Engel, Morris S. With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Với Lý Luận Giỏi -- Giới Thiệu Những

Ngụy Biện Thông Thường

Morris S. Engel

Engel, Morris S. With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies. 5th edition. New York: St. Martin's Press, 1994.

Mục Lục

Mục Lục i

Tác Giả iii

Phần I 1

Chương 1 1

Bản Chất và Phạm Vi của Lo-gic 1

1. Lý Luận vừa là Một Môn Khoa Học và Môn Nghệ Thuật 2

2. Lo-gic là Nghiên Cứu về Tranh Luận 3

3. Tranh Luận và Không-Tranh-Luận 4

4. Loại Bỏ Sự Dông Dài 6

5. Những Bộ Phận Khuyết Thiếu 8

6. Làm Nổi Bật những Thành Phần Khả Nghi 11

7. Đánh Giá các Tranh Luận: Đúng, Giá Trị và Hợp Lý 14

8. Những Tranh Luận Suy Diễn và Quy Nạp 17

9. Lý Luận và Giáo Dục 20

10. Tóm Tắt 20

Chương 2 22

Phương Tiện Truyền Đạt của Ngôn Ngữ 22

1. Ngôn Ngữ và Tư Duy 22

2. Dấu Hiệu và Biểu Tượng 25

3. Từ ngữ và Vật Chất 26

4. Sự Hữu Dụng của Ngôn Ngữ 29

5. Sự Tối Nghĩa và Mơ Hồ 30

6. Những Tranh Luận về Từ Ngữ 31

7. Định Nghĩa 33

8. Nghệ Thuật Nói Chuyện Trực Tiếp 37

9. Tóm Tắt 39

Phần II 41

Chương 3 41

Những Ngụy Biện do Sự Tối Nghĩa 41

1. Lối Nói Lập Lờ 44

2. Câu Nói Nước Đôi 49

3. Dấu Trọng Âm 53

4. Phép Tu Từ 57

5. Sự Phân Hóa và Kết Cấu 61

6. Tóm Tắt 64

Chuong 4 65

Những Ngụy Biện của Giả Định 65

Bỏ Qua Những Yếu Tố Cơ Bản 65

1. Khái Quát Hoá 65

2. Gôm Đũa Cả Nắm 68

3. Lý Luận Rẽ Đôi 70

Lảng Tránh Sự Thật 72

4. Lập Lại Vấn Đề 72

5. Ngôn Ngữ Cường Điệu hay Thành Kiến 76

6. Phức Tạp Hóa Vấn Đề 78

7. Biện Hộ Đặc Biệt 81

Bóp Méo Sự Thật 83

8. Tương Đồng Giả Tạo 83

9. Sai Nguyên Nhân 87

10. Lý Luận Rập Khuôn 91

11. Luận Điểm Không Phù Hợp 93

12. Tóm Tắt 95

Chương 5 97

Ngụy Biện Tính Xác Đáng 97

1. Công Kích Cá Nhân 97

Căn nguyên 98

Lăng mạ 99

Suy diễn gián tiếp 100

Xem ai nói đó 101

Đầu độc nguồn nước 102

2. Kêu Gọi Đám Đông 104

3. Kêu Gọi Lòng Thương 107

4. Kêu Gọi Quyền Lực 109

Quyền lực của cái duy nhất 109

Quyền lực của số đông 110

Quyền lực của số ít được lựa chọn 112

Quyền lực của truyền thống 113

5. Đánh Vào Sự Không Biết 113

6. Kêu Gọi Sự Sợ Hãi 116

7. Tóm Tắt 118

Phần III 121

Chương 6 121

Viết Rõ Ràng và Chặt Chẽ 121

1. Khái Quát Về Cấu Trúc Một Bài Luận 122

Mở đầu 123

Thân bài 123

Phần kết 126

2. Xây Dựng Một Bài Luận 127

Tìm kiếm chủ đề 127

Cụ thể hoá chủ đề của bạn 129

Quá trình động não 129

Viết tự do 130

Đặt vấn đề 130

Xây dựng một luận đề 130

Xem xét về mặt tu từ 131

Độc giả và sự lựa chọn ngôn từ 132

Xắp xếp các đoạn văn một cách hiệu quả. 133

Sửa chữa 135

3. Chú Ý Cuối Cùng: Ngữ Pháp và Cách Sử Dụng 135

Chương 7 136

Những Bài Đọc Gợi Ý 136

Bảng Chú Dẫn Error! Bookmark not defined.

Tác Giả

Engel, Morris S. With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies. 5th ed. New York: St. Martin's Press, 1994.

Morris S. Engel. Với Lý Luận Giỏi -- Giới Thiệu Những Ngụy Biện Thông Thường. x/b 5th. New York: St. Martin's Press, 1994.

S. Morris Engel (Tiến Sĩ Khoa Học, Đại Học Toronto) là một giáo sư triết học tại Đại Học York ở Toronto, Ontario. Trước đó, ông dạy t ại trường Đại Học Miền Nam California (University of Southern California). Những tác phẩm c ủa ông bao gồm Nghiên Cứu Triết Học (The Study of Philosophy), 31e (1990) và Cái Bẫy của Ngôn Ngữ (The Language Trap), (1984 và 1994), bên cạnh những cuốn sách học thuật như học thuyết của Wittgenstein về sự chuyên chế của ngôn ngữ (1971).

Những mối quan tâm về học thuật của giáo sư Engel là ngôn ngữ của lo-gic và triết học. Tuy nhiên, ông cũng nổi tiếng với nhiề u tác phẩm về Ti ếng Đức Cổ (Yiddish). Những tác phẩm của ông gồm Dybbuk (Lên Đồng) (1974-1979), Lễ Ban Phước Hashem (Kiddish Hashem) (1977), v.v....

Phiên Dịch: Tô Yến Nhi, Võ Hồng Long, Vũ Thắng và Lê Nga

Điều Hành: Nguyễn Lưu Trọng Quyền.

Phiên bản nhất này, chúng tôi dịch lại cuốn sách của Giáo Sư Morris S. Engel. Trong những phiên bả n sau, chúng tôi sẽ sưu tầm những sai lầm trong các bài tham luận trên báo chí Việt Nam trong và ngoài nước. Trong thời gian sưu tầ m, những ví dụ sẽ được đăng tại Phố Rùm của trang www.kinhtehoc.com. Kính mong độc giả quan tâm và ủng hộ, vào trang mạng trên đóng góp các ví dụ tiếng việt thực tế hơn.

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

Phần I

Chương 1

Bản Chất và Phạm Vi của Lo-gic

Bất kỳ ai đọc quyển sách này đều đã quen thuộc với vi ệc tranh cãi dường như không bao giờ có hồi kết về trí tuệ và các luận đi ệu của chúng ta, cái việc mà đã là một đặc tính nổi bật của cuộc sống trong suốt những năm cuối thế kỷ 20. Thông qua từng các phương tiện truyền thông đại chúng, chúng ta đã bị dội bom với những lậ p luậ n về mua cái này hay cái kia, tin diễn giả này hay diễn gi ả khác, làm điều này hay làm điều khác. Những thông điệp có tính thuyết phục xuất phát từ bạn bè, gia đình và chính phủ, thậm chí từ những người lạ mà ta chỉ thảo luận trong chốc lát.

Chúng ta thườ ng l ấy những điều "phi lo-gic" (vô lý) để nỗ lực thuyết phục chúng ta, nhưng chúng ta có thể phát hiện rằng rất khó khăn để chống lại nỗ lực đó bởi vì chúng ta không chắc là tại sao tính lo-gic của những tranh luận là không có hoặc nó sai ở điểm nào. Th ật là không may mắn khi mà trong cuộc tranh luận, người nào nói dài nhất, to nhất thường được xem là kẻ "chiế n thắng", thậm chí ông hay bà ta tranh cãi chẳng hay ho gì cả. Đó là bởi vì không có ai đáp lại trong cuộc tranh luận và nếu không có ai chỉ ra rằng những lập luận là yếu hay không thích hợp, thì chúng ta sẽ đi đến suy nghĩ: người tranh luận có thể đúng và hơn nữa chẳng có ai có thể chỉ rằng nó sai và tương tự như vậ y. Đó là lý do tại sao chúng ta chán ngán trong vi ệc tranh cãi về một điều nếu nó không thể nghi ngờ hay tranh cãi. Chúng ta cùng những ngườ i khác có thể bị ảnh hưởng một cách tinh vi hay thậm chí nặng nề bởi nó, có thể trong thực tế sẽ xoá dần đi những bất đồng quan điể m ban đầu với nó, và cũng có thể phát hiện ra rằng rất khó khăn để từ chối tranh luận của người khác hoặc thậm chí kêu gọi hành động xuất phát từ nó. Tất cả có thể dẫn chúng ta đến cảm giác là chúng ta không có sự l ựa chọn nhưng vẫn phải nói và phải làm những việc mà chúng ta với lương tri không chọn hoặc không tin tưởng.

Bằ ng cách nào chúng ta bi ết r ằng chúng ta nên mua cái gì, tin cái gì và làm những việc khẩn cấp? Những lý do đó là gì, và chúng thuy ết phục đến mức nào? Tại sao chúng tồn tại, nếu không thì tại sao chúng bắt buộc chúng ta? Và làm thế nào chúng ta có thể chắc chắn hơn r ằng những phân tích cá nhân về các vấn đề có liên quan đến chúng ta là có lý như chúng ta đã thực hiện? Một mục đích của nghiên cứu lo-gic là đạt được các công cụ

www.kinhtehoc.com 1

Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch

mà với chúng có thể phân biệt một lập luận đúng với một lập luận sai. Theo đó, lo-gic có thể được xem là một trong những nghiên cứu mạnh mẽ nhất chúng ta có thể tiến hành, đặ c biệt là trong thời đại như chúng ta đang sống, thời mà có quá nhiều yêu sách và phản đối các yêu sách.

1. Lý Luận vừa là Một Môn Khoa Học và Môn Nghệ Thuật

Có phải lý luận học là một môn khoa học (như thiên văn học hay di truyề n học), hoặ c là một môn nghệ thuậ t thực hành (như th ể dục hay nấu ăn) không? Có phải mục tiêu của nó là mô tả s ự t ự nhiên và cấu trúc t ư duy đúng, theo cách của một môn khoa học chính xác? Hoặc là nó dạy chúng ta làm thế nào để lý luận đúng như là chúng ta có thể hướng dẫn ai đó chơi kèn?

Nói ngắn gọn là có phải mục tiêu cơ bản c ủa nó là giúp chúng ta hiểu lập luận rõ ràng là gì và dạy chúng ta làm thế nào để lập luận đúng đắn?

M ột tình huống có thể được nêu ra để nhìn nh ận lý luận học bằng một trong những cách này. Một số người cho rằ ng lý luận học ngoài là một môn khoa học, nó khám phá, hệ thống, và thiế t lập các nguyên tắc để lập luận đúng. Họ thậm chí còn gợi ý là giảng dạy cách lập luận có lo-gic là vô ý nghĩa, giống như là chúng ta chẳng cần đợi những nhà tâm lý học dạy chúng ta ăn.

Hoặc là chúng ta bi ết làm thế nào để lậ p luận hoặc chúng ta không biết. Nếu chúng ta có đầy đủ mọi năng lực, chúng ta chẳng cần những hướng dẫn. Nếu chúng ta không có nó thì những hướng dẫn c ũng chẳng giúp được gì.

Những người khác lại cho rằng giá trị cơ bản của lo-gic là nâng cao sức mạnh của những lập luận và tăng cường khả năng của chúng ta để đánh giá sự đúng đắn của những lập luận và sửa chữa những điểm yếu. Với những lợi ích này, lo-gic phải được coi là một môn nghệ thuậ t cũng như là một môn khoa học không chỉ để thông tin cho tư duy mà còn huấ n luyện nó. Một vài ngườ i định nghĩa lo-gic là một nghệ thuật tự do, những nghiên cứu của nó cung cấp hi ểu biết tốt hơn về sự tự nhiên và giúp chúng ta thoát khỏi những suy nghĩ và hành động ngu dốt. Trong quyển sách này, chúng ta sẽ theo đuổi việ c thực hành trên góc độ coi đó vừa là một nghệ thuật vừa là một môn thực hành và quan trọng không kém là tiến hành những nghiên cứu mang tính lý thuy ết của nó. Thực tế là có vài ngườ i sẽ phàn nàn là vi ệc nghiên cứu mang tính thực hành cuả nó với những phân tích về thành kiến, thiên vị, và sự cố chấp thậm chí là quan trọng hơn việc nghiên c ứu mang tính lý thuyết. Lịch sử là một cuốn danh mục về những sự ki ện mà một cuộc tranh luận t ồi tệ đã thuyết phục cả nhiều đám người hành động một cách xấu xa, thậm chí là tàn bạ o. Rấ t nhiều sự tàn bạ o cực điểm trong Thế Chiến II đều là bằng chứng chúng ta cần nói lên rằng với bản chất tự nhiên chúng ta dễ bị thuyết phục để thù ghét và giế t người. Tất nhiên là có nhiề u nhân tố đã đóng góp vào tình hình mà sự huỷ diệt có thể xảy ra nhưng nó không thể đơn giản là đặc điểm nổi bật để cố tình lập luậ n sai trái. Nhưng việc lập luậ n tồi tệ chắc chắn đã thúc đẩy rất nhiều hành động cá nhân mà đã công nhận tính hợp lý cho nó. Và tương tự thế bạo lực và thù hận tiếp tục chi phối xã hội chúng ta. Do đó việc nghiên cứu lo-

2

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

gic đúng đắn là cách thức để chúng ta có thể c ố gắng hết sức để giảm bớt những hành vi như thế trong chính chúng ta và bảo vệ chúng ta khỏi nó.

Nhà trào phúng Jonathan Swift ở thế kỷ 18 đã xuất bả n một tiể u luận có t ựa đề "Một Lời Đề Nghị Khiêm Tốn" trong đó ông đã kín đáo gợi ý rằng tập tục ăn thịt đồng loại là một điều hết s ức hợp lý, là một giải pháp mang tính thực tế cho vấn đề quá tải dân số trong nghèo đói. Trong những gì xuấ t hi ện là một lý luận đẹp đẽ có tính thuyết phục "một điều lo-gic chặt chẽ sẽ dẫn đến tranh cãi khủng khiếp từ những giả thiết đáng kinh ngạc vì thế giả thiết đơn giản rằ ng người đọc tán thành trước khi anh ta biết anh ta tán thành cái gì." (Norton Anthology of Emglish Literature , Quyể n 1, dòng 3, trang 209). Điều mà Swift thực sự muốn làm là b ằng cách đơn giản nào chúng ta có thể bị dẫ n tới những suy nghĩ và quan điểm khiếp sợ -- không dám nói lên hành động nào cả -- bởi một người tranh luận biết cách làm thế nào giả tạo được sự hợp lý. Đó là lý do tại sao chúng ta nên biết cảm nhận sự hợp lý bằ ng bản thân chúng ta nhờ vậy chúng ta có thể phân biệt những thứ giả tạo tinh vi với những thứ thật.

2. Lo-gic là Nghiên Cứu về Tranh Luận

Lo-gic là nghiên cứu về tranh luận. Với cách dùng theo nghĩa này, từ này không có nghĩa là cãi nhau (nh ư khi chúng ta "vướng mắc vào một vụ cãi lộn") mà là một phần của lập luận theo đó một hay nhiều mệnh đề được đưa ra để hỗ trợ cho các mệnh đề khác.

Mệnh đề được hỗ trợ là kết luận của tranh luận. Những lập luậ n được đưa ra để hỗ trợ kết luận được gọi là tiền đề . Chúng ta có thể nói rằng "Có cái này (kết luận) bởi vì có cái kia (tiền đề)" hoặc "Đây là cái này (tiền đề) vì thế có cái kia (kết luận)". Tiền đề nói chung được đưa ra trước bằng những từ ngữ như là bởi vì , do, từ khi, trên c ơ sở này, tương tự, giống như là. Mặt khác, kết luận thường được đưa ra bằng những từ như vì lý do đó, từ lúc này, kết quả là, nó phải theo là, theo cách đó, vì vậy, chúng ta có thể suy ra rằng, và chúng ta có thể kết luận rằng.

Vì thế, bước đầu tiên để tiế n tới thông hiểu về tranh luận là học phân biệt tiền đề và kết luận. Để làm đi ều này, hãy tìm những từ chỉ dẫn, như chúng đã được nêu ra, và liệ t kê. Trong những tranh luận mà những từ chỉ dẫn chỉ như thế bị thiế u, hãy cố gắng tìm kết luận bằ ng cách xem đâu là chủ đề của tranh luậ n: điều mà tranh luận đang c ố gắ ng thiết lập. Đó sẽ là kết luận của nó; phần có lại là những ý nền tảng để hỗ trợ hoặc là tiền đề .

Phân biệt kết luận với ti ền đề trong hai l ập luận dưới đây khá đơn gi ản. Trong trườ ng hợp thứ nhất, một trong những mệnh đề của nó được đưa ra b ằng từ "bở i vì" (nó cho chúng ta biết cái gì theo sau là tiền đề và phần còn lạ i chắc chắn là kết luận của nó). Trong trường hợp thứ hai, một trong những mệnh đề của nó được giới thi ệu bởi từ "vì lý do này" (nó cho chúng ta biết cái gì theo sau là một kết luận và phần còn lại đương nhiên là tiền đề của nó):

a. Jones sẽ không học tập tốt trong khoá học này bởi vì anh ấy có ít thời gian để tập trung vào công việc trường lớp và hầu như không tham gia vào lớp học nào.

b. Cô ta xung khắc với hầu hết mọi người trong văn phòng, vì lý do này mà

dường như cô ta sẽ không được nâng đỡ để phát triển.

www.kinhtehoc.com 3

Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch

Tuy nhiên, trong hai ví dụ dưới đây lại không có những từ chỉ dẫn bổ ích:

c. Chẳng có con cáo nào ở vùng này. Cả ngày, chúng tôi chẳng nhìn thấy con nào.

d. Tất cả những người Đảng bảo thủ phản đối việc xây dựng nhà công cộng. Thượng nghị sĩ Smith phản đối việc này, ông ta nhất định phải là một người Đảng bảo thủ.

Để phân biệt tiền để với kế t luận của nó trong những trường hợp loạ i này phải tự đặt ra các câu hỏi như: cái gì đang được tranh cãi và người ta đang cố gắng thuyết phục chúng ta cái gì? Hoặc trong trường hợp tình huống (c), điề u được tranh cãi không phải là "cả ngày chúng tôi không nhìn thấy con cáo nào" -- bởi vì người khác đã chắc chắn biết điều này và chẳng qua là nhắc lại nó mà thôi -- nhưng quan trọng hơn là vớ i sự thật đã biế t đó, chắc chắn là không có con cáo nào trong khu vực này. Đấy chính là kết luận của tranh luận.

Tương tự như với ví dụ (d), điều được tranh luận không phải là "tất cả người Đảng Bảo thủ phản đối việc xây dựng nhà công cộng" -- đối với tranh luận này, những gi ả thiết là những mệnh đề về th ực tế được chia xẻ -- và quan trọng là với những thực tế đó, Smith là một người của Đảng Bảo thủ.

Vi ệc tìm ra kết luậ n của một tranh luận không được chỉ dẫn rõ ràng như trên không phải luôn luôn dễ dàng và chắc chắn. Sự giúp đỡ tốt nhất của chúng ta là chú tâm cẩn thận vào nội dung và lối diễn đạt của tranh luận và chỉ dẫn của những lập luận.

• Một tranh luận là một phần của việc lập luận mà trong đấy một hay nhiều mệnh đề được đưa ra để hỗ trợ cho các mệnh đề khác.

• Một mệnh đề được hỗ trợ được gọi là kết luận của tranh luận; những lập luận được đưa ra để hỗ trỡ được gọi là các tiền đề.

• Những từ chỉ dẫn như là từ đó, bởi vì, vì thông thường đưa ra những tiền đề; những từ do đó, vì vậy, và kết quả là nói chung là đưa ra những kết luận.

• Trong những tranh luận thiếu những từ chỉ dẫn như vậy, hãy cố gắng tìm ra kết luận bằng cách xác định chính xác quan điểm mà tranh luận đang cố gắng thiết lập. Đó sẽ là kết luận, phần còn lại chính là nền tảng hỗ trợ hay là các tiền đề.

4. Tranh Luận và Không-Tranh-Luận

Như chúng ta đã thấy, một tranh luận là một phầ n c ủa việ c lập luận mà trong đó một hay nhiều mệnh đề được đưa ra để hỗ trợ các mệnh đề khác. Nếu như một điều được viết đưa ra một tuyên bố nhưng không đưa ra những lý do để chúng ta tin tưở ng nó, thì nó không phải là một tranh luận. Tương tự, một thông điệp mà không làm người ta thừa nhận

4

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

thì cũng không phải một tranh luận. Vì thế những câu hỏi không phải là tranh luận, tương tự như thế đối với một tuyên bố, phàn nàn, tán thành hoặc xin lỗi.

M ột lần nữa, những thông điệp như vậy không phải là là tranh luận, chúng không có những cố gắng để thuyết phục chúng ta. Ví dụ, "Có k ế hoạch nào để đưa 'the Little Rascals' lên không trung lại không?" chỉ là một câu hỏi mà không phải là một tranh luận. Nó yêu cầu các thông tin, mà không tán thành tuyên bố nào.

Cũng tương tự cho các ví dụ dưới đây:

a) Tôi không định xem nữa các chương trình TV với những pha cười. Lại có thể có những người cười khi một ai đóng cửa. Tôi sẽ cười khi tôi muốn cười. Tôi nghĩ là họ nên để các pha cười ở chương trình tin buổi tối khi những dự báo viên thời tiết đang trên không trung.

b) Tôi tiêu $125 để tham dự một buổi lên đồng và người dẫn đã xuất hiện với áo jacket đua, quần jeans, và áo T-shirt quảng cáo cho một cửa hàng bán guitar ở California. Tôi đã xem xét về sự trải nghiệm tồi ở Philadelphia. Ông ấy chắc chắn là thầy số tốt nhất mà tôi gặp trong sáu mươi năm của cuộc đời nhưng bạn có thể thấy thấy cách tiếp cận mang chất Kung-Fu của ông ấy đối với thế giới tâm linh.

c) Sự thoả mãn chân thành nhất trong cuộc đời đến khi thực hiện và rũ bỏ được trách nhiệm, đối mặt và giải quyết được các vấn đề, đối mặt với thực tế và là một người độc lập.

Ví dụ (a) là một cách diễn đạt về sự khinh miệt và tởm lợm, (b) là một lời phàn nàn, và (c) chắc chắn là một quan điểm tất cả không có những nỗ lực nào để thuyế t phục chúng ta. Vì thế, không một cái nào trong chúng là tranh luận. Điều này không có nghĩa là những thông điệp này là những ý kiến t ồi; chúng chỉ đơn thuần không phả i là những tranh luận mà thôi. Chúng chứa đầy tính quy c ủ và thường có những chức năng cần thiết. Khó khăn hơn nữa là nh ững trường hợ p mà ở đó những lập luận được đưa ra thực sự nhưng chỉ nhằm để phân định hơn là để bào chữa.

Mặc dù bề ngoài giống như các tranh luận, các thông điệp như thế thường chẳng hơn gì một bộ sưu tập các mệnh đề, cái này mở rộng trên cái kia.

Ví dụ, chúng ta hãy xem xét câu cách ngôn nổi tiếng của Francis Bacon:

d) Ng ười mà chìm đắm trong chuyện vợ con chắc chắn bị cầm tù bởi thời vận cũng như danh tiết hay rắc rối, vì họ là vật cản đến với sự nghiệp lớn.

Hơn cả việc đưa ra những lý do giải thích, theo quan điểm của Bacon, phụ nữ và con trẻ ngăn trở con đường c ủa người đàn ông (bị c ầm tù bởi thời vận), ông chỉ đơn giản là giải thích cho bản thân bằng cách mở rộng và nhắc l ại quan điểm. Vì thế nó không phải là một tranh luận. Nh ưng nhiều tình huống không phải luôn luôn cắt nghĩa đơ n giản được, người ta thường sẽ gặp các ví dụ mà giải thích và nhận xét thường trộn vào nhau.

e) Ở Hollywood, danh tiế t của một cô gái còn kém quan trọ ng h ơn cả kiểu đầu của cô ta. Bạn sẽ bị phán xét thông qua cách bạn trông ra sao, chứ không phải là bạn

www.kinhtehoc.com 5

Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch

là cái gì. Hollywood là n ơi mà họ sẽ trả bạn cả ngàn dollar vì một cái hôn, và nă m mươ i cent cho tâm h ồn của bạn. Tôi biế t, bởi vì tôi đã thường xuyên từ chối lờ i đề nghị thứ nhất và giữ lại năm mươi cent. (Marilyn Monroe, Câu chuyện của tôi)

Mặ c dù đoạn trích này chứa đầy những lậ p luận và dường như là một nỗ lực để rút ra kế t luận rằng ở Hollywood "đức hạnh của một cô gái còn thấp hơ n kiểu đầu của cô ta" và là "nơi mà người ta sẽ trả bạn cả ngàn dollar cho một cái hôn, và năm mươi cent cho tâm hồn của bạn," mặc dù thế ý định chủ yế u và chi phối của nó không phả i là thuyết phục người đọc về tất cả điểm này -- như thể anh hay cô ta chưa biết về nó -- mà là cho phép Monroe chia xẻ với người đọc một cách nhìn nhận chung, có lẽ còn đưa được ý tưởng đó đi xa hơn.

Và có lẽ đó là cách khác mà chúng ta dựa vào để phân biệt một đoạn văn mà mục đích chủ yếu là để giả i thích hơn là để thuyết phục: một sự giải thích đưa ra một vài thứ mà đã được coi là sự th ật và cố gắng làm sáng tỏ hơn; một tranh luận lạ i đưa ra một vài điều nói chúng la không được biết đến và đồng ý và cố gắng thiết lập nó là đúng.

Một lời giải thích, cái mà chỉ để nói, bắt đầ u bằng một mệnh đề chắc chắn là đúng và cố gắng hoàn chỉnh những gì tác giả ngụ ý một cách chính xác, để khẳ ng đị nh. Còn một tranh luận cố gắng thiết lập rằng mệnh đề nêu trong câu hỏi là đúng bằng cách đưa ra những lập luận cho nó.

Mục đích của một tranh luận là bắt chúng ta đồng ý với người nói hay người viết về cái gì đó.

Không phải tất cả những gì viết hay giao ti ếp là tranh luận. Có rấ t nhiều thứ đơn giản không phải là tranh luận, chúng ta không cần mong đợi những điều này phải được trình bày một cách rất lo-gic.

Nếu một đoạn văn rất khó để phân loại, hãy cố gắng quyết định: cái gì là mục tiêu chi phối hay chủ đạo của nó? để xả hơi, để khảo sát, hoặc yêu cầu, thông tin, để giải thích, để thuyết phục?

4. Loại Bỏ Sự Dông Dài

Tranh luận theo di ễn đạt phổ bi ến thườ ng bị vướng víu bởi những l ần lặp lại, dông dài, và không minh bạch. Để nhìn thấy rõ hơn những tranh luận như thế là gì cần thiết phải làm sạ ch những thứ mục ruỗng khỏi nó. Thỉnh thoảng điều này cũng dính tới việc lờ đi những lờ i giới thiệu khá dài dòng giống như ví d ụ dướ i đây chỉ dẫn cổ điển về việc bán hàng của Og Mandino "Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới"

a) Ngày hôm nay, tôi sẽ làm ch ủ cảm xúc của mình. Thuỷ triều lên, và thuỷ triều xuống. Mùa đông đ i và mùa hè đến. Cái nóng giảm đi và lạ nh tăng dầ n. Mặt trời mọc, và mặ t trời lạ i lặn. Tră ng tròn rồi lại khuyế t. Con chim bay lên rồi lại h ạ xuống. Hoa nở rồi hoa tàn. Hạt giống được reo rắc và rồi mùa màng được thu hoạch. Tât cả tự nhiên là một vòng tuần hoàn các trạng thái và tôi cũ ng là một phần củ a tự nhiên. Và do thế, giống như thuỷ triều, tâm trạng của tôi s ẽ hưng phấn và tâm trạng sẽ ảm đạm. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm chủ cảm xúc của mình.

6

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

Những gì tranh luận này thừa nhận được chứa trong từ câu thứ hai đến câu cuối cùng c ủa nó. "Tấ t cả tự nhiên là một vòng tuần hoàn các trạng thái và tôi cũng là một phần của tự nhiên. Và do thế tâm trạng của tôi sẽ hưng phấn và tâm tr ạng của tôi sẽ ảm đạm" Với mục đích để đánh giá có lo-gic, tất cả những gì được đưa ra trước không ăn nhập, tuy nhiên lại rất hay và có thể suy tưởng ra từ nó.

Những gì lời giới thiệ u đề cậ p đến mà kết luậ n c ũng đề cập như thế thì có thể không cần thiết phải nhắc lại những gì đã được công bố đầy đủ. Ví dụ trên là một điển hình của những nhắc lại không cần thiết. Có phả i ba câu cuối của đoạn văn nói lên được điều gì mà chúng chưa được nhắc đến ở phía trước không?

b) Điều quan trọng là b ạn ph ải nghiên cứu cả quyển sách này với sự c ẩn th ận . Cơ quan bả o hiểm liên bang nơi phụ trách các k ỳ thi về b ảo hiểm luôn thực hiện trách nhiệm củ a họ một cách nghiêm túc để bảo vệ cộng đồng khỏi những người không đủ trình độ. Vì lý do đó, các kỳ thi về bảo hi ểm cu ộc sống không thể dễ dàng đỗ qua. Những ngườ i phụ trách trong tương lai đã nghiên cứu mộ t cách hời hợt thường ngạc nhiên khi biết rằng h ọ đã thi trượt. May m ắn là, nhữ ng người phụ trách trong tương lai đó những người mà đã đủ trình độ đã ti ến hành nghiên cứ u với sự quyế t tâm cao hơn và đã thi đỗ trong các dịp vớt. Khi mà cuộ c thi không được coi là d ễ dàng, chúng cũng không bị coi là khó mộ t cách vô lý. Mục đích c ủa kỳ thi là kiểm tra kiến thức của bạ n về một loại thông tin có trong sách. Nếu mà bạn đã nghiên cứu thông suốt thì bạn sẽ có c ơ hội để đỗ. Tuy nhiên thường thì một ví dụ dài dòng một cách giản đơn và cần phải rút gọn triệt để trước khi cấu trúc củ a nó có thể xem xét một cách rõ ràng nh ư là ví dụ về hút thuốc lá đã đượ c nêu ra ở trên. Trước khi những tranh lu ận kiểu này có thể có thể được đánh giá xác đáng, chúng cần phải đượ c viết lại càng trong sáng càng tốt và những tiền đề và kết luận được sắp xếp theo trật tự lo-gic.

Sửa lại hai tranh luận được nêu ra trong những câu dài lê thê, chúng ta phát hiện ra rằng chúng cơ bản đề cập đến những điều sau:

a) Tất cả tự nhiên là một vòng tuần hoàn các trạng thái; tôi là một phần của tự nhiên; do vậy tôi cũng phải chấp nhận sự thật là tôi cũng phụ thuộc vào sự dao động của tâm trạng.

b) Những kỳ thi về bảo hiểm không dễ dàng vượt qua nếu không có sự chuẩn bị

kỹ càng. Vì thế, để chính bản thân bạn chuẩn bị chúng đúng mực, hãy mua và đọc quyển sách này cẩn thận.

Trong việc loạ i bỏ những rườm rà khỏi các tranh luận, chúng ta sẽ phải loại bỏ một vài thứ thơ thẩn, bóng bẩy của nguyên bản. Đây là một sự hy sinh, tuy nhiên chúng ta cần phải làm để đạt được sự trong sáng của lo-gic.

Những tranh luận mà có tính lặp lại với rất nhiều từ, hoặc chứa các mệnh đề không ăn nhập nói chung thườ ng thất bại trong việc đưa ra những ý nghĩa chủ đạo. Để đạt được một tranh luận thực sự, những sự rườm ra cần phải bị loại bỏ.

www.kinhtehoc.com 7

Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch

Nói chung, những cụ m từ hay mệnh đề không cần thiết thường được chứa trong phần giới thiệu hay kết luận. Thông thường, những từ vô nghĩa cần phải loại bỏ hoàn toàn, và tranh luận sẽ được cấu trúc lại để có một trật tự lo-gic.

5. Những Bộ Phận Khuyết Thiếu

Như chúng ta thấy, cấu trúc cơ bản của một tranh luận thườ ng bị che dấu bởi sự rườm rà, chúng ta cần phải loại bỏ những thứ đó, vì thế những tiền đề và kết luậ n có thể xuất hiện rõ hơn trước chúng ta. Nhưng cấu trúc của một tranh luận cũng có thể bị che khuất bởi chúng ta (như là hậu quả của việc định hướng sai và lầm lẫn) bởi vì nó quá rời rạc và có bộ phận bị bỏ quên. Những tranh luận như th ế này có thể gây ầm ĩ hơn như chúng vẫn thường thế bởi vì chúng ta không nhận biế t các giả thiết quan trọng được chúng thuyết lập và chúng dựa vào đó để tồn t ại. Những giả thuyết này cần phải được đào lên nếu như bị ẩ n đi, hoặc phải làm rõ ràng nếu như không được diễn đạt. M ỗi lần chúng được làm rõ ràng, sẽ dễ dàng hơ n để làm sáng tỏ vai trò của các bộ phận bị bỏ quên này (những giả thuyết) trong lập luận và để đo mức độ mà tranh luận phụ thuộc và nó. Sẽ dễ dàng hơn để tìm ra những bộ phận khuyế t thiếu cuả một tranh luận nếu chúng ta theo dõi, trong nhiều cuộc tranh luận, những luận điểm hỗ trợ được đưa ra chứa đựng mệnh đề của một nguyên lý cơ bả n và được đưa ra như là bằng chứng cho kết luận và vi ện dẫn của một tình huống. Sau đó, kết luận suy diễ n ra rằng những gì đúng với nguyên lý cơ bản thì cũng đúng với tình huống của câu hỏi. Sau đây là một ví dụ cổ điển:

a) Tất cả đàn ông đều phả i chết. Socrates là một người đàn ông (tình huống). Socrates sẽ phải chết (kết luận)

Trong tình huống trên, ví dụ là của Aristote (Số 27) và của Samuel Johnson (Số 28) rất phù hợp với kiểu mẫu này. Bằng cách rút gọn và đặt chúng đúng dạng lo-gic, những gì bạn thu được sẽ giống như dưới đây:

b) Hạnh phúc là có những gì bạn cần. Một trong những thứ bạn cần là bạn bè. Vì thế, để có hạnh phúc, bạn cần có bạn bè.

c) Thi ca là một nghệ thuật có thể bắt chước.Thơ ca siêu hình học không thể bắt chước. Vì vậy thơ ca siêu hình học không phải là thi ca.

Vì thế, những cuộc tranh luận siêu hình học theo loại này có thể thi ếu hoặc là mệnh đề c ủa nguyên lý chung (trong lo-gic, được gọi là tiền đề), hoặc là sự tham khảo đầy đủ cho tình huống của câu hoi (tiền đề phụ), hoặc là sự suy diễn (kết luận). Có một vài ví dụ như sau:

d) Đây là những thức ăn tự nhiên và vì thế tốt cho bạn.

Phần được loại bỏ ở đây là tiền đề chính: tất cả những thức ăn tự nhiên sẽ tốt cho bạn. (chỉ dẫn bộ phận bị bỏ quên):

Tất cả những thức ăn tự nhiên tốt cho bạn. Đây là những thức ăn tự nhiên. Những thức ăn này tốt cho bạn.

8

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

e) Bạn sẽ là một cô giáo tuyệt vời. Như bạn biết, những người thích trẻ em luôn luôn làm được điều này.

Ở đây, phần được lược bỏ là tiền đề phụ: bạn rất thích trẻ em.

Tất c ả những ai thích trẻ em đều là những cô giáo tốt. Bạn thích trẻ con. Bạn sẽ là cô mẫu giáo tuyệt vời.

f) "Yon Cassius có một cái nhìn đói khát và thèm thuồng; những người đàn ông như vậy rất nguy hiểm"

Ở đây, phần bị lược bỏ là kết luận: Cassius là nguy hiểm.

Tất cả những ai có cái nhìn đói khát và thèm thuồng là nguy hiểm. Cassius có cái nhìn như vậy. Cassius là nguy hiểm.

Không phải tất cả những loạ i bỏ như vậy là tự nhiên, hoặc là được thực hi ện để đạt đượ c sự bóng bẩy văn chương hoặc vắn tắt. Thông thường những gì được loại bỏ đều có tính gây nghi vấn cao và thường được loại bỏ rất có ý đồ:

g) Đây chắc chắn là một quyển sách hay; nó được Câu Lạc Bộ Những Quyển Sách Bán Chạy nhất hàng tháng chọn.

Những gì còn lại không được tuyên bố ở đây là tiề n đề chính: tất cả những quyển sách được Câu Lạc Bộ chọn là những quyển sách hay. Vì lý do dễ hi ểu đó, tuyên bố một cách rõ ràng là thu hút sự chú ý và nó sẽ trở thành những thách thức của các câu hỏi. Cũng tương tự đúng như thế cho hai ví dụ dưới đây:

h) Tất cả chất cồn đều rút ngắn cuộc sống, vì thế Jim sẽ không sống lâu.

i) Kẻ hèn nhát luôn đáng khinh miệt, và đây rõ ràng là một trường hợp của sự hèn nhát.

Mặc dù trong những trường hợp ngắn như vậy, những bộ phận khuyết thiếu thường dễ dàng làm tư duy chuyển đột ngột hoạ t động, nó vẫn là một l ợi đi ểm, trong suy ngh ĩ của người tranh luận, không xác định chúng rõ ràng, do đó làm thế một lần nữa là thu hút sự chú ý và thách thức những phản đối.

Càng khó để cắ t nghĩa, và càng xa những thói thông thường, những ví dụ càng dài và càng rắm rối. Th ỉnh thoảng, chúng có những cơ hội lớn hơn để tạo ra ả nh hưởng, dẫn dụ và vì lý do này một nỗ lực lớ n hơ n phải làm để ẩn đi những giả thuy ết mà tranh luận đứng trên đấy. Bởi vì những tranh luận thường phức tạp hơn về mặt động từ nên dễ dàng để mất dấu những bộ phận khuyết thiếu. Sau đây là một quảng cáo về băng với những dòng đơn sơ:

j) Hầu hết mọi người đều cảm thấy cô đơn vào lúc nào đó và do nhi ều thứ đây là một trạng thái song hành bất biến. Từ những đứa trẻ mới cảm thấy nó không có bạn cho đến những ngưòi già cảm thấy thừa thãi trong tâm trạng trống vắng lạ nh lẽo. Những đứa trẻ mới lớn thường cảm thấy chúng chẳng là ai và những đứa

www.kinhtehoc.com 9

Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch

mớ i trưởng thành c ảm th ấy không có b ạn bè gì c ả. Đoạn ghi lại nổi b ật này không chỉ là nhữ ng tin tức đáng quan tâm mà còn chứa đựng cách tiếp cận chủ động để giải quyết sự trống rỗng này.

Diễn đạt lại đoạn tranh luận này, chúng ta phát hiện ra rằng nó khẳng định những điều sau:

Mọi người đều phải chịu đựng sự cô đơn.

Đoạn ghi này là một phương thuốc cho sự cô đơn. Đoạn ghi này sẽ khuây khoả sự cô đơn của bạn.

Điề u mà chúng ta bây giờ có thể nhìn thấ y là kết luận đã bị bỏ qua. Diễn đạt nó một cách trong sáng có thể dấy lên câu hỏi trong tâm trí người khác. Thậm chí nếu sự thật là đoạn ghi này đã giúp những người khác, liệu nó có thể giúp tôi không?

Tất nhiên là không ph ải tất cả những lược bỏ loại này có thể gây ra ngờ vực. Thường thì một người sẽ loại bỏ một bộ phận bởi vì nó quá là rõ ràng để di ễn đạt rõ ràng. Thỉnh thoảng người ta cũng loại bỏ một bộ phận bở i vì các lý do xúc động, và thỉ nh thoảng cũng bởi vì ng ười ta mong muốn được chăm sóc và quan tâm. Trong ví dụ về gia cầm, chúng ta được thông tin là để kích thích tăng trưởng và t ăng cường đề kháng, bây giờ gia cầm được nuôi ăn và chăm sóc vớ i các liều l ượng thuốc lớ n chứa nhiều những hoá chất nguy hiểm. Kết luận rút ra là, cần phải khôn ngoan hơn để phát hiệ n nguy hiểm thường được đề cập đơn gi ản do những cách chăn nuôi mới và kinh doanh mới đối với chúng ta. Nó đã không được tuyên bố minh bạch.

Nếu như đây là tất cả những gì, thì những do dự đó có thể được bảo vệ khỏi những quan điểm khoa học hoặc những quy định của pháp luật. Tuy nhiên về lo-gic, chúng ta nên luôn luôn làm rõ quan điểm để biết được cái gì đang được khẳng định và chúng ta đang được yêu cầu tán thành cái gì.

Một vài tranh luận rất khó để đánh giá bởi vì chúng thiếu một hay nhiều những nhân tố cần thiết để làm thành một tranh luận chắc chắn.

Chúng ta phải phân tích những tranh luận đó cẩn thận để quyết định những giả thuyết nào chúng ẩn đi, những nhân tố nào khuyết thiếu: tiền đề chính, tiền đề phụ hoặc kết luận.

Thỉnh thoảng những bộ phậ n của một tranh luận có thể được lược bỏ bởi những nguyên nhân hợp lệ. Nhưng chúng ta phải làm rõ và đánh giá trong các tình huống để quyết định sức mạnh tổng thể của một tranh luận.

Tìm kiếm những bộ phận khuyết thiếu theo phương pháp tam đoạn luận.

Những bộ phận khuyết thiếu rất có thể được tìm thấy dễ dàng bằng cách nhận biết rằng rất nhiều tranh luận của chúng ta đều theo dạng tam đoạn luận cổ điển của Aristotle, đây là một ví dụ về nó:

10

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

[phần giữa] [phần chính]

Tất cả đàn ông đều phải chết

----------- [phần giữa] Socrates là đàn ông. [ý phụ] ---- [ý chính]

Socrates phải chết.

Những tranh luận như thế chứa ba hoặc duy nhất ba bộ phận chính hoặc thuật ngữ. Trong ví dụ trên, đó là Socrates, cái chết tất yếu, và đàn ông. Chủ đề của kết luận của một tranh luận như thế được goi là thu ật ngữ phụ, khẳng đị nh lo-gic của kết luận được gọi là thuật ngữ chính, và thuật ngữ còn lại, cái mà xuất hiện trong mỗi tiền đề của tranh luận nhưng không trong kết luận được gọi là thuật ngữ chuyển tiếp. (Chú ý r ằng từ "xác nhận" trong văn cảnh này được dùng khác với khi chúng ta dùng để th ảo luận về ngữ pháp). Tranh luận chỉ ra rằng làm thế nào mà từ chủ ngữ (Socrates) và từ xác nhận mang tính lo-gic (phải chết) lại liên kết với nhau thông qua cách thức mà mỗi từ liên kết với từ trung gian (đàn ông).

Dù chỉ biết chút ít về phương pháp tam đoạn luận cổ điển, chúng ta có thể tìm ra những phầ n khuyết thiế u của chúng khá đơ n giản. Ví dụ, trong tranh luận "Đây là những thức ăn tự nhiên, vì thế chúng tốt cho bạn" có thể thiết lập theo phương pháp tam đoạn luận như sau:

......................... [phần giữa]

Những thức ăn này là thức ăn tự nhiên.

[ý phụ]..............[ý chính]

Những thức ăn này tốt cho bạn.

Sáng tỏ ngay lập tức phần khuyế t thiếu phải là cái gì: một tiền đề chứa đựng thuật ngữ chính và thu ật ngữ trung gian. Phần khuyết thiếu là: tất cả những thức ăn tự nhiên (từ trung gian) là tốt cho bạn (phần chính).

6. Làm Nổi Bật những Thành Phần Khả Nghi

Trong hoàn cả nh c ủa tranh luận, một thành phần bị nghi ngờ nế u nó được nêu ra để chuyển tải nhiều điề u hơn khả năng của nó. Những thành phần như thế thường khơi gợi những nghi ngờ của chúng ta, nhưng l ại có xu hướng để lại cho chúng ta những mất mát để làm thế nào đáp trả. Chúng ta sẽ kiểm tra chúng một cách rất chi tiết trong phần 2. Tuy nhiên, bởi vì những thành phần đáng nghi l ại có mặt khắp nơi và thường gây những ảnh hưởng mạnh mẽ đến chúng ta, nên điều rất quan tr ọng là chúng ta bi ết rõ về chúng một cách sớm ngay từ những điểm đầu tiên trong công việc của chúng ta về việc tranh luận.

www.kinhtehoc.com 11

Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch

Để quyết định một tranh luận có chứa những thành phần đáng nghi hay không, chúng ta c ần hỏi những câu hỏi như: từ ngữ c ủa tranh luận này có sáng sủa để chúng ta biết chắc chắn những gì bả n thân anh ta hay cô ta cam kết? Có phải những sự thật được trình bày để hỗ trợ hi ệu quả của kết luận như là một hỗ trợ? Chúng có thích đáng không? Chúng ta có chấp nhận chúng là đúng không? Cụ thể hơn, những minh hoạ có thích hợp không? Chúng có ý nghĩa không? Và ở mức độ nào? Những vấn đề đáng được xây dựng hơn là đơn giản quẳng vào sọt rác của những thứ phát ngán?

Ví dụ hãy đề cập đến lá thư gửi cho biên tập cho buổi nhậm chức Tổng Thống:

"Để đáp lại những lá thư phản đối vi ệc trình bày phô trương và sử dụng tiền nong sai mục đích quá đáng để thực hiện lễ nhậ m chức của Tổng Thống, tôi muốn nhắc nhở những người phản đối rằng từ nh ững th ời điểm không thể ghi nhớ, qu ần chúng sùng bái đã chào mừng nh ững người lãnh đạo chính quyền h ết sức trang trọng. Vậy thì tại sao Tổng Thống của liên bang lại nên t ổ chứ c buổ i lễ của ông ở văn phòng trong trang phụ c đáng vứt đi và bụi bặ m? Vẻ tráng lệ và nghi lễ và sự th ể hiện của quần áo lộng lẫy, trang s ức, đồ lông thú và nhữ ng thứ rực rỡ khác đã đi vào lịch sử như là một phần không thể thiếu của những lễ đăng quang, không chỉ ở Quốc Gia Hoa Kỳ mà còn ở hầu hết những nơi của thế giới tự do."

Điều mà người viết thất bại là khi sự thực là Tổng Thống và những người lãnh đạo của "thế giới tự do" là lãnh đạo của chính quyền, có một điều khác biệt thiết yếu giữa Tổng Thống của Hoa Kỳ và các lãnh đạo c ủa các quốc gia khác. Khi văn phòng của Tổng Thống được thành lập, cuộc cách mạng của người Mỹ là nỗi đau đầu của nhà vua; họ đã không có dự định thành lập một thể chế quân chủ với chức vị Tổng Thống thay thế vua. Không giống như các chế độ quân chủ, Tổng Thống được lựa chọn bằng bỏ phiếu c ủa quần chúng và bị coi là ngườ i đầy tớ của nhân dân. Vì thế s ẽ không có chuy ện dùng làm lễ nhậm chức của Tổng Thống rênh rang và hậu hỹ như được tổ chức cho các lãnh đạo chính quyền khác. Bài báo sau cũng có tính nghi vấn tương tự, nhưng vì những lý do khác:

"Trước nhất ông Thompson, ông nghĩ ông là th ằng quái nào? Ai cho ông cái quyền tối cao trong cuộ c sống ở cái trường đại học này? Phả i chính ông, cũng giống như bất cứ ai, đã cho mình cái quyền làm theo ý mình, nhưng những lời bình phẩm vô giáo dụ c và ngu ngốc của ông đáng được giới hạn Bởi Ban Điề u Tra Qu ốc Gia. Sự tấn công vô nghĩa c ủa ông vào hệ thống người Hy Lạp của trường đại học có một tiếng tăm hiếm có là việc trẻ con nhất, l ố bịch nhất, đấy còn là không đề cập đến ph ần ngu xuẩn thự c sự của văn phong ở nh ững trang này đã đượ c in rất lâu. Thái độ trẻ con của ông không chỉ xúc phạm đến mọ i thành viên của Row mà còn toàn thể cái trườ ng đại học này. Mặc dù cái đầu óc trẻ con của ông t ừ ch ối thừa nh ận nó, trường đại học này trong thực tế rất tự hào về cộng đồng của người Hy Lạp ở đây thậm chí cả với những nhược điểm của nó."

Hơ n là kể cho chúng ta quan đi ểm của ông Thompson là gì và chúng sai ở đâu, người viết đã lao vào cuộc tấn công cá nhân, đơn giản bằng cách xổ ra cơn thịnh nộ và khinh miệt c ủa anh ta. Bằng cách gọi những quan sát c ủa đối thủ là "không có giáo dục", "ngu ngốc," "vô nghĩa", "lố bịch," vv..., chẳng kể cho chúng ta đi ều gì về lời bình phẩm kia cả, và cùng chẳng vì sao mà người viết cho là chúng không có giá trị.

12

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

Chúng ta chẳ ng cần phải là bậc thầy trong nghệ thuật lập luậ n cũng biết rằng sự đúng đắ n của chúng ta trong tranh luận . Vì thế, chúng ta không nên chần chừ trong việ c yêu c ầu bằng chứng khi một phần trình bày hay gi ải thích dườ ng như quá bừa bãi hoặc đáng ngờ. Ví dụ, hãy xem xét phần tranh luận của người được uỷ quyền bảo vệ trong tình huống lạm dụng trẻ em ở trường McMartin được báo cáo dưới đây:

Một nhân chứng mườ i tuổi trong vụ quấy rối ở trường trung học cơ sở McMartin đã bình tĩnh nhớ lại ngày thứ ba đến ba lần kể từ khi cậu bị cho là thủ phạm giết một con ngựa một tuần trước đó khi cậu và những bạn trẻ khác bị buộc phải chứng kiến.

Trong ngày thi, cả ngày thứ bốn của kỳ thi chuyển, c ậu bé nói, trong một cuộ c dạo chơi cánh đồng ở g ần một trang trại không xác định, người bảo vệ Raymond Buckey, 26 tuổi, đã xẻ đôi một con ngựa con bằng một con dao dài 2 foot, anh ta dùng nó như một cái rìu.

"Anh ta chặt nó ra" cậu bé kể với người được uỷ quyền Bradley Brunnon, người đại diện cho người sáng lập Virginia McMartin, 77 tuổi.

"Thậm chí là ra từng mảnh, đúng không?" Brunon hỏi.

"Phải" cậu bé trả lời.

Brunon cho in ra những chi tiết.

Khi được hỏi Buckey đ ã đâm bao nhiêu nhát vào con ngựa sau khi nó ngã, đứa bẻ trả lời "Cháu không đếm"

Khi được hỏi Buckey vấy đầy máu sau khi giết con ngựa, nó trả lời "cháu không biết, cháu không nhìn Ray, cháu nhìn con ngựa"

Bên nguyên đã phản đối tác dụng những câu hỏi chi tiết c ủa ng ười được uỷ quyền bảo vệ, kêu gọi chất vấn sự không ăn khớp, nhắc đi nhắc lại và đáng tranh luận

Tuy nhiên, người được uỷ quyền bảo vệ đấu tranh cho rằng những câu hỏi như thế là cần thiết để chỉ ra r ằng đứa trẻ hoặ c là đang kể chuyện hoặc là có một ký ức mơ h ồ, và h ọ chỉ rằng đứa trẻ thường xuyên trả lời là "cháu không nhớ" hoặc là "cháu không biết".

"Nếu nó thực s ự đã nhìn thấy sự kiện hãi hùng đó, nó sẽ phải nhớ chi tiết của nó", Brunon nói với quan toà trong một trong những cuộc tranh luận của ngày thứ ba về các câu hỏi.

Rõ ràng, trong quan điểm của người được uỷ quyền Brunon, lờ i khai của đứa trẻ sẽ bị nghi ngờ không tuỳ thuộc vào việc nếu đứa trẻ có thể nhớ một cách chi tiết hay không (mà chắc chắn là nó sẽ nhớ hoặc không nhớ): nếu đứa trẻ nhớ các chi tiết, đặc biệt là không có mớ m chước đó, thì Brunon sẽ phản đối là đứa trẻ đang bịa (hoặc là được mớ m bởi bố mẹ nó hay bên bên nguyên), còn nếu đứa trẻ không nhớ, Brunon sẽ phê bình là đữa trẻ đã có một ký ức mơ hồ, điều này sẽ làm cho bản cung khai của đứa trẻ có chút gì nghi vấn. Đặc biệt là điều đáng nghi vấn là cách bảo vệ của Bruno rằng nếu "đứa trẻ đã nhìn thấy sự

www.kinhtehoc.com 13

Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch

việc khủng khiếp đó, nó sẽ phải nhớ các chi tiết". Đó là vi ệc Bruno tin tưởng rằng có cái gì khủng khiếp như việc xẻ đôi một con ngựa đã gây sốc đối với đứa tr ẻ đến nỗi mà mọi chi tiết của vụ mổ thịt, ăn sâu một cách mạnh mẽ vào tâm trí của đứa bé mãi mãi. Nhưng điều đó có thể không luôn luôn đúng. Có nhiề u trường hợp đối với người ta, đặc biệt là trẻ con, kìm nén những ký ức về các sự kiện quá khủng khi ếp với họ để có thể nghĩ l ại. Cũng có thế là trong những khoả ng thời gian nhất đị nh, đứa trẻ sẽ nhớ các sự kiện c ơ bản nhưng không được chi tiết. Nó có thể không tham sự vào tấ t cả các chi tiết của vụ xẻ thịt và không thể hồi tưởng lại chúng sau đó. Vì thế các kết luận của Brunon không được đảm bảo.

7. Đánh Giá các Tranh Luận: Đúng, Giá Trị và Hợp Lý

Thỉnh thoảng, người ta được nghe là, "nó có thể lo-gic đấy nhưng không đúng," hoặc là "tất cả những gì đúng không phả i luôn luôn lo-gic." Cả hai cách nhìn này đều đúng, tất nhiên chúng không có nghĩa là lo-gic là không liên quan đến sự thật. Thực tế, lo-gic định nghĩa sự thật một cách nghiêm ngặt và nó tách biệt với hai khái niệ m khác là hợp lý và giá trị , thỉnh thoảng nó cũng lẫn lộn với chúng trong bản gốc. Ba khái niệm này cùng nhau tạo ra một cơ sở để đánh giá bất kỳ tranh luận nào.

Aristotle, người đã thiế t lập khoa học c ủa lo-gic trong thế kỷ thứ tư trước công nguyên, là người đầu tiên phát hiện ra sự khác biệt giữa sự thật và tính hợp lý. Có lẽ đây là cống hiến quan trọng của ông đối với lĩnh vực này.

Tính chấ t giá trị đề c ập đến tính đúng đắn mà kết luận rút ra từ những ti ền đề của nó -- liệu những kết luận có phụ thu ộc vào chúng hay không. Mặt khác, sự thật lại đề cập liệu những tiền đề và kế t luậ n đó có phù hợp với thực t ế không. Vì thế, có thể trong lý luận, bắt đầu với những tiền đề đúng đắn nhưng lại đạt được những kết luận sai (bởi vì chúng ta đã lập luận tồi với những tiền đề đó) hoặc là l ập luận đúng, có giá trị nhưng lại không đạ t được kết luận thực tế nào (bởi vì những tiền đề của chúng ta là sai). Tính hợp lý đạ t được khi những ti ền đề của một tranh luận là đúng và những kết luận của nó được tạo ra có giá trị từ chúng. Còn nếu không, tranh luận là không hợp lý. Đúng đắn và sai lầm, hợp lý và không hợp lý, có thể kết hợp xuất hiện rất nhiều trong những tranh luận, tạo ra bốn khả năng sau đây:

1. Chúng ta có thể có thực t ế đúng (những ti ền đề của chúng ta là đúng), và chúng ta có thể sử dụng chúng đúng cách (những suy diễ n của chúng ta có giá trị). Trong một tình huống như thế , không chỉ có tranh luận của chúng ta là hợp lý mà kết luận cũng đúng. Toàn bộ tranh luận sẽ có cơ sở và hợp lý.

a) Tất cả đàn ông đều sẽ chết. Socraté là một người đàn ông. Vì thế, Socrates sẽ chết.

14

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

2. Chúng ta có thể có thực tế đúng đắ n (nh ững tiền đề của chúng ta là đúng đắn), nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng không thích đáng (lý lẽ thiếu giá trị). Trong trường hợp này, kết luận của chúng ta sẽ không hữu hiệu và toàn bộ tranh luận là không đúng.

b) Tất cả mèo đều là động vật. Tất cả lợn đều là động vật.

Vì thế tất cả lợn đều là mèo.

Trong một số trường hợp, kết luận của những tranh luận có thể ngẫu nhiên đúng, như trong trường hợp sau:

c) Tất cả mèo đều là động vật. Tất cả hổ đều là đều là động vật. Vì thế tất cả hổ đều là mèo.

Trong những tr ường hợp như thế này, chúng ta không thể xác định sự thật của kết luận t ừ tranh luận. Kết luận có thể đúng nhưng không phải là đúng trên cơ sở bảo vệ của tranh luận này.

3. Chúng ta có thể có thực tế sai (một hay nhiề u tiền đề của chúng ta là sai), nhưng chúng ta có th ể sử dụng chúng thích đáng (lập luận có giá trị). Trong trường hợp này, lý luân có giá trị nhưng kết luận không hợp lý.

d)Tất cả những siêu sao điện ảnh đều sống ở Hollywood. Robert Redford là một siêu sao điện ảnh.

Vì thế Robert Redford sống ở Hollywood.

Ở đây, tuyên bố thứ nhấ t sai rõ ràng, mặc dù lập luận có giá trị và kết luận có theo những tiền đề. Như trường hợp 2 ở trên, kết luậ n có thể đúng nhưng chúng ta không th ể xác định tính đúng đắn của nó trong hoàn cảnh của tranh luận đó. Nó có thể đúng mặc dù tiền đề thứ nhấ t là sai, nói cách khác, nó có thể sai mặ c dù lập luận đúng. Để đạ t được kết luận mà chúng ta có thể cho là đúng, sẽ không đủ nếu chỉ lập luận đúng, chúng ta phải làm điều đó từ những tiền đề đúng đắn.

4. Cuối cùng, có tình huống mà một hoặc nhiều tiền đề của chúng ta là sai và chúng ta cũng sử dụng chúng không đúng cách (lập luận thiếu giá trị). Trong trường hợp như thế, tranh luận vừa không hợp lý và kết luận không đúng.

e) Tôi thích khoá học này

Tất cả các kỳ thi chung kết đều dễ.

Vì thế, tôi sẽ nhận được thứ hạng cao trong khoá học.

www.kinhtehoc.com 15

Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch

Bốn dạng của tranh luận:

Tiền Đề + Lý Luận = Kết Luận

Đúng Giá Trị Hợp Lý

Đúng Thiếu Giá Trị Không hợp lý

Sai Giá Trị Không hợp lý

Sai Thiếu Giá Trị Không hợp lý

Đúng đắn và sai lầm là mô tả thuộc tính của bản thân các mệnh đề.

Giá trị và thiếu giá trị đề c ập đế n vi ệc lậ p luận và được xác định độc lập với tính đúng hoặc sai lầm của các tiền đề hoặc kết luận của tranh luận

Nế u lý luận có giá trị, một cuộc tranh luận có các tiền đề đúng, thì tranh luận đó chắ c chắn có cơ sở, lý luậ n hợp lý. Nếu không, nó chắc chắn không có cơ sở. Vì thế, tấ t cả các cuộc tranh luậ n có cơ sở phải có tính hợp lý, nhưng những lý luận có giá trị vẫn có thể là có kết luận hợp lý hoặc là vô lý.

Một kết luận đạt được bằng các lập luận sai hoặc không giá trị có thể ngẫ u nhiên đúng. Điều này không bắt buộc chúng ta phải chấp nhận -- nó vẫn không có tính hợp lý.

Từ khi chúng ta xác định chỉ có một dạng tranh luận là có kết luận chắc chắn đúng, bạn đọc sẽ băn khoăn tại sao chúng ta lại nên quan tâm đến những tranh luận mà tiền đề của chúng sai. Cho dù là tốt hơ n hay xấu hơn, thỉnh thoảng chúng ta ở những tình huống mà chúng ta không biết tiề n đề của chúng ta đúng hay không. Vì có thể suy diễn có giá trị, kết quả đạt được từ những ti ền đề nếu đúng cho phép chúng ta đánh giá liệu chúng có đúng hay không. Tuy nhiên, bằng suy diễn hợp lý, chúng ta có thể rút ra kết luận mà chúng ta bi ết là sai, sau đó chúng ta có thể chắc chắn ít nhất là một trong những tiền đề của chúng ta là sai, bở i vì một kết luận sai không thể được suy diễn hợp lý t ừ những tiền đề đúng. Một ví dụ thú vị từ lịch s ử khoa học liên quan đến thuyết ánh sáng. Lúc đầu, thuyết này cho rằng những phần tử ánh sáng phải đi trên đường thẳng xuyên qua không gian trống. Nhưng cuối cùng ngườ i ta nh ận ra rằng nếu thuyết này là đúng thì các phần tử ánh sáng di chuyển qua một lỗ tròn trong một vùng mà ánh sáng không thể đi qua sẽ t ạo ra một vòng ánh sáng trên một nền sau vùng đó. Tuy nhiên trong một thí nghiệm sau đó sử dụng một lỗ rất nhỏ, hình ảnh được tạo ra trên nền không phải là một vòng tròn ánh sáng, mà gồm những vòng sáng và các vòng tối đồng tâm xen k ẽ nhau. Thí nghiệm đã chỉ ra rằng ánh sáng không di chuyển theo những đườ ng thẳng mà là theo hình sóng. Thuyết ánh sáng đi thẳng đã bị thay thế bởi thuyết sóng ánh sáng. Do đó, ta biết rằng một điề u gì đó được tạo ra từ một điều khác thậm chí là đi ều này sai thì nó vẫn có thể có ích lợi to lớn. Theo nghĩa này nế u bạ n không hài lòng với một kết luận dường như là được suy ra một cách hợp lý từ một tiền đề, có thể là do bạn không hoàn toàn đồng ý với tiền đề mà kết luận được suy diễn đúng đắn từ đó. Do đó, vấn đề phức tạp có thể nằm ở tiền đề.

16

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

Nói một cách khác, khi chúng ta không biết tiền đề là đúng hay sai, chúng ta xem xét cách lý luận; lý luận có giá trị hay không? Trong các lý luận có giá trị và nếu tiền đề đúng, thì kết luận là hợp lý.

Tiền Đề + Lý Luận = Kết Luận

Đúng + Giá Trị = Hợp Lý

Sai + Giá Trị = Không hợp lý

Ví dụ, hãy xem xét tranh luận sau:

f) Nạo thai là sự hu ỷ bỏ bào thai, và sự hu ỷ bỏ một bào thai là lấy đi s ự sống củ a một con ngườ i. Do đó, nếu lấy đi sự sống của một con người là là tội ác thì nạo thai cũng vậy.

Cái gì là tiền đề của của tranh luận này? Cái gì là kết luận?

Kết luận có được ra h ợp lý từ những tiền đề không? Làm thế nào bạn có thể phản đối tranh luận này? (TQ hi ệu đính: bạn có chập nhận rằng bào thai là sự sống chưa, và ai là ngườ i định ra cái điều bào thai là sự sống? Nói cách khác, tiền đề "bào thai là sự sống" có đúng hay không?).

Mẫu những tranh luận được suy diễn có cơ s ở thường rất ích. Vì vậy nếu chúng ta lập luận hợp lý từ những tiền đề đúng đắn, chúng ta cần thiết phải đạt được một kết luận đúng mà chúng ta có thể kiểm tra tính đúng đắn của nó trực tiếp hoặc không.

8. Những Tranh Luận Suy Diễn và Quy Nạp

Chúng ta đã phân bi ệt giữa tranh luận và không phải là tranh luận, tách biệt những tiền đề với kết luận, loại bỏ những r ườm rà, cung cấp những bộ phận khuyết thiếu, và làm nổi bật những yếu tố phân tích nghi vấn sau đó, điều để lại cho chúng ta hai câu hỏi quan trọng và cần thiết của một tranh luận: những tiền đề có đúng không, kết luận có thật sự bám sát chúng không?

Đối với câu hỏi thứ nhất, chúng ta muốn biết li ệu những sự thật được tuyên bố trong tranh luận có thật sự đúng hay không. Hoặc liệu chúng có thể hiện sai hoặc bóp méo không? Liệ u chúng có thành kiế n không? Liệu có thể chúng gây ấn t ượng sai như đã tuyên bố? Sau tất cả, những tiền đề có phải là nền tảng của tranh luận, nếu nó không đáng tin cậy hoặc yếu, tranh luận mà được xây dựng trên chúng có thể không tốt. Tuy nhiên, có cách khác để một tranh luận có thể đi đến chỗ sai: khi mối quan hệ giữa tiền đề và kết luận trong tình trạng mà những tiền đề thất bại trong việc hỗ trợ kết luận của câu hỏi.

Một tiền đề có thể hỗ trợ kết luận đầy đủ (fully), hoặc bán phần (partially), hoặc chẳng có gì như được chỉ ra dưới đây:

Dạng đầy đủ: Tất cả đàn ông đều sẽ chết. Socrates là đàn ông. Socrates sẽ chết.

www.kinhtehoc.com 17

Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch

Dạng bán phần: Hầu hết những ng ười Scandinavi đều có tóc vàng. Em họ tôi Christine là dân Scandinavi. Cô ấy cũng tóc vàng.

Ho ặc dạng không có gì: "Hãy chắc chắn đánh răng với kem Colgate. Walt Frazier sẽ không nghĩ tới việc đánh răng với loại nào khác."

Chúng ta hãy xem xét những tranh luận hấ p dẫn thuộc dạ ng ba trong phần hai. Ở đây, chúng ta xem xét hai dạng đầ u tiên: dạ ng thứ nhất được gọi là suy diễn, dạng thứ hai là quy nạp. Tranh luận mang tính suy diễn là tranh luận mà trong đó kết luận được tạo ra nhất thiết phải là kết quả tất yếu của các tiền đề. Mặ t khác, những tranh luận mang tính quy nạp là những ý tưởng mà trong đó kết luận được tạo ra có thể chỉ là một kết quả tất yếu của những tiền đề.

Hai ví dụ sẽ giúp minh hoạ sự khác biệt giữa gợi ý nhất thiết và có thể:

a. Suy diễn.

Tất cả những hạt đậu trong cái túi kia là đen.

Tất cả những hạt này là từ cái túi đó.

Do đó, tất cả các hạt đậu này đều đen. b. Quy nạp.

Tất cả các hạt đậu này đều từ cái túi đó.

Tất cả các hạt đậu này đều đen.

Do đó, tất cả các hạt đậu trong túi đó đen.

Trong hai tranh luậ n này, chỉ có trường hợp thứ nhất (tranh luậ n a) có kết luận chắc chắn là kết quả tất yếu của những tiề n đề -- tất cả những hạ t đậu trong cái túi đó là đen, tôi không thể tìm ra màu khác. Kết luận của tranh luận (b) chỉ là kết quả ở một mức độ có thể của những tiền đề -- có thể có vài hạt đậu trong túi đó không phải là đen, nhưng tôi không định lấy chúng.

Một sự khác biệt giữa những tranh luận có tính suy di ễn và quy nạp, mà nó s ẽ được quan sát, là những tiền đề của tranh luận suy di ễn chứa tất cả các thông tin cần thiết để đạt đượ c kết luận nhất thiết và kết quả tất yếu. Kết luận không đề cập đến cái gì ngoài những tiền đề. Mặt khác, trong kết luận của tranh luận quy nạp, chúng ta phải liề u lĩnh dựa vào thông tin được chứa đựng trong những tiền đề. Vì thế, kết luận của chúng ta có thể không bao giờ là chắc chắn, mặc dù khả năng nó đúng là cao.

Đó là bởi vì nh ững tranh luận mang tính suy diễn chắ c chắ n thành công hoặc thất bại để chứng minh kết luận của chúng để chúng ta có thể nói rằng chúng là hợp lý hay không hợp lý; mặt khác, những tranh luận quy nạp được nhận xét là tốt hay xấu, mạnh hay yếu.

18

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

Một ví dụ cổ điển của tranh luận quy nạp làm nổi bật vấn đề về tính chắc chắn.

c) Mặt trời mọc lên hằng ngày kể từ khi thời gian được ghi nhớ. Vì thế, mặt trời sẽ mọc vào sáng mai.

Chúng ta cảm nhận chắc chắ n rằng ngày mai mặt trời sẽ mọc, nhưng phát biểu một cách lo-gic thì mối quan hệ giữa kết luận (ngày mai) với những ti ền đề (hôm qua) của nó chỉ là có thể chứ không chắc chắn. (Như nhà lo-gic học nổi tiếng Bertrand Russell đã một lần nêu ra trong tác phẩm " Những Vấn Đề Của Tri ết Học ", "người đàn ông mà cho gà ăn hàng ngày cả đời anh ta thì cuối cùng cũng vặn cổ nó mà thôi"). Trong những tranh luận quy nạp, chúng ta khẳng định rằng trong kết luận, sự thật bản thân nó không được nêu ra trong những tiền đề. Ví dụ, trong tranh luận (c) ở trên, những tiền đề chỉ chắc chắn cho quá khứ, chúng không chắc chắ n cho cái gì sẽ sảy ra trong t ươ ng lai. Do đó, nh ững tiền đề không bác bỏ khả năng kết luận là sai, từ lúc chúng tạ o ra kết luận mà tính đúng đắn của kết luận có thể dựa trên cơ sở của những tiền đề hoặc không. Bản chất của tranh luận quy nạp là đưa chúng ta ra ngoài những gì đã được khẳng định trong những tiền đề vì thế chúng ta chỉ thấy được những gì mà tiền đề ám chỉ cho những sự kiện khác. Lậ p luận suy diễn thì đối lậ p như thế một cách chắn chắn. Ở đây, chúng ta không cố gắng đi ra ngoài những tiền đề nhưng hi ểu sâu sắc cụ thể hơn những gì chúng nêu ra. Trong ví dụ sau, mọi điều được đề cập trong kết luận chỉ được tạo ra một cách chắn chắn từ những thông tin được chuyển tải trong những tiền đề.

d) Nếu có 50,001 ngườ i sống trong mộ t thị trấn và nếu không một ai có nhiều hơn 50,000 sợi tóc trên đầu và không có ai trọc lóc. Thì có ít nhất hai người trong thị trấn có cùng số tóc trên đầu.

Ví dụ này minh hoạ cho tính chất chính xác của những suy diễn có thể. Trong khi những tranh luậ n quy nạp mở rộng nội dung của những tiền đề bằng cách hy sinh tính nhất thiết, thì những tranh luận suy diễn đạt được tính nhất thiết bằng cách hy sinh vi ệc mở rộng nội dung. Hầu hết những tranh luận mà ta b ắt gặp hằng ngày là loại quy nạp, và đó là những gì chúng ta sẽ đương đầu nhiều nhất trong quyển sách này.

• Một tranh luận suy diễn cố gắng chỉ ra rằng kết luận phải là kết quả tất yếu của những tiền đề; một tranh luận quy nạp có thể chỉ là kết quả của những tiền đề.

• Do đó, những tiền đề của một tranh luận suy diễn phải đưa ra tất cả những dữ liệu hoặc thông tin cần thiết để tạo ra kết luận trong câu hỏi. Những tiền đề của một tranh luận quy nạp chỉ cần chứa đủ thông tin để tạo ta kết luận tương đối -- kết luận này đi ra ngoài những gì được đưa ra một cách chắc chắn trong những tiền đề.

• Vì thế, những tranh luận quy nạp có thể chứa đựng một lượng thông tin lớn, nhưng chúng lại từ bỏ việc chứng minh những kết luận là chắc chắn đúng.

• Những tranh luận suy diễn thường hợp lý hoặc không hợp lý; những tranh luận quy nạp lại thường mạnh hay yếu.

www.kinhtehoc.com 19

Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch

9. Lý Luận và Giáo Dục

Như chúng ta đã nói, nghiên cứu lo-gic giúp chúng ta gi ải thoát khỏi những suy nghĩ và hành động ngớ ngẩn. Một trong những điều quan tr ọng khác mà chúng dạ y ta là chứng minh một thứ gì đó một cách chắc chắn. Như chúng ta đã thấy, nghiên cứu lo -gic -- đặc biệt là nghiên cứu tính hợp lý -- dạ y chúng ta rất nhiề u thứ. Vì thế, ví dụ, chúng ta có thể biết chắc chắn rằng tất c ả ngôi nhà trên phố đường số 10 lúc nhúc chuột cống chỉ nếu khi chúng ta đã kiểm tra tất cả và phát hiện ra chuột trong mọi ngôi nhà. Chỉ bằng những điều kiệ n này, chúng ta mới có thể biết điều này chắc chắn đúng. Đây là một suy nghĩ nghiêm túc, từ lúc tất cả xu hướng c ủa chúng ta là tin tưởng điều ngược lạ i mà chúng ta có thể tạo ra những kế t luận chắc chắn trên c ơ sở những bằng chứng có vẻ là "vừa đủ" hoặc những bằng chứng đại diện. Hãy nói rằng một hoặ c nhiề u hơn những điều dưới đây là đúng: chúng ta đã đến phố số 10 mọi ngày thứ hai trong hai tháng và luôn luôn hoặc thường xuyên nhìn thấy chuột cống trên vỉa hè ở đó; chúng ta đã vào tám trong số mười nhà ở phố số 10 và nhìn thấy chuột cống trong tất cả tám ngôi nhà đó; ai đó mà chúng ta tuyệt đối tin t ưởng, đả m bảo vớ i chúng ta rằng tất cả những ngôi nhà đó lúc nhúc chuột; chúng ta v ừa đọc một bản kiể m tra của chính phủ tuyên bố là phố số 10 bị tàn phá bở i một lượng cực lớn chuột cống; và bản tin lúc mười một gi ờ vừa truyền đi sự phơi bày của vấn đề và trình chiế u những đoạn phim chuột cống nhung nhúc có biển báo của phố số 10. Mỗi một điều hỗ trợ này chứng tỏ r ằng có thể mọi ngồi nhà trên phố đều có chuột, nhưng không một đi ều hỗ trợ nào lại loại bỏ được khả năng một số ngôi nhà không có chuột. Vì vậy, chúng ta sẽ có xu h ướng kết luận là chúng ta biết rằng mọi ngôi nhà ở phố số 10 đều lúc nhúc chuột. Để giữ những xu hướng có tính cách kiểm tra là một trong những lợ i ích của nghiên cứu lo-gic. Như chúng ta có thể nói, đây cũng là một trong những lợi ích lớn của giáo dục lo-gic.

Vì vậy có thể xác định khi nào thì thích hợp và công bằng để nói một điề u gì đó như là chúng ta bi ết (1+1=2), và khi nào thì thích hợp để nói một điều gì đó như là chúng ta suy nghĩ (đồ ăn chứa nhiều chất béo thườ ng ngày sẽ gây ra ung thư), và cuối cùng, khi nào chỉ thích hợp để nói r ằng điều chúng ta tin (Thượng Đế tồn t ại -- God exists) -- đấy chính là điểm nổi bật của một người có giáo dục. (TQ hi ệu đính: sự thật, ý ki ến và niềm tin là ba chuyện khác nhau. Người có học và có giáo dục là người biết phân biệt ba trường hợp trên, và áp dụng mỗi trường hợp tùy lúc).

10. Tóm Tắt

Chươ ng này đã khám phá một loạ i của những quy tắc lo-gic và một vài bộ phận cấu thành của nó là gì. Như chúng ta đã thấy, mặc dù nó là nh ững quy tắc mang tính lý thuyết, lo-gic c ũng là một lĩnh vực thực hành của nghiên cứu, nó đưa ra những lợi ích to lớn trong việc cư xử hàng ngày.

Chúng ta đã chú ý rằng lo-gic là nghiên cứu về tranh luận và mọi tranh luận chứa hai thành phần cơ bản: những tiề n đề và kết luận. Chúng ta cũng đã thấy đây là điểm phân biệt tranh luận và phi tranh luậ n. Tuy nhiên, không phải tất cả những tranh luận đều thể hiện kết cấu này một cách đơn giản. Như diễn đạt phổ biế n, nh ững tranh lu ận bị vướng víu bởi rất nhiều sự rườm rà và không ăn nhập và thường dựa trên những phần bị ẩn đi hoặc có

20

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

các giả thiết không được diễn đạt. Chúng ta đã học rằng làm thế nào để nhận ra và loại bỏ những phần rườm rà như vậ y, làm thế nào phơi bày những bộ phận nghi ngờ và làm sao để nhận biết những giả thiết bị ẩn đi và không được đề cập.

Triển khai những nghiên c ứu về tranh luận chúng ta đã nhìn rõ hơn một tranh luận có ba đặc tính cơ bản để đánh giá nó như thế nào. Điều đầ u tiên trong chúng là tính đúng đắn hoặc sai lầ m c ủa những tiề n đề. Thứ hai là tính giá tr ị hoặc vô giá trị việc lập luận từ những tiền đề. Và đặc tính thứ ba là tính hợ p lý, điều mà tồn tại khi những tiền đề là đúng và việc lập luận là có giá trị, hoặc không có cơ sở khi thiếu tính đúng đắn hoặc lập luận có giá trị

Sau đó, chúng ta đã thấy làm thế nào trong những tranh luận suy diễn hợp lý, những tiền đề chứa đựng tấ t cả các thông tin cần thiết cho kết luậ n; còn trong những tranh luận quy nạp, kết luận đi ra ngoài những dữ li ệu được chứa đựng trong những tiền đề. Vì thế, thậm chí trong những tranh luận quy nạp tốt nhấ t, k ết luận chỉ mang tính tươ ng đối; trong khi kết luận trong một tranh luận suy diễn hợp lý, nhất thiết phải là kết quả tất yếu.

Một trong nh ững bài học quan trọng chúng ta đã học ở đây là một điề u (kết luậ n) có thể thực sự là kết quả tất yếu c ủa một điều khác (một tiền đề) mà kết luận đó không nhất thiết phải đúng. Kết luận có đúng hay không, phụ thuộc vào bản thân tiền đề có đúng không. Nói ngắn gọn, một kế t luận có thể là kết quả tấ t yế u của một ti ền đề nhưng vẫn sai. Cuối cùng, chúng ta đã chú ý rằ ng một vài lợi ích đến với chúng ta từ việc nghiên cứu lo-gic và được giáo dục thật sự có nghĩa là gì.

www.kinhtehoc.com 21

The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch

Chương 2

Phương Tiện Truyền Đạt của Ngôn Ngữ

Một yếu tố quan trọng trong bấ t kỳ một lý luận nào đã được đề cập ngắ n gọn trong Chương 1. Yếu tố đó là ngôn ngữ hiện hữu mà giả thuyết và kết luận được nêu rõ. Bởi vì những từ ngữ được s ử dụng trong lý l ẽ mang tính cốt yếu, nó sẽ có lợi cho việc nghiên cứu những nét đặ c trưng nào đó của ngôn ngữ mà có thể giúp đỡ hoặc gây trở ngại cho những ý nghĩ rõ ràng. Chúng ta s ẽ khảo sát mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, và sẽ minh họa một vài sự nhầm lẫn mà kết quả từ việc sử dụng ngôn ngữ không chính xác. Chúng ta cũng sẽ thấy rằng tất cả ngôn ngữ là tượng trưng và cách sử dụng ngôn ngữ mấu chốt giữa nhiều cuộc tranh luận.

Khi chúng ta đối diệ n với một lý luận, chúng ta cầ n biết nó có rõ ràng hay không. Chúng ta phả i đồng ý với ý nghĩa của tất cả các từ ngữ và cách diễn đạt của nó, từng cái một trong sự phối hợp. Nếu chúng ta không hiểu ý nghĩa của những lời trình bày trong lý luận đó, chúng ta có thể tiếp nhận những kết quả sai lệ ch, hoặc thậm chí vẫ n không bị thuyết phục bởi những gì đó được coi như một trường hợp hoàn toàn đúng đắn và hợp lý.

Ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp bằng lời nói, vì thế việc nghiên cứu lý luận (study of lo-gic) có liên quan t ới chính nó với những cấu trúc và chức năng của ngôn ngữ. Trong chươ ng này chúng ta sẽ nghiên cứu các phương tiện truyền đạt của ngôn ngữ và tìm hiểu tại sao một số lý luận thành công trong việc chuyển tải ý nghĩa đến chúng ta trong khi một số khác lại không.

1. Ngôn Ngữ và Tư Duy

Francis Bacon, một triết gia đã hết sức thẳng thắn đưa ra s ự rõ ràng trong quan sát và tư duy, một l ần đã nhận xét ngườ i ta "tưởng tượng rằ ng những ý nghĩ của họ có sự điều khiển của ngôn ngữ, nhưng hay xãy ra tr ường hợp ngôn ngữ sinh ra những quy tắ c lên trên ý nghĩ của họ." Nhận xét của Bacon hữu dụng trong việ c nhắc nhở chúng ta rằng ngôn ngữ không chỉ có thể cản trở sự truyền đạt tư duy của chúng ta và ngay cả chính bản thân nó.

Do cách thức tự nhiên, từng bước một mà chúng ta thu được ngôn ngữ, rấ t ít khi chúng ta ngừng quan sát rằng nó là một công cụ và c ũng giống như tất cả các công cụ khác, giá trị của nó phụ thuộc vào kỹ năng của người sử dụng.

22

The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy là một câu hỏi lâu đời. Trong quá khứ, có hai quan điểm bao quát: một là nắm được vấn đề ngôn ngữ chỉ đơn thuần là phươ ng ti ện truy ền bá hoặc chỉ là vỏ bọc bên ngoài của tư duy; hai là xác nhận dòng ngôn ngữ và tư duy là một, tư duy chỉ là lời nói không có âm thanh.

Gần đây hơn, nghiên cứu hướng về xác nhận quan điểm ngôn ng ữ và tư duy đượ c liên kết chặt chẽ , ngôn ngữ không chỉ là âm thanh mà là sự kết hợp giữa âm thanh và tri giác mà các yếu tố đều phụ thu ộc vào nhau. Những học thuyết hiện đại nắm được r ằng những từ ngữ không có tư duy không thể phân biệt với những âm thanh khác được biế t đến trong tự nhiên. Những học thuyết xác nhận như thế , tuy nhiên, mặc dù chúng ta có thể có "những suy nghĩ mơ hồ" hay những ý tưởng chúng ta không thể ghép thành lời, chúng ta không thể có suy nghĩ "rõ ràng" nếu như không thể diễn tả nó bằng ngôn ngữ.

Người đem lại cho chúng ta kiến thức về trạng thái ngôn ngữ này là nhà ngôn ngữ học người Mỹ Benjamin Lee Whorf, có ghi chép:

"Khi những nhà ngôn ngữ học có thể nghiên cứu, một cách c ẩn tr ọng và khoa học, một số lượng lớ n các ngôn ngữ của các dạng khác xa nhau, nền tảng của s ự liên quan giữa chúng được mở rộng; họ đã trãi qua một s ự gián đoạn c ủa một hiện tượng nắ m giữ được cái tổng quát cho đến nay, và một ý nghĩa mới trọn vẹn nảy sinh trong phạm vi hiểu biết của họ. Người ta phát hiện ra rằng nền tảng hệ thống ngôn ngữ học (trong từ ngữ, vă n phạm khác) của mỗi ngôn ng ữ không chỉ là một công cụ sao chép để diễ n đạt những ý kiến, nhưng đúng hơ n là một bộ máy tạo ra ý nghĩ... Chúng ta phân tích trạng thái tự nhiên, tổ chức thành những khái niệm, ghép lại những ý nghĩa như chúng ta làm, bởi vì chúng ta tham gia vào một cuộc tranh luậ n để tổ chức nó theo cách thức này -- một sự th ỏa thuận nắm được toàn bộ lời nói của mình và đượ c hệ thống hóa trong những khuôn mẫu của ngôn ngữ." (Ngôn Ngữ, Tư Duy và Thực Tế, biên tập John B. Caroll. M.I.T, Cambridge Ấn bản. 1964, trang 212-214).

Theo quan đi ểm này, trên thực tế tư duy được tạo thành bởi ngôn ngữ mà nó được sắp xếp. Có nhi ều ví d ụ hổ trợ cho giả thuyết này. Người Zulu có những từ ngữ như "con bò trắng (white cow)" và "con bò đỏ (red cow)" nhưng lại không có từ "con bò (cow)".

Thiếu từ ngữ, thiếu đi cả ý nghĩa.

Tươ ng tự, những thổ dân ở miền trung Brazil không có những từ có nghĩa như "cây cọ" (palm)" hay "con vẹt" (parrot), mặ c dù họ có một con số lớn các tên gọi cụ thể khác thay thế cho "cây cọ" và "con vẹt". Vì vậy, họ c ũng không thể đáp ứng những mức độ cao hơn của sự trừu tượng hóa này. Từ những điểm ngôn ngữ khác nhau như thế , chúng ta thiết lập những giả định về những phương thức khác nhau của tư duy. Tuy nhiên, điều đó là quan trọng để c ố gắ ng tránh việc xem trọng những khả nă ng phán đoán trong tất cả những sự so sánh như thế. Đôi khi chúng ta thừa nhận rằ ng ngôn ngữ của những người nguyên thủy thì thô sơ giống như chúng ta cho rằng cuộc sống của họ cũng vậy. Nhưng gi ả thuyết này c ũng không đúng. Tất cả các ngôn ngữ, thậm chí hầ u hế t cả những bộ l ạc ban sơ đó, hoàn toàn cổ xưa, t ất c ả đều phức t ạp. Một s ố ngôn ngữ của họ là một hình thức rất cao của sự tinh tế và tạo ra giá trị của ngôn ngữ học, để kết hợp chặt chẽ, để phát triển ngôn ngữ của chính mình. Những cấu trúc câu chắc chắn của người Zulu hay miền trung Brazil cho

www.kinhtehoc.com 23

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

phép họ tránh được những kẻ hở mà một ngôn ngữ bao hàm những sự trừu tượng nhiều hơn có thể phát sinh đối với người sử dụng.

Quan điểm khác thiế t thực hơn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy là của nhà báo và tiểu thuyết gia người Anh George Orwell. Trong bài tiểu luận nổi tiếng "Chính Tr ị Và Ngôn Ngữ Tiếng Anh" ("Politics and the English Language"), Orwell biện luận rằng sự hiện hữu rõ ràng của những tư duy về những thực tế chính trị của thời đại chúng ta thì rất khó khăn bởi vì ngôn ngữ của chúng ta bị s ửa đổi sai lạc bởi lối nói hoa mỹ của những chính khách, để che đậy những chính sách tàn bạo và không thể biện hộ của họ, phải sử dụng đến lối nói trại và thuật ngữ một cách cân đối.

"Bây giờ rõ ràng rằng biến cách của một ngôn ngữ cơ bả n nhất ph ải có nh ững nguyên nhân thuộc về chính trị và kinh tế: điều đó không liên quan tới ảnh hưởng xấu của bản thân tác giả. Nhưng một ảnh hưởng có thể trở thành một nguyên nhân, củng cố cho nguyên nhân chính và nảy sinh ảnh hưởng gi ống như th ế ở một hình thái n ổi bật, và tương tự thế một cách không hạn định. Một ngườ i có thể uống rượu bởi vì họ cả m th ấy mình thất bạ i, và sau đó thất bạ i càng nhiều bởi vì họ uống rượu. Điều đó khá giống nhữ ng gì đ ang diễn ra trong ngôn ngữ ti ếng Anh. Nó trở nên xấu đi và sai lệch bởi chúng ta suy nghĩ thi ển c ận, nhưng tính luộm thuộm trong ngôn ngữ làm cho chúng ta dễ có nhưng suy nghĩ như thế." (Trích Những Bài Tiểu Luận Chọn Lọc. New York, 1953)

Nhưng Orwell tiếp tục biện luận, chúng ta không nên cam chịu tình thế của mình.

"Điể m đặ c biệt là quá trình mang tính thuận nghịch. Ti ếng Anh hi ện đại, đặc biệ t là viế t tiế ng Anh, đầy những thói quen xấu mà được lan truyền bởi tính mô phỏng và có thể tránh được nếu như họ có vấn đề c ần thiết. Nế u họ thoát kh ỏi những thói quen này, họ có thể suy nghĩ rõ ràng hơn, và vi ệc suy nghĩ rõ ràng là mộ t bước quan trọng trước tiên đối vớ i cải cách chính trị: để đ ánh b ật lạ i tiếng Anh có hại không phả i là phù phiếm và cũ ng không phải là mối quan tâm riêng biệt của những tác giả chuyên nghiệp." (xem trên)

Nhận xét của Orwell giúp chúng ta thấ y rằng sự tự giác về ngôn ngữ chúng ta nói và cách ta nói không chỉ là một mối quan tâm đáng kể của những nhà nghiên cứu làm ra vẻ mô phạm và các giáo viên đào tạo kiểu cách. Như vậy, hay ít hơn nữa cũng là mối quan tâm sống còn của mọi người.

• Ngôn ngữ chỉ đạt hiệu quả khi người sử dụng nó một cách khéo léo.

• Tư duy của chúng ta có thể được tượng hình rõ bằng ngôn ngữ khi chúng được sắp xếp. Không có từ ngữ, vì thế ý tưởng cũng không được tạo thành.

• Chúng ta có thể mở rộng điểm này để tranh luận nếu chúng ta sử dụng ngôn ngữ tệ và không khéo léo thì ý tưởng của chúng ta không độc đáo và tinh tế. Do đó, một số lý luận để có ý tưởng hay, chúng ta phải lưu ý đến sử dụng ngôn ngữ tốt.

24

The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch

2. Dấu Hiệu và Biểu Tượng

Trong những nét đặc trưng góp phần vào thế mạ nh của ngôn ngữ như một công cụ để truy ền đạt thông tin là đặc tính tượng trưng, sử dụng những từ ngữ để thay thế cho một điều gì đó vượt xa hơn so với ý nghĩa thực của chúng. Để đánh giá đúng đặc tính này của ngôn ngữ, chúng ta cần nghiên cứu dấu hiệu và biểu tượng, và phân biệt chúng.

Một dấu hiệu là b ất cứ những gì chúng ta sử dụng để ám chỉ -- hay nhắc đến như một dấu hi ệu -- một điều gì đó. Ví dụ về "những dấu hiệu trong cuộc sống", hay chúng ta nói khói là m ột dấu hiệu của sự cháy . Trong những trường hợp như thế, những dấu hiệu đáng lưu ý là những dấu hiệ u tự nhiên. Vớ i một dấ u hi ệu tự nhiên chúng ta muốn nói rằng sự liên kết giữa dấu hiệu và điều nó hàm ý thực sự tồn tại trong tự nhiên. Vì thế sự liên kết là tự nhiên bởi nó không phải thuộc về khả năng của chúng ta. Chúng ta phát hiện ra những dấu hiệu như thế, chúng ta không tự t ạo ra chúng. Chúng là những thành phần hay những tín hiệ u của những sự việ c mà chúng biểu hiện, như khói là một dấu hiệu của sự cháy, không phải vì nó miêu tả về lửa mà vì nó là một phần của quá trình cháy.

Ngược l ại, một biểu tượng được tạo thành để thay thế một điề u gì đó. Vì thế, những biểu tượng quy ước, không tự nhiên như, chúng là sản phẩm có nhận thức của tư duy con người và không có liên kết t ự nhiên với những gì chúng miêu tả. Do đó, nếu trạm khí tượ ng kéo lên một lá cờ chỉ có một màu đỏ cảnh báo với công chúng về một trận bão sắp tới, biểu t ượng này chỉ có hiệu quả nếu những người quan sát hiểu được ý nghĩa của nó. Bởi vì tất cả các biểu tượng đượ c nhân tạo, không thuộc tự nhiên, đó là chúng ta, nh ững đối tượng mà bất cứ các dòng ý nghĩa nào truyền tả i. Điề u này đúng với những biểu t ượng phi ngôn ngữ như dấ u thập, cờ , và đèn đỏ. Nó cũng đúng với những biểu tượ ng ngôn ngữ biểu lộ như từ tượng thanh, nó bao hàm những âm thanh gợi lên ý nghĩa của chúng, như những âm thanh tiế ng vo voz, tiếng huýt gió, tiếng sóng vỗ, và tiếng gừ gừ. Nói một cách cơ bản nó đúng vớ i tất cả những từ ngữ trong ngôn ng ữ c ủa chúng ta. Ví dụ, từ "tháng" không có nghĩa gì cả trừ khi chúng ta đã học qua rằng nó tượng trưng cho một quãng thời gian.

Nếu không có môt hệ thống bi ểu tượ ng bất kỳ, mô phỏng, truyề n đạt thông tin có thể trở nên giớ i hạn. Hầu hết các hiện tượng không có những âm thanh và âm thanh tiêu biểu mà giọng con ngườ i có thể mô phỏng một cách dễ dàng. Điều này giải thích tại sao số từ t ượng thanh trong bất c ứ ngôn ngữ nào đều rất ít. Một nguyên nhân khác giải thích tại sao một ngôn ngữ tạ o nên một t ổng thể đơn độc của những từ tượ ng thanh sẽ không lôi cuốn chúng ta nhiều như th ể có một phần chính yếu rộng lớn c ủa những ý tưởng đó không thể được miêu tả theo cách này bởi vì chúng không phát ra âm thanh.

Điều này đúng với hầu hết những từ ngữ trong ngôn ngữ của chúng ta thay thế cho sự tr ừu tượ ng, như từ "tháng". Ngôn ngữ nối tiếp trong việc phân loại những khái ni ệm trừu t ượng như thế bằng cách sử dụng những bi ểu tượng bất kỳ, không tượng trưng. Vì thế, ngôn ngữ được dùng làm biểu tượng về mặt cơ bản.

www.kinhtehoc.com 25

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

3. Từ ngữ và Vật Chất

Sự tương phản giữa dấu hiệu và biểu tượng làm cho nó rõ ràng như thế, từ t ất cả những chức năng của từ ngữ như các biểu tượng, không có s ự liên kết tự nhiên nào được thiết lập gi ữa chúng và những vật chất chúng biểu hiện. Bây giờ người ta tin rằng có một dạng thích hợp được kế thừa giữa từ ngữ và sự việc chúng miêu tả được phổ biến một cách kỳ lạ. Một trong những cuộc đối thoại của Plato, Cratylus, tìm hiể u cặ n kẻ câu hỏi này. Một phát ngôn viên nhận xét, "tôi nghĩ những bản miêu tả có thật c ủa những vấ n đề này là ở đây, theo triết thuyết của Socrates, rằng có một sức mạnh nào đó lớn hơn con người đã đặt tên cho các sự vật, chúng chắc hẳn phải đúng" (Cratylus 438).

Sự tín ngưỡng giống như thế trong nguồn gốc miễn cưỡng của người cổ xưa khi nói cho người lạ nghe tên tuổi của mình vì sợ rằng sự hiểu bi ết sẽ cho người khác sức mạnh của họ. Khuynh hướng nhậ n ra các từ ngữ với vật chất là hiển nhiên trong nhiều bài luyện tập ma thuật c ủa những bộ lạc nguyên thuỷ và s ự tín ngưỡng của một số tôn giáo. Con người đã sớm sử dụng những thể thức ma thuậ t trong hầu hết các khía cạnh của cuộc sống: để bảo đảm thành công trong việc săn bắt, làm mưa, ngăn chặn sự thiệt hại, loại trừ những câu thần chú xấu xa và nguyền rủa kẻ thù của họ.

Trong các nghi thức tôn giáo người ta tin tưởng sự lậ p lại những t ừ ngữ nào đó có thể điều trị những chứng bệnh trong linh hồn và thể xác con người, tránh cái xấu xa, và đảm bảo s ự cứu rỗi linh hồn. Chúng ta cũng tìm thấy ở một vài tôn giáo tín ngưỡng rằng những l ời nói chắ c chắn đó r ất linh nghiệ m và thiêng liêng mà chúng s ẽ không bao giờ bị phá vỡ. Trong số tên gọi của Thượng Đế những người Do Thái cổ xưa ( ngày nay là những ngườ i Do Thái chính thống), Yahweh hay Jehovah, đã "không thể đặt tên" (unnamable) và cách phát âm cũng bị cấm trong cả cách nói và kinh cầu nguyện. Thượng Đế được nhắc đế n một cách diễn tả quanh co là Adonai, có nghĩa "Chúa tể ". Trong thần thoại Hy Lạp có từ Hades (Âm ty), vì vua của thế giớ i bên dưới, được gọi là Diêm Vương ("ngườ i ban tặng sự phồn vinh") trong đối thoại thông thường để ngăn chặn cách phát âm đáng sợ là Hades (Âm ty) . Lờ i răng dạy rằng con người không nên "gọi tên của Chúa vô cớ " hình như nguồn gốc của luật pháp Hoa Kỳ chống lại những lời báng bổ, vẫn còn là một tệ nạn ở nhiều nơi.

Nguyên nhân hình thành những tên gọi phát sinh trong kinh Cựu Ước:

"Ở trên mặt đất vị Chúa tể đ ã tạo ra súc vật trên cánh đồ ng và chim chóc trên bầu trời. Và đ em chúng đến cho Adam thấy, bất cứ nhữ ng gì Adam gọi mỗi sinh vật sống, đó là tên của chúng. Adam đã đặt tên cho tất cả gia súc, chim chóc và cho mọi súc vật trên cánh đồng." (Genesis 2: 19-20)

Mark Twain đã viết thêm tiế p theo cho câu chuyệ n kinh thánh này, mà ông ta đã dựa vào sự tín ngưỡng rằng một tên gọi có một mối quan hệ cố hữu vớ i vật đượ c gọi tên. Theo Twain, khi Adam không thể nghĩ ra tên gọi cho một trong những con vật, anh ta đã khẩ n khoản yêu cầu Eve giúp đỡ "Anh sẽ đặt tên gì cho con vật này nhỉ?", Eve trả lời: "Cứ gọi nó là con ngựa." "Tại sao lại gọi là con ngựa?" Eve nói: "À, nó trong giống như một con ngựa, phải không?"

26

The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch

Sai sót của việc nhận ra những tên gọi với những vật là nguyên do của nhi ều sự hài hướ c. Vô số những đứa bé con mở to mắt hỏi cha mẹ của chúng "Khi con sinh ra, làm sao cha mẹ biết con là Charlie và không phải là một đứa con trai khác?"

Người ta c ố gắng hiệ u chỉnh xu hướ ng cho rằ ng theo tự nhiên những tên gọi đó "thuộc về" những vật chúng miêu tả, người theo chủ nghĩa duy lý người Anh, Thomas Hobbes cảnh báo, trong một câu cách ngôn nổi tiếng hiện nay, "Từ ngữ là công cụ tính toán của người khôn ngoan, họ sử dụng nhưng không nhận thức; nhưng chúng (từ ngữ) cũng là những đồng ti ền ngu xu ẩn".1 Abraham Lincoln cố gắng tạo ra những đi ểm giống nhau khi ông hỏi một khán giả, "Nếu tôi gọi cái đuôi con ngựa là một cái chân, thì con ngựa sẽ có bao nhiêu chân tất cả?" Họ trả l ời "5". Lincoln nói "Không, việc gọi cái đuôi con ngựa là cái chân không làm cho chúng thành một cái chân."

Chúng ta sẽ mỉm c ười với những câu chuyện như thế, nhưng sau một thời gian những tên gọi chúng ta sử dụng để nhận dạng vật thể được liên kết trong tâm trí chúng ta với những vật thể của chúng mà thỉnh thoảng chúng ta lại dễ quên trong giây lát, ví dụ, một con heo không được đặt tên vì nó là con vật dơ bẩn. Hay chúng ta nói, "Nói đế n ma quỷ thì hắn sẽ xuất hi ện". Trong những tr ường hợp như thế, giả định sai (thứ nhất, TQ hiệu đính) rằng dấu hiệu tương đồng với vật cất, dắt ta đế n một giả định sai thứ hai - bằng cách này hay cách khác ngôn ngữ chúng ta sử dụng ảnh hưởng đến sự vật, sự việc chúng ta đề cập

đến.

Nhà ngôn ngữ và ý nghĩa học (semanticist) lỗi lạc S. I. Hayakawa, một đoạn trong quyể n sách "Ngôn Ngữ Trong Tư Duy và Hành Động" của ông đã cho đầu đề thích đáng "Thế Gi ới Không Phải Là Vật Chất", có trích dẫn một vài ví dụ đầy kịch tính của sự nhầm lẫn phổ biến này:

"Người ta nhớ đến một diễn viên, đóng vai kẻ hung ác trong một đoàn kịch sân khấu lưu động, đến giây phút thật căng thẳng trong vở kịch, đã bị bắn bởi một cao bồi trong khán giả. Nhưng sự hỗn loạn nh ư th ế này dường như không giam giữ những ng ười đi xem hát chất phát. Trong thời gian gần đ ây, Paul Muni, sau khi đóng một phần vai c ủa Clarence Darrow trong Người Kế Th ừa Hơi Thở , được mời đến đọc diễn văn tại Luật Sư Đoàn Hoa Kỳ; Ralph Bellamy, sau khi thủ vai Franklin D. Roosevelt trong Bình Minh ở Campobello, đượ c một số trường đại h ọc mời đến nói chuyện về Roosevelt." (Phiên bản thứ 4, New York: Harcourt Brace Jovanovich 1978, trang 25-26)

Chúng ta thiên về những lỗi nêu ra như đã minh hoạ một cách quá đáng đến Nổi Hội Đồng Thương Mại Liên Bang (Federal Trade Commission) phải gia tăng kiểm soát cách các nhà sản xuất quảng cáo sả n phẩm c ủa họ. Những điều l ệ ngăn c ấm như dán nhả n hiệu "hàng nhập" trong khi thưc ra các chăn mền đó là hàng nội địa (khi chăn mề n được dán nhãn với cái tên nước ngoài như "Khandah" hay "Calcutta", để gây ấn tượng như thể chúng là chăn mền phươ ng Đông trong khi thực ra là hàng nội địa). Thuốc aspirin đưa ra một ví dụ khác cho thấy s ức mạnh của những nhãn hi ệu. Ở một số tiểu bang, aspirin được phân loại một cách chính thức như "ma tuý" và vì thế chỉ có thể bán khi có giấy bác sĩ. Ở

1 Words are wise men's counters, they do but reckon by them; but they are the money of fools. (Leviathan, phần I, chương 4)

www.kinhtehoc.com 27

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

những tiểu bang khác thì không đượ c phân loạ i như một ma tuý và số lương được sử dụng hàng ngày càng rộng rãi. Tuy nhiên, những cư dân ở một số tiểu bang mà aspirin được coi là một loại ma tuý có thể quyết đị nh một ngày nào đó phân loạ i nó lại (đổi tên) như thuốc "phi ma tuý" -- không phải vì bất cứ cái gì mới họ phát hiện ra về aspirin nhưng đơ n gi ản vì họ muốn nó đượ c sử dụng rộng rãi. Ở đây, ngôn ngữ không thể tự mình giúp đỡ cho sự tự nhiên, nhưng nó phục vụ cho chúng ta và cho những nhu cầu đặc biệt của chính mình.

(TQ hiệu đính, con người dùng ngôn ngữ phục vụ lơi ích cho chính họ; khi muốn kiể m soát thuốc aspirin, họ nói aspirin là loại thuốc "ma tuý", nhưng khi muốn bán và tiêu dùng thuốc aspirin rộng rãi, họ lạ i liệt kê thuốc aspirin là loại "phi ma tuý", mặc dù tính chất của thuốc asprin không có thay đổi).

Nghệ thuậ t đổi tên để giấ u đi ý nghĩa họ không hài lòng được gọi là cách đọc tr ại tên (euphemism). Lối đọc tr ại đi là bất cứ sự diễn đạt nào có thể chấp nhận được, miễn là chúng ta thay thế cái chúng ta không hài lòng. Thí dụ, khi chúng ta không muốn đề cặ p đến chết chóc, chúng ta phải s ử dụng đến lối nói trại đi như qua đời, từ trần, bằ ng cách ấy chúng ta c ố gắng thay đổi sự ki ện mặc dù thậ m chí chúng ta không thể phủ nhận. Ngày nay ta gọi ghế hạng ba (third class) là ghế du lịch (tourist class), một người bán hàng lưu động là người chào hàng, người ở đợ là người giúp việc và những người nhặt rác là kỹ sư vệ sinh.

Một vài vật thể dườ ng như lại phát sinh nhiều cách nói tr ại hơn những vật khác. Từ ngữ kết hợp với chức năng tổng thể là một trường hợp thiết yếu, và có thể thấy bằng cách xem xét sự đa dạng c ủa những từ ngữ được sử dụng cho từ "gong". Nhưng cái gong bắt đầu trở nên thô thiển và được thay thế bằ ng t ừ Latinh là necessarium. Sau đó cái phòng đó được gọi là nhà xí (còn bây giờ chúng ta gọi là phòng tắm), mà cái tên được ẩn đi bằng cách viết tắt là WC.

Theo lo-gic, trong tất cả cách sử dụng ngôn ngữ, chúng ta cần ghi nhớ rằng cách dùng một từ, dù t ừ ngữ là "t ốt" hay "xấu", chính nó không thể bảo đảm sự tồn tạ i những nét đặc trưng mà nó hàm ý. Chúng ta sẽ có cơ hội tìm hiểu cặn kẽ hơn về lối nói trại và sự đối lập của chúng khi chúng ta nghiên cứu những lỗi theo lo-gic trong Phần II.

• Từ ngữ là những âm thanh được cấu thành để đáp ứng cho những biểu tượng về những vật chất nó mang tên. Một vật có thể được đặt bằng bất cứ tên gì, miễn là mọi người đồng ý sử dụng từ hoặc nhóm từ như nhau để gọi nó. Như vậy, có một sự liên kết không tự nhiên giữa một từ ngữ và vật thể nó biểu tượng hóa.

• Tuy nhiên chúng ta hay cho rằng từ ngữ có một sức mạnh đặc biệt, tin rằng chúng rất linh thiêng hoặc có ma thuật trong sử dụng thông thường.

• Chúng ta cũng sử dụng những từ ngữ nào đó để vận dụng cho thực tế, trong một sự chọn lựa theo cảm giác những lối nói trại để ám chỉ những sự vật, sự việc xấu để chúng có thể trở nên hay hơn.

28

The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch

• Cả hai xu hướng trên thì hoàn toàn ít xúc cảm trong động cơ thúc đẩy của chúng và có khuynh hướng che đậy di sự phân tích của chúng ta của một vấn đề. Trong tranh luận, chúng ta nên ngăn chặn chúng.

5. Sự Hữu Dụng của Ngôn Ngữ

Một giá trị cơ bản mà ngôn ngữ có thể được s ử dụng là cung cấp thông tin về thế giới, thí dụ: "Cái bàn này được làm bằng gỗ sồi" hay "Tôi làm mấ t đồng hồ rồi". Mục đích chủ yếu của ngôn ngữ là truyề n tải thông tin đượ c miêu tả, không phức tạp, không mơ hồ. Nhưng có lẽ chúng ta cũng sử dụng ngôn ngữ để biểu lộ cảm giác của mình hay để gợi lên cảm giác của người khác. Chúng ta hét lên "Thật là một ngày đẹp trời!", không cho ng ười khác biết về thời tiết nhưng để biểu lộ niềm vui của ta về nó. Hoặc chúng ta có thể nói với chủ nhà : "Dườ ng như ở đây hơi lạnh", không như một lời nhận xét bình thường nhưng để thuyết phục họ bật máy điều hòa.

Nói ngắn gọn, ngôn ngữ có thể đượ c sử dụng không chỉ cung cấp tin tức mà còn trịnh trọng và gây xúc cảm, gi ữa một sự đa dạng của những giá trị sử dụng khác. Mỗi giá trị sử dụng có phạm vi h ợp lý của nó. Những gì có thể đáng chê trách, tuy nhiên, nó lại gây nhầm lẫn đối với những người khác. Một vài sự nhầm lẫ n về ngôn ngữ và mục đích chỉ đơn thuần là sự tiêu khiển. Lời chào "Bạ n khỏe không?" thực sự không phải là một lời yêu cầu thông tin về tình trạng sức khỏe của người khác. Câu trả lời thích hợp rất đơn giản "Tôi khỏe, cám ơn bạn".

Quan trọng hơn sự nhầm lẫn này giữa giá trị sử dụng trang trọng của ngôn ngữ với giá trị thông tin là sự nhầm lẫn của biểu lộ cảm xúc và cung cấp tin t ức. Trong những trườ ng hợp như thế, ngôn ngữ có thể đượ c sử dụng không thích hợp với mục đích và có thể đưa chúng ta tớ i mục tiêu một cách vòng vo hay làm l ạc hướng chúng ta. Bài diễn văn "Cây Thập Giá Bằng Vàng" (Cross of Gold) nổi tiếng c ủa William Jennings Bryan đối lập với bảng vị vàng đưa ra một thí dụ minh họa sâu sắc về ngôn ngữ cảm xúc. Sự mạnh mẽ của nó, được trình bày trong những từ cuối như sau: "Bạn sẽ không đè nặng lên trán ngườ i lao động những bụi gai này. Bạn sẽ không đóng đinh nhân loại lên một cây thập giá bằng vàng!" Yêu cầu khẩn khoản của Bryan lợi dụng những cả m giác sâu kín kết hợp với chủ nghĩa tượng trưng thuộc về tôn giáo của bức tượng Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thánh giá, cây thậ p giá và đầu những bụi gai. Bằng sự liên kết những vấn đề của bảng vị vàng với những biểu tượng tôn giáo này, bài diễn văn đã cố gắng chuyển tải đến biểu tượng vàng những cảm xúc mạnh mẽ với những biểu tượng tôn giáo này được củng cố lâu dài.

Yếu tố chủ chốt để cô lập khi tìm hiểu chắ c chắn một giá trị sử dụng ngôn ngữ được đưa ra thích hợp hay không là mục đích của nó. Có phải mục đích chủ yếu của sự truy ền đạt thông tin là để cho một người nào đó biết? Nó có biểu lộ những cám xúc nào đó? Nó có ý định khi ến chúng ta làm một điều gì đó hay không? Có lẽ nó là tất cả cùng một lúc? Để thiết lập mục tiêu, cầ n cân nhắc ngôn ngữ có đượ c bảo vệ với mục tiêu đó hay không. Nế u những c ơ sở lập luận riêng lẻ đang bị đe dọa, một việc sử dụng quá nhi ều ngôn ngữ đượm màu cảm xúc có thể chỉ là một cản trở và được đánh giá với sự ngờ vực. Thậm chí nghệ thuật tu từ sẽ bị lãng đi, nơi mà thông tin là mục đích duy nhất. Với những cơ sở

www.kinhtehoc.com 29

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

lập luận được truyền đạt một cách hiệu quả nhất khi chúng được bắt đầu trong một cách thẳng thắn và khách quan.

Sự thật là ngôn ngữ cảm xúc thường bị hạn chế hợp lý không có nghĩa trong bất cứ cách nào trong một kiểu mẫu kém hơ n của ngôn ngữ. M ột nhà nhơ, thuộc lĩnh vực hàng đầu không phải là lý trí, có khả năng đạt đượ c mụ c đích của họ bằng cách lựa chọn từ ngữ mà chúng ta có thể đánh giá cao bằng những cả m giác đúng hơn là lý trí của mình. Điều này có lẽ là ý ngh ĩa l ời nhận xét của T. S. Eliot rằng thi ca nói chung có thể truyền đạt được ý nghĩa của nó trước khi người ta có thể hiểu. Đó cũng chắc chắn là nguyên nhân của cơ sở lập luận những cố gắ ng để biến đổi một bài thơ thành những thuật ngữ hoàn toàn d ễ hiểu bởi lý trí của chúng ta có khuynh hướng triệt phá nét đặc tr ưng mà nó có giống như một bài thơ. Người ta nói rằng Alfred Noyes Tennyson đã phản đối câu nói của William, "Và ngồi trên bãi cỏ cùng thưởng thức thức uống thơm ngát chiết từ th ảo mộc Trung Quốc" Tennyson nêu lên câu hỏi "Tại sao ông ta không nói: Ngồi trên bãi cỏ uống trà?", tuy nhiên, lấy câu của những từ đắc để miêu tả và dẫn chứng những khía cạnh đặc biệt nào đó về kinh nghiệ m dùng trà, mặc dù nó chỉ đạo để giữ lạ i nội dung về ngữ nghĩa học. Mục đích của các nhà thơ, cũng như của tất cả giá trị sử dụng của ngôn ngữ, là để tận dụng các từ ngữ thích hợp cho nhiệm vụ sắp tới.

Tuy nhiên, giá trị cảm xúc của một bài di ễn văn hay tiểu luận không liên quan đến giá trị hợp lý của nó. Khi chúng ta đọc hay nghe một quan điểm hợp lý, chúng ta chỉ quan tâm đến nội dung thông tin của lời nhận xét và hỗ trợ một số lời phát biểu đến những người khác.

Đúng là như thế, nó là một tín hiệu của sự tinh tế có thể nhận ra những giá trị sử dụng khác nhau của ngôn ngữ và để đánh giá những tr ường hợp của mỗi giá trị sử dụng bởi tiêu chuẩn thích đáng của chúng. Nhưng, khi chấp nhận rằng không có một bài diễn thuyết hay tiểu luậ n nào đơn thuần là không có giá trị bởi vì nó gây cảm xúc, chúng ta cầ n kềm chế trong suy nghĩ và cảm giác r ằng mức độ cảm xúc của một lý luận không có nảy sinh bất cứ điều gì trên giá trị của nó.

5. Sự Tối Nghĩa và Mơ Hồ

Sự tối nghĩa và mơ hồ thì tương tự như nhau, chúng đều là đặ c tính của ngôn ngữ không chính xác. Tuy nhiên, có một sự phân biệt gi ữa chúng. Một từ hoặc sự miêu tả được gọi là tối nghĩa nếu nó có nhiều hơn một nghĩa. Nó mơ hồ nếu ý nghĩa của nó không rõ ràng. Ngôn ngữ tối nghĩa gây khó khăn cho chúng ta với một số ý nghĩa, mà vấn đề ý nghĩa nào chính xác thì khó mà xác định được, trong khi mơ hồ chúng ta có nhiêm vụ phải tìm ra bất cứ những ý nghĩa nào mà nó có. Nói: "Đó là một quyển sách tồi nhất mà tôi từng đọc" là một lời nhận xét tối nghĩa. "Ôi, một quyển sách" là câu mơ hồ.

Trong nhiều trường hợp ngữ cảnh (context), ngôn ngữ t ối nghĩa nả y sinh s ẽ xác định ý nghĩa nào được ngụ ý. Tầm quan trọng của ngữ cảnh tất yếu không phải là một khuyết điểm của ngôn ngữ nhưng đúng hơn là một dấu hiệu c ủa sự linh động. Cho đến khi đặt vào một ngữ cảnh c ụ thể, một vài từ ngữ hoàn toàn có lợi nhất thiết vẫn không được xác định. . Ví dụ, "rầu" cũng có nghĩa là "buồn" và cũng có nghĩa là "lo lắng". Tuy thế,

30

The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch

nếu chúng vẫn không xác định vị trí trong một ngữ cảnh, những từ ngữ như thế được gọi là tối nghĩa.

Tr ường hợ p mơ hồ thì khác. Một s ố từ ngữ th ườ ng rất mơ hồ, không kể tới ngữ cảnh, vớ i những ý nghĩ a của chúng không đơn thuần và không xác định mà còn không rõ ràng. Ví dụ, từ giàu có luôn mơ hồ, vì nó không bao giờ rõ ràng sự giàu sang một con người có được là bao nhiêu trước khi dành để gọi họ giàu sang. Không giống như tối nghĩa (sự thật là ngữ cảnh thay đổi nghĩa của từ), mơ hồ có một số nguyên do. Đôi khi mơ hồ chỉ phản ánh sự nhầm lẫn c ủa chúng ta. Ví dụ, ở độ tuổi nào một người được gọi là "trung niên"? Và một người bị hói như thế nào trước khi chúng ta gọi một cách chính xác là người đó "bị hói đầu"?

Tuy thế, ở những thời điểm khác, mơ hồ không liên quan tới sự khiếm khuyết về mức độ rõ ràng nh ưng đúng hơn là sự bào mòn tự nhiên của ngôn ngữ. Những từ ngữ nào trở nên c ằn cỗi do vi ệc lạm dụng, làm mất đi tính chính xác mà chúng có. Những từ thuộc về phạm trù này bao gồm tốt , thú vị, tuyệt, tao nhã và được ưa chuộng. Trong điều kiện một vài từ mơ hồ chứa đựng quá nhiều nghĩa, chúng sẽ mất đi tính chính xác. Ví d ụ: dân chủ, chủ nghĩ a cộng sản, nghệ thuật, sự tiến triển, văn hóa và thậ m chí ngay cả từ mơ hồ. Trong những trường hợp như thế những thuật ngữ cần được định nghĩa trước khi sử dụng. Cuối cùng, ví dụ một từ ngữ vừa tối nghĩa lại vừa mơ hồ - đó là từ nghệ sĩ.

• Ngôn ngữ có thể được sử dụng theo một lối đơn giản để đem lại thông tin, để biểu lộ cảm xúc hay gợi lên trong người khác cảm xúc, đưa ra những chỉ dẫn hoặc trình tự (một cách trực tiếp), hay hướng dẫn tiêu chuẩn trao đổi xã hội (trịnh trọng).

• Khi những giá trị sử dụng này bị xáo trộn, ngôn ngữ được chọn có thể không thích hợp với tình huống, và do đó không đạt hiệu quả.

• Nếu một tranh luận được bày tỏ nhiều hơn ngôn ngữ cung cấp thông tin, xác định những ý nghĩa cơ bản làm cho chúng ta đánh giá nó tốt hơn.

• Một từ hoặc một biểu hiện có thể hiểu hơn một nghĩa được xem là tối nghĩa

• Một từ hoặc một biểu hiện không được rõ ràng gọi là mơ hồ.

• Mơ hồ có thể là kết quả từ sự lẫn lộn về ý nghĩa chính xác của một từ; nó cũng có thể phản ánh sư lạm dụng của từ ngữ.

7. Những Tranh Luận về Từ Ngữ

Trong sự khả o sát của chúng ta về vai trò của ngôn ngữ trong tranh luận, thật quan trọng để tạ o nên một sự phân biệt giữa hai dạ ng của tranh luận, tranh luận thực tế và tranh luận về từ, trước khi tiến tới phân tích những tranh luận cụ thể trong Phầ n II. Một tranh luận được cho là thực tế khi một ý kiến cho rằng một nhận xét nào đó là thật trong khi một

www.kinhtehoc.com 31

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

số ý kiến khác cho là sai. Nh ững tranh luận thực tế nảy sinh khi những quan điểm khác nhau xác thực tồn tại đối với những vấn đề thực tế.

Mặt khác, tranh luận về từ hay ngôn ngữ xuất hiện khi một ý kiến tin rằng một nhận xét nào đó là đúng trong khi một ý kiến khác cho rằng nhận xét khác là sai. Đúng hơn là một ý kiế n khác nhau trên cùng một nhận xét, có một quan điểm khác trên cùng một vấ n đề . Như thế trường hợp những ý kiến tranh luận bất đồng bởi không ý kiến nào nhận thức rõ tranh luận bên nhận xét như nhau.

Trong tranh luận về từ những ý ki ến có hoặc không thể được tán thành đối vớ i sự kiện trong những trường hợp, bởi vì cách mà mỗi người hiểu những từ ngữ mấu chốt trong tranh luận, họ không thể nói lên tranh luậ n c ủa họ thật sự không kể đế n họ có đồng ý hay không. Những lý luậ n về "Ồng Trời" xãy ra thường xuyên trong trạng thái tự nhiên này. Trong những lý luận như thế đó là một sự đánh giá một tranh luận để thấy rằng, từ những nghĩa mỗi ý kiến về Ông tr ời đề u khác nhau, không tranh luận về t ất cả những vật chất giống nhau. Một sinh viên khoa thần học đã thốt lên sau một tranh luận điển hình : "Bây gi ờ tôi hiểu rồi! Ông Chúa trời của bạn là ma quỷ của chúng tôi, và ma quỷ của chúng tôi là Ông trời của bạn!"

Thông suốt chương này, chúng ta thấ y những t ừ ngữ không đơn thuần chỉ đáp ứng cho vi ệc truyền đạ t thông tin mà còn cả cảm giác, thái độ và quan điể m. Từ những từ ngữ giống nhau có thể truyền đạ t thông tin, thỉnh thoảng c ũng được dùng để bi ểu lộ cảm xúc và quan điể m, chính là nguyên nhân của những s ự nhầm l ẫn về từ rấ t thường xuyên. Để có được sự nhất trí, những ý ki ến tranh luận phải phù hợp không chỉ đối với những ý nghĩa mô tả của chúng mà còn cả những ý nghĩa biểu lộ đạt yêu cầu.

Một thí dụ thích đáng là từ sự xâm lược, đặc biệt được s ử dụng trong tranh luận quốc t ế. Trong khi ý kiến của hai quốc gia có thể thống nhất có nghĩa diễn đạt (expressive) của từ - đó là một từ "xấu"- họ không thống nhất về ý nghĩa mô tả (descriptive) của nó. Vì thế, đối với một bên, sự xâm lược dường như không bao gồm sự tuyên truyền; không đưa thiết bị quân s ự, không đưa cơ quan tình báo hay tiếng súng vào một quốc gia khác, không thiết lập quân đội nước ngoài với cơ quan chỉ thị chính yếu... Đối với bên kia, tất cả những cái trên là hành động xậm lược. Giờ đây, bên này chê trách bên kia là đạo đức giả khi bên kia từ chối trách nhiệm về việc làm sai trái của "sự xâm lược" là không hiểu được những vấn đề của ngữ nghĩa học tiề m ẩn sự hi ểu lầm này. (TQ hiệu đính, một bên mang quân đội, vv.... vào một nước khác, họ không coi đó là hành động xâm lược, mà là hành động giải phóng, trong khi bên kia thì coi việ c sử dụng quân đội, vv... là hành động xâm lược. Hai bên đồng ý về ý nghĩa diễ n đạt của từ "xâm lược" là xấu sa, nhưng hai bên không đồng ý về ý nghĩa diễn đạt của từ "xâm lược": thế nào được coi là xâm lược).

Một thí dụ khác, hãy tưởng tượng một tranh luận về s ự xâm lượ c mà có một sự tán thành trên ý nghĩa của từ nhưng một bên nhấn mạnh rằ ng nó không chỉ miêu t ả tính tư lợi được khai sáng, trong khi một ý kiến khác cho rằng nó phải đáng lo ngại. Sau đó, những tranh luận về t ừ có thể nảy sinh trong cả hai chiều hướng: (1) mặc dù khi cả hai bên góp phần tham gia vào mức độ gây c ảm xúc giống nhau của vấn đề, không giống như sự am hiểu về mức độ miêu t ả; (2) hay mặc dù khi cả hai bên đều thống nhất trong những mức độ miêu tả của vấn đề, có những câu trả lời hoàn toàn khác nhau về mức độ gây cảm xúc. Cả

32

The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch

hai dạng tranh luận về từ thường được bổ sung bởi một khả năng phán đoán của vấn đề nan giải. Những người cảm thấy không chắ c chắn trong những cuộc tranh luận hay họ nên tiến hành như thế nào. Trong những trường hợp này, phương thức tốt nhất là để xác định vị trí bằng cách tìm hiểu một ý kiến khác về những gì họ muốn nói bởi những thuật ngữ của vấn

đề .

Một tranh luận có thể bằng lời nói cho đến khi có một khả năng phán đoán xa hơn, như trong câu hỏi thường gặp sau đây đối với những sinh viên mới bằt đầu của khoa tri ết học: Một cái cây ngã trong một khu rừng bỏ hoang có gây ra một âm thanh không? Rõ ràng chỉ có một từ mấu chốt trong câu hỏi này và đó là từ âm thanh. Từ câu trả lời chúng ta sẽ có khuynh hướng đưa câu hỏi này phụ thuộc vào ý nghĩa mà chúng ta gán cho từ đó, thật quan trọng nếu chúng ta thiết lập sự khởi đầu chỉ với những gì nó hàm ý. Đáng tiế c, khi được sử dụng trong ngữ cảnh này, nó là tối nghĩa, bở i vì nó có thể vừa là một cảm giác có thể nghe thấy (a) hay một chuỗi sóng trong không khí có khả nă ng gây ra một cảm giác có thể nghe th ấy (b) khi chúng tác động vào tai con người. Vì vậy, câu hỏi cây ngã trong một khu rừng bỏ hoang có tạ o nên âm thanh hay không có thể tr ả "có" hoặ c "không" - một trong hai câu trả lời đề u hợp lý như nhau phụ thuộc vào ý nghĩa mà chúng ta gắn liền cho từ then chốt. Chúng ta có thể trả lời "Vâng, nó tạo nên âm thanh, n ếu chúng ta muốn nói âm thanh ở đây là 'sự dao động trong không khí'. Những dao động như thế nả y sinh một cách hiển nhiên mọi người ở đó có thể ti ếp nhậ n được chúng hay không. Mặt khác, chúng ta cũng có thể trả lời: "Không, nó không tạo ra âm thanh, n ếu chúng ta muốn nói âm thanh là sự cảm nh ận những cảm giác hiện thời. Khi không có ai ở đó để cảm nhận những cảm giác như thế thì ta nói không có âm thanh nào được tạo ra". Tranh luận truy ền thống không còn sử dụng được nữa để trả lời câu hỏi này theo từng chữ một về bản chất, với cuộc tranh luận đưa ra sự nhầm lẫ n ở đó là một sự khác nhau trong một vấn đề riêng lẻ giữa những ý kiến khi sự thật chúng tranh luận về hai vấn đề riêng biệt.

7. Định Nghĩa

Bất c ứ ai đưa ra một cuộc tranh luận cho sự cân nhắc nghiêm túc là một nhiệm vụ để phát biể u giả thuyết và kết luận của họ một cách rõ ràng. Một phương pháp tạo nên một cuộc tranh luận rõ ràng là đưa những định nghĩa của những thuật ngữ mấu chốt. M ột định nghĩ a là một lời nhận xét rằng một từ hay một cụm từ có ý nghĩa giống như một từ hoặ c cụm từ khác. Nó gồm có 3 yếu tố: (1) sự diễn tả được đị nh nghĩa, mà những nhà lo-gic học gọi là một t ừ hay ngữ đang được định nghĩa; (2) sự diễn tả hạn chế nội dung của từ hay ngữ , gọi là xác định đặc đi ểm và (3) một sự khẳng định hay sự quy định rằng sự diễn tả đượ c định nghĩa có cùng ý nghĩ a như sự diễn tả hạn chế nội dung của từ hay ngữ. Thí dụ, nếu chúng ta chấ p nhận tài li ệu gốc của Tân từ điển Webster, từ c ơ duỗi có thể được trình bày rõ ràng như: Cơ duỗi có nghĩa là "một cơ bắ p hỗ trợ cho việc co duỗi một bộ phận của cơ th ể ( như chân, tay)". Sự bi ểu hiện được định nghĩa (một từ hay một ng ữ đang đượ c định nghĩa) là từ cơ duỗi, một từ không quen thuộc lắm với hầu hết chúng ta. Sự biểu hiệ n hạn chế nội dung của từ hay ng ữ (định nghĩa) là "một cơ bắp hỗ trợ cho việc co duỗi một bộ phận của cơ thể ( như chân, tay)", một mệnh đề mà chứa những từ ngữ rất quen thuộc với chúng ta.

www.kinhtehoc.com 33

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

Những nhà lo-gic học tham khảo nh ững định nghĩa giống như vậy từ Tân từ điển Webster như những đị nh nghĩa tường thuật (reportive definitions) và đối chiếu chúng với những định nghĩa ước định (stipulative definitions). Một định nghĩa tường thuật như một lời phát biể u rằng một t ừ ngữ hay cụm từ được sử dụng trong một kiể u cách nào bởi một nhóm ngôn ngữ học cụ thể, ví dụ như những phát ngôn viên của Anh Ngữ tiêu chuẩn. Mặ t khác, một định nghĩa ước định là một lời phát biểu bởi một người nói hay người viết có ý định sử dụng một từ trong một đường l ối nào đó. Định nghĩa tườ ng thuật có thể được được đánh giá là đúng hoặc sai. Những đị nh nghĩa ước định có thể chỉ được đánh giá là hữu ích hay vô ích. Trong nhiều trường hợp dạng hữu ích nhất của định nghĩ a cho mục đích của tranh luận là một sự kết hợp giữa tường thuật và ước định. Chúng ta hãy gọi nó là định nghĩa bình giải (explicative definition).

Một từ ngữ tùy thuộc vào một đị nh nghĩa bình giải có một điểm mấu chốt mà mọi ngườ i đồng ý, nhưng phần tối nghĩa mơ hồ phải được gạn lọc trước khi sử dụng trong tranh luận. Một định nghĩa bình giải chấp nhận cách sử dụng thống nhất của sự mô tả được định nghĩ a nhưng tiếp tục ướ c định sự mô tả đó đượ c sử dụng như thế nào trong những trường hợp không được làm rõ ràng b ởi từ điển t ường thuật của nó thống nhất về cách sử dụng. Thí dụ, giả sử một người đang tranh luận rằ ng những quốc gia trong khối thị trường chung Châu Âu nên tạ o thành một cộng đồng liên bang. Anh ta sẽ phả i định nghĩa thế nào là cộng đồng liên bang. Đị nh nghĩa phải phù hợp với lối mô tả đượ c sử dụng bởi những ngườ i nói. Thí dụ, một người không thể xem nhẹ sự mô tả định nghĩa ý kiến của những thực thể chính trị độc lập từ bỏ chủ quyền c ủa họ đến một chính quyền trung ương. Tuy nhiên, một tường thuật không đáng kể về cách sử dụng chuẩn của cộng đồng liên bang sẽ không đượ c rõ ràng bao nhiêu và hình thức chủ quyề n nào một nhóm thực thể chính trị độc lập sẽ phải từ bỏ một chính quyền trung ương để kể đế n như một cộng đồng liên bang. Ở điểm này, anh ta sẽ phải ước định từ ngữ được sử dụng như thế nào trong lý lẽ riêng biệt của anh ta. (TQ hiệu đính, ý chính của đọan này là, có những từ khái quát chúng ta cần phải định nghĩ a trước khi tranh lu ận; những từ đó như "cộng đồng", "liên bang", " đoàn kết", v.v.... Ví dụ, chúng ta hiểu thế nào là đoàn kết, nhưng "đoàn kết" bao nhiêu thì mới được coi là đoàn kết, và nếu thiếu một chút thì gọi là gì?).

Đị nh nghĩa của từ điển Webster về cơ duỗi là một ví dụ về những gì các nhà lo-gic học gọi là định nghĩa mỗi dấu hi ệu phân biệt đặc trưng (per genus et differentia). Một định nghĩa về mỗi dấu hiệu phân biệt đặ c trưng là một sự mô tả định nghĩa nói đến điều khoảng đối với những lớp cùng chủng loại của nó và sau đó phân biệt nó từ tất cả những hạng loại khác trong tầng lớ p đó. Thí dụ, Webster phân loại một cơ duỗi như một cơ bắp và sau đó tiếp tục chỉ ra loại cơ bắp cụ thể đó. Không phải tất cả các từ ngữ đều có thể định nghĩa theo hướng đó, nhưng có nhiều từ vẫn có thể, và một định nghĩa hoàn chỉnh mỗi dấu hiệu phân biệt đặc trưng là một công cụ đặc trưng của tư duy.

M ục tiêu của một định nghĩa hoàn chỉnh là phải rành mạch. S ự mô tả hạn chế nội dung c ủa t ừ hay ngữ phải rõ ràng đối với người nghe hoặ c người đọc hơn sự mô tả định nghĩ a. Nó không sử dụng sự hạn chế nội dung của từ hay ngữ làm một từ then chốt của một lý lẽ trong những từ ngữ mà chính chúng là mơ hồ hay không rõ nghĩa, đối với giá trị của những định nghĩa được đưa ra đó là sự tương đồng về mặt ngữ pháp với từ hay cụm từ được định nghĩa, về ngữ nghĩa, sự mô tả hạn chế nội dung của từ của bất cứ định nghĩa nào

34

The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch

được thay thế trong bất cứ ngữ cảnh thuộc ngôn ngữ học nào đối với s ự mô tả định nghĩa. Định nghĩa trên về cơ duỗi đáp ứng nhu cầ u này, từ đó cơ duỗi là một danh từ và " một cơ bắp hỗ trợ cho việc co duỗi..." là một cụm danh từ.

M ột đị nh nghĩa tường thuậ t hoàn chỉnh phải thật chính xác. Một định nghĩa là chính xác nếu và chỉ nếu sự mô t ả hạn chế nội dung của t ừ chỉ áp dụng vào tất cả những mục mà sự mô tả đị nh nghĩa của nó được ứng dụng. Nếu sự mô tả hạn chế nội dung của từ của một đị nh nghĩ a chỉ áp dụng vào một vài điều khoảng được gọi tên một cách chính xác bởi sự mô tả định nghĩa, sau đó chúng ta nói rằng định nghĩa định nghĩa bị hạn chế. Gỉa sử, thí dụ một người nào đó định nghĩa từ giáo dục là "sự phát triển c ủa khả năng để hiểu một cách rõ ràng". Ngữ định nghĩa của nó bao trùm phần mà sự mô tả định nghĩa nói đế n một cách chính xác. Nhưng bởi vì nó không được áp dụng cho những trường hợp chính xác của giáo dục - ví dụ, sự phát triển của thị hiế u văn chươ ng hay sự am hiểu lị ch sử - định nghĩa quá hạn chế . Mặt khác, giả sử một ai đó định nghĩa giáo dục là "sự điều chỉnh t ổng thể của cá nhân đối với môi trường của họ". Định nghĩa này là quá khái quát. Sự mô tả hạn chế nội dung về từ của nó áp dụng vào những hoạ t động và quy trình mà chúng ta không tính toán được những điều ám chỉ của giáo dục, thí dụ, sự phản xạ của cái chớp mắt.

Cách để kiểm tra độ chính xác của định nghĩa, rất đơ n giản: nó phải được đặt vào những thí dụ. Người ta nên cố gắng suy nghĩ về một điều gì đó mà sự mô tả định nghĩa ám chỉ rằng sự mô tả hạn chế nội dung của từ không bao trùm, hay ngược lại. Nếu điều đó có thể được thực hiện, định nghĩa không được chính xác và ví thế, đối với mục tiêu của lý luận chính xác trở nên vô ích.

Khi viết một bài tiể u luận có luận chứng, thông thườ ng chúng ta c ần dành ra nhiều hơn một câu để định nghĩa mỗi từ then chốt. Nó thường đòi h ỏi một đoạn văn - đôi khi là một phần c ủa bai tiểu luận- để phát triển định nghĩa. Ba đoạn văn sau trích từ Phạm vi của tiểu thuyế t của Cleanth Brooks và Robert Penn Warren chỉ là điểm bắt đầu những cố gắng của họ để làm rõ ràng hơn những gì họ muốn nói khi chúng ta cho rằng cốt truyện của một quyển sách tiểu thuyết:

"Bây giờ chúng ta sẽ c ố gắng t ạo ra một nhận xét có hệ thống về tự nhiên của c ốt truyện. Có lẽ chúng ta bắt đầu với - khái niệm: Có thể nói cốt truyện là những gì xãy ra trong một câu chuyện. Nó là chuỗi nhữ ng sự ki ện tư duy như sự khác nhau từ những người đã đồn hết tâm trí vào những sự kiện và sự khác nhau từ những ý ngh ĩa củ a s ự kiện. Chúng ta tạo nên một sự phân biệt như thế thậm chí chúng ta biết thật s ự chúng ta không thể tách rời một hành độ ng từ một cá nhân đưa ra nó, hoặc từ ý nghĩa củ a nó như một hành động. Nét độc đáo là điều chúng ta tạo ra trong đầu mình và không có sẵn trong tiểu thuyết hư c ấu. Để hiể u rõ hơn về bản chất tự nhiên của một câu chuyện, chúng ta phân tích tính đồng nhất mà câu chuyện và những gì chúng ta trải qua trên thực tế trước khi quá trình phân tích

được bắt đầu."

Cốt truyệ n là những gì xãy ra trong một câu chuyện - đó là một đạ i khái hoàn chỉnh- and ready cách để đặt vấn đề. Nhưng chúng ta xét tới một bước xa hơn. Chúng ta có thể nói, c ốt truyện là cấ u trúc của một hoạt động hiện tại trong một quyển sách tiểu thuyết. Chúng ta sẽ nhận thấy, nó không phải là cấu trúc của một hoạt động mà chúng ta tình cờ

www.kinhtehoc.com 35

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

tìm thấy, mà là tự chúng mang đế n cho ta. Chúng ta dựa vào sự tươ ng phản này giữa một hoạ t động "thô"- hoạt động gi ống như nó nảy sinh ra trên thế giới - và mộ t hoạt động trong câu chuyện, đó là những hoạt động được thực hiện khéo léo bởi người kể chuyện.

Ở đây chúng ta đang sử dụng từ hoạt động theo một lối đặc biệt. Chúng ta không có

ý nói một sự kiện riêng lẻ - John đập Jim bằng một hòn đá, Mary đặt quyển sách lên kệ. Chúng ta muốn nói về những chuỗi sự kiện, một sự vận động suốt thời gian, biểu lộ tính đồng nhất và đầy ý nghĩa. Nó là một chuỗi các sự kiện được liên kết vận động suốt ba giai đoạn một cách hợp lý - phần mở đầu, phần giữa và phần kết thúc. (Englewood Cliffs, N.J.: Prentice Hall, 1960, trang 51-52)

Dù chúng ta miêu tả được hay không những gì Brooks và Warren đang thực hiệ n như vi ệc đưa ra một định nghĩa về từ cốt truyện văn chương hay gạn lọc khái niệm của có truyện trong tiểu thuyết, sự tranh luận của họ là một thí dụ rõ ràng về những gì người ta thường phải làm để loại trừ từ bài diễn văn hay tác phẩm, từ suy nghĩ những từ tối nghĩa và mơ hồ.

Một tranh luận về từ hay ngôn ngữ học khác với một tranh luận thực t ế về một vần đề được đưa ra. Trong tranh luận về từ, một ý kiến tin rằng một nhận xét bào là đúng một ý kiến khác lại cho là sai. Sự bất đống ý kiến dẫn đến vấn đề: lời nhận xét nào sẽ được thảo luận?

• Những tranh luận về từ duy nhất gây sự chú ý của chúng ta, rất khó để nói tranh luận thực tế là gì, hoặc nếu nó cùng tồn tại.

• Để hiểu những tranh luận đó và những tranh luận thực tế, những ý kiến phải thống nhất về cả ý nghĩa miêu tả va biểu lộ của ngôn ngữ và nhận xét được sử dụng.

M ột bước quan trọng trong việc xây dựng một lý lẽ rõ ràng là đưa ra nh ững định nghĩa của từ hay hình minh họa nổi bật. Nếu một định nghĩa rõ ràng có thể hạn chế được những tranh luận về từ.

• Một định nghĩa hoàn chỉnh phải chính xác và dễ hiểu hơn từ ngữ mà nó định nghĩa. Nó cũng phải được tập trung vào: đủ rõ ràng để bao hàm tất cả những trường hợp có thể biết và hình dung được vật chất được miêu tả, và đủ hạn chế để loại trừ bất cứ những gì còn lại từ việc phù hợp với định nghĩa giống nhau.

• Một định nghĩa tường thuật sắp đặt một từ hay một ngữ được sử dụng như thế nào bởi một nhóm ngôn ngữ tổng thể (thí dụ, những người nói tiếng Anh chuẩn). Đây là nghĩa thông dụng của từ.

• Một định nghĩa ước định miêu tả một cách riêng biệt mà một người nói hay người viết có ý định sử dụng một từ trong một thời gian ngắn. Do đó, đây có thể là một định nghĩa khác với ý nghĩa thông thường.

36

The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch

• Một định nghĩa giải thích kết hợp với những định nghĩa tường thuật và ước định là một loại hình sử dụng hiệu quả nhất trong lý luận.

9. Nghệ Thuật Nói Chuyện Trực Tiếp

Sự rõ ràng trong vi ệc trình bày một lý luậ n không thể chỉ được hoàn t ất qua việc sử dụng định nghĩa. Nó c ũng đòi hỏi phải chú ý đến văn phong. Văn phong hay là một vấn đề của việc nói một cách rõ ràng, đơn giả n, thích hợp và súc tích những gì mà chúng ta muốn nói. Nếu một vật chất có thể được nói một cách đơn gi ản, thì tại sao chúng ta lại nói theo cách khác? Thâm chí nếu một vấn đề phức t ạp, ít nhất chúng ta nên cố gắng diễn tả nó một cách rõ ràng - với độ chính xác mà chúng ta có thể bao quát. Hoàn tất văn phong hay là để rèn luyệ n sự thận trọng; ta phải hạn chế việ c sử dụng nhiều từ ngữ, từ phức tạp mà ít từ hơn hay những từ đơn giản hơn có thể thay thế.

Thí dụ, vă n xuôi phức tạp đã phải sử dụng đến ở thành phố nhỏ Riverhead khi viết thông báo về một luật mới được ban hành:

"Khi rác ở vùng phụ cận gần nhất của một cá nhân và cá nhân đó có tài sản khác thu ộc quyề n s ở hữu trực tiếp mà có tên nhãn hiệu giống nhau, những người đó coi như đã bỏ rác ở vùng phụ cận gần nhất đó."

Có phải đơn giản hơ n khi ta nói : "Người giữ những vật dụng giống như rác trong khu phụ cận có rác sẽ bị coi như đã vứt rác bừa bãi."?

Và cân nhắ c kỹ mệnh lệnh khó hiểu dưới đây đã đượ c ban hành bở i Cục quản trị cộng đồng (Public Administration Bureau) trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai:

"Sự chuẩn bị như thế nên được thiết lập sẽ làm mờ đi hoàn toàn tất cả những cao ốc liên bang và không thuộc liên bang bị chiếm giữ bởi Chính quyền liên bang trong suốt một cuộc đột kích không phận trong nhiều quãng thời gian từ tầm nhìn xa hơn bởi lý do của sự khai trí trong và ngoài nước."

Khi viên chức vô dụng này đưa công văn lên tới bàn Tổng Thống, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt bảo một cách ngắ n gọn: "Nói với họ rằ ng trong một tòa cao ốc mà họ phải làm việc, đặt một cái gì đó (như treo cờ) qua cửa sổ". Ưu điể m chính của bất kỳ ngôn ngữ nào là cho phép ngườ i sử dụng nói chính xác ý nghĩa được đề cập, không hơn không kém. Những gì chúng ta cần phải nhớ là ngắn gọn sẽ hiệu quả hơn.

Một điều trở ngại cho văn phong hay là câu sáo rỗng2 . Một ngôn ngữ có khuynh hướ ng tích luỹ những câu rậ p khuôn, sáo rỗng này trong lịch sử dài, nhưng trong trường hợp này chúng ta chỉ không sử dụng chúng vớ i lờ i cảnh báo, mà là không sử dụng hoàn toàn. Một câu sáo rỗng là một mô tả l ặp đi lặp l ại truyền đạt một vài "chân lý" đó là quá lạm dụng như thế nó trở nên gầ n như vô nghĩa. Nếu chúng ta tranh luận, "Sự vội vàng sinh ra lãng phí, ví thế chúng ta hãy chậm lại trong việc điều chỉ nh sự bất công trong xã hội" ("Haste makes waste, so let us move slowly in righting this social injustice"), cách dùng của chúng ta về một câu sáo rỗng như giả thuyết sẽ làm giảm đi cuộc tranh luận. Bởi vì

2 cliche

www.kinhtehoc.com 37

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

những câu rập khuôn thì ngắn gọn, hay hóm hỉnh và có vẻ hình thức, chúng luôn đáng lo ngại, để chúng khích lệ sự vô tư lự bởi việc làm mờ đi những điểm chính xác của một vấn

đề.

Biện pháp đề phòng suy nghĩ những câu sáo rỗng tốt nhất là phải nhớ rằng, với mỗi cách ngôn phổ biến như thế, một cách ngôn khác có thể được trích dẫn một cách trực tiếp gây mâu thuẫn với nó.

a. Hai người hợp lại vẫn hơn một người (Two heads are better than one).

b. Hai thuyền trưởng làm đắm một con tàu (Two captains sink a ship).

c. Đừng thay ngựa giữa dòng. (Don't change horses in midstream).

d. Đã đến lúc phải thay đổi. (It's time for a change).

e. An toàn trên hết. (Better to be safe than sorry).

f. Không có mạo hiểm, không gì lợi ích. (Nothing ventured, nothing gained).

Một câu sáo rỗng có thể tìm thấy được để chứng minh - hoặc không chứng minh - cho hầ u hết điều gì. Cách sử dụng câu sáo rỗng, rập khuôn trong bất cứ tác phẩm thường cho ta thấy rằng tác giả đã không suy nghĩ kỹ, rõ ràng, hoàn chỉnh trong đề tài và cũng không muốn người đọc như thế.

Tươ ng t ự như thế là biệt ngữ (jargon), được Giáo sư Donald Hall mô tả chính xác: "những câu sáo rỗng thuộc về một chuyên môn riêng biệt". Lấy thí dụ những câu dưới đây từ một công bố của Quỹ khoa học quốc gia:

"Quyết định của sự tham gia này là một bộ phận hoàn chỉnh thiết lập sự tán thành bở i Quỹ Khoa Họ c Quố c Gia (NSF) của sự đề xuất xem xét trong thư quyết định và sự thống nhất để hỗ trợ về mặt tài chính cho dự án được mô tả trong kế hoạch đó ở kết quả của sự cố gắng đã tuyên bố trong thư quyết định tài trợ ngân sách

được đề nghị."

Những gì làm cho câu này khó hiể u không phả i là cách dùng từ ngữ chuyên môn không quen thuộc với ngườ i thiếu chuyên môn, b ơi vì nó không có những từ như thế, và thậm chí nếu có, sự ki ện đó không tự nó làm nền t ảng cho việc phê bình. Đúng hơn, câu trên làm cho người ta khó chịu bởi lối miêu t ả của nó, vừa tối nghĩa vừa thổi phồng ý nghĩa của một t ư duy đơn giản. Lưu ý cách diễn tả khoa trương ("một bộ phận hoàn chỉ nh", "thiết lập", "đề xuất"), việc sử dụng quá nhiều giới từ, và sự hạn chế một mẫu hình trực tiếp của chủ ngữ, động từ và vị ngữ. Những nét đặc tr ưng văn phong này là những gì được gọi là biệt ngữ. Biệt ngữ là một đặc tính của tâm lý quan liêu, nhưng nó cũng thâm nhập vào văn phong của các ký giả, học giả, sinh viên và học sinh. Bấ t cứ tác giả nào trình bày một lý luận cân nhắc nghiêm túc có nghĩa vụ phải hạn chế biệt ngữ.

Lối viết hay - một yếu t ố cần thiết trong một lý luận chính xác - là đơn giản, súc tích và sử dụng ngôn ngữ thích hợp.

38

The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch

Những câu rập khuôn, sáo rỗng là những biể u hiện được sử dụng quá rộng chỉ làm cho chúng trở nên vô nghĩa. Chúng cho pháp chúng ta đơn giản hóa quá mức những điểm cầu kỳ của một vấn đề; một lý luận mang phong cách hay sẽ hạn chế chúng một cách cẩn thận.

Biệt ngữ, những câu sáo rỗng hay mô t ả tối nghĩa của một nhóm riêng biệt (như những chuyên môn khác nhau), diễ n tả những sự vật, sự vi ệc theo một cách phức tạ p không cần thiết. Nó thường rất khó nắm bắt và vì thế cũng hiếm khi nằm trong một lý luận văn phong hay.

9. Tóm Tắt

Trong chương này đề cập tới vấn đề ngôn ngữ tạo thành một cầu nối giữa chuỗi lý luận, như việc nghiên cứu lý luận mà đã là vấn đề của Chương 1, và sự phân tích của những lý luận cụ thể, mà ta sẽ nghiên c ứu ở Phần 2. Chúng ta thấy rằng ngôn ngữ đã được tận dụng trong bấ t cứ lời phát bi ểu nào để xác định ý nghĩ a của phát biểu đó. Ngôn ngữ được xem như có liên quan mật thiết với tư duy, thậm chí như là một hình dáng của tư duy.

Ngôn ngữ đượ c coi là biểu tượng hóa hợ p lý, trong t ất cả những từ ngữ đó là những dấu hi ệu quy ước cho những vật chất chúng mô t ả - như đối lập với những dấu hiệu tự nhiên mà là những thành phần hay dấu hiệu xấ u. Khuynh hướng đánh đồng t ừ ngữ với những vật chất chúng biểu t ượng hóa đượ c chỉ ra để hạn chế sự nhầm lẫn về ngữ nghĩa và làm tăng những l ối nói trại, ở những vị trí vật chất được đặt ra một tên mới để che đậy những điểm tiêu cực.

Những sự nhầm lẫn khác về mặt ý nghĩa đượ c tìm thấy từ s ự khập khiễng giữa dạng ngôn ngữ - như thông tin, cảm xúc, hướ ng dẫn hay nghi thức - và mục đích của s ự thông tin. Hai khuyế t điểm làm hỏng đi ngôn t ừ thông tin là miêu t ả không rõ ràng, tối nghĩa, mà nhiề u hơn một nghĩ a có thể gán cho những từ hoặc ngữ; và mơ hồ, là ý nghĩa không được rõ ràng. Chúng ta lưu ý rằng những cuộc tranh luận có thể là đáng giá, trong trường hợp có s ự nhất trí về một vấn đề nào đó; hay là lời tranh luận suông -- trong những tranh luận về từ hay ngôn ngữ mà ng ười tranh luận không có sự nhận thức rõ về những từ vựng đó. Chúng có thể khác nhau về ý nghĩa miêu tả của ngôn ngữ được sử dụng hay ý nghĩa biểu lộ cảm xúc.

Gía trị sử dụng của định nghĩa đề nghị như một cách hạn chế sự mơ hồ trong một lý luận, không đề cậ p đến những tranh luận tối nghĩa và về từ. Tuy nhiên, giá trị sử dụng của định nghĩ a không đủ để đạt đượ c sự rõ ràng. Người ta đòi hỏi một vă n phong giản dị khi mục đích của chúng ta là thuyết phục cho ng ười khác thấy r ằng quan điểm của chúng ta là sự công nhận hợp lý và đáng được thừ nhận. Đó là một văn phong hạ n chế nhưng câu rập khuông, sáo rỗng và biệt ngữ, nói đơn gi ản và trực tiếp hơn những gì chúng ta muốn nói. Nhưng để chúng ta không nhầm lẫn tính chất dài dòng với độ dài. Một vài điều có thể đòi hỏi nhi ều khoảng trống hơn để di ễn tả và một số tư duy có thể trở nên quá phức tạp để truyền đạt chỉ với những cấu trúc đơn giản.

www.kinhtehoc.com 39

Fallacies of Ambiguity Tô Yến Nhi dịch

Phần II

Chương 3

Những Ngụy Biện do Sự Tối Nghĩa3

Phần II này nghiên cứu những dạng thông dụng của những lý luận sai lầm. Lý luận sai lầm (hay ngụy biện) là một lý luậ n có khuyết điểm. Mặc dù không hoàn thiện một cách hợp lý, những ý kiến sai lầm thường xuyên thuyết phục chúng ta bởi vì, trong sự xem xét trước tiên, chúng xuất hiện hợp lý trong hình thái và nội dung.

"Ngụy Biệ n" hay "Sai lầm"4 xuất phát từ tiếng Hy Lạp là "phelos", có nghĩa là "lừa dối", được nghĩ ra để thay thế cho sự thất bại về từ của chúng ta.

Những Ngụy Biện thông thường mà chúng ta tìm thấy trong những chương sau, là những lý luận không hợp lý về nội dung, như đối nghịch lại với hình thái hoặc cấu trúc của chúng. Một định nghĩ a khó có thể liệt kê tất cả các dạng ngụy bi ện thông thườ ng. Tuy nhiên, bằng cách cho thí dụ, chúng ta có thể tìm thấy trong cách sử dụng ngôn ngữ xuyên tạc để thực hi ện khéo léo nhận thức của chúng ta về một đề tài dưới sự thảo luậ n ("Bài thi khó khăn c ủa Giáo sư Hedley là không công bằng đối với sinh viên"), trong sự tối nghĩa -- không chủ tâm hay có kế hoạ ch cẩn thận hay không mà làm mờ đi sự thấu hiểu của chúng ta v ề những gì được tranh cãi rõ ràng, và trong những lý luận nói lên những sự thích thú đến khuyết điểm nhân tính của chúng ta. Trong những sự sai lầm gần đây, tranh luận cố gắng "quyết định", học hỏi chúng ta đồng ý vớ i một lý luận ngoài cả m giác đáng tiếc hay khiếp sợ, ngoài sự mong muốn của chúng ta là "thành phần của đám đông" hay ng ược lại, để phân biệt với đám đông -- thành phần ưu tú nhấ t. Chúng ta xử lý những sai lầm thông thường bằ ng cách nhậ n biết và gạn lọc những phát bi ểu tối nghĩa và mơ hồ của chúng, bằng cách tạo ra sự rõ ràng những giả định đáng ngờ của chúng, và bằng cách trình bày những xu hướng c ủa chúng. Thật đáng tiế c rằng những khía cạnh mà những lý luận này trở nên vô ích thường xuyên là những gì phó thác chúng với các thính giả.

Những nhà lo-gic học của t ất cả các giai đoạn đã nghiên cứu những sự sai l ầm thường phức tạp và khó phân biệt. Người đầu tiên phân loại những lý luận sai lầm là

3 Fallacies of Ambiguity

4 Fallacy

41

Fallacies of Ambiguity Tô Yến Nhi dịch

Aristotle. Aristotle đã chia những lý luận bị sai lầm thành hai nhóm: một số có nguồn gốc ngôn ngữ c ủa chúng, mà bao gồm những sai lầm về sự tối nghĩa, và một số có nguồn gốc ngoài ngôn ngữ, được xem như tất cả các sai lầm khác. Mặc dù có nhiều người có khuynh hướng theo s ự phân loại của Aristotle, nhưng s ự nghiên c ứu một vài sự sai lầ m cũng thay đổi theo thời gian, và những sai l ầm mới được phát hiệ n. Một số đã tranh cãi rằng không có sự phân loạ i những sự sai lầm thích hợp nào tồn tại, từ những hướng đi đến sai sót là rất nhiều và phức tạp.

Vẫn còn những người khác quả quyết rằng, giống như sự nghiên cứu l ập luận chính xác, lý luậ n học không nên có liên quan tới chính nó với lập luận không hoàn hảo. Những tranh luận này hầu như là sự sai lầm của bả n thân nó, từ sự tương tự với những lỗi hợp lý thông dụng giúp chúng ta bảo vệ những sự sai lầm - trong những lý luận của người khác và của cả chúng ta - và vì thế đẩy mạnh nguyên nhân của lập luận chính xác.

Trong quyển sách này, chúng ta sẽ rời khỏi hệ thống phân loại hai phần của Aristotle, để chúng ta hài lòng rằng, thật ra, tất cả những sai lầm có nguồn gốc trong một vài khía cạnh của ngôn ngữ. Vì thế, s ự tổ chức của việc nghiên cứu những sai lầm trong Phần II là ba phần, tươ ng ứng với ba cách thức mà ngôn ngữ được sử dụng trong một lý luận sai lầ m có thể tìm thấy như nguồn gốc của sự sai lệch. Trong Chương 3, chủ đề là những sai l ầm về t ối nghĩa mà nó là ý nghĩa phức tạp của những từ ngữ đã tận dụng đó là nguồn gốc c ủa sai lầm. Trong Chươ ng 4, trong nh ững sự sai lầm của giả định, sai sót xuất phát từ cách thức mà những lý luận sai lầm đã tạo thành ngữ tương đồng hay hợp lý như những lý luận chính xác hấp dẫn chúng ta để "coi như là" l ập luận phải chính xác bởi nó bao hàm ngôn ngữ tương tự như thế c ủa những lý luận xác đáng. Nhóm cuối cùng, trong Chương 5, gồm có những sai lầm c ủa sự thích đáng, mà ngôn ngữ hay lý luận không thích hợp được đưa ra để làm vững chắc một sự thích thú d ễ gây cảm xúc, đúng hơn là một sự thích thú hợp lý. Vì thế, trong khi Aristotle phát hiện những lỗi trong lý luậ n một cách tr ực tiếp đến ngôn ngữ chỉ trong trường hợp những sai l ầm do sự mơ hồ, chúng ta sẽ thấy nó hữu dụng để nhấn mạnh bản chất ngôn ngữ của lỗi trong những sai lầm của giả định và sự xác đáng.

Sự phân chia ba phần chúng ta phát hiện trong quyển sách này c ũng giúp ta hiểu sâu xa hơ n bả n chất của sự hợp lý hay sự hợp lý mạnh mẽ . Hợp lý là sự nghiên cứu lý luận, và do đó, đưa ra sự tán thành của chúng ta về một lý luận, chúng ta nên luôn chắc chắn rằng chúng ta hiểu ra ba điều sau đây:

1. Lý luận khẳng định rõ ràng điều gì?

2. Những sự kiện trong lý luận có được trình bày chính xác hay không?

3. Lập luận trong lý luận có hợp lý hay vững chắc không?

Ba phạm trù của sai lầm được kế t hợp chặt chẽ với những khía cạnh này của lý luận. Hình thức đầu tiên (những sai lầm về tối nghĩ a) có liên quan với những lý luận mà không đạt hiệu quả ngay khi gặp trở ngại ở câu hỏi đầu tiên ( lý luận có rõ ràng không?); thứ hai (những sai lầm của giả định) có liên quan với câu hỏi kế tiếp (lý luận có được trình

42

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

bày chính xác không?); và thứ ba (những sai lầm của thích hợp) có liên quan với câu hỏi cuối cùng (lý luận có hợp lý không?)

Trong quá trình minh họa ba hình thức sai lầm này, đôi khi nó s ẽ hữu dụng để nghiên cứu một số ví dụ vô lý mà không có ai mu ốn phạ m phải. Tương tự như vậy, trong tầ m quan trọng c ủa sự ngắ n gọn, cho phép chúng ta làm nổi bậ t sai lầ m của vấn đề, chúng ta sử dụng nhiều ví d ụ mà chính chúng không bao hàm đầy đủ những lý luận. Những ví dụ như thế đáp ứng cho một mục tiêu tươ ng tự như kính thiên văn hay kính hiển vi trong các lĩnh vực khác: chúng khuyếch đại bản chất tự nhiên của vật thể dưới việc nghiên cứu để chúng ta có th ể thấy nó rõ hơn. Trong những tr ường hợp khác, một ví dụ khôi hài có thể được sử dụng để minh họa cho những gì trong thực tế một sai l ầm vô cùng nghiêm trọng. Cũng ở đây, những ví dụ sáng tỏ như thế giúp nêu bật bản chất của sai sót, nhưng chúng không phải hướ ng dẫ n chúng ta nghĩ những sai lầ m đó không nguy hi ểm. Nhiều ngườ i của những quốc gia khác nhau nói chung bị sai lừa vì những tuyên truyền sai lầ m. Những người được giáo dục tuỳ nghi trong tất cả thờ i gian và nơi chốn cần hiểu rõ giá trị những kết quả đúng đắn mà có thể nó là kết quả của những lập luận sai lầm.

Những sự hiểu lầm về tối nghĩa là những lý luận không hợp lý vì chúng chứa đựng một hay nhiều từ, nhiều chữ hay trong sự kết hợp, có thể được hiểu nhiều hơn một nghĩa. Chúng ta theo dõi trong Ch ương 2, ngôn ngữ của chúng ta chứa nhiều từ tối nghĩ a - những từ ngữ và sự miêu tả nhiều hơn một nghĩ a. Khi sự tối nghĩa được trình bày trong một lý luận, lý luận luôn kém chính xác. Chúng ta sẽ nhậ n thấy trong chương này sáu sai lầm: những sai lầm về lối nói lập lờ, câu nước đôi, dấu trọng âm, phép tu từ, sự phân đoạ n và sự kết cấu. Mặc dù sự tối nghĩa gây ra sáu sai lầm đó, sự tối nghĩa đặc trưng trong mỗi trường hợp đều khác nhau. Trong lói nói lập lờ, sự tối nghĩa xuất phát từ sự kiệ n những từ ngữ được sử dụng có nhiều hơn một ý nghĩa chính xác và có thể có những ý nghĩa đúng đắn tuỳ thuộc vào ngữ cảnh (context) của nó. Về câu nước đôi, chúng ta sẽ thấy rằng nó là sự tối nghĩa của cấu trúc câu gây ra sai lầm. Trong trường hợp dấu trọng âm, sự tối nghĩa được chấ p nhận trọng âm nhấn hay âm thanh được tận dụng. Trong phép tu từ, sự tối nghĩa là kết quả của vi ệc sử dụng một hay nhiều từ ngữ chỉ có thể tham khảo hợp lý những tồn t ại cụ thể nếu nó cũng có thể xem xét về sự trừu tượng. Trong phân đoạn và kết cấu, sự tối nghĩa đượ c chấp nhận nhầm lẫ n ý nghĩa chung với ý nghĩa phân biệt c ủa t ừ. Những sai lầm của sự tối nghĩa có thể gây thú vị trong những trường hợp chúng ta có thể đảm bả o rằng chúng không nguy hiểm. Tuy nhiên, trong trường hợp khác chúng có thể dẫn đến những câu hỏi sâu sắc hay tức khắc mà không có câu trả lời.

Bảng những sự sai lầm của tối nghĩa:

Lối nói lậ p lờ (Equivocation) :: Một sự tối nghĩa gây ra bởi một thay đổi giữa hai ý nghĩa hợ p lý của một t ừ.(Trọng điểm: sự tối nghĩa tuỳ thuộc vào một từ hay ngữ. Tương phản với CÂU NƯỚC ĐÔI). :: Ví dụ: "Nếu bạn tin vào những điề u kỳ diệu của khoa học, bạn cũng nên tin vào điều kỳ diệu của Kinh thánh." (Niềm tin vào khoa học và tin vào kinh thánh có giống nhau không?)

Câu nước đôi (Amphiboly) :: Một sự tối nghĩa gây ra bởi cấu trúc câu không hoàn chỉnh. (Trọng điểm: sai lầm bao hàm cả câu và không tuỳ thuộc vào một từ) :: Ví dụ:"Tôi

www.kinhtehoc.com 43

Fallacies of Ambiguity Tô Yến Nhi dịch

bỏ phiế u bầu cho ứng c ử viên độc lập vớ i những hy vọng cao nhất. (Gạn lọc sự tối nghĩa: Những hy vọng của ai? Của ứng cử viên hay của người nói?)

Dấ u trọng âm (Accent) :: Một lời phát biểu tối nghĩa vì (1) âm thanh và cách phát âm của nó không rõ ràng; (2) âm nhấn của nó cũng không rõ ràng; hay (3) nó được trích dẫn ngoài ngữ cảnh. :: Ví dụ: (1) " Có thể hế t sức tán dương quyển sách này" (Cách nói này trong một giọng nghiêm trang hay châm biếm?) (2)"John nghĩ r ằng McIntosh sẽ thành công" ( Từ ngữ nào được nhấ n mạnh?) (3) "Will Rogers không bao giờ gặp George McGovern?" (Trong tâm hồn người lập dị?)

Phép tu từ (Hypostatization) :: Sự nghiên cứu những t ừ ngữ trừu tượng như những từ cụ thể, đôi khi thậ m chí gán cho chúng những đặc tính của con người (Tương t ự như nhân cách hóa) :: Ví dụ: "Thậm chí khi anh ta đã về nhà, công việc s ẽ có sức cám dỗ anh ta, khẳng định ưu thế của nó, và lôi kéo anh ta trở về với nó." (Quan sát chủ ngữ và động từ)

Phân hóa (Division) :: Giả đị nh r ằng những gì là chính xác của tổng thể (1) hay một nhóm (2) phải đúng với những phần của các bộ phận (Cố gắng "phân chia" những gì hợp lý của tổng thể giữa các thành phần của nó). :: Ví d ụ: (1)"Tôi không thể xé quyển danh bạ điện thoại này thành phân nửa, vì thế tôi không thể xé một trang của nó thành phân nửa."

(2) "Đây là hội nữ sinh giàu nh ất trong trường; vì thế Mary, một thành viên trong đó, phải là một trong những người giàu nhất ở trường."

Kế t cấu (Composition) :: Gi ả định rằng những điều gì h ợp lý của một thành phần trong tổng thể hay một bộ phận của nhóm phải hợp lý với tổng thể hoặ c nhóm ( Cố gắng "sắp xếp" toàn b ộ ngoài những thành phầ n của nó) :: Ví dụ: (1)"Miếng bánh nướng tôi ăn có hình cái nêm và cũng như miếng bánh nướng của người hàng xóm. Tất cả bánh nướng phải theo hình dạng hình cái nêm." (2)"Một ngày nào đó loài người s ẽ biến mấ t khỏi trái đất, để chúng ta biết r ằng mỗi người trong chúng ta sẽ chết." (Có cần phải chờ mọi người cùng chết để biết mỗi con người phải chết không?)

1. Lối Nói Lập Lờ 5

Vi phạm của lối nói l ập lờ là cho phép một từ mấu chốt trong một lý luận để thay đổi ý nghĩa của nó trong quá trình của lý luậ n. Theo nghĩa đen, lối nói lập lờ (equivocation) xuất phát từ tiếng Latin. Một từ đượ c sử dụng đơn nghĩa (univocally) nó có nghĩa giống nhau trong mọi ngữ c ảnh đượ c đưa ra, được sử dụng lập lờ (equivocally) nếu hai (2) ý nghĩa hay nhiều hơn xãy ra cùng một lúc.

Xem xét ví dụ này:

a. Tôi đã cho bạn biết những lý do của tôi khi thực hi ện nó, như ng thông thường bạn sẽ không lắng nghe lý do vì thế bạn tiếp tục tranh cãi với tôi.

5 The Fallacy of Equivocation

44

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

Tranh luận này đánh đồng vi ệc lắng nghe lý do với những lý do về một điề u gì đó. Nhưng tranh luận này rất khác nhau về cách sử dụng t ừ lý do. Trong cách sử dụng đầu tiên, lý do có nghĩa là "sự hợ p lý bu ộc chúng ta đồng ý vớ i nó". Trong cách sử dụng thứ hai, lý do có nghĩa "một hỗ trợ cho lý luận" mà có thể hoàn toàn không có sức thuyết phục và không buộc chúng ta nhất trí.

Khi sự thay đổi trong ý nghĩa của một từ mấu chốt trong suốt một lý luận đặc biệt tinh tế, phần kết thúc dường như xãy đến một cách rõ ràng từ giả thuyết và lý luận sẽ xuất hiện nhiều âm thanh đáng kể hơn.

b. Trang tài chính của Th ời báo Luân Đôn nói rằng tài s ản của Luân Đôn hôm nay dồi dào h ơn của Luân Đôn ngày hôm qua. Đây phải là một sai lầm, vì Luân Đôn hôm nay không có nhiều tài sản hơn ngày hôm qua.

Nguyên vă n: "The financial page of the London Times says that money is more plentiful in London today than it was yester. This must be a mistake, for there is no more money in London today than there was yesterday."

Trong ngữ cảnh của lý lu ận này, từ dồi dào và hơn ở câu đầu tiên dường như tươ ng đương. Tuy nhiên, trong sự xem xét gần hơn, câu đầu tiên dường như nói về sự phân bố tài sản, còn câu thứ hai nói về số lượng.

Sự sai lầm về lối nói lập lờ này đặc bi ệt dễ dàng khi xem xét khi một từ mấu chốt trong một lý luận trở thành một hình thái của lời nói hay một phép ẩn dụ. Bằng cách làm sáng tỏ một phép ẩn dụ theo nghĩa đen, đôi khi chúng ta tự thuyết phục bản thân mình r ằng một lý luận lại trở nên hợp lý hơn. Một s ố ít người dườ ng như có khái niệm sai bởi một hình thái của diễn văn như "anh ta trông có vẻ gầy yếu và đói khát", và ngôn ngữ của chúng ta sẽ nghèo nàn hơn nếu không có những miêu tả như thế. Nhưng nhiều sự miêu tả hình thái cần được sử dụng với sự thận trọng.

c. Đó là một trách nhiệm toàn bộ của doanh nghi ệp in để xuất bản tin tức như thế, như nó sẽ là sự th ị hiếu công chúng khi được in ấ n. Không thể có sự ngờ vực về thị hiếu công chúng trong vụ án mạng hung ác của Nữ bá tước Clamavori và những chi tiết liên quan đến cuộc sống cá nhân củ a bà ta dẫn đến vụ án mạng. Doanh nghiệp in sẽ thấ t bại trong trách nhiệm của nó nếu nó đã kiềm nén từ việc xuất bản những vấn đề này.

Sự miêu tả thị hi ếu công chúng (public interest) ở đây có nghĩa là "lợi ích của công chúng" (public welfare) trong giả thuyết đầ u tiên, nh ưng nó có nghĩa là "những gì công chúng tò mò" (what the public is interested in) trong giả thuyết thứ hai. Ví thế, lý luậ n là sự ngụy biện vì những gì công chúng tò mò không giống như những gì lợi ích cho công chúng.

Lý luận dưới đây tương tự như trên:

d. Không ai có th ể có hi ểu biết sơ sài nhất về khoa học có thể nghi ngờ rằng điều kỳ diệu trong Kinh thánh đã xãy ra trên thực tế. Mỗi năm chúng ta đối chứng

www.kinhtehoc.com 45

Fallacies of Ambiguity Tô Yến Nhi dịch

những điều kỳ diệ u mới trong khoa học hiện đạ i như TiVi, máy bay phản lực, thuốc kháng sinh, phẫu thuật cấy ghép tim, tim nhân tạo bằng nhựa.

Đâu là cách sử dụng ẩn dụ của điều kỳ diệu và đâu là theo nghĩa đen? Sư miêu tả những điều kỳ diệu c ủa khoa học nghĩa là gì? Một sự thay đổi tương tự trong ý nghĩa là đặc điểm c ủa lý luận kế tiếp. (TQ hiệu đính, sự kỳ diệu của khoa học là những thành quá có thể mắt thấy tai nghe, và sự kỳ diệ u của Thánh Kinh thì không! Đo đó, không thể đánh đồng hai ý nghĩa kỳ diệu được, vì nó khác xa).

e. Theo thiển ý c ủa tôi, chúng ta không c ần chú ý đến vị hiệu trưởng c ủa trường đại học khi nói tớ i những vấn đề giáo dục bởi vì ông ta không có quyền lực trong giáo d ục. Ông ta chưa bao giờ có đủ quyền lực để ngăn cản sinh viên đi nộp đơn kháng nghị/hay đi biểu tình.

Kết luận là một nguỵ biện bởi vì cách nói lập l ờ tranh luậ n về ý nghĩa của "quyền lực" (authority). (TQ bổ sung, ông ta không đủ quyền lực như là khả năng ngăn c ản sinh viên đi biểu tình, đâu có nghĩa ông ta không có quyền lực như là trách nhiệm của một vị hiệu trưởng giáo dục sinh viên nếu như họ làm sai!).

Lối nói l ập lờ không hạ n chế những miêu tả t ượng trưng, phần l ớn những từ ngữ của chúng ta có nhiề u hơn một nghĩa, bất cứ ý nghĩ a nào cũng có thể là nguồn gốc c ủa sự sai lầm. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều ví dụ về lối nói mập mờ trong tác phẩm của Lewis Carroll, Through the Looking Glass.

Khai thác cách nói nước đôi.

f. "Có ai đi qua nhà ngươi trên đường không?", nhà vua tiếp tục, giơ tay chỉ người sứ giả.

Sứ giả trả lời: "Không có ai cả".

Nhà vua nói: "Khá đúng, người phụ nữ này cũng thấy anh ta. Vì thế dĩ nhiên không có ai đi chậm hơn nhà ngươi."

"Thần cố hết sức mình", người sứ giả nói trong một giọng điệu rầu rĩ. "Thần chắc chắn rằng không có ai đi nhanh hơn thần!"

Nhà vua lại nói: "Ông ta không thể làm được điề u đó, n ếu không ông ta đã tới đây trước tiên!" (Lewis Caroll's Through the Looking Glass, Chương 7)

Vừa là một nhà toán học người Anh thời đại Victoria và tác giả của một quyển sách lo- gic, Carroll kết hợp những câu chuyện của ông ta thành nhiều nghịch lý của ngôn ngữ và của tư duy lo-gic.

Giữa các từ ngữ với những ý nghĩa phức tạ p mà dễ bị ảnh hưởng của lối nói nước đôi là những ý nghĩa tối nghĩa và vô định. Từ thực hành trong ví dụ sau đây là thuộc về dạng này.

46

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

g. Thực hành làm nên hoàn hảo. Những bác sĩ phải thực hành thủ thuật chữ a bệnh hàng ngàn năm. Vì thế, bác s ĩ của tôi, người đã học ở một trong những trường y danh tiếng, sẽ thành thạo trong lĩnh vực của cô.

Ở một mức độ về trực giác, lý luận này dễ nhận biết là không hợp lý bởi vì một bác sĩ không thể đánh đồng với t ất c ả nhiều bác sĩ khác; tất nhiên cô ta không thể nghiên cứu y học trong hàng ngàn năm để trở nên thành thạo. Mặt khác, xem lại lý luận như một ví dụ về l ối nói l ập lờ , cho phép chúng ta thấy những thiế u sót của nó rõ ràng hơn. Trong mức độ này chúng ta có thể nhận thấy r ằng không thể phân biệ t đượ c giữa những gì có thể được gọi là thực hành y học như một nghề nghiệp đã tồn tại hàng ngàn năm, và thực hành y học của một bác sĩ. Hơn nữa, chúng ta có thể nhận ra rằng thực hành được sử dụng theo ý nghĩa hiện thời khác trong giả thuyết, "thực hành làm nên hoàn hảo".

Sự phân tích như thế cũng cho phép chúng ta thấy tại sao lý luận chứa những sai lầm của lối nói lập lờ thường xuấ t hiện hợp lý. Bởi vì giả thuy ết ngoài những điều mà chúng tạo nên là không đáng chê trách khi nhận thấy riêng lẻ, bất cứ sự thay đổi nào về mặt ý nghĩa t ừ một l ời phát biểu này đến lời phát biểu khác có thể thoát khỏi sự chú ý của chúng ta. Cả hai giả thuyết trong lý luận (e) ở trên đều hợp lý. Khi chúng được đặt với nhau thành một thể trong lý luận, lý luận dường như hợp lý ngoại trừ vi ệc độc giả nhận ra một từ mấu chốt bị thay đổi ý nghĩa như nó xuất phát từ một gi ả thuyết này đến giả thuy ết khác. Thật ra đây là phương pháp hiệu quả nhất để kiểm tra sự hợp lý của những lý lu ận như thế. Nếu bạn nghi ng ờ rằng một từ mấu chốt bị thay đổi ý nghĩ a của nó, đơ n giản là đọc lạ i lý luậ n, giữ cho ý nghĩa của từ đáng ngờ vực đó không thay đổi về hình thức. Trong nhiề u trường hợp, phương pháp kỹ thuật này sẽ bộc lộ một giả thuyết hay kết luận không hợp lý.

Nó hữu ích để nhớ rằng ở nguồn gốc của nhiều trường hợp về lối nói nướ c đôi được coi là hợp lý rằ ng chúng ta không mâu thuẫn vớ i chính mình, chúng ta kiên định. Tuy nhiên xu hướng kiên định có thể là một cái bẫy. Xem ví dụ này cách đây một vài thế kỷ:

h. Có ba điều luật của tự nhiên. Luật hàm ý có người ban hành luật.

Vì thế phải có người ban hành luật vũ trụ.

Câu tr ả lời của chúng ta trong trường hợp này là : từ luật đượ c được sử dụng trong ngữ c ảnh c ủa "luật của tự nhiên" có ý nghĩ a đơn gi ản "tuân theo quy tắc" và luật được sử dụng trong ngữ cảnh của "người ban hành luật" có nghĩa là "tập hợp những mệnh lệnh".

[...]

Để cung cấp tài liệu tương tự là ví dụ hơi dài hơn:

i. Trong chế độ dân chủ của chúng ta tất cả mọi người đều bình đẳng. Tuyên ngôn độc lập tuyên bố điều này rõ ràng và dứt khoát. Như ng chúng ta hay quên sự th ật vĩ đại này. Xã hội c ủa chúng ta chấp nhận nguyên tắc cạnh tranh. Và sự cạnh tranh ngụ ý rằng mộ t người nào đó giỏi hơn người khác. Nhưng hàm ý đó là sai. Bí mật chỉ là giỏi như toàn thể; người thư ký sắp xếp hồ sơ cũng như hội đồng

www.kinhtehoc.com 47

Fallacies of Ambiguity Tô Yến Nhi dịch

quả n trị; h ọc giả cũng không hơn một ngườ i tối dạ; triết gia cũng không hơn người ngu xuẩn. Tất cả chúng ta sinh ra đều bình đẳng.

Câu trả lời của chúng ta: Sự thật chúng ta tin tưởng rằng tất cả chúng ta đều có quyền như nhau không có ngh ĩa là chúng ta cũng phải tin r ằng t ất cả chúng ta có khả năng như nhau (và vì thế không thể được đối xử "công bằng",... làm ra cùng một mức lương). Đây vẫn là một ví dụ tinh tế hơn:

j. Tôi không tin vào khả năng loại trừ sự mong muố n đấu tranh (desire to fight) của nhân loại bởi vì một sinh vật không có đấ u tranh (without fight) sẽ chết hoặc suy tàn. Cuộ c s ống có những áp l ực. Phải có một sự cân bằng từ những khác biệt đối lập nhau để tạo nên một nhân cách, một quốc gia, một thế giới hay một hệ thống có tổ chức.

Câu trả lời của chúng ta: cụm từ mong muốn đấu tranh về cơ bả n có nghĩa là " bạo lực", và c ụm từ không có đấu tranh nghĩa là "cương quyết", "động lực" hay "lòng can đảm", nó rất có thể loại tr ừ một yếu tố (bạo lực) mà không có sự huỷ diệt tất yếu khác (lòng can đảm của chúng ta).

Cuối cùng, xem xét ví dụ này từ một biên tập viên:

k. Tôi lúng túng vì những nhóm phản đối tậ p hợp ở trước nhà giam khi thực hiện mộ t bản án tử hình theo l ệnh. Tên sát nhân, người đã phạm mộ t tội cực kỳ tàn ác, đã chấp nhận tất c ả hình thứ c pháp luật thích đáng và đã được cho mọi cơ h ội để bào chữa cho bản thân mình -- thông thường với những ý thức có giá trị h ợp pháp nhấ t và phí tổn của người đóng thuế. Ngày nay cũng những người bả o hộ này đều ủng hộ việc kết thúc sự sống của hàng triệu trẻ em vô tội bởi nạn phá thai.

Có sự mâu thuẫn giữa phản đối việc thi hành án tử hình đáng trừng phạt một mưu can sát nhân và không phản đối việc kết thúc sự sống " của hàng triệ u trẻ em vô tôi bởi nạ n phá thai" không? Trong một trường hợp, có liên quan tớ i mạng sống của con người, trong trườ ng hợp khác mạng người có thể không có liên quan (vì có những cuộc tranh luận rằ ng một bào thai thì chưa phải là con người và dĩ nhiên thậm chí chưa thể gọi là "s ự sống"). Chúng ta thấy từ những ví dụ này chúng ta sử dụng những từ ngữ sâu sắc như thế nào để tự chúng ta diễn tả thành suy nghĩ được hình dung trong lý luận.

Một ví dụ đặc biệt nổi bật về ả nh hưởng trực tiếp của ngôn ngữ trong tư duy là s ự sai lầm phổ biến mắc phải do triết gia người Anh John Stuart Mill, một trong những tác phẩm của ông ta về đạo đức học. Ở đây Mill đưa ra câu hỏi kết cuộc hay mục tiêu đáng ao ước nhất với tư cách đạo đức con người là gì và tranh luận rằng nó là hạnh phúc, như giảng dạy theo thuyết vị lợi. Nh ưng làm th ế nào chúng ta có thể chứng minh hạnh phúc đó là một quan niệm quả thực đúng mà chúng ta nên mơ ước. Đây những câu trả lời này của Mill:

"Bằng chứ ng duy nhất được đưa ra là một vật thể h ữu hình có th ể thấy đượ c vì con người thực sự nhìn thấy. Bằng chứ ng duy nhất rằ ng một âm hữu thanh có thể nghe được vì con người nghe được: và vì thế cũng là bằng ch ứng của các nguồn gốc khác về kinh nghiệm của chúng ta. Trong cách thức giống nhau, tôi thấy rõ,

48

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

bằng chứng duy nhất có thể đưa ra bất cứ đi ều gì được ao ước, là những gì con người thật sự mong muốn nó." (Thuyết vị lợi "Utilitarianism", chương 4 ).

Những nhà phê bình Mill đã vạch ra rằng ông ta đã bị đánh lừa bởi kiểu cách miêu tả c ủa chính mình. Mặ c dù những từ ao ước, hữu hình, và hữu thanh là t ương tự nhau về cấu trúc, chúng không giống nhau về ngữ nghĩa. Đáng ao ướ c thì không có liên quan tới sự mong muốn trong hình thức giống nhau mà hữu hình và hữu thanh có liên quan đến thấ y và nghe, đối với vi ệc đòi hỏi một nét đặc trưng về phẩm chất mà hai yếu tố khác không có. Hữu hình có nghĩa đơn giản là một vật gì đó "có khả năng nhìn thấy được" ( và hữu thanh có nghĩ a là một điều gì đó " có thể nghe thấy đượ c"), nhưng đáng được ao ước ngụ ý r ằng điều gì đó "xứng đáng để ao ước", điề u đó "ph ải" được mong muốn. Điều này hi ện tại như thể, nó có thể khá đúng rằ ng một đi ều gì được nghe hay nhìn thấ y chứng tỏ rằng nó hữu hình và hữu thanh, nhưng "đáng ao ướ c" không theo quy t ắc đó, bởi vì một đi ều được mơ ước, đáng đượ c ao ước vì lý do đó. Ví dụ, nhiều người có thể mong muốn ma tuý, nhưng điều đó không chứng tỏ rằng ma tuý đáng được ao ước.

Sự sai lầm c ủa lối nói lập lờ là nh ững lý luận mà hai ý nghĩa khác nhau của một từ hay thành ngữ mấu chốt bị nhầm lẫn. Từ hay ngữ vẫn giữ nguyên nhưng ý nghĩa nó đem lại làm thay đổi chiều hướng của lời phát biểu hay lý luận.

Khó khă n hơn là những trường hợp mà s ự sai lầm được sử dụng như một cách thức kết tội chúng ta về sự mâu thuẫn hay trái ngược nhau như trong ví dụ: "nếu bạn tin vào

điều kỳ diệu của khoa học, vậy tại sao bạn không tin vào điều kỳ diệu của Kinh Thánh?"

Chúng ta nên trả lờ i: từ "những điều kỳ diệu của khoa học" chúng ta có ý nói những thành quả hay thành tựu vĩ đạ i của khoa học và không có điều gì trái với quy luật tự nhiên; như trong trường hợp "những điều kỳ diệu của Kinh thánh", chúng ta có mâu thuẫn khi tin tưởng vào một cái này (hay Thượng Đế) và không tin tưởng vào cái khác (hay những thượng đế khác).

2. Câu Nói Nước Đôi6

Chúng ta vừa lưu ý sự nhầ m lẫn có thể nảy sinh nh ư thế nào từ sự t ối nghĩa của một từ hay ngữ đơn l ẻ. Bây giờ chúng ta mu ốn tiế p tục và thấy sự nhầm lẫn có thể nảy sinh như thế nào từ sự tối nghĩa của cấu trúc câu và sự tham khảo như trong trường hợp của ba sai lầm kế tiếp: câu nước đôi, dấu trọng âm và cú pháp. Chúng ta hãy bắt đầu với câu nước đôi.

Sự sai lầm của câu nướ c đôi7 là sản phẩm của cấu trúc câu nghèo nàn. Nó xãy ra khi những từ ngữ không chính xác hoặ c được ghép lỏng lẻo trong một câu, làm phát sinh một ý nghĩa ngoài dự kiến của tác giả.

a. Sự phát triển mới về nhà ở. Những ngôi nhà đẹp có ngay tức thì. Ở đó trước đi! Chúng sẽ không kéo dài lâu.

6 Fallacy of Amphiboly

7 Câu nước đôi xuất phát từ tiếng Hy Lạp là "ampho", có nghĩa là "gấp đôi" hay " cả hai mặt". Về nguồn gốc, nó có liên quan mật thiết với sự tối nghĩa.

www.kinhtehoc.com 49

Fallacies of Ambiguity Tô Yến Nhi dịch

b. Nhữ ng quý bà trong Hội truyền giáo đường Walnut đã vứt bỏ quần áo. Họ mời các bạn đến và kiểm tra họ.

Sự nhầm lẫn và sự tối nghĩa trong hai ví dụ này là rất rành mạch chúng không cần gi ải nghĩ a. Bây giờ chúng không phải là tiêu biểu cho những thông cáo đông đảo mà chúng ta thấy ở khắp nơi.

Nhiề u ví d ụ về sự tối nghĩ a là sả n phẩm của sự sai sót về văn phạm như cách sử dụng những danh từ hay đạ i danh từ tối nghĩ a (như hai ví dụ trên), hay nghệ thuật chấm câu không thích hợp, từ bổ nghĩa không xác định. Một vài ví dụ điển hình:

c. Bạn cần phải nhớ những nhiệm vụ xã hội của bạn. Nếu bạn không đến tang lễ của người khác, họ sẽ không đến trong lễ tang của bạn. (Ai sẽ không tới? Người chết được chôn cất hay thân nhân của người chết?)

d. Tín hiệu giao thông: Trẻ Em Qua đường Chậm Lại. (tín hiệu báo những người điều khiển ô-tô rằng trẻ em đang qua đường chậm, hay một tín hiệu chỉ thị họ chậm lại cho trẻ em qua đường?)

e. Ở tốc độ 2,200 vòng quay một phút, người giúp việc đã tắt máy phát điện. (Ai hay cái gì "ở tốc độ 2,200 vòng quay một phút"? Người giúp việc hay máy phát điện?)

Thỉnh thoảng sai sót là kết quả từ việc sử dụng những từ ngữ ít hơn yêu cầu để thiết lập ngữ cảnh.

f. Chúng tôi giao thuốc chính xác. (Khẩu hiệu của những dược sĩ).

g. Vừa mới nhận! Một nguồn cung cấp áo sơ mi thể thao nam từ 15 đến 19 vòng

cổ.

Những cột quả ng cáo được phân loại trong báo hàng ngày là một nguồn dồi dào những lối viết lơ đễnh nh ư th ế, như trong tr ường hợ p người bạn mà quảng cáo bán con chó của anh ta bằng cách nói con chó "ăn được mọi thứ và rất thích trẻ con". (TQ hiệu đính, có ăn luôn trẻ con không?)

Bởi vì chúng ta phải làm cô đọng ý nghĩa trong vài từ ngữ hơn, báo chí đặt đầu đề cũng dễ xãy ra những lỗi của sự tối nghĩa.

h. Kẻ Sát Nhân Nói Nạn Nhân Đã Săn Đuổi Hắn Với Một Lưỡi Dao Cạo. (TQ hiệu đính, nạn nhân lúc đó sống hay chết?)

i. Những Công Nhân Xưỡng Tàu Đã Tập Hợp Để Đình Công Ở Cảng Đại Tây Dương. Nguyên văn: "Dock Workers Set to Walk Out in Atalantic Ports". (TQ hiệu đính, walk out or set out).

Bảng quảng cáo, tín hiệu và thông cáo được viết vội vàng, tất cả đều sử dụng ngôn ngữ súc tích, như đầu đề của báo chí, hay những nguồn khác thường xuyên của câu nước đôi.

50

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

Một vài phút suy nghĩ có thể hạn chế những lỗi này, nguyên nhân không phải là thiếu khoảng trống mà hình như cẩu thả. Những từ ngữ được nhóm lại với nhau trong những hình thức mà tạo nên tối nghĩa góp phần vào sai sót của câu nước đôi.

j. Cuộc hôn nhân của cô Anna Black và ông Willis Dash đã được loan tin trên báo này một vài tuần trước là một lỗi lầm và chúng tôi muốn đính chính. (TQ hiệu đính, đính chính cái gì: hôn nhân của Anna và Willis hay đính chính việc loan tin).

k. Cảnh sát có thẩm quyền đang tìm cách giải quyết các vụ án mạng (murders) càng ngày càng khó khăn, vì nạn nhân không chịu hợp tác với cảnh sát. (TQ hiệu đính, nạn nhân còn sống hay chết? Nếu còn sống thì đâu có thể nói vụ án mạng (murders) được. Nếu chết thì làm sao nạn nhân hợp tác với cảnh sát được? Nói đúng thì phải trình bày như sau, thân nhân của các nạn nhân không chịu hợp tác với cảnh sát).

Giả định cho rằng những độc giả "sẽ hiểu bạn muốn nói gì", thậ m chí nế u bạn không trình bày một cách rõ ràng, sẽ trở nên nguy hiểm trong việc hiểu lầm khi đề tài càng phức tạp hơn.

Mặ c dù t ất cả chúng ta đều tìm trong câu n ước đôi một sai sót nả y sinh từ cấu trúc câu không hoàn chỉnh của một câu đơn, sai sót có thể cũng là kết quả từ việc sắp xếp không hợp lý hai câu cạnh nhau.

l. Giấy chứng nhậ n từ một công ty bảo hiểm: Tôi và chồng tôi đã ký một hợp đồng bảo hiểm nhà ở với công ty ông. Ch ưa đầy một tháng nhà của chúng tôi ngẫu nhiên b ị cháy. Tôi coi đó như là một sự may mắn. (May mắn vì nhà của họ cháy, hay họ cũng có bảo hiểm?)

Thậm chí nếu chúng ta chấ p nhận đi ều phi lý của những sai sót của câu nước đôi là không có chủ ý, mối quan tâm của chúng ta về những người phạm sai sót được giảm bớt. Nếu tác giả đủ thận tr ọng để đoán trước r ằng những lời phát biểu của họ đã mở ra những cách hiểu khôi hài, dĩ nhiên là họ sẽ xem lại chúng.

Thuộc về một phạm trù khác là cách sử dụng có ý thức và chủ tâm c ủa phươ ng sách. Một ví dụ là lời tiên tri của phù thủy trong Henry VI , Phần II (màn 1, cảnh 4) của Văn Hào Shakespeare: "Công tước còn sống Henry s ẽ truất phế" bà ta nói, như thế ý nghĩa không rõ ràng là "Henry sẽ truất phế Công tước" hay " Công tước sẽ truất phế Henry". ( Bà ta không thể làm cho ý nghĩa của mình rõ ràng bằng những đại từ thay thế như "ai" hay "người mà"). Tuy nhiên, một thí dụ thú vị hơn theo lối văn của Shakespear là lời tiên tri của phù thủy trong Macbeth:

m. Hãy vấy máu, dũng cảm và kiên quyết; cườ i nh ạo sức mạnh củ a nam giớ i, không phải con của phụ nữ nào sinh nở để làm hại Macbeth. (màn 4, cảnh 1)

"Không phải con của phụ nữ nào sinh n ở" tạo nên một sự dối trá cay nghiệt: kẻ thù của Mabeth, Macduff, đã được "tách ra sớ m từ dạ con của mẹ anh ta" hay được sinh bằng cách phẫu thuật, và vì thế Macduff không phải là đứa con do "phụ nữ sinh nở" trong ý

www.kinhtehoc.com 51

Fallacies of Ambiguity Tô Yến Nhi dịch

nghĩa thông thường. Do đó, phù thủy không nói dối Macbeth, nhưng bà ta cũng không nói cho ông ta biết chính xác về sư thật.

Vì lẽ có sác xuất c ủa sự tối nghĩa khi chúng ta tuyên thệ trước toà án, chúng ta không thề sẽ "nói sự thật" (vì chúng ta có thể nói một phần sự thật), thậm chí không thề sẽ "nói sự thật, toàn bộ sự thật" (vì nếu như thế , chúng ta cũng có thể thêm vào một vài lời nói dối, bởi vì lời thề đâu có cấm không làm như thế), nhưng đúng hơn là "nói sự thật, toàn bộ sự thật, và không có gì ngoài sự thật". Mụ phù thủy bị ràng buộc bởi lời thề và sự tuyên thệ đó, bà ta không thể làm lung lạc Macbeth bằng phương thức ngoại lệ đó.

Câu nước đôi được s ử dụng để đánh lừa không ch ỉ trong tiểu thuyết. Một ví dụ tiêu biểu là câu truyện liên quan đến Croesus và nhà tiên tri ở Delphi. Sự suy tính chiến tranh với Ba Tư, Croesus đã hỏi ý kiến nhà tiên tri về hậu quả. Ông ta nhận được lời tuyên bố của nhà tiên tri "n ếu Croesus tham chiến với Cyrus, Croesus sẽ huỷ di ệt vương quốc hùng mạnh". Thích thú với lời tiên tri này, nhà triệu phú tham chiế n và thất bại nhanh chóng. Phàn nàn của nhà tiên tri, Croesus nhận được câu trả lời đính chính của nhà tiên tri: "Khi tham chiế n, ông ta sẽ hủy diệt một vương quốc hùng mạnh - của chính mình!" Đi ều này được đưa ra quan toà Herodotus, nhà sử học đầu tiên của Hy Lạp, người đã trừng trị Croesus vì tội ngu:

"Giống như lời tiên tri nói, Croesus không có quyền phàn nàn về điề u đ ó... Nế u muốn có l ời khuyên rõ ràng, thì ông nên gửi thư và h ỏi rằ ng thượng đế có nói gì về vương quốc của Creosus hay của Cyrus? Nh ưng ông không hiểu vương quố c nào được đề c ập tới, cũng không đặt ra câu hỏ i sâu xa hơn: tại sao bây giờ ông tự trách bản thân mình?" (The Histories, quyển 1, chương 91)

Bên c ạnh những ví dụ xa xưa hay văn chươ ng, những trường hợp được ghi lại về cuộc sống và số phận của những ngườ i được đó và mất đó vì k ết quả của sự tối nghĩa. Một ví dụ thú vị và nổi tiếng là trường hợp của tù nhân người Nga, người mà tìm cách thoát khỏi nhà tù Siberia bằng cách khẩn khoản xin Nga hoàng tha thứ. Yêu cầu khẩn khoản đó được đáp bằng một câu tr ả l ời không có dấu chấm câu, "Ân Xá Không Thể Thi Hành". Ông ta muố n nói tù nhân sẽ bị hành quyết (dấu chấm câu được đặt sau từ "không thể"), nhưng tổng cai ngục lại đọc thành "Ân Xá. Không Thể Thi Hành (án)" và phóng thích tên tù nhân. Sau đó tình trạng của ngườ i cai ngục làm thế nào mà không bị liên can; tất nhiên khi l ỗi được phát hiện, anh ta bị thế chổ cho tên tù nhân - đó là cách xét xử tù nhân tiêu biểu của Nga hoàng .

Câu nước đôi cũng có khả năng đượ c khai thác cho những mục đích có lợi. Một thí dụ điển hình là một đĩa ghi âm có đầu đề là "Những bài hát hay nhất (Best) của the Beatles", làm cho mọi người mua nó và tin tưởng rằng ho đã mua một đĩa hát có những bài hát hay nhất của the Beatles. Sau đó họ nghe tại nhà, họ phát hiệ n rằng họ đã mua m ột đĩa hát của Peter Best, người từng là thành viên của the Beatles (tay trống của họ) trước đó trong sự nghiệp của nhóm.

• Câu nước đôi là sự sai lầm của một câu không hoàn chỉnh, hay được cấu trúc không cẩn trọng, dễ gây hiểu lầm.

52

With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies

• Cách sử dụng những đại từ/ danh từ tối nghĩa, nghệ thuật chấm câu không hợp lý, và những bổ nghĩa không chính xác là một số lỗi văn phạm thường xãy ra trong sai sót.

• Những nguồn gốc khác của sự sai sót là: sự thiếu khả năng của chúng ta điều chỉnh trật tự cho các từ ngữ làm thay đổi ngữ cảnh; kết quả của chúng ta là quá ngắn gọn; vị trí không thích hợp của hai câu cạnh nhau; và sự vụng về trong cách hành văn thông thường.

4. Dấu Trọng Âm 8

Những ý nghĩa không được nói rõ trước có thể nảy sinh không chỉ từ cấu trúc câu không hoàn chỉnh, như trong trường hợp của câu nướ c đôi, mà còn nhầm lẫn từ sự nhấ n giọng. Kết quả của sự sai lầm trong dấu tr ọng âm khi một nhận xét được phát biểu với một giọng không mong đợi; những từ ngữ nào trong đó nhấ n tr ọng âm sai; hay từ ngữ nào (thậm chí cả câu và cả đoạn văn) đặt ra ngoài ngữ cảnh và vì thế đưa ra một sự nhấn giọng (hay một ý nghĩa) chúng không nói lên được ý nghĩa vốn có.

Tầm quan trọng của sai lầ m này có thể được tập hợp từ tình huống bất ngờ sau: Trong một bả n sao của một trong những băng ghi âm về Watergate, John Dean, cố vấn Tổng Thống, cảnh báo Richard Nixon đừng chuốc l ấy rắc rối trong một lý do đưa ra để che đậy và Tổng Thống trả lời "Không - sai rồi, đi ều đó là chắc chắn". Câu hỏi là: Nixon đã đổi giọng các từ ngữ nào khi ông ta đưa ra lời nhận xét này? Nó được nói với một gi ọng điệu nghiêm chỉ nh và thẳ ng thắn hay mỉa mai? Nếu hoàn toàn mỉa mai, lời nhận xét này sẽ bộc lộ thêm dấu hiệu của tình trạng rắc rối của ông ta.

Sai sót của dấ u trọng âm ít nảy sinh trong diễn văn, khi âm thanh dễ truyền tải bằng giọng nói và điệu bộ, hơn là trong ngôn ngữ viế t. Đối với nguyên nhân này, viên lục sự thận trọng đọc lớn lời khai bằng một giọng đề u đều, theo cách này tránh biểu lộ cảm xúc về vấn đề họ đang đọc. Trong văn phong, khi nói "không thể hết sức khen ng ợi quyể n sách này" có thể cũng có nghĩ a rằng chúng ta không thể nói đầy đủ về những điều tốt của quyể n sách hoặc là không xứng đáng để khen ngợi. Tươ ng tự, để nói rằng chúng ta hy vọng một ai đó "đạt được mọi điều họ xứng đáng có được" có thể bao hàm hai ý nghĩa rất khác nhau.

Lưu ý cách thức những lời nhận xét sau đây có thể đem l ại một mục đích nghiêm túc và tán tụng hoặc cả một mục đích chế nhạo và phủ nhận phụ thuộc vào giọng điệu được sử dụng trong khi nói.

a. Chẳng bao giờ trông bạn khá hơn thế.

b. Tôi không bao giờ nghĩ rằng nó sẽ giống như thế.

c. Tôi sẽ không mất thời gian để đọc bài diễn thuyết của bạn.

8 The Fallacy of Accent

www.kinhtehoc.com 53

Fallacies of Ambiguity Tô Yến Nhi dịch

Dấu trọng âm (accent) là từ được nhà triế t học nổi tiếng của Hy Lạ p Aristotle áp dụng bởi để chỉ sự hiểu sai từ kết quả của những từ ngữ khác nhau về dấu nhấn âm tiết. Một ví dụ trong tiếng Anh sẽ là sự nhầm lẫ n của từ invalid (có nghĩa "một người bệnh") và invalid (nghĩa là " một lý luận không hoàn chỉnh"). Theo ý này, danh từ này cũng áp dụng cho những trường hợp khi nhấn giọng trên nhi ều từ hay cả câu, mà tương tự khi thiếu dấu trọng âm truyền đạt một ý nghĩa chúng không có ý định truyền đạt.

TQ hiệu đính: Trong tiếng việt, tr ường hợp tương tự c ũng có khá nhiề u. "Ghét" mà khi nhấn giọng mạnh đi đôi với cái lườm khác với "ghét" của "đồ đáng ghét" nói giọng bình thường.

Để hạn chế nh ững lời nhận xét như thế từ việc hiểu sai ý, người ta cần xem xét chúng trong ngữ cảnh rộng hơn. Trong trường hợp của ba ví dụ trên điều này có thể mang lại các dạng sau:

d. Bộ trang phục rất hợp với bạn. Chẳng bao giờ trông bạn khá hơn thế.

e. Thật là tuyệt. Tôi không bao giờ nghĩ rằng nó sẽ giống như thế.

f. Bạn thật là một tác giả tài năng. Tôi sẽ không mất thời gian để đọc bài diễn thuyết của bạn.

Sử dụng phương pháp này, làm tương tự vói hai nhận xét dưới đây:

Chỉ có Hollywood mới có thể sản xu ất một bộ phim như thế này. Khách hàng nói rằng s ản phẩm của chúng ta không thể so sánh với sản phẩm khác mà họ từng dùng.

Dĩ nhiên những ví dụ này có ý định nhấn trọng âm ý nghĩa đối lập, trong trường hợp chúng được nói trước bằng những chú thích phủ nhận như:

Thật là một bộ phim t ồi! Chỉ có Hollywood mới có th ể sản xuất một bộ phim như thế này. Khách hàng nói rằng sản phẩm của chúng ta quá tệ không thể so sánh với những sản phẩm khác họ từng dùng.

Chúng ta cũng đương đầu với sai sót này khi những từ ngữ nào nhấn tr ọng âm sai. Lưu ý một s ố cách thức khác nhau có thể hiểu câu hỏi: " Bạn đã đến cửa hàng hôm nay?" Nhấn mạnh bạn và câu trả l ời có thể là: không, không phải tôi, hôm nay đến phiên của Tom. Nhấn mạ nh cửa hàng và câu trả lời có thể là: không, hôm nay tôi đi sửa xe. Nhấn mạnh hôm nay và có thể trả lời: bạn không nhớ sao; tôi đã đi ngày hôm qua?

Một câu chuyện để minh họa rõ ràng cho sai sót này. Một thuyền trưởng và sĩ quan cấp I của ông ta đã không hoà thuận với nhau, từ viên sĩ quan thích uống rượu còn vị thuyền trưởng thì không. Một ngày nọ vị thuyền trưởng nghĩ ông ta sẽ sửa đổi viên viên sĩ quan và đã ghi vào nhật ký hàng hải lờ i ghi chú, "sĩ quan cấp I đã uống rượu hôm nay." Khi đến viên sĩ quan giữ nhậ t ký hàng hải, ông ta thấy câu đó và giậ n dữ. Ông ta nghĩ, thuyền trưởng dĩ nhiên sẽ sa thải mình khi trở về bờ biển. Để trả thù vị thuyền trưởng, viên

54

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#poetry