Eragon 4 p2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

SNALGLÍ CHO HAI NGƯỜI



Chiều muộn Eragon mới mở mắt dậy. Tấm màn mây đã tan ở vài nơi, những tia sáng vang chiếu tỏ thung lũng, thắp sáng nóc vài tòa nhà hoang phế. Dù thung lũng vẫn còn lạnh lẽo, ẩm ướt và thiếu hơi người nhưng anh sáng đã mang lại một diện mạo mới. Lần đầu tiên, Eragon hiểu vì sao các Kỵ sĩ lại chọn định cư trên hòn đảo này.

Nó ngáp rồi nhìn sang Saphira, nhẹ nhàng chạm vào trí óc cô em. Cô nàng vẫn còn ngủ không mộng mị gì. Tâm trí cô nàng giống một ngọn lửa le lói trong than, dễ dàng bén lên nếu cần.

Nó không yên tâm – nó nhớ tới cái chết – vì vậy nó lùi lại và chỉ duy trì liên lạc như một đường chỉ mỏng: đủ để nó biết cô em nó an toàn.

Trong khu rừng đằng sau, một cặp sóc đang cãi nhau với những tiếng ré cao độ. Nó nhíu mày mà nghe; giọng chúng quá sắc, quá nhanh và quá líu lo. Như thể một sinh vật khác đang giả giọng chúng vậy.

Nó nghĩ mà sởn da gà.

Nó nằm đó thêm một tiếng nữa, lắng nghe những tiếng sóc kêu trong khu rừng và quan sát những tia nắng nhảy nhót trên những ngọn đồi, những cánh đồng, những ngọn núi bao quanh thung lũng lòng chảo.

Sau đó những đám mây tụ lại, trời tối dần và tuyết bắt đầu rơi xuống, phủ trắng đỉnh núi.

Eragon đứng dậy nói với Glaedr, Con sẽ đi tìm ít củi. Con sẽ về sau vài phút nữa.

Con rồng đồng ý và Eragon cẩn thận đi trên cánh đồng tới khu rừng, cố không đánh thức Saphira dậy. Khi vào rừng, nó rảo bước. Dù có rất nhiều cảnh củi khô ở bìa rừng nhưng nó muốn duỗi chân duỗi cẳng và tìm ra chỗ phát ra tiếng sóc, nếu có thể.

Bóng tôi phủ kín khu rừng. Không khí lạnh là yên tĩnh như một hang động sâu trong lòng đất. Khu rừng có mùi nấm mốc, gỗ mục và nhựa cây. Rêu và địa y bám trên những cảnh cây nhưng những mảnh vải vụn, dù đã sờn cũ nhưng vẫn mang vẻ đẹp tinh tế. Chúng chia cây thành nhiều phần làm cho Eragon khó lòng nhìn xa hơn 15m.

Eragon nghe theo tiếng suối để tìm đường đi trong rừng. GIờ khi đã tới gần nó thấy cây thường xanh nơi đây không hề giống trên rặng Spine hay Du Weldenvarden. Chúng là một cụm bảy nhánh thay vì ba nhánh. Dù trong ánh sáng mờ ảo đi nữa, Eragon vẫn cảm thấy như bóng tối đang treo trên cây như một tấm áo choàng phủ lên đó. Mọi thứ trên cái cây, từ những vết nứt trên vỏ cây đến rễ cây lồi lên hay quả cây – mọi thứ đều xương xẩu khác thường và cứng nhắc trông như thể sắp bật rễ và rơi đổ xuống thành phố bên dưới.

Eragon rùng mình và rút thanh Brisingr. Nó chưa bao giờ trong một khu rừng trong tình trạng bị đe dọa. Những cây như thể đang giận dữ và – cùng với những cây táo nó đã thấy ban nãy – chúng như muốn vươn ra xé xác nó vậy.

Nó đung mu bàn tay đẩy những cây địa y vàng để mở lối tiến lên trước.

Giờ nó vẫn chưa thấy có dấu hiệu của động vật, gấu hay sói. Nó bối rối. ở đây khá gần con suối. Đáng lý phải có vài bầy thú tới uống nước chứ.

Có thể lũ động vật tránh đoạn rừng này,nó nghĩ. Nhưng vì lý gì?

Một đoạn cây đổ chắn ngang đường. Nó bước qua, đôi giày nó lún tới tận mắt cả trong lớp rêu. Một giây sau, gedwëy ignasia trên tay nó bắt đầu ngứa ngáy. Nó nghe có tiếng skree-skree! skree-skra! Khi một tá những con sâu trắng mũm mĩm – mỗi con phải to bằng ngón tay cái – chui ra khỏi đám rêu và bắt đầu nhảy xa khỏi nó.

Một bản năng vốn có trỗi lên. Nó dừng lại như khi gặp rắn. Nó không chớp mắt. Nó thậm chí chẳng thèm thở khi quan sát những con giòi béo múp míp ghê tởm chạy đi chỗ khác. Cùng lúc đó, nó nhớ ra hồi ở Ellesméra có nghe về chúng nhưng nó không nhớ chính xác chúng là giống gì.

Glaedr! CHúng là gì vậy? Nó cho con rồng nhìn những con giòi. Tên chúng bằng ngôn ngữ cổ là gì?

Eragon thất vọng khi nghe Glaedr nói,Ta không biết. Ta chưa từng thấy hoặc chưa bao giờ nghe kể tới ấy chứ. Chúng mới có ở Vroengard và Alagaësia. Đừng để nó chạm vào con; chúng có thể nguy hiểm hơn vẻ bề ngoài.

Khi chúng ta tránh xa Eragon một đoạn, những con bọ không tên nhảy cao hơn trước và với tiếng skree-skro! Chúng chui vào đám rêu. Khi rưi xuống, chúng chia ra thành những con rết xanh, nhanh chóng biến mất trong mặt rêu rối.

TỚi lúc đó Eragon mới dám thở.

Sao có thể thế, Glaedr nói. Ông có vẻ đang lo lắng.

Eragon từ từ nhấc giày lên và trở lại sau gốc cây. Nó kiểm tra đám rêu kỹ lưỡng hơn. Lần này nó đã nhận ra thứ nó tương là một cảnh cây mục thò lên khỏi đám rêu thực ra là những cái xương và gạc nai gẫy – hay là phần còn lại của một vài con hươu.

Đắn đo một lúc, Eragon quay lại bước tiếp và lần này tránh những đám rêu bên đường, dù việc này chẳng dễ tẹo nào.

Tìm ra tiếng sóc kêu trong rừng không đáng cho nó liều mạng – đặc biệt nó nghi ngờ rằng ẩn nấp dưới tán cây kia còn có những thứ nguy hiểm hơn giòi. Tay nó vẫn ngứa ngáy. Theo kinh nghiệm, nó biết vẫn còn có cái gì đó nguy hiểm gần đây.

Khi nó nhìn thấy cánh đồng và màu xanh lơ của vảy Saphira giữa những bụi cây thường xuân, nó quay lại và bước tới dòng suối. Rêu bám trên bờ suối, thế là nó bước từ những gốc cây lên những tảng đá cho tới khi nó đứng trên một tảng đá phẳng ở giữa dòng nước.

Nó ngồi xổm, tháo găng tay, rửa tay, mặt mũi và cổ. Nước lạnh làm nó khỏe người, trong giây phút, toàn bộ cơ thể nó ấm trở lại.

Một tiếng chít chít vang lên trên dòng suối khi nó gạt những giọt nước ra khỏi cổ.

Cố cử động ít nhất có thể, nó nhìn lên ngọn cây bên bờ kia.

Trên khoảng 9m, có bốn bóng đen ngồi trên nhánh cây. Từ cái đầu đen hình ô van là những sợi lông tỏa ra mọi hướng. Hai con mắt thù hằn với đường kẻ dọc tỏa sáng giữa hình ô van và sự trống rỗng trong ánh nhìn của chúng khiến Eragon khó biết chúng đang nhìn gì. Bối rối nhất là, như mọi bóng đen, những bóng đen này không tài nào nhìn thấu. Khi đôi mắt quay đi, chúng biến mất.

Eragon không rời mắt, vươn tay nắm lấy thanh Brisingr.

Bóng đen bên trái gãi long rồi kêu ré lên tiếng kêu mà lúc trước nó tưởng là tiếng sóc. Hai bóng ma kia làm tương tự, và trong khu rừng vọng lên tiếng hét.

Eragon định thử chạm vào trí óc chúng, nhưng nhớ tới Fanghur trên đường tới Ellesméra nên nó thôi ngay ý tưởng nó.

Nó trầm giọng nói, “Eka aí fricai un Shur’tugal.” Ta là Kỵ sĩ và là bạn.

BÓng đen dường như đang nhìn thẳng vào nó. Trong một lúc, chúng im lặng, chỉ còn lại tiếng rì rầm của dòng suối. Sau đó chúng bắt đầu chít chít tiếp, mắt chúng sáng hơn cho tới khi giống như những mẩu sắt nóng trắng.

Sau khoảng vài phút, những bóng đen không hề tấn công nó nhưng cũng không định rời đi. Thế là Eragon đứng dậy và cẩn thận bước lùi một bước.

Dường như cử động đó đã đánh động những bóng ra; chúng đồng loạt kêu ré lên. Sau đó chúng rung người và ở chỗ chúng xuất hiện bốn con cú lớn. Chúng mở cái mỏ vàng ra và kêu với nó như tiếng sóc. Sau đó chúng cất cánh im lặng bay vào lùm cây và nhanh chóng biến mất trong đó.

“Barzûl,” Eragon nói. Nó nhảy ngược lại đường cũ và nhanh chóng về cánh đồng. Nó chỉ dừng lại để ôm bó củi khô về.

Ngay khi tới chỗ Saphira, nó đặt củi khô xuống, quỳ một chân, tạo lưới phép nhiều nhất có thể. Glaedr cho nó biết một câu thần chú, rồi nói. Hồi ta và oromis còn ở đây thì không có những sinh vật này. Chúng không bình thường. Phép thuật đã làm mảnh đất và những sinh vật sống trên đó biến đổi. Giờ đây trở thành nơi ma quỷ.

Những sinh vật gì? Saphira hỏi. Cô nàng mở mắt và ngáp. Eragon chia sẻ ký ức và cô nàng cất tiếng. Đáng nhẽ anh phải cho em theo. Em có thể chén lũ giòi và những con chim bóng đó. Anh sẽ chẳng việc gì phải sợ chúng.

Saphira!

Cô nàng đảo mắt. Em đói. Dù là có phép thuật không, em cũng được ăn những sinh vật kỳ dị kia chứ?

Nhưng chúng có thể ăn con, Saphira Bjartskular, Glaedr nói. Con biết quy tắc săn mồi đầu tiên là: không săn những con mồi cho tới khi con biết chắc nó là con mồi. Bằng không, con sẽ thành mồi ngon cho kẻ khác.

“Anh không thấy một con nai nào hết,” Eragon nói. “Anh nghi ở đây cũng chẳng có nhiều nai hoẵng đâu. Hơn nữa, trời đã tối. Mà kể cả chưa tối, con cũng không dám chắc chắn đây là địa điểm săn bắn an toàn.”

Cô nàng gầm nhẹ. Tốt thôi. Vậy em nên ngủ tiếp. Nhưng sáng mai, em phải đi săn dù nguy hiểm thế nào. BỤng em rỗng không và em phải ăn trước khi bay qua biển lần nữa.

Saphira nói là làm. Cô nàng nhắm mắt ngủ tiếp.

Eragon đốt một đống lửa nhỏ, sau đó ăn một bữa tối xoàng xĩnh rồi quan sát thung lũng chìm vào bóng tối. Nó và Glaedr nói về kế hoạch cho ngày mai. Glaedr nói cho nó nghe nhiều hơn về hòn đảo, từ thời trước khi các thần tiên tới Alagaësia, khi Vroengard là nơi ở chỉ của riêng loài rồng.

Trước khi ánh sáng cuối cùng của ngày biến mất khỏi bầu trời, ông rồng già nói, Con có muốn thấy Vroengard như hồi ở Kỷ nguyên của các Kỵ sĩ?

Con muốn, Eragon nói.

Vậy nhìn đi, Glaedr nói và Eragon cảm nhận ông rồng chiếm giữ trí óc nó và chuyển vào đó những hình ảnh và cảm quan. Tầm nhìn của Eragon thay đổi, từ đỉnh nó nhìn thấy hình ảnh song sinh ma mị của thung lũng. Ký ức về thung lũng trong bóng chiều chạng vạng như lúc nay. Nhưng trên trời không có lấy một đám mây và hàng ngàn ngôi sao đang chiếu sáng lấp lảnh trên vòng tròn núi lửa Aras Thelduin. Những cái cây vào thời đó dường như cao hơn, thẳng hơn, ít nguy hiểm hơn. Trong thung lũng, nhưng tòa nhà của Kỵ sĩ còn nguyên vẹn, tỏa sáng như đèn báo hiệu trong hoàng hôn với ánh sáng phát ra từ ngọn đèn không dùng nến của thần tiên. Trường xuân và rêu không phủ những phiến đá màu hoàng thổ nhiều như bây giờ. Những đại sảnh và tòa tháp dường như trông sang trọng theo cái cách khác với đống đổ nát ngày nay. Dọc theo những con đường đá cuội và cao trên đó, Eragon thấy rất nhiều bóng rồng tỏa sáng: những kẻ khổng lồ duyên dáng giấu trong hang động số kho báu của một ngàn nhà vua.

Hình ảnh cuối cùng kéo dài lâu hơn; rồi Glaedr thả trí óc của Eragon ra, thung lũng lại trở về vẻ vốn có.

Đẹp quá, Eragon nói.

Ừ, nhưng giờ nó đã không còn.

Eragon tiếp tục ngắm thung lũng, so sánh với thung lũng của thời xa xưa. Nó nhíu mày khi nhìn thấy ánh sáng – nó nghĩ là ánh đèn – trong thành phố bỏ hoang. Nó thì thầm câu thần chú tăng thị lực. Nó thấy những bóng người đội mũi mặc áo choàng đen trong đống đổ nát. Họ trông trang nghiêm thoát tục. Dường như họ đang thực hiện một nghi lễ gì đó.

Ai vậy? Nó hỏi Glaedr. Có cảm thấy như nó nhìn thấy cái gì đó không cho kẻ khác nhìn.

Ta không biết. Có lẽ là hậu duệ của những người đã chạy trốn khỏi trận chiến. Có thể họ là những con người đã tới đây định cư sau Ngày tàn của các Kỵ sĩ. Hoặc cũng có thể họ là những người thờ rồng là Kỵ sĩ như thánh thần?

Sao có thể?

Có thể. Chúng ta không cho phép, nhưng tại nhiều vùng của Alagaësia.…Ta nghĩ may mà con đã đặt lá chắn.

Eragon quan sát những người đội mũ đi trong thành phố trong khoảng một tiếng. Cho tới khi họ khuất dạng, ánh đèn biến mất dần. Eragon không còn nhìn thấy họ nữa, dù nó được pháp thuật giúp sức.

Sau đó Eragon dùng đất dập lửa và chui vào chăn nằm ngủ.



Eragon! Saphira! Dậy!

Eragon mở choàng mắt. Nó ngồi dậy nắm lấy thanh Brisingr.

Trời tối, trừ ánh sáng đỏ phát ra từ đống than bên phải và bầu trời sao phía đông. Dù ánh sáng mờ nhạt nhưng Eragon vẫn thấy hình dáng khu rừng và cánh đồng... và con sên khổng lồ dị hơm đang trườn trên cỏ.

Eragon bật dậy lùi về sau. Con ốc sen – vỏ cao mét rưỡi – đang lừng chừng, rồi trườn nhanh về phía nó với tốc độ người chạy. Tiếng rít như tiếng rắn phát ra từ cái mồm đen sì và đôi mắt đó to bằng nắm tay Eragon.

Eragon nhận ra nó không đủ thời gian đứng dậy. Đằng sau nó không đủ không gian mà rút thanh Brisingr. Nó chuẩn bị đọc thần chú nhưng trước khi đó, Đầu Saphira phóng về phía nó như một mũi tên. Cô nàng dùng hàm gặm con ốc sên. Vỏ ốc vỡ ra và sinh vật ré lên chói lói.

Saphira vặn cổ ném con ốc vào không khí, há rộng hàm đợi nuốt trọn sinh vật như chim sáo ăn giun đất vậy.

Eragon nhìn xuống. Nó thấy có bốn con ốc sên khổng lồ khác đang tiến tới. Một trong số chúng chui vào vorl nhưng con khác nhanh chóng chuồn mất.

“Đằng này!” Eragon hét.

SAPhira phóng tới. Toàn bộ cơ thể cô nàng rời mặt đất một chốc. Sau đó, cô nàng gặm ba con. Cô nàng không ăn con chui trong vỏ còn lại nhưng cô nàng dùng ngọn lửa vàng xanh đốt cháy 30 mét xung quanh.

Cô nàng duy trì ngọn lửa trong một hai giây. Sau đó cô nàng dùng hàm nhặt con ốc sên đang bốc khỏi lên – nhẹ nhàng như mèo mẹ cắp mèo con – mang tới đặt trước mặt Eragon. Nó nhìn con vật với vẻ khó tin nhưng có vẻ con vật thực sự chết rồi.

Giờ anh có bữa sáng rồi đó, Saphira nói.

Nó nhìn cô em chằm chằm, rồi bắt đầu cười – nó cứ cười tới khi gập người lại, đặt tay lên đầu gối thở phì phò.

Sao nào? Cô nàng hỏi và ngửi cái vỏ cháy đen.

Đúng, sao con cười thế Eragon? Glaedr hỏi.

Nó lắc đầu và tiếp tục cười. Cuối cùng nó nói “Vì...” Sau đó nó chuyển sang nói bằng tư tưởng để Glaedr cũng nghe được. Vì ....ốc sên và trứng! Sau đó nó lại khúc khích cười ngu ngốc. Vì, ốc sên nướng!...Đói không? Ăn thịt nướng đi! Thấy mệt không? Hăn mắt đi! Ai cần uống rượu khi ta có nhớt chứ?! Con có thể cho thịt nướng vào một cái cốc, như một bó hoa và chúng sẽ... Nó cười sặc sụa đến mức không thể cười nổi nữa. Nó quỳ một chân xuống trong khi hít thở, nước mắt tràn ra.

SAphira mở hàm nhe một nụ cười đầy răng sau đó lục cục gì đó trong cổ. Thi thoảng anh quái quái thế nào ấy, Eragon. Nó cảm thấy sự vui vẻ của nó ảnh hưởng tới cô em. Cô nàng ngửi cái vỏ lần nữa. Có chút bia uống cũng hay.

“Ít nhất là em đã có cái bỏ bụng,” nó nói bằng cả tư tưởng lẫn miệng.

Chưa đủ no để quay về Varden.

Khi dứt cười, Eragon dùng mũi giày đá con ốc sên. Đã rất lâu kể từ ngày loài rồng sống trên Vroengard. Có thể chúng không nhận ra em là ai và nghĩ anh dễ xơi...Nếu chết vì ốc sên ăn thì quả là cái chết lãng xẹt.

Nhưng đáng nhớ, Saphira nói.

Nhưng đáng nhớ, nó đồng tình, cảm nhận sự vui vẻ đang quay lại với nó.

Và ta đã nói với con gì về nguyên tắc đi săn đầu tiên, con gái? Glaedr hỏi.

Cả Eragon và Saphira đều trả lời. Đừng chén mồi trước khi con biết chắc chúng là con mồi.

Rất tốt, Glaedr nói.

Sau đó Eragon nói, Những con giòi nhảy, chim bóng ma, giờ là những con sên khổng lồ....Làm sao những câu thần chú trong trận chiến lại tạo ra chúng được?

Những Kỵ sĩ, những con rồng, và Thập tam Phản đồ đã phát tán một lượng năng lượng khổng lồ khi giao đấu. Rất nhiều năng lượng không gắn kết trong những câu thần chú. Những người còn sống đã kể lại rằng, trong một khoảng thời gian, thế giới trở nên điên loạn. Con người không thể tin vào những điều mắt thấy tai nghe. Một trong số năng lượng đó chắc chắn đã truyền vào tổ tiên loài giòi và những con chim con thấy ngày hôm nay. Nhưng con đã nhầm về những con ốc sên. Snalglí vẫn luôn sống ở Vroengard. Chúng là thức ăn ưa thích của loài rồng chúng ta. Và ta chắc vì lý do gì thì con biết.

Cô nàng rên rừ rừ và liếm mép.

Nhưng không chỉ thịt chúng mềm và thơm ngon, mà vỏ ốc cũng rất tốt cho tiêu hóa.

Nếu chúng chỉ là những động vật bình thường, vậy sao lưới phòng vệ của con không chặn chúng lại? Eragon hỏi. Ít nhất con phải biết nguy hiểm đang cận kề chứ.

Glaedr trả lời, Cái này có thể là kết quả của trận chiến. Pháp thuật không tạo ra snalglí nhưng không có nghĩa chúng không bị ảnh hưởng bởi lực tác động lên toàn bộ nơi này. Chúng ta không nên lảng vản lâu tại đây. Tốt nhất chúng ta nên đi trước khi có cái gì quyết định nếm thịt chúng ta.



VỚi sự giúp đỡ của Saphira, Eragon đập vỡ vỏ ốc và dưới ánh sáng của đèn ma, nó dọn sạch phần ruột bên trong. NHớt con sên ngập tới tận khuỷu tay nó. Sau đó Eragon và Saphira chôn đống thịt gần đống than.

Sau cùng, Saphira trở về bãi cỏ quen thuộc, cuộn người lại và ngủ. Lần này Eragon tới gần cô nàng. Nó mang chăn và túi đựng trái tim của Glaedr. Nó chui dưới cánh cô em và nằng dựa vào chỗ ấm áp giữa cổ và thân mình cô nàng. Nó giành hết buổi đêm để suy nghĩ và mơ mộng.



Ngày tiếp theo trời ảm đạm và xám xịt y như hôm trước. Ánh sáng xuyên qua tuyết phủ xuống sườn núi và chân núi. Không khí lạnh lẽo khiến Eragon phải tin rằng cuối ngay sẽ có tuyết rơi.

Saphira mệt nên không thức giấc tới khi mặt trời ngang đỉnh núi. Eragon mất bình tĩnh nhưng vẫn để cô nàng ngủ. Cô nàng hồi phục sức lực sau chuyến bay tới Vroengard còn quan trong hơn việc bắt đầu tìm kiếm.

Một khi thức dậy. Saphira giúp Eragon đào ruột ốc sên lên nấu bữa sáng cỡ bự...nó không biết gọi món này là gì: ốc sên hun khói ư? Dù tên gì thì thịt ốc sên cũng thực ngon và nó ăn nhiều hơn thường lệ. Saphira chén hết phần còn thừa. Chúng đợi thêm một giờ vì thật không khôn ngoan chút nào khi tham chiến với cái bụng đầy thức ăn.

Sau cùng, Eragon gấp chăn và đặt yên lên lưng Saphira. Cùng với Glaedr họ cũng nhau tới Tảng đá Kuthian.

__________________





TẢNG ĐÁ KUTHIAN



Con đường dưới tán cây táo dường như ngắn hơn ngày hôm trước. Những cái cây xương xẩu dường như to lớn hơn bao giờ hết. Eragon nắm chặt chuôi Brisingr trong suốt cuộc hành trình.

Nó và Saphira cũng dừng lại trướng một trảng trống trước Tảng đá Kuthian. Đàn quạ đậu trên tảng đá. Khi nhìn thấy Saphira chúng tung cánh bay lên trời – Eragon thấy đó là một điềm gở.

Trong suốt nửa tiếng, Eragon đứng đọc hết thần chú này tới thần chú khác để tránh phép thuật lại tổn hại tới nó, Saphira hay Glaedr. Trong khắp bãi trống, trên Tảng đá Kuthian – và toàn bộ hòn đảo – là hàng tá các câu bùa phép. Một trong số đó ếm sâu trong lòng đất với sức mạnh như một con sông lớn chảy dưới chân nó. Số khác nhỏ hơn chỉ đủ khả năng tác động lên một bông hoa hay cành cây. Một nửa trong số các bùa phép không hoạt động – vì không đủ năng lượng hoặc không có đích tác động tới hay đang đợi một điều kiện cụ thể. Một số lượng lớn các câu thần chú khắc chế lẫn nhau, như thể các Kỵ sĩ, hoặc bất kỳ ai đọc chúng ra, đã làm thay đổi câu thần chú ban đầu.

Eragon không thể biết hầu hết các câu thần chú để làm gì. Nó không biết về những từ ngữ mà chỉ biết tới dạng năng lượng mà các pháp sư đã qua đời từ đâu cẩn thận tạo ra. Những cấu trúc đó quá khó, nếu không muốn nói là không thể dịch ra nổi. Glaedr có giúp, vì ông ấy quay thuộc với những câu thần chú lâu đời và phức tạp hơn từ hồi còn ở Vroengard. Nhưng còn lại Eragon phải đoán. May mà dù nó không phải lúc nào cũng biết chủ đích câu thần chú nhưng nó biết câu thần chú đó có ảnh hưởng tới nó, Saphira hay Glaedr hay không. Đó là một quá trình phức tạp đòi hỏi câu thần chú phức tạp. Eragon mất cả tiếng nữa mới kiểm tra được toàn bộ.

Cái khiến nó – và cả Glaedr – lo lắng nhất là những câu thần chú họ không tài nào nhận diện. Khám phá các câu thần chú càng ngày càng khó nếu những người niệm thần chú thực sự muốn giấu.

Cuối cùng, khi Eragon tự tin không có bẫy nào xung quanh họ hay quanh Tảng đá Kuthian, nó và Saphira bước lên trảng đất trống tới chân ngọn tháp phủ đầy địa y.

Eragon ngửa cổ nhìn lên đỉnh. Quá là xa. Nó không thấy tảng đá hay Saphira có gì bất thường.

Chúng ta hãy xưng tên cho xong đi, cô nàng nói.

Eragon hỏi Glaedr và ông rồng đáp, Con bé nói đúng. Chúng ta chẳng việc gì phải chần chừ. Hãy nói tên mình, ta và Saphira cũng làm tương tự.

Eragon căng thẳng nắm chặt tay hai lần sau đó cầm khiên và thanh Brisingr.

“tên tôi,” nó nói lớn, rành mạch, “là Eragon Khắc tinh của tà thần, con trai của Brom.”

Tên tôi là Saphira Bjartskular, con gái của Vervada.

Còn tên tôi là Glaedr Eldunarí, con trai Nithring đuôi dài.

Họ chờ đợi.

Ở đằng xam bầy quạ kêu như trêu ngươi họ. Eragon không thoải mái nhưng nó không để ý. Nó không mong cánh cửa sẽ dễ dàng mở ra.

Thử lại xem, nhưng lần này nói bằng ngôn ngữ cổ, Glaedr khuyên.

Thế là Eragon nói, “Nam iet er Eragon Sundavar-Vergandí, sönr abr Brom.”

Và Saphira cũng như Glaedr nhắc lại tên và nguồn gốc bằng ngôn ngữ cổ.

Không có gì xảy ra.

Eragon càng lúc càng bất an. Nếu chuyến hành trình này vô ích... không, nó không dám nghĩ. Chưa dám nghĩ. Có thể chúng ta phải nói lớn tên lên, nó nói.

Bằng cách nào? Saphira hỏi. Chẳng nhẽ em phải hét vào tảng đá à? Còn sư phụ Glaedr thì sao?

Anh có thể nói tên hộ em, Eragon nói.

Hình như không đúng như những gì nó muốn, nhưng chúng ta cứ thử xem, Glaedr nói.

Bằng ngôn ngữ này hay ngôn ngữ cổ.

Bằng ngôn ngữ cổ. Nhưng thôi, thử cả hai cho chắc.

Hai lần Eragon đọc tên nhưng tảng đá vẫn không thay đổi. Cuối cùng, nó thất vọng nói, Có lẽ chúng ta tới sai nơi; có thể cổng vào Hầm Mộ những Linh Hồn ở bên kia tảng đá. Có thể ở trên nóc lắm.

Nếu thế, vì sao trong Domia Abr Wyrda không nhắc tới hướng? Glaedr hỏi.

Eragon hạ khiên xuống. Có bao giờ có câu đố nào dễ giải đâu?

Hay là chỉ anh cần xưng tên thôi? Saphira nói với Eragon. Không phải Solembum nói là, ...”khi ngươi sức cùng lực kiệt, hãy tới tảng đá Kuthian và xưng tên để mở cánh cửa vào Hầm mộ của Những Linh Hồn.” Tên của anh, chứ không phải của em hay sư phụ Glaedr.

Eragon nhíu mày. Có thể. Nhưng nếu chỉ cần tên anh thì có lẽ anh nên nói khi chỉ có một mình.

Với một tiếng gầm, Saphira bay lên, làm dựng đứng tóc Eragon và thổi bạt cây cỏ. Thử đi, và nhanh lên đấy nhé! Cô nàng nói khi bay về phía đông, tránh xa tảng đá.

Khi Saphira cách ¼ dặm, Eragon nhìn lên bề mặt đá và một lần nữa nâng khiên, một lần nữa xưng tên, bằng cả hai ngôn ngữ, loài người và thần tiên.

Không có cánh cửa hay lối đi nào lộ ra. Không có một vết nứt nào trên mặt đá. Không một dấu hiệu nào. Tòa tháp đá vẫn chỉ là một tảng đá hoa cương, không hở ra một bí mật nào/

Saphira! Eragon hét gọi bằng tư tưởng. Sau đó nó chửi thề và bước tới bước lui, đá bay những viên đá và cành cây trên đất.

Nó quay lại chân tảng đá khi Saphira đáp xuống bãi đất trống. Móng vuốt đâm sâu vào đất. Lá cây và lá cỏ cuốn quanh cô nàng như trong cơn cuồng phong.

Khi đã cô nàng đáp xuống trên bốn chân và gập cánh, Glaedr nói, Ta đoán là con không thành công?

Không, Eragon cục cằn đáp và nhìn chằm chằm lên ngọn tháp đá.

HÌnh như ông rồng già thở dài. Ta sợ chỉ có một khả năng...

Là Solembum nói dối chúng ta? Rằng cậu ta cho chúng ta đi chơi để Galbatorix có thể hủy diệt Varden?

Không. Rằng để mở cái...cái...

Hầm mộ của Những Linh Hồn, SAPhira nói.

Đúng, cái hầm mộ mà hắn nói với các con – để mở nó, chúng ta phải dùng tên thật ấy.

Những từ đó rơi vào họ như một tảng đá nặng trịch. Họ không nói gì. Ý nghĩ đó khiến Eragon sợ. Nó không dám vì sợ làm tình huống tệ hơn.

Nhưng nếu đây là một cái bẫy....Saphira nói.

Vậy thì đây là cái bẫy nguy hiểm nhất, Glaedr nói. Các con cần quyết định rằng: các con có tin Solembum không? Việc này không chỉ đe dọa mạng sống chúng ta mà còn cả sự tự do của chúng ta. Nếu các con tin hắn, liệu các con có thể thành thực với bản thân để tìm ra tên thật nhanh chóng không? Nhưng các con có dám sống cả đời với cái đó dù cho nó chẳng lấy gì làm thoải mái? Vì nếu không, giờ chúng ta phải bỏ đi ngay. Ta đã thay đổi từ khi Oromis chết, nhưng ta biết ta là ai. Nhưng con có biết con là ai không, Saphira? Còn con nữa, Eragon? Con có thể nói thật cho ta biết cái gì bên trong con rồng và Kỵ sĩ này không?

Eragon chán nản nhìn Tảng đá Kuthian.

Mình là ai? Nó tự hỏi.



__________________





CẢ THẾ GIỚI CHỈ LÀ GIẤC MƠ



Nasuada cười khi bầu trời đầy sao xoay xung quanh cô và cô rơi vào một ánh sáng trắng dưới đó cả dặm.

Gió lùa vào tóc cô, váy cô bay phần phật, những sợi sơ trên ống tay áo đung đưa như những sợi dây. Những con dơi đen to tướng bay tới, dùng răng tấn công vào những vết thương của cô.

Cô vẫn cười.

Ánh sáng chói lòa làm cô mù mắt trong một phút. Khi đã nhìn rõ, cô thấy mình đang đứng trong Căn phòng của Nhà tiên tri, nhìn thấy chính mình trói trên chiếc bàn đá màu khói. Cảnh thân xác cô là Galbatorix: cao, vai rộng, bóng tối che khuất khuôn mặt và vương miện đỏ như lửa trên đầu.

Hắn quay lại chỗ cô đứng và xòe bàn tay đeo găng. “Tới đây, Nasuada, con gái của Ajihad. Hãy bỏ qua lòng tự trọng và hãy thề trung thành với ta. Ta sẽ cho cô mọi thứ cô muốn.”

Cô phát ra tiếng kêu chế nhạo và dùng tay nhắm về phía lão. Trước khi cô kịp xé toang cổ họng hắn, nhà vua biến mất trong màn sương mù đen.

“Cái ta muốn là mi chết đi!” cô hét vào xà lim.

Căn phòng vang lên tiếng Galbatorix từ mọi hướng: “Vậy cô hãy ở đây tới khi nhận ra lỗi lầm.”

* * *

Nasuada mở mắt. Cô vẫn trên bàn đá, cổ tay và cô chân bị trói, những vết thương do con giòi đục xới nhói đau không ngừng.

Cô nhíu mày. Cô vừa bất tỉnh hay vừa nói chuyện với nhà vua? Cô không biết khi...

Ở góc phòng, cô thấy một dây leo dày màu xanh mọc trên những phiến đá vẽ hình, làm chúng nứt ra. Nhiều sợi dây leo xuất hiện cạnh sợi thứ nhât hơn; chúng bò khắp bức tường, trên sàn nhà như những con rắn đang bò vậy.

Nasuada cười khi quan sát chúng bò tới gần. Đây là tất cả những thứ lão có thể nghĩ ra? Mình mơ mấy thứ kỳ lạ thế này mỗi đêm.

Như để trả lời cô, bàn đá tan chảy, những sợi dây leo bò lên người cô, giữ chặt cô hơn cả những sợi xích. Những cành dây leo càng lúc càng dày đặc làm tầm nhìn của cô tối lại. Cô chỉ nghe thấy duy nhất âm thanh khi chúng bò lên nhau: khô khốc như tiếng cát chảy.

Không khí xung quanh cô ngột ngạt và nóng nực. Cô cảm thấy khó thở. Nếu cô không biết những sợi dây leo kia chỉ là ảo ảnh, cô sẽ sợ. Nhưng cô chỉ nhìn chăm chăm vào bóng tối, chửi rủa tên Galbatorix. Không phải một lần đầu. Và cô chắc không phải lần cuối cùng. Nhưng cô không thể để hắn mãn nguyện vì làm cô mất cân bằng.



Ánh sáng...Những tia nắng mặt trời vàng ruộm tưới lên những con đồi chen lẫn những cánh đồng và vườn nho. Cô đang đứng ở góc một cái sân nhỏ, dưới dàn lưới tắm những tia nắng ban mai. Những sợi dây leo gợi cho cô một sự quen thuộc không vui vẻ gì. Cô đang mặc chiếc váy màu vàng xinh đẹp. Tay phải cô cầm một cốc rượu pha lê và trên lưỡi cô có vị rượu anh đào. Một cơn gió nhẹ thổi tới từ phương tây. Không khí ấm áp, thoái mái, sảng khoái.

“À, nàng đây rồi,” có giọng nói phía sau cô. Cô quay lại t hấy Murtagh đang sải bước tới gần cô từ một dinh cơ rộng lớn. Giống như cô, hắn đang cầm một ly rượu. Hắn mặc quần bó chẽn đen và áo chẽn bằng xa tanh đỏ thẫm với những chiếc khuy vàng. Hắn đeo một con dao găm ở nạm đá quý ở thắt lung. Tóc hắn dài hơn cô nhớ. Hắn có vẻ thư thái và tự tin theo cách cô chưa từng thấy. Và ánh nắng chiếu trên mặt hắn làm cho hắn đẹp trai tới nghẹt thở - thậm chí còn thanh tao nữa.

Hắn cùng cô đứng dưới giàn lưới và đặt tay lên cánh tay trần của cô. Cử chỉ đó thật bình thường. “Cô gái tinh ranh, nàng dám bỏ ta lại với Lãnh chúa Ferros và câu chuyện dài dằng dặc của ông ấy. Tôi mất nửa tiếng mới thoát nổi đấy.” SAu đó hắn ngừng nói và nhìn cô gần hơn, trong ánh mắt có chút gì đó quan tâm. “Nàng ốm à? Da nàng xám quá.”

Cô mở miệng nhưng không nói gì. Cô không biết phải phản ứng thế nào.

Murtagh nhíu mày. “Nàng bị tấn công nữa sao?”

“Tôi…tôi không biết…Tôi không thể nhớ sao tôi lại ở đây, hay…” Cô không nói gì khi thấy nỗi đau trong mắt Murtagh. Hắn nhanh chóng giấu nó đi.

Hắn trượt tay lên lung cô khi đi ra sau lựng cô nhìn vào khung cảnh những ngọn đồi nhấp nhô. Sau đó, bằng giọng trầm trầm, hắn nói. “Tôi hiểu vì sao nàng bối rối…Đây không phải lần đầu tiên, nhưng…” Hắn hít một hơi thật sâu và nhẹ nhẹ lắc đầu. “Nàng nhớ cái gì nào? Teirm? Aberon? Cithrí? … hay món qua tôi tặng nàng vào một đêm ở Eoam?”

Cô càng lúc càng không hiểu. “Urû’baen,”, cô thì thào. “Căn phòng của Nhà tiên tri.Tôi chỉ còn nhớ thế.”

Ngay lập tức, cô cảm nhận được bàn tay run rẩy của hắn. Nhưng mặt hắn không biểu lộ gì.

“Urû’baen,” hắn khan giọng nhắc lại. Hắn nhìn cô. “Nasuada..đã tám năm kể từ khi chúng ta ở Urû’baen.”

Không, cô nghĩ. Không thể. Nhưng mọi thứ cô nhìn thấy, cảm thấy đều quá thật. Tóc Murtagh tung bay trong gió, mùi cánh đồng, chiếc váy chạm lên da cô – tất cả đều như thật. Nhưng nếu cô thực sự ở đó, vậy vì sao Murtagh không an ủi cô bằng cách chạm vào tư tưởng cô như hắn từng làm? Hay hắn đã quên? Nếu tám năm đã trôi qua, hắn có thể không nhớ lời hứa với cô ở Căn phòng của Nhà tiên tri.

“Tôi...” cô định nói rồi nghe thấy tiếng một người phụ nữ gọi:

“Tiểu thư ơi!”

Cô quay đầu nhìn một người hầu gái đẫy đà chạy tới từ căn nhà, tạp dề tung phấp phới. “Tiểu thư,” cô hầu gái nói và nhún gối chào. “Tôi xin lỗi vì làm phiền tiểu thư, nhưng những đứa trẻ mong tiểu thư cùng chúng chơi với những vị khách.”

“Con ư,” cô thì thầm. Cô nhìn Murtagh và thấy mắt hắn sáng lên vì những giọt nước mắt.

“Đúng,” hắn nói. “Con. Bốn đứa, tất cả đều khỏe mạnh và hiếu động.”

Cô rùng mình vì cảm xúc ùa tới. Cô không đừng được. Sau đó cô hơi nâng cằm. “Hãy cho tôi biết tôi quên những gì. Hay cho tôi biết vì sao tôi quên.”

Murtagh cười một nụ cười tự hào. “Tôi rất vui lòng,” hắn nói và hôn lên trán cô. Hắn cầm lấy cốc rượu của cô và đưa cả hai cho người hầu gái. Sau đó hắn nắm lấy tay cô, nhắm mắt lại, cúi đầu.

Ngay lập tức, cô cảm nhận sự hiện diện của hắn trong tư tưởng cô. Cô biết: không phải hắn. Không thể là hắn.

Cô lức giận vì bị lừa gạt và mất đi những thứ cô chưa thể nào có. Cô rút bàn tay phải khỏi tay Murtagh, nắm lấy con dao găm và đâm vào người hắn. Cô hét:

Ở El-harím, Ở El-harim có một người đàn ông mắt vàng

Ông ấy nói với tôi, “Hãy cẩn trọng với những lời nói thầm, vì chúng thì thầm những điều dối trá.



Murtagh nhìn cô với vẻ tò mò sau đó hắn biến mất. Mọi thứ xung quanh cô – hàng rào mắt cáo, sân, dinh thự, ngọn đồi với những vườn nho – biến mất. Cô thấy mình trôi trong không gian không màu sắc và âm thanh. Cô cố tiếp tục cầu nguyện nhưng cô không nói được. Cô không thể nghe nổi nhịp tim đập.

Sau đó cô cảm nhận bóng tối vặn xoắn, và...



Cô giật mình chống tay và đầu gối xuống. Những tảng đá sắc nhọn cào xước lòng bàn tay cô. Cô chớp mắt để điều chỉnh thích ứng với ánh sáng. Cô đứng lên nhìn xung quanh.

Sương mù. Những cuộn khói bay trên cánh đồng trơ trụi rất giống Cánh Đồng cháy.

Cô một lần nữa mặc bộ đồ tù rách nát. Chân trần.

Có cái gì đó đang gầm gào ở đằng sau cô. Cô quay người lại nhìn thấy một Kull cao hơn 3m đang chạy tới, cầm theo một cái chày sắt tô bằng người cô. Một tiếng gầm nữa phát ra từ bên trái. Kull thứ hai xuất hiện cùng bốn Urgal nhỏ hơn. Sau đó những bóng những kẻ gù mặc áo choàng xuất hiện trong màn xương. Chúng chạy tới chỗ cô, kêu gào và giơ những thanh kiếm mỏng như lá lúa. Dù cô chưa từng thấy chúng trước đó, nhưng cô biết chắc đó là Ra’zac.

Cô lại cười. Giờ Galbatorix định trừng trị cô.

Cô lờ tịt những kẻ thù đang tiến tới kia đi – cô biết cô không thể giết chết hay trốn thoát nổi – cô ngồi khoanh chân trên đất và bắt đầu ngâm nga một giai điệu của người lùn.

Nếu Murtagh không báo trước chắc chắn mục đích lừa gạt cô của Galbatorix đã thành công. Để giữ bí mật về sự giúp đỡ của Galbatorix, cô giả vờ ngu ngơ không biết Galbatorix đã tạo nên những không gian thực khác. Nhưng dù cô nhìn thấy hay cảm thấy cái gì, cô không thể để nhà vua khiến cô nghĩ tới những thứ không nên nghĩ tới và tệ hơn, thề trung thành với lão. Không phải lúc nào cũng dễ thoát khỏi sự khống chế của hắn. Nhưng cô vẫn duy trì cách nghĩ, cách nói. Nhờ đó, cô có thể phá ngang kế hoạch của nhà vua.

Ảo ảnh đầu tiên là một người phụ nữ khác, tên Rialla, đã tới Căn phòng của Nhà tiên tri. Cô ta là bạn tù với cô. Người phụ nữ nói cô ta bí mật kết hôn với một gián điệp của Varden ở Urû’baen. Cô ta bị bắt khi giúp anh này chuyển tin. Dường n hư một tuần sau, Rialla cố lấy lòng Nasuada, thuyết phục cô rằng kế hoạch của Varden đã tàn đời. Họ chẳng còn lý gì mà chiến đấu. Tốt nhất họ nên nghe theo Galbatorix.

Lúc đầu, Nasuada không biết Rialla là một ảo ảnh. Cô nghĩ Galbatorix đã làm méo mó từ ngữ hay nhân dạng người phụ nữ này. Hoặc giả lão can thiệp vào cảm xúc của chính cô để cô dễ bị lôi kéo vì những lời nói của Rialla.

Ngày qua ngày, Murtagh không tới thăm hay liên hệ với cô. Cô sợ rằng hắn đã bỏ mặc cô. Cô giận hơn cô muốn thừa nhận. Mỗi giây mỗi phút cô đều lo nghĩ tới nó.

Sau đó cô bắt đầu phân vân vì sao Galbatorix không tới tra tấn cô. Đột nhiên cô nghĩ, nếu thực sụ một tuần đã qua, vậy thì Varden và thần tiên đã tấn công Urû’baen rồi. Và nếu việc này xảy ra, Galbatorix chắc chắn sẽ nhắc đến trong sự hả hê. Hơn nữa, cách xử xự của Rialla có chút không bình thường. Kết hợp với việc cô lúc nhớ lúc không, Galbatorix không tra tấn cô, Murtagh tiếp tục im lặng, – vì cô không tin hắn dám thất hứa với cô – cô biết Rialla chỉ là một bóng ma và thời gian trôi qua chưa tới một tuần.

Cô rùng mình khi nhận ra Galbatorix đã khiến cô nhầm tưởng về số ngày trôi qua. Cô bất đắc dĩ chấp nhận ý tưởng đó. Cảm giác thời gian của cô đã không còn sắc bén từ hồi bị giam cầm, nhưng cô vẫn còn ước chừng chung chung được. Nếu mất khái niệm về thời gian, cô sẽ càng phụ thuộc vào Galbatorix hơn.

Tới lúc này, cô vẫn kiên quyết chống lại sự cám dỗ của Galbatorix, dù bao lâu đã trôi qua. Nếu cô có thể chịu án một trăm năm, vậy thì cô sẽ chịu đựng trong cả trăm năm đó.

Khi cô miễn nhiễm với những lời thì thầm à ơi của Rialla – thực ra cô còn bảo người phụ nữ đó là kẻ hèn nhát và kẻ phản bội – cô ta bị giải đi. Galbatorix chơi sang trò khác.

Sau đó, trò lừa gạt của hắn càng công phu hơn. Không một cái nào vô lý hay đối nghịch với những cái hắn đã nói với cô. Nhà vua vẫn muốn cô không biết hắn đang can thiệp vào đời sống của cô.

Hắn lừa cô rằng đã đưa cô tới một ngục thất trong thành phố. Cô thấy Eragon và Saphira bị xích. Galbatorix đã dọa giết Eragon nếu cô không thề trung thành với lão. Cô từ chối, Galbatorix rất không vui – và cô nghĩ, cả ngạc nhiên nữa. Sau đó Eragon dùng một câu thần chú giúp cả ba đào tẩu. Rồi sau một màn dây dưa ngắn, Galbatorix chạy trốn– cô nghi ngờ trong đời thật còn lâu hắn mới làm – và cô, Eragon và Saphira bắt đầu mở đường máu ra khỏi thành phố.

Chuyến du hành vừa vội vã vừa phấn khích. Cô đã bị dụ dỗ xem kết quả sẽ đi tới đâu. Nhưng sau đó cô thấy chán chơi với Galbatorix. Thế là cô dựa vào sự khác biệt đầu tiên – hình dạng vảy xung quanh mắt Saphira – và dùng nó để buộc tội nhà vua tạo ra một thế giới giả.

“Ông thề không nói dối tôi trong khi tôi ở Căn phòng của Nhà tiên tri!” cô hét. “Nhưng đây là một sự dối trá, Kẻ bội ước kia?”

Galabtorix tức giận tột cùng. Cô đã nghe tiếng gầm như tiếng rồng. HẮn bỏ qua tất cả để hành hạ cô bằng những hình ảnh.

Cuối cùng, những ảo ảnh biến mất. Murtagh liên lạc cho cô biết cô có thể tin vào các giác quan rồi. Cô chưa bao giờ hạnh phúc hơn lúc đó.

Tối đó, hắn đến. Họ giành hàng giờ ngồi cạnh nhau nói chuyện. Hắn nói với cô về tiến độ hành quân của Varden – họ đã gần tới kinh thành – và về sự chuẩn bị của Triều đình. Hắn giải thích rằng hắn tin đã tìm ra cách giải thoát cho cô. Khi cô bắt hắn nói rõ, hắn không chịu mà chỉ nói, “Tôi cần thêm một hai ngày để xem có thành công không. Nhưng có cách, Nasuada. Tin tôi đi.”

Cô đã tin vào sự thành thật và sự quan tâm hắn dành cho cô. Kể cả nếu cô không thể thoát, cô cũng mừng vì mình không đơn độc.

Sau đó cô kể lại những gì Galbatorix làm, cách cô đánh bại hắn. Murtagh cười. “Cô là đối thủ đáng gờm hơn hắn tưởng. Đã rất lâu rồi hắn mới một đối thủ xứng tầm. Tôi chắc chắn...tôi hiểu có chút, nhưng tôi biết việc tạo ra những ảo ảnh như thật vô cùng khó. Bất cứ một pháp sư giỏi nào cũng có thể làm cho cô có cảm giác mình đang bay trên trời, lạnh hay nóng hoặc hoa nở trước mặt cô. Những thứ nhỏ bé phức tạp hoặc to lớn đơn giản là những thứ ai không phải ai cũng tạo ra được. Nó đòi hỏi người ta phải tập trung cao độ để duy trì ảo ảnh. Nếu cô mất tập trung, tất cả những bông hoa sẽ chỉ còn có bốn cánh thay vì mười cánh. Hoặc tất cả những bông hoa sẽ biến mất. Tạo ra những chi tiết là công đoạn khó nhất. Thiên nhiên có rất nhiều những chi tiết. Nhưng trí óc chúng ta chỉ có thể ghi nhớ một chút ít. Nếu cô không biết những gì mình đang nhìn thật là giả hay thật, cô hãy nhìn vào chi tiết của nó. Hãy nhìn những đường nối trong thế giới, nơi những pháp sư không biết hay quên rằng ở đó nên có gì, hoặc không tạo ra để đỡ tốn sức.”

“Nếu khó vậy thì sao Galbatorix làm được?”

“Lão dùng Eldunarí.”

“Tất cả?”

Murtagh gật đầu. “Họ cho hắn năng lượng và những chi tiết. Hắn điều khiển chúng theo ý hắn.”

“Vậy thì, những thứ tôi nhìn thấy dựa trên ký ức của những con rồng?” cô hỏi, có chút kính sợ.

Hắn lại gật. “Và ký ức của các Kỵ sĩ, vì chúng là những con rồng có Kỵ sĩ.”



SÁng hôm sau, Murtagh đánh thức cô dậy và nói với cô rằng Galbatorix sắp tiếp tục. Sau đó, những bóng ma và ảo ảnh thuộc mọi thể loại bao lấy cô. Nhưng một ngày trôi qua, cô để ý rằng tất cả các hình ảnh – ngoài một số cái rất đẹp, như trang viên của Murtagh và cô – đã trở nên càng lúc càng đơn giản. Hình như Galbatorix và các Eldunarí đã mệt.

Giờ cô ngồi trên cánh đồng trơ trụi, ngâm nga một giai điệu của người lùn trong khi các Kull, Urgal, Ra’zac lao về phía cô. Chúng bắt cô, đánh chém cô. Cô hét và ước cơn đau chấm dứt, nhưng cô không một lần nào muốn Galbatorix thỏa ước nguyện.

Rồi cánh đồng biến mất cùng những cơn đau. Cô nói với mình. Chỉ là tưởng tượng thôi. Mình sẽ không bỏ cuộc. Mình không phải con vật. Đầu có mình mạnh hơn xác thịt.

Hang động tối được thắp sáng bởi những cây nấm xanh xung quanh. Cô nghe thấy tiếng một sinh vật nào đó khụt khith và đi lại trong bóng tối giữa các măng đá trong vài phút. Rồi cô cảm nhận hơi thở ấm áp của nó trên gáy cô. Cô ngửi thấy mùi xác thối.

Cô lại cười. Cô tiếp tục cười khi Galbatorix bắt cô đối diện với hết kinh hoàng này tới kinh hoàng khác để làm cô vừa đau vừa sợ mà bỏ cuộc. Cô cười vì cô biết tư tưởng của cô mạnh hơn tưởng tượng của hắn. Cô cười vì cô biết cô có thể tin tưởng Murtagh sẽ giúp cô. Và với hắn là đồng minh, cô sẽ không sợ những cơn ác mộng Galbatorix mang tới. Dù chúng kinh khủng tới mức nào.

__________________





CU HỎI VỀ NHN CÁCH



Nó trượt chân vì dẫm phải bùn. Nó ngã xuống lớp cỏ ướt. Nó rên rỉ và nhăn mặt vì đau hông. Chắc chắn nó bị thâm rồi.

“Barzûl,” nó nói khi chống chân đứng dậy. Ít nhất mình không hạ cánh trúng Brisingr, nó nghĩ khi phủi bùn lạnh lẽo trên quần.

Nó ủ rũ bước tới tòa nhà đổ nát họ đã cắm trại vì họ tin tại đó sẽ an toàn hơn trong rừng.

Khi nó bước qua đám cỏ, nó giật mình khi thấy số lượng ếch bò đang nhảy đi trốn. Những con ếch bò chỉ là một trong những sinh vật lạ lùng khác chúng gặp trên đảo. Trên mắt chúng có vết lồi ra như sừng. Ở giữa trán chúng có một cái ống cong cong như cần câu. Cuối cái ống là một miếng da nhỏ sẽ phát ra ánh sáng trắng vàng vào đêm. Ánh sáng đó lừa hàng trăm những con bọ bay vào gầm tầm với của lưỡi ếch. Chúng kiếm mồi dễ nên to béo khác thường. Có vài con bằng cỡ đầu gấu, mồm và đôi mắt trố rộng bằng hai bàn tay có cộng lại.

Những con ếch làm Eragon nhớ tới Angela. Nó đột nhiên ước bà ở trên Vroengard cùng họ. Nếu ai có thể nói cho chúng ta biết tên thật, mình đoán sẽ là bà ấy. Vì lý do gì đó, Eragon luôn có cảm giác bà lang thấu hiểu nó, hiểu mọi thứ về nó. Nó không thích nhưng lúc này thì nó mong điều đó.

Nó và Solembum quyết định sẽ tin Solembum và ở lại Vroengard thêm ba ngày nữa để tìm ra tên thật. Glaedr đã cho chúng tự quyết định. Ông nói, Các con biết rõ Solembum hơn ta. Ở hay không tùy các con. Nhưng kiểu gì thì chúng ta cũng gặp nguy hiểm. Không có con đường mòn nào là an toàn cả.

Saphira là người đưa ra quyết định. Những ma mèo không bao giờ phục vụ, Galbatorix, cô nàng nói. Họ rất coi trọng tự do. Con tin họ hơn bất cứ sinh vật nào khác, kể cả thần tiên.

THế là họ ở lại.

HỌ dành phần còn lại của ngày hôm dó và hầu hết ngày hôm sau để ngồi, suy nghĩ, nói chuyện, chia sẻ ký ức, kiểm tra đầu óc kẻ khác và thử hàng tá cách kết hợp từ ngữ bằng ngôn ngữ cổ hòng tìm ra tên thật. Hoặc,nếu may mắn, họ sẽ tình cờ tìm ra nó.

Glaedr giúp nếu chúng hỏi. Nhưng phần lớn thời gian, ông im lặng và để Eragon và Saphira trò chuyện riêng tư. Eragon có nhiều điều nó xấu hổ không muốn người khác biết. Chỉ có người đó mới tìm ra tên thật của người đó, Glaedr nói. Nếu ta biết, ta sẽ nói – vì chúng ta không có thời gian mà lãng phí – nhưng tốt nhất là các con tự mình tìm lấy.

Nhưng chẳng ai thành công cả.

Kể từ khi ông Brom giải thích cho nó về tên thật của mình, Eragon đã muốn biết nó tên gì. Những kiến thức, đặc biệt là những kiến thức về bản thân, vô cùng hữu ích. Nó hy vọng tên thật của nó sẽ giúp nó làm chủ suy nghĩ và cảm xúc tốt hơn. Nhưng nó vẫn cảm thấy lo lắng vì cái nó có thể tìm ra.

Nó không chắc nó có thể biết tên mình chỉ trong nội mấy ngày sắp tới không. Nó hy vọng là mình làm được, vì nó muốn hoàn thành nhiệm vụ và không muốn Glaedr hay Saphira biết được. Nếu nó phải tìm ra một từ miêu tả chính xác con người nó, nó muốn tự mình biết, hay vì để người khác nói cho mình nghe.

Eragon thở dài khi trèo lên bốn bậc thang vỡ dẫn vào tòa nhà. Kiến trúc này từng theo kiểu nhà tổ chim. Hay theo như Glaedr nói, theo chuẩn mực của Vroengard, tỏa nhà này quá bé nhỏ. Dù vậy nhưng những bức tường vẫn cao hơn tòa nhà ba tầng, không gian bên trong đủ cho Saphira ra vào dễ dàng. Góc nhà phía đông nam đã sụp cùng một phần mái nhà, nhưng phần còn lại vẫn ngon lành.

Tiếng bước chân của Eragon vang vọng khi bước qua sàn nhà mọc cỏ vào căn phòng chính.

Saphira dừng liếm chân trước. Nó cảm thấy cô nàng có gì muốn hỏi nó. Nó lắc đầu, và cô nàng tiếp tục chải chuốt.

Eragon bỏ áo choàng, bước đến bên cạnh đống lửa gần tường. Nó trải tấm vải ướt trên sàn sau đó bỏ đôi giày dính bùn ra và để chúng gần đống lửa cho nhanh khô.

Có phải trời lại sắp mưa không? Saphira hỏi.

Có thể.

Nó ngồi xổm gần đống lửa một lức rồi ngồi lên túi ngủ và dựa vào tường. Nó quan sát Saphira dùng cái lưỡi đỏ ngầu liếm móng chân. Nó đột nhiên nghĩ ra là lẩm bẩm một cụm từ bằng ngôn ngữ cổ, nhưng chẳng cảm nhận được gì từ từ ngữ đó. Saphira cũng không có phản ứng như khi lão Sloan nghe ra Eragon nói tên thật của lão.

Eragon nhắm mắt ngửa đầu ra sau.

Nó chán nản vì tự mình không tìm ra tên thật của Saphira. Nó có thể chấp nhận rằng mình không hoàn toàn hiểu bản thân. Nhưng nó biết Saphira từ giây phút cô em nó chui khỏi vỏ trứng. Nó biết hầu hết những gì cô nàng biết. Làm sao có chuyện cô nàng có gì giấu nó được? Sao nó có thể hiểu một kẻ giết người như lão Sloan hơn là người bạn đồng hành được phép thuật – ràng buộc? Có phải vì cô nàng là rồng còn nó là người? Có phải vì Sloan đơn giản hơn Saphira?

Eragon không biết nữa.

Một trong những bài tập mà nó và Glaedr làm – theo gợi ý của sư phụ Glaedr - là nói cho nhau biết từ chi tiết họ để ý tới: về người bạn đồng hành. Một bài tập bình thường. Glaedr cũng đưa ra những nhận xét. Dù ông rồng chỉ tốt bụng muốn giúp nhưng Eragon vẫn không thể không cảm thấy tổn thương lòng tự trọng khi nghe Glaedr kể ra một loạt những khuyết điểm. Bản thân Eragon cũng biết nó cần phải biết để tìm ra tên thật.

Đối với Saphira, điều khó nhất là nhận ra tính tự phụ của mình. Cô nàng luôn phủ nhận điều này. Đối với Eragon, đó là sự ngờ nghệch, cảm giác quan tâm đối với người nó đã ra tay giết hại, và tất cả những tính nóng giận, ích kỷ và những tật xấu khác trong con người nó.

Nhưng, dù họ đã thành thật với bản thân hết sức có thể, họ vẫn không khám phá ra điều gì.

Chúng ta chỉ còn hôm nay và ngày mai. Ý nghĩ tay trắng quay về với Varden làm nó buồn. Làm sao chúng ta đánh bại được Galbatorix đây? Nó tự hỏi rất nhiều lần. Chỉ vài ngày nữa là mạng sống chúng ta sẽ không còn nằm trong tầm tay của chúng ta.Chúng ta sẽ trở thành nô lệ, giống như Murtagh và Thorn.

Nó lầm bẩm chửi rủa và lén lút đấm tay xuống sàn.

Bình tĩnh nào, Eragon, Glaedr nói. Eragon nhận ra ông rồng đã bao lấy suy nghĩ nó để Saphira không nghe được.

Sao con bình tĩnh được chứ?

Rất dễ để bĩnh tĩnh khi con không có gì để lo lắng, Eragon ạ. Nhưng, thử thách giành cho sự kiềm chế bản thân là liệu con có giữ đường bình tĩnh trong những tình huống khó khăn nhất hay không. Con không thể để sự tức giận hay nỗi thất vọng làm mờ ý chí của con. Ngay lúc này, đầu óc con cần sáng.

Người có thể luôn giữ bình tĩnh trong tình huống như thế này không?

Ông rồng già dường như đang cười. Không, ta thường gầm lên và cắn và đá đổ cây cũng như xé toang mặt đất. Ta đã có lần lật tung một đỉnh núi trên rặng Spine. Những con rồng khác giận ta lắm. Nhưng ta đã có rất nhiều năm học được rằng giận dữ chẳng giúp được gì. Ta biết con không có, nhưng hãy để kinh nghiệm của ta giúp con. Hay bỏ qua những lo lắng và tập trung vào nhiệm vụ trước mắt. Điều gì cần đến sẽ đến, và lo lắng về nó chỉ khiến nỗi sợ của con trở thành hiện thực mà thôi.

Con biết, Eragon thở dài, nhưng làm thì đâu có dễ.

Tất nhiên là không dễ. Nhưng có vài thứ cần phải như vậy. Sau đó Glaedr rời đi và để lại nó một mình trong im lặng.

Eragon kiếm cái bát trong túi, nhảy lên trên vòng tròn đá bán nguyệt rồi đi chân trần trên vũng nước bên dưới lỗ hổng trần nhà. Một trận mưa phùn nhẹ đang bắt đầu rơi,phủ lên sàn nhà một lớp nước khiến người ta dễ trượt chân. Nó ngồi chồm hổm gần vũng nước và dùng cái bát để múc nước.

Khi bát nước đã đầy, Eragon lùi lại vài bước và đặt nó lên một tảng đá nặng bằng cả một cái bàn. Sau dó nó nghĩ tới Roran và thì thầm, “Draumr kópa.”

Nước trong bát rung lên, hình ảnh Roran xuất hiện trên nền trắng tinh khiết. Anh đang đi bên cạnh chú Horst và Albriech và dắt thêm con ngựa của anh, Hỏa Tuyết. Cả ba người đều mệt mỏi và đau chân, nhưng họ vẫn mang theo vũ khí. Eragon biết vậy là Triều đình chưa bắt được họ.

Sau đó nó triệu hồi Jörmundur, rồi Solembum – lúc này đang xé một con chim sáo vừa bị giết chết – rồi tới Arya, nhưng lá chắn của Arya đã không cho nó nhìn thấy nàng. Nó chỉ thấy một màn đen.

CUối cùng Eragon dừng câu thần chú và đổ nước trở lại vũng nước. Khi nó leo lên hàng rào chắn xung quanh khu trại, Saphira vươn người và ngáp, người cô nàng cong lên như một con mèo. Cô nàng nói, Họ sao rồi?

“An toàn.”

Nó đặt cái bát vào túi rồi nằm trên túi ngủ, nhắm mắt lại và tiếp tục tìm kiếm tên thật. Cứ vài phút nó lại nghĩ ra vài khả năng, nhưng chẳng cái nào đúng cả. Nó lại tiếp tục tìm kiếm cái mới. Tất cả những cái tên đều mang theo vài điều tất yếu: nó là kỵ sĩ; sự ảnh hưởng cúa nó tới Saphira và Arya; khát vọng muốn đánh bại Galbatorix; quan hệ của nó với Roran, cậu Garrow, ông Brom và quan hệ máu mủ với Murtagh. Nhưng dù nó hết hợp những yếu tố đó thế nào, nó vẫn không tìm ra được cái tên. Rõ ràng nó đã quên mất một nét đặc thù của bản thân mình. Vì thế càng lúc nó càng tạo ra cái tên dài lê thê, hy vọng sẽ vô tình tìm ra cái nó đang tìm kiếm.

Khi những cái tên phải mất hàng phút mới đọc xong, nó nhận ra nó đang phí thời gian. Nó cần kiểm tra lại bản thân. Nó nghĩ lỗi của mình nằm ở việc bỏ qua một số khiếm khuyết, hoặc không đủ quan tâm tới những điểm yếu vốn có của bản thân. Nó biết, hầu hết mọi người thường không muốn biết về sự khiếm khuyết của bản thân. Nó cũng vậy. Bằng cách nào đó, nó phải tìm cách mở mắt cho mình. Nó không nhìn ra khiếm khuyết do nó bị che mắt bởi lòng tự trọng và tự tôn quá lớn. Nó cứ nghĩ bản thân nó là người hoàn hảo. Giờ nó không muốn tiếp tục dối lòng nữa.

Vì thế, nó cứ nghĩ và nghĩ, nhưng vẫn thất bại.

Mưa càng lúc càng nặng hạt. Eragon không thích tiếng mưa rơi trên vũng nước. m thanh vô thưởng vô phạt đó khiến nó khó lòng nghe thấy tiếng nếu có kẻ khác định đánh lén chúng. Từ đêm đầu tiên ở Vroengard, nó đã không thấy hay cảm nhận được những người lạ mặt đội mũ trùm nữa. Nhưng, Eragon vẫn biết tới sự hiện diện của họ. Nó có cảm giác như mình và Saphira có thể bị tấn công bất cứ lúc nào.

Những tia nắng xám xịt của một ngày dần biến mất trong hoàng hôn. Một buổi tối đen kịt, không trăng không sao bao trùm thung lũng. Eragon cho thêm nhiều củi vào đống lửa. Đó là nguồn sáng duy nhất trong căn nhà tổ chim. Ngọn lửa vangd đó giống như ngọn nến bé tí tẹo trong một không gian rộng lớn, vang vọng. Sàn nhà mọc cỏ gần đống lửa phản chiếu ánh sáng từ những que củi cháy. Nó sáng lên như phủ băng đá, những màu sắc thường làm Eragon xao lãng.

Eragon không ăn tối. Nó đói, nhưng quá căng thẳng khiến thức ăn không thể ở yên trong dạ dày.. Nó nghĩ thức ăn sẽ làm chậm suy nghĩ. Không khi nào đầu óc nó hoạt động tốt bằng khi dạ dày rỗng không.

Nó quyết định sẽ không ăn cho tới khi tìm ra tên thật, hoặc tới khi họ rời đảo.

Vài tiếng trôi qua. Họ nói rất ít, dù Eragon vẫn để ý tới những cảm xúc và suy nghĩ chung nhất của Saphira. Cô nàng cũng vậy.

Sau đó, khi Eragon định đi ngủ và mơ – để nghi ngơi và hy vọng những giấc mơ sẽ cho nó vài gợi ý – Saphira kêu yowl, duỗi móng chân phải và đặt nó xuống sàn. Vài cảnh củi trong đống lửa bật lên và rời ra, khiến vài tàn lửa bắn lên trần nhà.

Eragon giật mình đứng dậy, rút thanh Brisingr trong khi tìm kiếm trong bóng tối xem kẻ thù trốn ở đâu. Một giây sau, nó nhận ra Saphira không phải đang lo lắng hay giận dữ, mà là cảm giác chiến thắng.

Em làm được rồi! Saphira reo lên. Cô nàng ngửng cổ thở ra một ngọn lửa xanh vào lên mái nhà. Em biết tên thật của em rồi! Cô nàng nói một đoạn ngôn ngữ cổ. Bên trong đầu óc Eragon dười như rung lên như chuông. Một giây sau, những cái vảy Saphira sáng lên. Cô nàng trông như được tạo nên từ những vì sao.

Cái tên đó thật lớn lao và tráng lệ, nhưng lại nhuốm chút buồn thương, vì cô là con rồng cái cuối cùng. Trong những từ đó, Eragon nghe thấy được cả tình yêu và sự cống hiến cô nàng dành cho nó, cũng như những đặc điểm làm nên tính cách cô nàng. Nó nhận ra hầu hết; nhưng một vài thì không. Những tật xấu và những điểm tốt đều nổi bật; nhưng trên hết, đó là sự nhấn mạnh tới ngọn lửa, vẻ đẹp và sự tráng lệ.

Saphira rung lên từ mũi tới chóp đuôi. Cô nàng rung cánh.

Em đã biết em là ai, cô nàng nói.

Giỏi lắm, Bjartskular, Glaedr nói và Eragon có thể thấy được sự ấn tượng của ông rồng.Con có một cái tên đáng để tự hào. Nhưng ta sẽ không nhắc lại cái tên đó, dù nói thầm, cho tới khi chúng ta tới... tới cái ngọn tháp. Con phải cẩn trọng không được tiết lộ cái tên của mình.

Saphira chớp mắt rung cánh lần nữa. Vâng, thưa Sư phụ. Cô nàng đang vô cùng phấn khích.

Eragon bỏ Brisingr vào bao và đi tới cạnh cô em. Cô nàng cúi thấp xuống ngang tầm nó. Nó vuốt ve hàm cô nàng, rồi ấn trán lên cái mũi cứng và giữ chặt. Những cái vảy thật sắc dưới cảm nhận của nó. Những giọt nước má nóng bắt đầu chảy xuống má nó.

Sao anh khóc? Cô nàng hỏi.

Vì...anh thật may mắn khi có em.

Ôi, anh bé nhỏ.



Họ nói chuyện thêm một lúc nữa, vì Saphria rất muốn nói về những thứ cô đã biết về bản thân. Eragon vui vẻ lắng nghe, nhưng nó vẫn có chút cay đắng vì vẫn chưa tìm ra tên thật của mình.

Sau đó Saphira cuộn người lại và đi ngủ, để lại Eragon một mình dưới ánh sáng của ngọn lửa trại đang dần tàn lụi. Glaedr vẫn thức. Thi thoảng Eragon nói chuyện với ông, nhưng chủ yếu nó dành thời gian mà ngẫm nghĩ.

Hàng giờ trôi qua, Eragon càng lúc càng buồn. Nó chẳng còn bao nhiêu thời gian – theo đúng lịch trình, ngày mai nó và Saphira sẽ rời Vroengard – nhưng tới lúc này nó vẫn không thể hiểu bản thân.

Gần tới nửa đêm, mưa đã tạnh.

Eragon bồn chồn cố quyết định. Sau đó nó đứng dậy vì không thể nào ngồi lâu hơn được nữa. Con sẽ đi dạo, nó nói với Glaedr.

Nó cứ nghĩ ông rồng già sẽ phản đối. Nhưng thay vào đó, Glaedr nói, Bỏ lại vũ khí và áo giáp lại.

Vì sao ạ?

Dù con tìm thấy cái gì, con phải tự mình đối mặt. Con không thể biết con là cái gì nếu con dựa vào sự giúp đỡ của người khác hay thứ khác.

Eragon hiểu những gì Glaedr nói, nhưng nó vẫn không muốn tháo bỏ kiếm và dao găm cùng áo giáp. Nó đeo giày và mặc áo choàng ướt vào. Sau đó nó đặt túi đựng trái tim của Glaedr gần Saphira hơn.

Khi Eragon dợm bước rời khỏi vòng tròn đá, Glaedr nói, Làm cái gì con cần, nhưng phải cẩn thận.



Bên ngoài ngôi nhà tổ chim, Eragon mừng thấy những ngôi sao và ánh trăng đang chiếu qua những đám mây soi tỏ đường lối xung quanh.

Nó nhảy lên vài lần. Nó không biết đi đâu. Sau rồi nó quyết định tới trung tâm thành phố đổ nát. Sau vài giây, nó đỡ buồn hơn và tăng nhịp bước.

Khi lắng nghe tiếng thở và tiếng bước chân vang lên trên những tảng đá lát đường, nó tự hỏi mình, MÌnh là ai? Nhưng nó không có câu trả lời.

Nó chạy cho tới khi gần như không thở nổi. Nó chạy thêm một chút nữa cho tới khi không còn đủ sức. Nó dừng lại bên một đài phút nước nổi đầy rêu và dựa tay vào trong khi phục hồi hơi sức.

Chung quanh nó là những tòa nhà khổng lồ: những người khổng lồ trong bóng đêm đó trông giống như những rặng núi cổ xưa vậy. Đài phun nước nằm giữa một sân hình vuông rộng lớn, nhiều viên đá trên đó đã bị vỡ vụn.

Nó đẩy mình đứng dậy, và từ từ đi vòng quanh. Từ xa xa, nó nghe có tiếng ếch bò kêu ồm ộp. m thanh đó càng lớn đặc biệt khi có thêm một con nào tham gia cùng.

Một phiến đá vỡ cách đó vài mét khiến nó chú ý. Nó đi tới, bám vào cạnh đá và dùng sức nâng nó lên khỏi mặt đất. Nó đau rần tay và loạng choạng đi vào bước tới góc sân, và ném phiến đá lên lớp cỏ trên đó.

NÓ hạ cánh đánh bụp.

Nó lùi lại đài phút nước, cởi áo choàng và ném nó lên bức tượng. Sau đó nó tới cạnh một viên đá khác – một viên đá hình chữ V rơi khỏi một tảng đá lớn hơn – và đặt nó lên vai.

Trong một giờ đồng hồ, nó làm sạch toàn bộ sân. Vài tảng đá quá lớn, nó phải dùng pháp thuật để di chuyển nhưng hầu hết nó làm bằng tay. Nó làm rất có phương pháp. Nó đi đi lại lại trong sân, và với mỗi tảng đá, nó đều dừng lại và di chuyển chúng đi.

Nó toát mồ hôi. Nó muốn cởi áo, nhưng nếu thế những rìa sắc nhọn của những tảng đá sẽ làm nó bị thương. Như thường lệ, nó lĩnh vài vết bầm trên ngực và vai, tay xước không biết bao nhiêu vết.

Lao động giúp nó bình tĩnh và vì công việc không đòi hỏi nó nghĩ nhiều, nó thoát khỏi những suy nghĩ rối ren về chuyện nó đang và sẽ là ai.

Khi đang làm dở công việc, khi đang ngồi nghỉ, nó nghe có tiếng rít đầy đe dọa. Nó nhìn thấy một con snalglí – vỏ nó phải cao 1.2m – đang lao ra khỏi bóng tối với tốc độ đáng giật mình. Cái cổ không xương của sinh vật thò ra hoàn toàn, cái mồm không môi của nó trông như một hố đen, con mắt trố lố đang nhìn thẳng vào Eragon. Dưới ánh trưng, phần thịt lộ ra ngoài của snalglí cùng đường nhớt nó để lại trên mặt đất sáng lên như bạc

“Letta,” Eragon nói và đứng thẳng dậy, vẩy sạch máu từ bàn tay bị thương. ““Ono ach néiat threyja eom verrunsmal edtha, O snalglí.”

Khi nó cảnh cáo, con ốc sên chậm lại và đảo mắt một chút. Nó dừng lạ khi còn cách Eragon một đoạn. Nó lại rít lên và vòng sang bên trái.

“Ôi, đừng thế chứ,” Eragon lầm bầm và quay theo con vật. Nó liếc nhìn để chắc chắn không còn một snalglí nào lảng vảng quanh đây.

Con ốc sên khổng lồ dường như nhận ra nó không khiến Eragon bất ngờ. Nó dừng lại và rít lên và đảo tròng mắt.

“Mày kêu như ấm đun nước sôi ấy,” Eragon nói.

Đôi tròng mắt của snalglí đảo nhanh hơn rồi nhìn thẳng vào Eragon.

Eragon đợi tới phút chót rồi nhảy sang một bên và để cho snalglí lỡ trón phóng qua. Nó cười và vỗ lên vỏ sinh vật. “Mày cũng chẳng quá thông minh nhỉ?” Nó nhảy qua và bắt đầu nói chuyện với sinh vật, gọi nó bằng đủ cái tên thóa mạ nhưng chính xác.

Con ốc sên hình như đang điên lên – cổ nó phình lên, nó mở miệng nhanh hơn và bắt đầu vừa rít vừa phun phì phì.

Sinh vật hết lần này tới lần khác lao vào Eragon. Lần nào Eragon cũng nhảy tránh. Cuối cùng snalglí mệt. Nó lùi lại gần 6m và nhìn chằm chằm Eragon bằng đôi tròng mắt to bằng cả nắm tay.

“Mày tóm được mọi thứ kiểu gì khi chậm thế hả?” Eragon chế nhạo hỏi. Nó lè lưỡi trêu ngươi con ốc sên.

Con snalglí lại rít lên. Sau đó nó quay người chui vào bóng tối.

Eragon đợi vài phút cho chắc sinh vật đã bỏ đi trước khi quay lại dọn đống đá vụn. “Có lẽ mình nên lấy hiệu là Khắc tinh của Ốc sên mới đúng,” nó lầm bầm khi lăn một cột đá trên sân. “Eragon, Khắc tinh của Tà thần, Khắc tinh của Ốc sên... Mình sẽ khiến nhiều người sợ tới tim đập chân run ấy chứ.”

Đêm đã vào thời gian đen tối nhất thì nó cuối cùng cũng dọn sạch cái sân. Nó đứng đó mà thở dốc. Nó lạnh, đói và mệt. Những vết thương trên bàn tay và cổ tay cứ nhói lên.

Nó đứng tại góc đông bắc cái sân. Phía bắc là một đại sảnh lớn đã bị hủy hoại hầu hết trong chiến tranh. Nhưng gì còn lại chỉ là một bức tường đen và một cột đá bị trường xuân cuốn quanh ở nơi từng là lối vào.

Nó nhìn cột đá lâu nhất. Trên đó, là những ngôi sao – màu đỏ, xanh và trắng – chiếu sáng trên bầu trời như những viên kim cương đã được đẽo gọt. Nó cảm thấy bị cuốn hút vì một thứ gì đó kỳ quặc.

Nó vô thức bước tới chân cột – trên mặt đất lổn nhận đất đá – rồi vươn cao hết mức có thể và chạm vào bụi trường xuân mọc dày nhất. Những sợi dây leo tô bằng cẳng tay nó và có hàng ngàn rễ con.

Nó giật sợi dây leo. NÓ bám chắc, thế là Eragon nhảy khỏi mặt đất và trèo lên. Nó ước chừng cột đá cao 90 mét, nhưng khi leoo lên nó cảm thấy cột đá còn cao hơn nhiều.

Nó biết nó đang hấp tấp, nhưng sau đó, nó cảm thấy mình hấp tấp.

Được nửa chừng, những sợi tua nhỏ hơn của dây leo bắt đầu tuột khỏi đá khi nó bám vào. Sau đó, nó phải cẩn thận chỉ bám vào những cành chính và những nhánh cây dày hơn.

Nó suýt tuột tay khi gần lên tới nóc.. Chóp cột đá vẫn còn nguyên vẹn. Nó là một mặt phẳng hình vuông đủ lớn để ngồi lên mà còn thừa ra mỗi bên 0,3 m.

Eragon hơi run. Nó khoanh chân và đặt hai tay lên đầu gối, để cho không khí mơn man làn da bị thương.

Bên dưới nó là thành phố đổ nát; một mê cung những thứ đổ nát thường vọng lại những tiếng kêu thét kỳ lạ và tuyệt vọng. Ở vài nơi từng là một hồ nước, nó thấy ánh sáng mờ mờ từ đèn bắt mồi của những con ếch bò, giống như ánh đèn nhìn từ khoảng cách xa.

Những con ếch câu cá, nó đột nhiên nghĩ bằng ngôn ngữ cổ. Đó là tên chúng: ếch câu cá. Nó biết nó đúng, vì từ ngữ đó đúng như kiểu chìa khóa tra đúng ổ vậy.

Sau đó nó nhìn những ngôi sao bên đầu. Nó thở từ từ và tập tủng duy trì cách thở. LẠnh, đói, run rẩy khiến nó cảm thấy cực kỳ minh mẫn. Nó như đã thoát xác, như thể kết nổi giữa tinh thần và xác thịt đã lỏng lèo hơn. Nó đang trôi lên trên ngắm toàn bộ thành phố và hòn đảo. Nó cực kỳ nhạy cảm với từng luồng gió và từng âm thanh và mùi vị thổi qua đỉnh cột đá.

Nó ngồi đó, nghĩ đến nhiều cái tên hơn. Dù không cái nào mô tả hoàn toàn về nó, nhưng thất bại không làm nó nản lòng, vì giờ đây sự minh mẫn đang ở sâu trong con người nó.

Làm sao mình có thể miêu tả toàn bộ con người mình chỉ bằng vài từ? Nó phân vân và tiếp tục đặt những câu hỏi khi quan sát những vì sao.

Ba bóng đen biến dạng bay qua thành phố - như những vết rạn nhỏ, biết chuyển động vậy – đậu xuống mái nhà bên trái nó. Sau đó, những bóng ma cú dựng lông lên và nhìn nó bằng đôi mắt sáng như mắt quỷ. NHững bóng đen rì rào nói chuyện với nhau. Hai trong số chúng rỉa cánh bằng những móng vuốt đen sì. Con thứ ba đang dùng móng vuốt đen như gỗ mun quặp một con ếch bò.

Nó quan sát những con chim ma vài phút, chúng cũng nhìn lại nó.Sau đó chúng bay đi và biến mất ở phía động, phát ra tiếng động không to hơn tiếng lông rơi là mấy.



Gần bình minh, Eragon nhìn thấy ngôi sao mai giữa hai đỉnh núi phía đông. Nó tự hỏi. “MÌnh muốn cái gì?”

Tới lúc đó, nó chẳng cần nghĩ sâu xa hơn tới câu trả lời. Tất nhiên nó muốn hạ bệ Galbatorix. Nhưng, liệu nó và quân Varden có thành công không? Từ khi nó rời khỏi Thung lũng Palancar, nó cứ nghĩ nó và Saphira sẽ có ngày trở lại, ở ngọn núi nó yêu thích. Nhưng, giờ khi nghĩ lại, nó chẳng hứng thú gì nữa.

Nó đã lớn lên ở Thung lũng Palancar. Nó luôn coi đó là quê hương của nó. Nhưng ở đó còn gì cho nó hay Saphira thương nhớ? Làng Carvahall đã bị hủy diệt, mà kể cả nếu dân làng có dựng lại làng, ngôi làng cũng không còn như cũ nữa. Hơn nữa, bạn bè của nó và Saphira hầu hết sống ở nơi khác. Nó và Saphira có nghĩa vụ với rất nhiều nòi giống của Alagaësia. CHúng không thể lờ những trách nhiệm đó đi. Và sau tất cả những gì chúng đã làm và chứng kiến, nó không nghĩ rằng cả hai có thể sống tại một nơi tách biệt và giản dị như thế.

Vì bầu trời khum khum còn trái đất hình tròn...

Kể cả nếu chúng quay lại, chúng sẽ làm gì nào? Chăn bò và trồng lúa mì ư? Nó không muốn sống chắt bóp như đã từng sống hồi thơ bé. Nó và Saphira giờ là Kỵ sĩ và rồng. Định mệnh tới chết của chúng là bay tới tận cùng lịch sử, chứ không phải ngồi trước đống lửa tới béo ị ra.

Và còn Arya nữa. Nếu nó và Saphira sống ở Thung lũng Palancar, nó sẽ hiếm, nếu không muốn nói là không bao giờ, được gặp lại nàng.

“Không,” Eragon nói, từ ngữ vang lên trong cảnh tĩnh lặng như một tiếng búa nện. “MÌnh không muốn trở lại.”

Nó lạnh sống lưng. Nó biết nó đã thay đổi từ ngày nó, ông Brom và Saphira rời đi lần theo dấu vết Ra’zac. Nhưng nó vẫn nghĩ, sâu trong tâm khảm, nó vẫn là con người cũ. Nhưng giờ nó biết là không phải. Câu nhóc lần đầu tiên đặt chân ra khỏi thung lũng Palancar đã không còn; Eragon không giống cậu nhóc đó, không hành động như cậu nhóc đó, và nó không còn mong muốn những thứ như cậu nhóc đó.

Nó hít một hơi thật sâu và thở dài khi thấm thía sự thật đó.

“Mình không còn là mình nữa.” Nó nói lớn như để giảm bớt sức nặng.

Sau đó, khi ánh bình minh đầu tiên chiếu sáng bầu trời phía đông của Vroengard – nơi các Kỵ sĩ và rồng từng sinh sống, nó nghĩ tơi một cái tên – một cái tên nó chưa bao giờ nghĩ tới. Nhưng khi đã nghĩ ra, nó vô cùng chắc chắn.

Nó nói cái tên, thì thầm nó cho riêng mình nghe. Toàn bộ cơ thể nó như ngay lập tức run lên, như thể Saphira đang rung cây cột vậy.

Sau đó nó thở gấp và vừa cười vừa khóc – cười vì nó thành không và vì hạnh phúc vì đã hiểu bản thân; khóc vì tất cả những thiếu sót và những sai lầm của mình giờ đã trở nên rõ ràng. Giờ nó không thể lờ chúng đi để làm mình vui vẻ.

“Mình không còn là mình nữa,” nó thì thầm và bóp chặt láy một bên cột, “nhưng mình biết mình là ai.”

Cái tên, cái tên thật của nó, yếu và nhiều khiếm khuyết hơn nó thích. Nó ghét bản thân vì điều đó. Nhưng trong đó có rất nhiều điều để ngưỡng mộ. Nó càng nghĩ tới cái tên đó nhiều, nó càng chấp nhận được bản chất con người mình hơn. Nó không phải người tốt nhất trên thế giới này. Nhưng nó không phải kẻ tệ hại nhất.

“Và minh sẽ không bỏ cuộc,” nó hét lên.

Nó thấy được an ủi vì tính cách không phải cái bất biến. Nó có thể cải thiện bản thân nếu muốn. Và lúc này, nó thề với lòng sẽ làm tốt hơn trong tương lai, dù có khó khăn thế nào.

Nó vẫn vừa cười vừa mà ngửa mặt lên trời và dang rộng cánh tay. Lúc này, những giọt nước mắt và tiếng cười đã ngừng lại. Nó cảm thấy cực kỳ bình tĩnh. Dù Glaedr nhắc nhở gì, nó vẫn một lần nữa thì thầm tên thật, một lần nữa để cơ thể rung lên trước những từ ngữ.

Nó vẫn dang rộng cánh tay, đứng trên nóc cột đá, rơi cắm đầu xuống đất. Trước khi chạm mặt đất, nó nói, “Vëoht”. Nó rơi chậm lại, đảo người và đứng trên tảng đá vỡ nhẹ nhàng như vừa bước ra từ một cỗ xe ngựa.

Nó quay lại đài phun nước ở giữa sân và mặc lại áo choàng. Sau đó, khi ánh sáng chiếu tỏ thành phố đổ nát, nó rảo bước trở về nhà tổ chim, vui vẻ đánh thức Saphira và nói cho cô em nó và Glaedr về phát hiện của mình.





__________________





HẦM MỘ CỦA NHỮNG LINH HỒN





Eragon nâng kiếm và khiên. Nó vừa háo hức, vừa lo sợ.

Như lúc trước, Eragon và Saphira đứng dưới Tảng đá Kuthian trong khi trái tim Glaedr nằm ở một cái hộp nhỏ giấu trong túi trên lưng Saphira.

Giờ vẫn là sáng sớm, mặt trời chiếu sáng rạng rỡ qua những giọt mưa rơi xuống từ tấm màn mây. Eragon và Saphira muốn đi thẳng tới Tảng đá Kuthian ngay khi Eragon trở về nhà tổ chim. Nhưng Glaedr bắt Eragon ăn trước, sau đó chờ đợi cho thức ăn tiêu hóa.

GIờ khi đã đứng trước tảng đá lởm chởm. Eragon cũng như Saphira mệt mỏi phải chờ đợi.

Ngay khi chúng cho nhau biết tên thật của mình, mối liên hệ giữa họ dường như còn mạnh hơn. Co lẽ vì giờ chúng đã nghe rất nhiều thứ mà chúng quan tâm về nhau. Nó là một cái gì đó chúng luôn biết, nhưng dù sao, giờ chũng càng thân thiết hơn.

Ở nơi nào đó phương bắc, có tiếng quạ kêu.

Ta sẽ thử trước, Glaedr nói. Nếu đây là cái bẫy, ta sẽ biết trước khi nó tóm được hai con.

Eragon định rút tư tưởng khỏi Eragon. Saphira cũng làm tương tự. Chúng muốn ông rồng già nói tên thật của mình mà không bị ai nghe lỏm. Nhưng Glaedr nói, Không, các con đã nói cho ta biết tên. Giờ các con có quyền biết tên ta.

Eragon nhìn Saphira, rồi cả hai cùng nói, Cám ơn, Ebrithil.

Sau đó Glaedr nói tên. Nó nổ tung trong đầu óc Eragon như một tiếng kèn trumpet, vương giả nhưng nghịch tai, đầy màu sắc vì nỗi buồn và sự tức giận trước cái chết của ông Oromis. Tên ông dài hơn cả tên Eragon và Saphira. Nó kéo dài tới vài câu – như một bản ghi chép kéo dài hàng thế kỷ và mang cả hạnh phúc và nỗi buồn không thể kể hết. Sự thông thái của ông hiển hiện rõ trong cái tên, nhưng cũng có sự trái nghịch: phức tạp tạo khiến người ta khó nắm bắt con người ông.

Saphira và Eragon kính sợ khi nghe tên ông. m thanh đó khiến chúng nhận ra chúng còn non trẻ thế nào và chúng phải đi bao xa mới có thể xứng tầm hiểu biết và kinh nghiệm của Glaedr.

Không biết tên thật của Arya là gì, Eragon tự nhủ.

Họ quan sát tảng đá Kuthian, nhưng không thấy gì thay đổi.

Saphira tiếp. Cô nàng vươn cổ và móng vuốt trên mặt đất theo tư thế sắp sửa tấn công. Cô nàng tự hào nói tên thật. Dù dưới ánh sáng ban ngày, lớp vảy lại một lần nữa sáng lên.

Nghe cô em và Glaedr nói tên thật làm Eragon ít nghĩ về bản thân hơn. Tất cả đều không hoàn hảo, nhưng họ không ai đánh giá thấp kẻ khác mà ngược lại, họ hiểu nhau và tha thứ cho nhau hơn.

Một lần nữa, không có gì xảy ra.

Cuối cùng, Eragon bước lên. Trán nó rịn mồ hôi lạnh. Nó biết đây có thể là hành động cuối cùng của nó cũng như Glaedr và SAphira trong tư thế một kẻ tự do. Họ đã đồng ý rằng nó tốt nhất là không nói lớn tên, để giảm khả năng có kẻ nghe lỏm được.

Khi Eragon nghĩ chữ cuối cùng trong đầu, một đường kẻ đen mỏng xuất hiện ở chân tòa tháp.

Nó chạy lên cao 15m sau đó chia làm đôi và vòng sang hai chiều, hình thành hai cánh cửa lớn. Trên cánh cửa là từng hàng từng hàng chữ tượng hình bằng vàng: lưới bảo vệ chống lại sự tìm kiếm bình thường cũng như bằng pháp thuật.

Một khi đường nét bên ngoài đã hình thành xong, cánh cửa bật mở khỏi then chốt vô hình, thổi tung lớp bụi bẩn và cây cỏ mọc lùm xùm trước tòa tháp kể từ lần cuối cánh cửa được mở ra. Qua cánh cửa là một đường hầm dốc xuống sâu trong lòng đất.

Cánh cửa mở một nửa, khu đất trông lại chìm vào im lặng.

Eragon nhìn chăm chăm vào đường hâm đen tối, càng lúc càng thấy sợ hãi. Họ đã tìm thấy cái tìm tìm kiếm, nhưng nó vẫn không chắc liệu họ có rơi vào bẫy không.

Solembum không nói dối, Saphira nói. Lưỡi cô nàng thò thụt đánh hơi.

Ừ, nhưng cái gì sẽ chờ đợi chúng ta bên trong kia? Eragon hỏi.

Nơi này không nên tồn tại, Glaedr nói. Chúng ta và các Kỵ sĩ đã che giấu rất nhiều bí mật ở Vroengard, nhưng hòn đảo này quá nhỏ cho một đường hầm lớn như thế này được xây dựng mà không ai hay biết. Mà ta chưa nghe về nó bao giờ.

Eragon nhíu mày và liếc nhìn xung quanh. Nơi đây chỉ có mình họ; không ai định đánh úp họ cả. Liệu có khả năng nó được xây dựng trwocs khi các hiệp sĩ đến định cư trên Vroengard không?

Glaedr nghĩ một lát. Ta không biết. Nhưng cũng có thể. Đây là giải thích hợp lý duy nhất, nhưng nếu vậy thì đường hầm này quá cổ xưa.

Ba người dùng tư tưởng tìm kiếm trong đường hầm, nhưng không có sinh vật sống nào trong đó.

Được rồi, Eragon nói. Mồm nó chua mùi sợ hãi, bàn tay đeo găng nó túa mồ hôi. Dù họ sẽ tìm thấy cái gì ở cuối đường hầm, nó muốn biết luôn. Saphira cũng lo lắng, dù không bằng nó.

Chúng ta hãy đào con chuột trốn trong hang này ra, cô nàng nói.

Sau đó họ cùng nhau bước qua cánh cửa vào đường hầm.

Khi chóp đuôi Saphira lướt qua bản lề, cánh cửa đóng lại phía sau với một tiếng rầm lớn, nhốt họ trong bóng tối.

“A, không, không, không!” Eragon hét lên và lao về phía cửa. “Naina hvitr,”nó nói, và một ánh sáng trắng không biết từ đâu chiếu sáng lối vào đường hầm.

Bề mặt bên trong cánh cửa trơn nhẵn tới độ hoàn hảo. Dù nó đẩy và đấm thế nào, nó vẫn không suy xuyển. “Chết tiệt. Chúng ta phải dùng que gậy hoặc đá may ra mới nậy nó ra được,” nó rên rỉ trách cứ mình vì không nghĩ tới trước.

Nếu chúng ta buộc phải làm, chúng ta luôn có khả năng đập đổ cánh cửa này, Saphira nói.

Ta nghi ngờ lắm, Glaedr nói.

Eragon lại nắm chặt thanh Brisingr. Vậy con đoán chúng ta không còn lựa chọn nào ngoài đi tiếp.

Có khi nào chúng ta có lựa chọn nào khác ngoài đi tiếp đâu?

Eragon thay đổi câu thần chú để ngọn đèn ma tiếp tục tỏa sáng từ một điểm duy nhất gần trần hầm – nếu không nó và Saphira sẽ không biết hang sâu bao nhiêu – và sau đó, họ cùng nhau bước xuống đường hầm dốc.

Nền hang có chút mấp mô vì thế họ đi dễ dàng dù không có các bậc thang. Tường và sàn hang như hòa vào nhau tựa như đá được đun nóng chảy. Eragon nghĩ có khả năng cái hang này là tác phẩm của thần tiên.

Họ càng đi sâu hơn vào lòng đất. Eragon đoán họ đã phải tới chân đồi đằng sau Tảng đá Kuthian và chui sâu vào lòng ngọn núi đằng sau đó. Đường hầm không hề có khúc quanh hay phân nhánh. Trên tường không có một cái gì.

Cuối cùng Eragon cảm nhận được một luồng khí ấm bốc lên từ sâu trong đường hầm. Nó để ý có ánh sáng cam nhạt chiếu tới từ phía xa. “Letta,” nó lẩm bẩm, và ngọn đèn ma tắt rụi.

Không khí càng lúc càng ấm hơn khi họ đi xuống. ÁNh sáng càng lúc càng sáng. Dần dần họ đã thấy cuối đường hầm: một mái vòm đen khổng lồ khắc chi chít những con chứ tượng hình khắc nổi trông như những chiếc gai. Không khí ảm mùi lưu huỳnh. Eragon chảy nước mắt.

Họ dừng lại trước cổng vòm. Trước mắt họ chỉ là một sàn nhà xám xịt phẳng lì.

Eragon liếc nhìn lại đoạn đường họ vừa đi qua, sau đó lại nhìn mái vòm. Kiến trúc lởm chởm này khiến nó và Saphira bồn chồn lo lắng. Nó cố đọc những chữ tượng hình, như chúng quá dày và lộn xộn khiến nó không hiểu được. Nó không hề thấy có năng lượng nào dự trữ trong khối kiến trúc màu đen này. Nhưng nó không tin rằng nơi đây không bị ếm bùa. Dù ai xây đường hầm thì kẻ đó cũng đã thành công trong việc giấu cánh cửa khỏi thế giới bên ngoài. Như vậy họ hoàn toàn có thể giấu bất cứ thứ gì trong đây.

Nó liếc nhìn Saphira rồi liếm môi khi nhớ lại điều sư phụ Glaedr từng nói: Không có con đường nào an toàn.

Saphira khụt khịt và thở ra một ngọn lửa nhỏ qua hai lỗ mũi. Sau đó, cả hai sánh bước đi qua cổng vòm.

__________________





NHỮNG HỐC ĐÁ (PHẦN I)



Eragon ngay lập tức để ý tới vài điều.

Thứ nhất, họ đang đứng ở một bên căn phòng hình tròn có bán kính hơn 60 mét. Ở giữa căn phòng đặt một chiếc bình lớn. Đó chính là nguồn sáng họ nhìn thấy lúc trước. Thứ hai, trong phòng cực kỳ nóng. Thứ ba, bao quanh căn phòng là hai vòng tròn bậc thang như ghế băng – hàng sau cao hơn hàng trước – trên đó có rất nhiều những vật thể ẩn trong bóng tối. Thứ tư, bức tường đằng sau vòng bậc thang lóe sáng ở nhiều chỗ, như thể trên đó gắn pha lê màu. Nhưng nó không có cơ hội xem xét bức tường hay những vật thể tối đen kia, vì khu vực trống cạnh cái bình phát sáng có một người đàn ông đầu rồng đang đứng.

Người đàn ông này là bức tượng kim loại. Hắn tỏa sáng như làm bằng thép bóng. Ông ta chỉ đóng một cái khố, ngực và tứ chi cuồn cuộn cơ bắp như Kull.Tay trái hắn ta cầm một cái khiên, tay phải cầm một lưỡi kiếm phát ra ánh sáng ngũ sắc. Đó là thanh kiếm của Kỵ sĩ.

Đằng sau người đàn ông, sâu trong căn phòng, Eragon lờ mờ nhìn thấy một ngai vàng và một bóng người ngồi trong đó.

Người đàn ông đầu rồng bước lên. Da và cơ bắp hắn mịn màng như da người, nhưng mỗi cử động lại như cả tấn hạ xuống sàn nhà. Hắn dừng lại khi cách Eragon và Saphira 9m. Hắn nhìn chúng bằng cặp mắt như hai hòn lửa đỏ. Sau đó, hắn ngửng cái đầu đầy vẩy lên và gầm lên tiếng gầm có hơi hướm kim loại vang vọng như có cả tá sinh vật hưởng ứng theo.

Ngay khi Eragon đang phân vân có nên đánh hay không, nó cảm nhận có một tư tưởng kỳ lạ, rộng suốt chạm vào nó. Nó chưa gặp loại tư tưởng này. Dường như nó chứa rất nhiều giọng la hét, những tiếng ngân vang chói tai khiến nó liên tưởng tới tiếng gió trong cơn bão.

Trước khi nó kịp phản ứng, tư tưởng đó vượt qua lưới phòng thủ và làm chủ suy nghĩ của nó. Dù nó đã dành bao nhiêu thời gian luyện tập cùng Glaedr, Arya và Saphira, nó vẫn không thể ngăn chặn cuộc tấn công này. Thậm chí nó còn không cản bước nổi. Như thể nó dùng tay trần ngăn cả một cơn thủy triều vậy.

Một luồn ánh sáng cùng một tiếng gầm đinh tai nhức óc bao lây nó như thể vang tới từng ngóc ngách trong cơ thể nó. Sau đó, tiếng kêu đó như thể kẻ đột nhập đang xé toạc đầu óc nó ra thành nửa tá miếng nhỏ - từng mảnh vẫn biết đến nhau, nhưng chúng không thể làm điều chúng muốn – và thị giác của nó mờ đi. Nó nhìn căn phòng mà như nhìn qua một viên đá được mài giũa.

Sau ký ức khác nhau bắt đầu xâm nhập vào tư tưởng nó. Nó không chọn nhớ lại chúng. Chúng đơn giản chỉ xuất hiện, và trôi nhanh khiến nó không kịp hiểu chuyện. CÙng lúc đó, nó cúi gập người theo nhiều tư thế khác nhau. Nó giơ thanh Brisingr lên ngang tầm mắt. Nó chứng kiến cùng lúc sáu phiên bản của cùng một thanh kiếm. Kẻ xâm nhập thậm chí còn buộc nó đọc thần chú. Nó không hiểu mục đích câu thần chú là gì. Nó bị điều khiển. Nó không cảm thấy gì ngoài nỗi kinh hoàng đang nhạt dần.

Eragon cảm giác như kẻ lạ mắt kia dành hàng tiếng đồng hồ kiểm tra từng ký ức một, từ lúc nó rời nhà đi săn nai trên rặng Spine – ba ngày trước khi tìm thấy trứng của Saphira – cho tới hiện tại. Eragon có thể cảm nhận điều tương tự xảy ra cho Saphira. Nhưng dù biết nó cũng không làm được gì.

CUối cùng, rất lâu sau khi nó mất hy vọng được thả ra thì đoạn điệp khúc đó cẩn thận ghép từng mảnh tư tưởng của nó lại rồi rút lui.

Eragon lảo đảo bước lên và ngã khuỵu một chân xuống trước khi lấy lại được thăng bằng. Bên cạnh nó, Saphira lắc lư, tớp không khí.

Bằng cách nào? Nó nghĩ. Ai vậy? Để bắt được tất cả cùng một lúc, kể cả Glaedr không phải một điều dễ dàng. Nó tin kể cả Galbatorix cũng đừng hòng làm được.

Một lần nữa tư tưởng đó lại chạm tới đầu óc Eragon. Nhưng lần này nó không tấn công. Lúc này, tư tưởng đó nói. Chúng ta xin lỗi, Eragon và Saphira. Nhưng chúng tôi phải đảm bảo biết rõ mục đích của các ngươi. Chào mừng tới Hầm mộ của Những Linh Hồn. Chúng ta đã đợi hai ngươi rất lâu rồi. Và chào mừng ngươi nữa, người anh em. Chúng ta mừng là ngươi còn sống. Giờ hãy nhớ lại. Cuối cùng nhiệm vụ của ngươi cũng hoàn thành!

Một tia năng lượng lóe lên giữa Glaedr và tư tưởng đó. Một giây sau, Glaedr gầm lên khiến thái dương Eragon đau nhói. Cảm xúc của con rồng vàng rất hỗn độn: buồn có, chiến thắng có, không tin có, hối hận có, và trên hết, là cảm giác thanh thản. Eragon cười không biết vì sao. Nó cảm thấy đang tiếp xúc với tư tưởng của ông Glaedr không chỉ có một mà là vô số tư tưởng khác khác. Tất cả đều đang thì thầm to nhỏ.

“Ai đấy?” Eragon hỏi nhỏ. Trước mặt họ, người đàn ông đầu rồng không suy suyển lấy một phân.

Eragon, Saphira nói. Hãy nhìn bức tường. Nhìn đi...

Nó nhìn. Và nó thấy bức tường hình tròn không phải được trang trí bằng pha lê như nó tưởng. Trên tường có hàng tá, hàng tá lỗ đục trên tường. Trong mỗi hõm là một khối cầu phát sáng. Một số lớn, một số nhỏ, nhưng chúng đều tự mình tỏa ra ánh sáng dìu dịu, như than cháy sắp tàn.

Trái tim Eragon lỡ nhịp khi hiểu chuyện gì xảy ra.

Nó cúi xuống nhìn những vật thể đen đen trên hàng ghế bên dưới. Chúng nhẵn nhụi, hình trứng như thể mài dũa từ những viên đá màu sắc khác nhau. Cũng giống như những khối cầu, ở đây có viên lớn viên nhỏ. Nhưng dù kích cỡ thế nào, Eragon cũng nhận ra hình dạng của chúng bất cứ nơi đâu.

Một cơn gió nóng thổi bạt qua nó. Đầu gối nó bủn rủn. Không thể nào. Nó muốn tin điều mình nhìn thấy, nhưng nó sợ đây chỉ là ảo ảnh đáp ứng hy vọng của nó. Nhưng dù chỉ là khả năng thôi cũng đủ khiến nó nín thở và lảo đảo và bất ngờ tới không biết làm gì hay nói gì. Phản ứng của Saphira cũng tương tự, nếu không muốn nói là mãnh liệt hơn.

Sau đó tư tưởng kia nói: Đứa nhỏ kia, ngươi không hề lầm và đôi mắt ngươi không hề đánh lừa ngươi. Chúng ta là hy vọng bí mật của giống loài ngày. Ở đây là trái tim của chúng ta – những Eldunarí tự do cuối cùng trên mảnh đất này – cùng những quả trứng chúng ta đã canh giữ hơn một thế kỷ.

__________________





NHỮNG HỐC ĐÁ (PHẦN II)

Trong một lát, Eragon không thể cử động. Hay hít thở.

Sau đó nó thì thầm,“Những quả trứng đó, Saphira... Trứng.”

Cô nàng rùng mình như bị lạnh. Những cái vảy trên xương sống dựng đứng khỏi lớp da.

Các vị là ai? Nó hỏi tư tưởng. Sao chúng tôi biết có thể tin các vị hay không?

Họ nói thật, Eragon, Glaedr nói bằng ngôn ngữ cổ. Ta biết, vì Oromis là một trong những người đã lên kế hoạch cho nơi này.

Sư phụ Oromis...?

Trước khi Glaedr cất lời, tư tưởng kia nói, Tên ta là Umaroth. Kỵ sĩ của ta là tiên nhân Vrael, người lãnh đạo vùng đất này trước ngày tàn của chúng ta tới. Ta đại diện nhưng không ra lệnh cho những người khác, vì mặc dù một số trong chúng ta được ràng buộc với Kỵ sĩ nhưng phần đông thì không. Những trí tuệ hoang dã có quyền kiểm soát bản thân họ. Khi nói tới đây, ông rồng có chút bực bội. Nếu tất cả chúng ta đều nói cùng lúc, ngươi sẽ khó hiểu nổi. Vì thế ta sẽ nói hộ họ.

Còn ông là...? Eragon chỉ người đàn ông đầu rồng màu bạc đằng trước nó và Saphira.

Không, Umaroth trả lời. Hắn là Cuaroc, Thợ săn Nïdhwal và Khắc tinh của Urgal. Bà phù thủy Silvarí đã tạo nên cơ thể hiện giờ cho hắn, để hắn giúp chúng ta chống lại Galbatorix hoặc bất cứ kẻ thù nào xâm nhập Hầm mộ của Những Linh Hồn.

Khi Umaroth nói, người đàn ông đầu rồng dùng tay phải đặt lên một cái then ẩn, mở phần trước ngực ra như mở một cái chạn bát đĩa. Bên trong ngực Cuaroc là một trái tim rồng màu tím được bao quanh bởi hàng ngàn sợi dây bạc mỏng như sợi tóc. Sau đó Cuaroc đóng giáp ngực lại. Uraroth nói. Không, ta ở đây, rồi ông ta hướng ánh nhìn của Eragon tới một cái hõm chứa một Eldunarí trắng lớn.

Eragon chậm rãi tra Brisingr vào bao.

Trứng và Eldunarí. Eragon không thể tin nổi. Đầu óc của nó chậm chạp và trị trệ như vừa bị quai vào đầu – có khi nó lãnh đòn thật chứ chẳng chơi.

Nó bắt đầu đi về vòng tròn tới phía bên phải mái vòm đen khắc những con chữ tượng hình. Sau đó, nó dừng lại trước Cuaroc và nói, nói lớn và bằng tinh thần. “Tôi có thể chứ?”

Người đàn ông đầu rồng nghiến răng và lùi lại vài bước. Hắn đứng cạnh cái bình phát sáng ở giữa phòng. Nhưng hắn vẫn rút gươm, khiến Eragon không thể không đề phòng gã.

Eragon vừa phân vân vừa tôn kính khi tiến gần những quả trứng. Nó dựa người vào vòng tròn thấp và thở một hơi run rẩy trong khi nhìn quả trứng màu đỏ vàng cao gần 1.5m. Nó đột nhiên thấy vội vã. Nó tháo găng tay và dùng lòng bàn tay chạm vào quả trứng. Quả trứng thật ấm. Khi nó vươn đầu óc cùng bàn tay ra, nó cảm thấy được tư tưởng đang ngủ say của con rồng chưa nở.

Hơi thở nóng ấm của Saphira phả vào cổ nói khi cô nàng tới gần.

Quả trứng của em nhỏ hơn thế này, nó nói.

Vì mẹ em không quá lớn tuổi và không lớn như con rồng đã đẻ ra quả trứng này.

À. Anh chưa bao giờ nghĩ tới điều đó.

Nó nhìn lên toàn bộ những quả trứng còn lại. Cổ họng nó khô cứng. “Có quá nhiều,” nó thì thầm. Nó tì vai lên hàm Saphira và thấy cô nàng đang run. Nó biết, cô em nó không muốn gì hơn ngoài việc được ôm trong tư tưởng với đồng loại. Nhưng giống như nó, cô nàng không dám tin những gì đang chứng kiến là thực.

Cô nàng khụt khịt và nhìn vòng quanh hết phòng. Sau đó cô nàng gầm làm bụi trên trần nhà rơi lả tả. Làm thế nào? Cô nàng gầm lên bằng tư tưởng. Sao các vị có thể trốn khỏi Galbatorix? Những con rồng chúng ta không trốn chạy khi chiến đấu. Chúng ta không phải những kẻ hèn nhát trốn chạy nguy hiểm. Hãy giải thích đi!

Đừng nói lớn vậy, Bjartskular, không con sẽ làm những con rồng non trong trứng buồn đấy, Umaroth khiển trách.

Vậy nói đi, ông già, nói cho chúng tôi biết đi.

Umaroth hình như phấn khích trong chốc lát. Nhưng khi trả lời, ông nói nghe ảm đạm. Con nói đúng: chúng ta không phải kẻ hèn nhát. Chúng ta không trốn chạy khi chiến đấu. Nhưng kể cả rồng cũng phải nằm chờ thời cơ. Con có đồng ý không, Saphira?

Cô nàng khụt khịt và đập đuôi từ bên này sang bên kia.

Và chúng ta không giống lũ Fanghur hay những con rắn độc thấp kém bỏ con cái mình tự sinh tự diệt. Nếu chúng ta tham chiến ở Doru Araeba, chúng ta sẽ tuyệt diệt hết. Chiến thắng của Galbatorix là điều chắc chắn – đúng như hắn đã tin – và loài chúng ta sẽ bị xóa sổ hoàn toàn khỏi trái đất.

Ngay khi chúng ta biết rõ về sức mạnh và tham vọng của Galbatorix, Glaedr nói, và ngay khi chúng ta biết hắn và những kẻ phản bội định tấn công Vroengard, Vrael, Umaroth, Oromis và ta, cùng một số người khác đã quyết định giấu những quả trứng cùng một số Eldunarí. Chúng ta cũng dễ thuyết phục những con rồng hoang dã thôi. Galbatorix săn đuổi họ, và họ không thể chống lại pháp thuật của hắn. Họ đã tới đây, họ đưa những đứa con còn đang trong trứng cho Vrael cùng những người có thể đẻ trứng được. Chúng ta biết sự sống còn của nòi giống đang bị đe dọa. Chúng ta đã đúng.

Eragon day thái dương. “Vì sao các vị không biết từ trước? Vì sao không phải là sư phụ Oromis? Sao các vị có thể giấu tư tưởng được? Người nói với con là không thể cơ mà.”

Không thể, Glaedr trả lời, hay ít nhất không thể chỉ bằng pháp thuật. Nhưng trong trường hợp này, nơi pháp thuật không thành công, khoảng cách lại làm nên chuyện. Đó là lý do vì sao chúng ta ở sâu trong lòng đất, sâu dưới núi Erolas những một dặm. Kể cả nếu Galbatorix hay Thập Tam phản đồ nghĩ tới dùng tư tưởng tìm kiếm những nơi không ai ngờ tới, những tảng đá cản đường sẽ khiến họ chỉ cảm tháy có một nguồn năng lượng bất thường. Họ sẽ cho đó là mạch sống của trái đất. Cái đó cũng nằm rất gần chúng ta. Hơn nữa, trước Trận chiến Doru Araeba, hơn một trăm năm trước, tất cả các Eldunarí đã được đặt ở trạng thái hôm mê sâu như chết giả. Chính vì thế chúng càng khó lòng tìm ra họ. Kế hoạch của chúng ta là sẽ đánh thức họ sau khi trận chiến kết thúc. Nhưng những ai xây dựng nơi này cũng ếm câu thần chú đánh thức họ dậy sau vài tuần trăng.

Đúng như vậy, Umaroth nói. Hầm mộ của Những Linh Hồn được đặt tại đây còn vì một lý do khác. Cái bình trước mặt các con là cánh cửa mở vào một bể nham thạch nằm dưới dãy núi này kể từ ngày khai sinh lập địa. Nó cung cấp nhiệt độ cho những quả trứng và cung cấp ánh sáng cho các Eldunarí duy trì sức lực.

Eragon nói với Glaedr, Người vẫn chưa trả lời câu hỏi của con: vì sao Người và sư phụ Oromis không nhớ nơi này?

Umaroth là người trả lời: Vì tất cả những người biết về Hầm mộ của Những Linh Hồn đã đồng ý bị tẩy não và thay vào đó một ký ức giả. Kể cả Glaedr. Đây không phải một quyết định dễ dàng, đặc biệt với mẹ của những quả trứng. Nhưng chúng ta không thể ai ngoài những người trong căn phòng này biết sự thật. Ít nhật là Galbatorix. Vì thế chúng ta từ biệt bạn bè và chiến hữu. Chúng ta biết mình sẽ không bao giờ gặp lại họ và rằng, nếu những điều xấu nhất qua đi, họ sẽ nghĩ rằng chúng ta đã tan biến vào hư vô… Như ta đã nói, đây không phải một quyết định dễ. Chúng ta cũng phải xóa tên tảng đá đánh dấu cổng vào nơi thần thánh này, cũng như đã xóa tên mười ba con rồng phản bội chúng ta.

Cả trăm năm cuối đời, ta đã tin loài giống mình đã tuyệt diệt, Glaedr nói. Giờ, khi biết tất cả những đau khổ đã không còn gì...Ta rất mừng rằng sự ngu dốt của ta đã giúp ta bảo vệ họ.

Sau đó Saphira nói với Umaroth, Vì sao Galbatorix không biết người và những quả trứng đã biến mất?

Hắn nghĩ chúng ta chết trận. Chúng ta chỉ là một số lượng Eldunarí ở Vroengard. Hắn không thể nào nghi ngờ sự biến mất của chúng ta. Đối với những quả trứng, chắc chắn hắn điên lên vì chúng không còn. Nhưng hắn không đời nào nghĩ hai chuyện có liên hệ với nhau.

Ờ đúng, Glaedr buồn buồn nói. Thế nên Thuviel đồng ý tự sát: để Galbatorix không biết chúng ta chơi khăm hắn.

“Nhưng không phải chính Thuviel cũng giết chết rất nhiều chiến hữu sao?” Eragon hỏi.

Ừ, và đó là một đại họa, Umaroth nói. Nhưng dù sao chúng ta cũng đã thỏa thuận rằng ông ta sẽ không hành động nếu như chúng ta chúng ta chắc chắn chiến bại. Ông ấy đã hy sinh bản thân, hủy diệt toàn bộ những tòa nhà thường là nơi giữ trứng. Ông ấy biến hòn đảo thành một kho thuốc độc để Galabatorix không chọn đóng đô tại đây.

“Ông ấy có biết vì sao ông ấy phải tự sát không?”

Lúc đó thì không. Chỉ khi cần thiết ông ấy mới biết. Một trong Thập tam Phản đồ đã giết chết con rồng của Thuviel cách đó một tháng. Dù Thuviel không tan biến, vì chúng ta cần càng nhiều chiến binh càng tốt để chống trả Galbatorix, ông ấy đã không thiết sống nữa. Ông ấy mừng vì mình được nhận nhiệm vụ đó. Ông ấy sẽ được giải thoát mà vẫn phục vụ mục đích cao cả của chúng ta. Nhờ món quà sự sống đó, chúng ta đã bảo vệ được giống nòi và các Kỵ sĩ. Ông ấy là một người anh hùng vĩ đại dũng cảm. Rồi sẽ có một ngày, mọi ngóc ngách Alagaësia đều vang lên bài ca về ông ấy.

Vậy là sau khi trận đánh kết thúc, mọi người ở lại chờ đợi, Saphira nói.

Ừ, Umaroth đồng tình. Suy nghĩ dành hàng trăm năm sống trong môt căn phòng nằm sâu trong lòng đất khiến Eragon nao núng. Nhưng chúng ta không lười biếng. Khi chúng ta thức giấc, chúng ta bắt đầu phóng tư tưởng ra, lúc đầu chậm thôi.Sau đó với một sự tự tin hơn bao giờ hết, vì Galbatorix và Thập tam phản đồ đã bỏ đi. Khối sức mạnh của chúng ta rất lớn. Chúng ta có thể nhìn trước những chuyển biến trên mảnh đất này. Thường thì chúng ta không thể nhìn thấy rõ. Nhưng chúng ta có thể thấy những sợi năng lượng rối rắm trên toàn Alagaësia. Chúng ta có thể lắng nghe suy nghĩ của những kẻ không biết bảo vệ tư tưởng. Nhờ vậy, chúng ta nắm bắt được thông tin.

Hàng thập kỷ trôi qua, chúng ta tuyệt vọng vì không có ai có thể đánh bại Galbatorix. Chúng ta đã chuẩn bị để chờ đợi hàng thế kỷ nếu cần thiết. Nhưng ta có thể cảm nhận sức Phá- trứng đang lớn lên. Chúng ta sợ rằng chúng ta sẽ phải đợi hàng ngàn hay vì hàng trăm năm. Chúng ta đồng ý rằng, điều này là không thể chấp nhận, vì lợi ích của cả chúng ta và những con rồng con trong trứng. Chúng bị ếm phép làm chậm nở. Chúng có thể mãi là trứng trong nhiều năm. Nhưng dù gì việc ở trong trứng quá lâu cũng không tốt. Nếu vậy, tư tưởng của chúng sẽ biến động và khác thường.

Vì lo lắng, chúng ta bắt đầu can thiệp vào những sự kiện mình nhìn thấy. Lúc đầu chỉ rất nhỏ: ở đây thì thuyết phục ai đó, đằng kia thì đưa ra lời khuyên, hay cảnh bảo cho ai sắp bị hại. Không phải lúc nào chúng ta cũng thành công. Tuy nhiên chúng ta có thể giúp những người vẫn ngoan cường chống trả Galbatorix. Thời gian trôi qua, càng lúc chúng ta càng tự tin hơn vào khả năng của mình. Trong một số ít trường hợp, người ta phát hiện ra sự hiện diện của chúng ta dù không biết chúng ta là ai hay cái gì. Chúng ta ba lần sắp đặt cái chết của một trong Thập tam Phản đồ. Khi không bị cảm xúc che mờ mắt, Brom là một vũ khí hữu hiệu.

“Các người đã giúp ông Brom!” Eragon reo lên.

Đúng, và giúp nhiều người khác nữa. Khi con người tên Hefring trộm trứng của Saphira khỏi phòng báu vật của Galbatorix – vào một buổi đêm cách đây hai mươi năm – chúng ta đã giúp hắn thoát, nhưng chúng ta đã đi quá đà. Hắn phát hiện ra chúng ta và sợ hãi. Hắn tháo chạy và không gặp mặt quân Varden như dự kiến. Sau đó, sau khi Brom cứu quả trứng của con, Varden cùng thần tiên bắt đầu truyền tay nhau quả trứng của con, trước khi tìm ra cho con một người kỵ sĩ thích hợp. Chúng ta quyết định rằng mình phải chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống đó. Vì thế chúng ta đã vươn tư tưởng tới gặp ma mèo. Họ là bạn lâu năm với rồng. Chúng ta nói chuyện với họ. Họ đồng ý giúp. CHúng ta cho họ biết về Tảng đá Kuthian và thép sáng dưới rễ cây Menoa. Sau đó chúng ta tẩy tất cả những ký ức về cuộc nói chuyện khỏi trí não họ.

“Người làm tất cả ư, từ đây?” Eragon phân vân hỏi.

Và còn nhiều hơn thế. Con đã bao giờ nghĩ vì sao quả trứng của Saphira lại tình cờ xuất hiện trước mặt con khi con đang ở giữa đại ngàn Spine?

Người làm ư? SAphira cất tiếng. Cô nàng cũng choáng nặng như Eragon.

“Con cứ nghĩ vì Brom là cha con, Arya đã đưa nhầm.”

“Không, Umaroth nói. Phép thuật của thần tiên không có chỗ cho lầm lẫn. Chúng ta đã thay đổi dòng chảy pháp thuật để con và SAphira gặp nhau. Chúng ta nghĩ có thể có – dù cơ hội rất nhỏ, nhưng dù sao vẫn là cơ hội – rằng con sẽ phù hợp với cô bé này. Chúng ta đã đúng.

“Nhưng sao người không cho chúng con tới đây sớm hơn?” Eragon hỏi.

Vì con cần thời gian để tôi luyện, và chúng ta cũng sợ sẽ đánh động Galbatorix về sự hiện diện của chúng ta trước khi con và Varden sẵn sàng đối diện với hắn. Ví dụ, nếu chúng ta liên hệ với các con ngay sau Trận chiến trên Cánh đồng cháy, chúng ta sẽ được lợi gì nào, khi Varden vẫn còn cách Urû’baen quá xa?

Một phút im lặng.

Eragon từ từ nói, “Người còn làm gì cho chúng con nữa?”

Vài điều nho nhỏ, chủ yếu là cảnh báo thôi. Hình ảnh Arya ở Gil’ead, khi cô ấy cần sự giúp đỡ của con. Giúp chữa lành lưng cho con ở Agaetí Blödhren.

Glaedr không đồng ý. Anh gửi chúng tới Gil’ead, không hề được huấn luyện và không có lưới phòng hộ, trong khi các anh biết chúng phải đối mặt với một Tà thần ư?

CHúng ta nghĩ Brom sẽ ở cùng họ. Nhưng ngay khi ông ta chết, chúng ta không thể chặn hai đứa nhỏ lại, vì chúng vẫn phải tới Gil’ead để tìm quân Varden.

“Đợi đã,” Eragon nói. “Vậy sự...thay đổi của con là do mọi người?”

Một phần. Chúng ta chạm vào hình ảnh phản chiếu giống loài ta khi các thần tiên triệu hồi nó trong buổi lễ. Chúng ta đã tạo hình ảnh, còn cái đó tạo nên sức mạnh cho câu thần chú.

Eragon nhìn xuống và nắm tay thành quyền trong giây lát. Nó không giận, nhưng lại bùng lên những cảm xúc khác. Saphira, Arya, thanh kiếm của nó, vẻ ngoài của nó – nó nợ những con rồng trong căn phòng này. “Elrun ono,” nó nói. Cám ơn.

Không có gì đâu con, Khắc tinh của Tà thần.

“người cũng giúp anh Roran nữa ư?”

Anh họ con không cần chúng ta giúp. Umaroth dừng lại. Chúng ta quan sát cả hai con, Eragon và Saphira trong nhiều năm liền. Chúng ta quan sát các con lớn lên từ khi còn là đứa bé tới khi trở thành một chiến binh dũng mãnh. Chúng ta tự hào vì các con. Con, Eragon, con là tất cả những gì chúng ta hy vọng ở một Kỵ sĩ mới. Còn con, Saphira, con đã chứng minh mình xứng đáng đứng vào hàng ngũ những con rồng vĩ đại nhất.

Sự vui sướng và tự hào của Saphira tràn ngập trong eragon. Nó quỳ một chân xuống, kể cả cô nàng cũng đặt chân xuống sàn và cúi gục đầu. Eragon muốn nhảy lên, la hét và ăn mừng nhưng nó kìm lại. Nó chỉ nói, “Thanh kiếm của con là của người...”

...Cũng như răng và móng vuốt của con, Saphira nói.

“Tới ngày tận thế,” họ đồng thanh nói. “Người muốn gì ở chúng cơn, Ebrithilar?”

Umaroth hài lòng. Ông rồng trả lời, Giờ các con đã tìm thấy chúng ta, những ngày trốn chạy của chúng ta đã kết thúc. Chúng ta sẽ cùng các con tới Urû’baen và sát cánh chống lại Galbatorix. Giờ là lúc rời tổ và đối diện với kẻ đập-trứng phản bội kia một lần cho xong. Không có chúng ta, hắn có thể mở toang đầu óc con dễ như chúng ta vừa làm. Vì hắn có rất nhiều Eldunarí dưới trướng.

Con không thể mang theo tất cả mọi người, Saphira nói.

Con không cần làm thế, Umaroth nói. Năm người sẽ ở lại trông chứng cùng với Cuaroc. Nếu chúng ta thua Galbatorix, họ sẽ không còn nhiều năng lương nhưng cũng đủ để chờ đợi tới lúc an toàn trở lại để chu du trong Alagaësia. Nhưng các con đừng lo lắng; chúng ta sẽ không trở thành gánh nặng cho con. Chúng ta sẽ cho con mượn sức.

“Ở đây có bao nhiêu người ạ?” Eragon hỏi và đảo mắt nhìn quanh phòng.

Một trăm ba mươi sáu. Nhưng đừng nghĩ chúng ta có thể đánh bại những Eldunarí bị Galbatorix nô dịch. Chúng ta quá ít, những người được chọn ở lại hầm mộ này hoặc quá già không thể hy sinh trong trận chiến hoặc quá trẻ và quá ít kinh nghiệm thực chiến. Chính vì thế ta mới ở lại đây với họ. Ta là cầu nối trong nhóm, ở mốc hiểu biết thông thường nếu không có sẽ là một sự thiếu sót. Những người già thông thái và có nhiều quyền năng. Nhưng trí óc họ đi lang thang theo những con đường kỳ lạ. Khó có thể thuyết phục họ tập trung vào những điều nằm ngoài giấc mơ. Những con rồng khác trẻ hơn và kém may mắn hơn: họ đã rời bỏ thân thể quá sớm. Chính vì thế đầu óc bị hạn chế theo kích thước của Eldunarí. Họ sẽ không thể lớn hơn khi đã rời bỏ cơ thể. Hãy để đó làm bài học cho con, Saphira, đừng từ bỏ Eldunarí của con. Trừ khi con đã đạt tới một kích cỡ đáng nể hoặc đối diện với sự nguy hiểm một sống một chết.

“Vậy là chúng ta vẫn kém hơn chúng,” Eragon ảo não nói.

Đúng đó Khắc tinh của Tà thần. Nhưng giờ Galbatorix không thể bắt con khuất phục ngay khi nhìn thấy con. Chúng ta có thể không đánh bại được chúng, nhưng chúng ta có thể cầm chân Eldunarí của hắn đủ lâu để con và Saphira làm những gì phải làm. Chúng ta biết nhiều điều, nhiều bí mật về chiến tranh và pháp thuật và cách thế giới xoay vần. Chúng ta sẽ dạy cho con những gì chúng ta có thể dạy. Có thể những kiến thức đó sẽ giúp con đánh bại nhà vua.



Sau đó, Saphira hỏi về những quả trứng. Ở đây có tổng cộng hai trăm bốn mươi ba quả. Hai mươi sáu quả đã được kết nối với các kỵ sĩ; số còn lại thì chưa. Sau đó họ nói chuyện về chuyến bay tới Urû’baen. Trong khi Umaroth và Glaedr đưa ra lời khuyên về cách bay nhanh nhất tới thành phố cho Saphira, người đàn ông đầu rồng tra kiếm vào bao, hạ khiên xuống và lần lượt đưa các Eldunarí trên tường xuống. Hắn đặt từng viên đá như ngọc đó vào một túi lụa sau đó nhẹ nhàng đặt trên nền nhà cạnh cái bình phát sáng. Eldunarí lớn nhất có kích cỡ kinh khủng. Người đàn ông mình sắt đầu rồng không thể ôm trọn tay quanh nó được.

Khi Cuaroc làm việc và bọn họ nói chuyện, Eragon vẫn thấy ngờ vực. Nó không dám mơ rằng còn có những con rồng trốn tại Alagaësia. Thế mà giờ họ ở đây như một phần của những năm tháng đã mất. Như thể câu chuyện của những người già biến thành sự thực. Nó và Saphira bị lạc giữa câu chuyện.

Cảm xúc của Saphira còn phức tạp hơn. Biết nòi giống không bị đe dọa tuyệt diệt nữa đã bỏ bớt gánh nặng trong lòng cô nàng – gánh nặng đã nằm đó rất lâu – và cô nàng quá vui mừng. Niềm vui ấy dường như khiến đôi mắt và vảy cô nàng sáng hơn bình thường. Nhưng, cô nàng vẫn có chút tự vệ vì cô nàng rất tỉnh táo đối mặt với Eldunarí.

Dù bị lạc trong cảm xúc, Eragon vẫn nhận thức thấy sự thay đổi cảm xúc của Glaedr; ông không hoàn toàn quên đi nỗi buồn, nhưng đây là khoảnh khắc hạnh phúc nhất của ông kể từ ngày Oromis mất. Và khi giờ đây Glaedr không khác gì Umaroth, ông đối xử với những con rồng khác với sự kính trọng mà Eragon chưa từng thấy, kể cả khi Glaedr nói chuyện với Nữ hoàng Islanzadí.

Khi Cuaroc gần hoàn tất công việc, Eragon đi tới cạnh cái bình và nhìn vào đó. Nó thấy một cần trục hình tròn chìm sâu trong tảng đá hơn ba mươi mét, mở vào một cái động chìm một nửa trong những viên đá phát sáng. Chất lỏng màu vàng đặc sệt nổi bóng như một chậu keo sôi. Khí bốc lên từ bề mặt. Nó nghĩ nó thấy một ánh sáng, như ánh sáng của một linh hồn bay trên bề mặt biển nham thạch. Nhưng nó biến mất quá nhanh khiến Eragon không dám chắc.

TỚi đây, Eragon, Umaroth nói khi người đàn ông đầu rồng đặt những Eldunarí cuối cùng vào túi. Con phải đọc thần chú ngay bây giờ. Như thế này này...

Eragon nhíu mày lắng nghe. “Cái gì...vặn ở câu thứ hai ạ? Con phải vặn cái gì cơ, không khí ư?”

Umaroth giải thích còn làm Eragon điên đầu hơn. Umaroth thử lại, nhưng Eragon vẫn không hiểu. Những con rồng già hơn khác cùng ní chuyện, nhưng giải thích của họ còn khó hiểu hơn. Vì họ chỉ truyền cho nó xem hàng loạt những hình ảnh, những cảm giác, những sự so sánh kỳ dị khiến Eragon hoang mang rối trí.

Saphira và Glaedr cũng choáng tương tự. Vì thế Eragon cũng thoái mải phần nào. Nhưng dù sao Glaedr cũng nói, Ta nghĩ là ta hiểu, nhưng cái này giống như là bắt một con cá đang sợ vậy. Cứ khi nào ta nghĩ ta bắt được nói, nó lại chuồi khỏi miệng ta.

Cuối cùng Umaroth nói. Đây là bài học dành cho lúc khác. Con biết câu thần chú dùng để làm gì nhưng không biết làm thế nào. Thế là đủ. Hãy lấy sức mạnh từ chúng ta và đọc thần chú. Sau đó chúng ta đi.

Eragon lo lắng nghĩ lại những từ ngữ trong đầu để tránh phạm lỗi. Sau đó nó bắt đầu đọc. Nó rút năng lượng từ Eldunarí. Da thịt nó ngứa ngáy khi dòng năng lượng khổng lồ truyền vào nó, như một dòng nước vừa nóng vừa lạnh.

Không khí xung quanh bao Eldunarí rung chuyển. Sau đó cái túi tự khóa miệng lại và biến mất. Một luồng gió thổi bạt tóc Eragon. Một tiếng thịch nho nhỏ vang lên trong phòng.

Eragon kinh ngạc quan sát Saphira ngửa đầu ra sau và bổ đầu vào chỗ những Eldunarí vừa biến mất. Họ biến mất hoàn toàn như chưa bao giờ tồn tại. Nhưng nó và cô em vẫn cảm nhận được tư tưởng của của những con rồng đang rất gần.

Một khi rời khỏi hầm mộ, Umaroth nói, lối vào túi không gian này lúc nào cũng ở gần các con trong một khoảng cách nhất định, trừ khi các con ở khu vực bị hạn chế hoặc khi có một cơ thể con người đi qua. Lối vào không lớn hơn một đầu kim, nhưng nó chết người hơn bất kỳ một thanh kiếm nào. Nó có thể cắt xuyên da thịt con nếu con chạm vào.

Saphira khụt khịt. Cả mùi của người cũng biến mất.

“Ai tìm ra cách thực hiện câu thần chú này thế?” Eragon ngạc nhiên hỏi.

Một ẩn sĩ sống ở bờ biển phía bắc Alagaësia cách đây hai trăm năm, Umaroth trả lời. Đây là một đòn hay nếu con muốn giấu một thứ gì khỏi con mắt người thường. Nhưng đồng thời nó rất khó và nguy hiểm buộc con phải làm chính xác. Sau đó con rồng im lặng. Eragon có thể cảm nhận ông ta đã tập trung suy nghĩ. Sau đó Umaroth nói, Giờ còn có một điều con và Saphira cần biết. Ngay khi con đi qua cổng vòm đằng sau kia – Cánh cổng Vergathos – con sẽ quên Cuaroc và những quả trứng. Khi con tới cánh cửa cuối đường hầm, tất cả những ký ức sẽ bị xóa sạch. Kể cả chúng ta, những Eldunarí cũng quên mất những quả trứng. Nếu chúng ta giết được Galbatorix, cánh cổng sẽ trả lại ký ức cho chúng ta. Nhưng cho tới lúc đó, chúng ta sẽ không biết gì. Umaroth dường như đang gầm lên. Ta biết, chuyện này...không vui, nhưng chúng ta không thể để Galbatorix biết về những quả trứng.

Eragon không thích, nhưng nó không thể nghĩ ra phương án hợp lý hơn.

Cám ơn đã nói cho chúng con biết, Saphira nói. Eragon cũng nói lời cám ơn.

Sau đó chiến binh kim loại vĩ đại, Cuaroc nhặt khiên lên, rút gươm và đi tới cái ngai xưa cũ rồi ngồi xuống. SAU khi đặt lưỡi gươm lên đùi và đặt khiên xuống cạnh ngai, hắn đặt tay lên hông và bất động như tượng, chỉ trừ những tia lửa nhảy múa trong đôi mắt đỏ thẫm đang chăm chăm vào những quả trứng.

Eragon rùng mình quay lưng khỏi cái ngai. Có cái gì đó ám ảnh và bóng người cô đơn nơi cuối căn phòng. Khi biết Cuaroc và những Eldunarí sẽ phải ở lại trông trừng trong một trăm năm nữa – có khi hơn – khiến Eragon khó lòng rời đi.

Tạm biệt, Nó dùng tư tưởng nói.

Tạm biệt, Khắc tinh của tà thần, năm tiếng thì thầm trả lời, Tạm biệt, Vảy sáng. Chúc các con may mắn.

Sau đó Eragon mở rộng vai. Nó cùng Saphira rảo bước đi qua Cánh cổng Vergathos và rời khỏi Hầm mộ của những Linh hồn.

__________________





Trở về



Eragon đăm chiêu khi bước ra khỏi đường hầm trong ánh nắng chiều sớm trải lên Tảng Đá Kuthian.



Nó ngờ ngợ hình như đã quên chuyện gì đó rất quan trọng. Nó cố gắng lục lọi trí nhớ nhưng chẳng nghĩ ra được gì, chỉ có cảm giác trống rỗng làm nó thấy thực khó chịu. Có lẽ có liên quan tới …, không, nó vẫn không nhớ được gì hết. Shaphira, có phải em … nó buột miệng, nhưng rồi ngậm lại ngay lập tức.



Gì thế?



Không có gì. Anh chợt nghĩ … thôi bỏ đi; không thành vấn đề.



Cánh cửa vào đường hầm phía sau họ đóng lại vang lên tiếng ầm sâu thăm thẳm, những nét chạm trổ trên đó mờ dần, rồi mảnh chóp gồ ghề phủ đầy rêu trở lại thành cục đá như cũ.



Đi nào, giọng Umaroth vang lên, cùng rời khỏi đây thôi. Đã muộn rồi, và Urû’baen còn cách đây nhiều dặm nữa.



Eragon liếc nhìn lại khoảng trống, vẫn cảm thấy nó còn bỏ sót cái gì đó; nhưng nó vẫn gật đầu, leo lên yên của Saphira.



Khi nó quấn đai vòng qua chân, chợt có tiếng chim hót kì lạ vang lên từ khoảng rừng rậm phía bên phải. Nó nhìn theo, nhưng không nhìn thấy con vật đó. Nó nhăn mặt. Thực sự thì nó rất mừng khi đến Vroengard, nhưng cũng mừng không kém khi được rời khỏi đây. Hòn đảo thực là một nơi không hiếu khách cho lắm.



Đi chưa hở anh? Saphira hỏi.



Uh, lượn thôi.Nó thở phào khẽ nói.



Chỉ cần lướt cánh một cái, Saphira đã phi thẳng lên không trung, lướt qua rừng táo khoảng đối diện với khu đất trống. Cô nàng phóng vụt qua thung lũng, trèo một vòng qua khu tàn tích Doru Araeba. Khi lên đủ cao để vượt qua rặng rúi, cô nàng lượn trái bay về lục địa, nhằm hướng Urû’baen, bỏ lại phía sau đống đổ nát của thành trì vinh quang của Kỵ sỹ Rồng.



*******************************



Thành phố u ám





Mặt trời vẫn đứng bóng khi quân Varden tới sát Urû’baen.





Roran nghe thấy tiếng hò reo của những chiến binh đứng đầu đội ngũ khi họ leo lên đỉnh đồi. Anh tò mò ngóng qua gót chân một người lùn đri tước, rồi khi lên đến đỉnh đồi, anh khựng lại để ngắm nhìn, cũng như những người lính đã đi trước.





Vùng bình nguyên trải dài thoai thoải xuống vài dặm, được san phẳng thành một khu đất rộng cho những cánh đồng, cối xay gió và những toàn nhà bằng đá khối, gợi anh nhớ đến một nơi gần Aroughs. Khoảng năm dặm phía xa ra bức tường thành Urû’baen đứng sừng sững.





Không giống như Dras-Leona, tường thành của Urû’baen đủ dài để ôm gọn toàn bộ thành phố phía trong. Nó cũng cao hơn nhiều, thậm chí từ khoảng cách này Roran có thể nói tường thành ở Dras-Leona lẫn Aroughs chỉ như những chú lùn khi so với nó. Anh đoán độ cao của bức tường tầm khoảng ba trăm thước. Anh còn nhìn thấy những máy phóng tên (ballistate) và máy bắn đá (catapult) được đặt đều đặn trên những lỗ châu mai rộng hoác.





Khung cảnh này làm anh thực lo lắng. Mấy cái may này quả là rất khó hạ - chưa kể là chúng còn được bảo vệ bởi phép thuật – và từ kinh nghiệm của mình anh biết chúng nguy hiểm nhường nào.





Phía sau bức tường là đám hổ lốn những công sự do con người lẫn tiên nhân xây nên. Cao sáu bộ và trông rất thanh nhã, những tòa tháp nổi bật nhất của tiên nhân được làm bởi những phiến đá xanh lục, nằm rải rác thành một hình vòng cung bao lấy khu – anh đoán – lâu đời nhất của thành phố. Hai cái tháp bị mất ngói, và có vẻ anh còn thấy hai cái nữa bị đổ, bị chôn vùi bởi hàng dãy nhà phía dưới.





Tuy nhiên, thứ gây chú ý cho anh nhất không phải là bức tường hay mấy toà tháp, mà khu vực đó nằm dưới bóng của một phiến đá khổng lồ, rộng ít nhất nửa dặm và dày ít nhất năm trăm thước. Phần đá nhô ra trông như bên sườn đồi trải dài về phía bắc đến vài dặm. Trên bờ đá lởm chởm là một bức tường khác giống bức bao quanh thành phố, cùng với những tháp canh vững chãi. (sao Paolini không vẽ đại ra người ta còn tưởng tượng cho dễ, aizzz)





Phía sau khoảng hõm vào bên dưới tảng đá là một tòa thành vĩ đại, tô điểm bởi hàng loạt tháp canh với tường chắn. Tòa thành vươn cao lên khỏi toàn bộ thành phố, gần như chạm đến mặt dưới của phiến đá. Điều đáng hãi nhất của cổng vào đặt trước tòa thành: một hang động bự chảng, đủ để Saphira và Thorn bước cạnh nhau trong nó.





Ruột Roran quặn thắt. Nếu những gì trước mắt đúng như anh nghĩ, Shruikan đủ lớn để quét sạch toàn bộ đoàn quân này. Tốt hơn là Eragon và Saphira nhanh nhanh lên, anh nghĩ. Cả đoàn quân tiên nhân nữa. Từ những gì anh đã thấy, các tiên nhân có thể cầm cự được với con hắc long của nhà vua, những cũng có khó mà giết được nó.





Cứ như vậy, Roran đứng lặng nhìn trên đỉnh đồi. Rồi anh giật cương con Hỏa Tuyết. Đằng sau anh, con bạch mã khụt khịt đi theo Roran tiếp tục hành trình mệt rã rời, thoải bước xuống sườn đồi gió thổi lồng lộng.





Anh có thể cưỡi nó – đáng lẽ như thế, với vị trí tiểu đoàn trường – những sau hành trình tới Aroughs rồi trở lại, anh trở nên ngán ngẩm ngồi trên lưng ngựa.





Vừa đi, anh vừa nghiền ngẫm cách tốt nhất để tấn công thành phố. Phiến đá bao gọn Urû’baen ngăn cản công thành từ bên sườn cũng như phía sau, cũng khiến việc tấn công từ trên xuống phiền phức hơn nhiều, đây chắc là lý do các tiên nhân chọn nó làm nơi định cư đầu tiên.





Nếu có thể phá tan phần thoải ra, ta sẽ chiếm được tòa thành và hầu hết thành phố, anh nhẩm tính, nhưng cũng nhận ra rằng chuyện đó thật khó xảy ra, vì vách đá quá dày. Dù sao,ta vẫn có thể chiếm bờ tường phía đỉnh đồi. Từ đó ta có thể thả đá và đổ dầu sôi xuống dưới. Chiến đấu ở trên đồi, và mấy bức tường… Có khi tiên nhân làm được. Hoặc Kull. Họ chắc khoái lắm.





Dòng sông Ramr chảy phía Bắc cách Urû’baen vài dặm, quá xa nên chẳng giúp được gì. Saphira có thể đào một con rạch để chuyển hướng nó, nhưng cô rồng cũng cần hàng tuần lễ để hoàn thành, mà Varden thì không có đủ ngần ấy lương thực. Quân lương chỉ còn đủ trong vài ngày. Sau đó chỉ còn đường chết đói hoặc tan rã.





Lựa chọn duy nhất bây giờ là tấn công phủ đầu quân đội Đế chế. Roran không tin Galbatorix sẽ tấn công. Từ trước tới giờ lão có vẻ thoải mái để quân Varden tới gần mình. Sao lão phải mạo hiểm làm chi? Lão càng chờ thì quân ta càng yếu.





Điều đó có nghĩa là cuộc tấn công trực diện – bằng cách xung phong ào ạt điên rồ tới bức tường quá dày và quá cao để có thể trèo qua hay phá vỡ, chưa kể cung thủ và máy bắn đá nã liên tục. Chỉ tưởng tượng thôi cũng khiến lông mày anh nhăn tít lại. Quân ta sẽ chết ý như súc vật vậy. Anh chửi thề. Chúng ta tự tìm chết, còn Galbatorix thì cười ngặt nghẽo trên ngai vàng của lão … Nếu quân ta có thể tới gần bức tường, quân địch sẽ không thể bắn hoặc nã đá được nữa, nhưng vậy lại dễ làm mồi cho dầu nóng với đá tảng rơi vào đầu.





Kể cả nếu quân Varden có phá được tưởng thành đi chăng nữa, họ vẫn phải đối mặt với cả đoàn quân của Galbatorix. Quan trọng hơn nữa, ai mà biết được tính cách và phẩm chất của những binh sĩ đó. Liệu họ có liều mạng chiến đấu đến cùng không? Họ có biết sợ không? Họ có tháo chạy khi bị quân ta ép tới không? Loại thề nguyền và thần chú nào trói buộc họ đây?





Tình báo của Varden cho biết Galbatorix đã phong một kẻ tên là Ngài Barst làm chỉ huy quân đội trong thànhUrû’baen. Roran chưa bao giờ nghe tới tên Barst trước đây, nhưng mẩu tin có vẻ làm Jörmundur phát nản, rồi lính trong tiểu đoàn của Roran cứ kể mấy câu chuyện về sự tàn độc của Barst. Hình như trước đây Barst từng là chủ của một điền trang rất lớn ở Gil’ead, rồi phải bỏ đi sau khi tiên nhân đến xâm chiếm. Các nô lệ của hắn sống trong sợ hãi thường trực, vì Barst có xu hướng giải quyết tranh cãi và trừng phải tội nhận bằng cách tàn bạo nhất có thể, và thường là đơn giải xử tử những kẻ hắn tin là có tội. Chỉ thế thôi thì có vẻ không đáng chú ý lắm; cả tá những chủ nô lệ khắp Đế chế mang tiếng hung ác. Tuy nhiên, Barst không chỉ tàn độc mà còn rất mạnh – mạnh khủng khiếp – và xảo trá vô cùng. Trong tất cả những chuyện về Barst mà Roran từng nghe, trí thông minh của hắn là rõ rồi. Barst có thể là một kẻ khốn nạn, nhưng cũng rất tài trí, và Roran hiểu rõ rằng đánh giá thấp hắn sẽ là sai lầm chết người. Galbatorix sẽ không đời nào chọn một kẻ yếu đuối, hoặc ngốc nghếch chỉ huy lính của hắn.





Và còn đó Thorn với Murtagh. Galbatorix có vẻ không thích ra khỏi thành trì của lão, nhưng con rồng đỏ và Kỵ Sỹ của nó thì chắc chắn sẽ bảo vệ tòa thành. Eragon và Saphira phải dụ chúng ra xa. Nếu không quân ta sẽ chẳng bao giờ vượt qua được tường thành. Roran cau mày. Vấn đề là ở chỗ đó. Murtagh trước đây còn mạnh hơn Eragon bây giờ. Eragon vẫn cần các tiên nhân trợ giúp để tiêu diệt hắn.





Roran lại cảm thấy cơn giận dữ và oán hận dâng lên trong lòng. Anh ghét việc phải chịu quyền sinh quyền sát của những kẻ sử dụng pháp thuật. Ít ra khi cần đến sức mạnh và khôn khéo, người ta có thể thừa cái này thiếu cái kia, nhưng chẳng có cách nào bù đắp được một người không có phải thuật cả.





Quá chán nản, anh vốc một viên sỏi lên, thầm thì “Stenr rïsa” như Eragon dạy. Viên đá vẫn trơ ra.





Viên đá mãi trơ ra như vậy.





Anh khịt mũi, ném nó qua vệ đường.





Vợ con anh đều ở Varden, mà anh thì chẳng thể làm được gì để giết Murtagh hay Galbatorix. Anh siết chặt bàn tay, tưởng tượng đã nghiền nát cái gì đó. Hầu hết là xương cốt kẻ địch.





Có khi ta nên bỏ đi. Lần đầu tiên ý nghĩ ấy xuất hiện trong đầu Roran. Anh biết có những miền đất nằm ngoài tầm tay của Galbatorix mãi về phía đông – những đồng bằng màu mỡ chưa có dân du mục khai phá. Nếu những dân làng khác đi với anh và Katrina, họ có thể bắt đầu một cuộc sống mới tự do ngoài Đế chế và Galbatorix. Tuy nhiên ý nghĩ này khiến anh phát bệnh. Anh sẽ bỏ rơi Eragon, lính của anh, vùng đất mà anh gọi là nhà ư. Không. Mình sẽ không để con của chúng ta sinh ra trong thế giới mà Galbatorix vẫn thống trị được. Sống mà sợ hãi thế thì thà chết còn hơn.





Dĩ nhiên, nghĩ ngợi thế chẳng giải quyết được cách chiếm Urû’baen. Trước đây, luôn có những điểm yếu mà anh có thể khai thác được. Ở Carvahall, bọn Ra’zac đã không hiểu dân làng có thể chiến đấu quyết liệt thế nào. Khi anh vật nhau với Urgal Yarbog, đó chính là sừng của đối thủ. Ở Aroughs, đó là con kênh thượng nguồn. Nhưng giờ đây với Urû’baen, anh không nhìn thấy điểm yếu nào, chẳng có gì giúp anh biến lợi thế của kẻ địch thành của mình cả.





Nếu ta có cung ứng, ta có thể bao vây và đợi chúng chết đói. Thế là tốt nhất. Làm khác thì thật là điên rồ. Tuy nhiên anh biết chiến tranh thì bao giờ cũng đầy rẫy những chuyện điên rồ như vậy.





Cách duy nhất chỉ có phép thuật, cuối cùng anh kết luận. Phép thuật và Saphira. Nếu chúng ta có thể tiêu diệt Murtagh, cô rồng hoặc các tiên nhân có thể giúp quân ta vượt qua bức tường.





Anh cau có, trong miệng thấy đắng ngắt, rồi sải bước nhanh hơn. Càng tới trại nhanh càng tốt. Bàn chân anh thấy nhức ngối vô cùng, và nếu anh phải chết trong cuộc xung phong vô nghĩa, thì ít nhất anh cũng muốn một bữa ăn nóng hổi và giấc ngủ ngon lành trước đã.





Quân Varden lập lều trại cách Urû’baen một dặm, men theo một nhánh nhỏ của sông Ramr. Loài người, người lùn, và Urgal bắt đầu lập chiến lũy, kéo dài đến tận đêm và tiếp tục lúc bình minh. Thực ra, cho đến khi nào vẫn còn ở đó, họ vẫn phải tiếp tục gia cố phòng ngự. Các chiến binh ghét cay ghét đắng lao động, nhưng việc đó khiến họ bận rộn, và có thể cứu mạng họ nữa.





Ai cũng nghĩ mệnh lệnh đến từ Eragon-giả. Roran biết Jörmundur mới là người ra lệnh. Anh dần dà thấy kính trọng người chiến binh già từ khi Nasuada bị bắt cóc và Eragon rời đi. Jörmundur đã chiến đấu chống lại Đế chế gần như suốt đời, ông hiểu sâu sắc cả chiến thuật lẫn hậu cần. Ông và Roran khá hợp nhau; họ đều chiến đấu bằng gươm giáo chứ không phải bằng phép thuật.





Rồi còn King Orrin nữa, người mà – sau vài đề phòng lúc đầu đã qua – Roran vẫn cảm thấy nhập nhằng. Orrin chưa bao giờ hết làm anh bực mình; và nếu ai đó khiếp bọn họ bị giết, hẳn đó là ông ta. Roran biết xúc phạm một vị vua chẳng hay ho gì, nhưng lão ngốc đó muốn cho một người đưa tin tới cổng thành Urû’baen để có một cuộc thách đấu công khai, như cách họ thắng được Dras-Leona và Belatona.





“Ông có muốn chọc tức Galbatorix hả?” Roran gầm lên. “Nếu chúng ta làm thế, lão ta có thể phản ứng đấy!”





“Phải, dĩ nhiên”, Vua Orrin cả giọng, ưỡn thẳng người. “Sẽ rất phù hợp nếu chúng ta phát ngôn ý định rõ ràng và cho lão cơ hội đàm phán hòa bình.”





Roran trân trối, rồi khinh bỉ quay qua phía Jörmundur, “Ngài có thể làm ông ấy biết phải trái không?”





Họ tập trung trong lều của Orrin, theo triệu tập của nhà vua.





“Thưa Đức Vua”, Jörmundur nói, “Roran nói phải. Tốt nhất là nên đợi chưa vội liên lạc với Đế chế.”





“Nhưng họ thấy ta mà,” Orrin phản đối. “Chúng ta dựng trại ngay ngoài tường thành của họ. Thật là … thô lỗ nếu không gửi sứ giả bày tỏ kiến nghị của chúng ta. Hoàng gia đòi hỏi phải có phép lịch sự tối thiểu, thậm chỉ cả trong chiến tranh.”





Ý nghĩ thôi thúc đập cho nhà vua một cái xẹt qua đầu Roran. “Ông vẫn còn ngớ ngẩn tới mức cho rằng Galbatorix sẽ xem ông như một kẻ ngang hàng à? Hmm! Với lão chúng ta chỉ là kiến cỏ thôi. Lão chả quan tâm đến phép lịch sự của ông đâu. Ông quên mất Galbatorix từng là thường dân trước khi lão lật đổ các Kỵ Sỹ rồi à. lão không hành xử như ông đâu. Không có ai như lão trên đời này hết, mà ông còn nghĩ có thể đoán trước được lão như. Ông muốn xoa dịu lão ư? Hmm!”





Khuôn mặt của Orrin đỏ lên, ông quăng cốc rượu trong tay xuống sàn. “Anh đi quá xa rồi đấy, Cây Búa Dũng Mành à. Không ai có quyền sỉ nhục tôi như thế.”





“Tôi có quyền làm bất cứ thứ gì tôi muốn,” Roran gầm lên. “Tôi không phải là thần dân của ông. Tôi không phải vâng lời ông. Tôi là người tự do, và tôi sẽ sỉ nhục bất kì ai tôi muốn, bất kì lúc nào tôi muốn, bằng cách nào tôi muốn – kể cả ông. Gửi người đưa tin đi là cực kì sai lầm, và tôi …”





Một tiếng rít vang lên khi vua Orrin rút gươm khỏi vỏ. Ông không làm Roran hoàn toàn bất ngờ được, anh luôn cầm cây búa của mình, và ngay khi nghe thấy tiếng động, anh lập tức lôi vũ khí từ thắt lưng ran gay lập tức.





Thanh gươm của nhà vua trở nên bàng bạc trong ánh sáng tù mù của căn lều. Roran thấy Orrin sẽ đâm tới , anh tránh đi. Rồi anh đập mạnh vào bề mặt lưỡi gươm, khiến nó rung lên, văng khỏi tay Orrin.





Thanh gươm nạm ngọc rơi xuống thảm, vẫn còn rung rung.





“Đức Ngài,” một lính cách hô lên. “Ngài có ổn không?”





“Tôi vừa đánh rơi khiên,” Jörmundur đáp. “Không có gì phải lo cả.”





“Vâng, thưa ngài.”





Roran nhìn đức vua trân tối; trên mặt Orrin là vẻ hoang dã của một con thú bị săn. Không rời mắt khỏi ông, Roran đeo búa vào thắt lưng. “Liên lạc với Galbatorix là ngu xuẩn và nguy hiểm. Nếu ông cố thử, tôi sẽ giết bất kì ai ông gửi đi trước khi hắn kịp tới thành phố.”





“Mày không dám đâu!” Orrin hổn hển.





“Tôi có thể, và sẽ làm. Tôi sẽ không để ông gây nguy hiểm cho tất cả chúng ta chỉ để thoải mãn niềm … kiêu hãnh hoàng gia của ông. Nếu Galbatorix muốn nói chuyện, hắn sẽ biết phải tìm chúng ta ở đâu. Nếu không, cứ mặc hắn.





Roran phóng ra khỏi căn lều. Bên ngoài, anh chống tay vào hông nhìn lên trời mây u ám trong khi chờ mình bình tĩnh lại. Orrin hệt như một con la non: cố chấp, tự tin quá đáng, và sẵn sàng chọc xà beng vào lỗ tai nếu người ta cho ông cơ hội.





Và ông ta uống nhiềukinh khủng nữa, Roran thầm nhủ.





Anh cứ tản bộ trước căn lều cho đến khi Jörmundur bước tới. Trước khi ông kịp nói gì, anh trầm giọng, “Tôi xin lỗi.”





“Cũng như cậu đáng phải thế.” Jörmundur quẹt tay lên trán, rồi rút từ trong túi một chiếc tẩu đất sét, dúi vào một ít lá, nhồi bằng đầu ngón cái. “Nãy giờ tôi ở đó chỉ để thuyết phục ổng không gửi đặc sứ cho tỏ ra bất chấp ý kiến của cậu đấy.” Ông dừng lại trong giây lát. “Cậu có thực sẽ giết người của Orrin không đấy?”





“Tôi không dọa suông bao giờ,” Roran nói.





“Tôi cũng không nghĩ thế… Rồi, hy vọng là không đến nước đấy.” Jörmundur tản bộ dọc theo những chiếc lều, Roran đi theo. Các binh sĩ tránh đường cho họ kèm theo những cái cúi đầu tôn kính. Nhướn tẩu thuốc lên, Jörmundur khề khà, “Tôi thừa nhận mình cũng luôn muốn đáp trả Orrin thẳng thừng như thế hơn một lần.” Môi của ông dang ra thành một nụ cười nhạt. “Không may sao, lần nào tôi cũng nghĩ rồi mới làm.”





“Ổng vẫn thường … cứng đầu như vậy từ trước tới giờ à?”





“Hmm? Không đâu. Lúc còn ở Surda, ổng biết điều hơn nhiều.”





“Có chuyện gì vậy?”





“Ổng sợ, tội nghĩ vậy. Sợ hãi làm người ta xử sự kì quặc lắm.”





“Phải đấy.”





“Có vẻ hơi xúc phạm cậu một tí, nhưng mà cậu cũng ngu quá đi cơ.”





“Tôi biết. Tôi cứ nóng lên là làm tới thôi.”





“Và cậu kết oán với một vị vua.”





“Ý ông là một vị vua khác.”





Jörmundur phì cười nhẹ. “Ờ phải, tôi cho là cậu có kẻ thù cá nhân là Galbatorix rồi, ai khác thì cũng vô hại cả. Dù sao đi nữa …” Ông dừng lại trước đống lửa, rút ra từ đó một cành cây mỏng cháy đỏ. Chấm đầu cành cây vào lòng tẩu thuốc, ông rít vài hơi, châm lửa, rồi quẳng cành cây lại vào đám lửa. “Dù sao đi nữa, tôi sẽ không bỏ qua cơn giận của Orrin đâu. Ông ta sẵn sàng giết cậu trước đây. Nếu ổng oán ai đó, tôi nghĩ là ổng sẽ trả thù bằng được. Tôi sẽ sắp lính canh ở lều của cậu trong vài ngày tới. Dù sao, sau đó …” Jörmundur so vai.





“Sau đó, chúng ta sẽ đều phải chết hoặc bị tù đày.”





Họ cùng bước đi trong im lặng thêm vài phút, còn Jörmundur cứ rít tẩu thuốc của ông suốt. Khi họ sắp tách nhau, Roran hỏi, “Khi ông thấy Orrin …”





“Gì vậy?”





“Có lẽ ông cho thể cho ông ấy biết nếu động chạm đến Katrina, tôi sẽ đánh ông ta lòi ruột trước toàn doanh trại.”





Jörmundur cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, rồi ngẩng đầu gật gật. “Tôi nghĩ tôi có thể tìm ra cách làm chuyện đó, Cây Búa Dũng Mãnh.”





“Cảm ơn.”





“Sẵn sàng thôi. Lúc nào cũng thế, giúp cậu luôn là niềm vui độc đáo vô cùng.”





“…”





Roran tìm Katrina, thuyết phục cô mang bữa tối đến rìa phía Bắc doanh trại, nơi anh có thể cảnh giới đặc sứ của Orrin. Họ ăn bữa đặt trên tấm vải sạch trải ra trên nền đá cuội, rồi ngồi cùng nhau khi bóng chiều tà vươn ra, những ngôi sao nối đuôi nhau nhấp nháy trên bầu trời màu tím phía trên phiến đá nhô ra.





“Em rất mừng được ở đây,” cô thủ thỉ, tựa đầu vào vai anh.





“Thật không em?”





“Bầu trời thực đẹp, và em có anh ở đây với em.” Cô xiết chặt cánh tay anh.





Anh kéo cô lại gần, nhưng bóng đen trong lòng anh vẫn còn đó. Anh không thể nào quên hiểm nguy đang cận kề cô và đứa con của họ. Ý nghĩ kẻ thù lớn nhất của họ chỉ cách vài dặm cứ khiến lòng anh như lửa đốt; anh không ước gì hơn là có thể bật dậy, phi thẳng đến Urû’baen giết Galbatorix.





Nhưng chuyện đó là vô phương, nên anh mỉm cười, hoặc cười phá lên, cố giấu nỗi sợ hại, thậm chỉ khi anh biết cô cũng đang cố giấu nỗi sợ hại như vậy.



Khỉ thật, Eragon, anh nghĩ, cậu phải nhanh nhanh lên, hoặc tôi thề sẽ ám cậu sau khi chết đấy.



*******************************





Hội đồng chiến tranh





Trên hành trình trở về Urû’baen từ Vroengard, Saphira không gặp phải cơn bão nào và may mắn bắt được luồng gió thuận chiều, cùng lúc các Eldunarí chhir bảo cô nàng cách tìm những luồng khí mạnh thổi quanh năm. Chúng cũng cấp cho cô nàng năng lượng liên tục để khỏi mệt.





Cứ thế, thành phố hiện ra phía đường chân trời sau hay ngày bay về từ đảo.





Trong chuyến đi, có hai lần khi mặt trời sáng chói nhất, Eragon nghĩ nó bắt gặp lối vào của túi không gian nơi các Eldunarí ẩn náu phía sau Saphira. Trông có vẻ như một điểm đen nhỏ xíu, đến nỗi nó không thể tập trung nhìn vào hơn một giây. Lúc đầu nó nghĩ đó chỉ là một hạt bụi, nhưng rồi nó nhận ra điểm đên chưa bao giờ thay đổi vị trí so với Saphira, và luôn ở cùng một vị trí khi nó nhìn vào.





Khi họ bay, thông qua Umaroth những con rồng truyền trí nhớ của chúng vào Eragon và Saphira: tầng tầng lớp lớp những kinh nghiệm – những cuộc chiến có thắng có bại, tình yêu, hận thù, thần chú, những sự kiện khắp lục địa, thống hận, nhận thức và những suy nghĩ sâu xa về cách thế giới vận hành. Những con rồng sở hữu kiến thức của hàng ngàn năm, và dường như chúng muốn chia sẻ không sót một chút nào.





Quá nhiều rồi! Eragon la lên phản đối. Chúng tôi không thể nào nhớ tất cả được, đừng nói đến còn hiểu nữa.





Không, Umaroth thở dài. Nhưng cậu có thể nhớ được một phần, và may ra chúng sẽ là những gì cậu cần để đánh bại Galbatorix. Rồi, tiếp tục nào.





Dòng thác thông tin trở nên ào ạt; có đôi lúc Eragon cảm thấy nó quên mất mình là ai, khi trí nhớ của rồng áp đảo trí nhớ của chính nó. Những lúc đấy, Eragon phải tách tâm trí mình ra và lặp đi lặp lại tên thật của nó để thấy an tâm hơn.





Những gì nó và Saphira học được làm chúng kinh ngạc lẫn bối rối, thường xuyên khiến nó tự vấn niềm tin của chính mình. Nhưng nó không có thời gian chìm đắm vào những suy nghĩ như vậy, vì luôn có luồng trí nhớ mới bồi tiếp chúng. Nó biết phải hàng năm trời mới có thể lý giải được những gì lũ rồng đang cho chúng thấy.





Càng học thêm về loài rồng, nó càng thấy chúng đáng kính sợ. Những sinh vật sống qua hàng trăm năm có cách suy nghĩ rất lạ thường, và những con rồng cổ nhất khác xa với Glaedr và Saphira cũng như chúng khác xa đỉnh Fanhur ở rặng Beor Hùng Vĩ vậy. Tiếp xúc với rồng cổ đại thực khiến nó bối rối lẫn khó chịu; chúng thường nhảy cầu, liên kết, so sánh có vẻ vô nghĩa, nhưng Eragon biết bao hàm một tầng nghĩa sâu sắc. Thỉng thoảng nó hiểu được những gì lũ rồng nói, còn lũ rông thì chẳng thèm giải thích theo cách mà nó có thể hiểu.





Sau một thời gian, nó nhận ra chúng không thể bày tỏ bản thân bằng cách khác. Sau hàng thế kỉ, trí óc của chúng dần dà đổi thay; những gì có vẻ đơn giản và thẳng như cái cẳng thì đối với chúng lại rất phức tạp, và ngược lại cũng vậy. Nó cảm thấy lắng nghe tư tưởng của lũ rồng cũng hệt như đang nghe tư tưởng của một vị thần vậy.





Khi nó nghĩ như vậy, Saphira khịt mũi nói, Có hơi chút khác đó.





Như thế nào?





Không như thần thánh, rồng tham gia vào những sự kiện của thế giới.





Có khi thần thánh lại không muốn bị nhìn thấy.





Thế thì có gì hay chứ?





Em tin là rồng thì tốt hơn thần thánh à? Nó hỏi tếu.





Uh, khi rồng trưởng thành hoàn toàn. Sinh vật nào hùng mạnh hơn bọn em? Kể cả Galbatorix cũng phải dựa vào rồng để có sức mạnh của hắn.





Thế còn Nïdhwal thì sao?





Cô nàng hít sâu. Bọn em bơi được, còn chúng thì bay sao nổi.





Eldunarí cổ nhất, một con rồng tên Valdr – có nghĩa “người cầm quyền” trong cổ ngữ - nói chuyện trực tiếp với họ một lần. Từ con rồng, họ như thấy hàng chùm tia sáng biến thành những cơn sóng cát, cũng như cảm giác bối rối khi mọi thứ có vẻ đặc cứng hầu hết là những khoảng rỗng (cấu trúc nguyên tử với lưỡng tính sóng-hạt chăng ^_^). Rồi Valdr cho họ thấy tổ của con sáo đá đang ngủ, Eragon có thể giấc mơ của chúng cũng lập lòe trong tâm trí mình như cái chớp mắt. Lúc đầu cảm xúc của Valdr là khinh miệt – giấc mơ của con chim sáo dường như tí hơn, tủn mủn và không liền mạch – nhưng rồi tâm trạng của ông thay đổi ấm áp và cảm thông hơn, khi những quan tâm nhỏ nhất của con sáo đá dần trở nên quan trọng, cho đến khi nó ngang với sự lo lắng của những bậc vua chúa.





Valdr cứ loanh quanh ở đó, như thể để đảm bảo Eragon và Saphira sẽ nhớ đến chúng trong biết bao luồng trí nhớ. Tuy thế cả hai đều không chắc chắn con rồng có ý gì, còn Valdr thì từ chối giải thích thêm.





Cuối cùng Urû’baen cũng hiện ra trước mắt, các Eldunarí ngừng chia sẻ trí nhớ với Eragon và Saphira, Umaroth nói, Bây giờ tốt nhất là xem xét hang ổ của kẻ địch.





Rồi họ nhìn thành phố khi Saphira hạ cánh xa mục tiêu hàng dặm. Khung cảnh trước mắt không có vẻ khích lệ chút nào, cũng chẳng khá hơn khi Glaedr thở dài, Galbatorix đã xây nhiều thứ từ khi hắn xua chúng ta khỏi nơi này. Bức tường trước đây không dày cũng không cao như bây giờ.





Umaroth bổ sung thêm: Ilirea cũng không được gia cố như thế này trong chiến tranh của rồng với tiên nhân. Tên Phản Đồ rúc sâu xuống đất và chồng cả núi đá lên hang ổ. Hắn sẽ không ra quyết đấu đâu. Hắn hệt như con lửng lúc nào cũng nằm lì trong hang và cắn chảy máu kẻ nào cố kéo hắn ra.





Một dặm về hướng Tây Nam từ phía thành phố là doanh trại của Varden. Nó có vẻ lớn ra đáng kể so với những gì Eragon nhớ, cho đến khí nó nhận ra Nữ hoàng Islanzadí và quân đội của bà rốt cục cũng gia nhập vào quân Varden. Nó thở phào nhẹ nhõm. Kể cả Galbatorix cũng kiêng dè sức mạnh của tiên nhân.





Khi nó và Saphira còn cách hàng dặm xa doanh trại, các Eldunarí giúp Eragon nới rộng tầm tâm thức cho đến khi nó cảm nhận tâm trí của con người, người lùn, tiên nhân, và các Urgal trong doanh trại. Sự tiếp xúc của nó nhẹ đến mức không ai có thể chú ý trừ khi họ tập trung quan sát, rồi chợt nó thấy một giai điệu nhạc lạ thường chứng tỏ tư tưởng của Blödhgarm, nó tập trung vào một mình tiên nhân đó.





Blödhgarm’s, nó nói. Là tôi đây, Eragon. Nó càng lúc càng ăn nói trang trọng tự nhiên sao thời gian dài chìm đắm trong kinh nghiệm thời cổ đại.





Khắc tinh của Tà Thần! Cậu có ổn không? Tâm trí cậu lạ thường quá. Saphira có ở cùng cậu không? Cô rồng có bị thương không? Có chuyện gì xảy ra với Glaedr?





Họ ổn cả, như tôi vậy.





Thế thì … Blödhgarm rõ ràng rất bối rối.





Ngắt lời ông, Eragon nói, Chúng tôi ở không xa, nhưng giờ này tôi đang ẩn thân. Người ta vẫn còn thấy ảo ảnh Saphira và tôi chứ.





Đúng vậy, Khắc tinh của Tà thần. Chúng tôi cho Saphira lượn vòng quanh khu trại trên khoảng một dặm. Thi thoảng chúng tôi ẩn cô rồng vào lùm mây, hoặc có vẻ như hai người đang đi tuần tra, nhưng chúng tôi không dám để Galbatorix nghĩ cậu đi quá lâu. Chúng tôi sẽ làm ảo ảnh của cậu bay đi ngay bây giờ, rồi cậu có thể quay lại mà không có ai nghi ngờ.





Không được. Thế này, cứ chờ và tiếp tục duy trì thần chú thêm nữa đi.





Vậy Khắc tinh của Tà Thần…?





Chúng tôi không bay trực tiếp về trại. Eragon nhìn xuống bình nguyên. Có một ngọn đồi nhỏ tầm hai dặm về phía Đông Nam. Ông có biết không?





Đúng, tôi có thể thấy nó.





Saphira sẽ hạ cánh phía sau đó. Gọi Arya, Orik, Jörmundur, Roran, Nữ hoàng Islanzadí và vua Orrin tới đây, nhưng phải chắc họ không rời trại cùng lúc. Ông giúp họ ẩn đi là tốt nhất. À mà ông cũng nên tới nữa.





Như cậu muốn … Khắc tinh của Tà Thần, cậu đã tìm thấy gì ở …





Không! Đừng hỏi tôi. Giờ quá nguy hiểm để nghĩ về chuyện đó. Cứ đến và tôi sẽ nói với ông, nhưng tôi không thể om sòm trả lời khi người khác có thể nghe trộm.





Tôi hiểu. Chúng tôi sẽ tới gặp cậu nhanh nhất có thể, nhưng sẽ mất chút thời gian bố trí chuyến đi đấy.





Dĩ nhiên. Tôi tin ông sẽ làm điều tốt nhất.





Eragon ngắt kết nối và tựa lưng vào yên cương. Nó cười khẽ tưởng tượng biểu tình của Blödhgarm khi biết về những Eldunarí.





Một cơn lốc ào đến, Saphira hạ cánh lên khoảng đất phía chân đồi, làm đàn cừu gần đó giật mình, vừa chạy trối chết vừa thét be be ai oán.





Thu cánh lại, Saphira nhìn theo đàn cừu nói, Bắt chúng còn dễ hown nhiều, chúng có thấy em đâu. Cô nàng liếm láp miếng thịt khô.





“Phải, nhưng thế thì còn thể thao gì nữa?” Eragon tháo rời yên cương khỏi chân.





Thế thao làm sao mà đầy bụng được.





“Không, nhưng sau đó em đâu có đói, phải không?” Luồng năng lượng từ các Eldunarí dù không đáng kể cũng đủ khiến cô nàng chẳng buồn ăn.





Cô nàng phì ra một hơi lớn như thể thở dài. Không, không hẳn …





Khi họ chờ đợi, Eragon dang chân cho đỡ nhức, rồi ăn bữa trưa ít ỏi từ những gì còn lại cho túi đựng. Nó biết thừa Saphira đang nằm ườn ra trên khoảng trống bên cạnh, dù nó không trông thấy cô nàng. Sự hiện diện của cô nàng bị lộ bởi khoảng lớn cỏ bị cô nàng đè xuống thành hình dáng kì cục. Không rõ vì sao những cảnh ấy làm nó rất thích chí.





Khi đang ăn, nó nhìn chăm chú cánh đồng yên bình quanh đồi, quan sát những cơn gió lùa qua kẽ lá lúa mạch. Những vách đá dài thấp chia cắt cánh đồng, chắc phải mất hàng trăm năm mới đào được từng ấy đá.





Ít ra thì không thành vấn đề ở Thung Lũng Palancar nhỉ, nó thầm nhủ.





Giây lát sau, một luồng trí nhớ của rồng tràn vào tâm trí, nó biết chính xác bức tường có từ bao giờ, từ thời mà con người bắt đầu tới sống ở khu tàn tích của Ilirea, sau khi các tiên nhân đánh bại quân đội của vua Palancar. Nó có thể thấy như thế nó ở đó, hàng đoàn đàn ông, phụ nữ và trẻ nhỏ cày xới cánh đồng và chất đá lên nơi giờ làn những bức tường.





Một lúc sau, Eragon để luồng trí nhớ nhạt đi, rồi nó mở tâm thức đến những con sóng năng lượng xung quanh. Nó lắng nghe tư tưởng của một chú chuột đồng, một con sâu trong lòng đất, hay một chú chim bay vọt trên đầu. Có vẻ hơi mạo hiểm khi nó có thể tiết lộ cho bất cứ kẻ dùng phép thuật nào xung quanh về sự hiện diện của mình, nhưng nó thấy tốt hơn là biết ai hay cái gì ở gần, rồi không kẻ nào có thể bất ngờ tấn công nó.





Rồi nó cảm nhận Arya, Blödhgarm và Nữ hoàng Islanzadí đang dần tiến đến, nó cũng không phản ứng lại khi họ tiến tới từ vạt chân đồi phía tây.





Không khí bị rẽ ra như nước, rồi ba tiên nhân xuất hiện trước mặt nó. Nữ hoàng Islanzadí đi đầu, lúc nào trông cũng vương giả. Bà mặc chiếc áo giáp làm từ vảy, với mũ miện trang sức trên đầu, cùng áo choàng đỏ trắng cài trên vai. Một thanh gươm dài thuôn đeo trên phần hông nhỏ nhắn của bà. Một tay bà là thành giáo dài nhọn đầu , tay kia là một chiếc khiên hình lá phong – vành khiên thậm chí cũng có răng cưa như lá vậy.





Y như vậy, Arya cũng mặc áo giáp rất đẹp. Cô đổi bộ đồ đen sang áo giáp như mẹ - dù áo giáp của Arya là màu xám của thép, không phải vàng – và cô đội mũ giáp trang điểm bằng những dây bện rủ xuống mũi, và một đôi chim ưng dang cánh hai bên thái dương. So với sự lộng lẫy của Islanzadí, giáp của Arya trông có vẻ hơi ảm đạm, nhưng lại càng chết chóc hơn. Hai mẹ con trông như một cặp kiếm, một cái để trưng ra còn một cái để chiến đấu.





Cũng như hai tiên nữ, Blödhgarm mặc chiếc áo giáp làm từ vảy, nhưng để đầu trần, và không mang vũ khí gì ngoài con dao nhỏ giắt trên lưng.





“Hiện thân đi, Eragon Khắc tinh của Tà Thần,” Islanzadí nhìn về phía nó đứng.





Eragon phá bỏ thần chú che giấu nó và Saphira, rồi cúi chào nữ hoàng tiên nhân.





Bà lướt đôi mắt đen trên người nó, xem xét như thế nó là con ngựa đắt giá. Không như trước, giờ nó hoàn toàn nắm rõ ánh mắt của bà. Sau vài giây, nữ hoàng thở nhẹ, “Cậu đã khá hơn rồi, Khắc tinh của Tà Thần.”





Nó lại cúi xuống lần nữa. “Đa tạ, thưa Nữ hoàng.” Giọng nói của bà lúc nào cũng làm nó bồi hồi. Cứ như thể ngâm nga với phép thuật và âm nhạc vậy, mỗi lời tựa như một phần của bài thơ thiên cổ. “Lời khen tặng từ một người thông thái và đẹp như người thực sự rất có ý nghĩa.”





Các tiên nhân hỏi dồn dập nó, Saphira và Glaedr, nhưng cả ba từ chối trả lời cho đến khi những người khác tới. Dù vậy, Eragon nghĩ họ cảm nhận một chút về Eldunarí, vì nó chú ý họ thi thoảng liếc mắt về phía tim-của-tim, dù họ có vẻ không nhận ra.





Orik là người kế tiếp đến. Từ phía Nam ông cưỡi con ngựa bờm xờm, vã mồ hôi và thở hổn hển. “Ho, Eragon! Ho, Saphira!” vua Lùn giơ tay la lên. Ông trượt xuống con ngựa mệt lử, dậm chân bước tới ôm Eragon thật chặn như thể nghiền nát sống lưng nó.





Khi họ chào nhau xong – Orik chà xát nhẹ vào mũi Saphira, làm cô nàng rên ư ử - Eragon hỏi, “Lính canh của anh đâu?” Orik nhún vai. “Đang ngồi tết râu trong một nông trại một dặm về phía tây, và anh cho là cũng không vui vẻ gì cho cam. Anh tin tưởng hoàn toàn bọn họ - cùng tộc ấy mà – nhưng Blödhgarm nói tốt nhất là anh tới một mình, thế đấy. Giờ nói với anh nào, có bí mật gì nào? Cậu tìm thấy gì ở Vroengard?





“Anh phải chờ những người còn lại của hội đồng tới mới biết được,” Eragon phì cười. “Nhưng em rất mừng vì gặp lại anh.” Nó vỗ vỗ vào vai Orik.





Roran đi bộ tới ngay sau đó, nhìn chán nản và bụi bặm. Anh nắm lấy cánh tay Eragon chào mừng nó, rồi kéo qua một bên khẽ nói, “Chú có thể khiến họ không nghe thấy mình không?” Anh hất hàm về phía Orik và các tiên nhân.





Eragon chỉ mất vài giây để cách âm. “Xong rồi.” Cùng lúc, nó ngăn tâm trí mình với Glaedr và các Eldunarí, nhưng vẫn duy trì với Saphira.





Roran gật gù và nhìn về phía cánh đồng. “Anh đã có vài lời với vua Orrin khi chú đi.”





“Lời à? Như thế nào?





“Ông ta như một tên ngốc, và anh đã nói thẳng như vậy.”





“Em cho là ổng không đáp trả tử tế đâu.”





“Chú nói vậy cũng được. Ông ta cố đâm anh.”





“Ông ta làm cái gì?”





“Anh đã đánh văng gươm trước khi ông ta kịp đâm, nhưng nếu ông ta thuận lợi, ông ta dám chắc giết anh lắm.”





“Orrin?” Eragon khó tưởng tượng một vị vua lại làm như vậy. “Anh có làm ổng bị thương không?”





Lần đầu tiên Roran mìm cười: biểu tình ấy nhanh chóng biến mất dưới bộ râu. “Anh làm ông ta sợ, chắc thế còn tệ hơn.”





Eragon càu nhàu siết chặt chuôi thanh Brisingr. Nó nhận ra nó và Roran có tư thế ý hệt nhau; họ cùng nắm chặt vũ khí, và tựa trên hai chân đối diện nhau. “Ai biết chuyện này nữa?”





“Jörmundur – ông ấy ở đó – và bất kể ai Orrin kể cho.”





Eragon đăm chiêu bước tới lui, cố quyết định phải làm gì. “Thời điểm không tệ hơn được.”





“Anh biết. Anh sẽ không lỗ mãng với Orrin, nhưng ổng định gửi “chào mừng hoàng gia” tới Galbatorix cùng mấy chuyện nhảm nhí nữa. Ổng sẽ làm chúng ta bị nguy hiểm mất. Anh không thể để chuyện đó xảy ra. Chú chắc cũng làm như thế thôi.”





“Có lẽ vậy, nhưng chuyện này làm mọi thứ khó khăn hơn đấy. Giờ em là lãnh đạo Varden. Tấn công anh hay bất kì binh sĩ nào dưới quyền cũng hệt như tấn công em vậy. Orrin biết thừa, mà ổng còn biết chúng ta có chung dòng máu. Ông có thể quăng bao tay vào mặt em lắm chứ.”





“Ổng đang say,” Roran nói. “Anh không rõ ông ta có nghĩ gì không khi rút gươm nữa.”





Eragon thấy Arya và Blödhgarm liếc nhìn họ tò mò. Nó dừng bước và quay lưng lại với họ.





“Anh rất lo cho Katrina,” Roran thêm vào. “Nếu Orrin cay cú quá, ổng có thể cho người theo anh hoặc cô ấy. Thế nào đi nữa, cô ấy cũng sẽ tổn thương. Jörmundur đã cho người gác lều cô ấy rồi, nhưng thế không đủ đâu.”





Eragon lắc đầu. “Orrin không dám làm chị ấy bị thương đâu.”





“Không dám à? Ổng không thể làm hại chú, cũng chả có đủ gan đối mặt với anh, thế thì còn gì nữa? Chỉ có mai phục thôi. Dao nhọn trong bóng tối. Giết Katrina là Orrin dễ dàng trả được thù rồi.”





“Em ngờ chuyện Orrin phải viện đến sát thủ - hay làm hại Katrina.”





“Nhưng chú làm sao chắc được.”





Eragon nghĩ trong giây lát. “Em sẽ đặt vài bùa chú lên Katrina để giữ chị ấy an toàn, và em sẽ cho Orrin biết em đã làm chuyện đó. Thế đủ để đánh tan mọi kế hoạch ổng đang ấp ủ rồi.”





Nét căng thẳng trên mặt Roran tan dần đi. “Anh rất cảm kích.”





“Em sẽ đặt vài tuyến phòng hộ lên anh nữa.”





“Đừng, chú phải giữ sức. Anh có thể tự lo được.”





Eragon nài nỉ nhưng Roran kiên quyết từ chối. Cuối cùng Eragon gắt, “Khỉ thật! Nghe em này. Chúng ta sẽ đánh nhau với quân của Galbatorix đấy. Anh phải có vài sự bảo vệ, ít ra cũng để chống lại phép thuật. Em sẽ đặt phòng hộ lên người anh dù anh muốn hay không, rồi anh sẽ cười và cảm ơn em đấy!”





Roran nhìn trừng trừng nó, rồi càu nhàu giơ tay. “Rồi, chú cứ làm đi. Chú chả bao giờ biết từ bỏ cái gì hết.”





“Ờ, anh thì có chắc?”





Roran cười khúc khích sâu trong bộ râu. “Có lẽ không. Chắc là di truyền quá.”





“Mmh. Em không rõ Brom hay Garrow thì cứng đầu hơn nữa.”





“Cha đấy.” Roran chắc nịch





“Eh … Brom thì như – Không, anh nói phải. Bác Garrow đấy.”





Cả hai cười toe toét, hồi tưởng lại khoảng đời ở nông trại. Rồi Roran đổi tư thế và nhìn Eragon kì lạ. “Chú trông khác nhiều đấy.”





“Thật không?”





“Ừ, đúng. Chú nhìn có vẻ tự tin hơn nhiều.”





“Có lẽ vì em hiểu rõ bản thân hơn nhiều.”





Roran không nói được gì hết.





Nửa giờ sau, Jörmundur và vua Orrin cưỡi ngựa cùng nhau tới. Eragon chào Orrin lịch sự, nhưng Orrin đáp trả cộc lốc và lẩn tránh ánh mắt nó. Kể cả từ khoảng vài thước, Eragon vẫn có thể ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở ông.





Khi họ tập trung phía trước Saphira, Eragon bắt đầu nói. Đầu tiên, nó buộc mọi người thề bằng cổ ngữ giữ bí mật. Rồi nó giải thích khái niệm Eldunarí cho Orik, Roran, Jörmundur và Orrin, rồi nó tóm tắt lịch sử của trái tim như ngọc của loài rồng đối với các Kỵ Sỹ và Galbatorix.





Các tiên nhân có vẻ không thoải mái khi Eragon tự nhiên bàn luận về Eldunarí với người khác, nhưng nó mừng là không ai phản đối. Ít nhất nó cũng đươc tin tưởng ngần ấy. Orik, Roran và Jörmundur có vẻ ngạc nhiên, không tin và đặt hàng tá câu hỏi. Đặc biệt trong mắt Roran có một tia sáng lóe lên, như thế thông tin này gợi cho anh ý tưởng có thể giết Galbatorix.





Từ đầu đến cuối, Orrin vẫn cáu kỉnh và tỏ vẻ bấn cần không tin vào sự tồn tại của các Eldunarí. Cuối cùng, Eragon dập tắt nghi ngờ của ông khi lấy tim-của-tim Glaedr ra khỏi túi yên cương, giới thiệu con rồng với bốn người.





Vẻ kính sợ của họ khi gặp Glaedr làm hài lòng Eragon. Kể cả Orrin cũng rất ấn tượng, nhưng sau khi nói vài lời với Glaedr, ông quay qua Eragon hỏi, “Nasuada có biết về chuyện này không?”





“Có. Tôi nói cho công nương biết ở Feinster.”





Như Eragon đoán trước, chuyện này làm Orrin phật ý. “Và một lần nữa các người bỏ lơ ta. Không có sự hỗ trợ của binh sĩ và lương thực của đất nước ta, quân Varden không có hy vọng đối mặt với Đế chế. Ta là một lãnh đạo một trong bốn vương quốc trên toàn lãnh thổ Alagaësia, binh sĩ của ta chiếm đáng kể trong tổng binh lực, và cả hai người cho là hợp lý khi không nói gì cho ta hết!”





Trước khi Eragon kịp phản ứng, Orik bước lên. “Họ không nói gì cho tôi nữa, Orrin,” vua Lùn gầm gừ. “Và người của tôi cũng giúp đỡ Varden lâu hơn ông nhiều. Ông không nên công kích họ. Eragon và Nasuada đã làm những điều họ nghĩ là tốt nhất, chứ không phải bất kính ông.”





Orrin cau có như thế sẽ tiếp tục tranh cãi, nhưng Glaedr nói với ông, Họ làm thế vì được yêu cầu, Vua của Surda à. Eldunarí là bí mật lớn nhất của giống loài chúng tôi, và không dễ để chia sẻ với loài người, kể cả các vị vua.





“Thế sao bây giờ lại làm thế?” Orrin thắc mắc. “Các người có thể bắt đầu cuộc chiến mà không cần lộ diện cơ mà.”





Để trả lời, Eragon nhắc lại câu chuyện hành trình của họ đến Vroengardm, kể cả lần chạm trán với bão biển và cảnh tượng trên tầng mây. Arya và Blödhgarm có vẻ rất chú ý, trong khi Orik không thoải mái cho lắm.





““Barzûl, nhưng có vẻ đấy là một kinh nghiệm đáng tởm,” ông nói. “Nó làm tôi rùng hết cả mình. Với người lùn thì lòng đất ổn hơn bầu trời rất nhiều.”





Tôi đồng ý, Saphira phì cười, khiến Orik cau có xoắn hai cái khuyên trên râu của ông.





Trở lại câu chuyện, Eragon kể làm thế nào nó, Saphira và Glaedr vào được Hầm mộ của những Linh Hồn, thế nhưng nó nhịn không tiết lộ chuyện đó yêu cầu tên thật của họ. Khi nó kể những gì căn hầm chứa đứng, một khoảng lặng sốc trong giây lát diễn ra.





Rồi Eragon yêu cầu, “Mở tâm trí mọi người ra.”





Giây lát sau, âm thanh thì thầm tràn ngập không khí, Eragon cảm thấy Umaroth và những con rồng khác đang hiện diện quanh họ.





Các tiên nhân lảo đảo, Arya thì quỳ xuống trên một đầu ống, dí bàn tay lên một bên đầu như thế cô vừa bị đánh. Orik phụt ra một tiếng kêu mà nhìn rất hoang dã, trong khi Roran, Jörmundur và Orrin thì chết lặng.





Nữ hoàng Islanzadí cũng quỳ xuống, bắt chước khá giống con gái bà. Trong tâm thức, Eragon nghe bà nói với lũ rồng, chào hỏi rất nhiều cái tên và chào mừng chúng như những cố nhân. Blödhgarm cũng thế, trong vài phút những luồng ý nghĩ xáo động qua lại giữa lũ rồng và những người dưới chân đồi.





Tạp âm trở nên kinh khủng, Eragon phải chặn bản thân nó khỏi nó và ngồi trở về chân trước của Saphira, chờ đợi tiếng ồn lắng xuống. Các tiên nhân có vẻ bị ảnh hưởng nhiều nhất: Blödhgarm nhìn trân trối vào không khí với biểu tình vui mừng và lo lắng, trong khi Arya tiếp tục quỳ, Eragon ngỡ nó thấy hàng nước mắt chảy dài trên má cố. Islanzadí cười rạng rỡ, đến nỗi từ khi gặp bà tới giờ, Eragon nghĩ đây là lần đầu bà thực sự hạnh phúc.





Orik rùng mình thoát khỏi cơn mơ màng. Nhìn Eragon ông nói, “Thề với búa của Morgothal, cái này thực sự là bước ngoặt đây! Với sự giúp đỡ của họ, chúng ta thực sự có thể giết Galbatorix!”





“Anh không nghĩ chúng ta có thể trước đây sao?” Eragon cười tủm tỉm.





“Dĩ nhiên là có. Nhưng không chắc như bây giờ.”





Roran cũng rùng mình, như thế tỉnh khỏi cơn mê. “Anh không hề … I biết chú và các tiên nhân sẽ chiến đấu hết mình, nhưng anh không tin chú có thể thắng.” Ánh mắt anh bắt gặp Eragon. “Galbatorix đã đánh bại rất nhiều Kỵ Sỹ, mà cậu chỉ có một, lại còn quá trẻ nữa. Chuyện đó có vẻ không thể.”





“Em biết.”





“Giờ thì, …” Ánh hoang dại lóe lên trong mắt Roran. “Giờ chúng ta có cơ hội rồi.”





“Phải,” Jörmundur thở phào. “Chỉ cần nghĩ rằng chúng ta không phải lo lắng về Murtagh nữa. Hắn chẳng thấm vào đâu so với cậu và những con rồng cộng lại.”





Eragon không trả lời, dậm nhẹ gót xuống chân trước Saphira. Nó có ý tưởng khác về chuyện đó. Ngoài ra, nó không muốn phải giết Murtagh.





Rồi Orrin lên tiếng. “Umaroth nói cậu đã xem xét lại kế hoạch trận chiến. Cậu có sẵn lòng chia sẻ với chúng tôi không, Khắc tinh của Tà thần?”





“Tôi cũng muốn được nghe,” Islanzadí yêu cầu với giọng nhẹ nhàng hơn.





“Tôi nữa,” Orik nói.





Eragon nhìn họ không chớp mắt trong giây lát, rồi gật đầu. Nó nói với Islanzadí, “Quân đội của người có sẵn sàng chiến đấu không?”





“Chắc chắn. Chúng tôi đã chờ trả thù quá lâu rồi, chúng tôi sẽ không đợi thêm nữa.”





“Và chúng ta?” Eragon hướng gươm về phía Orrin, Jörmundur và Orik.





“Dân tộc của tôi rất trông chờ trận chiến này,” Orik tuyên bố.





Jörmundur liếc nhìn vua Orrin. “Các binh sĩ của chúng ta mệt mỏi và đói khát, nhưng ý chí của họ là sắt thép.”





“Cả các Urgal nữa chứ?”





“Cả họ nữa”.





“Thế thì chúng ta tấn công.”





“Khi nào?” Orrin hỏi.





“Khi bình minh lên.”





Trong khoảnh khắc, không ai lên tiếng.





Roran phá vỡ sự im lặng. “Nói thì dễ hơn làm đấy. Như thế nào?”





Eragon giải thích. Khi kết thúc, lại một tràng im lặng dài nữa.





Roran ngồi xổm xuống, bắt đầu vẽ vẽ trên đất bằng đầu ngón tay. “Quá mạo hiểm”.





“Nhưng táo bạo,” Orik nói. “Rất táo bạo.”





“Không còn cách nào an toàn cả,” Eragon quả quyết. “Nếu chúng ta có thể chộp được Galbatorix không chuẩn bị, dù chỉ một chút thôi, là đủ đáng để làm rồi.”





Jörmundur cúi đầu trầm ngâm. “Sao không giết murtagh trước? Tôi không hiểu chuyện đó. Vì sao không giải quyết hắn và Thorn khi ta có cơ hội?”





“Bởi vì,” Eragon đáp, “khi đó Galbatorix sẽ biết về họ.” Nó ngước về phía các Eldunarí đang trôi nổi. “Chúng ta sẽ mất lợi thế bất ngờ”.





“Thế còn đứa trẻ thì sao?” Orrin nôn nóng hỏ. “Điều gì khiến cậu nghĩ nó sẽ giúp cậu? Con bé chưa từng làm thế.”





“Lần này thì có,” Eragon hứa, tự tin nhiều hơn nó thực sự thấy.





Nhà vua càu nhàu có vẻ không tin.





Rồi Islanzadí hỏi, “Eragon, thực ra một chuyện kinh khủng lẫn vĩ đại. Cậu có sẵn sàng không? Không phải vì tôi nghi ngờ sự tận tâm và lòng dũng cảm của cậu, mà tôi hỏi vì chuyện này cần rất cân nhắc rất kĩ. Nên tôi hỏi: cậu có sẵn sàng, bất kể cái giá phải trả, hay không?”





Eragon không đứng lên, nhưng giọng của nó trở nên sắt đá hơn. “Có. Đây là điều cần làm, và chúng ta là người phải thực hiện nó. Dù có phải trả giá thế nào, chúng ta không thể lui bước được.”





Tỏ vẻ đồng ý, Saphira khẽ mở miệng và cắn nhẹ, đúng lúc hết câu của nó.





Islanzadí ngước mắt nhìn bầu trời. “Ngài và những người ngài đại diện có đồng ý không, Umaroth-tiền-bối?”





Chúng tôi đồng ý, con rồng trắng đáp.





“Thế thì tiến thôi,” Roran lẩm bẩm.



*******************************





Chuyện nghĩa vụ (A matter of duty)





Mười người bọn họ, kể cả Umaroth, tiếp tục nói chuyện thêm một tiếng nữa. Orrin cần được thuyết phục thêm, và có nhiều chi tiết được quyết định: thời điểm, vị trí và các tín hiệu.





Eragon thấy nhẹ nhõm khi Arya quả quyết, “Trừ khi cậu hay Saphira phản đối, tôi sẽ đi cùng ngày mai.”





“Chúng tôi rất mừng được có nàng đi theo,” nó nói.





Islanzadí nghẹn giọng. “Con đi thì làm được gì chứ? Năng lực của con cần ở chỗ khác, Arya. Blödhgarm và các phù thủy ta phân phó cho Saphira và Eragon tinh thông pháp thuật hơn, mà cũng có kinh nghiệm chiến đấu hơn con nhiều. Đừng quên họ đã chiến đấu lại những Kẻ Phản Tặc (Forsworn), và không như những người khác, họ đã sống sót. Nhiều tiền bối của dân tộc ta sẽ sẵn sàng thế chỗ con. Nài ép vào vị trí hợp với người khác sẵn sàng và có khả năng hơn chỉ đơn thuần ích kỉ mà thôi.”





“Tôi cho là không ai phù hợp với nhiệm vụ này hơn Arya,” Eragon lặng lẽ nói. “Và tôi sẽ không muốn ai khác, trừ Saphira, bên mình trong chuyện này.”





Islanzadí trân trối nhìn Arya và Eragon, “Cậu còn quá trẻ, Khắc tinh của Tà Thần, và rõ ràng cậu để cảm xúc che mờ lý trí.”





“Không phải đâu, thưa Mẹ,” Arya nói. “Chính là mẹ đang để cảm xúc che mờ lý trí.” Cô uyển chuyển sải bước tiến lại phía Islanzadí. “Mẹ nói đúng, có nhiều người mạnh mẽ hơn, thông thái hơn và nhiều kinh nghiệm hơn con. Những con là người chuyên chở trứng của Saphira trên đất Alagaësia. Con đã cứu Eragon khỏi tay Tà thần Durza. Với sự giúp đỡ của Eragon, con đã tiêu giết Tà thần Varaug ở Feinster. Như Eragon, giờ con là Khắc tinh của Tà thần, và mẹ biết rõ con thề sẽ phục vụ dân tộc ta từ rất lâu rồi? Thậm chí nếu con muốn, con sẽ không chạy trốn đâu. Con sẽ chết sớm thôi. Con đã sẵn sàng cho thử thách này cũng như bất kì bậc tiền bối nào, vì chuyện đó con sẵn sàng cống hiến cả đời mình, như Eragon vậy.”





“Và toàn bộ cuộc đời của con quá ngắn,” Islanzadí khe khẽ. Bà đặt tay lên khuôn mặt Arya. “Con đã cống hiến vào cuộc đấu tranh chống Galbatorix suốt từ khi cha con mất, nhưng con biết quá ít về những niềm vui cuộc đời này ban tặng. Bao năm qua chúng ta đã không ở cạnh nhau: chỉ vài ngày rải rác trong suốt thế kỉ. Chỉ từ khi con đem Saphira và Eragon tới Ellesméra thì chúng ta mới lại nói chuyện như mẹ và con gái lần nữa. Ta sẽ không để mất con sớm như vậy đâu, Arya.”





“Con không phải là người chọn cách chia cắt,” Arya lặng lẽ.





“Không,” Islanzadí nói, rút lại bàn tay. “Nhưng con đã chọn cách rời Du Weldenvarden.” Nét mặt bà giãn ra. “Ta không muốn tranh cãi, Arya. Ta hiểu con nghĩ chuyện này là nghĩa vụ của mình, nhưng làm ơn, vì ta, con hãy để người khác thế chỗ mình được không?”





Arya cúi đầu im lặng. Rồi cô nói, “Con không thể để Eragon và Saphira đi mà không có mình, cũng như mẹ sẽ không thể để quân đội của mình tiến lên mà không có mẹ dẫn đầu. Con không thể … Mẹ sẽ để con tự trách mình là một kẻ hèn nhát ư? Gia đình ta không bao giờ trốn tránh chuyện phải làm; đừng yêu cầu con khinh bỉ chính mình.”





Ánh mắt Islanzadí lấp lánh như nước mắt nhìn về phía Eragon. “Phải,” nữ hoàng khẽ nói, “nhưng chiến đấu với Galbatorix thì …”





“Nếu mẹ quá sợ điều đó,” Arya nói giọng ấm áp, “thì hãy đi với con.”





“Ta không thể. Ta phải chỉ huy quan đoàn của mình.”





“Và con phải đi với Eragon và Saphira. Nhưng con hứa con sẽ không chết đâu.” Arya đặt bàn tay lên khuôn mặt mẹ cô như bà vừa làm. “Con sẽ không chết.” Rồi Arya lặp lại câu nói, lần này bằng cổ ngữ.





Quyết tâm của Arya khiến Eragon ấn tượng; để nói điều đó bằng cổ ngữ chứng tỏ cô phải tin tưởng mà không cần bằng cớ gì hết. Islanzadí cũng ấn tượng như vậy, và tự hào nữa. Bà mỉm cười và hôm lên má Arya. “Vậy thì đi đi, với lời cầu chúc của ta. Và đừng có mạo hiểm hơn cần thiết.”





“Cả mẹ nữa.” Rồi hai người ôm nhau.





Khi họ tách ra, Islanzadí nhìn về phía Eragon lẫn Saphira nói, “Hãy trông chừng nó, ta cầu khẩn cậu, nó không có một con rồng hay Eldunarí bảo vệ cả.”





Chúng tôi hứa, Eragon và Saphira đồng thanh đáp bằng cổ ngữ.





Khi mọi chuyện đã dàn xếp xong, hội đồng lãnh đạo giải tán, các thành viên dần đi mất. Ngồi cạnh Saphira, Eragon dõi theo những người khác dần khuất bóng. Cả hai đều không cử động chút nào. Saphira phải ẩn mình dưới chân đồi đến khi cuộc tấn công bắt đầu, còn nó thì đợi đêm xuống trước khi vào doanh trại.





Orik là người thứ hai rời đi sau Roran. Vua Lùn đi tới Eragon ôm nó thật mạnh. “À, anh ước có thể đi cùng hai người,” hai mắt ông trang trọng.





“Và em ước anh cũng đi,” Eragon đáp.





“Rồi, ta sẽ gặp lại nhau sớm thôi, ăn mừng chiến thắng với những thùng bia, eh?”





“Em trông chờ lắm đấy.”





Tôi nữa, Saphira nói.





“Tốt lắm,” Orik hồ hởi, gật đầu chắc nịch. “Ổn rồi nhé. Tốt nhất cậu không được để Galbatorix đánh bại đâu, nếu không danh dự sẽ buộc tôi phải tiếp chiến hắn đấy.”





“Bọn em sẽ cẩn thận mà,” Eragon mỉm cười.





“Anh cũng hy vọng thế, vì anh ngờ mình không làm được gì nhiều hơn vặn mũi Galbatorix.”





Ồ cái này em muốn thấy đấy, Saphira cười.





Orik làu bàu. “Các vị thần phù hộ cho cậu, Eragon, và cho ngươi nữa, Saphira.”





“Và cho anh, Orik, contrai của Thrifk.” Rồi Ork vỗ vai Eragon, bước huỳnh huỵch về phía con ngựa lùn sau bụi cây.





Trong khi Islanzadí và Blödhgarm rời đi, Arya ở lại. Cô nói chuyện rất lâu với Jörmundur, Eragon cũng không để ý nhiều. Tuy nhiên khi Jörmundur cưỡi ngựa rời khỏi, Arya vẫn còn chần chờ ở đó, nó nhận ra cô muốn nói chuyện riêng với họ.





Sau khi chắc chắn mọi người đều đi khỏi, cô nhìn nó và Saphira nói, “Có chuyện gì xảy ra khi cậu đi, chuyện gì đó cậu không muốn nói trước mặt Orrin hay Jörmundur, hay … mẹ tôi?”





“Vì sao nàng hỏi như thế?”





Cô ngập ngừng. “Bởi … cả hai dường như đã thay đổi. Có phải là do các Eldunarí, hay liên quan đến cơn bão?”





Eragon mỉm cười với nhận định của cô. Nó hỏi ý Saphira, công nàng đồng ý, nó nói, “Chúng tôi đã biết được tên thật của mình.”





Đôi mắt Arya mở to. “Tên thật? Thế … hai người có hài lòng không?”





Một phần, Saphira nói.





“Chúng tôi biết được tên thật của mình,” Eragon lặp lại. “Chúng tôi thấy trái đất hình tròn. Và trong hành trình về đây, Umaroth và các Eldunarí khác chia sẽ rất nhiều trí nhớ với chúng tôi.” Nó cười nhăn nhỏ. “Tôi không dám nói mình hiểu hết được chúng, nhưng chúng mọi thứ … khác đi.”





“Tôi hiểu,” Arya lẩm bẩm. “Cậu có nghĩ thay đổi này tốt hơn không?”





“Tôi cho là thế. Thay đổi tự nó không tốt hay xấu, nhưng kiến thức thì lúc nào cũng hữu dụng.”





“Tìm ra tên thật của mình có khó không?”





Và thế là nó nói cho cô hay làm thế nào họ làm được chuyện đó, kể cả sinh vật kì lạ họ chạm trán ở đảo Vroengard, cô tỏ vẻ rất thích thú nghe.





Khi Eragon đang kể, một ý tưởng lóe lên trong đầu nó, có vẻ rất hợp lý để bỏ qua. Nó giải thích cho Saphira, và cô nàng đồng ý, dù có vẻ miễn cưỡng hơn lúc trước.





Anh buộc phải sao? Cô nàng hỏi.





Uh.





Thế cứ làm đi, nhưng chỉ nếu cô ấy đồng ý thôi.





Khi họ xong chuyện về Vroengard, nó nhìn vào mắt Arya và nói, “Nàng có muốn nghe tên thật của tôi không? Tôi sẵn lòng chia sẻ nó với nàng.”





Đề nghị của nó có vẻ gây sốc cô. “Không! Cậu không nên nói với tôi hoặc bất kì ai khác. Đặc biết là khi chúng ta tới gần Galbatorix. Lão có thể đánh cắp được từ tâm trí tôi. Ngoài ra, cậu chỉ nên nói tên thật cho … ai đó cậu tin tưởng hết thảy thôi.”





“Tôi tin nàng.”





“Eragon, kể cả khi tiên nhân chúng tôi trao đổi tên thật, chúng tôi cũng không làm điều đó cho đến khi biết nhau rất, rất nhiều năm. Kiến thức từ đó quá cá nhân, quá mật thiết để có thể đem ra tan dóc, và không có hiểm họa nào lớn hơn chia sẻ nó. Khi cậu nói tên thật cho người khác, cậu đặt toàn bộ những gì cậu có vào tay họ.”





“Tôi biết, nhưng tôi có thể không bao giờ có cơ hội đó lần nữa. Đây là thứ duy nhất tôi phải, và sẽ nói cho nàng.”





“Eragon, điều cậu đề xuất… Đó là thứ trân quý nhất mà một người có thể cho người khác.”





“Tôi biết.”





Một cơn rùng mình thoáng quá Arya, rồi cô có vẻ khép mình lại. Một lát sau cô nói, “Chưa ai từng đề nghị cho tôi món quà lớn như thế… Tôi lấy làm vinh dự vì lòng tin của cậu, Eragon, và tôi hiểu điều đó có nghĩa như thế nào với cậu, nhưng không, tôi phải từ chối. Sẽ thật sai lầm nếu cậu làm điều đó và nếu tôi chấp nhận chỉ vì ngày mai chúng ta có thể bị giết hoặc cầm tù. Hiểm nguy không phải là lý do để hành động ngốc nghếch, dù nó có lớn chừng nào đi nữa.”





Eragon gật đầu. Lý do của cô rất hợp lý, và nó sẽ tôn trọng lựa chọn của cô. “Được rồi, như nàng muốn.” Nó thở dài.





“Cảm ơn, Eragon.”





Một khoảnh khắc thoáng quá. Rồi nó nói, “Nàng đã bao giờ nói tên thật cho ai khác chưa?”





“Chưa.”





“Kể cả mẹ nàng?”





Vành môi cô cong lại. “Không.”





“Nàng có biết tên thật của mình không?”





“Đương nhiên. Sao cậu lại nghĩ như vậy?”





Nó khẽ so vai. “Tôi không nghĩ thế, tôi chỉ không chắc lắm.” Cả hai người im lặng trong phút chốc. Rồi, “Khi nào … làm sao nàng biết tên thật của mình?”





Arya im lặng hồi lâu, nó bắt đầu nghĩ cô sẽ từ chối không nói. Nhưng rồi cô thở dài bắt đầu, “Rất nhiều năm sau khi tôi rời Du Weldenvarden, khi tôi đã quen thuộc với phận sự của mình đối với Varden và những người lùn. Faolin và những người đồng hành ở xa, tôi có một thời gian dài một mình. Hầu hết tôi dành để thám hiểm Tronjheim, lang thang ở những rìa trống của thành-phố-núi, nơi người khác hiếm khi đến. Tronjheim lớn hơn nhiều người tưởng, có nhiều thứ lạ lùng trong nó: phòng ốc, con người, sinh vật, những đồ vật bị lãng quên… Khi tôi lang thang, tôi suy ngẫm, và dần tôi hiểu bản thân mình nhiều hơn tôi từng. Một ngày tôi khám phá một căn phòng ở rất cao trong Tronjheim – tôi ngờ rằng mình có thể đến được đó lần nữa, kể cả khi cố thử. Một tia nắng ùa vào căn phòng, dù trần nhà rất kín, và giữa căn phòng có mọt bệ đá, trên đó nở ra một bông hoa. Tôi không biết đó là loại hoa gì, tôi chưa bao giờ thấy nó trước đấy. Cánh hoa màu tím, nhưng nhụy hoa thì như giọt máu vậy. Gốc hoa có gai, và bông hoa thì tỏa ra ra mùi hương tuyệt vời và nó có vẻ như ngân nga điệu nhạc. Đó thật là một cảnh tượng tuyệt vời và hiếm có, tôi đứng ở đó, chăm chú nhìn vào bông hoa lâu hơn tôi có thể nhớ, rồi tại đó, lúc đó, tôi bật thốt ra từ ngữ tôi đã và đang là.”





“Tôi muốn nhìn bông hoa ấy một ngày nào đó.”





“Có lẽ cậu sẽ thấy.” Arya liếc nhìn phía trại của Varden. “Tôi nên đi. Còn nhiều thứ phải làm.”





Nó gật đầu. “Chúng ta sẽ gặp lại sáng mai.”





“Ngay mai.” Arya thoải bước đi. Sau vài bước, cô dừng nhìn lại. “Tôi mừng vì Saphira chọn cậu làm Kỵ Sỹ, Eragon. Và tôi tự hào đã chiến đấu bên cạnh cậu. Cậu đã trở nên hơn thất cả chúng tôi có thể hy vọng. Dù chuyện gì xảy ra ngày mai, hãy nhớ như vậy.”





Rồi cô tiếp tục sải bước, nhanh chóng biết mất sau vách đồi, để nó một mình lại với Saphira và các Eldunarí.





*******************************





Ngọn lửa trong đêm





Khi màn đêm buông xuống, Eragon phù phép ẩn thân. Rồi nó vỗ nhẹ mũi Saphira, đi bộ về doanh trại Varden.





Cẩn thận nha, cô nàng nhắc.





Vì đang vô hình, nó dễ dàng lướt qua các binh sĩ đang cảnh giới phía ngoài doanh trại. Chừng nào nó còn im lặng, hoặc không ai bắt gặp dấu chân hoặc bóng của nó, thì nó còn di chuyển thoải mái.





Nó lượn vòng quanh khu lều bằng len đến khi nó gặp lều của Roran và Katrina. Nó gõ gõ đốt tay vào trụ lều, Roran thò đầu ra.





“Chú ở đâu?” Roran thầm thì. “Nhanh lên!”





Cắt đứt dòng phép thuật, Eragon hiện thân. Roran tần ngần, rồi nắm tay nó kéo vào căn lều tối.





“Chào em, Eragon,” Katrina nhấc mình lên khỏi chiếc võng.





“Katrina.”





“Thật là tốt lại được gặp em.” Cô ôm khẽ lấy nó.





“Có lâu không?” Roran hỏi.





Eragon lắc đầu. “Chắc không đâu.” Ngồi xổm xuống trên gót chân, nó nghĩ một lúc, rồi bắt đầu niệm nhẹ nhàng bằng cổ ngữ. Đầu tiên, nó đặt thần chú bảo vệ Katrina, bảo đảm cô không bị kẻ khác hại. Nó đặt phạm vi thần chí rộng hơn trước, cố đảm bảo cô và trẻ chưa sinh tránh được quân đội của Galbatorix nếu có gì xảy ra cho nó và Roran. “Những bùa chú này sẽ bảo vệ chị khỏi một số kiểu tấn công,” nó nói. “Em không thể nói chính xác bao nhiêu, vì nó còn tùy vào sức mạnh đòn đánh. Em sẽ cho chị sự phòng vệ khác nữa. Nếu chị bị nguy hiểm, nói từ frethya hai lần và chị sẽ tàng hình.





“Frethya,” cô lẩm bẩm.





“Chính xác. Nó không giấu chị hoàn toàn đâu. Chị vẫn có thể bị nghe thấy, và vết chân của chị vẫn bị nhìn thấy. Dù chuyện gì xảy ra, đừng xuống nước nếu không vị trí của chị sẽ bị lộ ngay. Thần chú sẽ rút năng lượng từ chị, nên chị sẽ mệt nhanh hơn bình thường, và em cảnh báo không nên ngủ nghi nó vẫn đang hoạt động. Chị có thể không bao giờ tỉnh lại. Để kết thúc thần chú, chỉ cần nói frethya letta.”





“Frethya letta.”





“Tốt lắm.”





Rồi Eragon quay qua Roran. Nó mất thời gian hơn để đặt bùa chú bảo vệ anh họ - vì hiển nhiên Roran sẽ đối mặt nhiều mối đe doạn hơn – và nó đặt vào bùa chú nhiều năng lượng hơn nó nghĩ Roran sẽ cho phép, nhưng Eragon không để tâm. Nó không thể chịu được ý nghĩ sẽ đánh bại Galbatorix chỉ để thấy Roran chết trên chiến trường.





Sau đó, nó nói, “Em đã làm khác đi, đáng lẽ em phải nghĩ đến sớm hơn. Ngoài những bùa chú thông thường, em sẽ ếm lên anh một vài cái rút trực tiếp sức mạnh của anh. Khi nào anh còn sống, chúng sẽ bảo vệ anh khỏi nguy hiểm. Nhưng” – nó giơ ngón tay – “chúng sẽ chỉ có hiệu lực nếu các bùa chú khác hết linh, và nếu áp lực đè lên chúng quá lớn, anh sẽ ngất đi và chết.”





“Nói chung là thay vì cứu anh, chúng có thể giết anh à?” Roran hỏi.





Eragon gật gù. “Đừng để bị một bức tường nào khác đổ lên, anh sẽ ổn thôn. Có rủi ro, nhưng em nghĩ cũng đáng, nếu chúng giữ ngựa không xéo lên anh hay một thanh giáo xuyên qua. Hơn nữa, anh cũng cho ếm lên anh phét thuật như chị Katrina. Chỉ cần nói frethua và frethya letta để thành vô hình và hiện hình như ý.” Nó so vai. “Anh sẽ thấy nó hữu dụng trong lúc chiến đấu.”





Roran cười khúc khích ra chiều hiểm ác. “Chắc rồi.”





“Chỉ cần đảm bảo tiên nhân không nhầm anh với pháp sư của Galbatorix là được.”





Khi Eragon đứng dậy, Katrina cũng đứng lên. Cô làm nó ngạc nhiên khi cầm lấy một tay nó ấn vào ngực. “Cảm ơn, Eragon,” cô nói nhẹ nhàng. “Em là một chàng trai tốt.”





Nó đỏ mặt xấu hổ. “Không có gì đâu.”





“Cứ bảo vệ mình thật tốt ngày mai. Em có ý nghĩa rất nhiều với hai anh chị, và chị trông chờ em bên cạnh làm một ông chú tốt của con anh chị. Chị sẽ đau khổ lắm nếu em để mình bị giết.”





Nó cười phá lên. “Đừng lo, Saphira chẳng để em làm gì ngốc nghếch đâu.”





“Tốt lắm.” Cô hôn nó vào cả hai má, rồi thả nó ra. “Bảo trọng, Eragon.”





“Bảo trọng, chị Katrina.”





Roran sánh bước cùng nó ra ngoài. Anh nói, “Cảm ơn chú.”





“Em mừng có thể giúp được gì đó.”





Họ nắm tay và ôm nhau; rồi Roran nói, “Chúc chú may mắn.”





Eragon hít một hơi dài. “Chúc anh may mắn.” Nó nắm chặt cánh tay Roran, miễn cưỡng bỏ ra. “Nếu Saphira và em không quay lại,” nó nói, “anh sẽ trông nom chôn cất bọn em ở quê chứ? Em không muốn xương cốt mình phải nằm lại đây.”





Roran nhướn mày. “Saphira thì hơi khó kéo về đấy.”





“Các tiên nhân sẽ giúp, em chắc đấy.”





“Thì ừ, anh hứa. Chú muốn một nơi nào cụ thể không?”





“Trên đỉnh ngon đồi trọc,” Eragon nhắc lại về ngọn đồi gần nộng trại của họ. Ngọn đồi trọc luôn là điểm lý tưởng cho một lâu đài, điều mà chúng bàn bạc mãi hồi còn nhỏ.





Roran gật gù. “Và nếu anh không quay trở lại…”





“Chúng em cũng sẽ làm như thế cho anh.”





“Anh không định hỏi điều đó. Nếu anh không … chú sẽ trông nom Katrina chứ?”





“Dĩ nhiên. Anh biết mà.”





“Ờ, nhưng mà anh phải chắc cái đã.” Họ nhìn chằm chằm nhau trong một phút. Cuối cùng Roran nói, “Bon anh sẽ chờ chú bữa tối mai.”





“Em sẽ tới.”





Rồi Roran quay vào lều, để Eragon đứng một mình trong màn đêm.





Nó ngước nhìn những ngôi sao và cảm thấy lạnh lẽo trong lòng, như thế đã thực sự mất đi ai đó gần gũi.





Một lúc sau, nó rảo bước vào trong bóng tối, không dùng phép thuật ẩn thân nữa.





Nó tìm khắp doanh trại cho tới khi nó thấy lều của chú Horst và Elain cùng với con gái họ, bé Hope. Cả ba người vẫn thức, cô bé thì đang khóc.





“Eragon!” Chú Horst reo nhẹ khi Eragon tiến vào. “Vào đây! Vào đây! Chúng tôi dã không thấy cháu từ khi ở Dras-Leona rồi! Cháu khỏe không?”





Eragon nói chuyện với họ gần một tiếng – nó không kể về các Eldunarí, nhưng nó kể về hành trình đến Vroengard, và khi bé Hope chìm sâu vào giấc ngủ, nó chào tạm biệt và quay trở ra.





Nó tìm tiếp đến Jeod, đang đọc những cuộc giấy dưới ánh nên trong khi vợ ông Helen đang ngủ. Khi Eragon gõ cửa và ghé đầu vào lều, ông già mặt đầy sẹo dẹp bỏ đống sách cuộn và bước ra khỏi lều cùng Eragon.





Jeod hỏi rất nhiều, Eragon cũng không trả lời hết, nhưng nó nghĩ đủ để Jeod đoán được những gì sẽ xảy ra.





Sau đó, Jeod đặt tay lên vai Eragon. “Ta không ganh tỵ cháu nhiệm vụ phía trước đâu. Brom sẽ tự hào vì lòng can đảm của cháu.”





“Cháu hy vọng thế.”





“Ta chắc đấy… nếu ta không gặp lại cháu, cháu sẽ biết: ta đã viết một tập nhỏ về những trải nghiệm của cháu và các sự kiện dẫn đến chúng – chủ yếu là cuộc phiêu lưu của ta để lấy lại trứng của Saphira.” Eragon tỏ ra kinh ngạc. “Có lẽ ta không có cơ hội để hoàn thành, nhưng ta nghĩ nó sẽ là bổ sung đáng giá cho tác phẩm của Heslant trong Domia abr Wyrda.”





Eragon cười. “Cháu nghĩ thế là hợp nhất. Dù sao, nếu cả bác và cháu đều sống hay tự do sau ngày mai, có một số chuyện cháu nên kể cho bác, dám chắc sẽ làm cho tập sách của bác đầy đủ và thú vị hơn nhiều.





“Ta trông chờ lắm nhé.”





Eragon lang thang khắp doanh trại thêm một tiếng nữa, rồi dừng lại bên đống lửa nơi con người, người lùn và Urgals vẫn thức. Nó nói chuyện một ít với mỗi chiến binh, hỏi xem họ có được đối xử tối không, bày tỏ thương xót với bàn chân nhức mỏi và khẩu phần ăn ít ỏi, thi thoảng nói đùa một hai câu. Nó hy vọng bằng cách xuất hiện giữa bọn họ, nó sẽ nâng cao sĩ khi và củng cố lòng tin của họ, lan truyền sự lạc quan ra toàn quân. Nó thấy những Urgal có vẻ có tâm trạng tốt nhất; họ dường như rất vui sướng về trận chiến trước mắt và những cơ hội chứng tỏ vinh quang nó mang lại.





Nó còn có mục đích khác nữa: để truyền thông tin sai lệch. Mỗi khi ai đó hỏi nó về việc tấn công Urû’baen, nó ẩn ý Saphira và nó sẽ tiến lên cùng quân đoàn để phá sập góc Tây Bắc của tường thành. Nó hy vọng các gián điệp của Galbatorix sẽ lặp lại lời nói dối cho lão vua ngay khi chuông báo thức Galbatorix ngày mai.





Khi nó nhìn vào mặt những người đang lắng nghe mình, Eragon không nhìn được tự hỏi liệu có ai là kẻ trung thành với Galbatorix không. Ý nghĩ đó khiến nó không thoải mái chút nào, nó còn nghe thấy tiếng bước chân đi theo khi đi từ đống lửa này sang đống khác.





Cuối cùng, khi nó thỏa mãn đã truyền đạt đủ với các chiến binh để chắc chắn mẩu tin sẽ tới tai Galbatorix, nó rời khỏi đống lửa, đi về căn lều phía nam doanh trại, hơi tách ra khỏi những căn khác.





Nó gõ vào trụ đỡ chính: một, hai, rồi ba lần. Không có tiếng đáp lại, rồi nó gõ lần nữa, mạnh hơn và lâu hơn.





Một lát sau, nó nghe thấy tiếng ngái ngủ và sột soạt của cái chăn bị nhấc ra. Nó kiên nhẫn chờ cho tới khi một bàn tay nhỏ nhắn kéo cửa vào, rồi đứa-bé-phù-thủy, Elva hiện ra. Cô bé mặc áo chùng dài tối màu có vẻ quá khổ, và với ánh sáng tù mù từ ngọn đuốc cách vài bộ, nó có thể thấy vẻ cau có trên gương mặt sắc cạnh của cô bé.





“Anh muốn gì, Eragon?” nó hỏi.





“Em không biết à?”





Cô bé nhăn mặt dữ hơn. “Không, tôi không thể, chỉ biết anh muốn cái gì đó tệ đến mức phải thức tôi dậy giữa đêm hôm khuya khoắt, cái đấy thì đồ ngốc cũng thấy. Chuyện gì vậy? Tôi đã không nghỉ ngơi đủ rồi, nên tốt hơn là là chuyện quan trọng.”





“Đúng đấy.”





Nó nói không ngừng nghỉ trong vài phút, mô tả kế hoạch, rồi nói, “Không có em, kế hoạch sẽ không thành công. Em là điểm nhấn của toàn bộ kế hoạch.”





Cô bé cười phá lên có vẻ ngốc nghếch. “Hài hước nhỉ, chiến binh vĩ đại dựa vào một đứa trẻ để giết kẻ mà hắn không thể à.”





“Em có giúp không?”





Cô bé nhìn xuống và chà xát bàn chân trần lên mặt đất.





“Nếu em giúp, tất cả chuyện này …” – nó chỉ về phía doanh trại và thành phố xa xa – “càng kết thúc sớm, và em sẽ không phải chịu quá nhiều …”





“Tôi sẽ giúp.” Cô bé dậm chân nhìn chằm chằm vào nó. “Anh không cần phải mua chuộc tôi. Tôi sẽ giúp dù gì đi nữa. Tôi không định để Galbatorix tiêu diệt quân Varden chỉ vì tôi không thích anh. Anh không quan trọng đến mức đó đâu, Eragon. Ngoài ra, tôi đã hứa với Nasuada, và tôi sẽ giữ lời.” Cô bé gõ gõ cái đầu nhỏ nhắn. “Có gì đó anh không nói cho tôi biết. Có gì đó anh sợ Galbatorix tìm ra trước khi ta tấn công. Chuyện gì đó về …”





Tiếng leng keng của dây xích từ xa ngắt lời cô bé.





Trong giây lát, Eragon hoang mang. Rồi nó nhận ra tiếng động tới từ thành phố.





Nó đặt tay lên thanh gươm. “Sẵn sàng đi,” nó nhắc Elva. “Chúng ta phải rời đi ngay.”





Không bàn cãi gì hết, cô bé quay lại chui vào lều.





Mở rộng tâm thức, Eragon liên lạc với Saphira. Em có nghe thấy không?





Có.





Bọn mình sẽ gặp nhau ở con đường, nếu buộc phải thế.





Tiếng leng keng tiếp tục một lúc nữa, rồi một tiếng ầm dữ dội vang lên, kéo theo tràng im ắng sau đó.





Eragon lắng nghe hết mức nhưng không nghe thêm được gì hết. Nó định phù phép để tăng cường giác quan thì một tiếng huỵch trầm đục vang lên, nối tiếp bằng bằng những tiếng lách cách sắc lẻm.





Rồi một tiếng khác…





Rồi một tiếng khác …





Cơn rùng mình sợ hãi chạy dọc xương sống Eragon. Tiếng động đó không nhầm đi đâu được là tiếng một con rồng đang bước đi trên đá. Nhưng rồng nào mà có thể nghe tiếng cách xa cả dặm như thế!





Shruikan, ruột nó quặn thắt.





Suốt toàn doanh trại, tiếng tù và vang lên, con người, người lùn và Urgal đốt đuốc cứ như toàn bộ đoàn quân oằn mình tỉnh giấc.





Eragon liếc nhìn Elva khi cô bé vội bước ra khỏi lều, theo sau là bà vú già Greta. Cô bé khoác áo đỏ bên dưới áo giáp dài đúng cỡ.





Tiếng bước chân ở Urû’baen ngừng lại. Thân hình đồ sộ của con rồng đủ để che khuất hết đèn lồng và ánh sáng trong thành phố. Nó lớn cỡ nào vậy? Eragon lo lắng, thất vọng. Lớn hơn Glaedr là cái chắc rồi. Có lớn bằng Balgabad không? Eragon không biết được. Chưa đến lúc.





Rồi con rồng bật lên phóng ra ngoài thành phố, khi nó dang cánh, trông cứ như hàng trăm cánh buồm đen no gió. Khi nó đập cánh, không khí giật mạnh ào ạt như sấm sét, khắp cả vùng chó sủa nhặng và tiếng gà gáy liên hồi.





Không cần nghĩ ngợi, Eragon núp xuống, cảm thấy như một con chuột lẩn tráng đại bàng.





Elva giật giật vạt áo nó. “Ta nên đi thôi,” cô bé nài nỉ.





“Chờ đã,” nó thầm thì. “Chưa đến lúc.”





Tràng cỏ bị cắt một mảng vĩ đại khi Shruikan bay lên trời, cao hơn cao hơn nữa. Eragon cố đoán kích cỡ con rồng từ đường nét mờ ảo, nhưng bầu trời vẫn quá tối và khoảng cách này quá khó để xác định. Dù kích thước nó có chính xác ở chừng nào thì cũng lớn ghê gớm. Mới chỉ khoảng một thế kỉ tuổi đời, nó đáng ra phải nhỏ hơn thế này nhiều, nhưng Galbatorix có vẻ đã kích thích nó tăng trường, cho dù hắn có Thorn.





Khi nó nhìn bóng đen lượn lờ trên đầu, Eragon hy vọng Galbatorix sẽ không đi cùng con rồng, hoặc nếu có thì cũng không thèm lục soát tâm trí của những người phía dưới. Nếu lão làm thế, lão sẽ phát hiện …





““Eldunarí,” Elva thở hổn hển. “Đó là thứ anh đang giấu!” Phía sau cô bé, bà vú nuôi nhăn mặt khó hiểu và bắt đầu hỏi han.





“Trật tự!” Eragon gầm gừ. Elva mở miệng, nhưng nó chắn tay lại, ép cô bé im mồm. “Không phải lúc này, tại đây,” Nó cảnh cáo. Cô bé gật gật, nó bỏ tay ra.





Đúng lúc đó, một tràng lửa rộng như sông Anora quét ngang qua bầu trời. Shruikan gạt đầu tới lui, phun ra những luồn lửa điên cuồng trên doanh trại và cánh đồng, màn đêm như vỡ ra như tiếng thác nước đổ. Sức nóng châm chích mặt Eragon. Rồi ngọn lửa tắt dần như sương sớm, để lại tàn dư chói mắt và tỏa đầy mùi lưu huỳnh.





Con rồng khổng lồ quay đầu đập cánh thêm cái nữa – làm không khí chấn động – trước khi cái bóng màu đen lướt về phía thành phố chui vào tòa thành. Theo sau những bước chân là tiếng xích kêu leng keng, và vang vọng âm thanh của cánh cổng đóng sập.





Eragon thở phào một hơi dài, cổ họng nó khô cứng. Tim nó đập nhộn nhạo đau đớn. Chúng ta phải đánh với … cái đó ? Nó nghĩ, cùng với bao nỗi sợ hãi trước đây.





“Sao nó không tấn công?” Elva run lên hỏi khẽ.





“Nó muốn đe dọa chúng ta.” Eragon cau mày. “Hoặc đánh lạc hướng.” Nó tìm khắp các tâm trí của Varden đến khi thấy Jörmundur, chỉ dẫn cho người chiến binh kiểm tra lính canh vẫn ở vị trí hay không. Quay sang Elva nó hỏi, “Em có cảm thấy chút gì từ Shruikan không?”





Cô bé rùng mình. “Đau đớn. Cực kì đau đớn. Cả giận dữ nữa. Nếu nó có thể, nó sẽ giết sạch mọi sinh vật và đốt cháy hết cây cỏ cho đến khi không còn gì nữa. Con rồng hoàn toàn điên rồi.”





“Có cách nào tiếp xúc với nó không?”





“Không đâu. Chuyện tốt nhất có thể làm là giải thoát nó khỏi sự khốn khổ này.”





Biết điều này khiến Eragon rất buồn. Nó luôn nghĩ họ có thể cứu Shruikan khỏi tay Galbatorix. Nén lại, nó hỏi, “Mình nên đi thôi. Em sẵn sàng chưa?”





Elva giải thích cho bà vú rằng cô bé sẽ rời đi, làm bà buồn vô cùng, nhưng cô bé an ủi bà bằng vài lời. Sức mạnh thấy hiểu trái tim người khác của cô bé chưa bao giờ khiến Eragon thôi kinh ngạc, và cả lo lắng nữa.





Khi Grate đồng ý, Eragon giấu cả Elva và nó bằng phép thuật, bắt đầu bước đến ngọn đồi nơi Saphira đang chờ.



*******************************





Qua bức tường và trong dạ dày





“Anh có nhất thiết phải như thế không?” Elva hỏi.





Eragon ngừng lại nửa chừng khi đang kiểm tra đai buộc chân trên yên cương của Saphira, ngước nhìn lên cô bé đang ngồi khoang chân nghịch ngợm khớp nối áo giáp của mình.





“Gì thế?” nó hỏi ngược.





Cô bé di di ngón tay vừa nhỏ vừa nhọn lên môi. “Anh cứ nhai nhai bên trong miệng ấy. Nó gây mất trập trung lắm.” Rồi nghĩ thêm một giây, cô bé nói, “với cả nó tởm lắm.”





Hơi ngạc nhiên, nó nhận ra mình đang cắn má phải cho đến khi da miệng nó rách mấy chỗ. “Anh xin lỗi,” nó nói, rồi tự chưa cho mình rất nhanh.





Nó đã dành hết thời gian còn lại của buổi đêm thiền định – suy nghĩ không phải về tương lai hay quá khứ, mà về hiện tại: cơn gió nhẹ mát lạnh lùa trên gia, cảm giác mặt đất bên dưới, hơi thở đều đặn, nhịp đập nhè nhẹ của tim nó như đang đánh dấu nhưng giây phút cuối cùng trong đời.





Lúc này ngôi sao buổi sáng Aiedail đã mọc từ đằng Đông – báo trước ánh bình minh đầu tiên – cũng là lúc họ chuẩn bị cho cuộc chiến. Nó cẩn thận kiểm tra từng tí một trên đồ dùng, điều chỉnh yên cương cho Saphira thật thoải mái, dọn dẹp túi yên sạch sẽ chỉ trừ túi chứa Eldunarí của Glaedr mà miếng đệm lót, cài rồi tháo đai kiếm ít ra cũng phải năm lần.





Nó kiểm tra lại dây đai trên yên cương lần nữa xong rồi nhảy xuống khỏi Saphira. “Đứng dậy nào,” nó bảo. Elva nhìn nó khó chịu nhưng vẫn làm theo, vạt áo dài của cô bé lướt trên cỏ. Bước nhanh tới, nó thò tay chạm vào cạnh áo giáo của cô bé để đảm bảo chúng được đeo đúng cách. “Ai làm cái này cho em vậy?”





“Một cặp anh em người lùn đáng mến tên gọi Ûmar and Ulmar.” Má cô bé lúm đồng tiền khi cười với nó. “Họ không nghĩ là tôi cần nó, nhưng tôi đã nói rấtthuyết phục.”





Em chắc là nhóc như vầy rồi, Saphira truyền ý nghĩ cho Eragon. Nó cố nín cười. Cô bé đã dành gần như cả đêm nói chuyện với những con rồng, lôi cuốn chúng hết sức có thể. Tuy nhiên Eragon có thể nói chúng sợ cô bé – kể cả những con rồng cổ xưa như Valdr – kể cả chúng cũng không có các nào chống lại sức mạnh của Elva. Không ai có thể.





“Thế Ûmar and Ulmar có cho em cái dao nào để chiến đầu không?” Nó tò mò.





Elva cau mày. “Sao tôi phải muốn cái đó chứ?”





Nó nhìn chăm chú cô bé trong giây lát, rồi lấy ra con dao đi săn cũ kĩ của mình giờ chỉ còn dùng khi ăn, giắt nó trên lưng cô bé bằng một chiếc dây da. “Chỉ đề phòng thôi,” nó nhẹ giọng khi cô bé phản đối. “Rồi, đi nào.”





Cô bé ngoan ngoãn trèo lên lưng, vòng tay quanh cổ nó. Nó cứ khênh cô bé đến chân đồi như vậy, làm cả hai đều vướng víu, nhưng cô bé không thể bước nhanh như nó được.





Nó cẩn trọng trèo lên lưng Saphira từ mấu vai cô nàng. Khi nó bám vào gai chìa ra từ cổ Saphira, nó vặn mình giúp Elva có thể nhẹ nhàng trèo lên yên cương.





Khi nó thấy thân hình cô bé rời khỏi vai, Eragon lại leo xuống. Nó ném khiên lên, hất mạnh lên, giang rộng đôi tay, gần như kéo cô bé khỏi Saphira.





“Em bắt được chưa?” Nó hỏi.





“Rồi,” cô bé đáp, kéo mạnh chiếc khiên lên trên vạt áo. Cô bé xùy tay ra, “Đi, đi.”





Vừa giữ chắc chuôi Brisingr khỏi lủng lẳng giữa hai chân, Eragon vừa chạy lên đỉnh đồi, rồi nó quỳ trên một chân, cúi thấp hết cỡ. Đằng sau nó, Saphira trường lên được một đoạn sườn dốc, ép mình xuống đất và thò đầu qua đám cỏ cho đến khi tầm nhìn của cô nàng với nó giống nhau.





Hàng đoàn người, người lùn, tiên nhân, Urgal và ma mèo lũ lượt kéo ra khỏi doanh trại của Varden. Trong tia nắng xám nhạt bình minh, nó nhìn đoàn người vẫn không rõ hình thù gì cả, cũng vì họ chẳng mang theo cái gì phát sáng hết. Đoàn người hành quân qua cánh đồng thoai thoải tới Urû’baen, khi chỉ còn nửa dặm cách thành phố, họ phân thành ba hàng. Một hướng thẳng đến cổng thành chính, một tiến về góc Đông Nam, một tiến về phía Tây Bắc.





Nhóm cuối cùng chính là nhóm nó ẩn ý sẽ đi cùng.





Các chiến binh quấn vải quanh chân và vũ khí, và nói chuyện cũng chỉ thì thầm. Dù vậy, thỉnh thoảng Eragon vẫn nghe thấy tiếng be be của cừu hoặc tiếng ngựa hí, cả tiếng chó sủa khi đoàn quân tiến lên. Binh lính trên tường thành sẽ sớm thấy thôi – chắc sẽ là khi các binh sĩ di chuyển máy bắn đá, lăng đá và tháp công thành mà họ giấu kín trên cánh đồng trước thành phố.





Eragon ấn tượng bởi khí thế của con người, người lùn và các Urgal bước vào trận chiến sau khi thấy Shruikan. Họ phải tin tưởng chúng mình lắm đấy, nó trầm trồ với Saphira. Trách nhiệm đè nặng lên vai,nó hiểu rõ nếu bọn họ thất bại, gần như sẽ chẳng binh sĩ nào sống sót.





Ừ phải, nhưng nếu Shruikan lại bay ra ngoài, họ sẽ chạy tán loạn như chuột thôi.





Nên tốt nhất bọn mình không để chuyện đó xảy ra.





Tiếng tù và nổi lên từ Urû’baen, rồi một tiếng khác, một tiếng khác nữa, ánh lửa bắt đầu được thắp lên khắp thành phố từ những cây đèn lồng nhấp nháy và đuốc sáng rực.





“Tới nào,” Eragon lẩm bẩm, tim đập nhanh hơn.





Giờ thì tiếng chuông báo động đang ngân lên, quân Varden cũng chả buồn giữ bí mật nữa. Từ phía Đông, một nhóm tiên nhân trên lưng ngựa phi nước đại đến ngọn đồi chống lưng thành phố, cố tiến lên con dốc tấn công vào tường thành phía trên phiến đá khổng lồ trên đầu thành Urû’baen.





Ở trung tâm khu doanh trại trống hoác, Eragon nhìn thấy ảo ảnh của Saphira. Trên lưng ảo ảnh là một hình bóng đang ngồi – nó biết thừa đó là ảo ảnh hoàn hảo của chính mình – đang cầm gươm với khiên.





Bản sao của Saphira ngước đầu dang cánh, phi thẳng lên bầu trời gầm thét.





Họ làm tốt lắm, phải không? Nó bảo Saphira.





Tiên nhân hiểu rõ rồng trông như thế nào, hành xử ra sao, …, không như loài người.





Ảo ảnh của Saphira hạ cánh xuống nhóm binh sĩ phía Bắc, dù Eragon thấy các tiên nhân rất cẩn thận không để cái bóng lại quá gần các binh sĩ, để họ không phát hiện ra đó chỉ là ảo ảnh như cầu vồng, không hơn không kém.





Bầu trời sáng dần lên khi quân Varden và đồng minh tập trung thành những đội ngũ chỉnh tề bên ngoài tường thành. Trong thành, binh lính của Galbatorix tiếp tục chuẩn bị phòng ngự, nhưng rõ ràng theo cách họ chạy nháo nhào qua các lỗ châu mai thì họ thực sự hoảng sợ và nháo loạn. Tuy nhiên Eragon biết họ sẽ không lúng túng lâu.





Ngay bây giờ, Nó nghĩ. Ngay bây giờ! Đừng đợi thêm nữa. Nó quét ánh mắt lên những toàn nhà, tìm kiếm ánh sáng đỏ mong manh, nhưng chẳng có gì hết. Chúng mày ở đâu vậy, khi thật?! Ra đi chứ!





Thêm ba hồi tù và nữa,lần này là của quân Varden. Hàng tràng điệp khúc hô hào và la hét từ trong quân sĩ vang dội, rồi quân Varden bắt đầu bắn những hòn đá tảng về phía thành phố, cung thủ phóng tiễn, hàng đoàn chiến binh xông thẳng về phía bức tường thành tưởng như không thể vượt qua.





Đá, lao, cung tên dường như bay chậm đi thành một hình vòng cung ngăn cách quân đoàn và thành phố. Không có cái nào nhắm vào tường thành cả; cố phá sập nó chỉ vô nghĩa, nên những xạ thủ nhắm cao hơn, xa hơn nữa. Vài tảng đá vỡ nát khi rơi trong Urû’baen, bắn ra tứ phía những mảnh vỡ nhọn như dao găm, những tảng khác xuyên qua công trình rồi rơi xuống lòng được như thế những hòn bi khổng lồ.





Eragon tự nhủ kinh khủng xiết bao khi thức dậy giữa cơn bối rối kinh hoàng, từng tảng đá lớn rơi như mưa xuống đầu. Sự chú ý của nó chuyển sang nơi khác khi ảo ảnh Saphira bay vượt qua các binh sĩ. Với ba cú đạp cánh, ảo ảnh trèo dần lên bức thường rồi phun qua những lỗ châu mai những luồng lửa – nó thấy có vẻ sáng hơn bình thường. Tuy nhiên ngọn lửa có vẻ đủ thực, được gọi ra bởi các tiên nhân đứng gần phía Bắc thành, những người cùng lúc tạo ra và duy trì ảo ảnh.





Ảo ảnh Saphira nhào tới lui giữa một không tường thành, quét sạch các binh sĩ. Khi cô nàng xong việc, một nhóm chừng hai mươi mấy tiên nhân bay lên đỉnh một tòa tháp trên tường thành, để tiếp tục trông chừng ảo ảnh khi nó tiến sâu vào Urû’baen.





Nếu Murtagh và Thorn không không ra sớm, chúng sẽ bắt đầu lo lắng vì sao bên ta tấn công từ các phía khác, nó bảo Saphira.





Chúng sẽ nghĩ ta đang bảo vệ các binh sĩ vượt qua phòng tuyến, cô nàng đáp. Cứ chờ thêm thôi.





Vài nơi dọc bờ tường, từng nhóm binh lính bắn tên hay phóng lao xuống đoàn quân bên dưới, hạ gục hàng tá Varden. Thương vong không tránh được, nhưng Eragon vẫn hối hận, vì cuộc tấn công của các binh sĩ chỉ để đánh lạc hướng; họ không có khả năng vượt qua phòng vệ của bức tường thành. Trong khi đó, tháp công thành được đẩy tới gần hơn, cung tên bay tán loạn giữa tầng trên tháp với các lỗ châu mai.





Từ trên cao, một dài dầu hắc ín sôi sung sung tràn xuống rìa nhô ra và biến mất xuống các tòa nhà bên dưới. Eragon nhìn lên và thấy những chớp sáng trên bức tường chắn trên vách dựng đứng. Ngay khi đó, nó thấy bốn cái thân thể ngã ngào sang một bên, rơi thẳng xuống nền đất như những con rối. Cảnh tượng khiến Eragon mừng rõ, vì nó có nghĩa các tiên nhân đã chiếm được tường thành phía trên.





Ảo ảnh Saphira đảo vòng quanh thành phố, đốt cháy vài ngôi nhà. Khi nó đang bay, một chùm tên phóng ra từ những cũng thủ đứng trên nóc nhà. Ảo ảnh bay chệch đi để tránh những mũi tên, rồi có vẻ như bị nạn, đâm thẳng vào một trong những tòa tháp của tiên nhân rải rác khắp Urû’baen.





Cú va chạm trông thực hoàn hảo. Eragon nhăn mặt đồng cảm khi nó thấy cánh trái của con rồng ảo đập thẳng vào tòa tháp, tiếng xương gãy tựa như cỏ khô gãy gập. Saphira giả gầm lên, quẫy đạp khi nó rơi xoáy ốc xuống lòng đường. Những ngồi che khuất nó, nhưng tiếng gầm của nó vang lên hàng dặm, và ngọn lửa nó thở ra táp vào bề mặt của những ngôi nhà, đối cháy mặt dưới phiến đá vĩ đại bao phủ thành phố.





Em thì chả bao giờ vụng như vậy hết, Saphira khịt mũi.





Anh biết rồi.





Một phút trôi qua. Càng lúcEragon càng căng thẳng hơn, đến mức nó không thể chịu nổi. “Chúng đâu rồi chứ?” nó gầm gừ, nắm chặt bàn tay. Mỗi giây trôi qua thì binh lính càng dễ phát hiện ra con rồng họ hạ gục không hề tồn tại.





Saphira nhìn thấy chúng đầu tiên. Kia kìa, cô nàng chỉ cho nó thấy qua ý nghĩ.





Như một thanh gươm màu đỏ rơi xuống từ trên trời, Thorn phi thẳng qua cái lỗ giấu trong phiến đá nhô ra. Nó bay dọc xuống vài trăm thước, rồi cụp cánh đủ để hạ xuống tốc độ an toàn trước khi hạ cánh xuống khoảng trống gần nơi ảo ảnh Saphira và Eragon rơi xuống.





Eragon nghĩ nó trông thấy Murtagh trên con rồng đỏ, nhưng khoảng cách quá xa để chắc chắn. Họ hy vọng đấy là Murtagh, vì nếu là Galbatorix, thì kế hoạch bể chắc rồi.





Chắc phải có đường hầm trong tảng đá, nó bảo Saphira.





Lửa càng cháy dữ dội hơn giữa các tòa nhà, rồi ảo ảnh Saphira nhảy qua mái nhà, trông như con chim gãy cánh, vẫy vẫy thêm một khoảng ngắn rồi lại rơi xuống nền đất. Thorn đuổi theo.





Eragon không nhìn thêm một chút nào.





Nó trườn trở lại, leo thẳng lên cổ Saphira, ngồi lên yên cương phía sau Elva. Mất chỉ mấy giây để xỏ và buộc chân vào đai thắt. Những cái khác nó thả lỏng, chúng chỉ làm nó chậm đi. Đai phía trên cùng còn để giữ chân Elva.





Nhanh chóng niệm cổ ngữ, nó làm phép giấu cả ba. Khi phép thuật có hiệu quả, nó bắt đầu cảm thấy mất thăng bằng như nó vẫn thường thấy khi tàng hình. Trông như thể nó đang bồng bềnh vài thước phía trên vệt cỏ tối thực lớn hình rồng.





Khoảnh khắc nó niệm chú xong, Saphira vụt thẳng về phía trước. Cô nàng đạp mạnh đỉnh đồi, cố đập cánh lấy độ cao.





“Không thoải mái lắm phải không?” Elva nói khi nó lấy cái khiên lại từ cô bé.





“Không, không phải lúc nào cũng thế!” Nó đáp, cố cao giọng để át tiếng gió.





Ẩn sau tâm trí, nó cảm thấy Glaedr, Umaroth và các Eldunarí đang quan sát khi Saphira cắt góc và lượn về doanh trại Varden.





Giờ chúng ta sẽ trả được thù, Glaedr trầm giọng.





Eragon cúi rạp người lên Elva khi Saphira tăng tốc. Tập trung giữa lòng doanh trại, nó thấy Blödhgarm và mười tiên nhân pháp sư, cả Arya nữa – đang cầm thanh Dauthdaert. Mỗi người họ đều cầm theo những sợi dây dài ba chục thước quấn quanh ngực. Ở đầu kia, các sợi đây đều gắn với một khúc gỗ lớn như bắp đùi Eragon và dài ngang với một Urgal trưởng thành.





Khi Saphira nhào xuống doanh trại, Eragon ra hiệu họ bằng tâm trí, hai tiên nhân ném cây gỗ lên không trung. Saphira quặp lấy bằng vuốt cô nàng, các tiên nhân nhảy vọt lên, và chỉ một lát sau, Eragon cảm thấy giật mạnh, Saphira cũng bay trầm hẳn khi nó phải chở từng ấy người.





Nhìn qua cô nàng, nó thấy các tiên nhân, sợi dây và khúc cây biến khỏi tầm mắt bởi các tiên nhân đã phù phép tàng hình như nó vậy.





Đập cánh liên tục, Saphira lên cao hơn ngàn thước, từ đó cô nàng và các tiên nhân dễ dàng vượt qua tường thành và các công trình bên trong.





Nhìn về bên trái, Eragon bắt gặp trước tiên cảnh Thorn và ảo ảnh Shaphira đang đuổi bắt trên mặt đất khắp mạn Bắc thành phố. Các tiên nhân điều khiển ảo ảnh cố gắng giữ Thorn và Murtagh bận rộn hoạt động đến mức không thể tấn công bằng tâm trí. Nếu hắn làm thế, hoặc nếu chúng tóm được ảo ảnh, chúng sẽ biết ngay mình bị lừa.





Chỉ vài phút nữa thôi, Eragon thầm nhủ.





Saphira bay vọt qua cánh đồng. Bay qua những máy cẩu đá và người điểu khiển miệt mài. Bay qua hàng cung thủ với những mũi tên cắm vào mặt đất như những cây sậy trắng. Bay qua những tháp công thành, qua các chiến binh trên mặt đất: con người, người lùn, Urgal che mình bằng những tấm khiên khi cố dựng thang trèo lên tường thành, giữa họ là các tiên nhân: cao, mảnh khảnh, với mũ giáp sáng bóng, giáo dài ngoằng và thanh gươm dẹt.





Rồi Saphira bay qua bức tường thành. Eragon cảm thấy cơn nhức nhối kì lạ khi Saphira hiện ra ngay bên dưới nó, và nó thấy mình đang nhìn vào phía sau đầu Elva. Nó đoán Arya và các tiên nhân treo lủng lẳng bên dưới cũng hiện hình như vậy. Eragon chửi thề một câu rồi thu lại thần chú che giấu. Phép phòng hộ của Galbatorix có vẻ sẽ không để họ vào thành phố mà không bị nhìn thấy. Saphira cố phóng nhanh tới cánh cổng khổng lồ của tòa thành. Bên dưới họ, Eragon nghe thấy tiếng la hét sợ hãi lẫn ngạc nhiên, nhưng nó không thèm để ý chút nào. Murtagh và Thorn là những kẻ khiến nó lo lắng, không phải lũ binh lính.





Cụp nhẹ cánh, Saphira lượn về phía cánh cổng. Làm như thể sẽ đâm thẳng vào nó, nhưng cô nàng đảo lại bay thẳng lên vừa đập ngược cánh để hãm tốc độ. Khi gần như dừng lại, cô nàng bay chầm chầm xuống cho đến khi các tiên nhân chạm đất an toàn. Khi họ cắt rời sợi dây, Saphira hạ cánh xuống khoảnh sân trước cổng, khiến Eragon và Elva rung mạnh khi tiếp đất.





Eragon giật khớp nối đai giữ nó và Elva vào yên cương. Rồi nó giúp cô bé xuống lưng Saphira, họ hối hả chạy theo các tiên nhân về phía cổng.





Lối vào tòa thành là hai cánh cửa đen không lồ, gặp nhau ở một điểm cao tít. Chúng như thể làm từ sắt đặc và đóng lên hàng trăm, có khi hàng ngàn đinh nhọn đầu, mỗi cái lớn bằng đầu Eragon. Cảnh tượng thật đáng nản; Eragon khó tưởng tượng ra một lối vào kém lôi cuốn hơn thế.





Cầm chắc thanh thương, Arya chạy tới lỗ hổng ở cánh cửa bên trái. Lỗ hổng rất nhỏ, viền đen hình chữ nhật vừa đủ cho một người chui lọt. Ở phía trong hình chữ nhật là dảikim loại, rộng khoảng ba ngón tay, dài gấp ba lần, sáng hơn một chút so với viền ngoài.





Khi Arya tới gần cánh cửa, dải kim loại thụt vào nửa tấc, rồi trượt sang một bên loẹt xoẹt tiếng rỉ sét. Một cặp mắt cú vọ nhìn ra từ bóng tối bên trong.





“Ai vậy?” Một giọng ngạo mạn kêu lên. “Nói rõ chuyện hoặc biến đi!”





Không chần chừ một giây, Arya cắm phập thanh Dauthdaert qua lỗ hổng. Tiếng ùng ục vang lên từ bên trong, Eragon nghe thấy cái xác đổ uống nền nhà.





Arya rút thanh thương ra, rồi vẩy sạch máu và mẩu thịt khỏi lưỡi ngạnh. Rồi cô cầm nửa sau thanh thương bằng cả hai tay, đặt đầu thương vào cạnh phải của lỗ hổng, rồi nói, “Verma!”





Eragon nheo mắt nhìn đi khi ánh lửa xanh chói chang phóng ra giữa đầu thương và cánh cổng. Thậm chí từ cách vài thường nó cũng có thể cảm nhận sức nóng.





Mặt nhăn nhó vì căng thẳng tột độ, Arya dí đầu thương vào cánh cổng, từ từ cắn qua tấm sắt. Kim loại chảy tóe lửa và tuôn theo phía cạnh dưới lưỡi thương rơi xuống đất như mỡ trong chảo nóng, làm Eragon và những người khác phải lui lại.





Khi Arya đang làm phép, Erago nhìn về phía Thorn và ảo ảnh Shaphira. Nó không thể nhìn thấy chúng, nhưng nó vẫn nghe thấy những tiếng gầm và âm thanh nhà cửa tan nát.





Elva dựa hẳn người vào Eragon, nó nhìn thấy cô be đang run rẩy toát mồ hôi như thể đang sốt cao. Nó quỳ xuống bên cạnh cô bé. “Có cần anh cõng em không?”





Cô lắc đầu. “Tôi sẽ khá hơn khi vào trong và cách xa … đó.” Cô bé hướng về phía cuộc chiến.





Ở rìa sân, Eragon nhìn thấy vài người – có vẻ không giống binh lính lắm – đang đứng trong khoảng trống gữa những ngôi nhà lớn, quan sát bọn họ. Dạo họ đi được không em? Nó nhờ Saphira. Cô nàng lúc lắc đầu và gầm nhẹ, khiến những người kia chạy có cờ.





Khi dòng thác lửa và kim loại chảy trắng toát ngừng lại, Arya đá vào lỗ hổng, đến cú thứ ba thì cánh cửa đổ về phía sau trúng xác người gác cổng. Một giây sau, mùi len và da cháy tỏa ra ào ạt.





Vẫn cầm thanh Dauthdaert, Arya bước qua cánh cửa tối thăm thẳm. Erago nín thở. Dù lưới phòng hộ nào Galbatorix đặt lên tòa thành, thanh Dauthdaert cũng có thể cho phép cô vượt qua chúng mà không tổn thương gì, kể cả cắt xuyên qua lỗ hổng. Nhưng biết đâu nhà vua đã phù phép gì đó mà thanh Dauthdaert không thể đối phó được thì sao.





Nó thở phào nhẹ nhõm khi Arya đi vào trong tòa nhà mà không xảy ra chuyện gì.





Rồi một nhóm tầm hai chục lính lao về phía cô, mũi giáo chìa ra. Eragon rút thanh Brisingr và vượt qua lỗ hổng. Nhưng nó không dám vượt qua ngưỡng cửa của tòa nhà để nhập bọn với cô, chưa đến lúc.





Sử dụng thương điệu nghe không kém gì cầm gườm, Arya chiến đấu với cả đám lính, đánh bại họ rất nhanh.





“Sao em không cảnh báo cô ấy?” Eragon la lên, vẫn không rời mắt khỏi cuộc đấu.





Elva đi tới cạnh nó gần lỗ hổng. “Vì chúng không thể làm cô ấy bị thương.”





Lời nói của cô bé như thể tiên tri; không tên lính nào đánh trúng Arya nổi. Hai gã cuối cùng cố chạy thoát, nhưng Arya chặn lại trước mặt và giết chúng khi chưa chạy được hơn chục bộ xuống tiền sảnh, còn lớn hơn bốn hành lang chính của Tronjheim.





Khi tất cả lính đã chết, Arya gạt mấy cái xác sang một bên để dọn dẹp đường tới lỗ hổng. Rồi cô đi xuống tiền sảnh khoảng bốn mươi thước, đặt thanh Dauthdaert xuống sàn, gạt nó về phía Eragon.





Khi rời tay khỏi thanh thương, cô có vẻ chùn lại như thể chuẩn bị cho một cú đánh, nhưng có vẻ cô vẫn không bị tác động gì bởi pháp thuật trong tòa nhà.





“Nàng có cảm thấy gì không?” Eragon kêu lên. Giọng của nó vang mãi trong sảnh.





Cô lắc đầu. “Cứ đứng hẳn xa cánh cổng là ổn thôi.”





Eragon đưa thương cho Blödhgarm cầm lấy đi qua lỗ hồng. Cùng nhau Arya và vị tiên nhân đầy lông lá tiến vào trong hai căn phòng hai bên cửa và vận hành cơ chế ẩn giúp để mở cổng, một việc dường như quá sức số lượng tương đương con người.





Tiếng leng keng của xích sắt vang lên khi cánh cổng sắt khổng lồ dần mở ra ngoài. Khi lỗ hổng lớn vừ đủ cho Saphira, Eragon hô, “Dừng lại!” và cánh công ngừng mở ra.





Blödhgarm đi ra khỏi căn phòng bên phải, vẫn giữ khoảng cách với cổng vòm, gạt thanh Dauthdaert cho một tiên nhân khác.





Cứ như vậy, họ lần lượt vào bên trong tòa thành.





Khi chỉ còn Eragon, Elva và Saphira bên ngoài, một tiếng gầm dữ dội vang lên ở phía Bắc thành phố, rồi trong khoẳng khắc, toàn bộ Urû’baen như lặng đi.





“Chúng bắt được mánh của ta rồi,” tiên nhân Uthinarë la lên. Ông quăng thương cho Eragon. “Nhanh lên, Bàn-tay-Bạc!”





“Tới em đấy,” Eragon đưa thanh Dauthdaert cho Elva.





Cài thanh thương vào cánh tay, cô bé chạy nhanh đến chỗ các tiên nhân, ném trở lại cho Eragon, nó cầm lấy chạy thẳng qua cổng vòm. Quay lại nó thấy Thorn đang bay lên từ mấy ngôi nhà phía rìa thành phố. Eragon quỳ xuống, đặt thanh Dauthdaert xuống sàn rồi đẩy mạnh về phía Saphira. “Nhanh lên!” Nó hét.





Mất vài giây để Saphira lần mò thanh thường, cố nhặt nó lên bằng đầu vuốt. Cuối cùng cô nàng cũng nhét được vào kẽ răng, nhảy vào hành lang khổng lồ, đè nát xác của những tên lính.





Từ phía xa, Thorn đập cánh hối hả, phi hết tốc lực về phía tòa thành.





Niệm lên cùng một giọng, Arya và Blödhgarm phù phép. Tiếng loảng xoảng đinh tai nhức óc vang dội giữa những bức tường đá, cánh cổng sắt đóng lại nhanh hơn nhiều so với khi mở ra. Nó đóng lại ầm một tiếng mà Eragon cảm thấy chân rung rung, rồi một thanh thép – dày ba thước, rộng sáu thước – trượt khỏi bức tường chốt cửa từ bên trong.





“Đủ giữ chúng một lúc đấy,” Arya nói.





“Không lâu thế đâu,” Eragon nhìn về phía lỗ hổng đang mở.





Rồi họ quay lại nhìn về phía trước.





Eragon đoán tiền sảnh chạy dài tầm một phần tư dặm, đưa họ sâu vào trong ngọn đối phía sau Urû’baen. Ở tận cuối là một cánh cửa khác, cũng lớn như cái đầu, nhưng được phủ bởi vàng dát lấp lánh tỏa sáng dưới ánh đèn lồng không lửa cách đều nhau suốt dọc bờ tường. Hàng tá lối đi phụ nhủ hơn tỏa ra từ hai bên, nhưng không cái nào đủ lớn cho Shruikan, dù Saphira có thể đi vừa nhiều lối. Cờ đỏ thêu viền lửa được Galbatorix đặt làm dấu hiệu treo suốt dọc tường mỗi một trăm thước. Ngoài ra không còn gì khác trong tiền sảnh.





Kích thước của những lối đi phụ thực đáng kinh ngạc, nhưng nó còn căng thẳng hơn khi thấy chúng rỗng hoác. Nó đoán phòng đặt ngai vàng ở phía kia cánh cổng vàng, nhưng nó không nghĩ tiếp cận nơi đó đơn giản chút nào. Chỉ cần Galbatorix xảo quyệt bằng một nửa như người ta vẫn đồn thôi, lão cũng phải đặt hàng chục, hoặc hàng trăm cái bẫy khắp hành lang.





Eragon thấy bối rối vì nhà vua vẫn chưa tấn công họ. Nó vẫn không cảm thấy tâm trí nào khác trừ Saphira và những người đồng hành, nhưng nó chắc chắn chú ý đang tiến gần tới nhà vua thế nào. Cả tòa thành dường như đang quan sát họ.





“Lão phải biết chúng ta đang ở đây,” nó nín lặng. “Tất cả chúng ta.”





“Vậy tốt nhất là đi nhanh thôi,” Arya nói. Cô lấy thanh Dauthdaert xuống từ miêng Saphira. Thanh thương bám đầy nước dãi. “Thurra,” Arya niệm, và chất lỏng đặc sệt rơi xuống sàn.





Phía sau họ, bên ngoài cánh cửa sắt, Thorn đang hạ cánh ầm ỹ. Nó gào lên chán nản, rồi có gì đó nặng nề đạp vào cánh cổng, tiếng chuông vang lên ồn ào.





Arya vượt lên dẫn đầu đoàn, Elva cũng bước lên theo. Cô bé tóc đen đặt tay vào cán– họ sẽ chia sẻ sự bảo vệ của thanh thương – rồi cả hai cùng tiến tới, đi theo đại sảnh vĩ đại sâu vào hang ổ của Galbatorix.



*******************************





Khoảng lặng giữa cơn bão





“Thưa ngài, đến giờ rồi.”





Roran mở mắt, gật đầu nhìn cậu bé với cái đèn lồng thò đầu vào trong lều. Chú bé chạy vụt đi, còn Roran trườn qua, hôn má Katrina. Cả hai đều không ngủ.





Họ cùng nhau dậy và mặc đồ. Cô xong xuôi trước, anh mất thời gian hơn để mặc giáp và đeo vũ khí.





Khi anh đeo gang tay, cô đưa anh một lát bánh mì, ít pho mát và một cốc trà ấm. Anh không động tới mẩu bánh, cắn một miếng phó vát và uống một hơi cạn cốc trà.





Họ nắm tay nhau một lúc, rồi anh mở lời, “Nếu là con gái, đặt cho con bé cái tên nào dữ dội một tí.”





“Con trai thì sao anh?”





“Cũng vậy. Trai hay gái, em cần phải mạnh mẽ để tồn tại trong thế giới này.”





“Em sẽ cố. Em hứa.” Họ buông nhau ra, cô nhìn thẳng vào mắt anh. “Chiến đấu tốt nhé, chồng em.”





Anh gật đầu, rồi quay đi rời khỏi lều trước khi anh mất bình tĩnh.





Lính tráng dưới quyền anh đã tập hợp lại phía bắc doanh trại khi anh tới. Ánh sáng duy nhất tỏa ra từ ánh trăng mờ trên cao và ánh đuốc ở công sự bên ngoài. Trong ánh sáng mờ ảo chập chờn, các binh sĩ trông như đoàn thú đang chuyển mình, đầy hung hãn và đe dọa.





Trong hàng ngũ của họ có một lượng lớn Urgal, cả vài Kull nữa. Tiểu đoàn của anh có nhiều vẻ nhiều Urgal nhất, hình như Nasuada cho rằng họ sẽ nghe lệnh anh hơn là từ người khác. Các Urgal mang theo những cái thang dài và nặng nề giúp leo lên tường thành.





Trong quân cũng lẫn khoảng hơn hai chục tiên nhân. Đa phần sẽ tự chiến đấu, nhưng Nữ hoàng Islanzadí đã cho phép họ phục vụ quân đội Varden để bảo vệ công kích từ pháp sư của Galbatorix.





Roran chào các tiên nhân và hỏi tên từng người một. Họ đáp lại lịch sự, nhưng anh cảm thấy họ không coi trọng anh lắm. Cũng ổn thôi, anh cũng không quan tâm lắm tới họ. Có gì đó khiến anh không tin họ, quá tách xa, quá giỏi chiến đấu, và hơn hết, quá khác biệt. Ít nhất anh cũng hiểu được người lùn và Urgal. Nhưng không phải tiên nhân. Anh không hiểu được nói đang nghĩ gì, điều khó khiến anh phiền lòng.





“Xin chào, Cây Búa Dũng Mãnh!” Tiếng thì thào của Nar Garzvog có thể nghe từ cách ba mươi bước. “Hôm nay chúng ta sẽ giành vinh quang cho tộc mình!”





“Phải, Hôm nay chúng ta sẽ giành vinh quang cho tộc mình,” Roran gật đầu bước tiếp. Binh sĩ của anh có vẻ căng thẳng; một số chiến binh trẻ trông có vẻ phát bệnh – và thậm chí một vài, cũng có thể hiểu được – chiến binh lão làng hơn cũng rất bồn chồn, cáu kỉnh, nói quá nhiều hoặc quá ít. Lý do quá hiển nhiên: Shruikan. Roran chẳng làm gì được cho họ ngoại trừ cố giấu nỗi sợ hãi của chính anh, hy vọng họ không mất hết tinh thần.





Cảm giác đề phòng đeo bám tất cả mọi người, kể cả anh, thực đáng sợ. Họ đã hy sinh quá nhiều để tới đây, và không chỉ mạng sống của họ bị đem ra mạo hiểm. Còn có sự an toàn và hạnh phúc của gia đình, con cháu họ, cũng như tương lai của mảnh đất này. Những trận chiến trước đây cũng đã quá nhiều rồi, nhưng đây là trận cuối. Đây là điểm kết thúc. Cách này hay cách khác, sẽ không có thêm trận chiến nào với Đế chế sau ngày hôm nay.





Ý nghĩ ấy có vẻ không thực lắm. Sẽ không bao giờ họ có cơ hội giết Galbatorix nữa. Chuyện đối mặt với Galbatorix có vẻ ổn thỏa khi trò chuyện buổi tối, nhưng càng đến gần, viễn cảnh càng trở nên đáng sợ.





Roran tìm chú Horst và các dân làng Carvahall, nhiều người trong số họ hợp thành tiểu đội trong tiểu đoàn của anh. Birgit đi cùng đám đàn ông, giữ chặt chiếc rìu sắc lẻm. Anh chào bà bằng cách nâng khiên, như thể đó là một vại bia đầy. Bà đáp trả, anh cũng cười ảm đạm.





Các chiến binh quấn vải lên bao tay và ủng, cố giữ áo giáp khỏi gây tiếng động. Vài phút sau, tiếng tù và của Varden vang lên, họ bắt đầu hành quân trong bóng đêm thẳng về phía tường thành sừng sững.





Roran đi ở hàng đầu cuộc xung phong. Đó thực ra cách khiến anh bị giết nhanh nhất, nhưng các chiến binh cần nhìn thấy anh tỏ ra can trường đối mặt với hiểm nguy. Anh hy vọng điều đó có thể giúp họ vững dạ và không bỏ chạy ngay thì gặp quân địch. Dù sao thì Urû’baen cũng không dễ xơi chút nào. Cái đấy anh chắc chắn.





Họ chạy vượt qua một tháp công thành, mấy cái chân tháp cáo đến hơn hai mươn thước, trông như một đống bản lề rỉ sét, rồi đẩy chúng ra trước tường thành. Cung tên giáo mác ném xuống đầu họ như mưa từ các lỗ châu mai.





Các tiên nhân la lên bằng giọng điệu kì lạ, trong ánh bình minh nhàn nhạt, Roran thấy nhiều mũi tên và mũi thương chuyển hướng cắm vô hại xuống đất. Nhưng không phải tất cả. Một tiếng la tuyệt vọng vang lên phía sau anh, Roran nghe tiếng lách cách của áo giáp khi binh sĩ và Urgal dạt ra tránh bước lên xác của người chiến binh ngã xuống. Roran không ngoái nhìn lại, cả và các đồng đội cũng không hề chậm bước tiến về phía tường thành.





Một mũi tên găm vào chiếc khiên anh giơ quá đầu. Anh gần như không thấy gì hết.





Khi họ tới bức tường, anh tránh sang một bên hô, “Thang! Dẹp đường cho thang lên!”





Các chiến binh dẹp ra để Urgal mang thang tiến tới. Thang rất dài, cũng có nghĩa các Kull phải dùng tới những thân cây buộc vào nhau để dựng chúng. Khi những cái thang chạm tường, chúng lún xuống vì sức nặng của chính mình, khiến phần thang trên trượt trên mặt đá, có thể đổ bất kì lúc nào.





Roran phóng về phía các binh sĩ và tóm lấy tay một tiên nhân, Othíara. Bà nhìn anh giận giữ, nhưng anh không để tâm. “Giữ thang ở vị trí!” anh thét. “Đừng để binh lính đẩy chúng đi!”





Bà gật đầu và bắt đầu niệm, các tiên nhân khác cũng vậy





Roran vội quay lại tường thành. Một binh sĩ của anh bắt đầu trèo lên chiếc thang gần nhất. Roran nắm lấy thắt lưng kéo anh ta xuống. “Tôi sẽ đi trước,” anh bảo.





“Cây Búa Dũng Mãnh!!!”





Roran đeo khiên lên vai, rồi bắt đầu vừa trèo với cây búa trong tay. Anh chưa bao giờ thích độ cao hết, khi các binh sĩ và Urgal trở nên bẽ đi, anh cảm thấy thực khó chịu. Cảm giác đó còn tệ hơn khi anh leo đến đoạn thang thẳng tắp so với tường thành, thậm chí anh còn không nắm được bậc thang, cũng như không thể đặt chân tử tế - chỉ vài tấc trên đôi ủng bám vừa khúc cây còn bỏ; anh phải leo thật cẩn thận để không trượt chân.





Một cây thương lao qua anh, đủ gần để nghe thấy tiếng gió rít bên má.





Anh thề độc, tiếp tục trèo.





Roran còn cách một bộ từ lỗ châu mai khi một gã lính mắt xanh trườn lên bờ thành nhìn thẳng vào anh.





“Khỉ thật!” Roran la, gã lính nao núng lùi bước. Trước khi hắn có thời gian tỉnh lại, anh dậm nhanh lên những bậc thang còn lại, nhảy qua lỗ châu mai để leo lên đường trên bờ thành.





Gã lính bị anh dọa đứng cách vài thước, tay cầm một thanh đoản kiếm của cung thủ. Đầu hắn ngoảng sang một bên khi cao giọng gọi một đám lính ở phía dưới tường thành.





Khiên của Roran vẫn ở trên lưng khi anh vung búa đập thằng vào cổ tay gã. Không có khiên anh sẽ khó tránh được một tay kiếm lão luyện; cách an toàn nhất là đánh văng vũ khí đối thủ nhanh nhất có thể.





Gã lính thấy được ý định của anh và ngăn đòn đánh. Rồi hắn đâm Roran vào bụng.





Hoặc có vẻ gã cố làm điều đó. Bùa chú của Eragon chặn mũi kiếm một phần tư tấc khỏi bụng Roran. Anh làu bàu ngạc nhiên, rồi đập thanh gươm ra một bên và phang gã lính ba nhát nát óc.





Anh thề độc lần nữa. Khởi đầu quá tệ.





Trên dưới tường thành, thêm quân Varden cố trèo lên lỗ châu mai. Hiếm có ai trèo lên được. Từng đám binh lính chờ ở mỗi đầu cầu thang, và quân tiếp ứng ào trên từ lối đi từ các cầu thang đến thành phố.





Baldor tiến lên cùng anh – ông leo lên cùng một cái thang như Roran – họ cùng chạy về phía máy bắn đá được điều khiển bởi tám tên lính. Chiếc máy đặt gần một trong những tháp canh nhô lên khỏi bức tường cách nhau hai trăm thước. Phía sau binh lính và tháp canh, Roran thấy ảo ảnh Saphira do các tiên nhân tạo ra bay vòng quanh tường, phun lửa dữ dội.





Bọn lính có vẻ thông minh; chúng nắm chắc thương và chĩa vào anh với Baldor, cố giữ khoảng cách với họ. Roran cố bắt lấy một thanh, nhưng gã lính cầm nó quá nhanh tay, Roran suýt bị đâm phát nữa. Càng lúc anh thấy bọn lính sẽ áp đảo anh và Baldor.





Trước khi chuyển đó xảy ra, một Urgal leo qua bờ tường phía sau bọn lính, hạ đầu xuống và xông lên, gầm lên, vung cây dùi cui loạn xạ.



Urgal đó đập một gã vào giữa ngực làm gãy xương sườn, và một gã khác vào hông vỡ xương chậu. Có vẻ vết thương sẽ làm chúng mất khả năng chiến đấu, nhưng khi Urgal bước qua chúng, hai gã lính đứng dậy như thể không có chuyện gì xảy ra và bắt đầu đâm xối xả vào lưng Urgal đó.





Cảm giác tuyệt vọng dâng lên trong lòng Roran. “Chúng ta sẽ phải đập thằng vào sọ chúng, hoặc cắt đầu nếu muốn chặn chúng lại,” anh gầm lên với Baldor. Vừa trông chừng bọn lính, anh gào lên với quân Varden phía sau, “Chúng không biết đau!”





Trong thành phố, ảo ảnh Saphira đập vào một tháp canh. Tất cả mọi người đều ngừng lại nhìn, trừ Roran; anh biết các tiên nhân đang làm gì.





Nhảy vọt tới trước, anh đập thẳng vào thái dương của một gã lính. Anh dùng khiên của hắn xô ngã tên bên cạnh, anh quá gần nên chúng không dùng thường được, còn anh thì có thể giải quyết nhanh chóng bằng búa.





Khi anh và Baldor tiêu diệt đám linh xung quanh máy bắn đá, Baldor nhìn anh tuyệt vọng. “Anh có thấy không? Saphira …”





“Nó ổn.”





“Nhưng mà…”





“Đừng lo về chuyện đó, nó vẫn ổn.”





Baldor hơi chần chờ, rồi chấp nhận lời của Roran, họ chạy tiếp đến đám lính tiếp theo.





Một lát sau, Saphira – Saphira thật – xuất hiện ở phía Nam tường thành bay thằng về phía thành trì, làm vang dậy tiếng hoan hô khuây khỏe của quân Varden.





Roran cau mặt. Cô rồng đáng ra phải tàng hình trong cả hành trình chứ. “Frethya. Frethya,” anh nói nhanh không kịp thở. Anh vẫn hiện hình. Khỉ thật, anh chửi.





Anh quay lại nói, “Quay về mấy cái thang đi!”





“Vì sao?” Baldor gặng hỏi, vật lộn với một gã lính. Gào lên một tiếng hung dữ, ông đẩy hắn qua bờ tường xuống thành phố.





“Đừng hỏi nữa! Đi mau!”





Họ chiến đấu cùng nhau qua hàng đoàn lính đứng chắn những cái thang. Chẳng đường thực đẫm máu và khó khăn, Baldor dính một nhát chém ở bắp chân trái sau giáp sắt, cùng vết thâm tím trên một bên vài, nơi một cây thương gần xuyên thủng giáp.





Sự miễn nhiễm đau đớn của các chiến binh có nghĩa là buộc phải giết để chặn bọn chúng, thế thì chẳng dễ tí nào cả. Dù sao, Roran cũng không dám nhân từ. Hơi một lần, anh nghĩ mình đã giết được một tên lính, rồi hắn bật dậy đâm lén khi anh đang đấu với một tên khác. Có quá nhiều lính trên đường đi, anh bắt đầu sợ bọn họ sẽ không bao giờ đến được đầu thang.





Khi họ tới đầu thang gần nhất, anh nói, “Đây rồi. Ở đây thôi.”





Nếu Baldor bối rối chút nào thì ông cũng không biểu hiện. Họ cầm cự với lũ lính cho đến khi hai chiến binh leo lên được thang nhập bọn, rồi người thứ ba, cuối cùng Roran bắt đầu cảm thấy họ có thể đấy lui địch và chiếm được một đoạn tường thành.





Dù cuộc tấn công chỉ đơn thuần là đánh lạc hướng. Roran thấy không lý nào lại hành xử y như vậy. Nếu họ phải mạo hiểm tính mạng, ít ra cũng phải với cái giá nào đó. Họ phải dẹp được tường thành dù thế nào đi nữa.





Khi họ nghe Thorn rống lên giận dữ, nó bay lên trời đảo cánh hướng về phía tòa thành. Roran trông thấy một hình dáng như Murtagh trên lưng nó, với thanh gươm đỏ rực trong tay.





“Thế có nghĩa gì?” Baldor hô lên giữa tiếng gươm chạm nhau.





“Có nghĩa là đến cao trào rồi đấy!” Roran đáp. “Hăng hái lên; lũ khốn này cần chút ngạc nhiên đấy!”





Anh vừa nói xong thì giọng của các tiên nhân vang lên trên âm thanh cuộc chiến, kì lạ, và cũng tuyệt vời như khi hát bằng cổ ngữ.





Roran tránh một mũi thương và giáng cho tên lính một phát búa vào bụng. Gã có thể không thấy đau, nhưng cũng phải thở. Khi tên lính cố hồi phục, Roran gạt tay hắn ra và xọc mũi khiên vào cổ họng hắn.





Anh định tấn công tên tiếp theo nhưng chợt thấy tảng đá rung chuyển dưới chân. Anh rút về dựa lưng vào lỗ châu mai, dang chân ra giữ thăng bằng.





Một tên lính đủ ngu để đuổi theo anh ngay lúc đó. Khi gã chạy tới gần, tảng đá lắc dữ dội hơn, rồi một mảng tường rung rinh như mảnh vải bị hất lên; gã lính đang xông tới cũng như đồng đội gã rơi xuống, có vẻ sẽ không thể đứng dậy nổi.





Từ phía kia của tháp canh ngăn bọn họ với cổng chính Urû’baen, một tiếng động như núi đổ vang lên. Những tia nước rẻ quạt bắn lên không trung, cùng với tiếng vang lớn, mảng tường trên cánh cổng rung rung, đổ sụp xuống.





Rồi những tiên nhân cất giọng hát.





Khi mặt thành dưới chân ngừng chuyển động, Roran lao lên giết ba tên linh trước khi chúng kịp đứng. Số còn lại quay lưng chạy xuống cầu thang dẫn vào thành phố.





Roran đỡ Baldor đứng thằng, rồi hô, “Theo chúng!” Anh cười toe toét, liếm máu trên môi. Cũng không phải là khởi đầu quá tệ hại cho lắm.



*******************************





Thứ không giết… (That which does not kill…)





“Dừng lại,” Elva thét lên.





Eragon cứng người lại, chân giơ lên giữa chừng. Cô bé vẫy vẫy, nó rút lại.





“Nhảy vào đây,” Elva chỉ vào một điểm cách hơn một bộ trước mặt nó. “Theo nét hoa văn ấy.”





Nó thu mình, khựng lại như thể chờ cô bé nói xem có an toàn hay không.





Cô bé dậm chân tức tối. “Khả năng của tôi không hoạt động được nếu anh không thực sự có ý. Trừ khi anh định đặt mình vào nguy hiểm, tôi không thể đoán được có gì sẽ làm hại anh không nữa.” Cô bé cười nhẹ, nhưng không khiến nó an tâm hơn chút nào. “Đừng lo. Tôi không để chuyện gì xảy ra với anh đâu.”





Nó vẫn nghi nghi, dang chân ra và khi định dợm bước tới …





“Dừng lại”





Nó chửi thề, vẫy vẫy cánh tay cố không chạm chân xuống khoảng đất sẽ báo hiệu mấy cọc nhọn phóng ra từ cả trên trần và dưới làn.





Đám cọc nhọn là cái bẫy thứ ba Eragon cùng những người đồng hành đụng phải trong tiền sảnh dài đằng đẵng dẫn đến cánh cửa vàng. Đầu tiên là một loạt hố ngầm. Rồi hàng đống đá từ trên trần nhà rơi xuống muốn đè họ dẹp lép. Giờ thì đến đám cọc, na ná như những cái giet s Wyrden trong đường hầm bên dưới thành Dras-Leona.





Họ thấy Murtag vào được tiền sảnh qua lỗ hổ mở toang, nhưng hắn không dám đuổi theo mà không có Thorn. Sau vài giây quan sát, hắn biến mất vào căn phong nơi Arya và Blödhgarm đá phá hỏng bộ máy đóng mở cánh cổng chính.





Sửa mớ máy móc đó có thể khiến Murtagh mất hơn một tiếng, cũng có khi chỉ vài phút không biết chừng. Dù sao, họ cũng chẳng dám lừng khừng thêm.





“Thử đi xa hơn một tí xem nào,” Elva bảo.





Eragon nhăn nhó, nhưng làm ý như vậy.





“Ngưng!”





Lần này nó suýt ngã nếu Elva không nắm lấy vạt áo sau lưng nó.





“Xa hơn nữa,” Cô bé nói. Rồi, “Ngừng! Xa nữa.”





“Anh không thể,” nó gầm gừ, càng lúc càng thất vọng. “mà không chạy đà được.” Nhưng nếu chạy đà, không thể nào dừng được nó kịp thời, nếu Elva biết cú nhảy sẽ nguy hiểm. “Giờ sao? Nếu đám cọc rải suốt đường đến cánh cửa, bọn mình không bao giờ tới được đó.” Họ đã thử dùng phép thuật để bay ngang qua bẫy, nhưng như Elva cảnh báo, một tí dấu hiệu của pháp thuật thôi cũng sẽ kích hoạt chúng, họ đành phải tin cô bé.





“Có khi bẫy này dành cho một con rồng đi lại thì sao,” Arya nói. “Nếu chỉ khoảng một bộ hoặc hai bộ, Saphira hay Thorn có thể bước qua mà không cần để ý. Nhưng nếu là tầm một trăm thước thì vẫn có thể vẫn đạp trúng bẫy.”





Nếu tôi nhảy thì còn khuya, Saphira nhấm nhẳng. Một trăm thước cũng đơn giản thôi.





Eragon liếc nhìn mắt Arya và Elva. “Phải đảm bảo em sẽ không chạm đuôi vào sàn đấy nhé.” Nó dặn. “Và đừng nhảy xa quá, lỡ đâu lại đụng một cái bẫy khác.”





Rồi, anh nhỏ à.





Saphira thu mình chuẩn bị, cúi đầu thấp xuống đến khi chỉ cách nền đá một thước. Rồi cô nàng dậm vuốt xuống sàn, nhảy xuống phía xa tiền sảnh, đôi cánh dang rộng đủ để nâng cô nàng một chút.





Eragon thở phào khi Elva vẫn im lặng.





Khi Saphira đi qua hai lần chiều dài cơ thể, cô nàng cụp đôi cánh, hạ xuống đất nghe loảng xoảng vang dội.





An toàn, cô nàng khẳng định. Vảy cô nàng cào vào nền đá khi quay lại. Eragon và những người khác phải dạt ra lấy chỗ cho cô nàng đáp trở lại. Rồi? Cô rồng hỏi. Ai trước nào?





Mất đến bốn lượt cô nàng mới đưa tất cả bọn họ sang phía kia bẫy cọc. Rồi họ đi nhanh về phía trước, Arya cùng Elva vẫn dẫn đầu. Họ không đụng thêm cái bẫy nào cho đến khi đi được ba phần tư quãng đường đến cảnh cửa lấp lánh, khi Elva rùng mình giơ tay lên. Họ ngừng bước ngay lập tức.





“Cái gì đó sẽ cắt chúng ta làm đôi nếu đi tiếp,” cô bé lặng lẽ. “Tôi không chắc nó từ đâu ra … bức tường, tôi nghĩ vậy.”





Eragon nhăn mặt. Thế có nghĩa là cái đó đủ nặng hoặc đủ mạnh để phá tan lưới phòng hộ của họ - có vẻ không sáng sủa gì cho lắm.





“Nếu ta …” nó vừa nói thì bị ngắt lời bởi hơn hai chục gã mặc áo choàng đen, chạy ra từ con đường nhánh xếp thành hàng trước mặt họ chắn mất lối đi.





Eragon cảm nhận ngay một tia ý nghĩ chọc vào tâm trí của nó khi pháp sư của địch bắt đầu niệm bằng cổ ngữ. Saphira há miệng quét sạch đám pháp sư bằng một luồng lửa mãnh liệt, nhưng không làm chúng tổn thương mảy may. Một lá cờ trên tường dính lửa, những mảnh vải cháy âm ỉ rớt xuống sàn đá.





Eragon cố tự bảo vệ, nhưng nó không đánh trả; đánh bại từng tên pháp sư một thì quá mất thời gian. Thêm nữa, tiếng niệm của chúng làm nó lo lắng: nếu chúng sẵn sàng phù phép trước khi có thể chiếm quyền kiếm soát tâm trí của nó – kể cả những người đồng hành – thì có nghĩa chúng cũng không quan tâm đến sẽ sống hay chết, chỉ cần ngăn được kẻ xâm nhập.





Nó quỳ xuống một chân bên cạnh Elva. Cô bé đang nói chuyện gì đó với một pháp sư về con gái của hắn.





“Chúng có đứng trên bẫy không?” Nó cố hỏi thật nhỏ.





Cô bé gật nhẹ, vẫn tiếp tục nói.





Vừa tiến ra, nó vừa vỗ gan bàn tay xuống sàn nhà.





Nó đã biết trước chuyện gì đó sẽ xảy ra, nhưng mất giật nảy mình khi một phiến thép nằm ngang – dài ba mươi thước và dày bốn tấc – bắn ra từ mỗi bên tường theo tiếng rin rít kinh khủng. Phiết thép kẹp đám pháp sư, cắt chúng làm đôi hệt như lưỡi kéo khổng lồ, rồi nhanh chóng thụt vào trong khe hở.





Sự việc quá đột ngột khiến Eragon bị sốc. Nó ngoảng đi không nhìn những kẻ đang lê lết dưới sàn. Chết thế này khủng khiếp quá.





Bên cạnh nó, Elva suýt nôn, rồi ngã về phía trước bất tỉnh. Arya tóm lấy trước khi đầu cô bé chạm sàn. Bế Elva trên tay, Arya vừa lẩm bẩm với cô bé bằng cổ ngữ.





Eragon bàn với các tiên nhân cách tốt nhất vượt qua cái bẫy. Họ quyết định cách an toàn nhất là nhảy qua, như cái bẫy cọc phía sau vậy.





Bốn người họ vừa trèo lên lưng Saphira, cô nàng đang chuẩn bị nhảy tới thì Elva thét lên yếu ớt. “Dừng lại! Đừng!”





Saphira vẫy nhẹ tại những vẫn đứng yên tại chỗ.





Elva trượt ra khỏi tay Arya, lảo đảo đứng cách vài bước, rướn ra nôn thốc tháo. Cô bé chùi miệng bằng gan bàn bay, rồi nhìn trân trối đám thi thể bị cắt nát trước mặt như thể đóng đinh chúng vào trí nhớ.





Vẫn chăm chú nhìn chúng, cô bé nói, “Có một cái bẫy khác, cách đây nửa đường trên không. Nếu ngươi nhảy” – cô bé vỗ tay vào nhau phát tiếng kêu sắc lẻm, rồi làm mặt xấu – “những thanh gươm sẽ bay ra từ trên tường, phóng lên từ phía dưới.”





Một ý nghĩ thoáng qua làm Eragon khó chịu. “Vì sao Galbatorix cố giết chúng ta?... Nếu em không ở đây,” nó nhìn Elva, “Saphira giờ có thể đã chết rồi. Galbatorix muốn nó còn sống cơ mà, tại sao?” Nó chỉ vào sàn nhà đầy máu me. “Sao lại có cọc nhọn với đá tảng ở đây?”





“Có lẽ,” một tiên nữ tên Invidia nói, “lão trông vào mấy cái hố sẽ bắt chúng ta trước khi đến mấy cái bẫy khác.”





“Hoặc giả,” Blödhgarm nói chán nản, “lão biết Elva đi cùng với chúng ta và cô bé có khả năng gì.”





Cô bé rùng mình. “Thế thì sao? Hắn không cản được tôi đâu.”





Một cơn lạnh lẽo chạy khắp người Eragon. “Không, nhưng nếu lão biết về em, thì lão có thể sợ hãi, và nếu lão sợ hại …”





Thì lão sẽ thực sự muốn giết bọn mình, Saphira tiếp.





Arya lắc đầu. “Không quan trọng. Chúng ta vẫn phải tìm lão.”





Họ mất thêm vài phút bàn cách vượt qua những lưỡi gươm, cho đến khi Eragon nói, “Nếu tôi dùng phép thuật để chuyển mọi người qua thì sao, như cách Arya chuyển trứng của Saphira đến rặng Spine ấy?” Nó ra hiệu về phía khoảng trống qua những cái xác.





Thế thì tốn quá nhiều năng lượng, Glaedr trầm ngâm.





Cứ giữ sức đến khi đối mặt Galbatorix thì tốt hơn, Umaroth thêm vào.





Eragon cắn môi. Khi nó nhìn về phía sau, nó hoảng hồ thấy ở xa xa, Murtagh đang chạy sang bên kia của tiền sảnh. Không còn nhiều thời gian nữa.





“Hay là chúng ta chặn cái gì đó lên tường ngăn những lưỡi gươm phóng ra.”





“Chúng chắc chắn được bảo vệ bằng phép thuật rồi,” Arya chỉ ra. “Thêm nữa, chúng ta mang theo cái gì đủ để cản lại cả? Dao? Hay áo giáp? Phiến thép quá lớn và nặng, nó sẽ phá vỡ bất kì cái gì cản bước dễ ợt.”





Một khoảng im lặng bao trùm.





Rồi Blödhgarm liếm móng vuốt nói, “Không hẳn.” Ông quay lại đặt thanh gươm của mình lên sàn trướt mặt Eragon, rồi ra hiệu các tiên nhân dưới quyền làm theo.





Mười một lưỡi gươm nằm phía trước nó. “Tôi không thể để cậu làm vậy,” ông nói. “Thanh gươm của cậu …”





Blödhgarm nín lại, giơ tay lên, lớp lông của ông bóng loáng trong ánh đèn lồng mờ ảo. “Chúng tôi chiến đấu bằng tâm trí, Khắc tinh của Tà thần à, không phải bằng thân thể. Nếu chạm trán binh lính, chúng tôi có thể lấy vũ khí từ chúng. Nếu những thanh gươm này có tác dụng hơn lúc này, giữ chúng lại bảo hiểm bây giờ thì hơi ngốc đấy.”





Eragon hơi cúi đầu. “Như ông muốn.”





Blödhgarm nói với Arya, “chúng ta cần một số lượng chắn để đảm bảo khả năng cao nhất.”





Cô hơi chần chừ, rồi rút thanh gươm mỏng của mình ra đặt cùng với những cái khác. “Hãy thận trọng với những gì cậu định làm, Eragon,” cô nhắc. “Đây là những vũ khí chứa đựng lịch sử. Phá hủy chúng mà không thu được gì thì thật đáng xấu hổ.”





Nó gật nhẹ, cau mặt, tập trung nhớ lại bài học với Oromis. Umaroth, nó nói, tôi cần sức mạnh của người.





Cái gì của chúng tôi cũng là của cậu, con rồng già đáp.





Ảo ảnh che giấu khe hở miếng thép phóng ra từ đó quá chắc chắn nên Eragon không thể xuyên qua. Y như nó trông chờ - Galbatorix không bỏ sót những chi tiết nhỏ như vậy. Mặt khác, những phù chú bảo toàn ảo ảnh tương đối dễ phát hiện, từ chúng nó có thể xác định chính xác nơi đặt và chiều của bề mặt khe hở.





Nó không biết chính xác phiến thép nằm sâu bao nhiêu. Nó chỉ hy vọng ít nhất ở tầm một hay hai tấc từ vách tường bên ngoài. Nếu chúng được đặt gần hơn thì ý tưởng của nó sẽ thất bại, vì nhà vua chắc chắn sẽ bảo vệ miếng thép khỏi can thiệp bên ngoài.





Nhẩm lại những từ cần thiết trong đầu, Eragon bắt đầu ếm một trong mười hai câu thần chú định dùng. Thanh gươm của tiên nhân Laufin, nó đoán vậy, biết mất khi một cơn gió nhẹ thổi qua, như tấm áo đu đưa trong không khí. Nửa giây sau, một tiếng huỵch trầm phát ra từ bức tường bên trái.





Eragon mỉm cười. Ý tưởng khả thi. Nếu nó cố phóng thanh gươm xuyên qua phiến thép thì chắc kết quả sẽ đáng kinh ngạc hơn nhiều.





Niệm càng lúc càng nhanh, nó bắt đầu phát các thần chú còn lại, đính sau thanh gươm vào mỗi bên tường. Các tiên nhân quan sát nó niệm chú, không tỏ vẻ bối rối khi mất đi vũ khí.





Khi nó ngừng lại, Eragon quỳ xuống trước Arya và Elva – vẫn đang cùng cầm chắc thanh Dauthdaert – nói, “Chuẩn bị chạy nhé.”





Saphira và các tiên nhân căng thẳng. Arya cõng Elva trong khi cả hai người vẫn cầm thanh lục thương; rồi Arya khẽ nói, “Sẵn sàng.”





Tiến lên phía trước, Eragon lại vỗ vào sàn nhà.





Một tiếng vỡ chói tai vang lên từ mỗi bức tường, từng dòng bụi rơi xuống từ trên trần xòa ra như những chùm lông vũ mờ ảo.





Khoảng khắn Eragon thấy những thanh gươm chặn lại, Eragon phóng lên. Vừa mới được hai bước thì Elva thét, “Nhanh lên!”





Nó gầm lên, dẫm mạnh chân lao thẳng. Bên phải nó, Saphira chạy vượt qua, đầu và đuôi hạ thấp, đến mức nó chỉ thấy một bóng mờ tôi tối.





Ngay khi chạy xa qua bên kia cái bẫy, nó nghe tiếng tách của thép vỡ, rồi tiếng rít inh tai của kim loại va chạm.





Đằng sau nó, có tiếng kêu thất thanh.





Nó vặn mình khi nhảy vọt khỏi phía tiếng động, có ai đó lao đến kịp thời cứu được tiên nữ tóc bạc Yaela, bị sáu tấc cuối cùng của hai phiến thép nghiến vào. Xung quanh bà tóe lửa màu lam với vàng, như thế không khí đang rực cháy, khuôn mặt bà nhăn nhúm vì đau.





“Flauga!” Blödhgarm la lên, rồi Yaela bay ra khỏi phiến thép đập vào nhau vang rền nhức óc. Rồi chúng rút vào bức tường với tiếng rít khủng khiếp như lúc xuất hiện.





Yaela chạm đất bằng tay và đầu gối gần Eragon. Nó giúp bà đứng lên, ngạc nhiên rằng bà không sao. “Bà có bị thương không?” nó hỏi.





Bà lắc đầu. “Không, nhưng… lưới phòng hộ của tôi tan rồi.” Bà giơ hai tay, nhìn trân trối chúng chúng một lúc lo lắng. “Tôi đã có chúng từ … từ khi tôi còn trẻ hơn cậu bây giờ. Những phiến thép lột bỏ chúng mất vậy.”





“Bà may mắn khi còn sống đấy,” Eragon cau mày.





Elva rùng mình. “Chúng ta có thể chết cả rồi, trừ ông ta” – cô bé chỉ vào Blödhgarm – “nếu tôi không bảo anh chạy nhanh hơn.”





Eragon càu nhàu.





Họ đi tiếp, chờ đợi mỗi bước tiếp theo sẽ gặp bẫy. Nhưng cả đoạn đường còn lại trong tiền sảnh có vẻ không có chướng ngại nào hết, khi họ tới bên cánh cửa không trắc trở gì.





Eragon nhìn lên mảng vàng tỏa sáng. Dọc cánh cửa được chạm khắc hình cây sồi kích cỡ như thật, vòm lá uống thành hình vòng cung cùng với bộ rễ vẽ nên một vòng tròn quanh thân cây. Từ khoảng giữa thân cây mỗi bên mọc ra hai nhánh cây to đùng. Ở mảng phía trên bên trái chạm hình một đoàn quân tiên nhân cầm thương hành quân ra từ khu rừng rậm. Ở khoảng trên bên phải là con người đang xây lâu đài và rèn gươm. Ở phía dưới bên trái, Urgal – phần lớn là Kull – đốt phá làng mạc và giết người. Ở phía dưới bên phải, người lùn khai mỏ đầy khoáng thạch và vỉa quặng. Giữa thân và cành cây sồi, Eragon nhận thấy ma mèo và Ra’zac, còn có một loài vật nhỏ kì lạ mà nó không nhận ra. Cuộc chính giữa thân cây là một con rồng đang ngậm đuôi như thể cắn chính mình. Cánh cửa được chạm khắc tuyệt đẹp. Nếu ở tình cảnh khác, nó sẵn sàng bỏ cả ngày ra ngồi đây nghiên cứu chúng.





Ánh sáng chói lọi của cánh cổng làm nó dâng lên cảm giác khiếp đảm khi cân nhắc thứ gì phía bên kia. Nếu đó là Galbatorix, thì cuộc đời của họ sẽ thay đổi mãi mãi và không bao giờ như trước nữa – cả cho họ lẫn toàn bộ Alagaësia.





Anh chưa sẵn sàng, Eragon thì thào với Saphira.





Từ khi nào bọn mình sẵn sàng vậy? Cô nàng thè lưỡi đớp không khí. Nó có thể thấy cô nàng đề phòng rất căng thẳng. Galbatorix lẫn Shruikan đều phải bị tiêu diệt, và chúng mình là người duy nhất có thể làm chuyện đó.





Nếu chúng mình không thể thì sao?





Thì không thể thôi, cái gì phải đến sẽ đến.





Nó gật nhẹ đầu, hít sâu một hơi. Anh yêu em, Saphira.





Em cũng yêu anh, anh nhỏ.





Eragon bước lên. “Giờ sao?” Nó hỏi cố giấu sự khó thở. “Ta có nên gõ cửa không?”





“Đầu tiên, cứ xem nó có mở không đã,” Arya nói.





Họ dàn hàng sẵn sàng cho trận đấu. Rồi Arya, bên cạnh Elva, nắm lấy tay cầm cánh cửa bên phải và chuẩn bị kéo.





Ngay lúc đó, một cột ánh sáng lung linh quấn quanh Blödhgarm và mười tiên nhân bên cạnh ông. Eragon thét lên cảnh báo, Saphira rít lên như thể dẫm lên vật nhọn. Các tiên nhân không thể di chuyển trong cột sáng: kể cả mắt họ cũng có vẻ bất động ngay từ lúc phép thuật có tác dụng.





Có tiếng cạch nặng nề vang lên, cánh cửa từ tường bên trái mở ra, các tiên nhân trượt về phía đó như thể những bước tượng trên mặt băng.





Arya lao theo, vươn ngạnh thương ra cố chọc thủng bùa chú trói buộc các tiên nhân, nhưng cô không theo kịp họ.





“Letta!” Eragon la lên. Dừng lại! Pháp thuật đơn giản nhất nó nghĩ có thể giúp được. Nhưng bùa chú ếm lên các tiên nhân có vẻ quá mạnh để nó có thể phá, họ biến mất trong bóng tối, cánh cửa đóng sập lại phía sau.





Cảm giác chán nản dâng trong lòng Eragon. Không có các tiên nhân …





Arya đập mạnh cánh cửa bằng cán thanh Dauthdaert, cố tìm kẽ hở giữa cánh cửa và bức tường bằng ngọn thương – như đã làm với cổng ngoài – nhưng bức tường dường như đặc kín, bất động.





Cô quay lại, vẻ mặt lạnh lẽo điên tiết. Umaroth, cô yêu cầu. Tôi cần sự giúp đỡ của người để mở cửa.





Không, con rồng trắng đáp. Galbatorix chắc chắn giấu những người kia rất kĩ. Cố tìm họ chỉ lãng phí năng lượng và đặt chúng ta vào tình thế nguy hiểm hơn.





Arya nhíu mày giận giữ. Thế thì chúng ta lọt bẫy lão mất, Umaroth-tiền-bối. Lão muốn tách chúng ta ra cho yếu đi. Nếu tiếp tục đi mà không có họ, Galbatorix càng dễ đánh bại chúng ta hơn.





Phải rồi, nhóc con. Nhưng ngươi có nghĩ Kẻ Phản Đồ(nguyên văn: Egg-breaker)muốn chúng ta lần theo họ không? Hắn có thể muốn chúng ta quên mất lão ta trong lo lắng, giận dữ, mù quáng nhảy vào một cái bẫy khác.





Sao lão phải lắm chuyện như thế? Lão có thể bắt Eragon, Saphira, người và toàn bộ các Eldunarí hệt như đã tóm mấy người Blödhgarm kia mà, nhưng lão không làm thế.





Có lẽ hắn muốn chúng ta tự kiệt sức trước khi đối mặt hắn hoặc trước khi hắn đánh bại chúng ta.





Aray cúi đầu suy nghĩ, rồi khi ngẩng lên cơn thịnh nộ của cô tan đi – ít ra là bề ngoài – thay bằng vẻ cảnh giác cao độ bình thường. Vậy chúng ta nên làm gì, Ebrithil?





Chúng ta hy vọng Galbatorix sẽ không giết mấy người Blödhgarm, ít ra là ngay lập tức , và tiếp tục cho đến khi tìm thấy nhà vua.





Dù Arya chấp thuận, nhưng Eragon có thể thấy cô thực khó chịu. Nó không thể đổ lỗi cho cô được vì chính nó cũng thấy vậy.





“Sao em không cảm thấy cái bẫy?” Nó nhẹ giọng hỏi Elva. Nó nghĩ mình hiểu, những vẫn muốn nghe lý do từ cô bé.





“Vì nó không làm họ đau,” cô bé nói.





Nó gật nhẹ.





Arya lui về phía cánh cửa vàng, nắm lấy tay cầm bên trái. Elva cũng nắm lấy cán thanh Dauthdaert.





Arya nghiêng người kéo, rồi cánh cửa vĩ đại chầm chậm mở ra. Eragon dam chắc không con người nào đủ sức mở nó, kể cả với sức mạnh của Arya.





Khi cánh cửa chạm bức tường, Arya thả ra, cùng Elva bước theo Eragon phía trước Saphira.





Phía bên kia cổng tò vò là một căn phòng khổng lồ tối tăm. Eragon không dám chắc nó lớn cỡ nào, vì những bức tường mờ ẩn trong bóng tối xám xịt. Một hàng đèn-lồng-không-lửa đặt trên các cột sắt chạy dọc hai bên lối vào, thắp sáng mù mờ sàn nhà chạm trổ, trong khi ánh sáng mù mờ tỏa ra từ những tinh thể gắn trên trần nhà xa xa. Hai hàng đèn lồng dài chừng năm trăm thước tới gần cái bệ rộng, trên đó là ngai vàng. Một thân ảnh duy nhất ngồi đơn độc trong căn phòng, dưới vạt áo hắn là thanh gươm trần trắng dài, đang tỏa ánh sáng nhàn nhạt.





Eragon nuốt nước bọn, nắm chặt thanh Brisingr. Nó gãi nhẹ cằm Saphira bằng cạnh khiên, cô nàng táp lưỡi nhẹ đáp trả. Rồi không nói gì, cả bốn cùng tiến lên.





Khi họ tiến vào phòng, cánh cửa vào đóng sập lại phía sau. Eragon cũng đoán trước được, nhưng tiếng động vẫn làm nó giật mình. m thanh vang vọng nhạt dần nhường chỗ cho sự im lặng tỏa khắp căn phòng lớn, thân ảnh phía trên ngai cựa mình như thức giấc, rồi một giọng nói – thứ giọng Eragon chưa từng nghe: nó trầm và mãnh liệt, thấm đầy uy lực hơn cả Ajihad hay Oromis hay Hrothgar, kể cả tiếng nói của tiên nhân cũng trở nên chói tai khó nghe khi so với nó – vang lên từ phía xa căn phòng.





Giọng nói đó bảo, “À, ta đang chờ mọi người đây. Chào mừng tới tệ xá. Và nhất là cậu đấy, Eragon Khắc tinh của Tà thần, và cho ngươi, Saphira Vảy Sáng. Ta rất mong gặp các cậu. Nhưng ta cũng hân hạnh gặp cô nữa, Arya – ái nữ của Islanzadí, mà cũng là Khắc tinh của Tà thần phải không – cả cô bé nữa, Elva My Rạng (nguyên văn: she of the Shining Brow). Dĩ nhiên, cả Glaedr, Umaroth, Valdr, những người du hành vô hình nữa. Ta tưởng họ đã mất lâu rồi, nhưng giờ thật mừng vì ta đã lầm. Chào mừng tất cả mọi người! Chúng ta phải nói chuyện thật nhiều mới được.”



*******************************





Trái tim của cuộc chiến





Cùng các binh sĩ trong tiểu đoàn, Roran chiến đấu từ trên tường thành Urû’baen xuống đường phố bên dưới. Họ ngừng một chút tập hợp, anh vừa hô, “Ra cổng!” vừa chĩa búa theo hướng đó.





Anh cùng vài dân làng Carvahall, có cả chú Horst và Delwin, dẫn đầu tấn công về phía lỗ thủng các tiên nhân tạo ra bằng phép thuật. Cung tên bay tán loạn trên đầu họ, nhưng không nhắm thẳng vào họ, anh cũng không nghe thấy ai trong nhóm bị trúng tên cả.





Họ đúng đầu vài tá binh lính trong khoảng ngõ hẹp giữa tường thành và những ngôi nhà đá. Một số ở lại chiến đấu để hầu hết tiếp tục chạy, nhưng kể cả họ cũng sớm rút vào những hẻm gần kề.





Lúc đầu cảm giác cuồng nhiệt được giết chóc và chiến thắng làm mờ mắt Roran. Nhưng rồi khi bọn lính họ gặp bỏ chạy liên tục, cảm giác lo lắng cuộn lên trong Roran, anh bắt đầu nhìn xung quanh đầy cảnh giác, tìm kiếm bất kì thứ gì trông lạ thường.





Có gì đó không ổn. Anh chắc chắn.





“Galbatorix không bỏ rơi chúng dễ vậy chứ”, anh lẩm bẩm.





“Gì thế?” Albriech đứng cạnh anh hỏi.





“Tôi nói, Galbatorix sẽ không bỏ rơi chúng như thế này đâu.” Ngoẹo đầu nhìn quanh, Roran hô lên với cả tiểu đoàn, “Đề cao cảnh giác nào! Tôi cuộc Galbatorix có thể còn nhiều thứ bất ngờ đấy. Chúng ta sẽ không để bị đánh bại mà không hiểu chuyện gì chứ, phải không?”





“Cây Búa Dũng Mãnh!” họ kêu gào đáp trả, vũ khí đặt sát khiên. Tất cả, trừ các tiên nhân. Đã thỏa mãn, anh bước nhanh tới kiểm tra các mái nhà.





Họ nhanh chóng tiến vào một con phố đầy sỏi đá dẫn thẳng đến nơi từng là cổng thành chính. Giờ nó chỉ còn là một cái hố rộng hàng trăm thước, với hàng đống xương vụn dưới đáy. Hàng đoàn chiến binh quân Varden và đồng minh tuôn qua khoảng trống: con người, người lùn, Urgal, tiên nhân và mèo ma lần đâu tiênsát cánh chiến đấu trong lịch sử.





Tên bắn ào ào như mưa lên quân đoàn đang tiến vào thành phố, nhưng phép thuật của các tiên nhân chặn đứng những mũi nhọn chết người trước khi đâm xuống. Nhưng binh lính của Galbatorix thì không được may mắn như vậy: chúc ngã gục tới tấp trước mũi tên của các cung thủ Varden, dù một số có vẻ được bảo vệ bởi pháp thuật. Roran đoán có lẽ đó là những kẻ được Galbatorix sủng ái.





Khi tiểu đoàn của anh nhập vào đoàn quân, Roran trông thấy Jörmundur cưỡi ngựa trong dòng thác chiến binh. Anh hô to chào, ông đáp lại rồi hô lên, “Khi tới đài phun nước” – ông chĩa gươm vào công trình lớn tráng lệ trong khoảng sân phía trước họ mấy trăm bộ - “dẫn lính của cậu về hướng phải. Dọn dẹp mạn Nam thành phố, rồi tập hợp với chúng tôi ở tòa thành.”





Roran gật mạnh đầu để Jörmundur thấy. “Vâng thưa Ngài!”





Giờ anh cảm thấy an toàn hơn khi có sự hỗ trợ của những chiến binh, nhưng cảm giác lo lắng vẫn tiếp tục. Bọn chúng đâu rồi? Anh băn khoăn, nhìn qua những con phố trống trải. Galbatorix đáng ra phải có hàng đoàn quân tại Urû’baen, nhưng Roran vẫn chưa thấy bóng dáng của chúng đâu cả. Chỉ có một số lính nháo loạn trên tường thành thật, và chúng còn bỏ chạy nhanh hơn bình thường nữa.





Hắn đang dụ chúng ta, Roran đột nhiên nhận ra. Tất cả được tạo ra để gạt chúng ta. Cố gọi Jörmundur lần nữa, anh la lên, “Có gì đó không đúng! Binh lính ở đâu rồi?”





Jörmundur tư lự, quay sang vua Orrin và Nữ hoàng Islanzadí, đang phóng ngựa phía trước. Kì cục sao, con trắng đậu trên giáp vai nữ hoàng, móng của nó bám vào khe hở trên chiếc áo giáp vàng của bà.





Quân Varden vẫn tiếp tục tiến sâu hơn vào lòng Urû’baen.





“Có chuyện gì vậy, Cây Búa Dũng Mãnh?” Nar Garzhvog gầm lên tiến tới bên Roran.





Roran liếc nhìn lên gã Kull đầu bự chảng. “Tôi không chắc lắm. Galbatorix …”





Anh quên ngay những gì mình định nói khi tiếng tù và vang lên giữa các tòa nhà phía trước. Tiếng kèn trầm trầm quái gở kéo dài hơn nửa phút khiến quân Varden khựng lại, nhìn quanh lo lắng.





Tim Roran như rụng xuống. “Đây rồi,” anh nói với Albriech. Quay người lại anh vẫy búa, chỉ về phía bên con đường. “Mai phục!” anh rống lên. “Chiu vào các tòa nhà, tránh đi!”





Tiểu đoàn của anh mất thời gian hơn nhiều để thoát ra khỏi đoàn quân. Bực mình, anh la hét, cố khiến họ di chuyển nhanh hơn. “Nhanh lên, mấy tên ngốc này! Nhanh lên!”





Tiếng tù và lại vang lên, rốt cục Jörmundur cũng ra lệnh dừng tiến quân.





Khi đó quân của Roran đã trốn an toàn trong ba con phố, đứng tụm vào trong các ngôi nhà chờ lệnh. Roran đứng sát trong một ngôi nhà cùng với Garzhvog và chú Horst, đứng ở góc cửa nhìn chăm chú xem chuyện gì đang xảy ra.





Rồi một tiếng tù và nữa vang lên, tiếng bước chân nặng nền vang khắp Urû’baen.





Roran kinh hãi khi anh thấy hàng đoàn hàng đoàn binh lính hành quân ra từ các con phố dẫn ra từ tòa thành, nhanh nhẹn, đầy kỉ luật, khuôn mặt không hề có một chút vẻ sợ hãi. Dẫn đần chúng là một gã lùn vai rộng trên con chiến mã màu xám. Hắn khoác bộ giáp sáng bóng phình ra cả tấc như thể cho lọt cái bụng lớn. Tay trái hắn đeo một chiếc khiên có hình tháp công thành trên đỉnh đồi trọc. Tay phải hắn cầm cây chùy đầu nhọn mà người thường khó mang được, nhưng hắn đang vung vẩy nó nhẹ nhàng.





Roran liếm môi. Anh đoán hắn không ai chính là Tướng Barst, nhưng chỉ cần một nữa những gì anh nghe về hắn đúng thôi, thì Barst cũng sẽ không bao giờ đối mặt trực diện với địch trừ khi hắn chắn chắn tiêu diệt được đối phương.





Roran thấy thế là quá đủ. Nhảy ra khỏi góc nhà, anh nói, “Chúng ta không chờ nữa. Gọi những người khác theo.”





“Ý anh là bỏ chạy hả, Cây Búa Dũng Mãnh?” Nar Garzhvog gầm gừ.





“Không,” Roran nói. “Ý tôi là đột kích từ bên sườn. Có rồ mới tấn công đoàn quân như thế này trực diện. Giờ đi!” Anh xô gã Urgal một cái, rồi đi thẳng xuống con đường dẫn đầu các chiến binh. Và có rồ mới chạm trán trực tiếp với kẻ Galbatorix chọn dẫn đầu quân đội của lão.





Khi họ lần qua những ngôi nhà san sát, Roran nghe binh lính bắt đầu hô, “Tướng Barst! Tướng Barst! Tướng Barst!”. Chúng dậm huỳnh huỵch lên mặt đất bằng đôi bốt đinh, vừa gõ gươm vào khiên vang dội.





Càng lúc càng hay, Roran nghĩ, ước gì mình ở bất kì đâu cũng được chứ không phải nơi này.





Rồi quân Varden hô vang đáp trả rộn ràng “Eragon!”, “Kỵ Sỹ Rồng!” thành phố rung chuyển cùng hàng tràng kim khí va chạm và tiếng la hét của binh sĩ bị thương.





Khi tiểu đoàn tiến đến điểm Roran ước chừng ở giữa quân đoàn Đế chế, anh lệnh họ dàn đội ngũ quay về phía địch. “Ở cạnh nhau,” anh ra lệnh. “Tiến lên từ bức tường với khiên phía trước, kiên quyết bảo vệ các pháp sư.”





Họ nhanh chóng nhận thấy binh lính trên con phố - chủ yếu là quân thương – dồn vào nhau khi chúng lê bước tới trận tiền.





Nar Garzhvog gầm lên hung tợn, Roran và các chiến binh khác cũng vậy, họ lao thẳng vào hàng ngũ quân địch. Binh lính hô lên cảnh báo, sự hốt hoảng lan đi khiến chúng dạt lùi lại, dẫm đạp nhau khi cố tìm khoảng trống chiến đấu.





Roran tru lên một tiếng, lao thẳng xuống hàng đầu tiên của địch. Máu bắn tung tóe khoe anh vung búa đập vào xương và kim khí. Lũ binh lính đứng chật chội đến mức chúng gần như vô dụng. Anh giết bốn tên trước khi chúng kịp vung gươm, bị anh đỡ bằng khiên.





Phía cuối con phố, Nar Garzhvog đốn ngã sáu tên chỉ bằng một phát dùi cui. Lũ lính lồm cồm bò dậy, không bận tâm đến vết thương có thể làm chúng tê liệt nếu biết đau, rồi Garzhvog giáng thêm một phát, quăng chúng đi như búp bê.





Roran không còn biết gì khác ngoài những tên lính trước mặt, sức nặng của cây búa trong tay và mặt đất đá trơn tuột vì nhốm máu dưới chân. Anh tàn phá, chiến đấu, anh cúi mình xô đẩy, anh gầm lên la hét, giết, giết, giết – cho đến khi ngạc nhiên phát hiện ra mình đang vung búa vào không khí. Vũ khí đập mạnh xuống nền đá tóe lửa, xóc lên đau đớn cả cánh tay anh.





Roran lắc mạnh đầu, cơn say chiến đấu nhạt dần; anh vất vả trèo qua đống xác của đám binh lính.





Ngoảnh lại, anh thấy phần lớn các chiến binh của mình vẫn chiến đấu với lũ lính. Gầm lên một tiếng nữa, anh lại nhảy bổ vào tiếp tục.





Ba tên lính đứng ngay gần anh: hai tên cầm thương, một tên cầm gươm. Roran nhào tới xô ngã tên cầm gươm, nhưng bị trượt chân khi giẫm phải cái gì đó mềm oặt. Ngay khi ngã, anh vẫn kịp vung búa đập vào mắt cá chân tên gần nhất. Gã lính nhảy lùi lại cố đâm xuống Roran, nhưng một tiên nhân nhảy tới và chỉ cần hai chiêu đã lấy đầu được cả ba tên.





Đó là tiên nữ anh đã la hét phía bên ngoài tường thành, giờ tơi tả với vạt áo đẫm máu. Trước khi anh kịp cảm ơn, bà đã phóng qua, thanh kiếm lượn mờ ảo khi bà hạ gục nhiều tên khác.





Sau khi nhìn họ chiến đấu, Roran kết luận mỗi tiên nhân mạnh ngang ít nhất năm người, chưa kể họ còn có thể phù phép. Đối với các Urgal, anh cố tránh xa khỏi họ, đặc biệt là các Kull. Khi hăng máu lên thì họ chẳng còn phân biệt địch ta gì hết, mà các Kull thì quá lớn, giết ai đó quá đơn giản mà không cần phải để ý. Anh thấy có Kull ép nát một tên lính vào tường nhà mà chẳng hay biết. Rồi anh lại thấy một Kull khác cắt đầu một tên lính khi vô ý xoạc khiên quay lại.





Cuộc đấu kéo dài thêm vài phút, khi những tên lính cuối cùng còn sót lại đều đã chết.





Quẹt mồ hôi trên khóe mắt, Roran nhìn dọc con phố. Xa hơn trong thành phố, anh thấy tàn dư của đội ngũ vừa bị tiêu diệt biết mất trong những ngôi nhà, nhập bọn vào những quân đoàn khác của Galbatorix. Anh định đuổi theo chúng, nhưng trận chiến quá gần rìa thành phố, mà anh thì muốn cắt đứt tuyến giữa của chúng khi đang tấn công.





“Đường này!” anh hét lên, nâng búa chạy dọc xuống con phố.





Một mũi tên cắm thẳng vào cạnh khiên, anh ngước lên thấy một bóng người trượt xuống mái nhà gần đó.





Khi Roran trồi lên từ mấy ngôi nhà sát nhau gần quảng trường trước đống đổ nát của cổng thàng, anh thấy một cảnh tượng làm anh bối rối không biết phải làm sao.





Hai đoàn quân hòa lẫn vào nhau cho đến khi không thể xác định được hàng ngũ gì cả, thậm chí cả không rõ tiền tuyến ở đâu nữa. Quân phục đỏ thẫm của binh lính rải rác khắp quảng trường, có khi lác đác, có khi thành cụm lớn, cuộc chiến lan ra khắp các con phố gần đó, hai đoàn quân tràn ra như vết dầu loang. Giữa những binh sĩ, Roran thấy như đoán trước hàng trăm con mèo – mèo thường, không phải ma mèo – đang tấn công binh lính, anh chưa bao giờ thấy chung hung dữ đáng sợ như vậy. Anh biết lũ mèo được sự chỉ dẫn của ma mèo.





Rồi ở trung tâm quảng trường, Tướng Barst đang cưỡi trên con chiến mã xám, bộ giáp lớn của hắn lóe sáng ảnh lửa đốt cháy những ngôi nhà kế bên. Hắn vung chùy hết lượt này đến lượt khác, nhanh hơn khả năng của con người, mỗi lần hạ gục ít nhất một quân Varden. Tên bắn về phía hắn nhanh chóng bị thiêu rụi trong ngọn lửa da cam, gươm giáo trúng hắn bật ra như thể đập vào đá, kể cả một Kull lao tới cũng không đủ mạnh thúc hắn ra khỏi con ngựa. Roran kinh ngạc thấy chỉ bằng một cú vụt bình thường, hắn có thể làm vỡ sọ và sừng một Kull như thể đập vỏ trứng.





Roran nhăn mặt. Thế quái nào mà hắn nhanh và mạnh như thế được? Câu trả lời thì dĩ nhiên là phép thuật rồi, nhưng kể cả phép thuật cũng phải có nguồn gốc. Không có viên ngọc nào trên cây chùy hay giáp của Barst cả, Roran cũng không tin Galbatorix có thể cung cấp năng lượng cho hắn từ khoảng cách này. Roran nhớ lại cuộc nói chuyện với Eragon trước khi giải cứu Katrina ở Helgrind. Eragon từng nói không thể thay đổi cơ nhục của con người để có sức mạnh và tốc độ như tiên nhân được, kể cả cho dù là Kỵ Sỹ đi nữa – những gì loài rồng làm với Eragon trong Lễ Huyết Thệ cũng quá thần kì. Có vẻ Galbatorix cũng không làm như vậy đối với Barst, khiến Roran băn khoăn, nguồn gốc sức mạnh phi phàm của hắn ở đâu ra vậy?





Barst giật yên cương quay con chiến mã lại. Tia sáng lóe lên trên bề mặt bộ giáp phình ra khiến Roran chú ý.





Miệng Roran khô lại trong cơn tuyệt vọng. Từ những gì anh biết, Barst không béo. Hắn sẽ không khiến cơ thể yếu đuối, mà Galbatorix cũng sẽ không chọn kẻ như vậy bảo vệ Urû’baen. Cách giải thích hợp lý duy nhật là Barst giấu một Eldunarí trong lòng áo giáp có hình dạng kì cục.





Rồi con phố rung chuyển tách ra, một chiếc hố xuất hiện bên dưới Barst và con chiến mã. Miệng hố thừa đủ để nuốt gọn cả hai, nhưng con ngựa vẫn đứng trên không trung như thể trên đất bằng. Một vầng sáng màu lung linh xung quanh Barst như thể hào quang hay một mảnh cầu vồng. Những đợt khí nóng rồi lạnh phát ra từ phía Barst, rồi Roran thấy những lưỡi băng tua tủa mọc lên từ mặt đất, cố quấn quanh chận con chiến mã giữ chặt nó. Nhưng cọc băng không thể bắt con ngựa, bất kể phép thuật nào cũng không có tác dụng gì lên chúng.





Barst lại giật cương ngựa, phi thẳng đến một nhóm tiên nhân đứng gần một ngôi nhà niệm cổ ngữ. Roran đoán có lẽ họ đã phóng bùa chú vào Barst.





Giơ chùy cao quá đầu, Barst phi thẳng vào giữa đám tiên nhân. Họ chạy tán loạn cố tự bảo vệ, nhưng vô nghĩa, Barst đập vỡ khiên và gươm của họ nhẹ nhàng, rồi khi hắn đánh trúng, cái chùy nghiền nát các tiên nhân như thể xương cốt của họ mảnh khảnh rỗng tuếch như của loài chim.





Sao lưới phòng hộ không bảo vệ họ? Roran wondered. Sao họ không tấn công hắn bằng tâm trí? Hắn chỉ có một người, mà chỉ có một Eldunarí.





Cách vài bộ, một tảng đá bự chảng đạp thẳng vào biển người đang chiến đấu, để lại một vệt dài đỏ thẫm, rồibật lên dội vào mặt trước tòa nhá, nghiền nát bức tượng trên khung cửa.





Roran cúi xuống, chửi thề, nhìn về phía những hòn đá phóng ra. Từ phía kia của thành phố, anh thấy lính của Galbatorix đã chiếm được các máy bắn đá trên tường thành. Chúng đang bắn chính thành phố của mình, anh cáu. Chúng đang bắn chính đồng đội của mình.





Gầm lên kinh tởm, anh chạy khỏi quảng trường, đối mặt với khu nội thành. “Chúng ta không làm gì ở đây được!” anh hô lên với tiểu đoàn. “Để Barst lại cho người khác. Chiếm lấy những con phố phía đó!” Anh chỉ sang trái. “Chúng ta sẽ đánh đến tường thành và dừng ở đó!”





Rồi anh phóng vụt đi ngay lập tức, còn không kịp nghe các binh sĩ có phản ứng gì. Phía sau anh, một tảng đá khác lao xuống hai quân đoàn đang chiến đấu, tiếng kêu gào đau đớn còn vang vọng hơn.





Con phố Roran chọn đầy rẫy binh lính, cũng như rất ít thần tiên và ma mèo, lúc này đang túm tụm lại trước cửa hàng mũ, vất vả cầm cũ lũ lượt binh lính vây quanh. Các tiên nhân hét lên, khoảng một tá lính ngã xuống, nhưng số còn lại vẫn đứng được.





Nhảy thằng vào giữa đám lính, Roran lại chìm đắm trong trận chiến đẫm máu. Anh nhảy lên xác một tên lính, hạ búa xuống đầu một tên khác khi quay lưng. Tự tin hắn đã chết, Roran dùng khiên đẩy tên kế tiếp lại, đâm mạnh cán búa chọc thủng cổ họng hắn.





Bên cạnh anh, Delwin bị một thanh thương đâm vào vai, quỳ xuống bằng một chân kêu lên đau đớn. Vung búa nhanh hơn, Roran đẩy lùi gã lính trong khi Delwin rút thương ra đứng lên.





“Lui lại,” Roran gào lên.





Delwin lắc đầu nhe răng. “Không!”





“Lui lại, mẹ kiếp! Đấy là lệnh.”





Delwin chửi thề nhưng vẫn tuân lệnh, chú Horst thế chỗ cậu. Roran để ý người thợ rèn chảy máu từ những vết chém trên tay chân, nhưng chúng không làm ông chậm đi chút nào.





Tránh một cú đâm, Roran bước về phía trước. Có vẻ anh nghe thấy một tiếng soạt nhẹ sau lưng, rồi có tiếng sấm nổ bên tai, bầu trời như quay cuồng, tối sầm đi.





Anh tỉnh dậy đầu vẫn đau nhói. Phía trên anh thấy bầu trời – sáng bừng bởi ánh mặt trời – và mảng tối phía dưới phiến đá nứt nẻ nhô ra.





Rên lên vì đau, anh cố đứng dậy. Anh đang nằm dưới chân của bức tường thành bên ngoài, bên cạnh mảnh đá vỡ dính đầy máu. Cả khiên và búa đều văng mất, khiến anh mụ đi một lúc.





Ngay khi anh cố lấy thăng bằng, một tốp năm tên linh lao thẳng đến, một tên đâm thương vào ngực anh. Mũi thương đẩy anh đập tường, nhưng không chạm vào da.





“Tóm lấy nó!” mấy tên lính la lên, Roran thấy cả tay và chân đều bị giữ chặt. Anh quẫy đạp cố gắng vùng ra, nhưng anh vẫn quá yếu và choáng váng, hơn nữa lại bị quá nhiều tên lính áp đảo.





Bọn lính đánh anh liên tục, anh cảm thấy sức mạnh càng lúc càng giảm khi lớp bảo vệ chắn anh khỏi những đòn đánh. Mọi thứ như xám xịt lại, anh dần thấy ngất đi, cho đến khi một thanh gươm xọc ra từ miệng một tên lính.





Lũ lính thả anh ra, Roran nhìn thấy người phụ nữ tóc đen xoay tít giữa bọn lính, thanh kiếm múa điêu luyện hơn cả những chiến binh dày dặn. Trong vài giây, bà giết sạch cả năm tên, dù gã cuối cùng cắt được một vết nông phía dưới đùi trái bà.





Tiếp đó, bà đưa tay ra đỡ anh nói, “Cây Búa Dũng Mãnh.”





Anh bám chắc tay bà, nhìn lên cổ tay - nơi bao tay không che kín – vằn vện những sẹo, như thể bà từng bị đốt hay quất tới tận xương. Đằng sau bà là một cô bé sắc mặt tái nhợt mặc áo giáo khuyên, và một bé trai nhỏ hơn một hai tuổi gì đó.





“Bà là ai?” anh đứng lên. Khuôn mặt người phụ nữ rất ấn tượng: nó rộng, vững chãi, ánh mắt sắc sảo dạn dày sương gió của người từng trải qua cả cuộc đời giông tố.





“Một kẻ qua đường mà thôi,” bà nói. Bà cúi xuống nhặt lên một thanh thương đưa cho anh.





“Xin cảm ơn.”





Bà gật nhẹ, rồi cùng với hai người đồng hành nhỏ tuổi bước giữa những ngôi nhà, tiến sâu vào lòng thành phố.





Roran nhìn trân trối họ trong nửa giây lo lắng, rồi lắc mạnh đầu, rảo bước về con phố với tiểu đoàn của mình.





Các chiến binh chào đón anh bằng tiếng hô vang kinh ngạc, phấn khích tấn công địch với khi thế dồn dập. Tuy nhiên, khi Roran quay qua các đồng đội từ làng Carvahall, anh nhận ra tảng đá bắn trúng anh còn giết cả Delwin nữa. Nỗi buồn nhanh chóng chuyển thành cơn cuồng nộ, anh chiến đấu điên cuồng hơn bao giờ hết, quyết tâm kết thúc trận chiến càng nhanh càng tốt.



*******************************





Tên của các tên (The Name of All Names)





Vừa sợ hãi vừa quyết tâm, Eragon bước cùng Arya, Elva và Saphira về phía bệ đá nơi Galbatorix đang ngồi thoải mái trên ngai vàng.





Quãng đường đi đủ dài để Eragon cân nhắc một loạt chiến thuật mà hầu như đều không khả thi tí nào. Nó biết chỉ sức mạnh không thôi chưa đủ để đánh bại nhà vua; phải khôn khéo nữa, mà cái đó thì nó cảm thấy kém nhất. Dù sao nó không có lựa chọn nào khác ngoài việc đối mặt với Galbatorix.





Hai hàng đèn lồng dẫn tới bệ đá rộng đủ cho họ bước cạnh nhau. Eragon cảm thấy mừng, vì Saphira có thể chiến đấu ngay nếu cần thiết.





Khi họ tiến gần ngai vàng, Eragon tiếp tục xem xét căn phòng. Nó nghĩ nơi kì lạ này không giống nơi để vui tiếp khách khứa. Ngoài hướng đi được rọi sáng phía trước, toàn bộ phần còn lại ẩn trong bóng tối xám xịt - còn hơn cả sảnh đường của người lùn dưới lòng Tronjheim và Farrthen Dûr – không khí khô đượm mùi xạ hương quen thuộc, dù nó không nhớ ra ở đâu.





“Shruikan đâu rồi?” nó trầm giọng hỏi.





Saphira khụt khịt. Em có thể ngửi thấy nó, nhưng không nghe thấy gì hết.





Elva cau mày. “Tôi cũng không cảm thấy con rồng.”





Khi chỉ còn cách bệ đá chừng ba mươi thước, họ dừng lại. Phía sau ngai vàng phủ xuống bức màn đen dầy như nhung, treo lên từ mái nhà.





Bóng đen phủ lên Galbatorix, che đi hình hài của lão. Rồi lão ngả người ra ánh sáng, và Eragon nhìn khuôn mặt lão. Nó dài, mảnh khảnh, lông mày sâu, mũi sắc như gươm. Cặp mắt lão sắc như đá, tròng mắt trắng nhờ nhờ. Miệng lão mỏng và khóe hơi chếch xuống, lão để râu cắt tỉa gọn gàng và ria mép, đen như dầu hắc ín y hệt như quần áo lão đang mặc. Nhìn qua lão trạc tầm bốn mươi: độ tuổi đỉnh cao sung mãn, nhưng bên bờ suy sụp. Có những nếp nhăn trên lông mày và hai bên mũi, làn da sạm của lão nhìn có vẻ mỏng tang như thể lão không ăn gì ngoài thịt thỏ và củ cải trong suốt mùa đông. Vai lão rộng và chắc chắn, hông thon gọn.





Trên đầu lão đội một vương miện màu đỏ làm từ vàng đính đủ loại đá quý. Chiếc vương miện nhìn cũ kĩ – còn hơn cả căn phòng, Eragon tự hỏi có phải nó từng thuộc về vua Palancar hàng trăm năm trước hay không.





Thanh gươm của lão nằm trên vạt áo. Đó là một thanh gươm Kỵ Sỹ, hiển nhiên, nhưng Eragon chưa thấy cái như thế bao giờ. Cả lưỡi gươm, cán lẫn đầu nối đều trắng muốt, một viên ngọc đính trên chuôi kiếm trong suốt như nước suối. Nói chung, có gì đó ở thanh gươm khiến Eragon không dễ chịu tí nào. Màu của nó – hay đúng hơn là cái sự thiếu màu sắc– gợi nó nhớ đến những mảnh xương trải qua nắng gió. Đó là màu của cái chết, không phải sự sống, trông còn đáng sợ hơn màu đen nhiều.





Galbatorix xem xét từng người bọn họ bắng ánh mắt sắc lẻm không chớp. “Thế là, các cậu đến đây để giết ta,” lão nói. “Được rồi, bắt đầu chưa?” Lão nhấc thanh gươm rồi dang tay ra như thể chào mời.





Eragon xoải chân, nâng gươm và khiên lên. Lời mời của nhà vua làm nó khó chịu kinh khủng. Lão đang đùa với bọn ta.





Vẫn nắm chặt thanh Dauthdaert, Elva bước lên rồi bắt đầu nói. Nhưng cô bé không thốt ra lời nào, ánh mắt nhìn Eragon cảnh báo.





Eragon cố gắng chạm vào tâm trí cô bé, nhưng nó không cảm thấy tư tưởng của cô bé, nhưng thể cô bé không còn ở trong phòng nữa.





Galbatorix cười ngả, rồi thả lưỡi gươm xuống vạt áo và dựa vào ngai. “Nhóc thực tin rằng ta không để ý đến khả năng của nhóc à? Nhóc thực nghĩ rằng có thể khiến ta khổ sở bằng trò vặt vãnh rõ như ban ngày đó à? Ờ phải, ta không nghi ngờ lời nói của nhóc có thể làm tổn thương mình, nhưng chỉ khi ta nghe chúng thôi.” Vành môi nhợt nhạt của lão cong lên thành nụ cười độc ác, vô cảm. “Điên rồ làm sao. Đây là toàn bộ kế hoạch của các người à? Con bé sẽ không thể nói trừ khi ta cho phép nó rời khỏi đây, một cây thương đáng treo lên tường hơn là mang ra chiến đấu, rồi một đám Eldunarí gần như lẩn thẩn với tuổi tác à? Chậc, chậc. Ta tưởng cô phải khá hơn chứ, Arya. Ông nữa, Glaedr, nhưng ta ngờ cảm xúc của ông đã che mờ trí nhớ từ khi ta cho Murtagh giết Oromis rồi thì phải.”





Glaedr giục Eragon, Saphira và Arya, Giết hắn. Con rồng cảm thấy cực kì bình tĩnh, nhưng trong sự trầm lặng lộ ra cơn giận áp đảo mọi cảm xúc khác.





Eragon liếc mắt với Arya và Saphira, rồi cả ba cùng tiến tới bệ đá, kể cả Glaedr, Umaroth và các Eldunarí cũng cố tấn công trí óc Gallbatorix.





Trước khi Eragon đi được vài bước, nhà vua đứng dậy khỏi chiếc ghế nhung, hô to một Từ. Từ đó vang dội trong trí óc Eragon, từng phần trong cơ thể nó vỗ nhẹ hưởng ứng, như thể nó là một nhạc cụ vừa được người nghệ sĩ gảy nốt. Cho dù có cố gắng thế nào, Eragon cũng không thể nhớ Từ đó được; nó tan ngay trong tâm trí Eragon, chỉ còn sót lại ý nghĩ về sự tồn tại và ảnh hưởng tới nó.





Galbatorix thốt ra những từ khác sau đó, nhưng không có sức mạnh tương tự, còn Eragon thì mụ người đi không hiểu nổi ý nghĩa của chúng. Nhà vua vừa dứt lời, một lực lượng trói chặt Eragon, ép nó không đi nổi. Lực trói khiến nó kêu lên ngạc nhiên. Nó cố cử động, nhưng cơ thể như bị nhúng vào đá vậy. Tất cả những gì nó có thể làm là thở, nhìn, và nói.





Nó không hiểu nổi: lưới phòng vệ đáng ra phải bảo vệ nó khỏi phép thuật của nhà vua. Chúng đáng lẽ không để nó phải chới với trên bờ vực thẳm như thế này.





Cạnh nó, Saphira, Arya và Elva cũng có vẻ bất động y hệt.





Tức tối vì nhà vua bắt nó quá dễ dàng, Eragon kết nối tâm trí với các Eldunarí lúc này đang chống cự lại tâm thức của Galbatorix. Nó cảm thấy có một lượng lớn tâm trí khác chống lại họ - tất cả đều là rồng, đang than vãn, lảm nhảm, kêu thét điên dại những điệp khúc rời rạc chỉ chứa nỗi đau đỡn và u buồn, Eragon cố thoát ra tránh chúng kéo nó vào cơn điên loạn. Chúng cũng mạnh nữa, như thể ít ra cũng phải ngang Glaedr hoặc lớn hơn.





Lũ rồng cản trở khiến không thể nào trực tiếp tấn công tâm trí Galbatorix được. Cứ mỗi lần Eragon nghĩ nó cảm thấy chạm được vào tư tưởng nhà vua, một con rồng bị giam lại nhảy vào tâm trí nó, lắp bắp liên hồi – buộc nó phải rút lui. Chống cự lũ rồng thực khó, bởi suy nghĩ của chúng hoang dã và không liền mạch; khuất phục bất kì con rồng nào trong số chúng cũng hệt như dí đầu một con sói dại. Hơn nữa, số lượng của chúng quá lớn, hơn nhiều so với số các Kỵ Sỹ giấu ở Thung Lũng Linh Hồn.





Trước khi bên nào chiếm được lợi thế, Galbatorix nói, có vẻ hoàn toàn không ảnh hưởng gì bởi cuộc chiến vô hình, “Ra đây nào, các con yêu, ra gặp khách nào.”





Một bé trai và một bé gái nhô ra từ sau ngai vàng đứng bên tay phải nhà vua. Bé gái tầm sáu tuổi, trong khi bé trai có lẽ tám hay chín. Chúng trông rất giống nhau, Eragon đoán có lẽ là hai anh em. Cả hai đều mặc đồ ngủ. Bé gái cầm tay bé trai núp sau lưng anh, trong khi bé trai có vẻ sợ hãi nhưng cũng quyết tâm. Kể cả khi đang chống lại các Eldunarí của Galbatorix, Eragon cũng cảm nhận được tâm trí của lũ trẻ - cảm thấy nỗi sợ và bối rối của chúng – nó biết chúng có thật.





“Con bé đáng yêu không nào?” Galbatorix nhấc cằm bé gái vuốt nhẹ bằng ngón tay dài. “Đôi mắt to và mái tóc đẹp dường này. Và thằng bé cũng đẹp trai quá chứ?” Lão đặt tay lên vai bé trai. “Con cái, ai đó nói rằng là lời cầu chúc cho tất cả chúng ta. Ta thì không chia sẻ niềm tin đó đâu. Từ kinh nghiệm của ta, mỗi đứa trẻ đều tàn nhẫn và thù hận chẳng kém người lớn. Chúng chỉ thiếu sức mạnh để khuất phục kẻ khác mà thôi.





“Có lẽ các người sẽ đồng ý với ta, có khi không. Dù sao, ta biết mỗi kẻ Varden các người tự hào về đức hạnh của mình lắm. Các người nghĩ mình là kẻ thực thi công lý, kẻ bảo vệ những người vô tội – như thể có ai đó thực sự vô tội. Được thôi; cho ta thấy lòng tin của các người, xem các người có đúng như những gì tuyên bố không nào. Trừ khi các người ngừng tấn công, nếu không ta sẽ giết cả hai” – lão lắc lắc vai bé trai – “và ta sẽ giết chúng nếu các người dám tấn công lần nữa … Thực ra thì nếu các người làm ta bất mãn quá, thì ta cũng cứ giết chúng thôi, nên ta khuyên các người hãy nhã nhặn một chút.” Cả hai đứa bé có vẻ phát bệnh bởi lời lão, nhưng chúng không cố bỏ chạy.





Eragon nhìn Arya, nó cũng thấy nỗi tuyệt vọng trong mắt cô.





Umaroth! Họ thét lên.





Không, con rồng trắng gầm lên, kể cả khi nó đang vật lộn với tâm trí một Eldunarí khác.





Người phải ngừng lại, Arya cầu khẩn.





Không!





Lão sẽ giết chúng mất, Eragon van.





Không, chúng ta sẽ không từ bỏ. Không phải lúc này!





Đủ rồi đấy! Glaedr gầm lên. Những con chim non đang gặp nguy hiểm!





Và sẽ thêm những con chim non sẽ hiểm nguy nếu chúng ta không giết Kẻ-Phá-Trứng ngay.





Đúng, nhưng bây giờ thì không phải là lúc. Arya nói. Cứ chờ thêm một lúc nữa, có lẽ chúng ta sẽ tìm ra cách tấn công lão mà không phải mạo hiểm tính mạng của bọn trẻ.





Nếu không thì sao? Umaroth hỏi.





Cả Eragon và Arya đều không trả lời nổi.





Thì chúng ta sẽ làm điều cần thiết, Saphira lặng lẽ. Eragon ghét chuyện này, nhưng nó biết cô nàng nói phải. Họ không để đặt tính mạng của hai đứa trẻ lên trước toàn bộ Alagaësia được. Nếu có thể, họ sẽ cố cứu hai đứa bé, nhưng nếu không, họ sẽ cứ tấn công. Không còn lựa chọn nào khác.





Khi Umaroth và các Eldunarí khác miễn cưỡng rút lui, Galbatorix mỉm cười. “Thế, tốt hơn rồi. Giờ hãy nói chuyện như những người văn minh nào, mà không phải lo ai sẽ giết ai nhé.” Lão vỗ nhẹ đầu bé trai rồi chỉ vào bậc thềm của bệ đá. “Ngồi”. Không cự nự gì hết, hai đứa trẻ ngồi ngay xuống bậc thấp nhất, cách xa nhà vua nhất có thể. Rồi Galbatorix tiến lại nói, “Kausta,” Eragon trượt dần về phía bệ đá, cùng với Arya, Elva và Saphira.





Eragon vẫn hoang mang không hiểu tại sao lưới phòng hộ của họ lại không có tác dụng. Nó nghĩ về Từ đó- dù nó là gì – nỗi nghi ngờ khủng khiếp nảy lên trong ý nghĩ nó. Rồi đến tuyệt vọng. Nào là kế hoạch, bàn bạc, lo lắng, đau khổ, bao nhiêu hy sinh, Galbatorix vẫn bắt họ dễ như tóm một ổ mèo con sơ sinh. Nếu nghi ngờ của Eragon chính xác, nhà vua còn ghê gớm hơn cả họ có thể tưởng tượng.





Tuy nhiên họ không mất sạch hy vọng. Tâm trí, đến bây giờ, vẫn là của họ. Nó biết họ có thể dùng pháp thuật … cách này hay cách khác.





Galbatorix nhìn chăm chú Eragon. “Vậy cậu là kẻ gây cho ta bao nhiêu phiền phức đấy à, Eragon, con trai Morzan… Chúng ta đáng lẽ phải gặp nhau lâu rồi. Mẹ câu thật ngốc đã giấu cậu ở Carvahall, cậu lẽ ra phải lớn lên ở Urû’baen này, trong sự vinh quang, giàu có và trách nhiệm kèm theo, hơn là ngày ngày đào bới đất cát.





“Nhưng muộn còn hơn không, giờ cậu đã ở đây, những thứ đó sẽ thuộc về cậu. Chúng là tài sản của cậu, tài sản thừa kế, và ta sẽ giao nó cho cậu.” Lão có vẻ đang xem xét Eragon kĩ lưỡng hơn hết, rồi nói, “Cậu giống mẹ hơn giống cha đấy. Murtagh thì ngược lại. Không thành vấn đề cho lắm. Cậu giống ai cũng được, cậu và anh trai đều phục vụ ta là phải thôi, kể cả cha mẹ cậu nữa.”





“Không bao giờ,” Eragon nghiến răng.





Gương mặt nhà vua lóe lên nụ cười nhạt. “Không bao giờ à? Ta sẽ thấy ngay thôi.” Ánh mắt lão chuyển hướng. “Và người, Saphira. Trong các vị khách hôm nay, ta vui mừng gặp người nhất đấy. Ngươi đã trưởng thành thật tốt nhỉ. Ngươi có nhớ nơi này không? Có nhớ thanh âm của ta hay không? Ta dành nhiều đêm nói chuyện với ngươi và những quả trứng khác trên cương vị của mình, trong bao năm ta củng cố vương quyền trên lãnh thổ Đế chế.”





Tôi… tôi nhớ một chút, Saphira nói, Eragon lặp lại với nhà vua. Cô nàng không muốn tiếp xúc trực tiếp với lão, mà lão cũng không cho phép điều đó. Cách biệt tâm thức là cách tốt nhất đảm bảo tránh được xung đột công khai.





Galbatorix gật gù. “Ta chắc ngươi sẽ nhớ rõ hơn khi ở lại nơi này. Người có thể không hiểu rõ ngay, nhưng hầu hết cuộc đời ngươi đã sống ở một căn phòng gần đây thôi. Đó là nơi ngươi thuộc về. Đó là nơi ngươi sẽ xây tổ và đẻ trứng.”





Đôi mắt Saphira co lại, Eragon nhận thấy khao khát kì lạ dâng lên trong cô nàng, lẫn lộn với lòng căm thù hừng hực.





Nhà vua nhìn tiếp. “Arya Dröttningu. Số phận có vẻ hơi hài hước thì phải, đã ở đây, thậm chí ta đã ra lệnh cô được mang tới rất lâu rồi. Con đường của cô có vẻ quanh co hả, nhưng dù sao cô vẫn tới, mà còn tự giác nữa chứ. Ta thấy hơi buồn cười đấy. Cô có thấy thế không?”





Arya mím môi không trả lời.





Galbatorix cười khúc khích. “Ta thừa nhận cô là cái gai trong mắt cũng lâu rồi đấy. Cô không gây nhiều phiền phức như gã lăng xăng vụng về Brom, nhưng cô chẳng ngồi yên tí nào. Ai đó có thể nói toàn bộ vụ này là lỗi của cô, bởi cô đã mang trứng Saphira đến cho Eragon. Tuy nhiên, ta chẳng thù địch gì với cô hết. Nếu không có cô, Saphira sẽ không nở, mà ta cũng không bao giờ lôi được kẻ thủ ra khỏi hang ổ. Vì thế, ta cảm tạ cô.





“Và đây nhóc Elva. Đứa bé mang dấu hiệu Kỵ Sỹ trên trên lông mày. Được rồng in dấu và lời cầu phúc vừa đủ để tiếp nhận mọi nỗi đau và những gì sẽ tổn thương họ. Những đau khổ gì nhóc phải chịu đựng qua bao tháng ngày. Nhóc còn phải chán ghét những kẻ xung quanh bởi sự yếu đuối của chúng, kể cả khi nhóc buộc phải chia sẻ nỗi đau của chúng. Lũ Varden đối xử với nhóc tệ hại thật. Hôm nay ta sẽ kết thục những cuộc chiến đã tra tấn nhóc quá nhiều, nhóc sẽ không bao giờ phải chịu đựng sai lầm và bất hạnh của kẻ khác nữa. Ta hứa đấy. Thi thoảng, ta có lẽ sẽ cần tới năng lực của nhóc, nhưng hầu như nhóc sẽ được sống thoải mái, yên bình.”





Elva cau mày, nhưng hiển nhiên lời đề nghị của nhà vua lôi cuốn cô bé. Eragon nhận ra lắng nghe Galbatorix cũng nguy hiểm không kém lắng nghe Elva vậy.





Galbatorix dừng lại, xoa nhẹ chuôi kiếm bọc dây khi lão chăm chú nhìn họ với anh mắt tăm tối. Rồi lão nhìn thẳng vào khoảng không nơi các Eldunarí đang trôi nổi, và tâm trạng lão có vẻ u ám đi. “Chuyển lời ta đế Umaroth khi ta nói với họ,” lão nói. “Umaroth! Chúng ta lại gặp mặt hơi tệ lần nữa. Ta nghĩ ta đã giết ông ở Vroengard.”





Umaroth đáp lại, Eragon chuyển lời: “Ông ấy nói …”





“… rằng ngươi chỉ giết được thân thể của ông thôi,” Arya tiếp lời.





“Cái đó thì hiển hiên,” Galbatorix cười nhẹ. “Các Kỵ Sỹ đã giấu ông và những người khác ở đâu nhỉ? Vroengard à? Hay nơi nào khác? Ta và các thuộc hạ đã lục soát tàn tích ở Doru Araeba kĩ lắm rồi.”





Eragon chần chừ chuyển câu trả lời của con rồng, rõ là nó sẽ làm nhà vui không vui, nhưng nó không có lựa chọn nào khác. “Ông ấy nói … rằng ông sẽ không bao giờ cho người biết khi vẫn còn tỉnh táo.”





Galbatorix nhíu mày. “Giờ thì thế chắc? Tốt, ông ta sẽ nói cho ta hay sớm thôi, dù muốn hay không.” Nhà vua vỗ nhè nhẹ chuôi kiếm trắng chói lọi. “Ta đã lấy thanh gươm từ tay Kỵ Sỹ của ông ta, cậu biết đấy, khi ta giết hắn – khi ta giết Vrael – trên tháp canh ở Thung Lũng Palancar. Vrael thậm chí còn đặt cả tên cho thanh gươm nữa cơ đấy. Hắn gọi nó là Islingr, ‘Light-bringer. Ta nghĩ Vrangr thì có vẻ … hợp lý hơn.





Vrangr có nghĩa “xiên xẹo”, Eragon đồng ý cái tên ấy hợp với thanh gươm hơn nhiều.





Một tiếng ầm trầm đục vang vọng phía sau, Galbatorix mỉm cười. “A, hay lắm. Murtagh và Thorn sẽ nhập bọn ngay thôi, rồi chúng ta có thể bắt đầu tử tế.” Một tiếng động khác vang lên trong căn phòng, khi tiếng ồn rào rạo phát ra từ nhiều phía một lúc. Lão liếc qua vai nói, “Các người hơi bất cẩn tấn công quá sớm lúc bình minh. Ta đã dậy từ trước rồi – ta dậy sớm hơn bình minh nhiều – nhưng các người đánh thức Shruikan. Nó hay phát cáu khi mệt mỏi, mà khi nó phát cáu thì nó khoái ăn con người lắm. Lũ lính gác của ta học từ lâu không dám làm phiền khi nó nghỉ ngơi rồi. Các người đáng ra phải noi gương chúng chứ.”





Khi Galbatorix đang nói, tấm màn phía sau ngai vàng di chuyển, nhấc lên sàn nhà.





Eragon bị sốc, nhận ra đó thực ra là cánh của Shruikan.





Con hắc long nằm cuộn trên nền nhà, đầu ở gần ngai vàng, cơ thể khổng lồ của nó tạo thành một bức tường quá dốc và quá cao để có thể trèo lên mà không dùng phép thuật. Vảy của nó không rạng ngời như Saphira hay Thorn mà lấp lánh mờ ảo ánh đen. Màu như mực khiến chúng dường như mờ đục, cho chúng cái vẻ mạnh mẽ chắc chắn mà Eragon chưa từng thấy ở những cái vảy rồng trước đấy; như thể Shruikan dát đá hay kim loại chứ không phải ngọc.





Con rồng lớn khổng lồ. Đầu tiên Eragon còn không dám nghĩ một hình thù to cỡ đấy là một sinh vật sống. Nó thấy một phần cổ Shruikan buộc dây, và nghĩ nó đã thấy toàn bộ cơ thể của con rồng; nó thấy một mảng phía sau bàn chân Shruikan mà nó ngỡ đó là cẳng chân. Một khúc cánh mà nó tưởng như cả cái cánh. Chỉ khi nó ngước lên thấy những đốt nọn trên sống lưng con rồng, Eragon mới nhận rõ kích thước của Shruikan. Mỗi đốt nhọn rộng như tán cây sồi cổ thụ, hàng vảy bao quanh chúng phải dày cả tấc, nếu không hơn.





Rồi Shruikan mở mắt nhìn xuống họ. Tròng mắt nó có mày trắng lam nhợt nhạt như màu của tảng băng trên núi cao, sáng lấp lánh trên nền vảy đen.





Con mắt khổng lồ lượn qua lại xem xét mặt của họ. Ánh mắt nó có vẻ không chưa gì khác ngoài thịnh nộ và điên dại, Eragon chắc mẩm Shruikan sẽ giết chúng ngay khi Galbatorix cho phép.





Cái nhìn chằm chằm của con mắt vĩ đại – đặc biệt khi nó có vẻ ác ý dường ấy – khiên Eragon muốn chạy trốn biệt vào trong một hang sâu mãi trong lòng đất. Nó tưởng tượng cảm giác của thỏ khi đối mặt với sinh vật to lớn đầy răng.





Bên cạnh nó, Saphira gầm gừ, những cái vảy lượn sóng, dựng đứng như lông cổ.





Đáp lại, một luồn lửa uể oải phụt ra từ lỗ mũi Shruikan, rồi nó cũng gầm gừ át tiếng Saphira, khiến căn phòng vang dội tiếng ầm ầm như núi lở.





Trên bệ đá, hai đứa trẻ kêu the thé, cố gắng cuộn mình lại, rúc vào hai đầu gối.





“Yên nào, Shruikan,” Galbatorix nói, con hắc long nín ngay. Mí mắt nó sụp xuống, nhưng không khép hẳn; con rồng tiếp tục quan sát chúng qua khoảng vài tấc hé mắt, như thể chờ cơ hội vồ lấy.





“Nó không thích các người lắm,” Galbatorix nói. “Nhưng dù sao, nó cũng chẳng thích ai cả… phải không nhỉ, Shruikan?” Con rồng khụt khịt, không khí phang phảng mùi khói.





Nỗi tuyệt vọng lại tràn ngập Eragon. Shruikan có thể giết Saphira với chỉ một cú bạt vuốt. Dù căn phòng có lớn thế này, nó cũng quá nhỏ để Saphira có thể tránh thường con rồng khổng lồ đủ lâu.





Nỗi tuyệt vọng trong nó chuyển dần thành cơn giận chán nản, nó vặn mạnh sợi dây trói vô hình. “Làm sao ngươi có thể làm vậy?” nó thét, cố tận dụng hết từng sợi cơ trong người.





“Tôi cũng muốn biết nữa,” Arya nói.





Đôi mắt Galbatorix dường như lấp lánh dưới hàng lông mày rậm. “Cô không thể đoán sao, tiên nhân?”





“Tôi muốn biết câu trả lời hơn là đoán mò,” cô đáp.





“Tốt thôi. Nhưng trước tiên các người phải làm một chuyện, để biết ta đang nói sự thật. Các người phải thử phóng một bùa chú, cả hai, rồi ta sẽ nói cho.” Khi thấy cả Eragon và Arya đều không mở miệng, nhà vua ra hiệu. “Cứ làm đi, ta hứa sẽ không trừng phát các người đâu. Thử đi nào … ta nài đấy.|





Arya thử trước. “Thrautha,” giọng cô trầm chắc. Eragon đoán cô muốn phóng thanh Dauthdaert vào Galbatorix. Tuy nhiên thanh vũ khí vẫn nằm yên vị trong tay cô.





Rồi Eragon nói: “Brisingr!” Nó nghĩ liên kết với thanh gươm sẽ cho phép nó dùng được phép thuật khi Arya không thể, nhưng nó thất vọng khi thanh gươm vẫn phát sáng nhàn nhạt trong ánh đèn lồng mờ ảo.”





Ánh mắt Galbatorix trở nên sắc lẻm. “Câu trả lời hiển nhiên rồi chứ, tiên nhân. Ta đã mất cả thế kỉ, nhưng rồi cuối cùng ta đã có thứ mình mãi tìm kiếm: phương tiện điều khiển tất cả các pháp sư ở Alagaësia này. Cuộc tìm kiếm không đơn giản đâu, tất cả những người khác đã chán nản, hoặc nếu đủ kiên nhẫn, sợ hãi. Không phải ta. Ta đã tiếp tục. Qua nghiên cứu, ta tìm ra thứ mình đã khao khát từ rất lâu: một bảng đá viết tay ở vùng đất khác, thời đại khác, không phải do tiên nhân, người lùn, con người hay Urgal viết nên. Trên tấm bảng, khắc lên đó một Từ - cái tên các pháp sư mọi thời đại săn lùng nhưng không đạt được gì ngoài thất vọng não nề.” Galbatorix giơ ngón tay. “Tên của các tên. Tên của cổ ngữ.”





Eragon thầm rủa. Nó đã nghĩ đúng. Đó là những gì lũ Ra’zac đã cố nói với mình, nó nhớ lại khi con quái vật hình thù con trùng nói với nó ở Helgrind: “Ông ta đã gầnnnnn tìm ra cái tên… Cái tên đích thực!”





Tuy chán nản về sự bật mí của Galbatorix, Eragon vẫn bám vào ý nghĩ cái tên đó không thể cản nó hay Arya – thậm chí là Arya – sử dụng phép thuật ­không dùng cổ ngữ. Vòng phòng ngự của nhà vua chắc chắn bảo vệ lão và Shruikan khỏi bất kì bùa chú nào họ phóng. Tuy nhiên, nếu nhà vua không biết rằng có thể sử dụng phép thuật mà không cần cổ ngữ, hoặc thậm chí nếu lão biết nhưng cho rằng họ không biết, thì họ có thể gây bất ngờ và đánh lạc hướng lão trong khoảnh khắc, dù Eragon không chắc thế có thể giúp gì.





Galbatorix tiếp tục: “Với Từ đó, ta có thể thay đổi thần chú dễ như một pháp sư điều khiển nguyên tố. Tất cả các thần chú sẽ tùy thuộc vào ta, nhưng ta sẽ không cho phép ai hết, trừ những người ta chọn mà thôi.”





Có lẽ lão không biết, Eragon nghĩ, tia sáng quyết tâm lóe lên trong tim nó.





“Ta sẽ sử dụng tên của các tên để cai trị tất cả các phù thủy trên đất Alagaësia, sẽ không ai có thể phù phép nếu ta không cho phép, kể cả tiên nhân. Lúc này pháp sư trong quân các người chắc đã phát hiện ra sự thật rồi. Một khi chúng tiến đủ sâu vào Urû’baen, qua cổng chính, bùa phép của chúng sẽ mất hiệu quả. Vài phép thuật mất linh hoàn toàn, một sẽ trở quẻ và tác động vào quân Varden thay vì của ta.” Galbatorix nghiêng đầu nhìn chằm chằm ra phía xa, như thể đang nghe ai đó thì thầm bên tai. “Nó đã làm hàng ngũ của chúng rối loạn lắm rồi.”





Eragon cố nén nhổ vào nhà vua. “Không quan trọng,” nó gầm lên. “Bọn ta vẫn sẽ tìm ra cách chặn ngươi lại.”





Galbatorix tỏ vẻ thích thú không kềm được. “Thế hả? Như thế nào? Và vì sao? Nghĩ xem cậu đang nói gì. Cậu sẽ chặn đứng cơ hội đầu tiên Alagaësia có một hòa bình thực sự chỉ để thỏa mãn cảm giác trả thù thôi hả? Cậu sẽ để các pháp sư khắp nơi tiếp tục làm gì họ muốn, dù có hại tới người khác thế nào ư? Có vẻ điều đó còn tệ hơn bất cứ những gì ta đã làm. Nhưng đây là một cú đầu cơ rỗng túi đấy. Chiến binh mạnh mẽ nhất trong các Kỵ Sỹ cũng không thể đánh bại ta, mà cậu thì còn xa mới tới được đó lắm. Không ai trong các người cả.”





“Tôi đã giết Durza, và tôi đã giết Ra’zac” Eragon đáp. “Sao không phải ông?”





“Vì ta không yếu như những kẻ tôi tớ ấy. Cậu không thể đánh bại Murtagh, mà nó thì chỉ là cái bóng của những cái bóng. Cha Morzan của cậu hùng mạnh hơn cả hai đứa rất nhiều, kể cả hắn cũng không thể chống được ta. Ngoài ra,” Galbatorix gằn giọng, mặt nhốm vẻ tàn nhẫn, “cậu hơi bị nhầm nếu nghĩ cậu đã diệt được loài Ra’zac. Mấy quả trứng ở Dras-Leona không phải là những quả duy nhất ta lấy từ Lthrblaka đâu. Ta vẫn còn nữa, giấu ở những nơi khác. Chúng sẽ nở sớm thôi, rồi ta sẽ lại có Ra’zac dưới tay để sai bảo. Durza hả, lũ Tà thần cũng dễ tạo ra thôi, và chúng thì hay gây phiền toái nhiều hơn ích lợi. Thế nên, cậu chẳng thắng được cái gì hết, nhóc con – chỉ một vài chiến thắng giả dối.”





Eragon ghét cay đắng hơn hết thảy sự tự mãn của Galbatorix lẫn sự vượt trội tuyệt đối của lão. Nó muốn phát khùng với nhà vua, nguyền rủa lão với mọi lời thề nó biết, nhưng vì sự an toàn của lũ trẻ, nó cố kìm miệng lại.





Em có ý tưởng gì không? Nó hỏi Saphira, Arya và Glaedr.





Không, Saphira nói. Những người khác im lặng.





Umaroth?





Chỉ có tấn công khi vẫn có thể thôi.





Một phút im lặng trôi qua. Galbatorix tựa lên khuỷu tay, chống cằm tiếp tục quan sát họ. Dưới chân lão, hai đứa trẻ khóc rấm rức. Phía trên, mắt Shruikan vẫn nhắm vào Eragon, trông như ngọn đèn lồng màu lục khổng lồ.





Rồi họ nghe thấy tiếng cánh cửa căn phòng mở ra rồi đóng lại, tiếng bước chân lại gần – của cả người và rồng.





Murtagh và Thorn xuất hiện trong tầm mắt. Chúng dừng lại bên cạnh Saphira, Murtagh cúi mình. “Thưa Ngài.”





Nhà vua ra hiệu, Murtagh và Thorn bước sang bên phải ngai vàng.





Khi Murtagh nhìn vào nó, Eragon cảm thấy hắn nhìn nó kinh tởm; rồi hắn chắp tay ra sau nhìn chăm chăm về phía xa căn phòng, bàng quan nó.





“Cậu mất nhiều thời gian hơn ta tưởng đấy,” giọng nói nhẹ nhàng dối trá của Galbatorix vang lên.





Không nhìn sang, Murtagh đáp, “Cánh cổng bị hư hại hơn tôi nghĩ, thưa ngài, bùa chú ngài ếm lên khiến sửa chúng khó hơn.”





“Ý của cậu là bởi lỗi của ta mà cậu lề mề à?





Murtagh nghiến răng. “Không thưa ngài. Tôi chỉ muốn giải thích. Hơn nữa, một phần tiền sảnh khá … lộn xộn, khiến chúng tôi chậm lại.”





“Ta hiểu. Chúng ta sẽ nói về nó sau, bây giờ có việc khác cần kíp hơn. Giờ đây các vị khách đã gặp thành viên cuối cùng của bữa tiệc. Hơn nữa, tốt hơn chúng ta nên được chiếu sáng tử tế một chút.”





Galbatorix đập nhẹ thanh gươm lên tay ngai vàng, trầm giọng hô, “Naina!”





Theo lệnh lão, hàng trăm chiếc đèn được thắp sáng khắp các bức tường quanh phòng, tỏa ánh sáng chan hòa như nến. Những góc phòng vẫn hơi tối, nhưng lần đầu tiên Eragon có thể nhìn rõ chi tiết xunh quanh. Hàng trăm cây cột và ô cửa dọc bức tường, những bức tượng, tranh vẽ và lớp hoa văn mạ vàng. Vàng bạc được dùng thừa thãi, Eragon lướt qua thấy tia lấp lánh của đá quý. Một cảnh tượng giàu sang đáng kinh ngạc, kể cả so với sự giàu có của Tronjheim hay Ellesméra.





Sau khoảnh khắc, nó chú ý tới thứ khác: một đống đá xám – có lẽ là granite – cao tám thước, ngay phía bên phải họ, nơi ánh đèn lúc trước không chiếu tới. Bị xích đứng vào đống đá là Nasuada, mặc một chiếc áo khoác trắng. Cô đang mở to mắt quan sát họ, dù không thể nói gì, vì mảnh vài quấn ngang miệng. Trông cô mòn mỏi kiệt sức, nhưng dù sao vẫn khỏe.





Một tia an ủi dâng trong lòng Eragon. Nó không dám nghĩ có thấy tìm được cô vẫn còn sống. “Nasuada!” nó thét. “Cô có ổn không?”





Cô gật đầu.





“Lão có ép cô thề trung thành với lão không?”





Cô lắc đầu.





“Cậu nghĩ ta sẽ để cô ta nói cho cậu biết nếu ta thực sự làm thế sao?” Galbatorix hỏi. Khi Eragon nhìn lại nhà vua, nó thấy Murtagh liếc nhìn nhanh tỏ vẻ quan tâm về phía Nasuada, và nó băn khoăn ý nghĩa của chuyện đó.





“Tốt, thế ông có làm vậy không?” Eragon hỏi thách thức.





“Như chuyện phải thế thôi, không. Ta quyết định nên chờ đến khi tập trung tất cả mọi người ở đây. Giờ thì tốt rồi, các người sẽ không rời khỏi đây cho đến khi thề phục vụ ta, hoặc cho tới khi ta tìm ra tên thật của tất cả các người. Đó là lý do các người ở đây. Không phải để giết ta, mà là quỳ xuống trước ta, kết thúc cuộc bạo loạn nhảm nhí này.”





Saphira gầm gừ, Eragon nói, “Chúng ta sẽ không đầu hàng đâu.” Nó thậm chí nghe thấy giọng chính mình yếu ớt và hời hợt.





“Thế thì chúng sẽ chết,” Galbatorix đáp, chỉ tay vào hai đứa trẻ. “Cuối cùng thì sự phản kháng của các người cũng chẳng thay đổi cái gì hết. Cậu có vẻ không hiểu lắm; các người vốn đã thua rồi. Bên ngoài kia, bạn bè các người đang thất thế. Lính của ta sẽ dồn chúng đầu hàng, và cuộc chiến tranh sẽ đi đến hồi kết. Cứ chiến đấu nếu muốn. Chối bỏ chuyện rành rành trước mắt đi nếu thấy thoải mái hơn. Nhưng thế không thay đổi được số phận các người lẫn Alagaësia đâu.”





Eragon không cho rằng nó và Saphira sẽ mất cả đời để trả lời Galbatorix. Saphira cũng nghĩ hệt như thế, cơn giận dữ của cô nàng hòa chung với nó, đốt sạch từng mảnh sợ hại hay dè chừng còn sót lại, nó nói, “Vae weohnata ono vergarí, eka thäet otherúm.” Bọn ta sẽ giết ngươi, ta thề đấy.





Trong giây lát, Galbatorix có vẻ bị chọc tức, rồi lão nói Từ đó lần nữa – cùng những cổ ngữ khác – lời thề Eragon vừa thốt ra có vẻ như mất hết ý nghĩa; nhưng từ ngữ nằm trong tâm trí nó hệt như một mớ lá rụng, trống rỗng sức mạnh ép buộc hay gợi hứng.





Nhà vua nhếch mép cười khinh bỉ. “Cứ thề nếu cậu muốn. Chúng sẽ không ràng buộc cậu đầu, trừ khi ta cho phép chúng.”





“Tôi vẫn sẽ giết ông,” Eragon thầm thì. Nó hiểu rằng nếu nó tiếp tục chống cự thì sẽ phải trả giá bằng mạng sống của hai đứa, nhưng Galbatorix phải bị giết, và nếu cái giá của việc đó là cái chết của hai đứa trẻ, Eragon cũng sẽ chấp nhận. Nó biết nó sẽ tự ghét mình vì chuyện đó. Nó biết mình sẽ mơ thấy khuôn mặt của bọn trẻ trong suốt phần đời còn lại. Nhưng nếu nó không thách thức Galbatorix, tất cả sẽ thất bại.





Đừng chần chừ nữa, Umaroth giục. Đến lúc giáng trả rồi.





Eragon cao giọng. “Sao ông không đấu với tôi? Ông có phải là kẻ hèn nhát không? Hay ông quá yếu để dám chống lại tôi? Có phải vì thế mà ông trốn sau những đứa trẻ nít như mụ đàn bà sợ hãi không?”





Eragon …, Arya cảnh báo.





“Ta không phải kẻ duy nhất mang trẻ con tới đây đâu,” nhà vua đáp, nếp nhắc trên mặt hằn sâu hơn.





“Có khác biệt đấy: Elva đồng ý tới đây. Nhưng ông không trả lời câu hỏi. Sao ông không chiến đấu? Ông ngồi lâu trên ngai vàng ăn kẹo nhiều quá đến nỗi không vui nổi gươm nữa ư?”





“Cậu sẽ không muốn chiến đấu với ta đâu, nhóc con,” nhà vua gầm gừ.





“Chứng minh đi. Thả tôi ra và đối mặt trong trận đấu đích thực. Chứng tỏ ông vẫn là chiến binh như được truyền tụng đi. Hay cứ sống mà để người ta biết đến ông như kẻ hèn nhát yếu đuối không dám đối mặt với đối thủ mà không có Eldunarí. Ông đã tự mình giết Vrael cơ mà? Sao lại phải sợ tôi? Sao lại phải …”





“Đủ rồi!” Galbatorix nói. Nét đỏ lan dần trên hai má hóp rỗng của lão. Rồi nhanh như thủy ngân bốc hơi, tâm trạng lão biến đổi, nhe răng thành một hình thù như nụ cười đáng sợ. Lão vịn lên ngai vàng. “Ta không giành lấy cái ngai này bằng cách chấp nhận mọi thách thức với mình. Ta cũng không giữ nó bằng cách đối mặt kẻ thù trong những ‘trận chiến đích thực.’ Điều cậu còn chưa hiểu, nhóc con à, là bất kể cậu giành thắng lợi như thế nào, mà là cậu giành được nó.”





“Ông sai rồi. Nó có quan trọng,” Eragon nói.





“Ta sẽ nhắc cho cậu nhớ khi cậu thề với ta. Dù sao …” Galbatorix vỗ nhẹ chuôi gươm. “Vì cậu quá hăng được chiến đấu, ta sẽ chấp thuận lời đề nghị.” Tia hy vọng vừa nhóm lên trong Eragon vụt tắt khi Galbatorix bổ sung, “Nhưng không phải với ta. Với Murtagh kìa.”





Nghe những lời đó, Murtagh nhấp nháy giận dữ nhìn Eragon.





Nhà vua mân me mê rìa bộ râu. “Ta sẽ xem cuối cùng thì ai trong các cậu mạnh hơn. Các cậu sẽ chiến đấu bằng sức mình, không có phép thuật hay Eldunarí, cho đến khi có người không thể tiếp tục nữa thì thôi. Các cậu không được giết nhau – cái đó ta cấm – nhưng trừ cái chết ra, ta cho phép hết. Ta nghĩ cũng khá thú vị khi xem huynh đệ tương tàn đấy.”





“Không,” Eragon nói. “Không phải anh em ruột. Chỉ cùng mẹ thôi. Cha tôi là Brom, không phải Morzan.”





Lần đầu tiên, Galbatorix có vẻ ngạc nhiên. Rồi lão nhếch mép. “Đương nhiên, đáng lẽ ta phải thấy chứ nhỉ; sự thật sờ sờ ngay trên mặt cậu cơ mà. Trận đấu sẽ trở nên hợp lý hơn nhiều, hả. Con trai của Brom đọ sức con trai Morzan. Số phận quả là tức cười.”





Murtagh cũng phản ứng ngạc nhiên. Hắn cố kiềm nét mặt đến mức Eragon không biết thông tin ấy làm hắn hài lòng hay tức giận. Đó là một phần kế hoạch. Nếu Murtagh bị phân tâm, sẽ dễ đánh bại hắn hơn nhiều. Mà nó thì quyết đánh bại hắn dù có chung bao nhiêu máu thế nào đi nữa.





“Letta,” Galbatorix ra hiệu khẽ bằng tay,





Eragon lảo đảo khi thần trú trói nó tan dần.





Rồi nhà vua nói, “Gánga aptr,” đẩy Arya, Elva và Saphira lui lại, tạo thành khoảng rộng giữa họ và bệ đá. Nhà vua thầm thì vài tiếng khác, hầu hết đèn lồng mờ đi khiến khoảng trước ngai vàng trở thành điểm sáng nhất trong căn phòng.





“Ra đi,” Galbatorix bảo Murtagh. “Ra với Eragon đi, cho chúng ta thấy kẻ nào điêu luyện hơn.”





Murtagh cau có bước ra cách Eragon vài bộ. Hắn rút thanh Zar’roc – thanh gươm màu hung đỏ như nhuốm máu – rồi nâng khiên lên thủ thế.





Liếc nhìn Saphira và Arya, Eragon cũng làm tương tự.





“Giờ thì đấu đi!” Galbatorix vỗ tay hô lên.





Rịn mồ hôi, Eragon bắt đầu di chuyển về phía Murtagh, cả hắn cũng đang tiến tới gần nó.



*******************************





Trứng chọi đá (Muscle against metal)





Roran thét lên, nhảy bật sang một bên tránh ống khói gạch đổ xuống phía trước anh, cùng với xác một tên cung thủ của Đế chế.





Anh lắc mạnh gạt mồ hôi trên mắt, rồi vòng qua cái xác và hàng đống gạch vụn, nhảy từ khoảng trống này sang khoảng khác, như thể giữa những tảng đá bên dòng Anora.





Trận chiến đang có chiều hướng tệ đi. Cái này thì rõ rồi. Anh và các chiến binh bám trụ lại ở tường thành trong khoảng ít nhất một phần tư giờ, đẩy lui những đợt lính lũ lượt kéo đến, nhưng rồi họ bị binh lính đẩy trở lại những ngôi nhà. Trước đây, đó là một sai lầm. Chiến đấu trên đường phố thì quá liều mạng, đẫm máu và lúng túng. Tiểu đoàn của anh bị chia cắt, chỉ một nhóm nhỏ chiến binh vẫn còn bên cạnh – hầu hết dân làng Carvahall, bốn tiên nhân và vài Urgal. Số còn lại bị xé lẻ trong những con phố khác, đang vô phương liều mạng chiến đấu.





Tệ hơn, vì sao đó mà các tiên nhân và pháp sư không giải thích nổi, phép thuật không hoạt động đúng nữa. Họ biết được khi một tiên nhân cố ếm bùa tên lính, thay vào đó một chiến binh Varden ngã xuống, bị hàng đàn bọ gián do tiên nhân triệu hồi ra chôn vùi. Cảnh tượng khiến Roran phát bệnh; chết thế thì khủng khiếp mà vô nghĩa quá, mà có thể xảy ra với bất kì ai trong số họ.





Bên phải họ, gần cổng thành, Tướng Barst đang điên cuồng lao vào quân chủ lực của Varden. Roran thấy hắn vài lần: giờ đang đi bộ, lao giữa con người, tiên nhân, người lùn, quét đi hàng loạt chiến binh bằng cây chùy đen khổng lồ. Không ai có thể khiến thân hình to lớn ấy dừng lại, đừng nói đến làm hắn bị thương, những người xung quanh giẫm đạp lên nhau để chạy khỏi tầm vũ khí chết chóc của hắn.





Roran cũng nhìn thấy vua Ork và một nhóm người lùn đột phá qua một đám lính. Mũ giáp Orik sáng loáng lên khi ông vung cây búa vĩ đại Volund. Các chiến binh hô lên, “Vor Orikz korda!”





Tầm năm mươi thước phía sau Orik, Roran liếc thấy Nữ hoàng Islanzadí lao đi như cơn gió giữa trận chiến, áo choàng đỏ hòa vào bộ giáp sáng choang như ngôi sao giữa hàng đống thi thể. Trên đầu bà con quạ trắng luôn đậu trên. Chỉ quan sát Islanzadí một lúc thôi cũng đủ khiến Roran ấn tượng mạnh về kĩ năng, sự dũng mãnh và can đảm. Bà gợi Roran nhớ lại Arya, nhưng anh nghĩ nữ hoàng có thể là chiến binh vĩ đại hơn nhiều.





Một nhóm năm tên lính lao đến góc ngôi nhà nơi Roran đang đứng. Chúng la hét, xọc thương lên muốn xiên anh như một con gà nướng. Anh hụp xuống tránh, đâm thương thẳng vào cổ họng một tên. Gã lính còn đứng thêm được một phút, rồi không thở nổi ngã huỵch xuống nền, làm vướng chân đồng bọn.





Chỉ chờ có thể, Roran lao lên tự do đâm chém. Một tên lính đâm vào vai phải Roran, anh cảm thấy cơn sụt giảm sức mạnh quen thuộc khi lưới phòng hộ bật thanh gươm lại.





Anh ngạc nhiên rằng lưới phòng hộ vẫn bảo vộ mình. Chỉ giây lát trước thôi, chúng con không thể chặn rìa chiếc khiên cắt bên má phải anh. Roran ước chuyện gì xảy ra với phép thuật cũng tự nó giải quyết được cách này hay cách khác. Dù như thế, anh không dám mạo hiểm để mình dính phải một vết chém nhỏ nhất.





Roran tiến tới hai tên lính cuối cùng, nhưng trước khi đến gần, một vệt mờ lướt qua, đầu chúng rớt xuống nền nỏi, nét ngạc nhiên vẫn đọng lại rõ ràng. Hai cái xác đổ ập, Roran nhìn thấy bà lang Angela, mặc áo giáp màu lục và đen, tay cầm cây gươm-trượng. Đi bên bà là một cặp ma mèo, một trong hình dáng bé gái tóc vằn vện, răng sắc lẻm dính máu đang cầm dao dài, một vẫn ở dạng thú. Anh nghĩ có khi đó là Solembum, nhưng không chắc lắm.





“Roran! Gặp cậu vui làm sao,” bà lang mỉm cười, có vẻ hơi vui mừng quá trong hoàn cảnh này. “Thử tưởng tượng gặp nhau chốn này xem!”





“Ở đây thì tốt hơn dưới mộ đấy!” anh thét lên, nhặt thêm một chiến thương ném cho một chiến binh phía dưới con phố.





“Nói hay lắm!”





“Tôi nghĩ bà đi với Eragon?”





Bà lắc đầu. “Cậu ta không yêu cầu, vả lại tôi cũng sẽ không đi nếu có. Ta chẳng thấm gì so với Galbatorix hết. Hơn nữa, Eragon còn có các Eldunarí giúp cơ mà.”





“Bà biết à?” anh sốc.





Bà nháy mắt bên dưới khe mũ. “Ta biết nhiều thứ lắm.”





Anh gầm gừ, che vai mình sau khiên, lao thẳng về phía một đám lính khác. Bà lang và hai con ma mèo đi cùng anh, cả chú Horst, Mandel và mấy người nữa.





“Búa của cậu đâu?” Angela la lên, xoay vòng cây trượng, vừa đỡ vừa chém cùng lúc.





“Mất rồi! Tôi đánh rơi.”





Ai đó tru lên đau đớn đằng sau anh. Ngay khi có thể, Roran xoay mình thấy Baldo đang ôm chặt cánh tay. Trên mặt đất, bàn tay cậu đang co giật.





Roran nhảy qua vài cái xác trên đường chạy về phía cậu. Chú Horst đã ở bên cạnh con trai, cầm cự với gã lính đã cắt cụt tay Baldor.





Roran rút dao cắt ra mảnh vải từ xác một tên lính, nói, “Đây!” rồi quấn quanh tay Baldor cầm máu.





Bà lang quỳ xuống cạnh họ, Roran nói, “Bà có giúp được cậu ấy không?”





Bà lắc đầu. “Không phải ở đây. Nếu tôi dùng phép thì có thể giết cậu ấy mất. Nhưng nếu cậu đưa cậu ấy ra khỏi thành phố, các tiên nhân có thể chữa cánh tay này.”





Roran chần chừ. Anh không chắc mình có thể để ai hộ tống Baldor ra khỏi Urû’baen an toàn. Tuy nhiên nếu không có bàn tay, Baldor sẽ có một cuộc sống khó khăn, mà Roran thì không muốn trách cậu một chút nào.





“Nếu cậu không đưa nó, ta sẽ đi,” Horst rống lên.





Roran hụp xuống khi một tảng đá lớn như con cừu bay qua đầu, phá sập mảng trước một căn nhà, các mảnh vỡ bắn tung tóe. Phía trong, ai đó đang kêu la.





“Không. Chúng ta cần chú.”





Roran quay lại huýt sáo, chọn ra hai chiến binh: người thợ giày cũ Loring và một Urgal. “Mang cậu ấy tới chỗ các tiên nhân cứu thương nhanh nhất có thể,” anh đẩy Baldor về phía họ. Baldor nhặt bàn tay cậu lên, nhét vào trong áo giáp.





Gã Urgal gầm gừ, nói bằng giọng dày đục Roran gần như không hiểu, “Không! Tôi ở lại. Tôi chiến đấu!” Gã gõ gươm vào tấm khiên.





Roran bước qua một bên, nắm lấy sừng gã, kéo sang một bên cho đến khi cổ gã ngoẹo xuống. “Anh sẽ làm như tôi nói,” Roran gầm gừ. “Ngoài ra, đây không phải là nhiệm vụ dễ xơi. Bảo vệ cậu ta và anh sẽ giành nhiều vinh quang cho bản thân và bộ tộc anh.”





Ánh mắt gã Urgal sáng lên. “Rất nhiều vinh quang chứ?” gã nói, ngâm nga từ ngữ giữa những cái răng bự chảng.





“Vinh quang vô cùng!” Roran xác nhận.





“Tôi sẽ làm ngay, Cây Búa Dũng Mãnh à!”





Roran thở phào nhẹ nhóm, nhìn theo ba người rời đi, hướng về phía tường thành bên ngoài, tránh được phần lớn những cuộc chạm trán. Anh cũng thoải mái hơn khi thấy con ma mèo hình-người đi sau họ, cô bé tóc vằn vện hung dữ lúc lắc đầu bên này bên kia ngửi không khí.





Rồi một đám lính khác tấn công, suy nghĩ về Baldor trôi khỏi đầu óc Roran. Anh ghét chiến đấu bằng thương thay vì búa, nhưng anh buộc phải thế, rồi con phố dần im ắng trở lại. Anh biết khoảng trì hoãn sẽ không lâu.





Anh nắm lấy cơ hội ngồi trên một thềm nhà cố hít thở đều. Lũ lính nhìn vẫn có vẻ thoải mái lắm, còn anh thì thấy mệt tới tận xương rồi. Anh ngờ rằng mình có thể tiếp tục chiến đấu mà không phạm sai lầm chết người nào.





Ngồi thở dốc, lắng nghe tiếng la hét, gào thét từ phía cánh cổng đổ nát của Urû’baen. Khó có thể nói chuyện gì đang diễn ra từ mớ âm thanh tạp nham, nhưng anh ngờ rằng quân Varden đang bị đẩy lui, khi âm thanh có vẻ đang lùi xa dần. Trong tiếng náo động, anh vẫn nghe thấy tiếng rắc đều đặn khi cây trùy của Tướng Barst giáng vào chiến binh này đến chiến binh khác, theo sau là tiếng kêu thét bất tận.





Roran cố đứng dậy. Nếu anh ngồi lâu hơn các cơ bắp sẽ cứng đơ mất. Một lát sau anh khi anh rời khỏi thềm cửa, một chiếc bình rơi thẳng xuống nơi anh vừa ngồi.





“Quân giết người!” một phụ nữ la lên phía trên, rồi đóng sập cánh cửa lại.





Roran khịt mũi, lần trở lại qua những xác chết, dẫn các chiến binh còn lại tới khoảng đường giao cắt gần nhất.





Họ dừng lại cảnh giác khi một tên lính chạy trối chết, mặt đầy vẻ sợ hãi. Phía sau gã, một đám mèo kêu ngao ngao đuổi theo, máu nhỏ ra từ đám lông quanh miệng.





Roran mỉm cười, bước tiếp.





Anh dừng lại giây lát khi một nhóm người lùn râu đỏ phóng qua họ vào sâu trong thành phố. “Chúng ta bị một đám lính bám gót, ít nhất phải đến vài trăm.”





Roran nhìn về con đường phía sau. “Có khi các anh lạc …” anh vừa nói, rồi khựng lại nhìn màu áo đỏ thẫm xuất hiện từ các góc phố. Càng lúc càng binh lính tràn vào con phố, y như một kiến đỏ.





“Lui lại” Roran thét. “Lui ngay!” Chúng ta phải tìm nơi nào phòng thủ được. Tường thành thì quá xa rồi, mà không có ngôi nhà nào đủ lớn để có sân trong cả.





Khi Roran chạy dọc xuống con phố cùng các chiến binh, một tá tên bắn xuống đầu họ.





Roran vấp ngã, oằn mình đau buốt suốt dọc xương sống. Như thể có kẻ nào đó quật thẳng vào lưng anh bằng gậy sắt.





Giây lát sau, bà lang đã đến bên anh. Bà rút cái gì đó ra từ phía sau anh, Roran thét lên. Rồi cơn đau dịu đi, anh lại có thể thấy rõ được.





Bà lang chỉ cho anh mũi tên dính máu rồi ném đi. “Áo giáp cậu chặn được phần lớn rồi,” bà đỡ anh đứng dậy.





Roran nghiến chặt răng lao theo bà về phía các chiến binh. Mỗi bước đi làm anh đau thêm, nếu xoay hông quá mạnh, lưng anh đau thắt lại, gần như không di chuyển nổi.





Anh không tìm ra chỗ nào đủ tốt để tập kết cả, lũ lính thì càng lúc càng gần, anh la lên, “Dừng lại! Xếp đội ngũ! Tiên nhân bên sườn! Urgan phía trước và bên trong!”





Roran đứng lên đầu cùng Darmmen, Albriech, một Urgal và một người lùn râu đỏ.





“Ra anh là người họ gọi tên Cây Búa Dũng Mãnh,” người lùn cất tiếng khi họ quan sát lũ lính tiến lên. “Tôi đã chiến đấu bên cạnh bên cạnh em trai-rụt của anh trong lòng Farthen Dûr. Thật vinh dự vì được chiến đấu cùng anh nữa.”





Roran gầm gừ, hy vọng anh vẫn còn đứng được.





Rồi lũ lính đâm thẳng vào họ, đẩy họ lui về dưới áp lực ghê gớm. Roran kề vai vào khiên, đẩy ngược lại hết sức. Gươm giáo kẹt qua khe bức tường khiên chồng chéo; anh thấy một mũi gươm đang chọc vào mình, nhưng bị giáp của anh cản lại.





Các tiên nhân và Urgal tỏ ra vô giá. Họ liên tục phá toang hang ngũ binh lính để Roran và các chiến binh đủ chỗ vung vũ khí. Roran liếc thấy một người lùn xọc dao vào chân, bàn chân, rồi háng, khiến chúng ngã liên tục.





Tuy nhiên đám lính như được nguồn tiếp viện vô tận, còn Roran dần bị đẩy lùi từng bước một. Cả các tiên nhân cũng không chặn nổi biển người dù đã cố gắng. Othíara, bà tiên nữ Roran nói chuyện bên ngoài tường thành chết vì một mũi tên cắm vào cổ, trong khi những tiên nhân khác dính vô số vết thương.





Roran bị thương thêm vài lần: một vết chém ở bắp chân bên phải, suýt cắt gân anh nếu cao hơn một chút xíu, rồi một vết cắt vào đùi phải, mũi gươm chọc vào khoảng giữa bộ giáp; một vết xước nhảm nhí trên cổ khi anh tự chọc khiên vào chính mình; một mũi dao chọc sâu vào chân phải may không trúng động mạnh; và nhiều vết tím bầm đếm không xuể. Anh thấy như thể từng bộ phận trên cơ thể bị đập tới tấp bằng chày gỗ, rồi làm bia phóng dao của mấy tên vụng về.





Anh lui khỏi tiền tuyến vài lần để ngơi tay hít thở, nhưng luôn gắng trở lại nhanh nhất có thể.





Rồi những ngôi nhà trải ra xung quanh họ, Roran nhận ra lũ lính đã đẩy được họ về phía quảng trường phía trước cổng thành Urû’baen, giờ đây kẻ địch xuất hiện cả phía sau họ nữa.





Anh ngước qua vai nhìn thấy các tiên nhân và quân Varden đang rút lui khỏi Barst và lính của hắn.





“Bên phải!” Roran la lên. “Qua phải! Leo lên những ngôi nhà!” Anh chỉ bằng cây thương nhuốm máu.





Các chiến binh chật vật theo sau anh leo qua bờ đá, bước lên tòa nhà khổng lồ với hai hàng cột trụ cao ngang bất cứ cây cổ thụ nào ở rặng Spine. Giữa những cây cột, Roran liếc thấy bóng một cái cổng tò vò tối tăm đang khép hờ, đủ lớn để Saphira, có khi cả Shruikan chui lọt.





“Lên trên! Lên!” Roran thét lên, các chiến binh, người lùn, tiên nhân và Urgal chạy cùng anh lên trên những bậc thang. Ở đó họ dàn đội ngũ giữa những cột đá, cầm cự cơn sóng binh lính đang đuổi theo. Từ cao điểm tầm hai mươi thước so với mặt đường, Roran thấy quân Đế chế gần như đẩy bật quân Varden và các tiên nhân qua miệng hố ở cổng thành.





Quân ta thua mất, anh đột nhiên tuyệt vọng.





Lũ lính lại dồn tới. Roran tránh cay thương, đạp cho gã lính một phát vào bụng ngã nhào xuống cầu thang với hai tên khác.





Từ máy phóng gần tường thành, một thanh lao phi thẳng xuống Tướng Barst. Khi còn cách hắn một bộ, cây lao bắt đầu bùng cháy, rồi nát vụn thành bụi, cũng như những mũi tên bắn về phía hắn.





Chúng ta phải giết hắn, Roran nghĩ. Nếu Barst gục, lũ lính sẽ tan vỡ mất hết ý chí. Nhưng nếu cả các tiên nhân lẫn Kull cũng đều thất bại, có lẽ khó có ai ngoài Eragon có thể làm được.





Ngay khi chiến đấu, Roran vẫn tiếp tục liếc nhìn về phía thân ảnh lớn mặc giáp, hy vọng nhìn thấy gì đó có thể hạ gục hắn. Anh chú ý đến một cú cà nhắc nhẹ khi hắn tiên lên, như thể bị thương đâu đó ở đầu gối hoặc hông. Hắn còn có vẻ đi chậm hơn một chút.





Vậy hắn chắn chắn có giới hạn, Roran nghĩ. Đúng hơn là Eldunarí có.





Anh la lên một tiếng, gạt thanh gươm đang chĩa vào người. Giật mạnh chiếc khiên lên, anh xọc thẳng vào hàm, giết gã ngay lập tức.





Roran hết cả hơi, uể oải vì thương thế, nên anh lui lại dựa vào một cây cột. Anh ho khạc, nhổ cả ra máu, nhưng anh cho rằng đấy chỉ là khi cắn phải miệng, chứ không phải máu trong phổi. Ít nhất anh hy vọng vậy. Xương sườn anh rã rời như thể đã gãy mất một cái.





Một tiếng hét lớn vang lên từ trong quân Varden, Roran nhìn qua cây cột thấy Nữ hoàng Islanzadí và mười một tiên nhân khác đang phi ngựa xuyên qua trận chiến về phía Tướng Barst. Con quạ trắng vẫn đậu trên vai trái Islanzadím, giơ cánh kêu lên từng hồi giữ thăng bằng. Islanzadí đang cầm gươm, trong khi các tiên nhân còn lại nắm chặt nhưng chiếc khiên hình lá đính dải cờ hiệu.





Roran tựa người vào cột, dâng lên hy vọng. “Giết hắn đi,” anh lẩm bẩm.





Barst không xê dịch để tránh các tiên nhân, hắn dạng chân đứng yên chờ, cây trùy và khiên thả lỏng, như thể hắn không việc gì phải phòng thủ.





Xuyên suốt con phố, trận chiến hơi chững lại để quan sát những gì sắp diễn ra.





Hai tiên nhân dẫn đầu hạ thấp thanh thương, chiến mã của họ phi nước đại, cơ bắp bên dưới làn da sáng uốn lượn thả lỏng khi họ lao qua khoảng cách ngắn ngũi về phía Barst. Trong khoảnh khắc, có vẻ như Barst chắc chắn phải ngã; dường như không kẻ nào có thể đứng được với cú lao đó.





Hai cây thương không thể chạm vào Barst. Lưới phòng hộ của hắn cản chúng lại cách xa một cánh tay, nửa đầu của chúng nát vụn như cám, khiến trong tay hai tiên nhân chỉ còn là mẩu gỗ vứt đi. Rồi Barst vung trùy và khiên lên, giáng thẳng vào đầu hai con ngựa, đập gãy cổ chúng chết ngay.





Lũ ngựa ngã xuống, hai tiên nhân nhảy ra, vặn người trong không trung.





Hai tiên nhân tiếp theo không đủ thời gian để ngừng lại trước khi đến gần Barst. Như những người đi trước, họ xọc thương vào lưới phòng hộ của hắn, cũng nhảy khỏi ngựa khi chúng bị Barst đập chết.





Rồi tám tiên nhân còn lại kể cả Islanzadí đủ thời gian ghìm cương ngựa. Họ phi nước kiệu xung quanh Barst, vũ khí vẫn chĩa thẳng vào Barst, còn bốn tiên nhân trên mặt đất rút gươm cẩn thận tiến về phía hắn.





Hắn cười to, nhấc khiên chuẩn bị cho đòn tấn công. Ánh sáng phản chiếu trên khuôn mặt phía dưới mũ giáp, thậm chí từ khoảng cách này Roran cũng thể thấy thấy được nó rất to và có hàng lông mày dày cộm, xương má gồ lên. Gương mặt ấy gợi anh nhớ đến một gã Urgal.





Bốn tiên nhân lao về phía Barst từ bốn phía, đồng loạt đâm chém hắn. Barst đỡ một thanh gươm bằng khiên, gạt một thanh khác bằng trùy, rồi để lưới phòng họ chặn hai thanh còn lại. Hắn cười ha hả, lại vung trùy lên.





Một tiên nhân tóc bạc dạt sang bên, chiếc trùy bay qua ông vô hại.





Barst vung trùy hai lần nữa đều bị các tiên nhân tránh được. Tuy không hề tỏ vẻ chán nản, nhưng Barst thu người lại sau tấm khiên chờ đợi, nhưng con gấu chờ đợi kẻ nào đó ngu ngốc mò vào hang ổ.





Xung quanh vòng tròn tiên nhân, một đám lính lao thẳng đến Nữ hoàng Islanzadí và đồng đội. Không chần chừ, nữ hoàng vung gươm, theo tín hiệu của bà một loạt mũi tên phóng từ hàng ngữ Varden hạ gục lũ lính.





Roran reo lên phấn khích cùng với rất nhiều quân Varden.





Barst lượn lờ gần xác mấy con ngựa hắn vừa đập chết, giờ hắn đứng ở giữa chúng để các xác chết hình thành bức tường chắn thấp hai bên. Các tiên nhân ở bên trái và bên phải sẽ buộc phải nhảy qua xác ngựa nếu muốn tấn công.





Khá đấy, Roran nhăn nhó nghĩ.





Tiên nhân phía trước Barst xông lên, thét gì đó bằng cổ ngữ. Barst có vẻ chần chừ, điều đó khiến tiên nhân lại gần hơn. Nhưng rồi Barst lao tới giáng cây trùy xuống tiên nhân đổ ầm xuống nền gục ngã.





Các tiên nhân rên rỉ.





Ba tiên nhân còn lại trở nên thận trọng hơn. Họ vẫn xoay vòng quanh Barst, thỉnh thoảng chớp cơ hội tấn công, nhưng hầu như vẫn giữ khoảng cách.





“Đầu hàng đi!” Islanzadí thét lên, giọng bà vang lên khắp con phố. “Chúng ta đông hơn người. Dù ngươi có mạnh thế nào, rồi sẽ hết sức, lưới phòng hộ của ngươi sẽ hỏng. Ngươi không thắng được đâu, con người à.”





“Không à?” Barst đứng thẳng dậy, thả khiên rơi đánh ầm.





Đột nhiên Roran thấy hoảng hồn. Chạy mau, anh nghĩ. “Chạy mau!” anh lên nửa giây sau.





Quá muộn rồi.





Barst cúi xuống nắm cổ một con ngựa, ném thẳng về phía Nữ hoàng Islanzadí chỉ bằng một tay trái.





Roran không nghe thấy bà có nói cổ ngữ hay không, nhưng khi bà giơ tay lên – xác ngựa dừng lại giữa thinh không, rồi rơi xuống nền sỏi với tiếng động ghê răng. Con quạ rít lên trên vai bà.





Tuy nhiên Barst không đừng nhìn. Ngay khi vừa rời tay khỏi xác ngựa, hắn nhặt tấm khiên và phi thẳng về phía tiên nhân cưỡi ngựa gần nhất. Một trong ba tiên nhân đang đi bộ - một tiên nữ choàng khăn đỏ qua cánh tay – cũng lao ra, chém vào lưng hắn. Barst phớt lờ bà.





Nếu trên khoảng đất rộng, chiến mã của các tiên nhân thừa sức bỏ xa Barst, nhưng ở không gian chật hẹp giữa những ngôi nhà và chiến binh ken dày thế này, Barst vừa nhanh vừa lẹ hơn chúng. Hắn thúc vai vào xương sườn một con chiến mã đẩy nó ngã chổng kềnh rồi vung chùy vào một tiên nhân trên con ngựa khác, khiến ông bắn ra khỏi yên cương. Con ngựa hí lên.





Vòng vây của các tiên nhân nháo loạn, mỗi người xoay một hướng vừa cố vỗ về lũ ngựa vừa tập trung vào hiểm họa trước mặt.





Nửa tá tiên nhân phóng ra từ trong đám binh lính bao vây Barst lại, tất công hắn dồn dập với tốc độ ghê người. Barst bị họ che đi trong giây lát, rồi chiếc chùy vung lên, ngã nhào ra. Rồi thêm hai người khác nữa, Barst tiên lên, máu nhỉ ra trên mép vũ khí.





“Ngay bây giờ!” Barst gầm lên, từ khắp quảng trường, hàng trăm tên lính chạy tới dồn dập tấn công các tiên nhân, buộc họ phải phòng thủ.





“Không,” Roran rên rỉ đau đớn. Anh muốn cùng với các chiến binh đến giúp lắm, nhưng họ bị chặn bởi quá nhiều lính – cả sống lẫn chết – khỏi Barst và các tiên nhân. Anh liếc sang bà lang, cũng đang lo lắng hệt như anh, “Bà không làm được gì sao?”





“Có thể, nhưng điều đó sẽ lấy mạng tôi lẫn tất cả mọi người ở đây.”





“Galbatorix nữa chứ?”





“Hắn được bảo vệ quá kĩ, nhưng quân ta lẫn tất cả mọi người ở Urû’baen, thậm chí những người ở trại cũng có thể chết. Cậu có muốn thể không?





Roran lắc đầu.





“Tôi cho là không.”





Di chuyển với tốc độ phi thường, Barst hạ gục hết tiên nhân này đến tiên nhân khác nhanh chóng. Hắn chỉ cần một quật vào vai bà tiên nữ đeo khăn choàng đỏ đủ để bà nằm dài ra trên mặt đất. Bà chỉ vào Barst thét lên bằng cổ ngữ, nhưng lời nguyền lại phản phé, một tiên nhân khác sụp xuống bật khỏi yên cương, trước người ông xuất hiện một vết rách từ đầu xuống thân.





Barst giáng chùy xuống đầu bà, tiếp tục chạy từ hết con ngựa này đến con ngựa khác, cho tới khi hắn lao về phía Islanzadí trên lưng bạch mã.





Nữ hoàng tiên nhân không chờ Barst giết con ngựa của bà. Nhảy vọt ra khỏi yên cương, áo choàng bà phồng lên, con quạ trắng cũng bay vọt lên khỏi vai.





Trước khi chạm đất, Islanzadí chém qua áo giáp Barst. Lưỡi gươm rung lên khi va vào lưới phòng hộ.





Barst trả đòn ngay lập tức, Islanzadí vặn mình khéo léo tránh được, gạt mấu nhọn chiếc trùy đập xuống nền sỏi. Xung quanh họ, cả địch lẫn ta đều gương mắt nhìn trận đấu. Con quạ bay lòng vòng trên đều, rít lên nguyền rủa theo ngôn ngữ cay nghiệt của giống loài nó.





Roran chưa bao giờ thấy một trận đấu như thế. Những cú đánh của cả Islanzadí và Barst đều quá nhanh – chỉ để lại những vệt mờ lướt qua – và âm thanh từ tiếng binh khí va chạm vang hơn mọi tiếng ồn khác trong thành phố.





Barst hết lần này đến lần khác cố nghiền nát Islanzadí bằng cây trùy như những tiên nhân khác. Nhưng bà quá nhanh, và có vẻ như nếu không mạnh bằng hắn, thì cũng đủ gạt bay cú đánh dễ dàng. Roran đoán những tiên nhân khác đang trợ lực cho bà, vì chiến đấu nhọc nhằn vậy mà bà vẫn không mệt đi chút nào.





Một Kull và hai tiên nhân khác nhập vòng chiến. Barst không để tâm lắm, kể cả khi có thể giết họ khi lọt vào tầm với của hắn.





Roran nhận ra anh đang bấu chặt cây cột, những ngón tay chợt co rút.





Islanzadí và Barst tiếp tục chiến đấu thêm mấy phút dọc theo con phố. Nữ hoàng tiên nhân di chuyển thật lộng lẫy: nhanh nhẹn, mềm mại những cũng đầy mạnh mẽ. Không như Barst, bà không thể phạm sai lầm nhỏ nào hết – bà cũng chưa phạm phải tới giờ - bởi lưới phòng hộ không thể bảo vệ bà. Càng lúc Roran càng ngưỡng mộ Islanzadí hơn, anh cảm thấy mình đang tận mắt chứng kiến trận chiến sẽ được ca ngợi trong hàng thế kỉ tới.





Con quạ thi thoảng bay vụt qua Barst, cố đánh lạc hướng khỏi Islanzadí. Sau vài lần cố gắng, Barst lờ con quạ đi, vì nó không thể chạm vào hắn, cũng như vất vả tránh khỏi cây trùy.





Càng lúc con quạ càng cáu hơn, nó rít lên to hơn, nhiều hơn, tấn công mãnh liệt hơn, tiến sát đầu và cổ Barst hơn.





Cuối cùng, khi con chim lao xuống Barst, hắn đổi hướng giật cây trùy lên giữa chừng, đập mạnh vào cánh phải con quạ. Nó thét lên đau đơn rơi xuống đất rồi khó nhọc bay lên.





Barst lại vụt con quạ, nhưng Islanzadí chặc cây trùy lại bằng thanh gươm, họ đối mặt, ghìm chặt vũ khí trên cao, lưỡi gươm của bà xuyên giữa những mấu nhọn của cây trùy.





Tiên nhân và con người lắc lư đẩy lẫn nhau. Không ai chiếm được lợi thế. Rồi Nữ hoàng Islanzadí hô lên một từ bằng cổ ngữ, nơi vũ khí chạm nhau lóe sáng.





Roran vội che mắt quay đi.





Trong một phút, chỉ có tiếng kêu rên la của những người bị thường và một tiếng chuông càng lúc càng lớn, đến khi không thể chịu nổi. Eragon nhìn sang bên thấy con mèo ma cùng Angela đang cúi xuống che kín tai bằng đôi vuốt.





Khi tiếng động đạt đỉnh điểm, thanh gươm của Islanzadí nứt ra, ánh sáng và tiếng chuông rền biến mất.





Rồi nữ hoàng chém mạnh xuống mặt Barst bằng lưỡi gươm gãy, “Vì thế ta nguyền rủa ngươi, Barst, con trai Berengar!”





Barst để thanh gươm của bà chém xuống lưới phòng hộ. Rồi hắn vung chùy đập vào giữa cổ và vai bà gục xuống, máu chan hòa bộ giáp vảy vàng.





Tất cả như bất động.





Con quạ bay vòng quanh thi thể Islanzadí kêu lên thảm thiết, rồi chầm chậm bay ra ngoài bức tường thành, lông vũ trên cánh phải bị thương nhàu nát.





Tiếng than khóc vang dội trong quân Varden. Khắp các con phố, binh sĩ ném vũ khí bỏ chạy. Các tiên nhân gào lên giận giữ đau đớn – âm thanh khủng khiếp nhất – tất cả bọn họ chĩa cung bắn về phía Barst. Những mũi tên cháy rụi trước khi chạm đến hắn. Một tá tiên nhân lao đến, nhưng hắn đánh bay họ ra như một lũ trẻ. Ngay lập tức năm tiên nhân khác lao đến, nâng thi thể Islanzadí lên mang đi trên những chiếc khiên hình lá.





Roran không thể tin vào mắt mình. Islanzadí là người cuối cùng nó trông đợi sẽ phải chết. Nó nhìn trân trối những kẻ đang bỏ chạy, thầm nguyền rủa chúng vì Phản Đồ và hèn nhát; nói anh lại nhìn sang Barst, đang tập kết quân chuẩn bị đẩy quân Varden và đồng minh ra khỏi Urû’baen.





Ruột gan Roran lại trống rỗng hơn. Các tiên nhân có thể tiếp tục chiến đấu, nhưng con người, người lùn và Urgal không hề muốn đánh nhau nữa. Anh thấy điều đó trên mặt họ. Họ sẽ tan vỡ, rút lui, rồi Barst sẽ tàn sát hàng trăm người từ phía sau. Roran cũng không chắc Barst có dừng lại trước tường thành hay không. Không, hắn sẽ tiếp tục truy kích ra cánh đồng đến tận doanh trại, đuổi giết chừng nào có thể.





Roran cũng sẽ làm thế thôi.





Tệ hơn, nếu Barst tới doanh trại, Katrina sẽ gặp nguy hiểm, Roran không dám tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra nếu lũ lính tóm được cô.





Roran nhìn xuống bàn tay đầy máu. Barst phải bị chặn lại. Nhưng làm sao đây? Roran suy nghĩ mãi, lướt qua mọi điều về phép thuật mình biết, cuối cùng, anh nhớ ra nó đã thảm hại như thế nào khi lũ lính tóm được và đánh đập anh.





Roran hít một hơi sâu rùng mình.





Có một cách, nhưng nó nguy hiểm, cực kì nguy hiểm. Anh biết nếu làm chuyện đang nghĩ, có thể anh sẽ không bao giờ nhìn thấy Katrina, hay đứa trẻ trong bụng cô. Ý nghĩ đó khiến anh thư thái trong giây lát. Mạng của anh đổi lấy mạng của họ quả là đáng giá, và nếu cùng lúc anh có thể giúp Varden, thì anh sẽ vui vẻ mà trao nó.





Katrina…





Quyết định thực dễ dàng.





Anh ngẩng đầu bước về phía bà lang. Bà đang bị sốc và đau buồn như bất kì tiên nhân nào. Anh chạm nhẹ vai bà bằng tấm khiên, “Tôi cần bà giúp.”





Bà nhìn anh bằng đôi mắt đỏ ngầu. “Cậu định làm gì?”





“Giết Barst.” Lời anh làm mọi chiến binh ở gần chú ý.





“Roran, không!” Horst gào lên.





Bà lang gật đầu. “Tôi sẽ giúp những gì có thể.”





“Tốt. Tôi cần bà đưa Jörmundur, Garzhvog, Orik, Grimrr và một tiên nhân có uy tín tới đây.”





Bà già tóc quăn khịp mũi lau mắt. “Anh muốn gặp họ ở đâu?”





“Ngay đây. Và nhanh lên, trước khi có thêm lính bỏ chạy!”





Angela gật đầu, rồi bà và con mèo ma chạy đi, bám sát các tòa nhà.





“Roran,” Horst nắm chặt cánh tay anh, “cháu nghĩ gì vậy?”





“Cháu sẽ không đối đầu với hắn đâu, nếu chú nghĩ thế,” Roran gật đầu về phía Barst.





Chú Horst có vẻ nhẹ nhõm. “Thế thì cháu sẽ làm gì?”





“Chú sẽ biết ngay thôi.”





Vài tên lính cầm giáo chạy lên cầu thang, nhưng mấy người lùn râu đỏ đẩy chúng xuống nhẹ nhàng, nhờ cầu thang dốc giúp họ lợi thế chiều cao.





Trong khi những người lùn cầm cự với bọn lính, Roran tới gần một tiên nhân – đang gầm gừ nãy giờ - rút tên trong bao nhanh ghê gớm, phóng từng mũi về phía Barst. Dĩ nhiên không phát nào trúng đích cả.





“Đủ rồi,” Roran nói. Tiên nhân tóc đen lờ anh đi, Roran nắm lấy cánh tay cầm cung, kéo sang một bên. “Tôi nói đủ rồi đấy. Tiết kiệm tên đi.”





Một tiếng gầm gừ thốt lên, Roran thấy một bàn tay chẹt cổ họng mình.





“Đừng chạm vào ta, con người.”





“Nghe tôi nói! Tôi có thể giúp các ông giết Barst. Chỉ … thả tôi ra.”





Sau một hai giây, ngón tay bóp quanh cổ Roran lỏng ra. “Thế nào, Cây Búa Dũng Mãnh?” Giọng khát máu của ông tiên nhân tương phản dữ dội với dòng lệ tuôn dài trên má.





“Ông sẽ biết ngay thôi. Nhưng tôi muốn hỏi đã. Sao các ông không giết Barst bằng tâm trí? Hắn chỉ có một mình, mà các ông đông hơn nhiều.”





Nét đau khổ thoáng qua gương mặt tiên nhân. “Vì tâm trí hắn bị giấu khỏi chúng tôi!”





“Như thế nào?”





“Tôi không rõ. Chúng tôi không cảm thấy chút suy nghĩ nào của hắn hết. Như thể có một quả cầu bọc quanh trí não vậy, chúng tôi không thể nhìn vào bên trong, cũng không xuyên qua được.”





Raran cũng trông đợi chuyện tương tự. “Cảm ơn,” anh nói, tiên nhân gật nhẹ đầu ghi nhận.





Garzhvog đến tòa nhà đầu tiên; gã xuất hiện từ con phố gần đó, bước lên bậc thang bằng hai bàn chân khổng lồ, rồi quay qua gầm lên với ba chục tên lính theo đuôi. Lũ lính khôn ngoan lui lại khi thấy gã Kull và đồng đội.





“Cây Búa Dũng Mãnh!” Garzhvog gào lên. “Cậu kêu gọi, và tôi đã tới.”





Vài phút sau, những người còn lại Roran nhờ bà lang nhắn tin lần lượt tới ngôi nhà đá. Một tiên nhân tóc bạc Roran từng nhìn thấy đi cùng Islanzadí vài lần. Tên ông là Tướng Däthedr. Cả sáu người đầy máu và mệt lử, đứng trong một hàng cột.





“Tôi có một kế hoạch để giết Barst,” Roran nói, “nhưng tôi cần sự giúp đỡ của mọi người, mà còn rất ít thời gian. Tôi có thể trông cậy mọi người không?”





“Còn tùy vào kế hoạch của cậu,” Orik nói. “Cứ nói trước đi đã.”





Roran giải thích nhanh hết mức có thể. Xong xuôi, anh hỏi Orik, “Các xạ thủ của ông có thể nhắm máy bắn đá và phóng lao chính xác không?”





Ông lùn hừ nhẹ. “Khó mà nói với thứ máy móc của con người lắm. Chúng tôi có thể quăng đá trong vòng hai mươi thước tới mục tiêu, nhưng gần hơn thì phải trông vào may mắn thôi.”





Roran nhìn về phía tiên nhân Däthedr. “Những người khác có theo lệnh ông không?”





“Họ sẽ tuân lệnh tôi, Cây Búa Dũng Mãnh à. Đừng nghi ngờ chuyện đó.”





“Vậy ông có thể đưa vài pháp sư theo những người lùn giúp họ chỉnh hướng bay của tảng đá không?”





“Chẳng có gì đảm bảo hết. Bùa chú có thể dễ bị hỏng hay trượt đi.”





“Chúng ta phải mạo hiểm thôi.” Roran nhìn cả nhóm. “Vậy tôi hỏi lại: tôi có thể trông đợi mọi người không?”





Từ phía tường thành, một tràng kêu gào vang lên khi Barst đâm thẳng vào đoàn người.





Garzhvog trả lời đầu tiên, làm Roran ngạc nhiên. “Anh cuồng chiến rồi, Cây Búa Dũng Mãnh, nhưng tôi sẽ theo anh,” gã cất tiếng khục-khục nghe như thể tiếng cười. “Sẽ rất vinh quang nếu giết Barst.”





Rồi Jörmundur đáp, “Được, tôi cũng theo cậu Roran. Tôi cho là chúng ta không có lựa chọn khác.”





“Đồng ý,” Orik nói.





“Đồng ýiiiiiiiii,” vua ma mèo Grimrr kéo dài giọng bằng một tiếng gừ.





“Vậy thì đi đi!” Roran giục. “Mọi người biết phải làm gì rồi! Đi đi!”





Khi những người khác tản đi, Roran gọi các chiến binh lại nói cho họ kế hoạch của anh. Rồi họ nép vào những cây cột chờ đợi –khoảng thời gian quý giá mà Barst và lính của hắn đẩy quân Varden gần bức tường hơn nữa – rồi Roran nhìn thấy một nhóm người lùn và tiên nhân chạy lên hơn mười hai máy bắt đá và phóng lao trên tường thành, cướp chúng lại từ tay lũ lính.





Một vài phút căng thẳng trôi quá. Rồi Oril lao lên bậc thang cùng ba mươi người lùn, “Họ sẵn sàng rồi.”





Roran gật đầu, nói với tất cả, “Vào vị trí!”





Tàn quân của tiểu đoàn tạo thành hình cái chày, anh đi đầu cùng với các tiên nhân và Urgal theo sau. Orik cùng những người lùn đi bên sườn.





Khi tất cả các chiến binh đã vào vị trí, Roran hô, “Lên!” rồi lao thằng vào đám đông địch, biết rằng tất cả ở ngay sau lưng anh.





Lũ lính không ngờ được cuộc xung phong ấy, chúng rẽ ra như thuyền rẽ nước trước Roran.





Một gã cố chặn bước Roran, nhưng anh xọc vào mắt hắn mà không dừng bước.





Khi họ còn khoảng khoảng năm mươi thước cách Barst, lúc này đang quay lưng lạ, Roran và các chiến binh phía sau dừng lại. Anh nói với một tiên nhân, “Làm cho mọi người trong quảng trường đều nghe thấy tôi.”





Tiên nhân thầm thì bằng cổ ngữ, rồi nói, “Xong rồi.”





“Barst!” Roran hô lên, nhẹ nhõm nghe thấy tiếng vọng vang lên khắp chiến trường. Cuộc chiến khắp các con phố dừng lại, trừ vài vụ giao tranh đây đó.





Mồ hôi rịn xuống lông mày Roran, tim anh đập thình thịch, nhưng anh cố không cảm thấy sợ hãi. “Barst!” anh hô vang lần nữa, vỗ giáo vào khiên. “Quay lại chiến đấu với ta, đồ con-giòi-vô-lại kia!”





Một tên lính lao đến. Roran chặn thanh gươm, dễ dàng quét ngã tên lính, hạ gục hắn bằng hai phát đâm. Kéo chiếc thương ra, Roran lại gào lên: “Barst!”





Thân ảnh to lớn nặng nề từ từ quay lại anh, Khi hắn gần hơn, Roran có thế thấy tia quỷ quyệt trong mắt Barst, điệu cười chế nhạo nheo lên trên cái miệng như đứa bé. Cổ hắn rộng như đùi Roran, bên dưới tấm giáp, cánh tay hắn gồ lên những cơ bắp. Ánh sáng từ mảng giáp nhô ra thu hút anh mắt Roran, dù nỗ lực lờ đi.





“Barst! Tên tao là Roran Cây Búa Dũng Mãnh, anh họ Eragon Khắc tinh của Tà thần! Mày có dám đấu với tao không, hay sẽ mang danh hèn nhát từ ngày hôm nay.”





“Không ai dọa ta được đâu, Cây Búa Dũng Mãnh. Hay ta nên gọi là Thiếu Búa, vì ta chả thấy người cầm cây búa nào hết.”





Roran đứng thẳng người. “Tao không cần phải giết mày bằng búa, đồ ăn bám không râu.”





“Thế hả?” Barst giãn nhẹ nụ cười. “Cho bọn ta khoảng trống!” hắn la, xua chùy về phía quân Varden lẫn lính của hắn.





Cả hai bên lui lại trong tiếng rên của hàng ngàn bước chân thành một vùng tròn rộng lớn quanh Barst. Hắn chĩa trùy vào Roran. “Galbatorix đã nói tới ta về ngươi, Thiếu Búa à. Ngài nói ta cứ việc đập vỡ từng mảnh xương trước khi giết ngươi.”





“Hay là chúng ta đập vỡ xương của người trước vậy?” Roran nói. Ngay bây giờ! Anh tập trung hết mức, cố kêu vang ý nghĩ trong bóng tối quanh tâm trí, hy vọng các tiên nhân và pháp sư sẽ nghe thấy.





Barst nhăn mặt, định mở miệng. Trước khi hắn kịp nói gì, một tiếng huýt sáo trầm vang lên khắp thành phố, và sau tảng đá lớn – mỗi tảng lớn như một thùng to – bay qua những ngôi nhà từ máy bắn đá. Theo sau đó là nửa tá lao.





Năm tảng đá rơi thẳng xuống Barst. Tảng thứ sau trượt nẩy quanh quảng trường, nghiền nát cả binh lính lẫn người lùn.





Những tảng đá nứt, nổ tung khi chúng chạm vào lưới phòng hộ của Barst, mảnh vỡ bắn tung tóe. Roran hụp xuống phía sau khiên, suýt ngã khi một cục đá to bằng bàn tay đạp vào, làm tay anh tím bầm. Những cây lao bốc cháy trong ngọn lửa vàng, phát ra ánh sáng tởm lợm trong làm khói bụi xung quanh Barst.





Chắc chắn đã an toàn, Roran nhô đầu khỏi khiên.





Barst đang nằm dài trên mặt sỏi, cây trùy nằm trơ trọi bên cạnh hắn.





“Giết!” Roran gào lên lao tới.





Rất nhiều quân Varden tiến về phía Barst, nhưng lũ lính bên cạnh tấn công, ngăn họ tiến quá vài bước. Hai đoàn quân gầm lên lao vào nhau, sôi trào lửa giết chóc.





Jörmundur lao ra từ một con phố, dẫn gần trăm chiến binh ông thu thập từ rìa ngoài chiến trường. Họ giúp giữ chân binh lính khi Roran và những người khác giải quyết Barst.





Từ phía đối diện quảng trường, Garzhvog và sau Kull khác lao ra từ ngôi nhà đang ẩn nấp. Bàn chân chúng dậm rung chuyển nền đá, khiến quân Varden lẫn lính đế chế dạt ra tránh đường.





Rồi hàng trăm ma mèo, hầu hết trong hình thú, trườn ra từ nơi hai quân chủ lực chạm mặt, nhe răng lao về phía Barst đang nằm.





Khi Roran đến gần Barst, hắn chỉ hơi cựa mình. Hai tay cầm chắc chiếc thương, Roran chọc xuống cổ Barst.





Mũi nhọn bị dừng lại cách cả tấc, oặt đi rồi nứt vỡ như đâm vào một tảng granite.





Roran chửi thề, tiếp tục đâm nhanh hết mức có thể, cố ngăn Eldunarí trong giáp Barst hồi phục.





Barst rên rỉ.





“Nhanh lên!” Roran gào với các Urgal.





Khi chúng tới đủ gần, Roran vội nhảy ra ngoài để các Kull có đủ khoảng trống. Đến lượt chúng, các Urgal giáng vũ khí xuống Barst mãnh liệt. Lưới phòng hộ của hắn chặn lại cả, nhưng các Kull vẫn tiếp tục đánh tới tấp, gây tiếng động đinh tai nhức óc.





Ma mèo và tiên nhân tập trung quanh Roran. Phía sau họ, anh lờ mờ nhận ra các chiến binh của anh và Jörmundur đang cầm cự với lũ lính.





Khi Roran bắt đầu nghĩ lưới phòng hộ của Barst sẽ không bao giờ tan đi, một Kull gào lên hoan kỉ, Roran thấy rìu của gã đập vào mặt trược giáp của Barst thành một vết lõm.





“Tiếp!” Roran hô. “Ngay! Giết hắn!”





Gã Kull nhấc rìu lên, rồi Garzhvog vung chiếc dùi cui bọc thép thẳng vào đầu Barst.





Roran thấy xung quanh chuyển động hỗn loạn, rồi một tiếng huỵch vang lên khi cây dùi cui đập vào tấm khiên Barst kéo lên che chắn.





Khỉ thật!





Không để các Urgal tấn công tiếp, Barst lăn vào chân một Kull, tóm vào mắt cá chân phải gã bóp mạnh. Gã Kull gào lên đau đón nhảy về phía sau, kéo theo Barst ra khỏi đám Kull.





Các Urgal và hai tiên nhân lại vây quanh Barst, trong giây lát có vẻ họ sẽ hạ gục hắn.





Nhưng rồi một tiên nhân bắn đi, cổ bà ngoẹo đi kì cục. Gã Kull gục xuống, gào lên bằng tiếng mẹ đẻ. Xương lòi ra từ tay trái gã. Garzhvog gầm lên lui lại, máu chảy ào ạt từ lỗ thủng to như nắm đấm bấm người.





Không! Roran lạnh gáy. Không thể kết thúc thế này được! Mình không thể để như vậy!





Gầm lên, anh lao lên vượt qua hai Urgal khổng lồ. Anh không có thời gian nhìn Barst – đẫm máu, điên cuồng, hai tay cầm gươm và khiên – trước khi hắn vung khiên đập vào cạnh sườn anh.





Không khí bị ép khỏi phổi Roran, trời đất như quay cuồng, anh thấy chiếc mũ trùm đầu nẩy tưng tưng trên mặt sỏi.





Cả thế giới vẫn chao đảo khi anh ngừng lăn.





Anh nằm yên một lúc, cố hít vào. Cuối cùng anh cũng hít một hơi đầy phổi, chưa bao giờ vui sướng hơn vì được thở. Thở hổn hển, anh tru lên vì đau. Cánh tay trái tê cóng, nhưng gân cốt khắp nơi cháy bỏng vì đau.





Anh cố đứng thẳng nhưng rồi ngã sấp xuống, chóng mặt và đau đớn tột cùng. Trước mắt anh là một mảnh đá vàng, vằn vện những thớ đỏ như mã não. Anh nhìn trân trối viên đá một lúc, hổn hển, trong đầu chỉ có một suy nghĩ duy nhất: Phải đứng dậy. Phải đứng dậy. Phải đứng dậy…





Anh thử đứng lên khi thấy sẵn sàng. Tay trái không thể cử động, nên anh buộc phải dựa vào tay phải. Nhọc nhằn đưa chân xuống dưới, anh chầm chậm đứng dậy, run rẩy thở cạn liên hồi.





Khi đứng được thẳng, có gì đó kéo kéo vai trái, anh thét lên câm lặng. Y như thể một cây dao nóng đỏ đặt giữa khớp vậy. Anh nhìn xuống thấy cánh tay trái đã bị trật khớp. Tấm khiên của anh chỉ còn là một mảnh ván buộc vào tay bằng vài sợ vải.





Roran quay đầu kiếm Barst, thấy cách khoảng ba mươi bộ, hắn đang bị một đám ma mèo cào xé.





Yên tâm Barst sẽ bận rộn trong vài giây nữa, Roran nhìn vào cánh tay bị trật khớp. Lúc đầu anh không nhớ nổi những gì mẹ anh đã dạy, nhưng rồi lời của bà, mờ nhạt qua thời gian, dần trở lại. Anh tháo mảnh vỡ của tấm khiên ra.





“Nắm chặt tay,” Roran lẩm bẩm, rồi cố nắm tay trái. “Uốn tay con, nắm đấm hướng về phía trước.” Anh nghiến răng chịu cơn đau. “Rồi kéo cánh tay ra, xa khỏi …” Anh thét lên chửi thề, vai kêu kèn kẹt, cơ bắp dây chằng kéo về phía không bình thường không thể. Tiếp tục vừa xoay tay vừa nắm bặt bàn tay, sau vài giây, xương tay anh trượt về đúng chỗ.





Cơn đau tan biến ngay lập tức. Anh vẫn bị thương vài chỗ - nhất là dưới lưng và xương sườn – nhưng ít nhất anh lại dùng được cánh tay, còn cơn đau thì không hành hạ nữa.





Roran lại nhìn về phía Barst. Cảnh tượng khiến anh phát bệnh.





Barst đang đứng trong một vòng tròn xác ma mèo. Máu dây khắp bộ giáp lõm, từng đám lông mèo dính vào cái trùy, lúc này đã được hắn thu lại. Hai má hắn bị cào thê thảm, tay áo giáp bên phải bị xé rách, nhưng ngoài ra hắn có vẻ không bị thương. Vài ma mèo đối mặt với hắn cẩn trọng giữ khoảng cách, nhưng Roran thấy chúng có vẻ sắp chạy đến nơi. Phía sau Barst là xác của những Kull và tiên nhân hắn vừa chiến đấu. Các chiến binh của Roran biến mất, vây xung quanh Roran, Barst và đám ma mèo toàn là binh lính: một mảng màu đỏ thẫm xáo động khi chúng xô đẩy nhau chống lại cơn lốc chiến trường.





“Bắn hắn!” Roran gào lên, nhưng có vẻ không ai nghe thấy.





Tuy nhiên Barst lại chú ý, bước về phía Roran. “Thiếu Búa!” hắn gầm lên. “Tao sẽ lấy đầu mày vì chuyện này!”





Roran quỳ xuống nhặt một thanh thường trên mặt sỏi, cử động ấy khiến anh nhức đầu nhè nhẹ. “Thử xem mày làm được gì!” anh đáp. Nhưng những từ ngữ thụt vào đầu lưỡi, trong đầu anh chỉ nghĩ về Katrina và đứa con còn chưa chào đời.





Rồi một con mèo ma – trong hình dáng một phụ nữ không cao hơn khuỷu tay Roran mấy – chạy vượt qua chém vào bên đùi trái Barst.





Barst rên rỉ vặn mình, nhưng con mèo ma đã rút lui, vừa rít lên. Barst chờ một lát, chắc chắn nó sẽ không gây phiền toái gì cho hắn, rồi tiếp tục bước về phía Roran, vết thương mới giờ khiến hắn tập tễnh. Máu chảy xuống khắp chân hắn.





Roran liếm môi, không rời mắt khỏi kẻ thù đang tiến tới. Trong tay anh chỉ có một chiếc thương mà không hề có khiên. Anh không chạy nổi khỏi Barst, cũng không mong so bì với hắn sức mạnh và tốc độ bất phàm. Cũng không có ai bên cạnh giúp anh hết.





Đó là một tình huống bất khả thi, nhưng Roran không thừa nhận thất bại. Anh đã từ bỏ một lần rồi, sẽ không có lần thứ hai, dù lý trí mách bảo anh chắc chắn sẽ chết.





Rồi Barst chồm lên anh, Roran đâm mắt đầu gối hắn, liều mạng hy vọng có cơ hội làm tê liệt hắn. Barst đỡ thanh thương bằng cây chùy, rồi vung lên Roran.





Roran đã tính sẵn cú phản đòn và loạng choạng lùi về phía sau nhanh nhất có thể. Một luồng gió mạnh chạm mặt anh, đầu cây trùy vọt qua, chỉ cách vài tấc là trúng đích.





Barst nhe răng cười dữ tợn, hắn định giáng một phát nữa thì bóng đen lao đến từ trên cao, buộc hắn ngước nhìn.





Con quạ trắng của Islanzadí phi từ trên không trung xuống trúng mặt Barst. Con quạ thét lên điên cuồng, vừa mổ vừa cào Barst, Roran ngạc nhiên nghe nó nói, “Chết đi! Chết đi! Chết!”





Barst nguyền rủa, thả chiếc khiên ra. Với một tay tự do hắn xua con quạ đi, đánh vào chiếc cánh đã bị thương sẵn. Từng mảng thịt tơi tả trên lông mày, máu nhộm thẫm má và cằm hắn.





Roran lao lên đâm thương vào bàn tay còn lại của Barst khiến hắn đánh rơi chiếc trùy.





Rồi Roran chớp cơ hội đâm thẳng vào cổ họng trống trải của Barst. Tuy nhiên hắn tóm được cây thương bằng một tay, giật khỏi tay Roran, rồi bẻ gãy nó bằng những ngón tay hệt như Roran bẻ một cành cây khô.





“Giờ mày chết chắc rồi,” Barst phun máu. Môi hắn bị xé rách, mắt phải bị chọc thủng, nhưng hắn vẫn nhìn được bằng bên còn lại.





Hắn lao tới Roran cố vòng tay bóp anh. Dù muốn Roran cũng không thể tránh được, nhưng ngay khi cánh tay Barst vừa đến gần, anh tóm cổ tay hắn, quặt ra phía sau, gắng sức đè lên cái chân bị thương bị thương cà nhắc.





Barst chống được một lúc rồi, rồi khuỵu đầu gối xuống, thét lên đau đớn, gã sấp tới trước bằng một chân và đập tay trái xuống đất. Roran bò lồm cồm ngay bên, tuột phía cánh tay phải Barst. Dù Barst mạnh khủng khiếp, nhưng máu trên bộ giáp của hắn giúp anh thoát dễ dàng hơn.





Roran gắng tóm cổ Barst từ đằng sau, nhưng hắn nắm được cằm canh, khiến anh không thể nắm tay được. Thay vào đó, anh vòng tay qua ngực hắn, hy vọng kìm hắn cho đến khi ai đó giúp giết Barst.





Hắn gầm lên tung mình sang một phía, đập mạnh vào vết thương trên vai Roran khiến anh rên đau đớn. Nền sỏi thúc vào tay và lưng Roran ban lần trong khi Barst lăn lông lốc. Roran gần như không thở được khi trọng lượng khổng lồ của hắn đè lên. Nhưng anh vẫn cố ép chặt tay. Cùi chỏ Barst thúc vào mạng sườn anh, Roran cảm thấy như gãy mất mấy cái xương sườn.





Anh nghiến chặt răng siết tay, bóp mạnh hết sức.





Katrina, anh thầm nghĩ.





Cùi chỏ Barst lại thúc vào anh.





Roran tru lên, chỉ thấy ánh chớp tóe lên khắp nơi. Anh siết chặt vòng tay hơn nữa.





Cái cùi chỏ lại thúc vào, hệt như chiếc đe nện bên sườn.





“Mày … sẽ … không… thắng … đâu, … Thiếu … Búa,” Barst gầm gừ. Hắn đứng run lẩy bẩy, kéo Roran theo.





Dù nghĩ rằng có thể các cơ bắp sẽ rách toạc ra mất, Roran vẫn siết chặt hơn nữa. Anh la hết, nhưng không nghe nổi giọng mình, anh thấy mạch máu sôi sùng sục, dây chằng kêu tanh tách.





Rồi giáp ngực Barst sụm xuống, theo vết lõm gã Kull đập từ trước, tiền có tiếng tinh thể vỡ tan.





“Không!” Barst gào lên khi ánh sáng trắng trong trẻo phát ra từ viền áo giáp. Hắn cứng đơ người, như thể dây xích đã căng hết cỡ, rồi bắt đầu run rẩy dữ dội.





Ánh sáng làm Roran lóa bắt, thiêu đốt cánh tay và mặt anh. Thả Barst ra, anh rơi xuống đất, lấy tay che hai mắt.





Ánh sáng tiếp tục tuôn ra từ áo giáp Barst cho đến khi viền kim loại bắt đầu phát sáng. Rồi tia sáng ngừng lại, khiến mọi thứ xung quanh như tối hẳn đi, những gì còn lại của Tướng Barst đổ nhào, bốc khói trên nền sỏi.





Roran nhấp nháy nhìn chăm chú bầu trời quang đãng. Anh biết mình nên đứng dậy, bởi binh lính đang ở gần, nhưng mặt sỏi mềm mại xiết bao, anh chỉ muốn nhắm mắt nghỉ ngơi …





Khi lại mở mắt, anh thấy Orik và chú Horst cùng vài tiên nhân đang tụ tập quanh mình.





“Roran, nghe thấy chú nói không?” Horst khẽ nói, nhìn lom lom anh lo lắng.





Roran cố nói, nhưng không thốt lên nổi tiếng nào.





“Nghe thấy chú không? Nghe chú này. Cháu phải cố thức. Roran! Roran!”





Roran lại thấy mình chìm vào bóng tối. Một cảm giác thoải mái lan khắp người anh như tấm chăn len mềm mại. Anh thấy hơi ấm lan tỏa, trước khi nhắm mắt, anh thấy Orik đang cúi xuống anh nói gì đó bằng Ải Ngữ nghe như lời cầu nguyện.





• Chú thích: Ải Ngữ - tiếng người Lùn; Ải Nhân: người lùn. (Nas)



*******************************





Món quà kiến thức





Eragon và Murtagh mặt đối mặt, chầm chậm đi theo một vòng tròn, cố tiên đoán người kia sẽ di chuyển thế nào. Murtagh vẫn có vẻ nhanh nhẹn như xưa, nhưng hai mắt hắn thâm quầng, khuôn mặt phờ phạc; Eragon ngờ rằng hắn đã phải trải qua căng thẳng tột độ. Hắn đeo giáp y hệt Eragon: cũng một bộ giáp bằng khuyên, găng, giáp tay, giáp chân, nhưng hắn cầm khiên dài và hẹp hơn của Eragon. Nói về vũ khí, thanh Brisingr có lợi thế độ dài với chuôi kiếm gấp rưỡi bàn tay, trong khi thanh Zar’roc nặng hơn bởi bản kiếm rộng.





Họ tiến gần nhau hơn, rồi khi còn cách hơn mười thước, Murtagh khẽ giọng giận giữ, “Mày đang làm gì vậy?”





“Câu giờ,” Eragon thì thào, cố giữ môi không động đậy.





Murtagh gầm gừ. “Mày ngu lắm. Hắn sẽ xem chúng ta chém nhau tơi tả, mà thế thì làm được gì? Chẳng gì hết.”





Thay vì trả lời, Eragon rướn lên một chút, nâng kiếm lên, khiến Murtagh co lại cảnh giác.





“Đồ quỷ,” Murtagh gầm ghè. “Nếu mày đợi thêm một ngày nữa thôi, tao đã có thể cứu Nasuada ra rồi.”





Eragon ngạc nhiên. “Sao tôi phải tin anh?”





Câu hỏi làm Murtagh giận hơn nữa, cong môi lại, bước chân nhanh hơn, ép Eragon cũng bước nhanh hơn. Rồi Murtagh nói, “Vậy, thằng em đã tìm được thanh kiếm hợp với mày rồi à. Lũ tiên nhân làm cho mày, phải không?”





“Anh biết họ đ …”





Murtagh nhảy xổ vào nó, thanh Zar’roc quẹt vào bụng, Eragon lùi lại, gạt nhẹ thanh kiếm đỏ.





Eragon đáp trả bằng một đòn vòng quá đầu – nó đặt tay xa chuôi Brisingr để kéo dài cú chém hơn – nhưng Murtagh nhảy ra ngoài tầm.





Họ khựng lại xem người kia có tiếp tục tất công hay không. Khi không ai tiếp tục, cả hai lại đi vòng trong, Eragon càng cảnh giác hơn.





Sau cú so gươm, hiển nhiên Murtagh vẫn nhanh và mạnh như Eragon – hay như tiên nhân. Luật cấm phép thuật của Galbatorix không áp dụng cho bùa ếm tăng cường sức mạnh cho Murtagh. Eragon không thích chuyện này, nhưng cuộc đấu sẽ không công bằng nếu không có nó.





Nhưng Eragon thì không muốn đấu công bằng. Nó muốn điều khiển nhịp độ trận so gươm để có thể quyết định kết thúc lúc nào hay như thế nào tùy ý. Không may Eragon khó có cơ hội, khi Murtagh sử dụng gươm quá điêu luyện, mà kể cả có thể đi nữa, nó cũng không chắc làm thế nào sử dụng cuộc đấu để đánh lại Galbatorix. Nó cũng chẳng có thời gian suy nghĩ, dù nó tin Saphira, Arya và những con rồng sẽ cố nghĩ một giải pháp cho mình.





Murtagh nhử đòn bên vai trái, còn Eragon nấp sau khiên. Giây lát sau nó nhận ra đó trì là mẹo, Murtagh đang lách sang bên phải để vượt qua vòng phòng thủ của nó.





Eragon vặn mình, thấy thanh Zar’roc đang vòng xuống cổ nó, lưỡi gươm mỏng tang, sáng lấp lánh. Nó lóng ngóng đánh bật ra bằng chuôi kiếm Brisingr. Rồi nó phản công, chém nhanh vào cẳng tay Murtagh. Nó mừng rỡ vì chém được vào mặt giáp tay Murtagh. Thanh Brisingr không thể cắt xuyên bao tay Murtagh và tay áo bên dưới, nhưng lực chém vẫn làm Murtagh đau, đánh bật tay hắn ra xa, để lộ khoảng ngực.





Eragon đâm tới, Murtagh chặn lại bằng tấm khiên. Nó đâm thêm ba lần nữa nhưng hắn chặn được cả, rồi khi Eragon thu tay về chuẩn bị chém tiếp, Murtagh phản công, tay trái chém xuống đầu gối, có thể khiến nó tê liệt nếu trúng đòn.





Thấy được ý đồ của Murtagh, Eragon biến chiêu chặn thanh Zar’roc khi còn cách một tấc khỏi chân. Rồi nó phản công ngay lập tức.





Hai bên tiếp tục thêm vài phút, cố phá vỡ nhịp điệu của đối phương nhưng đều không thể. Họ hiểu nhau quá rõ. Eragon có làm gì thì Murtagh cũng cản được, và ngược lại. Cũng hệt như một trò chơi khi cả hai bên đều phải dự đoán trước rất nhiều nước, làm tăng cảm giác thân cận khi Eragon tập trung chia cắt dòng tâm trí của Murtagh, từ đó tiên đoán hắn sắp làm gì.





Ngay từ đầu Eragon đã để ý Murtagh chơi trò này khác với những lần trước họ chiến đấu. Hắn tấn công tàn nhẫn chưa từng có, như thể lần đầu tiên hắn muốn đánh bại Eragon, mà còn phải thật nhanh. Thêm nữa, cơn giận ban đầu có vẻ lắng xuống, hắn trở nên bình tĩnh, quyết tâm không gì lay chuyển được.





Eragon sử dụng hết khả năng của nó để chiến đấu, và dù nó có thể khiến Murtagh cầm cự, nó vẫn phải phòng thủ nhiều hơn nó muốn.





Sau một hồi, Murtagh hạ thấp gươm, lùi dần về phía ngai vàng và Galbatorix.





Eragon cẩn trọng, nhưng nó chần chừ không chắc có nên tấn công không.





Trong khoảnh khắc chần chừ đó, Murtagh nhảy về phía nó. Eragon xuống tấn chém tới. Murtagh chặn lại bằng khiên, rồi thay vì chém tới như Eragon nghĩ, hắn đập khiên vào Eragon và đẩy mạnh.





Eragon gầm gừ, đẩy ngược lại. Nó có thể lần theo bờ khiên để chém vào lưng hoặc chân Murtagh, nhưng hắn đẩy mạnh đến mức Eragon không thể mạo hiểm được. Murtagh cao hơn nó một hoặc hai tấc, lợi thế đó cho phép hắn ép xuống khiên của Eragon mà không thể khiến nó dễ dàng trụ lại được. Eragon dần bị trượt dài trên sàn đá.





Cuối cùng, Murtagh gầm lên một tiếng và đẩy thật lực Eragon loạng choạng lui lại. Ngay khi vất vả giữ thăng bằng, Murtagh đâm tới cổ nó.





“Letta!” Galbatorix kêu.





Đầu thanh Zar’roc chỉ còn cách da Eragon bề rộng một ngón tay thì khựng lại. Nó cứng đơ người, thở hổn hển không hiểu chuyện gì xảy ra.





“Tự kiềm chế đi, Murtagh à, hoặc ta sẽ giúp cậu đấy,” Galbatorix nói từ trên ngai vàng. “Ta không muốn lặp lại đâu. Cậu sẽ không giết Eragon, cũng như nó không giết cậu … Giờ, tiếp tục.”





Nhận ra Murtagh vừa cố giết nó – và đã thành công nếu Galbatorix không xen vào – Eragon bị sốc. Nó nhìn mặt Murtagh tìm câu trả lời, nhưng hắn vẫn giữ vẻ ngoan cố, như thể Eragon chẳng là gì với hắn hết.





Eragon không hiểu nổi. Murtagh rõ ràng chơi trò chơi theo cách khác hẳn bình thường. Có gì đó đã khiến hắn thay đổi, nhưng Eragon không biết đó là gì.





Thêm nữa, sự thật là nó đã thua – và lý ra, thì đã chết – bào mòn sự tự tin của Eragon. Nó đã đối mặt với cái chết rất nhiều lần trước đây, nhưng không bao giờ rõ ràng và không khoan nhượng như thế này. Không nghi ngờ gì hết, Murtagh đã đánh bại nó, chỉ có lòng nhân từ của Galbatorix – nếu có chút nào đó – đã cứu nó.





Eragon, đừng chìm vào chuyên đó, Arya nói. Cậu không thể nghi ngờ hắn sẽ cố giết mình. Hoặc cậu cố giết hắn. Nếu cậu như vậy, cuộc đấu sẽ khác nhiều, Murtagh sẽ không bao giờ có cơ hội như hắn vừa có.





Eragon vẫn ngờ vực, liếc mắt về phía cô đứng trong rìa ánh sáng cùng Elva và Saphira. Rồi Saphira nói, Nếu hắn thực cố cắt cổ anh, cứ việc cắt gân hắn, đảm bảo hắn không làm gì nổi nữa đâu.





Eragon gật đầu ra vẻ đã hiểu.





Nó và Murtagh tách nhau ra, lấy lại vị trí đối mặt trong khi Galbatorix nhìn cổ vũ.





Lần này Eragon tấn công trước.





Họ chiến đấu trong khoảng một tiếng. Murtagh không thử đánh đòn hiểm thêm nữa, trong khi Eragon – thấy thỏa mãn – thành công chạm vào xương đòn Murtagh, dù nó dừng đòn đánh trước khi Galbatorix tự mình chặn lại. Murtagh có vẻ khó chịu vì bị chạm, còn Eragon cười nhẹ trước phản ứng của hắn.





Có những nhát chém họ không cản được nữa. Với tốc độ và kĩ năng của họ, không ai trong cả hai đều có thể không có sai lầm nào; không có cách nào nhanh chóng kết thúc cuộc chiến, chắc chắn họ sẽ mắc sai lầm, và sai lầm thì sẽ dẫn đết thương tích.





Vết thương đầu tiên Murtagh chém Eragon vào đùi phải, vào giữ khoảng áo giáp và giáp chân. Chỉ là một vết chém nhẹ nhưng đau đớn cực kì, mỗi khi Eragon dựa vào chân, máu lại phụt ra từ vết thương.





Vết thứ hai cũng của Eragon: một vết cắt dài trên lông màu khi Murtagh chém vào mũ, khóe gươm lướt qua thịt. Eragon thấy vết thương này còn làm nó bực mình hơn nhiều, vì máu cứ chả xuống mắt nó cản trở tầm nhìn.





Rồi Eragon lại chém được vào cẳng tay Murtagh, cắt xuyên qua lớp giáp, cổ tay áo, rồi qua da xuống đến xương. Nó không làm tổn thương cơ bắp nào cả, nhưng có vẻ làm Murtagh đau đớn vô cùng, máu chảy vào găng tay khiến cầm trượt thanh gươm hai lần.





Eragon cũng cắt một vết nữa vào bắp chân phải Murtagh – rồi khi hắn đang hồi phục từ pha tấn công thất tại – nó vòng qua khiên Murtagh bổ thẳng xuống giữa giáp cẳng chân Murtagh, khiến mảnh thép lõm vào.





Murtagh tru lên, nhảy ngược lại bằng một chân. Eragon rướn theo, vung thanh Brisingr cố đẩy ngã hắn. Murtagh nhịn đau cảm lại, chỉ vài giây sau chính Eragon mới là người khó đứng vững.





Nãy giờ, khiên của họ chống đỡ những cú va đập liên tục – Eragon vui mừng nhận ra Galbatorix đã không động chạm gì đến bùa ếm lên những thanh gươm và giáp – nhưng rồi bùa chú trên khiên Eragon lẫn Murtagh đều phai đi. Ngay sau đó, Eragon chém mạnh làm nứt khiên của Murtagh. Niềm vui chiến thắng không lâu, khi Murtagh nắm thanh Zar’roc bằng cả hai tay chém đứt khiên trả đũa, đưa trận đấu về thế cân bằng.





Mặt đất dưới chân họ dần trơn tuột vì dính máu, khiến họ phải chật vật giữ vị trí. Căn phòng khổng lồ dội lại tiếng kim khí chạm nhau, như tiếng vang vọng lại trận chiến cổ đại từ ngàn xửa, chỉ có hai chiến binh tồn tại trong chiếc lồng ánh sáng, tay vungcặp gươm chói lòa cả màn đêm tăm tối.





Trong suốt trận đấu, Galbatorix và Shruikan quan sát bọn họ từ trong bóng tối.





Không có khiên, Eragon thấy dễ dàng đánh trúng Murtagh hơn. Tuy áo giáp giúp họ chặn phần lớn những vết cắt, nhưng không tránh khỏi dính vô số vết sưng hay tím bầm.





Dù có khiến Murtagh bị thương, nhưng Eragon ngờ rằng Murtagh vẫn là tay kiếm mạnh hơn. Không cách biệt lắm, nhưng đủ để Eragon không bao giờ thực sự đánh trên cơ. Nếu trận đấu cứ tiếp tục, Murtagh sẽ ép nó dần đến khi quá mệt hoặc bị thương quá nặng, một kết cục có vẻ sẽ đến rất nhanh. Cứ mỗi bước Eragon cảm thấy máu nhỏ ra từ vết cắt trên đùi ra đầu gối nhiều hơn, và nó càng lúc càng thấy khó phòng thủ hơn.





Nó buộc phải kết thúc trận chiến ngay nếu không sẽ vô phương tiếp tục tấn công Galbatorix sau đó. Cố nhiên nó không cho rằng có thể gây khó khăn nhiều cho nhà vua, nhưng nó vẫn phải thử. Dù có chuyện gì nó cũng phải thử.





Nó nhận ra căn nguyên vấn đề nằm ở lý do chiến đấu của Murtagh đến giờ vẫn còn là bí ẩn, trừ khi nó hiểu được tại sao, Murtagh sẽ tiếp tục gây bất ngờ cho nó.





Eragon hồi tưởng lại lời khuyên của Glaedr ở ngoại thành Dras-Leona: Cậu phải hiểu những gì đang nhìn thấy. Rồi cả: chiến đạo vi tri đạo. (dịch nghĩa: con đường của chiến binh là con đường của sự thấu hiểu.)





Nó nhìn Murtag, chăm chú như lúc nó đối mặt Arya trong buổi tập luyện, như lúc nó tự thấu hiểu bản thân trong đêm dài ở Vroengard. Bằng cách đó, nó tìm cách giải mã bí ẩn từ cơ thể Murtagh.





Nó đạt được một vài thành công nhỏ; rõ ràng là Murtagh đang buồn bã và mệt mỏi, vai hắn gập vào nói lên cơn giận giữ sâu kín, hoặc có khi là sợ hại. Rồi sự tàn nhẫn nữa, khó có thể là một tính cách mới, mới đối với Eragon thì có. Eragon đã bỏ sót nhiều chi tiết tinh tế hơn, giờ đây nó cố gắng kết nối chúng với những gì nó biết từ Murtagh từ trước, với tính bạn, lòng trung thành và sự oán giận với quyền điều khiển từ Galbatorix.





Phải mất vài giây trôi qua trong hơi thở nặng nề, vài cú đánh kì cục khiến nó lãnh thêm một vết tim trên khuỷu tay – cho đến khi sự thật lóe lên trong đầu Eragon. Nó có vẻ như quá hiển nhiên. Có gì đó trong cuộc đời Murtagh mà trận đấu này tác động đến, điều đó quá quan trọng khiến hắn buộc phải thắng bằng bất kì giá nào, kể cả giết đứa em cùng mẹ khác cha. Dù đó có là gì – Eragon có vài giả thiết, có những cái khá khó chịu – thì cũng có nghĩa là Murtagh sẽ không bao giờ từ bỏ. Cũng có nghĩa hắn sẽ chiến đấu như một con thứ bị dồn chân tường cho đến hơi thở cuối cùng, cũng có nghĩa Eragon sẽ không bao giờ có thể đánh bại hắn bằng những cách thông thường, vì trận đấu đối với nó không quan trọng như với Murtagh. Với Eragon, cuộc đấu chỉ để đánh lạc hướng, nó không quan tâm ai thắng ai thua miễn có thể đối mặt với Galbatorix sau đó. Nhưng với Murtagh, trận chiến có ý nghĩa hơn thế nhiều, từ kinh nghiệm, nó biết quyết tâm của hắn sẽ cực kì khó khăn, nếu không muốn nói là vô phương, vượt qua chỉ bằng sức mạnh.





Câu hỏi là làm sao để ngăn cản một kẻ quyết cố chấp giành lợi thế dù gặp cản trở nào đi nữa.





Câu hỏi hóc búa đó dường như vô phương, cho đến khi Eragon nhận ra cách duy nhất đánh bại Murtagh là cho hắn thứ hắn muốn. Eragon buộc phải chấp nhận thất bại để thỏa mãn mong muốn của hắn.





Nhưng không phải thất bại hoàn toàn. Nó sẽ không để Murtagh tiếp tục bị Galbatorix khống chế. Eragon sẽ cho hắn chiến thắng, rồi nó sẽ có chiến thắng của chính mình.





Khi nghe suy nghĩ của nó, Saphira tỏ ra đau đớn, lo lắng khôn cùng, Không, Eragon. Phải còn có cách khác.





Thế nói cho anh đó là gì, nó nói, vì anh không thấy đâu.





Cô nàng gầm gừ, Thorn cũng gầm ghè lại từ bên kia vùng ánh sáng.





Hãy chọn lựa khôn ngoan, Arya nói, Eragon hiểu ý cô.





Murtagh lao về phía nó, gươm họ chạm nhau vang ầm ĩ, rồi lại tách nhau ra dừng lại lấy sức. Khi họ lại lao vào nhau, Eragon vừa rụt người sang bên phải Murtagh, vừa để tay cầm gươm trượt đi sang bên sườn, như thể quá mệt mỏi hoặc bất cần. Chỉ một thoáng đó thôi, nhưng nó biết Murtagh sẽ chú ý và tận dụng kẽ hở nó tạo ra.





Ngay lúc đó, Eragon không cảm thấy gì hết. Nó vẫn thấy cơn đau từ những vết thương, nhưng xa cách lạ lùng, như thể cảm giác không còn là của nó. Tâm trí nó như một hồ nước sâu giữa trời lặng gió, phẳng lặng vô cùng, phản chiếu cảnh vật bên bờ. Nó ghi nhận những gì thấy được mà không nhận ra nữa. Nó không cần phải làm thế nữa. Nó hiểu rõ những gì xảy ra, nhưng suy nghĩ sâu hơn chỉ càn trở nó mà thôi.





Như Eragon trông đợi, Murtagh lao đến, đâm thẳng vào bụng nó.





Khi thời cơ chín muồi, Eragon quay người. Nó di chuyển không nhanh cũng chẳng chậm, chỉ vừa đủ cần thiết. Cử động ấy như thể được định sẵn, như thể nó là việc duy nhất nó có thể làm.





Thay vì chọc thẳng vào bụng Eragon như Murtagh muốn, thanh Zar’roc đâm chếch sang cơ bụng bên phải, ngay phía dưới lồng ngực. Nó cảm thấy như bị một búa nện, rồi có tiếng kim loại trượt đi khi thanh Zar’roc xuyên qua chiếc áo giáp tàn tạ đâm vào thịt. Thanh thép lạnh khiến Eragon thở hổn hển hơn cả vì đau.





Đằng sau nó, mũi gươm xuyên qua người, chọc vào lớp giáp sau lưng.





Murtagh nhìn trân trối, có vẻ muốn lui lại.





Trước khi Murtagh kịp tỉnh táo, Eragon nâng tay lên xọc thanh Brisingr vào bụng Murtagh, ngay gần rốn: một vết thương nặng hơn nhiều so với vết Eragon hứng chịu.





Khuôn mặt Murtagh chùng xuống. Miệng hắn há ra như thể định nói gì đó, rồi gục xuống đầu gốc, vẫn nắm chặt thanh Zar’roc.





Thorn gầm lên từ một bên.





Eragon rút thanh Brisingr ra, nhăn nhó cắn răng chịu đựng thanh Zar’roc tuột dần khỏi cơ thể.





Murtagh thả rơi thanh Zar’roc ra đánh keng lên nền nhà. Rồi hắn vòng tay ôm bụng, lộn một vòng, trán úp xuống sàn.





Lúc này Eragon đứng nhìn chằm chằm, máu nóng rỉ xuống một bên mắt.





Từ trên ngai vàng, Galbatorix nói, “Naina,” rồi hàng tá đen lồng khắp căn phòng bừng sáng, lại soi sạng những hàng cột và nét chạm khắc khắp tường, kể cả đống đá xích Nasuada.





Eragon lảo đảo bước, quỳ xuống bên Murtagh.





“Và Eragon đã giành chiến thắng,” giọng nói nhà vua vang vọng khắp căn phòng vĩ đại.





Murtagh nhìn lên Eragon, khuôn mặt rịn mồ hôi co rúm lại trong đau đớn. “Mày không thể để tao thắng hay sao?” hắn khẽ gầm gừ . “Mày không thể thắng Galbatorix, nhưng mày vẫn chứng tỏ mày giỏi hơn ta à … AA!” Hắn run bắn lên, cẳng chân co giật.





Eragon đặt tay lên vai hắn. “Vì sao” Nó biết Murtagh sẽ hiểu câu hỏi.





Giọng thì thầm khó nghe cất lên tiếng trả lời. “Vì tao hy vọng có thể được lão ân sủng để có thể cứu cô ấy.” Đôi mắt Murtagh mờ đi vì dòng lệ, rồi ngoảnh mặt đi.





Ngay khi đó, Eragon nhận ra hắn đã nói sự thật, khiến nó thấy bàng hoàng.





Sau giây lát, Eragon thấy Galbatorix vẫn quan sát họ thích thú.





“Rồi Murtagh thì thào, “Mày đã bịp tao.”





“Đấy là cách duy nhất.”





Murtaghàu bàu “Đó chính là điểm khiến mày khác tao.” Hắn nhìn Eragon. “Mày sẵn sàng hy sinh bản thân. Tao thì không … Cho đến lúc đó.”





“Nhưng giờ thì anh có mà.”





“Tao không còn là người như trước nữa rồi. Giờ tao có Thorn, và …” Murtagh ngập ngừng; vai hắn khẽ so lại. “Tao không còn chiến đấu vì bản thân nữa… Thế đủ khác rồi.” Hắn hít cạn, cau mày. “Trước giờ tao cứ nghĩ mày thật ngu ngốc vì cứ mạo hiểm cuộc sống như thế … Tao hiểu rõ hơn rồi. Tao hiểu … vì sao. Tao hiểu …” Đôi mắt hắn mở to, nét mặt giãn ra, như thể quên đi hết đau đớn, một luồng sáng bên trong làm khuôn mặt hắn bừng lên. “Anh hiểu – chúng ta hiểu rồi,” hắn thầm thì, Thorn bật lên một tiếng nửa rên rỉ, nữa gầm gừ.





Galbatorix cựa khẽ mình trên ngai như thể hơi khó chịu, cất giọng cay nghiệt, “Nói đủ rồi đấy. Trận đấu của các cậu xong rồi, Eragon đã thắng. Giờ là lúc những vị khách của chúng ta quỳ gối và thề trung thành với ta … Lại gần đây nào cả hai, ta sẽ chữa lành cho các cậu, rồi chúng ta tiếp tục.”





Eragon dợm đứng lên, nhưng Murtagh bám lấy tay nó kéo lại.





“Ngay nào!” Cặp lông mày rậm rạp của Galbatorix nhướn lên. “Hoặc ta sẽ để các cậu chịu đựng chúng cho đến khi xong việc.”





Sẵn sàng đi, Murtagh mấp máy.





Eragon chần chừ, không chắc phải đợi điều gì; rồi nó gật đầu, cảnh bảo cho Arya, Saphira, Galedr và các Eldunarí.





Rồi Murtagh đẩy Eragon sang một bên, chống hai đầu gối lên, hai tay vẫn ôm bụng. Hắn nhìn lên Galbatorix. Rồi hắn thét lên Từ đó.





Galbatorix giật nảy mình, giơ tay lên như thể đang che chắn bản thân.





Vẫn gào thét, Murtagh gọi ra những từ khác bằng cổ ngữ, quá nhanh để Eragon kịp hiểu mục đích của câu thần chú.





Không gian xung quanh Galbatorix chớp lóe đỏ rồi đen, trong khoảnh khắc, thân thể lão như bọc bởi một màn lửa. Một tiếng động vang lên giống như cơn gió mùa hè tràn qua những nhành cây trong khu rừng xanh rì.” Rồi Eragon nghe thấy tiếng rít nhẹ của mười hai quả cầu ánh sáng bay quanh đầu Galbatorix, bay từ phía lão xuyên qua bức tường biến mất. Trông chúng giống như những linh hồn, nhưng Eragon không chắc lắm, nó mới chỉ nhìn lướt qua.





Thorn xoay ngoắt– nhanh như một con mèo đang cố giẫm đuôi chính nó – đâm bổ vào cái cổ khổng lồ của Shruikan. Con rồng đen rống lên, lảo đảo lui về phía sau, lắc mạnh đầu cố quăng Thorn ra. m thanh nó gào thét lớn nhức óc, sàn nhà lắc lư bởi trọng lượng của hai con rồng.





Trên thềm bệ đá, hai đứa trẻ la hét lấy tay che kín tai.





Eragon thấy Arya, Elva và Saphira lảo đảo bước về phía trước, không còn bị phép thuật của Galbatorix trói buộc. Cầm trong tay thanh Dauthdaert, Arya lao về phía ngai vàng, trong khi Saphira nhảy vọt lên chỗ Thorn đang treo trên mình Shruikan. Trong khi đó, Elva đặt tay lên miệng, vẻ như tự nói gì đó với mình, nhưng Eragon không thể nghe ra trong tiếng ầm ĩ của lũ rồng.





Những giọt máu to như nắm tay rơi xuống quanh họ, bốc khói nghi ngút trên nền đá.





Eragon đứng lên từ nơi Murtagh đẩy nó, bám gót Arya về phía ngai vàng.





Rồi Galbatorix nói tên của cổ ngữ, cùng với từ letta. Một cái cùm vô hình khóa chặt chân tay Eragon, trong toàn căn phòng, im lặng bao trùm dưới ma thuậtkiềm chế của nhà vua, kể cả Shruikan.





Eragon sôi lên giận giữ và bực bội. Họ đã suýt đánh được nhà vua, mà giờ lại không thể chống được bùa phép của lão. “Giết lão!” nó gào lên, bằng cả miệng lẫn tâm trí. Họ đã cố tấn công Galbatorix lẫn Shruikan; nhà vua sẽ giết hai đứa trẻ dù họ có tiếp tục hay không. Cách duy nhất là Eragon và những người khác – hy vọng chiến thắng duy nhất còn sót lại – phải vượt qua trở ngại tinh thần và chiếm quyền quyển soát tư tưởng Galbatorix.





Cùng với Saphira, Arya và các Eldunarí, Eragon phóng luồng tư tưởng về phía nhà vua, dồn hết lòng căm thù, giận dữ, đau đớn vào trong một tia ý nghĩ cháy bỏng chạy thẳng vào tâm trí Galbatorix. (nguyên văn rất hay: “the center of Galbatorix’s being” – nhưng chỉ “cảm” chứ không “dịch” được ==’)





Trong khoẳng khắc, Eragon cảm thấy tâm trí của nhà vua: khung cảnh tối tăm kinh khủng, quét qua bởi những luồng hơi lạnh buốt giá lẫn nóng cháy bỏng –bao bọc bằng một những thanh thép cứng rắn, chia tâm trí lão thành nhiều phần.





Rồi đến những con rồng dưới sự điều khiển của Galbatorix, điên cuồn, gào rú, đau thương, tấn công tâm trí Eragon, buộc nó phải trở về thân thể tránh bị xé thành từng mảnh.





Eragon nghe phía sau nó Elva đang chuẩn bị nói gì đó, chưa kịp mở miệng thì Galbatorix đã hô, “Theyna!”, cô bé ngậm miệng lại líu lưỡi.





“Tôi đã tháo lưới phòng hộ của lão rồi!” Murtagh hô lên. “Lão giờ …”





Dù Galbatorix có nói gì đi nữa thì cũng quá nhanh và quá nhỏ, Eragon không thể nghe thấy gì, nhưng Murtagh im bặt, rồi giây lát sau, Eragon nghe thấy hắn đổ ập xuống sàn, tiếng áo giáp kêu keng keng và cạnh mũ rơi sắc lẻm vang lên.





“Ta còn nhiều lưới phòng hộ lắm,” gương mặt diều hâu của lão tối sầm thịnh nộ. “Các người không thể làm gì ta đâu.” Lão đứng dậy, bước xuống thềm đá về phía Eragon, áo chuồng quấn quanh, tay cầm thanh Vrangr trắng ởn chết chóc.





Trong khoảng khắc ngắn ngủi, Eragon cố bắt giữ tâm trí ít nhất một con rồng chắn trước nó, nhưng có quá nhiều rồng khiến nỗ lực của nó chỉ khiến nó chật vật chống đỡ hàng đàn Eldunarí trước khi chúng khuất phục tâm trí nó.





Galbatorix dừng bước nhìn chăm chăm vào nó, tĩnh mạch hằn lên trên lông mày, gằn giọng. “Nghĩ mày có thể thách thức ta à, thằng nhóc?” lão gầm gừ, nhổ nước bọt giận dữ. “Nghĩ mày có thể ngang hàng ta à? Rằng mày có thể hạ gục ta, ăn cắp ngai vàng của ta à?” dây chằng trên cổ Galbatorix dựng đứng lên sợi dây cuộn chặt. Lão giật mạnh mép áo choàng. “Ta đã cắt cái áo này ra từ cánh của chính Balgabad đấy, cả găng tay của ta nữa.” Lão nhấc thanh Vrangr trước mặt lên bằng đầu lưỡi kiếm lạnh lẽo. “Ta đã tước thanh gươm này từ tay Vrael, và ta đoạt lấy vương miện này từ thằng cha khóc thút thít đội nó trước tao đấy. Mà chúng mày còn nghĩ có thể đánh lừa ta à? TA? Mày tới lâu đài của ta, giết lính của ta, mày cứ làm như mày tốt hơn ta ấy. Như thế mày cao quý, đức hạnh hơn ấy.”





Eragon thấy tai nó ù đi, rồi mắt nó nẩy đom đóm khi Galbatorix quật vào má bằng chuôi thanh Vrangr, cào rách da nó.





“Mày cần được học dạy một bài khiêm tốn đấy, nhóc con,” Galbatorix tiến gần hơn, cho đến khi cặp mắt lóe sáng của lão chỉ còn cách Eragon vài tấc.





Lão quật vào má kia Eragon, trong một giây, nó chỉ còn thấy khoảng không đen kịt nhấp nháy.





“Ta sẽ khoái có mày phục vụ lắm,” Galbatorix trầm giọng, “Gánga,” rồi áp lực từ các Eldunarí đang dồn dập tấn công tâm trí nó biến mất, khiến nó lại được suy nghĩ thoải mái. Nhưng nó thấy những người khác thì không như vậy từ nét nhăn trên mặt họ.





Rồi một luồng tư tưởng như thanh gươm sắc lẻm, vang vọng vào từng điểm nhỏ nhất, cắt ý thức Eragon thành từng mảnh nhỏ, gói chúng lại trong cốt lõi tồn tại của nó. Thanh gươm xoắn lại, như thể những hạt gai bám vào sợi nỉ, xé toang từng mảng tâm trí, tìm cách hủy diệt ý chí, nhân diện, ý thức sâu nhất của nó.





Chưa bao giờ Eragon bị tấn công như vậy. Nó co lại, tập trung tư tưởng vào một ý nghĩ duy nhất – báo thù – nó chật vật tự bảo vệ. Nó có thể thấy cảm xúc của Galbatorix qua sự liên kết: có giận giữ, nhưng chủ yếu là niềm vui điên cuồng khi có thể làm Eragon tổn thương, được nhìn nó quặng mình đau đớn.





Eragon nhận ra lý do vì sao Galbatorix quá giỏi đột nhập tâm trí kẻ địch, là bởi nó khiến hắn thỏa mãn.





Thanh gươm chọc sâu hơn vào bản chất của Eragon, nó tru lên, không thể chịu đựng nữa.





Galbatorix mỉm cười, khóe miệng trơ ra như đất sét nung.





Đơn độc phòng ngự mãi thì không bao giờ thắng được, dù đang bị thiêu đốt cháy bóng, Eragon vẫn buộc mình tấn công ngược lại Galbatorix. Nó ngụp trong ý thức của nhà vua, bám lấy những ý nghĩ sắc như dao cạo, cố găm chúng về vị trí, ngăn cản nhà vua di chuyển hay suy nghĩ mà không được cho phép.





Tuy nhiên Galbatorix không thèm phòng ngự. Lão rộng miệng cười độc ác, vặn xoắn lưỡi gươm sâu hơn trong tâm trí Eragon.





Eragon cảm thấy như thể nó bị một gốc mâm xôi xé toạc ra từng mảnh bên trong. Một tiếng thét nghẹt trong cổ họng, nó rũ người xuống dưới gọng kìm phép thuật của Galbatorix.





“Đầu hàng đi,” Lão nắm lấy cằm Eragon bằng những ngón tay bằng thép nguội. “Đầu hàng đi.” Lưỡi gươm vặn xoắn lần nữa, Eragon la khản giọng.





Tâm trí của nhà vua luẩn quẩn quanh ý thức Eragon, đẩy tâm trí vào những mảng càng lúc càng nhỏ, cho đến khi nó chỉ còn lại một mảng tí hon bao trùm bởi sự hiện diện của Galbatorix.





“Đầu hàng đi,” nhà vua thì thào gần như vẻ yêu thương. “Cậu không còn nơi nào để đi, không còn nơi nào để trốn… Cuộc sống này của cậu đã kết thúc, Eragon Khắc tinh của Tà thần à, nhưng một cuộc sống khác đang chờ đón. Đầu hàng đi, rồi tất cả sẽ được tha thứ.”





Nước mắt làm tầm nhìn Eragon méo mó khi nó nhìn vào vực thẳm vô tận trong con ngươi Galbatorix.





Họ đã thất bại… Nó đã thất bại.





Ý nghĩ đó đau đớn hơn bất kì vết thương nào. Hàng trăm năm cố gắng – tất cả chỉ là con số không. Saphira, Arya, các Eldunarí: không ai có thể vượt qua Galbatorix. Lão quá mạnh, quá thông tuệ. Garrow, Brom lẫn Oromis đều đã chết uổng, cũng như bao chiến binh các chủng tộc ngã xuống trong cuộc chiến chống Đế chế.





Nước mặt tuôi dài trên mặt Eragon.





“Đầu hàng đi,” nhà vua thì thầm, xiết chặt gọng kìm.





Eragon ghét cay đắng hơn hết thảy sự bất công của tình cảnh này. Nó có vẻ sai trái từ tận gốc khi bao nhiêu người đã phải chịu đựng và hy sinh chỉ để đuổi theo một mục tiêu vô vọng. Thật sai trái khi chỉ mình Galbatorix có thể gây nên nhiều đau khổ như vậy. Thật sai trái khi lão có thể thoát khỏi trừng phạt vì những tội nghiệt đã gây ra.





Vì sao? Eragon tự hỏi





Rồi nó nhớ lại giấc mơ của Eldunarí cổ xưa nhất Valdr cho nó và Saphira xem, khi những băn khoăn của con sáo đá cũng ngang bằng với của một ông vua.





“Đầu hàng ngay!” Galbatorix thét lên, tâm trí lão đè nén Eragon bẹp dí như băng vụn, những tia lửa xuyên qua nó từ bốn phương tám hướng.





Eragon gào lên, trong cơn tuyệt vọng nó vươn tới Saphira và các Eldunarí, tâm trí của họ bị vây hãm bởi những con rồng điên theo lệnh Galbatorix – không chủ định, nó rút năng lượng từ họ.





Và nó phóng bùa chú với nguồn năng lượng ấy.





Đó là một bùa chú không lời, một phần phép thuật của Galbatorix không cho phép dùng cổ ngữ, còn vì không từ ngữ nào có thể diễn tả những gì Eragon muốn, hay những gì nó cảm nhận. Một thư viện sách đồ sộ cũng không thể đủ. Bùa phép nó phóng ra từ bản năng và cảm xúc; ngôn ngữ không thể chứa đựng nó được.





Điều nó muốn vừa đơn giản lẫn phức tạp: nó muốn Galbatorix thấu hiểu … phải thấu hiểu sự sai trái trong hành động của lão. Câu thần chú không phải để tấn công mà giống như nỗ lực giao tiếp. Nếu Eragon phải dành cả phần đời còn lại làm nô lệ cho nhà vua, nó cũng muốn Galbatorix nhận thức những gì lão đã làm, đầy đủ không thiếu một chi tiết nào hết.





Khi phép thuật ứng nghiệm, Eragon cảm thấy Umaroth và các Eldunarí hướng sự chú ý đến thần chú của nó, cố lờ những con rồng của Galbatorix đi. Trăm năm đau thương giận giữ trào lên trong lòng các Eldunarí, như những đợt sóng gào thét, những con rồng can thiệp vào tâm trí Eragon, uốn nắn thần chú, khắc sâu, dang rộng nó, chồng chất lên cho tới khi nó hoàn thiện hơn nhiều những suy nghĩ đầu tiên của Eragon.





Thần chú không chỉ cho Galbatorix thấy sự sai trái trong hành động của lão; giờ nó cũng buộc lão trải qua những cảm nhận, cả tốt lẫn xấu, mà lão đã có từ khi sinh ra. Thần chú vượt xa những gì Eragon có thể tự sáng tạo, vì nó chưa nhiều hơn những gì một người, hay một con rồng có thể tưởng tượng. Mỗi Eldunarí đều đóng góp vào quá trình gia cố thần chú, tổng hợp lại khiến nó mở rộng không chỉ toàn bộ Alagaësia mà quay ngược trở lại từng giây phút trong cuộc đời Galbatorix từ khi lọt lòng.





Eragon nghĩ, đó là phép thuật vĩ đại nhất mà những con rồng đã từng tạo ra, nó là công cụ, là vũ khí của họ.





Sức mạnh của các Eldunarí tràn qua nó như dòng sông lớn tựa biển, nó cảm thấy như một con thuyền trống rỗng mỏng manh, như thể da thịt nó sẽ nứt toác ra dưới áp lực của cơn sóng ma thuật cuồn cuộn chảy. Nếu không vì Saphira và những con rồng khác, nó đã có thể chết ngay lập tức, sức mạnh bị hút cạn bởi đòi hỏi năng lượng quá lớn.





Ánh đèn lồng xung quanh họ mờ đi, trong tâm trí nó, Eragon nghe hàng ngàn giọng nói vang vọng: luồn tạp âm khủng khiếp chứa đựng vô ngần đau đớn lẫn vui sướng, vọng lại từ hiện tại lẫn quá khứ.





Nếp nhăn trên mặt Galbatorix hằn sâu, đôi mắt phình ra khỏi hốc. “Mày đã làm gì?” giọng lão trống rỗng vì căng thẳng. Lão lui lại đặt tay vào thái dương. “Mày đã làm gì!!!”





Eragon gắng nói, “Khiến ông thấu hiểu.”





Nhà vua nhìn trân trối nó bằng anh mắt kinh dị. Từng thớ cơ trên gương mặt lão co giật, cả cơ thể lão run lên rợ hãi. Lão nhe răng gầm lên, “Mày sẽ không hạ được ta đâu, nhóc con. Mày …. sẽ …. không …” Lão rên rỉ, lảo đảo, rồi cùng lúc bùa chú trấn áp Eragon biến mất, nó ngã vật xuống sàn, kể cả Elva, Arya, Saphira, Thorn, Shruikan lẫn hai đứa trẻ đều có thể di chuyển trở lại.





Shruikan gầm lên điếc tai khắp căn phòng, con rồng đen lắc Thorn bay ra khỏi cổ. Thorn rơi phịch xuống sườn trái, xương cánh gãy một tiếng tách lớn.





“Ta … sẽ … không … chịu … thua …,” Galbatorix gào. Đằng sau nhà vua, Eragon thấy Saphira – đang đừng gần ngai vàng hơn nó – chần chừ nhìn lại họ. Rồi cô lao thẳng lên bệ đá, chạy cùng Saphira tới phía Shruikan.





Thorn chật vật đứng lên lao theo.





Mặt nhăn nhúm như kẻ điên loạn, Galbatorix bước về phía Eragon, thanh Vrangr vung lên.





Eragon lộn sang bên, nghe tiếng thanh gươm chém vào đá bên đầu nó. Nó tiếp tục lăn lộn thêm vài thước, rồi bật đứng dậy. Nó còn có thể đứng thẳng là nhờ vào năng lượng từ các Eldunarí.





Galbatorix gầm lên, lao về phía nó, Eragon đỡ cú chém vụng về của nhà vua. Giữa tiếng gầm cũ lũ rồng, hai thanh kiếm vẫn rung lên rõ ràng tiếng vang sắc lẻm như lời thầm thì của người chết.





Saphira bật cao lên không, cào xé mõm Shruikan tuôn máu, rồi rơi xuống sàn. Nó dang bộ móng vuốt bự chảng quét tới, cô rồng bật lại phía lui, cánh vươn ra gần nửa.





Eragon thụp xuống khỏi cú chém, đâm vào nách trái Galbatorix. Nó ngạc nhiên nhận ra đã đánh trúng, mũi gươm Brisingr ngập máu nhà vua.





Galbatorix giật mạnh tay khiến nhát đâm tiếp theo văng ra, họ ghìm nhau bằng chuôi gươm, cố gắng đẩy người kia mất thăng bằng. Gương mặt của nhà vua vặn vẹo không thể nhận ra, rồi nước mắt chảy xuống má lão.





Một luồn lửa phun ra qua đầu họ, đốt nóng không khí xung quanh.





Những đứa trẻ gào thét từ đâu đó.





Cái chân bị thương của Eragon sụm xuống, nó ngã ra lên đất, đè lên những ngón tay cầm Brisingr tím bầm. Nó cho rằng nhà vua sẽ đứng trên nó ngay, nhưng không, Galbatorix dậm chận tại chỗ, lắc mình từ bên này sang bên khác.





“Không!” nhà vua kêu gào. “Tôi không làm …” Lão nhìn vào Eragon la hét, “Làm nó dừng lại đi!”





Eragon lắc đồng, lảo đảo đứng dậy.





Tay trái nó đau như dần, ngước lên nhìn thấy Saphira và chân trước bị một vết rách dài. Từ phía kia căn phòng, Thorn cắt ngập tai Shruikan, khiến con rồng gầm gừ chuyển qua nó. Khi Shruikan không chú ý, Saphira lao lên trên cổ nó gần xương sọ. Cô nàng xọc vuốt vào lớp vảy rồi xử dọc xuống theo hai học gai nhọn suốt sống lưng con rồng.





Shruikan kêu gào điên dại, bắt đầu quẫy đạp mạnh hơn.





Galbatorix lại chạy về phía Eragon, đâm chém nó như lúc nãy. Eragon chặn một cú, rồi một cú khác, nhưng rồi dính một chiêu vào sườn, khiến nó tối tăm mặt mũi.





“Làm nó dừng đi,” giọng Galbatorix có vẻ cầu xin hơn hơn là dọa dẫm. “Cơn đau …”





Shruikan phát ra tiếng gào khác điên cuồng hơn bao giờ hết. Eragon thấy phía sau nhà vua, Thorn treo lủng lẳng trên cổ Shruikan đối diện với Saphira. Trọng lượng hai con rồng kéo sụp đầu Shruikan xuống gần sàn nhà. Tuy nhiên con rồng đen quá lớn, cũng quá mạnh để cả hai có thể đánh gục. Thêm nữa cổ nó quá dày, Eragon không nghĩ Thorn hay Saphira có thể làm nó bị thương bằng răng được.





Rồi, Eragon thấy Arya lao lên từ sau những cây cột như bóng đen xuyên qua rừng đêm, phi thẳng về phía lũ rồng. Trên tay trái cô, thanh Dauthdaert màu lục tỏa hào quang sáng rực.





Shruikan trông thấy cô, giật mạnh người cố quăng Saphira và Thorn ra. Khi chúng vẫn không xê dịch, nó gầm lên, mở miệng phun những luồn tràn ngập căn phòng.





Arya lao lên, trong khoảnh khắc Eragon mất dấu cô sau bức tường lửa. Rồi cô xuất hiện gần đầu Shruikan lượn lờ trên sàn nhà. Đuôi tóc cô bắt lửa, nhưng cô không để tâm.





Nhảy liền ba bước, cô phi lên chân trước Shruikan, từ đó quăng mình lên một bên đầu nó, để lại vệt lửa phía sau như sao băng. Thét lên một tiếng vang khắp căn phòng, Arya phóng ngập thanh Dauthdaert giữa con mắt bự chảng, lấp lánh màu băng lam, vào sâu trong sọ rồng,





Shruikan gào thét, co giật, từ từ đổ xuống, lửa tuôn ra từ miệng.





Saphira và Thorn nhảy ra ngay trước khi con rồng đen khổng lồ ngã xuống sàn.





Hàng cột nứt toác, những tảng đá to rơi từ trần xuống bể nát. Vô số đèn lồng tắt lịm, cục nóng chảy trong chúng tan dần.





Eragon gần như ngã nhào khi căn phòng rung chuyển. Nó không thể thấy chuyện gì xảy ra với Arya, nhưng nó sợ thân hình khổng lồ của Shruikan đã đè lên cô mất.





“Eragon!” Elva thét lên. “Cúi xuống!”





Nó cúi gập người, nghe thấy tiếng gió lướt qua khi thanh gươm trắng được Galbatorix vung qua lưng nó.





Eragon nhỏm dậy lao lên …





… và đâm thẳng vào giữa bụng Galbatorix, hệt như khi nó đâm Murtagh.





Nhà vua gầm gừ lui lại, tự rút mình ra khỏi thanh gươm. Lão sờ vết thương với bàn tay còn lại, nhìn trân trối máu trên ngón tay. Rồi lão lại nhìn Eragon nói, “Những tiếng nói… chúng kinh khủng quá. Ta không chịu nổi …” Lão nhắm mắt, nước mắt tuôn trên má. “Đau … đau đớn quá… Đau thương quá… Làm nó dừng đi! Làm nó dừng đi!”





“Không,” Eragon nói. Elva đứng cạnh nó, rồi Saphira và Thorn đang đứng ở phía xa căn phòng. Eragon thở phào nhẹ nhõm khi thấy Arya đứng cùng chúng, dù chém sém, đầy máu, nhưng không bị thương.





Galbatorix trợn trừng mắt – tròn to, trắng dã – rồi lão nhìn trân trối vào phía xa, như thể Eragon và những người khác không tồn tại. Lão lắc đầu, run rẩy, quai hàm động đậy, nhưng không có tiếng nào phát ra từ cổ họng.





Rồi cả hai thứ xảy ra một lúc. Elva thét lên rồi ngất xỉu, còn Galbatorix hét lên, “Waíse néiat!”



Không tồn tại.



Eragon không còn thời gian nhiều lời. Rút năng lượng ra từ các Eldunarí, nó phù phép kéo mình, Saphira Arya, Elva, Thorn, Murtagh và hai đứa trẻ trên thềm đá về phía tảng đá xích Nasuada. Rồi nó phù phép ngăn cản hay bật lại bất kì thứ gì có thể làm làm họ bị thương.





Họ chỉ di chuyển được nửa đường tới tảng đá khi Galbatorix vụt biến mất trong tia chớp sáng chói chang hơn mặt trời. Rồi mọi thứ tối tối sầm đi trong im lặng khi bùa phép bảo vệ của Eragon phát tác.





Đau thương đến chết (Death Throes)





Roran ngồi trên chiếc cáng các tiên nhân đặt trên một tảng đá bên cảnh cổng đổ nát của Urû’baen, ra lệnh cho các chiến binh quanh anh.





Bốn tiên nhân đã mang anh ra khỏi thành phố để có thể cứu anh mà không sợ bị bùa ếm của Galbatorix làm ảnh hưởng thần chú. Họ chữa lành cánh tay trật khớp, xương sườn gãy, và những vết thương Barst gây ra, dù họ lo ngại phải mất hàng tuần xương cốt của anh mới trở lại như cũ, rồi nài nỉ anh nằm một chỗ đến hết ngày.





Anh thì khăng khăng được trở lại chiến trường. Các tiên nhân thuyết phục mãi, nhưng anh bảo họ, “hoặc là các ông đỡ tôi dậy, hoặc tôi sẽ tự đi đấy.” Rõ ràng họ không vui lắm, nhưng rồi cũng đồng ý đưa anh tới nơi anh đang ngồi quan sát quảng trường.





Như Roran đoán trước, bọn lính mất hết sĩ khí trước cái chết của chủ tướng, quân Varden đã đẩy bật được chúng vào những con phố chật hẹp. Khi Roran quay lại, quân Varden đã quét sạch quá hơn phần ba thành phố và đang nhanh chóng tiến về tòa thành chính.





Họ đã mất rất nhiều chiến binh – xác chết và những kẻ hấp hối rải trên con phố, máng nước đỏ ngầu màu máu – nhưng với lợi thế nãy giờ, Roran có thế thấy cảm giác chiến thắng lại bừng bừng trong đoàn quân trên gương mặt chiến binh con người, người lùn và Urgal, dù các tiên nhân vẫn giữ vẻ lạnh lùng phẫn nộ trước cái chết của nữ hoàng.





Các tiên nhân khiến Roran hơi lo khi sẵn sàng giết những tên lính cố đầu hàng mà không hề thương tiếc. Cơn khát máu của họ gần như không thể kiểm soát một khi bùng lên.





Sauk hi Barst gục ngã, vua Orrin bị một thanh chốt cửa giáng vào ngực khi đang công phá một trại lính sâu trong thành phố. Ông bị thương khá nặng, thậm chí các tiên nhân cũng không chắc có thể chữa được hay không. Các cận vệ đưa nhà vua trở về doanh trại, từ lúc đó Roran chưa nghe thêm tin tức nào về ông.





Dù không thể chiến đấu, Roran vẫn tiếp tục ra lệnh. Anh tổ chức quân đội phía sau, gom góp những người lang thang tụ lại tung hoành khắp thành Urû’baen – trước tiên là chiến những máy bắn đá còn lại trên tường thành. Rồi anh cho người đưa tin chạy dọc theo các tòa nhà, chuyển một tin quan trọng tới Jörmundur, Orik hay Martland Redbeard và các chỉ huy khác.





“ – mà nếu anh thấy có bất kì tên linh nào ở gần tòa nhà vòm gần chợ, hay báo cho Jörmundur biết luôn nhé,” anh dặn kiếm kĩ có đôi vai cao gầy trước mặt.





“Vâng, thưa ngài,” người chiến binh nuốt nước bọt, lưỡng quyền nhấp nhô lên xuông.





Roran nhìn chăm chú một lúc, thấy thích thú vì chuyển động đó, rồi xua tay, “Đi đi.”





Khi người chiến binh chạy đi, Roran cau mày, ngước nhìn những mái nhà hướng về phía tòa thành bên dưới mái nhô từ phiến đá khổng lồ.





Chú đang ở đâu? Anh băn khoăn. Eragon và những người kia đã không thấy đâu từ khi họ tiến vào trong tòa thành, sự vắng mặt quá lâu khiến Roran lo tợn. Anh nghĩ ra được vài lý do trì hoãn họ, nhưng đều không ổn lắm. Dễ chịu nhất là Galbatorix đang lẩn trốn, Eragon và những người đồng hành phải tìm kiếm nhà vua. Nhưng với sức mạnh của Shruikan như đêm qua, Roran không thể tưởng tượng nổi Galbatorix phải trốn tránh kẻ địch.





Nếu nỗi sợ tệ hại nhất của anh thành hiện thực, thì chiến thắng của Varden sẽ chẳng tày gang, còn Roran biết khó có binh sĩ nào có thể còn sống sót sau hôm nay.





Một người đưa tin anh gửi đi chạy ra khỏi con phố về phía bên phải Roran – một người cung thủ đầu trần tóc đầy cát, hái bên má đỏ hoe. Anh ta dừng lại trước một tảng đá lớn, gục đầu thở hổn hển.





“Anh thấy Martland chứ?” Roran hỏi.





Anh ta gật đầu, hàng tóc phấp phới qua chiếc trán bóng loáng.





“Anh có chuyển thông điệp của ta không?”





“Có thưa ngài. Martland bảo tôi nói với ngài rằng” – anh ta dừng lại lấy hơi – “bọn lính đã rút hết khỏi các nhà tắm, nhưng giờ chúng đang cố thủ trong tòa nhà lớn gần tường thành phía Nam.





Roran chuyển mình, cánh tay mới bình phục đau nhói. “Thế những tháp canh giữa nhà tắm và vựa thóc thì sao? Đã chiếm được chưa?”





“Được hai cái rồi; chúng ta đang chiến đấu ở những tòa còn lại. Mà Martland cũng thuyết phục được vài tiên nhân đến trợ giúp. Ông ấy cũng …”





Một tiếng gào rền rĩ từ vách đá ngắt lời anh ta.





Người cung thủ tái nhợt đi, trừ vệt đỏ trên hai má, lúc này còn đỏ lựng lên, giống như lớp son trên mặt tử thi vậy. “Thưa ngài, đó là …”





“Suỵtttttt!” Roran nghển cổ nghe ngóng. Chỉ có Shruikan mới kêu lớn được như vậy.





Một lát sau, họ không nghe thấy gì thêm. Rồi một tiếng gầm vang lên từ tòa nhà, Roran nghĩ anh còn nghe thấy vài tiếng động khác nhàn nhạt, nhưng không chắc lắm.





Từ khắp nơi quanh cánh cổng đổ nát, con người, tiên nhân, người lùn, Urgal cùng dừng lại nhìn về phía đó.





Rồi một tiếng gầm khác còn lớn hơn vang lên.





Roran bám chặt cáng, cứng người lại. “Giết lão đi,” anh lẩm bẩm. “Giết đồ khốn ấy đi.”





Cả thành phố phảng phất rung lên, như thể mặt đất bị khối lượng khổng lồ đập mạnh. Roran nghe thấy tiếng cái gì đó vỡ tan.





Rồi thành phố chim trong im lặng, mỗi giây trôi qua một nặng nề.





“… Ngài có nghĩ họ cần chúng ta giúp không?” người cung thủ nhẹ giọng hỏi.





“Chúng ta không làm được gì hết,” Roran vẫn chăm chú nhìn tòa thành.





“Có lẽ các tiên nhân …”





Mặt đất rung lên bần bật, rồi cánh cổng tòa thành bắn tung ra bởi ngọn lửa vàng trắng sáng lóa, đến nỗi Roran nhìn rõ nhưng đốt xương trên đầu và cổ người lính, da thịt anh ta hồng lên như quả lý trước ánh nến.





Một tiếng nổ khủng khiếp đẩy họ ngã dúi dụi, tai Roran đau buốt như bị đinh xuyên qua màng nhĩ. Anh thét lên nhưng không nghe nổi giọng chính mình và cả người khác – rồi tai anh điếc đặc sau tiếng sấm rung trời. Sỏi đá dưới chân nẩng tưng tưng, bụi mù và những mảnh vỡ cuốn bay mù mịt, cuồng phong thổi toạc áo Roran.





Roran buộc phải nhắm chặt mắt khỏi bụi bặm, chỉ có thể bám chặt vào người cung thủ chờ cơn phong ba lắng xuống. Anh cố hít thở, nhưng những cơn gió nóng rút sạch không khí chưa kịp chui vào phổi. Cái gì đó táng vào đầu đánh mũ giáp Roran bay mất.





Cơn địa chấn kéo dài mãi mới ngừng lại, Roran khẽ mở mắt, run sợ vì những gì sẽ chứng kiến.





Không trung trở nên xám xịt, mịt mù, tầm nhìn không vượt quá vài trăm thước. Từng mảnh gỗ viên đá rơi như mưa cùng những đám tro tàn. Một thanh gỗ nằm dọc theo con phố - một phần cầu thang bắn ra khi các tiên nhân phá hủy cánh cổng – đang bốc cháy. Nhiệt lượng từ vụ nổ khiếp nó cháy thành than ngay lập lức. Những chiến binh nằm la liệt trên mặt đất, vài người vẫn cử động, số còn lại rõ ràng đã chết.





Roran liếc sang người cung thủ. Anh ta cắn môi dưới mình máu chảy ướt cằm.





Họ đỡ nhau đứng dậy, Roran nhìn về phía từng là tòa thành. Anh chỉ thấy một màn đêm xám xịt. Eragon! Nó và Saphira có sống sót nổi sau vụ nổ không? Có ai đó đã gần đó không?





Roran há miệng vài lần cố rũ sạch tai – đang ù đặc đau đớn – nhưng không thể. Anh sờ lên tai phải, ngón tay nhuộm máu tươi.





“Anh có nghe tôi nói không?” Anh la lên với người cung thủ, nhưng không có gì ngoài cổ họng và miệng rung lên.





Người cung thủ nhăn mặt lắc đầu.





Roran chóng mặt, nghiêng mình dựa vào một tảng đá. Khi anh chờ lấy lại thăng bằng, anh nghĩ tới phiến đá vẫn treo trên đầu họ, thình lình nhận ra toàn bộ thành phố có thể gặp nguy hiểm.





Chúng ta phải rời ngay trước khi nó rơi, anh tự nhủ. Anh nhổ ra máu và đất cát lên nền sỏi, rồi lại nhìn về phía tòa thành vẫn bị che mờ khói bụi. Con tim anh quặn thắt đau đớn.





Eragon!



------------------------------------------





Biển tầm ma





Bóng tối, tịch mịch.





Eragon trượt người sang một bên, rồi … không thấy gì hết. Nó vẫn thở được, nhưng không khí ảm đạm không mang chút sinh khí, khi nó cử động, áp lực lên thần chú của nó càng tăng.





Nó vươn tâm trí tới những người chung quanh xem nó có cứu được tất cả hay không. Elva đã bất tỉnh, Murtagh thì gần như vậy, nhưng họ và tất cả những người khác vẫn sống.





Lần đầu tiên Eragon tiếp xúc với tâm trí Thorn. Con rồng đỏ giãy giụa phản ứng. Tư tưởng của nó u ám hơn, cũng méo mó hơn Saphira nhiều, nhưng trong đó có sức mạnh và sự cao quý khiến Eragon ấn tượng.





Chúng ta không thể giữ thần chú lâu hơn được, giọng Umaroth căng thẳng.





Mọi người phải giữ, Eragon nói. Nếu không chúng ta sẽ chết.





Thêm vài giây nữa trôi qua.





Ánh sát đột nhiên tràn vào mắt Eragon, tai nó lùng bùng những tiếng ồn.





Nó nhăn nheo, chớp mắt để quen với ánh sáng.





Quá không trung đầy khói bụi, nó thấy một miệng hố cháy sáng nơi Galbatorix từng đứng. Những tảng đá nóng rực, nảy lên như đang sống khi không khí phảng qua bề mặt. Trần nhà cũng phát sáng, cảnh tượng khiến Eragon mất bình tĩnh; như thể họ đang đứng trong một cái lò luyện kim khổng lồ vậy.





Không khí tràn ngập mùi sắt thép.





Bức tường căn phòng nứt toác, nhưng cây cột, phù điêu, đèn lồng bị nghiền nát. Phía cuối căn phòng là xã Shruikan, da thịt hầu như đã bị lột khỏi khung xương bám đầy bồ hóng. Phía trước bức tường đá đã bị vụ nổ phá nát, cùng hàng trăm thước tường nhà xa hơn, để lộ ra vô số căn phòng và lối đi. Cánh cổng vàng giữa lối đi đã bật tung bản lề, Eragon ngỡ nó thấy ánh sáng bên ngoài ở phía xa ngoài tiền sảnh.





Nó đứng dậy, để ý lưới phòng hộ vẫn rút năng lượng từ những con rồng, nhưng không nhanh như trước.





Một tảng đá to bằng ngôi nhà từ trần nhà rơi xuống ngay cạnh sọ Shruikan, vỡ tan thành hơn chục mảnh. Xunh quanh họ, bức tường nứt rộng hơn, tiếng rin rít cọt kẹt rợn người từ mọi phía vọng lại.





Arya bước tới hai đứa trẻ, ôm lấy hông bé trai giúp nó trèo lên lưng Saphira. Rồi cô chỉ vào bé gái bảo Eragon, “Ném nó cho tôi!”





Eragon chật vật mất một giây thu thanh Brisingr vào vỏ. Rồi nó ôm hông bé gái liệng sang cho Arya bắt lấy.





Ergon quay mình sải bước qua Elva về phía Nasuada. “Jierda!” nó hô, đặt tay lên ổ khóa xích chặt cô vào tảng đá xám. Thần chú có vẻ không linh nghiệm, rồi kết thúc nhanh chóng vì tốn quá nhiều năng lượng.





Nasuada rên lên hối thúc, rồi nó rút mảnh vải ra khỏi miệng cố. “Cậu phải tìm chìa khóa!” Cô nói. “Gã cai ngục của Galbatorix mang theo nó.”





“Không kịp tìm hắn đâu!” Eragon vung thanh Brisingr chém thẳng vào ổ xích quanh tay trái cô. Thanh gươm bật khỏi ổ xích kêu khô khốc, chỉ để lại một vệt mờ trên mặt kim loại. Nó chém thêm phát nữa, nhưng sợi xích vẫn trơ trơ dưới lưỡi gươm.





Một tảng đá lớn từ trần nhà rơi xuống, đập xuống sàn kêu rầm.





Một bàn tay nắm lấy tay nó, Eragon quay lại thấy Murtagh đang đứng phía sau, một tay ôm vết thương trên bịnh. “Tránh ra,” hắn càu nhàu. Eragon lui ra, Murtagh nói ra tên của các tên như đã làm, kèm theo từ jierda, rồi chiếc cùm sắt bật ra rơi khỏi tay chân Nasuada.





Murtagh nắm cổ tay cô, dẫn về phía Thorn. Mới đi được một bước, cô luôn xuống dưới cánh tay để hắn dựa vào vai mình.





Eragon há miệng rồi ngậm lại. Nó sẽ hỏi sau vậy.





“Chờ đã!” Arya kêu lên, nhảy ra khỏi Saphira và chạy đến bên Murtagh. “Thế quả trứng đâu? Các Eldunarí nữa? Chúng ta không bỏ lại đây được!”





Murtagh nhăn nhó, rồi mẩu thông tin len vào tâm trí nó và Arya.





Arya xoay mình, mái tóc cháy xém tung lên, lao thẳng về phía một cánh cửa đối diện căn phòng.





“Quá nguy hiểm!” Eragon kêu với theo. “Nơi này đang sụp đổ! Arya!”





Đi đi, cô hối thúc. Đưa lũ trẻ tới nới an toàn. Đi đi! Cậu không có nhiều thời gian đâu!





Eragon chửi thề. Nó ước gì ít nhất cô cũng mang theo Glaedr. Nó trượt thanh Brisingr vào vỏ, cúi xuống nhấc Elva, lúc này đang cựa mình lên.





“Có chuyện gì vậy?” cô bé hỏi khi Eragon đưa cô lên lưng Saphira phía sau hai đứa trẻ.





“Chúng ta rời khỏi đây,” nó dặn. “Giữ chặt.”





Saphira đã bắt đầu di chuyển. Tập tễnh vì chân trước bị thương, cô nàng phi thẳng qua miệng hố, Thorn theo sát ngay sau, mang theo Murtagh và Nasuada.





“Cẩn thận!” Eragon la lên, thấy một mảng trần sáng lóa rơi thẳng xuống đầu họ.





Saphira dạt qua bên trái, tảng đá nhọn rơi xuống bên cạnh vỡ tung tóe. Một mảnh phi trúng sườn Eragon giắt vào áo giáp. Nó rút ra quăng đi. Khói bốc lên từ đầu găng tay, nó ngửi thấy mùi lông vũ cháy khét. Những tảng đáng khác rơi khắp căn phòng.





Khi Saphira tới cửa tiền sảnh, Eragon xoay mình nhìn Murtagh. “Có những cái bẫy nào?” Nó hét lên.





Murtagh lắc đầu, vẫy tay ra hiệu họ đi tiếp.





Những đống đá đổ nát phủ lên sàn tiền sảnh, khiến lũ rồng chậm lại. Eragon thấy những căn phòng và lối đi hai bên đường đầy gạch vụn bị vụ nổ xé toang, với bàn ghế, đồ đạc bốc cháy bên trong. Lộ ra bên dưới những đống đá lớn là những xác người chết hay hấp hối đang dặt dẹo kì cục, hay những gương mặt phủ bụi.





Nó tìm kiếm Blödhgarm và các pháp sư, nhưng không thấy họ đâu, dù còn sống hay đã chết.





Phía cuối tiền sảnh, hàng trăm người cả binh lính lẫn đầy tớ túa ra từ những cánh cửa, chạy hối hả về phía cánh cửa mở toang. Hầu như họ đều bị gãy chân tay, bỏng, xây xước hay bị thương. Họ dạt ra tránh Saphira và Thorn, nhưng lờ lũ rồng đi.





Saphira vừa đến cuối sảnh thì tiếng đổ ầm như sấm vang lên phía sau, Eragon nhìn về phía phòng ngai vàng sụp xuống, chôn vùi sàn nhà dưới lớp đá hơn năm mưới thước.





Arya! Eragon hoảng hồn. Nó cố tìm cô bằng tâm thức nhưng không thấy đâu, hoặc có quá nhiều vật cản giữa họ, hoặc bùa chú xung quanh đống đá vụn cản trở tầm tư tưởng của nó, hoặc – một khả năng nó ghét cay đắng – cô đã chết. Nó biết cô không ở trong căn phòng khi nó sụp xuống, nhưng nó ngờ rằng cố có thể tìm được đường ra, giờ đây căn phòng đã bị chặn.





Rồi họ lao ra khỏi tòa thành, Eragon thấy vụ nổ tàn phá Urû’baen nghiêm trọng nhường nào. Nó hất tung trần vô số ngôi nhà chung quanh, đốt cháy những thanh xà bên dưới. Hàng trăm ngọn lửa rải khắp thành phố. Những luồn khói cuộn lại cho đến khi gặp nhau bề dưới phiến đá. Bên rìa Đông nam thành phố, khói đen che kín ánh nắng, luồn qua bờ đá nhô ra, phát sáng đỏ-cam như những viên đá lửa.





Dân chúng Urû’baen chạy nháo nhào khỏi nhà, đổ ra những con phố về phía cái hố bên tường thành. Binh lính và người hầu từ tòa thành nhanh chóng nhập vào đoàn người, để khoảng trống cho Thorn và Saphira tự do di chuyển trước khoảng sân rộng. Eragon không để ý lắm một khi chúng không gây loạn.





Saphira dừng lại giữa sân, Eragon hạ Elva và hai đứa trẻ chưa biết tiên xuống. “Các em có biết cha mẹ đâu không?” nó quỳ xuống hỏi cặp an hem.





Chúng gật đầu, đứa trẻ chỉ về phía một ngôi nhà lớn phía bên trái sân đình.





“Các em sống ở đó à?”





Bé trai gật đầu.





“Thế thì đi đi,” Eragon đẩy nhẹ chúng. Không cần giục thêm, hai an hem chạy vụt về phía ngôi nhà. Cánh cửa mở tung, một người đàn ông hios giắt kiếm trên hông bước ra, ôm lấy cả hai đứa trẻ trong vòng tay. Ông liếc nhìn Eragon, rồi rảo bước quay vào với hai đứa trẻ.





Dễ nhỉ, Eragon bảo Saphira.





Galbatorix chắc đã sai quân tìm những đứa bé ở gần nhất, cô nàng đáp. Chúng ta không cho lão nhiều thời gian hơn.





Anh cũng đoán thế.





Thorn ngồi cách Saphira mấy bộ, Nasuada đỡ Murtagh xuống. Rồi hắn ngồi sụp xuộng cạnh bụng Thurn. Eragon nghe thấy hắn tụng phép chữa thương.





Eragon cũng không để ý tới vết thương của nó, bước lại chữa cho Saphira bởi cô nàng bị nặng hơn nó nhiều. Vết rạch trên chân trước rộng ngang bàn tay nó, máu chảy đẫm bàn chân cô nàng.





Răng hay vuốt? Nó kiểm tra vết thước.





Vuốt, cô nàng đáp.





Nó sử dụng sức mạnh của mình lẫn Glaedr đắp vết rạch lại. Xong việc, nó quay lại chưa cho mình, bắt đầu từ vết bỏng rát bên sườn, nơi bị Murtagh đâm.





Nó vừa phù phép vừa trồng chừng Murtagh – đang chữa lành vết thương trên bụng, cái cánh gãy của Thorn và những vết khác. Nasuada ở cạnh hắn suốt, tay đặt lên vai Murtagh. Eragon thấy làm thế nào đó hắn đã lấy lại thanh Zar’roc trong phòng ngai vàng.





Eragon quay qua Elva đang đứng một bên. Cô bé có vẻ đau, nhưng nó không thấy máu. “Em đau à?” Nó hỏi.





Lông mày cô bé nhăn tít, lắc đầu. “Không, nhưng họ đang đau lắm.” Elva chỉ về phía đoàn người chạy khỏi tòa thành.





“Mmh.” Eragon lại liếc Murtagh. Hắn và Nasuada đang đứng nói chuyện.





Nasuada cau mày.





Rồi Murtagh vươn tay nắm cổ áo giật sang, xé toạc mảnh vải.





Eragon tuốt thanh Brisingr ra nửa đường thì nó trông thấy một những vết soi hằn sâu ngoằn ngoèo dưới xương đòn cô. Cảnh tượng ấy giáng cho nó một cú: gợi lại những vết thương trên lưng Arya khi nó và Murtagh cứu cô khỏi nhà tù Gil’ead.





Nasuada gật đầu, cúi gằm.





Rồi Murtagh bắt đầu nói, Eragon chắc chắn lần này bằng cổ ngữ. Anh nhẹ nhàng đặt tay lên nhiều chỗ trên cơ thể cô – hơi rụt rè nữa – rồi nét mặt cô giãn ra minh chứng rõ ràng cho Eragon thấu hiểu đau đớn cô phải chịu.





Eragon quan sát thêm một phút, rồi cảm xúc đột nhiên trào lên trong nó. Nó quỳ ngồi lên móng phải Saphira, đầu gối mềm đi. Cô nàng cúi đầu cọ lên vai nó, nó cũng tựa đầu vào cô nàng.





Chúng ta đã làm được rồi, cô nàng lắng giọng.





Chúng ta làm được rồi, nó không tin nổi những từ ngữ ấy.





Nó có thể cảm thấy Saphira suy nghĩ về cái chết của Shruikan: dù nó có nguy hiểm nhường nào, cô nàng vẫn đau buồn vì sự ra đi của một trong những thành viên cuối cùng của chủng tộc.





Eragon tóm lấy vảy cô nàng. Nó thấy nhẹ bẫng, gần như chóng mặt, như thể nó đang bồng bềnh trên mặt đất. Giờ đây thế nào …?





Giờ đây chúng ta sẽ tái thiết, cảm xúc của ông lẫn lộn giữa thỏa mãn, đau thương và kiệt queek. Cậu đãlàm tròn bổn phận của mình rồi Eragon à. Không ai khác có thể tấn công Galbatorix như cậu đâu.





“Tôi chỉ muốn lão thấu hiểu,” nó khẽ lẩm bẩm. Nhưng Glaedr không đáp lại.





Cuối cùng, kẻ phá-lời-Thề đã chết, Umaroth vui mừng.





Sự thực Galbatorix không còn nữa dường như không thể nào xảy ra được. Eragon suy nghẫm lại về sự thực ấy, dường như giải phóng điều gì đó trong tâm thức, rồi nó nhớ lại – như thể chưa bao giờ quên – từng thứ đã trải qua trong Hầm mộ của Linh Hồn.





Nó háo hức. Saphira…





Em biết, cô nàng cũng phấn khích không kém. Những quả trứng!





Eragon mỉm cười. Những quả trứng! Trứng rồng! Giống nòi của chúng sẽ không tuyệt chủng nữa. Chúng sẽ tồn tại, sẽ sinh sôi, trở lại ngày tháng huy hoàng như trước sự sụp đổ của những Kỵ Sỹ.





Rồi một tia ngờ vực khủng khiếp thoáng qua. Người không khiến chúng ta quên cái gì khác chứ? Nó hỏi Umaroth.





Nếu quả thế, làm sao chúng ta biết được? con rồng trắng đáp lời.





“Nhìn kìa!” Elva chỉ tay la lên.





Eragon quay lại, thấy Arya đi ra từ giữa lòng tòa thành. Đi cùng cô là Blödhgarm và các pháp sư, thâm tím và trầy xước, nhưng vẫn sống. Arya mang trên tay một hòm gỗ nhỏ khóa vàng. Một hàng dài hộp kim loại -mỗi cái lớn ngang thùng xe ngựa – đang trôi nổi là là trên mặt đất phía sau các tiên nhân.





Eragon phấn chấn lao đến phía họ. “Các vị vẫn sống!” Nó ôm chầm lấy Blödhgarm, khiến ông kinh ngạc.





Blödhgarm nhìn nó trong giây lát bằng đôi mắt vàng, rồi ông mỉm cười giơ móng vuốt lên.





“Chúng tôi còn sống, Khắc tinh của Tà thần à.”





“Và đây là những … Eldunarí?” Eragon nhẹ giọng hỏi.





Arya gật đầu. “Họ ở trong phòng chứa của Galbatorix. Chúng ta sẽ phải quay lại khi nào đó, có nhiều kì quan còn ẩn giấu.





“Họ thế nào? Ý tôi là các Eldunarí.”





“Lộn xộn lắm. Chắc phải mất hàng năm họ mới hồi phục, ấy là nếu có thể.”





“Và đây là…” Eragon hướng về phía cái hòm cô mang.





Arya liếc qua, chắc chắn không ai đó ở quá gần có thể thấy; rồi cô nhấc khẽ nắp hòm bằng ngón tay. Bên trong, trên lớp nhung, Eragon thấy một quả trứng rồng xinh đẹp, màu lục xen lẫn những nét trắng.





Khuôn mặt rạng ngời của Arya khiến trái tim Eragon nhảy lên. Nó cười toe toét ra hiệu với các tiên nhân. Khi họ tụ tập xung quanh, nó thầm thì bằng cổ ngữ, nói về những quả trứng ở Vroengrad.





Họ không cười, không la lên, nhưng ánh mắt lấp lánh, cả nhóm người run người khấn khích. Vẫn cười toe toét, Eragon nhún nhảy vui mừng vì phản ứng của họ.





Rồi Saphira nói. Eragon!





Cùng lúc Arya nhăn mặt nói, “Thorn với Murtagh đâu rồi?”



Eragon nhìn sang, thấy Nasuada đang đứng một mình trên sân đình. Bên cạnh cô là một cặp túi yên Eragon không nhớ từng thấy Thorn mang. Gió thổi qua sân, rồi nó nghe thấy tiếng vỗ cánh, nhưng không thấy Murtagh và Thorn đâu.





Eragon phóng tâm trí về phía nó nghĩ có họ. Nó cảm thấy họ ngay, vì họ không ẩn tâm trí đi, nhưng họ từ chối nói chuyện với nó.





“Khỉ thật,” Eragon lẩm bẩm, chạy về phía Nasuada. Má cô vương lệ, gương mặt suýt mất vẻ điềm tĩnh.





“Họ đi đâu rồi?!”





“Đi xa.” Cằm cô run run. Rồi cô hít sâu, thở ra, đứng thẳng lên.





Eragon lại chửi thầm, nghiêng mình mở túi yên ra. Nó tìm thấy bên trong một vài Eldunarí nhỏ đóng trong những ngăn riêng. “Arya! Blödhgarm!” nó hô lên, chỉ vào hai cái túi. Hai tiên nhân gật đầu.





Eragon chạy thẳng về phía Saphira. Nó không cần phải giải thích, cô nàng hiểu cả. Dang rộng cánh cho nó trèo lên yên, rồi lập tức bay khỏi sân đình ngay khi nó yên vị.





Tiếng hoan hô nổi lên khắp toàn quân Varden khi nhìn thấy cô nàng.





Saphira hối hả vỗ cánh lần theo mùi Thorn trên không trung. Cô nàng bay về phía Nam, xa khỏi bóng của phiến đá, rồi ngặt theo một hòn đá lớn về phía Bắc theo dòng Ramr.





Thêm vài dặm, dấu mùi chạy thẳng và hướng lên cao. Khi dòng sông lớn hình thân cây ở phía dưới, dấu mùi bắt đầu hướng xuống.





Eragon quan sát mặt đất trước mắt, thấy một ánh đỏ ở ngọn đồi nhỏ phía bên kia dòng sông. Bên kia, nó nói, nhưng Saphira đã nhận ra Thorn từ trước.





Cô nàng bay xoắn ốc xuống, nhẹ nhàng hạ cánh trên đỉnh đồi với lợi thế độ cao. Không khí mát rượi và ẩm ướt, mang theo mùi mùn rêu, bùn và nhựa cây. Giữa ngọn đồi và dòng sông là một biển cây tầm ma. Chúng mọc dày tới mức cách duy nhất để đi qua là phải cắt sạch thành đường đi. Những phiến lá đen hình răng cưa rối ào nhau vang tiếng rì rào hòa lẫn tiếng dòng sông chảy xiết.





Murtagh đang đứng cạnh Thorn bên bờ biển tầm ma, điều chỉnh đai yên rồng.





Eragon gỡ chốt thanh Brisingr, thận trọng tiến lại.





Murtagh hỏi, không quay lưng lại, “Cậu đến để chặn bọn ta lại à?”





“Còn phụ thuộc. Các anh đi đâu?”





“Anh không biết. Có lẽ phía Bắc, … đâu đó xa khỏi con người.”





“Anh có thể ở lại.”





Murtagh cười khổ. “Cậu biết rõ mà. Thế chỉ tổ gây phiền phức cho Nasuada thôi. Thêm nữa, đám người lùn không chấp nhận đâu. Anh đã giết Hrothgar.” Anh so vai với Eragon. “Galbatorix hay gọi anh là Sát thủ của Nhà Vua. Chú giờ cũng là Sát thủ của Nhà Vua rồi.”





“Có vẻ di truyền rồi.”





“Cậu phải để ý tới Roran đấy … rồi Arya là kẻ giết rồng. Sẽ không dễ dàng với cô ta đâu – một tiên nhân giết rồng. Cậu nên nói chuyện, đảm bảo cô ta vẫn ổn.”





Eragon king nghạc vì sự sâu sắc của Murtagh. “Em sẽ làm thế.”





“Rồi,” Murtagh buộc nút cài cuối cùng trên đai. Rồi anh quay ra nhìn Eragon, Eragon thấy anh đang tuốt sắn thanh Zar’roc, sẵn sàng sử dụng. “Nên lần nữa: cậu đến ngặn bọn anh phải không?”





“Không.”





Murtagh cười nhẹ, đút thanh Zar’roc vào bao. “Tốt. Anh hơi ghét lại phải đánh nhau với chú.”





“Làm sao anh thoát khỏi Galbatorix được? Đó là tên thật của anh, phải không?”





Murtagh gật đầu. “Như anh nói, anh không … bọn anh không” – anh chạm nhẹ Thorn – “như trước nữa. Phải mất một thời gian mới nhận ra được.”





“Còn Nasuada.”





Murtagh nhăn mày, quay đi nhìn về phía biển tầm ma. Eragon bước tới bên cạnh, “Cậu có nhớ lần cuối chúng ta ở con sông này không?”





“Khó quên đấy. Em vẫn nghe thấy tiếng kêu của lũ ngựa.”





“Cậu, Saphira, Arya, và ta, cùng nhau, không gì có thể ngăn cản …”





Eragon hồi tưởng lại, cảm nhận Saphira và Thorn đang nói chuyện. Nó biết Saphira sẽ nói lại với nó sau.





“Anh sẽ làm gì?” nó hỏi Murtagh.





“Ngồi nghĩ thôi. Có lẽ anh sẽ xây một lâu đài. Anh có đủ thời gian.”





“Anh không phải đi đâu. Em biết sẽ rất … khó, nhưng anh còn có gia đình ở đây: em và cả Roản nữa. Anh ấy cũng là anh họ của anh như em vậy, mà anh thì còn chưa bao giờ gặp anh ấy… Anh cũng thuộc về Carvahall và Thung lũng Palancar nhiều như Urû’baen vậy, có khi còn hơn ấy.”





Murtag lắc đầu, tiếp tục nhìn chăm chú lên những cây tầm mà. “Không được đâu. Thorn và anh cần ở một mình; bọn anh cần thời gian chữa lành. Nếu ở lại, bọn anh sẽ quá bận rộn để nghĩ về bản thân.”





“Có người bên cạnh, rồi luôn tay luôn chân thường là liều thuốc tuyệt nhất cho tâm hồn bị tổn thương mà.”





“Không phải những gì Galbatorix đã gây ra với bọn anh… Hơn nữa, sẽ rất đau đớn khi ở bên Nasuada lúc này, cho cả anh và cô ấy. Không được, bọn anh phải đi.”





“Anh nghĩ sẽ đi bao lâu?”





“Cho đến khi thế giới này không còn hận thù, bọn anh không còn muốn giết chóc nữa.”





Eragon nín lặng. Họ sánh vai nhìn về phia dòng sông phía dưới hàng liễu thấp. Tiếng gió Tây lùa qua hàng tầm ma càng lúc càng lớn.





Rồi Eragon nói, “Khi các anh không còn muốn ở một mình nữa, cứ đến tìm bọn em. Các anh sẽ luôn được chào đón trong ngôi nhà của bọn em, dù nó có là gì đi nữa.”





“Chắc rồi. Anh hứa đấy.” Eragon ngạc nhiên nhin anh mắt Murtagh sáng lên. Nhưng chỉ giây lát sau nó biến mất. “Cậu biết không,” Murtagh nói, “anh không bao giờ cho rằng cậu có thể làm điều đó … nhưng anh vui vì cậu làm được.”





“Em đã may mắn. Mà cũng sẽ không thể nếu không có anh giúp.”





“Kể cả thế … Cậu có thấy những Eldunarí trong mấy cái túi không?”





Eragon gật nhẹ.





“Tốt lắm.”





Chúng ta có nên nói cho họ không? Eragon hỏi Saphira, hy vọng cô nàng đồng ý.





Saphira nghĩ một hồi. Được, nhưng đừng nói ở đâu. Anh cứ nói với anh ta đi, em sẽ bảo Thorn.





Theo ý em vậy. Eragon nói với Murtagh. “Có một chuyện anh nên biết.”





Murtagh liếc qua nó.





“Quả trứng Galbatorix giữ - nó không phải quả duy nhất ở Alagaësia. Có nhiều hơn nữa, giấu ở cùng nơi bọn em tìm thấy các Eldunarí cùng đi theo.”





Murtagh quay sang, mặt lộ vẻ không tin. Cùng lúc, Thorn uốn cổ, phát ra một tiếng gầm vui sướng làm lũ nhạn bên những nhành cây bên cạnh hoảng sợ.





“Có bao nhiêu?”





“Hàng trăm.”





Trong khoảnh khắc, Murtagh không thốt nên lời. Rồi: “Cậu sẽ làm gì với chúng?”





“Em à? Em nghĩ Saphira và các Eldunarí sẽ có ý kiến trong chuyện này, nhưng có lẽ sẽ tìm nơi nào đó an toàn chờ những quả trứng nở, rồi bắt đầu xây dựng lại đoàn Kỵ Sỹ.”





“Cậu và Saphira sẽ dạy chúng chứ?”





Eragon vươn vai. “Em chắc các thần tiên sẽ giúp. Anh nữa, nếu anh nhập bọn em.”





Murtagh nghiêng đầu thở dài. “Những con rồng sẽ trở lại, và các Kỵ Sĩ nữa.” Anh cười nhẹ. “Thế giới này sẽ thay đổi.”





“Nó đã thay đổi rồi.”





“Uhm. Vậy cậu và Saphira sẽ là lãnh đạo mới của đoàn Kỵ Sỹ, trong khi anh và Thorn sống nơi thâm sơn cùng cốc.” Eragon cố nói gì đó khích lệ Murtagh, nhưng anh nhìn nó. “Không, cứ như thế là hơn. Cậu và Saphira sẽ dạy tốt hơn anh nhiều.”





“Em không chắc đâu.”





“Mmh… Hứa với anh một chuyện.”





“Gì vậy?”





“Khi cậu dạy chúng – hãy dạy chúng đừng sợ hãi. Một ít thì cũng tốt, nhưng khi sợ hãi thường trực, nó sẽ xâu xé bản ngã của cậu, khiến cậu khó có thể làm những việc cậu biết là đúng đắn.”





“Em sẽ cố.”





Rồi Eragon thấy Saphira và Thorn không nói gì nữa. Con rồng đỏ đi vòng quanh cô nàng đến khi cúi xuống nhìn Eragon. Thorn nói giọng ấm áp nghe như một điệu nhạc, Cảm ơn vì đã không giết Kỵ Sỹ của ta, Eragon-Em-trai-Murtagh.





“Ừ, cảm ơn,” Murtagh nói khô không khốc.





“Em mừng vì không phải làm thế,” Eragon nhìn con mắt đỏ rực lấp lảnh của Thorn.





Con rồng khịt mũi, cúi xuống chạm nhẹ đầu Eragon, vuốt ve vảy trên mũ nó. Cầu cho nắng và gió sẽ phù hộ cậu.





“Và của các vị nữa.”





Cảm giác giận giữ, đau thương, mâu thuẫn tràn qua Eragon khi tâm thức Glaedr phủ lấy nó, Murtagh và Thorn có vẻ căng thẳng, chuẩn bị một cuộc đấu. Eragon quên khuấy mất Glaedr cùng các Eldunarí đang ẩn túi không gian vô hình phía sau nó – đã ở đây và nghe cuộc nói chuyện.





Ta có phải cảm ơn vì điều tương tự không, từng lời Glaedr cay đắng như vỏ sồi non. Cậu giết thân thể ta, và cậu giết Kỵ Sỹ của ta. Câu nói thẳng thừng, đơn giản nhưng bởi vậy càng đáng sợ hơn.





Murtagh nói gì đó bằng ý nghĩ, nhưng Eragon không biết đó là gì, vì nó trực tiếp hướng tới Glaedr, và Eragon thì chỉ có thể nghe thấy ý nghĩ của Glaedr mà thôi.





Không, ta không thể, con rồng vàng nói. Tuy nhiên, ta hiểu Galbatorix đã khiến cậu tới đó, là hắn đã vung tay gươm của cậu, Murtagh… ta không thể tha thứ, nhưng Galbatorix đã chết, và lòng báo thù của ta cũng chết theo. Con đường của các cậu đã luôn khó khăn từ khi sinh ra. Nhưng hôm nay các cậu đã cho thấy những bất hạnh không thể đánh gục mình. Các cậu đã chống lại Galbatorix khi điều đó chỉ mang lại đau đớn, và nhờ đó cho phép Eragon giết hắn. Hôm nay cậu và Thorn đã chứng tỏ bản thân xứng đáng với Shur’tugal, dù các cậu chưa bao giờ có được sự hướng dẫn đúng đắn. ĐIều đó thật … đáng ngưỡng mộ.





Murtagh cúi nhẹ đầu, Thorn nói, Xin cảm ơn người, Ebrithil, Eragon nghe được. Lời kính cẩn của Thorn ebrithil có vẻ khiến Murtagh giật mình, quay lại nhìn con rồng há miệng như thể định nói gì đó.





Rồi Umaroth cất tiếng. Chúng ta biết nhiều khó khăn các cậu phải đối mặt, Thorn và Murtagh à, vì chúng ta đã quan sát các cậu từ xa, kể cả khi đang dõi theo Eragon và Saphira. Có nhiều thứ chúng ta sẽ dạy các cậu khi đến lúc sẵn sàng, nhưng giờ đây, ta sẽ nói điều này: trong cuộc lãng du, tránh xa nấm mồ Anghelm, vị vua duy nhất của loài Urgal,Kulkarvek yên nghỉ. Tránh xa tàn tích của Vroengard và củaEl-harím. Cẩn thận những nơi sâu thẳm, và đừng đặt chân lên những nền đất đen giòn vỡ, nơi không khí đượm mùi lưu huỳnh, vì đó là nơi ma quỷ ẩn nấp. Cứ làm thế, trừ khi thật bất hạnh, các cậu sẽ không gặp phải nguy hiểm vượt quá khả năng của mình.





Murtagh và Thorn cảm ơn Umaroth, rồi Murtagh liếc nhìn về phía Urû’baen, “Bọn anh nên đi thôi.” Anh lại nhìn Eragon. “Giờ cậu có nhớ tên của cổ ngữ không, hay phép thuật của Galbatorix vẫn bao phủ tâm trí cậu?”





“Em có thể gần như nhớ được, nhưng …” Eragon lắc đầu chán nản.





Rồi Murtagh nói tên của các tên hai lần: đầu tiên để gạt bỏ bùa chú lãng quên Galbatorix đặt lên Eragon, rồi một lần nữa để Eragon và Saphir có thể nhớ cái tên. “Anh sẽ không nói cho ai khác nữa,” anh nói,” Nếu mỗi pháp sư đều biết tên cổ ngữ, ngôn ngữ này sẽ còn tệ hơn cả khi nó vô hại.”





Eragon gật đầu đồng ý.





Rồi Murtagh nắm tay Eragon, nó cũng nắm chặt cánh tay anh. Họ đứng nguyên trong giây lát, nhìn nhau chăm chú.





“Bảo trọng,” Eragon nói.





“Cậu nữa… Em trai.”





Eragon chần chừ, rồi gật đầu. “Anh trai.”





Murtagh kiểm tra đai trên yên Thorn rồi leo lên mình con rồng. Khi Thorn dang cánh chuẩn bị nhấc mình, Murtagh kêu lớn, “Nhớ đảm bảo Nasuada được bảo vệ an toàn. Galbatorix có rất nhiều tay sai, nhiều hơn lão nói với anh nhiều, và không phải tất cả bọn chúng đều bị rằng buộc với lão chỉ bằng phép thuật đâu. Chúng sẽ tìm cách trả thù cho chủ nhân đấy. Phải luôn luôn đề phòng. Có những kẻ còn nguy hiểm hơn Ra’zac nhiều!”





Rồi Murtagh giơ tay tạm biệt. Eragon cũng vậy, rồi Thorn nhảy ba bước khỏi biển tầm ma rồi phi lên trời, để lại dấu chân bự chảng trên nền đất mềm.





Con rồng đỏ lấp lánh lượn một vòng, hai vong, ba vòng, rồi quay mình về phương bắc, vỗ cánh chầm chậm, vững chãi.





Eragon đi về phía Saphira ở dưới chân đồi, cùng quan sát Thorn và Murtagh nhỏ dần như ngôi sao mờ trôi về đường chân trời.





Cùng cảm thấy nỗi buồn dâng lên trong lòng, Eragon leo lên mình Saphira, khởi hành từ ngọn đồi nhỏ về Urû’baen.



-----------------------------------------





Người kế thừa Đế chế





Eragon chậm rãi leo lên từng bậc thang mòn vẹt trong tòa tháp màu lục. Trời đã về chiều, từ khung cửa sổ hình vòm, nó có thể thấy những dãy nhà đổ bóng xuống mặt trong thành Urû’baen, cũng như xa xa cánh đồng mịt mù, và sau đó bóng đen ngọn đồi nhô cao cuối đường chân trời.





Tòa tháp rất cao khiến Eragon mệt mỏi. Nó ước gì có thể để Saphira chở lên đỉnh. Sau một ngày dài nó chẳng thiết tha gì hơn là được ngồi bên Saphira uống một cốc trà nóng ngắm hoàng hôn. Nhưng như thường lệ luôn có việc phải làm.





Nó mới chỉ thấy Saphira hai lần từ khi quay lại thành phố sau cuộc chia tay với Murtagh và Thorn. Cô nàng dành phần lớn buổi chiều đó bắt hoặc giết đám binh lính tàn dư, rồi gom về doanh trại những người bỏ nhà cửa chạy khắp vùng quê chờ xem phiến đá có đổ xuống hay không.





May mà không, các tiên nhân giải thích với Eragon rằng bởi những thần chú được ếm vào trong đá trong hàng bao năm trời – khi Urû’baen còn có tên là Ilirea – rồi bởi mái nhô gần như thẳng đứng khiến nó có thể chịu chấn động từ vụ nổ mà không suy suyển gì đáng kể.





Tự ngọn đồi đã chịu đựng ảnh hưởng của vụ nổ, dù một lượng lớn đã thoát ra ngoài qua cổng tòa thành, hầu như tất cả mọi người trong thành Urû’baen đều phải được chữa trị chằng phép thuật, hoặc họ sẽ sớm đổ bệnh chết. Đến giờ rất nhiều người đã bị ốm. Cùng các tiên nhân, Eragon cật lực cứu được càng nhiều người càng tốt; năng lượng từ các Eldunarí giúp nó cứu phần lớn quân Varden và rất nhiều người dân trong thành phố.





Trong thời gian này, các tiên nhân và người lùn lập thành hàng rào chắn trước tòa thành để ngăn chặn dịch bệnh rò rỉ thêm. Trước đó, họ tìm kiếm những người sống sót: binh lính, người hầu, và hàng trăm tù nhân nằm trong hầm ngục bên dưới. Một kho báu khổng lồ nằm trong tòa thành, bao gồm thư viện đồ sộ của Galbatorix, được thu lại nhanh chóng sau đó. Đó không phải là một công việc dễ dàng gì. Tường của nhiều căn phòng đã sập hoàn toàn, vô số nhưng căn phòng khác tuy vẫn đứng được, nhưng hư hại đến mức không ai dám lại gần. Thêm nữa, cần pháp thuật để chặn những chất độc đã thấm vào trong không khí, đá và những những vật thể khắp các hang hốc tòa thành. Rồi thêm những bùa chú cần để gột sạch những thứ họ mang ra ngoài.





Một khi tòa thành đã bị phong tỏa, các tiên nhân sẽ thanh tẩy thành phố và những vùng phụ cận khỏi tàn dư nguy hại vẫn còn đọng lại, để người ta có thể tiếp tục an toàn sống ở những nơi đó. Eragon biết nó phải giúp làm những chuyện đó nữa.





Trước khi chữa trị và đặt lưới phòng ngự bảo vệ an toàn mọi người xunh quanh Urû’baen, nó mất cả tiếng sử dụng tên thật của cổ ngữ để lột bỏ vô số bùa chú Galbatorix trói buộc trên những ngôi nhà và người dân trong thành phố. Một số bùa ếm có vẻ vô hại, có khi còn có ích – như một bùa có vẻ chỉ để giữ bản lề cánh cửa khỏi long, rút năng lượng từ một tinh thể cỡ quả trứng đặt dưới cửa – nhưng Eragon không dám bỏ sót bất kì phép thuật nào của nhà vua, không kể chúng vô hại thế nào đi nữa. Đặc biệt là những bùa ếm lên những kẽ dưới quyền Galbatorix. Trong số họ, phổ biến nhất là lời thề trung thành, nhưng cũng vài người có lưới phòng hộ, bùa ếm trao sức mạnh phi thường, và còn những thần chú bí ẩn khác nữa.





Khi Eragon giải phóng các quý tộc và thường dân khỏi ràng buộc, thi thoảng nó cảm thấy thống khổ, như thể đang tước khỏi họ thứ gì đó quý giá.





Khủng hoảng xảy ra khi nó gỡ bỏ không chế Galbatorix ếm lên các Eldunarí bị giam cầm. Lũ rồng ngay lập tức bị kích động, tấn công trí óc của mọi người trong thành phố không phân biệt bạn thù. Lúc đó không khí khiếp đảm bao lan tỏa khắp Urû’baen, khiến tất cả mọi người, kể cả các tiên nhân cũng phải thu mình, tái nhợt vì sợ hãi.





Rồi Blödhgarm và mười pháp sư lập thành một đoàn bảo vộ đưa những hộp kim loại chứa Eldunarí lên một đôi ngựa mang xa khỏi Urû’baen nơi ý thức của lũ rồng không còn gây hiệu ứng ghê người nữa. Glaedr cùng vài Eldunarí từ Vroengard khăng khăng được hộ tống những con rồng điên. Đó là lần thứ hai Eragon thấy Saphira từ khi trở về, khi nó gỡ bỏ bùa chú dấu Umaroth và những con rồng khác, để năm Eldunarí tách ra đưa cho Blödhgarm bảo quản. Glaedr cùng năm con rồng là những luồn tâm trí duy nhất có thể xoa dịu, giao tiếp với lúc rồng bị Galbatorix hành hạ quá lâu. Eragon không chắc lắm, nhưng nó hy vọng họ nói phải.





Khi các tiên nhân và Eldunarí lên đường rời khỏi thành phố, Arya liên lạc với nó, phát đi một câu hỏi từ bên ngoài cánh cổng đổ nát, nơi cô đang họp bàn với những vị tướng trong quân đội tiên nhân. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi tiếp xúc, nó cảm nhận được sự u buồn vì sự hy sinh của Islanzadí, cũng như niềm hối hận và giận dữ cuộn chảy bên dưới nỗi đau thương, nó thấy cảm xúc đe dọa lấn át lí trí, cùng cuộc đấu tranh chật vật kiềm chế nó trong cô. Nó cố an ủi, nhưng có vẻ không thấm tháp gì so với mất mát cô phải trải qua.





Từ khi Murtagh ra đi đến giờ, cảm giác trống rỗng lúc nào cũng bao lấy Eragon. Nó đáng ra phải cảm thấy vui mừng vì đã giết được Galbatorix, và dù nó cũng mừng – và nó đã vui mừng – khi nhà vua không còn nữa, giờ đây nó không biết nó phải làm gì. Nó đã đạt được mục đích. Nó đã leo lên đỉnh núi dường như không thể leo được. Giờ nó không có mục đích nào dẫn đạo, thúc đẩy nữa, nó cảm thấy thiếu thốn. Nó và Saphira sẽ làm gì trong đời bây giờ? Điều gì còn có thể có ý nghĩa? Nó biết theo thời gian, nó và Saphira sẽ tạo dựng nên thế hệ Kỵ Sỹ và rồng tiếp theo, nhưng viễn cảnh ấy quá xa vời để có thể là sự thực.





Nó cảm thấy nao nao ức chế khi quay lại những câu hỏi ấy. Nó cố hướng suy nghĩ đi, nhưng chúng cứ chờn vờn quanh tâm trí, rồi cảm giác trống rống lại dai dẳng.





Có lẽ Murtagh và Thorn đã đúng.





Cầu thang tòa tháp dường như dài vô tận. Nó bước lên, vòng rồi vòng, cho đến khi người dưới phố chỉ nhỏ như kiến, bắp chân và mắt cá của nó bỏng rát vì lặp đi lặp lại một chuyển động. Nó thấy một tổ chim nông choẹt xây dưới cánh cửa rổ hẹp, bên dưới, nó thấy vài bộ xương nhỏ xíu: những con chim đại bàng hoặc ưng non rời tổ.





Cuối cùng nó lên tới đỉnh cầu thang xoắn – một cánh cửa vòm lớn xám xịt cũ kĩ – nó khựng lại thu vén suy nghĩ và cố thở chậm. Rồi bước vài bậc thang cuối cùng, nhấc then cửa lên, đẩy tới bước vào một căn phòng rộng trên đỉnh tháp canh của tiên nhân.





Có sáu người đang chờ đợi nó, cùng Saphira: Arya và vị tiên nhân tóc bạc tướng Däthedr, vua Orrin, Nasuada, vua Orik, và vua mèo ma, Grimrr Nửa vuốt. Họ đang đứng – trừ Orrin đang ngồi – thành một vòng tròn rộng rãi, Saphira nằm ngược phía cầu thang, trước cánh cửa sổ hướng về phía Nam cho phép cô nàng hạ cánh trong tòa tháp. Ánh sáng từ mặt trời đang lặn chiếu ngang qua căn phòng, soi rọi vết chạm trổ của tiên nhân trên những bức tường và những viên đá màu rối rắm trên sàn nhà nứt nẻ.





Trừ Saphira và Grimrr, ai cũng có vẻ tỏ ra căng thẳng và không thoải mái. Từ những vệt hằn sâu trên đôi mắt và chiếc cổ ngăm ngăm của Arya, Eragon có thể nhận ra nỗi đau buồn lẫn rối ren trong lòng cô. Nó ước có thể làm gì đó để xoa dịu nỗi đau ấy. Orrin ngồi trên một chiếc ghế sâu lòng, tay phải cầm cốc rượu tay trái đặt lên bộ ngực băng bó. Ông di chuyển cực kì cẩn thận, như thể sợ tự làm mình đau, nhưng đôi mắt sáng người và trong vắt, nên Eragon đoán vết thương chứ không phải rượu làm ông thận trọng như vậy. Däthedr đang vỗ ngón tay vào chuôi kiếm, trong khi Ork đứng đặt một tay lên cán cây Volund – cây búa dựng thẳng trướng người ông – nhìn chăm chú vào bộ râu. Nasuada khoanh tay như thể bị lạnh. Bên phải cô, Grimrrr Nửa vuốt nhìn trân trối lên trời, có vẻ lơ đãng tất cả mọi người.





Khi Eragon mở cửa, tất cả đều nhìn nó, Orik cười tươi. “Eragon!” ông la lên, rồi vác cây Volund lên vai, bước tới vòng tay ôm lấy nó. “Anh biết em có thể giết lão mà! Làm tốt lắm! Đêm nay ta sẽ ăn mừng, nhá! Để những ngọn lửa cháy rực, giọng nói chúng ta vang lên tới khi thiên đường cũng phải vọng lại tiếng vang của bữa tiệc đêm nay.”





Eragon mỉm cười gật đàu, Orik vỗ vỗ cánh tay nó, rồi trở về vị trí còn Eragon đi xuyên căn phòng tới đứng cạnh Saphira.





Anh nhỏ, cô nàng quẹt miệng vào vai nó.





Nó bước tới chạm vào bên má đầy vảy của cô nàng, tận hưởng cảm giác dễ chịu khi được gần Saphira. Rồi nó phóng tâm thức tới những Eldunarí cô nàng mang theo. Cũng như nó, họ đều mệt mỏi vì những việc trong nhgay, nó biết họ muốn quan sát nghe ngóng hơn là tham gia vào cuộc đàm luận sắp bắt đầu.





Các Eldunarí tỏ ý chào mừng nó, Umaroth nói, Eragon, rồi im lặng.





Trong phòng không ai có vẻ sẵn sàng mở lời. Từ thành phố phía dưới, Roran nghe thấy tiếng ngựa hí. Từ phía tòa thành vang lên tiếng khóa, tiếng đục vọng lại. Vua Orrin cựa mình không thoải mái trên ghế, nốc sạch cốc rược. Grimrr cào nhẹ cái tai nhọn, khịt mũi như thể đang kiểm tra không khí.





Cuối cùng, Däthedr phá vỡ im lặng. “Chúng ta có một quyết định cần phải ra,” ông nói.





“Cái đó ai cũng biết rồi, tiên nhân,” Orik ồm ồm.





“Cứ để ông ta nói,” Orrin ra hiệu bằng chiếc cốc nạm ngọc. “Ta muốn nghe suy nghĩ của ông ta xem ông ta muốn chúng ta tiếp tục thế nào.” Khuôn mặt ông nở nụ cười chua chát, hơi chế giễu. Ông nghiêng đầu về phía Däthedr như thể cho phép vị tiên nhân được nói.





Däthedr gật nhẹ đầu đáp trả. Dù có bị xúc phạm hay không, vị tiên nhân cũng không hề phản ứng lối nói của nhà vua. “Không ai che giấu rằng Galbatorix đã chết. Kể cả lúc này, tin tức về chiến lắng của chúng ta vẫn đang lan tỏa khắp các nơi. Đến cuối tuần, phần lớn Alagaësia sẽ biết về cái chết của Galbatorix.”





“Như chuyện phải thế,” Nasuada trầm ngâm. Cô đã thay chiếc áo choàng gã coi tù mặc cho bằng một bộ đồ đỏ đen, lộ rõ hơn sự sụt cân của cô trong những ngày bị bắt, vì bộ đồ trễ qua vai cô và lộ ra bờ eo tóp lại. Nhưng dù trông yếu ớt, có vẻ cô đã lấy lại phần nào sức khỏe. Khi Eragon và Saphira trở lại tòa thành, Nasuada đã gần như suy sụp, kiệt quệ cả về thể chất lẫn tinh thần. Khi Jörmundur trông thấy cô, ông đưa cô về doanh trại và để cô được cách ly đến hết ngày. Eragon đã không thể xin ý kiến cố cho đến khi gặp trong cuộc họp, nên nó không chắc ý kiến của cô về những chuyện họ đang bàn bạc. Nếu cần thiết, nó sẽ trực tiếp liên lạc bằng ý nghĩ, nhưng hy vọng có thể tránh được, nó không muốn xâm phạm sự riêng tư của cô, sau những gì cô đã trải qua.





“Như chuyện phải thế,” giọng Däthedr mạnh mẽ, rõ ràng, vang vọng lên trần nhà hình vòm cao vút. “Tuy nhiên, khi dân chúng biết Galbatorix đã mất, câu hỏi đầu tiên sẽ là ai nắm giữ vị trí của hắn.” Däthedr nhìn quanh. “Chúng ta phải cho họ câu trả lời trước khi bất ổn lan ra. Nữ hoàng của chúng tôi đã mất. Vua Orrin, ông bị thương. Lời đồn có chân đấy, tôi chắc chắn. Giờ quan trọng là phải dập tắt chúng trước khi gây hại. Chậm trễ là thảm họa. Chúng ta không thể để mỗi lãnh chúa với một nhúm quân tin hắn có thể trở thành quân vương trong vương quốc nhỏ xíu của hắn được. Nếu chuyện đó xảy ra, Đế chế sẽ tan rã thành hàng trăm vương quốc nhỏ. Không ai muốn chuyện đó xảy ra hết. Một người kế nhiệm phải được chọn ra – chọn ra và lên ngôi, dù có khó khăn đến chừng nào đi nữa.





Grimrr nhìn thẳng, “Không thể dẫn đầu bầy đàn mà yếu đuối được.”





Vua Orrin cười nhạt. “Thế các người muốn đóng vai trò gì nào, Arya, Tướng Däthedr? Hay ông, vua Orik? Hay ông, vua Nửa Vuốt? Chúng tôi rất vui mừng vì tình bạn và sự giúp đỡ của các người, nhưng đây là chuyện để con người quyết định, không phải các người. Chúng tôi tự cai quản, và sẽ không để người khác chọn vua cho mình.”





Eragon ngạc nhiên thấy Nasuada xiết nhẹ đôi tay đang khoanh lại. “Tôi đồng ý. Đây là chuyện chúng tôi phải tự sắp xếp.” Cô nhìn quanh căn phòng tới Arya và Däthedr. “Dĩ nhiên các bạn hiểu. Các bạn sẽ không cho phép chúng tôi bảo nên chọn ai trở thành vua hoặc nữ hoàng mới.” Cô nhìn Orik. “Và các bộ tộc cũng sẽ không để chúng tôi lựa chọn anh làm người kế tục Hrothgar đâu.”





“Không,” Orik nói. “Họ sẽ không chấp nhận.”





“Quyết định thì, dĩ nhiên, là của các bạn,” Däthedr nói. “Chúng tôi không muốn chỉ dạy các bạn nên hay không nên chuyện gì cả. Tuy nhiên, là đồng minh và bạn bè các bạn, chúng tôi cũng có quyền đưa ra lời khuyên cho vấn đề lớn lao như thế này, đặc biệt khi nó sẽ ảnh hưởng tới tất cả chúng ta chứ? Dù các bạn lựa chọn thế nào thì cũng sẽ tác động sâu rộng, và các bạn phải thật thận trọng thấu hiểu những tác động ấy trước khi đưa ra lựa chọn.”





Eragon hiểu khá rõ. Đó là một lời đe dọa. Däthedr đang nói rằng nếu họ đưa ra quyết định mà các tiên nhân không ưng ý, rồi sẽ có hậu quả không tốt đẹp. Eragon cố kiềm chế không quắc mắt. Lập trường của tiên nhân có thể đoán trước được. Rủi ro khá lớn, sai lầm lúc này có thể để lại hâu quả hàng thập kỉ sau.





“Cái đó … có vẻ hợp lý,” Nasuada liếc nhìn vua Orrin.





Orrin nhìn chằm chằm chiếc cốc trong tay vừa xoay nhẹ nó, làm chất lỏng bên trong sóng sánh. “Chỉ là làm sao các vị cho chúng tôi lời khuyên để chọn lựa vậy, Tướng Däthedr? Nói xem, tôi tò mò lắm.”





Vị tiên nhân khựng lại. Trong ánh chiều tà ấm áp, mái tóc bạn của ông có vẻ phát ra vòng hào quang quanh đầu. “Dù ai đeo vương miện cũng phải có kĩ năng và kinh nhiệm cần thiết để cai trị hiệu quả ngay từ đầu. Không có thời gian để hướng dẫn ai đó cách lãnh đạo, cũng như chúng ta không thể chấp nhận sai lầm từ một kẻ học việc. Thêm nữa, người đó cần phải có đạo đức tốt để tiếp nhận vị trí cao cả, phải là lựa chọn chấp nhận được từ phía các chiến binh của Varden, và trong chừng mực nào đó, người dân của cả Đế chế; và nếu có thể, người đó phải khiến chúng tôi và các đồng minh khác cảm thấy ổn thỏa.”





“Ông giới hạn lựa chọn của chúng tôi khá nhiều với mớ yêu cầu vừa rồi đấy,” vua Orrin nói.





“Chúng chỉ đơn là yêu cầu của một nhà chính trị tốt. Hay ngài có cách nhìn khác?”





“Tôi thấy vài lựa chọn ông bỏ qua hoặc loại trừ, có lẽ ông thấy chúng không được vừa ý lắm. Nhưng không sao. Tiếp tục đi.”





Đôi mắt Däthedr nheo lại, nhưng giọng nói vẫn trôi chảy như không. “Lựa chọn hiển nhiên nhất – và là người mà dân Đế chế chắc chắn trông mong - là người đã thực sự giết Galbatorix. Đó là, Eragon.”





Không khí trong căn phòng trở nên giòn tan như thể làm bởi thủy tinh.





Mọi người đều nhìn về phía Eragon, kể cả Saphira và ma mèo, nó cũng thấy Umarroth và các Eldunarí đang quan sát kĩ lưỡng. Nó nhìn lại những người khác, không sợ hãi lẫn giận dữ bởi cái nhìn chằm chằm của họ. Nó dò xét khuôn mặt Nasuada tìm gợi ý về phản ứng của cô, nhưng không có gì ngoài biểu tình nghiêm túc, nó không nhận ra cô đang nghĩ hay cảm thây gì hết.





Nó khó chịu, nhận ra Däthedr nói chính xác: nó có thể trở thành vua.





Trong khoảng khắc, Eragon cho phép nó tận hưởng khả năng ấy. Sẽ không ai có thể cản nó nắm ngai vàng, không ai trừ Elva hay có lẽ Murtagh – nhưng giờ nó đã biết cách chống lại khả năng của Elva, còn Murtagh cũng không còn ở đây để thách thức nó. Nó có thể cảm thấy từ tâm trí Saphira sẽ không chống lại nó dù chọn lựa thế nào. Và dù không đọc được biểu tình của Nasuada, nó cũng có một cảm giác kì lạ là lần đầu tiên, cô sẵn sàng bước sang một bên để nó nắm quyền lãnh đạo.





Anh muốn điều gì? Sasphira hỏi.





Eragon suy nghĩ về chuyện đó. Anh muốn … có ích. Nhưng quyền lực và chi phối người khác – những thứ Galbatorix tìm kiếm – chúng không hấp dẫn anh lắm. Dù sao, chúng ta cũng có những trách nhiệm khác.





Chuyển sự chú ý về những người đang quan sát mình, nó nói, “Không, như thế không đúng đắn.”





Vua Orrin càu nhàu, uống một hớp rượu, trong khí Aray, Däthedr và Nasuada có vẻ giãn ra, tuy nhiên chỉ một chút nếu có. Cũng như họ, các Eldunarí có vẻ mừng vì quyết định của nó, dù họ không nhận xét gì về lời nó nói.





“Tôi mừng vì cậu nói thế,” Däthedr nói. “Không nghi ngờ gì cậu sẽ là một người cai trị tốt, nhưng tôi không nghĩ sẽ tốt cho giống loài của cậu, cũng như những loài khác trên đất Alagaësia khi một Kỵ Sỹ Rồng khác nắm ngôi vị.”





Rồi Arya ra hiệu cho Däthedr. Vị tiên nhân tóc bạc lui lại một chút, Arya nói, “Roran là một lựa chọn hiển nhiên khác.”





“Roran!” Eragon hoài nghi.





Arya nhìn nó bằng ánh mắt trang trọng – và hơn nữa – sáng rỡ và sắc nhọn, như viên ngọc lục bảo vậy. “Vì chiến công của anh ta mà Varden chiếm được Urû’baen. Anh ta là anh hùng của Aroughs và rất nhiều trận chiến khác. Quân Varden và toàn Đế chế sẽ đi theo anh mà không do dự.”





“Nhưng anh ta thô lỗ, quá tự tin, và không có kinh nghiệm cần thiết,” Orrin nói, rồi liếc sang Eragon nét mặt tội lỗi. “Tuy nhiên anh ta là một chiến binh tuyệt vời.”





Đôi mắt Arya nháy lên, như con cú. “Tôi tin ngài sẽ thấy sự thô lô ấy còn tùy vào người anh ta đối mặt … thưa Đức Vua. Tuy nhiên, ngài nói chính xác; Roran thiếu kinh nghiệm cần thiết. Và còn lại hai lựa chọn: cô, Nasuada; và ngài, vua Orrin.





Vua Orrin cựa mình trên chiến ghế sâu lòng, lông mày nhăn tít lại, trong khi biểu tình Nasuada vẫn không thay đổi.





“Tôi cho rằng,” Orrin nói với Nasuada, “rằng công nương muốn đòi quyền lợi hả.”





Cô nhấc cằm. “Tôi muốn.” Giọng nói cô vẫn bình tĩnh và êm ái.





“Thế thì chúng ta đi vào ngõ cụt rồi, vì tôi cũng thế. Và tôi sẽ không lui bước đâu.” Orrin xoay xoay gốc chiếc cốc giữa hai ngón tay. “Cách duy nhất tôi thấy có thể giải quyết chuyện này mà không đổ máu là công nương rút lại lời đòi hỏi. Nếu vẫn tiếp tục theo đuổi, cuối cùng công nương sẽ phá hủy tất cả chúng gì đã giành được hôm nay, mà công nương sẽ không thể trách bất cứ ai trừ chính mình cho tình cảnh hỗn loạn đó.”





“Ngài sẽ đối đầu với các đồng minh của chính mình chẳng để làm gì ngoài đẩy Nasuada khỏi ngai vàng ư?” Arya hỏi. Vua Orrin có thể không nhận ra, nhưng Eragon thấy thái độ lạnh nhạt khó chịu ấy có nghĩ cô sẵn sàng chém giết ngay trong lúc đó.





“Không,” Orrin đáp. “Ta sẽ đối đầu với Varden để giành ngai vàng. Có khác nhau nhiều đấy.”





“Vì sao?” Nasuada hỏi.





“Vì sao à?” câu hỏi có vẻ làm Orrin cáu tiết. Nhân dân tôi đã che chở, cho ăn và trang bị cho Varden. Họ đã chiến đấu và ngã xuống bên những chiến binh của công nương, và là một đất nước, chúng tôi mạo hiểm hơn xa với Varden. Varden không có quê hương; nếu Galbatorix đánh bại Eragon và lũ rồng, công nương cho thể chạy trốn, ẩn nập. Nhưng chúng tôi không có nơi nào để về ngoài Surda. Galbatorix có thể đè bẹp chúng tôi như kiến cỏ, rồi sẽ tàn sát khắp vùng. Chúng tôi đặt cược mọi thứ - gia đình, nhà cửa, tài sản, tự do của mình – để cuối cùng, sau mọi hy sinh nỗ lực, công nương thực sự tin rằng chính tôi sẽ thỏa mãn trở về đồng ruộng quê nhà mà không có phần thưởng nào ngoài cái vỗ đầu tán thưởng và lời cảm tạ của cô sao? Hừm, lẽ ra ta phải rút sớm mới đúng. Chúng tôi đã tưới đẫm mặt đất từ Cánh Đồng Cháy tới đây bằng máu của mình, giờ là lúc đòi quyền đền bù.” Ông nắm chặt tay. “Giờ chúng tôi chỉ được hưởng rác rưởi thôi sao.”





Những lời của Orrin không làm Nasuada bối rối, trái lại cô có vẻ thấu hiểu, thậm chí đồng cảm.





Rõ là cô ấy sẽ không cho lão chết toi sủa om sòm ấy cái lão muốn, Saphira nói.





Cứ chờ xem đã, Eragon nói. Cô ấy chưa bao giờ làm chúng ta lạc hướng cả.





Arya nói, “tôi hy vọng hai vị có thể đi đến một thỏa thuận hòa giải, và …”





“Dĩ nhiên,” vua Orrin nói. “Ta cũng hy vọng thế đấy.” Ông nhìn chằm chằm Nasuada. “Nhưng ta sợ rằng quyết tâm độc đoán của Nasuada sẽ không cho phép công nương nhận ra rằng cuối cùng cô ấy sẽ phải phục tùng.”





Arya tiếp tục: “- và như Däthedr nói, chúng tôi sẽ không can thiệp vào việc chọn lựa người cai trị của giống nòi các bạn.”





“Ta nhớ rõ,” vua Orrin cười tự mãn.





“Tuy nhiên,” Arya nói, “là đồng minh thề nguyện của Varden, tôi xin nhắc ngài là chúng tôi sẽ coi mọi công kích vào họ cũng như công kích chính mình, và chúng tôi sẽ phản ứng lại.”





Khuôn mặt Orrin nhăn lại, như thể cắn phải một quả chanh.





“Cũng tương tự với người lùn vậy,” giọng Ork như hai viên đá nghiền vào nhau dưới vang lên trong lòng đất.





Grimrr Nửa vuốt nâng bàn tay sứt sẹo lên trước mặt, xem xét từng chiếc móng-như-vuốt trên ba ngón tay còn sót lại. “Chúng tôi không quan tâm ai trở thành vua hay nữ hoàng, cho đến khi vẫn còn có một vị trí bên cạnh ngai vàng như đã hứa hẹn. Dù sao, Nasuada là người đã đàm phán với chúng tôi, và Nasuada cũng sẽ được chúng tôi tiếp tục ủng hộ cho đến khi không còn là người đầu đàn Varden nữa.”





“À há!” vua Orrin la lên, rướn mình tới, tay đặt trên đầu gối. “Nhưng công nương không phải là lãnh đạo Varden. Không phải nữa. Là Eragon!”





Mọi cặp mắt dồn về phía Eragon. Nó hơi nhăn nhó nói, “Tôi tưởng đã rõ ràng là tôi đã nhường thẩm quyền lại cho Nasuada ngay khi công nương tự do rồi chứ. Nếu không, giờ sẽ không còn ai nhầm lẫn nữa: Nasuada là lãnh đạo Varden, không phải tôi. Và tôi tin công nương nên là người thừa hưởng ngai vàng.”





“Cậu sẽ nói vậy mà,” Orrin trề môi chế nhạo.“Cậu đã thề trung thành với cô ấy. Dĩ nhiên cậu tin công nương nên thừa hưởng ngai vàng rồi. Cậu chả hơn gì so với một tên đầy tớ trung thành đứng lên bảo vệ chủ nhận, ý kiến của cậu không có trọng lượng hơn ý kiến của bất kì tên gia nhân nào của ta.”





“Không!” Eragon nói. “Thế thì ông sai rồi. Nếu tôi nghĩ ông hay bất kì ai khác sẽ là người cai trị tốt hơn, tôi sẽ nói thế! Đúng, tôi đã thề với Nasuada, nhưng điều đó không ngăn tôi nói sự thật như tôi thấy.”





“Có lẽ không, nhưng lòng trung thành của cậu với cô ấy vẫn làm lu mờ lý trí.”





“Kể cả như lòng trung thành với Surda làm lu mờ ông vậy,” Orik nói.





Vua Orrin quắc mắt. “Tại sao các người luôn chống lại ta?” Ông nhìn từ Eragon sang Arya tới Orik, “Tại sao thế, trong mọi tranh chấp, các người về phe với cô ta?” Rượu tràn ra từ mép cốc khi ông chỉ về phía Nasuada. “Tao sao cô ta có được sự tôn trọng của các người, mà không phải là ta và nhân dân Surda? Tại sao Nasuada và Varden lại luôn có đặc ân của các người, rồi trước cô ta, là Ajahad. Nếu cha ta còn sống …”





“Nếu cha ngài, vua Larkin, còn sống,” Arya nói, “ông ấy sẽ không ngồi đây rên rỉ những người khác nhìn ông như thế nào, mà sẽ làm gì đó có ích.”





“Bình tĩnh nào,” Nasuada can ngăn trước khi Orrin thốt lên phản pháo. “Không cần phải phỉ báng nhau ở đây… Orrin, băn khoăn của ngài rất hợp lý. Ngài nói đúng: dân Surda đã cống hiến rất nhiều. Tôi xin thừa nhận rằng nều không có sự giúp đỡ của các vị, chúng ta sẽ không bao giờ có khả năng tấn công Đế chế như đã làm, và các vị xứng đáng được đèn bù vì những gì đã mạo hiểm, bỏ ra, và mất mát trong cuộc chiến này.”





Vua Orrin gật đầu, tỏ ra thỏa mãn. “Vậy ra cô chịu nhường bước rồi à?





“Không,” Nasuada vẫn bình tĩnh. “Cái đó thì không. Nhưng tôi có một đề nghị thay thế, sẽ khiến toàn bộ chúng ta mãn nguyện.” Orrin có vẻ không thỏa mãn, nhưng không cắt ngang. “Đề nghị của tôi như sau: một phần rất lớn đất đai chúng ta đã chiếm được sẽ thuộc về Surda. Toàn bộ Arough, Feinster và Melian sẽ là của ngài, cũng như những hòn đạo ở phía Nam, cho tới khi chúng thuộc về chúng ta. Với sự sát nhập này diện tích Surda sẽ tăng lên gần gấp đôi.”





“Và đổi lại?” Vua Orrin nhướng mày.





“Đổi lại, ngài sẽ thề trung thành với ngai vàng ở Urû’baen này và bất kì ai giữ nó.”





Orrin xoắn miệng. “Công nương sẽ tự lập làm Hoàng Hậu của cả vùng đất này à.”





“Hai vương quốc – Đế chế và Surda – phải được hợp nhất để tránh sự thù địch trong tương lại. Surda sẽ thuộc quyền lãnh đọa của ngài tùy ý, chỉ trừ một điều: các pháp sư của cả hai đất nước phải tuân theo một luật lệ nhất định, chính là những điều chúng ta sẽ quyết định vào một ngày tới. Cùng với những luật lệ đó, Surda sẽ phải góp phần phòng thủ lãnh thổ chung. Nếu một trong hai bị tấn công, quốc gia còn lại sẽ trợ giúp bằng sức người và sức của.”





Vua Orrin đặt cốc rượu lên vạt áo, nhìn chăm chú xuống nó. “Tôi xin hỏi lại: vì sao là cô chứ không phải tôi ngồi trên ngai vàng? Dòng họ tôi đã trị vì Surda từ khi Công nương Marelda chiến thắng Trận Cithrí và xác lập nên cả Surda lẫn Dòng họ Langfeld, mà chúng tôi có thể truy nguồn gốc đến tận Thanebrand người Trao Nhẫn nữa. Chúng tôi đã chiến đấu với Đế chế suốt cả thế kỉ. vàng, vũ khí và giáp trụ của chúng tôi cho phép Varden tồn tại ngay từ trong trứng nước và duy trì các người suốt bao năm qua. Không có chúng tôi, các người không thể chống cự Galbatorix. Những người lùn không thể cho các người những gì cần thiết, cả tiên nhân nữa, họ ở quá xa. Nên tôi hỏi lại, tại sao phần thưởng phải thuộc về cô, Nasuada, mà không phải tôi?”





“Bởi,” Nasuada nói, “tôi tin mình có thể làm một nữ hoàng tốt. và bởi – với mọi điều tôi đã làm khi lãnh đạo Varden – tôi tin đó là điều tốt nhất dành cho nhân dân chúng ta và toàn thể Alagaësia.”





“Công nương có vẻ hơi đề cao mình quá thì phải.”





“Khiêm tốn nhầm chỗ không bao giờ đáng khâm phục hết, ít nhất đối với những người lãnh đạo. Có phải tôi đã thể hiện đầy đủ năng lực lãnh đạo hay không? Nếu không phải là tôi, quân Varden vẫn rúm ró trong lòng Farthen Dûr, chờ đợi dấu hiệu từ trên trời rơi xuống để xem bao giờ là thời điểm tốt tấn công Galbatorix. Chính tôi đã dẫn dắt Varden từ Farthen Dûr tới Surdar, chính tôi xây đắp họ thành một đội quân hùng mạnh. Với sự giúp đỡ của ngài, đúng vậy, nhưng tôi là người dẫn dắt họ, và tôi là người bảo đảm sự giúp đỡ của người lùn, tiên nhân và Urgal. Ngài có thể làm nhiều như thế không? Ai trị vì ở Urû’baen sẽ phải đối đãi với mọi giống loài trên mảnh đất này, không phải chỉ của mình. Một lần nữa, chuyện đó tôi đã làm được, và tôi có thể làm được.” Rồi Nasuada mềm mỏng, nhưng nét mặt vẫn mạnh mẽ như trước. “Orrin, vì sao ngài muốn ngai vàng? Nó có khiến ngài hạnh phúc hơn không?”





“Đây không pahri là vấn đề hạnh phúc,” ông gầm lên,





“Nhưng một phần thì có. Ngài có sẵn sàng quản lý toàn bộ Đế chế bên cạnh Surda không? Bất kì ai nắm ngai vàng sẽ phải thực hiện nhiệm vụ khổng lồ. Có cả một vương quốc phải tái thiết: đàm phán hiệp ước, chiếm các thành phố, khuất phục các quý tộc và pháp sư. Thậm chí phải mất cả đời để bắt đầu khôi phục những tổn thất Galbatorix gây ra. Đó là trách nhiệm ngài sẵn sàng gánh vác chứ? Với tôi có vẻ ngài thích cuộc sống như trước hơn.” Cô nhìn xuống cốc rượu, rồi chuyển ánh mắt về khuôn mặt Orrin. “Nếu ngài chấp nhận đề nghị của ta, ngài có thể trở về với Aberon và những thí nghiệm triết học tự nhiên của mình. Không phải ngài muốn vậy sao? Surda sẽ rộng hơn, giàu có hơn, mà ngài thì sẽ tự do theo đuổi sở thích của mình.”





“Chúng ta không thể luôn làm theo những gì mình thích. Đôi khi chúng ta phải làm điều đúng đắn, không phải điều mình muốn,” vua Orrin nói.





“Đúng, nhưng …”





“Bên cạnh đó, nếu ta làm vua tại Urû’baen này, ta vẫn có thể theo đuổi sở thích dễ dàng như ở Aberon vậy.” Nasuada cau mày, nhưng trước khi cô kịp nói, Orrin gạt đi: “Cô không hiểu …” ông cau có, uống thêm một hớp rượu.





Thế thì giải thích cho chúng ta đi, Saphira nói, ý nghĩ cô nàng sặc mùi thiếu kiên nhẫn.





Orrin khịt mũi, nốc cạn cốc rượu rồi quăng nó xuống cầu thang, cái cốc vàng lõm vào, bắn những viên ngọc khảm trên nó ra xoay mòng mòng trên sàn. “Ta không thể,” ông càu nhàu, “mà cũng không có ý thử.” Ông lướt mắt khắp căn phòng, “Không ai trong càng người hiểu đâu. Càng người quá buộc mình vào sự quan trọng của bản thân để thấu suốt. Làm sao có thể, khi các người chưa bao giờ trải nghiệm những gì ta đã từng?” Ông ngồi phịch xuống ghế, ánh mắt như than chì bên dưới cặp lông mày nhô cao. Ông nói với Nasuada, “Công nương vẫn quyết tâm à? Cô sẽ không rút lại đòi hỏi của mình phải không?”





Cô lắc đầu.





“Và nếu ta chọn tiếp tục theo đuổi đòi hỏi của ta thì sao?”





“Thì chúng ta sẽ có tranh chấp.”





“Rồi ba người sẽ về phe với cô ta hả?” Orrin quay sang Arya, Orik và Grimrr.





“Nếu Varden bị tấn cộng, chúng tôi sẽ chiến đấu cạnh họ,” Orik nói.





“Kể cả chúng tôi nữa,” Arya nói.





Vua Orrin cười nhe răng. “vậy các người không nghĩ là đang bảo chúng ta nên chọn ai làm người cai trị, đúng không?”





“Dĩ nhiên là không,” Orik nói, hàm răng trắng lấp lánh nguy hiểm trong bộ râu.





“Dĩ nhiên là không rồi.” Orik nhìn Nasuada. “Ta muốn Belatona, cùng với những thành phố công nương đã nhắc tới.”





Nasuada nghĩ một chốc. “Ngài đã sẵn có hai thành phố cảng là Feinster và Arough, ba nếu tính tới Eoam ở đảo Beirland. Ta sẽ cho ngài Furnost thay vào đó, và ngài sẽ có cả vùng hồ Tüdosten, như tôi có toàn bộ hồ Leona.”





“Leona có giá trị hơn Tüdosten, vì nó cho phép tới những dãy núi và bờ biển biển bắc,” Orrin chỉ ra.





“Đúng. Nhưng ngài đã sẵn có đường tới hồ Leona từ Dauth và sông Jiet rồi.”





Vua Orrin im lặng nhìn trân trối sàn nhà giữa phòng. Đỉnh mặt trời đang lặn dần xuống khỏi đường chân trời, chỉ còn rọi sáng vài đám mây lơ thơ. Bầu trời tối dần, vài ngôi sao đã nhấp nháy: ánh sáng lập lòe trong khoảng tím vô biên. Một cơn gió nhẹ nổi lên từ phía nam thổi vào mạn tháp. Eragon nghe tiếng cây tầm ma xào xạc bên kẽ lã.





Eragon nghĩ càng đợi lâu thì có vẻ Orrin sẽ từ chối đề nghị của Nasuada, hoặc ông sẽ ngồi đó im lặng cả buổi đêm.





Rồi nhà vua nhấc mình nhìn lên. “Tốt lắm,” ông nhỏ giọng. “Đến khi nào công nương vẫn tôn trọng giao ước của chúng ta, ta sẽ không thách thức công nương ngai vàng của Galbatorix… thưa Nữ Hoàng.”





Eragon rùng mình khi nó nghe Orrin thốt lên những lời đó.





Nét mặt vẫn ưu phiền, Nasuada tiến lên đứng giữa căn phòng. Rồi Orik đập đuôi cán Volund xuống sàn tuyên bố, “Nhà vua đã chết, Nữ hoàng muôn năm!”





“Nhà vua đã chết, Nữ hoàng muôn năm!” Eragon, Arya, Däthedr và Grimrr hô vang. Môi con ma mèo giãn rộng, vuốt nhe ra, còn Saphira phát ra tiếng kêu trầm đục như tù và, vang vọng giữa trần nhà ra thành phố phủ bụi phía dưới. Ý nghĩ tán thành cũng phát ra từ các Eldunarí.





Nasuada đứng thẳng tự hào, đôi mắt cô tuôn lệ, ngời sáng trong anh đèn xam xám. “Cảm tạ,” cô nhìn vào mắt từng người một. Tuy nhiên, ý nghĩ của cô có vẻ đang lang thang đâu đó, một tia buồn bã thoang thoảng mà Eragon ngờ rằng không ai để ý nữa.





Bóng đêm bao phủ khắp vùng đất, những ngọn đèn từ đỉnh tháp sáng rực lên soi rọi trên đầu thành phố.





Lời mộ chí thích đáng(A fitting epitaph)





Sau chiến thắng ở Urû’baen, Eragon cảm thấy những tháng ngày kế tiếp trôi vừa nhanh vừa chậm. Nhanh bởi có rất nhiều việc cần nó và Saphira làm, hiếm có hôm nào họ không mệt lử khi mặt trời lặn. Chậm bởi vẫn cảm thấy thiếu thốn mục đích – dù có vô số nhiệm vụ Nữ hoàng Nasuada giao cho – với nó như thể chúng chỉ là những khoảng nước tĩnh lặng chờ bất kì cái gì đẩy vào dòng chảy.





Saphira và nó ở lại Urû’baen thêm bốn ngày sau khi Nasuada trở thành nữ hoàng, giúp Varden hiện diện ở những khu vực lân cận. Họ dành phần lớn thời gian xử lý chuyện của người dân trong thành – xoa dịu những đám đông phẫn nộ vì vài hành động của quân Varden – hay truy đuổi những nhóm binh lính chạy khỏi Urû’baen, lẩn trong những đám lữ hành, nông dân hay những trang trại gần đó. Nó cùng Saphira cũng tham gia vào quá trình xây dựng lại cánh cổng thành khổng lồ, theo chỉ thị của Nasuada nó ếm vài câu thần chú phòng ngừa những kẻ vẫn còn trung thành với Galbatorix làm loạn. Chúng chỉ có hiệu lực với những người trong thành và vùng đất xung quanh, nhưng dù sao cũng làm quân Varden yên tâm hơn nhiều.





Eragon để ý quân Varden, người lùn, kể cả các tiên nhân cũng đối xử với nó lẫn Saphira khác hẳn so với trước cái chết của Galbatorix. Họ có vẻ tôn trọng và cung kính hơn hẳn, nhất là con người, nó dần nhận ra là họ tôn tờ nó và Saphira. Đầu tiên nó cũng thích thú – Saphira thì có vẻ không quan tâm lắm – nhưng nó bắt đầu thấy phiền toái khi nhận ra nhiều người lùn và con người quá sốt sắng làm nó vui lòng, họ sẽ nói bất kì điều gì họ cho là nó muốn nghe, kể cả không phải sự thật. Nó thấy bực mình khi biết được điều đó; giờ nó cảm thấy không thể tin ai khác ngoài Roran, Arya, Nasuada, Orik, chú Horst, và dĩ nhiên là Saphira.





Nó rất hiếm gặp Arya trong mấy ngày này. Trong vài lần chạm mặt, cô có vẻ thu mình, rồi nó nhận ra đó là cách cô đối mặt với nỗi đau thương trong lòng. Họ không có cơ hội nói chuyện riêng, nó chỉ kịp bày tỏ những lời chia buồn ngắn ngủi và kì cục. Nó nghĩ cô ghi nhận chúng, nhưng khó mà biết được.





Còn Nasuada có vẻ đã lấy lại hầu hết động lực, tinh thần và nặng lương trước đây chỉ sau một giấc ngủ, khiến Aragon kinh ngạc. Nó càng đánh giá cô cao tợn khi nghe kể về thử thách trong Căn phòng Tiên tri, và khi nó nhắc tới Roran, người mà cô không hé răng từ hồi nào. Cô ca ngợi Eragon vì lãnh đạo Roran khi không có cô – nó phản đối rằng hầu như nó đi biền biệt – rồi cảm ơn nó đã giải cứu cô nhanh nhất có thể, vì cô thừa nhận sau đó, Galbatorix đã suýt hạ gục cô.





Vào ngày thứ ba, Nasuada đăng quang trong quảng trường lớn gần trung tâm thành phố, trước mặt đám đông khổng lồ con người, người lùn, tiên nhân, ma mèo và cả Urgal. Vụ nổ kết liễu Galbatorix đã phá hủy vương miện cổ của Broddring, nên những người lùn đã đúc một chiếc mới từ vàng tìm thấy trong thành phố và những viên ngọc các tiên nhân rút ra từ mũ giáp lẫn chuôi gươm của họ.





Buổi lễ diễn ra đơn giản, nhưng càng hiệu quả hơn. Nasuada đi ra từ phía tòa thành đổ nát. Cô mặc một bộ đồ hoàng gia màu tím – cắt một vạt ở khuỷu tay, khiến ai cũng có thể thấy những vết sẹo trên cánh tay cô – cùng hàng ren lông chồn được Elva mang theo, bởi Eragon nài nỉ cô bé theo sát Nasuada gần nhất có thể sau lời cảnh báo của Murtagh.





Tiếng trống chậm rãi vang lên khi Nasuada bước lên bệ đá dựng giữa quảng trường. Trên đỉnh bệ, Eragon đứng cạnh chiếc ngai vàng uốn lượn, Saphira ở sát phía sau. Phía trước chiếc bục nhô lên là vua Orrin, Ork, Grimrr, Arya, Däthedrvà Nar Garzhvog.





Nasuada bước lên đài, gùy xuống trước Eragon và Saphira. Một người lùn trong tộc Orik dân lên Eragon chiếc vương miện mới làm, nó đặt lên đầu Nasuada. Rồi Saphira vòng cổ xuống chạm vào lông mày Nasuada bằng mõm, rồi cả cô nàng và Eragon cùng nói:





“Hãy đứng dậy hỡi nữ hoàng Nasuada, con gái của Ajihad và Nadara.”





Một hồi kèn hiệu vang lên, cả đám đông đang im phăng phắc chợt hoan hô thành một tạp âm kì cục, khi tiếng la hét của Urgal hòa lẫn với giọng êm ái thánh thót của tiên nhân.





Rồi Nasuada ngồi lên ngai vàng. Vua Orrin tiến lên phía trước thề trung thành, theo sau là Arya, vua Orik, Grimrr Nửa vuốt và Nar Garzhvog, mỗi người tuyên bố tình hữu nghị của giống nọ họ.





Eragon bị buổi lễ tác động mạnh. Nó thấy mình đang kìm nước mắt khi nhìn Nasuada ngồi trên ngai vàng. Chỉ khi cô đăng quang, tàn dư sự đàn áp của Galbatorix mới bắt đầu bị xóa đi.





Sau đó họ ăn mừng, quân Varden và các đồng mình liên hoan qua đêm đến tận ngày hôm sau. Eragon không nhớ nhiều về bữa tiệc trừ điệu nhảy của các tiên nhân, tiếng trống thập thình của người lùn, và bốn gã Kull leo lên tháp canh trên tường thành, thổi vang tù và làm từ sọ của cha chúng. Nhân dân trong thành cùng liên hoa, Eragon thấy vẻ mừng vui và nhẹ nhõm khi Galbatorix đã bị hạ bệ hiện trên gương mặt họ. Bên dưới cảm xúc của những người đang hiện diện là ý thức về tầm quan trọng của khoảng khắc này, bởi họ đang chứng kiến tận mắt kết thúc của một thời đại và bắt đầu của một thời đại khác.





Ngày thứ năm, khi cánh cổng đã gần dựng xong và thành phố có vẻ khá trật tự, Nasuada lệnh Eragon và Saphira bay tới Dras-Leona, rồi Belatona, Feinster và Aroughs, ở mỗi nơi dùng tên của cổ ngữ giải phóng lời thề trung thành với Galbatorix. Cô cũng yêu cầu Eragon trói buộc các binh sĩ và quý tốc – như đã làm ở Urû’baen – không cố gắng phá hoại nền hòa bình mới lập. Eragon từ chối, cảm thấy quá giống cách Galbatorix điều khiển lũ bầy tôi. Ở Urû’baen, rủi ro các sát thủ và những kẻ trung thành đủ lớn để Eragon sẵn sàng làm vậy. Nhưng nơi khác thì không. Nó nhẹ nhõm khi Nasuada đồng ý sau một hồi cân nhắc.





Nó và Saphira mang theo nữa số Eldunarí từ Vroengard, số còn lại ở cùng với những trái tim của tim giải cứu từ phòng chứa của Galbatorix. Blödhgarm và các pháp sư – những người không còn trói buộc bởi lời thề bảo về Eragon và Saphira – mang các Eldunarí tới một lâu đài cách vài dặm về phía bắc Urû’baen để dễ dàng bảo vệ những trái tim khỏi kẻ trộm, và tư tưởng của những con rồng điên loạn không ảnh hưởng tới ai trừ những người trông nom.





Chỉ khi thấy các Eldunarí an toàn Eragon và Saphira mới yên tâm lên đường.





Khi họ tới Dras-Leona, Eragon ngạc nhiên vì số lượng bùa chú rải khắp thành phố, cũng như ở tháp đá tối tăm Helgrind. Nó đoán rất nhiều trong đó phải có tuổi hàng trăm năm nếu không hơn: những bùa ếm bị lãng quên từ những thời đại trước. Nó để lại những câu thần chú có vẻ vô hại, và thi thoảng nó hơi miễn cưỡng làm xáo trộn những thần chú mà nó không hiểu mục đích la gì. Lúc này Eldunarí tỏ ra rất có ích, trong vài trường hợp họ nhớ được ai đặt thần chú và vì sao, hoặc là có khả năng tìm ra mục đích của thần chú từ những mẩu thông tin vô nghĩa với Eragon.





Khi tới Helgrind và hàng loạt hang ổ của các thầy tu – những người trốn biệt ngay khi tin về cái chết của Galbatorix lan đến – Eragon giải trừ hết bùa chú bất kể tới có hại hay không. Nó cũng dùng tên của các tên để tìm thắt lưng Beloth Thông thái trong khu tàn tích của tòa thánh đường lớn nhưng không thấy.





Họ dừng lại Dras-Leona trong ba ngày, rồi tiến đến Belatona. Rồi nó lần lượt giải trừ bùa ếm của Galbatorix ở đây lẫn Feinster và Aroughs. Ở Feinster, kẻ nào đó đã cố đầu đọc nó bằng đồ uống. Lưới phòng hộ đã bảo vệ nó, nhưng vụ việc khiến Saphira tức tối.





Nếu dồn được đồ chuột-cống-hèn-nhát làm chuyện này, em sẽ ăn sống hắn kể cả ngón chân, cô nàng gầm ghè.





Trong chuyến bay trở lại Urû’baen, Eragon đi chệch một chút. Saphira đồng ý, đảo hướng bay, nghiêng đi khiến đường chân trời trở nên thằng đứng, cả đất trời phân tách làm đôi thành bầu trời xanh thẫm và mặt đất màu nâu lục.





Phải mất nửa ngày tim kiếm cuối cùng Saphira mới tìm thấy dãy đồi sa thạch, trên đó có một ngọn đồi đặc biệt: một phiến đá đỏ dốc xuống cùng hang động giữa lưng chừng. Trên đỉnh đổi là ngôi mộ kim cương lấp lánh.





Ngọn đồi vẫn y chang như trong trí nhớ Eragon. Khi nhìn lên, ngực nó co thắt lại.





Saphira đáp xuống cạnh ngôi mộ. bụi tung lên.





Eragon chậm rãi tháo đai chân, trượt xuống mặt đất. Cơn sóng quay cuồn tràn qua nó cùng mùi ấm áp của đá, trong khoảnh khắc nó như đang trở lại quá khứ.





Rồi nó lắc đầu tỉnh táo lại. Bước lại gần nhìn sâu trong lòng mộ trong suốt, nó thấy Brom.





Ở đó nó thấy cha mình.





Vẻ ngoài Brom vẫn không thay đổi. Lớp kim cương bao quanh giữ thân thể ông khỏi sự tàn phá của thời gian, da thịt không phân hủy chút nào. Làn da nhăn nheo trên khuôn mặt nhuộm hồng, như thể máu tươi vẫn chảy bên dưới. Bất kì lúc nào trông Brom cũng như thể sẽ mở mắt đứng dậy, cùng đi tiếp hành trình dang dở của họ. Như thế nào đó, ông sẽ bất diệt vì không bao giờ già đi, nhưng mãi mãi chìm sâu trong giấc mộng.





Thanh gươm nằm trên ngực Brom, đuôi kiếm đặt sát bộ râu, bàn tay cầm chuôi gấp lại như Eragon đã xếp. Rồi bên cạnh ông là cây trượng xương xẩu, giờ Eragon mới nhận ra trên nó khắc chạm một tá nét chữ bằng cổ ngữ.





Mắt Eragon tuôn lệ. Nó khụy gối câm lặng khóc trong khoảng thời gian như vô tận. Rồi nó cảm thấy Saphira trong tâm trí, nó biết cô nàng cũng đang tiếc thương sự ra đi của Brom.





Cuối cùng Eragon đứng thẳng dậy, vươn mình về phía rìa mộ quan sát gương mặt Brom. Giờ nó đã biết mình nhìn thấy gì, nó có thể thấy những nét giống nhau trên gương mặt họ, mờ đi theo thời gian và bị che khuất bởi bộ râu của ông, nhưng không thể nhầm được. Góc cạnh trên gò má Brom, nếp nhăn giữa đôi mày ông, phiến môi trên cong cong; Eragon nhận ra cả. Nhưng nó không thừa hưởng cái mũi khoằm của Brom, cái đó nó nhận từ mẹ mình.





Eragon nhìn xuống, hơi thở nặng nề, trước mặt lại mờ đi. “Xong rồi,” nó thấp giọng. “Con đã làm được rồi. Chúng con đã làm được rồi. Galbatorix đã chêt,s Nasuada ngồi trên ngai vàng, và cả Saphira lẫn còn đều không sao. Như thế làm hài lòng cha chứ, đồ cáo già?”Nó bật cười nhẹ rồi gạt nước mặt bằng cánh tay. “Thêm nữa, còn có những quả trứng rồng ở Vroengard. Nhiều trứng rồng ấy! Lũ rồng sẽ không bị tuyệt diệt đâu. Saphira và con sẽ nuôi nấng chúng. Cha sẽ không bao giờ thấy trước chuyện đó, phải không? Nó lại cười, vừa cảm thấy ngốc nghếch lẫn đau thương. “Cha sẽ nghĩ gì về tất cả chuyện vậy? Cha vẫn như vậy mãi, nhưng bọn con thì không. Giờ cha còn nhận ra bọn con nữa chăng?”





Dĩ nhiên ông ấy sẽ, Saphira nói. Anh là con trai ông mà. Cô nàng chạm nhẹ mõm vào nó. Ngoài ra, khuôn mặt anh không quá khác để ông phải nhầm với ai đó đâu, kể cả nếu mùi của anh đã thay đổi.





“Thật à?”





Mùi của anh giờ giống tiên nhân hơn … Dù sao ông cũng sẽ không nhầm em với Shruikan hay Glaedr, phải không?





“Không đâu.”





Eragon khụt khịt, lùi ra khỏi ngôi mộ. Brom trông vẫn đầu sức sống trong lớp kim cương, cảnh tượng khiến nó nảy lên một ý: một ý tưởng điên rồ, vô lý đến mức nó gần như chối phắt, nhưng cảm xúc buộc nó không bỏ qua được. Nó nghĩ tới Umaroth và các Eldunarí – với hiểu biết và những gì đã đạt được với thần chú của nó ở Urû’baen – một tia hy vọng cháy bỏng lóe lên trong tim nó.





Nó nói vởi cả Saphira lẫn Umaroth, Brom chỉ vừa mới chết khi chúng tôi chôn ông. Đến hôm sau Saphira mới biến tảng đá thành kim cương, nhưng ông vẫn được bọc trong đá trước đó cách ly khỏi không khí cả đêm. Umaroth, với sức mạnh và hiểu biết của người, liệu có thể … có thể chúng ta vẫn chữa lành cho ông được. Eragon rùng mình như thể đang lên cơn sốt. Trước đây tôi không biết làm sao để chữa lành vết thương ông ấy, nhưng bây giờ - giờ tôi nghĩ có thể.





Sẽ khó hơn cậu tưởng tượng nhiều đấy, Umaroth nói.





Đúng vậy, nhưng người có thể làm được mà! Eragon nói. Tôi đã thấy mọi người và Saphira làm được những điều thần kì bằng phép thuật. Chắc chắn chuyện này không quá sức mọi người được!





Anh biết chúng em không thể sử dụng phép thuật theo ý mình mà, Saphira nói.





Kể cả nếu thành công, Umaroth tiếp, rất có khả năng chúng ta có thể hồi phục tâm trí Brom như trước. Trí óc là thứ rất phức tạp, ông ấy có thể sẽ trở nên lẫn lộn và thay đổi tính cách. Rồi sao nữa? Cậu có muốn ông ấy sống như thế không? Ông ấy có muốn vậy không? Không đâu, tốt nhất cứ để ông ấy như thế, Eragon à, để tôn vinh ông với những suy nghĩ và việc làm của mình như cậu đã từng. Cậu muốn mọi chuyện sẽ khác đi. Thế thì hãy hành động vì những kẻ đã mất người thân yêu. Tuy nhiên, đó là đạo lý. Brom sống trong trí nhớ của các cậu, và nếu ông là người như cậu đã cho chúng tôi thấy, ông sẽ đồng ý như vậy. Và cậu cũng nên chấp nhận như thế.





Nhưng …





Không phải Umaroth mà là Eldunarí cổ nhất, Valdr ngắt lời. Eragon nhạc nhiên vì ông lên tiếng không phải bằng hình hay hay cảm xúc, mà những từ cổ ngữ, căng thẳng và vất vả, như thế một ngôn ngữ xa lạ. Ông nói, Để những người chết cho lòng đất đi. Họ không phải dành cho chúng ta. Rồi ông không nói thêm, nhưng Eragon cảm thấy rõ sự buồn bã và thông cảm.





Eragon thở dài, nhắm mắt một hồi. Rồi trong tim, nó cho phép mình giải phóng hy vọng sai lầm đó, chấp nhận sự thật Brom đã ra đi.





“Ài,” nó bảo Saphira. “Anh không nghĩ chuyện này sẽ khó khăn như vậy.”





Sẽ thực lạ lùng nếu nó không khó. Nó cảm giác hơi thở ấm áp của cô nàng mơn man trên đỉnh đầu, vành môi cô nàng chạm vào lưng nó.





“phụ thân,” Lời nói có vẻ kì lạ từ miệng nó, nó chưa bao giờ mở miệng như vậy trước ai. Rồi Eragon nhìn về phía hàng kí tự nó khắc trên chóp ngôi mộ, rằng:





NƠI ĐY YÊN NGHỈ BROM





Người từng là Kỵ Sỹ Rồng





Và như một người cha





Của tôi.





Mong tên ông sẽ sống mãi trong vinh quang.





Nó mỉm cười đau đớn rằng nó đã nói gần đúng sự thật biết bao. Rồi nó khẽ nói bằng cổ ngữ, quan sát bề mặt kim cương sáng lên, uốn lượn thành một hàng kí tự mới. Khi nó hoàn thiện, hàng chữ đã trở thành:





NƠI ĐY YÊN NGHỈ BROM





Người từng là





Kị sĩ của rồng Saphira





Con trai Holcomb và Nelda





Người dấu yêu của Selena





Cha Eragon Khắc tinh của Tà thần





Người sáng lập nên Varden





Và Tai ương của Kẻ Phản Nghịch





Mong tên ông sẽ sống mãi trong vinh quang.





Stydja unin mor’ranr.





Đó là lời tựa ít cá nhân hơn, nhưng Eragon thấy vẫn thích hợp hơn. Rồi nó ếm bùa lên để bảo vệ lớp kim cương khỏi lũ trộm và những kẻ phá hoại.





Nó đứng trước ngôi mộ hồi lâu, lưỡng lự chưa quay đi, cảm thấy như thể nên có gì đó nữa – chuyện gì đó, hoặc cảm xúc hoặc nhận thức nào đó khiến nó có thể dễ dàng từ biệt cha nó và rời đi.





Cuối cùng nó đặt tay lên lớp kim cương mát rượi, ước rằng có thể xuyên qua chạm vào Brom lần cuối. Rồi nó nói, “Cảm ơn vì tất cả những gì cha đã dạy con.”





Saphira khịt mũi, cúi đầu chạm mõm vào ngôi mộ.





Rồi Eragon quay đi, cảm thấy dứt khoát, nó chầm chậm leo lên mình Saphira.





Nó vẫn thấy buồn rười rượi khi Saphira cất cánh bay theo hướng Đông Bắc về Urû’baen. Khi hình bóng ngọn đồi sa thạch mờ dần dưới đường chân trời, nó thở ra một hơi dài ngước nhìn bầu trời xanh thẳm.





Nụ cười hé ra trên gương mặt nó.





Có gì mà buồn cười vậy anh? Saphira nghoe nguẩy đuôi.





Miệng em đang to ra đấy.





Cô nàng rõ là vui sướng. Rồi cô nàng khịt mũi, Em biết nó sẽ như thế mà? Sao lại không chứ? Tuy nhiên, nó cảm thấy bên sườn cô nàng rung lên dưới gót chân khi cô rồng ngâm nga vui sướng, nó vỗ nhẹ rồi áp ngực xuống cổ cô nàng, cảm nhận luồng ấm áp truyền qua nó.





Những công việc không tên (Pieces on the Board)





Trở lại Urû’baen cùng Saphira, Eragon ngạc nhiên thấy Nasuada đã phục hồi cái tên Ilirea, như cách tôn trọng lịch sử và di sản nó mang lại.





Đồng thời nó thấy buồn khi biết Arya đã rời đến Ellesméra cùng Däthedr và rát nhiều tiên nhân khác, mang theo quả trứng rồi màu lục tìm thấy trong tòa thành.





Nasuada chuyển cho nó một bức thư cô viết. Trong đó Arya giải thích cô cần hộ thống thi hài mẹ mình về Du Weldenvarden để chôn cất đàng hoàng. Còn về quả trứng rồng cô viết:





… và bởi Saphira đã chọn cậu, một con người, làm Kỵ Sỹ của nó, sẽ hợp lý nếu một tiên nhân trở thành Kỵ Sỹ tiếp theo, nếu con rồng trong quả trứng đồng ý. Tôi ước điều đó có thể thành hiện thực ngay. Nó đã ở quá lâu trong vỏ rồi. Bởi còn rất nhiều trứng ở nơi khác – tôi không tiện nói tên –hy vọng cậu sẽ không tin rằng tôi đã quá táo bạo hoặc có thành kiến tốt cho giống loài của mình. Tôi đã hỏi ý các Eldunarí chuyện này, họ đồng ý với quyết định của tôi.





Dù sao, khi cả Galbatorix và thân mẫu đã trở thành hư vô, tôi không còn muốn làm đại sứ ở Varden nữa. Thay vào đó, tôi sẽ quay lại nhiệm vụ mang quả trứng rồng khắp vùng đất này như với quả trứng của Saphira. Dĩ nhiên, giữa giống loài chúng ta vẫn cần một đại sứ. Vì vậy, Däthedr và tôi đã cử ra một tiên nhân trẻ thay thế tên Vanir, người cậu đã gặp khi còn ở Ellesméra. Cậu ta cũng bày tỏ niềm ham muốn được học hỏi thêm về giống loài cậu, tôi thấy đó là một lý do tốt để giữ vị trí ấy – ít nhất cho đến khi cậu ta tỏ ra không có năng lực.





Bức thư còn thêm một vài dòng, nhưng Arya không ngụ ý khi nào, hoặc có khi nào, cô sẽ trở lại miền Tây Alagaësia. Eragon mừng cô đã nghĩ đến nó, nhưng nó ước cô có thể chờ họ trở lại rồi mới rời đi. Giờ đây không có cô, nó cảm thấy vô cùng hụt hẫng, dù có dành nhiều thời gian với Roran và Katrina hay Nasuada, cảm giác trống rỗng quặn thắt trong người nó vẫn không lui. Cùng với cảm giác ngày qua ngày, nó thấy mình như bị tách rời ra. Cứ như nó đang quan sát bản thân từ bên ngoài vậy. Nó hiểu nguồn cơn cảm giác ấy, nhưng nó không biết cách nào chữa trị hơn chờ đợi.





Trong một chuyến đi gần đây, nó nhận ra rằng – bằng quyền năng với cổ ngữ có được từ tên của các tên – nó có thể xóa bỏ hẳn tàn dư lời chúc phúc, mà hóa ra lại là lời nguyền rủa của mình. Thế là nó tới chỗ cô bé, lúc này đang sống trong tòa nhà lớn của Nasuada, nói suy nghĩ của nó và hỏi ý kiến cô bé.





Cô bé không mừng rỡ như nó tưởng, mà ngồi nhìn trân trối lên sàn, khuôn mặt nhợt nhạt nhăn lại. Cô bé cứ ngồi như vậy im lặng cả tiếng – còn nó ngồi một bên chờ đợi không phàn nàn gì hết.





Rồi cô bé nhìn nó nói, “Không. Tôi có thể nói mình rất … vui mừng khi anh đã hỏi, nhưng khả năng này đối với tôi rất có ý nghĩa, và tôi không thể từ bỏ nó. Nếu không thể cảm nhận nỗi đau của người khác, tôi sẽ chỉ là một con bé ngốc nghếch lạc loài, chẳng có ích gì ngoài việc thỏa mãn nỗi tò mò hèn kém của những người cho phép tôi ở bên, của những người khoan dung tôi. Với nó, tôi vẫn là kẻ lạc loài, nhưng tôi cũng có ích nữa, và tôi có sức mạnh khiếc kẻ khác sợ và nắm được số phận chính mình, thứ rất nhiều nữ giới không hề có.” Cô bé chỉ lên căn phòng lộng lẫy xunh quanh. “Ở đây tôi sống rất thoải mái – tôi được sống bình yên – và vẫn làm được gì đó tốt đẹp bằng cách giúp đỡ Nasuada. Nếu anh lấy đi khả năng ấy thì tôi còn lại cái gì? Tôi sẽ làm gì? Tôi sẽ là thứ gì? Xóa bỏ bùa chú ấy không phải chuyện tốt đẹp đâu Eragon. Không, tôi sẽ vẫn giữ nguyên, chịu đựng thử thách từ món quà bằng ý chí tự do của mình. Nhưng tôi cảm tạ anh.”





Hai ngày sau khi nó và Saphira hạ cánh xuống Ilirea, Nasuada điều họ ra ngoài, tới Gil’ead rồi Ceunon – hai thành phố các tiên nhân chiếm được – rồi Eragon có thể dùng tên của các tên xóa sạch bùa chú của Galbatorix.





Cả hai đều thấy không vui khi quay lại Gil’ead. Nó gợi họ nhớ lại nơi Urgal đã bắt Eragon theo lệnh Durza lẫn cái chết của Oromis.





Eragon và Saphira nghỉ tại Ceunon thêm ba ngày. Nơi đây không giống bất kì thành phố nào họ từng thấy. Những tòa nhà phần lớp bằng gỗ, mái cao vút, và ở những tòa nhà lớn còn có nhiều lớp. Đỉnh mái thường trang trí bởi hình chạm đầu rầu, còn cửa khắc hoặc vẽ lên những hình cầu kì xoắn lại.





Lúc rời đi, Saphira có ý muốn đổi đường. Cô nàng không phải cố thuyết phục Eragon, nó vui vẻ đồng ý khi cô nàng giải thích chuyến đi sẽ không mất nhiều thời gian.





Từ Ceunon, Saphira bay về phía Tây, qua vịnh Fundor: một mảng nước rộng bao la viền cát trắng. Những chiếc lưng xám hay đen của cá biển thường nhấp nhô trên mặt nước như những hòn đảo nhỏ bằng da. Rồi chúng phụt ra những cột nước từ cái lỗ trên lưng, đầu nhô cao lên không rồi hụp xuống lòng nước sâu thẳm lặng lẽ.





Vượt vịnh Fundor, họ bay qua những cơn gió lạnh dữ dội tới rặng Spine mà Eragon biết rõ tên từng ngọn núi, từ đó quay lại thung lũng Palancar lần đầu tiên từ khi rời đi đuổi theo lũ Ra’zac cùng Brom, chuyến đi tưởng như đã cách cả đời người.





Với Eragon. thung lũng dậy lên mùi như quê hương vậy, mùi hương của những cây thông, cây liễu hay cây bạch dương trong tuổi thơ nó, rồi vị đắng của không khí khi mùa đông sắp cận kề.





Họ đáp xuống bãi tro tàn khu làng Carvahall, rồi Eragon đi dọc theo những con đường mọc đầy cỏ dại.





Một đàn chó hoang phóng qua cây bạch dương gần đó. Chúng dừng lại khi thấy Saphira, gầm gừ, sủa ăng ẳng chạy trốn. Saphira cũng gầm lên xịt khói nhưng không đuổi theo chúng.





Một mẩu gỗ cháy nứt dưới chân Eragon khi nó bước trên đống tro tàn. Cảnh ngôi làng bị tàn phá khiến nó buồn lòng. Nhưng hầu hết những dân làng thoát được vẫn còn sống. Nếu trở lại, Eragon biết họ sẽ tái thiết Carvahall còn đẹp hơn xưa. Những ngôi nhà trong tuổi thơ nó đã không còn nữa. Dân làng vắng bóng càng khiến nó cảm thấy không còn thuộc về thung lũng Palancar, nhìn những khoảng trống vắng vẻ càng làm nó thấy có cảm giác sai trái, như thể nó đang trong một giấc mơ lộn xộn.





“Thế giới này chẳng có gì liền lạc cả,” nó lẩm bẩm.





Eragon dựng một đống lửa nhỏ cạnh nơi từng là quán rượu của Morn, nấu nồi thịt hầm lớn. Trong lúc nó ăn, Saphira lảng vảng xung quanh, khịt mũi khi thấy cái gì đó thú vị.





Ăn hết nồi thịt, nó mang nồi, bát và thìa ra dòng Anora rửa trong dòng nước băng giá. Ngồi xổm lên bờ sông đầy đá, nó nhìn chăm chăm lên đỉnh thung lũng: dòng thác Igualda trắng xóa, kéo dài lên nửa dặm trước khi biến mất trong những phiến đá trên đỉnh Narnmor. Ngắm nhìn đỉnh núi, nó hồi tưởng lại ngày mang trứng Saphira từ rặng Spine, không biết gì về những điều sẽ xảy ra giữa hai đứa, hay thậm chí sẽ có hai đứa.





“Đi nào,” nó đi tới bên cô nạng cạnh miệng giếng giữa thị ngôi làng.





Anh có muốn thăm lại nông trại không? cô nàng hỏi khi nó đang leo lên lưng.





Nó lắc đầu. “Không. Anh muốn nghĩ về nó như trước kia, không phải bây giờ.”





Cô nàng đồng ý. Tuy nhiên, cô nàng tay về phương nam theo hướng họ từng rời thung lũng Palancar. Trên đường, Eragon thấy rõ nơi từng là nhà nó, nhưng bởi quá xa và mây mù che phủ, nó vẫn có thể vờ như ngôi nhà và khu trại vẫn còn nguyên xi.





Tại rìa phía Nam thung lũng, Saphira lướt trên một luồng khí bốc lên từ đỉnh ngọn núi trơ trụi Utgard, nơi các Kỵ Sỹ từng dựng một tháp canh để trông chừng vị vua Palancar điên rồ. Cái tháp từng được biết đến như Edoc’sil, giờ mang tên Ristvak’baen hay “Cõi U buồn,” vì đó là nơi Galbatorix đã giết chết Vrael.





Cạnh đống đổ nát của tháp canh, Eragon, Saphira và các Eldunarí đi theo cùng tưởng niệm Vrael. Umaroth đặc biệt tỏ ra sầu não, nhưng ông nói, Cảm ơn Saphira, vì đã mang ta tới đây. Ta không bao giờ nghĩ có thể nhìn thấy nơi Kỵ Sỹ của mình ngã xuống.





Rồi Saphira sải cánh bay khỏi tháp canh, phi khỏi và cánh đồng đầy cỏ xa xa.





Nửa đường tới Ilirea, Nasuada liên lạc với họ qua một pháp sư Varden điều họ gia nhập một binh đoàn lớn đang hành quân từ thủ đô tới Teirm.





Eragon vui mừng biết Roran chỉ huy binh đoàn đó, trong hàng ngũ có Jeod và Baldor – cánh tay đã hồi phục hoàn toàn sau khi được các tiên nhân ghép lại – và vài dân làng khác.





Eragon ngạc nhiên khi người dân thành Teirm từ chối đầu hàng, kể cả sau khi nó giải phóng họ khỏi lời thề với Galbatorix, và dù hiển nhiên là với sự giúp đỡ của Saphria và Eragon, quân Varden có thể dễ dàng chiếm thành phố nếu muốn. Thay vào đó, thị trưởng thành Teirm, Lãnh chúa Risthart yêu cầu họ được trở thành một khu tự trị được tự do chọn lãnh chúa và luật pháp.





Sau vài ngày đàm phán, Nasuada chấp thuật điều kiện của ông, đổi lại Lãnh chúa Risthart thề trung thành với nữ hoàng là cô, và cũng như vua Orrin, chấp thuận tuân theo luật dành cho pháp sư.





Từ Teirm, Eragon và Saphira hộ tống các chiến binh về phương nam, qua bờ biển hẹp, cho tới khi đến thành phố Kuasta. Họ vây hãm thành phố, nhưng không như Term, thị trưởng Kuasta nhanh chóng đầu hàng và chấp thuận gia nhập vương quốc mới của Nasuada.





Eragon và Saphira một mình bay tới Narda ở miền Bắc, thu được lời hứa y hệt rồi trở lại Ilirea, rồi nghỉ lại vài tuần trong một căn nhà lớn gần nơi ở Nasuada.





Khi thời gian lại cho phép, nó và Saphira liền rời thành phố tới lâu đài nơi Blödhgarm và các pháp sư đang trông coi các Eldunarí thu được của Galbatorix. Eragon cùng Saphira giúp đỡ chữa lành tâm trí của lũ rồng. Họ cũng có tiến triển nhưng khá chậm chạp, có một vài Eldunarí phản ứng sớm hơn. Eragon lo lắng khá nhiều rồng đơn giản không hề để tâm đến cuộc sống nữa, hoặc đã lạc lối trong mê cung tâm trí quá lâu để có thể giao tiếp với chúng có ý nghĩa, thậm chí kể cả với những con rồng tiền bối như Valdr. Để ngăn cản hàng trăm con rồng áp đảo tâm trí những người đang giúp chúng, các tiên nhân giữ phần lớn Eldunarí nửa mê man, chỉ chọn ra một vài con rồng để giao tiếp cùng thời điểm.





Eragon cũng làm việc bên những pháp sư của Con Đường Lãng Du nhằm dọn dẹp kho báu trong tòa thành. Hầu hết công việc đổ lên đầu nó, bởi các pháp sư không đủ kinh nghiệm hay hiểu biết để xử lý những món đồ vật bị yểm bùa Galbatorix để lại. Nhưng Eragon không ngại lắm: nó vui vẻ khám phá những pháo đài hư hại, thám hiểm những bí mật ẩn giấu bên trong. Galbatorix đã thu giữ hàng đống báu vật trong suốt thế kỉ, vài thứ khá nguy hiểm, song tất cả đều rất thú vị. Eragon thấy thích thú nhất cái máy đo thiên thể, khi đặt mắt lên nó có thể thấy rõ những ngôi sao kể cả vào ban ngày.





Nó giữ bí mật về những món đồ nguy hiểm nhất cho mình, Saphira và Nasuada, ngăn ngừa rủi ro tin tức bị lan truyền.





Nasuada cũng sử dụng ngay vô số báu vật thu được trong tòa thành để cho các chiến binh cái ăn cái mặc, cũng như tái thiết phòng thủ của những thành phố họ chiếm được trong cuộc chiến tranh. Thêm nữa, cô ban tặng một món vàng tương đương năm chiếc mũ vàng cho mọi thần dân: tuy chỉ là một món nhỏ với các quý tộc nhưng thực sự vô giá với các nông dân nghèo. Eragon biết hành động ấy đã thu được sự ủng hộ và trung thành theo cách Galbatorix không bao giờ hiểu được.





Họ cũng thu được hàng trăm thanh gươm của các Kỵ Sỹ: các thanh gươm đủ màu sắc kiểu dáng, làm bởi con người lẫn tiên nhân. Đó thực sự là một khám phá ngoạn mục. Eragon và Saphira tự mình mang chúng tới lâu đài nơi đang giữ các Eldunarí, phòng một ngày chúng lại được các Kỵ Sỹ cần tới.





Eragon tự nhủ Rhunön sẽ rất mừng khi biết nhiều sản phẩm của bà vẫn còn tồn tại.





Và còn đó hàng ngàn cuộn giấy và sách vở Galbatorix đã thu thập, được các tiên nhân và Jeod sắp xếp lại, xếp riêng ra những thứ có chứa bí mật về các Kỵ Sỹ và thành quả nghiên cứu sâu về phép thuật.





Khi họ đang đang sắp xếp kho tàng kiến thức đồ sộ của Galbatorix, Eragon vẫn hy vọng tìm ra gợi ý về nơi nhà vua giấu những quả trứng Lethrblaka còn lại. Tuy nhiên, thứ duy nhất nhắc đến Lethrblaka hay Ra’zac là trong một thư tịch cổ của các tiên nhân và Kỵ Sỹ của thời đại trước, bàn luận về mối đe dọa của bóng tối và băn khoăn làm thế nào với kẻ địch không thể phát giác bằng bất kì loại pháp thuật nào.





Khi nó có thể nói chuyện thoải mái, Eragonthường xuyên bỏ ra hàng với Jeod, kể cho ông nghe những gì xảy ra với các Eldunarí và những quả trứng, kể cả quá trình tìm ra tên thật của mình ở Vroengard. Nó thấy rất thoải mái khi nói chuyện với Jeod, đặc biệt khi ông là một trong số ít người biết Brom đủ để gọi ông là bạn.





Eragon thấy rất thú vị theo cách trừu tượng khi quán sát vương quốc Nasuada được cai trị và tái thiết từ đống tro tàn của Đế chế. Cần nỗ lực khổng lồ để quản lý đất nước rộng lớn và đa dạng nhường ấy, và công việc dường như không bao giờ dứt: luôn có nhiều thứ hơn phải làm. Eragon biết nó sẽ ghét những đòi hỏi của vị trí này, nhưng Nasuada phải dựa vào chúng rất nhiều. Cô dường như không bao giờ xuống sức, cũng như biết cách giải quyết mọi vấn đề. Ngày ngày qua ngày khác, nó thấy tầm vóc của cô lớn dần với các sứ thần, quan chức, quý tộc và những thường dân mình cai quản. Cô có vẻ phù hợp hoàn toàn với vai trò mới, dù nó lo lắng vì không chắc cô có thực sự hạnh phúc không.





Nó quan sát cô phán xét các quý tộc đã tuân theo Galbatorix – dù tự nguyên hay không – hài lòng thấy sự công bằng và nhân từ của cô, cũng như những hình phạt nếu cần thiết. Hầu hết cô tước bỏ đất đai, danh hiệu hoặc một phần lớn tài sản bẩn thỉu của chúng, nhưng Eragon mừng vì cô không hành quyết ai hết.





Nó đứng bên cạnh khi cô ban cho Nar Garzhvog một dải đất lớn bên bờ Bắc của rặng Spine, cả vùng đồng bằng màu mỡ giữa hồ Fläm và sông Toark, nơi hiếm có con người sinh sống. Eragon tán thành quyết định ấy.





Nar Garzhvog cũng thề trung thành với Nữ hoàng Nasuada như vua Orrin và Lãnh chúa Risthart. Tuy nhiên, gã Kull khổng lồ nói, “Dân tộc tôi sẽ đồng ý, Công Nương Báo-săn-đêm, nhưng họ có dòng máu nồng và trí nhớ ngắn ngủi, lời nói sẽ không giữ họ mãi mãi.”





Nasuada đáp lạnh lùng, “Ý ông là dân tộc ông sẽ phá hoại hòa bình hả? Tôi có nên hiểu giống loài chúng ta sẽ là kẻ địch nữa không?”





“Không,” Garzhvog lắc cái đầu vĩ đại. “Chúng tôi không muốn chiến đấu với các người. Chúng tôi biết Hỏa Kiếm sẽ giết mình. Nhưng … khi các con đực trưởng thành, chúng sẽ muốn chiến đấu để chứng tỏ bản thân. Nếu không có, chúng sẽ tự khơi mào chiến đấu. Tôi xin lỗi, Báo-săn-đêm, nhưng chúng tôi không thể thay đổi bản thân được.”





Những lời ấy làm Eragon – cũng như Nasuada đau đầu – nó mất vài đêm nghĩ về các Urgal, cố tìm giải pháp phù hợp.





Hàng tuần trôi qua, Nasuada tiếp tục điều nó và Saphira đến nhiều nơi trong Surda và vương quốc, thường với tư cách dại diện cá nhân cô tới gặp vua Orrin, Lãnh chúa Risthart, các quý tộc và nhóm binh lính trên khắp lãnh thổ.





Đến nơi nào họ cũng tìm một nơi có thể làm nhà cho các Eldunarí cũng như nuôi dưỡng những quả trứng giấu ở Vroengard trong hàng thể kỉ tới. Có một khu vực ở rặng Spine có vẻ hứa hẹn, nhưng quá gần chỗ con người lẫn Urgal, hoặc quá xa về phương Bắc đến nỗi sống quanh năm ở đó rất khổ sở. Ngoài ra, Murtagh và Thorn cũng đi về phía Bắc, Eragon và Saphira không muốn gây cho họ thêm khó khăn nào nữa.





Rặng Beor có vẻ hoàn hảo, nhưng nó ngờ rằng những người lùn sẽ không hoan nghênh hàng trăm con rồng đói ngấu nở ra trong lãnh thổ của mình. Từ bất cứ nơi nào trong khu vực dãy Beors, chỉ cần bay một quãng ngắn là có thể đến một thành phố người lùn nào đó, mà những con rồng nhỏ sẽ làm cỏ những đàn Feldûnost mất – Eragon rút kinh nghiệm từ Saphira.





Nó cho là các tiên nhân sẽ không phản đối lũ rồng sống ở những ngọn núi tại Du Weldenvarden, nhưng Eragon vẫn băn khoăn về việc ở gần thành phố tiên nhân. Thêm nữa, nó không khoái ý tưởng để lũ rồng và các Eldunarí trong lãnh thổ của bất kì giống loài nào. Điều đó sẽ có vẻ như họ đặc biệt thiên vị. Các Kỵ Sỹ trong quá khứ sẽ không bao giờ làm điều đó – Eragon tin tưởng – và cả các Kỵ Sỹ trong tương lai cũng thế.





Nơi duy nhất đủ xa khỏi mọi thành phố mà chưa có loài nào chiếm lấy là quê hương cổ xưa của loài rồng: sâu trong lòng sa mạc Hadarac, nơi ngọn Du Fells Nangoröth, rặng Núi-Nguyền-Rủa sừng sững. Eragon chắc chắn đó là nơi tuyệt vời để nuôi những con rồng non. Tuy nhiên có ba điểm bất cập. Đầu tiên, gần như sẽ không có đủ thức ăn trong sa mạc cho những con non. Saphira sẽ phải mất phần lớn thời gian vác hươu nai và các động vật hoang khác đến rặng núi. Và dĩ nhiên, khi những con non lớn hơn, chúng sẽ bắt đầu tự bay, khiến chúng dễ tới gần con người, tiên nhân hoặc người lùn hơn. Thứ hai, những người lữ hành rộng khắp – và cả những người khác – đều biết những ngọn núi nằm ở đâu. Thứ ba, rõ ràng không khó để tới được dãy núi, nhất là trong mùa đông. Hai điểm cuối khiến Eragon lo lắng nhất, băn khoăn không biết làm sao có thể bảo vệ những quả trứng, lũ rồng nong và các Eldunarí.





Sẽ tốt hơn nhiều nếu chúng ta lên hẳn những đính núi Beors, nơi chỉ những con rồng có thể bay tới, Nó nói với Saphira. Thì sẽ không kẻ nào có thể mò lên, trừ Thorn, Murtagh lẫn các pháp sư.





Các pháp sư, như bất kì tiên nhân nào ấy à? Với cả nơi đó lạnh quanh năm nữa!





Anh ngỡ em không ngại lạnh lắm.





Em thì không. Nhưng em không muốn sống với tuyết cả năm. Cát tốt cho vảy bọn em hơn; Glaedr bảo vậy. Cát giúp đánh bóng và làm sạch vảy.





Hmm.





Mỗi ngày trời một trở lạnh. Cây cối dần rụng lá, những đàn chim bay về phương Nam, rồi mùa đông tràn về. Đó là một mùa đông khắc nghiệt như thể toàn bộ Alagaësia đang chìm trong giấc ngủ sâu. Ngay khi tuyết bắt đầu rơi, Orik và quân đội của ông trở về ngay rặng Beor. Các tiên nhân còn ở Ilirea – trừ Vanir và Blödhgarm cùng mười pháp sư – đều trở về Du Weldenvarden. Các Urgal đã khởi hành trước đó. Ma mèo rời đi cuối cùng. Chúng chỉ đơn giản biến mất, khong ai thấy chúng bỏ đi, rồi một ngày không ai thấy con ma mèo nào nữa, trừ con ma mèo to béo tên Mắt-vàng nằm trên tấm nệm bên cạnh Nasuada, suốt ngày nằm ngủ, rên rỉ, lắng nghe mọi việc trong cung điện.





Không có các tiên nhân và người lùn, Eragon cảm thấy cả thành phố trống rỗng buồn bã, nó đi dọc qua những con phố, hàng đụn tuyết rơi xuống từ kẽ hở của phiến đá trên đầu.





Nasuada vẫn tiếp tục điều nó đi làm nhiệm vụ. Nhưng cô chưa bao giờ điều họ tới Du Weldenvarden, nơi Eragon tha thiết muốn tới. Họ vẫn chưa nhận được tin gì từ các tiên nhân về người kế tục Islanzadí, khi được hỏi, Vanir chỉ đơn giản nói, “Chúng tôi không phải những kẻ vội vã, đối với chúng tôi, bổ nhiệm tân vương luôn là một quá trình khó khăn phức tạp. Ngay khi biết quyết định của hội đồng trưởng lão, tôi sẽ báo cho cậu.





Eragon đã không gặp mặt hay nghe tin gì từ Arya quá lâu rồi, tới mức nó cân nhắc dùng tên của cổ ngữ để vượt qua lưới phòng hộ quanh Du Weldenvarden để có thể liên lạc trực tiếp hay ít nhất qua cầu thủy tinh. Tuy nhiên nó biết các tiên nhân sẽ không vui vì bị xâm phạm, nó cũng sợ Arya sẽ không thông cảm việc liên lạc với cô mà không có việc gì bức thiết.





Do vậy, nó viết cho cô một bức thư ngắn, hỏi thăm và nói cho cô biết tình hình nó và Saphira. Nó đưa bức thư cho Vanir, ông hứa sẽ gửi Aryan gay. Eragon chắc chắn Vanir giữ lời – họ nói chuyện bằng cổ ngữ - nhưng mãi nó vẫn không nhận được hồi âm từ Arya sau nhiều tháng, nó bắt đầu nghĩ vì một vài lý do gì đó, cô quyết định chấm dứt tình bạn giữa họ. Ý nghĩ ấy làm nó hoảng sợ, khiến nó tập trung vào công việc Nasuada giao phó hơn bao giờ hết, hy vọng quên được nỗi u sầu ấy.





Tới giữa mùa đông, khi những ngọn bặng treo trên trần đá phía trên Ilirea và những tuyết rơi dày trên cánh đồng xung quanh, những con phố tắc nghẽn và bữa ăn ngày một hao hụt đi, ba vụ ám sát Nasuada diễn ra, như Murtagh cảnh báo.





Những vụ tấn công rất khéo léo và lên kế hoạch chu toàn, và vụ thứ ba – có cả một tấm lưới đầy đá rơi lên Nasuada – suýt nữa thành công. Nhưng được lưới phòng hộ của Eragon và Elva bảo vệ, Nasuada vẫn sống sót, dù vụ tấn công cuối làm cô bị gãy vài cái xương.





Trong vụ thứ ba, Eragon và các lính Chim-ưng-Đêm giết được hai kẻ tấn công – có bao nhiêu tên còn lại vẫn còn là ẩn số - nhưng đồng bọn chúng thoát được.





Sau đó Eragon và Jörmundur tiến một bước dài để đảm bảo an toàn của Nasuada. Họ tăng cường số lính gác, và dù cô đi đâu cũng có ba pháp sư theo hộ tống. Nasuada càng ngày càng cẩn trọng hơn, Eragon thấy vẻ cứng cỏi của cô trở nên rất rõ ràng.





Kể từ đó không còn vụ tấn công nào nhằm vào Nasuada nữa, nhưng chỉ một tháng sau khi mùa đông lui, những con phố lại quang đãng, một bá tước tên Hamlin, gom được vài trăm lính cũ của Đế chế, bắt đầu công hãm Gil’ead và tấn công những người đi tới đó.





Cùng lúc, một cuộc nổi dậy nhỏ nổ ra ở phương nam, dẫn đầu bởi Thoros Nhanh nhẹn ở Aroughs.





Vụ nổi loạn chỉ như gãi ngứa, nhưng họ vẫn mất vài tháng để đàn áp, có những trận chiến khá ác liệt bất ngờ, dù Eragon và Saphira cố giải quyết hòa bình hết mức. Sau những trận chiến họ tham gia, không ai muốn có thêm máu phải đổ cả.





Một thời gian ngắn sau khi vụ nổi dậy kết thúc, Katrina sinh hạ một bé gái bụ bẫm khỏe mạnh, mang một chóp tóc đỏ trên đầu như mẹ nó. Con bé khóc to hơn tất cả những đứa trẻ sơ sinh Eragon từng nghe, và có năm tay mạnh như thép. Roran và Katrina đặt tên đứa bé Ismira theo tên mẹ Katrina, mỗi khi họ nhìn mặt con bé, nét rạng ngời trên mặt họ khiến Eragon cũng cười toe toét theo.





Sau ngày Ismira sinh thành, Nasuada triệu hồi Roran tới cung điện, gây ngạc nhiên lớn khi ban cho anh danh hiệu bá tước và toàn bộ thung lũng Palancar làm lãnh thổ riêng.





“Cho đến khi anh và con cháu mình vẫn còn phù hợp, thung lũng sẽ là của các bạn,”





Roran cúi người nói, “Cảm tạ Nữ hoàng.” Eragon có thể thấy món quà ấy có ý nghĩ với Roran nhiều như sự ra đời của con gái anh vậy, bởi sau gia đình thứ quý giá nhất với Roran chính là quê hương.





Nasuada cũng muốn phong cho Eragon tước vị và đất đai, nhưng nó từ chối, “Đối với tôi được là Kỵ Sỹ cũng quá đủ rồi, tôi không cần gì khác.”





Vài ngày sau, Eragon thảo luận cùng Nasuada bên cạnh bản đồ Alagaësia về những vấn đề quan trọng khắp vương quốc, cô nói, “Giờ khi mọi chuyện đã ổn hơn, tôi nghĩ đã đến lúc xác lập vai trò của các pháp sư ở Surda, Teirm và vương quốc này.”





“Ồ?”





“Đúng vậy. Tôi đã nghĩ rất nhiều về chuyện này và đi tới quyết định, rằng tôi sẽ thành lập một nhóm, tương tự các Kỵ Sỹ, nhưng là cho các pháp sư.”





“Thế nhóm ấy sẽ làm gì?”





Nasuada nhặt cây bút lông lên, xoay xoay trong kẽ ngón. “Cũng giống với Đoàn Kỵ Sỹ: du hành khắp nơi, giữ gìn hòa bình, giải quyết xung đột về luật phát, và quan trọng nhất, trông chừng các pháp sư khác, để đảm bảo họ không sử dụng khả năng vào mục đích sai trái.”





Eragon nhăn mày khẽ. “Sao không để nó cho đoàn Kỵ Sỹ?”





“Bởi sẽ mất hàng năm trước trước khi có thêm, và kể cả như thế sẽ không đủ người để ý tới tất cả phù thủy hay pháp sư lẩn quất… Cậu vẫn chưa tìm ra nơi nuôi nấng lũ rồng, phải không?





Eragon lắc đầu. Cả nó lẫn Saphira đều cảm thấy mất kiên nhẫn, bởi họ và Eldunarí không thể đồng thuận về địa điểm được. Chuyện này ngày càng nhức nhối với họ, bởi những quả trứng cần được ấp càng sớm càng tốt.





“Tôi nghĩ là không. Chúng ta phải làm chuyện này, Eragon à, và chúng ta không chờ thêm được nữa. Nhìn những gì Galbatorix gây ra xem. Pháp sư là sinh vật nguy hiểm nhất trên đời, thậm chí hơn cả loài rồng, và họ phải bị kiểm soát. Nếu không chúng ta sẽ luôn phải cầu xin lòng nhân từ của họ.”





“Cô có thực sự tin rằng có khả năng tuyển đủ pháp sư để trong nom toàn bộ các pháp sư khác ở đây lẫn Surda không?”





“Tôi nghĩ vậy, nếu cậu yêu cầu họ. Đó là một lý do tôi muốn cậu lãnh đạo nhóm đó.”





“Tôi à?”





Cô gật đầu. “Ai khác chứ? Triana chắc? Tôi không hoàn toàn tin tưởng cô ta, mà cô ta cũng chẳng có đủ sức mạnh cần thiết. Một tiên nhân? Không, đó phải là giống loài chúng ta. Cậu biết tên của cổ ngữ, cậu là một Kỵ Sỹ,đằng sau cậu là trí tuệ và quyền lực từ những con rồng. Tôi không nghĩ ra ai hợp hơn để lãnh đạo các pháp sư. Tôi đã bàn với Orrin rồi, ông ta đồng ý.”





“Tôi không cho rằng ý tưởng ấy khiến ổng vui đâu.”





“Không, nhưng ông ta hiểu rằng nó cần thiết.”





“Thật không?” Eragon nắm lấy cạnh bàn, băn khoăn. “Cô định sẽ coi chừng những pháp sư không thuộc nhóm ấy trong bao lâu?”





“Tôi hy vọng cậu sẽ có vài đề nghị. Tôi cho rằng có lẽ với thần chú và gương cầu, chúng ta có thể theo dõi và giám sát họ sử dụng phép thuật, không cho họ làm lợi mình hại người.”





“Và nếu có?”





“Thì ta sẽ bắt chúng đền tội, bắt chúng phải thề bằng cổ ngữ từ bỏ sử dụng phép thuật.”





“Thề bằng cổ ngữ không chắc sẽ ngăn ai đó dùng phép thuật đâu.”





“Tôi biết, nhưng đó là điều tốt nhất có thể làm.”





Anh gật đầu. “Còn nếu pháp sư đó từ chối bị giám sát thì sao? Làm thế nào? Tôi không tưởng tượng được nhiều cách để thám thính họ đâu.”





Nasuada thở dài, đặt cây bút lông xuống. “Cái đó mới khó. Cậu sẽ làm gì hả Eragon, nếu cậu là tôi?”





Nó không có giải pháp nào hay hơn cả. “Tôi không biết ….”





Nét mặt cô buồn bã. “Tôi cũng thế. Đó là một vấn đề khó khăn, đau đớn và lộn xộn, dù tôi có chọn lựa gì, ai đó cũng sẽ bị tổn thương. Nếu tôi không làm gì, các pháp sư sẽ tự do thao túng người khác bằng thần chú. Nếu tôi ép họ đồng ý bị giám sát, rất nhiều người sẽ thù ghét tôi. Dù sao, tôi nghĩ cậu cũng đồng ý với tôi rằng tốt hơn phải bảo vệ đa số thần dân của mình với tổn thất của số ít.”





“Tôi không thích lắm,” nó lẩm bẩm.





“Tôi cũng đâu có thích.”





“Cô đang nói về việc trói buộc tất cả pháp sư người theo ý muốn, bất kể họ là ai.”





Cô không chớp mắt. “Vì lợi ích của đa số.”





“Thế những người chỉ có thể nghe ý nghĩ thôi thì sao? Đó cũng là một dạng phép thuật.”





“Cả họ nữa. Khả năng họ lạm dụng quyền năng ấy là rất lớn.” Nasuada thở dài. “Tôi biết chuyện này không dễ dàng gì. Dù Galbatorix điên khùng hay ma quỷ, nhưng lão cũng đúng một điều: các pháp sư phải bị kìm chế. Nhưng không phải như Galbatorix muốn. Dù sao vẫn phải làm gì đó, và tôi nghĩ kế hoạch của mình là giải pháp tốt nhất có thể. Nếu cậu có thể có cách khác tốt hơn để áp đặt luật pháp đối với pháp sư, tôi sẽ mừng lắm. Nếu không thì đây là điều duy nhất chúng ta có thể làm … Vậy, cậu có chấp nhận đứng đầu nhóm đó, vì vương quốc này, và cũng vì toàn thể giống nòi chúng ta không?”





Eragon im lặng một hồi lâu, rồi nói, “Nếu cô không phiền, tôi muốn suy nghĩ một lát. Và tôi muốn hỏi ý Saphira nữa.”





“Dĩ nhiên. Nhưng đừng nghĩ quá lâu Eragon à. Nhiều thứ đã bắt đầu được sửa soạn rồi, sẽ cần đến cậu sớm thôi.”





Sau đó, Eragon không đi thẳng đến chỗ Saphira mà lang thang qua những con phố Ilirea, lờ đi những người trên đường chào nó hay cúi người. Nó thấy … khó ở, với cả đề nghị của Nasuada lẫn cuộc sống nói chung. Nó và Saphira đã nhàn rỗi quá lâu. Thời đại sắp thay vần rồi, hoàn cảnh không cho phép họ chờ thêm nữa. Họ phải qyết định sẽ làm gì, và lựa chọn nào cũng sẽ ảnh hưởng đến suốt đời họ.





Nó dành vài giờ vừa đi vừa suy nghĩ, chủ yếu về những ràng buộc và nghĩa vụ của nó. Đến chiều muộn, nó quay trở lại chỗ Saphira, không nói gì trèo lên lưng cô nàng.





Cô nàng phóng vụt ra khỏi sân nhà, bay thẳng lên bầu trời Ilirea, có thể phóng mắt xa hàng trăm dặm. Rồi cô nàng cứ lượn vòng một chỗ.





Họ không nói chuyện bằng lời mà trao đổi những trạng thái suy nghĩ. Saphira chia sẻ những băn khoăn của nó, nhưng cô nàng không lo lắng như nó về ràng buộc với những người khác. Nhưng Eragon biết không thể chỉ lờ đi hệ quả của lựa chọn của họ dù xét về khía cạnh chính trị hay cá nhân.





Cuối cùng nó nói, Chúng ta nên làm gì?





Saphira chíu xuống khi luồng gió dưới cánh cô nàng chậm lại. Điều chúng ta cần phải làm, như mọi trường hợp. Cô nàng không nói gì nữa, nhưng quay đi hạ dần xuống thành phố.





Eragon cảm kích sự im lặng của cô nàng. Quyết định ấy sẽ khó khăn với nó hơn nhiều so với cô nàng, và nó cần tự mình suy nghĩ về chuyện đó.





Rồi khi họ đáp xuống sân đình, Saphira huých nhẹ mõm cô nàng vào nó, Nếu anh muốn nói chuyện, em sẽ ở đây.





Nó mỉm cười, gãi gãi bên cổ cô nàng, rồi chầm chậm bước về phòng mình, nhìn chăm chú sàn nhà.





Đêm đó, khi vầng trăng khuyết vừa hiện ra trên bờ tường Ilirea, Eragon đang ngồi cuối giường đọc sách về kĩ thuật làm yên cương trong thời kì Kỵ Sỹ sơ khai, một ánh sáng bập bùng bên khóe – như tấm màn vung vẩy – khiến nó chú ý.





Nó phóng xuống sàn, rút thanh Brisingr khỏi bao.





Rồi trên cửa sổ đang mở, nó thấy một con thuyền ba buồm bện từ cỏ. Nó mỉm cười đút kiếm trở lại. Nó dang tay ra, con thuyền trôi vào trong phòng hạ lên lòng bàn tay nó, nằm nghiêng về một phía.





Con thuyền này khác so với cái Arya đã làm trong hành trình của họ trong lòng Đế chế. Nó nhiều cột buồm hơn, những cánh buồm cũng kết nên từ lá cỏ. Dù những lá cỏ có rũ xuống đượm màu vàng, chúng vẫn không khô hết, khiến nó nghĩ chúng mới chỉ được ngắt cách một hai ngày mà thôi.





Một miếng giấy giấp buộc vào giữa sàn thuyền. Eragon cẩn thận gỡ nó ra, tim đập thình thịch khi mở miếng giấy. Trên đó những nét chữ viết bằng cổ ngữ:





Eragon,



Chúng tôi đã quyết định được người lãnh đạo, tôi đang trên đường tới Ilirea để sắp xếp giới thiệu với Nasuada. Tôi sẽ nói chuyện với cậu và Saphira trước. Thông điệp này sẽ tới tay cậu bốn ngày trước nửa con trăng. Nếu cậu tới, gặp tôi một ngày sau khi nhận được nó, ở bờ cực Đông sông Ramr. Đến một mình thôi, và đừng nói cho ai khác biết cậu đi đâu.





Arya





Eragon tự động mỉm cười. Cô đã căn thời gian cực kì chuẩn, con thuyền đến chính xác như cô dự định. Rồi nụ cười của nó nhạt dần, nó đọc lại bức thư vài lần. Cô đang giấu chuyền gì đó, hiển nhiên rồi. Nhưng chuyện gì? Vì sao phải gặp bí mật?





Có lẽ Arya không chấp thuận người lãnh đạo kế tiếp của tiên nhân, nó nghĩ. Hoặc có thể là vấn đề nào khác đó. Dù Eragon nôn nóng gặp lại Arya, nó cũng không thể quên cô đã lờ tịt nó và Saphira như thế nào. Nó cho rằng từ quan điểm Arya, ba tháng chỉ là khoảng thời gian vặt vãnh, nhưng nó vẫn không khỏi cảm thấy bị tổn thương.





Nó đợi khi tia nắng đầu tiên ló ra trên bầu trời, rồi vội đi xuống thức Saphira dậy nói cho cô nàng biết. Cô nàng cũng tò mò như nó, nhưng không hưng phấn bằng.





Nó buộc yên cương, rồi cả hai rời thành phố bay theo hướng Đông Bắc mà không nói với ai hết, kể cả Glaedr và các Eldunarí.





FÍRNEN





Khi họ tới địa điểm Arya hẹn trước thì trời đã ngả về chiều: một khoảng sông Ramr uốn lượn đánh dấu quãng ngoặt về phía đông.





Eragon căng mắt nhìn qua cổ Saphira xem có ai ở dưới hay không. Khoảng đất phía dưới không có ai ngoài một đàn bò rừng. Khi thấy Saphira chúng cắm đầu chạy bụi tung mù mịt. Trừ vài loài động vật khác rải rác khắp vùng đồng cỏ, Eragon không cảm nhận được sinh vật nào khác. Thất vọng tràn trề, nó quay ra nhìn về phía chân trời nhưng không thấy bóng dáng Arya.





Saphira hạ cánh xuống một mô đất cách bờ sông chừng năm mươi thước. Cô nàng và Eragon ngồi xuống, nó dựa lưng vào cô nàng nghỉ ngơi.





Bề mặt mô đất là một vùng đá cằn cỗi màu xanh đen. Trong khi chờ đợi, Eragon giải trí bằng cách nghiền những viên đá to bằng ngón tay thành hình mũi tên. Những mũi tên đá quá mềm để làm gì ngoài trang trí, nhưng nó khoan khoái với thử thách ấy. Khi nó thỏa mãn với một hình tam giác đơn giản, nó bỏ sang một bên, bắt đầu một viên lớn hơn thành con dao lưỡi hình lá, tương tự vũ khí của các tiên nhân.





Họ không phải chờ lâu như nó nghĩ.





Khoảng một giờ sau, Saphira nghển cổ nhìn qua trảng cỏ dài về phía không-xa-lắm sa mạc Hadarac.





Thân thể cô nàng dốc cứng lại, nó cảm thấy một cảm xúc kì lạ trong cô nàng: từa tựa một chuyện gì đó rất khẩn yếu sắp xảy đến.





Nhìn kìa, cô nàng nói.





Vẫn cầm trên tay con dao làm nửa chừng, nó lồm cồm bò dậy quay qua nhìn về phía Đông.





Nó không thấy gì ngoài cỏ, đất và một vài bụi cây rì rào trong gió trước đường chân trời. Nó cố nhìn chăm chú nhưng không thấy gì đáng chú ý cả.





Cái gì – nó vừa định hỏi thì im bặt lại, ngước lên trên.





Mãi trên cao về phía đông, nó thấy một ngọn lửa màu xanh nhất nháy, như viên ngọc lục bảo lấp lánh dưới ánh mặt trời. Điểm sáng bay vòng qua màn trời xanh ngắt, tiến lại rất nhanh, tỏa sáng như ngôi sao đêm.





Eragon thả rơi con dao đá xuống đất, mắt vẫn dán về phía ánh sáng lấp lóe, trèo lên lưng Saphira buộc nhanh đai vào yên cương. Nó muốn cô nàng xem điểm sáng kia là gì –buộc cô nàng xác nhận điều nó đang nghĩ – nhưng nó không thể khiến cô nàng hé miệng thêm.





Saphira vẫn đứng nguyên, dù đôi cánh dang rộng nửa chừng, sẵn sàng cất cánh.





Điểm sáng lớn hơn, nở rộng ra thành hàng tá, rồi hàng trăm, rồi hàng nghìn điểm sáng nhỏ li ti. Sau vài phút hình sáng của nó lộ diện, họ nhìn thấy đó là một con rồng.





Saphira không thể chờ thêm. Cô nàng phát ra một tiếng kêu vang dội, nhảy lên rồi phi xuống.





Eragon bám chặt mấu nhọn trước mặt khi cô nàng lao vụt lên gần như thẳng đứng, háo hức chặn con rồng kia lại nhanh nhất có thể. Cả nó và cô nàng đều bừng lên cảm giác vừa phấn chấn lẫn cảnh giác, thứ hình thành qua bao cuộc chiến. Cẩn thận xem lại, họ mừng vì mặt trời đang ở phía sau.





Saphira tiếp tục bay lên cho tới khi cô nàng hơi cao hơn so với con rồng xanh, từ đó cô nàng có thể hạ độ cao tập trung vào tốc độ.





Tiến gần hơn, Eragon thấy con rồng, tuy khá lớn, nhưng trông vẫn còn khá trẻ - các chi của nó vẫn chưa có được khối lượng đồ sộ như Glaedr hay Thorn – và nó còn nhỏ hơn Saphira nữa. Mảng vảy phía bên sườn và lưng nó có màu xanh thẫm, trong khi phía bụng và bàn chân sáng hơn, có chỗ vẫn còn trăng trắng. Khi khép vào, cánh của nó có màu cây nhựa ruồi, nhưng khi ánh sáng xuyên qua, chúng có màu lá rồi khi vào xuân.





Trên điểm nối giữa cổ và lưng là một cái yên rất giống của Sahira, trên đó Arya đang ngồi, máu tóc đen óng ả tung bay. Cảnh tượng khiến Eragon vui sướng khôn cùng, sự trống vắng phải chịu đựng bao ngày biến mất như ánh mặt trời xua tan màn đêm.





Rồi hai con rồng nhào qua nhau, Saphira gầm lên, con rồng kia cũng gầm lên đáp trả. Chúng quay ngược lại, bắt đầu bay vòng quanh– như thể đang đuổi theo đuôi của nhau – Saphira ở cao hơn con rồng xanh một chút, lúc này đang cô trèo lên người cô. Nếu nó làm được, Eragon sợ nó sẽ cố lấy lợi thế trước khi tấn công.





Nó cười toe toét, la hét bạt gió. Arya giơ tay hét trả. Rồi Eragon chạm vào tâm trí cô, để chắc chắn, và nó biết ngay lập tức đó thực sự là Arya, cô và con rồng cũng không có ý làm bị thương họ. Nó lui lại ngay, bởi sẽ rất thô lỗ nếu kéo dài tiếp xúc tâm trí mà không được cô đồng ý; cô sẽ trả lời những câu hỏi của nó khi họ xuống nói chuyện dưới mặt đất.





Saphira và con rồng xanh lại gầm lên, rồi con rồng xanh vẫy cái đuôi hình roi, chúng đuổi nhau cho tới khi đến sông Ramr. Từ đó Saphira dẫn trước, lao xoáy hình trôn ốc hạ cánh xuống mô đất hai đứa vừa ngồi đợi.





Con rồng xanh hạ cánh cách gần trăm thước, cúi đầu thấp khi Arya nhảy xuống khỏi yên cương.





Eragon tháo đai chân nhảy xuống đất, vỏ thanh Brisingr đập vào chân nó. Hai người cùng chạy tới, gặp nhau ở khoảng giữa hai con rồng, đang đi lại chậm rãi hơn, dậm huỳnh huỵch lên mặt đất.





Khi họ tới gần, Eragon nhìn thấy trên mảng tóc từng là một sợi dây da chắn lại, giờ là một chiếc vòng vàng đeo phía trên trán. Ở giữa vòng vàng, một viên kim cương hình giọt lệ lóa sáng từ trong sâu thắm. Trên hông cô đeo thanh kiếm chuôi xanh trong vỏ bao cũng màu xanh, nó nhận ra đó là thanh Támerlein mà vị tiên nhân Fiolr muốn tặng nó để thay thế thanh Zar’roc, từng thuộc về Kỵ Sỹ Arva. Tuy nhiên, chuôi kiếm hơi khác so với trí nhớ của nó, nhẹ hơn, duyên dáng hơn và bao kiếm cũng nông hơn nữa.





Phải mất một lúc nó mới nhận ra chiếc mũ miện có nghĩa gì. Nó nhìn Arya kinh nhạc. “Nàng!”





“Là tôi,” cô gật nhẹ đầu. “Atra esterní ono thelduin, Eragon.”





““Atra du evarínya ono varda, Arya … Dröttning?” Nó không thể không nghĩ rằng cô đã chọn gặp mặt nó đầu tiên.





“Dröttning,” cô xác nhận. “Dân tộc tôi đã lựa chọn phong cho tôi tước vị của mẫu thân, và tôi chọn cách chấp thuận.”





Phía trên họ, Saphira và con rồng xanh thò đầu gần nhau đánh hơi. Saphira cao hơn, con rồng xanh phải nghển cổ để vươn tới cô nàng.





Dù Eragon đang rất muốn nói chuyện với Arya, nó không thể nhịn được nhìn chăm chú con rồng xanh. “Còn nó?” Eragon ngước đầu lên hỏi.





Arya mỉm cười, khiến nó ngạc nhiên khi cầm tay nó dẫn tới. Con rồng xanh khịt mũi, hạ thấp đầu xuống ngay trên họ, khói và hơi nước xộc ra từ sâu trong lỗ mũi sâu.





“Eragon,” cô nóng, đặt nay lên chiếc mõm ấm áp của con rồng, “đây là Fírnen. Fírnen, đây là Eragon.”





Eragon ngước nhìn lên con mắt sáng lấp lánh của Fírnen. Những sợi cơ sâu trong tròng mắt rồng có màu xanh nhạt và vàng như những phiến cỏ tươi.





Rất hân hạnh được gặp anh, Eragon-bằng-hữu-Khắc-tinh-của-Tà-thần à, Fírnen nói. Giọng nói bằng ý nghĩ của nó sâu hơn Eragon tưởng, thậm chí còn hơn Thorn hay Galedr hay bất kì Eldunarí nào từ Vroengard. Kỵ Sỹ của tôi đã kể rất nhiều về anh. Rồi con rồng nháy mắt, với một tiếng động nhỏ, sắc lẻm như vỏ sò đạp vào tảng đá.





Trong tâm trí rộng rãi, sáng sủa của Fírnen, Eragon có thể cảm thấy con rồng đang rất phấn khích.





Trong lòng Eragon dâng nên một băn khăn, wonder that such a thing had come to pass.“Tôi cũng rất hân hạnh được gặp cậu, Fírnen-finiarel. Tôi không bao giờ nghĩ mình còn sống để thấy cậu nở và thoát khỏi bùa chú của Galbatorix.”





Con rồng lục khịt mũi nhẹ. Nó trông tự hào, tràn trề năng lượng như một con hươu mùa thu. Rồi nó quay về phía Saphira. Giữa chúng có rất nhiều thứ lướt qua; qua Saphira, Eragon có thể cảm thấy những luồn suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, nhưng rồi chúng hòa trộn, trôi vào nhau như một cơn sóng ào đi.





Arya cười nhẹ. “Chúng có vẻ thích nhau đấy nhỉ.”





“Cái đấy thì hẳn rồi.”





Như hiểu nhau mà không cần nói nên lời, nó và Arya rời bước khỏi Saphira và Fírnen, để hai con rồng lại với nhau. Saphira không ngồi như mọi khi mà thu mình cúi xuống như thể sắp nhảy chồm lên một con hươu. Fírnen cũng tương tự. Đầu đuôi của chúng xoắn lại với nhau.





Arya nhìn vẫn ổn: Eragon nghĩ còn tốt hơn từ những ngày còn ở cùng nhau tại Ellesméra. Không có lời nào thích hợp khác, nó có thể nói cô trông rất hạnh phúc.





Vừa nhìn lũ rồng, không ai cất tiếng một hồi lâu. Rồi Arya quay sang nó nói, “Tôi xin lỗi vì đã không liên lạc với cậu sớm hơn. Cậu chắc phải nghĩ về tôi tệ lắm vì đã lờ cậu lẫn Saphira và giữ bí mật về Fírnen trong thời gian dài như vậy.”





“Nàng có nhận được bức thư của ta không?”





“Tôi đã.” Nó ngạc nhiên thấy cô thò tay vào trong áo choàng lấy ra một mảnh giấy, sau một vài giây nó nhận ra đó là gì. “Tôi có thể trả lời, nhưng Fírnen vừa nở ra và tôi thì không muốn nói dối cậu, kể cả bằng cách tảng lời đi chuyện đó.”





“Vì sao phải giấu nó đi?”





“Có quá nhiều tay sai của Galbatorix vẫn còn bên ngoài, mà có quá ít rồng sót lại, tôi không muốn mạo hiểm để ai đó biết về Fírnen cho tới khi nó đủ lớn để tự bảo vệ.”





“Nàng có thực sự nghĩ rằng một con người có thể lẩn vào Du Weldenvarden giết nó không?”





“Những chuyện kì lạ đã từng xảy ra rồi. Khi loài rồng đang ở bên bờ tuyệt chủng thì rủi ro như vậy không đáng chấp nhận. Nếu có thể, tôi sẽ giữ Fírnen tại Du Weldenvarden trong mười năm tới, cho đến khi nó đủ lớn tới mức không ai dám tấn công nữa. Nhưng nó muốn đi đây đi đó, còn tôi không thể từ chối được. Ngoài ra, đã đến lúc tôi phải gặp Nasuada và Orik trên cương vị mới.”





Eragon có thể cảm thấy Fírnen đang kể cho Saphira lần đầu tiên nó bắt một con hươu thế nào. Nó biết Arya cũng nhận thấy điều đó, khi vành môi cô mím nhẹ đáp lại hình ảnh Fírnen đang nhảy bật đuổi theo con hươu đang giật mình bởi vấp phải một nhành cây.





“Nàng đã là nữ hoàng bao lâu rồi?”





“Từ một tháng sau khi tôi trở về. Vanir cũng không biết. Tôi yêu cầu thông tin giữ kín khỏi ông lẫn sứ thần với người lùn, để có thể chuyên tâm nuôi nấng Fírnen mà không bị quấy rầy bởi những chuyện ngoại giao sẽ đổ lên đầu mình nếu không làm vậy … Cậu sẽ rất vui đấy: tôi nuôi nó trên Vách đá Tel’naeír, nơi Oromis sống cùng Glaedr. Như thế thực phù hợp.”





Một khoảng dài im lặng. Rồi Eragon ra hiệu về phía mũ miện Arya lẫn Fírnen nói, “Tât cả những chuyện này xảy ra thế nào?”





Cô mìm cười. “Trong hành trình trở lại Ellesméra, tôi chú ý thấy Fírnen bắt đầu cựa quậy bên trong, nhưng tôi không nghĩ gì hết, như Saphira cũng thường làm thế. Tuy nhiên khi chúng tôi tới Du Weldenvarden và vượt qua lưới phòng hộ, nó nở luôn. Đó là lúc gần tối, tôi đang mang quả trứng trong vạt áo như khi mang Saphira, tôi đang nói chuyện với nó, kể cho nó nghe về thế giới và đảm bảo nó vẫn an toàn, thì đột nhiên thấy quả trứng rung lên và…” Cô run nhẹ, vuốt mái tóc, một dòng lệ tuôn ra từ khóe mắt. “Mối liên kết đúng như tất cả những gì tôi tưởng tượng. Khi chúng tôi chạm vào nhau… Tôi luôn muốn trở thành Kỵ Sỹ rồng, Eragon à, để có thể bảo vệ nhân dân mình và trả thù cái chết của cha mình dưới tay Galbatorix và những Kẻ Phản Tặc, nhưng mãi cho tới khi nhìn thấy vết nứt đầu tiên trên vỏ Fírnen, tôi chưa bao giờ cho mình tin tưởng chuyện đó thực sự sẽ xảy ra.”





“Khi nàng chạm vào, có …”





“Có.” Cô ngửa bàn tay trái ra, cho nó thấy dấu màu bạc trong lòng bàn tay, giống như gedwëy ignasia của nó. “Nó như thể …” Cô ngừng lại tìm từ thích hợp.





“Như thể dòng nước lạnh như băng châm châm chích và chồm lấy,” nó gợi ý.





“Chính xác như vậy.” Có vẻ lơ đãng, cô khoanh tay như thể bị lạnh.





“Rồi nàng trở lại Ellesméra,” Eragon nói. Lúc này Saphira đang kể cho Fírnen nghe cô nàng bơi cùng Eragon trong hồ Leona trên dường tới Dras-Leona cùng Brom.





“Rồi chúng tôi trở lại Ellesméra.”





“Rồi nàng lên sống ở Vách đá Tel’naeír. Nhưng sao lại trở thành nữ hoàng khi nàng đã là Kỵ Sỹ?”





“Đó không phải là ý của tôi. Däthedr và các tiền bối khác trong giống loài đã tới vách đá, họ hỏi tôi xem có muốn kế thừa danh hiệu của mẫu thân hay không, rồi một ngày sau, rồi mọi ngày trong tuần, mỗi lần họ lại đưa ra những lý lẽ mới vì sao tôi nên chấp nhận ngôi báu. Cuối cùng, họ thuyết phục được tôi rằng đó là điều tốt nhất cho dân tộc.”





“Nhưng sao phải là nàng? Có phải vì nàng là con gái Islanzadí, hay vì nàng đã trở thành Kỵ Sỹ rồng?”





“Chuyện này không chỉ vì Islanzadí là mẹ tôi, nhưng đúng là có một phần. Cũng không phải chỉ vì tôi đã là Kỵ Sỹ. Nền chính trị của chúng tôi phức tạp hơn nhiều so với con người và người lùn, chọn ra tân vương không bao giờ dễ dàng cả. Nó bao gồm gom được sự đồng thuận của hàng tá những gia đình và dòng tộc, cũng như những tiền bối của giống loài, mỗi lựa chọn của họ là một phần của trò chơi tinh tế chúng tôi đã thực hiện với nhau trong hàng ngàn năm… có nhiều lý do vì sao họ muốn tôi cho thành nữ hoàng, mà không phải tất cả chúng đều hiển nhiên.”





Eragon nghiêng mình, nhìn về phía giữa Saphira và Arya, không thể thuyết phục bản thân mình đồng tình với quyết định của Arya. “Làm sao nàng vừa là Kỵ Sỹ lẫn nữ hoàng được?” no hỏi. “Các Kỵ Sỹ không được ủng hộ giống loài nào hơn cả. Nếu không những giống loài ở Alagaësia sẽ không thể tin tưởng chúng ta. Và làm sao nàng có thể xây dựng thành viên đoàn Kỵ Sỹ cũng như nuôi nấng thế hệ rồng tiếp theo nếu nàng bận bịu với trách nhiệm ở Ellesméra được?”





“Thế giới không còn giống như trước nữa,” cô nói. “Kể cả các Kỵ Sỹ cũng không thể đứng tách biệt như đã từng. Chúng ta có quá ít để có thể đứng một mình, và còn rất lâu nữa mới có đủ thành viên để trở lại vị thế trước kia. Dù sao đi nữa, chẳng phải cậu cũng đã thề trung thành với Nasuada, và với Orik lẫn Dûrgrimst Ingeitum, nhưng không phải với chúng tôi, không phải với älfakyn. Sẽ hợp lý nếu chúng tôi cũng có Kỵ Sỹ và rồng thôi.”





“Nàng biết Saphira và tôi sẽ chiến đấu vì tiên nhân cũng y như vì người lùn và con người mà,” nó phản đối.





“Tôi thì có, nhưng người khác thì không đâu. Vẻ bề ngoài cũng quan trọng đấy Eragon à. Cậu không thể thay đổi thực tế là cậu đã thề trung thành với Nasuada cũng như bộ tộc của Orik … Dân tộc tôi đã chịu nhiều đau khổ lớn lao trong một trăm năm qua, và có thể cậu không biết rõ, chúng tôi cũng không còn như như trước đây nữa. Khi vận mệnh của loài rồng suy vong, chúng tôi cũng thế. Chúng tôi có ít đứa trẻ ra đời hơn, và sức mạnh thì ngày càng sụt giảm. Thêm nữa, có người nói trí óc của chúng tôi cũng không sắc sảo như trước đây, dù rất khó để chứng minh điều đó.”





“Glaedr cũng nói với chúng tôi điều tương tự về loài người.” Eragon nói.





Cô gật đầu. “Ông ấy đúng đấy. Cả hai giống loài sẽ phải mất thời gian phục hồi, và điều đó phụ thuộc vào sự trở lại của loài rồng. Thêm nữa, kể cả khi giống loài của cậu cần Nasuada dẫn dắt, dân tộc tôi cũng cần người lãnh đạo. Một khi Islanzadí mất đi, tôi cảm thấy có nghĩa vụ phải tự mình làm chuyện đó.” Cô chạm nhẹ lên vai phải, nơi hình xăm chữ yawë ẩn khuất. “Tôi đã thề sẽ phục vụ người dân của mình khi không lớn hơn cậu bao nhiêu. Tôi không thể bỏ mặc họ bây giờ, khi họ rất cần tôi.”





“Họ sẽ luôn cần nàng mà.”





“Và tôi sẽ luôn đáp lại lời kêu gọi của họ,” cô đáp. “Đừng lo, Fírnen và tôi sẽ không lờ đi nghĩa vụ của rồng và Kỵ Sỹ đâu. Chúng tôi sẽ giúp cậu tuần tra và hòa giải những tranh chấp có thể, và dù ở đâu những con rồng được nuôi nấng tốt nhất, chúng tôi sẽ tới thăm và hỗ trợ thường xuyên nhất có thể, kể cả ở tận cùng rặng Spine đi chăng nữa.





Những lời của cô làm Eragon phiền lòng, nhưng nó cố giấu đi. Những gì cô hứa sẽ không thể nếu nó và Saphira làm như đã quyết định trong chuyến bay tới đây. Dù mọi điều Arya nói giúp xác nhận con đường họ đã chọn là đúng đắn, nó băn khoăn rằng Arya và Fírnen sẽ không thể theo được con đường họ đã chọn.”





Nó hơi cúi đầu, chấp nhận Arya có quyền và đã quyết định trở thành nữ hoàng. “Tôi biết nàng sẽ không từ chối trách nhiệm,” nó nói. “Chưa bao giờ nàng làm vậy cả.” Nó không muốn làm cho câu nói có vẻ thẳng thừng; đó đơn thuần là sự thực, vì thế nó tỏ ra tôn trọng cô. “và tôi hiểu tại sao nàng không liên lạc trong thời gian dài như vậy. Tôi cũng sẽ làm như thế nếu ở vị trí của nàng.”





Cô lại mỉm cười. “Cảm ơn.”





Nó ra hiệu vào thanh gươm của cô. “Tôi cho là Rhunön đã sửathanh Támerlein cho vừa với nàng phải không?”





“Đúng vậy, và bà ấy cũng càu nhàu suốt. Bà cứ nói mãi thanh gươm đã hoàn hảo như thế nào, như tôi thấy rất thoải mái với những sửa đổi của bà: thanh gươm cân bằng hơn trên tay tôi, nó không nặng hơn một cành cây là mấy.”





Khi họ đứng nhìn lũ rồng, Eragon chố nghĩ cách nói cho Arya về kế hoạch của họ. Trước khi nó kịp nói gì, cô đã nói, “Cậu và Saphira có khỏe không?”





“Chúng tôi vẫn khỏe.”





“Có gì đáng chú ý từ khi cậu viết thư không?”





Eragon nghĩ một phút, rồi nói ngắn gọn về những vụ ám sát Nasuada, cuộc nổi loạn ở phương Bắc và phương Nam, con gái Roran và Katrina ra đời, Roran được phong tước, danh sách báu vật họ thu hồi trong tòa thành. Cuối cùng, nó kể về chuyến trở lại Carvahall và cuộc viếng thăm nơi yên nghỉ của Brom.





Nghi nó nói, Saphira và Fírnen bắt đầu lượn vòng quanh nhau, đầu đuôi vẫy vẫy càng nhanh. Chúng đều hơi há miệng nhe hàng răng trắng dài, thở phì phò, phát ra những tiếng gầm gừ trầm thấp mà Eragon chưa bao giờ nghe thấy. Có vẻ như chúng sắp sửa tấn công nhau tới nới, khiến nó lo lắng, nhưng cảm giác của Saphira phải không giận dữ lẫn sợ hãi. Đó là …





Em muốn kiểm tra hắn, Saphira nói. Cô nàng vẫy đuôi đập lên mặt đất, khiến Fírnen khựng lại.





Kiểm tra nó? Thế nào? Để làm gì?





Để xem hắn có xương cứng rắn như sát và lửa trong bụng để hợp với em không.





Em có chắc không? Nó hỏi lại, hiểu ý của cô nàng.





Cô nàng đập đuôi lần nữa, rồi nó thấy sự chắc chắn lẫn ham muốn ghê gớm của cô nàng. Em biết mọi thứ về hắn – mọi thứ trừ chuyện này. Ngoài ra – cô nàng nháy mắt thích thú – rồng cũng không kết đôi suốt đời đâu.





Tốt lắm … nhưng cẩn thận nhé.





Nó vừa nói xong thì Saphira chồm lên cắn Fírnen bên sườn trái nhỉ máu, khiến Fírnen gầm lên bật ngược lại. Con rồng đỏ gầm gừ, có vẻ không tự tin, Saphira càng áp sát thì nó càng lui.





Saphira! Eragon bực mình, quay sang Arya định xin lỗi.





Arya có vẻ không bất ngờ lắm. Cô nàng nói với Fírnen, Eragon cũng nghe thấy, Nếu em muốn con bé tôn trọng, thì em phải cắn trả mới được.





Cô nhướng mắt nhìn Eragon, nó cười cười nhăn nhở tỏ vẻ hiểu.





Fírnen nhìn Arya lưỡng lự. Nó nhảy lui lại khi Saphira táp tới. Rồi cậu chàng gầm lên, dang cánh như thể khiến mình to ra, rồi xông tới Saphira – đớp về lớp vảy phía bắp chân cô nàng.





Nó thấy sự đau đớn Saphira cảm nhận không có vẻ gì là đau hết.





Shaphira và Fírnen tiếp tục xoay vòng, gầm gừ và tru lên ngày càng lớn. Cậu chàng dí xuống cổ Saphira, ép đầu cô nàng xuống, vừa ép vừa táp nhẹ vào xương sọ.





Saphira không vùng vẫy mạnh như Eragon tưởng, nó đoán già đoán non cô nàng đã để Fírnen chộp được, bởi ngay cả Thorn cũng không làm nổi chuyện đó.





“Lũ rồng kết bạn tình chắc chẳng bao giờ nhẹ nhàng nhỉ,”





“Cậu tưởng có những lời êm ái hay mơn trớn nhẹ nhàng chắc?”





“Tôi không cho là thế.”





Saphira nhấc cổ lên, quăng Fírnen lảo đảo về phía sau. Cô nàng gầm lên cào cào mặt đất bằng chân trước, rồi Fírnen ngẩng đầu lên phóng ra một luông lửa màu lục dài gấp đôi thân mình.





“Ồ!” Arya thốt lên vui sướng.





“Gì vậy?”





“Đây là lần đầu nó phun lửa!”





Saphira cũng phun ra một luồng lửa – Eragon có thể cảm thấy cái nóng từ cách năm mươi thước – rồi cô nàng rùn mình phóng lên trời, lao theo góc thẳng đứng. Fírnen ngay lập tức bay sát theo công nàng.





Eragon cùng Arya đứng nhìn lũ rồng lóe tráng trên bầu trời, vừa lượn vòng quanh nhau vừa phun ra những luồng lửa dữ dội. Đó là một khung cảnh tuyệt vời: vừa hoãng dã vừa đẹp lẫn đáng sợ. Eragon nhận ra nó đang được quan sát một nghi thức cổ xưa cơ bản nhất, một phần trong bức tranh tự nhiên mà nếu không có nó, thế giới này sẽ khô hèo và chết dần.





Kết nối giữa nó và Saphira dần trở nên mong manh khi khoảng cách họ tăng dần, nhưng nó vẫn cảm thấy ngọn lửa đam mê hừng hực, khiến cô nàng mờ mắt, không nghĩ được gì khác ngoài bản năng nguyên thủy của mọi sinh vật, kể cả tiên nhân cũng không loại trừ.





Lũ rồng nhỏ dần, cho tới khi chúng chỉ còn là một cặp sao lấp lánh xoay vòng quanh nhau trên bầu trời bao la. Từ khoảng cách ấy, Eragon vẫn nhận ra những tia suy nghĩ và cảm giác từ Saphira, và dù nó có trải nghiệm bao nhiêu lâu trong trí nhớ của các Eldunarí, má nó vẫn dần đỏ bừng lên, kể cả đỉnh tai nữa, nó thấy mình không thể nào nhìn thẳng Arya được.





Cô có vẻ cũng bị tác động bởi cảm xúc cua lũ rồng, dù khác nó nhiều; cô nhìn chằm chằm theo Saphria và Fírnen cười nhạt, đôi mắt sáng hơn bình thường, như thể cảnh tượng của lũ rồng khiến cô tràn ngập tự hào lẫn hạnh phúc.





Eragon thở ra, ngồi phịch xuống đất rồi bắt đầu vẽ vời trên nền đất bằng một nhành cỏ.





“Chậc, cũng không lâu lắm,” nó nói.





“Không đâu,” Arya đáp.





Họ cứ như vậy thêm vài phút nữa: cô đứng, nó ngồi trong im lặng bao trùm, trừ tiếng gió thổi hiu hiu.





Cuối cùng Eragon cũng dám ngước nhìn lên Arya. Cô trông đẹp hơn bao giờ hết. Nhưng trên nữa, nó nhìn thấy một người bạn và một đồng minh; nó nhìn thấy người con gái đã cứu mình khỏi tay Durza, người chiến đấu cạnh nó với vô số kẻ địch, người đã bị cầm tù cùng nó dưới lòng Dras-Leona, và cuối cùng, người đã giết Shruikan bằng thanh Dauthdaert. Nó nhớ những gì cô kể về cuộc sống thời niên thiếu ở Ellesméra, mối quan hệ khó khăn với mẹ cô, cũng như nhiều lý do khiến cô rời Du Weldenvarden và phục vụ như một đại sứ của loài tiên. Nó nghĩ tới những đau khổ cô phải chịu đựng: từ mẹ cô, từ sự cô lập giữa con người và người lùn, từ cái chết của Faolin, rồi từ những ngày bị Durza tra tấn ở Gil’ead.





Nó nghĩ tới tất cả những điều đó, nó cảm thấy một luồng kết nối sâu sắc lẫn u buồn dâng lên, và đột nhiên nó khao khát được lưu giữ những gì đang thấy.





Trong khi Arya vẫn đang lắng nhìn bầu trời, Eragon nhìn quanh tìm kiếm một mảnh đá xám trên mặt đất. Cố giữ yên lặng hết mức có thể, nó cạy mảnh đá lên và phủi sạch đất trên mặt đá.





Phải mất một lúc để nhớ những câu thần chú nó từng sử dụng, rồi sửa đổi chúng để chiết xuất được những màu sắc cần thiết từ mặt đất. Nó ẩm nhẩm niệm từng từ một câu thần chú.





Mặt đá xoáy lên như thể bùn nhão cuộn lại. Rồi màu sắc – đỏ, lam, lục, vàng – tuôn ra trên phiến đá, bắt đầu tạo thành những đường nét và hình dáng, hòa trộn vào nhau tạo thành những đường nét tinh tế hơn. Sau vài giây, hình ảnh Arya xuất hiện.





Khi đã hoàn thành, nó giải trừ thần chú và quan sát bức chân dung. Nó hài lòng với thành quả trước mặt. Bức tranh có vẻ phản ánh chân thực Arya, không giống như bức chân dung của cô nó làm ở Ellesméra. Bức tranh nó đang cầm trong tay có chiều sâu hơn nhiều. Đó không phải là một hình ảnh hoàn hảo dựa trên từng đường nét, nhưng nó tự hào đã đưa được rất nhiều tính cách của cô vào trong. Trong một bức tranh thôi, nó đã tổng hợp tất cả những gì nó biết về cô, dù tốt hay xấu.





Nó tự cho mình hưởng thụ cảm giác thành quả một hồi, rồi quăng phiến đá sang một bên xuống đất.





“Kausta,” Arya nói, rồi phiến đá lượn vòng trên không trung bay vào tay cô.





Eragon há hốc miệng, đinh giải thích hay xin lỗi, nhưng rồi nó nghĩ lại và im bặt.





Arya cầm bức chân dung, nhìn chăm chú hồi lâu. Eragon nhìn cô không dứt, băn khoăn không biết phản ứng của cô sẽ thế nào.





Một phút dài căng thẳng trôi qua.





Rồi Arya hạ bức chân dung xuống.





Eragon đứng lên, vươn tay ra muốn lấy lại phiến đá, nhưng cô không có vẻ gì muốn trả lại. Cô có vẻ bối rối, tim nó chìm xuống, bức chân dung khiến cô nổi giận mất rồi.





Đột nhiên nhìn thẳng vào mắt nó, cô nói bằng cổ ngữ, “Eragon, nếu chàng vui lòng, tôi muốn nói cho chàng tên thật của mình.”





Lời ấy khiến nó lặng người. Nó gật đầu thảng thốt, khó khắn lắm mới nói được, “Tôi sẽ vinh dự được lắng nghe.”





Arya tiến lại gần nó, kề môi lên vành tai, nói tên thật của cô bằng một tiếng thì thầm nhỏ xíu. Khi nó nói, cái tên vang lên trong tâm trí nó, cùng theo một cảm giác thấu hiếu. Một số phần của cái tên nó đã biết, nhưng có rất nhiều phần khiến nó ngạc nhiên, nó nhận ra Arya đã khó khăn nhường nào để chia sẻ.





Rồi Arya lùi lại chờ phản ứng của nó, nét mặt trống không.





Tên cô khiến Eragon dâng lên vô số câu hỏi, nhưng nó biết không phải là lúc thích hợp đưa ra. Thêm nữa, nó cần đảm bảo cho Arya nó sẽ không nghĩ xấu về cô bởi những gì được biết. Nó cũng không nghĩ vậy. Cái tên chỉ khiến nó tôn trọng cô hơn, bởi nó thấy được hết sự vị kỉ lẫn sự cống hiến cho nghĩa vụ của cô. Nó biết rằng nếu phản ứng tồi – hoặc nói gì đó sai kể cả không nghĩ vậy – nó có thể phá hủy tình bạn của họ.





Nó ngước lên bắt gặp cái nhìn chăm chú của Arya, rồi nói bằng cổ ngữ, “Tên của nàng … tên của nàng là một cái tên đẹp. Nàng nên tự hào vì con người mình. Cảm ơn vì đã chia sẻ với tôi. Tôi mừng vì được gọi nàng là bạn, và tôi hứa sẽ luôn giữ tên nàng an toàn … Giờ, nàng có muốn nghe tên tôi không?”





Cô gật đầu. “Tôi muốn. Tôi hứa sẽ khắc ghi và bảo vệ nó cho tới khi nó vẫn là tên chàng.”





Eragon dâng lên cảm giác bồi hồi. Nó biết sẽ không thể quay ngược những gì nó sẽ làm, vừa cảm thấy sợ hãi lẫn phấn khích. Nó bước lên và làm tương tự Arya, kề môi lên vành tai cô thầm thì tên thật của nó nhẹ nhàng nhất có thể. Toàn bộ căn cốt nó rung lên thừa nhận những từ ngữ ấy.





Nó lùi lại, đột nhiên e dè. Cô sẽ đánh giá nó như thế nào đây? Tốt hay xấu đây? Dĩ nhiên cô sẽ đánh giá nó, làm sao mà ngăn được.





Arya thở ra một hơi dài nhìn lên bầu trời. Rồi cô quay qua nhìn nó, nét mặt dịu dàng hơn trước. “Chàng cũng có một cái tên đẹp, Eragon à,” cô khẽ nói. “Tuy nhiên, tôi không nghĩ đó là cái tên khi chàng rời Thung lũng Palancar.”





“Không.”





“Tôi cũng không nghĩ đó là cái tên chàng mang trong thời gian ở Ellesméra. Chàng đã trưởng thành nhiều từ khi chúng ta lần đầu gặp.”





“Tôi phải thế.”





Cô gật đầu. “Chàng vẫn còn trẻ, nhưng không còn là một đứa bé nữa.”





“Không đâu. Cái đó thì không.”





Eragon cảm thấy gần gũi cô hơn bao giờ hết. Trao đổi tên thật đã hình thành nên một mối liên kết giữa họ, theo cách nào thì nó không biết, cảm giác không an toàn khiến nó thấy dễ tổn thương biết bao. Cô đã nhìn thấy hết những khiếm khuyết của nó và cô đã không chối bỏ, mà chấp nhận con người nó, như nó chấp nhận con người cô. Thêm nữa, cô đã nhìn thấy trong cái tên nó cảm xúc sâu sắc dành cho cô, mà cả điều không làm cô thối lui.





Nó cân nhắc không biết có nên nói ra không, nhưng nó không thể dừng được. Sau một hồi lấy dũng khí, nó nói, “Arya, vậy chúng ta sẽ là gì của nhau?”





Cô lưỡng lự, nó biết cô hiểu rõ ý nó. Chọn từ ngữ thật cẩn thận, cô nói, “Tôi không biết … Nếu như trước kia tôi sẽ nói ‘không gì hết,’ nhưng giờ đây … Vả lại, chàng vẫn còn trẻ, và con người thì hay thay đổi. Trong mười năm, hay chỉ năm năm thôi, chàng có thể không còn cảm thấy như lúc này nữa.”





“Cảm giác của tôi sẽ không thay đổi đâu,” nó nói chắc chắn.





Cô bồn chồnngắm nhìn khuôn mặt nó một hồi lâu, “Nếu không, vậy thì … có lẽ đến lúc ….” Cô đặt tay vào một bên má nó. “Chàng không thể yêu cầu tôi hơn được. Tôi không muốn gây sai lầm với chàng, Eragon à. Chàng quá quan trọng, với cả tôi lẫn toàn Alagaësia.”





Nó cố mỉm cười, nhưng có vẻ giống nhăn nhó. “Nhưng … chúng ta không có thời gian,” nó nghẹn giọng, cảm thấy trong bụng quặn thắt.





Arya nhướn mày, thả tay xuống. “Chàng có ý gì?”





Nó nhìn trân trối lên bầu trời cố nghĩ cách nói cho cô. Cuối cùng, nó nói đơn giản nhất có thể. Nó giải thích khó khăn khi nó và Saphira phải tìm một nơi an toàn cho những quả trứng và các Eldunarí, rồi giải thích kế hoạch của Nasuada thành lập một nhóm pháp sư trông coi những pháp sư con người khác.





Nó nói vài phút, rồi kết luận, “Nên tôi và Saphira quyết định điều duy nhất có thể làm là rời khỏi Alagaësia và nuôi nấng những con rồng ở đâu đó cách xa người khác. Thế là tốt nhất cho chúng tôi, cho lũ rồng, và cho mọi chủng tộc ở Alagaësia.”





“Nhưng các Eldunarí …” Arya có vẻ sốc.





“Các Eldunarí cũng sẽ không ở lại. Chúng sẽ không bao giờ an toàn kể cả ở Ellesméra. Cho tới khi còn ở trên mảnh đất này, sẽ có những kẻ cố trộm lấy chúng để phục vụ cho mục đích cá nhân. Không, chúng tôi phải tìm một nơi như Vroengard, nơi không ai có thể tìm thấy những con rồng gia hại chúng, để những con non lẫn rồng hoang không thể hại ai được.” Eragon lại gắng mỉm cười, nhưng thất vọng từ bỏ. “Đó là lý do tôi nói không còn thời gian nữa. Saphira và tôi định đi càng sớm càng tốt, và nếu nàng ở lại … tôi không biết đến bao giờ chúng ta mới gặp lại nhau nữa.”





Arya bối rối nhìn xuống bức chân dung trong tay.





“Nàng có thể từ bỏ ngôi vị để đi cùng chúng tôi không?” nó hỏi, dù đã biết câu trả lời.





Cô nhìn lên. “Chàng có thể từ bỏ trách nhiệm với những quả trứng không?”





Nó lắc đầu. “Không.”





Họ cùng im lặng, lắng nghe tiếng gió thổi một hồi.





“Làm sao chàng chọn ứng cử viên làm Kỵ Sỹ được?” cô hỏi.





“Chúng tôi sẽ để lại vài quả trứng – cho nàng, tôi nghĩ vậy – và một khi nở, chúng và các Kỵ Sỹ sẽ tới gia nhập với chúng tôi, và tôi sẽ gửi thêm trứng cho nàng.”





“Phải có cách nào đó khác ngoài cách chàng và Saphira cùng tất cả Eldunarí rời bỏ Alagaësia chứ!”





“Nếu có, chúng tôi sẽ làm theo, nhưng chẳng có đâu.”





“Thế các Eldunarí thì sao? Glaedr và Umaroth thì sao? Chàng đã nói với họ chưa? Họ có đồng ý không?”





“Chúng tôi vẫn chưa nói chuyện với họ, nhưng họ sẽ đồng ý thôi. Cái đó tôi biết.”





“Chàng có chắc không, Eragon? Đó có thực là cách duy nhất – bỏ lại phía sau mọi thứ và tất cả những người chàng từng biết không?”





“Điều đó là cần thiết, và chuyến đi này đã được định sẵn rồi. Angela đã tiên đoán khi bà ấy bói cho tôi ở Teirm, tôi đã có thời gian dài để quen với điều đó.” Nó vươn tay ra chạm vào má Arya. “Nên, tôi hỏi lại: nàng có đi cùng chúng tôi không?”





Một dòng lệ trào ra từ đôi mắt Arya, rồi cô ôm chặt tấm chân dung vào ngực. “Tôi không thể.”





Nó gật đầu bỏ tay ra. “Vậy… chúng ta sẽ chia tay thôi.” Nó cũng tuôn lệ, cố gắng giữ bình tĩnh.





“Nhưng chưa đâu,” cô thầm thì. “Chúng ta vẫn còn thời gian bên nhau. Chàng sẽ không rời ngay lập tức chứ.”





“Không, không lập tức đâu.”





Rồi họ đứng cạnh nhau, ngước nhìn lên bầu trời chờ đợi Saphira và Fírnen trở lại. Sau một hồi, tay cô nắm lấy tay nó, và nó nắm chặt lại, cảm thấy an ủi làm dịu đi cơn nhức nhối trong tim.



----------------------------------





Lương tâm của con người





Ánh sáng ấm áp tràn qua cửa sổ từ bên phải tiền sảnh, soi sáng bức tường phía xa nơi những cột cờ, tranh vẽ, khiên, gươm giáo và vô số đầu hiêu treo giữa những cánh cửa chạm trổ tối màu rải đều nhau dọc bờ tường.





Khi Eragon bước tới phòng làm việc của Nasuada, nó ngước lên cánh cửa sổ nhìn ra thành phố. Từ sân đình, nó có thể nghe thấy những thi sĩ và nhạc sĩ vẫn biểu diễn bên cạnh bàn tiệc tiếp đãi Arya. Buổi tiệc đã diễn ra từ hôm qua khi cô và Fírnen trở về Ilirea cùng nó và Saphira. Nhưng giờ đâu họ đã bắt đầu thưa thớt, cuối cùng nó cũng có thể sắp xếp gặp mặt Nasuada.





Nó gật đầu với người lính gác bên ngoài rồi đi vào phòng.





Phía trong, nó thấy Nasuada đang tựa vào khung ghế dài, lắng nghe một nhạc sĩ thổi tiêu, hát một bản tình ca đẹp đẽ, nhưng cũng thê lương không kém. Phía cuối chiếc ghế cô bé phù thủy Elva ngồi mân mê mảnh vải thêu, và hầu gái của Nasuada là Farica đang ngồi gần đó. Trên vạt áo Farica, con mèo ma Mắt-Vàng đang cuộn mình trong dạng thú. Nó trông có vẻ ngái ngủ, nhưng từ kinh nghiệm Eragon biết nó rất có thể vẫn còn thức.





Eragon đứng chờ cạnh cánh cửa cho tới khi bài hát kết thúc.





“Cảm ơn. Anh lui được rồi,” Nasuada nói với người nghệ sĩ, “A, Eragon. Chào cậu.”





Nó cúi nhẹ chào cô, rồi quay sang cô bé, “Elva.”





Cô bé nhướng mày nhìn lên. “Eragon.” Tai con mèo ma giật giật.





“Cậu muốn bàn chuyện gì vậy?” Nasuada uống một hớp rượu nhỏ từ cốc rược trên bàn.





“Có lẽ chúng ta nên nói chuyện riêng.” Nó gật đầu ra hiệu về phía cánh cửa kính phía sau cô, dẫn ra ban công bên trên khoảng sân vườn và một đài phun nước.





Nasuada cân nhắc một chốc, rồi đứng dậy đi về phía ban công, kéo theo vạt áo tím phía sau.





Eragon đi theo, rồi họ đứng cạnh nhau, nhìn nước phun ra, trông mát lạnh trong bóng tối bóng đen phủ lên của tòa nhà.





“Buổi chiều đẹp làm sao,” Nasuada hít sâu. Cô có vẻ thư thái hơn chỉ vài giờ trước lần cuối nó nhìn thấy cô.





“Bài hát có vẻ khiến tâm trạng cô khá lên nhiều đấy,” nó dò hỏi.





“Không, không phải bà hát: Elva đấy.”





Nó hất đầu lên. “Như thế nào vậy?”





Nụ cười kì lạ hé ra trên khuôn mặt Nasuada. “Sau khoảng thời gian bị giam cầm ở Urû’baen - sau những gì tôi đã trải qua … và mất mát – rồi mấy vụ ám sát nữa, tôi thế thế giới này chẳng còn màu sắc gì hết. Tôi không còn cảm thấy chính mình, không có gì khiến tôi thoát khỏi cơn buồn bã ấy cả.”





“Tôi cũng đã nghĩ như thế,” nó nói, “nhưng tôi không biết phải làm gì hoặc nói gì cho tốt cả.”





“Không có gì hết. Cậu không thể nói hay làm gì giúp được tôi cả. Tôi có thể cứ mãi như thế hàng năm trời, nếu không có Elva. Con bé nói với tôi… nói với tôi những điều tôi cần nghe, tôi cho là vậy. Con bé đã hoàn thành lời hứa với tôi nó hứa từ lâu lắm rồi từ hồi còn ở lâu đài tại Aberon.” Eragon nhăn mặt, quay lại nhìn vào trong phòng, nơi Elva vẫn choc chọc miếng vải thêu. Trải qua tất cả những chuyện trước đây, nó vẫn không cảm giác hoàn toàn tin tưởng cô bé, nó sợ cô bé sẽ thao túng Nasuada cho lợi ích bản thân mình.





Nasuada chạm lên cánh tay nó. “Cậu không cần phải lo về tôi, Eragon à. Tôi biết quá nhiều về bản thân để con bé có thể khiến tôi mất thăng bằng kể cả nếu cố thử. Galbatorix cũng không hạ gục tôi được cơ mà, cậu nghĩ con bé có thể không?”





Nó ảm đạm nhìn lại cô. “Có đấy.”





Cô mỉm cười. “Tôi cảm kích sự quan tâm của cậu, nhưng trong chuyện này không có căn cứ lắm. Cứ để tôi nhấm nháp tâm trạng vui vẻ đi, cậu có thể để nghi ngờ của mình cho tôi lo sau cũng được.”





“Được rồi.” Nó dịu lại, “Tôi mừng vì cô thấy khá hơn.”





“Cảm ơn. Tôi cũng vậy… Saphira với Fírnen vẫn quấn lấy nhau chứ? Tôi không nghe thấy tiếng bọn chúng nữa.”





“Bọn chúng vẫn thế, nhưng giờ chúng đang ở trên mái đá.” Má nó hơi ấm lên khi chạm vào tâm trí Saphira.





“À.” Nasuada chắp tay vịn lên chấn song đá, trông như đóa diên vĩ nở rộ. “Giờ thì, sao cậu muốn gặp tôi? Cậu đã quyết định chuyện tôi đề nghị chưa?”





“Rồi.”





“Tuyệt vời. Thế thì chúng ta sẽ xúc tiến kế hoạch. Tôi đã …”





“Tôi quyết định không chấp nhận.”





“Sao?” Nasuada nhìn nó ngờ vực. “Vì sao? Cậu sẽ giao phó vị trí này cho ai?”





“Tôi không biết,” nó nhẹ nhàng nói. “Đó là chuyện cô và Orrin phải tự tính lấy.”





Lông mày cô nhướng lên. “Thậm chí cậu cũng không giúp chúng tôi chọn người phù hợp ư? Sao cậu có thể cho rằng tôi tin cậu sẽ tuân lệnh từ ai đó ngoài tôi?”





“Cô hiểu nhầm rồi,” nó nói. “Tôi không muốn lãnh đạo các pháp sư, cũng không gia nhập họ luôn.”





Nasuada nhìn chằm chằm nó một lúc, rồi tiến lại đóng cánh cửa thủy tinh để Elva, Farica lẫn con mèo ma không thể nghe thấy họ. Quay lại nó cô nói, “Eragon! Cậu đang nghĩ gì thế! Cậu biết cậu phải gia nhập mà. Tất cả các pháp sư phục vụ tôi đều phải thế. Không có ngoại lệ nào hết. Không ai hết! Tôi không thể khiến người dân nghĩ mình thiên vị được. Chuyện đó sẽ gây bất ổn trong hàng ngũ pháp sư, và tôi không muốn chính xác chuyện đó. Đến khi nào mà cậu còn là thần dân trong lãnh thổ của tôi, cậu sẽ phải tuân theo luật của nó, hoặc uy quyền của tôi chẳng có nghĩa gì hết. Đáng ra tôi không phải nói ra việc này chứ Eragon?”





“Cô không cần phải nói. Tôi hiểu rõ điều đó, chính là lý do vì sao Saphira và tôi đã quyết định sẽ rời Alagaësia.”





Nasuada bám vào hàng rào, như thể giữ mình đứng vững. Trong một khoảng thời gian, tiếng động duy nhất là tiếng nước phun ra.”





“Tôi không hiểu.”





Rồi như đã nói với Arya, nó lại giải thích lý do những con rồng, kéo theo nó và Saphira không thể ở lại Alagaësia được. Kết thúc, nó nói, “Tôi không thể nào lãnh đạo các pháp sư được. Saphira và tôi phải nuôi nấng lũ rồng và đào tạo các Kỵ Sỹ, chuyện đó phải được đặt trước hết. Kể cả nếu tôi có thời gian, tôi cũng không thể vừa lãnh đạo các Kỵ Sỹ vừa dưới quyền cô được, các giống loài khác sẽ không chấp nhận đâu. Dù Arya có trở thành nữ hoàng đi nữa, đoàn Kỵ Sỹ sẽ vẫn vô tư nhất có thể. Cách duy nhất khiến tôi có thể chấp nhận vị trí ấy là các pháp sư phải thuộc mọi chủng tộc – kể cả Urgal – chuyện ấy khó có thể xảy ra. Thêm nữa, đó còn chưa kể tới những quả trứng và các Eldunarí.”





Nasuada giận giữ. “Cậu không thể cho rằng tôi sẽ tin, với toàn bộ sức mạnh của mình, cậu vẫn không thể bảo vệ lũ rồng ở trong Alagaësia ư.”





“Có lẽ có thể, nhưng chúng tôi không thể dựa vào mỗi phép thuật để bảo vệ lũ rồng được. Chúng tôi cần những chướng ngại thực sự; chúng tôi cần tường cao hào sâu, hoặc những vách đá quá cao để con người, tiên nhân, người lùn hay Urgal có thể vươn tới. Quan trọng hơn, chúng tôi cần sự an toàn mà chỉ có khoảng cách mới đạt được. Chúng tôi tôi phải khiến việc tiếp cận khó khăn tới mức thử thách trên hành trình sẽ làm nản lòng những kẻ quyết tâm nhất. Giả sử tôi có thể bảo vệ lũ rồng, vấn đề sẽ lại nảy sinh phải tìm cách bảo đảm lũ rồng không săn gia súc – của chúng ta lẫn người lùn và Urgal. Cô có muốn phải giải thích với Orik hàng đàn Feldûnost biến mất, hay cô có muốn phải xoa dịu những nông dân mất súc vật không? … Không, giải pháp suy nhất là rời đi.”





Eragon nhìn xuống đài phun nước. “Kể cả nếu có một nơi cho những quả trứng và các Eldunarí tại Alagaësia này, sẽ không đúng đắn nếu tôi vẫn ở lại.”





“Vì sao thế?”





Nó lắc đầu. “Cô biết rõ câu trả lời như tôi mà. Tôi đã trở nên quá hùng mạnh. Cho đến khi tôi còn ở đây, uy quyền của cô – lẫn Arya, Orik hay Orrin – sẽ luôn luôn bị ngờ vực. Nếu tôi yêu cầu, hầu như mọi người dân Surda, Teirm hay vương quốc này sẽ đi theo tôi. Với những Eldunarí giúp đỡ, sẽ không kẻ nào có thể chống lại tôi, kể cả Murtagh hay Arya.”





“Cậu sẽ không bao giờ chống lại chúng tôi mà. Cậu không phải như vậy.”





“Không à? Trong suốt những năm tháng tôi sẽ sống – mà tôi có thể sống rất lâu – cô có thực tin rằng tôi sẽ không bao giờ can thiệp vào những sự vụ trên mảnh đất này không?”





“Nếu thực vậy, tôi chắc chắn là bởi một lý do tốt đẹp, và tôi cũng chắc sẽ vui lòng khi cậu giúp đỡ.”





“Thật không? Không nghi ngờ là tôi sẽ tin lý do của mình là đích đáng rồi, nhưng đấy mới là cạm bẫy, phải không? Niềm tin rằng tôi biết nhiều hơn và bởi vì có sức mạnh trong tay, tôi có trách nhiệm hành động.” Nhớ lại lời cô lúc trước, nó lặp lại: “Vì lợi ích của đa số mà. Nhưng nếu tôi sai lầm thì ai có thể ngăn tôi lại? Tôi có thể trở thành Galbatorix, dẫu cho có mong muốn tốt đẹp thế nào đi nữa. Rõ ràng sức mạnh khiến người ta có xu hướng đồng ý với tôi. Tôi đã tận mắt chứng kiến khi đi khắp Đế chế rồi… Nếu cô ở vị trí của tôi, liệu cô có thể kháng cự mong muốn xen vào, dù chỉ một chút, để khiến mọi thứ tốt hơn hay không? Sự hiện diện của tôi làm mất cân bằng, Nasuada à. Nếu tôi muốn tránh trở thành thứ tôi căm ghét, tôi phải rời đi thôi.”





Nasuada hất hàm. “Tôi có thể ra lệnh cậy ở lại.”





“Tôi hy vọng cô không làm vậy. Tôi sẽ mong được rời đi trong tình bằng hữu hơn là giận giữ.”





“Thế cậu sẽ không tuân theo ai trừ chính mình phải không?”





“Tôi sẽ tuân theo Saphira và lương tâm của chính mình, như vẫn luôn thế.”





Vành môi Nasuada cong lên. “Con người của lương tâm à – loại người nguy hiểm nhất trên đời đấy.”





Rồi âm thanh của đài phun nước lại trùm lên khoảng im lặng giữa hai người.





Rồi Nasuada nói, “Cậu có tin vào các thần linh không, Eragon?”





“Vị thần nào? Có nhiều lắm.”





“Bất kì vị nào. Tất cả họ. Cậu có tin vào quyền lực nào cao hơn chính mình không?”





“Ngoài Saphira ấy à?” Nó cười xin lỗi khi Nasuada cau mày. “Xin lỗi.” Nó nghiêm túc nghĩ khoảng một phút, “Có lẽ họ tồn tại. Tôi không biết. Tôi đã thấy … Tôi không chắc mình thấy gì, nhưng tôi có thể đã thấy thần Gûntera ở Tronjheim khi Orik đăng quang. Nếu có thần thánh, tôi cũng không đánh giá họ cao lắm khi để Galbatorix trên ngôi báu lâu như vậy.”





“Có lẽ cậu là công cụ của thần linh để loại trừ lão thì sao. Cậu đã bao giờ nghĩ vậy chưa?”





“Tôi à?” Nó cười. “Tôi cho là có thể, nhưng dù sao, họ cũng không quan tâm lắm chúng ta sống hay chết.”





“Dĩ nhiên rồi? Vì sao họ phải thế? Họ là thần linh cơ mà… Cậu có thờ vị nào không?” Câu hỏi có vẻ đặc biệt quan trọng với Nasuada.





Eragon lại nghĩ một hồi nữa. Rồi nó so vai. “Có quá nhiều, làm sao tôi biết chọn vị nào?”





“Sao không phải vị thần tao ra tất cả bọn họ, Unulukuna, người ban tặng sự sống vĩnh hằng?”





Eragon không thể nhịn cười khúc khích. “Cho đến khi tôi không ngã bệnh hay kẻ nào giết tôi, tôi sẽ sống hàng nghàn năm hoặc hơn, và nếu tôi sống lâu như vậy, tôi không thể tưởng tượng mình còn muốn tiếp tục sống sau khi chết. Thần linh có thể ban cho tôi thứ gì nữa? Với các Eldunarí, tôi gần như có đủ sức làm mọi thứ.”





“Thần linh cũng ban cho ta cơ hội được gặp lại những người ta yêu quý nữa. Cậu không muốn sao?”





Nó lưỡng lự. “Tôi muốn, nhưng tôi không muốn kéo dài đến vĩnh hằng. Điều đó còn đáng sợ hơn cả tan vào hư vô một ngày nào đó, như các tiên nhân vẫn tin.”





Nasuada có vẻ bối rối. “Vậy cậu sẽ không chịu trách nhiệm với bất kì ai ngoài Saphira và bản thân.”





“Nasuada, tôi có phải một người xấu không?”





Cô lắc đầu.





“Vậy thì hãy tin tôi làm những gì tôi cho là phải. Tôi sẽ chịu trách nhiệm với Saphira, với các Eldunarí và với tất cả những Kỵ Sỹ vẫn chưa ra đời, mà cũng với cô, với Arya và Orik, và với tât cả mọi người tại Alagaësia này. Tôi không cần ai trừng trị mình để hành xử đúng đắn. Nếu có, tôi sẽ không hơn gì một đứa trẻ tuân lệnh cha nó chỉ bởi nỗi sợ đòn roi, mà không phải bởi nó thực sự muốn điều tốt.”





Tôi nhìn nó vài giây. “Rất tốt, vậy tôi sẽ tin cậu.”





Rồi khung cảnh dường như lại nhường chỗ cho đài phun nước. Phía trên ánh sáng từ mặt trời khuất núi rọi lên những vết nứt và bề mặt sứt sẹo dưới phiến đá.





“Nếu chúng tôi cần cậu giúp thì sao?” cô hỏi.





“Thì tôi sẽ giúp. Tôi sẽ không bỏ mặc cô đâu Nasuada, tôi sẽ phù phép một thấm gương trong phòng làm việc, để cô có thể luôn luôn liên lạc với tôi khi cần thiết, tôi cũng làm vậy với Roran và Katrina nữa. Nếu có vấn đề gì đó xảy ra, tôi sẽ tìm cách gửi hỗ trợ. Có lẽ tôi không thể thự mình tới, nhưng tôi sẽ giúp.”





Cô gật gù. “Tôi biết cậu sẽ giúp.” Rồi cô thở dài, vẻ mặt không vui.





“Gì vậy?” nó hỏi





“Tất cả mọi việc quá tốt. Galbatorix đã chết. Cuổi nổi loạn cũng bị dập tắt. Chúng ta đã có thể giải quyết vấn nạn từ những pháp sư. Cậu và Saphira sẽ lãnh đạo họ và các Kỵ Sỹ… Tôi không biết chúng ta sẽ làm gì nữa.”





“Sẽ ổn thôi, tôi chắc đấy. Cô sẽ tìm ra thôi.”





“Sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu có cậu ở đây … Ít nhất cậu sẽ đồng ý dạy tên của cổ cữ cho ai đó chúng ta chọn lãnh đạo các pháp sư chứ?”





Eragon không cần phải suy nghĩ, bởi nó đã cân nhắc khả năng này rồi, nhưng nõ vẫn khựng lại cố tìm ra từ ngữ. “Tôi có thể, nhưng lúc này, tôi nghĩ chúng ta sẽ thấy hối đấy.”





“Nên câu trả lời là không à.”





Nó lắc đầu.





Nét thất vọng hiện trên mặt cô. “Và vì sao? Lý do của cậu là gì?”





“Cái tên quá nguy hiểm để dễ dàng nói ra Nasuada à. Nếu một pháp sư đầy tham vọng nhưng không đủ thận trọng nắm giữ nó, kẻ đó có thể gây ra tổn thất cực kì lớn. Galbatorix cũng không đủ điên rồ để làm chuyện đó, nhưng một pháp sư chưa được tôi luyện mà còn thèm khát quyền lực thì sao? Ai biết chuyện gì có thể xảy ra được? Giờ đây Arya, Murtagh và lũ rồng là những người duy nhất ngoài tôi biết cái tên. Cứ để vậy thì hơn.”





“Rồi khi cậu đi, chúng tôi sẽ phải phụ thuộc vào Arya nếu cần tới nói.”





“Tôi biết cô ấy sẽ giúp mà. Nếu có gì đó thì tôi sẽ lo về Murtagh hơn.”





Nasuada có vẻ thu người lại. “Cậu không cần lo đâu. Anh ấy không phải mối đe dọa cho chúng ta. Ít nhất là lúc này.”





“Cô nói vậy thì thôi. Nếu mục đích của cô là tra xét các pháp sư, vậy tên của cô ngữ là được bảo mật thì hơn.”





“Nếu thực sự là như vậy, thì … tôi hiểu rồi.”





“Cảm ơn cô. Có một chuyện khác cô cũng nên biết.”





Nasuada lộ vẻ lo lắng. “Ồ?”





Rồi nó nói cho cô nghe ý tưởng mới nảy ra về các Urgal. Khi nó kết thúc, Nasuada im lặng một hồi. Rồi cô nói, “Cậu nhận làm quá nhiều về phần mình đấy.”





“Tôi phải làm vậy. Không ai khác có thể … Cô có chấp thuận không? Có vẻ đó là cách duy nhất giữ hòa bình trong thời gian dài.”





“Cậu có chắc chắn thế là khôn ngoan không?”





“Không hoàn toàn, nhưng tôi nghĩ phải thử thôi.”





“Cả những người lùn nữa? Có thực cần thiết không?”





“Có. Như vậy là đúng đắn và công bằng. Rồi việc này sẽ giúp duy trì cân bằng giữa các giống loài.”





“Nếu họ không đồng ý thì sao?”





“Tôi chắc họ sẽ đồng ý.”





“Vậy thì cứ làm như cậu thấy hợp lý. Không cần sự chấp thuận của tôi – cậu đã nói đủ rõ ràng rồi – nhưng tôi đồng ý chuyện đó là cần thiết. Ngoài ra, hai mươi hay ba mươi năm tới, chúng ta sẽ đối mặt với những vấn đề tổ tiên mình gặp phải khi lần đầu họ cập bến Alagaësia.”





Nó hơi cúi đầu xuống. “Tôi sẽ sắp xếp chuyện này.”





“Khi nào cậu rời đi?”





“Khi Arya đi khỏi.”





“Sớm vậy sao?”





“Chẳng có lý do gì ở lại thêm cả.”





Nasuada tựa người vào rào chắn, dán mắt xuống đài phun nước bên dưới. “Cậu có trở lại thăm nơi này không?”





“Tôi sẽ cố, … nhưng tôi không cho là vậy. Khi Angela bói mệnh cho tôi, bà ấy nói tôi sẽ không bao giờ trở lại.”





“A,” Giọng nói của Nasuada trầm xuống khàn khàn. Cô quay lại nhìn thẳng vào nó. “Tôi sẽ nhớ cậu lắm.”





“Tôi cũng sẽ nhớ cô.”





Cô mím chặt môi như thể cố không khóc. Rồi cô bước qua ôm chặt nó. Nó cũng ôm cô, họ đứng như vậy trong vài giây.





Rồi họ rời ra, nó nói, “Nasuada, nếu một ngày cô mệt mỏi làm Nữ hoàng, hoặc cô muốn sống bình yên, cứ đến với chúng tôi. Cô sẽ luôn được chào đón ở đó. Tôi không thể khiến cô bất tử, nhưng tôi sẽ kéo dài tuổi thọ cô hơn xa tuổi đời con người, và đó sẽ là những năm tháng được sống mạnh khỏe đấy.”





“Cảm ơn cậu, tôi rất cảm tạ đề nghị ấy, tôi sẽ không quên đâu.” Tuy nhiên nó có cảm giác cô sẽ không thể nào rời khỏi Alagaësia được dù cho có già chừng nào đi nữa. Cô luôn thấy nghĩa vụ của mình quá lớn.





Rồi nó hỏi. “Cô sẽ chúc phúc cho chúng tôi chứ?”





“Dĩ nhiên rồi.” Cô ôm lấy đầu giữa hai bàn tay, hôn lên lông mày nó, rồi nói, “Lời chúc phúc của tôi với cậu và Saphira. Mong bình yên và may mắn theo cậu dù ở bất cứ nơi đâu.”





“Và với cô nữa,” nó nói.





Cô giữ bàn tay trên đầu nó thêm một lúc rồi thả xuống, còn nó mở cánh cửa kính và rời phòng làm việc, để cô đứng một mình trên ban công.





Nợ máu





Khi Eragon sải bước xuống cổng cung điện, nó thấy bà lang Angela, đang ngồi bắt cheo chân một góc gần cánh cổng. Bà đang đan cái gì đó có vẻ như cái mũ màu xanh và trắng, cùng vài kí tự kì lạ ở trên vành mà nó không nhìn rõ nghĩa. Solembum nằm bên cạnh bà, cái đầu nó ngả vào vạt áo bà, một bàn chân gác lên đầu gối phải Angela.





Eragon ngạc nhiên dừng lại. Nó đã không thấy họ từ - phải mất một lúc mới nhớ lại – từ ngay sau cuộc chiến tại Urû’baen. Sau đó họ như biến mất tăm.





“Xin chào,” Angela vẫn không ngẩng lên.





“Xin hcoaf,” Eragon đáp. “Bà đang làm gì thế?”





“Đan mũ.”





“Cái đó tôi thấy, nhưng sao ở đây?”





“Vì tôi muốn gặp cậu.” Đôi đũa đập lách cách liên hồi, di chuyển như thể những luồng lửa quấn lấy nhau. “Tôi nghe cậu, Saphira, những quả trứng và cácEldunarí sẽ rời Alagaësia.”





“Như bà đã tiên đoán,” nó nhăn mặt, hơi nản vì bà có thể khám phá ra những bí mật tưởng chừng sâu kín nhất. Bà không thể nghe trộm nó – bùa chú của nó sẽ chặn lại – và cho đến giờ nó biết không ai từng nói với bà hay Solembum về sự tồn tại của những quả trứng và các Eldunarí.





“À, phải, nhưng tôi nghĩ sẽ không tiễn cậu đâu.”





“Làm sao bà biết? Từ Arya à?”





“Cô ta? Ha! Khó đấy. Không, tôi có cách riêng thu thập thông tin mà.” Bà ngừng đan, ngước lên chớp mắt nhìn nó. “Mà tôi cũng không cho cậu biết đâu. Tôi cũng phải giữ một vài bí mật chứ.”





“Hửm.”





“Cứ hửm đi. Cậu mà cứ thế thì tôi không chắc chắn vì sao mình không muốn đến đây mất.”





“Tôi xin lỗi. Tôi đang cảm thấy có chút … khó ở.” Sau một hồi Eragon nói, “Vì sao bà muốn gặp tôi?”





“Tôi đã muốn nói từ biệt và chúc cậu may mắn.”





“Cảm ơn bà.”





“Mmh. Đừng mãi suy nghĩ cậu sẽ ở đâu nữa. Cứ đảm bảo cậu phơi nắng đủ là được.”





“Tôi sẽ. Thế bà và Solembum thì sao? Các vị sẽ ở lại trông chừng Elva chứ? Bà từng nói vậy mà.”





Bà lang khịt mũi vẻ rất thiếu nữ tính. “Ở lại à? Làm sao mà tôi ở lại được khi Nasuada có vẻ định dò xét mọi pháp sư trên mảnh đất này được?”





“Bà cũng nghe chuyện này rồi à?”





Bà nhìn nó. “Tôi phản đối. Tôi phản đối cực lực. Tôi sẽ không bị đối xử như đứa trẻ đã làm gì đó hư hỏng đâu. Không, đây là lúc Solembum và tôi đến nơi nào thân thiện hơn: rặng Beor chẳng hạn, hay có lẽ Du Weldenvarden không biết chừng.”





Eragon lưỡng lự một hồi, rồi nói, “Các vị có muốn đi cùng tôi và Saphira không?”





Solembum hé một mắt, quan sát nó khoảng hai giây rồi nhắm lại.”





“Cậu thật tử tế,” Angela nói, “nhưng tôi nghĩ chúng tôi sẽ từ chối. Ít nhất là trong thời điểm này. Ngồi một chỗ canh chừng các Eldunarí và đào tạo các Kỵ Sỹ có vẻ nhàm chán … - cho dù nuôi nấng một mớ rồng có vẻ lý thú đấy. Nhưng không; trong thời gian này, Solembum và tôi sẽ ở Alagaësia. Ngoài ra tôi muốn để mắt đến Elva trong vài năm tới, dù tôi không thể trực tiếp làm vậy.”





“Bà không chán dự phần những sự kiện thú vị nhỉ?”





“Không bao giờ. Chúng như gia vị trong cuộc sống vậy.” Bà nhấc cái mũ đã xong nửa chừng. “Cậu thích nó chứ?”





“Cũng đẹp. Màu lam bắt mắt đấy. Nhưng các ký tự viết gì vậy?”





“Raxacori – ồ đừng để ý. Nó chả có nghĩ gì với cậu đâu.Cậu và Saphira nhé lên đường bình an cho Eragon. Chú ý coi chừng mấy con sâu tai và chuột sóc đấy. Lũ đấy hung hãn lắm, chuột sóc ấy.”





Nó mỉm cười. “Bà cũng bảo trọng, cả ngươi nữa Solembum.”





Một mắt con mèo ma lại mở ra. Bảo trọng, Người-đồ-sát-Vua.





Eragon rời tòa nhà, đi xuyên qua thành phố tới căn nhà Jeod và vợ ông Helen đang sống. Đó là một gian nhà yên tĩnh, có tường cao, vườn lớn, các gia nhân cúi chào từ cổng vào. Helen thực rất thành công. Bằng cách cung ứng cho quân Varden – và giờ là vương quốc của Nasuada – những vật tư thiết yếu, bà nhanh chóng dựng nên một công ty thương mại còn lớn hơn cái Jeod có hồi còn ở Teirm.





Eragon thấy Jeod đang rửa chén bát chuẩn bị cho bữa tối. Từ chối dùng bữa với họ, Eragon mất vài phút giải thích cho Jeod những điều đã nói với Nasuada. Lúc đầu Jeod ngạc nhiên hơi buồn bã, nhưng cuối cùng ông đồng ý rằng cần thiết để Eragon và Saphira rời đi cùng những quả trứng rồng. Cũng như Nasuada và bà lang, Eragon mời Jeod đi cùng nó.





“Cháu lôi khéo ta dữ đấy,” Joed nói. “Nhưng chỗ của ta là ở đây. Ta còn công việc, và sau thời gian dài lần đầu Helen được hạnh phúc. Ilirea đã trở thành nhà chúng ta, và cả hai đều không muốn thu vén rời đi đâu cả.”





Eragon gật đầu hiểu.





“Nhưng cậu … cậu sẽ đi tới những nơi ít người trừ lũ rồng hay các Kỵ Sỹ có thể tới. Nói cho ta hay, cháu có biết có gì ở phía Đông không? Ở đó có biển chứ?





“Nếu bác đi đủ xa.”





“Thế trước đó?”





Eragon so vai. “Hầu hết là đất trống, hay theo lời các Eldunarí nói như vậy, và cháu cũng không nghĩ trong thế kỉ trước có gì khác.”





Rồi Jeod tiến lại nó hạ thấp giọng. “Vì cháu sắp rời đi… ta sẽ nói cho cháu. Cháu có nhớ khi ta kể về Arcaena, một hội kín bảo tồn kiến thức khắp Alagaësia không?”





Eragon gật đầu. “Bác có nói Tu sĩ Heslant là một trong số họ.”





“Cả ta nữa.” Nhìn ánh mắt ngạc nhiên của Eragon, Jeod ngượng ngùng vuốt tay lên mái tóc. “Ta đã gia nhập họ lâu rồi, khi ta còn trẻ và còn những lý do để cống hiến. Ta đã chuyển cho họ thông tin và thư tín hàng bao năm qua, và họ cũng giúp lại ta nữa. Dù sao, ta nghĩ cháu nên biết. Brom là người duy nhất ta từng nói.”





“Kể cả Helen sao?”





“Kể cả bà ấy… Dù sao, khi ta kết thúc cuốn sách về cháu và Saphira và cuộc nổi dậy của Varden, ta sẽ gửi nó đến tu viện chính ở rặng Spine, chúng sẽ là những chương mới của Domia abr Wyrda. Câu chuyện của cháu sẽ không bị lãng quên đâu, Eragon à; cái đó ta hứa với cháu.”





Eragon thấy mẩu tin này lảm nó cảm thấy kì lạ. “Cảm ơn bác.” Nó ôm chặt Joed.





“Và cháu nữa, Eragon Khắc tinh của Tà thần.”





Sau đó, Eragon quay trở lại tòa nhà, nơi nó và Saphira vẫn sống cùng Roran và Katrina, đang đợi nó về dùng bữa.





Suốt bữa ăn câu chuyện chỉ quay quanh Arya và Fírnen. Eragon không nói về kế hoạch rời đi cho tới sau khi bữa ăn kết thúc và cả ba người – lẫn đứa trẻ - ngồi nghỉ trong phòng nhìn ra sân nhà, nơi Saphira đang nằm táp nhau cùng Fírnen. Họ ngồi uống rượu hoặc trà, rồi nhìn mặt trời lặn phía xa xa.





Sau một khoảng thời gian thích hợp, Eragon bắt đầu lôi vấn đề ra. Như nó nghĩ, Katrina và Roran đều lo lắng và cố thuyết phục nó đổi ý. Eragon phải mất gần cả tiếng mới nói hết lý do, còn họ tranh luận từng điểm một và không chịu nhân nhượng cho tới khi ho trả lời từng tí một.





Cuối cùng, Roran thốt lên, “Trời ạ, chú là gia đình mà! Chú không thể rời được.”





“Em phải đi. Anh cũng biết rõ như em vậy, anh chỉ không muốn thừa nhận thôi.”





Roran nắm tay dộng xuống mặt bàn, rồi bước lại phía cánh cửa sổ mở toang, răng nghiến chặt lại.





Đứa bé quấy khóc, Katrina dỗ, “Shh, con nào,” vừa vỗ nhẹ lưng con bé.





Eragon bước lại gần Roran. “Em biết đó không phải điều anh muốn. Em cũng không muốn, nhưng em không có lựa chọn nào cả.”





“Dĩ nhiên cậu có lựa chọn chứ. Hơn ai hết cậu được quyền lựa chọn chứ.”





“Ài, chuyện đó là việc nên làm mà.”





Roran gầm gừ, bắt chéo tay.





Phía sau họ Saphira nói, “Nếu em đi, em sẽ không thể làm một người chú tốt của Ismira được. Con bé sẽ phải lớn lên mà không bao giờ biết em ư?”





“Không,” Eragon bước lại nói. “Em vẫn có thể nói chuyện với con bé, và em sẽ đảm bảo con bé được bảo vệ kĩ càng; có khi em còn gửi được quà cho nó nữa.” Nó quỳ xuống thò ngón tay ra, con bé nắm chặt lấy kéo mạnh hơn nhiều ở tuổi mình.





“Nhưng em sẽ không ở đây.”





“Không … em sẽ không ở đây.” Eragon nhẹ nhàng rút tay khỏi ngón tay khỏi Ismira, quay lại đứng bên Roran. “Như em nói, anh chị vẫn có thể đi cùng em.”





Cơ hàm Roran căng lại. “và từ bỏ thung lũng Palancar ư?” Anh lắc đầu. “Chú Horst và những những người khắc đã chuẩn bị đề trở về rồi. Chúng ta sẽ tái thiết Carvahall thành một nơi hoàng tráng nhất cả dãy Spine. Em có thể giúp, thế sẽ như trước mà.”





“Em ước mình có thể.”





Phía dưới Saphira phát ra tiếng lục tục, chúi mõm vào bên cổ Fírnen. Con rồng xanh cũng xích lại gần cô nàng hơn.





Roran nhẹ giọng hỏi, “Có cách nào khác không Eragon?”





“Saphira và em không nghĩ ra.”





“Khỉ thật – như thế không đúng tí nào. Đáng ra chú không phải sống một mình ở nơi khỉ ho cò gáy ấy chứ.”





“Em sẽ không ở một mình đâu. Blödhgarm và vài tiên nhân khác sẽ đi cùng bọn em.”





Roran ra vẻ mất kiên nhẫn. “Chú biết anh có ý gì mà.” Anh day day góc bộ ria, dựa tay vào bờ đã dưới cửa sổ. Eragon có thể những bắp thịt trên tay anh phập phồng. Rồi Roran nhìn nó nói, “Cậu sẽ làm gì một khi tới nơi cậu hướng đến?”





“Tìm một ngọn đồi hoặc vách đá rồi xây một tòa nhà trên đó: đủ lớn để làm nhà cho lũ con rồng, giữ chúng an toàn. Còn anh thì sao? Sau khi tái thiết làng, anh sẽ làm gì?”





Roran cười nhạt. “Cũng tương tự. Với tiền cống nạp từ trong thung lũng, anh định xây một tòa lâu đài trên ngọn đồi chúng ta vẫn hay nói ấy. Không to đâu, chỉ là xây cất một chút tường rào, đủ để cầm cự bọn Urgal có thể tấn công thôi. Cũng phải mất chừng vài năm, nhưng rồi chúng ta sẽ được phòng ngự ổn thỏa, không như hồi bọn Ra’zac kéo tới cùng lũ lính.” Anh liếc qua Eragon. “Chúng ta sẽ có chỗ cho rồng nữa.”





“Thế anh có chỗ cho hai con rồng không?” Eragon ra hiệu về phía Saphira và Fírnen.





“Có khi không … Saphira thấy thế nào khi phải rời nó?”





“Cô nàng không thích lắm, nhưng biết đó là chuyện cần thiết.”





“Mmh.”





Mặt trời đang lặn chiếu lên mặt Roran màu hổ phách; Eragon ngạc nhiên nhận ra những nét mờ nhăn trên mày và quanh mắt Roran. Nó nhìn thấy dấu hiệu tuổi già đang dần tới. Cuộc sống trôi thực nhanh.





Katrina đặt Ismira xuống nôi. Rồi cô đứng lên cạnh họ bên cửa sổ, đặt tay lên vai Eragon. “Anh chị sẽ nhớ em lắm, Eragon à.”





“Em cũng thế,” nó chạm tay cô. “Chúng ta không phải từ biệt ngay đâu. Em vẫn mong anh chị có thể đi cùng tới Ellesméra. Em nghĩ hai người sẽ thích ngắm nhìn nơi đó, và chúng ta có thể thêm được vài ngày gần nhau.”





Roran ngoảnh đầu sang Eragon. “Bọn anh không thể đi suốt tới Du Weldenvarden cùng Ismira được. Con bé còn nhỏ quá. Quay lại thung lũng Plancar cũng đủ nhọc rồi, hành trình tới Ellesméra thì quả là không thể.”





“Kể cả nếu trên lưng rồi à?” Eragon cười nhìn nét mặt ngạc nhiên trên mặt hai người. “Arya và Fírnen đã đồng ý đưa anh chị tới Ellesméra trong khi Saphira và em mang những quả trứng rồng từ nơi cất giấu.”





“Bay tới Ellesméra mất bao lâu?” Roran cau mày.





“Khoảng một tuần lễ. Arya định viếng thăm vua Orik ở Tronjheim trên đường nữa. Anh chị sẽ thoải mái và an toàn cả quãng đường mà. Ismira sẽ không gặp nguy hiểm gì đâu.”





Katrina và Roran nhìn nhau, rồi cô nói, “Sẽ thực tốt nếu được tiễn Eragon lên đường, Em cũng luôn được nghe kể những thành phố tiên nhân đẹp dường nào…”





“Em có chắc là được không?” Roran hỏi.





Cô gật đầu. “Đến khi anh vẫn bên cạnh hai mẹ con em.”





Roran im lặng một hồi rồi nói, “Tốt, anh cho là chú Horst và những người khác có thể đi trước mà không cần bọn mình.” Nụ cười nở ra dưới bộ râu, anh khúc khích. “Anh không bao giờ nghĩ có thể thấy rặng Beor hay một thành phố tiên nhân, nhưng sao không nhỉ? Chúng ta vẫn có thể khi còn cơ hội mà.”





“Hay lắm, vậy là ổn thỏa rồi,” Katrina tươi cười. “Chúng ta sẽ tới Du Weldenvarden.”





“Làm sao bọn anh trở lại?” Roran hỏi.





“Trên lưng Fírnen,” Eragon đáp. “Hoặc em nghĩ Arya sẽ cho người hộ tống anh chị về thung lũng Palancar, nếu anh muốn cưỡi ngựa hơn.”





Roran ra vẻ nhăn nhó. “Không, không bằng ngựa đâu. Nếu anh không bao giờ phải cưỡi ngựa nữa, giờ vẫn còn quá sớm.”





“Ồ? Vậy em cho là anh không muốn Hỏa Tuyết nữa?” Eragon nhướng mày khi nó nhắc tên con ngựa đã tặng Roran.





“Chú biết ý anh mà. Anh rất mừng được giữ Hỏa Tuyết, kể cả khi anh không cần nó trong một thời gian.”





“Mm-hmm.”





Họ đứng bên cửa sổ thêm khoảng một tiếng – mặt trời đã lặn, bầu trời dần ngả màu tím đen và những ngôi sao lập lòe hiện ra – nói chuyện về hành trình sắp tới và những thứ Eragon và Saphira phải mang theo khi rời Du Weldenvarden tới vùng đất xa xôi. Phía sau Ismira đang ngủ yên trong nôi, hai bàn tay nhỏ nhắn nắm lại đặt dưới cằm.





Sáng sớm hôm sau, Eragon dùng tấm gương phép bằng bạc liên lạc với Orik ở Tronjiheim. Nó chờ vài phút, rồi thấy gương mặt Orik hiện ra, ông lùn đang chải bộ râu bằng một chiếc lược ngà.





“Eragon!” Orik la lên vẻ vui sướng rõ ràng. “Em thế nào rồi? Đã lâu chúng ta không nói chuyện rồi?”





Eragon đồng ý, cảm thấy hơi có lỗi. Rồi nó nói với Orik về quyết định cùng những lý do nó rời đi. Orik ngừng chải, lắng nghe mà không ngắt lời, tỏ vẻ nghiêm túc. Khi Eragon kết thúc, Orik nói, “Anh sẽ rất buồn khi em đi, nhưng anh đồng ý, đó là chuyện em phải làm. Anh cũng đã nghĩ đến chuyện này – băn khoăn những con rồng sẽ sống ở đâu – nhưng anh không nói với ai hết, bởi lũ rồng cũng có quyền chia sẻ mảnh đất này như chúng ta vậy, kể cả khi chúng ta không muốn thích chúng săn Feldûnost hay đốt những ngôi làng. Tuy nhiên, nuôi nấng lũ rồng ở một nơi khác sẽ là tốt nhất.”





“Em mừng vì anh chấp thuận,” Eragon nói. Nó kể cho Orik về ý tưởng về các Urgal và người lùn nữa. Lần này Orik hỏi rất nhiều, Eragon có thể thấy ông thấy rất nghi hoặc đề nghị này.





Sau một hồi im lặng dài nhìn xuống bộ râu, Orik nói, “Nếu em đề đạt chuyện này với bất cứ grimstnzborithn trước anh, họ sẽ nói không ngay. Nếu em có nói với anh trước khi chúng ta tấn công Đế chế, anh cũng sẽ nói không. Nhưng giờ đây sau khi chiến đấu cùng Urgal, rồi tự mình thấy chúng ta vô dụng đến thế nào trước Murtagh hay Thorn hay Galbatorix hay con quái vật Shruikan ấy … giờ anh không còn thấy như vậy nữa.” Ông nhìn lên Eragon qua lông mày rậm rạp. “Điều đó có thể khiến anh mất ngôi vua, nhưng vì lợi ích của knurlan mọi nơi mà anh sẽ chấp nhận – vì lợi ích của họ, dù họ có nhận ra hay không.”





Một lần nữa Eragon thấy tự hào vì đã nhận Orik làm anh em kết nghĩa. “Cảm ơn anh,” nó nói.





Orik càu nhàu. “Dân tộc anh chẳng bao giờ muốn chuyện này cả, nhưng anh vẫn thấy mừng. Khi nào họ được biết?”





“Trong khoảng vài ngày. Nhiều nhất là một tuần.”





“Giống loài anh có cảm thấy gì không?”





“Có lẽ. Em sẽ hỏi Arya. Dù sao, em sẽ liên lạc lại với anh khi xong chuyện.”





“Tốt lắm, rồi chúng ta sẽ lại nói chuyện tiếp. Bảo trọng và cứng cáp nhé, Eragon.”





“Mong thần Helzvog dõi theo anh.”



***************



Ngày hôm sau họ rời Ilirea.





Đó là một sự kiện riêng tư, không tiền hô hậu ủng, khiến Eragon rất mừng. Nasuada, Jörmundur, Jeod và Elva tiễn họ bên ngoài cổng Nam thành phố, nơi Saphira và Fírnen đang ngồi cạnh huých đầu nhau trong khi Eragon và Arya kiểm tra yên cương. Roran và Katrina đến sau vài phút: Katrina bế Ismira bọc trong một tấm chăn, Roran mang theo hai túi chứa thức ăn, chăn chiếu và mấy món khác hai bên vai.





Roran đưa túi cho Arya buộc vào trên túi yên Fírnen.





Rồi Eragon và Saphira nói lời từ biệt, giây phút khiến Eragon khó khăn hơn nhiều so với Saphira. Không chỉ có những dòng lệ, cả Nasuada và Jeod đều khóc khi họ ôm chặt nó, chúc nó và Saphira những lời tốt đẹp nhất. Nasuada cũng tạm biệt Roran, cảm ơn anh vì sự giúp đỡ chống lại Đế chế.





Cuối cùng khi Eragon, Arya, Roran và Katrina sắp leo lên mình hai con rồng, một giọng phụ nữ vang lên, “Đứng đấy!”





Eragon khựng lại, chân vẫn gác trên chân trước Saphira, thấy Birgit đang lao về phía họ từ cánh cổng, tấm váy xám phồng lên, và chàng trai trẻ con bà, Nolfavrell, đang theo sát bà với nét mặt vô vọng. Birgit cầm sẵn trên tay một tay gươm trần. Trên tay còn lại là một cái khiên gỗ.





Eragon chột dạ.





Lính gác Nasuada ngay lập tức dàn ra chắn giữa họ, nhưng Roran la lên, “Để họ qua!”





Nasuada ra hiệu cho lính gác lùi lại.





Vẫn không chậm lại, Birgit tiến thắng về phía Roran.





“Birgit, đừng thế,” Katrina thấp giọng, nhưng bà tảng lờ cô. Arya nhìn họ không chớp mắt, tay đặt vào chuôi gươm.





“Cây Búa Dũng Mãnh. Tôi luôn nói tôi sẽ giành lại đền bù từ cậu vì cái chết của chồng mình, và giờ tôi đến lấy nó đây, đó là quyền của tôi. Cậu sẽ chiến đấu với tôi, hay trả món nợ đây?”





Eragon bước đến bên Roran. “Birgit, vì sao dì làm thế? Sao lại là lúc này? Dì không thể tha thứ cho anh ấy và để đau thương lại phía sau sao?”





Anh có muốn em nuốt bà ấy không? Saphira hỏi.





Chưa đến lúc.





Birgit lờ nó đi, mắt vẫn dán vào Roran.





“Mẹ,” Nolfavrell kéo vạt váy bà, nhưng bà không để ý tới chàng trai.





Nasuada xen vào. “Tôi biết bà,” cô nói với Birgit. “Bà đã chiến đấu cùng những những đàn ông suốt cuộc chiến.”





“Vâng tâu Bệ Hạ.”





“Bà có tranh cãi gì với Roran vậy? Anh ấy đã chứng minh mình là một chiến binh tuyệt vời và rất có giá trị không chỉ một lần, tôi sẽ rất không vui nếu mất anh ta.”





“Anh ta và gia đình phải chịu trách nhiệm vì lũ lính đã giết chồng tôi.” Bà nhìn Nasuada một lúc. “Lũ Ra’zac đã ăn ông ấy, tâu Bệ Hạ. Chúng ăn rồi hút sạch tủy trong xương ông ấy. Tôi không thể tha thứ được, và tôi sẽ được đền bù vì chuyện đó.”





“Đó không phải là lỗi của Roran,” Nasuada nói. “Chuyện đó thật vô lý, ta nghiêm cấm đấy.”





“Không, không đâu,” Eragon nói dù nó ghét phải thế. “Theo tục lệ của chúng tôi, dì ấy có quyền được yên cầu trả giá bằng máu từ bất kì ai có trách nhiệm với cái chết của Quimby.”





“Nhưng đó không phải là lỗi của Roran!” Katrina la lên.





“Nhưng nó đúng là lỗi của anh,” Roran thấp giọng. “Anh có thể tự nộp mình cho bọn lính. Anh có thể dụ chúng đi. Hoặc anh có thể tấn công. Nhưng anh đã không làm vậy. Anh đã trốn đi, và bởi thế Quimby chết.” Anh nhìn sang Nasuada, “Đây là chuyện chúng tôi phải tự giải quyết với nhau, tâu Bệ Hạ. Đây là chuyện danh dự, cũng như Thử thách Trường Đao đối với người vậy.”





Nasuada cau mày nhìn Eragon. Nó gật đầu, nên cô miễn cưỡng lui lại.





“Thế nào đây, Cây Búa Dũng Mãnh,” Birgit hỏi.





“Eragon và tôi đã giết lũ Ra’zac ở Helgrind rồi,” Roran trả lời. “Như thế chưa đủ sao?”





Birgit lắc đầu không nao núng. “Không.”





Roran khựng người, cơ bắp trên cổ săn lại. “Đây có phải là thứ dì muốn không, Birgit?”





“Đúng vậy.”





“Vậy tôi sẽ trả món nợ của mình.”





Khi Roran nói xong, Katrina rền rĩ, lao vào chắn giữa anh và Birgit, vẫn bế đứa trẻ trong tay. “Tôi sẽ không để cho dì làm chuyện đó đâu? Gì không thể hại anh ấy! Không phải bây giờ! Không phải sau tất cả những thứ chúng ta đã trải qua!”





Khuôn mặt Birgit vẫn trơ như đá, không có vẻ gì sẽ lùi lại. Tương tự, Roran không tỏ cảm xúc gì khi ôm lấy eo Katrina, dễ dàng đẩy cô sang một phía. “Giữ lấy chị ấy, được không?” anh lạnh lùng nói với Eragon.





“Roran…”





Người anh họ nhìn chằm chằm nó, rồi quay sang Birgit.





Eragon đỡ lấy vai Katrina, cố giữ cô không lao đến Roran, rồi nó nhìn Arya kêu cứu. Cô liếc về phía thanh gươm của mình, nhưng nó lắc đầu.





“Thả chị ra! Thả ra!” Katrina gào lên. Đứa trẻ bắt đầu gào khóc trong vòng tay cô.





Không rời mắt khỏi người phụ nữ trước mặt, Roran tháo thắt lưng ra thả xuống mặt đất, cùng con dao, lẫn cây búa mà quân Varden tìm thấy trên đường phố Iilrea sau cái chết của Galbatorix. Rồi Roran cởi aoas khoác ra để lộ bộ ngực đầy lông.





“Eragon, tháo lưới phòng hộ của anh ra,” anh nói.





“Em…”





“Tháo ngay!”





“Roran, không!” Katrina thét lên. “Anh phải phòng thủ chứ.”





Anh ấy điên rồi, Eragon nghĩ thầm, nhưng không dám can thiệp. Nếu nó ngăn Birgit lại, nó sẽ làm nhục Roran, rồi dân cư thung lũng Palancar sẽ không còn tôn trọng anh họ nó nữa. Mà Eragon biết Roran thà chết còn hơn để chuyện đó xảy ra.





Dù sao, Eragon cũng không thể để Birgit giết Roran được. Nó sẽ để bà được trả giá, nhưng không hơn. Thầm thì thốt lên bằng cổ ngữ - để không ai có thể nghe thấy nó dùng từ gì – nó làm như Roran bảo, nhưng cũng đặt thêm ba lưới phòng hộ trên anh họ mình: một để bảo vệ xương sống cổ tổn thương; một để giữ xương sọ không bể; một để bảo đảm nội tạng được nguyên vẹn. Những vết thương khác thì Eragon tự tin có thể chữa nếu cần, nếu Birgit không chém đứt tứ chi.





“Xong rồi,” nó nói.





Roran gật đầu bảo Birgit, “Tới lấy nợ máu từ tôi đi, rồi hãy để cuộc tranh chấp giữa chúng ta chấm dứt.”





“Cậu sẽ không đánh lại tôi chứ?”





“Không.”





Birgit nhìn anh khong giây lát, rồi bà quăng khiến xuống đất, bước vài thước tới gần Roran. Bằng giọng nhỏ chỉ đủ Roran nghe thấy – dù Eragon và Arya dễ dàng nghe thấy bằng thính lực như mèo – nói. “Tôi yêu Quimby. Ông ấy là cuộc đời của tôi, và ông ấy chết bởi cậu.”





“Tôi xin lỗi,” Roran thì thầm.





“Birgit,” Katrina van nài. “Làm ơn…”





Không ai di chuyển, kể cả những con rồng. Eragon thấy mình đang nín thở. Tiếng khóc nấc nghẹn của đứa bé là tiếng động lớn nhất.





Rồi Birgit nhấc thanh gươm khỏi ngực Roran. Bà với ra tóm lấy tay phải anh rồi dí lưỡi gươm ngang lòng bàn tay. Roran nhăn mặt khi lưỡi gươm cắt vào, nhưng anh không rút lại.





Một nét đỏ thẫm xuất hiện trên da anh. Máu tràn ra lòng bàn tay và nhỏ từng giọt xuống, thấm vào đất vụn, chỉ để lại những vệt thẫm.





Birgit ngưng kéo thanh gươm , giữ yên nó trên tay Roran thêm một lúc. Rồi bà lui lai, hạ thấp thanh gươm lúc này một bên lưỡi đã nhuộm đỏ tươi. Roran dí ngón tay lên miệng vết thương, máu tươi trào ra giữa chúng, rồi ép bàn tay vào hông.





“Tôi đã được trả nợ,” Birgit nói. “Cuộc tranh chấp đã chấm dứt.”





Rồi bà quay lại, nhặt khiên lên, sải bước về thành phố, Nolfavrell bám theo sát gót.





Eragon thả Katrina ra, cô lao đến bên Roran. “Đồ ngốc,” cô cay đắng nói. “Đồ ngốc đầu heo ương bướng. Đây, để em coi.”





“Đó là cách duy nhất,” Roran nói, như thể đang ở xa lắm.





Katrina nhăn mặt, khuôn mặt căng thẳng kiểm tra vết cắt trên tay anh. “Eragon, em nên chữa lành nó.”





“Không,” Roran nói sắc gọn. Anh nắm bàn tay lại. “Không, đây là vết sẹo anh sẽ giữ.” Anh nhìn quanh. “Có mảnh vải nào tôi có thể dùng băng bó được không?”





Sau một giây bối rối, Nasuada chỉ vào một lính gác nói, “Xé phần dưới áo choàng ra đưa cho anh ta.”





“Chờ đã,” Eragon nói trong khi Roran bắt đầu quấn mảnh vải quanh tay. “Em sẽ không chữa lành, nhưng ít nhất để em ếm bùa ngăn vết cắt nhiễm trùng chứ, được không?”





Roran lưỡng lự. Rồi anh gật đầu đưa tay cho Eragon.





Eragon chỉ mất vào giây nói câu thần chú. “Đây,” nó nói. “Giờ nó sẽ không chuyển màu xanh tím rồi sung lên như miếng bóng lợn nữa.”





Roran nhăn mặt, Katrina nói, “Cảm ơn em Eragon.”





“Giờ chúng ta đi được chưa?” Arya hỏi.





Năm người bọn họ treo lên hai con rồng, Arya giúp Roran và Katrina an toàn trèo lên yên cương trên lưng Fírnen, đã được gắn thêm những vòng và dây đai bổ sung. Khi họ đã ngồi nghiêm chỉnh trên lưng con rồng xanh, Arya giơ tay. “Tạm biệt, Nasuada! Tạm biệt, Eragon và Saphira! Chúng tôi sẽ chờ các bạn ở Ellesméra!”





Tạm biệt!Fírnen cất tiếng trầm. Cậu chàng giang cánh nhảy lên, đập nhanh để nâng trọng lượng của cả bốn người, với sự giúp sức của hai Eldunarí Arya mang theo.





Saphira gầm lên sau cậu chàng, Fírnen cũng đáp lại bằng một tiếng kêu như tù và trước khi quay đi hướng theo phía Đông Nam về rặng Beor.





Eragon quay lại vẫy tay với Nasuada, Elva, Jörmundurvà Jeod. Họ cũng vẫy lại, Jörmundur la lên, “Chúc cả hai người may mắn!”





“Tạm biệt,” Elva cũng hét lên.





“Tạm biệt!” Nasuada hô lớn. “Bảo trọng!”





Eragon lần lượt đáp lại, rồi nó quay lưng không thể nhìn thêm được nữa. Saphira rùn mình phóng thẳng lên không trung, bắt đầu cuộc hành trình dài, rất dài của họ.





Saphira lượn vong lấy độ cao. Eragon thấy bên dưới Nasuada và những người khác đang chụm lại đứng gần bức tường thành, Elva nắm chặt chiếc khăn tay nhỏ nhắn, đang vẫy phần phật bởi những luồng gió từ Saphira phát ra.





Những hứa hẹn trong quá khứ và hiện tại (Promises, new and old)





Saphira bay từ Ilirea đến lâu đài Blödhgarm và các tiên nhân đang thu dọn các Eldunarí chuẩn bị cho chuyến đi. Các tiên nhân sẽ theo phía Bắc hướng tới Du Weldenvarden, rồi qua khoảng rừng bạt ngàn tới thành phố tiên nhân Sílthrim, nằm bên bờ hồ Ardwen. Ở đó họ và các Eldunarí sẽ đợi đợi Eragon và Saphira trở về từ Vroengard. Rồi họ sẽ cùng bắt đầu hành trình rời Alagaësia theo dòng Gaena chảy hướng Đông từ cánh rừng ra vùng đồng bằng phía xa. Tất cả bọn họ, trừ Laufin và Uthinarë chọn ở lại Du Weldenvarden.





Quyết định hộ tống nó của các tiên nhân khiến Eragon ngạc nhiên, nhưng cũng rất mừng rỡ. Như Blödhgarm nói, “Chúng tôi không thể phó mặc các Eldunarí được. Họ cần sự giúp đỡ của chúng tôi, cũng như những con rồng non một khi nở.”





Eragon và Saphira dành thêm nửa tiếng thảo luận cách vận chuyện những quả trứng với Blödhgarm, rồi Eragon gom Eldunarí của Glaedr, Umaroth cùng vài con rồng già; nó và Saphira sẽ cần tới sức mạnh của chúng ở Vroengard.





Chia tay các tiên nhân, Saphira và Eragon bay về phía Tây Bắc, Saphira sải cánh đập chậm rãi đều đặn hơn so với lần đầu tới Vroengard.





Khi cô nàng bay, nỗi buồn trùm lên Eragon, nó cảm thấy thật vọng lẫn tự kỷ. Saphira cũng buồn – bởi phải xa cách Fírnen – nhưng bầu trời trong xanh lẫn những luồng gió nhẹ khiến tinh thần họ khá hơn ngay. Tuy nhiên cảm giác mất mát nhạt nhòe vẫn vương vấn trong lòng Eragon, khiến nó nhìn mặt đấy với cảm giác mới mẻ, biết rằng mình sẽ không bao giờ còn thấy được cảnh ấy nữa.





Saphira bay nhiều dặm qua những đồng cỏ xanh tươi trải dài, cái bóng vĩ đại của cô nàng khiến chim muôn thú vật bên dưới sợ hãi chạy tán loạn. Rồi màn đêm buông xuống, họ không bay tiếp mà hạ trại bên một con lạch nhỏ nằm dưới đáy mương nước cạn, cùng ngắm nhìn những ngôi sao mọc lên, nói về những chuyện đã qua và sắp tới.





Cuối ngày hôm sau, họ tới làng Urgal giờ đã mọc lên gần hồ Fläm, nơi Eragon biết họ sẽ tìm thấy Nar Garzhvog và Herndall hội đồng tối cao của loài họ.





Bất chất phản kháng yếu ớt từ phía Eragon, các Urgal vẫn khăng khăng chiêu đãi nó và Saphria một bữa linh đình, nên nó mất cả buổi tối uống cùng Nar Garzhvog và những con đực của ông. Các Urgal làm ra thứ rượu từ dâu và vỏ cây mà Eragon thấy còn nặng hơn cả thứ rượu mật ong vô đối nhất của người lùn. Saphia có vẻ thích thú hơn nó nhiều – nó thì thấy cứ như anh đào hỏng ấy – nhưng nó vẫn uống cho vui lòng chủ nhà.





Rất nhiều các nữ Urgal cũng tới tò mò tới gặp nó và Saphira, bởi rất ít phụ nữ Urgal từng tham gia chiến đấu chống lại Đế chế. Họ có vẻ mảnh mai hơn những con đực nhưng cao ngang tầm, sừng của họ cũng có vẻ ngắn và mỏng hơn, dù vẫn rất đồ sộ. Đi cùng họ là lũ trẻ Urgal: những đứa nhỏ vẫn chưa mọc sừng, nhưng đứa lớn hơn đã bắt đầu có một cục u nhỏ trước trán khoảng từ một đến năm tấc. Khi không có sừng, trông chúng rất giống con người, trừ màu sắc làn da lẫn đôi mắt khác biệt. Một số đứa hiển nhiên là Kull, bởi chúng cao hơn bọn đồng lứa nhiều, kể cả cha mẹ mình. Đến lúc này Eragon có thể cho rằng không có cách nào xác định Urgal nào sẽ sinh ra Kull hay không. Một số cặp đôi là Kull cũng sinh ra những Urgal với vóc dáng bình thường cũng đủ khổng lồ rồi.





Cả tối đó, Eragon và Saphira chè chén cùng Garzhvog, Eragon cảm thấy như đang mơ khi nghe một Urgal tung lại câu chuyện về chiến thắng của Nar Tulkhqa tại Stavarosk – theo như Garzhvog giải thích cho Eragon hiểu được bằng thứ giọng Urgal mà so sánh với nó thanh âm của người lùn ngọt ngào như rượu pha mật ong vậy.





Buổi sáng ra, Eragon thấy người nó đầy những vết thâm, thành quả của những cú vỗ vai hay thụi đầy thân ái từ các Kull trong suốt buổi tiệc.





Cả đầu lẫn thân mình nhức nhối, nó cùng Saphira tới gặp Garzhvog để nói chuyện cùng Herndall. Mười hai trưởng lão họp trong một căn lều nhỏ hình tròn, ngập ngựa khói cây bách xù lẫn tuyết tùng cháy. Cánh cửa từ gỗ liễu vừa đủ lớn để Saphira chui đầu qua, vảy cô nàng tỏa sáng lấp lánh vào trong mảng lều tối.





Các trưởng lão rất già cả, vài người còn mù và sún hết. Họ mặc áo choàng với những nút thắt giống như những dây đai treo bên ngoài mỗi ngôi nhà, tạo thành dấu ấn riêng của mỗi bộ lạc. Mỗi thành viên Herndall đều mang một cây trượng khắc hoa văn Eragon không hiểu, nhưng nó biết chúng không hề vô nghĩa.





Qua lời dịch của Garzhvog, Eragon nói với họ phần đầu kế hoạch nhằm ngăn chặn những xung đột tương lai của Urgal với các giống loài khác, đó là các Urgal tổ chức những cuộc thi vài năm một, những cuộc đấu so sức mạnh, tốc độ và kĩ năng. Nhờ đó các Urgal trẻ có thể giành được vinh quang để kết đôi và khẳng định vị trí trong xã hội. Eragon đề nghị những cuộc thi sẽ mở ra cho mọi giống loài, cho phép Urgal có cách kiểm tra khả năng của họ đối với những kẻ địch trong quá khứ.





“Vua Orik và Nữ hoàng Nasuada đã đồng ý,” Eragon nói, “còn Arya, giờ là nữ hoàng tiên nhân cũng đang cân nhắc. Tôi tin rằng cô ấy cũng sẽ chúc phúc cho cuộc thi này.”





Các Herndall bàn bạc với nhau khoảng vài phút, rồi người già nhất có bộ râu trắng toát, sừng đã gần mòn sạch lên tiếng. Garzhvog dịch lại: “Ý của cậu tốt đấy, Hỏa Kiếm. Chúng ta phải nói với các bộ tộc để quyết định thời gian cho những cuộc thi, nhưng chuyện đó sẽ được tiến hành.”





Eragon vui mừng cúi chào và cảm ơn họ.

Một trưởng lão khác nói. “Chúng tôi thích chuyện này, Eragon à, nhưng chúng tôi không nghĩ rằng có thể dừng đánh nhau trong giống loài chúng ta được. Dòng máu chảy quá nóng, mình những cuộc thi thôi sẽ không đủ làm nguội nó đâu.”





Thế rồng có làm được không? Saphira hỏi kháy.





Một trưởng lão sờ lên sừng. “Chúng ta không nghi ngờ sự ghê gớm của giống loài người đâu, Lưỡi Lửa à.”





“Tôi biết dòng máu của các bạn rất nóng – hơn tất cả những loài khác,” Eragon nios. “Đó là lý do tôi có một ý khác.”





Các Herndall im lặng nghe nói giải thích, dù Garzhvog cựa mình không yên, thốt lên tiếng gầm gừ nho nhỏ. Khi Eragon nói xong, các Herndall không nói hay cử động trong vài phóng, làm Eragon cảm thấy không thoải mái trước những ánh mắt nhìn nó không chớp mắt.





Rồi Urgal bên phải ngoài cùng lúc lắc cây trượng, đôi chuông đá gắn trên trượng vang leng keng trong căn lều đầy khói. Bà nói chậm rãi, giọng trầm và đục, như thể lưỡi sưng lên. “Cậu sẽ làm vậy vì chúng tôi hả, Hỏa Kiếm?”





“Tôi sẽ làm,” Eragon lại cúi người.





“Nếu cậu làm thế, Hỏa Kiếm và Lưỡi Lửa à, thì các cậu sẽ là những người bạn vĩ đại nhất Urgralgra từng có, chúng tôi sẽ nhớ đến tên các cậu mãi mãi. Chúng tôi sẽ thêu lên một trong các thulqna (chú thích: mảnh vải treo như cờ hiệu trên lều Urgal – nd), sẽ khắc lên những cây cột trụ, và sẽ khi những con non nhú sừng, chúng sẽ được dạy về tên các cậu.”





“Vậy câu trả lời của các bạn là có?” Eragon hỏi.





“Đúng vậy.”





Garzhvog khựng lại rồi – Eragon nghĩ gã có vẻ tự nói một mình – lẩm bẩm, “Hỏa Kiếm, cậu không biết chuyện này có ý nghĩa thế nào với dân tộc tôi đâu. Chúng tôi sẽ mãi nợ ơn cậu.”





“Các bạn không nợ gì tôi hết,” Eragon nói. “Tôi chỉ ước giữ chúng ta không có chiến tranh nữa thôi.”





Nó nói chuyện cugnf các Herndall một hồi lâu nữa, thảo luận những điểm chi tiết trong thỏa thuận. Rồi nó và Saphira từ biệt, tiếp tục hành trình tới Vroengard.





Rồi tiếng túp lều thô kệch trong ngôi làng dần nhỏ đi phía sau họ, Saphira nói, Họ sẽ là những Kỵ Sỹ tốt đấy.





Anh hy vọng em đúng.





Phần còn lại cuộc hành trình không có biến cố gì cả. Họ không gặp cơn bão nào trên biển, chỉ có làn mây mỏng lưa thưa chắn trước mặt không có gì nguy hiểm, cùng những con mòng biển chao lượn trên không.





Saphria đáp xuống Vroengard trước căn nhà hoang lần trước họ nghỉ lại. Rồi cô nàng chờ đợi trong khi Eragon bước vào cánh rừng giữa những khóm cây tối thui phủ đầy địa y, cho tới khi nó gặp vài con chim ăn đêm, rồi một đám rêu lổm nhổm nhưng con dòi mà Nasuada từng kể Galbatorix gọi là bọ hang. Sử dụng tên của các tên, Eragon đặt cho chúng tên phù hợp bằng cổ ngữ. Những con chim ăn đêm gọi là sundavrblaka, còn những con bọ hang gọi là íllgrathr, cái tên thứ hai này làm nó cười chán nản, bởi nó có nghĩa là “đói cồn cào.”





Eragon thấy ổn thỏa, rồi trở lại chỗ Saphira, nghỉ ngơi và nói chuyện cả đêm với Galedr cùng các Eldunarí.





Bình mình lên, họ cùng tới Tảng đá Kuthian. Họ nói tên thật của mình, rồi bước qua cảnh cửa phủ đầy rong rêu vừa mở ra, đi xuống căn hầm bên dưới. Trong hang động tít dưới lòng đất, thắm sáng bằng một hồ đá nóng chảy nằm dưới miệng núi Erolas, người bảo vệ những quả trứng Cuaroc giúp họ đặt từng quả vào trong những ngăn chứa riêng. Rồi họ chất những cái tráp lên giữa căn phòng cùng với Eldunarí đã ở lại trong hang bảo vệ đám trứng.





Với sự giúp sức của Umaroth, Eragon ếm câu thần chú đã từng làm một lần, đặt những quả trứng và trái tim trong chiếc túi không gian sau lưng Saphria, nơi cả nó và cô nàng đều không thể đụng tới.





Cuaroc hộ tống họ ra khỏi căn hầm. Người đàn ông đầu rồng bước kêu loảng xoảng ầm ỹ lên nền hang khi họ leo lên mặt đất.





Khi họ ra ngoài, Saphira quặp Cuaroc giữa móng vuốt – ông quá lớn và nặng để ngồi yên trên lưng cô nàng – rồi bay lên khỏi thung lũng hình tròn nằm giữa lòng Vroengard.





Rồi Saphira bay qua vùng biển đêm rực sáng, qua rặng Spine với những đỉnh núi nhọn phủ băng tuyết, khe hở giữa chúng trông như những con sông tối tăm. Cô nàng rẽ về phía Bắc, bay qua Thung lũng Palancar – nơi cô nàng và Eragon lại nhìn thấy ngôi nhà tuổi thơ của họ - dù chỉ là từ tít trên cao – rồi họ bay qua vịnh Fundor, với những đợt sóng trông như lớp bọt không khí trông như những ngọn núi cuồn cuộn chảy. Rồi thành phố Ceunon, cùng những mái nhà dốc nhiều lớp và chạm khắc hình đầu rồng, là điểm đáng chú ý tiếp theo trước khi tới rìa Du Weldenvarden, đánh dấu bởi những câu gỗ thông cao và chắc chắn.





Những đêm họ cắm trại nghỉ bên những con suối và hồ nước, ánh lửa phản chiếu lên thân thể giáp trụ bóng loáng của Cuaroc, trong khi ếch nhái và côn trùng ca hát xung quanh. Thi thoảng họ lại nghe thấy tiếng tru của những đàn sói đi săn đêm.





Khi tới Du Weldenvarden, Saphira bay cả tiếng mới đến trung tâm khu rừng, nơi lưới phòng hộ của các tiên nhân ngăn cô nàng không tiến xa hơn được. Rồi cô nàng hạ cánh đi xuyên qua lớp rào chắn vô hình, cùng Cuaroc đi bên cạnh, rồi lại cất cánh bay.





Hàng dặm được bay qua rừng cây ngút ngàn, điểm xuyết vài hàng cây rụng lá – những cây sồi, bạch dương, cây du, cây dương, cây liễu – chạy dọc theo bờ sông. Qua ngọn núi mà Eragon không còn nhớ tên, rồi thành phố tiên nhân Osilon, rồi cánh rừng thông tưởng chừng vô biên, mỗi ngọn cây vừa riêng biệt vừa gần như giống hệt những cá thể xung quanh.





Cuối cùng tới chiều tối khi mặt trăng và mặt trời treo đối diện nhau trên màn trời trong xanh, Saphira tới Ellesméra, hạ cánh xuống giữa những ngôi nhà trong thành phố lớn nhất, và đáng tự hào nhất của các tiên nhân.





Arya và Fírnen đang chờ họ cùng Roran và Katrina. Khi Saphira tới gần, Fírnen ngẩng cao đầu dang cánh, gầm lên vui mừng khiến lũ chim đang bay cách cả dặm nháo nhào sợ hãi. Saphira đáp lại khi đáp xuống, đặt nhẹ Curoc trên mặt đất.





Erargon tháo đai trượt xuống lưng Saphira.





Roran chạy tới ôm nó vào lòng, vỗ mạnh vai nó trong khi Katrina ôm nó từ bên kia. Eragon cười, “A! Từ từ để em thở cái đã! Thế anh chị có thích Ellesméra?”





“Đẹp tuyệt vời!” Katrina mỉm cười.





“Anh nghĩ em hơi thổi phồng rồi đó,” Roran nói, “nhưng đúng là ấn tượng y như em nói. Ngôi nhà bọn anh đang ở …”





“Tialdarí Hall,” Katrina bồi.





Roran gật gù. “Đó đó. Nó cho anh vài ý tưởng cho bọn anh về việc tái thiết Carvahall. Rồi cả Tronjheim Farthen Dûr …” Anh lắc đầu huýt sáo nhẹ.





Eragon bật cười rồi đi theo họ dọc theo bờ rừng đến rìa Tây của Ellesméra. Arya đi cùng họ, ra dáng nữ hoàng giống mẹ cô từng chút một. “Mừng được gặp giữa đêm trăng Eragon à. Chào mừng trở lại!”





Nó nhìn cô. “Mừng được gặp lại, Khắc tinh của Tà thần.”





Cô mỉm cười cách nó dùng từ, khiến bóng hoàng hồn có vẻ sáng bừng lên dưới tàn cây đu đưa.





Rồi khi Eragon tháo yên cương Saphira, cô nàng cùng Fírnen cất cánh – dù Eragon biết Saphira đã mệt lử vì chặng đường dài – biến mất về phía Vách đá Tel’naeír. Trước khi đi, Eragon còn nghe Fírnen nói, sáng nayta bắt được ba con hươu. Chúng đang nằm đợi nàng trên bãi cỏ trước lều Oromis.





Cuaroc rảo bước theo Saphira, bởi những quả trứng vẫn đi cùng cô nàng, mà nghĩa vụ của ông là phải bảo vệ chúng.





Roran và Katrina dẫn nó đi qua những thân cây khổng lồ mọc khắp thành phố cho tới khi tới sát bờ cây thù du và thực quỳ, nơi hàng dãy bàn đang trải đầy đồ ăn. Rất nhiều tiên nhân, mặc áo choàng đẹp nhất, tiến ra chào Eragon bằng những câu reo hò êm tai, những điệu cười ngọt như mật hay những đoạn nhạc và lời ca.





Arya ngồi lên vị trí đầu bàn tiệc, con quạ trắng Blagden đang đậu trên một phiến gỗ bên cạnh, thi thoảng lại rên rỉ, thốt ra những câu vô nghĩa. Eragon ngồi cạnh Arya, họ cùng ăn uống chúc tụng cho đến đêm khuya.





Khi bữa tiệc sắp tàn, Eragon lẩn đi vài phút, chạy qua khoảng rừng tối tới cây Menoa, lần theo mùi vị lẫn tiếng động hơn là bằng mắt.





Rồi những ngôi sao lại hiện ra khi nó tới dưới bóng cây thông lớn vĩ đại. Nó khựng lại, thở chậm lãi bình tĩnh rồi bước lại thềm rễ tỏa ra từ thân cây.





Nó dừng lại trước bộ rễ khổng lồ, đặt tay lên phiến gỗ nứt nẻ. Nó vươn tâm thức tới ý thức chậm chạp của cái cây trước từng là một tiên nữ, nói:





Linnëa … Linnëa … Dậy đi! Tôi cần nói chuyện với người! Nó chờ đợi nhưng không thấy cái cây phản ứng, như thể nó đang cố giao tiếp với không khí hay lòng đất vậy. Linnëa, tôi cần nói chuyện với người!





Chợt một cơn gió thở dài qua tâm trí, rồi nó cảm thấy một ý nghĩ, mờ nhạt và xa xôi, vọng tới, Gì vậy, ô, Kỵ Sỹ…?





Linnëa, lần cuối tôi tới đây, tôi nói rằng sẽ cho người bất cứ thứ gì để đổi lấy thanh thép sáng dưới rễ người. Tôi sắp rời khỏi Alagaësia, nên giờ tôi đến hoàn thành nghĩa vụ trước khi đi. Người cần ở tôi chuyện gì, Linnëa?





Cây Menoa không trả lời, nhưng những cành cây của nó lay động nhẹ, lá cây rơi bồm bộp lên bộ rễ dưới khoảng đất trống, cảm giác vui vẻ toát ra từ ý thức nó.





Đi đi…, giọng nói thầm thì, rồi cái cây rút khỏi tâm trí Eragon.





Nó đứng nguyên tại chỗ vài phút, gọi cái cây, nhưng nó từ chối trả lời/ Cuối cùng, Eragon rời đi, cảm thấy như thể chuyện này vẫn chưa xong, dù cây Menoa hiển nhiên cho rằng ngược lại.





Ba ngày tiếp theo, Eragon bỏ thời gian đọc sách và quyển trục – rất nhiều trong số đó lấy từ thư viện của Galbatorix, được Vanir gửi tới Ellesméra theo yêu cầu của Eragon. Mỗi tối nó dùng bữa với Roran, Katrina và Arya, nhưng ngoài ra nó không gặp ai kể cả Saphira, bởi cô nàng vẫn còn ở cùng Fírnen bên Vách đá Tel’naeír, có vẻ không thích thú làm chuyện gì khác. Đêm đến, tiếng gầm rú của lũ rồng thường vang vọng khắp khu rừng, làm gián đoạn nó đọc sách, mỉm cười khi chạm vào tâm trí Saphira. Nó nhớ sự bầu bạn của Saphira, nhưng biết rằng cô nàng chỉ còn một khoảng thời gian ngắn bên Fírnen, mà nó thì tôn trọng cả hạnh phúc của cô nàng nữa.





Ngày thứ tư, khi nó đã đọc hết chỗ sách, nó tới thăm Arya, nói cho cô và các cô vấn kế hoạch của mình. Phải mất nửa ngày nó mới thuyết phục được họ rằng chuyện đó là cần thiết, và hơn nữa, khả thi.





Xong chuyện, họ tạm nghỉ dùng bữa. Khi hoàng hôn vừa tràn xuống, họ tập trung tại khoảng đất bên cây Menoa: nó, Saphria và Fírnen, Arya, ba mươi trưởng lão tiên nhân già cả và thông thái nhất, cùng Galedr và các Eldunarí mà Eragon và Saphira mang theo, cùng hai Người Bảo Hộ: tiên nữ Iduna và Nëya,hiện thân sống của hiệp định giữa loài rồng và tiên nhân.





Nhưng người bảo hộ cởi áo choàng, rồi – theo nghi thức cổ xưa – Eragon và những người khác bắt đầu hát, còn Iduna và Nëya nhảy múa, khiến những hình xăm rồng trên người họ có vẻ như trở thành một sinh vật hoàn chỉnh.





Khi bài ca lên tới cao tròa, con rồng tỏa sáng, rồi bắt đầu há mõm, giang cánh nhảy ra khỏi làn da của hai tiên nữ, bay lên cho tới khi chỉ còn đuôi rồng vẫn dính trên thân thể họ.





Eragon gọi con vật chói sáng, rồi khi đã được nó chú ý, Eragon giải thích điều mình muốn và hỏi xem con rồng có đồng ý hay không.





Cứ làm như ngươi muốn, Người-đồ-sát-Vua à, cái bóng nói. Nếu chuyện đó đảm bảo hòa bình toàn cõi Alagaësia, chúng ta không phản đối.





Rồi Eragon đọc lên từ một trong những cuốn sách của Kỵ Sỹ và thầm nói tên của cổ ngữ trong đầu. Các tiên nhân và lũ rồng cho nó mượn sức mạnh, dòng năng lượng từ họ chảy cuồn cuộn như dòng thác xoáy ào ạt trong cơ thể nó. Eragon dùng nó để ếm một thần chú đã dành cả ngày để hoàn thiện, loại thần chú chưa từng được thực hiện trong hàng thế kỉ: những câu thàn chú cổ xưa chảy trong lòng đất và những mạch núi. Với nó, Eragon mới dám thực hiện điều chưa từng ai làm bao giờ.





Với nó, Eragon thiết lập nên một hiệp ước mới giữa loài rồng và các Kỵ Sỹ.





Nó ràng buộc không chỉ các tiên nhân và con người với loài rồng, mà còn cả người lùn và Urgal, khiến bất kì ai trong số các giống loài này đều có thể thành Kỵ Sỹ.





Khi nó kết thúc từ cuối cùng, qua đó chứng nhận câu thần chú vĩ đại, mặt đất và không khí như rung chuyển. Nó cảm thấy như thể mọi thứ quanh họ - và có lẽ mọi thứ trên đời nữa – đang nhẹ nhàng chuyển dịch. Câu thần chú khiến nó, Saphira và lũ rồng kiệt sức, nhưng nó biết mình đã làm được một một chuyện vĩ đại, có lẽ là vĩ đại nhất đời nó.





Arya nài nỉ được tổ chức một bữa tiệc nữa đánh dấu sự kiện này. Dù đã mệt mỏi, Eragon vẫn cùng tham dự ăn mừng, hạnh phúc được được bầu bạn cùng cô và Roran, Katrina lẫn Ismira.





Dù sao đến giữa bữa tiệc, đồ ăn và âm nhạc đột nhiên khiến nó ngán ngẩm, thế là nó xin phép rút lui, bước ra khỏi chỗ ngồi cạnh Arya.





Anh có ổn không? Saphira hỏi từ phía bên cạnh Fírnen.





Nó mỉm cười nhìn lại cô nàng từ xa. Anh chỉ cần yên tĩnh một lát. Anh sẽ trở lại ngay. Nó lướt đi, rồi chậm rãi bước giữa hàng thông, thở sâu bầu không khí mát mẻ ban đêm.





Đi được khỏi bàn tiệc khoảng một trăm thước, Eragon nhìn thấy một tiên nhân gầy gò, vai nhô cao đang tựa mình vào bộ rễ khổng lồ của một thân cây, quay lưng về phía bữa tiệc. Eragon dợm bước tránh làm phiền tiên nhân, nhưng vừa lúc nó nhìn lên khuôn mặt của người đó.





Đó không phải là tiên nhân nào cả, mà chính là lão đồ tể Sloan.





Eragon khựng lại ngạc nhiên. Sau bao chuyện đã qua, nó gần như quên khuấy rằng Sloan – cha Katrina – cũng đang ở Ellesméra. Nó hơi lưỡng lự cân nhắc một chút, rồi nhẹ bước lại bên lão.





Cũng giống như lần cuối Eragon nhìn thấy lão, Sloan vẫn đeo một dải băng vải đen quấn quanh đầu, che đi lỗ hổng trước khi từng là đôi mắt lão. Nước mắt thấm lộ ra ngoài lớp vải, lông mày lão hằn lên nếp nhăn, còn đôi tay gầy guộc bóp chặt lẫn nhau.





Lão đồ tể nghe tiếng Eragon lại gần, quay sang phia Eragon nói, “Ai tới đó? Có phải ông không Adarë? Tôi bảo rồi, tôi không cần ai giúp hết!” Lời nói lão đầy cay đắng và giận giữ, nhưng cũng có nỗi u buồn trước đây Eragon chưa từng thấy.





“Là tôi, Eragon đây,” nó nói.





Sloan thẳng người dậy, như thể bị một cành cây nóng bỏng dí vào. “Mày! Mày lại tới cười lên nỗi khổ của tao hả?”





“Không, dĩ nhiên là không rồi,” Eragon thấy sợ ý nghĩ của lão. Nó lui chân lại cách vài thước.





“Tha cho tao nếu không tin mày. Khó tin là mày cố giúp đỡ hay hại ai đó đây.”





“Còn tùy vào quan điểm của ông.”





Sloan cong môi. “Lại một câu trả lời vòng vo kiểu tiên nhân, nếu tao từng nghe rồi.”





Phía sau lão, các tiên nhân đang tấu lên một bài hát mới trên nền sáo và tiêu, những tràng cười vui vẻ từ bữa tiệc vọng lại phía Eragon và Sloan.





Lão đồ tể hất hàm ra dấu. “Tao có thể nghe thấy con bé.” Những giọt nước mắt long lanh chảy ra dưới lên vải. “Tao vẫn có thể nghe tiêng, nhưng không thể được nhìn con bé. Còn câu thần chú đáng nguyền rủa của mày lại không cho tao nói chuyện với nó.”





Eragon im lặng, không biết phải nói gì.





Sloan tựa đầu vào rễ cây, nuốt nước bọt. “Các tiên nhân bảo tao rằng đứa trẻ, Ismira ấy, rất khỏe và mạnh mẽ.”





“Đúng vậy. Cô bé là đứa trẻ mạnh mẽ, ồn ào nhất tôi từng thấy. Nó sẽ là một người phụ nữ rất tuyệt.”





“Hay lắm.”





“Ông sống như thế nào? Vẫn tiếp tục chạm khắc chứ?”





“Các tiên nhân vẫn báo cho mày về tao, phải không?” Trong khi Eragon đang quyết định nên trả lời thế nào – nó không muốn Sloan biết mình đã tới thăm lão trước đây – lão lại nói, “Tao cũng đoán vậy. Thế mày nghĩ tao sống thế nào? Tao sống trong bóng tối, suốt từ hồi ở Helgrind, chẳng làm được gì ngoài việc làm sưng vù đầu ngón tay trong khi lũ tiên nhân làm phiền tao hết chuyện này đến chuyện kia, chẳng để tao yên phút nào hết!”





Một tiếng cười lại vang lên phía sau họ. Eragon có thể nhận ra trong đó giọng của Katrina.





Khuôn mặt Sloan nhăn nheo vì cau có. “Rồi mày còn phải tới và mang con bé tới Ellesméra nữa. Chỉ mỗi việc lưu đày tao chắc không đủ phải không? Không, mày phải tra tấn tao, để tao biết đứa con và đứa cháu duy nhất đang ở đây, mà tao không thể nào nhìn chúng lẫn gặp chúng.” Sloan nhe răng, như thể sắp lao tới Eragon. “Mày đúng là đồ vô lại vô lương tâm, chính thế đấy.”





“Tôi có quá nhiều trái tim rồi,” Eragon nói, dù nó biết lão đồ tể sẽ không hiểu.





“Bah!”





Eragon lưỡng lự. Có vẽ sẽ nhân từ hơn nếu cứ để Sloan tin rằng Eragon muốn hại lão hơn là cho lão biết nỗi đau của lão là bởi sự đãng trí của nó.





Lão đồ tể quay lưng, thêm nhiều giọt lệ chảy xuống má. “Biến đi,” lão nói. “Cút khỏi mắt tao ngay. Và đừng bao giờ làm phiền tao nữa Eragon, nếu không tao thề một trong hai ta sẽ phải chết.”





Eragon chọc chọc xuống cành cây trên mặt đất, rồi đứng dậy nhìn chăm chú Sloan. Nó không muốn rời đi. Những gì nó gây ra cho Sloan khi đưa Katrina tới Ellesméra có vẻ sai trái và tàn nhẫn. Cảm giác tội lỗi dày vò Eragon càng lúc càng mạnh, cho tới khi nó ra một quyết định khiến mình bình tâm lại.





Bằng giọng chỉ như thì thầm, nó dùng tên của cổ ngữ để thay đổi thần chú đã ếm lên Sloan. Sau hơn một phút khi nó đã gần hoàn thành xong lời chú, Sloan gầm gừ nghiến răng, “Dừng ngay lời lẩm bẩm đáng nguyền rủa của mày lại Eragon, và biến đi. Cút đi cho khuất mắt tao, mẹ kiếp! Cút đi!”





Nhưng Eragon không rời đi, mà tiếp tục một thần chú mới. Nó rút ra từ hiểu biết của các Eldunarí và các Kỵ Sỹ đồng hành với chúng, rồi hát lên một thần chú nuôii dưỡng, phục hồi lại những thứ đã qua. Đó là một việc khó khăn, nhưng kĩ năng của Eragon đã hoàn thiện hơn rất nhiều, nó hoàn toàn có khả năng làm được chuyện mình muốn.





Khi Eragon hát, Sloan giật cục, rồi lão bắt đầu nguyền rủa và cào cấu bằng hai tay lên má và lông mày, như thế đang lên cơn ngứa điên cuồng.





“Khỉ thật! Mày làm gì với tao vậy?”





Kết thúc câu chú, Eragon ngồi xổm xuống, nhẹ nhàng tháo dây vải trên đầu Sloan. Sloan rít lên khi thấy miếng vải bị kéo ra, rồi lão vươn tay cản Eragon lại, nhưng quá chậm chạp, đôi tay lão vờn vờn trong không khí.





“Mày còn tước luôn cả lòng tự trọng của tao hả?” giọng Sloan căm hờn.





“Không,” Eragon đáp. “Tôi sẽ trả lại nó. Mở mắt ông ra.”





Lão đồ tể do dự. “Không. Tao không thể. Mày đang cố lừa tao.”





“Tôi làm thế bao giờ nào? Mở mắt ra, Sloan, rồi nhìn con gái và cháu gái ông đi.”





Sloan rùng mình, rồi lông mi lão chầm chậm nhấc lên, thay vì khoảng trống rỗng tuếch như trước là một đôi mắt rực sáng. Không như đôi mắt từng có, giờ đây mắt Sloan mang màu xanh như bầu trời giữa trưa và phát sáng rực rỡ.





Sloan chớp mắt, con người thu lại cố điều chỉnh quen với ánh sáng giữa khu rừng. Rồi lão bật dậy, vặn mình nhìn qua đám rễ xuống bữa tiệc phía xa. Ánh sáng từ những ngọn đèn-không-lửa trải ấm áp lên mặt lão, khiến lão có vẻ tràn đầy sự sống và niềm vui. Eragon nhìn sự thay đổi biểu tình đáng kinh nghạc của lão, cảm thấy nước mắt mình cũng đang trào ra.





Sloan tiếp tục nhìn chăm chú, như thể người lữ hành đói khát nhìn dòng sông trong lành trước mắt. Giọng lão khàn khàn cất lên, “Con bé đẹp quá. Cả hai trông đẹp tuyệt vời.” Rồi lão cười ha hả. “A…, nó còn rất hạnh phúc nữa. Cả Roran cũng vậy.”





“Từ bây giờ, ông có thể nhìn họ nếu muốn,” Eragon nói. “Nhưng thần chú của tôi vẫn sẽ ngăn ông nói chuyện, hoặc lô diện hoặc liên lạc với họ bằng cách nào đi nữa. Nếu ông thử thì tôi sẽ biết ngay.”





“Ta hiểu,” Sloan lẩm bẩm. Lão quay lại, nhìn chằm chằm Eragon không thoải mái. Quai hàm lão dợm lên xuống vài giây, như thể đang nhai cái gì đó, rồi nói, “Cảm ơn cậu.”





Eragon gật đầu đứng dậy. “Tạm biệt, Sloan. Ông sẽ không gặp lại tôi nữa đâu, tôi hứa đấy.”





“Tạm biệt, Eragon.” Rồi lão đồ tể lại quay mình nhìn đăm đăm vào bữa tiệc sáng tưng bừng.



---------------------------------------





Tiễn biệt



1 tuần trôi qua, 1 tuần của âm nhạc và những tiếng cười nơi xứ sở thần tiên Ellesmera, Eragon dẫn Ronan, Katrina và Ismira tới thăm túp lều của Oromis nằm trên vách đá của Telnaeir. Saphira chỉ cho mọi người xem tác phẩm mà cô nàng làm trong Hội Huyết thề. Còn Arya thì dành cả ngày nói cho họ về những khu vườn trong thành phố, về những giống cây kỳ lạ mà thần tiên đã sưu tầm và tạo ra trong hành thế kỷ.



Eragon và Saphira sẽ rất vui nếu được ở lại Ellesmera them vài tuần, nhưng Blodhgram đã thông báo là ông và những Eldunari mà ông mang theo đã đến hồ Ardwen. Eragon và Saphira biết đã đến lúc cần đi. Tuy nhiên Arya và Firnen nói họ có thể bay cùng Eragon cho đến hết Du Weldervarden, và có thể xa hơn nữa.



Katrina quyết định đi sau cùng với Ismira, nhưng Ronan muốn được bay cùng mọi người : “ tôi muốn nhìn xem những vùng đất xa xôi của Alagaesia như thế nào, và bay cùng mọi người thì nhanh hơn là cưỡi trên 1 con ngựa”



Sáng sớm hôm sau, Eragon tạm biệt Katrina và Ismira. Katrina khóc, còn Ismira cứ mút ngón tay cái và nhìn anh ngơ ngác.



Sau đó họ rời đi, Saphira và Firnen bay cạnh nhau, tiến về phía đông, ra khỏi khu rừng. Ronan ngồi phía sau Eragon, trong khi Cuaroc lủng lẳng dưới chân Saphira, cơ thể nó phản chiếu ánh sáng lấp lánh như 1 tấm gương.

Sau 2 ngày rưỡi bay, họ đã thấy hồ Ardwen, 1 vùng nước rộng lớn hơn cả thung lũng Palancar. Về phía bờ tây là thành phố Silthrim, nơi Eragon và Saphira đã có lần ghé qua. Tại những cầu tàu,những chiếc thuyền trằng 1 cột buồm nổi bập bềnh trên mặt nước.



Những con thuyền, như thể Eragon đã từng biết chúng, nhận ra chúng trong những giấc mơ, cảm giác như 1 thứ định mệnh đã gắn chặt vào anh khi anh nhìn chằm chằm vào chúng.

Họ nghỉ đêm tại Silthrim. Thành phố này khá giống Ellesmera, dù nhỏ hơn và chật chội hơn.

Trong khi họ nghỉ ngơi, các thần tiên mang những Eldunari lên tàu, cùng với thực phẩm, quần áo, công cụ và các vật dụng cần thiết khác. Thủy thủ đoàn gồm 12 thần tiên, những người muốn giúp đỡ huấn luyện những kỵ sĩ mới và gây dựng lại loài rồng.



Sáng hôm sau, Eragon thu lại câu thần chú mà anh dùng để giấu những quả trứng trên lưng Saphira. Anh đưa 2 quả trứng cho những thần tiên mà Arya đã lựa chọn để bảo vệ chúng. 1 quả sẽ được đưa đến chỗ những người lùn, và 1 quả tới chỗ Urgals, và anh hy vọng những quả trứng rồng sẽ lựa chọn ra những kỵ sĩ mới. nếu không, chúng sẽ được đổi lại cho nhau, còn nếu chúng vẫn không thể tìm ra được những kỵ sĩ cho mình……. Uhm, Eragon không chắc là sẽ làm gì tiếp theo, nhưng anh tin Arya sẽ nghĩ ra điều gì đó. Khi những quả trứng nở, những con rồng và các kỵ sĩ sẽ chịu sự quản lý của Arya và Firnen cho đên khi họ đủ trưởng thành để gia nhập cùng với Eragon và Saphira.



Sau đó Eragon, Arya, Ronan, Cuaroc, Blodhgram và những thần tiên khác lên thuyến, trong khi Saphira và Firnen bay vòng vòng phía trên.



Con thuyền được đặt tên là Talita, phòng theo 1 ngôi sao có màu hung đỏ ở phía đông. Nhẹ và hẹp, con thuyền dường như chỉ cần vài centimet nước là có thể đi được. nó di chuyển không tiếng động, và hiếm khi phải lái, như thể nó biết chính xác đâu là nơi thuyền trưởng muốn đến.



Sau vài ngay, họ đi xuyên qua khu rừng, qua hồ Ardwen, sau đó vào song Gaena. Dòng song trở nên lớn hơn khi tuyết tan vào mùa xuân. Đi vào những nhánh song, dưới tán lá cây xanh tốt, những con chim bay lượn và ca hót ngay trên đầu họ,những con sóc đỏ đen nhảy nhót hay ngổi yên nhìn họ từ trên những cành cây.



Eragon dành phần lớn thời gian trò chuyện với Arya và Ronan, và 1 vài dịp hiếm hoi với Saphira. Anh thường thấy Saphira cùng với Firnen ngồi trên bờ, những cái móng vuốt lớn như nhau, và đầu chúng nằm cạnh nhau, nghỉ ngơi trên bãi cỏ.



Ban ngày, ánh sáng trong khi rừng vàng vọt và lờ mờ. đêm xuống, những ngôi sao chiếu sáng lấp lánh, và ánh sáng từ mặt trăng đủ cho họ đi được. hơi ẩm và sương mù làm Eragon cảm thấy lơ mơ, như lạc vào 1 giấc mơ.



Cuối cùng họ cũng đi qua khu rừng. dòng song Gaena đổi hướng về phương nam, đưa họ tới hồ Eldor, còn lớn hơn cả hồ Ardwen.



Thời thiết bỗng thay đổi, bão nổi lên. Những con sóng cao ập vào mạn thuyền. suốt 1 ngày liền, họ phải hứng chịu những cơn mưa lạnh buốt và những trận gió dữ dội. Những cơn gió thổi phía sau họ, đẩy họ đi nhanh hơn rõ rệt.



Từ hồ Eldor, họ vào song Edda, và bơi thuyền về phía nam. Những cánh rừng nằm hoàn toàn sau lưng họ, con thuyền Talita lướt nhẹ nhàng trên sông, giữa đồng bằng.



Từ khi ra khỏi những cánh rừng, Eragon tin là Arya và Firnen sẽ rời đi, nhưng anh không nói bất kỳ điều gì về chuyện đó, cũng như không hỏi gì về kế hoạch của họ.

Càng đi về phía nam, họ càng đi qua nhiều những vùng đất hoang vắng. “ nhìn thật là tiêu điều” – Ronan nói.

Cuối cùng họ cũng đến được 1 khu làng ở cực đông của Alagaesia, với những ngôi nhà gỗ nhỏ, đơn độc, được gọi là Hedarth. Những người lùn đã xây dựng vùng đất này là nơi giao dịch với các thần tiên, do đó không có gì giá trị trong khu vực, ngoại trừ những đàn hươu nai và bò đực. khu làng được xây dựng tại nơi dòng Az Ragni đổ vào song Edda, làm nó to lên gấp đôi.



Eragon, Arya và Saphira đã có lần đi qua Hedarth, khi họ đi ngược từ Farthen Dur về Ellesmera, sau trận chiến với Urgals. Do đó anh biết điều gì đang mong đợi khi đi vào làng.



Nhưng anh cảm thấy bối rối khi thấy hàng trăm người lùn ngồi đợi họ ở trên cầu tàu. Sự bối rối nhanh chòng trở thành niềm vui sướng khi đám đông tách ra, và Orik bước lên phía trước.



Nâng cao cây búa Volund lên quá đầu, Orik hét lớn : “ anh nghĩ là tôi sẽ để người an hem kết nghĩa của tôi ra đi mà không nói tam biệt sao??”

Cười toe toét, Eragon hét lớn “ không bao giờ”



Mọi người lên bờ, ngoại trừ Cuaroc, Blodhram và 2 thần tiên khác ở lại bảo vệ các Eldunari. Dòng nước nơi 2 con song gặp nhau quá dữ dội làm cho con thuyền khó đứng yên được mà k va chạm vào cầu tàu, vì thế các thần tiên xuôi thuyền xống dòng Edda 1 đoạn, tìm nơi sóng lặng để thả neo.



Những người lùn mang tới Hedarth 4 con lợn rừng không lồ của núi Boer. Những con Nargan được xiên qua bởi những cái cây to như cẳng chân Eragon và được nướng trên những hố đầy than hồng.

“ chính tôi đã giết 1 con đấy” – Orik nói đầy tự hào, chỉ vào con to nhất trong 4 con lợn rừng.

Orik mang theo 3 chiếc xe chở đầy những thùng rượu mật ong ngon nhất của người lùn cho Saphira. Cô nàng ậm ừ sung sướng khi thấy những thùng rượu. “ anh nên thử chúng” – cô nàng nói với Firnen, trong khi Firnen đang khịt khịt mũi ngửi mấy thùng rượu.



Khi trời tối, đồ ăn đã nấu nướng xong, họ cùng nhau ngồi vào những chiếc bàn mà những người lùn vội vàng đóng trong ngày. Orik đập mạnh chiếc bủa vào tấm khiên, làm đám đông im lặng. sau đó ông lấy 1 miếng thịt, cho vào miệng, nhai, nuốt : “ Ilf gauhnith” – ông tuyên bố. những người lùn la hét 1 cách sung sướng và buổi tiệc bắt đầu.



Cuối buổi tiệc, khi mọi người đã ăn uống no say, kể cả những con rồng, Orik vỗ tay gọi 1 người hầu cận mang ra 1 cái hộp đựng đầy vàng và đá quý “ 1 chút tấm long nhỏ biểu thị cho tình bạn” – Orik nói trong khi đưa nó cho Eragon. Eragon cúi người nhận lấy và cảm tạ.



Sau đó Oruk tiến về phía Saphira, ông tặng cô nàng những chiếc vòng bằng vàng và bạc mà cô ả có thể đeo vào những móng vuốt ở chân trước : “ đây là những chiếc vòng đặc biệt, nó sẽ k bị trầy xước, k hoen ố. Và chừng nào ngươi còn đeo nó, con mồi của ngươi sẽ k thể biết ngươi đang đến gần”



Món quà làm Saphira hết sức thích thú. Cô ả để Orik đeo chúng vào cái móng ở giữa bên chân phải, và suốt buổi tối hôm đó, Eragon thấy cô nàng cứ say mê ngắm nhìn những cái vòng kim loại sáng bóng.

Orik khăng khăng muốn họ ở lai nghỉ qua đêm ở Hedarth. Eragon muốn khởi hành vào sáng sớm hôm sau, nhưng khi trời vừa sáng, Orik liền mời anh, Arya và Ronan dùng bữa sáng. Sau bữa sáng, hộ ngồi tán chuyện, rồi đi xem những chiếc bè người lùn dùng để chở những con Nagran từ rặng Beor tới Hedarth, và trước khi tới giờ ăn tối, Orik lại thuyết phục được mọi người ở lại dùng bữa.



Bữa tối, cũng giống như bữa tiệc ngày hôm trước, những người lùn chơi nhạc và ca hát, và lắng nghe phần biểu diễn của những thi nhân người lùn.



“ ở lại them 1 đêm nữa” – Orik thuyết phục – “ trời tối, và không có thời điểm thích hợp để khởi hành”

Eragon đưa mắt nhìn vầng trăng tròn và mỉm cười “ ngài quên là trời đối với tôi không tối như đối với ngài ah? Chúng tôi phải đi. Nếu ở lại, tôi sợ chúng tôi sẽ không bao giờ đi được mất”



“ vậy hãy khởi hành với lời cầu chúc của ta, người anh em thân thiết”

Họ ôm chầm lấy nhau. Orik mang tới cho họ những con ngựa được giữ trong những chuồng trại ở Hedarth để giao thương với các thần tiên.

Eragon nâng cao cánh tay vẫy chào Orik. Sau đó anh thúc ngựa, phi nước đai cùng Arya, Ronan và các thần tiên xuôi theo bờ nam song Edda, trong bầu không khí dễ chịu , thoảng mùi hương của những cây liễu và cây dương.



Phía trên cao, 2 con rồng bay lượn long vòng như 1 vũ điệu xoáy ốc.

Ra khỏi Hedarth, Eragon và mọi người ghìm cương ngựa, chạy chậm lại và nói chuyện vui vẻ. Eragon không bàn tới những vấn đề quan trọng với Arya hay Ronan, và họ cũng vậy. không có những vấn đề phiền muộn, mà chỉ có cảm xúc về sự thân thiết. họ xưng hô với nhau quý phái, trang nhã và lịch thiệp hơn so với thường ngày, vì họ biết thời gian họ còn bên nhau là k nhiều, và không ai muốn phá hỏng không gian này bởi những từ ngữ thiếu suy nghĩ.



Họ lên tới 1 đỉnh đồi nhỏ, nhìn thấy con thuyền Talita đang đợi họ ở phía xa.



Con thuyền hiện ra như Eragon hình dung, và hẳn là nó phải như vậy. dưới ánh trăng mờ nhạt, con thuyền như 1 con thiên nga, sẵn sang bay lên từ mặt sông rộng lớn và lững lờ trôi, mang anh tới nơi rộng lớn nào đó. Những thần tiên hạ thấp cánh buồm xuống, những mảnh vải lớn phản chiếu 1 thứ ánh sáng mờ ảo. chỉ có 1 người đứng ở chố bánh lái, còn lại trên boong tàu trống không.



Những nơi mà con thuyền Talita đi qua, những vùng đồng bằng rộng lớn, tối tăm trải dài tới tận đường chân trời. cả vùng đất rộng lớn bị chia cắt bởi duy nhất 1 con song, như 1 dải kim loại trên đất.

Eragon kéo cái mũ áo choàng lên đầu.



Họ tiền từ từ xuống đồi, băng qua bãi cỏ, tời bãi đá cuội gần con thuyền. móng ngựa gõ vang trên những hòn đá.



Eragon và mọi người xuống ngựa. Các thần tiên tự xếp thành 2 hàng dẫn về phía con tàu. Họ đứng đối diện nhau, cắm ngọn giáo xuống đất và đứng như tượng.



Eragon nhìn họ, cảm giác căng thẳng trong cổ họng làm anh hơi khó thở.



“ đến lúc rồi” – Saphira nói, và anh biết cô ả nói đúng.

Eragon lấy cái hộp vàng và đá quý từ trên yên ngựa, trao cho Ronan.

“ đây là nơi chúng ta phải chia tay?”- Ronan hỏi.

Eragon gật đầu : “ Ở đây”- anh nói, đưa cái hộp cho Ronan. “ anh nên cầm lấy. anh sẽ sử dụng chúng tốt hơn em…. Hãy dùng chúng để xây dựng lâu đài cho chính anh”

“ anh sẽ làm thế” – Ronan nói giọng dõng dạc. anh cầm lấy cái hộp bên tay trái, và ôm lấy Eragon bằng tay phải. họ ôm lấy nhau trong giây lát. Sau đó Ronan nói : “ bảo trọng, em trai”



“ anh cũng vậy…. hãy chăm sóc Katria bà Ismira”

“ tất nhiên”



Không biết nói gì them, Eragon vỗ vai Ronan, và quay về phía Arya đang đứng đợi anh ở giữa 2 hàng tiên nhân.



Họ nhìn nhau. Arya nói : “ Eragon”, cô kéo cái mũ chum đầu xuống, và trong ánh trăng, anh có thể thấy 1 phần khuôn mặt cô.

“ Arya”. Anh nhìn về phía dòng song bạc, rồi lại quay lai nhìn Arya. Và anh nắm chặt lấy cán thanh hỏa kiếm, run lên đầy xúc động. Anh không muốn rời đi, nhưng anh phải đi. “ hãy ở lại với tôi”





Cô nhìn thẳng vào anh : “ tôi không thể”

“…. ở lại với tôi cho đến khúc cua đầu tiên của dòng sông”

Cô lưỡng lự, và gật đầu. Eragon đư tay ra, và Arya vòng cánh tay mình qua, họ cùng nhau bước lên tàu, đứng bênh mũi tàu.

Các thần tiên theo sau họ, khi tất cả đã lên thuyền,ván tàu được rút lên. Không có gió hay mái chèo, con thuyền bắt đầu rời khỏi bãi song đầy đá và trôi lênh đênh trên dòng sông bình lặng.



Trên bãi sông, Ronan đứng 1 mình, nhìn mọi người ra đi. Anh quay đầu lại, òa khóc nức nở. màn đêm như vọng lại tiếng nỗi đau của anh.



Eragon đứng cạnh Arya vài phút, và không nói 1 lời nào khi họ thấy khúc quanh đầu tiên của dòng sông. Eragon quay lại nhìn Arya, anh kéo cái mũ trùm đầu của cô ra, nhìn vào đôi mắt cô và nói.

“ Arya”.

Và anh lẩm bẩm tên thật của cô. Cô rung mình.

Cô lẩm bẩm tên thật của anh, đáp lại. anh run lên khi nghe được toàn bộ sự sống trong mình.



Anh mở miệng định nói, nhưng Arya ngăn lại khi đặt 3 ngón tay lên môi anh. Cô lùi lại phía sau anh, đưa 1 tay lên cao quá đầu. “ tạm biệt, Eragon Shadeslayer”. Firnen từ trên cao lướt nhẹ xuống, vồ lấy Arya, nhấc cô lên khỏi boong tàu.



“ Tạm biệt” –Eragon nói khi nhìn Arya và Firnen bay về phía bãi sông nơi Ronan vẫn đang đứng 1 mình.



Những giọt nước mắt đong đầy trên khóe mi. Nắm chặt lấy lan can tàu, Eragon khóc, bỏ lại phía sau tất cả những điều đã biết. Trên cao, Saphira cũng đang than khóc. Nỗi buồn của cô nàng hòa cùng nối buồn của Eragon như thể họ tiếc thương cho những điều không bao giờ còn tồn tại.

Cuối cùng, Eragon cũng thôi khóc, và trái tim anh cũng đập bình thường trở lại. sự thanh bình xâm chiếm lấy anh khi anh ngắm nhìn vùng đồng bằng trống trải. anh tự hỏi những điều lạ lẫm gì anh có thể gặp ở vùng đất hoang sơ này, và anh trầm tư về cuộc sống anh và Saphira đang có – kỵ sĩ và 1 con rồng.

“ chúng ta không đơn độc” – Saphira nói.

1 nụ cười nở trên môi.

Và con thuyền vẫn tiến về phía trước, lướt đi nhẹ nhàng trên dòng sông bạc dưới ánh trăng, tiến về vùng đất xa.





Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#eragon