duyentap1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đôi lời

- Ebook được chia sẻ mang tính phi thương mại, bản quyền thuộc về tác giả và người dịch

- Ebook chưa được sự đồng ý của tác giả và người dịch, mọi thắc mắc có liên quan sẽ không được giải đáp

- Khi chia sẻ trên bất kì diễn đàn nào vui lòng ghi rõ CREDITS của người dịch và người làm ebook

- Vui lòng không reup link ebook, bản quyền ebook thuộc về người làm, vui lòng ghi rõ bản quyền ebook: [email protected]

- Mọi thắc mắc, góp ý vui lòng liên hệ:

http://www.facebook.com/vnyuki1102

http://www.twitter.com/vnyuki1102

http://www.youtube.com/ghostlady1102

http://vnyuki1102.wordpress.com

.

.

.

Duyên Kỳ Ngộ - Tập 1

.

Tên gốc: Mạn Mạn Thanh La (Dây tơ mơn mởn)

Tác giả: Trang Trang

Người dịch: Nguyễn Thành Phước

Nguồn: Linpearl89

Làm ebook: Yuki1102

.

.

Giới thiệu

Thể loại: cổ trang, xuyên không

Độ dài: 25 chương

.

Tóm tắt

Chương 1♥Chương 2♥Chương 3

Chương 4♥Chương 5♥Chương 6♥Chương 7♥Chương 8

Chương 9♥Chương 10♥Chương 11

Chương 12♥Chương 13♥Chương 14♥Chương 15

Chương 16♥Chương 17♥Chương 18

Chương 19♥Chương 20♥Chương 21♥Chương 22

Chương 23♥Chương 24♥Chương 25

.

.

Tóm tắt

Trình Tinh là cô gái hiện đại vô tình xuyên không ngược về một thời đại lạ lùng không có trong lịch sử. Linh hồn cô nhập vào thân xác một cô bé sáu tuổi tên là Thanh La, con gái vị Thất phu nhân của Lý tướng Ninh quốc. Thanh La từ đó đã biết giấu mình để tránh sự chú ý của người khác nhằm sau này dễ bề đưa mẹ trốn khỏi Lý phủ, sống đời tiêu dao.

Năm mười ba tuổi, trong Đào hoa yến của Hộ quốc công chúa, Thanh La giả trang thành a hoàn trốn khỏi trướng của tướng phủ để dò la. Duyên trời xui khiến, nàng gặp phải một vị tiểu vương gia kiêu ngạo trong vườn đào, hai người hiểu lầm, Thanh La đánh ngất tiểu vương gia Lưu Giác và bỏ đi.

Cũng trong lần trốn ra ngoài này, Thanh La còn vô tình quen tứ hoàng tử Tử Ly. Chàng là người đầu tiên ở Ninh quốc này đối xử tốt với Thanh La, khiến nàng cảm động.

Hai chàng trai anh tuấn, cùng yêu thương Thanh La. Nhưng vì cả hai chàng đều là những người có địa vị cao sang, ngoài tình yêu họ vẫn ấp ủ giấc mơ quyền lực. Mối quan hệ với hai chàng đã đẩy Thanh La vào cảnh nước sôi lửa bỏng trong cuộc chiến quyền lực chốn hoàng cung.

Sau bao thăng trầm, lưu lạc, Thanh La liệu có tìm được hạnh phúc cho mình?

.

.

“Ngoài đồng cỏ mọc lan ra,

Mịt mù sương lộ đậm đà rớt rơi.

Đẹp thay bỗng có một người,

Mắt trong mày đẹp xinh tươi dịu dàng

Tình cờ ta gặp được nàng

Thật là thích hợp mơ màng bấy lâu”

(Kinh thi, Trịnh phong, Dã hữu mạn thảo, bản dịch của Tạ Quang Phát)

.

Chương 1

.

Vừa mở mắt, Trình Tinh lập tức nhắm lại, mở ra lần nữa, lại nhắm lại. Sau mấy lần như thế, cô quả quyết tuyệt đối không phải mình đang nằm mơ, cô không nằm trên giường nhà mình, mà ở một nơi lạ hoắc nào đó.

Thử động đậy, chân tay vẫn nguyên vẹn, không hề suy chuyển, lắc lắc đầu, đầu hơi nhẹ, nhưng vẫn tỉnh táo. Cô ngồi dậy, cơ thể không sao. Trình Tinh ngồi trên giường ngơ ngẩn, không lẽ có người nửa đêm bí mật đưa cô từ nhà đến đây? Thậm chí không hề làm cô tỉnh giấc.

Trình Tinh vốn rất thính ngủ. Nhất là những lúc cha mẹ vắng nhà, thính giác của cô cơ hồ càng nhạy, một con chuột chui vào lùng sục thùng rác trong bếp, chân nó vừa chạm nắp thùng, cô đã nhảy khỏi giường xộc vào bếp, vớ lấy quả bóng rổ tung lên. Con chuột mai phục trong bếp đã lâu kinh hãi nhảy dựng, lặng lẽ chuồn thẳng, chạy đến cái hõm tường để quạt thông gió, nó còn dừng lại, quay đầu khinh miệt nhìn Trình Tinh bằng đôi mắt đen hạt đỗ, hình như muốn nói, chỉ bới rác thôi mà, có đáng phải thế không?

Đuổi xong con chuột, cô lại lên giường ngủ tiếp. Không còn tiếng động quấy rầy, cô lập tức ngủ say, không hề mộng mị, vừa thức giấc, mở mắt đã thấy đang ở chỗ này. Quay đầu nhìn quanh, căn phòng không rộng, chừng mười mét vuông, trên tường quét vôi trắng treo bức tranh sơn thủy và đôi câu đối rất trang nhã: “Tùy phong hòa bích nguyệt thanh minh, thính đào thanh trúc vũ vô ý”(1).

Ngước mắt nhìn, trần nhà được ghép bằng những ván gỗ, nền lát đá xanh khổ rộng. Trước cửa sổ có một cái án chạm trổ hoa văn, trên đặt một chiếc đàn, và một chậu lan thảo. Bài trí đơn giản mà tao nhã.

Đột nhiên cảm thấy người hơi đau, đưa tay sờ, chạm ngay ván giường cứng queo, người quen nằm đệm, ngủ trên giường lát ván thế này đương nhiên thấy đau mình. Lại nhìn cái giường, đây là loại giường cổ, hình như là thời Minh, Thanh, cửa giường có bình phong được ghép mộng bằng những hoa văn tứ hợp như ý và hoa văn chữ thập, gia công cầu kỳ tinh xảo, màn quây bằng lụa màu vàng nhạt. Trình Tinh thầm nghĩ, chiếc giường này quả là rất đẹp, chế tác tinh xảo, giá cả chắc cũng rất đắt. Gối dài, trên thêu hoa, cô đưa tay khẽ vuốt, chạm phải những hạt nhỏ bên trong, bỗng bật cười, trong ruột chiếc gối thêu lại là một túi trấu, thì ra đúng là như vậy.

Bốn bề vô cùng tĩnh mịch, một khi đã tỉnh ngủ Trình Tinh không muốn nán lại trên giường nữa, cô muốn biết đây là chốn nào, ai đã đưa cô đến đây. Định xỏ dép nhưng chân vừa giơ ra bỗng sững người, chìa tay trước mặt nhìn, lại sững người, lại nhìn toàn thân, cuống quýt sờ soạng, Trình Tinh kinh hoàng, đầu óc hoảng loạn, chỉ thấy tim đập như trống trận, nước mắt ứa ra. Cơ thể này, cơ thể này không phải là của cô! Quần áo cô mặc cũng không phải là trang phục hiện đại.

Trình Tinh thở dốc, vô thức há miệng hét: “Mẹ!”.

Có tiếng đẩy cửa, một cô gái xấp xỉ đôi mươi vội vã đi vào: “Tam Nhi, mẹ đây, con thấy ác mộng phải không?”.

Trình Tinh một lần lần nữa kinh ngạc: “Mẹ ư?”.

Cô gái bước đến dịu dàng ôm Trình Tinh, dỗ dành: “Tam Nhi, có mẹ ở đây, đừng sợ, con gặp ác mộng hả? Nhìn con này, người đẫm mồ hôi rồi”. Nói đoạn, dùng chiếc khăn lụa trong tay lau mồ hôi cho cô.

Một làn hương nhè nhẹ từ cơ thể người đó phả ra, Trình Tinh sợ hãi đến phát run, đây đúng là không phải nằm mơ! Cô gái dường như cảm nhận được người cô đang run bần bật, nhẹ nhàng ôm cô, bế cô đặt ngồi lên đùi mình, tay khẽ vỗ lưng dỗ dành: “Mẹ đây, Tam Nhi ngoan nào, đừng sợ!”.

Lúc này Trình Tinh đã rơi vào trạng thái kinh sợ tột cùng, toàn thân cứng đờ, lưỡi cứng không thể nói được. Lúc này, cô gái đã phát hiện ra, bắt đầu lay cô: “Tam Nhi, con sao thế? Tam Nhi? Người đâu!”.

Có hai người ngoài cửa chạy vào, một người có dáng a hoàn, một người có dáng quản gia, giọng sợ sệt hỏi: “Thất phu nhân, tiểu thư làm sao ạ?”.

Giọng cô gái đã có phần bực bội: “Tiểu thư xưa nay sợ ngủ một mình, ngay cả các người cũng không coi mẹ con ta ra gì, dám lơ là như vậy?”.

Hai người quỳ sụp xuống, mặt trắng nhợt. Người có tuổi bạo dạn hơn, mở miệng: “Thất phu nhân, lão nô thấy trời đã sáng, không còn sớm nữa, bèn đi lấy trang phục để tiểu thư mặc chuẩn bị đi thi, chẳng ngờ tiểu thư lại thấy ác mộng!”.

A hoàn kia nói giọng suýt khóc: “Hôm nay tiểu thư dậy muộn, Tiểu Ngọc gọi hai lần, tiểu thư có trả lời, con tưởng tiểu thư đã tỉnh, bèn đi chuẩn bị nước nóng. Xin phu nhân tha cho Tiểu Ngọc, từ nay tiểu thư chưa dậy Tiểu Ngọc quyết không dám rời một bước!”.

Thất phu nhân thấy bộ dạng sợ hãi của bọn họ, thở dài một tiếng: “Còn không mau đi chuẩn bị, hôm nay không được sơ suất!”.

Vú Trương và Tiểu Ngọc nhìn thất phu nhân, cúi chào, vội vàng đi ra.

Thất phu nhân nhỏ nhẹ dỗ Trình Tinh: “Tam Nhi, vú Trương và Tiểu Ngọc đều là những người mẹ chọn từ lâu, họ đều rất tốt”.

Răng Trình Tinh vẫn va vào nhau lập cập, cô không hiểu đã xảy ra chuyện gì, chỉ vô thức gật gật đầu, cuối cùng miệng cũng lí nhí vọt ra một từ: “Vâng”.

Thất phu nhân nâng mặt Trình Tinh, giọng vẫn dịu dàng: “Tam Nhi, mẹ biết con rất sợ cuộc thi hôm nay, nhưng mẹ chỉ có một mình con, nếu con giận dỗi làm hỏng cuộc thi, mất mặt là chuyện nhỏ, nhưng mẹ sao đành lòng để con bị phạt đòn? Cuộc sống sau này của mẹ con ta ở tướng phủ sẽ càng khó khăn”. Nói đoạn, nét mặt lộ vẻ bi thương.

Lúc đó vú Trương mang một xấp quần áo, Tiểu Ngọc bê một chiếc thau đồng đi vào. Thất phu nhân đặt Trình Tinh xuống giường, nắm bàn tay nhỏ bé của cô, dịu dàng nói: “Nào, hôm nay mẹ chải đầu cho con”.

Vú Trương giũ ra một chiếc váy màu xanh mặc cho cô, sau đó lại mặc thêm chiếc áo ngắn màu tím hồng, thắt dải hai bên sườn. Trình Tinh đứng ngây như hình nộm để mặc mọi người làm gì thì làm.

Thay xong trang phục, thất phu nhân dẫn Trình Tinh đến ngồi trước bàn trang điểm. Đột nhiên, nhìn thấy trong chiếc gương đồng một khuôn mặt nhỏ bé xa lạ, hai tay Trình Tinh hốt hoảng ôm lấy mặt, bật ra một tiếng kêu kinh hoàng: “Ôi!”.

Thất phu nhân nhìn ra ngoài, nét mặt lộ vẻ lo lắng: “Tam Nhi, muộn rồi, nếu không trang điểm sẽ không kịp, nếu đến muộn cha con... Ôi, mẹ biết làm sao!”.

Cuộc thi ư? Cha con ư? Trình Tinh từ từ buông tay, hé mắt nhìn, trước mặt lại nổi lên một đám sương mù. Đây là ai? Sao mình lại trở nên nhỏ bé thế này? Sao mình lại biến thành như thế này? Cô không thể nào tin nổi, ngơ ngác nhìn đứa trẻ trong gương, mắt đỏ hoe, sắc mặt xanh xao, nhiều nhất cũng chỉ sáu tuổi.

Thấy Trình Tinh ngoan ngoãn ngồi trước gương, thất phu nhân, vú Trương, Tiểu Ngọc nhanh chóng trang điểm cho cô. Một lúc sau, trong gương lại xuất hiện một tiểu mỹ nhân, mắt to, khuôn mặt trang điểm tinh tế gọn gàng, có hàng tóc mái ngay ngắn, hai bím tóc nhỏ xíu. Thất phu nhân hài lòng thắt hai dải lụa màu lên hai bím tóc ấy, nghiêng đầu ngắm nghía, nét mặt tươi cười.

Vú Trương cười xởi lởi: “Tiểu thư giống phu nhân quá, sau này lớn lên nhất định cũng là một mỹ nhân”.

Thất phu nhân nắm tay Trình Tinh dắt ra ngoài. Trình Tinh ra khỏi cửa phòng, nhìn thấy một khoảng không vuông vắn, bên dưới là mảnh sân, đặt hai cái bể cá to bằng đá, giữa có một khóm hải đường đương độ ra hoa. Sáng sớm chắc có mưa, sân đầy ắp nước, hoa hải đường được tắm mưa càng mơn mởn, thắm sắc, nhưng bây giờ không phải là lúc thưởng thức phong cảnh. Tiếng bước chân của thất phu nhân đã có phần vội vã, hình như đang tranh thủ thời gian vì lo bị muộn.

Đột nhiên Trình Tinh nghĩ, phu nhân muốn đưa mình tham gia cuộc thi nào đó, hình như rất quan trọng, vừa rồi hình như phu nhân có nói, nó liên quan đến cuộc sống nào đó sau này của mẹ con họ ở Lý gia. Hai mẹ con sao? Tim Trình Tinh lại nhảy lên. Thất phu nhân nhiều nhất cũng chỉ hai mươi ba, hai mươi tư tuổi, mình phải gọi cô ta là mẹ ư?

Cố gắng trấn tĩnh, cô muốn biết cuộc thi mình sắp phải tham dự rút cục là gì, rồi lại nghĩ đến sự biến đổi kỳ dị này. Cô kéo tay thất phu nhân, ngẩng mặt hỏi: “Cuộc thi này, con phải chú ý những gì?”.

Đây là lần đầu tiên sau khi thức dậy thất phu nhân thấy cô nhắc đến cuộc thi, bỗng dừng chân, âu yếm xoa đầu cô: “Tam Nhi, mẹ biết con đã cố gắng, cố gắng muốn học tốt cầm kỳ thi họa, ngâm thơ làm câu đối, nhưng con không thích những thứ đó, đương nhiên học không được tốt lắm. Nhưng, Tam Nhi, con phải hứa với mẹ, dù con có trả lời được hay không, nhất định không được khóc, không được làm chúng ta bẽ mặt”.

Nói đến đây, trong mắt thất phu nhân thoáng lộ ra vẻ uất hận: “Mặc cho bọn họ xoay thế nào, chúng ta tuyệt đối không được rơi một giọt nước mắt! Nhớ chưa, Tam Nhi?”.

Trình Tinh nhìn vẻ ân cần trong mắt thất phu nhân, gật gật đầu. Chỉ cần không khóc là được! Cô thở dài, đây là hoàn cảnh gì không biết? Cái cơ thể này mang tính cách gì? Người cha ít nhất đã cưới bảy bà vợ kia dung mạo ra sao?

Thất phu nhân dắt tay Trình Tinh đưa vào một gian phòng lớn. Những tiếng nói chuyện rầm rì chợt im bặt. Cô nhìn thấy trên hai dãy ghế bên phải, bên trái trong gian phòng có năm người đàn bà đang ngồi, đầu cài đầy đồ trang sức châu báu. Hai chiếc ghế đặt ở chính giữa còn bỏ trống, có lẽ là vị trí của người cha và chính thê của ông ta.

Thất phu nhân hơi mỉm cười, cúi đầu về bên phải nói: “Muội đến muộn, các tỉ tha tội”. Lại quay về phía trái, cũng cúi chào như vậy, mấy người ngồi đó miễn cưỡng gật đầu. Thất phu nhân có lẽ đã quen với sự lạnh nhạt của họ, không đợi đáp lễ, dắt Trình Tinh đến ngồi ở ghế cuối cùng phía bên phải.

Trình Tinh đứng bên cạnh, thất phu nhân lúc đó mới buông tay. Trình Tinh nhìn về phía đối diện, ba người đàn bà này có lẽ là ba vị phu nhân của người cha đó, bên cạnh hai người đàn bà có hai đứa con gái đứng, đứa lớn khoảng mười tuổi, đứa nhỏ chừng bảy tuổi. Trình Tinh nghĩ, thất phu nhân gọi cô là Tam Nhi, có lẽ hai đứa bé kia là chị của cô. Phía đầu bên phải cũng có hai phu nhân không có con.

Cô thầm so sánh mấy bà phu nhân và thất phu nhân, thấy người béo người gầy, mỗi người một kiểu. Thất phu nhân có khuôn mặt nhỏ xinh xắn, cằm nhọn, đôi mắt long lanh, dáng người thon thả, rất dịu dàng yểu điệu, là người đẹp nhất trong bảy vị phu nhân. Trình Tinh thầm nghĩ, sau này mình lớn lên ngoại hình chắc cũng giống thất phu nhân này.

Chính vào lúc mắt Trình Tinh liếc nhìn xung quanh, chợt bắt gặp hai đứa trẻ đối diện bĩu môi nhìn cô, rồi quay ngoắt đầu vẻ khinh thường, dáng điệu kiêu căng tột độ. Cô bỗng thấy buồn cười, đúng là trẻ ranh! Đột nhiên nghĩ đến cơ thể mình bị biến thành bé hơn chúng, lòng bội phần khó chịu, bất giác cúi đầu.

Lúc đó, vang lên chuỗi âm thanh của các đồ trang sức va vào nhau, các phu nhân đứng dậy, giọng sang sảng: “Thỉnh an lão gia, thỉnh an đại tỷ”.

Sau đó là giọng đàn ông: “Ngồi cả đi, cuộc thi hôm nay, A Lôi, A Phỉ, A La đã chuẩn bị tốt chưa? Không biết lần này các con có gì tiến bộ!”.

Trình Tinh ngẩng đầu, nhìn thấy một người đàn ông mặc áo chùng màu nâu, chừng trên dưới bốn mươi, ngồi ở chiếc ghế chính giữa, khuôn mặt vuông vức uy nghiêm. Bên cạnh là một phụ nữ trung niên bận áo ngắn màu nhạt và váy dài màu tím.

Nếu xếp theo tuổi, tên của mình có lẽ là A La. Trình Tinh nhìn kỹ người cha xa lạ, người này cũng giống cha cô, vừa nhìn đã biết là người làm chính trị. Vừa rồi hình như thất phu nhân nhắc đến tướng phủ, làm thừa tướng một nước thật không đơn giản, cử chỉ trang nghiêm, mực thước, đôi mắt chuyển động tinh anh. Vị phu nhân kia mặt tròn tròn hơi béo, nhìn rất ôn hòa nhưng ánh mắt đầy mưu mô.

Người đàn ông chậm rãi nói: “A Lôi, con lại đây!”.

Trình Tinh nhìn đứa con gái mười tuổi nghe gọi, vội bước lên đi đến giữa phòng, nét mặt bình tĩnh, nhưng hai tay lẩn trong ống tay áo thoáng nắm lại. Trình Tinh cúi đầu giấu nụ cười. Thầm nghĩ, đã tưởng cô bé ấy không sợ thật, hóa ra vẫn là trẻ con. Người đàn ông hỏi: “A Lôi, ba tháng nay con học tốt nhất ngón gì?”.

Giọng A Lôi lanh lảnh trả lời: “Bẩm cha, gảy đàn ạ”.

Người đàn ông vẫy tay, gia nhân chuyển vào mấy cái ghế, đặt cây đàn lên rồi lui ra. A Lôi ngồi cạnh cây cổ cầm, nét mặt bình thản, vuốt nhẹ dây đàn, nói: “Bây giờ A Lôi sẽ chơi khúc “Mai hoa tam lộng”.

Liền sau đó tiếng đàn cất lên, trong vút bay bổng. Rồi uyển chuyển chập chùng, lạnh như những tảng băng xô. Trình Tinh thầm khen hay. Trong thế giới hiện đại cô đã từng nghe khúc cổ cầm “Mai hoa tam lộng”, không khác bản này bao nhiêu. Chỉ có điều được nghe biểu diễn trực tiếp thế này thì đây là lần đầu.

Cô lại ngắm A Lôi mười tuổi, sắc mặt bình thản, khuôn mặt trái xoan xinh đẹp thoáng vẻ kiêu sa. Trình Tinh thầm nghĩ, mới mười tuổi đã biết chơi đàn hay như vậy thật quá siêu. Cô nhớ hồi nhỏ, cha mẹ sống chết ép cô học dương cầm, cô cực lực phản đối. Bây giờ biến thành như thế này, nếu lúc đầu mình chịu khó học chút nghệ thuật cổ điển như đàn, tiêu sáo hay thư họa gì đó, có phải bây giờ hữu dụng bao nhiêu! Nghĩ đến sự biến hóa kỳ dị này, Trình Tinh lại khó chịu, hai tay bất giác nắm nhàu vạt áo.

Thất phu nhân nhận ra, bàn tay khẽ vỗ tay cô, ánh mắt hàm ý bảo, không biết thì thôi, không quan trọng.

Trình Tinh đột nhiên cảm thấy thất phu nhân đối xử với đứa bé này thật tốt, lòng bỗng thấy ấm áp. Sau khi thay hình đổi dạng, người đầu tiên gặp trong thế giới kỳ lạ này đã đối xử tốt với cô như vậy, coi như may mắn rồi.

Lúc đó khúc nhạc đã vang lên những âm thanh cuối cùng, A Lôi dừng tay, ngửa khuôn mặt nhỏ xinh nhìn người đàn ông.

Người cha gật đầu cười: “A Lôi, sao lại chọn khúc này?”.

Mắt A Lôi lộ vẻ đắc ý, dõng dạc nói: “A Lôi thấy hoa mai trước sân đã tàn, mặc dù đã là tháng hai xuân sớm, nhưng con vẫn nhớ sắc hoa tinh bạch, hương thơm sực nức lúc mai nở rộ suốt mùa đông, con thích nhất khí tiết kiên cường không sợ tuyết sương của nó”. Người đàn ông vuốt chòm râu dưới cằm, khen: “Tốt, con gái ta chắc sẽ có cốt cách như mai! Tiếp tục. Tối nay cha sẽ đến vườn mai ngắm cảnh mai tàn như con nói!”.

Câu nói vừa dứt, Trình Tinh nhìn thấy vị phu nhân ngồi phía trái - chắc là thân mẫu của A Lôi - sắc mặt sáng lên vẻ đắc ý, lại cúi đầu nhỏ nhẹ: “A Lôi còn nhỏ, ngón đàn chưa thạo, lão gia quá khen!”.

Trình Tinh mắt đảo một lượt khắp phòng. Ngoài thất phu nhân mặt không biểu cảm, các vị phu nhân ngồi đó nét mặt ít nhiều đều lộ vẻ đố kỵ. Cô thầm nghĩ, bao nhiêu phụ nữ tranh giành một ông chồng, người xưa sao lại có thú vui như thế, có lẽ không có gì để chơi, họ đấu đá lẫn nhau, người đấu với người chắc là thú lắm.

A Lôi lùi về chỗ của mình bên cạnh mẹ, A Phỉ bước ra. Cô bé có khuôn mặt trái xoan, một đôi mắt vừa to vừa đen, linh hoạt thông minh. Cô bé không hề run, nói to: “Cha, mấy tháng nay A Phỉ luyện thư pháp có ít điều tâm đắc”.

Vậy là gia nhân lại khiêng ra một chiếc bàn thấp, đặt lên đó bút nghiên, giấy mực. Một a hoàn bước lên chỉnh lại trang phục cho A Phỉ. Cô bé trầm ngâm suy nghĩ một lát, đột nhiên cúi người nghiêng mình qua phải, rồi lại qua trái viết một mạch đôi câu đối, đoạn ngắm nghía một hồi, mới buông bút, nói dõng dạc: “Xin cha chỉ giáo!”.

Trình Tinh nhìn nét chữ phóng khoáng tươi rói màu mực trên giấy, đúng là chữ đẹp! Vế phải vế trái đều như nhau, nghĩ đến nét chữ như giun bò của mình mà toát mồ hôi.

Người đàn ông chăm chú ngắm nghía hồi lâu, nói với A Phỉ: “Phỉ Nhi, chữ con đúng là tiến bộ rất lớn, tuổi còn nhỏ bút lực chưa đủ, nếu luyện tập thêm, chắc chắn rất đẹp!”.

Lời khen khiến A Phỉ mặt mày hớn hở, ngoái đầu nhìn mẹ cười, xúc động vui sướng, điệu bộ vừa kiêu kỳ vừa đáng yêu. Trình Tinh nghĩ, A Lôi xinh đẹp, A Phỉ kiêu kỳ, may là mình giống mẹ, sau này lớn lên mình cũng là mỹ nhân! Đang mải mê quan sát, đột nhiên nghe thấy người đàn ông gọi: “A La, con lại đây!”.

Trình Tinh ngẩn người, thất phu nhân lo lắng nhìn cô, nhẹ nhàng nhắc: “Tam Nhi, cha gọi con!”.

Trình Tinh hốt hoảng, suýt quên mất cô bé A La này cũng phải ứng thí. Mình không biết chơi đàn, không biết thư pháp, mình biết gì nhỉ? Ngay cả đây là thời nào, nơi nào cũng không biết. Trình Tinh đi thẳng đến đứng giữa phòng.

Nghe thấy giọng nói lạnh lùng của người cha: “Hai chị con, một người đàn hay, một người thư pháp giỏi. A La, ba tháng nay con nợ bài thi, mẹ con đã khất mười roi, đảm bảo sau ba tháng nhất định con sẽ tiến bộ, ba tháng nay con học được gì?”.

Mười roi? Không được, vừa bị đưa đến thế giới này, còn chưa hiểu đầu cua tai nheo thế nào lại còn bị đánh, tuyệt đối không được! Làm gì đây? Đọc những bài cổ thi còn nhớ là được chứ gì, chỉ sợ những người ở đây cũng biết. Trình Tinh đứng giữa phòng, đầu óc suy nghĩ rất lung. Thấy cô mãi không mở miệng, mấy vị phu nhân lộ vẻ mừng thầm. Trình Tinh quyết định, đọc thơ vậy, nếu họ biết là thơ của ai, thì nói mình thích nên học thuộc. Nếu không biết thì sẽ nói là của mình làm. Cô ngẩng đầu, nói: “Con thích thơ, con có thể đọc thơ cho cha nghe”.

Người đàn ông ấy mở to mắt, ngạc nhiên nhìn cô, thất phu nhân khẽ nhướn mày. Người cha cười: “Tốt, tốt, tam tiểu thư nhà ta lại biết đọc thơ, đọc cha nghe nào”.

Trong phòng có tiếng cười nhạo. Trình Tinh quay đầu, thấy sắc mặt thất phu nhân đã trắng bệch, bất giác thầm thở dài, chầm chậm đọc: “Nhị nguyệt cô đình nhật nhật phong, xuân hàn vị liễu du nhân không. Hải đường bất tích yên chi sắc, độc lập mông mông tế vũ trung”(2).

Đây là bài “Xuân hàn” của thi nhân Trần Dữ Nghĩa thời Tống. Trình Tinh sửa mấy chữ, dùng chất giọng non nớt không phải của mình đọc xong, thấy mọi người trong phòng ngồi ngây, người tỏ vẻ kinh ngạc, người sa sầm đố kỵ. Bụng nghĩ, ngay bản thân nghe cái giọng trẻ con của mình đọc một bài thơ như vậy cũng thấy giật mình nữa là. Đúng là chưa quen, giọng nói này đâu phải của mình. Rõ ràng là miệng mình phát ra mà lại nghe như người khác nói.

Người đàn ông trầm ngâm một lát, rồi nhìn về phía thất phu nhân, ánh mắt đầy ẩn ý. Trình Tinh lại ngoái nhìn, mắt thất phu nhân đã ngấn nước, trong dáng yểu điệu dịu hiền có phần buồn bã.

Trình Tinh thở phào. Thấy mọi người không biết bài thơ này. Có nghĩa là đây không phải thời Tống, vậy thì bản quyền những bài thơ sau thời Tống thuộc về mình rồi!

Người cha cười ha hả: “Hay, A La mới sáu tuổi đã làm được thơ như vậy, mẹ con vất vả rồi. Miễn đánh đòn, hôm nào cha sẽ đến Đường viên nghe con đọc thơ!”.

Lời vừa dứt, trong phòng “sè sè' như tiếng ruồi bay, đó là những tiếng cười khẩy và những ánh mắt gay gắt đổ dồn vào thất phu nhân. Trình Tinh cúi đầu suy nghĩ về câu nói ẩn ý, xem ra rất nặng nề của người đàn ông kia “mẹ con vất vả rồi”. Thầm nghĩ, có lẽ ông ta cho rằng bài thơ vừa rồi là do thất phu nhân dạy mình. Có điều, một đứa trẻ ba tháng trước không trả được bài, suýt bị phạt đòn, đột nhiên lại đọc được bài thơ như vậy, ai chẳng thấy lạ. Thất phu nhân cũng nói cô bé A La này không thích thơ phú, học cũng không chăm mà. Trình Tinh lui về đứng yên cạnh thất phu nhân suy nghĩ. Thất phu nhân không hề dạy con gái bài thơ đó, sau này sẽ tìm cơ hội xóa bỏ nỗi ngờ vực của mọi người mới được.

Người cha lại nói: “Nhà họ Lý chúng ta được tiếng là danh gia vọng tộc của Ninh quốc, dòng dõi thư hương. Sau này phải học hành chăm chỉ mới không bị thiên hạ chê cười!”. Nói đến đây giọng ông ta trở nên nghiêm khắc.

Mọi người trong phòng vội vâng vâng dạ dạ, rồi dần dần giải tán, ai về phòng ấy.

Thất phu nhân nắm tay Trình Tinh đợi các vị phu nhân ra trước, cuối cùng mới rời khỏi phòng đi về phía Đường viên. Trình Tinh cảm thấy thất phu nhân lúc này đang run run xúc động, bàn tay nắm tay cô càng chặt, tiếng chân bước càng mau. Có vẻ như bài thơ đó lại vô tình nói lên tâm tư của phu nhân. Trình Tinh tổng hợp những lời thất phu nhân đã nói với cô và những gì vừa nhìn thấy trong cuộc thi vừa rồi, phán đoán thất phu nhân chắc chắn không được sủng ái. Người đẹp như vậy mà lại không được yêu chiều? Chắc có nguyên do.

Ninh quốc? Là thế giới chưa biết ư? Các bà phu nhân kia đối địch với thất phu nhân, người cha vừa nhìn đã biết ngay là kiểu người giáo lý giả tạo, hai người chị kiêu kỳ nhưng rất có tài, một vụ ân oán chốn danh gia! Mình phải thế nào đây! Xem rất nhiều tiểu thuyết vượt thời gian, mình có thể hiểu biết càn khôn, thích nghi được cuộc chơi quay về quá khứ như những nhân vật trong đó không? Liệu có bị chết yểu? Liệu có một ngày kia thức dậy lại trở về thế giới hiện tại hay không? Trình Tinh nghĩ, cô bé A La trước đây chắc là đứa trẻ hướng nội, không thạo ăn nói. Hướng nội thì hướng nội, cũng may từ nhỏ mình đã sống độc lập, gặp chuyện gì cũng vẫn bình tĩnh, không kêu ca phàn nàn, nếu không, ngay người mẹ xinh đẹp này cũng không có, sáu tuổi không chừng bị chết đói? Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết là chuyện lớn, nếu bị bán vào lầu xanh, chẳng thà chết còn hơn?

Ngẩng đầu nhìn thất phu nhân, sắc mặc đã trở lại bình thường, hầu như không cảm thấy sự bất thường của A La. Trình Tinh nghĩ, đã đến thế giới này một cách kỳ lạ, kỳ lạ nhưng cũng là ý trời. Hơn nữa A La mới sáu tuổi, nếu lớn hơn một chút, chẳng lẽ phải giả bộ mất trí nhớ? Trên đường về, vừa đi cô vừa nhìn ngắm những lầu gác, hành lang quanh co cổ kính xung quanh, thầm nghĩ, gia đình này chắc chắn là nhà quyền thế, giàu có, trang viên rất rộng. Người cha kia tề gia rất nghiêm khắc, thỉnh thoảng gặp gia nhân, họ đều cúi gập người chào thất phu nhân và cô.

Rút cục nên vào nhà giàu hay vào nhà nghèo? Trình Tinh nghĩ, có lẽ vào nhà giàu vẫn hơn, dân thời xưa nghèo khổ, không có cái ăn cái mặc, sưu cao thuế nặng, bữa ăn chỉ có rau cám. Nếu gặp ác bá địa chủ, hoặc năm mất mùa đói kém, cắm cọng rơm lên đầu(3) chết thế nào cũng không biết. Vào nhà giàu mặc dù có mưu mô, tranh giành, nhưng tốt xấu có cha mẹ làm quan. Bản thân cũng từng nghe nhiều, thấy nhiều cảnh đấu đá công khai ngấm ngầm trong chốn quan trường, đối phó coi như cũng không khó lắm.Những chuyện như vậy thời nào chả có, tranh giành đấu đá vốn là bản tính con người. Lúc này, cô nắm chặt tay thất phu nhân trở về nhà.

___________

Chú thích:

1. Tạm dịch: Gió hiu nhẹ bóng trăng tròn vằng vặc, mưa bụi mờ rừng trúc tiêu sơ.

2. Tạm dịch: Tháng hai gió thổi đình không, xuân lạnh chưa dứt khách chừng ngại qua. Hải đường ngàn màu son pha, cô đơn đứng giữa nhạt nhòa mưa bay. (BTV)

3. Trung Quốc xưa đội một chiếc vòng nhỏ tết bằng rơm, cắm ngọn cỏ, rơm lên đầu đứng ở chợ là dấu hiệu bán mình đi ở đợ.

.

Chương 2

.

Về đến Đường viên, thất phu nhân đứng trước khóm hải đường nở rộ hoa trước sân, thở dài, đoạn sai vú Trương mang đến chiếc ghế, ngồi trên hành lang, ôm Trình Tinh vào lòng thầm thì: “Tam Nhi, con tốt quá. Con ít nói, cả năm không nói với mẹ mấy câu, cũng không thích thơ phú văn chương, vẫn tưởng là con tính tình lạnh lùng, không ngờ, nỗi khổ của mẹ con đều ghi trong lòng. Trong nhà này, mẹ chỉ có con là người thân, cha con, ông ấy có đến hay không mẹ cũng không màng. Nhưng bài thơ đó vừa thấm thía nỗi buồn đau lại vừa có chí khí quật cường, con sáu tuổi đã viết được bài thơ như vậy, không biết là tốt hay xấu”. Đứa trẻ sáu tuổi sao có thể giỏi như vậy, lúc sáu tuổi mình đọc thuộc lòng bài thơ còn ngắc ngứ, huống hồ làm thơ! Trình Tinh đang muốn thanh minh vài câu, đã thấy giọng thất phu nhân trở nên phẫn hận: “Mấy người đó vẫn chưa cam lòng, họ đang hận là chưa đuổi được mẹ con ta đi, nếu có thể ra đi thật... Ôi! Lúc nào cũng mang chuyện con không biết cầm kỳ thi họa để gây sự. Hôm nay quả là mẹ rất lo, sợ con phải đòn, mà lại không biết làm gì để bênh vực con. Con gái Lý gia nếu bất tài, không giúp gì được cha con, thì không đáng tiền bằng Tiểu Ngọc... Ồ, con là con gái của ta, sao lại không biết thơ ca chứ!”.

Trình Tinh thấy thất phu nhân không hề nghi ngờ, nên không vội giải thích. Lúc đó, cô đã hơi quen vòng tay của thất phu nhân, thơm thơm, mềm mềm, rất giống vòng tay của mẹ lúc cô còn nhỏ. Ngồi trong lòng thất phu nhân, cô bắt đầu hỏi: “Liệu mẹ có thể nói cho A La biết phải làm gì để giúp cha không? Con gái Lý gia tại sao nhất thiết phải tinh thông cầm kỳ thi họa?”.

Vừa nói ra, Trình Tinh đã hối hận, ngộ nhỡ mọi khi thất phu nhân đã nói với A La, hỏi như vậy liệu có làm bà ấy kinh ngạc? Thất phu nhân chậm rãi nói: “Tam Nhi, con còn nhỏ, đợi con lớn chút nữa, mẹ sẽ nói cho con biết!”

Trình Tinh sốt ruột, cô nóng lòng muốn biết đây là thế giới nào. Đầu óc bấn loạn, vừa ngủ dậy đã thấy mình biến thành đứa trẻ một cách kỳ dị, lại còn gặp một đám người hỗn loạn trong tướng phủ, nơm nớp lo lâu một hồi, không hỏi sao được? Cô nghe thấy miệng mình phát ra những âm thanh non nớt: “Biết sớm vẫn hơn, biết đâu sau này A La đổi tính, chăm chỉ học hành, để ba tháng sau không bị phạt đòn!”. Nói xong, lại thở dài, giọng nói này, cô không quen! Thuận tay sờ, quả nhiên người nổi gai ốc.

Thất phu nhân lại thở dài: “Lý lão gia vì muốn có đứa con trai, đã lấy sáu bà vợ, không ngờ đến mẹ là người sau cùng vẫn sinh con gái. Cha con là Tả tướng của Ninh quốc, biết chắc ông ấy muốn sau này gả ba đứa con gái cho chỗ vương thất hào môn để củng cố quyền thế. Cha sao có thể không nghiêm khắc với các con? Mọi hy vọng của ông ấy là muốn kết thân với những nhà quyền quý. Đại phu nhân xuất thân hiển hách, nếu không phải bà ta không thể sinh con, làm sao bằng lòng cho lão gia lấy mấy vợ bé, mẹ chẳng qua cũng là người đẻ mướn cho nhà họ Lý mà thôi!”.

Thất phu nhân cúi đầu dịu dàng mỉm cười với Trình Tinh: “Mẹ không mong Tam Nhi giỏi giang hơn người, chỉ sợ con không biết nghe lời, khiến cha con nổi giận, thì ngay miếng cơm cũng không có mà ăn. Con rất giống tính mẹ lúc nhỏ, ương bướng, nghịch ngợm, luôn làm khó vú Trương, chẳng chịu học hành. Mẹ không nỡ trách con, nhưng Tam Nhi, thời buổi này phận nữ nhi luôn chịu thiệt thòi, nếu con không lấy được một đám tốt, sau này sẽ rất khổ”. Nói đoạn, hai hàng lệ tuôn rơi.

Trình Tinh nhìn vẻ đau buồn trên gương mặt như ngọc của thất phu nhân, thầm hiểu, vận mệnh của hai người từ nay gắn với nhau. Cô nhìn cơ thể bé nhỏ của mình, vượt thời gian không gian trở về quá khứ một cách kỳ lạ, linh hồn tá túc vào thân thể khác, không lai lịch. Cô vốn là nữ sinh đại học năm thứ tư, gia cảnh ưu việt, tiền đồ xán lạn, bây giờ tất cả đều bất định. Nghe thất phu nhân nói, con gái ở đây đều chịu nhiều thiệt thòi, không nhịn nổi bật khóc.

Thất phu nhân vội ôm lấy cô, nói: “Tam Nhi, tại sao làm con gái lại khổ như vậy? Tại sao phải làm con gái nhà họ Lý?”.

Trình Tinh khóc mãi, rồi ngủ thiếp.

Thất phu nhân âu yếm nhìn con gái sáu tuổi. Khuôn mặt giống phu nhân, không cần suy đoán cũng biết sau này A La lớn lên sẽ vô cùng xinh đẹp. Tuổi xuân và nhan sắc của nàng ta đã bị chôn vùi trong Đường viên Lý phủ, nàng ta hy vọng số phận con gái sẽ tốt hơn mình, không phải vò võ suốt đời trong mảnh sân quạnh quẽ bốn bề kín mít này.

Ngơ ngẩn nhìn A La rất lâu, nàng ta gọi vú Trương và Tiểu Ngọc, nhẹ nhàng nói với họ: “Tiểu thư còn nhỏ chưa hiểu chuyện, các người chiều nó một chút, nó không phải là đứa trẻ lạnh lùng, chỉ có điều hơi bướng”.

Vú Trương và Tiểu Ngọc mắt đỏ hoe, nói: “Phu nhân đối với chúng tôi đại ân đại đức, chúng tôi nhất định hết lòng vì tiểu thư”.

Thất phu nhân trao đứa bé trong lòng cho vú Trương bế về phòng. Một mình ngơ ngẩn nhìn vườn hải đường, nghĩ đến bài thơ A La đọc lúc trước, nước mắt lại tuôn lã chã.

Trình Tinh vừa thức dậy, vội cúi nhìn người mình. Vẫn cơ thể nhỏ bé. Xung quanh lặng ngắt như tờ, không có tiếng ô tô qua đường, không có tiếng người, hình như cả thế giới chỉ còn lại một mình cô. Đôi mắt đỏ hoe, nước mắt trào ra, ánh trăng chiếu vào phòng, càng thêm vắng lạnh. Trình Tinh thầm nghĩ, lẽ nào mình mãi mãi ở lại xứ này, với thân xác của A La, dần dần lớn lên trong thế giới này, rồi lấy chồng, kết thúc cuộc đời? Bỗng thấy sợ hãi khôn cùng, òa khóc thành tiếng.

Ngoài bức màn sa, lóe lên ánh nến, Tiểu Ngọc vén màn, lo lắng dỗ cô: “Tiểu thư, lại gặp ác mộng sao? Tiểu Ngọc ở đây, tiểu thư, đừng sợ”.

Trình Tinh nhìn mái tóc xổ tung của Tiểu Ngọc, có lẽ cô bé chỉ chừng mười tuổi, vậy mà lại đến an ủi mình. Thầm nghĩ, mình đã hai mươi hai tuổi, sao có thể để cho cô bé bảo vệ ? Dần dần nín khóc, nói với Tiểu Ngọc: “Ta không ngủ được, Tiểu Ngọc lên nằm với ta đi, kể chuyện cho ta nghe”.

Tiểu Ngọc nhìn khuôn mặt nhỏ bé với những giọt nước mắt chưa khô lóng lánh của A La dưới ánh nến, đầy băn khoăn, cầu khẩn, trong lòng xúc động không nói nên lời. Tiểu thư mới sáu tuổi, đã khiến người ta thương cảm, sau này lớn lên không biết sẽ thành trang quốc sắc thiên hương thế nào, liền đồng ý, lên giường ngủ cùng A La.

Trình Tinh nói với Tiểu Ngọc: “Tiểu Ngọc nói cho tôi biết, thế giới bên ngoài như thế nào, Ninh quốc là một nước như thế nào?”.

Tiểu Ngọc cười gượng: “Tiểu Ngọc chỉ biết thiên hạ có năm nước, phía tây có nước Khởi, tây nam có nước Hạ, bắc có nước An, nam có nước Trần, Ninh quốc ở phía đông, là nước lớn nhất, cường thịnh nhất. Chúng ta ở Phong thành kinh đô Ninh quốc. Tiểu thư, Phong thành của chúng ta rất to, đi ngựa từ đông sang tây cũng phải chạy hết mấy canh giờ, Tết Nguyên tiêu đông vui nhất, bên bờ sông Ninh người thả đèn, người bán đèn, tấp nập còn có rất nhiều thuyền hoa, tối đến giống như là nơi ở của thần tiên ấy”.

Trình Tinh nghĩ, đây là nơi nào! Có phải là một thời đại kỳ dị? Thôi tìm hiểu sau vậy. Mình cần phải suy nghĩ đã, liền nhắm mắt. Tiểu Ngọc tưởng cô đã ngủ, cũng không nói nữa, dần dần cũng ngủ thiếp.

Một lát sau cô mở mắt nhìn lên đình màn. Xem ra mình thực sự biến thành cô bé A La sống trong Lý phủ rồi. Cố kìm nén nỗi lo sợ lúc đầu. May mà mình còn nhỏ, Lý lão gia là vị thừa tướng thế nào, chuyện cơm áo tạm thời không phải lo. Trước khi lớn lên đối diện với nhiều chuyện khác vẫn còn mấy năm nữa. Chưa biết chừng có ngày tỉnh giấc đã lại quay về trên chiếc giường của nhà mình, tất cả chỉ là giấc Nam Kha(4) mà thôi. Lòng dần dần yên tĩnh.

Tiếp đó bắt đầu suy nghĩ về bản thân. Vốn là sinh viên năm thứ tư chuyên ngành tiếng Anh, học hành hơi lười biếng, nhưng hai mươi hai năm sống trong thế giới hiện đại, những tri thức đã có, sẽ ít nhiều hữu dụng. Nếu thời đại khác nhau, những bài thơ bài phú có thể sao chép, những gì cô biết cũng đủ dùng. Đường thi, Tống từ, nhớ không nguyên vẹn cũng chẳng sao, những bài thơ hay, những câu châm ngôn cách cú nổi tiếng cô vẫn nhớ. Hát cũng tàm tạm, chỉ có hay sai nhạc, cũng không sao, những ca từ còn nhớ biết đâu cũng có thể dùng được. Biết chơi bài, luyện tập Karate từ nhỏ, cái này cô thông thạo nhất, có thể chấp cả mấy đứa con trai. Ít nhất cũng không phải loại con gái trói gà không chặt! Trình Tinh thở phào, may mà ông bố bà mẹ làm quan của cô thường xuyên bận công việc, ít thời gian để mắt đến cô, cho nên cô có thể học Karate để tự vệ. Cũng do không ai chăm sóc, năm, sáu tuổi Trình Tinh đã biết tự chăm sóc mình, có thể tự nấu ăn, đúng rồi, nấu ăn!

Giống như Robinson trên hoang đảo(5), phát hiện thêm được khả năng gì của mình Trình Tinh mừng rơn. Nghĩ một lúc nữa thấy vốn liếng của mình chỉ có vậy.

A La sáu tuổi, nghe nói ngày xưa, con gái mười sáu tuổi đã gả chồng, mình ít nhất vẫn còn khá nhiều thời gian để học. Đây là xã hội nào, sau này phải đối diện với những con người và sự việc như thế nào, để sau hẵng hay.

Hôm nay cô đã kịp quan sát, phụ nữ ở đây không bó chân, thầm thở phào, cô đã từng thấy bàn chân bị bó của bà ngoại, biến dạng xấu xí, các ngón quặp xuống lòng bàn chân, đi không đau mới lạ.

Nghĩ đến những người đã gặp trong căn phòng lớn sáng nay, không biết Lý lão gia có phải là một vị tướng quyền lực, những quyền tướng thời cổ đại thường không có kết cục tốt đẹp, một khi công lao lớn hơn hoàng đế hoặc lợi dụng quyền thế là bị hoàng đế kiếm cớ giết hại. Cô cầu thần khấn Phật mong Lý lão gia không gặp oan trái thảm cảnh như bị bãi quan, chém đầu. Nghĩ đến những cực hình thời trung cổ, thấy rùng mình khiếp sợ. Trình Tinh tự nhủ, sau này mình là tam tiểu thư của nhà họ Lý, chỉ cần không phạm tội gì, có thể sống bình yên là được.

Lại suy nghĩ về hoàn cảnh sống hiện tại, Đường viên hình như ở một góc khuất, vắng nhất trong Lý phủ, chỉ có hai người hầu là vú Trương và Tiểu Ngọc. Vú Trương ở bên thất phu nhân nhiều hơn, Tiểu Ngọc hầu hạ cô. Đồ đạc cũng rất sơ sài, không thấy vàng bạc châu báu gì đáng tiền. Ngay thất phu nhân, hôm nay đầu cũng chỉ cài hai chiếc trâm ngọc, một đóa hoa cũng bằng ngọc, giản dị hơn nhiều so với sáu bà kia. Thất phu nhân sợ nhất tranh giành đấu đá ngấm ngầm, nhưng sáu vị phu nhân kia rõ ràng không thích cô ấy, họ đố kỵ nhan sắc của cô sao? Nhưng Lý tướng rõ ràng không sủng ái vị phu nhân xinh đẹp này. Thật kỳ lạ, có ẩn tình gì chăng? Nghĩ đến vẻ dịu hiền và đau buồn của thất phu nhân, Trình Tinh thầm nghĩ, có lẽ là do cô ấy không sinh được con trai nên bị Lý tướng lạnh nhạt.

Lý lão gia chỉ sinh được ba gái, mình có nên trở thành đứa con được ông ta thích nhất? Có cái hay cái dở, cái hay là có thể cải thiện đối xử của ông ta đối với thất phu nhân, được hưởng một số đặc quyền, cái dở là thu hút chú ý, đã được sủng ái muốn sống yên ổn cũng khó. Trí tuệ của tuổi hai mươi hai trong cơ thể sáu tuổi, dựa vào đầu óc trưởng thành và tri thức hiện đại, khiến Lý lão gia yêu thích có lẽ cũng không khó. Nhưng nghĩ đến lời răn của người xưa, đạn luôn trúng những con chim đầu đàn, cây to thì dễ đổ, cô quyết định trước mắt cứ tạm bình tĩnh, tìm hiểu kỹ tình hình, yên phận mấy năm rồi tính. Chập chờn ngủ một lát, nhưng giấc không sâu. Khi tỉnh dậy lần nữa, mở mắt thì trời đã mờ mờ sáng, có lẽ khoảng năm sáu giờ. Trình Tinh (A La) ra khỏi giường, nhìn bộ y phục liền thân mỏng mảnh trên người, cảm thấy mặc thế này mà chơi thể thao thì không phù hợp lắm.

Tiểu Ngọc cũng đã thức, hỏi A La: “Tiểu thư, dậy sớm thế sao? Bây giờ mới là giờ Mão, mọi ngày chưa đến giờ Thìn tiểu thư chưa dậy cơ mà”.

A La thầm nhẩm lại mười hai chi, bụng nghĩ, mình phải làm quen cách tính giờ ở đây mới được, cười nói: “Hôm qua đi thi, vui quá ngủ không yên. Tiểu Ngọc, có thể gọi vú Trương may giúp tôi bộ quần áo không?”.

Tiểu Ngọc mang nước cho nàng rửa mặt, vừa chải đầu vừa hỏi: “Tiểu thư muốn may quần áo thế nào? Tiểu Ngọc đều làm được hết”.

Mới mười tuổi, mà quần áo nào cũng may được! A La lại thầm cảm phục, may mà mình trở về quá khứ trong thân phận thiên kim tiểu thư, nếu gửi hồn vào thân thể Tiểu Ngọc, đánh chết mình cũng không may được bộ quần áo nào. Bất giác mỉm cười, “Để tôi vẽ kiểu nhé. À, Tiểu Ngọc, buổi sáng tôi phải làm gì, có cần đi thỉnh an không?”. A La vẫn chưa quen gọi thất phu nhân là mẹ.

Tiểu Ngọc bặm môi cười, trên má hiện lên lúm đồng tiền nhỏ, rất đáng yêu: “Phu nhân ưa yên tĩnh, thích ngồi thêu thùa giải khuây, giờ Thìn phu nhân phải đi vấn an đại phu nhân, trở về là ở luôn một mình trong phòng, tiểu thư không cần đến đó”.

A La lạ lùng hỏi: “Tôi muốn học mấy thứ thì cần gặp ai?”.

Tiểu Ngọc kinh ngạc “Đại tiểu thư, nhị tiểu thư đều thỉnh bốn vị tiên sinh đến dạy, tam phu nhân, tứ phu nhân cũng tinh thông cầm kỳ thi họa. Trước đây tiểu thư đã đuổi ba bốn tiên sinh, phu nhân bảo đợi khi nào tiểu thư muốn học, lại mời tiên sinh. Nhưng, tiểu thư à, phu nhân của chúng ta mới thật là tài nữ, cái gì cũng biết”.

A La cười, tốt quá, thầy dạy có sẵn! Nói với Tiểu Ngọc: “Tôi nằm lâu khó chịu, muốn vận động gân cốt một chút, chị đưa tôi đi dạo một lát! Đợi bà mẹ xinh đẹp của tôi trở về, sẽ nhờ bà dạy học!”. Thêm vào hai chữ “xinh đẹp” A La cảm thấy dễ gọi hơn.

Tiểu Ngọc cười tán đồng. Chải xong đầu, A La vội kéo Tiểu Ngọc ra khỏi viện. Tiểu Ngọc thấy A La cười cũng vui lây, giọng hào hứng: “Tiểu thư trước đây không chịu ra ngoài, chỉ thích thui thủi một mình, sao hôm nay bỗng đổi tính như thế?”

A La ngẩng đầu nhìn Tiểu Ngọc: “Tôi không muốn để mẹ xinh đẹp của tôi khóc, sau này tôi sẽ không để bà ấy quanh quẩn đến già trong cái sân này, Tiểu Ngọc, chị phải giúp tôi, chúng ta không thể để người khác ức hiếp”.

Tiểu Ngọc nghe vậy tròng mắt đỏ hoe, môi hé cười, đưa A La đi dạo xung quanh, kiên nhẫn kể cho nàng tình hình trong phủ.

A La đột nhiên nhớ ra, không biết đại danh của mình là gì, nghẹo đầu hỏi Tiểu Ngọc: “Đại tiểu thư A Lôi do tam phu nhân sinh ra, nhị tiểu thư A Phỉ do tứ phu nhân sinh ra đều rất kiêu kỳ”.

Tiểu Ngọc ngó xung quanh không có ai, mới nói nhỏ với A La: “Tiểu thư, tam phu nhân, tứ phu nhân đều có tai mắt khắp nơi, cô đừng nói đại tiểu thư và nhị tiểu thư như vậy. Có ai nghe thấy lại trách thất phu nhân không biết dạy con”.

A La nhân cơ hội mới hỏi tình hình của tam phu nhân và tứ phu nhân. Được biết, một vị là ái nữ của Trang viên ngoại danh tiếng của Phong thành, một người là em họ của bản triều Công bộ thị lang. Mấy phu nhân kia bên ngoại cũng là bậc gia thế thanh bạch nề nếp, chỉ có thất phu nhân xuất thân lầu xanh, ngay trong đêm được chuộc ra ngoài thì bị người bỏ nhiều vàng mua tặng Lý lão gia làm thiếp, thảo nào bị mấy bà phu nhân kia coi thường.

A Lôi tên đầy đủ là Lý Thanh Lôi, A Phỉ là Lý Thanh Phỉ, mình ắt là Lý Thanh La. A La lại thầm thở dài, chỉ có bà mẹ xinh đẹp nhưng xuất thân chốn thanh lâu bèo bọt, địa vị thấp kém, chưa biết chừng con chó bên cạnh đại phu nhân cũng được coi trọng hơn.

Đi dạo một canh giờ, dạo hết một lượt trong nội đường, cũng cơ bản nắm được tình hình. Nàng nắm tay Tiểu Ngọc trở về phòng, xem thất phu nhân đã về chưa.

A La lấy bút vẽ sơ đồ bố trí trong tướng phủ. Đường viên quả nhiên hoang vắng, kề sát một vườn rau, phía sau là vạt rừng trúc lớn, tiếp đến là tường bao. Vị trí như thế này nàng rất hài lòng, nếu sau này vượt tường ra ngoài, có lẽ không lo bị phát hiện.

Thất phu nhân nghe nói A La dậy sớm muốn học, lòng cảm động chạy đến tìm nàng: “Tam Nhi, con muốn học gì? Vì sao lại muốn học? Nói mẹ nghe nào!”.

A La nhìn vẻ xúc động và ánh mắt dịu dàng của thất phu nhân, bước đến nắm vạt áo bà nói: “Mẹ, con không học quá cao siêu, chỉ cần đủ đối phó người ta là được, không thể để họ coi thường chúng ta!”.

Tròng mắt thất phu nhân đỏ hoe: “Mẹ biết, con gái mẹ sao có thể vô dụng! Nhìn hải đường trước sân mà làm được bài thơ hay như vậy, Tam Nhi con rất có khiếu!”.

A La cười nhăn nhó, cái “khiếu” đó là trộm của người khác, bây giờ mới học thật. Nữ công, cầm kỳ thi họa ở đây cảm giác giống như bằng đại học thời hiện đại, có những cái đó mới có thể tìm được công việc tốt, đương nhiên ở đây là tìm được tấm chồng tốt, chà chà! Tấm chồng thì thôi, cứ học đã chắc cũng có lúc dùng đến.

Bắt đầu từ hôm đó, ngày nào thất phu nhân cũng dạy nàng đánh đàn học vẽ. A La phát hiện đầu óc trẻ con tiếp thu cái món nghệ thuật này rất nhanh. Nàng chỉ cần học qua là nhớ, lại thêm trí tuệ tuổi hai mươi hai, thất phu nhân chỉ dạy một lần là nàng nắm được ngay. Sau khi biết chơi đàn, A La phát hiện biết chơi đàn cũng là chuyện hay, giọng nàng giờ đã thay đổi, vừa đàn vừa hát vẫn không sai nhịp, say sưa hát những ca khúc hiện đại mà nàng thích nhất, thời gian trôi rất nhanh. Càng ngày càng dành nhiều thời gian để đàn hát.

Mãi đến một hôm thất phu nhân sau khi nghe nàng chơi khúc “Thủy điệu ca đầu” đột nhiên rơi lệ, nước mắt ướt đầm chiếc khăn tay, nghẹn ngào nói với A La: “Tam Nhi, con đàn hay quá, tiếng đàn của con rất tình cảm, con chơi hay hơn đại tỷ của con rất nhiều”. A La không dám tin, nói với thất phu nhân: “Là do khúc nhạc hay, không phải con đàn giỏi”. Nói xong lại đánh bài “Mai Hoa tam lộng” thầm nghĩ, như thế này mẹ xinh đẹp sẽ có cái để so sánh.

Không ngờ thất phu nhân tự hào nói: “Mẹ bốn tuổi bắt đầu học đàn, năm tuổi tiếng đàn cả Phong thành đã không ai sánh kịp, lẽ nào con nghi ngờ nhĩ lực của mẹ? Khúc “Mai hoa tam lộng” con càng thể hiện được cốt cách của hoa mai, ta có thể tự hào về con gái rồi”.

A La cảm thán, được một tay đàn bậc nhất Phong thành khen ngợi, xem ra đúng là thật rồi. Đây có thể coi là cái hay của hai mươi hai năm sống trong thời hiện đại, cảm xúc nhiều, hiểu biết rộng, tình cảm gửi vào tiếng đàn làm sao một tiểu thư chưa hề bước chân ra khỏi nhà như A Lôi có thể lĩnh ngộ được. Nàng nói với thất phu nhân: “Mẹ xinh đẹp à, chuyện này nhất định không được cho ai biết, A La chỉ có thể đàn cho mẹ nghe thôi được không?”.

Mắt thất phu nhân như cười, hỏi: “Con sợ trội hơn đại tỷ, sẽ khó yên thân?”.

A La làm bộ vênh mặt, nói: “Chơi đàn là để tri âm nghe, nếu hay hơn tỷ ấy, có khách quý đến, gọi con ra đàn, sao con chịu nổi?”.

Thất phu nhân véo má nàng, ôm nàng vào lòng: “Tam Nhi, con thật thông minh! Con là tâm tình duy nhất của mẹ, như thương con bao nhiêu cũng không đủ vậy!”.

A La cũng ngày càng thích người mẹ xinh đẹp, hiền lương dịu dàng, và chủ yếu là chân tình với nàng. Trình Tinh thầm nghĩ, mình có cách rồi, nhất định phải chăm sóc thật tốt người mẹ này!

\Sau khi vượt thời không gian, trở về quá khứ dị thường này, qua miệng thất phu nhân và Tiểu Ngọc, Trình Tinh có thể láng máng cảm thấy đây là thời đại trước đời nhà Hán, nhưng lại cảm giác Hạ Thương, Chu, Tần có vẻ đều là những triều đại xa lắc. Hơn nữa địa lý và diện mạo cũng không giống đại lục Trung Quốc. Lẽ nào giống như khủng long kỷ Jura tuyệt diệt, xảy ra những biến thiên dâu bể trọng đại? Người ở đây y phục giống thời nhà Đường, kiến trúc lại hơi giống thời Tống và thời Minh. Thật sự không thể làm rõ được.

Sau khi A La biết những điều đại khái như vậy rồi cũng không nghĩ thêm nữa. Mỗi sáng vừa ngủ dậy, mặc bộ cánh áo rộng thùng thình do Tiểu Ngọc may, bắt đầu chạy khởi động. Chạy đến rừng trúc sau nhà, liền để cho Tiểu Ngọc đứng canh bên ngoài, một mình luyện tập Karate hiện đại. Buổi tối lại tập khí công nửa tiếng rồi mới đi ngủ. Sắc mặt A La mỗi ngày một hồng hào, tiếng chân bước cũng ngày càng nhẹ nhàng khỏe khoắn.

Chớp mắt lại đến kỳ thi quý, A La thản nhiên nhìn đại tỷ, nhị tỷ biểu diễn cầm ca và thư pháp, cúi đầu mãi mới bẽn lẽn hát một khúc khá hay, ca từ rất hay nhưng sai nhịp. Lý lão gia luôn đến sớm, vẫn cầm trịch cuộc thi, tưởng bài thơ lần trước do thất phu nhân dạy, nên không bảo A La tiếp tục làm thơ, bây giờ thấy nàng học hát, rất vui, lại khen ngợi một hồi.

Mấy vị phu nhân lòng cũng nghĩ như lão gia, vậy là càng ghét thất phu nhân, cho rằng lợi dụng đứa con gái để lấy lòng lão gia thật là mất mặt. May mà bảy vị phu nhân trong ngần ấy năm cũng chỉ sinh được ba mụn con gái. Lý gia không có người nối dõi, đại phu nhân không muốn lão gia sủng ái người khác, mấy vị phu nhân kia cũng tìm đủ cách níu kéo Lý tướng, vì vậy sau khi A La đến đây, Lý tướng cũng chỉ ghé qua Đường viên vài lần. Đường viên càng hiu quạnh, thất phu nhân không nhiệt tình, Lý tướng cũng nhạt lòng. Các vị phu nhân do đó cũng yên tâm, quay ra châm chọc thất phu nhân đã dùng hết độc chiêu của lầu xanh mà vẫn không chiếm được lão gia.

Về sau mỗi lần đến kỳ thi quý của tướng phủ, A La lúc đánh cờ, lúc thêu thùa, lúc chơi đàn, rất nhiều ngón nhưng không tinh thông ngón nào. Lý thừa tướng thấy nàng học nhiều nhưng chẳng thứ nào đến nơi đến chốn, cầm kỳ thi họa thi phú học lâu như vậy nhưng không môn nào xuất sắc, ánh mắt nhìn A La và thất phu nhân ngày càng lạnh nhạt. Nhưng dù bị chê trách thế nào, đến kỳ thi sau A La lại có món mới học, luôn nói một cách tội nghiệp: “A La kính mong phụ thân chỉ giáo, ba tháng nay chuyên cần học hành, mới học được xxx, xin phụ thân thưởng thức”. Đương nhiên cũng không hay không dở. Lý thừa tướng khuyên nàng nên chuyên tâm vào một thứ, nhưng lại nghĩ con bé này có học nữa cũng không thể sánh với A Lôi và A Phỉ, thầm lắc đầu thở dài, chỉ mong nó xinh đẹp một chút, có sắc không tài cũng được. Còn ánh mắt mấy bà phu nhân nhìn A La lại dần dần hòa dịu.

Thất phu nhân hỏi A La: “Tam Nhi, con định giấu đến bao giờ?”.

A La cười: “Mẹ à, binh pháp viết, phàm lông cánh chưa đủ tối kỵ va chạm với vật cứng. Mẹ không cảm thấy ngoài đại phu nhân, mấy phu nhân không có con kia thích con hơn hai tỷ hay sao?”.

Thất phu nhân cả mừng, thầm nghĩ: “Nửa đời sau mình có thể dựa vào con bé tinh ranh này rồi”.

Vậy là, sáu năm vụt trôi, A La mười hai tuổi, Lý Thanh Lôi mười sáu tuổi, Lý Thanh Phỉ cũng mười bốn tuổi.

Đến đây được sáu năm, Trình Tinh đã hết ý nghĩ quay trở về thế giới hiện đại, chỉ suy nghĩ một điều duy nhất, làm thế nào trụ vững ở đây. A La cần có nền tảng, nghĩ mãi, quyết định sau này sẽ mở một quán rượu, kiếm được tiền sẽ đưa mẹ xinh đẹp cùng vú Trương, Tiểu Ngọc đi thăm thú du ngoạn mấy nước kia, chuyến du lịch như vậy, trong thời hiện đại e có muốn cũng không được. Có thể một ngày nào đó gặp người nào đó, lấy được thì lấy, nếu không gặp, làm một bà chủ ung dung tự tại sống qua một đời cũng tốt. Với suy nghĩ như vậy, A La say sưa trong biển cả tri thức của thời quá khứ dị thường. Kết hợp tri thức cổ đại và hiện đại, cảm thấy nếu ngộ nhỡ có ngày quay trở lại, nàng sẽ không làm gì khác, sẽ mở một cửa hiệu kinh doanh đồ cổ, cũng kiếm được khối tiền. A La vô cùng khao khát thế giới bên ngoài, nhưng không được ra, sáu năm rồi, không bước một bước khỏi tướng phủ. Lòng căm hận xã hội phong kiến vạn ác, không ra khỏi nhà, không ra khỏi cửa, phụ nữ không khác gì con chim trong lồng.

___________

Chú thích:

4. Giấc Nam Kha thược được dùng để chỉ những gì tốt đẹp của cuộc đời thường ngắn ngủi, công danh phú quý tựa chiêm bao (BTV).

5. Robinson trên hoang đảo: Nhân vật trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Anh Danniel Defoe (BTV).

.

Chương 3

.

Cùng với thời gian, Lý Thanh Lôi, Lý Thanh Phỉ dung mạo ngày càng xinh đẹp, A La và họ cũng chẳng thù ghét gì, nhưng do quan hệ của các bà mẹ, nên không qua lại với nhau. Ngón đàn của Thanh Lôi và thư pháp của Thanh Phỉ ngày càng nức tiếng nơi khuê các. Tiếng thơm Lý tướng gia có hai tài nữ không biết từ lúc nào đã được thiên hạ xa gần đồn đại, chỉ có tam tiểu thư Thanh La chưa ai biết đến.

Ngay từ hai năm trước, những người đến cầu thân với hai tiểu thư đã đi mòn bậc cửa tướng phủ. Lý tướng chỉ lắc đầu, rằng con gái còn nhỏ, không muốn gả sớm.

Tuy nhiên, vào dịp Đào hoa yến của Phong thành mùa xuân năm đó, Lý tướng nhận được thiệp mời của Hộ quốc công chúa.

Đào hoa yến là yến tiệc mùa xuân long trọng nhất Phong thành. Hộ quốc công chúa vốn là em gái Ninh vương, gả cho đại tướng quân họ Trần, không lâu sau thì góa bụa. Đào hoa yến này chính là cuộc hội ngộ riêng tư do công chúa tổ chức ở biệt uyển Thập Thúy sơn trang của mình trong ngày xuân rỗi rãi. Mỗi dịp hoa nở khắp sơn trang, công chúa lại mời nội quyến của hoàng thân quốc thích, đại thần trong triều tề tựu cùng ngắm cảnh thưởng hoa. Về sau dần dần cũng mời cả các bậc tài tử phong lưu, công tử thiếu gia anh tú ở Phong thành, cuối cùng trở thành yến tiệc tìm bạn đời cao cấp của giới thượng lưu. Phong thành nghe nói có năm vị đại công tử. Năm vị này là thái tử bản triều Lưu Giám, tứ hoàng tử Lưu Phi, Lưu Giác con trai An Thanh vương, tân khoa trạng nguyên Thành Tư Duyệt và Cố Thiên Tường con trai Cố tướng. Nghe nói đều là những bậc anh tú phong lưu tuổi ngoài đôi mươi, nói đến các chàng tất thảy thiếu nữ Phong thành đều sáng mắt.

Lý tướng sau khi nhận được thiệp mời suy nghĩ rất lung, nghe nói Đào hoa yến lần này cả năm vị đại công tử của Phong thành gần như đều có mặt, có ba vị thân vương, đều chưa có hôn ước. Mấy hôm trước Ninh vương đã nói xa xôi, rằng có ý nhắm con gái lớn Thanh Lôi, nếu không có gì thay đổi sẽ trở thành thái tử phi tương lai, Lý tướng muôn phần cảm kích. Về sau được tin, Cố tướng cũng nhận được ngầm ý như vậy của Ninh vương, có ý muốn con gái Cố Thiên Lâm của ông ta, cô nương này và Thanh Lôi được mệnh danh là Song tuyệt Phong thành, ông lại cảm thấy bất an.

Về sau nghe đâu, Vương hoàng hậu lại có ý tiến cử cháu gái của mình là Vương Yến Hồi, ái nữ của thái úy đương triều. Nghe nói Yến Hồi tiểu thư mưu lược hơn người, thông minh tuyệt đỉnh, dung mạo có phần thua kém chút đỉnh so với Cố Thiên Lâm và Lý Thanh Lôi, nhưng cũng có thể coi là bậc giai nhân, gia thế càng khiến thiên hạ kính nể.

Hoàng đế và hoàng hậu ý kiến bất đồng, Hộ quốc công chúa nảy ra sáng kiến mở Đào hoa yến để thiếu nữ ba nhà có cơ thể hiện tài mạo trước mọi người, có thể công khai so sánh. Ninh vương xưa nay vốn sủng ái thái tử, luôn chiều theo ý chàng. Vậy là Đào hoa yến trở thành đại yến tuyển phi, ai cũng biết đại yến lần này có mục đích khác, đều chờ đợi ba giai nhân tranh tài, xem ai cuối cùng trở thành thái tử phi.

Lý tướng điểm lại ba cô con gái, Thanh Lôi kín đáo với vẻ kiều diễm lạnh lùng, Thanh Phỉ nhanh nhẹn hoạt bát, Thanh La yêu kiều dịu dàng, xuân lan thu cúc mỗi cô mỗi vẻ, ngoài Thanh La không có tài hơn người, hai cô chị đều khiến ông hài lòng rất mực.

Nhưng suy đi tính lại, ông vẫn chưa quyết bề nào, đi đi lại lại trong thư phòng vẻ nôn nóng. Đại phu nhân tươi cười, góp lời: “Lão gia, sao không để cho cả ba tiểu thư đều đến dự tiệc? Chẳng phải nghe nói cả năm vị công tử Phong thành đều đến đó sao?”.

Không được làm chính phi của thái tử, thì làm thứ phi cũng tốt. Ngoài ra, hai tiểu thư nhà mình được vị nào trong năm công tử để mắt đến, đều là vụ trao đổi không thua lỗ. Câu nói của đại phu nhân đã thức tỉnh Lý tướng, ông vuốt râu cả cười nói: “Thì ra, vẫn là phu nhân có mắt nhìn xa trông rộng”.

Thất phu nhân nghe nói A La cũng được đi dự Đào hoa yến, mắt sáng lên, trở về Đường viên ôm lấy A La nói: “A La, dù mới mười hai tuổi, nhưng con không hề thua kém hai chị, đại yến lần này các vị công tử quyền quý của Ninh quốc đều có mặt, con nhớ để tâm quan sát kỹ, tìm trước nơi chốn để tính chuyện về sau”.

A La ngạc nhiên: “Mẹ, con mới mười hai tuổi! Mười hai tuổi đã xem mặt hôn phu sao?”. Cảm thấy chuyện không thể tưởng tượng nổi, bất luận phong tục ở đây thế nào, nàng nhất định không chịu. Có điều, được ra khỏi phủ khiến A La mừng khôn xiết, sáu năm rồi, cuối cùng cũng được ra ngoài, không biết thế có đồng nghĩa với sau này có thể thường xuyên xuất phủ hay không?

Thất phu nhân cười, “Con gái Ninh quốc mười lăm tuổi đã xuất giá được rồi. A La của mẹ rất có thể sẽ tìm được một đám vừa ý, đợi sau này lớn lên tính chuyện cũng không muộn”.

A La than thở: “Con không muốn xa mẹ, càng không muốn tính chuyện hôn nhân sớm như vậy”.

Thất phu nhân nói: “Mẹ cũng không muốn xa con, nhưng con gái không thể ở với mẹ suốt đời, nếu gặp được đám tốt, chẳng hay hơn sao. Mẹ chỉ muốn con quan sát kỹ, tìm được người ưng ý, để chọn hôn phu sau này”.

A La không muốn nói nữa, tìm hiểu sớm như vậy, ba năm sau đã phải lấy người ta, lại chuyển đến một phủ khác không thể ra ngoài, đánh chết nàng cũng không chịu. Chỉ muốn nhân cơ hội này được ra ngoài một chuyến, thả sức ngắm nhìn phong cảnh, ở đây đã buồn nẫu ruột, sắp không chịu nổi nữa rồi.

Ngày mùng bảy tháng ba, gió xuân phơi phới trên mặt, ánh nắng ấm chan hòa trên cao, đúng là ngày đẹp trời cho hội đạp thanh, đại phu nhân đưa ba cô gái đi dự Đào hoa yến. Đây là điểm đại phu nhân hài lòng nhất, chỉ có bà mới có thể đàng hoàng sánh vai cùng các bậc mệnh phụ phu nhân của Ninh quốc. Hôm nay bà đặc biệt chải kiểu tóc búi cao, mình vận bộ váy thêu vàng rực có chữ “Phúc” thêu chìm, cài một đóa đỗ quyên vàng, tiếng châu báu rung rinh theo mỗi bước chân. Dáng đẫy đà tuổi trung niên được y phục và đồ trang sức tô điểm càng tôn thêm vẻ cao quý của vị phu nhân tướng quốc.

A La liếc nhìn Lý Thanh Lôi áo chẽn màu xanh nhạt, váy liền chít eo màu trắng, có thêu những cành mai tinh tế bằng kim tuyến, đầy những nụ hoa ấp nhụy, dáng thon ngọc ngà, nét mặt an nhiên, có vẻ diễm lệ lạnh lùng vô song. Lại nhìn Lý Thanh Phỉ, áo chẽn màu ngọc, ngoài choàng áo lụa hồng, viền váy và cửa tay nổi bật vô số những bông hoa thêu chỉ sẫm màu, cao nhất trong ba cô gái, mười bốn tuổi đã cao một mét sáu mươi bảy, gió thổi tà áo choàng lụa bay phấp phới tựa chim hồng nhạn tung cánh.

Lại nhìn bản thân, áo ngắn màu xanh, váy liền màu xanh sẫm, hai bím tóc nhỏ, trước trán có tóc mái bờm do Tiểu Ngọc cắt, che nửa khuôn mặt, bím tóc thắt hai dải nơ, đứng bên cạnh Thanh Lôi và Thanh Phỉ, thấp hơn một cái đầu không nói, trông lại giống như a hoàn của họ.

Thanh Lôi, Thanh Phỉ liếc nhìn nàng phì cười. Đại phu nhân cau mày, song lại nghĩ Thanh La còn nhỏ, vai chính hôm nay là hai cô chị, nên cũng không bảo Thanh La trang điểm lại.

A La ngoan ngoãn nịnh hai chị: “Đại tỷ, nhị tỷ hôm nay đẹp quá, A La làm a hoàn cho hai tỷ được rồi, sẽ giúp hai tỷ chọn một lang quân như ý”.

Thanh Lôi, Thanh Phỉ đỏ mặt, mắng: “Tiểu yêu xấu tính từ bao giờ vậy!”.

A La cười hì hì không đáp.

Lên xe ngựa rời phủ, đây là lần đầu tiên nàng được ra khỏi tướng phủ từ khi trở về quá khứ dị thường. A La càng hiếu kỳ, suốt đường không nén nổi tò mò vén rèm, nhìn ra ngoài. Đại phu nhân đằng hắng hai tiếng “A La, trước khi đi cha con đã dặn, nhất định phải chú ý thân phận khuê các danh gia, không được để cha mất mặt, nếu không sẽ bị xử theo gia pháp. Con nhìn hai chị, lại nhìn con đi, thất muội nông nổi phóng đãng lại truyền tính xấu cho con gái rồi!”.

A La lòng phẫn nộ, đành thu hồi ánh mắt hiếu kỳ, chỉnh lại xiêm y ngồi ngay ngắn trở lại. Bụng nghĩ, đợi đến ngày ta có thể tự bảo vệ, nhất định sẽ đưa mẹ xinh đẹp của ta ra khỏi tướng phủ!

Cỗ xe đi về hướng tây chạy đúng hai canh giờ mới dừng lại. Dưới ánh mắt trông chừng nghiêm ngặt của đại phu nhân, ba cô gái ngồi ngay ngắn, A La đang tập khí công, nhưng lúc xuống xe chân vẫn hơi tê. Không biết Thanh Lôi, Thanh Phỉ ngồi thiền từ khi nào, mà từ xe ngựa bước xuống vẫn nhanh nhẹn như cánh bướm.

Nhìn mãi mảnh trời hình vuông trên không tướng phủ, lúc này ngắm đồng nội mênh mông, A La cảm thán, tự do tuyệt quá! Đến bao giờ ta có thể tự do du ngoạn?

Thập Thúy sơn trang lưng dựa vào núi, thấp thoáng những mái ngói cong, tường hồng ẩn hiện trong rừng cây trên sườn núi. A La lại ngạc nhiên thán phục, thì ra đây là biệt thự của người giàu.

Đi vào cổng lớn, một đám gia nhân khiêng kiệu đứng chờ, đưa họ vào trong, đi tiếp nửa canh giờ, đến một thung lũng, trước mắt hiện lên một tấm thảm sắc màu, ở đây, địa thế bằng phẳng, suối nông xanh ngắt nửa tự nhiên nửa nhân tạo uốn lượn quanh co trong rừng đào, trên mặt nước thỉnh thoảng phiêu dạt những cánh hoa, thoảng mùi hương mê đắm. A La lần thứ ba cảm thán, thế giới đào nguyên không ô nhiễm là đây!

Nghe gia nhân bẩm báo Lý tướng phu nhân đã đến, Hộ quốc công chúa mỉm cười nghênh đón. Sau khi cùng thi lễ, nghe tiếng công chúa hỏi đại phu nhân: “Nghe đồn tướng phủ có hai thiên kim tài sắc nức tiếng Phong thành, đẹp tựa tiên nữ, lại đây để ta ngắm nào”.

Đại phu nhân vội lên tiếng gọi Thanh Lôi, Thanh Phỉ.

A La và tỳ nữ Quyên Nhi đứng một bên lén nhìn Hộ quốc công chúa. Công chúa đoan trang diễm lệ, tuổi chừng ba mươi, cử chỉ tao nhã cao quý, có khí chất của mỹ nhân được giáo dưỡng từ nhỏ.

Lại nhìn xung quanh, trên khu đất trống dựng rất nhiều lều trướng nhỏ quây màn sa dùng làm chỗ nghỉ cho tân khách, chỉ có trướng của các nữ tân khách là buông rèm. Bên trong thấp thoáng bóng các mệnh phụ và tiểu thư ngồi, ai nấy xiêm y lộng lẫy trang điểm tỉ mỉ, rõ ràng đã bỏ rất nhiều công chuẩn bị.

A La cười thầm, may hôm nay có gió, gió thổi tung những bức rèm sa, lộ ra dung nhan các kiều nữ. Chỉ hời cho đám tài tử ngồi ngay ngắn, nhưng cổ vươn dài mắt không ngừng đảo qua liếc lại.

Một lát sau, đại phu nhân dung quang rạng rỡ đưa hai cô gái đi vào trong trướng của tướng phủ. A La tò mò túm lấy Thanh Lôi, Thanh Phỉ hỏi Hộ quốc công chúa nói những gì.

Thanh Phỉ tỏ vẻ e thẹn. Đại phu nhân lại phải mở miệng: “Công chúa rất thích Thanh Lôi và Thanh Phỉ, người nói lát nữa sẽ mời thái tử và tứ điện hạ tặng hoa”. Nói đoạn chỉ về lều trướng đối điện: “Kia là trướng của thái tử, kế bên là của tứ điện hạ”. Lại hạ giọng nói: “Bên trái chúng ta là của Cố tướng, bên phải là của phủ thái úy. Nghe nói thiên kim của Cố tướng và thiên kim của Vương thái úy đều đã đến”.

Nghe đại phu nhân nói vậy, Thanh Lôi, Thanh Phỉ không nén nổi tò mò liếc nhìn sang phía đối diện, trong trướng không có người. Lại nhìn sang phải, sang trái, hai trướng đều buông rèm, chỉ loáng thoáng thấy vài nữ nhân, nhưng không rõ mặt, họ hơi thất vọng, cũng hơi sốt ruột. Thanh La cười hi hí: “Mẹ cả, A La đi thăm dò động tĩnh rồi về báo cáo được không?”.

Đại phu nhân có phần do dự: “Nếu xảy ra chuyện gì thất lễ thì làm thế nào? Con xấu tốt cũng là thiên kim tướng phủ”.

Thanh La cười cười, nói: “Mẹ cả, bây giờ vẫn chưa ai biết con là tam tiểu thư của tướng phủ đúng không? Ánh mắt mọi người đều nhằm vào đại tỷ, nhị tỷ. Con cứ nhận là a hoàn của tướng phủ. Mẹ cả xem, trông rất giống mà”.

Đại phu nhân mắt cười cười: “Ý hay đấy, hôm nay không ai biết tam tiểu thư của tướng phủ cũng đến, người ta có biết tướng phủ có tam tiểu thư hay không cũng khó nói. Vậy con đi nghe ngóng, xem mặt hai vị tiểu thư kia, nghe xem người ta nói gì”. Nói đoạn lại dặn dò Quyên Nhi, “Ngươi đi cùng tam tiểu thư, không được để xảy ra chuyện gì”. Quyên Nhi vội gật đầu. A La cười với hai chị, nói nhỏ: “Các tỷ đừng sốt ruột, A La đi rồi về ngay”.

Cuối cùng đã có thể không phải ngoan ngoãn ngồi trong trướng giả làm thục nữ, A La như chim sổ lồng, cùng Quyên Nhi tay đeo cái làn, đi về phía rừng hoa.

Biệt uyển hoa đào của Hộ quốc công chúa vô cùng đặc sắc, cho phép tân khách tùy ý hái hoa, nếu gặp được tri kỷ có thể viết thơ cài lên cành hoa để tặng, ngõ hầu đẹp lòng ý trung nhân. Nếu không gặp được, trong mỗi trướng đều để sẵn hoa, các vị nữ khách cũng không đến nỗi cảm thấy khó xử vì không được tặng hoa. Mặt khác, tân khách cũng có thể tặng hoa cho nhau, để bày tỏ tình thân. A La chính là lấy cớ phụng mệnh tướng quốc phu nhân đi tặng hoa cho các nữ tân khách ở mấy trướng lân cận, để lén xem mặt tiểu thư Thiên Lâm, ái nữ của Cố tướng và tiểu thư Yến Hồi thiên kim của Vương thái úy. Đương nhiên, ngang qua trướng của cánh nam nhi cũng nhân tiện ngó nghiêng.

Đi vào hoa viên, A La cảm thấy nhẹ nhõm sảng khoái như trở về với thiên nhiên, trước mặt một dải màu hồng, dưới chân cỏ xanh như thảm lụa, nước suối ngát hương. Cô cười nói với Quyên Nhi: “Ở đây đẹp quá!”.

Quyên Nhi mới chỉ mười ba, mười bốn, cũng là tuổi ham chơi, đi theo tam tiểu thư vừa ngắm cảnh vừa xem hoa, hai người đi mỗi lúc càng xa dần trang viên. Không biết được bao lâu, Quyên Nhi quay đầu, không nhìn thấy lều trướng, xung quanh toàn rừng hoa, bỗng hốt hoảng kêu lên: “Tam tiểu thư, có phải chúng ta lạc đường rồi không?”.

A La đang phấn chấn chợt ngây người, quay đầu nhìn, rừng hoa san sát, lều trướng ở chỗ nào? Tự dưng cũng bắt đầu lo lắng: “Thảm rồi, Quyên Nhi, mình về muộn nhất định bị đại phu nhân trách mắng, chúng mình đi từ hướng nào đến?”.

Quyên Nhi khổ sở không nói được. A La nhìn bóng nắng, nhớ lại vị trí của lều trướng, đưa Quyên Nhi đi về phía bắc. Được một lát, phấn khởi reo lên: “Quyên Nhi, nhìn kìa, sơn trang phía kia!”.

Hai người chạy về phía những dãy lều trướng. Tưởng chừng sắp về đến nơi, nhưng thấy con suối trước mặt lòng suối mở rộng hơn. A La lấy một cành cây cắm xuống nước thăm dò, sâu không đến bắp đùi. Đi tìm đường khác, lại e bị muộn. Đưa mắt nhìn quanh, rất yên tĩnh, loáng thoáng nghe thấy tiếng cười đùa từ những lều trướng vọng ra. Nàng dứt khoát cởi tất giày, xắn cao ống quần, nói với Quyên Nhi: “Nhân lúc không có người, nhanh lên Quyên Nhi, có ai nhìn thấy, phiền lắm”.

Quyên Nhi đã sợ suýt khóc, thấy tiểu thư lội xuống nước, đưa tay dắt mình, đành bắt chước cởi tất giày, đội chiếc làn lên đầu, nắm tay A La lội từng bước. Lúc sắp sang bờ bên kia, Quyên Nhi vấp phải hòn đá, người loạng choạng, chiếc làn đựng giày tất và hoa rơi xuống nước, buột miệng kêu to “Cái làn!”.

A La buông tay Quyên Nhi, vớ lấy cái làn, người mất thăng bằng, lúc sắp ngã, không biết từ đâu một bóng người bay đến nắm lấy cánh tay nàng, kéo giật trở lại.

“A!”. A La kêu thất thanh, ngay sau đó chân đã chạm bờ suối. Còn đang kinh hoàng chưa kịp định thần, mở to mắt nhìn người trước mặt. Đó là một chàng trai trẻ, dáng cao tuấn tú, đang mỉm cười nhìn nàng, mắt liếc xuống dưới, vẻ rất chuyên chú. A La đỏ mặt cúi đầu, thấy chàng ta đang nhìn bắp vế mình và Quyên Nhi chân trần, tức khí trào lên: “Quay mặt đi, đàn bà con gái chúng ta đang phải xỏ giày”.

Người đó mới nhận ra mình thất lễ, quay lưng đi. A La nhìn lưng chàng ta rung rung, biết chàng đang cười, buột miệng chửi thầm. Quyên Nhi lên bờ, hai người vội vàng chỉnh đốn xong y phục. A La mới thong thả nói với người đó: “Chuyện vừa rồi, cảm ơn ngươi, ngươi đừng quay lại, chúng ta vẫn chưa mặc xong”. Vốn định cảm ơn cho tử tế, “Nhưng...”, nàng lập tức chuyển chủ đề: “... Ai bảo ngươi nhìn lung tung!”.

Dứt lời, A La lập tức xuất chiêu, người đó hoàn toàn không thể ngờ, cô bé suýt ngã xuống nước này lại biết võ công, lại ra đòn rất mạnh, chàng vừa nghiêng người đã ngã xuống nước. Chỉ thấy chàng liên tục lắc người, một tay đập xuống mặt nước, nửa ống tay ướt đầm, thuận thế xoay người nhảy phắt lên bờ bên kia.

A La kinh ngạc, người này có võ công truyền kỳ! Vội kéo Quyên Nhi chạy thẳng.

Sau khi định thân, người đó quay đầu, thấy hai cô bé tay cầm làn, chân chạy cuống cuồng, thì bật cười, rồi giũ tay áo, nói thầm: “Nghịch nữ của phủ nào không biết, chỉ cần nàng xuất hiện trong Đào hoa yến, khó gì mà ta chẳng tìm được?”.

A La lòng rối bời, chỉ lo xảy ra chuyện, lại dặn Quyên Nhi nhất định không được tiết lộ chuyện bên suối vừa rồi, Quyên Nhi đâu dám mở miệng, tam tiểu thư không nói ra là may mắn lắm rồi, vậy là gật đầu lia lịa.

Đi đến cạnh trướng của Cố phủ, A La hướng vào trong, nói giọng nhỏ nhẹ: “Nô tỳ phụng mệnh Lý tướng quốc phu nhân tặng hoa cho Cố tướng quốc phu nhân”.

Trong lều vọng ra giọng nói thân thiện hòa nhã: “Mời vào”.

A La cúi đầu chào, hay tay nâng cành hoa mới hái dâng tặng. Giọng nói hòa nhã kia lại cất lên: “Phu nhân nhà ngươi khách khí rồi, có đi không có lại là thất lễ. Hà Tâm, con theo cô gái này sang cảm tạ tướng quốc phu nhân, nhân tiện biếu ít hoa quả”. Cô gái tên Hà Tâm vội vâng lời, bê đĩa hoa quả theo A La ra khỏi trướng.

Chẳng phải nghe nói Thiên Lâm tiểu thư, thiên kim của Cố gia cũng đến rồi? Sao trong trướng chỉ có Cố phu nhân và hai a hoàn? A La hơi thất vọng. Nghiêng đầu nhìn Hà Tâm, nhận thấy Hà Tâm rất đẹp, đầu hơi ngửa, lộ ra cái cổ thon, mảnh dẻ trắng ngần như tuyết, đôi tay nõn nà như ngọc. A La cười nói: “Hà Tâm tỷ tỷ, tỷ đẹp quá, không biết tiểu thư bên đó còn đẹp thế nào?”.

Hà Tâm khóe miệng lộ nụ cười. A La ngây người, bụng nghĩ, nếu như Thanh Lôi có vẻ đẹp tĩnh như lan, thì Hà Tâm này cốt cách điềm đạm như cúc. Nàng đột nhiên có cảm giác, cô gái này là chính là Cố Thiên Lâm, một trong hai tuyệt sắc của Phong thành.

Hà Tâm cười nhạt nói: “Tiểu nha đầu của Lý phủ đều thông minh xinh đẹp như tiểu muội này ư?”.

A La ngớ người, cười hì hì: “Vâng, đáng tiếc, đều là a hoàn, nhưng muội lại không bằng ngón chân Hà Tâm tỷ tỷ”.

Hai người mải nói chuyện, không để ý, mấy người trong trướng đối diện đang ngẩn ra nhìn họ, thầm nghĩ, tiểu cô nương ăn vận giống như a hoàn từ Cố phủ đi ra phong tư thật trác việt, ghé tai nhau thì thầm, không biết Cố tiểu thư là bậc quốc sắc thiên hương thế nào.

Hà Tâm dừng bên ngoài trướng chuyển lời cảm tạ của Cố phu nhân. Đại phu nhân đang định mời vào, A La đã một tay đón đĩa hoa quả từ tay Hà Tâm, nháy mắt cười: “Hà Tâm tỷ tỷ, muội giúp tỷ đem vào là được, tỷ cần hầu hạ Cố phu nhân, không dám phiền”.

Hà Tâm cũng cười: “Dù gì cũng phải tận mặt cảm tạ chứ!”.

“Không cần đâu. Sớm muộn phu nhân cũng nhận ra tỷ, a hoàn của Cố phủ! Nói ra mất mặt quá, Thiên Lâm tỷ tỷ!”. A La mạnh dạn thăm dò.

Hà Tâm giật mình, nụ cười trên mặt biến mất, chợt nghĩ, lấy thân phận a đầu đáp lễ với Lý phu nhân, sau này bị phát hiện, quả thực cũng khó coi. Giơ tay véo má A La: “Tiểu quỷ, có thời gian đến Cố phủ chơi với ta!”. Trước lúc đi lại hỏi nhỏ: “Có đúng muội chỉ là a hoàn của Lý phủ?”.

A La cười híp mắt không đáp. Vừa ướm lời, Hà Tâm quả nhiên đúng là Cố Thiên Lâm. Xem ra nàng ta nôn nóng muốn nhìn mặt Lý Thanh Lôi và Lý Thanh Phỉ như thế nào, mới không tiếc hạ mình cải trang thành nô tỳ đến đây. Chỉ xem mặt cũng không sao, nhưng không nghĩ, nếu bị phát hiện hậu quả sẽ thế nào. Ngăn nàng ta cũng có cái hay, khỏi gây phiền hà về sau, chốn quan trường lắm mưu mô, là bạn hay là thù cũng khó nói rõ, nếu không lưu tâm sẽ bị đối thủ chà đạp không thể ngóc đầu. Nàng vẫn muốn bình yên sống trong tướng phủ vài năm.

Nhìn bóng lưng thon thả của Cố Thiên Lâm, A La bụm môi cười, vén rèm bước vào. Đại phu nhân nghi ngờ nhìn nàng, không hiểu vì sao nàng ngăn không cho a hoàn của Cố phủ vào.

A La cười, nói: “Con đã nhìn thấy thiên kim Cố phủ rồi”. Chỉ một câu nói lập tức chuyển chủ đề thành công. Mấy người vây lấy A La nghe kể, nụ cười nhạt thoáng trên mặt Thanh Lôi, tựa hồ không bận tâm, nhưng khi nghe đến đoạn A La nói, Cố Thiên Lâm dáng điệu tao nhã lại thông tuệ hơn người, khẽ hừ một tiếng, tỏ vẻ khinh thường. A La thấy vậy thở dài, đại tỷ này cũng có chút tài, nhưng quá tự cao.

Đại phu nhân lại hỏi: “Còn nghe được gì nữa? Đi lâu như thế, đã gặp hai vị điện hạ chưa?”.

A La cứng mồm, Quyên Nhi mặt cũng tái nhợt. A La nhanh nhẩu ứng phó: “Không gặp hai vị điện hạ, nhưng thiên kim họ Vương chắc chắn không đẹp bằng đại tỷ, còn không bằng nhị tỷ nữa kia”.

Thanh Lôi, Thanh Phỉ bật cười.

Lúc đó nghe tiếng Hộ quốc công chúa nói to: “Sáng sớm phong cảnh đẹp thế này, nếu được thưởng thức khúc đàn mới càng thi vị. Nghe đồn nhị vị thiên kim của Cố tướng và Lý tướng được mệnh danh là Song tuyệt Phong thành, nức tiếng đàn hay, không biết hai vị có chịu cho bản cung thưởng thức một khúc chăng?”.

A La lè lưỡi, một cuộc so tài trần trụi. Lát sau, người hầu vào bẩm hồi âm, hai nhà sao dám không nể mặt công chúa, đại phu nhân lấy cớ vì tôn nghiêm của Tả tướng, mời tiểu thư Cố gia tấu trước.

Lát sau, từ trong trướng bên cạnh vang lên tiếng đàn. m thanh thánh thót, như ngọc bội giao chen, chính là khúc “Bội lan” lấy ý từ câu “Khâm phục thay cho lan mùa thu” trong “Ly tao” của Khuất Nguyên. Chỉ nghe thấy tiếng ca uyển chuyển du dương vọng ra: “Lan nở trong cốc vắng, âm thầm tự ngát hương; Tao nhân mặc khách, đâu người tri âm”.

Tâm ý của Thiên Lâm Cố gia tiểu thư đã rõ, mượn tiếng đàn thay lời muốn tìm tri kỷ.

A La ngẫm nghĩ, người xưa có câu, đem tâm tư gửi vào tiếng đàn, tri âm khó gặp, đàn đứt dây còn ai nghe? Cố Thiên Lâm lựa chọn khúc này rõ ràng là nhằm vào thái tử, nhưng lại thiên về ý muốn tìm tri âm, tự ví mình như đóa lan lặng lẽ nơi khe núi, tỏ ý không màng phú quý. Khúc “Bội lan” giai điệu tinh tế mà khoan thai, chậm mà du dương, kiêu sa mà không cao ngạo. Nếu lấy được người này làm vợ, tất có thể sắt cầm hòa hợp. Có lẽ Cố Thiên Lâm đoán biết tâm ý của thái tử, biết chàng không muốn lựa chọn người có dã tâm, một lòng muốn tìm nữ chủ Đông cung. Đàn khúc này, ngày sau trở thành thái tử phi cũng không bị tiếng là với cao. Nếu không thành, cũng chỉ là không tìm thấy tri âm mà thôi. Cố Thiên Lâm thật khéo suy tính.

Ánh mắt A La vừa di chuyển, thấy ghế của thái tử và tứ điện hạ trong trướng đối diện bỏ trống, các ghế khác đã được những bậc tài tử của Phong thành ngồi kín. Nghe xong khúc nhạc có người lắc đầu, có người ngơ ngẩn. Lại nhìn Thanh Lôi trầm mặc không nói, có lẽ khúc “Bội lan” cũng nói lên tâm ý của đại tỷ. Không biết Thanh Lôi lựa chọn khúc nào đối lại.

Thanh Lôi khẽ chau mày, lúc này không hiểu tại sao A La bỗng thấy cảm thông với người chị muốn so tài với Cố Thiên Lâm trước mặt mọi người. Thanh Lôi có thể cùng với Cố Thiên Lâm được mệnh danh Song tuyệt Phong thành, ngón đàn ngang ngửa, nhưng khúc nhạc sao nói hết tâm tư, ngay lựa khúc đã thua về khí thế, sẽ thành trò cười cho bàn dân Phong thành về sau. Chưa nói nếu Thanh Lôi không thắng được Cố tiểu thư, tướng phủ cũng bẽ bàng.

Lúc này khúc nhạc của Cố Thiên Lâm đã dứt. Hộ quốc công chúa đằng hắng hai tiếng, khen rằng: “Khen cho khúc “Bội lan”, khen cho cô nương tâm như lan mà trí thông tuệ! Cố tiểu thư, vừa hay ở đây bản cung có cây trâm Phỉ thúy lan, lại đây ai gia cài cho”.

Cố Thiên Lâm khoan thai bước ra ngoài trướng, chính là Hà Tâm. Lúc này nàng đã thay y phục tỳ nữ, váy vừa nâng, gót sen khẽ cất, đến quỳ trước công chúa. Hộ quốc công chúa rút chiếc trâm hoa lan trên đầu cài lên tóc mây của nàng. Cố Thiên Lâm cảm tạ, lại uyển chuyển đứng lên, khoan thai trở về.

A La nhìn về phía đối diện, Cố Thiên Lâm vừa thể hiện, quả nhiên làm chấn động những người trong đó. Ánh mắt nàng vừa chạm phải bóng người quen thuộc, sợ hãi lùi thẳng về sau, giấu mặt vào lưng Thanh Phỉ. Lại lén nhìn ra, trong tay chàng đại hiệp ban nãy bị mình đẩy xuống suối cầm một cành đào đưa lên hít nhẹ, tiện tay đưa hoa cho người hầu sau lưng, đoạn quay người bỏ đi.

Người hầu cầm cành hoa đi về phía trướng của Cố phủ. Lát sau, những người hầu mang hoa của chủ nhân đến tặng càng đông, đi lại tấp nập trước lều Cố phủ. Vậy là, các vị nữ khách cảm thấy nóng mặt. Hộ quốc công chúa cũng nhận ra điều đó, cười nói: “Đại tiểu thư Lý tướng, chẳng hay định hiến khúc nào?”.

Thanh Lôi dịu dàng đáp: “Xin hầu khúc “Thu thủy”.

Nét mặt A La như nở hoa. Cố Thiên Lâm dùng hoa lan nói hộ lòng mình, Thanh Lôi cũng không kém, “Thu thủy” trong trẻo, thanh tịnh, chí hướng cao xa, khúc này ý cũng không kém Cố Thiên Lâm. Sắp có trò hay xem đây.

Sau khi trả lời, Thanh Lôi hít sâu một hơi, giơ hai tay, không biết vì sao, ngón tay hơi run. Đại phu nhân hơi cuống, giục: “A Lôi, con nhất định phải thắng, đừng để mất mặt Lý phủ!”.

Thanh Lôi nhắm mắt, lại hít một hơi trấn tĩnh, ngón tay càng run hơn, vừa chạm dây đàn lại rụt về, buồn rầu nói: “Mẹ cả, con thua rồi, con không thể tĩnh tâm”.

Lúc đó ngoài trướng đã có người sốt ruột, ghé tai nhau bàn tán.

Đại phu nhân, Thanh Phỉ, Thanh La đều lo lắng nhìn Thanh Lôi. Trán đại phu nhân râm rấp mồ hôi, mặt sa sầm: “Thế này thì tướng phủ chúng ta biết giấu mặt đi đâu? Con mau chơi đi, nếu không về nhà, ta dùng gia pháp!”.

Thanh Lôi mặt trắng bệch, người mềm nhũn, mắt vừa sợ hãi vừa sầu thảm.

A La không nén nổi nói: “Đại tỷ, tỷ cứ coi như đang chơi đàn ở nhà, chơi cho một mình tỷ nghe, đừng bận tâm chuyện thắng thua”.

Thanh Lôi cười đau khổ: “Tất có được mất, sao có chuyện không bận tâm?”. Nói đoạn cúi đầu, dung nhan ngà ngọc ảo não. Ba tuổi Thanh Lôi đã chơi đàn, tâm cao chí ngạo tột cùng, Lý tướng hàng ngày nghiêm khắc giáo huấn, muốn gả nàng vào chốn vương thất, mặc dù nghe nói mình và Cố Thiên Lâm được mệnh danh là Song tuyệt Phong thành nhưng cũng không bận lòng. Hôm nay, vừa nghe tiếng đàn của Cố Thiên Lâm đã kinh động, lại thấy Cố tiểu thư được công chúa ban thưởng, bao người ngưỡng mộ, càng dao động tột cùng. Nàng và Cố Thiên Lâm thực lực tương đương. Cố Thiên Lâm đàn trước đã chiếm được thiện cảm của tân khách, muốn vượt qua đâu có dễ! Lòng tơ vò trăm mối, đã không còn chút đấu trí. Lại thở dài nói: “Nếu con đàn trước, Cố Thiên Lâm chắc cũng thế này!”. Mượn tiếng đàn nói hộ tâm tư, nàng có phần hiểu Cố Thiên Lâm.

Đại phu nhân càng cuống: “Bây giờ là lúc nào, còn do dự nữa, tân khách không đợi được, công chúa chờ lâu cũng nản”. Mắt lóe lên một tia sắc lạnh.

Thanh Lôi run người vì ánh mắt đại phu nhân, sợ hãi run lẩy bẩy ngã vào lòng Quyên Nhi như người ngất xỉu.

A La nhìn Thanh Phỉ, Thanh Phỉ lắc đầu, chơi đàn không phải là sở trường của nàng. Lại nhìn Thanh Lôi, lại thầm thở dài, rút cục vẫn là người đáng thương. Nàng nói nhỏ với đại phu nhân: “Mẹ cả, Thanh La nguyện giải vây cho tỷ tỷ, nhưng nhất thiết không được để lộ ra ngoài”.

Phu nhân kinh ngạc: “Ngón đàn của con thế nào?”.

A La hơi ngẩng đầu: “Nhất định không bẽ mặt bằng không có ai đàn, phải không mẹ cả?”.

Nói đoạn, ngồi xuống bên cây đàn, định tâm tĩnh khí, tay vuốt nhẹ phím, trong đầu tưởng tượng ra mình đang ngồi trên mạn thuyền ngắm nhìn biển cả vào một ngày thu. Mây trời cao lộng, tầng không trong vắt, nước biển xanh phẳng lặng như tấm lụa màu lam, trước mắt chỉ có sự mênh mông khôn cùng và lòng biển bao la, mình là cánh chim bằng, lúc nhẹ nhàng nhảy sóng, lúc tung cánh vút lên, chao liệng giữa mây trời bát ngát, đùa giỡn coi biển cả tựa ao nhà.

Thanh Lôi kinh ngạc nhìn cô em gái vốn không thạo ngón đàn, chỉ cảm thấy cơ thể bé nhỏ đó như tỏa muôn ngàn hào quang, chói lọi khó bề tiếp cận. Dưới ngón tay những âm thanh dồn dập trong veo tựa tiếng sóng xô ghềnh tung bọt trắng, trong sương khói mênh mang cuồn cuộn tuôn trào ẩn hiện cao sơn tráng lệ uy nghi, đỉnh chạm mây trời, vực thẳm ngàn trượng mở ra hun hút. Nếu không phải Thanh Lôi tận mắt chứng kiến, sẽ tưởng tiếng đàn này là của đấng nam nhi, chứ không phải là nữ đồng bé nhỏ, nàng bỗng cất tiếng hát: “Xuân sớm đẹp đào hoa thắm rỡ, sắc lung linh sương quẩn đỉnh non. Nước gương thu êm xuôi không tận, tâm phiêu diêu, chí viễn ngạo cao xanh...”.

Giọng Thanh Lôi trong trẻo, thể hiện niềm cảm kích chủ nhân Đào hoa yến, lại bộc lộ khí độ cao xa, hòa với tiếng đàn tràn trề tráng chí, dư âm réo rắt của Thanh La, càng muôn phần tương hợp!

Hòa xong những âm thanh cuối cùng, Thanh La và Thanh Lôi nhìn nhau cười. Những người có mặt không ai ngờ một nữ nhi lại có thể chơi được khúc “Thu thủy” hùng tâm tráng chí như vậy, vừa kinh ngạc cảm thán lại khâm phục bội phần. Chỉ nghe thấy một giọng nam nhân thanh sảng: “Sớm nghe danh Lý đại tiểu thư lấy cầm ngụ ý, từ thuở thiếu thời đã ngưỡng mộ đào hoa cốt cách thanh cao. Trăm nghe không bằng một thấy, chẳng hay Lý đại tiểu thư có bằng lòng cùng cô nhân du ngoạn thưởng hoa?”.

Nghe nói vậy, mặt đại phu nhân bỗng sững sờ sung sướng, giọng run run: “A Lôi, là... là thái tử điện hạ mời đó!”.

Thanh Lôi như trong mơ, thảng thốt mỉm cười. A La và Thanh Phỉ vội đẩy nàng, giục: “Đại tỷ đáp lời đi, là thái tử đích thân mời đó!”.

Thanh Lôi lúc này mới hoàn hồn, nhìn Thanh La, mắt nhòe ướt: “A La... tỷ... khúc này không phải...”.

A La ngắt lời: “Đại tỷ, khúc này do tỷ đàn, ca từ do tỷ hát, mau trả lời đi!”. Nói xong cùng với Thanh Phỉ dìu nàng đi ra.

Hộ quốc công chúa cười xởi lởi: “Tốt, tốt, tốt, thái tử mời trước, các vị nam nhi, đã có thái tử mở đường, hãy đi tìm tri âm của lòng mình. Các phu nhân, có đồng ý cùng bản cung đi dạo hoa viên?”.

Các phu nhân đứng lên: “Rất vinh hạnh”.

Công chúa nói vui: “Chúng ta già rồi, đi thôi, để khỏi làm phiền bọn trẻ”.

Tiếng cười rộ lên, không khí thoải mái hẳn.

Cách bức màn sa, bên ngoài trướng có một trang nam nhi tựa tay đứng. Gió thổi, bức màn bay nhẹ, thấy chàng vận áo chùng vàng chói, dáng cao tuấn tú, mày thanh mắt sáng, dáng vẻ thâm trầm, A La kêu lên, một chàng đẹp trai cổ đại! Thì ra đàn ông dáng đẹp, mặc áo chùng còn phong độ hơn nhiều.

Thanh Lôi cảm kích nhìn Thanh La, trấn tĩnh, cánh tay ngọc nhẹ vén bức màn sa, bước ra ngoài.

Trong trướng đối diện, lố nhố những cái đầu hiếu kỳ ngó ra, tranh nhau nhìn thiếu nữ được thái tử ưng ý, mà tài sắc đã vượt qua thiên kim của Cố tướng. Thanh Lôi vừa xuất hiện, những tiếng trầm trồ ào lên. Mọi người từ lâu đã biết Cố tiểu thư khí chất phi phàm, không ngờ, Lý Thanh Lôi cũng tuyệt sắc vô song. Thái tử cũng thoáng ngây người, nhẹ giọng nói: “Lý tiểu thư dung mạo như thu thủy, tài năng hơn người, cô vương ngưỡng mộ đã lâu”.

Thanh Lôi đỏ bừng hai má, ngước nhìn thái tử, bắt gặp đôi mắt đen thăm thẳm, vội vàng cúi đầu, thẹn thùng: “Chút tài mọn, đâu dám phiền điện hạ bận lòng”.

A La và Thanh Phỉ trong lều nghe thấy, bịt miệng cười. Thấy hai người sánh vai đi xa vào hoa viên, mới phá lên cười. Đây là lúc hòa hợp nhất giữa Thanh La và hai cô chị trong sáu năm qua, lúc này nàng không hề nghĩ đến, thay chị chơi một khúc đàn sẽ dẫn đến hậu quả thế nào, tiềm ẩn bao mầm họa ra sao.

Thanh Phỉ nhìn ra ngoài, phía bên kia có một đám người đứng quây tròn, có không ít thiếu nữ đứng xem, liền kéo Thanh La đến đó. A La ngó quanh, không thấy chàng đại hiệp kia, mạnh dạn hẳn lên, bụng nghĩ, người dân ở đây phong tục cũng khá cởi mở, cảnh tượng này không khác mấy cuộc hò hẹn công khai của hàng vạn nam nữ từng nhìn thấy trong công viên, vậy là nắm tay kéo Thanh Phỉ chạy đến đó.

Hóa ra đám người này đang xem thi câu đối. A La lập tức nghĩ đến những cuộc hát đối, uống rượu đánh bài trên núi. Chỉ có điều, đàn ông ở đây xem ra vô cùng lịch thiệp, nếu có cô gái nào không đối được hoặc đối không chỉnh, họ bèn nhận xét một câu rất lịch sự khiêm nhường: “Tiểu thư có lòng ứng đối đã là vinh dự của tiểu sinh rồi”.

Hai người chen vào đám đông, A La người thấp, không nhìn thấy tình hình bên trong, Thanh Phỉ nói nhỏ: “Có một công tử ra vế đối, rất đắc ý, hình như không ai đối được”. Thanh La hiếu kỳ hỏi: “Vế đối thế nào?”.

Thanh Phỉ đọc khe khẽ: “Tân nguyệt như cung, tàn nguyệt như cung, thượng huyền cung, hạ huyền cung”(6).

A La nhìn nét mặt Thanh Phỉ, cười ranh mãnh: “Nhị tỷ đối được, phải không?”.

Thanh Phỉ cười tự đắc: “Có gì khó!”.

A La lại hỏi: “Là công tử nào ra đối?”.

“Một chàng rất trẻ, không biết là ai”.

“Có khôi ngô không?”.

Thanh Phỉ đỏ mặt, khẽ gật đầu, sợ người ngoài nghe thấy, lại lườm Thanh La một cái. Thanh La bỗng nói to: “Vế này có gì khó, tiểu thư nhà tôi đối được!”.

Giọng nàng lanh lảnh, những người đứng trước tới tấp ngoái nhìn, A La đã trốn ra sau lưng Thanh Phỉ. Thanh Phỉ vốn người cao, càng nổi bật trong đám đông. Mắt mọi người sáng lên, nhìn thấy một thiếu nữ áo đỏ, sắc mặt hồng tươi như cánh hoa đào, dáng điệu có phần kiêu kỳ. Chàng công tử vừa ra vế đối vội chắp tay vái chào: “Tại hạ là Thành Tư Duyệt thị lang bộ Lễ, dám hỏi phải chăng cô nương đối được?”.

Thanh Phỉ đã cưỡi lên lưng hổ khó mà xuống được, đành mỉm cười cất tiếng: “Chiêu hà dĩ cẩm, vãn hà dĩ cẩm, đông thành cẩm, tây thành cẩm(7). Công tử thấy thế nào?”.

Thành Tư Duyệt vốn tự hào văn tài xuất chúng, mười tám tuổi đã đỗ trạng nguyên, một năm sau được thăng chức thị lang bộ Lễ, trẻ tuổi sớm thành danh. Nghe Thanh Phỉ ứng đối, lại thấy người thuộc bậc tài nữ phong lưu, lòng bỗng muôn phần sung sướng: “Tiểu thư đối rất chỉnh! Khâm phục, khâm phục, tại hạ ở đây có bức họa, liệu có thể mời tiểu thư đề từ?”.

A La cười thầm, viết chữ à, đây mới là tuyệt chiêu của Thanh Phỉ, chẳng cần đông tây giương cung cũng khiến chàng ta ngất xỉu.

Thanh Phỉ ung dung nhận lời, thong thả đi đến trước đài, thấy trên án có bức tranh vẽ cảnh núi non trong mưa, ngẫm nghĩ một lát, đoạn nhấc bút viết lên chỗ trống dành cho đề từ.

Thành Tư Duyệt nhìn dáng điệu Thanh Phỉ cầm bút đã biết là bậc cao nhân, ngắm kỹ nét chữ trên bức họa, nét thanh thoát mềm mại, như thoảng mùi hương của hạnh hoa tiết mưa xuân xứ Giang Nam, hòa hợp diệu kỳ với ý họa. Lần này thật sự lòng vui tâm phục, cúi gập người trước Thanh Phỉ: “Tại hạ sính thư pháp, ham chơi cờ, chẳng hay có thể mời tiểu thư cùng chơi một ván?”.

Đám đông xung quanh che miệng cười. Thanh Phỉ cho dù hoạt bát, cũng là lần đầu tiên tham gia yến hội, không khỏi ngượng ngùng, quay đầu không đáp, rảo bước đi về phía rừng hoa. A La theo sau. Được mấy bước ngoái nhìn, thấy Thành Tư Duyệt vẫn ngơ ngẩn đứng nhìn theo, liền khoát tay ra hiệu bảo chàng đi theo.

Thành Tư Duyệt là một trong năm đại công tử nổi tiếng Phong thành, sao có chuyện không phong tình, bèn chắp tay cáo từ mọi người, vội đi theo. Đợi chàng đến gần, A La nháy mắt ra hiệu chàng cứ đi, còn mình nấp qua một bên.

Thành Tư Duyệt cười thầm, một cô bé láu lỉnh. Thanh Phỉ đã đi vào rừng hoa, cách xa đám người, mới nói: “A La, đều tại muội bắt tỷ lộ diện, mất mặt quá!”.

Phía sau bỗng vọng lại tiếng nói của Thành Tư Duyệt: “Tiểu thư tài hoa là thế, sao có thể nói là mất mặt, người mất mặt chính là tại hạ”.

Thanh Phỉ giật thột, đưa tay bịt miệng, suýt kinh ngạc kêu lên, quay đầu thấy Thành Tư Duyệt đang mỉm cười nhìn mình, tim bỗng đập rộn ràng.

______________

Tạm dịch:

6. Tạm dịch: Trăng non như cánh cung, trăng tàn như cánh cung, trăng thượng huyền như cung, trăng hạ huyền như cung (ND).

7. Tạm dịch: Mây sấm như gấm, mây chiều như gấm, vừng trời đông như gấm, vừng trời tây như gấm (ND).

.

Chương 4

.

Từ xa, A La nhìn thấy hai người chuyện trò vui vẻ trong rừng đào, thoảng hoặc còn nghe thấy tiếng nói vui tai của Thanh Phỉ, bụng nghĩ, nếu là thời hiện đại, nhìn thấy một đám hời thế này, không biết có bao nhiêu cô nàng lao vào, người đỏ mặt có lẽ chính là anh chàng đẹp trai kia! Lại nghĩ, năm vị công tử Phong thành, mình đã gặp được hai, không biết ba vị kia mặt mũi ra sao.

Nghĩ mãi liền đi tìm một một nơi yên tĩnh nghỉ chân. Đến đây đã sáu năm, lần đầu tiên tiếp xúc với thiên nhiên, mà lại là một nơi đẹp như tranh thế này, nếu muộn hơn sẽ chẳng nhìn thấy gì nữa. Tiếng nói cười dần dần biến mất, A La nhớ lại con đường lúc đến, nhìn thấy một tảng đá to nhô ra từ khóm đào. Vòng ra phía sau, lại nhìn phía trước, thì ra đó là một tấm bình phong thiên nhiên, bèn ngả người nằm bên dưới khóm hoa, phía xa có tiếng suối chảy, cỏ bên dưới ken dày xanh mướt. Từ mặt đất nhìn lên, những cành đào hồng rực đan nhau trong khoảng trời xanh ngắt, A La thốt lên: “Ồ, đẹp thật!”.

“Đẹp thật!”. Một giọng nói xen vào.

A La hơi hoảng, nhưng vẫn nằm yên, nhắm mắt: “Nếu không bị một con gián làm hỏng thì cảnh quan còn đẹp hơn!”.

Người kia bật cười: “Nếu có kẻ ướt như chuột lột, không chỉ làm hỏng cảnh quan mà còn khiến thiên hạ sợ chết khiếp!”.

A La biết chàng đại hiệp đã đến, chắc chắn mình không địch nổi chàng ta, đây là biệt uyển của Hộ quốc công chúa, người này chắc cũng là anh tài đến dự hội, mình dù sao cũng là thiên kim tiểu thư của tướng phủ, chàng ta chắc cũng không dám làm gì, liền bạo dạn hơn, tiếp tục nhắm mắt không tiếp lời.

Đại hiệp thấy nàng không nói gì, lại nói: “Ném ngươi xuống suối thật đấy, không sợ hả?”.

A La hai tay để sau gáy, hai chân vắt chéo, nhắm mắt nói lơ đãng: “Trái với lễ thì đừng nhìn, thấy đàn bà con gái nghỉ ngơi, người biết lễ nên xin lỗi mới phải, đỏ mặt bỏ đi mới là người đứng đắn!”.

Đại hiệp hừ một tiếng: “Trông bộ dạng ngươi thế này cũng đâu phải là thục nữ danh môn! Không biết nha đầu của phủ nào, nếu ở phủ của ta, ta đã sớm cho ăn đòn để biết phép tắc”.

A La nghĩ, sáu năm nay mới được ra khỏi phủ một lần, đang muốn ngắm cảnh thỏa thích lại bị quấy rầy, xúi quẩy quá chừng! Nghe khẩu khí của người này, chắc cũng con nhà quyền thế, không nên dây vào, chuồn thôi. Nàng chồm dậy, phủi áo, nhìn trên nhìn dưới, không vướng một hạt bụi, vụn cỏ, liền bỏ đi thẳng, không ngoái lại, vừa đi vừa nói: “Trả chỗ cho nhà ngươi, xấu tính!”.

Chợt thấy mắt hoa lên, chàng trai đã đứng trước mặt nàng. A La lùi một bước, bụng nghĩ, cậy mình biết khinh công nhảy ra dọa người. Nàng nheo mắt ngắm chàng ta, thân hình đẹp, cũng cao như thái tử, mặt khôi ngô, đường nét đẹp, vầng trán thông minh. Mấy nam nhân gặp hôm nay, sao chàng nào cũng ưu tú thế không biết?

Chàng trai khoanh tay trước ngực: “Nói, là a đầu của phủ nào?”.

A La nhìn chàng trai chỉ khoảng mười tám, mười chín, thầm nghĩ, tưởng ta dễ bắt nạt vậy sao? Bèn chắp tay vào eo nghiêng đầu hỏi: “Nói, là tiểu tử phủ nào!”.

Mắt chàng ta sáng lên, khóe miệng hiện lên nụ cười lạnh lùng: “Khách đến dự Đào hoa yến hôm nay cũng chỉ có bấy nhiêu, ngươi hãy tự nói ra, đợi ta tra soát được, đưa về phủ, xem ta dạy ngươi thế nào! Loại a đầu vô giáo dưỡng, chịu ơn không biết báo đáp, lại còn dám lén ra tay với thiếu gia đây, ta ghét nhất loại người mưu mô sau lưng!”.

A La cũng bắt chước chàng ta cười lạnh lùng: “Ai bảo mắt ngươi nhìn ngó lung tung, hình như luật hình Ninh quốc có điều quy định, nhìn ngó đàn bà con gái nhà lành bị tội phạt móc mắt. Ta không báo quan phủ đã là may cho ngươi rồi, ở chỗ cảnh đẹp thế này, ta thực lòng không muốn thấy những chuyện tàn nhẫn xảy ra, dâm tặc!”.

Người kia nghe nói vậy, mặt biến sắc: “Làm gì có chuyện đó!”. Giơ tay định tóm A La. Nàng né người tránh được, chân trái tung ra. Chàng trai lắc đầu tránh, nhướn mày, nói: “Thì ra là con mèo hoang vuốt sắc. Thử lại lần nữa đi!”. Nói đoạn, vung nắm đấm, kéo theo luồng gió phả thẳng vào mặt A La.

A La thầm kêu khổ, người ta biết khinh công, chẳng phải loại thường dân không biết võ, mình sao có thể đánh được? Miệng hét lên: “Nam tử đứng đắn không đấu với nữ nhi, bắt nạt đàn bà con gái còn gì là anh hùng!”. Nói đoạn, tức thì xuất mấy chiêu Karate phản ứng nhanh đã luyện nhiều năm nay, nhanh chóng tránh được mấy đòn phản công.

Chàng trai vốn không vận nội lực, nghe nàng nói cứng như vậy liền dừng tay: “Được rồi, người bé thế mà qua được mấy chiêu của ta, nói đi, là người phủ nào? Nói rồi ta sẽ thả cho đi”.

A La cúi đầu thầm trách mình xúi quẩy, sáu năm không ra khỏi phủ, hầu như cách ly với thế giới bên ngoài, tính cách người hiện đại vẫn nguyên vẹn, hoàn toàn không cảm thấy mình đã đắc tội với ai. Vậy là ánh mắt thay đổi, lẩm bẩm một câu gì đó, chàng trai nghe không rõ, vội bước tới gần. A La đột nhiên ngẩng đầu nhìn phía trước, reo lên: “A! Phu nhân!”.

Chàng trai sửng sốt, A La dùng đầu gối thúc mạnh, trúng chỗ hiểm, hai tay chém xuống dưới, chàng trai không kịp đề phòng bị A La quật ngã, nhưng không bị ngất, miệng hét: “Ngươi, ngươi!”.

A La nhảy lên, tay lại bổ một nhát, khiến chàng ta ngất hẳn. Lúc đó mới đắc ý phủi tay: “Sư phụ ta nói, đàn ông bình thường chỉ một cú chém tay của ta là ngã gục. Có lẽ bây giờ ta còn nhỏ, lực chưa đủ! Dâm tặc, ai bảo nhà người làm ta nổi hứng!”. Nhìn trời, thấy không còn sớm nữa, sắp phải trở về mảnh trời nhỏ trong tướng phủ rồi, cảnh đẹp thế này không biết bao giờ mới lại được thưởng ngoạn, lòng lại càng phiền não. Cởi áo ngoài của chàng trai, xé rách, trói chàng ta vào gốc đào. Nhìn bộ dạng thảm hại của chàng ta, nỗi hận trong lòng cũng dần tiêu tan.

Từ túi áo chàng trai rơi ra một chiếc túi thêu, gia công tinh xảo. A La mở ra xem, có mấy tờ ngân phiếu mệnh giá cao, một ít bạc vụn, mấy hạt đậu vàng và một miếng ngọc bài. A La cười khanh khách, tiểu tử à, coi như cướp của nhà giàu cứu nhà nghèo, làm chút lưng vốn đầu tiên của ta, ai bảo nhà ngươi làm hỏng hứng thú của ta, đây là lần đầu ta được xuất phủ mà! A La cười đắc ý, giấu tờ ngân phiếu vào người, đoạn xem kỹ mấy chữ trên miếng ngọc bài, bỗng ngẩn người! Người này là Lưu Giác? Con trai An Thanh vương, cháu ruột Ninh Vương? Chẳng trách hống hách như vậy, ác giả ác báo! Trời ơi, sao mình lại gây sự với hắn ta?

A La nhìn miếng ngọc bài, lại nhìn Lưu Giác bị trói trên cây, thầm mắng mình gây sự, vội vàng cởi trói cho chàng ta. Cởi được một nửa, Lưu Giác khẽ rên một tiếng, nàng sợ đến nỗi tay mềm oặt. Đúng là đại hiệp, tỉnh nhanh vậy sao? Không dám đánh thêm, nhưng khi Lưu Giác tỉnh lại, nàng sẽ không còn bản lĩnh khống chế chàng ta nữa. A La đành bất chấp, đằng nào dây trói cũng cởi gần hết, bèn bỏ miếng ngọc bài vào lòng chàng ta, co cẳng chạy.

Nàng còn chưa kịp chạy khỏi tầm mắt Lưu Giác thì chàng đã tỉnh, nhìn bóng áo xanh chạy phía xa, lại nhìn xuống người, vùng dậy, dây trói tuột ra. Lưu Giác đứng dậy, sờ sau gáy: “A đầu xấu xa! Bé tý mà ra tay lợi hại như vậy, không biết dùng võ công gì? Lưu Anh!”.

Một gã trai khỏe khoắn từ sau khóm hoa cách đó không xa chạy ra, cung kính trả lời: “Hình như Thiếu Lâm thốn quyền, nhưng không giống lắm!”.

Lưu Giác nhìn miếng ngọc bài trong lòng, xem ra a đầu này đã biết thân phận của mình: “Ngươi đến từ lúc nào?”. Lưu Anh ngẩn người, vẫn cung kính đáp: “Lúc cô nương ấy trói chúa thượng”.

Lưu Giác cười khẩy: “Khi nó trói ta cũng dùng Thiếu Lâm thốn quyền?”.

Lưu Anh quỳ sụp xuống: “Chúa thượng trách phạt”.

Lưu Giác cười ha hả: “Giương mắt nhìn thấy tiểu vương gia nhà ngươi bị một tiểu cô nương đánh ngất, chuyện không thể tin được, lúc đầu ngươi tưởng ta có tà ý với người ta, không dám ra tay, sau lại sợ ta trách phạt không dám xông ra cứu, đúng không?”.

Lưu Anh đỏ mặt: “Chúa thượng anh minh”.

Lưu Giác nghiêm mặt: “Đi tra xem đó là nha đầu của phủ nào, đưa về vương phủ cho ta! Ta sẽ từ từ dạy nó!”.

Lưu Anh vội nhặt chiếc áo rách đem đi, lát sau mang chiếc áo khác khoác lên người chủ nhân. Lưu Giác chầm chậm đi về phía Đào hoa yến, con nha đầu thối tha, dám đánh ngất tiểu vương gia! Đột nhiên nhớ lại khi kéo nàng ta từ suối lên, gió thổi tung mái bờm trước trán lộ ra cặp mắt lóng lánh như thủy tinh, khóe miệng bất giác nở nụ cười, thú vị thật!

A La tự biết đã gây ra họa, nếu bị Lưu Giác bắt, chàng ta không báo thù mới lạ. Vội vàng trở về hội yến, kêu đau đầu, đại phu nhân và Thanh Lôi, Thanh Phỉ đang cao hứng, thấy Thanh La làm hỏng cuộc vui, sầm mặt: “Vừa rồi còn khỏe thế, sao lại đau đầu?”.

A La nói giọng yếu ớt: “Có lẽ trong lúc đi dạo bị trúng gió. Mẹ cả, bao giờ chúng ta rời khỏi đây?”.

Phu nhân bực tức vì việc chưa thành, nhìn nàng: “Bây giờ bữa tiệc tối còn chưa bắt đầu, công chúa không nói đùa, thái tử điện hạ đang có ý với Thanh Lôi, sao con không có thành tâm, lại muốn phá chuyện tốt của tỷ tỷ như vậy?”.

A La thầm thở dài, khi mình giúp họ sao không nói? Sớm biết thế này mình đã không ra tay, cứ để mặc cho Thanh Lôi tận mắt nhìn tướng phủ bẽ mặt! Đều là con chồng, sao phân biệt đối xử như thế? Lầu xanh thì sao, mẹ xinh đẹp của mình mới mười sáu tuổi đã đường hoàng bước vào Lý phủ, do tài mạo song toàn, đã từng nổi danh Phong thành, các người đã sợ đến thế sao? Ta thấy các vị mỗi người mỗi vẻ cũng không tồi, thật không hiểu nổi. Miệng lại bất giác bật cười, tỏ vẻ vô cùng đau khổ.

Thanh Lôi cắn môi nói nhỏ với đại phu nhân, đại phu nhân nghĩ một lát nói với Thanh La: “Còn hai canh giờ nữa mới đến tiệc tối, xe ngựa đưa con về trước, rồi quay lại đón chúng ta”.

Thanh La nghi hoặc nhìn Thanh Lôi, Thanh Lôi nháy mắt với nàng. Lẽ nào do mình đánh đàn giải vây, đại tỷ này cuối cùng đã chịu đối xử tốt với mình một chút? Thanh Phỉ không nói gì, A La liếc nhìn, nhận thấy toàn thân Thanh Phỉ như tràn sức xuân. Bụng nghĩ mình nhất thiết phải rời khỏi đây, rời khỏi mối họa Lưu Giác kia, lập tức để cho Quyên Nhi dìu ra ngoài.

Đi được vài bước, A La quay đầu, cũng là lúc phu nhân mở miệng, hai người gần như cùng nói: “Chuyện đến dự Đào hoa yến, sau này không nên nhắc lại nữa”. A La đang vui mừng vì câu nói đó, lại bổ sung thêm: “Nếu công chúa biết tam tiểu thư của Lý gia đến dự mà không bái kiến, như vậy là thất lễ. Bây giờ A La lại khó chịu trong người, từ chối dự tiệc lại càng thất kính”.

Phu nhân gật đầu tán thành.

Lúc ra đi A La quan sát xung quanh, không thấy ai chú ý đến mình, mới vững dạ lên xe ngựa.

Trở về đến phủ, từ xa đã thấy thất phu nhân đang đứng ngóng, trong lòng thấy ấm áp, cười hớn hở gọi: “Con về rồi, mẹ!”.

Ánh mắt thất phu nhân rất dịu dàng, phu nhân vẫn đứng tựa cổng chờ, lần đầu tiên xa A La có một ngày đã thấy nhớ. Nhìn trời, thất phu nhân lại cau mày: “Tam Nhi, sao chưa đến tiệc tối con đã quay về? Chỉ có một mình ư?”.

A La nói to: “Có thể vừa ăn vừa kể không? Con đói lắm rồi”.

Thất phu nhân lắc đầu cười sai vú Trương dọn cơm, nói với A La: “Mẹ biết, ra ngoài ăn không no, nào lại đây ăn với mẹ”.

A La mệt suốt một ngày, quả thực rất đói, cảm thấy cơm nhà mình vẫn ngon hơn: “Tiệc trưa của công chúa chỉ có bánh và đồ điểm tâm, con lại không dám ăn nhiều, nếu không lại bị đại phu nhân trách là không ý tứ, không chú ý thân phận. Tiệc tối thịnh soạn như thế lại không thể ăn”.

Thất phu nhân hỏi: “Tại sao không thể ăn?”.

A La sợ phu nhân lo lắng, không dám kể chuyện mình đã gây sự với tiểu vương gia của phủ An Thanh vương, nghĩ mãi mới kể chuyện đánh đàn thay Thanh Lôi. Thấy thất phu nhân mặt tái nhợt, nàng vội an ủi: “Trong trướng chỉ có năm người của phủ mình, chúng ta không nói ra, không ai biết đâu”.

Thất phu nhân chảy nước mắt: “Tam Nhi, con gây họa lớn rồi! A đầu Quyên Nhi e là là không thể mở miệng nữa”.

A La kinh ngạc: “Chúng ta không nói, sao có thể gây họa! Đại phu nhân không xấu thế đâu? Quyên Nhi đã thề không nói lộ nửa câu”.

Thất phu nhân lại thở dài: “Có câu, trời biết, đất biết, ta biết, người biết, bây giờ đại phu nhân biết, đại tiểu thư, nhị tiểu thư biết, Quyên Nhi biết, con và mẹ biết, khi họ trở về lẽ nào lão gia không biết? Tam phu nhân, tứ phu nhân không biết? Thanh Lôi và mẹ nó đương nhiên không dám nói, lão gia và đại phu nhân tuyệt đối không nói, nhưng còn Thanh Phỉ và mẹ nó? Hai người ấy vốn từ lâu đã khó chịu vì tam phu nhân dựa vào con gái để được lão gia sủng ái, ngộ nhỡ họ nói ra, thì biết làm sao?”.

A La sững người: “Mẹ à, lúc đó con thấy Thanh Lôi tội nghiệp quá. Mặc dù không qua lại nhiều, nhưng cũng chẳng hận thù, tỷ ấy mới mười sáu tuổi”.

Thất phu nhân ngẫm nghĩ rồi nói: “Chuyện đã thế này, đành chờ xem ý tứ lão gia”.

A La nghĩ bụng, lúc đó mình đâu có nghĩ sẽ có hậu quả thế này! Xem ra kinh nghiệm chưa đủ, suy nghĩ chưa chín chắn, sáu năm nay không ra ngoài, đã xem thường tư duy của người cổ đại rồi. Chỉ là thay Thanh Lôi chơi khúc đàn cho xong, không ngờ nhờ vậy nàng ta lại được thái tử say mê, như vậy là lừa dối, đại bất kính, không khéo vì thế mà chuốc tội chém đầu cũng nên. Lòng hơi sợ hãi, xem ra chế độ pháp chế xã hội chủ nghĩa vẫn tốt hơn! Thi đại học có quay cóp, nhiều nhất cũng chỉ bị hủy tư cách thi, ở đây làm giả coi như phải lấy mạng mà đền, mình vẫn chưa nghĩ kỹ điều này. Sáu năm không tiếp xúc với xã hội bên ngoài, giam mình trong mảnh trời cỏn con như ếch ngồi đáy giếng. Hình pháp ở đây không giống xã hội hiện đại, giai cấp đặc quyền cũng khác, một người thợ ở đây dù khéo tay nếu không cẩn thận cũng bị mất mạng như chơi. A La hầu như không có niềm tin tiếp tục ở lại thế giới này, cảm thấy mình hoàn toàn bất lực, đành để cho người khác hãm hại.

Thất phu nhân thấy sắc mặt A La xanh xám, vội an ủi: “Dù gì cha con cũng là tả thừa tướng đương triều, nếu chuyện bại lộ, có thể nói thác là đại tỷ bị bệnh đột ngột, con còn nhỏ, thay tỷ tỷ đánh đàn, một là tình nghĩa chị em, hai là sợ tướng phủ mất mặt”.

A La nhìn đăm đăm thất phu nhân, nói: “Vậy còn Quyên Nhi, liệu có bị làm sao?”.

Thất phu nhân sợ A La lo nghĩ, lại an ủi: “Mẹ chỉ lo xa vậy thôi, chưa chắc đã có chuyện gì”.

A La hỏi nhỏ: “Con không biết quý tộc Phong thành có thế lực đến đâu, nếu họ muốn một a hoàn, người khác không cho, họ có đi cướp không? Nếu thấy ai ngứa mắt liệu có giết không”. Nàng bỗng lại nghĩ tới những lời Lưu Giác nói muốn tìm nàng, đưa về phủ, buộc nàng vào khuôn phép.

Thất phu nhân lại thở dài: “Không cướp công khai, nhưng bí mật thì ai biết? Năm xưa mẹ...”. A La ngạc nhiên nhìn thất phu nhân: “Năm xưa mẹ thế nào?”.

Thất phu nhân nhìn ra khóm hải đường trước sân, ánh trăng đổ bóng hải đường xuống mặt đất, lốm đốm lay động, cô quạnh như đời bà: “Năm xưa mẹ nổi tiếng nhất Uyển hoa lầu, gặp một khách nhân, hai bên tâm đầu ý hợp đã hẹn ước vào mùa hoa nở chàng sẽ bỏ tiền chuộc mẹ ra, hai người cùng sống bên nhau... Cuối cùng chàng đã chuộc được mẹ, nhưng lại bị đột tử ngay trong đêm đó, mẹ cũng bị đánh thuốc mê... tỉnh lại đã là thất phu nhân trong Lý phủ... thậm chí kẻ thù là ai mẹ cũng không biết. Cha con sủng ái mẹ ít ngày, thấy mẹ lạnh lùng cũng không hứng thú... Cứ như vậy mẹ thui thủi trong khu nhà này mười bốn năm”. Thất phu nhân giọng bình tĩnh, không còn xúc động, nhưng nỗi oán hờn vẫn không thể che giấu.

A La nghe vậy buồn nản vô chừng, đột nhiên nghĩ đến số ngân lượng lấy được của Lưu Giác, vội đưa ra cho thất phu nhân: “Chúng ta có thể bỏ trốn không, chỗ bạc này đủ để cho chúng ta sống chứ?”.

Thất phu nhân kinh ngạc nhìn số ngân phiếu: “Tam Nhi, ở đâu ra số bạc này, sao lại nhiều như vậy?”.

A La đành phải kể đầu đuôi câu chuyện gây sự với Lưu Giác thế nào. Thất phu nhân càng nghe mặt càng tái nhợt, đến đoạn A La xé áo chùng của Lưu Giác trói vào gốc cây, lấy bạc của người ta, mắt vừa đảo liền ngất xỉu. A La sợ hãi mặt trắng bệnh, vội ấn mạnh đầu ngón tay vào huyệt Nhân Trung của phu nhân. Hôm nay nếu không ra khỏi phủ thì đã không xảy ra chuyện gì, nếu không thấy vẻ tội nghiệp của Thanh Lôi đã không đánh đàn, tướng phủ mất mặt, Lý Thanh Lôi mất mặt không can hệ đến mình. Còn nữa, nếu không gây chuyện với Lưu Giác có phải tốt không. Nhưng hối hận thì ích gì?

Thất phu nhân một lúc lâu sau mới từ từ mở mắt, thấy ánh mắt lo âu của A La nhìn mình, choàng tay ôm chầm nàng bật khóc: “Tam Nhi, phải làm thế nào bây giờ?”. A La nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, phân tích tình hình với thất phu nhân: “Mẹ à, tiểu vương gia của An Thanh vương không biết con là ai. Đào hoa yến hôm nay cũng không ai biết tam tiểu thư của Lý phủ cũng đến, con vẫn cải trang thành tỳ nữ. Con nghĩ sau khi cha suy tính lợi hại, quyết không để con làm hỏng ý đồ bấy lâu của cha, rắp tâm gả Thanh Lôi cho thái tử, ông ấy sẽ tìm mọi cách giấu nhẹm mọi sự. Thanh Phỉ hôm nay cũng nói chuyện rất vui vẻ với Thành Tư Duyệt, một trong năm công tử Phong thành, nếu Lý phủ xảy ra chuyện xấu, tiền đồ như gấm của tân nương trạng nguyên liệu có còn? Cho nên Thanh Phỉ và tứ phu nhân cũng sẽ không nói ra. Còn con, rút cục vẫn là con gái ông ấy. Chỉ lo cho Quyên Nhi không trụ nổi, hôm nay con phải nhắc nó mới được, tốt nhất nên bỏ trốn”.

Thất phu nhân kéo tay A La: “Tam Nhi à, Quyên Nhi cũng chạy không thoát, gia nô bỏ trốn nếu bị bắt lại càng thê thảm, đa phần đều bị đánh chết”.

Đánh chết? A La kinh ngạc, vô cùng hối hận. Do sự xúc động và bất cẩn nhất thời của mình làm hại Quyên Nhi, chưa biết chừng Quyên Nhi sẽ mất mạng, mà mình lại không thể nào ngăn cản. Nàng thầm quyết tâm, sau này phải bớt nôn nóng bớt kiêu ngạo, nhất định không được đem quan điểm của người hiện đại áp dụng ở xứ này, làm việc gì cũng phải suy tính thận trọng.

Lúc đó Tiểu Ngọc vào báo, đại phu nhân và hai tiểu thư đã về, lão gia mời thất phu nhân và tam tiểu thư qua đó. A La nhìn thất phu nhân, nói: “Mẹ nhất định phải tỏ ra không biết chuyện gì, thêm một người biết là không hay”.

Thất phu nhân lại rơi lệ: “Tam Nhi, con mới mười hai tuổi, những chuyện lớn như thế này sao mẹ có thể để mình con đứng ra gánh vác?”.

A La lau nước mắt cho mẹ: “Con có thể giả bộ ngây ngô, vì con còn nhỏ, họ cũng không đề phòng nhiều. Nhưng nếu mẹ biết, họ sẽ cảnh giác với mẹ, vì vậy, mẹ càng thêm nguy hiểm. Mẹ cứ nói con về nhà kêu đau đầu đi ngủ ngay, vừa rồi mới đánh thức”.

Khi vào đến phòng lớn, chỉ có Lý tướng và đại phu nhân. Thất phu nhân cùng A La cúi chào. Lý tướng thở dài: “Ngọc Đường, nàng giấu ta làm ta khổ sở! Ta vốn rất ngạc nhiên, năm xưa ngón đàn của nàng nức tiếng Phong thành, tại sao không dạy được con gái?”.

A La đang định nói, thất phu nhân đã tranh trả lời: “Lão gia, là thiếp không muốn A La bộc lộ, để còn dạy thêm, mong có ngày vừa ra mắt đã thành danh”.

Đại phu nhân lao như tên về phía trước, tay vung lên, một cái tát vào mặt thất phu nhân: “Tiện nhân! Thế nào là vừa ra mắt đã thành danh! Hôm nay A La đã thành danh, nổi tiếng rồi đấy”.

Thất phu nhân ôm mặt cười: “Con gái bọn họ được tìm đám tốt, sao con gái tôi không thể!”. Thất phu nhân cười, quay người lườm A La lúc này đang hận run người, nhất định không cho nàng nói.

A La quỳ sụp xuống: “Là con đã sai, hôm nay con không nên đánh đàn giúp đại tỷ!”. Bây giờ chỉ có thể tỏ ra nhún nhường, nhưng lòng nàng bừng bùng uấn hận, hận là không thể xông ra quật đại phu nhân và Lý tướng xuống đất.

Lý tướng nãy giờ vẫn mặt lạnh quan sát, bỗng cười ha hả: “Ai bảo con sai? Nếu con không đàn khúc đó, thái tử có thích Thanh Lôi không, A La công con lớn lắm!”. Đoạn giơ tay đỡ A La đứng dậy, rồi ôm vào lòng, nhẹ nhàng xoa đầu nàng: “Cha chỉ giận mẹ con giấu cha mà thôi, cha rất vui, thì ra A La của cha cũng là giai nhân có tiếng đàn tuyệt mỹ vô song!”.

Lưng A La dựng chân lông, da gà nổi từng đám, lòng bừng bừng phẫn hận. Biểu hiện của Lý tướng có khác nào cái mặt hỉ hả của gã lái buôn phát hiện món hàng trong tay mình có thể bán được giá hơn? Mình quyết không làm một món hàng để Lý tướng cầu vinh! Chủ ý đã định, nàng nén nước mắt ngẩng đầu nhìn Lý tướng nói: “Mẹ cũng chỉ nghĩ cho A La thôi, cha đừng trách mẹ. Huống hồ A La chỉ biết chơi đàn, thi họa thơ từ không học nổi một phần của mẹ, nếu cha vui, A La sẽ nhờ mẹ dạy từng thứ một”. Giọng A La rất dịu dàng, nước mắt đã đầm đìa.

Lý tướng nhìn đôi mắt đẫm nước của nàng, cười ha hả: “Thế mới là con ngoan của cha. Sau này không được giấu cha điều gì biết không! Rất tốt!”.

Đại phu nhân thừa cơ mới nói: “Thiếp sợ nhất công chúa và thái tử biết chuyện sẽ trách tội. Thất muội à, lúc đó A Lôi không có ý tranh giành, A La cũng chỉ vì không muốn tướng phủ mất mặt ở hội yến, cũng là tốt, nhưng nếu chuyện lộ ra phải làm sao!”.

“A La từ nay sẽ không chơi đàn nữa, đằng nào cũng không ai biết nó biết chơi đàn. Các thứ khác sẽ học thêm ít nhiều, tin là cũng không đến nỗi”. Thất phu nhân lập tức tiếp lời. Lý tướng gật đầu: “Cũng được, có Thanh Lôi giỏi đàn, Thanh Phỉ giỏi thư họa là được rồi. A La, vậy con hãy theo mẹ học ngâm thơ đi”.

A La thấy ánh mắt gian giảo của Lý tướng nhìn bàn tay mình, liếc đảo lia lịa, bỗng dưng sợ hãi vô cùng, mới bật lên tiếng: “A La còn biết thổi sáo! Mẹ nói con cũng có năng khiếu về nhạc lý, đang định dạy con”.

Ánh mắt Lý tướng cuối cùng dịu đi: “Tốt, biết ngâm thơ, biết thổi sáo, cũng tốt”.

Cuối cùng A La đỡ thất phu nhân ra khỏi phòng, lại nghe giọng Lý tướng lạnh lùng: “Ngọc Đường, nàng nhớ dạy A La cho tốt, nó còn nhỏ nhiều chuyện chưa hiểu, nhưng nàng thì hiểu”.

Thất phu nhân cúi đầu vâng lời.

Trở về Đường viên, A La ứa nước mắt, bất luận trong thời hiện đại hay cổ đại chưa bao giờ nàng khiếp sợ như hôm nay. Ngay cả khi lúc bỗng dưng bị quay trở về quá khứ kỳ dị này, nàng cũng chưa từng cảm thấy nỗi sợ hãi rõ ràng khủng khiếp như vừa rồi. Nếu không nói ra là mình biết thổi sáo, đôi tay này liệu có bị Lý tướng làm cho tàn phế? A La càng nghĩ càng thấy kinh sợ, liên tục tự nhủ, mình phải động não suy nghĩ tìm cách thay đổi cục diện bị động này. Trong ngôi lầu ba tầng ở vạt rừng góc đông bắc phủ An Thanh vương đèn thắp sáng trưng, phòng yên ắng không một tiếng động. Nghe nói trong vương phủ từng có một a đầu tò mò, khi đi qua vạt rừng ở Tùng phong đường, nhìn thấy một con thỏ chạy vào đó, bèn đuổi theo, rồi không thấy ra. Người trong phủ coi nơi đây là cấm địa, thường đi đường vòng, không đám qua đó.

Tiểu vương gia từng vời Hồng Ngọc vốn là đào nương nổi tiếng nhất Vãn hoa lầu đất Phong thành vào Tùng phong đường ca hát, Hồng Ngọc trở về kể, tiểu vương gia đãi khách rất mực hào phóng lịch thiệp, lầu gác thanh tĩnh trang nhã. Vậy là Tùng phong đường trở thành giấc mộng đẹp của biết bao thiếu nữ Phong thành mơ tưởng cuộc sống lứa đôi ở đó cùng với tiểu vương gia.

Lúc này tiểu vương gia đang vẽ, tỳ nữ Tư Họa chăm chú mài mực, hoàn toàn để tâm vào thỏi mực và đài nghiên, tay đưa đều đều, chậm rãi, cố không để một tia mực bắn ra ngoài, không để phát ra một tiếng động dù nhỏ.

Lưu Giác đang phác họa một thiếu nữ, tà váy dài bay bay, một phần tà váy bị chặn bởi miếng ngọc bội với những tua rua đeo trên eo. Một thân hình uyển chuyển, cổ cao thon thả, bờ vai mảnh dẻ, mái tóc cuốn cao như mây khói, cài chiếc trâm ngọc hình đóa hoa lan, phong tư trác việt, chính là dung mạo của Cố Thiên Lâm, thiên kim của Cố gia.

Lưu Giác hài lòng ngắm nghía, lại nâng bút trầm ngâm, vẽ đôi mắt trên khuôn mặt mỹ nhân. Người ta bảo họa long điểm nhãn, dưới nét bút của Lưu Giác, Cố tiểu thư sống động như sắp bước ra từ bức họa. Trong đầu chàng không hiểu sao vụt hiện lên một đôi mắt lóng lánh như nước mùa thu, chàng khẽ chớp mắt lại hình dung ra đôi mắt Cố Thiên Lâm, lập tức hạ bút. Khi bức họa hoàn thành, ngắm nghía hồi lâu, tay cầm bút ngẩn ngơ, sao mình lại vẽ mắt a đầu đó nhỉ?

Nữ tỳ Tư Họa liếc trộm bức vẽ, thầm nghĩ, một cô nương thật kiều diễm, chỉ có đôi mắt sao lại có phần hoang dã, long lanh như biết nói, cứ như không phải sinh ra trên khuôn mặt đoan trang hiền thục như vậy của tiểu thư Cố Thiên Lâm.

Khóe mắt Lưu Giác bắt gặp cái nhìn của Tư Họa, thấy bức vẽ như vậy lại bị đôi mắt làm cho thiếu hài hòa, chàng giơ tay định vò nát, ánh mắt lại chạm vào đôi mắt lóng lánh trong đó, bèn dừng lại, ngắm nhìn hồi lâu, đoạn sai Tư Họa: “Hồ giấy lại cho cẩn thận..”.. Tư Họa cúi đầu vâng lời.

Ngón tay Lưu Giác gõ nhẹ trên án thư hồi lâu, bỗng nói: “Tân khách đến dự Đào hoa yến có bao nhiêu nhà mang theo a đầu, tỳ nữ? Hả?”.

Lưu Anh đã quỳ bên ngoài đúng một canh giờ, vừa thấy tiểu vương gia mở miệng, lập tức trả lời: “Công chúa mời bảy hộ thân vương, bốn hộ nội quyến của đại thần trong triều, a đầu, tỳ nữ mang theo tổng cộng năm mươi bảy người, còn mời thêm hai mươi ba công tử Phong thành, ai cũng mang theo a đầu, tỳ nữ. Tổng cộng có năm mươi bảy người đi theo, thuộc hạ đã tra kỹ từng người, không có cô nương đó. Công chúa có tám nô tỳ theo hầu, biệt uyển có một trăm bốn mươi sáu nữ tỳ cả thảy, cũng không có người nào như thế”.

Lưu Giác càng nghe mặt càng khó chịu, trong một ngày nàng ta hai lần ra tay với chàng, vậy mà không sao tìm ra? Đường đường là tiểu vương gia của An Thanh vương mà bị nàng ta đánh ngất trói vào cây, còn cướp mất ngân lượng, chuyện mà đồn ra chẳng thà nhảy xuống sông Đô Ninh chết cho rồi.

Lưu Anh nhìn những đường gân nổi lên trên bàn tay tiểu vương gia, lòng biết đây là nỗi nhục lớn của chúa thượng, vậy mà lúc đó mình lại đứng một chỗ nghi ngờ chúa thượng có tà ý, nhưng mà cũng không thể trách mình, với thân thủ của chúa thượng, sao có thể bị một tiểu cô nương đánh ngất? Bây giờ lại không tìm ra người. Lưu Anh suy nghĩ đắn đo, đoạn mạnh dạn nói: “Bẩm chúa thượng, liệu có phải là con gái các phường săn ở thôn bản quanh đây?”.

Lưu Giác trợn mắt: “Tra xem!”.

Lưu Anh cúi đầu vội vàng đi ra.

.

Chương 5

.

Tiền chi tiêu hàng tháng của thất phu nhân và A La cộng lại không quá mười lạng bạc, tằn tiện mới đủ trang trải cho cả Đường viên. Từ khi Lý tướng biết Thanh La không phải hạng bất tài, tiền chi tiêu tháng tăng vọt lên đến hai chục lượng. Thất phu nhân xem kỹ tấm ngân phiếu lấy được của Lưu Giác, không có ký hiệu gì đặc biệt, liền giao cho vú Trương lén tìm người đổi tiền, được hơn bốn trăm lượng, so ra thật là một trời một vực, công tử nhà giầu giắt túi sơ sơ cũng mấy trăm lạng bạc, đủ cho bốn người của Đường viên ăn trong vài năm. A La nhất quyết cho rằng, có tiền mới dám mạnh mồm, đi đến đâu, đồng kẽm có ô vuông cũng là quan ngoại giao tốt nhất, vậy là quyết chí ra khỏi phủ tìm cơ hội kiếm tiền.

Thất phu nhân buồn rầu nhìn A La: “Tháng sau con mới tròn mười ba, ngày thường không ra khỏi nhà, sao mẹ có thể yên tâm?”.

A La đáp: “Những ngày qua con cũng được nghe nhiều về phong thổ nhân tình của Phong thành, cũng lén đọc khá nhiều thư tịch, không đến nỗi chẳng biết gì về Ninh quốc, huống hồ, đầu óc của A La đâu có giống đứa trẻ mười ba?”.

Thất phu nhân vẫn không yên tâm, A La cũng hết cách, bèn kéo phu nhân đến rừng trúc. Khi nàng vận nội công dùng tay chẻ toác một cây tre to trước ngay mặt bà. Lại tung một loạt quyền cước, đòn ra đến đâu, lá trúc bay rào rào, trông rất khí thế, thất phu nhân mới sửng sốt. A La cười kéo tay mẹ: “Lúc nhỏ có lần không ngủ được, con chạy ra vườn chơi, gặp một đại thúc tinh thông quyền cước, ông ấy dạy con, dạy xong thì đi, dặn không được nói với bất kỳ ai. Mẹ à, trong phủ này cũng chỉ có mình mẹ biết. Lần trước, tiểu vương gia của phủ An Thanh vương đã bị con một chưởng đánh ngất xỉu”.

Thất phu nhân giơ tay bịt miệng A La, nhìn vẻ dương dương đắc ý của nàng, vừa bực vừa buồn cười vừa vui: “A La, thế này được rồi, nếu quả thực không ổn, con rời tướng phủ xem ra cũng có thể một mình bỏ trốn”.

A La ôm mẹ: “Đã đi thì cùng đi, con quyết không để mẹ một mình ở đây”. Trong thế giới kỳ dị này thất phu nhân là hồi ức ấm áp nhất của nàng. Con người không phải cỏ cây, bảy năm chung sống, A La đã coi thất phu nhân, vú Trương và Tiểu Ngọc là người thân.

Tiểu Ngọc đã mười bốn, thất phu nhân đưa cho một trăm lạng bạc, để sau này rời phủ có chút lưng vốn, rồi tìm người tử tế xây dựng gia đình. Tiểu Ngọc không chịu, quỳ khóc nói: “Tiểu Ngọc không người thân thích, năm xưa thất phu nhân cho ngân lượng để Tiểu Ngọc mai táng cho mẹ, bây giờ phu nhân bảo con đi đâu?”.

Thất phu nhân nói: “Ở mãi trong phủ sẽ lỡ dở chuyện cả đời”.

Tiểu Ngọc chỉ lắc đầu: “Phu nhân, tiểu thư đã coi Tiểu Ngọc như người nhà, cứ cho con ở lại, tiểu thư vẫn còn nhỏ”.

A La đỡ Tiểu Ngọc đứng dậy: “Sau này Tiểu Ngọc là tỷ tỷ của ta, chúng ta là người một nhà, ta đi đến đâu cũng không bỏ tỷ”. Từ hôm đó, thất phu nhân bắt đầu dạy Tiểu Ngọc thổi sáo, đề phòng có ngày A La ra khỏi phủ, Tiểu Ngọc có thể đứng trong rừng trúc thổi sáo đánh lừa tai mắt của mấy bà phu nhân.

Sau khi hứa với Lý tướng sẽ chuyên tâm học thổi sáo, A La thường dậy sớm vào rừng trúc tập luyện. Rừng trúc vắng vẻ, không khí thanh tĩnh trong lành, chim chóc ríu rít, không ai quấy rầy.

Hôm đó, nàng vừa thổi một lúc chợt nghe có tiếng tiêu từ bên ngoài vọng vào, hòa tấu với tiếng sáo của nàng. A La giật thót, tiếng tiêu vẫn tiếp tục. Nàng chầm chậm thổi hết một khúc, buông cây sáo, tiếng tiêu bên ngoài cũng nhỏ dần, rồi dứt hẳn .

Tiếng tiêu đó xuất hiện khoảng một tháng sau khi A La đến rừng trúc tập sáo. Sau đó sáng sớm mỗi ngày khi nàng đến đây luyện sáo, tiếng tiêu lại cất lên hòa tấu. Lúc đầu tiếng sáo của A La chưa thành thục, dần dần càng hòa hợp với tiếng tiêu. Thất phu nhân an ủi nàng: “Tam nhi, tiêu sáo đều cùng một họ, con chơi đàn đã vượt qua mẹ năm xưa, sáo cũng học rất nhanh, đủ để đối phó với cha con rồi”.

Từ đó A La không bỏ nhiều công sức luyện sáo nữa, chỉ cần có thể giao lưu là được. Nàng nghĩ, phải ra ngoài xem xét mới nhanh chóng thông thuộc Phong thành, mới dễ tìm lối thoát.

Tường bao quanh tướng phủ cao tám thước, xây bằng gạch xanh, không hề có kẽ hở. Tiểu Ngọc đứng canh bên ngoài rừng trúc, hai bên thỏa thuận nếu có tình hình sẽ dùng tiếng sáo làm hiệu. A La thong thả đi về phía bức tường bao sau rừng trúc. Thận trọng men theo tường đi một vòng, không phát hiện thấy lối ra, rủa thầm giá lúc này gặp công trình rởm như thời hiện đại có phải tốt không! Đang lúc thất vọng, đột nhiên nhìn thấy bên cạnh tường có mấy đống đá chỏng trơ, đoán là chỗ đá thừa khi xây tường. Đá chất đống đã lâu, bên trên rêu cỏ mọc đầy.

Nàng xắn tay thử bê một phiến, đá vỡ dù bé, nhưng phiến to cũng hơn năm chục ký. A La hít một hơi cố sức nhấc, phiến đá chỉ hơi nhúc nhích. Lòng mừng thầm, nhớ kỹ vị trí, đi ra khỏi rừng trúc, mỉm cười với Tiểu Ngọc.

Ngày hôm sau, thất phu nhân đích thân đứng canh bên ngoài rừng trúc, A La và Tiểu Ngọc đem theo hai cái gậy đến chỗ đống đá hôm trước. Tiểu Ngọc nhìn đống đá không biết làm gì: “Tiểu thư, chỗ đá này phải mấy người đàn ông khỏe mới chuyển đi được, chúng ta có làm được không?”.

A La cười: “Chúng ta bẩy, không cần dùng quá nhiều sức lực. Archimedes nói, cho tôi một điểm tựa tôi sẽ nâng cả trái đất, mấy hòn đá này có là gì”.

Tiểu Ngọc nghe mù tịt: “Trái đất gì? Archimedes gì, tiểu thư nói gì vậy?”.

A La cười khanh khách: “Không cần phải hiểu, cứ làm theo ta”. Sau đó dạy Tiểu Ngọc dùng gậy tre luồn dưới tảng đá, tìm một hòn đá khác kê dưới gậy, A La ra sức ấn cây gậy, bẩy tảng đá lên, Tiểu Ngọc ở phía trước đẩy, tảng đá nhích dần từng tý tới bên tường. Tiểu Ngọc vui mừng vỗ tay, A La suỵt một tiếng, hai người chuyển một hòn đá nhỏ hơn bắt đầu kê xếp.

Mấy ngày sau, khi thất phu nhân đến bên tường, chỉ nhìn thấy mấy khóm trúc và đám dây leo, không có đường ra ngoài phủ. Đang buồn, A La đã kéo bà quay ra sau, đống đá đã được xếp từng bậc cao dần sát tường, đi theo các bậc đó, dễ dàng trèo lên mặt tường.

Thất phu nhân và A La thử ngó ra. Bên ngoài có một con đường nhỏ, tiếp nữa là một dòng sông. Xung quanh không có ai, hai người cười thầm từ trên mặt tường nhảy xuống, vòng ra phía trước. Thất phu nhân thốt lên: “Đứng ở chỗ này chẳng thấy dấu vết gì”.

A La đắc ý cười: “Con và Tiểu Ngọc đã mất bao nhiều công sức lấy dây leo che lên đấy”. Trở về phòng, thất phu nhân bắt đầu vẽ sơ đồ trong phủ, phán đoán con sông bên ngoài là từ núi Ngọc Tượng trong vương cung chảy ra, ra khỏi đông môn, nhập vào sông Đô Ninh. Thất phu nhân còn vẽ cả bản đồ Phong thành theo trí nhớ.

A La kết hợp sơ đồ do thất phu nhân vẽ và những điều đọc được trong sách, mới có sơ đồ toàn cảnh của Phong thành.

Phía nam ngoài Phong thành là sông Đô Ninh. Phía tây là bình nguyên, đi thẳng mãi về phía tây sẽ đến Khởi quốc. Phía đông là núi Ngọc Thúy, biệt uyển Thập Thúy sơn trang của Hộ quốc công chúa xây dưới chân núi, lâm viên của hoàng gia cũng ở đó. Vượt qua núi Ngọc Thúy là khu rừng rậm Hắc Sơn bạt ngàn, tiếp đến là bình nguyên Mãng Độ, cũng chính là biên giới giữa Ninh quốc và An quốc, đi tiếp về đông là biển Nguyệt Ly mênh mông.

Phía bắc Phong thành là dãy Ngọc Tượng. Vương cung xây dựa vào núi, các đỉnh núi thuộc dãy Ngọc Tượng cao chót vót chạm mây, quanh năm tuyết phủ, tuyết tan tạo thành suối Toái Ngọc, bốn mùa không bao giờ cạn, chảy qua vương cung ra ngoài, lại phân lưu thành những nhánh nhỏ chảy vào thành làm nguồn nước, phía sau dãy Ngọc Tượng cũng là rừng rậm, đi tiếp là biên giới với An quốc.

Phía nam qua sông Đô Ninh, qua mười ba trấn là đến Hán Thủy, tiếp đến là Trần quốc. Phía tây nam cách Hán Thủy là Hạ quốc.

Phong thành chỉ có ba cổng lớn, tựa núi kề sông vững chãi. Cách An quốc một khu rừng rậm, là không còn phải lo gì nữa. Phong thành là tuyến phòng thủ cuối cùng của Ninh quốc. Ninh quốc phồn thịnh thanh bình, mấy chục năm không xảy ra chiến tranh.

Từ vương cung có một con đường thẳng tắp dẫn tới cổng bắc Phong thành, đoạn đường trong thành lại gặp con đường thông với cổng đông bắc. Phong thành tự nhiên được chia thành bốn khu. Phía tây bắc là khu cung thất và công đường; đông bắc là cung thất của hoàng thân, đại thần và công quán của sứ thần các nước, đây là khu vực giàu sang; tây nam là khu thường dân; đông nam là khu thương mại.

Trong các khu chỗ nào cũng trà quán, tửu lầu, quán cơm chi chít như bàn cờ. Khu thương mại là nơi ăn chơi giải trí phong lưu, ở đây có dinh thự lộng lẫy của thương gia, các tửu quán, lầu xanh, ngoại thương quán xa hoa cao cấp nhất. Ra khỏi cửa nam, trên sông Đô Ninh thuyền hoa dày đặc. Tóm lại, đây chính là đô hội quốc tế lớn sầm uất náo nhiệt, được phân chia chức năng rõ ràng.

A La ra ngoài, đầu tiên đi tham quan khu thương mại. Nàng cần kiếm tiền, cần thu thập thông tin, cần tìm hiểu phong tục tập quán của một nơi xa lạ. Những nơi chưa phát triển luôn tàng ẩn thế giới đào viên. A La tin là nàng nhất định tìm được. Lúc này nàng không mong lập nên nghiệp lớn ở thế giới cổ đại, chỉ muốn sống yên ổn, có thể tự quyết định mọi chuyện của mình.

Hôm đó Thanh La dậy sớm, bên trong mặc áo ngắn bó sát, bên ngoài choàng áo chùng rộng màu bạc, tóc cột chặt, thắt đai lưng gọn gàng, soi gương thấy một tiểu nam nhi mặt mày khôi ngô, ngũ quan rạng ngời như ngọc.

Thất phu nhân giúp nàng dùng bột nâu bôi những chỗ lộ da thịt, tô đậm lông mày. A La ép cho giọng nói thấp trầm, sải bước dài, sao cho dáng điệu cử chỉ không còn vẻ yểu điệu của một tiểu thư khuê các. A La rất vừa ý, thất phu nhân tạm yên lòng, cười nói: “Nếu không phải là người quen, nhất định không nhận ra con là gái”.

Lần đầu hành động cảm giác có chút xúc động, căng thẳng, A La nhẹ nhàng vượt qua tường, rồi rút thang dây giấu kỹ, bụng nghĩ, như thế này đơn giản hơn cả leo núi. Nếu biết khinh công nữa thì tốt, bay đi bay lại tự do quá. Nghĩ đến tài khinh công của Lưu Giác, A La bất giác thấy ngưỡng mộ vô cùng, nếu không có chuyện với nhau, tìm chàng ta làm sư phụ thì tốt quá.

Sau khi tiếp đất bình an, xác định phương vị, A La rảo bước đi về khu thương mại, nhìn con sông nhỏ phía xa, lại đổi ý. Đi đến một góc vắng của tường viện, lấy sáo thổi khúc bình an thường ngày vẫn hòa tấu với tiêu. Tiếng sáo vừa vang lên, A La chú ý nhìn quanh, lát sau đã thấy tiếng tiêu vọng đến. Nghiêng tai lắng nghe, chính là từ phía sông vọng lại, bèn cất sáo đi về phía đó.

Tiếng sáo vừa dứt, tiếng tiêu liền ngập ngừng, cơ hồ cảm thấy lạ hôm nay sao tiếng sáo lại ngắn ngủi như vậy, sau đó lại tiếp tục vang lên.

A La đến gần bờ sông mới đi chậm lại, làm ra vẻ nhàn tản vãn cảnh. Không lâu sau nhìn thấy dưới rặng thùy liễu ven sông có một chàng trai đang ngồi, mình vận áo chùng màu tím, tay cầm cây ngọc tiêu. Thì ra người thổi tiêu là chàng ta, vì sao ngày nào cũng đến đây thổi tiêu? Chỉ vì muốn họa xướng với tiếng sáo của mình ư?

Cảm thấy phía sau có người, chàng trai quay đầu, thấy một tiểu công tử tuấn tú đang nhìn cây tiêu trong tay mình, bỗng bật cười: “Tiểu đệ đệ, đệ cũng thích tiêu ư?”.

A La nhìn chàng công tử tuổi chừng đôi mươi, lông mày dài hình lưỡi mác vếch đến tận tóc mai, ánh mắt thâm trầm, khóe môi thấp thoáng nụ cười mơ hồ, lại là một chàng thượng lưu. Nhìn diện mạo không phải hạng tiểu nhân, lại thêm chàng ta đã hòa tấu với mình lâu như thế, A La bỗng có thiện cảm, trả lời: “Tại hạ đi dạo bên sông, nghe tiếng tiêu du dương, lần theo tiếng ngọc đến đây, làm phiền công tử rồi”.

Chàng trai cười khe khẽ: “Đừng ngại, đừng ngại, hôm nay cũng chỉ một lát này thôi”.

A La cảm thấy chàng ta có gì buồn bã, biết đó là do không có tiếng sáo xướng họa, liền cười nói: “Tại hạ thích thổi sáo, liệu có thể cùng công tử hợp tấu một khúc?”.

Mắt công tử sáng lên vui mừng: “Tiểu huynh đệ cũng biết thổi sáo ư? Tốt quá!”.

Ngay lúc đó hai người lấy tiêu và sáo hòa tấu, hợp khúc vừa dứt, tình đã thêm phần gắn bó. Chàng công tử nhìn A La hỏi: “Gặp được tri kỷ lòng mừng khôn xiết, nhìn tiểu huynh đệ rất thân thiện, liệu có thể mời tiểu huynh đệ vào Thiên phong lầu hàn huyên chút đỉnh?”.

A La nghĩ, Thiên phong lầu có lẽ là những nơi có trà quán, tửu lầu, vừa hay đang muốn đi, có người bạn đường càng tốt. “Đệ tên La Sơn, còn quý danh đại ca?”. A La tự nhiên thắt chặt thêm quan hệ.

Công tử cười nói: “Tốt, hôm nay không chỉ gặp tri kỷ lại quen thêm một huynh đệ, ta họ Trần, đệ cứ gọi Tử Ly cũng được, đại ca cũng được”.

A La thân thiết gọi đại ca. Hai người vừa đi vừa trò chuyện, A La vui mừng phát hiện vị đại ca mới quen này rất thông thạo Phong thành, theo chàng ta coi như có người hướng dẫn, có một tấm bản đồ sống, tự chúc mừng đã gặp vận may. Ở nơi lạ nước lạ cái này, có một người bạn quý biết bao, hơn nữa người bạn này xem ra cũng là một anh chàng đẹp trai đứng đắn. A La che miệng, cười thầm.

Hai người men bờ sông theo hướng đông, lên mặt đê, đã thấy quán trà, A La lần đầu tiên đi trên đường phố của Phong thành, nhìn gì cũng mới lạ, cái gì cũng hiếm gặp, đầu ngó nghiêng hai bên, không muốn bỏ sót thứ gì, quay đầu nhìn, hai người đã cách khá xa khu lầu gác cao cấp. Đột nhiên Tử Ly gọi nàng: “Sơn đệ, cứ đi thế này, tối mịt cũng không đến được Thiên phong lầu”.

A La đỏ mặt, ngẩng đầu nhìn: “Đại ca, Thiên phong lầu còn xa không?”.

Tử Ly đáp: “Cưỡi ngựa không đến hai khắc, đi bộ phải một canh giờ”.

A La bụng nghĩ, đi mất hai tiếng đồng hồ? Phong thành lớn thật, xem ra có ngựa là tốt nhất. Nói ngựa là ngựa đến, một tiếng ngựa hý vang, A La nhìn ra, thấy cái đầu ngựa to đùng đã thò ra trước mặt.

Tử Ly nói: “Ta cho gia nhân dắt ngựa đứng chờ ở đây, Sơn đệ, có biết cưỡi ngựa không?”.

“Ngồi trên lưng ngựa để người khác dắt, có gọi là biết cưỡi không?”.

Tử Ly thấy ánh mắt lóng lánh, tinh anh nhìn mình không chớp, lòng thầm thốt lên, quả là một đôi mắt đẹp. Chàng nhanh nhẹn nhảy lên lưng ngựa, chìa tay cho A La: “Nào cùng cưỡi với đại ca”.

A La ngần ngừ nắm bàn tay chàng, thấy một luồng lực lớn xộc đến, người đã được kéo lên ngựa nhẹ tênh. Chàng ta cũng biết võ công? A La bất giác nhướn mày, hiệp khách giang hồ thời cổ đại sao mà nhiều đến thế.

Tử Ly cười: “Ngồi cho vững!”. Khẽ huýt một tiếng, con ngựa tung vó lao đi. A La nhắm mắt cố không để tiếng hét vọt ra khỏi miệng, tay nắm chặt cương, người hơi ngả về sau, cả người đã rơi vào lòng Tử Ly. Hơi thở nóng hổi trên đỉnh đầu, một giọng trầm dịu vang lên: “Đừng sợ, có đại ca ở đây, không rơi được đâu”.

A La dở khóc dở cười, huynh nói không sợ là không sợ hay sao. Nàng vẫn cứng người, toát mồ hôi lạnh, mỗi lần ngựa lồng lên là nàng hồn siêu phách lạc. Nhìn mọi thứ bên đường như bay về phía sau, cuối cùng nàng hét lên; “Đại ca, chậm một chút có được không!”.

Tử Ly nghe giọng nàng run run, biết đây là loại công tử nhà giàu được nuông chiều, nhát gan chưa bao giờ cưỡi ngựa. Nhìn thấy đã vào cửa thành phía đông, liền cho ngựa đi chậm lại: “Sơn đệ, bây giờ tốt rồi, để ngựa đi nước kiệu, đệ có thể cưỡi ngựa ngắm phố phường”. Lúc này A La mới ngồi thẳng người, nhìn thấy con đường trước mặt có lẽ rộng đến hai, ba chục thước, thỉnh thoảng có cỗ xe ngựa đi qua cũng không cần tránh, dưới chân, mặt đường phẳng phiu, lát đá tảng xanh trơn nhẵn. Từ chỗ này có thể nhìn thấy khí thế của Phong thành. Hai bên đường vô cùng náo nhiệt, các quán ăn, bán đồ vặt, chỗ xem bói, chỗ vui chơi, tiếng hò reo không ngớt. Nhà cửa nhìn chung đều là lầu gác hai, ba tầng, dựng men theo mặt đường, san sát chen nhau. Dưới lầu là cửa hiệu, trên lầu hầu như đều là tửu quán hoặc trà quán, trên đường nam thanh nữ tú, tốp năm tốp ba qua lại tấp nập.

Tử Ly thúc ngựa đi về hướng nam, vào một con phố hẹp. Ở đây toàn những tòa lầu biệt lập, cây cối xanh um bao quanh một tòa lầu nhỏ. Đi đến trước một tòa lầu, A La ngước mắt nhìn thấy ba chữ màu đen nổi bật - “Thiên phong lầu”, biết là đã đến nơi. Tử Ly xuống ngựa, đón A La. Đi vài bước, cảm thấy mông hơi mỏi, không chịu nổi lấy tay khẽ xoa, thấy Tử Ly nhìn mình nửa cười nửa không, cảm thấy có phần tủi thân: “Đại ca phóng ngựa nhanh quá”.

Tử Ly nén cười: “Là đại ca không phải, xin lỗi tiểu đệ”.

A La bạo dạn, nói: “Tha cho huynh, ai bảo đệ không biết cưỡi ngựa”. Trước đây nàng chỉ ngồi lên ngựa có người dắt đi dạo trong những khu vui chơi, đương nhiên khó thích nghi khi ngựa phi như bay. Nghĩ tới sau này có thể có nhiều cơ hội cưỡi ngựa, bèn nói: “Hôm nào đại ca dạy đệ cưỡi ngựa được không?”. Tử Ly gật đầu, cảm thấy Sơn đệ này tính tình xởi lởi, lại thêm phần quý mến.

Hai người đi vào Thiên phong lầu. Tiểu nhị mắt sáng lên. Hàng ngày đón khách ở đây, dần dần cũng biết nhận định con người. Khách đến Thiên phong lầu đa phần thuộc hạng giàu sang. Hai người này, người cao phong độ quý phái, người thấp hơn có lẽ cũng là tiểu công tử nhà giàu. Vậy là tiểu nhị bước lên ân cần chào hỏi: “Xin mời hai vị công tử lên lầu”.

A La nhìn thấy phòng lớn ở dưới lầu không hề có bàn ghế, chỉ có vài quầy trà bằng gỗ mun. Trên tường treo mấy bức tranh chữ sơn thủy, rất văn hoa. Bụng nghĩ ông chủ đã lãng phí tầng một, món ăn lầu hai chắc là rất đắt.

Lên lầu, có những tấm bình phong ngăn cách các bàn, cũng có những phòng riêng. Tử Ly chọn một phòng riêng, đợi A La ngồi xong, nói: “Ở đây nói chuyện yên tĩnh hơn”.

A La gật đầu, ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh bên ngoài. Nghe tiếng Tử Ly nói với tiểu nhị: “Nghe đồn Thiên phong lầu có ba món đặc sắc, ba loại rượu đặc sắc, hôm nay lần đầu đến đây, mong không để bọn ta thất vọng”.

Tiểu nhị cười hề hề gật đầu: “Công tử lần đầu đến đây sao? Vậy nhất định phải thưởng thức tài nghệ của đầu bếp chỗ chúng tôi”.

Một lát sau, món ăn được đưa lên, A La nhìn, đậu phụ, rau cải, cà tím xào cay, không hề có thịt. Lại nhìn Tử Ly, chàng ta mỉm cười lắc đầu tỏ ý bản thân cũng chưa ăn. A La thầm nghĩ, càng chay tịnh càng khó làm, dùng đũa gắp miếng đậu phụ nếm thử, còn chưa kịp nhận xét đã thấy Tử Ly khen: “Ngon, đậu phụ rất mịn, vẫn giữ nguyên vị thuần khiết của đậu, nuốt xuống cổ vẫn còn thơm”.

A La vội nếm món rau cải và cà tím, thấy Tử Ly miệng khen hết lời, những là khoái khẩu mỹ vị, không nén nổi, hỏi Tử Ly: “Đại ca, món này có gì ngon?”. Nàng ăn thử lại thấy rất bình thường.

Tử Ly nói: “Lẽ nào khẩu vị của Sơn đệ khác người? Bữa ăn trong phủ món đậu phụ đâu còn vị nữa, thảo nào tiểu vương gia phủ An Thanh vương khoe rằng, muốn nếm vị đậu phụ thuần khiết, chỉ có đến Thiên phong lầu”.

A La vừa nghe thấy ba chữ “tiểu vương gia” lập tức bật ho, uống một ngụm trà cho bình tĩnh lại, mới nói: “Đại ca rất thân với Lưu Giác?”. Lòng bỗng sợ hãi vô cùng, sợ nhất vị đại ca mới quen này là bằng hữu thân thiết của Lưu Giác, mình cũng bị đưa đến ra mắt hắn ta.

Mắt Tử Ly thoáng vẻ hồ nghi, nhưng giọng vẫn bình thường: “Không thân lắm, có gặp vài lần. Sơn đệ quen hay sao?”.

“Có gặp ở Đào hoa yến”. Nhìn ba món ăn nổi tiếng của Thiên phong lầu trước mặt, A La vội chuyển chủ đề: “Đệ nghĩ chắc là Thiên phong lầu nhằm vào đám thực khách nhà giàu chán ngấy sơn hào hải vị, cho nên mới chế những món chay tịnh để thay đổi khẩu vị. Những thứ này, quả thật chẳng ra gì”.

Nghe A La nói vậy, một nụ cười hiện lên môi Tử Ly. Thấy nàng lắc đầu bĩu môi, ánh mắt lóng lánh, thật cuốn hút. Thầm nghĩ, nếu mình thích đàn ông, nhất định sẽ đưa tiểu tử này đi. Rồi bất chợt nghĩ đến tiếng sáo ngắn ngủi sáng nay. Dạo trước có lần ngẫu nhiên nghe thấy tiếng sáo bèn cùng hợp tấu, tiếng sáo ngày càng hay, kỹ năng cũng càng thuần thục, để cuối cùng như ẩn chứa bao tâm tư. Chàng thích dùng tiếng tiêu để giao lưu với tiếng sáo đó, để cảm nhận những biến thiên cõi lòng của người thổi sáo, cho nên, buổi sáng mỗi ngày chàng đều chờ ở bên sông. Không ngờ tiếng sáo hôm nay rất ngắn ngủi, rồi lại gặp tiểu huynh đệ dung mạo khôi ngô, hoạt bát mà tiếng sáo rất giống tiếng sáo bên trong bức tường kia, tự dưng thấy muốn thân thiện gần gũi.

Tử Ly ngẫm nghĩ, uống liền mấy chén tam tuyệt tửu. Lúc này lại nhìn A La, đột nhiên nghĩ đến con báo gấm có lần chàng bắn sổng, mắt cũng lóng lánh tinh ranh như vậy. Thầm nghĩ, tiểu tử này nếu nước da trắng hơn, e phụ nữ cũng phải ghen tỵ.

A La vừa nhận xét như vậy, lại thấy Tứ Ly ngồi ngơ ngẩn, bèn hỏi: “Đại ca, nếu có cơ hội, tiểu đệ xuống phủ làm mấy món hầu đại ca, đảm bảo đại ca thấy ngon không nỡ ăn”. Tử Ly như tỉnh mộng, cười: “Coi thường tam tuyệt của Thiên phong lầu, Phong thành này chỉ có tiểu đệ là một”.

A La kinh ngạc: “Thật không? Đệ thấy Phong thành phồn hoa như vậy, lẽ nào ẩm thực lại kém thế?”.

Tử Ly tò mò hỏi A La: “Đệ không phải là người Phong thành?”.

“Đây là lần đầu đệ xuất phủ, lần đầu dùng bữa ở tửu lầu. Cơm ở phủ nhà đệ ăn vẫn còn khá hợp khẩu vị”. Bữa ăn bình thường ở Đường viên, vú Trương và thất phu nhân thay nhau vào bếp. Thỉnh thoảng cũng cùng ăn với mọi người trong đại gia đình tướng phủ, nhưng tâm trạng nơm nớp không dám gắp nhiều, cảm thấy bếp lớn kém xa bếp nhà, cứ tưởng Lý lão gia lạnh nhạt với Đường viên, nên không chiêu đãi tử tế. Không ngờ hôm nay đến Thiên phong lầu, được nếm cái gọi là tam tuyệt lại nguyên sơ chay tịnh như vậy! Tử Ly lại nói: “Thiên phong lầu lấy món chay là chính, cũng được coi là tửu lầu có tiếng nhất Phong thành. Có lẽ tài nấu ăn ở tư gia Sơn đệ rất cao minh?”.

A La nghĩ một lát, nói: “Đại ca, lần sau có thể đưa tiểu đệ đến những tửu lầu có tiếng khác được không? Thưởng thức món ăn là đệ nhất thú vui của tiểu đệ”.

Tử Ly nhìn đôi mắt sáng ngời, vẻ cầu khẩn trước mặt, không kịp nghĩ, gật đầu: “Sơn đệ, đệ có biết khi đệ nhìn người khác với ánh mắt như vậy, sẽ không một ai có thể từ chối đệ?”.

A La đỏ mặt, cúi đầu. Tử Ly mỉm cười: “Nếu ta có một tiểu đệ như vậy, muốn gì ta cũng cho. Sơn đệ, Tử Ly này rất thích đệ gọi ta là đại ca”.

Dùng bữa xong, trả tiền, tiểu nhị nói: “Mười ba lạng”.

A La nhảy dựng lên, kinh ngạc: “Ba... ba cái món này mà nhiều bạc thế ư?”.

Tử Ly nhìn nàng cười: “Không đắt, Sơn đệ!”. Đoạn móc túi đưa ngân lượng cho tiểu nhị. A La đi khỏi tửu lầu, ngoái đầu nhìn. Coi như đã biết tại sao lầu một không bày bàn ăn, tầng hai khách ít cũng không sao. Một bữa ăn ở đây bằng chi ăn cả tháng của Đường viên, vậy mà còn kêu không đắt? Thật không thể hiểu được. Lại nghĩ, nếu mở một tửu lầu như thế, chẳng phải kiếm bộn tiền hay sao?

Ra khỏi Thiên phong lầu, Tử Ly đứng yên ngẫm nghĩ, đoạn cười nhạt: “Tam tuyệt tửu ngấm lâu, uống thêm vài chén vì đệ, hơi chếnh choáng, ta đi bộ cho tỉnh được không?”. A La gật đầu. Tử Ly dắt ngựa, hai người tản bộ về hướng nam, vừa rẽ vào con ngõ, đột nhiên có mấy kẻ bịt mặt, tay cầm dao xông ra, không nói không rằng, tay dao lăm lăm xông vào hai người.

Tử Ly đẩy A La về phía sau lưng, tay phải không biết lấy ở đâu ra một thanh kiếm lao vào đấu với mấy kẻ bịt mặt. A La nhìn hoa cả mắt. Nàng tập Karate đã nhiều năm, nhưng chứng kiến cảnh đao kiếm đánh giáp lá cà như vậy cũng không quen, chỉ thấy tay mình bị Tử Ly xiết chặt. Chàng vẫn bảo vệ nàng. A La né phải né trái theo chàng, dần nhận ra đường kiếm, bỗng tay kia nắm lấy Tử Ly, mượn lực lấy đà vọt lên tung cú song phi khiến một tên đang cầm đao lao tới, ngã nhào.

Tử Ly nhìn nàng một cái, mắt lộ vẻ kinh ngạc, nhân cơ lao vào vung kiếm lia lịa, đoạn tránh một bên, kéo A La nói nhỏ: “Lên ngựa!”.

Chàng tung người nhảy lên lưng ngựa, đột nhiên thấy eo đau buốt, cả người đổ xuống, A La cũng ngã theo. Bất chấp mông đau ê ẩm, nàng chạy đến bên Tử Ly: “Đại ca, sao thế?”.

Tử Ly đột nhiên bật cười: “Tiểu đệ ngốc, sao không cưỡi ngựa đi đi?”. Trong hơi thở gấp, mặt đã xanh tái, chàng nói nhỏ: “Trên yên có cắm kim độc”.

Những kẻ bịt mặt lúc này từ từ áp sát, một tên cười sằng sặc: “Nếu không dùng kế đó, mấy người bọn này, sao địch nổi đại ca?”.

A La sợ hãi, nhưng bất chấp, nhảy ra đứng chắn trước mặt Tử Ly, phẫn nộ hét: “Bỉ ổi thế mà vẫn cười được? Đưa thuốc giải độc ra đây!”. Dù mạnh mồm như thế, nhưng bụng thầm cầu khấn: Đừng giết ta!

Mấy kẻ bịt mặt nhìn tiểu công tử áo gấm, cười nhạo: “Tiểu công tử kháu trai, lần này thu hoạch to rồi đây. Công tử lui ra, nếu không máu vọt ra công tử lại sợ chết khiếp!”.

A La ngoái nhìn Tử Ly, mặt chàng vẫn cười cười: “Đại ca, đại ca cố lên!”. Nói đoạn, dắt ngựa lại gần, giật yên ra, cố sức xốc Tử Ly lên: “Đại ca, đệ đỡ ca, đại ca cố lên ngựa đi!”. Mấy kẻ bịt mặt càng cười to: “Tiểu công tử, công tử đỡ được sao? Có cần đại ca này giúp không?”.

A La lườm chúng, quay đầu nhìn Tử Ly, mặt chàng hơi xanh, nhưng vẫn như cười, người lại hơi nhũn ra. A La biết chàng không thể lên ngựa, bèn buông dây cương vỗ vào mông thả cho ngựa đi, hy vọng có kỳ tích xảy ra, kiểu như ngựa quen đường, dẫn cứu binh đến. Nàng dìu Tử Ly đến ngồi tựa vào chân tường, lúc đó một người bịt mặt cười, nói: “Ngõ cụt làm gì có ai qua, đây nói thật, hôm nay chúng mày có cánh cũng không chạy thoát”. A La nhắm mắt, vọt người lên cao. Tên bịt mặt ngớ ra, không biết nàng định làm gì. A La khởi động mấy nhát dừng lại, cởi phắt áo choàng, lạnh lùng nhìn tên bịt mặt: “Đã lâu không đánh nhau, các người định lần lượt từng người hay cả đám?”. Trong bụng không dám chắc, nhưng không thể ngồi giương mắt chờ chết, cho nên quyết liều một phen.

Một trận cười rộ lên, có kẻ múa dao xông đến, cười to: “Không ngờ ta có phúc đến thế, nào để đại ca ôm công tử đã”. Không đợi gã lại gần, A La tung chân đá trúng đầu gã, rồi xoay người, tay phải chém vào lưng gã, chỉ nghe tiếng xương gẫy rắc một tiếng, tên bịt mặt đổ xuống.

Nàng cố giữ cho thân người linh hoạt, nhảy sang phải, né sang trái, thỉnh thoảng vung tay chém một nhát, tự mình cũng thấy tay đã hết lực. Chỉ nghe thấy Tử Ly kêu lên, đứng dậy, đẩy nàng về sau. Lúc đó không biết từ đâu, tên bay đến rào rào, những kẻ bịt mặt kêu lên thảm thiết từ từ ngã gục.

Liền sau đó, mấy người từ trên tường nhảy xuống, quỳ sụp trước mặt Tử Ly, hoảng hốt: “Thuộc hạ đến chậm, xin chúa công trách tội!”.

Tử Ly nhìn họ: “Đứng lên đi!”.

Mấy người nhanh nhẹn khiêng những xác chết đi, lau sạch vết máu trên đất, tất cả đều làm nhanh chóng gọn gàng. Lát sau trong ngõ đã như không xảy ra chuyện gì. Ngay sau đó có tùy tùng dắt ngựa đến, đứng hầu một bên.

A La kinh ngạc nhìn cảnh tượng trước mặt, miệng thở hổn hển, tay vẫn còn run, trời ơi, chuyện gì thế này? Quay đầu nhìn thấy Tử Ly mặt như cười, bèn hỏi: “Đại ca không trúng độc sao?”.

Mắt Tử Ly cười: “Chút độc đó, một lát là hết. Huống hồ, kẻ mọc cánh cũng không thoát chính là bọn chúng!”.

A La mới hiểu tại sao vừa rồi Tử Ly không hề tỏ vẻ lo lắng, lòng hơi buồn, mình vẫn nghĩ về con người ở đây đơn giản quá. Băn khoăn hỏi Tử Ly: “Vậy đại ca còn đứng nhìn đệ bị đâm? Thật thiếu nghĩa khí! Không nhận là đại ca nữa! Sau này đừng nói chúng ta quen nhau, coi như ta ngốc nghếch một phen”. Nói xong nhặt áo choàng bỏ đi.

Tiếng Tử Ly vang lên đằng sau: “Vừa rồi sao đệ không cưỡi ngựa bỏ chạy?”.

A La quay đầu lườm chàng: “Không phải không muốn cưỡi, mà ta bị ngã xuống!”.

Tử Ly mỉm cười: “Đệ có thể đi, bọn chúng đâu có muốn mạng của đệ!”.

A La càng giận: “Không nghe bọn chúng nói đệ là tiểu công tử xinh đẹp hay sao? Đệ muốn cũng không đi được! Cáo biệt, sẽ không gặp lại nữa!”.

Đi được mấy bước, Tử Ly đã đuổi kịp: “Có muốn học cưỡi ngựa không?”

A La không thèm nghe, Tử Ly lại tiếp: “Có muốn thử tất cả sơn hào hải vị của Phong thành không?”.

A La vẫn không thèm, Tử Ly lại than vãn: “Ta chỉ muốn xem võ công của đệ mà thôi. Đòn tung chân của đệ rất lợi hại, ta biết đệ có luyện công. Nếu đệ nguy cấp, ta nhất định ra tay, ta không ra tay, thị vệ của ta cũng ra tay. Thế này nhé, đệ cần gì nói đi, nếu làm được nhất định ta sẽ giúp”.

A La dừng lại, người này xem chừng chỉ có một mình, nhưng lại có thị vệ võ nghệ giỏi như vậy ngầm bảo vệ, thân thế chắc chắn không đơn giản, không thể đắc tội được. “Thật không?”.

“Thật”. Tử Ly mỉm cười.

A La lại hỏi: “Huynh rất giàu phải không?”.

Tử Ly cau mày: “Coi như thế đi!”.

A La cười: “Có tiền là được, liệu đệ có thể hỏi, cần bao nhiêu bạc có thể mua được Thiên phong lầu?”.

Tử Ly cười: “Đệ muốn Thiên phong lầu?”.

A La lắc đầu. Tử Ly ngẫm nghĩ, nói: “Một vạn ngân lượng”.

A La hỏi: “Nếu muốn mua một ngôi nhà ở Phong thành, cần bao nhiêu bạc thì đủ?”.

Tử Ly cười: “Mấy trăm lạng là có thể mua được một chỗ vừa vừa, thường dân sống tằn tiện nhất, thì năm mươi đến một trăm lượng là có thể đủ chi trong vòng một năm”.

“Vậy mấy món vừa rồi đã ăn hết chi tiêu một tháng của thường dân!”. A La cảm thấy ở đây sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn.

Tử Ly vẫn mỉm cười: “Mua một a đầu chỉ cần hai chục lượng”.

A La nói: “Đệ cần một ngàn lượng, đại ca có thể cho đệ không?”

Tử Ly nhìn nàng vẻ lạ lùng: “Đệ cần một ngàn lượng để làm gì?”.

A La nói: “Để trả công cho đệ! Cứu mạng huynh, đệ đã suýt mất mạng! Mạng của huynh đáng giá một ngàn lạng chứ!”.

Tùy tùng đứng bên phẫn nộ: “Dám hạ nhục chủ nhân bọn ta?”.

Tử Ly nhìn bọn họ, bọn tùy tùng cúi đầu không dám nói, nét mặt vẫn hậm hực. A La hỏi: “Chê ta mua rẻ chủ nhân các người sao? Vậy thì hai ngàn lượng vậy”.

Tùy tùng không dám mở miệng, nhưng mặt đỏ phừng phừng. Tử Ly cười: “Đệ muốn kinh doanh ẩm thực như Thiên phong lầu?”.

A La cười: “Đệ không tham lam, hai ngàn lượng, chúng ta ân oán rạch ròi, sau này không ai nợ ai”.

Tử Ly nhìn nàng chằm chằm: “Hay là đệ giận ta đã có chuẩn bị lại không ra tay?”.

A La cười: “Đệ biết võ công, lại vừa quen nhau, huynh nghi ngờ cũng không phải là lạ. Nhưng đệ không thích”.

Tử Ly vừa giơ ngón tay ra hiệu, tùy tùng đưa ra một bọc bạc, chẳng buồn nhìn trao ngay cho A La. A La mở ra đếm đủ hai ngàn lượng, trả lại số bạc thừa, xong xuôi quay người bỏ đi.

Khi sắp ra khỏi con ngõ, nghe thấy tiếng vó ngựa sau lưng, chưa kịp phản ứng, một cánh tay đã vung ra, nhấc bổng nàng lên ngựa. Tử Ly cười: “Ta tiễn đệ về, nhà đệ ở đâu?”.

A La lúc này đã kệt sức, thấy của cho không, nên cũng không từ chối, nói: “Đưa đệ đến chỗ ta gặp nhau là được”.

Tử Ly không nói gì thêm, ra roi thúc ngựa đi về hướng đông, vòng đến bờ sông.

A La xuống ngựa đi thẳng, Tử Ly kéo lại, tháo miếng ngọc bội trên thắt lưng đưa cho nàng: “Sau này có chuyện gì, cứ đến Hưng Nguyên quán trong thành tìm chủ quán, đưa cái này nói là của Tử Ly công tử cho đệ”.

A La nghĩ ngợi rồi cầm miếng ngọc bội.

Tử Ly lẳng lặng lên ngựa, ra roi phóng đi. A La đi đến bên tường bao tướng phủ, nhìn quanh không thấy ai, bèn lấy sáo thổi ám hiệu. Lát sau Tiểu Ngọc xuất hiện ở đầu tường. Trở về nhà toàn thân A La rã rời, chỉ muốn tắm nước nóng. Thất phu nhân thấy nàng mệt như vậy nên cũng không hỏi nhiều.

A La ngâm mình trong bồn nước nóng, thật dễ chịu, đầu óc bắt đầu hoạt động. Tử Ly công tử thân thế phi phàm, thủ đoạn ra tay cũng khác thường này rút cục là người thế nào? Nhìn cách quản thuộc hạ của chàng ta, có vẻ rất có tài quản lý. Nghĩ lại nàng lại thấy tức khí, mất công đánh nhau một trận, để cho người ta đùa bỡn như con khỉ, nếu mình không biết karate, Tử Ly cũng không ngồi đợi chết. Người ở đây sao ai cũng cáo già thành tinh như vậy, không một ai đơn giản.

Điều mừng nhất là kiếm được hai ngàn lượng bạc, lại còn được tặng miếng ngọc bội khi cần sẽ được giúp đỡ. Đây đúng là bảo bối, chưa biết chừng có ngày phải đến cầu cứu Tử Ly. Chàng ta sẽ giúp mình, không biết tại sao, nàng rất tin lời Tử Ly.

Tắm xong, A La đưa bạc cho thất phu nhân giữ. Thất phu nhân kinh ngạc hỏi: “Sao đi có một ngày mà kiếm được nhiều bạc thế? Tam Nhi, không phải con lại đánh ngất người ta rồi cướp tiền chứ?”.

A La cười hớn hở: “Hôm nay đánh ngất mấy người. Con cứu được một người, đây là bạc người đó trả ơn, nguồn gốc tuyệt đối minh bạch. Mẹ à, chúng ta mua nhà bên ngoài được không? Con nghĩ bạc đủ rồi”. Nàng đã tính, định trốn khỏi tướng phủ, nhất định phải có chỗ nương thân.

Thất phu nhân cũng đồng tình: “Ý này rất hay, nếu có ngày chúng ta rời tướng phủ, phải có chỗ nương náu. À, nghe nói hoàng hậu đã hạ chỉ, triệu nội quyến ngày rằm vào cung thưởng nguyệt. Có lẽ là người muốn xem mặt Thanh Lôi, định rõ đã tuyển được thái tử phi”.

.

Chương 6

.

Đại sảnh trong tướng phủ đèn đuốc sáng rực thâu đêm, chỉ những khi phủ có việc trọng đại mới thấy cảnh tượng long trọng linh đình như thế. Khi thất phu nhân đưa A La vào đại sảnh, mọi người đều đã tề tựu đông đủ. Nàng vẫn ngồi bên thất phu nhân ở cuối dãy ghế bên phải, lắng nghe bề trên chỉ giáo. Lý tướng hắng vài tiếng cho trong giọng rồi cất lời: “Rằm tháng tám này hoàng hậu có ý triệu nội quyến các quan tam phẩm trở lên vào cung thưởng nguyệt, lại còn nói rõ muốn xem tiểu thư các nhà trổ tài. A Lôi, A Phỉ, A La, các con thấy thế nào?”.

A La ngớ người, “các con thấy thế nào”, còn thế nào nữa, chẳng phải bề trên nói sao là vậy ư? Ông thân làm tả thừa tướng, không có người nối dõi, chẳng phải rất mong bán mỗi con gái sao cho thật đắt hay sao, mưu đã tính sẵn từ lúc các con còn nhỏ, tuyên bố là xong, hỏi như vậy là có ý gì? Nàng nhất thời không tìm ra ý đồ thật sự của Lý tướng. Ưu tú nhất nhà đương nhiên là đại tỷ, nhị tỷ, còn nàng vui lòng lên tiếng sau cùng.

Thanh Lôi nhẹ nhàng: “Cha không định để con tiếp tục chơi đàn nữa chứ? Khuê nữ mọi nhà mười người có đến tám người chơi đàn, ngón đàn của con ngang ngửa Cố tiểu thư. Những ngày vừa qua được thái tử điện hạ càng thêm mến mộ, si mê, không cần chơi đàn nữa cũng được”. Thấy tình cảm của thái tử đối với mình mười phần chắc chín, khẩu khí của Thanh Lôi đã có vẻ kiêu kiêu tự đắc.

Mắt Lý tướng lộ ra nụ cười, xem ra ông cũng không định để Thanh Lôi lại thể hiện ngón đàn. Dù biết rõ tâm tư của thái tử đã đặt vào Thanh Lôi, hoàng hậu chẳng qua tức khí vì cháu gái Vương Yến Hồi chưa kịp đua tài đã bị loại. Lý tướng mỉm cười, nói: “Lần thưởng nguyệt này, hoàng hậu có ý để tiểu thư Yến Hồi vãn hồi một phen, chủ đề so tài có lẽ sẽ không phải là những trò giải trí như đàn, hát”.

A La đột nhiên vỡ lẽ, Lý lão gia vốn đã tính đến điều này, triệu tập cả nhà là muốn mọi người cho ý kiến, để Thanh Lôi có thể thắng Vương Yến Hồi, danh chính ngôn thuận trở thành chủ nhân Đông cung.

Đại phu nhân chậm rãi lên tiếng: “Vương Yến Hồi ta đã gặp từ nhỏ, thường đi theo cha là Vương thái úy, lớn lên trong quân doanh, thông thuộc binh thư, am tường binh pháp. Năm xưa khi ta được gả vào tướng phủ không lâu có về thăm nhà, đúng lúc Vương thái úy mời, ta được cha đưa đến phủ thái úy. Khi đi dạo một mình trong hoa viên, không tìm thấy lối ra, lúc đó một nữ đồng ba tuổi từ trên cây nhảy xuống vỗ tay cười nói: “Mê hồn trận mà sách xưa nói thì ra cũng có cái hay”, ta hiếu kỳ hỏi, có phải hoa viên bố trí theo trận pháp, cô bé cười hớn hở nói, đọc sách thấy viết như vậy, bèn thử bày bố trong hoa viên xem sao. Ta không thể tin nổi, đứa trẻ mới ba tuổi, mà đã có thủ đoạn như vậy”.

Lý tướng tiếp lời: “Nay đã qua mười bốn năm, Vương Yến Hồi đã mười bảy tuổi, nghe đồn mưu lược hơn người, thông minh tuyệt đỉnh, có lẽ không phải là lời đồn suông”.

Nghe xong câu chuyện, cả phòng lặng phắc như tờ. Nếu trong yến tiệc, hoàng hậu bảo Vương Yến Hồi hiến kế, thì đúng là không phải chuyện hay. Chưa biết chừng Ninh vương nghe vậy hiếu kỳ, muốn biết thái tử phi tương lai liệu có đầu to mà óc nhỏ. Bởi vì sau này thái tử đăng cơ, thái tử phi sẽ được tấn phong làm quốc mẫu. Thái tử sủng ái mỹ nhân nào có thể tùy tiện phong phi tử, nhưng quốc mẫu thống lãnh hậu cung, không mưu lược thủ đoạn e không được.

Lý tướng lại tiếp: “A Lôi, con chơi đàn rất hay, văn thơ cũng khá, bây giờ cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra trong yến tiệc, hôm nay cha chỉ nhắc con, khi đó phải linh hoạt cẩn trọng, vạn sự nên lấy hai chữ cẩn trọng làm đầu”. Ánh mắt chuyển đến Thanh Phỉ và Thanh La, “Mục đích vào cung lần này của hai con là giúp Thanh Lôi thuận lợi vượt qua cửa ải, luôn đi theo sát đại tỷ, cần ra tay vẫn nên ra tay, chỉ có điều nên thận trọng đừng để bị phát hiện! Phải ghi nhớ một điều, vinh cùng vinh, nhục cùng nhục! Cha già rồi, mọi hy vọng của Lý gia bây giờ đều trông cậy vào đại tỷ các con, hiểu chưa?”.

Mọi người đồng thanh “Rõ”, A La muốn cười không được, mối quan hệ xã hội của Trung Quốc mấy nghìn năm trước là thế, mấy nghìn năm sau vẫn thế. Dựa vào một con nhện nhả tơ dệt mạng, thêm mấy con khác liên kết thành mạng lớn, bè phái liên minh. Chỉ có điều mình ở trong đó chỉ muốn vùng ra, không muốn cùng họ mưu cầu vinh lợi, điều này cũng khác quan điểm tư tưởng hiện đại. Những thứ mà người trong tướng phủ cần không giống những thứ nàng cần.

Lại thấy Lý tướng hỏi Thanh Phỉ: “A Phỉ, bà mối của Thành thị lang đã đánh tiếng dạm hỏi, nhưng tỷ tỷ con chưa xuất giá, con đi trước cũng không hay, cha nghĩ nên đợi chuyện của tỷ tỷ con định đoạt xong xuôi rồi hãy tính”.

Tứ phu nhân vội trả lời: “Lão gia nói chí phải, nhà chúng ta dòng dõi thư hương, tuyệt đối không nên có chuyện thất lễ như vậy”.

A La thấy mắt Thanh Phỉ sáng lên rồi lại tối đi, biết ngay mẹ con họ bị Lý lão gia thừa cơ đánh vào điểm yếu. Thành thị lang kia hào hoa phong lưu, văn tài xuất chúng, tuổi còn trẻ mà đã làm quan cao, Thanh Phỉ gả cho chàng ta xem ra cũng xứng đôi vừa lứa. Chỉ có điều nhanh quá, nhanh chóng thành thân như vậy, trong thời hiện đại vẫn còn có người yêu đến chết đi sống lại, ở đây bỏ qua giai đoạn yêu đương, lấy nhau rồi có hối cũng không kịp. A La đã quyết rời khỏi tướng phủ, tuyệt đối không để cho Lý lão gia biến hôn nhân đại sự của mình thành cuộc buôn bán trao đổi, cho nên bây giờ vẫn nên ít tiếp xúc với những bậc anh tài thì hơn. Nghĩ đến những bậc anh tài, nàng đột nhiên nghĩ đến tiểu vương gia của phủ An Thanh vương và Tử Ly công tử thân thế bí hiểm. Người trước nàng trốn còn không kịp. Còn người sau, nàng lại thầm thở dài, chẳng phải đã được trả công sòng phẳng rồi sao?

Lý tướng cười khà khà: “Thành thị lang nói, kết thân với Lý gia ta quả thật là đã với cao. Khi nói như vậy vẻ mặt Thành thị lang rất phấn chấn, có thể cùng cánh với thái tử, tiền đồ của người ta cũng hanh thông”.

Vậy là điều đó đã được nói rõ ra rồi. Nếu Thanh Lôi được gả cho thái tử là Thanh Phỉ có thể thành thân với Thành Tư Duyệt, vận mệnh vẫn còn ở chỗ đại tỷ có đắc sủng hay không. Sao lại có một người cha đem con gái ra toan tính như Lý tướng chứ?

A La đang mải nghĩ, thì nghe thấy Lý tướng cười nói với nàng: “A La tháng sau con đã mười ba tuổi rồi, đi xem xét mở rộng tầm mắt cũng tốt, con sớm muộn cũng được gả cho một đám tốt”.

Kế hoạch đã nhanh chóng chuyển sang nàng vậy sao? A La cúi đầu trả lời: “Con còn nhỏ, vẫn muốn sống với cha mẹ vài năm nữa”.

Lý tướng cười: “Cha cũng không muốn xa con, nhưng cứ định sẵn hôn sự, đến tuổi cập kê tính chuyện cũng không muộn”.

A La cúi đầu ra bộ xấu hổ, sự phẫn nộ trong lòng lại bùng lên. Nàng sẽ không nghe theo sắp đặt của ông ta, tuyệt đối không!

Mấy ngày liền, A La không đến rừng trúc thổi sáo. Nghe tiếng tiêu vẳng lại, ngẫm nghĩ một hồi vẫn quyết định không lên tiếng. Tiếng tiêu mỗi lúc càng thêm âu sầu. Có một hôm cuối cùng không chịu nổi, nàng trèo qua tường nấp vào một chỗ nhìn ra, từ xa thấy bóng dáng tiêu sơ của Tử Ly công tử ngồi bên gốc liễu ven sông. A La cảm thấy không nỡ, nhưng vẫn không chịu ra. Mục tiêu hiện nay của nàng là cuộc sống tự do ngoài phủ, kiểu đàn ông ưu tú bí hiểm này vẫn nên ít tiếp xúc thì hơn.

Lại qua mấy ngày, không thấy tiếng tiêu nữa. Liền mấy ngày A La nằm mơ, trong mơ nàng bay bổng trên bầu trời trong tiếng tiêu du dương của Tử Ly. Sau đó nàng ra khỏi phủ nhưng không đến bờ sông, miếng ngọc bội Tử Ly tặng nàng cũng cất vào một chỗ. Sinh nhật mười ba tuổi của A La thoắt cái đã qua, nàng vẫn lén trốn khỏi phủ, đã tìm mua được hai gian nhà ở đông nam kinh thành, hai nhà chỉ cách nhau một bức tường, thuê người lén xây một cái cửa bí mật thông nhau. Ngôi to hơn nàng đã thuê quản gia, mua mấy thứ đồ dùng, nàng có thể lộ mặt với tư cách tiểu thiếu gia, chỉ dặn họ, nói là để có chỗ nghỉ ngơi mỗi khi vào thành buôn bán. Ngôi nhà nhỏ hơn, nhờ một đôi vợ chồng hiền lành trông coi, để cho vú Trương đứng ra giao dịch, nói là của một người bà con sinh sống ở phương nam muốn sau này trở về cố hương, nên đã chuẩn bị trước.

Lại một tháng nữa trôi qua, trời thu xanh thẳm. Dạ yến thưởng trăng do hoàng hậu mời đã đến.

Lý phủ, người trên kẻ dưới đều tất bật quay quanh Thanh Lôi, bàn tính nên vận trang phục thế nào, dùng đồ trang sức gì, trang điểm ra sao. Lý tướng đã dặn, bữa tiệc này hết sức đặc biệt, không thể ăn vận giản dị, nhưng cũng không được quá hào nhoáng cầu kỳ. Lý tướng định vời một sư phụ may y phục nổi tiếng nhất Phong thành của phường Ngọc Cẩm đến tận nhà cắt may y phục cho Thanh Lôi. Sau lại nghe tin các nhà khác hầu như cũng mời vị sư phụ này, nên lại thôi. Đang lúc bối rối, nhị phu nhân, ngũ phu nhân, lục phu nhân lại mủm mỉm cười, bê ra một bộ y phục lộng lẫy, nói đó là chút lòng của ba người.

Giở ra xem, chất liệu bằng lụa hương la, có thêu những bông hoa mai Thanh Lôi yêu thích nhất bằng những sợi chỉ tơ óng ánh, trong nhụy mỗi đóa hoa đều đính một hạt đá hồng bảo. Không đặc biệt hào nhoáng nhưng tỏa sáng rực rỡ dưới ánh đèn. Thanh Lôi mặc lên người rất mực yểu điệu phú quý, kiều diễm vô song. Lý tướng mừng đến độ mấy ngày liền lần lượt đến phòng các phu nhân kia để tỏ ý khen ngợi.

Thất phu nhân đưa đồ trang sức gia truyền cho Thanh Lôi đeo. Tứ phu nhân sợ mình lạc hậu, cẩn thận vẽ mấy kiểu trâm cài để Thanh Lôi tham khảo.

Trở về Đường viên, thất phu nhân cười nói với A La: “Con có muốn ngày mai đẹp hơn đại tỷ không?”. A La xua tay: “Con còn đang tiếc không được hóa trang theo kiểu a hoàn lần nữa để nâng váy cho đại tỷ. Mẹ à, chúng ta cũng nên làm chút gì, nếu không cha và mấy phu nhân kia sẽ không vui. Lúc này không nên làm bất cứ chuyện gì để ông ấy nghi ngờ”.

Thất phu nhân cười, nói: “Đương nhiên rồi, những gì cần làm mẹ sẽ làm”. Thất phu nhân tự tay chải đầu đeo đồ trang sức cho Thanh Lôi theo mẫu vẽ đã chọn. Dưới bàn tay khéo léo của thất phu nhân, khi Thanh Lôi bước ra, mọi người trong Lý phủ đều ngây người sửng sốt. Thái tử phi lý tưởng có lẽ nên có dáng vẻ như Thanh Lôi, đoan trang quý phái mà vẫn yểu điệu dịu dàng. Khuôn mặt trái xoan của Thanh Lôi như tỏa hào quang, A La nghĩ, một Thanh Lôi như thế này cũng xứng với phong độ của thái tử. Không biết Cố Thiên Lâm và Vương Yến Hồi trang điểm thế nào, nàng quả thật rất hiếu kỳ.

Để làm nền cho nhân vật chính, Thanh Phỉ và Thanh La không trang điểm nhiều, chỉ đủ xứng với thân phận, cũng xiêm y mới, đồ trang sức mới. A La ngồi trước gương nói với thất phu nhân: “Mẹ à, không nên chải hất mái bờm của con, cứ để như mọi ngày là được”.

Thất phu nhân thở dài: “Tam Nhi, mẹ rất muốn trang điểm cẩn thận cho con”.

A La cười: “Sau này còn nhiều cơ hội, hôm nay không được. Con cũng muốn xem mình trang điểm tử tế trông sẽ thế nào. Mẹ của con đẹp thế này, A La có lẽ cũng không đến nỗi nào đâu”.

Thất phu nhân đột nhiên trở nên trẻ trung: “Mẹ thử trang điểm cho con, sau đó lau đi cũng được, để chúng ta tự ngắm thôi mà”.

A La cười hi hí: “Gọi Tiểu Ngọc ra cửa canh chừng, nhỡ có ai vào”. Hai người nhìn nhau cùng cười.

A La nghĩ đến đêm dạ hội với bạn bè ngày nàng mới vào đại học, cả khu ký túc nữ bận tíu tít, ai cũng thử váy áo, son phấn, trang điểm, náo nhiệt vô cùng. Bây giờ bọn họ, người ra nước ngoài, kẻ lấy chồng, có lẽ đều sống rất tốt. Đột nhiên nghĩ đến cha mẹ, bảy năm rồi, có lẽ họ cũng đã quen cuộc sống không có mình. Nghĩ vậy, hai hàng nước mắt ứa ra. Thất phu nhân thấy vậy thở dài hỏi: “Tam Nhi, con khóc ư?”.

A La vội lau nước mắt: “Không có gì, chỉ không muốn đi dự tiệc mà vẫn phải đi”. Nói đoạn nhìn vào gương, sững người. Sau khi chải hất mái bờm, vầng trán trong ngần, rờ rỡ tỏa sáng của nàng lộ ra hoàn toàn, một khuôn mặt hoàn mỹ như tạc bằng ngọc, cặp mắt to, rạng ngời long lanh ngấn nước. Khuôn mặt vẫn còn nét thơ trẻ nhưng đã lay động vô ngần, nàng không nén nổi giơ tay chạm vào người trong gương.

Thất phu nhân lại thở than: “Tam Nhi, bây giờ con đã khiến người ta nhìn không muốn rời, mấy năm nữa sẽ thế nào, đẹp quá cũng không phải chuyện hay”.

“Cho nên vừa rồi con mới bảo mẹ cứ để mái bờm che nửa mặt, con không muốn là hồng nhan bạc phận, rất khổ”. Nói xong lè lưỡi, khuôn mặt trong gương sinh động hẳn lên. A La nhìn mãi, quay đầu nói với thất phu nhân: “Mẹ à, sửa đi nào”.

Thất phu nhân chải lại đầu giúp nàng, hỏi: “Tam Nhi, sau này con muốn tìm một phu quân như thế nào?”.

A La ngẫm nghĩ, đáp: “Ít nhất cũng không phải là người thích con chỉ vì khuôn mặt này. Sau đó, là người có thể bảo vệ con, chỉ có một mình con, và không có quá nhiều phép tắc. À, có lẽ yêu cầu này quá cao rồi, ở đây không có đâu. Nhưng bây giờ con vẫn chưa nghĩ nhiều, giờ đây cả ngày con chỉ nghĩ một điều, làm sao không bị người ta ức hiếp là tốt rồi. Con sợ nhất là chết, động tý là chém đầu, đúng là xã hội phong kiến vạn ác”.

Thất phu nhân băn khoăn hỏi: “Xã hội phong kiến? Là cái gì thế?”.

A La cười: “Chính là cái đất nước này, mọi thứ xung quanh. Đại khái là như thế”. Nàng cười thầm, không thể dùng những từ ngữ hiện đại, kẻo lại phải giải thích mệt lắm.

Sau khi chải đầu, thay trang phục, A La lại ăn khá nhiều đồ ăn vặt, thấy sắp đến giờ, mới cùng đại phu nhân, Thanh Lôi, Thanh Phỉ lên xe ngựa vào cung dự tiệc.

Văn hào Victor Hugo đã từng miêu tả nhà thờ Đức bà Paris là một dàn nhạc giao hưởng bằng đá đồ sộ, kiến trúc là âm nhạc lắng đọng, mỗi phiến đá được lắp ghép tinh tế tạo nên kiến trúc đều là một âm phù tuyệt diệu, những tổ hợp kết phối khác nhau tấu nên những khúc nhạc khác nhau. Trình Tinh từng đến Cố cung ở Bắc Kinh, Cố cung ở Thẩm Dương, cung điện Bangkok ở Thái Lan, bảo tàng Louvre của Pháp, cũng đã nhìn thấy trường quay mô phỏng Tần cung, Hán cung, nhưng nhìn thấy vương cung Ninh quốc xây dựa vào núi lúc này vẫn không khỏi kinh ngạc thán phục. Từ quảng trường mênh mông dưới chân núi nhìn lên, cổ ngửa hết cỡ, mà dường như vẫn không thể nhìn hết vương cung trên núi.

Người sống trên đó, lên xuống không mệt hay sao? Nàng hỏi đại phu nhân: “Mẹ cả, vương cung nơi cao nhất là bao nhiêu? Người lên xuống núi liệu có mệt lắm không? Hơn nữa hình như lại còn có tuyết”.

Đại phu nhân nhìn nàng: “Cao nhất là lãnh cung, người trong đó khỏi cần xuống núi. Bây giờ nói cho các con biết, để các con vào cung không chạy lung tung. Kim điện chỗ vương thượng nghị sự tọa lạc dưới chân núi, lên một chút thực ra là một khe núi, hậu cung đều ở đó, chỉ hơi cao hơn một chút. Lên chút nữa là khu lưu trữ thư tịch, giặt giũ trang phục của vương cung, tiếp đến là ty tông nhân và lãnh cung, đỉnh của dãy Ngọc Tượng chính là hoàng lăng. Ngự hoa viên ở khe núi hơi chệch về phía tây nam, hôm nay hoàng hậu nương nương mở tiệc ở đó. Ngự hoa viên rộng vô chừng, các con nhất định không được chạy lung tung, đề phòng lạc đường gây họa, nhớ chưa?”.

Ba cô gái vội đáp: “Rõ ạ”.

Vào cửa cung, tất cả chuyển sang kiệu nhỏ. A La lén vén rèm nhìn ra, bầu trời một màu lam xám đang dần tối. Trong vương cung đèn thắp sáng như ban ngày. Đến cổng ngự hoa viên, mọi người xuống kiệu, A La kinh ngạc phát hiện mặt đường nhấp nháy phát sáng, giống như đèn ngầm dưới mặt đường thời hiện đại. Nàng lén lùi lại một chút, nhìn quanh không ai để ý, nhanh tay cúi xuống sờ, toàn là đá. Thầm nghĩ chắc là được lát bằng loại đá lân tinh, phát sáng mà không chói mắt, nàng bất giác thầm khen Ninh quốc đúng là biết hưởng thụ. Nhìn ra xa, toàn bộ ngự hoa viên như chìm trong biển ánh sáng.

A La nheo mắt, bỗng nhận ra những con đường trong vương cung tạo nên hình chim đại bàng. Khách được dẫn đến vị trí đã định dành cho từng phủ, nàng vừa nhìn hình họa thì phát hiện chỗ họ ngồi vừa đúng bộ phận đầu chim. Vừa rồi họ từ phía móng vuốt đại bàng tiến vào. Vậy hai bên đông tây đương nhiên là phần cánh chim. Đầu đại bàng rộng như vậy, hai cánh giương lên, ngự hoa viên thực sự rộng khủng khiếp.

Nhìn các cung nữ đi đi lại lại, A La thầm nghĩ, tỳ nữ mà đại phu nhân mang theo hôm nay là người khác, không phải Quyên Nhi. Lâu lắm không thấy Quyên Nhi, không biết vẫn ở chỗ đại phu nhân hay đã đi đâu, đành phải trông chờ vào mệnh của Quyên Nhi vậy. Nàng thở dài, một lần nữa tự nhắc mình phải thận trọng từng lời ăn tiếng nói, nếu không muốn rước họa vào thân.

Lúc này tân khách được mời đã lục tục kéo đến. Đối diện với bàn của A La có lẽ sẽ là chỗ của phủ Cố tướng. Ghế bên cạnh nàng có một thiếu nữ chừng mười mấy tuổi đang ngồi một mình trên ghế, thần thái ung dung, khuôn mặt nhìn nghiêng rất xinh đẹp, A La thầm đoán có lẽ là Vương Yến Hồi?

Hình như cảm thấy có người nhìn, cô nương đó nghiêng mặt nhìn A La mỉm cười, hai mắt lóe sáng. A La cũng cười tươi đáp trả, ánh mắt gặp nhau, bất chợt thấy chột dạ, có cảm giác hình như nàng ta nhìn thấu suy nghĩ của mình.

Thanh Lôi khẽ hắng một tiếng, thiếu nữ ngoảnh nhìn về phía đối diện, A La cũng ngoái đầu theo, đúng lúc nhìn thấy Cố Thiên Lâm đang dìu mẫu thân đi vào. A La suýt bật cười, Thanh Lôi và Cố Thiên Lâm đúng là kỳ phùng địch thủ, Thanh Lôi đêm nay đoan trang quý phái, Cố Thiên Lâm lẽ nào không thế. Hai người trang điểm gần giống nhau, chỉ có màu sắc y phục của Cố Thiên Lâm nhạt hơn, của Thanh Lôi đậm hơn. Y phục của Thanh Lôi thêu hoa mai, dưới ánh đèn, những hạt đá quý lóng lánh phát sáng, cả người cũng tỏa hào quang. Lại nhìn Cố Thiên Lâm, những đường chỉ thêu trên y phục hình như hơi đặc biệt, chúng phát ra ánh sáng rực rỡ giống như ánh lân tinh trong hoa viên. Lại nhìn Vương Yến Hồi, y phục không có gì đặc biệt, trên cổ đeo chuỗi ngọc minh châu quý giá, làm cho khuôn mặt có một vẻ dịu hiền đặc biệt.

Nếu trên đầu mỗi người có một ngọn đèn xạ quang thì tốt, giống như những quầng ánh sáng trên sân khấu. A La đột nhiên nghĩ đến Đức mẹ đồng trinh Maria, cúi đầu nén cười. Nội thị hô: “Vương thượng, hoàng hậu giá đáo!”.

Khách vội rời khỏi chỗ quỳ sụp xuống, hô vạn tuế. Lúc đã yên vị, A La lén nhìn lên phía trước, Ninh vương tuổi trạc ngũ tuần, dung mạo rất giống thái tử, thời trẻ chắc cũng là một trang tuấn kiệt. Hoàng hậu đầu đội vương miện, xấp xỉ tứ tuần, dung mạo phóng khoáng, tầm vóc trung bình.

Thái tử đứng bên Ninh vương. Mắt đang nhìn về phía này, A La liếc sang bên, thấy mặt Thanh Lôi đỏ bừng, cúi đầu, rồi lại ngẩng lên, đã nhanh chóng trao cho thái tử ánh mắt e thẹn. A La thấy miệng thái tử mủm mỉm cười nụ.

Ninh vương nói: “Hôm nay hoàng hậu mở yến, quả nhân cũng chỉ là khách, xin mời hoàng hậu chủ trì”.

Hoàng hậu không từ chối, tạ ơn rồi nói: “Trung thu trăng tròn, rất hợp để thưởng lãm. Hôm nay chỉ cầu vui, không nói chuyện gì khác. Đã sớm mời các tiểu thư quý phủ chuẩn bị trổ tài, lúc này xin mời thể hiện mới không phụ một đêm đẹp thế này”.

Hai người họ đã thương lượng với nhau rồi. Hoàng hậu đưa ra trò chơi, cha con hoàng đế xem diễn để so sánh. A La nghĩ, trò hay sắp bắt đầu rồi đây. Lúc đó cung nữ đứng sau hoàng hậu bước ra dõng dạc tuyên: “Hôm nay nữ tài hội tụ, kính thỉnh chư gia đại diện lên bốc thăm tiết mục biểu diễn, hoàng hậu đã có chỉ, bất luận hay dở đều có thưởng, mỗi bàn lại có phiếu hoa, chư vị cô nương biểu diễn xong, tân khách có thể bình chọn anh tài, theo số phiếu hoa sẽ bình ra ba vị nữ tài đầu bảng”.

A La thầm kêu, đúng là cuộc thi nữ sinh thanh lịch thời cổ đại, mình trở thành giám khảo quần chúng rồi.

Ninh vương cười: “Quả nhân, hoàng hậu và các vị hoàng thân đều có phiếu bầu, chỉ được bầu một phiếu. Chư vị cân nhắc kỹ hãy bỏ phiếu!”. Lúc đó thấy bóng người đứng phía sau Ninh vương cười nói: “Tuân chỉ”.

A La cố nhìn mới phát hiện, trên mỏ đại bàng còn mấy chiếc bàn có người ngồi, nhưng bị cây cảnh che khuất, không nhìn rõ, chỉ có thái tử ngồi phía trước Ninh vương và hoàng hậu.

Lát sau, có vị nữ quan cầm hòm hoa đến các bàn để cho các nhà bốc thăm. Đại phu nhân thò tay lấy một tờ, cung nữ ghi lại số phiếu.

Đại phu nhân dè dặt mở ra xem, trong đó viết: Nói gieo vần. Đại phu nhân sững người, đề gì thế này? Cau mày hỏi: “Thanh Lôi, cái này con phải suy nghĩ kỹ”.

A La nghĩ, chuyện này quá đơn giản, chắc là muốn thử xem miệng lưỡi Thanh Lôi có linh hoạt không. Nhìn xung quanh, biểu hiện mỗi người một kiểu, có người phấn khởi ra mặt, có người thất vọng cau mày.

Lát sau, thấy hoàng hậu nói nhỏ gì đó với cung nữ, cung nữ dõng dạc nói: “Kính thỉnh nhị vị cô nương phiếu hoa số ba và số bảy lên phía trước”.

Cố Thiên Lâm từ từ đến trước ngự tiền hành lễ. Cung nữ lại nói: “Phiếu số ba là của Cố tướng thiên kim, đầu đề là vừa nhảy múa vừa vẽ tranh. Phiếu số bảy là của thiên kim Cao thượng thư, đầu đề là chơi khúc đàn “Vũ đả ba tiêu”. Yêu cầu Cố tiểu thư vừa nhảy múa vừa vẽ tranh, sao cho bước vũ phải hòa nhịp với điệu khúc, yêu cầu đối với Cao tiểu thư là tiếng đàn phải tương hòa với tranh vẽ của Cố tiểu thư, khúc đàn vừa dứt thì tranh cũng phải hoàn thành”.

Mọi người sửng sốt, nếu hai vị tiểu thư phối hợp không tốt, thì hỏng bét. Đề ra như vậy có vẻ như muốn xem các giai nhân làm trò cười.

Chợt thấy ngón tay Cao tiểu thư lay động, tiếng đàn tựa châu ngọc tuôn rơi, liên miên không dứt, Cố Thiên Lâm ngơ ngẩn giây lát, ống tay vừa vung lên, bước nhảy rất chậm. Vung lần nữa nhịp cũng không khớp với tiếng nhạc, thân người bắt đầu uốn nhịp nhanh hơn, một tay nhanh chóng bắt đầu vẽ tranh trên giấy họa. Nhưng tiếng nhạc mỗi lúc một mau. Cố Thiên Lâm soạt soạt vài nét, bước chân múa gấp gáp. Chiếc váy trên người cuốn thành đóa hoa, những đường thêu lóng lánh phát quang vô cùng đẹp mắt.

Bên này những ngón tay Cao tiểu thư vẫn lướt trên phím đàn, thấy Cố tiểu thư vẫn chưa vẽ xong, nhận ra khúc nhạc của mình sắp hết, vậy là đành chơi chậm lại, khúc “Vũ đả ba tiêu” cảnh vườn chuối trong mưa lúc này chỉ còn từng giọt mưa rớt trên tàu lá. Xung quanh bắt đầu nổi lên tiếng cười.

Cố Thiên Lâm do chậm hơn, lại vẫy nhẹ ống tay, thong thả uốn mình, tay vẫn chầm chậm hoàn thành bức họa, đoạn liếc nhìn Cao tiểu thư, mỉm cười hạ nốt nét bút cuối cùng. Cao tiểu thư mới vội vàng đánh cả mười ngón tay, những giọt mưa biến thành cơn mưa rào rào trên tàu lá, kết thúc khúc nhạc.

Hai cô nương lui về chỗ ngồi. A La liếc nhìn bức họa của Cố Thiên Lâm, trong đó chính là cảnh vườn chuối trong mưa, tuy những tia nước hơi rối một chút, nhưng vẫn là bức họa tuyệt vời. Bất giác thầm khâm phục thiếu nữ cốt cách như lan mà trí thông tuệ này.

Cung nữ lại tuyên: “Kính thỉnh phiếu hoa số bốn và số sáu”.

Lần này là Thanh Lôi và thiên kim của Trần thượng thư. Trần tiểu thư gieo vần, số câu tăng dần. Nàng ta nói một câu Thanh Lôi nói lại một câu, đọc xong Trần tiểu thư sẽ phải đọc thuộc lòng từ đầu chí cuối, Thanh Lôi bắt chước đọc lại, không được sai, không được lẫn.

Lần này biểu diễn của hai tiểu thư rất xuất sắc, bây giờ A La mới phát hiện thì ra Thanh Lôi có khẩu tài tốt như vậy.

Lại một vòng nữa, Vương Yến Hồi đứng lên, nhưng chỉ có một mình. Đề bốc được là thiết kế một trò chơi, để mọi người cùng tham gia. Vương tiểu thư cười nói: “Liệu có thể cho vài cung nhân phụ giúp tiểu nữ?”.

Hoàng hậu gật đầu, cung nữ tiến đến trước mặt Vương Yến Hồi, nghe phân công xong liền tản đi. Vương tiểu thư nói, chất giọng trong trẻo vô cùng: “Yến Hồi thấy ngự hoa viên đêm mà sáng như ban ngày, đường đi lại chằng chịt ngoắt ngoéo, nhưng cuối cùng đều trở về chỗ này. Giờ đã sai cung nữ để câu đố ở các ngã rẽ, quý vị nào đoán trúng sẽ biết lộ tuyến tiếp theo, điểm xuất phát và điểm cuối cùng đều ở đây, quý vị nào không đoán ra cũng có thể tự thưởng lãm cảnh đẹp rồi trở về. Quý vị thắng cuộc là người có nhiều sơ đồ lộ tuyến nhất, trò chơi này một là được thưởng thức phong cảnh, hai là được giải câu đố, thêm phần thú vị, không biết nương nương thấy thế nào?”.

Hoàng hậu còn chưa kịp mở miệng, Ninh vương đã phấn khởi cưới lớn: “Tốt, đề này ra rất tuyệt, hoàng hậu có muốn cùng quả nhân tham gia?”.

Hoàng hậu cười: “Nếu hoàng thượng giải được ít câu đố nhất, thần thiếp sẽ không đi theo người nữa!”.

Ninh vương cười khà khà dắt tay hoàng hậu đi trước, mọi người tới tấp đứng dậy đi vào vườn hoa.

Đại phu nhân cười, nói: “Chúng ta có bốn người, tất cả hợp lực, nghĩ cũng không khó”. Lập tức cùng ba cô gái đi vào hoa viên.

A La đã quyết, lần này đánh chết cũng không mở miệng. Vào hoa viên, cây cối được đèn chiếu sáng choang, mặt đường ánh lân tinh nhấp nháy, cả hoa viên giống như một mê cung. Nếu không thuộc đường, muốn vãn cảnh trở về như Vương Yến Hồi nói, e rằng cũng khó. Nếu bị bỏ sau mọi người thì sẽ rất khó coi.

A La vừa đi vừa quan sát, đi một lát đến một ngã ba, đã có cung nữ đứng chờ, đại phu nhân bước lên rút một câu đố, mở ra đọc, Thanh Lôi đã nói ngay đáp án. Cung nữ cúi chào, lại đưa sơ đồ lộ tuyến tiếp theo. Đại phu nhân nhận lấy, tất cả lại đi về phía trước. Đến khi qua hai, ba ngã tư, A La phát hiện nhiều quan khách đã quay trở lại không đi tiếp nữa. Bụng nghĩ có lẽ họ sợ trở về muộn, chỉ cần được vài sơ đồ lộ tuyến trong tay là được rồi.

Đại phu nhân cũng thấy như vậy, lại nhìn Thanh Lôi, Thanh Lôi mỉm cười: “Mẹ cả à, không vào hang cọp sao bắt được cọp con, muốn vượt qua người khác, phải đi tiếp thôi”. Đại phu nhân nói: “Mẹ nghĩ Cố gia thiên kim và Vương gia tiểu thư có lẽ cũng nghĩ như vậy, nếu giữa đường bỏ về, thái tử sẽ coi thường chúng ta”.

Bốn người lại đi tiếp, đến một chỗ, đọc câu đố nhưng không sao giải được, cung nữ lại cúi chào nói: “Phu nhân và tiểu thư là người đầu tiên đến được chỗ này”. Ý nói họ đã vượt qua nhiều người khác.

Đại phu nhân cười nói: “Được rồi, ta quay về thôi”.

Sau khi bốn người quay lại, nhưng chưa đi qua được hai ngã rẽ đã thấy khó khăn. Lộ tuyến lúc đến chỉ ghi nên đi về phía trước, nhưng ngã rẽ lúc này xuất hiện mấy ngả. Nhìn dấu đánh trên bản đồ cơ hồ đều là đường về. A La chỉ biết điểm đích là vị trí đầu con đại bàng, nhưng sau khi đi vào phần thân và cánh mới biết vườn quá rộng, nàng cũng không tìm được phương hướng. Bốn người đều không biết làm thế nào, đại phu nhân nghĩ hồi lâu, nhớ ra con đường lúc đi. Nhưng đi về phía trước một đoạn, lại thấy một ngã ba, đại phu nhân đành dẫn các con đi theo cảm giác, nhưng quanh co một hồi, vẫn không tìm ra đường về.

Trước mặt có bốn con đường, đại phu nhân lập tức quyết định mỗi người đi một ngả. Thanh Lôi phản đối: “Đi riêng lẻ như vậy nếu vẫn không tìm được đường về thì làm thế nào?”.

Đại phu nhân trợn mắt: “Chỉ cần nhìn thấy thị vệ, chúng ta sẽ nhờ họ chỉ đường”.

Vậy là mỗi người đi một đường.

A La ngẩng đầu nhìn sao trời, sao Bắc Đẩu rực rỡ, ánh trăng trong vắt như nước, cây cối, hoa cỏ lay động, mùi hương bảng lảng đâu đây, kỳ ảo như tiên cảnh. Nàng bắt đầu hình dung lại con đường lúc đến, lại nhìn sao trời, đoán phương hướng, quyết định đi về phía trước. Vừa rẽ qua một khúc quành, nhìn thấy một bóng người dáng cao thanh tú đứng phía trước. A La tim đập thình thình, máu như đông lại, vừa định thần, cúi đầu, quay người trở lại đường cũ, thì đã nghe thấy tiếng Lưu Giác hỏi: “Cô nương lạc đường phải không?”.

A La không dám trả lời, vội vàng đi thẳng. Tiếng gió bạt bên tai, bóng người đã lại đứng trước mặt nàng. A La cúi đầu thật thấp.

Lại vẫn tiếng Lưu Giác: “Nàng là thiên kim nhà ai, lạc người nhà phải không?”.

A La nén giọng nói gọn lỏn, “Phải”. Lưu Giác nói: “Đi theo ta. Nàng đi đường này không đúng”.

Có lẽ chàng ta tưởng nàng xấu hổ. A La lại nén giọng nói: “Cô nam quả nữ đi cùng không tiện, công tử chỉ đường là được”.

Lưu Giác “À” một tiếng, nói: “Nàng đi theo hướng lúc ta đến, gặp ngã ba thì rẽ phải, đi qua ngã ba thứ ba lại đi thẳng, đến đó có thể nhìn thấy người rồi”.

A La vội cúi chào, lí nhí cảm tạ, vội đi theo hướng chàng ta chỉ, chỉ sợ bị nhận ra. Đi một lát, đang định thở phào, lại thấy tiếng Lưu Giác: “Cô nương, xin dừng bước”.

A La muốn khóc, trời sắp hại mình rồi, sao lại để mình đi đúng đường này, gặp hắn ta rồi ư? Lòng bấn loạn, tay đã nắm thành nắm đấm, chân dừng lại, đầu vẫn cúi. Lưu Giác hỏi: “Cô nương, trên đường có gặp Cố tiểu thư không?”.

A La lắc đầu, thấy Lưu Giác hình như có chút thất vọng thở dài, lại cắm cúi bước. Lúc này Lưu Giác không đi theo nữa, vừa rồi nàng sợ hút chết. Lưu Giác đi tìm Cố Thiên Lâm sao? Nàng ta vẫn chưa quay về ư? Có phải hắn ta có tình ý với Cố gia thiên kim? A La nhớ lại trong Đào hoa yến, hắn ta đã tặng hoa cho Cố Thiên Lâm. May mà Lưu Giác không có ý với mình, Diêm Vương này mình tuyệt đối không được dây dưa. Nàng thở một hơi, bây giờ phải nhanh chóng quay trở về, không biết đại phu nhân và hai tỷ đã về chưa.

Đi theo đường Lưu Giác vừa chỉ, quả nhiên lát sau đã nhìn thấy cung nữ. A La vội nói với cung nữ, Cố phu nhân và hai tiểu thư có thể vẫn còn trong hoa viên. Cung nữ cười tươi roi rói: “Tiểu thư đừng ngại, có người dẫn họ ra khỏi ngự hoa viên rồi”.

Trở về bàn tiệc, nhìn thấy đại phu nhân đang nói chuyện với hai tỷ, A La bèn đi đến đó. Thấy nàng đã quay về, đại phu nhân cũng rất mừng, bà vẫn sợ A La đi nhầm đường gây ra chuyện. Một lúc lâu sau A La mới nhìn thấy Cố Thiên Lâm quay trở lại, Lưu Giác không đi cùng, không biết anh chàng có gặp nàng ta không. A La nhìn Cố Thiên Lâm, đột nhiên nghĩ, Lưu Giác thích nàng ta, vậy mà nàng ta lại đi tranh giành ngôi thái tử phi, quan hệ phức tạp quá.

Cung nữ lục tục dẫn khách trở về. Một lát sau, nghe tiếng nữ quan tuyên: “Người chiến thắng trong trò chơi đoán đường trong ngự hoa viên này là Lý tướng phu nhân và thiên kim”.

Hoàng hậu cười, nói: “Lý phu nhân và thiên kim cơ mưu hơn người, mời lên lĩnh thưởng”.

Lý phu nhân sung sướng kinh ngạc dẫn ba cô gái đến trước ngự tiền hành lễ lĩnh thưởng. Nghe thấy hoàng hậu hỏi: “Được nghe, Thanh Lôi ngón đàn cao minh, Thanh Phỉ giỏi thư họa, nhưng chưa biết gì về tài của tam tiểu thư”.

Đại phu nhân vội đáp: “Thanh La còn nhỏ, chưa bằng hai chị, đây là lần đầu vào cung”.

Hoàng hậu cười: “Ngẩng đầu để ai gia nhìn nào!”.

A La vội quỳ xuống, ngoan ngoãn từ từ ngẩng đầu. Hoàng hậu chỉ thấy nửa khuôn mặt và chiếc cằm nhọn, cảm thấy tam tiểu thư của Lý gia không như Thanh Lôi và Thanh Phỉ vừa nhìn đã thấy ngay là mỹ nhân. Bèn hỏi: “Ở nhà Thanh La học gì?”.

A La đành trả lời: “Tiểu nữ vừa học thổi sáo mấy ngày, vẫn chưa thành thạo”.

A La ngẩng đầu, vừa dứt lời, trong mấy bóng người khuất sau lưng Ninh vương có người “ồ” một tiếng. Nàng giật nảy mình, giọng này hơi quen, là ai thế? Lưu Giác sao? Nàng lại càng sợ hãi vội cúi đầu.

Hoàng hậu đang muốn tìm điểm yếu nào đó của Lý gia. Trò chơi giải đố này là do Vương Yến Hồi đưa ra, khiến ngay cả Ninh vương cũng vô cùng hứng thú, tân khách hồ hởi tham gia, nhưng người thắng cuộc lại là Lý Thanh Lôi. Nghe Thanh La nói, mới học thổi sáo ít ngày, bình thường cũng không nghe nói tam tiểu thư của Lý phủ có tài cán gì, bèn nảy ra một ý định, nói: “Đứng lên đi, thổi một khúc cho ai gia nghe nào”.

A La nhẹ giọng vâng lời, đầu rối như tơ: Nên thổi hay, hay là thổi dở? Lúc này đại phu nhân và hai tỷ đã quay về chỗ, cung nữ mang cây sáo đến. A La đứng dậy, khi đại phu nhân đi ngang qua nàng đã nói nhỏ: “Không được để tướng phủ mất mặt”. A La thầm nghĩ, không hay không dở vậy, chỉ cần ứng phó là được.

Nghĩ vậy, nàng bình thản thổi một khúc, thổi xong cầm sáo đứng đó. Chỉ thấy hoàng hậu buông một câu: “Xem ra thiên kim Lý tướng cũng không xoàng, ai cũng tuyệt nghệ vô song, cho ngươi lui”. A La vội cúi đầu lùi ra. Đại phu nhân lườm nàng, nói nhỏ: “Sao không học hành cho tử tế, về nhà ta hỏi tội!”.

Coi như là xong, đằng nào cũng không nên làm con chim đầu đàn! A La thầm nhủ.

Cuộc thi tài trong dạ yến kết thúc. Đội ca vũ trong cung bắt đầu biển diễn. Lúc đó cung nữ mới đi thu các phiếu hoa bình chọn. Lát sau, Ninh vương vẫy tay ra hiệu nhạc dừng, mỉm cười vui vẻ: “Phiếu hoa đã thống kê xong, ba người đầu bảng là Cố tướng thiên kim, Lý tướng thiên kim và Vương thái úy thiên kim, quà thưởng sẽ đưa đến các phủ”.

Ba tiểu thư đứng dậy đến trước ngự tiền tạ ơn. Mặt đại phu nhân lúc đó mới từ sầm sì trở thành tươi cười như hoa nở.

Ngồi xem múa hát một lát, Thanh Lôi đột nhiên đỏ bừng mặt, cúi đầu nói nhỏ với Lý phu nhân. Đại phu nhân mỉm cười: “Bảo A La đưa con đi”.

A La ngẩn người: “Mẹ cả, con...”.

“Bảo đi thì đi nhanh lên”. Đại phu nhân vẻ sốt ruột.

A La thở dài đứng lên, nàng không muốn ra ngoài, sợ nhỡ gặp Lưu Giác. Họ cùng đi ra, cung nữ dẫn đường đưa họ vào một động có cửa hình bán nguyệt, chỉ chiếc lều phía xa, Thanh Lôi bèn đi vào, A La đứng ngoài chờ. Lát sau Thanh Lôi đi ra, hai người quay trở lại bàn tiệc, đang đi, bỗng thấy thái tử đứng bên đường. Thanh Lôi nhìn Thanh La, thái tử cũng nhìn Thanh La. A La nghĩ, hai người có lẽ đã hẹn trước, kéo mình theo làm bình phong đây, vậy là tươi cười nói với Thanh Lôi: “Đại tỷ, muội về trước”.

Thanh Lôi vội gọi lại: “Chúng ta cùng về”.

A La nghĩ, sao mà xúi quẩy thế, không cho về, để mình đi đâu đây? Không còn cách nào đành nhận lời: “Muội ra phía kia ngắm trăng, lúc nào về gọi muội”.

Thanh Lôi đỏ mặt gật đầu. A La vòng qua con đường nhỏ, nhìn thấy dãy hành lang, liền đến đó ngồi. Lòng thầm mong hai người nói chuyện nhanh nhanh, yến hội nhanh kết thúc, nhất định không nên gặp Lưu Giác, nhất định không để cho hắn ta nhận ra mình. Đang nghĩ, đột nhiên toàn thân tê dại, người dựa vào cột, không thể động đậy, há miệng cũng không nói được, A La kinh ngạc, sao lại thế này?

Một người từ phía sau vòng lên trước mặt, chính là Lưu Giác. A La toàn thân lạnh toát, thầm rên, hỏng rồi. Oan gia ngõ hẹp sao lại gặp đúng người của vương cung? Ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, bị chém đầu chẳng chơi! A La nhìn Lưu Giác, hoảng hốt. Thấy chàng ta ngồi xuống cạnh mình, mặt đầy phấn khích: “Thì ra là tam tiểu thư của Lý tướng gia, cuối cùng ta đã tìm được”.

A La lúc này chỉ có thể ngồi nhìn chàng ta. Đúng là tránh một ngày, không tránh được cả tháng, càng muốn tránh xa các công tử hoàng gia thì họ càng sáp lại.

Đột nhiên Lưu Giác ghé mặt lại gần, nhìn thẳng vào mắt A La một lát, rồi ngoảnh đầu ra, chép miệng “chà chà”: “Chính là đôi mắt này, không sai”. Tiếp đó là giọng nói gay gắt: “Để ta tìm mãi! Hừ, dám ra tay với tiểu vương gia, cảm giác bị điểm huyệt thế nào?”.

A La hốt hoảng nhìn chàng ta không nói câu gì. Lưu Giác lại tiếp: “Muốn nói phải không? Có điều, ta phải nhắc ngươi trước, đừng có hô hoán ầm ĩ, kinh động thánh giá”. Nói xong hơi giơ tay ra.

A La mở miệng: “Ngươi định thế nào?”.

Lưu Giác nghiêng đầu nghĩ một lát: “Tạm giữ cô nương ở đây hai canh giờ, huyệt đạo giải xong cô lại quay về được chứ?”.

A La hoảng hốt: “Hôm nay không được, đây là hoàng cung, lần trước là ta sai, huynh là đại nhân nên rộng lượng, giơ cao đánh khẽ được không?”. Kịp thời nhận định tình hình mới gọi là đầu óc thông minh, chỉ có ngu ngốc mới cứng cổ giơ đầu chịu báng.

“Dựa vào đâu? Đánh ngất người lại còn cướp ngân lượng, làm gì có chuyện như thế!”.

Gã công tử nhà giàu hống hách bị ta đánh ngất trói gô, lại cướp ngân lượng là đáng đời ! Bây giờ A La không thấy hối hận nữa, bụng rủa thầm, nhưng mặt vẫn tươi cười. Thanh Lôi đứng xa vẫy nàng, A La vội đáp: “Đại tỷ, muội đến ngay”. Thấy Lưu Giác không chịu giải huyệt cho mình, nước mắt trào ra nàng nói: “Ta phải về, nếu gây họa, cha ta đánh chết! Huynh lén ra tay với ta cũng không phải là anh hùng hảo hán, hay là hôm nào chúng ta tỷ thí lại?”.

Lưu Giác thấy nàng mặt đỏ gay, mắt ngấn nước long lanh, vẻ rất tội nghiệp, bật cười “khì” một tiếng. Tìm suốt nửa năm cuối cùng đã biết nàng ta là ai, nỗi phẫn nộ trong lòng đã vơi một nửa. Lại nghĩ đây là vương cung, liền giải huyệt cho nàng, nói với vẻ bề trên: “Chiều mai chờ tiểu vương gia ta ở ven sông phía nam thành”.

A La chạy như bay đến chỗ Thanh Lôi, bụng nghĩ chuyện ngày mai, để mai tính, hôm nay nhất định mình phải về nhà bình yên, càng nghĩ càng thấy ghét Lưu Giác.

Lưu Giác nhìn theo bóng nàng, tâm trạng rất sảng khoái, như vớ được món đồ chơi mới mẻ thú vị, bắt đầu suy nghĩ ngày mai tìm trò hay gì để giỡn Lý Thanh La.

Thanh Lôi chờ đã sốt ruột, nhìn thấy A La chạy đến trợn mắt: “Chuyện hôm nay không được nói với ai! Nếu không thái tử sẽ không bằng lòng”. A La vội gật đầu. Hai người trở về bàn tiệc không lâu thì yến tiệc giải tán, đại phu nhân phấn khởi đưa ba cô gái quay về phủ.

A La kể cho thất phu nhân nghe chuyện trên bàn tiệc, tuyệt nhiên không đả động đến chuyện bị Lưu Giác nhận ra, sợ mẹ lo lắng. Khi lên giường, lại một mình trằn trọc suy nghĩ, ngày mai không thể không đi, có thể làm dịu nộ khí của Lưu Giác là tốt nhất, tránh để hắn ta suốt ngày đến tìm mình gây chuyện. Nàng rất hiểu kiểu người như Lưu Giác, càng đấu hắn ta càng hung hăng. Nghĩ mãi, rồi “hừ” một tiếng, đồ trẻ ranh!

.

Chương 7

.

Sáng sớm hôm sau, khi A La vừa ngủ dậy, đã văng vẳng nghe thấy tiếng tiêu từ rừng trúc vọng lại, nàng chợt nghĩ tới Tử Ly. Thực ra nàng đã không cảm thấy bực mình nữa, nghĩ kỹ lại, có người muốn giết chàng ta, chàng ta cẩn thận một chút cũng là bình thường. Không muốn qua lại với chàng ta là bởi vì cảm thấy Tử Ly thân thế quá bí hiểm, nàng sợ gây ra những chuyện khó cứu vãn. Bây giờ ngoài thất phu nhân, Tiểu Ngọc và vú Trương, nàng không biết có thể tin vào ai. Nghĩ đến lời hẹn với Lưu Giác, A La hơi buồn. Lúc đi vào rừng trúc mới đột nhiên phát hiện tiếng tiêu hôm nay sao gần thế? Vừa ngẩng đầu đã thấy Tử Ly đứng tựa vào thân trúc, thổi tiêu.

Thấy có người đến, Tử Ly dừng lại, quay đầu. A La sững người, theo phản xạ nàng muốn bỏ chạy.

Tử Ly hỏi: “Người dạy nàng thổi sáo là ai?”.

A La ngớ người: “Mẹ ta”. Bụng nghĩ sao chàng ta biết mình biết thổi sáo? Chàng ta nhận ra mình rồi ư?

Tử Ly băn khoăn: “Người hàng ngày thổi sáo trong rừng trúc là ai?”.

A La nói bừa: “Mẹ ta”. Nàng càng nghi ngờ thân phận của Tử Ly, càng không muốn để chàng ta biết mình chính là Sơn đệ của chàng ta, cũng là người ngày ngày thổi sáo ở đây. Tử Ly nhìn A La, như cười như không: “Nhìn thấy ta, nàng không hề giật mình, người thổi sáo là nàng đúng không?”.

“Đây là tướng phủ, ngươi tự tiện xông vào, không sợ bị giải lên quan phủ?”. A La không đáp, hỏi vặn lại.

Tử Ly cười: “Với thân thủ của ta, người còn chưa thấy đâu, ta đã cao chạy xa bay rồi. Thổi tiêu quanh đây đã lâu, ta không khỏi tò mò muốn biết người thổi sáo là ai, thì ra là tam tiểu thư của Lý phủ”.

A La giật mình, không dám nhìn chàng ta. Nàng chưa hỏi tại sao ngày nào Tử Ly cũng đến đây hòa tấu với một người không quen biết. Hơn nữa lại biết thân phận của nàng, cũng nhận ra nàng chính là người thổi sáo. Chàng ta tuyệt đối không đơn giản! Lúc này bên ngoài rừng trúc vang lên mấy tiếng sáo, đó là ám hiệu Tiểu Ngọc báo có chuyện, A La vênh mặt, nói: “Đã nhìn thấy rồi, còn không đi đi?”.

Tử Ly không nhúc nhích, khuôn mặt anh tú thoáng nụ cười: “Tại sao chúng ta không hòa tấu một khúc?”.

A La đầu óc đang bấn loạn, không biết nhà có chuyện gì, cũng không muốn tiếp chuyện chàng ta, vội buông một câu: “Nhà đang có việc, không nói với ngươi nữa”. Nói đoạn, vội bỏ đi.

Tử Ly hơi ngỡ ngàng, lại hơi băn khoăn. Bây giờ cuối cùng mình đã biết người thổi sáo là ai, sao nàng ta lại vội vàng bỏ đi như vậy. Chàng thở dài rồi nhảy qua tường.

A La vội chạy về nhà, thất phu nhân kéo nàng vào phòng, vừa đi vừa nói: “Thánh chỉ đến rồi, mọi người trong phủ ra tiếp chỉ”.

Đi vào đại sảnh, cả nhà đã có mặt đông đủ, một vị thái giám tay nâng thánh chỉ mở ra tuyên đọc.

A La quỳ bên cạnh thất phu nhân, cúi đầu, khi nghe thái giám đọc đến câu “Lý gia trưởng nữ Thanh Lôi, phẩm mạo đoan thục được chọn làm thái tử lương đệ(8)...”, bỗng sững người, những người khác cũng ngơ ngác không hiểu. Thái tử lương đệ, là thiếp của thái tử sao? Liếc trộm Thanh Lôi, thấy mặt Thanh Lôi tái nhợt rồi xanh xám, cố kìm nước mắt.

Thái giám vừa đi khỏi, Thanh Lôi bật khóc: “Tại sao? Tại sao là nàng ta mà không phải là ta? Người điện hạ thích rõ ràng là ta!”.

Lý tướng trái lại, mỉm cười nói: “Ý trời đã vậy, ai biết thái hậu và hoàng hậu liệu có liên thủ gièm pha chuyện con chỉ là con gái thứ thiếp của ta. A Lôi, con đừng buồn, không được làm thái tử phi, nhưng là người thái tử sủng ái nhất cũng tốt. Sau này không được làm hoàng hậu, thái tử cũng không để con thiệt thòi”.

Thanh Lôi đành nước mắt rưng rưng. Lý tướng lại tiếp: “Nếu con gặp lại thái tử nhất định không được tỏ ra oán giận, Vương Yến Hồi mưu lược hơn người, cũng không nên đối đầu với cô ta, con phải giữ chặt trái tim thái tử mới có thể đảm bảo địa vị của mình và vinh hoa phú quý của Lý gia. Mà mọi thứ của Lý gia cũng là hậu thuẫn vững chắc cho con, hiểu chưa?”. Giọng Lý tướng đã trở nên nghiêm khắc.

Thanh Lôi bất lực dựa vào người tam phu nhân gật gật đầu.

A La nghe vậy rụng rời chân tay, lấy hoàng tử phiền phức vậy sao? Chưa kịp kết hôn đã bắt đầu mưu tính.

Trở về Đường viên, mới nghe thất phu nhân than vãn: “Tam Nhi, lần này thái tử tốt rồi, cưới luôn một lúc cả hai người. Thanh Lôi đáng tiếc lại là thiếp, con cái của thứ thiếp không có địa vị gì đâu”.

“Còn Cố Thiên Lâm? Sao không thấy nói đến nàng ta?”.

“Nghe nói hôm nay thánh thượng đã hạ chỉ xuống Cố phủ, Cố tiểu thư làm chính phi của tứ điện hạ”.

A La ồ một tiếng, trong năm vị đại công tử Phong thành nàng vẫn chưa nhìn thấy tứ hoàng tử và Cố Thiên Tường. Xem ra mệnh của Cố Thiên Lâm còn tốt hơn Thanh Lôi nhiều. Tứ hoàng tử sau này dù thế nào cũng là một vương gia, hơn nữa ít nhất cũng không một lúc cưới hai vợ. Nghĩ đến sau khi lấy người ở đây phải đối mặt với vô số các bà vợ của họ, A La đã rùng mình. Bất luận thế nào nàng cũng không chịu nổi cảnh đa thê. Cứ nhìn tốc độ gả con của Lý tướng, nếu nàng không muốn lại bị nhốt vào một cái lồng khác, thì nên nhanh chóng kiếm ít ngân lượng, cao chạy xa bay trước khi bị Lý tướng bán đi, thế mới là thượng sách.

A La chầm chậm đi vào rừng trúc, nhìn mặt trời, biết là không thể nào đến chỗ hẹn với Lưu Giác ở bờ sông phía nam thành. Nhưng quả thực không muốn ở trong phủ, bèn nói với thất phu nhân và Tiểu Ngọc, cải trang một chút rồi vượt tường ra ngoài.

Mình nên làm gì bây giờ, mua hai căn nhà, bạc đã vơi một nửa, chỗ còn lại phải để duy trì hai căn nhà kia. A La chầm chậm đi về phía bờ sông, ngồi suy nghĩ, đi kiếm bạc ở đâu? Gió sông rất dễ chịu, nàng ngồi dựa gốc liễu, dần dần ngủ thiếp đi.

Khi Tử Ly đi đến bờ sông, nhìn thấy dáng A La đang thiu thiu ngủ, bỗng cảm thấy thích thú, nhẹ nhàng vòng qua, cúi gần ngắm nghía, không muốn làm nàng thức giấc, càng nhìn càng thấy giống tam tiểu thư của Lý tướng, Tử Ly cau mày dùng ngón tay chấm tý nước sông nhỏ lên cổ A La rồi lau nhẹ.

A La bị đánh thức, mở mắt, ngơ ngác: “Tử Ly, sao huynh lại đến đây?”.

Mắt Tử Ly sáng lên: “Sơn đệ, sao đệ lại đến đây?”.

A La cười, “Ở trong phủ mãi thấy chán, ra ngoài dạo loanh quanh, ở đây yên tĩnh, không ngờ ngồi chơi một lúc lại ngủ mất”. Nghĩ đến lời hẹn với Lưu Giác, cảm thấy nhất định xảy ra chuyện. Nhìn mặt trời, đoán là đã đến giờ Mùi, Lưu Giác không thể đợi ba canh giờ ở bờ sông. Nàng đã thất hẹn, không biết hắn ta giận đến mức nào, sẽ đối phó với nàng thế nào, nghĩ vậy bất giác thở dài.

“Vẫn còn giận đại ca sao?”. Vừa dứt lời, Tử Ly đã thấy kinh ngạc, tại sao mình lại lây tâm trạng của Sơn đệ, cũng thấy nóng ruột như vậy. Tử Ly mím môi, ánh mắt nhìn A La đã có phần thiếu tự nhiên.

A La cười: “Sao có thể? Hôm nay có người hẹn gặp đệ vào giờ Ngọ, nhà có việc không kịp đi, lòng áy náy sợ người ta giận, đại ca sao lại đến đây?”.

“Ở đây yên tĩnh, đúng lúc lòng có tâm sự”.

A La ồ một tiếng, không nói nữa.

Tử Ly hiếu kỳ: “Sao đệ không hỏi ta có tâm sự gì?”.

A La liếc nhìn chàng ta: “Đệ tôn trọng chuyện riêng tư của người khác, nếu huynh muốn nói tự khắc nói ra, nếu không muốn, hỏi cũng vô ích”.

Tử Ly nói: “Đệ hỏi huynh sẽ nói”.

A La bất lực: “Vậy được, huynh có tâm sự gì?”.

Miệng Tử Ly hé cười: “Huynh quen một cô nương biết thổi sáo, huynh thường xuyên đến đây thổi tiêu hòa tấu với tiếng sáo của nàng ấy, huynh luôn nhận ra tâm sự của cô nương đó qua tiếng sáo, có lúc rất vui, nhưng đa phần đầy uẩn khúc tâm tư. Cô nương ấy rất thông minh, học sáo rất nhanh, nhưng đến một hôm nàng ấy đột nhiên không thổi sáo nữa, mặc cho huynh dùng tiếng tiêu mời gọi, trách móc, nàng ấy cũng nhất định không xuất hiện. Sơn đệ, đệ nói xem cô nương ấy làm sao?”.

Mắt Tử Ly như phát ra tia sáng, hai đồng tử ánh lên một thứ khiến A La không dám nghĩ. Nàng không thể nhìn thẳng vào mắt chàng ta, trầm ngâm lúc lâu mới nói: “Huynh đã nghe ra rất nhiều tâm tư của cô nương ấy, vậy thì chắc chắn nàng ấy có nỗi phiền lớn, có nỗi phiền tất nhiên không thể hòa tấu với huynh”.

Tử Ly nhìn mái đầu cúi xuống của A La, không muốn ép nàng nữa, vui vẻ trở lại: “Sơn đệ, chẳng phải đệ rất thích món ngon, huynh đưa đệ đến một nhà hàng thưởng thức, được không?”.

A La lườm chàng ta: “Không có người cầm dao đâm huynh nữa chứ? Đệ sợ chết lắm”.

Tử Ly cười lớn: “Có đại ca ở đây, bảo đảm không kẻ nào dám làm đệ bị thương một tấc”. A La nghiêm túc, nói: “Đệ rất sợ những chuyện rắc rối, bởi vì đệ không có khả năng xử lý rắc rối, huynh có đảm bảo không để đệ rơi vào những chuyện rắc rối không?”

Tử Ly cũng nghiêm túc: “Đương nhiên”.

“Huynh không phải là người xấu chứ, đệ khẳng định đệ là người tốt”.

Tử Ly cảm thấy buồn cười: “Huynh khẳng định huynh không phải là người xấu. Sơn đệ, sao mới có mấy ngày mà đệ đã trở nên đa nghi như vậy?”.

A La cúi đầu thở dài: “Bởi vì huynh nghi ngờ đệ trước. Hơn nữa lại có người muốn giết huynh, lai lịch của huynh không đơn giản, đệ khẳng định đệ không địch nổi”.

“Sơn đệ, lòng đệ đang lo sợ điều gì?”.

A La nghĩ, tôi chẳng sợ gì hết, những thứ tôi sợ quá nhiều. Chỉ cần nghĩ đến có ngày bị Lý tướng mang đi bán là tôi không thể nào vui lên được.

Tử Ly nhìn khuôn mặt tủi thân của A La, thầm thở dài, mỉm cười nói với nàng: “Sơn đệ, nhăn mày lần nữa thì không còn là tiểu công tử khôi ngô nữa rồi, vui lên đi, có việc gì đại ca sẽ giúp. Bây giờ chúng ta đi ăn được không?”.

A La nghĩ, buồn cũng chẳng ích gì, trước hết cứ đi ăn chiêu đãi đã, nhân tiện xem có việc gì có thể kiếm tiền. Hai người vẫn cưỡi chung ngựa đến khu thương mại, lần này đến một tửu lầu khác, theo lời của Tử Ly, Tửu phong lầu này tốt nhất Phong thành. A La hỏi: “Đại ca, món ăn ở đây cũng đắt như lần trước sao? Một bữa bằng thường dân ăn cả tháng”.

Tử Ly cười: “Không đâu, chỉ cần không gọi món đắt nhất là được.Thế nào, định tiết kiệm tiền cho đại ca ư?”.

A La lắc đầu: “Đệ muốn nói, nếu vẫn đắt như vậy, huynh không cần mời đệ ăn, đưa thẳng bạc cho đệ cũng được”.

Tử Ly bật cười thành tiếng: “Sao đệ lại thích bạc đến thế!”.

A La nói thẳng: “Không có tiền đi một bước cũng khó, có tiền đi khắp thiên hạ! Bạc rất quý, yêu bạc có nghĩa là yêu cuộc sống”.

Tử Ly nhìn nàng, mỉm cười không nói gì. Nàng ấy luôn có thể làm cho chàng bật cười, đạo lý nói ra cũng có phần khác lạ.

Vào đến tửu lầu, tiểu nhị dẫn họ lên lầu hai. A La hiếu kỳ quan sát lầu một, ánh mắt lập tức bắt gặp Lưu Giác đang ngồi ở bên cửa sổ, hoảng hốt, cúi đầu vội quay trở lại.

Tử Ly theo sau A La, khẽ cau mày, nhìn Lưu Giác ngồi bên cửa sổ, lại nhìn A La đang quay người đi xuống lầu, chàng cũng xuống theo.

A La nặn ra nụ cười: “Đại ca, đệ muốn về nhà, hôm khác ăn được không?”.

Tử Ly đoán biết giữa nàng và Lưu Giác chắc chắn có chuyện gì. A La không chịu nói, chàng cũng không nài, chỉ cười nhạt đưa nàng lên ngựa trở về bờ sông, rồi quay đi.

Đến khi chàng quay trở về Tửu phong lầu, Lưu Giác đã đi khỏi. Tử Ly gọi một nậm rượu, ngồi bên cửa sổ, chìa ngón trỏ trái ra xem, đầu ngón tay còn dính lớp bột màu nâu. Tử Ly bất giác bật cười, rồi thôi cười, uống liên tục, hết chén này sang chén khác, một nỗi u uẩn hiện dần trong mắt chàng. A La trở về nhà, tối đó hơi khó ngủ. Luôn cảm thấy Lưu Giác sẽ đến tìm mình gây sự, trằn trọc mãi không nghĩ ra đối sách. Đến bây giờ nàng vẫn chưa tìm được cách nào kiếm ra tiền, ngày rời tướng phủ cũng càng xa vời, cuộc sống cứ thế này trôi qua, đến một ngày Lý tướng đem nàng đóng gói đưa đi bán thì biết làm sao? Tử Ly có thể giúp nàng không? Chàng ta có tin nàng không? A La cảm thấy khổ sở vô cùng.

Sáng sớm hôm sau, tiếng tiêu của Tử Ly lại từ rừng trúc vọng đến. A La thầm nghĩ, tại sao Tử Ly lại hứng thú với tam tiểu thư của Lý phủ như vậy? Là bởi vì hai người đã hòa tấu với nhau suốt hai tháng qua ư? Cải trang thành người khác trước mặt Tử Ly, nàng cảm thấy quá khó khăn. Hơn nữa, tài hóa trang của thất phu nhân, nhiều nhất cũng chỉ thay đổi được hàng lông mày và làn da, lâu dần Tử Ly sẽ nhận ra. Bây giờ mỗi khi ở bên chàng ta, nàng lại thấp thỏm, hay là nên nói sớm với chàng ta. Không biết Tử Ly có giúp được mình không, bởi vì Lưu Giác là tiểu vương gia của phủ An Thanh vương kia mà. A La thở dài đi vào rừng trúc.

Tử Ly cười dịu dàng. Chàng đang đợi, đợi A La nói với chàng, nàng chính là La Sơn, La Sơn chính là nàng.

Nhìn thấy Tử Ly, A La cũng không còn ngạc nhiên nữa: “Sao huynh lại đến?”

“Hôm qua nàng đi vội quá không kịp trả lời, vì sao không hòa tấu với ta nữa”.

A La đến ngồi xuống một tảng đá, hai tay che cằm, suy nghĩ lại lần nữa, rồi ngẩng đầu nhìn Tử Ly: “Đại ca! Ta... ta chính là La Sơn”. Nói xong cúi đầu có vẻ rất xấu hổ.

Tử Ly làm bộ ngạc nhiên: “Đệ nói đệ là Sơn đệ sao?”.

A La nói: “Muội cải nam trang, bôi mặt”.

Tử Ly đi đến trước mặt nàng, quỳ xuống nhìn nàng: “Để ta ngắm kỹ xem nào”.

A La nghiêm nghị nhìn thẳng vào mắt chàng. Tử Ly nhìn kỹ A La, khuôn mặt nhỏ nhắn, cằm nhọn xinh xinh, môi như cánh hoa, cặp mày khuất dưới mái bờm, hai mắt ướt long lanh như ngọc nổi bật giữa làn da trắng tuyết. Không nhìn kỹ, sẽ không nhận ra A La lại đẹp mê hồn như vậy. Tử Ly nhìn mắt A La, trong đó lóe lên điểm đen huyền bí mà chàng không quen, giống như dòng nước xoáy hút chàng vào đó, bất giác ngây ra nhìn.

Tử Ly nhìn không muốn rời, A La đỏ mặt, nghiêng đầu, tưởng chàng không tin: “Đại ca, chúng ta lần đầu gặp nhau ở ven sông, lúc đó huynh đang thổi tiêu, muội đã quấy rầy”. Tử Ly sực tỉnh, khẽ cười: “Ta biết, muội lấy tên Sơn đệ, là có hàm ý con thứ ba trong nhà phải không?”(9).

A La gật đầu.

Tử Ly ngồi xuống bên nàng hỏi: “Sơn đệ, à, bây giờ nên gọi thế nào?”.

“Cứ gọi tên cũng được, mẹ thích gọi muội là Tam Nhi, những người khác trong nhà gọi là A La, họ tên đầy đủ là Lý Thanh La, tùy huynh gọi”.

“Làm gì có cô nương nào để người ta tùy tiện gọi tên lúc còn con gái, muội to gan thật”.

A La lúc này mới sực nhớ họ không cùng thời đại, không thể tùy tiện gọi tên. Bèn nhẹ nhàng nói: “Đại ca cứ gọi muội là A La, tên chỉ là một ký hiệu, gọi thế nào cũng vậy”.

Tử Ly cảm thấy A La là người rất mực cởi mở, cười nói: “Được thôi, A La muội có điều gì phiền muộn?”.

A La buồn bã, nói: “Muội không biết làm thế nào để kiếm ra bạc”.

Tử Ly hiếu kỳ: “Muội cần kiếm bạc làm gì?”.

A La tư lự: “Có bạc mới có thể rời tướng phủ đi du ngoạn khắp nơi”.

“Lý tướng tuyệt đối không cho phép”.

“Cho nên muội mới định tự mình kiếm tiền”.

Tử Ly cau mày: “Thực ra bên ngoài rất nguy hiểm, mấy chiêu quyền cước của muội có thể ứng phó người không biết võ công, nhưng nếu gặp người có võ công thực sự thì khỏi nói”.

A La thở dài, nghĩ tới Lưu Giác biết khinh công, lại biết điểm huyệt, Tử Ly cũng có khinh công nhảy vọt qua tường, trong khi bản thân hì hục trèo tường vất vả, “Đại ca, nhưng muội rất muốn chu du khắp nơi, huynh dạy muội cách kiếm tiền được không?”.

Tử Ly nhìn đôi mắt cầu khẩn của A La, không thể nào từ chối, cười nói: “Vậy muội biết những gì, nói huynh nghe nào”.

Mắt A La sáng lên: “Muội biết nấu ăn, chắc chắn ngon hơn ba món đặc sắc ở Thiên phong lầu”.

Tử Ly lắc đầu, không tin: “Nấu cho huynh ăn huynh mới tin”.

A La vui sướng nhảy lên, hỏi: “Đại ca, nếu muội nấu ngon hơn Thiên phong lầu, huynh có chịu bỏ tiền mở tửu lầu cho muội làm không, bạc kiếm được chúng ta chia đôi”.

Tử Ly không nhịn được cười: “Được, cứ quyết như vậy, ta đi thôi”.

A La vui sướng nhảy chân sáo, nhất thời quên mất Tử Ly cũng biết khinh công, kéo chàng ta trèo tường. A La mấy bước đã lên mặt tường, vẫy Tử Ly: “Đại ca, lên đi, mau lên!”.

Tử Ly ngẩng đầu nhìn A La, lúc đó trông nàng như một tiểu đồng lanh lợi. Tiếng sáo u hoài không hợp lứa tuổi nàng, nhưng chỉ cần nàng cất tiếng cười là tựa như thủy tinh trong vắt, không chút sầu vương. Tử Ly thấy lòng xao động, bỗng muốn cùng nàng vượt tường. Chàng sải mấy bước đã tới mặt tường, thấy A La mang ra chiếc thang dây, chàng cười to, ôm lấy nàng cùng vọt ra ngoài.

A La cười hớn hở: “Vui quá, quên mất đại ca biết khinh công”.

A La không cải trang, Tử Ly gọi tùy tùng thuê chiếc kiệu, nói với nàng: “Khi nào muội cải nam trang, đại ca sẽ dạy muội cưỡi ngựa”.

Ngồi kiệu cũng tốt, vừa đi vừa thong thả ngắm cảnh bên đường, A La ngồi trong kiệu vén rèm, háo hức nhìn ra. Tử Ly cưỡi ngựa đi bên cạnh, thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn nàng, A La bịt miệng cười thầm, dáng chàng cưỡi ngựa tuyệt thật. Đến Thiên phong lầu, không biết Tử Ly nói gì, một vị sư phụ ân cần nói với A La: “Tiểu thư, mời theo tôi vào bếp”. Nàng nhìn Tử Ly. Chàng ngồi bên bàn giả bộ nghiêm nghị: “Khó ăn quá là không được đâu”.

A La đắc ý ngẩng đầu, đi theo sư phụ vào trong. Gần một canh giờ sau mới bê đồ ăn lên bàn.

“Muội vào bếp lâu như vậy, chỉ làm được món canh suông thế này ư? Món này chẳng phải chỉ cần cho rau vào nồi đun sôi là xong hay sao?”.

A La bĩu môi: “Tam tuyệt mỹ vị của Thiên phong lầu còn lâu mới sánh được, cái hay của món này là ở chỗ, mới thoạt nhìn thực khách cứ tưởng chỉ là canh suông bình thường. Đại ca nếm đi”.

Tử Ly cười, múc một thìa đưa lên miệng. Thấy chàng cau mày, rồi vẻ kinh ngạc sung sướng dần dần hiện trên khuôn mặt: “Thiên phong lầu phen này phải đóng cửa thôi”. Chàng nhìn A La, mắt đầy tán thưởng: “Vị thanh mà ngọt lịm, thơm ngon khác thường, làm thế nào vậy?”.

A La bắt đầu tán: “Rau cải trắng chỉ lấy phần nõn trong cùng có màu hơi vàng, để lửa vừa chín tới không được nát. Nước dùng được hầm bằng gà già, vịt già, móng giò, xương sườn, gân bò khô, lại thêm rất nhiều gia vị, mới có được vị ngọt mát như vậy, lại phải hớt hết bọt, sao cho nước dùng trong vắt không một mảy may váng mỡ. Một canh giờ ư? Là muội sợ huynh đợi lâu sốt ruột mới làm vội như thế”.

Tử Ly cười: “Là đầu bếp của tướng phủ dạy muội sao?”.

“Bí mật, chuyện này không thể tiết lộ”.

Tử Ly bắt đầu vừa húp nước canh vừa ăn rau cải. Nhìn chàng ăn rất ngon lành, lòng nàng cũng thấy vui vui. A La nhớ lại, trong thời hiện đại có lần được ăn món canh này, lúc đó không biết nguồn cơn, chỉ thấy một bát canh bán những mười tám đồng thì quá đắt, suýt cãi nhau với chủ quán. Sau mới biết đó là đề thi dùng cho đầu bếp cấp một, bèn đi học nấu bằng được.

“Quá ngon, quá ngon, tốt quá, huynh sẽ mở tửu lầu, muội không cần động tay, dạy nhà bếp làm là được. Một bát canh bán mười lượng bạc, chúng ta mỗi người một nửa”.

A La kinh ngạc: “Đắt vậy sao? Có người ăn không?”.

“Muội yên tâm, của hiếm là của quý. Người giàu sẽ thích món này”.

A La nhẩm nhanh con tính, nếu vậy, không đầy mấy tháng mình đã trở thành triệu phú thời cổ đại rồi! Có thể rời tướng phủ, có thể đi ngao du tứ xứ, có thể tự do! A La chắp hai tay, mắt lim dim, miệng thầm thì: “Thời cổ đại cái gì có thể giúp kiếm được nhiều tiền nhất? Trí tuệ hiện đại! Cảm tạ thần linh đưa tôi đến đây mà không cướp đi ký ức của tôi, cảm tạ bà mẹ luôn bận rộn để tôi sống tự lập, cảm tạ bà chủ quán đã thu mười tám đồng bát canh...”.

Tử Ly cảm thấy buồn cười nhìn A La xúc động cầu khấn, khuôn mặt nhỏ nhắn như phát sáng, hàng mi rung rung như cánh bướm sắp bay, trong lòng trào lên nỗi thương cảm, chàng thở dài, nắm tay A La nói giọng chân thành: “A La, để đại ca chăm sóc muội được không?”.

A La sững sờ nhìn chàng. Trong mắt Tử Ly có một thứ khiến nàng giật mình, khiến nàng mơ hồ, khiến nàng lờ mờ hiểu ra, giống như khẩn cầu, giống như thương xót, giống như... Nàng kinh ngạc, cúi đầu cười: “Muội không ngờ ở đây muội lại gặp được một đại ca tốt với muội như vậy! Hy vọng huynh vẫn là bằng hữu cùng phường làm ăn của muội”.

Tủ Ly vừa bực vừa buồn cười, ngẫm nghĩ có lẽ là do nàng ấy còn nhỏ, không hiểu ý mình. Đang định mở miệng thì có tiếng cười lạnh lùng vang lên: “Thì ra đã tìm được chỗ dựa mới ngang nhiên như vậy, khiến tiểu vương gia ta phí công chờ đợi!”.

Giọng nói lọt vào tai A La giống như tiếng sét, nàng sợ đến mức toàn thân run rẩy, ra sức trấn tĩnh, ngoái đầu nhìn, người đứng ở chân cầu thang chẳng phải Lưu Giác sao? Hắn ta đứng tựa vào đó một cách uể oải, dáng người thanh, ngũ quan tuyệt đẹp có một vẻ tuấn tú rỡ ràng. Chỉ có điều mặt cười nhưng mắt lạnh như băng.

Tử Ly nói: “Tiểu vương gia cũng đến Thiên phong lầu dùng cơm?”.

“Vốn định thế, nhưng bây giờ không muốn nữa, cáo từ!”. Trong ngữ khí của Lưu Giác đã đặc mùi thuốc súng, lúc bỏ đi, A La cảm thấy ánh mắt lạnh băng của hắn ta dừng lại trên người mình, bỗng thấy tóc gáy dựng ngược.

Tủ Ly nhìn vẻ khiếp sợ của A La, không nén nổi tò mò nên vội hỏi: “Hôm qua không đến chỗ hẹn với người ta sao?”.

Tử Ly quen Lưu Giác ư? Phải một lúc lâu sau A La mới phục hồi thần trí: “Trong Đào hoa yến, muội không biết chàng ta là ai, đánh chàng ta ngất xỉu, trói vào cây, cướp bạc của chàng ta. Trong dạ tiệc thưởng nguyệt trung thu vừa rồi bị chàng ta nhận ra, hôm qua hẹn muội đến ven sông nam thành tỉ thí, nhưng nhà có việc muội không đi được”.

Tử Ly càng nghe, nụ cười trong mắt càng lộ rõ, không ngờ người như Lưu Giác lại bị chết đứng trong tay một cô nương bé nhỏ. Hình dung ra cảnh đó, không nhịn nổi, chàng cười ngất: “A La muội thú vị thật! Đừng sợ! Đại ca sẽ bảo vệ muội”.

A La nhìn Tử Ly thần sắc không đổi, cảm thấy tự tin hơn nhiều, nhưng cũng lại càng thấp thỏm, không biết thân thế người này lớn thế nào, dám chọc giận tiểu vương gia của phủ An Thanh vương. Tử Ly không nói, nàng cũng không tiện hỏi, thầm nghĩ, dù thế nào Lưu Giác cũng là tiểu vương gia của An Thanh vương, cháu ruột Ninh vương, loại công tử quý tộc này là không bao giờ chịu nổi ấm ức. Oán thù nên cởi không nên buộc, vẫn nên tìm Lưu Giác giải thích rõ, ngộ nhỡ liên lụy đến Tử Ly thì phiền lắm.

__________

Chú thích:

8. Lương đệ tức là thiếp của hoàng thái tử; là người có phẩm cấp tương đối cao trong số thiếp của thái tử, vị trí chỉ đứng sau thái tử phi (BTV).

9. Tiếng Trug Quốc "Sơn đệ" đọc là shan di, đồng âm với di san, nghĩa là người con thứ ba (ND).

.

Chương 8

.

Lưu Giác trở về vương phủ, hầm hầm tức giận, triệu tập đám thuộc hạ tỉ thí với mình, chàng ra đòn mạnh như gió lốc, không chút nương tay, đến khi đám thuộc hạ bị đánh ngã ngục, nằm ngổn ngang trên đất, tay chàng đã tê cứng mới dừng lại, không thèm nhìn họ một cái, lập tức bỏ về phòng, tức giận, trợn mắt nhìn bức họa trên tường.

Lưu Anh nơm nớp liếc nhìn khuôn mặt tái xanh, sắt lại của chủ nhân, không hiểu tại sao chúa thượng xưa nay vốn dĩ vui buồn ít bộc lộ, vậy mà hôm nay lại nổi giận đùng đùng như thế, bèn nói nịnh một câu: “Chúa thượng, tìm được cô nương đó rồi định báo thù thế nào?”.

Lưu Giác nghe vậy, hỏa khí lại bốc ngùn ngụt, liếc xéo Lưu Anh cười khẩy: “Tam tiểu thư của Lý tướng, em gái thứ phi tương lai của thái tử, có mối quan hệ không bình thường với tứ hoàng tử, nhà ngươi thấy tiểu gia ta nên báo thù thế nào?”.

Lưu Anh càng nghe càng thấy nóng tai, tiểu a đầu đó thân phận quả không nhỏ, chẳng trách to gan dám đánh ngất tiểu vương gia. Chuyện này không thể công khai ra tay, xem ra tiểu vương gia đang điên đầu vì thế. Nghe nói nàng ta có mối quan hệ không bình thường với tứ hoàng tử, tự dưng trở nên lắm lời, hỏi: “Tứ điện hạ chẳng phải được hoàng thượng ban hôn, sắp cưới Cố tướng thiên kim hay sao?”.

Trong Đào hoa yến, Lưu Giác sau khi nghe Cố Thiên Lâm chơi đàn, rất có cảm tình với cô nương lan tâm tuệ trí này, lại thêm trong dạ tiệc thưởng trăng đêm trung thu nhìn thấy Cố Thiên Lâm múa rất đẹp, đã âm thầm sinh lòng mến mộ. Lúc đó, do có việc phải đi, chàng không kịp nghe tiếng đàn của Lý Thanh Lôi, sau đó nghe tin thái tử động lòng sâu sắc bởi khúc “Thu thủy” của Lý Thanh Lôi, chàng có phần không tin. Trong dạ tiệc trung thu, chàng một mình đi tìm Cố Thiên Lâm, loanh quanh thế nào lại gặp nha đầu đã đánh ngất mình. Hàng ngày chàng trầm ngâm rất lâu trước bức họa, nhìn ngắm Cố Thiên Lâm, nhưng lại không nhận ra đôi mắt đẹp lóng lánh như thủy tinh kia đã in sâu vào tâm trí mình tự lúc nào. Hôm nay Cố Thiên Lâm được ban hôn cho tứ hoàng tử, Lý Thanh La cũng bám lấy chàng ta, Lưu Giác sao không tức giận?

Lưu Anh thấy tiểu vương gia đang nhìn ngắm bức họa trên tường, người trong tranh chính là Cố Thiên Lâm, bất giác lấy tay tát vào mặt mình, hối hận cáo tội: “Thuộc hạ nói bậy, tội đáng muôn chết!”.

Lưu Giác nghĩ một hồi mới nảy ra chủ ý: “Thôi được, chuẩn bị ngựa, ta muốn đến thăm Lý tướng”.

Lý tướng thấy Lưu Giác xuất hiện, trong đầu lập tức nảy sinh bao suy đoán. An Thanh vương chiến công hiển hách, bao năm lãnh binh đồn trấn biên thành phía tây, vương phủ trên dưới đều do tiểu vương gia này sắp đặt, cai quản đâu ra đấy, có thể thấy người này năng lực không tầm thường.

Thanh Lôi sắp được gả cho thái tử, bản thân mình đương nhiên dốc lòng ủng hộ Đông cung. Bây giờ triều đình đa phần hướng về thái tử, nhưng có một bộ phận quần thần lại ủng hộ tứ hoàng tử. Thái tử là đích tử do đương kim hoàng hậu sinh ra, tứ hoàng tử là đích tử của hoàng hậu quá cố Trần thị. Ninh vương vẫn tình sâu nghĩa nặng đối với cố hoàng hậu Trần thị, do tổ chế quy định lập con trưởng kế vị và thế lực bên ngoại của đương kim hoàng hậu nên tuy đã lập Lưu Giám làm thái tử, nhưng vẫn âm thầm yêu thương tứ hoàng tử. Ái nữ của Vương thái úy trở thành thái tử phi, tứ hoàng tử rõ ràng ở vào thế bất lợi, Ninh vương lập tức ban ái nữ của Cố tướng cho tứ hoàng tử. Đế tâm khó dò, nếu Ninh vương có ý sau đại hôn lễ sẽ cho tứ hoàng tử kế vị, thì ý kiến của An Thanh vương hết sức quan trọng. Chỉ cần An Thanh Vương ủng hộ tứ hoàng tử, thế lực hai vị hoàng tử tương đương, nhưng nếu ông ta ủng hộ thái tử, tứ hoàng tử trong tay không nắm binh quyền, đương nhiên không có cơ hội. Lúc này tiểu vương gia của An Thanh vương lại đến thăm, không biết có dụng ý gì?

A La vừa từ bên ngoài về, nghe gia nhân truyền báo đến đại sảnh Lý lão gia muốn gặp nàng. Không biết xảy ra chuyện gì, A La đi vào đại sảnh trang nghiêm hành lễ. Vừa nhìn thấy Lưu Giác ngồi một bên cười như một con hồ ly, liền biết chàng ta đến tìm mình, nàng giả bộ lần đầu nhìn thấy, cúi đầu cụp mắt đứng yên.

Lý tướng cười khà khà: “A La, tiểu vương gia trong đêm hội yến trung thu nghe con thổi sáo, rất tán thưởng tiếng sáo bay bổng tuyệt tác của con, vô cùng ngưỡng mộ. Tiểu vương gia cũng tinh thông âm luật, muốn mời con tham gia dạ yến tối nay, cùng thổi sáo ngắm trăng, tâm sự hàn huyên, con đi đi”.

Nói dối! A La thầm mắng, nhưng miệng lại lễ phép, ngọt ngào đáp lời: “Cho phép A La trở về sửa sang y phục”. Cúi chào xong, vội lui gót. Ra khỏi phòng lớn, A La thầm thở than, tiểu vương gia này tâm địa hẹp hòi, đúng là tiểu nhân! Chỉ có tiểu nhân mới dùng thủ đoạn bỉ ổi như vậy. Hắn ta, hắn ta và Lý tướng là rắn, chuột cùng một ổ, đều xấu bụng! Phí hoài cái diện mạo đẹp đẽ! Nhìn thấy hắn ta là thấy buồn lòng.

Lý tướng và Lưu Giác nhìn nhau cười, thâm tâm mỗi người đều có toan tính riêng.

Vừa ra khỏi tướng phủ, A La vén rèm kiệu lạnh lùng hỏi Lưu Giác: “Tiểu vương gia định đưa tiểu nữ đi đâu?”.

Lưu Giác cưỡi ngựa đi bên cạnh, thấy nàng hỏi như vậy, tỏ vẻ lạ lùng: “Đi dự tiệc, thổi sáo, nói chuyện hàn huyên”.

A La nghiến răng, sao có chuyện đơn giản thế. Quả nhiên kiệu bỗng dưng bị rung lắc dữ dội, A La bị lắc đến tức ngực, lồng ngực thúc từng cơn, miệng buồn nôn, hít sâu một hơi mới từ từ dịu xuống, nhắm mắt tưởng tượng ra các món ăn, lẩu, cá nướng cay, đậu phụ, bột chua cay... tất cả những thứ có mùi có vị. Lại bắt đầu tưởng tượng tửu lầu mình với Tử Ly hợp tác mỗi tháng thực khách tấp nập, ngân lượng chảy vào túi như nước. Hình dung cảnh tượng đưa thất phu nhân và Tiểu Ngọc đi chu du những miền đất lạ từng đọc trong sách, cố gắng di chuyển sự chú ý. Tuy nhiên, kiệu lại như dốc ngược, đầu lộn xuống dưới. Nàng biết đó là Lưu Giác giở trò, cố nín nhịn, nhưng cuối cùng vẫn phải kêu lên: “Dừng kiệu, dừng kiệu, ta muốn nôn!”.

Kiệu dừng, A La xông ra ngoài, chạy đến một góc nôn thốc nôn tháo. Lưu Giác trên lưng ngựa tỏ vẻ phẫn nộ: “Còn đi hơn nửa canh giờ nữa mới đến nơi, các người khiêng thế nào vậy?”. Chàng cố ý bảo phu kiệu khiêng kiểu đó, để A La bị rung lắc, khốn khổ phải cầu xin chàng tha tội.

A La nôn xong, cảm thấy dễ chịu hơn nhiều. Ngẩng nhìn thấy Lưu Giác bề ngoài tỏ ra tức giận mắng phu khiêng kiệu, nhưng trong mắt đầy vẻ đắc ý, biết chàng cố tình, lại nghe nói còn nửa canh giờ nữa. Một tiếng đồng hồ! A La nổi cáu, ngươi đã muốn thấy ta khốn đốn, vậy sẽ để cho ngươi nhìn đã mắt, ta sẽ nôn suốt đường cho ngươi xem, ta quyết không tỏ ra yếu thế! Nàng bình tĩnh ngồi vào kiệu: “Đi thôi, kẻo lỡ mất bữa tiệc tối của tiểu vương gia lại đắc tội”.

Lưu Giác ngớ người, liếc thấy các phu kiệu tỏ ra áy náy, không nỡ, bực mình quất ngựa phóng thẳng: “Gặp nhau ở ven sông Đô Ninh, trên thuyền Lưu Hương”.

Chàng vừa đi khỏi, kiệu lại bình thường, không đến hai khắc đã ra khỏi cổng phía nam đến ven sông Đô Ninh.

Sông Đô Ninh rộng mười ba trượng có dư, nước cuồn cuộn chảy về đông, gió muộn từ mặt sông thổi lên mát rượi, phía chân trời ẩn hiện khói mây màu tím sẫm, A La bất giác nghĩ đến câu thơ “Yên quang ngưng nhi mộ sơn tử, lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”(10). Bây giờ chỉ có vùng núi hẻo lánh mới có thể nhìn thấy sông xanh gợn sóng, không bị ô nhiễm, cảnh sắc này khiến khát khao được đi du ngoạn khắp thế giới kỳ lạ này của nàng càng thêm mãnh liệt. Nếu không phải đi ăn với Lưu Giác, con người đáng ghét này thì nàng đã không cầm lòng muốn hát vang trước một cảnh sắc huyền diệu như vậy! A La nghĩ đến Quyên Nhi, lòng lại nặng trĩu nỗi buồn, tự nhắc mình phải cố nhẫn nhịn, không thể đối đầu với Lưu Giác, chỉ có thể tỏ ra ngốc nghếch khiến chàng ta không nắm được đằng chuôi. Hít một hơi thật sâu không khí trong lành, A La ngẩng cao đầu đi về phía thuyền Lưu Hương.

Ven sông có khoảng chục chiếc thuyền hoa đỗ rải rác, trong ánh hoàng hôn, thuyền nào cũng đã lên đèn ngũ sắc sáng rực. Thuyền Lưu Hương có ba tầng, xà và cột đều chạm trổ hoa văn, thiết kế tinh tế, sang trọng. Nữ tỳ dẫn A La lên tầng cao nhất, Lưu Giác đang đứng tựa cửa sổ trong một gian hậu thất rủ rèm châu.

A La nhìn vào, bên ngoài có mấy chiếc tràng kỷ bọc gấm và mấy cái án chạm trổ hoa văn, trên tường treo mấy bức thư họa của những nhà thư pháp nổi tiếng, xung quanh bày rất nhiều hoa. Không gian phía sau bức rèm rộng rãi, khoáng đạt, những chiếc đèn màu tỏa sáng, mấy cái bàn tròn, bên cạnh là ghế bành và giường ngủ. Cửa sổ mở toang, gió sông lồng lộng, trong phòng mát rượi. Tà áo Lưu Giác bay bay, mấy sợi tóc chờn vờn trước trán, nửa khuôn mặt nhìn nghiêng đường nét như tạc, tuấn tú tuyệt vời. A La nghĩ, tốt nhất vẫn nên giải thích mọi chuyện, đổi gươm đao lấy ngọc bội, giải quyết bằng hòa bình để trừ hậu họa. Cách bức rèm châu, nàng lên tiếng: “Hôm đó Ninh vương ban chỉ đến tướng phủ, tiểu nữ thực tình rất muốn giữ lời, rất muốn nói lời xin lỗi, đã để cho tiểu vương gia đợi lâu”.

Lưu Giác quay đầu cầm lên chén trà, nhưng không uống, lơ đãng ngắm nhìn, đột nhiên bật cười: “Có biết hôm nay ta đến quý phủ là vì chuyện gì không?”.

A La không trả lời câu hỏi của chàng, trong đầu chỉ nghĩ nhất thiết phải xin lỗi đã rồi hãy tính: “Thực ra hôm nay tiểu nữ vốn định đến quý phủ tìm tiểu vương gia giải thích rõ. Lần trước ở Đào hoa yến tiểu nữ đã sai, không nên đánh ngất tiểu vương gia. Bởi vì lần đầu xuất phủ, khó khăn lắm mới được ngắm cảnh đẹp vậy mà lại bị tiểu vương gia quấy rầy, trong lòng không vui. Tiểu nữ xin lỗi người lần nữa”.

Lưu Giác thấy A La thái độ thành khẩn, bật cười: “Chuyện lần trước không nói nữa, có điều, nàng đã cướp bạc của ta...”.

A La đỏ bừng mặt, cúi đầu trả lời: “Tiểu nữ sẽ trả lại vương gia”. Hành động này quả là vô đạo đức, lúc đó nàng cũng chỉ nhất thời hồ đồ.

Lưu Giác thầm nghĩ, chút bạc đó ta không bận tâm. Nàng ta đã xin lỗi lần nữa, mình vốn không có ý định tính toán với nàng ta về chuyện đó, nhưng vẫn cảm thấy có gì không ổn, “Nói một lời xin lỗi là xong ư?”.

A La nghĩ, đã xin lỗi rồi còn phải làm gì đây? Bèn hỏi Lưu Giác: “Vậy tiểu vương gia nghĩ thế nào?”.

Lưu Giác ớ người, đúng vậy, mình nghĩ thế nào? Nàng ta vẫn chỉ là một tiểu cô nương, cũng đã xin lỗi, tính toán nữa hóa ra mình quá hẹp hòi. Nhưng nếu vậy sẽ không còn cớ để đến tìm nàng ta nữa? Nghĩ đến cảnh A La thân thiết với Lưu Phi, không biết từ đâu nỗi giận vô cớ bùng lên, chàng nói: “Nàng và tứ hoàng tử thân thiết như vậy, ta có thể làm gì?”.

A La sững người: “Tứ hoàng tử nào?”. Đột nhiên vỡ lẽ, người Lưu Giác nói là Tử Ly, bèn hỏi: “Tử Ly? Trần Tử Ly? Là Lưu Phi sao?”.

“Nàng không biết thật hay giả bộ không biết?Trông điệu bộ hai người không phải mới quen ngày một ngày hai, ở Thiên phong lầu nàng còn đích thân xuống bếp nấu ăn cho người ta, thân thiết như thế!”.

Tử Ly chính là tứ hoàng tử? A La không tin, nôn nóng hỏi: “Đại ca ấy bảo cứ gọi là Trần Tử Ly, tứ hoàng tử chẳng phải là Lưu Phi sao?”.

Lưu Giác cười gằn: “Hoàng hậu quá cố họ Trần, Tử Ly là tên tự của huynh ấy, Trần Tử Ly chính là Lưu Phi, Lưu Phi chính là Trần Tử Ly, nàng gọi huynh ấy Tử Ly, gọi cái tên thân thiết như vậy, rõ ràng là quan hệ không bình thường”.

A La há miệng không biết nói sao. Lần đầu gặp Tử Ly, nàng cũng dùng tên giả, còn Tử Ly không muốn người khác biết thân thế của mình đã mượn họ mẹ, và dùng tên chữ, cuối cùng vẫn là dùng tên thật, chẳng có gì giả dối! Nhưng Tử Ly chẳng phải chính là tứ hoàng tử sắp cưới Cố Thiên Lâm sao? Mình đã nhận tứ hoàng tử làm đại ca? Trời ơi! Vốn đã không muốn dính líu với vương thất, chuyện này... A La đột nhiên hoảng hốt, nhưng lại nghĩ khác, chuyện này cũng chẳng sao, giống như trong mắt người khác mình là thiên kim tướng phủ thân phận cao quý vậy, kỳ thực... nàng lắc đầu, những thân phận đó đối với mình chẳng là gì hết. Tử Ly tốt với mình, tình nguyện làm đại ca của mình, vậy huynh ấy chỉ là đại ca của mình mà thôi.

Lưu Giác chuyển chủ đề, không nhắc đến Tử Ly nữa, cười nói: “Nghe đồn tiếng sáo của tam tiểu thư rất siêu phàm, liệu có thể tấu một khúc?”.

A La dẹp bỏ ngạc nhiên của mình khi biết thân phận Tử Ly, vén rèm châu bước vào, đến bên án rót trà uống: “Đói rồi, ăn đã, tiểu vương gia thực lòng muốn nghe thổi sáo hay là hẹn đến để chấn chỉnh ta?”.

Lưu Giác châm biếm: “Ta thấy nàng có vẻ không hiểu phép tắc, không giống thiên kim của tướng phủ, khuê nữ chốn danh gia?”.

Trước mặt ngươi việc gì ta phải làm bộ làm điệu? A La nhìn chàng nói tiếp: “Tiểu vương gia lắc kiệu khiến ta khổ sở suốt hơn canh giờ, thức ăn trong bụng nôn hết rồi, vừa đói vừa khát. Làm sao còn sức lực, hứng thú thổi sáo?”.

Lưu Giác nghĩ vậy lấy làm thú vị, cười ha hả, vỗ tay ra hiệu. Nữ tỳ đi vào. Lát sau bưng ra một bàn đồ ăn.

A La rất muốn biết món ăn ở đây hương vị thế nào. “Bắt đầu!”, nói xong lập tức vào cuộc. Đa số các món đều rất ngon, nhưng mấy món chay mùi vị không ổn. Nàng chợt hiểu, món mặn ở Phong thành sắc hương vị đều đậm đà, nhưng món chay làm không tinh, chẳng trách canh đậu phụ ở Thiên phong lầu cũng được coi là món ngon. Thầm nghĩ, ở Phong thành e rằng chỉ có thể dùng món chay làm chiêu câu khách. Nàng gắp cá thịt lia lịa, khiến Lưu Giác cau mày: “Ở tướng phủ nàng không được ăn thịt hay sao?”.

A La đang vui, buột miệng nói: “Bình thường, bữa ăn ở bếp Đường viên đều đạm bạc, mấy năm rồi tiểu nữ không được ăn những món ngon thế này”.

Lòng Lưu Giác không hiểu: “Lý tướng thanh liêm như vậy ư?”.

A La cười: “Mẹ xinh đẹp của ta tuy rất đẹp nhưng lại không được sủng ái, Đường viên chúng ta cuộc sống có thể nói là rất bình thường”.

“Vậy mà nàng lại ngang tàng đến thế? Con gái một thứ thiếp không được sủng ái, nhìn thấy những bậc công tử như tiểu vương gia đây càng nên chủ động ân cần mới phải! Ồ, đúng rồi, như nhiệt tình của nàng đối với tứ hoàng tử!”. Lưu Giác không hiểu sao lòng bỗng thấy có gì tựa như thương xót đối với nàng, vội dùng ánh mắt nghiêm lạnh và những lời châm biếm để xua đi cảm giác đó.

A La tức giận, hắn ta coi mình là loại người gì chứ? Nhưng nàng không muốn đối đáp với chàng ta nữa, mới miễn cưỡng chuyển nỗi tức giận vào đôi đũa trong tay: “Cơm đã ăn xong, không biết tiểu vương gia nghe thổi sáo xong có đưa tiểu nữ về nhà không?”.

Lưu Giác thấy A La tư thái điềm tĩnh, đôi mắt trong như ngọc long lanh dưới ánh đèn, khuôn mặt nhỏ nhắn một phần bị mái bờm che khuất trở nên vô cùng sinh động. Những lời nói lúc trước vừa nói ra, chàng đã muôn phần hối hận, nhưng thấy vẻ láu lỉnh trên mặt A La, nỗi bực lại bùng lên, chàng nghịch ly rượu trong tay nói: “Gian ngoài là nơi mua vui”. Dường như ý muốn nói, chàng coi A La chỉ là trò mua vui .

A La nghĩ, nếu một tiểu thư khuê các thời cổ đại, nghe Lưu Giác nói vậy, chưa biết chừng cảm thấy bị sỉ nhục đến nỗi nhảy xuống sông tự vẫn! Dù không tự vẫn cũng sẽ phẫn nộ quở trách! Nàng điềm nhiên rời bàn ra phòng ngoài, tìm một cái ghế băng ngồi xuống, thầm nghĩ, người càng tức, ta càng vui, bèn thổi ngay khúc “Hỷ dương dương!”. Ánh trăng lãng đãng trên sông, hoa trên thuyền lặng lẽ tỏa hương, gió hiu hiu, cảnh tuyệt diệu như vậy làm nền cho tiếng sáo trầm bổng, khúc “Hỷ dương dương” của A La tiết tấu vui nhộn, nhưng Lưu Giác nghe không thấy vui. Chàng liếc nhìn đôi mắt A La cười như hai vành trăng khuyết, cái đầu nhỏ nhắn đung đưa theo tiếng sáo, cảm giác trong lòng chàng không biết là khóc hay cười, thầm nghĩ, a đầu này bề ngoài hình như không tỏ ra tức giận, nhưng trong lòng rất lắm tiểu chiêu. Nghe xong, không đợi A La mở miệng, nói luôn: “Nghe nói đại tỷ nàng chỉ đàn khúc “Thu thủy” mà được lòng thái tử, Lý gia dòng dõi thư hương, liệu có thể chơi một khúc? Ta thưởng nguyệt trên sông, hãy chơi khúc “Thu nguyệt” đi!”.

A La nghĩ đến chuyện đánh đàn thay Thanh Lôi, bèn nói: “Tiểu nữ không biết chơi đàn, con gái Lý gia mỗi người học một ngón khác nhau, tiểu nữ chỉ biết thổi sáo”.

Nàng càng nói không biết, Lưu Giác càng làm khó, chàng đảo mắt nói: “Tiểu vương chỉ muốn nghe đàn. Vốn tâm trạng đã rất tốt, chỉ đợi nàng đánh đàn xong là thanh toán nợ nần, không đến làm phiền nàng nữa, nàng lại nói không biết chơi, như vậy được sao?”. Mặc chàng nói thế nào, A La vẫn nhớ kỹ, nếu để lộ mình biết chơi đàn tất sẽ gieo mầm họa, chỉ một mực lắc đầu. Lưu Giác không thuyết phục được nàng, nói với hầu nữ bên ngoài: “Mang đàn ra đây!”.

Lưu Giác ngồi xuống một chiếc ghế thấp, hai tay vuốt nhẹ, một chuỗi âm thanh vút lên, chàng đánh khúc “Bội lan”. A La nhận thấy Lưu Giác cũng là người hay đàn, chàng chơi khá thành thục. Lại nhớ ra khúc nhạc mà Cố Thiên Lâm đã đàn trong Đào hoa yến, thấy Lưu Giác đàn rất chuyên chú, say mê, thầm nghĩ, thì ra Lưu Giác đang hận vì Tử Ly sắp cưới ý trung nhân của chàng ta, bèn không nén nổi ý nghĩ chọc tức chàng: “Hoàng đế đã ban hôn, chưa biết chừng Tử Ly đã để ý tới Cố gia tiểu thư từ lâu, ai bảo tiểu vương gia ra tay muộn!”.

Luu Giác đặt tay lên phím đàn, “phầng” một tiếng, tiếng đàn đột ngột dừng lại: “Lưu Phi và Cố gia tiểu thư là một đôi trời định, rất xứng đôi!”.

A La nghĩ, chẳng lẽ ngươi định khích ta? Nàng vênh cằm cười: “Đúng vậy, tiểu nữ cũng thấy họ rất xứng đôi, một người chơi đàn, một người thổi tiêu, phu xướng phụ tùy, chắc chắn mạnh hơn một số người cô độc thở than”.

Lưu Giác lại không thấy bực, chỉ nói: “E rằng ngay tiếng đàn của Cố tiểu thư, Lưu Phi cũng chưa nghe, Đào hoa yến huynh ấy không dự”.

A La bê lên một cốc trà, thong thả uống: “Bây giờ chưa nghe cũng không sao, sau này nghe càng thú vị! Hai người trai tài gái sắc, như tiểu vương gia nói đấy, rất xứng đôi!”. Không biết tại sao, nàng rất muốn chọc cho Lưu Giác tức khí, nổi máu ghen.

Lưu Giác nói: “Sau này Lưu Phi đã có Cố Thiên Lâm, còn tâm trạng để ý đến nàng không? Muốn huynh ấy suốt ngày đưa nàng xuất phủ du ngoạn e khó rồi”.

A La ngớ người, lại trấn tĩnh, Tử Ly muốn cưới Cố Thiên Lâm cũng phải đợi sau đại hôn lễ của thái tử, đều là chuyện của mùa xuân năm sau, nàng chỉ cần thời gian nửa năm kiếm đủ bạc là chuồn.

Lưu Giác thấy A La ngẩn người, tưởng đã nói trúng tâm tư của nàng, vốn định châm chọc nàng, nhưng thấy nàng quan tâm đến Lưu Phi như vậy, lại không thể nào đắc ý: “Nàng chơi được khúc “Bội lan”, ta sẽ không làm khó nàng nữa”.

A La chớp mắt: “Thực ra nếu tiểu vương gia muốn nghe khúc đó, tin rằng trên thuyền hoa này tất sẽ có người biết chơi, hà tất nhất định phải là tiểu nữ? Huống hồ tiểu nữ lại không biết đàn, khúc này quá khó, tiểu nữ học không được”.

Lưu Giác nói: “Không biết thì học. Hôm nay không biết, ngày mai ta đến phủ đón nàng, khi nào nàng biết, khi ấy chúng ta hết nợ nần”.

A La nhìn chàng: “Sao tiểu vương gia lại không biết điều như vậy? Người ta không biết sao lại ép người ta? Cố học khúc nhạc mà người trong lòng chàng đã chơi, coi như nàng ta đàn cho chàng nghe sao?”.

“Cố tiểu thư chơi đàn, ta tự khắc rửa tai cung kính lắng nghe. Nàng ấy không đàn, ta đã nghe một lần, như nghe tiếng đất trời thiên nhiên, sau này có nghe nữa hay không, cũng không quan trọng. Nếu không muốn ta đến quấy rầy, thì hãy đàn cho ta nghe”.

A La đột nhiên nghĩ, xấu tốt gì mình cũng là thiên kim tướng phủ, cũng không phải là con nhà thường dân, Lưu Giác có thật dám làm bừa thế không? Nàng nheo mắt cười, nhấp ngụm trà, bình phẩm: “Trà này hương thanh, dư vị lâu dài, màu sắc đẹp mắt, trà ngon!” mà không nhắc đến chuyện đánh đàn. A La nhấp hai ngụm nữa, cau mày như nghĩ ra điều gì, nói: “Nhìn bóng trăng, không còn sớm nữa, nếu có người nhìn thấy tam tiểu thư Lý tướng phủ đêm khuya còn lang thang bên ngoài, tiểu vương gia nói xem, cha ta sẽ tức đến thổ huyết, sẽ đi tìm vương thượng nói lý trị tội người cho xem”.

Lưu Giác thấy a đầu này rất có mưu kế, lại nghĩ ra chiêu này, thật hết sức thú vị, bèn cười khe khẽ: “Đúng vậy, cha nàng thân là Tả thừa tướng, nếu nghe phường dân gian đồn đại, khuê nữ nhà mình ngồi với đàn ông đến lúc trăng lên đỉnh trời, ông ta liệu có tức đến thổ huyết? Dòng dõi thư hương, danh gia vọng tộc, vậy là gia phong bại hoại trong tay nàng? Chà chà, ông ta sẽ làm thế nào? Đương nhiên sẽ đi tìm vương thượng”.

Chàng cười gian giảo, vòng ra sau lưng A La, cúi người ghé sát tai nàng: “Đi tìm vương thượng nói: Vương thượng, mau ban hôn đi! Mau chóng gả đứa con gái ngỗ nghịch này. Đương nhiên tiểu vương là người rất có trách nhiệm, sao dám làm mất thanh danh tam tiểu thư? Tam tiểu thư vẫn còn chưa đến tuổi cập kê mà, chuyện đại sự sai lầm này tiểu vương quả thật không làm nổi”.

A La nghe tiếng cười thấy cổ nổi da gà, lấy hắn ta? Đừng hòng! Cố kìm nén nỗi bực đối với Lưu Giác, nàng nói: “Đàn thì đàn, nhưng ta đâu có học nhanh như vậy, ít nhất phải cho ta thời gian chứ?”.

Lưu Giác thấy nàng đã ưng thuận, rất vui, cười ha hả: “Không sao, tiểu vương có rất nhiều thời gian, khi xuất phủ lệnh tôn còn ân cần dặn dò, nhất định phải tận vui hết mực mới về. Bây giờ ít nhất còn ba canh giờ trăng mới tới giữa trời, với ngộ tính của tam tiểu thư, không cần biết học thế nào, chơi được cả khúc e không có gì là khó”.

A La lẩm bẩm: “Tiểu nữ không biết đàn, ngay âm vị ở đâu cũng không biết. Tiểu vương gia đưa tiểu nữ về, hôm khác tiểu nữ học xong đến đàn cho tiểu vương gia nghe”.

Lưu Giác thấy nàng môi cong lên, lòng vui ngất trời, đi đến bên cây đàn: “Nào, tiểu vương đích thân dạy nàng”.

A La nghiêm chỉnh chống cằm nhìn chàng, lúc hỏi về âm, lúc hỏi về điệu, thấy Lưu Giác vô cùng kiên nhẫn, lại càng hỏi nhiều. Thoắt cái đã một canh giờ, A La hỏi mãi thấy mệt, Lưu Giác nói nhiều cũng mệt. Lưu Giác hỏi: “Biết chưa?”.

A La cười thầm, mắt nheo nheo lắc đầu. Lưu Giác tức quá ném cây đàn: “Sao nàng ngốc thế!”.

Nàng tủi thân nhìn chàng: “Tiểu vương gia, tiểu vương gia dạy tiểu nữ lại lần nữa đi!”.

Lưu Giác kiên nhẫn nói lại lần nữa, nào là các chuẩn như cung, thương, giốc, chủy, vũ, thế tay, cách sử dụng ngón tay. A La cười thầm, chỉ thấy buồn ngủ, chỉ có thể cố gắng lấy tinh thần nghe chàng thao thao. Cuối cùng Lưu Giác hỏi: “Lần này biết chưa?”.

A La lắc đầu, há miệng ngáp, vội lấy tay che, ánh mắt di chuyển trên mặt chàng. Lưu Giác lạnh mặt: “Gây rối suốt nửa ngày định bỡn tiểu vương hay sao?”.

A La ngạc nhiên, không còn buồn ngủ nữa, xua tay nói: “Tiểu vương gia, tiểu nữ quả thực không có cảm giác nào về đàn. Tiểu nữ có thể nhớ được mấy âm, tiểu nữ sẽ chơi cho tiểu vương gia nghe, nhưng ý nghĩa thế nào tiểu nữ cũng không biết”.

Lưu Giác nửa tin nửa ngờ. Nàng biết thổi sáo, sao lại không biết đánh đàn? Mười thanh nữ Phong thành thì có đến chín cô biết chơi đàn, đều chơi rất hay, nàng là ngoại lệ?

A La bắt đầu bịa chuyện: “Nghe nói lúc nhỏ chơi trò đoán sở trường sau này, đại tỷ cầm ngay cây đàn, nhị tỷ vớ ngay cây bút, còn tiểu nữ thì nhấc ngay cây sáo. Về sau nhị tỷ học xong thư pháp cũng đi học đàn, nhưng không tài nào bằng đại tỷ, tiểu nữ thì khỏi nói, chẳng biết tý gì về đàn!”.

“Thôi được, mất hứng quá”. Nói đoạn, Lưu Giác đẩy cây đàn đứng lên.

A La cố nén niềm vui, nhìn Lưu Giác: “Có thể về được chưa? Tiểu nữ buồn ngủ rồi”.

Lưu Giác mất hứng nói: “Đi đi, về đi”.

A La lại nhắc: “Nhớ là chúng ta thanh toán xong, không hận thù gì nữa, tiểu nữ cũng không nợ nần tiểu vương gia”.

Lưu Giác nở nụ cười gian tà: “Ta sao có thể thù hận với nàng? Ta hẹp hòi vậy ư?”.

A La vội nói nịnh: “Tiểu vương gia phong lưu rất mực, hào hoa vô cùng, tài học uyên thâm, gia thế nề nếp, sao có thể là người hẹp hòi”.

Lưu Giác “hừ” một tiếng, lại hỏi: “Ta và tứ hoàng tử ai phong độ hơn, ai hào hoa hơn, ai tài học hơn?”.

A La ngạc nhiên lập tức trả lời: “Mỗi người một vẻ, hi hi. Cá nhân tiểu nữ cho rằng, tiểu vương gia hơn một bậc”. Bụng nghĩ, nịnh thế đủ chưa?

Lưu Giác lại cười: “Được tam tiểu thư khen ngợi, ta sẽ không phụ tam tiểu thư”.

A La cảm thấy câu nói của chàng có vẻ kỳ quặc, dường như có ngầm ý sâu xa, nhưng lại không nhận ra là ý gì, đành đi xuống lầu, lòng băn khoăn.

Đi đến cầu thang lầu hai, bên trong có tiếng đàn vọng ra, Lưu Giác dừng bước lắng nghe, A La cũng dừng lại theo. Lưu Giác đột nhiên liếc thấy A La khẽ nhíu mày, rồi sắc mặt lại trở nên bình thường, bất giác thấy kỳ lạ, khi nàng ta nhíu mày là lúc tiếng đàn nhỡ nhịp. Lưu Giác thầm nghĩ, khéo vậy sao? Không biết thế nào, tam tiểu thư của Lý phủ ngoài câu xin lỗi, những lời nói sau đó của nàng ta, chàng không tin câu nào, nhưng lại không tìm ra khẽ hở, rút cục chỗ nào không đúng?

A La trở về tướng phủ, lập tức đi gặp Lý tướng báo cáo. Lý tướng hớn hở nhìn nàng, dáng điệu rất hiền từ: “A La hôm nay đi chơi với tiểu vương gia vui chứ?”.

A La ngoan ngoãn trả lời: “Dùng bữa ở thuyền Lưu Hương, sau đó thổi một khúc sáo, tiểu vương gia không nói gì”.

Lý tướng cười ha hả: “Tiểu vương gia phong lưu hào hoa, gia thế hiển hách, đúng là một đám tốt. A La, con nên năng đi lại với tiểu vương gia”.

A La đột nhiên nghĩ, có nên nhân cơ hội này để được đường hoàng xuất phủ? Liền thăm dò: “Tiểu vương gia hẹn ngày mai gặp, A La có thể đi không?”.

Lý tướng phấn khởi: “Đi chứ, sao lại không, trang điểm thật đẹp mà đi”.

A La mỉm cười: “Con biết rồi, A La về Đường viên đây”.

Có thể đàng hoàng xuất phủ, tránh phải lén lút vượt tường, để lộ điểm yếu của mình. Có được cơ hội này còn phải cảm ơn tiểu vương gia. A La vừa đi vừa cười khe khẽ.

Lưu Giác về tới vương phủ, ngơ ngẩn nhìn bức họa trên tường. Chàng muốn A La học khúc “Bội lan” có thật là do không thể quên Cố Thiên Lâm? Đôi mắt lóng lánh của A La trên khuôn mặt Cố Thiên Lâm cơ hồ ngày càng sinh động, ngày càng có sinh khí. Lưu Giác nằm trên trường kỷ, ngắm nhìn đôi mắt đó, ngón tay gõ nhẹ, rút cục chỗ nào không đúng? Chàng gọi Lưu Anh: “Mau đi tra tình hình Lý tướng phủ, ta muốn biết mọi động tĩnh của tam tiểu thư đó. Còn nữa, từ ngày mai, cho người bám theo nàng ta. Nàng ta biết võ công, cẩn thận một chút”.

“Xin vâng!”.

__________

Chú thích:

10. Trích trong "Đằng Vương các tự" của Vương bột (Đời Đường).

Dịch thơ: "Ánh khói đọng, núi chiều tía", "Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cô đơn chiếc diều bay, làn nước sông thu vớ bầu trời kéo dài một sắc" (bản dịch của Trần Trọng San). (BTV)

.

Chương 9

.

A La mang theo Tiểu Ngọc sải bước dài, nghênh ngang rời khỏi tướng phủ. Đã có lần đầu tiên, sẽ có lần tiếp theo. Nàng đã dạy đầu bếp làm mấy món chay, cùng Tử Ly khai trương tửu lầu một cách suôn sẻ. Tửu lầu lấy tên là “Tố tâm trai”, chỉ có mấy gian phòng riêng, khách muốn ăn phải đặt chỗ trước cả hai tuần.

Trong phủ bắt đầu bận tíu tít chuẩn bị cho hôn lễ của Thanh Lôi và thái tử, hồi đầu khi A La mới xuất phủ, Lý tướng còn hỏi han tiến triển quan hệ giữa nàng và tiểu vương gia, A La ứng phó rất thận trọng, không dám sơ suất. Về sau Lý tướng bận chuyện chính sự, lại lo liệu hôn lễ cho Thanh Lôi, dần dần lơ là A La không hỏi nhiều.

Lưu Giác cơ hồ mất hút, không thấy lộ diện. A La cả ngày say sưa trong niềm phấn khởi kiếm được bạc, mải mê tính toán cần bao nhiêu thời gian có thể thu xếp cuộc đào tẩu. Không bị Lưu Giác quấy rầy, A La và Tử Ly có thời gian học cưỡi ngựa, cuộc sống ngày càng thoải mái vi vu.

Tử Ly không biết A La đã biết thân phận của mình, không hề đả động chuyện đó, A La cũng không hỏi. Chàng nhìn A La rời phủ vui như con chim sổ lồng, bỗng thấy càng thương mến nàng hơn. Ở bên A La, tâm trạng chàng rất thoải mái, dù lòng phiền muộn đến mấy, hễ nhìn thấy nàng là tiêu tan hết.

Một hôm, lần đầu tiên A La có thể cưỡi ngựa phóng như bay, mặt đỏ hồng, hớn hở nhìn chàng, nói: “Đại ca, cảm giác bay lên thật là tự do!”.

Tử Ly cười: “Cảm giác bay lên như thế nào? Muội đã từng bay chưa?”.

Đột nhiên A La nghĩ đến cảm giác lúc ngồi trong khinh khí cầu, bèn nói: “Là cảm giác từ trên không nhìn xuống mặt đất, thấy tâm hồn khoáng đạt bao la”.

“Con người sao có thể bay lên không?”.

A La suy nghĩ rồi bảo tùy tùng của Tử Ly làm một con diều giấy thật to, nói với chàng: “Đại ca, chúng ta làm con diều lớn cho bay lên, đại ca dùng khinh công đứng lên đó thử xem”.

Đến khi Tử Ly vọt lên hai chân đậu vào trong con diều hạ thấp dần, được ngựa kéo chạy như bay, lực gió kết hợp với khinh công của Tử Ly, lúc này chàng đã cảm nhận được cảm giác bay lên như A La nói. Mặc dù, chỉ được một lúc, nhưng chàng nhớ mãi.

A La thuộc rất nhiều câu chuyện, nàng kể với Tử Ly: “Có một người phàn nàn với một vị thần rằng, gánh nặng trên vai anh ta quá lớn, anh ta đã quá mệt, quá khổ. Vị thần hứa, nếu anh ta không ngoái đầu lại, vị thần sẽ luôn theo sát anh ta. Chỉ cần đi một chặng, sau này sẽ không khổ, không mệt nữa. Người này vâng lời, mải miết đi không hề ngoái lại. Bao núi cao, đồng rộng, biển sâu, đều vượt qua dễ dàng, càng đi càng phấn chấn, liền hỏi vị thần, sao ngài sao không đi với tôi suốt đời? Có ngài đi cùng, tôi có thể đi xa như vậy, càng đi càng phấn chấn”.

Tử Ly cười: “Đó là do vị thần dùng phép thuật, giúp cơ thể anh ta nhẹ đi, để anh ta không mệt”.

A La cười, nheo mắt nhìn Tử Ly nói: “Vị thần cho anh ta ngoái lại nhìn, lúc đó anh ta đang đứng trước bãi biển, quay đầu lại, chỉ thấy dấu chân của chính mình. Vị thần nói, thực ra ta hoàn toàn không đi cùng ngươi, vị thần của ngươi ở ngay trong lòng ngươi. Ý nói mỗi người nếu có trách nhiệm với việc làm của mình, chiến thắng được bản thân sẽ chiến thắng tất cả”.

Tử Ly nhìn nàng đăm đắm, rất lâu sau mới nói nhỏ một câu khiến A La phát hoảng: “Muội chính là vị thần đó trong lòng ta”. Thoắt cái đã nửa năm trôi qua. Thanh Lôi mặc dù chỉ là thứ phi của thái tử, do được thái tử sủng ái, tuy cùng xuất giá một ngày với Vương Yến Hồi, nhưng cũng được hoàng cung nghênh đón hết sức long trọng linh đình. Hôm diễn ra đại hôn lễ, A La lần đầu tiên nhìn thấy quang cảnh hôn lễ của thái tử thời cổ đại, đương nhiên thái tử phi không phải là Thanh Lôi mà là Vương Yến Hồi. A La chậc lưỡi, sao mà đông người đến thế. Đoàn người đứng dài đến mấy dặm, có phải đây chính là đội nghi lễ quốc gia thời cổ đại?

Khi nàng đang cùng Tiểu Ngọc chơi trên lầu hai của Tố tâm trai thì Lưu Giác đột nhiên xuất hiện: “Đã lâu không gặp. Nghe nói tiểu thư đã học cưỡi ngựa, sống rất vui vẻ?”.

A La thầm mắng hắn ta bám dai như đỉa, cố nặn ra nụ cười thật tươi: “Vâng, nếu tiểu vương gia không xuất hiện tiểu nữ sẽ còn vui hơn”.

Lưu Giác nói nhỏ: “Sau đại hôn lễ của thái tử là đến hôn lễ của tứ hoàng tử”.

A La “ồ” một tiếng, cũng nói nhỏ: “Sau hôn lễ của thái tử, Cố tiểu thư cũng xuất giá”.

Lưu Giác ngẩn người, mỉm cười: “Chẳng phải cả hai ta đều đau lòng hay sao? Cùng đi uống rượu cho vui nhé?”.

A La không thèm: “Tiểu vương gia sẽ không mượn rượu giả điên, khiến người khác mất mặt chứ?”.

Lưu Giác cười: “Nếu rượu vào mà lòng nàng vẫn phiền muộn, nàng có thể ôm ta mà khóc”.

A La mắng: “Đăng Đồ Tử(11)...”.

Lưu Giác không hiểu: “Nghĩa là gì?”.

“Đồng nghĩa với mất mặt!”.

“Sao ta có thể mất mặt? Nhiều nhất là khi ở bên nàng, ta sẽ giấu mặt vào lòng”. Nói đoạn cười ngất bỏ đi.

Một tháng sau hôn lễ của thái tử, Tử Ly thổi tiêu hẹn A La ra ngoài, hai người cưỡi ngựa phi thẳng qua cổng tây thành, được một lát thì dừng lại. A La nhảy xuống ngựa thở gấp: “Không ngờ thảo nguyên tháng tư lại nhiều hoa thế. Tại sao hoa ở đây toàn màu tím?”.

Tử Ly mỉm cười: “Loài hoa này tên là Bắc tinh lan, nở rộ vào tháng tư, mùa hoa có thể kéo dài đến cuối tháng sáu”.

A La nhìn thảo nguyên bát ngát tít tắp tận chân trời, hoa cũng phủ rợp tận chân trời, bỗng thốt lên: “Nếu có lều trướng, buổi tối dựng trướng trên thảo nguyên, vừa nướng thịt ăn vừa ngắm sao thì hay biết mấy”.

Tử Ly cười: “Chuyện này có gì khó, bảo người chuẩn bị là được”.

Nét mặt chàng tràn đầy vẻ âu yếm, cưng chiều, A La bỗng cảm động, lại tần ngần: “Buổi tối muội không thể ra ngoài. Bị cha phát hiện thì không ổn!”.

Tử Ly chớp mắt: “Muội ngủ sớm đi, rồi trốn ra ngoài, ta sẽ đến đón muội”.

“Đại ca, huynh vĩ đại quá!”. A La nhảy lên sung sướng. Tử Ly nhìn nàng, nói: “A La, mùa thu này muội đã mười bốn tuổi, đúng không? Ta thấy muội đã cao hơn một cái đầu rồi đấy”.

A La dùng tay đo, đúng là đầu nàng vừa tới vai Tử Ly, có thể vẫn còn cao nữa. Cao lên thì tốt, có thể rời khỏi tướng phủ! Nàng hớn hở nói với chàng những thứ cần chuẩn bị, và các loại gia vị dùng cho món thịt nướng. Tử Ly mỉm cười nhất nhất tán đồng, tựa hồ chàng sẵn sàng hái cả sao trời cho nàng.

Tối hôm đó, đợi mọi người ngủ cả, A La khóa trái cửa, lẳng lặng nhảy qua cửa sổ, đi qua sân thật khẽ. Tử Ly đã đứng đợi trong rừng trúc, hai người bịt miệng cười.

Tử Ly cùng nàng vượt tường, cổng thành đã khóa, chàng dẫn nàng loanh quanh qua mấy khúc quành, không biết cuối cùng chui ra bằng lối nào. Chàng cười nói: “Ninh quốc quá cổ kính luôn ẩn giấu những bí mật không ai biết, may mà ta biết con đường bí mật này”. A La cũng cười, thầm nghĩ, chàng là tứ hoàng tử của Ninh quốc, bí mật này chàng không biết mới lạ.

Hai người phi ngựa trên thảo nguyên, trên đầu sao dầy đặc, nhấp nhánh, ánh trăng rất sáng, bầu trời không một gợn mây. Phi một hồi đã nhìn thấy ánh lửa.

Tùy tùng của Tử Ly đã chuẩn bị xong xuôi, thấy hai người đến, họ lẳng lặng rút vào màn đêm.

A La nướng thịt trên đống lửa, vùi khoai trong tro. Hai người vừa gặm thịt xiên vừa nói chuyện. Tử Ly hỏi A La: “Nếu biết ta là hoàng tử của Ninh quốc, muội có còn đi lại với ta?”.

A La nói: “Chẳng phải muội đã qua lại với huynh từ lâu rồi sao, đại ca? Hay là muội nên gọi huynh là Lưu Phi?”.

“Muội đã biết rồi ư?”.

“Phải, Lưu Giác cho muội biết”.

“Sao không hỏi ta?”.

A La cúi người bới khoai: “Nóng quá, cầm lấy này!”. Nàng cầm củ khoai đảo qua đảo lại trên tay cho bớt nóng, rồi ném cho Tử Ly: “Muội đã nói rồi mà, nếu huynh muốn sẽ tự nói ra, không muốn nói, muội hỏi làm gì?”.

Tử Ly thong thả bóc vỏ khoai, đưa cho A La, đón lấy củ khác bóc tiếp: “Vậy muội cũng biết hôn sự giữa ta và Cố Thiên Lâm?”.

A La vừa ăn vừa nói: “Đúng, muội đã biết”.

Tử Ly nói: “Muội thấy Cố Thiên Lâm thế nào?”.

“Rất đẹp, kiêu ngạo, thông minh. Ấn tượng của muội về nàng ấy rất tốt”.

“Muội quen nàng ấy thế nào?”.

A La ăn rất hào hứng, rồi nằm xuống ngắm sao: “Trong Đào hoa yến Thiên Lâm chơi khúc “Bội lan”, lựa khúc và chơi đàn đều thượng hạng, dùng tiếng đàn bộc lộ tâm tư, làm say lòng bao người, đến bây giờ nàng ấy vẫn còn fans. À là những người hâm mộ đó”.

“Nhưng tại sao thái tử lại chọn lệnh tỷ mà không chọn nàng ấy?”.

A La không biết nói sao, Tử Ly tiếp tục: “Nghe nói, khúc “Thu thủy” của lệnh tỷ khí thế áp đảo, tiếng đàn tiêu diêu, tấm lòng rộng mở, chí ngút cao xanh, khí độ phi phàm”.

Tử Ly lại nói: “Tuy nhiên, vừa rồi ta có việc đến Đông cung, nhìn thấy lệnh tỷ, thái tử phấn khởi, bảo nàng ấy dạo thử một khúc, ngón đàn tuy phi phàm, nhưng cũng không được như lời đồn”.

A La đành giải thích: “Nhưng sau khi tỷ tỷ được gả cho thái tử, một lòng chỉ muốn giữ bổn phận một hiền thiếp, không như thời còn là khuê nữ”.

Tử Ly nói nhỏ: “A La, muội thích Cố tiểu thư đúng không?”.

“Phải, lúc đó muội còn gọi nàng ấy là Thiên Lâm tỷ tỷ”.

Tử Ly cười,”Vậy thì, A La, muội muốn cưới một phu quân thế nào?”.

A La nghĩ đến câu nói vui về các bà vợ, như “sư tử Hà Đông” , lại nghĩ đến tâm nguyện của các bà “mong chồng vinh hiển, áo gấm xông hương” nghĩ đến nhiều chuyện tình đã xem, cười nói: “Không biết. Muội chưa yêu bao giờ. Nhưng...”. Nàng dừng lại cười cười không nói. Nhìn sao trên trời, A La lại tiếp: “Được quen biết đại ca thật là may mắn, muội đã tưởng ở đây muội sẽ không quen được đấng trượng phu nghĩa hiệp nào”.

Mắt Tử Ly dần dần sáng lên, A La nói: “Mắt huynh rất sáng, như sao trên trời vậy, đại ca, huynh rất tuấn tú. Đúng thế, rất tuấn tú!”.

Tử Ly nhìn trời: “Thuở nhỏ mẫu hậu thường bế ta ngắm sao trời, nói mắt Tử Ly sáng như sao. Thuở nhỏ ta rất nghịch ngợm...”.

A La nghe Tử Ly kể chuyện những ngày thơ ấu của chàng, nghe mãi, dần ngủ thiếp lúc nào không biết. Tử Ly ngây người nhìn nàng, kéo mền đắp cho nàng, gối đầu nàng lên đùi mình, ngẩng nhìn sao chi chít trên đầu. Thầm nghĩ, nếu không phải bận tâm tới việc triều chính, cứ như thế này thì tốt biết bao.

Khi A La và Tử Ly vượt tường ra khỏi phủ trốn ra ngoại thành, Lưu Giác trong vương phủ cũng được bẩm báo. Hôm nay không giống mọi lần, Lưu Giác cảm thấy bất an, phiền não. Cứ nghĩ đến cảnh A La và tứ hoàng tử qua đêm trên thảo nguyên, chàng thấy buồn vô hạn. Ngơ ngẩn đi lại trong Tùng phong đường, lặng ngắm nhìn bức tranh trên tường, cuối cùng gọi Lưu Anh nói: “Cho triệu Huyền tổ và Xích tổ, ta muốn ra ngoại thành”.

Lưu Anh nghe Lưu Giác nói muốn triệu Huyền tổ và Xích tổ, lòng lấy làm kinh ngạc. Lén liếc nhìn sát khí ngấm ngầm trên mặt chủ nhân. Đang đêm khuya chúa thượng muốn ra ngoài thành là bởi vì tam tiểu thư của tướng phủ hẹn hò với tứ hoàng tử trên thảo nguyên?

An Thanh vương thân nắm trọng binh, đội Ô y kỵ trong vương phủ được lập ra do tiên đế ban chỉ, gồm những binh sĩ quyết tử chỉ nghe mệnh lệnh của vương phủ, ngoài An Thanh vương, chỉ có tiểu vương gia có quyền điều động, bình thường không ai biết đội quân này trú ở đâu. Ô y kỵ có năm tổ, năm xưa ngay cả khi hộ vệ Ninh vương đăng cơ cũng chỉ điều động bốn tổ, hôm nay lại điều động tới hai tổ kỵ binh. Lưu Anh tự dưng thấy căng thẳng bội phần.

Sau nửa canh giờ, tại Tùng phong đường của vương phủ đã có hơn trăm bóng người lặng lẽ tập hợp. Đội quân vận binh phục màu xanh sẫm, bịt mặt màu đen, áo giáp mềm màu xanh tía là Huyền tổ; Xích tổ vận binh phục màu tiết dê, họ lẫn vào màn đêm, nếu không nhìn kỹ không thể nhận ra.

Lưu Giác lạnh lùng ra lệnh: “Tối nay ta đi săn trên thảo nguyên, Huyền tổ theo hầu, Xích tổ tiếp ứng”.

Hơn trăm bóng đen trước mặt nhất loạt quỳ sụp xuống, khẽ đáp: “Tuân lệnh!”.

Từ lúc tập hợp đến lúc xuất phủ, đội quân hơn trăm người hầu như không phát ra một tiếng động, vó ngựa đã được bọc vải, phi như những cơn lốc đến cửa thành phía nam. Lính gác bị Lưu Giác đánh thức, mắt vừa liếc nhìn, chân đã mềm nhũn, quỳ sụp trên đất, hoàn toàn không biết đám người này xuất hiện từ lúc nào.

Lưu Giác không nhiều lời, tay vừa vung, lệnh bài Xích Long lóe sáng. Đây là lệnh bài chạm rồng màu đỏ, do tiên đế ngự ban cho An Thanh vương trước lúc băng hà, khi triều đình có biến, người cầm lệnh này có quyền sinh quyền sát, có thể trực tiếp cai quản, trấn thủ Phong thành. Không ngờ hôm nay Lưu Giác chỉ vì muốn ra khỏi Phong thành đã dùng đến lệnh bài này.

Lính gác vừa nhìn thấy lệnh bài Xích long, liền lập tức mở cổng thành. Đoàn người quất ngựa lao về hướng thảo nguyên, giống như những đám mây đen bay vun vút dưới ánh trăng. Lính gác hoa mắt nhìn theo, nghe thấy người cưỡi ngựa đi sau cùng lạnh lùng ra lệnh: “Các ngươi cứ việc ngủ đến sáng, hãy coi bây giờ đang mộng du! Hiểu chưa?”. Lính gác ngơ ngẩn gật đầu. Thấy đám mây đen đã bay xa lẫn vào màn đêm, họ mới vội vàng đóng cổng thành, chạy vào hậu thất, đắp chăn ngủ tiếp.

Khi đội quân rời khỏi Phong thành năm dặm, Lưu Giác vẫy tay, Xích tổ chia nhóm, rời khỏi đội hình mất hút trong thảo nguyên. Binh sĩ của Huyền tổ theo sau Lưu Giác tiếp tục phóng về phía trước. Không lâu sau đã nhìn thấy những đốm lửa phía xa, Lưu Giác càng thúc ngựa phóng nhanh. Chỉ nghe thấy “vút” một tiếng, có vật gì vòng qua yên ngựa của Lưu Anh, đó là một mũi tên không đầu. Đám cỏ phía trước lay động, mấy chục bóng người chui ra, dưới ánh trăng nhìn rất rõ, chính là đội thị vệ của phủ tứ hoàng tử.

Một người bước lên nói nhỏ: “Có phải Ô y kỵ của phủ An Thanh vương?”.

Lưu Anh hét: “To gan, dám cản đường tiểu vương gia!”.

Người đó cúi chào Lưu Giác, nhưng không nhượng bộ: “Kính chào tiểu tương gia, chúa công chúng tôi đang nghỉ ngơi ngắm cảnh, phiền tiểu vương gia đi đường vòng”.

Lưu Anh tức giận hét: “Làm gì có chuyện đó, tiểu vương gia chúng ta muốn đi săn trong đêm, các ngươi dám ngăn cản?”.

Thị vệ của vương phủ rút đoản đao soàn soạt, khí thế bừng bừng, hàm ý nếu thương lượng không thành sẽ phải động thủ.

Lưu Giác đột nhiên cười lớn: “Thì ra tứ điện hạ đang ở đây, vốn không nên quấy rầy, đã may mắn gặp nhau như vậy, chi bằng cùng ngắm trăng với tứ điện hạ”. Nói đoạn ngẩng nhìn trời, “Sao hôm nay đẹp quá! Các ngươi ở lại đây, người đông làm hỏng cảnh quan”.

Lưu Anh vội nói: “Chúa thượng!”.

Lưu Giác liếc chàng ta một cái. Lưu Anh đành lùi xuống, nói: “Thuộc hạ sẽ đợi ở đây”. Lưu Giác cưỡi ngựa thong thả đi về phía trước, thị vệ của phủ tứ hoàng tử nhìn nhau. Một người nói: “Tiểu vương gia, xin chậm bước, để bỉ chức lên trước bẩm báo”. Bóng người vụt chạy về phía đốm lửa.

Tử Ly đang ngắm nhìn A La say giấc, chàng đã sớm cảm nhận những rung chấn nhè nhẹ của tiếng vó ngựa từ xa, đoán là có người đến, suy nghĩ một lát, chàng liền giơ tay điểm huyệt ngủ của A La, bế nàng vào trong trướng. Sau đó chàng trở ra đứng trước cửa lều, lặng lẽ nghe thị vệ bẩm báo Lưu Giác dẫn Ô y kỵ đi vào thảo nguyên, đang một mình cưỡi ngựa đến đây.

Tử Ly thong thả bước đến ngồi bên đống lửa, chất thêm củi vào lửa. Tiếng chân ngựa đã dừng ngay bên cạnh, Lưu Giác cười sang sảng: “Điện hạ thật có nhã hứng, rất biết hưởng thụ”. Vừa nói vừa đi đến ngồi xuống cạnh đống lửa, lấy ra bầu rượu, nói: “Rượu phụ thân gửi từ Biên Thành về, vị mạnh như lửa, vừa sảng khoái vừa mê ly”.

Nụ cười nhạt vẫn trên môi Tử Ly, chàng đón bầu rượu nhấp một ngụm lớn, đoạn ném trả Lưu Giác: “Tiểu vương gia sao lại có sở thích khác thường vậy, thích đi săn trong đêm?”. Lưu Giác ngẩng đầu, cũng tợp một ngụm lớn, cười nói: “Đó là do tứ điện hạ chưa được hưởng cái thú đi săn trong đêm. Nên biết, trong đêm chỉ nhìn mắt con mồi mà săn, quả thực kích thích hơn nhiều so với săn ban ngày!”.

Tử Ly lơ đãng hỏi: “Đêm nay tiểu vương gia đã nhìn thấy mắt con mồi chưa?”. Mắt Lưu Giác liếc nhanh vào trong trướng, cười lớn: “Con mồi sợ mũi tên của ta, nhắm mắt ngủ rồi”. Tử Ly cười nhạt, vươn vai: “Con mồi đã ngủ, xem ra đêm nay tiểu vương gia trắng tay ra về rồi”.

Lưu Giác đứng dậy, cũng vươn vai cười: “Xưa nay ta chưa bao giờ trắng tay ra về, chỉ cần đánh thức con mồi là xong”.

Nói đoạn nhón chân định đi về phía lều. Thoắt cái, Tử Ly đã đứng chắn cửa lều: “Tiểu vương gia hãy ra thảo nguyên mà săn, bản vương không tiễn”.

Lưu Giác lạnh mặt, nói: “Ta nhìn thấy đôi mắt lóng lánh trong trướng, chạy lung tung trong tẩm trướng của điện hạ là không hay, để ta tóm ra đây!”. Giơ tay định vén rèm. Bàn tay Tử Ly đã chặn lại, cười: “Chuyện trong trướng của bản vương khỏi phiền tiểu vương gia phí sức!”.

Lưu Giác cười gằn: “Điện hạ có thể thỏa mãn một chút tính hiếu kỳ của ta không?”. Bóng hai người vụt lay động, cánh tay vung lên. Đột nhiên “vù vù” hai tiếng gió phát ra từ những cánh tay đập vào nhau, chỉ nghe “ầm” một tiếng, chiếc trướng sụp đổ. Tử Ly kinh ngạc, lao vào trong bế A La đang nằm cuộn trong tấm mền.

Lưu Giác dừng tay: “Thật là có lỗi, thì ra tứ điện hạ đã tìm thấy tri kỷ trong đêm thảo nguyên, ta lỗ mãng rồi”.

Sắc mặt Tử Ly rất xấu, chàng lạnh lùng nói: “Đâu có, tiểu vương gia nếu vẫn còn nhã hứng, chi bằng ta uống thêm chén rượu. A La đang ngủ say, chúng ta không nên quấy rầy nàng ấy”.

Lưu Giác liếc nhìn mặt A La, biết nàng đã bị điểm huyệt, vẫn đang say ngủ. Chàng lùi lại hai bước, ngồi xuống bên đống lửa và uống rượu.

Mấy tùy tùng của phủ tứ hoàng tử không biết từ đâu xuất hiện, nhanh nhẹn thu dọn chiếc trướng vừa đổ, xong xuôi lại biến mất. Trên thảo nguyên yên tĩnh chỉ có tiếng củi nổ lép bép trong đống lửa lớn đang cháy rừng rực. Tử Ly đặt A La xuống thảm thật khẽ.

Lưu Giác đột nhiên nói: “Tứ điện hạ thật là có phúc, hai tháng nữa nghênh đón thiên kim tiểu thư của Cố tướng, một trong hai tuyệt sắc Phong thành”.

Tử Ly vẫn cười nhạt: “Đúng là có phúc, đến lúc đó xin mời tiểu vương gia đến chia vui”. Lưu Giác cười ha hả, mắt nhìn A La: “Tứ điện hạ lẽ nào không muốn hưởng hết phúc ở đời?”.

Tử Ly mỉm cười: “Công, phượng đều đẹp. Thế nào? Tiểu vương gia dạo này cũng có ý định thành gia thất ư?”.

Lưu Giác cười khanh khách: “Tứ điện hạ chắc chưa biết chuyện, năm trước tôi đã có lời cầu thân với Lý tướng, Lý tướng vui vẻ nhận lời, chỉ đợi ái nữ đến tuổi cập kê là đến rước về”.

Nụ cười ngưng lại trên môi Tử Ly, chàng trầm ngâm giây lát, lại mỉm cười, nói: “Xem ra không chỉ một mình bản vương muốn cầu thân với Lý tướng, một nữ nhi không thể gả hai chồng, lẽ nào Lý tướng định cùng lúc giẫm lên hai con thuyền?”.

Lưu Giác nhìn mặt Tử Ly, thấy chàng thản nhiên nhìn lại, không có vẻ đang nói dối, đột nhiên không hiểu thực hư thế nào. Nghe đồn Lý tướng bản tính xảo quyệt, mưu tính rất sâu, lẽ nào ông ta đã gả một cô con gái cho thái tử lại còn muốn gả một cô cho tứ hoàng tử, sau này bất luận ai nối ngôi, ông ta cũng ung dung hưởng lời. Lưu Giác trong đầu suy nghĩ rất lung nhưng nét mặt vẫn tươi cười: “Chuyện này phải làm thế nào đây, tứ điện hạ? Lẽ nào hai chúng ta phải tỉ thí phân cao thấp? Chuyện mà đồn ra ngoài chẳng phải khó xử lắm sao”.

Tử Ly đã hiểu ý Lưu Giác, người khó xử đương nhiên là Cố tướng, ái nữ còn chưa gả đi, chàng rể quý đã cầu thân với Lý tướng, cái mặt già của Cố tướng biết để vào đâu? Hơn nữa, Cố Thiên Lâm là phi tử đã được Ninh vương ban hôn, nếu chàng làm vậy há chẳng phải không nể mặt phụ hoàng! Tử Ly cười nhạt: “A La còn hơn một năm nữa mới đến tuổi cập kê, hãy để nàng tự quyết định”.

Nói đoạn mắt đột nhiên trở nên sắc lạnh, ánh mắt quét qua mặt Lưu Giác: “Bản vương không muốn có chuyện cưỡng ép xảy ra”.

Lưu Giác thấy hay, lập tức tán đồng, cười lớn: “Doãn Chi đâu phải người không biết thưởng thức, dưa chín ép không ngọt. Đương nhiên nếu tứ điện hạ và Cố tiểu thư phu phụ tình thâm, thay đổi chủ ý, đừng quên nói với ta một tiếng”.

Lưu Giác đứng dậy nhảy lên ngựa, nhìn thấy những quầng sáng le lói phía chân trời, thốt lên: “Phong cảnh nơi này quả rất đẹp”. Nói đoạn, chàng ra roi thúc ngựa.

Tử Ly đột nhiên nói: “Nghe đồn Tùng phong đường của tiểu vương gia vẫn treo bức họa, có phải muốn tranh với bản vương?”.

Lưu Giác sững người. Tử Ly nói tiếp: “Nếu đúng vậy, bản vương khuyên ngươi, không nên có chủ ý với A La nữa”.

Lưu Giác cười lạnh lùng: “Tứ điện hạ tốt với A La như thế, điện hạ đã thương nàng ấy như vậy, lẽ nào để A La chịu tủi phận thứ thiếp?”. Dứt lời, không đợi hồi âm, chàng liền quất roi, ngựa hý một tiếng vút đi.

Tử Ly ngẩn người, buông tay nhìn những vệt sáng phía chân trời, một ánh hồng dần dần lan ra khắp chân trời, bất giác thở dài. Chàng vẫy tay, tùy tùng dắt ngựa đến. Chàng ôm A La lên lưng ngựa phi về thành. Gió ù ù bên tai, thảo nguyên sáng sớm tháng tư vẫn còn se lạnh, hai má A La phớt hồng, mắt vẫn nhắm nghiền. Tử Ly ôm riết vào người, hơi ấm truyền ra từ cơ thể mềm mại của A La, khiến lòng chàng không còn trống trải.

Đi vào trong tướng phủ, chàng đánh thức A La: “Đến phủ rồi, dậy thôi”.

A La dụi mắt: “Đại ca, muội ngủ say quá, không thức với đại ca, lại phiền đại ca đưa về tận phủ”.

Tử Ly cười dịu dàng: “Sau này đại ca sẽ đưa muội đi ngắm cảnh đẹp hơn nữa. Muộn rồi, mau về đi”.

A La nhìn Tử Ly, lòng vui lâng lâng, Tử Ly tốt với nàng quá. Nàng vẫy tay với chàng: “Đại ca, tạm biệt!”. Dứt lời, quay đầu chạy khỏi rừng trúc.

Tiểu Ngọc đã dậy, thấy A La chạy từ bên ngoài vào, bèn nói: “Tiểu Ngọc đẩy cửa, thấy đóng chặt, tưởng là tiểu thư chưa dậy”.

A La giơ hai tay, cười: “Ta đến rừng trúc luyện công”. Rồi véo má Tiểu Ngọc, nói: “Lấy hộ ít nước nóng, ta vẫn chưa rửa mặt”.

Sau khi Tiểu Ngọc đi khỏi, A La nhìn trước nhìn sau, lại nhảy qua cửa sổ vào phòng, mở cửa. Ngồi trước gương, nàng nghĩ lại cảnh thảo nguyên trong đêm và tâm trạng đầy phấn kích của mình trước cảnh tượng mênh mang huyền ảo đó, bất giác mỉm cười, lòng thầm nhủ, nếu không bị Lý tướng bắt ép lấy người có chức có quyền, không có những quy tắc lễ nghi ngặt nghèo, được sống tự do trên mảnh đất tươi đẹp này cũng thực dễ chịu. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng như ý, vả lại đây đâu phải thời hiện đại, mình muốn làm gì thì làm. A La lại thở dài, cuộc sống thoải mái tự do này, được ngày nào hay ngày đó. Ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, việc cần làm gấp bây giờ là nhanh chóng rời khỏi tướng phủ.

A La dùng xong bữa sáng, đợi thất phu nhân đi thỉnh an trở về, nàng nói với bà: “Mẹ à, bây giờ bạc đã đủ rồi, chúng ta trốn được chưa?”.

Thất phu nhân tươi cười: “Tam Nhi, chúng ta trốn thế nào? Hiện vẫn chưa có kế sách vẹn toàn, không thể khinh suất manh động, nếu không chúng ta chạy được bao xa?”.

A La cũng cười: “Con biết, chỉ là con quá nóng ruột muốn đi. Mẹ yên tâm, sẽ không có sơ suất gì đâu”.

Bây giờ có ngân lượng rồi, ít nhất cũng còn thời gian một năm nữa, đủ để chúng ta vạch định kế hoạch chu đáo, chuẩn bị tốt mọi thứ.

Thất phu nhân mỉm cười, hài lòng.

_____________

Chú thích:

11. Đăng Đồ Tử có nghĩa bóng là "kẻ háo sắc", Thanh La mắng Lưu Giác nhưng chàng ta lại không hiểu hàm nghĩa này (BTV).

.

Chương 10

.

Hôm đó, Tử Ly và A La hẹn nhau ở Tố tâm trai, vừa ngồi xuống gọi món, Lưu Giác đã xuất hiện. Chàng điềm nhiên ngồi xuống cạnh họ, mỉm cười với Tử Ly: “Có thêm ta không thấy phiền chứ? Nghe nói đây là sản nghiệp dưới tên tứ điện hạ, chặn đứt đường làm ăn của Thiên phong lầu, được coi là Phong thành đệ nhất chay yến. Lần đầu ta đến đây, xin chớ đuổi đi”.

Tử Ly cười, nói: “Lần trước uống rượu của tiểu vương gia, lần này đương nhiên phải mời đáp lễ”.

Tử Ly không nói gì, A La cũng không tiện đuổi Lưu Giác, chỉ có điều nhìn thấy chàng, lòng nàng không vui, luôn muốn chỉnh chàng một trận. Nàng rất hoài nghi, thường xuyên chạm trán Lưu Giác, chàng ta có nghìn mắt hay sao? A La tiếc là mình không thể biến thành con gián, con muỗi hay côn trùng, để chàng ta nhìn thấy là tự tránh xa.

Nàng cúi đầu uống trà, đột nhiên nghĩ, tại sao bây giờ mình lại trở nên mềm yếu như thế. Trước đây, ở thời hiện đại, nếu gặp tình huống tương tự, nếu bị gã trai nào quấy rầy, nàng đã thẳng thừng mời gã đi không chút khách khí, ở đây lại phải cân nhắc nhiều như vậy. Càng nghĩ càng bức xúc, giá có thể không cần quan tâm gì hết, thích cáu thì cáu, thích giận thì giận, cứ kìm chế thế này đến phát điên mất. A La nhìn Tử Ly, khuôn mặt chàng vẫn phảng phất nụ cười, lại nhìn Lưu Giác vẫn vẻ phớt đời thường lệ. A La thầm nghĩ, hai vị cứ ngồi nhìn nhau ăn nhé, bản cô nương không muốn tiếp. Nàng đứng dậy, mỉm cười nói: “Muội ra đằng sau một lát, sẽ quay lại ngay”.

A La vừa đi, thức ăn đã bê lên, Lưu Giác cười: “Không khách khí nữa!”. Cầm đũa nếm thử, Tử Ly buồn cười nhìn vẻ ngạc nhiên, tán thưởng dần dần lộ ra trên nét mặt chàng ta. Lưu Giác “chà” một tiếng, hỏi: “Tứ điện hạ thần thông quảng đại, tìm đâu ra đầu bếp cao tay như vậy?”.

Tử Ly cười: “Là do A La dạy đầu bếp làm”.

Thần sắc Lưu Giác hơi biến đổi: “Nàng ấy giúp điện hạ dạy đầu bếp nấu ăn?”.

Tử Ly cười, gật đầu: “Nàng ấy chỉ dạy bốn năm món, nói là chỉ biết bằng ấy thứ. Có điều, thực khách đến Tố tâm trai vẫn rất đông. Ở đây cũng còn nhiều món khác nhưng mấy món này vẫn là những món chủ lực hút khách nhất”.

Lưu Giác cười: “Đã đến đây, ắt phải nếm hết các món”.

Hai người ăn được một lát, thấy A La vẫn chưa trở lại, quay ra chuyện phiếm với nhau, hai bên dường như cũng tâm đầu ý hợp. Lưu Giác cảm thấy, càng tiếp xúc với tứ hoàng tử càng phát hiện Lưu Phi có vẻ thân thiện bẩm sinh. Tử Ly cũng thấy Lưu Giác không ngang tàng như vẻ bề ngoài, nói năng rất có chủ kiến. Hai người nhìn nhau, đều nghĩ, người này có thể cùng với mình được mệnh danh đại công tử Phong thành, ắt có chỗ hơn người. Tử Ly nâng chén rượu mời Lưu Giác: “Tiểu vương gia, chén này bản vương mời đệ, nếu sớm biết đệ ái mộ Cố tiểu thư, bản vương nhất định ngăn cản phụ hoàng ban hôn”.

Lưu Giác sửng sốt, mỉm cười: “Điện hạ hiểu nhầm rồi. Tiểu vương chỉ là cảm thấy tiếng đàn của Cố tiểu thư rất phi phàm, nhân tài xuất chúng, đâu có chuyện ái mộ, muốn trở thành tri kỷ”.

Tử Ly cười: “Vậy tại sao Tùng phong đường lại treo bức họa Cố tiểu thư, ngày ngày nhìn ngắm?”.

Lưu Giác giật mình. Tùng phong đường gần như được coi là cấm địa của vương phủ, không được chàng cho phép, không ai được tự tiện ra vào. Hơn nữa, lại được Thanh tổ bảo vệ, chim bay còn khó lọt, Lưu Phi làm thế nào biết được những chuyện vụn vặt đó? Lần trước ở trên thảo nguyên hình như chàng ta cũng nhắc chuyện này. Lưu Giác mặt vẫn không biến sắc, đáp: “Ta thích vẽ mỹ nhân, phàm các thanh nữ đã gặp, xứng là tuyệt sắc ta đều vẽ và lưu giữ. Rượu này nên là ta mời điện hạ, lưu giữ chân dung Cố tiểu thư quả là bất kính với vương phi của tứ hoàng tử. Tối nay sẽ sai người đưa đến quý phủ, xin người thu nhận, chớ cười nhạo”.

Tử Ly mỉm cười: “Ái mộ mỹ nhân, lòng ai chả có, tiểu vương gia biết lễ như vậy, lại khiến bản vương thấy mình quá hẹp hòi”.

Hai người cười ha hả cùng cạn chén.

Một người hầu đi đến, nói với Tử Ly: “Tam tiểu thư có lời nhắn, là bỗng thấy người khó chịu, đã về phủ trước, xin hai ngài cứ vui khỏi cần bận tâm”.

Tử Ly mỉm cười, bụng nghĩ, A La ghét Lưu Giác không ở mức bình thường, nhìn thấy chàng ta là không muốn ăn.

Lưu Giác vẻ ngoài vẫn thản nhiên, nhưng lòng nổi sóng, Lý Thanh La! Nàng giỏi lắm, bao mỹ nhân trong thiên hạ mong được ta liếc mắt, còn nàng thấy mặt ta là không còn hứng ăn uống?

Hai người trong lòng đều theo đuổi ý riêng, sắc mặt vẫn không thay đổi, tiếp tục uống rượu. Chén cạn lại rót, thầm khâm phục tửu lượng của nhau. Những nậm rượu trống không trên bàn mỗi lúc một nhiều, bên ngoài trời tối dần. Tử Ly say trước, nói năng có phần thoải mái: “Tiểu vương gia, tửu lượng của tiểu vương gia đáng khâm phục, tốt quá!”.

Lưu Giác cười ha hả, ánh mắt lơ mơ nhìn Tử Ly: “Tiểu vương gia cái gì, nếu không chê, cứ gọi ta là Doãn Chi”.

“Được, Doãn Chi, đừng có điện hạ điện hạ mãi thế, cứ gọi ta là Tử Ly!”. Tử Ly cũng cười ha hả, khuôn mặt vốn dĩ như cười như không giờ đã say khướt.

Lưu Giác lảo đảo đến ngồi xuống bên Tử Ly, dang tay ôm vai chàng, nói to: “Hầu đâu, mang rượu lên!”. Vẻ mặt lơ mơ, miệng cười ngốc nghếch: “Điện hạ... Tử Ly, nói xem, Lý Thanh La có, có điểm nào... hay? Nàng ta kém xa đại tỷ, nhị tỷ, bất kỳ khuê nữ nào ở Phong thành này cũng hơn nàng ta, sao nàng ta không có mắt thế?”.

Nói đoạn đứng lên, tay chắp eo, lảo đảo suýt ngã, miệng líu ríu: “Nàng ta đã nghe danh ngũ đại công tử Phong thành này chưa? Đầu óc Lý tướng để đâu? Nàng ta chẳng qua là con gái một tỳ thiếp bị thất sủng?”. Nói đoạn loạng choạng trở về chỗ ngồi, lại cầm nậm rượu rót tiếp.

Tử Ly cười khì khì: “Doãn Chi, đệ đâu biết A La quả là báu vật, quen nhau đã lâu như vậy mà ta vẫn không nhìn ra nàng ấy, nàng ấy rất khác, rất khác biệt. Hoàn toàn không giống một thiếu nữ mười ba, nhưng lòng dạ rất tốt. Nếu cưới được A La làm vợ, ta đây mãn nguyện lắm thay”.

Luu Giác cười khì khì: “Vậy Cố gia thiên kim thì sao?”.

Tử Ly cười tự đắc: “Ta đương nhiên nâng niu A La trên lòng bàn tay. Nếu lòng nàng có ta, thì nàng sẽ hiểu ta chỉ là bất đắc dĩ mà thôi”.

Lưu Giác lại uống hết một nậm rượu, chỉ biết lắc đầu cười. Cuối cùng Tử Ly giơ tay lắc người chàng ta: “Doãn Chi, Doãn Chi, hì hì, ngươi còn say hơn ta”. Nói xong gục đầu xuống bàn.

Lưu Giác cười ha hả đẩy Tử Ly: “Tử Ly, điện hạ, lại còn nói ta say hơn, ha ha!”. Cười mãi, lát sau há mồm nôn thốc nôn tháo, người cũng đổ gục xuống bàn.

Đúng nửa canh giờ sau, bên ngoài cửa sổ một bóng người nhảy vào, đi đến bên Lưu Giác, lặng lẽ nhìn một hồi lâu, tay cầm dao vung lên. Lưỡi dao xé gió nhanh như chớp, bay đến bên Lưu Giác thì dừng đột ngột, Lưu Giác vẫn không động đậy. Người này nói khẽ: “Điện hạ, chàng ta say rồi”.

Tử Ly ngóc đầu khỏi mặt bàn, sắc mặt đã trở lại bình thường, mắt băn khoăn nhìn Lưu Giác hồi lâu, nói với người kia: “Gọi xe ngựa đưa về vương phủ, dọc đường chăm sóc chu đáo”.

Lưu Giác đã say khướt, người mềm nhũn được khiêng vào phủ. Hai tỳ nữ của Tùng phong đường là Tư Thi và Tư Họa bận rộn cuống quýt mới thu dọn sạch sẽ, Lưu Giác lại há miệng nôn tiếp, vật vã hồi lâu mới ngủ thiếp đi.

Hai tỳ nữ nhẹ nhàng khép cửa đi ra. Trong phòng chỉ còn một mình Lưu Giác nằm trên giường. Chàng lắng nghe động tĩnh, biết xung quanh không có ai, mới từ từ mở mắt, hai mắt hoàn toàn tỉnh táo, trong sáng, không một vết tích của say rượu.

Từ khi Tử Ly vô tình nói ra bức họa của Cố Thiên Lâm ở Tùng phong đường, Lưu Giác bỗng lưu tâm. Chàng vốn không nên nghi ngờ Tử Ly, nhưng mấy hôm trước trên thảo nguyên bình rượu từ Biên Thành mang về mà chàng ném cho Tử Ly không phải là rượu thường, dù người có tửu lượng cực lớn, chỉ cần uống một ngụm sẽ lập tức bị sặc bởi tửu tính bỏng rát như lửa của nó, nhưng lúc đó Tử Ly lại ngửa cổ tu một ngụm lớn, theo phán đoán của Lưu Giác, tửu lượng của chàng và Tử Ly cũng tương đương, Tử Ly không lý nào lại say trước chàng.

Lưu Giác nghi ngờ nên cũng giả bộ say. Chàng còn cố tình uống thêm hai nậm nữa, rồi vận công ép bụng nôn ra. Chàng gục xuống bàn, khi đã gần hết kiên nhẫn thì nghe thấy tiếng thở từ ngoài cửa sổ, ngay sau đó có bóng người nhảy vào. Người này rút dao vung lên, chàng vẫn không động đậy, lúc đó càng khẳng định Lưu Phi giả say. Trên thảo nguyên chàng biết thị vệ tùy tùng của Tử Ly luôn ẩn nấp đâu đó quanh chàng ta, người vừa nhảy vào nếu không phải là thân tín của Tử Ly, thị vệ của chàng ta sao có thể cho mang dao xông vào, huống hồ trong lúc Lưu Phi đang say.

Quả nhiên sau khi người đó thử ra tay, Tử Ly đã tỉnh ngay, chỉ sai thuộc hạ chăm sóc chàng đưa về phủ. Lưu Giác thâm tâm biết rõ, phụ thân chàng rất quan trọng đối với tứ hoàng tử, nếu hôm nay mình nhân lúc chàng ta say, trở mặt hoặc nói điều gì sơ suất, hậu quả sẽ khôn lường.

Hành động này của tứ hoàng tử là có ý đồ thăm dò gì đây? Thăm dò mình có phải là người của thái tử hay không ư? Bởi vì mình nói dối là đã cầu thân với Lý tướng, mà Lý tướng rõ ràng là người của phe thái tử? Tứ hoàng tử lại thăm dò thái độ của mình đối với Cố gia thiên kim, có phải chàng ta nghi ngờ do bị cướp mất người trong mộng nên mình hận chàng ta?

Lưu Giác nằm trên giường âm thầm suy nghĩ. Tứ hoàng tử có thể biết được những chuyện trong Tùng phong đường, tất đã có nội ứng bên cạnh mình. Nội ứng này thân cận bên mình, lại hiểu rõ Tùng phong đường có thể là ai? Những người có thể ra vào Tùng phong đường đa số là những binh sĩ quyết tử, vốn là trẻ mồ côi được nuôi dưỡng từ nhỏ, rút cuộc chàng ta đã mua chuộc được ai? Người đó do tứ hoàng tử bố trí hay là do Ninh vương bố trí?

Lời của tứ hoàng tử nửa thật, nửa giả. Lưu Giác nhận ra những khi Tử Ly nói năng sơ hở là những lúc có mặt A La, nàng ta là điểm yếu của tứ hoàng tử ư?

Lưu Giác nhớ lại, khi say Tử Ly nói A La rất khác thường, chàng ta nhìn không thấu. Chàng đã sai người theo dõi A La, tin tức báo về cho biết, A La từ nhỏ văn tài bình thường, sáo cũng mới học sau khi từ Đào hoa yến trở về. Nàng ta có chỗ nào khác thường? Lưu Giác vắt óc suy nghĩ mỗi câu nói của Tử Ly, một ý nghĩ như ánh chớp vừa lóe trong đầu, chàng ngồi bật dậy.

Tử Ly nói: “Nàng ấy hoàn toàn không giống một thiếu nữ mười ba”, Lưu Giác thở phào, chính câu này. Trong Đào hoa yến, A La mới mười hai tuổi, còn suýt thì bị té xuống suối, thấy đôi chân trần bị người khác nhìn đã đỏ mặt mắng là dâm tặc. Khi gặp lại, thấy nàng ta nằm thản nhiên trên thảm cỏ, không chút e dè, nàng ta còn biết võ công, quyền cước kỳ lạ của nàng ta không biết học được từ đâu, chàng mãi vẫn không điều tra ra. Nàng ta có khuôn mặt trẻ con, nhưng thần sắc và thái độ khi nói lúc đó tuyệt đối không giống một tiểu thư danh giá lần đầu xuất phủ. Theo tin nắm được, Tử Ly bên bờ sông vô tình nghe được tiếng sáo của nàng ta, mấy tháng liền ngày nào cũng đến thổi tiêu, hòa tấu với nhau. Tứ hoàng tử có tài thổi tiêu, điều này triều đình ai cũng biết, tiếng tiêu là do Trần hoàng hậu dạy cho, sau khi Trần hoàng hậu qua đời, tứ hoàng tử càng say mê thổi tiêu. Có thể họa tiêu với anh ta, tiếng sáo của A La chắc chắn không kém bao nhiêu. Nhưng trong bữa tiệc thưởng trăng đêm đó, tại sao nàng ta lại cố ý giấu tài, bỏ qua cơ hội thể hiện trước mọi người.

Lưu Giác nghĩ, lời của Tử Ly ba phần thật, ba phần say, A La này tuyệt đối không bình thường. Chàng lại nằm xuống, càng bội phần hứng thú đối với A La. Nhưng chàng không vội, nhất định có ngày chàng sẽ tìm ra nguyên cớ của mọi nghi ngờ hôm nay.

Sáng sớm vừa tỉnh dậy, Tư Thi đã mang chậu bạc đựng nước nóng cho chàng rửa mặt, nói: “Tối qua vương gia say quá, nô tỳ đã nấu canh giã rượu, sáng sớm uống một bát sẽ ấm dạ”.

Lưu Giác nghĩ một lát, đột nhiên hỏi: “Ta trở về như thế nào?”.

Tư Thi bụm môi cười: “Tiểu vương gia bị người ta khiêng về, hình như là người của phủ tứ hoàng tử”.

Lưu Giác “ồ” một tiếng. Rửa mặt, uống canh xong, lại nhìn bức họa trên tường, nói với Tư Thi: “Bảo người phong bao cẩn thận đưa đến phủ tứ hoàng tử”.

Tư Thi đi gỡ bức họa xuống, Lưu Giác giơ tay ngăn lại: “Gọi Lưu Anh đến đây”.

Tư Thi đi khỏi, Lưu Giác lại ngắm kỹ bức họa, trầm ngâm một lát, lập tức đến bên án thư, vẽ một bức họa khác của Cố Thiên Lâm, dung mạo xiêm y giống hệt bức cũ, chỉ khác có đôi mắt.

Khi Lưu Anh bước vào, Lưu Giác trao cho anh ta bức vẽ mới, nói: “Mang bức này đi hồ lại giống như bức cũ, đưa đến phủ tứ hoàng tử. Nếu có ai hỏi thì nói là vật quay về nguyên chủ”. Lại cầm lên bức họa cũ, nhìn đôi mắt trong đó lần nữa, giao cho Lưu Anh: “Bức này đem đốt đi, nhớ làm cho kín đáo”.

Lưu Anh cầm bức họa đi ra.

Lưu Giác tính ngày giờ, chỉ còn một tháng nữa là đến hôn lễ của Tử Ly với Cố Thiên Lâm. Chàng rất muốn biết Tử Ly sẽ ăn nói thế nào với A La. Lý tướng triệu tập cuộc họp toàn gia, A La và thất phu nhân vẫn ngồi ở cuối hàng ghế bên phải. Lý tướng nói: “A Lôi được gả vào Đông cung đã được ba tháng, đại hôn lễ của tứ hoàng tử cử hành vào tháng bảy, vẫn còn nửa tháng nữa. Người của A Lôi từ cung nhắn ra, Đông cung mở tiệc chúc mừng hôn lễ của tứ hoàng tử, để A Lôi đỡ nhớ nhà, đã đặc biệt gửi thiệp mời chúng ta. Lần này đại phu nhân và Ngọc Mai cùng A Phỉ, A La vào cung trước. A Phỉ à, Thành thị lang đã được thăng làm Binh bộ thị lang, đợi hôn lễ của tứ hoàng tử hoàn tất, cha sẽ lo liệu hôn sự cho con”.

Thanh Phỉ đỏ mặt thẹn thùng, khẽ nói: “Cha đứng ra lo liệu là phải lắm”.

Lý tướng cười ha hả: “Hai con gái của Lý gia đã có nơi có chốn, cha quả thật rất vui, may vẫn còn A La ở bên cha”.

A La lập tức ngoan ngoãn trả lời: “Vâng, thưa cha, A La muốn ở bên cha mãi mãi có được không?”.

Lý tướng cười: “Con gái lớn phải gả chồng. A La cũng sắp tròn mười bốn, đến tuổi cập kê, người tìm đến cầu thân e là giẫm nát bậc cửa tướng phủ mất”. Nghe thấy thế, mấy phu nhân cũng cười theo.

A La cười nhạt, nếu không nhìn thấu tâm địa bán con cầu vinh của Lý tướng, bầu không khí này có lẽ là cảnh đại gia đình hòa thuận hiếm hoi đẹp đẽ nhất trong phủ đường.

.

Chương 11

.

Đây là lần thứ hai Thanh La vào cung, vương cung đối với nàng đã không còn hấp dẫn nữa. Thanh Phỉ lại không nén nổi vui mừng, lâu lắm rồi nàng chưa được gặp chàng trạng nguyên hào hoa tuấn kiệt đó.

Đông cung của thái tử tọa lạc ở sơn cốc sườn phía đông của đại điện, các hoàng tử trước khi lập gia thất đều ở trong những cung điện trên sơn cốc này, đối xứng với cung hoàng hậu và phi tần phía xa. Phủ mới đã xây xong, sau hôn lễ, tứ hoàng tử sẽ chuyển đến vương cung, cặp tân hôn sẽ lưu lại nửa tháng trong vương cung sau đó sẽ chuyển về nơi ở mới, thái tử mở tiệc lúc này theo thông lệ chủ yếu là để thể hiện tình huynh đệ keo sơn.

A La không biết tình cảm của thái tử và Tử Ly như thế nào, không ai nói với nàng về điều đó cả. Nhưng qua đọc sách và những câu chuyện nghe được, nàng đoán là quan hệ giữa họ cũng không mấy thân tình. Không cùng mẹ sinh ra, chỉ vì ngôi báu đó, từ khi sinh ra, sự nghi kỵ đề phòng lẫn nhau giữa các hoàng tử đã lớn hơn cả tình thân. Nàng đã nhìn thấy thái tử, đích thực là dòng dõi long phượng, Tử Ly cũng không thua kém, đều là bậc tài mạo phi phàm. Nếu Tử Ly tầm thường một chút có lẽ lại tốt, thái tử sẽ không nghi ngờ. A La chỉ hy vọng hai người đó có thể chung sống thuận hòa, ít nhất cũng không có hận thù.

Vương Yến Hồi đoan trang ngồi bên thái tử, ngắm mãi nàng ta cũng không đẹp bằng Thanh Lôi. Nhưng cũng khí chất cao quý như vậy, Vương Yến Hồi vừa ngồi xuống bên thái tử, đã thấy ngay sự khác biệt về thân phận so với Thanh Lôi. A La nghĩ đến các quan chức thời hiện đại cũng thế, vị trí của chánh, phó hết sức rõ ràng, tuyệt đối không thể nhầm lẫn. Thanh Lôi dù được sủng ái đến mấy, chỉ cần có mặt Vương Yến Hồi, là phải ngồi lui phía sau, tâm thái của con người tự nhiên cũng thay đổi.

Hôm nay là lần đầu tiên nàng nhìn thấy Tử Ly và Lưu Giác trong trang phục hoàng tộc chính thức. Vừa ngắm vừa thầm xuýt xoa, cả hai người đều vận mãng bào thắt đai ngọc, ngoài hoa văn và màu sắc thêu trên y phục hơi khác một chút, ngoài ra không có gì khác biệt. Người đẹp vì lụa, đổi trang phục khác thì ai biết được ngươi là đồ khốn? Nàng cười thầm, không hiểu tại sao lại nghĩ tới câu đó.

Cố Thiên Lâm không đến, chắc là nghĩ sắp đến hôn lễ, nên ở nhà cho đúng gia phong. Thanh Phỉ ngây ngất nhìn vị trạng nguyên của mình, thỉnh thoảng ánh mắt tươi cười của Thành thị lang cũng đáp lại, Thanh Phỉ xúc động run run, tay nắm chặt khăn tay. A La thầm nghĩ, mệnh của Thanh Phỉ vẫn tốt hơn Thanh Lôi .

Thái tử nói: “Hôm nay mở tiệc chủ yếu là chúc mừng đại hôn của tứ đệ. Đại ca này mãi lưu luyến”. Nói đoạn, mắt đã đỏ hoe.

Tử Ly vội rời chỗ, đứng dậy, dáng điệu hốt hoảng e sợ. A La nhìn rất rõ, lòng nàng băn khoăn, đây không phải là hình ảnh tứ hoàng tử mà nàng đã biết. Ấn tượng mà Tử Ly đem đến cho nàng là dù núi Thái Sơn sụp đổ, chàng vẫn không thay đổi sắc mặt, nụ cười thường trực hầu như chưa bao giờ tắt trên môi. Đã mấy lần nàng được chứng kiến điều ấy! Lẽ nào, Tử Ly đang diễn kịch trước mặt thái tử, chỉ có hai khả năng, một là tỏ ra yếu thế để bảo toàn tính mạng, hai là để mê hoặc đối phương. Tử Ly... A La thở dài, không muốn nghĩ tiếp.

Thái tử nói: “Sau này đại ca khó lòng được nghe tiếng tiêu trứ danh của tứ đệ, bây giờ trong sơn cung này chỉ có mình ta, muốn tìm người uống rượu thưởng đàn cũng khó”. Tử Ly tựa hồ cảm kích rưng rưng, giọng nói có phần nghèn nghẹn: “Đại ca, Tử Ly sẽ thường xuyên vào cung thăm đại ca”.

Lát sau thái tử cười, lại tiếp: “Hôm nay phải vui hết mình, nói những chuyện đó làm gì. Tân khách đều là thân bằng cố hữu, mọi người cứ thoải mái tự nhiên. Buổi sớm trời đẹp thế này, ta cùng thưởng thức rượu ngon, nghe múa hát mới phải”. Nói xong vỗ tay ra hiệu, nhạc tấu lên, vũ nữ uyển chuyển bước ra. Thái tử lại nói: “Tứ đệ, trước đây vương phi tương lai cửa tứ đệ cùng với Lôi Nhi của ta được mệnh danh là song tuyệt Phong thành. Ông trời quả khéo se duyên, huynh đệ ta có diễm phúc cưới được hai trang tuyệt sắc”.

Tử Ly khiêm tốn: “Thiên Lâm sao sánh được hiền phi của đại ca, chỉ một khúc “Thu thủy” đã danh chấn Phong thành”.

Thái tử cười ha hả, ánh mắt đằm thắm nhìn Thanh Lôi: “Hôm đó tứ đệ không có mặt, khúc “Bội lan” của Cố tiểu thư mới thực lay động lòng quan khách, tâm như lan mà khí chất thông tuệ, đại ca thực lòng rất bối rối. Tiếng đàn của Lôi Nhi đâu sánh bằng, nhưng ta ngưỡng mộ tâm hồn Lôi Nhi”.

Thanh Lôi e lệ cúi đầu. A La nghe vậy thấy buồn cười. Cổ nhân dùng tiếng đàn nói thay tiếng lòng, một khúc cầm đã có thể nhìn nhận đánh giá một con người, thực không phù hợp với quan niệm của người hiện đại. Nếu đúng lời nói là tiếng lòng, thì người ta chỉ cần mấy cái mặt nạ thay đổi, chẳng phải có thể thoải mái lừa gạt hay sao?

Thái tử phi Vương Yến Hồi xen lời: “Nếu tứ đệ hôm đó chưa được thưởng thức khúc “Thu thủy” của Thanh Lôi, vậy tiểu muội có vui lòng gảy lại khúc đó không. Nói thực, ta cũng muốn nghe lại lần nữa”.

Thái tử rất vui: “Phải đấy, Lôi Nhi, sau khi nghe nàng gảy ở Đào hoa yến, ta chưa thấy nàng chơi lại khúc này. Hôm nay gảy lại, để tứ đệ được thưởng thức một phen”.

Lời đã nói đến thế, Thanh Lôi đứng lên thưa: “Cho phép thiếp vào trong chuẩn bị một chút”. Sau khi thi lễ, Thanh Lôi đứng lên, có cung nữ dìu nàng đi về phía tẩm cung. Lúc đi qua bàn A La đột nhiên nói: “A Phỉ, A La hai muội đi cùng tỷ được không?”.

Đại phu nhân, tam phu nhân sắc mặt đã hơi biến đổi, tài đàn của Thanh Lôi không có gì đáng sợ, điều đáng sợ là có thể khiến người nghe nhận ra. Khách dự tiệc hôm nay rất nhiều người giỏi đàn, chỉ cần đàn ý hơi thay đổi họ sẽ lập tức nhận ra. Đại phu nhân, tam phu nhân ra hiệu cho Thanh Phỉ, Thanh La ra theo.

A La hiểu, Thanh Lôi gọi cả Thanh Phỉ là để che mắt mọi người, chủ yếu là muốn gọi nàng. Qua khóe mắt nàng liếc nhìn khuôn mặt mủm mỉm cười của Vương Yến Hồi, thấy nàng ta cũng đang nhìn về phía này, chợt lạnh người, lẽ nào tiếng đàn hàng ngày của Thanh Lôi khiến Vương Yến Hồi nghi ngờ? Nghe đồn nàng ta mưu lược hơn người, hôm nay nhân có tiệc nàng ta yêu cầu Thanh Lôi chơi lại khúc “Thu thủy” liệu có dụng ý gì khác không?

Thanh Phỉ và Thanh La đứng lên, đưa Thanh Lôi vào cung thất. Sau khi cho tả hữu lui ra, Thanh Lôi đột nhiên vung tay tát A La. Theo phản xạ nàng lùi xuống để tránh, nhưng cổ vẫn bị móng tay Thanh Lôi cào xước, đau nhoi nhói.

A La cười gằn: “Thanh Lôi, trước khi đánh muội, tỷ phải hiểu, nếu muội ra ngoài với cái mặt hằn dấu tay, quan khách nhìn thấy, tỷ định giải thích thế nào? Dạy dỗ em gái ư? May mà muội tránh kịp”.

Thanh Lôi sắc mặt thoắt biến đổi, đột nhiên ống tay áo vung lên chiếc bình hoa rơi xuống vỡ tan, nàng nhanh tay ấn bàn tay trái lên một mảnh bình vỡ, máu tươi trào ra.

Thanh Phỉ và Thanh La thấy vậy sững người, Thanh Lôi bước đến xô mạnh Thanh La, A La không đề phòng suýt ngã, loạng choạng mấy cái mới đứng vững: “Lý Thanh Lôi tỷ định làm gì?”.

Thanh Lôi nhìn nàng trân trối, ánh mắt vừa phẫn nộ vừa thê lương: “Muội muội của ta, muội muội thích giấu tài của ta, muội giống hệt mẹ mình, bản tính của gái lầu xanh không đổi, cố tìm cách để một lần xuất hiện đã thành danh! Nếu muội không thay ta đàn khúc đó, thì ta đã không khốn khổ thế này, ngày ngày sống trong sợ hãi! Thái tử nghe là khúc đàn của muội, khiến chàng xiêu lòng cũng là tâm hồn muội, là muội! Muội có biết cái vẻ mặt mủm mỉm như cười như không của Vương Yến Hồi khi nghe ta đàn khiến ta tim đập chân run thế nào không? Muội có biết, thái tử càng sủng ái ta, ta càng lo sợ mất chàng hay không? Cứ coi như lúc đó ta không đàn được, ta bị bẽ mặt, ít nhất ta còn chưa yêu chàng! Còn bây giờ thì sao?”. Giọng Thanh Lôi cố nén xuống thấp nhưng vẫn rít lên, nghe như hận đến xương tủy.

A La nghe vậy, lòng buồn não nề. Bàn tay đầy máu của Thanh Lôi thật đáng sợ, A La quay mặt đi nói: “Lúc đó không ai nghĩ đến tâm trạng hôm nay của tỷ, Thanh Lôi, tỷ trách muội cũng chẳng ích gì. Tỷ đã được gả cho thái tử, dẫu lúc đó thái tử do nghe tiếng đàn mà lựa chọn tỷ. Nhưng với cái tài và cái tình của tỷ, dẫu sau này tỷ không bao giờ đàn lại khúc “Thu thủy” kia nữa, thái tử cũng vẫn sủng ái tỷ. Kỳ thực tỷ không cần phải làm tổn thương bàn tay để trốn tránh. Tâm tư lúc tỷ đàn khúc “Thu thủy” hồi ấy khác với tâm tư của người con gái đã được gả cho người mình yêu. Thiếu nữ thuở thiếu thời ngước nhìn bầu trời cao rộng, say mê bầu trời bao la, say mê làn nước mùa thu, mơ ước bay cao bay xa, nay xuất giá đi làm vợ người, tâm hồn trở nên êm dịu thanh bình cũng chẳng có gì không ổn. Tỷ có thể giải thích, tỷ chỉ muốn làm con chim nhỏ dựa vào đấng phu quân, thu lại ước mơ ước bay bổng trên bầu trời. Tự làm tổn thương thế này, tỷ không thấy càng khiến Vương Yến Hồi nghi ngờ hay sao?”.

Thanh Lôi đứng sững hồi lâu, ngón tay trái bị rách rất sâu, máu vẫn chảy ròng ròng. Thanh Phỉ ra sức dùng khăn lụa bịt lại, nước mắt từng giọt, từng giọt lớn rơi xuống. Thanh Lôi đột nhiên hét: “Người đâu, truyền thái y! Ta đau quá!”. Bên ngoài có tiếng chân bước vội, Thanh Lôi nhìn A La cười gian giảo: “Mọi chuyện bắt đầu từ muội, cũng kết thúc ở muội! Thanh Phỉ cũng chứng kiến rồi đấy!”. Nói đến câu cuối, ánh mắt dữ tợn nhìn Thanh Phỉ.

A La nổi da gà bởi tiếng cười đó. Thấy Thanh Phỉ người run lên, cúi đầu, A La không kìm được bèn hỏi: “Tỷ định làm gì? Định đổ vạ cho muội làm hiền phi của thái tử bị thương ư? Đại tỷ?”.

Thanh Lôi mặt trắng nhợt, cười lạnh lùng: “Muội thông minh lắm!”.

Lúc đó cung nữ bước vào cuống quýt hỏi: “Nương nương sao thế?”. Sau đó nhìn thấy bàn tay đầy máu của Thanh La và những giọt máu rơi be bét xuống nền liền kinh ngạc kêu lên. Trong cung bỗng chốc trở nên rối loạn.

Có cung nhân vội chạy đi nói nhỏ vào tai thái tử. Mặt thái tử liền biến sắc. Đại phu nhân vốn đã thấp thỏm lo âu, nhìn thấy thái tử tỏ vẻ giận dữ, nóng nảy, lại không nhìn thấy ba cô gái đi ra, càng thêm lo lắng. Nhưng vốn xuất thân chốn danh gia vọng tộc, bà cố trấn tĩnh ngồi yên, hai bàn tay để trên bàn đã nắm chặt run run.

Lúc đó thái tử mỉm cười: “Tứ đệ, các vị cứ việc vui ta đi xem tại sao chị em Lôi Nhi lại chậm trễ như thế”. Thái tử vừa đứng lên đã thấy Thanh Lôi, Thanh Phỉ, Thanh La đi ra. Thanh Lôi mặt vẫn còn ngấn nước, một bàn tay giấu trong ống tay áo, thái tử nhẹ nhàng vén lên, thấy bên trong bó vải trắng, loáng thoáng vết máu, liền hỏi: “Chuyện gì thế này?”.

Thanh Lôi nét mặt hoảng loạn, tỏ vẻ đau đớn, cố nở nụ cười: “Điện hạ, Lôi Nhi đi thay trang phục, không cẩn thận làm vỡ bình hoa, chẳng may bị mảnh vỡ cứa rách ngón tay”.

Thái tử không kìm được trách móc: “Sao lại không cẩn thận như thế? Có đau không?”.

Thanh Lôi nặn ra nụ cười, dịu dàng nói: “Không đau, nhưng thiếp không chơi đàn được, làm cho tứ điện hạ mất hứng”. Nói đoạn cúi đầu, vẻ vô cùng đau buồn tội nghiệp khiến người ta phải mủi lòng.

Vương Yến Hồi nhẹ nhàng: “Yến Hồi đã quên mất khúc “Thu thủy”, hôm nay nhờ phúc của tứ đệ tưởng được nghe lại, thật không may”.

Thanh Lôi cúi đầu nhận tội: “Làm mất hứng của tỷ tỷ, Thanh Lôi có tội”. Nước mắt tuôn như mưa trên khuôn mặt yêu kiều khiến thái tử lòng đau như cắt, bất chấp trước mặt mọi người, dịu dàng dỗ dành: “Không sao, sau này có cơ hội đàn cho tứ đệ nghe là được”.

Thanh Lôi nước mắt tuôn càng mau, đột nhiên nói giọng bi thương: “Tay thiếp đã tàn phế, điện hạ!”.

Mọi người nghe vậy thất kinh. Thái tử không tin là thật: “Nàng nói gì? Thái y!”.

Thái y run run bước ra, quỳ xuống bẩm: “Vết thương của nương nương không sâu, nhưng đúng vào kinh mạch của ngón tay, làm việc không ảnh hưởng, chỉ e không đủ linh hoạt để chơi đàn”. Lời vừa dứt, Thanh Lôi bật khóc thành tiếng: “Thanh Lôi sao có thể hầu hạ thái tử được nữa, để thiếp chết đi cho xong!”.

Thái tử nghe thái y nói vậy, mặt càng biến sắc: “Sao lại không thận trọng làm vỡ bình hoa để bị thương nặng đến thế?”.

Thanh Lôi cúi đầu khóc, không nói. Mọi người trong phòng dỏng tai nghe ngóng, xem ra có ẩn tình chi đây.

Thái tử thấy không ai trả lời, to tiếng quát đám cung nữ đang run cầm cập: “Các ngươi hầu hạ nương nương thế nào! Mang ra đánh, đến khi chịu nói ra mới thôi!”.

Mấy cung nữ quỳ sụp xuống khóc lóc: “Điện hạ tha tội! Là nương nương không cho chúng nô tỳ vào hầu, nô tỳ oan uổng quá!”.

Thanh Lôi vừa khóc vừa cầu xin: “Điện hạ, Thanh Lôi và hai tiểu muội mải nói chuyện để xảy ra sơ suất, thực tình không liên quan đến bọn họ”.

A La lạnh lùng chứng kiến, cảm thấy Thanh Lôi lúc này một phần là muốn đổ vạ cho mình, một phần có lẽ thật sự đau lòng: Thái tử coi trọng tiếng đàn của nàng ta như vậy, vốn chỉ định gây vết thương nhỏ, không ngờ lại động vào mạch máu làm cho tay tàn phế không thể chơi đàn được nữa.

Thái tử buồn phiền, với Thanh Lôi chàng vừa yêu vừa xót thương, nghĩ đến không được nghe nàng đánh đàn nữa liền nổi giận bừng bừng, nhưng không thể bộc lộ trước mọi người, đành ôm Thanh Lôi vào lòng an ủi.

A La nãy giờ vẫn đợi xem Thanh Lôi rút cục giá họa cho nàng thế nào, đến lúc này không thấy động tĩnh gì, cảm thấy rất lạ, đột nhiên nghe tiếng Thanh Phỉ, giọng nói tựa hồ không thể nào nhẫn nhịn được nữa: “Chỉ tại A La quá nghịch ngợm”.

Lời vừa dứt, Thanh Lôi đang ngồi trong lòng thái tử, trừng mắt nhìn Thanh Phỉ: “Muội im đi, nói lung tung gì thế!”.

A La vẫn không nói gì, thầm cười khẩy, Lý Thanh Lôi, cô muốn Thanh Phỉ đứng ra tố cáo ta, để xem rút cục các người nói gì!

Lúc đó Tử Ly rời chỗ đứng lên, nói: “Đại ca, hôm nay mở tiệc vui, tỷ muội họ vui đùa, chẳng may sơ suất. Lương đệ nương nương hiền đức cưng chiều muội muội, không nỡ trách phạt, coi như cho qua”.

A La thầm cảm kích, Tử Ly tốt quá, chịu đứng ra giải nguy cho mình. Nàng liền nhân cơ nhận tội: “Tỷ tỷ bị thương là do A La, A La trong lòng cũng buồn lắm, tỷ tỷ không trách phạt mà lại yêu chiều tiểu muội. Quả thực muội rất xấu hổ”. Nàng tưởng mình nói như vậy chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, nhận lỗi là được.

Không ngờ Thanh Phỉ có vẻ nhanh mồm nhanh miệng, nói: “Hừ, vừa rồi chẳng phải muội làm vỡ bình hoa, cố tình đẩy đại tỷ ngã, nếu không đại tỷ sao đến nỗi bị bị đứt kinh mạch! Chẳng qua đố kỵ đại tỷ mà thôi! Đại tỷ hiền lương, lại còn cưng chiều như thế!”.

Lời Thanh Phỉ vừa buông ra, không khí trong đại điện vốn đã thoải mái đi nhiều bỗng dưng trở nên căng thẳng hẳn lên. Thái tử trợn mắt nhìn Thanh La, lạnh lùng nói với đại phu nhân: “Tam tiểu thư của Lý phủ thì ra lại ác độc như thế!”.

Thanh Lôi thấy thái tử nổi cơn thịnh nộ, vội vàng kéo áo thái tử khẩn cầu: “Điện hạ, A La còn nhỏ, Thanh Lôi chẳng qua không thể chơi đàn được thôi. Lẽ nào điện hạ sủng ái Thanh Lôi chỉ vì tiếng đàn?”. Nói đoạn nước mắt lại trào ra như suối.

Thái tử buồn bực, an ủi: “Lôi Nhi hiền lương đức thục, không đành đàn được nữa thì có sao”. Nói đoạn, giọng trở nên nghiêm khắc, “Nhưng tuổi còn nhỏ đã rắp tâm mưu hại người thân, tuyệt đối không tha!”.

Vương Yến Hồi tiếp lời: “Quả là không nên có lòng tham như thế! Nếu không làm tàn phế bàn tay cô ta, cũng phải khiến cô ta cả đời không thể động đến cây đàn, được không?”.

Thái tử gật đầu: “Ái phi nói chí phải, xem cô ta đố kỵ Lôi Nhi thế nào! Chỉ chặt ngón vô danh bàn tay phải, giao cho thân mẫu đưa về phủ dạy bảo!”.

A La nghe vậy, thầm kêu mẹ, sợ hãi tái mặt, ánh mắt khẩn cầu vô thức hướng về Tử Ly. Mắt Tử Ly hơi hoảng hốt, khẽ cau mày, nhưng không nói gì. A La đột nhiên vỡ lẽ, trước mặt thái tử, Tử Ly một mực khúm núm, muốn chàng giúp mình đúng lúc thái tử nổi giận, Tử Ly chắc là trăm mối tơ vò, không biết giúp thế nào? Nàng bất lực, kinh sợ thầm nghĩ, Lý Thanh Lôi cô ác quá, lại còn giả bộ hiền lành tội nghiệp. Lại còn Lý Thanh Phỉ kia nữa, vì tiền đồ của Thành Tư Duyệt mà dám ra tay hãm hại mình.

Ánh mắt A La quét qua mặt những người trong đại điện, thấy Lưu Giác cũng trầm mặt không nói gì, nụ cười lạnh châm biếm hiện trên mặt nàng. Lần này tốt rồi, ngươi đã được như sở nguyện, mọi tư thù sẽ được thanh toán.

Lúc đó hai cung nữ cao to đi vào đại điện, kéo tay A La định ra tay, Tử Ly giơ tay nói: “Hãy khoan!”.

Thái tử nhìn Tử Ly: “Tứ đệ muốn xin cho cô ta?”.

Tử Ly cười lạnh lùng: “Vừa rồi cứ tưởng tỷ muội chơi đùa không cẩn thận xảy ra sơ suất, không ngờ cô ta lại ác tâm như vậy! Bữa tiệc này lại bị cô ta làm hỏng, quả thật không thể tha! Chặt một ngón tay bõ bèn gì, bản vương sẽ đích thân động thủ!”. Chàng chắc chắn sẽ không làm tàn phế tay A La, để người khác động thủ chàng không yên tâm.

A La kinh sợ nghĩ đến ngón tay bằng xương bằng thịt của mình bị chặt phăng, mình sẽ đau đến chết! Nghe Tử Ly nói muốn đích thân ra tay, nàng kinh hoàng nhìn chàng, thầm kêu, đừng, đừng, không nên là chàng! Tử Ly từng bước đến gần, nỗi phẫn nộ trong lòng A La đã đến tột đỉnh. Vốn muốn sống một cách bình yên, có cơ hội sẽ rời tướng phủ tìm nơi an toàn để sống, không ngờ, thế này không được, thế kia cũng không xong! Nỗi uất hận tích tụ bao năm cuối cùng đã lên tới đỉnh điểm, cuộc sống tra tấn ngày trước nàng phải nhẫn nhịn, bây giờ quả thực không thể nhẫn nhịn được nữa! Nàng hét to: “Hãy khoan!”.

Tất cả giật mình bởi tiếng hét của nàng. Thấy A La đứng giữa đại điện, mặt hiên ngang thách thức, thái tử cũng sững người. Vương Yến Hồi lạnh lùng mở miệng: “Ngươi còn muốn nói gì?”.

A La liếc nhìn Vương Yến Hồi, ánh mắt chuyển sang nhìn thẳng vào mắt Tử Ly, nói từng từ: “Tứ điện hạ muốn đích thân động thủ phải không?”.

Tủ Ly nhếch mép cười: “Làm hỏng nhã hứng của bản vương, bản vương đích thân tìm lại, có gì sai?”.

Mắt A La thoáng ướt: “Được, ta sẽ làm tăng nhã hứng của điện hạ! Điện hạ không muốn nghe ta đàn một khúc sao?”.

Ánh mắt nàng vượt qua Tử Ly, dừng lại ở khoảng không phía sau chàng: “Thực ra A La rất thích chơi đàn, từ nhỏ tiếng đàn đã không bằng đại tỷ, hừ, cho nên không chơi nữa”. Nụ cười trên môi nàng như giễu cợt, dừng giây lát, lại tiếp: “Bây giờ nhận thấy từ nay không thể chơi đàn được nữa, có thể cho phép A La chơi một khúc chăng?”.

Vương Yến Hồi lạnh lùng: “Không cho ngươi toại nguyện, trở về tướng phủ chịu quản giáo e là ngươi cũng không cam tâm! Người đâu, mang đàn lại cho tam tiểu thư!”. Khóe mép ẩn hiện nụ cười.

Thanh Lôi cả người run lẩy bẩy, nhìn đại điện không thấy ai có phản ứng, muốn mở miệng ngăn cản, lại sợ vội vàng, ngộ nhỡ lộ ra điều gì, hoảng hốt nhìn đại phu nhân.

Đại phu nhân quỳ xuống nói: “Trong nhà đã sớm nhận ra tâm địa của tiểu nha đầu kia, đã lệnh cấm không cho động đến cây đàn. Hôm nay Thanh Lôi như vậy, sao có thể để Thanh Lôi nghe tiếng đàn thêm đau lòng!”.

A La không đợi ai lên tiếng, cười nói: “Tiểu nữ đã sắp bị chặt ngón tay, không thể đoái thương tiểu nữ một chút sao? Dù gì tiểu nữ tuổi cũng mới mười ba”.

Thái tử sa sầm mặt: “Không cho ngươi đánh đàn, chuyện đồn ra ngoài, lại bảo Đông cung ta bắt nạt trẻ ranh!”.

A La nhẹ nhàng ngồi xuống. Cây đàn tốt thật, đàn của Đông cung sao có thể không phải là loại thượng hạng! Ngón tay lướt trên dây đàn để thử âm, ánh mắt chậm chầm lướt qua mặt những người trong đại điện, lạnh như nước băng chích vào xương, nụ cười mơ hồ trên khóe miệng, dịu dàng yếu ớt như đóa hoa mùa thu bé nhỏ cuối cùng sắp lụi tàn, vừng trán bừng lên vẻ ngạo nghễ hiên ngang như cây tùng trên đỉnh núi, đơn độc đón nhận những trận cuồng phong.

Tử Ly cũng thấy lòng thắt lại, chàng thực sự rất muốn đưa A La ra khỏi chốn này.

Lưu Giác lặng lẽ nhìn A La, nâng chén rượu lên môi. Khuôn mặt muôn hình sắc thái của nàng khiến chàng kinh ngạc, hôm trước, trên thuyền hoa nàng một mực không chịu chơi đàn, trong chuyện này... Chàng nhìn hai rèm mi của A La rủ xuống, hai tay khoan thai lướt trên dây đàn, hai mắt khép lại.

Lát sau một thanh âm trầm thấp bay lên, A La bắt đầu chơi đàn. Tiếng đàn lúc như âm thầm rên rỉ, lúc lặng lẽ thở dài, lúc mong manh thâm trầm như không nghe thấy. Đột nhiên âm thanh vút lên, hào sảng, dồn dập, triền miên, tràn ngập mặt đất, tràn ngập không gian, xông thẳng vào lòng người, lay động tâm can! Cả đại điện dường như chìm trong nỗi bi thương khôn cùng, đau buốt đến tim gan, rồi thoắt cái như đã ở giữa sa trường, tiếng gươm đao rợp đất. Khúc đàn lúc trầm lúc bổng, lúc tan lúc hợp, từ thống thiết bi thương đến phẫn nộ gào thét.

Khúc “Quảng lăng tán” được A La chơi lâm ly thống thiết. Đại điện im phăng phắc, chỉ có tiếng đàn, chỉ có tiếng lòng A La vang lên. Kê Khang đã đánh khúc này trước khi bước lên đoạn đầu đài mà trở nên nổi tiếng. A La thầm nghĩ, bản thân nàng có phải cũng có tinh thần ung dung đón chờ cái chết như Kê Khang? Chắn chắn là không. Nhưng lay động lòng người nghe thì có.

Nghĩ đến bản thân do biến thiên kỳ lạ nào đó đến thế giới này, nghĩ đến những người thân ở thế giới kia, thời không cách biệt khó lòng tương ngộ. Nghĩ đến những ngày âm thầm chịu đựng nơi tướng phủ, nghĩ đến Lưu Giác không chịu lên tiếng, nghĩ đến những người mang tiếng là thân thích ruột thịt của nàng, lại nhẫn tâm hãm hại nàng. Nỗi bi thương uất hận không thể kìm nén trong lòng dồn cả vào tiếng đàn.

Nghĩ đến đánh xong khúc này, Tử Ly sẽ tự tay chặt đứt ngón tay mình, nàng bỗng liếc nhìn chàng, sự phẫn kích oán trách người bội bạc chất chứa trong tiếng đàn, tựa hồ giông bão cuồn cuộn, tựa hồ sấm rền chớp giật, phá tan đất trời, gầm thét sục sôi, cuốn phăng thần trí chàng. Tử Ly bất giác lùi về sau một bước. A La đang hận chàng ư? Đang hận chàng ư? Chàng muốn tự tay động thủ chẳng qua là chàng sẽ nương tay, sẽ có chừng mực mà thôi.

A La nghĩ, đúng vậy, sẽ đau, mất một ngón tay, sẽ không bao giờ, không bao giờ đánh đàn được nữa cũng có gì ghê gớm đâu. Xem trọng tiếng đàn như vậy, chẳng qua là các vị chẳng có gì tiêu khiển mà thôi. Người hiện đại sống rất hay, không vì xa tiếng đàn mà như ngày tận thế! Khúc nhạc hào sảng vút lên những hợp âm cuối cùng, A La từ từ đứng dậy, ngẩng cao đầu, đi đến trước mặt Tử Ly, giơ bàn tay phải ra: “Huynh chặt đi!”.

Tử Ly mím môi, trấn tĩnh nhìn A La. Khuôm mặt nhỏ nhắn của A La dường như phát sáng, vẻ bất cần, giơ tay cho chàng, thoải mái và tinh nghịch như những lúc nàng nũng nịu cười chìa tay đòi chàng cho ngân lượng.

Đại điện lặng ngắt. Thái tử ngồi ngây, Thanh Lôi sắc mặt tái xanh, mắt Vương Yến Hồi lóe ra những tia đắc ý.

Tử Ly từ từ giơ tay, ngón tay hơi run, để người khác chặt tay nàng chi bằng để chàng tự chặt. Chủ ý đã định, chàng nén lòng, quyết ra tay, A La mắt đỏ hoe, mặt hơi nghiêng sang một bên. Trong lúc ngón tay A La chìa ra, lòng Tử Ly trống rỗng, cảm thấy chàng sắp vĩnh viễn không còn được nắm tay nàng nữa.

Lưu Giác lên tiếng, giọng sang sảng: “Một tiếng đàn hay như thế, nếu không còn được nghe nữa, thần lấy làm tiếc, xin thái tử nể tình, miễn cho tội cực hình!”. Nói là cầu xin thái tử, nhưng sắc mặt chàng rắn đanh, kiên định như không gì lay chuyển nổi.

Thái tử lúc đó mới sực tỉnh. Vương Yến Hồi dịu dàng nói: “Tiếng đàn lay động lòng người, niệm tình cô ta còn thơ trẻ, miễn tội đi!”.

Đôi mắt thái tử lóng lánh vẻ suy tư, chàng buông tay đi đến trước mặt A La. Nàng nhìn thẳng vào mắt chàng, không chút sợ hãi.

Thái tử ngoái đầu nhìn Thanh Lôi, Thanh Lôi rơi nước mắt, thái tử thấy vậy quả thực không nỡ, cuối cùng nói: “Làm hại hiền thiếp của ta, không phạt không xong...”. Lời chưa dứt, Lưu Giác đã lên tiếng: “Tiếng đàn của A La có thật không bằng Lý lương đệ?”. Thái tử sững người. Lưu Giác lại tiếp: “Không biết nhị tiểu thư phán đoán thế nào? Có đúng A La cố tình đẩy Lý lương đệ?”. Ánh mắt lạnh như mắt rắn độc lập tức bám lấy Lý Thanh Phỉ, nỗi phẫn uất đầy sát khí từ người chàng tỏa ra, dồn ép khiến Thanh Phỉ không thể thở nổi.

Thành Tư Duyệt cau mày nói: “Nương nương ngã, bị thương cũng là chuyện xảy ra trong chớp mắt, Thanh Phỉ trong lúc hoảng loạn nhìn không rõ cũng là chuyện thường tình”.

Thái tử hỏi: “Thật không?”.

Thanh Phỉ đâu còn sức lực nói nhiều, lòng đã hoảng loạn đến mức suýt nói ra chân tướng. Nghe Thành Tư Duyệt giải vây cho mình, bèn gật đầu nói phải.

Thanh Lôi thở nhẹ đi đến trước mặt Thanh Phỉ, giơ tay tát một cái: “Chính do muội nói bừa, suýt hại A La bị chặt ngón tay, tổn thương tình tỷ muội!”.

Thanh Phỉ ôm mặt rơi nước mắt, nói khẽ: “A Phỉ trong lòng sợ đại tỷ bị đau, ngày thường thấy A La hiếu động, cứ tưởng là do muội ấy”.

Thái tử hừ một tiếng: ““Cứ tưởng” ư? Vậy cũng dám nói bừa trước đại điện? Không nhìn kỹ mà đã dám nói liều!”.

Vương Yến Hồi cười nói: “Cũng là chuyện tốt, không được nghe khúc “Thu thủy” nhưng lại được nghe khúc nhạc khác. Tứ điện hạ, hôm nay đã vui hết mực chưa?”

Tử Ly nói: “Tối nay đại ca mở thịnh yến khiến tiểu đệ suốt đời khó quên”.

A La lặng lẽ nhìn mọi người, họ đúng là người của thế giới khác, còn mình chỉ đang xem diễn trò, không thuộc về nơi đây. Nàng khẽ hỏi thái tử: “A La mệt rồi, thái tử điện hạ, có thể cho phép A La cáo lui trước không?”.

Thái tử lòng nghĩ vẩn vơ, ngơ ngẩn gật đầu.

Lưu Giác bước lên trước, nói: “Cho phép Doãn Chi hộ tống tam tiểu thư hồi phủ”. Thi lễ xong, chàng đi thẳng đến dắt tay A La đi ra khỏi Đông cung. Nắm bàn tay lạnh giá của A La, Lưu Giác cảm thấy một nỗi yên lòng chưa từng có.

Đại phu nhân thở phào, không biết chuyện này là tốt hay là xấu, khi ánh mắt dừng lại trên bóng dáng Lưu Giác đang nắm tay A La ra khỏi đại điện, đáy mắt ẩn hiện nụ cười, biết đâu không phải là phúc? Mặt bà lại u ám, thở dài, cáo tội với thái tử: “Không ngờ Thanh Phỉ vụng dại, nhanh mồm nhanh miệng, suýt nữa biến sự cố nhỏ ngoài ý muốn trở thành chuyện lớn khiến tỷ muội bất hòa. Thần thiếp dạy con không nghiêm, quả không còn mặt mũi nào ở lại, xin được đưa Thanh Phỉ về phủ răn dạy”.

Thái tử cười: “Thanh Phỉ cũng chỉ sợ Lôi Nhi bị thương, trong lúc vội vàng khó đoán thực tình, sau này chú ý nói năng thận trọng. Tối nay lại được nghe tiếng đàn cao minh khác, ta quả thật cũng được an ủi, sau này phu nhân không nên cấm đoán Thanh La chơi đàn. Nếu không, tìm đâu được thanh âm như vậy?”.

Đại phu nhân gật đầu khen phải. Thái tử nói: “Tứ đệ, không biết đệ đã tận hứng chưa?”.

Tử Ly nhìn Lưu Giác và A La sánh vai bên nhau. Từ lúc Lưu Giác kéo A La khỏi tay mình, A La không hề nhìn chàng một lần, lòng chàng đã đầy day dứt, đâu còn hứng thú tiếp tục uống rượu. Nghe ý thái tử muốn kết thúc cuộc vui, vội cười: “Người đời có câu khúc tàn thì tiệc tan, được nghe tiếng đàn như vậy đã vui hết mực rồi. Tạ ơn thịnh tình của đại ca, Tử Ly đang muốn cáo từ về nhà tĩnh tâm hồi tưởng dư vị”.

Mọi người cười ầm, cùng nhau đứng dậy cúi chào bái biệt.

Tân khách ra về hết, Vương Yến Hồi thản nhiên nói: “Thiên hạ đồn thiên kim Lý tướng phủ tài sắc vẹn toàn, chỉ có tam tiểu thư tư chất tầm thường, ai ngờ rằng tam tiểu thư lại là người có chí khí đến thế, lúc nhỏ ngón đàn không bằng người, âm thầm ôn luyện. Tiếng đàn hôm nay quả thật có thể sánh với khúc “Thu thủy” hôm xưa của tiểu muội. Kỳ tài hiếm có, chính là thế”.

Thanh Lôi cố nặn ra nụ cười, vừa rồi mất máu khiến mặt nàng càng tái xanh: “Tỷ tỷ nói chí phải, tiểu muội Thanh La có được tiếng đàn như hôm nay, lòng thiếp được an ủi rất nhiều. Bàn tay thiếp tàn phế thật đúng lúc, nếu không sao có thể được nghe tiếng đàn giữ kín bấy lâu của tiểu muội”.

Vương Yến Hồi mỉm cười: “Đúng vậy, trong họa có phúc, cứ xem tình hình hôm nay, có lẽ phải chúc mừng tiểu muội rồi, biết đâu sắp có em rể là tiểu vương gia”.

Thanh Lôi gượng cười. Nụ cười cũng dần hiện trên môi thái tử, ánh mắt chàng nhìn Thanh Lôi đầy yêu thương: “Lôi Nhi, hôm nay tay bị thương, mệt rồi, ta đưa nàng hồi cung. Nhất định tiểu muội Thanh La cũng bị kinh động không ít, ngày mai sai người mang ít quà đến. Nếu không, ngày sau muội ấy sợ người anh rể này, Lôi Nhi sẽ oán trách ta”.

Khi thái tử nói vậy, ánh mắt lại nhìn sang Vương Yến Hồi. Yến Hồi cười hồ hởi, trả lời: “Có lẽ nên thế! Ngày mai thiếp sẽ đích thân chọn quà”.

Thái tử thong thả dìu Thanh Lôi đi khỏi, chàng còn lưu lại tẩm cung dịu dàng vỗ về đến khi Thanh Lôi ngủ mới rời đi. Nghe tiếng bước chân thái tử khuất dần trên hành lang dài, Thanh Lôi khoác áo choàng nhiễu xuống giường. Đông cung rộng thênh thang, nhưng trong điện lại chỉ có một ngọn nến nhả ra chút ánh sáng đỏ quạch, dưới ánh nến lập lòe khuôn mặt nàng càng thêm diễm lệ tà mị. Ngọn nến đã cháy hết, vụt tắt trong yên tĩnh, chỉ thấy “phù” một tiếng, giống như tiếng cá đớp bọt nước. Cá à? Thanh Lôi bắt chước chúm miệng thổi một cái, rồi lại thổi tiếp cái nữa, cứ thổi như vậy đến khi cảm giác nặng trĩu bức bối và đau buồn từ trong ngực theo đó ra ngoài.

Cuối cùng nàng thở một hơi dài, ngồi trước bàn trang điểm, nhìn vào gương, vẫn vẻ diễm kiều kiêu sa như hoa mai ngày nào. Nhìn bàn tay trái, nàng cười thầm, thiên hạ đều tưởng Thanh Lôi này chỉ giỏi đàn, nhưng họ đâu biết, cầm kỳ thi họa, nữ công nàng đều tinh thông, không ngón nào nàng không chuyên cần tập luyện. Từ nhỏ tam phu nhân đã dạy nàng, muốn hơn người, phải bỏ nhiều công sức, phải biết chịu khổ. Nàng xuất thân từ tướng phủ, tuy là con của vợ lẽ, nhưng cũng là thiên kim của tả tướng. Dung mạo giống mẫu thân, có vẻ diễm kiều thanh cao, lại thêm tư chất thông minh, hiếu học, biết cách lấy lòng Lý tướng. Lý tướng không có con trai nhưng nàng vẫn được nuôi dưỡng cưng chiều như báu vật.

Thanh Lôi nghĩ, cha à, con biết cha muốn dùng con gái để giữ chặt vinh hoa phú quý, con gái lẽ nào không muốn vươn tới cành cao? Nhưng... thái tử... nghĩ đến lúc trong Đào hoa yến nàng vén rèm trướng nhìn thấy chàng, khuôn mặt khôi ngô, mắt sáng, nụ cười ẩn dưới vẻ nho nhã tôn quý. Từ lúc đó nàng đã thích chàng. Nghĩ đến chuyện đánh đàn, nghĩ lại mọi chuyện trước kia, miệng khe khẽ ngâm: “Núi có cây, cây có cành, lòng thiếp thương chàng, chàng có hay”. Hai dòng lệ cứ thế tuôn lã chã.

Lấy tay lau nước mắt, nàng thì thầm: “A La, muội lại giúp ta lần nữa. Mong là muội có thể thuận buồm xuôi gió lấy tiểu vương gia. Nếu không...”, miệng hé mở, lộ ra nụ cười thê lương,”... thái tử đâu có ân cần với với ta đến thế”.

Suốt dọc đường A La không nói gì, nàng để mặc Lưu Giác dìu đi, ra khỏi Đông cung, ra khỏi vương cung. Lưu Giác ôm nàng, cưỡi ngựa trở về tướng phủ. Chàng không phóng nhanh mà cho ngựa đi chầm chậm. A La không nói không rằng, dựa người vào ngực chàng, nhắm mắt cảm nhận làn gió đêm lướt nhẹ qua mặt.

Lưu Giác bế nàng lên ngựa, ôm nàng vào lòng, A La không giãy giụa cũng không cự tuyệt. Nàng quá cảm kích, không muốn phá vỡ phút yên tĩnh này. Lúc này nàng cần lồng ngực chàng. Lồng ngực ấm áp an toàn mà nàng khao khát lại do tiểu vương gia, chàng công tử khinh bạc mà nàng vẫn ghét trao cho. A La cảm thấy mệt mỏi, một lần nữa nàng hạ quyết tâm, bằng mọi giá phải rời tướng phủ.

Lưu Giác chỉ mong con đường dài mãi, chàng cũng không nói gì. Khi thái tử hạ lệnh chặt ngón tay A La, nỗi phẫn nộ trào lên khiến chàng tức thở. Chàng biết A La hiếu động, nhưng tuyệt đối tấm lòng không độc ác như thế, vốn định khi cung nữ động thủ, chàng sẽ ra tay. Chính trong lúc đó chàng nghe thấy tiếng gào thét bi thương động trời của A La trong tiếng đàn. Khi tiếng đàn cất lên, chàng sửng sốt ngẩn ngơ, A La đã mang đến cho chàng những rung động, kinh ngạc khôn cùng, trong lồng ngực chàng có ngàn vạn tiếng hô, ứa trào muôn cảm xúc không thể gọi tên. Chính vào lúc Lưu Phi động thủ, không kịp nghĩ, chàng lao đến kéo giật nàng ra. Bản thân chàng cũng không biết tại sao chàng lại không đành lòng đến thế, dám bất chấp lệnh của thái tử, cứu nàng.

Chàng cúi đầu nhìn A La hai mắt đang nhắm nghiền, yếu ớt trong lòng mình, trong đầu chỉ có một ý nghĩ duy nhất, phải bảo vệ nàng, nhất định phải bảo vệ nàng. Chàng bỗng ra roi, tuấn mã tung vó nhằm hướng tướng phủ lao đi.

“Đến rồi”.

A La mở mắt, nhìn cánh cổng tướng phủ sừng sững trước mặt, khẽ nói: “Hôm nay đa tạ tiểu vương gia”.

Lưu Giác cười, bế nàng xuống ngựa. A La cúi chào, đi vào phủ. Lưu Giác không nói gì, chỉ đứng nhìn theo.

Thất phu nhân thấy A La một mình lẳng lặng trở về Đường viên, không nén nổi đi đến hỏi mấy câu. A La bỗng bật cười: “Mẹ à, chúng ta nhất định phải rời khỏi đây, nhất định”. Giọng nàng kiệt sức nhưng đầy kiên nghị.

Nàng không trở về phòng, nàng đi thẳng vào rừng trúc ngồi suy nghĩ. A La không muốn phân tích suy nghĩ của Tử Ly, nhưng tâm tư của chàng như bị vạch trần. Nàng có thể thông cảm với chàng, chỉ có thể thông cảm với chàng. Còn Lưu Giác, chàng đã cho nàng một điều bất ngờ lớn. Chẳng cô gái nào không muốn được yêu chiều che chở, nghĩ lại hành động của chàng, sự ấm áp từng chút, từng chút lớn dần, rồi tràn ngập lòng nàng. A La lắc lắc đầu, chuyển hướng suy nghĩ, phải tính xem rời khỏi tướng phủ sẽ đi đâu, đến đâu tốt nhất, đi như thế nào. Đi về phía tây là nước Khởi, toàn bình nguyên khó tránh truy binh. Đi về đông là rừng rậm Hắc sơn, nguy hiểm nhất, cũng dễ xảy ra bất trắc nhất, mẹ con nàng lại không có kinh nghiệm đi rừng, thất phu nhân và Tiểu Ngọc không biết võ công, thật quá nguy hiểm. Chỉ có đi về nam, qua Hán Thủy, đến nước Trần. Nghe nói ở đó phong cảnh từa tựa như vùng Giang Nam, cũng là con đường dễ đi nhất. A La nghĩ, đợi đến sau hôn lễ của Tử Ly, khi Thanh Phỉ được gả cho Thành Tư Duyệt, mọi người trong phủ bận rộn, không ai để mắt đến họ, đó chính là thời cơ tốt nhất.

Đột nhiên trước mắt hoa lên, Tử Ly nhảy từ bên ngoài vào. Ánh trăng trải trên rừng trúc, những bóng cây đen sì đổ dài. Chàng vốn định dùng tiếng tiêu gọi nàng ra, nhưng vào rừng trúc lại nhìn thấy nàng đang ngồi trầm tư bên hòn giả sơn.

Tử Ly bước tới: “A La, muội đang giận ta phải không?”.

A La ngẩng đầu, nét mặt Tử Ly căng thẳng, nụ cười thường trực trên môi đã biến mất, ánh mắt chàng u uẩn khôn cùng. Nàng cười: “Đại ca, sao muội có thể giận huynh. Đại ca ra tay, trong lòng ắt đã có kế sách vẹn toàn. Muội biết, cùng lắm cũng chỉ đau một chút, không đến nỗi phế ngón tay muội thật đâu”.

Hình như Tử Ly thở phào, cơ thể cứng đờ của chàng mềm ra chút ít. Chàng đi đến quỳ một chân trước mặt A La, cầm tay nàng nắm chặt trong tay mình, khẽ nói: “Hôm nay, ta chưa bao giờ hoảng loạn như thế. A La, ta đã hứa sẽ bảo vệ muội”.

A La dịu dàng nhìn chàng, từ từ rút tay về, đứng lên, nét mặt lại trở nên tinh nghịch: “Đại ca, huynh không sai, muội thực tế hơn huynh nhiều, nếu là muội, muội còn không dám lên tiếng nữa kia. Đại ca đã rất tốt với muội rồi, Tử Ly, muội không trách huynh nửa câu. Chỉ có điều, trước mặt thái tử, trông huynh không giống ngày thường”.

Nàng nén thở dài, nhẹ nhàng nói tiếp: “Đại ca, mẫu hậu huynh không còn, một mình huynh ắt là sống rất khó khăn”.

Tử Ly thấy lòng ấm áp: “A La, muội có thể hiểu lòng ta, ta đã mãn nguyện rồi. Muội chờ ta được không?”

A La ngây người: “Chờ huynh làm gì?”.

Tử Ly bước đến quàng tay ôm nàng vào lòng: “A La, muội chờ ta một năm, khi muội đến tuổi cập kê, ta sẽ đón muội vào phủ, suốt đời suốt kiếp không để ai làm muội tổn thương!”.

A La kinh ngạc, ngẩng đầu nhìn Tử Ly, trong mắt chàng chỉ một khối tình thâm, môi chàng mím chặt, tựa hồ chủ ý đã định. A La cười đau khổ, rời khỏi lòng chàng: “Đại ca, bản thân huynh đã khó khăn rồi, không nên phụ lòng tốt của phụ hoàng đã ban hôn cho huynh”.

Tử Ly nhìn nàng: “Ngày mai ta sẽ nhận tội với phụ hoàng, cầu xin phụ hoàng thu hồi thánh lệnh”. Khi nói những lời này, khuôn mặt chàng vụt biến đổi, rạng ngời như ánh trăng.

A La mỉm cười: “Đại ca, muội chỉ coi huynh như đại ca, không có ý gì khác. Bây giờ lòng huynh đang bất ổn, không nên vì muội mà từ bỏ tất cả. Chúng ta là người của hai thế giới khác nhau, muội không thuộc về thế giới này”.

Bóng A La kéo dài dưới ánh trăng, thân hình mảnh mai, nhưng có một vẻ kiên nghị, dẻo dai như những thân trúc bên cạnh. Tử Ly ngây người ngắm nhìn, giọng khàn đặc hỏi: “Tại sao? A La, lẽ nào trong lòng muội thật sự không có ta?”.

A La ngẩng đầu nhìn, sao trời sáng lấp lánh vẫn thế, ánh trăng trong vắt như nước. Nhớ lại ngày đầu quen biết Tử Ly, giao đấu với đám người áo đen vì chàng, nghĩ đến khi mở Tố tâm trai kiếm tiền, nghĩ đến lúc hòa tấu với chàng, cùng chàng cưỡi ngựa trong đêm thảo nguyên. Dòng suy tưởng dồn về như sóng nước. Tử Ly đối với nàng tình sâu như thế, vậy mà cũng có lúc bất lực không thể bảo vệ nàng. Nỗi căm ghét đối với cuộc tranh giành quyền lực trong cung lại trỗi dậy, cộng thêm tâm trạng mệt mỏi, chán chường đến tột độ do bị nhốt trong tướng phủ, thâm tâm quả thực không muốn ở lại chốn này thêm nữa. Nàng nói nhỏ: “Đại ca, mỗi người đều có cuộc sống riêng của mình, thân trong tướng phủ, muội đã không thể lựa chọn, nhưng cuộc đời còn dài, muội không thể, không thể”.

Lồng ngực Tử Ly như tắc nghẹn, hồi lâu sau chàng mới lên tiếng: “Muội muốn ta từ bỏ vương vị, từ bỏ tất cả, theo muội đến chân trời góc bể ư?”.

Đồng tử trong mắt A La nhấp nhánh trong đêm tối: “Ở chỗ muội có người nói, sinh mệnh rất đáng quý, tình yêu rất đáng quý, nhưng vì tự do, sẵn sàng từ bỏ cả hai. Trước đây muội không hiểu lắm, sinh mệnh quý hơn tất cả, không còn sinh mệnh nữa thì còn gì? Vậy là muội nhút nhát, một lòng muốn bảo toàn tính mệnh, từ nhỏ đã tự nhủ phải nhẫn nhịn. Nhưng bây giờ khác rồi. Thực ra trước đây muội cũng chưa yêu ai, có được chút tình của huynh, muội thật muôn phần cảm kích. Đại ca, lần trước muội đã nói, không ngờ gặp được đại ca, một người tốt với muội như thế, ở bên huynh muội rất vui vẻ. Nhưng, bây giờ muội cần tự do hơn”.

Tử Ly cướp lời: “Ta sẽ cho muội tự do, dưới đôi cánh che chở của ta, muộn có thể an toàn và tự do”.

A La cười khanh khách: “Đại ca, muội không muốn đại ca từ bỏ gì hết, huynh cũng không từ bỏ nổi. Huynh có thể không?”.

Tử Ly trầm ngâm hồi lâu mới nói: “A La, cuối cùng vẫn là muội muốn ta từ bỏ tất cả cùng đi với muội. Muội nói không sai, ta quả thực không làm được. Nhưng muội đi đến đâu cũng thế thôi, cũng là cường quyền bạo ngược, đều bị người ta ức hiếp, so với phiêu bạt bên ngoài, an toàn ở bên ta không tốt hơn sao? Muội có thể làm những gì muội thích. Chỉ cần ta làm được, ta sẽ cho muội tự do nhiều nhất có thể”.

Nhưng cái nàng muốn không chỉ có vậy. A La nói: “Còn nửa tháng nữa là đã đến đại hôn của huynh rồi, đại ca!”.

Ngữ khí của Tử Ly đã nhuốm màu bi thương: “Ta đi cầu xin phụ hoàng, ta sẽ đến Cố tướng phủ nhận tội. A La, muội còn muốn ta làm gì nữa?”.

A La chợt se lòng: “Huynh biết rõ đó là điều không thể. Huynh chỉ vì một mình muội mà đắc tội với phụ hoàng, đắc tội với trọng thần của triều đình, để cho Hữu tướng trở mặt, cứ coi như thế, lẽ nào huynh không lường trước hậu quả?”.

Tử Ly đột ngột ôm chầm lấy A La: “Muội đã nhìn rất rõ! Chuyện gì muội cũng biết! Tại sao, muội không thể mập mờ một chút, nói với ta một câu trong lòng muội có ta?”.

A La nói khẽ: “Muội không thể lừa dối huynh, đại ca, muội rất mệt, mệt đến mức không còn sức để nghĩ những thứ khác”.

Tử Ly nhẹ nhàng đẩy nàng ra, A La đã rơi nước mắt, Tử Ly giơ tay đón, từng giọt rơi xuống lòng bàn tay, nóng bỏng, đau như chích vào da thịt. Sao chàng không biết rằng, trừ phi A La chịu vào phủ làm thiếp, nếu không chàng vĩnh viễn không thể có nàng? Nghĩ đến những lời của Lưu Giác: “Điện hạ đã tốt với A La đến thế, điện hạ đã thương nàng ấy như vậy, lẽ nào để A La chịu tủi phận làm thiếp?”.

Tử Ly ngẩng đầu nhìn mặt A La, lau nước mắt cho nàng: “A La, để muội vào phủ làm thiếp thì tủi cho muội quá, nhưng chúng ta có thể bên nhau, không phải sao? Có thể sống bên nhau tốt biết bao, lẽ nào muội câu nệ chuyện thân phận?”.

A La lắc đầu: “Huynh không hiểu đâu, chồng và bàn chải đánh răng là không thể dùng chung. Suy nghĩ của huynh không sai. Cha muội cũng lấy tới bảy bà vợ”.

Tử Ly hơi giận: “A La, nói đi nói lại, rút cục trong lòng muội có ta không?”.

A La cúi đầu không đáp.

Tử Ly thở dài: “A La, thì ra đối với ta muội chỉ có nghĩa huynh muội, không có tình của một nữ nhi”.

Tử Ly nhìn nàng vô vàn lưu luyến. Chần chừ mãi, cuối cùng chàng vẫn bay qua tường ra ngoài.

A La nhìn bóng Tử Ly vụt biến mất, lòng ngổn ngang trăm mối, muốn cười muốn khóc. Tử Ly yêu nàng. Chàng yêu nàng thật lòng. Lòng nàng lúc ngọt ngào, lúc se thắt. Lẽ nào đối với chàng, nàng thật sự chỉ có tình huynh muội? A La chợt nghĩ đến một bài thơ rất hợp cảnh ngộ đêm nay. Miệng khẽ đọc:

“Búi tóc buông lơi mới kết,

Phấn thơm man mác tân trang.

Khói hồng sương biếc nhẹ chèo bay,

Tơ liễu bay đi vô định.

Gặp gỡ thà rằng chẳng gặp,

Hữu tình rồi cũng vô tình,

Người say tỉnh bặt ca sênh,

Viện thẳm bên trăng u tịch”(12).

_________

Chú thích:

12. Nguyên tác là bài "Tây Giang nguyệt, giai nhân" của Tư Mã Quang, bản dịch của Diệp Y Như, nguồn thivien.net (BTV).

.

Chương 12

.

Suối Toái Ngọc từ khe núi chảy ra, hội tụ giữa lưng chừng núi rồi đổ xuống vực sâu, tràn qua những khe đá nhân tạo, từng bậc dốc rồi chầm chậm chảy vào vương cung. Trong thung lũng phía đông vương cung có rất nhiều cánh rừng rải rác, bao quanh cung điện của các hoàng tử. Ngọc Ly cung tọa lạc ở góc trong cùng phía đông sơn cốc, đứng ở rìa cung điện có thể nhìn thấy những đỉnh núi lờ mờ của dãy Ngọc Tượng trùng điệp phía xa. Thác Toái Ngọc chảy vào Ngọc Ly cung, tụ thành hồ nước nhỏ, rồi lại tiếp tục chảy ra ngoài.

Hồ nước dưới trăng lăn tăn gợn ánh vàng lấp lánh, Tử Ly dáng cao thanh tú, ngây người ngắm mặt hồ trong giây lát. Đoạn chàng rút cây ngọc tiêu bên người thổi khúc “Tiêu tương tử”. Tiếng tiêu lạnh, sầu thảm, triền miên thổn thức. Tiếng tiêu nghẹn ngào, bóng người đơn độc, mấy cung nhân nấp ở chỗ khuất từ xa nhìn lại, thấy hoàng tử điện hạ buồn như vậy, tự dưng mủi lòng, rưng lệ, không biết làm cách nào mới có thể khiến cho tứ hoàng tử tuấn lãm phong lưu này vui lên.

Tiếng tiêu chợt thay đổi, vút lên như ngàn con sóng ào ạt xô bờ, âm thanh bùng phát dồn ép cơ hồ làm ánh trăng òa vỡ, lao xao, mặt hồ lóng lánh như gương bỗng như vỡ vụn ra muôn ngàn mảnh, dâng trào dữ dội, vừa như mâu thuẫn giằng xé vừa như quyết chí đoạn tuyệt, không sao nói hết nỗi niềm.

Tử Ly từ từ dừng lại ngắm nhìn chiếc tiêu ngọc trong tay, trong màu xanh trong của ngọc bích có những vết rạn đỏ như màu huyết. Mẫu hậu lúc lâm chung còn muốn thổi khúc tiêu cuối cùng, nhưng giữa chừng thổ ra máu tươi, tắt thở mà chết. Tử Ly cầm cây tiêu đưa lên mũi hít nhẹ, cơ hồ vẫn còn cảm thấy hơi thở ấm áp của mẫu hậu. Mãi đến một lần, khi chàng giở xem những khúc nhạc mẫu hậu để lại, mới kinh ngạc nhận ra, đoạn sau của khúc tiêu mẫu hậu thổi lúc lâm chung không phải là nhạc dành cho tiêu, chàng khe khẽ hát theo, những âm phát ra thành hàng chữ nghĩa là “Độc đã vào tim”. Lúc đó chàng mới mười một tuổi.

Hai năm sau, Vương quý phi vào cung, làm chủ hậu cung, năm sau, triều thần dâng biểu, phụ hoàng bèn lập đại ca làm thái tử. Chàng còn nhớ lúc nhỏ, phụ hoàng thường cùng mẫu hậu chơi đùa với chàng, nói: “Tử Ly lớn lên sẽ làm vua nhé?”. Chàng nũng nịu: “Nhi thần chỉ muốn ở bên phụ hoàng và mẫu hậu thôi”.

Sau khi phụ hoàng lập đại ca làm thái tử liền xa lánh chàng, nhưng ánh mắt phụ hoàng vẫn ấm áp như xưa. Chàng là vị hoàng tử từ nhỏ luôn được Ninh vương sủng ái, chứ không phải là thái tử do Ninh vương lựa chọn. Trong lòng chàng rất hiểu, phụ hoàng đang bảo vệ chàng theo cách riêng của người, cho nên chàng càng tỏ ra cung kính thái tử, bắt đầu từ đó, chàng không bao giờ làm trái ý thái tử.

Ánh mắt chàng u uẩn bi ai. A La, khi ta nói sẽ tự tay chặt ngón tay muội, muội đã muốn đi tìm dự do phải không? Khi Lưu Giác kháng lệnh thái tử, giật A La khỏi tay chàng, kể từ lúc đó bàn tay hai ta không thể nắm vào nhau nữa phải không?

Tự do là gì? Tự do mà A La cần là gì? Tự do mà chàng cần là gì? Chàng cảm thấy A La chưa hiểu, trong thế giới này, ngoài đứng trên ngôi quyền lực cao nhất, nắm quyền sinh quyền sát, chỉ khi đó mới có thể tùy ý làm tất cả, đó mới là tự do!

Nỗi đau đớn trong mắt chàng nhạt dần, sự kiên định hiện dần trên vầng trán, thân người thả lỏng hòa vào ánh trăng. Nỗi u uẩn riêng tư sục sôi như trăm ngàn con sông ào ạt tràn qua những vực đá, khi gầm réo cuồn cuộn xô ghềnh, khi êm đềm uốn lượn, lúc này cuối cùng đã đi ra biển cả, bình yên không có sóng, những con sóng lớn chìm sâu dưới lòng biển, đợi gió lên sẽ trỗi dậy gầm thét, cuốn phăng và đập tan tất cả.

Thị vệ thân tín đứng hầu cách đó không xa, dây thần kinh cuối cùng đã chùng lại. Chúa công của họ không còn thảng thốt, đắn đo, toàn thân chàng tràn căng khí lực, tự tin và dũng mãnh, mang lại cảm giác an toàn rất mực. Dưới ánh mắt uy lực của chàng vạn vật đều thuần phục.

Tử Ly buông tay, nheo mắt dõi nhìn những bóng núi lờ mờ dưới trăng của dãy Ngọc Tượng xa xa, toàn thân chàng vững chãi như trái núi.

Trên đỉnh núi bừng lên màu xanh nhạt, lát sau vầng mặt trời hồng nhô lên. Chàng cất giọng điềm tĩnh: “Đại hôn sắp đến rồi, bản vương phải đến thăm phủ hữu tướng”.

Thị vệ nói nhỏ: “Lễ vật đã chẩn bị xong, chúa công có muốn duyệt lại?”.

Tủ Ly mỉm cười: “Không cần”. A La đang định rời phủ mua sắm ít đồ cho ngôi nhà mới, bỗng nghe tin thái tử cho người mang quà đến, đành phải cùng thất phu nhân đi ra đại sảnh. Lý tướng và các bà phu nhân tươi cười nhìn họ, Lý tướng cười rất tươi: “Không ngờ thái tử và thái tử phi lại thích A La như vậy, nghe nói lễ vật đều do đích thân thái tử phi lựa chọn. A La, có thời gian con nên đến Đông cung chơi với đại tỷ”.

A La cũng tươi cười, trả lời: “A La hiểu rồi, con và đại tỷ trước sau vẫn là người một nhà”.

Tứ phu nhân kéo Thanh Phỉ lúc này đang bối rối: “A La, nhị tỷ con nhanh mồm nhanh miệng, lúc đó do nóng vội, con đừng giận chị”.

A La cười: “Cha đã nói, vinh cùng vinh, nhục cùng nhục, đều là người một nhà, nhị tỷ có nỗi khổ riêng, đại tỷ cũng có nỗi niềm, A La sao dám trách giận”.

Thanh Phỉ rơi nước mắt: “A La, muội không giận tỷ thì tốt, nếu không, tỷ khó tránh được cái chết. Tỷ... muội biết đấy, tỷ...”.

“Muội hiểu, muội không trách tỷ!”. A La ngắt lời Thanh Phỉ. Sao lại trách nàng ta? Nàng ta một lòng vì tiền đồ của tình lang, vì hạnh phúc tương lai của bản thân, sao có thể nói nàng ta sai. Nàng ta ích kỷ, nhưng A La biết trong thế giới ở đây muốn bảo toàn tính mạng khó thế nào, ngay bản thân nàng cũng thấy khó khăn, huống hồ là Thanh Phỉ được nuôi dưỡng trong chốn thâm khuê. Gặp được trạng nguyên Thành Tư Duyệt phong lưu, như đã gặp phải hạnh phúc tuyệt đỉnh, Thành Tư Duyệt có vạn sự hanh thông thì nàng ta mới được yên thân. Thanh Phỉ suy cho cùng cũng chỉ là cô gái đáng thương.

Lý tướng cười ha hả: “Hay lắm, hay lắm, tỷ muội các con bỏ qua tỵ hiềm như vậy, người làm cha này vui lắm, gần đây triều đình và gia đình đều có nhiều hỷ sự, tứ hoàng tử sắp cưới ái nữ của Cố tướng, Thanh Phỉ tháng sau cũng được gả vào Thành gia, chỉ có A La...”. Lý tướng chuyển sang chuyện khác, nét mặt thoáng vẻ đắc ý. A La hoảng hốt, chỉ sợ Tử Ly đã đặt vấn đề muốn cưới nàng làm thiếp. Lý tướng nói tiếp: “Tiểu vương gia của An Thanh vương đã có lời muốn cầu thân”.

Lời nói ra như tiếng sét ngang tai, A La suýt đứng không vững, lắp bắp nói: “Còn hai tháng nữa A La mới tròn mười bốn, chuyện này... Đại tỷ mới xuất giá, nhị tỷ cũng sắp lấy chồng, trong phủ vắng vẻ, A La không nỡ”.

Thất phu nhân đứng cạnh A La, lấy tay ấn vai nàng, nói: “Đúng vậy, nếu A La cũng đi, thì trong phủ sẽ lạnh lẽo lắm. Lão gia, hãy để A La ở nhà vài năm nữa”.

Lý tướng cười: “Sao có thể nói như vậy? Thân làm phụ mẫu đương nhiên phải nghĩ cho các con, tiểu vương gia là người trong mộng của bao nhiêu thiếu nữ danh môn đất Phong thành này, gia thế tài mạo đều hạng nhất, lần này cầu thân là thật ý thật lòng, không chê A La là con thứ thiếp, một lòng muốn cưới về làm chính thê. Ta đã nhận lời, trước hết cứ định rõ danh phận, đợi A La đến tuổi cập kê mới gả”.

Thất phu nhân tỏ vẻ không chịu, đang định bàn thêm. Sắc mặt Lý tướng đã sắt lại: “Ý ta đã quyết, khỏi cần nhiều lời”.

Trong mắt ông ta lóe lên cái nhìn cơ mưu và quyết liệt: “Nên biết Ninh vương ngọc thể sa sút, thái tử đăng cơ chỉ là chuyện hai, ba năm tới. Vương thái úy thống lãnh binh mã Ninh quốc, nhưng cánh quân tinh nhuệ nhất lại nằm trong tay An Thanh vương. A La nếu được gả vào phủ An Thanh vương làm thiếu vương phi là đại phúc của nó, cũng là hậu thuẫn cho cuộc ganh đua giữa Vương gia và Lý gia sau này. Tiểu vương gia cầu thân là đã coi trọng Lý tộc chúng ta, từ nay ba tỷ muội các con phải liên kết thành sợi chão vững chắc mới có thể đảm bảo quyền lực và phú quý của Lý gia”.

A La miễn cưỡng nặn ra nụ cười. Giọng nói của Lý tướng nhẹ nhàng nhưng không ai được phép cự tuyệt: “A La, con nay danh phận đã định, tiểu vương gia đã thân chinh đến phủ, tốt nhất con nên ít ra ngoài tránh để thiên hạ chê cười, nên theo các phu nhân học may vá thêu thùa, thời gian một năm sẽ qua đi nhanh lắm”.

Mấy phu nhân tươi cười ưng thuận: “Lão gia yên tâm, sau này bọn thiếp sẽ hàng ngày thay nhau ở bên A La, trước tiên phải chuẩn bị tư trang cho A Phỉ, rồi sẽ làm cho A La, sắp tới cũng nhiều việc lắm đây”.

A La thầm kêu khổ, cúi đầu giả bộ thẹn thùng.

Trở về Đường viên, không đợi A La mở miệng, thất phu nhân đã nói: “Tam Nhi, tiểu vương gia phủ An Thanh vương là người thế nào?”.

A La trầm ngâm hồi lâu mới nói: “Thực ra, đúng như cha nói, gia thế hiển hách, bản thân anh tuấn hơn người, là một trong ngũ đại công tử Phong thành, được bao nhiêu thanh nữ gia thế say mê. Có vẻ kiêu ngạo ngang tàng của con nhà gia thế, nhưng tâm địa rất tốt. Con người ấy cũng nghĩa khí, dám trái lệnh thái tử cứu con, con rất cảm kích”.

Thất phu nhân hỏi: “Nếu tiểu vương gia thật lòng với con, lấy người ta chẳng phải rất tốt hay sao? Hơn nữa, người ta lại chịu cưới con làm chính thê”.

Đúng, từ lúc quen nhau đến giờ, nàng cảm thấy Lưu Giác thực ra là người rất tốt, chỉ là thỉnh thoảng quậy phá tý chút mà thôi. Nghĩ lại mọi chuyện từ khi quen biết chàng ta mùa xuân năm ngoái đến nay, A La không nén nổi bật cười. Nếu ở bên Tử Ly nàng cảm thấy vô cùng ấm áp, thì ở bên Lưu Giác nàng thấy rất thoải mái vui vẻ.

A La ôm chầm thất phu nhân, nàng rất muốn hít mùi hương thoang thoảng từ cơ thể bà, ôm lấy cơ thể mềm mềm âm ấm. Nhoáng cái đã tám năm, mùi hương này vẫn không thay đổi, thất phu nhân vẫn rất đẹp. A La so mình với thất phu nhân, cười nói: “Con đã cao thêm một cái đầu, nhìn này, sắp lớn bằng mẹ xinh đẹp rồi, đi bên nhau sẽ như hai bông hoa cùng cành”.

Thất phu nhân giận dỗi: “Mẹ đang nói chuyên nghiêm túc với con”.

“Con người tiểu vương gia rất tốt, nhưng con nghĩ mãi vẫn không biết tâm tư của mình. Chỉ nghĩ mười lăm tuổi đã lấy chồng, đầu óc suy nghĩ dù có chín chắn cũng thấy không ổn. Huống hồ con thật lòng muốn trốn. Cứ nghĩ đến bộ mặt của cha con đã khó chịu rồi, nên càng không muốn để ông ấy được toại nguyện”.

Thất phu nhân thở dài: “Xem ra cùng lắm con cũng chỉ đưa được Tiểu Ngọc đi cùng. Mẹ có tuổi rồi, sẽ làm vướng chân con, đến lúc đó ngay cả con cũng khó trốn nổi”.

A La trả lời dứt khoát: “Con không yên tâm để mẹ ở lại. Con đi rồi, ông ấy sẽ trút giận lên đầu mẹ, không biết sẽ bắt mẹ chịu bao nhiêu tội. Trong thế giới này, mẹ là người con thương nhất, nếu đi nhất định cùng đi. Con đã nghĩ hết rồi, chúng ta sẽ đi đúng vào dịp lễ cưới của Thanh Phỉ, tướng phủ lúc đó bận khách khứa tiệc tùng, sẽ ít người chú ý đến chúng ta”.

Thất phu nhân nhìn A La: “Liệu ta chạy được bao xa?”.

A La cười rạng rỡ: “Con sẽ nghĩ ra cách”.

Thất phu nhân lại thở dài: “Ba người cùng đi, liệu có dễ bị để ý không?”.

A La cười: “Mẹ quên là chúng ta biết vượt tường? Con đã thăm dò xong lộ trình, ít nhất cũng có thể lẳng lặng rời phủ mà không ai biết”.

Ngày mùng tám tháng bảy, tứ hoàng tử Ly Thân vương Lưu Phi nạp phi, đội nghi lễ đứng dài suốt mười dặm nghênh đón Cố Thiên Lâm - ái nữ của hữu tướng Ninh quốc Cố Thừa Khiêm vào cung. Đây là đại sự chấn động Phong thành sau đại hôn lễ linh đình của thái tử hồi đầu xuân. Các thiếu nữ Phong thành nghe tin, tháng tám này trạng nguyên Thành Tư Duyệt nức tiếng phong lưu sẽ thành hôn với thứ nữ của tả tướng, nghĩ đến ngũ đại công tử Phong thành đã có ba chàng lập gia thất, không biết bao nhiêu thiếu nữ lòng tan nát, Phong thành cũng trở nên ảm đạm.

Ngọc Ly cung tọa lạc ở phía trong cùng quần thể cung điện được chăng đèn kết hoa, từ xa nhìn lại tựa như một đóa hoa hồng diễm lệ nở bên núi. Tử Ly mình vận áo choàng gấm màu hồng thêu chỉ vàng lặng lẽ ngồi bên hồ, ven hồ xưa nay chỉ trồng mấy khóm lau mấy cụm sen, người trong phủ biết hoàng phi thích hoa lan, liền đặt đầy những chậu hạ lan trong cung, Ngọc Ly cung dường như được bao bọc trong hương lan.

Tử Ly nghĩ lại lúc đến thăm phủ Cố tướng, bên tai vẫn còn văng vẳng tiếng đàn, du dương uyển chuyển, thanh lạnh trầm lắng như nước. Chàng bất giác nghĩ đến bức họa Cố Thiên Lâm mà Lưu Giác đưa đến. Chỉ liếc qua một cái, chàng đã giật mình, thầm nghĩ có lẽ chàng có thể sống tốt với Cố Thiên Lâm, bởi vì đôi mắt trong bức họa đó rất giống A La.

Lòng chàng run lên, Lưu Giác đã nói, một năm nữa A La sẽ không còn là của chàng. Tử Ly nhắm mắt, bàn tay từ từ mở ra, bên trong còn hằn sâu mấy dấu ngón tay.

Tiếng trống phách đang đến gần, gần hơn nữa. Nội thị quỳ trước mặt chàng, không dám giục, nhưng nóng lòng sốt ruột, thầm kêu khe khẽ: “Điện hạ”.

Tử Ly đi đến ven hồ, bẻ một cành lau tím, những cánh hoa li ti tím ngát, nhìn mãi vẫn không sao xua được nỗi buồn thấm trong lòng. Ngón tay bóp nhẹ, hoa bay lả tả từng cánh nhỏ xuống mặt hồ, mặt nước chỉ hơi dợn sóng, lát sau đã tan biến vô hình vô ảnh vào trong nước. Tử Ly nói: “Chuyển hết những khóm lau này đi, trồng lại toàn bộ bằng hoa sen, không trồng sen trắng, sao cho vui tươi một chút”. Nói xong quay người đi về phía cung điện.

Thị vệ đồng thanh đáp, lau mồ hôi chạy theo sau thở phào, hòn đá trong lòng đã được hất đi. Đúng là hoàng đế không lo, thái giám lo sốt vó.

Cố tướng làm quan đã ba mươi năm, môn sinh vô số. Quan viên ngũ phẩm trở lên đều được vào cung dự tiệc, lại thêm Ninh vương hạ chỉ, cho phép gia quyến Cố tướng được vào cung chung vui, cho nên Ngọc Ly cung hôm nay thật là tưng bừng náo nhiệt. Tử Ly tươi cười nhận lời chúc tụng của quan khách, ánh mắt lướt đến Lý tướng và đại phu nhân, đồng tử hơi co lại, nhưng ánh mắt lập tức dần dần hòa dịu.

Lý tướng nâng ly chúc: “Cung chúc Cố tướng kén được rể hiền, Ly Thân vương văn thao võ lược, tài mạo song toàn, với quý tiểu thư thật là tài tử giai nhân, cơ duyên trời định”. Cố tướng phấn khởi cả cười: “Vẫn là Lý tướng có phúc, tam nữ xuất giá đều như sở nguyện!”

Lý tướng cười đáp: “Cũng tàm tạm thôi”.

Lưu Giác miệng cười rất tươi, chàng vận áo choàng màu đỏ, liên tục chào khách, chàng đi đến trước mặt Tử Ly: “Tử Ly, quả là con người ta khi có chuyện vui thì tinh thần sảng khoái, sắc diện đổi thay, xưa nay đệ luôn muốn biết trong ngũ đại công tử Phong thành nếu xếp thứ tự không biết ai sẽ đứng đầu. Hôm nay, xem chừng người đó đích thực là tứ điện hạ!”.

Tử Ly mỉm cười: “Sao lại nói thế, Doãn Chi?”.

Lưu Giác lùi sau hai bước, ngắm nghía Tử Ly một hồi, miệng tươi như hoa: “Trong ngũ đại công tử Phong thành, người người đều biết thái tử tuấn tú cao quý, tứ hoàng tử tuấn tú an nhiên, Cố Thiên Tường tuấn tú lạnh lùng, Thành Tư Duyệt phong lưu, còn đệ, đệ lấy hết tinh túy của cả năm người. Lúc đó đệ còn đắc ý, lấy hết tinh túy của cả năm người thật là thú vị, nếu các nàng tú nữ muốn thưởng thức mặt nào của năm công tử, đệ đều có thể khiến các nàng toại nguyện. Có điều, hôm nay nhìn thấy tứ điện hạ, vẫn tuấn tú an nhiên như xưa, nhưng sắc xuân rờ rỡ, lại lịch lãm phong lưu, tứ điện hạ mới đích thực là hội tụ tinh túy của cả năm người!”.

Tử Ly mắt nhìn xung quanh không có ai, lạnh mặt nói: “Doãn Chi, đệ vui như vậy, là bởi vì A La đồng ý theo đệ?”.

Lưu Giác cũng thôi cười: “Tử Ly, đệ đã nói rồi, dưa chín ép không ngọt, nếu A La đồng ý theo huynh, đệ tuyệt đối không làm phiền. Huynh đã nói với A La chưa?”.

Tử Ly phiền muộn: “Như đệ nói, nàng ấy sao có thể chịu tủi phận thứ thiếp. A La cần tự do của nàng ấy! Đừng trách ta không nhắc nhở, A La chưa chắc sẽ lấy đệ”.

Lưu Giác thản nhiên nói: “Tử Ly, nếu A La lấy đệ, chúng ta vẫn là bạn chứ?”.

Môi Tử Ly khẽ nhếch, nụ cười hiện ra: “Đương nhiên. Lấy đệ, ta còn yên tâm. Chỉ có điều, đệ đừng nhận nhầm đôi mắt”.

Lưu Giác sững người, nói thế là có ý gì? Nhưng Tử Ly đã cười ngất bỏ đi.

Làm xong tất cả các nghi lễ rườm rà, Tử Ly cảm thấy chàng đã thực sự say, say đến mức qua lần khăn trùm màu đỏ của tân nương chàng có thể nhìn thấy đôi mắt trong veo, long lanh đó. Chàng cười thầm. Lưu Giác, ngươi coi A La là Cố Thiên Lâm sao? Định dùng A La thay thế Cố Thiên Lâm? Lòng chàng thầm mong, mong đôi mắt Cố Thiên Lâm thật sự có thể truyền cảm như trong bức họa kia. Chàng lệnh cho tả hữu lui ra hết, muốn một mình thưởng thức một trong hai tuyệt sắc Phong thành, kỳ nữ tự ví mình như lan.

Cố Thiên Lâm nghe thấy tiếng bước chân lại gần. Sau khi con gái được Ninh vương ban hôn, Cố tướng cha nàng vui ra mặt, thái tử không chọn nàng làm phi, nghe nói cũng là chủ ý của Ninh vương và Cố tướng. Nàng thở dài, đây đâu phải là chuyện phận nữ nhi như nàng có thể can dự. Nghe đồn, cây tiêu ngọc của tứ hoàng tử có thể cất lên những tiếng giãi bày, như khóc như than, phiêu nhiên oán thoán, lòng nàng đã âm thầm ngưỡng mộ. Nghe thấy tiếng chân chàng lại gần, tim nàng đột nhiên đập mạnh. Nàng e lệ đỏ mặt, cúi đầu, khép hai hàng mi.

Tử Ly hai lần giơ tay rồi đều dừng lại. Chàng nhìn Cố Thiên Lâm ngồi đó, lòng hồi hộp, cố thở thật nhẹ, lật một góc khăn trùm, có vẻ hơi mạnh tay. Tấm lụa đỏ trơn mượt đã tuột xuống như làn nước, chiếc mũ phượng che nửa mặt nàng, chỉ lộ ra chiếc cằm nhỏ nhắn và khoảng gáy thon trắng ngần. Tử Ly nói nhỏ: “Ngẩng đầu lên!”.

Cố Thiên Lâm vẫn nhắm mắt cúi đầu, mặt càng đỏ lựng.

Tử Ly hơi nôn nóng, giơ tay nâng mặt nàng. Hàng mi nàng lay động, lòng chàng cũng lay theo. Cuối cùng khi nàng mở mắt, tay Tử Ly run bắn, bất giác lùi một bước về sau.

Trên khuôn mặt thanh xuân của Cố Thiên Lâm đôi mắt trong veo như nước mùa thu dịu dàng nhìn chàng, ánh mắt như hốt hoảng, như e lệ, như né tránh, vô cùng lay động. Còn Tử Ly khi nhìn vào đôi mắt nước mùa thu ấy, toàn thân lại như chìm trong thác nước lạnh ngắt của dòng Toái Ngọc trên đỉnh núi, đôi mắt ấy mỗi lần nhìn chàng, hơi lạnh càng thấm vào cơ thể chàng. Thất vọng, phẫn nộ, đau đớn, bi thương chồng chéo. Trong lòng chàng như có tiếng nói, không phải, không phải nàng! Thì ra người mà Lưu Giác thích không phải là nàng!

Tử Ly vẫn tưởng rằng, người Lưu Giác thích là Cố Thiên Lâm, nhìn thấy bức họa trên tường rất giống mắt A La, lại tưởng Lưu Giác bởi thích đôi mắt Cố Thiên Lâm mà muốn cưới A La, cho nên chàng cả mừng. Theo hiểu biết của chàng về A La, A La tuyệt đối không lấy một người không yêu nàng. Nhưng, chàng đã lầm. Tử Ly bật cười to, đúng là đã lầm, Lưu Giác cũng như chàng đều yêu chính A La.

Cố Thiên Lâm nhìn thần sắc Tử Ly, nụ cười dần chuyển thành nỗi băn khoăn, từ căng thẳng trở nên kinh ngạc, cuối cùng nàng bật cười, nhẹ nhàng cất tiếng: “Điện hạ, chàng sao thế?”.

Lời Cố Thiên Lâm làm Tử Ly sực tỉnh. Chàng nghiêng đầu nhìn nàng, thật không hổ danh tuyệt sắc Phong thành, thanh nhã nhu mì. Đây là vương phi của chàng, là thê tử của chàng, đây là người vợ chàng không được phép xem nhẹ, không được phép buông tay bỏ đi. Chỉ có thể cho nàng sự dịu dàng không được làm nàng tủi thân.

Nàng là người vợ cùng chàng đi suốt cuộc đời, chàng nhất định phải đối xử tốt. Một nỗi đau khổ bùng lên giằng xé trong lòng, đẩy chàng chầm chậm đi đến, nhẹ nhàng bỏ chiếc mũ phượng trên đầu Thiên Lâm, rút những chiếc trâm vàng cài trên tóc, giơ tay vuốt, mái tóc đen như gỗ mun xổ tung ra. Tử Ly vén một lọn tóc nàng, cảm giác như chạm vào tơ lụa. Chàng chạm vào mặt nàng lại, từ từ lấy tay khép mắt nàng, thấy mí mắt nàng run run. Chàng thở dài, cúi đầu đặt một nụ hôn lên má nàng, từ từ cởi xiêm y nàng.

Sau khi Cố Thiên Lâm hỏi một câu, thấy Tử Ly đối xử dịu dàng như vậy, tim nàng đập thình thịch xốn xang, sung sướng vô chừng. Nỗi nghi ngờ ban đầu đã quẳng hết phía sau, nhắm mắt chỉ thấy hơi thở của chàng. Khi xiêm y đã cởi hết, nàng nghe tiếng Tử Ly nói nhỏ: “Cơ thể nàng quả thật được đúc bằng ngọc băng”. Lòng ấm áp, êm dịu, nàng nép vào lòng chàng, cùng chàng nếm trải cay đắng, chua chát, lưu luyến, hoan lạc.

Tử Ly cảm thấy Thiên Lâm đã mệt mỏi ngủ thiếp, liền nhẹ nhàng điểm vào huyệt ngủ của nàng, khoác áo trở dậy, vận khinh công rồi lặng lẽ rời cung. Chàng muốn gặp A La.

Khi tiếng tiêu của Tử Ly vẳng đến, A La bỗng giật mình. Hôm nay chẳng phải là đêm động phòng của chàng sao? Nghĩ một lát, nàng vẫn lén đi ra, vào rừng trúc. Tử Ly toàn thân vận áo bào đỏ, dưới ánh trăng trông càng tà mị quyến rũ. A La giật mình: “Đại ca, sao huynh lại đến đây?”.

Tử Ly không đến gần, nhưng giọng khẽ khàng như dụ dỗ: “Lại gần đây, A La, muội hãy lại gần đây một chút”.

A La cảm thấy có gì không ổn, nhưng chân vẫn theo lời chàng bước tới: “Đại ca, huynh buồn lắm sao?”.

Tử Ly cười rất dịu dàng: “Vui chứ, Cố Thiên Lâm rất đẹp, đúng là rất đẹp!”.

“Vậy huynh ra ngoài thế này...”. A La chưa yêu bao giờ, nhưng khi còn ở thế giới hiện đại nàng đã hai mươi hai tuổi, nàng rất hiểu, cảm thấy lúc này mà tân lang bỏ chạy, tân nương nhất định sẽ buồn biết mấy.

“Muội câu nệ sao? A La? Muội hãy nói với ta, nói thật với ta một lần!”.

“Huynh muốn nghe lời nói thật nhất ư? Vậy muội sẽ nói! Muội thích những anh chàng dung mạo khôi ngô, muốn các chàng dung mạo khôi ngô đối xử tốt với muội, huynh đương nhiên là người như vậy. Nhưng muội cũng có lòng ham hư vinh. Nghe huynh nói huynh thích muội, lại còn chạy đến đây tìm muội, thói hư vinh của muội được thỏa mãn cực độ. Muội thầm vui sướng, nếu trong lòng huynh từ nay thực sự không có muội, có lẽ muội sẽ rất buồn, muội vẫn còn muốn huynh thích muội như trước. Nhưng đó chỉ thuần túy là thói hư vinh. Mọi nỗi xúc động, mềm lòng kỳ thực đều do tâm lý này mà ra, đó là thói thường của con người”. A La lạnh lùng nói.

“Nhưng thấy huynh đến, muội vừa vui mừng vừa bất an. Vui mừng là bởi vì huynh lại coi trọng muội đến thế, bất an là bởi vì muội đã phụ huynh. Đại ca, muội nghĩ là muội rất câu nệ, nhưng không phải là sự câu nệ như huynh nghĩ”. A La đã nghĩ rất nhiều, Tử Ly đối với nàng tình sâu như biển, nàng thực sự không yêu chàng sao? Nhưng nghĩ suốt mấy ngày, câu trả lời chỉ có một.

Tử Ly mặt thâm trầm như nước: “Muội nói hay lắm, A La. Nếu muội nói dối ta một lần, ta sẽ rất vui, nhưng vui xong, ta sẽ đau lòng. Muội đã nói thật, ta cũng rất vui, nhưng ta lại càng đau lòng hơn. Bởi vì muộn quả thật đã làm ta càng thêm si mê. Nếu muội nói dối ta, có lẽ ta còn có thể đi gặp phụ hoàng cầu xin người cứu tấm tình si của ta. A La muội không hề cho ta một cơ hội nào, muội còn không cho ta cơ hội tự cứu mình... Ta nhìn Cố Thiên Lâm, nàng dịu dàng e lệ, như mọi tân nương khác hồi hộp sung sướng đợi chờ phu quân âu yếm. Vì sức mạnh và hậu thuẫn mà nàng có thể cho, ta cũng sẽ phải thương nàng. Ta đã cưới nàng, ta sẽ để nàng dưới đôi cánh của ta . Sao ta có thể phụ lòng tốt của phụ hoàng, sao ta có thể làm tổn thương người con gái đã giao phó cho ta cả tấm lòng lẫn tấm thân?”.

A La chậm rãi nhìn Tử Ly đưa tay vuốt mặt mình, nỗi buồn trong mắt chàng thăm thẳm, ánh mắt run run, nỗi đau tê dại như bị trúng độc, vậy mà nàng vẫn phải coi như không thấy. Tim nàng bỗng thắt lại, đau đớn tột cùng như muôn ngàn mũi kim đâm vào da thịt, từng cơn, từng cơn, không dứt. Sao lại thế này? Mắt A La đẫm lệ. Đau đớn, thực quá đau đớn.

Tử Ly nhẹ nhàng hôn vào mắt nàng: “Đừng khóc, đừng khóc, ta biết, chẳng qua muội đã mềm lòng, muội thậm chí có thể mềm lòng đến mức có thể hứa sẽ đi theo ta. Nhưng khi tỉnh lại, muội sẽ hối hận, A La ta không trách muội, chẳng qua muội không nỡ nhìn thấy ta buồn mà thôi”. Nỗi bất lực, sầu bi khôn tả toát ra từ người Tử Ly.

A La nghẹn ngào: “Đại ca, muội thích huynh sống vui vẻ. Huynh đừng như thế này, khiến muội áy náy vô cùng”.

Một tràng cười khe khẽ từ cổ họng chàng phát ra: “A La, ta vốn có thể lợi dụng sự mềm yếu của muội để khiến muội động lòng, ta vốn có thể cầu xin phụ hoàng hủy bỏ hôn ước này, ta vốn có thể đưa muội đi chu du khắp thiên hạ... Nhưng cuối cùng ta vẫn không thể dứt tình với muội, cuối cùng ta vẫn không từ bỏ được những lợi ích khi liên hôn với Cố Thiên Lâm, cuối cùng ta không thể từ bỏ chí lớn của ta! Ta vẫn chưa tra ra mẫu hậu ta trúng độc qua đời thế nào, ta vẫn chưa thoát khỏi tâm thế hèn nhát thần phục dưới chân thái tử bấy lâu, ta vẫn chưa thể đầu đội trời chân đạp đất, ta vẫn chưa thể tranh bá thiên hạ!”.

“A La, muội đã biết ta không thể từ bỏ, muội đã biết, chỉ có điều muội chưa nghĩ đến, bản thân ta không thể chứ không phải do tình thế dồn ép. Ở Ninh quốc, chưa có chuyện gì ta không làm được. Cho nên muội đừng thương xót ta, đó là điều ta đáng phải chịu”.

Tử Ly từ từ đẩy A La ra: “A La, muội thực sự chưa đủ trưởng thành đến mức có thể nhìn thấu ta. Có lẽ, muội sẽ là niềm đáng tiếc mãi mãi của ta”.

A La nhìn Tử Ly, ánh mắt quyết dứt tình: “Huynh quên muội đi! Như vậy huynh sẽ sống tốt hơn!”.

“Không quên được, A La. Muội vẫn chưa thật lòng yêu ai, khi nào yêu, muội sẽ hiểu là không thể nào quên được”. Tử Ly ngẩng đầu thở dài: “Có lẽ, do ta không biết muội yêu ai cho nên vẫn không cảm thấy. Khi nào muội thực sự yêu một người, nỗi đau khổ của ta mới thực sự bắt đầu, sự đố kỵ mới như con nhện độc ngày ngày gặm nhấm tim ta. Cũng có lẽ, đau khổ như vậy mới là sự trừng phạt đích đáng, trừng phạt ta đã không đưa muội đi khi có thể”.

Chàng thẫn thờ nhìn A La giây lát: “A La, muội chưa bao giờ trang điểm mà ta đã thấy muội đẹp mê hồn. Sau này nếu muội trang điểm, nhất định không được để ta nhìn thấy. Ta e là mình sẽ hủy hoại muội”.

Tử Ly lùi dần từng bước, đột nhiên bật cười: “Sao ta lại thành thực như vậy. A La ta chỉ thành thực với muội, chỉ một lần này. Nhớ kỹ, sau này nhất định không được tin ta”. Tử Ly nói xong liền vươn người, gió thổi phồng áo chàng. Giây phút này, A La cảm thấy chàng như màn khói, lẩn vào lòng biển đen sâu hút, lập tức bị sóng nước nhấn chìm, đem tất cả nhiệt tình của chàng hóa thành tro bụi. Nàng bất lực ngồi sụp xuống, lòng cũng chìm vào màn đêm mênh mông.

.

Chương 13

.

Sáng sớm, Lưu Giác vừa tỉnh dậy, mắt đã vô tình liếc nhìn lên tường, thấy bức tường trống không, chàng chợt mỉm cười, bức tranh đó đã đưa đến phủ của tứ hoàng tử từ lâu. Lòng chàng đột nhiên xao động, trong bữa tiệc cưới Tử Ly bảo chàng rằng chớ nhận lầm đôi mắt. Ngay đêm đó, thuộc hạ báo về, đêm khuya Tử Ly đã nhảy tường vào hậu viên của tướng phủ, lẽ nào? Lưu Giác bắt đầu trầm ngâm suy nghĩ.

Chàng lấy bút viết một bức thư rồi dán kín, bỏ vào một ngăn bí mật trên án thư, lại đặt một sợi tóc ở mép ngăn đánh dấu. Xong xuôi, chàng ngắm nghía mấy lần, mỉm cười hài lòng. Tỳ nữ Tư Thi đi vào giúp chàng mặc y phục, Lưu Giác liếc nhìn, cười khe khẽ: “Đột nhiên phát hiện, Tư Thi cũng trở thành thiếu nữ rồi, đã có ý trung nhân chưa, tiểu vương gia sẽ làm chủ cho”.

Tư Thi đỏ mặt, hai tay vẫn chỉnh sửa trang phục cho chàng, cúi đầu nói: “Tiểu vương gia trêu đùa nô tỳ, Tư Thi sẽ ở trong Tùng phong đường suốt đời”.

Lưu Giác lại trêu: “Không phủ định là đúng rồi, phải không? Là ai thế?”.

Tư Thi đỏ mặt, chỉnh lại vạt áo cho chàng, không nói gì mà cúi đầu chạy vụt ra ngoài. Lưu Giác trầm tư nhìn theo bóng nàng ta, khi Tư Thi vừa ra khỏi cửa cười, chàng nói với theo: “Bảo bọn họ chuẩn bị hai con ngựa, hôm nay ta sẽ đi dạo với tiểu vương phi tương lai của ta”.

Hôn lễ của Thành Tư Duyệt và Thanh Phỉ đã định sẽ diễn ra vào ngày mồng năm tháng tám, trong tướng phủ kẻ trên người dưới bận rộn tíu tít. Các phu nhân đứng đầu là đại phu nhân, cùng với Thanh Phỉ, Thanh La suốt ngày tụ tập ở lầu hóng mát trong hoa viên, khẩn trương chuẩn bị các loại đồ thêu.

Môn nữ công duy nhất mà A La không học là thêu. Nàng cũng không phải là không biết làm, nhưng không thêu được những kiểu hoa văn cầu kỳ tinh xảo. Ngồi với mọi người, nàng chỉ làm những việc vụn vặt như khâu, đính gút cài. Phụ nữ thời đại này thật là thiệt thòi, chẳng có trò tiêu khiển nào, chỉ biết thuê thùa khâu vá giết thời gian. A La ngồi làm dưới ánh mắt giám sát chặt chẽ của các phu nhân, lòng nóng như lửa đốt, cứ thế này làm sao kịp chuẩn bị chạy trốn? Lúc đó có gia nhân bẩm báo, tiểu vương gia của An Thanh vương phủ cầu kiến.

Lý tướng vào cung nghị sự, vậy là đại phu nhân làm chủ: “A La, đối xử tốt với tiểu vương gia nhé, nhớ kỹ lời cha dặn”.

A La nhìn thất phu nhân, tươi cười bỏ đồ khâu xuống, chạy như bay ra khỏi hoa viên buồn tẻ. Nàng nghĩ, nếu ra khỏi phủ mà bỏ rơi Lưu Giác, có phải có nhiều thời gian chuẩn bị không? Nàng quyết định sẽ năng mời Lưu Giác tới phủ, nếu có điện thoại di động thì tốt, nhắn tin một cái là xong, nếu không vì chuyện khác, đi với chàng ta còn dễ chịu hơn ngồi với mấy bà vợ của Lý tướng.

Vì vậy, khi Lưu Giác nhìn thấy A La, sắc mặt tươi cười hớn hở, thắm hồng như cánh hoa, chàng không nén được cười: “Kỳ lạ thật, từ lúc nào tam tiểu thư nhìn thấy ta lại vui như thế?”.

A La có rất nhiều việc phải làm bên ngoài, nghe vậy cũng không thấy bực, hớn hở nói: “Thế nào? Vậy mặt ta phải sa sầm ủ rũ chàng mới vui sao?”.

Lưu Giác mỉm cười: “Đã vui như vậy thì cùng ra ngoài dạo chơi đi?”.

“Chàng định làm gì?”.

“Cưỡi ngựa!”.

A La động lòng: “Ta chưa đến bờ sông Đô Ninh. Nơi đó thế nào? Hay là hôm nay chúng ta đến đó chơi?”.

Lưu Giác cười đồng ý. Ra khỏi phủ, tùy tùng dắt ngựa đến, Lưu Giác bảo họ: “Hôm nay ta đưa tam tiểu thư đi dạo ven sông. Các ngươi không cần đi theo”.

Hai người cưỡi ngựa ra khỏi cổng thành phía nam, không lâu sau đã tới bờ sông Đô Ninh. A La nhìn thấy một chiếc cầu phao được ghép bởi những con thuyền gỗ buộc giằng với nhau, nàng hỏi vẻ nghi ngờ: “Cưỡi ngựa có qua được không?”.

Lưu Giác dùng hành động thay lời giải thích, vung roi thúc ngựa xông lên cầu, A La chầm chậm cho ngựa đi men theo bờ sông. Nàng quan sát kỹ chiếc cầu phao, bên dưới là những chiếc thuyền gỗ nhỏ dài hơn chục mét, buộc giằng với nhau bằng những sợi dây xích sắt, bên trên trải ván gỗ, cách mấy cái thuyền lại có một ổ khóa, có thể linh hoạt tháo rời. Sau khi tháo ra mấy chiếc thuyền nhỏ lại ghép thành một chiếc mảng lớn có thể vượt sông, vào mùa nước lũ có thể tháo bớt thuyền để thông dòng chảy. Cả chiếc cầu phao dài chừng sáu bảy chục thước, A La quan sát một lúc, rồi cũng ra roi cho ngựa đi xuống cầu, khi sang bờ bên kia, nàng hỏi Lưu Giác: “Nếu cầu phao bị hỏng, đi lại chắc sẽ bị gián đoạn?”.

“Phía ngoài cổng thành phía nam có hai phường chuyên làm thuyền, có cả binh sĩ hướng dẫn. Dù cả cầu bị phá, hai canh giờ sau là đã có thể làm lại, rất tiện lợi. Nhưng ngộ nhỡ, nếu có binh biến, chỗ này sẽ trở thành cửa ải tự nhiên ngăn cản quân địch”.

A La quan sát kỹ tình hình khu vực xung quanh cổng thành phía nam, nhưng tuyệt nhiên không thể hiện gì mà im lặng theo Lưu Giác phi về phía trước. Ngựa chạy một lúc, lòng nàng dần dần trở nên náo nức, đất trời bao la như vậy ở mãi trong thành, thực buồn muốn chết, mặc dù đã là giữa hè nóng nực, ngồi trên lưng ngựa phi như bay, gió ù ù bên tai, quả rất dễ chịu.

Lưu Giác dừng lại, xuống ngựa, nói với A La: “Ở đây yên tĩnh, phong cảnh lại đẹp, ngồi nghỉ một lát, để cho ngựa đi uống nước, chỗ kia có bóng cây râm mát”.

A La nhìn chàng mà lòng không chút hứng thú, chậm rãi nói: “Phong cảnh ở đây rất đẹp, cũng là một chốn hữu tình để hò hẹn yêu đương. Chỉ có điều, tiểu vương gia, ta không có ý định lấy chàng. Rất cảm ơn chàng đã đưa ta đến đây, cũng cám ơn con ngựa của chàng, ta mượn tạm một lát, mình chàng ở đây cứ thong thả nghỉ ngơi, thưởng ngoạn phong cảnh đi!”.

Lưu Giác nói: “Nếu nàng tỏ ra ngoan ngoãn lấy ta, ta mới thấy lạ. Không vội, vẫn còn một năm nữa, ta có thể đợi, vương phi tương lai của ta”.

A La cười, quất ngựa bỏ đi. Ngựa vừa quay đầu, cảm thấy phía sau nặng trĩu, đã thấy Lưu Giác nhảy lên lưng ngựa, áp sát người nàng, nói nhỏ vào tai nàng: “Dùng xong vứt bỏ, nàng thật trắng trợn. Bỏ mặc ta định đi đâu?”.

A La tức lắm, dùng khuỷu tay huých ra sau, Lưu Giác nhẹ nhàng nắm lấy, tay chàng đã vòng lên, ôm chặt nàng như móng vuốt đại bàng, cười ha hả: “Nếu còn không nghe lời, ta sẽ điểm huyệt, có muốn thử lại cảm giác không thể cựa quậy, không nói được không?”. A La lập tức dừng ngựa, nói giọng châm biếm: “Cưới một người không muốn lấy chàng, có gì thú vị?”.

Lưu Giác vẫn cười: “Đương nhiên rất thú vị, lấy một người ngoan ngoãn vâng lời, ngược lại ta mới thấy vô vị”.

Hai người ép sát vào nhau, trông thân mật vô chừng. Lưu Giác cơ hồ say trong mùi hương dịu nhẹ thoảng ra từ cơ thể A La, cảm thấy ôm nàng thế này cảm giác mới tuyệt làm sao. Hơi thở nóng hổi bên cổ, A La quả chịu không nổi, hét lên: “Nóng nực thế này lại còn nướng bánh, chàng có bị bệnh không? Để ta xuống!”.

Lưu Giác cười ha hả: “Không nóng tí nào, rất dễ chịu!”.

A La đảo mắt, nói: “Chàng chiến thắng một người tay không vũ khí! Có dám xuống ngựa đấu với ta? Đừng quên ở Đào hoa yến ta đã xử lý dâm tặc thế nào!”.

Lời vừa dứt, nàng thấy người nhẹ bẫng, Lưu Giác ôm nàng nhảy xuống đất. Khuôn mặt với những đường nét như tạc của chàng đẹp rờ rỡ, ánh mắt vui cười, nhướn mày: “Nàng không nói ta suýt quên, nàng còn có một công phu quyền cước rất lạ kỳ, học ở đâu thế?”.

A La vênh cằm, cũng nhướn mày: “Học sư phụ ta, nói ra chàng cũng không biết. Có điều, ta không biết khinh công, không biết điểm huyệt, nếu chàng dùng những chiêu đó thì không cần tỷ thí, đằng nào ta cũng không biết, chàng thắng ta cũng không phục”.

Lưu Giác ý tứ sâu xa nhìn nàng thầm nghĩ, nếu không thuần phục a đầu này, ngày sau cưới về, không chừng nàng ta trèo lên cổ mình. Vậy là chàng cười hớn hở tán thành: “Được, ta chỉ dùng quyền cước, không khinh công, không điểm huyệt, nếu thua, nàng hãy ngoan ngoãn lấy ta”.

A La cười hớn hở: “Cũng được, nhưng nếu làm chàng bị thương thì sao?”.

Lưu Giác tỏ vẻ coi thường nói: “Cho dù ta đứng yên không động đậy, nàng đấm tám quả, mười quả cũng không thể làm ta bị thương. Chỉ như gãi ngứa mà thôi”.

“Vậy hả? Thế lần trước ta chỉ thúc chàng một nhát, chém chàng hai nhát, sao chàng đã đổ gục như con lợn chết thế?”.

Không nhắc thì thôi, nhắc đến thì Lưu Giác lại tức nổ bụng: “Lúc đó ta không đề phòng, bị nàng thúc một nhát suýt thì tuyệt hậu, vậy mà vẫn nói được! Hừ, hôm nay thử lại xem để biết tiểu vương gia ta xử nàng thế nào!”.

A La tỏ vẻ sợ hãi: “Nghiêm trọng vậy ư? Ta không dám đâu, nếu làm lại, khiến An Thanh vương tuyệt hậu, cái mạng nhỏ của ta khó giữ lắm”.

“Nàng tưởng vẫn còn cơ hội sao? Lần trước, thấy nàng còn là đứa trẻ, không đề phòng, lần này hả, ha ha đừng mơ!”.

“Vậy thì thôi, chúng ta đấu văn được không?”.

“Đấu văn?”.

A La nghĩ đến đoạn Hoàng Dung xử lý u Dương Khắc trong truyện Thần điêu đại hiệp của Kim Dung, nàng nhìn xung quanh, nhặt lên một cành cây vẽ một vòng tròn lớn trên mặt đất: “Bây giờ chàng đứng vào trong này, để cho ta dùng cách nào đó, đánh bật chàng ra khỏi vòng này coi như chàng thua! Đương nhiên, nếu chàng tự ra khỏi cũng coi là thua, thế nào?”.

“Được!”.

“Liệu chàng có nuốt lời?”.

“Lưu Giác ta đã nói là làm, tuyệt đối không nuốt lời!”.

“Vậy thì tốt, nếu thua là không được làm khó ta nữa”.

“Nhất định là thế!”.

Lưu Giác mỉm cười đứng vào vòng, dáng vẻ chểnh mảng: “Coi như tiểu vương gia ta đứng im không động thủ, nàng cũng đẩy không được, đạp không nổi, đá không xong”.

A La đi vòng quanh một lượt, mặt tươi cười: “Vậy chàng cứ đứng trong đó mà đợi, bản cô nương phải đi đây, nhớ đấy, chàng ra khỏi vòng coi như thua, thua là không được đến quấy rầy ta. Bye bye! Tiểu vương gia!”.

Lưu Giác nghe vậy giật mình: “A La, sao nàng lại nuốt lời như vậy?”.

A La nhảy lên ngựa, đi vòng quanh mấy bước, nói: “Như thế mà gọi là nuốt lời ư? Hình như có vẻ như vậy. Nhưng mà vừa rồi ta không hứa là ta sẽ không nuốt lời, nhưng chàng đã hứa rồi”. Nói đến đây, nàng nghiêm mặt, bắt chước giọng Lưu Giác: “Lưu Giác ta đã nói là làm, quyết không nuốt lời!”. Nói xong cười ngất, quất ngựa phóng đi.

Lưu Giác đứng giữa vòng tròn dở khóc dở cười, nhìn bóng A La cười ngặt nghẽo phóng ngựa đi, chàng bất giác bật cười, lòng hân hoan vui sướng. Chàng thong thả bước khỏi vòng tròn trên đất, nhìn mặt trời, A La đi đúng lúc, nếu không, chàng cũng đưa nàng quay về thành.

Lưu Giác phi ngựa về vương phủ, không đi cổng chính mà lén nhảy vào từ phía hậu viên. Chàng thuộc đường, nhẹ chân nhẹ tay tránh được lính gác của Thanh tổ, lặng lẽ lẻn vào Tùng phong đường. Đi đến ngăn kéo bí mật, sợi tóc vẫn nguyên chỗ cũ, nhưng cũng có xê dịch chút ít, Lưu Giác không nén được cười, mở ô kéo bí mật, bức thư vẫn y nguyên, kẻ giấu mặt thật nhanh chân nhanh tay!

Lưu Anh nhón chân đi vào không một tiếng động, quỳ sụp xuống: “Chúa thượng”.

Lưu Giác lạnh lùng liếc anh ta: “Lưu Anh, ngươi theo ta bao năm rồi?”.

“Bẩm chúa thượng, thuộc hạ sáu tuổi tứ cố vô thân, lão vương gia đã đưa thuộc hạ về phủ, đến giờ được mười bốn năm!”.

“Bức họa lần trước ta dặn ngươi thế nào?”.

“Đốt bức cũ, hồ lại bức mới đưa đến phủ của tứ hoàng tử!”. Lưu Anh trả lời lưu loát, nhưng người toát mồ hôi: “Thuộc hạ đáng chết. Đúng lúc chuẩn bị đốt thì Tư Thi đi vào, bảo là muốn ngắm vương phi của tứ hoàng tử, thuộc hạ nhất thời mềm lòng nên đồng ý, bảo nàng ấy xem xong thì đốt đi. Nàng ấy ngắm nhìn đến dựng cả mắt lên, thế là nước mắt lã chã, nói người phong hoa tuyệt thế như vậy chẳng trách chúa thượng ngày đêm ngưỡng vọng. Tư Thi một lòng si mê tiểu vương gia, khóc không thành tiếng, thuộc hạ không đành lòng, không dám nhìn, lát sau đợi Tư Thi thôi khóc mới quay người lại. Nàng ấy cầm bức họa bảo là sẽ tự tay đốt. Thuộc hạ đứng chờ xem nàng ấy đốt”.

“Sau đó thì sao?”.

“Thuộc hạ phong bao bức mới đưa đến phủ của tứ hoàng tử!”.

Lưu Giác hừ một tiếng: “Thuộc hạ của ta trở nên mềm lòng từ lúc nào vậy?”.

Lưu Anh dập đầu: “Chúa thượng trách tội”.

Lưu Giác mãi không nói gì, Lưu Anh chỉ cảm thấy một luồng khí lạnh buốt đáng sợ tỏa ra từ người chủ nhân. Bình thường tiểu vương gia này cũng không khác gì công tử các nhà quyền quý, Lưu Anh tử nhỏ lớn lên cùng Lưu Giác, nhưng đến bây giờ vẫn không hiểu nổi chủ nhân. Nhưng lúc này anh ta biết, chủ nhân đang phẫn nộ tột cùng. Lưu Anh cảm thấy cơ thể mình như bị trái núi đè lên, khí lạnh trào dâng như thủy triều, dồn ép đến không thở được, lạnh buốt như đâm vào da thịt, sát khí như rắn độc quấn quanh người. Lưu Giác nhắm mắt, trong chốc lát trở lại trạng thái bình thường: “Tự phạt hai chục roi, cho người theo dõi Tư Thi và người khác trong phủ. Tùng phong đường từ bao giờ trở thành hoa viên để người ta tự tiện ra vào!”.

Lưu Anh vừa thấy dễ chịu đôi chút, lại kinh sợ: “Thuộc hạ đáng chết! Toàn bộ Thanh tổ bị phạt mười roi, thuộc hạ tự phạt thêm mười roi nữa!”. Lưu Anh dập mạnh đầu rồi quay người đi ra.

“Khoan! Thuốc này trị vết thương roi đánh rất hiệu nghiệm!”.

Lưu Anh đón vật Lưu Giác quẳng cho, mắt lộ vẻ cảm kích: “Đa tạ chúa thượng quan tâm!”.

“Được rồi, sĩ tốt bị thương sao có thể canh gác được?”.

Lưu Giác hình như nghiện đến gặp A La, vài ngày lại tìm đến tướng phủ hẹn nàng đi cưỡi ngựa. A La nghĩ thầm, sao hắn ta giống như loài cỏ không sao nhổ được rễ thế chứ? Hôm nay làm thế nào để cắt đuôi đây?

Cưỡi ngựa qua thảo nguyên, Lưu Giác đưa nàng vượt qua cổng thành phía đông phi về hướng dãy núi Ngọc Thúy. A La còn nhớ, biệt uyển của Hộ quốc công chúa cũng ở phía này. Qua bình nguyên là dải đồi nhấp nhô trùng điệp, quất ngựa băng qua cảm thấy quả đồi giống như người con gái nằm ngủ trên đất, hơi thở đều đều. Phi ngựa một lát nữa, A La ngáp một cái, phàn nàn: “Trời nóng quá, ta buồn ngủ, không muốn đi nữa, ta về phủ đây”.

Lưu Giác quay đầu nhìn nàng: “Nàng về phủ hay là một mình đi dạo phố?”.

A La giật thót người, suýt thì ngã ngựa, nàng quay mặt sang một bên: “Sao chàng lại vô sỉ đến thế, lại còn cho người theo dõi ta?”. Lòng hoảng hốt, lúc này không được để cho hắn ta phát hiện ra mình đang chuẩn bị chạy trốn.

Lưu Giác cười: “Thực ra ta chỉ muốn biết, a đầu đã dạy Ly Thân vương món ăn hạng nhất, lại được huynh ấy luôn mồm ca ngợi là báu vật rút cuộc có những bí mật gì, theo dõi mãi lâu dần thành nghiện, suốt ngày nhìn nàng và Tử Ly hẹn hò ở hậu viên, thú vị lắm”.

Nếu tiếp tục bị hắn ta cho người theo dõi, đúng là chạy không nổi. A La nhìn thẳng Lưu Giác, nói khích: “Nếu còn cho người đi theo ta chết cũng không lấy chàng! Ta ghét nhất làm gì cũng bị người ta nhìn thấy, đó là vi phạm riêng tư! Ta sẽ coi thường chàng!”.

Lưu Giác không tỏ vẻ bất cần nữa, nhìn A La, nói: “Được, ta sẽ không cho người theo dõi nàng nữa. A La, không phải ta muốn theo dõi nàng, lúc đầu là do hiếu kỳ, bây giờ không cần thiết”. Nói đoạn, chàng lại cười xòa: “Ai bị như thế cũng thấy khó chịu”.

A La thở phào: “Ta tin chàng, chàng đừng làm ta thất vọng”.

Lưu Giác nhảy xuống ngựa, chìa tay cho nàng: “Xuống đi! Chúng ta ra bờ suối ngồi một lát”.

A La đang định xuống ngựa, Lưu Giác cau mày nói: “Thôi, sắp trưa rồi, nắng trưa rất độc, nàng về phủ đi”. Chàng đột nhiên đổi ý.

La không hiểu, nghi hoặc nhìn chàng. Lưu Giác trầm mặt “Mau đi đi!”. Nói rồi đập vào mông ngựa, ngựa hí một tiếng lao đi. Vừa được mấy bước thì hai vó trước bỗng mềm oặt, khuỵu xuống, A La kêu một tiếng, từ lưng ngựa ngã xuống, nàng nhắm mắt, thầm nghĩ, “Hỏng rồi, hỏng rồi”. Liền ngay đó cơ thể bỗng nhẹ bẫng, đôi cánh tay chắc khỏe đã đỡ lấy cơ thể nàng. Chỉ thấy Lưu Giác hét một tiếng “Đứng dậy”, cơ thể nàng vút lên như cưỡi mây cưỡi gió, rồi tiếng gió vun vút liên hồi bên tai như tiếng kiếm khua, khi chân chạm đất, nàng nhìn thấy khoảng chục người vận áo xanh bịt mặt vung kiếm lao đến, tình hình nguy hiểm gấp bội so với lần Tử Ly bị tập kích dạo trước. Bóng đao, bóng kiếm loang loáng, A La nhìn hoa cả mắt, karate so với trận này chỉ như trò trẻ con.

Lưu Giác đứng trước nàng, vung kiếm che trái chắn phải. A La ngây người, nghe đằng sau có tiếng gió thốc lại, nàng né người theo bản năng, thấy có người tấn công từ phía sau, Lưu Giác vung tay hất tung thanh đao trong tay đối thủ, tay kia nắm chặt tay A La. Miệng chàng chợt huýt một tiếng sáo dài, Ô y kỵ của phủ An Thanh vương đột nhiên xuất hiện, đám người áo xanh bị chém lia lịa, không kịp trở tay. Tình thế đã đảo ngược, trận chiến kết thúc chóng vánh. Ba người áo xanh bị bắt, không một ai chạy thoát.

Lưu Giác tra kiếm vào bao, đứng thẳng người, cười khẩy: “Nói, kẻ nào sai khiến các ngươi? Đương nhiên chắc là các ngươi sẽ không chịu nói nhưng phải nếm cực hình mới chịu khai ra là thiếu sáng suốt. Thế này vậy, nói đi, tiểu vương gia sẽ cho các người chết nhẹ nhàng, nếu không các ngươi muốn chết cũng không chết được. Giày vò các ngươi tám năm, mười năm, ta cũng có gan chờ”.

Ba người áo xanh nhìn nhau đồng thanh: “Nói hay không đằng nào cũng thế, tiểu vương gia cứ việc ra tay”.

Lưu Giác cười: “Ra tay à? Không được làm tiểu vương phi của ta kinh sợ!”.

A La đỏ mặt, quay đi thầm nghĩ, Lưu Giác thẩm tra người ta sao cũng diễn bộ mặt tươi cười như thế? Chính trong lúc nàng định ngoái đầu, chợt nghe thấy một âm thanh trầm buồn, đang định ngoái lại bàn tay Lưu Giác đã bịt chặt mắt nàng: “Ngoan nào, đừng nhìn, hãy nhìn phong cảnh phía xa”. A La giật mình, hắn ta đang dỗ mình sao? Dịu dàng thế ư? Lưu Giác buông tay. Nghe thấy những âm thanh trầm buồn từ phía sau lưng vẳng lại, nàng không muốn nhìn nhưng thầm tưởng tượng ra khung cảnh phía sau liền bất giác bịt chặt tai. Hai, ba khắc sau, Lưu Giác kéo tay nàng ra, A La ngoảnh lại, sườn núi trống không như chưa có chuyện gì xảy ra. Lưu Giác cũng như Tử Ly trừng trị kẻ dưới thẳng tay như vậy sao? Hắn, hắn ta cũng không đơn giản như vẻ ngoài thoải mái hay sao? A La lại thấy đau đầu, Lưu Giác cũng như Tử Ly đều là thủ lĩnh giấu mặt.

Lưu Giác ngửa mặt tươi cười, nhìn A La đang mở to mắt đầy sợ hãi băn khoăn, bỗng chàng thở dài tay nâng mặt nàng, nói: “A La đừng sợ, nào lại đây nhìn vào mắt ta, nhìn ta. Nhớ kỹ, chỉ cần có ta, nàng sẽ an toàn. Trừ phi, trừ phi ta chết trước mặt nàng”.

Ánh mắt chàng vừa chân thành vừa kiên định. A La thảng thốt vài giây, tự nhiên gật đầu, Lưu Giác phấn khởi ôm nàng vào lòng. Chỉ nghe tiếng chàng khẽ khàng: “Hãy tin ta, A La, ta sẽ đối tốt với nàng, sẽ bảo vệ nàng, suốt đời suốt kiếp”.

Lồng ngực chàng ấm áp và rắn chắc, khiến nàng thấy an toàn biết bao. Giờ khắc này A La đã muốn từ bỏ ý định chạy trốn. Nhưng lại chợt nghĩ, Tử Ly từng nói sẽ bảo vệ mình, nhưng thực tế luôn có lúc lực bất tòng tâm. Nàng tựa vào ngực chàng, tự nói với mình, chỉ cần giây phút này, chỉ cần giây phút này thôi.

Một lúc lâu sau, nàng mới chậm rãi hỏi: “Ai muốn giết chàng, hình như chàng đã có chuẩn bị?”

Lưu Giác nói thản nhiên: “Không phải thái tử thì là Ly Thân vương”.

A La kinh ngạc đẩy chàng ra: “Sao có thể? Đắc tội với chàng phỏng có ích gì?”. Người định ám sát Lưu Giác có thể là Tử Ly ư? Nàng không muốn nghe điều đó.

Lưu Giác nói: “Vấn đề là ở chỗ đó. Hai người kia bất luận là ai đắc tội với ta đều không có lợi, cho nên họ đều mong cho đối thủ đắc tội với ta, chỉ cần An Thanh vương nghiêng về bên nào, khả năng chiến thắng lớn nhất trong cuộc chiến tranh đoạt vương vị sau này sẽ nghiêng về bên đó. Những kẻ áo xanh vừa rồi mặc dù không chịu nổi cực hình, mới khai là do thái tử sai khiến, nhưng ta không tin, nhiều khả năng là Ly Thân vương. Huynh ấy quản thuộc hạ rất nghiêm, hoàn toàn có khả năng dùng lời khai của những thuộc hạ liều chết để giá họa cho thái tử. Nhưng cũng không loại trừ khả năng thái tử ra tay. Có lẽ thái tử cố ý dẫn lửa vào thân, lại càng tỏ ra trong sạch. Phải biết, ta là đồng minh tương lai của huynh ấy, với thế lực hiện nay của thái tử, phủ An Thanh vương chỉ cần giữ thái độ trung lập là đã giúp huynh ấy nhiều rồi. Nhìn bề ngoài, thái tử không cần thiết phải đối kháng với ta, tuy nhiên, huynh ấy lại sợ vương phủ ủng hộ Ly Thân vương, cho nên cũng không loại trừ khả năng đó. Lời của mấy tên áo xanh vừa rồi ta không tin một câu nào, điều duy nhất có thể xác nhận là một khi Ninh vương băng hà, triều đình nhất định sẽ đại loạn”.

A La càng nghe càng kinh hãi, từ thời cổ, tranh giành vương quyền đều là cuộc chiến đẫm máu. Nàng nghĩ, vẫn còn nửa tháng nữa, nửa tháng sau mình sẽ cao chạy xa bay, thoát khỏi cảnh gươm đao rùng rợn đó.

Lưu Giác dịu dàng nhìn A La: “Nàng có đồng ý ở bên ta không? A La, chúng ta sẽ cùng chung hoạn nạn sinh tử?”.

A La nói ngay không suy nghĩ: “Không!”.

Lưu Giác sắc mặt sa sầm, trợn mắt lườm nàng: “Không biết tim nàng bằng gì! Chẳng khác gì một con sói mắt trắng không thể thuần phục!”.

A La nhìn chàng: “Ta không thích tranh giành quyền lực, những chuyện đó không can hệ đến ta. Tại sao ta phải cùng chàng chung hoạn nạn sinh tử?”.

Lưu Giác thở dài: “A La, đến đâu cũng thế thôi, không thể có sóng yên biển lặng”.

A La cúi đầu, một hồi lâu mới ngẩng lên: “Ta nghĩ thế giới này sẽ luôn có một nơi bình yên, để ta có thể sống cuộc đời giản đơn”.

Lưu Giác nhìn ra phía xa, lúc quay lại, ánh mắt đã trở lại dịu dàng: “Mong là có, gần đây Ly Thân vương cho xây phủ trong sơn cung, Phong thành sắp dậy sóng rồi. Hôm nay đã làm nàng kinh sợ, quay về thôi, không có việc gì thì nên ở trong phủ, không nên ra ngoài chạy lung tung”.

A La nói: “Phải, gần đây trong tướng phủ rất bận, mọi người bận giúp Thanh Phỉ chuẩn bị tư trang”.

Lưu Giác nghĩ đến bữa tiệc trong Đông cung dạo trước, đột nhiên hỏi: “Cuộc sống của nàng trong tướng phủ chắc rất khó chịu? Bởi vì mẹ nàng xuất thân từ thanh lâu”.

“Phải, chàng đã biết thế, sao còn muốn cưới ta làm chính thê?”.

Nỗi xót thương trào lên, Lưu Giác cười: “Thân mẫu ta còn là tù binh cha ta thắng trận bắt được, chẳng phải cũng như nhau hay sao? Chỉ tiếc người qua đời quá sớm. Người rất đẹp, phụ thân ta trong lòng thương tiếc khôn nguôi, từ đó không lấy vợ nữa”.

“Vậy phụ thân chàng chẳng phải sẽ bị các đại thần trong triều chế nhạo hay sao? Phụ thân ta luôn tự hào vì có đến bảy bà vợ, có lẽ phong tục Ninh quốc là thế, lấy càng nhiều vợ thì càng thấy hãnh diện”.

“Ai dám? Ngay cả Ninh vương cũng phải kính nể phụ thân ta mấy phần”. Giọng Lưu Giác đầy tự hào, “Huống hồ, phụ thân ta đã gặp được tri kỷ, vậy là đủ rồi! A La, ta đã nhận nàng, nàng đừng phụ ta”.

“Nếu ta phụ chàng, nghĩa là không lấy chàng, chàng sẽ làm gì?”.

“Đến lúc đó nàng khắc biết”. Lưu Giác nói thản nhiên.

A La bất giác rùng mình.

.

Chương 14

.

Sau chuyến đi đó, Lưu Giác không đến tìm A La nữa. Ban ngày các phu nhân cần làm gì cũng gọi nàng, A La đành phải đợi đêm đến mới vượt tường ra ngoài, chuẩn bị cho công cuộc chạy trốn.

Trong Đường viên, thất phu nhân, A La và Tiểu Ngọc đều hồi hộp, căng thẳng chờ đợi ngày Thanh Phỉ xuất giá. Một năm trước vú Trương đã viện lý do già yếu xin xuất phủ về quê, rời khỏi Phong thành. Theo sắp đặt của A La, vú đã đến thành Lâm Nam ở biên giới nước Trần.

Mọi người đếm từng ngày. A La nhắc thất phu nhân và Tiểu Ngọc không được lo lắng, cứ coi như cuộc dạo chơi ra khỏi phủ bình thường. Nàng nói: “Tuyệt đối không được để cho ai biết mình đang nghĩ gì. Cho dù họ đoán đúng cũng chỉ là dự đoán, chỉ cần mình không nhận, là không có chuyện gì”.

Cuối cùng cũng đến hôm trước ngày Thanh Phỉ xuất giá, A La và thất phu nhân mặt mày hớn hở mang quà cưới đến tặng Thanh Phỉ, nói một loạt những lời chúc tụng hay ho, rồi trở về Đường viên như mọi ngày. Tiểu Ngọc khóa cửa ngoài, ba người khẩn trương cải trang thành nam nhân, chỉ mang theo ngân lượng và những đồ châu báu, đi tắt qua hậu viên vào rừng trúc rồi vượt tường bao một cách thuận lợi. A La dẫn đường đưa họ đi thẳng đến ven sông, ở đó nàng đã đã thuê sẵn cỗ xe ngựa đứng chờ, sau khi trao bạc, cỗ xe vòng lại đi về phía cổng thành phía đông.

Ra khỏi phủ, thất phu nhân thở một hơi dài, thấy A La điều khiển xe ngựa vẻ thành thạo bèn hỏi: “Tam Nhi, con học đánh xe ngựa từ bao giờ vậy?”.

A La cười: “Sau khi biết cưỡi ngựa, con bảo Tử Ly kiếm cỗ xe dạy con đánh chơi, còn bảo huynh ấy lên xe đi dạo, bên trong để sẵn đồ dùng, đồ ăn, có thể đi đến đâu nghỉ đến đó, cứ như vậy, dần dần con biết đánh xe thôi”.

Thất phu nhân nói: “Kỳ thực Ly Thân vương cũng rất thật lòng với con”.

“Mẹ à, con chỉ coi huynh ấy là đại ca thôi. Buổi tối hôm đó, Tử Ly bảo con sau này không nên tin huynh ấy. Con cũng không biết phải làm thế nào, có lẽ từ nay chẳng còn gặp lại huynh ấy nữa”. A La thở dài, không muốn nhắc đến Tử Ly. Bây giờ chàng đang xây phủ trong sơn cung, bắt đầu vạch mưu tranh đoạt vương vị với thái tử. Lại còn Lưu Giác, chàng đã nói thật, nếu biết nàng chạy trốn, với tính cách của Lưu Giác, nếu để bị bắt lại, mình không chết cũng bị lột da. “Vút!”, A La vung roi, dẹp bỏ những suy nghĩ lan man, chuyên tâm đánh xe.

Đến khu dân cư phía đông nam Phong thành, A La nhảy xuống dùng vải dày bọc móng ngựa, lặng lẽ len lỏi trên đường ngõ. Đi lòng vòng suốt một canh giờ, họ mới đến được ngôi nhà đã mua từ trước.

Tiểu Ngọc đỡ phu nhân xuống xe, A La dẫn họ vào sân, nàng vào nhà lấy ra những thứ đã chuẩn bị sẵn, nói với thất phu nhân: “Mẹ à, con và Tiểu Ngọc đã chuẩn bị lương thực và đồ dùng đủ sống trong nửa năm, quản gia đã cho nghỉ rồi. Mẹ và Tiểu Ngọc cứ đóng chặt cổng nghỉ ngơi, Tiểu Ngọc đã đến đây cũng biết tình hình, bây giờ con phải đi làm nốt một số việc”.

Thất phu nhân nghẹn ngào: “Tam Nhi, con phải cẩn thận đấy!”.

A La nhìn trời, còn một canh giờ nữa cổng thành sẽ mở. Nàng gật đầu: “Con sẽ bình an trở về”. Nói đoạn, nhảy lên xe ngựa đi về phía cổng thành phía nam.

Nàng thận trọng đứng chờ trong một con ngõ cách cổng thành phía nam nửa dặm. Giờ Mão ba khắc bắt đầu mở cổng, đó là quy định của Phong thành, không có chiến sự, lính gác sẽ không tra xét người qua lại. A La thay một chiếc áo choàng màu bạc rất nổi bật, thầm nghĩ, như vậy mọi người đều sẽ nhìn rõ.

Bình thường vào giờ Thìn, thất phu nhân đều đến vấn an lão gia và đại phu nhân. Giờ Thìn hôm nay bà phải đến trang điểm cho Thanh Phỉ. Nếu thất phu nhân không đến, gia nhân phát hiện sẽ bẩm báo Lý tướng. Lúc đó mọi người còn mải lo hôn lễ của Thanh Phỉ, phải mở tiệc mời bá quan bằng hữu, tướng phủ sợ sẽ to chuyện, đến khi ông ta quyết định đi tìm cũng sẽ không làm ầm ĩ, cho nên không đáng sợ. Điều duy nhất khiến A La sợ đó là Lưu Giác và Tử Ly. Nhưng Tử Ly do đã cưới Cố tướng thiên kim, sợ bị mang tiếng nên sẽ không truy đuổi. Còn Lưu Giác khi được tin, sớm nhất cũng là giờ Tỵ, trong thời gian này nàng có hai canh giờ để sắp đặt mọi thứ.

A La tính thời gian, nhìn những đồ mang theo trên xe, tự tin cười. Nhìn trời đã rạng, nền trời phía đông đã rạn hình vảy cá, nàng ra roi quất ngựa nhằm hướng cổng thành phía nam.

Lúc đó lính gác đang vừa ngáp vừa mở cổng thành, trước cổng chỉ có lác đác vài nông phu chở rau quả đi qua. Chợt có tiếng vó ngựa dồn dập, một vị công tử khôi ngô vận áo choàng màu trắng bạc đánh một cỗ xe ngựa lao đến, miệng la lớn: “Nhà có người ốm, phải về quê gấp, mau tránh đường!”.

Phong tục của Phong thành, khi có người nhà bệnh nặng thấy khó qua khỏi, đều cố gắng đưa về quê trước khi tắt thở. Lính gác thông cảm nhìn theo chiếc xe ngựa lao qua cổng thành, thầm cảm kích tấm lòng hiếu thuận của vị tiểu công tử kia, cầu mong cho chàng sớm đưa người thân bình an về nhà.

A La đánh xe ngựa ra khỏi cổng thành, giảm tốc độ cho xe đi xuống cầu phao, quay đầu lấy chai dầu hỏa mang theo, tưới lên mép cầu. Vượt qua cầu, lại phóng như bay, men theo đường cái đi tiếp một canh giờ, khi đường đi dốc dần, núi hai bên càng sừng sững hiểm trở, nàng mới đánh xe đi sâu vào trong một khu rừng ven đường. Xuống xe, tháo dây cương, quất roi vào mông ngựa, thả nó đi, con ngựa đau lồng lên, chạy thẳng.

Không kịp nghỉ lấy sức, nàng lấy trong xe một cái bọc nhỏ bằng giấy dầu buộc vào người, hất quần áo và mấy thứ lặt vặt bừa bãi trên xe, dùng chai tiết lợn mang theo vẩy lên đó, vẩy cả trên mặt đất, ngụy trang thành một vụ cướp đường. Không giống cũng không sao, chỉ cần có hiện trường ít nhiều cũng có manh mối để người ta suy đoán tưởng tượng, chỉ cần có thể đánh lạc hướng để kéo dài thời gian. A La thận trọng bọc chai dầu hỏa và chai tiết lợn buộc vào con ngựa còn lại, nhảy lên ngựa phi thục mạng về phía Phong thành. Đoán là cách chỗ vứt xe ngựa chừng khá xa nàng mới đập nát mấy cái chai đó giấu đi, lại nhìn mặt trời, tính thời gian, đoán là khoảng giờ Thìn sáu khắc, nàng liền thúc ngựa phi về phía Phong thành.

Giờ Thìn một khắc, được tin người của Đường viên đã biến mất, Lý tướng tức tối, đem theo gia nhân xông đến Đường viên, khóm hải đường trong sân cành lá đung đưa, thân thẳng tắp, Đường viên vắng lặng không một bóng người. Lý tướng đạp tung cửa phòng thất phu nhân, chăn gối gọn gàng, trong rương quần áo vẫn nguyên vẹn. Lý tướng ngẩn người nhìn gian nhà trống rỗng, miệng lẩm bẩm: “Giỏi lắm, Ngọc Đường! Mi dạy dỗ con gái thế đấy! A La, mày giỏi lắm! Không những cố tình giấu tài, còn dám lén mưu tính thoái hôn! Bọn chúng trốn khỏi phủ thế nào?”.

Gia nhân giật nảy mình bởi tiếng hét của Lý tướng, sợ hãi liếc nhìn đại phu nhân.

Đại phu nhân cất giọng nanh nọc: “Gia nhân lục tìm mới phát hiện, sâu trong rừng trúc sau hậu viên có một đống đá, có thể trèo lên vượt tường ra ngoài! Nhìn đám rêu phong, hẳn chúng đã chuẩn bị từ lâu! Đồ gái thanh lâu mạt hạng, dám học thói hạ tiện trốn ra khỏi phủ”.

Nếu bây giờ ba người kia xuất hiện trước mặt, không chừng Lý tướng sẽ bất chấp lời hứa hôn với phủ An Thanh vương giết chết bọn họ.

Mặt Lý tướng xám đen, ngồi trên ghế, ngực phập phồng, bộ râu rung rung, chứng tỏ ông ta tức giận đến mức nào.

Trong phủ trang hoàng rực rỡ, đèn lồng gấm đỏ chăng khắp nơi, chỗ nào cũng hoa tươi, tất cả đều nói lên hôm nay là ngày đại hỷ, ngày thứ nữ của Lý gia xuất giá. Nhưng không ai tỏ ra vui mừng, Thanh Phỉ sắc mặt nhợt nhạt, không biết liệu Lý tướng có vì quá phẫn nộ mà hủy bỏ hôn lễ hay không. Đại phu nhân dè dặt phá vỡ bầu không khí yên lặng: “Lão gia, mau sai người đuổi theo!”.

“Đuổi theo cái gì!”. Lý tướng đập bàn thét: “Lẽ nào định để dân chúng Phong thành đều biết thất phu nhân và tam tiểu thư của tướng phủ bỏ trốn? Lẽ nào để thiên hạ cười vào mặt bản phủ!”.

“Nhưng, chẳng lẽ để cho bọn chúng tẩu thoát? Chuyện này biết ăn nói thế nào với phủ An Thanh vương?”. Đại phu nhân than thở.

Lục phu nhân nói: “Lão gia, sớm muộn phủ An Thanh vương cũng biết, thiếp nghĩ việc này không thể chậm trễ, nên sớm báo tin cho tiểu vương gia, biết đâu người của vương phủ có thể đuổi bắt về. Nếu chậm trễ, để người đi xa mất, vương phủ e sẽ trách tội!”.

Lý tướng thở dài: “Cũng phải, mau sai người đến vương phủ báo tin! Nói là mới sáng sớm đã phát hiện thất phu nhân và tam tiểu thư bỗng dưng mất tích. A La đã hứa gả cho vương phủ, không tìm được người về, vương phủ cũng thấy mất mặt. Hai phủ hợp lực truy đuổi, bọn chúng chạy được bao xa?”.

Cả nhà nhìn nhau. Tứ phu nhân cười gượng: “Lão gia, vậy hôm nay...”.

Lý tướng dần dần bình tĩnh lại, biết là dù thế nào cũng không thể để lộ cho quan khách biết, danh tiếng của tướng phủ và mặt lão tướng không thể mất: “Hôm nay vẫn mở tiệc như thường, phải làm thật rầm rộ! Thanh Phỉ, con trang điểm cho thật đẹp, con cứ yên tâm làm tân nương. Đợi mấy ngày nữa, lão phu báo quan phủ, nói là thất phu nhân và tam tiểu thư tướng phủ đột nhiên mất tích, trong phòng có dấu vết ẩu đả, nếu giấu không được thì nói thẳng là sẽ treo giải thưởng cao. Kẻ nào lộ ra, đừng trách lão phu nhẫn tâm! Phu nhân, gọi thị vệ đến thư phòng, ta có việc sai bảo”.

Lý tướng lập tức trở về thư phòng, cẩn thận viết liền mười bức thư, đưa cho thị vệ: “Giao tận tay các vị phủ doãn đại nhân, không được sơ suất! Cầm thủ lệnh của ta, lấy ngựa đi mau”. Lý tướng nghĩ, A La chỉ có thể đi về hai hướng tây và nam, nếu đi về tây phải qua bình nguyên, không thể chạy xa. Các phủ doãn nhận lệnh đều là môn sinh thân tín của ông, thư đã nói rõ là treo thưởng cao cho ai bí mật tìm kiếm, như vậy ba kẻ đó có thể chạy đi đâu? Điều ông ta suy nghĩ bây giờ là ăn nói ra sao với phủ An Thanh vương và trừng phạt thế nào khi bắt được bọn họ?

Lưu Giác nhận được tin cấp báo của tướng phủ, chàng giận run người. Thế nào là bỗng dưng mất tích, trong phòng có dấu vết ẩu đả? Nghĩ lại lời nói hành động của A La, chàng khẳng định mười mươi tiểu nha đầu này đã chuẩn bị từ lâu, chắc chắn là bỏ trốn!

Chàng thành tâm thành ý với A La, không ngờ nàng lại âm thầm mưu tính, nhân ngày hôn lễ của nhị tỷ dẫn mẫu thân bỏ trốn, thoái hôn! Hổ thẹn thay cho chàng còn tưởng mình đang ngày càng gần gũi với nàng, càng hiểu nàng, đang làm cho nàng dần dần yêu mình. A La thoái hôn! Nàng không cần chàng! Lòng Lưu Giác đau thắt từng cơn. Phẫn nộ, không đành, thất vọng, đau đớn, muôn nỗi quay cuồng trong đầu. Lúc này chàng vô cùng hối hận, đã rút lại người theo dõi nàng, còn một lòng muốn chiều chuộng nàng, tôn trọng nàng!

Nụ cười tươi hớn hở trước mặt chàng chỉ là đối phó! Ngoan ngoãn dựa vào lòng chàng chỉ là giả tạo! Lưu Giác nhớ lại những lời A La đã hỏi chàng, nếu có ngày nàng phụ chàng thì sẽ thế nào, chàng nghiến răng nghĩ, đợi ta bắt được, nàng khắc biết! Nàng sẽ phải hối hận vì việc làm hôm nay! Hai bàn tay đấm mạnh vào bàn, chiếc bàn rung lên, một góc bàn bị nứt toác.

Lưu Anh nhìn chủ nhân, mặt cũng nghiêm trọng: “Chúa thượng, ba tổ Ô y kỵ sẵn sàng đợi lệnh”.

Lưu Giác sầm mặt nói: “Xích tổ đi về hướng tây, Minh tổ về hướng đông, Huyền tổ theo ta về phía nam. Lưu Anh, ngươi cầm thủ lệnh của ta đến gặp đốc phủ Phong thành, bảo phái lính trấn thủ tất cả ba cổng thành, lục soát kỹ Phong thành cho ta! Cáp tổ(13) truyền báo đến đội quân ngầm ém ở tất cả các thành trì của Ninh quốc bí mật tìm kiếm”.

Cánh cổng lớn của vương phủ mở ra, đội kỵ mã áo đen tức tốc truy đuổi về hướng nam. Lưu Giác đi đến cổng thành phía nam, mặt sa sầm nghe lính gác lắp bắp trình báo, sáng sớm vừa mở cổng thành đã thấy một tiểu công tử dáng vẻ thư sinh đánh xe ngựa ra khỏi thành. Lưu Giác hét: “Đuổi theo!”.

Lúc đó A La vừa đến cầu phao châm lửa. Dầu hỏa rưới trên mặt ván gỗ gặp lửa bùng cháy, lửa gặp gió bốc cao dữ dội, cầu phao trên mặt sông biến thành con rồng lửa khổng lồ.

Từ xa Lưu Giác nhìn thấy bóng dáng A La bên bờ kia, rồi thoáng thấy bóng ngựa đi về phía nam, lòng xúc động, bất chấp ngọn lửa lao xuống cầu phao, chưa được mấy bước đã bị lửa tạt buộc phải quay lại, chàng tức tối đấm vào thành cầu, mối cầu hình đầu sư tử bị đấm nát.

Binh sĩ của Huyền tổ soàn soạt xuống ngựa, tim đập chân run, đây là lần đầu tiên họ thấy chủ nhân của mình ra tay mạnh như vậy, chỉ thấy từng luồng khí từ người chàng bốc ra, gặp không khí như ngưng kết lại. Luồng khí từ cơ thể Lưu Giác bốc mạnh khiến y phục trên người chàng phồng lên, mặt chàng xám ngắt đáng sợ.

Các binh sĩ quỳ sụp trước mặt Lưu Giác: “Tiểu vương gia, biết Lý tiểu thư đi về hướng nam, chắc chắc không thể chạy thoát, ta ngăn cản dọc đường cũng thế”.

Lưu Giác chỉ thấy lòng đau thắt, bức bối, ngón tay run run, phẫn nộ cực điểm nhưng cổ họng lại phát ra tiếng cười. Binh sĩ nhìn nhau, thầm nghĩ, tam tiểu thư kia phen này xong rồi.

Chàng ngồi trên mình ngựa nhìn sang bờ bên kia, đáy mắt đã ngưng thành lớp băng lạnh, miệng lẩm bẩm: “A La, tốt nhất đừng để bị ta tóm được!”.

Tiếp đó chàng quay người nói nhỏ: “Lập tức điều thuyền, dựng lại cầu phao!”.

Trước cổng thành phía nam, người dồn lại đông nghẹt, tất cả ngơ ngác nhìn con rồng lửa trên mặt sông.

A La nhân lúc khói bụi mịt mù che lấp, lẳng lặng xuống nước, để lợi dụng lúc mọi người bận dập lửa, bắc lại cầu, tiến gần cầu phao, nàng ngậm một ống trúc dài để thở, từ từ bơi đến đoàn thuyền neo đậu phía bờ bên kia. A La mừng là mình bơi giỏi, có thể lặn dưới nước lặng lẽ chờ thuyền trong phường bơi ra. Sau khi chiếc thuyền đầu tiên chèo ra, nàng lặn dưới đáy thuyền bơi theo hướng ngược lại về phía đoàn thuyền. Khi chiếc thuyền thứ mười chèo ra, nàng đã vào bên trong đoàn thuyền, từ chỗ hở trên mặt nước giữa các thuyền neo đậu, nhô đầu ra.

Quả nhiên, người ta đã nhanh chóng lắp xong cầu mới. A La lập tức vọt lên mặt nước, cởi cái bọc bằng vải dầu trên lưng xuống, lấy quần áo mặc vào, vò rối mái tóc, bôi đen tay và mặt cho giống kẻ ăn mày, sau đó đường hoàng đi qua đoàn thuyền, lặng lẽ lọt vào trong thành.

Khi đội Ô y kỵ rầm rập xuất quân cũng là lúc Tử Ly nhận được tin báo. Tỳ nữ Tư Thi nhân lúc trong phủ rỗi việc đã đích thân chạy đến báo với chàng. Tử Ly mỉm cười, chàng cũng không tin có ai đó bí mật lẻn vào tướng phủ bắt ba người đi.

A La đâu có ngoan ngoãn bị gả đi như vậy, quả nhiên nàng có suy tính và dự định. Lúc này dường như Tử Ly mới hiểu ra, tại sao A La thích bạc như vậy. Chàng từ từ mở bức họa trong tay, nhìn đôi mắt đó, nhếch môi cười: “Tư Thi, ngươi làm rất tốt, bản vương không biết đôi mắt của vương phi lại không như thế này”.

Tư Thi quỳ phục trước chàng: “Tư Thi chỉ không hiểu vì sao tiểu vương gia phải vẽ bức khác, cho là bức cũ có ẩn ý, cho nên trong lúc mang đồ vào phủ mới bí mật đánh tráo bức họa”.

Tử Ly nói: “Chắc là tiểu vương gia lưu luyến đôi mắt này. Bức mới đâu?”.

“Nô tỳ thấy tiểu vương gia vẽ rất giống vương phi, nên nghĩ là chẳng có ích gì. Trong lúc mang đồ không tiện nên đã đốt rồi”.

“Ngươi làm rất tốt, bản vương nên hậu thưởng cho ngươi mới được”.

“Tư Thi không cầu ban thưởng, chỉ muốn được ở bên vương gia”.

“Ồ, ngươi vì ta thật lòng tình nguyện ở lại?”.

“Phải, dẫu có phải chết vì vương gia nô tì cũng cam lòng”.

Tử Ly ngoái đầu nhìn Tư Thi, quả đúng là thiếu nữ xinh đẹp trẻ trung. Chàng thở dài, nhẹ nhàng vung tay xỉa lên ngực nàng, cắt đứt huyết mạch tim. Tư Thi kinh hoàng gục xuống, môi còn mấp máy run run, như đang hỏi tại sao.

Tử Ly nói khẽ: “Ngươi tự cho là thông minh, đánh tráo bức tranh, nhưng lại không cho ta biết, đó là thứ nhất. Vô tình cảnh báo Lưu Giác ta đã bố trí tai mắt trong phủ của y, ngươi đã để lộ ý đồ của bản vương, đó là thứ hai”.

Mắt Tử Ly lộ vẻ đau đớn: “Ngươi mang bức cũ đến, lại khiến bản vương ngày đêm đau đớn phát điên, đó là thứ ba. Ngươi đi đi, ta sẽ hậu táng cho ngươi”.

Tử Ly giơ tay vuốt mắt cho nàng ta. Chàng ngơ ngẩn nhìn bức họa một lát, cuộn lại cất đi, rồi sai gia nhân: “An táng tử tế, mật báo cho cánh quân ngầm các nơi, nhất định phải tìm được tam tiểu thư trước Lưu Giác. Cẩn thận, không được làm nàng ấy bị thương”.

A La lén trở về nhà, lấy sáo thổi ám hiệu. Tiểu Ngọc vội vàng mở cửa, nàng mệt mỏi rã rời, mặt mũi nhem nhuốc, nhưng miệng cười tươi roi rói: “Xong rồi, thành công rồi, yên trí trốn ở đây, qua nửa năm sẽ dễ đi hơn”.

Ánh mặt trời gay gắt như loãng ra khi có luồng gió sông thổi đến, mồ hôi vừa vã trên người đám thủy binh lập tức bị gió thổi khô. Có binh sĩ vừa làm việc vừa tranh thủ liếc về phía mấy ngôi lều mới dựng vội bên cạnh cổng thành, lại bắt gặp đôi mắt lạnh như băng. Bất giác rùng mình, người nổi da gà. Phía trên một giọng cũng khẽ như thế hỏi: “Thế nào?”, binh sĩ cúi đầu khóa những sợi dây xích với nhau, nói nhỏ: “Làm đi! Tiểu vương gia của phủ An Thanh vương, hôm nay xem chừng muốn giết người”.

Khi dập tắt đám cháy, dựng xong cầu phao đã gần tới giờ Mùi, phía bờ kia vẫn còn hai chiếc thuyền chưa ghép hết, Lưu Giác đứng bật dậy, không nói không rằng, ra khỏi lều nhảy lên ngựa. Hai tổ khác của Ô y kỵ đã trở về phủ, Huyền tổ luôn ở bên Lưu Giác, thấy chủ nhân hành động đều nhất loạt nhảy lên ngựa đi theo. Lưu Giác một mình một ngựa dẫn đầu đi về phía bờ bên kia.

Qua cầu phao, chỉ có duy nhất một đường cái thông đến các trấn phía nam. Cách Phong thành gần nhất là trấn Thuận Hà, tiếp theo là Cốc thành. Ô y kỵ đi sát sau Lưu Giác, trên con đường cái buổi chiều vắng tanh chỉ nghe thấy tiếng võ ngựa nện gấp trên mặt đường. Vừa gặp con đường nhỏ, Ô y kỵ cử một người rẽ vào tìm kiếm.

Trên đường cái cách thành mười dặm có một quán trà, chủ quán là một cặp vợ chồng già tóc bạc trắng, nắng chiếu xiên, ông lão ngủ gật trên ghế. Đột nhiên nghe tiếng tiếng vó ngựa dồn dập, ông lão mở choàng mắt, một toán kỵ sĩ mình vận áo giáp mềm màu xanh sẫm, bịt mặt lao qua như cơn lốc, tiếng động vọng lại ầm ầm như sấm. Ông lão sợ hãi, người mềm nhũn, từ trên ghế trượt xuống đất. Phủi bụi trên người, ông chầm chậm đứng dậy, ngoảnh đầu lại loạng choạng quỳ sụp xuống. Một kỵ sĩ bịt mặt cố nén giọng nhẹ nhàng hỏi: “Ông lão, có nhìn thấy một tiểu công tử khôi ngô đánh xe ngựa qua đây không?”.

Ông lão há mồm, nhưng không nói ra được. Kỵ sĩ có vẻ sốt ruột, giọng nói đã có phần lạnh lùng hơn lúc trước: “Lúc sáng sớm, có một công tử khôi ngô đánh xe ngựa đi qua, lão có nhìn thấy không?”.

Ông lão lúc đó mới hoàn hồn, miệng lắp bắp: “Quán của tiểu... tiểu nhân giờ Thìn mới mở, không... không nhìn thấy”.

Kỵ sĩ không hỏi thêm, ném lại chuỗi tiền, vung roi, phi ngựa về hướng trấn Thuận Hà. Khi kỵ sĩ đã đi rất xa, ông lão mới run run hai tay nhặt những đồng tiền vung vãi trên mặt đất, thầm kêu lên: “Ôi chao! Hào phóng quá!”.

Lưu Giác phi thẳng một mạch đến cổng trấn Thuận Hà. Trấn này không lớn, chỉ có hai con đường. Chàng giơ tay ra hiệu, Ô y kỵ tản ra, chia nhau đi vào trong trấn, Lưu Giác cưỡi ngựa đứng ở cổng trấn, lia mắt quan sát xung quanh. Không lâu sau, Huyền tổ bẩm báo: “Người trong trấn không ai nhìn thấy tam tiểu thư, cũng không thấy cỗ xe ngựa nào đi qua”.

Con tuấn mã dường như cảm nhận được sự nóng ruột của chủ, liên tục giậm móng xuống mặt đường một cách bất an. Lưu Giác tính thời gian, có lẽ A La đã đến trấn Thuận Hà từ sáng sớm. Trấn này kẹp giữa hai ngọn núi cao, một con đường cái từ trấn thượng xuyên qua, không còn đường nào có thể đi vòng, ít có khả năng A La đưa mọi người vượt núi. Nếu bọn họ đi về phía nam, nhất định phải qua trấn Thuận Hà. Nhưng, bây giờ họ đi đâu? Đột nhiên phía sau chàng vang lên một tiếng nổ đanh gọn, trên bầu trời xuất hiện một đám khói màu xanh, tím đang dần tản ra. Đó là tín hiệu báo tin của các toán lính tìm kiếm. Mắt Lưu Giác lóe sáng, quay ngựa lao về phía đó.

Tiến vào khu rừng rậm, chàng nhìn thấy ngay cỗ xe ngựa. Các binh sĩ Huyền tổ quỳ sụp định bẩm báo, Lưu Giác đã đi xuyên qua bọn họ đi đến bên cỗ xe. Trong xe có mấy bộ quần áo vứt lung tung, chàng tiện tay cầm lên một chiếc, bỗng thấy có vết máu, lại nhìn xuống đất, trên đám cỏ cũng có vết máu. Chàng giật mình, đồng tử trong mắt co lại, cảm thấy có bàn tay nào đó lén bóp chặt trái tim. Mặt trắng bệch, người toát mồ hôi lạnh, y phục dính vào cơ thể.

Kỵ sĩ đầu tiên phát hiện ra cỗ xe nói: “Thật là thủ pháp cao minh, xung quanh không hề có dấu tích, tựa hồ người và ngựa biến mất từ chỗ này”.

“Quanh đây có thấy kẻ nào hành tung bất thường không?”.

“Trong ngọn núi to phía tây Thuận Hà có một ổ sơn tặc, nhưng rất ít khi cướp xe ngựa thông thường, thương nhân qua lại chỉ cần cho ít bạc, bọn họ tuyệt đối không làm hại ai”. Lưu Giác cười gằn: “Ngay gần Phong thành như vậy mà lại có bọn sơn tặc quấy nhiễu? Chuyện này không thể được!”. Chàng linh cảm thấy toán cướp này không đơn giản.

“Đám sơn tặc này rất lạ lùng, hình như có dây dưa với thái tử, cánh quân ngầm trong trấn của Cáp tổ báo tin, chúng thỉnh thoảng mới xuống núi cướp bóc, hầu như chỉ ẩn náu trong núi. Mà những đồ cướp được hoàn toàn không đủ nuôi một toán binh mã đông như vậy, có vẻ như cướp bóc chỉ là để ngụy trang”.

Lưu Giác nhìn ra hai hướng đông tây xa xa của trấn Thuận Hà, bụng nghĩ, trấn Thuận Hà này là cửa ngõ vào Phong thành, nếu chặn đứng con đường yết hầu này, có nghĩa là bóp nghẽn huyết mạch của Phong thành và các thành trì phía nam. Nếu thái tử bố trí điểm chốt này, thật là một nước cờ hay, “Toán sơn tặc này xuất hiện từ bao giờ?”.

“Sau tiết Trung thu năm ngoái”.

Sau tiết trung thu, có nghĩa là vào lúc thái tử kết thân với Vương gia. Nghe đồn thái tử phi mưu lược hơn người, lẽ nào nước cờ này là do Vương Yến Hồi sắp đặt? Chàng càng nghĩ càng kinh sợ, đột nhiên nhớ lại tiếng đàn của A La trong buổi đại yến ở Đông cung. Lẽ nào thái tử đã sớm bố trí tai mắt trong tướng phủ, bắt cóc A La? Lòng chàng như lửa đốt. Nếu phá sơn trại có nghĩa là gián tiếp giúp Tử Ly một việc lớn, đồng thời cũng phá vỡ bố trí của Đông cung, nếu không ra tay, sao chàng có thể yên tâm? Ánh mắt của Lưu Giác càng kiên định, môi hơi nhếch, nụ cười hiện ra, bọn chúng đã xưng là sơn tặc, thì ta sẽ coi bọn chúng là sơn tặc để xử lý. Nếu là ván cờ của Tử Ly, hôm nay ta cũng vẫn phá. “Trước giờ Tý tối nay, ta muốn sơn trại biến mất. Trừ hại cho dân, chia sẻ nỗi lo với vương thượng là bổn phận của thần tử chúng ta”.

“Chúa thượng yên tâm!”.

Đám mây dần dần che lấp vầng trăng, trên ngọn núi to có những bóng đen lố nhố. Dựa vào tin của Cáp tổ thu thập, Huyền tổ đã vạch xong phương án tấn công. Vào giờ Dậu, họ im lìm như những đám mây lặng lẽ lẻn vào bao vây sơn trại.

Lưu Giác quan sát kỹ sơn trại, quả như Cáp tổ báo cáo, hoàn toàn không giống sơn trại bình thường, mà giống một quân doanh nhỏ. Chàng cười khẩy, đây có lẽ là kế hoạch của một người thông thạo binh thư, hiểu rõ cách bài binh bố trận. Đợi đến giờ Hợi, những tiếng hú vang lên giống như tiếng cú trong đêm, tất cả bắt đầu hành động.

Những bóng đen từ trong bóng tối vọt ra, Lưu Giác dẫn đầu đội quân vọt vào trước, binh sĩ Huyền tổ chia nhau vào theo. Bên trong mặc dù có bố trí thế trận, nhưng gặp phải Ô y kỵ thông thạo binh pháp, cả đội đột nhập dễ dàng. Lưu Giác lặng lẽ áp sát đại sảnh, khi chàng thản nhiên bước vào, đám người bên trong thất kinh đến mức làm rơi bát rượu trong tay.

Tên thủ lĩnh kinh hoàng đưa tay dụi mắt nhưng chỉ thấy Lưu Giác cười, nói: “Ta không phải là ma quỷ, ngươi xem, có bóng đây này”.

Lúc đó hắn mới định thần: “Ngươi là ai, lọt vào trại thế nào?”.

“Chuyện đó ngươi không cần biết, ta chỉ hỏi một câu, hôm nay có phải các ngươi đã cướp một cỗ xe ngựa?” .

“Cướp thì sao? Không cướp thì sao?”.

Lưu Giác đứng tại chỗ vung lưỡi kiếm lên như múa, lóe lên những ánh bạc dịu dàng như ánh trăng, chạm vào cơ thể đám lính trong nhà. Mọi người chỉ cảm thấy một luồng khí lạnh ập đến, trong vòm nhà những bông hoa tuyết lạnh lùng, lặng lẽ bay như mưa. Đến khi hoa tuyết chuyển thành màu đỏ, những tấm thân đổ gục, đầu vẫn đang nghĩ, vị Tu La(14) giữa đêm đen mang nụ cười này là ai?

Khi giọt máu cuối cùng từ từ chảy xuống mũi kiếm, đông đặc lại, Lưu Giác cười hỏi: “Trả lời ta!”.

Thủ lĩnh đột nhiên thét lên như xé giọng: “Không! Không có! Chúng ta chỉ phụng mệnh lập trại, không làm hại tính mệnh con người”.

Ô y kỵ âm thầm lọt vào như những con cá, đếm xong các thi thể báo cáo: “Tất cả có một trăm bảy mươi ba tên, chết một trăm bảy mươi hai tên. Không tìm thấy ba người bọn họ”. Tên thủ lĩnh thét lên: “Ô y kỵ các ngươi là Ô y kỵ của An Thanh vương! Tiểu vương gia, ngươi là Lưu Giác! Ngươi, ngươi đã giết sạch tinh binh của thái úy phủ, giết sạch rồi, ngươi, ngươi định làm phản sao?”.

Lưu Giác cười ha hả đến đau cả bụng: “Tiểu vương truy quét sơn tặc sao lại nói là làm phản? Ha ha!”. Lưỡi kiếm vung lên, chiếc đầu đang kêu đứt phăng, chàng thôi cười ra lệnh: “Thu dọn xong, phóng hỏa, đốt!”.

Quay người ra khỏi phòng lớn, Lưu Giác nhắm mắt, nỗi đau trong lòng không hề giảm nhẹ do trận huyết chiến vừa rồi. Chàng mở mắt, ánh nhìn thâm u như bóng đêm, A La chạy đi đâu? Hay là theo con đường nhỏ đi về phía nam?

“Truyền lệnh, bắt đầu từ trấn Thuận Hà phía nam, vẽ chân dung dán cáo thị, lục soát chặt chẽ, thông báo các châu huyện, nói có người bắt cóc tiểu vương phi của phủ An Thanh vương. Người báo tin được thưởng hai ngàn lạng bạc, cứu được tiểu vương phi thưởng một vạn lạng vàng”. Sáng sớm bầu trời trong xanh, quang đãng. Buổi chầu sớm trong vương cung, Ninh vương mặt gầy gò, đỏ gay do phẫn nộ: “Kẻ nào dám to gan như thế, dám đốt cầu phao?”. Lý tướng bước ra quỳ phục xuống đất, nước mắt như mưa: “Vương thượng! Không biết kẻ nào đêm qua đã lẻn vào phủ bắt đi thê tử của thần, phủ An Thanh vương được tin tuy đuổi đến cửa thành phía nam, tặc tử lại đốt cầu phao. Lão phu làm quan nhiều năm, tu nhân tích đức, sao lại gây nên đại họa này!”. Lý tướng làm quan nhiều năm, nhưng cư xử ôn hòa, lễ độ, ngoài việc có người sau lưng gọi ông là cáo già, dĩ hòa vi quý, trong triều ông vẫn được tiếng nhân đức. Nay Lý tướng sầu thảm rơi lệ trước điện rồng, văn võ bá quan ai nấy đều thương cảm, xuýt xoa.

Lưu Giác đứng ra, vén áo choàng quỳ xuống: “Vương thượng, tam tiểu thư của Lý tướng đã hứa gả cho hạ thần. Đêm qua thần lục soát ở ngọn núi lớn phía tây trấn Thuận Hà, phát hiện một toán sơn tặc ẩn náu, cách Phong thành chưa đầy mấy chục dặm mà sơn tặc dám ngang nhiên lập trại. Thần đã đốt sơn trại, nhưng nghe tặc tử nói thất phu nhân và tam tiểu thư bị áp giải về phía nam, xin vương thượng định liệu!”.

Mắt Ninh vương lóe sáng, nụ cười nở trên khóe môi: “Tốt, khanh làm rất tốt! Doãn Chi, bọn sơn tặc này sao có thể dung thứ, để chúng ngang nhiên trước mắt hoàng thành. Quả nhân phong khanh là Bình Nam tướng quân, truy soát các trấn phía nam, vùng phía nam núi nhiều đường sá hiểm trở, gặp sơn tặc quả nhân cho phép khanh tiền trảm hậu tấu! Lý ái khanh chớ phiền lòng, Bình Nam vương nam tiến chuyến này, tất sẽ mang ái nữ bình an trở về”.

Ninh vương nói liền một tràng xong thì hơi thở dốc. Ánh mắt lướt đến Cố tướng và Tử Ly, thấy hai người tỏ vẻ quan tâm, khẽ gật đầu. Dừng một lát, Ninh vương tiếp: “Vương thái úy, Bình Nam tướng quân nam tiến chuyến này, khanh trao cho tướng quân hổ phù lục quân của cánh quân phía nam, từ nay Nam quân sẽ do Bình Nam tướng quân chỉ huy”.

Vương thái úy sững người, lòng còn đang xót xa tiếc đội tinh binh cắm trên núi trá hình sơn tặc bỗng dưng bị giết sạch, giờ Ninh vương lại thẳng thừng tước mất quyền thống lĩnh Nam quân. Nhưng giữa triều, trước bá quan, ông ta sao dám kháng chỉ, đành trình bẩm: “Năm ngoái có tin mật báo nói, Trần quốc ngu xuẩn muốn dấy binh, nay tướng quân Thiên Tường trưởng nam của Cố tướng đang thống lãnh thủy quân Nam quân, tướng quân Vương Liệt thuộc hạ của thần đang cùng Thiên Tường tướng quân vạch định kế sách toàn cục, lúc này thay đổi thống lãnh, sẽ bất lợi cho chiến sự, xin vương thượng xem xét”.

Ninh vương cười ngất: “Ta vẫn nhớ Doãn Chi và Thiên Tường từ nhỏ lớn lên bên nhau, là bằng hữu thân thiết, hai người hợp tác tất không có kẽ hở. Thái úy không cần lo lắng, cứ định như vậy đi. Doãn Chi, ngày mai ngươi khởi hành, lập tức liên hệ với Vương tướng quân. Giám sát chặt chẽ động tĩnh của Trần quốc, đừng quên nhân tiện loại bỏ bọn khấu tặc to gan làm càn”.

Lưu Giác không giấu nổi vui mừng, lớn tiếng đáp: “Thần tuân chỉ, vương thượng anh minh!”.

Ánh mắt của Tử Ly và Cố tướng gặp nhau, cùng lóe cười.

Thái tử mím môi, mặt không biểu cảm.

Sau khi thoái triều, thái tử trở về Đông cung, ngao ngán thở dài: “Phụ hoàng đã bắt đầu bố trí”.

Vương Yến Hồi đang thong thả đọc cuốn sách trong tay, liếc nhìn thái tử: “Binh lực của Ninh quốc, Hữu quân nằm trong tay An Thanh vương, Tả quân lấy Nam quân làm chủ lực. Hôm nay, nửa binh lực đã thuộc về phủ An Thanh vương, nếu cha con Lưu Giác muốn ngôi báu này, e là dễ nhất. An Thanh vương tuổi đã cao, chàng chỉ cần phái Ly Thân vương đến Biên thành phía nam thay thế ông ta, phụ hoàng nhất định chuẩn y”.

“Nhưng nếu vậy chẳng phải đem Hữu quân trao vào tay Tử Ly hay sao?”.

“Binh pháp hiểm chiêu, dùng binh quyền buộc y rời hoàng thành. Chàng là thái tử danh chính ngôn thuận, sau khi phụ hoàng băng hà, thuận theo lẽ chàng sẽ đăng cơ. An Thanh vương bao năm lao tâm khổ tứ thống lãnh Hữu quân. Lúc này để ông ta nghỉ tại gia an hưởng tuổi già, ông ta cũng đâu dễ trao Hữu quân cho Ly Thân vương. Cho dù sau này Ly Thân vương không phục, khởi binh cần vương, cũng còn phải xem ý tứ của An Thanh vương, An Thanh vương cơ mưu vô cùng, sớm đi Biên thành, thái độ mềm mỏng không rõ ràng, Long lệnh trong tay ông ta, ngay phụ hoàng cũng phải kính nể vài phần, không dễ đối phó. Hơn nữa, Cố Thiên Tường cũng chỉ là chỉ huy thủy quân của Nam quân. Nam quân đa phần là người của cha thiếp, Bình Nam tướng quân e cũng không dễ thu phục. Huống hồ, trong tay cha thiếp còn có Đông quân, tuy không bằng Nam quân, nhưng đều là quân tinh nhuệ thực sự. Mà Bắc quân lại ẩn náu trong rừng rậm Hắc sơn, điều này e là ngay cả phụ hoàng cũng không biết”.

Thái tử vừa mừng vừa kinh ngạc: “Ái phi quả nhiên là diệu kế. Ninh quốc có Bắc quân từ khi nào?”.

Vương Yến Hồi cười: “Đó là thân binh của thiếp. Từ nhỏ thiếp đã thích quân sự, cho nên hàng năm xin cha thiếp cấp cho những tinh binh lặt vặt trong quân làm đội quân riêng, lập trại trong rừng rậm Hắc sơn. Bắc quân có hai vạn binh mã, dưới sự điều khiển của thiếp, có thể một địch mười”.

Vương Yến Hồi nghiêm trang nhìn thái tử: “Nghĩa phu thê, hôm nay thiếp nói thật với chàng, từ nay phúc họa cùng chịu, điện hạ chớ phụ lòng Yến Hồi”.

Thái tử thở phào, bao nhiêu phiền não tiêu tan. Đột nhiên hỏi: “Ái phi có thích Lôi Nhi không?”.

Vương Yến Hồi cười thản nhiên: “Tả tướng thiên kim, thiếp đâu dám không thích. Thiếp chẳng qua không thích Lôi Nhi chơi đàn. Nhưng, thiếp rất thích tiểu muội Thanh La, nếu A La là tiểu muội của thiếp thì tốt, nhìn nàng ấy là thiếp thấy vui lòng. Rất muốn sớm tác thành A La với Bình Nam tướng quân, thiếp có thêm tiểu muội, điện hạ cũng có thêm đồng minh”. A La hoàn toàn không biết triều đình đã có những thay đổi lớn như vậy. Bây giờ nàng là con ốc sên chui trong vỏ, sống thoải mái ung dung trong nhà cùng với thất phu nhân và Tiểu Ngọc. Đồ ăn, đồ dùng trong vòng nửa năm đã chuẩn bị đầy đủ, không cần phải ra khỏi cửa.

Những ngày đầu còn có lính đến gõ cửa, Tiểu Ngọc ra mở, tóc vấn cao kiểu phụ nữ có chồng, váy áo bằng vải thô màu thẫm, mặt vẽ nếp nhăn, già hơn đến chục tuổi. Lính tuần không hỏi nhiều, chỉ giở bức chân dung đối chiếu rồi bỏ đi. A La kéo thất phu nhân vào cửa ngách bí mật đi sang ngôi nhà lớn bên kia, nấp sau hòn giả sơn, đợi lính đi khỏi mới dò dẫm đi ra. Căn nhà lớn chỉ giữ lại bốn người hầu và một quản gia, từ trước A La đã nghiêm cấm những người này không được vào hậu viên. Ngôi nhà lớn không có chủ nhân, hậu viên cũng không ai quét dọn, cửa ngách ngụy trang khéo léo, rất khó nhận ra. Họ đã qua được đợt lục soát ban đầu, về sau cũng không ai đến quấy rầy nữa.

Vậy là A La làm quân bài giấy dạy thất phu nhân và Tiểu Ngọc đánh bài, hàng ngày ăn cơm xong là chơi bài, chơi xong lại ăn, ngủ dậy lại tiếp tục, ba người cứ thế sống rất thoải mái. Chơi chán thì đọc sách. A La thích đọc sách nói về phong tục tập quán các nước, cuốn dư địa chí của Ninh quốc nàng đọc đến nhàu nát. Có lúc thở dài, hồi học đại học chưa bao giờ nàng chăm chỉ như vậy.

Mỗi buổi tối không có việc gì thất phu nhân chong đèn dạy nàng thêu thùa, A La bắt đầu kể chuyện, cổ kim đông tây, phim, tiểu thuyết kịch, truyện cười, chỉ cần còn nhớ, nàng đều kể hết. Thất phu nhân và Tiểu Ngọc say sưa lắng nghe, thường hỏi nàng biết những chuyện đó từ đâu, A La nghĩ đến thế giới hiện đại của mình. Lúc này nàng chẳng có gì cần giữ gìn đối với thất phu nhân và Tiểu Ngọc, nàng hoa chân múa tay thao thao bất tuyệt, hai người tròn mắt nghe, tưởng là đang nghe kể chuyện thần thoại.

Khi ngồi một mình trong sân, A La bất giác nghĩ đến Lưu Giác, không kìm nổi thở dài, không biết chàng ta tức đến thế nào. Nghĩ đến những hồi ức thú vị mỗi khi ở bên chàng ta, lại bật cười. Nàng cũng nghĩ tới Tử Ly, cảm thấy bây giờ ở trong cung có lẽ chàng đang bắt đầu cuộc đấu lâu dài với thái tử. Nhớ đến hai người đó, lòng không khỏi bâng khuâng. Cả hai đều tài mạo xuất chúng, nếu kết hợp làm một, lại không phải là hoàng thân quốc thích, nàng có lẽ cũng thật sự động lòng. Bây giờ, nàng chỉ nghĩ đến cuộc sống tự do sau này, cuộc sống tự mình làm chủ, nên tạm để hai người sang một bên.

Cứ như vậy, năm tháng bình yên trôi qua. A La nói với thất phu nhân và Tiểu Ngọc: “Chúng ta đang ngồi trong nhà ngục do chúng ta dựng nên”.

Thất phu nhân và Tiểu Ngọc không biết có phải do sống âm thầm trong hậu thất tướng phủ đã quen nên không hề thấy buồn chán. Cuối cùng A La nôn nóng không yên, quyết định đi ra ngoài nghe ngóng.

Hôm đó nàng vẫn giả trai, nhưng mặt bôi đen hơn, sải từng bước dài đường hoàng bước vào nhà lớn. Lão quản gia ngây người, vui mừng reo lên: “Thiếu gia đã về”.

Mấy gia nhân lật đật chạy lại, dán mắt nhìn nàng với vẻ vừa lạ lẫm vừa phấn khởi. Nàng thầm nghĩ, thế giới ở đây người dân là tốt nhất, rất thật thà, không so đo tính toán. Nàng cười nói: “Chú Phúc, ta từ miền tây bán xong chuyến hàng trở về. Lâu lắm không đến, chú vất vả rồi”.

Chú Phúc phấn khởi, cười rung râu: “Thiếu gia nói gì vậy. Thiếu gia đi vắng, để cho lão nhiều ngân lượng như vậy, lại còn cho tôi đón cả gia quyến đến chung sống. Chủ nhà như vậy tìm đâu ra”.

A La vừa nói vừa cùng chú Phúc đi vào phòng lớn, khắp nơi gọn gàng sạch sẽ, xem ra ngày nào cũng quét dọn tươm tất, A La rất cảm động. Chú Phúc và người nhà vẫn rất chỉn chu, không vì chủ vắng nhà mà lơ là công việc. A La ngồi vào ghế bành, lập tức có gia nhân mang trà, thái độ cung kính. A La chợt nói: “Ta quên tên các ngươi rồi”.

Cậu bé xấu hổ nói: “Tiểu nhân là Trình Vĩnh, thiếu gia quên rồi sao?”.

Hồi đó A La mua bốn đứa trẻ ở chợ người, chúng đều không cửa không nhà, bị bắt đem bán. Nàng đặt tên cho bốn đứa là “Nhất Lao Vĩnh Dật”(15) đứa nhỏ này tuổi đứng thứ ba tên là Trình Vĩnh, nhìn dán mắt vào nàng. Chú Phúc vỗ đầu nó: “Hư nào, sao lại nhìn thiếu gia chằm chằm như vậy, đi làm đi!”.

A La ngăn chú Phúc, cười: “Nó cũng ít hơn ta hai tuổi, ta mới mười bốn tuổi rưỡi”.

Chú Phúc cười híp mắt nhìn A La: “Thiếu gia có ở lại dùng bữa trưa không?”.

“Được, lâu rồi không đến, hôm nay ở lại đây ăn cơm”. A La muốn nghe chú Phúc và gia nhân kể chuyện Phong thành.

Lúc sau, vợ chú Phúc vào bếp làm một mâm cơm thịnh soạn. Chú Phúc tươi cười nhìn A La ăn rất ngon miệng. Nàng vừa ăn vừa hỏi chú Phúc: “Gần đây Phong thành có chuyện lớn gì không?”.

“Nghe nói An Thanh vương từ Biên thành trở về. Chúa thượng hạ chiếu cho ngài về nhà hưởng hậu phúc, lệnh cho Ly Thân vương đi Biên thành thay thế”.

A La gật đầu, cuối cùng Tử Ly đã nắm binh quyền. Nàng làm bộ vô tình hỏi: “Nghe đồn tam tiểu thư của Lý tướng đã hứa gả cho phủ An Thanh vương bị người ta bắt cóc, đã tìm được chưa?”.

“Ôi dào, thiếu gia, cậu không biết chứ, dạo ấy Phong thành căng thẳng lắm. Người ra vào chỉ cần là con gái hoặc tiểu công tử đều bị tra xét, chân dung, cáo thị dán khắp nơi, treo thưởng một vạn lạng vàng cho ai tìm được. Nghe nói bao nhiêu người dẫn con gái đến tướng phủ nói đó là tam tiểu thư, tất cả đều bị đuổi ra. Nghe nói tiểu vương gia của vương phủ trong cơn thịnh nộ đã lục soát hơn ba trăm ngọn núi dọc con đường cái đi về phía nam, quét sạch mấy chục toán sơn tặc lớn nhỏ”.

“Ô, xem ra tiểu vương gia này rất nặng tình với tam tiểu thư tướng phủ”. A La nghe vậy không nén nổi cảm động. Quan tâm đến nàng như vậy, trên đời được mấy người?

Ở đây chú Phúc đúng là trung tâm chuyện phiếm, những chuyện trà dư tửu hậu nghe được rất nhiều, càng nói càng hào hứng: “Nghe đồn, An Thanh vương gia cũng là người trọng tình, ngài chỉ lấy một vương phi. Tiểu vương gia này thề rằng chừng nào chưa tìm thấy tam tiểu thư, chàng quyết không lấy vợ, sống phải thấy người, chết phải thấy xác! Nghe đâu bây giờ công tử ấy đã được phong Bình Nam tướng quân, chính là bình dẹp khấu tặc phương nam, báo thù cho tam tiểu thư!”.

A La cười khanh khách, thầm nghĩ, e là vì một lý do khác, chàng ta mới làm Bình Nam tướng quân, vậy mà còn viện ra cái cớ mùi mẫn như thế. Nếu mình xuất hiện trước mặt, chưa biết chừng chàng ta xẻ thịt lột da mình cũng chưa hả hết giận. Nàng hỏi chú Phúc: “Vậy bây giờ người ta còn tìm tam tiểu thư nữa không?”.

Chú Phúc lắc đầu: “Đã nửa năm rồi, chắc chắn không cứu được rồi. Lý tướng truyền thống thư hương, tam tiểu thư rơi vào tay bọn khấu tặc, không bị giết chắc cũng tự tận”. A La động lòng. Ăn xong nói với chú Phúc: “Ta đi loanh quanh trong thành, chú bảo Trình Vĩnh đi với ta”.

Thuê một cỗ xe ngựa, A La cùng Trình Vĩnh ra khỏi nhà, đi thẳng đến cổng thành phía nam. Khi qua cổng thành, nàng vén rèm nhìn ra, thấy người qua lại bình thường, lính tuần đứng phân tán, không tra hỏi ai. Nàng bụm môi cười, lòng nở hoa, bảo Trình Vĩnh, “Ta rất tò mò đối với tam tiểu thư Lý phủ, ngươi chạy đi nhìn xem còn có bức hình nào của cô nương ấy không, để ta ngắm một chút”.

Trình Vĩnh cười: “Không còn từ lâu rồi. Nắng mưa đã làm hỏng hết, chẳng có tin tức gì, cũng không thay cái mới. Chắc tại người đến quấy rầy tướng phủ quá nhiều, làm họ chán nản”.

Trở về nhà, A La đưa cho chú Phúc một tờ ngân phiếu, nói: “Chú Phúc à, lần này ta đi phía nam một chuyến, có lẽ sẽ rất lâu, chỗ này biếu chú để chú chi tiêu trong nhà”.

Chú Phúc liếc nhìn: “Thiếu gia, đây là năm ngàn lượng. Đâu có cần nhiều như vậy”.

A La thở dài: “Chú Phúc à, chú cũng có tuổi rồi, nói thật với chú, ta đi chuyến này có lẽ sẽ không quay lại. Nếu hai năm sau không thấy ta quay về, chú cứ bán ngôi nhà đi, ngân lượng coi như ta biếu chú an dưỡng tuổi già”.

Chú Phúc đỏ mắt: “Thiếu gia, cậu tốt quá. Vợ chồng lão không con cái, ở đây cũng chẳng làm được gì cho cậu. Ngôi nhà lão giữ lại, sau này cậu trở về Phong thành thì còn có chỗ dừng chân. Chỗ ngân lượng này lão chi tiêu tằn tiện là đủ rồi. Chỉ hiềm nỗi, A Nhất, A Lao, A Vĩnh, A Dật chúng nó không có nhà, cậu đừng bán chúng đi”.

A La lại cười: “Chú Phúc à, sao ta lại bán chúng. Giữ chúng ở lại đây, nếu ta không quay lại, chú cưới vợ cho chúng, dạy chúng buôn bán làm ăn. Có lẽ sau này, ta sẽ còn trở lại thăm chúng”.

Chú Phúc nói dứt khoát: “Thiếu gia, chúng tôi chờ thiếu gia trở về. Mặc dù cậu không về nhiều, cũng không ở đây bao giờ, nhưng đây vẫn là nhà của cậu”.

A La cảm thấy chú Phúc và mấy gia nhân thực ra là người tốt, nếu Phong thành không nguy hiểm, nàng đã ở lại đây. Nàng cười nhận lời, lúc đi còn biếu chú Phúc một tờ ngân phiếu lớn, tính tiền mang theo người, vẫn còn hơn hai vạn lạng bạc. Bây giờ phải nhanh chóng đến thành Lâm Nam tìm vú Trương, sau này có cơ hội sẽ rời Ninh quốc, nấn ná ở đây cũng đủ rồi.

Ngày hôm sau, A La, thất phu nhân, Tiểu Ngọc thuê một cỗ xe ngựa rời khỏi Phong thành. Nàng biết Lưu Giác đang ở miền nam, nhưng không ngờ lúc này chàng đang ở thành Lâm Nam nơi nàng sắp đến.

Ra khỏi Phong thành, ba người thở phào nhẹ nhõm, men theo đường cái đi về phía trước. A La vẫn giả trai, ba người vận quần áo vải bố bình thường, giống một gia đình ba nhân khẩu. A La nói đùa Tiểu Ngọc: “Từ nay gọi ta là tướng công! Ngươi là tiểu nương tử của ta”.

Tiểu Ngọc ngoan ngoãn đáp: “Vâng, tiểu tướng công”. A La nghe vậy cười khanh khách. Giữa Phong thành và Lâm Nam thành có mười đô thành, do nhiều năm không có chiến loạn, lại thêm Lưu Giác dẹp hết khấu tặc trên đường, dân chúng chất phác, trên đường không xảy ra chuyện gì.

Ba người cũng không đến thẳng thành Lâm Nam, đến mỗi thành phố đều dừng lại nghỉ mười ngày, nửa tháng, có lúc ở hẳn mấy tháng, thưởng thức phong cảnh, món ngon, vào đình chùa thắp hương, xem bơi thuyền, chưa kịp đến Lâm Nam thời gian đã mất tới hai năm.

A La đã cao hơn hẳn một cái đầu, vẫn chuyên cần luyện võ karate, do thường xuyên luyện tập, ngoài đầu óc minh mẫn, cơ thể cũng rất săn chắc dẻo dai. Nàng còn dạy thất phu nhân và Tiểu Ngọc tập Yoga, khiến họ thích ăn chay, không thích thịt cá, A La cười: “May quá, tiết kiệm khối tiền!”.

Bây giờ A La đã mười bảy tuổi, hết vẻ vụng về con trẻ. Hai năm du ngoạn bên ngoài, nước da nàng vốn trắng xanh, bây giờ trở nên khỏe mạnh sáng bóng như ngọc. Khi vận nam trang trông nàng tuấn tú khôi ngô, hào hoa khác thường, luôn khiến Tiểu Ngọc ngây người, lao đến ôm chầm kêu lên: “Tiểu tướng công của thiếp”.

A La hỏi thất phu nhân: “Mẹ à, bây giờ trông con có giống tam tiểu thư của tướng phủ không?”.

Thất phu nhân cười: “Giống, mắt không thay đổi, nhưng cao hơn nhiều, trở thành người lớn rồi”.

A La vui lắm, dự định sau khi đến thành Lâm Nam sẽ bắt đầu thể hiện các ngón võ dưới cái tên Trình công tử.

_________

Chú thích:

13. Cáp tổ: Đội truyền tin bằng chim bồ câu (BTV).

14. Tu La bắt nguồn từ tiếng Phạn, Tu La nghĩa là thiên thần. Ngoài ra còn có A Tu La là để chỉ các ác thần (BTV).

15. "Nhất Lao Vĩnh Dật": Thành ngữ, có nghĩa là một lẫn vất vả an nhàn mãi mãi.

.

Chương 15

.

Từ đại lục này đi thẳng phía tây, tận cùng là những dãy núi băng tuyết trùng điệp mênh mông. Không ai biết bên kia núi tuyết là gì, cũng chưa ai đến đó. Tuyết tan thành những dòng chảy lớn, dần dần hội tụ thành sông, từ Khởi quốc phía tây, qua Hạ quốc phía tây nam, đến Trần quốc và Ninh quốc, tại vùng giáp ranh giữa Ninh quốc và Trần quốc, dòng sông trở thành biên giới tự nhiên của hai nước, lưu vực rất rộng, đến hai trăm trượng có dư. Thành Lâm Nam lưng dựa vào núi, tường thành quanh co uốn lượn trên núi, bên trên có những chốt hiểm yếu, trông giống như con rồng khổng lồ ôm ấp bảo vệ vững chắc thành trì bên dưới.

Mười lăm đô thành phía đông của thành Lâm Nam xuôi theo hướng Phong thành đều là bình nguyên, vẫn là kho lương thực của Ninh quốc, các nhánh của sông Hán Thủy chảy vào bình nguyên, bồi đắp phù sa cho nơi này trở nên mầu mỡ, lại thêm khí hậu ôn hòa, sản vật phong phú, tám phần mười lương thực rau xanh của Ninh quốc đều từ nơi này mà ra. Nếu phá được thành Lâm Nam, có thể tiến thẳng đến mười lăm thành trì kia, tổn thương nghiêm trọng nguyên khí của Ninh quốc. Cho nên tầm quan trọng của thành Lâm Nam không thua kém Biên thành phía tây.

Thành Lâm Nam phía nam, Biên thành phía tây, hai thành trì này là cửa ngõ trấn giữ phía tây và nam của Ninh quốc, giữ vững hai thành này mới đảm bảo an ninh của Ninh quốc. Những vách núi phía đông của thành Lâm Nam tạo nên vịnh cảng tự nhiên, doanh trại thủy quân của Nam quân đồn trú tại đây, cách cổng thành Lâm Nam năm dặm đường thủy, tiến có thể công, lui có thể thủ, lại thêm vị trí hiểm yếu của thành Lâm Nam, đây cũng là nguyên nhân khiến ba nước dọc sông Hán Thủy xưa nay chưa bao giờ dám mạo hiểm vuốt râu hùm Ninh quốc.

Trăng non mới nhú, sao thưa thớt, mây quang đãng, dòng Hán Thủy lặng lẽ chảy về đông. Một đội lính gác bước chân đều tăm tắp, trao đổi khẩu lệnh tiến hành đổi gác. Tại trạm gác trên tường phía tây cổng thành phía nam, có một vị tướng quân trẻ tuổi đang đứng, quân phục màu đen, áo giáp mềm bó sát thân hình cao lớn thanh tú của chàng, ngũ quan như tạc, đôi mắt lạnh, sáng như sao, cặp môi rõ nét mím lại thành nụ cười nhạt. Chàng đưa mắt nhìn về phía nam sông Hán Thủy, ánh mắt như vượt qua mặt sông rộng, dừng lại ở bờ bên kia. Dưới ánh trăng, phía bờ nam có những bóng thuyền sừng sững. Tay chàng vịn vào bờ tường, gõ nhẹ, sóng ào ạt vỗ dưới chân tường, vỗ vào tâm trí chàng.

Ba năm nay Ninh vương ngày càng già yếu, tin báo cho biết người đã nghỉ triều một tháng, việc triều chính do thái tử lo liệu, cục diện Phong thành trở nên căng thẳng. Mà Trần quốc nhiều năm khổ luyện thủy binh, có lẽ là đã chờ đợi thời cơ rất lâu. Khi Ly Thân vương và thái tử bắt đầu cuộc chiến tranh giành vương vị, Ninh quốc có thể phải đối diện với nguy cơ ngoại xâm và nội chiến triền miên.

Không xa, phía sau chàng có mấy người lính hộ vệ vận áo giáp, bịt mặt khẽ bẩm: “Chúa thượng, đêm đã khuya, mời chúa thượng đi nghỉ”.

Nếu là trước đây, chàng sẽ lạnh lùng liếc mắt không thèm để ý, nhưng hai năm nay... chàng khẽ cau mày, với chàng hỉ nộ đã sớm tiêu tan không còn dấu vết, lại nhìn vì sao sáng nhất bên cạnh vầng trăng, trong đầu lại hiện lên hình ảnh một đôi mắt, ánh mắt chàng lại trở nên dịu dàng. Ba năm rồi, A La, nàng sống thế nào?

Hồi đó trong cơn thịnh nộ chàng đã ra lệnh đốt sạch sơn trại ở vùng núi phía tây của họ Vương, lại được chỉ lệnh bình dẹp phương nam, chàng nhất lộ thẳng tiến, truy lùng khắp mọi ngả đường phía nam, nhưng không hề tìm ra dấu vết A La. Tiếp đó, Ly Thân vương Lưu Phi tiếp quản Hữu quân ở Biên thành, thay thế An Thanh vương được lệnh trở về Phong thành dưỡng lão. An Thanh vương mật lệnh cho Lưu Giác, tiếp quản Nam quân, khi Ninh vương chưa băng hà tuyệt đối không được trở về Phong thành.

Lưu Giác bất lực trong tìm kiếm A La, lại không phụ kỳ vọng của phụ thân. Ba năm nay, càng kiên định, quyết đoán mạnh tay chỉnh đốn Nam quân, nửa thu phục nửa thanh trừng, dần dần loại bỏ thế lực của Vương thái úy, nắm chắc Nam quân trong tay, khiến trên dưới một lòng, vững như thép.

Nam quân lúc đầu không phục vị hoàng thân tiểu vương gia này, thoạt nhìn chàng ngoại hình tuấn lãm, vẻ chơi bời phong lưu, nghe đồn do hôn thê bị bắt cóc mới được giao quyền Bình Nam tướng quân, lòng bội phần không phục, thầm rủa xả, một đại quân tinh binh là thế nay lại trở thành sĩ tốt để báo tư thù. Đến khi Lưu Giác truy quét ba trăm ngọn núi giữa mười lăm thành trì từ trấn Thuận Hà đến Cốc thành phía nam, quét sạch mười mấy sơn trại, khiến cho miền nam Ninh quốc sạch bóng khấu tặc, kế sách chu toàn tỉ mỉ, thủ pháp quyết liệt mau lẹ, kiếm thuật tàn khốc vô tình mới khiến cho binh sĩ thần phục. Tiếp theo, thực hiện quân kỷ nghiêm minh, từ đó Nam quân mới trên dưới thuận lòng.

Lưu Giác vẫn đứng ở chốt canh, mặc cho gió sông thổi. Dạo đó, truy tìm các ngả phía nam, không tìm thấy dấu vết của A La, chàng suy đi nghĩ lại, cuối cùng khẳng định A La đã trở về Phong thành. Cáp tổ báo tin, Tử Ly phụng mệnh tây tiến, không thấy A La đi theo, phủ Ly Thân vương và phủ thái tử cũng không thấy tăm tích. Lưu Giác cười, thầm nghĩ, A La nhất định đang ẩn náu nơi nào đó ở Phong thành. Cục thế chưa rõ, tìm thấy cũng không phải là chuyện hay, nếu cưới A La, để nàng lại trong vương phủ ở Phong thành chàng sẽ rất nhớ nhung. Bèn lệnh cho Cáp tổ, khi phát hiện được A La, chỉ cần sai cao thủ bí mật bảo vệ, không cần tiếp cận, tránh khiến nàng kinh động.

Lưu Giác kỳ thực rất khâm phục A La, tuổi nhỏ như vậy mà có thể đưa mẫu thân và nữ tỳ bỏ trốn, lại còn dám phóng hỏa đốt cầu phao, kế hoạch chu toàn, che mắt được bao nhiêu người.

Nhưng ba năm nay không thấy tin tức của nàng, Lưu Giác hơi giận, Phong thành lớn đến đâu? Mỗi khi Cáp tổ bẩm báo không có tin gì, chàng lại sầu muộn vô chừng, rồi lại đắc ý A La có thể trốn lâu như vậy mà không để lộ dấu vết, chàng bỗng càng thêm yêu thích nàng. Mãi đến ba tháng trước, Cáp tổ báo về, có một đôi vợ chồng trẻ cùng bà mẹ đang đi về phía thành Lâm Nam, bà mẹ có ngoại hình rất giống thất phu nhân của tướng phủ, nghi là A La, lúc đó chàng mới cả mừng.

Lưu Anh nhớ rõ, hôm đó chúa thượng nhận được tin báo của Cáp tổ lại uống rất say, một mình uống rượu, múa kiếm trong hậu viên, cười ngất, nói to: “Tử Ly, huynh nói đúng lắm, A La đúng là bảo ngọc. Nàng ấy đến rồi, đến Lâm Nam rồi!”. Đây là lần đầu tiên trong đời, Lưu Anh thấy chủ nhân uống say. Y cố cõng chàng về, Lưu Giác nằm trên giường vẫn còn cười, nhắm mắt, kéo áo Lưu Anh, luôn miệng hỏi: “Lưu Anh, ngươi nói xem, A La gặp ta liệu có bỏ chạy không?”.

Lưu Anh mắt đỏ hoe. Lúc sáu tuổi, rét cóng suýt chết ở ngoài đường, một bát canh thịt đã khiến y tỉnh lại, mở mắt nhìn thấy Lưu Giác, khuôn mặt đẹp như tạc, tươi hồng như thoa phấn chớp mắt nhìn, tươi cười: “Ngươi tỉnh rồi à? Sau này đi theo ta nhé, nhất định không để ngươi bị đói”.

Lúc đó Lưu Giác mới năm tuổi. Từ đó Lưu Anh luôn ở bên chàng như hình với bóng, lớn lên cai quản Thanh tổ của Ô y kỵ.

Lưu Giác say dường như lại trở về thuở nhỏ, lúc đó, khi bị ốm chàng cũng thường kéo áo Lưu Anh miệng hỏi không ngừng: “Ta nằm mơ thấy mẫu thân, bao giờ phụ thân mới về?”. Lưu Anh nhìn thấy nụ cười buồn ẩn trên khuôn mặt thanh tú của chủ nhân, thầm thề với chính mình, tam tiểu thư kia nếu đã đến thì đừng nghĩ có thể bỏ chạy, mình sẽ tìm mọi cách giữ nàng ta bên cạnh chúa thượng. Lưu Anh ngẩng đầu nhìn tấm lưng thẳng tắp như thanh gươm trong gió lạnh, thử khuyên lần nữa: “Chúa thượng, gió đông rất lạnh, cẩn thận bị cảm, quay về thôi”.

Lưu Giác quay người: “Đi thôi, về uống chén rượu nóng, trời đúng là lạnh quá”. Từ xa đã nhìn thấy mái cổng cao vút của thành Lâm Nam, Tiểu Ngọc vui sướng reo lên: “Đến rồi, đến Lâm Nam rồi, không biết vú Trương có khỏe không? Gặp thất phu nhân không biết vú sẽ mừng đến mức nào nhỉ?”.

Thất phu nhân cười dịu dàng. Từ khi rời tướng phủ, lòng bà cũng dần trở nên vui vẻ. Hai năm du ngoạn vừa rồi, được ngắm nhìn thế giới bên ngoài muôn màu như vậy, coi như bà đã sống không uổng.

“Tiểu nương tử à, nàng càng ngày càng hoạt bát đấy, ngó nghiêng như thế còn ra thể thống gì, hãy để tướng công nàng tận mắt nhìn nào!”. Rèm xe vừa vén lên, khuôn mặt như tạc bằng ngọc của A La hiện ra. Cử chỉ nàng phóng khoáng đĩnh đạc, chỉ có đôi mắt vẫn lóng lánh như thủy tinh, linh lợi khác thường.

Nhìn thấy thành Lâm Nam sừng sững nguy nga giữa lưng chừng núi, nàng buột miệng nói: “Dựa núi cận sông, địa linh nhân kiệt, thành phố du lịch hạng nhất”.

Thất phu nhân nhìn nàng vẻ trách móc: “Suốt dọc đường ăn ăn uống uống, vung tay quá trán, bây giờ chỉ còn mấy ngàn lạng bạc, còn không mau đi kiếm tiền nuôi nhà, lại chỉ mải chơi”.

A La cười, giơ tay đón bắt những bông hoa tuyết bay lất phất, kéo dài giọng than thở: “Gió ơi, tuyết ơi, Tam Nhi số khổ, phải còng lưng kiếm tiền nuôi cả nhà”.

Tiểu Ngọc và thất phu nhân đã nghe A La kể chuyện Hỷ Nhi và Dương Bạch Lao, lúc đầu chịu bao nhiêu khổ cực, về sau khổ tận cam lai, được hưởng hạnh phúc sung sướng. Khi kể chuyện đó A La bắt chước Dương Bạch Lao vừa nhảy múa vừa lấy sợi dây thừng màu hồng định quấn đầu cho Tiểu Ngọc. Bây giờ nghe nàng uốn giọng như vậy thất phu nhân lại thấy buồn cười mắng yêu A La, trong xe tiếng cười nói đùa vui ồn ào.

Xe đến gần cổng thành thì bị chặn lại, A La thoạt đầu cũng thấy kỳ lạ, nhưng nghĩ đây đã là Lâm Nam gần biên giới Trần quốc, kiểm soát người ra vào thành là đương nhiên, nên cũng thấy bình thường. Nàng đường hoàng nhảy xuống xe, chắp tay nói với lính gác: “Tướng gia, tại hạ là Trình Tinh ở Phong thành cùng hiền nội và gia mẫu về nam thăm người thân, xin cho phép”.

Lính gác vốn mặt sắt, nhưng nhìn thấy vị công tử khôi ngô, nhã nhặn lại hiểu lễ nghĩa, sắc mặt cũng dịu đi nhiều, liền đáp: “Thượng quan có lệnh, phàm là khách vào thành đều phải lưu bút vào sổ, công tử cứ làm theo quan lệ là được”.

A La vung bút, ghi quê quán danh tính, sau đó ba người thuận lợi vào thành. Lòng cười thầm, Phong thành Trình phủ, cho dù đi tra xét cũng không phải là giả mạo.

Có rất đông khách thập phương và thương nhân đi đường thủy đến thành Lâm Nam, trong thành đường sá bằng phẳng, hàng quán san sát, cư dân đông đúc, phồn thịnh náo nhiệt. A La ngồi trong xe trầm tư quan sát. Mấy năm trước nàng đã giao cho vú Trương món tiền lớn, để vú cùng người con trai đến thành Lâm Nam mua nhà, mở quán rượu nhỏ làm kế sinh nhai. Không biết ba người cùng đến thế này, quán rượu ấy liệu có đủ nuôi sống cả nhà hay không.

Rồi nàng lại cười, chuyện đó để đến nơi hẵng hay, bây giờ phải tìm được Thường Lạc tửu quán đã. Theo địa chỉ của vú Trương, xe ngựa rẽ vào một con đường nhỏ, men theo con dốc đi lên, không lâu sau đã nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, một lá phướn màu xanh cắm trên cành cây, trên có hàng chữ Thường Lạc tửu quán. Phu ngựa dừng xe, A La nhảy xuống gọi: “Vú Trương, vú Trương, chúng ta đến rồi!”.

Vú Trương ngồi sau quầy rượu, tóc đã điểm bạc, nhưng đầu óc vẫn tinh nhanh. Vú hồ nghi vểnh tai nghe, sau khi xác định, mặt vụt tươi cười mừng rỡ, từ trong quầy chạy ra. Vừa tới cửa đã thấy một vị công tử khôi ngô, dáng cao ráo đĩnh đạc, ánh mắt tinh nghịch nhìn mình mỉm cười, thất phu nhân được Tiểu Ngọc dìu xuống xe. Ngơ ngác định thần, vú Trương xúc động, mắt đỏ hoe nghẹn ngào: “Phu nhân!”.

Thường Lạc tửu quán tọa lạc giữa lưng chừng núi, lúc này trời vẫn còn sớm, trong quán chưa có khách. Vú Trương vội vàng buông mành, đóng cửa quán, lên tiếng gọi con trai và con dâu.

A La thấy con trai, con dâu vú Trương mặt mũi đều thật thà chất phác, cô con dâu tay dắt một đứa bé trai ba tuổi, mặt mũi có vẻ bướng bỉnh, nàng không nén nổi nói đùa: “Hổ Tử phải không? Sao lớn lên trông như tiểu hổ thế này?”.

Hổ Tử ba tuổi, sợ người lạ, trốn sau lưng mẹ, thò cái đầu bé nhỏ ra, nói: “Thiếu gia là tam tiểu thư thông minh mưu mẹo mà bà nội hay kể phải không? Sao chẳng giống tẹo nào?”.

Mọi người cười ồ, A La cũng cười, giơ tay rút cái trâm trong búi tóc, mái tóc dài xổ tung, vẻ con gái lồ lộ. Hổ Tử mắt sáng lên: “A, tiên nữ tỷ tỷ!”.

Mọi người lại ồ lên cười, vú Trương vội đưa ba người vào hậu đường. Ngôi nhà này có ba đình viện riêng rẽ, phía trước là tửu quán, ở giữa là chỗ ở của gia đình vú Trương, xuyên qua vòm cổng hình bán nguyệt lại là một tiểu viện xinh xắn. Vú Trương cười: “Ngày đêm mong mỏi, phu nhân và tiểu thư có hài lòng không?”.

Thất phu nhân chắp tay vái vú Trương: “Mấy năm nay vất vả cho vú quá, đã chuẩn bị chu toàn cho mẹ con Ngọc Đường”.

Vú Trương hốt hoảng đỡ thất phu nhân: “Không dám, phu nhân đã cứu già. Năm xưa nếu không có phu nhân bỏ tiền cứu giúp, già đâu có con cháu nhà cửa đề huề như bây giờ...”. A La xem xét tỉ mỉ xung quanh, nghĩ đến thằng bé Hổ Tử đáng yêu, trầm tư hồi lâu mới nói: “Vú Trương à, hôm nay chúng ta ở lại đây, ngày mai sẽ tìm chỗ khác. Vú thông thạo Lâm Nam, ngày mai đi tìm giúp ta chỗ mới”.

Vú Trương ngạc nhiên: “Tiểu thư, sao không ở cùng chúng tôi? Tiểu thư chê chỗ này hay sao?”.

A La cười: “Tìm một chỗ khác, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, sẽ không liên lụy cả nhà, ở riêng rẽ mới dễ ứng phó. Ta có rỗi đếu tửu quán uống rượu cũng không gây nghi ngờ. Vú nhớ nhé, lần sau chúng tôi đến chỉ là khách bình thường”.

Tối hôm đó, thất phu nhân và vú Trương mấy năm không găp, giờ được dịp dốc bầu tâm sự. Vú Trương nghe kể, ngậm ngùi, thở dài, lại rơi bao nhiêu nước mắt.

Lưu Giác được tin báo A La đã đến thành Lâm Nam, bề ngoài chàng tỏ ra bình thường, nhưng trong lòng dậy sóng. Lưu Anh không nén nổi, hỏi: “Có cần thuộc hạ đi bắt về không?”.

Bắt về có nghĩa lý gì? Lưu Giác nén nỗi khao khát được gặp mặt nàng, bình thản dặn dò: “Lệnh cho Minh tổ lựa ra mấy cao thủ đi theo bảo vệ nàng ấy, báo cho đội quân ngầm ở cổng thành, nếu thấy nàng ấy một mình ra khỏi thành, chỉ cần bí mật đi theo là được, nhưng không được để nàng ấy đưa cả mẹ cùng đi. Vào thành Lâm Nam nàng ấy còn có thể chạy đi đâu?”.

Lưu Giác thầm nghĩ, ta rất muốn xem rút cục nàng sẽ làm gì ở đây? Nghĩ đến sự mưu trí của A La, lòng chàng lại xao xuyến, môi thoáng nụ cười.

Đã vào giữa đông. Những bông tuyết bay lả tả trên bầu trời thành Lâm Nam, tuyết tan trên mặt đường ẩm ướt, những tầng khí lạnh ngắt trong trẻo bao phủ thành phố, hít thở một hơi, khí lạnh đã xuyên thấu phủ tạng. A La vận chiếc áo bông màu xanh nhạt, mỉm cười tự tin, chậm rãi bước từng bậc đi xuống, dạo chơi trong thành. Những hàng quán lớn nhỏ san sát, chất đầy sản vật phong phú, đồ da của Khởi quốc phía tây, đặc sản của Hạ quốc phía tây nam, đồ tơ lụa của Trần quốc phía nam đều có thể tìm được ở đây, những tửu lầu mái cong sang trọng rải rác xen lẫn những quán rượu nhỏ bình thường. A La thầm đánh giá, du lịch và giao thương đã khiến nơi đây phát triển thịnh vượng, hôm nay ra phố xem lại mới nhận thấy thành Lâm Nam chính là một thương cảng và thành phố du lịch lớn nhất của Ninh quốc.

Sự náo nhiệt của Lâm Nam có một phong vị khác so với Phong thành. Trong thành khắp nơi đều có thể gặp những thương khách và phu bốc vác nói đủ các kiểu khẩu âm. Do đây là thương cảng lớn, mặc dù đang giữa tiết đông hàn, thuyền buôn vẫn qua lại tấp nập. Chỉ có những lính tuần khoác kiếm đi lại khắp nơi mới nhắc người ta nhớ ra đây là một trấn biên ải trọng yếu.

Nàng thong thả đi dạo đến tận cổng thành phía nam, đứng trên bến cảng nhìn ngắm thuyền buôn đang neo trên bến. Thuyền lớn có hai tầng lầu, dài tới hơn hai chục trượng, đã hạ buồm, những cột buồm sừng sững như cây rừng. A La thú vị nghĩ thầm, một chiếc thuyền lớn như thế, phải bao nhiêu người mới chèo được, đi đến gần quan sát, nhìn vào khoang đáy qua những ô cửa hình vuông. Hình dung ra cảnh tượng tráng lệ khi thuyền khởi động, hàng trăm mái chèo nhất tề vung lên đều tăm tắp, bỗng bật cười khoái trá. Từ quán rượu của vú Trương đi ra phố, dạo chơi trên bến cảng cả nửa ngày, ngắm nghía phong cảnh xem chừng rất hay, nhưng kiếm tiền như thế nào nàng vẫn chưa nghĩ ra. Đây là thương cảng sầm uất, mấy nước giao thương trên sông Hán Thủy, nhưng buôn bán A La nghĩ bây giờ mình chưa làm được. Nàng không muốn mở quán ăn kiểu Tố tâm trai làm bà chủ, thực khách qua lại phức tạp, không cẩn thận có khi lại xảy ra chuyện, thậm chí mở phường ca hát vui chơi cũng không khả quan. Nàng còn nhớ, những vũ trường hiện đại đều phải có chỗ dựa, những chốn phong nguyệt của Ninh quốc đều phải lập hồ sơ đi báo quan phủ lập sổ thuế, nàng đương nhiên không thể lập hồ sơ. Huống hồ nhân khẩu ở Lâm Nam phức tạp, nhiều binh lính, có câu “tú tài gặp lính, có lý cũng bằng không”, binh lính làm gì vào những ngày nghỉ? Đương nhiên sẽ đến những tụ điểm giải trí tiêu khiển, nàng không muốn mình phục vụ chẳng may có gì sơ suất, làm phật lòng vị khách nào đó mà bị đập tiệm.

Thong thả trở về nội thành, A La chầm chậm thả bước vừa đi vừa suy nghĩ, suy tính mọi khả năng. Chợt ngẩng đầu nhìn thấy trên ngọn cây đa phía trước cắm một lá cờ phướn, trên viết “Ỷ La tửu quán”, bụng nghĩ cái tên thật là hay, nhìn thấy hai chữ tửu quán, lại thấy bụng đói cồn cào. Nàng nuốt nước bọt, thầm nghĩ mình chưa thưởng thức món ăn ngoài phố của thành Lâm Nam, vậy là rảo bước đến đó.

Tửu quán dựng bên một cây đa to, một dòng thác nhỏ từ sườn núi phía sau chảy xuống, quán dựng theo kiểu nhà sàn, tầng trệt bỏ không, chỉ gồm những cây cột chèn chắc vào vách núi, là kiểu kiến trúc nhà sàn bằng gỗ điển hình ở miền núi. Bên ngoài có hành lang, cửa sổ chạm trổ hoa văn có rèm che bằng giấy lụa, cổ kính giản dị mà trang nhã. Nơi sườn núi có ngọn thác trút xuống cây cối xanh um, lá đa non bóng như được tưới nước, che khuất một nửa quán, vừa kín đáo mà ngồi bên trong lại có thể nhìn thấy cảnh phố phường bên ngoài. A La vừa nhìn đã thấy thích chỗ này.

Những tia nước nhỏ bắn vào áo bông của nàng, nụ cười nở trên môi, A La bước vào. Vừa vén bức rèm vải chắn gió nặng trịch, một làn hơi ấm sực phả ra. Bên trong có lò sưởi, chủ nhà còn cẩn thận ném vào lửa mấy miếng vỏ quýt khô, hương thoang thoảng rất dễ chịu. Trên tường treo mấy bức tranh chữ rải rác, ở một góc lại còn đặt cây đàn, bố trí rất trang nhã, A La hơi hiếu kỳ, không biết chủ quán là người thế nào.

Có lẽ đã quá ngọ, trong quán chỉ có hai, ba bàn có khách. Nàng đi thẳng đến góc quán có cửa sổ ngồi xuống, lát sau một giọng nói thanh thanh nhẹ nhàng vang lên: “Công tử dùng trà hay dùng rượu?”.

A La ngây người ngẩng đầu, một tú nữ tuổi chừng đôi mươi đang tươi cươi nhìn nàng.

“Quán này là của cô nương ư?”.

“Vâng, chính là của Doanh Tú”.

Doanh Tú? A La cười: “Quả là một cái tên đẹp”. Lòng đã thầm có cảm tình với nàng chủ quán, nụ cười tự dưng cũng mặn mà hơn: “Tại hạ lần đầu đến Lâm Nam, có thể phiền Doanh Tú cô nương giới thiệu các món ở đây? Cho vài món đặc sắc nhất, có hoàng tửu chứ? Có thể hâm nóng giúp không?”.

Tim Doanh Tú xốn xang, vị công tử ngồi đây, tuy nói năng nhỏ nhẹ nhưng ngữ khí có gì khiến người khác không thể chối từ, từ lúc nào thành Lâm Nam xuất hiện một vị công tử hào hoa như vậy? So với tảng băng bên cạnh, nụ cười của vị công tử này quả là như hoa mùa xuân, nàng bất giác liếc nhìn sang bên cạnh.

Thấy Doanh Tú thoáng ngây người, A La cũng liếc sang bên cạnh, thầm reo, sao kỳ lạ thế. Người ta nói, long phượng hội tụ hết ở năm vị công tử Phong thành, thành Lâm Nam cũng không kém, đi loanh quanh mấy tửu quán, đã gặp ngay một chàng phong lưu không kém công tử Phong thành.

Dường như cảm nhận được ánh mắt phía bên này, người đó hơi nghiêng đầu, liếc nhìn Doanh Tú, Doanh Tú hơi đỏ mặt, lại khẽ lắc đầu. Người đó lại nhìn A La, cũng hơi ngây người, một công tử có khuôn mặt như tạc bằng ngọc!

Ánh mắt A La và người đó gặp nhau, cảm thấy như có làn khí lạnh phả ra. Nàng khẽ cau mày, tươi cười nói với Doanh Tú: “Bà chủ chắc nghe chưa rõ? Cho xin ba món và một bầu rượu hâm nóng”.

Doanh Tú lại đỏ mặt, vội nói: “Xin công tử đợi chút, Doanh Tú đi chuẩn bị”.

Nàng rảo bước đi về phía quầy, miệng nhanh nhẹn sai bảo người làm. A La bất giác cảm thấy đắc ý, người đẹp kể cũng tốt thật, vừa vào quán ăn đã khiến chủ quán đích thân phục vụ, về nhà mình phải khoe với Tiểu Ngọc mới được.

Lát sau Doanh Tú đón chiếc khay từ tay người phụ việc, đích thân bê ra, nhẹ nhàng nhấc từng đĩa đặt xuống bàn, kèm một bầu rượu hâm nóng, khẽ nói: “Đây là măng đông xào, thịt thỏ hầm, cá sông rán. Đều là đặc sản địa phương, rượu do nhà hàng tự ủ, gọi là Ly nhân túy, mùa đông mới có, sau khi hâm nóng vị càng đậm, dư vị ngấm lâu, công tử chớ tham uống nhiều”.

A La rất đỗi kinh ngạc, Ỷ La tửu quán này, xem ra mình đã không vào nhầm quán, nàng bỗng càng thêm hứng thú đối với Doanh Tú, hỏi: “Bà chủ nếu không bận có thể giới thiệu với tại hạ cái hay của đặc sản bản địa không?”.

Mắt Doanh Tú ánh lên nụ cười, ánh mắt lại vô tình đánh sang bàn bên cạnh, nàng mỉm cười: “Chỉ e quấy rầy nhã hứng của công tử”.

“Quý công tử đây đã mời, lại lần đầu tới thành Lâm Nam, nếu không chê, xin cho phép tại hạ hầu chuyện công tử”.

A La liếc nhìn, anh chàng đẹp trai lạnh như băng xen lời. Lại lướt nhìn khuôn mặt ửng hồng của Doanh Tú, thầm nghĩ, xem ra bà chủ này có tình ý với vị công tử mặt lạnh như băng kia, chỉ có điều không biết người này xen vào là có ý gì, liền cười nói: “Tốt quá, tại hạ lần đầu đến Lâm Nam, không biết, thì ra người ở đây đều nhiệt tình như vậy”.

Lời nàng vừa dứt, Doanh Tú mặt càng đỏ tợn, vội vàng nói: “Xin hai vị tự nhiên, Doanh Tú còn bận chút việc”. Nói đoạn rảo bước quay ra.

Chàng công tử có khuôn mặt lạnh như băng ngồi xuống, nói: “Tại hạ là Cố Thiên Tường, không biết đại danh của công tử là gì?”.

A La giật mình, thì ra chàng ta chính là một trong ngũ đại công tử Phong thành, con trai của tả tướng đương triều Cố Thiên Tường! A La chưa bao giờ gặp, thì ra chàng ta đã đến Lâm Nam. Nàng chuyển hướng suy nghĩ, nói: “Tại hạ là Trình Tinh, người Phong thành, đến Lâm Nam thăm người thân, lần đầu đến đây. Mấy món ăn này không biết có gì đặc sắc, xin công tử chỉ giáo”. Nói xong cầm đũa gắp ăn, lại rót rượu uống. Vị cay lan tỏa, hương thơm nồng nàn, bụng càng thêm đói, nàng ăn liền mấy miếng. Đột nhiên thấy không ổn, vội ngẩng đầu nhìn anh chàng tảng băng, cười: “Dạo chơi Lâm Nam cả ngày, đói quá, công tử cũng dùng đi? Ta vừa ăn vừa nói chuyện”.

Cố Thiên Tường cũng không từ chối, tự rót rượu cho mình, nói chậm rãi: “Loại măng đông này không dễ hái, măng mùa đông không trồi lên mặt đất, phải là người miền núi có kinh nghiệm mới tìm được, người không biết đào cả ngày cũng không được một cây. Nghe nói có một cách, đó là nhìn bóng tre, cứ từ ngọn tre chiếu thẳng xuống đất sẽ có măng, nhưng không phải ngọn nào cũng có măng. Măng mùa đông ăn vừa giòn vừa thơm, xào chay là hạng nhất”.

A La liên tục gật đầu, lại ăn thêm mấy miếng măng, quả thực vừa giòn vừa ngọt, nghe chuyện thấy thú vị quá, lòng càng hưng phấn, mời Cố Thiên Tường một chén rượu, lại tiếp tục tròn mắt nghe chàng ta nói.

Ánh mắt Cố Thiên Tường chạm mắt A La, bỗng ngẩn người, cảm thấy đôi mắt có phần quen quen, nhưng không nhớ đã gặp ở đâu. Chàng quay trở lại câu chuyện, nguyên do, thứ nhất là chàng thầm khen sự phong lưu của nhân vật A La này, hai là gần đây hai nước Ninh Trần cục diện căng thẳng, nghe người này nói lần đầu tới Lâm Nam, trong lòng có phần cảnh giác. Chàng uống một ngụm rượu lại tiếp: “Thịt thỏ chỗ nào cũng có, nhưng món thịt thỏ ở Lâm Nam đặc sắc vô cùng. Muốn bắt được thỏ hoang trên núi quả không dễ, chúng nhỏ hơn thỏ thường, tìm thấy hang của chúng cũng không dễ bắt, trước tiên phải đánh dấu rồi đốt lửa xung quanh, giăng lưới ở cửa hang trong cùng, mới bắt được. Nếu lúc bủa vây hang mà làm nó kinh động, lưới còn chưa kịp chăng, nó đã phi như tên bắn ra ngoài chạy thoát. Cho nên nhìn chung phải hai, ba người phối hợp mới được”.

A La cười: “Thì ra, con thỏ xảo quyệt có đến ba cái hang, không biết người quen luyện võ như công tử đây, liệu có dễ dàng bắt được thỏ hoang?”.

Cố Thiên Tường giật mình, thầm nghĩ, lẽ nào chàng ta nhận ra mình, biết mình luyện võ công. Chàng sinh nghi, thầm nhủ, nói năng phải cân nhắc kỹ mới được. Chàng thản nhiên nói: “Nếu Thiên Tường đi bắt thỏ, dù chúng có xảo quyệt đến mấy, cũng không thể chạy thoát”.

A La cảm thấy lời chàng ta có ẩn ý, nhưng lúc này chưa nghĩ ra, cười nói: “Cố công tử đi bắt thỏ quả thật là dùng dao mổ trâu đi giết gà rồi. Còn món cá sông rán này có gì đặc sắc?”.

Thấy lời thăm dò của mình bị A La nhẹ nhàng hóa giải, Cố Thiên Tường lại càng sinh nghi, vị công tử có khuôn mặt như ngọc tạc, phong độ hào hoa mã thượng này rút cục là người thế nào? Chàng nhiều năm sống trong quân doanh, tự thân toát ra vẻ lạnh lùng, sát khí, người bình thường bị ánh mắt lạnh băng của chàng liếc một cái đã sợ run, nói không ra lời. Vị công tử này có đôi mắt sắc long lanh, rất có hồn nhưng rõ ràng không có nội lực, chàng ta từ đâu đến, lại cơ hồ không sợ uy vũ áp chế của mình.

Cố Thiên Tường rắp tâm tìm cho ra bí mật, nói tiếp: “Loại cá sông nhỏ này còn gọi là cá trong khe đá, không thể đánh bằng lưới, phải đợi đến tối, tìm chỗ nước nông, soi đèn, nhân lúc cá chui vào khe đá nghỉ, nhanh tay chộp từng con. Thân nó rất trơn, ban ngày rất linh hoạt, lại chỉ bé bằng ngón tay, nên rất khó bắt”.

A La “ồ” một tiếng, đầy ngạc nhiên. Cố Thiên Tường này rất am hiểu thành Lâm Nam, cũng là người rất tinh tế, nếu không sao lại chú ý cả những chi tiết vụn vặt như vậy. Thấy chàng ta đã nói xong, thức ăn cũng đã ăn kha khá, nhưng Cố Thiên Tường dường như chưa có ý định đứng lên. Chàng ta nhận ra mình rồi sao? Rõ ràng không thể, trước đây hai người chưa từng gặp, hơn nữa, bức họa cũ lại không phải là ảnh, liệu có giống không? A La không biết động cơ nào khiến chàng ta muốn kéo dài câu chuyện với mình, nhưng chàng ta chỉ huy lực lượng thủy quân của Nam quân, ắt có lòng kiên nhẫn. A La cũng cảnh giác, thấy chàng ta chưa có ý muốn ra về, cũng bắt đầu kể những món ngon, toàn là tiệc măng, các cách chế biến thịt thỏ, những bữa tiệc cá, các cách chế biến phối với ba món này, nàng nói say sưa hào hứng thao thao bất tuyệt.

Cố Thiên Tường càng nghe càng kinh ngạc. Trình Tinh này tuổi chưa quá mười bảy, nhưng hình như lại hiểu biết rất rộng, nghe những yến tiệc và món ăn vừa kể, dường như không phải ai cũng được ăn. Chàng thận trọng hỏi: “Tiểu huynh đệ hình như đã đi rất nhiều nơi, hiểu biết sâu rộng, thật khiến tại hạ khâm phục!”.

A La thầm nghĩ, nếu ta kể những món ăn của “Mãn Hán toàn tịch” cho chàng ta nghe, từ đồ ăn, bát đĩa, đến nguyên liệu chế biến, chắc chàng ta sẽ nảy con ngươi ra ngoài mất. Ta chẳng phải hiểu biết sâu rộng gì, ta chỉ sống hơn anh hai mươi năm thôi. Nàng khẽ cười, nói tiếp: “Tại hạ tính có phần háu ăn, một số món cũng chỉ nghe nói, chưa được nếm, nói với huynh cho vui thế thôi”.

“Tại hạ rất thích nghe công tử kể những chuyện thú vị như vậy, không biết công tử có vui lòng ngồi thêm với tại hạ lúc nữa không? Trong khung cảnh ấm cúng thế này, được gặp công tử tài mạo tót vời, lời lời châu ngọc quả là thú vị”.

A La nghĩ, nếu không biết thân phận của anh, tôi đã bỏ đi rồi, bây giờ thì không dám. Đằng nào cũng chỉ là kể chuyện, chuyện kể ấy à, tôi có vô khối, ngàn lẻ một đêm cũng không kể hết, chưa biết chừng chuyện trò vui vẻ, lại biết thêm tình hình của Lâm Nam. Lúc này A La và Cố Thiên Tường bắt đầu thi nhau kể, trên trời dưới bể, phong tục, đặc sản các nước, không thiếu chuyện gì.

Cố Thiên Tường càng nghe mắt càng mở to, vẻ lạnh lùng trong mắt đã bớt vài phần, thay vào đó là sự hiếu kỳ và khâm phục. Bất luận chàng nói ẩn ý thế nào, A La cũng thản nhiên nhìn thẳng vào mắt chàng, chàng thầm nghĩ, Trình Tinh này hiểu rõ phong tục tập quán của Phong thành như lòng bàn tay, tiếng Phong thành nói rất thạo, Cố Thiên Tường cuối cùng tin Trình Tinh không phải là gian tế của địch quốc, cười sảng khoái: “Tiểu huynh đệ, thật là có duyên với nhau, không biết tiểu huynh đệ còn lưu lại Lâm Nam bao lâu, ta sẽ thường xuyên đến đây nói chuyện uống rượu với đệ”.

A La uống Ly nhân túy vào cũng có phần chếnh choáng, cười thầm, tùy anh thôi, từ công tử biến thành tiểu đệ. Cố Thiên Tường vừa nói vài câu đã hỏi ngay tình hình Phong thành, rõ ràng muốn thăm dò có đúng nàng là người Phong thành. A La nghĩ đến địa chỉ đã ghi sổ đăng ký lúc vào thành Lâm Nam, bụng nghĩ, chắc chàng ta không thể coi mình là gian tế . Lúc này Cố Thiên Tường đã hết nghi ngờ, hai người nói chuyện càng thoải mái tự nhiên.

Khi Cố Thiên Tường lòng đã hết nghi ngờ, ngoài chuyện quân sự tuyệt đối không đả động, càng nói lại càng thích những kiến giải mới mẻ cởi mở của A La. Nhìn trời, thấy đã hơi muộn, chàng chắp tay, nói: “Thiên Tường đang có việc, cáo từ trước, nếu có thời gian sẽ lại cùng tiểu huynh đệ uống rượu nói chuyện cho vui”. A La cười đáp lễ, cũng đứng lên ra về. Trong phủ tướng quân thành Lâm Nam, Lưu Anh khẽ bẩm báo: “Tam tiểu thư đi dạo cả ngày trong thành, lại đứng ở bến cảng phía nam nhìn ngắm rất lâu”.

Lưu Giác trầm ngâm một lát, nói: “Định đi đường thủy hay sao?”.

“Nhìn rất lâu nhưng không thấy hỏi thăm ai”.

“Sau đó?”.

Lưu Anh có vẻ chần chừ, Lưu Giác quay đầu khẽ hỏi: “Có cần ta hỏi lần thứ hai không?”.

Lưu Anh vội đáp: “Giờ Ngọ ba khắc đi vào Ỷ La tửu quán gặp Cố Thiên Tường tướng quân, ngồi cùng bàn uống rượu, nói chuyện rất vui. Giờ Dậu mới về, tướng quân Thiên Tường trở về quân doanh, tam tiểu thư trở về Thường Lạc tửu quán”.

A La quen Cố Thiên Tường từ lúc nào? Tùy tiện nói chuyện với đàn ông như thế đâu có giống khuê nữ danh gia! Lưu Giác hơi ghen, mỉm cười hỏi: “Với nhãn lực của Thiên Tường, mà lại không nhận ra nàng ấy là gái?”.

“Chuyện này...”. Lưu Anh lúng túng.

Lưu Giác hỏi: “Nàng ấy thay đổi nhiều lắm sao? Cáp tổ đã vẽ lại chân dung, thấy mặt mũi đầy đặn hơn, mắt vẫn như trước, nếu không đã không nhận ra”.

“Chúa thượng, nghe Minh tổ báo, dáng diệu của tam tiểu thư không khác đàn ông bao nhiêu, mùa đông mặc áo rộng, không để lộ cổ, lại thêm tuổi còn trẻ, người không biết cũng không dễ nhận ra”.

Lưu Giác thở dài: “Biết rồi, cứ bí mật đi theo. Nếu nàng lại gặp Cố Thiên Tường nữa, lệnh cho Minh tổ đứng xa một chút, nhớ đừng để Thiên Tường phát hiện”. Chàng đăm đăm nhìn ra cửa sổ, một cây mai đang nở hoa, bên cạnh là khóm thủy tiên đung đưa, còn có cả mấy cây hải đường rất to, do được sưởi ấm hoa nở rộ, hương thơm sực nức. Chàng nhớ năm xưa A La đang ngắm cảnh, bị chàng quấy rầy nàng đã nổi giận, có lẽ nàng rất yêu hoa. Trước khi rời Phong thành chàng đã đến thăm Đường viên, nhìn thấy khóm hải đường trước sân. Lý tướng nước mắt lã chã nói với chàng, A La sáu tuổi đã biết đọc câu thơ “Hải đường bất tích yên chi sắc, độc lập mông mông tế vũ trung”. Nàng chắc cũng yêu hoa hải đường. Chàng thẫn thờ một lát rồi sai Lưu Anh: “Ngươi đến doanh trại thủy quân tìm Thiên Tường tướng quân, nói là ta mời tướng quân xong việc đến phủ uống rượu”.

Khi Cố Thiên Tường đi vào sân, thấy trước mặt sáng rực. Trong sân treo rất nhiều đèn lồng, lại còn đốt mấy lò sưởi, những cây hoa hải đường được sưởi ấm càng thêm thắm sắc, trong ánh sáng màu hồng huyền ảo lung linh, những cánh hoa thắm rực như cháy, Lưu Giác lơ đãng đứng dựa vào thành ghế uống rượu.

Chàng bước nhanh vào, ngồi xuống bên khóm hoa, tự rót rượu cho mình. Rượu vừa vào miệng, chàng cau mày, bật hỏi: “Ly nhân túy ư?”.

Lưu Giác ngạc nhiên nhướn mày: “Hiếm có! Cố công tử đến chơi, lần đầu tiên thấy công tử chủ động cất lời!”.

Cố Thiên Tường lạnh lùng liếc Lưu Giác: “Tưởng ta không biết ư? Thì ra là thuộc hạ của huynh, ta còn tưởng là người của Trình Tinh kia”.

Lưu Giác cười nhạt: “Đã biết là không giấu nổi đệ, bọn thuộc hạ này đến là ngu, nhìn thấy đệ cũng không tránh đi”. Cố Thiên Tường không nói gì, thầm nghĩ, Lưu Giác cho người theo dõi Trình Tinh là vì lẽ gì?

“Cho người tiếp cận cũng có cái hay. Bọn chúng hồi báo, chiều nay Thiên Tường tướng quân cười sáu lần cả thảy!”. Lưu Giác bỗng ngồi thẳng lưng, trợn mắt một cách khoa trương, huơ huơ tay trước mặt Cố Thiên Tường, “Thiên Tường, một năm nay chưa thấy đệ cười, một buổi chiều đã cười hết phần của cả năm. Sao ta không thể mua Ly nhân túy về thưởng thức, xem rượu ngon đến đâu? Chà chà, sáu lần! Đệ đã cười tới sáu lần”.

Cố Thiên Tường nghiêm mặt, đôi mắt nghiêm lạnh thoáng cười. Lưu Giác là thế, khoa chân múa tay khiến chàng phì cười. Chàng không trả lời, uống một hơi cạn ly. Rượu này thú vị thật, sau khi hâm nóng càng thơm phức, chàng bất giác hâm mộ Lưu Giác rất biết hưởng thụ, giữa tháng đông hàn mà vẫn ươm được hoa nở đẹp thế này.

“Giữa tiết đại hàn muốn có được những bông hoa này phải mất chút công sức. May mà nó nở, rút cục là được sưởi ấm nên nó đã nở”. Lưu Giác nheo mắt nhìn những đóa hoa nở rực, khẽ nói.

Cố Thiên Tường cũng không nói gì, lặng lẽ nhấp từng ngụm Ly nhân túy. Hồi nhỏ chàng và Lưu Giác được học hai năm cùng với các hoàng tử, Lưu Giác hoạt bát hiếu động, chàng trầm lặng ít nói. Do thân phận khác nhau, chàng vẫn nhớ lời dặn của cha, nhưng lòng thầm ngưỡng mộ tính cách quyết liệt, muốn làm là làm của Lưu Giác, lại thêm Lưu Giác nhiệt tình, chàng tình nguyện làm bạn với chàng ta, hai người quan hệ rất tốt. Bây giờ lại cùng đồn trú ở thành Lâm Nam, thỉnh thoảng lại cùng nhau uống rượu chuyện phiếm, cũng tiêu diêu thoải mái. Thiên Tường vốn ít nói, Lưu Giác nói nói cười cười, không có ai ngồi cùng, cũng tự thấy vui. Hai người thường ngồi với nhau, cũng đã quen cảnh một người nói luôn miệng, một người lầm lì không nói.

“Chà, Ly nhân túy này quả nhiên là rượu ngon, tên cũng hay! Huynh đã hơi chếnh choáng rồi. Thiên Tường, hôm nay đệ gặp người đó, nói những chuyện gì, sao lại cười tới sáu lần?”.

Lưu Giác cuối cùng không nhịn nổi, mở miệng.

Lưu Anh đứng hầu một bên, nghe vậy thầm thở dài, chỉ cần liên quan đến tam tiểu thư là chúa thượng cơ hồ khó kìm chế, bề ngoài vẫn bình thường, trong lòng lại nôn nóng đến vậy. Quả nhiên, Cố Thiên Tường không trả lời, vẫn thong thả uống rượu, lúc lâu sau mới chậm rãi cất lời: “Huynh thích đàn ông?”.

Lưu Giác bị sặc rượu, khuôn mặt tuấn tú đỏ hồng. Chàng phải vận nội khí mới hết sặc, liếc xéo Cố Thiên Tường: “Phải, đôi mắt ấy rất giống A La”.

Cố Thiên Tường cau mày. Ba năm trước, nghe nói tiểu vương phi tương lai, tam tiểu thư tướng phủ bị bắt đến phương nam, Lưu Giác phẫn nộ đã quét sạch sơn tặc dọc đường, lại còn âm thầm ở trong quân doanh, không chịu trở về Phong thành, nơi gây ra vết thương lòng. Bây giờ xem ra tình hình càng thêm nghiêm trọng, ngay đến chàng trai có đôi mắt giống cô nương đó cũng không bỏ qua. Thảo nào, lúc chiều chàng luôn cảm thấy Trình Tinh rất quen, thì ra đôi mắt hơi giống người trong tranh. Chàng trầm ngâm một lát, cuối cùng mở miệng: “Trình Tinh đó không phải là gian tế, lại có vẻ xuất thân danh gia, nói chuyện rất hay, e là huynh chẳng làm gì người ta được đâu”.

“Đúng thế, đi theo mãi, cũng không nghĩ ra có nên ra tay không”. Lưu Giác nhìn những đóa hải đường nở rộ, rung rinh trong gió, thản nhiên nói.

Cố Thiên Tường lại nghĩ tới Trình Tinh, tự dưng cảm thấy tiếc, sao vị công tử đó lại xúi quẩy có đôi mắt giống A La. Chàng bất giác khẽ thở dài.

“Đệ cũng biết thở dài ư? Đệ chịu cười với người ấy, thở dài vì người ấy, mới quen đã như vậy, đệ sẽ không tranh giành với huynh chứ?”. Lưu Giác nói đùa.

Lưu Giác lại có thể quan tâm đến thế sao? Cố Thiên Tường không tin vào tai mình. Đằng nào thì chàng cũng cười rồi, thở dài rồi, sao không thể khiến Lưu Giác ngạc nhiên? Chàng lạnh mặt: “Tranh giành cũng chẳng sao, đằng nào lâu lắm chúng ta không đánh nhau”.

Lưu Giác ngớ người, bàn tay nắm lại, ly rượu trong tay sóng sánh, chàng uống một hơi cạn ly. Cố Thiên Tường cảm thấy buồn cười, lại có vài phần rầu lòng, Lưu Giác mặc dù hơn chàng một tuổi, nhưng từ nhỏ chính chàng lại chăm sóc chàng ta nhiều hơn. “Trình Tinh kia có ngũ quan như tạc bằng ngọc, thần thái tự nhiên, nói chuyện rất thoải mái, khó mà gặp một nhân vật như vậy. Người này có vẻ biết rất nhiều những chuyện ly kỳ mà đệ chưa biết, thật khiến người ta kinh ngạc”.

“Đây là lần đầu tiên huynh thấy đệ đánh giá người khác nhiều như thế, hơn nữa lại chỉ thấy khen ngợi”. Lưu Giác có vẻ khó chịu, chàng không biết vì sao, rất muốn nghe tin tức về A La từ Cố Thiên Tường, nhưng nghe xong lại thấy khó chịu.

“Đang định đi thăm cậu ta, uống rượu chuyện phiếm”. Cố Thiên Tường lạnh lùng đổ thêm dầu vào lửa.

Lưu Giác thầm “hừ” một tiếng, cười ranh mãnh: “Ồ, nhân tiện báo với đệ, người ta trú ở Thường Lạc tửu quán phía tây thành”.

Cố Thiên Tường cảm thấy có gì rất kỳ khôi, lúc này Lưu Giác bực mình mới phải, tại sao lại tựa hồ khuyến khích chàng đến gặp người đó. Chàng lẳng lặng uống nốt rượu trong ly, đứng lên nói: “Cũng muộn rồi, đệ về quân doanh đây”.

Lúc Cố Thiên Tường quay lưng trở ra, Lưu Giác mỉm cười nói nhỏ với chàng: “Giai nhân của rượu Ly nhân túy lúc này có lẽ lại đang chơi đàn. A, tuyết rơi rồi, Lưu Anh nhớ mang ô cho Thiên Tường tướng quân”.

Lưu Anh không nhịn được cười: “Cố tướng quân, xin mời!”. Cố Thiên Tường lưng chợt cứng lại, mặt thoáng sa sầm.

Lưu Giác lại cười: “Tướng quân mặt lạnh tim nóng ơi, thích thì thích, có gì mà ngại không nói”.

Thiên Tường giậm chân, tức giận lườm Lưu Giác, nghiêm mặt rời Lưu phủ.

Lưu Giác cười ngất, cảm thấy trong lòng dễ chịu đôi chút. Những bông hoa tuyết li ti mỗi lúc một dày, chàng ngồi lặng hồi lâu rồi lẩm bẩm một mình: “Ngày mai trời lạnh, không biết Thường Lạc tửu quán có rượu ngon hâm nóng hay không?”.

.

Chương 16

.

Ngũ đại công tử Phong thành không ngờ đến Lâm Nam lại gặp ngay chàng công tử lọt lướt kia. Cố Thiên Tường có vẻ ngoài lạnh lùng cố hữu, trong lúc nói chuyện vui vẻ vẫn không ngừng thăm dò về mình, rất cảnh giác, nói chuyện cởi mở, nhưng không phải là người dễ nịnh. Lưu Giác được phong Bình Nam tướng quân cũng đóng ở Lâm Nam, hai người, một thống lĩnh thủy quân, một thống lĩnh lục quân, bao giờ mình gặp Lưu Giác? Ba năm nay chàng thay đổi có nhiều không? Từ lúc chia tay Cố Thiên Tường ra về, A La luôn trầm tư.

Ra khỏi Phong thành chưa lâu, trên đường đi được nghe rất nhiều lời đồn về Lưu Giác. Dân chúng bên đường nhắc đến chàng với vẻ vừa kính nể vừa sợ hãi, họ đồn chàng diệt sơn tặc trừ họa cho dân, đồn là chàng mặt sắt không nương tay, giết người không chớp mắt. Nhưng lời khen vẫn nhiều hơn, chàng chấn chỉnh Nam quân đâu vào đấy, hết sức nghiêm minh. A La nghe dân chúng bàn tán, nghĩ đến quân đội hiện đại, nàng không hiểu lắm về quân đội, chỉ có ấn tượng đó là đội quân rất tốt với nhân dân. Nhưng nghĩ đến Lưu Giác, nàng lại thở dài, lờ mờ cảm thấy từ sâu trong lòng nỗi mong ngóng muốn gặp lại chàng, nhưng lại không dám đối diện. Nàng không dám đối diện với hiện thực rủi ro nhỡ chàng vẫn chưa hết giận áp tải nàng trở về tướng phủ.

Thất phu nhân và Tiểu Ngọc từng lo lắng hỏi nàng, nếu gặp Lưu Giác liệu có bị bắt đưa về không? A La cười hì hì: “Tướng phủ lẽ nào không có ai đi tìm? Tử Ly chắc cũng thế. Lưu Giác tính khí kiêu ngạo, chàng ta muốn đưa chúng ta về, nếu ta ngoan ngoãn nghe theo, đảm bảo chàng ta sẽ cảm thấy vô vị, mà với tính cách chàng ta, nếu không thích sẽ tuyệt đối không làm. Chúng ta cứ thong thả du sơn ngoạn thủy rong ruổi đến thành Lâm Nam, bị chàng ta tóm trước khi đến đó, là do số chúng ta đen đủi, muộn một chút thì chúng ta cũng đã rong chơi đủ rồi. Chuyện này khoan nghĩ vội, gặp người rồi hẵng hay, chẳng lẽ chúng ta trốn chạy cả đời? Đến nước khác nếu xảy ra chuyện lại trốn hay sao? Đành phải đối diện thôi”.

Thất phu nhân than thở: “Tam Nhi, con đã cứng rắn trưởng thành hơn nhiều, chỉ có điều có những lúc dù có mạnh đến mấy cũng không làm gì được”.

“Sẽ có cách, chúng ta sẽ vẫn đi về phía nam, đợi kiếm đủ bạc sẽ đến Trần quốc xem sao, không biết nơi miền quê yên bình liệu có chỗ nào để chúng ta dung thân. Mẹ nói cũng phải, mạnh cũng chẳng ích gì, chúng ta có gì nào? Tiền bạc không, quyền lực không, con đánh cược, mấu chốt vẫn là ở thái độ của Lưu Giác. Chỉ cần qua cửa ải chàng ta, phía tướng phủ cũng dễ đối phó. Huống hồ, chuyện qua đã lâu, làm gì có ai cố chấp như thế, chỉ có người không bình thường”. Nói xong câu đó, A La nghẹn giọng, nghĩ đến vẻ thành tâm của Lưu Giác một lòng một dạ muốn bảo vệ nàng suốt đời suốt kiếp. Lại thở dài, gạt những ý nghĩ đó sang một bên, miệng cười thật tươi: “Đằng nào bây giờ chúng ta cũng chưa có bạc, cứ thong thả hẵng hay, mọi người đừng lo. Mẹ à, dù thế nào A La cũng hiếu thuận với mẹ, Tiểu Ngọc à, tướng công sẽ nuôi nàng”.

Với tâm thái như vậy họ sống qua hai năm trên đường đến Lâm Nam. Trong những năm này, Lưu Giác không tìm được nàng, Tử Ly và người của tướng phủ cũng không tìm được nàng, không biết là số may mắn hay là còn ẩn tình gì khác, nhưng họ đã sống những ngày thực sự vui vẻ.

A La cau mày thở dài. Suy nghĩ theo hướng tích cực là một chuyện, nếu thực sự gặp lại, e sẽ là chuyện khác. Nếu Lưu Giác nổi giận lôi đình thì sao? Nếu chàng vẫn ôm hận thì sao? Nếu chàng nhất định đưa thất phu nhân và nàng trở về tướng phủ thì sao?

Mặc dù từ ngày quen nhau đến giờ, luôn là nàng khiến chàng bực mình, nhưng cũng không thấy chàng tỏ ra thực sự muốn báo thù. Có điều, nàng thoái hôn khiến Lưu Giác mất mặt, chàng ta sẽ phản ứng ra sao, A La không dám khẳng định. Nàng hơi hối hận, hay là mình quá tự tin?

Lúc này vú Trương báo, đã tìm được một chỗ ở khác, theo yêu cầu của A La, đó là một nơi gần dãy núi phía tây thành. Thất phu nhân hiếu kỳ hỏi: “Tại sao phải ở gần núi?”.

A La không muốn để thất phu nhân lo lắng. Khó khăn lắm mới ra khỏi tướng phủ, mấy năm nay thất phu nhân lòng đã nhẹ nhõm, vui lên rất nhiều. Nếu gặp chuyện căng thẳng, nỗi lo lắng ám ảnh, bà sẽ không chịu nổi. Vậy là nàng cười, nói: “Ở đó vắng vẻ yên tĩnh”. A La quyết định tạm thời không nghĩ đến chuyện có gặp phải Lưu Giác hay không. Đã đến đây, bây giờ chưa gặp, cứ làm theo kế hoạch đã, sau này nếu gặp hẵng hay. Nàng dự định ngày hôm sau sẽ chuyển khỏi quán rượu của vú Trương.

Sáng sớm hôm sau, tiếng cười trong vắt của Tiểu Ngọc vang khắp sân: “Tiểu thư, tuyết rơi rồi”.

A La khoác áo dài, tóc vẫn để xõa bước ra ngoài. Thật vậy, những bông tuyết bay trắng trời, phủ một lớp mỏng trắng xóa lên những mái nhà xa gần trên sườn núi. Những ngọn cây xanh thẫm và những mái cong đen sì thấp thoáng lộ ra trong biển tuyết. Cảnh sắc này trông giống gì nhỉ? Tranh thủy mặc! A La mỉm cười thốt lên, thành Lâm Nam đẹp thật. “Tiểu thư, không sợ nhiễm lạnh sao!”. Tiểu Ngọc phủi tuyết trên vai nàng, khoác cho nàng chiếc áo gió, ân cần khẽ trách. A La nhìn Tiểu Ngọc, cười nói: “Đi lên núi dạo chơi không?”.

“Ồ, tiểu thư, tiểu thư vẫn chưa rửa mặt chải đầu”.

“Không hề gì, Tiểu Ngọc rửa mặt, chải đầu là được rồi, đi thôi!”. A La cười vung chân vung tay sải những bước dài, cải tạo Tiểu Ngọc chỉ thành công một nửa, người ở đây tư tưởng thâm căn cố đế, khó mà thay đổi.

Sáng sớm, trên con đường mòn giữa chừng núi, thỉnh thoảng họ gặp một lão tiều phu khoác bó củi hoặc sọt than hoa to đi vào thành, từ khu nhà dân thoảng hoặc vọng ra tiếng chó sủa. Qua một con đường nhỏ, đã nghe thấy tiếng thác chảy. A La dắt tay Tiểu Ngọc thận trọng vòng qua mặt thác. Đứng ở đây, có thể nhìn thấy quán rượu của vú Trương bên dưới, có thể nhìn rõ vú Trương cùng thất phu nhân đang đứng trên sân ngắm tuyết. Ở khu nhà giữa những làn khói mỏng cuộn lên, bức tranh thủy mặc vậy là có sinh khí, sinh động hẳn lên.

A La cúi người, cầm lên một phiến băng mỏng, bóp nát, giơ lên cho từng giọt nước nhỏ xuống mặt, lạnh run người, nhưng lại rất dễ chịu, cả người như được kích hoạt tỉnh táo, sảng khoái vô cùng. Nàng từ từ đứng dậy, hít căng một hơi không khí trong lành, vươn người. Tiểu Ngọc nheo mắt xuýt xoa: “Tiểu thư, tiểu thư chưa rửa mặt mà sao vẫn đẹp như thế!”.

A La lòng tràn trề vui sướng, hân hoan, cất tiếng cười giòn tan.

Trong khu rừng ở một mé sườn núi, Lưu Giác mình khoác áo choàng đen, im lặng ngồi trên lưng ngựa, mấy binh sĩ Ô y kỵ cũng im lặng như chàng. Lưu Anh nhìn về phía trước, tam tiểu thư thay đổi thật rồi, trước đây nhỏ nhắn xinh xẻo, bây giờ đã là một đại mỹ nhân đẹp rực rỡ khiến người ta hồn siêu phách lạc, y thầm thở dài, người như vậy, chẳng trách chúa thượng quyến luyến không thể nào quên.

Lén nhìn Lưu Giác, thấy chàng mím môi, không biểu cảm, toàn thân tựa hồ biến thành tảng đá im lìm. Lưu Anh lại thở dài, sáng sớm tinh mơ cưỡi ngựa lên núi, đứng đến hơn nửa canh giờ, không nói không rằng, cứ nhìn như vậy, là có ý gì, rõ ràng lòng rất muốn, lại không chịu đi gặp nàng ta.

Lưu Giác trầm mặc như một cái đầm sâu hút, ánh mắt phân vân. Sau khi A La ra đi, không chỉ một lần chàng tự hỏi, rút cục mình đang tức giận điều gì? Nghĩ đến A La không cần mình, lòng chàng hận đến muốn bóp chết nàng; nghĩ đến những lúc ở bên A La, dẫu nàng làm cho mình tức giận, lòng chàng lại tràn ngập âu yếm, vấn vương, lại buồn man mác.

Ba ngày sau khi được phong Bình Nam tướng quân, chàng liền rời kinh, đi về phương nam. Chàng phóng ngựa đến biệt uyển của Hộ Quốc công chúa, thơ thẩn trong rừng đào cả một ngày. Sơn cốc tiết cuối hạ, cỏ vẫn xanh như thế, nhưng đào đã không còn nở hoa. Ngọn lửa âm ỉ trong lòng bùng cháy, người nóng bừng, chàng nhảy xuống suối. Làn nước lạnh ngắt ôm ấp chàng, hỏa khí tiêu tan, chàng bất giác cười đau khổ, dạo đó nếu chàng không lang thang tới đây, nếu cứ để A La ngã xuống suối, thì đã không có mọi vấn vương về sau, tất cả đều là ý trời.

Chàng đến tướng phủ, Lý tướng đưa chàng đi thăm Đường viên. Khóm hải đường cành đã xum xuê, xòe ra che nửa sân, Lý tướng ngậm ngùi nói, Đường viên tất cả vẫn y nguyên, chỉ đợi chàng đưa thất phu nhân và A La trở về. Nghĩ đến lần A La ăn cơm trên thuyền hoa bữa đó, nàng hầu như chỉ ăn thịt không ăn rau, lại nhìn Đường viên lạnh lẽo tiêu sơ và khuôn mặt đẫm nước mắt của Lý tướng, người chàng bỗng run lên. Nếu Lý gia không đối xử nghiệt ngã với A La, tuổi còn nhỏ như vậy làm sao nàng dám hành động to gan đến thế! Cho dù không muốn lấy chàng, cũng không đến mức đưa mẹ và tỳ nữ bỏ trốn! Nghe nhắc đến câu thơ A La đọc lúc sáu tuổi, lòng chàng càng đau thắt, điều gì khiến một đứa trẻ sáu tuổi làm ra những vần thơ bi ai như vậy!

Năm đó, do cáo thị khắp nước thông báo A La bị bắt cóc, bản thân chàng gần như cũng tưởng thật, đem tất cả nỗi tức giận, đau đớn trong lòng trút lên đầu bọn sơn tặc, nhưng lại bất ngờ giành được sự kính trọng của tướng sĩ Nam quân. Về sau, để thu phục cánh quân này, chàng ngày đêm trăn trở, suy nghĩ, muốn loại bỏ thế lực của họ Vương không phải chuyện dễ. Chàng buộc phải học cách tự kìm chế, thận trọng, suy tính trước sau. Bây giờ, A La đã đến Lâm Nam, chàng thầm nghĩ, nếu là trước đây, chàng đã chặn A La ngay từ khi nàng xuất hiện ở cổng thành. Còn bây giờ, điều chàng mong muốn là, nếu hỏi lại câu đó, có muốn cùng chàng đồng cam cộng khổ, nàng sẽ không do dự cho chàng một câu trả lời khiến chàng hài lòng.

Lưu Giác từ xa lặng lẽ đứng nhìn, A La đang đứng trên triền núi, chiếc áo choàng rộng bao bọc thân hình mảnh dẻ, mái tóc dài xõa đến eo, giữa thảm tuyết trắng xóa bên dòng thác bạc dáng phiêu diêu tự tại, tiếng cười trong vắt hồn nhiên. Ba năm nay nàng thay đổi không ít, khuôn mặt đã nở nang đầy đặn, không còn nét vụng về trẻ con ngày trước, chiếc cằm nhọn xinh, làn da như bạch ngọc phớt hồng, càng khỏe mạnh, tràn trề sức sống. Đôi mắt đó không thay đổi, vẫn trong veo như nước nguồn, lóng lánh tinh nghịch, hễ cười là sóng sánh mê ly. Mới sáng sớm chưa chải đầu A La lại vẫn đẹp đến thế!

Chàng nên xả hận, nên trừng phạt người đó mới phải, nhưng lòng chàng bây giờ tràn ngập hình ảnh người đó, chỉ muốn ngắm nhìn mãi, ngắm vẻ linh lợi như con chim yến đó. Một nỗi êm dịu từ từ dâng lên trong đáy mắt chàng, triền miên vấn vít, như những con sóng ngầm lặng lẽ từ cơ thể tỏa ra, Ô y kỵ đứng phía xa trong rừng cũng cảm nhận được, bất giác thở phào.

Tiếng cười trong vắt của A La vọng lại, như tiếng chim lảnh lót văng vẳng giữa rừng, như tiếng thác bạc đổ ào trên đá, vỡ vụn tung lên, lan tỏa trong tầng không buổi sớm tinh sương, vấn vương trên triền núi. Nàng không hề áy náy gì ư ? Không hề day dứt tí nào sao? Mất tích mấy năm liền mà vẫn ung dung sung sướng như vậy, trong khi khiến bao người khổ công tìm kiếm, người ngựa rối ren. Nỗi giận lại trào lên, Lưu Giác “hừ” một tiếng, ngồi thẳng trên mình ngựa, sát khí lại trùm lên cả khu rừng, hàn khí lại ngưng tụ trong đáy mắt. Con tuấn mã bên dưới có vẻ bồn chồn, không ngừng giậm vó một cách bất an, chàng cơ hồ lập tức thúc ngựa lao lên, bàn tay xiết chặt dây cương nổi hằn những đường gân xanh.

Đột nhiên, phía nam thành phụt lên một đám khói đen. Lưu Giác cau mày, thủy quân Trần quốc động binh ư? Chàng liếc nhanh A La lúc đó cũng đang ngẩng nhìn đám khói trên trời, lặng lẽ quay đầu ngựa phi xuống núi, Ô y kỵ lẳng lặng đi theo.

Đám khói ngưng đọng trên không mãi chưa tan, lại có tiếng chuông dồn dập nối nhau. Tiểu Ngọc kêu lên “Có chuyện rồi?”. Cùng với tiếng chuông, dân chúng đổ ra đường, ai nấy mặt mày hốt hoảng.

A La nói: “Về nhà xem sao”.

Hai người trở về tửu quán, vú Trương hốt hoảng chạy ra: “Tiểu thư, hai người đã về, không được ra khỏi nhà, hai nước khai chiến rồi”.

A La, thất phu nhân và Tiểu Ngọc nhìn nhau. Thất phu nhân luống cuống: “Chẳng phải đã mấy chục năm không đánh nhau cơ mà? Sao bây giờ nói đánh là đánh ngay?”.

A La thấy vú Trương cũng không biết gì hơn, bèn nói: “Con vào thành nghe ngóng tình hình. Tiểu Ngọc, ở nhà với mẹ và vú Trương, đóng cửa lại, không được đi đâu”.

Thất phu nhân không chịu: “Con đưa Tiểu Ngọc đi cùng. Chúng ta ở đây, không đi đâu hết, con đi một mình, sao mẹ yên lòng?”.

Tiểu Ngọc cũng đồng tình. A La bất lực, vội vào thay áo cùng Tiểu Ngọc đi ra.

Các cửa hiệu trong thành vẫn mở cửa. Trên phố có rất nhiều người tụ tập sốt ruột ngóng tin. Cổng thành đã đóng, A La kéo một người hỏi: “Bên ngoài có chuyện gì vậy?”.

“Nghe nói thủy quân Trần quốc đánh lén, Cố tướng quân đã tập hợp đội thuyền chuẩn bị nghênh chiến!”.

“Ở đâu có thể nhìn thấy tình hình trên sông?”.

“Sườn dãy Tây Sơn. Bao nhiều người đang đi đến đó”.

A La và Tiểu Ngọc hỏi đường đến dãy Tây Sơn. Lưu Giác lên thẳng thành môn lầu, tri phủ Lâm Nam vội đi đến chắp tay bẩm báo:

“Bẩm tướng quân! Cổng tây đã đóng, thủy quân nước Trần đã có chuẩn bị, sáng sớm nay đột nhiên tấn công, binh sĩ đi tuần trên bờ bên này bị trúng tên thiệt mạng, thi thể vừa mới phát hiện, khi lính gác dùng ống nhòm quan sát, quân Trần đã đến giữa sông”.

“Chém!”. Lưu Giác lạnh lùng ra lệnh.

Tri phủ sững người. Một quân sĩ được cử thi hành mệnh lệnh , nửa khắc sau đã đưa đầu tên lính gác về.

Tri phủ toát mồ hôi lạnh, Bình Nam tướng quân này sao nói chém là chém, còn không thèm liếc nhìn một lần.

Ánh mắt Lưu Giác lướt qua mặt các binh sĩ trên thành môn lầu, nói dõng dạc: “Hai nước Ninh, Trần đã ngừng chiến mười năm, biên cương yên bình, thông thương phồn thịnh. Nay Trần quốc đột nhiên xâm phạm Lâm Nam, có ý đồ xâm chiếm giang sơn chúng ta, bọn lang sói dã tâm, tất bị trời phạt! Nuôi binh ngàn ngày, chính là đợi lúc này, xả thân báo quốc, bảo vệ giang sơn, là chí hướng của nam nhi chúng ta!”

Quân sĩ rầm rầm hưởng ứng: “Nguyện cùng tướng quân bảo vệ Lâm Nam, đánh bại quân Trần!”.

Lưu Giác quyết đoán hạ lệnh cho tri phủ và quan thủ thành Lâm Nam, thực hiện triệt để quản chế quân sự, đồng thời trấn an thương khách và dân chúng. Một loạt mệnh lệnh như pháo nổ, liên tiếp từ miệng chàng ban ra, thấy chúa thượng điềm tĩnh xử trí, thái độ bình thản, quân sĩ hết lòng tin tưởng, từng người nhận lệnh răm rắp thi hành.

Lưu Giác đứng trên tường thành, nhìn về mặt sông, khi thủy binh của quân Trần cách thành Lâm Nam không quá năm chục trượng liền bị đội chiến thuyền của Ninh quốc chặn đánh, tên bắn như mưa, đã có thuyền áp sát thuyền địch, binh sĩ nhảy lên thuyền đánh giáp lá cà, tiếng hô “giết” động trời, Lưu Giác quan sát tình hình, biết thủy binh của Nam quân đã đến muộn, mặc dù vẫn còn chiến thuyền tiếp tục từ thủy trại đi đến, nhưng cục diện diễn ra vẫn không có trật tự bằng quân Trần.

Lúc đó đột nhiên trên mặt sông, một tiếng động vang như sấm, định thần nhìn ra, thấy Cố Thiên Tường mình vận áo bào trắng, chiến giáp, đứng trên lầu chiến thuyền lao vào thủy binh quân Trần, chiến thuyền phía trước và hai bên bố trí theo hình mũi tên, xông thẳng vào chiến thuyền địch. Tiếng trống đồn dập, không kịch liệt, nhưng sục sôi khiến người ta hồn bay phách lạc, sát khí hừng hực.

Cố Thiên Tường vô cùng phẫn nộ. Năm ngoái đã biết quân Trần muốn gây chiến, có dấu hiệu điều binh, chàng đã ngày đêm theo dõi, nhưng vẫn bị tập kích bất ngờ, để địch tiến gần Lâm Nam như vậy thủy quân mới triển khai thế trận nghênh chiến. Chàng phẫn nộ đích thân thúc trống cổ vũ tinh thần quân sĩ. Thấy thuyền đã vào khoảng cách có thể bắn tên, chàng giơ tay, cờ hiệu, biểu ngữ lập tức phất cao, trận mưa tên dày đặc bắn ra, hai bên bắt đầu giao chiến ở cự ly gần.

Thủy binh được cổ vũ bởi tiếng trống trận, chiến đấu rất anh dũng. Lưu Giác đứng trên tường thành nhìn rõ, lần tập kích bất ngờ này quân Trần đã có chuẩn bị, với thực lực của nước Trần, có thể huấn luyện được đội thủy quân binh lực ngang ngửa thủy quân của Ninh quốc, quân Trần tất đã âm thầm chuẩn bị từ lâu. Quân Trần tiến đánh bất ngờ, thủy quân của ta rõ ràng ở vào thế bất lợi. Chàng nhìn Cố Thiên Tường lúc này không đánh trống nữa, trực tiếp chỉ huy trận đánh, ngoài đội thuyền của chàng ta vẫn chưa rối loạn, các đội khác bắt đầu bị chọc thủng, đội hình sắp rối loạn.

Lưu Giác thét to: “Thiên Tường rút lui!”. Giọng chàng dùng hết nội lực, Cố Thiên Tường ở cách hơn trăm mét sững người, mắt sáng lên, một tay giật cờ hiệu trong tay binh sĩ, bắt đầu truyền lệnh.

Lưu Giác đứng trên tường thành, giang thẳng hai tay, tiếp ngay đó là tiếng trống “thùng thùng” dồn dập, quyết liệt hào sảng, nối nhau, dân chúng đứng trên triền núi phía xa, cảm động rơi nước mắt. A La đứng từ xa nhìn về phía thành môn lầu, thấp thoáng thấy một bóng người vận áo choàng đen, tay vung dùi trống mạnh mẽ và quyết liệt, khí thế tựa con rồng đen vùng vẫy, nàng bỗng giật mình, là Lưu Giác sao? Dáng chàng dũng mãnh kiêu hùng, mỗi động tác hừng hực toát ra khí phách nam nhi. Nghe tiếng trống hùng tráng, A La nghĩ đến lúc chàng ra tay cứu mình trong bữa tiệc ở Đông cung, nước mắt trào ra tự lúc nào.

Lúc này, dưới cờ hiệu của Cố Thiên Tường, chiến thuyền Nam quân rào rào di chuyển vào bờ, quân Trần lại tiến thêm hơn hai chục trượng về phía bờ. Trong khúc nhạc trống với sứ mệnh vĩnh hằng, hừng hực sinh khí không bao giờ cạn kiệt. Nam quân bình tĩnh nhanh chóng chấn chỉnh đội hình, tiếng hô “giết” chìm nghỉm trong tiếng trống.

Quân Trần thấy Nam quân nhanh chóng thay đổi thế trận, thấy sắp tiến đến gần thành môn lầu, vội vẫy cờ ra hiệu tiến nhanh hơn. Toán quân sĩ đứng trên thành môn lầu đang chán nản, bỗng nghe thấy một tiếng thét vang trời: “Đừng hòng chạy thoát!”.

Lưu Giác quẳng dùi trống, vung tay ra hiệu, trận mưa tên từ các cửa khẩu dưới chân tường thành bắn ra như mưa, như một con rồng đen điên cuồng vun vút xông vào đội thuyền của quân Trần. Chiến thuyền của Nam quân từ hai phía ven sông như đôi cánh khổng lồ giương lên bắt đầu phản kích. Đội tiên phong của quân Trần lại biến thành hậu ứng, lập tức rút về bờ bên kia, một số thuyền bị kẹt trong vòng vây không kịp trở tay, nhằm hướng bờ xông tới. Khi cách tường thành chỉ mười trượng, bị những tảng đá lớn trên thành lao xuống đập nát, từ phía chiến thuyền Nam quân dậy lên những tiếng hoan hô vang trời.

Trong trận này hai bên đều có tổn thất, thương vong tương đối, được cổ vũ bởi lần đầu xuất chiến thắng lợi, sĩ khí Nam quân dâng cao vạn trượng!

Lưu Giác nhìn chiến trường bên dưới, lộ vẻ mệt mỏi, nhưng lại lập tức che giấu. Chàng lấy lại tinh thần, nói to: “Tối nay tướng phủ mở tiệc khao quân!”.

Tướng sĩ phấn khởi, từ trên thành đi xuống, dân chúng tưng bừng nổi trống hoan hô, có thương hội cử người gõ trống khua chiêng mang rượu thịt đến mừng ba quân.

Vẫn còn sớm chưa đến giờ mở tiệc, Cố Thiên Tường bố trí xong thủy quân, không kịp cởi chiến giáp đi ngay đến phủ tướng quân. Lưu Giác thay chiếc áo chùng rộng màu xanh sẫm nằm trên sập, có hai lính hầu xoa bóp chân tay. Cố Thiên Tường hăm hở ngồi xuống ghế, lính hầu lập tức đưa khăn ấm, chàng đón lấy lau mặt. Lính hầu dè dặt hỏi: “Tướng quân có cần cởi giáp nghỉ ngơi một chút?”.

Cố Thiên Tường liếc nhìn chàng, sát khí trên người vẫn chưa tan, lính hầu lập tức ngậm miệng lui ra.

Lưu Giác hé mắt, lính hầu dâng trà, chàng đón lấy uống hai ngụm, chậm rãi nói: “Khó chịu hay sao?”.

Cố Thiên Tường trầm giọng hỏi: “Huynh nhận định thế nào?”.

“Nếu là huynh, huynh sẽ không ngốc đến mức chỉ dùng thủy quân tấn công chính diện, nếu như thế này đã có thể thành công, nước Trần đã khai chiến từ mấy năm trước. Để lâu như vậy, đột nhiên tập kích, họ không ngốc đến mức lại đến lần nữa, chúng ta có thể chờ thời cơ tốt hơn”.

Mắt Cố Thiên Tường dịu lại: “Huynh còn nhớ trò chơi thuở nhỏ của chúng ta không?”

Lưu Giác tròn mắt nhìn chàng ta: “Lại đây bóp vai cho huynh, mỏi chết được!”.

Cố Thiên Tường không nói gì, đứng dậy, Lưu Giác phát hoảng: “Thôi được rồi, đệ mà bóp không khéo nát vai huynh mất”. Thiên Tường tiến đến bên Lưu Giác, chàng lại phát hoảng, nhưng thấy chàng ta đã nằm trên sập nói với lính hầu: “Thay trà, bóp chân! Đệ ngủ một lát, huynh tự thu xếp”. Đoạn nhắm mắt như ngủ.

Lưu Giác dở khóc dở cười, lát sau mỉm cười thật sự, tinh thần phấn chấn đi ra khỏi phòng.

Cố Thiên Tường nhắm mắt, ý nghĩ quay trở về nhiều năm trước, khi Lưu Giác và chàng chơi trò đánh trận. Lúc đó chàng đã dùng chiêu này để ăn quá nửa binh kỳ của Lưu Giác. Chàng hét: “Thiên Tường rút đây, mặc cho huynh liều mạng tấn công!”. Lưu Giác suy nghĩ hai ngày, khi gặp lại, chàng ta đã phá được chiêu này của chàng, chia hai cánh quân bao vây, chặn đường rút, đắc ý nói: “Huynh chặn chân đệ, để cho đệ phải lăn lộn trên đất!”. Nghĩ đến đây, nét mặt chàng đã dịu lại, nhắm mắt ngủ thiếp. Mọi người trong Thường Lạc tửu quán cũng rất vui, thất phu nhân nói: “Nếu thành Lâm Nam dễ bị phá như thế, thì đã đánh nhau từ mười mấy năm trước rồi”. Hổ Tử líu lo: “Hổ Tử cũng muốn làm tướng quân”.

Mọi người vui vẻ cười ồ.

“Phu nhân à, già thấy mọi người không nên chuyển đi. Có chuyện gì cả nhà cùng ở một chỗ mới có thể giúp nhau”. Vú Trương nói.

A La thở dài. Hôm đi chơi quan sát bên sông, phát hiện dãy Tây Sơn địa thế hiểm trở, mà lại không ở vị trí tiền tiêu, có đường rút lui, vốn định chuyển đến đó, nhỡ xảy ra chuyện biết đâu có thể lén chạy trốn. Bây giờ chiến sự xảy ra, mặc dù đã đánh lui thủy quân của nước Trần, không biết liệu có trận thứ hai, trận thứ ba, lúc đầu ở phân tán là sợ liên lụy đến gia đình vú Trương, bây giờ ở chung mới dễ giúp nhau. Nàng mỉm cười tán thành: “Đương nhiên, chúng ta ở chung”.

Trở về phòng, lại không ngủ được, cũng không đốt đèn sợ ảnh hưởng đến thất phu nhân và Tiểu Ngọc, nàng khoác áo ngồi dậy thẫn thờ. Trước mắt lại vụt hiện bóng dáng kiêu hùng của Lưu Giác lúc đánh trống trận. Bắt đầu từ phút đó cho đến lúc rời đi, mắt nàng không hề rời khỏi Lưu Giác trên thành môn lầu. A La cảm thấy, lúc đó nàng thực sự có cảm giác sùng bái người anh hùng ấy, chợt mỉm cười, trước đây nàng còn không quan tâm Lưu Giác là người thế nào.

Ngũ đại công tử Phong thành đều ngoại hình tuấn tú, dáng vẻ quý phái: Tử Ly tuấn tú an nhiên, nụ cười bất biến trên môi, trông thân thiện dễ gần nhất, nhưng luôn phảng phất buồn; Thành Tư Duyệt trẻ tuổi đã sớm thành danh, phong lưu mã thượng; Cố Thiên Tường có vẻ đẹp lạnh lùng, thâm trầm như tảng băng, thỉnh thoảng mới thấy cười, dù có nói nhiều cũng không thay đổi được ấn tượng này.

Còn Lưu Giác, vừa gặp đã biết là người tự mãn, cao ngạo, ham hố báo thù, là kiểu công tử được nuông chiều chơi bời bạt mạng. Chính chàng ta lệnh cho người khiêng kiệu giở trò khiến nàng nôn thốc tháo, lại còn ép nàng học đàn, bắt nàng đánh khúc “Bội lan”, vậy mà trong bữa tiệc ở Đông cung, lại có gan đứng ra cứu nàng, dù không trực tiếp đối đầu với thái tử, nhưng ngữ khí cứng rắn hàm ý bất luận thế nào cũng sẽ bảo vệ nàng đến cùng. Đêm hôm đó, A La dường như nhìn nhận lại con người chàng, để cho chàng cưỡi ngựa hộ tống về phủ. Lại còn sau lần gặp sát thủ giữa đường, chàng một lòng chân tình hứa suốt đời suốt kiếp che chở bảo vệ nàng, lúc đó A La đã muốn buông mình trong vòng tay chàng. Ba năm trước, khi đốt cầu phao, từ xa nàng nhìn thấy Lưu Giác ở bờ bên kia, khoảng cách lớn như vậy, nhưng nàng vẫn cảm nhận được nỗi đau đớn phẫn nộ của chàng, khiến nàng không dám nhìn sang. Về sau lại nghe nói chàng dẹp sơn tặc, chỉnh đốn Nam quân cứng rắn, quyết đoán. Lưu Giác tựa hồ thiên biến vạn hóa, khiến nàng nhìn không thấu, đoán không ra.

A La mơ màng nghĩ, ba năm nay hình như mình chưa hề quên chàng, rồi khép áo từ từ đi vào giấc ngủ . Ban đêm vào dịp tuyết đầu mùa và bắt đầu có sương mù, trăng thanh sao thưa thớt. Từ vách đá dãy Tây Sơn trên sông Hán Thủy gần thành Lâm Nam đột nhiên ló ra mấy bóng đen, nhìn hành động rõ ràng là cao thủ, họ lặng lẽ lần xuống chân núi, đầu nhấp nhô, sau vài động tác đã bò lên tới mặt tường thành.

Tên cầm đầu vừa vung tay, một lưỡi đoản kiếm lóe ra, cơ thể nhẹ nhàng như một con mèo bước êm ru đến sau lưng một lính gác, vừa vung tay đã kết thúc tính mệnh người lính như cắt một miếng đậu phụ. Lưỡi kiếm đen bóng, đường kiếm sắc lẹm như rạch trên giấy, binh sĩ kia đáng thương kinh hoàng chưa kịp kêu, yết hầu đã bị cắt đứt, máu chưa kịp phun, người đã đổ ập xuống.

Một tên khác nhanh chóng lột y phục trên người binh sĩ, một tên khác kéo thi thể giấu sang một bên, giây lát sau, trên tường thành đã xuất hiện một lính gác mới. Mấy bóng đen chờ thêm hai khắc, không thấy động tĩnh gì, mới thả những cái móc câu có dây đu đầu kia của tường, lính gác nhìn về bên này, hành động của những bóng đen đã bị vách đá che khuất, họ chỉ nhìn thấy tên lính giả đứng thẳng như thanh kiếm dưới trăng.

Không lâu sau, có mười tên từ vách núi Tây Sơn lọt vào thành. Tên cầm đầu làm mấy động tác tay ra hiệu, mười tên lẹ làng từ đỉnh núi bắt đầu thâm nhập xuống dưới. Gặp người, không biết chúng dùng pháp thuật gì, ngay cả chó cũng không kêu một tiếng, chúng lặng lẽ đột nhập vào khu dân cư, người dân đang ngủ bị điểm huyệt, rơi vào giấc ngủ li bì, dù tỉnh lại không có bất kỳ nghi ngờ gì.

Trên núi đã có hơn hai chục thi thể. Bọn chúng hành động mau lẹ thận trọng, lần theo đường mòn xuống núi, gặp dân thường đều nhất loạt xử lý như vậy. Không lâu sau chúng đã mò được vào trong quán rượu của vú Trương, tên cầm đầu phục ở sườn núi quan sát bên dưới, nhìn khuôn viên gồm ba dãy nhà của vú Trương, xung quanh không có nhà liền kề, sau lưng là rừng núi, rất tiện để ẩn giấu binh mã, mắt sáng lên, lẳng lặng dùng tay ra hiệu cho đồng bọn, những bóng đen bay qua tường vọt vào bên trong nhẹ nhàng như những con dơi.

Cùng lúc, trong khu rừng gần đó, ba binh sĩ Minh tổ thuộc Ô y kỵ phụng mệnh Lưu Giác bảo vệ A La. Do trời lạnh họ lần lượt nhảy lên cây, sau khi cử một người canh gác, mỗi người chọn một ví trí thích hợp tranh thủ chợp mắt. Người lính gác bỗng dỏng tai, căng mắt nhìn, kinh ngạc nhận ra những bóng đen nhảy vào trong quán, nhìn thân thủ biết không phải thuộc hạ của mình. Y nhanh chóng nhận định tình hình, đối phương có khoảng hơn mười tên, bên này chỉ có ba, nên không dám manh động, chỉ khẽ đánh thức hai người kia. Ba người cùng quan sát, hợp tác lâu ngày họ lập tức có phương án, để một người quay về tướng phủ báo tin, hai người lặng lẽ áp sát quán rượu.

Khi những bóng đen bay vào sân, A La vừa khép áo, nằm xuống, đang mơ màng chưa ngủ, đột nhiên nghe tiếng then cửa “cạch” một tiếng. A La mở mắt mơ màng liếc về phía đó, trên rèm giấy cửa sổ in hình một bóng đen, then cửa nhẹ nhàng di chuyển. Nàng hoảng sợ toát mồ hôi, theo phản xạ định nhảy xuống giường, nhưng lại nghĩ như thế không được, then cửa bị mở, chứng tỏ bên trong có người, chăn chiếu vẫn còn hơi ấm, bọn đột nhập nhất định phát hiện ra nàng. Trong lúc cấp bách, nàng vội vàng trèo qua đầu giường, nấp vào cạnh tủ, thuận tay vớ được cái kéo tỉa cành cây.

Thấy cửa bị đẩy nhè nhẹ, một bóng đeo lao đến giường, A La không kịp nghĩ, tay cầm kéo xông ra đâm. Không đợi tên này kịp kêu, nàng dùng tay xỉa mạnh một nhát, đánh ngất tên đó. Tim đập thình thịch, tay nhanh nhẹn lột mạng che mặt, không phải Lưu Giác. Là một người đàn ông lạ. A La thở hổn hển, không biết người này có phải do Lưu Giác sai đến bắt mình hay không. Lại nhìn ra ngoài cửa sổ lờ mờ thấy mấy bóng đen di chuyển.

A La giật thót người, nàng ít nhiều cũng biết vài miếng võ, tuy không sánh được với cao thủ võ lâm ở đây, nhưng vẫn có thể xuất vài chiêu. Nhưng thất phu nhân, Tiểu Ngọc và vú Trương không biết gì, tay trói gà không chặt. Lòng nóng như lửa đốt, nàng lột quần áo của tên này mặc vào người, nhắm mắt, lại xỉa thêm nhát nữa. Nàng không biết rằng, tên bịt mặt dễ dàng từ trên núi lọt vào đây, cho rằng khu này chỉ toàn dân thường, nên không cảnh giác, lại thêm A La ra tay rất nhanh, vì vậy vừa rồi nàng mới dễ dàng đánh gục.

A La bịt mặt ra khỏi phòng, mấy bóng đen bên ngoài không nói gì, chỉ nhìn nàng, A La vội gật đầu, nhìn về phía phòng của thất phu nhân và Tiểu Ngọc, thấy hai bóng đen vác họ ra. Lòng đau đớn, không kìm nổi, muốn ra tay, nhưng đối phương có bốn người, nàng tuyệt đối không phải là đối thủ của chúng. Chỉ thấy tim đập dữ dội, mồ hôi túa đầy tay. Lặng lẽ theo chúng đi ra giữa sân, A La giật mình, có tới mười bóng đen bịt mặt trong sân. Chúng vứt thất phu nhân, Tiểu Ngọc và bốn nhân khẩu nhà vú Trương trên nền, lại quay vào nhà, để lại hai tên đứng trông, không đốt đèn. Trong ánh trăng mờ, một tên nói: “Còn mười canh giờ nữa mới đến giờ hành động, xử trí thế nào?”.

Tên cầm đầu nghĩ một lát, nói: “Đôi vợ chồng có lẽ là chủ quán, để lại, còn lại, giết!”.

A La hốt hoảng, lại nghe một tên nói: “Có hai đứa rất đẹp”.

Tên cầm đầu sẵng giọng: “Đừng quên thân phận và nhiệm vụ của ngươi ở đây!”.

Tên bịt mặt quỳ sụp, A La chân mềm nhũn, cũng quỳ theo. Ngay sau đó hai tên đi đến cạnh thất phu nhân và mấy người nằm ngổn ngang, vung đoản kiếm định đâm, A La không kịp nghĩ, tung chân đá chặn, miệng hô: “Cứu với!”.

Giọng nàng lanh lảnh, hai binh sĩ Ô y kỵ bên ngoài nhìn nhau, vọt tường nhảy vào. Mấy tên bịt mặt trong sân kinh ngạc tột cùng, xông vào A La, nàng vừa đánh vừa né, thầm nghĩ như thế này ít nhất bọn chúng cũng không kịp giết thất phu nhân và mọi người. Nàng chỉ đá mấy nhát, xỉa mấy nhát rồi chạy vụt ra ngoài.

Lúc đó hai binh sĩ của Minh tổ đã bắn pháo hiệu, bọn áo đen túm tụm lại một chỗ. A La nghe thấy tiếng gió đằng sau lưng, né người tránh, một binh sĩ lao đến đứng chắn bảo vệ nàng.

Bọn áo đen kinh ngạc không biết cao thủ ở đâu xuất hiện, nhìn thấy khói hoa màu xanh tím nổi bật trên bầu trời đêm, tên cầm đầu vẫy tay ra hiệu, bọn người áo đen ra tay càng mạnh.

.

Chương 17

.

Trong phủ tướng quân thành Lâm Nam, các tướng lĩnh ăn uống nói cười rôm rả. Một người nâng cốc rượu nói: “Mạt tướng kính tướng quân một chén, khúc trống trận của tướng quân hôm nay quả thực chấn động đất trời! Khiến quân Trần sợ vãi ra quần!”.

Mọi người tới tấp đứng dậy, nâng cốc, nói: “Nhờ diệu kế của tướng quân mà đánh lui kẻ địch. Mạt tướng khâm phục!”.

Lưu Giác cười, uống hết chỗ rượu trong cốc. Đột nhiên có người hỏi: “Sao không thấy Thiên Tường tướng quân? Mạt tướng đang muốn chúc rượu tướng quân”.

“Thiên Tường tướng quân hôm nay mất sức nhiều, đã đi nghỉ rồi”. Lưu Giác cười giải thích, nâng cốc rượu trong tay, nói: “Quân Trần không biết lượng sức dám đánh lén chúng ta, đến một lần chúng ta tiêu diệt một lần, để chúng biết uy danh của Nam quân! Nào, ta kính chư vị một chén!”.

Mọi người cùng cười uống cạn.

Khi tiệc tàn, Lưu Giác trở về thư phòng, đột nhiên cảm thấy tâm thần bất an. Phàm những nơi có thể tập kích chàng đều đã bố trí canh gác, định để cho quân Trần tiến vào Lâm Nam, để chúng đánh lén suôn sẻ, nhân đó dụ địch vào bẫy, đồng loạt phản công, giáng đòn chí mạng. Kế sách chàng đã nghiền ngẫm nhiều lần, lại đàm luận tỉ mỉ với Cố Thiên Tường, đảm bảo không có kẽ hở, lúc đó mới yên tâm mở tiệc. Nhưng tại sao lòng đột nhiên bồn chồn bất an, nghĩ mãi không hiểu do đâu.

Chàng bước ra sân, hải đường vẫn đang nở rộ. A La, A La! Lòng chàng đau như cắt, bất chợt nhìn về dãy Tây Sơn, lúc đó Lưu Anh vội đi vào: “Chúa thượng, tam tiểu thư xảy ra chuyện rồi!”.

Lưu Giác cảm thấy trong đầu “ầm” một tiếng. Lưu Anh nói: “Người của Minh tổ cấp báo, có mười tên bịt mặt nhảy vào quán trọ của tam tiểu thư, đoán là do thám của quân Trần, nghe nói đều là cao thủ”.

Giữa trời trên đỉnh Tây Sơn phụt lên một đám khói màu xanh tím, ngưng tụ trong đêm, giống lưỡi dao đâm nhói vào tim chàng, nếu không khẩn cấp, Minh tổ sẽ không phát tín hiệu đó. Mỗi kỵ binh của Ô y kỵ đều được trang bị pháo hiệu, tín hiệu có tin cấp báo và cứu viện khẩn cấp khác nhau. Ba binh sĩ của Minh tổ được chàng phái đi bảo vệ A La đều là những cao thủ hàng đầu. Nhìn thấy màu sắc tín hiệu, chàng thậm chí không dám nghĩ đến tình hình bên đó. Lòng như lửa thiêu, phủ tạng như bị dao đâm. Đối mặt với trận tập kích bất ngờ của địch, chàng vẫn mỉm cười, bình tĩnh chỉ huy, nhưng bây giờ, Lưu Giác cố không nghĩ, lập tức mang theo binh lính và Ô y kỵ nhằm dãy Tây Sơn lao đi.

Lúc đó, ba tử sĩ của Minh tổ đang giao đấu ác liệt với mười ba tên áo đen để bảo vệ A La, hai người đã bị thương. Bọn áo đen võ công cao cường, nhưng không ngờ, hai người mới đến lại liều chết kháng cự, giao chiến lâu như vậy mà vẫn có thể phản kích. Tên cầm đầu tính thời gian, có vẻ sốt ruột, nếu trong hoàn cảnh khác, thời điểm khác, chưa biết chừng do tiếc cho tài của họ hắn sẽ thả họ đi. Nhưng bây giờ cần tốc chiến tốc thắng. Hắn xoáy người bay vào vòng chiến, đoản kiếm nhằm tử sĩ Minh tổ vung lên, lưỡi kiếm giữa chừng lại đổi hướng, đâm xéo về phía A La.

Lưỡi kiếm đen sì, trong đêm chỉ có tiếng gió rít, không hề thấy phản quang. Sự đổi hướng đột ngột của đường kiếm khiến A La tránh không kịp, lúc đó một tử sĩ Minh tổ lấy thân chắn trước mặt A La, đoản kiếm “phật” một nhát trúng ngực anh ta, tử sĩ đó nghiến răng chịu đau, trở tay đẩy A La, thét xé họng: “Bảo vệ tam tiểu thư, chạy đi!”.

Tử sĩ kia ánh mắt phẫn nộ, không kịp nhìn huynh đệ bị thương, vội nắm tay A La bay vọt qua tường bao. Người áo đen “hừ” một tiếng, tay cầm kiếm lao theo. Hai bên giao chiến trên không, tử sĩ Minh tổ không còn sức để tránh, A La bị kéo bay lên chỉ cảm thấy mắt hoa, không thể nhận ra lưỡi kiếm phía sau phi đến. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, một mũi tên bắn trúng lưỡi kiếm đang phi tới, “choang” một tiếng, lưỡi kiếm rơi xuống nền đá.

Tử sĩ Minh tổ đưa A La nhảy xuống bên ngoài tường viện, nhìn thấy Lưu Giác và Ô y kỵ đã đến, thở phào, rồi ngất đi. A La ngơ ngác, cũng không nhìn Lưu Giác, quay người chạy vào trong sân.

Lưu Giác thấy A La bằng xương bằng thịt đứng trước mặt, lòng nhẹ nhõm, nỗi lo lắng thắt gan thắt ruột vừa rồi bỗng tiêu tan. Lại thấy A La bỏ chạy, chàng cau mày, nhún người vọt lên, đứng chắn trước mặt nàng. A La ngẩng đầu nhìn chàng, nước mắt ứa ra: “Mẹ ta và mọi người vẫn còn trong đó”.

Lưu Giác dịu dàng: “Đừng lo, nàng nghỉ đi”.

A La dừng chân, lau nước mắt, thấp thỏm nhìn vào trong tường.

Lưu Giác thầm rên, cố kìm nỗi khát khao ôm nàng vào lòng, nói to: “Những người trong kia nghe đây, ta là Lưu Giác Bình Nam tướng quân của Ninh quốc, đã đợi các người từ lâu, bỏ kiếm đầu hàng, sẽ được tha mạng!”.

“Phịch!”. Bên trong ném ra một xác chết, chính là xác tử sĩ Minh tổ trúng kiếm. A La kinh hoàng kêu lên, vội bịt miệng, binh lính và Ô y kỵ mắt vằn phẫn nộ, nhất loạt tuốt kiếm. Lưu Giác đến bên xác chết, cởi áo xem vết thương, khi đứng lên sát khí đã bừng bừng toàn thân, mắt lóe lên làn sương màu đỏ uất hận. Chàng quay đầu nói với Lưu Anh: “Hộ tống tam tiểu thư về phủ”.

A La kinh ngạc kêu lên: “Ta không đi, ta đợi mẹ và mọi người!”.

Lưu Giác không muốn nàng chứng kiến cảnh máu đổ, nói: “Nàng cùng Lưu Anh về trước, ta sẽ đưa mẹ nàng và mọi người về sau”.

A La tạm yên lòng, vẫn đứng yên giọng kiên quyết: “Hôm nay nếu chàng không để ta nhìn thấy mẹ và mọi người an toàn trở về, ta sẽ hận chàng suốt đời!”. Nàng biết đứng đây cũng chẳng làm gì, nhưng vẫn không yên lòng, đành ép Lưu Giác.

Lưu Giác đang định nói thì cổng sân bật mở, mười ba người áo đen đi ra, thất phu nhân và mọi người bị điểm huyệt đứng ngây một bên.

A La không kìm nổi kêu lên: “Mẹ!”.

Thất phu nhân đứng yên không mở miệng được, nước mắt ứa ra, A La lòng như dao cắt. Lưu Giác cười đau khổ, bọn chúng thật khéo tìm, bắt đúng thất phu nhân của tướng phủ, chàng thở dài.

Toán áo đen ra khỏi sân, thấy quán rượu đã bị bao vây, đốt đuốc sáng trưng như ban ngày, lại thấy viên tướng trẻ tuổi đứng đầu đoàn quân, nụ cười trên môi, ánh mắt lạnh hơn nước sông Hán Thủy, bất giác rùng mình, tên cầm toán áo đen mắt trừng trừng nhìn trả, bỗng cười ha hả: “Sớm nghe đại danh Bình Nam tướng quân thủ đoạn lợi hại, hôm nay diện kiến, quả nhiên khí độ phi phàm. Không biết bọn ta nên hối hận đã vào nhầm nhà hay là nên mừng vì bắt được nhân vật được Bình Nam tướng quân coi trọng”.

Lưu Giác kinh ngạc, không ngờ ánh mắt tên cầm đầu lợi hại đến thế, lại dám nhìn thẳng vào mình, nhưng miệng vẫn cười: “Đầu hàng đi! Khai kế hoạch của bọn bay, vẫn là câu đó, ta sẽ tha tội chết”.

Bọn áo đen cười sằng sặc: “Các ngươi tưởng chúng ta ham sống sợ chết ư? Chúng ta đã đến là không mong sống trở về!”.

Lưu Giác vung tay, quân sĩ xung quanh soàn soạt tra tên vào cung, chỉ chờ lệnh là bọn người trước mặt sẽ bị tên găm, trở thành những con nhím, A La kinh hãi, trợn mắt nhìn Lưu Giác, hét thất thanh: “Đừng!”.

Lưu Giác cau mày, nhìn thấy vẻ đắc ý trong mắt bọn áo đen, thầm than thở, đúng là ném chuột sợ vỡ bình quý. Chàng hít mạnh, ép ra sát khí trên người, lớn tiếng quát A La: “Nàng im ngay, thả hổ về rừng để bọn chúng phá kế hoạch của ta, thà để chúng chết ở đây! Lẽ nào vì mấy mạng sống này mà hại bách tính toàn thành rơi vào hỏa chiến? Lẽ nào nàng vì mấy người thân của mình khiến ngàn vạn tướng sĩ của ta bỏ mạng?”.

A La bị ánh mắt thúc ép của chàng, liên tục lùi về sau. Lưu Giác không nói sai, nước Trần tuyệt đối không vì bị thua một trận mà không đánh tiếp. Mấy người này chắc là kỵ binh được phái đến công phá thành Lâm Nam, giữ họ lại, làm theo mưu kế đã định, là có thể dụ quân Trần rơi vào bẫy của quân ta. Chỉ cần đại phá quân Trần, làm tổn thương nguyên khí của họ, mới có thể tránh được họa chiến tranh, A La rơi nước mắt, nhưng sao nàng đành lòng nhìn Lưu Giác hạ lệnh bắn chết thất phu nhân và mọi người, nếu để cho họ chết như vậy, suốt cả đời nàng cũng không thể tha thứ cho bản thân, làm sao nàng có thể chỉ giữ mạng sống cho mình! Nàng phải liều một phen, nếu thua thì cùng chết, nếu thắng có thể cứu được họ! A La đã quyết, nhanh tay rút thanh kiếm của binh sĩ đứng bên, kề vào cổ mình, đi giật lùi vào sân.

Lưu Giác hét lên: “A La nàng định làm gì?!”.

“Ta hiểu, là không thể thả người đi, ta đảm bảo không để cho bá tính toàn thành chịu cảnh binh đao, nhưng, ta cũng không đành nhìn người thân chết trước mặt. Ta không trách chàng, thật sự không trách chàng. Ta phải cùng chết với mọi người!”.

Lưu Giác vừa lo lắng, tức giận vừa bất lực nhìn A La chầm chậm đi giật lùi vào sân. Nàng đột nhiên nháy mắt cười với chàng, dưới ánh trăng, nụ cười như hoa nở, đẹp đến mê mẩn, tim chàng đập lỡ một nhịp, hơi thở như ngừng lại, cơ toàn thân co rúm, không dám chớp mắt, đăm đăm nhìn người chàng yêu dấu dịch chuyển từng bước.

A La từ từ đi đến trước mặt tên cầm đầu toán áo đen, nhìn thẳng mắt hắn, chĩa mũi kiếm về phía hắn, thản nhiên cất tiếng cười: “Giải huyệt cho mẹ ta và mọi người, đằng nào bọn ta và các ngươi cũng chết cùng nhau!”.

Tên này kinh ngạc nhìn con cá lọt lưới, thầm nghĩ, chính người này làm hỏng mưu kế của bọn ta, còn giết một cao thủ của ta, bây giờ lại lựa chọn cùng chết với người thân! Mắt hắn vô tình lộ vẻ tán thưởng.

Lúc này A La vươn tay cởi dải băng quấn trên đầu, mái tóc dài óng ả sổ tung, xõa đến thắt lưng, ánh mắt long lanh đăm đăm nhìn tên thủ lĩnh.

Hóa ra y là con gái! Tên áo đen lộ vẻ kinh ngạc, loại đàn bà quyết liệt như thế này, hắn chưa từng gặp. Sức chú ý của hắn bỗng chốc bị phân tán vài phần.

A La nhẹ nhàng cởi chiếc áo đen bên ngoài, làn áo mỏng bên trong lập tức tung bay. Nàng biết chỉ cần gió thổi, gió lùa vào áo, cảnh tượng sẽ đẹp đến thế nào. Nàng nhoẻn miệng cười, toàn thân giống như nữ chúa sơn thần rực rỡ tỏa hào quang, lại như một bóng ma mê hoặc trong đêm.

Tên áo đen hoàn toàn sững sờ, sao nàng ta lại đẹp đến thế! Nàng ta cười với hắn, tim hắn đột nhiên giật thót, hắn ngây ngất nhìn tấm thân mảnh dẻ thướt tha trong làn áo mỏng bay bay.

Hắn chớp chớp mắt, muốn xua đuổi sức cám dỗ trước mặt. Nhưng chính trong tích tắc hắn thất thần, Lưu Giác vận hết nội lực giương cung bắn vào tên cầm đầu, Lưu Anh và những binh sĩ khác vọt người xông lên. Tên áo đen lắc đầu tránh mũi tên, A La lập tức cầm kiếm lao đến đứng chắn trước mặt thất phu nhân và mọi người.

Lưu Giác lao đến như tia chớp, kịp thời chặn đòn của tên cầm đầu đang muốn tiếp tục khống chế A La và mấy người nhà. Tử sĩ của Minh tổ theo sát chàng, lập tức tách họ ra, vây chặt bọn áo đen. Toán lính vòng ngoài gương cung, nhằm thẳng bọn chúng.

Tên cầm đầu sững người, cười chua chát: “Thôi được, chỉ trách ta tâm trí không kiên định, lại bị mê hoặc bởi nụ cười của người đàn bà kia”. Nói đoạn, hắn liếc nhìn A La.

A La giật mình, ánh mắt tên này như dã thú hung bạo không thể thuần phục.

“Còn không mau đầu hàng?”. Lưu Giác cười khẩy.

Quán rượu nhỏ bỗng yên lặng khác thường. Tên cầm đầu đột nhiên cười sằng sặc: “Vậy ra tay đi!”. Lời dưa dứt, mười hai tên kia lập tức đứng quây lấy hắn.

Lưu Giác thở dài, với bọn liều chết này, chàng biết sẽ không moi được gì từ chúng, bèn khẽ ra lệnh: “Bắn”.

Các tử sĩ tay vừa buông, tên vun vút như mưa bay vào toán áo đen. Mười hai tên khua kiếm gạt tên, bảo vệ tên cầm đầu. Hắn đột nhiên hét một tiếng. Bốn tên nhảy lên vai những tên khác, tạo thành bức tường sống chắn làn mưa tên. Lưu Giác kinh ngạc, xúc động, tên cầm đầu sau vài động tác nhún người, vận nội công bay vọt qua bức tường ra ngoài như một bông tuyết, còn kịp quay đầu chém phăng đầu những tên vừa đứng làm bức tường sống, chạy vút về phía cánh rừng. Trên không vọng lại tiếng cười điên dại: “Sẽ còn gặp lại!” Những kẻ khác bị trúng tên, khi thấy tên cầm đầu bỏ chạy lập tức nuốt thuốc độc tự vẫn.

Lưu Giác kinh ngạc nhìn cảnh tượng trước mắt, không biết tên áo đen võ công không thua kém mình đó lai lịch thế nào, mà đáng để mười hai cao thủ xả thân cứu. Không lâu sau, binh sĩ đuổi theo quay về bẩm báo: “Người đó nhảy xuống sông Hán Thủy ở quãng vách đá Tây Sơn”.

Lưu Giác trầm ngâm hồi lâu, rồi ra lệnh: “Về phủ! Mời Thiên Tường tướng quân tối nay tăng cường cảnh giới, cho quân chốt ở cả ba cổng thành đông, tây, nam sẵn sàng đợi lệnh”.

Binh sĩ rút khỏi quán rượu, trong sân chỉ còn Lưu Giác và Ô y kỵ.

Thất phu nhân và mọi người đã được giải huyệt, khóc như mưa, A La cảm thấy chân tay mềm nhũn, ngồi phịch xuống sân. Đột nhiên cảm thấy người ấm sực, Lưu Giác đã cởi áo bào khoác lên người nàng.

A La ngước nhìn, khuôn mặt tuấn tú của Lưu Giác thâm u như nước lạnh, mắt đăm dăm nhìn nàng. Lúc đó nàng mới cảm thấy lạnh, xốc áo bào trên vai, thầm nghĩ, ba năm không gặp chàng đã được tôi luyện trở thành một người đàn ông thực thụ. Lưu Giác cúi nhìn thân người run run của A La, bất giác nghiến răng, mắt hằn lên sự tức giận.

A La buồn bã cúi đầu, nhưng vẫn không chịu tỏ ra yếu thế, nói khẽ: “Ta chỉ lo lắng mà thôi”.

“Lo lắng? Lo lắng đến mức để cho chúng biết giá trị của mình?”.

Giọng Lưu Giác trở nên lạnh lùng vô tình như vậy từ bao giờ? A La từ từ đứng lên, nhìn thẳng chàng: “Ta không thể sai khiến thuộc hạ như chàng; cũng không thể ở trong quân doanh bàn mưu tính kế khi quân địch đến đoàng hoàng ứng phó như chàng? Làm sao ta không lo lắng? Ta có bình tĩnh đến mấy cũng không phải là người máu lạnh! Đúng, chàng có dự định của chàng, nếu ta không lên tiếng, có lẽ chúng không biết người bị bắt quan trọng thế nào, nhưng nếu chàng cho rằng ta có thể giấu kín ý đồ, nước đến chân vẫn không vội, thì tiểu vương gia chàng đã đánh giá ta quá cao! Nhưng, tóm lại là ta không đủ bình tĩnh, phá hỏng kế hoạch của chàng, cho nên ta làm vậy, xấu nhất cũng chỉ là muốn phân tán sự chú ý của bọn chúng để chàng khỏi bắn chết tất cả mà thôi!”.

Lưu Giác nghe đến câu cuối cùng, lòng run run, người co rúm, đau nhói tâm can, cố hít mấy hơi dằn lại. Không phải chàng trách nàng không bình tĩnh, khi thấy nàng dùng kiếm uy hiếp, đi giật lùi về phía bọn áo đen, lòng chàng thắt lại, khen cho nàng còn nói thẳng ra, nếu không được thì để chàng ra lệnh bắn chết cả nàng! Lưu Giác đau đớn nhìn nàng, nhưng A La lại không hiểu lòng chàng, nàng không biết ba năm nay tình cảm của chàng đối với nàng đã sâu nặng thế nào, nhớ nhung điên cuồng thế nào, nàng lại còn cho rằng chàng có thể ra tay giết nàng! Hai mắt chàng bốc lửa, lúc này chàng hận là đã không thể giết nàng.

A La cảm thấy từ người chàng tỏa ra từng trận khí lạnh, ánh mắt như muốn nuốt sống nàng, tự dưng thấy sợ thần thái này của chàng. Nàng khép chặt tà áo bào, nàng không để giọng phát run: “Ta không trách chàng nửa câu, thật đấy, dù lúc đó chàng ra lệnh bắn chết ta, ta cũng không trách chàng. Nếu là ta, ta cũng sẽ làm như vậy. Chàng không sai. Nhưng cho ta làm lại, ta vẫn làm như thế”.

Lưu Giác càng thêm hận. A La không trách chàng, nhưng sao nàng không chịu hiểu lòng chàng? Nếu lúc đó nàng có mệnh hệ gì, chàng lắc lắc đầu, quả thật không dám nghĩ tiếp. Sao nàng dám dọa chàng như vậy. Chàng giơ tay điểm huyệt, bế nàng nhảy lên ngựa, nói với đám binh sĩ: “Đưa thất phu nhân và a đầu về phủ”. Nói đoạn thúc ngựa phóng đi.

A La không thể động đậy, miệng không thể nói, trợn mắt nhìn Lưu Giác, thấy mặt chàng sa sầm, không thèm nhìn mình, nàng thở dài. Đúng là nàng không trách chàng, trái lại rất cảm động, có lẽ Lưu Giác đã biết tung tích nàng ngay từ khi nàng mới đến Lâm Nam. Hai tử sĩ liều chết bảo vệ nàng, một người đã mất mạng, nếu chàng không cử người bảo vệ, chắc là nàng đã chết trong tay bọn áo đen. Nàng cũng đâu có ngốc mà không hiểu rằng, nếu Lưu Giác không có lệnh, sao hai người đó chịu xả thân cứu nàng!

Trở về phủ tướng quân, chàng ôm A La vào phòng, cũng không giải huyệt cho nàng, sai bảo hầu nữ: “Cho nàng ấy tắm, thu xếp một chút!”.

A La giương mắt nhìn chàng đặt mình xuống rồi bỏ đi, sau đó mấy hầu nữ đến cởi áo cho nàng, A La đỏ mặt, nhắm mắt, bắt đầu chửi thầm Lưu Giác, mình đã nói không trách chàng ta, còn nói rõ nguyên nhân vậy mà vẫn chơi xấu như thế! Đằng nào nàng cũng không động đậy được, cứ để bọn họ làm gì thì làm.

Nàng dần dần bĩnh tĩnh trở lại, mọi sự việc diễn ra trong đêm lần lượt diễu qua trước mắt như đèn cù. Bọn người áo đen này lén đột nhập vào thành có lẽ là chuẩn bị phối hợp với quân Trần bên ngoài, thấy địa thế quán rượu thích hợp muốn nghỉ chân, đợi đến giờ hẹn sẽ hành động. Bọn chúng đã nói còn hơn mười canh giờ là đến thời điểm hành động ngày mai, mười canh giờ! A La lo lắng, nhẩm tính thời gian, chẳng phải là giờ Hợi tối mai sao? Nếu tên cầm đầu chạy về, quyết định hành động sớm hơn, thời gian càng gấp. Nàng không biết huyệt đạo khi nào có thể giải, khi nào Lưu Giác quay lại, chỉ có thể nhắc mình phải bình tĩnh. Nàng không biết thái độ Lưu Giác thế nào, xem ra chàng rất bực. Vốn dĩ chuyện hai nước giao chiến nàng không quan tâm, nhưng khi chiến sự xảy ra, nàng không muốn Lưu Giác bại trận.

Hầu nữ thay quần áo xong đặt A La lên giường. Nàng tiếp tục thầm ôn lại quá trình sự việc, nhắm mắt, mỉm cười. Chàng quan tâm tới mình ư?

Lưu Giác nghị sự xong vội trở về phòng, thấy A La dường như không còn sức lực, yếu ớt nằm trên giường, khuôn mặt vừa tắm táp trở nên hồng hào, chàng ngây người giây lát. Ba năm không gặp, A La đã đẹp hơn nhiều, càng trở nên hấp dẫn, chàng lặng lẽ đứng nhìn, thấy miệng nàng động đậy rồi bật cười. Nỗi bực kìm nén bấy lâu lại bốc lên, không kìm được, chàng lạnh lùng cất tiếng: “Lại còn cười được?!”.

A La mở mắt, nhìn kỹ Lưu Giác. Mấy năm không gặp, ban đêm trên núi vừa rồi không kịp nhìn chàng, bây giờ nhìn kỹ, vẫn khuôn mặt với đường nét rõ ràng, có phần trầm tĩnh hơn, chỉ có điều bây giờ sắc mặt đã sắt lại sắp thành tảng băng. Nàng chớp mắt, càng thấy buồn cười.

Không cựa quậy được còn cười kiêu kỳ như thế? Lưu Giác càng phẫn nộ: “Nàng còn cười hả, võ công như mèo ba chân của nàng, không bị người ta chẻ ra thật là mệnh lớn!”. A La lườm chàng. Thầm nghĩ, điều nàng muốn lúc đó không chỉ là để cho tên áo đen trở tay không kịp. Mãi không được động đậy, đã rất khó chịu, giờ lại chỉ có thể nằm thế này nghe chàng nói, càng thấy bực mình nên nàng dứt khoát nhắm mắt.

Thấy A La cười, lườm mình, Lưu Giác tiếc là không thể đánh cho nàng một trận. Đứng trước bọn áo đen, thần kinh chàng đã căng thẳng tột độ, đến khi thấy nàng mỉm cười, mới đột nhiên nghĩ A La dám phóng hỏa đốt cầu phao, bố trí mê trận trốn thoát mấy năm liền, tất không chịu bó tay bị bắt. Chàng chuẩn bị ra tay, đến khi nàng xõa mái tóc, lại cởi áo ngoài, lòng đã biết nàng định phân tán chú ý của đối phương, thắng thì thắng rồi, nhưng thắng một cách thót tim.

“Lại còn dám nhắm mắt tỏ ra bất cần?”. Giọng Lưu Giác trở nên nguy hiểm, tiếng nói rít qua kẽ răng, tay tóm lấy cằm A La.

Chàng định làm gì? A La giật thót mình, vội mở mắt, thấy nộ khí trong mắt Lưu Giác sục sôi như sóng. Thầm nghĩ, không cho cựa quậy, không cho nói, ta còn biết làm gì!

Thấy nàng mở mắt, Lưu Giác buông tay, tay trượt xuống chạm vào cổ nàng, chiếc cổ thon mảnh đến nỗi một tay chàng cũng bóp gẫy. Chàng dừng lại, ngón tay chạm làn da trên cổ, cảm giác mịn như ngọc khiến chàng không thể buông, nghĩ đến thân thể nàng trong lần áo mỏng manh trước gió, lại tức sôi người, nàng dám cởi xiêm y trước bao con mắt trơ tráo! Càng nghĩ chàng càng tức, vừa trở tay, thắt lưng trên eo nàng đã tuột ra, mắt A La cuối cùng lộ vẻ sợ hãi, tiếp đó là phẫn nộ, rồi đột nhiên có ánh nước.

Lưu Giác dừng tay, cơ mặt run run, chàng đứng lên, trở tay giải huyệt cho nàng.

A La không ngờ đã có thể nói được, kêu “a” một tiếng. Cảm thấy huyệt đạo được giải, liền vùng dậy, khép tà áo, tức gận mắng: “Dâm tặc!”.

Lưu Giác thấy buồn cười, nghĩ đến lần đầu gặp ở Đào hoa yến, nàng cũng mắng chàng như vậy, lòng vừa buồn vừa xót xa. Ba năm trước, khi A La bỏ trốn chàng đã hận nàng, tức nàng, nhưng nỗi nhớ và tình cảm lưu luyến ba năm qua đã khiến tim chàng mềm lại. Khó khăn lắm mới lại có được A La ở bên, vậy mà lại khiến nàng sợ gần chết.

Chàng quay người nhìn ra ngoài sân, những bông hoa hải đường chàng đã vì nàng mà đốt lửa sưởi ấm để ra hoa, đang cháy đỏ lung linh trong màn đêm xanh lam mờ ảo. Tim chàng cũng như bị hun đốt trong giá rét, khi nóng khi lạnh. Chàng đột nhiên hít một hơi thật sâu, chầm chậm thở ra, điềm tĩnh nói: “A La, lẽ nào nàng không hiểu lòng ta?”.

A La nhìn tấm lưng thẳng tắp của chàng, bắp thịt chàng co rút, toàn thân như không thể khống chế nỗi tức giận đối với nàng. Lòng nàng lại thầm thở dài, há miệng, nhưng lại không thể nói ra. Lưu Giác không dám quay đầu, sợ nhìn thấy nét mặt khiến chàng thất vọng. A La cúi đầu, lòng ngổn ngang trăm mối.

Cuối cùng Lưu Giác thở dài. Lúc này A La sực nhớ có tin cần báo, không đợi Lưu Giác mở miệng, nàng nói: “Ta nghe bọn áo đen nói giờ Hợi tối mai sẽ hành động”.

Lưu Giác sửng sốt, quay người hỏi: “Sao nàng biết?”.

“Ta đánh ngất một tên, đổi y phục của hắn đi vào nhà cùng bọn chúng, nghe thấy chúng nói vậy!”. A La vội kể lại tình hình lúc đó, Lưu Giác càng nghe tim càng đập nhanh, chàng nghiến răng, nói: “Nàng to gan thật!”. Lòng thầm mừng, cũng may mình cho người đi theo, nếu không, mình còn chưa kịp đến nàng đã chết ở đâu cũng không biết.

Lúc này không phải là lúc trách móc A La, đánh bại quân Trần mới là chuyện lớn. Chàng cố nén cơn giận đang bùng phát, lạnh lùng buông một câu: “Nàng nghỉ ở đây chờ đợi”.

A La biết chàng bận đi lo công việc, nhưng vẫn không nén nổi hỏi: “Mẹ ta và mọi người đâu?”.

Lưu Giác không quay đầu, lạnh giọng nói: “Nàng vẫn còn quyền quyết định hay sao? Nếu muốn gặp mẹ thì nên thật thà cho ta nhờ”. Nói xong vội vàng bỏ đi.

Khi chàng đi khỏi, A La nghĩ, Lưu Giác đúng là quá giận. Nàng cũng thấy mệt, không muốn nghĩ chàng sẽ làm gì mẹ mình, bây giờ phải ngủ một giấc đã.

.

Chương 18

.

Nỗi mỏi mệt do căng thẳng, do đánh nhau khiến A La ngủ một mạch đến giờ Ngọ. Mở mắt ra, bên ngoài tuyết trắng long lanh dưới ánh mặt trời hắt vào trong phòng, cả phòng sáng bừng lên. Nàng xuống khỏi giường, một nữ tỳ bê nước ấm đến cho nàng rửa mặt, A La ngồi trước gương, nữ tỳ định vấn tóc cho nàng, A La ngăn lại: “Để búi kiểu nam giới”.

Nữ tỳ e dè trả lời: “Tướng quân đã ra lệnh vứt mọi đồ cải trang của tiểu thư đi rồi, sắm toàn đồ mới”.

A La bất lực, nói: “Vậy thì tết bím, không búi nữa”.

Lâu lắm không mặc đồ nữ giới, thay xong trang phục, A La ngắm nghía bản thân, quần áo Lưu Giác đem đến rất vừa vặn, chỉ có chiếc váy hơi dài tới tận mắt cá chân, đi lại không tiện bằng bộ cánh đàn ông. Nữ tỳ lại bê lên mấy món ăn và một bát cháo nóng, A La không khách sáo, ăn no căng.

Ăn uống xong xuôi, nàng hài lòng đứng dậy đi ra ngoài. Nữ tỳ ngần ngại nhắc: “Tướng quân đã dặn, nếu tiểu thư ra ngoài đừng nghĩ chuyện gặp phu nhân”.

A La ngớ người, thầm mắng Lưu Giác dùng thất phu nhân để ép nàng, nhưng không có người để xả giận, mặt lại tươi cười: “Ở mãi trong phòng buồn chết được, ta đi dạo ngoài sân, nếu ngươi không yên tâm cứ đi theo ta”.

Nữ tỳ lắc lắc đầu: “Tướng quân đã dặn, tiểu thư không được ra ngoài nửa bước. Bên ngoài còn có người của Ô y kỵ đứng gác”.

A La bất lực, nghĩ một lúc, nói: “Tìm cho ta mấy cuốn sách viết về Lâm Nam, giới thiệu phong tục tập quán hoặc dư địa chí địa phương, viết về Trần quốc cũng được”.

Nữ tỳ thấy A La không cò ý định ra ngoài, vội gật đầu lia lịa, đi ra, lúc lâu sau, ôm một đống sách đi vào, cười nói: “Tướng quân hình như cũng sợ tiểu thư buồn, đã dặn trước, chỉ cần tiểu thư không ra ngoài muốn ăn gì chơi gì cũng được”.

A La thở dài, xem chừng Lưu Giác nhất quyết giam lỏng mình, lần này quả thật chạy không nổi. Nhưng lại nghĩ, chàng ta chăm sóc mình, cho ăn cho ngủ, cần gì đáp ứng, lại đảm bảo an toàn, xem ra tạm thời sẽ không áp giải mình và mẹ quay về tướng phủ ở Phong thành. Bây giờ đang mải đánh trận, mình sẽ ở đây chờ đợi, chỉ có chiến sự kết thúc, chàng mới có thời gian để ý đến mình. Hiện nay cũng không cần hỏi thất phu nhân và mọi người ở đâu, chỉ cần biết tất cả vẫn an toàn là được. Nàng yên tâm bắt đầu đọc sách.

Ngồi dựa vào giường xem dư địa chí của năm nước, sách viết: “Vào ngày Đại Tuyết, sông Hán Thủy sương mù dày đặc. Từ tây sang đông, mặt sông sương mù cuồn cuộn như con rồng vùng vẫy, cách sông ba trượng không nhìn thấy, mấy nước ven sông thả xuống sông những đồ hiến tế”. Nàng chau mày nhìn ra ngoài trời, tuyết rơi càng dày. Lòng xao động, đi đến bên cửa sổ, kinh ngạc nhìn thấy dưới trời tuyết giá, khóm hải đường trước sân nở đầy hoa, những bông hoa thắm đỏ, cháy rực nổi bật trong tuyết trắng, lung linh chói lòa. Hải đường ở đây có thể nở vào tháng chạp hay sao?

Nữ tỳ thấy A La ngắm nhìn hải đường trước sân, mau mồm khoe: “Hai tháng trước tướng quân ra lệnh dùng giấy gấm trùm lên khóm hải đường, bên dưới đặt những lồng sưởi, do đó những bông hoa này thực ra là được sưởi ấm ngày đêm mới nở được, tiểu thư nhìn xem, những lồng sưởi bên dưới còn chưa tàn”.

“Nhưng hôm nay là ngày Đại Tuyết cơ mà?”. A La nhìn khóm hải đường, nụ cười dịu dàng nở trên khuôn mặt.

“Phải, tiểu thư nên biết từ giờ Tý, sông Hán Thủy bắt đầu có sương mù dày đặc, cao tới mười mấy trượng. Nếu ngày mai đến núi Thiên Long cách thành Lâm Nam mười dặm nhìn xuống, cả dòng sông giống như một con rồng trắng vùng vẫy trong tuyết, đẹp vô cùng. Năm nào vào thời gian này kiệu xe nườm nượp đến núi Thiên Long, náo nhiệt cực kỳ”.

“Bây giờ quân Trần tấn công, cổng thành đã đóng, có còn người lên núi Thiên Long không?”.

“Không có ai dám vượt sông vào những ngày này. Sương mù đày dặc trên sông cách ba thước đã không thấy mặt nhau, quân Trần không thể đến được”.

A La thầm nghĩ, nhất định quân Trần sẽ nghĩ ra cách nào đó, nhân lúc sương mù mà qua sông, khi binh lính áp sát chân thành, sẽ là một trận ác chiến. Mặt sông sương mù dày đặc, làm thế nào để phòng ngự? Nàng buột miệng lại hỏi: “Hán Thủy có đóng băng không?”.

“Hán Thủy không đóng băng, nhưng ven sông sẽ có lớp băng mỏng, thời tiết này cóng lắm”.

“Ngươi đi lấy giấy cứng làm một cái hộp đưa đến đây”. A La ra lệnh.

Lát sau, nữ tỳ mang đến chiếc hộp đã dán xong, A La nhìn chiếc hộp lại nói: “Ngươi hái giúp ta một bông hải đường”.

Sau đó nàng rót nước trà còn ấm vào hộp, dùng sợi chỉ buộc cuống bông hoa hải đường bỏ vào hộp, nói với hầu nữ: “Ngươi để cái hộp này ra sân, trông chừng khi nào đóng băng thì gọi ta”.

A La đọc sách đã thấm mệt, thấy trên cái bàn thấp có đặt cây đàn, chợt bật cười. Lâu lắm rồi không chơi đàn, không biết tay đã cứng chưa. Nàng lướt nhẹ phím đàn, thong thả đánh một khúc, miệng hát khẽ hát: “Chim bay mỏi cánh chạm chân sông, rồng quẫy chán nằm ngang lưng núi, non non nước nước muôn trùng gấm, hải đường thắm sắc nhớ chàng mà say”. Hát xong mặt hớn hở, lòng lâng lâng. Đẩy cây đàn đứng dậy, đi đến trước bàn trang điểm, ánh mắt cười sóng sánh, nàng thong thả gỡ bím tóc, nói với nữ tỳ: “Vấn tóc giúp ta, lâu rồi chưa chải đầu cho tử tế”.

Nữ tỳ nói: “Tiểu thư mà trang điểm không biết còn đẹp đến đâu”.

A La ngắm mình trong gương: “Không cần quá cầu kỳ, chỉ cần không để mái bờm là được!”.

Nữ tỳ gật đầu, khéo léo vén gọn mái bờm trước trán A La , dùng tinh dầu hoa vuốt cứng, kẹp hất lên trên, lại dùng thoa cài gọn tóc mai, cuốn thành búi, lấy trâm cài chặt. Cái gáy tròn đầy đặn mịn màng hoàn toàn lộ ra, nàng ngắm nghía, càng ngắm càng vui, lại cười: “Ngắm nữa, có khi tự yêu mình mất thôi”.

Nữ tỳ vui sướng nhìn khuôn mặt rỡ ràng của A La, ánh mắt ngơ ngẩn giống như Tiểu Ngọc hôm nào: “Tiểu thư, đừng cười nữa, như thế này em đã không thể rời mắt được rồi”.

A La lại nổi máu đùa, đưa mắt lúng liếng, lại mỉm cười khiến nàng ta ngây người ra. A La nói nhỏ: “Ra sân xem thế nào”.

Nữ tỳ vội gật đầu.

A La cố nín cười, đi ra mở cửa phòng, mắt nhìn thẳng vào hai binh sĩ Ô y kỵ đứng ngoài cửa, hai người này cũng giật mình, tròn mắt sững sờ. A La bước ra ngoài hai bước họ mới hoàn hồn, cúi đầu nói: “Mời tiểu thư về phòng, tướng quân có lệnh không được để tiểu thư ra ngoài nửa bước!”.

Nàng thở dài, thì ra nụ cười chỉ giúp nàng tiến được hai bước, vậy mà tiểu thuyết lại viết, binh sĩ nhìn thấy mỹ nhân thì gươm dao trên người rơi rào rào xuống đất. Mỹ nữ có thể khiến những người lính đứng ngây như khúc gỗ, không biết phải đẹp đến mức nào, nàng lẩm bẩm, chợt một binh sĩ giọng nhẹ nhàng nói: “Đợi tướng quân trở về, tiểu thư xin tướng quân bãi bỏ cấm lệnh là được”.

A La cười quay về phòng, lúc này nữ tỳ đã bê chiếc hộp đi vào: “Tiểu thư, đóng băng rồi!”.

Nàng đón lấy chiếc hộp, bóc lớp giấy, nhấc sợi dây, giữa một mảnh băng trong suốt long lanh nổi lên một đóa hải đường đỏ thắm đóng băng, tuyệt đẹp. Nữ tỳ tấm tắc không ngớt: “Một mảnh ngọc băng tuyệt đẹp”.

A La cười nói: “Ngươi đưa cái này cho tướng quân nhà ngươi được không? Nói là ta thấy hay hay nên làm tặng tướng quân, một tiếng đồng hồ là làm xong. Mang ngay bây giờ, không được chậm trễ”.

Nữ tỳ mặt hớn hở đón mảnh ngọc băng, thận trọng như nâng báu vật.

Lưu Giác cùng Cố Thiên Tường và tướng lĩnh nghị đàm quân sự. Bây giờ đã là giờ Dậu, nếu A La không nghe nhầm, quân Trần sẽ lợi dụng lúc sương mù để vượt sông, nhưng bọn chúng làm thế nào vượt sông trong sương mù thì hiện vẫn chưa biết. Cố Thiên Tường trầm ngâm nói: “Nếu quân Trần vượt sông an toàn, tất sẽ chia quân bao vây thủy trại, chia hai mũi tấn công vào thành”.

“Thiên Tường tướng quân nói chí phải. Hiện nay trong thành chỉ có bốn vạn binh sĩ, các châu phụ cận điều binh chi viện Lâm Nam chí ít cũng phải ba ngày, hơn nữa Yến thành gần nhất cũng chỉ có một vạn binh mã, viện binh từ các thành trì phía xa cũng phải mấy ngày sau mới đến được, trong khi quân Trần dốc toàn lực tấn công. Mặc dù hôm qua, khi bắt đầu giao chiến, chúng ta đã cử người phi ngựa về Phong thành cấp báo, nhưng cũng phải mười ngày nữa Phong thành mới nhận được tin. Sương mù trên sông dày đặc, quân Trần lại bất chấp thời tiết, quyết vượt sông tấn công, cho dù ta huy động thủy binh, triển khai trận địa trên sông, quân địch tất đã có kế ứng phó, thủy quân của ta trong sương mù ắt bị hao tổn vô ích. Cục thế như vậy không biết chư tướng có kiến giải gì?”. Lưu Giác phân tích sơ lược tình hình.

Trong quân doanh, chư tướng nhìn nhau. Quân Trần bất ngờ tấn công, giờ Tý đêm nay lại vượt sông đúng lúc có sương mù khiến họ không thể tin nổi. Sương mù dày đặc như vậy, dù thuyền địch đi ngay sát chiến thuyền của ta, quân ta cũng chưa chắc phát hiện ra. Trần quốc tuy nhỏ, binh lực kém xa Ninh quốc, nhưng đã có chuẩn bị sẵn, cũng có thể huy động được hai, ba chục vạn đại quân. Như vậy, nếu quân Trần tiến sát chân thành, binh lực gấp mấy lần Lâm Nam. Không biết họ có trấn thủ được ba ngày hay không.

Cố Thiên Tường trầm ngâm hồi lâu mới trả lời: “Thủy quân sẽ bỏ trống doanh trại, mai phục trên sông trước khi có sương mù. Nếu quân Trần vượt sông an toàn trước khi sương tan, sự an nguy của thành Lâm Nam đành trông chờ vào Bình Nam tướng quân và chư tướng”.

“Chỉ có thể như vậy, thủy binh của Nam quân chỉ đảm nhiệm tấn công quân địch sau khi sương mù tan, lục quân giữ trách nhiệm thủ thành, bất luận thế nào cũng phải trụ đến sau giờ Tý ngày mai là lúc sương mù tan”. Lưu Giác và Cố Thiên Tường phân công.

Cố Thiên Tường vội trở về thủy trại điều binh. Khi ra khỏi quân doanh không nén nổi, liếc nhìn Lưu Giác, ánh mắt hai người gặp nhau, đều lộ vẻ quan tâm. Lưu Giác trầm ngâm: “Quân Trần dám vượt sông trong sương mù, Thiên Tường phải cẩn thận!”.

Cố Thiên Tường không trả lời, ánh mắt kiên định tự tin nhìn Lưu Giác, quay người sải bước đi ra.

Lưu Giác bồi hồi, mỗi lần gặp tình huống thế này, luôn là chàng không kìm chế nổi đã lên tiếng trước. Chàng xua đuổi ý nghĩ, hỏi các tướng lĩnh trước mặt: “Chư vị có kế hay nào để thủ thành?”.

Một viên tướng trả lời: “Thành Lâm Nam lưng tựa vào núi, thành trì kiên cố, nếu có thủy quân hợp lực, quân Trần muốn đến được chân thành cũng không phải chuyện dễ. Nếu thủy binh trên sông không chống cự được, quân Trần người đông, e là phòng tuyến dễ bị chọc thủng”.

Một viên tướng khác tiếp lời: “Quân ta đã thu thập cung tên, con lăn và đá tảng trong toàn thành, tập hợp được hai vạn phu trai tráng trong dân chúng. Lâm Nam là nơi thương nhân qua lại, dân bản địa vốn không nhiều, hơn nữa cần đề phong gian tế của địch đóng giả thương nhân thâm nhập vào thành, nội công ngoại kích”.

Lưu Giác ngồi yên, ngón tay lại khẽ gõ trên bàn. Toán cao thủ quân Trần phái đến tối qua, tên cầm đầu thân thủ không đơn giản. Bọn chúng thông thuộc địa hình dãy Tây Sơn, tất đã có gian tế cung cấp cho bản đồ nội thành. Lâm Nam lưng tựa vào núi, tường thành kiên cố, trận địa dàn trải trên một tuyến dài, tất phải phân tán binh lực thủ thành. Có địa thế hiểm trở để lợi dụng cũng là lợi thế, nhưng xét từ góc độ khác lại trở thành điểm khó trong thủ thành.

Lúc này Lưu Anh đón cái hộp đựng đóa hải đường đóng băng từ tay nữ tỳ, có phần dở khóc dở cười. Đây là lúc nghị đàm quân cơ, vậy mà nàng ta còn đưa đến một thứ đồ chơi trẻ con. Nếu lúc khác, chúa thượng nhất định hào hứng thưởng thức, nhưng lúc này làm thế nào đưa vào được? Lưu Anh bồn chồn đi lại, nghe nữ tỳ truyền lời của A La, lại thêm sốt ruột, tiến thoái lưỡng nan. Ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng quyết định đi vào trướng, trong soái trướng không khí căng thẳng, mấy chục năm không giao chiến, các tướng lĩnh đều không dám chắc. Ngoài ý chí quyết tử thủ thành, nhất thời cũng chưa có kế hay nào khác.

Lưu Giác thấy Lưu Anh đi vội vào, ánh mắt chợt đanh lại, lúc này tiểu tử kia vào đây làm gì? Binh sĩ Ô y kỵ đến Lâm Nam chỉ là thân binh của chàng, không được tham dự luận bàn quân sự, Lưu Anh đi vào, thầm nghĩ nếu không có chuyện khẩn cấp sẽ bị phạt đánh bốn chục roi. Các tướng lĩnh nhìn Lưu Giác có vẻ không hài lòng.

Lưu Anh đi vào trong trướng, nói dõng dạc: “Có người hiến kế, xin chúa thượng ra ngoài, tiểu nhân sẽ trình bẩm rõ”.

Nét mặt chư tướng chợt giãn ra, lộ vẻ chờ đợi. Lưu Giác lẳng lặng đứng dậy đi ra, cười khẩy: “Có chuyện gì phải dùng cớ này? Nếu không có kế thật, ngươi định để chủ ngươi giấu mặt vào đâu!”.

Lưu Anh toát mồ hôi hột, quỳ sụp xuống, hai tay nâng cái hộp: “Tam tiểu thư sai nữ tỳ đưa vật này đến, nữ tỳ nói tam tiểu thư nhắn là không được chậm trễ. Lưu Anh nghĩ, chúa thượng, chúa thượng...”.

Lưu Giác tung chân đá y, sẵng giọng: “Ngươi tưởng chúa thượng ngươi bây giờ vẫn còn tâm trạng vui chơi?”.

Lưu Anh dập đầu lia lịa: “Lưu Anh lỗ mãng, tự đi lĩnh roi phạt!”. Tay vẫn giữ khư khư cái hộp.

Đóa hoa băng lấp lánh dưới ánh nắng nhạt, màu hải đường đỏ chói. Lưu Giác động lòng: “Khoan, mang lại đây ta xem”.

Chàng cầm lên nhìn ngắm hồi lâu, đột nhiên hỏi: “Nguyên văn lời tam tiểu thư thế nào?”. Lưu Anh đáp: “Tam tiểu thư nói, thấy hay hay, bèn làm tặng tướng quân, nói một canh giờ là làm xong, sai lập tức đưa tận tay tướng quân, không được chậm trễ!”.

Nụ cười hiện dần trên mặt, lòng chàng lâng lâng, A La đã nhìn thấy những bông hải đường chàng ủ vì nàng rồi ư? Cuối cùng đã hiểu lòng chàng rồi ư? Chàng giơ bông hải đường đóng băng lên ánh mặt trời ngắm nhìn hồi lâu, ánh mắt ngưng lại trên đóa hải đường màu đỏ, thầm lặp đi lặp lại lời A La, một ý nghĩ lóe lên trong đầu, chàng bước nhanh vào trong trướng, ngoái đầu, nghiêm giọng nói với Lưu Anh: “Không phải phạt roi, để sau sẽ tính sổ với ngươi!”.

Lưu Anh băn khoăn nhìn chủ nhân, giọng Lưu Giác tuy nghiêm khắc nhưng lại như cười. Y lau mồ hôi, bụng nghĩ, mọi người đều bị tam tiểu thư làm cho phát điên.

Lưu Giác trở vào trướng, cầm lên miếng ngọc băng nói: “Mọi người nhìn kỹ mảnh ngọc băng này, có nghĩ đến điều gì không?”.

Chư tướng ngây người, giữa mảnh băng kẹp một đóa hoa đỏ, giống đồ chơi mùa đông của trẻ con. Thời tiết thế này một lát sẽ thành băng, hơn nữa băng đóng rất chắc, không khí trong trướng ấm như vậy mảnh ngọc băng cũng không thấy tan hơi.

Lưu Giác dõng dạc: “Lệnh cho binh sĩ toàn thành huy động nồi to trong dân, đun nước sôi chuyển lên tường thành, bắt đầu từ bây giờ đổ nước lên tường thành, nhất định phải biến cả thành Lâm Nam trở thành một tòa băng thành. Như vậy ít nhất cũng kéo dài được ít thời gian”.

Các tướng lĩnh ồ lên, vui mừng ra mặt, nhận lệnh giải tán, triển khai thực thi.

Ba cổng thành mở rộng, quân sĩ cùng với dân chúng bắt đầu đổ nước lên dải đất cách chân tường thành Lâm Nam ba mươi trượng. Nước sôi được vận chuyển lên trên mặt tường thành, đến giờ Tuất, bên ngoài chân tường thành đã có một lớp băng dày, rộng hai thước. Có binh sĩ đã thử giẫm lên lớp băng, ngã oạch trượt từ đông sang tây, xung quanh dậy lên từng trận cười rộ.

Lưu Giác mỉm cười, có bức tường băng này, kéo dài thời gian được một ngày sẽ không thành vấn đề.

Tuyết vẫn không ngừng rơi, trên mặt tường thành Lâm Nam được phủ lên một lớp cỏ dày, cách ba mươi trượng lại đốt một lò than sưởi, lính gác tụ tập bên lò sưởi, lòng thầm cảm kích sự quan tâm của của Bình Nam tướng quân. Lưu Giác hạ lệnh, những nhà dân ở trên núi cao không được thắp đèn, trên mặt tường thành Lâm Nam cũng không có một ngọn đèn. Dưới ánh trăng, nhìn ra xa, thành Lâm Nam phía bắc sông Hán Thủy chỉ là một vùng đen ngòm, không phân biệt đâu là núi, đâu là thành.

Vừa đến giờ Tý, mặt sông Hán Thủy bắt nổi lên một lớp sương mù. Hai khắc sau, sương mù đã dày đặc, lúc đầu còn nhìn thấy ánh lửa lập lòe bên bờ kia, về sau tầm nhìn dần dần bị lớp mù trắng cuồn cuộn che khuất, trước mặt chỉ là khoảng không bao la. Lưu Giác đã bố trí xong xuôi, trở về phủ nghỉ ngơi. Nếu quân Trần vượt sông vào giờ Tý, ít nhất có thể nghỉ ngơi hai canh giờ. Chàng sẽ nghỉ một lát, nhân tiện cũng muốn thăm A La.

A La nhẩm tính thời gian, nàng không ngủ, đang tần ngần suy nghĩ quân Trần sẽ vượt sông như thế nào, ánh mắt dừng lại trên hàng chữ “các nước bên sông thả đồ hiến tế”. Thả đồ ư? Nàng lẩm bẩm”thả đồ”..., nếu dùng mảng tre, thả trên thượng nguồn, người dưới hạ lưu đứng đón, có mảng tre dẫn đường, sẽ không bị mất phương hướng. Nếu có người đốt đống lửa to ở Lâm Nam, chính là ngọn đuốc dẫn đường toán người áo đen vốn định đốt lửa ở trong thành”.

Vừa lúc đó Lưu Giác đi vào phòng, nghe tiếng A La lẩm bẩm, buột miệng nói: “Chúng ta cũng có thể vượt sông bằng cách đó!”.

A La quay đầu, mắt hai người gặp nhau, Lưu Giác ngây người, tim đập rộn ràng. A La dứng dưới ánh đèn, một quầng sáng nhạt tỏa trên đầu nàng, mắt long lanh, nét mặt trong ngần dịu dàng, ánh sáng như tụ cả lên người nàng. Chàng đứng ngây hồi lâu, rồi thong thả đi đến, giơ tay khẽ chạm vào mặt A La, lại vội thu về, sợ đó chỉ là ảo ảnh.

A La bật cười. Chàng bỗng thấy tức ngực, trấn tĩnh lại, bật hỏi: “Ai bảo nàng ăn vận thế này?”.

Sao? A La hơi xấu hổ, giống như tâm địa bị vạch trần trước mặt mọi người, nàng ngoảnh mặt sang bên, nói dỗi: “Chàng không đi chỉ huy giữ thành, chạy đến đây làm gì?”.

Lưu Giác bối rối đứng ngây người ra, không biết nói gì, chỉ khẽ nhếch môi: “Đến xem nàng có thật thà hay không. Nàng đừng gây chuyện gì cho ta!”.

“Nhìn thấy rồi đó! Chàng có thể đi được rồi! Ta muốn ngủ!”. A La không dám nhìn chàng, leo lên giường nằm, tiện tay kéo rèm, xoay lưng lại.

Bị tấm rèm lụa màu vàng nhạt ngăn cách, chàng bực tức nhìn thân hình lờ mờ của nàng trên giường, nghĩ ngày mai còn phải đối phó với trận chiến quyết liệt, thầm nhủ, đánh xong trận này ta nhất định sẽ xử lý nàng! Chàng thổi đèn, quay ra.

Cố Thiên Tường nhận được tin báo của Lưu Giác liền điều động thủy binh triển khai theo kế hoạch.

Chính vào lúc cả thành Lâm Nam đang ráo riết phòng bị, trên khúc sông phía thượng nguồn Hán Thủy đoạn chảy qua Trần quốc, một đoàn chiến thuyền mang theo mảng tre dàn hàng một, từ từ chèo về phía bờ bên kia. Dòng sông chảy xiết, sương dày đặc, thống soái quân Trần đang sốt ruột chờ đợi. Ba canh giờ sau, một con bồ câu đưa tin đỗ vào tay ông ta, lúc này miệng ông ta mới nở nụ cười.

Giờ Thìn, chiến thuyền Trần quốc ba mươi vạn đại quân nối nhau xuất phát, đội thuyền hùng hậu được những mảng tre dẫn đường, từ từ tiến về phía Ninh quốc ở bờ bên kia.

Giờ Tỵ sáu khắc, quân Trần tiến đến ven sông, tốp binh sĩ đầu tiên xuống thuyền tập kết. Thành Lâm Nam im lìm như chết, trên vọng lầu chiến thuyền của thống soái quân Trần, một âm thanh trầm đục vang lên: “Thả neo công thành!”.

Một giọng khác bên cạnh, vừa mạnh mẽ vừa kiêu ngạo: “Vương huynh yên tâm, lính trong toàn thành Lâm Nam cộng thêm bá tính không quá năm, sáu vạn binh mã, không đáng một pha tấn công. Sở Nam lần này sẽ dùng máu rửa thành Lâm Nam!”. Giọng nói quen quen, đó chính là tên thủ lĩnh áo đen đột nhập vào thành đêm qua.

Hướng cổng nam thành Lâm Nam, lính gác trên tường thành bỗng phát hiện những bóng đen lố nhố nhô ra từ trong sương mù, một tiếng chuông vang lên, viên tướng thủ thành chờ đợi đã lâu, lập tức phất cờ hiệu, hàng ngàn mũi tên từ trên mặt thành bay ra, ánh chớp vun vút, lao về phía những bóng đen, tiếp đó là những tiếng kêu thảm thiết. Sau loạt tên thứ nhất, quân Trần từ các chiến thuyền tràn ra càng nhiều, tiếng hô “giết” chấn động mặt sông, thành Lâm Nam vẫn im lìm như chết.

Quân Trần giương cao lá chắn dàn thế trận, không lâu sau các chiến thuyền ngoài cổng thành phía nam đã triển khai thế trận. Chiến thuyền ẩn hiện trong sương mù, cách sông mấy chục trượng lại là ánh mặt trời rạng rỡ, ánh nắng chiếu lên lên bức tường băng bao bọc thành Lâm Nam, phản ra những tia sáng lóng lánh ngũ sắc. Lưu Giác đứng trên tường thành, trầm ngâm nhìn đại quân Trần cách thành hai dặm.

Sở Nam nhìn bóng đen trên tường thành, ánh mắt hận thù lóe lên, ra lệnh vẫy cờ hiệu, binh sĩ ào lên như thủy triều, giẫm lên lớp băng cách chân tường thành ba mươi trượng, trượt ngã dồn thành đống, ngay lập tức trận mưa tên trên tường thành nã vào, cứ như vậy hết loạt này đến loạt khác. Sở Nam cau mày, dùng ốc biển thổi tín hiệu thoái binh, quân Trần nhanh chóng lui binh.

Lưu Giác thấy vậy hô to: “Chuẩn bị con lăn!”.

Mấy khắc sau, quân Trần dùng lá chắn đỡ tên, nhanh chóng trải lên mặt băng lớp cỏ dày, lại bị đá tảng từ mặt thành hất xuống tiêu diệt.

Cứ như vậy, đến giờ Mùi quân Trần mới tiến được sát chân thành. Sở Nam lòng như lửa đốt, hai canh giờ mới tiến được đến chân thành, đã tiêu hao mất mấy ngàn quân, trên tường thành Lâm Nam đóng một lớp băng dày, bò lên được đâu có dễ. Hắn dần hiểu ra Ninh quốc đang kéo dài thời gian, đợi sương mù tan, thủy quân sẽ đến, quân Trần lưng bụng đều có địch, vội vàng ra lệnh bắn đá.

Dưới thành Lâm Nam những cỗ máy bắn đá xếp thành hàng, những tảng đá lớn với xung lực cực mạnh bắn về phía tường thành. Một lớp băng vừa bị phá, trên thành lập tức dội nước sôi xuống. Nhân lúc nước chưa kịp đóng băng, đội tiên phong quân Trần quăng móc câu, bắc thang dây trên tường. Một tốp binh sĩ địch ngã xuống, tốp khác lại xông lên.

Lưu Giác lo lắng, bức tường băng chỉ có thể ngăn cản nhất thời, nhưng đối phương người đông, sớm muộn cũng trèo lên được tường thành.

Sở Nam cười sằng sặc: “Truyền lệnh, ai trèo lên được tường thành bất luận sống chết mỗi người thưởng mười lạng vàng!”.

Tình hình vô cùng căng thẳng, quân Trần trùng trùng dâng lên, mặt tường băng đã nhuộm máu đỏ, dưới chân thành xác chết ngổn ngang, dưới ánh chiều tà, bức tường băng thấm máu lóe lên những tia sáng kỳ dị, cả chiến trường ảm đạm như địa ngục.

Nam quân cũng tổn thất nghiêm trọng. Sau bốn canh giờ giao chiến, tên không còn nhiều, con lăn và đá tảng cũng gần hết, đá được từ trên núi xuống, gỗ dỡ từ nhà dân gần như sắp không đủ tiếp tế được nữa, quân sĩ đã tỏ ra mệt mỏi.

Mặt trời đã lặn, trăng đã lên cao. Quân Trần ỷ thế quân đông, luân phiên tấn công, không nghỉ ngơi. Lưu Giác nhìn về phía tây, ánh mắt xuyên qua mặt sông phủ kín sướng mù. Cuối cùng đã có những lính Trần đầu tiên trèo lên được tường, chém chết lính thủ thành. Lưu Giác mắt vằn đỏ, xông lên phía trước, kiếm vung lên như chớp, nhanh chóng bịt lỗ hổng vừa bị chọc thủng.

Sở Nam nhìn Lưu Giác vung kiếm ngang dọc, lòng bừng bừng phẫn uất, miệng gầm lên, lao ra khỏi đội quân, giang tay vận khí, tung thân vọt lên mặt tường như một chiếc cầu vồng, quyết đấu với Lưu Giác.

Võ công hai bên ngang ngửa, nhưng Lưu Giác đã bị tiêu hao không ít sức lực, trong khi Sở Nam khí thế như thủy triều, thanh đoản kiếm như con trăn bám riết Lưu Giác, miệng thét to: “Hôm nay ta quyết rửa nhục!”.

Lưu Giác nhìn trời, nói dõng dạc: “Không kịp nữa rồi! Thủy quân của ta đã vượt Hán Thủy, phá thủy trại của ngươi!”.

Sở Nam kinh ngạc, lưỡi kiếm trong tay càng khát máu, một nhát đâm trúng ngực phải đối phương. Lưu Giác lập tức cùng Ô y kỵ xông tới, lưỡi gươm của Sở Nam vung đúng lúc, hai cao thủ đổ xuống, nhưng Ô y kỵ vẫn bám riết Sở Nam. Lưu Giác nhổ ra một ngụm máu, cười lớn: “Ngươi nhìn xem, sương mù đã tan!”.

Gần tới giờ Tý, sương mù trên sông Hán Thủy bắt đầu tan, lộ ra những bóng thuyền dày đặc. Trên mặt sông đột nhiên dậy lên tiếng trống trận, tiếng hô “giết” vang trời.

Sở Nam nhìn chòng chọc vào mặt Lưu Giác, mặt chàng vẫn tươi cười, dường như không phải vừa trúng nhát gươm. Sở Nam lo ngại tình hình trên sông, không muốn đánh tiếp liền bay người nhảy xuống .

Không lâu sau, thế tấn công của quân Trần giảm dần. Lưu Giác đẩy Lưu Anh ra, đứng thẳng người, lớn tiếng hạ lệnh: “Chư vị tướng sĩ, thủy quân của ta đã đột nhập vào đại bản doanh của đối phương, hãy mở cổng thành, hai mũi tiền, hậu phối hợp giáp công!”.

Một vạn binh mã đã chờ sẵn ở cổng thành, thấy trên tường thành cảnh giao chiến khốc liệt, nhưng vẫn phải đợi trong thành, không được manh động, ai nấy đều nóng lòng không yên, giờ đã được lệnh, lập tức hò nhau xông vào đánh quân Trần. Sử Ninh quốc ghi: Niên hiệu Khánh Nguyên năm thứ ba mươi ba, Trần quốc tập kích, vào Ngày Đại Tuyết, bốn vạn lục quân Ninh quốc thủ thành, ba vạn thủy quân, nhân lúc sương mù vượt sông, phá tan thủy trại của thủy binh Trần quốc kéo dài ba mươi dặm, mười vạn binh mã đại bại dưới chân thành Lâm Nam. Thủy quân Trần quốc tổn thất nghiêm trọng. Trần vương cầu hòa, bồi thường bốn mươi vạn lạng bạc, hàng năm triều cống.

Ánh trăng trải trên thành Lâm Nam ngập máu, tiếng kêu rên thảm thiết vang vọng trong đêm. Cố Thiên Tường vội vã vào thành, Lưu Giác nhìn thấy chàng mỉm cười. Chàng xúc động chạy đến ôm chầm Lưu Giác.

Một tiếng kêu thất thanh, chàng đẩy Lưu Giác ra nhìn, thấy áo giáp của mình thấm đầy máu tươi, cau mày hỏi: “Huynh bị thương sao?”.

Lưu Anh và binh sĩ Ô y kỵ quỳ sụp cầu khẩn: “Xin chúa thượng trở về phủ!”.

Lưu Giác mỉm cười, khuôn mặt tuyệt đẹp lúc đó mới giãn ra, chàng nháy mắt với Cố Thiên Tường: “Huynh ghét nhất thu dọn tàn cuộc, đệ hãy giúp huynh rửa sạch thành!”. Nói xong ngã nhào vào lòng Cố Thiên Tường.

“Khốn kiếp! Các ngươi bảo vệ chủ nhân thế nào vậy?”. Cố Thiên Tường tức giận quát. Lưu Anh không dám nói gì, ôm Lưu Giác chạy về hướng tướng phủ, binh sĩ Ô y kỵ lên ngựa đi theo. Cố Thiên Tường vẫn chưa hết giận: “Bọn khốn mắt mọc trên đầu!”. Nói đoạn hạ lệnh thu dọn chiến trường.

Trong phủ tướng quân, thấy Lưu Anh ôm Lưu Giác đi vào, mọi người hoảng sợ chân tay mềm nhũn. Đại phu đã chờ sẵn trong phủ, Lưu Anh cởi áo giáp của chủ nhân, phát hiện chiếc áo bên trong đầm đìa máu, nửa thân người như ngâm trong máu, mắt bỗng đỏ hoe . Đại phu thận trọng cắt lần áo trong, ngực phải lộ ra vết thương mảnh sắc lẹm, máu vẫn đang chảy. Lưu Anh hét lên: “Cầm máu ngay! Chảy thế này hết máu bây giờ!”.

Đại phu giật nảy người, đã quen nhìn thấy máu, lại thêm người bị thương là Bình Nam tướng quân, cho nên đại phu đã dùng những loại thuốc tốt nhất. Cầm máu, băng bó xong, ông ta mới nói: “Vết kiếm không vào chỗ hiểm, cũng không nghiêm trọng lắm, chỉ là mất máu quá nhiều”.

Lưu Anh nói như rên: “Thế là thế nào? Rút cục là sao?”.

“Chẳng thế nào hết, với thể lực của tướng quân, nằm mười ngày nửa tháng là lại khỏe như voi. Bây giờ tướng quân hôn mê là do mất máu nhiều, bồi bổ là không sao”.

Lúc này Lưu Anh mới thở phào, quay đầu thấy sự lo âu căng thẳng trong mắt binh lính và Ô y kỵ đã dịu đi, mọi người lục tục tản ra, ai làm việc nấy.

Cố Thiên Tường xử lý xong công việc cũng đến tướng phủ. Nghe Lưu Anh nói lại tình hình, liếc nhìn Lưu Giác nằm trên giường, mới tạm yên tâm: “Thì ra không chết được!”. Lưu Anh đã quen thái độ của Cố Thiên Tường, nói: “Chúa thượng sao có thể chết được, còn phải uống Ly nhân túy với Cố tướng quân chứ”.

Ánh mắt Cố Thiên Tường lướt trên mặt Lưu Anh: “Học gì không học, lại đi học cái lối bông phèng của chủ nhân ngươi!”.

Lưu Anh mỉm cười: “Đa tạ tướng quân quá khen, có thể học chủ nhân ít nhiều là phúc của tiểu nhân!”.

Cố Thiên Tường ngoảnh lại, thầm nghĩ, có lẽ cũng phải tìm ngày lành tháng tốt cưới Doanh Tú thôi, để khỏi bị chủ tớ nhà này suốt ngày trêu chọc.

Lúc đó, một mỹ nhân tóc xõa từ ngoài cửa lao vào, tay nâng chiếc váy quét đất, vẻ cuống cuồng hốt hoảng càng đáng yêu, Cố Thiên Tường sững người, phủ tướng quân giấu tuyệt thế mỹ nhân này từ bao giờ vậy?

Lưu Anh bước lên thưa: “Tam tiểu thư, ngực chúa thượng bị thương, mất nhiều máu...”. A La cũng lo lắng tình hình chiến sự, nàng không hề ngủ, đang mệt mỏi thiu thiu thì nghe tiếng ồn ào, tiếng bước chân gấp gáp bên ngoài, lập tức tỉnh ngủ. Chạy ra cửa hỏi mới biết Lưu Giác bị thương đã được đưa về phủ, nàng thất kinh, chạy vội ra ngoài. Hai kỵ binh Ô y kỵ ngoài cửa cũng không ngăn cản, cùng theo nàng đến phòng của Lưu Giác. Nàng ngắt lời Lưu Anh: “Liệu có chết không?”. Thấy Lưu Giác nằm trên giường, mặt trắng nhợt, hôn mê bất tỉnh, như không biết gì nữa. Nàng bỗng nói to: “Rút cục vương gia thế nào?”.

Từ lúc A La chạy vào, Cố Thiên Tường vẫn sửng sốt đứng ngây, thì ra Trình Tinh chính là tam tiểu thư tướng phủ! Chàng công tử phong lưu mã thượng có khuôn mặt đẹp như ngọc tạc, hiểu nhiều biết rộng, chính là tam tiểu thư tướng phủ mà thiên hạ đồn là bị bắt cóc. Chàng nhớ lại lần đầu gặp tam tiểu thư này, dáng vẻ quý phái, đôi mắt lóng lánh, hồn nhiên ứng đối những câu hỏi thăm dò, xóa tan nghi ngờ của chàng, lại nhìn A La, rồi nhìn Lưu Giác, vừa giận vừa buồn cười.

Thảo nào Lưu Giác phái binh mã đi theo nàng ta, thảo nào chàng vừa ra khỏi tửu quán đã bị Lưu Giác mời đến phủ, thảo nào chàng tiểu vương gia kiêu ngạo này ba năm nay lưu luyến không quên, thú vị thật! Cố Thiên Tường thấy A La vừa hốt hoảng lo âu vừa nôn nóng, hình như không kiên nhẫn được nữa, lời nói đã có phần bực bội, chàng nhìn sang chỗ khác, giọng đau buồn: “Mất máu quá nhiều!”.

Lòng A La đột nhiên trống rỗng, ngồi phịch xuống giường. Nàng chậm rãi quay đầu, nhìn nét mặt đau đớn của Cố Thiên Tường, nhìn xung quanh, lính hầu, nữ tỳ mắt đều đỏ hoe, như vừa khóc. Lại quay nhìn đại phu, thấy ông ta cúi mặt dường như đang lắc đầu, Lưu Anh đã quay mặt đi, người run run, hình như đang khóc. Mất máu quá nhiều? Cô hét lên: “Vậy mau truyền máu!”.

Mọi người ngớ ra, đại phu hỏi: “Truyền máu thế nào?”.

A La há miệng, lập tức định thần, ở đây làm gì có thiết bị truyền máu, không thể truyền máu cho Lưu Giác được. Mắt nóng ran, nàng hận mình sao không học ngành y, đầu óc trống rỗng, nghĩ mãi không biết làm gì cứu chàng. Không cứu được sao? Lòng nàng đau thắt từng cơn.

Không nhìn mọi người trong phòng, nàng ngơ ngẩn nhìn khuôn mặt tuấn tú của Lưu Giác, khuôn mặt không sắc máu, đờ đẫn bất động. Bàn tay run run giơ ra chạm vào mặt chàng, cảm giác lạnh ngắt khiến nàng giật mình, quay đầu nói gắt: “Sao không đốt thêm mấy lò sưởi?!”.

Mọi người giật mình, nữ tỳ vội chạy ra ngoài bê thêm lò sưởi đi vào. Lưu Anh hình như đã hiểu ý của Cố Thiên Tường, dụi mắt nghẹn ngào nói: “Tam tiểu thư, tiểu thư ở đây với chúa thượng một lát”. Nói xong đưa mắt ra hiệu, mọi người cúi đầu lui ra ngoài.

Ra khỏi phòng, Lưu Anh cúi chào Cố Thiên Tường. Chàng khẽ lắc đầu thấy trời đã rạng, tuyết vẫn đang rơi, bèn nói với Lưu Anh: “Lấy cho ta cái ô, ta muốn đi uống chén rượu nóng”. Trong phòng yên tĩnh, A La nhìn Lưu Giác không chớp, rồi không nén nổi, vỗ nhẹ mặt chàng: “Chàng tỉnh lại đi? Chàng đừng như thế này nữa được không?”. Cổ họng nghẹn đắng, nàng bật khóc: “Mất máu quá nhiều sẽ bị chết, chàng biết không! Thiếp rất sợ người chết! Chàng đừng chết trước mặt thiếp được không?”.

Lưu Giác không động đậy, chàng đã rơi vào trạng thái hôn mê do mất nhiều máu. Chàng không nghe được mình nói nữa sao? Chàng không thể đứng dậy nói chuyện với mình, đấu lý với mình ư? A La cảm thấy trong lòng có một lỗ thủng đang lớn dần, nước mắt chảy thành dòng xuống má, những chuyện cũ lần lượt hiện ra trước mắt. Vì sao mình lại quan tâm thế này? Vì sao chỉ mới nghĩ chàng không thể dậy được nữa mình lại buồn thế này?

Nàng vuốt nhẹ mặt chàng, lẩm bẩm: “Thực ra chàng rất tuấn tú!”. Ngón tay xuống sống mũi, “Thực ra chàng rất ghê gớm!”. Lại lướt đến môi chàng, “Chàng mới là người khẩu xà tâm Phật!”. Đột nhiên nghĩ mình đến nơi này một cách lạ lùng, suốt ngày lo lắng, nàng bỗng tủi thân òa khóc.

Mi mắt Lưu Giác bỗng động đậy, đầu chàng u u mê mê, trong lúc mê sảng chàng nhìn thấy A La, thấy khuôn mặt như hoa lê dầm mưa trước mắt. Chàng mê sảng nói: “Có phải ta đang mơ không?”.

A La giật mình, không để ý đến chàng, hét to: “Người đâu, bác sĩ! Đại phu! Lưu Anh!”. Nghe tiếng gọi thất thanh, Lưu Anh và mọi người chạy vào, luống cuống hỏi: “Sao thế?”. A La không nói được gì, tay chỉ Lưu Giác: “Tiểu vương gia...”.

Lưu Anh bước hai bước đến cạnh chủ nhân, ngoái lại hỏi: “Thuốc đâu?”.

Nữ tỳ vội chạy đi lấy thuốc, Lưu Anh bê bát thuốc bón từng thìa vào miệng Lưu Giác. A La nhìn vậy sốt ruột, hỏi: “Có tác dụng không? Thuốc này có tác dụng không? Có phải tiểu vương gia đang hấp hối?”.

Một ngụm thuốc trôi vào cổ họng, hơi đắng, nước làm trơn cổ họng, lại thấy dễ chịu, cuối cùng Lưu Giác nhìn rõ người trước mặt. Giọng chàng yếu ớt nhưng rõ ràng: “Ta chết thì nàng sẽ được tự do!”.

A La ngớ người, quay nhìn Lưu Anh: “Tiểu vương gia sẽ không chết chứ?”.

Lưu Anh ngần ngại cúi đầu: “Mất quá nhiều máu mê sảng thôi!”.

Lưu Giác bỗng giơ tay nắm tay A La, mắt vẫn nhắm, miệng lẩm bẩm: “Không được đi đâu!”.

A La cảm thấy tay chàng khá mạnh, lòng bỗng nhẹ bẫng, mừng quýnh, nghĩ ngay là Cố Thiên Tường cố ý lừa mình, nói giọng giận dỗi: “Không đi!”. Nàng nhìn Lưu Anh: “Thì ra vừa rồi là ngươi cười phải không?”.

Lưu Anh đỏ mặt: “Là... là mừng quá phát khóc đấy mà! Tiểu nhân... tiểu nhân xuống bếp xem sao!”.

“Khoan, bảo nhà bếp, bắt đầu từ hôm nay, mỗi bữa đều cho tướng quân ăn gan lợn, nấu cháo hay hầm canh đều được, dùng táo đỏ, cẩu khởi hãm nước mang đến đây”. Những thứ bổ máu cô biết chỉ có ngần ấy, vội dặn dò Lưu Anh.

Lưu Giác đầu vẫn choáng váng u mê, nghe thấy tiếng nói nhưng không thể mở miệng. Môi chàng nở nụ cười nhợt nhạt.

.

Chương 19

.

Lưu Giác vừa tỉnh giấc, tinh thần đã phục hồi bảy, tám phần, chàng cử động chân tay chỉ thấy ngực phải rất đau, lại vận nội khí, hầu như đã không còn trở ngại lớn, bèn mở mắt, thấy mình vẫn đang nắm tay A La. Nàng gục đầu vào mép giường, đang ngủ, trên người chỉ khoác tấm chăn, may mà lò sưởi lửa vẫn cháy rất đượm, trong phòng ấm như mùa xuân. Thấy mí mắt nàng hoe đỏ, mòng mọng, ánh mắt chàng trở nên dịu dàng, chợt nảy ý định, miệng la to: “Ôi trời, đau quá!”.

A La sực tỉnh, thấy chàng nhăn nhó kêu đau, bỗng nhớ lại sự việc tối qua, vội nói: “Chàng sẽ không chết đâu!”.

“Đau quá!”.

“Bị kiếm đâm đương nhiên là đau rồi, lại còn không có thuốc tê nữa”. A La không biết làm gì, gọi to: “Người đâu! Tướng quân các ngươi tỉnh rồi!”.

Nữ tỳ chạy vào, mang theo nước hãm táo đỏ và cẩu khởi, vui mừng reo lên: “Tướng quân tỉnh rồi! Đại phu bảo cũng không nặng lắm, nghỉ ngơi chục ngày vết thương lành miệng là không sao”.

Nữ tỳ đưa bát nước cho Lưu Giác, đúng lúc chàng đang khát, uống liền một hơi, lại rên rỉ: “Đau quá!”.

Mắt A La vụt đỏ, nhòe nước: “Làm thế nào bây giờ?”. Nàng ngoái đầu nhìn nữ tỳ, nói: “Đi hỏi đại phu xem có thuốc giảm đau không!”.

Lòng Lưu Giác lâng lâng: “Thì ra nàng quan tâm đến ta như vậy”.

Mặt A La đỏ bừng, tươi thắm mơn mởn. Mắt vẫn mờ ướt, dịu dàng như làn nước. Lưu Giác nhìn không chớp, đột nhiên lại cau mày: “Thiên Tường đến chưa?”.

A La hơi tươi tỉnh gật đầu.

“Nhìn thấy nàng như thế này à?”.

“Ồ? Sao thế?”.

“Chẳng phải ta đã nói nàng không được ra khỏi phòng nửa bước cơ mà?”. Lưu Giác không hài lòng.

A La phát bực: “Chẳng phải thấy chàng sắp chết hay sao!”. Nàng giận dỗi rút tay về. Lưu Giác vẫn nắm chặt không buông, mắt nhắm lại: “Ta đã cho phép nàng đi ra ngoài chưa?”.

A La lườm chàng, không biết làm thế nào, lát sau giận dỗi nói: “Nếu không nể chàng đang bị thương, thiếp đã đánh cho chàng rụng răng rồi!”.

“Ta muốn ăn món nàng nấu, không làm món chay!”. Lưu Giác lại nói.

“Vậy chàng bỏ tay ra!”. A La vừa tức vừa buồn cười, thầm nghĩ, sao chàng ta cũng biết làm nũng thế?

“Của ta, ta không buông!”. Lưu Giác không chịu.

“Có muốn thiếp lấy chàng không?”. A La hỏi khẽ.

“Không phải là muốn, vốn đã thế mà!”.

“Vậy chàng buông thiếp ra, thiếp đi nấu cho chàng ăn!”.

Lưu Giác từ từ mở mắt, buông tay A La. Nàng đứng dậy, chống tay vào eo cười: “Thiếp sẽ nấu cho chàng. Muốn thiếp lấy chàng, tốt nhất nên biết điều một chút, hừ!”. Nói xong nàng ngẩng cao đầu đi ra.

Lưu Giác nghiến răng nhổm dậy, chạm vào vết thương đau nhói, bụng nghĩ, a đầu này thật ngang bướng.

A La phấn khởi đi tìm Lưu Anh hỏi: “Mẹ ta và Tiểu Ngọc đâu?”.

Lưu Anh cung kính trả lời: “Chúa thượng đã đồng ý cho tiểu thư gặp họ rồi ư?”. A La trợn mắt: “Chúa thượng ngươi còn đang mong tâm trạng ta vui vẻ mới nấu đồ ăn cho chàng, bây giờ người nằm im trên giường không thể động đậy là chàng ta chứ không phải ta!”.

Lưu Anh nén cười, đưa A La đi gặp thất phu nhân và Tiểu Ngọc. Qua một cái sân, xuyên qua ô cửa hình bán nguyệt, họ nhìn thấy thất phu nhân và Tiểu Ngọc đang ngồi trong sân. Thấy A La đi đến, thất phu nhân cười vui vẻ: “Tam Nhi, tiểu vương gia có tốt với con không?”.

“Mẹ có khỏe không?”. A La rảo bước đến ôm chầm lấy bà.

Thất phu nhân vỗ vỗ tay nàng, rõ ràng bà đã biết mọi chuyện. Tiểu Ngọc bĩu môi lườm Lưu Anh: “Ngươi lại đến đây làm gì?”. Lưu Anh cười nhăn nhó: “Chẳng phải thuộc hạ đã đưa tam tiểu thư đến rồi sao”.

Tiểu Ngọc hừ một tiếng, không thèm để ý anh ta, ôm chầm A La mắt đỏ hoe: “Tiểu thư, em lo cho tiểu thư quá!”.

A La tươi cười nhìn Tiểu Ngọc, lại nhìn Lưu Anh đang mặt đỏ tía tai. Xem ra mấy ngày nay hai người này đã có chuyện rồi. Nàng mỉm cười: “Mẹ à, tiểu vương gia bị thương, con đi nấu vài món cho chàng ăn. À, Tiểu Ngọc, ta viết giấy em và Lưu Anh đi mua mấy thứ về đây”.

Mặt Lưu Anh sáng lên, ngạc nhiên, sung sướng, Tiểu Ngọc liếc anh ta, mặt thoáng đỏ, lẩm bẩm: “Việc gì phải đi với anh ta, đáng ghét, lúc nào cũng ngăn cản, không cho em và phu nhân gặp tiểu thư!”.

A La cười ha ha: “Không liên quan đến y, có trách thì trách Lưu Giác. Muốn ăn món ta nấu, còn phải xem thái độ chàng ta thế nào”.

Lưu Anh ngẩn người, cúi đầu thở dài, sao chúa thượng lại khổ thế chứ!

Sau khi Tiểu Ngọc và Lưu Anh đi khỏi, trong sân chỉ còn nàng và thất phu nhân. A La không cười nữa, ngồi nép vào thất phu nhân, gối đầu lên đùi bà, hỏi nhỏ: “Làm thế nào đây? Mẹ?”.

“Tam Nhi, con cũng lớn rồi, mẹ thấy tiểu vương gia đúng là rất tốt với con, trong lòng chàng ta có con!”.

“Nhưng phải quay về Phong thành. Mẹ à, khó khăn lắm chúng ta mới thoát khỏi đó”.

Nếu lấy Lưu Giác, nàng sẽ phải ngoan ngoãn ở bên chàng. Nhưng như vậy có nghĩa phải đối mặt với bao phiền toái của triều đình Ninh vương ở Phong thành, cuộc sống tự do bay lượn như chú chim chắc là sẽ khó mà có được, A La bất giác thở dài.

Thất phu nhân cúi đầu nhìn nàng, lại ngẩng đầu nhìn ra xa: “Tam Nhi, mẹ ở trong bốn bức tường tướng phủ, hy vọng duy nhất là con, mẹ chỉ mong con sống vui vẻ. Ngoài nhớ con, khi buồn mẹ luôn nhớ lại những tình cảm tốt đẹp đã từng có. Hiếm hoi mới có người một lòng một dạ với con như tiểu vương gia, con đừng bỏ qua. Có lúc mẹ đã nghĩ, đời người ngắn ngủi, nhiều khổ đau, được chung sống với người mình yêu, mọi nỗi khổ sẽ vơi đi nhiều. Nếu con bỏ qua, trên đời này tìm đâu ra người có thể che chở bảo vệ con, một lòng với con? Hãy đối xử tốt với tiểu vương gia, đừng nên vì bướng bỉnh nhất thời mà hối hận cả đời”.

Từ lúc gặp gỡ gây oán ban đầu, đến rắp tâm thách thức “thủy hỏa bất tương dung”, mọi biểu hiện sinh động của Lưu Giác lần lượt hiện lên trong đầu A La, dường như từ trước đến giờ đều là nàng không tin chàng. Nàng kỳ công mưu tính tìm cách rời bỏ Phong thành, thoái hôn trốn tránh chàng mới đến đây. Nhưng ba năm xa cách, khi gặp lại nàng không hề cảm thấy xa lạ. Chàng quan tâm nàng như vậy, gặp lại mới mấy ngày, nàng đã thấy như ở bên nhau rất lâu.

Nàng cảm động, cảm động mối tình sâu nặng của chàng, cũng không thể xua đi mối tình sâu nặng ấy trong lòng. Trong những ngày này, Lưu Giác luôn khiến nàng cảm thấy an toàn, đó là sự an toàn trước giờ chưa từng có. Từ bao giờ chàng đã trở thành người đàn ông thật sự trong lòng nàng? Cảm giác an toàn, bình yên đáng tin cậy nơi chàng khiến nàng muốn dừng chân, không muốn phiêu bạt nữa.

Lấy chàng, nàng phải đối điện với tướng phủ và cung đình mà nàng căm ghét; nhưng nếu không lấy chàng, lẽ nào lại bỏ trốn? Nghĩ đến vẻ đau đớn tuyệt vọng của Lưu Giác, nỗi chua xót dâng trào khiến nàng tức ngực, trong lòng nàng, trong mắt nàng chỉ có hình bóng chàng. Rời xa chàng nàng sẽ day dứt đau khổ biết bao!

Bao ý nghĩ chồng chéo quay cuồng trong đầu, lòng phân vân bấn loạn. Nàng nghĩ, nếu thật sự yêu một người, yêu đến khắc cốt ghi tâm, sẽ không nhiều đắn đo như vậy. Nàng yêu chàng, từ lúc thấy chàng bị thương nằm bất động nàng đã hiểu, nhưng khi thực sự phải từ bỏ mọi thứ đã có để đi theo chàng, không hiểu sao nàng lại đắn đo như thế.

Thất phu nhân nói: “Hai năm nay đi ra ngoài, mới nhận thấy đất trời thật rộng lớn. Mẹ đã nghĩ thông suốt rồi, nửa đời còn lại mẹ muốn nương nhờ cửa Phật”.

A La kinh ngạc, ôm riết lấy bà: “Nhưng con không muốn để mẹ sống một mình. Bao năm nay mẹ là người thân thiết nhất của con”.

Nàng ngẩng đầu nhìn thất phu nhân, đôi mắt đẹp của bà ánh lên vẻ hiền hậu. A La xúc động, một người đã sớm nguội lòng trần như thất phu nhân, ra khỏi tướng phủ lại cảm thấy đất trời mênh mông, tự tìm được chút niềm vui thanh thản, nếu lại phải quay về chốn cũ sẽ vô cùng phiền muộn. Nếu mình lấy Lưu Giác, trở về Phong thành, Lý tướng nhất định không cho thất phu nhân đi. Ông ta sẽ giữ bà trong tướng phủ như một con bài để khi cần gây sức ép với nàng. Đón thất phu nhân đi cũng không ổn, đây là Ninh quốc, là thời cổ đại, bao luật lệ khuôn phép cũng không dung cho thất phu nhân rời tướng phủ lâu dài. Lòng trăm mối tơ vò, nàng nói: “Mẹ à, mẹ vì con đúng không? Mẹ không muốn quay trở về tướng phủ, nhưng nếu con lấy Lưu Giác, mẹ phải quay về”.

Thất phu nhân dịu dàng nhìn nàng: “Tam Nhi, con thật thông minh, mẹ không muốn quay về, cũng không thể quay về. Nhưng, mẹ muốn quy y cũng là thật. Trải qua bao nhiêu năm như vậy, bây giờ mẹ chỉ muốn bầu bạn với ngọn đèn xanh, siêu độ cho người đã thác oan vì mẹ. Ông ấy ở trong lòng mẹ, luôn ở trong lòng mẹ. Có ông ấy ở bên, mẹ đâu còn sợ cô đơn? Hơn nữa, con vẫn có thể thường xuyên đến thăm mẹ”.

Thất phu nhân lại cười tinh nghịch: “Mẹ sẽ tu ngay tại hậu viên của vú Trương!”.

A La vùi đầu vào lòng thất phu nhân: “Để con nghĩ đã. Bây giờ con vẫn chưa quyết định”.

Một binh sĩ Ô y kỵ đi đến cúi chào hai người: “Tam tiểu thư, chúa thượng mời tiểu thư đến đó”.

A La lúc này mới sực nhớ, nàng mải nói chuyện với Thất phu nhân, con mèo ốm kia sốt ruột rồi. Nàng cười: “Mẹ à, con đi xem chàng ta thế nào”.

Lưu Giác ngủ một lát, uống thuốc xong, nằm thêm lát nữa, ăn mấy món gan lợn, được biết là do A La bảo làm cũng thấy khá ngon miệng. Xong xuôi lại không ngủ được, chờ mãi không thấy A La quay về, mặt sa sầm sai người đi tìm, tự dưng thấy sốt ruột, không nén nổi bèn khoác áo ngồi dậy.

A La đi vào, thấy Lưu Giác đang ngồi tựa đầu giường đọc sách: “Sao đã dậy rồi? Nằm xuống cho thiếp!”.

“Chưa cưới đã quản thúc tướng công rồi?”. Lưu Giác không nhúc nhích, nhướn mày nói đùa.

“Nói nhảm gì thế? Trông thần sắc chàng tốt lên nhiều rồi! Vậy mặc kệ chàng, thiếp đi đây. Không phải thiếp bị thương, sao thiếp phải lo chứ!”. A La nghe chàng nói vậy, ngẩn ra, nói không khách khí, quay người như định bỏ đi.

Lưu Giác hoảng hốt nhảy lên kéo nàng lại. Ngực đau nhói, chàng cũng mặc vẫn cố kéo A La, cả hai cùng ngã ra giường. A La vừa va vào người, chàng vờ đau đớn nhăn nhó: “Bắt đầu từ bây giờ, nàng sẽ ở lại đây, không được rời một bước”.

A La xúc động, Lưu Giác hít một hơi nói tiếp: “Nếu còn cựa quậy vết thương của ta lại toác ra”.

A La không dám động đậy, khẽ nép vào lòng chàng. Lòng chàng ấm áp như lòng thất phu nhân và mẹ nàng ở thế giới hiện đại. Nàng khao khát, lưu luyến cảm giác ấm áp như thế này. Nhưng, thật sự phải quay trở về nàng lại không muốn. A La nhắm mắt cảm nhận hơi thở của chàng, cũng không muốn nói, cứ như thế này một lát thôi.

Nàng cứ ngồi yên như thế. Lòng Lưu Giác chợt nôn nao, nghĩ đến mấy năm qua chàng đã vì nàng đau đớn không biết bao phen, buồn bao nỗi, bây giờ cuối cùng có thể ôm nàng vào lòng, cảm thấy vừa xúc động vừa xót xa. Chàng xiết tay, ôm chặt A La, chỉ sợ buông lơi nàng lại biến mất. Vết thương ở ngực chàng không mấy bận tâm, thậm chí còn thấy tiếc không trúng một nhát kiếm sớm hơn, nếu không A La đâu có ngoan ngoãn nằm trong vòng tay chàng như thế này.

Mắt chàng dừng lại trên miếng ngọc băng đặt ở bệ cửa sổ, nói nhỏ: “Mảnh ngọc băng nàng tặng ta rất đẹp, sao nàng lại nghĩ ra kế để cho tường thành đóng băng như vậy?”. A La không thừa nhận: “Chẳng qua thấy chàng quá si tình, còn kỳ công đốt lửa sưởi cho hải đường ra hoa, thiếp tặng chàng món quà nhỏ cho công bằng”.

Lưu Giác cười đau khổ, nàng vẫn không chịu thừa nhận tình cảm đối với chàng, bỗng nhiên hoảng hốt, nói lạnh lùng: “Nàng đừng nghĩ lại bỏ trốn, trước đây có thể trốn được là do Lý phủ có sơ hở. Bây giờ tốt nhất nàng từ bỏ ý định đó đi, ngay cả trong ý nghĩ cũng không nên”. Chàng lại thở dài, dịu giọng: “Ngẩng mặt lên nhìn ta, A La”.

A La ngẩng đầu, nhìn chàng đăm đăm, mắt lại nhòe ướt. Trong thế giới này nàng quả thực không có sức mạnh. Lúc này, nghĩ đến những tên áo đen bịt mặt hôm trước, cảm thấy mình thực yếu đuối, không nơi nương tựa. Lưu Giác nhẹ nhàng lau nước mắt cho nàng: “Trừ phi ta chết, hãy tin ta, A La! Ta sẽ che chở bảo vệ nàng suốt đời suốt kiếp”.

Nàng nhắm mắt, nước mắt lại ứa ra: “Thiếp không biết, đừng hỏi thiếp, bây giờ đừng hỏi”.

Vết thương trên ngực lại nhói đau, chàng cúi đầu nhìn nàng. Nhắm mắt, lòng đã quyết, từ giờ không thể để cho A La quyết định.

Những tia nắng đầu tiên hiện ra sau những trận mưa tuyết, thành Lâm Nam trở lại cảnh tượng thuyền bè tấp nập như trước, chiến sự đã qua. Nỗi đau của những gia đình có binh sĩ tử trận cũng dần nguôi ngoai, những vết máu xối chưa hết trên tường thành cũng mờ dần.

Vết thương của Lưu Giác bình phục rất nhanh, chàng ở trong phủ dưỡng thương, A La ở bên chàng không rời một bước. Chàng tuyệt nhiên không đả động đến chuyện cưới xin, A La cũng không nhắc đến quan hệ giữa hai người, họ rất thoải mái, chuyện trò cũng thân mật hơn.

Sáng sớm mỗi ngày, nàng vẫn luyện võ như thường, động tác nhanh nhẹn, Lưu Giác không vận nội lực đấu với nàng, có lúc cũng có thể ra mấy chiêu phối hợp. A La nói: “Chẳng phải chàng luôn muốn biết quyền cước đó gọi là gì, học với ai sao?”.

Lưu Giác chưa bao giờ nhìn thấy loại võ công chủ yếu dùng chân đá, tay chém, xỉa chẳng có quy tắc gì hết như vậy. Chàng cố nén tính hiếu kỳ, mỉm cười nhìn A La.

“Đó là...”, A La nghĩ đến thế giới mà cô được đưa đến này bối cảnh tương tự lịch sử trước thời nhà Hán, nhưng thời kỳ sau đã khác, bèn cười nói: “... Đó là một loại võ công thời thượng cổ truyền đến từ Nhật Bản, phát triển ở Nhật Bản, sau đó trở nên thịnh hành. Thực ra so với võ công ở đây hầu như tác dụng không lớn, nhưng có thể đối phó với tiểu tặc và rèn luyện sức khỏe. Từ lúc năm tuổi thiếp đã bắt đầu học”.

“Nhật Bản ở đâu?”.

“Là một quốc đảo ngoài biển, không tìm được đâu. Sư phụ em ở đó, bây giờ cũng không gặp được. Có lúc em nghĩ, qua nhiều năm như vậy, giờ đây tất cả giống như một giấc mơ. Chàng có tin là có thần linh không? Thiếp kể cho chàng nghe chuyện một vị thần trong truyền thuyết nhé?”.

A La cười hồn nhiên, co người, dựa vào lòng Lưu Giác: “Vị thần đó gọi là Thượng đế, mọi chúng sinh đều là con của Người, thần dân của Người. Người tạo ra loài người, những người này có kẻ làm vua, có kẻ bán hàng, có kẻ là binh lính, thân phận của mỗi người trong thế gian rất khác nhau. Có lần, một người phẫn nộ hỏi Thượng đế, tại sao lại phân biệt như thế? Tại sao có người suốt đời hưởng thụ giàu sang phú quý, cuộc sống bình yên, còn tôi quanh năm vất vả, lăn lộn mưu sinh? Thượng đế từ bi nói: “Phú quý sang hèn đều là phù vân, ta ban cho các con mỗi người có tư tưởng, có linh hồn. Khi sinh mệnh trên đời của các con kết thúc, khi linh hồn các con đứng trước ta, tất cả đều bình đẳng như nhau, ta coi các con như nhau”.

“Hiểu rồi, ý nàng nói giữa người với người kỳ thực đều bình đẳng, chỉ có điều thân phận khác nhau mà thôi?”. Lưu Giác nói thản nhiên.

“Chàng thông minh lắm!”. A La lòng như nở hoa, không ngờ Lưu Giác lại hiểu biết như vậy, vừa nói đã thông.

“Được, vậy nàng cứ đợi sinh mệnh ở đời này kết thúc hãy nói chuyện bình đẳng. Bây giờ, ở Ninh quốc Ninh vương vẫn là chủ, ở phủ tướng quân ta là chủ!”. Mắt lóe lên ánh nhìn ranh mãnh, Lưu Giác nhẹ nhàng ôm A La, bụng nghĩ, muốn bình đẳng, sao có thể?

A La cúi đầu ủ rũ, người ở đây tư tưởng phong kiến thâm căn cố đế, không thể cải tạo. Có điều, cũng phải tìm cách gì có lợi cho mình chứ? Nàng lấy lại tinh thần, nói tiếp: “Truyền thuyết kể rằng, ở một đất nước, mọi gia đình đều phải tuân theo chế độ một vợ một chồng. Nếu người chồng vụng trộm với người đàn bà khác ở bên ngoài, theo hình pháp bị xử phạt một trăm roi và bị bôi đen lên mặt. Nếu người chồng cưới thêm vợ khác về nhà, sẽ bị khép vào tội đa thê tống giam vào ngục, như Lý tướng... cha của em đó, đủ để ngồi tù mười mấy năm”.

“Ô? Đàn ông ở đó chẳng phải quá đáng thương hay sao? Nếu lấy một người vợ không thể sinh con trai, mà mình lại không yêu, cũng không thể nạp thiếp sao?”. Lưu Giác lắc đầu, cảm thấy không thể tin được.

“Có thể ly hôn! Nghĩa là đàn ông có thể bỏ vợ, người phụ nữ nếu không hài lòng có thể bỏ chồng, đi tìm người mình yêu”.

“Làm gì có chuyện đó! Ai nhồi vào đầu nàng những thứ xằng bậy như thế?”. Lưu Giác bực mình, lấy chàng mà vẫn không hài lòng, không vui, muốn bỏ chồng? Hừ! Chàng bỗng nghiêm giọng: “Ta muốn cưới tất sẽ cưới người ta yêu, cả đời không xa lìa!”. Chàng véo mũi A La cười: “Không ngờ nàng là người bảo vệ những phận nữ nhi”.

A La hoàn toàn tiêu tan ý tẩy não cho anh chàng, nên nàng cũng nghiêm giọng: “Nếu cưới thiếp, chàng chỉ được có một mình thiếp, nếu chàng nạp thiếp, thiếp sẽ bỏ đi để cho chàng toại nguyện!”.

Lưu Giác nhìn nàng nói: “Cho nên nàng không muốn ở bên Tử Ly phải không?”.

A La ngây người, đứng dậy đi đến bên cửa sổ. Tử Ly... Tử Ly với nụ cười bất biến trên môi, nhưng nét mặt đượm buồn, Tử Ly đứng ngoài tướng phủ thổi những khúc tiêu da diết, Tử Ly say mê cùng nàng cưỡi ngựa bay như cơn lốc trên thảo nguyên... nàng lại thở dài.

Nhìn bóng dáng mảnh dẻ thở dài trước mặt, trong lòng nàng ấy cũng có Tử Ly ư ? Lưu Giác nhảy từ giường xuống, ôm chặt A La, nghe thấy nàng khẽ hát: “Thuở thiếu thời chàng thích nói vui, thiếp thơ ngây thích hát hay cười, bao ước mộng theo thiếp vào giấc ngủ, cánh hoa rơi tan tác giấc thần tiên...”. A La cúi đầu, “Tử Ly và thiếp gặp nhau không đúng lúc, cuối cùng vô duyên”.

Thì ra còn có một nỗi đau mang tên đố kỵ. Chàng hận sao nàng không sinh ra ở chốn thâm sơn, không quen ai mà chỉ biết mỗi chàng. Lòng chàng dồn dập từng cơn sóng, giơ tay nâng cằm A La, nhìn vào đôi mắt lung linh ánh nước, nhìn mãi nhìn mãi, đến khi đôi đồng tử đó chỉ in mỗi bóng chàng, mới nhè nhẹ thở một hơi dài, tim lại đập xốn xang, một tay che mắt A La rồi ghé môi hôn.

Mùi hương nhàn nhạt vấn vương nơi đầu lưỡi, A La đầu hơi ngửa ra sau, chàng ép tới, nhìn hàng mi dài thảng thốt, run run, má dậy hồng. Chàng xúc động nhấc bổng nàng, tung lên cao, A La nhắm mắt, cảm giác mất trọng lượng khiến nàng hoảng sợ, hét to, rơi vào đôi cánh tay chắc rắn của chàng. Lưu Giác tung lần nữa, sau mấy lần như vậy, chàng sung sướng cười ngất.

A La ôm chặt cổ chàng phẫn nộ: “Thì ra vết thương của chàng đã khỏi hẳn rồi!”.

“Thì ra lòng nàng nghĩ một đằng miệng nói một nẻo! Ha ha, A La của ta! Của ta!”. Chàng cười vang.

A La vùi đầu vào ngực chàng nói: “Mẹ thiếp muốn đi tu, thiếp không nỡ. Mẹ sẽ không trở về tướng phủ, thiếp cũng không muốn, Chàng không được đưa thiếp trở về!”.

Lưu Giác đặt nàng xuống, nói nghiêm túc: “A La, trước sau nàng vẫn là tam tiểu thư của tướng phủ, không thể vô danh vô phận đi theo ta. Nàng muốn lấy ta nhất định phải đường hoàng từ tướng phủ gả cho ta”.

“Nếu như chàng cưới Trình Tinh, không phải tam tiểu thư của tướng phủ?”.

“Người đính hôn với ta là tam tiểu thư tướng phủ, ngay từ khi ta cầu hôn, An Thanh vương phủ coi như đã thông gia với Lý tướng. Cuối cùng nàng vẫn phải trở về Phong thành, không thể né tránh”.

“Ở Lâm Nam không được sao? Cách xa Phong thành, cách xa vương cung và triều đình”. Lưu Giác nhìn sâu vào mắt A La, nàng sợ trở về Phong thành, trước sau A La vẫn chưa hoàn toàn tin mình, A La hoài nghi mình không bảo vệ được nàng hay sao? “A La, nàng phải biết, ta là Bình Nam tướng quân của Ninh quốc, là tiểu vương gia của An Thanh vương phủ, cháu ruột của Ninh vương, anh em họ của thái tử và tứ hoàng tử. Có một số chuyện không thể làm theo ý mình, ta có bổn phận của ta. Nếu ta từ bỏ tất cả cùng nàng cao chạy xa bay, chưa nói Ninh quốc sẽ thế nào, các nước khác cũng coi là cơ hội, nếu họ cử cao thủ bắt ta, một hoàng thân của Ninh quốc cho dù không uy hiếp được cả vương quốc cũng có thể hạ nhục hoàng thất Ninh quốc. Hơn nữa, nàng cũng không còn lựa chọn nào khác, cho dù ta không lấy nàng, về danh phận nàng đã là thê tử có hôn ước của Lưu Giác này”. Chàng nhẹ nhàng phân tích mọi chuyện. “Nay vương thượng đã nghỉ triều hai tháng, bão táp ở Phong thành sắp nổi lên, hươu chết trong tay ai cũng chưa nói được, thắng làm vua thua làm giặc là chuyện thường tình. Khi vương thượng băng hà, cũng là lúc ta đưa quân trở về Phong thành”.

A La ngây người, nếu theo Lưu Giác, chắc chắn sau này nàng sẽ bị cuốn vào những cuộc đấu đá tranh giành. Nàng lắc đầu một cách vô thức, Lưu Giác giữ chặt đầu nàng không cho lắc: “Ta hiểu, nàng rất ghét cuộc sống đó, nhưng đừng nghĩ tới chuyện bỏ trốn, sao có thể trốn được? Cho dù trốn khỏi đây cũng sẽ rơi vào tay nước khác nàng bảo ta phải làm thế nào? Theo ta, A La nàng chỉ cần theo ta”.

Lúc này A La cảm thấy rất mệt mỏi. Nàng có thể theo chàng, cùng sống bên chàng, nhưng cứ nghĩ đến những người ở tướng phủ và cung đình Ninh quốc, nỗi mệt mỏi chán ngán từ trong tiềm thức lại trào lên. Nàng nói nhỏ: “Chàng có biết, trong bữa tiệc ở Đông cung hồi đó tại sao ngón tay Thanh Lôi bị thương không? Bởi vì khúc “Thu thủy” ở Đào hoa yến là do thiếp chơi. Chỉ vì một khúc đàn mà gây ra sóng gió như vậy, kết quả khiến thái tử phi được lợi. Vương Yến Hồi đúng là một nhân tài”.

Lưu Giác sững người: “Cho nên nàng mới không chơi đàn nữa, cho dù ta nói thế nào nàng cũng không chịu, trong dạ yến ở Đông cung bất đắc dĩ mới đánh khúc “Quảng lăng tán”. Tử Ly có biết không?”.

A La lắc đầu: “Một tỳ nữ ở tướng phủ biết chuyện thì đã biến mất rồi. Thiếp rất sợ, nếu không học thổi sáo, e là phụ thân đại nhân kia sẽ phế bàn tay của thiếp để trừ hậu họa. Chàng không nên đưa thiếp quay về, quả thật thiếp rất sợ!”.

Lưu Giác cầm bàn tay A La lên, những ngón tay thon dài, lòng bàn tay hơi thô do luyện công. Đôi tay này chơi khúc “Thu thủy” nức tiếng Phong thành, tác thành một vị lương đệ của thái tử. Đôi tay này tạo ra tiếng sáo làm động lòng Ly Thân vương. Chàng nhẹ nhàng vuốt ve những ngón tay đó, đưa lên miệng hôn: “Ta biết rồi”.

Chưa đầy mấy ngày sau, Phong thành cho ngựa cấp tốc truyền thánh chỉ của Ninh vương. Thành Lâm Nam đại thắng quân Trần, tin vui bay đến kinh thành, Ninh vương phong cho Lưu Giác làm Bình Nam vương, Cố Thiên Tường là Trung Dũng nhất đẳng công, lại nghe nói đã tìm thấy tam tiểu thư của tướng phủ, liền ban xe kiệu đón về kinh thành. Cùng đến với thánh chỉ còn có mấy gia tướng của Lý phủ.

Trong dạ tiệc ở phủ tướng quân, Lưu Giác hỏi quan khâm sai truyền thánh chỉ về tình hình Phong thành, quan khâm sai nói: “Lão vương gia nhắn lời đến tiểu vương gia, nguyên văn là: “Thăng quan, phong vương lần nữa cũng vẫn là con trai lão phu. Lão phu nói phải nghe”.

Mọi người trong phủ cúi đầu cười, Lưu Giác đỏ mặt, lòng chàng sáng như gương, xem ra chỉ có thể để A La một mình quay trở về Phong thành. A La... Lưu Giác lại đau đầu. A La xưa nay không ưa Phong thành, biết nói với nàng thế nào đây?

Tiếng cười nói ồn ào của quan khâm sai và đám tùy tùng trước sân truyền qua lớp lớp sân tường, tan dần trong không trung. Gian phòng nhỏ ở hậu viên của tướng phủ sáng ánh nến, không khí vô cùng tĩnh mịch. Thất phu nhân toàn thân vận áo xanh, xõa tóc ngồi trước gương. Năm tháng đã để lại những dấu ấn lờ mờ trên mặt bà, nhưng dung nhan không hề suy giảm. Bà bỗng mỉm cười, giống như đóa hoa trắng trên núi rùng mình bừng nở, kết tụ mọi thanh khí của linh sơn, kiều mỵ dịu dàng và yếu ớt. Khuôn mặt thất phu nhân chợt lay động bởi nụ cười, bà dịu dàng cất tiếng: “Trông hai người kìa, đây là chuyện tốt, có gì phải khóc!”.

Tiểu Ngọc thận trọng chải mớ tóc dài của thất phu nhân, nghe vậy không kìm được nữa, quẳng chiếc lược bật khóc: “Phu nhân, sao phu nhân đành lòng...!”.

Không đành cũng phải đành! Thất phu nhân nói: “Đức Phật đã dạy có mất mới có được, ta nghĩ, sống ở chỗ vú Trương, tự do tự tại, lại còn có Hổ Tử láu lỉnh đáng yêu cũng không buồn”. Không phải xuất gia mới có thể tu hành, nhưng nếu ba ngàn sợi tơ xanh này mà không cắt, Lý tướng sao có thể cho qua? Chỉ cần không phải quay về bốn bức tường kín mít của Đường viên tướng phủ, suốt ngày đối diện với đám người đáng ghét, cắt đi mái tóc có gì quan trọng? Duy nhất không đành là A La. Mười bảy năm nay nàng chưa hề xa bà, con đường về sau đành để nàng đi một mình.

Thất phu nhân cười dịu dàng, kiên định. m thanh dịu dàng này trong mỗi ngày mười năm qua sẽ mãi vang bên tai A La: “Tam Nhi đói chưa... Tam Nhi, mẹ dạy con đánh đàn, âm này lướt nhẹ một chút...”. Thanh âm cuối cùng từ phím đàn vang vọng mãi không tan. Xua đi những ý nghĩ đau buồn. Chỉ là cắt tóc, chuyện nhỏ mà! A La cầm cây kéo lên, tự nói với mình, không thể giả chết, làm ni cô là cách tốt nhất. Nàng trầm ngâm vuốt những sợi tóc đen thanh mảnh của thất phu nhân, ngắm nhìn, tay cầm kéo.

Tiểu Ngọc lao đến giữ chặt tay nàng: “Tiểu thư...”.

“Bỏ ra! Không còn thời gian nữa!”. A La nói, đã là sự lựa chọn tốt nhất, do dự nữa chỉ là sự yếu đuối đàn bà. Thị vệ của Lý tướng đã đến Lâm Nam cùng với quan khâm sai. Nàng, thất phu nhân và Tiểu Ngọc xuất hiện ở Lâm Nam không còn là điều bí mật. Nếu chỉ mình nàng quay về, cho dù thoái hôn hay phải đối diện cũng sẽ đơn giản hơn nhiều. Thất phu nhân một khi đã quay về, vĩnh viễn đừng bao giờ nghĩ đến chuyện rời tướng phủ. Chỉ một câu nói êm ru của Lý tướng, không muốn xa thất phu nhân, thì cho dù Ninh vương cũng không tiện để thất phu nhân rời phủ, dẫu rời phủ bà vẫn mang danh là phu nhân Tả tướng. Chỉ có xuất gia, tuyên bố đoạn tuyệt hồng trần mới là cách tốt nhất.

A La dằn lòng cầm một nắm tóc, cắt xoẹt. Ngơ ngẩn nhìn món tóc trên tay, nước mắt nàng ứa ra: “Mẹ, mẹ có đau không? A La xin lỗi”.

Xưa nay đâu có nghĩ cắt tóc lại buồn đến thế, giống như cầm dao cắt vào da thịt thất phu nhân, tay nàng hơi run, tóc lại quá mềm, nhát kéo thứ hai nàng không cắt được. Nàng buồn vì phải cắt đi suối tóc này hay là buồn vì một quyết định bất lực như thế, A La cũng không biết.

“Ngốc quá, tóc làm gì biết đau. Mẹ rất thích, con cứ cắt đi!”.

Phải, chỉ là tóc thôi mà, nếu có thể đổi lấy tự do cho mẹ, thì có là gì? Chỉ cần mẹ yên lòng, mình sẽ làm không cần đắn đo. Nàng nhắm mắt, gạt đi giọt nước mắt cuối cùng, khi mở ra, ánh mắt đã kiên cường như đá, nhanh chóng, gọn gàng từng lớp, từng lớp, nàng cắt hết mái tóc dài của thất phu nhân, sau đó dùng dao cạo lại cẩn thận.

A La cười: “Thì ra mẹ không có tóc vẫn rất đẹp! Lấy pháp hiệu là gì đây?”.

Thất phu nhân cười: “Tất nhiên là Vong Trần”.

Vong Trần ư? Hai người nhìn nhau cười. A La liếc nhìn những lọn tóc dài đen mướt trên bàn, mái tóc đẹp thế này mà làm bộ tóc giả, đội lên nhất định sẽ đẹp. Trong mắt nàng đã sáng lên nụ cười, như tia nắng mặt trời rọi vào tướng phủ yên tĩnh,”Mẹ à, mẹ cứ an tâm nghỉ ngơi, đợi con đến đón”.

.

Chương 20

.

A La lặng lẽ ngắm nhìn khóm hải đường trước sân, những bông hoa trĩu nặng, nở đã lâu vậy mà vẫn đỏ tươi. Có thể chịu gió rét không chỉ có mai, phẩm chất “Khi rụng thành bùn hóa bụi bay, vẫn có hương như cũ”(16) không phải là nàng.

Sau khi sắp xếp xong cho thất phu nhân, nàng không còn lo lắng gì nữa. Lưu Giác đang ở Lâm Nam, chàng tất sẽ bảo vệ nàng. Theo hiểu biết của nàng về chàng, cho dù nàng làm ra những chuyện khiến chàng đau lòng, Lưu Giác cũng sẽ không làm khó thất phu nhân. A La bất giác bật cười, ở trong thế giới dị thường này mười năm, mình trở thành ngươi cổ đại thật rồi!

Người bỗng thấy ấm lên, Lưu Giác đã khoác lên vai nàng chiếc chiến bào, thấy nét mặt nàng bình thản, miệng mỉm cười, chàng nhướn mày: “Nàng không sợ trở về Phong thành nữa sao?”.

Sợ gì chứ? Cũng không hoàn toàn là thế, chẳng qua là chán ghét không muốn nhọc công toan tính. Triều đình Ninh quốc chẳng liên quan đến nàng, ai làm vua cũng chẳng can gì. Nàng đến thế giới dị thường này, chỉ muốn có một cuộc sống bình yên. Những vấn vương đối với thất phu nhân là do mối thâm tình mười năm gắn bó, nàng không thể không quan tâm, không lo lắng. Những cái khác còn có gì? Bình Nam vương trẻ tuổi hào hoa tình sâu như biển, chàng đã làm nàng cảm động, khiến nàng có ý nghĩ muốn dựa vào chàng trong không gian xa lạ này, liệu có thể cùng chàng sống cuộc đời hạnh phúc yên ổn hay không? Chỉ có điều, hạnh phúc ấy xem chừng vẫn còn xa lắc. Chàng có những bổn phận của chàng, gia tộc của chàng, không cho phép chàng tùy tiện hành xử.

“Sợ thì sao? Chàng đâu dám kháng chỉ không cho thiếp về?”.

Giọng nàng bình thản, nhưng lại tựa lưỡi dao đâm vào lòng Lưu Giác, trái tim bằng máu thịt trong lồng ngực như bị lôi ra, quăng lên, chơi vơi, rồi quật xuống, tơi bời trên mặt đất. “Nàng trách ta? Biết là nàng đã khổ công tìm cách chạy khỏi Phong thành, bây giờ lại đưa nàng quay về?”.

Trách chàng ư? Có lẽ! Bởi vấn vương nên mới trách chàng. Bởi động lòng, cho nên mới trút giận. Biết rõ là không còn cách nào khác nhưng vẫn không kìm chế được, nên mới dùng những lời thản nhiên nhưng ngấm ngầm hờn trách nói với chàng, cái tính ngang bướng, bất chấp lễ nghĩa này cũng chỉ dám tỏ ra với chàng mà thôi. A La thở dài: “Chàng có thể giúp thiếp chăm sóc mẹ không? Còn Tiểu Ngọc, tuổi cũng đã lớn, thiếp thấy Lưu Anh người cũng tốt, liệu có thể tác thành cho bọn họ?”.

Tại sao lời nói cứ như dặn dò chuyện hậu sự như vậy? Lưu Giác giật mình, giơ tay nắm vai nàng: “Nàng định làm gì?”.

Nàng có thể làm gì? Trong mắt A La ánh lên vẻ buồn thảm, bây giờ không thể, không có nghĩa là sau này không thể. Nét mặt trở lại tươi cười: “Một mình mẹ ở đây, có chàng thiếp mới yên tâm. Tiểu Ngọc xem chừng cũng thích Lưu Anh, nàng ấy theo thiếp nhiều năm, không nên để nàng ấy lỡ làng tuổi xuân”.

Lưu Giác vẫn hồ nghi, chàng luôn không dám tin A La chịu ngoan ngoãn quay về tướng phủ. Nếu trở về Phong thành, cho dù ở đó có lão gia của mình đầy quyền thế, nhưng nếu nàng không còn gì vấn vương lại bỏ chạy, chàng biết tìm ở đâu? Ý nghĩ vừa xuất hiện, chàng đã ra tay như gió điểm huyệt, đỡ người A La đang từ từ sụp xuống, “Ta không thể để nàng bỏ chạy biệt vô âm tín! Xin lỗi, A La! Nàng quá thông minh, biết mẹ ở đây đã có ta bảo vệ, không còn vấn vương, chuyện gì nàng cũng làm được. Ta không dám mạo hiểm”.

Chàng - A La thầm than thở, chàng quan tâm mình vậy sao? Khống chế để mình không thể bỏ trốn. Lưu Giác ôm nàng vào phòng, ngồi trên giường nhìn nàng,”Nàng có giận, ta cũng làm như thế. Đưa nàng về Phong thành ta tất có suy tính chu toàn. Ta cho Lưu Anh và Tiểu Ngọc cùng về với nàng, từ giờ Lưu Anh sẽ là hộ vệ của nàng, không còn là Ô y kỵ nữa”.

Tay nhẹ nhàng vén những sợi tóc vương trên trán A La, sao không thấy vẻ sợ hãi trong mắt nàng, không thấy nàng nổi giận mà lại bình thản như vậy? Lưu Giác đứng lên: “Nàng có giận ta không? Không ngờ ta khống chế nàng, không cho nàng cơ hội chạy trốn đúng không? Nhưng, A La nàng không hiểu. Lúc đầu tình cảm của ta với nàng không sâu nặng như vậy. Trong Đào hoa yến ta rung động bởi khúc “Bội lan” của Cố Thiên Lâm, ta vốn tưởng ta thích kiểu thục nữ thanh tao thoát tục như hoa lan. Nhưng trong bức vẽ chân dung nàng ta lại vẽ đôi mắt nàng, ta ngày đêm ngắm nhìn, về sau cũng không biết là ngắm nàng hay ngắm đôi mắt nàng trong đó. Ta thừa nhận, lúc đầu ta đã xen vào giữa nàng và Tử Ly, bám lấy nàng, là muốn trêu chọc, nhưng rồi về sau, ta dần dần si mê, không làm chủ được nữa”.

“Không biết ta đã yêu vẻ láu lỉnh như con én nhỏ của nàng, tiếng đàn bi thương của nàng trong dạ tiệc ở Đông cung, hay vẻ bí hiểm không hợp lứa tuổi của nàng... Tất cả, trong lòng ta chỉ có nàng. Lâu dần, nỗi tức giận chuyển thành nỗi nhớ, từng nụ cười của nàng không chút nào phôi phai trong ta. A La dù nàng có giận ta bao nhiêu vì đã làm thế này với nàng, ta cũng sẽ không để nàng rời xa ta, nàng có thích hay không thì hãy cứ đợi ta quay về Phong thành. Đến lúc đó ta... ta sẽ chuộc tội với nàng được không?”.

Hai hàng nước mắt A La trào ra, nàng thầm mắng chàng không cho nàng mở miệng, đáng ghét! Thấy chàng đưa tay lau nước mắt cho nàng, liền mở mắt nhìn, nét mặt chàng nghiêm nghị u buồn, nàng giận dỗi nhắm mắt.

Đột nhiên bị chàng xốc lên, chàng ôm nàng nói nhỏ: “Chờ ta trở về Phong thành lại ôm nàng, nàng đồng ý không?”. Tay chàng bóp miệng nàng, đưa một vật gì có mùi thơm trượt vào cổ họng nàng: “Chỉ là để người nàng mềm một chút, nàng ngủ một giấc, tỉnh dậy đã ở trên đường rồi”.

Nếu được tự do hành động, chắc nàng đã lao vào đánh chàng. Con người này đúng là tự làm tự chịu, tự chuốc khổ vào thân, A La rất muốn trong mắt mình có dao đâm muôn ngàn nhát vào chàng, nhưng chỉ trong chốc lát, ý thức nàng dần tan biến, bóng chàng mờ dần.

Khi tỉnh lại, cơ thể đang lắc lư, nàng thấy Tiểu Ngọc lo lắng nhìn mình. A La thở dài: “Đến đâu rồi?”.

“Sắp đến Cốc thành rồi, tiểu thư”.

A La cựa mình, cơ thể đúng là mềm oặt. Nàng dựa vào Tiểu Ngọc ngồi dậy, như là đang ốm nặng, toàn thân không còn sức lực. Cử động không có gì trở ngại, nhưng nếu giơ tay đánh chắc là Tiểu Ngọc cũng đỡ được. Lưu Giác này tệ thật! Sực nhớ ra Lưu Anh, liền hỏi: “Lưu Anh đâu?”.

“Huynh ấy cưỡi ngựa đi bên ngoài”. Mặt Tiểu Ngọc thoáng đỏ.

Tiểu Ngọc đúng là đã thích Lưu Anh. Cũng tốt, Lưu Anh rất được. Có điều, Tiểu Ngọc, ta đành có lỗi với em. A La vén rèm xe, Lưu Anh cưỡi ngựa hình như có gì không vui, nàng gọi: “Lưu Anh!”.

“Tiểu thư, có việc gì?”. Lưu Anh cung kính.

Tối qua Lưu Giác nói với y, y đã bị xóa tên khỏi Ô y kỵ, kể từ nay là hộ vệ của tam tiểu thư. Lưu Anh không kìm được hỏi: “Nếu là mệnh lệnh của chúa thượng, thuộc hạ sẽ hết lòng bảo vệ tiểu thư, nhưng tại sao nhất định phải xóa tên khỏi Ô y kỵ?”.

Lưu Giác nhìn y: “Ta muốn ngươi sau này coi nàng ấy là chủ nhân của ngươi”.

Mặc dù theo tam tiểu thư, chúa thượng có lẽ ngầm cho phép y ở bên Tiểu Ngọc, nhưng lòng Lưu Anh vẫn rất khó chịu.

“Ta đói rồi, nghe nói Cốc thành có món bánh hoa mai nổi tiếng, đằng nào cũng sắp tới Cốc thành, ngươi đi trước mua về cho ta! Để nguội ăn không ngon, nếu ngươi chê ngựa đi chậm, thì chạy bộ mà đi”. A La thủng thẳng nói.

Lưu Anh trầm giọng: “Việc tiểu thư sai bảo thuộc hạ đã nhớ, bánh hoa mai mua về đến tay tiểu thư đảm bảo vẫn nóng”. Y thúc ngựa phóng đi, nửa canh giờ sau, cung kính dâng lên bánh hoa mai.

A La ngó nhìn, cầm lên một miếng định đưa vào miệng, bỗng lại kêu “Ai da” như nhớ ra điều gì: “Nghe nói, ăn bánh hoa mai này phải uống với trà nhụy hoa ở đây mới hợp. Lưu Anh à, lại phiền ngươi đi một chuyến”.

Lưu Anh không nói một câu, lại phi ngựa đi. Khi quay về, mở cái bọc ra, trà vẫn nóng, A La nhìn bình trà, trề môi: “Đói quá!”. buông rèm đánh “xoạch”, không buồn nhìn y.

Lưu Anh tức giận quay đầu, không nhìn cỗ xe nữa, tủi thân than thở: “Chúa thượng, nỗi phiền toái chúa thượng gây ra, bây giờ trút hết lên đầu tiểu nhân rồi!”.

Cứ như vậy, A La hành hạ Lưu Anh suốt dọc đường, cuối cùng họ cũng bình an trở về bên sông Đô Ninh, Phong thành đã ở ngay trước mặt. Gió lạnh đem theo bụi tuyết, rơi ràn rạt trên áo bông. Lão Trương kéo chiếc mũ da dê đội lên đầu, thắt lại quai mũ, bịt chặt hai tai, hai tay giấu trong ống tay áo, xốc lại cái gùi trên vai tiến về phía dịch trạm. Trên mái ngói của các ngôi nhà ven đường, tuyết đọng thành những dải nhũ so le, cái dài cái ngắn rủ xuống, tuyết rơi xuống đường hòa với nước mưa và đất tạo thành lớp bùn nhão nhoét, khi ủng giẫm lên đường phát ra những tiếng lép nhép.

Trong thời tiết này, ngồi trong nhà uống chén rượu nóng mới phải. Nhìn sắc trời, lão Trương rảo bước, không lâu sau đã tới dịch trạm. Lão vén bức mành bằng vải bố dày, hơi nóng xông ra, lão rũ bụi tuyết dính trên bộ râu, nước rơi từng giọt, mặt ướt đẫm. Lão phủi bụi tuyết trên người, “Ai dà, thật biết hưởng thụ!”.

Đám lính ở dịch trạm đang ngồi quây quần quanh đống lửa giữa phòng uống rượu, nghe tiếng nói, nhìn ra, có người cười xởi lởi: “Trương đại ca đã đến ư? Mau vào đây sưởi, làm chén rượu nóng! Thời tiết tệ quá!”.

Lão Trương cũng không khách sáo, hình như đã quen nhau, lão bước đến, có người đứng dậy nhường chỗ. Rót một bát rượu, một hơi uống cạn, lão xoa râu cười: “Hôm nay ta dậy muộn, việc của vương gia không được chậm trễ. Đồ đâu?”.

Dịch quan cười: “Vương gia nhà ông khẩu vị đến là quái, ngày nào cũng bắt lính vượt ngàn dặm mang đến món canh cải trắng! Ăn suốt ba năm vẫn chưa chán!”.

Lão Trương cau mày, nói khẽ: “Câu này mà ngươi cũng dám nói bừa!”. Vẻ hiền hậu ngay lập tức biến thành nghiêm khắc.

Dịch quan giật mình, vội chuyển câu chuyện, gọi to: “A Tứ, mau chuẩn bị đồ đưa cho lão Trương!”, rồi lại tươi cười: “Uống thêm bát rượu nữa, vừa rồi tôi nói bừa, nói bừa!”.

Lão Trương thở dài kéo y sang bên, nghiêm mặt nói: “Họa từ miệng mà ra, quản nghiêm thuộc hạ, đừng có nói bừa, vương gia nhà ta...”. Ánh mắt lão đầy phân vân không biết là sợ hay là than vãn.

Dịch quan rụt cổ, trong phòng ấm áp, vậy mà lưng y toát mồ hôi.

Lão Trương nhìn cái bao A Tứ vừa đưa, bên trong lớp bọc bằng chăn dày có chục cây cải trắng tươi mơn mởn, xanh ngắt. Biên thành mùa đông rất hiếm rau xanh, chỗ cải trắng này ngày nào cũng chuyển đến, chưa từng gián đoạn, thực là kỳ công, trăm lạng bạc một cây cũng đáng, lão bỏ vào gùi, khoác lên lưng, chỉnh lại mũ áo, gật đầu cười chào mọi người, cắm cúi đi trong gió lạnh.

Hậu viên của soái phủ Hữu quân ở Biên thành, không khí vắng vẻ hiu quạnh, không hề thấy màu xanh, tuyết đọng dày từng lớp trên những hòn non bộ và cành cây khô, tuyết trùng trùng giăng khắp nơi, quả là một thế giới được tạo khắc từ băng tuyết. Người lính hầu thận trọng bê chiếc liễn có nắp bạc rẽ vào một hành lang, rảo bước về phía hậu thất. Vừa đến cửa, đã có người đứng chờ đón lấy cái liễn rồi vén rèm đi vào.

Bên trong mấy lò sưởi đang cháy, không khí ấm áp như mùa xuân, Tử Ly mình vận chiếc áo bông nhẹ, rộng rãi đang đọc thư tín vừa chuyển đến. Mỗi tháng, vương phi trong phủ Ly thân vương ở Phong thành đều viết thư đến, trong thư kể rõ tình hình vương phủ và những câu thăm hỏi đúng nghi thức. Tử Ly xem xong cười lớn, nhấc bút viết mấy chữ hồi âm. Gạt thư của Cố Thiên Lâm sang một bên, mắt chàng chuyển sang phong thư mật. Đây là tin mật thứ một trăm bảy mươi tư. Ba năm trước chỉ có mấy chục tin, hai tháng gần đây tăng đột ngột, ánh mắt u ám của chàng nhìn ra ngoài, tuyết đọng long lanh trên cành cây, một cảm xúc dịu nhẹ mơ hồ từ từ nhen trong lòng, chàng bất chợt lẩm bẩm: “Phong thành mùa đông chắc không lạnh thế này”.

Người hầu thận trọng để chiếc liễn lên bàn, khẽ thưa: “Mời vương gia dùng bữa!”

Tử Ly quay đầu lại, nụ cười vẫn trên môi: “Không biết hôm nay mùi vị thế nào?”. Rồi chàng thong thả đi đến ngồi bên bàn.

Người hầu múc một bát nhỏ, chìa trước mặt chàng. Tử Ly nhìn bát canh trong vắt, chàng múc một thìa nếm thử, vị thanh, ngọt, thơm mát, nuốt xuống cổ, lại như uống phải ngụm thuốc đắng, đắng đến mức bao tử như sôi lên.

Người hầu e ngại liếc nhìn chủ nhân, nụ cười vẫn còn nhưng đông cứng trên mặt như mọi khi, y bất giác thở dài, nấu canh cải trắng suốt ba năm, không lần nào khiến chúa thượng hài lòng, nhưng không ngày nào dám ngừng lại, khiến đầu bếp chạy như đèn cù. Bỏ bao nhiêu bạc thuê đầu bếp giỏi đến Biên thành, vẫn không nấu được mùi vị khiến chúa thượng hài lòng. Canh không ăn hết bê ra, có đầu bếp không nén nổi nếm thử, kinh gạc kêu lên: “Quả là ngon!”. Nhưng không hợp khẩu vị của vương gia, thay loạt đầu bếp khác cũng vậy. Cũng không thấy chúa thượng nổi nóng, vậy là món canh cải trắng ngày nào cũng nấu.

Tử Ly lại tự tay múc một bát canh, người hầu ngạc nhiên quỳ sụp xuống: “Nô tài không chú ý, hầu hạ chúa thượng không chu đáo!”.

“Đứng dậy đi, mùi vị rất ngon, từ nay không phải nấu món này nữa!”. Tử Ly nheo mắt nói, không biết là chàng vui hay bực.

Người hầu thấp thỏm không yên. Sao đột nhiên lại ghét món canh đó? Nhưng y lại không dám hỏi, cúi đầu đi ra.

Sau bữa trưa, Tử Ly đĩnh đạc bước ra ngoài, người hầu vội khoác lên vai chàng chiếc áo lông chồn.

Tuyết rơi rất mau, lát sau trên vai chàng đã đọng lớp tuyết dày, chàng giơ tay phủi, không bao lâu tuyết lại rơi đầy. Nụ cười đau khổ hiện trên mặt chàng, Tử Ly lẩm bẩm: “Bên thềm tuyết bay như mai rụng, phủi vơi lại đầy”. Thế giới băng tuyết lóng lánh như thủy tinh trước mặt bỗng khiến chàng mê đắm, một lúc sau, thoáng liếc thấy chóp mũi của thị vệ đứng gần đỏ ửng vì cóng, chàng mỉm cười: “Vào nhà đi, ta muốn nghỉ một lát”.

Nhắm mắt, tâm tư chàng lại rối bời như mưa tuyết. Phụ hoàng e là khó qua khỏi. Đại thắng của Lâm Nam như liều thuốc kích thích khiến người muôn phần phấn chấn, lên điện dự được hai buổi chầu sớm, cơn phấn khích qua đi, bệnh càng trầm trọng. Tháng trước trong cung báo tin: “Bệ hạ uống một bát thuốc nhỏ, chỉ ăn đồ loãng”. Mấy ngày sau lại báo: “Phải đổ từng thìa thuốc, không ăn được gì”. Lòng chàng như lửa đốt, nhưng lại chỉ có thể ở yên tại Biên thành, không dám manh động. Công sức chuẩn bị ba năm, chỉ chờ đợi một đạo thánh chỉ.

Trước đây Cố tướng truyền tin nói, phương nam không có gì đáng ngại. Nhưng nửa năm nay, lại xuất hiện tình trạng lương thảo quân dụng không vận chuyển đúng thời hạn. Bộ binh viện lý do phương nam có chiến sự, lời lẽ giải trình rất khiêm nhường, đến khi bị hối thúc lại nói đang trên đường vận chuyển, dù sao cũng sẽ muộn vài tháng. Cố tướng nói với chàng, thượng thư bộ binh cáo bệnh nằm nhà, mọi công việc do Thành thị lang xử trí. Lòng chàng như bừng sáng, nhắm mắt thầm nghĩ, không lâu nữa là có thể trở về Phong thành rồi. Núi non hùng vĩ bao bọc chắn luồng khí lạnh từ phương bắc tràn về, gió tây bắc thổi đến dịu đi nhiều, cho nên Phong thành những ngày cuối đông vẫn có thể nhìn thấy sắc xanh trên cành cây. Một đoàn xe ngựa rầm rập tiến vào Phong thành, quan khâm sai tươi cười, tiến đến trước cỗ xe ngựa, giọng khẽ khàng: “Vương thượng đã có ý chỉ, tam tiểu thư đi đường vất vả, không cần vào cung tạ ơn. Lý tướng bấy lâu ngày đêm mong nhớ, nên sớm về tướng phủ đoàn tụ”.

A La ngồi trong xe nhỏ nhẹ cảm tạ: “Đại nhân đi đường vất vả. Thanh La bái tạ ở đây”.

Cỗ xe ngựa rẽ ở ngã ba đường, thị vệ của tướng phủ hộ tống cỗ xe đưa A La về phủ, lúc này nàng mới gọi: “Lưu Anh!”.

“Tiểu thư có gì sai bảo?”. Lưu Anh đi đến trước xe.

“Đến Phong thành rồi, thuốc giải đâu?”.

Lưu Anh đỏ mặt lấy trong người ra một cái hộp bằng ngọc, dâng bằng hai tay. Rèm xe vén lên, Tiểu Ngọc liếc nhìn y với vẻ giận dỗi, đón chiếc hộp, đưa cho A La, khẽ quở trách: “Biết ngay là do chủ của huynh ấy mà! Hành hạ cho đáng đời!”.

“Thôi, ta cũng không định chạy trốn, sau này sẽ hỏi tội bọn họ!”. A La uống thuốc, một luồng hơi nóng lan tỏa đến tận tứ chi, khí lực dần dần khôi phục.

“Tiểu thư, ta quay về thế này, lão gia liệu có...”. Tiểu Ngọc bắt đầu lo lắng.

Quay về phủ, Lý tướng sẽ thế nào? A La lơ đãng nghĩ, ông ta không nước mắt lã chã cũng sẽ hiền hậu ân cần. Ta bây giờ chẳng phải là vương phi mà Bình Nam vương Lưu Giác đã chọn hay sao, ông ta không đối xử tốt với ta sao được? Mắt liếc nhanh xung quanh, nàng nói nhỏ với Tiểu Ngọc. Mắt Tiểu Ngọc dần dần sáng lên, mặt đỏ hồng phấn khởi.

Cỗ xe ngựa từ từ dừng lại trước cổng tướng phủ. Khi A La ngẩng đầu đã thấy tấm biển cao ngất trên cổng, mặt nở nụ cười, đã có gia nô chạy vào trong nhà báo tin. Lý tướng và các phu nhân đã chờ từ lâu trong đại sảnh.

Lý tướng thật lòng khâm phục nha đầu này, chạy trốn ba năm vẫn khiến cho tiểu vương gia, à không Bình Nam vương hồn siêu phách lạc. An Thanh vương vừa trở về Phong thành đã cho mời ông ta đến vương phủ, lão vương gia cả đời trên lưng ngựa, tính tình cương trực, vuốt râu mắng ông: “Mau vẽ chân dung con gái ông đưa ta coi thử, xem mặt mũi thế nào mà khiến tiểu tử ngốc nhà ta si mê đến thế! Nhất định không được nói nó giống ông đấy nhé!”.

Lý tướng dở khóc dở cười: “Tiểu nữ nhà hạ thần không có tranh họa, có điều, nhìn người cũng nhẹ nhõm hoạt bát, biết chơi đàn thổi sáo mà thôi”.

Có lẽ An Thanh vương đang sốt ruột chờ đợi. Không ngờ đứa con gái thứ ba này lại hợp ý ông nhất. Bất luận thái tử hay tứ điện hạ ai lên ngôi, địa vị của An Thanh vương đều không suy chuyển, A La được gả vào đó, đảm bảo tướng phủ không có gì phải lo lắng. Chỉ có điều thất phu nhân đã xuất gia, hơi đáng tiếc, nhưng chỉ cần Thanh La quay về, chịu lấy chồng, ông cũng không tính toán làm gì.

Lý tướng ngồi giữa phòng lớn vừa cười ha hả vừa chờ A La, các bà phu nhân cũng dài cổ trông ngóng, không biết con bé ấy chạy trốn ba năm sẽ xuất hiện với diện mạo thế nào? Đang mải nghĩ, bên ngoài có tiếng ồn ào, mấy thị vệ cùng hai thân hình mảnh mai đi đến. Tiểu Ngọc thận trọng dìu A La bước qua bậc cửa, vừa vào trong, Tiểu Ngọc đã quỳ sụp xuống đất khóc lóc: “Xin lão gia trách phạt! Thất phu nhân một lòng thờ Phật, đã xuất gia rồi! Tiểu Ngọc có tội, không chăm sóc phu nhân chu đáo!”.

A La quỳ lạy, mắt đỏ hoe: “Thưa cha, A La bất hiếu, ham chơi còn lừa đem mẫu thân đi, để bây giờ mẫu thân một mình cô đơn với ngọn đèn xanh”.

Lý tướng và mấy phu nhân ngây ra nhìn, mỹ nhân này là A La sao? A La hôm nay toàn thân xiêm y trắng muốt, đầu tóc không trâm vàng thoa ngọc, mặt không son phấn, mộc mạc giản đơn mà đài các cao sang.

Hai người quỳ trước chính đường khóc thảm thiết, các phu nhân cũng không khỏi thở dài lau nước mắt. Con người ấy vừa đi, họ chẳng còn ai để so đo ghen ghét, bây giờ tam tiểu thư lại trở thành quả cân quan trọng của tướng phủ để ganh đua với thế lực triều đình, chỉ có thể nể trọng, không thể đắc tội. Không đợi Lý tướng mở miệng, họ đã ríu rít chạy lại, nhẹ nhàng dìu hai người đứng lên, than thở một thôi một hồi những là nhớ nhung lo lắng, mong ngóng thế nào. Đại phu nhân cười to: “Trở về là tốt rồi, Đường viên đã thu xếp đâu vào đấy, Tiểu Ngọc ngươi đi xem thế nào!”.

Lý tướng lúc này mới bừng tỉnh, cười hiền hậu, nói: “Quay về là tốt, quay về là tốt”. Mắt ông ta bất chợt liếc sang Lưu Anh.

Lưu Anh mỉm cười chắp tay cung kính: “Tiểu nhân là Lưu Anh trước đây là binh sĩ Ô y kỵ của vương phủ, nay phụng mệnh Bình Nam vương, bảo vệ tam tiểu thư, mong tướng gia chiếu cố”.

Dùng tinh binh Ô y kỵ làm lính hộ vệ cho A La? Xem ra Bình Nam vương này đúng là chết mê chết mệt con bé rồi. Lý tướng cười ha hả: “Đứa con gái yêu của ta sau này phiền Lưu thị vệ trong nom. Để lão phu lệnh cho thị vệ bản phủ thu xếp chỗ ở, ngươi đi xem nếu thiếu gì cứ nói. Tướng phủ từ nay là nhà của ngươi”.

Lưu Anh cười: “Vương gia đã có lệnh, tiểu nhân phải ở cận kề hộ vệ tam tiểu thư, tướng gia đã thương tình xin thu xếp cho tiểu nhân một phòng trong Đường viên”. Nói xong nháy mắt với Lý tướng.

Lý tướng vỡ lẽ, thầm khâm phục Bình Nam vương suy tính chu toàn, có người của chàng bảo vệ, Thanh La còn chạy đi đâu? Cho dù có chạy, cũng không phải trách nhiệm của mình, vậy là ông ta lập tức tán thành.

Sau khi Lưu Anh và Tiểu Ngọc đi về phía Đường viên, Lý tướng cười khà khà vuốt râu nói với A La: “A La, đúng thật là con gái vừa tròn mười tám! Không ngờ con lưu lạc bên ngoài mà lại đẹp thế này, người làm cha đây cũng được an ủi lắm thay”.

A La mắt đỏ hoe: “Con gái ngang bướng ham chơi, trốn khỏi nhà, để cha lo lắng. May có Bình Nam vương giúp đỡ, mới bình an trở về phủ”. Nàng cười thầm trong bụng, diễn trò cha hiền con hiếu có gì khó, tôi còn muốn ăn hết tiêu hết sạch vốn liếng của ông cơ.

Lý tướng lại nhìn kỹ A La, thấy nàng không đeo đồ trang sức gì, than thở: “Ra ngoài sao bằng ở nhà, nhìn con kìa, thiên kim của tướng phủ mà lại ăn vận đơn sơ thế này! Đại phu nhân, bà sai quản kho đánh vài đồ trang sức, mấy bà cũng nên sắm cho con mấy bộ váy áo”.

Đại phu nhân tươi cười: “Cái đó là đương nhiên. A La à, thái tử phi và đại tỷ của con đã hỏi thăm mấy hôm nay nói nhớ con lắm, nhắn là khi nào con về nhất định vào cung thăm họ”.

A La cười thầm, sao mà nhanh thế! Nàng còn chưa có thời gian để thở, đã phải chạy khắp nơi thăm hỏi. Nàng mỉm cười nhẹ nhàng nói: “Mấy năm không gặp đại tỷ, A La cũng nhớ lắm”.

Đúng lúc đó gia nhân mang vào một phong thư, Lý tướng mở xem, cười ha hả: “A La, con nghỉ ngơi đi, An Thanh vương mời con ngày mai vào phủ dự tiệc”.

An Thanh vương? Cha của Lưu Giác? A La nghĩ thấy buồn cười, nàng đã trở thành bảo bối thật rồi, vừa về đến phủ ngồi chưa ấm chỗ, đã phải chạy khắp nơi phô trương. Nghe đồn An Thanh vương khí độ phi phàm, được trao giữ Xích long lệnh của tiên đế nắm trọng trách đảm bảo sự bình an của vương thất, thống lĩnh Hữu quân, uy danh vang khắp Biên thành, khiến mấy nước lân bang mấy chục năm không dám nhòm ngó Ninh quốc. Lưu Giác còn nói, cha chàng cũng là người rất si tình. A La cảm thấy tràn đầy hiếu kỳ đối với ông ta, An Thanh vương là người như thế nào?

Bất luận ông ta là người thế nào, Lưu Giác, chàng cứ đợi thiếp thu phục cha chàng, xem chàng hối hận như thế nào vì đã dám “giải” thiếp về đây.

Đường viên không thay đổi, khóm hải đường vẫn nhẫn nại trước sân, nhưng đồ đạc trong phòng đã được thay mới hết, bày biện toàn đồ dùng quý báu, không khó nhận ra ý đồ nịnh nọt lộ liễu của Lý tướng. Lưu Anh nhìn thấy khóm hải đường, ngẩn người nhìn A La, bụng nghĩ, thì ra là thế, rồi y cũng chẳng câu nệ phép tắc, tự chuyển về phòng mình. Tiểu Ngọc đuổi theo mắng: “Làm gì có chuyện nam nữ chẳng qua hệ gì lại ở chung nhà? Không biết xấu hổ!”.

Lưu Anh cười hì hì: “Chúa thượng đã có lệnh, không được rời tam tiểu thư nửa bước. Có ta ở đây bảo vệ, cái sân này con ruồi cũng đừng hòng lọt vào”.

A La cũng chẳng sợ mang tiếng, vẫn ở gian phòng cũ của mình, trong khu nhà vẫn còn hai gian bỏ trống, nàng cười: “Sống cùng nhà thích thật, tối nay chúng ta lại chơi bài”.

Lưu Anh lòng lại bất yên, thầm nghĩ, chơi bài là trò gì? Chẳng lẽ tam tiểu thư vẫn đùa giỡn mình chưa đủ? Mặt y nhăn nhó khổ sở, khiến Tiểu Ngọc cười ngặt nghẽo, vỗ tay hoan hô: “Tốt quá, lâu lắm không chơi bài, em cũng đang muốn chơi. Ăn tối xong chúng ta bắt đầu nhé!”. Nàng ta vừa cười khoái chí vừa liếc nhìn Lưu Anh.

A La mỉm cười nhìn hai người họ, nàng đẩy cửa vào phòng, chợt nhìn thấy trên chiếc bàn thấp để một cây đàn, nhìn kỹ đó chính là cây đàn mà nàng đã chơi khúc “Quảng lăng tán” ở Đông cung dạo nào. Nàng cau mày, ai đưa cây đàn đến đây? Lý Thanh Lôi ư? Có vẻ không phải. Nếu là Vương Yến Hồi đem tặng tất có ý nịnh nọt lôi kéo. Nàng ta biết bí mật đó hay sao? Sự việc này ngầm đánh tiếng Vương Yến Hồi đã biết bí mật đó hay là nịnh bợ nàng? Nếu là khả năng thứ nhất, mình nhất quyết không thừa nhận là xong, chơi đàn ư, chơi hay dở thế nào vẫn do mình quyết định. Nếu là khả năng thứ hai lại càng đơn giản, mọi chuyện cứ để Lưu Giác quyết.

Nhưng nếu là chủ ý của thái tử? A La nghĩ, bây giờ thái tử tuyệt đối không làm như vậy, thái tử vẫn còn nhiều việc cần dựa vào cha con An Thanh vương. Nghĩ đi nghĩ lại, A La cảm thấy ngày mai nhất định phải thể hiện thật tốt trước mặt An Thanh vương.

_________

Chú thích:

16. Nguyên văn: "Linh lạc thành nè niễn tác trần, chỉ hữu hương như cố", trích trong bài Vịnh mai, điệu Bốc toán tử của Lục Du, bản dịch của Nguyễn Xuân Tảo (BTV).

.

Chương 21

.

Mới sáng sớm A La đã bị đánh thức bởi những tiếng lao xao bên ngoài. Đi một mạch từ Lâm Nam đến Phong thành, ngồi xe ngựa đến phát ngấy, đang tiết Đại hàn, chăn ấm đệm êm nàng ngủ một giấc thoải mái chẳng mộng mị gì, đang muốn nằm nán thêm lát nữa thì bị đánh thức.

Lắng nghe tiếng nói bên ngoài, hình như là giọng a hoàn của đại phu nhân và ngũ phu nhân, hình như còn có người mang quần áo nào đó đến. A La vươn vai, hít một hơi thật sâu, giọng chỉ trích: “Mới sáng sớm sao lắm ruồi thế, Lưu Anh?”.

Trong sân, Lưu Anh và Tiểu Ngọc đau đầu nhìn một đám nữ tỳ tay bê đồ, miệng liến thoắng so bì. Nghe tiếng A La, Lưu Anh rút thanh kiếm sáng loáng ra, mặt sa sầm nói nhỏ: “Dám vô lễ với vương phi tương lai của Bình Nam vương? Chẳng biết phép tắc gì hết!”.

Tiếng nói im bặt.

A La nhìn qua bức màn, thế mới phải, vẫn tưởng ta là cái túi để các ngươi xả giận như xưa chắc? Rồi nàng lại lười biếng nằm xuống.

Lưu Anh cố nhịn cười, tra kiếm vào bao, y nháy mắt với Tiểu Ngọc. Tiểu Ngọc vui vẻ, nói giọng từ tốn: “Các vị, tam tiểu thư của chúng tôi ghét nhất đông người, các vị nhỏ tiếng thôi, từng người đưa lên”.

A hoàn của đại phu nhân liếc nhìn Lưu Anh, bê lên một hộp nữ trang, nhẹ nhàng nói: “Phu nhân chúng tôi nói, tam tiểu thư cần trang điểm sang trọng một chút, đây là nữ trang phu nhân đưa tặng”.

“Ồ, tôi thay mặt tam tiểu thư cảm ơn Đại phu nhân đã kỳ công chuẩn bị quà quý như vậy! Tam tiểu thư đã dặn ý tốt của các phu nhân nhất định phải nhận, phải cảm tạ”. Tiểu Ngọc mở ra xem, toàn là đồ châu báu lóng lánh vô cùng quý giá.

“Ta về bẩm báo phu nhân đã”. Nữ tỳ nói xong chạy thẳng.

Lát sau, Tiểu Ngọc bận rộn thu xếp xong, mỉm cười với Lưu Anh, chạy vào tìm A La: “Tiểu thư, nhiều thứ đẹp lắm!”.

A La lật chăn nhảy khỏi giường: “Đi hết rồi à? Nào ra xem của nả thế nào”.

Không lâu sau, A La vẫn xõa tóc kéo Tiểu Ngọc ra gian chính. Hai người vừa giở ra xem, cười khanh khách: “Tốt quá, không trả lại một thứ nào hết, tất cả là của chúng ta! Tiểu Ngọc, thích gì cứ lấy, không tiện giữ thì mang đi đổi ngân phiếu”.

Tiểu Ngọc lanh lảnh đáp lời. Lưu Anh đang ngạc nhiên, tam tiểu thư này sao lại xõa tóc chạy ra ngoài như thế? Sao nàng ta cư xử như vậy? Lẽ nào nàng ta chỉ nhằm vào đống tài sản của chúa thượng?

A La lại vỗ vai Lưu Anh: “Cả ngươi cũng thế, thích gì cứ lấy, không tiện giữ thì đem đi đổi ngân phiếu!”.

Lưu Anh giật mình, sao nàng ta chẳng kiêng kỵ gì thế?

A La cũng không thèm để ý đến y nữa, cùng Tiểu Ngọc lựa ra mấy tấm vải màu sắc nhã nhặn và ít châu báu đặt trước mặt Lưu Anh: “Những thứ này đem đổi ra ngân phiếu rồi sai người đưa đến cho mẹ ta. Nhớ đấy, chủ ngươi đã trao ngươi cho ta, bây giờ ta là chủ của ngươi, nếu ngươi phản bội ta, suốt ngày báo tin cho chủ cũ như vậy là bất trung!”. Nói xong nàng cùng Tiểu Ngọc ôm những thứ mình thích đi vào.

Lưu Anh đứng ngây hồi lâu, nhìn đống đồ bị xáo trộn bừa bãi, thở dài, thu dọn lại từng thứ. Câu tam tiểu thư vừa nói, nàng ta là chủ mới của mình, Lưu Anh vẫn chưa kịp phản ứng.

A La ngồi trước gương, Tiểu Ngọc chải đầu cho nàng, cười híp cả mắt: “Tiểu thư, hôm nay đi đến An Thanh vương phủ, tiểu thư định trang điểm thế nào?”.

An Thanh vương là người thế nào? A La suy nghĩ, không tiện nói ra, dù sao ông ta cũng không phải là nhân vật đơn giản.

“Bình thường, không biết thì cứ trang điểm bình thường, đơn giản một chút. À, gọi Lưu Anh vào đây, ta suýt quên mất là có thể hỏi anh ta”.

Lưu Anh đứng trước mặt A La, nét mặt thản nhiên : “Lão vương gia là người tốt!”.

“Hết rồi à?”. A La không hài lòng. Chỉ có chút thông tin như thế thôi sao? Nàng trợn mắt nhìn Lưu Anh: “Ngươi đừng quên, nếu ta không nắm được cha Lưu Giác, ồ, nếu An Thanh vương không thích ta, chủ của ngươi sẽ thế nào?”. A La mặt cười cười nhìn Lưu Anh, thầm nghĩ, ta không tin là thông tin chỉ có thế.

Suốt dọc đường Lưu Anh đã bị A La hành hạ, quay như chong chóng, mãi mới có cơ hội được nàng yêu cầu giúp đỡ, vốn định làm khó một chút đỉnh, thấy A La nói vậy lại mềm lòng: “Lão vương gia thích rượu! Cũng ít khi trở về vương phủ, cứ trở về là thích chấn chỉnh tiểu vương gia, thích trêu chọc tiểu vương gia”.

“Chấn chỉnh thế nào?”. A La thấy hứng thú.

Lưu Anh đỏ mặt: “Đấu võ, ồ, hai người... hai người đùa vui lắm”. Lưu Anh đánh chết cũng không chịu nói thêm, nghĩ bụng, nếu sau này Bình Nam vương phát hiện đã tự tay trao cho tam tiểu thư tên nội gián hạng nhất là mình đây, chắc là mình sẽ chết khó coi lắm.

A La nghi hoặc nhìn Lưu Anh, cũng không muốn làm khó y, rút cục y vẫn là tâm phúc của Lưu Giác, nàng cười nhạt: “Biết rồi, không muốn nói, ta cũng không làm khó ngươi. Chỉ có điều, đã theo ta, tốt nhất sớm quên chủ cũ đi, nếu không đừng theo ta”.

Lưu Anh quỳ sụp xuống, trả lời dứt khoát: “Lưu Anh là hộ vệ của tam tiểu thư, không có can hệ gì với Bình Nam vương nữa! Cái mạng này là của tam tiểu thư, tiểu thư không tin cứ việc lấy đi bất kỳ lúc nào!”.

A La dở khóc dở cười, lòng cũng hơi hơi cảm động. Thời cổ đại cái gì cũng dở, chỉ có điểm này là tốt, đó là sự ngu trung của người ở đây! Nàng mỉm cười: “Đã là người của ta, vậy ta lệnh cho ngươi hãy chăm sóc Tiểu Ngọc, đối xử tốt với nàng ấy, bảo vệ nàng ấy suốt đời suốt kiếp, ngươi làm được không?”.

Lưu Anh mặt đỏ rần rật, mắt không dám nhìn Tiểu Ngọc, nói khẽ: “Lưu Anh tuân lệnh”. A La vận một chiếc váy liền màu xanh bạc, tóc tết bím đi ra cửa. Các phu nhân của Lý tướng ngó nghiêng phải trái một hồi, cảm thấy trai không ra trai gái không ra gái, nhưng cũng không dám nói gì, xem ra A La tâm trạng rất tốt, trang điểm mặc dù chẳng đâu vào đâu, nhưng trông nàng vẫn rất đẹp. Nhất là bím tóc gắn những hạt minh châu óng ánh, làm cho mái tóc đen tuyền càng óng ả, rất hợp với đôi mắt long lanh như thủy tinh.

Đại phu nhân âm thầm tiếc của, chuỗi ngọc minh châu của bà bị nàng tháo ra làm đồ trang sức cho bím tóc? Bà vốn tưởng A La dùng xong sẽ trả lại, liền buột mồm: “A La à, chuỗi ngọc đó...”.

“À phải rồi! Cảm ơn chuỗi ngọc của mẹ cả, A La rất thích. Còn nhớ lúc nhị tỷ xuất giá, mẹ cả còn không nỡ đưa ra, vậy mà lại tặng A La, mẹ cả tốt quá!”.

Đại phu nhân cười gượng, không nói gì.

Ra khỏi tướng phủ, A La mới bật cười. Đại phu nhân đã im miệng, đồ của các phu nhân kia cũng đừng nghĩ chuyện lấy về. Nàng đắc ý nghĩ thầm, trở về Phong thành, có bao nhiêu người nịnh bợ, không cần mở quán kinh doanh cũng giàu to.

Tại vương phủ, An Thanh vương bồn chồn đi đi lại lại. Ông đang tò mò muốn gặp tam tiểu thư của Lý gia. Cô nương mà tiểu tử ngốc của ông si mê là người thế nào? Thông gia với Lý tướng không phải là chuyện vui, ông vốn không ưa Lý tướng, trưởng nữ của ông ta đã gả cho thái tử, Lý tướng đương nhiên ủng hộ thái tử kế vị, còn Ninh vương lại muốn truyền ngôi cho tứ hoàng tử Lưu Phi. Còn tiểu tử Doãn Chi này lại thích đứa con gái thà bỏ trốn chứ không chịu lấy nó, ông đã hình dung nỗi khổ sau này của con trai! Ông đã mật báo nếu Ninh vương chưa băng hà Lưu Giác nhất định không được quay về Phong thành, nhưng Lưu Giác lại vội vàng sai cao thủ Ô y kỵ chuyển mật thư khẩn cầu ông chăm sóc tam tiểu thư này, lại còn điều tổ trưởng Thanh tổ Lưu Anh bảo vệ nàng ta.

An Thanh vương có chút lo ngại, không gặp tam tiểu thư kia ông quả thực không yên lòng. Ý ông đã quyết, nếu Lý Thanh La và Lý tướng thông đồng mưu lợi, cùng một giuộc với nhau thì ông nhất quyết không để Lưu Giác thỏa nguyện. Ông có cách khiến hôn sự không thành.

A La đàng hoàng đi vào phủ An Thanh vương, gia nhân dẫn nàng đi vào đại sảnh, Tiểu Ngọc và Lưu Anh đi theo sát. Lưu Anh tuyệt nhiên không dám liếc ngang. Y đã ở trong phủ này hai mươi mấy năm, đã thông thuộc từng gốc cây ngọn cỏ, nhưng lúc này phải giữ bổn phận, chỉ coi mình là người lạ.

An Thanh vương uy nghi ngồi đó, A La vừa bước vào, ông ta đã thầm khen. Tiểu tử kia cũng có con mắt, a đầu này đích thực là tuyệt thế mỹ nhân, hơn nữa lại không có vẻ e ấp ngượng ngùng như các nàng thiếu nữ khuê các, ăn vận trang điểm thanh thoát nhẹ nhàng, cũng rất đặc sắc. Nàng cúi chào tự nhiên, mỉm cười chờ ông lên tiếng. An Thanh vương đưa mắt nhìn Lưu Anh. Lưu Anh quỳ xuống: “Lưu Anh thỉnh an vương gia!”. Thi lễ xong y lại lui về đứng sau lưng A La.

An Thanh vương nghĩ, mình cứ nhằm Lưu Anh khai chiến. Ông hừ một tiếng: “Nuôi ngươi ngần ấy năm, chủ chưa có lời ngươi đã xa bay? Học thói vô lối ấy từ bao giờ?”.

A La nghĩ, được rồi, giết gà cho khỉ xem đây. Nàng không giận, mỉm cười: “Nếu y vẫn coi lão vương gia là chủ, như vậy là bất trung với tiểu nữ. Bình Nam vương là do vương gia dạy dỗ, lẽ nào lời nói của tiểu vương gia không có giá trị?”.

Nha đầu nay thật to gan, dám bênh vực Lưu Giác, chĩa mũi tên lên đầu lão già này? Lại còn ẩn ý nói rằng, dạy con không tốt là lỗi của cha, nha đầu bảo lời Lưu Giác không có giá trị, chẳng phải đang trách lão già này? An Thanh vương thầm tán thưởng, nhướn mày nói: “Lưu Anh, đã ra khỏi phủ An Thanh vương, sau này không cần làm đại lễ như vậy”. Lưu Anh chắp tay cúi đầu: “Tạ ơn vương gia!”.

An Thanh vương thay đổi nét mặt: “Nha đầu kia, lại đây ngồi!”.

A La nhẹ nhàng đi đến ngồi bên ông ta, hơi ngửa mặt tươi cười nhìn ông. An Thanh vương và Lưu Giác có nhiều nét giống nhau. Nàng đột nhiên phát hiện, không chỉ Lưu Giác mà cả Tử Ly và thái tử cũng có nhiều nét giống ông ta, mũi đều rất thẳng, môi rõ nét. An Thanh vương nhìn rất uy nghiêm, nhưng đôi mắt lại rất đỗi hiền hòa, có phải ông ta cũng như Lưu Giác tâm địa đều tốt? Lát sau nghe tiếng An Thanh vương hỏi: “Nhìn đủ chưa? Nói xem trong mắt ngươi, ta là ngươi thế nào?”.

A La đỏ mặt: “Rất xin lỗi, nhìn vương gia như thế này quả là thất lễ. Tiểu nữ chỉ hiếu kỳ muốn biết Lưu Giác có một người cha như thế nào?”.

Sự thật thà và bạo dạn của A La khiến An Thanh vương thêm yêu mến, có lẽ tiểu tử kia cũng thích tính thật thà của nàng ta. “Nói thật xem, ngươi thấy vương gia ta là người thế nào?”.

A La thầm nghĩ, liệu có phải do có tình cảm với Lưu Giác, cho nên đến phủ An Thanh vương nàng không có tâm lý đề phòng? Nàng bỗng nảy sinh thiện cảm và thân thiết tự nhiên đối với An Thanh vương, quyết định khai chiến: “Lão vương gia là người tốt!”. “Nói vậy là có ý gì?”.

A La nhìn ông với vẻ lạ lùng: “Con người Lưu Giác rất tốt, ít nhất cũng tâm địa lương thiện, có phải là được vương gia dạy dỗ từ nhỏ?”.

“Lão phu chinh chiến sa trường giết người như giết kiến, cũng là người tốt sao?”.

A La nghiêm trang nói: “Trên chiến trường bậc tôi nào cũng vì chủ, bảo vệ muôn dân lưỡi gươm vô tình, có người từng làm thơ rằng “Sống làm bậc hiền nhân, thác làm ma anh hùng”. Vì xã tắc muôn dân bao năm đồn trú nơi biên ải xa xôi chẳng phải là người đáng kính hay sao?”. A La nghĩ, nếu ở đây có Trường Thành, mình sẽ hát “Trường Thành ca” cho ông ta nghe.

Câu nói nịnh khiến An Thanh vương rất đẹp lòng, ông cười tươi rói: “Hay cho câu “Sống làm bậc hiền nhân, thác làm ma anh hùng” còn gì nữa?”.

“Lão vương gia cũng là con cáo già!”.

Lưu Anh nghe vậy phát hoảng, tam tiểu thư này! Vừa rồi còn nịnh như thế, sao lại đổi giọng ngay?

“Lão vương gia rắp tâm muốn biết con trai vương gia thích điều gì ở tiểu nữ, tìm mọi cách để thăm dò tiểu nữ!”.

An Thanh vương vểnh râu: “Nói như vậy ngươi không sợ ta nổi cơn thịnh nộ hay sao?”.

A La cười hồn nhiên: “Tiểu nữ rất sợ, nhưng lão vương gia là người thế nào? Thống lãnh thiên binh vạn mã, nếu tiểu nữ nói dối, vương gia sẽ biết ngay. Còn nữa, lão vương gia cũng sẽ không chấp tiểu nữ chứ?”.

Đã nịnh rồi thì phải nịnh tiếp. Quả nhiên, An Thanh vương cười ha hả: “Coi như ngươi đang khen ta! Còn gì nữa?”.

“Lão vương gia, lão vương gia lại cũng là tiểu nhân!”. A La thay đổi sắc mặt.

Lưu Anh lại hoảng hồn, toát mồ hôi, tam tiểu thư này đúng là chưa làm người ta tức chết thì chưa chịu yên!

An Thanh vương đùng đùng giận dữ, sao nha đầu này càng nói càng khó nghe thế? Ông sa sầm nét mặt: “Ngươi dám nói bản vương là kẻ tiểu nhân?”.

A La đứng lên, đi mấy bước: “Thứ lỗi cho tiểu nữ mạo muội, theo vương gia, thế nào là tiểu nhân?”.

“Gian trá, xảo quyệt, hẹp hòi, ích kỷ, nhỏ nhen!”.

A La cười: “Đó là tiểu nhân theo quan niệm của vương gia, là những kẻ suốt ngày nhăn nhở xun xoe, khiến người ta cười khẩy khinh thường. Có điều, tuyệt chiêu đó tuy không dễ bắt chước, nhưng lại có vô số người bất chấp sự khinh rẻ của người đời vẫn lao vào. Loại người như vậy tiểu nữ không làm được, lão vương gia càng không phải nghĩ, nếu bắt người làm vậy, người cũng không làm được”.

An Thanh vương cảm thấy hơi thuận tai, sắc mặt dịu đi.

A La lại tiếp: “Tiểu nhân mà tiểu nữ nói ở đây là kiểu người khác. Trong thế gian phức tạp không ai có thể trong sạch siêu phàm, chỉ có những người trốn tránh cuộc đời. Nhưng phàm những nơi có con người đều không thế trốn tránh, ẩn dật cũng không trốn tránh được, cố theo đuổi sự trong sạch hoàn hảo là không tưởng, là lừa mình dối người! Chúng ta đều là những tiểu nhân tương đối, coi vua là cha, ăn lộc của vua, lo thay nỗi lo của vua. So với cái lớn lao của đức vua, chúng ta là bé nhỏ”.

An Thanh vương trầm tư, A La tiếp tục: “Chúng ta là con người, không phải muông thú, không phải thần thánh, bản tính con người chính là nhân tính, vốn không khác nhau quá nhiều. Nhiều lúc trong cuộc sống của chúng ta có bao điều hạn chế, không gian để tự do hít thở, tự do bay nhảy bị bó hẹp đến mức khiến ta không thể thở, không thể giương cánh, vậy là đành phải làm cho bản thân trở nên nhỏ bé đi, chỉ có làm cho mình trở nên nhỏ bé đi mới hy vọng khiến không gian sinh tồn của mình lớn hơn chút nữa. Nhưng tiểu nhân cũng là đại trượng phu, thân sinh ra giữa đất trời, có những điều cần làm có những điều không làm!”.

Mặt nàng sáng bừng: “Vương gia chính là kiểu tiểu nhân mà A La vừa nói, có thể tiến, có thể lùi, có thể cười, có thể giận đều là tiểu nhân, nhưng ung dung đường hoàng, quang minh lỗi lạc!”.

Lưu Anh thở phào, ánh mắt nhìn A La muôn phần kính trọng. Nếu lúc đầu y đi theo A La là do mệnh lệnh của chúa thượng, thì giờ đây y đã xúc động sâu sắc trước kiến giải mới mẻ của nàng. Ai chẳng muốn đường đường chính chính làm người? Cuộc sống gian khó buộc người ta phải nép dưới bờ rào làm một tiểu nhân. Nhưng điều đó không ngăn cản người ta có tấm lòng, tâm hồn của đấng trượng phu chân chính! Lưu Anh bất giác đứng thẳng lưng.

An Thanh vương kinh ngạc nhìn A La. Một tiểu cô nương mười bảy tuổi, đứng giữa phòng, người như tỏa sáng, đôi mắt hồn hậu, thẳng thắn. Phải, mọi người đều là tiểu nhân, chẳng qua ai cũng đang giành lấy không gian lớn hơn cho mình và người thân. Người có kiến giải như thế, đứa con trai của ông quả không nhìn nhầm. Ông cười ha hả: “Bày rượu, lão phu phải uống vài chén mới được!”.

A La không nói triết lý nữa, ngoan ngoãn thưa: “Nghe đồn lão vương gia thích rượu, không biết vương gia có hiểu về rượu?”.

An Thanh vương trợn mắt: “Rượu có gì phải cầu kỳ? Lão phu chỉ muốn uống cho đã!”. A La cười không trả lời. Lát sau nữ tỳ mang rượu và thức ăn lên, A La cầm một chén lên uống, ngẫm nghĩ rồi hỏi: “Đây là rượu là lão vương gia thích nhất sao?”.

An Thanh vương đắc ý: “Lão phu thích nhất loại rượu ở Biên thành, đủ cay đủ mạnh!”. Loại rượu nước hai này cũng gọi là rượu? A La thầm nghĩ, nếu có một bình Mao Đài ở đây, có lẽ ông ta sẽ khoái đến nỗi đêm ngủ cũng ôm trong lòng? Kỹ thuật cất rượu, nàng cũng không hiểu lắm nhưng có thể thử, bèn nói: “Hôm nào tiểu nữ có thể đem loại rượu này chế lại một chút được không?”.

Nha đầu này còn biết ủ rượu nữa sao? An Thanh vương đã thấy bụng ngứa ngáy vô cùng, thằng con trai mình đúng là bắt được báu vật. Hai người vừa ăn vừa nói chuyện, A La kể cho ông nghe những kiến thức về rượu mà nàng biết được. Những là bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, uống rượu nho phải dùng ly thủy tinh; rượu trắng phải dùng chén gốm lam, rượu tinh phải uống vào tiết hoa lê nở... khiến lão vương gia dỏng tai, trố mắt ngồi nghe mặt mũi phừng phừng phấn khích, xuýt xoa tiếc không được nếm thử từng loại rượu đó: “Ngươi đều biết nấu cả chứ?”.

A La cười, lắc đầu: “Tiểu nữ không biết!”.

An Thanh vương bực mình: “Thế ngươi nói nhiều như vậy làm gì? Có uống được đâu!”. Đúng thế, chưa được uống, không uống được mới khen hay! A La lim dim mắt nói: “Hình như tiểu nữ nhớ có một cách chế rượu gọi là chưng cất, tiểu nữ sẽ cố nhớ lại”. Nàng không dám chắc, nhưng có thể thử.

Mắt An Thanh vương sáng lên, nhìn nàng không chớp: “Vậy ngày mai thử?”.

“Ngày mai tiểu nữ phải vào cung. Tiểu nữ còn chưa trở về, đại tỷ đã giục gọi vào cung. Nhắc đến loại rượu này, tiểu nữ cũng định chế thử chơi, nếu trong cung giữ lại, biết làm thế nào?”. Nàng làm bộ phiền não.

“Thì cứ nói vương phủ của ta có việc”. An Thanh vương vỗ đầu chủ động đứng ra làm lá chắn.

Điều nàng muốn không phải là câu đó. A La vừa rồi nói một thôi một hồi, làm tiểu nhân quả thật không đơn giản như vậy. Muốn vào cung muộn một chút, trước tiên phải nắm được An Thanh vương! Bây giờ ông chính là giấy thông hành đặc biệt! Nàng bất giác cười thầm.

An Thanh vương ngồi trong thư phòng nhìn A La không chớp mắt. Nàng đang vắt óc nhớ lại: “Muốn nấu rượu, phải nấu chín cao lương hoặc gạo, rồi ủ cho lên men, tiểu nữ nghĩ lão gia cũng sốt ruột lắm rồi. Chúng ta sẽ làm đơn giản một chút, ta sẽ đem rượu có sẵn chưng cất lại, dụng cụ chưng cất này...”. A La nghĩ một hồi, rồi vẽ ra dụng cụ giống như phin pha cà phê với hai nửa hình cầu trên có nắp đậy, lại có thêm ống dẫn. A La nhìn An Thanh vương đang nghe rất chăm chú.

“Tiểu nữ cũng không biết có được không, chúng ta phải thử đã”.

Nàng giải thích: “Lão vương gia thích rượu mạnh, rượu này chưa đủ mạnh, chúng ta sẽ làm cho nó mạnh hơn, thông qua chưng cất, tinh chất rượu bốc lên, biến thành hơi nước, dùng dụng cụ thu lại hơi nước đó sẽ được một loại rượu khác”.

An Thanh vương ngẫm nghĩ, bật cười: “Có phải chính là phân tách rượu nguyên chất?”.

A La vỗ tay khen: “An Thanh vương thật anh minh, chính là thế, chúng ta thử xem sao”.

An Thanh vương tươi cười nhìn A La, ánh mắt cực kỳ tinh anh: “A La nói đi, trong đầu con sao lại chứa nhiều thứ như vậy? Chưa bao giờ nghe nói, không tin được, ngay đến kiến giải của con về tiểu nhân cũng thật mới mẻ khiến lão phu sửng sốt bần thần!”.

A La nghĩ, cáo già đã bắt đầu nghi ngờ. Nàng cười sảng khoái: “Theo đạo lý, tiểu nữ là tam tiểu thư của tướng phủ, được nuôi dưỡng ở chốn thâm khuê, không ra khỏi cửa ba bước, không thể biết những thứ không phù hợp với nữ nhi như vậy. Nhưng, lúc A La năm tuổi đã có một cuộc kỳ ngộ. Một người không biết tại sao bị thương, nhảy vào rừng trúc phía sau hậu viên tướng phủ, tiểu nữ cho ông ta ăn uống, cũng nhận lời giữ bí mật cho ông ta, cho nên hàng ngày ông ta dạy tiểu nữ tập võ công, còn kể cho tiểu nữ nghe bao nhiêu chuyện ly kỳ. Tiểu nữ cũng không biết thật giả thế nào, cũng chẳng có dịp nào để thử, bây giờ dần nhớ lại, một số điều cũng thấy có lý, một số điều cũng thấy có lợi ví như cách ủ rượu”.

An Thanh vương mặt nghiêm túc: “Con cho ta là đứa trẻ lên ba hay sao?”.

A La nghiêm mặt: “Khi chưa gặp lão vương gia, tiểu nữ còn hành sự tùy tiện, gặp rồi liền bỏ ý định. Lưu lạc ba năm bên ngoài, tiểu nữ đã không còn là tam tiểu thư yểu điệu yếu mềm. Vốn đã rất mệt mỏi, lẽ nào vương gia cho rằng tiểu nữ cố tình ra vẻ, đối phó với vương gia?”.

Nói đến đây mắt nàng nhìn thẳng An Thanh vương. Phải hoàn toàn thu phục ông, để ông trở thành chỗ dựa của nàng ở Phong thành, không mạo hiểm dùng độc chiêu sao có thể đạt mục đích?

An Thanh cố bộc lộ uy vũ của một võ tướng nhiều năm cầm quân, nhưng nàng vẫn đứng thản nhiên, nụ cười tươi viên mãn như hoa: “Vương gia, tiểu nữ đã nói, tiểu nữ chỉ đang cố sức tự bảo vệ bản thân mình trong không gian hạn hẹp, chỉ cầu sống yên ổn như một tiểu nhân mà thôi”.

An Thanh vương thu lại sát khí của một võ tướng, mắt chớp một cái, khẽ cười: “Nghe nói lúc đầu con tháo hôn, khiến con trai lão phu suýt chút nữa phát điên?”.

A La chớp mắt: “Nghe đồn tiểu vương gia nói An Thanh vương phủ cha truyền con nối, cả đời chỉ lấy một vợ?”.

“Con thích nó ở điểm này ư?”. An Thanh vương không trả lời, hỏi lại.

“Không, không phải tiểu nữ chỉ thích tiểu vương gia ở điểm đó!”. A La lắc đầu.

“Ồ, còn gì nữa?”.

A La bỗng cười tươi: “Tiểu nữ còn thích tính quyết đoán của tiểu vương gia, nói được làm được, một lòng chân tình với tiểu nữ, quan trọng nhất là tiểu vương gia không chỉ là Bình Nam vương mà còn có một người cha lão luyện quyền thế, có thể làm được mọi chuyện như lão gia đây! Có hai vị vương gia làm chỗ dựa, món hời như thế ai chẳng muốn!”.

An Thanh vương cười ha hả: “Bản vương rất thích tính cách bộc trực này của con!”. Đột nhiên ông vỗ đầu,”Suýt thì quên, tiểu tử đó hình như còn gửi cho con một bức thư. Đi! Ta vào xem thế nào!”.

Lòng A La ngọt ngào, nhưng mặt lại tỏ ra bất cần: “Không xem!”.

An Thanh vương phấn khởi nhìn nàng, mặt A La ửng hồng vẻ e thẹn.

“Thế nào? E thẹn ư? Khi đến gặp ta, có thấy con e thẹn gì đâu?”.

A La cúi đầu ngồi im, lát sau mới nói: “Tiểu nữ vẫn chưa quyết lấy tiểu vương gia, việc gì phải hồi âm, cứ để vương gia sốt ruột”.

“Ha ha, tốt, cứ để nó sốt ruột!”. Nàng ta có kiến giải đặc sắc, ý chí vững như núi, khi yếu đuối khiến người ta thương cảm, lúc kiên quyết lại khiến người ta khâm phục. Kỳ nữ này, đừng nói tiểu tử ngốc kia, ngay lão gia ta cũng thật lòng thích thú.

“Cứ thử đọc xem sao!”. A La chớp mắt, bỗng nảy ra ý nghĩ khác.

An Thanh vương cười đưa nàng vào thư phòng, trao cho nàng một phong thư. A La mở ra xem, bên trong chỉ có mấy chữ: “Vẫn còn giận phải không?”. Ở giữa ép một bông hải đường.

A La nhìn An Thanh vương, cười ranh mãnh: “Lão vương gia, chúng ta bàn xem hồi âm thế nào để tiểu vương gia tức điên được không?”.

An Thanh vương thầm nghĩ, tiểu tử ngốc, giấu ta ấn định hôn ước, may mà ta cũng thích con bé, nếu không, ta sẽ tức muốn chết. Tự dưng ông cũng nảy sinh tính trẻ con, cười: “Nên hồi âm thế nào?”.

A La nghĩ một lát: “Tam tiểu thư tướng phủ đích thân đến phủ thoái hôn, đại sỉ đại nhục! Nếu còn nhắc lại chuyện này, lão phu đánh gẫy chân!”.

An Thanh vương ngẩn người, nhe răng cười: “Tốt, cứ làm thế! Đợi tiểu tử ngốc về đây, xem nó cầu xin ta thế nào!”.

A La cười khúc khích, chìa ngón tay ngoắc coi như thỏa thuận: “Đây là bí mật của hai chúng ta!”

An Thanh vương cười cũng chìa tay ngoắc, đột nhiên nói: “Nghe nói ngón đàn của con hơn cả tỷ tỷ?”.

A La giật mình, chuyện này lão cáo già cũng biết sao! Nghĩ một lát trả lời: “Ý tứ tiếng đàn của tiểu nữ trội hơn, chứ không phải ngón đàn giỏi hơn!”.

“Nhưng khúc “Thu thủy” lại khiến thái tử xiêu lòng! Có điều thái tử phi là người không đơn giản, thuở nhỏ đã tinh thông binh pháp, lão phu cũng rất mực khâm phục”.

Đúng thế, Vương Yến Hồi đích thực là một người đàn bà lợi hại! A La nghĩ, thực ra mình hiểu binh pháp rất nửa vời. Ba mươi sáu kế nàng còn chưa thuộc hết, sực nhớ Lưu Giác đã nói, Ninh vương băng hà chàng sẽ dẫn quân về Phong thành, vậy An Thanh vương rút cục sẽ ủng hộ ai? Lại còn Tử Ly đang nắm binh quyền, ba năm đủ dài để chàng vạch xong mọi mưu kế. Về chuyện ai sẽ kế vị A La không nghĩ nhiều, dường như ai làm cũng không can hệ đến nàng, nhưng phủ An Thanh vương thì khác. Lão cáo già suy nghĩ thế nào chắc sẽ không nói với mình, bây giờ Lưu Giác ở Lâm Nam đang rất sốt ruột, vào lúc này lão cáo già hỏi đến chuyện đánh đàn là có ý gì?

“Ngày mai tiểu nữ vào cung thăm Thanh Lôi, vương gia có muốn dặn dò tiểu nữ điều gì chăng?”.

“Chẳng phải đã nói sẽ viết thư cho tiểu tử nói là con đích thân đến phủ từ hôn rồi thôi, trò phải diễn đủ, tiểu tử đó mới không nghi ngờ!”. An Thanh vương mặt tươi như hoa.

A La nghĩ, trong đầu “bung” một tiếng, tuyên bố như vậy mình sẽ sống ra sao? Không những Lý tướng sẽ đến tận Đường viên hỏi tội, thái tử, thái tử phi và Thanh Lôi cũng sẽ điên tiết, cái mạng nhỏ nhoi của mình liệu có giữ được không? Cây đại thụ An Thanh vương này chưa dựa được mấy ngày, ông đã đẩy mình vào vòng xoáy hay sao?

An Thanh vương vẫn cười nhìn nàng. A La lẩm bẩm: “Cha tiểu nữ sẽ đánh chết tiểu nữ mất! Không đùa nữa!”.

An Thanh vương cười khà khà: “Tiểu nha đầu sợ rồi hả?”.

“Đương nhiên, cái mạng nhỏ của A La phải thận trọng”.

Đúng, đẩy A La vào vòng xoáy như vậy là hơi tàn nhẫn, An Thanh vương cũng thấy không nỡ, buột miệng nói: “Thoái hôn đâu có dễ thế? Nhưng con cũng không thích nó, tiểu tử nhà ta đâu có xứng với con!”.

Ý ông thế nào? A La không hiểu. Nếu nàng nói không thích Lưu Giác... Nàng cười, nhìn An Thanh vương: “Vương gia đúng là cáo già! Ngay con trai mình mà cũng đưa vào toan tính!”.

“Như con nói, ta đương nhiên là cáo già. Nhưng vị hôn thê của tiểu tử kia không thích nó, lại gây chuyện muốn thoái hôn, nó không sốt ruột sao được! Nếu nó sốt ruột, ha ha, người làm cha này, đương nhiên cũng đành bất lực!”. An Thanh vương cười tỏ vẻ vô can.

A La kéo áo ông làm nũng: “Nếu cha tiểu nữ mắng tiểu nữ, chưa biết chừng tiểu nữ sợ quá bỏ trốn khỏi tướng phủ, lần này không biết đi đâu, lão vương gia nên chuẩn bị một sơn trang biệt uyển để cho tiểu nữ nương náu! Còn nữa, nếu Đông cung trở mặt với tiểu nữ, tiểu nữ tủi thân muốn ra phố mua sắm cho hả giận, không có bạc không xong!”.

Nói mãi nói mãi hai người cười khe khẽ.

Lúc sắp rời phủ, An Thanh vương cho A La ba cây pháo hoa: “Nếu tâm trạng không vui, thì đốt pháo hoa mà chơi, đẹp lắm”.

A La mỉm cười giơ tay đón nhận, ánh mắt lay động lóng lánh: “Một mình đốt pháo hoa thì buồn lắm, tiểu nữ thích chen trong đám đông xem pháo hoa, như thế mới vui”.

Phong thành sắp tới chắc không bình yên, bản thân mình chắc cũng không tránh khỏi bị cuốn vào dòng xoáy, đã vậy phải khuấy cho đục ngầu mới không uổng sống một đời ở đây. Lưu Giác, hai cha con chàng là những con cáo thật sự, còn ta, nàng nghĩ, ta sẽ nhân cơ hội này chơi thỏa thích một trận. Có hai con cáo một già một trẻ bảo vệ tốt bao nhiêu. Sau khi A La đi khỏi, An Thanh vương trở về thư phòng, đi đi lại lại suy nghĩ, thái y mật báo, Ninh vương đã hoàn toàn tê liệt, có thể ra đi bất cứ lúc nào, ông nhẩm tính thời gian, lệnh cho thái y bất luận thế nào cũng cố duy trì mạng sống cho Ninh vương thêm nửa tháng nữa.

Ngay từ ba năm trước, khi Ninh vương triệu ông trở về Phong thành, ngài đã khẩn thiết nói với ông: “Vương đệ, Ninh quốc sóng yên biển lặng cả trăm năm nay, ta bản tính yếu mềm, lại bình yên ngự trị trên ngai. Nhưng họ Vương lòng lang dạ sói, thế lực ngoại thích đã len vào triều đình. Đệ ở xa mãi tận Biên thành, những năm qua Ninh quốc không xảy ra chuyện gì lớn, nhưng triều chính đa phần đều làm theo ý họ Vương, ta cũng đành mắt nhắm mắt mở cho qua. Thái tử vốn cũng rất tốt, nhưng nó rất thân với họ Vương, để nó kế vị e là thế lực vương tộc họ Lưu chúng ta ngày càng suy yếu. Nếu lúc thái tử chọn thái tử phi, hoàng hậu không một mực tiến cử con gái Vương thái úy thì ta cũng thôi, bây giờ nếu thái tử kế vị, lưỡng cung hoàng hậu đều do con gái họ Vương nắm giữ, ta thực lòng không yên. Ta cũng đã nghĩ đến chuyện phế thái tử, hiềm nỗi một là Lưu Giám cũng là con trai ta, nó không mắc sai sót lớn, không có cớ gì để phế truất; hai là, họ Vương nhất định không phục. Họ Vương nắm đại quyền thống lĩnh cánh quân phía đông, nếu dấy binh, Ninh quốc đại loạn, e là cơ nghiệp mấy trăm năm của tổ tiên hủy bại trong tay ta!”.

An Thanh vương chứng kiến thái tử Lưu Giám và Ly Thân vương Lưu Phi từ nhỏ lớn lên. Hai vị hoàng tử đều là những người xuất sắc trong các vị hoàng tử, đều có khả năng kế vị. An Thanh vương hiểu, sau khi Trần hoàng hậu qua đời, Ninh vương rất lo lắng cho tứ hoàng tử, nhưng do thế lực họ ngoại rất lớn, đành lập Lưu Giám làm thái tử. Để bảo tồn thực lực của hoàng tộc, bản thân An Thanh vương đã nắm quyền cai quản Hữu quân đồn trú tận Biên thành xa xôi, coi như phân chia một phần binh lực, nhưng đại đa số quân quyền vẫn nằm trong tay Vương thái úy. Nếu thái tử kế vị, binh quyền, hoàng quyền họ Vương đều có, vận mệnh sau này của hoàng tộc họ Lưu rất khó lường.

An Thanh vương thận trọng lên tiếng: “Ý của vương huynh là...”.

Ninh vương trịnh trọng lấy ra di chiếu, trao vào tay ông, lạy ông một lạy: “Để bảo vệ gia tộc họ Lưu, ta đã làm khó vương đệ rồi”.

Khuôn mặt dày dạn gió sương của An Thanh vương trở nên cực kỳ trang nghiêm, ông quỳ xuống thề: “Quyết không phụ sự ủy thác của vương huynh!”. Khi đứng dậy, một khí phách oai nghiêm dũng mãnh lạ thường toát lên từ con người ông.

Ninh vương khẽ than: “Nếu ngày xưa đệ dịu tính một chút, ngôi báu này do đệ làm chủ, Ninh quốc đâu có nhiều rắc rối như thế!”.

An Thanh vương lắc đầu: “Câu này của vương huynh rất sai, đệ tính khí bạo liệt, không làm được đế vương, chính vương huynh nhẫn nhịn ôn hòa, đại độ khoan dung mới giữ Ninh quốc mấy chục năm phồn thịnh an khang. Phụ hoàng ngày xưa có con mắt tinh đời, đã sớm nhìn ra điểm yếu của đệ, đệ có thể nắm binh quyền trụ cột quốc gia, nhưng làm đế vương lại không xứng, cho nên phụ hoàng mới ban Xích long lệnh cho đệ”.

Khuôn mặt gầy yếu của Ninh vương tỏ ra xúc động: “Huynh đệ chúng ta một lòng giữ vững cơ nghiệp của họ Lưu, không làm hổ danh tổ tiên! Nhưng e là ta không đợi được đến ngày đó, đành trao đống đổ nát này cho vương đệ. Chỉ mong Tử Ly sớm trưởng thành, không phụ kỳ vọng của ta, nghiền ngẫm mưu tính mấy năm này, chắc cũng đã có thể lẳng lặng quăng mồi thanh trừng ngoại thích, tránh cho triều đình khỏi nạn binh đao”. Sau khi trở về Phong thành, An Thanh vương mới giật mình phát hiện cho dù trong tay ông nắm Xích long lệnh, có thể tiếp quản Phong thành lúc có nguy biến, nhưng thế lực họ Vương âm thầm xây dựng mấy chục năm, muốn suôn sẻ khống chế cục diện cũng không dễ. Dù Hữu quân hay Nam quân đều cách Phong thành quá xa, đáng ngại nhất là khi mọi mưu kế còn chưa hoàn tất, Ninh vương đã băng hà. Thái tử danh chính ngôn thuận kế vị, nếu không có sơ suất lớn, bản di chiếu của Ninh vương cũng khó thuyết phục được quần thần. Không có cớ động binh, tứ hoàng tử động binh là phạm tội mưu phản. Lúc đó triều đình sẽ chia thành hai phái, Ninh quốc đứng trước nguy cơ chia rẽ ly tán. Nếu Trần quốc dám dấy binh xâm lược tất sẽ liên minh với Hạ quốc, hơn nữa dã tâm của Khởi quốc đã rõ ràng. Khi Ninh vương lâm trọng bệnh, Trần quốc đang nôn nóng động binh, nếu lúc này hai vị hoàng tử tranh giành đế vị, sẽ là cơ hội hiếm có để mấy nước kia ra tay.

Ba năm nắm binh quyền vừa rồi, Tử Ly tất đã có chuẩn bị chu toàn, đã đến lúc cần trở về. Hiện giờ họ Vương đã có đề phòng, trong đại bản doanh ở ngoại ô phía đông cách Phong thành gần nhất, hai mươi vạn quân đã ém sẵn, mắt hau háu hướng về Phong thành, ông đã lệnh cho Lưu Giác không được khinh suất trở về Phong thành, chính là không cho họ Vương kia có cớ ngăn cản, để Lưu Giác hoàn toàn nắm chắc Nam quân trong tay. Còn bây giờ, từ Lâm Nam trở về, đi suốt ngày đêm cũng phải mất mười ngày, muộn hơn làm lỡ kế hoạch đã định thì quả thực có thể phải động binh đao.

An Thanh vương nhìn bức thư hồi âm viết theo ý A La, chợt nảy ra một ý, sửa lại: “Tam tiểu thư tướng phủ rất không hài lòng về con, làm loạn đòi thoái hôn, An Thanh vương phủ không biết giấu mặt vào đâu. Thái tử được tin lại muốn nạp nàng ta làm thứ phi, con không định để cha đi cướp vợ cho con chứ?”.

Ông lại viết cho Tử Ly: “Nội trong vòng mười lăm ngày lập tức trở về Phong thành”. Gắn si niêm phong xong, An Thanh vương cho gọi một tử sĩ Ô y kỵ đến truyền lệnh: “Xích Phong nghe đây, ngươi lập tức dẫn thêm ba người bí mật ra khỏi thành, nhất định phải trao tận tay Ly Thân vương. Nếu gặp cản trở, lập tức hủy thư. Dẫu chỉ còn một người cũng phải đích thân nói với Ly Thân vương, bản vương ra lệnh trong vòng mười lăm ngày phải gặp được thân vương!”.

Xích Phong quỳ sụp xuống, trả lời dõng dạc: “Vương gia yên tâm!”.

Xích Phong đi khỏi, An Thanh vương gọi: “Ám Dạ”.

Một bóng đen bay vào thư phòng: “Xin vương gia sai bảo!”.

“Ngươi có thân thủ tốt nhất trong Ô y kỵ, đây là ấn tín của bản vương, ngươi cầm thứ này đến gặp Ly Thân vương, nói là bản vương ra lệnh trong vòng mười lăm ngày dẫn quân trở về Phong thành. Còn lý do cứ nói là về phục tang phụ vương”.

Ám Dạ hơi ngạc nhiên: “Vương gia không tin Xích Phong?”.

“Không phải không tin, việc trọng đại, không thể sơ suất. Cho dù Xích Phong xảy ra chuyện, cũng phải đảm bảo Ly Thân vương được báo tin”. An Thanh vương hạ giọng.

Ám Dạ không hỏi nữa, nhận ấn tín, lẳng lặng lui ra.

Khi Lưu Giác đi Lâm Nam mang theo tử sĩ của Huyền tổ và Minh tổ của Ô y kỵ, trong phủ hiện chỉ còn lại ba kỵ đội. An Thanh vương nhìn bức thư viết cho Lưu Giác, gọi một binh sĩ Cáp tổ: “Nội trong vòng ba ngày đưa thư này đến tay thiếu chủ”.

Mọi việc xong xuôi, An Thanh vương có phần ngơ ngẩn, Phong thành mùa đông này cuối cùng đã nổi gió. Lại nghĩ đến Thanh La, nha đầu thông tuệ này ngay từ đầu đã hiểu ý của ông. Nhưng theo ông, Lý Thanh La mặc dù thích tiểu tử Lưu Giác, nhưng nàng gây sóng lớn như vậy cũng không hoàn toàn vì Lưu Giác. Ông đột nhiên cảm thấy thương cho con trai, nhưng rồi dường như hiểu ra, lại đắc ý: Cha si tình, con đương nhiên cũng thế.

Trở về tướng phủ, Lý tướng gọi A La vào thư phòng: “Đi gặp An Thanh vương thế nào?”.

A La rất bình tĩnh trả lời: “Lão vương gia rất tốt với con, Bình Nam vương đúng là chỗ dựa tốt”.

Nhìn vẻ mặt tươi cười của Lý tướng, A La chuyển hướng câu chuyện: “Có điều Ly Thân vương cũng không tồi!”.

Lý tướng kinh ngạc, con bé này có quan hệ với Ly Thân vương từ bao giờ? Tư tưởng sớm nắng chiều mưa như thế nếu An Thanh vương biết, lão già đó dễ chừng dám đánh ông trước mặt quần thần lắm.

“Đừng quên, con đã định hôn với Bình Nam vương, đã ra khỏi khuê phòng, bị lỡ mất ba năm! Ngày mai ta sẽ đến bàn với An Thanh vương chọn ngày thành hôn!”.

A La cười: “Cha à, cha hồ đồ hay sao? Ninh vương đang bệnh nặng, sao cha dám gả con vào lúc này?”.

Đúng, vương thượng bệnh nặng, bây giờ mà gả con gái là không thỏa đáng. Lý tướng nghiến răng lẩm bẩm, đứa con gái này bỏ đi ba năm, khi trở về đã đã không còn nhút nhát như trước, lời lẽ xem chừng có ý từ hôn, nếu không sớm gả đi, đêm dài lắm mộng. Đầu ông lóe lên bao toan tính.

Nhìn ánh mắt liếc đảo bất định của Lý tướng, A La bồi thêm một câu: “Ly Thân vương nắm trọng binh trong tay, ngộ nhỡ...”.

Lý tướng kinh ngạc, phải rồi, Ly Thân vương là cá trong ao, hai con hổ đấu nhau, bản thân mình quả thực đã đem châu báu đặt cả vào thái tử, nhưng nếu ngộ nhỡ? Đằng nào ba đứa con gái hy sinh đứa nào cũng không quan trọng, quan trọng là mình phải kín kẽ, không được phép sơ sẩy! Bình Nam vương cũng tốt, nhưng nếu Ly Thân vương chiến thắng thái tử, kế vị ngôi báu, gả A La cho y, mình chẳng phải càng hời hay sao? Nhưng nếu hủy hôn, mình biết ăn nói thế nào với lão già An Thanh vương? Lý tướng lại đau đầu.

“Cha khỏi cần phiền não, bây giờ con chưa đồng ý lấy ai là được chứ gì? Để mọi chuyện rõ ràng rồi tính cũng chưa muộn!”.

Mặt Lý tướng tươi tắn lại ngay lập tức, nghĩ đến Bình Nam vương đang ở Lâm Nam chưa về, Ly Thân vương cũng ở tận Biên thành, lúc này chưa cần lo vội. Ông thầm khen A La mưu kế: “Ý hay lắm, thật không hổ là con gái ngoan của ta! Ngày mai vào cung thăm tỷ tỷ, con nhớ trang điểm thật đẹp đấy!”.

.

Chương 22

.

Thanh Lôi rất không muốn gặp mặt Thanh La, nhưng lại không thể không gặp.

Tại Đông cung, thái tử mỉm cười hỏi: “Tiểu muội này ba năm rồi không gặp, Lôi Nhi không muốn cùng hàn huyên chuyện cũ hay sao? Nàng ta là vương phi tương lai của Bình Nam vương đấy”.

Vương Yến Hồi xen lời: “Không biết ba năm nay tiểu muội Thanh La thay đổi thế nào, tiếng đàn năm xưa, Yến Hồi quả thực khó quên”.

Mắt thái tử thoáng một tia mơ hồ, nhưng lập tức lại trong veo như nước.

Lúc đó một cung nữ đi vào quỳ bẩm: “Tam tiểu thư tướng phủ cầu kiến!”.

“Mau mời vào!”.

A La bước từng bước ngắn, thong thả vào cung, nàng cởi chiếc áo choàng, quỳ phục xuống nền: “Thái tử điện hạ thiên tuế, thỉnh an thái tử phi, thỉnh an lương đệ!”. Chiếc váy màu xanh nhạt xòe như cánh bướm, vóc dáng thanh mảnh như mầm lộc biếc đầu cành lúc xuân về. Hôm nay nàng đã cất công trang điểm, không biết người ở Đông cung nhìn thấy sẽ phản ứng thế nào?

Thái tử cười: “Đều là người nhà, không cần đa lễ, đứng lên đi!”.

A La đứng dậy, khi vừa ngước mắt, sắc thu ba sóng sánh, nụ cười diễm lệ như đóa mai bừng nở trong nắng xuân, khiến ba người trong điện giật mình. Thanh Lôi bất giác nắm chặt nắm tay, trong lòng như có tiếng thầm thì: “Đã sớm biết mà, có một người mẹ như vậy, ả ta lớn lên tất sẽ là giai nhân khuynh thành!”. Ánh mắt như bốc hỏa, liếc nhanh thái tử, chỉ thấy Lưu Giám đứng ngây người. Thanh Lôi ngẩn ngơ, cũng phải thôi, một giai nhân như vậy, đàn ông nào chẳng động lòng?

Vương Yến Hồi là người định thần nhanh nhất, mỉm cười nói: “Không ngờ tiểu muội Thanh La lưu lạc mấy năm trở về lại đẹp đến thế, quả thật khiến chúng ta nhìn không muốn rời, Yến Hồi này tự hổ thẹn không bằng!”.

Thái tử cũng sực tỉnh, cười nói: “Bình Nam vương thật có phúc!”.

A La cất tiếng: “Anh rể trêu đùa A La rồi, ai bảo muội sẽ lấy huynh ấy? Muội không thích kiểu người lỗ mãng như vậy!”.

Nói đoạn, đi đến bên Thanh Lôi,”Hai vị nương nương, một người cao sang quý phái, một người tuyệt sắc vô song, A La đâu sánh được”.

Vương Yến Hồi nói đùa: “Chẳng phải thái tử có chuyện cần đi sao? Không nên quấy rầy chị em thiếp hàn huyên”.

Lưu Giám có vẻ nấn ná không muốn đi, mối hoài nghi trong lòng bao năm cuối cũng đã nghĩ ra lời đáp, nhưng bây giờ chưa phải lúc hỏi chuyện đó. Nụ cười lại hiện trên khuôn mặt tuấn tú của chàng: “Đã đến đây, cứ ở lại Đông cung chơi ít ngày, Lôi Nhi nhớ muội lắm đó”.

Thái tử giữ nàng ở trong cung là có ý gì? Muốn chứng thực khúc “Thu thủy” kia hay là định dùng nàng làm con tin? A La thầm cảnh giác, nét mặt vẫn tươi cười.

Trong đầu Vương Yến Hồi đang suy nghĩ rất lung, cảm thấy Thanh La nói không lấy Bình Nam vương có gì không thật. Nếu không lấy Bình Nam vương, thì người trong lòng nàng ta là ai? Bình Nam vương Lưu Giác người tuấn tú hào hoa, trẻ măng đã được phong vương, uy quyền sáng chói, một trang nam nhi hoàn hảo, là giấc mộng của bao tú nữ danh gia. Sắc đẹp của A La khiến ba người ở đây kinh ngạc như thế, lẽ nào nàng ta muốn địa vị cao hơn? Hay là người trong lòng nàng ta là...

Thanh Lôi nắm tay A La, hỏi Vương Yến Hồi: “Ba chúng ta đến nhà thủy tạ chơi được không?”.

Vương Yến Hồi cười nhạt: “Được, ta đang muốn chuyện phiếm với tiểu muội Thanh La”. Nhìn thấy nhà thủy tạ, A La ngây người ra. Đây quả là cảnh thần tiên. Hơi nóng từ mặt hồ sen bốc nghi ngút mịt mờ như sương khói, giống như người ta đào hầm đốt than dưới đáy hồ. Ai nói tiền bạc quyền thế không tốt? Để làm nên cảnh quan thế này cần bao nhiêu nhân công, bao nhiều tiền của?

Thị tỳ bưng trà và đồ điểm tâm lên, ba người an tọa, nhàn tản thưởng lãm cảnh sắc. A La thầm nghĩ, khung cảnh thần tiên thế này không mảy may gợn lên không khí căng thẳng gươm đao tuốt trần trong ngoài cung đình,

Đột nhiên bên nhà ngoài thủy tạ có tiếng bước chân, A La ngoái đầu, nhìn thấy một khuôn mặt trẻ con ửng hồng, đôi mắt đen láy, cái cằm nhỏ xinh. Nàng quay sang nhìn Thanh Lôi, Thanh Lôi cười dịu dàng: “Tâm Nhi, sao lại chạy đến đây?”.

“Tiểu công chúa? Con của tỷ tỷ sao?”.

“Đúng thế. Thái tử bây giờ mới có mỗi tiểu công chúa này. Chàng nâng niu như ngọc báu đấy”. Vương Yến Hồi cười.

Hai nữ tỳ lo lắng theo sau Tâm Nhi, đi vào nhà thủy tạ, quỳ xuống thỉnh an ba người bọn họ. Vương Yến Hồi lơ đãng nói: “Đứng dậy đi, mùa đông rét thế đừng để tiểu công chúa bị lạnh”, rồi nhìn Tâm Nhi, mặt đã cười rạng rỡ, “Tiểu công chúa của ta, sao hôm nay lại chạy đi tìm mẫu phi?”.

Tâm Nhi hai tuổi, mắt chớp chớp thỏ thẻ đáp: “Nghe nói di nương hôm nay đến, Tâm Nhi muốn gặp di nương”.

Lòng A La êm dịu như hơi ấm bên ngoài nhà thủy tạ. Nàng đi đến ôm Tâm Nhi vào lòng, vuốt ve khuôn mặt nhỏ bé, mỉm cười nói với Thanh Lôi: “Tâm Nhi lớn lên chắc cũng sẽ đẹp như tỷ tỷ!”.

Thanh Lôi dịu dàng sai cung nữ: “Đưa tiểu công chúa về điện, bên ngoài này gió to lắm”. Cung nữ đi đến bế Tâm Nhi, cô bé nhệch môi, nước mắt ứa ra nhưng không dám khóc, đôi mắt đen láy nhìn Vương Yến Hồi, lại nhìn mẹ, miệng thỏ thẻ: “Tâm Nhi đi đây, buổi tối lại đến thỉnh an mẫu phi”.

A La thầm than thở, trẻ con trong cung ngay cả khóc cũng không dám. Ánh mắt chuyển đến Vương Yến Hồi, thấy nàng ta thần sắc nhàn tản như không, lại lướt đến Thanh Lôi. Đáy mắt Thanh Lôi thâm u, thấm buồn. A La vội nói: “Làm mẹ thích thật, nhìn Tâm Nhi kìa, ngoan chưa”.

Vương Yến Hồi cười: “Tiểu muội lấy Bình Nam vương rồi cũng được làm mẹ”.

A La cúi đầu làm bộ xấu hổ: “Đã nói không lấy người đó, nương nương lại còn đùa A La!”.

“Trong lòng muội có người khác sao? Là ai vậy, người đó hơn cả Bình Nam vương ư?”. Vương Yến Hồi lại đùa.

A La e thẹn, cúi đầu, tay mân mê cốc trà, dáng vẻ như thầm công nhận. Lòng Vương Yến Hồi trầm lại, nếu Lý Thanh La không lấy Lưu Giác, với tính khí Lưu Giác y tuyệt đối không bỏ qua. Năm xưa nghe nói Lưu Giác càn quét hơn ba trăm ngọn núi phía nam, nàng đã đoán ngay Lý Thanh La là con đường ngắn nhất chế phục Lưu Giác. Bây giờ An Thanh vương nhàn tản tại gia, con người này dù có mưu cao đến mấy trong tay cũng chỉ có ba trăm binh sĩ Ô y kỵ. Lão vương gia đó tính nóng như lửa, muốn dùng ông ta để ép Lưu Giác, chỉ e ông ta thà chết cũng không chịu, nhưng Lý Thanh La thì khác, nàng ta là gái mơn mởn như hoa. Nói đến chết ai chẳng sợ, nàng ta cũng không ngoại lệ. Nhưng nếu Thanh La không lấy Lưu Giác, giữ nàng ta phỏng có ích gì?

Ánh mắt Vương Yến Hồi dừng trên người Thanh Lôi, thấy Thanh Lôi quay lưng về phía kia, đang nhìn hoa sen trong hồ, bèn cười: “Tiểu muội trong lòng có người khác, lương đệ hẳn đã sớm biết?”.

Thanh Lôi giật mình, quay đầu mỉm cười: “Thanh Lôi cũng rất ngạc nhiên, đang thầm nghĩ, liệu còn có ai có thể khí phách anh hùng hơn Bình Nam vương?”.

A La hơi sốt ruột, giả bộ e thẹn không đáp, trong đầu nhanh chóng phân tích tình hình: An Thanh vương muốn tạo cho Lưu Giác một cái cớ đề quay trở về kinh thành, muốn mình nói dối là thoái hôn, nhưng lại không bàn bạc với mình nên nói người mình thích là ai. Ai thích hợp nhất? Là thái tử, Tử Ly hay là Cố Thiên Tường? Người này phải không kém Lưu Giác mới làm cho thái tử tin. Cố Thiên Tường đứng về phía Tử Ly, nhưng anh ta không có ảnh hưởng gì lớn đối với Tử Ly, cũng không có vai trò gì lắm trong cuộc đấu giữa An Thanh vương và Cố tướng. Rất nhiều người đều biết Lưu Giác và Cố Thiên Tường là bằng hữu thân thiết, dù Lưu Giác trút giận lên đầu Cố gia cũng không ảnh hưởng đến Tử Ly.

Hay là nói thái tử, bản thân chàng ta chẳng có quyền hành, ảnh hưởng gì đối với Vương Yến Hồi và Thanh Lôi, lại còn có thể khiến họ sợ hãi gây mâu thuẫn với Lưu Giác, lúc này Đông cung sẽ hoàn toàn không đối đầu với Lưu Giác. Nếu nói người đó là thái tử, chỉ có một cái hay đó là rất có thể làm thái tử động lòng, khiến Lưu Giác có cớ khởi binh.

Nếu nói người đó là Tử Ly, như vậy Đông cung chỉ cần nhân định Tử Ly có tình ý với nàng là sẽ coi nàng là một quân cờ, nếu có chuyện xảy ra, nàng sẽ trở thành con tin. Cái hay chính là khiến họ cho rằng Lưu Giác vì thế sẽ trở mặt với Tử Ly, không thể cùng lúc ủng hộ hai phía, sẽ chỉ đứng về phía Đông cung.

Rút cục nên nói là ai? A La hơi do dự, thầm mắng An Thanh vương không chịu nói rõ. Nàng đột nhiên tỉnh ngộ, lão vương gia cáo già kia bề ngoài tỏ vẻ bất cần nhưng thực lòng rất yêu Lưu Giác, bây giờ để cho nàng lựa chọn, dù lựa chọn ai, Lưu Giác đều có lý do dấy binh.

Trong lúc A La cúi đầu trăn trở, Vương Yến Hồi và Thanh Lôi cũng đang suy nghĩ, rút cục người đó là ai? Có thể đối địch với Lưu Giác, hơn nữa lại có gan cướp vị hôn thê của chàng ta, khắp vương triều hiện cũng chỉ có mấy người. A La cuối cùng ngẩng đầu, mặt mày tươi tỉnh: “Ôi, A La vô duyên quá. Cũng muộn rồi, tiểu muội xin cáo từ về phủ, lúc khác lại đến thăm hai nương nương”. Chưa nghĩ ra được thì tạm gác lại, chính là kế hoãn binh.

Vương Yến Hồi mỉm cười: “Mấy khi tiểu muội vào cung, thái tử cũng đã có lời, nếu tiểu muội nhất định ra về, điện hạ quay trở lại không thấy người thì làm thế nào? Cứ lưu lại đây vài ngày, tỷ tỷ còn muốn nghe muội chơi đàn”.

“Phải đấy, A La tối nay ở lại chơi. Mấy khi vào cung, ở chơi vài ngày hãy về”.

Thanh Lôi vội nói, rồi gọi cung nữ đến tướng phủ truyền lệnh.

A La đành nhận lời, bụng nghĩ, xem ra nếu mình không nói rõ người đó là ai thì chắc không thể ra khỏi cung.

Bái biệt Vương Yến Hồi, Thanh Lôi dắt tay A La với vẻ rất thân thiết song lại có phần lo lắng đưa nàng về tẩm cung. A La để cho nàng ta dắt đi, bụng cười thầm, cuối cùng có thể trút bỏ cái mặt nạ tỷ muội tình thâm rồi!

Thanh Lôi buông tay A La, lệnh cho cung nữ lui hết. A La nói: “Đuổi hết cung nữ ra ngoài, Thanh Lôi lần này tỷ lại định chơi trò gì?”.

Trên khuôn mặt xinh đẹp lạnh lùng của Thanh Lôi dần dần như thấm nỗi buồn thê lương, nàng từ từ quỳ trước mặt A La. A La ngớ người, nhìn nàng ta rồi vội giơ tay đỡ: “Định nói gì cứ nói, sao phải làm thế. Chuyện lần trước muội đã quên từ lâu rồi”.

“Tỷ cầu xin muội, không phải vì chuyện lần trước”. Hai hàng nước mắt đã ròng ròng trên mặt Thanh Lôi. “Tỷ xin muội nếu có ngày, nếu có ngày tỷ mệnh hệ gì, xin muội thay tỷ chăm sóc Tâm Nhi, được không?”.

A La kinh ngạc thất sắc: “Tỷ nói thế là có ý gì? Tỷ đứng dậy đi”.

Thanh Lôi vẫn quỳ: “Muội phải nhận lời với tỷ, nếu tỷ có bất trắc, muội nhất định phải chăm sóc Tâm Nhi”.

A La thở dài: “Tâm Nhi ngoan như thế, ai chẳng yêu. Nó mới hai tuổi thôi mà”.

Mặt Thanh Lôi thoáng mừng, từ từ đứng lên, thở phào một hơi, nói khẽ: “Không biết tại sao, tỷ tin là muội sẽ chăm sóc tốt cho Tâm Nhi”.

Thanh Lôi nhìn A La đăm đăm: “Muội đẹp thật. Thật ra thất phu nhân tính tình hiền dịu, đối với tỷ cũng rất tốt, nhưng tỷ và Thanh Phỉ đều không thích muội. Có lẽ từ nhỏ bọn tỷ đã cùng có ý nghĩ, sau này lớn lên muội nhất định sẽ đẹp hơn bọn tỷ, vì vậy luôn khó chịu mỗi khi nhìn thấy muội”.

Thanh Lôi lại cười buồn: “Trước đây tỷ có một gánh nặng trong lòng, bởi vì tỷ yêu điện hạ, sợ chàng vì khúc “Thu thủy” mới thích tỷ, mỗi lần nghĩ đến chuyện đó tỷ vừa hận vừa ghen với muội, trong lòng nơm nớp lo âu. Chỉ một cái liếc mắt của Vương Yến Hồi là tỷ đã run lên, phấp phỏng lo lắng. Trong dạ tiệc hồi đó, thái tử bảo tỷ chơi đàn hầu Tứ điện hạ. Trong lúc bối rối hoảng sợ tỷ đã làm tay mình bị thương, thực ra trong lòng rất hận muội, hận muội đã khiến tỷ phải đến nước này, cho nên mới đem tiền đồ của Thành Tư Duyệt ra để ép Thanh Phỉ, để muội ấy đổ tội cho muội. Làm như vậy thực xuẩn ngốc, nhưng tỷ không hối hận, nếu lặp lại, với tâm trạng tỷ lúc đó tỷ vẫn làm thế. Mặc dù không hại được muội, cũng để Vương Yến Hồi chứng thực mối hoài nghi trong lòng ả. Có điều, không phải tỷ không có được điều tỷ mong muốn. Thanh Lôi không thể đánh đàn, điện hạ sẽ đối xử ra sao? Tỷ luôn muốn biết lòng điện hạ, chính trong buổi tối hôm đó chàng đã rất mực dịu dàng với tỷ, nhưng không dám ở lại cùng tỷ, tỷ càng hiểu, chàng không yêu Vương Yến Hồi, nhưng cần sự giúp đỡ của ả. Lúc đó tỷ chỉ cầu mong muội có thể suôn sẻ lấy Bình Nam vương, có người em rể như vậy, địa vị của tỷ ở Đông cung mới vững bền. Cũng chính bởi vì Bình Nam vương một lòng chân tình với muội, thái tử cũng sẽ chăm sóc tỷ, Vương Yến Hồi cũng đối xử rộng rãi với tỷ”.

A La lại thầm than thở, thương cho Thanh Lôi: “Tỷ cũng có vị trí trong lòng thái tử, đây chỉ là sự lựa chọn bất đắc dĩ của thái tử đối phó với tình thế mà thôi, có thể thông cảm. Nếu thái tử yên vị trên ngôi báu, chàng tất sẽ thương tỷ. Chẳng phải thái tử rất yêu Tâm Nhi sao? Cớ gì không thương mẹ nó?”.

“Nhưng muội lại không muốn lấy Bình Nam vương! Người trong lòng muội là tứ hoàng tử đúng không? Trước khi muội quen Bình Nam vương, muội đã quen Ly Thân vương rồi!”.

Sao nàng ta biết? Lúc đó ngay bản thân nàng cũng không biết Tử Ly là tứ hoàng tử Lưu Phi. Cô thầm nghĩ.

“Muội đừng phủ nhận! Trong dạ yến ở Đông cung ba năm trước, khi tứ hoàng tử lên tiếng định giải vây cho muội, muội mới nhân cơ ứng phó, tỷ liền biết muội quen chàng ta! Sự bi phẫn oai oán trong tiếng đàn của muội không phải trút lên đầu người chị này, mắt muội nhìn về phía tứ hoàng tử, muội giận chàng ta không thể bảo vệ muội!”. Thanh Lôi nói từng câu từng chữ.

Cha mẹ ơi, sao người ở đây lại tinh ma đến thế, ngay một ánh mắt cũng không bỏ qua? Thanh Lôi hạ giọng rất thấp: “Tỷ đoán là tứ hoàng tử, nhưng chưa bao giờ mở miệng nói với ai, kể cả thái tử. Ninh vương không qua khỏi được, chỉ có Ly Thân vương mới có thể tranh giành với thái tử. Tỷ là người của thái tử, đương nhiên sống chết theo chàng, tỷ cũng mong thái tử có thể yên ổn lên ngôi, nhưng nếu thất bại, có muội chăm sóc Tâm Nhi, tỷ cũng yên lòng, ra đi không vương vấn! Muội muốn thoái hôn. Tỷ thấy cha cũng không phản đối lắm, câu cửa miệng của ông ta là bảo toàn quyền thế, ba đứa con nếu trong các phe đối lập, bất luận ai thắng ông cũng là người thắng lớn”.

Thanh Lôi thật đáng thương, nàng có nên nhận lời không? Nếu vậy thực sự nàng đã tự đẩy mình vào chỗ đầu sóng ngọn gió, một khi Tử Ly khởi binh chẳng phải nàng trở thành tế phẩm hàng đầu hay sao? Liệu họ có đem đầu nàng treo ở cổng thành để uy hiếp Tử Ly không? A La lòng đau nhói.

Nghĩ đến Tử Ly, hình ảnh Lưu Giác lại hiện lên, ánh mắt nàng trở nên dịu dàng, khuôn mặt nặng tình của chàng đã in vào lòng nàng không thể xua được. Nàng cười đau khổ, đã hoàn toàn hiểu cục diện trước mắt. Nàng tuyên bố không thích Lưu Giác, muốn thoái hôn, An Thanh vương phủ không thể mất con dâu, Bình Nam vương đương nhiên cũng không thể mất vị hôn thê đã bỏ chàng một lần, lại định bỏ lần nữa? Lưu Giác đương nhiên có cớ trở về kinh thành. Tình hình hiện nay có hai người để nàng lựa chọn nói ra, bất luận nàng nói ai, mũi kiếm đều hướng vào Đông cung.

Nếu nói là thái tử, nàng sẽ phải dùng mỹ nhân kế. Nhưng cho dù mê hoặc được thái tử, bây giờ thái tử cũng sẽ không thể đắc tội An Thanh vương và Lưu Giác đang nắm giữ Nam quân. Cho nên nàng chỉ có một lựa chọn.

Tại sao An Thanh vương lại tỏ ra trở mặt với Tử Ly, nàng hiểu nhưng ông cũng không cần nàng phải hiểu. E rằng cho dù nàng không nghĩ ra trò viết bức thư đùa bỡn Lưu Giác, thì An Thanh vương cũng sẽ viết như thế. Đó là con cáo già! Có lẽ ông đã sớm nghĩ ra ý đó, nhưng không tiện nói mà thôi.

Nghĩ đến đó A La thấy buồn cười, lão cáo già vẫn còn tốt, không ép mình, càng không nói cho mình đáp án này. Chỉ cần An Thanh vương mở miệng, nàng tự khắc sẽ làm theo, Lưu Giác có thể danh chính ngôn thuận liên minh với thái tử, có tay trong hỗ trợ là cách dễ nhất để giúp Tử Ly. Kỳ thực Nam quân và Hữu quân kết hợp đã đủ binh lực, An Thanh vương làm như vậy, chỉ là không muốn dấy binh gây ra nội chiến ở Ninh quốc! A La than thở: “Tỷ thật tinh mắt! Khi còn ở tướng phủ muội đã hòa tấu với Tử Ly ở trong rừng trúc, đã có lời đính ước với chàng. Cho nên ba năm trước, sau khi Bình Nam vương cầu hôn, muội liền bỏ trốn”.

Nàng nói liền một mạch trơn tru, bản thân nghe cũng thấy hết sức bình thường, tự nhiên. A La bất giác nghĩ, thì ra trong thâm tâm mình vốn đã đồng ý giúp Lưu Giác, vì chàng mà mình có thể nói dối trơn tru như thế. Vốn định trở về Phong thành chỉ muốn dựa vào cây đại thụ An Thanh vương để sống yên ổn, đàng hoàng, ai ngờ không tránh khỏi bị cuốn vào dòng xoáy. Chỉ có điều lần này là mình tình nguyện.

A La thận trọng nhìn Thanh Lôi. Lời A La vừa nói, nàng ngầm đính ước với Tử Ly, vốn đã nằm trong dự đoán của Thanh Lôi, nhưng vẫn khiến Thanh Lôi không nén nổi kinh ngạc: “Muội đã ngầm đính ước suốt đời với Ly Thân vương? Hai bên đã có đính ước, tại sao lúc đầu không đến Biên thành?”.

“Tử Ly đâu dám đắc tội với Cố tướng? Bây giờ muội cũng đâu dám đi Biên thành tư tình với huynh ấy, tỷ hồ đồ hay sao?”. A La cười nhạt, “Có điều, tỷ đã ủy thác Tâm Nhi cho muội, có lẽ cũng không nói ra chuyện của muội và Tử Ly cho thái tử và thái tử phi chứ?”.

“Tử Ly? Muội gọi chàng ta thân mật như vậy, e là vương phi của Ly Thân vương cũng chưa dám gọi như thế?”. Thanh Lôi than thở, “Thật không ngờ Ly Thân vương cũng có lòng với muội, thì ra tiếng tiêu trong phủ hồi nào là của Ly Thân vương, tỷ còn tưởng là muội và thất phu nhân hòa tấu, chúng ta đúng là không có mắt. Tỷ sẽ không nói ra, nhưng với đầu óc của Vương Yến Hồi, e là ả đã nghĩ đến chuyện này”.

Có cung nhân đi vào truyền lời, nói thái tử phi mời hai người dùng bữa, A La nghĩ cục diện đã bố trí xong, không còn do mình làm chủ nữa. Hiện nay vẫn chưa có gì nguy hiểm, sau này thế nào cũng khó nói. Điều bây giờ nàng rất muốn biết là Vương Yến Hồi sẽ ứng phó ra sao. Đột nhiên, A La cảm thấy bản thân nàng giống như liều thuốc thử, thông qua thái độ của Vương Yến Hồi để thăm dò ý tứ của Đông cung.

Trong bữa, A La ăn rất tự nhiên, ăn xong uống trà, tươi cười nói: “Chẳng phải nương nương luôn muốn nghe A La chơi đàn sao? Thực ra ba năm nay A La rất ít động đến cây đàn, tiện đây không nên để nương nương thất vọng mới được”.

Đánh bài gì? Mắt khẽ chớp, khúc “Thu thủy” đã lạnh lùng vang lên dưới những ngón tay, không mấy liên quan với lần chơi đàn ở Đào hoa yến, thêm vài phần dào dạt lâm ly, bớt vài phần hào sảng cao ngạo, Vương Yến Hồi vỗ tay khen: “Bao năm rồi, cuối cùng đã được nghe khúc “Thu thủy” lừng danh! Bình Nam vương ắt hẳn xiêu lòng”.

Vẫn đang thăm dò sao? A La lẩm bẩm: “Chàng ta hiểu gì? Đâu có sành âm luật như Tử Ly?”. Lời vừa dứt, nàng vội “ôi” một tiếng, lấy tay bịt miệng, mắt hốt hoảng.

Vương Yến Hồi khẽ cười: “Ly Thân vương ư, tiếng tiêu đích thực là tuyệt tác vô song, đêm đêm vẳng ra từ Ly cung khiến người ta mủi lòng. Thì ra người trong lòng tiểu muội là tứ hoàng đệ!”.

Ba người mải chuyện không chú ý, thái tử đã đứng ngoài cửa từ lúc nào, tâm trạng đang ngơ ngẩn bàng hoàng, oán hờn, đau buồn, thất vọng đan xen. Chàng đứng đó thanh tú trong màn đêm, muốn cười mà không thể.

Thì ra là nàng ta? Hai mắt chàng sâu như đêm tối, ẩn chứa nỗi buồn không gì hóa giải. Năm xưa trong dạ yến thấy Cố Thiên Lâm thanh khiết như hoa lan, cảm thấy đó là một thanh nữ tao nhã, nhưng khi nghe khúc “Thu thủy” chàng lại bị hấp dẫn bởi khí phách hào sảng, tâm hồn lộng gió, chí gửi bốn phương của người chơi đàn, thầm nghĩ chỉ có người con gái hồn nhiên, lòng không toan tính như vậy mới xứng là tri âm của mình. Chàng lặng lẽ bước từng bước nhỏ, lòng xiết bao kinh ngạc, ngay từ thuở ấu thơ chàng đã học cách tự kìm chế, văn võ đều gắng sức chuyên cần, không ai biết sâu trong lòng, thực ra chàng muôn phần ngưỡng mộ không khí đầm ấm gia đình. Hồi đó chàng đã nghĩ, nếu có một người con gái như vậy làm bạn, cuộc sống vương cung của chàng tuy căng thẳng nặng nề với bao trọng trách, bổn phận nhưng cũng sẽ có niềm vui.

Càng tự khắc chế thì lại càng khao khát được tự do cất cánh. Cho nên chàng không do dự chọn ngay Thanh Lôi. Thanh Lôi xinh đẹp, dịu hiền, đối với chàng luôn một khối tình sâu, tuy nhiên, Thanh Lôi lại không chơi khúc “Thu thủy” nữa. Nàng bảo, Thanh Lôi giờ không còn tâm trạng năm xưa, chơi nhiều sẽ nhàm khiến điện hạ thất vọng.

Chàng hiểu, tiếng đàn là thế, đâu phải lúc nào cũng một tâm trạng. Cho dù mẫu hậu một mực muốn chàng lấy Vương Yến Hồi cháu mình, con gái Vương thái úy làm chính phi, chàng cũng chấp nhận. Chàng nghĩ, ngôi báu tất sẽ thuộc về chàng, nếu không nỗ lực bao năm sẽ thành uổng công, hùng tâm tráng chí khó bề thực hiện. Muốn được vương vị chàng phải dựa vào nhà họ Vương. Nhưng đồng thời chàng cũng lấy Thanh Lôi và rất sủng ái nàng.

Nhưng hôm nay chàng mới nhận ra, người con gái say mê thu thủy trường thiên, đắm say bầu trời biển khoáng đạt bao la thì ra là nàng ấy.

Nàng ấy đẹp đến độ khiến chàng thất kinh sững sờ, tiếng đàn của nàng khiến tim chàng rung động, bồi hồi. Tuy nhiên, lần nào chàng cũng đều bị lỡ. Hôm nay, nàng ấy không chỉ không muốn lấy Bình Nam vương mà lòng nàng ấy còn hướng về tứ hoàng đệ của chàng.

Chàng từ từ nắm chặt nắm đấm, nỗi hận bùng lên. Chàng là thái tử, đương nhiên sẽ là hoàng đế tương lai, vậy mà cho dù mọi việc triều chính chàng làm tốt đến đâu, tuy được khen ngợi, nhưng ánh mắt phụ hoàng nhìn chàng vẫn không chút ấm áp. Tử Ly chẳng qua là vương tử nhàn nhã, chính sự quan trọng không hề tham gia, chỉ làm những việc lặt vặt, nhưng chỉ cần Tử Ly làm được một chút việc cỏn con, phụ hoàng dù không khen, nhưng ánh mắt chan chứa ân tình. Không phải phụ hoàng không yêu chàng, nhưng tình thương yêu tràn trề trong lòng chưa bao giờ dành cho chàng. Ngay chuyện hôn nhân Tử Ly cũng được ngự ban ái nữ của một trọng thần, danh thế không kém chàng.

Chàng kém Tử Ly ư? Luận ngoại hình đều tuấn tú, lịch lãm, luận tài năng, các đại thần đều nhất loạt hài lòng về chàng; luận tài hoa, cầm kỳ thi họa chàng đều tinh thông. Người con gái đánh đàn trong phòng kia tại sao dùng tiếng đàn lừa chàng, nhưng mắt lại hướng về Tử Ly? Nếu chàng biết người chơi đàn trong Đào hoa yến là nàng ấy, nàng ấy đã sớm là chính phi của chàng!

Chàng vừa từ Ngọc Long cung trở về, Ninh vương bệnh trọng, chàng ngày đêm hầu phục bên long sàng. Tử Ly làm gì? Không nói cũng biết, y đang ra sức thu phục Hữu quân, một khi phụ hoàng băng hà sẽ khởi binh tranh đế vị với chàng. Mối hận lại sôi lên trong lòng chàng. Đợi ta lên ngôi xem Lưu Phi ngươi lấy gì để tranh giành với ta! Nếu ngươi định cướp người của Lưu Giác, trận chiến này ngươi thua là chắc. Thái tử cười sang sảng, cất bước đi vào điện: “Có chuyện gì mà vui thế?”.

Ba người vội đứng dậy hành lễ. Thái tử xua tay: “Người nhà cả, không cần đa lễ!”.

Vương Yến Hồi che miệng cười: “Chuyện này tính sao đây? Tiểu muội của chúng ta không muốn lấy Bình Nam vương, mắt lại hướng về tứ hoàng đệ”.

Thái tử nhướn mày tỏ vẻ ngạc nhiên: “Ô chà, Bình Nam vương có nuốt được mối hận này không?”.

A La cúi đầu, không nói, sắc mặt khổ não.

Thái tử trầm ngâm một hồi: “Dưa chín ép không ngọt, để người anh rể này đứng ra cầm trịch cho muội. Ấy, chuyện này gay go lắm đây”.

Vương Yến Hồi cười: “Khó đến mấy cũng phải tác thành cho tứ hoàng đệ và tiểu muội mới được”.

Thái tử cau mày: “Vừa rồi ta gặp Cố tiểu thư, nghe nói tiểu muội đang làm khách ở đây, liền có lời mời tiểu muội đến Ly Thân vương phủ chơi một chuyến, nàng ấy cũng muốn xem mặt tiểu muội”.

Cố Thiên Lâm? Thái tử vì sao muốn để mình đến phủ Ly Thân vương? Có phải là muốn chứng thực quan hệ giữa mình và Tử Ly? A La cười: “Mấy năm không gặp Thiên Lâm tỷ tỷ, không biết tỷ ấy liệu có vẫn đẹp như xưa”. Đêm, trong điện của thái tử phi, Vương Yến Hồi trầm ngâm tư lự, rất lâu mới lên tiếng: “Nếu Lý tướng đồng ý cho con gái thoái hôn, như vậy sẽ trở mặt với An Thanh vương, ông ta không sợ thật sao? Thiếp vẫn thấy hồ nghi!”.

Thái tử nói: “Vừa rồi ta ghé qua chỗ Thanh Lôi, nàng ấy bảo chuyện này là có thực. Ngày xưa, trước khi vào cung Thanh Lôi thường nghe trong tướng phủ tiếng tiêu sáo hòa tấu, hôm nay mới biết tiếng tiêu là của Tử Ly. Lý Thanh La ba năm trước tháo hôn cũng là giả. Với tính cách Lý tướng ông ta có thể không thoái hôn, nhưng cũng không nóng vội gả con gái, con cáo này muốn đợi xem kết quả, muốn trước sau không có kẽ hở”.

Vương Yến Hồi đột nhiên hỏi: “Hôm nay phụ hoàng thế nào?”.

“Nôn ra máu, nửa hôn mê”.

“Điện hạ, thiếp đã bàn bạc với phụ thân, theo dõi chặt chẽ động tĩnh các nơi. Tứ hoàng đệ tất sắp trở về Phong thành, đại quân Đông lộ và đội quân bảo vệ Phong thành phải luôn chuẩn bị sẵn sàng. Theo thiếp, cũng chỉ nội trong mười ngày tới”.

Thái tử thở dài: “Thế lực tương đương, trận này không dễ đánh”.

Vương Yến Hồi cười nhẹ nhàng: “Chàng đừng quên, An Thanh vương mặc dù mưu cao, nhưng trong tay không có binh lực, khác gì hổ bị bẻ nanh? Chỉ cần chứng thực quan hệ giữa tứ hoàng tử và Lý Thanh La, Bình Nam vương và lão vương gia sao có thể nuốt trôi mối nhục lớn này, đâu còn ủng hộ Tử Ly? Không cần ông ta giúp, chỉ cần ông ta án binh bất động là chúng ta đã thắng. Nếu Bình Nam vương muốn ra tay, cứ để y và tứ hoàng đệ đấu với nhau. Chỉ có điều lòng thiếp vẫn thấy không yên, Lý Thanh La thoái hôn vào lúc này, trước sau vẫn không làm thiếp yên tâm”.

Thái tử tức giận nói: “Bất luận thật giả thế nào, đều phải giữ nàng ta trong cung, với ai cũng tốt”.

“Không, để nàng ta đến phủ Ly Thân vương. Thiếp rất muốn xem Lý Thanh La và Thiên Lâm tỷ tỷ của nàng ta chạm mặt nhau thế nào, cho người theo dõi chặt, cơ hội xuất cung thế này về sau không còn nhiều, chờ xem động tĩnh của nàng ta”. Vương Yến Hồi không biết chắc thái độ của A La. Câu chuyện này xem ra là thật, quan hệ nhân quả, lý giải của nàng nghe cũng thuận tai. Vẻ đẹp khác thường của Lý Thanh La sau ba năm mất tích vốn đã như không thật, nếu có những cái không thật nào khác cũng không có gì là lạ. Ngơ ngẩn suy tính hồi lâu, cuối cùng Vương Yến Hồi ra một quyết định. Ra khỏi cung trở về tướng phủ, A La lần lượt điểm lại từng sự việc vừa diễn ra ở Đông cung. Có lẽ họ bảy phần tin ba phần ngờ. Vậy thì khi nàng đến gặp Cố Thiên Lâm, cũng không thể để Thiên Lâm phát hiện ra điều gì, càng không thể tiếp xúc với An Thanh vương. Tốt nhất sau khi đến Ly Thân vương phủ nàng sẽ trở về nhà và ngoan ngoãn chờ đợi.

Nhưng ngộ nhỡ họ triệu vào cung làm thế nào để từ chối? A La nghĩ, sự hy sinh lần này quá lớn, không cẩn thận mất mạng như chơi. Nàng rất hận, Lưu Giác, nếu thiếp có mệnh hệ gì, chàng cùng lão vương gia cáo già đập đầu vào tường chết cho xong!

Nàng trang điểm qua loa, ra cửa, không cho Lưu Anh đi cùng: “Lưu Anh, chủ ngươi bây giờ đi gặp tình địch, ngươi không cần đi theo, tốt nhất nên giúp ta vẽ sơ đồ trong cung, sau này biết đâu có lúc dùng đến”.

Lưu Anh đã được nghe A La kể chuyện vừa xảy ra trong Đông cung, cúi đầu cười: “Vâng, chúc tiểu thư và Ly Thân vương phi hòa khí, sau này tỷ muội tình thâm!”.

A La trợn mắt: “Ngươi không sợ Bình Nam vương ghen hả?”.

“Chủ của tiểu nhân bây giờ là tiểu thư! Huống hồ tiểu vương gia ức hiếp tiểu nhân suốt hơn hai chục năm, để vương gia ghen một chút cũng tốt cho sức khỏe!”. Lưu Anh cười nói, bụng nghĩ, Lưu Giác sao có thể ghen, tiểu vương gia tuyệt đối không ghen, chỉ có đau, đau lòng! Không biết sau khi trở về sẽ trút giận lên đầu lão gia như thế nào?

Người hầu đưa A La vào phủ Ly Thân vương, vừa bước vào chính đường đã ngẩn người. “Đây là bức họa vương gia cất giữ mà ta lén lấy xem”. Cố Thiên Lâm nhìn bức tranh ngơ ngẩn: “Mới thoạt nhìn, ta vô cùng sung sướng, tưởng là chàng nặng tình với ta như vậy. Nhìn lại lần nữa, ta như rơi xuống đáy vực. Tam tiểu thư, người trong bức họa hóa ra là muội”.

Thiên Lâm quay người nhìn A La: “Tiểu a hoàn của tướng phủ trong Đào hoa yến lần đó, cô gái nhỏ thông minh đã nhận ra ta khi ta cũng đóng giả a hoàn thì ra chính là tam tiểu thư tướng phủ”. Một tiếng thở dài rất nhẹ tựa hồ không thể nhận ra, “Ta suy nghĩ mãi, mới biết trong bức họa Bình Nam vương vẽ ta, đôi mắt lóng lánh như thủy tinh chính là đôi mắt của tam tiểu thư tướng phủ”.

A La nhất thời không biết nói sao. Lưu Giác từng nói chàng vẽ bức họa Cố Thiên Lâm, nhưng lại vô tình vẽ mắt nàng trong đó. Chàng ngày đêm ngắm đôi mắt này ư? Khi nghe chàng kể không nhận ra, bây giờ nhìn nàng mới thấy lòng đau nhói từng cơn, cảm động rưng rưng.

Cố Thiên Lâm đã đi đến trước mặt nàng: “Mắt nàng rất đẹp, thực ra không chỉ đôi mắt, cả con người nàng đều rất đẹp. Hồi xưa mái bờm che lấp nửa mặt, dung mạo thế nào cũng khó nhận ra, nhưng chỉ như vậy đã khiến vương gia say mê điên đảo. Ba năm rồi, muội biết không? Chàng đi Biên thành ba năm, không hề trở về nhìn ta một lần!”. Cố Thiên Lâm cố giữ bình tĩnh, nhưng không sao kìm nổi, giọng vẫn run run.

“Thiên Lâm tỷ tỷ, bức họa này là do Bình Nam vương vẽ, về sau, về sau tỷ với Tử... à với tứ hoàng tử thành thân, Bình Nam vương cảm thấy không tiện lưu giữ trong phủ, mới đưa đến đây, chứ không phải tứ hoàng tử muốn ngắm... đôi mắt kia”. A La nói như một phản xạ, nàng không muốn để Thiên Lâm buồn như thế.

“Phải, vốn là do Bình Nam vương vẽ. Cứ coi Ly Thân vương muốn ngắm nhìn ta, nhưng tại sao khi ta đứng trước mặt chàng, bằng xương bằng thịt, chàng dịu dàng bao nhiêu ta cũng không cảm thấy tấm lòng của chàng?”. Cố Thiên Lâm buồn bã nói.

A La không nói gì. Lúc này hoàn toàn không cần nàng nói gì, quan hệ giữa nàng và Tử Ly đã được chứng thực. Có một số chuyện bây giờ không phải lúc giải thích, có một số điều bây giờ cũng không tiện nói cho nàng ấy nghe. Mục đích của nàng đã đạt được, nán lại thêm nữa Cố Thiên Lâm nhìn thấy nàng sẽ càng khó chịu, “Thiên Lâm tỷ tỷ, con người tứ hoàng tử rất tốt, tỷ phải tin chàng, chàng sẽ đối xử tốt với tỷ. Muội đi đây”.

Cố Thiên Lâm cười nhạt: “Chàng sắp trở về, nếu muội muốn, ta cũng không phản đối muội vào phủ”.

A La trầm ngâm hồi lâu, cười nói: “Muội rất thích tỷ, Thiên Lâm tỷ tỷ. Cũng rất thích đại ca!”. Nàng không dám ngồi lâu, sợ nán thêm có khi không nén nổi lại nói ra những điều không nên nói. Lúc ra về nàng nghĩ, cả hai đều sắp trở về rồi sao? Vậy thì Phong thành mỗi ngày càng thêm náo nhiệt rồi.

.

Chương 23

.

Ám Cửu, binh sĩ của Cáp tổ quỳ một chân trước Lưu Giác. Từ lúc anh ta trình lên bức thư của An Thanh vương, chúa thượng vẫn ngồi thừ không nói một câu. Lòng Lưu Giác cuộn như sóng bể, chàng tin A La có thể làm chuyện đó, đến tận phủ thoái hôn, nàng giận đến thế sao? Nỗi đau trong lồng ngực nhói lên theo từng nhịp đập trái tim, mỗi nhịp đó lại khiến từng sợi thần kinh trong đầu chàng căng giật, chàng cố nghiến chặt hàm răng, mới kìm được từng cơn sóng phẫn hận trong họng khỏi trào ra đầu lưỡi, khỏi biến thành những lời nói cay độc nhất. Nỗi phẫn hận không được giải tỏa lại vòng trở lại, như va đập điên cuồng, gào thét dữ dội muốn phá tung những bức tường giam hãm nó, phẫn hận và đau đớn giằng xé trong cơ thể, làm chàng run lên, người vã mồ hôi, lúc nóng lúc lạnh, dồn nén bức bối, từng sợi thần kinh trong đầu như rung lên bần bật, rồi bật thành những âm thanh có nghĩa: “Nàng không cần mình! Nàng không cần mình!”.

Cuối cùng chàng đấm mạnh vào chiếc bàn bằng gỗ xoan, chiếc bàn kêu rầm vỡ toác, Ám Cửu cảm thấy nhẹ người, tâm trạng nặng nề của chúa thượng đã được giải tỏa, hóa thành nắm đấm tan đi.

Trong đầu Lưu Giác xuất hiện từng mảng trắng, đứng ngây như thân gỗ. Vốn chàng đã tưởng A La ít nhiều hiểu được lòng chàng, vốn đã tưởng hai người có thể tâm đầu ý hợp, cùng nhau đối diện tất cả... nàng nhõng nhẽo tí chút cũng không sao, nhưng lại còn thoái hôn! Nàng coi mình là gì chứ, là đồ vật trong tay để thỏa sức dày vò? Có người đàn ông nào có thể dung thứ lối tùy tiện như thế!

Chàng bắt đầu hối hận, hối hận đã không sớm chặt đứt cánh nàng, vặt sạch lông nàng, bẻ vuốt nàng! Sao chàng lại sủng ái nuông chiều một con sói mắt trắng nhe nanh không biết xấu tốt là gì! Lưu Giác hận đến đau nhức từng cơn, khuôn mặt tuấn tú sắt lại: “Còn gì nữa?”.

Ám Cửu khẽ nhíu mày, nói tiếp: “Trên đường đi thuộc hạ được báo phía Đông cung có tin mới, xác nhận tam tiểu thư chơi lại khúc “Thu thủy”.

Chơi khúc “Thu thủy”? Nàng định làm gì? Đưa thân đến miệng thái tử hay sao? Nàng không sợ thái tử nảy sinh tình ý với nàng sao? Lưu Giác hoảng hốt, bật hỏi: “Thái tử định nạp nàng làm thứ phi thật chứ?”.

Ám Cửu ngây người, cúi đầu không dám nhìn chủ nhân: “Tam tiểu thư... đã nói rõ Ly Thân vương vẫn là tri âm”. Lời vừa nói ra đã biết sự không hay.

Lưu Giác cảm thấy tim mình sắp không chịu nổi. Nàng rút cục định làm gì? Rõ ràng cố tình mê hoặc thái tử, nhưng lại lôi kéo Ly Thân vương Lưu Phi, nàng đúng là yêu tinh! Sao thái tử có thể nạp nàng làm phi trong lúc này, dính với Lưu Phi, nàng càng tự tìm cái chết! Lưu Giác bừng bừng nộ khí: “Khốn thật, ông già đang làm gì?”.

“Lão vương gia... lão vương gia rất giận, đổ bệnh rồi, nói phủ An Thanh vương không còn mặt mũi nào nữa, nếu chúa thượng không quay về Phong thành trước ngày mùng ba tháng hai, đợi gạo đã nấu thành cơm, sau này mọi người đừng mong ở lại Phong thành. Lão vương gia còn nói...”. Ám Cửu nhắm mắt nhắc lại lời nhắn của An Thanh vương. Lòng thầm nghĩ, lão vương gia làm vậy chẳng phải đổ thêm dầu vào lửa sao?

Lưu Giác xé nát bức thư, trợn mắt nhìn Ám Cửu, tung chân đá anh ta một nhát: “Còn tưởng chủ ngươi chưa đủ giận? Lại giúp ông già quạt thêm gió vào lửa!”. Chàng biết rõ chuyện này có ẩn tình chi đây, nhưng không tìm ra lời giải rõ ràng, bao dự đoán hỗn loạn trong đầu, chàng hận không mọc cánh để bay về Phong thành: “Truyền lệnh, quân đồn trú ở Lâm Nam án binh bất động, các cánh quân trấn thủ ven đường cũng bất động, binh mã còn lại lập tức tập kết tại Cốc thành, chờ lệnh bản vương! Ám Cửu, chuyển thư cho tướng quân Thiên Tường, nói bản vương trở về Phong thành gấp cướp vương phi! Mọi việc ở Lâm Nam mong tướng quân lưu tâm!”.

Lưu Giác tức thì dẫn Ô y kỵ phóng về Phong thành. Tiễn Xích Phong đi rồi, Tử Ly đăm đăm nhìn bức mật thư của An Thanh vương. Phụ hoàng sắp không trụ được nữa sao? Ký ức của chàng bay về một buổi chiều rực nắng xa vời nhiều năm trước, chàng và mẫu hậu quấn quýt bên phụ hoàng, đầm ấm vui vẻ. Phụ hoàng âu yếm nói: “Tử Ly sau này lớn lên sẽ làm hoàng đế được không?”. Chàng nũng nịu trả lời: “Tử Ly chỉ cần ở bên phụ hoàng và mẫu hậu”. Những ngày đó đã là mảnh hồi ức xa xăm, mẫu hậu đã ra đi, bây giờ đến lượt phụ hoàng sắp bỏ lại chàng. Tử Ly nhắm mắt, lòng quặn đau.

Cận vệ Trần An theo tứ hoàng tử đến Biên thành, con người tuấn lãm tự tại, trên môi luôn phảng phất nụ cười, nhưng sâu trong đáy mắt vời vợi nỗi ưu tư không sao khỏa lấp. Mấy ngày nay, thư báo từ Phong thành gửi đến không ngớt, mỗi ngày càng thêm gấp gáp, ngay bản thân Trần An cũng nhận thấy sự căng thẳng của cục diện, vội quỳ sụp thưa: “Chúa thượng, xin người lập tức quay về!”.

Tử Ly khép lại ký ức, nói: “Ngươi lui đi!”.

Trần An thở dài, rời khỏi thư phòng.

Tử Ly thảng thốt nghĩ, e là mình không kịp gặp phụ hoàng. Thời gian mười ngày cùng đi với đại quân, không thể đến Phong thành. Khóe miệng chàng hiện lên nụ cười đau khổ: “A La, câu chuyện thần kỳ mà nàng nói chỉ cần một canh giờ bay trên trời là có thể đến được nơi cách xa ngàn dặm có thật không? Ở đâu mới tìm thấy?”.

Tiềm thức chàng đột nhiên cảnh giác, không ngoảnh đầu, chàng bình tĩnh hỏi: “Ngươi là ai?”.

Ám Dạ cười khanh khách: “Vương gia quả nhiên có con mắt tinh tường!”.

Nét mặt Tử Ly trở lại bình thường, chàng từ từ ngoái lại, cách vài thước có một bóng đen đang đứng, người đó che mặt, đôi mắt tinh anh liếc đảo như phát sáng.

“Nếu ngươi ra tay, ta chắc chắn không thắng được ngươi. Nếu ngươi muốn ám hại ta, tất không yên lặng đứng đó”.

Tiếng cười lại vang lên, tay Ám Dạ vừa vung, lóe ra ấn tín của An Thanh vương, chắp hai tay nói: “Phủ An Thanh vương Ô y kỵ, lão vương gia truyền lời...”.

Vương thúc quả là người thận trọng, phái liền hai cao thủ đề phòng bất trắc. Tử Ly cười phá lên: “Trở về bẩm báo vương thúc, Tử Ly cho dù phải đi suốt ngày đêm, cũng quyết quay về trước mồng ba tháng hai”.

Ám Dạ khẽ cười: “Trước khi đi lão vương gia lại nói, nếu Ly Thân vương không kịp quay về trước ngày đó cũng không sao, ngày mười tám tháng ba là ngày lành. Ám Dạ cáo từ!”. Bóng người vừa nhúc nhích, đã vụt bay ra ngoài không một tiếng động.

Một màn sương mỏng hiện lên trong mắt Tử Ly, phụ hoàng, Tử Ly nhất định không phụ ủy thác của phụ hoàng, quyết loại trừ thế lực ngoại thích họ Vương, chấn hưng Ninh quốc! Ngày mười tám tháng ba! Vương thúc, những ngày này phiền thúc vất vả rồi! Tiếng chuông đột ngột trầm trầm vang lên, kinh động bầy quạ co ro tránh rét, chúng bay liệng trên vương cung, kêu những tiếng thê lương. Tiếng chuông trầm vang vọng trong Ninh vương cung dưới chân núi Ngọc Tượng truyền đến khắp nẻo Phong thành. Sớm xuân năm Khánh Nguyên thứ ba mươi tư, mồng hai tháng hai Ninh vương băng hà.

Đôi mắt hổ của An Thanh vương đẫm lệ, nhìn đăm đăm Ninh vương trên long sàng. Vương hoàng hậu, thái tử và các đại thần đã khóc không thành tiếng. Những tiếng khóc chập chùng trong Ngọc Long cung hóa thành lớp lớp những lá phướn trắng, trên cây mầm nụ đầu cành còn chưa kịp hé màu xanh đã bị phủ trắng những tờ tiền giấy, tiền bay trắng trời ngập đất. An Thanh vương sau khi an ủi hoàng hậu, lấy danh nghĩa và thái tử hạ chỉ ban bố quốc tang, đồng thời triệu Ly Thân vương trở về Phong thành.

Cố tướng nước mắt chứa chan: “Xin thái tử nhanh chóng đăng cơ, nước không thể một ngày không có vua!”.

Vương hoàng hậu ngây người liếc nhìn thái tử, lúc này sao lại là Cố tướng đứng ra nói chuyện đó? Thái tử nước mắt đầm đìa: “Theo lệ Ninh quốc, có thể đến mười tám tháng ba mới chính thức đăng cơ, bây giờ quả vương đang đau buồn, việc triều chính lớn nhỏ phiền hai vị tướng gia lo liệu”.

An Thanh vương không đợi hai người mở miệng, bèn nói: “Thái tử ngọc thể ngàn vàng, nên lấy quốc sự làm trọng, hiện tại phiền hai vị tướng gia lo lắng quốc sự, ta sẽ lo liệu chuẩn bị lễ đăng cơ”.

Thái tử ngớ người, các đại thần nhao nhao: “Xin thái tử cai quản quốc sự, lo liệu hậu sự của vương thượng!”.

Một loạt mệnh lệnh được truyền đi, Lưu Giám lần đầu tiên cảm nhận sức hấp dẫn của vương quyền, cảm nhận quyền uy tối thượng của đấng chí tôn.

Các đại thần lục tục giải tán thực thi mệnh lệnh, hoàng hậu nức nở: “Mọi sự trông cậy vào vương gia”.

An Thanh vương nói: “Xin hoàng hậu đừng quá lo lắng, thần tận mắt chứng kiến thái tử phương trưởng nên người, tài năng xuất chúng, được cả triều đình tôn kính ngưỡng mộ”. Sau đó nét mặt sa sầm lẩm bẩm: “Phí công ta chăm sóc Lưu Phi, nghịch tử không coi trưởng bối ra gì, cướp vợ của huynh đệ! Chuyện ô nhục như vậy cũng dám làm!”.

Ông chán nản ngồi xuống: “Lại còn Lưu Giác thằng con bất hiếu của ta, chỉ vì một đứa con gái mà dám bỏ bê việc quân quay về, khiến ta tức chết! Cũng do mẹ nó qua đời từ sớm, ta ở xa, không dạy dỗ nó tử tế! Ôi chao!”.

Thái tử vội nói: “Vương thúc chớ nóng giận ảnh hưởng sức khỏe, khỏi nói Bình Nam vương, ai có thể nuốt nổi mối hận này! Đợi tứ hoàng đệ trở về, đại ca này sẽ dạy cho nó một trận! Hoàng tộc không thể xảy ra chuyện xấu xa như thế!”. Hôm đó A La dậy sớm, đã nghe thấy tiếng khóc ầm ĩ trong phủ, và tiếng chuông trầm buồn từ vương cung vẳng ra. Nàng nhảy khỏi giường kêu lên: Ninh vương băng hà rồi! Nói đoạn gọi to: “Lưu Anh! Tiểu Ngọc!”.

Hai người nghe tiếng gọi chạy vào phòng, A La rất nóng ruột, sau khi hạ quyết tâm, nàng nói với hai người: “Lưu Anh, ta gửi gắm Tiểu Ngọc cho ngươi, bây giờ ngươi lập tức đưa Tiểu Ngọc rời khỏi đây, đến Trình phủ phía đông thành tìm chú Phúc”.

Tiểu Ngọc vội nói: “Không cần, tiểu thư, đã xảy ra chuyện gì vậy, tại sao bọn em phải đi?”.

A La hét lên: “Không đi mau, lát nữa sẽ không đi nổi, các người phải đi mới có cách giúp ta!”.

Lưu Anh hạ giọng: “Ý tiểu thư là tứ hoàng tử sắp trở về Phong thành tranh đế vị với thái tử?”.

“Không chỉ có thế. Tử Ly cũng sẽ có phản ứng đối với chuyện của ta, chủ của các người sắp trở thành con tin rồi! Các ngươi mau đi đi, thêm một người ở lại là thêm một phần vướng bận! Còn nữa, nếu chưa đến lúc vạn bất đắc dĩ, các ngươi nhất định không được có bất kỳ tiếp xúc nào với phủ An Thanh vương, nếu không mọi công sức coi như đi tong!”. A La nói nhanh.

“Nhưng, bọn em sao yên tâm để mình tiểu thư ở lại?”. Tiểu Ngọc sụt sùi.

“Lưu Anh, ngươi đưa Tiểu Ngọc đi ngay cho ta! Nhanh! Không đầy hai canh giờ nữa, ở đây một con ruồi e cũng không lọt ra được”.

Lưu Anh đăm đăm nhìn A La rồi kéo tay Tiểu Ngọc chạy đi.

Hai người đi khỏi, A La đứng trong sân trầm tư. Thái tử muốn giam lỏng mình ở đây hay là ở trong cung? Phần nhiều là bắt vào cung. Trong thời gian hơn một tháng này, đành phải một mình tùy cơ ứng biến.

Quả nhiên không ngoài dự đoán, Lý tướng lập tức xám mặt đi vào Đường viên: “Chuyện mi làm hay ho lắm! Ly Thân vương phen này bất lực rồi, thái tử sắp đăng cơ. Bây giờ có lấy Bình Nam vương hay không, không còn do mi định đoạt nữa, lão vương gia kia đã tức đến nổ con ngươi rồi, vương phủ đâu thèm cần mi nữa!”.

A La nghĩ thầm, đúng vậy, An Thanh vương tức giận còn chưa xong, đâu còn cần đứa con dâu đã làm ông ta bẽ mặt? Nhưng chỉ sợ ông thà để Lưu Giác giết mình cũng không nhường mình cho Tử Ly! Bây giờ còn chờ phản ứng của Tử Ly, hai bên bắt đầu tranh giành thì sẽ có thời gian hòa hoãn xung đột. Sao mình lại khổ thế, lại còn phải mạo hiểm cái mạng bé tí của mình nữa.

Nàng nói vẻ kiên định: “Cha à, nói thực với cha, ba năm trước con với Tử Ly đã có thệ ước suốt đời, nếu không lấy chàng cả đời con không lấy ai! Lần con bỏ trốn đó, cũng là do Tử Ly giúp, nếu không sao có thể chạy thoát nhanh gọn êm thấm như thế!”.

Lý tướng tức đến toàn thân run bần bật, vung tay xông tới, A La nhẹ nhàng chặn lại: “Đừng đánh, con ra tay rất mạnh không cẩn thận sẽ làm tổn thương cha!”.

Lát sau, trong cung truyền chỉ, đón A La vào cung. Lưu Giác phóng ngựa như điên suốt dọc đường, cuối cùng ngày mồng ba tháng hai đã đến Cốc thành, mười vạn Nam quân dựng trại ở ngoại ô Cốc thành. Tại địa điểm cách Phong thành ba canh giờ đường bộ, Nam quân đã ém sẵn, chặn đứng con đường yết hầu phía nam Phong thành từ Cốc thành đến trấn Thuận Hà phía bắc. Cáp tổ mật báo, hai mươi vạn đại quân Đông lộ của Vương thái úy đã rời đại bản doanh ở ngoại ô phía đông, di chuyển cắm trại ở khu vực cách cổng thành phía đông Phong thành chỉ mười dặm.

Lưu Giác cau mày, theo lý Nam lộ quân thực lực mạnh hơn nhiều so với Đông lộ quân, nhưng chàng đã để lại một lực lượng nhất định trấn thủ ở mỗi thanh trì phía nam dọc đường đi, đề phòng quân Trần lại đến xâm phạm, còn Đông lộ quân lại không suy tính chuyện về sau, rời sạch cả đại bản doanh. Như vậy binh lực Nam lộ quân không mạnh bằng Đông lộ quân. Sau khi ra một loạt mệnh lệnh, chàng dẫn năm ngàn thiết vệ và Ô y kỵ nhằm Phong thành lao đi.

Sông Đô Ninh vẫn rộng và trong vắt, chỉ có cổng thành phía nam đóng chặt. Đội quân thúc ngựa xuống cầu phao, tiến đến chân cổng thành, trên tường thành cung rào rào giương lên, Lưu Giác nhàn tản ngồi trên lưng ngựa, một binh sĩ lấy giọng hô to: “Bình Nam vương đến!”.

Một chủ tướng trên thành ló ra, cười: “Thái tử có chỉ, vào thời điểm đặc biệt này, xin Bình Nam vương chỉ mang theo Ô y kỵ vào thành”.

Lưu Giác vẫy tay, năm ngàn thiết vệ lùi về bờ kia sông Đô Ninh. Cổng thành từ từ mở ra, Lưu Giác cùng Ô y kỵ từ từ tiến vào, chủ tướng trấn thành tươi cười, đứng nghiêm dưới cổng nghênh đón: “Hạ quan phụng chỉ hành sự, vương gia thứ lỗi”.

Lưu Giác khinh bỉ liếc một cái, lấy trong người Xích long lệnh, ném cho y, thủ thành kinh ngạc, giơ hai tay đón, nhưng không biết báu vật này là thế nào, hai chân mềm nhũn khụy xuống. Lưu Giác cười: “Nhìn rõ chưa, đó là gì?”.

“Xích long lệnh, có thể nắm... nắm...”. Chủ tướng thủ thành sợ run nói lắp bắp.

Roi ngựa Lưu Giác vừa vung lên, đoạt lại Xích long lệnh, giơ cao nói dõng dạc: “Tiên hoàng tổ ngự ban Xích long lệnh, nắm quyền trấn thủ Phong thành khi tình thế nguy cấp, kẻ nào chống lệnh tiền trảm hậu tấu”.

Tướng sĩ thủ thành nhất loạt quỳ sụp, một bộ phận khác lại đứng yên bất động, có viên tướng rút kiếm khỏi bao: “Vương thượng vừa băng hà, thái tử giám quốc, Bình Nam vương muốn làm phản hay sao?”.

Lời vừa dứt, Lưu Giác vung kiếm, cái đầu của người vừa nói đã rơi bịch xuống đất. Mọi người run sợ, Bình Nam vương này khét tiếng mạnh tay, hành sự quyết liệt, không chút đắn đo, dường như muốn nói nếu không tuân phục, đại chiến sẽ diễn ra ngay tại đây.

Lưu Giác sắc mặt không đổi, ngạo mạn cười khẩy: “Dám bất kính với tiên hoàng tổ? Bản vương cũng vì cần vương bảo giá đến đây, kẻ nào dám gây hiềm khích giữa bản vương với thái tử sẽ có kết cục như thế!”. Ánh mắt lạnh như ánh thép quét qua mặt đám tướng sĩ không tuân phục, uy vũ toát ra khiến họ quỳ mọp xuống đất.

Lưu Giác nháy mắt với binh sĩ Ô y kỵ, năm ngàn thiết vệ quân từ bên kia bờ vượt cầu phao sang bên này, nhanh chóng trấn thủ cổng nam kinh thành, triệt để đảm bảo Nam lộ quân hanh thông trở về Phong thành. Bố trí công mọi việc xong xuôi, chàng dẫn Ô y kỵ trở về phủ An Thanh vương.

Chính lúc Lưu Giác chém tướng thị uy ở cổng thành phía nam, chiếc xe ngựa của Đông cung đi đón A La ra khỏi tướng phủ không lâu bất ngờ bị một toán người áo đen chặn lại, thị vệ trong cung hoàn toàn không ngờ đoàn xe bị chặn ngay dưới chân vương cung. Bọn người này võ công cao cường, bắt cóc A La xong lập tức giải tán, không để lại mảy may manh mối ở hiện trường. Thị vệ sợ hãi về cung trình báo.

An Thanh vương nghe bẩm báo nói Lưu Giác đang bừng bừng phẫn nộ đi vào phủ, vội nhảy lên giường nằm, lấy khăn ẩm đắp lên trán, bắt đầu rên hừ hừ.

Lưu Giác vừa vào trong nhà thì nhìn thấy ngay An Thanh vương đổ bệnh nằm bẹp trên giường. Chàng cười khẩy: “Đổ bệnh rồi ư? Tức quá đổ bệnh hay sao?”.

An Thanh vương đầu bốc hỏa, tiểu tử ngu ngốc này không thông cảm cho ông già này một chút, khẩu khí gì vậy! Hóa ra A La vẫn ngoan. Ông hừ một tiếng, nói thều thào: “Nghịch tử! Cũng không biết quan tâm lão phu một chút, cô nương kia không cần ngươi, đáng đời!”.

“Cha còn nói thế? Lúc đầu con đã ngọt nhạt cầu xin cha chăm sóc nàng? Sao bây giờ lại xảy ra chuyện thế này?”. Lưu Giác tức sôi người, bụng nghĩ, con đây còn chưa đổ bệnh, cha đã phải nằm bẹp rồi! An Thanh vương vẫy tay, người hầu thận trọng dìu ông ngồi dậy: “Tiểu tử, tam tiểu thư kia hình như đối với con chẳng ra sao”.

“Nói chuyện chính! Chuyện thế nào?”.

“Hình như ba năm trước cô nương ấy không phải bị bắt cóc, mà là tháo hôn thì phải?”. An Thanh vương thong thả nói.

“Hừm, sau đó?”.

“Hình như nghe nói nàng ta ngầm đính ước với Ly Thân vương, cho nên mới tháo hôn. Bây giờ Ly Thân vương sắp trở về, nói là sẽ lấy nàng ta, cho nên nàng ta không cần con!”. An Thanh vương nói liền một mạch, mắt liếc trộm Lưu Giác.

“Chuyện xảy ra lúc nào? Sao con không biết? Lưu Phi muốn cưới nàng ư? Ba năm vừa rồi không cưới, sao lại cưới đúng lúc này?”. Theo trực giác, Lưu Giác không tin.

An Thanh vương nghĩ, nếu nó không tin, chuyện này khoan cho nó biết. Với tính cách của nghịch tử này, nếu biết nó chắc chắn sẽ đưa A La đi, ván bài sẽ không thể tiếp tục. Ông vỗ vào đầu chàng, giậm chân mắng: “Ai bảo ngươi tự tiện quyết định hôn sự này? Lão phu cả đời lẫm liệt uy phong bây giờ thành trò cười cho bá quan văn võ! Ngươi có điểm nào kém Lưu Phi, sao lại bị người ta phóng uế lên đầu như vậy, vợ sắp cưới còn bị người ta cướp mất?! Còn Lý Thanh La kia nữa, không biết liêm sỉ là gì, ngang nhiên tuyên bố không lấy Lưu Phi thì suốt đời không lấy ai! Nó, ngươi... Trời ơi, ta tức chết mất, cái đầu của ta!”. An Thanh vương ôm đầu nằm xuống, bộ râu rung rung giận dữ.

Lưu Giác thấy mặt cha đã xám xanh như ánh thép, lúc này mới hốt hoảng, vội vã chạy lại: “Cha, cha có sao không?”.

An Thanh vương đẩy tay chàng: “Ngươi, ngươi đi đi, nói với Lý tướng, ông ta có giết con gái, ta cũng không cần nữa! Loại nghịch nữ đó giữ lại chỉ tổ mất mặt, thắt cổ chết đi!”.

A? Lưu Giác nghĩ, hỏng rồi, ông già không phải chỉ hơi tức thôi. Lòng chàng tan nát, vừa buồn vừa đau, A La, nàng đúng là kẻ gây họa! Sao nàng có gan làm chuyện động trời như thế! Nàng làm vương phủ ta biết giấu mặt vào đâu!

“Cha, cha cứ nghỉ đi, con đến phủ Lý tướng một chuyến, phải ba mặt một lời hỏi cho rõ!”.

Không nghe chính miệng A La nói ra, Lưu Giác trước sau vẫn còn hy vọng. Chàng cảm thấy rất lạ. Nếu A La thích Tử Ly, tại sao ba năm nay nàng không đi Biên thành. Ở Biên thành, núp dưới đôi cánh của Tử Ly ai dám động đến nàng? Chàng hồi nhớ cảm giác ấm áp khi hai người bên nhau, nghĩ đến lúc A La tặng chàng đóa hải đường đóng băng, nghĩ đến cảm giác ngọt ngào khi họ hôn nhau... Chàng lắc đầu thật mạnh, không! Chàng không tin, chàng phải đi tìm A La! Lưu Giác đứng dậy đi ra.

Đột nhiên một binh sĩ Ô y kỵ từ bên ngoài xông vào: “Bẩm chúa thượng, chiếc xe ngựa trong cung phái đi đón tam tiểu thư tướng phủ bị chặn lại ở ngã ba phía đông, tam tiểu thư hiện không rõ tăm tích!”.

An Thanh vương thất kinh, ngồi dậy thét: “Kẻ nào dám làm chuyện đó?! Dám chặn xe ngựa của hoàng cung!”.

Đầu Lưu Giác “hừ” một tiếng, vừa trở về đã xảy ra chuyện, rút cục là chuyện gì! Chàng một tay túm lấy binh sĩ vừa báo tin, quát to: “Kẻ nào to gan như thế?”.

Binh sĩ bị chàng túm áo, nghẹt thở, nhưng vẫn thận trọng nói: “Hình như là tứ hoàng tử ra tay, hành động vô cùng chuẩn xác táo bạo!”.

“Dựa vào đâu nói là tứ hoàng tử?”.

“Thuộc hạ xem kỹ mấy thị vệ bị trúng kiếm, có một người vết kiếm trên cổ rất khác thường, giống như vết kiếm của bộ kiếm pháp Tuyết Sơn Phiêu Ngọc, thuộc hạ của tứ hoàng tử có chừng mười người chuyên luyện kiếm pháp này!”.

Lưu Giác buông tay, nghiến răng vọt ra một câu: “Lưu Phi, nỗi nhục này, ta quyết không đội trời chung. Cổng thành bốn phía đã đóng, bọn họ không thể ra khỏi thành, hãy lục soát từng nhà cho ta, dù phải đào tung ba thước đất cũng tìm bằng được người về đây!”.

An Thanh vương vừa nghe, lòng nở hoa nhưng ông vẫn đổ thêm dầu vào lửa: “Nghe nói, tiểu tử Lưu Phi đã từ Biên thành trở về, rắp tâm tranh giành đế vị”.

“Hừ, con sẽ vào cung gặp thái tử, Lưu Phi kia muốn có vương vị còn phải hỏi cha con ta có đồng ý không!”.

Lưu Giác đi rồi, một binh sĩ Ô y kỵ trở về phủ khẽ bẩm báo: “Đám tướng sĩ theo phe cánh họ Vương ở cổng nam thành đã xử lý xong”.

An Thanh vương gật đầu, miệng hé cười: “Điều binh chiếm hai cổng thành khác, kẻ nào chống cự, chém!”. A La xuống ngựa, người áo đen quỳ mọp xuống: “Chúa mẫu bảo trọng!”.

A La dở khóc dở cười: “Đừng gọi bừa, nghe ghê chết”.

Ánh mắt người áo đen lộ vẻ kính trọng: “Quý tiểu thư là phận nữ nhi cũng dám vì chúa thượng mạo hiểm như vậy, Ô y kỵ cảm kích rơi lệ! Từ nay Ô y kỵ chúng tôi trên dưới đều do chúa mẫu sai bảo! Lão vương gia đã dặn, có thể sẽ phải phiền chúa mẫu chịu tủi một phen!”.

A La nhếch môi, lẩm bẩm: Chuyển lời ta đến con cáo đó, sau này ta sẽ tìm ông ta tính sổ! Nếu ta bị thiếu một sợi tóc, ta sẽ nhổ trụi từng sợi râu ông ta!

A La ngẩng đầu nhìn, đẩy cửa đi vào Tố tâm trai. Đây là sản nghiệp của Tử Ly, người ở đây chắc biết miếng ngọc bội chàng đưa cho nàng. Người ở Đông cung sau khi biết tin Lưu Giác giết người thị uy ở cổng nam thành thì bồn chồn không yên, Vương hoàng hậu nói: “Bình Nam vương này ra tay cũng quá táo tợn tàn nhẫn, lại dám giết người của ta, trấn giữ cổng nam thành, liệu có đúng chỉ vì Ly Thân vương cướp người đàn bà của hắn? Hắn ta hoàn toàn không coi chúng ta ra gì!”.

“Theo tin tình báo, Ly Thân vương đang trên đường trở về Phong thành. Mặc dù chỉ đem theo hai vạn binh mã, số còn lại chia ra trấn thủ các thành trì, nhưng Hữu quân đâu phải khúc xương dễ gặm?”. Một mưu thần nói.

Thái tử sẵng giọng: “Hắn định lấy danh nghĩa gì khởi binh? Ta ít nhất cũng là thái tử danh chính ngôn thuận! Đừng quên vương phi của hắn vẫn ở Phong thành!”.

“Điện hạ bớt giận, tứ hoàng tử có lẽ đã tiên liệu điện hạ sẽ không dám động đến Cố gia. Hiện chỉ còn một tháng là đến ngày mười tám tháng ba, vả lại Cố tướng là nguyên lão hai triều, môn sinh vô số, chỉ e Cố Thiên Tường trong lúc phẫn nộ có thể bỏ mặc cho quân Trần tiến vào, Ninh quốc sẽ nguy hiểm!”. Vương Yến Hồi lạnh lùng phân tích tình hình,”Thiếp nghĩ Ly Thân vương không dám khởi binh, tài giỏi mấy hắn cũng không phải là thái tử, nếu dấy binh thì sẽ danh không chính ngôn không thuận. Hắn đem theo hai vạn binh mã, nhưng nhiều nhất chỉ có thể vào thành năm ngàn, chỉ cần không mang thêm binh mã vào thành, khi vào triều phục chịu tang ai dám nói gì hắn. Cho dù biết hắn có ý tạo phản, nhưng khi hắn chưa động binh cũng chỉ có thể theo dõi, phòng bị. Mà Xích long lệnh trong tay cha con An Thanh vương, chúng ta không cho ông ta tiếp quản, ông ta giết người lập uy, cướp quyền trấn thủ cổng nam thành, chúng ta cũng không thể nói gì. Bất luận thế nào, quan trọng nhất bây giờ là tìm được Lý Thanh La về đây! Nàng ta rất quan trọng đối với cả hai người đó! Có nàng ta trong tay, chúng ta đã có một con tin đáng giá”.

“Bẩm nương nương, điện hạ, Bình Nam vương cầu kiến!”. Cung nhân khẽ bẩm báo.

Vương hoàng hậu nói: “Truyền cho vào!”.

Lưu Giác sải những bước lớn vào điện, cúi chào hoàng hậu và thái tử. Người chàng còn lấm bụi đường, thoáng nhìn đã biết từ xa vừa về.

“Bình Nam vương yên ngựa vất vả. Nghe nói An Thanh vương cũng bệnh mệt, mấy ngày vào triều phải ngồi kiệu đến tận nơi. Ái khanh vội vã như vậy là vì chuyện gì?”. Hoàng hậu từ từ mở miệng.

“Thần xin được ban chỉ cho thần giao chiến với Ly Thân vương để rửa nỗi nhục bị cướp thê tử!”. Giọng Lưu Giác căm phẫn.

Vương hoàng hậu và thái tử nhìn nhau. Thái tử nói: “Vừa nghe báo tam tiểu thư bị bọn áo đen nào đó bắt đi, chuyện này...”.

“Ô y kỵ của vương phủ nhận ra, đó là thủ pháp của thuộc hạ dưới trướng Ly Thân vương! Thần biết vương thượng vừa băng hà, không tiện manh động, nhưng thần quả không nuốt được mối hận này, đã lệnh cho lục soát khắp thành! Thần biết Ly Thân vương từ Biên thành trở về phục tang, nhưng thần muốn giao chiến cùng y với tư cách cá nhân, mong nương nương và thái tử cho thần được toại nguyện!”. Sắc mặt Lưu Giác rắn đanh, xám xịt, phẫn nộ của chàng lên đến tột cùng.

“Bình Nam vương bớt giận, đợi tìm được tam tiểu thư chúng ta mới dễ bề định luận. Nếu không phải do tứ hoàng đệ làm, chẳng phải oan cho tứ hoàng đệ hay sao?”. Thái tử nói.

“Thần xin chỉ lệnh tiếp quản ba cổng thành, chỉ cần người còn trong thành, thần ắt sẽ tìm ra!”.

Hoàng hậu nghĩ bụng, ngươi đã tiếp quản cổng nam thành, còn xin lệnh gì nữa? Nhưng miệng lại nói: “Bình Nam vương nguôi giận, ai gia chuẩn tấu!”.

Lưu Giác vừa đi khỏi, hoàng hậu lại tiếp: “Không chuẩn y cũng không được, Bình Nam vương đã tiếp quản cổng nam thành, nhưng chuẩn y rồi, nếu y không đứng về phía chúng ta, chúng ta sẽ không thể khống chế Phong thành!”.

“Hoàng hậu chớ sốt ruột, đại quân Đông lộ của đại ca này đã lập trại ở cách phía đông thành mười dặm, lúc nào cũng có thể vào thành. Ta thấy cầu giữa An Thanh vương, Bình Nam vương và tứ hoàng tử đã lộ hình”. Vương thái úy cười.

“Nhưng cha à, không tìm thấy Lý Thanh La, lòng con trước sau vẫn không yên!”. Vương Yến Hồi nói,”Thực ra Bình Nam vương và tứ hoàng tử đánh nhau cũng không phải là chuyện không hay, cứ để họ đấu với nhau. Nếu không con sao có thể yên tâm!”. Lời vừa nói ra, Vương Yến Hồi cũng có phần kinh ngạc, tại sao bây giờ mình cứ quẩn quanh không quên Lý Thanh La? Lẽ nào... nàng ta cắn môi, trong mắt lộ vẻ quyết liệt. Bố trí quân cơ xong, Tử Ly đưa hai vạn binh mã phi gấp về Phong thành. Bây giờ đang đêm, đội quân dựng trại nghỉ trên thảo nguyên. Chàng rời doanh trướng, buông tay đứng giữa trời, ngẩng đầu nhìn vòm đêm đầy sao, miệng bất giác mỉm cười. Cái đêm chàng lặng lẽ lọt vào tướng phủ, đón A La đến thảo nguyên dựng trại bầu trời cũng mê ly như thế này, cũng có gió mang chút hơi lạnh. Thảo nguyên này lưu giữ bao tiếng cười nói vui tươi của họ.

Ba năm rồi, A La có khỏe không? Dạo đó khi nàng tháo hôn, lòng chàng trào lên niềm vui không thể nào che giấu, chỉ cần nàng không bị Lưu Giác tìm thấy, chỉ cần có thể tìm ra A La trước đưa về bên chàng che chở cho nàng. Nhưng cuối cùng A La vẫn bị Lưu Giác đưa về Phong thành. A La, nàng sẽ lấy anh ta sao? Ngực Tử Ly lòng đau nhói từng cơn, nỗi hận lại len lỏi từ đáy lòng. Ánh mắt chàng nhìn sâu vào thảo nguyên, cỏ cao mơn mởn đen thẫm trải ra vô tận. Giống như những đêm gặp ác mộng, một mình chàng đi trong đêm không ánh đèn, chỉ có thể kiên trì đi tiếp, mà không biết bao giờ mới có thể đi qua con đường thăm thẳm mịt mùng không ánh sáng.

Ám Dạ đã đến được một lát, Ly Thân vương mình vận áo tang trắng đứng trong gió lạnh, dáng phiêu diêu u buồn, hào quang vương giả tỏa ra từ người chàng, khiến Ám Dạ có cảm giác con người này là chúa tể của thảo nguyên. Mỗi lần Ám Dạ xuất hiện đều rất khéo, đúng lúc tứ điện hạ tâm thần phiêu diêu, không nhận ra. Mắt Ám Dạ lóe cười, khẽ thốt lên: “Đêm trăng mê ly thế này, điện hạ vì ai mà một mình đứng giữa bao la gió lạnh?”.

Tử Ly giật mình, lần này Ám Dạ xuất hiện, chàng cơ hồ không hề hay biết. Nụ cười ôn dịu trên miệng nhạt dần: “Lần nào ngươi đến dường như cũng đều chọn đúng lúc?”.

Ám Dạ chắp tay: “Lão vương gia ủy thác Ám Dạ chuyển lời, xin điện hạ nhất thiết phải giao chiến với thiếu chủ một trận, nguyên nhân vì nghe đâu tam tiểu thư tướng phủ tuyên bố không lấy được tứ điện hạ cả đời sẽ không lấy ai. Lão vương gia nói, tứ điện hạ ba năm không về Phong thành thăm vương phi, trong lòng tất đã có nơi chốn, nam nhi mà, đánh nhau vì người trong lòng có gì lạ. Đây cũng là trò hay mà hoàng hậu và thái tử muốn xem”.

Tử Ly quay phắt đầu lại, ánh mắt giễu cợt: “Bình Nam vương chịu để A La rơi vào nguy hiểm? Anh ta đối với nàng ấy cũng chỉ có thế hay sao! Giao chiến ư? Hừ, bản vương không thích!”.

Ám Dạ khâm phục lão vương gia từ tận đáy lòng, mũi tên này, không biết xuyên trúng bao nhiêu con chim. Đôi mắt lộ ra ngoài khăn bịt mặt chớp chớp: “Thiếu chủ không biết nội tình, xin điện hạ ra tay có chừng mực! Ám Dạ cáo từ!”.

Tử Ly ngẩn người, không nén nổi, bật cười ha hả: “Lưu Giác, lần này ngươi thảm rồi, bản vương thông tỏ nội tình, còn ngươi bị giấu kín như bưng!”. Ý nghĩ đột nhiên chuyển hướng, A La, nàng có biết nội tình hay không, A La, lòng nàng có ta thật không? Ý nghĩ vừa đến, lòng đã rộn lên bao xao xuyến, tiếc là không thể lập tức phóng ngựa trở về gặp mặt A La.

.

Chương 24

.

Toàn Phong thành bị giới nghiêm, từng tốp lớn binh sĩ lùng sục từng đường phố, con ngõ, phạm vi hẹp dần như thu lưới bắt cá, chưởng quầy của Tố tâm trai lòng như lửa đốt. Từ khi A La bước vào, chìa ra miếng ngọc bội của Tử Ly, ông đã hiểu tầm quan trọng của người này đối với chúa công. Nhưng bây giờ bốn cổng thành đã bị bịt chặt, quan binh nhan nhản, tuần tiễu khắp thành, làm sao bình an đưa tiểu thư ra khỏi Phong thành? Chúa công không nhận được tin, tất muôn phần lo lắng, kế hiện nay có thể làm là giấu thật kỹ.

A La nhắm mắt nghĩ, xem ra chỉ cần là cửa hiệu của Tử Ly, miếng ngọc bội này chính là tấm thẻ hội viên kim cương, ăn uống miễn phí, hầu hạ chu đáo. Duy có điều nàng không hài lòng là mấy hôm nay ăn thanh đạm chán rồi, bắt đầu hối hận ngày xưa mở nhà hàng chủ yếu phục vụ các món thanh đạm này! Nàng muốn ăn nhiều thịt cá! Lưu Giác sao vẫn chưa tìm đến chỗ này, đúng là đầu lợn! Nàng cười khúc khích, nghĩ đến vẻ mặt xanh xám vì tức giận của chàng, nàng dùng đũa chấm nước chè vẽ một cái mặt lợn trên bàn, lẩm bẩm: “Thiếp chưa bao giờ tham dự lớp diễn kịch, chàng không được làm thiếp bật cười, thiếp sợ đau, sợ chết, chàng không được đánh thiếp”. Nàng than thở, chống cằm nhìn ra ngoài, còn phải đợi bao lâu mới qua cơn sóng gió xung quanh vương quyền này?

Tiếng bước chân nện gấp trên cầu thang, chưởng quầy cuống quýt bước vào: “Tam tiểu thư, quan binh đến rồi, mau theo tôi!”.

A La mình vận đồ nam nhi, lập tức đi theo ông ta xuống lầu, vào kho chứa củi ở hậu viên. Chưởng quầy dịch chuyển một đống củi, lộ ra một gian gác xép nhỏ, A La né người đi vào, gian gác xép rất tối, chỉ có chút ánh sáng lờ mờ hắt qua một viên ngói trong trên mái. A La nằm lên giường, dỏng tai nghe ngóng động tĩnh bên ngoài.

Không lâu sau Tố tâm trai đã chật ních quan binh, chưởng quầy cười nịnh: “Quan gia, tiểu quán xưa nay luôn tuân thủ phép công”. Vừa nói vừa nhét vào tay viên đội một thỏi vàng .

Người này vội nhét vàng vào tay áo, tay vẫn vẫy ra lệnh: “Lục soát thật kỹ, không được bỏ qua bất kỳ xó xỉnh nào!”.

Chưởng quầy cười nịnh tưởng là bọn họ chỉ tìm kiếm qua loa rồi rút đi, không ngờ thấy binh lính lục soát rất kỹ, lòng bắt đầu lo lắng. Hai tay buông xuôi, một lưỡi đoản kiếm từ trong ống tay đã trượt xuống, nằm gọn trong tay.

Một lát sau thấy lính bẩm báo với viên đội không tìm thấy người. Chưởng quầy thở phào, mặt hớn hở tiễn khách ra cửa, đang định cài then, thì thấy bên ngoài một toán kỵ binh chạy đến.

Lưu Giác nghe quan binh báo cáo, ngẩng đầu nhìn biển hiệu Tố tâm trai, suy nghĩ giây lát, rồi xuống ngựa đi vào trong quán: “Mang những món đặc sắc nhất của các ngươi lên đây, ta muốn ngồi đây nghỉ một lát”.

Chưởng quầy sững người, sắc mặt vẫn tươi cười: “Vương gia, mấy ngày nay nhà bếp chúng tôi nghỉ, ngài xem quán chúng tôi đóng cửa...”.

Lưu Giác cười nhạt: “Ông xuống nhà bếp xem còn gì nấu được thì nấu, có rượu là được!”. Nói xong đi thẳng vào trong quán.

Chưởng quầy vâng dạ liên hồi, quay người đi vào nhà bếp. Bụng thầm kêu khổ, vương gia này sao sớm không đến, muộn không đến lại đến đúng lúc này.

Lưu Giác quan sát Tố tâm trai, hình dung cảnh A La từng đến đây dạy Tử Ly nấu ăn, khẽ rên một tiếng, đầu chợt nảy ý nghĩ, qua khóe mắt liếc thấy bóng chưởng quầy. Chàng trầm tư, sau một cái liếc mắt binh sĩ Huyền tổ Ô y kỵ đã chia nhau tiến vào trong quán, không lâu sau, một binh sĩ xuống lầu, nói nhỏ điều gì vào tai Lưu Giác.

Lưu Giác cười khẩy đi lên lầu, đạp tung cửa phòng, đến bên chiếc bàn, trên bàn vẫn còn bộ ấm chén vừa uống trà, trên mặt bàn vẫn lờ mờ nhìn thấy chiếc mặt lợn được vẽ bằng nước trà còn chưa khô. Chàng vừa xuống lầu ngồi, chưởng quầy đã bê rượu và đồ ăn bày lên, cười xun xoe: “Tay nghề mọn không bằng đại sư phụ, vương gia không chê, xin mời dùng tạm”.

“Toàn thành giới nghiêm, các ngươi cũng khó làm ăn đấy nhỉ!”. Lưu Giác buột miệng hỏi.

“Đa tạ vương gia quan tâm, bản quán đâu dám mở cửa, vương thượng vừa băng hà, Phong thành không được náo nhiệt ồn ào, nhà bếp mới tạm nghỉ”. Chưởng quầy e dè trả lời.

“Mấy ngày nay không có khách hàng nào ư?”

“Phải, quan binh đi lại tứ phía, ai còn dám ra khỏi cửa. Chắc là phải qua ngày mười tám tháng ba, tân vương đăng cơ, Phong thành mới náo nhiệt trở lại”.

Lưu Giác “ờ” một tiếng, mắt lóe sáng: “Vậy người uống trà trong kia là ai?”.

Chưởng quầy trấn tĩnh: “Tiểu nhân trông nhà cảm thấy vô vị pha trà uống chơi”.

Một tay Lưu Giác đột nhiên vung lên, chưởng quầy theo phản xạ né tránh, lòng biết đã bại lộ, tay vừa động đậy, một lưỡi đoản kiếm đã đâm về phía Lưu Giác, người vọt ra ngoài, nhưng trong chớp mắt một đám đen sì lố nhố trước mặt, Ô y kỵ đã vây chặt ông ta, chưởng quầy cười khẩy: “Bình Nam vương nhãn lực như thần, tiểu nhân khâm phục, nói thực, tiểu nhân đã đưa người đi rồi”. Nói xong xuất chiêu, tung hoành chiến đấu với đám người vây quanh.

Một binh sĩ khẽ cười, trường kiếm lóe lên, nháy mắt đã công phá thế phòng thủ của chưởng quầy, một mũi kiếm đâm trúng đùi ông ta. Chưởng quầy nghiến răng, nhưng vẫn gắng sức đấu lại, máu trào ra như suối, hai mắt bắt đầu đỏ ngầu. Cuối cùng trước khi cạn sức gục xuống, ông ta ngửa cổ cười ngất: “Chúa công, quyết không chết nhục!”. Nói đoạn cắt đứt mạch máu mà chết.

Mọi người kinh hoàng, thủ hạ của Ly Thân vương can trường dũng mãnh, khinh thường sống chết, có thể thấy chủ nhân quản giáo thuộc hạ nghiêm thế nào.

Nghe tiếng đấu đá bên trong, quan binh chạy vào. Lưu Giác liếc nhìn viên đội vừa bẩm báo tình hình ở đây không có gì khác, lạnh lùng ra lệnh: “Dỡ nhà, lục soát!”.

Lát sau quan binh tràn vào hậu viên, A La nghe thấy bên ngoài có tiếng dỡ củi, bụng nghĩ, cuối cùng chàng đã đến. Nàng chỉnh lại xiêm y, vận động chân tay, nấp sau cửa chờ đợi.

Đột nhiên bên ngoài có tiếng nói: “Ở đây có cái cửa bí mật!”.

A La nhắm mắt, mở cửa, xông ra, chân tay xuất chiêu không nể tình, nháy mắt đã đánh gục mấy quan binh. Nàng chạy khỏi kho củi, ngẩng đầu nhìn thấy Lưu Giác. Đồng tử trong mắt chàng lay động không biết là thần sắc gì, miệng hé nụ cười châm biếm: “Nàng tưởng chạy thoát được sao?”.

“Ta chạy hay không can hệ gì đến chàng? Ta đâu có vi phạm vương pháp, chẳng qua muốn đến đây ăn chút đồ mà thôi”. Nhìn thấy chàng, tim nàng bỗng đập rất nhanh, nhưng mặt vẫn tỏ vẻ bất cần.

Những đường gân xanh hằn lên hai bên trán của Lưu Giác, nụ cười thê lương trên môi: “Ha ha, không can hệ đến ta ư? Vương phi của ta!”.

“Ta vẫn chưa lấy chàng, bây giờ ta đổi ý rồi, không thấy ai mặt dày như chàng. Hừ!”. A La lòng đau ngấm ngầm, thầm kêu khổ, lão vương gia cáo già, lẽ ra ông phải hiểu tính khí con trai, giày vò chàng ấy thế này, ta là người chịu tội lớn nhất.

Nàng bị người của Lưu Giác mang đi, lòng nàng thật sự rất nhớ chàng. Nỗi đau như những lưỡi câu móc vào tim chàng, đau đến không bước nổi. Lưu Giác phẫn nộ, ngửa mặt cười: “Nàng tưởng nàng là ai? Nàng tưởng có thể tùy tiện chà đạp lên sự tôn nghiêm của vương phủ ta như vậy, nói không lấy là không lấy? Lại còn định tư thông với người khác bỏ trốn, đừng mơ!”.

A La ngang nhiên đứng đó: “Đánh chết ta cũng không về cùng chàng! Có bản lĩnh chàng ra tay đi, không cần khinh công, không cần điểm huyệt?”. Nàng thủ thế, ngang nhiên thách thức Lưu Giác.

Lưu Giác tức khí hét lên: “Lui hết cho ta!” Chàng vừa xoay người, không dùng khinh công đấu với nàng. A La người nhẹ như chim yến, né tránh như tia chớp mọi phản kích của chàng, hai người đấu khoảng chục chiêu, sức nàng yếu dần, lưng đau nhức, bị chàng trở tay đánh ngã trên nền.

A La rủa thầm, sao ra tay mạnh thế, nàng bị đánh đến suýt tắc thở. Nàng thở hổn hển gắng gượng đứng dậy. Lưu Giác nhìn nàng, dáng ương ngạnh, tóc mai xõa bên tai, nhưng không hề bơ phờ khó coi. Mối thâm tình chất chứa bao năm dồn cho nàng, bỗng chốc như hoa tuyết bay xuống sông, hòa vào nước tan biến không vết tích. Uổng công chàng bảo vệ nâng niu như ngọc trên tay. Vậy mà nàng trả ơn như thế! Tim nàng làm bằng thép hay sao? Không! Còn cứng hơn thép, lạnh hơn băng, trong huyết quản nàng ta chỉ có dòng máu vô tình và phản bội! Hận thù sục sôi trong lòng chàng, mặt đen sạm như ngạ quỷ, mối thâm hận trong ánh mắt khốc liệt không thể hóa giải.

A La run rẩy trước uy thế đáng sợ của chàng, lòng thắt lại, ngoảnh mặt, không dám nhìn chàng. Bên tai bỗng có tiếng gió rít, tay nàng đã bị Lưu Giác xiết giữ, chàng trói rất chặt. A La nghiến răng không kêu, thầm tức giận, nhất định có ngày chàng cầu xin ta cũng không tha thứ!

Lưu Giác một tay cắp nàng ra khỏi Tố tâm trai, vừa lên ngựa, phía trước đã thấy một đội thị vệ chạy đến, đi đầu là Chung Hữu Sơn thống lĩnh của đội thị vệ trong cung. Y thấy Lưu Giác liền mỉm cười: “Thái tử nghe nói vương gia đã tìm thấy tam tiểu thư tướng phủ, xin mời vương gia đưa tam tiểu thư vào cung”.

A La dựa vào lòng Lưu Giác, nghe người khác nói muốn chàng đưa nàng vào cung, vội hé mắt nhìn chàng. Khuôn mặt chàng vẫn trầm ngâm, chắc vẫn đang giận. Nàng lại thầm thở dài, bụng nghĩ, lần này vào cung e lành ít dữ nhiều.Tử Ly sao vẫn chưa đến, nếu trò này còn diễn tiếp, mình không chết cũng mất nửa mạng.

“Thông báo cho Lý tướng, nói tam tiểu thư bị bắt cóc trúng thương, bản vương đưa về vương phủ chữa trị”. Lưu Giác không thèm để ý lời của thị vệ trong cung, sai một binh sĩ Ô y kỵ đi đến Lý phủ.

“Ngươi là Chung Hữu Sơn phải không?”. Lưu Giác lúc này mới thong thả nói với Chung Hữu Sơn.

“Chính là tiểu nhân, Bình Nam vương trí nhớ như thần”. Chung Hữu Sơn tươi cười, chắp tay hành lễ.

“Tặc tử bắt tam tiểu thư đã tự vẫn, tam tiểu thư bị thương, rất hoảng sợ, ngươi về bẩm báo thái tử điện hạ, bản vương đưa về phủ xem xét vết thương, đợi chữa trị xong sẽ vào cung tạ ơn”.

“Chuyện, chuyện này...”. Chung Hữu Sơn vô cùng bối rối. Tam tiểu thư tướng phủ lúc này bị Lưu Giác dùng chiến bào trùm kín, co ro trong lòng chàng không động đậy, không nhìn ra bị thương ở đâu, y quay về phải bẩm báo thế nào?

Lưu Giác bỏ mặc y, giật nhẹ dây cương, đi đến dừng bên cạnh y: “Bản vương đưa vương phi tương lai về phủ trị thương, thế nào Chung thống lĩnh muốn làm thay bản vương sao?”.

Chung Hữu Sơn sợ run cầm cập: “Vương gia đi từ từ, tiểu nhân sẽ quay về bẩm báo”.

Lưu Giác “hừ” một tiếng, nói tiếp: “Nghe nói đây là sản nghiệp của Ly Thân vương, không biết bọn tặc tử trà trộn vào từ lúc nào, cảm phiền Chung thị vệ niêm phong cẩn thận”. Nói đoạn, vòng qua Chung Hữu Sơn, đi về vương phủ.

Trên đường đi, lòng chàng vừa chua xót vừa thống hận, sao mình vẫn bảo vệ nàng ta? Chàng biết sau khi A La vào cung, chỉ cần vẫn dám quan hệ với Ly Thân vương, thì đừng nghĩ chuyện rời cung nửa bước, chỉ có thể ngồi đợi làm vật tế khi Lưu Phi tranh vương vị. Tử Ly đối với A La thế nào chàng không phải không biết, một khi để người của Đông cung biết tình cảm của anh ta đối với A La, cái mạng nhỏ của nàng hẳn là khó giữ. Lưu Giác thầm hạ quyết tâm, dù thế nào cũng sẽ không để A La hy sinh tính mạng. Nhưng sao nàng không hiểu mà lại cứ nói rằng người trong lòng nàng chỉ có Tử Ly? Nàng nói nàng hối hận, lại còn đánh nhau với chàng, nói rằng đánh chết cũng không theo chàng. Hỏa khí trong lòng Lưu Giác lại bùng lên, chàng thúc ngựa chạy nhanh, phi thẳng vào Tùng phong đường.

Chàng ôm A La đi vào tẩm thất, nói với Thanh Ảnh: “Lệnh cho Thanh tổ cảnh giới nghiêm mười hai canh giờ, bất cứ kẻ nào chưa xin phép dám vào Tùng phong đường, giết!”.

Thanh Ảnh là tổ trưởng Thanh tổ sau khi Lưu Anh ra đi, nghe vậy có phần do dự: “Thế còn, lão vương gia...”.

“Cũng ngăn lại, ngăn không được, cứ để ông già bước qua xác ngươi mà vào!”. Lưu Giác nghĩ, nếu để ông già xông vào, không chừng sẽ giết chết A La, vẫn nên đề phòng một chút, rồi lại ra lệnh: “Huyền Y, ngươi đi dò xem tại sao Đông cung biết tin nhanh như vậy?”.

“Thuộc hạ tuân mệnh!”. Thanh Ảnh và Huyền Y đồng thanh trả lời.

Lưu Giác ôm A La đi vào nội thất, ném nàng lên giường, A La bị ngã, đầu nhức mắt hoa, lúc lâu sau mới định thần, hét to: “Cởi trói ra, đau quá!”.

“Đau? Như thế này là đau? Nàng có biết đau là gì không? Hả?”. Lưu Giác nâng cằm nàng lên, ánh mắt dữ dằn: “Nàng có biết lòng ta đau thế nào không?”.

A La bất giác co người lùi về sau, Lưu Giác tóm chặt cằm nàng không cho nàng nhúc nhích: “Ồ, ta quên mất, ba năm trước lẽ ra ta phải hiểu, nàng là kẻ không tim, nàng trước sau bất nhất, chưa bao giờ cho ta một câu trả lời khẳng định, ngay một câu nói dối thích ta nàng cũng không nói! Bây giờ ta mới hiểu, nàng nhớ Tử Ly đúng không? Chàng ta với nàng quả thật tình sâu nghĩa nặng biết mấy, đêm tân hôn còn bỏ mặc tân nương chạy đến phủ tìm nàng! Chàng ta cần ngôi báu, chàng ta không thể làm khác, nàng thương chàng ta nên đã chấp nhận để chàng ta toại nguyện đúng không? Nhưng nàng lại không thể quên được chàng ta đúng không? Thì ra trong lòng nàng đúng là có chàng ta!”.

Giọng Lưu Giác cao dần, nỗi đau đớn trong lòng nặng dần, trong mắt nổi lên một làn máu màu đỏ, phẫn nộ khôn cùng: “Sao ta lại quên, quên là trong đêm nàng lén trốn khỏi tướng phủ chạy đến thảo nguyên ngắm sao với chàng ta, thản nhiên ngủ trong lòng chàng ta! Sao ta có thể quên cảnh hòa tấu sáo tiêu, hai lòng đồng điệu! Thậm chí sau khi chạy trốn nàng cũng không đến Biên thành, nàng sợ liên lụy đến chàng ta phải không? Nàng sợ làm hỏng đại mưu đại kế của chàng ta đúng không?”.

A La kinh ngạc, lắc đầu thật mạnh: “Không phải như thế!”. Trong mắt trào ra hàng lệ, như đá quý ngâm trong nước, lóng lánh lung linh.

“Vậy là thế nào?”. Lưu Giác thét lên.

Nếu chàng tin thiếp, sao lại trách, hỏi thiếp như vậy? Nếu như không vì giúp chàng hoàn thành trách nhiệm, không vì đại kế của chàng, sao thiếp phải khổ thế này? Sự tủi thân vô hạn, hai hàng nước mắt ứa ra, nhưng nàng không nói được.

“Uổng cho ta ba năm ngày đêm thương nhớ, uổng cho ta lo lắng ưu phiền, nàng báo đáp ta như thế sao? Hóa ra sự dịu dàng của nàng ở Lâm Nam, tỉ mẩn chế ra mảnh ngọc băng tặng ta chỉ là đối phó phải không?”. Lưu Giác càng nói càng giận, mắt trừng trừng nhìn A La nước mắt như mưa, không nói nên lời. Nàng còn khóc vì Tử Ly? Chàng gào to, tay vung lên.

A La chỉ cảm thấy một luồng gió mạnh ghê gớm tạt vào mặt, vội vàng nhắm mắt thầm nghĩ, chàng cứ đánh chết thiếp đi. Ai ngờ bàn tay chệch hướng đấm nát mấy thứ trên giường! Nàng vùng vẫy tức giận, mở mắt: “Cởi trói ra, ta sẽ nói rõ với chàng, cứ trói thế này ta sẽ tàn phế mất!”.

“Tàn phế thì tốt! Ta đã hối hận không chặt chân nàng, để nàng không đi đâu được nữa!”. Lưu Giác đã tức tới mức không thể kìm chế, A La chớp mắt, thôi mặc chàng ta, dù gì cũng đã về được phủ An Thanh vương, lão vương gia cáo già khắc có cách giải vây cho mình.

Nàng không biết thái độ đó càng khiến Lưu Giác nổi đóa. Ý nghĩ vừa lóe lên, chàng vung tay cởi trói cho nàng. A La xoa xoa hai cổ tay, có một vết bầm lớn trên đó. Nàng tức giận nghĩ, nếu không phải chàng làm ta cảm động, ta đã không thèm giúp chàng, lại còn phải chịu tội này nữa? Tính chàng như thế chẳng trách ông già giấu chàng. Nàng đang nghĩ, bỗng thấy người nhẹ bỗng, Lưu Giác đã ôm nàng đi vào phía hậu đường: “Chàng làm gì vậy? Bỏ ta ra!”.

Lưu Giác không động lòng, vòng qua bức bình phong, phía sau lớp lớp những bức trướng rủ, bên trong hơi nước mờ mịt, Lưu Giác ném nàng xuống bể, A La hét lên rồi chìm nghỉm trong nước. Khi ngoi đầu kên, đã thấy Lưu Giác mặt lanh tanh đang cởi y phục, nàng sợ hãi kêu thất thanh: “Chàng chớ làm bừa, Lưu Giác! Đừng làm ta hận chàng!”.

“Hận à? Tùy thôi, ta quá nuông chiều nên mới khiến nàng sớm nắng chiều mưa!”. Lưu Giác thong thả cởi áo choàng, rồi cởi áo trong.

A La bơi thục mạng sang đầu bể bên kia, xiêm áo ướt đẫm quấn chặt lấy người, vô cùng khó chịu. Tháng hai trời còn lạnh, chiếc áo hai lớp ngấm nước vừa ướt vừa nặng trĩu. Nàng đảo mắt nhìn quanh, cả gian phòng thênh thanh chỉ có mỗi cái cửa Lưu Giác vừa ôm nàng đi vào, “Lưu Giác, chàng cứ hỏi...”. Lời chưa nói hết, Lưu Giác đã áp đến, A La quẫy đạp dữ dội, chân đá ra, tay chém. Lưu Giác né người tránh, tay vươn ra vừa tóm lấy vạt áo nàng, ra sức kéo lại. A La tõm một tiếng lặn xuống nước.

Vuốt nước trên mặt, vồng ngực rắn chắc của Lưu Giác đã ở ngay trước mắt. A La ngẩng đầu nhìn, ánh mắt chàng lóe lên cái nhìn nguy hiểm, nước ròng ròng từ mặt chảy xuống, ngũ quan rõ nét như tạc, đẹp ngời ngời. A La thoáng đỏ mặt, bực mình lắc đầu, bụng nghĩ, đây là lúc nào, sao mình còn tâm tư ngắm nhìn chàng ta như một kẻ si tình. Lưu Giác giơ tay kéo nàng lại gần, A La hai tay chắn đỡ ngực chàng, nghiêng đầu, trấn tĩnh nói: “Không phải bây giờ, bây giờ không nên, chàng cứ thế này làm sao ta nói rõ được”.

Lưu Giác “hừ” một tiếng, nắm tay nàng kéo giật về sau, vừa vận công nhấc nàng lên khỏi mặt nước, A La cố vùng vẫy. Chàng bất chợt cúi đầu ép miệng vào môi nàng, nước tràn lên, A La cuống quýt há miệng thở, môi chàng đã vít chặt miệng nàng, đắc ý nhìn nàng tham lam cố hít, nhưng đành bất lực để cho chàng truyền cho chút không khí để thở.

Đầu nàng nặng dần, tứ chi cũng mất dần sức lực, Lưu Giác nhìn khuôn mặt kiều diễm đỏ hồng mê ly kề sát, không thể buông ra. Cảm giác ép vào nhau thực tuyệt vời, khiến chàng không thể buông tay, ham muốn bùng lên mãnh liệt, “soạt” một tiếng, tay chàng đã xé toạc áo ngoài của nàng. Tiếng xé áo đập thẳng vào tai, A La bừng tỉnh, ánh mắt cầu khẩn, đẫm nước nhìn chàng.

Lưu Giác sững người, nhấc nàng lên, chàng buông tay, tỳ người vào bờ thở gấp: “A La, tại sao? Tại sao?”.

A La kiệt sức do bị hôn đến nghẹt thở, dựa vào chàng khẽ nói: “Không phải như vậy”.

Hai mắt Lưu Giác vằn đỏ, đột nhiên đập tay lên mặt nước, nước vọt bắn tung tóe. Chàng thở dài nhảy lên bờ, không kịp khoác áo, lao ra ngoài.

A La cuối cùng đã thở phào, ngã nhào xuống làn nước ấm áp. Cuối cùng Lưu Giác không làm tổn thương nàng. Nàng thở dài, cởi áo ngoài, tắm một trận thoải mái.

Lưu Giác cầm kiếm xông khỏi Tùng phong đường, lao vào rừng vung gươm múa. Ánh kiếm loang loáng, hoa bay tơi tả theo từng nhát kiếm, An Thanh vương hoa mắt đứng nhìn, thở dài từng cơn.

Cảm xúc trong lòng Lưu Giác không thể nào tả xiết, chàng hận bản thân, hận mình cho dù sự thể đã đến nước này chàng vẫn không thể nào ra tay. Chàng muốn tác thành cho nàng hay sao? Nhưng ý nghĩ vừa nảy sinh đã khiến chàng đau như xé tâm can, yêu nàng là phải chịu giày vò như thế này ư? Chàng vận đủ nội lực ném thanh gươm về phía An Thanh vương, hét lên một tiếng bi phẫn, như con sói mùa đông trúng thương, cô đơn không nơi bấu víu.

An Thanh vương giật nảy mình né tránh, lưỡi gươm “phập” một tiếng cắm sâu vào thân cây bên cạnh, rung bần bật. Ông vừa nhảy dựng vừa mắng: “Nghịch tử, định mưu sát cha đẻ hay sao?”. Chân vội di chuyển về phía rừng cây. Mới được hai bước, Thanh Ảnh nhảy ra: “Vương gia, chúa thượng có lệnh...”.

“Lệnh con khỉ, ta giẫm lên ngươi hay là ngươi nằm im giả chết! Tiểu tử kia chẳng phải lo sợ lão phu giết người của nó hay sao!”. An Thanh vương xua tay, trợn mắt.

Thanh Ảnh nén cười, nằm ra đất, giả đò chết thật. An Thanh vương đá anh ta một cái, vòng qua người anh ta đi vào rừng.

Lưu Giác nằm thẳng trên đất, hai hàng nước mắt chảy xuống má.

“Chà chà, con trai ta còn khóc cơ đấy”.

Chàng vùng dậy, ôm chầm lấy ông: “Cha, lòng con đau lắm, đau lắm cha ơi!”.

Bao nhiêu năm nay, ngay từ khi con còn nhỏ ông đã để nó lại trong vương phủ cho Ô y kỵ trông nom, mình ông dấn thân đến tận Biên thành xa xôi, không thăm hỏi, để nó sống tự lập. Mắt ông mờ ướt, lòng xót xa. Con trai đã lớn, cuối cùng đã tìm được người nó yêu thương. Ông rất tự hào về nó, Lưu Giác là đứa trẻ nồng nhiệt, đã yêu là yêu hết lòng, chí tình chí nghĩa, thật quá giống ông!

“Con trai, con là con trai của An Thanh vương ta, là Bình Nam vương lừng danh của Ninh quốc, con có hiểu bổn phận của con không?”.

“Cha, con làm chưa tốt hay sao?”.

“Rất tốt, đến bây giờ, con đã làm rất tốt, khỏi cần giấu con thêm nữa. Đứa con dâu này cha rất hài lòng”. An Thanh vương cười khe khẽ.

Lưu Giác sững người: “Cha nói gì?”.

An Thanh vương nhảy ra hai bước, nói giọng nghiêm túc: “Con đi theo cha!”.

Lưu Giác theo ông đi vào thư phòng. Khuôn mặt ông toát lên một vẻ trang nghiêm, trịnh trọng khác thường, không hiểu sao khiến chàng bất an, lòng lờ mờ đoán ra chuyện gì, nhưng không thể nào nói rõ được.

“Xích Phong, ngươi đứng gác ngoài thư phòng, trong vòng năm chục thước, một con thỏ lọt vào cũng chém cho ta. Kẻ nào liếc mắt tò mò, giết!”. An Thanh vương dõng dạc truyền lệnh.

Lưu Giác kinh ngạc đứng nghe ông truyền lệnh, buột miệng nói: “Cha!”.

An Thanh vương chốt cửa thư phòng, vặn sang phải xoay sang trái, dùng tay đẩy, án thư trên tường dịch sang trái, lộ ra một cái ngăn bí mật. Ông thận trọng lấy ra một đạo thánh chỉ màu vàng cuộn thành hình thoi: “Bình Nam vương Lưu Giác tiếp chỉ”.

Lưu Giác sững người, vội vàng hất áo quỳ xuống. An Thanh vương mở đạo thánh chỉ, nhưng không tuyên đọc, chỉ đưa cho con trai. Lưu Giác đón xem, miệng há, mắt mở càng to. Chàng mỉm cười trả lại cho cha, trong lòng lớp lớp sục sôi như sóng bể. Bão táp chưa đến gió đã quay cuồng, thánh chỉ của Ninh vương không chỉ viết rõ tứ hoàng tử là người kế vị ngai vàng, mà còn liệt ra bao tội ác tày trời của hoàng hậu và thế lực họ Vương, ngay cả nguyên do cái chết của Trần hoàng hậu cũng viết rõ ràng. Đạo chỉ này sẽ bật tung triều đình Ninh quốc, uy hiếp thái tử, nhưng nếu bại lộ ra trước khi Lưu Phi yên ổn lên ngôi, sẽ dẫn đến thảm họa khôn lường.

“Tại sao tiên vương không trực tiếp phế thái tử? Chúng ta vẫn ủng hộ Tử Ly như vậy”. Lưu Giác băn khoăn.

An Thanh vương thở dài: “Ba năm trước, tiên vương đã trao Hữu quân cho Tử Ly, giao Nam quân cho con và Cố Thiên Tường, nhưng Nam quân và Hữu quân cách Phong thành quá xa, hơn nữa không thể đưa toàn bộ binh mã trở về Phong thành tranh giành vương vị. Một khi Đông cung bị bức ép, hơn hai mươi vạn Đông quân trong tay Vương Thái đồn trú gần Phong thành nhất sẽ ra tay trước chiếm Phong thành. Hai bên khai chiến, Ninh quốc đại loạn, bốn nước kia sẽ thừa cơ nhảy vào, cơ nghiệp mấy trăm năm của Ninh quốc... Đây là kết cục chúng ta không muốn nhìn thấy!”.

“Con xin tuân lệnh cha”. Lưu Giác nói.

An Thanh vương hạ giọng: “Ly Thân vương hiện cách Phong thành không quá một trăm dặm, đem theo hai vạn binh mã, nhưng vào thành phục tang nhiều nhất chỉ được mang năm ngàn cận vệ. Nếu hai bên khai hỏa ở Phong thành, một là trăm họ khốn khổ, hai là vương thành đại loạn, đây là điều mấy nước kia trông đợi”.

“Cho nên, cha muốn con tỏ ra có chung mối thù với thái tử, cố gắng giảm thiểu thưong vong, để Ly Thân vương thuận lợi đăng cơ?”.

“Phải, lẽ nào thật sự phải dùng mười vạn Nam quân, hai vạn Hữu quân và hai mươi vạn đại quân Đông lộ khai chiến? Theo tin tình báo của An Thanh vương phủ và Ly Thân vương phủ, trong tay họ Vương vẫn giấu một đội tinh binh. Trong khu rừng Hắc sơn phía đông mấy năm nay có những dấu hiệu kỳ lạ, chúng ta nghi ngờ đội quân này ẩn náu trong đó, quân binh bao nhiêu, sức chiến đấu thế nào vẫn chưa làm rõ. Hơn nữa, địa thế vương cung dễ thủ khó công, nếu họ Vương chiếm cung đình, chúng ta buộc phải tấn công mạnh, thương vong khó lường, chưa biết chừng Ninh quốc vì thế sẽ suy yếu, đây là điều vương thượng và cả Lưu tộc không muốn nhìn thấy”.

“Vậy ý cha là...”.

“Ta đã liên hệ với Ly Thân vương, phải nắm chắc và khống chế cục thế trước lễ đăng cơ ngày mười tám tháng ba, tuyên đọc thánh chỉ của vương thượng, loại bỏ thế lực họ Vương, triệt tiêu hậu họa! Hiện chỉ còn hai mươi ngày nữa là đến ngày mười tám tháng ba, chúng ta không chỉ phải hoàn toàn khống chế cục diện Phong thành, đồng thời còn phải thâm nhập vào vương cung, nắm được động tĩnh của họ Vương, nhất cử thành công. Trước ngày đó, không thể để bọn họ mảy may phát hiện. nếu không chỉ còn cách tấn công trực diện!”.

An Thanh vương nói rõ tình hình trước mắt, ánh mắt tinh anh nhìn con trai. Bây giờ Lưu Giác là nguyên soái thống lãnh thiên binh vạn mã, không còn vẻ vương tôn an nhàn hưởng lạc nữa.

“Con hiểu ý cha, trước khi chuyện kia xảy ra con phải tìm cớ giao chiến với Ly Thân vương một trận, loại bỏ nghi ngờ của Đông cung đối với vương phủ chúng ta”.

“Không chỉ có thế. Cuộc chiến giữa con và Ly Thân vương là riêng tư, hoàn toàn chỉ có hai người, nhưng như thế cũng có nghĩa sẽ đặt con và Tử Ly vào vòng nguy hiểm, Đông cung hoàn toàn có thể thừa cơ ra tay trước, bắt cả hai người. Mặc dù có Nam quân khống chế, hai mươi vạn Đông quân không thể tất cả vào Phong thành, nhưng đội quân bí mật trong tay Vương thái úy mà chúng ta chưa nắm rõ lại hoàn toàn có khả năng xuất hiện. Cho nên, trận đấu này giữa hai người có tác dụng lớn nhất là quăng mồi, nhử đội quân bí mật của họ Vương lộ diện!”.

Lưu Giác trầm ngâm một lát: “Tại sao không thể bất ngờ tập kích Vương cung và phủ thái úy, giam lỏng Vương hoàng hậu, thái tử và Vương thái úy?”.

“Thế lực họ Vương đã củng cố nhiều năm, không tuyên đọc tội trạng của họ trước bàn dân, thiên hạ sẽ không tin, quần thần khó phục. Đừng quên, thái tử vẫn danh chính ngôn thuận là người kế vị ngôi báu! Tử Ly đăng cơ, phải có nguyên cớ xác đáng, chỉ có để thái tử ra tay trước. Vả lại nếu động binh nhưng lại không tiêu diệt hết thế lực họ Vương, không biết chúng ta phải mất bao nhiêu năm mới dẹp hết phản nghịch. Trần quốc đang nôn nóng, sở dĩ lần trước dám tấn công Lâm Nam, chính là đã nhìn thấy Ninh quốc mấy chục năm không có chiến tranh, quân đội mặc dù hùng hậu nhưng không có kinh nghiệm thực chiến. Từ đó có thể thấy mấy nước đang hau háu nhòm ngó nước ta, chỉ chờ chúng ta xảy ra nội chiến để ra tay”.

“Nhưng nếu đội quân này không xuất hiện?”. Lưu Giác nghi ngờ.

“Thái tử muốn diệt Ly Thân vương, tất phải chờ sau khi Ly Thân vương trở về Phong thành phục tang mới có thể ra tay, tang lễ hoàn tất chỉ cách lễ đăng cơ không quá năm, sáu ngày. Ba ngày trước lễ đăng cơ, con phải hẹn Tử Ly giao chiến, đối với vương gia, đây là thời cơ tốt nhất, thái tử hoàn toàn có thể mượn đội kỳ binh này tiêu diệt con và Ly Thân vương mà thần không biết quỷ không hay, hơn nữa lại có thể phủi sạch trách nhiệm. Cho nên, đội quân này nhất định sẽ lộ diện”.

“Cho nên, ba ngày trước đại lễ, con hẹn tư đấu với Ly Thân vương, chính là cố ý cho Đông cung một cơ hội, để đội quân bí mật kia hoàn toàn lộ mặt, ra sau đó triệt để tiêu diệt?”.

“Đội quân này nếu không loại trừ, một khi thái tử tẩu thoát, sẽ trở thành nòng cốt để thái tử tái dựng cơ nghiệp, cũng chính là mầm họa lớn nhất gây rối loạn Ninh quốc!”.

Lưu Giác khâm phục nhìn cha, ông đã suy tính mọi bề chu đáo, tiên lượng trước mọi hậu họa về sau. Nhưng “Phụ thân, Đông cung hoàn toàn có thể ra tay trước khống chế chúng con, cho dù chúng con tìm mọi cách để họ tin. Bán tin bán nghi, chi bằng dứt khoát tiêu diệt chẳng phải càng yên tâm sao?”.

An Thanh vương cười ha hả: “Con trai à, nên biết hiện ba cổng thành đều do chúng ta trấn giữ, Đông cung không dám ra tay trước, binh lực Nam quân nằm trong tay con và Cố Thiên Tường, binh lực Tây quân nằm trong tay Ly Thân vương, họ cũng không muốn va chạm trực diện, sợ cá chết lưới rách. Ngộ nhỡ Tử Ly cầu viện binh hai nước Khởi, Trần đánh trực tiếp, thái tử cho dù lên ngôi cũng khó ứng phó. Nếu chúng ta làm cho Đông cung tin, họ Vương sẽ tưởng rằng Cố Thiên Tường chỉ nắm thủy quân của Nam quân, mười vạn binh mã trong tay con, thái tử có thể dùng, như vậy, Nam quân vào cuộc sẽ là một đòn chí mạng. Huống hồ...”. An Thanh vương cười, “Cho dù họ không tin hoàn toàn, cũng không thể không dựa vào chúng ta, mười vạn binh mã này quá mê hoặc thái tử, nếu thật sự có thể đứng về phía Đông cung, Ly Thân vương cầm chắc đại bại!”.

Mọi sắp đặt đều là để Lưu Phi đăng cơ, vì tương lai ổn định của Ninh quốc. A La nói thích Lưu Phi, e cũng là mưu kế để Lưu Giác chiếm được niềm tin của Đông cung. Lưu Giác bỗng thấy lòng nhẹ nhõm, mọi đau buồn phẫn uất mấy ngày qua bỗng chốc tiêu tan, chàng liếc nhìn cha, nghĩ tới A La, được lắm, cả hai liên thủ giỡn chàng! Tấm lưng thẳng cứng của chàng mềm lại, trở lại vẻ bông lơn không thể kìm chế, mặt tươi như hoa, hai đồng tử bắt đầu bốc hỏa: “Con hiểu rồi, cha! Cha được lắm, cha làm thế nào thuyết phục A La tuyên bố thoái hôn, tạo ra mối thù giữa con và Ly Thân vương?”

An Thanh vương đảo mắt, tính đường rút lui, ánh mắt tinh tường nhấp nháy, nói: “Cha chỉ nhắc một chút, nó đã hiểu, nó đối với con, ha ha đúng là rất tốt!”.

“Đúng thế, không tồi, kế hay lắm! Sao con có thể chịu để hôn thê của con làm mất mặt vương phủ chúng ta, hai người quả thực quá hiểu con!”.

“Ha ha, con trai à, qua chuyện này cũng có thể thử xem lòng A La đối với con thế nào? Cha chẳng qua cũng chỉ muốn tốt cho con!”. An Thanh vương cười, trong lòng cũng có chút băn khoăn.

Lưu Giác bỗng hét lên: “Vì con, cha để nàng làm bia hứng mũi giáo đường tên? Cha có biết như vậy, nếu hai bên giao chiến, nàng sẽ trở thành con tin để uy hiếp Ly Thân vương, thực chất uy hiếp ai? Uy hiếp Lưu Phi hay chính con trai cha?!”.

“Cái này, cũng đành hy sinh một chút, không phải sao? Huống hồ, nếu không phải vạn bất đắc dĩ, không nguy cấp đến tính mạng A La. Cha nó chẳng phải vẫn đang là tả tướng đương triều hay sao!”. An Thanh vương không dám nhìn con trai.

“Lại còn giấu con? Hả? Ai đã xúi nàng ấy to gan dám làm chuyện đó? Chẳng phải chính là cha hay sao! Nói cho cha biết, không thể lôi nàng ấy vào cuộc! Đây là cuộc đấu giữa đàn ông với nhau, chuyện này đủ rồi, không cần A La làm thêm gì nữa”.

An Thanh vương mặt hơi biến sắc: “Nếu Đông cung đòi người?”.

“A La là vương phi của con, con hoàn toàn có thể từ chối, cứ coi A La không bằng lòng, con cũng sẽ lấy nàng ấy, không ai được phép đưa nàng ấy đi!”.

“Con phải hiểu, nếu A La không đứng trước mặt họ, tuyên bố trở mặt với con, Đông cung có thể dễ dàng tin sao?”.

Lưu Giác ngớ người, đúng thế, nghe đồn A La tuyên bố suốt đời gắn bó với Tử Ly, hai người đã có thệ ước thủy chung, bản thân mình đã nổi giận đùng đùng trước mặt những người ở Đông cung. Nhưng nếu tưởng chỉ cần như vậy họ đã tin, tức là quá coi thường người của Đông cung. Muốn để họ tin, không chỉ cần Tử Ly phối hợp, còn cần diễn tốt vở kịch trước mặt họ, Nhưng, diễn thế nào? Phản ứng của một người đàn ông bình thường sẽ là hận đến mức giết chết người mình yêu? Giết là không thể? Nhưng lúc phẫn nộ không thể không ra tay, làm sao chàng có thể ra tay? Biết rõ A La vì mình đã dấn thân vào nguy hiểm, lại còn muốn mình ra tay với nàng?

“Con phải làm thế nào? Tỏ ra tức giận trước mặt họ? Chẳng phải cũng còn nể mặt tả tướng hay sao?”.

“Hừ, e là lúc đó người ra tay trước chính là tả tướng! Lúc đó ông ta còn không dám ra tay dạy con, sau này còn nói được ai?”.

Lưu Giác lại nổi đóa: “Ai bảo cha nghĩ ra trò này? Nếu A La có mệnh hệ gì, con sẽ cho vương phủ tuyệt tử tuyệt tôn!”.

An Thanh vương tức giận rung râu: “Nghịch tử! Những lời như vậy cũng dám nói với cha ngươi sao? Con ngốc thế? Sao không biết thể hiện một chút truyền thống của vương phủ? Con che giấu điểm yếu một chút không được sao? Mặc kệ A La thích ai, đằng nào con cũng đã đính ước, ai dám nôn nóng với ai. Mặc nó khóc lóc cự tuyệt, con mặc kệ, cướp người về phủ hẵng hay! Sao ta lại sinh ra đứa con ngốc thế chứ?!”.

Lưu Giác lại ngây ra, mãi mới bình tĩnh trở lại: “Hình như con đã làm A La tức giận, hôm nay còn đánh nàng một chưởng!”.

“Vậy còn đứng ngây ra đó làm gì? Nếu bây giờ A La không thèm để ý đến con, con cướp về cũng chẳng ích gì!”. An Thanh vương đá vào mông Lưu Giác.

Lưu Giác xoa mông, nói dỗi: “Ai bảo hai người giấu con, không hề thương con tí nào! Để mọi chuyện xong xuôi, còn sẽ tính sổ với hai người!”.

“Bây giờ ta hối hận vì đã nói với con, với tính cách của con, liệu có làm hỏng chuyện không? Con cần diễn tốt tấn trò này, nếu để cho Đông cung sinh nghi, hỏng việc lớn của ta, lão phu sẽ tự tay quất nát mông con!”.

Lưu Giác lại thở dài, không biết là vui hay buồn. Vui vì A La đã vì chàng mà dám mạo hiểm tính mạng, tuy không nói ra, nhưng rất nặng tình với chàng. Buồn vì không muốn A La chịu khổ, sợ nàng nguy hiểm. Chàng bỗng hối hận, nếu không biết thì tốt, biết rồi thật khó diễn. Chợt nghĩ đến sự lỗ mãng vừa rồi đối với nàng ở Tùng phong đường, đột nhiên không dám quay về đối mặt với nàng.

Gió lạnh thổi từng cơn, Tùng phong đường ẩn hiện trong rừng, ánh đèn thấp thoáng, Lưu Giác lặng lẽ đứng trong rừng, nhìn ánh đèn chập chờn. Ở đó có một người, người chàng yêu, thương nhớ bao nhiêu? Chàng không đong đếm được, nhớ nhung cơ hồ tự nhiên như hít thở, tình yêu của chàng như thấm vào không khí đi vào phổi trở thành một phần dưỡng khí nuôi sống sinh mệnh chàng, mất đi tựa hồ bóp cổ họng chàng, chàng sẽ ngạt thở mà chết. Chàng ngửa đầu nhắm mắt, cảm nhận hơi gió đêm như bàn tay ấm ve vuốt mặt chàng, khiến cho nỗi xúc động căng tràn dào dạt dịu đi. A La tại sao nàng không nói với ta? Tại sao không dùng đôi mắt lóng lánh như thủy tinh của nàng mách bảo ta? Sao lại khiến ta đau khổ, khiến ta băn khoăn, khiến ta bất an như vậy. Nàng tự nhiên như nhiên bước vào cuộc tranh giành quyền lực giữa những người đàn ông, chỉ là vì ta. Nàng khiến ta lấy tình nào bù đắp cho đặng? Lưu Giác thẫn thờ không dám quay về.

Xưa nay chàng luôn cho rằng, chỉ có tình yêu của chàng là sâu đậm, tưởng là chỉ có bản thân chàng đang cho đi, còn A La chỉ thụ động nhận về, bây giờ mới biết nàng đã vì chàng tự nguyện dấn thân vào vòng xoáy hiểm nguy, tận đáy lòng bỗng xúc động run run. Lưu Giác trấn tĩnh, vẻ kiên nghị nặng dần trong ánh mắt, cuối cùng chàng trở bước.

Chàng nhẹ nhàng đẩy cửa tẩm thất, A La mặc áo choàng của chàng, nằm cuộn tròn ngủ trên giường. Lưu Giác đứng cách vài bước, mắt nhìn nàng không chớp. A La gầy đi chút ít, cằm nhòn nhọn, những ngày trốn ở Tố tâm trai chắc hẳn ăn uống kém. Hàng mi dài rủ bóng, giống như con bướm dừng cánh nghỉ, đẹp đến nỗi khiến chàng không dám thở, sợ kinh động làm con bướm bay đi, giấc mộng sẽ tan biến. Ánh mắt chàng dừng trên tay nàng để trên chiếu, vết tím nơi cổ tay nổi bật giữa làn da ngọc. Nỗi xót xa tràn ứ khiến chàng tự đánh vào mình, sao ra tay mạnh thế?

A La nghe thấy tiếng động, hé mắt mơ màng, nhìn thấy Lưu Giác đứng cạnh giường, sắc mặt rất xấu. Nàng bỗng giật mình, tự nhiên co người lùi vào trong.

Nhìn thấy động tác của nàng, tim chàng run lên, mình làm nàng sợ ư? Mình khiến nàng sợ hãi hay sao? Chàng không kìm được nữa, bước tới.

“Chàng định làm gì?”. A La hoảng hốt nhảy lên, vô ý thức kéo chặt áo ngoài rộng thùng trên người.

Lưu Giác không trả lời, kéo tay nàng, xoa nhẹ chỗ vết trói: “Ta ra tay mạnh quá, đau không?”.

A La nghiêng mặt: “Không đau!”.

Xoay mặt nàng lại, Lưu Giác nói: “Ta quá giận mới ra tay mạnh thế, nàng... ai bảo nàng liên thủ với cha lừa ta?”.

A La nghi ngờ nhìn chàng: “Chàng đang xin lỗi hay đang trách?”.

“Cả hai?”.

“Ồ, vậy thì thôi, khỏi cần xin lỗi, thiếp tự làm tự chịu. Trách ư, cũng không cần, vốn giấu chàng là sợ chàng diễn không tốt”. A La từ từ giải thích.

“Ta... hôm nay... hôm nay, chuyện đó, nàng còn trách ta không?”. Nghĩ đến chuyện ban sáng, mặt chàng lập tức bay qua một vệt đỏ hoài nghi.

“Trách chàng gì cơ? Là chàng trách thiếp mới phải, thiếp đã phụ chàng, người trong lòng thiếp là Tử Ly!”. A La nói cứng, nàng vẫn chưa hết giận.

“Nói nhảm, rõ ràng nàng tốt với ta”. Nụ cười ngọt ngào vụt hiện trên miệng chàng.

“Chàng tưởng chàng là ai? Nói thật, người thiếp thích là Tử Ly. Dẫu thiếp không thích Tử Ly thiếp cũng sẽ không lấy chàng!”. A La rút tay về, nằm xoay lưng lại.

“Không được nói thích Tử Ly, ta nghe rất khó chịu!”.

“Chàng khó chịu là không cho thiếp nói sao? Những điều thiếp khó chịu nhiều lắm! Dựa vào đâu hai người tranh giành đế vị lại cuốn thiếp vào? Thiếp chỉ muốn vui vẻ sống bên mẹ, là ai đã một mực bắt thiếp về Phong thành?”.

“Nàng là vương phi của ta, những gì cần đối diện, không nên né tránh, đi đâu tránh được phân tranh? Ví như những kẻ áo đen ở thành Lâm Nam, nàng có làm gì bọn chúng không, vậy sao vẫn bị dao kề cổ, họa đến nhà!”.

“Thiếp không lấy chàng không được sao? Nếu lại gặp bọn áo đen áo trắng nào nữa thì đó là số thiếp không tốt, thiếp xui xẻo!”. A La bắt đầu giở trò, bất chấp lễ nghĩa! Việc gì phải lễ nghĩa? Chàng tưởng thiếp thích đến đây sao, thiếp đang muốn mơ một giấc là trở về thế giới của thiếp.

“Nàng nói không lấy là không lấy ư?”. Chàng lại bị nàng chọc tức, nhưng lời vừa ra đã thấy hối hận, tại sao mới nói vài câu, đã lại nặng lời.

“Thiếp không lấy, thì sao nào?”. A La ấm ức, bụng nghĩ, nhận lỗi chưa xong còn uy hiếp người ta.

Lưu Giác lại tức phát điên, đột nhiên bật cười: “Nếu đúng là lòng nàng không có ta, sao lại cùng ông già vạch mưu? Hả?”.

A La đỏ mặt: “Thiếp ra điều kiện. Từ bây giờ, muốn thiếp giúp hai người thực thi mưu kế, lão vương gia phải đồng ý với thiếp, khi mọi chuyện kết thúc, sẽ hủy hôn, thả cho thiếp đi!”.

“Đừng mơ!”. Lưu Giác cười khẩy, “Không lớn hơn chuyện ta động binh tấn công, ta không tin trận đánh này đánh không nổi! Nói thật, nếu sớm biết đó là mưu kế của ông già, ta tuyệt nhiên không chấp nhận!”.

A La ngây người, tức giận vô cùng: “Bất luận chàng nói thế nào, từ bây giờ hủy hôn, thiếp và chàng không liên can!”.

Lưu Giác tự nhủ phải nhẫn nhịn nhường nàng, gặp chuyện như thế, A La bực tức muốn trút giận thế nào tùy ý. Chàng đổi giọng nhẹ nhàng: “Vậy phải thế nào nàng mới chịu nguôi giận? Hả? A La? Là ta đã sai, ta không nên bị cuốn vào mưu kế của nàng và cha mà không biết, lại còn nghi ngờ nàng, ra tay không nhẹ. Là ta đã sai, nàng đừng giận nữa được không?”. Quả thực, cả đời chàng, Lưu Giác chưa bao giờ hạ mình như vậy. Chàng đã dùng ánh mắt da diết nhất, chân thành nhất để nhìn nàng. Còn nhớ trước đây, đào nương Hồng Ngọc nổi danh nhất Vãn hoa lâu đã hát cho chàng nghe một khúc tuyệt vời, chàng động lòng, cũng nhìn người ta với ánh mắt như thế, Hồng Ngọc lúc đó đã thở dài nói, giai nhân trong thiên hạ không một ai không nghiêng ngả bởi ánh mắt thâm tình như thế của tiểu vương gia.

A La nhìn Lưu Giác đang định nói gì, lại khẽ ngáp. Nàng dùng tay che miệng, mắt chớp chớp: “Thôi, xin lỗi là không sao, không tính toán với chàng nữa, thiếp buồn ngủ rồi”. A La thật sự không muốn nói nhiều. Nếu Lưu Giác nhận ra, màn kịch này chàng sẽ diễn không thật, để chọc tức chàng nàng buộc phải nói như thế. Nhìn Lưu Giác đang cố nén tức giận, nàng dịu giọng: “Thôi cho qua!”. A La nói xong, lại ngáp.

Lưu Giác tức điên xông lại: “Ta thật lòng xin lỗi nàng, vậy mà nàng nghe lại buồn ngủ?”. A La lườm: “Vậy chàng muốn thiếp làm gì? Cảm động khóc lóc hay sao? Thiếp biết tâm tư của chàng, tha lỗi cho chàng rồi”.

Nói xong nàng làm ra vẻ buồn ngủ. Lưu Giác dở khóc dở cười, những lời nói chuẩn bị sẵn hoàn toàn trái ngược với những gì diễn ra, nhưng chàng vẫn không cam lòng rời đi, mặt sa sầm nói: “Được, chuyện cũ không nhắc lại nữa, không biết ai cho nàng cái gan làm chuyện này. Nàng không biết nguy hiểm hay sao? Tự đẩy mình vào mũi tên ngọn giáo!”.

Nhìn thấy vẻ mặt sa sầm của Lưu Giác, nỗi bực trong lòng A La lại bùng phát: “Chàng vẫn còn nói thế? Nếu người ta không vì...”.

“Cái gì? Vì cái gì?”. Lưu Giác hỏi dồn. Hôm nay không nhân cơ hội này ép nàng nói ra, với tính cách A La, e là có thể chết vì chàng nàng cũng không chịu nói là nàng thích chàng.

“Vì Tử Ly đại ca đăng cơ làm hoàng đế!”. A La nghiêng mặt sang một bên nói, tránh ánh mắt Lưu Giác.

“Thật không? Vậy nàng nói ra thế này chẳng phải hại huynh ấy hay sao? Nàng đang giúp huynh ấy hay hại huynh ấy?”. Lưu Giác hỏi vẻ thản nhiên.

“Khỏi cần chàng quan tâm! Đây là chuyện giữa thiếp và Tử Ly đại ca, khỏi phiền Bình Nam vương bận lòng!”.

Lưu Giác kéo mặt nàng quay lại, A La đẩy tay chàng: “Đừng động chân động tay làm hại thanh danh của thiếp!”. Nàng cúi rèm mi, trong lòng không hiểu tại sao thấy ngượng vô cùng.

Lưu Giác đột nhiên buồn cười, A La không biết vẻ ương ngạnh của nàng lúc này rất trẻ con, đâu có giống người đang nổi giận. Rõ ràng vịt chết còn cứng mỏ! Bây giờ chàng có rất nhiều thời gian và lòng kiên nhẫn, bụng nghĩ, lần này quyết không để nàng bỏ trốn. Chàng một tay ôm A La lên: “Ta thích nàng động thủ. Nếu làm hại thanh danh của nàng, nàng sẽ lấy ta, chủ ý này rất hay!”. Chàng cười ha hả, ôm A La đi về phía bể tắm.

A La kinh ngạc: “Xấu xa! Chàng lại định...”.

“Nói đúng rồi, hôn thê của ta thay lòng đổi dạ, bản vương mừng lắm, muốn ra tay trước để tỏ rõ uy phong. Một khi nàng trở thành người của ta, để xem Tử Ly đại ca của nàng có cần nàng nữa không? Hình pháp Ninh quốc sẽ tuyên phạt thế nào? Kẻ tư thông với người khác thích chữ vào mặt, đánh đòn, chà chà!”.

A La giơ tay chém lên cổ chàng, chưa kịp chạm vào, cả người nàng đã bay về trước, nàng hoảng hốt kêu lên nhưng đã rơi tõm xuống nước: “Lưu Giác, nói cho chàng biết chàng chớ làm bừa. Thiếp, thiếp với chàng vẫn chưa hết!”.

Lưu Giác khoanh tay đứng trên bờ, khoái trá nhìn A La cả người ướt sũng: “Áo của ta, nàng mặc quá rộng, để lộ như vậy lại càng mê ly”.

A La cúi đầu nhìn, quả nhiên chiếc cổ rộng hoác lộ ra một mảng ngực lớn, nàng vòng hai tay che lại, chui người xuống nước, thò mặt lên mắng: “Dâm tặc!”.

Lưu Giác cười ha hả: “Hình như đây là lần thứ ba nàng mắng ta là dâm tặc, cũng phải, để cho nàng chứng kiến một chút dâm tặc là thế nào!”. Nói xong chàng làm động tác cởi y phục.

A La cuống quýt: “Đừng, chàng đừng thế!”.

“Đừng cũng được, nhưng nói đi, tại sao nàng muốn giẫm lên vũng lầy này? Nói xong ta sẽ không động đến nàng!”

A La lườm chàng một cái, ngâm mình trong bể, bối rối vô cùng. Thấy Lưu Giác đứng trên cao nhìn xuống, ung dung đùa giỡn mình để giải khuây. Nàng tức giận hai tay đập nước, miệng nhệch ra, òa khóc: “Chàng bắt nạt thiếp, thiếp muốn về nhà! Thiếp muốn cha, muốn mẹ! Thiếp không muốn sống với chàng và những người ở đây!”. Nàng vừa khóc vừa đập nước tung tóe, mặc cho cổ áo rộng để lộ xuân quang. A La khóc vì không hiểu tại sao bị đẩy đến đây, lại bị giày vò bởi người đàn ông này. Nàng càng khóc càng tủi thân.

Kinh ngạc đau đớn cùng với tiếng khóc xoáy vào lòng, Lưu Giác không kịp nghĩ lao xuống nước, ôm chặt A La. “Đừng khóc, A La đừng khóc!”. Lòng chàng xót xa, đau nhói từng cơn: “Ta không ép nàng, không ép nàng nữa, nàng muốn về nhà, ta sẽ đưa nàng về tướng phủ!”.

“Thiếp không muốn về tướng phủ, thiếp không muốn nhìn người cha bán con cầu vinh ấy. Cha thiếp tốt hơn ông ta nhiều, cha thiếp là quan thanh liêm, thiếp ghét ông ta! Rất ghét!”. A La nước mắt nước mũi chan hòa, nói như mê sảng, khiến Lưu Giác không hiểu thế nào: “Được rồi, được rồi, không về thì không về! Đừng khóc nữa!”.

A La đã khóc to hết cỡ, mặc cho Lưu Giác dỗ dành, nàng càng khóc to hơn. Lưu Giác không biết làm thế nào, đành nâng mặt nàng lên hôn. A La khóc tắc cả mũi, miệng lại bị bịt chặt, không thở được, khó chịu cố vùng vẫy thoát ra. Lưu Giác luống cuống, sợ nàng thoát khỏi tay mình, hai tay càng xiết mạnh, ôm riết nàng vào người. A La bị ép chặt, mặt đỏ lựng, không thoát ra được, trợn mắt nhìn chàng, không duy trì được bao lâu, không thở được một hơi, người nàng đã nhũn ra, ngất đi.

Lưu Giác thấy người nàng mềm ra, vội vàng dùng tay dìu nàng, thấy nàng đã ngất. Sao A La lại bị ngất như thế? Chàng lo lắng đứng trong nước một lát, thở dài, ôm nàng lên bờ đi vào phòng ngủ. Chàng cởi chiếc áo rộng thùng ướt đẫm, da thịt A La non nớt như đứa trẻ sơ sinh hiện ra trước mắt chàng. Lưu Giác mỉm cười, trong lòng không một gợn dục vọng, lấy khăn khô lau người cho nàng, dùng tấm mền bọc lại cẩn thận, xong xuôi mới đi thay y phục.

A La tỉnh lại, cảnh tượng đầu tiên nhìn thấy là Lưu Giác khoác chiếc áo ngoài rộng, lộ nửa vồng ngực, tủm tỉm nhìn nàng. A La cựa quậy, lập tức hét lên: “Chàng muốn gì?”.

Nàng co người lủi trong chăn, chỉ thò đầu ra.

Lưu Giác phục bên cạnh nàng, cách tấm chăn ép chặt người vào nàng: “Yên tâm, ta không làm gì nàng đâu”.

Ánh mắt sâu thẳm của chàng bám riết ánh mắt nàng: “A La, ta biết... ta chỉ rất muốn nghe nàng nói một câu, nàng thích ta đúng không?”.

A La cảm thấy mắt chàng như có nam châm, hút hết mọi ánh sáng vào đó, tàng ẩn tình yêu máu thịt, dập dồn giông bão như biển cả. Một màn ánh nước hiện lên lên trong mắt nàng.

“Chúng ta phải ở bên nhau, bất luận thế nào cũng ở bên nhau”. Lưu Giác khẽ nói. Chàng cúi đầu hôn nhẹ vào má nàng, ôm nàng vào lòng. A La nhắm mắt, thoáng mỉm cười, từ từ ngủ thiếp đi.

Đêm khuya dần. Ánh hồng bừng lên, một ngày sắp tới. A La mở mắt, mặt trời đã chan hòa trong phòng. Nàng cựa mình, Lưu Giác cũng tỉnh giấc, lúc này chàng mới nhận ra mình đã ôm A La trong lòng ngủ suốt đêm. Ánh mắt hai người gặp nhau, lại né tránh, A La nói khẽ: “Lấy quần áo cho thiếp!”.

Lưu Giác ngây người nhìn khuôn mặt đỏ hồng ngượng nghịu của nàng: “Nàng đẹp lắm!” Chàng in nhanh nụ hôn lên mặt nàng, nhảy khỏi giường, ngoái đầu nhìn nàng: “Ta thấy nàng cứ như thế này là tốt nhất”.

A La đỏ mặt, không chấp.

Lát sau, Tư Họa bê một chồng quần áo mỉm cười bước vào: “Chúa thượng sai Tư Họa đến hầu tiểu thư!”.

.

Chương 25

.

Ngày mồng bốn tháng ba Ly Thân vương Lưu Phi dẫn năm ngàn thiết vệ từ Biên thành trở về Phong thành, chỉ mang hai thị vệ vào cung phục tang Ninh vương.

Mọi thứ vẫn như cũ, chỉ thêm trùng trùng điệp điệp những bức phướn trắng như tuyết phất phơ trong gió lạnh. Tử Ly nước mắt chứa chan, chàng đã trở về, giờ đây chàng không còn là vị vương tử chỉ nơm nớp đề phòng Vương hoàng hậu và luôn nhẫn nhịn trước thái tử của ba năm trước. Chàng sải những bước dài hùng dũng, mắt sáng quắc như ánh gươm, đi thẳng vào Ngọc Long cung.

Nhìn thấy cửa cung, lòng chàng thổn thức, chân bỗng khuỵu xuống, miệng kêu lên một tiếng bi thương, chấn động uy nghiêm, vang vọng khắp vương cung. Quần thần và cung nhân phục ở trong ngoài cửa cung môn bỗng bật khóc hu hu, tiếng khóc trập trùng. Cố tướng, Lý tướng cùng các đại thần nức nở khuyên chàng: “Tứ điện hạ xin bớt đau buồn!”.

Vương hoàng hậu và thái tử nghe thấy tiếng khóc của Tử Ly không hiểu nguyên cớ gì một trận hàn khí đột ngột dâng trong lòng, sự bi thương trong tiếng khóc đó thấm vào phủ tạng khiến họ hốt hoảng, đầu óc bấn loạn.

Thái tử Lưu Giám bước ra ngoài cung, nhìn thấy tứ hoàng đệ xa cách ba năm, mình vận tang phục trắng toát, gục khóc trước thềm cung. Hắn, cuối cùng đã trở về, có tin báo, hai vạn binh mã của hắn đang đồn trú ở khe núi Hoàng Thủy ngoài cổng tây kinh thành, tám vạn Hữu quân có dấu hiệu điều động. Hắn sắp khởi binh giao tranh với chàng. Thu lại ánh mắt căm ghét, Lưu Giám bước từng bước vững chãi xuống thềm, nghẹn ngào: “Tứ hoàng đệ, đệ về muộn rồi”.

Tử Ly trấn tĩnh, chắp tay thi lễ với thái tử: “Hoàng huynh...”, nói đoạn từ từ đứng lên, “Đệ đi gặp phụ hoàng”, rồi thong thả bước vào Ngọc Long cung.

Ba năm trong quân ngũ đã rèn rũa nên một tứ hoàng đệ với khí chất khác hẳn, vẻ nho nhã thư sinh vốn có dường như bị xóa sạch trơn, thay vào đó sát khí lạnh lùng của kẻ chinh chiến chốn sa trường. Nếu Lưu Phi ngày trước là con dao bạc sang trọng chỉ có thể dùng để bổ dưa, cắt thịt nướng trên yến tiệc, thì Tử Ly bây giờ là một thanh gươm từng nhuốm máu, rút khỏi vỏ là máu chảy đầu rơi! Thái tử nhìn phong độ đại tướng toát ra từ tấm lưng thẳng vút và bước chân đĩnh đạc của Tử Ly, bàn tay bất giác nắm thành nắm đấm.

Tử Ly nhìn Ninh vương yên vị trong quan tài thần sắc như còn sống, nghĩ đến từ nay về sau, tia sáng ấm áp cuối cùng trong vương cung đã tắt, hai hàng lệ tuôn như mưa. Chàng lắp bắp: “Phụ hoàng” rồi từ từ phục xuống, hai mắt nhắm nghiền, lưu giữ trong đáy mắt mình khuôn dung hiền hậu đó, tựa hồ cái nhìn ngưng tụ này đã khắc tình yêu thương của phụ thân thành bức tranh vĩnh hằng trong lòng chàng. Mở mắt ra, hai mắt chàng đỏ máu, không thấy nước mắt. Một rừng những bức phướn trắng chạm vào lòng giống như băng tuyết ngàn năm không tan trên đỉnh Ngọc Tượng, đóng băng tim chàng, từ đó mỗi nhịp đập của trái tim đều vùng vẫy trong băng phong, chầm chậm không nhìn thấy vết băng vỡ.

“Hoàng huynh, có thể đóng quan tài lại rồi!”. Tử Ly nói giọng bình thản, mắt không chịu nhìn về phía đó nữa.

“Ừ”. Thái tử nói, lập tức nhận ra có gì không ổn, khẩu khí của tứ hoàng đệ cơ hồ như ra lệnh cho chàng. Lưu Giám tiếp cao ngạo truyền lệnh: “Đóng quan tài, đại tế bảy ngày!”.

Theo phong tục Ninh quốc, Ninh vương băng hà, chỉ cần đợi vị hoàng tử cuối cùng nhìn long nhan là có thể đóng quan tài, các hoàng tử cúng tế bảy ngày, không thấm dầu thơm. Bảy ngày sau, di thể của Ninh vương được đưa vào an nghỉ trong vương lăng trên đỉnh Ngọc Tượng. Ngày thứ mười tám đầu tiên sau khi đại tế hoàn tất có thể tiến hành đại lễ đăng cơ của tân vương.

Một toán cung nhân từ từ đóng nắp quan tài bằng ngọc, “phập” một tiếng, đoạn tuyệt mọi vấn vương của Ninh vương với nhân thế. Tiếng khóc than tràn ngập Ngọc Long cung, Tử Ly nghĩ, tiếng khóc này vừa tống biệt phụ hoàng vừa khóc cho những người sẽ chết trong cuộc tranh giành vương vị sắp tới.

Lễ phong quan hoàn tất, Vương hoàng hậu lau nước mắt: “Hoàng nhi, ba năm không về, hoàng huynh con mong nhớ khôn nguôi. Đường trường vất vả, hoàng nhi nên sớm về vương cung nghỉ ngơi, ngày mai vào cung huynh đệ hội ngộ”.

Tử Ly bái biệt hoàng hậu nhưng chưa quay ra ngay, ánh mắt lạnh lùng dừng trên người Lưu Giác: “Bình Nam vương, nhiều năm không gặp, ngày càng oai phong!”.

Lưu Giác sắc mặt trầm ngâm đứng sau An Thanh vương, nghe vậy, miệng nhếch lên, lộ ra nụ cười nhạt: “Nhờ phúc của Ly Thân vương, tiểu vương đã tìm được tam tiểu thư, vài ngày nữa sẽ thành hôn”.

Tử Ly mặt trầm như nước, cười khẩy: “Bình Nam vương chắc vẫn nhớ định ước trên thảo nguyên ba năm trước? Bản vương khâm phục nhất câu “dưa chín ép không ngọt” của Bình Nam vương!”, nói đoạn vái chào thái tử: “Thần đệ xin hồi phủ trước!”.

Lưu Giác mặt đầy nộ khí, An Thanh vương “hừ” một tiếng, lẩm bẩm: “Không biết phép tắc là gì!”, cũng phảy tay áo bỏ đi. Khi ngang qua Lý tướng, An Thanh vương đột nhiên ngoái đầu, trợn mắt: “Ông dạy con giỏi lắm! Hừ!”.

Lý tướng bị chỉ trích trước mặt bá quan, mặt hết đỏ lại tái, cúi đầu nói khẽ: “Lão vương gia giáo huấn chí phải, lão thần sẽ dạy bảo nghịch nữ thật nghiêm!”.

Các đại thần đều cúi đầu im lặng. Cố tướng tức giận phảy tay áo bỏ đi.

Ngọc Long cung thênh thang yên tĩnh hẳn, thái tử đột nhiên nói: “Tiều muội Thanh La nên trở về tướng phủ mới phải, lưu lại phủ An Thanh vương e thiên hạ chê cười, còn ra thể thống gì”.

Thanh Lôi ngoan ngoãn đáp: “Thiếp thấy tiểu muội còn nhỏ chưa hiểu chuyện, trước hai vị vương gia anh tuấn phong lưu, nhất thời bị mê hoặc, chi bằng đón vào cung, để chị em thiếp tâm sự. Đều là người một nhà, không nên để tiểu muội quá đau buồn”.

Thái tử tán thưởng nhìn Thanh Lôi. Vương Yến Hồi tiếp lời: “Xem ra phủ An Thanh vương sắp không thái bình rồi, chi bằng điện hạ cùng thiếp đích thân đến đón tiểu muội được không? Không thể để cho tứ hoàng đệ và Bình Nam vương chỉ vì tiểu muội mà quay lưng trở mặt thành thù”.

Lưu Giác từ trong cung trở về vương phủ liền vào Tùng phong đường. A La nhìn thấy chàng, mặt đỏ cúi đầu, vội vàng lật giở cuốn sách trong tay. “A La, nếu ngày mai... ngày mai Tử Ly và cha em cùng đến đòi người, em sẽ theo ai?”. Trong lòng rõ ràng đã biết nhưng Lưu Giác vẫn không cầm lòng, hỏi lại.

A La thầm nghĩ, chuyện này còn phải nói sao, không theo Tử Ly thì phải theo Lý tướng, nàng ngẩng đầu nhìn Lưu Giác: “Đi với Tử Ly, về tình có thể tha thứ, đi với cha thiếp, là hợp đạo lý, tóm lại thiếp vẫn phải đi”.

Lưu Giác vòng ngoắt như mũi tên, ôm lấy nàng: “Không ai có thể đưa nàng đi, nàng không được đi đâu!”.

“Chàng ngốc quá, thiếp vẫn không thể nói... thiếp... chàng đã quên lão vương gia cáo già của chàng đã dặn chàng thế nào ư?”. A La cười khúc khích.

Trong cung khi Tử Ly nhắc đến cái đêm trên thảo nguyên ba năm trước, Lưu Giác càng hiểu, Tử Ly nói như vậy cũng không hẳn là diễn kịch. Nhưng bây giờ, vẫn phải để A La diễn cùng Tử Ly, còn mình lại trở thành một vai bất lực, chen vào giữa họ. Hình dung phải diễn thế nào cho đủ, lòng chàng rất khó chịu: “Tử Ly đúng là thật lòng với nàng!”.

A La nhìn chàng, thấy buồn cười, cảm giác chàng ghen vì mình thật dễ chịu. Tự dưng lại muốn trêu chàng: “Phải rồi, Tử Ly vừa tuấn tú vừa dịu dàng, lại rất thật lòng với thiếp, người như thế đâu dễ tìm!”.

Lưu Giác hôn nàng một cách chiếm hữu, không muốn nghe nàng nói. Lát sau chàng nói trong hơi thở gấp: “Muốn để ta nhìn thấy cảnh hai người đắm say tình tứ. Hừ, ta phải đắm say trước đã”. Nói xong chàng lại hôn thật sâu.

A La thầm than thở, nhiệt thành hưởng ứng chàng. Mãi khi nghe tiếng An Thanh vương ho một một tiếng, hai người mới như đôi chim kinh động, rời nhau ra. Lưu Giác giấu A La sau lưng, nhìn ông già đang cười híp mắt, gọi to: “Thanh Ảnh!”.

“Lão vương gia đã bước qua người thuộc hạ để vào!”. Ngoài cửa sổ vang lên giọng nói nghiêm túc của Thanh Ảnh.

An Thanh vương xua tay ngồi xuống: “Được rồi, tiểu tử, đi vào chuyện chính! Ngày mai xem chừng vương phủ chúng ta náo nhiệt lắm đây!”.

A La thò đầu ra, kéo áo Lưu Giác: “Lão vương gia cáo già của chàng ép thiếp! Nói là nếu không giúp, ông ấy sẽ không cho thiếp lấy chàng!”.

Lưu Giác xoa đầu nàng: “Ta quyết định mọi chuyện, mặc kệ ông già! Ngày mai bất luận ai đến, nàng đều cáo ốm không ra”.

“Làm phản rồi! Nghịch tử!”. Nhìn thấy A La ngang nhiên khiêu khích mình, An Thanh vương vừa bực vừa buồn cười.

“Lưu Giác, chàng thấy cha chàng hung dữ như thế, nếu thiếp lấy chàng, chẳng phải thiếp sẽ là cái túi để trút giận hay sao? Tử Ly tốt biết mấy, chưa bao giờ mắng thiếp một câu!”. A La bất chấp, lại chọc tức An Thanh vương.

Lưu Giác hiểu ra, hừ một tiếng: “Tử Ly tốt bao nhiêu thì sao nào, nàng là của ta, ta không tốt thế nào nàng cũng phải chịu!”.

“Chàng là đồ đầu gỗ! Thiếp không lấy chàng nữa, đằng nào hai người cũng muốn tìm cớ trở mặt với Tử Ly, thiếp sẽ làm cho giả biến thành thật!”. Nàng giận dỗi nói.

“Được lắm, được lắm, quá tốt!”. An Thanh vương cười híp mắt vỗ tay, thứ ông cần chính là điều đó.

“Tốt cái gì?”Lưu Giác cả giận, sao nàng lại thay đổi như chong chóng thế? “Ta cho nàng biết, từ bây giờ, nàng đừng hòng ra khỏi Tùng phong đường một bước!”.

“Lão vương gia, vương gia lên tiếng đi!”. A La bắt đầu chỉ huy An Thanh vương đối phó Lưu Giác.

“Tiểu tử à! Đại cục, lấy đại cục làm trọng! Con cần ta nói bao nhiều lần nữa?”.

Lưu Giác vẫn bực, ngồi phịch xuống, nghĩ thế nào cũng không bình thường được. Chàng dần dần ngồi thẳng người, ngẩng đầu nhìn vẻ mặt cười ranh mãnh của A La, bất giác cũng cười theo: “Trò cướp dâu, bản vương diễn được. Huống hồ đông người, càng đông vui náo nhiệt, càng hoành tráng!”.

An Thanh vương và A La nhìn nhau, hơi lo lắng nhìn Lưu Giác.

“A La, thực ra ta biết, ngay từ đầu nàng đã có tình cảm với Tử Ly, chỉ là hồi đó nàng còn nhỏ, chỉ muốn rời bỏ tướng phủ, rời bỏ Phong thành. Tử Ly đúng lúc lại được ban hôn”. Lưu Giác chậm rãi nói, mắt lóe sáng, cằm vênh lên: “Đã lỡ thì lỡ luôn, Lưu Phi đừng nghĩ còn có cơ hội. Nếu là trước kia có thể ta sẽ buông tay, bây giờ, huynh ấy hối hận cũng vô ích”.

“Chàng mới cần hiểu rõ, người quyết định là thiếp, chính thiếp không cho Tử Ly cơ hội!”. A La thấy buồn cười, nói.

“Nàng mới cần hiểu rõ, bây giờ người quyết định là ta, chính ta không để nàng cho huynh ấy cơ hội!”. Lưu Giác trợn mắt, sửa lại lời A La.

“Ồ, thế sao? Vậy ngày mai thiếp sẽ cho huynh ấy cơ hội, chàng xem xong nếu tức giận thì một mình đi hóng mát nhé!”. A La trả lời đầy khí thế.

An Thanh vương cười khùng khục: “A La bảo bối, loại rượu lần trước con dùng dụng cụ kỳ quái gì chưng cất ra ấy, uống đã lắm, cùng lão phu đi uống thử một chén!”.

“Được thôi!”. A La cười.

Lưu Giác né người kéo nàng vào lòng, khinh miệt nói: “Thái độ bây giờ nàng thể hiện là không thích ta phải không? Là ta cố níu kéo nàng phải không? Nàng hớn hở cùng lão gia đi uống rượu, vở kịch ta diễn làm sao giống được? Định làm ta tức chết, đừng hòng! Thanh Ảnh, tiễn lão gia, không được ta cho phép, bây giờ thực sự một con ruồi cũng không được vào! Cha, mọi sự đều phải lấy đại cục làm trọng, đúng không?”.

An Thanh vương cười xảo quyệt: “Đúng thế, đúng thế, bây giờ đúng là A La không thể đi uống rượu với lão phu, ôi chà, dê đã vào hang sói rồi! Chà chà, ta đi uống rượu đây”.

“Không hề gì, ngày mai đại ca Tử Ly của thiếp đến đón thiếp rồi”. A La cố vùng khỏi chàng, mắt liếc đảo, bắt đầu thấy tức Lưu Giác.

“Lão vương gia nhà ta vừa rồi nói gì nhỉ? Dê vào hang sói! Thịt này tươi non quá, không ăn không được!”. Lưu Giác cười khúc khích, lại cúi hôn nàng.

Đêm đặc dần trong Tùng phong đường, dần dần hiện lên hai bóng người tựa vào nhau. Lưu Giác thầm thì: “Quả thật ta rất lo. A La, Tử Ly sẽ cướp nàng đi”. Sáng sớm hôm sau, An Thanh vương và Lưu Giác trang phục gọn gàng, ngồi đợi tại trung đường.

“Lý tướng quốc cùng phu nhân đến!”. Người hầu cao giọng báo.

Lý tướng cùng đại phu nhân mặt mày tươi tỉnh đi vào phủ An Thanh vương, thi lễ an tọa đâu vào đấy xong xuôi, Lý tướng mỉm cười khiêm nhường: “Tiểu nữ ương bướng làm phiền vương gia bấy lâu, lão vương gia, ngài...”.

An Thanh vương trợn mắt, ngắt lời ông ta: “Lời này của thân gia sai rồi, nếu ba năm trước, tặc tử không bắt cóc A La, tiểu nhi đã sớm cưới nó vào phủ. Bây giờ A La bình yên trở về Phong thành, vương phủ là nhà của nó, khách khí làm chi!”.

“Phải phải phải, vương gia đối với tiểu nữ quả là ưu ái, Lý mỗ cảm kích vô cùng”. Lý tướng thấy thái độ An Thanh vương như vậy, nhẹ nhõm như cất được gánh nặng trong lòng.

Lưu Giác bước vái chào: “Thanh La sức khỏe yếu, đợi ít hôm nàng bình phục trở lại, nhạc phụ hãy đến đón về phủ, nhân tiện chuẩn bị hôn sự được không?”.

Lý tướng cả mừng, cười ha hả: “Bình Nam vương tâm ý chân thành, chính là nên như thế, nên như thế”.

“Ly Thân vương đến!”. Lại một tiếng bẩm báo.

Lưu Giác nhủ thầm, đến nhanh thế! Vừa nghĩ vậy, đã thấy Tử Ly nhàn tản bước vào: “Thỉnh an vương thúc! Tướng gia cũng ở đây ư?”.

Da đầu Lý tướng phát tê, cười khì khì hai tiếng, thấy cha con An Thanh vương thần sắc bình thản như không, bụng nghĩ, cứ để các người đấu với nhau, ai thắng thì thắng. Có cả lão vương gia ở đây làm chủ, ta chỉ việc ngồi xem kịch là xong.

Tử Ly cung kính đến trước mặt Lý tướng vái chào, khiến ông ta hoảng hốt bật dậy khỏi ghế: “Tứ điện hạ, như thế này sao được!”.

“Vốn định đến tướng phủ cầu thân, tướng gia đã ở đây, Bình Nam vương cũng ở đây, bản vương xin nói thẳng, A La là người bản vương chọn!”.

“Lưu Phi, ngươi ức hiếp người ta quá đáng!”. Hàn khí bốc lên mặt Lưu Giác.

“Tứ điện hạ, vương thúc của ngươi đây còn chưa chết! Phụ hoàng ngươi cũng chưa từng như vậy, ngươi dám mạo phạm ta như thế! Ngươi muốn ta tức chết phải không!”. Lời vừa dứt, An Than vương cởi giày ném về phía Tử Ly.

Tử Ly nghiêng đầu tránh: “Vương thúc! Tử Ly từ nhỏ đã mồ côi mẹ, khó khăn lắm mới yêu thích một cô nương, xin thúc tác thành cho con được không?”.

Bên ngoài có tiếng “ối a”, một người xông vào. Lúc đó người hầu mới lắp bắp: “Cố... Cố tướng quốc đến!”.

“Lưu Phi, ngươi giỏi lắm! Cưới con gái lão phu, ba năm trời không nhòm ngó! Vừa trở về đã định nạp thiếp? Thiên Lâm có chỗ nào không tốt? Có chỗ nào mắc lỗi với ngươi? Một đứa con gái ngoan như vậy, ngươi... ngươi làm lão phu tức chết rồi!”. Cố tướng mới rồi nghe phong thanh tin đồn Ly Thân vương bất chấp lễ nghĩa, định cướp hôn thê của Bình Nam vương. Sáng sớm nay đến phủ Ly Thân vương mới biết, tối qua Ly Thân vương đã trở về Phong thành, nhưng lại không về vương phủ gặp Thiên Lâm. Đầu đã bốc hỏa không thể kìm chế, ông hạ quyết tâm phải đến phủ An Thanh vương nhìn mặt đứa con gái Lý tướng đã mê hoặc hai vị vương gia. Không ngờ vừa đến cửa đã nghe thấy Ly Thân vương mở mồm định cầu hôn con gái Lý tướng, lại bị An Thanh vương ném giày trúng người. Cố tướng tức xanh mặt, bất chấp lễ nghĩa thân phận, tiện tay cầm lấy chiếc giày của An Thanh vương, ném về phía Ly Thân vương.

Tử Ly cau mày, nghiêng người tránh, vừa tránh vừa thong thả nói: “Cố tướng quên dạy con gái không nên đố kỵ hay sao? Nam nhi năm thê bảy thiếp có gì lạ? Ta và A La tâm đầu ý hợp, Thiên Lâm nên ủng hộ mới phải!”. Tử Ly không gọi nhạc phụ mà gọi tên quan chức, có ý nhắc Cố tướng chú ý thân phận.

Cố tướng chạy tới được hai bước, khí huyết bừng bừng, nghe vậy ngất xỉu.

An Thanh vương giậm chân chạy đến, gọi gấp: “Người đâu, nhanh lên!”.

Mấy người hầu từ ngoài chạy vào, vội dìu Cố tướng, rồi cuống quýt ấn huyệt Nhân Trung, rồi bón nước vào miệng, lát sau Cố tướng mới từ từ hồi tỉnh thở dài, ngồi tựa vào ghế thở hổn hển.

Lý tướng thấy vậy ngây người, bụng nghĩ, may mà chưa hứa gả A La cho Ly Thân vương, nếu không, không chỉ đắc tội với cha con An Thanh vương, mà cũng kết oán với Cố gia.

Lưu Giác cười thầm, bụng nghĩ, cho dù diễn kịch, cũng khiến Lưu Phi nếm đủ cực khổ, cũng may bản vương có lời trước với Lý tướng. Miệng chàng thoáng cười đắc ý.

Bên ngoài lại có tiếng hô: “Thái tử điện hạ, thái tử phi nương nương giá đáo!”.

Ánh mắt Lưu Giác và Tử Ly gặp nhau, chính chủ đã đến rồi!

Có tiếng châu báu vang lên lanh canh, thái tử và Vương Yến Hồi khoan thai bước vào đại đường. Thái tử cười: “Vương thúc, hôm nay quý phủ thực đông vui”.

Mọi người rào rào đứng dậy thi lễ. An Thanh vương xỏ chiếc giày vào chân: “Thái tử đến đúng lúc, hoàng đệ bất hiếu của thái tử, dám cướp con dâu của lão phu! Sao lại có chuyện như thế!”.

“Câu này của vương thúc sai rồi, năm xưa trên thảo nguyên Doãn Chi và Tử Ly đã có ước định, nếu A La không thích Doãn Chi, Doãn Chi sẽ không làm khó! Lẽ nào, Bình Nam vương đã hối hận nuốt lời?”. Nói câu này ánh mắt Tử Ly đã lóe ra hàn khí.

Lưu Giác cả giận cười lớn: “Ha ha! Ly Thân vương thật biết nói chơi! Bản vương tam thư lục lễ cầu thân, A La đã là người của vương phủ, ngươi cướp vợ người khác, lại còn xơi xơi nói chuyện lễ nghĩa liêm sỉ?”.

Hai người trừng mắt nhìn nhau, một người sắc mặt như thép, một người khí lạnh như băng, đột nhiên đồng thanh nói: “Lý tướng gia, ngài nói thế nào?”.

Lý tướng thầm kêu khổ, Bình Nam vương đã cầu thân trước, nhưng Ly Thân vương ngộ nhỡ, nếu như... chuyện này biết nói thế nào? Ông ta liếc nhìn Cố tướng: “Ôi chao, cái đầu, bệnh đau đầu của lão sao lại tái phát thế này!”.

Đại phu nhân vội đỡ ông ta: “Lão gia đau lắm không? Hai, hai vị vương gia còn đang chờ lão gia trả lời”.

Vương Yến Hồi nhìn Tử Ly, mặt tươi cười: “Tứ hoàng đệ đừng buồn, Bình Nam vương chớ sốt ruột, ta thấy nên để hai vị tướng gia hồi phủ nghỉ ngơi, được không?”.

Được lời, Lý tướng và đại phu nhân vội vàng bái tạ, nói gấp: “Tiểu nữ xin nhờ lão vương gia chăm sóc!”. Hai người lập tức chuồn mất. Cố tướng thở dài tự an ủi, con gái xuất giá như bát nước đổ đi, lẽ nào có thể thật sự không để Ly Thân vương nạp thiếp? Thân hình liêu xiêu đứng lên vái chào, quay ra.

Lưu Giác tận mắt chứng kiến, nghĩ lại lời A La mà thấy đau lòng. Có người cha như thế, chẳng trách A La ghét tướng phủ như vậy! Chàng cười lạnh lùng: “Tiểu tế nhất định không phụ ủy thác của nhạc phụ!”.

“Hừ, có người cha như thế, chuyện hôn sự này chi bằng thôi đi. Đằng nào A La cũng không bằng lòng lấy con, con cưới một đứa con gái không thích con có nghĩa lý gì?”.

“Tứ hoàng đệ, đây chính là cái sai của đệ. Nói thế nào Bình Nam vương cũng là người đã có lời trước, đệ như thế này chẳng phải cướp vợ người ta sao?”. Thái tử nghiêm khắc lên tiếng.

“Hoàng huynh! Không phải thần đệ không tuân lễ pháp, quả thực Bình Nam vương mới là kẻ đi cướp! Đệ và A La tâm đầu ý hợp, Lưu Giác kia trắng trợn chen vào, nếu không phải thế, A La đâu dám bạo gan tháo hôn!”. Tử Ly nói đến đó, nghĩ đến A La, lòng bỗng thấy đau, vẻ sầu não trên mặt chàng hoàn toàn không phải giả tạo.

“Ngươi nói bừa! A La đâu phải loại người sớm nắng chiều mưa như ngươi nói, người trong lòng nàng là ta, nếu không sao lại đi Lâm Nam tìm ta!”. Lưu Giác tự hào nói.

“Đó là bởi vì đi Biên thành phải vượt qua bình địa rộng lớn, nếu A La đi đến đó, chưa ra khỏi Phong thành trăm dặm e là đã bị ngươi chặn lại bắt về! Không ngờ ngươi bắt nàng ấy đem đến Lâm Nam, rồi lại giả bộ đưa về Phong thành, ngươi còn nói nàng ấy đi tìm ngươi!”.

An Thanh vương nghe vậy trợn mắt há mồm, đột nhiên quát: “Đi mời tam tiểu thư tướng phủ lại đây, loại con dâu này An Thanh vương ta không thể chấp nhận!”. Ông tức run ngươi, khuôn mặt già đỏ lựng lên.

“Cha!”. Lưu Giác vội nói.

“Ngươi sợ gì? Sợ A La vạch mặt ngươi nói dối hay sao?”. Tử Ly khinh bỉ nhìn Lưu Giác. Lưu Giác phẫn nộ rút kiếm: “Ta đã có lời trước, A La là người của ta! Ngươi nói gì cũng vô ích!”.

Thái tử vội khuyên Lưu Giác: “Ở đây đều là người một nhà, Thanh La cũng coi là tiểu muội của ta, mọi ngươi nghe A La nói một câu được không?”.

Lát sau, bên ngoài bước vào một bóng người mảnh mai. Tử Ly bàng hoàng quay đầu, sững người. Chàng đã sớm biết, A La sẽ đẹp đến mức khiến chàng kinh ngạc thảng thốt, nhưng khi nhìn thấy nàng, vẻ đẹp đó lại hóa thành kiếm sắc mang lại từng trận đau đớn cho chàng. Nỗi nhớ mỗi ngày ba năm qua, khiến chàng không thể hình dung ra nhan sắc chân thực của nàng. Chàng biết, chàng không cần diễn kịch cho ai xem, lòng chàng chỉ có nàng. Nàng đẹp, đáng yêu, thông tuệ lanh lợi, như ánh mặt trời xua tan bóng đen trong lòng chàng. Hơn ba năm, cuối cùng nàng xuất hiện trước mặt chàng, không phải trong tranh, không phải trong mơ, A La lúc này bằng xương bằng thịt trước mặt chàng.

Nét mặt nàng cũng lộ vẻ bàng hoàng, đôi mắt như vẫn thấy trong mơ, lóng lánh thủy tinh, mặt hơi gầy, dáng tội nghiệp giống như trước đây mỗi lần nàng khẩn cầu chàng dạy nàng cưỡi ngựa, dạy nàng đánh xe. Tử Ly lòng đau như xé, tay bất giác chìa ra: “A La, đại ca ở đây, đừng sợ!”.

A La nhìn thấy Tử Ly, lòng xốn xang. Trong khoảnh khắc chàng nhìn thấy nàng, ánh mắt bừng sáng nhưng đau đớn ẩn chứa nỗi ưu tư và mong đợi. Chàng chính là Tử Ly đã hòa tấu với nàng, cùng nàng phi như bay trên thảo nguyên, sủng ái nàng, cưng chiều bảo vệ nàng. Nếu chưa bao giờ nàng quen chàng thì tốt biết mấy. Giống như lần đó khi thấy chàng mất hút trong màn đêm, nỗi đau lại cuộn lên trong lòng. Nàng biết nàng đành phụ chàng. Một giọt nước mắt thấm bờ mi, long lanh trĩu nặng, miệng nàng khẽ gọi: “Đại ca!”.

Tử Ly bước tới, giọt nước mắt vừa rơi, chàng vội đón lấy, nước mắt nóng bỏng thấm vào tâm can. Bất chấp mọi người xung quanh, chàng ôm nàng vào lòng.

Vương Yến Hồi giật mình, mắt lóe sáng. Thần sắc này lại xuất hiện trên mặt Tử Ly chứng tỏ nỗi đau buồn không thể xua tan trong tiếng tiêu réo rắt thê lương đêm đêm vọng ra từ Ngọc Ly cung quả thật hướng về A La, thì ra chàng yêu nàng ta thật. Ý nghĩ chợt thay đổi, mắt Vương Yến Hồi đã hướng sang Lưu Giác.

Lưu Giác nhìn Tử Ly ôm A La vào lòng, thấy biểu hiện trên mặt hai người hoàn toàn không phải giả tạo, nỗi phẫn nộ khiến trán chàng hằn lên những đường gân xanh, một tiếng vút chói tai, lưỡi kiếm dài đã đâm tới người Tử Ly.

Tử Ly kéo A La tránh, áo đã bị Lưu Giác phạt rách một miếng. Chàng chằm chằm nhìn Tử Ly nói dằn từng từ: “Lần này ta quyết không buông tay!”.

An Thanh vương chợt lo lắng, có phải đang diễn kịch cho thái tử xem hay không? Sao nhìn hai người giống như có tình ý thật?

A La kinh ngạc, hiểu ý câu nói, nhưng không dám thể hiện hơn nữa, lòng lo lắng, nước mắt túa ra: “Hai người đừng đánh nhau được không?”.

“A La có đại ca ở đây, không ai bức ép được muội!”. Giọng Tử Ly kiên định, tay nắm chặt tay A La.

An Thanh vương đảo mắt: “Thật... thật làm ta tức chết! Đứa con dâu như vậy ta dứt khoát không cần! Tiểu tử, thoái hôn!”.

Khuôn mặt tuấn tú của Lưu Giác đỏ lựng, thần sắc kiên định: “Cha, tha tội cho con bất hiếu, Lưu Giác thề, kiếp này chỉ lấy Lý Thanh La!”. Nói đoạn, mũi kiếm hướng vào Tử Ly, không hề run tay.

“Mày, mày, đồ nghịch tử! Sao ta lại có đứa con như thế!”.

“Cha, năm xưa cha đối với mẫu thân chẳng cũng như thế hay sao?”. Lưu Giác không ngoái đầu, mắt chòng chọc nhìn Tử Ly.

Thái tử và Vương Yến Hồi nhìn nhau, Vương Yến Hồi thong thả bước tới, kéo A La ra: “Tiểu muội Thanh La, muội nói xem, người trong lòng muội là ai? Tỷ tỷ sẽ đứng ra làm chủ cho muội!”. Từ đầu chí cuối, Vương Yến Hồi vẫn nguyên nụ cười như thế, tựa hồ nàng ta và thái tử đến thật sự chỉ là để hòa giải tranh chấp trong nội bộ vương thất, chỉ có bản thân nàng ta biết, cảm giác trong lòng thế nào, họng lưỡi đắng chát, một nỗi xót xa ập đến.

Mắt A La lay động, lòng bối rối, như thế này đâu có giống diễn kịch! Nàng cúi đầu khẽ nói: “Muội... đại ca!”. Mắt nàng né tránh ánh mắt Vương Yến Hồi, đau khổ nhìn về phía Tử Ly.

m thanh khẽ như tiếng muỗi, nhưng mọi người trong phòng đều nghe rất rõ. Tử Ly tinh thần phấn chấn, cười ha hả: “Nghe rõ chưa, Bình Nam vương? Có cần tiếp tục nữa không?”.

Lưu Giác không phân biệt được đây là diễn kịch hay là sự thật, sắc mặt đột nhiên trắng bệch, nỗi đau đớn mất A La tràn dâng trong lòng, mắt chàng đã vằn đỏ, sát khí bừng bừng. Chàng khoát mạnh tay, Ô y kỵ xông lên. Thái tử hét to: “Bình Nam vương, sao ngươi dám bất chấp như vậy!”.

Lưu Giác ngang nhiên: “Bản vương một khi đã có lời, không bao giờ hủy hôn, muốn ta ngoan ngoãn khoanh tay nhường người đàn bà của mình, ta không làm được! Thái tử, xin tha tội, Doãn Chi thất lễ”.

Chàng đến bên Vương Yến Hồi nói với A La: “Bất luận người trong lòng nàng là ai, nàng sống là người của ta, chết là ma của vương phủ ta!” Bàn tay như gọng kìm đã xiết chặt cánh tay A La, kéo giật về phía mình.

A La cảm thấy tay đau nhức, hét to: “Đau quá!”.

Bóng Tử Ly lay động, Ô y kỵ đã vây chặt lấy chàng. Nhìn A La đứng ngoài vòng vây, tựa như Lưu Giác vừa cắt một miếng thịt trên cơ thể chàng, toàn thân chàng đau đớn co rút. Nhưng nỗi đau lại khiến chàng bình tâm trở lại. Nụ cười nhạt hiện ra: “A La, hãy đợi ta, ta sẽ đón nàng đi! Lưu Giác, đừng nói ta không cho ngươi cơ hội, ngày mười lăm tháng ba, ở khe núi Hoàng Thủy phía tây ngoại thành, ta và ngươi giao đấu, nếu ngươi thất bại dưới lưỡi gươm của ta, từ nay đừng hòng làm khó A La! Bây giờ ngươi buông tay cho ta, ngươi định xiết đứt tay A La hay sao?”. Nói đến câu sau, Tử Ly đã nghiến răng kèn kẹt, nỗi đau trong lòng đã hóa thành hành động.

Tử Ly nhìn A La đăm đăm, cúi gập người trước An Thanh vương và thái tử: “Đây là tranh chấp cá nhân giữa thần đệ và Bình Nam vương, hoàng huynh không cần khuyên can”. Nói đoạn phảy tay áo bỏ đi.

A La òa khóc. Nỗi áy náy đau buồn giằng xé trong lòng. Nàng không định cố ý, nàng cũng không muốn nhìn thấy Tử Ly buồn như vậy, nàng hiểu, Tử Ly không đóng kịch, mối thâm tình của chàng đối với nàng, sao nàng không biết. Nàng bắt đầu hối hận tại sao mình lại giẫm lên vũng lầy này, nghĩ đến ánh mắt bi thương của Tử Ly. Nàng thấy nghẹt thở, mình còn đưa đến cho chàng bao đau khổ nữa!

Thái tử thở dài: “Tiểu muội đừng quá đau buồn, nếu muội không muốn lưu lại đây, thì có thể vào cung cho khuây khỏa”.

Lưu Giác đã định thần trở lại, lập tức trả lời: “Điện hạ khỏi cần lo lắng, ta tuyệt đối không để A La rời phủ nửa bước, Ly Thân vương đừng hòng mong gặp lại nàng”.

Vương Yến Hồi lo lắng nói: “Ngươi và tứ hoàng đệ cũng là máu mủ tình thâm, hà tất phải khổ như thế”.

“Câu này của nương nương sai rồi, Ly Thân vương đã ra chiến thư, Lưu Giác tất phải nghênh chiến!”.

Thái tử nói: “Vương thúc đừng giận, năm xưa thúc cũng như thế mà...”.

“Hừ, con trai của An Thanh vương ta, lẽ nào đến một đứa con gái cũng không cướp về được? Sự quan tâm của thái tử và thái tử phi bản vương xin nhận. Hôm nay bị giày vò cũng mệt rồi, xin sớm hồi cung nghỉ ngơi!”. An Thanh vương vẫn đang thịnh nộ, trợn mắt rung râu.

Vương Yến Hồi cười dịu dàng: “Tiểu muội bảo trọng, ta thấy Bình Nam vương cũng thật ý thật lòng”. Nàng ta nhìn Lưu Giác ý tứ sâu xa, “Chữ tình này, luôn khiến người ta khó lý giải!”.

Hai người cáo từ rời đi, A La vẫn thổn thức không nguôi. Lưu Giác hét: “Là kịch hay là thật, ta không phân biệt được, đây là chủ ý của ai?”.

An Thanh vương gãi đầu: “Hôm nay người đông quá, khiến ta nhức cả đầu. Thanh Ảnh, dìu bản vương đi nghỉ. Ôi chao, đau đầu quá!”.

Mọi người đi hết, Lưu Giác mặt giận phừng phừng nhìn A La đứng đó, lòng càng thêm giận, bế thốc nàng đi về Tùng phong đường.

A La vẫn ủ rũ, Lưu Giác đứng bên cửa sổ, lòng cũng rối như tơ vò. Ai cũng nhìn ra sự chân tình trong đáy mắt Tử Ly, Lưu Giác nghĩ, nếu không phải tiên vương có chỉ, ông già ra lệnh trợ giúp Tử Ly, chưa biết chừng họ sẽ thật sự đánh nhau một trận vì A La. Nghĩ lại cảnh tượng vừa xảy ra, chàng muốn mắng Tử Ly, khốn kiếp! Thật chẳng ra gì, mình và ông già tương trợ hắn là thế, hắn còn nhẫn tâm đẩy A La vào chỗ nguy hiểm, hình như hắn thực sự muốn có A La. Hắn không sợ làm mình tức giận đứng về phe thái tử thật? Còn A La nữa, nghĩ đến đây chàng quay đầu, A La vẫn ngồi ủ dột trên ghế, nước mắt chưa khô, chàng xông đến hét lên: “Lại còn khóc! Thật rồi chứ gì?”.

A La giật mình, nàng cũng buồn khổ vì thái độ vừa rồi của Tử Ly, hình dung lại bao chuyện cùng nhau. Từ lúc quen biết đến sự bộc bạch của Tử Ly đêm hôn lễ, nghĩ mãi vẫn không cảm thấy mình đã cho Tử Ly lời hứa hay hy vọng gì, cũng không tỏ ra bất kỳ dấu hiệu nào là đã yêu chàng. Bị Lưu Giác quát, nàng bỗng tủi thân vô cùng: “Khóc thì sao? Tử Ly là người đàn ông ưu tú như vậy, lại một lòng chân thật với thiếp, thiếp cảm động có gì lạ!”.

Câu nói như lửa đổ thêm dầu, Lưu Giác sải hai bước đến trước mặt nàng, trợn mắt: “Nàng, nàng, nàng là hạng đàn bà gì thế?”.

“Hạng đàn bà gì? Sáng nắng chiều mưa, sớm Sở tối Tần? Thiếp cũng là con người, sao không cảm động? Tử Ly đối với thiếp tình sâu như thế, thiếp không cảm động chút nào mới được hay sao?”. A La giọng đã hơi bực. Nàng chỉ cảm động một chút, nghĩ đến Tử Ly trước sau sẽ hiểu đây là tấn trò bày ra để giúp chàng, niềm si mê của chàng đối với nàng rút cục sẽ hụt hẫng, lại nghĩ đến những tình cảm ngày xưa, lòng buồn khôn tả, vậy mà Lưu Giác lại hét toáng như thế, tựa hồ nàng tư tình với người khác thật.

“Được, hắn đối với nàng tình sâu như biển, nàng cảm động, thế còn ta? Tấm lòng của ta với nàng, nàng đã quẳng xuống sông Đô Ninh rồi sao?”. Ghen tuông bùng lên trong lòng Lưu Giác, lời vừa nói ra lòng đã đau khôn xiết.

A La nhìn chàng, đau thương lắng đọng trong đôi mắt ấy nặng ngàn cân, khiến nàng lặng người. Nàng nhảy lên ôm lấy chàng, đây là lần đầu tiên A La chủ động ôm chàng, tim chàng đập rất nhanh, A La vùi mặt vào ngực chàng, hai tay ôm riết vồng ngực rắn chắc và mạnh mẽ, cơ hồ chỉ có ôm chàng như vậy mới có thể nén lại nỗi đau trong đó, không cho nó lan ra.

A La khẽ nói: “Thiếp thích chàng”.

Trong khoảnh khắc A La lao vào lòng chàng, Lưu Giác sững người, hai tay buông thõng, toàn thân cứng đờ, bên tai chỉ có tiếng tim đập, từng nhịp, từng nhịp. Ngực chàng phập phồng dữ dội, muốn nói câu gì. Nghe thấy giọng nói thanh thanh, đẹp như tiếng chim của nàng, chàng rùng mình, đẩy nàng ra.

Loạng choạng mấy bước, A La nhìn chàng, Lưu Giác trân trân nhìn nàng. Chàng không tin ư? Mắt hoa lên những quầng đỏ, A La cắn môi cố không bật khóc, cúi đầu chạy ra ngoài.

Lưu Giác đã sực tỉnh, vươn tay túm lấy vòng eo mảnh dẻ của nàng, A La hét một tiếng, đã bị chàng ép xuống giường, Lưu Giác phục người lên trên, hôn như cuồng phong vũ bão, không cho nàng thở, thế như chẻ tre chiếm cứ mọi tư tưởng của nàng... cuối cùng gió giảm mưa dừng, A La lúc này mới có thể hít thở, hai tay chống lên ngực chàng thở từng cơn, Lưu Giác cười gian tà, kéo tay nàng ra, khi nàng còn chưa kịp hét lên thì môi chàng đã lại vít chặt môi nàng. Ba bốn lần như vậy, môi A La mọng đỏ, cuối cùng chàng thỏa mãn gục mặt vào cổ nàng cười.

Tỉnh táo lại, A La tức giận nghiêng đầu nhìn: “Dậy đi, nặng như hùm ấy!”.

“Không! Không chịu!”.

“Có tin không thiếp sẽ một chân đá bay chàng!”.

“Chân nàng còn động đậy được sao?”.

A La thầm mắng mình bất lực, từ từ đặt tay lên eo chàng, hít một hơi, ra sức cù thật mạnh, Lưu Giác nhột quá nhảy dựng lên: “A La, nàng...”.

“Ha ha, nhột không, sợ rồi chứ!”. Mẹo nhỏ thành công, A La đắc ý cười.

Lưu Giác không nhịn được cười: “Trò này mà nàng cũng dám làm?”. Chàng dịu dàng vén những sợi tóc xõa trên mặt nàng: “A La, nàng nói lại câu vừa rồi một lần nữa được không?”.

“Cù nhột chàng?”.

“Không phải câu đó, nàng nói lúc ôm ta ấy”.

“Thiếp đói rồi”.

“Cái gì?”.

“Sáng sớm từ lúc ngủ dậy đến giờ đã quá trưa, thiếp chưa ăn gì, thiếp đói rồi”.

Lưu Giác nghe vậy, bụng hình như cũng thấy đói, bèn nói to: “Tư Họa, ta đói!”.

Có tiếng Tư Họa cười bên ngoài: “Tiểu tỳ đã hâm thức ăn hai lần rồi, nhưng không dám quấy rầy chúa thượng”.

A La nghe vậy đỏ mặt tía tai. Nàng đẩy Lưu Giác ra, mím môi, lườm chàng, Lưu Giác cười khe khẽ, tiếp tục truy hỏi: “Nói lại lần nữa đi, thế nào?”.

“Thiếp quên rồi, đi ăn thôi!”.

.

(Hết tập 1)

.

Table of Contents

Tóm tắt

Chương 1

Chương 2

Chương 3

Chương 4

Chương 5

Chương 6

Chương 7

Chương 8

Chương 9

Chương 10

Chương 11

Chương 12

Chương 13

Chương 14

Chương 15

Chương 16

Chương 17

Chương 18

Chương 19

Chương 20

Chương 21

Chương 22

Chương 23

Chương 24

Chương 25

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro