to lớn cho chúng ta tiến công địch khi chúng tăng cường quân viễn chinh.

Thứ ba, xuát phát từ vị trì địa lí của miền Nam, đây là vùng đồng bằng nhưng lại có tính phức tạp, có nhièu vùng chiêm trũng rộng lớn…vì vậy khi quân thù tăng cường quân viễn chinh buộc phải dàn mỏng lực lượng để đối phó với quân đội ta (áp dụng lối đánh du kích). Do đó khi chúng rải quân cũng sẽ rơi vào bất lợi, lực lượng mỏng sẽ không thể phát huy sức mạnh quân đội và quân ta lại am hiểu địa hình địa vật ở đây nên chúng sẽ bất lợi khi chúng ta tiến công.

Đánh giá

Tất cả những vấn đề trên Đảng ta đã phân tích và nghiên cứu rất kĩ, tưởng chùng như rất đơn giản nhưng lại hợp lí xét cả về yếu tố tinh thần và yếu tố vật chât. Cũng phải nhạn thấy một vấn đề là, nhận định trên của Đảng không phải là sự chủ quan, khinh địch, nóng vội mà rất khoa học, thể hiện tư duy nhạy bén về quân sự và thế tiến công. Chính những nhận định này đã vừa giúp Đảng ta đề ra được những đường lối đấu tranh đúng đắn, vừa tạo niềm tin cho quân và dân trước kế hoạch mới của quân thù. Và thực tế chúng ta đã đánh tan chiến lược chiến tranh cục bộ và dần dần giành được những thắng lợi vẻ vang trước quân thù hùng mạnh nhất thế kỉ 20.

26. Mặc dù có chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra nhưng sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc vẫn có thể phát triển được?

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền bắc dù gặp phải rất nhiều khó khăn đặc biệt là sự phá hoại của Mỹ bằng không quân nhưng vẫn phát triển được. Bởi lẽ:

- Sự nghiệp đó là con đường duy nhất đưa nhân dân ta thoát khỏi những tháng ngày lầm than.

- Sự nghiệp đó là kết quả của những năm tháng đấu tranh của toàn thể nhân dân Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh đó nhân dân ta phải hy sinh rất nhiều, đã phải bỏ cả máu và nước mắt.

- Sự nghiệp đó là con đường lựa chọn của Đảng của Nhà nước vì thế với lòng tin vào Đảng và Nhà nước nhân dân ta tin tưởng vào con đường Đảng đã chọn và quyết tâm đi theo con đường đó.

- Nhân dân ta đoàn kết, cùng nhau xây dựng, cùng nhau sản xuất

- Vì tình yêu thương với miền Nam thân yêu. Tích cực thi đua sản xuất để viện trợ cho Miền Nam, tạo điều kiện để  miền nam nhanh chóng hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

- Những đường lối, kế hoạch đúng đắn của Đảng trong quá trình phát triển, sản xuất.

- Sự ủng hộ của nhân loại thế giới là niềm cổ vũ lớn đối với nhân dân ta. Ngoài sự ủng hộ về tinh thần một số quốc gia còn ủng hộ Việt Nam về vật chất và kỹ thuật, tri thức như người bạn Liên Bang Xô Viết.

27. Những điểm không đúng trong nội dung công nghiệp hóa do Đại hội lần thứ IV xác định?

Thứ nhất, đường lối công nghiệp hoá của Đảng trước thời kì đổi mới, đặc biệt là trọng đại hội IV đề ra thể hiện sự nóng vội, giản đơn, duy ý chí cử đảng về vấn đề công nghiệp hoá, muốn làm nhanh, làm lứon mà mà ít quan tâm tới hiệu quả kinh tế . Mặc dú đã có sự điwuf chỉnh tquan trọng về tốc độ , bước đi và nội dung chính nhưng về cơ bản và trên thực tế về cơ bản vẫn chư thoát khỏi nhận thức cũ.

Thứ hai, trong đường lối xây dựng công nghiệp hoá trong đại hội IV Đảng ta vẫn nhận thức và tiến hành theo kiểu cũ với đặc trưng chủ yếu là nền công nghiệp hoá theo hướng khép kín , hướng nội và thien về phát triển công ngiệp nặng , CNH chủ yếu dựa vào lưọi thế lao động, tài nguyên đất đai và nguòn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa , chủ lực thực hiện công nghiệp hoá là các doanh nghiệp nhà nước , việc phân bổ nguồn lực công nghiệp hoá được thực hiện thông qua cơ chế  tập trung quan liêu bao cấp, không tôn trọng quy luật của kinh tế thị trường nên khoông thành công.

Bên cạnh đó, Đại hội vấp phải một số sai lầm khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan nóng vội, giáo điều thể hiện rõ nhất qua việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, không tính đến khá năng thực hiện và điều kiện cụ thể của đất nước sau thống nhất. Sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lí kinh tế, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Kinh tế Việt Nam mất cân đối lớn, kinh tế quốc doanh và tập thể luôn thua lỗ nặng, không phát huy tác dụng. Kinh tế tư nhân và cá thể bị ngăm cấm triệt để. Sản xúât chậm phát triển, thu nhập quốc dân, năng súât thấp, đời sống nhân dân khó khăn, xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.

28. Nội dung công nghiệp hóa do đại hội lần thứ V của Đảng xác định?

*, Quan điểm của Đảng cộng sản VNvề cộng nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982) của Đảng.

- Công trình xã hội chủ nghĩa là quá trình Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội, tạo ra điều kiện cơ bản cho Chủ nghĩa xã hội thắng lợi.

- Đảng ta sớm đặt ra và luôn luôn coi công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Tuy nhiên quan điểm, nội dung bước đi vv… Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thì dần dần được điều chỉnh, hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện trong nước và quốc tế.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của đảng đã xác định công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta: “…CNH XHCN cân đối và hiện đại kếp hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại”.

- Quá trình thực hiện đường lối công nghiệp hoá XHCN do đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của đảng đề ra, đến hội nghị BCHTW lần thứ 19 (3/1971) của Đảng đã được bổ sung và phát triển thiêm. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một ách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ…

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) của Đảng đề ra  đường lối Xây dựng nền kinh tế XHCN ở nước ta là “Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN Xây dựng cơ sở vật chất của

CNXH…Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ …”

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ năm của Đảng nhận thấy rằng đường lối cách mạng XHCN và đường lối xây dựng nền kinh tế xhcn do đại hội IV đề ra là cho suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Để đường lối được thực hiện thắng lợi, cần cụ thể hoá đường lối chung đó thành những chặng đường với những nhiệm vụ và biện pháp cụ thể, sát hợp với yêu cầu và khả năng cho phép của từng chặng đường.

-Từ nhận thức mới đúng đắn đó, đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ năm của Dảng đã vạch ra chiến lược kinh tế –xã hội tổng hợp của chặng đường trước mắt đến năm 1990. 

- Đại hội xác định “Trong năm 1981-1985 và những năm 80, cần tập trung phát triển mạnh nông nghiệp coi trọng nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp một bước  lớn sản xuất lớn XHCN, ra sức đảy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một só ngành công ngiệp nặng quan trtrọng …Đó là nội dung chính của công nghiệp hoá XHCN trong chặng đường trước mắt”

29. Nội dung CN hóa XHCN do đại hội lần thứ VI xác định?

Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kì trước. Đó là:

- Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế…Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

- Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn , không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.

- Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội lần thứ V như: Nông nghiệp vẫn chưa thật sự coi là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

30. Vì sao công nghiệp hóa gắn vs hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn vs phát triển kinh tế tri thức?

Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.Đại hội Đảng 10 xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tính tất yếu khách quan của CNH-HDH: do yêu cầu phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật XHCN, do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ nước ta với các nước trong khu vực và thế giới, do yêu cầu tạo ra năng suất lao động xã hội cao, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của CNXH.Chúng ta tiến hành CNH-HDH trong khi nền kinh tế tri thức đang phát triển.chúng ta có thể và cần thiết không phải trải qua các bước phát triển tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức, Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải là nóng vội, duy ý chí. Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, công nghệ.Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh hoạc và cả những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học công nghệ cao. Vì tầm quan trọng của kinh tế tri thức nên đại hội 10 đã nhận định: “khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất.”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#gold