Đường lối CM (31-44)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

31. Hạn chế của cơ chế hành chính tập trung bao cấp.

Thứ nhất, phương thức quản lí của nhà nước chư thực sự hợp lí. Nhà nước quản lí nền kinh tế chủ yếu bằng phương pháp mệnh lện áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt dộng dự trên cơ sở các quyết định của nhà nước và chỉ tiêu pháp lệnh được giai. Tất cá phương thức sản xuất, nguồn nguyen liệu, vốn, vật tự, thiết bị…đều do cấp có thẩm quyền quyết định.

Thứ hai, cơ quan quản lí nhà nước can thiệp quá sâu và hoạt động sản xuát kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu một loại trách nhiệm vật chất ciũng như pháp lí trứoc quyết định của mình . Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuât kinh doanh, cũng không bị ràng buộc vào kết quả hoạt động sản xuát kinh doanh, do đó khôbng tạo được sự chủ động, năng động, sáng tạo trong sản xuát kinh doanh của các doanh nghiệp.

Thứ ba, quan hệ hàng hoá, tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức quan hệ hiện vật chủ yếu . Nhà nước quản lí thông qua “cấp phát, giao nộp”.

Thứ tư, bộ máy quản lí nhà nước cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, vừa kém năng động, vừa sinh ra đội ngũ quản lí kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu, tham nhũng nhưng lại hưởng quyền lợi cao hơn người lao đông.

32 Tính tích cực của cơ chế thị trường

Sau đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Sự ra đời của cơ chế kinh tế này về thực chất khá mới mẻ với chúng ta (mặc dù nó không hề mới trong tu duy quản lí của các nứoc phương Tây). Chúng ta đã quen thuộc với cơ chế kinh tế tâo trung quan liêu bao cấp vì vậy chuyển đổi sang loại hình này vẫn tỏ ra một số e ngại trong xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử đã chúng minh, loại hính kinh tế này đã tạo ra những bước ngoặt trong nền kinh tế, đưa đất nước ta ngày một đi lên, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân.

Xét về mặt lí luận và thực tiễn, chúng ta nhận thấy cơ chế thị trường có những mặt tích cực sau đây:

Một là, Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trước đó cơ chế quản lí quan liêu bao cấp cũng từng mang lại hiệu quả to lớn trong thời kì chíên tranh. Tuy nhiên chúng ta vẫn duy trì một thời gian dài sau hoà bình đã làm cho nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Giải thích cho vấn đề này là vì, với cơ chế đó đã vô hình trung kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng cơ chế thị trường đã tháo gỡ được nhưng vướng mắc ấy, được tự do phát triển, nhà nước không can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh tế. Nhiều thành phần kinh tế ra đời và tự do phát triển.

Hai là, Tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể, các thành phần kinh tế, không ngững cải tiến kĩ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Sự cạnh tranh lành mạnh xét về mặt khách quan là nhà nước cho phép các cá nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau trong việc phát triển miễn là chấp hành đúng pháp luật. Không có một rào cản ngăn cấm hay bênh vực cho chủ thể nào trong xã hội, sự cạnh tranh này suy đến cùng cũng sẽ tạo ra sự đào thải lẫn nhau để tồn tại và là động lực cho sự phát triẻn kinh tế. ĐIều này cũng giải thích vì sao các chủ thể muốn tồn tại phải không ngừng cải tiến kĩ thuật, máy móc thiết bị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nó khác hẳn với cơ chế cũ theo phương pháp mệnh lệnh hành chính, với cơ chế thị trường các chủ thể được tự do kinh doanh.

Ba là, Các doanh nghiệp tự chủ, năng động sáng tạo trong phát triển kinh tế. Thật vậy, cũng vì sự cạnh tranh lẫn nhau mà các doanh nghiệp, các chủ dự án kinh tế phải không ngừng vận động sáng tạo, điều đáng nói là, sự sáng tạo này không bị áp lực lớn như trong cơ chế cũ. Vì trong thời kì bao cấp, sáng tạo nhièu khi là đi ngược lại chủ trương dường lối của Đảng, là chống đối đảng trong hoạt đông kinh doanh và tất nhiên sẽ bị trừng phạt. Song trong co chế thị trường, rào cản ấy được xoá bỏ và các doanh nghiệp an tâm kinh doanh và khong ngừng sáng tạo.

Bốn  là, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Thực tiễn đã chứng minh điều này qua hơn 20 năm chứng ta chuyển sang cơ chế thị trường. Nhân dân đã không còn phải lệ thuộc quá lớn vào sự cấp phát của nhà nước, tự phát triển và làm  kinh tế  riêng. …

Năm là, cơ chế thị trường sẽ là cơ hội để nước ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu giữ mãi cơ chế bao cấp cũ, sẽ rất khó để chúng ta tham gia vào đời sống hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay. Hiện tại, nứoc ta đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO và đang có cơ hội rất lớn để tham gia phát triển nền kinh tế đa phương mang lại những nguồn lợi để phát triển đất nước

33. Hạn chế của cơ chế thị trường?

Bản chất của một sự vật, hiện tượng luôn có tính hai mặt của nó. Theo tâm lí chung trong hoạt động quản lí và phát triển đời sống xã hội, nếu một sự vật, hiện tượng đem lại lợi ích lớn hơn nhiều so với hậu quả thì sẽ được ưu tiên lựa chọn. Tất nhiên đó là một quy luật khá phổ biến và cơ chế thị trường cũng không nằm ngoài quy luật đó.

Xét ở một bình diện chung nhất, cơ chế thị trưòng vẫn tỏ ra có nhiều hạn chế. Trong đó đáng quan tâm những hạn chế như sau:

Thứ nhất, cơ chế thị trường tạo ra sự phân hoá giàu nghèo. Điều này là một thực tế tồn tai khá phổ biến ở hầu hết các nước. Theo quan niệm của một số học giả tư sản, có vẻ như họ cho rằng phân biệt giàu nghèo chính là động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, chúng ta phải phủ nhận điều đó, khi chúng ta đang trên con đường đi lên chủ nghỉa xã hội. Chúng ta biết rằng, hiện nay cơ chế thị trường đã không còn xa lạ nữa vì nó gắn liền với sự phát triển hằng ngày của mỗi người trong xã hội. Những doanh nghiệp làm ăn phát đạt sẽ trở nên giàu có và những người lao động vẫn cứ lao đông nghèo khó, khoảng cách giữa họ ngày một nâng lên về cả góc độ cá nhân lẫn vùng miền….

Thứ hai, cơ chế thị trường cũng có những hạn chế trong việc cạnh tranh không lành mạnh. Những doanh nghiệp quy mô nhỏ mói thành lập sẽ không thể cạnh tranh với một tập đoàn kinh tế lớn về quy mô và vốn. Vì vậy, sẽ dần sa sút và sẽ bị phá dản. Điều này có thể xuất phát từ những yếu tố khá nhau nhưng cũng cần nhấn mạnh tới sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp với nhau, khi có những thủ đoạn, những chieu thức nhằm lật đổ đối phương….Trước đây chúng ta vẫn quan niệm sai lầm rằng, phá sản doanh nghiệp là tích cực. Nhưng hiện nay nó là tiêu cực vì để lại nhiều gánh năng như lao động, nguồn thu nhà nước từ thuế, sự độc quyền của những doanh nghiệp…vì vậy kinh tế khó phát triển hơn. Vì vậy, ở một góc độ nào đó chúng ta vẫn thừa nhận cơ chế thị trường tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh.

Ba là, tệ tham nhũng sẽ phát triển trong bộ máy quản lí nhà nước.

Bốn là, tệ nan xã hội ngày một gia tăng nhanh chóng về số lượng và để lại hậu quả nghiêm trọng. Hiện nay, cơ chế thị trường toạ ra sự hội nhập đa phưong vì thế sự du nhập của nhiều yếu tố văn hoá không phù hợp với thuần phong, mĩ tục của dân tộc trong đời sống xã hội. Những cái đó vô hình trung tạo sự tò mò trong moi tầng lớp xã hội, vì vậy mà đã có nhiều tệ nạn xã hội phức tạp khác hẳn với các thời kì trước đó.

Năm là, tạo nên môt hình ảnh không tốt về xã hội, tất cả sống vì tiền, đồng tiền nhiều khi là thước đo của các giá trì, chuẩn mực mà vốn dĩ nó không thể cân đo đong đếm bằng vật cất….

34. Những giải pháp để hạn chế sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay ?

Để giải pháp vấn đề phân hoá giàu nghèo (PHGN) thì trước hết chúng ta phải giảm tỷ lệ đói nghèo, và giảm bất bình đẳng xã hội thì mới có khả năng thu hẹp sự chênh lệch giữa giàu và nghèo. Muốn vậy trước hết chúng ta phải rút những bài học từ một số nước trên thế giới.

Đảng và nhà nước ta đã áp dụng một số chính sách nhằm hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, nâng coa đời sống của người dân, xoá đói giảm nghèo. Nhưng nó chỉ mang tính cấp bách, tạm thời. Việc xây dựng đất nước theo con đường XHCN là một chặng đường rất khó khăn, gian khổ và cần rất nhiều thời gian vì vậy chúng ta phải có những chính sách mang tính chiến lược về lâu dài, đó chính là ổn định kinh tế chính trị xã hội.

33.1.Những giải pháp cơ bản, lâu dài nhằm hạn chế sự PHGN

*Giải pháp chính trị.

Theo cuốn "Kinh tế học phát triển" và qua nghiên cứu thực trạng xu hướng phát triển của PHGN ở nước ta trong quá trình chuyển đổi phát triển nền KTTT những năm gần đây cho thấy để điều tiết quá trình này theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng XHCN, cần phải tiến hành đồng thời và biết kết hợp chặt chẽ giữa các giải pháp về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội... Trong đó giải pháp chính trị có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết vấn đề PHGN.

Chính thực tiễn chính trị Việt Nam và trình độ phát triển xã hội Việt Nam trong điều kiện quá độ lên CNXH nói chung. Thực tiễn giải quyết sự PHGN từ đổi mới tới nay nói riêng đã khẳng định vị trí, vai trò to lớn của giải pháp chính trị và đòi hỏi phải nhận thức ngày càng sâu sắc hơn bản chất của chính trị cũng như vai trò của định hướg chính trị trong quá trình giải quyết sự PHGN trước mắt cũng như lâu dài ở nước ta.

Thực chất của giải pháp chính trị đó là tạo ra môi trường chính trị ổn định để phát triển và tăng trưởng kinh tế, đồng thời thực hiện công bằng xã hội, xây dựng nền dân chủ XHCN, tức là tạo môi trường dân chủ, công bằng cho nhân dân lao động, trong đó có người nghèo, để họ..... nhóm đối tượng trở thành chủ thể có vị trí trong xã hội. Đồng thời phát huy tính tích cực của người lao động nói chung, người nghèo nói riêng vượt qua đói nghèo, vươn lên làm giàu một cách chính đáng cho bản than và hoà vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Chính môi trường dân chủ, công bằng là đảm bảo chắc chắn nhất cho các quyền cơ bản của công dân: Dân sinh, dân trí, dân quyền... Trên cơ sở đó tạo nên sự  đồng thuận xã hội làm nền tảng cho khối đại đoàn kết dân tộc.

Để thực hiện vai trò, giải pháp chính trị trong việc giải quyết sự PHGN cần hướng vào một số nhiệm vụ chính sau:

- Thứ nhất: Giữ vững ổn định chính trị để tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền vững, nhanh chóng của đất nước vượt qua "ngưỡng" nghèo.

- Thứ hai: Thực hiện công bằng và dân chủ, tạo động lực thúc đẩy quá trình giải quyết sự PHGN ở nước ta hiện nay.

Như vậy, để vững vàng, ổn định về chính trị chúng ta cần phải xây dựng hệ thống chính trị nhằm đảm bảo mục tiêu dân chủ, đảm bảo cho người dân có môi trường ổn định tự do phát triển nhưng bên cạnh đó muốn giải quyết được sự phân hoá giàu nghèo ta cũng cần phải có giải pháp về kinh tế -  xã hội.

* Giải pháp kinh tế - xã hội.

Những giải pháp kinh tế - xã hội cần phải bảo đảm: Một mặt thúc đẩy tăng truởng kinh tế, tạo cơ sở vật chất thực hiện các chính sách hội nói chung, mặt khác giải quyết hài hoà lợi ích giữa các giai tầng, tầng lớp trong xã hội... sao cho xây dựng đất nước vững mạnh theo con đường lối XHCN đã chọn. Vậy những giải pháp đó là:

-Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH nhằm đảm bảo sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế quốc dân và là cơ sở quyết định nhất để giải quyết sự PHGN nói chung, xoá đói giảm nghèo nói riêng.

+  Phát triển và chuyển dịch có cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH.

+ Lựa chọn công nghệ hợp lý đối với nông nghiệp – nông thôn.

+ Điều chỉnh các chính sách ruộng đất.

+ Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn bằng mọi nguồn vốn.

+  Giải quyết "đầu ra" cho nông sản hang hoá để đẩy mạnh sản xuất hang hoá nói chung, sản xuất hang hoá nông phẩm nói riêng.

- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội của Nhà Nước trước xu hướng PHGN ở nước ta hiện nay.

+ Tạo môi trường kinh tế -  xã hội và khuôn khổ pháp lý ổn định, an toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần kinh tế.

+ Phát huy tích cực của KTTT bằng cách duy trì và phát triển quan hệ thị trường, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực cuốn hút mọi người vào phát triển kinh tế xã hội.

+  Điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, thực hiện công bằng xã hội.

+ Tiến hành cải cách ruộng đất, tạo điều kiện cho người nghèo được vay lãi theo lãi suất ưu đãi, đánh thuế luỹ tiến vào người có thu nhập cao, nhằm hạn chế sự phân biệt giàu nghèo và thực hiện xoá đói giảm nghèo.

* Giải pháp văn hoá.

Thu hẹp khoảng cách đời sống văn hoá giữa thành thị và nông thôn. Do tình trạng đời sống vật chất khó khăn, thiếu thốn... làm cho một số người ở nông thôn chán nản, bế tắc muốn rời làng quê ra thành thị kiếm sống. Vì vậy cần phải phát triển đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn để thu hẹp khoảng cách văn hoá giữa nông thôn và thành thị.

Nâng cao trình độ dân trí của nhân dân. ở nước ta, phát triển giáo dục nâng cao dân trí trước hết phải xoá mù, tái mù, thực hiện phổ cập giáo dục, đưa lại cho người nghèo quyền "sở hữu trí tuệ".

Bên cạnh đó cũng phải đầu tư một bộ phận có chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước, tạo ưu thế vượt trội, tạo động lực thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Tăng cường giáo dục văn hoá pháp luật và văn hoá dân chủ cho người dân để mọi người có ý thức hơn trong thời đại Việt Nam hòa nhập với cộng đồng quốc tế.

33.2. Những giải pháp cấp bách nhằm hạn chế sự PHGN.

* Điều tiết tăng thu nhập cho tầng lớp nghèo:

Nhà nước dung tiền ngân sách để hỗ trợ cho người nghèo, những người gặp rủi ro, khuyết tật... thông qua các chương trình kinh tế - xã hội, các quỹ trợ cấp quốc gia, trợ cấp, tín dụng, ưu đãi... Ngoài ra còn các cuộc vận động đóng góp vào quỹ xoá đói giảm nghèo, giúp đỡ vùng thiên tai... Nhà nước còn tăng cường các dịch vụ công như dự án y tế công cộng, bệnh viện miễn phí cho người nghèo, chương trình nước sạch, chăm sóc người già cô đơn, trẻ em mồ côi. Hộ đói nghèo được miễn giảm các khoản đóng góp xã hội do địa phương qui định để xây dựng cơ sở sản xuất, dịch vụ... được miễn giảm các khoản thuế như thuế nông nghiệp, thuế doanh thu.

* Chính sách lao động việc làm

Vấn đề việc làm luôn là vấn đề bức xúc trong mọi thời đại. Hiện nay nước ta có khoảng hơn 8 triệu người cần phải giải quyết việc làm nhất là trong tình trạng giá thị trường ngày càng có nhiều biến động và tăng cao như hiện nay. Theo Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã hội các giải pháp để giải quyết việc làm trong thời gian tới:

•Phát triển kinh tế.

•Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.

•Thực hiện các hoạt động hỗ trợ việc làm như:

•Chương trình trợ giá vốn và công nghệ. Phát triển các trung tâm dịch vụ giới thiệu việc làm, tổ chức điều tra, thu nhập thông tin về thị trường lao động.

•Giải quyết lao động dôi dư.

* Chính sách đối với người có công với cách mạng.

+ Đối với dân tộc thiểu số.

Do nhiều nguyên nhân khác nhau đòng bào dân tộc nhất là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa đang gặp rất nhiều kho khăn . Nhà nước đã và đang tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp để phát triển kinh tế xã hội miền núi như các chương trình chiến lược phát triển kinh tế miền núi, các chương trình xoá đói giảm nghèo ..v.v.

- Điều tiết giá cả, quan hệ cung cầu trên thị trường nhằm bảo đảm ổn định sản xuất và mức sống của những người có thu nhập thấp .

+ Với chính sách cho vay ưu đãi: Chúng ta phải có chính sách trợ giúp tín dụng cho vay vốn với điều kiện ưu đãi từng nguồn tín dụng của Ngân Hàng phục vụ người nghèo, quĩ xoá đói giảm nghèo, các chương trình xoá đói giảm nghèo.

35. Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam?

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp quyền tư sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước ta. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân định đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và của toàn bộ dân tộc. Đây còn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ khác.

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ, chúng ta phải lấy hiệu quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng ta không thừa nhận học thuyết "tam quyền phân lập" vì nó máy móc, khô cứng theo kiểu các quyền hoàn toàn độc lập, không có sự phối hợp, thậm chí đi đến đối lập, hạn chế sức mạnh của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể trở lại với nguyên tắc tập quyền, tức là tập trung toàn bộ quyền lực cao nhất của nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp cho một cá nhân, hoặc một cơ quan tổ chức nhà nước. Bởi vì, làm như vậy là đi ngược lại lịch sử tiến bộ của nhân loại.

Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân công, phân định thẩm quyền cho rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất lượng cao ba quyền, tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền...

Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở HP, PL và đảm bảo cho HP và các đạo luật giữ vị trí tối thượng

Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VN do một Đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.

36. Những thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.

Công bằng và tiến bộ xã hội trong điều kiện ngày nay, được hiểu là mọi người đều được tiếp cận công bằng các cơ hội phát triển, các nguồn lực phát triển; mọi người đều có điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về thông tin, giáo dục, y tế, việc làm… Do vậy, cần có những chính sách đồng bộ trong việc hình thành cơ cấu kinh tế cũng như trong cơ chế quản lý; bảo đảm sự công bằng trong lĩnh vực kinh tế đến công bằng trong các lĩnh vực chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội; từ khâu sản xuất, kinh doanh cho đến khâu phân phối, không chỉ coi đây là vấn đề thuộc khâu phân phối. hiện nay việc thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội chúng ta còn gặp một số khó khăn sau:

Một là, Chênh lệch giàu nghèo quá lớn.

Chênh lệch giàu nghèo là biểu hiện rõ nhất của bất công xã hội, nếu khoảng cách chênh lệch này ngày càng giãn ra trong khi kinh tế đất nước vẫn có tốc độ tăng trưởng khá, song mức độ cải thiện thu nhập của lớp người nghèo không được bao nhiêu, thì đây là một vấn đề rất đáng được báo động. Ở Việt Nam, vấn đề còn quan trọng và gay gắt hơn nhiều chính là chênh lệch về thu nhập và chi tiêu giữa nông thôn và thành thị. Theo số liệu thống kê năm 2004, thu nhập bình quân đầu người một tháng (theo giá thực tế) của dân thành thị là 815.400 đồng, còn của dân nông thôn là 378.100 đồng; riêng vùng Tây Bắc là thấp nhất, chỉ có 265.700 đồng. Chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người một tháng (theo giá thực tế) của thành thị là 594.500 đồng, còn của nông thôn là 283.500 đồng. Cũng có nghĩa là về thu nhập cũng như chi tiêu, thành thị đều gấp hơn hai lần so với nông thôn. Nhưng đó cũng chỉ là những con số đã được “bình quân hóa”, trong thực tế, khoảng cách giàu nghèo còn nặng nề và đau xót hơn rất nhiều. Nhiều vùng nông thôn miền núi còn thiếu lương thực, hoặc chỉ có bắp không có gạo, thiếu nước sinh hoạt, thiếu các dịch vụ công cộng tối thiểu.

Hai là, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm quá lớn đã gây rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng ở nước ta hiện nay.

Đáng quan tâm nhất là ở nông thôn, nạn thiếu việc làm đang rất nghiêm trọng, không chỉ trong những tháng nông nhàn, mà ngày càng nghiêm trọng tại những vùng đất đai chuyển sang công nghiệp hoặc dịch vụ, người dân sau khi nhận được một số tiền đền bù ít ỏi đã trở nên trắng tay, không nghề nghiệp, buộc phải di chuyển ra thành thị. Cái nghèo bám theo họ từ nông thôn ra thành thị, làm tăng thêm số người nghèo vốn đã khá đông ở thành thị. Hàng chục vạn phụ nữ nông thôn phải đi kiếm sống ở xứ người mong có tiền gửi về nuôi sống gia đình.

Ba là, sự chênh lệch về tri thức quá lớn.

Nhưng người nghèo ở nước ta hiện nay không chỉ nghèo về kinh tế mà còn nghèo về kiến thức và quá yếu thế trong việc bảo đảm các nhu cầu về y tế. Nhiều bài viết trên báo chí gần đây đã cho thấy nông dân đang là tầng lớp chịu nhiều bất công vì được hưởng ít nhất thành quả của công cuộc đổi mới.

Ngoài ra, đất nước trải dài theo đường vĩ tuyến, tính chất địa lí phức tạp, nhiều dân tộc và tôn giáo khác nhau vì vậy thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội vẫn gặp không ít khó khăn. (Tự phân tích)

37. Vì sao phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay?.

1. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn cốt cách dân tộc trong quá trình phát triển của dân tộc.

2. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở củng cố ý thức tự tôn dân tộc và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững.

3. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là tiếp tục phát huy tính sáng tạo của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.

4. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

5. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn với bảo vệ mối quan hệ hòa hợp giữa con người với tự nhiên và xã hội.

38. Những thuận lợi, khó khăn trong văn hóa hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.

Thuận lợi:

- Việc giao lưu văn hóa giữa các nước trên thế giới là nguồn bổ sung, làm giàu có thêm cho nền văn hóa mỗi dân tộc. Một nền văn hóa đóng cửa khép kín sẽ khô héo, thiếu sức sống và kém phát triển. Giao lưu với các nền văn hóa đa dạng trên thế giới, văn hóa VN sẽ có cơ hội tiếp thu những tinh hoa, văn hóa nhân loại của các dân tộc khác trên thế giới nhằm làm phong phú, giàu có cho nền văn hóa VN.

Khó khăn:

- Với mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một vấn đề rất quan trọng đặt ra là giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế. Trên thế giới, bất kỳ quốc gia, dân tộc nào đều tìm mọi cách giữ gìn, bảo vệ bản sắc văn hóa của riêng mình, vì mất bản sắc sẽ không còn là một quốc gia, một dân tộc nữa. Bản sắc văn hóa mỗi dân tộc đã đóng góp chung cho nền văn minh nhân loại, làm cho nó đa dạng, phong phú, kết tinh những tinh hoa văn hóa của các dân tộc ở khắp các châu lục.

Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cần được quan tâm ngay trong cuộc sống hằng ngày, chẳng hạn như trong lĩnh vực nghệ thuật, đã xảy ra tình trạng không ít bạn trẻ đua nhau chạy theo nhạc rock, pop, hiphop... mà quay lưng với nghệ thuật truyền thống như hát dân ca, tuồng, chèo... Nhiều người mẹ trẻ không thuộc một bài hát ru. Ngay trong cách ăn mặc, nói năng, cử chỉ, hành vi, giao tiếp hằng ngày, muốn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cần phải dựa trên cơ sở thuần phong mỹ tục của ông cha từ bao đời để lại. Mỗi gia đình phải giữ được nền nếp gia phong, con cháu hiếu thảo, vợ chồng thủy chung, anh em thuận hòa. Khu dân cư phải có tình làng nghĩa xóm, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Điều cấp thiết hiện nay là phải xây dựng được lối sống, nếp sống thấm nhuần đạo lý của con người Việt Nam. Lối sống thực dụng tôn thờ đồng tiền đang hủy hoại truyền thống nhân nghĩa, truyền thống đạo đức của dân tộc.

- Khó khăn trong việc quản lý nền văn hóa chung, tăng cường sức đề kháng cho nền văn hóa.

Thực tế cho thấy, khi mở rộng giao lưu văn hóa, bên cạnh cơ hội để tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới thì những sản phẩm "văn hóa" xấu, độc từ bên ngoài cũng tràn vào nước ta. Nạn sách đen, video đen, băng đĩa kích thích bạo lực, kích dục len lỏi đến tận ngõ xóm, làng quê. Chúng ta mất bao nhiêu công sức truy quét mà vẫn chưa xóa bỏ được. Những sản phẩm văn hóa xấu, độc này rất nguy hại, làm vẩn đục môi trường văn hóa, ảnh hưởng tới lối sống, đạo đức của mọi người, nhất là lớp trẻ. Càng mở rộng giao lưu văn hóa, càng phải ngăn chặn quyết liệt những sản phẩm văn hóa xấu, độc. Ngăn chặn có hiệu quả chính là góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

- Khó khăn trong việc phải đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và làm giàu văn hóa trong quá trình hội nhập.

39. Phương châm đối ngoại của đảng ta hiện nay?

Về phương châm đối ngoại, nền ngoại giao của nước Việt Nam mới quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.

Đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1996 – 2008: bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

+ Đại hội VIII (tháng 6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương xây dựng nền kinh tế mở và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của ĐH VIII có các điểm mới, đó là chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dan, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ; chủ trương thử nghiệm trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại để tiến tới thực hiện đàu tư ra nước ngoài. Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội VIII, Hội nghị trung ương 5 khóa VIII (12/1997) đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập WTO.

+ Đại hội IX (4/2001) nhán mạnh chủ trương chủ động hội nhậ kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nọi lực. Đại hội IX nêu rõ quan điểm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước. ĐH IX đã phát triển thành “VN sẵn sang là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, hấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển”.

+Nghị quyết 7 của Bộ Chính trị (11/2001) về hội nhập kinh tế quốc tế đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết trung ương 9 khóa IX (1/2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập WTO, kiên quết đấu tranh với mọi biểu hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

+ ĐH X (4/2006) tiế tục khẳng định đường lối đối ngoại của Đảng đã đề ra từ các ĐH trước, đồng thời đề ra chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Hoàn cảnh chủ động quyết định đường lối, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, phân tích lựa chọn phương thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập; Khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh đổi mới bên trong, tích cực nhưng phải thận trọng, vững chắc.

Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa dạng, đa phương hóa qun hệ quốc tế được xác lập trong 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới, đến ĐH X được bổ sung, phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.

40. Những lần đảng ra hoạt động công khai trong thời lỳ 1930 - 1954? vì sao?

       Trong những năm 1936-1939, trước tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển, Đảng nhận định kẻ thù trước mắt nguy hại nhất đối với nhân dân Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Nhiệm vụ trước mắt của CM là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa, tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình; thành lập mặt trận nhân dân phản đế (đổi tên thành mặt trận dân chủ Đông Dương). Đảng quyết định chuyển từ hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, làm cho Đảng mở rộng quan hệ với quần chúng, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh

41. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền

Trong đổi mới tư duy về xây dựng hệ thống chính trị, vấn đề đổi mới tư duy về nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Thuật ngữ “xây dựng nhà nước pháp quyền” lần đầu tiên được đề cập tại hội nghị Trung ương 2 khóa VII (năm 1991). Đến hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (năm 1991) và các Đại hội VIII, IX, X, Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN VN và làm rõ thêm nội dung của nó. Đó là: Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội; người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền tự do sống và làm việc theo khả năng, sở thích của mình trong phạm vi pháp luật cho phép

42. Quan điểm của đảng về cái cách tư pháp?

-cải cách tư pháp phải đặt dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm ổn định chính trị, bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VN

-  CCTP phải xuất phát từ yc phát triển kinh tế xã hội, xd XH công =, dân chủ văn minh

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân trong cải cách tư pháp

-  CCTP phải kế thừa truyền thống pháp luật của DT, những thành tựu đã đạt đc của nền tư pháp XHCN

- CCTP phải đc tiến hành khẩn trương, toàn diện, có trọng điểm

- Chú trọng công tác giải thích pháp luật

43. Quá trình hòa hoãn giữa việt nam và pháp trong năm 1946?

-         Sau CM tháng 8 năm 1945 thành công, nước VN dân chủ cộng hòa ra đời bên cạnh những thuận lợi cơ bản còn gặp nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.

-         Ban chấp hành trung ương Đảng ra chỉ thị về kháng chiến kiến quốc (25-11-1945), vạch ra con đường đi lên cho cách mạng VN trong giai đoạn mới.

-         Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng VN lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập. Vì vậy, mặc dù Đảng xác định kẻ thù chính trong giai đoạn này là thực dân Pháp nhưng trước mắt vẫn hòa hoãn với Pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng, khắc phục những khó khăn đang tồn tại như nạn đói, nạn dốt, chống thù trong giặc ngoài. Đảng chủ trương thực hiện bốn nhiệm vụ “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân” , thực hiện nguyên tắc thêm bạn bớt thù “Hoa – Việt thân thiện” đối với quân Tưởng và “Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.

-         Những nối dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc trên được Đảng tập trung chỉ đạo thực hiện trên thực tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt sáng tạo, trước hết là trong giai đoạn từ tháng 9-1945 đến cuối năm 1946.

-         Tháng 12-1946, cho đến khi quân Pháp gửi tối hậu thư đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô, khả năng hòa hoãn không còn, hòa hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước, quá trình hòa hoãn giữa VN và Pháp kết thúc, Đảng ta quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước.

44. Vì sao đại hội VI của đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản lí kinh tế ?

-Xuất phát từ thực trạng khủng hoảng nền kinh tế VN

-Đổi mới là xu hướng chung của thế giới

- nhiều nước trong phe XHCN cũng đã tiến hành thành công công cuộc đổi mới, điển hình là Liên Xô, Trung quốc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#gold