english6

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 6

Trí nhớ

Trong tiếng mẹ đẻ, não bạn nhận ra và hiểu được một kết hợp từ bất kỳ kiểu nào trong số hơn 50.000 từ trong vòng chưa tới một giây. Điều này hoàn toàn tương phản với những thứ tiếng mà bạn phải học về sau, vì lúc đó, trong vòng vài giây thì không có chuyện gì xảy ra. Hãy tưởng tượng rằng, trong một chuyến du lịch Paris, một người bản xứ thân thiện dẫn bạn đi dạo một giờ đồng hồ từ Notre Dame đến viện bảo tàng Louvre, rồi đi về phía Bắc đến đồi Sacré-Cœur, rồi cuối cùng lại đi xuống Pigalle. Nếu vài tháng sau, bỏ bạn một mình Notre Dame, có lẽ bạn sẽ tự nhớ được đường đến Pigalle, nhờ nhớ vị trí các nơi chốn, đường xá, ngã tư, cửa hàng và các toà nhà. Thật khó có thể tin được rằng toàn bộ khối lượng thông tin này tương đương với việc học 10 từ mới. Tại sao người lớn học ngôn ngữ mất nhiều thời gian như vậy trong khi trẻ em dường như có thể vừa học vừa chơi vừa vui đùa thích thú? Có phải tất cả chúng ta vừa ra đời đã mang một dạng nhẹ của chứng mất trí nhớ? Hay là não người lớn giỏi nhớ đường xá hơn là nhớ từ vựng?

Hãy lấy ra một cái ly. Hãy tưởng tượng tôi đặt một ngón tay lên ly và hỏi bạn nó là gì. Ngay lập tức, không chút do dự, bạn sẽ trả lời nó là một cái ly. Từ “ly” được thốt ra từ miệng bạn như nước tuôn chảy từ suối. Lý do là từ “ly” đã gắn chặt trong não bạn theo nhiều cách khác nhau: trong đầu bạn hình dung được hình ảnh cái ly, bạn có ký ức về cách phát âm từ “ly”, bạn có ký ức về cách viết từ “ly” và khi cần, bạn có thể nhớ lại hàng trăm kỷ niệm liên quan đến từ này, ví dụ như nâng ly chúc mừng sinh nhật, lễ cưới, lễ kỷ niệm hay ai đó ném ly vào tường..vv.

Từ “ly” được gắn kết vào một mạng lưới dày đặt những sự kiện và sự vật theo thời gian và không gian. Hình 6.1 mô tả một mạng lưới như vậy. Bất kỳ từ nào trong số hơn 50.000 từ tiếng mẹ đẻ của bạn được đan xen với nhau từ nhiều điểm khác nhau trong não bạn. Chúng trôi bồng bềnh trên một biển nghĩa, dữ kiện và cảm xúc. Ngay khi bạn thức dậy vào buổi sáng, tất cả các từ trong não bạn nằm sẵn ở chế độ chờ, sẵn sàng nhảy vào ý thức của bạn khi những từ đó được tiếp nhận thông qua hình thức nghe bằng tai hoặc thấy bằng mắt. Mạng lưới các mạng từ vựng này là tài sản quý giá nhất trong đời bạn, nó được phát triển qua nhiều năm.

Hình 6.1. Một phần nhỏ bé của một mạng lưới từ vựng đơn lẻ

Để quản lý các mạng lưới từ vựng và tất nhiên cả những công việc khác, não của bạn nhờ đến một cỗ máy nhỏ gọn mà phức tạp. Trước hết, cỗ máy này chứa từ 10–100 (1011) tỷ nơron, tức những tế bào xử lý thông tin chủ yếu. Thứ hai, những nơron này liên kết với các nơron ở gần chúng hoặc cả những nơron ở xa xôi. Ở thanh niên, các bó sợi nơron xa có tổng chiều dài khoảng 176,000 km, khoảng nửa đường đi từ trái đất đến mặt trăng. Thứ ba, mỗi một nơron trong số 1010 đến 1011 nơron được liên kết với các nơron khác bởi tới 10.000 khớp thần kinh. Đây là những giao diện chuyên môn hóa cao mà ở đó thông tin được truyền từ các sợi trục thần kinh sang các nhánh tế bào thần kinh. Bức tranh toàn cảnh thật ấn tượng: trong một milimet khối mô não, có một tỷ liên kết khớp thần kinh, trong cả não bộ, có đến 1000 ức (1015) liên kết này, con số này tương đương số các vì sao của 10.000 dãy Ngân Hà.

Hình 6.2. Một nơron đơn lẻ với các nhánh tế bào thần kinh và nhiều khớp thần kinh của nó (các chấm màu cam)

Tuy nhiên, chi tiết đáng ngạc nhiên nhất không chỉ vậy: các khớp thần kinh không phải là cố định. Chúng sinh ra và mất đi khi các gai nhánh tế bào thần kinh hỗ trợ chúng hình thành và biến mất. Những gai này là phần nhú ra bé nhỏ trên một nhánh tế bào thần kinh.

Nếu ta dạy cho một chú chuột dùng hai chân trước để vươn ra lấy hạt thì các gai nhánh tế bào thần kinh sẽ hình thành trong vòng một giờ đồng hồ. Đa số các gai mới này sẽ lại mất đi nhưng một số gai sẽ được duy trì và cố định sau nhiều lần huấn luyện nữa để rồi chúng sẽ để lại những dấu ấn cực nhỏ và vĩnh viễn lên các liên kết vỏ não. Sự thay đổi kết cấu điện tử trong não được hình thành này chắc chắn là chất nền nguyên tử trong việc ghi nhớ lâu dài. Tính dễ thay đổi này của não bộ thậm chí còn có thể được nhìn thấy bằng mắt thường . Thí dụ như, ở các tài xế taxi Luân Đôn trước khi có công nghệ GPS. Não bộ của họ có sự nở to tại khu vực chịu trách nhiệm định hướng không gian. Hoặc các nghệ sĩ vĩ cầm có não bộ nở to ở phần não chịu trách nhiệm vận động cảm giác bên não trái.

Tốc độ hao mòn gai thật đáng kinh ngạc. Trong một cuộc nghiên cứu, 96-98 % các gai mới hình thành mất đi sau vài ngày và ít hơn 1% gai mới duy trì được nhiều tháng. Sử dụng 20% lượng oxy bạn hít vào, não bạn luôn trong tình trạng phân loại thông tin mới nhận được, củng cố những thông tin quan trọng và loại bỏ những thông tin không liên quan.

Quá trình tái cấu trúc diễn ra trong não bộ được minh họa khá thú vị qua những thực nghiệm thế kỷ 19 với mục đích đo lường thời gian học và quên những chuỗi 2300 từ vô nghĩa gồm phụ âm+ nguyên âm+phụ âm như KOJ, BOK, và YAT. Kết quả thu được thật đáng suy nghĩ. Sau 24 giờ, người ta quên mất 70% (Hình 6.3). May thay, bạn sẽ được học những từ có nghĩa và do đó chắc sẽ nhớ được nhiều hơn sau 24 giờ.. Tuy nhiên sau 1 tháng, chắc bạn cũng sẽ không nhớ được nhiều hơn là những nhà tiên phong về trí nhớ cách đây hơn 100 năm. Sinh lý não bộ con người không tạo điều kiện cho việc nhớ từ ngay tức khắc. Trong lĩnh vực học từ vựng, tiến bộ không thể nhanh được.

Để tránh cho các gai nhánh tế bào thần kinh bị mai một, hãy lên lịch học nhịều buổi. Bạn sẽ nhận ra rằng, trước khi ăn sâu vào trí nhớ trọn đời, các từ mới trải qua nhiều mức độ nhận biết từ vựng liên tiếp nhau. Ở giai đoạn yếu nhất, bạn thậm chí không nhớ đã gặp qua một từ nào đó, tuy nhiên bạn sẽ nhận ra nó nếu thấy nó trong một danh sách từ bạn đã học qua. Giai đoạn tiếp theo đó là bạn có thể nói bạn đã học qua từ này nhưng không thể nhớ nghĩa. Ở giai đoạn kế tiếp, bạn cảm giác được nghĩa của một từ như đang treo sẵn trên đâu lưỡi của mình nhưng vẫn cứ không chịu bước ra. Cuối cùng là giai đoạn bạn nhớ ngay nghĩa của một từ sau một giây suy nghĩ kế đến nữa là nhớ ngay lập tức sau một mili giây.

Hình 6.3. Đường cong thể hiện quá trình quên

Để tiện việc hiểu nhau, chúng ta hãy định nghĩa việc biết một từ là khả năng nhớ được nghĩa nó sau một tháng không sử dụng đến nó. Chỉ lâu lâu mới có một từ ta nhớ được như vậy. Tuyệt đại đa số từ vựng phải trải qua quá trình lâu dài với nhiều lần ôn đi ôn lại thông qua đọc, nghe hoặc lặp đi lặp lại có ý thức. Đừng bao giờ quên rằng: các dấu vết ký ức mới hình thành rất dễ mất đi. Thử tưởng tượng não từ vựng của bạn giống như một lâu đài được bảo vệ bởi các bức tường thành cao và ông vua cai quản ra lệnh nghiêm ngặt cho lính gác cổng rằng không từ mới não được vào não nếu chưa qua lặp đi lặp lại nhiều lần. Những tên lính gác trí nhớ yêu cầu phải có bằng chứng cho thấy một từ mới xứng đáng được đưa vào trí nhớ vĩnh viễn. Hãy chuẩn bị tinh thần học đi học lại một từ 5, 10 hoặc thậm chí 20 lần để nhớ vĩnh viễn một từ.

Lợi ích của việc học lại nhiều lần là mỗi lần học có thể ngắn hơn nhưng đem lại kết quả cao hơn. Nếu bạn học một từ mới lần đầu tiên vào ngày 0, học lại nó vào ngày 1, 3, 6, 10, 17 và 31. Hình 6.4 minh họa những lần ôn cách khoảng nhau và kết quả bạn đạt được. Tổng sổ thời gian ôn đi ôn lại một từ có thể là 4 đến 6 phút..

Hình 6.4. Đường cong quá trình học (đỏ), xây dựng từ đường cong quá trình quên.

Xanh đậm: Sự thụt lùi ban đầu về khả năng nhớ

Xanh nhạt: Nhớ được lâu dài mà không cần ôn tiếp.

Xanh lá cây: Ôn lại giúp cho tỷ lệ nhớ tăng trở lại 100%.

Ta có thể thấy rằng từ “học” không hề đủ khả năng diễn tả điều mà ta sắp phải làm. Thứ nhất, “việc học được một từ” không phản ánh được các mức độ hiểu biết từ thấp đến cao về từ đó. Thứ hai, “việc học được một từ” bao hàm khả năng quên từ đó. Chúng ta đã từng biết bao nhiêu việc và rồi sau đó lại quên chúng? Quên cũng không sao nếu như đó là môn vật lý học hay toán cao cấp vì đa phần những thứ đó không liên quan đến cuộc sống bình thường nhưng với ngôn ngữ thì không chấp nhận được vì ta cần từng tí thông tin đã có được đến suốt đời.

Do đó, tôi không muốn dùng từ “học từ vựng” vì thật ra ý tôi muốn nói là bạn phải “lưu trữ từ vựng” trong não bộ của bạn theo một cách cụ thể. Bạn phải khắc ghi từ mới vào não bộ và đóng đinh chúng chặt vào đó. Cách nói hay hơn “học được từ vựng” phải diễn đạt được rằng từ vựng sẽ duy trì được trong não bạn mấy chục năm: nó có thể bị ăn mòn đi và từ từ trở nên yếu ớt hơn nhưng dù sao nó vẫn còn tồn tại theo bạn cả đời. Vậy ta hãy bỏ đi khái niệm “học được” và sử dụng khái niệm “học chắc từ vựng”. Định nghĩa của “việc học chắc từ vựng” phải bao gồm ba bước: học, ôn và điều khiển.

Làm thế nào để học chắc từ vựng là việc của từng cá nhân. Nếu cần phải học gấp, hãy dựa vào hàng chục ngàn mạng lưới từ đã ăn sâu trong não của bạn (Hình 6.1). Tất cả những gì bạn cần làm là thêm hai thông tin vào một mạng lưới từ sẵn có: trước tiên, cách viết một từ và thứ hai là cách đọc của nó. Những thứ khác còn lại (kiến thức về nghĩa và ký ức liên quan đến từ đó) đã có sẵn. Trong thực tế, bạn nên làm một danh sách từ mới, vẽ ra hai cột, đặt cột ngoại ngữ và cột tiếng mẹ đẻ cạnh nhau. (ví dụ Bảng 6.1). Danh sách từ vựng cũng có mặt hạn chế của nó vì đôi khi một từ không có từ tương đương 100% trong tiếng mẹ đẻ của bạn nhưng với 5000 đến 15000 từ phải học, bạn không thể mất quá nhiều thời gian cho những cái tiểu tiết. Những mạng lưới từ có sẵn là cái nền vững chắc để học từ mới. Hãy sử dụng chúng. Nếu giáo viên của bạn nói là bạn có thể học từ vựng mà không cần học danh sách từ, đừng học với giáo viên đó nữa.

Bảng 6.1 Một danh sách từ vựng mẫu dành cho những người Đức muốn học tiếng Ý

Đường cong quá trình học từ ở Hình 6.4 chỉ là minh họa tương đối vì khả năng nhớ của từng người luôn khác nhau. Mỗi não bộ người đều độc nhất cũng như khuôn mặt người vậy. Các cấu trúc não bộ khác nhau do gen di truyền, do các điều kiện khi còn trong bụng mẹ (như tiếp xúc với thuốc lá, thuốc men và cồn) hoặc do các ảnh hưởng của môi trường sau khi sinh có thể ảnh hưởng đến khả năng học của từng người. Người có trình độ học vấn ngang nhau có thể có khả năng nhớ từ bằng nhau đến hơn nhau gấp đôi. Nếu trí nhớ bạn tốt hơn tôi, cùng một lượng từ bạn có thể học thuộc trong 30 phút còn tôi phải mất 1 giờ. Điều đó có nói lên rằng bạn có tài hơn tôi? Có thể là vậy. Nhưng sự khác nhau này có làm cản trở tôi học ngoại ngữ thành công không? Chắc chắn là không?

Thay vì so sánh bản thân bạn với người khác, hãy tập trung vào bản thân. Với hàng ngàn từ đang chờ bạn học, chắc hẳn bạn đang thắc mắc không biết có cách nào cải thiện trí nhớ hay không. Nói một cách thẳng thắn thì khả năng cải thiện không cao lắm. Chức năng chính của giấc ngủ là củng cố ký ức mới thu nhận được để lưu trữ lâu dài, việc ngủ ngon giấc thương xuyên có thể là phương cách cải thiện trí nhớ tốt. Những hoạt động thể chất như chạy bộ cũng cho thấy giúp cải thiện khả năng học. Thậm chí rượu bia nếu uống vừa phải cũng được chứng minh giúp cải thiện trí nhớ ở chuột. Chúng ta phải chờ thêm kết quả nghiên cứu trước khi áp dụng điều này ở người.

Cách làm khả thi hơn là làm sao tránh những điều kiện gây hại cho trí nhớ và bảo vệ sự tích lũy dần hàng tỷ gai nhánh tế bào thần kinh và c1c khớp thần kinh. Một trong những điều kiện gây hại cho trí nhớ là quá trình lão hóa. Bạn càng trẻ thì ngoại ngữ càng dễ thâm nhập vào đầu bạn và do đó, tuổi thanh thiếu niên là tuổi lý tưởng nhất để học. Sau nhiều năm học tập ở trường, tiếng mẹ đẻ được củng cố vững chắc cũng như tính kỷ luật rèn luyện được từ trường học giúp bạn học được những kỹ năng mới. Vậy nếu bạn dưới 30 tuổi, hãy học ngay bây giờ. Sau đó thì điều kiện học sẽ không được tốt bằng đâu.

Về sau, công việc và gia đình làm giảm thời giờ rảnh có thể học. tai hại nữa là trí nhớ cũng giảm theo, bạn đầu là giảm không nhận biết được rồi khi bạn đến tuổi 50 thì nó giảm một cách không chối cãi được. Lúc này cần ôn đi ôn lại từ mới nhiều lần hơn để đưa chúng vào trí nhớ vĩnh viên. Thêm vào đó, khả năng làm nhiều việc trong cùng lúc sẽ giảm, làm bạn khó có khả năng ôn nhẩm từ mới trong lúc đang theo dõi một cuộc nói chuyện. Ở một thời điểm nào đó trong đời, việc suy giảm trí nhớ có thể trầm trọng đến mức mục tiêu chúng ta đặt ra ở trên đây (đọc hiểu sách báo, xem hiểu phim tài liệu và nghe hiểu nói được đàm thoại hàng ngày) có thể trở nên vượt quá khả năng thực hiện.

Bạn sẽ cần tránh các loại thuốc kích thích và rượu bia quá độ. Bạn không muốn cực nhọc gầy dựng nên những gai nhánh tế bào thần kinh quý giá để rồi vứt bỏ hết đi trong những đêm cao hứng. Tình trạng say khướt (say không còn biết gì) cực kỳ có hại cho trí nhớ, chưa kể việc nghiện rượu mãn tính (có thể gây ra chứng đãng trí do rượu). Thậm chí những lần uống nhiều đột xuất như cả một chai rượu vang cũng làm ảnh hưởng trí nhớ trong khoảng thời gian hồi phục trong ngày hôm sau.

Tuy nhiên, cồn cũng chỉ là một vấn đề nhỏ so với một tình trạng phổ biến hơn: đó là tình trạng phân tâm. Những biến cố nhất định trong cuộc sống chắc chắn gây khó khăn cho việc học: người thân qua đời, bệnh tật, chia tay người yêu, ly dị, mất việc làm hoặc một tai họa tài chính nào đó. Chưa hết, những thứ làm ta phân tâm tưởng như vô hại nhưng vì chúng xảy ra thường xuyên hơn nên nguy hiểm hơn hết thảy, thí dụ như thói quen lướt web trên Internet. Tham gia một mạng xã hội nào đó. đọc tin tức lá cải, viết tin nhắn, tham gia những bài trắc nghiệm vô bổ, vừa nghe nhạc vừa làm việc, download video hoặc nhiều thứ đại loại như vậy.

Chúng ta hãy quay trở lại với câu hỏi ban đâu. Tại sao người lớn khi học từ mới lại mất nhiều thời gian hơn trẻ em? Có thể chúng ta sẽ không thể nào trả lời được câu hỏi này vì nói rằng trẻ em học ngoại ngữ nhanh hơn người lớn là sai. Nếu một người 18 tuổi biết được 30000 đến 50000 từ thì những từ này chúng học ở đâu? Lúc đi bộ, nghe chim hót và xem bướm bay? Không, chúng học ở trường từ sáng sớ, đến trưa, 9 tháng 1 năm liên tục trong 12 năm.

Trẻ em là những cỗ máy học ngôn ngữ đơn giản là vì chúng có thời gian rảnh nhiều. Trẻ nhỏ không có gì nhiều để làm ngoài nghe và nói. Nếu người lớn chúng ta có thời gian rảnh như vậy thì trẻ em ngay lập tức sẽ mất đi lợi thế của chúng. Người lớn sở hữu một lượng mạng lưới khổng lồ các khái niệm, ý nghĩa và sự kiện. Hơn nữa, chúng ta có khả năng làm việc tập trung liên tiếp trung 4, 6 hay 8 giờ và khi ta tập trung thì hiệu quả của ta vô cùng cao. Nếu so sánh như vậy thì trẻ em không có cơ hội thi tài với người lớn. Nói cách khác, nếu bạn bắt đầu học một chương trình học ngoại ngữ kéo dài 4 năm và bạn chỉ việc học và học hiểu quả trong thời gian 4 năm đó thì 4 năm sau bạn sẽ giỏi ngoại ngữ đó hơn là một đứa trẻ 6 tuổi bắt đầu học ngôn ngữ đó khi nó 2 tuổi.

Tóm lại:

1. Người lớn có ý chí sẽ học nhanh hơn trẻ em.

2. Khai thác mạng lưới từ vựng có sẵn trong não bộ của bạn.và học từ bằng các danh sách từ mới. Học từ mới vào ngày 0 và ôn lại vào ngày 1, 3, 6, 10, 17, và 31.

3. Sau mỗi buổi học từ mới, hãy thư giãn, đừng làm những công việc khác nhau cùng một lúc.

4. Tránh bia rượu quá độ và tránh thuốc kích thích.

5. Tránh dùng các thuốc kích thích thần kinh.

6. Làm theo lời của Eric Kandel, người đoạt giải Nobel: ‘Học tốt tự nhiên là cách cải thiện năng lực của não bộ hiệu quả cho bất kỳ ai còn khả năng học”

Lúc này đây bạn đã sẵn sàng bước sang chương cuối cùng. Chương Bắt tay học từ vựng bàn về các chiến lược để xử lý số lượng từ mới đồ sộ mà bạn phải đưa vào đầu. Bạn đang bắt đầu hành trình gian khổ của riêng bạn. Bạn đang mong mỏi tìm được một phép màu, một con đường trải thảm đỏ hay một con đường tắt nhanh chóng nào đó? Xin thưa với bạn là sẽ không có bất kỳ cái nào trong số đó. Tuy nhiên, một số lời khuyên trong chương sau sẽ giúp cho hành trình của bạn bớt đi ít nhiều chông gai và gian khổ. Chúng ta hãy bắt đầu nào!

Khối lượng công việc sau Chương 1–6

Tổng khối lượng công việc của bạn vẫn là:

850 đến 1,850 giờ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro