duy khanh truyen ma kinh di 30/8

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Truyện ngắn: Vòng tròn tình yêu

AT - Mình đã mất anh được năm năm rồi. Tại sao ký ức về anh vẫn không thể phai mờ? Mình đã nhiều lần muốn chết theo anh, vậy mà mọi người không cho mình chết. Cổ tay chằng chịt những vết sẹo do dao lam rạch. Nỗi đau tinh thần còn lớn gấp trăm ngàn lần nỗi đau thể xác. Mỗi lần nhớ anh mình lại vô tình rạch những vết dài rướm máu trên cổ tay.Mình không thấy đau mà chỉ thấy trái tim như thắt lại.

Cậu ta lại đến, cậu con trai học nhiếp ảnh và thua mình hai tuổi. Cậu ta có vẻ phong trần và bụi bặm. Tại sao cứ nhìn mình như hiểu thấu nỗi đau của mình vậy? Đôi mắt ấy cứ như lột trần mọi suy nghĩ của mình.

Cậu ta bắt gặp mình khi mình đang cứa dao lam lên cổ tay. Máu rướm ra và có lẽ cậu ta nghĩ mình muốn tự tử. Mình chẳng muốn chết nữa đâu. Cứ sống để xem tận cùng nỗi đau sẽ là gì.

oOo

Cô ấy ngồi đó, ánh mắt nhìn vào khoảng không, vô hồn. Lần đầu tiên mình nhìn thấy một đôi mắt buồn đến thế. Mình đã nghe bạn của cô ấy và cũng là thầy của mình nói về cái chết của người yêu cô ấy năm năm trước. Năm năm rồi, chẳng lẽ nỗi đau chưa thể nguôi? Tại sao tim mình lại có cảm giác khó tả như vậy?

Mình xin vào làm trong studio của cô ấy. Một người con gái yếu đuối nhưng luôn tỏ ra mạnh mẽ. Đôi mắt cô ấy không thể giấu được sự yếu đuối.

Cô ấy ngồi đó, chiếc dao lam cứ cứa từng đường trên cổ tay. Mình biết những vết cứa ấy sẽ không làm cô ấy chết và nó cũng không làm cô ấy đau. Mình đã đọc sách, người ta nói đó là một chứng bệnh về tâm lý. Thầy nói cô ấy đã tự tử mấy lần. Bây giờ cô ấy cứ sống như vậy và chẳng còn muốn tìm đến cái chết nữa. Nhưng cách sống ấy đâu khác gì là đã chết.

Mình biết trong mình đã có một sự thay đổi rất lớn. Mình đã yêu cô ấy...

oOo

Duy biết mình yêu anh, nhưng tại sao anh vẫn thản nhiên như vậy? Bốn năm trời học chung một trường đại học, ở cùng một dãy phòng trọ và đã có một tình bạn thân thiết vậy mà không thể có tình yêu. Mình biết anh chỉ xem mình như một người bạn nhưng mình không thể ngừng yêu anh.Anh vẫn thế, hòa đồng, nói chuyện vui vẻ với mình và tất cả mọi người.

Vào thăm thầy, nghe thầy nói là anh đã xin vào làm việc ở một studio. Và thầy kể ở đó có một cô gái lớn hơn mình hai tuổi, lặng lẽ và yếu đuối sống trong nỗi đau mất người yêu. Đó là người yêu của bạn thân thầy, người bạn đã mất cách đây năm năm vì một tai nạn. Chẳng lẽ Duy vào làm ở đó là vì cô ấy. Thầy ngập ngừng khi nghe mình hỏi. Thầy nói Duy gặp cô ấy tại một triển lãm nhiếp ảnh và xin vào làm chỗ cô ấy.

Vậy là Duy đã yêu người khác chứ không phải mình. Cũng đúng thôi, người như Duy là để che chở cho những người yếu đuối, mong manh. Còn mình, một con bé họa sĩ đầy cá tính và luôn tỏ vẻ mạnh mẽ.

Dạo này mình hay khóc và hay có những giấc mơ về Duy. Tình yêu của mình dành cho anh ngày càng lớn và nước mắt không hiểu tại sao cứ rơi nhiều đến thế.

Mình vẽ nhiều hơn, những bức tranh cứ vô thức có một màu buồn. Không thể như thế được, mình đã bị tình cảm chi phối quá nhiều. Nhưng mình đang thật sự thấy đau khổ.

oOo

Cậu ta thật sự rất có cá tính. Những bức ảnh thể hiện được tất cả những suy nghĩ và ước vọng của cậu ta.

Cậu ta không gọi mình là chị mà cứ xưng tên với mình. Tên cậu ta là Duy, không biết từ khi nào mình cũng gọi cậu ta bằng tên và không xưng chị với cậu ta nữa.

Duy nắm lấy tay mình, gỡ chiếc dao lam trên tay mình. Duy rất giận dữ:

- Minh không được làm việc này nữa.Nó sẽ làm cho Minh đau đấy.

- Nhưng tôi không thấy đau, đó chỉ là một thói quen thôi mà.

- Minh không đau nhưng tôi thấy đau.

Cậu ta là ai mà có thể biết được nỗi đau của mình chứ? Từ trước đến giờ chỉ có anh là người hiểu và thương mình.

Tại sao dạo này mình không còn mơ thấy anh nữa? Không thể được, mình không thể quên anh được. Anh là tình yêu, là cuộc sống, là suy nghĩ của mình mà. Tại sự xuất hiện của Duy sao? Tại sự xuất hiện của cậu ta đã làm mình không còn nhiều thời gian để nghĩ đến anh nữa. Mình phải dừng chuyện này lại. Không thể để Duy làm thay đổi cuộc sống của mình.

oOo

Suýt nữa mình đã không kìm lòng được và nói ra câu mình yêu cô ấy.Mình hiểu tình cảm và những suy nghĩ của cô ấy. Cô ấy chỉ muốn trốn chạy thực tại, cô ấy không muốn chấp nhận sự thật là mình đã quên đi người yêu. Mình không thể để cô ấy sống mãi trong tình yêu của quá khứ. Phải cứu lấy cô ấy và cứu cả trái tim đang đau khổ vì yêu của mình nữa.

Minh nói mình hãy nghỉ việc đi. Cô ấy nói mình đừng liên quan đến cuộc sống và hãy để cô ấy sống như ngày xưa. Mình đã hét lên:

- Không phải vì Duy làm cho Minh bắt đầu quên anh ấy sao?

Đôi mắt cô ấy đã không thể giấu được. Mình đã không kìm được và ôm chặt lấy cô ấy.

- Tôi không thể để Minh sống như ngày xưa nữa. Đó không phải là cuộc sống. Minh hãy quên anh ấy đi.

Cô ấy vùng ra khỏi vòng tay mình.Cô ấy khóc, lần đầu tiên nước mắt bướng bỉnh chịu chảy ra. Cô ấy đã kìm nén quá lâu rồi.

- Duy yêu Minh. Duy sẽ làm cho Minh hạnh phúc. Hãy để tôi thay anh ấy ở bên cạnh Minh.

Mình đã nói ra những tình cảm giấu kín nửa năm nay. Mình yêu cô ấy thật lòng, không phải vì thương hại nỗi đau mà cô ấy đang gánh chịu.

Cô ấy đã ôm chặt lấy mình mà khóc.

Em khóc đi, nếu nước mắt có thể xóa hết đi những nỗi đau thì em cứ khóc đi. Tôi sẽ vẫn yêu em và mang đến cho em hạnh phúc hơn những ngày đã qua.

Đôi môi em lạnh quá, đôi môi đã gần sáu năm qua luôn mím chặt để kìm nén tiếng khóc. Tôi sẽ làm ấm đôi môi em bằng những nụ hôn nồng nàn. Tôi sẽ sưởi ấm trái tim lạnh giá vì đau khổ của em. Xin hãy yêu tôi và tin tưởng vào tình yêu của tôi.

oOo

Mình đã khóc khi nhìn thấy Duy và cô gái ấy. Mình tìm đến studio mà Duy làm việc chỉ vì muốn gặp cô gái mà Duy đang yêu và đang quan tâm, lo lắng. Họ đang nói chuyện với nhau và cả hai đều khóc. Mình đứng lặng ở cửa, lắng tai nghe họ nói với nhau như một tên ăn trộm đang rình mò. Đến khi nghe Duy nói rằng anh yêu cô ấy thì mình như khuỵu xuống. Duy yêu cô ấy thật lòng. Mình đã chạy đi khi nhìn thấy hai người hôn nhau. Có lẽ Duy sẽ mang lại hạnh phúc cho cô ấy bằng tất cả cuộc đời mình. Còn mình ư? Chỉ là một đứa con gái thất bại trong tình yêu. Mình đã yêu nhưng lại không dám sống thật với tình yêu ấy.

Thầy biết mình yêu Duy. Mình đã khóc với thầy, không cần nói thầy cũng hiểu. Thầy nói mình là một cô gái tốt, rồi sẽ có người yêu mình thật lòng. Thầy cũng nói Duy chỉ luôn xem mình là bạn.

oOo

Mình đến thăm thầy, kể cho thầy nghe chuyện của mình và Minh. Thầy vui lắm và chúc cho mình hạnh phúc. Thầy có kể về Hân và tình cảm của cô ấy dành cho mình. Biết làm sao được khi mình đã yêu người con gái khác. Hân là người có cá tính và mạnh mẽ, rồi cô ấy sẽ quên mình nhanh thôi.

Minh nói sẽ sang Pháp, cô ấy có một studio ở đó và cô ấy muốn hoàn thành ước mơ của người yêu đã mất. Mình sẽ đi cùng cô ấy và có lẽ là sẽ xa nơi này mãi mãi. Mình sẽ đi cùng Minh đến bất cứ nơi đâu, miễn sao có thể mang lại hạnh phúc cho cô ấy. Minh đã cười nhiều hơn. Sang Pháp mình sẽ hỏi cưới cô ấy.

Đến chào thầy trước ngày đi. Hỏi thầy tại sao không có người yêu. Thầy nói:

- Em đã lấy mất tình yêu của tôi và em sắp đưa tình yêu của tôi đi xa mãi mãi.

Mình ngỡ ngàng, thì ra thầy cũng yêu Minh. Ngày xưa thầy, Minh và anh ấy là một bộ ba hoàn hảo.

- Tôi thua em bởi vì tôi chỉ biết yêu Minh nhưng không thể giúp cô ấy vượt qua nỗi đau của mình. Em xứng đáng có Minh và tình yêu của cô ấy.

Mình không hối hận vì đã giành lấy tình yêu của thầy. Mình đã làm đúng.

oOo

Mình lại khóc. Thầy nói Duy và cô gái ấy sẽ sang định cư ở Pháp. Duy sẽ đi mãi mãi, biết đâu điều đó lại tốt cho mình.

Ngồi ở quán cà phê cũ, quán cà phê mà mình, Duy và nhóm bạn cùng trường hay ngồi. Sẽ có nhiều cuộc họp mặt nữa nhưng mãi mãi chỗ ngồi của Duy sẽ trống.

Rồi sẽ có một ngày mình sẽ gặp và yêu một người thật sự quan tâm, yêu thương mình.Và mình sẽ yêu nhiều hơn cả yêu Duy nữa. Đối với mình, tình yêu thật sự vẫn chưa bắt đầu mà.

oOo

Thầy kể cho tôi nghe về em, về cô gái tên Hân tôi chỉ gặp vài lần nhưng nhớ mãi. Em có một đôi mắt buồn và những bức tranh em vẽ làm tôi thấy đau.

Tôi chỉ dám ngồi từ xa nhìn em khóc.Tôi đã yêu em từ khi nào tôi cũng không biết nữa. Em vẫn khóc một mình như thế. Tôi vẫn chưa muốn xuất hiện trước em. Hãy để thời gian giúp em nguôi ngoai đi tình yêu đơn phương của mình.

Em cứ khóc đi. Từ bây giờ cho đến lúc ấy, em hãy cứ khóc một mình đi, đừng khóc trước bất kỳ người nào khác. Tôi sẽ đến bên em, sẽ cho em mượn đôi vai, sẽ ôm em thật chặt trong vòng tay, tôi sẽ yêu em thật nhiều và làm cho em yêu tôi nhiều hơn người mà em đã từng yêu, đã từng đau khổ. Đến lúc ấy, em hãy chỉ khóc với tôi thôi, em nhé.

LÊ VŨ ANH ĐÀO (ĐH Luật TP.HCM

...............end.......

NGƯờI CHếT TRở Về

Ông bà Phạm trước đây luôn luôn cư ngụ ở thành phố, nhưng trước khi ông Phạm hồi hưu, hai ông bà quyết định về sống tại miền quê để được hưởng bầu không khí trong lành và sự yên tĩnh cần thiết cho tuổi già. Họ mua một mảnh đất xinh xắn nằm trên một sườn đồi, và vừa dọn vào, công việc đầu tiên của bà Phạm là cho trồng ngay một vườn rau với đủ những loại rau cải mà ông bà ưa thích. Với một vườn rau xanh tươi, mỗi tuần ông bà chỉ cần mua sắm thêm một ít thực phẩm và một vài thứ lặt vặt là đã có thể sống thoải mái suốt tuần. Một hôm trong khi đang làm việc ngoài vườn, bà Phạm có cảm tưởng như mình đang bị ai đó theo dõi. Ngước mắt nhìn lên, bà thấy một thiếu niên ốm yếu với đôi mắt trũng sâu đang đứng nhìn bà. Cậu bé mặc một chiếc quần jean cũ và đi chân không. Bà giơ tay vẫy chào nhưng cậu bé cứ đứng bất động. Bà thầm nghĩ có lẽ cậu ta yếu ớt quá tới độ không đủ sức giơ tay lên vẫy lại. Cậu bé gầy trơ xương và bà Phạm có thể đếm được từng cái xương sườn của nó. Đứng theo dõi bà làm việc trong vài phút, cậu bé quay mình rảo bước và chẳng mấy chốc đã biến dạng sau những bụi cây rậm rạp. Hai hôm sau cậu ta trở lại và đi cùng là một người đàn bà khoảng bốn mươi tuổi, cũng ăn mặc rách rưới, mặt mũi hom hem. Người đàn bà tiến tới sát hàng rào, lên tiếng hỏi bà Phạm trong khi cậu bé cúi đầu lẽo đẽo theo sau:

- Bà là người mới mua mảnh đất này phải không?

- Dạ đúng đó. Bà có cần tôi giúp gì không?

Người đàn bà nói với vẻ cứng cỏi:

- Tôi tới đây xem có giúp được gì cho bà hay không. Đây là Mẫn, con trai tôi. Nó làm việc rất giỏi và rất khoẻ mạnh chứ không yếu ớt như cái dáng vẻ bề ngoài của nó đâu. Nếu bà cần, nó sẽ phụ bà trong công việc vườn tược cũng như để bà sai vặt. Mỗi ngày chỉ xin bà cho cháu 5 ngàn đồng.

Bà Phạm toan từ chối vì bà không muốn cần có ai phụ giúp mà trái lại bà rất thích hoạt động một mình trong bầu không khí trong lành tại đây. Tuy nhiên trước hình ảnh tiều tụy của cậu bé với đôi tay buông xuôi và đôi mắt trõm lơ, bà hơi ngập ngừng:

- Con bà coi bộ còn nhỏ quá, và hình như nó cũng không được mạnh khoẻ lắm...

Người đàn bà giơ tay ngắt lời:

- Năm nay nó đã được mười sáu tuy coi nó có vẻ nhỏ hơn tuổi của nó. Như tôi đã nói, nó rất mạnh khỏe chứ không yếu đuối như hình dáng của nó đâu. Tôi bảo đảm là bà sẽ không có điều gì than phiền. Mẫn là một người giúp việc rất giỏi.

Năm ngàn đồng một ngày đối với bà Phạm không nghĩa lý gì và bà nghĩ rằng nếu cho cậu bé này phụ giúp bà một tay, bà sẽ có cơ hội cho cậu ta ăn uống đầy đủ. Nghĩ thế, bà Phạm bèn đáp:

- Được thôi! Mỗi ngày cháu Mẫn có thể tới đây vào lúc mười giờ sáng và đi về vào lúc năm giờ chiều. Tôi sẽ cho cháu ăn trưa luôn.

Rồi bà Phạm quay sang phía cậu bé:

- Sao Mẫn, cháu thấy như vậy có được không?

Mẫn không trả lời khiến bà Phạm tự hỏi không biết cậu ta có nghe bà nói hay không vì cậu ta vẫn đứng yên cúi đầu, không hề ngước mắt. Mẹ của Mẫn ra hiệu cho bà Phạm bước ra xa với bà rồi bà thầm thì:

- Thưa bà, tôi không muốn con tôi phải đi đi về về vì nhà chúng tôi ở cách đây khá xa. Nó có thể ngủ trong căn chòi nhỏ đàng kia và xin bà đừng bận tâm gì về việc cho nó ăn uống. Tôi sẽ đem đồ ăn tới cho nó mỗi ngày. Nó ăn uống khó khăn lắm. Tôi biết nó muốn ăn món gì và sẽ lo cho nó. Mỗi lần tôi tới, xin bà cho tôi năm ngàn đồng.

- Thế còn cháu Mẫn thì sao? Nếu cháu ấy làm việc cho tôi, tôi phải trả tiền cho cháu mới phải!

Người đàn bà lắc đầu:

- Thưa bà, bà không hiểu. Tôi cần tiền để nuôi mấy đứa nhỏ ở nhà. Ba của cháu Mẫn mất rồi và bây giờ chỉ có mình nó là người có thể làm việc được để nuôi gia đình. Nó muốn làm việc để giúp đỡ tôi và bà sẽ không ân hận khi nhận cho nó giúp việc. Nó rất siêng năng, làm việc không biết mệt và không bao giờ than phiền bất cứ điều gì cả.

- Thôi được rồi. Nhưng tôi nghĩ rằng có lẽ nó không nên ngủ ngoài lều, để tôi sửa soạn một phòng trong nhà dành cho nó. Nhà tôi rất rộng!

- Thưa bà không sao đâu. Nó không cần ngủ trong nhà đâu. Nó khó ngủ lắm và tôi không muốn nó làm phiền bà. Nó ngủ trong cái chòi tranh kia là tốt nhất.

Thế là ngày hôm sau Mẫn tới làm việc cho bà Phạm. Chẳng bao lâu, bà Phạm nhận thấy những gì mẹ cậu ta nói với bà hoàn toàn đúng. Mẫn không bao giờ than phiền cũng như không bao giờ tỏ ra mệt mỏi. Mỗi buổi sáng dù ông bà Phạm dậy sớm tới đâu đi nữa, Mẫn đã đang làm việc hăng say, khi thì cho gà vịt, cho cá ăn khi thì làm vườn... Dần dần bà cho Mẫn làm một vài việc vặt trong nhà và bất cứ việc gì bà sai cậu ta, không bao giờ bà phải nhắc lại lần thứ hai. Một hôm, bà nói với ông Phạm:

- Thằng bé Mẫn nó giỏi thật! Nhưng nó không giống một đứa con trai mà giống như... một cái máy vậy. Ông có biết là nó không hề nói một lời nào với tôi hay không? Nó cũng không bao giờ nhìn tôi mà chỉ luôn luôn nhìn xuống đất.

Ông Phạm càu nhàu:

- Hừ! Tôi chỉ biết một điều là nó làm cho tôi nổi da gà. Có thể nó bị câm hay sao đó. Và theo ý tôi, có thể tâm trí nó không được bình thường cho lắm.

Bà Phạm lắc đầu:

- Không thế đâu, tôi thấy nó rất thông minh. Tôi chỉ có cảm tưởng như nó là một kẻ mộng du, làm việc trong khi đang ngủ...

Ông Phạm ngắt lời:

- Ờ, thì... giá thuê mướn như vậy cũng được... À, mà không được! Chỉ có năm ngàn đồng một ngày quả là không thể chấp nhận được khi nó làm việc thật siêng năng. Mình cho nó lên mười ngàn đồng đi. Tôi không bực bội gì vì sự hiện diện của nó, nhưng để coi việc tăng lương có khiến nó phản ứng gì hay không.

Bà Phạm thì không nghĩ rằng Mẫn để ý tới vấn đề tiền bạc vì cậu ta không bao giờ đụng chạm tới. Mỗi ngày, sau buổi trưa cậu bé ngưng làm việc, đứng yên một chỗ nghiêng đầu như nghe ngóng. Chỉ mấy phút sau mẹ cậu xuất hiện từ sau hàng cây dâm bụt dầy đặc, mang đồ ăn trên một cái gà-mên đậy kín tới cho cậu. Bà ta chờ tới khi bà Phạm trả tiền rồi mới dẫn con tới lều và ngồi chờ trong khi con bà ăn uống. Bà Phạm nói với chồng bằng một giọng bất bình:

- Tại sao bà ta lại không chịu để tôi cho nó ăn uống? Tôi đã thấy món ăn bà ta đem tới cho nó, trông giống như một loại cháo lỏng. Đó không phải món ăn thích hợp cho một đứa bé làm việc vất vả như vậy. Tôi thấy hình như nó còn ốm hơn khi vừa mới tới đây nữa.

Ông Phạm hoàn toàn đồng ý. Xương mặt của Mẫn bây giờ lộ ra rõ rệt. Khi cậu cúi xuống, những đốt xương sống hiện lên thật rõ sau làn vải áo. Bà Phạm cố gắng một lần nữa khi gặp mẹ Mẫn:

- Tôi muốn cho cháu Mẫn ăn đồ nóng hàng ngày. Nếu không, tôi không thể để nó tiếp tục làm việc như hiện tại. Nó mỗi ngày một gầy yếu. Tôi sợ rằng nó có thể bị bệnh hay làbị suy dinh dưỡng.

Một nét hoảng hốt hiện lên trong đôi mắt người đàn bà:

- Thưa bà, bà không hiểu đâu. Mẫn giống y như cha nó. Nó không ăn được những món ăn của bà và của tôi. Nó không thể ăn muối được. Cơ thể của nó không chịu đựng được muối. Xin bà cứ để mọi việc diễn tiến như hiện tại và xin cho cháu nó tiếp tục làm việc với bà. Nó là đứa con duy nhất mà tôi nhờ cậy được. Nếu không có số tiền mà nó kiếm được ở đây, mấy em nó ở nhà sẽ chết đói hết cả.

Bà Phạm đành phải nhượng bộ:

- Thôi được. Nó có thể tiếp tục làm việc với tôi. Phải nhìn nhận rằng nó làm việc rất giỏi nhưng nó có vẻ không được vui lắm khi ở với chúng tôi. Nó không bao giờ cười và cũng không bao giờ nói một lời với tôi hoặc nhà tôi.

Người đàn bà nhún vai:

- Thưa bà, điều đó không có nghĩa gì hết. Mẫn là đứa trẻ rất khác người. Nó không có cùng sự xúc cảm như những đứa trẻ khác. Nó chỉ biết một việc duy nhất là giúp đỡ tôi và các em nó. Xin ông bà đừng thắc mắc gì về nó. Nó luôn luôn làm những gì nó muốn. Xin hãy để yên cho Mẫn...

Tuy nhiên bà Phạm vẫn tự hỏi "Có phải đó là việc Mẫn muốn làm hay không?". Rồi một buổi tối hôm đó bà đứng ở cửa sổ phòng ngủ nhìn ra căn chòi tranh nơi Mẫn thường ngủ. Cậu bé không ngủ mà ngồi ngay ở cửa, hai tay bó gối nhìn ánh trăng không chớp mắt. Bà nói lớn:

- Chắc có điều gì lạ lắm thì phải.

Ông Phạm đang ngái ngủ lên tiếng:

- Bà nói cái gì thế?

- Thằng Mẫn đó. Tôi đứng theo dõi nó đã nửa tiếng đồng hồ. Nó ngồi yên như phỗng đá vậy. Với những việc nó làm ban ngày, đáng lẽ nó đã phải ngủ từ lâu rồi. Nhưng mà không, nó vẫn ngồi bó gối ngoài kia kìa.

Ông Phạm vừa ngáp vừa tiến tới bên vợ:

- Đáng lẽ tôi phải cho bà biết điều này từ lâu rồi. Tôi thấy nó vẫn luôn luôn ngồi đó suốt đêm. Theo tôi biết, nó hình như không bao giờ ngủ. Thú thực với bà, tôi thấy thằng bé này có vẻ ma quái quá! Nhưng thực ra nó đâu có làm gì phiền ai đâu!

Bà Phạm không nói nhưng biết rõ rằng Mẫn đã khiến bà lo nghĩ rất nhiều. Sáng hôm sau, hình dáng cậu bé khiến bà cảm thấy bất nhẫn. Làn da xanh xao của Mẫn bây giờ đã trở thành vàng khè, bóng loáng. Xương trán và xương má của Mẫn như lộ rõ ra. Bà còn lo lắng hơn nữa khi thấy Mẫn có vẻ chậm chạp hơn và mệt mỏi hơn thường lệ. Bà hỏi:

- Sao, cháu thấy không được khoẻ trong người có phải không?

Mẫn không đáp lại, lặng thinh cúi đầu đi qua trước mặt bà. Cảm thấy bứt rứt, bà Phạm nói với chồng:

- Ông coi nó kìa. Tôi nghĩ rằng nó bị bệnh. Nó di chuyển như một ông già vậy.

Ông Phạm chăm chú nhìn Mẫn đang cắt cỏ một cách chậm chạp:

- Bà nói đúng. Sao da nó bị đen nhiều chỗ thế nhỉ?

- Tôi không biết nhưng chắc chắn một điều là nó bị thiếu dinh dưỡng quá độ. Tôi không cần biết mẹ nó nói những gì và tôi sẽ chuẩn bị một vài món ăn ngon lành và bổ dưỡng cho nó. Rồi ngày mai ông đưa nó lên tỉnh gặp bác sĩ xem sao.

Nghĩ rằng có lẽ Mẫn thiếu chất protein, bà Phạm bèn làm món súp khoai tây, cà rốt, sườn heo, hột gà, còn thêm một ly sữa tươi và một cái bánh ngọt. Xong xuôi bà gọi Mẫn vào, đưa cậu ta vào phòng ăn và nói thật ngọt ngào:

- Cháu mau ngồi vào bàn đi. Tôi sửa soạn một bữa ăn thật đặc biệt cho cháu vì hôm nay là đúng ba tháng cháu làm việc với tôi. Đây là một dịp kỷ niệm dành cho cháu.

Mẫn cắn một miếng, rồi một miếng nữa. Cậu nhai miếng sườn heo chầm chậm trước khi nuốt. Rồi cậu ta từ từ đứng lên. Bà Phạm lên tiếng với vẻ lo lắng:

- Sao vậy? Cháu chưa ăn xong mà muốn đi đâu vậy?

Nhưng Mẫn đã đi ra ngoài rồi. Bà Phạm chạy tới mở tung cánh cửa. Mẫn đã đi tới hàng cây bao quanh mảnh đất với những bước chân thật dài. Bà Phạm lớn tiếng gọi nhưng Mẫn vẫn không hề nhìn lại. Ông Phạm cầm tay vợ:

- Thôi cứ để nó yên. Chắc là nó muốn đi về nhà. Có lẽ mẹ nó nói đúng. Đáng lẽ bà không nên cho nó ăn những món đó.

Đêm hôm đó bà Phạm trằn trọc suốt đêm. Hôm sau khi trời mới tờ mờ sáng bà đã dậy, ra vườn đi tới đi lui. Đúng như bà lo ngại, Mẫn đã không quay trở lại. Tuy nhiên ngay trước buổi trưa, mẹ cậu ta tới nơi, tiến thẳng tới trước mặt bà Phạm, khuôn mặt bà ta đanh lại:

- Bà đã làm việc đó phải không? Bà cho nó ăn sau khi tôi đã dặn bà không được làm như vậy. Bà cho nó ăn cái gì thế?

- Thì... tôi cho nó ăn súp khoai tay và sữa tươi, là những thứ đồ ăn cần thiết cho Mẫn.

Người đàn bà rên lên:

- Súp khoai tây! Trời ơi! Bà cho nó ăn muối rồi!

Rồi bà ta rít lên the thé:

- Bà điên rồi hay sao? Tại sao bà không để nó được yên?

Bà Phạm có vẻ bối rối:

- Tôi rất tiếc nếu đồ ăn của tôi khiến cho cháu Mẫn bị bệnh.

Đột nhiên bà Phạm đổi giọng giận dữ:

- Nhưng... nó thiếu ăn tới độ gần chết đói ngay trước mắt tôi. Tôi không thể nhắm mắt làm ngơ được. Tôi sẽ trả tiền thuốc men và sẽ nhờ một bác sĩ săn sóc cho nó.

Người đàn bà kia im lặng trong một phút trước khi lên tiếng bằng một giọng khá buồn bã:

- Thưa bà, xin bà vui lòng đi theo tôi để xem những gì bà đã làm cho con tôi.

Người đàn bà quay lưng. Bà Phạm đi theo bà ta xuyên qua cánh rừng trước khi tiến tới một chân đồi. Khoảng nửa tiếng sau, hai người tới một túp lều xiêu vẹo nơi ba đứa nhỏ đang ngồi yên ngoài cửa. Khi bà Phạm ngưng lại, người đàn bà nắm tay bà tiếp tục kéo lôi đi. Bà Phạm hỏi:

- Đây không phải nhà bà hay sao? Cháu Mẫn không có trong căn nhà này hay sao?

Người đàn bà lắc đầu tiếp tục đi tới. Mấy phút sau cả hai vượt qua một hàng cây trước khi tiến tới một khoảng đất trống với một vài ụ đất cỏ mọc um tùm. Một vài ụ đất có cắm cây thánh giá, những ụ khác thì không. Bà Phạm rùng mình:

- Đây là chỗ nào vậy bà?

Người đàn bà thản nhiên đáp:

- Một khu nghĩa trang cũ. Không còn ai dùng đến nữa. Đây, mời bà tới đây.

Rồi bà ta chỉ vào một ụ đất. Bà Phạm giật mình nổi gai ốc khi thấy đám cỏ phía trên như bị xé bung ra và dường như có người tìm cách đào một cái hố ở phía dưới.

Không một ai hoặc một sức mạnh nào có thể buộc bà tới gần ngôi mộ bị đào tung lên đó. Tuy nhiên từ nơi bà đứng, bà Phạm nhìn thấy dưới hố một hình thù co quắp trong chiếc quần jean sờn rách và cái áo thun bẩn thỉu. Người đàn bà rên rỉ:

- Đó, thằng Mẫn đó. Đó là chỗ bà đưa nó tới đó. Chồng tôi và nó chết từ hai năm nay giữa một mùa đông lạnh lẽo vì chứng sưng phổi. Tôi cầu khẩn cả hai trở lại nhưng chỉ có thằng Mẫn đáp lại lời cầu xin của tôi. Nó biết là tôi cần nó. Nó muốn săn sóc cho tôi và mấy em của nó. Nó luôn luôn là một đứa con ngoan ngoãn.

Bà Phạm ngẩn ngơ:

- Bà nói gì thế? Tôi... tôi không hiểu gì cả...

Người đàn bà dường như không để ý, lẩm bẩm:

- Tôi phải săn sóc cho nó thật cẩn thận. Bà có biết là bà không thể cho người chết ăn muối hay không? Muối làm người chết quên tất cả mà chỉ nhớ chỗ ngơi nghỉ cuối cùng của họ mà thôi. Chính bà đã khiến cho thằng Mẫn phải trở về với nấm mồ cũ của nó, và từ bây giờ trở đi, chắc chắn là nó sẽ không bao giờ rời khỏi nơi đó nữa...

...............end.............

Chiếc Nhẫn Giải Thoát

Font Size: Tác Giả: Sir Arthur Conan Doyle

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Ông John Vansta Smith, hội viên của Hội Hoàng Gia, cư ngụ tại số nhà 147A đường Gower, là người có một nghị lực và một khả năng trí tuệ đáng lẽ có thể đưa ông lên hàng đầu của những người nghiên cứu về khoa học. Nhưng ông lại là nạn nhân của một tham vọng muốn bác đủ mọi thứ, tham vọng này thúc đẩy ông muốn tỏ ra lỗi lạc trong nhiều lảnh vực hơn chỉ là vượt trội trong ngành thôi. Tuy hãy còn trẻ, ông đã tỏ ra có những sở kiến làm người ta kinh ngạc về khoa động vật học và thảo mộc học; các bạn của ông đã coi ông là một Darwin thứ hai, khi mà lẽ ra chỉ còn có việc giật lấy chức giác sư ông đã bắt thần từ bỏ nghề đó và tự để mình tự cuốn hút bởi môn hoá học, nhành mà các sự nghiên cứu của ông về các quang phổ của những kim loại đã đưa ông vào Hội Hoàng Gia. Mồi lửa rơm! Ông đã vắng mặt trong một năm trời tại phòng thí nghiệm của ông. Khi quay về, ông gia nhập Hội Đông Phương và công bố một bản tin về các văn bia ở El Kab. Chắn chắn là ông vừa đa năng vừa đa tài.Tuy nhiên những anh bay bướm lắm rút lại thể nào cũng mắc kẹt. John Vansta Smith cũng không thoát khỏi quy luật này. Ông càng đi sâu vào lãnh vực Ai Cập học ông càng thấy say sưa vì khoảng đất bao la mở ra trước mắt ông và vì tầm quan trọng vô cùng của một vấn đề chỉ có thể mang lại những tia sáng về những mầm mống đầu tiên của nền văn minh nhân loại và về nguồn gốc phần lớn các mỹ thuật và khoa học của chúng ta. Ông Smith bị say mê đến mức ông cưới một cô nữ sinh viên trẻ trong môn Ai Cập học, người đã viết một bài luận án về đệ lục triều đại. Đã vững lòng với một căn bản vững chắc dể hoạt động, ông đi kiếm các tài liệu dành cho một công trình hợp nhất sự nghiên cứu của Lepsius với sáng kiến của Champonllion. Việc chuẩn bị cho tác phẩm vĩ đại này bao gồm nhiều chuyến thăm các bộ sưu tầm về Ai Cập tại bảo tàng viện Louvre. Chuyến sau cùng diễn ra vào trung tuần tháng mười năm ngoái; đó là cơ hội của một cuộc mạo hiểm không tầm thường, đáng được thuật lại.

Các chuyến xe lửa thì đi chậm lại và biển Manche rất xấu; vì vậy nhà bác học của chúng ta tới được Paris thì thể xác phát sốt, phát nóng và tinh thần mờ mịt. Tại khách sạn Đại Pháp trên đường Laffitte, ông đã nằm dài trong hai tiếng đồng hồ trên một ghế dài; nhưng ông không thể ngủ được, mặc dù còn mệt mỏi ông quyết định đi tới viện bảo tàng Louvre, để phối kiểm một chi tiết mà vì nó ông đã phải đi tới đây, rồi lại đi chuyến xe lửa buổi chiều tới Dieppe, ông mặc một áo choàng dài, vì trời mưa và ông đi bộ qua con đường lớn Des Italiens và đường Opera. Tại viện bảo tàng Louvre, ông cảm thấy như ở nhà ông vậy; ông vội vã hướng tới chỗ bộ sưu tầm các sách viết bằng chỉ thảo mà ông có ý định tra cứu.

Những người ái mộ điên cuồng nhất của John Vansta Smith chắc cũng phải ngần ngừ khi nói rằng ông là người đẹp trai. Cái mũi lớn mỏ diều hâu và cái cằm nhô ra của ông cho ta một ý niệm về sự linh lợi và đặc tính sắc bén của trí thông minh của ông. Ông mang cái đầu như một con chim và cũng như một con chim, ông ném ra những lời phản đối và những câu ứng đối. Với dáng dấp như vậy, hôm đó ông đứng ở bảo tàng viện Louvre với chiếc cổ áo choàng kéo lên đến tận mang tai, khi tự nhìn mình trong các tủ kính vuông mà ông kiểm kê, có lẽ ông cũng nhận thấy thực ra ông đã có một dáng điệu bình thường, ông đã bị bực bội một cách dũ dội khi ở phía sau lưng ông một giọng nói người Anh đã thốt ra một cách rất rõ ràng:

- Con người kỳ cục!

Nhà bác học không phải là người không có tính kiêu ngạo của ông được biểu lộ bằng sự hoàn toàn hững hờ đối với mọi ý kiến cá nhân. Ông mím môi trong khi nhìn chăm chú cuộn chỉ thảo của ông, nhưng lòng ông chứa đầy mỗi cay đắng đối với tất cả nòi giống của người Anh đang đi nghỉ mát.

- Vâng, - một tiếng nói khác tỏ sự đồng ý. - Đúng thật là một điển hình!

Người thứ nhất nói tiếp:

- Người ta có thể gần như tin chắc rằng cứ ngắm nghía mãi những xác ướp, anh chàng này sẽ tự mình trở thành xác ướp một nửa.

- Thật ra anh ta có diện mạo và dáng dấp của một người Ai Cập.

John Vansta Smith quay gót lại với ý định làm cho các bạn đồng hương của mình xấu hổ bởi một vài lời nhận xét cay độc. Ông đã ngạc nhiên và thấy nhẹ nhõm hẳn khi phát hiện ra rằng hai người thanh niên người Anh đang nói ba hoa đứng quay lưng về phía ông và những lời nói của họ nhằm vào một trong những người bảo vệ viện bảo tàng Lourve đang đánh bóng một mảnh đồng ở phía bên kia của căn phòng.

- Carter sẽ đợi chúng ta ở Palais-Royal, - một trong những người khách du lịch nói, mắt nhìn đồng hồ.

Họ đi xa dần, để nhà bác học ở lại với công việc của ông.

"Ta muốn tò mò biết con người mà mấy thằng cha xuẩn ngốc gọi là một diện mạo và một dáng dấp của người Ai Cập!" John Smith nghĩ. Ông bước nhẹ nhàng để nhìn thấy người đó. Quả thật đó là khuôn mặt mà các cuộc nghiên cứu của ông đã làm ông trở nên quen thuộc. Những nét đều đặn và bất động, vầng trán rộng, cằm tròn trĩnh, nước da màu nâu đen nhạt, tất cả đều là sự mô phỏng chính sác của vô số pho tượng, bức họa để trang hoàng các bức tượng tại nhà ông. Sự việc vượt quá mọi trùng hợp ngẫu nhiên. Người này phải là một người Ai cập. Sự vuông vắn của đôi vai này, sự thót hẹp chỗ hông, anh ta cũng đủ để nhận dạng quốc tịch của anh ta.

Nhón bước trên đầu bàn chân, John Vansta Smith tiến tới chỗ người bảo vệ để nói chuyện với anh ta. Vốn không quen chuyện tầm phào, ông thấy khó tìm được một giọng điệu đúng múc ở giữa sự cộc cằn của kẻ cao sang và lịch thiệp của kẻ ngang hàng. Anh bảo vệ quay nghiêng người. John Vansta Smith chăm chú nhìn nước da của con người mà ông cho là dân Ai Cập, ông có cảm tưởng rằng nước da này có cái gì đó không bìng thường. Chỗ thái dương và lưỡng quyền, nó cũng nhẵn lì và bóng loáng như một miếng da khô vậy. Không thể nhìn thấy các lỗ chân lông. Không thể tưởng tượng được một chút ẩm ướt nào trên khoảng da khô khằn đó. Trái lại nó bị vạch thành từng hằn sâu, từ trán xuống tới cằm, bởi hàng ngàn vết nhăn li ti, vết này cắt vết kia, cắt đi, cắt lại trong một hình vẽ lộn xộn.

- Bộ sưu tầm Mephis ở chổ nào? - Nhà bác học hỏi bằng tiếng Pháp.

Ông có vẻ ngượng ngập của một người đặt ra một câu hỏi chỉ với mục đích là để mào đầu một cuộc nói chuyện.

- Đằng kia kìa! - Người bảo vệ trả lời với một giọng thô lỗ, ngấc đầu ra hiệu chỉ về phía bên kia của căn phòng.

-Anh là người Ai Cập, có phải không?

Người bảo vệ ngẩng cao đầu lên nhướng mắt nhìn kẻ đối thoại với mình. Hai mắt anh ta u ám, mở lờ đờ khô khan, như có ám sương mù, chưa bao giờ ông Smith nhìn thấy những con mắt đó, ông nhận thấy trong đáy nước sâu thẳm của chúng có một cảm xúc mạnh, giống như một sự trộn lẫn của hận thù và kinh hoàng.

- Không, thưa ông. Tôi là người Pháp.

Người bảo vệ quay đi và lại cúi xuống cái vật mà anh ta đang đánh bóng. Nhà bác học hết sức ngạc nhiên, chăm chú nhìn anh ta trong một lúc, không nói năng gì cả, rồi ông đi tới ngồi trên một cái ghế ở trong một góc khuất nẻo, phía sau một cánh cửa, ông ghi chép một vài kết quả của công việc sưu tầm của ông về những cuốn chỉ thảo. Nhưng tinh thần ông không ổn định trước thứ tự thường lệ của các công việc của ông, nó cứ nhất mực quay về với người bảo vệ kỳ bí với bộ mặt nhân sự và nước da thuộc khô vậy.

"Ta đã nhìn thấy những con mắt như thế ở đâu nhỉ?" John Vansta Smith tự hỏi mình. "Chúng có vẻ giống như con mắt thằn lằn, mắt một con vật bò sát; loài rắn có một màng thuấn làm cho mắt sáng long lanh. Nhưng trong cái nhìn của con người này có một cái gì hơn thế. Có một sự biểu lộ về quyền lực, về sự khôn ngoan, về sự chán chường sâu đậm và về sự tuyệt vọng không gì mô tả được. Có phải là trí tưởng tượng của ta quá nhiều không? Ta cần phải tra xét lại một lần nữa!"

Ông đứng dậy và ông đi một vòng qua các phòng trưng bày cổ vật ở Ai Cập; nhưng người bảo vệ đã mất dạng.

Thế là ông trở lại ngồi trong cái góc nhà yên tĩnh của ông. Ông đã tìm thấy các tin tức mà ông kiếm trong các cuốn chỉ thảo, ông chỉ còn có việc viết nó trong ký ức của ông còn tươi tắn. Trong một vài phút, cây bút chì của ông đã bay lượn trên tờ giấy; nhưng rồi những dòng chữ của ông đều đi xiêu vẹo và sau cùng thì cây bút chì rơi xuống đất trong khi đầu nhà bác học gục xuống trước ngực. Quá mệt mỏi vì chuyến đi, ông đã ngủ một giấc quá say trong cái góc hẻo lánh sau cánh cửa để đến nỗi những vòng tuần tiễu của bọn bảo vệ, những lời nói trao đổi giữa các khách du lịch và ngay cả tiếng chuông kéo dài báo hiệu giờ đóng cửa cũng không làm ông tỉnh giấc.

Hoàng hôn đã đi sâu vào đêm tối, tiếng ồn ào của sự lưu thông ngoài phố Rivoli đã lắng dịu, chuông đồng hồ nhà thờ Notre Dame đã gióng lên một cách nặng nề mười hai tiếng nửa đêm, nhưng John Vansta Smith vẫn không động đậy. Chỉ mãi tới khoảng một giờ sáng ông mới mở bừng hai mắt. Thoạt đầu ông tưởng là ông đang nằm ngủ ở nhà, trong phòng làm việc. Nhưng qua những tấm kính không có cánh cửa có ánh trăng chiếu sáng và khi ông nhận ra những hàng xác ướp và tủ kính thì ông nhớ lại ông đang ở đâu và tại sao ông lại ở đó. Duỗi thẳng chân tay đang uể oải, ông nhìn đồng hồ và ông vừa nhìn đồng hồ vừa hít hà vui thích. Nhà bác học không phải là người nhút nhát một mảy may và ông có tính ưa thích một hoàn cảnh mới, đây là một trong nhiều đặc tính của giống nòi ông. Diễn biến này sẽ là một câu chuyện thích thú để cho một bài báo sắp tới; một thứ gì để làm nhẹ bớt những suy tư nghiêm túc hơn, hệ trọng hơn. Ông không thấy nóng nực quá, trái lại ông rất thoải mái. Ông không ngạc nhiên về việc người bảo vệ không chú ý tới ông, cánh cửa đã chiếu bóng của nó chùm đúng lên người ông. Một tên trộm chắc cũng không thể mơ tưởng được một nơi ẩn náu tốt đẹp hơn.

sYên lặng hoàn toàn. Ở bên trong hay ơ bên ngoài, không nơi nào có một tiếng động nhỏ, dù là một tiếng nhẹ nhàng nhất. Chỉ có một mình ông với những người chết của một nền văn minh đã chết. Tuy nhiên, ở phía bên kia các bức tường, thành phố đang phun ra mọi thứ chất độc tàn bạo và những cám dỗ sống sượng của thế kỷ 19. Nhưng trong căn phòng nảy thực sự không có một thứ gì, từ bông lúa màu nâu cho tới chiếc hộp có màu sắc sặc sỡ của nhà họa sĩ nhưng không được giữ gìn từ 4.000 năm nay. Ông đứng giữa những tàn tích được mang về từ cái đế quốc xa lắc biển thời gian rộng lớn: từ thành Thèbes oai nghiêm, từ thành Louqsor quý tộc, từ những ngôi đền lớn Héliopolis, từ hàng trăm ngôi mộ đã bị đào bới. Nhà bác học đảo mắt qua những hình hài của con người đã chết, ông đã để bị xâm chiếm bởi một tình cảm xâu xa của sự tôn kính. Ông nghĩ tới những sự nông nổi buổi thiếu thời của ông, tới sự vô nghĩa của chính bản thân ông. Ngồi tựa lưng vào ghế, ông mơ màng nhìn dẫy phòng chiếm ngự tất cả cái chái của toà nhà rộng lớn. Và bỗng nhiên, ông nhìn thấy sáng vàng vọt của một ngọn đèn.

John Vansta Smith ngồi thẵng dậy trên ghế. Ngọn đèn tiến lên một cách thong thả, thỉnh thoảng ngừng lại bất động, rồi lại tiếp tục đi tới. Người mang ngọn đèn di chuyển không một tiếng động, bước chân của y không làm rộn rã yên lặng chung quanh. Ông khách người Anh nghĩ rằng có lẽ đây là những tên kẻ trộm và ông ngồi thu mình trong cái góc nhà. Ngọn đèn đu đưa trong căn phòng thứ nhì trước mặt ông, nó đi vào căn phòng bên cạnh, vẫn không gây một tiếng động nhỏ nào. Bị sợ sệt một cách mơ hồ, nhà bác học nhìn thấy một cái đầu, cái đầu này nom như trôi nổi bập bềnh trong không khí, phía sau ánh sáng của ngọn đèn. Cái đầu người bị bóng tối che phủ, nhưng vẫn được ánh sáng soi rất rõ. Ông không thể lầm được: cặp mắt màu kim loại này, nước da như một xác chết này đều thuộc về anh chàng bảo vệ mà ông đã từng trò chuyện.

Cử động đầu tiên của John Vansta Smith là đi tới gặp y. Chỉ cần một vài lời giải thích là đủ và ông sẽ có thể đi ra bằng một cái gì đó ra vẻ lén lút, điều này làm thay đổi ý định của ông. Rõ ràng là anh bảo vệ không đi tuần tiễu, dưới chân anh ta mang một đôi giày đế bằng nỉ và anh ta nhìn quanh mình trong khi thở hổn hển. John Vansta Smith đứng nép vào một xó để canh chừng anh ta. Ông tin chắc rằng anh bảo vệ chỉ tới đây với một mục đích thầm kín và rất có thể bất hảo.

Dù với mục đích nào đi nữa, anh ta vẫn không tỏ ra một chút e dè nào. Anh ta bước nhanh tới một trong những tủ kính lớn, rút ở trong túi ra một chiếc chìa khóa và mở tủ kính đó. Anh lấy từ ngăn kệ phía trên xuống một cái xác ướp; anh đặt xác ướp này xuống mặt đất với rất nhiều vẻ thận trọng và cả sự trìu mến nữa. Anh đặt ngọn đèn bên cạnh cái xác ướp rồi ngồi xổm xuống theo lối người Đông Phương, với ngững ngón tay dài và run rẩy anh bắt đầu gỡ lớp vải bọc ngoài và những dải vải buộc quanh xác ướp. Những lớp vải này mở ra đến đâu thì một mùi thơm nồng nặc tỏa ra đến đấy, tràn ngập cả căn phòng; những mảnh vụn gỗ thơm và hương liệu rải rác trên các phiến lát của nền nhà.

John Vansta Smith biết rằng xác ướp này chưa bao giờ bị lột bỏ vải bọc. Do đó công việc này đã có một cái gì đó làm ông chú ý một cách say mê. Từ chỗ ngồi quan sát phía sau cửa; ông đã chìa cái mũi lớn của ông ta ra với một sự tò mò càng lúc càng mãnh liệt. Khi đoạn dây vải cuối cùng rơi khỏi một cái đầu đã có tới bốn ngàn năm tuổi tác, ông đã phải kiềm hãm một tiếng kêu vì sự kinh ngạc, sững sờ. Thoạt đầu một làn suối những lọn tóc dài đen óng ánh được bảo vệ; hiện ra một vần trán trắng và thấp được trang điểm bởi một cặp lông mày cong vút một vẻ đài các, một cặp mắt sáng với những lông mi dài, một cái mũi thẳng một cái miệng dịu dàng nhạy cảm và mũm mĩm, rồi tới một cái cằm lẹm vào một cách tuyệt diệu. Khuôn mặt này đều đặn màu cà phê. Nhưng thật là kỳ công của nghệ thuật ướp xác! John Vansta Smith trầm trồ với sự mãn nguyện, hai mắt trố ra.

Tuy nhiên hiệu lực mà cảnh tượng này gây ra cho nhà Ai Cập học cũng chỉ là việc nhỏ thôi nếu đem so sánh với hiệu lực mà anh chàng bảo vệ kỳ lạ cảm thấy. Anh ta giơ hai tay lên trời, anh lẩm bẩm những lời không ai hiểu được, rồi nằm sấp xuống bên cạnh xác ướp, anh ta ôm lấy nó, hôn nhiều lần lên môi và trán của xác ướp.

- Em cưng của anh! Em cưng khốn khổ của anh. - Anh ta rên rỉ bằng tiếng Pháp.

Do sự xúc cảm, giọng nói của anh ta nghẹn ngào, nhưng nhờ có ngọn đèn nhà bác học có thể nhận thấy cặp mắt anh ta vẫn khô khan như hai cục thép vậy. Anh ta cứ nằm như vậy trong nhiều phút, nét mặt cúm rúm, miệng thốt ra những tiếng rên rỉ than van ở bên trên cái đầu xinh đẹp của người đàn bà. Rồi anh ta nở một nụ cười, anh ta đọc lên một vài tiếng của một ngôn ngữ xa lạ và anh ta bỗng đứng dậy với sức mạnh của một kẻ gồng mình lên vì một cố gắng lớn lao.

Ở giữa căn phòng có một tủ kính tròn lớn chứa đựng một bộ sưu tập quý giá các nhẫn đeo tay của người Ai Cập và những viên đá quý. Anh bảo vệ lại gần cái tủ đó và mở nó ra. Anh đặt cái bàn trên mép kệ phía bên và bên cạnh cái đèn này là một cái bình nhỏ bằng đất mà anh vừa lấy ở túi ra. Sau đó anh lấy từ trong tủ kính ra một nắm nhẫn và trên mặt hằn lên một sự hệ trọng lớn lao, anh lần lượt nhỏ lên từng chiếc nhẫn một chất lỏng chứa trong cái bình bằng đất, rồi anh chìa chúng ra trước ánh sáng. Nắm nhẫn đầu tiên chắc chắn đã làm anh thất vọng, vì anh đã vứt chúng nháo nhào vào trong tủ kính và anh lấy ra những cái khác. Thoạt đầu anh chọn lấy một cái nhẫn to thù lù có nạm một miếng pha lê lớn để đưa nó vào thử chất nước kỳ bí. Bất chợt anh thốt lên một tiếng kêu vui thích và giơ hai tay lên. Cử động hấp tấp của anh làm đổ chiếc bình bằng đất; chất lỏng chảy tràn ra mãi tới chân của ông khách người Anh. Anh bảo vệ lấy từ áo ngoài ra một cái khăn màu đỏ, cúi xuống chùi những phiến đá lát nhà và anh ta đã đứng đối diện với John Vansta Smith.

- Xin thứ lỗi cho tôi! - người Anh nói với tất cả sự lễ độ ta có thể tưởng tượng được. - Tôi vì không may mà phải ngủ đằng sau cánh cửa này.

- Và ông đã canh chừng tôi?

Người bảo vệ nói bằng tiếng Anh, bộ mặt như xác chết của anh ta có một biểu hiện tàn độc.

Nhà bác học không hề biết nói dối.

Ông đáp:

- Tôi thú thực rằng tôi đã quan sát cử động của anh và chúng đã gợi óc tò mò của tôi tới chỗ cùng cực.

Lúc đó người kia đã lấy ở trong mình ra một con dao dài lưỡi để trần.

- Nếu tôi phát hiện ông sớm hơn mười phút thì có lẽ tôi đã moi tim ông rồi. Dù sao đi nữa, nếu ông đụng tới người tôi hoặc ông cản trở tôi bất cứ bằng cách nào đó, ông sẽ là một người chết.

- Tôi không muốn cản trở anh. Sự có mặt của tôi ở đây hoàn toàn do sự ngẫu nhiên thôi. Tất cả những gì tôi yêu cầu chỉ là xin anh vui lòng cho tôi ra khỏi viện bảo tàng.

Ông đã nói với một giọng hết sức ngọt ngào vì anh bảo vệ ấn mũi nhọn con dao của anh ta vào lòng bàn tay anh, làm như anh muốn thử lưỡi dao sắc; sắc diện anh ta vẫn còn giữ vẻ hung hãn như trước.

- Nếu tôi tin... - anh ta cất lên tiếng nói âm hiểm. - Nhưng không! Có lẽ như vậy cũng tốt... Ông tên là gì?

Người Anh nói tên mình cho anh ta biết.

- John Vansta Smith? - Người kia nhắc lại. - Có phải ông là ông John Vansta Smith, người đã viết một bài về El Bak trong một tạp chí ở London không? Tôi có đọc một đoạn trích dẫn của bài đó. Sự hiểu biết của ông về vấn đề này thật đáng khinh.

- Thưa không! - Nhà Ai Cập học phản đối.

- Tuy nhiên nó vẫn cao hơn sự hiểu biết của nhiều nhà thông thái, những người khoa trương nhiều kỳ vọng lớn hơn. Muốn hiểu đời sống cổ xưa của chúng tôi tại Ai Cập, cả những văn bia lẫn những đền đài đều không có tính cách quan trọng. Điều đáng kể là khoa luyện đan của chúng tôi và khoa học kỳ bí là những thứ trên thực tế đã lọt khỏi tay các ông.

- Đời sống cổ xưa của chúng tôi? - Nhà bác học nhắc lại, hai mặt mở to ra. - Lạy chúa tôi! Hãy nhìn bộ mặt của xác ướp!

Người bảo vệ kỳ lạ quay người lại và soi ánh sáng của ngọn đèn vào cái xác người, anh ta thốt lên một tiếng kêu dài đau đớn. Tác động của khí trời đã hủy hoại trọn vẹn nghệ thuật của người ướp xác. Làn da đã xẹp xuống, hai mắt đã chìm vào phía trong, cặp môi hé mở và trưng ra những chiếc răng màu vàng, tuy nhiên cái vết nâu trên trán vẫn còn chỉ rõ rằng đây chính là cùng một khuôn mặt đó, khuôn mặt mấy phút trước đây đã phát lộ biết bao sự trẻ trung và xinh đẹp.

Người bảo vệ vặn vẹo hai bàn tay trong sự buồn thương và kinh hoảng. Rồi anh ta lấy lại bình tĩnh và anh lại phóng cặp mắt đanh thép của anh vào người Anh.

- Việc này không quan trọng, - anh lẩm bẩm với một tiếng nói ồ ề. - Quả thật không quan trọng! Tối nay tôi tới đây với một mục đích đã được cân nhắc kỹ lưỡng. Mục đích đó đã hoàn thành. Tất cả những gì còn lại đều không đáng kể. Lời nguyền ngày xưa không còn hiệu lực nữa. Tôi có thể gặp lại nàng. Có lợi ích gì để tôi kề cà mãi trên cái vỏ ngoài bất động của nàng vì linh hồn nàng đang chờ tôi phía bên kia mức màn.

- Những lời nói kỳ lạ! - John Vansta Smith đưa ra lời phê bình, mỗi lúc ông một tin chắc rằng ông đang đứng trước một thằng điên.

- Thời gian gấp lắm rồi; tôi phải đi, - người kia nói tiếp - Cái giờ phút mà tôi đã chờ đợi từ rất lâu đã tới gần. Nhưng trước hết tôi phải đưa ông ra. Đi theo tôi...

Anh ta cầm lấy cái đèn, đi ra khỏi phòng, vẻ rất bối rối và anh đưa nhà bác học đi qua các phòng về Ai Cập, về Assyrie và Ba Tư. Tới đầu căn phòng cuối cùng về Ba Tư, anh ta đẩy một cánh cửa nhỏ đục trong tường và anh ta đi xuống một cầu thang xoáy trôn ốc. Ông người Anh cảm thấy trên trán mình không khí tươi mát của ban đêm. Trước mặt là một cánh cửa chắc là để mở ra đường, ở bên tay mặt có một cái cửa khác mở hé để lọt vào một tia sáng vàng khè ở hành lang.

- Vào đây! - Anh bảo vệ ra lệnh.

John Vansta Smith ngần ngừ: ông tưởng rằng cuộc phiêu lưu của ông đã chấm dứt và ông sẽ thấy mình ở bên ngoài. Vì sự tò mò của ông khá lớn, ông muốn được biết lý do bí ẩn của sự kỳ bí. Do đó ông dã đi theo người bạn đường kỳ lạ của ông vào trong căn phòng có đèn sáng sủa.

Đó là một phòng nhỏ, tương tự như chỗ ở của một người gác cửa. Một ngọn lửa đốt bằng củi nổ lách tách trong lò sưởi. Ở một bên phòng có một cái giường có bánh xe lăn. Phía bên kia là một cái ghế gỗ; ở giữa là một cái bàn còn mang những tàn tích của một bữa ăn. Ông người Anh không thể chế ngự được một cái rùng mình: tất cả những chi tiết nhỏ nhặt của căn phòng hình như được lấy ra từ một tiệm chạp phô thời cổ xưa. Những đế cắm nến, những cái bình trên lò sưởi, những cái giá sắt để gác củi, những đồ trang trí trên tường đều gợi lên một quá khứ đã trôi qua. Anh bảo vệ buông mình ngồi bịch xuống thành giường và anh ta mời vị khách của mình ngồi trên cái ghế.

- Phải chăng tất cả việc này đều do sự tình cờ mà ra, - anh ta bắt đầu nói với ông bằng thứ tiếng Anh tuyệt hảo. - Có lẽ trời đã định rằng tôi phải để lại sau tôi một lời cảnh cáo dành cho những con người ngông cuồng muốn đem óc thông minh của họ ra chống lại các quy luật của tạo hóa. Tôi sẽ giao lời cảnh cáo đó cho ông. Ông sẽ làm điều mà ông muốn làm. Bây giờ tôi đang nói với ông từ ngưỡng cửa của thế giới bên kia.

"Như ông đã đoán, tôi là một người Ai Cập. Không phải là một trong những mẫu người của cái nòi giống nô lệ hiện đang sống tại châu thổ sông Nil, nhưng là một người còn sót lại của dân tộc hùng mạnh hơn nhiều và kiêu hãnh hơn nhiều, cái dân tộc đã đánh bật dân Do Thái, đã đẩy lùi người Ethiopia trong các sa mạc mạn Nam và đã xây dựng những công trình lớn mạnh làm tràn đầy sự thèm muốn và ngưỡng mộ ở những thế hệ sau. Tôi được sinh ra dưới triều đại Tuth Oses, 1.600 năm trước ngày sinh của Chúa Ki Tô. Ông lùi lại à? Xin ông hãy đợi một chút: ông sẽ mau lẹ nhận thấy rằng tôi đáng được thương xót hơn là đáng sợ hãi.

"Tên tôi là Sosra. Cha tôi là đại tu sĩ đạo Oriris trong đền Abaris. Tôi được nuôi dưỡng trong ngôi đền và được học hỏi tất cả các nghệ thuật mà Thánh Kinh của các ông đã nói tới. Tôi là một người học trò giỏi. Năm 16 tuổi tôi đã biết tất cả mọi thứ mà một người tài trí nhất trong giới tu sĩ đã có thể dạy tôi. Từ lúc đó, tôi tự mình nghiên cứu những điều bí ẩn của tạo hóa và tôi không truyền thụ kiến thức của tôi cho bất cứ người nào.

"Trong tất cả các vấn đề làm tôi say mê, những vấn đề lôi kéo sự chú ý của tôi nhiều hơn lại thiên về bản chất của đời sống. Tôi đã dò tìm một cách sâu xa nguyên lý của sự sống. Mục đích của y học là khu trừ tật bệnh khi nó xuất hiện: về phần tôi, tôi nghĩ rằng có thể phát minh ra một phương pháp để làm cho thân thể được khỏe mạnh, làm thế nào mà mọi sự suy yếu và ngay cả sự chết cũng không làm gì được nó. Chắc là không có ích lợi gì nếu tôi kể cho ông nghe tất cả các việc nghiên cứu của tôi. Nếu tôi mạo muội kể ra, ông cũng sẽ không thể hiểu được. Tôi đã theo đuổi những cuộc nghiên cứu này khi thì ở các loài vật, khi thì ở bọn nô lệ, khi thì ở ngay người tôi. Cũng cần nói với ông rằng kết quả những sự nghiên cứu ấy đã cho phép tôi tìm được một chất, mà một khi được trích vào máu, chất đó ban cho thân thể một sức mạnh khiến nó chống lại được các ảnh hưởng của thời gian, của bạo lực hay của bệnh tật. Chất đó không làm cho người ta thành bất tử nhưng quyền lực của nó bao gồm nhiều thiên niên kỷ. Tôi đã thí nghiệm nó vào một con mèo và sau đó tôi cho nó ăn một thứ thuốc độc có sức giết người mạnh nhất, hiện nay con mèo đó vẫn còn sống ở miền Hạ Ai Cập. Xin ông chớ nghĩ tà thuật. Đó chỉ là một phát minh về hóa học, việc này có thể được tìm lại một cách hoàn hảo.

"Lòng yêu đời rất mạnh ở một người tuổi trẻ. Khi đó hình như tôi đã thoát khỏi mọi nỗi ưu tư của con người vì tôi đã loại bỏ được sự đau đớn và đẩy lùi cái chết tới một kỳ hạn rất xa xôi. Với một tâm hồn thư thái, tôi đã trích cái chất đáng nguyền rủa vào các mạch máu của tôi. Rồi tôi đi tìm một người nào đó ở quanh tôi để cho họ được hưởng lợi ích trong sự phát minh của tôi. Một tu sĩ trẻ ở đền Thoth tên là Parme đã chiếm được lòng ưu ái của tôi hởi tính tình trang nghiêm và học vấn của anh ta. Tôi nói cho anh biết bí quyết của tôi; theo lời yêu cầu của anh, tôi đã chích cho anh thứ thuốc của tôi. Tôi nghĩ rằng như vậy là tôi sẽ có một người bạn cùng tuổi tác với tôi.

"Sau sự phát minh lớn đó, tôi có vẻ lơi là trong các công việc của tôi, nhưng Pamer thì vẫn theo đuổi công việc của anh ta với một nghị lực tăng gấp đôi. Hàng ngày tôi thấy anh loay hoay với các chai lọ của anh và lò cất lọc nước của anh trong đền Thoth nhưng anh không cho tôi biết về kết quả sự nghiên cứu của anh. Về phần tôi, tôi đi dạo trong thành phố và tôi nhìn quanh tôi với một vẻ đắc thắng trong khi tôi nghĩ rằng tất cả những gì mà tôi nhìn thấy đều sẽ phải qua đi, nhưng riêng tôi thì sẽ sống mãi. Các cư dân cúi đầu chào tôi khi họ gặp tôi, vì tiếng tăm về kiến thức của tôi đã lan rộng.

"Vào thời kỳ đó, một cuộc chiến tranh đã diễn ra và vị Đại Quốc Vương đã gởi quân lính ra biên giới phía đông để đánh đuổi quân Hyksos. Một viên thống đốc tới Abaris để trấn đóng thành phố của chúng tôi cho quốc vương. Tôi nghe người ta khoe khoang về nhan sắc tuyệt trần của cô ái nữ của vị thống đốc. Một ngày kia, trong khi đi đạo chơi với Parme, chúng tôi đã gặp cô đó được kiệu trên vai mấy tên nô lệ. Thật là một tiếng sét ái tình. Mới thoạt nhìn tôi đã yêu nàng. Trái tim tôi lịm đi. Một suýt nữa thì tôi đã quỵ xuống chân mấy người khiêng kiệu. Nàng là "vợ tôi". Tôi không thể nào sống mà không có nàng: Tôi đã thề trước đấng Tối cao là nàng sẽ phải thuộc về tôi. Tôi đã thề điều này với vị tu sĩ thành Thoth. Anh ta đã ngoảnh mặt đi, vầng trán tối sầm lại, nom u ám như bầu trời lúc nửa đêm vậy.

"Tôi khỏi cần thuật lại với ông về những buổi đầu của mối tình chúng tôi. Nàng đã yêu tôi cũng như tôi yêu nàng. Tôi được biết là Parme cũng đã gặp nàng và đã tỏ cho nàng biết rằng anh ta cũng yêu nàng; nhưng tôi có thể mỉm cười về sự say mê đó vì tôi biết là nàng đã hiến trái tim nàng cho tôi.

"Bệnh dịch hạch phát sinh trong thành phố, nhiều người bị mắc bệnh, nhưng tôi đặt bàn tay tôi lên trán họ và tôi đã chữa khỏi bệnh cho họ không chút sợ hãi nào. Nàng thán phục sự ngổ ngáo của tôi. Lúc đó tôi thì thầm nói cho nàng nghe về bí quyết của tôi và tôi khẩn khoản xin nàng để cho tôi thi triển tài nghệ của tôi vào người nàng.

"Tôi nói với nàng:

- Em yêu! Hãy nghĩ rằng bông hoa của em sẽ không bao giờ tàn úa ! Mọi vật khác đều sẽ qua đi, nhưng em và anh, cũng như sự tương thân, tương ái nồng thắm của chúng ta sẽ sống lâu hơn ngôi mộ của vua Chéops.

"Nhưng nàng đưa ra lời phản đối rụt rè, đáng yêu để chống lại tôi.

- Như vậy có đúng không? - Nàng hỏi tôi. - Như thế có phải là cản trở ý muốn của các vị thần linh không? Nếu đấng Osiris cao cả muốn cho chúng ta sống lâu như vậy, tại sao ngài không tự chính mình ban chất nước thuốc này cho các chúng sinh?

"Với những lời tình tứ và âu yếm, cuối cùng tôi đã thắng được sự lo sợ của nàng. Tuy nhiên nàng vẫn còn ngần ngại. Đó là một vấn đề trọng đại! Nàng thở dài. Nàng suy nghĩ về việc này suốt cả đêm. Sáng dậy nàng cho tôi biết quyết định của nàng. Chắc chắn rằng một đêm không phải là quá lâu để cho ta suy nghĩ. Nàng muốn kêu thần Isis để xin ngài chỉ bảo.

"Trong lòng tràn đầy một điều buồn thảm, tôi bỏ mặc nàng lại với những tỳ nữ của nàng. Buổi sáng, sau khóa lễ đầu tiên, tôi vội vã đi tới nhà nàng. Một tên nô lệ đầy vẻ khiếp sợ chặn tôi lại trên bục thềm để nói với tôi rằng bà chủ của hắn bị bệnh, bệnh rất nặng. Tôi chạy xộc ngay vào phòng của nàng; nàng nằm trên giường, đầu tựa trên một cái gối, người rất xanh xao, mắt lờ đờ. Tôi nhận thấy một vệt đỏ trên trán nàng. Tôi biết cái dấu xưa cũ này của địa ngục, đó là cái thẹo của bệnh dịch hạch, một bản án của tử thần.

"Tại sao cứ nói tới thời kỳ khủng khiếp này? Trong nhiều tháng, tôi gần như phát điên cuồng; tôi bị sốt nóng lạnh, tôi mê sảng và tôi không thể chết được. Chưa bao giờ có một người Ả Rập sắp chết khát lại quằn quại đi tìm những cái giếng giống như tôi đã quằn quại đi tìm cái chết. Nếu thuốc độc hay lưỡi dao thép có thể cắt đứt mạch sống của tôi thì ngay tức thì tôi sẽ nối lại mối tình của tôi ở bên kia cánh cửa hẹp. Tôi đã làm thử uổng công. Cái ảnh hưởng đáng nguyền rủa của nước thuốc thật quá mạnh. Một tối nọ, khi tôi nằm lịm trên giường, người suy yếu và chán nản, thì Parme, vị tu sĩ đền Thoth, đi vào phòng tôi. Anh ta tiến vào vòng ánh sáng của ngọn đèn và nhìn tôi với những con mắt sáng rực vẻ vui mừng.

- Tại sao anh để cô thiếu nữ chết? - Anh ta hỏi tôi - Tại sao anh không tăng cường sức khỏe cho cô ta như là anh đã tăng cường sức khỏe cho chính tôi?

- Tôi tới muộn quá. Nhưng tôi không quên một điều gì. Anh cũng yêu nàng mà. Anh là người bạn đường trong sự bất hạnh của tôi. Nghĩ tới nhiều thế kỷ sẽ trôi qua trước lúc chúng ta gặp lại nàng chẳng phải là điều khủng khiếp à? Chúng ta thật đã điên rồ khi coi cái chết là một kẻ thù!

- Anh có quyền nói điều đó! - Anh ta kêu lên trong khi cười một cách man rợ. - Những lời này là tự nhiên trong miệng anh. Đối với tôi, chúng không còn một chút ý nghĩa nào.

- Anh muốn nói gì? - Tôi la lên trong khi chống khuỷu tay nhỏm dậy. - Anh bạn ơi, chắc chắn là sự buồn thương đã phá rối đầu óc anh rồi!

"Sự vui mừng rạng rỡ trên khắp mặt anh ta. Anh ta run rẩy, co dúm người lại như thể bị quỷ ám.

- Anh có biết rằng tôi đi đâu không? - Anh ta hỏi tôi

- Không. Tôi không biết gì về chuyện đó cả.

- Tôi đi gặp lại nàng. Nàng đã được ướp trong ngôi mộ xa xôi nhất, ở gần những cây cọ bên ngoài bức tường thành.

- Tại sao anh lại đi tới đó?

- Để chết! - Anh ta la lên. - Để chết! Tôi, tôi không bị giữ lại bởi những phiền lụy của trái đất.

- Nhưng anh có nước thuốc trong máu anh!

- Tôi có thể bất chấp nó và thắng được nó, - anh tuyên bố với tôi. - Tôi đã khám phá ra một nguyên tố mạnh hơn để triệt tiêu nó. Ngay trong lúc này nó đang hoạt động trong các mạch máu của tôi và trong một giờ đồng hồ tôi sẽ là một người chết. Tôi sẽ gặp lại nàng. Còn anh, anh sẽ ở lại một mình.

"Trong khi chăm chú nhìn anh ta, tôi hiểu rằng anh ta không nói dối tôi. Ánh sáng rối rắm trong cái nhìn của anh phát lộ rằng anh đã thoát khởi quyền lực của nước thuốc.

- Anh hãy dạy tôi nguyên tố của anh đi! - Tôi nói lớn.

- Không bao giờ!

- Tôi van anh hãy dạy tôi! Nhân danh sự khôn ngoan của Thoth, nhân danh sự cao cả của Anubis!

- Vô ích! - Anh ta lạnh lùng trả lời tôi.

- Vậy thì tôi sẽ khám phá ra nó!

- Anh sẽ không thành công đâu! Tôi đã khám phá ra nó nhờ sự tình cờ. Nó có một thành tố mà không bao giờ anh kiếm được. Ngoài cái thành tố nằm trong chiếc nhẫn của đền Thoth, không còn đâu có nữa.

- Trong cái nhẫn của đền Thoth! - Tôi nhắc lại. - Vậy cái nhẫn của đền Thoth ở đâu?

- Cả cái nhẫn ấy nữa, không bao giờ anh biết được nó. - Anh ta trả lời tôi. - Anh đã chiếm được trái tim nàng. Nhưng rút cục lại ai đã thắng? Tôi để anh ở lại với cuộc đời trần tục bẩn thỉu của anh. Những dây trói buộc tôi đã dứt rồi. Tôi phải đi thôi!

"Anh ta quay người đi và trốn khỏi phòng tôi.

"Sáng hôm sau, tôi được tin về cái chết của tu sĩ đền Thoth.

"Tôi dành những ngày sau đó để nghiên cứu. Tôi phải tìm được thứ thuốc độc tinh vi đủ mạnh để thắng được nước thuốc trường sinh. Từ sáng tinh mơ cho tới nửa đêm, tôi cặm cụi trên các ống thí nghiệm và lò lửa. Tôi đã thu thập các chỉ thảo và các chai lọ của tu sĩ đền Thoth. Than ôi, những thứ này chẳng dạy tôi được bao nhiêu! Có nhiều khi tôi tưởng là đã khám phá ra một chi tiết thiết yếu, nhưng rút lại chẳng có ích lợi gì. Tôi đã tìm tòi hết tháng này tới tháng khác. Khi tôi tuyệt vọng, tôi đi tới mộ nàng ở gần những cây cọ. Ở đó, đứng bên cỗ quan tài mà người ngọc đã bị cướp khỏi tay tôi, tôi cảm thấy sự hiện diện dịu dàng của nàng và tôi thề với nàng rằng một ngày kia tôi sẽ gặp lại nàng nếu có bộ óc thông minh của loài người có thể làm sáng tỏ điều kỳ bí.

"Parme nói rằng sự phát minh của anh ta liên quan tới chiếc nhẫn của đền Thoth. Tôi nhớ lại một cách mơ hồ về món trang sức bé nhỏ ấy. Đó là một cái vòng tròn lớn và nặng. Không phải làm bằng vàng, mà bằng một kim loại hiếm có hơn và nặng hơn, lấy về từ các mỏ tại núi Hartal. Đó là chất bạch kim, như các ông thường gọi tên cho nó. Tôi nhớ là chiếc nhẫn có nạm một miếng pha lê rỗng, bên trong miếng pha lê này có thể đã được giấu một vài chất lỏng. Tôi tin chắc rằng bí quyết của Parme không dính gì tới một mình thứ kim loại đó, vì ngôi đền có đầy rẫy những đồ vật bằng bạch kim. Có lẽ đúng là anh ta đã giấu chất thuốc độc quý giá đó trong lỗ hổng của miếng pha lê. Khi tôi vừa mới đi tới kết luận đó thì bằng cách tìm hiểu rõ ý nghĩa một trong các giấy tờ của anh ta, tôi khám phá ra rằng tôi đã có lý và chỉ còn một ít chất lỏng trong miếng pha lê của chiếc nhẫn đền Thoth.

"Nhưng làm thế nào tìm thấy chiếc nhẫn đó? Parme không mang nó trong mình khi anh ta được lột bỏ quần áo để ướp xác: tôi biết rất chắc chắn về điều này. Nó cũng không có ở trong các tư trang của anh ta. Tôi đã tốn công lục lọi tất cả mọi căn phòng mà anh ta đã đi lại, tất cả các hộp đựng đồ, tất cả các chai lọ, tất cả các đồ vật của riêng anh. Tôi đã xem xét tỉ mỉ cát tại sa mạc ở những nơi mà anh ta thường tự dạo chơi. Nhưng chiếc nhẫn đền Thoth vẫn không tài nào tìm thấy. Có lẽ nỗi vất vả và những sự nghiên cứu của tôi cuối cùng sẽ thắng được các trở ngại nếu một tai họa mới không xảy ra.

"Chiến tranh đã được phát động chống lại người Hyksos, nhưng các đạo quân của Đại Quốc Vương đã bị đánh tan tành trong sa mạc. Những bộ lạc du mục xông vào chúng tôi như đàn cào cào trong những năm hạn hán. Trong khắp nước ban ngày thì máu chảy, ban đêm thì những đám cháy hoàn hành. Abaris là thành lũy của nước Ai Cập, nhưng chúng tôi đã không thể đẩy lui bọn man rợ. Thành phố bị thất thủ. Viên thống đốc và các binh sĩ đều bị chặt đầu. Tôi cùng với nhiều người khác bị bắt mang đi.

"Trong bao nhiêu năm dài dằng dặc tôi đã chăn cừu trong những đồng bằng lớn ở gần sông Euphrate. Ông chủ của tôi chết, con trai của ông cũng trở nên già lão, nhưng lúc nào tôi cũng ở xa cái chết như vậy. Sau cùng tôi đã trốn đi được trên một con lạc đà chạy nhanh và tôi trở về Ai Cập. Người Hyksos định cư trong nước mà chúng đã chinh phục được, vị vua của chúng tri vì nước Ai Cập. Abar

Kết Thúc (END)

Lô Số 249

Font Size: Tác Giả: Sir Arthur Conan Doyle

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Về những hành động của Edward Bellingham chống lại William Monkhouse Lee, và về lý do của sự hoảng sợ lớn lao của Abercrombie Smith, thật là khó mà đưa ra một sự phán đoán dứt khoát, chắc chắn là chúng ta đã có được sự tường thuật rõ ràng và đầy đủ của chính ông Smith, điều mà Thomas Styles, tên đầy tớ cha bề trên Plumptree Peterson hội viên của nghiệp đoàn trường Đại học, và nhiều nhân chứng khác của vụ này, vụ nọ đã làm cho vững chắc thêm. Tuy nhiên câu chuyện chỉ dựa trên một mình Smith thôi, và hình như nhiều người lại muốn nghĩ rằng một bộ óc mặc dù bề ngoài thì có vẻ lành mạnh cũng sẽ thấy bực bội về một sự phiền nhiễu nhỏ nhặt, hơn là chịu chấp nhận rằng tiến trình bình thường của tạo hóa có thể bị đảo lộn tại một trung tâm của khoa học và ánh sáng như Đại học Oxford này. Nhưng khi ta ngẫm nghĩ về những khúc quanh co và về sự hẹp hòi của cái tiến trình bình thường ấy của tạo hóa, về nỗi khó khăn mà ta trải qua để truy tìm nó bất kể mọi sự soi sáng của khoa học, và về các khá năng lớn lao, khủng khiếp phát sinh một cách hỗn độn từ các khoảng tối tăm bao quanh nó, người ta phải rất dũng cảm, ngay cả rất liều lĩnh nữa, để đặt ra một giới hạn ở những con đường quanh co mà trí tuệ của nhân loại có thể đi qua.

Trong một chái nhà ở nơi mà chúng ta sẽ gọi là Vieux College tại Oxford, có một cái tháp rất cũ kỹ. Cái vòm nặng nề nằm trên cái cửa mở ngỏ đã oằn xuống ở quãng giữa dưới sức nặng của những tháng năm. Những tảng đá xám, bám đầy rêu được ghép lại với nhau bởi những cây trường xuân và những nhánh liễu giống như có một bà mẹ già đã thận trọng đưa chúng ra thử thách với gió, mưa. Phía sau cái cửa là một cầu thang bằng đá leo cuốn vòng tròn lên tới tầng thứ ba; những phiến đá lát của nó đã bị khoét trũng xuống và trở thành xấu xí dưới những bước chân của nhiều thế hệ những người đi tìm kiến thức. Cuộc sống đã lan tràn ra như nước chảy dọc theo cái cầu thang xoáy trôn ốc này, và cũng như nước, nó đã để lại những rãnh mòn nhẵn nhụi. Từ những cậu học sinh đóng bộ chỉnh tề với chiếc áo dài lệt bệt thời Plantagenet cho tới những chàng sinh viên mặc đồng phục trong những năm vừa qua, một làn sóng mạnh mẽ của tuổi trẻ nước Anh đã chảy qua nơi đây. Và bây giờ còn lại những gì của tất cả những hy vọng dó, những cố gắng đó những nghị lực kinh khủng đó, nếu không phải là một vài dòng chữ trên tấm mộ bia hoặc một nắm bụi trong một quan tài nằm lây lất nơi nghĩa địa? Nhưng cái cầu thang thầm lặng và bức tường già nua xám xịt còn được trang hoàng bằng các huy hiệu thì vẫn tồn tại mãi;

Vào tháng 5 năm 1884, có ba chàng thanh niên chiếm ngụ ba căn hộ nằm trên ba đầu cầu thang. Mỗi căn chỉ có một phòng khách nhỏ và một phòng ngủ. Ở tầng trệt, những phòng nằm dưới ba căn hộ đó được sử dụng theo cách một phòng như là hầm đựng than củi, một phòng khác làm chỗ ở cho đầy tớ. Thomas Styles đã làm việc cho ba chàng sinh viên cư ngụ ở bên trên đầu y. Ở bên phải và bên trái là một dãy phòng lớp học và văn phòng, quá tốt để cho những người ở thuê cái tháp cũ kỹ tận dụng được một sự cô quạnh, rất quý giá cho những chàng trai chăm chỉ học hành. Mà ba người cư ngụ hồi đó là những người rất chăm chỉ học hành: Abercrombie Smith ở tầng thứ ba, Edward Bellingham ở dưới, và William Monkhouse Lee ở tầng thứ nhất.

Đã mười giờ tối. Trời đêm sáng sủa Abercrombie Smith ngồi lọt thỏm trong ghế bành, hai chân để lên khung che lò sưởi miệng ngậm ống píp. Trong cái ghế bành thứ hai, cũng được kê một cách không kém phần thoải mái, người bạn lâu năm Jephro Hastie của anh ngồi uể oải ở phía bên kia lò sưởi. Cả hai người đều mặc quần áo nỉ, vì họ đã chơi cả buổi tối trên sông; tuy nhiên chỉ cần nhìn bộ mặt tỉnh táo với những nét cứng cỏi của họ cũng đoán được rằng họ yêu thích không khí bao la với tất cả những gì là khang kiện và cường tráng. Hastie là trưởng nhóm bơi lội ở trường cao đẳng của anh; Smith là người chèo thuyền còn giỏi hơn, nhưng viễn ảnh đen tối của một kỳ thi sắp tới đã tạm thời cầm chân anh ở nhà, ngoại trừ mỗi tuần vài giờ do sự đòi hỏi của sức khỏe. Một đống sách y khoa trên bàn, những mẩu xương rải rác, những cái khuôn đúc, những bản khắc mô hình cơ thể cho thấy tính chất các môn học của anh. Phía trên lò sưởi một cặp gậy và những găng đánh bốc chỉ rõ bằng cách nào, với sự trợ giúp của Hastie, anh đã giữ được thân hình khỏe mạnh. Họ đã hiểu biết nhau rất nhiều: nhiều đến nỗi họ có thể ngồi yên một cách thanh thản không nói năng gì với nhau, đây là một mức độ cao trong tình bạn bè.

- Một chút whisky nhé! - Sau cùng, Abercrombie Smith đưa đề nghị ra giữa hai làn khói thuốc lá - Rượu scoth thì ở trong bình, còn rượu Irland thì ở trong chai.

- Không, cảm ơn. Tôi đang tập chèo thuyền. Tôi không uống rượu khi tập luyện. Còn anh?

- Tôi làm việc cực nhọc. Tôi nghĩ không nên gây ra những sự hỗn tạp.

Hastie gật đầu đồng ý. Họ lại chìm vào một sự yên lặng thoải mái.

Sau đó một lát, Hastie hỏi:

- Smith này, hãy nói đi, anh có quen với hai anh chàng ở phía dưới cầu thang của anh không?

- Khi chúng tôi gặp nhau thì chỉ gật đầu chào. Khô ng nói gì hơn cả.

- Hừ! Ở địa vị anh tôi sẽ ngừng lại ở đó! Tôi có biết đôi chút về cả hai người đó. Không biết nhiều lắm, nhưng cũng đủ đối với sở thích của tôi; tôi không nghĩ rằng nếu tôi ở đây tôi sẽ thân thiết ngay với họ. Không phải vì cái tính xấu ở anh chàng Monkhouse Lee.

- Anh chàng gầy còm hả?

- Phải. Một anh chàng bé nhỏ có vẻ khá lịch sự. Tôi không nghĩ rằng chính bản thân anh ta xấu. Chỉ cố một điều là anh không thể lui tới nhà anh ấy mà đồng thời không lui tới nhà Bellingham.

- Anh chàng to lớn hả?

- Phả. Anh chàng to lớn đó. Và hắn ta là loại người mà tôi không thích giao du.

Abercrombie Smith nhướng cặp lông mày lên và ném một cái nhìn chăm chú vào người bạn.

- Tại sao vậy? - Anh hỏi - Hắn uống rượu à? Hắn chơi bài bạc à? Hắn có máu vô lại à? Thường khi anh không hay phán xét nghiêm khắc cơ mà!

- A, tôi thấy rõ là anh không biết hắn rồi. Nếu anh biết rõ hắn, thì anh đã không hỏi tôi tại sao. Ở hắn có đủ những gì gớm ghiếc; những gì đê tiện làm cho tôi ghê tởm. Tôi coi hắn như một kẻ có những tật xấu được che giấu, một kẻ trụy lạc. Tuy nhiên, hắn không ngu ngốc. Người ta nói rằng trong bộ môn của hắn thì hắn là một trong những phần tử tài giỏi nhất mà trường cao đẳng đã từng biết tới.

- Y khoa hay văn học cổ điển?

- Ngôn ngữ Đông phương. Hắn thật đáng sợ! Mới đây Chilling Worth đã gặp hắn tại một nơi nào đó bên trên thác nước số hai; anh ấy kể lại với tôi rằng hắn đã nói chuyện con cà con kê với những người Ả Rập như thể hắn đã được sinh ra ở vùng đó. Hắn nói tiếng Coptes với người Coptes, tiếng Héfreux với người Héfreux, tiếng Ả Rập với người Bédouins, họ sẵn sàng cúi hôn vạt áo dài của hắn. Có một vài nhà ẩn sĩ ngồi trên các mỏm đá, họ thường có thói cười ngạo đời, gắt gỏng và nhổ nước bọt xuống đất khi nhìn thấy một người lạ mặt. Vậy mà khi Bellingham chưa nói với họ hết năm tiếng, họ đã nằm sấp xuống và xun xoe trước mặt hắn! Chilling Worth xác nhận với tôi rằng, anh ấy chưa từng thấy một chuyện như vậy bao giờ. Bellingham có vẻ rất thoải mái; hắn có dáng điệu một người đang hành xử một quyền lực tự nhiên của mình; hắn ung dung đi lại ở giữa bọn họ và giảng huấn lý cho họ. Không có gì là tệ hại cho một sinh viên Oxford phải không?

- Tại sao anh lại nói rằng người ta không thể tới thăm Lee mà không tới thăm Bellingham được?

- Bởi vì Bellingham đã đính hôn với em gái của Lee. Smith này, phải nói rằng Eveline là một thiếu nữ rất xinh đẹp Tôi biết rất rõ tất cả gia đình này. Thật là đáng chán khi nhìn thấy cô ấy đi với anh chàng thô lỗ ấy? Một con cóc và một con bồ câu, họ giống hệt như vậy đó.

Abercrombie cười mỉm và gõ cái píp vào lò sưởi để đổ ra hết tro ở trong.

- Anh bạn già ơi, anh bày thêm chuyện rồi đó! - anh nói với người bạn. - Anh là một vị quan tòa mới thiên vị làm sao! Thực tình anh đâu có gì thù ghét thằng cha đó, ngoại trừ việc này.

- Anh muốn nói gì? Tôi biết cô ấy từ khi cô ấy chưa lớn bằng cái píp của anh, và tôi không muốn thấy cô ấy gặp những sự rủi ro, và cô ấy đang gặp rủi ro đó. Hắn có điệu bộ một con thú hoang dã. Và hắn có một tính tình man rợ, một tính cách độc địa. Anh có nhớ vụ cãi cọ của hắn với Long Norton không?

- Không. Anh luôn luôn quên rằng tôi là một người mới tới đây.

- Đúng vậy. Câu chuyện trở ngược lại mùa đông năm ngoái. Chắc chắn thế! Anh biết con đường để kéo thuyền ở gần sông không? Có nhiều cậu trai dạo chơi ở đó. Dẫn đầu là Bellingham. Họ gặp một bà già hiền lành bán hàng ở chợ. Trời thì mưa, và hẳn anh đã biết khi trời mưa thì những cánh đồng trông giống cái gì rồi. Con đường chạy ở giữa con sông và một cái ao lớn cũng rộng gần bằng con sông. Này, anh có biết cái thằng con lợn đó làm gì không? Hắn không cần bận tâm hắn cứ tiếp tục đi thẳng, và hắn đã đẩy bà già hiền lành xuống bùn làm bà ấy bị bẩn bê bết, cả hàng hóa của bà. Đó là cách cư xử của cầm thú! Tuy nhiên Long Norton là người hiền lành nhất trong đám đó, đã nói thẳng với hắn những điều anh ấy nghĩ. Lời qua tiếng lại một lát, và kết cục là Norton đã quật cho hắn một gậy rất đau vào giữa hai bả vai. Vụ này được loan truyền khắp nơi, và không có gì buồn cười hơn là nhìn cái đầu của Bellingham khi hắn gặp Norton. Trời ơi, anh Smith, sắp mười một giờ rồi...

- Không có gì phải vội vã! Hãy châm một píp nữa đi

- Không. Theo nguyên tắc thì tôi đang ở thời kỳ tập luyện. Vậy mà tôi còn ngồi đây nói lung tung thay vì đã nằm trên giường rồi Tôi muốn mượn cái sọ người của anh, nếu anh chưa dùng tới. Williams đã lấy cái của tôi từ một tháng nay. Và tôi cũng sẽ mang đi những mẩu xương con ở tai, nếu anh đoan chắc với tôi là anh không cần đến chúng. Cám ơn. Không, lại không có túi xách? Tôi sẽ dư sức cắt chúng trong cánh tay. Ngủ ngon nhé cậu trai của tôi? Và hãy theo lời khuyên của tôi về vấn đề gã hàng xóm của anh.

Khi Hastie đã có đủ chiến lợi phẩm về giải phẫu học, bước ra khỏi phòng, Abercrombie Smith ném cái píp vào giỏ giấy vụn; kéo ghế bành lại gần ngọn đèn, rồi chúi đầu vào một quyển sách đồ sộ bìa xanh, có in những họa đồ lớn tô màu trưng ra cái vương quốc, xa lạ và thân cận mà chúng ta là những nhà vua bất hạnh. Anh đúng là một người mới ở Oxford, anh không phải là người mới bước chân vào ngành y; trong bốn năm, anh đã làm việc ở Glasgow và ở Berlin, và kỳ thi sắp tới phải cho phép anh giật được mảnh bằng. Với đôi môi cương nghị, vầng trán cao, dáng điệu cẩn trọng, anh tự chứng tỏ là phải trở thành một người, dù không có các tài năng lỗi lạc, thì cũng có đầy đủ sự bền bỉ, sự kiên nhẫn và sức mạnh để có thể vượt trội người khác. Người nào đã biết chút ít về anh giữa những sinh viên Tô Cách Lan và sinh viên miền bắc Đức đều hiểu, tất cả bọn họ không phải là những kẻ coi thường được! Smith đã để lại ở Glasgow và ở Berlin một danh tiếng tuyệt hảo; anh biết rất rõ rằng anh cũng đáng được tiếng tăm như vậy ở Oxford vì sự tận lực làm việc và tôn trọng kỷ luật.

Anh đã đọc từ khoảng một giờ đồng hồ, khi bỗng nhiên anh nghe thấy một tiếng kỳ quái; một tiếng động chói tai, chát chúa; một tiếng gì giống như tiếng hít vào rít lên của một người đang thở khi bị xúc động mạnh. Smith để sách xuống và lắng tai nghe. Vì không có một ai ở bên cạnh hay ở phía trên anh, chắc chắn là tiếng động đã tới từ người láng giềng phía dưới của anh, chàng sinh viên mà Hastie đã phác họa một hình ảnh chẳng tốt đẹp chút nào. Smith chỉ biết anh ta dưới bộ mặt một chàng trai xanh xao, yếu đuối có thói quen sống yên lặng và chăm chỉ làm việc, và ngọn đèn của anh ta thường chiếu ra một vạch vàng trên cái tháp cổ xưa ngay cả sau khỉ anh đã tắt ngọn đèn của anh. Sự cảm thông trong những đêm thức khuya kéo dài này đã tạo ra giữa họ một thứ liên hệ bí mật. Khi những giờ đã trôi qua gần tới rạng đông, Smith thích cảm thấy rằng ngay ở gần bên, một sinh viên khác cũng coi khinh giấc ngủ như anh. Và đúng vào lúc đó, khi mà các ý nghĩ của anh đều hướng về người bạn láng giềng một cách ngoài ý muốn, anh chỉ cảm thấy những tình cảm tốt đẹp. Hastie là một chàng trai dũng cảm, nhưng thô lỗ, rất khỏe mạnh và không có óc tưởng tượng cũng như sự thông cảm. Anh ta không thể chịu đựng được một người không được đào tạo theo cái mẫu mực cường tráng mà anh ta đã dứt khoát chọn lựa. Nếu người nào không thể được đo lường theo các tiêu chuẩn này, thì nhất định là người đó sẽ chuốc lấy sự ác cảm của Hastie. Giống như nhiều chàng trai khỏe mạnh về thể chất, anh ta tỏ ra lầm lẫn cấu trúc của cơ thể với tính tình, anh ta không ngần ngại gì để gán tội vô nguyên tắc cho một việc khi việc đó chỉ là một lỗi nhỏ. Smith có tinh thần cởi mở hơn: anh biết cái bệnh của bạn anh và anh thể tất nó.

Vì tiếng động kỳ quái đó không tiếp diễn nữa, Smith đang sắp cầm lấy quyển sách, thì bỗng nhiên lại một tiếng rên rỉ khô khan một tiếng kêu thực sự chọc thủng sự yên tĩnh của màn đêm. Đó là tiếng gọi của một người bị khích động và đau đớn vượt khỏi sự kiềm chế. Smith chồm ra khỏi ghế bành bỏ quyển sách xuống. Mặc dù anh có bộ thần kinh vững vàng, tiếng kêu khủng khiếp đột ngột đó cũng làm máu anh lạnh toát như băng và làm anh nổi da gà. Được phát ra trong một nơi như thế này? Và sao một giờ như thế này? Nó đã gieo vào đầu óc anh hàng ngàn giả thuyết kỳ quái. Anh có nên chạy ngay xuống bên dưới không, hay là hãy đợi xem sao? Cũng như tất cả các đồng bào của anh, anh ghét việc làm cho mọi người chú ý hay tự đề cao mình, và anh biết rất ít về người hàng xóm nên anh không có ý định xen lấn vào công việc của hắn một cách khinh suất. Anh đắn đo trong một khoảnh khắc; nhưng những bước chân mau lẹ đã vang lên trong cầu thang, và chàng thanh niên Monkhouse Lee, nửa mình để trần, mặt mày tái mét, chạy xộc vào phòng anh.

"Xuống đi?" anh ta lắp bắp nói. "Bellingham bị bệnh!" Abercrombic Smith đi theo anh ta tới tận căn phòng khách nhỏ nằm ngay phía dưới phòng khách của anh, dù dã dồn hết tâm trí vào sự việc xảy ra, anh cũng không thể kiềm chế được việc ném một cái nhìn kinh ngạc quanh mình khi anh bước qua bậc cửa. Đó là một căn phòng hình như chưa bao giờ anh nhìn thấy trước đây: một viện bảo tàng hơn là một phòng làm việc. Các bác tường và trần nhà gần như được toàn bộ che phủ bằng hằng hà sa số những thành tích kỳ lạ xuất xứ từ Ai Cập và Đông phương. Những bóng ma cao lớn mang những gánh nặng hay những khí giới treo một cách ngạo nghễ trên một tấm vải thô chạy vòng quanh căn phòng. Phía. trên, được chạm vào trong đá là những cái đầu bò rừng, đầu hạc, đầu cú mèo, cùng với các pho tượng những vua chúa có những con mắt hạt hạch nhân, trên đầu quấn những con rắn độc và những vị thần kỳ quái trông giống như những con giáp trùng đẽo bằng ngọc bích Ai Cập. Horus, Isis và Osins đang ngồi ngắm nghía căn phòng khách có nhiều hốc trong tường và tất cả những cái kệ, ngang trần nhà, một đứa con chính thống của sông Nu cổ đại, con cá sấu lớn với cái miệng há rộng, được treo lủng lẳng bằng một nút dây kép.

Ở giữa căn phòng không tầm thường này, có một cái bàn vuông lớn rải rác những giấy tờ, chai lọ và những lá khô của một loại cây cọ rất đẹp, những vật linh tinh này đã bị đẩy ra thành từng đống lộn xộn để lấy chỗ đặt một cái thùng xác ướp được lấy ra từ trong bức tường (đúng như khoảng trống nó để lại trong tường đã chứng thực điều này), và nó được đặt nằm ngang qua cái bàn. Về phần cái xác ướp, thì nó là một vật khủng khiếp, đen xì và khô héo, chìa ra một cái đầu xám như than trên một cái cây nhỏ đầy mấu đốt, một nửa thân hình nó thòi ra bên ngoài cái thùng; một cái bàn tay trong giống như một cái kìm và một cánh tay xương xấu nằm trên bàn. Một cuộn giấy bằng lá chỉ thảo được dựng tựa vào cái quan tài; phía trước cuộn giấy, người chủ căn phòng dang ngồi trong một cái ghế bành gỗ, đầu anh ta ngả về phía sau; hai mắt mở lớn nhìn dán chặt vào con cá sấu; cặp môi xanh tái và run rẩy một cách nặng nề theo từng hơi thở.

- Trời ơi! Anh ấy chết mất! - Monkhouse sợ hãi kêu lên.

Monkhouse Lee là một chàng trai mảnh khảnh có cặp mắt đen và nước da xanh tái; anh ta có cốt cách Tây Ban Nha hơn là cốt cách Anh Cát Lợi; tính tình cởi mở của người Celtes ở anh trái nghịch lại với tính lạnh lùng của dân Saxon ở Abercrombie Smith.

- Tôi nghĩ rằng đây chỉ là sự ngất xỉu đi thôi - anh sinh viên y khoa trả lời - Hãy giúp tôi một tay. Nắm lấy hai chân anh ấy. Bây giờ chúng ta hãy đặt anh ấy nằm lên trên ghế dài. Anh có thể dẹp hết những dỗ quỷ quái lắt nhắt bằng gỗ ra khỏi cái ghế dài được không? Thật là bừa bãi! Kia kìa? Nêu ta cởi cúc áo ở cổ anh ấy ra và cho anh ấy uống một ít nước thì sẽ rất tốt đó Điều gì xảy ra cho anh ấy thế?

- Tôi không biết một tý gì cả. Tôi nghe tiếng anh ấy kêu to, tôi chạy ngay lên. Tôi quen biết anh ấy lắm, anh hiểu chứ? Anh thật quá tốt bụng khi đi xuống đây.

- Tim anh ấy đập như một cái lục lạc ấy - Smith nói sau khi để tay lên ngực Bellingham khi anh này vẫn còn bất tỉnh - Người ta sẽ nói rằng anh ấy bị quá hoảng sợ. Giội nước lên người anh ấy đi. Bộ mặt anh ấy trông mới kỳ cục làm sao!...

Thực sự vẻ mặt Bellingham trông vừa kỳ dị vừa đáng sợ, cả về thần sắc lần về dáng điệu. Nó trắng bệch, không phải sự tái xanh thông thường do sự sợ hãi gây ra, mà là sự trắng bệch, hoàn toàn không có màu sắc ở bụng một vài loại cá. Anh ta khá mập, nhưng cho ta ấn tượng là trước đây anh ta còn mập hơn nhiều, vì da anh ta lõng thõng thành những nếp và vết hằn ngang dọc. Mái tóc nâu để kiểu bàn chải dựng đứng lởm chởm trên đầu, trong đôi mắt màu xám vẫn mở trừng trừng, các đồng tử giãn căng ra, sự chăm chú của cái nhìn trông thật khủng khiếp. Smith cúi xuống trên người anh ta, tự nhủ thầm là anh chưa bao giờ nhìn thấy rõ ràng như thế này những tín hiệu của sự khủng khiếp trên diện mạo một con người; ngay tức thì anh nhớ lại với ít hoài nghi hơn lời cảnh báo của Hastie.

Anh hỏi:

- Vậy thì điều gì đã làm cho anh ấy kinh hoàng tới mức độ này?

- Cái xác ướp

- Xác ướp à? Tại sao như vậy?

- Tôi không biết. Nó hôi thối và gây bệnh hoạn, lẽ ra tôi đã muốn cho anh ấy quăng nó đi. Đây là lần thứ nhì anh ta làm cho tôi kinh sợ. Mùa đông năm ngoái cũng một lần như thế này. Tôi đã thấy anh ta đúng hệt như hôm nay, với cái vật đáng ghét này để trước mặt anh ta.

- Vậy anh ấy tìm kiếm cái gì ở cái xác ướp?

- Ồ, thật là một kẻ cuồng dại Một kẻ cuồng dại về xác ướp. Anh ấy hiểu biết về các xác ướp nhiều hơn là bất kỳ một người dân Anh nào hiện đang còn sống. Nhưng tôi thì tôi mong rằng anh ấy nên biết ít hơn về những thứ đó. A, anh ấy tỉnh lại rồi kìa!

Những màu sắc mờ nhạt bắt đầu nhuốm ứng đôi gò má tái mét của Bellingham; mí mắt anh ta nhấp nháy; anh ta nắm chặt bàn tay lại và lại duỗi bàn tay ra, hít một hơi dài không khí qua kẽ răng, rồi đột nhiên ngẩng đầu lên và đưa mắt nhìn quanh một cái nhìn dò xét Khi mắt anh nhìn tới cái xác ướp, anh đứng phắt dậy, cầm lấy cuộn chỉ thảo, quẳng nó vào một ngăn kéo và khóa nó lại, rồi lảo đảo quay trở lại cái ghế dài.

Anh ta hỏi:

- Chuyện gì đã xảy ra? Các bạn muốn gì ở tôi vậy?

- Anh đã kêu lớn và làm ồn ào quá - Monkhouse Lee đáp lại - Nếu ông bạn hàng xóm của chúng ta ở tầng trên không đi xuống, thì tôi tự hỏi là một mình tôi sẽ làm được việc gì đây.

- À, đây là Abercrombie Smith! - Bellingham nhìn anh và nói - Thật là anh đã tử tế quá khi tới đây! Tôi là một thằng ngốc thật! Trời ơi, sao mà tôi ngu ngốc thế!

Anh ta gục đầu vào hai bàn tay và bật lên mọt tiếng cười điên dại không còn ngưng được nữa.

- Coi chừng đó! Dừng lại! - Smith quát to và nắm lấy vai anh ta lắc mạnh - Các dây thần kinh của anh bị hoàn toàn rối loạn rồi. Anh phải vứt bỏ những trò chơi nhỏ nhặt về nửa đêm với những cái xác ướp đi nếu không anh sẽ mất trí đó. Lúc này anh là một cục pin điện đó.

Bellingham trả lời:

- Tôi không nghĩ rằng anh cũng sẽ bình tĩnh được như tôi nếu anh trông thấy...

- Cái gì vậy?

- À, không có gì cả! Tôi chỉ muốn nói rằng tôi không tin là anh có thể ngồi suốt một buổi tối với một cái xác ướp mà các dây thần kinh không bị nôn nao. Anh nói rất đúng, trong thời gian gần đây tôi đã làm việc quá nhiều. Nhưng tôi cảm thấy đã hoàn toàn bình phục. Xin hãy đợi vài phút, và tôi sẽ trở lại như thường.

- Căn phòng có mùi khó chịu quá - Lee đưa ra nhận xét và anh đi mở cửa sổ để cho không khí mát mẻ ban đêm lùa vào.

- Đó là chất nhựa thơm...

Bellingham giơ lên một chiếc lá khô và làm nó quăn lại trên miệng cái đèn. Nó biến thành những cuộn khói dày đặc; một mùi hăng khó chịu tràn ngập căn phòng.

- Đó là thứ cây linh không thứ cây của các vị thầy tu - anh ta giải thích - Anh Smith, anh có biết gì về các ngôn ngữ Đông phương không?

- Không biết gì hết. Không biết một chữ.

Câu trả lời có vẻ làm cho nhà Ai Cập học thấy nhẹ nhõm. Anh hỏi:

- Về chuyện này, từ lúc cái anh chạy vào tới lúc tôi tỉnh lại có lâu không?

- Không lâu. Khoảng bốn hay năm phút

- Hình như tôi thấy rằng tôi đã không bị bất tỉnh lâu hơn! - anh vừa nói vừa hít vào một hơi dài - nhưng sự ngất xỉu thật là một điều kỳ lạ! Không có cách nào để đo lường thời gian của nó. Theo các cảm giác của riêng tôi, tôi không tài nào nói chắc được là tôi đã bị ngất đi trong vài giây hay vài tuần lễ. Cái ông khách nằm trên bàn kia đã được tẩm liệm đã bốn mươi thế kỷ rồi; nếu ông ấy lại nói được, ông ấy sẽ bảo chúng ta rằng cái khoảng thời gian này chỉ thoảng qua như thời gian mà ta cần có để nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra. Đó là mộ t xác ướp tuyệt đẹp, anh Smith ạ!...

Smith lại gần cái bàn và nhìn cái hình thù đen đúa và cong queo bằng con mắt của nhà chuyên môn. Bộ mặt tuy đã bị mất màu sắc một cách khủng khiếp nhưng vẫn còn nguyên vẹn; hai nhãn cầu nhỏ bé còn nằm trong hốc sâu của những lỗ mắt đen ngòm. Cái cằm có vân như cẩm thạch bị kéo vẹo sang một bên, và những sợi tóc to và đen rủ xuống hai tai. Hai chiếc răng nhỏ như răng chuột phủ lên cái môi dưới đã teo lại. Trong tư thế ngồi xổm, với những khớp xương cong lại và cái đầu nghểnh về phía trước, cái vật khủng khiếp này tỏa ra một cảm giác về khí lực làm đảo lộn tinh thần của Smith. Những cái xương sườn hằn rõ như dược bọc bởi một cái vỏ bằng da thuộc, cũng như cái bụng màu xám chì, bị rạch theo chiều dài bởi người ướp xác; nhưng hai chân thì vẫn còn được quấn các băng vải vàng. Những lá đinh hương, những mảnh vụn nhựa mật nhi lạp và trái ba đậu còn rải rác trên cái xác hoặc vương vãi bên trong cái hòm.

- Tôi không biết tên hắn, - Bellingham nói trong lúc đưa bàn tay lên cái trán nhăn nheo của anh - Các anh nhìn đấy: tôi thiếu mất cỗ quách bên ngoài cùng với những chữ ghi chép của nó. Lô số 249, đó là tất cả danh hiệu của hắn hiện nay. Hãy dọc chữ này trên cái hòm. Đó là con số hắn mang trong cuộc bán đấu giá mà tôi đã mua được.

Abercrombie Smith nói:

- Lúc sinh thời, chắc chắn hắn là một người đàn ông đẹp trai.

- Một anh khổng lồ. Cái xác ướp của hắn đo được hai mét chiều dài; ở nơi đó, hắn phải là một anh khổng lồ vì giống người ở đó đã không được phát triển mấy. Hãy thử sờ vào mấy cái xương lớn quăn queo xem. Không ai dại dột mà trêu chọc hắn.

- Có thể là những bàn tay này đã góp sức vào việc xây dựng các ngôi Kim tự Tháp chăng? - Monkhouse Lee góp ý trong khi ngắm nghía những bàn tay với sự kinh tởm.

- Chớ nên tin gì vào việc đó! Anh chàng nay đã được ướp một cách kỹ càng trong một kiểu cách tốt nhất. Người ta không đối xử tử tế như vậy với những anh thợ nề tập sự đâu. Muối hoặc dầu hắc cũng là quá tốt rồi. Người ta đã tính là cái thứ công việc vớ vẩn phải tốn vào khoảng 730 bảng tiền của chúng ta. Ít nhất anh bạn của chúng ta cũng là một nhà quý tộc. Anh Smith, anh nghì thế nào về cái dòng chữ nhỏ ở gần hai bàn chân hắn?

- Tôi đã nói với anh là tôi không biết một thứ ngôn ngữ Đông phương nào mà.

- À phải! Đó là tên của người ướp ít nhất tôi cũng giả thiết là vậy. Ông ta phải là một nghệ nhân rất có lương tâm nghề nghiệp. Tôi đã tự hỏi rằng liệu có bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật hiện dại sẽ tồn tại được bốn ngàn năm!...

Anh ta tiếp tục nói với vẻ giễu cợt, nhưng Abercrombne Smith nhận thấy anh ta vẫn còn run rẩy vì sợ hãi. Tay anh ta có những cử động thiếu tự chủ, môi dưới của anh ta run run và mắt anh ta lúc nào. cũng nhìn vào người bạn gớm ghiếc của mình! Tuy nhiên, bất kể nỗi sợ sệt anh ta vẫn có một vẻ đắc thắng trong giọng nói và trong thái độ. Mắt anh ta sáng ngời, bước chân nhanh nhẹn và khinh khoái khi đi đi, lại lại trong eăn phòng. Người ta có thể nói đó là một người vừa trải qua một cuộc thử thách phũ phàng, còn mang các dấu vết của cuộc thử thách, nhưng đã đạt được mục đích của mình.

- Anh không bỏ đi đấy chứ? - anh ta kêu lên khi Smith từ ghế dài đứng lên.

Trước viễn ảnh đơn độc, những mối lo sợ hình như lại tấn công anh ba và anh ta vươn tay ra như thể giữ Smith ở lại.

- Đúng, tôi phải đi đây. Công việc đang đợi tôi. Anh đã hồi phục rất khá rồi. Tôi nghĩ rằng với hệ thần kinh của anh, anh nên chuyên tâm vào những môn học ít bệnh hoạn hơn. - Ô, thông thường tôi không bao giờ bị suy yếu cả? Và tôi đã từng tháo vải bọc cho nhiều xác ướp mà.

- Lần trước anh cũng đã bị ngất xỉu - Monkhouse Lee đưa ra lời lưu ý.

- À, phải! Này, tôi sẽ phải dùng một liều thuốc bổ cho các dây thần kinh. Anh không bỏ đi chứ, anh Lee?

- Tôi sẽ làm theo ý anh muốn, Ned ạ.

- Vậy thì tôi sẽ xuống phòng anh, và tôi sẽ ngủ trên cái ghế dài của anh. Chúc ngủ ngon nhé Smith. Tôi rất buồn vì đã làm phiền anh với những trò ngu ngốc của tôi.

Họ bắt tay nhau; chàng sinh viên y khoa leo mỗi bước bốn bậc thang để trở về phòng của mình, anh nghe thấy tiếng hai người bạn đi xuống phía căn hộ ở tầng thứ nhất.

Đó là lý do tại sao Edward Bellingham và Abercrombie đã làm quen với nhau, chàng sinh viên y khoa không có ý định gắn bó xa hơn nữa, nhưng Bellingham có vẻ như say mê anh hàng xóm; anh ta đã có những cử chỉ mở đầu một cách thân thiện quá đến nỗi chỉ một kẻ thật sự thô lỗ mới dám khước từ. Đã hai lần anh ta tới phòng Smith để cảm ơn về sự giúp đỡ; rồi sau đó anh ta gõ cửa để mang tới cho anh các sách, báo và mọi thứ lặt vặt mà hai anh hàng xóm độc thân có thể tặng, biếu cho nhau. Smith đã phát hiện ra ngay là anh ta đọc rất nhiều, anh ta có một trí nhớ phi thường. Lối cư xử của anh ta rất khả ái, rất dịu dàng khiến cho sau một thời gian nào đó người ta quên đi cái diện mạo thể chất ít gây được cảm tình của anh ta. Phải làm việc quá sức như Smith, mà anh cũng không thấy anh ta gây khó chịu chút nào; anh đã mau chóng có thói quen về các cuộc thăm viếng của anh ta, và khi có cơ hội anh cũng tới thăm anh ta.

Bellingham đúng là một người thông minh không ai chối cãi được tuy nhiên Smith đã phát hiện ở anh ta một đôi chút khùng điên, ít nhất cũng ở bề ngoài. Đôi khi anh ta có những lúc nói năng lưu loát, khoa trương trái ngược hẳn với sự giản dị trong lối sống.

Anh ta kêu lên:

- Thật là một điều kỳ thú khi cảm thấy rằng ta có thể sai khiến được các quyền lực của điều thiện và điều ác rằng ta có thể là một ông thánh cứu nhân, độ thế hay một ác quỷ của sự hận thù!...

Và đối với Monkhouse thì anh ta nói:

-... Lee là một anh chàng dũng cảm, một người lương thiện nhưng anh ấy không có nghị lực, mà cũng không có tham vọng. Anh ấy sẽ không phải là người cộng tác tốt cho người nào muốn lập một sự nghiệp lớn lao. Anh ấy không phải là một người cộng tác tốt với tôi.

Khi nghe những lời như vậy, anh chàng Smith khỏe mạnh chỉ rít ống píp một cách nghiêm trang và nhường cặp chân mày lên và lắc đầu.

Bellingham đã mắc phải một thói quen mà Smith biết là nó biểu lộ một tinh thần suy nhược; anh ta nói liên miên, nói lớn tiếng. Lúc đêm đã khuya, khi không có thể còn khách khứa nào trong phòng anh ta, Smith nghe thấy anh ta nói một mình với một giọng tắc nghẹn trầm xuống gần như tiếng thì thầm, nhưng sự yên lặng ở chung quanh làm cho nghe rõ mồn một. Sự lảm nhảm một mình này làm chàng sinh viên y bực bội quá dện nỗi chàng phải cự nự anh hàng xóm. Bellingham ngượng đỏ mặt trước lời buộc tội và chối phăng là anh ta đã không nói một tiếng nào; thực sự anh ta có vẻ như đang bực bội điều gì đó.

Nếu Abercrombie Smith có những nghi ngờ về thính giác của mình thì anh đã không cần phải đi xa hơn nữa để được xác nhận về sự phát hiện của anh. Tom Styles, gã đầy tớ nhỏ bé nhăn nheo là người đã làm việc từ lâu cho ba người khách trọ của cái tháp, cũng thấy bực bội về cùng một vấn đề này.

- Thưa ông, - một buổi sáng khi đang quét dọn căn phòng phía trên, hắn hỏi - ông có nghĩ rằng ông Bellingham là khỏe mạnh không ạ?

- Khỏe mạnh hả, Styles?

- Vâng, thưa ông. Là đầu óc ông ấy ở tình trạng tốt

- Và tại sao đầu óc ông ấy lại không ở tình trạng tốt hả?

- Thưa ông, tôi thề là tôi không biết gì cả. Từ ít lâu nay ông ấy đã có những chứng cuồng mới. Ông ấy không phải là cùng một con người như ngày trước nữa mặc dù tôi xin được mạn phép nói với ông rằng chưa bao giờ ông ấy hoàn toàn giống như người lịch sự như ông Hastic hoặc như ông vậy. Ông ấy cứ nói chuyện một mình, đó là một điều gì có vẻ đáng sợ. Tôi tự hỏi liệu chuyện đó có làm phiền cho ông không? Thưa ông, tôi không biết nghĩ về ông ấy thế nào đây.

- Anh Styles này, tôi không thấy chuyện đó có liên quan gì tới anh cả.

- Vâng, thưa ông Smith, đó là vì tôi quan tâm tới thôi! Có lẽ đó là một thiên kiến của tô , nhưng tôi không thể tự ngăn cản để khỏi nghĩ tới việc đó. Đôi khi tôi cảm thấy như tôi là cha mẹ của những vị công tử trẻ trung của tôi. Mọi trách nhiệm đều đổ lên đầu tôi khi có các sự việc chẳng tốt lành và khi các vị phụ mẫu tới thăm, nhưng thưa ông Bellingham, ông... Tôi rất muốn biết một đôi khi có ai đó đi trong phòng của ông ấy - lúc ông ấy ra khỏi và lúc cửa được khóa ở phía bên ngoài.

- Vậy hả? Anh nói nhảm nhí rồi Styles ạ!

- Có lẽ là thế, thưa ông. Nhưng chính tai tôi đã nghe tiếng động đó hơn một lần nữa.

- Chuyện tầm phào, Styles ạ!

- Được rồi, thưa ông khi nào ông cần xin bấm chuông gọi tôi.

Abercrombie Smith không mấy để ý tới những lời nói của gã đầy tớ lâu năm, nhưng vài ngày sau đó một sự cố nhỏ đã dể lại cho anh một ấn tượng khó chịu và nhắc nhở với anh những lời nói đó một cách mãnh liệt.

Bellingham đi lên gặp anh vào một giờ đã muộn, anh ta đang kể cho anh nghe những điều rất thú vị về các ngôi mộ của dòng họ Beni Hassan ở Bắc Ai Cập, thì Smith, vốn là người có cặp tai rất thính, nghe thấy rõ ràng tiếng một cánh cửa mở ra ở tầng dưới. Anh nói với Bellingham:

- Có người đi vào hay đi ra khỏi phòng anh.

Anh chàng này đứng phắt dậy và cứ chứng yên hoàn toàn bị bối rối trong vài giây; anh ta có vẻ nửa không tin, nửa kinh hãi.

- Chắc chắn là tôi đã đóng cửa rồi mà. Tôi hoàn toàn tin chắc là tôi đã đóng cửa - anh ta hổn hển nói - không ai có thể mở được nó.

- Này, bây giờ tôi nghe thấy tiếng một người đi lên các bậc thang.

Bellingham chạy vội ra cửa, mở cửa, đóng đánh sầm một tiếng sau lưng anh ta và nhẩy xuống cầu thang. Khoảng giữa chừng, Smith nghe thấy anh ta đứng lại, và anh tưởng như bất chợt nghe thấy tiếng nói thì thầm. Một lát sau cánh cửa của tầng dưới đóng lại, một cái chìa khóa cọt kẹt trong ổ khóa, và Bellingham trán đẫm mồ hôi nhỏ giọt, lại lên cầu thang và đi vào trong phòng.

- Không có chuyện gì cả - anh ta nói và ngồi phịch xuống một cái ghế - Đó là cái con chó ngốc nghếch. Nó đã đẩy cửa ra. Tôi không biết tại sao tôi lại quên không khóa cửa lại.

- Tôi không biết là anh có một con chó, - Smith nói trong khi ngắm nhìn một cách đầy tư lự nét mặt bối rối của người bạn.

- Phải. Tôi đã không nuôi chó từ lâu rồi. Tôi sẽ phải vất nó đi, nó làm tôi phiền phức quá.

- Tôi thấy hình như đóng cửa mà không khóa lại là chưa đủ, phải không?

- Tôi muốn ngăn cản không cho lão Styles để nó chạy ra. Đó là một con vật đắt giá, anh hiểu chứ? Và để mất thì thật là ngốc.

- Tôi là một tay chơi tài tử về chó - Smith nói trong khi tiếp tục vẫn liếc mắt quan sát người bạn của mình - Anh có thể vui lòng cho tôi xem con chó đó được không?

- Dĩ nhiên là được rồi! Nhưng không phải tối nay, xin anh vui lòng. Tôi có một buổi hẹn. Đồng hồ treo của anh chạy có đúng không? Trời ơi, tôi đã bị trễ mất mười lăm phút rồi! Xin anh tha lỗi cho nhé được không?

Anh ta chộp lấy cái mũ và vội vã rời khỏi phòng. Một buổi hẹn à? Smith nghe thấy anh ta trở về phòng và khóa cửa lại ở phía bên trong.

Cuộc nói chuyện này đã gây một cảm tưởng không vui cho chàng sinh viên y khoa. Bellingham đã nói dối anh; và nói dối một cách quá vụng về khiến người ta phải nghĩ rằng có những nguyên do rất cấp thiết để che giấu sự thật. Smith biết chắc chắn là anh hàng xóm này không có chó. Anh cũng biết rằng tiếng bước chân trong cầu thang không phải là tiếng bước chân của một con vật. Trong trường hợp này thì là tiếng bước chân của ai? Smith nhớ lại những diều mà lão Styles đã nói với anh về những tiếng động mà hắn bất chợt nghe thấy trong khi người chủ căn phòng vắng mặt. Có thể là một người đàn bà chăng? Smith nghĩ tới giả thuyết này. Nếu sự hiện diện của một người dàn bà bị các giới chức nhà trường phát hiện thì Bellingham sẽ bị đuổi học ngay lập tức; sự cố có thể xảy ra này có thể giải thích được sự lo lắng và sự dối trá của anh ta. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng một sinh viên lại giữ được một người đàn bà trong phòng mình mà không bị phát giác ngay tức thì. Dù cho sự giải thích là thế nào đi nữa, chắc chắn nó cũng không tốt đẹp gì. Smith trở lại với các tập sách của anh, quyết định sẽ làm nản lòng tất cá mọi ý định kết thân mới cua người hàng xóm, một người nói thì rất hay mà hành động thì rất tệ.

Nhưng số trời đã định là anh không thể làm việc một cách yên tĩnh buổi tối hôm đó. Anh vừa mới nối xong sợi dây đứt đoạn thì một bước chân nặng nề và chắc chắn leo lên từng ba bậc một trong cầu thang, và Hastie, với áo vét và quần bằng nỉ, chạy xộc vào phòng anh.

- Còn làm việc à! - anh ta có kêu lên tuột cách kinh ngạc và ngồi phịch ngay xuống chiếc ghế bành ưa thích của anh ta - người đâu mà chăm học thế? Tôi nghĩ rằng nếu có một trận động đất làm nát bấy thành phố Oxford này, thì anh cũng sẽ chồi lên hoàn toàn bình thản trên những đổ nát, với quyển sách cầm trong tay. Yên tâm đi, tôi sẽ không ngồi lại lâu đâu. Ba hơi thuốc lá thôi, rồi tôi sẽ chuồn đi.

- Có tin tức gì không? - Smith vừa hỏi vừa lấy ngón tay trỏ nhấn một chút thuốc lá trong cái píp.

- Không có gì quan trọng. À, có đấy! Anh có biết tin Long Norton bị tấn công không?

- Không. Bị tấn công à?

- Phải. Ngay ở góc đường High Street, cách hàng rào song sắt của trường cao đẳng một trăm mét.

- Nhưng bởi ai?...

- À, xem đó! Nếu anh nói bởi cái gì và không nói bởi ai, thì anh đã tỏ sự tôn kính hơn đối với ngữ pháp đó. Norton đoan quyết rằng anh ấy không bị tấn công bởi một con người; nhìn những vết xây xước ở cổ họng anh ấy, thú thực là tôi cũng gần tin lời anh ấy nói.

- Tóm lại, hãy nói rõ ràng đi! Trò ma quỉ à? Abeciombie Smith phà khói ra với vẻ khinh khỉnh của nhà khoa học.

- Không, đúng vậy. Tôi nghĩ rằng một lái buôn.

Kết Thúc (END)

Con Số Kỳ Lạ

Font Size: Tác Giả: Hoàng Ngọc Liên

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Một bữa đứng trước nhà, tôi thấy thằng Út - con ông Ba "giấy số" - nhà bên cạnh, cầm một cuốn "Truyện Võ Hiệp". Thoáng đọc thấy tên tác giả, đúng là một ông bạn rất thân, tôi đang muốn tìm thăm mà chưa biết hiện nay ổng ở đậu

Tôi hỏi thằng Út:

- Cháu cũng mua truyện võ hiệp để coi sảo

Thằng nhỏ lắc đầu:

- Đâu có, ông Nặm Nhỏ bạn cháu mới chọ Ông già cổ là tác giả đọ

Tôi mừng rỡ:

- Hay quá, cháu cho ông địa chỉ cổ, được khổng

Thằng Út trố mắt nhìn tôi:

- Ông Năm cũng muốn vô "Quán Đèn Mờ" sảo

Thấy tôi ngơ ngác không hiểu, nó cười:

- Chắc cháu nói tầm bậy rồi!

Tôi nói:

- Ông là bạn của ông già tía cô bạn chạu Ông muốn đến thăm ổng!

Sau đó tôi được thằng nhỏ cho địa chỉ "Quán Đèn Mờ" này, nó còn dặn tôi là khi vào quán, chỉ cần ngỏ ý với người mang đèn bấm hướng dẫn chỗ ngồi, là mình muốn kêu cô Hồng phục vụ Chỉ mấy phút sau, nếu con bé chưa ngồi bàn, thế nào nó cũng tợi

Tôi làm theo lời dặn, quả nhiện

Khung cảnh trong quán đúng là mờ ạo Ngọn đèn nhỏ xíu có chiếc chao màu đen chụp xuống, chỉ vừa đủ ánh sáng cho khách thấy tổng quát mặt bạn

Tôi không nhìn rõ mặt cô bé:

- Cháu tên Hồng, phải khổng

Một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên:

- Dạ! Bạc đi có một mình sảo

Tôi gật đầu:

- Bác đi một mình! Cháu lạ lắm sảo

Cô bé ngập ngừng:

- Không, nhưng sao bác lại kêu chảu

- Vì bác cần biết tin của Ba chạu Bác là bạn của Ba chạu Ba cháu hiện đang ở đẩu

Không nghe cô bé trả lời, tôi hỏi tiếp:

- Nếu cháu không tiện nói cũng không sạo

Cô bé lên tiếng ngay:

- Dạ không phải vậy đâu, Bác! Nhưng Bác phải hứa không cho Ba cháu hay là cháu làm ở đậy

Tôi nói ngay:

- Đồng ý!

Nói xong tôi trao cho cô bé tờ giấy 5 ngàn:

- Tặng chạu

Rất nhanh nhẹn, nó cầm tiền nhét vô túi áo ngoài rồi rút ra mẩu giấy và cây viết, ghi cho tôi địa chỉ nạy Tôi không hỏi cô bé gì thêm, vội vã trả tiền 2 ly nước ngọt, ra vệ

Ngay sáng hôm sau, tôi vẫy xe lam lên Ngã Ba Hàng Xanh, rồi xuống đi bộ vào ngõ hẻm có cửa hàng bán vật liệu xây cất, cách rạp hát bóng Cao Đồng Hưng Gia Định không xạ

Đến trước một chiếc cổng khép hờ, tôi đọc tấm bảng treo, số nhà 1016 như ghi trong mẩu giấy, nhưng tôi còn đang ngần ngừ, cánh cửa bên trong lại có số 1057, viết bằng phấn trắng, chợt nghe một giọng nói quen thuộc cất lên:

- Quý phải không, vô đây!

- Thúc, ông bạn ngày xưa của tôi vừa từ trong nhà bước ra, đang đứng trước những thùng cây cùng với vô số vỏ chai la de, trong chiếc sân không rộng lắm, trước một căn nhà có giàn bông giậy

Đúng lạ Thúc đây rội Tên ông bạn tôi trùng với họ của Kỳ Tâm, anh chàng hảo ngọt suýt bị toi mạng trong Đoạn Trường Tân Thanh của Tiên Điền Nguyễn Tiên Sịnh Thúc có một bà vợ lúc nào cũng mang nét mặt nghiêm nghị Ngày trước, đã nhiều lần tôi tới thăm Thúc, khi gia đình anh còn ở đường Trần Quý Cáp Sài Gòn, tôi chưa thấy bà xã ạnh cười lần nạo Bả... khó quạ Thế mà Thục sinh dám dấu một "cục cưng" dưới Khánh Hội

Có bữa, thừa lúc bà xã bồng đứa con gái mới đầy tuổi tôi, - bây giờ là cô bé Hồng - vô nhà trong, Thúc nói nhỏ với tôi:

- Tánh bả vậy đọ Nhưng người thiệt tốt bụng, hết lòng lo cho chồng cọn Không có bả, chẳng biết cha con tôi làm sao sộng Chỉ phải cái tật ghen ẩu!

Tôi cười:

- Vậy mà ông còn dám cọ

Thúc hoảng hồn, cắt ngang:

- Đừng phá nha, cha nội!

- o O o -

Bẵng đi mười mấy năm không gặp, bữa nay mới có dịp tìm thăm lại cố nhận

Thúc nắm chặt tay tôi:

- Nghe nhà ngươi mãn tù, ta chưa biết kiếm ở đâu thị

Tôi tiếp lời Thúc:

- Nhà ngươi đã dẫn xác tới!

Thúc buông tay tôi ra rồi hỏi:

- Làm sao cậu kiếm được nhà tớ ở đây, tài vẩy

Tôi cười:

- Chỉ cần đôi chút công phụ

Chúng tôi vào trong nhạ Cảnh vật lộn xộn quạ Thốt nhiên tôi thấy có điều gì bất thường:

- Cậu Thúc này! Bà Xã đẩu

Thúc chìa tay về phía bộ sa lông ngổn ngang sách, báo:

- Cậu ngồi chờ mình kiếm cái gì uống đạ

Tôi xếp mấy tờ báo qua một bên rồi ngồi xuộng Thốt nhiên tôi thoáng nhìn lên bàn thờ, có đặt khung hình của bà xã Thúc!

Tôi đến gần, rút 3 nén nhang châm lửa thắp rồi xá 3 lận Cắm nhang vô bát, tôi hỏi Thúc khi anh chàng vừa bước ra:

- Bà Xã cậu "đi" hồi nào vẩy

Thúc đặt 2 ly bia lạnh trên bàn:

- Mình đang định nói với cậu đậy Hai năm trước đây, bả vượt biên, bị hải tặc Thái Lan bắn chết rồi liệng xuống biện Một người quen thoát chết còn bên Đảo nhắn tin về cho hạy Tớ chỉ còn cách làm bài vị, đặt hình bả lên bàn thờ!

Tôi cúi đầu:

- Chia buồn với cậu

Thúc nói thêm:

- Còn thằng Thanh và con Hồng, sau khi má mất, chụng thối về Ngoại ở Tây Ninh, phụ làm rậy Tớ ở đây một mình, bán cuốn sách cũng chẳng được bao nhiêu, nên tớ nhẩnbo mối la de, thâu vỏ chại, cũng kiếm ăn lai rại

Đến đây, Thúc hạ giọng:

- Đó là mặt nổi, còn thực tế, tớ được bà xã phò hộ, hiện đạng khá lắm!

Tôi trố mắt:

- Khá lẳm

Thúc không trả lợi Anh ta đứng dậy, bước vô nhà trong một lát rồi trở ra, trên tay cầm một bọc giậy Thúc để bọc giấy bên cạnh ly bia của tôi rồi thong thả nói:

- Tớ nghe cậu đang cần một số tiền lo Dịch Vụ Nguyễn Trại Tớ có sẵn đây, xin giúp cậu Không cần phải cảm ợn Mà cũng không bao giờ tớ nhận lại đậu Coi bọc giấy này như một cái "Không" của cuộc đời "Vô Thường". Sau này, biết đâu tớ lại được sự giúp đỡ của một người nào khạc

Tôi ngạc nhiên:

- Tiền ở đâu mà cậu có nhiều thể

Tôi hỏi vậy, tuy không biết Thúc để bao nhiêu trong bọc giẩy

Thúc gật gù:

- Đã bảo là tớ khá lặm

Cặp mắt Thúc nhìn lên bàn thờ:

- Bà Xã tớ giúp đọ Nói ra thì chẳng ai tịn Mà cũng không dám hở môi với bất cứ người nào, kể cả mấy đứa nhọ Thời buổi này, một cái tóc là một cái tội Có khi không làm gì, không nói gì, mà cũng ở tụ Huống chi tự nhiên có được một số tiền lợn

Nhìn nét mặt ngơ ngác của tôi, Thúc đâm thương hại Anh ta không nói vòng vo nựa Bằng một giọng trầm trầm, vừa đủ nghe, Thúc đưa tôi theo anh vào giấc mộng

- o O o -

Đoạn sau đây, tôi ghi lại đại ý câu chuyện theo lời Thúc kể suốt buổi chiều hôm ậy Tôi nghĩ có thể phần đông độc giả coi đây là một chuyện hoang đượng Nhưng với riêng tôi, tôi tin Thúc quả đã gặp lại bà Xã trong một giấc mợ Nếu không, làm sao một người nghèo xác như Thúc, lại có thể trao cho tôi cái bọc giấy mà lúc về nhà mở ra, tôi và một đứa con đếm mãi mới hết: một triệu đồng! Số tiền này trị giá 120 mỹ kim lúc đó, tức tương đương hơn 3 chỉ vàng ỵ

Lúc tiễn tôi ra tận đầu hẻm, Thúc cầm tay tôi:

- Chừng nào cậu đi, nhớ cho hạy

- Dĩ nhiện Nhưng chắc còn lậu Cảm ơn cậu, tôi về nhạ

- Đã biểu đừng nói cảm ợn

Tôi sực nhớ ra chuyện "có mèo" ngày xưa của Thúc:

- Cọn cái đuôi bên Khánh Hổi

Thúc gượng cười:

- Cô ấy đã qua một chuyến đọ Chuyện phải xảy ra vậy thôi!

- Cậu không định tục huyền sảo

Thúc co người lại:

- Bả thiêng vậy, tớ không dám đâu!

Mấy ngày sau, tôi trở lại "Quán Đèn Mờ". Trao cho con bé Hồng 2 trăm ngàn đồng, khuyên nó nên trở về nhà, lo cho ba nọ Tôi bật mí cho nó biết, ông già nó hiện nay bỏ mối la de, lại viết sách có tiện Nó khỏi phải lên Ngoại làm rẫy nựa Để ông già ở một mình như vậy không được đâu, rủi bị đau bịnh đâu có ai hạy Con bé nghe tôi nói dường như cảm động Nó hứa ngay hôm sau sẽ về thăm ông giạ Quả nhiên, bữa tôi đến chào từ giã Thúc, cả hai đứa con anh đang xếp những két bia thành từng chồng, sẵn sàng đem giạo Con bé Hồng - tôi quen kêu nó như vậy, nhưng năm đó nó đã trên 20 tuổi - thấy tôi vô, mừng quýnh, la lớn:

- Ba! Bác Quý đến!

- o O o -

.Đệm đó tớ uống hơi nhiều - Thức kệ Nghe mấy người bà con trên Tây Ninh xuống cho hay, con Hồng không chịu phụ làm rẫy như thằng anh nọ Nó thường lén bà ngoại, dọt về thành phộ Tớ đã lên trển mấy lần mà chưa gặp nọ Tớ buồn, phải má nó còn sống thì đâu đến nội Đầu óc tớ nhức rần rận Tớ đến gần bàn thờ, thắp hương, mong bả linh thiêng khiến tớ tìm được con Hộng Tớ cứ đứng trước tấm hình của vợ, nói lảm nhạm Đúng là một kẻ say sưa không ra gị Rồi hồi lâu, tớ lại nhớ những chuyện có lỗi với bạ Tớ mong được bả tha thự Sau đó, đầu choáng, mắt hoa, tớ gục xuống chân bàn thờ rồi không biết gì nuấThot nhiên, tớ thấy mình sắp đặt chân lên một chiếc cầu nhỏ, bắc ngang trên một giòng sộng Tớ còn biết thành cầu sơn màu xạm Giòng nước dưới sông không chạy Mặt sông như một bức tranh, bất động Bầu trời đen nghịt, không một cọng mậy Nhìn qua khu nhà bên kia sông, tớ thấy giống như một chúng cự Nhà cửa thấp lè tè, cũng một màu xám ngặt Cửa nhà nào cũng khép kín, thế mà chẳng hiểu sao, từ trong những căn nhà ấy, nhiều người vội vã lướt ra được Chân họ không chạm đật Thốt nhiên, một cái bóng xám lướt về phía chiếc cầu, lúc đó tớ đang bước quạ Bóng người hiện ra trước mặt tợ Tớ dừng chân lại Bà Xã mình đây chớ ai! Tớ mừng húm, quên hẳn bả mất đã lâu rồi!

- Má con Hồng qua bển làm chi vẩy"Bà Xã tớ không trả lợi Bả cầm tay tớ kéo đị Gió rát mặt Đến một căn nhà đóng cửa, bả lôi tớ vô, đi xuyên qua cánh cửa luộn Chuyện lạ đời vậy mà sao tớ thấy cũng bình thượng Bả du tớ ngồi trên tấm ván cậy Tớ nhìn chung quanh thì không thấy đồ đạc, bàn ghế chi cạ Nhưng có một chiếc xe dream dựng vào góc tượng

Chợt tớ nghe mình cất tiếng:

- Sao có xe mà bà không chạy, lại lội bổ

Lúc đó bả mới bắt đầu nói:

- Xe chưa đổ xặng Ba con Hồng gởi xe cho tôi mà quên đổ xăng vô, làm sao chảy

Trong lúc tớ lú lẫn, không hỏi tại sao bà Xã tớ ở chốn này, thì lại nghe bả nói:

- Vợ chồng mình gặp nhau bữa nay là do đời trước mình có công đực Nhưng chỉ được một lần thội Tôi cầu giúp cho ba nó có món tiền lớn, vậy ráng lo cho mấy đứa nhọ Cần coi sóc con Hồng đàng hoàng cho tội

Tớ chưa kịp hỏi thêm thì lại bị bả lại cầm tay kéo ra phía trược Lướt ra đến ngoài, bả chỉ tay vào tấm bảng ghi số nhà - lúc vô đâu thấy tấm bảng này! Con số lớn dần về phía tớ, rõ ràng tớ thấy đó là số 1057. Tiếng bả la lớn bên tai tớ:

- Ba con Hồng nhớ kỹ số nhà nghe!

Tiếng la làm tớ giựt mình choàng dậy Thì ra tớ nằm chèo queo ngủ suốt đêm dưới chân bàn thợ Tớ kiếm nước rửa mặt cho tỉnh ngủ, đặng còn đi giao hàng cho người tạ Những chuyện xảy ra trong giấc mơ, tớ còn nhớ từ đầu đến cuối, hầu như không bao giờ quên được Tớ lấy mẩu phấn ghi số 1057 vô cánh cựa Cũng chẳng hiểu ghi để làm gì!

Sáng ngày thứ bảy, tiếp theo đó, tớ còn nhớ, vì là ngày xổ số của Thành Phố và tỉnh Long Ạn Lúc đi ngang qua một sạp bán giấy số, tự nhiên tớ muốn thử thời vận Bữa đó, tớ giao hàng miệt quận bạ Khu vực này, tớ quen một ông bạn, bán giấy số và ghi "đề". Ổng ngồi thường trực góc đường Kỳ Đồng - Trương Minh Giảng cụ Đã có lần tớ thử mượn cuốn sổ ghi số trúng của ông bạn, rồi lượm 1 tấm giấy số của tỉnh Đồng Nai (Biên Hoà) mà người ta đã liệng đi, đem dò suốt 50 trang ghi các số đã xổ của tất cả các địa phương trong mấy tháng trời, mà không trúng một lô nào cạ Tự nhiên, tớ tự nhủ chẳng bao giờ dại dột Mình không có "căn", không chơi!

Nhưng lúc đó thì khác, nhớ lại con số 1057, hình như có một động lực thần bí điều khiển bàn tay của tợ Lúc chạy xe đến sạp của ông bạn, tự nhiên tớ thắng chiếc ba gác lại Tớ đem ba ngàn tư có trong bóp, đem ghi số 1057, bao mười bảy lô, mỗi lô 100 đồng, cả 2 đại Nếu trúng, chỉ cần 1 lô, 1 đài, tớ cũng lãnh 600 ngàn! Ông bạn vừa ghi cho tớ, vừa mỉm cười:

- Bữa nay bạn ta chơi hơi lạ, lại có "chuy-ô" nào chắc ăn, mới dám "bao" lớn thế nạy Tôi phải "ăn theo" ông bạn mới được

Ngay chiều hôm đó, tớ ôm cái "đài" nghe kết quả cuộc xổ sộ Tay cầm cây viết, tớ chăm chú nghe, nhứt là từ câu:

- Bây giờ xổ lô mười ngàn động Lô mười ngàn đồng sẽ được quay bốn bánh xe, các hàng đơn vị, hàng trăm, hàng ngàn, hàng chục ngàn và quay 2 lận Đây là lần quay thứ nhứt của lô trúng mười ngàn động Mời các em ra quay sộ

Sau một loạt sè sè,... kịch kịch, tiếng người xướng ngôn lại cất lên:

- Sau đây là kết quả của lô trúng mười ngàn động Các vé có số tận cùng bằng một, không, năm, bảy; tức một ngàn không trăm năm mươi bảy, mỗi vé trúng mười ngàn động Chúng tôi xin nhắc lại

Tớ mừng quá, hét lên:

- Dzô rồi, cảm ơn bà Xã!

Chiều hôm đó, tớ đạp xe tới ngã ba Ký Đồng-Trương Minh Giạng Ông bạn vừa thấy mặt tớ, vội đưa tay ngoắc:

- Tới đây! Trúng rội

Tớ đẩy xe qua một bên:

- Tới liền!

Ông bạn nắm tay tớ lắc mạnh:

- Bạn ta trúng cả 2 đại Cộng là một triệu hai!

Tớ mở to mắt:

- Đã quá!

Người bạn vừa chung tiền cho tớ, vừa khoe:

- Tôi ăn theo bạn ta số 057, bao 19 lô, 2 đài, cũng kiếm được một trăm hai mươi ngàn!

Tớ rút mười ngàn trong gói bạc trao cho ông bạn:

- Lì xì cho ông!

Ông bạn đẩy ra:

- Khọi "boa". Tôi cũng trúng mà!

Một triệu hai, đối với tớ đã là quá lợn Nhưng tớ còn thấy ham lặm Tuần sau, tớ lại mò tợi Số tiền tớ bao lần này là ba mươi tư ngạn Coi như của vứt đị Nếu trúng một lô, tớ lãnh 6 triệu Ông bạn tớ không dám ghi cho tợ Ổng bắt tớ ngồi chờ để trực tiếp lên "tỉnh đề" ở Chợ Lớn hỏi lại Vì nếu trúng một số tiền quá lớn - trên 2 triệu thì ngay cả "huyện đề" cũng phải thỉnh ý "trên". Huống chi ông bạn tớ chỉ là người ghị mượn Chỉ có "tỉnh đề" mới có quyền cho nhận hay không! Cả tiếng đồng hồ sau, ông bạn trở lại với 2 tiếng: "OKAY!"

Cậu có thể tưởng tượng là tớ lại trúng không, mà vẫn trúng 2 lộ Bữa đó, một trong những lô trúng năm trăm ngàn đồng và lô độc đắc của đài Tây Ninh đều có 4 con số tận cùng là 1057! Tớ ôm 12 triệu, đem gởi bà già vợ Số một triệu hai trúng lần trước, tớ đưa cho mấy bạn hàng làm vốn, họ cho tớ 3 phân lời, một thạng Cái giá coi như cả nước hiện không đâu cọ Ít ra cũng 10 phân, một thạng Có chỗ người ta còn cho vay cắt cổ: 20% một ngày!

Lần này, vì ông bạn tớ không tin là còn xổ con số 1057, nên không ăn theo! Uổng quá!

Tớ biếu ông bạn một trăm ngạn Ổng nhận ngạy

Đang ham, tớ lại ghi thêm một chuyến, nhưng số 1057 không còn linh ứng nựa Tớ hiểu vận hên của mình đến đó là hết, không thể tiếp tục được nữa, nếu không muốn trắng tay!

Kết Thúc (END)

Người Trong Gương

Font Size: Tác Giả: Hoàng Ngọc Thư

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Nàng trở mình thức giấc. Tấm chăn bông trượt xuống một bên giường, để lộ cánh tay và một bên ngực nàng lạnh buốt. Nàng với tay kéo mền đắp lại, co ro cố tìm chút hơi ấm. Bên cạnh nàng, đứa con gái nhỏ ngủ ngon lành, đôi má ửng hồng bầu bĩnh trông thật đáng yêu. Nàng choàng tay ôm con, áp mặt vào cái thân thể bé xíu ấm áp và cảm thấy thương con vô hạn. Nàng thường cảm thấy hạnh phúc pha lẫn chút tội lỗi mỗi khi được gần gũi, trìu mến với con vì ít khi nào nàng có được nhiều thì giờ để vui chơi và âu yếm con như vậy. Luôn luôn công việc, học hành, và nhất là lúc này, khi chồng đi công tác xa, một mình nàng cáng đáng mọi việc và chăm sóc con đầy đủ đã chiếm hết thì giờ của nàng.

Nàng cố dỗ giấc ngủ nhưng bao nhiêu ý nghĩ trong đầu tiếp tục xoay tròn. Nàng nhớ đến những việc phải làm ngày mai, gấp có, thư thả có mà ngày thường chồng nàng đảm trách. Nàng nhớ chồng và ước sao thời gian qua mau. Một tháng công tác! Thoạt nghe thấy cũng không gì đáng ngại. Thế nhưng từ hôm anh đi, nàng thật sự cảm thấy bận rộn, mệt mỏi và cô đơn. Cô đơn? Thật ra nàng có phút nào được nghỉ ngơi để mà cô đơn đâu, ngoại trừ lúc lên giường sau một ngày mệt nhoài, hoặc lúc thức giấc nửa đêm như bây giờ nàng mới thật sự nhớ đến chồng, nhớ tha thiết và thèm hơi ấm của anh, thèm vòng tay vững vàng, ấm áp của chồng và những cái hôn thật âu yếm, dịu dàng. Nhất là cảm giác an tâm khi có chồng bên cạnh và biết rằng mọi việc đều được lo lắng đầy đủ. Nàng cảm thấy thật may mắn khi được chồng thương yêu trọn vẹn và dành hết thì giờ cho vợ con. Nàng cảm thấy thật hạnh phúc khi được bảo bọc trong tình thương yêu của chồng.

Mới có ba ngày mà nàng ngỡ như đã lâu lắm từ ngày anh đi. Càng cố dỗ giấc ngủ, nàng càng trằn trọc. Lại muốn đi tiểu, thật là phiền. Thôi, ráng ngủ đi vậy để mai còn đi làm, nàng tự nhủ, nhưng cuối cùng nàng đành phải chịu thua và dậy đi. Lười biếng bật đèn, nàng đi qua hành lang mờ tối, ánh sáng hắt ra từ trong phòng ngủ đủ soi sáng lối đi. Khi đi ngang tấm gương lớn về lại phòng ngủ, nàng lơ mơ có cảm giác mình cao lớn hơn ngày thường. 'Có lẽ là ảo giác của cơn buồn ngủ', nàng nhủ thầm và cuộn tròn trong chăn ấm rồi thiếp đi.

Những ngày tiếp theo trôi qua đều đặn, giống nhau, bận rộn và mỏi mệt. Anh vẫn gọi điện về hàng đêm thăm hai mẹ con và nàng cố kéo dài những giây phút ấy đến mức tối đa để xua đi nỗi cô đơn, nhung nhớ. Cuối tuần ấy, nàng quyết định phải đưa con đi chơi giải khuây và hai mẹ con đi sở thú, vào công viên, đi mua sắm, ăn nhà hàng và cuối cùng, mệt nhoài, nàng dắt con vào thư viện địa phương đọc sách thư giãn, thú vui cả gia đình nàng ưa chuộng. Trời chạng vạng tối, hai mẹ con còn nấn ná đến lúc thư viện đóng cửa mới chịu ra về. Trong lúc giúp con gái mặc áo choàng trước khi ra cửa, nàng chợt có cảm giác có ai đang nhìn mình. Ngước nhìn lên, đối diện tấm gương, nàng thấy một khuôn mặt đàn ông đang cười với mình thật thân thiện, và vô tình, nàng cũng mỉm cười lại. Vội vã quay đi, nàng ngạc nhiên nhìn quanh mình chẳng thấy có ai, có lẽ nào người ấy có thể biến đi nhanh đến vậy. Nàng nhìn dọc hành lang mờ tối và lối ra đàng sau mình, tuyệt nhiên chẳng có ai. Gió lạnh lùa vào lồng lộng từ khung cửa mở rộng ra đường phố. Nếu có ai đi ra có lẽ nàng phải thấy chứ? Cố xua đi cảm giác lạ lùng, nàng kéo tay con về và như mọi lần, con gái nàng ríu rít kể cho mẹ nghe những mẩu chuyện lý thú vừa đọc được chiều nay và nàng quên đi sự kiện thiếu logic vừa qua.

* Có lẽ nàng sẽ chẳng bao giờ nhớ lại buổi chiều hôm ấy nếu như nàng không vô tình gặp lại người đàn ông ấy lần nữa. Chiều hôm ấy trời lạnh buốt, mưa dầm dề cả ngày mà xe nàng hư đã hai ngày và nàng phải chen chúc ở trạm xe bus chờ xe về nhà. Đang rầu rĩ vì lại phải đón con muộn, nàng có cảm giác có ai nhìn mình. Xuyên qua tấm kính chắn mưa, nàng thấy có người mỉm cười với mình, một khuôn mặt quen quen mà nàng không nhận ra ngay là ai. Dưới ánh đèn đường nhập nhoạng trong cơn mưa, nàng cố vắt óc để nghĩ ra tên người ấy trong khi người đàn ông bắt chuyện với nàng một cách thân thiện.

"Thời tiết tệ thật đấy nhỉ," chàng nói.

"Vâng," nàng gật đầu, vẫn chưa nghĩ ra là ai.

Qua tấm kính chắn mưa, nàng thấy chàng nhìn mình với một nụ cười vừa thân thiện vừa như là giễu cợt. 'Có lẽ mình trông ũ rũ buồn cười lắm nhỉ ', nàng tự nhủ. Xe bus trờ tới, nàng vội vã lên xe, chàng lẫn vào đoàn người đi về tuyến khác. Nàng chợt nhớ ra khuôn mặt ấy nàng đã gặp hôm nào ở thư viện gần nhà. 'Có lẽ một người thường lui tới thư viện mà mình hay vô tình gặp', nàng nghĩ. Rồi những tính toán, lo nghĩ khác dồn đến, nàng quên đi người lạ-quen này và lên chương trình đặc biệt để đền bù cho con gái lại phải về trễ tối nay.

Nàng còn gặp lại người đàn ông ấy vài lần nữa, thường là ngắn ngủi vài câu trao đổi, khi thì ở quầy tính tiền ở quán nước tại khu phố gần nhà khi nàng sắp sửa ra về, khi thì ở tiệm cắt tóc và một số nơi khác. Hai người chỉ mỉm cười chào nhau, chưa bao giờ họ hỏi tên nhau nhưng nàng đã bắt đầu cảm thấy mến người đàn ông xa lạ này và cảm thấy vui sau mỗi lần gặp mặt.

* Cho đến một lần nàng vô tình gặp lại người đàn ông ấy trong nhà vệ sinh công cộng ở Hội chợ Xuân. Bối rối và ngượng ngùng, nàng chào anh và nhỏ nhẹ nhắc chàng đã vào nhầm toilet.

"Không, anh chỉ vào để gặp em, anh thấy em từ đàng xa và theo em vào đây." Nàng bàng hoàng, khuôn mặt ửng đỏ, sửng sốt trước lời thú nhận của người đàn ông xa lạ. Nói xong, chàng quay ngoắt đi và biến mất sau cánh cửa. Trong cơn bối rối, nàng không nhận ra rằng không hề có tiếng cửa ra vào mở ra hay đóng lại. Nàng choáng váng hoang mang trước sự xuất hiện và ra đi đột ngột của người đàn ông. Lẫn lộn trong mớ cảm giác kỳ lạ không thể phân tích được, nàng nhận ra có cái gì đó gần như là niềm vui, một sự hài lòng và hãnh diện rằng mình vẫn còn có sức hấp dẫn người khác phái. Nàng đã quên đi cái cảm giác rộn ràng này từ lâu lắm rồi, từ thời còn thiếu nữ và đám thanh niên cùng lứa theo đuổi và tỏ tình một cách đột ngột như vậy. Nàng chột dạ khi nghĩ đến chồng, tuy nhiên nàng tự nhủ nàng đã chẳng làm gì sai và cảm thấy yên tâm hơn. Đưa con gái về nhà, nàng còn miên man suy nghĩ không biết mình phải nên xử sự thế nào nếu gặp mặt người đàn ông ấy lần nữa.

Hai hôm sau, nhân lúc con gái nàng ngủ sớm sau một ngày du ngoạn ngoài trời với lớp, nàng tự thưởng cho mình một tối thư giãn bằng một chầu tắm spa nóng và đọc sách, một thú vui mà hoạ hoằn lắm nàng mới được hưởng từ ngày có con. Trong lúc chờ nước xả vào bồn tắm, nàng cởi đồ đứng ngắm mình trước tấm gương toàn thân.

'Mình gầy quá', nàng tự nhủ, 'gầy như là một con mèo đói'. Nàng tự hứa sau kỳ công tác của chồng, nàng sễ lấy phép vài tuần để thư giãn, tẩm bổ và có thể sẽ xin làm ít giờ lại. Chỉ cần vài đêm mất ngủ, thêm cái căng thẳng của một mớ công việc nàng phải làm từ ngày anh đi, đủ làm cho nàng thêm hốc hác. Nàng tự hứa từ nay phải đi ngủ sớm hơn và bớt lười ăn để trông khá hơn lúc anh về.

Đang miên man với dòng suy nghĩ, nàng chợt giật thót mình khi thấy một khuôn mặt với nụ cười thật tươi bên cạnh mình trong gương. Vội vã chụp lấy chiếc khăn tắm che thân, nàng quay ngoắt lại người đàn ông đang đứng bên cạnh mình. Nàng giận dữ lắp bắp, quên mất điều hiển nhiên vô lý rằng nàng không hề nghe tiếng mở cửa hoặc tiếng chân người đến gần.

"Anh.... Anh làm gì ở đây?" "Anh đang ngắm em như mọi khi." "Mọi khi?" Nàng kinh ngạc, quên đi giận dữ.

"Phải, mọi khi. Dĩ nhiên là em không biết rằng anh vẫn đi theo em hàng ngày, khắp mọi nơi. Em chỉ không nhìn thấy thôi." Nàng kinh ngạc đến tột bực.

"Sao có chuyện ấy được? Làm sao anh vào được đây?" Chàng mỉm cười:

"Có lẽ em không để ý đấy thôi, nhưng em chỉ thấy được anh khi em soi gương." Nàng nhanh chóng điểm lại những lần gặp chàng. Thư viện, quán nước, trạm xe bus, toilet công cộng..., phải, lần nào nàng cũng đứng trước một tấm gương và anh cũng thế. Nhưng vậy có nghĩa là thế nào, phải chăng anh không phải là người thường?

"Đúng vậy," anh mỉm cười, đọc được ý nghĩ của nàng. "Anh chết cách đây gần hai mươi năm và cũng theo em gần chừng ấy năm," anh nói một cách đơn giản.

Nàng vịn tay vào thành bồn tắm, từ từ ngồi xuống bệ đá cạnh bồn. Nước tắm tràn ra xung quanh, nàng vội tắt đi trong khi cố nhận định mẩu tin này. Nàng ngạc nhiên không thấy mình sợ hãi, chỉ kinh ngạc, bối rối và cảm động vì biết rằng anh đã theo mình chừng ấy năm. Nàng nhìn anh, cố tìm ra một nét gì đó không bình thường để tin điều anh nói là sự thật nhưng hoàn toàn không có gì cả.

"Anh không giống như những hồn ma người ta hay miêu tả phải không?" Anh giễu. "Người ta bảo những người chết một cách bình yên thường giữ lại được diện mạo lúc còn sống, có vậy anh mới dám theo em chứ!" Nàng bật cười, thấy dễ chịu với máu khôi hài của anh. Anh đưa mắt nhìn nàng âu yếm.

"Em tắm đi, kẻo nước nguội." Nàng bối rối thẹn thùng. Có cái gì đó gần như là thân mật giữa hai người nhưng sao nàng không cảm thấy khó chịu. Nàng lặng lẽ quay lưng bước vào bồn tắm và từ từ tháo khăn tắm ra. Giấu mình dưới lớp bọt xà phòng, nàng đỏ mặt nghĩ đến chàng đã nhìn thấy nàng tắm bao nhiêu lần, và những lúc khác nữa... Người nàng nóng lên và chàng mỉm cười như thể đọc được ý nghĩ của nàng.

Nàng tò mò muốn biết thêm về con người kỳ lạ này. Có cái gì đó như là một sức hấp dẫn từ chàng làm nàng thấy náo nức.

"Ngồi xuống đi anh," nàng bảo, "và kể cho em nghe về anh, làm sao anh gặp được em?

Chàng chậm rãi ngồi xuống bậc đá cạnh bồn tắm. Nhìn thẳng vào mắt nàng, chàng kể, giọng đều đều, trầm ấm.

"Anh bị bệnh tim mãn tính từ nhỏ. Năm anh mười tám tuổi, anh chết trong lúc ngủ. Trước đó vài tháng, Bố anh cũng mất đi như thế nên Mẹ anh suy sụp hẳn và anh nghĩ bà cụ cần được chăm sóc nên anh thường hay quanh quẩn bên bà. Bố anh ra đi vĩnh viễn, anh chưa bao giờ nhìn thấy Bố anh từ khi ông cụ mất, anh không biết bây giờ ông cụ ở đâu? Có nhiều con đường một người chết đi có thể chọn, nhưng anh chưa bao giờ chọn một con đường nào vì ngay từ phút đầu, anh đã quyết định ở lại bên cạnh Mẹ cho đến ngày bà cụ mất." "Thế có bao giờ bà cụ nhìn thấy anh không?" "Có chứ, chỉ một vài lần năm anh vừa mất, nhưng chỉ thoáng qua thôi và không trò chuyện gì cả. Em biết mấy người già mà, họ mê tín lắm, anh không muốn bà cụ lo lắng là anh không được siêu thoát." "Thế nhưng cụ vẫn thấy anh mà?" "Anh chỉ cho mẹ thấy vài lần, ban đêm lúc nhập nhoạng tối lúc cụ soi gương. Anh chỉ cười và ôm lấy mẹ rồi biến đi, anh muốn để mẹ nghĩ rằng anh chỉ là ảo giác." "Thế bà cụ có sợ không?" "Không, không hề," anh mỉm cười. "Anh là con duy nhất của Mẹ nên bà cụ thương anh lắm. Thường sau khi thấy anh, bà cụ có vẻ vui lên. Nhưng không được lâu, cuối năm đó mẹ anh mất. Anh không bao giờ gặp lại mẹ anh nữa. Anh nghĩ bà cụ đã đến với Bố anh. Người ta có thể chọn nơi nào mình muốn đến trước khi chết." Chàng im lặng một lúc, trầm ngâm nghĩ ngợi. Nàng lặng lẽ theo dõi, ngạc nhiên về những điều nghe được.

"Sau đó, anh gặp em. Anh nhớ hôm ấy anh lang thang trong thư viện thành phố, cố tìm lại cảm giác an bình ngày xưa thời còn đi học. Thường thường mỗi khi cô đơn, anh hay vào đó ngồi hàng giờ trong góc, ngắm nhìn tụi nhỏ trò chuyện, đọc sách và thấy thật thư thái. Thế nhưng hôm ấy anh cảm thấy bồn chồn làm sao. Suốt một ngày rảo quanh thư viện, anh không cảm thấy thanh thản chút nào. Cuối cùng, anh quyết định đi dạo phố và ngay lúc anh sắp rời thư viện thì em đến. Anh còn nhớ em đi với hai cô bạn thân, cười nói ríu rít thật hồn nhiên. Anh bị choáng váng trước dáng vẻ tươi sáng của em và anh theo đuổi em từ đó. Anh nhớ những ngày em học miệt mài hay lang thang chọn sách trong thư viện, lúc nào anh cũng ở sát bên cạnh. Anh như bị hớp hồn, anh say mê em điên cuồng, và dần dần anh theo em khắp mọi nơi. Anh đau khổ cùng cực khi em hẹn hò rồi tan vỡ những mối tình, và rồi em lấy chồng. Bẵng đi một thời gian, anh đi lang thang khắp nơi, tránh xa em nhưng rồi anh không chịu nổi, anh phải tìm về, về quanh quẩn bên em, chỉ cần thấy em là anh đã thấy hạnh phúc. Thế mà đã gần hai mươi năm. Đối với anh, thời gian không có ý nghĩa gì cả nhưng anh lần lượt nhìn thấy những người quen già đi, chết đi. Cả em cũng vậy, anh không thể nói em cũng vẫn như xưa. Anh lo sợ một ngày nào đó anh sẽ mất em vĩnh viễn mà không một lần chia sẻ những điều anh hằng ấp ủ. Đã nhiều lần anh muốn đến với em nhưng anh ngại làm em sợ hãi. Anh cũng lo sợ làm đảo lộn cuộc sống phẳng lặng của em. Mặc dù anh thấy em có những điều không được hài lòng trong cuộc sống, nhìn chung, em có một cuộc sống dễ chịu và em xứng đáng được hưởng. Hôm trước, lần đầu em thấy anh trong thư viện địa phương, thú thật là anh không cố tình để em thấy. Anh chỉ theo em như mọi lần nhưng lúc ấy em trông thật tội nghiệp và buồn cười, lúc nào cũng tất bật, vội vã và anh vô tình quên ẩn mình đi. Lúc ấy anh nghĩ là em sợ nên anh vội lẩn đi, nhưng em không có vẻ sợ hãi nên anh liều lĩnh gặp em lần nữa, và sau đó thế nào thì em đã biết." Chàng dừng lại, mắt nhìn xuống hai bàn tay thon dài đan vào nhau.

Nàng hít một hơi sâu, đè xuống cảm giác nghẹn ngào đang dâng lên ngực. Nước mắt nàng chảy xuống lặng lẽ. Nàng chưa bao giờ cảm thấy xúc động và thương cảm như lúc này. Nàng chưa bao giờ biết đến một tấm tình say đắm và chung thủy như vậy. Ở một nơi nào đó sâu xa trong tiềm thức, nàng có cảm giác có một cái gì đó rạn vỡ, mở ra, nàng như bị nhận chìm trong một dòng lũ của vô số cảm xúc và ý nghĩ quyện vào nhau.

Hai người im lặng thật lâu. Một lúc sau, chàng nhẹ nhàng đứng lên.

"Nước nguội rồi, em đi ngủ đi." Không hề nhìn lại, chàng lặng lẽ quay đi, biến mất sau cánh cửa.

Đêm ấy, nàng không ngủ, hay đúng hơn, chỉ ngủ chập chờn. Những ngày sau đó, nàng sống như trong mơ, làm việc, sinh hoạt một cách máy móc. Nàng thường xuyên thấy chàng, hầu như bất cứ nơi nào có gương nàng đều nhìn thấy chàng, lúc vui, lúc trầm ngâm và đôi mắt luôn ánh lên niềm chờ đợi. Thỉnh thoảng, họ chuyện trò với nhau, máu khôi hài của chàng làm vơi đi nỗi bứt rứt trong nàng mỗi lần gặp gỡ, nhưng mỗi ngày sự thân thiết, gắn bó giữa hai người càng mạnh hơn làm nàng cảm thấy nghẹt thở.

* Một buổi chiều nọ, quá căng thẳng và mệt mỏi, nàng đành dừng làm việc và xuống canteen uống cà phê cho tỉnh táo. Canteen vắng tanh, nàng ủ rũ ngồi uống một mình. Trời lạnh buốt, nàng cầm ly cà phê bằng cả hai tay, cố tìm chút hơi ấm. Có tiếng động nhỏ bên cạnh, ngước mắt lên, nàng thấy chàng ngồi bên cạnh. Cố kiếm một chỗ khuất gió, nàng vô tình ngồi cạnh quầy tính tiền trang trí bằng những mảnh gương đủ màu sắc.

"Em làm sao vậy?" Chàng hỏi, giọng ân cần.

"Em mệt quá," nàng thầm thì, sợ có ai vô tình nghe được tường nàng điên, nói chuyện một mình. "Em mệt quá, công việc dồn dập chồng chất, làm mãi không xong." Nàng không dám thú thật là mình mất ngủ và mối quan hệ giữa hai người làm nàng bị dao động, không thể tập trung làm việc.

Anh nhìn nàng ái ngại.

"Em xin nghỉ vài bữa đi, để lấy lại sức." "Còn có mấy hôm nữa là chồng em về, em đã xin nghỉ phép sau đó nên bây giờ không nghỉ được." 'Vả lại', nàng nghĩ, 'em chắc phát điên nếu ở nhà một mình mấy ngày với anh quanh quẩn bên cạnh luôn luôn. Em cần phải đi làm để bớt nghĩ đến anh'.

Chàng nhìn nàng đăm đăm như đọc thấu suy nghĩ của nàng.

"Anh lo cho em," chàng nói một cách đơn giản và cuối xuống hôn nàng dịu dàng.

Nàng run bắn và rung động sâu xa khi chàng dừng lại. Nàng hoảng hốt nhận ra mình đã yêu chàng, một bóng ma từ quá khứ. Nàng chợt đọc thấy nét mừng rỡ kinh ngạc trong mắt chàng.

"Em cảm thấy được anh ư?" Chàng hỏi gấp gáp qua hơi thở.

"Vâng," nàng ấp úng.

Chàng lảo đảo ngồi xuống ghế, nét mặt chàng khó diễn tả được. Mắt chàng ánh lên dáng dấp một nụ cười pha lẫn điều không thể tin được.

"Thật sao... thật vậy sao?" Chàng nói không ra lời. "Đã bao nhiêu năm anh ở bên em, lén hôn lên tóc em, lên vai em, lên khuôn mặt em bao nhiêu lần, em không bao giờ biết, sao lại có điều kỳ diệu này?" Cũng như chàng, nàng chuyển từ kinh ngạc sang hân hoan, một nỗi vui sướng thật tinh khôi như đứa trẻ vừa khám phá ra kho tàng kỳ diệu. Trong một khoảnh khắc, nàng quên đi tất cả xung quanh -- cuộc sống của nàng, công việc, chồng con, cả cái canteen lạnh lẽo, tối tăm -- chỉ thấy tâm hồn tràn ngập niềm vui sướng, hạnh phúc.

Có tiếng người lao xao kéo qua hành lang. Nàng chợt nhớ ra sắp đến giờ tan việc và con gái đang đợi. Họ vội vã chào nhau.

"Hẹn gặp em," chàng thì thầm, siết chặt bàn tay nhỏ bé của nàng.

Nàng cảm thấy hoàn toàn chàng là một CON NGƯỜI, vững chắc, mạnh mẽ và THẬT, như những người ngoài kia. Nàng chạy lên thang lầu, lòng phơi phới hạnh phúc. Tim nàng ca hát như lần đầu tiên biết yêu.

Đêm hôm ấy, chàng đến thăm nàng trong phòng ngủ, khi nàng đứng chải tóc trước gương lúc sắp sửa lên giường. Trên tấm thảm trước tấm gương lớn, họ yêu nhau cuồng nhiệt, đắm đuối. Như đôi vợ chồng trẻ trong thời kỳ trăng mật, họ quấn quýt mãi nhau và thầm thì trò chuyện đến khi tảng sáng.

Đưa con đi học rồi đi làm, nàng đi lại trong cảm giác lâng lâng bay bổng cho đến khi một cô bạn đồng nghiệp trêu.

"Ê bồ, sao hôm nay trông vui quá vậy, bộ được lên bậc hả?" "Không đâu," một cô bạn khác trêu, "còn có hai ngày nữa là chồng nó đi công tác về, lại được nghỉ bồi dưỡng mấy tuần nữa. Này, hay tối mai mình đi ăn tối để tiễn nó đi nghỉ phép đi mấy bồ ơi!" Nàng ngượng nghịu mỉm cười. Nghe bạn nhắc tới ngày chồng về, nàng chột dạ, không biết rồi đây sẽ ra sao. Chồng nàng vẫn gọi điện thoại hàng đêm thăm hai mẹ con, nàng vẫn kể chuyện chung chung qua loa để anh khỏi lo lắng hay nghi ngờ gì, nhưng nàng có cảm giác anh không được hoàn toàn an tâm khi thỉnh thoảng nàng trả lời ngập ngừng, rời rạc và thường để con gái trò chuyện với Bố. Còn có hai ngày nữa là anh đã về, nàng ray rứt thấy mình bồn chồn khổ sở, nàng cảm thấy tội lỗi khi mong chuyến công tác của anh kéo dài thêm ra, để nàng được tận hưởng hạnh phúc mới tìm được, không, nàng tự bào chữa, để có thì giờ trấn tĩnh lại và thu xếp mọi việc cho ổn thỏa. Nhưng tận sâu trong tâm hồn, nàng biết sẽ không bao giờ nữa nàng có được cuộc sống thanh thản bình an bên chồng con khi người yêu nàng vẫn luôn bên cạnh. Nàng luôn cảm thấy sự có mặt của anh ở khắp mọi nơi, mọi lúc, ngay cả lúc anh không xuất hiện. Sự hiện hữu của anh gần như có thể sờ mó được và đôi lúc nàng cảm thấy ngộp thở trong niềm hạnh phúc lẫn âu lo. Anh nói đúng khi sợ làm đảo lộn cuộc sống phẳng lặng của nàng và đã ẩn mình trong suốt ngần ấy năm. 'Có lẽ mình và anh ấy có nợ gì với nhau từ kiếp trước nên bây giờ phải trả cho nhau', nàng thầm nghĩ và mỉm cười vì thấy mình bắt đầu mê tín giống như mấy bà cụ. 'Nhưng phải có một lý do nào chứ! Một cuộc tình như vậy không thể nào tự xảy ra như vậy được', nàng lẩm bẩm một mình.

Đêm hôm ấy hai người lại đến với nhau và trò chuyện với nhau suốt đêm. Tảng sáng, nàng cố hết sức thản nhiên nói cho anh biết ngày mai chồng nàng về và họ nên thôi không gặp nhau nữa.

Anh nhìn nàng thăm thẳm buồn, giọng anh trầm xuống, gần như nói với chính mình.

"Anh biết rồi cũng sẽ đến lúc này," anh thở dài. "Anh cũng nghĩ thế là tốt nhất cho em. Anh không thể nói rằng anh sẽ tìm được hạnh phúc khác khi xa em nhưng em còn một đời trước mặt, còn con cái..., em xứng đáng hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Có lẽ anh sẽ không đi lang thang nữa, có lẽ đã đến lúc anh chấm dứt cuộc sống lưng chừng này và đi đến chốn cuối cùng." Họ nhìn vào mắt nhau. Trăm lời yêu thương nồng thắm dâng tràn và mỗi người tự hiểu rằng họ đã được yêu thật chân thành, trọn vẹn.

Anh lặng lẽ biến mất, nàng chập chờn trong một giấc ngủ rã rời. Hạnh phúc và khổ đau quyện vào nhau thành một khối nặng trĩu trong tâm hồn. Ngày hôm ấy nàng đi lại như kẻ mộng du. Cái chấn đông của những sự kiện vừa qua làm thần kinh nàng như tê liệt. Nàng thầm cảm ơn mấy cô bạn đồng nghiệp luôn miệng trò chuyện chọc ghẹo nhau giúp nàng bớt căng thẳng, và cũng nhờ họ hiểu lầm là nàng quá nôn nóng mong chồng về nên không thể tập trung vào công việc.

Đêm hôm ấy nàng đi ăn tối với mấy cô bạn đồng nghiệp đến quá nửa đêm mới về đến nhà. Nàng cố kéo dài bữa ăn để tránh nghĩ đến chồng và người tình, nàng sợ phải đối diện với những tấm gương im lìm không có bóng anh. Nàng sợ phải lặng lẽ chống chọi một mình trong đêm với những cảm xúc như đang nhấn chìm mình xuống. Nàng thầm cảm ơn mấy cô bạn quý đã cứu nàng thoát khỏi một đêm cực hình. Nàng thiếp đi trong một giấc ngủ ngột ngạt, nặng nề.

* Hôm sau, chồng nàng về. Anh ngạc nhiên thấy nàng hốc hác, xanh xao.

"Em làm sao vậy, em có bệnh không?" "Không, không..." Nàng bối rối trả lời.

Anh nhìn vào mắt vợ. Đôi mắt quầng thâm trên khuôn mặt gầy gò, hốc hác làm anh xót xa.

"Em lại làm việc nhiều quá phải không? Hay em không ngủ được khi vắng anh hả?" Chàng trêu vợ. Vẻ xanh xao của nàng làm anh lo lắng. "Hay là em có thai?" Nàng giật mình như bị bắt gặp quả tang đang làm việc bất chính, nhưng nàng cười khoả lấp.

"Làm sao em có thai được khi anh đi xa cả tháng rồi." Và cùng một lúc, nàng thầm nghĩ 'Phải chi anh ấy...', nhưng nàng vội gạt ra ngay cái ý nghĩ ngông cuồng kia. Nàng có thể có thai lắm, nếu anh ấy không phải chỉ là một cái bóng, nàng tự nhủ.

Thấy vợ trầm ngâm, anh nghĩ nàng lại muốn có con lần nữa. Anh biết nàng rất muốn có thêm con, mặc dù bác sĩ vẫn khuyên rằng nàng e không đủ sức khỏe để có thêm con nữa. Anh nghĩ sẽ khuyên vợ nghỉ việc một thời gian và nếu nàng thật sự muốn có con, anh sẽ khuyên nàng nghỉ hẳn để đủ sức khỏe. Anh âu yếm nhìn vợ, anh muốn làm bất cứ điều gì có thể được để nàng được hạnh phúc.

"Em muốn có con nữa phải không?" Anh âu yếm hỏi. "Cũng đến lúc em có thêm một đứa nữa rồi, nếu em muốn." Nàng ngạc nhiên nhìn anh như vừa rơi xuống từ cung trăng. Nàng đang suy nghĩ và lo lắng một điều hoàn toàn khác, đó là làm sao có thể gần gũi chồng từ nay khi biết người yêu vẫn luôn ở sát bên cạnh. Nhìn nét mặt khó hiểu của nàng, anh nghĩ chắc nàng còn đang do dự nên anh thôi, không bàn tiếp, để vợ tùy ý lựa chọn. Nhưng dù sao, anh vẫn thấy có điều gì đó không được bình thường.

Bữa tiệc gia đình đón chồng về nàng chuẩn bị thật chu đáo. Nàng ước sao nàng cũng chuẩn bị tinh thần được chu đáo như vậy. Anh vui vẻ kể đủ mọi chuyện và mang quà ra cho hai mẹ con. May mắn cho nàng, đứa con gái mừng rỡ quấn lấy bố, đỡ cho nàng cảm giác ngượng nghịu, và anh cũng không nhận ra rằng nàng không tíu tít mừng rỡ như mọi lần khác anh đi công tác xa về.

Đến gần nửa đêm con gái họ mới chịu đi ngủ. Anh âu yếm ôm vợ và yêu nàng thật thắm thiết. Một tháng xa cách thật quá lâu đối với anh, và có thể còn lâu hơn nữa đối với nàng nếu không có người thứ ba. Quá say đắm bên vợ, anh không nhận ra vẻ ngượng nghịu bối rối của nàng, anh cho rằng đó là điều tự nhiên sau nhiều ngày xa cách. Nàng khổ sở bên chồng, nàng không muốn làm anh buồn hay tránh né anh, nhưng nàng không thể không cảm thấy căng thẳng khi biết rằng người yêu của nàng đang ở đâu đó bên cạnh, nhìn thấy tất cả những âu yếm họ dành cho nhau.

Những ngày sau đó vẫn tiếp diễn như vậy nhưng đối với nàng, nỗi căng thẳng bồn chồn càng tăng lên như một cực hình. Sau kỳ công tác, anh được nghỉ phép ở nhà thêm một tuần. Suốt những ngày ở nhà, anh luôn quấn quít bên vợ và nàng có cảm giác anh cố gắng chiều chuộng nàng hết mực. Anh đối với vợ như những ngày trăng mật, anh làm thức ăn sáng mang đến giường cho nàng mỗi ngày. Đưa đón con đi học xong, anh giành làm hết việc nhà, nấu nướng cho nàng. Anh đưa nàng đi xem phim, đi chơi biển, anh càng âu yếm tình tứ càng làm cho nàng khổ sỏ. Anh cứ nghĩ nàng hốc hác ủ rũ vì quá bận rộn công việc, nay có dịp ở nhà, anh ráng làm mọi việc để nàng được thảnh thơi, khuây khỏa. Thế nhưng anh cảm thấy có điều gì đó bất an trong nàng. Mỗi lần nhìn vào mắt vợ, anh không thấy được nụ cười ấm áp như ngày xưa, có một cái gì đó như là sự chịu đựng hay tránh né mà anh không hiểu được. Anh không nhìn thấy nét thanh thản trong nàng, anh nghĩ nàng qua lo lắng với công việc và cố làm mọi cách để nàng khỏi nghĩ đến những chuyện ở sở. Anh khuyên nàng nên làm ít giờ lại để nghỉ ngơi, nàng bằng lòng ngay và anh thấy yên tâm hơn.

Tuần kế tiếp anh đi làm lại. Nàng cảm thấy thật trống vắng khi phải ở nhà một mình. Vốn quen luôn luôn bận rộn tất bật, nàng thấy một ngày ở nhà sao quá dài. Làm hết việc nhà, nàng mang sách ra đọc. Thường thì mỗi khi đọc sách, nàng quên đi tất cả, có lúc quên cả giờ giấc, ăn uống, thế nhưng lúc này nàng không thể tập trung vào câu chuyện. Đọc mãi vẫn không hiểu được gì nàng đành gác sách lại, mang giá vẽ ra vườn. Vẽ đi vẽ lại hàng chục lần không được một bức nào, nàng bồn chồn cất đi rồi đi dạo phố. Nàng cố không suy nghĩ gì cả, cố để đầu óc trống rỗng nhưng sao mọi việc nàng làm, mọi nơi nàng đi qua đều gợi nhớ đến người đàn ông yêu dấu. Những quán nước nàng đến, khu phố quanh nhà, ngay cả nơi yêu thích nhất của nàng là thư viện nàng cũng không dám đến, vì nó gợi lại những kỷ niệm ngày nàng còn có anh bên cạnh.

Mới chỉ một tháng quen nhau mà sao nhiều kỷ niệm, nàng miên man suy nghĩ. Nghĩ đi nghĩ lại, nàng không biết liệu nếu bắt đầu lại từ đầu, nàng có làm khác đi không hay mọi chuyện vẫn sẽ diễn ra như vậy. Nàng cảm thấy có lỗi với chồng con, nhưng nàng không biết nàng đã làm sai chỗ nào, ngoại trừ để cho tình cảm riêng tư ấy chiếm hết tâm hồn, trí óc, thì giờ của nàng. Nàng đã cảm động sâu sắc với tấm tình của anh ấy và điều đó nàng không thể cưỡng lại được, cũng như đó không phải là điều sai trái. Bản tính con người là muốn được quý trọng và thương yêu. Người đàn ông ấy đã dành cho nàng điều quý báu ấy, lặng lẽ suốt bao nhiêu năm, và nàng, như mọi con người khác, đã đáp lại như luật thiên nhiên. Họ đã đến với nhau thật trong sáng, chân thành và đã chia tay nhau vì lợi ích riêng của nàng và gia đình nàng. Đó là một sự hy sinh lớn cho cả hai, nhưng còn lớn hơn nhiều đối với anh vì ít nhất, về phía nàng, nàng còn gia đình, chồng con, bạn bè... để nâng đỡ và thương yêu, còn anh, anh chẳng còn ai, chẳng còn gì khác. Nàng đã xua anh đi một cách phũ phàng và giờ đây, khi nhìn lại toàn thể những điều đã xảy ra một cách bình tĩnh, nàng cảm thấy mình thật ích kỷ. Tất cả những điều nàng làm là đúng theo cuộc sống bình thường, theo quy luật xã hội, nhưng nó chỉ đem lại lợi ích riêng cho nàng, nó giữ gìn cho nàng những điều nàng đã có và cướp thêm những điều anh đã từng có. Nàng cảm thấy đau khổ hơn khi nhận ra rằng mình đã đón nhận tình yêu của anh một cách dễ dàng nhưng cùng một lúc, đòi hỏi anh phải hy sinh cho nàng khi nàng không cần đến anh nữa. Nói một cách khác, nàng muốn cả hai: một cuộc sống gia đình êm đẹp và một cuộc tình thơ mộng mà cái giá phải trả là nỗi đau khổ giày vò của anh. Nàng bứt rứt bồn chồn, nàng muốn gặp lại anh để phân bua, để giãi bày tâm tư tình cảm của mình, nhưng hơn thế nữa, nàng muốn đền bù cho anh những đau khổ, mất mát mà vì nàng, anh phải chịu.

Nàng tìm kiếm bóng anh ở mọi nơi, nàng nhìn vào bất cứ tấm gương nào thấy được, nhưng chỉ có bóng nàng, ngơ ngác, lạc lõng. Nhiều ngày trôi qua như vậy, nàng càng thêm quay quắt. Có lúc nàng đứng hàng giờ trước gương, thì thầm trò chuyện một mình. Nàng van xin anh hãy tha thứ cho nàng quá ích kỷ, nông nổi, nàng mong mỏi được gặp lại anh nhưng tuyệt nhiên không có lời đáp lại. Nàng oà khóc tức tưởi, chắc anh đã đi xa, đi xa vĩnh viễn và nàng không còn bao giờ được thấy nữa. Đó là sự trừng phạt xứng đáng dành cho nàng và nàng cảm thấy tuyệt vọng. Nỗi đau khổ giày vò làm nàng như kiệt sức. Nàng cố gắng hoà mình vào cuộc sống xung quanh nhưng tất cả đối với nàng như một màn kịch. Mỗi ngày đến rồi đi như trên sân khấu, nàng giữ một vai quan trọng mà nàng cố diễn xuất cho đạt.

Hết kỳ nghỉ, nàng trở lại sở làm việc. Mọi người thân ái hỏi han, bạn bè nàng ngạc nhiên thấy nàng vẫn gầy gò, xanh xao và có phần ũ rũ hơn. Ai cũng nghĩ nàng sẽ khá hơn sau kỳ phép nhưng nàng nói dối đã thức khuya đọc sách, xem phim nhiều và đi chơi luôn luôn nên hơi mệt mỏi. Nàng lao vào làm việc như một cái máy, làm miệt mài để quên đi nỗi nhớ, quên đi bóng hình người yêu dấu, nhưng sao nàng bắt gặp mình vẫn đứng thẫn thờ trước gương chờ đợi, có lúc nàng quên cả thời gian, không biết mình đã đứng trước gương trong phòng vệ sinh hay phòng ngủ bao nhiêu lâu.

Cho đến một ngày nàng kiệt sức thật sự và ngất đi ở sở làm việc. Bạn bè nàng hốt hoảng gọi cho chồng nàng. Anh đến mang vợ về nhà, lo lắng tột bực khi nhận ra nàng gầy rộc, mắt trũng sâu. Vốn đã quen vợ gầy yếu mảnh mai, anh không để ý lắm khi nàng từ từ gầy đi nhiều. Vả lại cuộc sống quá bận rộn, cả ngày hai người đi làm, chỉ có tối về mới gặp nhau, lại vội vã với công việc nhà rồi lên giường. Hơn nữa, dạo này nàng thường làm việc thật muộn, anh thường đi ngủ sớm một mình trong khi nàng còn mải mê làm việc đến thật khuya. Anh đâu biết rằng công việc chỉ là cái cớ và cũng là cái lối thoát duy nhất cho nàng để một lúc giải quyết được ba điều khó khăn cho nàng: tránh né chồng, quên đi người yêu, và trị chứng mất ngủ. Nàng đâu biết rằng có đêm nàng thức đến gần sáng, đến lúc mệt rũ ra lê gót lên giường, nàng chỉ thiếp đi có vài giờ là đã đến lúc thức dậy, nhưng nàng hầu như đã mất hết khái niệm về thời gian, có lúc cả khái niệm về không gian cũng không còn rõ rệt nữa. Đôi khi nàng đi như trong mơ, giật mỉnh không biết là đang ở đâu, đi về đâu cho đến khi định thần lại. Cứ như thế, nàng vật vờ trong suốt thời gian qua cho đến lúc kiệt sức. Chồng nàng đưa nàng đi bác sĩ, hoá ra nàng chỉ thiếu dinh dưỡng và thiếu ngủ. Bác sĩ khuyên nàng ăn ngủ điều độ và uống thêm thuốc bổ. Nghỉ ngơi vài hôm lại sức, nàng lại tiếp tục đi làm.

Từ ngày ấy, nàng hứa với chồng sẽ ráng làm việc ít hơn. Tuy nhiên, nỗi đau khổ của nàng ngày càng gia tăng và nàng thường lén chồng nửa đêm vào phòng làm việc. Thuốc bổ giúp nàng thêm sức lực, nhưng không giúp nàng ngủ yên và nỗi nhớ nhung dày vò nàng hàng đêm. Nàng cố làm việc, thỉnh thoảng ngồi trước gương thì thầm với bóng mình. Nàng không còn hy vọng được gặp lại anh, chỉ là một thói quen nàng có được từ ngày biết anh. Đến một hôm, nàng mệt quá thiếp đi trước gương trong phòng làm việc. Một cánh tay êm ái đặt lên vai nàng, giật mình, nàng định phân bua với chồng rằng nàng chỉ vào phòng làm việc kiếm một ít tài liệu. Ngước mắt nhìn lên, nàng mừng rỡ tột cùng khi thấy người yêu bên cạnh. Anh nhìn nàng âu yếm tha thiết. Nước mắt nàng lăn xuống đôi má gầy gò. Nàng khóc thắm thiết trong nỗi hạnh phúc và khổ đau. Họ ôm nhau không rời. Cuối cùng, anh bảo anh không thể cầm lòng được khi thấy nàng quá khổ sở nên để cho nàng gặp lại. Dù mai sau có thế nào cũng mặc, họ chỉ cần có nhau lúc này. Họ yêu nhau tha thiết nồng nàn, nàng như quên đi cuộc sống quanh mình, quên đi những khổ đau đã qua, quên cả mối nguy cơ có thể bị chồng bắt gặp trong phòng làm việc.

Từ hôm ấy, họ lại gặp nhau hàng đêm trong phòng làm việc. Tình yêu như mang lại cho nàng thêm sức lực, nàng lấy lại vẻ tưoi sáng, rạng rỡ. Ai cũng nghĩ thuốc bổ và giảm giờ làm việc đã giúp nàng phục hồi sức lực. Họ đâu biết mỗi đêm nàng vẫn chỉ ngủ có vài giờ, nhưng hạnh phúc đã làm cho nàng ăn uống ngon lành và tâm hồn phơi phới niềm vui. Nàng như trẻ lại, chồng nàng vui sướng thấy vợ lại ca hát như xưa, đôi má nàng đầy lên một chút và phớt hồng. Cuộc sống như thêm sắc màu cho nàng và mỗi bước chân nàng đi như có thêm đôi cánh. Nàng hay cười đùa vui nhộn, nàng như sống lại thời son trẻ với mối tình đầu đời.

Nhưng hạnh phúc của nàng không kéo dài lâu. Sau một thời gian vui sướng được gặp lại nhau, nàng rơi về thực tại với một tương lai mù mịt. Họ không thể kéo dài cuộc tình khác thường như vậy mãi. Nàng canh cánh lo sợ chồng biết được, nàng sợ làm anh thất vọng và đau khổ. Nàng lại không thể chia tay với người yêu. Hai người đã trở nên thân thiết gắn bó như đã bên nhau suốt đời. Họ hiểu nhau và yêu nhau một cách bền chặt. Họ đến với nhau hơn cả đam mê và gần gũi nhau một cách tuyệt đối. Nàng nhận ra nàng không thể sống thiếu anh và đây là một nỗi lo sợ lớn hơn bất cứ điều gì có thể đến với nàng. Trách nhiệm không cho phép nàng xa rời gia đình nhưng ở một nơi sâu xa trong tâm hồn, nàng biết nàng đã tìm được người tri kỷ. Anh mang lại cho nàng một hạnh phúc trong tâm hồn thật toàn vẹn mà nàng chưa bao giờ từng biết đến. Mất anh, nàng biết nàng sẽ không đứng vững nổi và sẽ không còn thiết đến cuộc đời này.

Mặc dù trò chuyện với nhau rất ít, anh vẫn hiểu được điều này và nhiều lần anh do dự, có lẽ anh không nên tiếp tục gặp nàng để nàng khỏi phải lún sâu hơn trong cuộc tình bế tắc này. Nàng hoảng sợ khi anh có ý định từ giã, lần này sẽ là mãi mãi xa cách. Nàng van xin anh để cho nàng có thì giờ ổn định tinh thần, anh mỉm cười bao dung. Mãi mãi nàng sẽ chẳng bao giờ tìm lại được cuộc sống ngày xưa, anh là kẻ đã cướp đi cuộc sống ấy ở nàng, nay anh không còn cách nào để trao trả, cho dù cả hai đều cố gắng hết mình. Hơn nữa, anh đã đè nén mình quá lâu. Anh sẵn sàng hy sinh để nàng được hạnh phúc, nhưng giờ đây, hạnh phúc của nàng là được sống bên anh, không có lý do nào anh lại từ chối mình và từ chối nàng hạnh phúc ấy. Anh do dự nghĩ đến một điều mà nhiều lần anh đã gạt đi, nhưng mỗi lần thấy nàng khổ sở bế tắc, anh không khỏi nghĩ đến. Cho đến một đêm, sau bao nhiêu yêu thương thắm thiết, nàng lại nức nở khóc, họ lại sắp phải chia tay nhau. Anh do dự bảo nàng.

"Hay là em đi với anh?" "Đi đâu hả anh?" Nàng ngạc nhiên hỏi.

"Đi qua bên kia, nơi có Bố Mẹ anh. Có lần anh thấy một người đàn bà mang con bà ấy đi bởi đứa bé ấy quá khổ sở vì nhớ mẹ." "Làm thế nào em đi được hả anh?" Nàng tò mò. Nàng chưa bao giờ nghĩ đến điều này và cái khả năng nó có thể xảy ra làm nàng thấy thú vị.

"Đơn giản lắm, anh chỉ cầm tay em và em bước vào gương cùng với anh. Anh nhìn thấy người mẹ ấy nắm tay đứa bé và hai mẹ con chỉ bước vào trong gương, thế là đứa bé theo mẹ đi đến nơi bà ấy ở." Hai người nhìn nhau, cùng đọc được ý nghĩ của nhau. Họ nhìn thấy một tương lai đầy hạnh phúc, sẽ mãi mãi được bên nhau không còn phải chia cách. Nhưng cả hai cùng nghĩ đến gia đình nàng. Nàng còn Bố Mẹ, anh em, còn chồng con và con gái nàng sẽ khổ sở lạc loài khi mất mẹ. Nàng nhìn thấy mắt anh tối lại, anh vội vã xin lỗi nàng vì đã có ý nghĩ ngông cuồng ấy. Nàng hiểu, anh không cần phải giải thích. Họ yêu quý và tôn trọng nhau và đặt hạnh phúc của nhau lên trên lợi ích của bản thân. Nàng không trách được anh có ý nghĩ ấy, khi người ta bế tắc, bất cứ con đường nào có thể dẫn đến một lối thoát đều được cân nhắc, nhất là khi cả hai người đều muốn đạt được cùng một mục đích.

Họ chia tay nhau trong một trạng thái kỳ lạ. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi biết được có một lối đi khác để thoát khỏi tình trạng hiện tại. Dĩ nhiên nàng sẽ không làm điều đó, nàng thương yêu gia đình nàng vô vàn, nhất là đứa con gái bé bỏng mà nàng hầu như quên đi trong suốt thời gian qua. 'May mà có bố nó về', nàng nghĩ. Anh thay vợ chăm sóc con lúc nàng bị khủng hoảng suy sụp cả thể xác lẫn tinh thần. 'Có lẽ họ sẽ phải chia tay nhau một ngày nào đó', nàng nghĩ. Không phải lúc này, khi nàng vẫn còn đắm đuối cháy bỏng trong cuộc tình đầy trắc trở. Dù sao đi nữa, nàng vẫn có thể chấp nhận hiện tại, rồi sẽ có lúc cơn sốt ban đầu nguôi đi và hai người sẽ chia tay nhau dễ dàng hơn.

Thế nhưng mọi việc không dễ dàng như nàng tưởng. Trước kia, khi chưa biết đến cái khả năng được đến với nhau, nàng chấp nhận cuộc tình bế tắc, và mặc dù khổ đau, cũng đã một phần chuẩn bị tinh thần cho ngày chia tay. Nhưng từ khi anh gợi ý cho nàng, không một ngày nào nàng không nghĩ đến điều ấy, có lúc nàng như vô tình bước lại gần hơn những tấm gương lớn, như có một sức hút vô hình nào kéo nàng vào. Nàng cố xua đi ý nghĩ ấy nhưng mỗi khi chia tay anh, nàng lại càng thêm nung nấu. Nàng muốn đi theo anh khắp mọi nơi, nàng mãi mãi muốn có anh bên cạnh. Anh đọc được ý nghĩ đó của nàng, ánh mắt nàng phơi bày tất cả nỗi niềm và anh khổ sở khi nhìn thấy điều ấy. Họ không bao giờ nhắc lại chuyện ấy, nhưng mỗi lúc gặp nhau, họ đều cùng nghĩ đến và đều cùng gạt đi.

Cuộc tình của họ đã đi đến lúc sâu đậm. Họ ít nói với nhau, chỉ tận hưởng những giây phút ngắn ngủi bên nhau. Không còn giới hạn vào những lần gặp gỡ ban đêm trong phòng làm việc nữa, bất cứ nơi đâu có những tấm gương ở những nơi kín đáo, họ đều gặp nhau. Có lần nàng ở hàng giờ trong phòng vệ sinh ở chỗ làm việc, đến khi ra ngoài, mấy cô bạn lo lắng hỏi nàng có sao không. Nàng mỉm cười trấn an bạn, nàng đâu có ốm đau gì đâu, chỉ có "sốt tình" thôi, nàng nghĩ. Nàng không biết rằng dần dần, nàng đã rơi vào trạng thái ngơ ngẩn như ngày xưa, lúc nào cũng chờ đợi cơ hội để được gặp anh.

* Thế rồi một ngày kia nàng không về nhà ăn tối. Chờ mãi đến nửa đêm, chồng nàng cuống quýt gọi cho sở cảnh sát. Họ bảo ráng chờ tối nay và hứa sẽ đi tìm nàng sáng hôm sau. Hôm sau, cảnh sát đến sở làm việc của nàng để điều tra. Họ thấy xe hơi của nàng vẫn còn nằm trong bãi đậu xe cho nhân viên. Trong phòng vệ sinh nữ, họ tìm thấy túi xách tay và chùm chìa khoá của nàng trước tấm gương lớn.

Kết Thúc (END)

Người Có Phép Lạ

Font Size: Tác Giả: Hoàng Ngọc Thư

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Kính dâng Má

Nàng sinh ra trong một gia đình bình thường, có khá đông con. Ngoại trừ gia đình nàng và những người chưa từng thấy điều kỳ diệu ở nàng, mọi người đều gọi nàng là Cô-Gái-Có-Phép-Lạ. Không ai biết trước lúc nào điều màu nhiệm của nàng xuất hiện, thường thì điều ấy chỉ xảy đến lúc bất ngờ nhất.

Lần đầu tiên gia đình nàng thấy được điều ấy khi nàng còn là một đứa bé mới lên ba. Một buổi trưa hè, đứa bé thức giấc khóc đòi mẹ. Người mẹ vào phòng ôm hôn đứa bé và bế nó ra ngoài. Vừa lúc ấy người anh lớn bước vào. Người anh vừa đi chơi thể thao về dưới nắng hè, mồ hôi nhễ nhại.

"Nóng quá," anh vừa nói vừa bỏ mũ ra.

Đứa bé chợt oà khóc vùng vẫy trong tay mẹ. Mồ hôi nó đổ ra ướt đẫm, hai má đỏ gay. Nó gào khóc:

"Nước, nước, con khát nước."

Người mẹ ngạc nhiên vô cùng, đứa bé mới vừa tỉnh táo mát mẻ trước đó vài phút bỗng giãy giụa đòi nước hối hả. Môi nó khô khốc nứt nẻ, mắt long lên dễ sợ. Bà vội vã lấy nước cho con uống, lấy khăn mát lau rửa mặt cho nó trong khi đứa con trai lớn nốc liền một hơi nửa chai nước mát rượi trong tủ lạnh. Đứa bé nhoẻn miệng cười, mồ hôi đã ráo trên vầng trán thơ ngây. Người mẹ ngắm nhìn con, bà cảm thấy có điếu gì đó kỳ lạ bí ẩn bà không thể hiểu được.

Lần thứ nhì gia đình nó chứng kiến điều kỳ lạ ấy là khi cô bé được năm tuổi. Một buổi sáng trong tuần, cả nhà vội vã ăn sáng và sửa soạn đi học, đi làm. Người mẹ chuẩn bị cho các con xong rồi bảo với người bố:

"Bố đưa các con đi học, mẹ đau đầu quá, lại lên cơn migraine rồi."

Nói xong, bà lảo đảo ôm đầu đi vào phòng. Cô bé đang ngồi trên ghế xô pha xem truyền hình buổi sáng với các anh chị trước giờ đi học chợt co rúm người lại rồi lả đi vào lòng người chị. Đứa con gái hoảng hốt lay em, òa khóc gọi Bố Mẹ. " Bố ơi, Mẹ ơi, xem em bị sao thế này."

Cả nhà xúm quanh cô bé, nó nằm thiêm thiếp, tay chân lạnh buốt. Người bố vội vã gọi bác sĩ gia đình đến gấp. Bác sĩ đến nghe tim, phổi, chẩn mạch, tất cả đều bình thường. Khám kỹ một lúc, ông mỉm cười nhẹ nhõm:

"Không sao đâu, nó chỉ ngủ thôi."

Cả nhà thở phào nhẹ nhõm. Bố lấy chăn đắp cho nó rồi đưa bác sĩ vào thăm Mẹ. Mẹ nó nằm ngủ thiêm thiếp. Hôm ấy, người chị lớn nghỉ học ở nhà để trông em và chăm sóc Mẹ. Đến trưa, người mẹ đã qua cơn đau đầu, đi lại ăn uống bình thường. Cô bé cũng thức giấc và chạy nhảy vui vẻ. Không ai bảo ai, nhưng từ ấy,cả nhà đều biết rằng cô bé có một khả năng kỳ lạ để liên kết và cảm thông với những người xung quanh.

Năm nó lên mười, một hôm Bố đi làm về ôm hôn các con nhưng nét mặt buồn rười rượi. Sau bữa ăn tối, Bố Mẹ gọi các con lại rồi Bố bảo các con, giọng buồn bã.

"Hôm nay chi nhánh làm việc của Bố đóng cửa, từ nay Bố bị mất việc. Cả nhà ta từ nay chỉ còn sống bằng lương của Mẹ. Bố sẽ cố gắng tìm việc khác thật nhanh nhưng trong lúc chờ đợi, nhà ta sẽ không thể đi ăn uống ở ngoài hay tiêu xài rộng rãi như trước kia. Bố Mẹ mong các con đừng buồn và chịu khó trong thời gian tới."

Những đứa trẻ ngoan ngoãn hứa với Bố Mẹ sẽ thôi không vòi vĩnh gì nữa. Cả nhà lặng lẽ đi ngủ. Sáng hôm sau, người mẹ chải tóc cho cô bé trước giờ đi học, tóc nó rơi ra từng mảng. Bà hoảng hốt dừng tay, tóc nó vẫn rơi đầy vạt áo. Bà sờ trán con, nó không nóng sốt, không có triệu chứng đau ốm gì. Hôm ấy mẹ nó nghỉ việc đưa con đi bác sĩ. Bác sĩ thử máu và gửi nó đi xét nghiệm da đầu. Mấy hôm sau kết quả xét nghiệm về, tất cả đều bình thường. Tóc nó vẫn rụng cho đến khi đầu nhẵn bóng.

Rồi cả nhà hiểu ra lý do. Người mẹ thương con gái đầu trọc lóc, ngày ngày quấn khăn, đội mũ các loại cho con và mua cho nó những đầu tóc giả trẻ em thường mang chơi trò sân khấu. Cô bé thẹn với bạn không chịu đi học, Bố Mẹ nó đành phải xin phép trường cho nó tạm nghỉ vì lý do sức khỏe. Hàng ngày nó ở nhà đọc sách, học hành và chơi với Bố. Hơn hai tháng sau, người bố xin được việc mới. Cả nhà đưa nhau đi ăn uống no say mừng Bố được việc. Mấy hôm sau, một buổi sáng thức dậy, cô bé mừng rỡ lao ra khỏi phòng hét toáng lên khoe với mọi người: tóc nó đã mọc lại dày và óng ả như xưa. Cả nhà thương yêu nó hết mực nhưng ai cũng biết không thể nào bảo bọc nó khỏi những trắc trở của cuộc sống, không những cho riêng nó mà cho tất cả những người thân yêu của nó.

Thời gian qua đi, một hôm, như lệ thường, cả nhà tụ tập ăn tiệc gia đình tối Thứ Sáu, ngày cuối của một tuần vất vả. Mọi người thay nhau trò chuyện, cười đùa, chỉ có cô bé là im lặng. Thỉnh thoảng, nó đánh rơi muỗng, có lúc lại va ly nước vào đĩa thức ăn. Cuối cùng, nó đánh đổ nửa tô xúp vào người. Người mẹ đứng dậy đến bên con, nhẹ nhàng hỏi. "Con làm sao vậy?"

Cô bé ngước nhìn mẹ. Người mẹ thấy mắt nó trong suốt, cái nhìn lạ lẫm bà chưa từng thấy.

"Mẹ ơi, con không thấy mẹ," cô bé nói nho nhỏ.

Người mẹ hiểu ngay con gái mình đã gặp chuyện gì đó không hay. Bà vội vã giúp con ăn xong bữa tối rồi đưa nó vào phòng. Bà ôm nó vào lòng, hỏi nó thật âu yếm đã có chuyện gì xảy ra. Cô bé oà khóc, nó kể cho mẹ nghe hôm nay đứa bạn thân của nó khóc suốt ngày ở trường. Đêm hôm trước nó nghe bố mẹ của nó to tiếng với nhau, rồi nó rình nghe được hai người tính ly dị. Nó thương bạn nó đau khổ nên cũng đau khổ lây. Người mẹ ôm con, lặng lẽ thở dài. Bà biết có gọi bác sĩ cũng vô ích. Chẳng ai có thể giúp con bà hết mù mắt lúc này, chỉ có thời gian và điều gì đó may mắn mới giúp được nó. Suốt hai ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật ấy, cả nhà thay phiên nhau dắt nó đi lại trong nhà và giúp nó làm mọi việc. Những ngày sau đó nó phải nghỉ học ở nhà. Nghe tin nó nghỉ học vì bệnh, đứa bạn thân của nó xin phép bố mẹ đến thăm. Hai đứa ôm chầm lấy nhau. Bạn nó vui mừng tíu tít, kể cho nó nghe rằng nó sắp có em và bố mẹ nó thôi không bỏ nhau nữa. Cô bé mừng rỡ nắm chặt tay bạn, lắc nó liên hồi. Thế là bạn nó được một lúc hai tin vui, vừa không lo chuyện bố mẹ chia lìa lại sắp được có em. Đưa bạn ra về, cô bé mừng rỡ khoe với mẹ nó tin vui của bạn. Tối hôm sau, như lệ thường, từ ngày nó mù mắt, mẹ nó vào đọc sách cho nó trước giờ đi ngủ. Đọc được một đoạn, cô bé chợt lắc lắc tay mẹ.

"Mẹ, mẹ, con thấy được rồi!"

Người mẹ mừng rỡ ôm con. Hạnh phúc và âu lo của cả gia đình đè trĩu lòng bà. Bà biết điều kỳ diệu của đứa con gái là điều đặc biệt quý báu, nhưng bà vẫn canh cánh lo những điều không may khác lại đến với nó.

Cô bé lớn lên thành một thiếu nữ nết na hiền dịu. Đã bao lần khả năng kỳ diệu của nàng mang đến hạnh phúc và xoa dịu nỗi đau của những người xung quanh. Có lần nàng vào bệnh viện thăm một bà cụ hàng xóm có đứa cháu nhỏ đang ốm nặng. Đứa cháu nhỏ không có bố, mất mẹ, được bà ngoại nuôi từ bé nay đang hấp hối vì căn bệnh hiểm nghèo. Nàng đến thăm lúc đứa trẻ đang thiếp đi trên giường, bà cụ gầy gò ngồi bên cạnh nước mắt tuôn rơi. Nàng cúi xuống dịu dàng vuốt má đứa bé rồi ôm bà cụ vào lòng. Mãi lâu sau, bà cụ ngước mắt nhìn nàng. Nước mắt cụ ngừng chảy. Mái tóc nàng đã bạc trắng như bà. Nụ cười nhăn nheo nở trên môi người già, bà trìu mến ôm lấy nàng thầm thì. "Cháu thân yêu, cháu quả là cô gái kỳ diệu."

Thời gian trôi qua. Chợt một ngày kia trái tim non trẻ của nàng rung động trước một ánh mắt trìu mến. Nàmg đã thầm yêu người con trai cạnh nhà, người thanh niên có mái tóc bồng bềnh, đôi mắt sâu thăm thẳm như đại dương và tiếng hát trầm ấm. Tối tối, anh thường mang đàn guitar ra vườn ca hát với gia đình. Có lần nàng cũng được tham dự và nàng dần dần trở nên thân thiết với gia đình anh.

Rồi một ngày kia anh nói yêu nàng. Lần đầu tiên ôm nàng trong tay, anh thấy nàng khóc. Anh hôn lên đôi mắt lóng lánh của nàng. Nàng cầm tay anh để lên ngực mình. Anh nghe thấy tiếng đập rộn rã của trái tim người thiếu nữ. Chợt lòng bàn tay anh nóng lên và ướt đẫm. Anh hoảng sợ suýt ngất đi khi nhìn thấy bàn tay mình đẫm máu. Máu của nàng thấm qua kẽ tay anh tràn ra ngoài. Anh ghì chặt nàng, hoảng sợ nói không ra lời.

"Em... em làm sao vậy?"

Thấy vẻ hoảng hốt trong mắt người yêu, nàng cởi mấy nút áo, vén vạt áo lên lau sạch vết máu. Khuôn ngực trắng muốt tinh khiết của nàng không hề có vết thương nào. Anh kinh ngạc nhìn nàng. Nàng âu yếm mỉm cười, nép vào ngực anh.

"Em thật hạnh phúc."

Dần dần anh hiểu ra. Anh yêu quý và tôn thờ nàng như một thiên thần. Đêm đêm, hai người thường ngồi bên nhau ca hát, chuyện trò và mơ ước một cuộc sống tươi đẹp trong tương lai.

Rồi một ngày kia nàng đi qua đường ở một khu phố đông đúc. Nàng bình thản đi trên vạch kẻ cho người bộ hành, đầu mãi nghĩ về một điều gì đó nên không nhìn thấy một chiếc xe hơi kiểu thể thao đang lao nhanh đến. Người lái xe hoảng hốt thắng gấp khi thấy nàng nhưng đã quá muộn. Chiếc xe lao đến hất ngã nàng xuống và nghiến lên nàng. Những người hai bên đường thét lên, đổ xô lại. Người lái xe vội vã mở cửa bỏ chạy. Có mấy người vội đuổi theo, bắt được hắn. Những người còn lại chứng kiến một cảnh tượng kỳ lạ. Xác của nàng tan ra thành cát bụi, hòa lẫn vào lòng đường. Một cơn gió nhẹ thoảng qua cuốn đi nốt những hạt còn lại. Phút chốc, lòng đường chỉ còn trơ lại chiếc xe hơi và vết bánh xe cháy nghiến xuống đường, chỗ lối đi dành cho khách bộ hành.

Adelaide, 7/6/2004.

Kết Thúc (END)

Căn Phòng Áp Mái

Font Size: Tác Giả: Tô Đức Huy

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Họ dò dẫm trên chiếc cầu thang ọp ẹp dẫn lên căn phòng áp mái bụi bặm. Alastair cẩn thận đặt từng bước lên lối đi hẹp về phía căn buồng. Anh ta đẩy hai cánh cửa khép hở ra. "Hãy tự nhiên như ở nhà", anh ta nói, vẫy họ vào qua cánh cửa bên phải. "Cánh cửa kia vào buồng người hầu, nay mẹ tôi dùng chứa đồ tạp nham. Nếu cần mời anh sang đấy xem qua.

Bên trong căn buồng ngủ đêm của anh tối mịt, ngoại trừ chút ít ánh sáng yếu ớt mùa đông hắt vào qua ô cửa sổ bé xíu duy nhất. Anh bước về phía đó, sát góc buồng, mặt biển trải rộng ngút tầm mắt.

Alastair cúi xuống bật đèn bàn. "Nguồn ánh sáng duy nhất", anh ta nói. "Tôi hy vọng nó đủ sáng".

Anh đặt va ly xuống giường.

"Còn một chiếc đài nữa. Có thể làm anh vui được".

"Cám ơn". Anh nhìn chiếc đài cổ lỗ, thô kệch.

"Dù sao cũng xuống nhà làm ngụm nhỏ đã, trước khi ăn tối. Mẹ tôi muốn gặp anh lắm, gặp người đến bắt con ma ở Drumkattle này. Hay anh muốn xem trước?".

"Tôi xem qua mấy phút thôi". Anh cẩn thận rà soát cánh cửa, ổ khóa to, chìa khóa cắm bên ngoài. Then cửa bên trong khá to, đã gỉ sét. Anh ngó qua cái tủ tường ở góc buồng, to bằng một gã đàn ông. Ngó ra sau lưng nó, những tấm gỗ vẫn còn chắc chắn. Anh ngồi xuống giường, nhún lên nhún xuống, nhìn vào gầm giường. "Được rồi", anh nói. "Sẽ xong thôi".

"Tốt quá. Thôi, xuống nhà đi".

"Ta quên một thứ", Duncan nói. "Chiếc chuông...".

"Đúng rồi". Alastair vương về phía trước túm lấy sợi dây treo từ trên trần dài độ vài phân, lấy trong túi ra một sợi dây thô và buộc hai cái lại với nhau. "Để báo hiệu, Kevin cáo già ạ. Tôi sẽ để đầu dây ngay cạnh giường, nếu anh giật chiếc chuông nhỏ kia sẽ kêu. Nó có ở đây lâu lắm rồi, nhưng vẫn kêu tốt".

"Này", Kevin nói, "tôi cóc cần cái chuông đỏ như máu kia của anh".

"Được rồi, anh sẽ không cần đến nó".

"Khoan một chút", anh nói. "Tốt hơn nên nói với anh điều này". Anh mở va ly lấy ra khẩu súng ngắn. "Khẩu Smith and Wesson này no đạn đấy". Rồi anh đặt nó xuống bàn. "Con ma nào dám trêu ngươi sẽ lĩnh ngay một viên vào bụng. Tôi sẽ nói rõ hơn trước khi chúng ta bắt đầu".

"Mày nghe rõ chưa ma?". Alastair ngửa cổ lên trần nhà nói vui. "Nếu mày ló mặt, mày sẽ ăn đạn vào bụng đấy".

Họ rời căn buồng. Bà mẹ Alastair người nhỏ bé, sắc sảo đang ngồi trong phòng vẽ không đủ ánh sáng.

"Mẹ, đây là Kevin Donaldson. Anh ấy đến từ Australia".

Bà mẹ già cười tươi hỏi han. Trước kia bà đã đến nước Australia, từ khi chồng bà còn sống, và bà rất yêu đất nước đó. Còn giờ đây, làm sao để bắt được con ma của ngôi nhà Drumkattle?

Alastair phân bua. Đó chỉ là sự đánh cuộc. Một trăm năm nay không có ai ngủ trong căn buồng có ma đó, không có ai từ cái đêm bà người hầu ngủ trên giường bất ngờ bị tấn công dữ dội và bị giết chết. Người ta không rõ hung thủ là ai. Kevin sẽ ngủ, hoặc là cố để ngủ, trong căn buồng đó.

"Năm mươi pao thì nhiều đấy", bà Moncrieff nói.

"Nhiều, nhưng với con thôi. Còn Kevin, anh ấy giàu có, chính anh ấy mới là người sẽ phải trả...".

Kevin cười. "Tôi không tin thế".

Đã hơn mười một giờ đêm, một mình anh ở rong căn buồng áp mái, cửa khóa trái bên ngoài. Khẩu súng để ở vị trí thuận tiện sẽ giúp anh đỡ bị bất ngờ nếu bóng ma xuất hiện trong trang phục quái gở thế nào đi nữa. Đêm tháng Mười hai không trăng. Căn buồng tối đen lại nếu anh tắt chiếc đèn bàn bên đầu giường. Chiếc cửa sổ hình chữ nhật, con mắt duy nhất nhìn ra biển Bắc, hắt một chút ánh sáng xanh xao yếu ớt.

Anh để nguyên quần áo nằm trên giường, mắt liếc nhìn trang bìa sách nhưng tâm trí vang mãi lời hứa với Alastair. Chín tiếng nữa và mọi thứ sẽ trôi qua thôi. Nếu đến tám giờ sáng anh không rung chuông, họ sẽ bẽ bàng ra sao trước mắt anh, còn chuyện họ đi thông báo cho hàng xóm tin tức về anh nữa chứ, họ sẽ mở cửa cho anh ra và anh lấy về năm mươi pao tiền cược.

Ý nghĩ thứ hai chợt đến, làm gì có ai để người trong nhà này đi thông báo; Drumkattle là ngôi nhà duy nhất dọc bờ biển hoang vắng này. Chắc chỉ có Alastair, Duncan và bà mẹ già của họ là nghe được tiếng chuông. Vậy thì khỏi rung chuông nữa.

Anh đã thấy chán quyển sách, bật công tắc chiếc đài bên cạnh, lắng nghe chương trình "Nhạc đêm khuya" trên sóng đài Home. Anh chuyển sang sóng đài Light đang phát bản nhạc jazz, cuối cùng chọn đài Hamburg với nhạc valse. Anh ngồi dậy cởi quần áo mặc ngoài.

Khẩu Smith and Wesson nằm một bên giường, anh kiểm tra hộp đạn lần cuối và thấy yên tâm. Xong xuôi anh thả mình xuống chiếc giường gỗ hẹp, có thể tình trạng không thoải mái này sẽ đánh thức anh dậy trước lúc bình minh, với tay tắt đèn.

Bản nhạc du dương nhưng được một lúc cơn ngái ngủ ập đến, anh tắt nốt chiếc đài.

Không dám chắc có phải mình thức giấc thật không nhưng rõ ràng anh nghe thấy tiếng động vào lúc một giờ sáng. Thoạt đầu anh không tài nào định hướng được âm thanh đó, dần dần như mái nhà thủng ra và nước nhỏ xuống sàn. Anh đợi một lúc cho chắc chắn và bất ngờ bật đèn.

Thật lạ, không còn âm thanh nào. Không có nước trên sàn. Anh tắt đèn.

Lần này, chỉ khoảng nửa tiếng sau, anh lại nghe thấy âm thanh đó, to hơn lần trước, cứ như thể nước đang rỉ xuống ngay giữa phòng.

Anh thấy lạ khi có một tiếng động ngay cạnh đầu, bực mình quá, anh quay người sang bên kia, tim bắt đầu đập rộn, hai bên thái dương rần rật. Tiếng động của thứ chất lỏng nọ giờ thành đối âm với nhịp lưu thông của mạch máu trong người anh, và bất ngờ tiếng nước rỉ đổi vị trí cứ như có một lỗ thủng khác ở trên mái. Anh bật đèn lên, âm thanh nọ lại ngừng bặt.

Anh bật dậy, nhìn qua ô cửa sổ, lại gần thò tay ra ngoài: trời có mưa đâu nhỉ. Quái lạ! Tìm thế nào đi nữa anh vẫn không thấy có vết nước trên sàn. Anh lại gần tủ, mở toang hai cánh ra, ngỡ tưởng Alastair hay Duncan nấp trong đó giả vờ làm tiếng động. Chiếc tủ trống rỗng.

Để nguyên đèn sáng anh nằm vật xuống giường. Anh liếc nhìn đồng hồ, ba giờ rưỡi. Anh uể oải tắt đèn.

Chắc anh đang ngáy, bỗng nhiên giật mình vì có tiếng người nói, anh bật thẳng dậy, tim đập mạnh. Đó là tiếng phụ nữ, giọng một cô gái, du dương. Anh căng tai, và từ rất xa, rất nhẹ, dường như nó gọi "Kevin".

Thật vô lý. Anh sẽ không tự biến mình thành thằng ngu bằng việc trả lời tiếng gọi nọ. Anh lại bật đèn, mọi thứ chìm vào im lặng.

Anh nguyền rủa. Hơi mệt và bực dọc. Bóng đèn bỗng nhiên bị vỡ. Một cục nước miếng chặn ngang cổ họng, ran rát, tai nghe rõ nhịp đập của tim, anh thoắt với lấy khẩu súng.

"Anh đang nằm", giọng nói lại vang lên, "Giữa vũng máu đỏ còn ấm. Máu của tôi, Kevin ạ".

Anh mở miệng hỏi lại giọng nói kia nhưng sao không lời nào thốt ra được. Mãi sau, bằng một giọng nói hoàn toàn không phải của mình, anh hỏi: "Sao..., sao lại thế...".

"Không làm ồn, Kevin. Tôi tới đây để giết anh".

Anh cười, tỏ vẻ can đảm. "Khá lắm thưa cô. Nhưng tại sao?".

"Kevin, bởi vì căn buồng này, chiếc giường anh vừa nằm là của tôi. Tôi đã chết trên chiếc giường đó".

Mọi thứ ngưng lặng chốc lát, tiếng đập trong tai anh to đến mức không còn chịu được nữa.

"Tôi đã chết trên chiếc giường này, Kevin, trong vòng tay của một thằng đàn ông. Hắn ta đã giết tôi, khi tôi đang khóc tức tưởi...".

Một tia ý nghĩ vụt qua óc khiến anh chú ý đến chiếc công tắc đài. Nó vẫn ở vị trí tắt.

Giọng cô gái lại cất lên. "Hãy tạo mối quan hệ hòa bình với Người Sáng Tạo ra anh, hỡi Kevin Donaldson, vì anh chỉ còn được sống vài phút nữa thôi. Anh đã nghe thấy tiếng máu của tôi chảy xuống sàn chứ? Chẳng bao lâu nữa sẽ là máu của anh".

Lạ thay, tiếng nhỏ giọt lại vang lên. Phải chăng có thể nhìn được lúc này: anh thầm nguyền rủa chiếc bóng đèn chết tiệt. Và tại sao, đúng, tai sao không nghĩ đến việc mang theo chiếc đèn pin?

Anh nhớ đến chiếc bật lửa. Phải cố gắng lắm, anh nguyền rủa bản thân vì sự thực đó, anh mới với được chiếc áo khoác. Chiếc bật lửa Ronson tỏa ánh sáng dầu tù mù, anh không thấy gì cả.

Nhưng giọng nói vang lên gần hơn. Lần nữa anh chú ý tới chiếc đài và chắc chắn nó phát ra từ đó, thậm chí công tắc vẫn tắt. Tức quá anh vung cú đấm vào mặt chiếc đài. Giọng nói vẫn tiếp tục nhưng có lẽ lúc này anh đã quá phấn khích và mệt nên không hiểu nó nói gì. Nhưng đúng là chiếc đài rồi. Nghĩ thế anh giật tung dây điện ra.

Như cố tình trêu ngươi, giọng nói lùi ra xa. Nó đang nói gần bức tường. Tiếng nhỏ giọt phát ra từ đấy. Một cơn hốt hoảng mới thật hãi hùng ập đến, nhận ra nó vẫn ở trong phòng, anh ném chiếc đài xuống sàn làm nó nứt ra, chưa thỏa anh còn lấy đập loạn xạ đến khi nó vỡ thành hàng chục miếng nhỏ.

Giọng nói lại càng rõ hơn. "Có ích gì hơn đâu, Kevin. Anh không thể thay đổi được số phận, mà số anh là số chết. Chết ngay trong đêm nay".

Anh bật lửa, trong phòng trống rỗng.

Bỗng nhiên có một tiếng động trong góc phòng khiến anh rùng mình. Tiếng nhỏ giọt đã trở thành tiếng chảy xối, anh đứng bật dậy, hoảng hốt, nhìng chong chong vào một điểm trong bóng tối.

Anh nhìn không biết bao lâu, như bị hút hồn, chợt một cơn gió thoảng qua. Anh vòng qua giường lại gần nó, ở đấy chắc chắn có một cái gì đấy. Phát điên lên anh mắm môi mắm lợi bật lửa, phải đến bốn lần bật nó mới cháy.

Anh kêu lên kinh hãi, hơi thở dồn dập. Ánh sánh quá yếu nhưng cũng đủ soi rõ một hình người, một hình người đứng gần tủ. Khuông mặt, nếu được gọi đó là khuôn mặt, màu xanh tái, và quần áo, nếu cũng có thể gọi là quần áo, màu tối, có lẽ là màu máu đỏ. Hình như người ấy đang nói, vẫn giọng nói nọ, giọng nữ, nhưng hai môi không hề động đậy. Bóng người mỗi lúc một gần hơn.

Anh quỵ xuống giường, người cứng đơ. "Ai... cút...", anh thét lên hoảng hốt. "Cô là ai? Sao vào được đây?... Tôi sẽ giết cô đấy, cô bạn. Lời cảnh cáo cuối cùng của tôi"... "Lời cảnh cáo cuối cùng...".

"Đạn không giết được tôi đâu, Kevin. Một người đàn ông đã làm thế với tôi. Giết chết tôi lúc tôi nằm ngay chỗ anh vừa nằm ấy, nhưng sẽ không còn thằng đàn ông nào nữa, và không còn viên đạn nào đâu..."

"Tôi cảnh cáo lần cuối!". Anh rít lên.

Anh nổ súng, bắn thẳng vào hình người và kết quả làm anh chết lặng. Một ý nghĩ đen tối vẫn lên trong đầu anh.

Khói súng vừa hết anh nhìn thấy một khuôn mặt trắng bợt, vẫn nguyên chỗ cũ.

Anh thét lên, bắn, bắn tiếp, bắn nữa. Trong đám khói thuốc súng cay xè anh vẫn thấy hình người, đang tiến đến gần hơn. Nguy rồi! Đến nước này thì không thể không báo nguy cho mọi người. Nghĩ vậy, tay trái rung chuông, tay phải vẫn bắn cho đến khi khẩu súng chỉ còn phát ra những tiếng cạch... cạch... khô khốc. Hình người đã đè lên hình anh, anh thúc mạnh khẩu súng hết đạn nhưng nó rơi xuống như gặp phải lực cản quá mạnh. Da anh ướt đầm, không phải vị ngọt, máu, anh biết đó là máu.

Tay chạm được dây chuông, anh dồn hết sức kéo mạnh. Chiếc chuông nhỏ của nhà thờ xứ Scots kêu lên ở đâu đó trên đầu anh. Hình người rung mạnh rồi đột nhiên mọi thứ đen sẫm lại. Im lặng. Tối mịt mùng.

Mấy tháng sau kevin Donaldson được đưa về Australia. Người ta không còn được tin tức gì về anh. Tầng trên cùng của ngôi nhà Drumkattle từ đó không một bóng người bén mảng cho tới khi cả tòa nhà đổ sụp xuống, hai, ba mươi năm sau này.

Kết Thúc (END)

Giấc Mơ

Font Size: Tác Giả: Bachim

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Khi vô tình nghe mấy nữ đồng nghiệp trong phòng kể nhau nghe về mộng mị chiêm bao, anh giật mình. Bất chợt, anh nhận ra đã rất lâu, mình không có một giấc mơ nào. Bất kể đó là một giấc ngủ ngắn ban ngày hay cả giấc ngủ dài ban đêm. Anh không thể nhớ một chút gì. Trống trải hoàn toàn trong bộ nhớ của anh. Dĩ nhiên, anh không phải là một nhân vật ra gì để được đưa vào một phòng thí nghiệm Y khoa nào đó mà ghim mà gắn vào đầu những dây nhợ lằng ngoằng, xem anh thật sự không mơ hay chỉ đơn thuần vì anh không thể nhớ ra được khi tỉnh thức.

Anh loay hoay với sự việc kỳ lạ xảy ra cho bản thân cả tuần vất vả. Anh chẳng dám hỏi ai, kể cả mấy thằng bạn thân nhứt, mà thật ra anh thì có mơ mà có bạn thân. Vợ anh thì khỏi bàn, cô ấy thậm chí không quan tâm tới chuyện anh có ngủ hay không nữa. Giá có một thằng con - dù nhỏ xíu - anh sẽ thầm thì với nó như cái gã trong truyện đời xưa nói thầm chuyện bí mật vào đất để chôn đi.

Loay hoay mãi, anh đâm ra khủng hoảng. Như một cơn bão đến từ từ, chậm mà chắc, lừ đừ mà mạnh dần lên trông thấy.

Anh thử cho đông hồ reo giữa đêm - vào nhiều giờ giấc khác nhau - thầm mong việc bất chợt thức giấc sẽ không làm anh quên béng cái chiêm bao vừa xảy ra - nếu nó có trong giấc ngủ của anh. Suốt một tuần sau đó, anh trắng tay, thua cuộc hoàn toàn. Không một tăm tích, không một mảy may. Những giấc mơ đã bỏ rơi anh thiệt tình, bỏ rơi mà không thèm một thông tin báo trước nào.

Anh đứng khổ ngồi sở. Sẵn sàng nổi cọc với bất cứ ai. Anh tin mình mắc một cơn bịnh khắc nghiệt. Vô phương cứu chữa.

Tự dày vò mình thêm một tuần, rồi một tuần nữa, anh đi tới một quyết định.

Nơi văn phòng anh làm việc ở lầu tư một cao ốc mười lăm từng, có một cửa sổ trông xuống sân sau một chung cư. Cái sân thường xuyên vắng ngắt bởi đa số dân cư ngụ nơi ấy là công nhân viên. Họ đi làm suốt ngày, đám con nít thì vùi đầu vào trường bán trú tới chiều. Anh ước lượng từ thành cửa sổ xuống tới cái mặt sân tráng xi-măng lúc nào cũng ướt át ấy cũng đâu mười hai mười ba mét. Một khoảng cách đủ để một người dù nhẹ cân một cách khó tin như anh phải đạt được thoả nguyện chấm dứt đời mình, khi lao ra từ thành cửa sổ.

Chắc như bắp.

Khỏi có vụ chấn thương sọ não hay dập ngực dập bụng sơ sơ.

Là xong. Khỏi phiền luỵ cả Nhà lẫn Nước. Ngành Y tế đâu rảnh mà phải bỏ tiền tài sức lực mà lo cho một công dân rệp bọ như anh.

Chẳng có gì để chuẩn bị nhiều ngoài một chúc thơ đơn giản và ngắn gọn. Chỉ để những đồng nghiệp trong phòng khỏi khi không dính vô rắc rối lãng òm.

Đợi cho đám đồng nghiệp cả nam lẫn nữ rời phòng xuống ăn bữa trưa, anh đứng lên, bước tới cánh cửa, gài chốt. Phải tránh rủi ro cho thiên hạ, lỡ ra một kẻ nào đột ngột quay trở lại lúc anh đang leo lên thành cửa sổ. Lúc đó, rắc rối phát sinh, cái hình ảnh chẳng lấy gì làm đẹp đẽ của anh biết đâu sẽ ám ảnh không tha trong đầu óc kẻ kia. Điều đó thiệt chẳng nên.

Trước khi leo lên thành cửa, anh quay nhìn một lần chót nơi mình làm việc đằng đẵng năm năm trời. Quen thuộc đến nhàm chán. Anh chợt nhận ra một điều. Nếu cõi bên kia là có, và anh còn đủ thông minh để có hồi ức, có lẽ đây là nơi duy nhất anh sẽ nhớ. Ký ức thời sinh viên nhạt nhoà như bóng ma thoắt ẩn thoắt hiện. Mối tình duy nhứt lạt lẽo như nước ốc để nguội. Căn nhà trọ ở với vợ trước khi ly thân vỏn vẹn hai tháng anh còn chẳng nhớ được quét vôi màu gì. Người vợ tốc hành con nít sau một cơn say xỉn đang nguyền rủa. Chỉ chưa đầy sáu mươi ngày đêm đã đùng đùng cuốn gói về nhà Mẹ chờ ngày ly dị. Chẳng có gì đáng nhớ trong cái chuỗi ngày dài vô vị của đời anh.

Một cái gì thật ngậm ngùi buồn tủi dâng lên cổ làm anh muốn nghẹn. Anh cảm thấy khó thở. Anh vội vội vàng vàng đi như chạy tới thành cửa sổ. Leo lên, không nhìn xuống, anh cẩn thận một cách tỉ mỉ và chậm rãi, gài lại nút túi áo mà trong đó anh đã xếp làm tư lá chúc thơ viết ngắn gọn đại thể tự nhận hết trách nhiệm về hành động của mình, ngỏ lời xin lỗi cấp trên và đồng nghiệp về những công tác bị bỏ dở.

Ngước mặt lên bầu trời đang nắng gắt, anh hít rất sâu một hơi thở. Nhắm mắt lại và bước ra.

Trong khoảnh khắc và khoảng cách giữa cửa sổ với mặt sân xi-măng, trong anh nổ bùng một thứ gì có thể coi như chân lý.

Bất chợt, anh nhớ ra, anh đã thật sự vuột mất, trong một thời gian dài, những giấc mơ không chỉ trong khi ngủ, mà quan trọng hơn, cả khi tỉnh thức. Anh đã sống mà không còn mang trong đầu bất cứ một giấc mơ nào. Hy vọng, mộng mơ, là một cái gì cực kỳ xa lạ với anh. Anh chợt cười rú lên, mừng đến điên loạn khi tìm thấy cái nguyên nhân làm mình trở thành một người không đáng sống.

Những người có mặt gần nơi xảy ra vụ việc, đoan chắc với nhà chức trách rằng họ có nghe một tiếng rú thảng thốt. Tuy nhiên, căn cứ vào lá chúc thơ, và nhất là, cánh cửa khoá trái từ bên trong, người cán bộ công an phụ trách điều tra, kết luận đây là một vụ tự sát hoàn chỉnh. Người vợ - người thân độc nhất của đương sự - khai rằng đã không gặp mặt anh ta suốt ba tháng qua, cô vừa trở về sau chuyến du lịch bốn nước Âu châu kéo dài hai mươi ngày với bạn mình.

Kết Thúc (END)

Cô Gái Áo Xanh

Font Size: Tác Giả: Bồ Tùng Linh

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Chàng trai nọ tên là Vu Cảnh, tự là Tiểu Tống, người Ích Đô, ở nhờ chùa Lễ Tuyên để học. Ban đêm chàng đang giở sách ra đọc, bỗng có một cô gái đứng ngoài song cửa khen:

Vu tướng công siêng học quá!

Vu nghĩ rằng ở chốn núi sâu làm gì có phụ nữ. Chàng còn đang nghi ngại thì cô gái đẩy cửa bước vào, cười bảo:

Tướng công siêng học thật!

Vu sửng sốt đứng dậy, nhìn kỹ thì thấy cô gái mặc áo xanh, váy dài, xinh đẹp khó ai bì. Vu biết không phải là người nhưng vẫn hỏi thăm quê quán, nàng đáp:

Chắc chàng thấy thiếp không phải là kẻ độc ác rồi, việc gì phải hỏi đến nguyên quán cho mệt?

Vu thấy mến cô gái nên... ngủ chung. Cởi chiếc áo ngắn bằng lụa ra, chàng thấy eo lưng nàng nhỏ hơn người bình thường khá nhiều. Trời gần sáng thì nàng đã nhẹ nhàng ra đi. Từ đó đêm nào nàng cũng tới thăm Vu. Đêm nọ, cùng uống rượu và chuyện vãn, cô gái tỏ ra rất sành âm luật. Vu nói:

Giọng nàng nhỏ mượt, nếu hát một bài ắt người nghe mê mẫn.

Cô gái cười:

Không dám đâu!

Vu cố nài, nàng nói:

Thiếp chẳng tiếc gì, nếu chàng thích thì thiếp xin dâng chút tài mọn, nhưng chỉ hát khẽ thôi nhé!

Nói rồi nàng nhịp chân xuống giường và hát khẽ như tiếng ruồi bay, nghe kỹ mới nhận ra được giọng hát uyển chuyển, ấm áp lòng người. Cô gái hát xong, mở cửa nhìn ra bảo:

Đề phòng ngoài song có người.

Nàng đi vòng quanh nhà xem xét rồi trở vào. Vu hỏi:

Sao nàng đa nghi thế?

Nàng cười đáp:

Ngạn ngữ có câu "Ma sống trộm thường sợ người", đấy là tâm sự của thiếp!

Lúc sau đi ngủ, nàng buồn bã không vui, nói:

Không lẽ duyên số chúng ta dừng lại ở đây sao?

Vu vội hỏi, nàng đáp:

Thiếp cảm thấy hồi hộp quá, lộc của thiếp chắc hết rồi.

Vu an ủi:

Hồi hộp trong lòng hay máy mắt là chuyện bình thường, sao vội nói như thế?

Cô gái tạm yên lòng, lên giường cùng nhau ân ái. Đêm tàn, nàng khoác áo bước xuống giường. Nàng cứ bồn chồn vào ra:

Không hiểu sao lòng thiếp tự nhiên hoảng hốt lo sợ, xin chàng tiễn thiếp ra khỏi cửa.

Vu trở dậy, đưa nàng ra cửa. Nàng dặn:

Chàng đứng đây canh cho thiếp. Thiếp đi qua tường rồi hãy vào.

Vu đáp:

Được rồi.

Thấy nàng ngoặt khỏi hàng lang, mất hút bóng nên Vu định quay vào ngủ tiếp thì nghe nàng kêu cứu rất gấp. Vu vội vàng đến nhìn quanh, không thấy đâu, rồi cuối cùng chàng nhận ra tiếng kêu từ mái hiên vọng xuống. Ngẩng đầu nhìn kỹ thì chàng thấy một con nhện khá ta đang chộp bắt một sinh vật nhỏ, tiếng kêu vo ve đau đớn. Vu phá mạng nhện, khều xuống, gỡ bỏ những sợi tơ nhện chằng trói, thì thấy một con ong xanh thoi thóp sắp chết. Vu mang con vật về phòng, đặt lên bàn. Con ong hồi tỉnh, một lát sau mới bò được. Nó leo dần lên nghiêng mực nhúng chân vào rồi leo ra đậu trên tràng kỷ, bò thành chữ "tạ", cuối cùng nó đập cánh mấy lần rồi bay xuyên qua cửa sổ. Từ đó cô gái áo xanh không bao giờ trở lại.

Kết Thúc (END)

Vụ Án B.24

Font Size: Tác Giả: Sir Arthur Conan Doyle

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Tôi đã kể câu chuyện khi tôi bị bắt, và không ai muốn nghe tôi nói cả. Rồi tôi đã nhắc lại chuyện đó ở phiên tòa: nói tất cả, đúng hệt như sự việc đã xảy ra, không thêm, không bớt một chữ nào. Tôi đã nói hết sự thật, tôi xin thề đúng vậy? Tất cả những gì mà phu nhân Mannering đã nói, tất cả những gì mà tôi đã nói và đã làm, tôi đã kể lại không thay một dấu phẩy, và tôi đã được lợi lộc gì trong vụ này? "Phạm nhân đã mải mê trong một lời khai lan man và không đúng sự thật, không thể tin được vì các chi tiết của nó, và không dựa trên một sự khởi đầu nào của những bằng chứng hỗ trợ". Đó là tin mà một nhật báo ở Luân Đôn đã loan đi. Những nhật báo khác thì lại làm như tôi không tự bào chữa cho mình. Tuy là chính mắt tôi đã trông thấy ngài Mannering bị ám sát, và tôi cũng vô tội trong vụ án này như bất cứ một ủy viên nào trong bồi thẩm đoàn đã kết tội tôi.

Thưa ngài, ngài là người tiếp nhận đơn xin ân xá của các phạm nhân. Tất cả tùy thuộc vào ngài. Tôi chỉ xin ngài một điều: đọc lá đơn của tôi, chỉ cần đọc nó thôi, rồi thực hiện một cuộc điều tra nhỏ về tính tình của vị "phu nhân" Mannering này, để xem bà ấy có giữ được cái danh hiệu mà bà ấy đã mang từ ba năm trước, khi tôi gặp bà ấy để chuốc lấy tù tội và sự tan nát của đời tôi. Ngài sẽ có thể giao vụ điều tra này cho một thám tử tư hay một người của tòa án; ngài sẽ mau chóng biết rõ đầy đủ về sự việc để hiểu rằng câu chuyện của tôi là đúng sự thật. Xin ngài hãy nghĩ tới sự vinh quang mà ngài sẽ đạt được nếu tất cả các nhật báo đều loan tin rằng một vụ án bất công không thể dung thứ được chắc chắn sẽ xảy ra nếu không có lòng kiên trì và sự tinh tế của ngài. Đó sẽ là phần thưởng của ngài, vì tôi nghèo túng và tôi không thể biếu tặng ngài một thứ gì. Nhưng nếu ngài khoanh tay ngồi yên, thì ngài sẽ có thể không bao giờ thấy được một giấc ngủ ngon trên giường! Sẽ chẳng có đêm nào trôi qua mà ngài không thấy bị ám ảnh bởi ý nghĩ về một con người đang chết dần, chết mòn trong nhà tù vì ngài đã không làm tròn nhiệm vụ mà ngài được giao phó! Nhưng thưa ngài, ngài sẽ làm tròn nhiệm vụ đó, tôi tin chắc ở điều này. Ngài chỉ cần làm một hay hai cuộc điều tra nhỏ, và ngài tự nhắc nhở mình rằng kẻ duy nhất được hưởng lợi trong vụ án mạng là phu nhân Mannering, vì vụ án mạng đã làm cho một người đàn bà khốn khổ trở thành một góa phụ giàu sang. Tôi đã đặt vào tay ngài một đầu mối. Ngài chỉ cần đi theo nó; ngài sẽ thấy nó dẫn ngài tới nơi nào.

Thưa ngài, xin ngài lưu ý rõ ràng là tôi không kêu ca gì về các việc liên quan tới vụ trộm. Tôi không ta thán gì về những điều mà tôi đáng phải chịu, và cho tới nay tôi chưa phải nhận hình phạt nào nhiều hơn là hình phạt mà tôi đáng phải chịu. Quả thật là đã có một vụ trộm và ba năm tù của tôi là để đền tội đó. Trong phiên tòa, người ta chỉ ra rằng tôi đã tham dự vào vụ của Merton Cross, và rằng tôi đã ngồi tù một năm vì chuyện đó, đó là lý do tại sao lời khai của tôi đã được tiếp nhận một cách tệ hại như thế. Một kẻ tái phạm thì bao giờ cũng bị tình nghi. Tôi nhìn nhận vụ ăn trộm. Nhưng khi người ta nói với tôi về vụ án mạng đã khiến tôi bị kết án tù chung thân (và bất cứ một vị quan tòa nào ngoài ngài James, đều rất có thể đưa tôi lên đoạn đầu đài) thì tôi trả lời tôi không dính líu gì trong vụ này và tôi vô tội. Bây giờ tôi sẽ trở lại cái đêm hôm 13 tháng 12 năm 1894, và tôi sẽ kể lại một cách chính xác với ngài về những gì đã xảy ra. Nếu tôi nói sai sự thật một chút nào thì xin bàn tay của Thượng Đế hãy giết chết tôi đi.

Vào khoảng giữa mùa hè, tôi đi tới Bristol để tìm việc làm, nhưng tôi chợt nảy ra ý nghĩ là tôi sẽ có thể xoay xở được ở Portsmouth, vì tôi là một thợ máy giỏi; vì vậy tôi đi ngang qua miền nam nước Anh, bằng cách nhận các công việc làm trên đường đi mỗi khi mà tôi kiếm được việc làm. Tôi cố gắng để khỏi có những sự phiền muộn, vì tôi đã đền tội một năm trong nhà tù ở Exeter, và điều đó cũng đủ với tôi rồi. Nhưng không có gì khó khăn bằng sự đi tìm việc làm khi mà tên của mình đã bị một dấu chữ thập đen dính vào; suýt nữa thì tôi đã bị chết đói. Sau cùng, sau khi trải qua mười ngày đi chặt củi và đập đá vụn để kiếm một đồng lương chết đói, tôi đã tới gần Salisbury với hai đồng bạc trong túi, và một lòng kiên nhẫn cũng tồi tệ như đôi giày của tôi vậy. Trên đường đi, khoảng giữa Blanford và Salisbury, có một quán rượu với tấm bảng hiệu "Thiện chí". Tối hôm đó, tôi thuê một cái giường ở quán rượu này. Tôi ngồi có một mình trong tửu quán, một ít lâu trước giờ đóng cửa, khi chủ quán, một người tên là Allen, đi tới ngồi cạnh tôi và bắt đầu nói với tôi về những chuyện tầm phào trong xứ. Đó là một người thích nói và muốn có người nghe hắn nói; tôi là kẻ chẳng có việc gì để làm, tôi ngồi lại đó để hút thuốc trước một bình rượu bia mà hắn đem cho tôi. Tôi đã nghe hắn nói một cách lơ đãng, cho tới lúc hắn bắt đầu nói ba hoa (hình như ma quỷ nhập vào hắn) về những nhà đại phú ở lâu đài Mannering.

Tôi hỏi:

- Đó là cái nhà lớn ở mạn bên phải trước khi tới ngôi làng phải không? Cái nhà nằm giữa một hoa viên tư phải không?

- Đúng thế!

Tôi sẽ nhắc lại hết cuộc nói chuyện của chúng tôi để ngài thấy rằng tôi nói đúng sự thật và tôi không giấu ngài một điều gì.

- Tòa nhà trắng dài với những cây cột. Ở cạnh con đường Blandford.

Vâng, tôi đã để ý tới nó khi đi qua; tôi đã tự nhủ một cách rất ngu xuẩn rằng đó là một căn nhà rất dễ ăn trộm với một dãy dài các cửa sổ lớn và những cửa lớn lồng kính. Tôi đã xua đuổi ý nghĩ này, và nay thì anh chàng chủ quán lại nhắc tới cái nhà đó với câu chuyện những nhà phú hào cư ngụ tại lâu đài Mannering. Tôi không nói gì cả, nhưng tôi lắng tai nghe, và làm như một việc khẩn thiết, hắn ta quay trở lại câu chuyện.

- Lúc còn trẻ, ông ta đã bần tiện rồi. Đó, anh nghĩ là với tuổi tác ông ta vẫn không cải đổi gì cả. Tuy vậy, với tiền bạc của ông ta, ông ta đã làm nhiều việc không đến nỗi tệ lắm.

Tôi hỏi:

- Ông ấy đã có thể làm được việc gì, với tiền bạc mà ông ấy không dám tiêu pha?

- Hà, ông ta đã có thể mua được người đàn bà đẹp nhất nước Anh! Đó không phải là điều quá tệ. Cô ấy tưởng tượng là cô ấy sẽ có tiền bạc tiêu xài; hôm nay thì cô ấy đã vỡ mộng rồi.

- Cô ấy là ai vậy?

Tôi đã đặt những câu hỏi, chỉ là để có chuyện mà nói thôi.

- Một cô gái cầu bơ, cầu bất trước khi được nhà quý tộc già cưới làm vợ. Cô ta từ Luân Đôn tới. Một vài người nói chắc rằng cô ấy là diễn viên, nhưng không ai chứng thực được điều này. Nhà quý tộc già vắng nhà trong một năm. Khi ông ta trở về, ông ta dẫn theo một phụ nữ trẻ, người mà từ đó không ra khỏi tòa lâu đài nữa. Stephens, người đầu bếp, đã có lần kể lại với tôi rằng cô ấy là ánh sáng trong căn nhà khi cô ấy tới đó nhưng với những cung cách bần tiện và kiêu căng của ông chồng, với sự cô độc bao quanh ông ta (vì ông ta ghét tiếp khách) và với lời nói khắc bạc của nhà quý tộc (vì ông ta có một cái lưỡi như nọc ong vò vẽ), tất cả cuộc sống bây giờ hình như đã xa lánh cô ấy: cô ấy trở nên xanh xao, trầm lặng, suốt ngày đi thơ thẩn trên những con đường quê, lòng nặng ưu phiền. Cũng có nhiều người nói rằng cô ấy yêu một người đàn ông khác, rằng cô ấy đã không cầm lòng được trước sự cám dỗ của tiền tài, và bây giờ thì cô ấy trở nên tiều tụy buồn phiền vì cô ấy đã mất người yêu mà cũng chả có giàu sang. Bất kể tiền bạc của chồng, cô ấy là người đàn bà nghèo nhất trong giáo xứ.

Thưa ngài, chắc ngài hiểu rõ rằng những chuyện cãi cọ giữa một nhà quý tộc và một bà phu nhân chẳng ăn nhằm gì đến tôi cả. Việc cô ấy căm ghét tiếng nói của ông chồng hoặc ông ta làm cô ấy bực bội vì những lời mai mỉa, chế giễu với hy vọng là làm hủy hoại tâm hồn cô ấy, hoặc là ông ta nói với cô ấy như chưa từng bao giờ nói như vậy với một người trong bọn tôi tớ của ông ta, có thể làm tôi bận tâm ư? Gã chủ quán đã kể cho tôi nghe hàng lô chuyện ở đó, nhưng chúng đã ra khỏi đầu óc tôi, vì chúng không liên can gì tới tôi. Ngược lại, điều tôi muốn biết là tài sản của nhà quý tộc Mannering gồm những thứ gì? Những chứng khoán, những cổ phần đều chỉ là những giấy tờ và là nguồn gốc của tai họa nhiều hơn là lợi lộc cho kẻ nào chiếm đoạt chúng. Trái lại, quý kim và các đồ nữ trang mới đáng với sự mạo hiểm. Như thể hắn ta đã đoán được tất cả ý nghĩ của tôi, gã chủ quán nói với tôi về bộ sưu tập lớn lao các huy chương bằng vàng của nhà quý tộc Mannering; hắn nói với tôi rằng khắp trên thế giới không có bộ sưu tập nào như vậy; người ta đã tính rằng nếu đem bỏ chúng vào một cái bao thì người lực lưỡng nhất trong giáo xứ cũng không nâng nổi nó. Tới lúc đó thì vợ hắn gọi hắn đi ngủ; chúng tôi chia tay nhau.

Thưa ngài, không phải là tôi đang tự biện hộ cho tôi, nhưng tôi xin ngài suy xét lại các sự việc, và xin hỏi ngài rằng có người nào lại bị cám dỗ một cách tàn bạo hơn tôi nữa. Tôi nhìn nhận rằng rất ít người có thể chống cự lại được. Đêm hôm đó tôi nằm duỗi dài trên giường, không chút hy vọng mà cũng chẳng có công việc làm, với một đồng bạc cuối cùng trong túi. Tôi đã cố sức làm người lương thiện: những người lương thiện đã quay lưng lại với tôi; họ quở trách tôi đã là một tên ăn cắp và đồng thời họ đẩy tôi trở lại thành một kẻ ăn cắp. Tôi đã dấn thân vào dòng nước; tôi không thể ra thoát khỏi nữa. Rồi thì ở nơi đó tôi đã gặp cơ hội như vậy. Một tòa nhà lớn với tất cả những cửa sổ của nó, những huy chương bằng vàng là thứ dễ nấu chảy ra, y như là để một miếng bánh trước một kẻ đang đói mà nghĩ rằng hắn sẽ không nhai ngấu nghiến miếng bánh đó. Tôi đã cưỡng lại được một lúc, nhưng vô hiệu. Tôi ngồi dậy, và tôi thề rằng, ngay tối hôm nay, hoặc là tôi sẽ giàu có và tôi sẽ có được các phương cách để chào vĩnh biệt tội ác, hoặc là những cái còng lại một lần nữa khép lại trên cổ tay tôi. Tôi mặc quần áo vào tôi đặt một đồng bạc trên bàn (vì gã chủ quán đã đối xử tử tế với tôi và tôi không muốn lường gạt hắn). Tôi đi ra bằng ngả cửa sổ và tôi thấy mình đứng trong vườn của quán rượu.

Một bức tường cao bao quanh khu vườn. Tôi phải vất vả lắm để leo lên tường; nhưng khi đã sang tới bên kia tường thì mọi việc đã dễ dàng. Tôi đã không gặp một người nào trên đường đi, và tấm lưới sắt của ngõ vào để mở ngỏ. Không có gì động đậy ở nhà của người gác cổng. Trăng sáng vằng vặc, xuyên qua một vòm cong các cây cối, tôi nhận rõ tòa nhà lớn màu trắng. Tôi đi vào khoảng bốn trăm mét, và tôi đã tới trước cái cửa ở bên cạnh lối đi; nấp mình trong bóng tối, tôi quan sát tòa nhà dài với những cửa sổ lấp lánh dưới ánh sáng trắng như bạc. Tôi tự hỏi tôi sẽ tìm thấy lối vào dễ nhất ở chỗ nào đây, cái cửa sổ ở chỗ góc cho tôi cảm tưởng là nó ở nơi khuất nẻo nhất vì cây trường xuân rủ xuống từng chùm rậm rạp khắp chung quanh. Tôi bước lại phía cái cửa số này trong khi lẩn dưới các cây cối, rồi tôi bò đi dưới bóng của cái nhà. Một con chó sủa lên, co kéo sợi dây xích của nó; tôi đợi cho nó nằm im; tôi lại tiến bước một cách lén lút, và cuối cùng tôi đã đi tới dưới cái cửa sổ mà tôi đã ghi nhớ.

Thật là đáng ngạc nhiên khi thấy ở miền quê mọi người thường lơ là, vô tâm? Tưởng rằng ở xa thành thị, người ta không bao giờ nghĩ tới những tên ăn trộm. Thật đúng là nhứ một con quỷ khốn khổ khi bàn tay nó đặt lên cánh cửa, mở nó ra không một chút khó khăn.

Trong trường hợp của tôi thì không phải hoàn toàn đơn giản như vậy, nhưng cái cửa sổ (một cái cửa sổ có cánh sập xuống) lại không cài chốt; tôi mở nó bằng cách dùng một lưỡi dao lớn. Tôi nâng nó lên, tôi nhét con dao vào giữa các tấm cánh cửa, tôi đẩy chúng về phía trước và tôi tụt xuống căn phòng.

- Chào ngài! Ngài tới thật đúng lúc - một giọng nói cất lên.

Trong đời tôi, đã có lúc tôi giật mình đến nẩy người lên, nhưng chưa bao giờ tôi bị giật nảy lên đến như vậy. Ở trong tầm các ngón tay của tôi, ngay trước các cánh cửa sổ mở ngỏ, một người đàn bà đứng không nhúc nhích, tay cầm một cây nến nhỏ, người cao lớn, mảnh mai, cô ta đứng thẳng người, cô ta có một khuôn mặt trắng, đẹp trông như được tạc bằng cẩm thạch; nhưng tóc và mắt thì đen sẫm như màn đêm. Cô ta mặc một áo ngủ màu trắng dài tới gót chân. Với cái áo đó và bộ mặt cũng trắng như vậy, cô ta nom giống như một con ma từ trên trời bước xuống đứng trước mặt tôi. Hai đầu gối tôi lẩy bẩy đụng vào nhau, tôi phải vịn vào một cánh cửa sổ để khỏi sụm xuống. Nếu tôi còn đủ sức lực thì tôi đã quay đầu chạy trốn. Nhưng tôi chỉ có thể đứng nhìn cô ta, miệng há hốc ra.

Bất chợt cô ta đã kéo tôi về với thực tế. Cô ta nói với tôi:

- Đừng có sợ...!.

Đó là những lời kỳ lạ để một bà chủ nhà nói với một tên ăm trộm.

- Tôi đã nhìn thấy anh từ cửa sổ phòng của tôi trong lúc anh ẩn nấp dưới các cây cối. Tôi đã đi xuống và đã nghe thấy anh ở phía bên kia cái cửa sổ. Tôi sẽ tự ý mở cửa cho anh nếu anh đợi thêm một lúc, nhưng khi tôi đến nơi thì anh đã tự một mình xoay xở được.

Tay tôi còn cầm con dao dài có khớp hãm mà tôi đã dùng để mở cánh cửa sổ. Tôi đã không cạo mặt, và trên hai má tôi có đầy bụi bặm trong tám ngày đi đường ít người dám nhìn thẳng vào mặt tôi lúc chỉ có hai người, vào một giờ đêm như thế này. Người đàn bà này thì trái lại, nếu cô ta đã có hẹn với tình lang, thì chắc cô ta cũng không nhìn hắn bằng con mắt đáng yêu hơn. Cô ta đặt một bàn tay lên cánh tay tôi, và cô ta kéo tôi vào bên trong căn phòng.

- Thưa bà, thế này là nghĩa làm sao? Xin chớ đem những sự cám dỗ nhỏ nhen mà thử thách tôi.

Tôi đã cất giọng nói lớn, và khi tôi cố sức nói như vậy thì tôi có thể có vẻ rất hung dữ.

- Nếu bà muốn giở trò lừa gạt tôi, thì mặc kệ bà!

Tôi chìa con dao ra với cô ta.

Cô ta trả lời:

- Tôi không muốn lừa gạt anh. Ngược lại, tôi là bạn của anh và tôi muốn giúp đỡ anh.

- Thưa bà, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi khó tin được việc này. Tại sao bà lại muốn giúp đỡ tôi?

- Vì những lý do riêng tư...

Bỗng nhiên, với những con mắt đen sáng rực trên khuôn mặt trắng, cô ta gần như gào lên với tôi:

- Vì rằng tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy! Bây giờ thì anh hiểu rồi chứ?

Tôi nhớ lại những điều mà gã chủ quán đã nói với tôi và rồi tôi đã hiểu. Tôi nhìn vào mặt cô ta: phải, tôi có thể tin ở cô ta? Cô ta muốn trả thù người chồng. Cô ta muốn đánh lão ấy vào chỗ trọng yếu nhất: vào cái túi tiền. Cô ta hận lão đến nỗi chịu hạ mình đặt tin tưởng vào một người như tôi, nếu cô ta có thể đạt được mục đích. Trong đời tôi, tôi đã từng thù hận nhiều người, nhưng tôi không nghĩ rằng tôi đã hiểu được thế nào là hận thù, trước khi nhìn thấy bộ mặt của cô ta dưới ánh sáng của cây nến.

- Bây giờ thì anh tin tôi rồi chứ? - cô ta hỏi tôi trong lúc lại một lần nữa đặt bàn tay dịu dàng lên cánh tay tôi.

- Vâng, thưa phu nhân.

- Thế ra anh biết tôi à?

- Tôi đoán ra cô là ai.

- Tôi biết rằng sự bất hạnh của tôi là câu chuyện được đồn đại trong khắp xứ. Nhưng ông ấy có bận tâm về việc đó không? Ông ấy chỉ bận tâm về một điều trên đời này, và điều đó là thứ mà anh sẽ lấy trộm của ông ấy ngay đêm hôm nay. Anh có một cái túi không?

- Thưa phu nhân, không.

- Hãy đóng các cánh cửa sổ lại. Không ai có thể nhìn thấy ánh sáng. Anh được an toàn triệt để. Bọn đầy tớ ngủ ở chái nhà bên kia. Tôi sẽ chỉ cho anh thấy nơi để những đồ vật quý giá nhất. Anh sẽ không thể mang đi tất cả: anh sẽ chọn lựa những thứ đẹp nhất.

Căn phòng mà tôi lẻn vào thì dài và có cái trần thấp; những tấm thảm, những tấm lông thú nằm rải rác trên một sàn ván đẹp, đánh xi bóng loáng. Có những tủ kính nhỏ. Những bức tường được trang trí với các cây giáo, các thanh gươm, các mái chèo và những đồ vật khác thường được bày trong các viện bảo tàng. Cũng có cả những thứ y phục kỳ lạ đã được mang về từ các nước xa lạ; vị phu nhân cúi mình xuống và nhặt một cái túi bằng da đen.

- Cái túi để nằm ngủ này sẽ được việc - cô ta nói - Hãy theo tôi, tôi sẽ chỉ cho anh rõ nơi cất các huy chương.

Thoạt giống như một giấc mộng: người đàn bà cao lớn mặc toàn màu trắng này, vốn là nữ chủ nhân của tòa nhà, lại tiếp tay cho tôi ăn trộm nhà cô ta?... Tôi đã định cười phá lên, nếu trên khuôn mặt nhợt nhạt của cô ta tôi không phát hiện ra một điều gì làm giá lạnh nụ cười trên môi tôi. Cô ta đi qua trước mặt tôi như một hồn ma, với cây nến trong tay, và tôi đi theo cô ta với cái túi trong tay tận tới cái cửa lớn ở phía cuối phòng bảo tàng này. Cái cửa được khóa kín, nhưng chìa khóa nằm trong ổ khóa; cô ta mở cửa ra và chúng tôi đi vào.

Căn phòng kế cận thì nhỏ bé, có treo những tấm màn vẽ. Trên một tấm là hình một cuộc săn hươu, tôi nhớ rất rõ về tấm màn này, và dưới ánh sáng của cây nến người ta có thể nghĩ rằng những con chó và những con ngựa từ trong tường xông ra. Vật duy nhất khác trong căn phòng là một dãy tủ kính bằng gỗ hồ đào, với những trang trí bằng đồng và những mặt trên bằng kính. Thoạt vừa nhìn tôi đã nhận thấy rất nhiều huy chương bằng vàng, được xếp thành từng hàng, trong số đó một vài cái lớn bằng những cái đĩa và có bề dày tới ba hay bốn phân tây; chúng được đặt trên nhung đỏ; ánh vàng của chúng lấp lóe trong bóng tối. Tôi thấy các ngón tay ngứa ngáy và tôi luồn con dao vào ổ khóa của một trong các tủ kính để làm bật nó ra.

- Đợi một lát. - cô ta nói với tôi trong khi lại bắt đầu đặt bàn tay lên cánh tay tôi - Anh có thể tìm được thứ quý hơn.

Tôi đáp:

- Chỗ này là quá đủ cho tôi rồi. Và tôi vô vàn cảm ơn phu nhân về sự giúp đỡ tôi.

Nhưng cô ta vẫn khăng khăng:

- Tôi nói với anh là còn nhiều thứ quý giá hơn. Những vị vua chúa bằng vàng sẽ có lợi cho anh nhiều hơn là những tấm huy chương này.

- Vâng, đúng thế! Các vị vua chúa bằng vàng, còn thứ gì quý hơn nữa.

- Được rồi. Ông ấy ngủ ngay bên trên đầu chúng ta. Ta chỉ cần lên một cầu thang nhỏ. Bên dưới giường của ông ấy, ông ấy giấu một cái hòm nhỏ đựng khá nhiều tiền đủ nhét đầy cái túi của anh.

- Nhưng tôi làm thế nào để lấy nó mà không làm ông ấy thức giấc?

- Có gì là quan trọng nếu ông ấy thức giấc?!...

Cô ấy nhìn chằm chằm vào mặt tôi khi nói câu này.

- Anh biết rõ cách ngăn cản không cho ông ấy kêu lên chứ?

- Dạ không, thưa bà! Không có chuyện đó. Tôi không làm được đâu

- Tùy ý anh đó! Lúc mới gặp tôi cứ nghĩ anh là một người cứng cỏi, nhưng tôi thấy là tôi đã lầm. Nếu anh sợ hãi một ông già thì tất nhiên là để mặc xác số vàng bên dưới giường ông ấy. Anh là vị quan tòa tốt hơn tôi về các việc riêng của anh, nhưng tôi nghĩ rằng tốt nhất là anh nên chọn một nghề khác.

- Tôi không muốn có một vụ sát nhân đè nặng lên lương tâm tôi.

- Anh có thể khống chế mà không làm tổn thương ông ấy. Tôi không bao giờ nói tới việc giết người. Tiền để ở dưới giường. Nhưng nếu anh sợ thì tốt nhất là anh đừng mạo hiểm làm việc gì cả.

Đó là cách thức mà cô ta đã tác động tôi: một phần với sự mai mỉa của cô ta, một phần với số vàng mà cô ta đem ra làm lóe mắt tôi. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ nhượng bộ và tôi sẽ trở nên liều lĩnh tại nhà của nhà quý tộc già nua nếu tôi không chú ý tới đôi mắt của cô ta: đôi mắt này đã phụ giúp cho cuộc đấu tranh nội tâm của tôi bằng một sự biểu lộ quá gian xảo, quá hung dữ khiến tôi hiểu ngay rằng cô ta cố gắng làm tôi trở thành công cụ cho sự trả thù của cô ta, và cô ta không để cho tôi một sự chọn lựa nào khác ngoài việc loại trừ ông chồng ra khỏi tình trạng có thể làm hại cô ta hoặc để cho tôi bị ông ấy bắt được. Cô ta đã cảm thấy rõ là ý đồ đã bị phát lộ, và tức thì ban tặng cho tôi một nụ cười thân mật; nhưng đã quá muộn rồi; tôi đã có một sự cảnh giác của tôi.

Tôi bèn nói.

- Tôi không muốn lên lầu. Tôi đã có đủ mọi thứ tôi cần đây rồi.

Cô ta đã làm tôi choáng người vì sự khinh bỉ của cô ta.

- Được lắm. Anh có thể lấy những cái huy chương này đi. Tôi nghĩ rằng anh nên bắt đầu từ phía bên kia. Chắc chắn là khi đã nấu chảy ra rồi thì tất cả chúng đều cùng có một giá trị như nhau thôi, nhưng các huy chương này là những thứ hiếm có hơn do đó là thứ quý báu hơn đối với ông ấy, không cần phải bẻ các ổ khóa. Nhấn mạnh vào cái nút đồng này, anh sẽ chuyển động một cái lò so bí mật. Kia kìa! Hãy lấy cái này trước: đó là con người trong mắt lão ta...

Cô ấy mở một cái tủ kính; tất cả những đồ vật đẹp đẽ được phơi bày ra trước mặt tôi. Tôi đã dặt tay lên tấm huy chương mà cô ta vừa chỉ thì bỗng nhiên tôi thấy nét mặt cô ta thay đổi, và cô ta giơ một ngón tay.

- Suỵt! Cái gì vậy?...

Trong sự im lặng của tòa nhà chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân lê đi rất nhẹ, ngay tức thì cô ta đóng tủ kính lại.

- Đó là chồng tôi! Anh đừng sợ! Mọi việc sẽ tốt đẹp thôi. Tôi sẽ dàn xếp mọi việc. Chỗ này? Mau lên, đằng sau tấm thảm!...

Cô ta đẩy tôi vào phía sau những tấm màn sơn, tôi và cái túi rỗng không trong tay - rồi cô ta cầm lấy cây nến và nhanh nhẹn đi trở vào phòng bảo tàng, nơi mà chúng tôi vừa ra khỏi. Từ chỗ tôi đứng, tôi có thể nhìn thấy cô ta qua cái cửa mở ngỏ.

Cô ta nói lớn:

- Có phải mình không, Robert?

Ánh sáng của một cây nến lóe lên phía sau cái cửa của phòng bảo tàng; tiếng bước chân tới gần. Rồi tôi thấy hiện ra trên bậc cửa một bộ mặt lớn, nặng nề, đầy những vết nhăn và những nếp da bùng nhùng mỡ, với một cái mũi cong khoằm có mang kính gọng vàng. Ông ta rất cao lớn to. Với cái áo ngủ, ông ta đứng che kín cả cái cửa - ông ta có mái tóc bạc, xoắn lại thành từng cuộn, nhưng ông ta không có râu. Miệng ông ta thì nhỏ, mỏng, chúm lại, bị mờ nhạt đi dưới sự uy hiếp của cái mũi ngạo nghễ. Ông ta đứng yên bất động, quan sát vợ với một cái nhìn xa lạ, hiểm ác mới thoạt nhìn tôi đã hiểu ngay là ông ta biểu lộ với vợ những tình cảm mà cô ta đã dành cho chồng.

Ông ta hỏi vợ:

- Thế này là nghĩa làm sao? Một sự nổi hứng mới à? Tại sao lại có cuộc đi dạo chơi ban đêm này trong nhà? Làm sao mà cô lại không đi ngủ?

- Tôi không thể ngủ được...

Cô ta nói một giọng chán chường, thê thảm. Nếu ngày xưa cô ta đã lên sân khấu, thì hắn cô ta đã không quên nghề nghiệp của mình.

- Tôi có cần gợi ý cho cô là một lương tâm trong sáng sẽ giúp một cách rất hiệu lực cho giấc ngủ không?

Ông ta lại lên tiếng với cũng một giọng chế nhạo như vậy

Cô ta trả lời:

- Tôi không tin điều đó, bởi vì ông vẫn có những giấc ngủ rất ngon mà.

- Trong suốt cuộc đời tôi, tôi chỉ xấu hổ về một chuyện thôi... - Tóc ông ta dựng đứng lên lởm chởm vì tức giận; ông ta nom giống như một con ác điểu. - Cô biết hơn ai hết là tôi nói việc gì. Và sự trừng phạt đã theo sau lỗi lầm.

- Đối với tôi, cũng đúng như thế: chớ quên điều này.

- Cô còn phàn nàn cái gì? Chính tôi đã tự hạ thấp mình xuống; còn cô, cô đã được cao sang.

- Cao sang?

- Đúng vậy! Tôi nghĩ rằng cô sẽ không chối cãi là cô đã được mãn nguyện khi tới đây, tới lâu đài Mannering. Tôi đã phạm sai lầm lớn khi đem cô ta ra khỏi môi trường thật sự của cô.

- Nếu đúng là ông nghĩ như vậy, tại sao chúng ta không chia tay nhau?

- Bởi vì một sự bất hạnh riêng tư còn tốt hơn là một sự nhục nhã trước mọi người. Bởi vì ngấm ngầm đau khổ về một lỗi lầm còn dễ hơn là thú nhận nó. Và cũng bởi vì tôi thích có cô ở trước mắt và biết rằng cô không thể quay trở lại với hắn.

- Đồ vô lại! Đồ hèn nhát?

- Đúng vậy, Milady. Tôi biết tham vọng thầm kín của cô, nhưng khi tôi còn sống, nó sẽ không thực hiện được đâu và rất có thể là tôi sẽ có những cách xếp đặt để sau khi chết rồi tôi vẫn còn canh chừng để khi cô trở về sống với hắn mà không có một đồng xu dính túi. Cô và anh chàng Edward yêu quí của cô, không bao giờ các người được toại nguyện phung phí tiền bạc của tôi, phải nói cho cô biết ý định này, Milady ạ. Tại sao các ô cửa và cửa số lại mở ngỏ thế này?

- Tôi thấy căn phòng có mùi hôi.

- Đó không phải là sự khôn ngoan. Biết đâu lại không có một tên du đãng đi dạo quanh đây? Cô có biết rằng bộ sưu tập huy chương của tôi có giá trị hơn bất cứ bộ sưu tập nào trên thế giới không? Cô cũng để cửa lớn mở ngỏ nữa. Ai sẽ có thể ngăn cản được một tên ăn cắp lấy trộm đồ của tôi?

- Có tôi ở đây mà.

- Tôi biết điều đó. Tôi đã nghe thấy cô đi trong phòng dể huy chương; đó là lý do tại sao tôi đi xuống. Cô đã làm gì ở đó?

- Tôi xem các tấm huy chương. Tôi còn có thể làm gì khác được?

- Sự hiếu kỳ này là mới mẻ đấy!

Ông ta ném cho vợ một cái nhìn nghi ngờ và ông ta đi vào phòng nhỏ chứa các huy chương. Cô ta đi theo chồng.

Ngay vào lúc đó tôi nhìn thấy một vật làm tôi phát run lên. Tôi đã đế con dao có khớp hãm lưỡi mở sẵn trên mặt tủ kính. Nó nằm phơi ra đó, mắt thường cũng nhìn thấy được. Cô ta đã nhìn thấy con dao trước ông ta, và với tất cả sự sắc bén của một người đàn bà, cô ấy nâng cao cây nến lên để ngọn lửa nến len vào khoảng giữa con dao và cặp mắt của nhà quí tộc Mannering. Rồi tay trái cô ta cầm lấy con dao và áp nó sát vào áo ngủ của mình không để ông ta nhìn thấy. Ông ta kiểm soát các tủ kính, lần lượt từng cái một; có một lúc nào đó tôi đã có thể đặt bàn tay tôi lên cái mũi dài của ông ta. Như không có gì chứng tỏ là có người đã đụng chạm tới các tấm huy chương, ông ta đi ra, kéo lê hai chân tới gian phòng lớn..

Và bây giờ tôi phải nói tới một điều mà tôi nghe thấy chớ không phải là nhìn thấy, nhưng tôi xin thề với ngài, cũng đúng thật như một ngày nào mà tôi trình diện trước đấng tối cao, là tôi sẽ nói sự thật với ngài.

Khi họ đi vào phòng bảo tàng, tôi trông thấy ông ta đặt cây nến trên góc bàn, rồi ông ta ngồi xuống, nhưng vừa đúng ngoài tầm nhìn của tôi. Cô ta thì đứng sau lưng ông ta, theo như tôi có thể biết vì cây nến chiếu ra bóng của nhà quí tộc già trên sàn nhà trước mặt ông ta. Lúc đó ông ta lại nói đến gã đàn ông mà ông ta gọi tên là Edward, ông ta nói nhỏ, và tôi không hiểu tất cả nhưng theo những điều tôi nghe được thì giống như cô ta bị những ngọn roi quật vào mình... Thoạt đầu cô ta trả lời bằng những từ ngữ rất bén nhọn, rồi thì cô ta im tiếng; ông ta cứ tiếp tục làm tổn thương vợ, chửi mắng, hành hạ vợ bằng giọng nói lạnh lùng và chế nhạo; tôi tự hỏi tại sao cô ta lại có thể giữ được im lặng khi nghe ông ta nói thế. Bỗng nhiên tôi nghe thấy ông ta nói với một giọng sắc bén:

- Đừng đứng đằng sau tôi nữa! Buông cổ áo tôi ra! Cái gì thế cô muốn đánh tôi à?

Đúng là tôi đã nghe thấy một tiếng động giống như một nhát đánh một thứ tiếng đục và nhẹ, rồi tôi nghe thấy ông ta kêu lớn: "Lạy chúa tôi, nhưng đây là máu mà!" ông ta cựa quậy hai bàn chân như muốn đứng lên. Lúc đó tôi lại nghe thấy một nhát đánh nữa, và ông ta thét lên: "ôi, đồ quỉ cái". Và sau một tiếng đổ vật trên sàn nhà và tiếng một chất lỏng chảy, sự im lặng lại bao trùm.

Tôi vội vã đi ra khỏi chỗ ẩn nấp và tôi chạy vào gian phòng lớn, tôi run rẩy cả chân tay; tôi bị kinh hoảng. Nhà quí tộc già đã tụt xuống khỏi cái ghế và trên lưng ông ta cái áo ngủ, làm thành một cái bướu khủng khiếp. Cái đầu ông ta vẫn còn đeo kính, lăn sang một bên; cái miệng nhỏ bé của ông ta há hốc ra như một con cá chết. Tôi không trông thấy máu chảy ra từ nơi nào, nhưng tôi nghe thấy nó rơi lộp độp trên sàn nhà. Còn cô ta? Kia kìa, môi cô ta mím chặt, đôi mắt long lanh, và lúc này thì cặp má hồng ửng lên. Cô ta chỉ thiếu một chút sắc hồng nhạt này để trở thành người đàn bà xinh dẹp nhất mà tôi đã

từng thấy.

Tôi ấp úng nói:

- Cô đã giết ông ta?

- Phải, - cô ta trả lời tôi với sự điềm tĩnh cố hữu, - Bây giờ tôi đã giết ông ta.

Tôi hỏi:

- Cô sẽ làm thế nào? Cũng chắc chắn như hai với hai là bốn, cô sẽ bị bắt giữ về tội sát nhân.

- Anh khỏi phải lo sợ cho tôi. Đời sống chẳng có gì làm tôi quan tâm cả; sự sống không quan trọng đối với tôi. Hãy giúp tôi một tay để đặt lại ông ta lên ghế, nhìn như thế này khủng khiếp lắm!

Tôi phụ giúp cô ta. Chỉ chạm vào ông ta mà người tôi đã lạnh giá như băng. Một ít máu chảy lên bàn tay tôi. Tôi buồn nôn.

- Bây giờ thì hoặc là anh hay kẻ nào khác lấy những tấm huy chương này - cô ấy dõng dạc nói - Hãy lấy đi và đi khỏi!

- Tôi không muốn lấy chúng. Tôi muốn đi khỏi, có thế thôi. Chưa bao giờ tôi bị dính vào một vụ như thế này.

- Thật là ngu ngốc. Anh tới đây vì những tấm huy chương; chúng nằm kia, thuộc quyền sử dụng của anh. Tại sao anh không lấy? Không có ai ngăn cản việc anh lấy chúng đi.

Trong tay tôi còn cầm cái túi trống rỗng. Cô ấy mở tủ kính, cả hai chúng tôi bỏ chừng một trăm tấm huy chương vào cái túi. Chúng đều nằm trong cùng một tủ kính; tôi không muốn đợi lâu hơn nữa. Tôi đi về phía cửa sổ vì không khí trong tòa nhà làm tôi ngộ độc sau những gì tôi đã trông thấy và nghe thấy. Tôi quay đầu lại. Tôi thấy cô ta vẫn đứng yên, mảnh mai, cao lớn, đài các, với cây nến trong tay, giống hệt như lúc tôi nhìn thấy cô ta lần đầu tiên Cô ta vẫy tay nói lời tạm biệt với tôi. Tôi đáp lại cô ta cũng bằng dấu hiệu đó. Tôi nhảy qua cửa sổ vào lối đi lát sỏi.

Tôi cảm ơn Thượng đế là tôi có thể đặt tay lên trái tim mà thề rằng tôi đã không bao giờ phạm tội ác; nhưng có lẽ tôi sẽ không có thể thề việc này, nếu tôi đọc được ý nghĩ trong đầu người đàn bà này. Nếu tôi đoán được những gì ẩn nấp sau nụ cười cuối cùng của cô ta, thì lúc đó sẽ có hai xác chết trong gian phòng thay vì chỉ có một xác thôi. Nhưng tôi chỉ nghĩ tới một việc: Tẩu thoát để khỏi bị bắt giữ. Tôi hoàn toàn không nghĩ tới chuyện cô ta đang tròng dây thừng vào cổ tôi. Tôi chưa đi được năm bước ở bên ngoài bằng cách men theo tòa nhà và ẩn mình trong bóng tối thì tôi đã nghe thấy một tiếng la đủ sức làm thức giấc tất cả giáo xứ; rồi một tiếng thứ hai, và còn một tiếng thứ ba nữa.

- Có án mạng! - cô ta kêu lớn - có án mạng! Cấp cứu!

Tiếng cô ta vang lên trong sự yên tĩnh của ban đêm, và tiếng vọng lan ra khắp cả mọi nơi. Tiếng kêu rùng rợn đó, nó đã xuyên thủng đầu. tôi Trong một khoảng khắc, những ánh sáng đã hiện ra, đã chuyển động, và các cửa sổ được mở tung: không phải chỉ trong tòa nhà đằng sau tôi mà cả trong nhà người gác cửa và các chuồng ngựa trên đường đi của tôi. Như một con thỏ hoảng hốt, tôi lao mình trong lối đi và tôi chạy với hết tốc độ của đôi chân, nhưng tấm lưới sắt đã đóng lại trước khi tôi có thể tới chỗ nó. Tôi giấu cái túi đựng huy chương dưới một đống củi và tôi toan chạy trốn qua công viên, nhưng một người nào đó đã trông thấy tôi, và chả mấy lúc dã có năm, sáu người với những con chó đuổi theo tôi. Tôi náu mình sau các bụi cây; nhưng những con chó chồm lên người tôi và tôi đã rất mừng khi mọi người chạy tới, nếu không tôi đã bị chúng nuốt sống.

Họ túm lấy tôi và dẫn tôi trở lại căn phòng mà tôi đã bỏ chạy khỏi đó.

Người lớn tuổi nhất hỏi:

- Có phải người này không, thưa phu nhân?

Từ trước tôi đã biết người này là anh đầu bếp trưởng.

Cô ta cúi mình bên trên xác chết, cô ta chùi mắt bằng một chiếc khăn mùi xoa, rồi quay lại phía tôi, bộ mặt của một mụ đàn bà hung ác, ôi, một nữ diễn viên tài giỏi làm sao!

- Phải, đúng là nó! - Cô ta kêu lên - Ôi, thằng ăn cướp! Thằng tàn ác! Đối xử như vậy với một ông già!

Trong đám người đứng quanh đó, có một người có vẻ là nhân viên cảnh sát trong làng. Ông ta đặt một bàn tay lên vai tôi, ông ta hỏi tôi:

- Anh có gì để trả lời việc này?

- Chính cô ấy đã giết ông ta!- Tôi gào to lên trong khi chỉ tay vào cô ta.

Cô ta vẫn điềm nhiên, tiếp tục nhìn tôi với một cái nhìn tỉnh táo.

Người cảnh sát nói:

- Nào, anh còn, lời bào chữa khác không?

Một tên trong bọn đầy tớ đã đấm tôi một cú đấm rất mạnh.

- Tôi đã nói với ông là tôi nhìn thấy cô ấy giết người! Cô ấy đã đâm ông ta hai nhất bằng một con dao. Thoạt đầu cô ấy đã giúp tôi lấy trộm đồ của ông ta; rồi cô ấy giết ông ta.

Tên đầy tớ muốn đánh tôi một lần nữa, nhưng cô ta đã giữ tay hắn lại. Cô ta nói thì thầm:

- Đừng làm tổn thương hắn. Tôi tin rằng pháp luật sẽ đảm nhiệm việc trừng phạt hắn.

- Thưa phu nhân, tôi sẽ lo việc đó! - người cảnh sát trả lời - Phu nhân đã chứng kiến rõ

ràng vụ án phải không ạ?

- Phải, phải! Tôi đã chính mắt nhìn thấy vụ án. Thật là khủng khiếp. Chúng tôi đã nghe thấy tiếng động và chúng tôi cùng đi xuống. ông chồng xấu số của tôi đi trước. Người này đã mở dược một tủ kính, và hắn ta đang nhét đầy cái túi da đen hắn cầm trong tay. Hắn định chạy trốn, nhưng ông chồng tôi đã bắt hắn lại; hai người đánh nhau, và hắn đã đâm ông ấy hai nhát dao găm. Hãy nhìn xem: hắn còn máu trên hai bàn tay. Nếu tôi không lầm thì con dao vẫn còn nằm trong lưng chồng tôi.

- Các ông trông kìa; cô ấy có những bàn tay đẫm máu. - tôi dã kêu lên.

- Cô ấy đã đỡ cái đầu của ông lớn, đồ dối trá đê tiện - gã đầu bếp cãi lại.

- Và đây là cái túi mà phu nhân nói tới lúc nãy - người cảnh sát nói, ông ta vừa được một tên chăn ngựa đem tới cho cái túi mà tôi đã quẳng đi trong lúc chạy trốn. Và những tấm huy chương nằm ở bên trong. Như thế là quá đủ cho tôi rồi - tối hôm nay chúng ta hãy giừ hắn ở đây và ngày mai sẽ giải hắn tới Salisbary.

Người đàn bà nói:

- Đồ ma quỉ xấu xa! Về phần tôi, tôi tha thứ cho hắn về sự thương tổn hắn đã gây ra cho tôi. Ai biết được sự cám dỗ nào đã đưa đẩy hắn tới tội ác? Lương tâm của hắn và luật pháp sẽ trừng phát hắn một cách thích đáng để tôi khỏi phải nói ra những lời nguyền rủa hắn.

Tôi đã không thể trả lời được câu nào, thưa ngài, tôi xin đoan chắc với ngài là tôi không thể trả lời được câu nào. Tôi bị bối rối vì sự trắng trợn của người đàn bà này. Vì sự im lặng của tôi có vẻ như đã xác nhận tất cả những điều cô ta nói, tôi đã bị người cảnh sát kéo vào trong căn hầm, tại đó tôi bị nhốt qua đêm.

Đấy thưa ngài, tôi đã nói với ngài tất cả chuyện về các biến cố dẫn tới vụ giết chết nhà quí tộc Mannering bởi vợ ông ta trong đêm 14 tháng 9 năm 1894. Có lẽ ngài sẽ bác bỏ sự trình bày các biến cố của tôi, như người cảnh sát ở lâu đài Mannering, như vị quan tòa ở tòa án địa phương hoặc có lẽ ngài sẽ tìm ra một tia chân lý, điều sẽ làm ngài bận tâm, và ngài sẽ mãi mãi giữ vững thanh danh một người không lùi bước trước bất kỳ một trở ngại nào để làm sáng tỏ chân lý và sự công bằng. Thưa ngài, tôi chỉ có thể khẩn cầu với ngài, nếu ngài rửa sạch được tên tuổi tôi khỏi sự cáo buộc gian dối này, tôi sẽ đội ơn ngài cho tới hết đời. Nhưng nếu ngài bỏ rơi tôi.

Kết Thúc (END)

Trên Xa Lộ Không Đèn

Font Size: Tác Giả: Truyện Ma

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Hai vợ chồng ông bà Thọ lái xe đi ăn đám cươí ngươì bà con ở Toronto, khi tiệc xong, ông bà muôn' lái xe về Montreal liên' ngay khuya hôm đó , vì san'g mai có việc cân' làm gâp'. Đương' tuy không xa nhưng phaỉ laí xe 6 hours sau buôỉ tiêc. mêt moỉ coi bộ ông Thọ cun~ng ngán lăm'. Ngồi trên xe chỉ có 2 ông bà, nên bà Thọ sợ ông ngủ nguc, nhìn bên đương' thì trơì tôí thui lui mà laị văng' vẻ. Cho nên bà kiếm chuyên. kể cho ông nghe khoỉ buon' ngủ... Bà kể laị nhưng~ ngaỳ con' ở Vietnam, nhưng~ ngaỳ đâù ông bà sông' vơí nhau ở Dà Lat , có vươn' hoa do chính tay ông chăm sóc và con' nhiêù kỹ niêm nưã... Kể đến đây , bà buôn' ngủ quá , măt' bà híp laị , và bà thiêp' đi lúc naò không hay biết... Xe vẫn êm êm chay trên đương' xa lô. Rôì bà cam? thấy gió nhẹ nhẹ thôỉ lươt' trên măt , và rôì hình như không còn hơi âm' cuả ông Thọ ngôì bên cạnh nưã , bà nghe như có tiêng' gì thở gâp' gap', càng luc' cang' thâý gân', và rôì chiêc' xe tựhiên rung lên trong bóng đêm, bà giât. mình tinh? hăn? và biết răng' không phaỉ bà mơ mà là sựhât.. Bà không thâý ông Thọ đâu , và chiếc xe như ngưng' laị hăn? và từ từ nhúc nhích... Bà sợ quá, hôt' hoang? và bà la lên: Ông ơi, cưú tôi vơí , ma kià, có ma kià... " Bà không nghe tiêng' ai trả lơì màlaị có tiêng' thở dôn' dâp. , gần như là sau gaý bà vây. Bà không con' dam' nhin' đi đâu và bà la lớn hơn: " ma, ma, có ma kià, cưú tôi vơí..." Thì bông~ nhiên bà nghe có tiếng trả lời..... " ma đâu mà ma, bà xuống đây phụ tôi đẩy chiếc xe đi nè, tựhiên lúc này mà nó chết máy, tôị nghiêp. tôi đẩy xe từ nảy giờ đó , mêt. muốn chết à........ "

Kết Thúc (END)

Án Mạng Đêm Cuối Năm

Font Size: Tác Giả: Agatha Christie

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Luật sư Mayher chăm chú quan sát chàng trai ngồi trước mặt ông, con người bị buộc tội giết người có dự mưu.

- Voler, tôi thiết nghĩ, anh nên thành thật khai báo, tôi mới có thể bào chữa cho anh được.

- Biết nói thế nào nhỉ. Tôi không thể bị buộc một tội mà tôi không hề làm. Tôi vô tội, tôi vô tội. Ông phải hiểu điều đó.

- Vâng. Tôi đang cố gắng lo cho anh được tự dọ Nhưng mọi bằng cớ đều chống lại anh. Không phải cứ la lên là mình sẽ vô tội.

- Tôi xin thề trước Thượng đế là tôi bị nghi oan. Tôi đã rơi vào một cái lưới không thể thoát ra được.

- Anh đừng thề mà hãy nói rõ cho tôi nghe, anh quen bà Fren trong trường hợp nào?

- Hôm đó, bà Fren suýt bị xe buýt tông, nên hoảng hồn đánh rơi đồ đạc tung toé ra đường. Tôi có mặt ở đó nên đã nhặt giùm cho bà ấy. Sau đó, tôi gặp lại bà trong một bữa tiệc tại nhà người bạn. Bà nhận ra tôi, nói chuyện với tôi rất thân mật, và khi ra về, bà yêu cầu tôi ghé thăm bà. Bạn tôi nói bà là một cô gái già rất giàu có, sống một mình với chị người làm và tám con mèo.

- Anh đang túng thiếu, lại làm quen với một bà già giàu sụ và cố tình kéo dài sự liên hệ thân mật. Nếu chúng ta chứng tỏ rằng anh không hề biết bà Fren giàu và anh chỉ đến thăm vì xã giao...

Mặt Voler tái đi:

- Havey, bạn tôi đã nói vụ bà Fren giàu trước mặt tôi và rất nhiều người, một vài người còn chế giễu tôi là chuột sa hũ nếp nữa chứ.

- Như vậy thì tôi phải giải thích sao khi một người trẻ tuổi đẹp trai như anh lại mất thì giờ cho một bà đã luống tuổi có tính khí khác thường.

- Thú thật với ông, sau lần viếng thăm đầu tiên, bà đã khẩn khoản mời tôi đến nữa. Bà than rằng bà cô đơn quá, nên xem tôi như con. Bà tử tế, nuông chiều tôi, do đó, tôi thực sự cảm mến bà như một người mẹ.

- Đến lúc nào thì bà ấy yêu cầu anh trông nom sổ sách cho bà?

- Sau bốn, năm lần viếng thăm. Bà ấy tính toán kém trong việc hùn hạp làm ăn.

- Vậy mà chị hầu phòng Jannette quả quyết rằng bà chủ của chị rất thạo việc. Đấy cũng là ý kiến của các ngân hàng có tài khoản của bà ấy.

- Họ nói sao ấy chứ trước mặt tôi, bà ấy tỏ ra rất vụng về.

Luật sư Mayher nhìn Voler. Ông tin vào sự vô tội của chàng thanh niên. Voler đã nói thật. Tâm lý các cô gái già là thường giả bộ ngây thơ để nhận ở những người đàn ông sự giúp đỡ. Và Voler đã đáp ứng được điều đó. Tằng hắng, ông hỏi:

- Có bao giờ anh lợi dụng lòng tin của Fren để kiếm lợi riêng cho anh không? Tôi sẽ có hai cách để bào chữa. Nếu trung thực, anh sẽ không cần nhúng tay vào máu để kiếm được món tiền mà anh có thể kiếm được một cách lương thiện. Bằng ngược lại, anh có những thủ đoạn mà bên công tố biết và sẽ đưa ra. Khi đó, tôi sẽ bảo rằng anh chẳng dài gì mà giết con gà đẻ trứng vàng ấy cả.

- Cảm ơn lòng tốt của ông. Tôi lúc nào cũng ngay thẳng khi làm việc với bà ấy. Nếu người ta cho rằng, tôi lợi dụng vật chất nơi bà ấy, thì cái chết của bà chỉ thiệt hại cho tôi thôi.

Luật sư Mayher nhìn thẳng vào mắt Voler:

- Anh có biết là bà Fren đã lập di chúc để một phần lớn tài sản cho anh không?

Voler nhỏm dậy như bị điện giật"

- Ông nói sao? Bà ấy để của cho tôi à? Vô lý.

Giọng luật sư vẫn điềm tĩnh:

- Anh không biết việc này thật à?

- Ồ, tôi hoàn toàn không biết gì cả.

- Vậy mà cô Jannette lại quả quyết là anh biết cơ đấy. Chính bà Fren đã tiết lộ với cô ta về chuyện này.

- Jannette ghét tôi nên bịa đặt đấy. Ông phải tin lời tôi.

- Anh đã đến nhà bà Fren vài buổi tối, chỉ có mình bà, và sáng hôm sau bà bị giết ở phòng khách. Quả thật tối hôm đó, lúc 9 giờ rưỡi, Jannette có ghé nhà bằng cửa sau để lấy một vài món lặt vặt ở phòng riêng rồi đi ngaỵ Cô ấy khai là có nghe thấy tiếng nói chuyện giữa bà chủ và một người đàn ông từ phòng khách.

Voler đứng phắt dậy:

- Vậy là tôi thoát nạn rồi. Vào lúc chín rưỡi, tôi đã về tới nhà. Vợ tôi có thể chứng minh cho tôi. Cảm ơn Thượng đế xui khiến Jannette ghé về đúng lúc.

Nét mặt luật sư vẫn không bớt đăm chiêu:

- Vậy theo ý anh, ai đã giết bà Fren?

- Một tên cướp. Y đã dùng thanh sắt đập vào đầu bà Fren. Một cánh cửa sổ bị phá vỡ, một số đồ vật bị lấy đi. Nếu không có sự nghi ngờ vô lý của Jannette và ác cảm của cô ta đối với tôi...

- Sự việc không đơn giản như vậy đâu. Anh nói anh về nhà lúc chín rưỡi, vậy mà Jannette lại nghe tiếng đàn ông nói chuyện với bà chủ trong phòng khách. Không lý bà ấy đi nói chuyện bình thường với một tên cướp?

- Dù sao đi nữa, người đó cũng không phải là tôi. Tôi đã có mặt tại nhà lúc chín rưỡi. Xin ông hãy đến gặp Romen, vợ tôi sẽ xác nhận lời khai của tôi.

- Bà Fren biết anh có vợ không?

- Dĩ nhiên là có.

- Jannette đã khai là chưa bao giờ anh đem vợ đến thăm bà Fren, cho nên bà ấy tưởng anh độc thân và có ý định sẽ lập gia đình với anh.

- Vô lý, bà ta quá già.

- Chuyện đó không thành vấn đề.

Voler đỏ mặt:

- Đó chỉ là sự tưởng tượng của Jannettẹ Tôi van ông, hãy đến gặp vợ tôi.

Romen, vợ Voler là một phụ nữ cao lớn, tiều tụy. Bà tiếp luật sư Mayher với vẻ hững hờ. Trông bà bình tĩnh đến lạnh lùng, điều này đã làm cho luật sư e ngại. Dù muốn dù không, ông cũng phải trình bày mọi việc cho người đàn bà ấy nghe. Im lặng một lát, Romen cất giọng đanh thép:

- Voler muốn tôi xác nhận là tối hôm đó, hắn trở về nhà lúc 9 giờ 20 phút chứ gì. Đừng hòng. Tôi không bao giờ đồng lõa với kẻ sát nhân đâu. Ông hãy nghe cho rõ đây, tôi xác nhận là Voler đã biết Fren có để lại gia tài cho hắn nên hắn đã giết mụ già để sớm được vinh thân. Tối hôm đó hắn trở về lúc 10 giờ hai mươi, trên áo đầy máu. Hắn thú nhận tất cả với tôi. Tôi sẽ là nhân chứng buộc tội hắn.

- Chị không thể làm chứng chống lại chồng.

- Hắn không phải là chồng tôi mà là một người đàn ông tồi tệ. Tôi căm thù hắn. Tôi muốn trông thấy hắn bị treo cổ.

- Tôi sẽ đến gặp chị sau khi liên hệ với Voler.

Romen bĩu môi:

- Ông tin là hắn vô tội ư? Thật đáng thương!

Trước ngày tòa xử, luật sư Mayher nhận được một lá thư, nét chữ nguệch ngoạc: "Nếu ông muốn vạch mặt mụ đàn bà đã hại chồng mình như thế nào, mời ông mang theo 2.000 đô la, đến địa chỉ X... vào lúc 19 giờ, hỏi bà Motion".

Khó khăn lắm, luật sư Mayher mới tìm thấy địa chỉ căn nhà. Đó là một túp lều ổ chuột nằm trong một con hẻm lầy lội, dơ dáy. Một mụ già lưng còng đợi ông sau cánh cửa:

- Chào anh chàng luật sự Vào đây, vào đây.

Ngọn đèn trên trần tỏa ánh sáng lờ mờ. Luật sư Mayher giật mình khi thấy gương mặt mụ già đầy những vết sần sùi đỏ hỏn. Mụ cất tiếng the thé:

- Axit đấy, anh bạn trẻ ạ. Tôi sẽ trả thù, trả thù.

- Thôi đi, bà hãy vào vấn đề nhanh lên.

Bàn tay gầy đét với những ngón cáu bẩn đưa ra:

- Thế tiền đâu? Phải đủ hai ngàn đấy nhé.

- Nếu bà biết điều gì đó, bà có bổn phận ra tòa làm chứng.

- Không. Tôi chả biết quái gì cả, nhưng tôi có thể cho anh một vài thứ rất haỵ Anh có thích đọc một lá thư của mụ Romen không? Rất cần thiết cho anh đấy. Đưa tiền đây.

- Tôi chỉ có một ngàn thôi. Nếu bà không chịu tôi xin kiếu.

- Quỷ tha ma bắt anh đi. Nào, bốc xỉa ngay.

Mụ già rút dưới tấm nệm rách ra một xấp bì thư, ném trước mặt Mayher:

- Chắc chắn anh sẽ khoái lá thư trên cùng.

Tất cả đều là những bức thư tình, do Romen viết gửi cho một người tên Mac. Lá thư cuối cùng viết đúng ngày Voler bị bắt: "Mac yêu quý, Voler vừa bị bắt vì tình nghi giết người. Em biết, Voler là một tên hiền như bụt, không hại đến một con ruồi. Nhưng em sẽ khai trước tòa là hắn trở về nhà với máu me đầy mình và đã thú nhận tội lỗi với em. Hắn sẽ bị treo cổ và chúng ta sẽ có nhau... ".

Mụ già nói thêm:

- Mac là chồng tôi. Ngày xưa, vì con bé Romen mà anh ta đã tạt axit vào mặt tôi. Tôi thù nó và đã theo dõi, rình rập nó trong bao nhiêu năm trời. Bây giờ nó sẽ bị trừng phạt vì tội khai man để đẩy chồng vào tù. Anh cứ tin đi. Hãy đến rạp chiếu bóng Eden đưa tấm hình Romen ra, người ta sẽ cho anh biết sự thật.

Không bỏ phí thời gian, luật sư Mayher đến ngay rạp chiếu bóng và ông đã đạt được ý muốn. Chẳng qua, trước khi lấy Voler, Romen từng là diễn viên kịch, nên nhiều người biết mặt. Họ xác nhận, đêm hôm xảy ra án mạng, Romen vào rạp coi xuất chót, vào lúc 10 giờ 20.

Ngày họp tòa. Romen khai rằng buổi tối hôm xảy ra án mạng, Voler ra khỏi nhà mang theo một thanh sắt. Hắn trở về lúc 10 giờ 20 và thú nhận với chị là đã giết bà Fren, hắn còn dọa sẽ giết chị nếu chị nói sự thật.

Lập tức, lá thư tội lỗi được đưa ra. Các chuyên viên về chữ viết đã xác nhận chữ trong thư đúng là của Romen. Người đàn bà điêu ngoa đã phải gục đầu thú nhận. Quả thật, Voler đã trở về nhà lúc 9 giờ 20 như lời anh đã khai.

Voler được trắng án.

Nhưng sự việc không ngừng ở đây, bởi lương tâm luật sư Mayher cảm thấy không yên. Lòng dạ Ông bồn chồn khi nhớ lại những cử chỉ của Romen trước vành móng ngựa. Lưng chị hơi còng, bàn tay phải luôn xòe ra, một thói quen kỳ la... hình như ông đã thấy một người cũng có cái tật như thế. Ai? Luật sư giật nẩy mình. Đúng rồi, Romen đã từng là kịch sĩ... mụ già mặt thẹo!

Ông tìm đến nơi Romen đang trả giá ba tháng tù vì tội khai man. Đầu óc ông quay cuồng với bao câu hỏi. Tại sao? Tại sao?

Người đàn bà trở lại vẻ lạnh lùng cố hữu:

- Tại sao tôi lại chơi cái trò ấy à? Tôi phải cứu chồng tôi chứ. Một lời khai của người vợ thương chồng đâu có thuyết phục được ai. Nếu những lời nói của tôi không tự ý mình, mà do những tác động bên ngoài bắt buộc thì ai cũng phải tin. Tôi bị phạt tù vì khai man hại chồng, nhưng chồng tôi sẽ được cảm tình của tòa và mọi việc sẽ thuận theo chiều hướng tốt đẹp.

- Còn tập thử Còn anh chàng Mac?

- Nếu chỉ viết một lá thư thì có vẻ giả tạo quá. Còn anh chàng Mac ư? Làm gì có, đó chỉ là một cái tên ma.

Luật sư Mayher hậm hực:

- Lẽ ra chị không nên làm thế. Chúng ta có thể chứng minh sự vô tội của Voler bằng một cách hợp pháp hơn.

Romen nhếch mép:

- Thế ông vẫn tin Voler vô tội ư?

- Dĩ nhiên. Chị đã rõ là tôi tin như vậy.

- Tôi thì chả rõ gì cả. Tôi biết chắc là chồng tôi đã giết bà Fren. Để làm gì ư? Vì chúng tôi quá nghèo, ngài luật sư ạ.

Kết Thúc (END)

Phải Chăng Là Ảo Giác ?

Tác Giả: Minh Nguyễn

Rỏ ràng tôi vừa thấy ông Wangliu trong gương. Không thể nào? Chính mắt tôi thấy xác ông mà. Hay là tôi bị ảo giác vì đầu óc quá căng thẳng???? Tôi phải đi gặp Lan và đám bạn của tôi. Dù sao ngày mốt cũng là thời hạn ba ngày đưa nhẫn cho họ xem. Tôi liền trở về phòng ngủ , tìm một cái bao tay đeo vào và ra ăn sáng.

Tôi vừa ăn vừa suy nghĩ lung lắm. Cháo gà mẹ tôi nấu tuyệt vời , vậy mà tôi ăn không thấy ngon. Cái bóng của ông Wangliu còn lỡn vỡn trong đầu tôi. Cha mẹ và em tôi nói loáng thoáng gì đó , tôi không nghe rõ... " Sao mặt thằng Minh tái ngắt vậy bà " , " Anh Minh đeo bao tay chi vậy? "...

- Minh! Minh ! Con bị gì vậy , sao không múc cháo ăn??

Nghe tiếng mẹ la , tôi giật mình thoát khỏi dòng suy nghĩ. Sợ mọi người nghi , tôi nhìn chén , múc một muỗng cháo. Bất ngờ:

- OH MY GOD, Cái Gì Trong Chén Vậy? Một... một... ngón tay trong chén cháo !

Tôi hất tung chén cháo ra giữa bàn , rồi ôm bụng ụa mửa. Mẹ tôi hốt hoảng nói với bố:

- Thằng Minh nó học nhiều quá bị bệnh rồi , ông dìu nó vô phòng nghỉ đi.

Tôi định thần nhìn kỷ lại , thì ra chỉ là cái cổ gà. Không đợi bố đỡ dậy , tôi chạy một mạch vô phòng và nói:

- Bố mẹ khỏi lo. Con không sao đâu , hơi bị cảm thôi.

Trong phòng tôi ngồi hít một hơi thở lấy bình tỉnh. Rỏ ràng tôi bị ám ảnh. Nhất định tôi không sợ nữa. Tôi cầm ống phôn gọi Lan và hết tất cả bạn bè , bắt họ ra gặp tôi tại một quán ăn. Ngày lễ không ai đi học , với lại tôi muốn chỉ cho họ xem chiếc nhẫn cho xong , để tôi còn tháo nó ra , quăng đi cho rồi. Ðêm dài lắm mộng , thiệt đúng không sai.

Dĩ nhiên là bạn bà tôi phục lăn. Lan thì khỏi nói , nàng là cô gái mới lớn , thích bạn trai mạnh khỏe , dám nói dám làm. Cả bọn họ ăn uống vui vẻ cười đùa , rồi mạnh ai nấy ra về vui vẻ. Chỉ có tôi là dại dột. Họ đâu biết tôi đã trải qua những giây phút kinh hoàng. Quả thật tôi dại , còn trách ai nữa chứ. Ðợi mọi người về hết tôi tháo bao tay ra coi lại bàn tay mình.

Tôi giật mình lo ngại , bàn tay tôi hình như có vẻ teo lại , và đen hơn. Tôi đưa cả hai tay lên so sánh. Rỏ ràng hai tay khác nhau. Tay trái tròn trịa , trắng trẻo , to hơn tay phải. Tôi sợ hải không biết phải làm sao. Ngón tay vẫn còn sưng , không lấy nhẫn ra liền được. Tôi đành phải chờ một hôm nữa...

Tai Họa Từng Ngày Một ngày nữa (11/28/99) trôi qua , cứ chốc chốc tôi tháo bao tay ra xem. Rỏ ràng trong khi tay trái vẫn bình thường , thì bàn tay phải càng ngày càng teo lại nhỏ xíu , chỉ còn da bọc xương. Chiếc nhẫn vẫn xiết chặc ngón giữa , thật lạ lùng.

Thứ Hai (11/29/99) ngày lễ đã hết , tôi đi học lại. Tôi tránh mọi người kể cả Lan. Tôi biết Lan tìm tôi dữ lắm , nhưng tôi lẫn tránh nàng vì không muốn nàng thấy bàn tay quái dị của tôi. Xong buổi học tôi chạy về nhà , vừa học bài vừa tìm cách lấy chiếc nhẫn ra. Tôi thoa xà bông , kem dưỡng da (Hand Lotion) , đủ các thứ dầu cho ngón tay trơn dễ kéo ra nhưng vô hiệu. Bàn tay bây giờ chỉ có da dính sát xương , từng lóng tay lộ lên rỏ ràng. Tuy vẫn cử động được nhưng bàn tay nhìn rất kinh dị.

Qua thứ Ba (11/30/99) , Trời ơi ! bàn tay của tôi trở nên đau nhức quá. Từng cơn đau hành hạ tôi. Có lúc tôi tưởng cơn đau hết hẳn , ai dè chẳng được bao lâu thì cơn đau hành hạ tôi trở lại. Lâu lâu toàn thân tôi có một luồng khí lạnh chạy khắp người , ớn cả châu thân. Tôi không còn tinh thần nữa , tôi thật sự sợ. Ðây không phải là sự ám ảnh nữa ! Ðầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ: Hay là ông Wangliu đang trừng phạt , đang trả thù tôi? Tôi cần phải có sự giúp đỡ , phải nói cho ai đó biết. Nhưng nói cho ai nghe bây giờ đây? Tôi không thể nào cho ba mẹ tôi biết. Tôi không muốn hai người đó lo lắng. Càng không thể nói cho Lan. Nàng giúp gì được cho tôi chứ? Bí quá tôi đã lên Net lúc 6 giờ tìm đại một diễn đàn nào để hỏi một ai đó giúp đỡ.

Thứ Tư (12/1/99) Cả đêm qua tôi không ngủ được. Bàn tay tôi đau dữ dội tôi mở bao tay ra xem. Quỷ Thần ơi tay tôi đang bị tét lỡ. Từng miếng da khô rạn nứt. Tôi cần phải đi bác sĩ. Lan nữa ! Nàng gọi điện thoại nhất định đòi gặp tôi cho bằng được , nếu không Lan sẽ đoạn tuyệt nghĩ chơi tôi ra. Tôi buồn vô hạn biết làm sao đây. Thôi đành phải gặp nàng một lần. Buổi chiều tôi gặp Lan mà tinh thần không có bên cạnh nàng. Nàng hành hạ tôi đủ điều , nói rằng tôi bỏ lơ nàng. Mặc cho Lan nói , tôi không chú nghe. Tôi phải lo bàn tay của tôi. Tôi hẹn giờ ngày mai đi gặp bác sĩ , 9 giờ sáng.

Lan Cầm Tay Tôi Thứ Năm (12/2/99): Ðầu hôm tôi ngủ được một chút. Nhưng nữa đêm về sáng tôi bật choàng tỉnh dậy vì một cơn ác mộng quá khủng khiếp. Ông Wangliu lại hiện về rỏ mồn một. Mặt ông đanh lại dữ tợn. Ông hét lớn bằng tiếng Quan-thoại mà tôi biết chút chút:

- Nị CìY Wộ , Wộ Tờ SHố. ( Mày trả cho tao , tay của tao ! ).

Tôi khiếp vía , không thể nào ngủ lại được nữa. Tôi bật ngọn đèn trong phòng cho sáng lên. Và lật bàn tay ra xem. Tôi muốn hét lên một tiếng bể cả buồng phổi. BÀN TAY tôi bây giờ đã trở thành một BÀN TAY XƯƠNG TRẮNG HẾU. Tôi khóc nức nở , mà không dám cho ba mẹ hay.

Ðúng 9 giờ sáng tôi đã có mặt ở văn phòng bác sĩ lo về tay. Vừa gặp bác sĩ tôi la lên:

- Doctor help me , Please check my hand ! (Bác sĩ , giúp tôi , làm ơn khám tay tôi ).

Rồi tôi giựt cái bao tay ra cho bác sĩ xem. Tôi nghĩ là bác sĩ sợ hải lắm. Nhưng lạ thật , ông bác sĩ vẫn thản nhiên nhìn bàn tay tôi nói:

- What s wrong with your hand? It looks fine , nice ring though.

(Tay anh có sao đâu? Nhìn bình thường , mà chiếc nhẫn ngộ quá ha) Cái gì kỳ vậy , bàn tay tôi vẫn còn đang là 1 bàn tay xương trắng mà? Tại sao ông không thấy. Tôi dụi mắt nhìn kỹ , vẫn là bàn tay xương , mà sao ông bác sĩ không thấy gì. Tôi hét lên kịch liệt:

- Bác sĩ, tay của tôi nè , ông không thấy gì hả?. Bác sĩ giúp tôi đi?

Bác sĩ vẫn ôn tồn:

- Bình tỉnh lại , tay anh có sao đâu. Ðừng đùa nữa. Hay là anh đang bị stress (khủng hoảng). Tôi viết giấy giới thiệu cho anh qua gặp bác sĩ tâm thần. May ra ổng có thể giúp anh.

Tôi còn biết nói gì nữa? Ðành cầm tờ giấy giới thiệu đợi chiều 3 giờ đi gặp bác sĩ tâm thần. Nhưng cũng giống như bác sĩ trị tay , ông không hề thấy gì khác thường. Tôi không thể nào thuyắt phục được họ tin tôi. Tôi bèn đi gặp Lan. Sau khi năn nỉ Lan muốn hết nước miếng , nàng mới nguôi giận. Bất ngờ Lan đòi xem tay tôi và chiếc nhẫn một lần nữa. Tôi liền cho nàng xem thử và ngạc nhiên thấy nàng chỉ xem xoi coi chiếc nhẫn.

Ðúng rồi , một trăm phần trăm tôi bị ảo giác. Nhất định tôi sẽ lấy chiếc nhẫn ra và đem chôn trả lại cho chủ nhân của nó vào tối mai. [/quote]Phải Chăng Là Ảo Giác?

Rỏ ràng tôi vừa thấy ông Wangliu trong gương. Không thể nào? Chính mắt tôi thấy xác ông mà. Hay là tôi bị ảo giác vì đầu óc quá căng thẳng???? Tôi phải đi gặp Lan và đám bạn của tôi. Dù sao ngày mốt cũng là thời hạn ba ngày đưa nhẫn cho họ xem. Tôi liền trở về phòng ngủ , tìm một cái bao tay đeo vào và ra ăn sáng.

Tôi vừa ăn vừa suy nghĩ lung lắm. Cháo gà mẹ tôi nấu tuyệt vời , vậy mà tôi ăn không thấy ngon. Cái bóng của ông Wangliu còn lỡn vỡn trong đầu tôi. Cha mẹ và em tôi nói loáng thoáng gì đó , tôi không nghe rõ... " Sao mặt thằng Minh tái ngắt vậy bà " , " Anh Minh đeo bao tay chi vậy? "...

- Minh! Minh ! Con bị gì vậy , sao không múc cháo ăn??

Nghe tiếng mẹ la , tôi giật mình thoát khỏi dòng suy nghĩ. Sợ mọi người nghi , tôi nhìn chén , múc một muỗng cháo. Bất ngờ:

- OH MY GOD, Cái Gì Trong Chén Vậy? Một... một... ngón tay trong chén cháo !

Tôi hất tung chén cháo ra giữa bàn , rồi ôm bụng ụa mửa. Mẹ tôi hốt hoảng nói với bố:

- Thằng Minh nó học nhiều quá bị bệnh rồi , ông dìu nó vô phòng nghỉ đi.

Tôi định thần nhìn kỷ lại , thì ra chỉ là cái cổ gà. Không đợi bố đỡ dậy , tôi chạy một mạch vô phòng và nói:

- Bố mẹ khỏi lo. Con không sao đâu , hơi bị cảm thôi.

Trong phòng tôi ngồi hít một hơi thở lấy bình tỉnh. Rỏ ràng tôi bị ám ảnh. Nhất định tôi không sợ nữa. Tôi cầm ống phôn gọi Lan và hết tất cả bạn bè , bắt họ ra gặp tôi tại một quán ăn. Ngày lễ không ai đi học , với lại tôi muốn chỉ cho họ xem chiếc nhẫn cho xong , để tôi còn tháo nó ra , quăng đi cho rồi. Ðêm dài lắm mộng , thiệt đúng không sai.

Dĩ nhiên là bạn bà tôi phục lăn. Lan thì khỏi nói , nàng là cô gái mới lớn , thích bạn trai mạnh khỏe , dám nói dám làm. Cả bọn họ ăn uống vui vẻ cười đùa , rồi mạnh ai nấy ra về vui vẻ. Chỉ có tôi là dại dột. Họ đâu biết tôi đã trải qua những giây phút kinh hoàng. Quả thật tôi dại , còn trách ai nữa chứ. Ðợi mọi người về hết tôi tháo bao tay ra coi lại bàn tay mình.

Tôi giật mình lo ngại , bàn tay tôi hình như có vẻ teo lại , và đen hơn. Tôi đưa cả hai tay lên so sánh. Rỏ ràng hai tay khác nhau. Tay trái tròn trịa , trắng trẻo , to hơn tay phải. Tôi sợ hải không biết phải làm sao. Ngón tay vẫn còn sưng , không lấy nhẫn ra liền được. Tôi đành phải chờ một hôm nữa...

Tai Họa Từng Ngày Một ngày nữa (11/28/99) trôi qua , cứ chốc chốc tôi tháo bao tay ra xem. Rỏ ràng trong khi tay trái vẫn bình thường , thì bàn tay phải càng ngày càng teo lại nhỏ xíu , chỉ còn da bọc xương. Chiếc nhẫn vẫn xiết chặc ngón giữa , thật lạ lùng.

Thứ Hai (11/29/99) ngày lễ đã hết , tôi đi học lại. Tôi tránh mọi người kể cả Lan. Tôi biết Lan tìm tôi dữ lắm , nhưng tôi lẫn tránh nàng vì không muốn nàng thấy bàn tay quái dị của tôi. Xong buổi học tôi chạy về nhà , vừa học bài vừa tìm cách lấy chiếc nhẫn ra. Tôi thoa xà bông , kem dưỡng da (Hand Lotion) , đủ các thứ dầu cho ngón tay trơn dễ kéo ra nhưng vô hiệu. Bàn tay bây giờ chỉ có da dính sát xương , từng lóng tay lộ lên rỏ ràng. Tuy vẫn cử động được nhưng bàn tay nhìn rất kinh dị.

Qua thứ Ba (11/30/99) , Trời ơi ! bàn tay của tôi trở nên đau nhức quá. Từng cơn đau hành hạ tôi. Có lúc tôi tưởng cơn đau hết hẳn , ai dè chẳng được bao lâu thì cơn đau hành hạ tôi trở lại. Lâu lâu toàn thân tôi có một luồng khí lạnh chạy khắp người , ớn cả châu thân. Tôi không còn tinh thần nữa , tôi thật sự sợ. Ðây không phải là sự ám ảnh nữa ! Ðầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ: Hay là ông Wangliu đang trừng phạt , đang trả thù tôi? Tôi cần phải có sự giúp đỡ , phải nói cho ai đó biết. Nhưng nói cho ai nghe bây giờ đây? Tôi không thể nào cho ba mẹ tôi biết. Tôi không muốn hai người đó lo lắng. Càng không thể nói cho Lan. Nàng giúp gì được cho tôi chứ? Bí quá tôi đã lên Net lúc 6 giờ tìm đại một diễn đàn nào để hỏi một ai đó giúp đỡ.

Thứ Tư (12/1/99) Cả đêm qua tôi không ngủ được. Bàn tay tôi đau dữ dội tôi mở bao tay ra xem. Quỷ Thần ơi tay tôi đang bị tét lỡ. Từng miếng da khô rạn nứt. Tôi cần phải đi bác sĩ. Lan nữa ! Nàng gọi điện thoại nhất định đòi gặp tôi cho bằng được , nếu không Lan sẽ đoạn tuyệt nghĩ chơi tôi ra. Tôi buồn vô hạn biết làm sao đây. Thôi đành phải gặp nàng một lần. Buổi chiều tôi gặp Lan mà tinh thần không có bên cạnh nàng. Nàng hành hạ tôi đủ điều , nói rằng tôi bỏ lơ nàng. Mặc cho Lan nói , tôi không chú nghe. Tôi phải lo bàn tay của tôi. Tôi hẹn giờ ngày mai đi gặp bác sĩ , 9 giờ sáng.

Lan Cầm Tay Tôi Thứ Năm (12/2/99): Ðầu hôm tôi ngủ được một chút. Nhưng nữa đêm về sáng tôi bật choàng tỉnh dậy vì một cơn ác mộng quá khủng khiếp. Ông Wangliu lại hiện về rỏ mồn một. Mặt ông đanh lại dữ tợn. Ông hét lớn bằng tiếng Quan-thoại mà tôi biết chút chút:

- Nị CìY Wộ , Wộ Tờ SHố. ( Mày trả cho tao , tay của tao ! ).

Tôi khiếp vía , không thể nào ngủ lại được nữa. Tôi bật ngọn đèn trong phòng cho sáng lên. Và lật bàn tay ra xem. Tôi muốn hét lên một tiếng bể cả buồng phổi. BÀN TAY tôi bây giờ đã trở thành một BÀN TAY XƯƠNG TRẮNG HẾU. Tôi khóc nức nở , mà không dám cho ba mẹ hay.

Ðúng 9 giờ sáng tôi đã có mặt ở văn phòng bác sĩ lo về tay. Vừa gặp bác sĩ tôi la lên:

- Doctor help me , Please check my hand ! (Bác sĩ , giúp tôi , làm ơn khám tay tôi ).

Rồi tôi giựt cái bao tay ra cho bác sĩ xem. Tôi nghĩ là bác sĩ sợ hải lắm. Nhưng lạ thật , ông bác sĩ vẫn thản nhiên nhìn bàn tay tôi nói:

- What s wrong with your hand? It looks fine , nice ring though.

(Tay anh có sao đâu? Nhìn bình thường , mà chiếc nhẫn ngộ quá ha) Cái gì kỳ vậy , bàn tay tôi vẫn còn đang là 1 bàn tay xương trắng mà? Tại sao ông không thấy. Tôi dụi mắt nhìn kỹ , vẫn là bàn tay xương , mà sao ông bác sĩ không thấy gì. Tôi hét lên kịch liệt:

- Bác sĩ, tay của tôi nè , ông không thấy gì hả?. Bác sĩ giúp tôi đi?

Bác sĩ vẫn ôn tồn:

- Bình tỉnh lại , tay anh có sao đâu. Ðừng đùa nữa. Hay là anh đang bị stress (khủng hoảng). Tôi viết giấy giới thiệu cho anh qua gặp bác sĩ tâm thần. May ra ổng có thể giúp anh.

Tôi còn biết nói gì nữa? Ðành cầm tờ giấy giới thiệu đợi chiều 3 giờ đi gặp bác sĩ tâm thần. Nhưng cũng giống như bác sĩ trị tay , ông không hề thấy gì khác thường. Tôi không thể nào thuyắt phục được họ tin tôi. Tôi bèn đi gặp Lan. Sau khi năn nỉ Lan muốn hết nước miếng , nàng mới nguôi giận. Bất ngờ Lan đòi xem tay tôi và chiếc nhẫn một lần nữa. Tôi liền cho nàng xem thử và ngạc nhiên thấy nàng chỉ xem xoi coi chiếc nhẫn.

Ðúng rồi , một trăm phần trăm tôi bị ảo giác. Nhất định tôi sẽ lấy chiếc nhẫn ra và đem chôn trả lại cho chủ nhân của nó vào tối mai.

Kết Thúc (END)

Hồn Ma Hiện Lên Từ Đáy Biển

Font Size: Tác Giả: Sir Arthur Conan Doyle

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Khi nào mà các đại dương vẫn còn những lợi gân nối liền các phần khác nhau của Đế quốc Anh thì chúng ta vẫn sẽ không tránh khỏi những chuyện hoang đường. Vì linh hồn người ta tự để cho bị khuấy động bởi nước, cũng giống hệt như nước phải vâng theo mặt trăng và khi những con đường lớn của một đế quốc bị bao quanh bởi nỗi hỉêm nguy muôn thuở, cũng phong phú về những cảnh trí và âm thanh kỳ lạ, người ta phải có một tinh thần khá thâm hậu để giữ được thản nhiên trước những điều ác hại của chúng. Hiện nay nước Anh đang vươn ra rất xa bên ngoài chính quốc, khi mà ba ngàn dặm hải phận của mỗi mạn duyên hải làm thành cương giới mà nó đã đoạt được bởi cái búa, cái khuôn dệt và cái cuốc nhọn hơn là bởi những nghệ thuật của chiến tranh. Quả thật lịch sử đã đoán chắc với chúng ta rằng không một ông vua nào, không một đạo quân nào có thể cản đường của một người chỉ có hai đồng tiền trong két sắt nhưng biết rằng ở nơi nào y sẽ có thể biến hai đồng tiền thành ba đồng, và để hết trí thông minh vào việc đi tới nơi đã định. Và vì cương giới đã mở xa ra, trí thông minh của Anh Quốc cũng được nới rộng và tràn lan ra một cách đầy đủ trên khắp thế giới để cho tất cả mọi người thấy rằng những con đường của hải đảo có tính cách châu lục, giống hệt như những con đường của châu lục đều có tính cách hải đảo.

Nhưng để tới được chỗ đó, người ta đã phải trả một cái giá, và cái giá này cứ tiếp tục tốn kém hơn. Cũng giống như con quái vật thời xưa phải nhận được dưới dạng cống phẩm hàng năm một người trai trẻ, với đế quốc của chúng ta cũng thế, hàng ngày chúng ta phải hy sinh cái tinh hoa của thế hệ thanh niên của chúng ta. Guồng máy thì bao la và dũng mãnh nhưng nhiên liệu duy nhất làm cho nó vận hành là sinh mạng của dân Anh. Đó là lý do tại sao khi ở trong những giáo đường cổ kính màu xám chúng ta nhìn thấy những danh tính xa lạ: những danh tính mà cả những người xây các bức tường này cũng không biết, vì chính ở Peshawar, ở Umbellah, ở Korti, ở Fort Pearson mà những chàng trai trẻ chết, mà chỉ để lại phía sau họ truyền thuyết và một tấm biển. Nếu bên trên mỗi cái xác người Anh có một đài kỷ niệm được dựng lwn thì người ta sẽ không cần vạch ra cương giới, vì một sợi dây thừng của những ngôi mộ sẽ chỉ rõ làn sóng của dân Anh và Celtes đã vờ tới nơi nào.

Cả điều đó nữa, đồng thời với những khối nước nối liền chúng ta với thế giới, đã đóng góp vào những chuyện hoang đường mà chúng ta thấm nhuần. Khi mà bao nhiêu người đàn ông và đàn bà đã có ở phía bên kia đại dương những người mà họ yêu quý và những người này đang tiến lên dưới làn đạn của dân sơn cước hoặc trong những đầm lầy của bệnh sốt rét rừng, thì lúc đó tâm hồn đi vào sự giao cảm với tâm hồn, và những truyện ly kỳ nẩy sinh, những mộng mị, những sự linh cảm, những ảo tưởng trong đó một bà mẹ trông thấy con trai bà đang chết và bà ngất đi trong cơn tuyệt vọng, ngay cả trước khi cái tang của anh ta được loan báo cho bà. Mới gần đây khoa học đã chiếu cố tới vấn đề này và đã ban cho nó một cái nhãn hiệu, nhưng chúng ta đã biêt gì hơn nếu không phải là việc một linh hồn bị hành hạ và tới bước cũng đã có thể phóng qua mặt đất, vào một khoảng cách mươi lăm ngàn cây số, cái hình ảnh của tình cảnh đau buồn của y tới tận tâm trí của người thân cận nhất của y? Tôi không hề phủ nhận cái quyền năng đó, nhưng tôi nghĩ rằng cần phải khôn ngoan trong những vấn đề như vậy, vì ít nhất đã có một lần tôi biết rằng những điều trong khuôn khổ các định luật tự nhiên có thể hoàn toàn nằm ngoài những vấn đề này.

John Vansittart là hội viên thứ nhì của công ty Hudson et Vansittal, công ty xuất khẩu cà phê ở Ceylan ( Tích Lan). Ông vốn là người gốc Hà Lan, nhưng 100% Ăng-Lê trong lòng các phong độ. Đã nhiều năm tôi làm đại diện cho ông ở Luân Đôn. Khi ông tới Anh quốc để nghỉ ngơi ba tháng, ông nói với tôi để có những sự giới thiệu cho phép ông làm quen với đời sống ở thị thành và ở thôn quê. Ông đã rời khỏi các văn phòng của tôi với bảy bức thư trong túi áo. Trong một vài tuân, những bức thư ngắn từ nhiều nơi khác nhau gửi tới báo tin cho tôi biết là ông đã lấy được cảm tình của các bạn tôi. Rồi tôi được tin là ông đã đính hôn vơi Emily Lawson, thuộc ngành thứ của gia đình nhà Hereford Lawson, và gần như ngay sau đó họ đã thành hôn: sự tán tỉnh của một du khách chỉ có thể chóng vánh thôi, và cái ngay ông phải xuống tàu của công ty, một cái tàu buồn một ngàn tấn: đó sẽ là chuyến đi chơi tuần trăng mật của họ.

Thời đó là thời cực kỳ thuận lợi cho các nhà trồng cà phê ở Ceylan, họ đã chưa từng biết cái mùa khủng khiếp mà chỉ trong vài tháng thôi, nhưng đã làm lụi bại tất cả một cộgn đồng này nhờ ở sự dũng cẩm và kiên trì, sẽ lại dành được một thắng lợi thứ hai: quả thực những cánh đồng trà ở Tích Lan là một đại công trình của lòng dũng cảm của dân Anh, giống hệt như con sư tử ở Waterloo. Nhưng trong năm 1872 chưa có một đám mây nào đe doạ ở chân trời. Những hy vọng của các nhà trồng tỉa thật tràn trề, Vansittart trở lại Luân Đôn cùng với cô vợ trẻ đẹp của ông. Ông giới thiệu cô với tôi, chúng tôi cùng ăn bữa tối với nhau, và cuối cùng thì ông đồng ý rằng, vì các công việc củng đòi hỏi sự có mặt của tôi ở Tích Lan, tôi sẽ là bạn đồng hành của họ trên tau Eastern Star, mà sự nhổ neo rời bến đã được định trước vào ngay thứ hai sắp tới.

Tôi gặp lại ông vào buổi tối ngày chủ nhật. Ông đi vào trong nhà tôi với một vẻ băn khoăng và bực bội. Khi tôi bắt tay ông, tôi nhận thấy bàn tay ông nóng và khô.

- Ông Atkinson ạ, ông nói với tôi, tôi muốn ông bảo người nhà pha cho tôi một chút nước chanh và nước lạnh. Nói theo nghĩa đen, tôi đang chết khát đây, và tôi càng uống bao nhiêu thì tôi càng muốn uống nữa.

Tôi bấm chuông và gọi lấy một bình nước và những cái cốc.

- Ông đang bị sốt nóng lạnh, toi nói với ông, ông có vẻ đang khó ở đó.

- Không, tôi không cảm thấy khoẻ mạnh lắm. Tôi bị đau phong thấp ở lưng, và tôi ăn không ngon. Chính cài thành phố Luân Đôn chết tiệt này làm tôi nghẹt thở. Tôi không quen hít thở cái không khí mà bốn triệu buồng phổi cùng khuấy trộn lên cùng một lúc.

Ông vung vẩy hai bàn tay co quắp trước mặt ông: thật sự ông đã cho người ta một ấn tượng của sự ngột ngạt.

- Một khi ông ở trên mặt biển, ông sẽ cảm thấy khoẻ khoắn ngay.

- Đúng. Về điều đó thì tôi đồng ý với ông, Đó là việc cần thiết của tôi. Tôi không cần tới một vị y sĩ khác. Nếu ngày mai tôi không xuống tàu thì tôi sẽ phát ốm.....

Ông uống một hơi hết cốc nước chanh và ông xoa chỗ sống lưng bằng hai bàn tay ông.

- Người ta nói rằng điều đó sẽ tốt cho tôi, ông nói tiếp trong khi nhìn tôi với một con mắt rầu rỉ. Bây giờ tôi cần có sự giúp đỡ của ông, ông Atkinson ạ, vì tôi đang ở trong một hoàn cảnh tế nhị.

- Hoàn cảnh thế nào?

- Đây này, bà mẹ vợ tôi bị ngã bệnh và bà ấy đã đánh điện gọi vợ tôi tới bên giường bệnh của bà ấy. Tôi đã không thể đi theo vợ tôi (ông biết rõ hơn ai hết là tôi đã bị cầm chân lại ở đây ) và vợ tôi đành phải đi một mình. Bây giờ tôi lại vừa nhận được một bức điện khác nói là ngày mai vợ tôi không thể tới được, nhưng nàng sẽ bắt kịp con tàu ở Falmouth vào ngày thứ tư. Ông biết đó, chúng tôi sẽ đạu lại ở đó: nhưng Atkinson ạ, tôi thấy thật là khó cho người ta đòi hỏi một người phải tin vào sự huyền bí, và người ta sẽ nguyền rủa, nếu y không thể tin vào điều đó, người ta sẽ nguyền rủa y, ông hãy hiểu tôi đi!

Ông cúi xuống phía trước và khịt mũi làm như thể ông sắp khóc oà lên.

Lúc đó tôi nghĩ tới việc người ta đã nói rất nhiều với tôi về những tập tục ở hải đảo và về cách thức người ta uống rượu không pha ở đó. Chắc hẳn rượu đã là nguyên nhân của những lời nói khó hiểu này và của những bàn tay đang lên cơn sốt này! Tôi cảm thấy một sự lo sợ mạnh mẽ khi trông thấy một người trai trẻ cao quý như vậy nằm trong tay một con quỉ ghê tởm nhất trong số tất cả những con gái.

- Ông phải đi nằm nghỉ! Tôi nói một cách nghiêm nghị.

Ông dụi mắt như thể ông tìm cách tự làm cho mình tỉnh lại, và ông nhìn tôi với vẻ kinh ngạc.

- Tôi sẽ đi tới đó, ông nói với tôi một cách bình thản, lúc nãy tôi cảm thấy hơi choáng váng, nhưng bây giờ tôi đã hồi phục rôi. Này, tôi đang nói về về việc gì thế? À, dĩ nhiên là về vợ tôi rồi! Nàng sẽ xuống tàu ở Falmouth. Tôi tin rằng sức khoẻ của tôi tuỳ thuộc vào sự đi đường biển. Tôi cần có chút ít không khí trong lành trong phổi tôi để tôi có thể hoàn toàn bình phục. Do đó tôi xin ông hãy làm cho một việc với tư cách bạn bè, ông sẽ đí tới Falmuoth bằng xe lửa, phòng trường hợp mà chúng tôi tới trẻ, và lúc đó ông sẽ trông nom cho vợ tôi. Ông hãy tới khách sạn Royal; tôi sẽ đánh điện cho nàng là ông trú chân ở đó. Em gái của nàng sẽ đi theo nàng tới tận đó, như thế là mọi việc sẽ tốt đẹp.

- Rất vui lòng, tôi trả lời. Thật sự tôi không đòi hỏi gì hơn là được đi tới Falmuoth bằng xe lửa, vì từ đây tới Colombo chúng ta sẽ có nhiều thời gian thưởng thức biển cả. Tôi cũng nghĩ rằng ông có một nhu vầu khẩn thiết về sự thay đổi không khí. Nếu ở địa vị ông tôi sẽ đi nằm nghỉ ngay tức thì.

- Phải. Đêm hôm nay tôi sẽ ngủ trên tàu. Ông thấy đó một thứ sương mù còn lởn vởn trước mắt ông.

-....Mấy đêm nay tôi không ngủ được nhiều, tôi đã gặp mâu thuẫn với các nhà thần học....nghĩa là.....

Trong một sự cố gắng tuyệt vọng, ông kêu lên:

-....Bởi những sự hoài nghi có tính cách thần học...Xì! Tôi tự hỏi tại sao đấng tối cao toàn năng lại tạo ra chúng ta, tại sao. Ngài lại làm cho chúng ta ngu độn và gài những sự đau đớn lặt vặt vào sống lưng của chúng ta. Có lẽ là tối nay tôi sẽ khá hơn!

Ông đứng dậy và bám thấy cái lưng ghế của ông.

- Ông Vansittart! Xin ông hãy nghe tôi! Tôi nói với sự nghiêm trọng. Tối nay tôi sẽ mời ông ở đây với tôi, ông không ở trong tình trạng để đi ra ngoài được. Ông không đi ngay ngắn được. Ông đã uống những thứ pha trộn của rượu...

- Rượu hả?

Ông nhìn thằng vào mắt tôi với một cái nhìn ngớ ngẩn.

- Thường nhật thì ông chịu đựng khá hơn khi uống rượu mà.

- Ông Ankinson này, tôi thề với ông là đã từ hai ngày nay tôi không uống một cốc rượu, tôi không biết là tôi đã uống cái gì. Tôi giả thiết rằng ông nghĩ đó là hiệu ứng của rượu....

Ông nắm lấy bàn tay tôi và đặt nó lên trán ông.

- Lạy chúa tôi! Tôi kêu phải lên.

Ông có làn da mỏng như một dải nhung, dưới lớp da tôi cảm thấy như một lớp chi chít những miêng chỉ lụn vụn.

- Ông chớ lo sợ, ông nói trong lúc cười mỉm. Tôi đã mắc bệnh lở mụn nước rất tệ.

- Nhưng chuyện đó không dính líu gì tới bệnh lở mụn nước mà !

- Không, đó là Luân Đôn. Đó là việc thở hít cái không khí tệ hại đó. Ngày mai tôi sẽ mạnh khoẻ hơn nhiều. Trên tàu có một y sĩ, thế là tôi sẽ được săn sóc chu đáo. Bây giờ tôi sẽ đi đây.

- Không, tôi nói với ông trong khi bắt ông phải ngồi xuống. Việc đó sẽ là đưa sự đùa cợt đi quá xa đấy. Ông sẽ không nhúc nhích khỏi nơi này trước khi gặp một vị y sĩ. Hãy ở yên chỗ ông đang ngồi.

Tôi cầm lấy cái mũ và vội vã đi tới nhà một vị y sĩ ở ngay gần nhà tôi. Tôi đưa ông ấy về nhà tôi ngay lập tức, nhưng phòng khách của tôi trống không và Vansittart đã đi khỏi. Tôi bấm chuông, anh đầy tớ báo với tôi rằng vị quý khách đã sai gọi một cỗ xe. Ông ấy bảo người đánh xe đưa ông ấy đến bến tàu.

- Vị quý khách có vẻ ốm yếu không? Tôi hỏi.

- Ốm yếu à? Anh đầy tớ mỉm cười trả lời. Thưa ông không, ông ấy hát ầm ĩ!

Sự bào tin này đã không làm tôi yên tâm chút nào, nhưng tôi nghĩ rằng ông đi tới tàu Eastem Star, và có một y sĩ ở trên tàu, tôi không thể làm được gì nữa cho ông. Tuy nhiên, khi tôi nhớ tới sự khác nước của ông, nhớ tới hai bầnty nóng bỏng của ông, con mắt nặng chĩu của ông, những lời nói vô ý nghĩa của ông, và cuối cùng là cái trán lở lói bệnh cùi của ông, thì tôi đã mang theo lên giường nằm của tôi một ký ức khó chịu về người khách của tôi và sự tới thăm của ông ấy.

Sáng hôm sau, vào lúc mười một giờ, tôi đi tới bến tàu, nhưng tàu Eastern Star đã bắt đầu chạy xuôi dòng sông và đã fần tới Gravesend. Tôi đi với Gravesend bằng xe lửa, nhưng khi tôi tới nơi thì chỉ còn trông thấy các cột buồm của nó ở một khoảng cách khá xa, được mở đường phía trước bởi một lùm khói của một cái tàu kéo. Thế là tôi không có tin tức nào của ông bạn tôi nữa trước khi tới Falmuoth. Khi tôi trở về văn phòng của tôi, một bức điện tín đã đợi tôi. Bà Vansittart đã tới Falmuoth; buổi tối ngày hôm sau, chúng tôi gặp nhau ở khách sạn Royal, tại đó chúng tôi phải đợi tàu Eastern Star. Mười ngày đã trôi qua, chúng tôi không nhận được tin tức gì của con tàu.

Tôi sẽ không dễ dàng quên được mười ngày đó! Khi tàu Eastern Star rời khoti sông Tamise, một cơn bão lớn phát khởi; nó thổi trong gần cả một tuần lễ không ngừng nghĩ chút nào. Trên bờ biển miền nam, chưa bao giờ người ta thấy một trận bảo dài như thế và cuồng nộ như thế. Từ các cửa sổ khách sạn của chúng tôi, mặt biển hình như bị bao trùm trong sương mù. Gió đè một cách quá nặng nề lên những đợt sóng khiến cho mặt biển không thể vùng lên được: ngọn của từng đợt sóng đã bị ngắt đi ngay tức thì. Những đám mây, gió, mặt biển đều ùn ùn kéo về hướng tây. Ở giữa những thế lực hung hăng này, tôi chờ đợi hết ngày này qua ngày khác với sự bầu bạn duy nhất của một người đàn bà xanh xao và trầm lặng, mà cặp mắt phản ảnh sự kinh hoàng; từ sáng tới chiều, nàng cứ đứng dán mắt vào cửa kính, đăm đăm nhìn vào tấm xịt qua đó một con tàu có thể hiện ra. Nàng không nói gì cả, nhưng nét mặt nàng là một khúc bi ca dài dặc.

Sang tới ngày thứ năm tôi hỏi ý kiến một thủy thủ già. Ý tôi muốn được ngồi một mình với ông ấy, nhưng nàng đã trông thấy tôi mở lời với ông ấy, và nàng tới ngay tức thì, miệng hé mở và đôi mắt khẩn cầu.

- Khởi hành từ Luân Đôn đã bảy ngày rồi à? Ông ấy nói. Vậy là năm ngày trong giông bão. Này, biển Manche đã bị quét sạch bởi cơn gió này! Có ba giả thuyết, trận bão có thể bắt nó phải tìm nơi trú ẩn trong một hải cảng của Pháp. Điều này có thể là đúng.

- Không phải thế đâu! Ông ấy biết rằng chúng tôi đang ở đây. Lẽ ra ông ấy phải đánh điện cho chúng tôi.

- À phải! Vậy thì có thể là nó đã chạy ra khơiđể tránh bão, nếu đúng vậy thì lúc này chắc nó không ở xa Madere. Thưa bà, điều đó hoàn toàn có thể xảy ra; bà có thể tin lời tôi nói !

- Và giả thuyết thứ ba?

- Tôi có nói với bà về một giả thuyết thứ ba à? Không, tôi nghĩ chỉ có hai thôi. Tôi không tin là tôi đã nói tới một giả thuyết thứ ba. Con tàu của bà đang ở một nơi nào đó ở giữa Đại Tây Dương, và chả mấy chốc bà sẽ có tin tức của nó, vì thời tiết săp thay đổi. Thưa bà, bà chớ lo lắng. Hãy đợi tới ngày mai, ngay từ buổi sáng bà sẽ có một bầu trời xanh, đẹp.

Người thủy thủ già đã tiên đoán đúng: ngày hôm sau trời quang đãng ngoại trừ một đám mây thấp bay ở phía tây, và đó là mảnh cuối cùng của cơn cuồng nộ của trận bão tố. Dù trời đã quang đãng chúng tôi cũng vẫn không có một tin tức nào về chiếc tàu thủy. Ba ngày bực bội, lo âu nữa đã trôi qua, rồi một thủy thủ tới trình diện ở khách sạn với một bức thư, tôi thốt lên một tiếng kêu vui mừng. Bức thư tới từ vị thuyền trưởng của tàu Eastern Star. Khi đọc qua mấy dòng đầu tiên, tôi đã muốn giấu nhẹm là thư đi, nhưng nàng đã giật lấy nó từ tay tôi.

- Tôi đã đọc đoạn đầu, nàng nói với một giọng bình thản. Vậy thì tôi có thể đọc chỗ tiếp theo.

Lá thư viết như sau:

" Kính thư ông, ông Vansittart đang ở trên tàu với bệnh đậu mùa, và chúng tôi đã bị đẩy ra quá xa mũi đất của chúng ta nên chúng tôi không biết phải làm sao: ông ấy đã phát cuồng và ông ấy không còn khả năng để ra lệnh cho chúng tôi. Theo những sự tính toán phỏng chừng của tôi thì chúng tôi chỉ còn cách Fanchal chừng bốn trăm hai mươi cây số thôi. Tôi cũng giả thiết là nên đi tới đó, đưa ông Vansittart vào bệnh viện, và đợi ông tới ở trong vịnh. Người ta nói với tôi là trong vài ngày nữa một tàu buồm sẽ từ Falmuoth đi tới Fanchal. Lá thư này sẽ được mang tới ông bằng sự môi giới của thuyền nhỏ Marian ở Falmuoth, phải trả viên thuyền trưởng của nó năm bảng. Kính chào ông. Jno Hines. "

Nàng thật là tuyệt diệu, cô thiếu nữ vừa mới rời khỏi đại học này! Cũng trầm tĩnh và cương nghị như một bậc nam nhi vậy. Nàng không nói gì cả. Nàng mím chặt môi và đội mũ lên đầu.

- Cô đi ra ngoài à? Tôi hỏi.

- Vâng.

- Tôi có thể giúp gì cho cô không?

- Không, tôi đến nhà vị y sĩ.

- Sao?

- Phải. Để biết cách người ta điều trị bệnh đậu mùa.

Nàng loay hoay bận rộn súôt cả buổi tối. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi xuống tàu đi Madere, trên chiếc tàu Róe ò Shảon. Gió biển thổi mười nút một giờ. Trong năm ngày chúng tôi chạy với tốc độ đều đặn, và chúng tôi đã tới nơi không xa hải đảo. Sang ngày thứ sáu gió nổi lên đột ngột, chúng tôi lâm vào tình trạng không nhúc nhích được như đi trên dầu nhớt.

Lúc mười giờ tối, Emily Vansittart và tôi cùng đứng tựa vào bao lớn bên phải của mạn cuối tàu; mặt trăng sáng rực đằng sau chúng tôi và chiếu xuống chân chúng tôi bóng đen của con tàu và bóng hai cái đầu của chúng tôi trên mặt nước lóng lánh như tấm gương. Từ chỗ bóng tối một con đường của ánh trăng trải dài ta và vừa đi xa, vừa tan rộng cho mãi tới chân trời hiu quạnh. Chúng tôi nói chuyện trong khi cúi thấp đầu xuống, chúng tôi nói dông dài về sự yên tĩnh, về cơ may của một cơn gió thuận lợi, về trạng thái của bầu trời, thì bỗng nhiên có một tiếng bõm trên mặt nước, như thể một con cá hồi vừa nhảy lên, và kìa, dưới ánh sáng trăng vằng vặc John Vansittart nhô lên từ dưới mặt biển và ngẩng đầu lên về phía chúng tôi.

Tôi chưa bao giờ thấy một vật gì rõ rệt hơn thế. Ánh trăng soi sáng ông ấy rõ mồn một, ông ấy ở cách xa chúng tôi tầm độ ba tầm chèo. Ông ấy có bộ mặt phồng lên lớn hơn là lần gặp mặt cuối cùng của chúng tôi, da ông có nhiều chỗ lốm đốm những vẫy đen; mặt và miệng ông mở lớn ra như thể một người vủa gặp một sự kinh ngạc lớn lao. Từ hai vai của ông, một chất trắng đục chảy xuống thành những dãi dài; một bàn tay của ông giơ lên gần tai, bàn tay kia thì gặp lại để ngang ngực ông. Tôi trông thấy ông vọt lên khỏi mặt nước, và trên mặt phẳng yên tĩnh của đại dương, những gợn sóng vẽ thành các vòng tròn cho mãi tới hông tàu. Rồi ông lại chìm xuống, và tôi nghe thấy một tiếng rập gẫy, một tiếng xé rách, như thể trong một đêm băng giá một bó củi khô nổ lép bép trong đống lửa bập bùng. Khi tôi nhìn lại tôi không còn trông thấy một chút dấu vết nào của ông đã xuất hiện. Tôi không thể nói là tôi đã đứng ở đó bao lâu cúi khom người trên các đầu ngón chân, một tay vịn chặt lấy cái lan can và tay kia đỡ lấy người đàn bà bất tỉnh. Tôi đã là một kẻ trái ngược hẳn với người hay nhạy cảm, lần này thì ít nhất tôi đạp chân lên boong tàu để biết chắc tôi vẫn còn làm chủ được các cảm giác của chính tôi, và đây không phải là sự sáng tạo điên khùng của một bộ óc hỗn loạn. Emily Vansittart run lẩy bẩy, mở mắt ra, nàng đứng dậy, hai tay tì vào cái lan can, nhìn ra mặt biển long lanh dưới ánh trăng; mặt nàng đã già đi mười năm trong một đêm hè.

- Ông có nhìn thấy ông ấy không? Nàng thì thào nói.

- Tôi đã nhìn thấy một vật gì.

- Đó là ông ấy! Đó là John! Ông ấy đã chết!....

Tôi ấp úng nói một vài lời có tính cách hoài nghi.

-...Chắc chắn là ông ấy vừa mới chết, nàng nói nhỏ. Ở bệnh viện Madère. Tôi đã đọc qua những truyện vào loại đó. Các yd nghĩ của ông ấy đều nghĩ tới tôi. Thị quan của ông ấy đã tới với tôi. Ôi John, người yêu quý của tôi, người yêu quý đã mất đi mãi mãi của tôi !

Nàng oà lên khóc nức nở: tôi đưa nàng về phòng của nàng và để nàng ở đó với nỗi lo buồn của nàng. Một cơn gió nhỏ bắt đầu thổi trong lúc ban đêm, và buổi tối hôm sau chúng tôi bỏ neo trong vịnh Fanchal. Tàu Eastern Star đang đậu gần đó, lá cờ kiểm dịch được treo cao trên cột buồm lớn và cờ hiệu của nó để rũ xuống.

- Ông trông kìa! Bà Vansittart nói với tôi.

Cặp mắt nàng khô ráo, nàng biết rằng không một giọt lệ nào trả lại được người chồng cho nàng. Trong lúc ban đêm chúng tôi nhận được giấy phép cho lên tàu Eastern Star. Viên thuyền trưởng, ông Hines, đợi chúng tôi trên boong, sẹ lo buồn và bối rối đã hằn lên trên bộ mặt da đồng của ông, và ông tìm những từ để loan báo hung tin: nàng ngắt lời ông.

- Tôi biết rằng chồng tôi đã chết, nàng nói, ông ấy đã chết tối hôm qua, vào lúc mười giờ, ở bệnh viện Madère, có phải vậy không?

Người thủy thủ nhìn nàng, sững sờ.

- Khồn, thưa bà. Ông ấy chết tám ngày rồi, ở trên biển và chúng tôi đã buột lòng phải thủy táng ông ấy ở đó, vì chúng tôi thấy mình đang ở một khu vực yên tĩnh và chúng tôi đã không biết khi nào thì chúng tôi sẽ tới bờ.

Đó là những sự kiện chính yếu liên quan tới cái chết của John Vansittart, cũng như về sự xuất hiện của ông ấy tại một nơi nào đó vào khoảng độ 35 bắc vĩ - tuyến và độ 15 tây kính tuyến. Một hồn mà hiện hình rõ rệt hơn thật ít khi xảy ra, do đó nó đã là đề tài của nhiều cuộc tranh luận, của nhiều bài viết. Nó đã được xác nhận bởi giới bác học và nó đã làm dầy thêm tập hồ sơ mới được mở ra gần đây về sự thần giao cách cảm. Về phần tôi, tôi chủ trương là sự thần giao cách cảm không có gì để nghi ngờ, nhưng tôi muốn rút trường hợp này ra khỏi tập hồ sơ và tôi muốn nói rằng chúng tôi đã không trông thấy sự xuất hiện của hồn ma John Vansittart, mà đúng là John Vansittart bằng xương bằng thịt, vọt lên từ đáy sâu của Đại Tây Dương dưới ánh trăng. Tôi luôn luôn tin rằng một sự ngẫu nhiên phi thường (Một trong các sự ngẫu nhiên rất ít có khả năng xảy ra này, tuy nhiên lại vẫn thường xảy ra ) đã làm cho chúng tôi đứng bất động bên trên chính ngay cái chỗ mà người đàn ông đó đã bị chôn vùi trên biển một tuần lễ trước. Về phần còn lại, vị y sĩ đã nói với tôi là quả tạ bằng chì không được cột chặt, và bảy ngày đã mang tới cho cái xác chết vài sự thay đổi nào đó có thể làm cho nó nổi lên mặt nước. Quả tạ đã làm nó chìm sâu xuống đấy biển. Nếu quả tạ tách rời ra xác chết có thể lại chồi lên mặt nước với sự đột ngột mà chúng tôi đã chứng kiến. Đó là lời giải thích của vị y sĩ. Tới chỗ muốn biết rõ ràng hơn nữa, tôi coi đó là phận sự của tôi, và nếu nhắc lại với bạn về cái tiếng động khô khan của sự rập gẫy, của sự xé rách, cũng như sự xao động trong nước biển. Những con cá mập kiếm ăn trên mặt nước, và chúng đông lúc nhúc trong miền này.

Kết Thúc (END)

Con Ma Áo Trắng

Font Size: Tác Giả: Truyện Ma

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Bà Na)m vốn là người mê xem cải lương... Mỏi khi có doàn cải lương nào về hát là bà không một khi bỏ lở cơ hội dể dược di xem... Ma).t dù có khuya cở nào, có dày cách mấy bà củng không ngại dị Ma).t dù bà biết và củng dả nghe qua biết bao nhiêu lời dồn là làng nầy có ma hay là có người bảo là dả từng chứng kiến thấy ma, nhưng bà vấn không sợ Vì bà nghỉ không gì hấp dấn ba)'ng 1 tuồn cải lương haỵ..

Tối hôm ấy bà lo di buôn bán hang về cho sớm... Tấm rửa rồi sửa soạn quần áo rồi lên dường di sem cải lương. Rạp hát cách xa nhà bà củng khoản 15 phúc di bộ Lúc ấy trời dả sới chiều trời nhưng ánh sáng lờ mờ củng dủ soai sáng cho bà dị.. 2 bên dường vẩn còn dông người dúc người qua dường và lủ con nít chạy dủa giởn trước sân nhà chúng. Bà Na)m rất quen thuộc còn dường nầỵ.. Từng con lộ lớn cho dến các ngỏ hẻm nhỏ Bà biết gần dó có một con hẻm nhỏ di ta)'t dến rạp hát thật nhạnh. Nhưng bà nghỉ trời vẩn còn sáng bà muốn thả bộ di trên lộ lớn dể sem người qua kẻ lại cho vuị Còn cái hẻm ấy thì khi sem hát sông bà xẽ di hướng ấy cho mau và tiện hơn. Thế là bà dả tính toán trước và cứ thế mà dị..

- o O o -

Giản hát cải lương sông củng dả gần 12 giờ khuya rồị... Mải mê sem cải lương mà thì giờ trôi qua mau mà chảng haỵ.. Khi giản tuồng rồi thì bà dả hoản hồn, ba giò bốn ca)?ng lật dật mà dị... Theo dự dịnh bà xẻ di ngan cái hẻm nhỏ dể có thể rút nga)'n thì giờ về nhà. Trời dả khuyạ các bóng người trong rạp cáng lúc càng thưa dị Bà cố di cho mau và một lúc một va)'ng tanh và tối den, 2 bên dường toàn là cây cổ thụ và từ xa la)'m mới có dược 1 ánh dền lu lu không dủ dể soai sáng con dườn. Bà vừa di vừa có cảm thấy như lành lạnh. KHông hiểu cảm giác ấy là do dêm khuya hay là gì bà nghỉ tới nhửng lời dồn trong làng ra)'ng làng nầy có mạ.. Bà cứ mải mê di, và cố sua di cái ý nghỉ rùng rợn ấỵ Mải di một lúc bà dả dến cái hẻm nhỏ ấỵ Cái hẻm tối ôm không có một ánh sáng chỉ vỏng vẻn có 2 cột dèn ba)'t từ dầu hẻm và cuối hẻm mà thôi, cái hẻm thật dày cho nên chỉ nhờ 2 cây cột dền ấy củng không dủ sôi sáng cái hẻm nhỏ nầỵ Bà nhìn cái hẻm một hồi lâu thở một hơi thật dày, lưởng lự có nên di hay không... Một hồi sau bà mạnh dạng bước vào cái hẻm, rồi bớp 2 ngón cá vào trong lòng bàn tay cho thật cha).c rồi lẩm bẩm niệm một câu thần chú gì... Cứ mải thế bà dả di gần dến cuối hẻm. Trong bóng tối bà bỏng nghe có tiếng ai khóc... và bà cứ lảng tai nghe cho thật kỷ thì dó chính là tiếng khóc của 1 người con gáị.. Bà vẩn cứ di cho dến gần cột dèn. Mai ra nhờ ánh sáng mờ mờ của cái cột dèn thì bà củng dở sợ Khi di dến cột dèn thì bà vẩn nghe có tiếng khóc của cô gáị Ban dầu thì tiếng khóc rất nhỏ nhưng càng lúc tới gần cột dèn thì tiếng khóc càng lúc càng to hơn và càng thảm thiết hơn. Bà vừa sợ và củng tò mò muốn biết xem người con gái dó dang khóc ở dâu, và nhất là bà muốn biết dó có phải là người hay là mạ Khi bà di dến cái cột dèn thì quả thật bà nhìn thấy có cái bóng của một cô gái bận 1 chiếc áo tra)'ng sóa và sỏa mái tóc dày den mun... Cô gái dang ôm ma).t khóc nức nở và rất thảm thiết... Trong cô gái dang dứng trong bóng tối, bận chiếc áo tra)'ng và soả cả tóc phủ xuốn và ôm ma).t khóc bà cảm thấy rợn rợn cả ngườị.. Óc gái bà nỏi cả lên bà muốn bỏ chạy di cho mau nhưng dôi chân bà dả không còn nghe lời bà nửạ Tuy nhiên bà vẩn cứ trấn an ra)'ng cô con gái kia chín là người thật chứ không phải là ma quỷ gì cả Bà cứ dứng và nhìn cô gái ôm ma).t khóc nức nở Trong lòng bà thay vì sợ co ta la ma nhưng giờ bà cảm thấy thương hại và lo ngại cho cô khóc lóc trong dêm khuyạ.. Bà thở thật dày rồi tự nóị "Tội nghiệp.... KHông biết gì cái gì mà cô ta khóc lóc thảm thương như vầy trong dêm khuyạ.. cha)'t là ga).p nhầm cái tha)'ng sở khanh nào bỏ rồi chớ gì... Con gái mà nhẹ dạ quá thì dẻ bị dụ Nếu mà mình bỏ di không khuyên cô ta lở cô ta làm chuyện giại dột thì củng tội cho cô tạ" Nghỉ tới dấy thì bà liền lên tiếng hỏị

-Cô à.... Chuyện gì mà cô khóc lóc thảm thương vậy cổ Chuyện gì thì củng về nhà mà tín. chứ khi không khuya la)'c khuya lơ dứng ngoài dường mà khóc? Thôi cô về nhà dị.. Dả khuya la)'m rồị.. Cô mà dứng dây thì ga).p quân cướp bóc thì nguy la)'m dó. Thôi nghe lời tôi khuyên dị

Cô gái vẩn cứ ôm ma).p mà khóc. Bà sót ruột, phần muốn di về cho sớm, phần thì nghỉ cho cô gáị Vẩn không nghe cô trả lời trả vốn, bà hỏi tiếp, lần nầy bà di lại gần có gái hơn.

-Nầy cô à... Nghe lời tôi dị.. Tôi nghe nói ở dây có ma dó... Cô haỷ mau mau di về dị.. Nhà cô ở dâủ

Cô gái vẩn không trả lờị Bà vẩn tiếp tục di lại gần cộ.. Một cơn gió nhẹ thổi nhạnh qua làm bà rợn cả sương sống. Bà vẩn tiếp tục hỏị

-Thôi thì cô di với tôi nè cho bớt sơ và củng an toàn hơn... Dầu dì củng 2 ngườị

Bà Na)m vừa nói sông thì bà nấm vọi bàn tay cô gái dang ôm ma).t khóc. Bàn tay cô rời khỏi khuôn ma).t thì bà chết sửng, Bà buôn tay cô gái ra và thục luôi lại 3 bước, miệng há hóc như bà muốn kêu lên một tiếng thất kinh nhưng cái miện cứng dơ và cuốn học như dả bị nghẹt. Bà muốn bỏ chạy nhưng chân bà như tê di và không còn cảm giác gì khi bà chợt nhận ra khuôn mặt cô gái ấy tra)'ng tinh, tra)'ng một cách ma quái và không có ma)'t, mủi và miệng... Hoàn toàn trống trơn và ba)'ng tha)?ng.................

Hết

Kết Thúc (END) Truyện

Bí Ẩn Lời Nguyền

Font Size: Tác Giả: Truyện Ma

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Liệu những cái chết bí ẩn xung quanh kim tự tháp có liên quan đến lời nguyền.

Vào thế kỷ 17 và 18, những hầm mộ đầu tiên của các Pharaon bị khai quật. Từ đó, câu chuyện có thật về lời nguyền đã hơn một lần vượt khỏi các kim tự tháp, vang lên điều răn đe khủng khiếp. Người ta nhớ đến vụ cả nước Anh run lên vì cái nắp quách được tìm thấy vào năm 1860, thuộc sở hữu của Viện Bảo tàng Hoàng gia Anh.

Cái nắp đó lấy lên từ phần mộ của một nữ tu sĩ thời xưa. Khi về Anh quốc, vật phẩm lạ kia đã gieo rắc tai họa cho tất cả những người tiếp xúc với nó. Người chủ sở hữu đầu tiên là ông Douglas Murray. Ông này bị mất hẳn một cánh tay ngay sau khi mua cái nắp bởi một viên đạn phát nổ từ chính khẩu súng của mình. Ít lâu sau, người thứ hai nếm trải sự trừng phạt là một nhà báo ở London. Cô mượn cái nắp về nhà để... xem. Ít ngày sau, mẹ cô đột ngột qua đời, rồi lời hứa hôn bị tan vỡ và cô bị mắc một chứng bệnh nan y bí hiểm, y học thời đó bó tay.

Nhưng sự trừng phạt vẫn tiếp tục khi ông Murray "cung tiến" cái nắp quỷ quái nọ cho Viện Bảo tàng. Một nhà khoa học về Ai Cập, khi đang xem xét những dòng chữ cổ in trên nắp, bỗng lăn ra chết bất ngờ. Nạn nhân tiếp theo là một nhà nhiếp ảnh. Ông này đột tử sau khi chụp được tấm ảnh làm rõ nét gian ác của khuôn mặt vẽ phía ngoài nắp (mà ai cũng cho là gương mặt hiền lành, khả ái)...

Tin đồn về sự ghê gớm của cái nắp quách lan nhanh đến nỗi vào thập niên 1930, đồ cúng lễ từ khắp hành tinh tới tấp gửi về Viện bảo tàng Hoàng gia Anh, đặc biệt là các vòng hoa quanh nắp luôn tươi mới. Nhưng nhiều cái chết kỳ lạ và đột ngột vẫn liên tiếp diễn ra ở các điểm khai quật khảo cổ ở Ai Cập và những nơi khác trên thế giới.

Lời nguyền không chỉ có từ các đồ vật ở mộ phần các Pharaon. Những vị chủ nhân khác cũng có khả năng "tẩm" lời nguyền độc địa vào cái mà họ cảm thấy cần giữ gìn. Thurston Hopkins ghi lại câu chuyện như sau:

Vào thời Nữ hoàng Victoria, tên sát nhân William Corder đã giết chết tình nhân của hắn tại Polsted (nước Anh) vào khoảng tháng 5/1827. Hắn bị hành hình. 50 năm sau, phần thi thể của tên sát nhân được vị bác sĩ có tên Kilmer cất giữ. Ông là một nhà khoa học có quan điểm rõ ràng đối với hiện tượng kỳ bí. Vị bác sĩ đã tách chiếc sọ của tên giết người, đánh bóng nó và bày "làm cảnh" ở phòng làm việc. Thế rồi điều kỳ lạ xảy ra. Vị bác sĩ và cả cô hầu đều cùng nhìn thấy lúc mơ hồ, lúc rất rõ kẻ lạ mặt đứng trong phòng, vận y phục thời Victoria. Riêng bác sĩ Kilmer còn nghe rõ cả tiếng lẩm bẩm và hơi thở phì phò. Nhiều lần nửa đêm thức giấc, bác sĩ nghe nhiều tiếng động bất bình thường ở căn phòng chứa cái sọ. Một đêm, cơn gió lạnh từ đâu thốc tới, giữa lúc Kilmer bước vào phòng, cái giá đặt sọ rơi vỡ tung, còn sọ tên sát nhân tự dịch chuyển sang vị trí khác và ông thấy nó như cười nhăn nhở (?). Kilmer đã kiểm soát nhà cửa nhưng tịnh không thấy dấu hiệu nào của người lạ hiện diện bên trong. Vị bác sĩ, nhà khoa học, thật sự thảng thốt. Ông đem chiếc sọ Corder trả lại cho cha Thurston Hopkins, ông này đem các thứ ấy chôn cất ở nghĩa địa. Từ đó trở đi, hiện tượng kỳ lạ trong gia thất bác sĩ Kilmer cũng biến mất.

Chuyện chiếc áo khoác của Nhà hát Công tước York gây ra nỗi khiếp sợ đến lạnh người. Vào năm 1948, Thora Hird, nữ diễn viên hài kịch nổi tiếng đã mặc chiếc áo đó khi trình diễn một vở kịch. Cô kinh hãi khi thấy chiếc áo cứ ngày càng thít chặt vào mình. Tất cả đồng nghiệp của cô cũng gặp nỗi sợ tương tự khi khoác chiếc áo này lên người...

Phải chăng lời nguyền đã bao phủ lên tai họa trong các câu chuyện trên, hay tai họa có nguyên do từ nỗi khiếp sợ ám ảnh. Câu hỏi vẫn lơ lửng khi người ta ngày càng tìm thấy nhiều bằng chứng kỳ bí ở những vật hiếm hoi, đắt tiền hơn. Viên kim cương "Hy vọng" là điển hình của chuỗi giai thoại theo mô típ ấy: Mở đầu là thảm họa của vị chủ nhân thứ nhất: mất cả người lẫn của. Sau đó tai ương giáng xuống hoàng hậu Marie Antoinette, cũng từ việc sở hữu "Hy vọng". Tiếp đến, nó liên tiếp reo rắc những vụ tự sát, khuynh gia bại sản cho một loạt những người khác, trong đó có một vị vua Hồi giáo mất ngôi.

Đi tìm lời giải cho truyền thuyết có thật về lời nguyền, nhiều nhà khoa học đồng tình với ý kiến cho rằng nguyên nhân của những cái chết và cả loạt tai họa bí ẩn trên là do một loại vi khuẩn "chưa biết đến" đang nằm yên trong hầm mộ, tích tụ ngày một nhiều trong các đồ vật. Khi hầm mộ được khai quật, các "quái vật" nhỏ li ti giải phóng khỏi chổ ẩn náu, chúng liền chứng tỏ ngay sức mạnh tàn phá.

Nhưng vẫn còn nhiều điều bí ẩn chưa biết đến, và liệu lời giải thích bằng loại "vi khuẩn chưa biết đến" này có đủ sức chinh phục những người còn tin vào sự hiện hữu mang vóc dáng thêu dệt của lời nguyền.

Kết Thúc (END)

Ma Không Đầu

Font Size: Tác Giả: Truyện Ma

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Ở vùng ngoại ô thành phố Sài Gòn, có một xóm đạo gọi là Giáo Xứ Tân Thành ở trong khu đó có một người con gái tên Trinh. Nhà của Trang có 3 gian, nhà tắm, nhà bếp đều có đủ. Vì đất của ông bà để lại rất là rộng, cho nên Ba của Trang đã trồng rất nhiều cây ăn trái và đủ loại hoa hết trông thật đẹp nhưng có vẻ hơi âm ụ

Trang là chị Hai cho nên từ nhỏ đã ngủ một mình trong căn phòng nhà trên. Thường thường trước khi đi ngủ Trang hay đóng cửa sổ lại vì sợ phải nhìn ra ngoài; trời thì tối om mà cây cối khi bị gió thổi cứ đưa qua đưa lại và tiếng kêu xào xạc của lá làm người nghe cũng rợn tóc gáy huống gì một đứa bé chỉ mới 12 tuổi mà thôị Tuy mỗi đêm đều đóng cửa sổ, nhưng có nhiều đêm Trang thức giấc lại thấy cửa sổ tự động mở toang; nhiều khi sợ quá kêu đứa em gái thứ tư qua ngủ chung. Nhưng chỉ được một đêm thôi là đứa em không chịu nổi vì cái gường của Trang chỉ dành cho một người cho nên hai chị em ngủ chung thì hơi chật và thấy rất là nóng...

Ngoài ra, Trang rất sợ phải ngủ ở gian giữa gần nhà tắm đó. Cái gian đó từ nhỏ đến lớn mỗi lần ngủ ở cái gian giữa là Trang không bao giờ có một giấc ngủ yên lành. Cứ giữa đêm lại thức giấc cho đến gần sáng. Có một lần ngủ với bà ngoại cũng vậy, Trang cũng bị thức giấc giống như ai đó gọi dậy... Chính Trang cũng không hiểu tại sao mình ngủ không được, Trang chỉ biết rằng có cái gì đó làm Trang sợ sệt và không dám ngủ.

Năm 80, nhà Trang mở quán cafe và có người dì họ đến ở chung để phụ buôn bán với mẹ Trang. Một hôm, có một người anh họ đến nhà ở trọ vì trốn nghĩa vụ cho nên không dám về nhà sợ công an bắt. Tối hôm đó khoảng 10 giờ rưỡi, quán đông khách lu chứa nước hết, Trang phải đi xách nước từ nhà tắm đổ vào lu để có nước pha cafẹ Khi đi xuống nhà tắm thì phải qua gian nhà giữa, Trang thấy anh họ (anh họ ngủ ở gian giữa gần nhà tắm) cứ nói ú ớ gì đó trong họng và còn cười khúch khích nữa, Trang nghĩ là chắc là anh họ mớ nên cười thầm trong bụng: "Anh họ lớn rồi mà còn mớ nữa kìa"...

Rồi khoảng 12 giờ mấy, sau khi dọn dẹp xong, chờ má và dì chui vào mùng xong rồi thì Trang là người tắt đèn và chui vào mùng của mình chuẩn bị ngủ thì lúc đó nghe tiếng chân anh Tùng chạy lên nhà trên. Vừa chạy lên nhà trên, anh Tùng vội chui vào mùng bà dì và nói với một giọng sợ sệt:

- Dì H. cho con ngủ chung vớị Con sợ quá. Con ngủ ở dưới kia bị ma nó phá và thọt lét con nhột quá chừng.

Dì của Trang thì tưởng ảnh bị mê sảng gì đó, nên mới nói lớn:

- T! T! Bình tỉnh lại coi và nói từ từ cho dì nghẹ Một lúc sau anh họ mới lấy lại bình tĩnh và nói tiếp:

- Con đang ngủ thì con thấy từ nhà tắm có một bóng đen đi vàọ Bóng đen đó đến gần gường và nắm lấy cánh tay con, ngay cái đồng hồ mà con đang đeo đây nè, sau đó nó thọt lét con. Con mắc cười mà cười không ra tiếng. Con ráng nhìn kỹ coi là ai nhưng mà con chỉ thấy tay chân và mình mà thôi, không có thấy đầu đâu hết.

Nghe đến đây Trang nghĩ đến lúc mình đi lấy nước nghe anh họ ú ớ có lẽ lúc đó con ma nó đang thọt lét ảnh, vậy mà mình chẳng hay biết gì hết, thật là ghê quá chừng. Lúc đó mình mẩy của Trang nổi da gà hết trơn và không dám nhúch nhích cựa quậy gì hết.

Sau khi nghe anh họ kể xong, dì H. mới nói:

- Thôi để dì xuống đó ngủ xem sao, còn T. ngủ ở đây đị

Sáng hôm sau anh họ không dám ở lại nhà của Trang thêm một giây phút nào nữạ Còn dì H. sau khi xuống gian giữa ngủ thì dì thức sáng đêm để xem có chuyện gì xảy ra hôn? Nhưng mà dì có thấy ai đâu...

Thật ra cả gia đình của Trang không có ai thấy ma cả... chỉ có anh họ thấy mà thôị

Ngoài ra, còn có vài người trong xóm họ đi buôn bán về khuya hay là sáng sớm gì đó, họ thấy có người ngồi trên chiếc xích đu cũ kỹ ở ngoài sân và chiếc xích đu này là của bà nội mua cho Trang khi còn bé. Bà nội của Trang đã mất khi Trang được 6 tuổi, cho nên có người nghĩ rằng bóng đen đó là hồn ma của bà nội Trang.

Khi bà nội Trang chết, cái hòm đựng xác bà nội vẫn còn để ở nhà vì chưa đến ngày chôn. Có một đêm vì sao đó Trinh ngủ không được thức dậy ra sau bếp thấy má và vài người bà con đang làm bánh và nấu thức ăn để ngày mai cúng. Má Trang thấy Trang thức thì mới bảo:

- Sao con không đi ngủ đị

Lúc đó Trang im lặng không nói gì hết và đi ra ngoài hàng ba thì thấy đứa em trai kế cũng không ngủ được nên ra hàng ba ngồi hóng mát. Trang đi đến và ngồi xuống bên cạnh em, lúc đó không biết mấy giờ nhưng thấy trời còn tối lắm có lẽ nữa đêm. Hai chị em đang ngồi thì bỗng nhiên nghe tiếng "đùng" cũng hơi lớn ở đằng sau lưng mình. Trang vội quay đầu nhìn lại thì tấm hình của bà nội để dựa vào cái hòm đang rung rinh và hình như cái hòm cũng đang rung rinh nữạ Sợ quá, Trang chạy ngay xuống nhà bếp nói cho má nghe, nhưng má không có chịu tin...

Ðến bây giờ Trang vẫn còn nhớ rõ cái hình ảnh và tiếng động đó. Ngoài ra Trang còn nhớ rằng khi đưa bà nội đi chôn, cái xe tang lạ lùng lắm, không giống như xe tang bây giờ, và Trang đã gục đầu trên hòm bà nội ngủ một giấc ngon lành

Kết Thúc (END)

Ðứng Bên Ngoài Nhà Xác

Font Size: Tác Giả: Minh Nguyễn

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Hôm sau tôi tìm tới nhà ông WangLiu lúc 3 giờ chiều. Ðó là căn nhà nhỏ nằm im lìm trong con đường vắng nhỏ. Quả thật ổng đã chết. Từ ngoài ngỏ tôi từ từ đi vào sân trong. Trước cửa lớn có gắn lồng đàn đỏ. Dựng sát vách bên cạnh là vòng hoa phúng điếu lớn. Lúc đó tôi chẳng thấy ai ra vào ngôi nhà , chỉ thấy trong nhà ngọn đàn mờ mờ. Tôi đứng tần ngần trước cửa , phân vân không biết làm sao. Cuối cùng tôi đánh bạo bấm chuông.

Kính koong - kính coong - kính coong - Xeẹeeet , xeẹeẹet , keủeet Một bà già Tầu lẹt xẹt đi ra mở cửa , hỏi:

- Yes? Who are you? (Vâng? anh là ai? ) - Mam, I am looking for professor WangLiu , is he home? (Thưa bà , tôi tìm giáo sư Wangliu , ông có nhà không? ) - Hic hic , Wangliu is not here , he s gone forever hic hic hic (hic hic , Wangliu không còn ở đây , ổng đã đi luôn rồi hic hic hic).

Chưa nói hết câu bà già khóc nức nở. Tôi bối rối chưa kịp làm gì thì bà nói tiếp (Xin dịch thẳng ra tiếng Việt):

- Ông ấy chết trong bệnh viện ngày hôm kia. Sau khi giảo nghiệm họ mới đưa ông vào nhà quàn Camino Memorial , để sửa soạn (làm đẹp) cho tử thi. Ba ngày nữa làm lễ mai táng.

Nghe bà nói vậy tôi kín đáo thở phào (vì không phải tìm cách vô nhà bà). Rồi tôi giả vờ phân ưu vài câu và rút lui liền.

Trên đường về tôi quyết định ghé nhà quàn dọ thăm. Nhà quàn Camino Memorial nằm khuất sau ngọn đồi , trên đồi có rất nhiều ngôi mộ. Tôi lái xe vào tận bãi đậu xe sát nhà quàn. Ði vòng ra cửa trước , cửa khóa , tôi ghé mắt nhìn vào không thấy ai. Lúc đó 5 giờ chiều trời đã tối. Tôi mò mẫm ra nhà sau đễ xem xét địa thế. Có một dãy nhà sáng trưng , có căn cửa còn mở. Tôi hồi hộp lại gần dãy nhà đó. Căn phòng đầu tiên là restroom. Qua khỏi restroom tôi nhìn vào căn thứ nhì. Bên trong có hai người đàn ông mặt áo trắng , họ đang lui cui làm việc bên một cái xác chết. Ðúng là nhà chứa xác rồi !. Tim tôi đập thùi thụi !. Tôi cố gắng chú mục nhìn kỷ khuôn mặt xác chết , đúng rồi , ông Wangliu...

Ngón Tay Quái Ác...

Tôi ngồi thụp xuống đất tính toán , làm gì bây giờ đây? Ðợi đêm khuya lẻn vào sau nhà? Hay là ngày mai trở lại? Ðang suy tính tôi chợt nghe có tiếng động bên trong phòng. Tôi đứng dậy nhìn vào bên , hai người đàn ông đang cởi cái áo khoác trắng ra và nói gì với nhau. Ðầu tôi chợt lóe lên một sáng kiến. Tôi vội quành ra ngỏ trước và đi thẳng vào phòng gặp hai người - (Bằng tiếng Anh) Xin lỗi , hai ông có biết là họ đã đưa xác ông Wangliu đến đây chưa?

Hai người đàn ông giật mình nhìn tôi , suy nghĩ một chút rồi nói:

- Oh , Wangliu hả nằm kia , chúng tôi còn sửa soạn , trang điểm và mặc đồ cho ổng. Ngày mai ông hãy trở lại thăm , bây giờ chúng tôi phải đi ăn tối.

Nghe họ trả lời vậy tôi đánh liều nói tiếp:

- Vậy hả , mai mới được thăm hả. Tiếc quá , vậy mai tôi trở lại.

Và tôi bắt đầu thực hiện kế hoạch của mình:

- À restroom chổ nào vậy ông , tôi xin đi nhờ một chút.

Họ tưởng tôi muốn hỏi restroom thật. Một người chỉ tay hướng dẫn tôi vào bên trong. Tôi đi vội vào trong restroom. Chẳng cần xem xét nữa tôi tiến về phía cửa sổ và mở sẵn chốt cửa. Xong rồi tôi đi ra ngoài phòng ngoài , cũng vừa kịp lúc thấy hai người đẩy xác ông Wangliu vào trong một ngăn tủ sắt lớn. Lúc họ đẩy xác vào , tay phải ông WangLiu chợt bung ra , tòng teng , tôi thấy rõ chiếc nhẫn đá tím lóe lên. Tôi chào hai người rồi đi ra khỏi dãy nhà.

Nhưng tôi không về , mà lái xe ra sau một chổ khuất , rồi đậu lại ngồi suy nghĩ. Tôi phải hành động liền trong đêm nay. Ðể ngày mai , lỡ có nhiều người đến viếng xác ông thì càng khó làm. Bây giờ họ đi ăn tối , dịp may rất tốt để lẻn vào lấy nhẫn. Quyết định xong tôi ngồi chờ. Khi hai người giữ xác vừa lái xe đi tôi liền ra khỏi xe , lom khom chạy lại chỗ dãy nhà. Tim tôi đập liên hồi. Tay chân tôi run lên. Quái , bình thường tôi lì lắm mà sao bây giờ yếu vậy ! Kệ , tôi chạy lại chổ cầu tiêu (Restroom) rồi dùng hết sức đẩy cánh cửa (Slide Window) qua một bên , và hết gân , hít hơi , đu người vào bên trong. Chẳng khó khăn gì lắm. Tôi lần mò vào trong căn phòng chính (có lẽ vì là nhà chứa xác , nên họ không gắn còi báo động-alarm). Ðúng là những học tủ chứa xác chết rồi. Tôi định vị trí hộc tủ của ông Wangliu và kéo cái ngăn kéo ra. Phì. Một hơi lạnh toát ra làm tôi rởn người. Ðầu óc tôi tê cứng không còn suy nghĩ gì nữa , tôi giở cái khăn đậy xác ra. Ðúng là ông Wangliu , mặt ông tím thẩm , nhìn còn dữ hơn ở trong lớp. Tôi đã liều rồi , chụp lấy tay ông tìm chiếc nhẫn. Tay ông khô đét , cứng ngắc , tôi nhắm mắt cầm chiếc nhẫn kéo ra khỏi ngón tay ông...

Kết Thúc (END)

Chuyện Thật Của Gia Đình Tôi

Font Size: Tác Giả: Tam Tang

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Note: Tuy tôi chưa bao giờ thật sự thấy ma, và thường chỉ nghe người ta kể lại hay đọc truyện ma trong sách mà thôi! Nhưng sau đây là một truyện thật của gia đình tôi! Tuy vậy nó cũng chỉ là do các người bạn nói lại cho tôi thôi! Tùy ý các bạn nhận xét đó là chuyện thật hay giả vì chính tôi cũng không thể xác nhận chuyện này đúng hay sai nữa !

Gia đình tôi thuộc diện đông anh em! Bố mẹ chúng tôi chỉ là những người có tầm vóc của những người VN trung bình, nhưng mấy tên con trai trong nhà tôi đều thuộc diện cao so với người VN ta! Tên thấp nhất trong nhà thì cũng 1 mét 70. Lúc xảy ra chuyện này thì em trai út tôi mới 4 tuổi mà đã cao hơn 1 thước rồi!

Nhà tôi ở một chung cư, gần đó có một cái hồ lớn nhưng không sâu lắm, mùa mưa nước đầy thì ven bờ chỉ sâu khoảng 1 mét 40 thôị Hồ chỉ cách nhà tôi chưa tới 100 mét! Ngay hông nhà tôi có một con đường đất rộng chạy thẳng ra hồ!Một buổi trưa vào tháng 5, chúng tôi đều đi học, bố tôi đi làm, chỉ có mẹ và hai đứa nhỏ ở nhà! Mẹ tôi đang đút cơm cho em gái tôi thì thấy em trai út tôi ở ngoài bước vào, quần áo nó ướt nhem lẫn với sình! Nó dọc nước ngoài sân và té vào vũng sình! Mẹ tôi doạ:

_ Có đi thay đồ và rửa ráy mau không mẹ cho một trận bây giờ !

Em tôi trở ra phía sau chổ có mấy lu nước loay hoay ở đó! Mẹ tôi bận trông và đút cơm cho con gái nên cũng không để ý gì nữa! Cứ tưởng là nó rửa ráy, thay quần áo rồi trốn lỉnh trong phòng vì sợ mẹ đánh!

Chừng 20 phút sau mẹ tôi nghe có tiếng la ồn ào phía bờ hồ! Bà bế em tôi chạy ra xem thì hỡi ôi! Mấy người đàn ông đang vác em tôi trên vai chạy lên chạy xuống để xốc nước! Mấy bà thấy mẹ tôi ở đó liền kéo bà một mạch về nhà tôi (vì họ nói rằng nếu người chết đuối thấy thân nhân mình thì sẽ không cứu được!) Mấy người đàn ông chỉ biết vác dốc ngược em tôi trên vai chạy để xốc nước mà thôi! Họ không biết cách làm hô hấp nhân tạo là gì cả ! Bụng em tôi xẹp lép hết nước rồi nhưng không ai biết làm gì hơn! Có người kêu là bồng thằng bé đi nhà thương đi! Thế là họ bế em tôi chạy đi kiếm xe chở đi bệnh viện! Nhưng tới nơi thì không còn kịp nữa rồi!

Anh em chúng tôi đi học về thấy người ta bu quanh nhà đông nghịt! Không biết chuyện gì đã xảy ra, tôi chạy xông vào nhà thì thấy mẹ tôi đang nằm vật vả khóc! Có người kéo tôi ra nói là em trai út của tôi bị chết đuối! Mấy anh chị em tôi khóc òa cả lên! Tôi bặm môi để không khóc theo họ và lủi vào phòng khóc một mình trong đó! Tôi rất xấu hổ nếu khóc trước mặt người lạ ! Đến đêm về tôi nằm nghĩ đến em mà khóc thầm một mình trên giường! Thương cho em tôi còn bé mà đà chết non!

Người đàn bàthấy em tôi đầu tiên nói là bà ta thấy chùm tóc đen của nó vật vờ ở mặt nước nên hô hoán cho người đến vớt lên! Người đàn ông vớt em tôi lên nói là nó vẫn đứng thẳng chưa chìm và chỉ cách bờ khoảng 2 thước thôi! Nếu nó cao thêm một vài tấc nữa thì đã không sao rồi! Và nếu có ai biết làm hô hấp thì nó đã không chết đâu !

Xác em tôi được quàng tại phòng khách và hai ngày sau thì đem chôn ở một nghĩa trang Công Giáo! Trước kia, hằng đêm tôi thường giăng ghế bố ngủ tại phòng khách! Lúc này tôi cũng hơi ơn ớn nên chui vào ngủ chung với anh em trong phòng một thời gian! Cả tháng sau tôi mới giám lên đó giăng ghế bố ngủ lại, nhưng vẫn cảm thấy hơi rờn rợn dù biết người chết là em mình!

Nhưng rồi cũng quen đi! Tôi chẳng thấy gì lạ cả! Cuộc sống cứ lần trôi qua! Bố mẹ tôi cũng nguôi ngoai nỗi thương tiếc con mình! Anh em chúng tôi còn là con nít nên còn chóng quên hơn nữa! Ngày đi học, chiều về chơi đá banh hay đánh vũ cầu v.v... Chúng tôi không để ý và cũng chẳng thấy gì lạ Ở nhà chúng tôi hết !

Một hôm tôi cùng mấy thằng bạn ngồi uống nước chanh muối sau một trận đá banh! Bổng một đứa buột miệng hỏi tôi:

_ Mày có thấy gì ở nhà mày không?

_ Thấy cái gì?! _ Tôi hỏi ngược lại nó !

_ Thiệt tình mấy người trong nhà mày hổng thấy gì lạ hết sao !?

_ Bình thường không có gì lạ cả !!

_ Vậy mà họ đồn nhà mày có ma đó !

Tôi hơi xanh mặt nhưng cãi bay:

_ Ai nói tầm bậy vậy ! Có ma thì tao phải thấy chứ !

Tôi giám đoan chắc như vậy vì tôi ngủ ngay phòng quàng xác em tôi mà! Mấy thằng bạn tôi nhao nhao lên:

_ Có thiệt đó ! Nhiều người thấy lắm mà !

Rồi tụi nó đua nhau kể là cứ mỗi đêm tối trời, người đi chơi khuya về thường thấy một cục lửa to như trái banh, bay từ bờ hồ về đến ngang hông nhà tôi thì dừng lại lơ lững ở đó một hồi mới biến đi mất ! Rất nhiều người thấy chứ không phải chỉ một hai người đâu! Mấy người ở gần nhà tôi còn nói là đêm họ ra đi tiểu thì thấy một ngọn lửa xanh dờn cháy ở sau nhà bếp chổ cầu tiêu nhà tôi!

Tôi nghe tụi nó kể cũng rợn xương sống nhưng mặt cố làm tỉnh, gân cổ cãi lại:

_ Làm gì có ma cỏ trên đời này! Tao không tin đâu! Bọn họ chỉ hù tuị mày thôi !

Tuy nói thế nhưng về nhà tôi cũng kể cho mẹ tôi nghe các điều nghe được! Mẹ tôi nạt ngang:

_ Hơi đâu con tin các chuyện tầm phào đó!

Tuy không tin lắm vào các chuyện tụi bạn kể, tôi cũng không giám đi chơi khuya nữa! Chỉ 9 giờ tối là đã về đến nhà rồi ! Tôi không giám nói chuyện này cho anh em tôi nghe sợ họ cũng đâm ra hoảng như tôi! Thật tình thì tôi chẳng thấy gì cả! Không biết các điều người ta nói có thật không! Nhưng người trong khu vực đó đều nói rằng có ma về chung quanh nhà tôi! Họ còn nói rằng sở dĩ ma không vô nhà tôi vì nhà có bàn thờ Chúa ở trong !!

Cũng may bố tôi mua được một căn nhà và một mảnh vườn rộng ở gần chổ ông ngoại tôi, nên gia đình tôi dời về chổ ở mới này! Tôi không biết sau đó ma có còn hiện ra hay không vì tôi không có dịp trở lại chốn cũ nữa !

Hết

Kết Thúc (END)

Kinh Hoàng !

Font Size: Tác Giả: Minh Nguyễn

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Nhưng chiếc nhẫn cứ dính sát vào tay ông , không chịu sút ra. Tôi cố sức kéo cả 10 phút , mà chiếc nhẫn vẫn trơ trơ. Tôi toát mồ hôi không biết phải làm sao. Tôi bắt đầu mất bình tỉnh. Nhưng tôi không muốn rút lui , đã vào tận trong này rồi trở ra coi như không , nói sẽ không ai tin.

Ðúng lúc đó có tiếng xe hơi lái vào bãi đậu xe. Tôi hốt hoảng nhìn quanh. Mắt tôi chợt lóe sáng , một con dao con đang nằm trên cái bàn gần đó. Không cần suy nghĩ tôi lao lại chụp con dao và dùng nó cứa đứt ngón tay đeo nhẫn của ông Wangliu. Tôi làm thật mạnh , thật nhanh. Chỉ trong nháy mắt ngón tay ông Wangliu đứt lìa. Chiếc nhẫn sút ra , tôi vội chụp nhẫn , lúng túng không biết bỏ đâu. Có tiếng đóng cửa xe. Tôi bí quá đeo đại chiếc nhẫn vào tay mình , rồi phủ khăn cho cái xác , đẩy vào hộc tủ và cầm ngón tay chạy vào restroom. Tôi trèo ra cửa sổ cũng vừa lúc nghe tiếng lách cách mở ổ khóa.

Về đến nhà , tôi tìm một cái hộp , bỏ ngón tay vào , cất ở chổ kín đáo , rồi đi thẳng vào phòng tắm rửa tay. Sau khi rửa tay tôi rút cái nhẫn ra. Ngày mai tôi sẽ đem vô trường , cho lũ bạn xem cho lé mắt. Thế nào tụi nó cũng phục tui mà. Tôi sung sướng nghĩ đến ánh mắt cảm phục của Lan.

Nhưng cái nhẫn không chịu đi ra khỏi ngón tay tôi. Nó dính cứng vào ngón tay. Không hiểu sao lúc bỏ vô thì được , bây giờ lại lấy không ra. Chắc là phải dùng xà bông. Tôi đang định thoa xà bông thì có tiếng gõ cửa phòng tắm:

- Anh Minh , em cần phòng tắm.

Khỉ thật , con em út đòi phòng tắm. Thôi để mai hãy tìm cách lấy chiếc nhẫn ra. Với lại bao nhiêu căng thẳng lúc ở nhà quàn đã làm tôi thấm mệt. Tôi cần ngủ một giấc.

Nghĩ vậy tôi thay đồ leo lên giường đánh một giấc. Nhưng , kinh khủng quá , lúc nữa đêm đang chập chờn tôi chợt thấy ông Wangliu mặt tái ngắc , giơ bàn tay cụt một ngón nhào lại phía tôi , đòi lại chiếc nhẫn , mặt ông thật dữ tợn. Tôi hốt hoảng hét lên:

- Mr Wangliu !

Tôi choàng tỉnh , thì ra chỉ là một giấc mơ. Tôi hoàn hồn , nhìn quanh trời mờ mờ sáng. Bất chợt tôi đưa tay sờ vào chiếc nhẫn. Nó vẫn còn đó. Nhất định tôi phải lấy nó ra khỏi bàn tay tôi...

Ngón Tay Chảy Máu Trong cái đêm từ nhà xác về tôi cố rút chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay mà không được. Tôi đành đi ngủ chờ ngày mai. Nhưng đêm đó hai lần tôi nằm mộng thấy ông WangLiu hiện về , nhào đến tôi gào thét. Thấy mặt ông tái nhợt và bàn tay phải ngón giữa bị đứt , máu chảy từng giọt khiến tôi kinh hoàng hải sợ. Sau hai lần ác mộng tôi nằm thao thức luôn tới sáng.

Hôm sau thứ năm lễ Thanksgiving cả gia đình ở nhà. Từ sớm ba mẹ và em tôi đã thức dậy , hình như họ chuẩn bị nấu gà tây. Tôi cũng định ra khỏi phòng giúp gia đình , nhưng tự nhiên thấy người uẻ oải , rũ rợi. Tôi cảm thấy lạnh. Bất giác tôi đưa tay phải kéo thêm mền. Bất ngờ nhìn thấy tay mình , tôi run lên. Toàn thân tôi lạnh toát. Ngay... ngay... chỗ ngón tay tôi đeo nhẫn có máu đỏ chảy ra , loang lên lòng bàn tay. Tôi hãi hùng nhắm mắt la lên: OH MY GOD !

Khi tôi mở mắt ra nhìn kỷ lại bàn tay thì chẳng thấy có tí máu nào. Chỉ còn chiếc nhẫn trơ trơ , một tia sáng cực tím lóe lên rợn người. Tôi dụi mắt hai ba lần , bàn tay vẫn vậy không có máu. Ðang còn hoang mang , thì đột nhiên cửa phòng ngủ tôi mở ra. Con em tôi chạy ùa vào nói:

- Anh la cái gì um sùm vậy , mẹ bảo ra ăn sáng kìa !

Tôi vội đuổi nó ra:

- Em đi ra di , chút nữa anh ra.

Khi em tôi ra khỏi phòng rồi , tôi liền chạy ngay vào phòng tắm , đổ xà bông gội đầu đầy trên tay phải của tôi , rồi nắm chiếc nhẫn kéo ra thật mạnh. Một lần , hai lần , ba , rồi hơn cả chục lần , mặc cho tôi kéo , chiắc nhẫn ù lì không chịu sút ra. Ngón tay trỏ của tôi đau nhói. Một cái ngấn tím bầm , sưng lên. Tôi không thể nào rút nhẫn ra được nữa. Tôi vừa đau tay vừa mệt , đứng dựa vách tường đối diện với tấm gương. Trời ơi , kinh sợ quá... trong... trong gương , mặt ông Wangliu hiện ra nhăn nhúm như một con quỷ. Như một phản xạ tự nhiên tôi đưa tay thủ thế, thì đột nhiên cái bóng biến mất...

Kết Thúc (END)

Chỗ Hẹn

Font Size: Tác Giả: Jonh Christophe

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Công ty cố thuyết phục tôi nghỉ một kỳ hè dài sau khi Helen chết đuối. Nhưng rồi họ đồng ý với tôi là tôi cần làm việc hơn là nghỉ ngơi. Sáu tháng sau họ lặp lại đề nghị cũ. Họ yêu cầu tôi tới nghỉ cuối tuần với gia đình Ashtons ở ngoại ô thành phố Luân Đôn. Ngoài tính hiếu khách, Freddy và Paula còn cố thúc đẩy tôi một cách thân hữu nhưng kiên trì. Họ đồng ý là "toa thuốc" của tôi có lẽ hợp lý. Nhưng đồng thời cơ thê cũng như trí não tôi có những giới hạn và tôi đã làm việc quá nặng nhọc, Paula dịu dàng vạch ra là tôi đã hướng về một cái gì chẳng mơ mộng chút nào chỉ là những năm cố tình biến thành vô nghĩa và không ích lợi gì. Dĩ nhiên lúc đó với tôi mọi sự đã thay đổi. Vết thương lòng từng là một điêm yếu đáng ngại nay đã có phần gắn lại. Vết thương này còn nhức nhối nhưng có thê chịu đựng được. Freddy bảo họ đã mua vé cho tôi dự một chuyến du ngoạn mươi ngày bằng tàu biên tới Nam Phi và tôi đã không cưỡng lại ông bạn của mình.

Suốt ngày tôi chìm đắm trong một trạng thái mơ màng mà tôi cố tình suy nghĩ đê khỏi phải quen biết với những hành khách cùng chuyến đi. Từ khi Helen qua đời, tôi chỉ gặp người khác với lý do duy nhất là làm việc. Thật là khó chịu và đáng sợ khi phải nhìn ngắm họ dưới khía cạnh thực tế của mỗi cá nhân riêng biệt: những người có hoặc không có một cá tính, đặc điêm nào đó. Tôi uống khá nhiều rượu, nhưng uống một mình. Chúng tôi chuyên từ vùng biên và mây một màu xám lạnh sang một vùng xanh thẳm, tươi sáng và ấm áp hơn. Và tôi đang ngồi trên một ghế đẩu cao lênh khênh cuối quầy rượu. Đêm nào tôi cũng yên lặng uống và chỉ tỉnh hẳn vào lúc 11 giờ sáng hôm sau. Tôi chẳng buồn lên bờ với những người khác khi tàu ghé bến.

Viên sĩ quan trưởng giao tế nhân sự có khéo léo ngỏ một hai lời gì đó với tôi, kê cho tôi nghe về một vài điều thú vị đáng xem và đáng làm ở Nam Phi, nhưng rồi ông ta bỏ ngay ý định khuyên tôi nên hành động một cách hợp lý như thế. Ông ta ra vẻ đã từng gặp nhiều người như tôi rồi.

Chính trong chuyến trở về tôi gặp Cynthia Parker. Một buổi sáng tôi đang ngồi ở chỗ quen thuộc nơi quầy rượu và vừa đốt điếu thuốc thì một giọng nói cất lên ngay đằng sau. Tôi xoay người lại, tay vẫn cầm que diêm đang cháy đỏ và thấy nàng giật lùi.

- Tôi rất lấy làm tiếc. - Tôi nói.

- Kỳ cục thật! - Giọng nàng thật cứng cỏi, có phần khàn khàn nhưng dê chịu. "Tôi sợ lửa từ lúc còn nhỏ. Ngay cả một que diêm cũng vậy. Tôi muốn hỏi ông có ai ngồi ở chiếc ghế này không!"

Tôi gọi cho nàng một ly rượu gừng và chỉ mười lăm phút sau nàng đã vượt qua bức tường bất hợp tác từng giúp tôi tách khỏi những người khác. Nàng có một lối nói thẳng không ngần ngại của một người tự tin mạnh mẽ. Ngoài ra nàng còn thông minh, có một óc khôi hài bén nhọn - những đức tính ít khi thấy cùng một lúc - và rất ấm áp có thê làm cháy lòng với một nụ cười, của một sắc đẹp tuyệt vời. Vì như đã tiết lộ trong 15 phút đầu tiên đó, nàng đã 66 tuổi.

Bề ngoài thì đây có vẻ là một kết hợp kỳ cục dù theo tiêu chuẩn của những chuyến hải du. Ngoài việc có gần 30 năm ngăn cách thì chúng tôi còn có rất ít điêm giống nhau. Tôi là một nhà doanh nghiệp tầm thường, đã làm việc như điên suốt thời tuổi trẻ và ngoi lên được, như người ta thường nói, nhờ những năm dài cực nhọc. Chỉ với Helen tôi mới biết những thú vui của cuộc sống, nhưng lại không kéo dài được quá ba năm ngắn ngủi. Cynthia ngược lại sinh ra trong nhung lụa và tiếp tục sống giữa giàu sang cho tới bây giờ. Bà ta đã kết hôn ba lần, trong đó có một lần ly dị và hai lần góa chồng. Tôi có cảm giác họ đều là những người giàu có và bà ta cũng là một người đàn bà "tiền rừng bạc bê". Cynthia biết nhiều về tiền bạc. Một tối chúng tôi bàn về thị trường chứng khoán và tôi nhận ra tôi chẳng biết là bao so với bà ta. Cynthia còn là người kê chuyện khá hay và nghe chuyện cũng rất sáng trí. Và cái lối vượt qua mau mắn bức rào ngăn cách do tôi dựng lên kê ra cũng rất đáng kê. Hơn nữa bà ta tượng trưng cho mẫu người đầy nữ tính mà không cần pha thêm tình dục, một người an ủi lý tưởng cho những người đang ở tâm trạng như tôi. Còn vì sao bà ta tìm tới tôi thì khó xác định hơn. Không phải chỉ đê thoát cô đơn với bất cứ giá nào. Bà ta là người đàn bà chưa bao giờ và có lẽ sẽ không bao giờ cô đơn.

Cynthia uống rất khá nhưng không quá nhiều rượu. Bà ta đã tách tôi khỏi quầy rượu và trong nhiều giờ đáng lẽ tôi đã dùng làm bạn với ma men, thì chúng tôi lại nằm trên hai chiếc ghế phơi nắng cạnh nhau, ngắm sóng vỗ và nói chuyện. Hai ngày đầu tôi nói về công việc làm và tuổi niên thiếu của tôi. Ngày thứ ba tôi nói về Helen. Cynthia lắng nghe và sau cùng nói:

- Thì ra như vậy. Tôi đang tự hỏi việc gì đang đè nặng lên ông và tàn phá ông như vậy.

Bà ta nói như một tay y sĩ, có vẻ hài lòng vì đã gỡ rối được một trường hợp khó khăn. Có cái lạ là điều đó và việc bà ta không tỏ ra buồn bã một cách giả tạo như tôi thường gặp lại làm tôi dê chịu. Tỏ ra cảm tình với sự đau khổ là tự kỷ, là tìm cách kết thân. Bà ta thì như phản ứng cho thấy, có lẽ không bao giờ biết đau khổ vì mất một người nào. Điều là một địa ngục với tôi thì với bà ta chỉ là một câu chuyện nhỏ kỳ cục hay một ảo ảnh mà thôi. Cynthia kê cho tôi nghe câu chuyện nhỏ của chính bà ta sau bữa cơm tối hôm đó.

Chúng tôi ra quầy rượu làm một chầu trước khi đi ngủ và bà ta có vẻ rất khỏe khoắn, phê bình chua cay những hành khách cùng chuyến đi lọt vào cặp mắt sắc bén và cay độc của bà. Đối với một người sống hết mình như bà, ý tưởng đào thoát qua một chuyến hải du không thê chấp nhận được. Bà ta không hiêu mà cũng không tha thứ việc bỏ phí thời giờ dù dưới hình thức nào hay vì bất cứ lý do gì đi nữa. Đối với Cynthia những người đàn ông ăn mặc chải chuốt lịch sự chung quanh chúng tôi thì không khác gì những thanh thiếu nữ trong mấy bộ hippy, bụi đời đứng ngồi lê lết ở các quán cà phê, các góc phố. Họ đều là những người sa đọa, đáng khinh.

Tôi nghĩ tôi đã tìm ra một yếu điêm trong lời chỉ trích của Cynthia và tôi chộp ngay lấy. Dù sao bà ta cũng đang ở đây với họ cơ mà. Bà ta đã bảo tôi phần lớn bà ta sống ở Mỹ. Bà vừa đi thăm một người chị có gia đình ở gần Johannesburg và cần trở về Luân Đôn đê dự một buổi họp về vấn đề làm ăn. Tôi bảo như vậy bà ta đâu có cần dự chuyến hải du này. Thay vào đó bà ta có thê dùng máy bay tới Luân Đôn, và chuyến đi sẽ chỉ kéo dài vài giờ thay vì vài ngày.

Cynthia ngưng lại trước khi trả lời, ra hiệu cho người bồi rót thêm rượu. Rồi bà ta nói: "Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ đi máy bay và sẽ không bao giờ đi".

Dĩ nhiên chúng ta có thê gặp những bà già không chịu hòa mình với tiến bộ tân kỳ, nhưng bà ta không thê thuộc hạng này. Bà ta đã kê cho tôi nghe là có một chiếc xe Thunderbird ở nhà và rất mê thuyền đua. Sự phủ nhận mạnh mẽ và bình thản phương tiện hàng không này làm tôi ngạc nhiên. Tôi hỏi:

- Tại sao vậy?

Bà ta cầm lấy ly rượu, nâng lên và nhìn tôi qua vành ly.

- Vì sợ. - Bà ta trả lời.

Tôi lắc đầu: "Khó tin quá".

Lại một lúc yên lặng và tôi nghĩ bà ta đang tìm cách đổi đề tài. Nhưng một lát sau bà ta bắt đầu nói với một giọng thật nhỏ nhẹ và tôi lắng nghe.

Thời gian là gần 50 năm về trước, thời mà cuộc Đại chiến thứ nhất đang lê lết kéo dài và chậm chạp tàn lụi dần. Lúc đó bà ta mới là một thiếu nữ mười tám tuổi. Ngay từ thời đi học nàng đã không thiếu người ái mộ và đầy hy vọng bước vào một thời toàn thịnh. Đứng trên quan điêm này thì chiến tranh thật là nản. Nhưng nếu trên khía cạnh khác thì chiến tranh lại là một nguồn cung cấp không bao giờ cạn những chàng trẻ tuổi đẹp trai trong quân phục, và một chút lòng ái quốc trong việc chấp thuận đi chơi và đê họ hiến dâng những giờ phút vui đùa, thoải mái. Những giờ phút thực sự thoải mái vẫn có ngay vào năm 1917 miên là đầy đủ phương tiện.

Có khoảng hàng tá chàng trẻ tuổi, một số nàng buồn hơn khi thấy phải xa rời họ so với kẻ khác, nhưng không người nào tạo cho nàng một cảm giác đặc biệt cho tới khi Tony Anderson xuất hiện. Tôi không tin là nàng yêu anh chàng vì tôi không nghĩ là có một lúc nào nàng lại không tự kiềm chế được mình tới mức đó, nhưng nàng có bị anh chàng mê hoặc thật và sự mê hoặc này sau bốn mươi tám năm vẫn còn biêu hiện rõ trong cách nàng đề cập tới anh chàng.

Chàng là một thanh niên cao lớn, hơi đen với một bộ râu mép rậm rạp sẫm màu, một cái mũi cong và đôi mắt xanh biếc sâu thẳm. Chàng rất khỏe mạnh và quyến rũ: lần đầu khi bắt tay chàng, nàng đã thấy ngay hai ưu điêm đó. Ngoài ra chàng còn nhiều điều đáng kê nữa. Chàng là cháu ngoại một ông quận công, con trai một trong những nhà tỷ phú trong ngành thép. Theo cha mẹ nàng cũng như chính nàng, chàng là người đầy đủ mọi điều kiện nhất. Sáu tuần sau lần gặp nhau họ đính hôn.

Nàng cảm thấy nơi chàng một cái gì man rợ và chính điều này đã lôi cuốn nàng nhưng chỉ tới một mức độ nào đó thôi. Chàng là một người nhiều bốc đồng và muốn thực hiện cho kỳ được chúng mới nghe. Có lần định mua cho nàng một chuỗi vòng đeo tay vào một giờ sáng, chàng liền dựng một ông chủ tiệm ở đường Bond đang ngủ trên giường dậy và kêu ngay một chiếc taxi tới đê đi. Chàng đưa nàng đi pic-nic trên một con sông - chỉ có chàng, nàng, rượu sâm banh ướp đá và một thùng trái cây hiệu Fortnum - nhưng khi đặt chân đến một hòn đảo nhỏ gần một bãi biên hoang vắng, tiếng nhạc êm dịu đã vang vọng lên: cả nhóm đàn dây của dàn nhạc Đại Hòa Tấu Hoàng Gia Luân Đôn đã có mặt đê sẵn sàng giúp vui. Tất cả những trò này thì rất hấp dẫn và kích thích, nhưng cũng nhuốm màu đáng sợ nữa. Vì nếu rất rộng rãi chàng cũng lại rất đòi hỏi. Và đã hiến dâng trọn vẹn cho nàng, chàng cũng đòi hỏi nàng tương tự. Chàng bảo nàng là của chàng cho đến muôn đời.

Nàng rùng mình, mỉm cười và nói:

- Anh à, có lẽ anh hơi mơ mộng quá so với truyền thống dân Anh mình đó. Ngay kinh thánh cũng chỉ nói: tới khi cái chết chia rẽ chúng ta thôi mà.

Cặp mắt màu xanh nhìn nàng chăm chú, chiếc miệng đầy đặn không hé một nụ cười. Chàng bảo nàng:

- Đê anh kê em nghe một câu chuyện này.

- Thơ mộng chứ hả anh!

- Nếu em thích. Chuyện về bà ngoại anh.

Nàng là con gái một nhà quý tộc đính hôn với một vị quận công. Cha nàng được bổ làm Đại Sứ tại triều đình Hoàng Đế thành Vienne và nàng theo cha tới đó. Nàng gặp - không ai biết rõ tại sao - một chàng trai Hungari. Chàng ta thật chẳng có gì hấp dẫn, là một tay cách mạng chàng còn thuộc sắc dân gypsy, một sắc dân thiêu số sống thành bộ lạc và nổi tiếng giang hồ. Cả hai yêu nhau. Và tới gần ngày thành hôn thì nàng đã có bầu. Nàng thổ lộ cùng người tình và anh chàng hân hoan ra mặt. Họ sẽ cùng bỏ trốn và sẽ sống một cách yên lành tại một vùng đất an bình. Nàng là của chàng và chàng là của nàng. Chàng tin tưởng nơi nàng và tình yêu của hai người. Nhưng nàng yếu đuối và lo sợ những gì sẽ xảy ra cho mình. Nàng thú tội cùng cha và ông ta đem chuyện kê lại với vị quận công. Vị này thì vốn rất thực tế. Ông ta quá nghèo dù là quận công, trong khi cha nàng lại rất giàu dù chỉ là một ông bá tước. Của hồi môn đã lớn lao của nàng bây giờ lại càng rộng rãi gấp bội. Hôn lê giữa nàng và ông quận công được cử hành như đã dàn xếp. Và cặp vợ chồng mới cưới đầy hạnh phúc cùng nhau tới sống tại một biệt thự yên tĩnh và hẻo lánh ở Thụy Sĩ. Đứa con chào đời ở đây là một bé gái. Mọi sự tốt đẹp hơn là mong đợi. Tương lai gia đình đã yên ổn và bây giờ tới lượt các cậu con trai.

Phải nói là đã tới lượt nếu nàng còn sống.

Cha nàng vẫn làm Đại Sứ. Hai vợ chồng nàng tới Vienne vào mùa xuân, gần đúng một năm sau khi nàng rời bỏ nơi này với người yêu. Thay vì ở tòa đại sứ, họ ở tại một căn nhà nhỏ dùng đê săn bắn trong rừng. Đây là nơi người tình của nàng đã từng bị gia nhân viên quận công bắt giữ. Giường của đôi vợ chồng kê ngay trong căn phòng nơi chàng trẻ tuổi bị hai người giữ chặt hai tay trong khi vị quận công đâm chàng tới chết. Ông này giấu vợ chuyện giết tình địch, định sáng mai sẽ kê, vì như mọi người thực tế khác, ông ta hãnh diện về óc khôi hài của mình. Bà quận công đi ngủ trước trong lúc ông chồng ngồi lại uống nốt ly rượu nho. Khi ông vào với vợ thì nàng đã chết giữa đám máu đông tuôn ra từ một vết dao găm nơi ngực.

Cynthia ngừng lại và tôi kêu cho bà ta một ly rượu nữa.

- Ghê quá, nhưng có vẻ không thật. Chắc nàng đã tự tử?

- Không. Tại sao nàng lại phải tự tử? Nàng đâu có biết người tình của mình đã chết. Chính trong ngày hôm đó nàng đã nhờ một người tớ gái dò hỏi tin tức của chàng. Yên ổn mọi bề rồi nàng lại muốn thêm một chút mơ mộng. Hơn nữa nàng là người rất sợ máu.

- Vậy chắc ông chồng đã giết nàng.

- Cũng không phải nữa. Vì có một điều khoản về của hồi môn định số tiền được giữ lại cho con gái nàng. Ông ta có bị nghi ngờ một thời gian, nhưng ông cũng thấy, không có dấu vết một con dao găm nào cả.

- Vậy thì...?

- Một vụ ăn trộm, cảnh sát kết luận. Một kẻ vô danh đã lén vào, bất chợt gặp bà quận công trên giường và giết bà ta đê khỏi bị lộ. Rồi bỏ trốn.

Tôi nhấm nháp ly rượu:

- Có vẻ có lý lắm.

- Tôi cũng đã nói như vậy.

- Thế ông ta - vị hôn phu của bà - không đồng ý à?

- Anh ấy là một người có máu gypsy chắc ông còn nhớ. Chính phần nhỏ này của tổ tiên đã ảnh hưởng mạnh tới anh ấy chứ không phải là những phần còn lại. Anh ấy đã sang Hungari tìm ra bộ lạc và sống với họ một thời gian, học biết dần những tín điều của họ. Một trong số đó là cái chết dữ sẽ giữ chặt linh hồn người quá cố tại nơi chết đã xảy ra. Và nếu nguyên do còn là mối tình lớn hay một hận thù vĩ đại, linh hồn đó có thê đòi đền bồi khi người đã gây ra ghé ngang qua đó. Đó là một thứ tin tưởng có một giá trị xã hội nào đó. Trong trường hợp sát nhân, kẻ tình nghi bị trói tại nơi án mạng. Việc sáng hôm sau thấy những tay này chết tại chỗ là chuyện thường tình.

- Cũng không có gì đáng ngạc nhiên lắm. - Tôi nói - Vậy theo ý ông ta thì ông cố tình trở lại trả thù người tình không trung thành? Và đâm chết nàng với một con dao vô hình nào đó?

- Phải. Anh ấy tin như vậy.

- Bà vẫn chưa cho tôi biết là tại sao bà lại sợ đi máy bay?

- Anh ấy là một phi công trong Không Lực Hoàng Gia. Đó là thời của những khinh khí cầu bay trên thành phố Luân Đôn. Một đêm anh ấy tấn công và bắn cháy một chiếc. Đó là một cuộc tấn công gan dạ vượt quá mức can đảm thường tình. Phải nói là liều lĩnh nữa. Anh ấy cũng bị rớt và cháy cùng kinh khí cầu. Họ truy tặng anh ấy huy chương Victoria Cross.

- Đến đây tôi vẫn chưa hiêu.

Bà ta chậm rãi:

- Anh ấy nói với tôi là tôi là của anh ấy, thuộc về anh ấy suốt đời và cả sau khi chết nữa. Khi anh ấy kê cho tôi nghe về ông ngoại và bà ngoại mình là có ý muốn nói sẽ tới tìm tôi nếu tôi phản bội. Và tôi đã phản bội thật.

Cặp mắt vẫn còn tuyệt vời của bà chăm chú nhìn tôi.

- Tôi cũng có thai. Một tháng sau khi anh ấy tử trận, tôi tự hiến mình và đứa con trai của anh ấy cho một người đàn ông khác.

Tôi phản đối:

- Làm sao bà có thê bảo đó là phản bội? Bà có trách nhiệm gì về cái chết của ông ấy đâu.

Bà ta nhún vai:

- Cái chết không thành vấn đề với anh ấy. Quan trọng là tình yêu và danh dự. Anh ấy đã dự phòng trường hợp mình qua đời, và hy vọng tôi sẽ nuôi con, sống như một góa phụ cho tới khi cái chết kết hợp lại hai đứa chúng tôi. Thay vì vậy tôi lại kết hôn và đó chính là một sự phản bội.

Tôi lắc đầu:

- Và bà nghĩ là vì vậy...

- Anh ấy chết trên không. Nên anh ấy có đợi tôi thì chắc là ở trên không. Tôi cũng có thê đối diện cái chết như bất cứ ai, nhưng không phải là trên một chiếc máy bay bốc cháy. Không phải chết đê kết hợp lại với anh ấy.

- Gần năm mươi năm trước - Tôi nói - và dựa trên một truyện truyền kỳ xưa hơn năm mươi năm nữa.

- Năm mươi năm có nghĩa gì? - Bà ta chăm chú nhìn hàng chai sau quầy rượu. - Tôi nhớ anh ấy rõ hơn là tôi nhớ ông sau khi chúng ta rời khỏi chiếc tàu này.

Chúng tôi từ biệt nhau ở Southampton, và không hy vọng gì sẽ gặp lại nhau. Quả vậy. Tôi trở lại làm việc. Thỉnh thoảng tôi có nhớ tới bà ta trong những giờ phút yên lặng ban đêm khi không ngủ được và tôi đi xuống nhà dưới tìm một chai rượu. Chính sự trớ trêu đánh mạnh vào tâm trí tôi nhất. Hai người gặp nhau trên một chuyến tàu chẳng có gì giống nhau trừ nỗi ám ảnh của cái chết. Một thì ước gì những người chết được an nghỉ nhưng sợ họ sống lại. Người kia thì sẵn lòng hy sinh tất cả đê những người đã qua đời được hồi sinh, nhưng lại biết là họ chết thật rồi.

Rồi tình cờ tôi thấy tên Cyathia trên mặt báo và đọc được bài tường thuật về cái chết của bà ta. Bà đã qua đời trong một căn phòng ở khách sạn. Theo bài báo thì có lẽ vì nằm hút thuốc trong giường rồi ngủ quên.

Nhưng Cynthia có hút thuốc bao giờ đâu và bà ta sợ mọi thứ lửa, ngay cả ngọn lửa của một que diêm. Chủ khách sạn chứng minh ngay là không có một sự sơ suất nào về phần họ. Mỗi tầng, mỗi phòng đều được bọc chất kỵ lửa, các đường dây điện không thê nào chê được. Và hơn nữa đây là một khách sạn vừa mới xây xong. Vậy mà bà ta lại chết cháy.

Vì Cynthia đã quên là sau năm mươi năm mặt đất đã cao dần tiến lên gặp gỡ bầu trời. Đó là một khách sạn rất mới, khách sạn Metropolitan Towers, và ngôi nhà này vượt lên hẳn khỏi đám mái ngói dầy đặc của thành phố Luân Đôn. Bốn mươi lăm tầng cả thảy và phòng bà ta ở tầng thứ bốn mươi hai. Khoảng 500 bộ. Tôi kiêm chứng lại trong tờ The Illustrate - London News cũ. Chiếc kinh khí cầu đã bị hạ và mất độ cao khi ông ta quay lại tấn công lần chót. Người ta ước chừng lúc đó vào khoảng 500 bộ...

Kết Thúc (END)

Sáu Kẻ Tình Nghi

Font Size: Tác Giả: Phạm cao Củng

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Họ đều đã có mặt ở đó, tất cả sáu người. Ông Sen trong bộ "đồ lớn" lịch sự, đi đi lại lại tỏ vẻ sốt ruột. Ông Huyện Lý hai tay chắp sau lưng, ngắm nghía bức vẽ thủy mặc, thản nhiên như một khách dự cuộc triên lãm. Ngồi trên hai chiếc ghế gỗ trắc, khảm xà cừ đối diện nhau là Phan Vỹ và Dương Ba. Họ không trò chuyện cùng nhau, vì cả hai cùng như đương mê mải suy tính một việc gì... Còn hai vợ chồng ông Ba Cự thì đứng ở bên cửa sổ, trò chuyện thầm thì bằng tiếng Quảng Đông, vì tuy ăn vận Việt phục, bà Ba Cự, một Hoa kiều, thường nhật vẫn rất ít khi dùng tiếng Việt...

Khi thanh tra Trúc Tâm tay xách chiếc cặp da bước vào phòng thì mọi người cùng dồn nhìn về phía chàng thám tử. Lê Vương đi theo sau, lặng lẽ ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ, sửa soạn giấy tờ đê sẵn sàng ghi chép...

Mọi người đều đã ngồi xuống ghế, chung quanh chiếc bàn rộng kê ở giữa phòng... Trúc Tâm đằng hắng, rồi mở đầu:

- Thưa quý vị, hôm nay tôi mời quý vị tới họp tại đây là vì tôi đã tìm ra manh mối vụ án mạng ông Phạm Viên, xảy ra trong ngôi biệt thự này, cách đây mấy ngày, đúng vào ngày 14 tháng mười...

Nói tới đây, Trúc Tâm ngừng lại, liếc mắt nhìn cử tọa, như muốn tìm xem phản ứng họ ra sao... Một lát, chàng thám tử trẻ tuổi mới lại tiếp:

- Tôi chỉ xin nhắc sơ lược lại câu chuyện đã xảy ra... Thứ bảy tuần trước, ông Phạm Viên, giám đốc hãng xuất nhập khẩu đã bị ám sát. Quý vị sáu người đều có mặt khi xảy ra án mạng. Quý vị đều là bạn quen biết lâu ngày của ông Phạm Viên, nên thường lệ, hàng tuần, cứ tối thứ bảy thì ông lại mời tới chơi đây, họp mặt làm vui... Như chỗ tôi biết thì ông Huyện Lý là một người bạn cũ từ thời cắp sách đi học của ông Phạm Viên, còn ông Dương Ba thì là người vẫn thường giao dịch buôn bán với kẻ bị thiệt mạng cũng đã có tới non chục năm nay.

Ông Dương Ba gật đầu, công nhận lời nói của Trúc Tâm là đúng. Viên thanh tra lại tiếp:

- Còn ông Phan Vỹ thì lại là cháu của Phạm Viên. Thường thường mỗi khi ở dưới tỉnh lên có công chuyện gì thì ông vẫn thường lưu lại ở nhà chú ông, như nhiều người đều biết. Ông Sen thì tuy giữ chức trưởng văn phòng trong hãng xuất nhập khẩu nhưng có thê cũng là một thư ký riêng của Phạm Viên, hơn nữa lại là một người bạn thân tín mà có lẽ Phạm Viên không hề giấu giếm một chuyện gì. Hình như kẻ bị thiệt mạng, bữa đó mời ông dự bữa cơm tối thứ bảy, cũng còn có ý muốn nhân dịp này tính toán kỹ lại một vụ "làm ăn" gì đó...

Ông Sen gật đầu:

- Ông nói đúng, tối hôm ấy, hãng cũng đang dự định đê xin xuất cảng lông vịt sang Nhật Bản...

Trúc Tâm hỏi lại:

- Hình như ông Sen tới nhà riêng của Phạm Viên dùng cơm là lần đầu, phải không?

- Vâng... và tôi nói thêm đê ông biết rằng: tuy ý ông Phạm Viên định bàn bạc với tôi về vụ lông vịt, nhưng rốt cuộc, câu chuyện lan man ông cũng không có dịp nói riêng với tôi lúc nào cả...

Trúc Tâm gật đầu, đồng ý rồi quay sang phía vợ chồng ông Ba Cự, nói tiếp:

- Ông bà Ba đây thì ai ai cũng biết là người đại diện cho hãng tại Hương Cảng. Ông bà mới về chơi thăm quê, nên tiện dịp, ông Phạm Viên mới mời ông bà lại ăn cơm tối.

Bà Ba Cự quay sang nói với chồng một câu tiếng Tàu. Kế đó ông Ba gật gù mà bảo thanh tra Trúc Tâm rằng:

- Nhà tôi đương tỏ ý lo lắng rằng ông Phạm Viên đột ngột chết đi như thế này thì không hiêu rằng chi nhánh của chúng tôi ở Hương Cảng sẽ hoạt động cách nào đây?

Trúc Tâm gật đầu, nói:

- Việc ấy kê ra cũng hơi phiền phức đấy, nhưng chắc sao rồi cũng có cách tiếp tục mọi công việc doanh thương... Ngay bây giờ, chúng tôi cùng quý vị sẽ cố gắng tìm cho ra thủ phạm đê cho người thiệt mạng đỡ phần uất hận. Trước hết, tôi xin phép quý vị tường thuật lại việc xảy ra trong đêm ấy như thế nào... Sau khi mọi người ăn uống xong xuôi, thì ông Phạm Viên xin lỗi mọi người trở về phòng riêng, vì trong người ông hơi mệt mỏi.

Chủ nhân có nói:

- Xin quý bạn hãy cứ tự nhiên ở chơi đây... Vị nào ưa âm nhạc thì nghe nhạc... vị nào muốn xoa mạt chược thì cũng cứ tùy thích lập bàn. Có lẽ lúc nãy tôi uống hơi quá chén, nên bắt nhức đầu... Tôi xin phép về phòng riêng nằm nghỉ trong chốc lát, không chừng, tôi sẽ trở qua.

Chừng một giờ sau, lúc ấy đã 11 giờ 15, ông Phan Vỹ vừa đánh xong ván mạt chược, đứng dậy, nói:

- Quý ngài có ai dùng Bisquit không? Đê tôi đi rót vài ly uống chơi cho hứng thêm!

Mọi người cùng đồng ý nhưng khi Phan Vỹ cầm chai Bisquit lại thì rượu chỉ còn vừa rót đầy hai ly thôi... Phan Vỹ bèn đi xuống nhà dưới đê lấy chai khác lên uống... Mọi việc xảy ra như vậy có đúng không?

Chính Phan Vỹ gật đầu, bảo:

- Đúng, tôi thường ở đây, nên biết nhà chú tôi cất rượu, ở căn phòng thứ hai, tầng dưới...

Trúc Tâm kê tiếp:

- Ông Phan Vỹ xuống dưới nhà, và trong khi ông cầm chai rượu lên tầng trên, ông có khai rằng: không hề nghe thấy tiếng gì khác lạ cả. Lại theo lời khai của toàn thê quý vị thì sau chừng ba, bốn phút, ông Phan Vỹ cầm chai rượu lênvừa kịp mở cửa phòng ra, vừa toan bước vào, thì có tiếng súng nổ ở phía trên lầu ba, tức là nơi phòng riêng của ông Phạm Viên...

Mọi người cùng gật đầu:

- Mọi việc đã xảy ra đúng thế!

Trúc Tâm lại tiếp:

- Sau đó, mọi người cùng nhau chạy lên trên lầu, và thấy cửa phòng ông Phạm Viên mở hé, chiếc tủ cũng như mấy ngăn kéo bị kẻ lạ mặt lục tung, vứt bừa bộn, còn chính chủ nhân thì nằm sóng sượt trên chiếc ghế xích-đu, ngực bị trúng một viên đạn súng lục cỡ 6,35 xuyên thủng phổi, nên đã chết tự lúc nào... Cuộc điều tra tiến hành cho biết: hung phạm vào hạ sát ông Phạm Viên có lấy được số bạc chừng 7, 8 ngàn đồng mà ông bỏ trong hộc tủ...

Nhìn khắp mọi người một lượt, Trúc Tâm lại thong thả tiếp:

- Theo lệ thường, trong các cuộc điều tra, trước hết chúng tôi tìm biết: kẻ nào sẽ được lợi sau khi Phạm Viên chết đi. Nhưng đối với tất cả 6 vị ở đây, tôi đều thấy ai ai cũng có thê có duyên cớ hợp lý đê... hạ sát Phạm Viên đê hoặc là cầu lợi, hoặc là trả một mối thù riêng, mà họ đã giữ kín từ lâu nay...

Thấy cử tọa có vài người muốn nói, Trúc Tâm giơ tay cản lại, mà tiếp luôn:

- Những điều tôi nói đây đều có chứng cớ xác thực, vậy xin bất tất ai phải chối cãi làm gì... Riêng có điều: khi tiếng súng nổ, kết liêu đời Phạm Viên, thì tất cả 6 quý vị ở đây, đều có mặt trong phòng khách cả, vậy lý đương nhiên, không một ai có thê nhúng tay vào vụ ám sát này...

Nghe Trúc Tâm nói tới đây, mọi người như trút được gánh nặng, thở phào khoan khoái... Ngưng lại ít phút, Trúc Tâm lại nhìn mọi người mà hỏi:

- Trong quý vị đây, mấy bữa trước có ai đi xem chiếu bóng hay tuồng kịch gì không?

Ông Ba Cự đáp:

- Tôi và nhà tôi mấy bữa trước có đi coi gánh Hoàng Thanh diên vở Huyền Châu Nữ...

Vừa nói, ông Ba Cự vừa sờ vào túi, như có ý định tìm hai cuống vé vào cửa, nhưng ông bỗng lắc đầu:

- Quái, tôi nhớ lúc tôi móc túi lấy gói thuốc hút, còn thấy hai cuống vé trong túi, không hiêu tôi lại vứt đâu lúc nào rồi...

Trúc Tâm mỉm cười, nói:

- Cái đó không sao... Bây giờ, tôi chỉ xin quý vị hãy chú ý lắng nghe tôi nói...

Tuy tuyên bố như vậy, nhưng Trúc Tâm chỉ vén tay áo coi giờ, rồi ngồi lặng thinh, như chờ đợi cái gì, chứ chửa nói năng chi hết. Khoảng năm phút sau, chàng thanh tra thám tử mới lớn tiếng hỏi:

- Anh Năm có đấy không?

Một tiếng trả lời vọng lại, đáp:

- Có, cái chi đó, anh?

Trúc Tâm ra lệnh:

- Khởi sự đi anh Năm!

Thế là chưa đầy hai phút sau, một tiếng nổ rền từ lầu ba vọng xuống... Trúc Tâm hỏi mọi người:

- Quý vị có nghe thấy gì không?

Mọi người cùng đáp:

- Có tiếng súng nổ, đúng như đêm xảy ra vụ án mạng.

Trúc Tâm mỉm cười, rồi đúng lúc Phan Vỹ vùng đứng lên thì Trúc Tâm cũng đã áp tới, rút khóa tay, còng ngay hắn lại. Và Trúc Tâm cắt nghĩa:

- Phan Vỹ giết ông Phạm Viên không ngoài ý muốn sang đoạt gia tài, vì ông Phạm Viên không có con cái chi hết. Tên cháu bất lương này có lẽ đã tính toán từ lâu... Mà không chừng, hắn đã tập diên thử và thấy mọi lớp lang sắp đặt đều hoàn toàn đúng nhịp... Chai Bisquit, hắn cũng đã đê sẵn từ trước, chai gần cạn thì là một cớ cho hắn đi ra ngoài, còn chai đầy hắn đê sẵn giấu trong chiếc giỏ đựng đầy giấy, bên phòng làm việc bên cạnh đấy.

Nghe tới đoạn này, ông Ba Cự nói:

- A, tôi nhớ ra rồi, hai cuống vé coi hát, hồi chiều hôm ấy, tôi có vứt vào giỏ đựng giấy, khi ngồi tính toán công chuyện với ông Phạm Viên...

Trúc Tâm mỉm cười nói tiếp:

- Chính nhờ có cuống vé coi hát, dính ở dưới trôn chai rượu mà tôi biết được rõ rệt vụ này... Khi nói đi lấy rượu thì Phan Vỹ đã lên nhanh trên lầu, bắn chết Phạm Viên, rồi hắn đặt một chiếc pháo vào trong một chiếc lư đồng lớn, bày trên tủ chè, châm ngòi đốt. Nhanh nhẹn, Phan Vỹ trở xuống dưới nhà, lấy chai rượu đầy, mở cửa vào phòng khách... Vì lần trước cửa đóng nên không ai nghe thấy tiếng súng nổ, còn lần sau, tiếng pháo nổ mọi người cùng nghe vì hung phạm đã khôn ngoan mở rộng cửa lúc bước vào trong... Tất cả kế hoạch của Phan Vỹ chỉ nhằm một mục đích: làm sao cho mọi người tưởng ông Phạm Viên bị bắn khi hắn lại có mặt ở đây!

Kết Thúc (END)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#duy#khanh