Eragon 3-cont

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Eragon tới bãi tập vũ khí mới của dân làng. Đúng như chút Horst nói, Gedric có mặt tại đó, đang tập đấu với Darmen và Morn. Eragon chỉ nói một tiếng, người cựu chiến binh một tay, đang hướng dẫn buổi tập, cho Gedric tạm nghỉ.

Anh thợ thuộc da hấp tấp chạy lại, đứng trước Eragon, mắt nhìn xuống. Khổ người thấp, da ngăm đen, cằm bạnh ra, lông mày rậm rì và hai cánh tay lực lưỡng, vì từng trộn những thùng sấy da. Dù anh ta hơi bị... xí trai, nhưng Eragon biết đây là một con người tốt bụng, thật thà.

Gedric lí nhí nói:

- Tôi giúp gì được đây, thưa Khắc-tinh-của-Tà-thần?

- Anh đã giúp rồi. Tôi tới đây để cám ơn và để trả nợ anh.

- Tôi? Tôi đã giúp Khắc-tinh-của-Tà-thần như thế nào?

Anh ta chậm rãi nói, như sợ bị Eragon gài bẫy.

- Sau khi tôi chạy khỏi làng, anh đã phát hiện có kẻ lấy trộm mấy tấm da bò đang phơi bên thùng sấy, đúng không?

Gedric bối rối, xê dịch hai chân:

- À... Tôi đã quên khóa cửa lều, nên có kẻ lẻn vào lấy mấy tấm da. Biết bao chuyện xảy ra sau đó, tôi thấy chuyện ấy chẳng còn gì quan trọng nữa. Tôi đã phá hủy hết kho, trước khi cùng nhau vào núi Spine, vì không muốn lính triều đình và mấy quái vật Ra'zac ghê tởm đó đụng móng vuốt vào những thứ hữu dụng. Ai lấy mấy tấm da đó là giúp tôi đỡ mất công hủy thêm ba tấm nữa. Thôi, chuyện gì qua rồi cho qua luôn đi.

- Có thể. Nhưng tôi vẫn cảm thấy phải cho anh biết ai đã lấy trộm da của anh.

Gedric thấy ánh mắt Eragon nhìn anh ta thật lạ lùng - không e dè, không sợ hãi và đáng nể trọng.

- Tôi đã lấy trộm mấy tấm da đó. Chẳng hãnh diện gì, nhưng tôi cần chúng. Không có chúng, chắc tôi đã không sống nổi để đến tận xứ sở của thần tiên trong Du Weldenvarden. Tôi luôn luôn muốn tưởng là mình chỉ mượn thôi, nhưng sự thật là đã lấy trộm, vì lúc đó tôi không có ý định sẽ trả lại. Vì vậy xin anh nhận lời xin lỗi của tôi. Và vì tôi vẫn còn giữ chúng, hay một phần của chúng, nên trả nợ anh là một sự công bằng.

Eragon lấy từ thắt lưng ra một quả cầu vàng - tròn, rắn và còn ấm hơi da thịt mình - trao cho Gedric.

Gedric trừng trừng nhìn viên ngọc kim loại sáng ngời, cái hàm to đùng của anh ta nghiến chặt, mấy vết nhăn quanh cặp môi mỏng hằn sâu. Không trách Eragon nâng tay đo lường hay thử cắn quả cầu vàng; nhưng khi mở miệng, anh ta nói:

- Tôi không thể nhận vật này, Eragon. Dù là một thợ thuộc da có tài, nhưng mấy tấm da đó không đáng nhiều thế này. Cậu rất hào phóng, nhưng tôi sẽ áy náy khi nhận số vàng này. Tôi sẽ cảm thấy như đây không phải những gì do mình tạo ra.

Không hề ngạc nhiên, Eragon nói:

- Anh sẽ không từ chối nếu có người trả giá cao chứ, phải không?

- Phải.

- Tốt. Vậy thì đừng từ chối tôi. Đa số người khi mặc cả đều trả giá thấp. Trường hợp này tôi lại trả cao hơn, nhưng tôi vẫn riết ráo như cố hà tiện một nắm tiền. Theo tôi, mấy tấm da này trị giá bằng số vàng đó, và tôi sẽ không trả anh kém một đồng nào đâu, dù anh có dí dao vào cổ tôi.

Mấy ngón tay trùng trục của Gedric nắm lấy quả cầu vàng.

- Vì cậu nài ép, tôi không nỡ từ chối. Chẳng ai có thể trách Gedric Ostvensson để mất một tài sản quí, chỉ vì cố chứng minh là món hàng của hắn vô giá trị. Đa tạ Khắc-tinh-của-Tà-thần.

Gói quả cầu vàng trong một miếng vải len để tránh trầy xước, anh ta bỏ vào một cái túi đeo bên hông, rồi nói:

- Ông Garrow đã hành động đúng vì cậu. Cả hai anh em, cậu và Roran. Có thể ông gay gắt, cứng rắn; nhưng ông đã nuôi dưỡng anh em cậu rất tốt. Tôi nghĩ, ông rất hãnh diện vì cậu.

Một niềm cảm xúc bất ngờ thắt chặt lồng ngực Eragon.

Trước khi trở lại với dân làng, Gedric nói:

- Tôi xin phép hỏi, Eragon, vì sao mấy tấm da đó đối với cậu lại quí giá thế? Cậu đã dùng làm gì?

- Dùng làm gì? Ông Brom đã giúp tôi làm bộ yên cho Saphira. Nó không thường sử dụng - nhất là từ khi thần tiên cho chúng tôi bộ yên rồng đàng hoàng - nhưng bộ yên bằng mấy tấm da của anh đã giúp chúng tôi qua nhiều cuộc đánh, kể cả trong trận Farthen Dur.

Gedric kinh ngạc nhướng mày. Như một vết nứt trên mặt đá hoa cương, cái miệng nở một nụ cười toang hoác làm thay đổi diện mạo anh ta:

- Bộ yên! Tôi? Tôi thuộc da cho bộ yên của một kỵ sĩ rồng! Không. Không là một Kỵ sĩ mà là Kỵ-sĩ. Người sẽ hạ bệ bạo chúa độc tài. Ôi, phải chi cha tôi thấy tôi lúc này.

Đá gót vào nhau, Gedric nhảy một điệu vui nhộn ngẫu hứng, vẫn toe toét cười, anh ta cúi chào Eragon, rồi chạy vội về với dân làng, kể lại câu chuyện về mấy tấm da thuộc của anh.

Eragon lẳng lặng chuồn trước khi đám người đó tràn ngập quanh nó. Vừa đi qua giữa những căn lều, Eragon vừa nghĩ: "Dù mất một thời gian, nhưng mình đã trả xong món nợ"

Một lúc lâu sau, nó tới căn lều nằm gần bờ đông doanh trại, gõ lên cây cọc giữa hai vạt cửa lều.

Với một tiếng soạt mạnh, cửa lều mở ra. Helen, vợ ông Jeod, lạnh lùng nhìn nó hỏi:

- Cậu đến nói chuyện với ông ấy hả?

- Dạ. Nếu ông có nhà.

Tuy hỏi vậy, nhưng nó biết chắc Jeod đang ở trong lều, vì nhận thức được tư tưởng của ông ta rõ ràng như của Helen.

Trong một lúc, Eragon tưởng Helen sẽ bảo chồng bà ta đi vắng, nhưng bà ta chỉ nhún vai, rồi đứng tránh sang một bên, nói:

- Vậy thì vào đi.

Ông Jeod đang ngồi trên một cái ghế đẩu, nghiền ngẫm mấy cuốn da thuộc, những cuốn sách và những tờ giấy rời chất đống trên một cái giường nhỏ không trải nệm. Mái tóc thưa thớt phất phơ trên cái thẹo chạy dài từ đầu xuống thái dương.

Thấy Eragon, ông kêu lên, những vết nhăn tập trung thoải mái dãn ra:

- Eragon! Mừng cháu! Mừng gặp cháu!

Ông bắt tay nó rồi mời ngồi lên cái ghế đẩu:

- Đây, ta ngồi ghé lên giường được rồi. Không, ngồi đi, cháu là khách mà. Ăn uống một chút gì nhé? Nasuada cho chúng ta khẩu phần phụ trội. Đừng sợ chúng ta đói vì có thêm cháu. Kham khổ hơn những gì chúng ta đãi cháu ở thành Teirm, nhưng ra trận có ai lại mong được ăn ngon, thậm chí kể cả một ông vua cũng thế thôi, đúng không?

- Một tách trà là được rồi ạ.

Ông nhìn Helen nói:

- Trà và mấy cái bánh qui.

Helen chộp một cái ấm từ dưới đất, rồi giữ bên hông, đặt núm túi đựng nước bằng da vào vòi ấm, và bóp túi nước. Tiếng nước vang lên trong lòng ấm. Helen xiết cổ túi nước, để nước chỉ còn chảy nhỏ giọt. Bà ta vừa giữ tay như thế, vừa lãnh đạm nhìn kẻ đã gây ra những khó khăn này.

Ông Jeod thoáng cười ngại ngùng, lom lom nhìn chồng giấy bên đùi, chờ Helen xong việc. Eragon chăm chú nhìn nếp nhăn trên một vách lều.

Tiếng nước tí tách kéo dài hơn ba phút.

Sau cùng ấm nước cũng đầy. Helen treo túi nước lên cây cột giữa lều, hầm hầm bước ra ngoài. Eragon nhướng một bên mày, nhìn ông Jeod.

Ông xòe hai bàn tay:

- Địa vị ta trong Varden không quan trọng như Helen hy vọng. Helen đồng ý chạy khỏi thành Teirm với ta, là vì hy vọng, đúng ra là tin rằng: Nasuada sẽ đặt ta vào địa vị một trong những cố vấn của cô ta, hoặc ban cho ta đất đai tiền bạc như một trang chủ, hoặc một phần thưởng hậu hĩ cho công lao ta đã giúp lấy trộm trứng Saphira từ nhiều năm trước. Điều Helen không ngờ tới là một cuộc sống nhạt nhẽo của một kiếm sĩ tầm thường: ngủ trong lều, tự nấu nướng, tự giặt quần áo, và... vân vân... Bà ấy hình như chỉ quan tâm tới địa vị và giàu sang, nhưng cháu nên hiểu rằng, Helen sinh ra trong một gia đình chuyên vận chuyển hàng hóa bằng tàu thuyền, giàu có nhất tại thành Teirm, và gần như suốt thời gian sống chung, ta đã không thành công trong việc kinh doanh. Bà ấy không quen với những sự túng thiếu như thế này, nên chưa thể thích nghi được. Hy vọng duy nhất của ta trong chuyến phiêu lưu này là, thu hẹp những rạn nứt, bất hòa giữa hai chúng ta những năm gần đây. Nhưng điều đó dường như không đơn giản.

- Ông có cảm thấy là Varden phải quan tâm tới ông nhiều hơn không?

- Riêng ta, ta không nghĩ đến điều đó. Còn Helen...

Ông ngập ngừng rồi tiếp:

- Ta muốn bà ấy hạnh phúc. Còn ta, phần thưởng là khi ta và Brom bị Morzan, con rồng của nó và đám bộ hạ tấn công, nhưng đã sống sót đào thoát khỏi Gil'ead; là khi hài lòng vì đã giúp một cuộc tấn công bất ngờ chống lại Galbatorix; là đã có thể trở lại với đời sống trước kia mà vẫn giúp được Varden, và cưới Helen. Đó là những phần thưởng của ta, ta không đòi hỏi gì hơn nữa. Bao nghi ngờ đều tan biến khi ta thấy Saphira bay khỏi làn khói trên Cánh Đồng Cháy. Tuy nhiên, ta không biết phải làm sao với Helen. Ôi, ta lẩm cẩm rồi, đây không là những vấn đề rắc rối bắt cháu phải nghe.

Gõ ngón tay lên một cuộn giấy, Eragon hỏi:

- Sao quá nhiều giấy tờ thế này? Ông trở thành người ghi chép sao?

Câu hỏi làm ông Jeod phấn khởi hẳn lên:

- Không đâu. Nhưng cũng mệt mỏi lắm. Vì ta là người đã phát hiện ra đường tắt bí mật vào lâu đài của Galbatorix ở Uru'bean, và ta đã mang theo mấy cuốn sách hiếm hoi từ Teirm tới đây, nên Nasuada yêu cầu ta tìm kiếm những điểm yếu tương tự trong những thành phố khác của đế quốc. Nếu tìm ra vài địa đạo dẫn qua dưới chân tường Dras Leona chẳng hạn, chúng ta sẽ bớt phải đổ máu rất nhiều.

- Ông đang tìm kiếm từ đâu?

- Từ tất cả những gì có thể. Lịch sử, truyền thuyết, thần thoại, thơ ca, những hệ thống tổ chức tín ngưỡng, những trang viết về kỵ sĩ, pháp sư, du mục, người điên, những kẻ thống trị, những tướng quân, bất cứ ai có thể biết về một cánh cửa bí mật, hay một hệ thống bí mật, hoặc bất kỳ điều gì có lợi cho chúng ta. Số tài liệu ta phải nghiên cứu thật bao la, vì tất cả những thành phồ này đã tồn tại hàng mấy trăm năm, một số đã hiện diện từ trước khi con người tới Alagaesia.

- Dường như ông sẽ thật sự tìm ra một điều gì đó.

- Không có chuyện dường như. Không bao giờ dường như đem lại thành công trong việc truy tìm ra những bí ẩn của quá khứ. Nhưng nếu có đủ thời gian, rất có thể ta sẽ vượt qua. Ta tin rằng, những gì tồn tại trong mỗi thành phố mà ta đang tìm kiếm sẽ không còn giữ mãi được bí mật những lối ra vào, vì chúng đã quá lâu đời. Tuy nhiên vấn đề hoàn toàn đặt trên cơ sở là: không biết hồ sơ của những con đường đó còn tồn tại không và không biết chúng ta có sở hữu những hồ sơ đó không. Những người biết các cửa sập bí mật đó đều muốn giữ riêng thông tin cho họ.

Jeod cầm một nắm giấy trên giường đưa sát mặt rồi khịt khịt mũi, quăng đi:

- Ta đang cố giải mã những câu bí hiểm do những người không muốn bí mật này được khám phá ra sáng tác.

Ông và Eragon tiếp tục chuyện trò về những vấn đề kém quan trọng hơn, cho tới khi bà Helen xuất hiện lại với ba cốc trà cỏ ba lá đỏ, nghi ngút khói. Eragon đón cốc trà, nhận thấy bà ta đã có vẻ bớt giận dữ, nó tự hỏi, chẳng biết bà ta có đứng ngoài nghe những gì ông Jeod đã nói về bà ta không. Bà ta trao cốc tra cho ông Jeod, rồi từ sau Eragon, bà ta đem ra một khay bánh qui và một bình nhỏ mật ong. Sau đó, Helen lùi lại, đứng dựa cây cột giữa lều, thổi cốc trà của mình.

Chờ Eragon cầm lên cái bánh và cắn một miếng, ông Jeod mới lên tiếng:

- Chuyện gì làm ta ngồi với cháu được vui vẻ thế này, Eragon? Nếu ta không lầm, thì đây không phải là cuộc thăm viếng rảnh rỗi.

Eragon nhấp ngụm trà:

- Sau trận chiến trên Cánh Đồng Cháy, cháu đã hứa sẽ kể với ông về cái chết của ông Brom. Đó là lý do cháu tới đây.

Hai má tái mét, Jeod kêu lên:

- Ô!

Eragon vội nói:

- Nếu ông không muốn, cháu sẽ không kể.

- Ta rất muốn nghe. Chỉ là hơi bất ngờ thôi.

Thấy ông không yêu cầu Helen ra ngoài, Eragon ngập ngừng không biết có nên tiếp tục hay không, nhưng rồi nó quyết định, Helen hay bất kì ai nghe chuyện này cũng không là vấn đề quan trọng nữa. Nó bắt đầu kể lại những chuyện xảy ra từ khi nó và ông Brom ra khỏi nhà Jeod. Từ vụ đụng độ một nhóm Urgal, việc truy lùng Ra'zac trong Dras-Leona, chuyện bị Ra'zac phục kích bên ngoài thành phố như thế nào, và khi chúng bị Murtagh tấn công, trước khi bỏ chạy, chúng đã chém ông Brom ra sao.

Cổ họng Eragon thắt lại, khi nó nói về những giờ cuối cùng của ông Brom, về hang động sa thạch lạnh lẽo, là nơi ông nằm; cảm giác tuyệt vọng khủng khiếp khi nó nhìn ông lịm dần; về cái mùi tử thần tràn ngập trong không khí; về lời trối trăn của ông; về ngôi mộ sa thạch nó đã tạo ra bằng phép thuật, và về chuyện Saphira đã biến ngôi mộ thành kim cương như thế nào.

Sau cùng nó nói:

- Phải chi cháu biết được những gì bây giờ được biết, thì lúc đó cháu đã cứu được ông. Thay vì...

Không thể thốt nổi nên lời, nó dụi mắt, uống ực hết tách trà, ước sao là một ly rượu nặng.

Ông Jeod thở dài:

- Vậy là Brom đã ra đi. Hỡi ôi! Không có anh ấy, tất cả chúng ta đều khốn khổ. Tuy nhiên ta nghĩ, nếu có thể chọn một cách chết, anh ấy sẽ chọn chết như thế. Phục vụ Varden và bảo vệ cho Kỵ-sĩ Rồng tự do cuối cùng.

- Ông có biết chính ông Brom cũng là một kỵ sĩ không?

- Varden đã cho ta biết trước khi ta gặp anh ấy.

Helen lên tiếng:

- Ông ta là người rất ít tiết lộ về bản thân.

Jeod và Eragon phì cười. Ông nói:

- Anh ấy là vậy. Ta vẫn chưa hết bàng hoàng khi nhìn thấy cháu và Brom đứng trước cửa nhà. Brom luôn là người bảo thủ, nhưng chúng ta đã trở thành bạn thân khi cùng nhau du hành, vì vậy ta không thể hiểu nổi vì sao anh ta lại để ta tin là anh ta đã chết trong suốt mười sáu, mười bảy năm trời. Một thời gian dài đằng đẵng. Còn nữa, vì chính Brom đã chuyển trứng của Saphira cho Varden, sau khi giết Morzan trong Gil'ead, Varden càng không thể cho ta biết là họ có cái trứng đó, mà không tiết lộ chuyện Brom còn sống. Vì vây gần hai thập kỷ, ta đã tin rằng cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất đời ta đã kết thúc, do đó, chúng ta cũng mất luôn hy vọng có được một kỵ sĩ rồng, để giúp lật đổ Galbatorix. Đó là gánh nặng phiền muộn không dễ dàng gì...

Đưa bàn tay lên dụi trán, Jeod tiếp:

- Khi mở cửa và nhận ra ai đang đứng đó nhìn ta, ta tưởng đó là những bóng ma hiện về từ quá khứ ám ảnh. Brom bảo, phải ẩn mình là để giữ mạng sống, để còn huấn luyện cho kỵ sĩ mới, khi anh ta hay cô ta xuất hiện. Nhưng lời giải thích của Brom không hoàn toàn làm ta thỏa mãn. Vì sao phải cắt đứt liên lạc với hầu hết mọi người thân thiết chứ? Sợ gì? Bảo vệ điều gì?

Vuốt ve cốc trà, Jeod nói:

- Không thể chứng minh, nhưng ta đoán Brom đã khám phá ra điều gì đó trong Gil'ead, khi chiến đấu với Morzan và con rồng của hắn, một điều tối ư quan trọng đã làm Brom từ bỏ tất cả những gì anh ấy ấp ủ trong đời cho đến lúc đó. Thú thật, đó là một phỏng đoán mơ hồ, nhưng ta không thể giải thích được hành động của Brom, trừ phi phải thừa nhận là có một thông tin mà Brom không bao giờ chia sẻ với bất kỳ ai.

Jeod lại thở dài, vuốt mặt:

- Sau quá nhiều năm xa cách, ta đã hy vọng sẽ cùng nhau rong ruổi trên mình ngựa một lần nữa với Brom, nhưng hình như định mệnh không đồng ý với ta. Thế rồi chỉ sau vài tuần biết Brom còn sống, ta lại mất anh ấy lần thứ hai. Thật là một trò đùa tàn nhẫn của cuộc đời.

Bước qua Eragon, Helen đến bên ông Jeod, vuốt vai ông. Ông nở nụ cười yếu ớt, rồi choàng tay ôm vòng eo thanh mảnh của bà, nói với Eragon:

- Ta vui mừng là cháu và Saphira đã cho Brom một nấm mồ mà thậm chí một ông vua lùn cũng phải ganh tỵ. Với tất cả những gì anh ấy đã làm cho Alageasia, Brom xứng đáng được như vậy. Tuy nhiên điều đó làm ta lo ngại nhất, là khi có người phát hiện ra ngôi mộ đó, chúng sẽ không ngần ngại đập phá để lấy kim cương.

- Nếu làm thế, chúng sẽ phải ân hận.

Eragon lẩm bẩm. Nó quyết định trở lại đó ngay khi có cơ hội sớm nhất, để phủ một lớp phép thuật bảo vệ ngôi mộ ông Brom khỏi những tên trộm cắp.

- Ngoài ra, chúng sẽ quá bận rộn săn lùng những bông huệ bằng vàng, không còn thì giờ quấy rầy ông Brom đâu.

- Cái gì?

- Không có gì. Chuyện đó không quan trọng đâu ạ.

Ba người lặng lẽ uống trà. Khi bà Helen đang cắn miếng bánh, Eragon hỏi Jeod:

- Ông đã gặp Morzan, phải không?

- Trong những trường hợp chẳng thân thiện gì, nhưng đúng, ta đã gặp hắn.

- Tính khí... ông ta như thế nào?

- Như nói về một con người hả? Thật sự ta chẳng biết nói sao, dù đã rất quen với những chuyện tàn ác của hắn. Mỗi lần ta và Brom có chuyện bất đồng với hắn, hắn đều cố giết bằng được chúng ta. Trò hắn thích hơn, là bắt được chúng ta, tra khảo rồi mới giết. Chẳng trò nào của hắn tỏ ra thân thiện cả. Còn với địa vị một chiến binh, hắn khủng khiếp lắm. Chúng ta luôn phải né tránh hắn. Ta không thể nào quên Morzan và con rồng của hắn. Không gì ghê sợ bằng bị một con rồng điên cuồng rượt đuổi.

- Trông ông ta ra sao?

- Cháu có vẻ quan tâm khác thường tới hắn đấy.

Eragon chớp mắt:

- Cháu chỉ tò mò. Vì Morzan là phản đồ chết sau cùng, và bị chính ông Brom giết. Bây giờ con trai của Morzan lại là kẻ thù không đội trời chung của cháu.

- Để ta nhớ coi. Hắn cao lớn, vai rộng, tóc đen như lông quạ, hai mắt khác màu - một bên xanh lơ, một bên đen, cằm nhẵn nhụi, mất một lóng tay nhưng ta không nhớ là ngón nào. Hắn đẹp trai, thái độ kiêu căng, và khi hắn nói, hắn có một sức quyến rũ đến lạ kỳ. Áo giáp luôn luôn sáng bóng, dường như hắn không sợ kẻ thù phát hiện. Khi hắn cười, nghe như hắn đang bị đau đớn vậy.

- Còn... người đàn bà tên là Selena, sống với ông ta? Ông gặp không?

Jeod cười lớn:

- Nếu gặp thì hôm nay ta đã không ngồi đây. Morzan có thể là một kiếm khách đáng sợ, một pháp sư ghê gớm, một tên phản bội giết người, nhưng chính mụ đàn bà đó mới là kẻ gây kinh hoàng nhất cho mọi người. Morzan chỉ sử dụng ả trong những công tác vụng trộm, ghê tởm, khó khăn mà không kẻ nào khác đồng ý nhận làm. Ả làm Bàn Tay Đen của hắn. Ả có mặt ở đâu là tín hiệu sắp có chết chóc, tra khảo, lọc lừa hay những chuyện kinh khủng khác.

Eragon muốn phát bệnh khi nghe tả về mẹ nó.

- Ả vô cùng tàn nhẫn, không hề biết thương xót, từ tâm là gì. Nghe nói, khi ả xin phục vụ Morzan, hắn đã thử bằng cách dạy ả câu thần chú hóa giải, rồi tung ả vào đấu với mười hai cao thủ tài năng nhất của hắn.

- Làm sao... bà ta hạ chúng được?

- Ả hóa giải hết những lo sợ, căm hờn và tất cả những gì thúc đẩy một con người chém giết khỏi chúng. Thế rồi, trong khi chúng ngẩn ngơ đứng nhìn nhau cười cười như bầy trừu đần độn, ả tiến lên, cắt họng chúng... Cháu khỏe không, Eragon? Trông cháu nhợt nhạt như một xác chết vậy.

- Cháu khỏe. Ông còn nhớ điều gì khác nữa không?

Jeod gõ thành cốc:

- Một điều đáng chú ý về Selena, ả là một ẩn số. Thậm chí những kẻ thân cận quanh Morzan chỉ mới biết tên ả trước khi Morzan chết vài tháng. Đối với bên ngoài, ả chỉ được biết đến với cái tên Bàn Tay Đen - thu thập những tên gián điệp, sát nhân, pháp sư sẵn sàng thi hành những mưu ma chước quỉ thấp hèn của lão - để phục vụ lão, như Selena đã từng làm cho Morzan. Ngay trong lực lượng Varden, chỉ một số ít người biết tên ả, nhưng hầu hết những người đó đã tan rữa dưới đáy mộ rồi. Ta nhớ lại, chính Brom là người khám phá ra nhân thân thật của Selena. Trước khi ta tới Varden để báo cho họ thông tin liên quan đến đường tắt bí mật vào lâu đài Ilirea - lâu đài do thần tiên dựng lên từ cả ngàn năm trước - Brom đã bỏ ra một thời gian dài để do thám khu vực của Morzan, với hy vọng khám phá những điểm yếu bí mật của hắn... Ta tin là Brom đã ngụy trang thành một nhân viên trong bộ chỉ huy của Morzan để xâm nhập vào nơi làm việc của hắn, nên mới phát hiện những gì Morzan đã làm với Selena. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không hiểu vì sao ả quá gắn bó với hắn như vậy. Có thể ả yêu hắn. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ả luôn tỏ ra trung thành, dù có phải chết vì Morzan, tin đồn tới Varden là ả đã chết vì bệnh tật. Cứ như một con ó thuần dưỡng quá thương yêu chủ, không còn hắn ả không sống nổi.

Eragon thầm nhủ: "Bà không tuyệt đối trung thành đâu. Bà đã bất tuân lệnh Morzan khi có thai mình. Phải chi bà cũng giải thoát được Murtagh". Dù Jeod kết tội những việc làm sai trái của bà, Eragon vẫn muốn tin, chính Morzan đã đưa đẩy Selena khỏi bản chất tốt lành của bà. Nó không thể chấp nhận cả cha lẫn mẹ đều là những kẻ độc ác.

Lom lom nhìn cặn trà trong đáy cốc, Eragon nói:

- Bà ấy yêu hắn. Có thể sau này không tha thiết lắm, nhưng lúc đầu bà ấy đã yêu thật. Vì Murtagh là con trai của bà.

Jeod nhướng mày hỏi:

- Thật vậy sao? Chính miệng Murtagh nói với cháu?

Eragon gật. Ông nói tiếp:

- A, điều đó giải thích một số điều ta vẫn thắc mắc... Mẹ của Murtagh... Ta lấy làm lạ, vì sao Brom không tiết lộ chi tiết bí mật đặc biệt này.

- Morzan làm mọi cách để che giấu sự tồn tại của Murtagh, kể cả với những thành viên trong nhóm phản đồ.

Cả ba lại yên lặng. Eragon lại chăm chú nhìn cốc trà. Hàng loạt thắc mắc hành hạ nó, nhưng nó biết ông Jeod - và hình như bất cứ ai - cũng không thể trả lời: Vì sao ông Brom trốn tránh trong làng Carvahall? Trông chừng Eragon, con trai của kẻ ông thâm thù nhất? Việc cho nó thanh Zar'roc, thanh kiếm của cha nó, có là một trò đùa tàn nhẫn không? Vì sao ông Brom không cho nó biết về nguồn gốc thật của nó?

Không cố ý, Eragon xiết chặt nắm tay làm cái cốc sành vỡ tan tành.

Cả ba người đều giật mình vì tiếng động bất ngờ.

- Để ta giúp.

Vừa nói bà Helen vừa thấm nước trên áo Eragon bằng miếng giẻ. Nó rối rít luôn miệng xin lỗi. Hai ông bà bảo không sao, chuyện nhỏ thôi, đừng ngại.

Trong khi Helen thu nhặt những mảnh sành, Jeod bắt đầu lục lọi đống sách và giấy tờ trên giường, nói:

- A... ta suýt quên. Eragon, có một thứ ta nghĩ rất có ích cho cháu. Nhưng không biết để đâu rồi...

Mừng rỡ reo lên một tiếng, ông rút một quyển sách, đưa cho Eragon.

Đó là cuốn Domia abr Wyrda - Điều quan trọng nhất của định mệnh, một cuốn sử ký toàn thư của Alagaesia, do Heslant Tu-sĩ viết. Eragon đã thấy cuốn sách này trong thư viện của ông Jeod tại thành Teirm. Nó không ngờ lại được nghiên cứu quyển sách này lần nữa. Tận hưởng cảm giác thích thú, nó vuốt ve bìa da bóng láng vì thời gian, rồi mở sách say mê ngắm nghía những hàng chữ cổ được viết bằng mực đỏ sáng bóng. Bàng hoàng vì kho kiến thức đang cầm trong tay, Eragon hỏi:

- Ông muốn cháu giữ quyển sách này?

- Đúng vậy.

Tránh chỗ cho bà Helen nhặt một mảnh sành dưới gầm giường, ông nói tiếp:

- Ta nghĩ quyển sách đó sẽ giúp ích cho cháu. Eragon, cháu đang quan tâm tới những sự kiện lịch sử, mà nguồn gốc những khó khăn cháu gặp đều nằm trong những gì xảy ra từ nhiều thập kỷ, nhiều thế kỷ, thậm chí nhiều thiên niên kỷ trước. Nếu là cháu, mỗi khi có cơ hội, ta sẽ nghiên cứu những bài học trong lịch sử, vì nó sẽ giúp cháu giải quyết những vấn đề của hôm nay. Đời ta, nhờ đọc hồ sơ của quá khứ mà ta có can đảm và sáng suốt chọn ra con đường đúng cho mình.

Dù mê tít, nhưng Eragon vẫn còn lưỡng lự:

- Ông Brom bảo, Domia abr Wyrda là thứ quý giá nhất trong nhà ông. Và nó lại rất hiếm nữa... Ngoài ra, còn công việc của ông? Ông không cần giữ để nghiên cứu sao?

- Domia abr Wyrda hiếm và quý thật, nhưng chỉ là trong đế quốc thôi, vì Galbatorix tìm được quyển nào là đem đốt và treo cổ ngay chủ nhân của chúng. Còn tại doanh trại này, các quan trong triều vua Orrin ép ta giữ đến sáu bản rồi, vả lại nơi này khó có thể gọi là một trung tâm nghiên cứu được. Và vì quyển sách này hữu ích cho cháu hơn ta. Sách nên đến nơi người ta cần đến nó, không phải để bụi bám, lãng quên trên kệ. Cháu đồng ý chứ?

- Cháu đồng ý.

Gấp sách, Eragon vuốt ve những hoa văn khắc trên lớp bìa da:

- Cám ơn ông. Cháu sẽ trân trọng giữ gìn nó cho đến khi nào nó còn thuộc về cháu.

Vẻ hài lòng, ông Jeod ngả người lên vách lều. Eragon chăm chú nhìn những chữ trên gáy sách, hỏi:

- Tu sĩ Heslant thuộc đạo gì?

- Một giáo phái nhỏ, tên là Arcaena, bắt nguồn từ vùng Kuasta. Dòng tu của họ đã tồn tại ít nhất là năm trăm năm. Họ tin rằng tất cả kiến thức đều linh thiêng.

Mặt ông thoáng nụ cười bí ẩn:

- Họ tự nguyện thu thập từng mẩu thông tin trên thế giới, gìn giữ khỏi một thời đại mà họ tin là một thảm họa sẽ hủy hoại toàn bộ nền văn minh của Alageasia.

- Đạo này có vẻ kỳ lạ quá.

- Có đạo nào không kỳ lạ đối với những người không ở trong đạo đó đâu?

- À, cháu cũng có một món quà tặng ông, chính xác hơn là ông và bà Helen.

Helen ngửa đầu, nhăn mặt khôi hài. Eragon hỏi:

- Gia đình bà là một nhà buôn phải không ạ?

Helen hất cằm xác nhận. Eragon hỏi tiếp:

- Bà có thông thạo việc buôn bán không?

Hai mắt long lanh sáng, Helen bảo:

- Nếu không lấy ông ấy, thì khi cha ta chết, ta đã cai quản việc làm ăn của gia đình rồi. Vì là con một, nên ta được cha truyền nghề từ nhỏ.

Đó chính là điều Eragon hy vọng. Quay qua Jeod, nó hỏi:

- Ông khẳng định hài lòng hoàn cảnh hiện nay với Varden?

- Đúng thế. Gần như hoàn toàn hài lòng.

- Cháu hiểu. Tuy nhiên, ông đã hy sinh quá nhiều để giúp ông Brom và cháu, thậm chí ông còn mạo hiểm hơn nữa để giúp anh Roran và dân làng...

- Đám hải tặc Palancar.

Eragon phì cười, tiếp:

- Không có sự giúp đỡ của ông, chắc chắn họ đã bị quân triều đình bắt. Và vì hành động phản loạn đó, ông bà đã mất tất cả những gì quí giá tại Teirm.

- Dù sao chúng ta cũng sẽ mất tất cả. Ta bị phá sản và cặp sinh đôi sẽ trao cho ta triều đình. Chuyện tổng trấn Risthart bắt ta chỉ còn là vấn đề thời gian thôi.

- Có thể là như vậy, nhưng trong hoàn cảnh đó ông vẫn giúp Roran. Nếu lúc đó ông chỉ lo bảo vệ cho cái đầu của mình, ai có thể trách ông được chứ? Sự thật là ông đã bỏ cuộc sống ở Teirm, để cùng Roran và dân làng cướp tàu Cánh Rồng. Vì sự hy sinh đó, cháu luôn nhớ ơn ông. Và đây là một phần tỏ lòng biết ơn của cháu...

Luồn tay vào thắt lưng, Eragon lấy ra một trong hai quả cầu vàng còn lại, trao cho bà Helen. Bà nhẹ đong đưa bàn tay, như quả cầu là một con họa mi non. Ông Jeod vươn cổ sang nhìn, trong khi Helen ngắm quả cầu với vẻ đầy kinh ngạc. Eragon lên tiếng:

- Số vàng này chẳng là bao, nhưng với sự khôn ngoan, ông bà có thể làm cho nó sinh sôi. Những gì Nasuada đã làm với những dải đai áo dạy cháu một điều: Trong chiến tranh, người ta vẫn có cơ hội làm giàu.

Helen thở phào:

- Đúng vậy. Chiến tranh là niềm vui cho nhà buôn.

- Trong bữa ăn tối qua, Nasuada có cho cháu biết, người lùn đang thiếu hụt rượu mật ong. Ông bà tin nổi không? Họ có khả năng mua bao nhiêu thùng cũng được, với giá gấp ngàn lần trước chiến tranh. Nhưng đó chỉ là một lời đề nghị thôi. Ông bà có thể tìm những người khác trả giá cao hơn.

Eragon loạng choạng lùi lại, vì bị bà Helen nhào tới ôm lấy nó. Tóc bà làm cằm nó ngột nhạt. Helen ngượng ngùng buông nó ra, nhưng rồi bà lại hí hớn đưa quả cầu lên trước mũi, nói:

- Cám ơn Eragon. Ôi! Cám ơn nhiều lắm. Ta biết phải làm gì với số vàng này. Ta biết là mình có thể. Ta sẽ xây dựng một tập đoàn thương mại lớn hơn cả của cha ta. Các người có tin là tham vọng của tôi còn vượt xa hơn khả năng mình không? Ta sẽ làm như đã nói. Không bao giờ thất bại nổi đâu.

Eragon cúi đầu nói:

- Cháu rất hy vọng ông bà thành công và sự thành công của ông bà là lợi ích của tất cả chúng ta.

Gân cổ phồng lên, khi Helen nghiêng mình nói:

- Khắc-tinh-của-Tà-thần hào phóng quá. Một lần nữa xin đa tạ.

Ông Jeod đứng dậy:

- Cám ơn cháu. Ta nghĩ là chúng ta không xứng đáng...

Làm lơ cái nhìn giận dữ của Helen, ông tiếp:

-... nhưng dù sao ta vẫn vui lòng nhận.

Không định trước, Eragon bật nói:

- Không chỉ có quà của cháu. Saphira đã đồng ý mời ông bà bay vài giờ khi nào ông bà rảnh rỗi.

Nó biết Saphira sẽ rất bực tức vì không được hỏi ý trước vụ này. Nhưng sau khi tặng quà cho Helen, Eragon cảm thấy áy náy vì không có gì tương xứng để tặng ông Jeod.

Mắt nhòa lệ, ông Jeod nắm tay nó, vừa lắc mạnh vừa nói:

- Ta không thể tưởng tượng được vinh dự to lớn thế. Cháu không biết là đã làm chúng ta sung sướng ngần nào đâu.

Gỡ khỏi nắm tay của ông, Eragon lùi dần tới cửa lều, nói lời xin lỗi phải chia tay. Cuối cùng, sau hàng loạt câu cám ơn và "không có chi", nó mới bước được ra ngoài.

Nó hớn hở nhủ thầm: "Mình sỡ hữu riêng một quyển sách."

Ôm sách sát ngực, nó bắt đầu chạy. Blodhgarm và các thần tiên theo sát phía sau.

Chương 20: Tôi cần một thanh gươm!

--------------------------------------------------------------------------------

Ngay sau khi Domia abr Wyrda được cất an toàn trong lều, Eragon tới kho vũ khí của Varden, một nhà bạt rộng lớn với những giá treo giáo, kiếm, cọc sắt, cung tên. Những thùng chứa đầy khiên, áo giáp da chồng lên nhau. Áo giáp, áo trấn thủ, xà cạp xoa hoa hơn được treo trên những giá gỗ. Mấy trăm mũ sắt hình trụ bóng lộn như bạc. Những bó tên-có cả những tên bị hư hỏng trong trận Cánh Đồng Cháy đang được gắn lại lông vũ-xếp thành hàng. Những đoàn người nhộn nhịp ra vào: có nhóm khuân vác áo giáp và vũ khí ra tu sửa, đám lính mới tuyển thì vào nhận quân trang quân phục, lại có nhóm chuyển dụng cụ tới những nơi khác nhau trong doanh trại. Tấ cả đều la hét rầm rầm. Và trong đám ồn ào đó, Eragon thấy người nó đang muốn gặp: Frederic, trưởng kho vũ khí của Varden.

Blodhgarm đi sát Eragon khi nó tiến vào nhà bạt để gặp Frederic. Ngay khi hai người đặt chân vào dưới mái lều vải, mọi người chợt im lặng hết, tất cả những con mắt đều đổ dồn vào Eragon và Blodhgarm. Khi trở lại với công việc, họ bước mau hơn và hạ giọng thấp hơn.

Vừa đưa cao tay chào, Frederic vừa vội vã bước lại. Như mọi khi, ông ta vẫn mặc bộ giáp da bò tót còn nguyên lông - bốc mùi gần như con vật vẫn còn sống - thanh kiếm hai đầu bắt chéo sau lưng, chuôi kiếm ló lên trên vai phải. Ông ta oang oang hỏi:

- Khắc-tinh-của-tà-thần, tôi giúp gì được trong buổi chiều đẹp trời này đây?

- Tôi cần một thanh kiếm.

Dưới hàm râu, miệng Frederic cười rộng ngoác:

- Tôi tự hỏi có đúng ngài đến thăm vì chuyện đó không. Vì ngài đã tới Helgrind với hai bàn tay không, có lẽ ngài đã vượt khỏi việc sử dụng vũ khí rồi. Chỉ chiến đấu bằng phép thuật thôi.

- Không, chưa đâu.

- Tốt. Ai cũng cần một thanh kiếm tốt, cho dù có tài ảo thuật tinh xảo tới đâu. Cuối cùng thì cũng phải trở lại với sắt thép chống lại sắt thép. Thử nghĩ coi, cuộc chiến với triều đình này sẽ được giải quyết cách nào? Một mũi kiếm đâm qua quả tim đáng nguyền rủa của Galbatorix. Tôi đặt cược một năm tiền lương: lão cũng có một thanh kiếm, cho dù lão có khả năng chỉ với một cái búng tay là có thể moi ruột người ta như moi một con cá. Không có gì có thể so sánh được với sự yên tâm khi cầm một thanh kiếm trong tay.

Trong khi nói, Frederic hướng dẫn hai người tới một giá treo kiếm đứng riêng biệt, rồi hỏi:

- Ngài muốn tìm loại kiếm nào? Nếu tôi nhớ không lầm, thanh Zar'roc của ngài là kiếm một đầu. Bản kiếm rộng chừng hai ngón tay cái của tôi, và lưỡi kiếm có thể vừa chém vừa đâm, đúng vậy không?

Eragon xác nhận, Frederic vừa lẩm bẩm vừa rút từng thanh kiếm khỏi giá, múa tít trên không, rồi lại treo lên, vẻ không hài lòng:

- Kiếm của thần tiên mỏng và nhẹ hơn kiếm của chúng tôi và người lùn, nhờ vào những bùa chú họ luyện vào trong thép. Nếu chúng tôi rèn những thanh kiếm mảnh như của họ, thì khi đụng trận, chỉ hơn một phút là bị cong, gãy, sứt mẻ ngay, đến không còn có thể cắt được một miếng phô-mai nữa.

Liếc nhìn Blodhgram, Frederic hỏi:

- Phải vậy không, thần tiên?

Blodhgram gật, quan sát lưỡi một thanh kiếm khác, rồi khịt mũi, bỏ lại lên giá.

Frederic nói:

- Như vậy, dù chọn thanh nào cũng sẽ nặng hơn kiếm ngài vẫn quen sử dụng. Đối với Khắc-tinh-của-tà-thần, điều đó không khó khăn gì lắm, nhưng trọng lượng thêm đó có thể làm những đường kiếm hơi bị chậm.

- Cảm ơn đã cảnh báo trước.

- Không có chi. Vì đó là lý do tôi có mặt tại đây: làm sao cho pheo Varden ít người bị giết và càng giết nhiều quân khốn kiếp của Galbatorix càng tốt. Một công việc rất thú vị.

Tiến qua giá vũ khí khác, Frederic đi khuất sau một đống khiên hình tam giác, nói:

- Tìm được thanh kiếm thích hợp cho một người là cả một nghệ thuật. Thanh kiếm phải gây cảm giác như một cánh tay nối dài, như mọc ra từ chính thịt da mình; nó phải di động thoải mái theo bản năng, không cần suy tính, cứ như con cò lắc mỏ, con rồng xòe móng vậy. Thanh kiếm hoàn hảo phải là hiện thân của con người: người muốn gì, kiếm thi hành ngay.

- Ông có vẻ thi sĩ quá.

Vẻ khiêm tốn, Frederic nhẹ nhún vai:

- Tôi chọn vũ khí cho những người sắp bước vào chiến trận đã được hai mươi sáu năm rồi. Công việc đã ngấm vào máu thịt, nó bắt mình phải suy tính đến thân phận con người, phải tính toán nên đưa cho chàng trẻ tuổi đó một cây kích sắt hay một cây chùy.

Bàn tay phe phẩy trên một thanh kiếm, Frederic hỏi Eragon:

- Ngài thích tác chiến có khiên hay không ?

- Có khiên. Nhưng tôi không thể lúc nào cũng đem theo, và dường như chưa bao giờ có cái khiên nào hữu hiệu khi tôi bị tấn công.

Vỗ vỗ chuôi cây kiếm, Frederic trầm ngâm:

- Hừ... Vậy là ngài cần một thanh kiếm không quá dài để đối chọi với từ một tấm mộc, tới một hàng rào khiên. Nghĩa là chiều dài kiếm trung bình, để có thể tung chiêu bằng một cánh tay dễ dàng. Một thanh kiếm có thể đeo trong mọi hoàn cảnh, đủ lịch sự trong các buổi lễ, đủ sức mạnh để đẩy lui một đám Kull.

- Ông ta nhăn mặt khi nhắc tới Kull.

- Việc Nasuada làm thật trái tự nhiên. Kết hợp chúng tôi với những quái vật đó. Tính chất của chúng ta và chúng không bao giờ có thể hòa đồng được....

Ông ta lắc đầu:

- Đáng tiếc là ngài chỉ muốn có một thanh kiếm. Hay tôi nghe lầm?

- Không đâu. Tôi và Saphira phải đi rất xa, không thể mang theo cả chục cây kiếm được.

- Ngài có lý. Một chiến sĩ như ngài không cần hơn một vũ khí. Tôi gọi điều đó là: lời nguyền của một thanh kiếm được đặt tên.

- Là sao?

- Mỗi cao thủ đề sở hữu một thanh kiếm có tên. Cái tên do chính anh ta đặt, hoặc do một thi nhân cảm tác sau khi anh ta có một chiến thắng lẫy lừng. Vì vậy, anh ta phải sử dụng thanh kiếm đó. Nếu khi xuất trận mà thiếu thanh kiếm đã có tên, chiến hữu sẽ thắc mắc, nào là thanh kiếm đó đâu rồi, hay anh ta cảm thấy hổ thẹn vì chiến công của mình, hoặc anh ta làm nhục họ bằng cách cự tuyệt những lời ca ngợi họ đã dành cho anh ta. Thậm chí, kẻ thù cũng có thể nhất định chờ cho tới khi thanh kiếm danh tiếng đó được rút ra, mới bắt đầu ra tay. Ngài sẽ thấy: ngay sau khi chiến đấu với Murtagh, hay trong bất kỳ trận đánh để đời nào, Varden nhất quyết sẽ đặt cho thanh kiếm mới của ngài một tước hiệu. Và từ đó, họ sẽ mong ngài luôn đeo thanh kiếm đó bên mình.

Vừa đi qua kệ thứ ba, ông ta vừa nói:

- Không thể tưởng tượng được tôi có may mắn được chọn vũ khí cho một kỵ sĩ rồng. Thật là một cơ hội hãn hữu. Cứ như đây là cực điểm trong công việc của tôi với Varden.

Lấy một thanh kiếm trên giá, Frederic trao cho Eragon. Xỉa mũi kiếm lên cao, xuống thấp, rồi Eragon lắc đầu. Hình dạng chuôi kiếm không hợp với tay nó. Viên trưởng kho vũ khí không tỏ ra thất vọng. Trái lại, hình như sự từ chối của Eragon càng làm ông ta thêm hứng thú. Thanh kiếm thứ hai, Eragon lại lắc đầu.

Frederic nói:

- Tôi e là, kiếm đưa cho ngài phải là một thanh sẽ không bị hề hấn gì khi đập tan một thanh kiếm bình thường. Điều ngài cần là sản phẩm của người lùn. Ngoài thần tiên, họ là những nhà rèn kiếm tài năng nhất, đôi khi còn vượt trội hơn cả thần tiên. Xin lỗi, tôi mạn phép hỏi: ngài đã được dạy công và thủ theo cách nào? Cạnh chống cạnh? Nếu tôi nhớ không lầm, trong lần ngài đấu với Arya trong Farthen Dur, công và thủ đều bằng cạnh kiếm.

Eragon nhíu mày:

- Thì sao?

- Thì sao? Đừng coi thường chuyện đó, Khắc-tinh-của-tà-thần. Nếu cạnh kiếm của ngài chạm cạnh kiếm của đối phương, cả hai sẽ bị sứt mẻ. Với một thanh kiếm đã được yểm thần chú như Zar'roc thì có thể không sao, nhưng với bất kỳ thanh nào tôi đang có tại đây, ngài không thể đấu theo đấu pháp đó được. Trừ khi...ngài muốn thay kiếm sau mỗi trận đấu.

Hình ảnh thanh kiếm của Murtagh bị sứt mẻ thoáng qua đầu Eragon. Nó tự trách mình vì đã quên một điều quá hiển nhiên như thế. Quen với thanh Zar'roc-không hề bị cùn, không hề có một dấu hiệu trầy xước, và cho đến bây giờ, đó là thanh kiếm độc nhất nó biết không bị hầu hết thần chú gây ảnh hưởng. Thậm chí, nó vẫn không biết chắc, kiếm của kỵ sĩ rồng có thể bị hủy hoại hay không.

- Ông không phải lo chuyện đó. Tôi sẽ bảo vệ kiếm bằng phép thuật. Nhưng tôi sẽ phải chờ cả ngày để có một vũ khí hay sao?

- Một câu hỏi nữa thôi: phép thuật của ngài tồn tại trong kiếm mãi mãi không?

Eragon càng cau có hơn:

- Để trả lời câu hỏi của ông, tôi nói ngày. Không. Duy nhất một thần tiên biết cách tạo ra kiếm của kỵ sĩ rồng. Nhưng cô ta không chia sẻ bí mật đó với tôi. Tôi chỉ có thể truyền một phần nội lực vào kiếm, để giữ cho kiếm không bị hư hại, nhưng nếu trận đánh quá dài, năng lượng dự trữ trong kiếm cạn kiệt, nó sẽ trở lại là một thanh kiếm bình thường, và .... điều lạ lùng là, nó sẽ tan ra từng mảnh khi tôi chạm kiếm lại với đối thủ.

Frederic gãi râu, trầm ngâm:

- Tôi hiểu rồi. Khi chiến đấu lâu, phép thuật sẽ hết, và càng đấu quyết liệt, phép thuật càng mau hết hơn. Đúng thể không?

- Chính xác.

- Vậy thì càng nên tránh đấu bằng cạnh kiếm, vì nó sẽ làm cạn năng lượng nhanh hơn các thế đánh khác.

- Tôi không có thời gian. Không còn thời gian để luyện lại các chiêu thức hoàn toàn khác. Triều đình tấn công bất cứ lúc nào. Tôi phải tập trung luyện những gì mình đã biết, không thể cố gắng chuyển qua các thể đánh mới được.

Lục lọi một thùng đầy vũ khí, Frederic lẩm bẩm một mình:

- Mình biết phải kiếm gì rồi. Trước hết là cái này, rồi tới cái này....

Lấy từ đáy thùng lên một cây chùy lớn màu đen, Frederic gõ gõ lên cây chùy, nói:

- Với cái này, ngài có thể đập tan kiếm, áo giáp, mũ sắt mà không hề hấn gì.

Eragon phản đối:

- Nhưng đó chỉ là một cây gậy. Một cây gậy bằng sắt.

- Thì sao nào? Với sức lực của ngài, ngài có thể vung vẩy cây chùy này nhẹ nhàng như một cành cỏ lau. Với nó, ngài sẽ là nỗi khiếp đảm ngoài mặt trận.

Eragon lắc đầu:

- Tôi không thích những thứ dùng để đập phá. Hơn thế nữa, tôi sẽ không thể đâm qua tim tà thần Durza để giết chết hắn bằng một cây chùy.

- Vậy thì tôi có một đề nghị nữa, trừ khi ngài khăng khăng đòi một cây kiếm truyền thống.

Tới một góc khác trong nhà bạt, Frederic lấy một vũ khí, đem lại cho Eragon. Nó thấy vũ khí này giống như một cái liềm. Loại kiếm này không giống loại kiếm Eragon quen thuộc, mặc dù trước đây nó đã từng thấy trong lực lượng Varden. Chuôi thanh kiếm cong đó tròn xoe, bóng lộn, tay cầm ngắn bằng gỗ bọc da đen, trạm trổ những chữ cổ ngoằn ngoèo của người lùn. Lưỡi kiếm có một cạnh sắc dài bằng một cánh tay, hai bên sống kiếm có một lớp da mỏng. Từ chuôi, thân kiếm thẳng chừng hai mươi phân, rồi nhẹ nhàng cong lên như một cái mỏ, chóp mũi khoằm xuống, nhọn hoắt như đầu kim. Lối thiết kế này làm giảm độ cong hay gãy khi đâm qua áo giáp và củng cố cho đầu kiếm có dáng vẻ như một cái nanh. Không như kiếm hai cạnh sắc, loại kiếm cong này phải cầm ho thân kiếm thẳng đứng với mặt đất. Điều kì lạ nhất là, dọc suôt lưỡi kiếm, cao chừng nửa phân là màu ngọc xám, rồi đen dần lên phía trên thành màu thép đen bóng như gương. Giữa hai vùng đó, như một giả khăn lụa trong gió, gợn sóng lăn tăn.

Eragon chỉ sọc màu xám nói:

- Tôi chưa từng thấy cái này bao giờ. Là gì vậy?

- Thriknzdal. Phát minh của người lùn. Họ trui luyện sống và lưỡi kiếm tách biệt. Lưỡi kiếm trui cứng, cứng hơn toàn thể kiếm của chúng tôi. Thân và sống kiếm mềm hơn lưỡi, mềm đủ để uốn cong và không bị gãy.

- Tất cả kiếm của người lùn đều giống thế này sao?

- Không. Chỉ những kiếm một cạnh sắc thôi....

Frederic ngập ngừng hỏi:

- Ngài hiểu vì sao tôi chọn kiếm này cho ngài chứ?

Eragon hiểu. Với cây kiếm này, trừ khi nó cố ý xoay cổ tay nếu không mọi cú đánh đều sẽ chạm vào mặt kiếm, tránh lưỡi kiếm va chạm khi tấn công. Sử dụng thanh kiếm này, nó chỉ phải điều chỉnh một chút các chiêu thức.

Ra khỏi nhà bạt, Eragon giữ tư thế cho thanh kiếm cong thẳng góc với mặt đất, vung lên khỏi đầu, rồi bổ xuống đầu kẻ thù tưởng tượng; quay người, xông tới, gạt một ngọn giáo vô hình, rồi xoay kiếm ra sau lưng, và chuyền từ tay này sang tay kia. Khi trở lại chỗ Frederic và Blodhgarm đang đứng đợi, hơi thở và nhịp tim của nó rất êm ả.

Tốc độ và sự cân xứng của thanh kiếm gây ấn tượng mạnh với Eragon. Không thể sánh bằng Zar'roc, nhưng cũng thuộc loại siêu hạng rồi. Nó nói với Frederic:

- Ông chọn tài thật.

- Tuy nhiên ngài vẫn chưa hoàn toàn hài lòng?

Eragon quay tít thanh kiếm cong, nhăn mặt:

- Tôi chỉ mong nó đừng quá giống một con dao đồ tể to đùng. Tôi sẽ có cảm giác lố bịch khi cầm thanh kiếm như thế.

- A... Đừng quan tâm nếu bị kẻ thù chế giễu. Chúng chưa kịp cười đã bị ngài chẻ đầu ra rồi.

Eragon vui vẻ gật đầu:

- Tôi lấy thanh này.

- Xin chờ một lát.

Nói xong, Frederic biến vào trong nhà bạt, rồi trở lại với một bao da trang trí hoa văn bạc, trao cho Eragon:

- Khắc-tinh-của-tà-thần, đã bao giờ ngài học mài kiếm chưa? Với thanh Zar'roc, ngài không cần phải mài, đúng không?

Eragon thú nhận:

- Đúng. Nhưng tôi rất khéo tay với đá mài.Tôi có thể mài dao sắc tới nỗi, một sợi chỉ rơi trúng lưỡi da là bị đứt ra ngay. Ngoài ra, nếu cần, tôi còn có thể sử dụng phép thuật làm tăng độ sắc bén của lưỡi kiếm.

Frederic rên lên, đập bồm bộp hai bên hông, làm cái áo da bò rụng lông lả tả.

- Không, không được làm lưỡi kiếm mỏng như dao cạo. Mép kiếm phải dày, và cứng rắn. Một chiến binh phải biết giữ gìn quân dụng đàng hoàng, phải biết cách mài gươm.

Frederic khăng khăng cố tìm cho được một viên đá mài, rồi cùng ngồi trên đất, hướng dẫn cho Eragon cách mài thanh kiếm cong sao cho chính xác, để có thể sẵn sàng lâm trận.

- Ngài có thể chiến đấu với một bộ giáp rỉ sét, một nón sắt sứt mẻ. Nhưng nếu còn muốn nhìn thấy mặt trời lên, đừng bao giờ chiến đấu với một thanh kiếm cùn. Nếu sống sót sau trận đánh, mệt lử như người vừa trèo qua ngọn núi Beor, bất kể cảm giác thế nào, nhưng khi có cơ hội, việc đầu tiên là phải lấy ngay đá mài ra mà mài kiếm. Cũng như ngài săn sóc ngựa, hay Saphira, trước khi chăm lo cho bản thân. Vì không có kiếm, ngài chỉ là một con mồi bất lực trước kẻ thù.

- Hơn một giờ trôi qua, cả ba người ngồi trong nắng chiều, để Frederic chỉ dẫn cho Eragon. Khi ông ta kết thúc, một bóng râm mát lướt qua đầu họ, và Saphira hạ cánh xuống ngay bên cạnh.

Eragon hậm hực: " Em đã chờ. Rõ ràng là em đã chờ tới lúc này mới xuống, thay vì tới sớm giải cứu anh khỏi phải nghe những lời lải nhải: nào là đá nước, đá dầu, nào là dầu hạt lanh bảo vệ thép tốt hơn mỡ."

" Nhưng có đúng vậy không?"

" Không đúng. Nhưng chuyện đó không liên quan đến câu hỏi của anh: sao em bỏ anh lại cái địa ngục này lâu thế"

Một bên mí nặng chịch cụp xuống, Saphira uể oải nháy mắt " Đừng quá cường điệu chứ. Địa ngục? Anh và em không chuẩn bị đàng hoàn thì địa ngục sắp tới mới là thảm hại. Những gì con người quần áo hôi rinh rích kia vừa nói, đều là những điều quan trọng anh cần phải biết cả đấy."

Eragon chịu thua: " Có thể".

Ả rồng khoái chí vươn cổ nhâm nhi móng chân.

Sau khi cám ơn, chào Frederic và hẹn gặp lại Blodhgarm, Eragon buộc thanh kiếm cong vào thắt lưng Beloth Khôn-ngoan, rồi leo lên lưng Saphira. Nó vui mừng reo lớn. Saphira xòe cánh, bay vút lên trời.

Choáng váng, Eragon nắm chặt gai rồng trước mặt, rồi nhìn xuống những con người và lều trại cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Từ trên cao, toàn vùng như một bàn cờ. Đồn lũy quanh doanh trại tua tủa như một con nhím, những cây cọc trắng xa xa sáng rực trong nắng chiều. Một phần tư chu vi doanh trại, về phía tây bắc, đội kỵ binh của vua Orrin trong như những chấm li ti. Phía đông, trại của Urgal thấp và tăm tối trên cánh đồng thoai thoải.

Hai đứa vút lên cao hơn.

Không khí lạnh ngắt làm má Eragon ngứa ngáy và phổi bỏng rát. Nó không dám thở sâu. Hai bên, những cụm mây dày đặc bồng bềnh trôi, trông như cà rem sủi bọt. Saphira lượn quanh những đám mây, những mảng bóng của nó xuyên qua đám mây trắng nõn như lông vũ. Một mảnh hơi nước tạt vào Eragon làm nó mờ cả mắt và những giọt nước giá lạnh tràn ngập vào mũi, miệng.

Saphira bay cao khỏi đám mây.

Một con đại bàng đỏ vừa bay qua vừa kêu choe chóe.

Saphira đã bắt đầu phải ráng sức. Còn Eragon cảm thấy chóng mặt. Giữ cánh bất động, Saphira lượn từ luồng hơi nóng này qua luồng hơi nóng khác, giữ nguyên độ cao, không xuống thấp hơn.

Eragon nhìn xuống. Chúng đang ở quá cao, mọi vật dưới đất hình như không còn là thật nữa. Doanh trại Varden là một miếng bìa sắp hình lộn xộn, với những mẫu tam giác đen, xám nhỏ li ti. Dòng sông jiet là một sợi dây bạc đính những cái tua màu xanh lá. Phía nam, những cụm mây lưu huỳnh dâng lên từ Cánh đồng cháy, tạo thành một dải núi màu cam, mái nhà cảu những quái vật lờ mờ ẩn hiện. Eragon vội quay nhìn hướng khác.

Cả tiếng, nó và Saphira bồng bềnh trong gió, thư giãn trong sự thoải mái được gần bên nhau. Một câu thần chú niệm thầm tách cái buốt lạnh khỏi Eragon. Cuối cùng, hai anh em cũng được một mình bên nhau, như những ngày còn ở trong thung lũng Palancar, trước khi triều đình xâm phạm vào cuộc đời hai đứa.

Saphira lên tiếng: " Anh em mình là chúa tể bầu trời"

" Mái trần của thế giới là đây"

Eragon vươn hai tay, như có thể chạm tới các vì sao.

Nghiêng sang trái, Saphira đón nhận làn không khí ấm áp từ bên dưới, rồi thăng bằng lại: " Ngày mai anh làm chủ hôn cho Roran và Katrina rồi"

" Một cảm giác thật lạ lùng. Lạ lùng vì anh Roran lấy được chị Katrina. Lạ lùng vì anh là người đứng ra tổ chức đám cưới cho họ.... Roran lấy vợ. Cứ nghĩ đến chuyện đó, anh lại cảm thấy mình già rồi. Mới ngày nào còn là hai thằng nhóc. Đúng là không thể nào ngăn được thời gian vô tình. Vì vậy, những thế hệ qua đi, chẳng bao lâu nữa sẽ đến lượt chúng ta đưa những đứa con vào đời, để chúng làm những việc cần phải làm."

" Nhưng là nếu còn sống sót vài tháng nữa"

" Ừ ... Vậy đó"

Saphira lảo đảo, như bồn chồn lo lắng về một điều bất hạnh. Rồi nó quay lại hỏi: " Sẵn sàng?"

" Tiến lên !"

Nghiêng tới trước, Saphira khép hai cánh sát sườn, phóng xuống, nhanh hơn cả tên bắn. Eragon cười ha hả với cảm giác không trọng lượng. Nó ép chặt hai chân vào Saphira để không bị bay khỏi lưng cô em rồng, rồi quá cao hứng, nó buông hai tay, đưa cao khỏi đầu. Mặt đất xoay tròn như cái đĩa khi Saphira lượn vòng trên không. Giảm tốc, ngừng lượn vòng, cô ả lăn tròn sang phải cho đến khi đâm ngược đầu lao xuống.

Eragon đấm vai ả rồng hét toáng lên : "Saphira"

Một làn khói tuôn ra từ mũi, Saphira sửa lại động tác, nhắm mặt đất, vù vù phóng xuống. Hai tai Eragon lùng bùng khi áp lực tăng lên. Còn cách doanh trại gần ngàn mét, và chỉ vài giây nữa là lều bạt tan tành, Saphira để sức gió đưa đẩy cánh. Cú nẩy tiếp theo làm Eragon bật ra trước, suýt bị cái gai rồng nó đang nắm đâm trúng mắt.

Vỗ mạnh cánh thêm ba lần nữa, Saphira mới ngừng hẳn lại, xòe rộng cánh, nó bắt đầu nhẹ nhàng lượn tròn xuống.

Eragon kêu lên: " Đã quá!"

" Không trò thể thao nào hồi hộp hơn bay. Vì thất bại là chết."

' Ha ha, nhưng anh hoàn toàn tin tưởng vào tài năng của em. Không bao giờ em để chúng ta bổ nhào xuống đất được '

Cô ả tươi rói vì được ông anh khen ngợi.

Rẽ trái về hướng lều của Eragon, Saphira lắc đầu : ' Từ bây giờ, em phải quen dần với lời khen tặng đó. Nhưng mỗi lần em phóng xuống như thế này, sáng hôm sau ngực và cánh nhức mỏi không chịu nổi. '

' Yên tâm đi, mai em đâu phải bay. Nhiệm vụ của chúng ta là dự đám cưới, và em có thể đi bộ tới được mà.'

Ả ậm ừ, hạ xuống một đám bụi mịt mù, đuôi quất đổ một cái lều bỏ trống.

Nhảy xuống đất, Eragon để cô ả đứng chải chuốt giữa sáu thần tiên, còn sáu thần tiên chạy theo nó qua doanh trại, tìm bà thầy thuốc Gertrude. Bà hướng dẫn nó những nghi thức trong buổi lễ cưới ngày mai.

Sau đó Eragon trở lại lều rửa mặt thay quần áo, trước khi cùng Saphira đến dự bữa ăn với vua Orrin và quần thần của ông như đã hứa.

Khuya hôm đó, sau bữa tiệc, Eragon và Saphira vừa đi bộ về lều, vừa ngắm sao và bàn về những chuyện đã và sẽ xảy ra. Trong lòng tràn ngập tình thương yêu, đến nổi Eragon tưởng như tim sắp ngừng đập.

' Ngủ ngon nhé, Saphira'

' Chúc ngủ ngon, tiểu huynh'

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#eragon