ERAGON TAP4_DI SAN THUA KE

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

POST ANHGAU151

TÓM TẮT: Er­agon, El­dest và Bris­in­gr

Từ thuở xa xưa, loài rồng đã ngự trị trên trái đất. Đó là những sinh vật kiêu hãnh, hung dữ và đơn độc. Vảy trên mình chúng như những viên đá quý. Những ai nhìn thấy chúng đều thấy sợ hãi vì vẻ đẹp tuyệt vời và nguy hiểm của chúng.

Mình loài rồng sống trên mảnh đất Ala­gaësia không biết bao nhiêu thế kỷ.

Rồi thần Helzvog tạo ra giống người lùn rắn chắc và to béo từ những tảng đá của Sa mạc Hadarac.

Hai loài không biết đã xung đột bao nhiêu lần.

Tiếp theo đó, loài tiên vượt qua biển bạc cập bến Ala­gaësia. Đã có những trận chiến giữa giống tiên và giống rồng. Nhưng tiên mạnh hơn người lùn và họ có thể hủy diệt rồng cũng như rồng có thể tiêu diệt các tiên nhân.

Chính vì thế, giữa hai loài đã thỏa hiệp ngừng chiến tranh. Trong thỏa hiệp lần đó, họ đã cùng nhau tạo ra những Kỵ sĩ rồng, những người mang trọng trách bảo vệ hòa bình cho Ala­gaësia trong hàng ngàn năm.

Cuối cùng tới loài người đặt chân lên Ala­gaësia. Rồi tới những Ur­gal có sừng. Sau đó là Ra’zac – những kẻ săn đêm và sống nhờ ăn thịt người.

Loài người cũng ký thỏa ước với rồng.

Tới một ngày nọ, một kỵ sĩ rồng trẻ tuổi tên Gal­ba­torix đã quay giáo chống lại chính giống nòi của hắn. Hắn biến con rồng đen Shruikan làm nô lệ và lôi kép mười ba Hiệp sĩ khác đi theo. Mười ba kẻ đó được gọi là Thập tam phản đồ

Gal­ba­torix và Thập tam phản đồ này đã giết các Kỵ sĩ khác và thiệu rụi thành phố quê hương ở đảo Vro­en­gard và loại bỏ tất cả những con rồng không phải của họ, chỉ để lại ba quả trứng rồng: một đỏ, một xanh lơ và một xanh lam. Bọn chúng cướp đi trái tim những con rồng còn sống sót – El­dunari – tách đi ý chí và trí tuệ của con rồng ra khỏi thể xác.

Trong vòng tám mươi hai năm, Gal­ba­torix đã thống trị loài người. Thập Tam Phản Đồ chết, nhưng hắn thì không vì sức mạnh của hắn là sức mạnh của tất cả những con rồng và không ai có thể hạ bệ hắn.

Vào năm cầm quyền thứ tám mươi ba của Gal­ba­torix, một người đã trộm lấy quả trứng xanh từ lâu đài của hắn. Quả trứng được truyền tay không biết bao nhiêu người vẫn nung nấu ý định lật đổ Gal­ba­torix – những Var­den.

Tiên nhân Arya mang quả trứng truyền từ Var­den tới các tiên nhân nhằm tìm ra người hay tiên có thể làm quả trứng nở. Cứ thế, hai mươi lăm năm trôi qua.

Trong một cuộc hành trình tới thành phố của giống tiên Os­ilon, nàng đã đụng độ một nhóm Ur­gal. Đi cùng nhóm Ur­gal đó có Tà thần Durza: một pháp sư bị những linh hồn hắn triệu hồi khống chế. Sau khi Thập Tam Phản Đồ chết đi, hắn trở thành trợ thủ đắc lực nhất của Gal­ba­torix. Lũ Ur­gal giết chết những vệ sĩ của Arya và bắt được cô. Arya dùng pháp thuật chuyển quả trứng đi tới một người cô mong sẽ bảo vệ được nó.

Nhưng câu thần chú lại không làm đúng điều cô mong đợi.

Quả trứng rơi vào tay Er­agon, một câu bé mồ côi mới mười lăm tuổi. Nó nhóc tìm thấy quả trứng trong dãy núi Spine. Nó mang quả trứng về trang trại nơi nó sống cùng ông cậu Gar­row và người anh họ duy nhất, Ro­ran. Quả trứng nở vì Er­agon và như vậy nó là chủ nhân của con rồng. Tên cô rồng đó là Saphi­ra.

Gal­ba­torix cho hai tên Ra’zac đi tìm kiếm quả trứng và chúng đã giết Gar­row và thiêu rụi ngôi nhà của Er­agon. Gal­ba­torix đã phù chú bắt Ra’zac phục vụ hắn và giờ giống này cũng không còn nhiều.

Er­agon và Saphi­ra lên đường tìm lũ Ra’zac rửa hận. Đi cùng họ còn có người kể chuyện, ông già Brom và từng là Kỵ sĩ rồng. Và tiên nữ Arya chủ định gửi quả trứng tới cho ông Brom.

Ông Brom đã dạy Er­agon nhiều điều về kiếm thuật, phép thuật cũng như danh dự của một con người. Ông đưa cho Er­agon thanh Zar’roc, một thanh kiếm đã có thời thuộc về Morzan – Phản đồ đầu tiên và mạnh nhất trong Thập Tam Phản đồ. Nhưng trong lần đụng độ tiếp theo vỡi lũ Za’rac, ông Brom hy sinh. Er­agon và Saphi­ra chật vật lắm mới trốn thoát nhờ sự trợ giúp của cậu thanh niên Murtagh, con trai của Morzan.

Trong cuộc hành trình, Tà thần Durza đã bắt được Er­agon khi nó đặt chân tới thành phố Gil’ead. Er­agon cố tự trốn thoát và trong lúc đó nó cứu được Arya. Arya bị trúng độc và bị thương nặng. Vì thế, Er­agon, Saphi­ra và Murtagh đã đưa cô tới gặp các Var­den hiện đang sống cùng những người lùn tại dãy núi Be­or.

Tại nơi đây Arya được trị thương, Er­agon đã chúc phúc cho đứa trẻ sơ sinh tên El­va, mong cho cô bé tránh khỏi những vận rủi. Nhưng vì Er­agon nói không rõ và cũng nhận ra rằng nó đã nguyền rủa cô bé, buộc cô bé phải che chắn cho những người gặp nạn.

Sau đó không lâu, Bạo chúa Gal­ba­torix đã gửi một đội quân Ur­gal hùng hậu tới tấn công người lùn và Var­den. Trong trận chiến Er­agon đã giết chết Tà thần Durza. Nhưng Durza cũng kịp tặng cho Er­agon một vết thương nặng chạy trên lưng khiến nó đau đớn mặc dù các thầy lang Var­den đã làm phép.

Trong cơn đau, nó nghe thấy một giọng nói. Giọng đó bảo Tới với ta, Er­agon. Tới với ta và ta sẽ cho con câu trả lời.

Ba ngày sau, thủ lĩnh Var­den, Aji­had bị Ur­gal phục kích và giết chết nhờ vào sự trợ giúp của cặp pháp sư song sinh đã phản bội Var­den và chạy về bên Gal­ba­torix. Chúng cũng bắt Murtagh nộp cho bạo chúa Gal­ba­torix. Nhưng Er­agon và những Var­den khác lại nghĩ Murtagh đã chết và đau buồn vô cùng.

Con gái của Aji­had, Na­sua­da trở thành thủ lĩnh của Var­den.

Từ Tron­jheim, thủ phủ của người lùn, Er­agon, Saphi­ra và Arya đi tới khu rừng phía bắc của Du Welden­var­den – nơi ở của các tiên nhân. Đi cùng với họ còn có người lùn Orik, cháu họ của Vua người lùn Hroth­gar.

Ở Du Welden­var­den, Er­agon và Saphi­ra đã gặp Oromis và Glae­dr: Kỵ sĩ và con rồng tự do cuối cùng, đã sống ẩn cư tại đây trong cả mộ thế kỷ, chờ đợi để hướng dẫn cho thế hệ Kỵ sĩ Rồng Tiếp theo. Er­agon và Saphi­ra cũng được diện kiến Nữ Hoàng Is­lanza­di của giống tiên và là mẹ của Arya.

Trong khi Oromis và Glae­dr huấn luyện Er­agon và Saphi­ra, Gal­ba­torix cho Ra’zac và một đội lính tới quê nhà của Er­agon tại Car­va­hall, bắt anh họ Ro­ran. Nhưng Ro­ran trốn và chúng sẽ không thể tìm thấy anh nếu như lão đồ tể Sloan không hận thù anh dữ như vậy. Lão Sloan giết chết người canh gác làng mở đường cho lũ Ra’zac vào để tóm sống Ro­ran

Ro­ran thoát được nhưng Ra’zac đã bắt mất Ka­tri­na mà anh yêu thương. Ro­ran thuyết phục dân làng cùng anh rời đi, đi qua dãy nũi Spine tới bờ biển Ala­gaësia và đến thành phố phía nam Sur­da, hiện vẫn chưa chịu sự thống trị của bạo chúa Gal­ba­torix.

Vết thương trên lưng Er­agon tiếp tục hành hạ nó. Nhưng trong Lễ hội Huyết thệ của giống tiên, một buổi lễ nhằm tôn vinh bản hòa ước giữa các Kỵ sĩ và giống rồng, vết thương đó đã được chữa lành nhờ vào một con rồng ma được các tiên nhân triệu hồi cuối buổi lễ. Hơn cả thế, rồng ma đã cho Er­agon sức mạnh và tốc độ ngang với một tiên nhân.

Er­agon và Saphi­ra bay tới Sur­da, nơi Na­sua­da đã đưa Var­den tới bắt đầu cuộc tấn công vào Đế chế Gal­ba­torix. Ở đó các Ur­gal đã trở thành đồng minh của Var­den vì lúc trước Gal­ba­torix đã tẩy não họ và giờ họ muốn báo thù. Er­agon gặp lại cô bé El­va giờ đã lớn như thổi vì lời phù chú của nó. Từ một bé gái sơ sinh cô trở thành một cô bé ba bốn tuổi với ánh mắt đáng sợ vì cô hiểu nỗi đau những người xung quanh gánh chịu.

Không xa biên giới Sur­da, trong màn đen của Thung Lũng Cháy, Er­agon, Saphi­ra và Var­den đã tham dự một cuộc chiến huy hoàng nhưng đẫm máu chống lại quân đội của Gal­ba­torix.

Giữa trận chiến, Ro­ran và dân làng hợp sức với Var­den. Sau đó là viện quân từ người lùn tới từ Rặng núi Be­or.

Nhưng ở phía đông thấp thoáng một bóng hình mặc giáp trụ sáng lóa. Hắn ta cưỡi trên lưng một con rồng đỏ lấp lánh. Hắn dùng phép thuật giết chết Vua Hroth­gar.

Er­agon và Saphi­ra chiến đấu với Kỵ sĩ và con rồng đỏ. Họ phát hiện ra kỵ sĩ đó là Murtagh, giờ đã ràng buộc với Gal­ba­torix bởi lời thề không thề không thể phá vỡ. Con rồng đỏ mang tên Thorn, quả trứng thứ hai trong ba quả trứng.

Murtagh đánh bại Er­agon và Saphi­ra bằng sức mạnh của El­dunari mà Gal­ba­torix đã đưa cho hắn. Nhưng Murtage thả Er­agon và Saphi­ra đi vì Murtagh vẫn nhớ tới tình bạn giữa hắn và Er­agon. Và vì, theo lời hắn, họ là anh em, cùng là con của người thiếp yêu của Morzan, Se­le­na.

Murtage cướp thanh Zar’rpc, thanh kiếm của cha họ, khỏi tay Er­agon. Hắn và Thorn rút khỏi Thung Lũng cháy cùng với tàn quân của Gal­ba­torix.

Cuối trận chiến, Er­agon, Saphi­ra, Ro­ran bay tới tòa tháp đá đen tối Hel­grind, là hang ổ bí mật của Ra’zac. Họ giết một Ra’rac và bố mẹ chúng – Lethrbla­ka và cứu thoát Ka­tri­na. Và cũng trong một trong những xà lim, Er­agon phát hiện thấy bố Ka­tri­na, giờ đã mù và đang sống dở chết dở.

Er­agon định giết lão Sloan vì lão đã phản bội dân làng nhưng lại thôi. Thay vào đó, nó phù phép Sloan ngủ một giấc sâu và nói với Ro­ran và Ka­tri­na rằng lão đã chết. Nó nhờ Saphi­ra đưa Ro­ran và Ka­tri­na trở về với Var­den trong khi nó tìm giết con Ra’zac cuối cùng

Er­agon một mình giết chết tên cuối cùng của giống loài Ra’zac, rồi đưa Sloan ra khỏi Hel­grind. Sau khi đi sâu vào tiềm thức Sloan, Er­agon biết được tên thật của Sloan trong ngôn ngữ cổ xưa – thứ ngôn ngữ của sức mạnh và pháp thuật. Er­agon buộc Sloan phải thề rằng không bao giờ gặp lại con gái. Sau đó, Er­agon đưa lão tới sống cùng loài tiên. Nhưng Er­agon không nói với lão đồ tể rằng các tiên nhân sẽ chữa trị đôi mắt cho lão nếu lão hối lỗi vì đã giết người và thói tham lam.

Arya gặp lại Er­agon trên đường về gặp Var­den, và họ cùng nhau cùng về, đi bộ xuyên qua vùng địch.

Tại Var­den, Er­agon biết Nữ Hoàng Is­lanza­di gửi mười hai thầy bùa tới. Chỉ huy mười hai tiên nhân này là một vị tiên tên Blodgarm để bảo vệ nó và Saphi­ra. Er­agon thực hiện lời hứa giải lời nguyền trên El­va, nhưng cô vẫn cảm nhận được nỗi đau. Chỉ có điều cô bé không cảm thấy sự thúc giục cứu sống họ.

Ro­ran lấy Ka­tri­na, lúc này đang mang thai và đây là lần đầu tiên sau một quãng thời gi­an dài, Er­agon thấy hạnh phúc.

Murtage, Thorn và một nhóm lính của Gal­ba­torix tấn công Var­den. Nhờ sự trợ giúp của các tiên, Er­agon và Saphi­ra đã đánh lui chúng nhưng Er­agon và Murtage duy trì thế cân bằng. Đó là một trận chiến gi­an nan vì Gal­ba­torix đã phù phép khiến những người lính không biết đau và Var­den chịu tổn thất rất lớn.

Sau đó, Na­sua­da cử Er­agon làm đại diện cho Var­den tới gặp các người lùn khi họ chọn vua mới. Er­agon cảm thấy không muốn đi vì Saphi­ra phải ở lại để bảo vệ lều trại của Var­den. Nhưng cuối cùng nó cũng đi.

Ro­ran phục vụ quân đội Var­den, chiếm được cảm tình của họ vì anh đã chứng tỏ mình là một chiến binh thiện chiến và một người có tài lãnh đạo.

Khi Er­agon tơi gặp người lùn, bảy người lùn định ám sát nó. Sau khi điều tra, họ phát hiện ra bộ lạc Az Sweldn rak An­huin đứng sau vụ tấn công. Buổi họp tiếp tục và Orik được chọn vào vị vua kế tiếp. Trong lễ đăng quang, Saphi­ra tới gặp lại Er­agon. Cô rồng đã hoàn thành lời hứa phục hồi viên đá saphire hình ngôi sao may mắn của người lun mà cô đã làm vỡ trong trận chiến giữa Er­agon và tà thần Durza.

Sau đó, Er­agon và Saphi­ra trở về Du Welden­var­den. Ở đây, Oromis đã tiết lộ sự thật về thân nhân của Er­agon: nó không phải con của Morzan mà là con của ông Brom, nhưng Murtage và nó cùng một mẹ sinh ra. Oromis và Glaed­er cũng giải thích cho nó hiểu El­dunari là gì. Một con rồng có thể bỏ nó ra ngoài mà vẫn sống. Nhưng làm thế buộc người thực hiện phải hết sức cẩn thận và ai nắm giữ El­du­rani có thể dùng nó để kiểm soát con rồng.

Trong khu rừng, Er­agon quyết định nó cần một thanh kiếm mới thay cho thanh Zar’roc. NHớ lại lời khuyên của mèo ma Solem­bum hồi còn đi cùng Brom, Er­agon tới chỗ cây thần Menoa ở Du Welden­var­den. Nó nói chuyện với cây và cây thần đồng ý cho nó mảnh thiên thạch dưới rễ cây đổi lại nó sẽ làm cho cây bất cứ điều gì.

Sau đó, vị tiên thợ rèn Rhunon – người đã từng rèn kiếm cho các Kỵ sĩ – đã làm cho Er­agon một thanh kiếm mới. Một thanh kiếm màu xanh mà Er­agon đặt tên là Bris­in­gr – “Hỏa kiếm”. Thanh kiếm bỗng bốc lửa mỗi khi nó gọi tên thanh kiếm.

Ông rồng Glae­dr đã đưa trái tim mình cho Er­agon và Saphi­ra. Họ trở về Var­den còn Glae­dr và Oromis tham chiến cùng tiên nhân tấn công phần phía nam Vương quốc.

Khi Var­den bị vây hãm ở Fe­in­ster, Er­agon và Arya đụng độ với ba đoàn quân pháp thuật, một trong số đó đã biến thành Tà thần Va­raug. Nhờ có sự giúp đỡ của Er­agon, Arya giết chết Va­raug.

Cùng lúc đó, Oromis và Glae­dr chiến đầu với Murtagee và Thorn. Gal­ba­torix đã can thiệp và kiểm soát đầu có Murtage. Dưới bàn tay của Murtage, Gal­ba­torix đã hạ gục Oromis còn Thorn giết chết Glae­dr.

Dù Var­den chiến thắng ở Fe­in­ster, Er­agon và Saphi­ra khóc thương cho sự hy sinh của sự phụ Oromis. Nhưng Var­den vẫn tiếp tục, dù lúc này họ đang tiến sâu vào Đế chế hơn, tiến thẳng tới thủ đô Urubaen, nơi ở của Gal­ba­torix kiêu ngạo, xấu xa, khinh người vì hắn có sức mạnh của loài rồng.

1.TIẾN VÀO THÀNH PHỐ

Tiếng gầm của Saphi­ra khiến các binh sĩ đằng sau hoảng sợ.

“Đi theo tôi!” Er­agon hét. Nó giơ cao thanh Bris­in­gr để ai ai cũng nhìn thấy. Thanh kiếm xanh phát ra ánh ngũ sắc rực rỡ phản chiếu lên đám mây đen dây đặc ở đằng tây. “Vì Var­den!”

Mũi tên xé gió lao qua nó nhưng nó nào để ý.

Các chiến binh tụ họp tại chân dốc đầy đá cuội bên dưới Er­agon và Saphi­ra. Tất cả muôn người như một trả lời nó: “Vì Var­den!”. Họ khua vũ khí gõ xuống nền đá sỏi.

Er­agon quay lưng với những người lính. Ở phía bên kia rặng núi ngọn đồi là một trảng đất trống rộng lớn. Khoảng gần hai trăm người lính của Bạo chúa Gal­ba­torix đang tụ tập trong đó. Đằng sau họ là một pháo đài tôi tắm với những cửa sổ nhỏ xíu và một vài ngọn tháp vuông vươn lên trên bầu trời. Trên ngọn tháp cao nhất là ánh lửa chiếu sáng căn phòng trên cùng. Er­agon biết, ở đâu đó bên trong pháo đài là nơi ở của Lãnh chúa Brad­burn vùng Be­la­tona – thành phố mà đã nhiều giờ nay Var­den chật vật đánh chiếm.

Hét một tiếng lớn, Er­agon bay lên khỏi mặt đất tiến về phía những quân lính triều đình. Chúng lùi lại nhưng vẫn chĩa giáo về phía cái lỗ hổng Saphi­ra để lại trên tường thành.

Er­agon hơi nghiêng chân đi khi Saphi­ra hạ cánh. Nó nhảy xuống, quỳ trên đầu gối với thanh kiếm trong tay.

Một trong những tên lính lợi dụng cơ hội phóng giáo vào họng Er­agon.

Một ánh sáng lóe lên, Er­agon đảo cổ tay, xoay thanh Bris­in­gr nhanh hơn bất cứ một con người hay một tiên nhân nào gạt cây giáo đi. Mặt tên lính xám ngoét khi nhận ra sai lầm. Hắn muốn chạy nhưng nào có được. Trước khi hắn kịp nhúc nhích, Er­agon đã lao lên và đâm thanh kiếm vào bụng hắn.

Từ cổ họng, Saphi­ra phun ra một ngọn lửa xanh vàng và nhảy vào trảng trống sau Er­agon. Nó dang chân đứng vững khi cô rồng hạ cánh. Cả chiến trường rung chuyển. Cỏ bên ngoài pháo đài rung lên như thể những đồng tiền đặt trên mặt trống. Phía bên trên, cánh cửa sổ đang mở bị đóng sập lại.

Tiên nữ Arya đi cùng Saphi­ra. Mái tóc đen dài của nàng tung bay quanh khuôn mặt góc cạnh khi nàng nhảy xuống. Máu khô dính trên tay, cổ và trên lưỡi gươm nàng cầm. Trên nền đá sỏi, bóng dáng nàng sáng bừng lên trong trang phục da.

Sự xuất hiện của cô khiến Er­agon yên lòng. Nó thích cô kề vai sát càng cùng nó và Saphi­ra. Đôi với nó, nàng là một bạn chiến đấu hoàn hảo.

Nó cười với nàng và nàng cười hiền với nó, sau đó biểu hiện trên mặt nàng trở nên dữ dội và sung sướng. Trong chiến trận, sự kín đáo của nàng biến mất, thay vào đó là sự phóng khoáng nàng hiếm khi thể hiện trong đời thường.

Er­agon dùng khiên che người khỏi ngọn lửa xanh đang xẹt qua xẹt lại giữa họ. Nó quan sát Saphi­ra qua vành khiên. Ngọn lửa bao vây những tên lính đang run sợ, nhưng chưa làm hại chúng.

Một hàng những cung thủ trên pháo đài liên tục bắn tên vào Saphi­ra. Nhiệt độ bên trên cô rồng quá cao khiến nhiều mũi tên cháy thành than giữa trời. Er­agon phù phép bảo vệ xung quanh Saphi­ra khiến những mũi tên còn lại không chạm nổi vào một cái vảy. Một mũi tên lạc bay ngược lại cắm thắng vào khiên của Er­agon, tạo nên một vết lõm nhỏ.

Ngọn lửa đột nhiên cuốn lấy ba người lính, kết liễu chúng nhanh chóng khiến chúng không kịp kêu lên một tiếng. Những tên lính khác co cụm ở trung tâm vòng tròn lửa, ánh xanh sáng phản chiếu từ giáo mác.

Nhưng dù cố gắng đến mấy cô rồng cũng không thể làm tổn hại tới những kẻ còn lại. Cuối cùng cô nàng bỏ cuộc và khép hàm lại. Ngọn lửa biến mất khiến cả chiến trường yên lặng đến giật mình.

Er­agon lần này và không biết bao nhiều lần đã nghĩ rằng kẻ lập lá chắn bảo vệ những bĩnh sĩ này phải là một pháp sư quyền năng lão luyện. Có phải Murtagh không? Nó phân vân.Nếu đúng như vậy, vì sao hắn và Thorn không ở đây để bảo vệ Be­la­tona? Không phải Gal­ba­torix muốn kiểm soát những thành phố của lão ư?

Er­agon chạy lên phía trước, chỉ với một nhát kiếm đã chém bay đầu hàng tá binh sĩ, dễ dàng thể thu hoạch lúa mạch vậy. Nó xả kiếm ngang ngực tên lính gần nhất, xuyên qua lớp áo giáp như thể nó chỉ là một thứ vải cực mỏng. Máu phun lên. Rồi nó đâm tên tiếp theo và dùng khiên đánh vào tên lính phía bên trái, đánh bay hắn về phía ba tên lính khác, khiến bọn chúng ngã chỏng gọng.

Đối với Er­agon, phản ứng của bọn lính có vẻ chậm chạp và vụng về. Còn nó như thể đang khiêu vũ, hạ gục chúng mà trên mình không có lấy một vết trầy. Saphi­ra đang tả hữu xung đột bên trái nó, dùng móng vuốt to lớn của cô bé ném tung những tên lính lên trời, dùng đuôi đập vào chúng và chỉ bằng một cú lắc đầu để giết chúng. Bên phải nó, Arya di chuyển nhanh như chớp, nhân hình cô mờ mờ ảo ảo và mỗi lần kiếm vung lên lại báo hiệu cái chết của một tên nô bộc của Đế chế. Khi Er­agon đang quay tròn chống trả lại hai mũi giáo đang nhắm về phía mình, nó thấy tiên nhân Blod­hgarm người đầy lông đang đứng gần đó cùng với mười một tiên nhân khác – những người có nhiệm vụ bảo vệ nó và Saphi­ra.

Từ đằng xa, các Var­den xông vào chiến trường từ những lỗ hổng trên tường thành nhưng họ chưa dám tấn công vì ở gần Saphi­ra rất nguy hiểm. Vả lại,Saphi­ra, Er­agon và các tiên nhân đâu cần trợ giúp để giết những binh sĩ này.

Trận chiến chia cắt Er­agon và Saphi­ra, đưa họ tới hai đầu chiến trường. Er­agon không lo. Dù không có lá chắn, Saphi­ra vẫn có thể một mình hạ gục hai mươi ba mươi tên một lúc.

Một mũi giáo phóng thẳng vào khiên của Er­agon, làm bầm vai nó. Nó quay mặt đối diện với kẻ vừa phóng lao – một kẻ mang vết sẹo lớn và thiếu hai răng cửa dưới – và lao về phía hắn. Gã cố gắng rút thanh đoản kiếm đeo ở thắt lưng. Vào thời khắc cuối, Er­agon quay người, đảo vai đập vào xương ức của gã.

Lực tác động khiến tên lĩnh thối lui vào bước, ngã xuống, ngất lịm.

Sau đó, một cơn mưa tên bay xuống, giết hoặc làm bị thương vô khối binh sĩ. Er­agon né và dùng khiên che người dù nó biết phép thuật sẽ bảo vệ nó. Cẩn thận vẫn hơn, vì nó không bao giờ biết liệu trong quân địch có kẻ nào có khả năng phù phép cho mũi tên bay xuyên qua lá chắn phép thuật của nó hay không.

Er­agon cong môi nở một nụ cười cay đắng. Những cung thủ bên trên kia đã nhận ra hy vọng chiến thắng duy nhất của chúng là giết chết Er­agon và các tiên nhân, không cần biết chúng phải hy sinh bao nhiêu nhân mạng.

Muộn rồi, Er­agon nghĩ và trong lòng dâng lên một cảm giác hài lòng mơ hồ. Các người đáng ra phải rời khỏi Đế chế ngay khi có cơ hội.

Trận mưa tên đã cho nó thời gi­an nghỉ ngơi. Tốt thôi. Họ tấn công thành phố từ lúc bình minh còn nó và Saphi­ra luôn ở hàng tiên phong.

Ngay khi các mũi tên dừng lại, Er­agon chuyển thanh Bris­in­gr sang tay trái, nắm lấy thanh giáo của một tay lính và ném thẳng về phía những cung thủ cách 13 mét. Er­agon biết, nếu không luyện tập lâu dài thì khó có thể phi giáo chuẩn. Nó không ngạc nhiên khi ném hụt mục tiêu nhưng nó bị ngạc nhiên khi không phi trúng bất cứ tay cung nào. Ngọn giáo bay vượt qua đầu họ và vỡ vụn khi đập vào tường thành phía trên.

Một chuyển động sượt qua khiến Er­agon chú ý. Nó kịp nhìn thấy Arya phi giáo về phía những cung thủ; xuyên qua hai tên đứng gần nhau. Sau đó, Arya dùng thanh kiếm chỉ vào những tên cung thủ và hét: “Bris­in­gr” (Lửa!) và ngọn giáo biến bùng lên một ngọn lửa xanh ngọc.

Những tên cung thủ thối lui, tránh xa những cái xác cháy. Chúng chạy trối chết qua cửa thành và lên tầng thành cao hơn.

“Chẳng công bằng chút nào,” Er­agon nói. “Tôi không sử dụng được câu chú đó, nếu không thanh kiếm của tôi sẽ cháy như đốt lửa trại mất.”

Arya hứng thú nhìn nó.

Trận chiến kéo dài thêm vài phút, sau đó những kẻ còn sống sót hoặc đầu hàng hoặc tháo chạy.

Er­agon để cho năm tên lính phía trước nó bỏ chạy; nó biết chúng cũng chẳng đi xa nổi. Sau khi kiểm tra nhanh xem những kẻ nằm ngổn ngang xung quanh nó thực sự đã chết, nó nhìn về phía bên kia chiến trường. Một vài Var­den đã mở cổng thành ngoài và đang vác thanh gỗ đi qua con đường dẫn tới lâu đài. Một số người khác đã đứng sẵn ở cổng lâu đài, sẵn sàng đối đầu với quân lính bên trong. Trong số họ có cậu anh họ của Er­agon, Ro­ran, đang lăm lăm cây búa trong khi chỉ huy đội quân dưới quyền. Xa xa, Saphi­ra bước qua những xác chết và xung quanh cô nàng là những xác chết như ngả rạ. Máu bết lên những chiếc vảy như ngọc, những chấm đỏ đó đối lập gay gắt với màu xanh trên cơ thể cô nàng. Cô nàng quay đầu gầm chiến thắng, nhân chìm tiếng la hét của tất cả những người trong thành phố.

Sau đó, từ trong lâu đài, Er­agon nghe thấy tiếng xích và tiếng bánh răng, tiếp theo là kèn kẹt của cánh cửa gỗ. Âm thanh đó thu hút ánh nhìn của mọi người về phía cánh cửa.

Bum! Cánh cửa bật tung ra. Một làn khói bốc lên từ đuốc xộc ra, khiến những Var­den đứng gần nhất ho hắng và che mặt. Từ trong cảnh mịt mờ đó vang lên tiếng móng ngựa gõ lên đá trải đường; tiếp theo là ngựa và người xong ra từ giữa đám khói. Ở tay trái hắn cầm một thứ mà lúc đầu Er­agon nghĩ là một cây thương, nhưng sau nó để ý thấy nó làm bằng một vật liệu màu xanh lơ đến khác thường, lưỡi thương có ngạnh và hình dáng bất thường. Đầu ngọn thương tỏa ra thứ ánh sáng mờ mờ không bình thường chứng tỏ sự hiện hữu của pháp thuật.

Tên kỵ sĩ giật cương ngựa, nhắm về phía Saphi­ra mà nhắm tới. Cô nàng đứng lên hai chân sau, giơ bộ vuốt phải kinh hoàng định giết chết đối thủ.

Er­agon thấy lo. Tên kỵ sĩ quá tự tin, ngọn thương quá khác thường, quá kỳ quái. Dù cho lá chắn của cô rồng sẽ bảo vệ nó, nhưng Er­agon vẫn chắc chắn Saphi­ra đang bị đe dọa tính mạng.

Mình sẽ không tới kịp mất, nó nhận ra. Nó xâm nhập vào đầu óc gã kỵ sĩ, nhưng hắn quá tập trung vào nhiệm vụ mà chẳng biết đến sự hiện diện của Er­agon và chính vì vậy Er­agon không thể xâm nhập sâu vào suy nghĩ của hắn. Er­agon rút khỏi đầu gã, nhớ lại hàng tá những từ ngữ của ngôn ngữ cổ xưa, ghép chúng lại thành một câu thần chú đơn giản để chặn đứng con ngựa chiến đang phi nước đại kia. Er­agon biết đây là một hành động ngu ngốc – Er­agon biết nếu như gã kỵ sĩ kia không phải là một pháp sư thì hắn hay nó sẽ chịu hậu quả ra sao nếu bị tấn công bằng phép thuật – nhưng Er­agon không định đứng yên trong khi Saphi­ra đang bị đe dọa tính mạng.

Er­agon hít một hơi thật sâu. Nó nhắc mình phải phát âm những từ ngữ khó thật chuẩn. Sau đó nó mở miệng đọc thần chú.

Nhưng các tiên nhân còn nhanh hơn nó. Trước khi nó kịp nói ra một từ, những tiếng lẩm nhập cắt đứt suy nghĩ của nó. Những tiếng nói rì rầm rì rầm tạo nên một âm điệu không hợp âm, không gi­ai điệu.

“Mëa –” nó định nói thì phép thuật của những tiên nhân đã có hiệu quả.

Khung cảnh phía trước con ngựa xoay tròn và biến đổi, thảm cỏ trôi như nước, mặt đất nứt dài, sâu thăm thẳm. Con ngựa hí vang, dừng sững lại trước hố nứt, gẫy chân trước và ngã xuống.

Khi người và ngựa đổ xuống, gã kỵ sĩ kéo tay về phía sau, lấy đà nhắm cây thương và phóng về phía Saphi­ra.

Saphi­ra không thể chạy. Cô nàng không thể lẩn trốn. Vì thế, nó vẫy tay mong gạt cây thương đi. Nhưng nó đã đỡ hụt – chỉ vài cm – và Er­agon kinh hoàng nhìn cây thương cắm ngập độ một mét vào ngực cô rồng, ngay bên dưới xương đòn.

Er­agon chỉ còn cảm thấy tức giận. Nó rút hết tất cả năng lượng trong người – trong cơ thể nó, trong chuôi gươm xanh ngọc bích, trong mười hai viên kim cương trên Đai lưng của Be­loth khôn ngoan đang đeo quanh eo, trong chiếc nhẫn Aren đeo trên bàn tay phải – chuẩn bị tiêu diệt gã kỵ sĩ.

Nhưng Er­agon đã dừng lại khi thấy Blod­hgarm xuất hiện bên phải Saphi­ra. Tiên nhân hạ gục tên kỵ sĩ. Như thể một con báo tấn công một con nai, Blod­hgarm xé toang cổ họng gã bằng những chiếc răng trắng dài.

Những tiếng rên tuyệt vọng phát ra từ phía cửa sổ cao cao trên pháo đài, tiếp theo là một trận nổ lớn làm bắn tung những gạch đá trong lâu đài, rơi trúng các Var­den, đập vào tay chân và thân mình họ như thể đập vào những cành củi khô.

Er­agon không quan tâm tới trận mưa đá đang trút xuống chiến trường mà chạy về phía Saphi­ra, cũng chẳng để ý tới Arya và những hộ vệ của nó đang sát cánh bên canh. Những tiên nhân khác ở gần cô rồng hơn, đã bao quanh nó, xem xét cây thương đang cắm trên ngực nó.

“vết thương tệ quá – Liệu em ấy có – ” Er­agon nói. Nó quá buồn không thể nói hết câu. Nó nóng lòng được trò chuyện với Saphi­ra nhưng ai biết có thầy phép trong vùng này không. Nó không dám vì lo hắn sẽ xâm nhập vào suy nghĩ của nó hoặc giả kiểm soát cơ thể nó.

Sau những giây phút chờ đợi như kéo dài vô tận, tiên nhân Wy­dren nói, “Ngài nên cảm ơn số phận, thưa Khắc tinh của tà thần. Mũi thương không đâm vào tĩnh mạch và động mạch cổ. Nó chỉ làm bị thương phần mềm và chúng tôi có thể trị thương được.”

“Các ngài rút mũi thương ra được không? Liệu nó có bị phù phép để…”

“Chúng tôi sẽ quan tâm tới việc này, thưa Khắc tinh của tà thần.”

Tất cả các tiên nhân, trừ Blod­hgarm đều đứng trang nghiêm như thể những thày tu đứng trước bàn thờ Chúa. Họ đặt bàn tay lên ức Saphi­ra và hát. Tiếng hát của họ như thể lời thì thầm của gió thổi qua rặng liễu. Họ hát về sự ấm áp và sinh trưởng, họ hát về những cơ bắp, gân và mạch máu và hát về nhiều vấn đề bí ẩn khác. Saphi­ra phải cực kỳ cố gắng để duy trì tư thế trong suốt quá trình niệm chú mặc dù nó cơ thể cô nàng run lên từng giây một. Một dòng máu rỉ xuống từ nơi ngọn thương cắm vào.

Khi Blod­hgarm tiến về chỗ Er­agon, nó nhìn vị tiên. Máu khô dính trên lớp lông trên cằm và cổ ông. Dưới ánh sáng xanh đen lúc nửa đêm, màu máu trở nên đen thẫm.

“Cái gì kia?” Er­agon hỏi, chỉ vào ngọn lửa đang nhảy múa trên cửa sổ trên pháo đài.

Blod­hgarm liếm môi, xòe bộ vuốt như vuốt mèo trước khi trả lời. “Trước khi hắn chết, tôi đã xâm nhập vào đầu óc hắn, thông qua đó, tôi xâm nhập vào đầu óc tên thuật sĩ giúp đỡ hắn.”

“Ông đã giết tên thuật sĩ đó?”

“Nói đúng ra là tôi buộc hắn tự vẫn. Tôi không thường hành động quá khích như vậy nhưng tôi… giận quá.”

Er­agon tiến lên phía trước, tự mình xem xét khi Saphi­ra trầm giọng rên rỉ một tiếng dài. Không ai động vài ngọn thương, nó tự động từ từ rời khỏi ngực cô rồng. Mắt cô nàng hấp háy, cô rồng thở dốc khi đoạn thương chỉ còn đâm sâu 15 phân. Đầu thương gai tỏa ra quầng sáng xanh ngọc rơi xuống mặt đất và nẩy lên trên nền đá lát, tiếng rơi như thể ngọn thương làm bằng gốm hơn là bằng kim loại.

Khi các tiên nhân ngừng hát và rời tay khỏi ngực Saphi­ra, Er­agon vội chạy đến và sờ vào cổ cô nàng. Nó muốn an ủi cô bé, muốn cô bé hiếu nó sợ như thế nào, muốn nói chuyện với cô. Thay vào đó, nó chỉ nhìn vào đôi mắt sáng xanh kia và hỏi, “Em ổn không?” Những từ ngữ đó không thể nào so sánh nổi với những cảm xúc trong lòng nó lúc này.

Saphire trả lời bằng một cái chớp mắt, rồi cúi đầu xuống và nhẹ nhàng thở một hơi thở ấm áp vào mặt nó.

Er­agon mỉm cười. Sau đó nó quay lại nhìn các tiên nhân và nói, “Eka el­run ono, äl­fya, wiol förn thor­nes­sa,” – cám ơn sự giúp đỡ của họ bằng ngôn ngữ cổ. Các tiên nhân chữa trị cho cô rồng cái, kể cả Arya, cúi xuống, đặt tay lên ngực phải thể hiện sự tôn trọng. Er­agon để ý hơn nửa số tiên nhân bảo vệ nó và Saphi­ra giờ trở nên trắng bệch, yếu ớt, đứng không vững.

“Lùi về nghỉ ngơi đi,” nó nói với họ. “Nếu các ngài sẽ giết chết mình mất nếu còn ở lại. Đi đi, đây là mệnh lệnh!”

Dù Er­agon biết chắc họ không muốn đi, nhưng bảy tiên nhân đã trả lời nó, “Vâng lệnh, thưa Khắc tinh của Tà thần,” sau đó rời khỏi chiến trường, sải chân bước qua những xác chết và đống gạch vụn. Họ luôn luôn thể hiện vẻ cao quý, thanh thoát, kể cả khi sức cùng lực kiệt.

Er­agon tiến lại gần Arya và Blöd­hgarm đang nghiên cứu cây thương. Trên gương mặt họ biểu hiện nét khác lạ như thể họ không biết nên phản ứng ra sao. Er­agon ngồi xuống cạnh họ, cố không để cơ thể động chạm vào ngọn thương. Ông nhìn chằm chằm vào đường khắc tinh tế ở dưới ngọn thương. Những đường khắc này trông khá quen mắt nhưng nó không biết vì sao; nửa màu xanh của ngọn thương không phải được làm từ gỗ hay kim loại; một lần nữa ánh sáng nhè n hẹ của nó lại nhắc nó nhớ tới chiếc đèn không cần nến mà thần tiên và người lùn sử dụng để thắp sáng các hành lang.

“Hai người có nghĩ đây là chế tác của Gal­ba­torix không?” Er­agon hỏi. “Có thể lão quyết định nên giết thay vì bắt tôi và Saphi­ra. Có lẽ lão tin rằng chúng tôi thực sự là mối đe dọa với hắn.”

Blöd­hgarm cười không hề thoải mái. “Tôi không nghĩ là vậy, thưa Khắc tinh của tà thần. Chúng ta chẳng là một mối bận tâm nhỏ đối với Gal­ba­torix. Nếu lão thật sự muốn hai người hoặc bất kỳ ai trong chúng ta chết, hắn chỉ cần bay tới từ Urȗ’baen và trực tiếp đối đầu với chúng ta và chúng ta sẽ rụng như lá khô trong trước cơn bão mùa đông. Lão kiểm soát sức mạnh của rồng và không ai có thể đứng vững trước lão. Ngoài ra, Gal­ba­torix không thể dễ dàng lơi là việc triều chính. Có thể lão ta điên, cũng có thể xảo quyệt nhưng trên nhất, lão là một kẻ tham vọng. Nếu lão ta muốn nô dịch nó, lão sẽ làm bằng được, không gì có thể chống nổi lão.”

“Trong bất cứ trường hợp nào,” Arya lên tiếng, “thì thứ này cũng không phải chế tác của Gal­ba­torix. Nó là của chúng ta.”

Er­agon nhíu mày. “Chúng ta? Var­den không làm ra thứ này.”

“Không phải Var­den mà là tạo tác của giống tiên.”

“Nhưng…” nó ngừng nói, cố gắng tìm ra từ đúng. “Nhưng tiên nhân không hợp tác với Gal­ba­torix. Họ thà chết còn hơn…”

“Gal­ba­torix không làm ra nó, mà kể cả có, lão cũng không bao giờ gi­ao một thứ vũ khí quyền năng và hiếm có như thế này vào tay một người không thể giữ nó. Đây là thứ Gal­ba­torix không muốn rơi vào tay chúng ta nhất trong tất cả thứ vũ khí của Ala­gaësia.”

“Vì sao?”

Blöd­hgarm rên nhỏ trong họng và nói, “Vì thưa Er­agon Khắc tinh của tà thân, đây là Dau­th­daert.”

“tên của nó là Nier­nen, Đóa hoa lan,” Arya nói. Cô chỉ vào những đường khắc dọc lưỡi thương, những đường khắc mà Er­agon đã nhận ra thực ra là những con chữ tượng hình của giống tiên – những con chữ cong cong, bện vào nhau kết thúc bằng những đường nét như sợi gai.

“Dau­th­daert?” Khi Arya và Blöd­hgarm ngờ vực nhìn Er­agon, nó nhún vai, xấu hổ vì kiến thức của mình. Nó xấu hổ vì trong quá trình trưởng thành, các tiên nhân dành hàng thập kỷ để học hỏi kiến thức từ những học giả bậc thầy của nòi giống họ trong khi ông cậu Gar­row của nó thậm chí không dạy cho nó viết nổi tên mình vì ông cho nó chẳng có gì quan trọng. “Tôi chỉ nghiên cứu cuốn Ellesméra thôi. Cái đó là gì? Có phải nó được rèn trong gi­ai đoạn thoái trào của các Kỵ sĩ, được dùng để chống lại Gal­ba­torix và THập tam phản đồ?”

Blöd­hgarm lắc đầu. “Nier­nen còn có từ lâu hơn trước đó nhiều?”

“Dau­th­daertya,” Arya nói. “được sinh ra từ nỗi sợ hãi và hận trong những trận chiến cuối cùng của chúng tôi và loài rồng. Những thợ rèn và những thầy phép tài giỏi nhất đã tạo ra chúng từ những nguyên liệu mà giờ chúng tôi không biết được, niệm vào đó những câu thần chú chúng tôi đã không còn biết nhớ, và đặt tên cho tất cả mười hai thanh theo tên những loài hoa đẹp nhất – nhưng chúng được sinh ra để làm những nhiệm vụ xấu xa nhất – giết chết những con rồng.”

Sự sợ hãi chiếm giữ lấy Er­agon khi nó nhìn vào thanh thương đang phát sáng. “Chúng có làm được việc đó không?”

“Những tiền bối nói rằng máu rồng từ trên trời trút xuống như trút nước.”

Saphi­ra rít lên những tiếng chói lói và sắc lạnh.

Er­agon nhìn cô em trong chốc lát và nhận ra những Var­den vẫn đang đứng trước tòa tháp, đợi nó và Saphi­ra tiếp tục trận đánh.

“Tất cả các thanh Dau­th­daertya đều đã bị hủy hoặc hỏng hóc,” Blöd­hgarm nói. “Rõ ràng là chúng tôi đã lầm. Nier­nan đáng ra phải được gi­ao tới tay gia đình Wald­grave và họ phải chôn giấu nó tại Be­la­tona. Tôi đoán có thể khi chúng ta vượt qua tường thành, Lãnh chúa Brad­burn không còn đủ can đảm nữa, vì thế hắn đã ra lệnh dùng thanh Nier­nan để chặn đứng nó và Saphi­ra. Chắc chắn Gal­ba­torix sẽ vô cùng tức giận nếu biết Brad­burn đã định giết hai người.”

Dù hiểu cuộc chiến đang gấp rút thế nào nhưng sự tò mò của Er­agon không để nó rời đi. “Dù cho ngọn thương này có phải thanh Dau­th­daetya không thì hai người vẫn chưa giải thích cho tôi vì sao Gal­ba­torix không muốn chúng ta có thứ này.” Nó chỉ vào ngọn thương. “Vì sao Nier­nen lại nguy hiểm hơn bất kỳ một thứ giáo mác nào ở đây, hoặc giả còn hơn cả Bris…” nó ngậm miệng kịp thời trước khi thốt ra toàn bộ cái tên. “hoặc giả thanh kiếm của tôi?”

Arya trả lời nó. “Cậu thấy đấy, Nier­nen không thể bị bẻ gẫy, không thể bị lửa xâm phạm, hầu như hoàn toàn miễn dịch với phép thuật. Những thanh Dau­th­daetya không bị ảnh hưởng bởi phép thuật của loài rồng đồng thời bảo vệ người sử dụng nó khỏi thứ ma thuật phức tạp, không đoán trước được của loài rồng. Gal­ba­torix có thể tạo kết giới bảo vệ lão và Shruikan mạnh hơn bất cứ ai ở Ala­gaësia, nhưng Nier­nen vẫn có thể xuyên thủng phòng tuyến đó như thể nó không tồn tại.”

Er­agon hiểu và nó thấy phấn chấn hẳn. “Chúng ta phải…”

Một tiếng rít ngắt lời nó.

Âm thanh đó đột ngột, sắc ngọt, run rẩy như thể kim loại va chạm vào đá. Nó cảm thấy quai hàm rung lên và nó bịt tai, nhăn nhó quay người lại xem âm thanh đó phát ra từ đâu. Saphi­ra ngửng đầu, và trong chuỗi âm thanh đó nó vẫn nghe thấy tiếng cô nàng rên rỉ đau đớn.

Er­agon lướt nhìn chiến trường hai lần trước khi nhìn thấy một cột bụi bốc lên từ bức tường chòi canh qua một lỗ hổng rộng khoảng 30 phân bên dưới phần cửa sổ tối đen đã bị hủy hoại khi Blöh­garm giết tên thuật sĩ. Tiếng rít càng lúc càng lớn, Er­agon liều lĩnh bỏ một tay che tai, chỉ về phía lỗ hổng.

“Nhìn kìa!” nó hét lên với Arya, nàng gật đầu ra chừng đã hiểu. Nó áp tay lên tai.

Không hề báo trước, âm thanh đột ngột ngừng lại.

Er­agon đợi trong một lúc, sau đó từ từ hạ tay xuống. Lần đầu tiên nó mong sao thính giác của nó không mẫn cảm đến thế.

Đúng lúc đó, lỗ hổng mở rộng ra – kéo dài vài feet – bổ dọc chòi canh. Tựa như một tia chớp, lỗ hổng mở rộng xuống tận chân tường đá. Cả lâu đài rung chuyển, nghiêng về phía trước.

“Chạy!” Er­agon hét lớn chỉ huy Var­den, mặc dù những người lính đã bỏ chạy khỏi chiến trường, cố gắng trong tuyệt vọng nhằm thoát khỏi bức tường thành đang nghiêng ngả kia. Er­agon bước lên một bước, mọi cơ bắp trên người nó căng cứng khi tìm kiếm bóng dáng Ro­ran trong dòng người đang tháo lui.

Cuối cùng Er­agon cũng nhìn thấy anh, nằm trong nhóm những người cuối cùng rời khỏi cánh cổng, đang điên cuồng ra lệnh cho những người trong đội, tiếng nói của anh bị nhấn chìm trong trận hỗn loạn. Bức tường nghiêng đi và đổ sụp mất vài mét – xa khỏi những tòa nhà khác – trút đá xuống Ro­ran, khiến anh lảo đảo, khiến anh ngã ngược về phía cánh cửa đang mở toang.

Khi Ro­ran đứng thẳng dậy, anh nhìn thẳng vào Er­agon. Er­agon nhìn thấy trong đôi mắt đó sự sợ hãi, vô vọng, tiếp theo đó là sự đầu hàng, như thể Ro­ran biết rằng, dù anh có chạy nhanh thế nào, anh cũng không thể đến được nơi an toàn.

Ro­ran nở một nụ cười chế giễu.

Và bức tường sập xuống.

2.CÂY BÚA DŨNG MÃNH NGÃ XUỐNG

“Không!” Er­agon hét lên khi bức tường tháp canh sụp xuống, chôn Ro­ran và năm người chiến binh khác dưới đống gạch đá cao 6m, và phủ bụi lên toàn bộ chiến trường.

Tiếng hét của Er­agon quá lớn, giọng nó vỡ ra, mùi máu tanh dâng lên cổ nó. Nó hít một hơi, rồi một hơi nữa, ho hắng.

“Vaet­na,” nó hổn hển nói và vẫy tay. Màn bụi xám dày đặc tản ra với một tiếng động như tiếng lụa sột soạt, để lại khoảng giữa chiến trường sạch sẽ. Er­agon đang quá chú ý tới Ro­ran mà không quan tâm xem câu thần chú đã lấy đi của nó bao nhiêu sức mạnh.

“Không, không, không, không,” Er­agon lẩm bẩm. Anh ấy không thể chết. Anh ấy không thể, không thể, không thể… Như thể nó nghĩ khi nó nhắc lại cụm từ đó nó sẽ biến thành sự thật. Nhưng có càng lúc hy vọng càng ít đi và những lời nói của nó chỉ là một lời cầu xin nhỏ nhoi trong vô số những lời nguyện cầu trên toàn thế giới.

Đằng sau nó, Arya và các chiến binh Var­den đứng đó ho hắng và dùng tay chùi mắt. Nhiều người cúi người xuống chờ đợi vụ nổ. Những viên đá tảng từ các tòa nhà rơi xuống chiến trường, làm cảnh vật tan hoang. Hai căn phòng rưỡi ở tầng hai tháp canh và một căn phòng ở tầng ba – căn phòng nơi tên thuật sĩ chết tức tưởi – lộ ra hoàn toàn. Căn phòng và đồ đạc bên trong nom bẩm thỉu và có vẻ tồi tàn hơn dưới ánh sáng rực rỡ của mặt trời. Sáu tên cung thủ bên trong đó bỏ chạy toán loạn khi thấy sàn nhà dưới chân chúng đang lở ra. Chúng xô đẩy nhau chạy ra cửa ở phía bên kia căn phòng và biến mất trong phần khuất của tháp canh.

Er­agon cố ước tính khối lượng đống đá đang đè lên Ro­ran; chắc khoảng mấy trăm cân. Nếu nó, Saphi­ra và các tiên nhân cùng hợp tác, nó chắc chắn họ có thể dùng pháp thuật dịch chuyển tảng đá, nhưng sau đó họ sẽ rất yếu ớt. Hơn nữa, để làm được điều đó họ cần có thời gi­an. Trong chốc lát, Er­agon nghĩ tới Glae­dr – ông rồng vàng có thể nâng toàn bộ đống đá một lúc – nhưng hoàn cảnh thì quá gấp rút và El­dunari của ông Glae­dr sau đó cần một khoảng thời gi­an rất dài để khôi phục sức mạnh. Er­agon biết, trong bất kỳ trường hợp nào nó cũng không nên thuyết phục ông Glae­dr nói chuyện với nó và lại càng không vì chuyện cứu Ro­ran và những chiến binh khác.

Bỗng Er­agon thấy bóng dáng Ro­ran xuất hiện đằng sau đống đá bụi che khuất anh. Anh đang đứng ngay dưới cổng thành. Ngay lập tức, Er­agon nhận ra nó phải làm gì.

“Saphi­ra, giúp họ!” Er­agon hét lên khi nó liệng khiên đi và nhảy bổ về phía trước.

Đằng sau, nó nghe thấy tiếng Arya lẩm bẩm gì đó bằng ngôn ngữ cổ - hình như là “Ẩn hình!”. Đoạn, cô bắt kịp nó, tay lăm lăm thanh kiếm, chuẩn bị cho một cuộc vật lộn.

Khi nó tới chân đống đổ nát, Er­agon nhảy lên cao hết mức có thể. Nó đặt một chân xuống bề mặt đá rồi lại nhảy lên từ chỗ này sang chỗ khác, như thể một con dê núi di chuyển trên vách núi. Nó ghét làm xê dịch đống đá, nhưng trèo lên đó là cách nhanh nhất.

Với một cú nhảy cuối cùng, Er­agon đáp xuống rìa tầng hai, sau đó chạy về phía bên kia phòng. Nó đẩy cảnh cửa với một lực mạnh tới nổi làm tung then cửa và bản lề, và khiến cảnh cửa gỗ sồi bay đập vào bức tường hành lang phía trước, vỡ tan tành.

Er­agon gấp gáp chạy trong hành lang. Nó không còn nghe thấy tiếng bước chân và hơi thở cửa mình, như thể tai nó chứa toàn nước.

Bước chân của nó chậm lại khi tới gần cánh cửa mở. Nó nhìn thấy một nhóm năm người trang bị vũ khí đang chỉ trỏ tấm bản đồ và cãi vã. Không ai để ý tới Er­agon.

Nó tiếp tục chạy.

Nó quẹo ở một khúc ngoặt và va vào một tên lính đang đi theo hướng ngược lại. Er­agon nảy đom đóm mắt khi đập trán vào rìa khiên của tay lính nọ. Nó lao vào tên lính, hai người quần thảo một hồi trên hành lang như thể hai vũ công say rượu.

Tên lính buông lời nguyền rủa. “Mày làm sao thế, thằng trời đánh thánh vật kia…” hắn nói và sau đó khi nhìn thấy khuôn mắt Er­agon, đôi mắt hắn mở to. “Mày!”

Er­agon nắm bàn tay phải và đấm vào phần bụng ngay dưới xương sườn hắn. Cú đấm khiến hắn bật ngửa người, ngã bổ chửng xuống nền nhà. “Là tao,” Er­agon hưởng ứng khi hắn nằm bất động dưới sàn nhà.

Er­agon tiếp tục chạy dọc hành lang. Tốc độ của nó nhanh gấp đôi khi mới nhảy vào tháp canh; nó cảm thấy như thể trái tim nó sắp chồi ra khỏi lồng ngực.

Nó là đâu? Nó thầm nghĩ, phát cuồng lên khi nhìn qua một cảnh cửa khác và vẫn chỉ thấy một căn phòng trống.

Cuối cùng, tại cuối một hành lang phụ bẩn thỉu, nó nhìn thấy một cầu thang uốn lượn. Nó bước năm bước một, không quan tâm tới sự an toàn của bản thân mà cứ thế phóng xuống tầng một. Nó chỉ dừng lại để xô ngã một cung thủ bị giật mình vì sự xuất hiện của nó sang một bên.

Những bậc thang kết thúc còn nó bước vào một căn phòng mái vòm cao gợi cho nó nhớ tới nhà thờ ở Dras-​Leona. Nó quay người nhìn xung quanh và bị ấn thượng ngay tức khắc: khiên, vũ khí và cờ xí đỏ treo trên tường; những cửa sổ hẹp nằm sát trần nhà; những ngọn đuốc được đặt trên giá đỡ sắt; những lò sưởi nguội ngắt, những chiếc bàn dài màu sẫm để dọc hai bên hội trường; một chiếc bục được đặt phía trên căn phòng, tại đó một người đàn ông râu dài đang đứng trước một chiếc ghế tựa. Phía bên phải, giữa cánh cửa dẫn xuống cổng tháp canh và ông ta là một đội quân khoảng năm mươi tên lính. Sợi chỉ vàng trên quân phục chúng tỏa ra ánh sáng lấp lánh khi chúng quay người nhìn nó với vẻ ngạc nhiên.

“Giết hắn!” người đàn ông mặc áo choàng ra lệnh, giọng có vẻ run sợ hơn là kiêu ngạo. “Ai giết được hắn sẽ được một phần ba tài sản của ta! Ta hứa đó!”

Er­agon lại một lần nữa đè nén cảm xúc thất vọng đang dâng lên trong nó. Nó rút thanh kiếm khỏi vỏ, giơ cao lên đầu và hết:

“Bris­in­gr!”

Một trận gió thổi tới, ngọn lửa xanh ma mị hiện hữu quanh lưỡi kiếm, chạy dọc lên mũi kiếm. Nhiệt lượng phát ra từ ngọn lửa làm ấm bàn tay, cánh tay và một bên mặt Er­agon.

Sau đó Er­agon hạ mắt nhìn những tên lính. “TRánh ra,” nó lồng lộn hét.

Những tên lính chần chừ trong thoáng chốc rồi quay người bỏ chạy.

Er­agon lao về phía trước, không quan tâm tới những kẻ phía sau đang hoảng loạn và vung kiếm. Một kẻ trượt châ ngã trước mặt nó, Er­agon nhảy qua, không hề chạm tới chóp mũ hắn.

Cơn gió thổi trong hành lang làm ngọn lửa kéo dài về phía sau như hình ảnh một con ngựa đang phi nước đại.

Er­agon dùng vai đẩy cánh cửa đôi dẫn tới hành lang chính. Nó chạy qua một căn phòng dài và rộng lớn đầy những tên lính – cũng như bánh răng, ròng rọc, và những thứ khí cụ khác dùng để nâng hạ cổng tháp canh – sau đó chạy hết tốc lực tới cánh cổng sắt đan chặn đường tới nơi Ro­ran đang đứng khi bức tường tháp canh sụp đổ.

Những thanh sắt oằn lại khi Er­agon đâm vào nó nhưng chưa đủ để phá tan cánh cổng sắt

Nó lùi lại một bước.

Một lần nửa nó chuyển năng lượng từ những viên kim cương trên thắt lưng – thắt lưng của Be­loth khôn ngoan – vào thanh Bris­in­gr, lấy đi toàn bộ năng lượng trự trong viên đá ở chuôi kiếm để khiến ngọn lửa mạnh kinh người. Nó hét lên và chém kiếm xuống cánh cổng sắt. Những tia lửa đỏ vàng nhảy nhót xung quanh nó, làm cháy găng tay và áo ngoài, làm cho phần da thịt lộ ra của nó buốt nhói. Sắt nóng chảy cuống đầu mũi giày nó. Nó nhích mũi chân, đẩy giày ra.

Ba nhát chém và một phần cổng sắt đủ cho một người chui quá rơi xuống. Những thanh sắt nóng tỏa ra ánh sáng trắng nóng chiếu sáng một khoảng không gi­an.

Er­agon kệ cho ngọn lửa của thanh Bris­in­gr lụi dần khi bước qua lỗ hổng vừa tạo.

Đầu tiên nó rẽ trái, rẽ phải rồi rẽ trái vào một lối đi nhỏ - một con đường mòn ngoằn ngoèo được dùng để làm chậm bước tiến của quân xâm lược khi chúng muốn tiến vào pháo đài.

Khi quặt vào góc cuối cùng, Er­agon nhìn thấy mục tiêu của mình: tiền sảnh chất đầy đá tảng. Kể cả khi nó có đôi mắt như thần tiên, nó chỉ có thể nhìn thấy được những hình dạng lớn nhất trong màn đen vì những viên đá rơi xuống đã làm tắt hết đuốc trên tường. Nó nghe tiếng cãi vã và ẩu đả như thể có một con quái vật vụng về đang chồi lên từ dưới đống gạch vụn.

“Naina,” Er­agon nói.

Một ánh sáng xanh không biết từ đâu xuất hiện chiếu sáng toàn bộ khoảng không. Ngay trước nó là Ro­ran, người bê bết đất bụi, máu và mồ hôi, răng nhe ra đáng sợ, đang vật lộn với một tên lính bên cạnh xác chết của hai tên khác.

Tên lính nheo mắt vì chói và Ro­ran nhân cơ hội đó ấn hắn xuống, cướp lấy con dao ở thắt lưng hắn và cắt cổ hắn.

Tên lính giãy lên hai nhát sau đó nằm im.

Ro­ran thở hổn hển, đứng dậy, máu nhỏ tong tong từ những ngón tay anh. Anh quay qua nhìn Er­agon với vẻ ngạc nhiên.

“Đến lúc em…” anh nói rồi anh nhắm mắt ngất đi.

3.BÓNG ĐEN NƠI CHÂN TRỜI

Để kịp đỡ Ro­ran, Er­agon phải thả thanh Bris­in­gr dù không muốn. Nhưng cuối cùng, cậu thả tay và thanh kiếm rơi khô khốc xuống mặt đá cùng đỡ lấy toàn bộ trọng lượng của Ro­ran trong lòng.

“Anh ấy bị thương nặng lắm không?” Arya hỏi.

Er­agon giật mình ngạc nhiên khi nhận ra nàng và Blöd­hgarm đang đứng cạnh. “Tôi không nghĩ vậy.” Nó sờ lên má Ro­ran vài lần để lau đi bụi bẩn trên mặt anh. Dưới ánh sáng phép thuật màu xanh lạnh lẽo trông Ro­ran hốc hác, mắt quầng thâm và môi tím tái, như thể bị nhuộm bằng nước quả việt quất. “Thôi nào, tỉnh lại đi.”

Sau đó vài giây, mí mắt Ro­ran động đậy; sau đó anh mở mắt và nhìn Er­agon tỏ vẻ bối rối. Er­agon chưa bao giờ cảm thấy nhẹ nhõm tới thế. “Anh ngất đi một lúc,” nó giải thích.

“À.”

Anh ấy còn sống! Er­agon nói với Saphi­ra, dù gì nó cũng phải nói chuyện với cô em của nó.

Rõ ràng cô rồng cũng vui vẻ. Tốt. Em sẽ ở đây và giúp các tiên nhân dịch chuyển đá chắn đường. Nếu anh cần em, cứ hét lên và em sẽ tìm đường tới chỗ anh.

Áo giáp của Ro­ran kêu rổn roảng khi Er­agon giúp anh đứng dậy. “Những người còn lại sao rồi?” Er­agon hỏi và chỉ về phía đống gạch vụn.

Ro­ran lắc đầu.

“Anh chắc không?”

“Không ai sống nổi đâu. Anh thoát vì… vì được mái hiên đỡ hộ một phần.

“Còn anh thế nào? Anh ổn không?” Er­agon hỏi.

“Cái gì?” Ro­ran nhíu mày, có vẻ không chú ý, như thể anh chưa từng nghĩ anh có chuyện gì. “Anh ổn cả… Hình như anh bị gẫy cổ tay. Nhưng không tệ lắm.”

Er­agon liếc nhìn Blöd­hgarm. Những biểu hiện trên khuôn mặt vị tiên căng lên và dù có vẻ không thích thú lắm nhưng ông vẫn đến bên Ro­ran và nhẹ nhàng lên tiếng, “Có thể tôi…” Ông xòe tay về phía cánh tay bị thương của Ro­ran.

Trong khi Blöd­hgarm chữa trị cho Ro­ran, Er­agon nhặt thanh Bris­in­gr lên sau đó cùng Arya đứng canh chừng lối vào phòng khi tên lính nào đó ngu ngốc xông vào tấn công.

“Đây, xong rồi đó,” Blöd­hgarm nói. Ông đi ra chỗ khác để lại Ro­ran đang xoay cổ tay kiểm tra khớp xương.

Ro­ran hài lòng cảm ơn Blöd­hgarm, sau đó hạ tay xuống, cúi xuống nhìn đống gạch vụn tới khi tìm thấy cây búa. Anh chỉnh lại áo giáp và nhìn về phía lối vào thành. “Anh đã sắp sửa giết được Lãnh chúa Brad­burn,” anh nói bằng giọng bình tĩnh một cách giả tạo. “Lão đã tại vị quá lâu và đã đến lúc lão về vườn rồi. Cô đồng ý không, Arya?”

“Đồng ý,” nàng đáp.

“Vậy thì chúng ta hãy tìm lão già ngu ngốc bụng bự đó. Sau đó tôi sẽ đập cho lão vài búa vì những người đã ngã xuống ngày hôm nay.”

“Vài phút trước lão ở trong hội trường lớn,” Er­agon nói, “nhưng em không nghĩ lão còn ở đó đợi chúng ta quay lại đâu.”

Ro­ran gật đầu. “Vậy thì chúng ta sẽ truy tìm hắn.” Nói đoạn anh bước đi.

Er­agon xóa bỏ câu thần chú và vội vàng chạy theo ông anh họ, tay cầm chắc thanh Bris­in­gr sẵn sàng chiến đấu. Arya và Blöd­hgarm bám sát cậu hết mức có thể khi đi trong hành lang ngoằn ngoèo.

Căn phòng hành lang dẫn tới giờ trống không, cũng như đại sảnh của lâu đài, bằng chứng cho thấy vài phút trước hàng chục tên lính đứng đó là những mũ trụ nằm lăn lóc trên nền nhà.

Er­agon và Ro­ran chạy qua bệ đá hoa cương. Nó phải kiềm chế tốc độ để không bỏ rơi Ro­ran phía sau. Họ đá tung cánh cửa bên trái và chạy lên cầu thang.

Khi đi qua từng tầng họ lại dừng lại để Blöd­hgarm dùng trí óc tìm kiếm Lãnh chúa Brad­burn và những kẻ tùy tùng, nhưng không thấy đâu.

Khi họ bước lên tầng ba, Er­agon nghe thấy có tiếng bước chân chạy toán loạn và thấy những ngọn giáo chĩa ra ngay phía trước Ro­ran. Ngọn giáo rạch một vệt lên má và bắp đùi phải Ro­ran, khiến cho đầu gối anh chảy máu. Anh rống lên như một con gấu bị thương và dùng khiên đẩy những tên lính lùi lại và bước và ngã xuống cầu thang. Chúng kêu gào điên cuồng.

Đằng sau Ro­ran, Er­agon chuyển thanh Bris­in­gr sang tay trái sau đó đi vòng qua người anh họ, nắm lấy một cây giáo và giật mạnh khỏi tay tên lính. Nó quay ngọn giáo và phóng thẳng vào giữa đám người phía trươc. Vài tên kêu gào, và trong bức tường người đã xuất hiện một lỗ hổng. Er­agon làm lại động tác vừa rồi, và cú ném của nó đã nhanh chóng giảm bớt lượng lính. Cùng lúc, Ro­ran từng bước đẩy lùi đám lính về sau.

Ngay khi Ro­ran dọn sạch cầu thang, mười hai tên lính còn lại cúi xuống sàn nhà vớ bất cứ thứ vũ khí gì phòng vệ. Ro­ran gầm lên một tiếng nữa và nhào vào tên lính gần nhất. Anh né mũi giáo rồi đấm mạnh vào mũ trụ hắn, tiếng kêu vang lên như thể đập vào một chiếc bình sắt.

Er­gon nhíu mày nhìn khắp xung quanh và nhắm vào hai tên lính đang đứng cạnh nhau. Nó đốn ngã chúng rồi kết liễu chúng bằng một nhát chém. Một lưỡi rìu bay thẳng về phía nó, xoay tròn trong không trung. Nó lùi lại đẩy ngã một tên lính trước khi kết liễu hai tên khác đang định dùng lao mổ bụng nó.

Sau đó Arya và Blöd­hgarm di chuyển giữa những tên lính một cách im lặng chết người. Sự thanh thoát vốn có ở thần tiên khiến cuộc ẩu đả giống như một màn biểu diễn đầy tính nghệ thuật hơn là một cuộc chạm trán một sống một còn.

Trong sự hỗn độn của âm thanh kim loại loảng xoảng, tiếng xương gẫy, và tiếng đánh đấm túi bụi,bốn người họ đã giết chết những tên lính còn lại. Như thường lệ, cuộc đụng đầu khiến Er­agon phấn chấn; như thể nó vừa được dội một xô nước lạnh vào người, khiến nó cảm thấy mát mẻ hơn bất kỳ chuyện gì khác.

Ro­ran cúi người xuống đặt tay lên đầu gối, thở hổn hển như thể vừa chạy nước rút.

“Em giúp nhé?” Er­agon hỏi và chỉ về vết cắt trên mặt và bắp đùi Ro­ran.

Ro­ran thử đi lại một vài lần. “Không cần đâu. Chúng ta tìm Brad­burn đã.”

Er­agon dẫn đầu đoàn người chạy lên cầu thang. Cuối cùng, sau năm phút tìm kiếm, họ thấy lão Brad­burn trốn trong căn phòng cao nhất ở tòa tháp phía tây. Với một vài câu thần chú, Er­agon, Arya và Blöd­hgarm mở cửa và làm bay toàn bộ đống đồ đạc ra sau. Khi họ và Ro­ran bước vào phòng, những kẻ tùy tùng và quân lính bao quanh Lãnh chúa Brad­burn, vài tên bắt đầu run rẩy. Er­agon nhẹ nhõm khi nó chỉ phải giết ba tên trước khi những tên còn lại hạ vũ khí xuống sàn nhà đầu hàng.

Arya tiến tới trước mặt lãnh chúa Brad­burn, từ nãy giờ vẫn im lặng, và nói. “Giờ ông sẽ hạ lệnh bãi quân chứ? Chỉ còn lại một vài người nhưng ít nhất ông cũng cứu mạng họ.”

“Ta sẽ không làm thế kể cả khi có thể,” Brad­burn hận thù và nhạo báng nói. Er­agon chỉ muốn đấm cho hắn một phát. “Ta sẽ không nhương bộ đâu. Ta sẽ không để ngời của ta rơi vào tay những sinh vật không bình thường, bẩn thỉu như các người. Thà chết còn hơn. Và người đừng hòng thuyết phục ta bằng những lời đường mật. Ta biết các người là đồng minh với Ur­gal. Ta thà tin một con rắn hơn là tin một kẻ chia sẻ bánh mỳ với quái vật.”

Arya gật đầu và đặt tay lên mặt Brad­burn. Nàng nhắm mắt lại và trong một lúc cả nàng và Brad­burn đều không cử động. Er­agon dùng thần gi­ao cách cảm và nhận thấy một trận chiến suy nghĩ giữa hai người khi Arya vượt qua hàng phòng thủ của Brad­burn và tiến vào trong tư duy lão. Mất cả một phút Arya mới kiểm soát được đầu óc hắn, sau đó nàng kiểm tra trí nhớ hắn cho tới khi tìm thấy thứ hắn cố bảo vệ.

Nàng lẩm nhẩm bằng ngôn ngữ cổ và niệm một câu thần chú phức tạp nhằm hạ màn chắn bảo vệ và khiến Brad­burn ngủ mất. Khi nàng làm xong, Brad­burn nhắm mắt và cùng một tiếng thở dài, lão ngã vào cánh tay nàng.

“Ả ta giết ngài rồi!” một tên cận vệ hô lớn, và tiếng hét sợ hãi và tức giận vang lên giữa những tên lính.

Trong khi cố thuyết phục họ, Er­agon nghe thấy tiếng kèn của Var­den vang lên từ đằng xa. Tiếp theo đó lại một tiếng kèn khác, gần hơn, rồi một tiếng nữa, và những tiếng hồ mừng chiến thắng vang dội trong chiến trường.

Nó hoang mang nhìn Arya, sau đó họ quay người lại nhìn ra cửa sổ ở bên kia tường.

Từ hai cửa sổ phía tây và phía nam, họ ngắm nhìn thành phố Be­la­tona. NÓ là một thành phố lớn, thịnh vượng, một trong những thành phố lớn nhất của Đế chế. Gần lâu đài, những tòa nhà được làm bằng đá tảng, với những mái nhà dốc và cửa sổ vòng cung. Đằng xa xa là những ngôi nhà gỗ và vữa. Một vài ngôi nhà làm bằng gỗ xẻ đang bốc cháy trong trận chiến. Khói bay mù trời khiến người ta cay mắt và khàn cổ.

Ở phía tây bắc, một dặm tính từ thành phố là trại dã chiến của Var­den bao gồm một dãy những lều bạt màu xám, một vài trướng treo cờ hiệu và cờ xí màu sắc, và hàng trăm người bị thương đang nằm trên khu đất trống. Lều trị thương không đủ sức chứa hết tất cả.

Ở phía bắc, qua bến cảng và kho hàng là Hồ Leona, mặt hồ rồng mênh mông với những con sóng bạc đầu đang ì oạp vỗ bờ.

Bên trên đầu họ là những đám mây đen che khuấn thành phố, báo hiệu một trận mưa lớn. Những ánh chớp xanh lóe lên ở nơi này nơi khác bên trong cơn bão, những tiếng sấm vang lên như thể tiếng một con thú tức giận.

Nhưng Er­agon không thể tìm ra tiếng động thu hút sự chú ý của nó phát ra từ đâu.

Nó và Arya nhanh chóng chạy về phía cửa sổ đối diện với chiến trường. Saphi­ra, các chiến binh và tiên nhân đang cùng nhau dọn dẹp đống đổ nát trước tháp canh. Er­agon huýt sáo và khi Saphi­ra nguen­gr lên, nó vẫy tay. Hàm rộng của cô nàng hơi mở ra khoe một nụ cười toàn răng, và cô bé xì khói về phía nó.

“Này! Chuyện gì thế ?” Er­agon nói lớn.

Một trong những đứng trên tường thành giơ tay chỉ về khu phía đông. “Thưa Khắc tinh của tà thần! Ngài nhìn xem! Mèo ma đang tới! Mèo ma đang tới!”

Er­agon cảm thấy lạnh sống lưng. Nó nhìn về phía bắc và lần này nó nhìn thấy những bóng đen nhỏ đang tiếng tới cách đó vài dặm, ở bờ kia sông Ji­et. Một vài sinh vật đi bằng bốn chân, một vài chạy trên hai chân nhưng chúng đều quá xa khiến nó không chắc đó có phải mèo ma không.

“Có thể không?” Arya hỏi, có vẻ ngạc nhiên.

“Tôi không biết nữa… nhưng dù là gì thì chúng ta cũng sớm biết thôi.”

4.VUA MÈO

Er­agon đứng trên bục ở sảnh chính của tháp canh, ngay phía bên phải ngai vàng của Lãnh chúa Brad­burn, tay trái nó đặt ở chuôi kiếm Bris­in­gr. Phía bên kia ngai vàng là Jör­mundur – tổng chỉ huy quân Var­den – đang cầm mũ trụ trong tay. Phần tóc mai của ông đã điểm bạc, phần còn lại màu nâu, được bện ra sau. Khuôn mặt góc cạnh của ông không biểu cảm như thể đang chờ đợi một ai đó. Er­agon để ý thấy những đường chỉ mảnh màu đỏ chạy dọc mặt trong găng tay phải của Jör­mundur, nhưng Jör­mundur không hề tỏ ra đau đớn.

Giữa họ là thủ lĩnh quân Var­den, Na­sua­da trong bộ váy màu xanh vàng mà cô vừa thay trước đó. Cô cũng là mục tiêu bị quân triều dình nhắm vào trong trận chiến, vì hiện tại tay trái của cô đang bị băng bó.

Na­sua­da hạ giọng để chỉ Er­agon và Jör­mundur có thể nghe thấy. “Nếu chúng ta có được sự trợ giúp từ phía họ…”

“Nhưng họ sẽ muốn đổi lấy cái gì?” Jör­mundur hỏi. “Ngân sách của chúng ta sắp cạn kiệt còn tương lại lại chưa chắc chắn.”

Môi cô hơi cong lên và nói. “Có thể họ không muốn gì hơn ngoài cơ hội trả thù Gal­ba­torix.” Cô dừng lại. “Nhưng nếu không, chúng ta sẽ phải tìm thứ khác chứ không phải vàng để thuyết phục họ đầu quân.”

“Tiểu thư có thể cho họ vài thùng kem,” Er­agon nói, khiến Jör­mundur cười nắc nẻ và Na­sua­da cười nhẹ.

Cuộc nói chuyện thì thầm của họ kết thúc khi tiếng kèn từ bên ngoài sảnh chính vang lên. Một tiêu đồng tóc vàng mặc áo choàng dài đeo phù hiệu của Var­den – hình một con rồng trăng ôm một bông hoa bồng với một thanh kiếm đang chỉ xuống phía bên trên – đi vào phòng, cúi chào và thánh thót nói, “Đấng tối cao, Grim­rr Nửa vuốt, Vua của mèo ma, Chúa tể vùng đất trống, Kẻ thống lãnh màn đêm, Độc cô xin cầu kiến.”

Danh hiệu Độc cô lạ nhỉ, Er­agon nhận xét với Saphi­ra.

Nhưng em nghĩ nó cũng hay đấy chứ, cô nàng trả lời và nó có thể cảm nhận được sự hứng khởi của cô nàng, ngay cả khi nó không nhìn thấy vì cô bé đang nằm bên dưới lâu đài.

Tiểu đồng bước sang một bên và Grim­rr Nửa chân trong hình người bước vào cùng bốn mèo ma hộ tống. Trong bốn kẻ hộ tống đó có Solem­bum, con mèo ma Er­agon tuwngfg ặp trong hình dáng mèo: dáng người nặng nề, có một lớp lông màu đen ngắn ngay dưới cổ, lông phất phơ trên tai, đuôi điểm đen quật từ bên này sang bên khác.

Nhưng Grim­rr Nửa vuốt lại không giống bất cứ người hay sinh vật nào Er­agon từng gặp. Ngài cao mét ba, bằng một người lùn nhưng lại không thể lẫn với người lùn hay một con người. Ngài có một chiếc cằm nhọn, xương má rộng, và bên dưới hàng lông mày rậm rạp là một đôi mắt xanh sáng và hàng mi cong vút. Mái tóc đen che trán trong khi phần tóc ở đằng sau và hai tên thả dài trên vai, khá giống với những tùy tùng. Er­agon không thể đoán nổi tuổi của vị vua mèo này.

Grim­rr chỉ mặc độc một chiếc áo da thô và đóng khố da thỏ. Xương sọ của rất nhiều loài vật – chim, chuột và những sinh vật nhỏ khác – treo đầy trên áo, va vào nhau mỗi khi ngài chuyển động. Ngài ta giắt một thanh đoản dao ở khố. Vô số những vết sẹo trắng, mảnh trên làn da màu nâu hạt dẻ trông giống những vết cào xước trên mặt bàn gỗ. Và, đúng như tên gọi, ông ta thiếu mất hai móng ở chân phải, trông như thể bị gặm mất.

Dù các đường nét thanh tú nhưng chắc chắn Grim­rr là giống đực dựa vào những cơ bắp rắn chắc ở ngực và cánh tay, hông hẹp và cách di chuyển tới trước Na­sua­da.

Dường như các ma mèo không để ý tới những người đứng hai bên sảnh đường đang quan sát họ cho tới khi Grim­rr đi ngang qua bà lang An­gela đứng cạnh Ro­ran đang dùng sáu que đan đan một chiếc tất sọc.

Grim­rr nheo mắt nhìn bà lang, lông dựng ngược lên như bốn kẻ tùy tùng. Ngài nhe răng và Er­agon ngạc nhiên khi thấy ngài phun xì xì vào mặt bà lang.

An­gela ngước lên, biểu hiện lười nhác và chế giễu. “Chiếp chiếp,” bà nói.

Trong một thoáng Er­agon nghĩ mèo ma sẽ tấn công bà. Lông cổ và mặt Grim­rr dựng ngược, cánh mũi mở rộng và ngài im lặng gầm gừ với bà. NHững mèo ma khác cúi thấp người, chuẩn bị lao xổ vào, tai ép sát đầu.

Từ phía bên kia sảnh đường, Er­agon nghe thấy những tiếng lưỡi kiếm rút ra khỏi bao.

Grim­rr phun phì phì một lần nữa rồi quay người đi tiếp. Con mèo ma cuối cùng khi lướt qua An­gela giơ móng vuốt vờn lấy đoạn len rơi ra từ que đan như thể một chú mèo nhà đang chơi với cuộn lên vậy.

Cả Saphi­ra và Er­agon đều bối rối. Chiếp chiếp á? Cô nàng hỏi.

Nó nhún vai, quên mất là cô em không nhìn thấy nó. Ai mà biết vì sao An­gela lại làm gì hay nói gì?

Cuối cùng Grim­rr đến trước mặt Na­sua­da. Ông ta hơi cúi đầu, thể hiện lòng kiêu hãnh ngút trời, thậm chí có phần ngạo mạn, trước sự hiện diện của mèo, rồng và một người phụ nữ thân phận cao quý.

“Thưa tiểu thư Na­sua­da,” ông ta nói. Ngạc nhiên là giọng nói của ông ta lại trầm, khá giống tiếng gào của mèo hoan hơn là giọng nói the thé đáng ra một đứa nhỏ ông ta mang hình dạng phải có.

Na­sua­da cũng cúi đầu đáp lễ. “Chào vua Nửa vuốt. Var­den hoan nghênh ngài và những chiến hữu của ngài. Tôi rất xin lỗi vì sự vắng mặt của Vua Sur­da Or­rin, đồng minh của chúng tôi; ngài ấy không thể có mặt ở đây tiếp đãi ngài, vì hiện giờ ngài và binh lính đang chiến đấu bảo vệ vùng biên giới phía bắc trước sự xâm lăng của quân Gal­ba­torix.”

“Tất nhiên rồi, thưa tiểu thư Na­sua­da,” Grim­rr nói. Những chiếc răng sắc nhọn lóe sáng khi ông ta cất tiếng. “Chúng ta không có quyền lơ là với kẻ thù.”

“Dù vậy…và vì sao ngài lại đột ngột tới gặp chúng tôi vậy, thưa Đức vua? Mèo ma thường sống trong bí mật và đơn độc, luôn đứng ngoài cuộc chiến trong nhiều năm, đặc biệt sau Ngày tàn của các Kỵ sĩ. Có người còn cho rằng giống loài của người chỉ tồn tại trong truyền thuyết hơn là hiện hữu ngoài đời. Vậy thì vì sao ngài lại chọn thời điểm này để xuất hiện?”

Grim­rr giơ tay phải chỉ vào Er­agon .

“Vì người này,” mèo ma hét lớn. “Chúng tôi không tấn công thợ săn khi hắn chưa để lộ điểm yếu, và giờ Gal­ba­torix đã để lộ điểm yếu của hắn: hắn không muốn giết Er­agon Khắc tinh của tà thần và Saphi­ra Bjart­sku­lar. Chúng tôi đã đợi cơ hội này rất lâu và giờ là lúc chúng tôi nắm lấy cơ hội. Gal­ba­torix sẽ biết rằng hắn phải sợ và thù ghét chúng tôi, và cuối cùng hắn sẽ nhận ra sai lầm của hắn và biết rằng chúng tôi là những kẻ kết liễu đời hắn. Hương vị trả thù cũng ngọt ngào như nhâm nhi miếng thịt lợn vậy.”

“Loài người à, thời gi­an đã tới cho tất cả mọi loài, kể cả mèo ma, để sát cánh và chứng tỏ cho Gal­ba­torix thấy hắn không thể ngăn chặn chúng ta. Chúng tôi sẽ tham chiến cùng cô, thưa Tiểu thư Na­sua­da mà không đòi quyền lợi.”

Er­agon không biết Na­sua­da nghĩ gì nhưng nó và Saphi­ra bị ấn tượng mạnh với bài phát biểu của mèo ma.

Sau một phút im lặng, Na­sua­da nói. “Ngài nói nghe rất lọt tai, thưa Đức vua. Nhưng trước khi tôi đồng ý, tôi phải hỏi ngài vài câu, nếu như ngài đồng ý.”

Grimmr vẫy tay. “Tôi đồng ý.”

“Loài của ngài quá khép kín và quá khó hiểu, và tôi phải công nhận rằng tôi chưa bao giờ nghe thấy tên Đức ngài cho tới ngày hôm nay. Đúng ra là tôi không biết rằng loài các ngài có vua trị vì.”

“Tôi không phải vua giống như vua của các người,” Grim­rr nói. “Ma mèo thích sống một mình, nhưng chúng tôi cũng chọn ra một thủ lĩnh khi có chiến tranh.”

“Tôi hiểu. Ngài đại diện cho cả giống nòi, hay chỉ cho những người đi cùng ngài?”

Gò ma Grim­rr nhô lên, biểu hiện có thể là khá hài lòng. “Tôi đại diện cho toàn bộ loài, thưa Tiểu thư Na­sua­da,” ông ta rên rừ rừ. “Tất cả những mèo ma hiện diện trên Ala­gaësia, trừ những mèo mới sinh, sẽ tới đây chiến đấu. Chúng tôi không đông, nhưng không ai có thể so sánh về sự thiện chiến bằng chúng tôi. Và tôi có thể kêu gọi những kẻ mang duy chỉ một hình dáng, dù tôi không đại diện cho chúng, vì chúng ngu ngốc như những động vật khác. Nhưng chúng sẽ nghe theo những gì chúng tôi yêu cầu.”

“Một dạng?” Na­sua­da thắc mắc.

“NHững kẻ tiểu thư biết là mèo đó. Những kẻ không thể biến đổi hình dạng như chúng tôi.”

“Chúng trung thành với ông?”

“Đúng. Chúng ngưỡng mộ chúng tôi… cũng tự nhiên thôi.”

Nếu như ông ta nói thật, Er­agon nhận xét với Saphi­ra, mèo ma sẽ vô cùng hữu ích với chúng ta đó.

Na­sua­da nói. “Vậy chúng tôi cần làm gì để đổi lấy sự trợ giúp của các ngài, thưa Vua Nửa vuốt?” Cô liếc nhìn Er­agon cười và nói thêm. “Chúng tôi có thể cho các ngài bao nhiêu kem cũng được, nhưng ngân khố lại có hạn. Vì thế nếu các chiến binh của ngài mong được trả công, thì tôi e là họ sẽ thất vọng.”

“Kem chỉ dành cho mèo con và chúng tôi không có hứng thú với vàng,” Grim­rr nói. Khi ông ta nói, ông ta giơ tay ngắm nhìn bộ vuốt. “Chúng tôi chỉ cần một con dao. MỖi người trong chúng tôi cần có hai bộ áo giáp, một cho lúc chúng tôi đứng trên hai chân và một cho khi đi bằng bốn chân. Chúng tôi không cần gì hơn – không cần lều trại, không chăn, không đĩa đựng thức ăn, không cần thìa. Khẩu phần ăn mỗi ngày của chúng tôi là một con vịt, gà gô, gà, hoặc bất cứ giống chim chóc gì và cứ hai ngày một bát gan tươi. Chúng tôi không nói cũng mong các ngài đặt món đó cho chúng tôi. Ngoài ra, nếu như các người chiến thắng, dù ai trở thành vua hoặc nữ hoàng kế tiếp – ai tiếp tục nối ngôi – cũng phải đặt một chiếc nệm bông cạnh ngai vàng thể hiện sự tôn vinh, giành cho một người trong chúng tôi. Chúng tôi rất cám ơn.”

“Yêu cầu của các ngài khá giống với người lùn,” Na­sua­da nói bằng giọng khô khốc. Cô nghiêng người về phía Jör­mundur và Er­agon nghe thấy tiếng cô nói nhỏ, “Chúng ta có đủ gan cho họ không?”

“Thần nghĩ là đủ,” Jör­mundur trả lời bằng giọng khô khốc tương tự. “Nhưng còn phải phụ thuộc vào cỡ bát.”

Na­sua­da ngồi thẳng lưng. “Hai bộ giáp là quá nhiều, thưa Đức vua Nửa vuốt. các chiến binh của ngài buộc phải quyết dịnh họ muốn tham chiến trong hình dạng nào, người hay mèo. Chúng tôi không đủ tiền để rèn hai bộ.”

Nếu Grimmr có đuôi, Er­agon cá chắc nó sẽ quẫy liên tục. “Được rồi, thưa Tiểu thư Na­sua­da.”

“Còn một điều nữa. Gal­ba­torix có cài cắm sát thủ và tình báo ở mọi nơi. VÌ thế, để gia nhập Var­den, các người phải chấp nhận cho thầy phép của chúng tôi kiểm tra tư tưởng, để chắc chắn Gal­ba­torix không kiểm soát các ngài.”

Grim­rr khụt khịt. “Không làm thế thì quả là không khôn ngoan. Ai đủ dũng cảm để kiểm tra cũng được. Nhưng không phải bà ta” – và ông ta chỉ vào An­gela. “Không bao giờ để bà ta làm điều đó.”

Na­sua­da chần chừ và Er­agon có thể thấy cô muốn hỏi nhưng lại thôi. “Cũng được. Tôi sẽ gửi các pháp sư tới ngay lập tức. Dựa vào tình hình – và nếu không có gì thay đổi – chúng tôi rất vinh hạnh được làm đồng minh với các ngài cũng như giữa quân Var­den và ma mèo.”

Cô vừa nói xong, tất cả con người trong đại sảnh hô vang sung sướng và vỗ tay, kể cả An­gela. Ngay các tiên nhân cũng tỏ ý hài lòng.

Nhưng các ma mèo không phản ứng gì, từ việc ép tai xuống vì những tiếng động.

5.LẤY SỨC

Er­agon rên rỉ và tựa lưng lên Saphi­ra. Nó vòng tay quanh đầu gối, trườn qua lớp vảy rắn chắc của cô rồng cho tới khi ngồi sụp xuống, duỗi thẳng chân về phía trước.

“Anh đói quá!” Nó rên rỉ.

Nó và Saphi­ra đang ngồi ở trảng trống cách xa những người đang dọn dẹp chiến trường – dẹp đá vụn sang một bên và đặt những xác chết vào trong xe ngưa – và cách xa dòng người đang đi đi vào vào lâu đài. Họ hiện diện trong buổi gặp mặt giữa Na­sua­da và Vua Nửa vuốt và giờ họ phải về làm những nhiệm vụ khác. Blöd­hgarm và bốn tiên khác đứng gần họ, quan sát xem có nguy hiểm gì không.

“Ối!” một ai đó kêu lên.

Er­agon nhìn lên và thấy Ro­ran đang từ lâu đài biết về phía nó. An­gela đi sau đó vài bước, những sợi tua áo bay phấp phơi khi bà cố đuổi kịp theo những sải chân dài hơn của anh.

“Anh định đi đâu đây?” Er­agon hỏi khi Ro­ran dừng trước mặt nó.

“Đi giúp bảo vệ thành phố và sắp xếp tù nhân.”

“À…” ánh mắt Er­agon lang thang trên trảng trống bận rộn trước khi nhìn vào khuôn mặt bầm tím của Ro­ran. “Anh chiến đấu cừ lắm.”

“Em cũng thế.”

Er­agon nhìn An­gela, lại đang đan đan móc móc, ngón tay di chuyển rất nhanh khiến cậu không thể nhìn kịp. “Chiếp chiếp?” cậu hỏi.

Trên mặt bà thể hiện sự tinh quái, bà lắc đầu, những sợi tóc xoăn tít mù nhảy lên. “Một câu chuyện lâu rồi.”

Er­agon chấp nhận sự trốn tránh mà không phàn nàn gì; nó không hy vọng bà tự mình giải thích. Thường bà ta ít khi làm thế.

“Còn em,” Ro­ran nói. “Em định đi đâu?”

Bọn em định đi kiếm ăn Saphi­ra nói, và dùng mũi đẩy nhẹ Er­agon, hơi thở của cô nàng làm nóng nóng mặt nó.

Ro­ran gật đầu. “Tốt nhất hai em nên làm thế. Tối nay anh sẽ gặp lại em vậy.” Trước khi quay người bỏ đi, anh nói thêm. “Nói với Ka­tri­na là anh yêu cô ấy nhé.”

An­gela bỏ tác phẩm của mình vào chiếc túi mềm đeo trên thắt lưng. “Tôi nghĩ mình cũng nên đi. Tôi đang nấu thuốc trong lều và cần phải để ý, tôi cũng cần theo dấu một con mèo ma.”

“Grim­rr à?”

“Không, không – một người bạn già thôi. Mẹ của Solem­bum. Nếu bà ấy vẫn còn sống. Tôi mong là vậy.” Bà đưa tay lên ngón trỏ và ngón cái chạm vào nhau thành một hình tròn, vui vẻ nói. “Gặp lại cậu sau!” Sau đó bỏ đi mất.

Lên lưng em đi, Saphi­ra nói và đứng dậy, kệ Er­agon tự xoay xở.

Nó trèo lên yên ở cổ cô nàng, và Saphi­ra sải rộng đôi cánh. Cử động đó tạo ra một cơn gió lốc tỏa ra như sóng trên mặt hồ. Mọi người trên chiến trường ngừng lại ngắm nhìn cô nàng.

Saphi­ra nâng cao đôi cánh khiên Er­agon có thể thấy những đường gân tím đang đập truyền máu khắp cơ thể từ từng nhịp đập của trái tim.

Cùng một cú xóc, cả thế giới quay cuồng điên đảo quanh Er­agon khi Saphi­ra nhảy khỏi trảng trống lên bức tường thành cao nhất, đứng đó lấy thăng bằng. Vài tảng đá nứt ra dưới móng vuốt của cô nàng. Nó nắm chắc dây cương để ngồi cho vững.

Thế giới lại một lần nữa nghieng đi khi Saphi­ra phóng mình khỏi bức tường thành. Mùi vị cay sè tấn công Er­agon, mắt nó nhức nhối khi Saphi­ra bay xuyên quá đám khói dày trên bầu trời Be­la­tona như một tấm chăn chứa đầy nỗi đau, giận dữ và buồn thương.

Saphi­ra vỗ cánh hai nhịp mạnh rồi bọn họ bay lên trên đám khói tắm mình trong ánh mặt trời và bay liệng phía trên những con đường thi thoảng lại có một đám cháy. Saphi­ra mở rộng cánh chao một vòng trên trời, để cho những cơn gió nóng nâng cô nàng lên cao hơn bao giờ hết.

Dù mệt mỏi nhưng Er­agon vẫn ngắm nhìn cảnh vật hùng vĩ trước mắt: cơn bão như chuẩn bị trút một trận mưa trắng xóa xuống Be­la­tona trong khi ở đằng xa, những tiếng sấm vang rền trong bầu trời tối đen như mực khỗng để lộ bất cứ điều gì chỉ trừ những tia sét xét qua xẹt lại. Ở đằng kia hồ nước sáng như gương và những trang trại nhỏ xíu trải ngút tầm mắt khiến nó nhìn không dứ, nhưng không cái gì có thể so sánh nổi với những núi mây.

Er­agon luôn cảm thấy như mình đươc hưởng một đặc ân khi có cơ hội chiêm ngưỡng thế giới từ độ cao này, đó là chưa kể đâu có nhiều người có cơ hội được bay trên lưng một con rồng.

Saphi­ra chao cánh nhắm về phía lều bạt của Var­den mà lao xuống.

Một cơn gió mạnh thổi tới từ phía tây báo hiệu cơn bão đang tới. Er­agon rạp mình và bám chặt hơn vào dây cương trên cổ cô em. Nó nhìn thấy những gợn sóng lúa trên đồng ruộng. Những ngọn cỏ phất phơ làm cậu liên tưởng tới lông trên mình một con quái vật xanh to lớn.

Ngựa hí lên khi Saphi­ra lượt sát nóc lều tới một khu đất trống dành riêng cho nó. Er­agon nửa đứng trên yên khi Saphi­ra xòe cánh giảm tốc trước khi chạm mặt đất. Cú hạ cánh khiến Er­agon nhào lên phía trước.

Xin lỗi, cô nàng nói. Em cố hạ cánh nhẹ nhàng nhất rồi

Anh biết.

Khi ngã xuống, nó nhìn thấy bóng dáng Ka­tri­na đang hớt hải chạy về phía nó. Mái tóc màu nâu vàng ôm lấy khuôn mặt chị khi chị chạy qua khu đất trống và sức ép của gió làm lộ bụng đang lớn lên từng ngày sau lớp váy áo.

“Có gì mới không?” chị gọi lớn vẻ lo lắng hiện lên trên từng thớ thịt.

“CHị đã nghe tới ma mèo chưa…?”

Chị gật đầu.

“Thế thì không còn gì mới hơn đâu. Ro­ran vẫn ổn; anh ấy nói anh ấy yêu chị.”

Trông chị đã nhẹ nhõm hơn nhưng nét lo lắng vẫn chưa hoàn toàn biến mất. “Anh ấy ổn chứ?” Chị vân vê chiếc nhẫn trên bàn tay trái, một trong hai chiếc nhẫn đã được Er­agon phù phép để chị và Ro­ran biết người kia liệu có gặp nguy hiểm. “Chị nghĩ chị đã cảm nhận thấy gì đó, cách đây khoảng một tiếng, và chị sợ rằng…”

Er­agon lắc đầu. “Ro­ran có thể nói chuyện đó với chị. Anh ấy bị trầy xước và bầm tím đôi chỗ nhưng nói chung là ổn. Anh ấy làm em sợ suýt chết.”

Ka­tri­na càng lo lắng hơn. Sau đó, cô cố lắm mới nở được một nụ cười. “Ít nhất là hai người vẫn an toàn.”

Họ chia tay, Er­agon và Saphi­ra đi tới một trong những cái lều gần khu nấu ăn của Var­den. HỌ tự phục vụ đồ ăn thịt thà vho mình tỏng khi những cơn gió điên cuồng thổi qua và những mưa bắt đầu rơi xuống lều.

Er­agon đang ngoạm một miếng thịt lợn lớn thì Saphi­ra nói Ngon không? Ngon tuyệt cú mèo nhỉ?

“Ừmm,” Nước thịt chạy xuống cằm nó.

6.KÝ ỨC CỦA NGƯỜI CHẾT

Gal­ba­torix điên cuồng nên khó đoán, nhưng cách tư duy của lão ta có những lỗ hổng mà người bình thường không thể có. Nếu con tìm ra, Er­agon, có thể con và Saphi­ra sẽ đánh bại được lão.

Brom hạ cây tẩu, khuôn mặt trang nghiêm. “Ta mong là con có thể. Ước muốn lớn nhất đời ta là con và Saphi­ra sẽ sống lâu và sống tốt, không bị Gal­ba­torix và Đế chế đe dọa. Ta ước ta có thể bảo vệ con khỏi tất cả những nguy hiểm đe dọa con, nhưng than ôi, chuyện đó nằm ngoài khả năng của ta. Tất cả những gì ta có thể là cho con lời khuyên và dạy dỗ con cái ta có thể khi ta còn ở đây… Con trai của ta. Dù cho chuyện gì xảy ra, con phải biết ta yêu con và mẹ con cũng vậy. Những ngôi sao trên trời sẽ bảo vệ con, Er­agon Broms­son ạ.”

Er­agon mở mắt khi những ký ức phai nhòa. Phía bên trên nó, nóc lều lún vào trong như bị nước đổ đầy bên trên. NHững giọt nước mưa qua mái dột rơi xuống đùi nó, chảy dọc chân khiến nó có cảm gi­ac lạnh buốt. Nó biết nó phải cố định lại lều nhưng lại không muốn rời khỏi võng.

Ông Brom không bao giờ nói cho em nghe về Murtagh? Không bao giờ nói anh và Murtage là anh em cùng mẹ khác cha à?

Saphi­ra đang nằm cuộn tròn bên ngoài lều nói, Hỏi lại cũng không thay đổi câu trả lời của em được.

Nhưng sao ông ấy lại không nói chứ? Vì sao lại không nói? Ông ấy phải biết về Murtagh. Ông ấy không thể nào không biết.

Saphi­ra lười nhác đáp. Brom có lý do của ông ấy, nhưng nếu phải đoán, em nghĩ ông ấy quan trọng hơn là phải nói cho anh biết ông ấy quan tâm tới anh và muốn cho anh những lời khuyên hơn là dành thì giờ tán dóc về Murtagh.

Nhưng ông ấy có thể cảnh báo cho anh biết! Chỉ vài từ cũng đủ rồi.

Em không thể biết chắc vì sao ông ấy không nói, Er­agon ạ. Anh phải đồng ý rằng có vài câu hỏi anh sẽ không bao giờ có cơ hội nghe ông Brom trả lời. Hãy tin tình yêu ông ấy dành cho anh, và đừng để mấy chuyện linh tinh làm anh xao nhãng.

Er­agon nhìn xuống bàn tay đang đặt trên ngực. Cậu buông tay xuống hai bên. Ngón tay cái bên trái của cậu có nhiều nếp nhăn ở đốt thứ hai hơn bên tay phải, trong khi tay phải lại có một vết sẹo dài, xấu xí mà nó không nhớ nổi vì sao có. Nhưng có thể là từ Agaetí Blödhren, Lễ hội Huyết thệ.

Cám ơn, nó nói với Saphi­ra. Nó đã qua em rồng quan sát và nghe bức thư của ông Brom những ba lần kể từ sau Fin­ster sụp đổ, và cứ mỗi lần nó lại thấy thêm một vài điểm trong lời nói và cử động của ông Brom mà trước đó nó không thấy. Điều đó khiến nó thấy được an ủi và hài lòng, vì nó đã xóa bỏ được điều canh cánh cả đời: biết tên cha đẻ của nó và biết cha nó quan tâm tới nó.

Saphi­ra đáp lại lời cám ơn của nó bằng một luồng gió nóng.

Dù Er­agon đã ăn uống ngủ nghỉ trong khoảng một tiếng nhưng nó vẫn còn cảm thấy yếu ớt. Không phải nó không biết cơ thể sẽ phản ứng ra sao. Nó đã thừa hiểu sẽ phải mất hàng tuần để phục hồi sức khỏe hoàn toàn sau một trận đánh dài hơi và tốn nhiều sức lực như thế. Khi Var­den tới Urȗ’baen, nó cũng như những người khác trong quân đội của Na­sua­da sẽ càng lúc càng có ít thời gi­an để hồi sức trước khi bước vào một trận chiến mới. Chiến tranh sẽ bòn rút hết sức lực cho tới khi họ bê bết máu, tơi tả, không còn khả năng chiến đấu và đến lúc đó họ vẫn phải đối đầu với Gal­ba­torix, lão an nhàn thảnh thơi đợi họ.

Nó cố không nghĩ quá nhiều về chuyện đó.

Một giọt nước mưa nữa lại rơi vào chân nó, thật lạnh lẽo. Cáu tiết, nó vắt chân sang bên kia võng, ngồi thẳng dậy và đi bằng chân trần ra chỗ đất bẩn ở góc lều và quỳ xuống.

“De­loi shar­jalvi!” nó nói kèm theo vài cụm từ ngôn ngữ cổ khác cần để giải kết giới cậu đặt.

Chỗ đất bẩn bắt đầu xùi bọt lên như nước sôi, sau đó chui ra khỏi “ngọn núi lửa” đó là đá, sâu bọ và sau cùng là một chiếc hộp viền sắt nỏ dài khoảng 50 phân. Er­agon vươn tay nắm lấy chiếc hộp và ngừng niệm chú. Mắt đất lại bình lặng trở lại.

Nó đặt cái hộp xuống mặt đất lúc này đã rắn lại như cũ. “Lá­drin,” nó thì thầm và vẫy tay qua chiếc khoa không có lỗ khóa. Chiếc hộp mở ra với một tiếng kịch.

Màu vàng nhàn nhạt tỏa sáng trong căn lều.

Nằm bên trong chiếc hộp là El­dunarí của Glae­dr – trái tim của loài rồng. Một hòn đá lớn trong như đá quý lấp lánh như một viên than hồng sắp tàn. Er­agon dùng hai tay nâng El­dunarí lên và nhìn chăm chú. Một dải ngân hàng những ngôi sao nhỏ xíu xoay lượn bên trong viên đá, dù di chuyển của chúng rất chậm và dwongf như xa xôi hơn khi lần đầu tiên Er­agon cầm viên đá ở Ellesméra, khi Glae­dr đưa nó ra khỏi cơ thể và tặng cho Er­agon và Saphi­ra.

Er­agon luôn thích ngắm nhìn cảnh tượng đó; cậu có thể ngồi hàng ngày để ngắm nhìn những hình dạng luôn thay đổi bên trong đó.

Có lẽ chúng ta nên thử lại, Saphi­ra nói và nó đồng ý.

Họ cùng nhau phóng tư tưởng tới những ánh sáng ở đằng xa, vào trong biển sao đại diện cho tâm tưởng Glae­dr. Họ đi qua sự lạnh lẽo và bóng tối, qua sự ấm áp và tuyệt vọng mênh mông vĩ đại, khiến họ muốn dừng lại và than khóc.

Glae­dr…El­da, họ gọi đi gọi lại, nhưng không có tiếng trả lời, không có một sự thay đổi nào hết.

Cuối cùng họ thu hồi tư tưởng vì không thể chịu nổi nỗi đau khổ của Glae­dr lâu hơn nữa.

Khi bừng tỉnh, Er­agon nhận thức thấy có ai đó gõ lên tấm bạt lều, và nó nghe thấy giọng Arya, “Er­agon, tôi vào được không?”

Nó khịt mũi và chớp mắt. “Tất nhiên là được.”

Bầu trời đêm tỏa ra ánh sáng xám lên nó khi Arya đẩy bạt lều bước vào. Nó chợt thấy buốt nhói khi gặp ánh mắt nàng – xanh, thông thái và khó dò – và nó cảm nhận thấy nỗi đau của sự thèm khát dâng tràn.

“Có gì thay đổi không?” nàng hỏi và quỳ xuống bên cạnh nó. GIờ nàng không còn mặc áo giáp mà khoác trên mình một bộ đồ da đen và một đôi bốt bó sát như khi nó cứu sống cô ở Gil’ead. Máu tóc nàng ẩm ướt vì mới gội và chảy dài trên lưng nàng. Quanh nàng tỏa ra mùi gỗ thông khiến Er­agon băn khoăn có phải nàng dùng phép thuật để tạo ra mùi hương hay đó là mùi hương tự nhiên của cơ thể. Nó muốn hỏi nhưng lại không dám.

Er­agon lắc đầu trả lời câu hỏi của nàng.

“Để tôi thử được không?” nàng chỉ vào trái tim của Glae­dr.

Nó lùi sang một bên. “Xin mời.”

Arya đặt hai tay lên El­dunarí và nhắm mắt. Trong khi nàng ngồi, nó nhân cơ hội ngắm nhìn nàng với vẻ cởi mở trái ngược hẳn với vẻ khép kín thường ngày. Đối với nó, nàng dường như là biểu tượng của sắc đẹp, dù có người nói mũi nàng quá dài, khuôn mặt quá góc cạnh hay tai quá nhọn hoặc tay quá cơ bắp.

Arya hít một hơi thật sâu và rút tay khỏi trái tim rồng, như thể nó thiêu cháy nàng. Sau đó nàng cúi đầu và Er­agon thấy cằm nàng đang run lên. “Ông ấy là sinh vật bất hạnh nhất tôi từng gặp… tôi nghĩ chúng ta có thể giúp ông ấy. Tôi không nghĩ ông ấy có thể tự thoát khỏi bóng tối của chính mình.”

“Nàng có nghĩ…” Er­agon chần chừ, không muốn giọng nói tố cáo sự nghi ngờ của bản thân và tiếp tục: “Nàng có nghĩ ông ấy bị điên không?”

“Có thể ông ấy đã điên rồi. Nếu không, ông ấy cũng đang lúc điên lúc tỉnh.”

Er­agon thấy buồn khi chăm chú nhìn vào tảng đá vàng.

Tới khi nó có thể mở lời, nó hỏi, “thanh Dau­th­daert đâu rồi?”

“Tôi giấu nó trong lều như chàng giấu El­dunarí của Glae­dr vậy. Tôi có thể mang nó sang đây nếu chàng muốn, hoặc tiếp tục canh giữ nó cho tới khi chàng cần.”

“Giữ nó đi. Tôi không thể mang nó bên mình, nếu không Gal­ba­torix sẽ biết tới sự tồn tại của nó. Ngoài ra giấu quá nhiều kho báu ở một chỗ là không khôn ngoan.”

Nàng gật đầu.

Nỗi đau bên trong Er­agon càng lớn. “Arya, tôi…” Nó ngừng lại khi Saphi­ra nhìn thấy anh thợ rèn con trai của Horst – Al­briech, nó đoán thế vì thực sự khó phân biết anh ta với người anh Bal­dor, do tầm nhìn méo mó của Saphi­ra – đang chạy về phía lều. Việc này khiến Er­agon nhẹ nhõm, vì nó không biết nó định nói gì nữa.

“Có người tới,” nó tuyên bố và đóng chiếc hộp lại.

Tiếng bước chân lớn và lẹp nhẹp ở bên ngoài. Sau đó Al­briech, đúng là Al­briech hét lên, “Er­agon! Er­agon!”

“Cái gì!”

“Mẹ tôi sắp sinh em bé! Bố tôi nhờ tôi tới nói và nhờ anh tới đó, đề phòng có chuyện gì xảy ra và khả năng phép thuật của anh có thể giúp. Làm ơn, nếu anh đi được…”

Dù cậu ta nói cái gì thì Er­agon cũng không nghe thấy vì nó đang vỗi vã khóa và chôn chiếm hộp. Sau đó nó khoác áo choàng lên vai và lần mò cài khuy thì Arya chạm vào tay nó và nói, “Tôi đi cùng được không. Tôi có kinh nghiệm trong chuyện này. Nếu người của chàng đồng ý, tôi sẽ giúp chuyện sinh nở dễ dàng hơn.”

Er­agon không thèm cân nhắc. Cậu chỉ về phía cửa lều và nói. “Nàng đi trước đi.”

7.THẾ NÀO MỚI LÀ ĐÀN ÔNG?

Bùn đất dính lên đôi ủng của Ro­ran mỗi lần anh nâng chân, khiến anh đi chậm lại và khiến đôi chân vốn đã rệu rã của anh càng thêm mệt mỏi. Anh cảm giác như đất đang cố kéo tuột giày của anh. Bùn vừa dầy vừa trơn. Bùn làm gót giày anh lún sâu xuống, khiến anh đi lại khó khăn. Lớp bùn còn khá sâu nữa. Dòng người, súc vật và động vật đi lại thường cuyên đã biến một lớp đất dày mười lăm phân thành một bãi lầy khó qua lại. Một vài cụm cỏ vẫn mọc được ven đoạn đường xấu – dẫn thẳng tới khu lều bạt của quân Var­den – nhưng Ro­ran nghĩ cỏ cũng sẽ chẳng còn vì họ luôn có tránh đi vào chính giữa đường mòn.

Ro­ran không thèm tránh giẫm phân nữa, anh còn không thèm quan tâm xem liệu quần áo anh còn sạch không. Hơn nữa, anh đã quá kiệt sức, tốt nhất là cứ thẳng đường mà tiến hơn là vượt quá đống cỏ dại ở hai bên.

Khi Ro­ran nghiêng ngả tiến về phía trước, anh nghĩ tới Be­la­tona. Từ sau cuộc thỏa hiệp giữa Na­sua­da và ma mèo, anh đã nắm vị trí chỉ huy khu phía tây bắc thành phố và làm những điều tốt nhất để lập sự kiểm soát bằng cách phía quân lính đi dập lửa, lập rào chắn trên đường, tìm nhà ở cho binh sĩ và tịch thu vũ khí. Đó là một nhiệm vụ nặng nề và anh làm hết sức có thể vì anh sợ thành phố có thể sẽ sinh ra một trận chiến mới. Mình hy vọng những tên ngu kia sẽ không giết chóc gì trong hết đêm.

Cả nửa người trái của anh đau đớn, khiến anh phải mở miệng hít thở.

Tên hèn nhát trời đánh.

Một tên nào đó đã bắn tên vào anh từ một mái nhà. Đúng là anh đã gặp may; một trong những binh sĩ của anh, Morten­son, đã bước lên trước anh đúng giây phút tên kia bắn tên. Mũi tên xuyên từ lưng qua bụng Morten­son và vẫn còn đủ lực để gây cho Ro­ran một vết bầm lớn. Morten­son chết tại chỗ và dù ai bắn tên thì hắn cũng đã trốn thoát.

Năm phút sau, phép thuật đã giết chết hai người lính nữa khi họ bước vào chuồng ngựa kiểm tra xem tiếng ồn phát ra từ đâu.

Theo như những gì Ro­ran biết, những vụ tấn công như vậy xảy ra khắp thành phố. Không nghi ngờ gì nữa, những kẻ nằm vùng của Gal­ba­torix đã theo dấu rất nhiều người trong số họ, nhưng dân cư của Be­la­tona cũng phải chịu trách nhiệm – đàn ông và phụ nữ đã không chịu đứng im khi quân đội kiểm soát quê nhà và không thèm quan tâm tới sứ mạng cao cả của quân Var­den. Ro­ran đồng cảm với những người cảm thấy họ có trách nhiệm với gia đinh nhưng đồng thời anh cũng nguyền rủa họ vì quá cứng đầu không chịu nhân ra quân Var­den đang giúp họ, chứ không phải làm tổn thương họ.

Anh gãi gãi cằm khi đợi một người lùn đẩy một con ngựa chất đầy hàng hóa đi ra và sau đó tiếp tục bước thấp bước cao đi .

Khi về tới gần lều, anh nhìn thấy Ka­tri­an đang đứng cạnh một chậu nước nóng, đầy xà phòng, giặt giũ những chiếc băng gạc dính đầy máu khô. Cô xắn tay áo tới tận khuỷu tay, tóc búi rối ra su và má đỏ hồng lên vì làm nặng, nhưng đối với anh chưa bao giờ cô đẹp như thế. Cô là niềm an ủi của anh – niềm an ủi và nơi trú ẩn của anh – và chỉ cần nhìn thấy cô là anh đã thấy tan đi bao nhiêu đớn đau mệt nhọc.

Cô để ý thấy anh và ngay lập tức bỏ việc giặt giũ lại và chạy về phía anh, lau đôi mắt hồng lên của cô vào váy. Ro­ran vòng tay ôm cô, cô ôm trọn lồng ngực anh. Nửa người anh đau buốt, và anh kêu lên một tiếng.

Ka­tri­na nới lòng vòng tay và nghiêng người ra sau, nhíu mày. “ÔI! Em làm anh đau à?”

“Không… không. Anh hơi buốt thôi.”

Cô không hỏi gì và lại ôm anh, nhẹ nhàng hơn và nhìn anh với đôi mắt đẫm nước. Anh ôm eo cô, cúi xuống hôn cô, cám ơn chúa trời vì sự hiện diện của cô.

Ka­tri­na đặt tay trái của anh lên vai cô, và anh để cô giúp mình đi về lều. Ro­ran thở dài, ngồi xuống gốc cây họ dùng làm ghế, bên cạnh đó Ka­tri­na đốt một đống lửa nhỏ để đun nước và nấu súp.

Ka­tri­na đưa cho anh một bát súp. Sau đó cô vào trong lều mang ra cho anh một vại bia và một nửa ổ bánh mỳ cùng một góc pho mát. “Anh còn cần thềm gì không?” cô hỏi, giọng khàn không bình thường.

Ro­ran không trả lời mà ôm lấy má cô và xoa xoa. Cô cười và đặt tay lên tay anh, sau đó quay lại giặt đồ.

Ro­ran nhìn đồ ăn một lúc lâu rồi mới ăn: anh vẫn còn quá căng thẳng và anh nghĩ ạnh chưa thể tiêu hóa nổi. Sau khi nhai đầy một mồm bánh mỳ, vị giác của anh cũng quay trở lạ, anh bắt đầu vui vẻ húp bát súp.

Sau khi anh xong, anh đặt đống bát đĩa xuống đất và ngồi sưởi tay trên ngọn lửa trong khi uống vài hớp bia.

“Bọn em nghe thấy tiếng đổ vỡ khi cánh cổng rời ra,” Ka­tri­na vừa vắt quần áo vừa nói. “Họ không trụ được lâu nhỉ.”

“Không.. Bên chúng ta có một con rồng giúp sức mà.”

Ro­ran nhìn bụng cô khi cô ném đống băng gạc sang đống quần áo đã giặt xong . Mỗi lần anh nghĩ tới con, đứa bé hai người sẽ sinh ra, anh lại cảm thấy tự hào vô cùng nhưng xen lẫn chút lo lắng vì anh không biết có thể cho nó một mái ấm an toàn không. Hơn nữa, nếu trận chiến còn kéo dài, có lẽ cô sẽ phải rời xa anh và tới Sur­da để an toàn nuôi con.

Mình không thể mất cô ấy, không một lần nào nữa.

Ka­tri­na lại nhúng một tấm vải gạc khác vào thau nước. “Còn trận chiến trong thành phố thế nào?” cô hỏi. “Diễn ra thế nào?”

“Bọn anh phải tranh giành từng mét đất. Ngay cả Er­agon cũng phải trầy trật lắm.”

“Những bệnh binh nói chúng có máy bắn đá.”

“Ừ. Ro­ran nhấp một ngụm bia sau đó tả ngắn gọn về cách quân Var­den tiến quân trong lòng thành phố và những trướng ngại họ gặp phải. “Hôm nay bọn anh mất nhiều người lắm, nhưng mọi chuyện đáng lẽ có thể tệ hơn. Tệ hơn rất nhiều. Jör­mundur và tướng Mart­land đã vạch kế hoạch tác chiến rất tốt.”

“Kế hoạch của họ không thành công nếu như không có anh và Er­agon. Hai người rất dũng cảm.”

Ro­ran cười khan một tiếng. “Ha! Và em biết vì sao không? Anh sẽ nói cho em nghe. Không ai trong mười người đàn ông thực sự muốn tấn công quân thù. Er­agon không thấy điều đó; thằng bé luôn luôn ở đầu chiến tuyến, kéo những binh sĩ theo cậu ta xông lên. Nhưng anh lại thấy. Hầu hết những binh sĩ đều đứng xa ra và không chiến đấu trừ khi kẻ thù động tới mình. Hoặc không họ chỉ vẫy tay và hò hét nhựng lại thực sự không làm gì.”

Ka­tri­na có vẻ xanh xao. “Sao lại thế? Họ hèn thế?”

“Anh không biết nữa. Anh nghĩ, anh nghĩ có thể họ không thể nhìn vào mặt một người rồi giết người đó, đối với họ, việc giết một tên lính quay lưng với họ dễ hơn rất nhiều. Vì thế họ đợi những người khác làm việc họ không thể làm nổi. Họ đợi những người như bọn anh.”

“Anh có nghĩ binh sĩ của Gal­ba­torix cũng có cùng suy nghĩ không?”

Ro­ran nhún vai. “Có thể có. Nhưng sau đó, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài phục tùng Gal­ba­torix. Nếu lão ra lệnh cho họ chiến đấu, họ sẽ chiến đấu.”

“Na­sua­da cũng có thể làm thế. Tiểu thư có thể dùng phép thuật để buộc họ không đào ngũ.”

“Vậy cô ta và Gal­ba­torix khác gì nhau? Trong bất kỳ trường hợp nào, quân Var­den cũng không chấp nhận chuyện đó.”

Ka­tri­na dừng giặt quần áo và hôn lên trán anh. “Em mừng vì anh có thể làm điều anh đã làm,” cô thì thầm. Cô quay lại giặt đồ. “Hồi chiều em có cảm giác gì đó, do chiếc nhẫn… em nghĩ có thể anh có chuyện.”

“Anh đang trong chiến trận. Anh không ngạc nhiên nếu như em cảm thấy bứt rứt từng phút.

Cô dừng lại vẫn đặt tay trong chậu nước. “Trước kia em chưa bao giờ có cảm giác đó.”

Anh uống cạn vại bia và tìm cách thoái thác. Anh đã từng mong kể cho cô từng chi tiết chuyến phiêu lưu của anh trong lâu đài, nhưng chẳng có ý nghĩa gì nếu như vì chuyện này mà cô không nghỉ ngơi nổi. Nhưng nếu anh thuyết phục cô rằng không có chuyện gì chỉ khiến cô nghĩ ngợi ra những chuyện kinh khủng hơn. Hơn nữa, anh cũng thừa biết sớm muộn những tin tức cũng lan truyền trong toàn quân Var­den thôi.

Nghĩ đoan anh kể với cô. Anh kể ngắn gọn và cố biến vụ sụp tường thành một trở ngại nho nhỏ hơn là một vụ tai nạn suýt giết chết anh. Nhưng anh vẫn thấy khó mà miêu tả nên nói nhát gừng, để tìm từ diễn đạt cho đúng. Khi anh nói xong, anh im lặng vì chìm trong ký ức.

“Ít ra anh cũng không bị thương,” Ka­tri­na nói.

“Không.”

“Trước đây anh đã từng đối diện với nhiều chuyện hiểm nguy hơn nhiều.”

“Ừ, anh đoán thế.”

Giọng cô nhỏ nhẹ. “Vậy thì làm sao nào?” Khi thấy anh không trả lời, cô nói. “Không có chuyện gì là anh không thể nói với em, Ro­ran. Anh biết mà.”

Anh cậy rìa móng tay ngón trỏ khi chạm vào cái cốc. “Anh nghĩ rằng anh sẽ chết khi bức tường sụp xuống.”

“Ai cũng sẽ nghĩ thế.”

“Đúng. Nhưng vấn đề là, anh không quan tâm tới.” Ro­ran đau khổ nhìn cô. “Em không hiểu sao? Anh đã buông tay. Khi anh nhận ra mình không thể thoát, anh đã chấp nhận nó như thể con cừu chấp nhận rơi vào tay gã đồ tể, và anh…” Ro­ran không thể nói tiếp, anh hạ cốc bia xuống và úp mặt vào tay. Cảm giác dâng lên cổ họng khiến anh không thở nổi. Sau đó anh cảm nhận những ngón tay Ka­tri­na đang đặt nhẹ trên vai anh. “Anh đã buông tay,” anh gầm lên, vừa tức giận vừa kinh tởm bản thân. “Anh đã ngừng chiến đấu… Vì em… Vì con chúng ta…” Anh gằn ra từng chữ.

“Suỵt,” cô lẩm bẩm.

“Trước đây anh chưa bao giờ từ bỏ. Chưa một lần… Kể cả khi tụi Ra’zac bắt em đi.”

“Em biết là anh không mà.”

“Cuộc chiến này phải kết thúc. Mọi chuyện không thể tiếp tục thế này… Anh không thể… Anh …” Anh ngửng đầu lên và sợ hãi khi thấy mắt cô đong đầy nước mắt. Anh đứng dậy, ôm cô vào lòng. “Anh xin lỗi,” anh thì thầm. “Anh xin lỗi. Anh xin lỗi. Anh xin lỗi… Anh sẽ không bao giờ nghĩ như thế nữa. Không bao giờ. Anh hứa đó.”

“Em không quan tâm tới chuyện đó,” cô nói, giọng ủ trên vai anh.

Câu trả lời của cô khiến anh kinh ngạc. “Em biết em yếu đuối nhưng những gì em nói phải có chút ý nghĩa gì với anh chứ.”

“Em không có ý đó!” cô kêu lên và lùi lại nhìn anh vẻ buộc tội. “Đôi lúc anh rất ngốc, Ro­ran ạ.”

Anh cười sáng lạng. “Anh biết.”

Cô vòng tay qua cổ anh. “Em không bao giờ nghĩ xấu về anh, dù cho anh đã cảm thấy thế nào khi bức tường sụp xuống. Chỉ cần anh còn sống… Anh không thể làm gì khi bức tường sụp, đúng không?”

Anh lắc đầu.

“Vậy thì anh không cần phải xấu hổ. Nếu anh có thể ngăn nó, hoặc nếu anh có thể chạy trốn nhưng anh không làm, như vậy mới khiến em không tôn trong anh. Nhưng anh đã làm mọi việc có thể, và khi anh không thể làm gì hơn, anh mới buông xuôi. Đó là khôn ngoan chứ không phải yếu đuối.”

Anh cúi xuống và hôn lên lông mày cô. “Cám ơn em.”

“Và theo như em biết, anh là người đàn ông tốt bụng nhất, dũng mãnh nhất và can đảm nhất Ala­gaësia.”

Lần nay anh hôn lên môi cô. Sau đó, cô cười lớn, và đứng đó xoay vòng, như thể đang khiêu vũ theo một điệu nhạc chỉ mình họ nghe thấy.

Sau cùng Ka­tri­na đùa đùa đẩy anh ra và tiếp tục giặt giũ, còn anh ngồi xuống gốc cây, cảm giác thư thái dù trên mình đầy những vết thâm đau.

Ro­ran quan sát người, ngựa và một vài người lùn hoặc Ur­gal đi qua lều họ, để ý những vết thương và vũ khí họ mang trên người. Anh cố đánh giá mọi người theo cách của Var­den; cuối cùng anh chỉ có thể kết luận rằng mọi người trừ Ur­gal đều cần ngủ ngon và ăn uống đầy đủ, và mọi người, kể cả Ur­gal – đặc biệt là Ur­gal – cần tắm rửa sạch sẽ từ đầu đến chân.

Anh ngắm nhìn Ka­tri­na và anh thấy được khi cô làm việc, sự vui sướng trên mặt cô nhạt dần đi và cô trở nên giận dữ hơn bao giờ hết. Cô cứ vò đi vò lại vài vết bẩn nhưng chẳng ăn thua gì. Cơn giận dữ khiến mặt cô đen lại, và cô bắt đầu cáu gắt quát nhỏ vài tiếng.

Cuối cùng, khi cô ném đống vải vào thùng giặt, làm bắn bọt xà phòng lên cao vài foot trong không khí, cúi người về phía thùng giặt, môi mím chặt, Ro­ran đứng dậy là đến bên cô.

“Để anh hộ,” anh nói.

“Thế không hay đâu,” cô lẩm bẩm.

“Vớ vẩn. Em ngồi xuống đi để anh làm cho. Đi đi.”

Cô lắc đầu. “Không. Anh mới cần nghỉ chứ không phải em. Hơn nữa đây không phải việc của đàn ông.”

Anh khịt mũi đùa cợt. “Ai phân ra thế? Việc của đàn ông hay đàn bà đều phải làm. GIờ em ngồi xuống đi; em sẽ cảm thấy khả hơn sau khi nghỉ ngơi.”

“Ro­ran, em vẫn ổn mà.”

“Đứng ngốc thế.” Anh nhẹ nhàng đẩy cô đi nhưng cô không chịu.

“Thế này không đúng,” cô cự nự. “Mọi người sẽ nghĩ sao đây?” Cô chỉ về phía những người đàn ông đang đi đi lại lại trên con đường bùn đất bên cạnh lều của họ.

“Họ nghĩ gì kệ họ. Anh cưới em chỉ có cưới họ đâu. Nếu họ nghĩ rằng giúp đỡ em khiến anh bớt nam tính, thì họ là đồ ngu.”

“Nhưng…”

“Không nhưng nhị gì hết. Đi đi. Xùy. Đi khỏi đây đi.”

“Nhưng…”

“Anh không thích nói nhiều. Nếu em không ngồi, anh sẽ bế em ra đằng kia và trói em vào gốc cây đó.”

Sự sửng sốt thay vào sự giận dữ trên gương mặt cô lúc trước. “Được chứ?”

“Được. Giờ em đi đi.” Khi cô lưỡng lự đi ra, anh khích cô. “Em cứng đầu quá nhỉ?”

“Anh ấy. Anh có thể dạy lừa biết làm một vài thứ đó.”

“Không, anh không cứng đầu.” Anh cởi áo giáp, treo lên nóc lều rồi cởi găng tay và sắn tay áo. Anh cảm thấy lành lạnh và đống vải băng gạc còn lạnh hơn – do đặt ngoài trời quá lâu – nhưng anh không quan tâm, vì nước còn ấm và vải cũng nhanh ấm thôi. Những bong bóng xà phòng dính trên cổ tay anh khi anh chà quần áo trên bàn giặt.

Anh liếc qua và vui lòng vì Ka­tri­na đã chịu ngồi nghỉ.

“Anh muốn uống trà hoa cúc không?” cô hỏi. “Gertrude cho em nhiều bông lắm. Em có thể pha cho chúng ta một ấm.”

“Được đó.”

Một sự im lặng dễ chịu giữa hai người họ diễn ra khi Ro­ran tiếp tục giặt đống quàn áo còn lại. Công việc này khiến anh thấy thoải mái: anh thích làm việc bằng tay hơn bằng búa, và được ở gần Ka­tri­na khiến anh cảm thấy hài lòng vô cùng.

An­hh đang giặt những quần áo vải vóc cuối cùng, còn ấm trà mới pha đang nằm kia chờ anh thì ai đó hô to tên họ từ phía bên kia con đường tấp nập. Mất một lúc Ro­ran mới nhận ra đó là Bal­dor đang chạy về phía họ, giữa dòng người và ngựa đi lại như mắc cửi. Cậu ta đẹo một chiếc tạp dề da thủng lỗ chỗ, một đôi găng tay da dài tới khuỷu tay dính đầy bồ hóng, dùng lâu tới mức phần da đầu ngón tay sáng bóng lên. Cậu ta dùng một sợi dây da rách túm gonj mái tóc đen, bóng dầu ra đằng sau và trên trán cậu ta hằn thêm nhiều nếp nhăn. Bal­dor nhỏ con hơn cha cậu, ông Horst, và anh trai cậu, Al­briech, nhưng về mặt khác, cậu ta đô con hơn, đó là kết quả của thời niên thiếu làm việc trong xưởng rèn cùng ông Horst. Cả ba cha con họ đều không tham gia trận chiến ngày hôm nay – những thờ rèn có tay nghề không nên để hy sinh vô ích – dù Ro­ran ước gì Na­sua­da cho phép họ, vì họ là những chiến binh có khả năng và Ro­ran biết anh có thể tin tưởng vào họ trong những hoàn cảnh đáng sợ nhất.

Ro­ran đặt đống quần áo đang giặt xuống và lau tay, phân vân không hiểu có chuyện gì. Ka­tri­na đứng dậy, tiến lại gần anh.

Khi Bal­dor tới nơi, họ phải đợi vào giây để cậu ta thở lại bình thường. Sau đó, cậu ta liến thoắng nói, “Đi nhanh nào. Mẹ em đang lâm bồn, và…”

“Dì ấy đâu?” Ka­tri­na sắc lạnh hỏi.

“Trong lều của nhà em.”

Cô gật đầu. “Vậy chúng ta đi nhanh thôi.”

Bal­dor biết ơn và quay người rảo bước đi.

Khi Ka­tri­na chui vào lều, Ro­ran dội chậu nước vào đống lửa. Những thanh củi đang cháy kêu xèo xèo và vỡ vụn, một cuộn khói bay lên từ đống lửa, khiến không khí tỏa ra mùi dễ chịu.

Ro­ran vừa thấy phấn khích vừa thấy sợ. Mình hy vọng cô ấy không sao, anh thầm nghĩ khi nhớ lại cuộc trò chuyện của mấy người phụ nữ với nhau về tuổi tác của dì và chuyện dì chửa hơn tháng. Elain luôn luôn đối tốt với anh và Er­agon, và anh cũng rất thích dì.

“Anh sẵn sàng chưa?” Ka­tri­na hỏi khi cô bước ra khỏi lều, quấn thêm một chiếc khăn quàng màu xanh quanh đầu và cổ.

Anh với lấy thắt lưng và búa. “Rồi. CHúng ta đi thôi.”

8.CÁI GIÁ CỦA QUYỀN LỰC

“Thôi nào tiểu thư. Tiểu thư không cần những thứ này nữa đâu. Vứt nó đi thôi.”

Cô hầu gái của Na­sua­da, Far­ica nhẹ nhàng tháo lớp vải lanh băng quanh cánh tay cô. Na­sua­da đã phải băng bó như thế từ hồi cô và thủ lĩnh Fadawar so độ dũng cảm trong Thách đấu Trường Đao.

Na­sua­da đứng nhìn chằm chằm vào tấm thảm dài rách tả tơi trong khi Far­ica chăm sóc cô. Sau đó cô cố gắng nhìn xuống. Từ khối chiến thắng trong Thách đấu Trường đao tới giờ, cô vẫn không dám nhìn những vết thương, lúc mới đầu trông chúng đã rất xấu xí nên cô không thể nhìn lại cho tới khi chúng sắp lành.

Những vết sẹo nằm rải rác trên cánh tay cô: sáu vết nằm ở dọc bụng cánh tay trái và ba vết khác ở tay phải. Mỗi vết sẹo dài khoảng 7 tới 10cm trừ vết cuối cùng ở bên tay phải. Lúc đó đầu óc cô đã không còn kiểm soát nổi và con dao trượt đi tạo nên vết sẹo dài gấp đôi những cái khác. Lớp da quanh vết sẹo ửng hồng và dúm lại trong khi vết sẹo chỉ hơi trắng hơn phần da còn lại của cô một chút. Cô đã sợ rằng trông chúng trắng bệch đập vào mắt người khác. Vết sẹo lồi lên khoảng 0,5cm, trông như thể có ai đó ấn một cái roi sắt nhỏ dưới làn da cô.

Tư tưởng của Na­sua­da mâu thuẫn khi quan sát chúng. Khi cô lớn, cha cô đã dạy cho cô những tập tục của dân tộc cô, nhưng cả cuộc đời cô lại sống cùng Var­den và những người lùn. Cô chỉ được đi xem những buổi lễ của dân du mục và hiếm lắm mới tham gia vào buổi cầu nguyện của họ. Cô chưa bao giờ Nhảy Trống giỏi và cũng chưa bao giờ tham gia buổi Cầu Hồn, hay – cái này là đặc biệt nhất – đánh bại ai trong Thách đấu trường Đao. Thế mà giờ đây khi cô vẫn còn trẻ đẹp lại mang trên mình chín vết sẹo lớn trên cánh tay. Cô có thể ra lệnh cho một trong những pháp sư của Var­den xóa mờ chúng nhưng sau đó có thể cô sẽ mất đi chiến thắng của mình ở Thách Đấu Trường Đao, và những bộ lạc du mục sẽ lại bảo cô chỉ là kẻ nô bộc của họ.

Trong khi cô tiếc nuối nhìn cánh tay không còn mềm mượt của mình và không bao giờ còn thu hút ánh nhìn của cánh nam giới nữa, cô cũng tự hào về những vết sẹo. Chúng là vật chứng cho sự dũng cảm và là bằng chứng hữu hình cho những gì cô cống hiến cho Var­den. Bất cứ ai đối diện với cô sẽ biết được con người cô và cô thấy điều đó còn quý giá hơn nhiều so với vẻ bề ngoài.

“Chàng nghĩ sao?” cô hỏi và giơ cánh tay về trước mặt Vua Or­rin đang đứng bên cửa sổ thư phòng ngắm nhìn thành phố.

Or­rin quay lại, nhíu mày, mắt tối lại bên dưới hàng lông mày rậm rạp. Lúc trước ông đã thay bộ giáp chiến đáu bằng bộ áo vải đỏ dày và áo choàng gắn lông chồn trắng.

“Trẫm thấy hài lòng khi nhìn thấy những vết sẹo,” ông nói và quay lại nhìn thành phố. “Băng lại đi. Để như thế không hợp với xã hội lịch sự.”

Na­sua­da quan sát cánh tay thêm một lúc. “Không, tôi không nghĩ thế.” Cô giật dải dây buộc ở cánh tay và đưa cho Far­ica. Cô bước qua tấm thảm của người lùn đặt ở giữa phòng tới gần Or­rin ngắm nhìn thành phố tan tác sau chiến tranh.Cô thấy hài lòng khi hai trong số các đám cháy ở phóa thành tây đã bị dập tắt. Sau đó cô quay sang nhìn nhà vua.

Chỉ trong một khoảng thời gi­an ngắn từ khi Var­den và Sur­dan bắt đầu chống lại đế chế, Or­rin đã già đi rất nhiều, vẻ nhiệt tình và tính cách kỳ cục vốn cố có ông đã biến mất dưới vẻ ngoài sắt đá. Lúc đầu, cô thích những thay đổi đó vì cô cảm thấy ông người lớn hơn, nhưng khi chiến tranh kéo faif, cô bắt đầu nhớ cách ông hào hứng thảo luận như thể một nhà hùng biện cũng như nhớ tính cách thất thường của ông. Cô nhớ ông đã từng làm cô thấy nhẹ nhõm dù cho lắm lúc cuộc sống với cô quá là nặng nề. Hơn nữa những thay đổi đã biến ông nguy hiểm hơn; nếu xét như tâm trạng hiện tai của ông, cô nghĩ ông đang có ý định tiếm quyền thủ lĩnh Var­den của cô.

Liệu mình có hạnh phúc khi lấy ngài? Cô phân vân. Or­rin không đẹp mã. Mũi ông quá cao và nhỏ nhưng hàm lại bạnh mà môi lại quá mỏng. Sau hàng năm trời luyện tập đã cho ông một thân hình cơ bắp. Trí tuệ của ông không ai có thể nghi ngờ và tính cách của ông cũng dễ chịu. Nhưng nếu như ông không phải vua của Sur­da và nếu như ông không quá đe dọa tới vị trí của cô và tới quyền tự chủ của Var­den, cô biết cô sẽ không bao giờ để mắt tới ông ta. Liệu ngài có thể làm một người cha tốt không?

Or­rin tì tay lên bậu cửa đá. Ông nói và không thèm nhìn cô. “Nàng phải chấm dứt thỏa thuận liên minh với Ur­gal.”

Câu nói của ông khiến cô lùi lại mấy bước. “Vì sao?”

“Vì chúng làm tổn thương chúng ta. Những người muốn làm đồng minh với chúng ta giờ lại quay sang nguyền rủa chúng ta vì liên minh với quỷ dữ và không chịu hạ vũ khí khi chúng ta tới quê hương họ. Đối với họ sự tại vị của Gal­ba­torix có vẻ công bằng và có lý vì chúng ta liên quân với Ur­gal. Những người bình thường sẽ không thể hiểu vì sao chúng ta chấp nhận chúng. Họ sẽ không biết rằng chính Gal­ba­torix đã lợi dụng Ur­gal hay Gal­ba­torix lừa Ur­gal tấn công Tron­jheim dưới sự chỉ huy của Tà thần. Nàng sẽ không thể giải thích những chuyện tế nhị như vậy cho những người nông dân đang sợ hãi. Tất cả những gì họ hiểu là những sinh vật họ sợ và thù ghét cả đời đang tiến tới quê hương họ, cùng với một con rồng và một kỵ sĩ giống tiên hơn là người.”

“Chúng ta cần sự giúp đỡ của Ur­gal,” Na­sua­da nói. “Chúng ta còn quá ít binh sĩ.”

“Chúng ta không cần chúng tới vậy. Nàng biết những gì trẫm đang nói là sự thật; thế còn vì lý do gì mà nàng không để Ur­gal tham chiến ở Be­la­tona? Vì sao nàng ra lệnh cho chúng không được đặt chân vào thành phố? Không cho chúng tham chiến là chưa đủ đâu Na­sua­da. Tiếng xấu về chúng đã đồn đải khắp nơi rồi. Điều duy nhất nàng có thể làm để cải thiện tình hình là chấm dứt sự phối hợp kinh tởm này trước khi nó gây cho chúng ta nhiều thiệt hại hơn.”

“Thiếp không thể.”

Or­rin quay lại nhin cô với vẻ tức giận. “Những binh sĩ đang chết dần vì nàng chấp nhận sự trợ giúp của Garzhvog. Những binh sĩ của ta, của nàng, những người dân của đế chế… chết và bị chôn. Vụ liên minh này không đáng để họ phải bỏ mạng. Còn trẫm, trẫm không thể hiểu vì sao nàng lại bảo vệ chúng.”

Cô không thể chịu nổi cái nhìn của ông ta, nó khiến cô nhớ tới cái cảm giác tội lỗi mỗi khi cô cố gắng ngủ. Cô quay mặt nhìn chăm chăm vào đám khói bốc từ ngọn tháp ở góc khuất của thành phố. Cô từ từ nói. “Thiếp bảo vệ họ vì thiếp hy vọng bảo trì sự liên minh giữa chúng ta và Ur­gal sẽ cứu sống nhiều người hơn cái giá chúng ta phải trả… Nếu chúng ta có thể đánh bại Gal­ba­torix…”

Or­rin lẩm rẩm tỏ ra không tin.

“Thiếp biết chúng ta không nắm chắc phần thắng,” cô nói. “Nhưng chúng ta phải vạch ra tất cả các khả năng. Nếu chúng ta đánh bại được lão ta thì chúng ta sẽ bước vào quá trình phục hồi nền văn minh từ đống tro tàn của Đế chế. Chúng ta phải chắc chắn chúng ta có được hòa bình sau cả trăm năm đấu tranh. Thiếp không thể nào hạ bệ Gal­ba­torix để rồi Ur­gal sẽ đánh bại chúng ta vào thời điểm chúng ta yếu nhất.”

“Lúc nào chúng cũng có thể làm thế. Chúng luôn là thế.”

“Vậy thì chúng ta có thể làm gì nữa?” cô giận giữ nói. “CHúng ta phải cố gắng thuần phục chúng. Chúng ta càng khiến chúng không biết được mục đích chúng ta liên minh với chúng là gì thì nguy cơ chúng quay lưng với chúng ta càng thấp.”

“Trẫm sẽ nói cho nàng biết phải làm gì,” ông ta hét lên. “Đuổi chúng đi. Chấm dứt hòa ước với Nar Garzhvog và đuổi chúng đi. Nếu chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến này, chúng ta có thể đưa ra bản hiệp định mới với chúng trong một tư cách cao hơn. Hoặc tốt hơn, cho Er­agon và Saphi­ra và một tiểu đoàn tiến vào dãy Spine giết sạch lũ Ur­gal như các Kỵ sĩ Rồng đã từng làm.”

Na­sua­da nhìn ông ta với vẻ khó tin. “Nếu thiếp chấm dứt hiệp ước với Ur­gal, có thể họ sẽ tức giận, họ sẽ ngay lập tức tấn công chúng ta, và chúng ta không thể cùng lúc đương đầu với chúng và quân đội triều đình. Chỉ có đồ ngu mới làm thế. Nếu như thần tiên, rồng và các Kỵ sĩ có thể chấp nhận sự tồn tại của Ur­gal – kể cả khi họ thừa sức tiêu diệt chúng – thì vì sao chúng ta không thể. Họ biết giết tất cả Ur­gal là sai, vậy thì chàng cũng phải thấy được điều đó.”

“Cứ theo gương họ đi. Họ bị sao rồi đó! Tốt thôi, cứ để một vài Ur­gal sống sót nhưng hay giết một lượng đủ để chúng không dám trả thù chúng ta trong một trăm năm nữa!”

Sự đau đớn hiện lên rõ ràng trong giọng nói của cô và trên mặt ông hiện rõ những gân xanh đỏ. Na­sua­da thấy choáng váng. Cô quan sát ông kỹ hơn để hiểu vì sao ông lại kích động tới vậy. Sau một lúc, cô đã hiểu.

“Chàng đã mất ai?” cô hỏi.

Or­rin nắm chặt bàn tay, rồi từ từ mở bàn tay tựa vào bậu cửa sổ như thể ông muốn dồn toàn bộ sức mạnh ra nhưng lại không dám. Ông đấm lên cửa sổ hai lần rồi nói. “Một người bạn thời niên thiếu cùng ta lớn lên ở lâu đài Bor­romeo. Ta không nghĩ nàng đã có dịp gặp cậu ta. Cậu ta là trung úy trong quân kỵ binh.”

“Sao anh ấy chết?”

“Đúng như nàng đoán đó. CHúng ta tới khu chuồng ngựa phía tây xem xét để sử dụng thì một người giữ ngựa chạy ra dùng cây xỉa đập vào anh ta. Khi chúng ta tóm được hắn, hắn cứ la hét về Ur­gal và rằng hắn không bao giờ đầu hàng… Nếu hắn không làm thì cũng có kẻ khác làm. Sau đó ta tự mình giết chết hắn.”

“Thiếp rất tiếc,” Na­sua­da nói.

Những viên đá gắn trên vương miện của Or­rin lấp lánh khi ông gật đầu vẻ thấu hiểu.

“Dù chàng có đau thương thế nào cũng không thể để nó tác động tới quyết định của chàng… Em biết nó không hề dễ dàng – nhưng chàng phải mạnh mẽ hơn con người thật của mình, vì lợi ích của con dân của chàng.”

“Phải mạnh mẽ hơn à,” ông nói bằng giọng chua chát và chế nhạo.

“Đúng. Chúng ta phải mạnh mẽ hơn những người khác, chúng ta phải chứng tỏ chúng ta có thể đứng ra chịu trách nhiệm… Ur­gal giết cha thiếp, chàng có nhớ không, nhưng chuyện đó không ngăn thiếp quyết định liên quân cùng Ur­gal để giúp Var­den. Thiếp sẽ không để bất cứ chuyện gì khiến thiếp từ bỏ cái gì thiếp cho là tốt cho quân đội của chúng ta và cho cục diện chung, dù chúng ta sẽ phải trải qua đau đớn thế nào.” Cô giơ tay cho ông ta xem những vết sẹo.

“Vậy đây là câu trả lời của nàng? Nàng sẽ không phá vỡ hiệp ước với Ur­gal?”

“Không.”

Or­rin quá bình thản chấp nhận khiến Na­sua­da không yên tâm. Sau đó ông đặt cả hai tay lên bậu cửa sổ rồi quay người bỏ vào thư phòng. Trên tay ông đeo bốn chiếc nhẫn lớn; một trong số đó có khắc quốc huy Sur­da lên mặt đá thạch anh: hình một con hươu sừng tấm chân quấn tầm gửi đứng trên một chiếc đàn hạc, đối diện là một ngọn tháp cao sừng sững.

“Ít nhất,” Na­sua­da nói. “Chúng ta không phải đụng độ những binh sĩ không biết đau.”

“Những thây ma biết cười ấy hả,” Or­rin lầm bẩm, sử dụng cụm từ mà cô biết đã phổ biến trong quân Var­den. “Đúng, và may là không có Murtagh lẫn Thorn, nếu không thì phiền lắm.”

Cả hai người không nói gì trong một lúc. Sau cùng cô cất tiếng, “Thí nghiệm tối qua thế nào? Thành công không?”

“Ta mệt quá nên đi ngủ.”

“Ờ.”

Sau đó cả hai cùng ngầm đồng ý đi về bàn làm việc đặt ở cạnh một bức tường. Trên bàn là hàng núi công văn, giấy tờ, báo cáo. Thế mà chỉ cách đây nửa tiếng, trên bàn làm gì có gì đâu.

Cô tập trung vào bản báo cáo quan trọng nhất, ước tính số lượng tù nhân quân Var­den bắt giữ sau trận chiến ở Be­la­tona, những tên quan trong đã được đánh dấu bằng mực đỏ. Cô và Or­rin đang bàn về những con số thì Fer­ica bước vào tháo gạc cho cô.

“Thiếp không nghĩ mình có thể thoát được khỏi đống rắc rối này,” cô thừa nhận.

“Chúng ta có thể tuyển quân hộ thành từ những người này. Như vậy chúng ta không phải bỏ lại quá nhiều chiến binh.”

Cô cầm bản báo cáo lên. “Có thể, nhưng những người chúng ta cần lại hiếm mà thầy phép của chúng ta đang làm việc quá tải rồi…”

Khi thấy cô trả lời tiêu cực, nhà vua hỏi lại. “Vậy Du Vran­gr Ga­ta đã tìm ra cách phá bỏ lời thề bằng ngôn ngữ cổ chưa? Đã có chút tiến triển nào chưa?”

“Chưa. Thiếp đã hỏi ý kiến thần tiên nhưng họ cũng không hơn chúng ta.”

“Nếu chúng ta không giải quyết được vấn đề này, chúng ta sẽ thua trận,” Or­rin nói. “Đây chính là vấn đề mấu chốt.”

Cô day day thái dương. “Thiếp biết.” Trước khi để lại người lùn bảo vệ Far­then Dȗr và Tron­jheim, cô đã thử tính tới những thách thức quân Var­den phải đối mặt khi ở thế phòng thủ. Nhưng vấn đề họ đang vấp phải lúc này lại khiến cô quá ngạc nhiên.

Mọi người đã thấy được rắc rối đó lần đầu tiên sau Trận chiến trên Đồng bằng cháy. Rõ ràng là những binh sĩ của Gal­ba­torix đã phải thề trung thành với lão và đế chế bằng ngôn ngữ cổ. Cô và Or­rin không thể tin tưởng họ, ít nhất là tới khi tiêu diệt đế chế và Gal­ba­torix hoặc có thể là không bao giờ. Vì vậy họ không thể để tàn quân gia nhập quân đội Var­den vì sợ lời thề sẽ khiến họ hành động khác thường.

Na­sua­da không quan tâm nhiều tới vấn đề này cho tới thời điểm hiện tại. Có chiến tranh tất có tù nhân và cô đã thỏa hiệp với Vua Or­rin rằng sẽ đưa tù binh về Sur­da, đưa họ tới công trường xây dựng đường xá, đập đá, kè mương và làm những công việc nặng nhọc khác.

Nhưng tới khi Var­den tiếp quản Fe­in­ster cô mới thấy hết được mức nghiêm trọng của vấn đề. Gal­ba­torix không chỉ buộc binh lính, mà cả quý tộc và tùy tùng, thậm chí vài người dân thề trung thành với lão – một con số quá lớn khiến Var­den không thể xác định nổi. Nhưng những ai họ xác định được, họ gi­am vào ngục thất, ít nhất là tới khi tìm cách phá giải lời thề. Sau đó việc tìm những người họ có thể tin tưởng và những người họ muốn đầu quân cho Var­den còn khó hơn rất nhiều.

Để canh chừng những người đó, Na­sua­da phải để lại Fe­in­ster gấp đôi số lượng quan sĩ cô dự liệu lúc đầu. Và, vì có nhiều tù nhân nên số lượng lương thực cung cấp tới các thành phố lại tăng lên. Họ không thể duy trì tình thế này lâu hơn, và giờ mọi chuyện đang chuyển biến xấu khi họ đã có Be­la­tona.

“Tiếc là người lùn không tới,” Or­rin nói. “Chúng ta có thể tranh thủ sự giúp đỡ của họ.”

Na­sua­da đồng tình. Tại thời điểm này trong quân Var­den chỉ có vài trăm người lùn; phần còn lại đã về Far­then Dȗr chôn cất tiên hoàng Hroth­gar và để đợi các tộc trưởng chọn ra người kế nhiệm Hroth­gar. Cô đã nguyền rủa việc này không biết bao nhiêu lần. Cô đã thuyết phục người lùn hãy chon ra quan nhiếp chính cho thời gi­an này, nhưng họ cứng đầu như đá và cứ khăng khăng làm theo nghi lễ đã có từ ngàn đời của mình, dù việc đó đồng nghĩa với việc bỏ rơi Var­den. May là, cuối cùng họ đã chọn ra nhà vua mới – cháu họ của Hroth­gar, Orik và hiện giờ đang đi từ rặng núi Be­or xa xôi tới tiếp viện cho Var­den. Tại thời điểm này, họ đã qua vùng đồng bằng rộng lớn ở bắc Sur­da, ở khu vực giữa hồ Tu­dosten và sông Ji­et.

Na­sua­da không biết họ có thể tham chiến ngay khi tới không. Những người lùn dai sức hơn con người nhưng gì thì gì họ cũng đã đi bộ hành quân suốt hai tháng ròng, thế cũng đủ làm rệu rã những con người khỏe nhất. Chắc họ chán lắm khi cứ phải nhìn đi nhìn lại những cảnh giống nhau, cô nghĩ bụng.

“Chúng ta đã có quá nhiều tù binh rồi. Và một khi chúng ta chiếm được Dras Leona…” cô lắc đầu.

Đột nhiên biểu hiện trên khuôn mặt Or­rin sáng lạng hẳn: “Nếu chúng ta bỏ qua Dras – Leona thì sao?” Ông lật tung đống giấy tờ cho tới khi tìm thấy tấm bản đồ Ala­gaësia do người lùn vẽ, mà ông đã cho sao làm nhiều bản. Trên bản đồ những ụ đất nhấp nhô khiến địa thế của vùng đất không bình thường: những đỉnh núi nằm ở phía tây Du Welden­var­den. Đồng bàng trũng nơi có dãy núi Be­or; những khe núi và hẻm núi chạy dọc Sa mạc Hadarac; và hệ thống núi Sphine xếp như dẻ quạt ở phần chính bắc. “Nhìn đi.” Ông dùng ngón giữa chỉ theo đường nối giữa Be­la­tona tới thủ phủ của Đế chế, thành phố Urȗ’baen. “Nếu chúng ta hành quân thẳng tới đây, chúng ta sẽ không phải đi qua Dras – Leona. Đi xa như thế rất có khăn nhưng chúng ta có làm được.”

Na­sua­da không cần phải cân nhắc về gợi ý này; cô đã nghĩ tới khả năng này rồi. “Nguy hiểm rất lớn. Gal­ba­torix có thể vừa tấn công chúng ta bằng cánh quân ở Dras – Leona – với một số lượng không nhỏ, nếu như tình báo của chúng ta đáng tin – và như vậy chúng ta sẽ bị tấn công từ hai hướng. Cách đó là cách thua trận nhanh nhất. Không, chúng ta phải chiếm được Dras – Leona.”

Or­rin thừa nhận cùng một cái gật đầu khe khẽ. “Vậy thì chúng ta cần quân sĩ từ Aroughs quay lại. Chúng ta cần huy động tổng lực nếu chúng ta muốn tiếp tục cuộc chiến.”

“Thiếp biết. Thiếp định kết thúc cuộc chiến ở đó trong tuần này.”

“Ta hy vọng không phải bằng cách cho Er­agon tới đó.”

“Không, thiếp có kế hoạch khác.”

“Tốt. Và nhanh lên nhé. Vậy chúng ta làm gì với tù nhân đây?”

“Như chúng ta đã làm trước đây: canh giữ, đề phòng, cùm xích. Có thể chúng ta cần dùng phép thuật để hạn chế cử động của họ, như vậy chúng ta có thể trông chừng chúng kỹ lưỡng hơn. Ngoài ra, thiếp không nghĩ ra giải pháp khác, trừ việc giết hết họ. Thiếp thà…” Cô cố tưởng tượng ra viễn cảnh cô không hạ bệ được Gal­ba­torix. “Thiếp thà không dùng… biện pháp kinh khủng này.”

“Ừ.” Or­rin nói và quan sát vết mực đã mờ đánh dấu tam giác Be­la­tona, Dras- Leona và Urȗ’baen.

Ông vẫn cứ nhìn thế cho tới khi na­sua­da nói, “Chúng ta còn cần làm gì không? Jör­mundur đang đợi lệnh còn Hội Đồng Trưởng lão muốn gặp thiếp.”

“Ta thấy lo.”

“Vì chuyện gì?”

Or­rin đặt tay lên tấm bản đồ. “Kế hoach này từ đầu đã khó khăn rồi… Lực lương của chúng ta, quân đồng minh đang tản mát quá nhiều, và nếu Gal­ba­torix nghĩ tới việc tham chiến, lão có thể tự mình giết chết chúng ta dễ như Saphi­ra chén một bầy dê vậy. Toàn bộ kế hoạch của chúng ta phải phụ thuộc vào khi nào Gal­ba­torix sẽ đối đầu với Er­agon và Saphi­ra cũng như chúng ta sẽ chiêu gọi được bao nhiêu thầy phép. Giờ số lượng thầy phép của chúng ta quá ít và chúng ta sẽ không thể triệu tập những người còn lại cho tới khi tới Urȗ’baen và hợp quân cùng Nữ hoàng Is­landzandí và quân đội của bà ta. Tới lúc đó, quân chúng ta vẫn còn yếu. Chúng ta chỉ mong sao Gal­ba­torix vẫn cứng đầu không chịu tham chiến cho tới khi chúng ta răng bẫy quanh hắn.”

Na­sua­da cũng nghĩ như vậy. Nhưng hiện giừ cô cần nâng cao sự tự tin của Or­rin hơn là khiến ông suy nghĩ càng tiêu cực, vì nếu sự quyết tâm của ông yếu đi, nhiệm vụ và ảnh hưởng tới quyết tâm của nhà vua cũng như làm nản lòng binh lính. “Chúng ta không phải hoàn toàn không có sức phòng vệ,” cô nói. “Không còn như thế. Chúng ta đã có thanh Dau­th­daert, và với nó thiếp nghĩ chúng ta có thể giết chết Gal­ba­torix và Shruikan khi bọn họ xuất hiện ở Urȗ’baen.”

“Có lẽ.”

“Ngoài ra, lo lắng chẳng ích gì. Chúng ta không thể khiến người lùn đi nhanh hơn, hay khiến tốc độ hành quân tới Urȗ’baen của chúng ta nhanh hơn hay quay đuôi bỏ chạy. Vì thế tốt hơn chàng đừng lo lắng thái quá. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là bình thản chấp nhận số phận cho dù chuyện gì sắp đến. Thiếp không để những suy nghĩ về hành động của Gal­ba­torix làm ảnh hưởng tới chúng ta. Thiếp không cho mình vì hắn mà yếu đuối.”

9.

VƯỢT CẠN

Tiếng hét vang lên: cao, the thé và chói tai hầu như không hề giống của con người.

Er­agon căng thăng như ai đó dùng kim đâm vào nó. Nó đã giành cả ngày để chứng kiến mọi người chiến đấu và tử trận – chính nó cũng giết vô khối kẻ địch – nhưng nó không thể chịu nổi khi nghe thấy tiếng thét thống khổ của dì Elain. Những âm thanh đó quá kinh khủng khiến nó phân vân liệu dì vượt cạn nổi không.

Bên cạnh nó, Abriech và Bal­dor ngồi phệt xuống và dựt cỏ. Những ngón tay to bè của họ xé những lá cỏ tan tành trước khi bứt cây cỏ tiếp theo. Mồ hôi rịn ra trên trán họ và mắt họ mở to với vẻ tức giận và tuyệt vọng. Thi thoảng họ nhìn nhau hoặc nhìn vào trong lều, nhưng hầu hết thời gi­an họ cắm mặt xuống đất và không để ý tới mọi chuyện xung quanh.

Cách đó vài mét, Ro­ran đang ngồi trên một cái thùng. Ở bên góc con đường lầy lội là một toán người dân Car­va­hall đang tụ tập, hầu hết là bạn của chú Horst và những cậu con trai cùng vợ của họ tới giúp bà Gertrude đỡ đẻ cho dì Elain. Saphi­ra đứng sau họ. Cổ của cô nàng cong xuống như một chiếc cung, đuôi nó vẫy qua vẫy lại như thể đi săn, và nó cứ hết thò thụt cái lưới đỏ như đá ru­by ra khỏi miệng, nếm lấy vị không khí có thể báo cho nó biết vài thông tin về Elain và đứa nhỏ sắp sinh.

Er­agon xoa xoa bắp tay trái bị đau. Họ đã chờ đợi hàng giờ và cũng đã chạng vạng tối. Bóng tối phủ lên mọi cảnh vật, tiến về phía đông như thể muốn tiến tới đường chân trời. Trời trở lạnh và muỗi cùng những con chuồn chuồn kim từ sông Ji­et bay vo ve xung quanh họ.

Một tiếng gào nữa phá tan sự im lặng.

Những người đàn ông thì thầm với vẻ lo lắng, rồi ra dấu không tốt và thì thầm nhỏ chỉ để người gần họ nhất có thể nghe thấy nhưng Er­agon lại nghe rất rõ. Họ thì thầm về ca đẻ khó của dì Elain; một vài người còn nói nếu dì không sớm sinh em bé thì sẽ khó cứu được mẹ lẫn con. Một số người khác lại nói “Kể cả lúc sung sướng mất vợ đã khổ chứ đừng nói là trong hoàn cảnh này” hoặc “Tiếc thay, tiếc thay…” Vài người đổ chuyện của Elain cho lũ Ra’zac hoặc những chuyện dân làng đã gặp phải trong hành trình tới với quân Var­den. Thậm chí có người còn bảo họ không tin Arya biết đỡ đẻ.” “Cô ta là tiên chứ đâu phải người,” bác thợ mộc Fisk nói. “Cô ấy nên sống cùng những người như cô ấy chứ không phải tới những nơi không chào mừng cô ta. Ai mà biết được co ta thực sự muốn gì?”

Er­agon nghe thấy tất cả và còn nhiều điều khác nhưng nó vẫn giấu cảm xúc và vẫn giữ vẻ mặt bình thản, vì cậu biết dân làng sẽ không vui khi biết cậu nghe tốt thế nào.

Chiếc thùng gỗ dưới Ro­ran kêu cọt kẹt khi anh ngoài người về phía trước. “Mọi người có nghĩ chúng ta nên…”

“Không,” Al­briech nói.

Er­agon cuốn chặt áo choàng vào người hơn. Cơn ớn lạnh đã lan vào tận xương. Nhưng cậu sẽ không đi cho tới khi nào dì Elain sinh xong.

“Nhìn kìa,” Ro­ran đột nhiên hào hứng nói.

Al­briech và Bal­dor ngay đầu lại nhìn.

Ka­tri­na xuất hiện trước lều cầm theo một đống giẻ bẩn. Trước khi tấm bạt lều khép lại, Er­agon chợt nhìn thấy mờ mờ hình ảnh của chú Horst và một người phụ nữ Car­va­hall – nó không chắc là ai – đứng ở đầu võng dì Elain nằm.

Ka­tri­na không thèm liếc lấy một cái mà chạy thẳng tới chỗ vợ của chú Fisk, Isold và cô Nol­la đang đun lại đống vải để dùng lại.

Cái thùng lại cọt kẹt kêu khi Ro­ran đổi tư thế ngồi. Er­agon nửa mong anh đi tới hỏi chuyện Ka­tri­na nửa không, nhưng anh vẫn đó như Al­briech và Bal­dor. Họ và những dân làng khác nhìn theo chuyển động của cô không hề chớp mắt.

Er­agon nhăn nhó khi nghe tiếng thét của dì Elain vang lên, không hề bớt đau khổ hơn những lần khác.

Tấm bạt lại được kéo ra lần thứ hai và lần này Arya chạy vụt ra, đầu tóc rối bù và tay áo sắn cao. Những sóng tóc dợn quanh mặt nàng khi nàng lướt qua ba trong số mười một hộ vệ của Er­agon đang đứng trong bóng râm của cái lều gần đó. Nàng vội nói gì đó với một người trong số họ, một tiên nữ mặt xương xương tên In­vidia, rồi khẩn trương quay lại lều.

Er­agon đuổi kịp nàng sau khi nàng bước được mấy bước. “Chuyện sao rồi?” nó hỏi.

“Tệ lắm.”

“Sao lại lâu đến vậy? Nàng không giúp cho dì sinh nhanh được à?”

Nét mặt của Arya từ căng thẳng trở nên trầm trọng. “Có thể. Ngay từ nửa tiếng đầu tiên tôi có thể giúp đứa bé chui ra nhưng Gertrude và những người phụ nữ khác chỉ cho tôi làm một vài phép thuật đơn giản nhất.”

“Vô lý! Sao vậy?”

“Vì phép thuật làm họ sợ - và tôi làm họ sợ.”

“Vậy thì nói với họ là nàng không muốn làm họ sợ. Nói bằng ngôn ngữ cổ và họ sẽ phải tin nàng.”

Nàng lắc đầu. “Làm vậy chỉ khiến tình hình tệ hơn. Họ sẽ nghĩ tôi đang cố phù phép họ chống lại ý chí của họ, và họ sẽ đuổi tôi đi.”

“Chắc chắn Ka­tri­na…”

“Nhờ có chị ấy tôi mới làm phép được.”

Elain lại la lớn.

“Họ không cho nàng giảm đau cho dì à?”

“Họ không cho tôi làm gì thêm.”

Er­agon quay người nhìn lều nhà chú Horsr. “Hóa ra vậy,” nó rít lên qua kẽ răng.

Nó phải giữ chặt cánh tay trái để đứng im. Nó choáng vàng nhìn Arya mong một lời giải thích. Cô lắc đầu. “Đừng,” nàng nói. “Có những tục lệ quá lâu đời. Nếu chàng can thiệp, chàng sẽ khiến bà Gertrude giận dữ và xấu hổ và khiến nhiều phụ nữ khác trong làng ác cảm với chàng.”

“Tôi không quan tâm!”

“Tôi biết, nhưng tin tôi đi: ngay lúc này tốt nhất là chàng nên ngồi đợi cùng những người khác.” Như để nhấn mạnh, nàng kéo tay nó xuống.

“Tôi không thể ngồi đó mà mặc cho dì đau đớn!”

“Nghe tôi đi. Tốt hơn là chàng nên ở lại. Tôi sẽ cố gắng hết sức để giúp Elain, tôi hứa đó, nhưng chàng đừng có bước vào. Chàng chỉ khiến mọi người giận dữ thôi… Làm ơn nha.”

Er­agon đắn đó rồi tức giận hạ tay xuống khi Elain lại kêu váng lên. “Tốt thôi,” nó nói và nhoài lại gần Arya, “nhưng dù có chuyện gì cũng đừng để dì hay đứa bé ra đi. Tôi không cần biết nàng phải làm gì, nhưng đừng để họ chết.”

Arya nghiêm túc quan sát nó. “Tôi sẽ không bao giờ để đứa bé gặp tổn thương,” cô nói rồi tiếp tục bước đi.

Khi nàng vừa biến mất trong lều của chú Horst, Er­agon quay lại chỗ Ro­ran, Al­briech và Bal­dor đang tập trung và ngồi xuống cái thùng của nó.

“Thế nào?”

Er­agon nhún vai. “Họ làm tất cả những gì có thể. Chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi… Thế thôi.”

“Chẳng có gì mới,” Bal­dor nói. “Vẫn thế.”

Mặt trời chuyển sang vàng cam rồi đỏ thẫm khi lặn ở đường chân trời. Vài đám mây lang thang ở phía tây, còn sót lại sau cơn bão, không khí ẩm ướt. Nhặng và ruồi cùng một số loài côn trung khác bay vo ve.

Sau một lúc, tiếng thét của dì Elain yếu dần, nhỏ dần thành những tiếng rên rỉ đứt quãng khiến Er­agon dựng tóc gáy. Nó muốn giải thoát dì khỏi đau đớn, nhưng nó không thể bỏ qua lời khuyên của Arya, thế là nói ngồi lại và cắn móng tay, miễn cưỡng nói chuyện với Saphi­ra.

Khi mặt trời đi tới đường chân trời, nó lan rộng như một lòng trứng gà khi đập vỡ vỏ trứng. Dơi bắt đầu bay lẫn với bầy chim nhạn, tiếng vỗ cánh của chúng nghe sao mà mờ nhạt và hoảng loạn, tiếng kêu the thé của chúng khiến Er­agon đau tai vô cùng.

Sau đó Elain hét một tiếng inh tai làm tất cả những âm thanh trong vùng câm lặng, Er­agon không mong trong đời nghe thêm lần nữa.

Sau đó là một khoảng lăng ngắn ngủi nhưng kinh người.

Cuối cùng mọi người nghe thấy tiếng khóc lớn và đứt quãng của đứa nhỏ từ trong lều – tiếng kèn lệnh từ xa xưa tuyên bố một sinh linh mới tới với thế giới này. Al­briech và Bal­dor cười lớn, Ro­ran và Er­agon cũng vậy, vài người khác ăn mừng.

Sự vui sướng của họ chẳn bao lâu. Ngay khi tiếng ăn mừng cuối cùng kết thúc, những người phụ nữ trong lều bắt đầu la hét không thôi khiến Er­agon sợ lạnh người. Nó biết tiếng than vãn đó có ý nghĩa gì: tình thế tệ nhất đã tới.

“Không,” nó nói, không thể nào tin nổi và đứng bật dậy khỏi cái thùng gỗ. Dì ấy không thể chết… Không thể nào… Arya đã hứa rồi…

Như thể trả lời ý nghĩ của nó, Arya chạy về phía nó với những sải chân dài không tưởng.

“Chuyện gì?” Bal­dor hỏi khi nàng đi chậm lại rồi dừng hẳn.

Arya lờ cậu ta đi và nói. “Er­agon, tới đây.”

“Chuyện gì thế?” Bal­dor tức tối hét lên và nắm lấy vai Arya. Cô nàng cử động nhanh như một ánh chớp, chộp lấy cổ tay cậu ta vặn ra sau lưng, buộc cậu ta phải cúi người về phía trước như một thằng què. Mặt cậu ta nhăn lại vì đau.

“Nếu cậu muốn em gái mình sống, vậy đứng sang một bên và đừng có can dự vào!” Nàng thả tay và đẩy cậu ta ra, khiến cậu ta nhào vào cánh tay Al­briech rồi quay người rảo bước về lều nhà Horst.

“Chuyện gì đang diễn ra?” Er­agon hỏi khi đi cùng nàng.

Arya quay qua nhìn nó, ánh mắt cháy bỏng. “Đứa nhỏ khỏe mạnh nhưng bị hở hàm ếch.”

Er­agon hiểu vì sao những người phụ nữ lại la hét như vậy. Những đứa nhỏ bị hở hàm ếch thường không được phép sống; chúng rất khó nuốt thức ăn và nếu bố mẹ chúng cho chúng ăn được, chúng vẫn gặp rất nhiều trở ngại khác: bị xa lánh, nhạo báng và khó có ai chịu lấy chúng. Trong hầu hết các trường hợp, đứa trẻ chết non còn tốt hơn.

“Chàng có thể giúp nó, Er­agon,” Arya nói.

“Tôi à? Nhưng tôi chưa bao giờ… sao lại không phải nàng? Nàng biết nhiều về chữa trị hơn tôi.”

“Nếu tôi sửa lại hình dạng đứa bé, mọi người sẽ nói tôi đã cướp đứa nhỏ đi và thay nó bằng đứa khác. Tôi biế mọi người nói gì về loài của tôi, Eron – biết rất rõ là đằng khác. Nếu phải làm tôi sẽ làm nhưng đứa trẻ sẽ phải chịu đựng nhiều đau khổ về sau. Chàng là ng­wofi duy nhất có thể cứu nó khỏi số mệnh đó.”

Nó thấy hoảng sợ. Nó không muốn chịu trách nhiệm về cuộc đời một người khác; nó đã phải chịu trách nhiệm cho quá nhiều người rồi.

“Chàng phải cứu đứa bé,” Arya nói với giọng bắt buộc. Er­agon tự nhắc mình nhớ xem tiên nhân luôn yêu thương con mình và trẻ con những giống loài khác như thế nào.

“Nàng sẽ trợ giúp tôi nếu cần chứ?”

“Tất nhiên.”

Em cũng thế, Saphi­ra nói. Anh có phải hỏi không?

“Được rồi”, Er­agon nói và nắm lấy chuôi gươm Bris­in­gr quả quyết. “Tôi sẽ làm.”

Với Arya sóng bước đi cạnh, nó đi về phía lều và đẩy tấm bạt nặng nề bước vào. Khói nến làm cay mắt nó. Năm người phụ nữ làng Car­va­hall đứng túm tụm lại canh bạt lều. Tiếng than khói của họ như thụi cho nó một cú. Họ lắc lư như thể bị hôn mê, xé quần áo và dứt tóc than vãn. Chú Horst đứng cuối võng cãi vã với bà Gertrude, mặt đỏ lựng, sưng lên và hằn nếp nhăn vì kiệt sức. Dì đang giữ một bọc vai vào ngực, Er­agon đoán đó là đứa nhỏ - dù cậu không nhìn thấy mặt nó – đang cựa quậy. Đôi má bánh đúc của bà Gertrude bóng nhờn và tóc bết vào mặt. Mồ hôi chạy dọc cánh tay trần của bà. Ka­tri­na đứng đầu võng, chị đang quỳ trên một tấm thảm tròn, dùng khăn ướt lau trán cho dì Elain.

Er­agon không còn nhận ra dì Elain; mặt dì hốc hác, dưới đôi mắt lạc thần của dì là quầng đen. Nước mắt đang chảy ra từ hai hốc mắt, tràn ra thái dương rồi biến mất trong búi tóc rối tung. Dì mở miệng và ngậm lại, rên rỉ những từ không ai hiểu nổi. Một tấm chăn bết máu khô che phần người còn lại.

Cả Horst lẫn Gertrude đều không để ý tới Er­agon cho tới khi nó tiến gần tới họ. Er­agon đã lớn lên nhiều từ hồi rời làng Car­va­hall nhưng chú Horst vẫn cao hơn nó cả cái đầu. Khi họ nhìn nhau, chút ánh sáng hy vọng bừng lên trên khuôn mặt ảm đạm của người thợ rèn.

“Er­agon!” chú vỗ vai Er­agon và ôm lấy nó khiến nó khó lòng trụ vững. “Cháu nghe thấy rồi à?” Đấy không thực sự là một câu hỏi nhưng Er­agon vẫn gật đầu. Chú Horst liếc nhìn bà Gertrude – nhanh như tên bắn – rồi ông liếm môi. “Cháu có thể… có thể làm gì cho con bé không?”

“Có thể,” Er­agon nói. “Cháu sẽ thử.”

Nó giơ tay ra. Sau một hồi ngần ngừ, Gertrude đưa bọc vải ấm áp cho nó rồi lùi lại, thái độ không bình thường.

Bên trong đống vải là khuôn mặt nhăn nheo nhỏ bé của một bé gái. Da con bé đỏ sậm, mắt nhắm tịt nhưng nhăn nhó như thể nó giận vì bị ngược đãi – Er­agon nghĩ nó phản ứng vậy cũng hợp lý thôi. Nhưng điểm khiến nó chú ý nhất chính là vết hở xẻ từ cánh mũi trái tới giữa môi trên. Chiếc lưỡi hồng hồng nho nhỏ của nó lộ rõ ra ngoài.

“Làm ơn,” chú Horst nói. “Cháu có thể làm gì…”

Er­agon cau mày vì tiếng thổn thức của những người phụ nữ. “Cháu không thể làm gì ở đây,” nó nói.

Khi nó quay người định đi, Gertrude đứng sau lưng nó nói. “Bà sẽ đi với cháu. Một trong số những người biết chăm sóc trẻ con phải ở cạnh con bé.”

Er­agon không cần Gertrude lượn lờ xung quanh khi nó cố sửa lại khuôn mặt cô bé con, và nó định nói thì nó nhớ ra Arya đã nói gì đó về những khổ sở sau này của cô bé. Một người dân làng Car­va­hall, một người được tín nhiệm, phải chứng kiến sự thay đổi của con bé, làm nhân chứng đảm bảo con bé chính là đứa nhỏ được sinh ra.

“Vâng,” nói nói, che giấu ý định của mình.

Đứa nhỏ cựa quậy trong cánh tay nó và khóc khe khẽ khi nó bước ra khỏi lều. Bên kia con đường, những người dân lang đứng chỉ trỏ còn Abriech và Bal­dor dợm bước về phía nó. Er­agon lắc đầu bảo họ đứng lại đó và họ nhìn nó với vẻ vô vọng.

Arya và Gertrude đi hai bên Er­agon khi nó bước về lều của mình, mặt đất rung lên sau mỗi bước đi của Saphi­ra đằng sau. Những chiến minh nhanh chóng nhường đường cho họ.

Er­agon cố gắng đi nhẹ nhàng để tránh làm đứa nhỏ bị động. Mùi ẩm mốc bay lên từ người đứa bé như mùi đất rừng trong những ngày hè ấm áp.

Họ gần bước tới lều thì Er­agon nhìn thấy đứa bé phù thủy, El­va đang đứng ở gần hai cái lều cạnh đường đi. Con bé nhìn nó với vẻ mặt nghiêm trọng. Nó mặc một chiếc váy màu đen tím có mũ kéo ra sau, để lộ ra hình ngôi sao trên trán.

Con bé không nói một lời cũng không dừng Er­agon lại. Nhưng Er­agon vẫn hiểu con bé muốn cảnh báo nó, vì sự xuất hiện của nó luôn là sự quở trách đối với nó. Trước đây nó đã làm ảnh hưởng tới vận mệnh của một đứa trẻ sơ sinh. Nó không thể để mình mắc cùng một sai lầm không chỉ vì nó có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng mà còn vì nếu nó làm như vậy, El­va sẽ trở thành kẻ thù không đội trời chung với nó. Dù Er­agon có sức mạnh nhưng nó vẫn e ngại El­va. Khả năng của con bé là nhìn vào linh hồn một con người, tìm ra trong đó những điều khiến họ đau đớn hoặc phiền lòng – và nhìn thấy trước những gì có thể làm tổn thương họ - chính vì thế con bé là một trong những sinh vật nguy hiểm nhất Ala­gaësia.

Dù chuyện gì xảy ra, Er­agon thầm nghĩ khi bước vào trong căn lều tối om, mình cũng không muốn làm tổn thương đứa nhỏ này. Và nó cảm thấy có một động lực mới giúp cho con bé có một cuộc đời mới.

10. HÁT RU

Ánh sáng mờ mờ từ mặt trời sắp lặn len lỏi vào căn lều của Er­agon. Mọi thứ chỉ mang màu nâu như thể được tạc từ đá hoa cương. Với tầm nhìn của thần tiên, Er­agon có thể thấy các đồ vật một cách dễ dàng nhưng nó biết bà Gertrude sẽ gặp khó khăn vì thế nó nói. “Naina hvitr un böllr,” và tạo ra một quả cầu ánh sáng nhỏ trôi lập lờ trong không khí. Ánh sáng trắng dìu dịu không làm ấm phòng nhưng cũng tạo ra được thứ ánh sáng tương tự đèn dầu. Nó không dám dùng câu thần chú bris­in­gr vì lo thanh kiếm bốc cháy rừng rực.

Nó nghe thấy tiếng bước chân Gertrude dừng lại sau lưng nó và nó quay lại thấy bà ta đang nhìn chằm chằm vào quần sáng và nắm chặt lấy cái túi bà mang theo. Khuôn mặt quen thuộc của bà khiến nó nhớ nhà và làng Car­va­hall.

Bà từ từ cúi xuống nhìn nó. “Cháu đã thay đổi nhiều rồi,” bà nói. “Ta nghĩ đứa bé trai ta từng ngồi cả đêm trông nó bị sốt đã không còn.”

“Bà biết là cháu vẫn ở đây mà,” nó trả lời.

“Không, ta không tin.”

Câu nói của bà ta khiến nó khó chịu nhưng nó không thể nghĩ mãi về chuyện đó, nên cố đẩy nó ra khỏi ý nghĩ và đi tới võng. Nó nhẹ nhàng đặt đứa nhỏ mới sinh lên cái chăn, như thể con bé được làm bằng thủy tinh. Đứa bé vẫy nắm tay trước mặt nó. Nó cười và dùng ngón trỏ chạm vào, con bé lẩm bẩm nho nhỏ

‘Cháu định làm gì?” bà Gertrude hỏi khi ngồi xuống chiếc ghế độc nhất trong lều. “Làm sao cháu chữa cho nó được?”

“Cháu không chắc.”

Đúng lúc đó, Er­agon phát hiện ra Arya không đi cùng họ vào lều. Cậu gọi nàng và một lát sau nàng từ ngoài trả lời vọng vào, giọng bị lớp vải bố dày làm có biến dạng. “Tôi ở đây,” nàng nói. “Tôi sẽ đợi ngoài này. Nếu chàng cần tôi, cứ phóng tư tưởng về phía tôi và tôi sẽ vào.”

Er­agon hơi nhíu mày. Cậu cứ nghĩ cô sẽ ở bên cậu trong suốt quá trình, giúp cậu ở những điểm cậu không biết và sửa sai nếu cậu phạm lỗi. Ừm, không sao. Mình vẫn có thể hỏi nàng nếu cần. Chỉ có cách này bà Gertrude mới không nghi ngờ Arya làm gì đứa nhỏ. Nó bị ám ảnh vì những điều Arya cảnh báo, và nó phân vân liệu cô đã từng bị buộc tội trộm đứa trẻ nào chưa.

Chiếc võng kêu kẽo kẹt khi nó từ từ hạ người xuống nhìn đứa nhỏ. Trán nó nhăn tợn. Nó cảm thấy Saphi­ra đang qua nó quang sát đứa nhỏ lơ mở ngủ trong chăn.

Em nghĩ sao? Nó hỏi.

Từ từ, để anh không vô tình cắn phải đuôi anh.

Nó đồng ý với cô rồng, sau đó nó tinh quái hỏi lại, Thế em đã làm thế bao giờ chưa? Cắn đuôi ấy?

Cô nàng im lặng nhưng nó cũng thấy được một chút cảm giác: một mớ hỗn độn những hình ảnh – cây cối, cỏ hoa, ánh mặt trời, dãy nũi Spine – cũng như mùi hương ngọt ngào của lan đỏ và một cảm giác đau đớn bất chợt như thể cánh cửa đóng sầm một nhát vào đuôi cô nàng.

Er­agon cười thầm, rồi tập trung tạo ra câu thần chú nó nghĩ là cần. Nó mất khoảng nửa tiếng. Nó và Saphi­ra dành gần hết khoảng thời gi­an đó để soát lại câu thần chú, kiểm tra và tranh luận xem có nên dùng từ hay cụm từ đó không – và thậm chí là cả cách phát âm của Er­agon – để chắc chắn câu thần chú đi đúng chủ đích.

Khi hai người đang thảo luận trong im lặng, Gertrude động đậy và nói. “Con bé vẫn thế. Không phải chuyện chuyển biến xấu chứ? Đừng giấu bà, Er­agon; hôm nay bà đã phải xử lý nhiều tình huống tệ hơn.”

Er­agon nhướn mày và nhẹ nhàng nói. “Công việc chưa bắt đầu.”

Thế là bà Gertrude ngồi lại. Bà lôi trong túi ra một cuộn len vàng, một cái áo len đan được một nửa và một đôi que đan bằng gỗ bạch dương sáng bóng. Những ngón tay bà đan nhanh vì đã quen tay. Tiếng lách cách đều đặn khiến Er­agon yên lòng; nó giống âm thanh từ thời niên thiếu khi nó ngồi cạnh bếp lửa trong những tối mùa thu hiu hiu lạnh, nghe người lớn kể chuyện, hút thuốc hoặc uống bia nâu sau bữa tối tập thể.

Cuối cùng, khi nó và Saphi­ra hài lòng vì câu thần chú đã an toàn, Er­agon tự tin vì nó không ngọng nghịu phát âm ngôn ngữ cổ. Er­agon rút lấy sức mạnh từ cả hai cơ thẻ và chuẩn bị niệm thần chú.

RỒi nó chần chừ.

Khi các tiên dùng phép thuật thuyết phục cây và hoa sinh trưởng theo hình dáng họ muốn, hoặc để thay hình đổi dạng thành sinh vật khác, theo như cậu biết, họ luôn luôn biến câu thần chú thành một bài hát. Nó cũng nên làm thế. Nhưng nó chỉ biết vài bài hát của thần tiên và không bài nào trong số đó chính xác – hoặc có thể - tái tạo vẻ đẹp.

Vì vậy, nó chọn một bài hát từ sâu thẳm trong ký ức của nó, một bài hát dì Mar­ian đã hát cho nó nghe từ khi còn bé tí, trước khi dì bị bạo bệnh, một bài hát mà những người phụ nữ Car­va­hall ru con đi vào giấc ngủ say: lul­la­by – bài hát ru. Gi­ai điệu của nó rất đơn giản, dễ nhớ và nhẹ nhàng để đứa nhỏ an an tĩnh tĩnh mà ngủ.

Nó bắt đầu hát, nhẹ nhàng và trầm ấm lan tỏa trong lều như hơi ấm của lửa. Trước khi sử dụng phép thuật, nó nói với cô bé bằng ngôn ngữ cổ rằng nó là bạn cô, nó muốn cô có những điều tốt đẹp nhất và rằng cô bé cần tin tưởng nó.

Con bé hơi nhúc nhích trong giấc ngủ, như thể trả lời nó, và nét mặt rất bình thản.

Sau đó Er­agon niệm đoạn thần chú đầu tiên: một câu thần chú đơn giản gồm hai câu ngắn mà nó niệm đi niệm lại như thể cầu nguyện. Khe chia đôi môi cô bé rung lên và sáng mờ mờ như một sinh vật ngủ đông cựa quậy bên dưới.

Điều nó muốn làm không hề dễ. Xương của đứa nhỏ, giống như những đứa bé sơ sinh khác, rất mềm và còn là sụn, không giống xương người lớn và vì thế rất khác với việc cậu chỉnh xương cho những binh sĩ Var­den. Nó phải cẩn thận để lấp khe trên môi cô bằng xương thịt và xa của người lớn và phần đó sẽ không hợp với phần cơ thể còn lại. Ngoài ra, trong khi chữa lành vết hở ở phần lợi và hàm trên, nó phải làm cho chân răng cửa di chuyển, thẳng ra và đối xứng. Cậu chưa bao giờ làm điều này. Hơn nữa, nó không biết nếu không có khuyết tật này trông cô bé sẽ ra sao nên không chắc môi và miệng cô bé nên thế nào cho đúng. Trông cô nhóc y như những đứa nhỏ khác nó từng thấy: tròn, bầu bĩnh. Nó lo lắng rằng nó sẽ tạo ra một khuôn mặt có thể bây giờ thì ưa nhìn nhưng sau này khi con bé lớn lại trở nên kỳ dị và thiếu sức hút.

Thế nên nó tiến hành công việc vô cùng cẩn trọng, chỉ tạo ra một vài thay đổi nhỏ một lúc, sau đó dừng lại chiêm ngưỡng kết quả. Nó bắt đầu với lớp tế bào sâu nhất trên gương mặt, với xương và sụn rồi từ từ sửa chữa lớp ngoài trong khi hát.

Ở trong những thời điểm nhất định, Saphi­ra từ ngoài lều ngâm nga theo, giọng trầm của cô nàng khiến không khí rung động. Ánh đèn ma sáng lên và mờ đi theo âm điệu của cô nàng khiến Er­agon vô cùng hiếu kỳ. Nó sẽ hỏi Saphi­ra về chuyện này sau.

Đêm xuống, hàng giờ trôi qua, từng từ tuôn ra, từng câu thần chú được niệm nhưng Er­agon không chú ý tới thời gi­an. Khi cô nhóc khóc vì đói nó cho con bé một lượng năng lượng nhỏ. Nó và Saphi­ra cố gắng không chạm tới đầu óc nó – vì không biết sự gi­ao cảm giữa họ sẽ ảnh hưởng tới đầu óc còn non nớt của nó ra sao – nhưng thi thoảng vẫn có những va chạm. Đối với Er­agon, nhận thức của nó còn quá mơ hồi, chỉ là một biển những cảm xúc không rõ ràng, không nhận biết về thế giới bên ngoài.

Bên cạnh nó, bà Gertrude vẫn lách cách đan lát. Âm thanh duy nhất pha tạp vào gi­ai điệu là khi bà ấy đánh rơi que đan hoặc tháo vài mũi đan để sửa lỗi.

Từ từ, rất chậm, vết hở trên hàm và lợi cô bé liều lại, hai bên hàm ếch đẩy lại gần nhau – da cô chảy như một dòng chất lỏng – và môi trên từ từ liền lại không còn lấy một khe nứt.

Er­agon mất một thời gi­an dài ngắm nghĩa và lo lắng về hình dạng đôi môi cho cô bé cho tới khi Saphi­ra nói. Xong rồi, và nó đành thừa nhận rằng nó không thể làm gì hơn.

Sau đó nó nhỏ giọng dần và im lặng. Nó cảm thấy lưỡi dày và khô, cổ họng rát. Nó chống tay vào võng, hơi cúi người vì mỏi nên không thể đứng thẳng hoàn toàn.

Ngoài ánh sáng chiếu ra từ ngọn đèn ma còn có một thứ ánh sáng khác len lỏi vào trong phòng giống như khi nó bắt đầu công việc. – chắc chắn là mặt trời đã lặn rồi! – nhưng rồi nó nhận ra ánh sáng từ đằng đông, không phải đằng tây. Thế là nó hiểu. Chẳng trách anh thấy đau thế. Anh đã ngồi cả đêm!

Còn em thì sao? Saphi­ra nói. Xương cốt em cũng đau nhừ tử như anh vậy. Thừa nhận của cô nàng khiến nó ngạc nhiên, hiếm khi cô em nó thấy mình không thoải mái, dù cho cô bé đau thế nào. Trận chiến đã bòn rút của cô em nó nhiều hơn vẻ bề ngoài. Khi nó hiểu ra và Saphi­ra cũng đã ý thức được điều đó, cô bé nói, Mệt hay không thì Gal­ba­torix cho bao nhiêu quân em cũng đập được bây nhiêu.

Anh biết.

Bà Gertrude bỏ que đan vào túi, đứng dậy và tiến tới võng. “Bà không bao giờ nghĩ mình được chứng kiến chuyện gì tương tự,” bà nói. “Ít nhất là từ cháu, Er­agon Broms­son.” Bà nheo mắt nhìn nó. “Brom là cha cháu, đúng không?”

Er­agon gật đầu rồi càu nhàu. “Đúng ạ.”

“Thể nào hai người giống nhau vậy.”

Er­agon không muốn thảo luận xa hơn về chủ đề đó nên nó lầm bầm dập tắt ánh đèn ma bằng một cái liếc mắt và suy tưởng. Đột nhiên, lều tôi om, trừ phần được ánh bình minh chiếu rọi. Mắt nó thích nghi với sự thay đổi nhanh hơn bà Gertrude; bà chớp mắt và nhíu mày rồi lắc đầu, như thể không biết nó đứng đâu.

Nó bế con bé lên. Cậu không chắc liệu cậu yếu đi vì phép thuật đã tiêu hao năng lượng hay vì nó phải ngồi bên con bé lâu quá.

Nó cúi xuống nhìn con bé và đột ngột cảm thấy cần bảo vệ sinh linh bé bỏng này. Nó lẩm nhẩm, “Sé ono waíse il­ia.” Chúc con hạnh phúc. Đó không phải một câu thần chú mà chỉ là nó hy vọng con bé sẽ tránh được những nỗi đau khổ mà những người khác đang phải chịu đựng. Nó mong con bé sẽ mãi mỉm cười.

Quả thực vậy. Con bé nở một nụ cười rất tươi và nhiệt tình hét, “Gahh!”

Er­agon cũng cười rồi quay người bước ra ngoài.

Nó nhìn thấy một nhóm nhỏ tụ tập thành một vòng bán nguyệt quanh lều, vài người đứng, vài người ngồi. Nó nhận ra hầu hết đây là dân làng Car­va­hall nhưng Arya và các tiên nhân khác cũng ở đó – tách xa những người còn lại – cũng như vài chiến binh Var­den mà nó không biết tên. Nó nhìn thấy El­va lấp ló ở căn lều bên cạnh, mũ trùm hạ thấp xuống, che đi khuôn mặt.

Er­agon nhận ra nhóm người này đã chờ đợi hàng giờ và nó lại không hề cảm nhận được sự hiện hữu của họ. Có tiên nhân và Saphi­ra bảo vệ nó sẽ được an toàn, nhưng không được phép coi thường.

Mình phải giỏi hơn, nó tự nhủ.

Đứng trước đám đông là Horst và những người con trai, trông đầy lo lắng. Lông mày chú Horst nhíu chặt lại khi nhìn đống vải Er­agon đang ôm trong tay. Chú mở miệng định nói nhưng không một âm thanh nào phát ra.

Không hề phô trương hay ăn mừng, Er­agon bế đứa nhỏ tới chỗ người thợ rèn và cho chú nhìn mặt con. Trong một lúc, chú Horst không hề cử động; sau đó mắt ông ầng ậng nước và niềm vui và nhẹ nhõm hiển hiện quá thâm thúy, khiến người khác nhìn vào có thể tương ông đang buồn.

Khi nó đưa đứa nhỏ cho chú Horst, nó nói, “Bàn tay cháu đã nhuốm quá nhiều máu, nhưng cháu mừng vì cháu có thể giúp.”

Chú Horst chạm vào môi trên của cô bé bằng ngón giữa rồi lắc đầu. “Chú không tin nổi.. Chú không thể nào tin.” Chú nhìn Er­agon. “Elain và chú nợ cháu. Nếu…”

“Không có nợ nần gì hết,” Er­agon nhẹ nhàng nói. “Cháu chỉ làm điều ai cũng sẽ làm nếu họ có khả năng.”

“Nhưng cháu là người chữa trị cho con chú, chú biết ơn cháu.”

Er­agon ngần ngừ rồi chúi đầu chấp nhận lời cảm ơn của chú Horst. “Em bé tên gì hả chú?”

Người thợ rèn nhìn chăm chăm vào con gái. “Nếu Elain đồng ý, chú sẽ đặt tên cho con bé là Hope.”

“Hope… một cái tên hay.” Và chẳng phải chúng ta luôn cần có hy vọng để sống sao? “Còn dì Elain sao rồi ạ?”

“Mệt, nhưng không sao.”

Sau đó Al­briech và Bal­dor chạy tới cạnh cha họ, nhìn vào cô em gái cùng với bà Gertrude – bà ra khỏi lều ngay sau Er­agon – và sau đó dân làng cũng tiến tới. Kể cả những chiến binh tò mò cũng tới gần hơn, ngó đầu nhìn đứa bé một chú.

Sau một lúc, các tiên nhân cũng tiến tới. Khi thấy họ, mọi người tránh đường, để họ tiến tới chỗ chú Horst. Quai hàm chú Horst cứng lại và đưa về phía trước như hàm chó bun. Từng tiên nhân cúi xuống xem xét, thi thoảng thì thầm một hai từ bằng ngôn ngữ cổ với cô bé. Họ không để ý hay phiền lòng vì những ánh nhìn nghi ngờ của dân làng.

Khi chỉ còn lại ba tiên nhân cuối cùng, El­va chạy ra đã đứng vào sau họ. Cô bé không phải chờ lâu để tới lượt đứng trước chú Horst. Dù chú có chút miễn cưỡng, nhưng chú vẫn hạ thấp tay xuống và khuỵu gối, nhưng vì chú cao hơn El­va quá nhiều nên con bé phải nhón chân để nhìn đứa nhỏ sơ sinh. Er­agon nín thở khi con bé nhìn đứa trẻ sơ sinh từng bị dị tật, không thể đoán nổi phản ứng của con bé sẽ thế nào.

Sau vài giây, El­va hạ chân xuống. Nó từ từ đi về phía Er­agon.

Nó nghiêng đầu và nhướn mày,

Con bé gật đầu, dừng lại một chút rồi tiếp tục đi.

Khi Er­agon quan sát con bé bước đi, Arya bước tới gần nó. “Chàng nên tự hào vì những gì đã làm,” nàng nói nhỏ. “Đứa trẻ ngủ ngon và rất xinh. Những thầy phép giỏi nhất trong loài tiên cũng không thể làm được hơn. Chàng đã cho cô bé một món quà rất lớn – một khuôn mặt và một tương lai – và cô bé sẽ không quên, tôi chắc chắn đó… Và chúng tôi cũng sẽ không quên.”

Er­agon thấy nàng và những tiên nhân khác nhìn nó với vẻ kính trọng theo một cách khác – nhưng sự ngưỡng mộ của Arya mới là thứ có ý nghĩa với nó nhất. “Danh sư xuất cao đồ,” nó nhỏ giọng trả lời. Arya không bàn cãi. Họ cùng nhau quan sát dân làng bao quanh Horst và cô con gái nói chuyện hào hứng. Er­agon không rời mắt khỏi họ và nghiêng người về phía Arya mà nói. “Cám ơn nàng đã giúp Elain.”

“Không có gì. Không làm tôi thấy cắn rứt lương tâm.”

Chú Horst quay lại và bế đứa bé vào lều cho Elain ngắm nhìn cô con gái, nhưng dân làng vẫn không hề có dấu hiệu sẽ tản đi. Sau khi nó chán bắt tay rồi trả lời câu hỏi, nó tạm biệt Arya rồi đi vào trong lều và buộc bạt cửa lều lại.

Trừ khi chúng ta bị đánh úp, anh sẽ không muốn gặp ai trong mười tiếng tới, kể cả Na­sua­da, nó nói với Saphi­ra khi nằm xuống võng. Em chuyển lời tới Blöd­hgarm giùm anh nhé?

Tất nhiên là được, cô nàng đáp. Nghỉ ngơi đi, em cũng thế.

Er­agon thở dài và lấy tay che mắt. Hơi thở của nó chậm lại, đầu óc lang thang rồi những âm thanh và hình ảnh kỳ lạ trong mơ chiếm lĩnh lấy nó – những tưởng tượng nhưng chân thật; chói lóa nhưng không màu như thể cậu nhìn thấy toàn cỏ xanh – và trong một lúc, cậu có thể quên hết những trách nhiệm gánh vác trên vai và những sự kiện kinh hoàng trong ngày. Kể cả trong mơ, cậu cũng nghe thấy tiếng hát ru như lời thì thầm của gió, nửa nghe, nửa quên, đưa cậu về với những ký ức thời thơ ấu nơi quê nhà.

11. KHÔNG NGƠI NGHỈ

Hai người lùn, hai người đàn ông và hai Ur­gal – thành viên đội cận vệ của Na­sua­da, Chim Ưng Đêm, - đứng canh ngoài phòng trong lâu đài được Na­sua­da trưng dụng làm trụ sở họp mặt.

Họ nhìn Ro­ran không biểu cảm. Anh cũng giữ khuôn mặt tương tự khi nhìn lại họ.

Họ đã từng chơi trò này rồi.

Dù đội Chim Ưng Đêm ít khi biểu lộ cảm xúc nhưng Ro­ran biết họ đang tính xem cách nào giết chết anh nhanh nhất và hiệu quả nhất. Anh biết vì anh cũng làm điều tương tự.

Mình sẽ luồn ra sau lưng họ nhanh nhất có thể…làm họ tản ra một chút, anh quyết định. Con người sẽ phản ứng đầu tiên; họ nhanh hơn người lùn, và họ sẽ cản bước Ur­gal đằng sau…Phải tước được cây kích từ tay họ. Có thể khó nhưng mình nghĩ mình có thể làm được – ít nhất là tước vũ khí của một người. Có thể sẽ phải ném cây búa của mình đi. Một khi nắm kích trong tay, mình sẽ khiến họ cách xa mình một khoảng. Người lùn sẽ không dám liều nhưng Ur­gal khó chơi hơn. Lũ súc vật xấu xí đó… Nếu ẩn sau cái cột này, mình có thể…”

Cánh cửa viền sắt cọt kẹt mở. Một tiểu đồng mặc bộ đồ sáng mà khoảng mười hoặc mười hai tuổi bước ra tuyên bố, “Tiểu thư Na­sua­da cho triệu kiến ngài!”

Vài người cận vệ giật mình xao lãng và ánh mắt hơi xao động trong một giây. Ro­ran cười lướt qua họ bước vào căn phòng đằng sau. Anh biết sơ hở đó của họ sẽ tạo cơ hội cho anh giết chết ít nhất hai người trước khi họ kịp trở tay. Cho tới lần sau, anh nghĩ bụng.

Căn phòng rộng, hình chữ nhật và được trang trí khá đơn sơ: một chiếc thảm quá nhỏ nhắn so với căn phòng, một bức tranh thêu hẹp bị mối ăn treo trên bức tường bên trái; trên tường bên phái chỉ có duy nhất một cửa sổ vòm. Ngoài ra, trong phòng không có thêm một vật trang trí nào. Ở một góc phòng có đặt một chiếc bàn gỗ dài chất đầy sách, cuộn giấy da và giấy tờ. Một vài chiếc ghế để lộn xộn quanh bàn, nhưng Na­sua­da và những người quanh cô không ai sử dụng chúng. Jör­mundur không ở đây nhưng Ro­ran lại nhận ra vài người khác: những người là chỉ huy của anh, vài người là chiến hữu trong trận chiến và cũng có vài người anh đã được nghe danh.

“…và tôi không quan tâm xem chuyện đó có khiến hắn bị ‘bướu cổ’ không!” Cô hét hên, và đập tay xuống bàn đánh rầm. “Nếu chúng ta không có móng ngựa, và hơn nữa, nếu chúng ta phải ăn thịt cả ngựa chiến thì chúng cũng sẵn sàng làm thế với chúng ta. Các người hiểu chưa?”

Họ đồng thanh quả quyết trả lời cô. Họ như thể bị dọa dẫm nhưng trong đó còn có cả sự bối rối. Ro­ran vừa lạ vừa ấn tượng vì Na­sua­da chỉ là một người phụ nữ lại có thể được các chiến binh của mình và kể cả anh, tôn trọng tới vậy. Cô là một trong những người thông minh và kiên định nhất anh từng biết. Lắm khi anh cứ nghĩ dù cô sống trong thời đại nào cô cũng sẽ thành công.

“Giờ đi đi,” Na­sua­da nói và tám người đàn ông đi khuất, cô ra hiệu cho Ro­ran tiến ra chỗ bàn làm việc. Anh kiên nhẫn đợi cô viết vài dòng lên cuộn giấy da nhỏ rồi đưa nó cho một tiểu rồng và nói. “Đưa cho người lùn Narheim. Và lần này, em đợi cho ông ấy trả lời luôn, nếu không chị sẽ cho em tới chỗ Ur­gal phục vụ thức ăn và lau dọn đấy.”

“Vâng, thưa Tiểu thư!” cậu bé nói và chạy biến đi, có chút sợ hãi.

Na­sua­da bắt đầu đọc lướt qua đống giấy tờ trước mặt. Cô nói với Ro­ran mà không ngửng đầu lên, “Anh lấy lại sức rồi chứ Ro­ran?”

Anh phân vân không hiểu cô nói chuyện không có tý hứng thú nào. “Cũng chưa hẳn.”

“Thế thì không may rồi. Anh thức trắng đêm qua à?”

“Gần hết đêm thôi. Cô Elain, vợ của chú thợ rèn làng tôi, tối qua sinh em bé, nhưng…”

“Ừm, tôi được thông báo rồi. Tôi đoán là anh không thể thức nổi cả đêm đợi Er­agon chữa lành cho đứa nhỏ?”

“Không, tôi quá mệt rồi.”

“Ít nhất anh còn cảm thấy mệt.” Cô vươn tay qua bàn với lấy một tệp giấy nữa và nhìn chăm chú trước khi đặt lên đống công văn trước mặt. Cô vẫn dùng giọng như cũ nói với Ro­ran, “Tôi có một việc cần tới anh, Cây búa Dũng Mãnh. Quân đội ở Aroughs gặp sự chống trả quyết liệt – hơn chúng ta dự tính Tướng Brig­man không thể giải quyết nổi tình hình và chúng ta cần họ quay về. Vì thế, tôi gửi anh tới Aroughs thay cho Brig­man. Tôi đã chuẩn bị sẵn cho anh một con ngựa ở cổng nam. Anh phải phi hết tốc lực tới Fe­in­ster, rồi từ Fe­in­ster tới Aroughs. Cứ mười dặm từ đây về Fe­in­ster anh sẽ thay ngựa một lần. Sau đó anh phải tự mình xoay xở. Tôi mong là anh sẽ tới Aroughs trong vòng bốn ngày tới. Một khi đã tới nơi, anh sẽ có… ba ngày để kết thúc trận chiến.” Cô ngước lên nhìn anh. “Sau một tuần nữa, tôi muốn nhìn thấy cờ hiệu của quân ta bay trên bầu trời Aroughs. Nếu anh không thể, tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài đưa Er­agon và Saphi­ra tới Aroughs. Làm như vậy chúng ta sẽ không thể nào chống lại Murtagh và Gal­ba­torix.”

Và như thế Ka­tri­na sẽ gặp nguy hiểm, Ro­ran nghĩ. Bụng dạ Ro­ran cảm thấy không yên. Đi tới Aroughs trong bốn ngày đã là không tưởng rồi, đặc biệt khi cơ thể anh đang đau đớn và bầm dập. Chiếm thành phố trong một khoảng thời gi­an quá ngắn lại càng điên rồ. Nhiệm vụ này như kiểu bắt anh thi vật với gấu trong khi trói hai tay ra sau.

Anh gãi gãi má xồm xoàm rôi ria. “Tôi không có kinh nghiệm vây thành,” anh nói. “Ít nhất là không phải theo cách đó. Phải có ai đó trong Var­den phù hợp với nhiệm vụ này hơn tôi chứ. Ông Mart­land Râu Đỏ thì sao?”

Na­sua­da hiện một nét khinh thường trên mặt. “Ông ấy không thể dùng một tay mà phi nước đại được. Anh phải tự tin hơn với bản thân chứ Cây Búa Dũng Mãnh. Nhiều người trong Var­den biết về binh pháp, tôi công nhận – đó là những người có thời gi­an chiến đấu lâu hơn anh, những người được chỉ dạy từ những chiến binh giỏi nhất thời cha tôi – nhưng khi nhập trận, không phải kinh nghiệm hay kiến thức binh pháp là cái quan trọng nhất, mà là anh biết cách nào để chiến thắng đối phương, kể cả anh dùng bất cứ thủ đoạn gì. Và quan trọng hơn, đó là anh may mắn.”

Cô đặt công văn xuống và chống tay lên bàn. “Anh đã chứng minh cho chúng tôi thấy khả năng chiến đấu của anh. Anh đã chứng minh anh là người biết tuân theo quân luật… khi cần thiết.” Anh bỗng nhớ lại cảm giác đau, bỏng giẫy khi roi quất vào lưng anh hồi anh chống lại lệnh của Tướng Edric. “Anh đã chứng tỏ anh có thể dẫn dắt mọi người. Vì thế, Ro­ran Cây Búa Dũng Mãnh, anh hãy thể hiện cho chúng tôi xem anh còn những khả năng gì, được không?”

Anh nuốt nước bọt. “Được, thưa Tiểu Thư.”

“Tốt. Tôi sẽ đề xuất anh làm tướng tạm thời. Nếu anh thành công ở Aroughs, anh sẽ có thể giữ danh hiệu này, ít nhất tới khi anh thể hiện rằng anh đáng được vinh danh nhiều hơn hay ít hơn.” Cô lại nhìn xuống bàn và đọc qua những cuộn giấy da, rõ ràng là đang tìm kiếm một thông tin gì đó.

“Cám ơn.”

Na­sua­da đáp lại bằng một âm thanh nhỏ, không biểu lộ cảm xúc.

“Tôi sẽ chỉ huy bao nhiêu người ở Aroughs?” anh hỏi.

“Tôi đã gửi cho tướng Brig­man một nghìn lính để chiếm thành phố. Nhưng giờ chỉ còn lại không đến tám trăm người vẫn có khả năng chiến đấu.”

Ro­ran suýt nữa bật ra tiếng chửi thề. Quá ít.

Như thể nghe được, Na­sua­da khô khốc nói, “Chúng ta đã tưởng rằng hàng phòng thủ của Aroughs yếu hơn.”

“Tôi hiểu. Tôi có thể mang theo hai ba người từ Car­va­hall đi cùng không. Tiểu thư từng nói rằng cô cho phép chúng tôi đồng hành nếu chúng tôi…”

“Được, được,” cô vẫy tay – “tôi biết tôi nói gì.” Cô cắn môi, cân nhắc. “Được, anh cứ mang theo bất kỳ ai anh muốn, miễn là anh đi trong vòng một tiếng nữa. Anh hãy cho tôi biết anh muốn bao nhiêu người đi cùng để tôi sắp xếp ngựa trên đường.”

“Tôi đưa Carn đi được không?” anh hỏi, nói ra tên pháp sư anh từng có dịp chiến đấu cùng.

Cô ngừng lại và nhìn lên tường một lúc, ánh mắt lung lạc. Sau đó, cô gật đầu và lại tiếp tục đào bới đống công văn. “À, đây rồi.” Cô lôi ra một ống tròn được buộc lại bằng một sợi dây da. “BẢn đồ Aroughs cũng như là bản đồ chi tiết của tỉnh Fen­mark. Tôi nghĩ anh nên nghiên cứu kỹ cả hai bản đồ này.”

Cô đưa cho anh ống giấy và anh đặt nó vào trong áo. “Và đây,” cô nói và đưa cho anh một lá thư niêm phong dấu đỏ. “là nhiệm vụ của anh, và” – một lá thư thứ hai, dày hơn lá đầu tiên – “đây là thư cho Brig­man. Đưa cho ông ấy đọc thôi, nhưng đừng đưa cho ông ta giữ. Nếu tôi nhớ không nhầm, anh không biết đọc, đúng không?”

Anh nhún vai. “Đọc làm gì chứ? Tôi có thể tính toán cộng trừ như nhiều người khác. Cha tôi nói dạy chúng tôi học chẳng hơn gì dạy cho đi trên chân sau: thú vị, nhưng không đáng.”

“Tôi sẽ đồng ý với cha anh, nếu như anh chỉ là một người nông dân. Nhưng trong địa vị hiện giờ của anh, tôi không thể đồng ý.” Cô chỉ về mấy lá thư anh đang cầm. “Anh chỉ biết một trong hai bức thư này có thông báo bổ nhiệm của anh. Vì anh không biết đọc nên tôi khó trọng dụng anh. Tôi không thể gửi thư cho anh mà không có người khác đọc thư cho anh, anh không còn lựa chọn nào khác ngoài tin rằng người kia thực sự đọc đúng cho anh nghe. Anh sẽ dễ bị thao túng. Tôi không thể tín nhiệm anh. Nếu anh hy vọng thăng tiến hơn ở Var­den, anh cần tìm một người dạy anh học. Giờ đi đi, tôi còn nhiều việc khác phải làm.”

Cô bật ngón tay và một tiểu đồng chạy tới cạnh. Cô đặt tay lên vai thằng bé, cúi xuống và nói, “Tôi muốn em đưa Jör­mundur tới đây. Em sẽ tìm thấy ông ấy ở chợ, chỗ ba cái nhà…” Đang nói dở, cô dừng lại nhướn mày khi thấy Ro­ran chưa đi. “Còn gì nữa không, Cây Búa Dũng Mãnh?” cô hỏi.

“Có, trước khi tôi đi, tôi muốn gặp Er­agon.”

“Vì sao?”

“Kết giới cậu ấy phủ lên người tôi trước trận chiến đã không còn.”

Na­sua­da nhíu mày rồi nói với tiểu đồng, “Trong chợ, chỗ ba cái nhà cháy. Em biết chỗ đó chứ. Rồi, giờ đi đi.” Cô vỗ lưng thằng nhỏ và đứng thẳng dậy khi thằng bé chạy ra khỏi phòng. “Tốt hơn là anh đừng gặp.”

Ro­ran thấy khó hiểu nhưng anh vẫn im lặng, chờ đợi lời giải thích từ cô. Cô nói vòng vo, “Anh có thấy Er­agon đã mệt thế nào trong buổi gặp mặt của tôi với mèo ma chưa?”

“Gần như không đứng vững.”

“Chính xác. Càng ngày cậu ấy càng gầy, Ro­ran. Cậu ấy không thể bảo vệ anh, tôi, Saphi­ra, Arya và ai mà biết cậu ấy còn muốn bảo vệ ai mà vẫn phải làm những gì cậu ta phải làm. Cậu ta phải tích trữ năng lượng cho lần đụng độ sắp tới với Murtagh và Gal­ba­torix. Và chúng ta càng tới gần Urȗ’baen, chuyện cậu ấy sẵn sàng đụng độ với chúng càng quan trọng. Chúng ta không thể để những lo lắng và phiền phức khiến cậu ta suy yếu. Việc cậu ây chữa hở hàm ếch cho đứa nhỏ mang tới cho cậu ấy sự tín nhiệm, nhưng việc làm đó có thể khiến chúng ta thua trận!

“Anh đã chiến đấu chống lại Za’rac trên rặng Spine mà không cần tới kết giới bảo vệ. Nếu ha quan tâm tới em họ anh, nếu anh muốn đánh bại Gal­ba­torix, anh phải học cách chiến đấu không cần tới chúng.”

Khi cô nói xong, Ro­ran cúi đầu. Cô nói đúng. “Tôi sẽ đi ngay.”

“Tôi đánh giá cao điều này.”

“Tạm biệt…”

Ro­ra quay lại, sải bước đi về phía cửa. Khi anh vừa bước qua bậc thềm, Na­sua­da gọi lớn, “Và, Cây Búa Dũng Mãnh này?”

Anh tò mò nhìn lại.

“Cố đừng thiêu rụi Aroughs nha? Phục hồi vất vả lắm.”

12. KHIÊU VŨ CÙNG GƯƠM KIẾM

Er­agon gõ gót giày lên hai bên tảng đá nó đang ngồi lên vì thấy chán và mất kiên nhẫn.

Nó, Saphi­ra và Arya – cùng Blöd­hgarm và những thần tiên khác – đang thơ thẩn bên vệ đường chạy dọc khu bờ đông thành phố Be­la­tona: chạy qua những cánh đồng xanh mượt; qua cây cầu đá lớn cong cong bắc qua sông Ji­et; vòng quanh bờ nam hồ Leona. Tới đây con đường phân nhánh, một tới Cánh Đồng Cháy và Sur­da, một đi về phía bắc, tới Dras – Leona và Urȗ’baen.

Hàng ngàn binh lính, người lùn và Ur­gal đi lang thang trước cửa thành phía Đông Be­la­tona cũng như trong thành phố, cãi cọ và la hét trong khi quân Var­den đang sắp xếp họ vào từng đội. Ngoài ra còn có đoàn kỵ binh của vua Or­rin – không thể kể hết số ngựa đang hí, đang nhảy dựng lên. Đằng sau quân tiền tuyến là quân đội hậucần: một đoàn dài xe do thú có sừng của Var­den mang tới từ Sur­da và của nông dân trong vùng kéo. Từ đó phát lên tiếng lừa la kêu be be, tiếng bò rồng, tiếng ngỗng kêu, tiếng ngựa và tiếng ngựa hí.

Thế là quá đủ để Er­agon muốn bít lỗ tai lại.

Em sẽ nghĩ là chúng ta sẽ chịu đựng giỏi hơn sau bao nhiêu lần chứ nhỉ, nó nói với Saphi­ra khi nó nhảy xuống khỏi tảng đá.

Cô nàng khịt mũi. Đáng ra họ nên để em lo việc này; em có thể dọa cho bọn chúng về đúng vị trí chỉ trong một tiếng đồng hồ và sau đó chúng ta sẽ không phải mất thì giờ chờ đợi.

Ý nghĩ đó khiến cậu hứng thú. Đúng, anh chắc chắn là em có thể…Nhưng cẩn thận với những gì em nói, hoặc không Na­sua­da sẽ bắt em làm thật đấy.

Sau đó Er­agon nghĩ tới Ro­ran, nó đã không gặp anh từ sau đêm nó trị bệnh cho đứa nhỏ nhà Horst và Elain, và nó phân vân không biết anh nó đang làm gì và lo lắng vì anh ở quá xa nó.

“Ngốc thế không biết,” Er­agon lầm bầm khi nhớ lại chuyện Ro­ran đã đi mà không để cậu tạo kết giới mới.

Anh ấy là một thợ săn có kinh nghiệm, Saphi­ra nói. Anh ấy sẽ không ngu ngốc tới nỗi để con mồi làm mình bị thương đâu.

Anh biết, nhưng đôi khi nghĩ thế cũng không thể giúp anh an tâm… Anh ấy cần phải cực kỳ cẩn trọng. Anh không muốn anh ấy bị què, hay tệ hơn, bị phủ khăn trắng.

Một cảm giác buồn bã dâng lên trong Er­agon, sau đó nó cố quên đi và nhún nhảy trên chân, muốn thư giãn gân cốt trước khi dành vài giờ tiếp theo ngồi trên lưng Saphi­ra. Nó thích được bay cùng cô em nhưng nó không thích phải ngồi cứng đờ trong mười hai dặm hoặc hơn trong cả ngày, là là liệng như chim kền kền. Nếu chỉ có nó và Saphi­ra, tụi nó chỉ chiều muộn là tới Dras – Leona.

Nó bước từ đường cái sang trảng cỏ. Đứng đó, không quan tâm tới cái nhìn của Arya và những tiên nhân khác, nó rút thanh Bris­in­gr ra và luyện lại vài đường kiếm ông Brom đã dạy nó rất lâu trước đây. Nó đi kiếm từ từ và cảm nhận mặt đất mịn dưới chân.

Nó đưa thanh kiếm lên cao quá đầu, chém xuống với một nhát chém có thể chẻ một người làm đôi, dù đó là người, tiên hay Ur­gal, dù họ mặc áo giáp gì. Nó dừng kiếm khi cách mặt đất chừng vài cen­timet. Lưỡi kiếm truyền rung động lên cổ tay nó. Trên màn xanh của cỏ, màu xanh lơ của kim loại trở nên chói mắt, hầu như không thật.

Er­agon hít một hơi nữa và nhảy về phía trước, đâm vào không khí như thể trước mặt nó là một kẻ thù không đội trời chung. Nó luyện tập từng đường kiếm cơ bản, không chú trọng vào tốc độ hay sức lực mà vào độ chính xác.

Khi nó đã ấm người, nó nhìn quanh những người hộ vệ đang đứng thành một vòng bán nguyệt cách nó một đoạn. “Có ai luyện tập với tôi một vài phút không?” nó lớn tiếng hỏi.

Những tiên nhân nhìn nhau, không biểu lộ cảm xúc. Sau đó, tiên nhân Wy­dren tiến lên phía trước, “Để tôi, thưa KHắc tinh của Tà Thần, nếu ngài đồng ý. Tuy nhiên, tôi đề nghị ngài nên đội mũ trụ lên.”

“Đồng ý.”

Er­agon tra thanh Bris­in­gr vào bao rồi chạy tới chỗ Saphi­ra và trèo lên một bên mình cô nàng, thò tay vào phía trong vảy. Nó mặc áo giáp, quấn xà cạp, bao tay nhưng lại cất mũ trụ trong túi yên để nó không rơi khỏi Saphi­ra hay lẫn trong cỏ.

Khi đã lấy được mũ, nó nhìn thấy cái tráp đựng trái tim của Glae­dr được bọc trong một mảnh vải và đặt ở đáy túi. Nó với tay xuống và chạm vào cái tráp thầm cầu nguyện cho con rồng vàng, rồi đóng túi lại và nhảy khỏi lưng Saphi­ra.

Er­agon vừa đội mũ vừa bước lại trảng cỏ. Nó cắn chảy máu đầu ngón tay cái, sau đó đeo găng tay và hy vọng máu không chảy ra nhiều quá. Wy­dren và nó sử dụng vài câu thần chú tương tự đặt ra một kết giới mỏng – không thể nhìn thấy, trừ việc họ làm cho không gi­an xung quanh vặn vẹo – xung quanh thanh kiếm để họ không bị làm người kia bị thương. Họ cũng hạ vòng bảo vệ xuống.

Sau đó nó và Wy­dren đứng đối diện nhau, cúi đầu và nâng cao thanh kiếm. Er­agon nhìn vào đôi mắt đen, không chớp của tiên nhân và Wy­dren cũng vậy. Er­agon nhìn đối thủ và tính tấn công bên trái tiên nhân vì nếu tấn công phía bên kia chính nó cũng khó tự vệ.

Vị tiên nhân chậm rãi quay người, cỏ dưới gót giày anh ta bị nghiền nát khi anh tiến về phía Er­agon. Sau khi bước vài bước,Er­agon dừng lại. Wy­dren là một chiến binh cảnh giác và lão luyện khiến Er­agon phải dè chừng; có thể nó không bao giờ có thể ngang cơ với tiên nhân kia. Tất nhiên, trừ khi mình lừa được anh ta.

Nhưng trước khi nó quyết định bước tiếp theo nên làm gì, Wy­dren giả vờ tấn công chân phải Er­agon như thể định chém vào mắt cá chân nó, rồi đổi hướng, vặn cổ tay và chém ngang ngực và cổ Er­agon.

Dù Wy­dren rất nhanh nhưng Er­agon còn nhanh hơn. Khi nhận ra Wy­dren chuyển hướng tấn công, Er­agon lùi lại nửa bước, gập khuỷu tay và đưa kiếm lên trước mặt.

“Ha!” Er­agon hét vang khi nó dùng thanh Bris­in­gr chặn lưỡi kiếm của Wy­dren. Hai thanh va vào nhau kêu “keng”.

Er­agon dùng lực đẩy Wy­dren lạ rồi chuồn ra sau anh ta, chém liên tiếp.

Họ đấu kiếm trên bãi cỏ trong vài phút. Er­agon là người ra đòn đầu tiên – một đường rạch nông trên hông Wy­dren – và chém cú thứ hai, nhưng sau đó, họ trở nên cân sức hơn, vì vị tiên nhân đã hiểu được cách đánh của nó và bắt đầu lựa theo đó mà tấn công và phản công. Er­agon ít có cơ hội được chiến đấu với một người giỏi và mạnh như Wy­dren để tự lượng sức mình. Vì vậy, nó thích thú đấu kiếm với vị thần tiên này.

Tuy nhiên, bao nhiêu hứng thú của nó đều tiêu tan khi Wy­dren chém liên tiếp bốn nhát vào nó: một nhát vào vai phải, hai nhát trên lồng ngực, và một đường kiếm hiểm trên bụng. Những cú đánh khiến nó đâu nhưng lòng tự trọng của nó còn bị tổn thương nhiều hơn. Nó lo rằng rằng tiên nhân dễ dàng vượt qua được thế phòng thủ của nó. Nếu họ đối đầu ngoài chiến trường kia, Er­agon biết nó có thể đánh bại anh ta sau vài cú gi­ao đấu nhưng ý nghĩ đó không khiến nó dễ chịu hơn là mấy.

Anh không nên để anh ta có nhiều cơ hội thế chứ, Saphi­ra nhận xét.

Ừ, anh biết, nó gào lên.

Anh có muốn em giúp hạ gục anh ta không?

Không… không phải hôm nay.

Nó tức tối hạ kiếm và cám ơn Wy­dren. Tiên nhân cúi đầu và nói, “Không có gì, thưa Khắc tinh của Tà thần,” rồi trở về chỗ các tiên nhân khác.

Er­agon cắm thanh Bris­in­gr xuống khoảng đất giữa hai chân – điều nó không thể nào làm với những thanh kiếm làm từ thép bình thường – và đặt tay lên chuôi kiếm khi quan sát những người đàn ông và lũ gia súc chen lấn trong con đường đẫn tới thành phố rộng lớn. Sự hỗn loạn đã giảm bớt và nó đoán chẳng bao lâu nữa tiếng kèn sẽ vang lên báo hiệu cho quân Var­den lên đường.

Trong lúc đó, nó cũng chẳng nghi ngơi gì.

Nó nhìn Arya đang đứng cạnh Saphi­ra và nụ cười từ từ giãn ra trên mặt nó. Nó vác thanh Bris­in­gr lên vai và thong thả tiến tới chỉ về phía thanh kiếm của nàng. “Arya, nàng thì sao? Chúng ta chỉ mới gi­ao đấu có một lần hồi ở Far­then Dȗr.” Nó cười ngoác miệng và vuốt lưỡi kiếm Bris­in­gr. “Từ hồi đó tới giờ tôi cũng khá hơn chút chút rồi.”

“Ừ.”

“Vậy nàng tính sao đây?”

Cô nhìn về phía quân Var­den và nhún vai. “sao lại không nhỉ?”

Thế là họ bước tới bãi cỏ. Nó nói. “Lần này nàng không thể hạ ta dễ dang như lần trước đâu.”

“Chắc là thế.”

Arya xem xét thanh kiếm sau đó họ đối diện nhau, cách nhau khoảng ba mươi foot. Er­agon cảm thấy tự tin và nhanh chóng tấn công trước vì nó biết nó nên tấn công vào đâu: vai trái của nàng.

Arya đứng nguyên vị trí và không hề có ý tránh né. Khi nó còn cách nàng độ bốn mét, cô nở một nụ cười ấm áp, rạng rỡ với nó khiến nó hết cả ý chí chiến đấu.

Một ánh thép lóe về phía nó.

Nó đưa thanh Bris­in­gr lên chậm một nhịp. Tay nó tê rần vì mũi kiếm sượt qua một thứ gì đó cứng – nó không chắc là chuôi kiếm, lưỡi kiếm hoặc da thịt, nhưng dù là gì đi nữa nó cũng biết nó đã tính toán sai khoảng cách và phản ứng của nó đã khiến nó lĩnh đòn.

Trước khi nó có thể hãm đà lao tới, một lực tác động khiến lưỡi kiếm của nó nghiêng sang một bên; sau đó là một cú đau nhói giữa người khi Arya áp sát, đánh ngã nó.

Er­agon rên lên khi lưng hạ cánh xuống đất. Nó cố hít một ngụm không khí nhưng bụng nó căng cứng như đá và nó không thể nào hít khí vào lồng ngực. Sao nhảy múa trước mắt nó, sau vài giây không dễ chịu đầu tiên nó nghĩ nó sẽ ngất. Nhưng rồi các bắp thịt của nó dãn ra và cuối cùng nó cũng hít thở được.

Khi đầu óc đã trở lại bình thường, nó từ từ chống thanh Bris­in­gr để đứng dậy. Nó dựa vào thanh kiếm như thể một ông già đợi cơn đau bụng qua đi.

“Nàng chơi xấu,” nó nghiến răng nói.

“Không, tôi chỉ khai thác điểm yếu của đối phương thôi. Đấy là điểm khác biệt.”

“Nàng nghĩ… đó là…điểm yếu?”

“Khi chúng ta chiến đấu thì đúng. Chàng muốn tiếp tục không?”

Nó trả lời bằng cách rút thanh Bris­in­gr ra khỏi mặt đất và bước về chỗ nó vừa đứng và giơ kiếm lên.

“Tốt,” Arya nói. Cô đứng cùng tư thế với nó.

Lần này Er­agon đã thận trọng hơn khi nó áp sát nàng và Arya cũng không đứng nguyên tại chỗ. Nàng cẩn trọng tiến lên và đôi mắt xanh trong của nàng không bao giờ rời nó.

Nàng co tay khiên Er­agon giật mình.

Nó nhận ra nó đang nín thở và buộc mình phải thư giãn.

Nó tiến thêm bước nữa và lao về phía trước hết tốc lực.

Cô chặn đường kiếm của nó nhắm vào lồng ngực và trả lại bằng một đâm vào phần nách. Mặt kiếm của nàng chạy dọc mặt trong cánh tay kia của nó, chém lên áo giáp khi nó gạt kiếm đi. Trong lúc đó, thân nàng lộ sơ hở nhưng vì họ quá gần nhau nên Er­agon không thể ra đòn hiệu quả.

Thay vào đó nó nhào về phía trước, dùng chuôi kiếm đập vào xương quai xanh của nàng hòng đánh gục nàng như nàng đã làm với nó.

Nàng vặn mình và chuôi kiếm đánh vào khoảng không.

Er­agon chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra và đứng như trời trồng khi một cách tay của Arya vòng qua cổ nó và lưỡi kiếm được bọc phép bảo vệ gí sát quai hàm nó.

Từ đằng sau, Arya thì thầm vào tai nó, “Tôi có thể cắt đầu chàng dễ như hái táo trên cây vậy.”

Sau đó nàng thả tay và đẩy nó đi. Nó tức giận, quay người lại và thấy nàng đã đợi sẵn nó, kiếm đã sẵn sàng và biểu hiện quyết liệt.

Nó quên đi nỗi tức giận và lao về phía trước.

Hó đánh qua đánh lại bốn đường kiếm, đòn sau mạnh hơn đòn trước. Arya chém được đối phương đầu tiên bằng một nhát trên chân Er­agon. Nó cũng rạch một đường dài trên eo nàng nhưng nàng đã kịp lùi ra khỏi vùng nguy hiểm của thanh Bris­in­gr. Nó không cho nàng một cơ hội trân tĩnh, nó tiến lên định chém xuống tay nàng nhưng nàng dễ dàng chặn đứng. Sau đó nàng tiến lên và với một cú chạm nhẹ nhưng cánh chim ruồi, để lại một đường kiếm ngang bụng nó.

Arya giữ nguyên tư thể sau cú đánh, mặt chỉ cách nó vài cm. Trán cô lấp lánh mồ hôi và má ửng đỏ.

Er­agon kéo thẳng áo trấn thủ rồi bước tới gần Arya. Sự tức giận trong trận đánh đã biến đâu mất và khiến nó tập trung trở lại.

“Tôi không hiểu,” nó bình tĩnh nói.

“Chàng đã quen dần với việc chiến đấu với binh lính của Gal­ba­torix. Họ không thể nào ngang cơ với chàng, vì vậy chàng có thể chiến thắng họ. Những đòn tấn công của chàng quá lộ liễu – chàng không nên chỉ dựa vào lợi thế về sức mạnh – và chàng phòng thủ không chặt.”

“Nàng giúp tôi chứ?” nó hỏi. “Nếu có thời gi­an nàng đấu kiếm với tôi nhé?”

Nàng gật đầu. “Tất nhiên. Nhưng nếu tôi không thể chàng nên tìm Blöd­hgarm; anh ấy cũng có kinh nghiệm chiến đấu như tôi vậy. Chàng phải thực chiến nhiều, đó là bạn đồng hành tốt nhất của chàng.”

Er­agon định cảm ơn nàng thì nó cảm thấy xúc cảm của một ai đó không phải Saphi­ra đang đè lên đầu óc nó, sợ hãi và buồn rầu: nỗi buồn rất lớn, cổ họng Er­agon cứng lại và thế giới dường như không còn màu sắc. Và một giọng nói trầm trầm của rồng vàng Glae­dr vang lên:

Trò phải học…phải thấy được cái mình đang nhìn.

Sau đó sự hiện diện đó biến mất, chỉ để lại sự trống rỗng mênh mang.

Er­agon nhìn Arya. Nàng cũng đang đứng như trời trồng; nàng đã nghe thấy tiếng nói của Glae­dr. Đằng sau nàng, Blöd­hgarm và các tiên nhân khác đang xì xào bàn tán trong khi ở phía kia con đường, Saphi­ra ngoái đầu lại cố nhìn vào túi yên cương trên lưng.

Er­agon nhận ra rằng tất cả bọn họ đều nghe thấy.

Nó và Arya cùng nhau đứng dậy và tiến tới chỗ Saphi­ra đang nói, Ông ấy không trả lời em; dù ông ấy ở đâu, ông ấy cũng đã trở lại, nhưng ông ấy không nghe thấy cái gì ngoài chính nỗi buồn của mình. Đây, nhìn đi…

Er­agon liên kết tư tưởng với cô rồng và với Arya. Cả ba người phóng tư tưởng tới trái tim Glae­dr đang nằm trong túi yên cương. Phần còn lại của con rồng đã có sức sống hơn nhưng tư tưởng của ông rồng vẫn đóng kín, những suy nghĩ hỗn loạn như từ hồi Gal­ba­torix giết chết Kỵ sĩ của ông, Oromis.

Er­agon, Saphi­ra và Arya cố gắng đánh thức con rồng vàng. Nhưng Glae­dr vẫn phớt lờ họ, ông rồng như một con gấu ngủ đông chẳng để ý gì tới lũ ruồi nhặng vo ve quanh đầu.

Er­agon không thể nào không nghĩ Glae­dr không hề tỉnh.

Cuối cùng ba người phải đành chấp nhận thất bại và để tư tưởng trở về cơ thể. Khi Er­agon khôi phục được ý thức, Arya nói, “Có lẽ nếu chúng ta chạm vào El­dunari của ông ấy thì…”

Er­agon cho thanh Bris­in­gr vào bao, trèo lên chân phải trước của Saphi­ra và nhảy lên yên. Nó cúi xuống và bắt đầu lục lọi túi yên.

Đúng lúc đó tiếng kèn đồng của quân Var­den vang lên báo hiệu xuất phát. Hàng dài người và gia súc chen lấn về phía trước, lúc đầu hơi chậm chạp, nhưng dần uyển chuyển và tự tin hơn.

Er­agon liếc nhìn xuống Arya không biết nên làm gì. Cô vẫy tay và nói, “Tối nay chúng ta sẽ nói chuyện với ông ấy. Đi đi! Bay theo những cơn gió đi!”

Nó nhanh chóng đóng túi lại, rồi chỉnh lại yên cương vì nó không muốn ngã khỏi lưng Saphi­ra khi đang bay.

Sau đó Saphi­ra cúi mình và cùng một tiếng gầm vui sướng, nó bay lên khỏi mặt đất. Những người đàn ông đứng dưới cô nàng lùi lại vì hoảng sợ, lũ ngựa lồng lên khi cô nàng mở rộng đôi cánh to lớn, tung mình lên khỏi mặt đất cứng, không phải môi trường yêu thích của cô nàng lên trên khoảng không rộng lớn êm ái.

Er­agon nhắm mắt ngửa mặt lên trời, vui mừng vì cuối cùng cũng rời khỏi Be­la­tona. Sau cả một tuần ru rú trong thành phổ chỉ ăn rồi ngủ - vì Na­sua­da bắt buộc – nó hạnh phúc được tới Urȗ’baen.

Khi Saphi­ra bay cách những ngọn tháp hàng trăm foot, nó nói, Em nghĩ ông Glae­dr có phục hồi được không?

Ông ấy sẽ không bao giờ như trước nữa.

Không, nhưng anh hy vọng ông ấy sẽ có thể vượt qua nỗi đau. Anh cần sự giúp đỡ của ông ấy mà, Saphi­ra. Có rất nhiều điều anh không biết. Không có ông ấy, anh không biết hỏi ai.

Cô nàng im lặng trong chốc lát. Trong không gi­an chỉ vang lên tiếng đập cánh đều đều. Chúng ta không thể vội, cô nàng nói. Ông ấy bị tổn thương nặng nề nhất theo cách mà một Rồng hay một Kỵ sĩ phải chịu. Trước khi ông ấy có thể giúp anh, em, hay bất cứ ai khác, ông ấy phải quyết định ông ấy có muốn sống nữa không. Cho tới lúc đó, chúng ta không thể nói gì với ông ấy đâu.

13.

KHÔNG VINH QUANG, KHÔNG DANH DỰ, CHỈ CÓ NHỮNG TIẾNG QUÁT THÁO TẠI VÙNG ĐẤT XUI XẺO

Tiếng chuông đeo cổ của lũ chó săn sau họ vang lên càng lúc càng lớn, và chúng đang tru lên vì khát máu.

Ro­ran nắm chặt dây cương và cúi rạp người trên con ngựa đang phi nước đại khiến bụng xóc lên từng hồi.

Anh và năm người đàn ông khác – Carn, Man­del, Bal­dor, Del­win và Hamund – đã trộm những con ngựa tốt từ chuồng ngựa một trang viên cách đây nửa dặm. Những người giữ ngựa nào có thể tử tế với trộm. Họ có thể dùng vài nhát kiếm để cướp ngựa nhưng những người giữ ngựa đã báo với những người gác cửa ngay khi Ro­ran và những người bạn đồng hành trốn khỏi. Thế là mười tên gác cửa đuổi theo họ cùng với bầy chó săn.

“Đây rồi!” anh hét lên và chỉ vào một rặng cây phong chạy chạy dọc hai ngọn đồi gần đó, dẫn tới con suối.

Những người đàn ông thúc ngựa ra khỏi con đường đẹp và hướng về phía những rặng cây. Con đường dù có gồ ghề nhưng chỉ khiến họ châm lại chút đỉnh. Họ không thèm quan tâm tới nguy cơ lũ ngựa có thể bước vào các hố và gẫy chân hoặc họ bị ngã ngựa. Nguy hiểm chính là lũ chó săn đang đuổi sát sườn họ.

Ro­ran thúc chân vào hai bên sườn ngựa và hét “Ya!”. Con ngựa lồng lên phía trước và từng bước đuổi kịp Carn.

Ro­ran biết rằng sức lực của con ngựa sắp tới giới hạn, sau đó dù anh quất roi hay thúc ngựa thế nào nó cũng không đi nổi nữa. Anh ghét phải là người ngược đãi súc vật, anh không muốn bắt con vật chạy tới chết nhưng nếu không anh sẽ không hoàn thành nổi nhiệm vụ.

Khi đi song song với Carn, Ro­ran hét lên, “Anh dùng phép thuật che giấu vết được không?”

“Tôi không biết cách!” Carn đáp, giọng nói bị tiếng gió rít và tiếng ngựa phi át mất. “Câu thần chú đó quá phức tạp!”

Ro­ran chửi thề và liếc nhìn ra sau. Những con chó săn đã quặt ở khúc cua cuối cùng. Chúng chạy như bay với tốc độ quỷ khốc thần sầu. Thậm chí từ khoảng cách này, Ro­ran có thể nhìn thấy màu lưỡi đỏ và những chiếc răng nanh trắng ởn của chúng.

Khi họ tới được rặng cây, Ro­ran quay lại và đi ngược lên đồi, đi gần những cây phong nhất có thể. Những người còn lại làm tương tự, họ ngựa lại khi chúng chạy lên dốc.

Bên phải Ro­ran, Man­del đang phi tới, trên mặt biểu hiện nét cau có. Chàng thanh niên này gây ấn tượng với Ro­ran bởi sức chịu đựng và sự kiên cường trong ba ngày qua. Kể từ khi cha Ka­tri­na, lão Sloan phản bội dân làng, giết chết cha Man­del, ông Byrd, Man­del đã cực kỳ nỗ lực chưng minh cho mọi người thấy cậu ngang hàng với bất cứ thanh niên nào trong làng: cậu đã chứng minh được sự dũng cảm của mình trong hai trận gi­ao tranh giữa quân Var­den và quân Triều đình.

Một cành cây to vụt qua đầu Ro­ran. Anh lùi lại, nghe ngón và cảm thấy những cành cây con va quệt trên mũ trụ. Một chiếc lá khô rơi xuống che mắt phải anh trong giây lát; sau đó cơn gió thổi nó đi mất.

Tiếng thở của con ngựa càng lúc càng nặng nề khi họ đi sâu hơn vào ngọn đồi. Ro­ran che mắt nhìn thấy đàn chó săn chỉ còn cách bọn họ chưa đầy một phần tư dặm. Chắc chắn chỉ vài phút nữa chúng sẽ đuổi kịp bọn họ.

Quỷ tha ma bắt, anh nghĩ thầm. Anh đảo mắt nhìn những rặng cây rậm rạp bên trái và ngọn đồi mọc đầy cỏ dại bên phải như tìm kiếm một cái gì – bất kỳ thứ gì – có thể giúp họ cắt đuôi những kẻ đang bám đuôi.

Đầu óc anh ong ong vì kiệt sức khiến anh suýt bỏ qua nó.

Trước anh hai mươi mét và một con đường nai đi thành lối chạy xuống một bên sườn đồi, cắt ngang con đường họ đang đi sau đó biến mất trong rừng cây.

“Họ!…Họ!…” Ro­ran hét, thúc ngựa và kéo dây cương. Con ngựa dừng lại đi nước kiệu, dù nó có phì phò phản đối và hơi lắc đầu, cố gắng cắn sợi dây cương trong miệng. “Ôi, đừng làm thế,” Ro­ran gầm lên và giật mạnh dây cương hơn.

“Nhanh lên!” anh nói với những người còn lại và quay ngựa tiến vào khu rừng rậm. Không khí bên dưới những rặng cây mát mẻ, có khi lành lạnh khiến bọn họ nhẹ nhõm, bớt đi cơn nóng vì mệt nhọc. Nhưng khoảnh khắc tận hưởng cảm giác khoan khoái chỉ kéo dài trong chốc lát trước khi con ngựa lồng lên và trượt xuống con suối bên dưới. Những chiếc lá khô kêu xào xác dưới móng ngựa. Để không ngã ngựa, Ro­ran gần như cúi rạp trên lưng nó, chân duỗi thẳng về phía trước.

Khi anh trượt xuống hẻm núi, con ngựa gõ móng lên lạch sông sỏi đá, làm nước bắn lên đầu gối Ro­ran. Ro­ran dừng ngựa quan sát xem có ai còn theo anh không. Có, và họ đang nối đuôi nhau trượt xuống khỏi rặng cây.

Phía trêm họ, đầu khu rừng rậm, anh có thể nghe thấy tiếng chó sủa ăng ẳng.

Chúng ta sẽ phải quay lại và đánh nhau thôi, anh nhận ra.

Anh chửi thề và thúc ngựa leo lên khỏi con suối, lên bờ suối mềm, đầy rêu, đi theo con đường anh mòn mờ mờ dấu chân người ngựa.

Không xa dòng suối mấy là bức tường dương xỉ và xa xa là một thung lũng lòng chảo. Ro­ran để ý tới một thân cây đổ có thể làm một vật cản đường nếu anh kéo nó vào đúng vị trí.

Hy vọng họ không có cung, anh nghĩ.

Anh vẫy mấy người bạn, “Ở đây!”

Anh giật cương, buộc con ngựa vượt qua bãi dương xỉ và phi vào thung lũng. Anh trượt khỏi yên ngựa nhưng vẫn bám chắc tay vào đó. Khi chân chạm mặt đất, anh nhăn mặt và ấn trán lên vai ngựa, thở hổn hển đợi cho chân hết run.

NHững người còn lại cho ngựa chạy quanh anh. Không khí ngập tràn mùi mồ hôi và tiếng yên cương kêu lọc cọc. Những con ngựa run rẩy, ngực phập phồng và sùi bọt mép.

“Giúp tôi với,” anh nói với Bal­dor và chỉ về phía thân cây đổ. Họ đặt tay dưới hai đầu thân gỗ dày và lăn nó xuống đất. Ro­ran nghiến răng vì đau hông và lưng. Phi ngựa hết tốc lực trong ba ngày – cùng với việc ngủ chưa tới ba tiếng sau mười hai tiếng ngồi trên lưng ngựa – đã khiến anh suy kiệt.

Đằng nào thì vào trận chiến mình cũng ốm đau rồi bị đánh thừa sống thiếu chết thôi mà, Ro­ran nghĩ vậy khi thả thân gỗ xuống. Ý nghĩ đó dù sao cũng làm anh bớt căng thẳng.

Sáu người đứng trước bầy ngựa, đối diện với bức tường phủ bức tường dương xỉ và rút vũ khí. Bên ngoài thung lũng, những con chó săn tru lên càng lúc càng lớn, những chiếc sủa giận dữ kích động của chúng vang lên hỗn loạn.

Ro­ran căng người và giơ cây búa cao hơn. Sau đó trong tiếng chó sủa anh nghe thấy một gi­ai điệu kỳ lạ, du dương bằng ngôn ngữ cổ xưa từ Carn và khiến anh dựng tóc gáy. Thầy pháp lẩm nhẩm vài từ ngắn, nhanh khiến từ ngữ quện vào nhau. Ngay khi anh ta đọcx ong, anh ra hiệu với Ro­ran và những người khác, căng thẳng nói nhỏ, “Nằm xuống!”

Không hỏi thêm, Ro­ran nằm sạp xuống. Đây không phải lần đầu tiên anh nguyền rủa bản thân không biết dùng phép thuật. Giờ đây tất cả những kỹ năng của một chiến binh đều vô dụng; không có nó buộc anh phải trông cậy vào những người có thể định hình lại thế giới bằng ý trí và vài từ.

Bức tường dương xỉ trước mặt họ rung lên; rồi một con chó thọc cái mõm đen của nó qua tán lá đánh hơi. Del­win rít lên và giơ cao thanh kiếm như thể chặt đầu con chó nhưng Carn húng hắng cảnh cáo và xua tay cho tới khi anh hạ thanh kiếm xuống.

Con chó nhăn trán bối rối. Nó đánh hơi thêm lần nữa rồi dùng cái lưỡi tím, dày bự liếm mép và đi mất.

Khi tán lá về đúng vị trí cũ, Ro­ran từ từ thở hắt ra. Anh nhìn Carn nhướn mày hy vọng một lời giải thích nhưng Carn chỉ lắc đầu và đặt ngón tay lên môi.

Vài giây sau, thêm hai con chó nữa chúi mõm xuống đánh hơi thung lũng, rồi, cũng như con đầu tiên, chúng quay đi. Một lúc sau, đàn chó bắt đầu sủa ăng ẳng, chạy vào rặng cây tìm kiếm con mồi.

Khi ngồi chờ, Ro­ran để ý thấy trên chân có vài vết tím chạy dọc lên hông. Anh chạm vào vùng bầm tím đó và ngón tay anh dính máu. Ở mỗi vết thâm đều có một chỗ rộp da. Anh không chỉ bị thâm ở đó, còn ở tay – nơi anh siết chặt cương đặt biệt là giữa ngón cái và ngón trỏ - và ở gót chân và một số chỗ không thoải mái hơn.

Anh chán ghét chùi những ngón tay xuống đất. Anh nhìn những người bạn đồng hành, nhìn cách họ đang ngồi và quỳ, nhìn thấy vẻ khó chịu trên nét mặt mỗi khi di chuyển và thấy họ đang nắm chắc vũ khí. Sức khỏe của họ đâu có hơn gì anh.

Ro­ran quyết đinh lần tới khi dừng lại nghỉ ngơi anh sẽ nhờ Carn trị thương hộ. Nếu nhưng pháp sư đã quá mệt, Ro­ran sẽ ráng nhịn đau; anh thà chịu đau còn hơn để Carn cạn kiệt sức lực trước khi tới Aroughs, vì Ro­ran đoán khả năng của Carn sẽ rất hữu dụng trong lần vây thành này.

Nghĩ tới Aroughs, trận chiến và làm cách nào để chiến thắng khiến Ro­ran đặt tay lên ngực kiểm tra xem những phong thư mà anh không thể đọc có còn không. Chúng vẫn ở đó.

Sau vài phút dài đằng đẵng căng thẳng, một trong những con chó săn bắt đầu sủa nhặng xị ở trong rặng cây phía trên bờ suối. Những con chó khác phóng nhanh về hướng đó và tiếng tru rú ầm ý đã có nghĩa là chúng đã đuổi rất sát con mồi.

Khi bầy chó đã bỏ đi hết, Ro­ran từ từ đứng dậy và nhìn qua kẽ lá, “Chúng đi hết ròi,” anh nói bằng giọng khe khẽ.

Khi những người khác đứng lên, Hamund – một người đàn ông cao, tóc bóng dầu và có vết nhăn hằn sâu trên khóe miệng dù anh chỉ hơn Ro­ran có một tuổi – quay lại phía Carn, rủa xả, “Sao anh không làm thế từ trước, thay vì để cho chúng tôi chạy như điên như dại qua khu nông thông và suýt gẫy chổ khi trượt xuống đồi hả?” Anh chỉ về phía rạch sông.

Carn đáp lại bằng giọng cáu giận tương tự, “Vì lúc trước tôi không nghĩ ra. Đáng ra anh nên biết ơn vì tôi đã cứu anh không bị đục lỗ đó.”

“Thế sao? Vậy tôi nghĩ anh nên dành nhiều thời gi­an nghiên cứu phép phiếc trước khi chúng ta bị đuổi chạy tới nơi khỉ ho cò gáy nào đó và…”

Sợ cuộc cãi vã của họ sẽ nghiêm trọng hơn, Ro­ran đứng vào giữa hai người, “Đủ rồi,” anh nói, sau đó hỏi Carn, “Anh dựng lá chắn che giấu chúng ta được không?”

Carn lắc đầu. “Lũ người thông minh hơn lũ chó kia.” Anh nhìn Hamund vẻ xem thường. “Ít nhất là hầu hết. Tôi có thể giấu chúng ta nhưng không dấu được vết tích trên đường.” Và anh chỉ về phía trảng dương xỉ bị dẫm nát cũng như vết móng ngựa để lại trên mặt đất ẩm ướt. “Họ sẽ biết chúng ta ở đây. Nếu chúng ta đi trước khi họ tìm ra dấu vết, lũ chó sẽ chạy về phía họ và chúng ta sẽ…”

“Lên ngựa!” Ro­ran ra lệnh.

Thêm vài tiếng chửi thề và rên rẩm nữa rồi những người đàn ông lên lên lưng ngựa. Ro­ran nhìn về thung lũng lần cuối để đảm bảo họ không bỏ quên cái gì rồi dẫn đoàn người đi.

Họ cùng nhau phi nước đại dưới bóng cây và đi khỏi khe núi tiếp tục cuộc hành trình tưởng như không có điểm dừng tới Aroughs. Nhưng một khi đặt chân tới thành phố, Ro­ran chưa biết họ sẽ phải làm gì.

14. THỰC NGUYỆT NHÂN

Er­agon xoay vai khi đi trong trại của quân Var­den, cố gắng chữa chứng ngoẹo cổ vì đấu kiếm với Arya và Blöd­hgarm đầu chiều.

Khi nó bước lên đỉnh một ngọn đồi nhỏ trông như một hòn đảo cô đơn giữa một rừng lều bạt, nó chống tay lên hông và quan sát cảnh vật. Trước mắt nó là mặt nước hồ Leona đen lấp loáng trong ánh chạng vạng và ánh đuốc vàng chiếu ra từ khu lều. Var­den đã hành quân trên con đường giữa khu lều và bờ sông: theo như Jeod bảo nó, con đường đá cuội đó có trước khi Gal­ba­torix giết chết các Kỵ sĩ. Cách đây một phần tư dặm về phía bắc là một ngôi làng chài nhỏ ngay sát bờ sông. Er­agon thừa biết dân làng chẳng vui vẻ gì khi quân đội tới đóng quân ngay trên cửa ngõ ra vào của họ.

Trò phải học… nhìn những gì trò thấy.

Từ khi rời khỏi Be­la­tona, Er­agon dành hàng giờ nghiền ngẫm lời khuyên của Glae­dr. Nó không biết ông rồng định nói gì, vì Glae­dr không chịu nói thêm gì sau đó. Và thế là Er­agon đành tự mình suy diễn câu nói đó theo nghĩa đen. Nó đang thực sự nhìn những gì trước mắt nó, dù cho thứ đó nhỏ và không đáng chú ý tới đâu, và cố gắng hiểu xem câu nói của ông rồng có ngụ ý gì.

Dù nó cố gắng lắm nhưng chỉ chuốc lấy thất bại. Dù nhìn thấy gì, thấy bao nhiêu nó vẫn không nhìn ra thứ nó cần thấy. Tệ hơn, giờ nó còn chẳng hiểu gì, ví dụ như vì sao khói lại bốc lên từ ba ống khói trong khu làng chài.

Dù nó cảm thấy chưa hiểu gì nhưng những nỗ lực của nó ít nhất cũng thu về một thành quả: Arya không còn có thể đánh bại nó trong mỗi lần gi­ao chiến. Nó quan sát nàng cẩn trọng gấp đôi, quan sát nàng như thể nàng là một con nai còn nó là kẻ săn mồi – về cuối cùng, nó cũng thắng được vài hiệp. Nhưng, nó vẫn chưa ngang cơ với nàng, vẫn kém nàng quá nhiều. Nó chưa biết nó cần học gì – hay ai có thể dạy nó – để trở thành tay kiếm lão luyện như nàng.

Có lẽ Arya nói đúng, kinh nghiệm là thầy dạy tốt nhất cho mình lúc này, Er­agon nghĩ. Cần có thời gi­an để đúc rút kinh nghiệm, nhưng mình lại đâu có nhiều thời gi­an. Mình sắp tới Dras-​Leona và rồi tớ Urȗ’baen. Nhiều nhất là vài tháng nữa mình và mọi người sẽ phải đối mặt với Gal­ba­torix và Shruikan.

Nó thở dài và xoa mặt, cố nghĩ tới chuyện gì nhẹ nhàng hơn. Nhưng cuối cùng bao giờ nó cũng quay lại nghĩ tới những chuyện nó khúc mắc trong lòng, lo lắng về những chuyện đó nhưu một con chó nghĩ tới khúc xương, càng lúc càng căng thẳng.

Không nghĩ thêm được gì, nó đi xuống đồi. Nó lang thang trong những căn lều dưới ánh chiều chạng vạng, đi về phía lều của nó nhưng chẳng để ý gì tới đường đi. Đi bộ lúc nào cũng giúp nó bình tĩnh. Những người đàn ông luôn luôn tránh đường cho nó đi và đặt nắm tay lên ngực cùng một tiếng chào nho nhỏ, “Chào Khắc tinh của tà thần,” còn Er­agon lịch sự gật đầu đáp lễ.

Nó đi bộ khoảng mười lăm phút, dừng lại và bắt đầu nghĩ ngợi thì nghe thấy một tiếng phụ nữ la chói lói đầy hứng khởi. Nó tò mò đi về phía âm thanh phát ra cho tới khi thấy một căn lều năm xa cách khu trại, gần gốc liễu khẳng khiu, cái cây duy nhất gần hồ mà quân đội không đốn hạ làm củi đun.

Ở đó, dưới những tán cây là một cảnh tượng kỳ lạ nhất nó từng thấy.

Mười hai Ur­gal bao gồm cả thủ lĩnh của bọn họ, Nar Garzhvog, ngồi thành hình bán nguyệt quanh đám lửa đang bập bùng cháy. Vẻ sợ hãi nhảy nhót trên gương mặt họ, khắc họa rõ nét hàng lông mày rậm, xương gò má rộng và quai hàm lớn cũng như những chóp sừng trên trán và cong xuống hai bên đầu. Ur­gal để trần tay và ngực, trừ một bao da quanh cổ tay và một dải vải da đeo chéo vai xuống eo. Trừ Garzhvog còn có ba Kull nữa hiện diện. Kích thước khổng lồ của họ khiến cho những Ur­gal còn lại – không ai dưới mét tám – trở nên nhỏ như một đứa bé.

Lẫn trong đám Ur­gal, là vài tá mèo ma ở lốt thú. Rất nhiều con mèo ngồi thẳng trước đống lửa, im lìm, không quật đuôi, tai dựng đứng. Những con khác nằm bò trên mặt đất, trong lòng Ur­gal hoặc nằm trên tay họ. Er­agon kinh ngạc khi thấy một con mèo ma – một con mèo trắng cái gầy nhẳng – nằm cuộn tròn trên đầu một Kull, chân trước của nó đặt lên một bên sương xọ hắn và móng bấu chặt vào lông mày. Dù mèo ma nhỏ bé hơn Ur­gal nhưng chúng cũng dữ đằn tương tự và Er­agon biết nó cần dè chừng tộc nào hơn; nó hiểu Ur­gal nhưng mèo ma thì… thật khó đoán.

Đối diện với chúng, ở bên kia đống lửa, phía trước khu lều là bà lang An­gela. Bà ngồi khoanh chân trên một chiếc chăn và quay sợi. Cả mèo ma và Ur­gal đều chăm chú nhìn bà, không dời mắt nghe bà nói: “…nhưng hắn quá chậm và con thỏ mắt đỏ giận dữ đã xé toạc cổ họng Hord, giết chết hắn ngay lập tức. Sau đó con thỏ chạy tọt vào rừng, không ai còn biết tới nó nữa. Nhưng” – nói tới đây An­gela hạ thấp giọng – “nếu các người đi qua khu rừng đó, như tôi từng có dịp… thi thoảng, thậm chí trong ngày hôm nay, các người sẽ thấy một con nai vừa mới bị giết hoặc một Feldȗnost trông như thể bị nhấm nháp ăn dần, như một cây củ cải. Và quanh nó, các người sẽ thấy những dấu chân thỏ lớn khác thường. Thi thoảng một chiến binh của Kvôth sẽ mất tích, khi người ta tìm thấy thì hắn ta đã chết với cổ họng bị xé toạc… luôn luôn trong tình trạng cổ họng bị xé toạc.

Bà chỉnh lại tư thế ban đầu. “Ter­rin rất buồn vì mất bạn và cậu ta muốn bắt được con thỏ nhưng những người lùn vẫn cần sự giúp đỡ từ cậu. Vì thế cậu ta trở lại thành lũy và vì thành đã bị vây hãm trong ba ngày ba đêm, nguồn lương thực cạn kiệt và binh lính đều bị thương.

“Cuối cùng, vào buổi sáng ngày thứ tư, khi tưởng như đã hết hy vọng, những đám mây tản ra và từ xa, Ter­rin ngạc nhiên nhìn thấy Mim­ring bay tới thành dẫn đầu một trận sấm rồng. Cảnh tượng về những con rồng khiến những kẻ công thành vô cùng hoảng sợ và họ ném vũ khí bỏ chạy vào rừng sâu.” Bà An­gela cong môi. “Đó, như các người có thể tưởng tượng ra những người lùn của Kvôth vui mừng như thế nào.

“Khi Mim­ring đậu xuống, Ter­rin ngạc nhiên nhìn thấy những vẩy trên người nó sáng như kim cương vì Mim­ring bay quá gần mặt trời – để dẫn đường cho những con rồng khác, nó phải lượn qua lượn lại trên đỉnh núi Be­or, cao hơn bất cứ con rồng nào trước và sau đó. Từ đó trở đi, Ter­rin trở thành anh hùng trong Trận chiến Kvôth, và con rồng của cậu mang tên Mim­ring Rực rỡ vì lớp vảy trên người và họ sống hạnh phúc mãi mãi. Nhưng, đúng ra mà nói, Ter­rin luôn luôn bị ám ảnh bởi lũ thỏ cho tới lúc già. Và đó là chuyện thực sự xảy ra với Kvôth.”

Sau đó bà im lặng, bầy mèo ma rên rừ rừ và Ur­gal gầm gừ vài tiếng tán thưởng.

“Bà kể rất hay, thưa Uluthrek,” Garzhvog nói, giọng nói của ông ta như thể đá lăn từ núi xuống.

“Cám ơn.”

“Nhưng đó không phải câu chuyện tôi từng được nghe,” Er­agon nhận xét khi bước về phía đống lửa.

Biểu hiện trên khuôn mặt An­gela sáng lên. “Ừ, cậu đừng mong những người lùn thừa nhận họ được con thỏ tha mạng chứ. Cậu trốn trong bóng tôi nghe lỏm toàn bộ à?”

“Không, chỉ vài phút thôi,” nó thú nhận.

“Vậy thì cậu đã bỏ qua phần hay nhất rồi, và tối nay tôi sẽ không kể lại đâu. Cổ họng tôi khô rát rồi.”

Er­agon cảm thấy mặt đất rung lên khi Kull và các Ur­gal khác đứng dậy khiến lũ mèo ma nằm trong lòng họ không vui, vài con còn gào lên phản kháng khi rơi xuống đất.

Khi nó nhìn những khuôn mặt có sừng xấu xí tập trung quanh đống lửa, nó phải kìm lắm mới không rút kiếm. Kể cả sau một thời gi­an chiến đấu, hành quân và đi săn cùng Ur­gal thậm chí trao đổi tư tưởng cùng vài kẻ trong số họ, sự hiện diện của họ vẫn khiến nó ngỡ ngàng. Nó hiểu họ là quân đồng minh, nhưng xương cốt và cơ bắp vẫn không thể nào quên đi sự kinh hoàng thấm sâu trong người nó khi chiến đâu với đồng bọn của họ trong những trận chiến.

Garzhvog bỏ cái gì đó ra từ cái túi da nhỏ đeo trên thắt lưng. Ông ta đưa bàn tay dày cui qua đổng lửa, đưa vật đó cho An­gela lúc đó đang hạ con suốt xuống và nhận lấy vật đó. Đó là một pha len màu xanh nước biển thô ráp trông rống như bông tuyết bị đông cứng sáng lấp lánh. Bà bỏ nó vào ống tay áo rồi cầm con suốt lên.

Garzhvog nói, “Thi thoảng bà phải tới lều của chúng tôi đó Uluthrek và chúng tôi sẽ kể cho bà nghe rất nhiều câu chuyện của chúng tôi. Chúng tôi có người kể chuyện. Anh ta rất khá; khi bà nghe anh ta ngâm câu chuyện về chiến thắng của Nar Tulkhqua tại Stavarosk, máu bà sẽ sôi lên và bà sẽ thấy như mình đang tru lên dưới ánh trăng và đấu sừng với những kẻ thù mạnh nhất.”

“Điều này còn tùy thuộc anh có sừng để đấu không chứ,” An­gela nói. “Tôi rất vinh hạnh được ngồi nghe chuyện với anh. Có lẽ tối mai đi?”

Kull khổng lồ đồng ý; sau đó Er­agon hỏi. “Stavarosk ở đâu? Tôi chưa bao giờ nghe.”

Ur­gal rì rầm không vui và Garzhvog hạ đầu khụt khịt như một con bò đực. “Anh đùa gì thế, Hỏa kiếm?” ông ta hỏi. “Anh muốn thách thức chúng tôi sao?” Ông ta đóng mở nắm tay thể hiện rõ ý đe dọa.

Er­agon đề phòng nói, “Tôi không có ý xúc phạm, thưa Nar Garzhvog. Tôi thành thực có ý hỏi vậy; tôi chưa bao giờ nghe tới cái tên Stavarosk.”

Những tiếng rầm rì ngạc nhiên vang lên giữa các Ur­gal. “Sao lại có thể?” Garzhvog nói “Không phải con người nào cũng biết về Stavarosk sao? Không phải những con người ở phía bắc rặng Be­or luôn nói về chiến thắng lớn nhất của chúng tôi sao? Nếu các nơi khác không biết thì quân Var­den chắc chắn biết.”

An­gela thở dài và không thèm nhìn lên nói. “Tốt nhất anh phải bảo bọn họ kể thôi.”

Er­agon cảm thấy Saphi­ra đang quan sát và nó biết cô sắp sửa bay tới nếu cuộc ẩu đả là không thể tránh.

Nó cẩn trọng lựa chọn từ ngữ và nói, “Không ai kể cho tôi nghe, nhưng vì tôi không ở cùng Var­den lâu nên…”

“Dra­jl!” Garzhvog chửi thề. “Kẻ phản bội không có sừng thậm chí không có đủ dũng khí thừa nhận thất bại. Hắn là kẻ hèn nhát và dối trá!”

“Ai? Gal­ba­torix à?” Er­agon cẩn trọng hỏi.

Những con mèo rít lên khi nghe nhắc tới tên bạo chúa.

Garzhvog gật đầu. “Đúng. Khi hắn lên nắm quyền, hắn đã đuổi cùng giết tận loài chúng tôi. Hắn đã gửi một đội quân lớn tới núi Spine. Binh lính của hắn đã xông vào làng của chúng tôi, đốt xương chúng tôi và để lại mắt đất đen sì và nỗi cay đắng ở lại sau. Chúng tôi đã đánh trả - lúc đầu vì vui, sau là trong tuyệt vọng, nhưng vẫn chống trả. Đó là điều duy nhất chúng tôi có thể làm. Chúng tôi không có chốn dung thân, không có chỗ trốn. Ai sẽ bảo vệ Ur­gal­gra khi các Kỵ sĩ đã ngã xuống?

“Chúng tôi may mắn. Chúng tôi có một thủ lĩnh tài ba, Nar Tulkha. Ông ấy từng bị loài người bắt giữ, từng dành nhiều năm chiến đấu với họ nên hiểu cách nghĩ của họ. Vì thế, ông có thể tập hợp rất nhiều bộ tộc lại. Sau đó ông lừa quân đội của Gal­ba­torix vào trong một khe núi hẹp và chúng tôi từ trên ném gỗ xuống. Đó là một trận chiến đẫm máu đó Hỏa kiếm. Máu chảy lênh láng, người chất thành đống cao hơn đầu tôi. Cho tới ngày hôm nay, nếu anh tới Stavarosk, anh vẫn cảm thấy xương kêu răng rắc dưới chân và có thể tìm thấy những đồng tiền, kiếm và những mảnh áo giáp dưới lớp rong rêu.

“Hóa ra là các người!” Er­agon reo lên. “Cả đời tôi từng nghe nói Gal­ba­torix đã từng mất một nửa số quân lính trong rặng Spine nhưng không ai nói cho tôi biết vì sao hay thế nào.”

“Hơn một nửa số lính đấy Hỏa kiếm.” Garzhavog xoay vai và gầm gừ trong họng. “Và giờ tôi thấy chúng ta cần lan truyền câu chuyện đó để mọi người đều biết về chiến thắng của chúng tôi. Chúng tôi sẽ tìm những người kể chuyện, những thi sĩ loài người, dạy họ bài hát về Nar Tulkhqua và đảm bảo họ nhớ rằng phải hát thường xuyên và hát lớn.” Ông gật đầu như thể đã quyết ý rồi nói, “Tạm biệt, Hỏa kiếm. Tạm biệt, Uluthrek.” Sau đó ông ta và những chiến binh biến mất trong bóng tối.

An­gela tặc lưỡi khiến Er­agon giật mình.

“Gì thế?” nó hỏi và quay lại nhìn bà.

Bà mỉm cười. “Tôi đang tưởng tượng ra cảnh mấy tay thổi sáo tội nghiệp sẽ thế nào trong vài phút nữa khi về lều, thấy mười hai Ur­gal, bốn Kull đứng ngoài, vui vẻ dạy anh ta về văn hóa của Ur­gal. Tôi sẽ ấn tượng nếu chúng ta không nghe tiếng hét đó.” Bà lại tặc lưỡi.

Er­agon cũng hứng thú tượng tự. Nó ngồi xuống dùng một cành cây gẩy đống than củi. Nó cảm nhận một vật nặng nề ấm áp trong lòng, khi nhìn xuống nó thấy con mèo ma trắng cuộn tròn trên chân. Nó đưa tay vuốt lông nó rồi nghĩ ngợi gì đó lên tiếng hỏi. “Có được không?”

Con mèo trắng vẫy đuôi phớt lờ nó.

Hy vọng mình không làm gì sai, Er­agon cẩn trong gãi gãi cổ sinh vật. Một lát sau, một tiếng rừ rừ to vang lên.

“Cô ấy thích cậu,” An­gela nhận xét.

Không hiểu vì sao Er­agon lại thấy cực kỳ phấn chấn. “Cô ấy là ai thế ạ? Ý tôi là, cô tên gì? Tên cô là gì?” Nó liếc nhìn con mèo ma lo lắng mình khiến cô mèo phật ý.

An­gela cười. “Tên cô ấy là Thợ săn đêm. Hay đúng hơn, đó là nghĩa tên cô ấy dịch ra từ ngôn ngữ mèo ma. Đúng hơn, cô ấy là.” Nói tới đây, bà lang húng hắng ho, âm thanh đó khiến Er­agon dựng tóc gáy. “Thợ săn đêm là vợ Grim­rr Nửa vuốt, có người nói cô ấy từng là nữ hoàng của loài mèo ma.”

Tiếng rừ rừ cáng lúc càng lớn.

“Tôi hiểu.” Er­agon nhìn quanh những con mèo ma khác. “Solem­bum đâu?”

“Đang bận đuổi theo một con mèo vằn bằng nửa số tuổi của cu cậu. Cậu ta hành động như thể mèo con ấy… nhưng dù sao trong đời ai chẳng có một lần ngốc nghếch.” Bà lang giữ quay xa bằng tay trái, dừng nó lại và đưa một sợi bông mới vào đĩa sợi. Sau đó và tiếp tục xe sợi. “Có vẻ cậu có nhiều câu hỏi đó, Khắc tinh của tà thần.”

“Mỗi khi tôi gặp bà, tôi luôn luôn cảm thấy càng lúc càng mông lung.”

“Luôn luôn? Cậu chuyên chế nhỉ. Được rồi, tôi sẽ cố trả lời xem. Hỏi đi.”

Thấy bà ta cởi mở, Er­agon cân nhắc nên hỏi gì trước. Cuối cùng nó hỏi, “Một cơn sấm rồng? Ý bà là…”

“Đấy là cụm từ đúng để chỉ một đàn rồng. Nếu cậu có cơ hội nghe tiếng chúng vỗ cánh, cậu sẽ hiểu. Khi mười, mười hai hoặc nhiều hơn bay trên đầu cậu, cậu sẽ thấy không khí rền rĩ xung quanh cậu như thể cậu đang ngồi trong một cái trống cỡ cực đại. Không thì cậu gọi một đàn rồng là gì? Cậu goi là một bầy quả, một đội đại bàng, một đàn ngỗng trời, một lũ vịt, một đàn chim giẻ cùi, một bầy cú, v.v… nhưng còn rồng thì sao? Một sự đói khát chắc? Không được. Không thể gọi chúng là một ngọn lửa hay nỗi sợ, dù ta thích từ nỗi sợ, Nhưng không, một đàn rồng gọi là một cơn sấm. Cậu sẽ biết nếu như cậu có thời gi­an đầu tư vào sách vở hơn là mua kiếm và vài từ bằng ngôn ngữ cổ.”

“Chắc chắn là bà đúng,” nó nói. Qua mối liên kết luôn hiện hữu giữa nó và Saphi­ra, nó biết cô nàng đồng ý với cụm “một cơn sấm rồng.” Nó cũng nghĩ như vậy vì so sánh như thế rất hợp lý.

Nó cân nhắc một lúc lâu hơn rồi hỏi, “Sao Garzhvog lại gọi bà là Uluthrek?”

“Đó là danh xưng Ur­gal đã đặt cho ta từ rất lâu, từ hồi ta sống cùng họ.”

“Nghĩa là gì?”

“Thực nguyệt nhân.”

“Thực nguyệt nhân? Tên lạ nhỉ? Sao bà lại có tên đó?”

“Ta ăn mặt trăng chứ còn làm sao nữa?”

Er­agon nhíu mày và quan tâm vào việc vuốt ve con mèo ma trong chốc lát. “Sao Garzhvog lại đưa bà viên đá?”

“Vì ta kể chuyện cho hắn. Rõ ràng thế còn gì.”

“Nhưng viên đá đó là gì?”

“Một mẩu đá. Cậu không thấy sao?” Bà kêu khục khục vẻ không tán đồng. “Cậu thật sự nên để ý tới những gì xung quanh hơn. Nếu không sẽ có ngày có người cầm dao đâm cậu khi cậu không để ý. Nếu cậu chết tôi sẽ nói những điều bí ẩn của tôi cho ai?” Bà hất tóc. “Tiếp đi. Tôi rất thích chơi trò này.”

Cậu nhướn lông mày và dù biết câu hỏi vô nghĩa, nhưng vẫn hỏi, “Chiếp chiếp?”

Bà lang cười váng lên và vài con mèo ma mở miệng nở một nụ cười đầy răng. Nhưng Thợ săn đêm có vẻ không hài lòng vì cô ta cắm móng lên chân Er­agon khiến nó nhăn mặt.

“Ờm,” An­gela vừa cười vừa nói, “nếu cậu phải có câu trả lời thì tôi sẽ kể cho cậu nghe một câu chuyện hay ho. Xem nào… Vài năm trước khi ta đi lang thang dọc biên giới phía tây Du Welden­var­den, cách xa các thành phố, làng mạc, thị trấn. Ta tình cờ gặp Grim­rr. Lúc đó cậu ta chỉ là một thủ lĩnh một bộ tộc nhỏ và còn đủ móng vuốt. Lúc đó tôi gặp cậu ta đang đua với một con sáo non rơi từ tổ xuống. Tôi sẽ không để ý nếu cậu ta giết và ăn nó – mèo nào chẳng làm thế - nhưng cậu ta hành hạ con vật tội nghiệp: gi­ang cánh nó ra, cắn đuôi nó, làm què chân nó rồi đè ngửa nó ra. An­gela nhăn mũi khó chịu. “Tôi nói rằng cậu ta phải ngừng lại nhưng cậu ta gào trả và lờ tôi đi.” Bà nhìn Er­agon bằng ánh mắt lạnh lùng. “Tôi không thích mọi người lờ tôi. Vì thế tôi lấy con chim và chỉ tay niệm thần chú. Thế là trong một tuần, cứ hễ cậu ta mở mồm ra là lại kêu như chim.”

“Ông ấy kêu chiếp chiếp á?”

An­gela gật đầu. “Tôi chưa bao giờ cười đau ruột tới vậy. Không một con mèo ma nào dám lại gần cậu ta trong một tuần.”

“THể nào ông ấy ghét bà.”

“Thế đã sao? Nếu cậu không có kẻ thù, cậu là kẻ hèn nhát – có khi còn tệ hơn. Nhưng nhìn thấy phản ứng của cậu ta cũng đáng. Ôi, cậu ta đã rất tức giận!’

Thợ săn đêm gừ nhẹ cảnh cáo và co vuốt lại lần nữa.

Đau, Er­agon nói. “Có lẽ tốt hơn chúng ta nên chuyển đề tài.”

“Ừm.”

Trước khi nó nghĩ ra một câu hỏi mới, một tiếng thét lớn vang lên từ trong khu trại. Tiếng thét vang lên ba lần trước khi tất cả rơi vào im lặng.

Er­agon nhìn An­gela và bà nhìn nó rồi cả hai bật cười.

15. NGHE NGÓNG VÀ VIẾT LÁCH

Er­agon đang trên đường về lều thì nghe giọng Saphi­ra, Muộn rồi đấy. Cô nàng đang nằm cuộn tròn trước lều nó, dưới ánh đuối mờ mờ trông nó như một núi than xanh. Cô nàng nhìn nó bằng một mắt lờ đà lờ đờ.

Nó xoa đầu và cụng đầu cô rồng trông một lát. Ừ, cuối cùng nó nói. Và em cũng nghỉ ngơi sau chuyến bay cả ngày nay. Ngủ đi, mai gặp lại em.

Cô rồng chớp mắt ra vẻ hiểu.

Er­agon vào trong lều, thắp một ngọn nến duy nhất. Sau đó nó cởi giày và ngồi lên võng chân khoanh lại. Nó từ từ hít thở và để đầu óc mở rộng, vươn ra chạm vào tất cả những sự sống xung quanh, từ sâu bọ bên dưới chỗ Saphi­ra nằm tới những chiến binh Var­den và thậm chí cả vài cây còn lại xung quanh khu vực. Năng lượng phát ra từ cây cối mờ nhạt và khó nhìn nếu so sánh với nguồn sáng rực rỡ phát ra từ những sinh vật nhỏ bé nhất.

Nó ngồi đó một lúc lâu, để cho đầu óc trống rỗng. Nó biết tới hàng ngàn những cảm xúc khác nhau, dù rõ nét hay mờ nhạt. Nó không tập trung vào thứ gì ngoại trừ hít thở đều đặn.

Từ đằng xa, nó nghe tiếng những người đàn ông nói chuyện phiếm quanh đống lửa. Không khí ban đêm mang tiếng nói của họ đi xa hơn ý định, đủ xa để khiến những đôi tai thính nghe rõ từng từ. Nó có thể cảm nhận trí óc họ, đọc được ý nghĩ nếu nó muốn, nhưng nó chọn tôn trọng quyền riêng tư và chỉ nghe họ nói chuyện.

Người đàn ông giọng trầm nói, “…cái cách họ nhìn mày ấy, như thể mày là đáy của đáy xã hội rồi. Họ hầu như có thèm nói chuyện với mày khi mày hỏi họ đâu. Họ chỉ quay người bước đi mất thôi.”

“Ừ,” người kia nói. “Và phụ nữ của họ - xinh đẹp như tượng và quyến rũ.”

“Đó là lý do vì sao mày là một thằng khốn xấu xí đúng nghĩa đó, Svern. Đấy là lý do đấy.”

“Chuyện bố tao đi tới đâu là tán gái tới đó không phải lỗi của tao. Hơn nữa, mày làm gì có quyền đứng đó mà nhận xét này nọ; mặt mũi mày đủ khiến lũ trẻ gặp ác mộng rồi.”

Chiến binh giọng trầm càu nhàu; sau đó một ai đó ho húng hắng và Er­agon nghe tiếng xì xì như khi củi cháy gặp chỗ ẩm.

Người thứ ba bước vào cuộc nói chuyện: “Tao không thích tụi tiên hơn gì bọn mày, nhưng chúng ta cần có họ mới thắng được.”

“Nhưng nếu sau đó họ quay lưng với chúng ta thì sao?” người giọng trầm hỏi.

“Nghe đi,” Svern nói thêm. “Nhìn chuyện gì đã xảy ra ở Ce­unon và Gil’ead. Với toàn bộ quân đội và quyền năng mà Gal­ba­torix cũng không thể chặn nổi họ vượt qua thành lũy.”

“Có thể vì lão ta không thử,” người thứ ba đưa ra giả thiết.

Một hồi im lặng kéo dài.

Sau đó người giọng trầm cất tiếng, “Giờ tôi chỉ có duy một suy nghĩ không vui… Dù lão có hay không thử, tôi không nghĩ chúng ta có thể làm gì họ nếu họ muốn đòi quyền sở hữu vũng đất củ của mình. Họ nhanh hơn và mạnh hơn chúng ta, và không giống như chúng ta, tất cả đều biết dùng phép.”

“Nhưng chúng ta có Er­agon,” Svern phản đối. “Ngài ấy có thể đẩy họ về rừng nếu muốn.”

“Ngài ấy á? Ngài ấy giống tiên hơn loài người. Tao không tin vào lòng trung thành của ngài ấy hơn lũ Ur­gal.”

Người thứ ba lại nói: “Bọn mày có để ý không, ngài ấy lúc nào cũng mày râu nhẵn nhụi dù chúng ta nhổ trại sớm thế nào.”

“Chắc ngài ấy dùng phép thuật để cạo râu.”

“Đi ngược lại quy luật của tự nhiên. Giờ phép thuật cứ xẹt qua xẹt lại suốt ngày. Các pháp sư đâu cần chúng ta mà vẫn giết được kẻ thù cơ mà.”

“Nhưng mày đâu có kêu ca gì khi thầy thuốc dùng phép thuật trị thương thay vì dùng kẹp nhổ mũi tên ra khỏi vai mày nhỉ.”

“Có thể, nhưng nếu không có Gal­ba­torix tao đâu có dính tên vào vai. Chính lão và phép thuật của lão là căn nguyên cho tất cả mớ hổ lốn sau này.”

Ai đó khịt mũi. “Đúng, nhưng tao thề, dù có Gal­ba­torix hay không, đời mày kiểu gì chẳng lãnh tên một lần. Mày không làm được gì ngoài đánh nhau đâu.”

“Mày biết là Er­agon đã cứu mạng tao hồi ở Fe­in­ster,” Svern nói.

“Đúng, và nếu mày còn lải nhải chuyện đó lần nữa, tao sẽ cho mày cọ nồi cả tuần.”

“Ờ, ngài ấy đã….”

Lại một hồi im lặng nữa. Nó chỉ bị phá vỡ sau tiếng thở dài của người chiến binh giọng trầm. “Chúng ta cần tìm cách tự bảo vệ mình. Đây là vấn đề. Chúng ta được thần tiên, pháp sư – của ta và của họ - che chở và sống nhờ các sinh vật khác trên mảnh đất này thương tình mới sống nổi. Những người như Er­agon luôn sống ổn nhưng chúng ta không máy mắn như ngài ấy. Cái chúng ta cần là …”

“Cái chúng ta cần,” Svern nói, “là các Kỵ sĩ rồng. Họ đưa thế giới về đúng trật tự.”

“Xì. Với con rồng nào? Mày không thể trở thành kỵ sĩ mà không có rồng. Hơn nữa, chúng ta vẫn không thể tự bảo vệ mình và điều đó khiến tao lo. Tao không còn là đứa bé trốn dưới váy mẹ, nhưng nếu Tà thần xuất hiện trong đêm, chúng ta chẳng thể làm gì ngoài đưa đầu cho hắn chém.”

“Nói mới nhớ, mày có nghe gì về Lãnh chúa Barst không?” người thứ ba hỏi.

Svern lẩm bẩm đồng ý. “Tao nghe nói về sau ông ấy ăn tim mình.”

“Cái gì nữa đây?” chiến binh giọng trầm nói.

“Barst…”

“Barst?”

“Mày biết đó, bá tước vùng Gil’ead.”

“Không phải là người phi ngựa tới Rảm chỉ để chọc giận…”

“Đúng người đó đó. Lão ta đã vào ngôi làng này và yêu cầu trai tráng nhập ngũ cho Gal­ba­torix. Chỉ có điều, họ không đồng ý và tấn công lại Barst và binh sĩ của lão.”

“Dũng cảm,” người giọng trầm nói. “Ngu nhưng dũng cảm.”

“Ờm, Barst lại quá thông minh so với họ; lão cho cung thủ bao quanh làng trước khi tiến vào. Những binh sĩ đã giết một nửa trai tráng và những người còn lại cũng hấp hối. Không có gì bất ngờ. Sau đó Barst bắt sống trưởng làng, người khởi nguồn cuộc đấu tranh rồi dùng tay bẻ cổ ông ấy và vặt đầu ông ấy.”

“Không.”

“Như vặt đầu gà. Tệ hơn, lão ra lệnh thiêu sống người thân của ông ấy.”

“Barst phải khỏe ngang Ur­gal,” Svern nói.

“Có thể lão có mánh khóe gì đó.”

“Hay là dùng pháp thuật?” người giọng trầm nói.

“Nhưng theo những gì chúng ta biết, lão có sức mạnh – và cáo già nữa. Người ta kể, khi còn trẻ hắn chỉ một đòn đấm giết chết bò rồi.”

“Tao nghe vẫn thấy có hơi hướm phép thuật quanh đây.”

“Đó là vì lúc nào mày cũng thấy pháp sư xấu ẩn nấp trong bóng tối thôi.”

Người giọng trầm làu nhàu nhưng không nói gì.

Sau đó, những người chiến binh tản ra để vào ca gác nên Er­agon không nghe được thêm gì. Trong lúc khác, cuộc nói chuyện của họ sẽ khiến nó không vui, nhưng vì đang suy tưởng nên nó vẫn bình tĩnh. Nhưng mặt khác nó cố nhớ những gì họ nói để sau này có dịp suy ngẫm.

Sau khi suy nghĩ đã đi đúng trật tự, nó cảm thây bình tĩnh và thư thái. Er­agon đóng đầu óc lại, mở mắt và duỗi chân cho khỏi tê.

Nó nhìn chằm chằm ánh lửa chập chờn trong một phút, bị mê hoặc bởi ánh lửa nhảy nhót.

Sau đó nó tới chỗ đặt túi yên cương và lấy bút lông ngỗng, lọ mực, giấy da dê nó xin Jeod vài ngày trước, cùng bản sao cuốn Do­mia abr Wyr­da mà một học giả già đưa cho nó.

Er­agon trở lại võng, đẩy cuốn sách nặng sang bên để không vẩy mực lên đó. Nó đặt khiên dưới đầu gốc như đặt một cái khay và trải tờ giấy da dê trên bề mặt cong võng. Nó ngửi thấy mùi ta nanh thơm sắc khi mở nắp lọ mực và nhúng bút lông ngỗng vào.

Nó gạt đầu bút lông vào miệng lo để tránh mực tràn rồi cẩn thận đặt nét bút đầu tiên. Tiếng bút lạo xạo trên giấy khi nó viết những con chứ bằng ngôn ngữ loài người. Khi nó viết xong, nó so sánh bản này và bản hôm qua để xem liệu chữ viết của nó có tiến bộ - chỉ một chút – và so sánh với chữ trong cuốn Do­mia abr Wyr­da nó dùng làm sách mẫu.

Nó nhìn bảng chữ cái thêm ba lần nữa, đặc biệt để ý tới những con chứ khó viết nhất. Sau đó nó bắt đầu viết những suy nghĩ và những quan sát trong ngày. Bài tập này không chỉ hữu ích vì giúp nó luyện chữ mà còn hiểu những thứ nó nhìn và làm trong ngày tường tận hơn.

Nó cần cù viết vì nó thấy được sự hứng thú từ thử thách tính kiên nhẫn này. Luyện chữ khiến nó nhớ tới ông Brom, về cách người kể chuyện già dạy nó ý nghĩa từng con chữ, giúp nó cảm nhận sự gần gũi của người cha đã xa cách nó.

Sau khi viết mọi thứ nó muốn, nó rửa sạch bút lông ngỗng và chuyển sang bút lông và chọn một tờ giấy một nửa đã chi chít những con chữ tượng hình của ngôn ngữ cổ xưa.

Bắt khó bắt chước kiểu chữ Liduen Kvaed­hí của thần tiên khó hơn là viết chữ của loài người do chữ tượng hình tượng trưng cho các hình dạng trong đời sống. Nhưng nó vẫn học viết vì hai lý do: nó cần biết mặt chữ. Và nếu như nó viết cái gì bằng ngôn ngữ cổ, nó nghĩ mình nên viết lại bằng kiểu chữ hầu hết loài người không đọc được.

TRí nhớ của Er­agon rất tốt, nhưng dù thế đi chăng nữa, nó đã bắt đâu quên những câu thần chú ông Brom và thầy Oromis đã từng dạy nó. Vì thế nó quyết định tạo ra một cuốn từ điển tất cả những từ nó biết bằng ngôn ngữ cổ. Lúc đầu nó cũng không thấy được tầm quan trọng của bản tóm tắt này cho tới gần đây.

Nó viết từ điển trong vài tiếng nữa sau đó bỏ bút mực vào túi yên cương và lấy ra hộp đựng trái tim ông rồng Glae­dr. Nó cố gắng đánh thức ông rồng già như đã làm nhiều lần trước đó nhưng kết quả vẫn như cũ. Er­agon không chịu từ bỏ. Nó ngồi cạnh chiếc hộp đã mở, đọc to cho Glae­dr nghe về những nghi thức, lễ hội của người lùn viết trong cuốn Do­mia abr Wyr­da – Er­agon biết một vài – cho tới lúc đêm đã lạnh nhất và tối nhất.

Sau đó, Er­agon đặt cuốn sách sang một bên, thổi tắt nến và nằm xuống võng ngủ. Nó lơ mở ngủ một lúc. Ngay khi ánh sáng đầu tiên xuất hiện ở đằng đông, nó ngồi thẳng dậy bắt đầu một ngày mới.

16. AROUGHS

Gần trưa đội của Ro­ran tới khu lều cạnh đường. Những căn lều trông xám xịt và khó phân biệt vì lúc này sự mệt mỏi của Ro­ran đã giăng mây che tầm nhìn cuae anh. Cách đó 1 dặm về phía nam là thành phố Aroughs nhưng anh chỉ nhận ra những đặc trưng cơ bản nhất của một thành phố: tường trắng như bang, cổng thành rộng lớn đóng im ỉm và những tòa tháp xây bằng đá vuông.

Anh nhảy khỏi ngựa khi đoàn người tới trại. Những con ngựa gần như ngã quỵ. Một thanh niên gầy nhẳng chạy tới chỗ anh và nắm lấy cương kéo cho tới khi con vật dừng hẳn.

Ro­ran cúi xuống nhìn cậu nhóc và chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Một lúc lâu sau anh mới nói được một câu gọn lỏn, “Đưa tôi tới gặp Brig­man.”

Thằng nhóc không nói tới một lời thằng nhỏ xoay người bước đi, để lại lớp bụi bay mù dưới gót chân trần.

Ro­ran cảm thấy như anh phải ngồi đợi hơn một tiếng đồng hồ. Con ngựa thở hổn hển đứt đoạn còn anh chảy máu tai. Khi anh nhìn xuống đất, dường như máu vẫn tiếp tục chảy thành dòng. Từ đâu đó vang lên tiếng thúc ngựa.Tầm mười hai chiến binh tụ tập gần đó, chống lên giáo và khiên, vẻ mặt thể hiện nét tò mò.

Từ đằng xa một người đàn ông vai rộng mặc áo trấn thủ xanh lơ đi khập khiễng về phía Ro­ran, sử dụng một cây giáo gẫy thay cho gậy chống. Ông để râu xồm xoàm dù ria cạo sạch và lấm tấm mồ hôi – Ro­ran không biết vì ông đang thấy đau hay do nóng.

“Anh là Cây Búa Dũng Mãnh?” ông hỏi.

Ro­ran ừm nhẹ một tiếng xác nhận. Anh thả tay đang cầm cương, cho vào trong áo và đưa cho Brig­man một phong thư da dê có lệnh của Na­sua­da.

Brig­man bóc niêm phong. Ông đọc một hồi rồi hạ lá thư xuống và nhìn Ro­ran không biểu cảm.

“Chúng tôi đang đợi anh,” ông nói. “Một trong những thầy bùa thân cận của Na­sua­da đã liên lạc với tôi từ bốn ngày trước và nói anh đã đi, nhưng tôi không nghĩ anh sẽ tới sớm thế này.”

“Không dễ dàng gì,” Ro­ran nói.

Môi trên của Brig­man cong lên. “Tôi chắc chắn vậy thưa…ngài.” Ông đưa tấm da dê lại cho Ro­ran. “Binh sĩ ở đây sẽ nghe lệnh ngài thưa Cây Búa Dũng Mãnh. Chúng tôi chuẩn bị tấn công cổng tây. Có thể ngài muốn chỉ huy chăng?” Câu hỏi sắc nhọn như một mũi dao.

Thế giới xung quanh Ro­ran dường như nghiêng nghả và anh cầm chắc cương hơn. Anh quá mệt không thể tán dóc với ai nữa rồi.

“Ra lệnh cho họ nghỉ một ngày,” anh nói.

“Ngài có còn minh mẫn không? Ngài làm thế nào để chiếm thành vậy? Chúng tôi phải mất cả buổi sáng để chuẩn bị tấn công và tôi sẽ không ăn không ngồi rồi chờ ngài ngủ đâu. Na­sua­da mong chúng tôi chiếm thành trong vài ngày và, vì Angvard, tôi sẽ làm được điều đó!”

Ro­ran gầm nhẹ chỉ mình Brig­man nghe thấy, “Ra lệnh cho binh sĩ rút lui, không tôi sẽ đánh ông què cẳng vì bất tuân quân lệnh. Tôi sẽ không cho phép bất kỳ cuộc tấn công nào diễn ra cho tới khi tôi nghỉ ngơi và quan sát tình hình.”

“Ngài thật là ngu ngốc. Điều này có thể…”

“Nếu ông không câm miệng và làm nhiệm vụ của mình đi, tôi sẽ tự tay đập ông một trận – ngay đây và ngay lúc này.”

Cánh mũi Brig­man phập phồng. “Trong tình trạng này sao? Ngài không có cơ hội đâu.”

“Sai rồi,” Ro­ran nói. Và anh nói thật. Anh không chắc mình sẽ đánh bại Brig­man bằng cách nào nhưng anh biết anh có thể.

Brig­man có vẻ đang đấu tranh tư tưởng ghê gớm. “Vâng,” ông quát lên. “Tốt hơn hết là không nên để cho quân sĩ thấy nội bộ tướng lĩnh lục đục. Chúng tôi sẽ ở nguyên vị trí nếu đó là điều ngài muốn, nhưng tôi không chịu trách nhiệm vì bỏ lỡ thời cơ. Đó là trách nhiệm của ngài.”

“Tất nhiên rồi,” Ro­ran nói, cổ họng bỏng rát vì đau. “Cũng như ông phải chịu trách nhiệm vì những tổn thất ông đã gây cho cuộc vây thành lần này.”

Mắt Brig­man tối lại và Ro­ran có thể thấy ông tướng đã chuyển từ không thích anh sang thù ghét. Anh ước gì anh đã phản ứng nhã nhặn hơn.

“Lều của ngài ở đằng này.”

Sáng hôm sau Ro­ran tỉnh giấc.

Ánh sáng mờ mờ chiếu vào lều khiến anh lên tinh thần. Trong một lúc, anh nghĩ anh chỉ ngủ có vài phút. Nhưng rồi anh nhận ra đầu óc anh đã sáng suốt và tỉnh táo hơn nhiều.

Anh tự rủa thầm, tức giận vì để lỡ cả ngày.

Anh đắp một tấm chăn mỏng, thực sự không cần thiết cho thời tiết phương nam dễ chịu, đặc biệt là khi anh vẫn đeo giầy và mặc quần áo. Anh bỏ chăn sang bên rồi ngồi thẳng dậy.

Anh rên lên một tiếng vì toàn bộ cơ thể anh như căng cứng và gẫy vụn. Anh nằm xuống thở hổn hển. Cú choáng ban đầu nhanh chóng tan đi chỉ để lại những cơn đau ê ẩm.

Anh mất vài phút mới tập trung toàn bộ sức lực lăn sang một bên và bỏ chân xuống võng. Anh dừng lại thở trước khi cố sức đứng lên.

Khi đã đứng được lên anh cười chua sót. Hôm nay sẽ là một ngày thú vị đây.

Khi anh ra khỏi lều những người khác đã dậy và đang đứng đợi anh. Trông họ tơi tả và thảm hại: họ cử động cà nhắc như anh. Sau khi chào hỏi, Ro­ran chỉ về tấm vải băng cánh tay Del­win, băng vết thương một người chủ quán rượu chém vào. “Đỡ đau chưa?”

Del­win nhún vai. “Không tệ lắm. Nếu cần tôi vẫn đấm đá được.”

“Tốt.”

“Anh định làm gì tiếp theo đây?” Carn hỏi.

Ro­ran nhìn mặt trời đang mọc, tính toán còn bao lâu sẽ tới trưa. “Đi bộ chút đã,” anh nói.

Ro­ran dẫn những người bạn đồng hành đi từ trung tâm khu trại dọc ngang các dãy lều, xem xét tình hình quân binh cũng như quân dụng. Thi thoảng, anh dừng lại hỏi han một binh sĩ trước khi đi tiếp. Hầu như các chiến binh đều mệt mỏi và nản lòng, dù anh để ý thấy tinh thần có có phấn chấn đôi chút khi nhìn thấy anh.

Cuộc đi dạo của Ro­ran kết thúc ở góc phía nam trại như anh đã dự định từ đầu. Anh và những người khác dừng lại nhìn về thành phố Aroughs.

Thành phố được chia thành hai khu. Khu thứ nhất thấp và trải dài gồm những tòa nhà quan trọng trong khi khu thứ hai, nhỏ hơn chủ yếu là những khu nhà cao, thiết kế trang nhã. Bức tường thành bao quanh cả hai khu. Từ ngoài nhìn vào có thể thấy rõ năm cổng thành: hai cổng lớn dẫn đường vào thành phố: một phía bắc và một phía đông – ba cổng còn lại nằm cạnh con kênh chảy từ phía nam vào thành phố. Ở bên kia Aroughs là con sống sóng vỗ rầm rì, nơi con kênh chảy ra.

Ít nhất họ không có tường hào, anh nghĩ.

Những vết thủng lỗ chỗ trên cổng bắc là vết tích của chiến tranh. Trên mặt đất cũng hằn những dấu vết của trận chiến. Anh nhận ra ba vết đạn từ máy bắn ta và bốn vết từ cẩu đá nhờ hồi thuộc đội Cánh Rồng, hai tòa tháp xiêu vẹo ở đằng sau tường thành. Vài binh sĩ đang ngồi chổm hỗm bên cạnh các cỗ máy chiến tranh hút thuốc hoặc chơi xúc xắc trên vài tấm da. Những cỗ máy có vẻ trông nhỏ bé tới tội nghiệp so với thành phố rộng lớn này.

Thành phố Aroughs thấp, bằng phẳng đổ thoai thoải ra biển. Hàng trăm trang trại điểm xuyết trên đồng bằng xanh rì, được đánh dấu bằng những hàng rào gỗ và ít nhất một túp lều lợp rạ. Những dinh thự xa hoa nằm đây đó: những trang viên xây bằng đá được bảo vệ bởi những bức tường cao và những người bảo vệ. Chắc chắn chúng là tài sản của giới quý tộc Aroughs và có thể là của những thương nhân làm ăn phát đạt.

“Anh nghĩ gì?” anh hỏi Carn.

Pháp sư lắc đầu, đôi mắt cụp của anh trông buồn hơn bình thường. “Chúng ta sẽ mất rất nhiều binh lính mới chiếm nổi thôi.”

“Chắc rồi,” Brig­man nhận xét khi tiến tới chỗ họ.

Ro­ran không nói ra những nhận xét của min­hfl anh không muốn những người khác biết anh đang nản lòng vô cùng. Na­sua­da bị điên nếu tin rằng chúng ta có thể chiếm Aroughs chỉ với tám trăm binh lính. Nếu mình có tám ngàn quân cùng sự hỗ trợ của Er­agon và Saphi­ra thì còn có nhẽ. Nhưng đằng này…”

Nhưng anh biết anh phải tìm ra cách, vì tương lai của Ka­tri­na.

Ro­ran không nhìn Brig­man và nói. “Nói cho tôi nghe về Aroghs.”

Brig­man xoay ngọn giáo vài lần, thân giáo xoay vài lỗ trên mặt đất, rồi nói. “Gal­ba­torix đã tính toán từ trước; hắn đã cho dữ trữ lương thực đầy đủ trong thành phố trước khi chúng ta cắt đường chi viện từ đây với Triều đình. Ngài có thể thấy rằng họ không thiếu nguồn nước. Nếu chúng ta ngăn sông, họ còn có vài con suối và giếng trong thành phố. Họ có thể giữ thành cho tới mùa, thậm chí còn lâu hơn, dù tôi nghi họ không thể nào không ốm lên vì ăn củ cải suốt. Ngoài ra, Gal­ba­torix còn điều số lượng lớn binh sĩ tới đây – gấp đôi số lượng quân của chúng ta – bổ sung cho binh sĩ trong thành.”

“Sao ông biết?”

“Nội gián. Nhưng cậu ta không biết về binh pháp nên đã cung cấp quá nhiều đánh giá chủ quan về những điểm yếu của Aroughs.”

“Ờ.”

“Cậu ta cũng đã khẳng định rằng cậu ta sẽ giúp đưa một lượng nhỏ quân chúng ta vào trong thành nhân lúc đêm tối.”

“Rồi?”

“Chúng tôi đã đợi nhưng cậu ta không xuất hiện và chúng tôi thấy cậu ta bị bêu đầu vào sáng hôm sau. Giờ vẫn còn treo ở cổng đông đó.”

“Thì ra là vậy. Ngoài năm cổng này ra còn cổng nào không?”

“Có ba cổng nữa. Ở gần bến cảng có một cổng dẫn nước lớn đủ cho ba dòng chảy đi vào cùng lúc và gần đó là một cổng trên đất liền cho người và ngựa. Ngoài ra còn một cổng trên đất liền ở đầu kia” – ông ta chỉ về phía tây thành phố - “giống những cổng khác.”

“Có thể bắn phá được cổng nào không.”

“Không nhanh được. Bờ biển quá hẹp khiến chúng tôi không thể bày bố quân hoặc tránh tên và đá của quân đội trong thành. Vì thế chúng tôi không thể tấn công các cổng gần biển cũng như là cổng tây. Vùng đất xung quanh thành bị chia cắt vì sông suối quá nhiều cho nên cũng khá nhỏ hẹp, vì vậy tôi đã quyết định tập trung mũi tấn công vào cổng gần nhất.”

“Cổng làm bằng gì?”

“Sắt và gỗ sồi. Chúng còn trụ vững hàng trăm năm nữa nếu không bị phá dỡ.”

“Chúng có được bảo vệ bởi phép thuật không?”

“Tôi không rõ vì tiểu thư Na­sua­da không gửi pháp sư cho chúng tôi. Hal­stead có…”

“Hal­stead?”

“Lãnh chúa Hal­stead của thành Aroughs. Chắc ngài từng nghe thấy rồi chứ.”

“Chưa.”

Một quãng im lặng ngắn khiến Ro­ran có thể cảm nhận sự khinh miệt của Brig­man dành cho anh đang lớn dần. Sau đó người đàn ông đó nói tiếp, “Hal­stead có riêng một pháp sư phục tùng: một kẻ xấu tính, da vàng vọt chúng tôi đã có dịp nhìn thấy trên tường thành cố hất ngã chúng tôi xuống bằng phép thuật. Hắn có vẻ không giỏi gì cho cam, trừ chuyện hắn đã thiêu cháy hai người tôi bố trí dùng gỗ phá cổng thành.”

Ro­ran liếc mắt nhìn Carn – pháp sư tỏ ra lo lắng hơn trước – nhưng anh quyết định sẽ thảo luận vấn đề này với nhau sau.

“Công thành qua đường kênh có dễ hơn không?” anh hỏi.

“THế chúng ta sẽ đứng ở đâu? Thành phố kề sát kênh cơ mà. Hơn nữa đi qua lối đó khác nào đưa đầu có chúng giết, chúng có thể đổ dầu nóng, ném đá, hoặc bắn hỏa tiễn vào bất cứ tên ngu nào đi qua lối đó.”

“Cánh cổng không thể nào bịt kín được, phải có lối cho nước lưu thông chứ.”

“Đúng. Bên đưới có hàng lưới mắt cáo bằng gỗ và sắt để dòng chảy không quá mạnh.”

“Hiểu. Vậy là hầu hết thời gi­an, kể cả khi không bị tấn công, Aroughs đều hạ thấp cổng đúng không?”

“Đêm thì chắc, nhưng tôi tin ban ngày cổng đó sẽ mở.

“Ừm. Các bức tường xây từ gì?”

“Đá hoa cương, bề mặt cực kỳ trơn nhẵn và khít không thể lách nổi một lưỡi dao. Tôi đoán đây là tác phẩm của người lùn trước thời kỳ thoái trào của Kỵ sĩ Rồng. Tôi đoán lớp bên trong tường được trộn đá cuôi. Nhưng tôi không dám khẳng định vì chúng ta chưa làm xây sất nổi lớp vỏ ngoài. Chân tường sâu tới hơn 12 mét nên chúng ta sẽ không thể đào hầm để làm yếu móng tường hoặc đánh sập tường.”

Brig­man bước thêm một bước và chỉ về những thái ấp ở phía nam và phía tây. “Hầu hết giới quý tộc đều lui vào Aroughs để lại tùy tùng bảo vệ tài sản. Họ gây rắc rối cho chúng ta, tấn công quân trinh sát, trộm ngựa…Chúng ta đã chiếm được hai thái ấp…” – ông ta chỉ hai kho thóc lớn đang cháy cách đó vài dăm – “nhưng giữ lại chúng còn phiền hơn vì thế chúng tôi đã đốt bỏ. Không may, chúng tôi không có đủ người để bảo vệ phần còn lại.”

Bal­dor nói. “Vì sao các kênh lại chạy vào Aroughs nhỉ? Hình như họ không dùng nó làm hệ thống mương tưới tiêu thì phải.”

“Ở vùng này không cần tưới nước như người miền bắc không cần xe trượt tuyết trong mùa đông vậy.”

“Thế mục đích là gì?” Ro­ran thắc mắc. “Nguồn nước bắt đầu từ đâu? Ông đừng mong tôi tin nhưng con kênh này rẽ nhánh từ sông Ji­et nhé, quá xa.”

“Không,” Brig­man chế giễu. “Có một số hồ nước ở mạn bắc. Nước lợ và bẩn nhưng dân ở đây quen rồi. Một con sông bắt nguồn từ đó, chia làm ba nhánh sông nhỏ chảy tới đây vào các đập tạo năng lượng giúp xay bột cung ứng cho thành phố. Nông dân chở lúa mỳ tới các khu xay sát vào vụ mùa rồi chất các thúng bột lên sà lan chở vào thành phố. Dân cư ở đây cùng lợi dụng đường sông để chuyên chở hàng hóa như gỗ xẻ và rượu từ các trang ấp vào thành phố.”

Ro­ran gãi gãi cổ khi tiếp tục quan sát Aroughs. Những gì Brig­man vừa nói đã khiến anh nảy ra một ý nhưng chưa rõ nó có khả thi không. “Còn điểm gì đặc biệt ở khu ngoại vi không?”

“Đi dọc bờ biển về phương nam có một mỏ đá phiến.”

Anh gầm gừ trong khi suy ngẫm. “Tôi muốn tới xem khu xay sát,” anh nói. “Nhưng trước hết tôi muốn nghe toàn bộ tình hình từ ông.”

“Mời đi theo tôi thưa Cây búa Dũng mãnh.”

Trong cả một tiếng đồng hồ sau đó Ro­ran thảo luận với Ro­ran và hai phó tướng, nghe và hỏi về những lần công thành hay biết mỗi binh lính còn bao nhiêu lương thực.

Ít ra chúng ta không thiếu vũ khí, Ro­ran nghĩ khi biết số tử sĩ. Kể cả nếu Na­sua­da không giới hạn thời gi­an nhiệm vụ cho anh thì người và ngựa cũng không có đủ lương thực mà sống trong hơn một tuần nữa.

Rất nhiều sự kiện và con số Brig­man và các phó tướng đề cập tới được viết trên giấy. Ro­ran không nói ra chuyện mình không thể đọc nổi những con chữ đen đen loằng ngoằng nên buộc những người kia đọc lên cho nghe. Dù vậy anh cũng tức vì phụ thuộc vào người khác. Na­sua­da nói đúng, mình phải học đọc vì nếu không mình không thể biết người kia có nói dối mình không khi đọc gì đó cho mình… Có lẽ khi về Var­den Carn có thể dạy mình.

Ro­ran càng biết nhiều về Aroughs, anh càng thấy thông cảm cho những khó khăn của Brig­man; vô phương chiếm thành. Dù anh không thích người đàn ông này nhưng anh nghĩ vị tướng đã làm hết sức có thể. Ro­ran tin ông ấy thất bại không phải vì không đủ năng lực mà vì ông ấy thiếu hai yếu tố hết lần này tới lần khác mang lại thắng lợi cho Ro­ran: sự liều lĩnh và óc tưởng tượng.

Sau khi xem xét tình hình xong, Ro­ran và năm người đồng hành cùng Brig­man đi quan sát tường thành Aroughs ở khoảng cách gần hơn nhưng đủ xa để giữ an toàn. Lên lưng ngựa lần nữa lại khiến Ro­ran đau nhưng anh không hề kêu lấy một tiếng.

Khi móng ngựa nện lên con đường rải đá đi tới thành phố ở gần khu trại, Ro­ran để ý thi thoảng móng ngựa tạo ra những âm thanh khác thường. Anh nhớ đã nghe thấy âm thanh quen thuộc này trong ngày cuối chuyến đi.

Anh nhìn xuống và thấy những phiến đá phẳng hình như có màu bạc mờ, những mạch đá hình thành nên họa tiết hình mạng nhện khác thường.

Ro­ran gọi lớn hỏi Brig­man nhưng Brig­man chỉ bảo “Vữa chất lượng kém nên họ dùng chì để trát đá.”

Lúc đầu Ro­ran không tin nhưng Brig­man rất nghiêm túc. Anh thấy ngạc nhiên vì người ở đây lại coi kim loại bình thường tới mức dùng để làm đường.

Họ cẩn trọng quan sát hàng phòng thủ của Aroughs nhưng chẳng phát hiện ra điều gì mới và càng khiến Ro­ran tin vào chuyện không thể chiếm nổi thành phố.

Anh đi ngựa tới gần Carn. Pháp sư đang nhìn Aroughs vẻ thẫn thờ, môi chuyển động không thành tiếng như thể nói chuyện một mình. Ro­ran đợi tới khi anh dừng lại mới hỏi, “Cổng thành có phủ phép thuật không?”

“Tôi nghĩ là có,” Carn trả lời. “nhưng tôi không chắc có bao nhiêu câu thần chú trên đó và dụng ý của từng cái là gì. Tôi cần thêm thời gi­an mới biết được.”

“Sao lại khó thế?”

“Không hẳn. Hầu hết các câu thần chú đều dễ phát hiện, trừ khi có ai cố giấu chúng. Nhưng kể cả thế, pháp thuật thường để lại những dấu vết nếu anh biết cách nhìn. Tôi chỉ sợ họ dùng thần chú này để khởi động thần chú khác, và nếu tôi tiếp cận chúng thì ai biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi có thể biến thành một vũng nước ngay trước mắt anh. Nếu có thể tôi sẽ tránh cái đinh mệnh đó.”

“Anh có muốn ở lại khi chúng tôi đi tiếp không?”

Carn lắc đầu. “Tôi không nghĩ nên để các anh đi mà không có sự bảo vệ. Tôi sẽ trở lạ sau khi mặt trời lặn và xem tôi có thể làm gì. Ngoài ra ở gần cổng thành sẽ giúp tôi hiểu mấy câu thần chú đó, nhưng giờ tôi không dám tới gần cổng thành khi mấy tay lính canh nhìn thấy tôi rõ rành rành thế này.”

“Được thôi.”

Khi Ro­ran hài lòng rằng họ đã biết mọi thứ về thành phố, anh để Brig­man dẫn tới khu xay sát gần nhất.

Khá giống những gì Brig­man miêu tả. Nước từ kênh được dẫn tới những đập cao 20m. Ở chân đập có một guồng nước có gắn mấy cái thùng. Nước chảy vào thùng làm guồng quay tròn. Các guồng nước được nối vào ba tòa nhà giống y hệt nhau. Trong các tòa nhà là các cối đá cỡ lớn dùng để xay bột cung cấp đủ cho dân cư Aroughs.

Anh xuống ngựa ngay khi tới khu xay sát ở vị trí thấp nhất và đi men theo con đường giữa các tòa nhà, mắt nhìn kênh dẫn nước làm nhiệm vụ kiểm soát lượng nước lưu thông vào các con đập. Cửa kênh mở nhưng mực nước trong đập vẫn thấp hơn ba guồng nước đã từ từ chuyển động.

Anh dừng ở giữa đoạn đường thoai thoải, chôn chân trên bờ kênh ẩm ướt đầy cỏ, khoanh hai tay lại và cúi đầu chạm ngực khi suy tính cách chiếm thành. Anh tin mình sẽ có cách hoặc chiến thuật gì đó để lẻn vào thành, nhưng cách nào thì anh chưa rõ.

Nghĩ mãi tới mệt, anh dừng lại lắng nghe tiếng trục xoay cọt kẹt và tiếng thác nước đổ ầm ầm.

Những âm thanh đó êm ả nhưng lại gợi lên cho anh vết thương lòng. Anh nhớ tới xưởng xay bột của chú Demp­ton ở Therins­ford nơi anh đã tới làm vào ngày tụi Ra’zac đốt nhà và tra tấn cha anh tới chết.

Ro­ran cố quên ký ức không vui đó đi nhưng nó vẫn ở đó, vẫn làm anh đau quặn từng cơn.

Giá mình đi muộn vài giờ, mình đã có thể cứu cha rồi. Ngay lúc đó, phần thực tế trong con người Ro­ran trả lời, Đúng, và Ra’zac có thể giết mình trước khi mình kịp giơ tay. Không có Er­agon bảo vệ, mình chỉ như một đứa nhỏ sơ sinh, không hơn.

Bal­dor lặng lẽ bước tới gần anh. “Những người còn lại đang muốn biết anh đã có kế gì chưa?” anh ta hỏi.

“Tôi có vài ý tưởng nhưng chưa có kế hoạch. Anh sao?”

Bal­dor cũng khoanh tay lại. “Chúng ta có thể đợi Na­sua­da cho Er­agon và Saphi­ra tới giúp.”

“Xì.”

Trong một lúc lâu họ lẳng lặng nhìn dòng nước chảy lững lờ bên dươi. Sau đó Bal­dor nói, “Nếu anh yêu cầu chúng đầu hàng thì sao? Có thể chúng sẽ sợ hãi khi nghe tên anh, chúng sẽ tử mình mở cổng, quỳ dưới chân anh và xin anh tha chết.”

Ro­ran tặc tặc lưỡi. “Tôi không nghĩ tên tuổi tôi có thể lan tới tận Aroughs này. Nhưng,” Anh gãi gãi râu. “Có lẽ cũng nên thử, để cho chúng hoang mang chút thôi.”

“Kể cả khi chúng ta mở được cổng thành thì sao chiến thắng được với số quân ít ỏi thế này?”

“Có thể thắng có thể thua.”

Họ lặng yên rồi Bal­dor lên tiếng, “Chúng ta đã đi một quãng đường rất dài.”

“Đúng.”

Lại một lần nữa không gi­an chỉ vang lên tiếng nước chảy và tiếng guồng quay. Cuối cùng vẫn là Bal­dor mở lời, “Chắc hẳn ở đây tuyết rơi không nhiều. Vì thế lượng nước do băng tan không lớn như ở quê hương chúng ta. Nếu không, vào lúc lập xuân, guồng sẽ ngập một nửa mất.”

Ro­ran lắc đầu. “Chuyện lượng mưa hay lượng tuyết rơi nhiều hay ít không quan trọng. Cửa đập sẽ khống chế lượng nước chảy vào các guồng quay để đảm bảo tốc độ cho chúng.”

“Nhưng nếu nước dâng lên ngang cửa thì sao?”

“Hy vọng là không có ngày đó. Nếu không, anh buộc phải kéo xích mở cửa đập và thế là….” Ro­ran nghĩ tới một loạt những hình ảnh, người anh thấy nóng lên như thể anh vừa nốc một hơi hết cả vại rượu mật ong.

Được không? Anh nghĩ. Liệu có thành công không… hay… Không sao, chúng ta phải thử. Chúng ta còn làm được gì nữa?”

Anh bước đi trên con đường hẹp trước cái đập ở giữa, kéo những thanh gỗ nhỏ chèn lên trục điều khiển cửa đập. Thanh điều khiển khá khó di chuyển dù anh chèn vai đẩy bằng hết sức.

“Giúp tôi đi,” Anh nói với Bal­dor đang đứng trên bờ kênh quan sát với vẻ hứng thú pha chút bối rối.

Bal­dor cẩn thận đi tới chỗ Ro­ran đứng. Họ cùng nhau đóng cửa đập lại. Sau đó, Ro­ran không chịu trả lời câu hỏi nào mà tiếp tục đóng nốt hai cửa đập còn lại.

Sau khi đã đóng chặt cả ba, Ro­ran đi lại chỗ Carn, Brig­man và những người khác rồi ra hiệu cho họ xuống ngựa ra chỗ anh. Anh vỗ lên đầu búa trong khi chờ đợi, đột nhiên cảm thấy mất kiên nhẫn.

“Sao?” Brig­man hỏi sau khi họ đã tới nơi.

Ro­ran nhìn từng người một để đảm bảo họ hoàn toàn chú ý tới anh rồi nói. “Phải rồi, đây là điều chúng ta sẽ làm…” – sau đó anh bắt đầu nói, nhanh và căng thẳng trong suốt nửa tiếng đồng hồ, giải thích từng điều anh nghĩ tới trong khoảng khắc thoáng qua đó. Khi anh nói, mọi người nghiêm túc hơn, nhưng Man­del đã bắt đầu nhoẻn cười, Bal­dor, Del­win và Hamund cũng có vẻ hứng thú với kế hoach táo bạo của anh.

Phản ứng của họ khiến Ro­ran hài lòng. Anh đã làm nhiều chuyện để có được sự tín nhiệm từ họ và anh vui vì anh vẫn có thể tin tưởng họ. Trong đời, anh sợ nhất là mất Ka­tri­na, sau là làm những người chiến hữu thất vọng.

Nhưng có vẻ Carn còn hoài nghi. Điều này thì Ro­ran đã đoán được nhưng anh chỉ không ngờ nỗi nghi ngờ này có khi ngang bằng với Brig­man.

“Anh điên rồi,” ông ta hét lên khi Ro­ran vừa nói xong. “Không thể nào thành công được.”

“Ông rút lại lời nói đó đi!” Man­del nói và nhảy lên phía trước, tay nắm thành quyền. “Vì sao à, Ro­ran đã thắng nhiều trận chiến hơn ông, và anh ấy đâu cần nhiều quân lính như ông!”

Brig­man rít lên, môi trên cong lên như một con rắn. “Đồ mất dạy! Tao sẽ dạy cho mày một bài học không thể nào quên!”

Ro­ran đẩy Man­del lùi lại trước khi cậu trai trẻ tấn công Brig­man. “Thôi nào!” Ro­ran gầm lên. “Hai người xem lại cách hành xử đi!” Man­del cáu kỉnh ngừng lại nhưng vẫn nhìn Brig­man trừng trừng. Brig­man cũng hành động tương tự.

“Chắc chắn đây là một kế hoạch lạ lùng,” Del­win nói. “Nhưng những kế hoach kỳ lạ của anh đã giúp chúng ta chiến thắng trong quá khứ.” Những người làng Car­va­hall khác lên tiếng đồng tình.

Carn gật đầu nói. “Kế hoach có thể thành công có thể không. Tôi không chắc. Nhưng chắc chắn nó sẽ khiến kẻ thù của chúng ta ngạc nhiên và tôi phải thừa nhận rằng tôi tò mò muốn thấy chuyện gì sẽ xảy ra. Đây là việc vô tiền khoáng hậu.”

Ro­ran cười rạng rỡ. Anh nhìn Brig­man và nói, “Giờ chúng ta cần phải điện. Chúng ta chỉ có hai ngày rưỡi để chiếm Aroughs. Những biện pháp thông thường không có hiệu quả vậy chúng ta phải mạo hiểm bằng những kế hoạch bất bình thường.”

“Có thể thế,” Brig­man nói nhỏ. “Nhưng đây là một kế hoạch liều lĩnh khiến chúng ta tổn thất binh sĩ và tôi không thể nào đồng tình.”

Nụ cười của Ro­ran rộng hơn khi anh tiến tới chỉ cách Brig­man vài cen­timet. “Ông không cần phải đồng ý với tôi; ông chỉ cần làm theo lệnh thôi. Giờ ông có nghe theo lệnh của tôi hay không?”

Không khí giữa họ nóng lên do hơi thở và nhiệt độ từ da thịt họ. Brig­man nghiến răng và xoắn cây giáo mạnh hơn trước, nhưng ánh mắt dao động và ông ta lùi lại. “Quỷ tha ma bắt anh đi,” ông ta nói. “Tôi sẽ làm chó cho anh trong lúc này, Cây búa dũng mãnh ạ, nhưng anh cứ xem đi,anh sẽ phải trả giá cho quyết định của anh sớm thôi.”

Miễn là chúng ta chiếm được Aroughs, Ro­ra nghĩ, tôi chẳng cần quan tâm. “Lên ngựa!” anh ra lệnh. “Chúng ta có việc cần làm và còn quá ít thời gi­an! Nhanh lên! Nhanh lên! Nhanh lên!”

17. DRAS- LEONA

Khi Er­agon từ trên lưng Saphi­ra nhìn thấy núi Hel­grind ở chân trời phía bắc thì mặt trời đã lặn. Nó cảm thấy ghê tởm khi chiêm ngưỡng ngọn núi đã phóng vút lên từ mặt đất như một chiếc răng nhọn. Hầu hết các ký ức không vui của nó đều gắn liên với núi Hel­grind. Nó ước có thể san bằng ngọn núi. Saphi­ra có vẻ bàng quan với ngọn núi đen thẫm này hơn nhưng nó biết cô em nó cũng chẳng thích thú lởn vởn gần tý nào.

Khi đêm xuống, Hel­grind đã khuất sau lưng chúng, trong khi Dras – Leona đã xuất hiện trước mặt, bên cạnh hồ Leona với hàng tá tàu thuyền cập bến. Thành phố rộng lớn vẫn san sát nhà cửa và không hiếu khách như trong trí nhớ của Er­agon. Những con đường vẫn nhỏ hẹp, những căn nhà dơ dáy vẫn nằm sát những bức tường đắp bằng đất sét vàng bao quanh thành phố và đằng sau bức tường, nhà thờ lớn của Dras- Leona vươn lên den kịt. Đó là nơi những tu sĩ Hel­grind tiến hành những nghi lễ man rợ.

Một dòng người tị nạn kéo nhau đi trên con đường phía bắc – họ chạy trốn khỏi thành phố sắp bị chiếm đóng tới Teirm hoặc Urû’baen, nơi ít nhất họ tạm thời tránh được sự xâm lăng của quân Var­den.

Ngay từ lần đầu đặt chân tới Dras – Leona, Er­agon đã cảm thấy sự xấu xa hiện diện trong thành phố, không như ở Fe­in­ster hay Be­la­tona. Nó muốn dùng lửa và kiếm thiêu trụi phá hủy tất cả những nguồn năng lượng đen tối, bất thường nơi đây, muốn hưởng thú chuyện chém giết về để lại sau lưng không gì ngoài khỏi bụi và máu. Nó có chút đồng cảm với những người nghèo khổ, tàn tật và nô lệ bị gi­am hãm trong Dras – Leona. Nhưng nó hoàn toàn tin rằng thành phố cần hủy diệt và xây dựng lại nó không dính dáng gì tới giáo phái Hel­grind mới là điều tốt nhất cho dân cư nơi đây.

Khi tưởng tượng ra cảnh nó cùng Saphi­ra phá sập nhà thờ, nó bỗng phân vân không hiểu tôn giáo với những thầy tu tự hành xác này có một cái tên không. Tìm hiểu ngôn ngữ cổ đã dạy cho nó phải tôn trọng tầm quan trọng của những cái tên – tên ẩn chứa sức mạnh, tri thức – nếu nó không thực sự biết tên của tôn giáo Hel­grind, nó sẽ không hoàn toàn hủy diệt nổi nó.

Trong ánh sáng vàng vọt, quân Var­den cắm trại trên những cánh đồng đã canh tác ở bình nguyên phía đông nam Dras – Leona. Với vị thế này họ sẽ dễ dàng biết khi quân địch tấn công. NHững binh lính đã mệt mỏi sau cuộc hành trình dài nhưng Na­sua­da buộc họ phải tiếp tục cắm trại cũng như lắp ráp những công cụ phục vụ chiến tranh mà họ đang mang theo trong suốt hành trình từ Sur­da.

Er­agon vui vẻ làm việc. Lúc đầu nó cùng một nhóm người đi san phẳng cánh đồng lúa mỳ và lúa mạch bằng những tấm ván ghép với nhau nhờ những dây thòng lọng dài. Cắt lúa bằng liềm hay pháp thuật có thể nhanh hơn nhưng những gốc rạ để lại sẽ gây nguy hiểm và khó chịu cho việc đi lại và đặc biệt là chuyện nghỉ ngơi. Vì vậy, những tấm ván ghép sẽ tạo nên một mặt phẳng mềm, đàn hồi như nệm và dù dù sao thà nằm trên ván ghép còn sướng hơn vạn lần nằm trên đất.

Er­agon cùng làm việc với những binh sĩ khác trong khoảng một tiếng thì dọn đủ không gi­an cắm trại cho quân Var­den.

Sau đó nó đi giúp mọi người dựng chòi canh. Sức mạnh phi thường của nó giúp nó di chuyển những xà rầm mà thường phải vài người mới làm nổi; như vậy tiến độ được đẩy nhanh hơn. Vài người lùn trong Var­den đứng giám sát vì họ chính là tác giả thiết kế tháp canh.

Saphi­ra cũng giúp. Cô nàng dùng răng và móng vuốt đào hào trong lòng đất và chất đất thành từng đống quanh khu trại chỉ trong vài phút trong khi cả trăm người phải lao động cả ngày. Và nhờ lửa và đuôi cô nàng đốn cây, dọn gọn các hàng rào, tường bao, nhà cửa và mọi thứ chung quanh khu trại Var­den có thể bị kẻ thù lợi dụng. Làm bất cứ việc gì cô nàng cũng thể hiện bản thân là một tạo vật có sức hủy diệt ghê gớm đủ làm những con người dũng cảm nhất phải khiếp sợ.

Đến tôi muộn khi quân Var­den mới dọn dẹp xong, Na­sua­da ra lệnh cho binh sĩ, người lùn và Ur­gal đi nghỉ.

Er­agon chui vào lều ngồi thiền cho tới khi đầu óc thảnh thơi. Đó đã trở thành một thói quen với nó. Sau đó thay vì luyện thư pháp, nó dùng vài tiếng ôn lại những câu thần chú có thể cần trong những ngày tiếp theo cũng như tạo ra những câu chú mới khiến Dras – Leona thất điên bát đảo.

Khi nó cảm thấy đã sẵn sàng của trận chiến, nó lên giường đi ngủ, mơ những giấc mơ kỳ lạ và hưng phấn hơn thường lệ, vì dù đã thiền nhưng trận chiến sắp tới khiến máu nó sôi oleen và không cho phép nó nghỉ ngơi. Như tường lệ, đối với nó chuyện chờ đợi trong mòn mỏi luôn là phần khó khăn nhất. Nó ước gì mình đang ở giữa tiền tuyến nơi nó không có thời gi­an lo xem chuyện gì sẽ xảy ra.

Saphi­ra cũng không nghỉ nổi. Er­agon đọc được những giấc mơ toàn là cắn xé của cô nàng. Thế là nó hiểu cô em nó mong tới trận chiến thế nào. Cảm xúc của cô rồng có ảnh hưởng nhất định tới nó, nhưng nó không thể nào hoàn toàn quên được nỗi sợ trong lòng.

Bình minh ngày mới tới rất nhanh và quân Var­den đã dàn quân trước Dras – Leona. Cảnh tưởng vô cùng hùng vĩ nhưng sự ngưỡng mộ của Er­agon bị giảm đi khi nó nhìn thấy những lưỡi kiếm cùn, mũ trụ móp và khiên mẻ của binh lính cũng như những áo trấn thủ và áo giáp chỉ sửa lại sơ sài. Nếu họ thành công chiếm Dras – Leona, họ sẽ có thể thay một số đồ đạc – như từng làm ở Be­la­tona và Fe­in­ster – làm sao bổ sung thêm lực lượng được.

TRận chiến ở đây càng kéo dài, nó nói với Saphi­ra, Gal­ba­torix càng dễ đánh bại chúng ta khi chúng ta tới được Urû’baen.

Vậy chúng ta không được phép chậm trễ, cô nàng trả lời.

Er­agon ngồi trên lưng Saphi­ra, cạnh Na­sua­da lúc này đã mặc áo giáp và yên vị trên con ngựa đen – Thần sấm. Bảo vệ cho Er­agon là mười hai tiên nhân còn theo sát Na­sua­da là mười hai người trong đội cận vệ Chim Ưng Đen – con số này đã tăng thêm sáu trong thời gi­an tham chiến. Những tiên nhân đứng – vì họ không đồng ý cưỡi lên những con ngựa không phải tự tay họ huấn luyện – trong khi tất cả các Chim Ưng Đen đều ngồi trên ngựa, kể cả Ur­gal. Cách đó mười mét về bên phải là vua Or­rin và những binh lính do ông đích thân lựa chọn. Narheim, chỉ huy người lùn và Garzhvog đều đứng đúng vị trí cánh quân mình chỉ huy.

Sau khi gật đầu với nhau, Na­sua­da và Vua Or­rin thúc ngựa tiến lên phía trước, vượt khỏi toàn binh Var­den. Er­agon dùng tay trái nắm chặt lấy ngọn giáo trước mặt khi Saphi­ra đi theo hai người.

Na­sua­da và vua Or­rin dừng lại trước khi vượt qua những tòa nhà xiêu vẹo. Họ thấy hai người đưa tin – một mặc đồ của Var­den, một của Sur­da – đang trên con đường hẹp qua mê cung những căn nhà ổ chuột dẫn tới cổng nam Dras – Leona.

Er­agon nhíu mày khi quan sát hai người. Thành phố dường như trống trải và im lặng một cách bất thường. Trong Dras – Leona không có lấy một bóng người, kể cả trên tường thành nơi đáng ra hàng trăm lính của Gal­ba­torix phải đứng gác.

Không khí có mùi không hay, Saphi­ra nói và gầm nho nhỏ thu hút sự chú ý của Na­sua­da.

Ở chân tường, người đưa tin của quân Var­den nói lớn đến mức Er­agon và Saphi­ra từ đằng xa còn nghe rõ, “Này! Nhân danh tiểu thư Na­sua­da của Var­den và Vua Or­rin của Sur­da cũng như tất cả những con người tự do của Ala­gaësia, chúng tôi yêu cầu các người mở cửa để đưa tin tới cho các lãnh chúa và chủ nhân của các người, ngài Mar­cus Tá­bor. Như vậy, ông ấy sẽ cứu sống rất nhiều, rất nhiều đàn ông, phụ nữ và trẻ nhỏ trong Dras – Leona.

Từ đằng sau tường thành, một người không lộ mặt đáp lại: “Chúng tôi không mở. Đứng đó chuyển lời đi.”

“Anh đại diện cho lãnh chúa Tá­bor?”

“Đúng.”

“Vậy chúng tôi nên nhắc anh nhớ rằng những cuộc thảo luận của các chính khách nên diễn ra trong một căn phòng riêng tư hơn là nói ở nơi ai cũng có thể nghe được.”

“Tôi không phải nghe lệnh ngươi, đồ đầy tớ! Truyền thông điệp – nhanh! Không tôi mà mất kiên nhẫn thì ngươi sẽ thành nhím đó.”

Er­agon bị ấn tượng: người đưa tin không hề hoang mang hay sợ hãi vì lời đe dọa. Anh ta vẫn tiếp tục không hề chần chừ: “Được thôi. Chỉ huy của chúng tôi mong nói chuyện với Lãnh chúa Tá­bor và tất cả dân thành Dras - Leona trong hòa bình và thân ái. Chúng tôi không có thù oán gì với các người, chỉ có Gal­ba­torix và nếu được lựa chọn chúng tôi sẽ không đụng binh đao với các người. Không phải chúng ta đều là đồng bào ư? Rất người trong chúng tôi từng sống trong Đế chế, và chúng tôi rời đi chỉ vì ách thống trị hà khắc của Gal­ba­torix. Chúng ta là đồng bào với nhau. Hãy gia nhập cùng chúng tôi và chúng ta sẽ cùng nhau giải phóng bản thân khỏi tên bạo chúa đang tại vị tại Urû’baen.

Nếu các người đồng ý, chúng tôi sẽ đảm bảo sự an toàn cho Lãnh chúa Tá­bor và gia đình ông ta cũng như những ai còn đang phục vụ Đế chế, mặc dù những ai đã thề lời hứa không thể phá vỡ với Gal­ba­torix không thể giữ vị trí như cũ. Và nếu như vì lời thề mà các người không thể giúp chúng ta, ít nhất đừng cản trở chúng tôi. Mở cổng, hạ vũ khí và chúng tôi thề các người sẽ không bị tổn hại. Nhưng nếu cố ngăn chặn chúng tôi, chúng tôi giết các người chẳng khác gì cỏ dại, vì không ai có thể chịu nổi sự tấn công của quân đội chúng tôi, hay Khắc tinh tà thần Er­agon và rồng Saphi­ra.”

Khi nghe thấy tên mình, Saphi­ra ngửng đầu gầm lớn.

Từ trên cổng thành, Er­agon thấy một người cao lớn, mặc áo choàng bước lên thành, đứng giữa hai đoạn thành lũy chìa ra, ánh mắt liếc qua những người đưa tin và nhắm thẳng tới Saphi­ra. Er­agon nhíu mắt nhưng không thể nhìn ra khuôn mặt người kia. Bốn người mặc áo choàng đen khác bước tới và Er­agon nhận ra họ là thầy tu Hel­grind vì hình dáng dị dạng của chúng: một tên mất một cánh tay, hai tên mất một chân và tên cuối cùng mất cả một tay một chân và phải nhờ đồng đạo trợ giúp.

Người mặc áo choàng ngửa mặt len và cười man dại. Bên dưới hắn, người đưa tin cố lắm mới kiểm soát nổi ngựa khi chúng cứ cố lùi lại.

Bụng Er­agon chùng xuống và nó nắm lấy cán thanh Bris­in­gr chuẩn bị rút kiếm khi có biến.

“Không ai có thể sống khi vó ngựa các ngươi đi qua?” gã nói giọng vang đập vào các tòa nhà. “Tôi nghĩ các người đang đánh giá bản thân quá cao rồi đó.” Từ đằng sau, con rồng đỏ Thorn bay lên từ dưới một mái nhà, làm vỡ toang mái nhà gỗ bằng móng vuốt của nó. Con rồng xòe rộng đôi cánh khổng lồ, có móng vuốt ở đầu cánh, há mồm đỏ thẫm và khè ra lửa.

Murtagh – Er­agon nhận ra hắn chín là Murtagh – nói bằng giọng chế giễu, “Cứ thử trèo lên thành xem; các người sẽ không bao giờ chiếm được Dras – Leona miễn là Thorn và ta còn ở đây. Hãy gửi tới những chiến binh và pháp sư giỏi nhất, và họ sẽ chết, từng người, từng người một. Ta thề đó. Không ai trong số các người giỏi hơn ta. Kể cả ngươi…Em trai. Hãy trốn đi trước khi quá muộn và cầu nguyện rằng Gal­ba­torix sẽ không tự ra tay với ngươi. Nếu không, phần thưởng của ngươi chỉ có thể là cái chết và sự đau đớn mà thôi.

18. TUNG XƯƠNG

“Thưa ngài! Cổng mở rồi ạ!”

Ro­ran ngẩng đầu lên từ tấm bản đồ anh đang nghiên cứu, nhìn người người lính gác chạy vào lều, mặt đỏ ửng và đồ mồ hôi.

“Cổng nào?” Ro­ran hỏi với sự bình tĩnh chết người. “Nói rõ đi.” Anh đặt thước dây sang bên cạnh.

“Cổng gần nhất, thưa ngài… trên đường, không phải trên kênh.”

Ro­ran rút búa ra khỏi thắt lưng, rời khỏi trại và chạy về phía nam khu trại. Anh đứng đó quan sát Aroughs. Anh nản lòng nhìn hàng trăm kỵ binh ùa ra từ trong thành phố, cờ hiệu tung bay trong gió trước khi cánh cổng đen xì khép lại.

Họ sẽ chém chúng ta thành từng mảnh mất, Ro­ran tuyệt vọng nghĩ. Chỉ có một trăm năm mươi người còn trong trại, trong đó rất nhiều người bị thương không có khả năng chiến đấu. Phần còn lại vẫn còn ở khu xay sát anh tới thăm ngày hôm trước hoặc ở mỏ khai thác đá dọc bờ biển, hoặc trên bờ sông chính tây tìm những xà lan mà họ cần nếu muốn kế hoạch thành công. Giờ anh không kịp gọi viện binh về chống trả những kỵ binh này.

Khi ra lệnh cho binh lính làm nhiệm vụ, Ro­ran đã hiểu anh đang khiến khu trại yếu ớt trước sức tấn công trực diện của kẻ thù. Nhưng, anh đã hy vọng dân cư trong thành vẫn còn hoang mang vì những cuộc tập kích gần đây nên không dám làm gì mạo hiểm – và những những chiến binh anh giữ lại có thể khiến những kẻ quan sát từ xa nghĩ lực lượng chính vẫn còn trong trại.

Giả thuyết đầu tiên dường như đã sai. Dù những binh lính trong Aroughs có nghe tới tên anh không, nhưng anh nghĩ cho một số lượng kị binh ít ỏi dàn quân trước thành phố chỉ là một đòn thăm dò. Nếu quân đội hoặc tướng sĩ của họ đã từng nếm mùi lợi hại của đội quân Ro­ran chỉ huy, anh nghĩ họ sẽ cho một đội quân động gấp đôi ra. Nhưng giờ, anh phải nghĩ ra cách chống trả đòn tấn công và cứu binh lính khỏi cuộc tàn sát.

Bal­dor, Carn và Brig­man chạy tới với vũ khí trong tay. Carn vội vàng mặc áo giáp thì Bal­dor nói, “Chúng ta sẽ làm gì?”

“Chúng ta không thể làm gì,” Brig­man nói. “Chúng ta xong đời chỉ vì sự ngu ngốc của anh đó, Cây Búa Dũng Mãnh. Chúng ta phải tẩu tán – ngay bây giờ - trước khi những tên kị binh đáng nguyền rủa kia dày xéo lên chúng ta.”

Ro­ran vỗ mặt đất. “Rút lui ư? CHúng ta sẽ không rút lui. Binh lính của chúng ta không thể chạy trốn nổi, và cứ cho là có thể đi, tôi cũng không bỏ lại những người bị thương.”

“Anh không hiểu sao? Chúng ta thua rồi. Nếu chúng ta ở lại, chúng ta sẽ bị giết – hoặc tệ hơn, bắt làm tù binh!”

“Thôi nào, Brig­man! Tôi không định quay đuôi bỏ chạy đâu!”

“Sao lại không? Vậy là anh không chịu thừa nhận thất bại? VÌ anh mong sẽ vớt vat danh dự từ trận chiến vô vọng cuối cùng hả? Có phải không? Anh không thể anh đang gây cho Var­den tổn thất nghiêm trọng hơn à?”

Những kỵ binh giơ cao thanh kiếm và giáo lên quá đầu và – với một tràng gào rú, la thét có thể nghe rõ từ khoảng cách rất xa – họ thúc ngựa và bắt đầu lao tới như sấm rung chớp giật về phía khu đóng trại của Var­den.

Brig­man tiếp tục bài đả kích, “Tôi không để anh lãng phí mạng sống của chúng tôi để giành lấy lòng tự trọng cho anh. THích thì anh cứ việc ở lại, nhưng …”

“Im!” Ro­ran gầm lên. “Im mồm nếu không tôi khâu mồm ông lại đó! Bal­dor, trông chừng ông ta. Nếu ông ta làm bất cứ việc gì anh không thích, anh tự do chém giết.” Brig­man căng người vì tức giận nhưng ông ta không dám nói gì vì Bal­dor đang giơ thanh kiếm nhắm vào ngực ông ta.

Ro­ran đoán anh có chừng năm phút để quyết định hành động ra sao. Năm phút quá ngắn ngủi.

Anh cố tưởng tượng cảnh họ sẽ biết hoặc cầm chân kỵ binh thế nào, nhưng anh nghĩ thấy chuyện đó không có khả năng. Anh không tìm ra chỗ nào để đặt bẫy đoàn quân này. Mảnh đất quá bằng phẳng, trống trải cho bất cứ kế hoạch nào tương tự.

Chúng ta không thể thắng nếu chiến đấu, vậy – Vậy nếu chúng ta dọa được chúng thì sao? Nhưng bằng cách nào? Hỏa công? Hỏa công có thể là con dao hai lưỡi. Hơn nữa, cỏ còn ẩm ướt chỉ khiến lửa cháy âm ỉ. Khói? Không ăn thua.

Anh liếc nhìn Carn. “Anh có thể tạo ra hình Saphi­ra gầm thét ra lửa như thể cô bé ở đây không?”

Đôi má gầy gò của pháp sư không còn màu sắc. Anh ta lắc đầu, biểu tình hỗn loạn. “Có thể, tôi không chắc, tôi chưa từng thử. Tôi sẽ tạo ra một hình ảnh của cô rồng từ trí nhớ của tôi. Nhưng có thể trông sẽ không giống một sinh vật sống.” Anh hất hàm về người kỵ sĩ đang phi nước đại tới. “Họ sẽ nhận ra có gì không đúng.”

Ro­ran ấn móng tay vào lòng bàn tay. Chỉ còn bốn phút.

“Nhưng cũng đáng để thử,” anh ta nói khẽ. “Chúng ta chỉ cần làm cho họ sao nhãng, bối rối…” Anh liếc nhìn bầu trời, hy vọng thấy những đám mây mang mưa tới, nhưng lạy chúa, trên trời chỉ có hai đám mây đang bay bay. Bối rối, không chắc chắn, nghi ngờ….Con người sợ cái gì? Họ sợ những thứ họ không biết, không hiểu.

Ngay lập tức, Ro­ran nghĩ tới hàng tá kế hoạch có thể làm nản lòng quân thù, kế hoạc sau càng kỳ lạ hơn kế hoạch trước, cuối cùng anh nghĩ ra một ý tưởng rất đơn giản và liều lĩnh tới mức hoàn hảo. Hơn nữa, không giống những ý tưởng khác, cái này đúng với con người anh hơn, nhưng cần có sự hợp tác của một người khác: Carn.

“Ra lệnh cho mọi người trốn trong lều!” anh hét và chuẩn bị bước đi. “Nói họ im lặng; tôi không muốn nghe một tiếng động dù là khẽ nhất trừ khi chúng ta bị tấn công!”

Anh bước tới cái lều trống gần nhất, nhét búa vào thắt lưng và cầm một tấm chăn len cáu bẩn từ đất lên. Sau đó anh chạy tới khu nấu ăn và cầm lấy một đoạn gỗ to bản mà các chiến binh thường dùng làm ghế ngồi.

Một tay cầm khúc gỗ, một tay cầm chăn, Ro­ran quay trở lại lều tiến tới một ụ đất cao khoảng trăm mét ngay phía trước khu trại. “ai đó lấy cho tôi mấy khúc xương và một chai bia mật ong lại đây!” anh hét. “Và mang tới bàn có tấm bản đồ nữa. Ngay lập tức, quỷ tha ma bắt, nhanh lên!”

Đằng sau, anh nghe có tiếng bước chân hỗn loạn và tiếng binh khí va vào nhau loảng xoảng khi những binh sĩ rút vào lều. Một sự im lặng kỳ quái bao trùm khu trại trong vài giây sau, trừ có âm thanh do những người anh sai đi mang đồ gây ra.

Ro­ran không thèm nhìn lại. Ở chân dốc ụ đất, anh dựng đứng khúc gỗ và kiểm tra vài lần cho chắc nó không đung đưa sau lưng anh. Khi đã hài lòng, anh ngồi xuống nhìn cánh đồng dốc trước mắt những tên kị binh.

Chúng sẽ tới đây trong ba phút nữa. Anh cảm nhận được mặt đất rung lên qua thanh gỗ bên dưới – càng lúc cảm giác đó càng mạnh.

“Xương với rượu mật ong đâu rồi?!: anh hét lên, mắt vẫn dán chặt vào đội quân đang lao tới.

Anh xoa râu và cho tay vào trong áo trấn thủ. Nỗi sợ làm anh ước gì mình mặc áo giáp nhưng phần lạnh lẽo, tàn nhẫn hơn trong con người anh nói anh sẽ khiến kẻ thù khiếp sợ hơn khi ngồi đó không áo giáp như thể anh đang sống thư thái nhàn tản. Phần đó cũng bảo anh để nguyên cây búa trên thắt lưng để khiến anh thấy an toàn.

“Xin lỗi,” Carn nói không ra hơi khi chạy tới chỗ Ro­ran cùng với người đang mang chiếc bàn nhỏ từ trong lều của Ro­ran. Họ đặt bàn trước mặt anh và đặt chăn lên đó, Carn đặt lên trên rượu cũng như một cái cốc da đựng năm khúc xương.

“Thôi, đi đi,” anh nói. Carn quay người định đi nhưng Ro­ran giữ tay anh lại. “Anh có thể làm không khí xung quanh tôi mờ ảo như ở lửa cháy trong những ngày đông không?

Carn nheo mắt. “Có thể, nhưng để…”

“Cứ làm đi. Giờ đi trốn đi.”

Khi người pháp sư cao lêu nghêu chạy về phía lều trại, Ro­ran lắc những chiếc xương trong cốc rồi đổ nó lên bàn và bắt đầu chơi một mình, ném xương lên không khí – đầu tiên là một cái, rồi hai, ba và bốn – rồi bắt lấy chúng. Cha anh, ông Gar­row thường khiến anh thích thú khi chơi trò này trong lúc hút thuốc và ngồi trên chiếc ghế đã lung lay trong nhà suốt những tối mùa hefcuar Thung lũng Palan­car. Thi thoảng Ro­ran chơi cùng ông, nhưng thường anh là người thua thường ông Gar­row thích chơi một mình.

Dù tim anh đập nhanh mạnh, còn bàn tay ướt đẫm mồ hôi,anh vẫn tỏ ra bình tĩnh. Nếu anh muốn có cơ hội thắng dù là nhỏ nhất, anh phải tỏ ra bình tĩnh dù thực tâm anh cảm thấy ra sao.

Anh cứ nhìn đống xương và không chịu nhìn lên khi những kỵ binh đang tới càng lúc càng gần. Tiếng những con ngựa phi nước đại càng lúc càng lớn cho tới khi anh nghĩ chúng sắp nhảy bổ lên người anh.

Cách chết kỳ lạ, anh nghĩ và cười dứt khoát. Sau đó anh nghĩ tới Ka­tri­na và đứa con chưa chào đời của họ và anh thấy được an ủi vì nếu anh chết, huyết mạch nhà anh vẫn còn. Không phải theo kiểu bất tử như Er­agon nhưng cũng là một dạng bất tử.

Vào giây phút cuối, khi dội quân chỉ còn cách bàn vài mét, có ai đó hét lên, “Dừng! Dừng lại! Kìm cương lại! Tôi nói, kìm cương lại!” Và, với tiếng xiết dây, những con vật bất đắc dĩ chạy chậm lại rồi dừng hẳn.

Ro­ran vẫn nhìn xuống.

Anh nhấp một hớp rượu và ném mấy cục xương lên lần nữa và dùng mui bàn tay đỡ hai khúc xương.

Ro­ran ngửi thấy mùi đất ẩm bốc lên thoang thoảng, ấm áp và dễ chịu, cùng với đó là cái mùi đặc trưng không dễ chịu bằng của mồ hôi ngựa.

“Chào đằng đó!” người vừa hô dừng ngựa nói. “Chào đằng đó! Anh là ai mà lại ngồi ở đây trong buổi sáng trong lành, uống rượu và chơi trò mả rủi thế? Chúng tôi không xứng được so kiếm cùng anh sao? Anh là ai vậy?”

Từ từ như thể không để ý tới sự hiện diện chủa những binh lính và cho rằng việc này không quan trọng, Ro­ran nhìn lên người đàn ông để râu quai nón nhỏ thó đội một chiếc mũ trụ khoa trương ngồi trước mặt anh trên con hắc mã to lớn đang thở khò khè.

“Tôi không phải đằng đó của ai, và tất nhiên không phải của anh,”Ro­ran nói, không cần cố che giấu vẻ không thích thú người kia. “Tôi có thể hỏi anh là ai mà đi can thiệp vào trò chơi của tôi?”

Chiếc lông chim dài gắn trên mũ trụ của người đàn ông lắc lư khi hắn nhìn Ro­ran, như thể anh là một sinh vật lạ lùng hắn săn được. “Tôi là Tharos Tốc độ, Đội trưởng đội cảnh vệ. Tôi nói cho biết, với sự khinh thường người khác như thế, tôi có thể chém bay đầu anh mà không cần biết anh là ai.” Như để nhấn mạnh lời nói của mình, Tharos hạ thấp ngọn giáo chỉ thẳng vào Ro­ran.

Ba hàng kị binh tụ họp sau lưng Tharos. Trong đám người đó, Ro­ran để ý có một người đàn ông gầy, mũi khoằm mặt và tay xương xâu – vai trần – mà Ro­ran và các pháp sư của Var­den có từng nói qua. Đột nhiên, anh thấy hy vọng Carn đã thành công tạo ra không khí lung linh mờ ảo quanh anh. Nhưng anh không dám quay đầu lại nhìn.

“Tên tôi là Cây Búa Dũng Mãnh,” anh nói. Anh khéo léo thu mấy khúc xương lại, ném lên trời và đón lấy ba khúc. “Ro­ran Cây Búa Dũng Mãnh, và Er­agon Khắc tinh của Tà Thần là em họ tôi. Nếu chưa nghe tới tôi thì chắc cũng phải nghe tới cậu ấy chứ nhỉ.”

Những tiếng thì thầm lo lắng vang lên trong hàng kị binh, Ro­ran nghĩ mình đã thấy đồng tử Tharos mở rộng trong thoáng chốc. “Một tuyên bố ấn tượng nhưng làm sao tôi biết anh có nói thật không? Tất cả mọi người đều có thể nói mình là người khác vì mục đích của bản thân.”

Ro­ran rút cây búa và đặt lên mặt bàn đánh cái rầm. Rồi, không để ý tới những người lính, anh chơi tiếp. Anh lẩm bẩm ra vẻ tức tối khi hai khúc xương rơi xuống khỏi mu bàn tay mình.

“À,” Tharos húng hắng nói. “Anh rất nổi tiếng đó Cây Búa Dũng Mãnh, dù nhiều người nói rằng những lời đồn chỉ toàn phóng đại sự thật. Ví dụ, có đúng là tại làng Del­darad của Sur­da anh một mình hạ gục ba trăm binh sĩ?”

“Tôi không biết chỗ đó tên gì, nhưng nếu tên nó là Del­darad thì đúng, tôi đã hạ gục rất nhiều binh sĩ ở đó. Nhưng thực ra chỉ có một trăm chín ba tên tôi và tôi được yểm trở bởi vài người bạn đồng hành nữa.”

“Chỉ có một trăm chín mươi ba?” Tharos nói bằng giọng không tin. “Anh khiêm tốn quá, Cây Búa Dũng Mãnh. Một chiến thắng như vậy cũng đủ mang lại sự truyền tụng tới muôn đời rồi.”

Ro­ran nhún vai và đưa vại rượu lên uống một ngụm cho xong vì anh không chịu nổi việc đầu óc lâng lâng vì rượu của người lùn. “Tôi chiến đấu để chiến thắng chứ không phải để thất bại. Để tôi mời anh một chén, như một người lính với một người lính,” anh nói và đưa vại rượu cho Tharos.

Người chiến binh thấp lùn ngần ngừ, mặt đảo nhìn pháp sư đằng sau lưng trong một giây. Sau đó hắn ta liếm môi và nói. “Có lẽ tôi sẽ uống.” Hắn ta xuống ngựa, đưa giáo cho một người lính khác, cởi găng tay và đi tới chỗ cái bàn, cẩn trọng nhận rượu từ tay Ro­ran.

Tharos ngửi mùi rượu sau đó uống một ngụm lớn. Lông vũ trên vũ trụ phất phơ.

“Anh không thích rượu này à?” Ro­ran tò mò hỏi.

“Tôi thừa nhận, loại rượu nấu trên núi này cay quá,” Tharos nói và đưa vại rượu về cho Ro­ran. “Tôi thích uống rượu nấu trên quê mình hơn, ấm, ngọt và khó say.”

“Đối với tôi loại rượu này ngọt như sữa mẹ ấy,” Ro­ran nói dối. “Tôi uống nó mỗi sáng, trưa và tối.”

Tharos đeo găng tay lại và quay lại leo lên lưng ngựa, cầm lại giáo. Hắn một lần nữa đưa mắt nhìn tên pháp sư mũi khoằm đằng sau, người mà Ro­ran để ý nước da đã tái đi như da người chết trong khoảnh khắc ngắn ngủi Tharos đặt chân xuống ngựa. Có lẽ Tharos cũng nhận ra sự thay đổi đó nên biểu tình trở nên căng thẳng.

“Cám ơn sự hiếu khách của anh, Cây Búa Dũng Mãnh,” hắn nói to hơn để tất cả cùng nghe rõ. “Có lẽ tôi sẽ sớm có cơ hội được hàn huyên trò chuyện với anh trong thành Aroughs. Nếu có dịp, tôi hứa sẽ phục vụ anh loại rượu ngon nhất trong trang viên nhà tôi, và có lẽ tôi sẽ giúp anh cai loại sữa kinh khủng này. Tôi nghĩ anh sẽ thấy rượu ở đây rất đáng để thưởng thức. Chúng tôi ủ nó bên trong những thùng gỗ sồi hàng tháng thậm chí là hàng năm. Thật đáng tiếc nếu tất cả những công trình đó bị phí phạm và những thùng rượu mở ra chảy lênh láng trên đường, nhuộm đường phố đỏ màu nho.”

“Thế thì quả là đáng tiếc,” Ro­ran trả lời. “nhưng thi thoảng anh không thể tránh chuyện đổ rượu khi dọn bàn đâu.” Anh cầm vại và đổ rượu xuống lớp cỏ dưới chân.

Tharos không nói gì trong một lúc – kể cả lông vũ trên mũ trụ hắn cũng không động đậy – rồi, gầm lên một tiếng giận dữ, hắn hét với những người lính xung quanh. “Dàn trận lại! Dàn trận lại, Ta nói… Yah!” Và với tiếng hét cuối cùng hắn thúc ngựa chạy mất, những người lính còn lại theo sau chạy về Aroughs.

Ro­ran vẫn tỏ vẻ bàng quan không lo lắng tới khi những tên lính đã đi hết. Sau đó anh từ từ thở hắt ra và chống khuỷu tay lên đầu gối. Tay anh hơi run run.

Thành công, anh vui mừng nghĩ thầm.

Anh nghe thấy tiếng chân người chạy tới từ phía khu trại và liếc mắt thấy Bal­dor, Carn đang tiến tới, cùng với ít nhất năm mươi chiến binh vừa trốn trong lều.

“Thành công rồi!” Bal­dor hét lớn khi họ tới gần. “Anh làm được rồi! Tôi không thể nào tin nổi!” Anh ta cười và vỗ vai Ro­ran mạnh tới nỗi khiến Ro­ran đập tay xuống bàn.

Những người còn lại bao quanh anh, cười lớn cũng như ca tụng anh, nói rằng dưới sự chỉ huy của anh, họ sẽ chiếm được Aroughs không mất một binh một tố và họ hạ thấp lòng dũng cảm và tính cách con người thành phố này. Ai đó ấn túi da đựng rượu còn ấm, đầy một nửa vào tay anh khiến anh nhìn nó với vẻ chán ghét. Sau đó anh nhìn người đàn ông đứng bên trai anh.

“Anh có phù phép không?” anh hỏi Carn, lời anh nói hầu như không nghe rõ dưới sự ồn ào của đám đông.

“Cái gì?” Carn nhoài lại gần hơn. Ro­ran nhắc lại câu hỏi và lần này pháp sư cười và gật đầu. “Có. Tôi đã khiến không khí mờ ảo đúng như anh mong muốn.”

“Anh có tấn công pháp sư bên kia không? Khi chúng bỏ đi, tôi thấy hắn như sắp ngất ấy.”

Nụ cười của Carn rộng hơn. “Đấy là do hắn tự chuốc lấy. Hắn cố phá ảo ảnh hắn nghĩ là do tôi tạo ra – cố chọc thủng lớp không khí mờ ảo để thấy cái gì đằng sau – nhưng làm gì có cái gì để phá, để chọc thủng vì thế hắn đã tốn sức không đâu.”

Sau đó Ro­ran cười thầm, sau đó tiếng cười nho nhỏ biến thành trận cười rung người vang tới tận Aroughs.

Trong vài phút anh để mình tận hưởng những lời tán dương tới khi anh nghe tiếng thét cảnh báo lớn vang lên từ trạm gác ở một góc trại.

“TRánh ra! Để tôi xem!” Ro­ran nói và đứng bật dậy. NHững chiến binh tuân lệnh và anh nhìn người đàn ông duy nhất đứng ở phía tây – là một trong những người anh gửi đi xem xét bờ kênh – đang khó nhọc phi ngựa trên cánh đồng, nhắm hướng trại mà phi tới. “Đưa anh ta tới đây,” Ro­ran ra lệnh và một người kiếm sĩ tóc đỏ gầy nhẳng chạy tới đón người kị sĩ.

TROng khi đợi người kia tới, Ro­ran cầm mấy khúc xương lên rồi đặt xuống, từng cái một, vào cốc. NHững khúc xương kêu lanh canh khi rơi xuống.

Ngay khi nhìn thấy người lính kia, Ro­ran gọi lớn, “Này anh! Thế nào? Mọi người bị tấn công à?”

Người đàn ông kia vẫn giữ im lặng mãi tới khi chỉ còn cách vài mét. Anh ta xuống ngựa và đứng trước Ro­ran, cử động cứng nhắc như một cây thông thiếu năng, và lớn giọng báo cáo, “Có mặt, thưa ngài!” Khi quan sát gần hơn, Ro­ran nhận thấy cậu ta chỉ là một thiếu niên – đúng hơn, cậu ta chính là cậu thiếu niên đã nắm dây cương cho anh hồi anh mới tới trại. Nhưng điều này không khiến Ro­ran tò mò.

“THế nào? Tôi không có thì giờ mà dông dài.”

“Báo cáo! Hamund gửi tôi tới nói rằng chúng tôi đã tìm thấy tất cả những xà lan chúng ta cần và rằng ngài ấy đang cho dựng xe trượt mang nó tới một con kênh khác.”

Ro­ran gật đầu. “Tốt. Anh ấy có cần thêm trợ giúp không”

“Báo cáo! Không ạ!”

“Có thế thôi à?”

“Vâng, thưa ngài!”

“Đừng luôn miệng thưa ngài thế. Một lần là đủ rồi. Hiểu không?”

“Vâng, thưa ngài – à, vâng th…à, ý tôi là vâng, tất nhiên rồi.”

Ro­ran mỉm cười. “Cậu làm tốt lắm. Kiếm gì ăn đi rồi đi tới khu mỏ rồi báo cáo lại cho tôi. Tôi muốn biết họ làm tới đâu rồi.”

“Vâng, thưa…Xin lỗi ngài – Tôi không… Tôi sẽ làm ngay lập tức, thưa Chỉ huy.” Má cậu thanh niên hồng lên vì nói lắp. Cậu ta cúi đầu chào nhanh rồi nhanh chóng lên ngựa và đi về lều.

Ro­ran càng nghiêm túc hơn vì anh biết, họ đang may mắn khi tránh được lần đụng độ này. Họ còn nhiều việc cần làm và nếu không làm tốt cuộc chiến của họ cũng thua chắc.

Anh nói với tất cả những người lính. “Về trại! Tôi muốn có hai hào quân sự xung quanh lều vào tối này; mấy gã lính da vàng bụng bự đó có thể sẽ đổi ý và quay lại tấn công và tôi muốn có sự chuẩn bị.” Vài người càm ràm vì phải đào hào nhưng phần đông có vẻ vui vẻ đồng ý.

Carn hạ giọng nói, “Anh không muốn họ kiệt sức vào sáng mai chứ?”

“Tôi biết,” Ro­ran trả lời bằng giọng nhẹ nhàng tương tự. “Nhưng chúng ta cần củng cổ khu đóng quan và chúng ta cần làm điều này để tránh bị đánh úp. Hơn nữa, dù sáng mai họ mệt thế nào thì trận chiến cũng sẽ tiếp thêm sức lực cho họ. Luôn luôn như thế.”

Đối với Ro­ran một ngày trôi qua rất nhanh khi anh tập trung vào những vấn đề thiết yếu và cố gắng tăng cường thể lực. Những binh lính làm việc hăng say – khi cứu họ, anh đã có được lòng trung thành và tận tụy từ họ - nhưng anh đã thấy rõ ràng hơn rằng, dù họ cố gắng thế nào cũng không thể hoàn thành chuẩn bị trong thời gi­an quá ngắn.

Suốt sáng, chiều và đầu buổi tối, Ro­ran càng lúc càng cảm thấy hết hy vọng và anh tự nguyền rủa mình vì đã đưa ra một kế hoạch tham vọng và phức tạp tới vậy.

Từ đầu mình phải hiểu rằng chúng ta không có thời gi­an chứ, anh nghĩ. Nhưng giờ đã quá muộn để thử một kế hoạch mới. Lựa chọn duy nhất là cố gắng hết sức và hy vọng, những nỗ lực đó sẽ đủ để giành lấy chiến thắng.

Trời nhá nhem tối, những tia sáng lạc quan đã tới với anh, vì đột nhiên tất cả những sự chuẩn bị đều hoàn thành với tốc độ nhanh không ngờ. Chỉ vài giờ sau, khi trời tối đen và sao chiếu lấp lánh trên đầu, anh thấy mình đứng ở khu xay sát cùng với gần bảy trăm người, mọi sự chuẩn bị đã hoàn thành cho việc chiếm Aroughs vào cuối ngày hôm sau.

Ro­ran cười vì nhẹ nhõm, tự hào và có chút ngờ vực vì công trình của họ.

Anh chúc mừng những người lính xung quanh và cùng họ về lều. “NGhỉ ngơi đi nếu có thể. Chúng ta sẽ tấn công vào lúc bình mình!”

Những người lính reo vui, dù họ mệt mỏi thấy rõ.

19. BẠN VÀ THÙ

Tối hôm đó, Ro­ran ngủ không được sâu giấc. Anh không thể nào nghỉ ngơi hoàn toàn dù biết tầm quan trọng của trận chiến săp tới và rằng anh có thể bị thương đầy mình trong trận chiến như trước kia. Hai ý nghĩ đó khiến anh căng thẳng, tỉnh dậy khỏi giấc mộng đen tối, kỳ lạ.

Thế là, anh tỉnh giấc dễ dàng khi một âm thanh uỵch nho nhỏ vang lên ngoài lều

Anh mở mắt và nhìn lên nóc lều. Trong lều tối om chỉ trừ tia sáng yếu ớt hắt vào từ ngọn đuốc qua cửa vào. Không khí lạnh lẽo và chết chóc như thể anh đang bị chôn trong lòng đất. Anh không biết đã mấy giờ nhưng anh biết đã rất, rất khuya. Kể cả những sinh vật của ban đêm cũng đã trở lại ổ và đi ngủ. Không ai nên thức, trừ những lính canh mà quanh lều anh đâu có người lính nào.

Ro­ran cố thở từ từ và hít thật sâu khi nghe ngóng. Âm thanh lớn nhất anh nghe được là tiếng đập của con tim, càng lúc càng lớn hơn, nhanh hơn vì anh cảm thấy căng cứng như dây đàn.

Một phút trôi qua.

Lại một phút nữa

Rồi ngay khi anh nghĩ không có gì phải lo lắng và nhịp tim dần ổn định thì một bóng đen vút qua cửa lều, che đi ánh sáng bên ngoài.

Nhịp tim của Ro­ran đập nhanh gấp ba lần như khi anh chạy lên đỉnh núi vậy. Nhưng mục đích của người kia không thể là gọi anh dậy chuẩn bị chiếm Aroughs hay hiến kế cho anh vì nếu có, họ sẽ không ngần ngại mà gọi tên anh.

Một bàn tay đeo găng đen – đen hơn cả màn đêm – thò vào qua cửa lều.

Ro­ran định mở miệng tri hô nhưng lại thôi. Không nên ngu ngốc đánh mất lợi thế ngạc nhiên. Hơn nữa, nếu kẻ đột nhập biết hắn đã bị phát hiện, hắn sẽ hoảng loạn và hoảng loạn sẽ khiến hắn nguy hiểm hơn.

Ro­ran cẩn thận dùng tay phải nắm lấy con dao đặt dưới áo choàng anh đang gấp gọn thành gối và giấu vũ khí dưới chăn. Cùng lúc đó, anh dùng tay trái nắm chặt cạnh chăn.

Ánh sáng vàng khắc họa đường nét tên đột nhập. Ro­ran thấy hắn mặt một áo da chần bông nhưng không mang áo giáp. Sau đó, cửa lều đóng lại và bóng tôi một lần nữa bao chùm lấy họ.

Người lạ mắt rón rén tới nơi Ro­ran nằm.

Ro­ran cảm thấy như anh sắp ngất vì thiếu không khí nếu cứ cố nín thở để tên kia không biết anh đã thức.

Khi kẻ đột nhập bước được nửa đường tới võng, Ro­ran kéo chăn ra ném lên người gã và, với một tiếng hét kinh hoàng, anh lao lên người hắn, nắm lấy con dao định moi ruột hắn.

“Đừng!” người đàn ông hét lên. Ro­ran ngạc nhiên ngừng tay và cả hai ngã nhào xuống đất. “BẠn mà! Tôi là bạn!”

Nửa giây sau, Ro­ran thở hắt ra vì hai cú đấm vào bụng. Cơn đáu gần như hạ gục anh nhưng anh cố lăn ra tránh hắn và cố đẩy xa khoảng cách giữa hai người.

Ro­ran gượng đứng dậy, rồi một lần nữa lao tới tên đột nhập đang lăn lộn trong đống chăn.

“Đợi đã, tôi là bạn anh!” người đàn ông hét lên nhưng Ro­ran không định tin hắn thêm lần nữa. May mà anh không tin hắn, vì khi anh chém hắn, hắn qua lớp chăn tóm lấy tay phải và con dao của Ro­ran sau đó dùng một con dao hắn lấy ra từ áo da chém vào Ro­ran. Ro­ran cảm thấy đau nhói nhưng cơn đau quá nhẹ nên Ro­ran không để ý nhiều.

Ro­ran rống lên và kéo mạnh chăn, kéo gã đàn ông đứng dậy và dộng hắn vào lều khiến lều đổ sập, nhốt họ bên trong. Ro­ran vứt chăn sang một bên rồi lần mò tìm gã kia.

Tay trái Ro­ran sờ thấy một đế giày cứng và đầu ngón tay anh lạnh cứng.

Anh lao lên, nắm lấy cổ chân hắn khi hắn cố quay lại. Gã quẫy đạp như một con thỏ khiến Ro­ran tuột tay, nhưng anh nào bỏ cuộc. Ro­ran nắm chặt cổ chân hắn và bóp vào gân chân hắn cho tới khi hắn kêu oai oái.

Trước khi hắn kịp trấn tĩnh, Ro­ran leo lên người hắn và ấn bàn tay cầm dao của hắn xuống đất. Ro­ran cố đâm hắn nhưng anh quá chậm; kẻ thù của anh nắm được cổ tay anh và dùng bàn tay như gọng kìm bóp chặt tay anh.

“Ngươi là ai?” Ro­ran lồng lên.

“Bạn anh,” người đàn ông nói phả hơi thở vô mặt anh. Nó có mùi rượu táo hỏng. Sau đó hắn lên gối Ro­ran ba phát liên tục.

Ro­ran đập trán vào mũi hắn, khiến nó kêu đánh rắc. Gã rên rỉ và quẫy đạp bên dươi nhưng Ro­ran không chịu thả hắn ra.

“Ngươi… không phải bạn ta,” Ro­ran gầm trong họng khi cúi xuống và từ từ hạ con dao xuống người hắn. Khi cả hai đang căng người lên thì Ro­ran nghe thấy có tiếng người la hét bên ngoài cái lều sập.

Cuối cùng anh khóa được tay hắn và đâm xuyên qua lớp áo và da thịt. Hắn co giật. Anh đâm nhanh thêm mấy nhát sau đó cắm nguyên con dao trên ngực hắn.

Qua cán dao, Ro­ran cảm nhận được trái tim rung lên lần cuối khi bị cắt thành từng mảnh. Gã co giật hai lần nữa sau đó nắm đó, thở hắt ra.

Ro­ran tiếp tục giữ hắn cho tới khi sự sống rời bỏ hắn. Họ ôm nhau thân mật như một cặp tình nhân. Dù gã kia định giết anh nhưng Ro­ran không biết gì về hắn và anh không thể nào không thấy sợ hãi. Đây là một con người – một mạng sống, một sinh vật biết suy nghĩ – đã ra đi vì hành động của anh.

“Ngươi là ai?” anh nói thầm. “Ai gửi ngươi tới?”

“Ta đã… suýt giết được ngươi,” gã cất tiếng nói, nghe có vẻ hài lòng. Sau đó hắn thở hắt ra, cơ thể mềm oặt. Hắn chết.

Ro­ran gục đầu lên ngực hắn và hít thở, người anh run lên vì bị tấn công.

Mọi người bắt đầu lôi lớp vải bố phủ lên người anh ra. “Kéo nó ra!” Ro­ran hét, không thể chịu nổi sức nặng kinh khủng đang đè lên cũng như không gi­an đen thẳm, tù túng và không khí ngột ngạt.

Một kẽ hở xuất hiện vì ai đó đã cắt thủng lớp vải. Ánh đuốc ấm áp nhảy múa lan tỏa qua lỗ hổng.

Anh điên cuồng muốn thoát khỏi phòng gi­am. Anh đứng lên, nắm lấy lỗ hổng mà chui ra. Anh loạng choạng đi về phía có ánh sáng, trên người không mặc gì ngoài khố và nhìn xung quanh với vẻ bối rối.

Balo­dr đang đứng đó cùng Carn, Del­win, Man­del và mười người lính khác. Tất cả cầm vũ khí sẵn sàng chiến đấu. Không ai mặc quân trang đầy đủ, trừ hai người mà Ro­ran nhận ra là lính gác đêm nay.

“Chúa ơi,” ai đó hét lên và Ro­ran quay lại nhìn người lính đang hé mắt nhìn qua căn lều thấy xác kẻ đột nhập.

Gã nhỏ thó, tóc dài bóng dầu buộc thành đuôi ngựa và đeo bịt mắt trái. Mũi hắn gẫy và tím đỏ - hậu qua từ những cú đấm của Ro­ran – và máu be bét trên nửa dưới khuôn mặt hắn. Máu tràn ra trên ngực hắn và trên mặt đất xung quanh. Quá nhiều máu đối với một con người.

“Ro­ran,” Bal­dor lên tiếng. Ro­ran tiếp tục nhìn kẻ ám sát không thể rời mắt. “Ro­ran,” Bal­dor lại nói nhưng lớn hơn. “Ro­ran, nghe tôi nói này? Anh có bị thương không? Chuyện gì xảy ra?… Ro­ran?”

Cuối cùng Ro­ran cũng nghe thấy. “Cái gì?” anh hỏi.

“Ro­ran, anh có bị thương không?”

Sao anh ấy lại nghĩ thế nhỉ? Ro­ran bối rối nhìn xuống. Lông ngực anh bê bết máu khô, những vệt máu dính trên tay anh và trên khố.

“Ổn,” anh nói dù khó lòng mở miệng. “Có ai bị tấn công nữa không?”

Đáp lại, Del­win và Hamund bước sang một bên để lộ một thân hình không còn sự sống. Đó chính là cậu thiếu niên đã chạy truyền tin cho anh.

“Ôi!” Ro­ran rên rỉ, nỗi buồn dâng lên trong anh. “Sao lại thế này?”

Một trong những chiến binh bước lên phía trước. “Tôi ở cùng lều với cậu ấy, thưa Chỉ huy. Cậu ấy luôn ra ngoài đi dạo mỗi tối, vì cậu ấy đã uống nhiều nước chè. Mẹ cậu ấy bảo làm thế để phòng ốm đau… Cậu ấy tốt tính lăm thưa Chỉ huy. Cậu ấy không nên bị vài tên hèn hạ chỉ biết đánh len chém thành nhiều mảnh thế này.”

“Không,” Ro­ran thì thầm. Nếu cậu ta không ở ngoài đó thì người chết phải là mình. Anh chỉ tên thích khách. “Trong trại còn tìm thấy tên sát thủ nào không?”

Những người đàn ông thì thào nói chuyện; sau đó, Bal­dor cất giọng, “Tôi không nghĩ có.”

“Kiểm tra chưa?”

“Chưa.”

“Vậy thì đi kiểm tra đi! Nhưng đừng đánh thức những người khác. Họ cần ngủ. Từ lúc này hãy cho lính gác ở lều của các tướng lĩnh. Đáng nhẽ mình phải nghĩ tới chuyện này.

Ro­ran đứng nguyên tại chỗ, cảm thấy mình thật ngu ngốc và đần độn khi Bal­dor ra lệnh. Mọi người, trừ Carn, Del­win và Hamund đều tản đi. Bốn người lính cáng xác cậu nhỏ đi chôn, trong khi những người còn lại đi kiểm tra khu đóng quân.

Hamund tiến tới nhìn tên thích khách, và dùng mũi giày đẩy con dao của hắn. “Chắc sáng nay anh đã khiến mấy tên lính sợ hơn chúng ta tưởng.”

“Chắc rồi.”

Ro­ran run lên. Anh thấy lạnh toàn thân đặc biệt ở tay và chân như dính đá. Carn nhận ra và mang cho anh cái chăn. “Đây,” Carn nói và choàng lên vai Ro­ran. “Ra ngồi cạnh đống lửa kìa. Tôi sẽ mang cho anh ít nước nóng mà tắm rửa. Thế nhé?”

Ro­ran gật đầu vì không nghĩ mình còn nói được.

Carn định đi, nhưng được vài mét, anh dừng lại khiến Ro­ran cũng phải ngừng bước. “Del­win, Hal­mund, lấy cho tôi cái võng, cái gì để ngồi cũng được, một vại rươu mật ong và ít vải băng bó tới đây. Nhanh nhé.”

Hai người kia giật mình bỏ đi.

“Sao?” Ro­ran bối rối hỏi. “Sao thế?”

Nét mặt anh nghiêm trọng và chỉ lên ngực Ro­ran. “Nếu anh không bị thương thì gì đây?”

Ro­ran nhìn xuống và thấy bên dưới lớp lông ngực và lớp máu khô là một vết cắt dài và sâu chạy ngang xương ức và kết thúc ở đầu ngực. Chỗ hở rộng nhất khoảng 0,6cm và trông giống một nụ cười quỷ quái không có môi. Vết cắt không hề chảy máu. Ro­ran có thể thấy lớp mỡ vàng dưới da và dưới đó và dưới đó là mô cơ ngực đỏ sậm sống màu thịt nai sống.

Anh đã quá quen với những vết thương do giáo mác, gươm kiếm và những vũ khí khác đem đến nên không lấy gì làm lo lắng. Anh đã bị thương không biết bao nhiêu lần trong cuộc đấu tranh chống lại Triều đình – vết thương khiến anh tự hào nhất là vết cắn của Ra’zac trên vai phải khi chúng bắt Ka­tri­na tại Car­va­hall – nhưng chưa bao giờ anh lãnh một vết thương lớn hoặc không bình thường thế này.

“Đau không?” Carn hỏi.

Ro­ran lắc đầu. “Không.” Cổ họng anh cứng lại và tim anh – vẫn đang đập thình thịch vì trận đánh lộn – đập nhanh gấp đôi. Dao có độc chăng? Anh phân vân.

“Ro­ra, anh phải thả lỏng người,” Carn nói. “Tôi nghĩ tôi có thể chữa trị cho anh, nhưng anh sẽ làm cho mọi chuyện khó khăn hơn nếu ngất đi.” Anh ta đỡ lấy vai Ro­ran, dẫn anh tới cái võng Hamund mang ra từ lều và Ro­ran ngoan ngoãn ngồi xuống,

“Nghỉ ngơi thế nào?” anh hỏi kèm một tiếng cười giòn ngắn ngủi.

“Hít sâu và tưởng tượng anh đang chìm sâu trong lòng đất khi thở ra. Tin tôi đi, anh sẽ thấy thoải mái.”

Ro­ran nghe theo nhưng khi anh thở ra lần thứ ba, vết thương mở rộng, máy chảy ra từ vết thương, bắn lên mặt Carn. Pháp sư lùi lại và nguyền rủa. Máu nóng chảy xuống bụng Ro­ran.

“Giờ thì đau rồi,” Ro­ran nghiến răng nói.

“Này!” Carn hét và vẫy Del­win đang chạy lại chỗ họ, tay cầm đầy băng gạc và những vật dụng khác. Khi anh ta đặt chúng xuống một đầu võng, Carn cầm một ít vải lên ấn vào vết thương của Ro­ran để cầm máu. “Nằm xuống,” anh ra lệnh.

Ro­ran nghe theo và Hamund đưa cho Carn một cái ghế đẩu. Carn ngồi xuống trong khi vẫn bịt chặt miệng vết thương. Anh mở tay phải và nói, “Mở chai rượu ra và đưa cho tôi.”

Del­win đưa chai rượu cho Carn. Anh nhìn thẳng vào Ro­ran và nói. “Tôi sẽ phải sát trùng vết thương trước khi dùng phép thuật làm khép miệng nó. Hiểu không?”

Ro­ran gật. “Đưa cho tôi thứ gì để cắn nào.”

Anh nghe có tiếng cởi thắt lưng và một trong hai người, Del­win hoặc Hamund đưa thắt lưng vô miệng anh, anh anh dùng hết sức cắn. “Làm đi!” anh nói rõ ràng nhất có thể.

Trước khi Ro­ran có thời gi­an phản ứng lại, Carn bỏ vải ra và rưới rượu lên vết thương, lên lớp lông ngực và máu khô cùng những vết bẩn khác dính trên đó. Ro­ran rên rỉ và cong người lên, cào lên võng.

“Rồi, xong rồi,” Carn nói và đặt chai rượu sang một bên.

Ro­ran nhìn những vì sao, những cơ bắp trên người anh run rẩy. Anh cố quên đi cơn đau khi Carn đặt tay lên vết thương và bắt đầu lầm rầm nói bằng ngôn ngữ cổ.

Sau vài giây, dù đối với Ro­ran nó phải kéo dài tới vài phút, anh thấy không thể chịu nổi cơn ngứa bên trong lồng ngực khi Carn chữa trị vết thương do con dao của tên thích khách gây ra. Cơn ngứa lên cao dần, tới lớp da và cơn đau biến mất. Nhưng, anh vẫn thấy khó chịu muốn gãi rách da rách thịt.

Khi làm xong, Carn thở dài và cúi xuống, dùng tay đỡ đầu.

Ro­ran buộc những cơ bắp cứng đầu làm việc theo ý mình, quăng chân sang một bên và ngồi thẳng dậy. Anh đưa tay lên sờ ngực. Ngoại trừ lớp lông, da anh mềm mại tới hoàn hảo. Bình thường. Không một vết sẹo. Y như cũ.

Pháp thuật.

Del­win và Hamund vẫn đứng nhìn. Họ mở to mắt hơn một chút dù anh nghĩ ai trong hoàn cảnh đó cũng sẽ thế thôi.

“Đi nghỉ đi,” anh nói và vẫy tay. “Chúng ta chỉ còn vài giờ, và tôi muốn hai người tỉnh táo.”

“Anh chắc chắn mình ổn rồi chứ?” Del­win hỏi.

“Ừ, ừ,” anh nói dối. “Cám ơn sự giúp đỡ của các anh, nhưng giờ đi đi. Làm sao tôi ngủ nôi khi hai anh cứ cục ta cục tác như gà mẹ được chứ?”

Sau khi họ rời đi, Ro­ran xoa mặt và ngồi nhìn bàn tay run rẩy, dính đầy máu của mình. Anh thấy khó chịu. Trống rỗng. Như thể anh đã làm việc công việc cả tuần trong vòng vài phút.

“Anh còn chiến đấu nổi không?” Anh hỏi Carn.

Pháp sư nhún vai. “Không tốt bằng trước…đó là cái giá phải trả. Nhưng chúng ta không thể vào trận mà không có anh.”

Ro­ran không muốn cãi. “Anh cũng nên đi nghỉ thôi. Sắp bình minh rồi.”

“Anh thì sao?”

“Tôi sẽ đi tắm, tìm áo mặc và cùng Bal­dor xem xét xem có phát hiện sát thủ nào của Gal­ba­torix không?”

“Anh không định nghỉ ngơi à?”

“Không.” Anh vô thức gãi ngực. Anh dừng lại khi nhận ra mình vừa làm gì. “Lúc trước tôi cũng không ngủ được, và giờ…”

“Tôi hiểu.” Carn từ từ đứng dậy. “Tôi sẽ ở trong lều nếu anh cần tôi.”

Ro­ran nhìn anh ta nặng nề bước vào bóng tối. Khi không còn thấy anh ta nữa, Ro­ran nhắm mắt và nghĩ tới Ka­tri­na để bình tĩnh lại. Anh dùng hết sức mạnh ít ỏi còn lại, đi vào căn lều sập, tìm quần áo, vũ khí, giáp và khăn. Trong một lúc lâu anh tránh nhìn xác tên thích khách dù đôi khi thoáng thấy trong lúc bới tìm đô dùng.

Cuối cùng, Ro­ran quỳ xuống, ngoảnh đầu, rút con dao khỏi xác chết. Anh vẩy con dao và nghe tiếng máu nhỏ giọt xuống sàn.

Trong cái im lặng lạnh lẽo của ban đêm, Ro­ran từ từ chuẩn bị tinh thần cho trận chiến. Sau đó, anh đi tìm Bal­dor – người đã khẳng định với anh rằng không có thêm tên thích khách nào lọt qua tầm mắt của lính gác – và đi quanh trại, nghĩ ngợi về kế hoạch tấn công Aroughs. Sau đó, anh thấy nửa con gà nướng đã nguội ngắt từ bữa tối. Anh ngồi xuống ăn và ngắm nhìn các vì sao.

Nhưng, cho dù anh làm gì, anh vẫn nghĩ tới cậu nhỏ nằm chết ngoài lều anh. Ai là người có quyền quyết định ai được sống và ai phải chết? Mạng sống của mình đâu có đáng giá hơn cậu ấy nhưng cậu ấy là người nằm sâu dưới ba tấc đất trong khi mình còn ít nhất vài giờ tận hưởng cuộc sống dương thế. Đó là cơ hội, là định mệnh hay tội ác, hay đây là do một thế lực trên kia sắp xếp?

20. BỘT LỬA

“Cảm giác có em thích chứ?” Ro­ran hỏi Bal­dor khi họ sánh bước đi tới khu xay sát gần nhất trong ánh hừng đông.

“Không phải thích hay không thích. Ý tôi là, em tôi đâu có lớn gì. Trông như con mèo con ấy.” Bal­dor kìm cương khi con ngựa của cậu ta định xông ra đám cỏ ven đường. “Tôi thấy chuyện có em – dù là trai hay gái – sau một thời gi­an quá dài cứ nhột nhạt thế nào ấy.”

Ro­ran gật đầu. Anh dịch mông trên lưng ngựa, nhìn lại sau đảm bảo sáu trăm năm mươi lính đang giữ đúng khoảng cách với anh. Khi tới khu xay sat, Ro­ran xuống ngựa và buộc ngựa trước điểm thấp nhất của ba căn nhà. Một người lính đứng sau dắt lũ ngựa về trại.

Ro­ran đi tới lạch sông và bước xuống cầu kênh. Sau đó anh đặt chân lên xà lan gần bờ nhất trong bốn cái đang nổi dập dềnh.

Những xà lan trong giống mấy mảng bè đơn sơ hơn là một con thuyền độc mộc được những dân làng dùng làm phương tiện chuyên chở từ Nar­da tới Teirm. Ro­ran rất thích điểm này vì bè đồng nghĩa với không có mũi tàu nhọn. Nhờ vậy, họ buộc, đóng cọc chúng được vào với nhau thành một mảng bè duy nhất dài tới 45m.

Ro­ran đã chỉ đạo đem toàn bộ số đá phiến họ có từ mỏ khai thác chất lên xe bò chở tới đây, chất lên đầu chiếc xà lan thứ nhất và dọc xà lan thứ hai và ba. Trên đống đá phiến, họ chất những bao bột – tìm thấy trong nhà máy xay – tới khi tạo thành một bức tường cao ngang hông.Ở tảng đá cuối cùng trên xà lan thứ hai, bức tường tiếp tục chỉ với các bao bột.

Sức nặng của các phiến đá cùng đống bột kèm theo sức nặng của bản thân xà lan đã biến những chiếc thuyền nổi thành khúc gỗ công thành theo đường thủy khổng lồ. Ro­ran mong sao nó có thể chọc thủng cánh cổng ở cuối con lạch. Kể cả khi cánh cổng được yểm bùa – mặc dù Carn không cho là thế - Ro­ran cũng không nghĩ có bất cứ pháp sư nào, trừ Gal­ba­torix có thể vô hiệu hóa lực tấn công của những chiếc xà lan này một khi chúng trôi xuống từ thượng nguồn.

Ngoài ra, đống đá và bột kia là một lá chắn phòng thủ chống giáo, tên và những vũ khí sát thương khác bay tới.

Ro­ran cẩn trọng đi lại giữa những mảng thuyền dập dềnh tới đầu xà lan. Anh chèn giáo khiên của mình vào một chồng đá phiến rồi quay người quan sát các chiến binh tập hợp giữa các bức tường.

Mỗi lúc xà lan càng lún xuống sâu hơn xuống nước do sức nặng của các chiến binh. Cuối cùng nó chỉ còn nổi trên mặt nước có vài cen­timet.

Carn, Bal­dor, Hamund, Del­win và Man­del đứng cạnh Ro­ran. Họ tự mình chọn vị trí nguy hiểm nhất. Nếu muốn có Aroughs, họ cần có sự đồng hành của kinh nghiệm cũng như sự may mắn. Họ không thể trao trách nhiệm nặng nề cho ai.

Ở rìa xà lan, Ro­ran thấy Brig­man đứng cùng với những người lính ông từng chỉ huy. Sau hành động bất tuân quân lệnh gần đây của Brig­man, Ro­ran đã giáng chức và gi­am ông ta trong lều. Nhưng, Brig­man xin được tham gia trận chiến cuối cùng ở Aroughs, và Ro­ran miễn cưỡng đồng ý; Brig­man giỏi dùng đao kiếm và chỉ cần một thanh kiếm cũng tạo nên sự khác biệt trong trận chiến sắp tới.

Ro­ran vẫn băn khoăn liệu anh có quyết định đúng không. Anh khá tự tin giờ các binh lính trung thành với anh chứ không phải với Brig­man, nhưng Brig­man đã là chỉ huy của họ trong nhiều tháng. Mối liên kết đó không thể quên trong một sớm một chiều. Kể cả trong trận chiến này Brig­man không gây chuyện nhưng ai mà biết ông ta có chịu nghe lời hay lờ quân lệnh đi, ít nhất là khi Ro­ran là người ra lệnh.

Nếu ông ta khiến mình không tin, mình sẽ chém chết ngay tại chỗ, Ro­ran nghĩ. Nhưng giải pháp này rất phù phiếm. Nếu Brig­man thật sự phản bội thì Ro­ran sẽ không nhận ra cho tới khi quá muộn.

Khi chỉ còn lại sáu người lính đứng trên bờ, Ro­ran cúp tay trước miệng hô lớn. “Mở cửa đập!”

Hai người đang đứng trên con đê ở đỉnh đồi – con đê có nhiệm vụ làm chậm dòng chảy của sông từ thượng nguồn về phía bắc. Dưới đó 6m có guồng nước đầu tiên và một hồ nước bên dưới. Phía trước cái hồ là con đê thứ hai, tại đó có thêm hai người lính. Dưới đó thêm 6m là một guồng nước nữa và một hồ nước sâu yên ả. Cuối hồ là con đê thứ ba và là con đê cuối cùng cùng hai người lính nữa. Ở chân dê cuối cùng là guồng nước cuối cùng. Từ đó, dòng chảy uốn lượn êm đềm chảy tới Aroughs.

Trên các con đê là ba cổng đập Ro­ran bắt đóng lại trong lần đầu tới thăm khu xay sát. Qua hai ngày, đội binh lính đã lặn dưới dòng nước đang ngày một dâng cao nạo vét lòng hồ. Sau đó họ cắm những xà gỗ dài, chắc khỏe xuống hai bên cửa đập.

Những người đứng ở giữa và trên đầu đang nắm lấy những xà gỗ - chúng thò ra khỏi đê vài mét – và bắt đầu kéo đẩy chúng theo một nhịp điệu nhất định. Theo như kế hoạch, hai người đứng cuối sẽ đợi một lúc trước khi họ cũng làm theo.

Ro­ran nắm chặt một bao bột trong lúc quan sát. Nếu họ chỉ tính lệch thời gi­an vài giây, chắc chắn một thảm họa sẽ xảy đến.

Gần một phút trôi qua, không có gì xảy ra.

Rồi, với một tiếng ầm lớn, cửa đập đầu tiên mở ra. Đê phình lên, đất nứt toác và nước phù sa chảy ầm ầm xuống guồng nước bên dưới khiến nó quay nhanh hơn bao giờ hết.

Đập sập, những người đứng trên đó nhảy lên bờ cách đó vài cen­timet.

Dòng nước từ độ cao hơn 9m đổ ầm xuống hồ nước đen êm ả bên dưới guồng nước. Một cơn sóng cao vài mét lao xuống đập bên dưới.

Thấy chuyện sắp xảy tới, hai chiên binh ở giữa rời vị trí, lao xuống khu đất an toàn.

May mà họ đã kịp. Khi cơn sóng đập tới đã phá vỡ cửa đập thứ hai như thể một con rồng đá tan nó và cuốn trôi đi những tàn tích của con đập.

Dòng lũ điên cuồng đâm vào guồng nước thứ hai với lực mạnh hơn trước. Gỗ kêu cọt kẹt và lần đầu tiên, Ro­ran nghĩ tới khả năng một hoặc nhiều hơn một guồng nước sẽ bị cuốn trôi. Nếu chuyện đó thực sự xảy ra, những chiến binh và kể cả các xà lan sẽ bị nguy khốn; có thể cuộc tấn công Aroughs sẽ kết thúc từ trong trứng nước.

“Cắt dây neo!” anh hô.

Một trong những người lính cắt dây neo trong khi những người khác cúi xuống kéo một sợi dây dài độ 3 mét giữ xà lan đứng yên bằng tốc độ nhanh nhất.

Chiếc xà lan nặng nề lao lên phía trước, tốc độ chậm hơn mong muốn của Ro­ran quá nhiều.

Mặc kệ cho dòng thác đang đổ ào ào về phía hai người lính, họ vẫn tiếp tục đứng ở đê thấp nhất để đẩy xà gỗ. Chỉ chưa đến một giây trước khi cơn lũ ào lên họ, những người lính mới rời bỏ vị trí.

Dòng nước đục một lỗ lớn trên đập đất dễ như thể nó là bánh mũ và cuồn cuộn lao tới guồng nước cuối cùng. Gỗ kêu kẹt ket – âm thanh lớn và sắc như đập đá – guồng nước nghiêng đi vài độ nhưng vẫn đứng vững. Sau đó, với một tiếng gầm to như tiếng sấm, dòng nước lao xuống chân đồi, nước bắn lên như sương mù.

Từng cơn gió lạnh vuốt lên mặt Ro­ran đứng cách đó hai trăm mét.

“Nhanh nữa lên!” anh tri hộ với những người đang cắt dây neo khi cơn lũ giận dữ tràn xuống con kênh.

Lũ tiến tới với một tốc độ khó tin. Khi nó đập vào đuôi bốn chiếc thuyền, cả đoàn thuyền nhào về phía trước khiến Ro­ran và các chiến binh nhào khỏi đuôi tàu và làm một số người ngã dúi dụi. Vài bao bột rơi xuống sông hoặc rơi ngược về phía những người lính.

Dòng nước tràn dâng nâng xà lan gần rìa nhất cao lên vài mét, đoàn thuyền dài gần 50 mét bắt đầu xoay tròn. Ro­ran biết, nếu quá trình này tiếp tục, đoàn thuyền sẽ bị xé tan.

“Giữ thẳng thuyền!” anh rống lên, nhảy bật dậy khỏi bao bột anh vừa ngã đè lên. “Đừng cho thuyền xoay!”

Nghe thấy tiếng anh, các chiến binh lục tục chống thuyền trôi khỏi dòng nước xoáy và đi về giữa sông. Ro­ran đứng trên đống đá phiến chỉ huy và cùng nhau điều khiển những chiếc xà lan trôi xuống.

“Chúng ta làm được rồi!” Bal­dor hét lên, trên mặt hiện một nụ cười ngu ngốc.

“Đừng mừng vội,” Ro­ran cảnh cáo. “Chúng ta còn cả một đoạn đường dài.”

Bầu trời phía đông chuyển màu vàng chanh khi họ chỉ cách Aroughs một dặm. Với tốc độ di chuyển hiện tại, họ sẽ tới thành phố trước khi mặt trời ló rạng và màu trời xám xịt sẽ giúp họ tránh được những tên lính canh trên tường thành và chòi gác phát hiện.

Mặc cho những ghềnh đá trên đường đi, chiếc thuyền vẫn gia tốc băng băng tiến tới thành phố bên dưới khu xay sát và không còn một ghềnh thác nào cản bước họ.

“Nghe này,” Ro­ran chụm tay trước miệng và nói lớn để mọi người cùng nghe. “Chúng ta có thể rơi xuống nước khi đâm vào cổng ngoài, vì thế chuẩn bị tinh thần bơi đi. Tới khi chúng ta vào đất liền, chúng ta sẽ là những mục tiêu dễ tấn công. Một khi lên bờ, chúng ta chỉ có một mục đích duy nhất: leo lên bức tường trong trước khi họ nghĩ tới chuyện đóng cổng, vì nếu họ làm vậy, chúng ta sẽ không bao giờ có được Aroughs. Nếu chúng ta có thể vượt qua bức tường thứ hai, chúng ta sẽ dễ dàng tìm thấy Lãnh chúa Hal­stead và buộc ông ta đầu hàng. Nếu ông ta không chịu, chúng ta sẽ chiếm trung tâm thành phố, sau đó tản vào các con đường cho tới khi toàn bộ Aroughs thuộc về chúng ta.

“Nhớ, chúng ta có thể sẽ phải một chọi hai hoặc ba, vì vậy hãy ở gần nhau bảo vệ và che chắn cho nhau. Đừng một mình đơn độc, đừng tách mình ra khỏi nhóm. BỌn lính trong thành hiểu rõ địa bàn hownc húng ta, và họ có thể tấn công chúng ta vào lúc chúng ta không ngờ nhất. Nếu anh một mình, hãy chạy tới trung tâm thành phố, vì chúng tôi sẽ ở đó.

“Hôm nay chúng ta sẽ cống hiến hết mình vì Var­den. Hôm nay chúng ta sẽ giành lấy vinh quang và danh dự tất cả đàn ông đều mơ ước. Hôm nay… hôm nay chúng ta sẽ đánh dấu tên tuổi chúng ta lên lịch sử. Những gì chúng ta làm trong vài giờ nữa sẽ truyền tụng cả trăm năm sau. Hãy nghĩ tới bạn bè, gia đinh, bố mẹ, vợ con các anh. Hãy chiến đấu hết mình vì chúng ta chiến đấu vì họ. Chúng ta chiến đấu vì tự do!”

Những người lính hô to hưởng ứng.

Ro­ran để họ say men chiến đấu; sau đó anh giơ tay và nó. “Giơ khiên!” Và, mọi người như một giơ khiên lên, che chở cho họ và cho chiến hữu khiến cho khu giữa gỗ công thành như một con vật khổng lồ có vảy.

Ro­ran hài lòng nhảy xuống nhìn Carn, Bal­dor và bốn người bạn đồng hành với anh trên quãng đường từ Be­la­tona. Người trẻ nhất, man­del có vẻ sợ hãi nhưng Ro­ran biết cậu ta biết cách kiềm chế nó.

“sẵn sàng chưa?” anh hỏi và họ gật đầu đồng lòng.

Sau đó Ro­ran cười, khi Bal­dor hỏi lý do, anh nói, “Giá mà cha tôi nhìn thấy tôi lúc này!”

Sau đó cả Bal­dor cũng cười.

Ro­ran nhìn chằm chằm dòng nước. Một khi tiến vào thành phố, các chiến binh sẽ nhận ra có gì không bình thường và sẽ ra hiệu báo nguy. Anh muốn họ báo nguy hiểm, nhưng không phải vì lý do này. Vì thế, khi dòng lũ chỉ cách Aroughs 5 phút, anh bảo Carn, “Gửi tín hiệu.”

Pháp sư gật đầu và môi di chuyển kiểu kỳ lạ nói ngôn ngữ cổ xưa. Sau vài phút, anh đứng thẳng và nói. “Xong rồi.”

Ro­ran nhìn đằng tây. Ở đó, trên cánh đồng phía trước Aroughs là máy bắn đá, máy phóng tên và tháp chiến đấu của Var­den. Tháp chiến đấu vẫn không có động tĩnh nhưng những máy móc khác đã chuẩn bị để hành động, bắn tên và đá theo đường vòng cung lên những bức tường trắng của thành phố. Anh biết rằng năm mươi người lính ở đầu kia thành phố đã thổi kèn, la hét, bắn hỏa tiễn, làm mọi thứ để thu hút sự chú ý của những tên lính trong thành và giả bộ như một đội quân lớn hơn sắp sửa tấn công thành phố từ đằng đó.

Ro­ran cảm thấy bình tĩnh lạ thường.

Anh sắp tham chiến.

NHững binh lính của anh sắp chết.

Anh có thể là một trong số đó.

Anh hiểu và anh thấy thông suốt, anh không còn thấy kiệt sức hay run rẩy nữa. Không gì có thể tiếp sức lực cho con người nhiều như chiến tranh – không phải thức ăn, tiếng cười hay lao động chân tay, cả cả tình yêu cũng không phải – và dù ghét chiến tranh nhưng anh không thể chống lại sức quyến rũ của nó. Anh chưa bao giờ muốn làm một chiến binh nhưng anh đã trở thành một chiến binh và anh sẽ làm điều tốt nhất,

Ro­ran che mắt nhìn qua đống đá phiến về cánh cổng đang nhanh chóng tiến tới. Trên mặt nước, cổng làm bằng sồi cứng, đen lại vì dùng lâu và ăn mòn. Bên dưới mặt nước, anh biết là lưới đan bằng sắt thép và gỗ cho dòng nước dễ dàng lưu thông. Phần bên trên là phần khó bẻ gẫy nhất, nhưng anh đoán thời gi­an sử dụng lâu đã khiến phần dưới yếu đi. Khi phần bên dưới bị đâm thủng, phần bên trên cũng dễ dàng đi tong thôi. Vì thế, anh đã ra lệnh cho đặ hai khúc gỗ gắn chặt bên dưới chiếc xà lan đầu tiên. Chúng sẽ tổng thẳng vào nửa dưới của cổng khi phần gỗ sẽ tổng vào phần trên.

Đây là một kế hoạch thông minh nhưng anh không biết có thành công không.

“Đững vững nha,” anh nói với mình anh hơn là nói với mọi người khi cánh cổng ngày càng gần.

Vài chiến binh bên rìa xa f lan tiếp tục điều khiển dùng gậy điều khiển xà lan, nhưng phần còn lại vẫn trốn bên dưới lớp khiên.

Cánh cổng gần hơn bao giờ hết, đường vòng cung dẫn tới cổng lớn lên trước mắt họ, trông nó như lối vào động. Khi đầu xà lan trôi vào trong đường vòm tối om, Ro­ran nhìn thấy khuôn mặt một người lính, tròn và trắng như trăng rằm xuất hiện trên bức tường, cao hơn họ độ chín mét nhìn xuống cảnh cổng với sự kinh ngạc tới kinh hoàng.

Những chiếc xà lan di chuyển quá nhanh, Ro­ran chỉ có thể thời lẩm bẩm một câu chửi duy nhất trước khi dòng nước đẩy họ đi vào con đường tôi om, anh không còn nhìn thấy tên lính kia nữa.

Xà lan đâm vào cổng.

Lực tác động khiến Ro­ran nhào vào bức tường đá phiến đằng sau. Đầu anh đập vào đá và dù anh đội mũ trụ và mũ bảo vệ bên trong, tai anh vẫn ong lên. Xà lan rung lên và dù anh đang ù tai anh vẫn nghe thấy tiếng gỗ gẫy và tiếng kim loại bị cong vênh.

Một trong những tảng đá phiến trượt ra phía sau rơi trúng anh khiến anh thâm tím tay và vai. Anh dùng hết sức đẩy nó ra khỏi thuyền.

Trong ánh sáng nhờ nhờ, anh không thể nhìn thấy rõ chuyện gì xảy ra; tất cả chỉ có những cử động không rõ ràng và những âm thanh vọng lại. Nước tràn lên chân anh, anh nhận ra xà lan bị dò nhưng liệu có bị chìm không thì anh không chắc.

“Đưa rìu cho tôi!” anh hét và giơ tay ra sa, “Rìu, đưa tôi rìu!”

Anh loạng choạng vì chiếc xà lan vọt lên trước độ nửa mét. Cánh cổng bị lung lay nhưng không nhiều. Lực nước vẫn đẩy thuyền vô cổng nhưng anh không thể chờ đợi nổi nữa.

Ai đó đặt rìu vô lòng bàn tay anh. Anh nhìn thấy sáu ô trên trần hầm phát sáng vì những cung thủ đã tháo gạch giơ cung nhắm bắn.

Có người kêu thét lên.

“Carn!” Ro­ran hét. “LÀm gì đi!”

Kệ cho pháp sư với nhiệm vụ của mình, Ro­ran bắt đầu trèo lên đầu thuyền. Xà lan hơi lún về phía trước một chút. Một tiếng gào chói tai khác vang lên từ giữa cánh cổng và ánh sáng rọi qua những vết nứt trên cảnh cổng gỗ sồi.

Một mũi tên nữa bắn trúng đống đá phiến bên tay phải anh, để lại một vệt kim loại khắc lên tảng đá.

Anh cần nhanh gấp đôi.

Khi tới mũi thuyền, một âm thanh chói lói vang lên khiến anh bịt tai lùi lại.

Một cơn sóng lớn chùm lên người anh, che khuất tầm nhìn của an­hh trong giây lát. Anh chớp mắt nhìn cho rõ và thấy một phần canahs cổng đã sập; giờ đoàn xà lan có thể tiến vào thành phố rồi. Nhưng, bên trên đoàn thuyền, những mảnh gỗ vụn đâm tua tủa từ phần còn lại của cánh cổng cao ngang với ngực, cổ và đầu người.

Ro­ran không chần chừ lăn lùi lại và nằm xuống. “Cúi đầu xuống!” anh hét và dùng khiên che người.

Xà lan lao về phía trước, vượt qua những tên cung thủ đang nhắm bắn và lao vào căn phòng đá lớn với đuốc thắp sáng trên tường.

Ở đầu ki­am nước từ con sông chảy vào một canh cổng thấp khác, từ đầu đến cuối đều là khung lưới. Qua những ô vuông, Ro­ran có thể nhìn rõ những tòa nhà bên trong.

Hai bên căn phòng là những bậc thang đá cho người ta chất và dỡ hàng. Ròng rọc, dây kép và những cái lưới không treo trên tường và những cần trục đặt trên một mặt đá phẳng. Phía đầu căn phòng và đằng cuối, những cầu thang và lối đi dẫn người ta đi qua con sông mà không dính nước. Những lối đi gần rìa tiến được tới phòng bảo vệ bên trên đường hầm họ đã đi qua và Ro­ran đoán và dẫn tới những khu phòng thủ lớn hơn khác của thành phố, như tới bức tường phòng thủ mà anh đã nhìn thấy tên lính.

Anh thất vọng khi nhìn cánh cổng thấp kia. Anh hy vọng sẽ tiến thẳng vào trong thành phố và tránh khỏi bị những tên lính tấn công khi họ đang trên thuyền.

Được, vậy là giờ không dùng cách này được nữa rồi, anh nghĩ.

Đằng sau anh, những tên lính mặt đỏ tía tai chạy ra từ phòng bảo vệ, quỳ xuống và bắt đầu giương cung nhắm bắn.

“Đằng đó!” Ro­ran hét và chỉ về phía cầu cảng phía tay trái. Những chiến binh nắm lấy xào một lần nữa và đẩy xà lan về cuối con kênh. Hàng tá hàng ta mũi tên cắm vào khiên khiến chiếc thuyền có hình con nhím

Khi xà lan gần các bến cảng, hai mươi tên lính rút kiếm và chạy xuống cầu thang đón đầu quân Var­den trước khi họ bước xuống.

“Nhanh!” anh hét.

Một mũi tên căm lên khiến của anh và đầu mũi tên hình kim cương chỉ còn cách tay an­hh có 0.5cm. Anh suýt ngã và anh biết anh chỉ có vài giây nữa trước khi có nhiều tên khác muốn bắn vào anh.

Ro­ran nhảy lên cầu cảng, gi­ang rộng tay giữ thăng bằng. Anh hạ cánh nặng nề , một bên đầu gối đập xuống sàn nhà và chỉ có đủ thời gi­an lôi cây búa trước khi những tên lính tới gần.

Anh cảm thấy nhẹ nhóm và vui thú khi nhìn thấy họ. Anh ốm về hoạch định vẽ vời kế hoạch. Giờ anh được đối mặt với kẻ thù thực sự. Không phải những tên thích khác kinh tởm – mà an có thể đánh giết.

Vụ đụng dộ diễn ra ngắn ngủi nhưng dữ dội và đẫm máu. Ro­ran giết hoặc làm bị thương ba tên linh ngay từ những giây đầu tiên. Sau đó, Bal­dor, Del­win, Hal­mund, Man­del và những người khác cùng anh khiến những tên lính tránh xa dòng sông.

Ro­ran không phải một kiếm sĩ, vì thế anh không cố đấu kiếm với kẻ thù. Thay vào đó, anh để chúng đánh trúng khiên nếu muốn trong khi dùng búa đập gẫy xương chúng. Đôi lúc, anh phải đỡ kiếm nhưng anh cố không gi­ao đấu nhiều hơn vài đường với một người vì anh biết sự thiếu kinh nghiệm của anh sẽ để anh lộ ra những sơ hở chết người. Anh đã phát hiện ra ngón nghề hay nhất trong đánh nhau không phải là những pha xoay kiếm tuyệt vời hay những động tác giả phức tạp do nhiều năm rèn luyện mà là chiếm thế chủ động và làm những gì kẻ thù ít ngờ tới nhất.

Thoát khỏi cuộc vây đánh, Ro­ran lao lên cầu thang dẫn tới lối đi bộ có các cung thủ đang nắm bắn binh lính trên thuyền.

Ro­ran nhảy lên ba bậc thang một và vung búa đập thẳng vào mặt tên cung thủ thứ nhất. Tên thứ hai đã bắn tên vì thế hắn đành hạ cùng xuống, vươn tay tìm đoản kiếm.

Nhưng hắn chỉ rút được nửa con dao khỏi vỏ thì Ro­ran đã đánh mạnh vào ngực hắn,, khiến hắn gẫy xương sườn.

Một trong những điều Ro­ran thích khi dùng búa là anh không phải quan tâm nhiều tới loại giáp đối thủ dùng. Một cây búa, giống như bất cứ loại vũ khí tù đầu khác, gây ra vết thương bởi lực tác động chứ không phải vì những vết chém cắt lên da thịt. Anh thích sự đơn giản đó.

Tên lính thứ ba trên đường định bắn anh trước khi anh bước thêm một bước. Lần này, mũi tên chọc qua khiên tới nửa và suýt xuyên vào ngực anh. Anh giữ mũi nhọn chết người đó tránh xa, anh tấn công vào vai hắn. Hắn sử dụng cung để đỡ vì thế Ro­ran dùng mặt khiên đánh ngã hắn, hiến hắn la thét khi ngã dập người vào lan can đường đi bộ.

Kế hoach của Ro­ran biến anh thành một mục tiêu dễ công kích. Khi anh chú ý tới năm tên còn lại thì ba tên đã nhắm thẳng vào ngực anh.

Những tên lính bắn cung.

Trước khi những mũi tên xuyên qua anh, chúng vặn vẹo và lệch sang phải, bay chéo qua những bức tường tối đen như những con ong vò vẽ khổng lồ đang giận dữ.

Ro­ran biết Carn đã cứu anh, và anh sẽ tìm cách cám ơn pháp sư ngay khi họ không còn trong cơn nguy hiểm chết người này nữa.

Anh lao về phía những tên lính còn lại và hạ gục chúng bằng những cú đánh mạnh mẽ như thể chúng chỉ là những cái đinh cong anh cần đóng xuống. Sau đó anh bẻ gẫy mũi tên cắm trên khiên vf quay lại quan sát trận chiến.

Lúc đó tên lính cuối cùng đã đổ gục trên mặt đất bê bết máu, đầu hắn đứt lìa, rơi xuống sông.

Hai phần ba số quân Var­den đã lên bờ, xếp hàng bên bờ sông.

Ro­ran mở miệng định ra lệnh cho họ tản khỏi dòng sông – để những người còn trên thuyền có chỗ mà lên – thì cánh cửa bên trái mở toang và một đội lính xông vào.

Chết tiệt! Chúng tới từ đâu vậy! Có bao nhiêu tên đây?

Ngay khi Ro­ran định bước lên cầu thang giúp đồng đội chống đỡ những kẻ mới, Carn – từ này giờ vẫn đứng đầu thuyền – giơ tay chỉ vào những tên lính và niệm chú bằng ngôn ngữ cổ.

Như anh ta muốn, hai túi bột và một tảng đá phiến bay lên khỏi thuyền và bay về phía những tên lính, hạ gục 12 tên. Sau ba bốn lần va chạm, túi bột bung ra, thứ bột trắng ngà phủ lên người chúng, khiến chùng mù mắt và khó thở.

Một giây sau, một ngọn lửa xuất hiện đằng sau chúng – một quả cầu lửa lớn màu vàng cam chạy qua đám mây bột, tham tàn nuốt chúng và tạo ra âm thanh như hàng trăm lá cờ bay phấp phới trong gió.

Ro­ran che khiến và cảm nhận được sức nóng trên chân và lớp da trần ở ngực khi quả cầu thiêu cháy chỉ cách đó vài mét biến những hạt bột thành bụi rơi xuống: một cơn mưa đen, chết chóc chỉ hợp cho một đám tang.

Khi thứ ánh sáng chết chóc đó yếu đi, Ro­ran cẩn trong ngẩng đầu. Khói có mùi hôi thối, nóng nực xộc vào mũi anh, làm cay mắt anh và anh nhận ra râu bị cháy. Anh nguyền rủa và hạ búa xuống dập lửa.

“Này!” anh hét gọi Carn. “Anh đốt râu tôi rồi! Cẩn thận hơn đi, không tôi phi giáo vào đầu anh đấy!”

Hầu hết những tên lính đang nằm lăn lộn dưới đất tay che khuôn mặt bị bỏng. Những tên khác dập lửa cháy quần áo, trên giáp trong khi cố chống những đòn tấn công khác của Var­den. Những binh sĩ của Ro­ran có vẻ chỉ bị vài vết bỏng nhỏ - hầu hết đều tránh xa tầm ảnh hưởng của quả cầu lửa – dù trận hỏa hoạn bất ngờ đó khiến họ bối rối đôi chút.

“Đừng đừng nhìn như mấy gã ngốc nữa mà hãy tóm lấy mấy thằng nhãi mù dở trước khi chúng phục hồi đi!” anh ra lệnh và gõ búa lên lan can để họ chú ý.

Var­den đông hơn số lính và khi Ro­ran xuống thang, họ đã giết chết ba phần tư số linh gác.

Ro­ran đi về phía cánh cửa đôi lớn dẫn ra khỏi con kênh – cánh cửa lớn đủ cho hai xe ngựa đi song song qua. Anh đi qua Carn, đang ngồi trên đường, ăn đồ ăn từ túi da anh luôn mang theo. Ro­ran biết trong túi đó là hỗn hợp của mỡ lợn, mật ong, gan bò giã nhỏ, tim cừu và quả việt quất. Có một lần Carn cho anh một miếng, anh nhổ ra – nhưng chỉ một miếng thôi đã đủ giúp một người duy trì thể lực sau cả ngày làm việc cực nhọc.

Pháp sư trông kiệt sức. “Anh tiếp tục nổi không?” Ro­ran hỏi.

Carn gật đầu. “Tôi chỉ cần nghỉ một lát… Mấy mũi tên trong đường hầm rồi túi bột và đá…” Anh cắn thêm một miếng nữa. “Hơi quá sức chút.”

Ro­ran thấy yên tâm định bỏ đi thì carn nắm lấy tay anh. “Tôi không làm,” anh nói và mắt hấp hay vui vẻ. “Đốt râu anh ấy. Đấy là do mấy ngọn duốc.”

Ro­ran càu nahuf và tiếp tục đi về cửa. “Tập hớp!’ anh hét và dùng búa đập lên khiên. “Bal­dor, Del­win cùng tôi đứng hàng tiên phong. Những người còn lại đi sau. Chuẩn bị sẵn sàng. Có thể Hal­stead chưa biết chúng ta đã vào thành phố nhưng đừng để ai trốn thoát báo tin… Sẵn sàng chưa? Vậy thì đi với tôi!”

Anh cùng Bal­dor – má và mũi đỏ lựng vì vụ cháy – mở toang cửa bước vào Aroughs.

21. KHÓI BỤI

Hàng tá những tòa nhà tường vôi san sát nhau chung quanh bức tường ngoài, nơi con kênh dãn vào Aroughs. Tất cả các căn nhà – lạnh lẽo và kín mít vì những cửa sổ đen đóng kín – hình như đều là nhà kho. Tất cả đều chất đầy tới nóc, nghĩa là, không ai biết Var­den đã vượt qua hàng phòng thủ.

Ro­ran không có ý định đứng đó tìm hiểu.

Những tia sáng đầu tiên đã chiếu vào thành phố, mạ vàng những nóc tháp, tường thành, những mái vòm, những mái nhà nghiêng nghiêng. Đường phố và những con hẻm khoác lên mình màu bạc xỉn đục và nước chảy trong kênh có màu tối, ảm đạm và váng máu. Trên trời chỉ còn duy nhất một ngôi sao, tỏa ánh sáng xanh xao ảo não vì ánh dương sắp lên làm lu mờ những bảo vật của màn đêm.

Var­den tiến lên, gót giày da của họ nện lên con đường rải đá cuội.

Từ đằng xa vọng lại tiếng gà gáy.

Ro­ran dẫn đoàn quân đi qua những dãy nhà tới bức tường thành bên trong thành phố nhưng không phải luôn đi theo con đường to thẳng nhất để tránh chạm trán ai đó trên đường. Họ đi theo những con đường nhỏ và u ám tới mức đôi khi không nhìn thấy mặt đất.

Những máng nước cáu bẩn. Mùi hôi thối khiến anh lợm giọng. Anh ước gì mình đang đứng trên cánh đồng bao la ở quê nhà.

Sao người ta có thể sống thế này nổi nhỉ? Anh phân vân. Kể cả lợn cũng không đầm mình trong đống bẩn thỉu của nó.

Đi xa những bức tường ngoài họ thấy nhiều nhà ở và cửa hàng hơn: chúng cao ráo, vuông vắn với những bức tường sơn trắng và cửa trang trí hoa văn bằng thép. Đằng sau những cánh cửa sổ đóng kín, thi thoảng Ro­ran nghe có tiếng nói hay tiếng bát đĩa loảng xoảng hoặc tiếng ghế kéo lên trên sàn gỗ.

Chúng ta không còn nhiều thời gi­an, anh nghĩ. Vài phút nữa thôi là những con đường sẽ nhung nhúc người.

Đúng như dự đoán của anh, hai người đàn ông bước ra khỏi con hẻm trước mặt họ. Họ gánh trên vai hai thùng sữa.

Họ ngạc nhiên khựng lại khi thấy Var­den, sữa đổ khỏi thùng. Họ mở to mắt và há miệng định tri hô.

Ro­ran và đoàn quân đứng lại. “Nếu các người hét lên một tiếng thôi, tôi sẽ giết chết ngay,” anh nói bằng giọng nhẹ nhàng, thân thiện.

Hai gã rùng mình thối lui.

Ro­ran bước lên. “Nếu các người chạy, các người sẽ chết.” Anh nhìn chằm chằm họ và gọi tên Carn. Khi người pháp sư tới bên cạnh, anh nói. “Anh có thể làm cho họ ngủ được không.”

Pháp sư nhanh chong ngâm một cụm từ bằng ngôn ngử cổ, âm kết thúc đối với Ro­ran giống như slytha. Hai gã đổ vật xuống đường, hai thùng sữa nảy lên khi đập xuống nền đá cuội. Sữa đổ tràn ra đường tạo nên một mạng lưới tinh tế những đường tơ trắng chạy theo các rãnh đá.

“Kéo họ sang một bên,” Ro­ran nói, “chỗ nào người ta không thấy ấy.”

Sau khi các chiến binh của anh kéo hai gã bất tỉnh khỏi đường, anh ra lệnh cho quân Var­den tiếp tục tiến lên. Họ cần nhanh chóng tới được nội thành.

Nhưng chưa đi được trăm mét, tại một góc quặt họ đụng độ với một nhóm bốn tên lính.

Lần này Ro­ran không nhân nhượng. Anh lao về phía họ, xé lẻ họ và, trong khi chúng chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, anh đập búa vào cổ tên lính dẫn đầu. Cùng lúc đó, Bal­dor chém rơi đầu tên lính khác với sức mạnh bằng vài người đàn ông. Đó là sức mạnh anh có được sau nhiều năm làm việc trong xưởng rèn của bố.

Hai gã còn lại quang quác báo động. Chúng quay người, bỏ chạy.

Một mũi tay bay vút qua vai Ro­ran trúng lưng một tên lính, khiến hắn đổ ụp xuống đường. Một lát sau, Carn quát, “Jier­da!” Cổ tên lính cuối cùng gẫy đánh rắc, và hắn nằm bất động giữa đường.

Tên lính dính tên trên lưng bắt đầu hét: “Quân Var­den! Quân Var­den! Báo động, quâ…”

Ro­ran rút dao găm, chạy tới cắt cổ hắn. Anh lau máu vào áo hắn rồi đứng dậy nó, “Chạy nhanh lên!”

Mọi người như một chạy rầm rập trên con đường dẫn tới nội thành Aroughs.

Khi họ chạy được trăm mét, Ro­ran dừng lại tại một con hẻm đằng sau một căn nhà, giơ tay bảo những người lứng chờ. Sau đó anh đi rón rén, lén nhìn qua khung lưới sắt trên bức tường đá hoa cương trắng.

Cổng thành đóng.

Nhưng ở bên trái có một lỗ hổng lớn. Khi anh quan sát, một tên lính đi qua đó và nhắm thẳng về phía tây thành phố mà chạy.

Ro­ran tự chửi rủa mình. Anh không định bỏ cuộc, đặc biệt khi họ đã đi được tới đây, nhưng họ đang càng ngày càng gặp nguy hiểm. Anh biết chỉ vài phút nữa thôi, lệnh giới nghiêm chấm dứt và anh cùng đội quân sẽ bị phát hiện.

Anh lùi lại sau bức tường và cúi đầu suy nghĩ.

“Man­del,” anh nói và búng tay. “Del­win, Carn và ba anh nữa.” Anh chỉ vào nhóm ba người lính trông có vẻ bặm trợn – anh nghĩ là có thâm niên chiến đấu. “Đi cùng tôi. Bal­do, anh chỉ huy những người còn lại. Nếu chúng tôi không trở lại, hãy tự nghĩ cách giữ mạng. Đây là lệnh.”

Bal­dor ủ rũ gật đầu.

Cùng với sáu người anh lựa chọn, Ro­ran rẽ vào con đường lớn dẫn tới cánh cổng cho tới khi tới chân tường đầy rác có lẽ cách lỗ hổng độ 15m.

Hai tên lính đang đứng gác ở hai thòa tháp trên cổng nhưng trong lúc này, chúng không thể nhìn thấy họ trừ khi thò cổ xuống.

Ro­ran thì thầm nói, “Một khi qua được cánh cửa, anh, anh, và anh nữa” – Ro­ran chỉ Carn, Del­win và một trong ba người lính kia – “sẽ tới chòi gác nhanh nhất có thể. Chúng tôi sẽ tới chòi gần đó. Làm gì cũng được nhưng nhớ là phải mở cửa. Có thể chúng ta chỉ phải quay một guồng xích duy nhất hoặc phải phối hợp mở cửa, vì thế đừng nghĩ các anh có thể chết để lại mọi việc cho tôi. Sẵn sàng chưa?… Nào!”

Ro­ran chạy nhẹ nhàng nhất có thể, dọc theo bước tường rồi rẽ quặt vào lỗ hổng.

Phía trước anh là một căn phòng dẫn tới một quảng trường rộng có bốn đài phun nước xếp thành hàng ở chính giữa. Những người đàn ông ăn mặc đẹp đẽ đang vội vã đi lại trong quàng trường, rất nhiều người đang cầm những cuộn giấy trong tay.

Ro­ran không để ý tới họ mà rẽ vào một cánh cửa đóng im ỉm. Anh dùng tay khóa, cố kìm ham muốn đá tung cửa ra. Sau cánh cửa là một phòng bốt gác với cầu thang xoắn ốc xây sát một bên tường.

Anh chạy lên cầu thang, sau một lần vòng duy nhất, anh đã ở trong một căn phòng trần thấp có năm tên lính đang hút thuốc và chơi xúc xắc trên bàn cạnh một trục quay khổng lồ có dây xích dày bằng cổ tay.

“Xin chào!” Ro­ran nói bằng giọng trầm và đầy uy lực. “Tôi có một lá thư vô cùng quan trọng cho các người.”

Những tên lính ngần ngừ rồi đứng bật dậy, kéo lùi ghế lại. Chân ghế kêu kén két trên sàn nhà.

Họ quá muộn. Chỉ trong một tích tắc thiếu quyết đoán đó, Ro­ran đã rút gọn khoảng cách trước khi chúng kịp rút vũ khí.

Ro­ran rống lên khi lao vào giữa đám lính, cùng cây búa tả hữu xung đột và đẩy lùi năm tên lính vào một góc tường. Sau đó Man­del và hai người lính khác đến cạnh anh, lưỡi kiếm lóe lên loang loáng. Họ cùng nhau tiêu diệt những tên lính gác.

Khi đứng trước xác tên lính cuối cùng, Ro­ran vỗ xuống đất và nói, “Đừng tin người lạ.”

Cuộc ẩu đả khiến căn phòng hỗn tạp nhiều thứ mùi kinh khủng giống như phủ lên người Ro­ran cái chăn dầy nặng làm bằng loại chất liệu khiến anh khó chịu nhất. Anh hầu như không thở nổi, vì thế anh dùng tay áo che mũi và miệng lại.

Bốn người họ đi tới trục quay, cẩn thận không giẫm lên vũng máu và đứng nghiên cứu xem nó hoạt động ra sao.

Ro­ran nhìn quanh, giơ búa lên khi nghe có tiếng kim loại lách cách rồi một tiếng cửa sập được kéo lên, theo sau là tiếng bước chân hỗn loạn khi một tên lính bước xuống từ tòa tháp canh bên trên.

“Tau­rin, chuyện chó gì đang…” Giọng nói của hắn tắc lại trong họng và hắn đứng khựng giữa cầu thang khi thấy Ro­ran và những người bạn cùng những xác chết trong góc phòng.

Chiến binh bên phải Ro­ran phi giáo về phía hắn nhưng hắn lùi lại và mũi giáo vọt đâm vào bức tường bên trên. Tên lính chửi rủa và chạy ngược lên cầu thang, biến mất trong khúc ngoặt cong cong.

Chỉ một lát sau, cảnh cửa sập đóng lại với một tiếng bùm, và họ nghe có tiếng kèn và tiếng hô báo nguy cho những người trên quảng trường.

Ro­ran chửi rủa và quay về chỗ trục quay. “Thả xích,” anh nói và nhét búa vào thắt lưng. Anh nắm lấy bánh xe dùng để hạ và nâng lưới sắt lên và đẩy thật lực. NHững người khác tiếp sức và từ từ, rất từ từ, bánh xe bắt đầu chuyển động và tiếng xích vang lớn.

Vài giây sau công việc trở nên dễ dàng hơn có lẽ nhờ vào những người anh đã bảo tới bốt canh bên kia.

Họ không định nâng cả lưới sắt lên; sau nửa phút toát mồ hôi, tiếng hò hét của quân Var­den vang lên bên tai họ vì những người lính bên ngoài thành đã lao vào quảng trường.

Ro­ran thả tay, rút búa ra và cùng những người khác lao lên tầng.

Bên ngoài bốt canh, anh nhìn thấy Carn và Del­win vừa mới bước lên từ phía bên kia. Không ai bị thương nhưng Ro­ran không thấy người lính già bên đó.

Trong khi đợi nhóm Ro­ran tới, Bal­dor và những Var­den còn lại sắp xếp thành một đội quân ở góc quảng trường. Họ đứng thành năm hàng, kề vai sát cánh với khiên che cao.

Khi Ro­ran chạy tới, anh thấy một lực lượng lính tới đổ ra từ các tòa nhà trong quảng trường. Chúng hình thành một hang phòng thủ, chĩa giáo về phía trước trông gối cắm kim của thợ may. Anh ước chừng có khoảng một trăm năm mươi tên – quân đội của anh dễ dàng đánh bại nhưng sẽ tốn thời gi­an và hao tổn nhân lực.

Khi tên pháp sư mũi khoằm anh nhìn thấy ngày hôm trước bước ra khỏi hang lính và giơ tay lên đầu, trên tay hắn xuất hiện những ánh chớp đen lách tách thì tâm trạng của Ro­ran càng xấu hơn. Ro­ran đã học đủ những kiến thức về phép thuật từ Ro­ran để biết ánh chớp có thể chỉ để phô diễn tài nghệ mà thôi, nhưng dù sao anh cũng biết chắc tên thầy pháp của quân địch là một mối đe dọa to lớn.

Carn tiến lên đứng trước mọi người chỉ sau Ro­ran vài giây. Họ và Bal­dor lừ mắt nhìn tên pháp sư và hàng lính phòng thủ bên đối diện.

“Anh giết nổi hắn không?” Ro­ran hỏi nho9r để những người lính đằng sau không nghe thấy.

“Tôi phải thử mới biết được chứ?” Carn trả lời. Anh ta dùng mu bàn tay chùi mép. Trên mặt anh lấm tấm mồ hôi.

“Nếu anh muốn chúng tôi có thể tập trung vào hắn. HẮn không thể nào giết hết chúng ta trước khi chúng ta làm lá chắn của hắn suy yếu và đâm xuyên tim hắn.”

“Anh không hiểu đâu… Không, đây là trách nhiệm của tôi và tôi phải tự mình đương đầu với hắn.”

“Chúng tôi giúp được gì không?”

Carn bật cười lo lắng. “Anh có thể bắn tên về phía hắn. Vừa chặn tên vừa làm phép sẽ khiến hắn suy yếu và lộ sơ hở. Nhưng dù làm gì cũng đừng xen vào giữa chúng tôi… Không an toàn cho cả anh và tôi.”

Ro­ran chuyển búa sang tay trái rồi đặt tay phải lên vai Carn. “Anh sẽ ổn thôi. NHớ rằng hắn không quá thông minh. Anh đã lừa hắn một lần và có thể chơi hắn lần nữa.”

“Tôi biết.”

“Chúc may mắn.” Ro­ran nói.

Carn gật đầu một cái rồi bước tới đài phun nước ở giữa quảng trường. Ánh sáng mặt trời nhảy nhót trên mặt nước, phản chiếu như hàng ngàn viên kim cương trong không khí.

Tên pháp sư mũi khoằm cũng bước tới đài phun nước cho tới khi họ chỉ cách nhau độ 6m.

Từ chỗ Ro­ran đứng, Carn và đối thủ như đang nói chuyện với nhau nhưng anh không thể nghe họ nói gì. Sau đó cả hai pháp sư đều đứng cứng ngắc như thể có ai dùng dao găm đâm họ.

Đó là điều Ro­ran đã biết trước: một dấu hiệu cho thấy họ đang đấu trí, không quan tâm gì tới mọi thứ xung quanh.

“Cung thủ!” anh hô. “Ra kia và đằng kia nữa,” anh chỉ về hai phía quảng trường. Bắn càng nhiều mũi tên vào tên chó phản bội kia càng tốt nhưng đừng bắn nhầm Carn không tôi sẽ cho các anh làm mồi cho Saphi­ra.”

NHững người lính khó khăn rời ra để hai nhóm cung thủ tiến về quảng trường nhưng không một đội quân nào của Gal­ba­torix tiến tới chặn Var­den.

Chắc hẳn họ phải tự tin vào con rắn độc kia lắn, Ro­ran lo lắng nghĩ.

Hàng ta những mũi tên đuôi lông ngỗng màu nâu bay vun vút về phía tên pháp sư phe địch và trong chốc lát, Ro­ran hy vọng họ có thể giết chết hắn. Nhưng khi những mũi tên cách hắn khoảng mét rưỡi, chúng gẫy đôi, rơi xuống đất như vừa đâm vào một bức tường đá.

Ro­ran nhảy lên vì quá căng thẳng. Anh ghét phải chờ đợi, không làm gì trong khi bạn bè đang gặp nguy. Hơn nữa mỗi giây trôi qua Lãnh chúa Hal­stead lại có thêm cơ hội hiểu chuyện gì đang diễn ra và tìm phương án thích hợp để ứng phó. Nếu những chiến binh của Ro­ran muốn không bị gót giày của đội quân đông hơn gấp vạn của Triều đình dẫm bẹp, họ phải có được ưu thế về sự bất ngờ.

“Sẵn sàng nào!” anh nói với những chiến binh. “Chúng ta hãy xem có thể làm gì trong khi Carn đang chiến đấu bảo vệ chúng ta. Chúng ta sẽ tấn công toán linh kia. Một nửa đi theo tôi, một nửa theo Del­win. Chúng không thể chặn mọi ngả đường, vì vậy, Del­win, anh và cánh quân của anh hãy tìm đường vượt qua chúng rồi quay lại tấn công chúng từ phía sau. Chúng tôi sẽ khiêu khích trước mặt chúng để chúng không kịp trở tay. Nếu có tên nào định chạy, mặc kệ chúng. Đằng nào chúng ta cũng sẽ mất rất nhiều thời gi­an để giết tất cả rồi. Hiểu chưa…. Đi thôi!”

Mọi người nhanh chóng tản thành hai nhóm. Ro­ran dẫn đầu nhóm của anh chạy về phía bên phải quảng trường trong khi Del­win chạy về bên trái.

Khi cả hai tiến tới đài phun nước, Ro­ran lấy tên pháp sư phe địch leiecs nhìn anh. Chỉ trong thoáng chốc nhưng sự xao lãng đó đã đủ ảnh hưởng tới trận chiến giữa hắn và Carn. Khi tên mũi khoằm nhìn lại Carn, vẻ hằm hè trên mặt hắn xoắn lại thành một nỗi đâu và các đường gân bắt đầu nổi lên trên lông mày nhíu chặt và toàn bộ mặt hắn biến sắc, chuyển thành đỏ sậm vì giận dữ như thể bị úng máu.

“Không!” hắn lồng lộn hét lên, sau đó nói một cái gì đó bằng ngôn ngữ cổ mà Ro­ran không hiểu.

Một tích tắc sau Carn cũng hét lên gì đó. GIọng họ chồng chéo lên nhau mang theo sự tức giận, thù ghét, buồn rầu khiến Ro­ran biết rằng trận chiến giữa họ đã đi lệch hướng.

Carn biến mất trong ánh sáng xanh. Sau đó một vỏ sò cong cong hình mái vòm màu trắng xuất hiện nơi anh đứng và tỏa rộng ra cả quảng trường trong thời gi­an chẳng đủ cho Ro­ran chớp mắt.

Thế giới chìm trong màn đen. Ro­ran cảm thấy một luồng nhiệt nóng không chịu nổi, mọi thứ xoay vần xoắn vặn chung quanh anh như anh đang rơi vào một khoảng không vô định.

Cây búa rơi khỏi tay anh và đầu gối phải anh nhói đau. Sau đó một vật gì đó đập vào mồm anh khiến mồm anh toàn máu là máu.

Tới khi định hình nổi, anh thấy mình vẫn ở nguôn chỗ cũ, nằm sấp và người cứng ngắc. Các giác quan từ từ quay lại giúp anh thấy bề mặt đá xanh xám trơn nhẵn dưới mũi anh, ngửi thấy mùi vữa chì trên đá, cảm nhận được cơn đau ê ẩm chạy dọc cơ thể. Âm thanh duy nhất anh nghe được là tiếng đập của con tim.

Anh thổ huyết khi hít thở trở lại. Anh thèm khát không khí, anh ho hắng và ngồi thẳng dậy, nhổ đờm đen ra. Một chiếc răng cửa của anh hạ cánh xuống đất cùng máu. Anh nhặt nó lên xem xét, răng bị mẻ nhưng chân răng còn nguyên vẹn, thế là anh lau sạch nó và ấn lại vào nướu, nhăn mặt vì chạm vào chỗ đau. (cái này mà được à? Không tin!)

Anh loạng choạng đứng thẳng dậy. Anh đã bị thổi bay đập vào bậc tam cấp một ngôi nhà ở rìa quảng trường. Những người lính ngổn ngang xung quanh, tay chân xiêu vẹo, mất mũ trụ, gươm kiếm bay đâu mất.

Một lần nữa Ro­ran mừng vì mình cầm búa vì trong cơn hỗn loạn nhiều Var­den đã đâm cả vào nhau.

Búa? Búa của mình đâu? Anh trì trệ nghĩ. Anh nhìn xung quanh tới khi thấy cán búa nằm dưới chân một chiến binh gần đó. Anh lôi nó ra và nhìn quảng trường.

Những tên lính và Var­den bị quăng liểng xiểng. Đài phun nước không còn gì ngoài đống gạch vụn đang phun nước từng chập. Bên cạnh đó nơi Carn từng đứng là một xác chết héo quắt, đen sì đang bốc khói trông như xác nhện chết, toàn bộ thân thể đã cháy thành than khiến người ta không nhận ra nói sinh vật đó từng sống chứ không nói chi là người. Lạ lùng thay, tên pháp sư mũi khoằm vẫn đứng tại chỗ dù vụ nổ làm bay hết quần áo ngoài chỉ còn mặc độc cái khố.

Cơn giận dữ không kiểm soát nổi sôi lên trong Ro­ran. Anh không nghĩ tới tính mạng bản thân khập khiễng đi vào trung tâm quảng trường, cố sống cố chết giết tên pháp sư đó.

Tên pháp sư ngực trần đứng nguyên tại chỗ khi Ro­ran đến gần. Ro­ran giơ búa hét lớn nhưng bản thân anh không hề nghe nổi tiếng mình.

Nhưng hắn vẫn không mảy may nhúc nhích.

Ro­ran nhận ra hắn không hề di chuyển lấy một cen­timet từ vụ nổ. Như thể hắn là một bức tượng mà thôi.

Vẻ bình thản của tên thầy pháp với sự xuất hiện của Ro­ran chỉ khiến anh muốn lờ hành vi thiếu bình thường của hắn – hay đúng hơn là chẳng có hành động gì – và đập mạnh vào đầu hắn cho xong. Nhưng sự thận trọng của Ro­ran đã giúp anh giảm bớt ý muốn báo thù và khiến anh đi chậm lại và dừng hẳn khi còn cách tên pháp sư độ mét rưỡi.

Anh mừng là anh đã dừng lại.

Từ đằng xa trong tên pháp sư vẫn bình thường nhưng khi lại gần, Ro­ran thấy da hắn nhẽo và có nếp nhăn như một ông già. Da hắn xạm màu và càng lúc càng xạm hơn như thể hắn bị hóa đá.

NGực hắn phập phồng và tròng mắt đảo liên tục nhưng trắng dã. Ngoài ra hắn không thể cử động.

Trong lúc đó, tay, cổ và ngực hắn co lại, xương hắn như lộ ra – từ xương ức cho tới xương bánh chè, bung hắn tóp vào như một chai nước rỗng. Môi hắn co lại và vén cao lộ những chiếc răng vàng khè, tròng mắt thụt và da thịt héo lại.

Sau đó hơi thở của hắn – khò khè, rít lên từng chập – cũng yếu dần nhưng không hoàn toàn mất hẳn.

Ro­ran hoảng sợ lùi lại. Anh càng thấy có gì đó trơn trượt dưới giày. Khi nhìn xuống anh thấy anh đang đứng trên một vũng nước. Lúc đầu anh nghĩ chỉ là nước từ đài phun nước nhưng sau anh biết đó là nước chảy ra từ người gã pháp sư đang cứng đờ.

Ro­ran chửi rủa, khiếp sợ và nhảy ra chỗ đất khô. Nhìn thấy dòng nước là Ro­ran hiểu Carn làm gì và sợ lại càng sợ thêm. Dường như Carn đã niệm một câu thần chú rút từng giọt nước khỏi người tên pháp sư.

Chỉ thêm vài giây, gã chẳng khác nào một bộ xương da đen cứng. Hẳn trở thành một xác ướp nằm phơi nắng trong cát sa mạc Hadarac cả trăm năm. Dù hắn sắp chết nhưng câu thần chú của Carn buộc hắn đứng đó: như một bóng ma kinh hồn táng đởm, một trong những thứ đáng sợ nhất Ro­ran từng thấy trong những cơn ác mộng hay trong chiến trận.

Sau đó lớp da hắn phân hủy thành bụi xám, cuộn tròn, bay lên rồi rơi xuống trôi trên vũng nước bên dưới như tàn lửa. Tiếp theo đó là cơ và xương, rồi lục phủ ngũ tạng cũng chẳng còn. Tất cả chỉ để lại một đống bột trên vũng nước từng trong cơ thể người.

Ro­ran nhìn xác Carn rồi vội quay mặt đi vì không chịu đựng nỏi. Ít nhất anh cũng báo thù được cho mình. Sau đó anh không nghĩ tới người bạn đã ra đi mà tập trung tới vấn đề trước mắt: những tên lính ở phía nam quảng trường đang từ từ đứng dậy.

Ro­ran thấy quân Var­den cũng đang hành động tương tự. “Này!” anh hô. “Đi với tôi! Chúng ta không thể bỏ lỡ cơ hội này.” Anh chỉ vào vài người lính bị thương nặng. “Giúp họ đứng dậy và để họ vào giữa hàng quân. Không được bỏ ai lại. Không một ai!” Môi và miệng anh sưng lên khi nói, đầu an­hh đau như thể uống rượu cả đêm.

Quân Var­den tập hợp lại dưới mệnh lệnh của anh và nhanh chóng đi theo anh. Với một toán người sau lưng, Ro­ran sánh bước cùng Bal­dor và Del­win, cả hai đều bầm dập vì vụ nổ.

“Carn chết rồi à?” Bal­dor hỏi.

Ro­ran gật đầu và nâng khiên lên như những người khác, hình thành một bức tường người thống nhất.

“Vậy chúng ta nên hy vọng Hal­stead không có thêm một pháp sư nào.” Del­win lầm bầm.

Khi quân Var­den đã vào vị trí, Ro­ran hét. “TIến lên!” và các chiến binh xông vào những tên lính còn lại trên quảng trường.

Có thể vì tướng chỉ huy của chúng kém hiệu quả hơn Var­den hay vì vụ nổ vừa rồi đã khiến chúng tổn thất nghiêm trọng, binh lính của triều đình không thể phục hồi kịp khi Var­den tấn công.

Ro­ran rên rẩm và loạng choạng lùi lại một bước khi một ngọn giáo xuyên qua khiên và khiến tay anh tê rần. Anh dùng búa đập lên mặt khiên. Cán giáo nảy lên nhưng không chịu rời ra.

Một tên lính trước mặt anh, có lẽ là tên đã phóng giáo nhân cơ hội chạy tới và chém vào cổ Ro­ran. Ro­ran định giơ khiên cùng thanh giáo cắm trên đó nhưng nó quá nặng và cồng kềnh nên anh quyết định dùng búa đánh rơi thanh kiếm.

Nhưng thanh kiếm chém đúng điểm mù trong tầm nhìn của anh khiến anh đỡ trượt. Có lẽ vào phút đó anh đã chết nếu đốt ngón tay anh không đập trúng phần mặt kiếm khiến nó trật đi vài cen­timet.

Mũi tên lửa vút qua vai phải của Ro­ran. Những mũi tên bắn vun vút xung quanh anh, mắt anh chỉ thấy màu vàng sáng. Đầu gối phải anh khuỵu xuống. Anh ngã.

Đá bên dưới anh. Xung quanh anh là những bàn chân và cẳng chân khiến anh không thể lăn người giữ an toàn. Toàn bộ cơ thể anh uể oải như thể anh rơi vào bẫy bằng mật vậy.

Quá chậm, quá chậm, anh nghĩ khi cố tháo khiên và đứng dậy. Nếu anh nằm dưới đất có thể anh bị dẫm bẹp quá. Quá chậm!

Rồi anh thấy một tên lính đổ ập xuống trước mặt, nắm lấy áo anh và một giây sau, có một ai đó nắm cổ áo giáp giúp Ro­ran đứng dậy. Đó là Bal­dor.

Ro­ran vặn cổ nhìn tên lính vừa đánh mình. Năm mắt xích trên giáp anh bị chặt tung nhưng dù sao áo giáp vẫn còn. Dù máu chảy ra từ phần mềm, đau cổ và tay nhưng anh không nghĩ mình dính vết thương chí mạng hay cần nghỉ ngơi xem xét. Tay phải anh vẫn lành lặn – ít nhất là đủ tiếp tục chiến đấu – và đó là tất cả những gì anh quan tâm trong giây phút này.

Ai đó đưa cho anh cái khiên mới. Anh đeo nó vào và cùng những người lính của mình đẩy lùi những tên lính vào những con đường rộng tỏa ra từ quảng trường.

Những tên lính nhanh chóng bị đánh bại trước sức mạnh vượt trội của quân Var­den. Chúng chạy vào vô số những con đường và hẻm nhỏ tỏa ra khắp thành phố.

Ro­ran ngừng lại cho năm mươi người lính quay lại đóng cửa thành và canh gác đề phòng có kẻ nào phát hiện họ đã ở trong lòng Aroughs. Hầu hết những tên lính trong thành phố đều canh gác ngoại thành để chống lại mũi quân bên ngoài và Ro­ran không hứng đối mặt với họ lúc này. Làm thế khác nào tự sát.

Quân Var­den chỉ gặp lại sự chống cự yếu ớt trên đường đi từ nội thành tới lâu đài nguy nga của lãnh chúa Hal­stead.

Trước lâu đài là một khoảng sân rộng với một hồ nhân tạo – với những con ngỗng trời và thiên nga trắng đang bơi lội. Lâu đài cao hơn phần còn lại của Aroughs. Lâu đài đẹp, tráng lệ với những mái vòm thoáng đãng, những dãy cột và ban công rộng dùng cho những bữa tiệc hay khiêu vũ. Không giống những lâu đài ở Be­la­tona, nó được thiết kế cho việc vui chơi nghỉ ngơi đầu óc chứ không phải là phòng tuyến phòng thủ.

Chắc họ nghĩ không ai có thể vượt qua những bức tường, Ro­ran nghĩ.

Vài bảo vệ và lính gác ở sân xông về phía Var­den khi thấy họ, hò hét ầm trời.

“Giữ nguyên đội hình!” Ro­ran ra lệnh khi những tên lính lao tới.

Trong một hai phút trong sân vang lên tiếng kim loại va chạm. NGỗng và thiên ngã kêu lên sợ hãi và đập cánh trên mặt nước nhưng không còn nào dám bay lên.

Var­den không mất nhiều thời gi­an xử lý xong tụi lính gác. Sau đó họ lao tới cổng lâu đài, vốn được trang trí công phu với những hình vẽ trên tường và trần – cũng như những thanh gỗ trang trí, những đồ nội thất được điêu khắc cầu kỳ hay sàn nhà trang trí hoa văn – mà Ro­ran thấy họ không thể vào một lượt. Lượng tài sản đổ vào xây dựng và bảo trì một dinh thự thế này quá lớn. Cái trang trại anh lớn lên không giá trị bằng một chiếc ghế trong sảnh lớn.

Qua cánh cổng, anh nhìn thấy ba nữ tì đang chạy dọc theo một hành lang dài khác.

“Đừng để họ trốn được!” anh hô to.

Năm kiếm sĩ tách khỏi đội ngũ Var­den và lao về phía những người phụ nữ, bắt họ trước khi họ kịp rẽ vào một hành lang khác. NHững người phụ nữ thét lên và cố cào cấu mong thoát thân khi những người đàn ông lôi họ tới trước mặt Ro­ran.

“Đủ rồi!” Ro­ran hét vang khi họ đứng trước mặt anh và những người phụ nữ dừng chống cự dù vẫn tiếp tục kêu khóc. Người già nhất, một phụ nữ đứng tuổi gầy gò với mái tóc bạc búi rối đeo một chùm chìa khóa ở thắt lưng có vẻ là người biết điều nhất, vì thế Ro­ran hỏi bà ta, “Lãnh chúa Hal­stead ở đâu?”

Người phụ nữ cứng đầu hất cằm. “Làm gì cũng được nhưng tôi không phản bội chủ nhân của mình.”

Ro­ran tiến lên tới khi chỉ còn cách bà ta một bước. “Nghe và nghe kỹ này,” anh gầm lên. “Aroughs sẽ thất thủ và bà cũng những người khác sẽ chịu sự định đoạt của tôi. Bà không thể thay đổi điều đó. Nói cho tôi biết Hal­stead ở đâu và tôi sẽ để bà và những người kia đi. Bà không thể cứu lão ta nhưng có thể cứu mạng mình.” Đôi môi rách của anh sưng lên khiến chính anh cũng khó lòng hiểu rõ những từ phát ra từ miệng mình.

“Mạng sống của tôi chẳng là gì, thưa ngài,” người phụ nữ nói, nét mặt quả quyết như của một chiến binh.

Ro­ran chửi rủa và đập búa vào khiên tạo ra một tiếng vang chát chúa trong hành lang rộng lớn. “Bà điên rồi sao? Hal­stead đáng để bà hy sinh mạng sống sao? Hay là Triều đình? Hay là Gal­ba­torix?”

“Tôi không biết triều đình hay Gal­ba­torix nhưng ngài Hal­stead luôn đối xử tốt với chúng tôi và tôi chưa từng thấy ông ấy cư xử tệ như ngài. Ngài bẩn thỉu và là thứ hạ đẳng không biết điều.”

“Thế sao?” Anh nhìn chằm chằm bà ta. “Bà nghĩ bà sẽ giữ miệng được bao lâu nếu tôi quyết định để lính của tôi lấy sự thật từ bà ra?”

“Không bao giờ,: bà ta tuyên bố và anh tin bà ta nói thật.

“Thế còn họ thì sao?” Anh hất hàm về những người phụ nữ còn lại, người trẻ nhất còn chưa tới mười bảy. “Bà có dám để họ bị tùng xẻo chỉ vì mạng sống của chủ nhân bà không?”

Người phụ nữ khinh miệt khịt mũi rồi nói. “Ngài Hal­stead ở phía đông lâu đài. Đi theo hành lang kia, Qua Hoàng Phòng và hoa viên của Tiểu thư Galiana rồi chắc chắn sẽ thấy ngài ấy.”

Ro­ran nghi ngờ lắng nghe. Sự đầu hàng của bà ta quá nhanh và dễ dàng so với sự cứng đầu lúc trước. Ngoài ra khi bà ta nói anh thấy hai người phụ nữ kia lộ vẻ ngạc nhiên và một cảm xúc gì đó anh không thể gọi tên. Bối rối? Anh tự hỏi. Nếu người phụ nữ tóc bạc kia vừa đưa chủ nhân của mình vào tay kẻ thù thì họ sẽ không thể nào phản ứng như thế. HỌ quá âm trầm, quá nhẫn nhin như thể đang che giấu điều gì.

Trong hai người, cô gái trẻ khó che giấu cảm xúc hơn vì thế Ro­ran quay lại nhìn cô ta. “Cô, bà ta nói dối, đúng không? Hal­stead ở đâu? Nói!”

Cô gái mở miệng lắc đầu không nói. Cô cố lùi lại nhưng một trong những chiến binh đã giữ chặt cô ta.

Ro­ran lao tới, ấn khiên vào ngực cô ta, ép toàn bộ không khí ra và ép cô ta kẹt cứng giữa mình và người đằng sau. Ro­ran giơ búa chạm vào má cô ta. “Cô khá xinh đẹp, nhưng cô sẽ chỉ lấy được mấy lão già làm chồng nếu tôi đánh gẫy răng cô. Hôm nay tôi đã gẫy mất một chiếc răng và đã tự mình đặt nó vào chỗ cũ. Thấy không?” Anh nhe răng cười độc địa với cô ta. “Tôi sẽ giữ răng cô lại nhưng cô sẽ không thể làm điều tương tự đâu. Chúng là một món chiến lợi phẩm hay cho tôi đó chứ, nhỉ?” Rồi anh dọa dẫm cô bằng chiếc búa.

Cô gái khúm núm khóc. “Đừng! Làm ơn đi ngài, tôi không biết. Làm ơn! Ngài ấy ở trong phòng, đang họp bàn với các tướng lĩnh nhưng sau đó cùng Phu nhân Galiana tới kênh đào, và…”

“Đồ ngốc, Thara!” bà mệnh phụ thét.

“Ở đó có một con tàu nhưng giờ tôi không biết họ ở đâu, nhưng đừng đánh tôi, tôi không biết gì nữa, và…”

“Phòng của hắn ở đâu?” Ro­ran hỏi cụt lủn.

Cô gái sụt sịt nói.

“Để họ đi,”” anh nói khi cô ta nói xong và ba người phụ nữ bỏ chạy, gót giày họ nện lên nền nhà bóng loáng.

Ro­ran dẫn quân Var­den qua tòa nhà rộng lớn theo sự chỉ dẫn của cô gái nhỏ. Vài người đàn ông cởi trần và phụ nữ đi ngang qua nhưng không ai có ý định chống trả. Trong lâu đài vang lên tiếng hét khiến anh chỉ muốn bịt chặt tai lại.

Họ đi qua một bức tượng rồng den lớn ngoài cửa. Ro­ran phân vân liệu đây có phải con rồng của Gal­ba­torix. Shruikan không. Khi đi qua bức tượng Ro­ran nghe có tiếng tưng và có gì đó đâm vào lưng anh.

Anh ngã nhùi vào chiếc ghế đá cạnh đường.

Đau

Cơn đau bòn xương rút thịt mà anh chưa từng trải qua. Cơn đau quá lớn khiến anh sẵn sàng chặt tay miễn là nó ngừng lại. Anh cảm giác như ai đó giúi giùi khắc nung vào lưng anh.

Anh không cử động nổi…

Anh không thở nổi…

Kể cả một di chuyển nhỏ nhất cũng khiến anh đau đớn kinh hồn.

Anh tối tăm mặt mũi và nghe thấy tiếng Bal­dor và Del­win hét vang rồi tới Brig­man và tất cả những người con lại. Nhưng anh không biết họ nói gì.

Cơn đau đột nhiên gia tăng, ai gào lên nhưng chỉ khiến đau thêm, Với một nỗ lực phi thường, anh cố nằm im. Nước mắt chảy xuống từ hai hốc mắt.

Rồi Brig­man nói với anh. “Ro­ran, anh trúng tên sau lưng. Chúng tôi cố bắt tên cung thủ nhưng hắn thoát được.”

“Đau…” Ro­ran thở hổn hển.

“Đó là vì mũi tên trúng vào xương sườn. Lẽ ra nó có thể xuyên thủng người anh rồi. Anh may mắn vì nếu mũi tên nhích lên hoặc dịch xuống một cen­timet là anh đã chết rồi.”

“Rút tên ra,” anh nghiến răng nói.

“Không thể, mũi tên có ngạnh. Và chúng tôi không thể đẩy ra nó ra. PHải cắt thôi. Tôi có chút kinh nghiệm, Ro­ran. Nếu anh tin tôi tôi sẽ làm ngay. Hoặc không, anh có thể đợi tới khi chúng ta tìm được thầy lang. Chắc phải có một hai người trong lâu đài này.”

Dù anh không muốn đặt mạng mình vào tay Brig­man nhưng Ro­ran không thể chịu đau hơn nữa, vì thế anh nói. “Làm ngay đi…Bal­dor…”

“Gì hả Ro­ran?”

“Đưa năm mươi người đi tìm Hal­stead. Dù thế nào cũng không được để hắn trốn thoát. Del­win… ở lại với tôi.”

Bal­dor, Del­win và Brig­man trao đổi vài câu nhưng Ro­ran chỉ nghe được vài từ ngắt quãng. Sau đó phần lớn quân Var­den rời đi khiến không gi­an im ắng hơn.

Theo lệnh của Brig­man, một đội chiến binh mang vài chiếc ghế từ phòng gần đó tới, chẻ nó ra và nhóm lửa cạnh bức tượng. Trên ngọn lửa là mũi dao mà Ro­ran biết Brig­man sẽ dùng để đốt khử trùng vết thương trên lưng trước khi lấy mũi tên.

Khi nằm trên ghế thở dốc và run rẩy, Ro­ran cố gắn kiểm soát nhịp thở, cố gắng thở từ từ và thật sâu để giảm bớt cơn đau. Anh cố không nghĩ những điều khác. Chuyện gì xảy ra và sẽ xảy ra cũng được, giờ anh chỉ biết thở nhịp nhàng.

Anh gần như ngất đi khi bốn người lính nâng anh lên khỏi ghế băng và đặt anh nằm sấp xuống đất. Ai đó nhét găng tay da vào miệng anh khiến môi anh đau hơn, cùng lúc đó những bàn tay thô ráp nắm chặt lấy chân và tay anh, gi­ang rộng nó ra hết mức có thể.

Ro­ran liếc nhìn Brig­man đang quỳ bên cạnh, tay cầm một con dao cong. Con dao bắt đầu hạ xuống, Ro­ran nhắm mắt và cắn chặt chiếc găng tay.

Anh hít vào.

Thở ra,

Lúc đó thời gi­an và ký ức rời bỏ anh.

22. CHUYỂN GIAO QUYỀN LỰC

Ro­ran ngồi gập mình trên cạnh bàn, mắt nhìn vẩn vơ vào cái ly khảm đá quý trên tay.

Đêm đã xuống, ánh sáng duy nhất trong phòng ngủ xa hoa này là từ hai ngọn nên trên bàn và lò sưởi cạnh giường. Không gi­an im lặng chỉ trừ có đôi khi có tiếng củi lách tách cháy.

Một cơn gió thoang thoảng mùi nước biển thổi qua cửa sổ làm tấm rèm trắng khẽ lay động. Anh quay mặt đón gió, cảm nhận sự mát lành lên làn da hâm hấp sốt.

Anh có thể nhìn thấy Aroughs trải dài qua khung cửa sổ. Những đốm lửa tháp canh điểm xuyết đâu đó trên những con đường nhưng hầu như thành phố yên tĩnh chìm trong đêm tối – không bình thường vì mọi người đều đang trốn trong nhà.

Khi không còn gió, anh uống thêm một ngụm rượu, trực tiếp đổ thẳng xuống họng. Một giọt rượu chảy xuống môi dưới và anh căn người hít thở trong khi đợi cơn đau nguôi dần.

Anh đặt ly rượu lên bàn, cạnh đĩa bánh mỳ và thịt cừu và chai rượu cạn nửa, sau đó liếc nhìn gương đặt ngay trên hai ngọn nến. Trên đó phản chiếu gương mặt hốc hác, thâm tím, dính đầy máu me và bộ râu cháy xém góc bên phải.

Anh nhìn đi. Cô ấy sẽ liên lạc với anh khi cần. Trong lúc đó anh phải đợi. Anh chỉ có thể làm thế; cơn đau quá lớn khiến anh không thể nào ngủ nổi.

Anh cầm ly rượu lên và xoay trong bàn tay.

Thời gi­an từ từ trôi

***

Đêm hôm đó, mặt gương tỏa ra ánh sáng mờ áo như một mặt hồ bạc gợn sóng khiến Ro­ran chớp mắt nhìn bằng đôi mắt sưng phù.

Sau đó khuôn mặt trái xoan của Na­sua­da xuất hiện, vẻ mặt nghiêm trọng hơn bao giờ hết. “Ro­ran,” cô chào hỏi, giọng rõ ràng và mạnh mẽ.

“Thưa tiểu thư Na­sua­da.” Anh ngồi thẳng trên bàn chỉ cách đó vài cen­timet.

“Anh bị bắt à?”

“Không.”

“Vậy thì Carn hoặc chết hoặc bị thương.”

“Anh ấy hy sinh trong khí chiến đấu với một pháp sư khác.”

“Tôi rất tiếc… anh ấy là một người lịch sự và chúng ta không thể nào chịu đựng sự tổn thất khi một pháp sư nữa ra đi.” Cô ngừng lại. “Aroughs sao rồi.”

“Giờ Aroughs là của chúng ta.”

Na­sua­da nhướn mày. “Thât không? Tôi ấn tượng đó. Nói xem trận chiến diễn ra thế nào? Mọi chuyện theo đúng kế hoạch không?”

Anh há miệng một chút để nói chuyện không làm anh quá khó chịu và thuật lại chuyện xảy ra trong vài ngày qua, từ khi anh tới Aroughs, chuyện gã một mắt tấn công anh trong doanh trại, chuyện phá đập ở khu xay sát để Var­den đâm thủng hàng phòng thủ vào Aroughs, hành trình tiến vào lâu đài của Lãnh chúa Hal­stead và kể cả vụ đối đâu giữa Carn và tên pháp sư địch.

Sau đó Ro­ran tóm tắt vụ anh bị bắn vào lưng và việc Brig­man cắt mũi tên cho anh. “May là ông ấy ở đó không tôi sẽ nằm vô dụng cho tới khi tìm ra một thầy thuốc.” Anh co rúm người và tỏng một giây, những ký ức về cơn đau hiện về rõ ràng hơn trong tâm tưởng anh, một lần nữa anh cảm nhận được sức nóng của kim loại trên da thịt mình.

“Tôi hy vọng anh đã tìm được một thầy thuốc.”

“Vâng, sau đó nhưng ông ta không phải pháp sư.”

Na­sua­da ngả người trên ghế và nhìn anh trong một lúc. “Tôi ngạc nhiên vì anh còn khả năng nói chuyện. Quả thật con người Car­va­hall được nung luyện trong sắt thép.”

“Sau đó chúng tôi chiếm lâu đài cũng như phần còn lại của Aroughs dù còn nhiều nơi chúng tôi chưa hoàn toàn kiểm soát được tình hình. Chuyện thuyết phục binh lính đầu hàng khá dễ dàng một khi họ biết chúng tôi đã vượt qua phòng tuyến của họ và nắm giữ được khu trung tâm.”

“Lãnh chúa Hal­stead thì sao? Các anh có bắt được ông ta không?”

“Hắn định trốn khỏi lâu đài khi một vài người của chúng tôi bắt gặp. Hal­stead chỉ mang theo một lượng nhỏ quân lính không đủ để cầm cự với quân ta vì thế hắn và bọn tùy tùng đã chạy vào một hầm rượu và cố thủ trong đó…” Ro­ran xoa ngón cái lên cái ly trước mặt. “Họ không chịu đầu hàng, và tôi không dám xông vài; có thể cái giá phải trả sẽ rất đắt… Vì thế… tôi ra lệnh cho binh sĩ lấy thùng dầu trong bếp đốt và ném vào cửa hầm.”

“ Anh định hun họ?” Na­sua­da hỏi.

Anh từ tốn gật đầu. “Vài tên lính chạy ra khi cánh cửa bị đốt cháy nhưng Hal­stead rất cứng đầu. Khi chúng tôi vào thì lão đã chết ngạt.”

“Thật không may.”

“Và còn có con gái hắn, Tiểu thư Galiana.” Anh vẫn còn nhớ rõ mồn một khuôn mặt cô gái đó: nhỏ nhắn, xinh xắn mặc bộ váy màu hoa oải hương với những đường đăng ten và nơ.

Na­sua­da nhíu mày. “Ai sẽ kế tục Hal­stead làm bá tước vùng Fen­mark?”

“Tharos Tốc Độ.”

“Là người đã dẫn binh tấn công anh ngày hôm qua đó hả?”

“Người đó đó.”

Vào tầm giữa chiều binh lính giải Tharos tới trước mặt anh. Người đàn ông nhỏ thó râu ria xồm xoàm bị choáng váng nhưng không có thương tích gì và hắn ta không đội chiếc mũ trụ khoa trương lần trước. Ro­ran đang nằm sấp trên ghế vì vết thương trên lưng nói với hắn “ Tôi tin rằng anh nợ tôi một bình rượu.”

“Sao anh có thể làm được chuyện này?” Tharos thắc mắc, sự tuyệt vọng khiến giọng nói hắn run run. “Thành phố này bất khả xâm phạm. Trừ rồng ra không một sinh vật nào có thể bẻ gẫy hàng phòng thủ của chúng tôi. Hơn nữa nhìn anh xem. Trông anh cũng chỉ như những con người bình thường hơn là…” Sau đó hắn im lặng không nói gì nữa.

“Hắn phản ứng sao trước cái chết của bố và chị gái?” Na­sua­da hỏi.

Ro­ran gục đầu vào tay. Lông mày anh rịn mồ hôi và anh dùng tay áo quệt nó đi. Anh đang run. Dù đang túa mồ hôi nhưng anh lạnh toàn thân, đặc biệt ở tay và chân. “Hắn có vẻ không quan tâm tới cha hắn lắm. Nhưng đối với chị gái thì…” Ro­ran nhăn mặt khi nhớ lại vẻ đau khổ của Tharos khi biết Galiana đã chết.

“Nếu có cơ hội tôi nhất định sẽ báo thù,” Tharos đã nói. “Tôi thề.”

“Vậy thì làm nhanh đi,” Ro­ran đáp lại. “Một người khác đã đòi lấy mạng tôi và nếu có ai định giết tôi thì đó sẽ là cô ta.”

“…Ro­ran?… Ro­ran?”

Anh ngạc nhiên khi nghe Na­sua­da gọi tên mình. Anh nhìn cô lần nữa, hình ảnh cô trong gương trông như một bức chân dung. Anh cố cất tiếng. “Tharos không hẳn là bá tước vùng Fen­mark. Anh ta là người trẻ nhất trong số bảy người con trai của Hal­stead nhưng những người kia đều đã chạy trốn. Vì thế trong thời gi­an gấp rút, Tharos là người duy nhất phù hợp với danh hiệu này. Anh ấy đã làm tốt vai trò công sứ trong lần nói chuyện này của chúng ta với các nguyên lão của thành phố. Nhưng vì không có Carn nên tôi không thể biết ai đã thề trung thành với Gal­ba­torix và ai không. Tôi đoán là hầu hết các lãnh chúa và phu nhân, tất nhiên là cả binh lính nữa nhưng tôi chưa biết ai vào ai.”

Na­sua­da cắn môi. “Tôi hiểu… Thành phố Dauth là gần với anh nhất. Tôi sẽ nhờ tiểu thư Alarice – tôi tin là anh đã có dịp gặp mặt – cho người nào biết đọc tư tưởng tới Aroughs. Hầu hết các quý tộc đều có một người như vậy vì thế chắc chắn Alarice có thể giúp chúng ta. Nhưng khi chúng ta tới Cánh Đồng Cháy, Vua Or­rin đã mang theo tất cả những pháp sư của Sur­da vì thế dù Alarice gửi ai tới thì người đó cũng chỉ có khả năng đọc suy nghĩ thôi. Và không có những câu thần chú thích hợp thì chúng ta không thể nào tránh được chuyện những kẻ trung thành với Gal­ba­torix đâm sau lưng.”

Trong khi nghe cô nói, Ro­ran nhìn khắp bàn. Không biết Tharos có bỏ thuốc độc không? Nhưng ý nghĩ đó không khiến anh lo lắng.

Sau đó Na­sua­da nói tiếp. “… hy vọng rằng anh sẽ biết cách quản lý binh lính và không để họ chạy lung tung trong Aroughs, đốt phá hay hại người.”

Ro­ran úa mệt đến mức không muốn đáp lại nhưng cuối cùng anh cũng cất tiếng, “Chúng tôi có quá ít người. Họ cũng như tôi đều rõ rằng những binh lính ngoài kia có thể đoạt lại thành phố nếu chúng tôi cho họ một cơ hội cực nhỏ.”

“Tôi nghĩ họ cần có rất nhiều may mắn… “Có bao nhiêu người chết?”

“Bốn mươi hai.”

Trong một chốc sự im lặng kéo dài. Sau đó Na­sua­da nói. “Carn có gia đình không?”

Ro­ran nhún vai. “Tôi không biết.Anh ấy tới từ miền nam nhưng chúng tôi không nói chuyện về cuộc sống riêng tư… trước khi anh ấy hy sinh… ĐỐi với chúng tôi chưa bao giờ chuyện gia đình nhà cửa của nhau là mối quan tâm cả.”

Ro­ran đột nhiên thấy ngứa cổ khiến anh ho húng hắng mãi. Anh co người lại tới khi trán đập vào bàn, người đau lên vì vết thương trên vai, lưng và miệng. Cơn đau quá kinh khủng, anh run người khiến rượu đổ ra tay anh.

Sau đó khi phục hồi được anh nghe Na­sua­da nói. “Ro­ran, anh cần tìm thầy thuốc. Anh không khỏe và anh nên đi nghỉ đi.”

“Không.” Anh lau nước bọt trên mép vài nhìn cô.. “Họ đã làm mọi điều có thể và tôi không phải một đứa bé không thể chịu đau.”

Na­sua­da chần chừ và cúi đầu. “Thôi tùy anh vậy.”

“Giờ thì sao?” anh hỏi. “Tôi xong việc ở đây chưa?”

“Tôi định cho anh trở lại ngay khi chúng ta chiếm được Aroughs –giờ tình hình rất phức tạp – nhưng với tình trạng này anh không thể đi nổi tới Dras – Leona. Anh phải đợi tới khi…”

“Tôi sẽ không đợi,” Ro­ran hét lên. Anh nắm gương và lôi về phía mình tới khi nó chỉ cách mặt anh vài cen­timet. “Đừng đùa tôi, Na­sua­da. Tôi đi được và tôi sẽ đi nhanh. Lý do duy nhất tôi tới đây là vì Aroughs là mối nguy với Var­den. Giờ nguy hiểm đã không còn, tôi sẽ không ở lại dù có bị thương hay không, trong khi vợ và con tôi chỉ cách Murtagh và con rồng của hắn có vài dặm!”

Lúc đó giọng Na­sua­da trở nên nghiêm khắc. “Anh tới Aroughs vì tôi cử anh tới.” Sau đó bằng giọng nhẹ nhàng hơn, cô nói. “Nhưng anh đã làm xong nhiệm vụ. Anh có thể về ngay lập tức nếu có thể. Giờ anh không phải đi ngựa cả ngày lẫn đêm nữa. Hãy nghĩ kỹ đi. Tôi không muốn phải giải thích với Ka­tri­na rằng anh giết chết mình trên đường trở về… Anh nghĩ sẽ để ai thay anh chỉ huy khi anh rời Aroughs?”

“Tướng Brig­man.”

“Brig­man? Vì sao? Không phải anh và ông ta có xung đột à?”

“Ông ta đã giúp tôi chỉ huy binh lính khi tôi bị thương. LÚc đó đầu óc tôi không minh mẫn…”

“Tôi hiểu.”

“…và ông ấy đã giúp quân lính không lo lắng hay hoảng loạn. Vả lại lúc này ông ấy đang thay tôi chỉ huy quân lính trong khi tôi kẹt trỏng cái hộp nhạc kinh khủng này. Ông ấy là người duy nhất có kinh nghiệm. Không có ông ta chúng tôi không thể nào kiểm soát toàn bộ Aroughs. Binh lính quý mến ông ta và ông ta có tài quảng lý và sắp xếp. Ông ấy sẽ làm tốt việc ở thành phố này thôi.”

“Được rồi, vậy thì là Brig­man.” Na­sua­da nhìn ra khỏi gương và nói gì đó với một người anh không thấy mặt. Cô quay lại nói, “Tôi phải thừa nhận rằng tôi chưa bao giờ nghĩ anh có khả năng chiếm Aroughs. Dường như không ai có thể phá vỡ hàng phòng thủ trong thời gi­an ngắn tới vậy, với quân lực quá ít ỏi lại không có sự trợ giúp của Kỵ sĩ và rồng.”

“Vậy sao cô cử tôi tới?”

“Vì tôi phải thử làm gì đó trước khi để Er­agon và Saphi­ra bay tới đó và vì anh luôn tạo ra được bất ngờ và làm được những việc khiến người khác đầu hàng hoặc bỏ cuộc. Cho dù gặp hoàn cảnh bất khả thi anh vẫn có thể xoay chuyện nó, và quả thật vậy.”

Ro­ran khụt khịt mũi. Liệu mình sẽ được phỉnh mũi bao lâu trước khi chết như Carn?

“Cứ chế nhạo đi nhưng anh không thể từ chối thắng lợi của bản thân. Anh đã giành một chiến thắng vĩ đại cho chúng ta, Cây Búa Dũng Mãnh. Đúng hơn là Tướng quân Cây Búa Dũng Mãnh. Anh quá xứng với danh hiệu này. Tôi vô cùng biết ơn những gì anh đã làm. Với việc chiếm Aroughs anh đã giúp chúng tôi giảm bớt nỗi lo phải chiến đấu ở hai chiến trường, đồng nghĩa với ngày tàn của chúng ta. Tất cả Var­den nợ anh, và tôi hứa với anh, chúng tôi sẽ không bao giờ quên những hy sinh của anh và những binh lính kia.”

Ro­ran định nói gì đó nhưng không cất lời nổi. Anh thử lại và phải mất thêm lần nữa mới nói nổi: “Tôi…tôi sẽ truyền tải lời nói của cô cho mọi người. Nó rất có ý nghĩa với họ.”

“Vâng xin làm ơn. Và giờ tôi phải tạm biệt anh thôi. Muộn rồi, anh lại đang ốm và tôi đã bắt anh nói chuyện lâu thế này.”

“Đợi đã…” Anh vươn tay ra và chạm đầu ngón tay vào gương. “Đợi đã. Cô chưa nói với tôi: TÌnh hình chiến trường Dras – Leona ra sao?”

Cô nhìn anh không biểu hiện gì. “Tệ lắm. Không có dấu hiệu tiến triển. Chúng tôi sẽ có đất cho anh dụng võ ở đây, Cây Búa Dũng MÃnh. Nếu chúng tôi không tìm được cánh kết thúc trận chiến nhanh, chúng ta sẽ mất tất cả.”

23. THARDSVERGÛNDNZMAL

“Em vẫn khỏe,” Er­agon điên tiết nói. “Đừng lo lắng. Em không làm được gì thêm đâu.”

Saphi­ra rống lên và tiếp tục nhìn bóng mình trong hồ. Cô nàng lắc đầu rồi nặng nề thở ra một cuộn khói trắng bay vẩn vơ trên mặt hồ như một đám mây dông lạc lõng.

“Anh chắc không?” cô nàng hỏi và nhìn về phía nó. Nếu nó không mọc lại thì sao?

“Rồng lúc nào chẳng mọc vẩy mới. Em biết mà.”

Vâng nhưng em chưa bao giờ mất cái vẩy nào.

Nó không thèm giấu nụ cười; nó biết cô em nó cảm nhận được sự vui vẻ của mình. “Em không nên buồn thế. Có gì to tát đâu.” Nó vươn tay sờ vào lỗ hổng hình kim cương treen­canhs mũi bên phải cô nàng. Lỗ hổng đó không lớn hơn đầu ngón tay cái nó là mấy và sâu khoảng 2cm. Qua lổ hổng nó có thể nhìn thấy rõ làn da màu xanh lơ của cô em.

Nó tò mò sờ lên làn da cô rồng bằng đầu ngón trở. Da ấm và trơn nhẵn như bụng bê.

Saphi­ra thở phì phò và quay đầu đi. Dừng lại. Buồn lắm.

Nó ngồi xuống dùng chân té nước và cảm nhận làn nước bằng chân trần.

Có thể không lớn, cô nàng nói, nhưng ai cũng nhìn thấy. Sao họ không thể thấy cơ chứ? Trông nó như một vùng đất trống trên ngọn núi phủ trắng tuyết vậy.

Er­agon cười lớn và té nước vào người cô nàng. Sau đó để xoa dịu lòng tự trọng bị tổn thương, nó nói. “không ai để ý đâu Saphi­ra. Tin anh đi. Hơn nữa nếu họ có để ý đi chăng nữa, họ sẽ nghĩ đó là một vết thương do đánh nhau và có khi còn nghĩ em đáng sợ hơn.”

Anh nghĩ thế? Cô bé quay lại ngắm mình thêm lần nữa. Nước và vảy trên người cô rồng phản chiếu lẫn nhau trong sắc cầu vồng. NẾu như một tên lính đâm vào chỗ đó thì sao? Lưỡi kiếm sẽ xuyên qua em mất. Có lẽ em nên nhờ người lùn làm cho em một cái đĩa kim loại để cho chỗ đó lại cho tới khi mọc vẩy mới.

“Trông kỳ lắm.”

THế à?

“Ừm” Nó gật đầu và cười tiếp.

Cô nàng hừ mũi. Đừng có cười em. Nếu anh mất một mảng tóc trên đầu hay mất mấy cái bướu nhỏ ngu ngốc anh gọi là răng, anh sẽ thấy sao hả? Lúc đó sẽ đến lượt em cười anh thôi.

“Chắc chắn rồi,” nó dễ dàng đồng ý. “Nhưng mà, răng không mọc lại.” Nó đẩy mình đứng dậy và bước tới bờ sông chỗ nó để giày. Nó cẩn trọng đi trên đá. Saphi­ra đi theo khiến mặt đất rung thình thình.

Anh có thể phù phép bảo vệ chỗ đó, cô em nó cất tiếng khi nó đi giày vào.

“Anh làm được. Em muốn không?”

Có chứ.

Họ lẩm nhẩm thần chú trong đầu trong khi buộc dây giày và đặt tay phải lên vào cánh mũi cô em và đọc vài từ cần thiết. Một màu xanh da trời bàng bạc sán lên dưới tay nó khi nó tạo lá chắn cho cô em.

“Xong,” nó nói khi xong việc. “GIờ em không phải lo lắng nữa nhé.”

Trừ việc em mất một cái vảy.

Nó đẩy nhẹ hàm cô em. “Thôi nào. Chúng ta về doanh trại đi.”

Họ cùng nhau rời hồ và leo lên con đê thoai thoải đằng sau, Er­agon dùng một rễ cây lớn làm gậy chống.

Họ thấy toàn cảnh doanh trại Var­den cách đó nửa dặm về phía đông, và ở phía bắc doanh trại là Dras – Leona. Dấu hiệu sống duy nhất trong thành phố là khói bốc lên từ các mái nhà. Như thường lệ, Thor­na nằm bành trướng trên bức tường thành cổng nam, tắm mình trong ánh trời chiều. Con rồng đỏ có vẻ ngủ nhưng Er­agon biết rằng nó vẫn quan sát Var­den và ngay khi có ai tiếp cận thành phố nó sẽ vuonw mình và báo nguy cho Murtagh và những người trong thành phố.

Er­agon nhảy lên lưng Saphi­ra và cô nàng chở nó về trại bằng tốc độ khá lý tưởng.

Khi tới nơi, nó trượt xuống mặt đất và đi đầu di chuyển giữa các dãy lều. Doanh trại yên ắng, mọi thứ dường như trôi qua chậm chạp và buồn ngủ. Trong không khí vang lên tiếng nói chuyện chậm rãi nho nhỏ của các chiên binh và cờ xí bất động vì không có gió. Những sinh vật duy nhất miễn dịch với cảnh tẻ ngắt này là lũ chó hoang đang bới tìm thức ăn trong đống rác thải. Trên đầu chúng chi chít những vết cào xước, hậu quả do vô tình nghĩ có thể trêu đùa với những ma mèo mắt xanh như những con mèo nhà. Khi chuyện đó xảy ra, tiếng ăng ẳng đau đớn của chúng thu hút sự chú ý của cả trại và mọi người bật cười nhìn những con chó cụp đuôi chạy trốn khỏi những ma mèo.

Er­agon bi­ets nó và Saphi­ra khiến người ta chú ý nhiều thế nào. Nó ngẩng cao đầu, vai mở rộng và sải chân hùng dũng. MỌi người cần thấy nó tràn đầy tự tin và rằng nó không bị ảnh hưởng bởi sự buồn tẻ trong doanh trại.

Giá mà Murtagh và Thorn bỏ đi nhỉ,Er­agon nghĩ. Chúng chỉ cần bỏ đi một ngày là chúng ta sẽ chiếm được thành phố.

Tới giờ cục diện chiến trường Dras – Leona chưa có thêm thay đổi gì. Na­sua­da không chịu tấn công, cô đã giải thích với nó, “Có thể anh đã chiến thắng Murtagh trong lần đụng độ trước – nhưng cậu quên anh ta đã đâm vào hông cậu thế nào? – và hắn đã thề hắn sẽ mạnh lên trong lần đụng độ tới giữa hai người. Murtagh có thể là nhiều thứ nhưng tôi không tin hắn là một kẻ nói dóc.”

“Giữa hai pháp sư thì sức mạnh không phải là tất cả,” Er­agon đã từng chỉ ra.

“Không, nhưng sức manh không phải không quan trọng. Hơn nữa hắn lại được các thầy tu Hel­grind hỗ trợ, tôi nghi ngờ trong đó phải có vài pháp sư. Tôi không thể để anh đối mặt với họ và Murtagh trên chiến trường kể cả có các pháp sư của Blöd­hgarm. Từ giờ tới khi chúng ta lừa Murtagh và Thorn đi chỗ khác hoặc có được lợi thế trước họ, chúng ta sẽ ở đây không tấn công Dras – Leona.”

Er­agon đã phản đối, đã nói rằng họ không thể không tấn công và rằng nếu nó không thể đánh bại Murtagh thì làm sao cô ta có thể hy vọng nó hạ bệ Gal­ba­torix? Nhưng Na­sua­da vẫn không may may suy chuyển.

Họ - cùng với Arya, Blöd­hgarm và tất cả các pháp sư của Du Vran­gr Ga­ta – đã lên kế hoạch và tìm cách để giành lợi thế. Nhưng mọi kế hoạch đều có điểm yếu vì chúng đòi hỏi thời gi­an và nguồn lực hơn mức quân Var­den có và vì họ không thể nào giải quyết được câu hỏi nên giết, bắt hay đánh đuổi Murtagh và Thorn.

Na­sua­da thậm chí đã tới hỏi El­va rằng con bé có thể dùng năng lực của mình – cho phép nó cảm nhận nỗi đau hiện tại cũng như tương lai của một con người – để hạ gục Murtagh hoặc để lén lút vào thành phố. Cô bé lông mày bạc đã cười vào Na­sua­da và chế giễu, thóa mạ đuổi cô đi. “Tôi không nợ cô hay bất kỳ ai, Na­sua­da. Tìm đứa trẻ khác mà nhờ. Tôi không làm.”

Và thế là, quân Var­den phải đợi.

Ngày qua ngày, Er­agon đã quan sát mọi người càng lúc càng rệu rã và chán nản, Na­sua­da càng lúc càng lo lắng. Er­agon đã học được rằng một đội quân đói rã họng sẽ chết sớm và chia thành nhiều nhóm nhỏ trừ khi họ được cung cấp đầy đủ thức ăn. Khi tới một lãnh địa mới, nguồn cung cấp đơn giản nhất chính là thức ăn và những thứ thiết yếu khác từ khu nông thôn. Như dịch châu chấu, Var­den đã để lại những mảnh đất trơ gốc rạ, lấy đi toàn bộ những thứ họ cần cho cuộc sống.

Một khi ngừng lại, họ sẽ nhanh chóng dùng hết nguồn lương thực dự trữ và buộc phải nhờ vào viện trợ lương thực từ Sur­da và những thành phố họ đã chiếm đóng được. Dù dân Sur­da có hào phóng thế nào thì cũng không thể nuôi Var­den lâu hơn nữa.

Dù Er­agon biết những chiến binh chiến đấu rất quả cam, nhưng khi đối di­neej với cái chết đói từ từ dai dẳng chẳng để lại gì ngoài cho Gal­ba­torix sự hả hê, hầu hết mọi người sẽ chọn đào ngũ sống bình yên tại một vùng đất xa xôi nào đó của Ala­gaësia tránh xa Triều đình tới hết đời.

THời khắc đó chưa đến nhưng cũng sắp tới rồi.

Er­agon biết sự sợ hãi định mệnh đó sẽ khiến Na­sua­da thức trắng đêm vì thế mỗi sáng trông cô càng thêm tiều tụy, quầng thâm càng lớn.

Khó khăn họ gặp phải tại Dras – Leona khiến Er­agon mừng vì Ro­ran đã tới Aroughs chiến đấu và chiến thắng tại thành phố phía nam này. Anh ấy dũng cảm hơn mình. Na­sua­da không đồng tình nhưng Er­agon quyết một khi Ro­ran quay lại – nếu đúng ra thì chỉ trong vài ngày nữa – Er­agon sẽ lập lá chắn hoàn toàn cho anh. Er­agon đã mất quá nhiều người thân vì triều đình và Gal­ba­torix và nó không muốn mất nốt Ro­ran.

Nó dừng lại khi ba người lùn đang mải cãi cọ đi ngang qua. Người lùn không đội mũ trụ hay đeo huy hiệu nhưng nó biết họ không thuộc tộc Dûr­grimst In­gei­tum vì họ tết râu với hột cườm – kiểu thời trang nó không bao giờ thấy ở một In­gei­tum. Dù người lùn có nói chuyện gì thì nó cũng chằng hiểu – nó chỉ biết vài từ trong ngôn ngữ người lùn – nhưng chủ đề kia rõ ràng là rất quan trọng vì họ nói lớn, điệu bộ căng thẳng, biểu hiện thiếu kiềm chế và không hề để ý tới nó hay Saphi­ra đang đứng bên đường.

Er­agon mỉm cười khi họ đi qua; dù họ rất nghiêm túc nhưng nó vẫn thấy buồn cười làm sao ấy. Var­den đã nhẹ nhõm đi nhiều khi vua người lùn mới Orik đã dẫn đoàn quân tới Dras – Leona hai ngày trước. Và chiến thắng của Ro­ran ở Aroughs cùng với sự kiện này trở thành đề tài bàn tán chủ yếu trong doanh trại. Số lượng người lùn đã nhân đôi lực lượng đông minh Var­den và tăng cơ hội Var­den sẽ tới được Urû’baen và đánh bại Gal­ba­torix nếu tìm được cách qua mặt Murtagh và Thorn.

Khi Nó và Saphi­ra đi qua doanh trại, Er­agon nhìn thấy Ka­tri­na ngồi ngoài lều đan quần áo cho đứa con sắp chào đời. Chị giơ tay vẫy nó và gọi. “Em họ!”

Nó vui vẻ đáo lại. Chuyện chào hỏi giữa họ đã trở thành thói quen từ khi chị và anh họ nó kết hôn.

Sau khi cả nó và Saphi­ra đã ăn uống no say – chủ yếu là Saphi­ra – chúng nghỉ ngơi trên một mảng đất mềm chan hòa ánh nắng cạnh lều Er­agon. Theo lệnh của Na­sua­da, khu đất đó để trống cho Saphi­ra sử dụng, và quân Var­den cũng vui vẻ thôi.

Saphi­ra nằm cuộn tròn tắm nắng trong khi Er­agon lôi cuốn Do­mia Wyr­da từ túi yên cương ra và ngồi dựa vào hốc giữa cổ và chân trước cô nàng. Ánh sáng chiếu vào cánh và lớp vảy lấp lánh, sơn lên đó một thứ màu tím huyết dụ kỳ lạ. Ánh sáng nhảy nhót tạo nên những hình thù lấp lánh khiến nó khó đọc nổi những con chữ run vuông chằn chặn. Nhưng nó không phiền; được ngồi cạnh saphi­ra có thể đánh tan mọi sự bất tiện.

Chúng ngồi cùng nhau một hai tiếng đồng hồ gì đó tới khi Saphi­ra tiêu hóa xong bữa ăn còn Er­agon mệt mỏi vì phải dịch những câu nói phức tạp của Thầy tu Hes­lant. Sau đó vì chán, chúng đi lang thang khắp doanh trại, xem xét hàng phòng thủ và thi thoảng nói chuyện với những lính gác ở vòng ngoài.

Gần phía đông doạnh trại, nơi một toán người lùn đang đứng, họ gặp một ngườn lùn đang ngồi chồm hổm cạnh một xô nước, tay áo sắn tới khuỷu, nặn một quả bóng đất bằng cỡ nắm đấm. Dưới chân anh ta và bùn và cái que để quấy bùn.

Cảnh tưởng quá không hợp lý nên phải vài phút sau Er­agon mới dám nhận đó là Orik.

““Derûndânn, Er­agon… Saphi­ra,” Orik không nhìn lên mà nói.

““Derûndânn,” Er­agon nói nhắc lại từ chào hỏi bằng ngôn ngữ người lùn và ngồn xuống bên cạnh. Nó quan sát Orik tiếp tục nặn quả bóng. Orik thường xuyên nắm lấy một nắm đất rồi từ từ bồi thêm vào quả bóng.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ thấy một vua người lùn ngồi lê dưới đất nghịch đất như trẻ con,” Er­agon nói.

Orik thở phì phì, thổi tung râu lên. “Tôi cũng không bao giờ nghĩ một kỵ sĩ và rồng lại nhìn tôi chằm chằm khi tôi đang làm một Erôthknurl.”

“Erôthknurl là gì?”

“Là thardsvergûndnz­mal.”

“Một thardsver—?” Er­agon bỏ cuộc khi nói được nửa từ vì không thể nhớ nổi chứ đừng nói là phát âm. “Và nó là…”

“Một thứ có vẻ giống thứ khác hơn bản thân nó.” Orik giơ quả banh đất lên. “Như thế này. Đây là viên đá hình thành từ đất. Hay đúng hơn, tý nữa nó sẽ là thế.”

“Viên đá hình thành từ đất… Phép thuật à?”

“Không, chỉ là kỹ năng khai khoáng thôi. Chẳng có gì hơn.”

Khi Orik không giải thích thêm, Er­agon hỏi. “Làm thế nào?”

“Nếu anh kiên nhẫn, anh sẽ hiểu.” Rồi, sau một chặp, Orik dịu giọng nói. “Đầu tiên anh phải tìm ít đất.”

“Nhiệm vụ khó đấy,”

Orik ngước lên nhìn qua hàng lông mày rậm rạp. “Vài loại đất tốt hơn những loại khác. Ví dụ, chúng ta không thể dùng cát. Đất phải chứa nhiều hạt khoáng khác nhau mới kết dính được. Ngoài ra trong đất phải lẫn sét. Nhưng quan trọng nhất, nếu tôi làm thế này” – và anh ta vỗ tay vào đất xung quanh – “sẽ có nhiều bụi lẫn trong dất. Thấy không?” Anh ta giơ tay cho Er­agon xém lớp bụi bám trong lòng bàn tay.

“Sao lại quan trọng thế?”

“À,” Orik xoa mũi, để lại ít nhọ trên mũi. Anh ta tiếp tục nặn quả banh thành hình tròn hoàn hảo. “Một khi có đất tốt, anh làm ướt nó và trộn như trộn bột mỳ với nước cho tới khi được một ít bùn tốt, đặc.” Anh ta hất đầu về đống bùn nhão dưới chân. “Từ bùn, cậu nặn quả banh, như thế này này. Sau đó cậu bóp chặt hết mức có thể. Thế là một có một quả banh tròn hoàn hảo. TỚi khi nó hơi dính, cậu làm theo tôi: cho thêm chút đất để hút bớt ẩm từ bên trong. Cậu tiếp tục làm cho tới khi quả banh khô nhưng vẫn giữ được hình dạng và không vỡ ra.”

“Như vậy chúng ta sắp có được khoáng thạch Erôthknurl. Sau đó tôi sẽ để nó dưới ánh mặt trời. ÁNh sáng và hơi nóng sẽ giúp lấy hết nước từ bên trong; sau đó tôi lại đắp đất lên và lại nặn tròn nó lại. Sau ba hay bốn lần, bề ngoài khoáng thạch Erôthknurl sẽ cứng như da Na­gra.”

“Vậy là làm tất cả chỉ để có một quả banh bùn khô à?” Er­agon bối rối hỏi. Saphi­ra cũng có cảm giác tương tự.

Orik lại bốc thêm một nắm đất. “Không, vì thế chưa xong. Tiếp theo chúng ta sẽ dùng tới bụi. Tôi lấy bụi trát bên ngoài Erôthknurl để có lớp ngoài mỏng và trơn láng. Sau đó tôi để quá banh đó cho không khí ẩm tiếp xúc rồi cho thêm bụi, rồi đợi, cứ thế.”

“Trong bao lâu”

Tới khi bụi không bám nổi vào Erôthknurl nữa. Lớp vỏ sẽ khiến Erôthknurl đẹp hơn. Sau khoảng một ngày, nó sẽ sáng lấp lánh như thể đá hoa cương. Không cần cần nghiền, không cần gia công, không dùng pháp thuật – chỉ dùng trái tim, khối óc và đôi bàn tay – cậu sẽ có một viên đá từ đất… một viên đá dễ vỡ nhưng dù sao cũng là đá.”

Dù Orik nhắc đi nhắc lại nhưng Er­agon vẫn khó tin rồi bùn dưới chân cậu có thể tạo được một thứ gì giống như Orik nói mà không cần tới phép thuật.

Nhưng vì sao người lại làm cái này hả vua người lùn? Saphi­ra hỏi. Người có nhiều trọng trách vì giờ người là đấng trị vì cơ mà.

Orik càu nhàu. “Tôi không cần làm gì vào lúc này. Những người của tôi đã sẵn sàng chiến đấu và sẽ không tốt cho họ nếu tôi cứ toang toác bên họ như gà mẹ. Tôi cũng không muốn ngồi một mình trong lều xem râu mọc… đây là Erôthknurl.”

Anh ta lại im lặng nhưng Er­agon thấy hình như Orik phiền lòng vì điều khác nên nó im miệng đợi xem Orik muốn nói gì. Sau một phút, Orik húng hắng nói, “Tôi từng uống rượu chơi xúc xắc với những người khác trong bộ tộc cho dù tôi có là truyền nhân của vua Hroth­gar. Chúng tôi có thể cùng nhau nói chuyện và cười đùa thoải mái. Tôi không phải xin ai giúp đỡ và cũng không ai nhờ vả tôi. Nhưng giờ mọi sự đã khác. Bạn bè tôi không thể quên tôi là vua của họ và tôi không thể lờ chuyện họ đối xử khác với tôi.”

“Điều đương nhiên mà,” Er­agon nhận xét. Nó thông cảm với Orik vì nó cũng đã trải qua tình huống tương tự khi trở thành Kỵ sĩ.

“Có lẽ. Nhưng kể cả thế tôi cũng khó chịu.” Orik than thở. “Ôi, cuộc đời thật là lạ, đội khi còn độc ác… Tôi ngưỡng mộ Hroth­gar như bề tôi đối với nhà vua nhưng đối với tôi dường như ông ấy không đối xử như những người khác. Giờ tôi hiểu vì sao ông ấy lại như thế.” Orik khum khum tay cầm quả banh đất mà nhìn. “Khi cậu gặp Grim­st­borith Gan­nel ở Tar­nag, ông ấy có giải thích cho cậu biết ý nghĩa của Erôthknurln không?”

“Chưa bao giờ nói tới.”

“Tôi đoán là do có nhiều vấn đề quan trọng hơn cần bàn… Nhưng vì là một In­gei­tum, và là một knurla, cậu cần hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của Erôthknurl. Đó không chỉ là cách để cậu tập trung đầu óc, cho qua thời gi­an hay tạo ra đồ kỷ niệm. Không. Làm ra đá từ đất là một thứ thiêng liêng. BẰng cách này chúng ta thể hiện niềm tin vào sức mạnh của Helzvog và tôn kính ngài. Khi bắt tay vào việc chúng ta phải đặt vào đó sự tôn kính và mục đích của mình. Tạo ra một Erôthknurl là tạo nên một lời cầu nguyện và thần linh sẽ không nhân từ với bất cứ ai phù phiếm. Từ đất hình thành nên sinh thể sống và sinh thể sống lại trở về với đất. Vòng tuần hoàn cứ tiếp tục mãi mãi ngàn đời.”

Chỉ tới lúc này Er­agon mới hiểu được công việc của Orik. “Anh cần Hve­dra,” nó nói. “cô ấy sẽ đồng hành cùng anh và giúp anh không tuyệt vọng. Tôi chưa bao giờ thấy anh hạnh phúc như hồi cùng cô ấy ở Bre­gan Hold.”

Nếp nhăn trên mắt Orik lại trũng xuống khi anh ta cười. “Đúng… Nhưng nàng là grim­st­carvlorss của In­gei­tum và nàng không thể bỏ nhiệm vụ để đi an ủi tôi. Hơn nữa tôi sẽ không thể nghỉ ngơi nếu nàng trong tầm sinh sát của Murtagh và Thorn hoặc tệ hơn, dưới móng vuốt của Gal­ba­torix và con rồng đen của lão.”

Để giúp Orik vui lên, Er­agon nói, “Anh làm tôi nhớ tới câu trả lời cho một câu đố: một vị vua người lùn ngồi trên đất, làm một viên đá từ đất. Tôi không nhớ rõ câu đố như thế nào nhưng đại loại là:

Mạnh mẽ và chắc khỏe

Mười ba ngôi sao mọc trên lông mày

Viên đá sống hình thành biến đất chết thành đá chết.

“Không có vần điệu nhưng anh không thể bắt tôi ngâm nga chuẩn xác được. Tôi có thể tưởng tưởng câu đó như vậy sẽ khiến ối người gãi chảy máu đầu.”

“Ừm,” Orik nói. “Không phải với người lùn. Kể cả đứa nhỏ của chúng tôi cũng dễ dang hạ gục cậu.”

Cả rồng nữa, Saphi­ra nói.

“Tôi nghĩ là anh đúng,” Er­agon nói.

Sau đó nó hỏi Orik về mọi thứ xảy tới với người lùn sau khi nó và Saphi­ra rời Tron­jheim trong cuộc hành trình lần thứ hai về khu rừng của thần tiên. Er­agon không có cơ hội nói chuyện dông dài với Orik kể từ khi người lùn tới Dras – Leona và nó mừng vì được nghe chuyện bạn mình.

Orik không muốn giải thích những rắc rối trong thể chế của người lùn. Nhưng khi nói chuyện, biểu hiện trên mặt anh ta sáng lạng hơn và sống động hơn. Anh ta giành cả tiếng kể về những kế hoạch của các bộ tộc người lùn đã bàn trước khi hành quân tới Var­den. Các bộ lạc theo như Er­agon biết đều rất bướng bỉnh và ngay cả vua họ, là Orik, cũng khó buộc họ nghe lời.

“Như kiểu dẫn một đàn ngỗng trời ấy,” Orik nói. “Họ luôn muốn đi theo hướng của mình và họ rất ồn ào và họ sẽ cắn tay bạn ngay khi có cơ hội.”

Trong khi nói chuyện, Er­agon nghĩ sẽ hỏi về Ver­mûnd. Nó thường bằn khoăn chuyện gì sẽ xảy ra với người lùn định ám sát nó. Nó thích biết kẻ thù của nó đang ở đâu, đặc biệt là một kẻ nguy hiểm như Ver­mûnd.

“Hắn trở về quê nhà tại Fel­darast,” Orik nói. “Ở đó hắn sẽ ngồi uống rượu và giận dữ về những chuyện đang và sẽ xảy ra. Nhưng giờ ai thèm nghe hắn nói chứ. Knurlan của Az Sweldn rak An­hûin vốn nổi tiếng cứng đầu. Trong hầu hết trường hợp, họ sẽ vẫn trung thành với Ver­mûnd dù các bộ tộc khác có làm gì hay nói gì nhưng cố ám sát một vị khách là hành vi không thể dung thứ. Tôi không thể tin nổi họ vẫn đồng ý li khai chỉ để bảo vệ một grim­st­borith đã đánh mất danh dự. Có thể mất hàng năm nhưng họ thực sự đã chống lại hắn. Tôi đã nghe thấy rằng rất nhiều người trong bộ lạc xa lánh Ver­mûnd, kể cả trong khi chính họ cũng bị tẩy chay.”

“Vậy anh nghĩ hắn ta sẽ ra sao?”

“Hắn đành phải chấp nhận hoặc không có người sẽ bỏ rượu độc hắn hoặc đâm dao vào ngực hắn. Dù sao hắn cũng không còn là mối đe dọa của cậu hay là thủ lĩnh của Az Sweldn rak An­hûin.”

Họ tiếp tục nói chuyện tới khi Orik hoàn thành xong vài bước đầu tiên trong quá trình tạo Erôthknurl. Anh ta đã để qua banh trên vải lều cho khô. Khi Orik đứng dậy thu dọn xô thùng và que, anh ta nói, “Tôi mừng vì anh đã lắng nghe tôi nói, Er­agon ạ. Và cả cô nữa, Saphi­ra. Thật là lạ khi giờ trừ Hve­dra tôi chỉ có thể nói chuyện thoải mái với hai người. Những người khác…” Ông nhún vai. “Bah.”

Er­agon cũng đứng dậy. “Anh là bạn tôi, Orik, dù có phải vua người lùn hay không. Chúng tôi luôn vui vẻ nói chuyện với anh. Và anh biết đấy, đừng lo chúng tôi sẽ nói cho người khác nghe những gì anh nói.”

“Ừ, tôi biết mà Er­agon.” Orin nhìn thẳng vào mắt nó. “Cậu tham gia vào những sự kiện trong đại nhất thế giới nhưng cậu chưa bao giờ suy nghĩ hẹp hòi.”

“Tôi không hứng. Hơn nữa, tôi còn nhiều thứ khác để lo hơn trong gi­ai đoạn này.”

“Thế thì tốt. Một kỵ sĩ phải tách biệt với những người khác. Hơn nữa, sao cậu có thể vì vụ lợi được? Tôi chưa bao giờ đánh giá cao tính độc lập của Kỵ sĩ nhưng giờ thì có, và vì nguyên nhân cá nhân.”

“Tôi không hoàn toàn xa rời mọi người,” Er­agon nói. “Tôi đã thề trung thành với anh và Na­sua­da.”

Orikk gật đầu. “Đúng. Cậu không hoàn toàn tách khỏi Var­den hay In­gei­tum. Dù gì xảy ra tôi vẫn mừng vì tôi có thể tin cậu.”

Một nụ cười nở rộng trên khuôn mặt Er­agon. “Tôi cũng vậy.”

“Dù gì chúng ta cũng là anh em nuôi mà nhỉ? Và đã là anh em thì phải bảo vệ lẫn nhau thôi.”

Nên thế, Er­agon nghĩ dù nó không nói lớn, “Anh em nuôi,” nó đồng tình và vỗ vai Orik.

24. HỌC HỎI (er­agon 216 dịch)

Chiều hôm đó, khi mà dường như ko có dấu hiệu một cuộc tấn công nào của Đế Chế từ Dras-​Leona trong khi trời vẫn còn sáng, Er­agon và Saphi­ra đi tới bãi tập ở phía sau trại Var­den.

Ở đó Er­agon gặp Arya, vẫn như mọi ngày từ khi tiến tới thành phố. Nó hỏi nàng, và nàng trả lời ngắn gọn rằng nàng bị vướng vào một cuộc tranh luận mệt mỏi với Na­sua­da và vua Or­rin từ suốt đêm qua. Er­agon ếm phép lên cây kiếm của mình và Arya cũng làm tương tự, họ đứng đối mặt nhau. Có một sự thay đổi nhỏ, họ đồng ý sử dụng khiên đỡ, điều này sẽ làm trận đấu tập gần giống với thực tế hơn.

Nó và nàng di chuyển nhịp nhàng, những bước ngắn, mượt mà tựa như những vũ công trên mặt đất gồ ghề bằng cảm nhận của mỗi người, thuần thục.

Đây là phần hấp dẫn nhấn trong trận đấu đối với Er­agon. Cảm xúc mãnh liệt bừng lên trong đôi mắt Arya, ko mấp máy, ko dao động, nàng nhìn nó 1 cách chăm chú. Nó càm thấy bối rối, nhưng nó thích khi có một sợi dây liên kết vô hình xuất hiện giữa hai người.

Arya xuất chiêu, và chưa tới một giây, nó thấy mình khuỵu xuống, lưỡi kiếm của nàng kề sát cổ trái của nó, cứa vô da thịt. Er­agon cảm thấy cơn lạnh thấu người tới khi nàng thu kiếm lại và để nó đứng thẳng dậy.

-Thật là cẩu thả. Nàng nói.

-Làm thế nào nàng vẫn vượt hơn ta? Nó gầm gừ, tức tối

“Bởi vì”, nàng đáp, trong lúc chỉnh lại giáp vai phải và khiên cho nó, “ta đã có ngót một thế kỉ tập luyện. Sẽ thật kì lạ nếu ta không tốt hơn chàng, ít nhất là bây giờ. Chàng nên tự hào rằng chàng đã có thể dần chống đỡ lại ta. Rất ít ng có thể”

Bris­in­gr rít lên trong không khí khi Er­agon nhắm vô chân trụ của Arya. Tiếng kim loại vang lên khi nàng chặn đứng mũi kiếm bằng tấm khiên. Arya phản đòn bằng một cú đâm xoắn quấn lấy thanh kiếm và điểm hai nhát lạnh băng xuyên qua lớp giáp lên vai và đầu nó.

Nhăn nhó, nó ngưng lại, tạm hoãn trận đấu và suy nghĩ. Một trong những thách thức khi đấu với các thần tiên chính là tốc độ và sức mạnh của họ. Họ có thể dễ dàng áp sát và hạ gục đối phương từ khoảng cách xa hơn bất kì người trần nào khác. Do đó, để an toàn trước Arya, nó phải di chuyển cách xa nàng gần ba thước rưỡi.

Trước khi nó kéo dãn khoảng cách giữa hai người ra, Arya đã áp sát nó, chỉ với bước nhảy, tóc nàng tung bay phía sau. Er­agon tấn công ngay trc khi cô tiếp đất, nhưng nàng đã để lưỡi kiếm lướt qua cơ thể mình mà không cần đỡ đòn. Nàng trượt cạnh tấm khiên bên dưới Er­agon và hất lên, để hở nguyên mảng sườn không được phòng thủ. Bằng tốc độ ưu việt của mình, nàng vung kiếm lên và lại kề cổ nó, lần này là dưới cằm.

Nàng giữ nguyên tư thế, đôi mắt to tròn của nàng cách nó chỉ một phân. Có một cái gì đó dữ dội trong thái độ của nàng mà nó ko thể giải thích, nhưng điều đó làm cho nó ngưng lại.

Bóng tối lướt qua khuôn mặt Arya, nàng tra kiếm vào bao và bỏ đi.

Er­agon xoa xoa cổ họng của nó: “nếu nàng biết nhiều về kiếm pháp” nó nói “ tại sao nàng không thể dạy ta giỏi hơn?”

Đôi mắt ngọc bích của nàng bừng lên:” ta đã thử” nàng nói ”nhưng vấn đề không phải ở đây” Nàng chỉ kiếm vô cánh tay phải của nó. “Vấn đề là ở đây” Nàng đập lưỡi kiếm vô mũ sắt của nó, tiếng kim loại va vào nhau kêu lanh canh. “ Và ta không biết phải dạy chàng thế nào ngoại trừ việc chỉ ra lỗi của chàng hết lần này đến lần khác cho tới khi chàng không mắc lỗi nữa” Nàng lại đập vô mũ sắt của nó một lần nữa ”Có nghĩa là ta phải đánh chàng bầm dập để làm điều đó”

Và nàng lại tiếp tục hạ gục nó và lòng kiêu hãnh của nó nhiều hơn mức nó có thể thừa nhận, thậm chí cả Saphi­ra, nó cảm thấy nghi ngờ khả năng có thể đánh bại được Gal­ba­torix, Murtagh, hoặc bất kì đối thủ đáng gờm nào khác, và thật xui xẻo khi phải đối đầu những kẻ như vậy một mình mà không có sự tợ giúp của Saphi­ra hoặc khả năng phép thuật của nó.

Lăn ra xa Arya, Er­agon đứng cách xa arya khoảng mười thước

“Tốt thôi” nó nói qua kẽ răng nghiến chặt” tiếp tục nào” Và nó gồng mình thủ thế, chờ đợi một lượt tấn công dữ dội khác.

Arya nheo mắt lại liếc nhìn một cách tinh quái:” tốt hơn rồi đấy”

Họ xáp vào nhau, cả hai thét lên, và bãi tập vang lên âm thanh của những tiếng va chạm dữ dội. Hết trận này tới trận khác, cho tới khi họ mệt nhừ, vã mồ hôi, lấm tấm bụi, Er­agon bầm mình với nhiều vết chém . Và họ tiếp tục gồng mình lao vô quần thảo nhau, điều chưa từng xảy ra ở những buổi tập luyện trước đây. Không ai trong hai người có ý định ngưng lại mặc cho những vết bầm tím khắp mình.

Saphi­ra xem trận đấu từ phía bên kia của bãi tập, nó nằm dài ra bãi cỏ. Nó khép kín phần lón tâm trí mình, để tránh ảnh hưởng đến Er­agon . Thình thoảng nó đừa ra một vài nhận xét về kiếm pháp của Er­agon hoặc của Arya, điều đó thực sự hữu ích cho Er­agon. Đôi lúc, Er­agon cảm thấy hơn một hoặc hai lần cô em rồng đã cứu nó khỏi những cú đánh đặc biệt nguy hiểm, vào những thời điểm mà cánh tay hay chân Er­agon di chuyển nhanh hơn một chút so với bình thường, hoặc thậm chí trước khi nó định di chuyển. Mỗi lần vậy, Er­agon cảm thấy nhột phía sau gáy và nó biết rằng Saphi­ra đã can thiệp vô tâm trí nó.

Cuối cùng nó bảo cô em rồng ngưng lại. Anh phải tập một mình Saphi­ra ạ, nó nói. Em không thể luôn có mặt để giúp anh mỗi khi anh cần được.

Em sẽ cố hết sức.

Anh hiểu. Anh cũng cảm thấy như em vậy. nhưng đây là ngọn núi mà anh phải leo một mình

Môi cô em rồng mấp máy. Tại sao anh lại phải leo khi anh có thể bay? Anh sẽ không thể tới bất kì đâu với đôi chân ngắn cũn đó được.

Điều đó không đúng và em biết điều đó. Bên cạnh đó, nếu anh bay, thì có nghĩa rằng đây chỉ là đôi cánh tạm bợ, anh sẽ ko thể học được gì hơn sự rẻ tiền nếu chiến thắng đó ko phải của bản thân.

Thắng là thắng và chết thì vẫn là chết, bất kể điều đó xảy ra bằng cách nào.

Saphi­ra.., nó cảnh cáo cô em rồng.

Tí xíu thôi mà.

Tuy nhiền để trợ giúp ông anh, nó để Er­agon làm chủ cơ thể, nhưng mặc dù vậy nó vẫn theo dõi với một sự cảnh giác không ngừng

Cùng với Saphi­ra, các thần tiên được gi­ao nhiệm vụ bảo vệ nó và Er­agon đã tụ tập tại rìa bãi tập. Sự hiện điện của họ làm Er­agon cảm thấy không thoải mái. Nó không muốn ai khác thấy sự thê thảm của nó trừ Saphi­ra và Arya, nhưng nó biết rằng các thần tiên sẽ không bao giờ chịu quay về lều. Ít ra thì, họ vẫn hữu ích ngoại trừ việc bảo vệ nó và Saphi­ra: họ không để các chiến binh lang thanh trên bãi tập trong lúc một kĩ sĩ và một tiên nhân đang xà quần với nhau. Các pháp sư của Blod­hgarm không làm gì đặc biệt, nhưng chỉ sự xuất hiện của họ là đủ đe dọa các khan giả bình thường.

Sau nhiều hiệp đấu, Er­agon càng lúc càng thất vọng. Nó thắng được 2 hiệp. Hầu như không có một tiểu xảo, kĩ thuật nào có thể qua mặt đc Arya mà không cần tới may mắ, và nó chưa bao h gắng hết sức trong những trận chiến trừ khi bị đe dọa tới tính mạng. Trừ những chiến thắng ít ỏi đó, Arya tiếp tục hạ nó một cách dễ dàng.

Cuối cùng, sự giận dữ bùng phát và nhấn chìm nó. Mặc dù kĩ thuật này ít khi nào đem lại hiệu quả cho nó, Er­agon nâng cánh tay phải và chuẩn bị phóng thanh Bris­in­gr vô Arya như một cây rìu chiến.

Vào lúc đó, một luông tâm trí chạm ùa vào tâm thức Er­agon, một luồng tâm trí Era ngon nhận biết một cách rõ rngf không phải của Saphi­ra hay Arya, hay của bất kì tiên nhân nào khác, nó là tâm trí của một con rồng, một con rồng đực. Er­agon chặn lại luồng tư tưởng, chạy đua đặt các vòng bảo vệ và lo sợ bị tấn công bởi Thorn. Nhưng trước đó, một giọng nói vang lên khắp ý thức của nó, giống như âm thanh của một ngọn núi thay đổi trọng lượng theo âm điệu.

Đủ rồi, Glae­dr nói.

Er­agon cứng đơ lại và bước tới nửa bước. Ấn đầu ngón chân xuống đất, nó ngưng bản thân khỏi việc ném thanh Bris­in­gr. Nó nhìn và cảm thấy Arya, Saphi­ra, và các pháp sư của Blod­hgarm cũng phản ứng như vậy, bất ngờ và ngạc nhiên, và nó biết họ cũng nghe thấy Glae­dr.

Tâm trí con rồng vẫn như trước- Già cỗi, khôn ngoan nhưng ẩn chứa sự đau thương. Nhưng lần đầu tiên sau cái chết của Hiền Nhân Oromis tại Gil’ead, Glae­dr dường như bị thôi thúc phải làm gì đó hơn là chìm sâu và bao bọc tâm trí trong nỗi đau thương của nó.

Glae­dr tiền bối! Er­agon và Saphi­ra nói cùng lúc.

Người thế nào rồi….

Người không sao chứ…

Người….

Những người khác nói—Arya, Blod­hgarm và 2 vị tiên nhân khác nữa, mà Er­agon không thể xác định được—Nhiều luông tâm trí và giọng nói đan xen lẫn nhau gây ra hỗn loạn .

Đủ rồi, Glae­dr lặp lại, âm thanh vang lên vừa mệt mỏi vừa bực tức. Các người muốn thu hút sự chú ý không mong muốn à?

Tất cả giữ yên lặng và đợi nghe rồng vàng sẽ nói gì. Hồi hộp, Er­agon trao đổi cái nhìn với Arya.

Glae­dr không nói ngay, mà quan sát mọi người trong vài phút, sự xuất hiện của rồng vàng đè nặng lên tâm trí Er­agon, và nó chắc rằng những người khác cũng cảm thấy như vậy.

Sau đó, bằng giọng nói trầm vang, Glae­dr nói, điều này đã đi quá xa….Er­agon, người không nên phis thời gi­an vào việc tập luyện chiến đấu. Nó làm ngươi sao lãng những vấn đề khác quan trọng hơn. Thanh kiếm trong tay Gal­ba­torix không phải là thứ ngươi cần lo sợ nhiều nhất, cũng như thanh kiếm miệng lưỡi của hắn ta, mà là tâm trí của hắn. Tài năng của hắn ghê gớm nhất là khả năng lần vào những phần nhỏ nhất, yếu đuối nhất trong tâm trí của con và buộc con phải tuân lệnh hắn. Thay vì tập trung vào cuộc đọ sức với Arya ngươi nên tập trung vô việc rèn luyện trí óc, cải thiện khả năng làm chủ bản thân; nó vẫn còn đầy rẫy những phiền muộn, và vô kỷ luật…..tại sao, sau đó, ngươi vẫn kiên trì với những nỗ lực vô ích?

Một loạt các câu trả lời nhảy đi đầu trong tâm trí Er­agon: nó rất thích đọ kiếm với Arya, mặc sự bực mình điều đó gây ra cho nó, nó vẫn muốn trở thành một tay kiếm tốt nhất có thể–một tay kiếm giỏi nhất thế giới, nếu có thể. Các bài tập giúp nó tự chủ và trui rèn cơ thể, và còn nhiều lí do bên cạnh đó. Nó cố ngăn chặng luồng suy nghĩ bản thân, vừa để bảo vệ một số thông tin riêng tư và tránh để Glae­dr thấy những thông tin không mong muốn, điểu đó chỉ xác nhận ý kiến của con rồng về sự thiếu kỷ luật của nó. Nó đã cố gắng nhưng không thành công, tuy nhiên, một luông không khí thất vọng lại bắt nguồn từ Glae­dr.

Er­agon chọn câu trả lời xác đáng nhất: nếu con có thể bảo vệ tâm trí con khỏi Gal­ba­torix, nhưng không thể xâm nhập tâm trí hắn, chỉ kiềm chế đc hắn, thì tất cả sẽ quyết định bằng lưỡi kiếm. Vả lại, đức vua cũng không phải là kẻ thù duy nhất chúng ta phải lưu tâm: còn có Murtagh, một người, và ai mà biết được rằng loại người hay loại quái vật nào còn nằm dưới trướng Gal­ba­torix? Con đã không thể giết Durza, cũng như Va­raug mà không có sự giúp đỡ của Arya. Con luôn luôn nhận được sự giúp đỡ. Nhưng con không thể để ch Sahi­ra, Arya, hay Blod­hgarm cứu con mỗi khi con gặp rắc rối. Con phải luyện kiếm tốt hơn. Nhưng dường như con vẫn không có chút tiến bộ nào, mặc dù con đã cố gắng.

Va­raug? Glae­dr thắc mắc. Ta chưa từng nghe thấy cái tên đó trước đây

Er­agon hạ giọng, sau đó kể cho Glae­dr về biến cố trong việc chiếm Fe­in­ster và cách mà nó và Arya làm sao để tiêu diệt tà thần mới xuất hiện ngay khi Oromis và Glae­dr đối mặt với cái chết—Bằng những cách khác nhau, ngay trên bầu trời Gil’ead. Er­agon cũng tóm lược lại những sự kiện và hành động của Var­den sau đó, và nó nhận ra Glae­dr đã tự cô lập bản thân, nó có quá ít kiến thức về rồng. Câu chuyện làm Er­agon mất vài phút, trong thời gi­an đó, tất cả mọi người đứng yên trong bãi tập, đôi mắt nhìn vào khoảng không, sự chú ý của họ quay vào trong tâm trí khi họ tập trung vào việc trao đổi tư tưởng, hình ảnh và cảm xúc.

Sau một hồi lâu im lặng, Glae­dr thu nhận những thông tin mới. Khi rồng vàng cân nhắc và nói:”ngươi quá tham vọng khi đặt mục tiêu là có thể giết được một tà thần mà không bị thương tổn. ngay cả những kị sĩ tài năng nhất và già dặn nhất cũng hải ngần ngại khi tấn công tà thần một mình. Ngươi đã sống sót sau khi tiêu diệt được hai tên trong số đó, hai đã là quá nhiều. Hãy tạ ơn rằng mình thật may mắn và đừng mơ tới điều đó. Cố gắng vượt qua một tà thần giống như thử bay cao hơn mặt trời vậy.”

Vâng, Er­agon đáp, nhưng kẻ thù của chúng ta mạnh như tà thần và có khi mạnh hơn nữa, và Gal­ba­torix có thể tạo ra nhiều tên nữa để cản bước tiến của chúng ta. Hắn dung chúng một cách bất cẩn, mà không nghĩ tới hậu quả chúng để lại cho vùng đất này.

Ebrithil, Arya nói, cậu ấy nói đúng. Kẻ thù của chúng ta qua sức nguy hiểm…như tiền bối đã biết—Nàng sử dụng âm điệu nhẹ nhàng—–và Er­agon chưa đạt tới trình độ cần thiết. Để chuẩn bị cho những điều đang chờ chúng ta phái trước, chàng cần phải điêu luyện hơn nữa. Tôi đã cố hết sức để dạy chàng, nhưng người thầy thực sự phải đến từ bên trong, không phải bên ngoài.

Những lời bảo vệ nó của nàng làm tim nó ấm lên.

Cũng như trước, Glae­dr chậm rãi trả lời. Er­agon vẫn chưa làm chủ được suy nghĩ của mình, như cậu ấy phải làm. Tất cả kĩ năng, tâm trí hay thể xác, đều không thể sử dụng riêng lẻ, nhưng trong hai thứ đấy, tâm trí quan trong hơn. Một người có thể chiến thắng một kiếm sĩ và một pháp sư chỉ bằng tâm trí. Tâm trí và thể xác của ngươi phải được thăng bằng, nhưng nếu phải chọn để tập luyện, ngươi nên chọn tâm trí. Arya…..Blod­hgarm….Yaela…các người đều biết điều ấy là đúng. Tại sao không ai trong số các ngươi hướng dẫn Er­agon tập luyện điều này?

Arya chuyển ánh mắt nhìn xuống đất, như một đứa trẻ vừa bị trách mắng, trong khi lớp lông trên vai Blod­hgarm gợn sóng và dựng đứng lên , ông bĩu môi, để lộ ra hàm răng nanh trắng.

Blod­hgarm là người cuối cùng dám đáp trả.Ông nói hoàn toàn bằng ngôn ngữ cổ, và là người đầu tiên làm vậy, Arya ở đây với trách nhiệm là một người đưa tin cho chúng tôi. Tôi và những người còn lại ở đây để bảo vệ cho Saphi­ra vảy sáng Er­agon Khắc tinh của tà thần, và điều đó thực sự đã tiêu tốn không ít thời gi­an và công sức. Chúng tôi đều cố giúp Er­agon, nhưng bổn phận chúng tôi không phải là huấn luyện một kị sĩ. Chúng tôi cũng không giả vờ là đã cố gắng làm điều đó khi mà một trong những người thầy thực sự vẫn còn sống và hiện diện….thậm chí cả khi vị sư phụ đó từ bỏ nghĩa vụ của mình.

Đám mây đen của cơn giận bao trùm trong tâm trí Glae­dr, tựa như những cơn sấm rạch ngang chân trời. Er­agon tách mình khỏi ý thức Glae­dr, cảnh giác của cơn thịnh nộ của con rồng. Glae­dr đã không còn

có khả năng thể chất làm tổn hại đến bất cứ ai, nhưng nó vẫn vô cùng nguy hiểm. Nếu nó không kiềm chế và tấn công mọi người với tâm trí của mình, không ai trong số họ có thể chịu đựng được sức ép ấy.

Lời lẽ khiếm nhã và vô cảm của Blod­hgarm gây sốc cho Er­agon—Nó chưa bao h thấy một thần tiên lại nói với một con rồng như thế—-nhưng sau khi suy ngẫm, Er­agon nhận ra rằng Blo­hdgarm phải làm thế để vực dậy Glae­dr và ngăn chặn rồng vàng tự gi­am mình trong đau khổ. Er­agon ngưỡng mộ sự can đảm của vị tiên nhân, nhưng liệu xúc phạm Glae­dr có phải là cách tốt nhất. Nhưng nó chắc chắn rằng đây không phải là cách an toàn nhất.

Khối mây bão cuồn cuộn, chớp lóe lên khi tư tưởng của Glae­dr nhảy từ người này sang người khác. Ngươi đang bước quá giới hạn đó, thần tiên, ông gầm lớn, bằng ngôn ngữ cổ. Ta hành động thế nào không cần ngươi quản. Ngươi thậm chí còn không hiểu nổi ta mất cái gì. Nếu không phải vì Er­agon và Saphi­ra và trách nhiệm của ta với họ, ta đã điên lâu rồi. Vì thế đừng buộc tội ta vì bàng quan thế sự, Blöd­hgarm,con trai Ildrid, trừ khi ngươi muốn thử sức mạnh của Con rồng Cuối cùng.

Blöd­hgarm nghiến răng mạnh hơn và rít lên. Tuy vậy Er­agon lại ngửi thấy sự hài lòng từ nét mặt tiên nhân. Nhưng Blöd­hgarm vẫn nói tiếp, Vậy đừng đổ lỗi cho chúng tôi vì không hoàn thành nhiệm vụ của ông, không phải của chúng tôi, thưa Rồng Tối Cổ. Toàn bộ thần tiên đều tiếc thương trước sự mất mát của ông, nhưng ông không thể mong chúng tôi chấp nhận ông tự gặm nhấm nỗi đau trong khi chúng tôi sống chết với kẻ thù nguy hiểm nhất trong lịch sử - cùng kẻ thù đã giết toàn bộ loài rồng và giết kị sĩ của ông.

Cơn giận dữ của Gleadr phun trào. Nó đen thẫm và kinh khủng, thổi tạt vào Er­agon với lực như thể quần áo bị xé vụn, như một con thuyền buồm trong cơn bão. Phía bên kia cánh đồng, những người lính làm rơi vũ khí và ôm đầu, nhăn mặt vì đau.

Tự gặm nhấm nỗi đau? Glae­dr nói gằn từng từ và mỗi từ được đánh vần như từ tận thế. Trong trí óc của con rồng, Er­agon cảm nhận cảm giác không hài lòng, nếu nó dám tiến sâu hơn, nó sẽ thấy nhiều nỗi đau và sự tiếc nuối.

RỒi Saphi­ra nói, chất giọng lanh lảnh như kim loại cắt đứt luồng cảm xúc khuấy đảo của Glae­dr. Sư phụ, cô bé nói, con rất lo cho người. Con rất mừng được biết người vẫn khỏe. Không ai trong chúng con sánh được với người, và chúng con cần người giúp. Không có người, chúng con không thể đánh bại Triều đình.

Gleadr gầm như sấm động nhưng ông không ngắt lời, không tỉnh bơ, hay mắng nhiếc cô nàng. Ngược lại, những lời cầu xin còn làm ông hài lòng, dù chỉ là chút ít. Sau cùng, nếu con rồng có một điểm yếu duy nhất thì đó là dễ bị tán tỉnh, và Saphi­ra nhận thức rõ điều đó.

Saphi­ra không dừng lại để Glae­dr trả lời, Vì người không còn sử dụng đôi cánh nữa, hãy cho con làm cánh của người. Bầu trời yên ả, trong xanh và con thích thú được bay lượn trên cao, cao hơn cả những con đại bàng. Sau một quãng thời gi­an quá dài nằm trong tim của tim, người phải để lại tất cả phía sau mà cảm nhận những luồng khí bên đưới người thêm một lần nữa.

Cơn bão đen bên trong Glae­dr đã tan nhưng còn lại chút gì đe dọa cho một trận giận dữ mới. Điều đó… sẽ rất thích.

Vậy thì chúng ta sẽ cùng bay với nhau. Nhưng, thưa Sư phụ?

Gì vậy, con gái?

Nhưng có một điều con muốn cầu xin người.

Vậy con nói đi.

Người giúp Er­agon luyện kiếm được chứ? Người giúp anh ấy đi mà? Anh ấy chưa có đủ kỹ năng cần có mà con không muốn mất Kỵ sĩ của mình. Saphi­ra giữ vẻ cao quý nhưng có chút cầu xin trong giọng nói của cô em khiến cổ họng Er­agon nghẹn lại.

Cơn bão tan đi, để lại đằng sau vùng trời xám ảm đạm khiến Er­agon thấy buồn thối ruột. Glae­dr dừng lại. NHững bóng dáng kỳ lạ, mờ ảo di chuyển từ từ ở bên ngoài – những người khổng lồ đá mà Er­agon không muốn lại gần chút nào.

Tốt thôi, cuối cùng Glae­dr cũng cất tiếng. Ta sẽ làm tất cả những gì có thể cho Hiệp sĩ, nhưng sau khi xong việc ở đây, cậu ta phải để ta dạy thứ ta cho là cần thiết đã.

Con đồng ý, Saphi­ra nói. Er­agon thấy Arya và các tiên nhân khác thả lòng như thể từ nãy giờ họ không dám thở.

Er­agon rút khỏi cuộc nói chuyện tư tưởng với những người khác trong chốc lát vì Tri­an­na và vài pháp sư Var­den khác liên lạc với nó, hỏi họ vừa cảm nhận được cơn xáo động tư tưởng và chuyện gì khiến những người lính và động vật trong doanh trại đau buồn. Tri­an­na thay mặt những người khác lên tiếng, Chúng ta bị tấn công phải không, thưa Khắc tinh của Tà thần? Thorn à? Hay Shruikan? Cô quá hoảng hốt khiến Er­agon chỉ muốn ném khiên kiếm mà chạy trốn.

Không, mọi chuyện đều ổn, nó nói đều đều. Sự tồn tại của Glae­dr vẫn là bí mật với hầu hết các Var­den, kể cả Tri­an­na và những pháp sư dưới quyền cô. Er­agon muốn giữ bí mật, để các gián điệp của Triều đình không hay biết. Khi gi­ao tiếp tư tưởng mà nói dối rất khó – vì nó khó lòng không nghĩ tới điều nó đang giấu giếm – vì thế Er­agon kết thúc cuộc trò chuyện nhanh. Các tiên nhân và tôi luyện tập phép thuật. Tôi sẽ giải thích sau, nhưng không phải lo lắng gì đâu.

Nó biết lời giải thích của nó không thuyết phục nhưng họ không dám yêu cầu nó giải thích kỹ hơn và đành tạm biết trước khi rời đi.

Arya chắc chắn thấy được sự thay đổi nên nàng đi tới bên cạnh và nhẹ nhàng hỏi, “Mọi việc ổn không?”

“Ổn,” Er­agon đáp lại bằng giọng tương tự. Nó gật đầu với những người lính đang nhặt vũ khí lên. “Tôi phải trả lời vài câu hỏi.”

“à. Chàng không nói ai…”

“Tất nhiên là không.”

Về vị trí ban nãy đi, Glaed­er trầm giọng nói, Er­agon và Arya tách ra về vị tri cách nhau 6m.

Biết rằng nó có thể là một sai lầm nhưng không thể kiềm chế bản thân mình, Er­agon hỏi: Sư phụ, người có thể dạy con hết những gì con cần biết trước khi tới Uru’baen không ạ? Thật sự là chúng con còn rất ít thời gi­an, con…..

Ta sẽ dạy trò ngay bây giờ, nếu ngươi lắng nghe.Glae­dr nói. Nhưng trò phải học một cách chăm chỉ hơn bao giờ hết.

Con đang lắng nghe, thưa sư phụ.Nhưng Er­agon không thể không tự hỏi một con rồng có thể biết gì về kiếm thuật. Glae­dr có thể học được rất nhiều từ Oromis, cũng như Saphi­ra học hỏi từ Er­agon, nhưng dù cả hai có chia sẻ kinh nghiệm cho lẫn nhau, Glae­dr vẫn chưa bao giờ cầm kiếm—Làm sao sư phụ có thể? Glae­dr dạy Er­agon đánh kiếm cũng giống như Er­agon dạy một con rồng bay trên những luồng khí trên ngọn núi vậy; Er­agon có thể làm được, nhưng chắc chắn không thể bằng Saphi­ra, kiến thức của nó là được truyền thụ lại, và không có sự áp dụng thực tế thì khó mà có thể truyền đạt lại tốt.

Er­agon giữ lại nhưng nghi ngờ đó trong thâm tâm, nhưng một số trong chúng lại vượt qua rào cản và đến tai Glae­dr, rồng vàng khục khục một cách thích thú—một thói quan từ trước khi mất cơ thể thật khó mà quên ngay được—và ông nói: Tất cả những trận đánh lớn đều giống nhau, Er­agon ạ, và tất cả các chiến binh vĩ đại cũng vậy. Có một điểm chung, vấn đề không phải là trò sử dụng một cây kiếm, móng vuốt, hay răng nanh, đuôi. Thực sự là, trò phải hòa hợp với vũ khí của mình. Bất cứ ai bỏ thời gi­an luyện tập sẽ đạt được kĩ thuật và trình độ nhất định. Nhưng để đạt được đỉnh cao, nó đòi hỏi phải có nghệ thuật. Nó đòi hỏi trí tưởng tượng, sự chu đáo, những phẩm chất chung của các chiến binh giỏi nhất, ngay cả khi, hình dạng của họ khác nhau.

Glae­dr im lặng một lúc, và nói: bây giờ, ta đã nói những gì trước đó với trò?

Er­agon lặp lại ngay tức khắc. Con phải học cách nhìn những gì con thấy. Và con đã thử, thưa sư phụ.

Nhưng trò vẫn chưa thấy. Nhìn Arya đi. Tại sao cô ta liên tục hạ gục trò hết lần này đến lần khác? Bởi vì cô ta thấu hiểu trò, Er­agon. Cô ta biết trò là ai và trò nghĩ thế nào. Điều đó cho cô ta đánh bại trò một cách dễ dàng. Tại sao Murtagh có thể đánh bại trò tại Cánh đồng cháy, mặc dù nó không nhanh nhẹn và khỏe như trò?

Bởi vì con đã mệt và……

Làm thế nào hắn để lại một vết thương trên hông trò trong khi trò chỉ làm hắn trầy má trong lần gi­ao chiến vừa qua. Ta sẽ nói trò biết, Er­agon. Không phải vì trò mệt còn hắn thì không. Không phải vậy, đó là bởi vì hắn hiểu trò, Er­agon, nhưng trò không biết gì về hắn. Murtagh biết nhiều hơn trò, do đó hắn chiếm thế thượng phong, cũng như Arya vậy

Glae­dr vẫn nói tiếp: nhìn cô ta, Er­agon, nhìn kỹ vào. Cô ta biết ngươi là ai, nhưng ngươi có thấy gì từ cô ta không? Những gì ngươi thấy có đủ để giúp ngươi đánh bại cô ta không?

Er­agon nhìn Arya và thấy có cái gì đó kết hợp giữa sự phòng thủ và quyết tâm, như thể nàng thách thức nó tìm ra được bí ẩn bên trong nàng, nhưng cũng lo sợ rằng nó sẽ làm được điều đó. Nỗi nghi ngờ trỗi lên trong Er­agon. Nó thực sự hiểu nàng như nó nghĩ hay đây chỉ là sự lừa dối bản thân?

Trò đã để cho cơn giận dữ lấn át bản thân, Glae­dr nhẹ nhàng nói. Giận dữ cũng tốt, nhưng nó không giúp trò lúc này. Con đường của một chiến binh là con đường của sự học hỏi. Nếu sự học hỏi đó dựa trên sự phẫn nộ và còn sử dụng cơn phẫn nộ của mình, thì trò sẽ không học hỏi được gì đâu. Đau đớn và thất vọng là những gì chờ đợi trò phía trước nếu ngươi làm vậy.

Thay vào đó, trò phải học cách bình tĩnh, ngay cả khi hàng trăm kẻ thù như bầy quạ đang lao vào gót chân ngươi. Thư giãn tâm trí, để nó phằng lặng như một hồ nước phản chiếu mọi thứ mà không bị tác động bởi bất kì thứ gì xung quanh. Sự hiểu biết sẽ đến với trò trong tâm thức đó, khi trò không còn lo nghĩ gì về thắng và bại, sự sống và cái chết.

trò không thể dự đoán hết mọi tình huống, và trò không thể đảm bảo rằng sẽ chiến thắng trước mọi đối thủ, nhưng với cái nhìn bao quát và không quá tập trung vô chi tiết nhỏ nào, trò có thể thích nghi với bất kì tình huống nào. Một chiến binh có thể thích nghi dễ dàng nhất với mọi điều bất ngờ nhất là chiến binh có thể sống sót dai nhất.

Nào, bây giờ trò hãy nhìn Arya, nhìn thấu vào cô ta, và hành động những gì trò cho là thích hợp. Khi gi­ao đấu, đừng để những suy nghĩ ảnh hưởng tới bản thân. Nghĩ mà không nghĩ, hành động bằng bản năng và không cần lí do. Đi đi, và thử xem.

Er­agon ngẫm lại một phút những gì nó biết về Arya: nàng thích và không thích thứ gì, thói quen và kiểu cách, những sự kiện quan trọng trong cuộc đời nàng, những thứ nàng sợ hãi và hi vọng, và quan trọng hơn là cách nàng đương đầu trong cuộc sống và chiến đấu. Sau khi xem xét, nó cố gắng rút ra nhận xét về tính cách của nàng. Điều này thực sự khó khăn, đặc biệt là khi phải nhìn nàng không như mọi khi- một ngươi phụ nữ xinh đẹp mà nó hằng ngưỡng mộ và mong mỏi mà là con người thực sự của cô, toàn bộ, đầy đủ và riêng biệt, theo phân tích của nó.

Nó đưa ra kết luận sau một thời gi­an ngắn, mặc dù lo lắng về kết luận của mình quá đơn giản và trẻ con. Nó bước tới trước, nâng kiếm và khiên lên.

Nó biết rằng Arya đang chờ đợi một thứ gì khác từ nó; nó bắt đầu trận đấu như hai lần trước: xoay một vòng kiếm và nhắm thẳng vào vai phải nàng, như muốn phá vỡ khiên đỡ của nàng và nhắm vào phần xương sườn không được bảo vệ. Dù không đánh lừa được nàng như nó đã buộc nàng phải đoán trước mỗi hành động của nó, chừng nào nó còn làm được vậy, lợi thế nghiêng về phía nó.

Một cục đá nhỏ vấp dưới chân phải của nó. Nó phải dồn sức nặng để giữ thăng bằng.

Bước di chuyển của nó chỉ hơi khựng lại, nhưng Arya đã phát hiện ra sự phất thường đó và xáp lại, thét lên.

Thanh kiếm của họ lướt qua, một nhát, hai nhát, Er­agon xoay lại và bất ngờ nhận ra rằng nhát chém tiếp theo Arya sẽ nhắm đầu mình—nó đâm vào ngực nàng, nhanh hết sức có thể, điểm ngay tại xương sườn mà nàng sẽ để hở nếu nhắm vô đầu nó

Trực giác của nó đã đúng nhưng tính toán sai.

Nó đâm quá nhanh, Arya chưa kịp vung kiếm và mũi thanh Bris­in­gr xanh thẫm lướt qua ngực nàng một cách vô hại.

Một giây sau đó, thế giới nghiêng ngả xung quanh Er­agon, mắt nó nháng lửa. Nó quỵ xuống một bên gối, chống hai tay xuống đất. Tai nó ong ong.

Những âm thanh u u dần giảm xuống, nó nghe Glae­dr nói, đừng di chuyển quá nhanh Er­agon. Cũng đừng di chuyển quá chậm. Di chuyển đúng thời điểm và cú đánh chuẩn xác, không quá nhanh cũng như quá chậm. Thời khắc là tất cả trong cuộc chiến. Trò phải chú ý đến động tác và nhịp điệu của đối thủ: điểm mạnh của họ, điểm yếu của họ, sự cứng nhắc và linh hoạt của họ. Cuốn lấy nhịp độ trận đấu theo ý của trò và ngắt quãng nó khi nó không theo ý mình, và con sẽ làm chủ được nhịp độ của trận đấu nếu ngươi nương theo nó. Trò phải thấu hiểu điều này. Thay đổi thói quen trong tâm trí và nghiền ngẫm nó sau….nào, thử lại lần nữa!

Nghĩ tới Arya, Er­agon xoay gót, lắc đầu để xóa đi mọi suy nghĩ, như hàng trăm lần trước, nó đứng thủ thế. Những vết đau nhức là nó cảm thấy mình như một ông già bị viêm khớp.

Arya hất mái tóc lên và cười với nó, để lộ hàm răng trắng xinh.

Cử chỉ này không làm nó bị ảnh hưởng. Nó tập trung vào cánh tay và không để bị lừa lần thứ hai.

Trước khi nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt Arya, nó vụt tới, hạ thấp Bris­in­gr và đưa khiên ra trước. Đúng như dự đoán, vị trí thanh kiếm đã thu hút Arya, một đòn phủ đầu: một nhát chém có thể nào gãy xương đòn nếu nó không né kịp

Er­agon hụ xuống đỡ đòn, làm nó trượt qua tấm khiêm, nó vung thanh Bris­in­gr lên và nhắm vào eo nàng. Nàng khóa đòn của nó và để nó văng ra, không khí trong phổi nó như bị tống hết ra ngoài.

Họ vờn nhau, không ngừng tìm điểm sơ hở của nhau. Không khí giữa hai người trở nên căng thẳng, họ di chuyển nhanh dần, gần như chim, nguồn năng lượng chảy trong họ dồi dào.

Sự căng thẳng bùng lên như một que thủy tinh bị bẻ đôi.

Nó đánh và nàng trả đòn, lưỡi kiếm cả hai di chuyển cùng tốc độ, gần ngư vô hình. Họ ăn miếng trả miếng, nó để mắt không ngừng tới nàng, nhưng nó cũng cố– như Glae­dr khuyên, quan sát nhịp điệu và chuyển động cơ thể nàng, trong khi nó cố nhớ nàng thực sự là thế nào, nàng hành động và phản ứng ra sao. Nó ham muốn giảnh chiến thắng, nó cảm thấy như sẽ nổ tung nếu không làm đc điều đó.

Và bất chấp mọi nỗ lực của nó, Arya lại làm nó thót mình với cú đâm thằng vô xương sườn.

Er­agon dừng lại và rủa thầm.

Tốt hơn rồi đấy, Glae­dr nói. Tốt hơn rồi, kĩ thuật nắm bắt thời điểm của trò đã gần như hoàn hảo.

Nhưng nó vẫn chưa hoàn hảo

Không, nó vẫn chưa. trò vẫn còn nôn nóng, và tâm trí của trò vẫn còn quá lộn xộn. Nhớ những gì cần nhớ , nhưng đừng để nó làm trò xao lãng khỏi những gì đang diễn ra. Tìm lại sự tĩnh tâm, và để những mối bận tâm về thế giới trôi qua và không để nó cuốn trò đi. Trò nên cảm nhận theo cái cách mà Oromis bắt trò phải lắng nghe ở trong rừng. Trò đã nắm bắt được hết mọi thứ xung quanh và không quá chú tâm vô một chi tiết nào. Đừng chỉ nhìn vào mắt Arya. Sự tập trung của trò quá hẹp, quá chi tiết

Nhưng Brom dạy con rằng…

Có rất nhiều cách để sử dụng đôi mắt. Brom có cách riêng của mình, nhưng nó quá bảo thủ, không thích hợp cho những trận chiến lớn. Hắn dành nhiều thời gi­an cho nhưng cược đấu một chọi một, hoặc trong những nhóm nhỏ, thói quen của hắn phù hợp với điều ấy. Nhìn bao quát thì tốt hơn là nhìn gần và để cho những biến cố trong hoàn cảnh làm ngươi bất ngờ, hiểu chứ?

Vâng, thưa sư phụ.

Nào, một lần nữa, và lần này, cho phép cơ thể thư giãn và mở rộng nhận thức ra.

Er­agon lại suy ngẫm những gì nó biết về Arya một lần nữa. Khi đã có kế sách, nó nhắm mắt lại, thở chậm, chìm sâu trong bản ngã. Nỗi sợ và lo âu dần rút ra khỏi người nó, để lại sau đó một sự trống rỗng sâu sắc, vượt qua cả những nhức nhối do vết thương mang lại và làm nó cảm thấy thanh thản lạ kì. Nó không còn bận tâm tới chiến thắng, cũng như nỗi lo sợ bị that bại. Cái gì tới sẽ tới, nó sẽ không làm những việc vô ích để chống lại định mệnh.

“Sẵn sàng chưa?” Arya hỏi khi nó mở mắt.

“Sẵn sàng.”

Họ đứng vô vị trí chuẩn bị, bất động, đợi người kia tấn công trước. Mặt trời nằm bên phải nó, nghĩa là nếu nó có thể khiến Arya đứng đối diện, anh sáng sẽ làm lóa mắt nàng. Nó đã thử trước đó, nhưng không thành công. Nhưng nó biết nó có thể làm được.

Nó biết Arya rất tự tin rằng có thể đánh bại nó. Nó chắc rằng nàng không coi nhẹ khả năng của nó. Tuy nhờ nắm quá rõ khả năng của nó, nàng đã chiến thắng rất nhiều lần. Những điều đó làm cho nàng nghĩ rằng sẽ đánh bại nó một cách dễ dàng, ngay cả khi, nàng hiểu nó rõ hơn nữa. Sự tự tin của nàng, cũng sẽ là điểm yếu của nàng.

Nàng nghĩ nàng sử dụng kiếm tốt hơn ta, nó nghĩ thầm. Có thể, nhưng ta có thể dung điểm này để chống lại nàng.

Nó rảo bước và mìm cười với Arya và Arya mỉm cười lại với nó. Vẻ mặt nàng thoáng chút ấn tương. Ngay sau đó, nàng lườm nó, như thể chuẩn bị giải quyết nó và hạ nó lăn quay ra mặt đất.

Nó lùi về phái bên phải, và để nàng đứng đúng hướng nó muốn.

Arya dừng lại cách nó vài thước, trông như một con thú hoang bị bắt . Nàng xoay thanh kiếm nửa vòng trước mặt trong khi nhìn chằm chằm vào nó. Nó nghi ngờ rằng việc có Glae­dr theo dõi càng làm cho cô quyết tâm chứng tỏ bản thân hơn.

Nàng làm nó sốc khi gầm một tiếng nho nhỏ, tựa như tiếng mèo. Giống như nụ cười trước đó, tiếng kêu của nàng là một thứ hiệu quả để làm nó xao lãng. Và điều đó có hiệu quả, nhưng chỉ một phần, nó đã đề phòng , dù lần này hơi khác trước.

Arya thu gọn khoảng cách giữa hai người chỉ với một cú nhảy và bắt đầu áp đảo nó bằng những nhát chém, nó dung khiên đỡ đòn. Nó để nàng tấn công mà không phản khán lại, như thể những cú đánh quá mạnh và nó không thể làm gì hơn việc phòng thủ. Với những tiếng kêu răng rắc từ tay và vai, nó lùi dần về phía bên phải, vấp váp và làm tăng ấn tượng rằng nó đang bị đẩy lùi. Nó vẫn bình tĩnh và giữ cảm giác trống rỗng.

Nó biết rằng thời cơ sẽ đến trước khi khi nó kịp nhận ra, và khi nó đến, nó phải hành đồng mà không cần suy nghĩ hay do dự , không cố gắng quá nhanh hay quá chậm, chỉ chớp lấy thời khắc đó ngay lập tức, hoàn hảo.

Thanh kiếm của Arya bổ xuống nó như một quầng sét, nó lách qua, xoay lưỡi kiếm trong khi mặt trời rọi phía sau lưng nó.

Lưỡi kiếm của Arya cắm phập xuống đất.

Arya xoay đầu lại, để giữ nó trong tầm nhìn, và sai lầm này đã làm nàng nhìn thẳng vào mắt trời. Nàng nháy mắt, và thấy nhiều chấm đen nhỏ.

Trong lúc cô đang bị lóa mắt, Er­agon đâm Bris­in­gr dưới cánh tay trí của cô, nhắm vô xương sườn. Nó có thể đâm vào gáy hoặc cổ nàng- nếu chiến đấu thực sự—nhưng nó không làm thế, với thanh kiếm cùn, một nhát chém như vậy có thể gây chết người.

Arya kêu lên khi bị chạm phải bởi thanh Bris­ing, nàng lùi lại nhiều bước. Nàng đứng yên, cánh tay ép bên cạnh nhăn trán do đau và nhìn chằm chằm vào nó với một biểu hiện kỳ lạ.

Xuất xắc! Glae­dr gầm lên. Lại một lần nữa!

Er­agon hài lòng; sau đó nó trở lại trạng thái cảnh giác.

Khi Arya bình tĩnh, nàng hạ cánh tay xuống. Er­agon và nàng cẩn thận vờn nhau cho tới khi ánh mặt trời không còn chiếu rọi, họ mới vào cuộc. Er­agon nhanh chóng để ý thấy Arya e dè với nó hơn trước. Bình thường nó sẽ hãi lòng và tấn công mãnh liệt hơn, nhưng lần này nó kiềm chế lại vì nó biết nàng hành động đều có mục đích. Nếu nó nuốt mồi, nó sẽ nhanh chóng thất bại dưới tay nàng như thường vẫn thế.

Cuộc đấu chỉ kéo dài chó vài giây nhưng nó cũng đủ cho họ gi­ao nhau vài đường kiếm mãnh liệt. Khiên nứt, những mảng cỏ bay lìa khỏi mặt đất, kiếm va chạm kiếm, cơ thể họ xoắn vặn trong không khí như hai cột khói.

Cuối cùng thì kết quả vẫn như cũ. Er­agon vượt qua hàng phòng thủ của Arya nhờ lừa đòn khéo. Thế là nó chém ngang ngực Arya, từ vai tới xương ức.

Arya loạng choạng khuỵu gối. Nàng cau có và thở nặng nhọc qua lỗ mũi đang phập phồng. Má nàng trắng bệch tới khác thường, trừ vết xưng tấy đỏ sẫm ở hai bên.

Lại! Glae­dr ra lệnh.

Er­agon và Arya làm theo. Với hai lần chiến thắng, Er­agon không còn cẩn trọng nữa nhưng Arya thì không.

Trận tiếp theo không phân thắng bại; Arya qua được hết các mánh của Er­agon và nó cũng thế. Họ chiến đấu mãi cho tới khi cả hai đều quá mệt mỏi không còn đủ sức tiếp tục. Họ dựa vào thanh kiếm vì giờ chúng quá nặng khiến họ không thể nhấc lên nổi. Họ thở dốc, mồ hôi đầm đìa trên mặt.

Lại, Glae­dr trầm giọng nói.

Er­agon loạng choạng nhổ thanh Bris­in­gr khỏi mặt đất. Nó càng kiệt sức, đầu óc nó càng rối loạn và càng không thể tảng lờ cơ thể đang biểu tình của mình. Ngoài ra, càng lúc nó càng không thể duy trì tinh thần minh mẫn và khó tránh cơn tức giận thường làm quấy nhiễu nó khi nó muốn nghỉ ngơi. Nó đoán ông Glae­dr đang cố dạy nó đương đầu với tình thế này.

Vai nó nóng lên khiến nó khó lòng giơ khiên và kiếm. Thay vào đó, nó giữa chúng ngang hồng và mong sao khi cần nó có thể nhanh chóng nâng chúng lên. Arya cũng vậy.

Họ vẫn tấn công nhau theo bài cũ.

Er­agon đã sức cùng lực kiệt nhưng nó không chịu bỏ cuộc. Nó không biết vì sao nhưng đối với nó cuộc gi­ao đấu của họ không chỉ là màn kiểm tra tay chân; mà thành bài kiểm tra nó là ai; tính cách của nó; sức mạnh của nó và sự kiên cường của nó tới mức nào. Không phải Glae­dr đang kiểm tra nó mà là Arya. Dường như nàng muốn thứ gì từ nó, dường như nàng đang muốn nó chứng tỏ một điều gì… nó không biết nhưng nó quyết tâm cho nàng thấy nó có thể. Nếu nàng muốn gi­ao đấu bao lâu, nó sẽ chơi tới cùng, dù nó sẽ đau đớn thế nào.

Mồ hôi nhỏ vào mắt trái nó. Nó chớp mắt và Arya hét lớn và lao tới.

Một lần nữa họ quấn lấy nhau trong điệu khiêu vũ chết chóc, một lần nữa họ chiến đấu tới sống còn. Mệt mỏi làm họ vụng về nhưng họ vẫn hòa điệu với nhau không cho ai giành phần thắng.

Cuối cùng, họ đối diện với nhau, khóa kiếm vào nhau, đẩy nhau bằng chút sức lực cuối cùng.

Rồi, khi họ đứng đó, đấu qua lại không phân thắng bại, Er­agon mạnh mẽ, trầm giọng nói, “Ta…đã…thấy…nàng.”

Một tia sáng lóe lên trong mắt Arya rồi biến mất rất nhanh.

25. TỪ TRÁI TIM TỚI TRÁI TIM (er­agon216 dịch)

Glae­dr để hai người đánh thêm hai hiệp nữa. Càng về cuối thì hiệp đấu lại ngắn hơn trước, và kết quả thì thường là hòa, điều này không làm hài long rồng vàng như Er­agon và Arya.

Glae­dr muốn hai đứa nó đánh tiếp để phân thắng bại, nhưng kết thúc buổi tập, cả hai lả đi và nằm lăn ra nền đất, bênh cạnh nhau, hớp lấy từng ngụm không khí, và Glae­dr phair thừa nhận rằng sẽ phản tác dụng nếu bắt hai đứa nó tập tiếp.

Khi cả hai đủ sức đứng dậy, Glae­dr yêu cầu hai đứa về lều của Er­agon.

Đầu tiên, với sự sợ giúp của Saphi­ra, tụi nó chữa các vết thương bằng phép thuật. Sau đó tụi nó cầm 2 tấm khiên vỡ đưa cho thợ rèn chính của Var­den, Fredric, và nhận lấy hai tấm mới thay thế, không quên cho một bài giảng dạy về việc sử dụng vũ khí của hai đứa nó.

Khi quay lại lều, nó thấy Nas­sua­da đang đợi tụi nó, với cận vệ đi kèm. “Chỉ là vấn đề thời gi­an” cô mỉa mai “trước khi hai người cắt nhau ra từng mảnh, chúng ta cần nói chuyện”. Cô ngưng nói, cúi đầu bước vô lều

Blod­hgarm và các pháp sư thần tiên khác, đứng thành vòng tròn bao quanh lều, Er­agon có thể thấy điều này làm các cận vệ của Nas­sua­da không thoải mái.

Er­agon và Arya theo Nas­sua­da vô lều, Saphi­ra làm họ ngạc nhiên bằng cách thò đầu qua cửa lều và làm căn phòng tràn ngập mùi khói và thịt.

Sự xuất hiện bất ngờ của Saphi­ra làm Nas­sua­da giật lùi lại, nhưng cô nhanh chóng lấy lại vẻ bình tĩnh. Nhìn vào Er­agon, cô hỏi:” có phải tôi đã cảm nhận được tâm trí của Glae­dr đúng không?”

Nó đảo mắt nhìn ra ngoài lều, hy vọng rằng các cận vệ đứng đủ xa để nghe thấy, và gật đầu, “đúng thế”

“Ôi, tôi biết mà” cô kêu lên, vẻ hài lòng. Cô ngập ngừng:” tôi có thể nói chuyện với ông ấy được không? Điều đó có được phép hay không, hay ông ấy chỉ nói chuyện với kị sĩ và thần tiên?”

Tôi sẽ nói chuyện với cô, Nas­sua­da, con gái của Aji­had, Glae­dr nói, giọng nói của ông vang trong đầu họ. Hỏi tôi những gì cô thắc mắc, và để chúng tôi tiếp tục công việc; có nhiều thứ cần phải hoàn thành để chuẩn bị cho Er­agon đối mặt với những thách thức.

Er­agon chưa bao giờ trông thấy Nas­sua­da sợ vậy, cô hỏi:” ông ở đâu?” Cô thì thầm, và đan tay vào nhau.

Nó chỉ vào góc giường.

Nas­sua­da đảo mắt nhìn, và gật đầu, cô ấy đứng dậy, kính cẩn chào Glae­dr. Cuộc gi­ao tiếp có vẻ thoải mái hơn, trong suốt buổi nói chuyện, Nas­sua­da hỏi thăm sức khỏe Glae­dr và Var­den có thể làm được gì cho ông không. Ngau câu hỏi đầu tiên của cô đã làm Er­agon lo lắng—-Glae­dr đã lịch sự trả lời rằng ông ấy vẫn khỏe, cảm ơn, và vấn đề thứ hai, ông không cần gì từ Var­den, mặc dù ông dánh giá cao tấm lòng của cô. Tôi không cần ăn, ông nói tôi không cần uống, cũng như không cần ngủ, như cô hiểu. Điều duy nhất làm tôi hài lòng, điều tôi ham muốn nhất, là làm thế nào để mang lại sự thất bại cho Gal­ba­torix

“Vâng” Nas­sua­da nói, “tôi hiểu, tôi cũng có chung một mong muốn.”

Sau đó cô hỏi Glae­dr có cách nào để Var­den chiếm Dras Leona mà tổn thất ít nhất về nhân mạng và vật chất không, rồng vàng đáp, tôi chưa có giải pháp nào khả thi cả, tôi sẽ tiếp tục suy nghĩ về nó, nhưng bây giờ, tôi chưa thấy con đường nào cho Var­den. Nếu chỉ có Murtagh và Thorn, tôi có thể dễ dàng xâm chiếm trí thức chúng. Tuy nhiên, Gal­ba­torix đã đưa chúng quá nhiều El­dunari. Kể cả có sự trợ giúp của Er­agon, Saphi­ra, và các thần tiên, khả năng chiến thắng vẫn không phải là điều chắc chắn.

Thất vọng, Nas­sua­da lặng người đi trong chốc lát, cô xiết chặt tấm váy cảm ơn Glae­dr đã tiếp chuyện. Cô cuis đầu chào tạm biệt, bước vòng qua Saphi­ra một cách cẩn thận, tránh đụng vô cô em rồng.

Er­agon ngồi tựa lên giường thư giãn, Arya thì ngồi trên một gốc cây đã được đẽo gọt. Nó chùi tay trên đầu gối, tay nó rít ráy, nó mời Arya uống một ít nước, nàng nhận nó với lòng biết ơn. Nó nuốt khan một vài ngụm nước. Trận đấu tập làm nó cảm thấy đói cồn cào. Nước chỉ làm dịu đi phần nào, nó mong sao Glae­dr không giữ nó lâu hơn nữa. mặt trời đã lặn và nó muốn một bữa ăn nóng từ bếp Var­den trước khi họ tắt bếp. Nếu không, nó sẽ lại phải gặm bánh mì cũ, một dải thịt khô, pho mát cừu mốc, nếu may mắn có thể nó sẽ có triển vọng được them một hai củ hành tây nữa.

Sau khi giải lao một chút, Glae­dr bắt đầu nói về các kĩ năng khi quyết đấu bằng tâm trí, hầu hết là những điều nó đã biết, nhưng khi rồng vàng bắt nó làm điều gì, nó im lặng làm theo và không phàn nàn gì cả.

Họ nhanh chóng bỏ qua phần lí thuyết để bắt đầu thực hành. Glae­dr bắt đầu bằng cách thử mức độ phòng thù của Er­agon, dần dần tăng thêm sức mạnh, cả hai bắt đầu tấn công để giành quyền kiểm soát lẫn nhau, dù trong phút chốc, để đọc được suy nghĩ người kia.

Trong lúc tập luyện, Er­agon nằm im, mắt nhắm ghiền, tập trung tất cả năng lượng vô trận bão trong tậm tưởng giữa nó và Glae­dr. Trận đấu tập buổi chiều đã làm nó mệt nhoài, mụ mị, trong khi Glae­dr vẫn sung sức, chưa tính tới việc ông có quyền năng thực sự mạnh mẽ. Thực sự khó khăn để Er­agon có thể làm gì khác hơn là phòng thủ trước sự tấm công của Glae­dr. Nhưng nó biết rằng trong một trận đấu thực sự, Glae­dr vẫn sẽ là người chiến thắng

Sau hai cuộc đọ sức, Glae­dr rút lui—rất nhẹ nhàng, và làm khán giả, trong khi Arya thay thế làm đối thủ của Er­agon. Nàng cũng mệt như Er­agon, nhưng nó nhanh chóng nhận ra rằng, khi bước vô một trận đấu trong tâm trí, nàng vẫn hơn nó một bật, nàng đã gần như giết nó, kể cả khi bị đánh thuốc độc từ hồi ở Gil’ead. Sự suy nghĩ của Glae­dr tuy tập trung và kỉ luật, nhưng thậm chí ông vẫn không thể xuyên qua hang phòng ngự của nàng.

Khả năng tự chủ là một đặc tính mà Er­agon nhận thấy khi sống chung với thần tiên. Nhất trong số đó là Oromis, người mà Er­agon thấy là, dường như không một điều gì nhỏ nhặt nhất có thể làm ông bận lòng. Kiềm chế là một đức tính bẩm sinh của nòi giống họ, là kết quả tự nhiên của một nền giáo dục nghiêm ngặt, và sử dụng ngôn ngữ cổ. Nói và suy nghĩ bằng thứ ngôn ngữ mà không thể nói dối- và mỗi từ ngữ chứa đựng đầy ma thuật bên trong. Sự bất cần trong nói và suy nghĩ sẽ gây ra những hậu quả khôn lường. Theo lẽ đó, thân tiên trở nên tự chủ hơn so với các chủng loài khác.

Nó và Arya vật lộn trong tâm trí vài phút, nó cố gắng thoát khỏi sự kiềm cặp tư tưởng của nàng, còn nàng thì cố với theo để áp đặt suy nghĩ lên nó. Nàng bắt được tư tưởng của nó nhiều lần, nhưng nó luôn thoát kịp sau một hai giây, nó biết, nếu nàng muốn gây tổn hại nó, thì nó không có cơ hội để trốn thoát.

Và mỗi khi tâm trí nó và nàng chạm vào nhau, Er­agon lạ cảm nhận thứ âm điệu hoang dã đầy mê hoặc từ sâu thẳm bên trong Arya. Chúng cuốn hút nó ra khỏi cơ thể mình và đưa nó vào sâu trong mạng lưới của những gi­ai điệu kì lạ, thánh thót mà không thể tìm ra trên cõi đời này. Nó cảm thấy hạnh phúc khi bị bỏ bùa bằng âm nhạc, quên cả việc chống chọi lại những đòn tấn công của Arya, như một con người bất chấp và bị mê hoặc trong tâm trí của thần tiên. Nó phải thoát ra. Nó là một kị sĩ. Nó khác biệt. Đó là mối nguy mà nó không thể chấp nhận, chừng nào nó còn tỉnh táo. Nó đã nghe rằng thâm nhập vào tâm trí Blod­hgarm đã làm cho Gar­ven, cận vệ của Nas­sua­da trở nên mơ mộng ngớ ngẩn

Vì vậy, nó chống lại sự cám dỗ, một cách khó khăn

Saphi­ra và Glae­dr tham dự vào trận chiến, khi thì đối đầu, khi thì hỗ trợ nó, rồng già nói, ngươi cũng phải luyện kĩ năng như Er­agon, vảy sáng ạ. Việc có Saphi­ra tham chiến đã làm thay đổi cục diện trận đấu. Cùng cô em rồng, nó đã có thể chống lại được Arya, dù không dễ dàng gì. Sự kết hợp còn cho phép nó chế phục Arya hai lần. Khi Saphi­ra lien kết với Arya, cả hai làm Er­agon từ bỏ mọi nỗ lực tấn công, thay vào đó, nó thu hẹp tâm trí, như một con thú bị thương, chờ từng đợt tấn công của cả hai qua đi.

Cuối cùng, Glae­dr chia hai cặp—Ông và Arya, Er­agon và Saphi­ra và họ đấu đôi, họ giả định một trận đấu thực sự giữa hai cặp kị sĩ và rồng. Sau vài phút vất vả, chúng đã ăn ý hơn, nhưng kết trận, trước sức mạnh và kinh nghiệm của Gleadr, và sự kết hợp ăn ý với trình độ điêu luyện của Arya đã vượt qua Er­agon và Saphi­ra, chúng không có một cơ hội nào để đương đầu lại.

Sau đó, nó thấy vẻ bất mãn của Glae­dr. Bối rối, nó nói, Chúng con sẽ làm tốt hơn vào ngày mai, sư phụ

Tâm trạng Glae­dr tối tăm hơn nữa. Trông ông cũng có vẻ mệt mỏi cho luyện tập. Các con đã làm tốt, hậu bối. Ta không thể yêu cầu ở con nhiều hơn như những đệ tự của ta được đào tạo tại Vro­en­gard trước đây. Thật sự là bất khả thi khi bắt các con học những gì cần học trong vài ngày, vài tuần. Thời gi­an trôi nhanh như nước trôi qua kẽ răng chúng ta, và tất cả sẽ qua đi. Phải mất nhiều năm để trở thành bậc thầy trong nghê thuật chiến đấu trong tâm trí: nhiều thế kỉ, nhiều thập kỉ, và thậm chí sau đó, vẫn còn nhiều điều để tìm hiểu, khám phá về bản thân, về kẻ thù, về nền tảng của thế giới. Ông ấy gầm lên, rồi im lặng

Vậy chúng ta sẽ học những gì có thể và đối mặt với trận chiến. Er­agon nói. Gal­ba­torix có thể có cả hàng trăm năm để tôi luyện tâm trí, những cũng đà hàng trăm năm hắn không được những bậc tiền bối như người chỉ dạy. Hắn sẽ quên thứ gì đó. Với sự giúp đỡ của người, chúng con sẽ đánh bại được hắn.

Glae­dr khục khục. Miệng lưỡi ngươi ngày càng dẻo hơn đấy, Er­agon khắc tinh của Tà thần ạ. Nói thế, nhưng giọng rồng vàng có vẻ rất hài lòng. Ông nhắc bọn nó ăn uống và nghỉ ngơi, sau đó ông rút lui khỏi tâm trí bọn nó và không nói gì thêm

Er­agon biết rằng ông vẫn đang dõi theo tụi nó, nhưng nó không bắt gặp tư tưởng của ông nữa. Một cảm giác trống vắng khẽ lướt qua.

Cái lạnh lùa qua tay chân nó, nó rùng mình.

Nó, Saphi­ra và Arya ngồi lặng thinh trong góc tối của lều, không nói năng gì. Sau đó, để tỉnh táo, nó nói:” ông ấy có vẻ khá hơn” giọng nó khàn khàn, nó quay mình và tìm bình đựng nước.

“thật là tốt cho ông ấy” Arya nói “ Chàng thực sự đã giúp ông ấy nhiều. Nếu không có mục đích sống….nỗi buồn đã có thể giết chết ông. Việc ông còn sống sót quả thực….may mắn. Tôi rất cảm phục ông. Có rất ít người, thần tiên, hay rồng có thể gượng qua nỗi đau như vậy.

“Brom đã làm được”

“Ông ấy quả thực rất kiên cường”

Nếu chúng ta tiêu diệt được Gal­ba­torix và Shruikan, Công nương nghĩ Glae­dr sẽ làm gì? Saphi­ra hỏi. Ông ấy sẽ tiếp tục hay…dừng lại.

Mắt Arya phản chiếu ánh sáng lấp loáng khi cô quay lại đối diện Er­agon và Saphi­ra. Chỉ có thời gi­an mới trả lời được, tôi khi vọng không, nhưng nếu chúng ta vượt qua Uru’baen, có lẽ ông sẽ cảm thấy rằng ông không thể sống tiếp, mà không có Oromis.

“Chúng ta sẽ giúp ông vượt qua”

Em đồng ý.

“Chúng ta sẽ không thể ngăn cản nếu ông quyết định sẽ tan vào hư không” Giọng Arya nghiêm khắc. Quyết định là do ông, chỉ mình ông thôi.

“Chúng ta có thể động viên và cho ông thấy rằng cuộc sống vẫn còn có ý nghĩa”

Nàng im lặng một lúc, khuôn mặt nghiêm lại;” tôi cũng không muốn ông ấy chết. Không một thần tiên nào muốn. Tuy nhiên, nếu tiếp tục cuộc sống làm ông đau khổ, thì tốt hơn là để ông ấy được giải thoát.”

Cả Er­agon và Saphi­ra không ai đáp lại.

Cả ba lại tiếp tục bàn luận những chuyện xảy ra gần đây trong một lúc. Sau đó Saphi­ra rút đầu ra khỏi lều, nằm ở bãi cỏ bên cạnh. Em cảm thấy mình như một con cáo đang đút đầu vào cái hang thỏ vậy. Cô nàng phàn nàn. Nó làm da em ngứa ngáy, em sẽ không thể phát hiện nếu có ai lén leo lên người em.

Er­agon nghĩ rằng Arya sẽ rời khỏi lều ngay, nhưng ngạc nhiên, nàng vẫn ngồi lại, và tiếp tục nói chuyện với nó. Cơn đói của nó dai dẳng suốt buổi tập đấu tinh thần với nàng, Saphi­ra và Glae­dr. Trong trường hợp này, nó sẵn sàng đánh đổi một bữa ăn nóng sốt để hầu chuyện làm vui lòng nàng.

Màn đêm bao quanh hai người, và trại yên tĩnh hơn trong khi hai người nói chuyện hết chủ đề này tới chủ đề khác. Nó cảm thấy choáng do kiệt sức và hồi hộp—như thể đã uống quá nhiều rượu—-nó thấy Arya bình dị hơn thường ngày. Cả hai nói về nhiều thứ: Glae­dr và trận đấu của họ, bao vây Dras Leona và sẽ làm những gì; và những việc ít quan trọng hơn, như là những con cò Arya thấy ở góc bờ hồ, cái vảy ở mũi Saphi­ra bị mất, thời tiết thay đổi và dần lạnh hơn. Rồi cuối cùng họ lại trở về chủ đề luôn hiện hữu trong đầu họ, Gal­ba­torix và cái gì đang chờ họ tại Uru’baen.

Trong khi họ đang suy đoán, rất nhiều lần, những cái bẫy ma thuật nào Gal­ba­torix đang cài để bẫy họ và cách nào tốt nhất để vượt qua, Er­agon nghĩ về câu hỏi của Saphi­ra về Glae­dr và nói: “Arya?”

“Sao” Cô đáp, giọng dịu dàng.

“Nàng sẽ làm gì sau hi kết thúc chuyện này?” nếu như chúng ta vẫn còn sống

“Chàng sẽ làm gì?”

Nó nhịp nhịp ngón tay vào thanh Bris­in­gr và cân nhắc câu trả lời: “tôi không biết, chưa bao giờ tôi để tâm trí vượt quá Uru’baen…..Có lẽ tùy vào việc Saphi­ra muốn gì, có lẽ tôi và Saphi­ra sẽ trở lại thung lũng Palan­car. Tôi có thể xây một ngôi nhà lớn dưới chân một trong những ngọn núi. Có thể chúng tôi sẽ ít ở đấy, nhưng ít ra chúng tôi sẽ có nhà để về sau khi bay khắp đất nước Ala­ge­sia và các nơi khác” Nó cười mỉm “ Tôi chắ rằng sẽ có nhiều thứ làm chúng tôi bận rộn, ngay cả khi Gal­ba­torix chết….Nhưng nàng vẫn chưa trả lời ta, nàng sẽ làm gì khi chúng ta thắng, chắc hẳn nàng có nhiều dự định. Nàng đã suy nghĩ về nó nhiều hơn ta.

Arya gác một chân lên gốc cây, vòng hai tay ôm lấy chân, và tựa cằm lên đầu gối. Dưới ánh sáng mờ ảo, khuôn mặt nàng nổi lên giữa phông màn tối xung quanh.

“tôi đã có thời gi­an sống giữa người và người lùn nhiều hơn giữa các al­fakin” nàng nói, sử dụng tên gọi thần tiên trong ngôn ngữ cổ. “tôi đã lớn lên ở đó, nhưng tôi không muốn trở lại sống ở Elleme’ra. Quá ít sự việc diễn ra ở đó, hàng thế kỉ trôi qua trong khi bạn ngồi đó, ngắm và chiêm nghiệm các vì sao. Không, tôi sẽ tiếp tục phục vụ mẹ tôi như một sứ giả. Lí dó đã khiến tôi rời khỏi Welden­var­den bởi vì tôi muốn giúp thế giới này cân bằng. Như chàng nói, sẽ còn nhiều thứ cần phải làm sau khi tiêu diệt được Gal­ba­torix, nhiều thứ cần được đưa vào quỹ đạo, tôi muốn là một phần trong đó.”

“Ừm” đó không phải là điều nó hy vọng nghe nàng nói, nhưng ít ra điều này làm nó vẫn còn có cớ để liên lạc với nàng sau này, sau khi vượt qua Uru’baen, nó vẫn sẽ được gặp nàng, như bây giờ.

Nếu Arya nhận ra vẻ bất mãn của nó, nàng cũng sẽ tỏ vẻ gì.

Hai đứa nói chuyện một lúc nữa, rồi nàng cáo lui và duyên dáng quay đi.

Nàng bước đi qua nó, nó với theo, như thể muốn giữ nàng lại, rồi rụt tay lại.”Đợi đã” nó nói yếu ớt.Không chắc hy vọng gì, nhưng vẫn hy vọng. Tim nó đập mạnh, tai nó lùng bùng, má đỏ lựng.

Arya dừng bước trước cửa lều, không quay lại:”ngủ ngon,Er­agon” nàng nói. Rồi bước qua cửa lều, biến mất trong màn đêm, để nó lại một mình trong bóng tối.

26.

PHÁT HIỆN

Đối với những Var­den thời gi­an có thể trôi chậm nhưng đối với Er­agon ba ngày trôi qua như tên bắn. Thế cân bằng vẫn duy trì trên chiến trường Dras – Leona dù hiện tại Thorn đã thay đổi chỗ nằm yêu thích từ trên cổng thành trước sang khu thành lũy cách đó vài trăm mét về phía bên phải. Sau nhiều cuộc tranh cãi – và sau khi thảo luận kỹ lưỡng với Saphi­ra – Na­sua­da và cố vấn của cô đã kết luận rằng Thorn chuyển chỗ chỉ vì nó thích thế; khu thành lũy bằng phẳng hơn và rộng rãi hơn. Ngoài ra, cục diện chiến trường chẳng có gì thay đổi.

Trong lúc đó, Er­agon dành buổi sáng và buổi tối mỗi ngày học tập cùng Glae­dr còn buổi chiều để luyện kiếm cùng Arya và vài tiên nhân khác. Cuộc đấu kiếm với các tiên nhân không dài và mệt mỏi như với Arya – nó chẳng tội gì phải tự mình làm khổ mình – nhưng những buổi học cùng Glae­dr căng thẳng kinh khủng. Con rồng già không bao giờ từ bỏ chuyện nâng cao kỹ năng và tri thức cho Er­agon và ông không cho phép nó phạm sai lầm hay tỏ ra mệt mỏi.

Er­agon vui mừng vì cuối cùng nó cũng đấu ngang cơ với các tiên nhan. Nhưng chỉ cần nó lơi là một giây thôi là kiếm sẽ gí sát xườn nó hoặc kề cổ nó.

Nếu trong hoàn cảnh bình thường những cố gắng học hành của nó sẽ được coi là tiến bộ vượt bậc, nhưng trong điều kiện hiện tại, cả nó và Glae­dr đều thấy chưa hài lòng.

Vào ngày thứ hai, trong tiết học sáng với Glae­dr, Er­agon nói, Thưa thầy, hồi con mới gia nhập quân Var­den ở Far­then Dûr, cặp Song sinh đã thử khả năng của con – họ kiểm tra khả năng ngôn ngữ cổ và phép thuật.

Con đã nói với Oromis rồi. Sao giờ con lại nhắc lại?

Vì tự nhiên con nghĩ… cặp sinh đôi yêu cầu con triệu hồi hình dạng thực của chiếc nhẫn bạc. Lúc đó con không biết cách. Arya sau đó đã giải thích cho con: bằng cách nào con có thể dùng ngôn ngữ cổ gọi lên hình dáng thật của bất cứ tạo vật gì. Nhưng thầy Oromis chưa bao giờ dạy con và con muốn biết…vì sao ạ?

Glae­dr dường như đang thở dài. Triệu hồi hình dáng thực là một dạng phép thuật khó. Để làm được, con buộc phải hiểu được vật đó – con phải làm thế để đoán được tên thật của một người hay một vật. Hơn nữa con cần thực hành nhiều. Và chuyện đó cũng khá nguy hiểm. Rất nguy hiểm. Câu thần chú đó không tạo nên một quá trình mà con tùy ý muốn kết thúc lúc nào thì kết thúc. Nếu con không gọi thành công hình dáng thật của vật đó…con sẽ chết. Oromis không muốn con gặp nguy hiểm và con cũng chưa học đủ để bàn luận tới chủ đề đó.

Er­agon rùng mình khi nhớ lại Arya đã tức giận thế nào vì cặp Song sinh bắt nó triệu hồi hình dáng thật của chiếc nhẫn. Sau đó nó nói, Giờ con muốn thử.

Er­agon cảm thấy toàn bộ tâm trí Glae­dr đều dồn vào nó, Vì sao?

Con muốn biết giờ tầm hiểu biết của con tới đâu, dù chỉ đối với một vấn đề nhỏ

Ta hỏi con một lần nữa: Vì sao?

Er­agon không thể giải thích bằng từ ngữ, thế là nó phóng những ý nghĩ và cảm giác của mình về phía Glae­dr. Khi nó đã xong, Glae­dr im lặng trong chốc lát để hiểu được luồng tư tưởng. Cuối cùng rồng vàng thủng thẳng nói, Ta hiểu con cho là nếu con làm được điều này mà còn sống, con có khả năng đánh bại Gal­ba­torix có đúng không?

Vâng, Er­agon nhẹ nhõm trả lời. Nó không thể giải thích lý do của mình rõ ràng như ông rồng nhưng quả đúng là như vậy.

Vậy là con quyết thử?

Vâng thưa thầy.

Con có thể chết đó, Glae­dr cảnh báo.

Con biết.

Er­agon! Saphi­ra hét lên, ý nghĩ của cô bé nhạt nhòa trong tư tưởng của nó. Cô nàng đang bay trên doanh trại quan sát những nguy hiểm tiềm ẩn khi nó đang học cùng Glae­dr. Quá nguy hiểm. Em không đồng ý.

Anh phải làm em ạ, nó bình tĩnh trả lời.

Glae­dr nói với Saphi­ra cũng như Er­agon, Nếu cậu ta đã muốn, tốt nhất hãy để cậu ấy thử khi ta có thể quan sát được. Nếu cậu ta thất bại, có thể ta sẽ giúp cho cậu ta thêm kiến thức và cứu cậu ta.

Saphi­ra rống lên – sự giận dữ tràn ngập trong tư tưởng Er­agon – và sau đó, từ ngoài lều, Er­agon nghe thấy có một cơn cuồng phong cực lớn và những tiếng hét thất thanh của người và tiên khi cô nàng hạ cánh. Cô em nó hạ cánh cực mạnh khiến lều trại và mọi thứ trên đó rung chuyển.

Vài giây sau, cô bé chui đầu vào lều và lườm Er­agon. Cô nàng thở hổn hển và hơi thở khiến tóc nó bay ngược và nước mắt nó nóng lên. Anh đúng là đồ đầu gạch, y sì Kull vậy, cô em nó nói.

Em cũng chẳng kém.

Môi cô bé cong lên điệu bộ gầm ghè. Sao chúng ta phải đợi? Nếu anh phải làm thì chúng ta cùng làm.

Trò muốn triệu hồi gì? Glae­dr hỏi. Tốt nhất nên chọn thứ trò quen thuộc hàng ngày.

Er­agon nhìn chung quanh sau đó nhìn chiếc nhẫn đá sap­phire đang đeo trên tay phải. Aren… Hó hiếm khi tháo nhẫn ra từ hồi Ajhad đưa cho nó. Đó là kỷ vật của ông Brom. Nó đã trở thành một phần thân thể nó, như tay như chân nó. Nó đã nhìn nó hàng tiếng đồng hồ, nó nhớ rõ từng đường nét, từng nét chạm khắc và nhắm mắt nó cũng tưởng tượng ra nó. Nhưng nó không biết nhiều chuyện về chiếc nhẫn – nó đã trải qua tay bao chủ, thần tiên tạo ra nó thế nào, và đặc biệt trên nhẫn đó ếm và không ếm bùa phép gì.

Không… không phải Aren

Sau đó nó đưa mắt nhìn thanh Bris­in­gr đang dựng cạnh võng. “Bris­in­gr” nó lẩm bẩm.

Bựt thanh kiếm nhích lên khỏi vỏ vài cen­timet như thể có ai đẩy nó lên và một ngọn lửa nhỏ xuất hiện trên đầu vỏ kiếm, liếm lên cán kiếm. Ngọn lửa biến mất và thanh kiếm chui vào vỏ khi Er­agon kết thúc câu thần chú vô ý này.

Bris­in­gr, nó nghĩ chắc chắn vì lựa chọn này. Bà Rhunön đã tạo ra thanh kiếm nhưng chính nó mới là người sử dụng và là người cùng thợ rèn thần tiên này dùng tư tưởng rèn nên thanh kiếm. Nếu hỏi nó nó hiểu vật gì nhất, nó sẽ trả lời là thanh kiếm.

Trò chắc chứ? Glae­dr hỏi.

Er­agon gật đầu mà quên mất rồng vàng không thấy nó. Vâng thưa thầy… nhưng con có một câu hỏi: Bris­in­gr có phải tên thanh kiếm không và nếu không con có cần tìm ra tên thật của nó để làm phép không ạ?

Bris­in­gr là tên thật của nó. Tên thật của thanh kiếm thực ra rất phức tạp nhưng dù sao nó cũng bao gồm bris­in­gr. Nếu con muốn con có thể tìm tên thật của nó nhưng nếu không con có thể gọi nó là Kiếm cũng được, miễn là trong đầu con con hiểu rõ nó. Tên chỉ là nhãn gắn cho một tri thức và con không cần một cái nhãn để dùng tri thức đó. Con hiểu không?

Con hiểu.

Vậy thì làm đi.

Er­agon mất một lúc để tập trung. Sau đó nó tĩnh tâm và vươn ra cuốn lấy năng lượng trong cơ thể. Nó chuyển năng lượng đó thành từ ngử trong khi vẫn nghĩ về những điều nó biết về thanh kiếm:

“Bris­in­gr!”

Er­agon cảm thấy sức mạnh của nó tụt dốc. Thấy nguy hiểm, nó cố nói, cố cử dộng, nhưng câu thần chú buộc nó đứng im. Nó không thể chớp mắt hoặc thở.

Không giống lúc trước, thanh kiếm không biến thành lửa, nó rung lên như một hình phản chiếu trong nước. Sau đó trong không khí cạnh thanh kiếm, một hình ảnh mờ ảo như sương như khói xuất hiện: một hình phản chiếu hoàn hảo của Bris­in­gr không nằm trong bao. Er­agon thấy bản sao giống y hệt thanh kiếm thật và có phần nguyên bản hơn. NHư thể nó nhìn thấy hồn của thanh kiếm, cái hồn mà cả Rhunön, với bao nhiêu năm kinh nghiệm cùng kiếm cung cũng không thể nắm bắt nổi.

Ngay khi hình phản chiếu trở nên rõ nét, Er­agon lại thở và chuyển động được bình thường. Nó duy trì câu thần chú thêm vài giây để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của hình triệu hồi sao đó nó để câu thần chú bay đi và hình ảnh ma mị của thanh kiếm tan vào hư vô.

Khi nó biến mất, trong lều dường như tối một cách không ngờ.

Chỉ lúc đó Er­agon biết Saphi­ra và Glae­dr đang tiếp xúc với tư tưởng của nó, quan sát từng ý nghĩ nhảy nhót trong đầu nó. Chưa bao giờ Er­agon thấy hai con rồng căng thẳng tới vậy. NẾu nó chọc Saphi­ra, nó đoán cô nàng sẽ giật mình tới xoắn cả người lại.

Nếu em mà chọc vào người anh, anh chỉ còn là một chấm nhỏ xíu à, cô nàng nhận xét.

Er­agon cười và nằm xuống võng vì mệt.

Trong tư tưởng, Er­agon nghe thấy tiếng như gió thổi qua cánh đồng hoang vắng vì Glae­dr đã thư thái trở lại. Con làm tốt lắm, Khắc tinh của tà thần ạ. Lời khen của Glae­dr khiến Er­agon ngạc nhiên; từ hồi dạy Er­agon tới giờ có mấy khi con rồng già khen nó đâu. Nhưng đừng thử lại nhé.

Er­agon rùng mình và xoa tay để xoa đi cái lạnh tới tận xương tủy. Con đồng ý với thầy. Nó không muốn thử lại. Nhưng dù sao nó vẫn cảm thấy hài lòng. Nó đã chứng minh được rằng ít nhất nó làm được một điều mà không phải ai trong Ala­gaësia cũng làm được.

Nó có thêm hy vọng.

Sáng ngày thứ ba, Ro­ran trở về Var­den cùng với những người chiến hữu: họ đều mệt mỏi, người đầy vết thương và rệu rã vì di chuyển trên đoạn đường dài. Sự trở về của Ro­ran đã khuấy động Var­den trong vài tiếng – anh và những người khác được chào đón như những người anh hùng – nhưng bầu không khí tẻ ngắt nhanh chóng trở lại với toàn quân Var­den.

Er­agon nhẹ lòng vì thấy Ro­ran. Nó vốn biết anh họ mình vẫn an toàn vì nó đã bói cầu vài lần kể từ khi anh nó đi. Nhưng được nhìn thấy anh bằng mắt đã khiến Er­agon không còn mang nỗi lo lắng mà tới bây giờ nó mới nhận ra nó vẫn canh cánh trong lòng. Ro­ran là người thân duy nhất của nó – không tính Murtagh – và Er­agon không thể chịu nổi ý nghĩ nó sẽ mất anh.

Giờ được nhìn thấy Ro­ran gần ngay trước mắt, Er­agon lại thấy xót xa vì vẻ ngoài của anh. Nó biết Ro­ran và những người khác kiệt sức nhưng Ro­ran trông tiều tụy hơn những chiến hữu nhiều; trông anh như thể già đi năm tuổi. MẮt anh đỏ và thâm đen, lông mày dựng đứng, anh di chuyển cứng nhắc như mọi cen­timet trên người đều bị thâm tím. Và râu anh bị cháy một nửa trông lởm khởm kinh khủng.

Năm người – ít hơn số người lúc đầu mất một – trước tiên tới gặp khu y xá của Du Vran­gr Ga­ta gặp các pháp sư trị thương. Sau đó họ yết kiến Na­sua­da. Sau khi khen ngợi lòng dũng cảm của họ, Na­sua­da cho tất cả lui trừ Ro­ran. Cô hỏi anh đầy đủ chi tiết cuộc hành trình tới và rời khỏi Aroughs cũng như quá trình chiếm thành phố. Tuy đã nghe kể vài lần, nhưng cả Na­sua­da và Er­agon – đang đứng bên phải cô – đều lắng nghe chăm chú và thi thoảng hoảng sợ. Khi Ro­ran nói xong, Na­sua­da khiến cả anh và Er­agon ngạc nhiên vì bổ nhiệm Ro­ran làm tiểu đoàn trưởng.

Er­agon cứ nghĩ Ro­ran sẽ vui nhưng nó lại thấy những nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt anh và trán anh nhăn tít. Tuy nhiên Ro­ran không từ chối hay phàn nàn, anh chỉ cùi đầu khàn giọng đáp, “Vâng thưa tiểu thư Na­sua­da.”

Sau đó, Er­agon cùng Ro­ran đi về lều nơi Ka­tri­na đang đứng đợi. Cô chào đón Ro­ran bằng một cử chỉ khiến Er­agon phải che mắt vì xấu hổ.

Họ và Saphi­ra ăn cùng nhau nhưng Er­agon và Saphi­ra xin phép ra về ngay khi có thể vì Ro­ran đã quá kiệt sức còn Ka­tri­na muốn ở một mình cùng anh.

Khi nó và Saphi­ra đi lang thang trong doanh trại, Er­agon nghe có ai gọi từ đằng sau, “Er­agon! Er­agon! Đợi tý!”

Nó quay lại và nhìn thấy hiền triết Jeod gầy cao lênh khênh đang chạy lại, những sợi tóc bay phấp phới quanh khuôn mặt gầy của ông. Jeod đang cầm trong tay trái một tờ giấy da dê nhàu nhĩ.

“Cái gì đây?” Er­agon lo lắng hỏi.

“Cái này!” Jeod kêu to và mắt sáng lên. Anh giơ tờ giấy ra mà lắc. “Tôi đã làm lại! Er­agon! Tôi đã tìm ra cách!” Trong ánh sáng yếu ớt, vết sẹo trên đầu và thái dương anh trông trắng đến giật mình so với làn da màu đồng.

“Anh làm cái gì lại cơ? Tìm ra cách gì thế? Từ từ; tôi chẳng hiểu gì cả!”

Jeod lo lắng nhìn xung quanh rồi ghe sát lại thì thầm, “Tất cả những gì tôi đọc và nghiên cứu đã đem lại kết quả. Tôi đã tìm ra đường hầm bí mật dẫn tới Dras – Leona!”

“Giải thích lại cho tôi,” Na­sua­da nói.

Er­agon nhúc nhích vì thiếu kiên nhẫn nhưng không nói gì.

Jeod ngửng cổ khỏi đống sách và chồng văn thư trước mặt, giơ cao một cuộn giấy mỏng buộc da đỏ và tường thuật lần thứ ba, “Theo như tôi được biết, khoảng năm trăm năm trước…”

Jör­mundur phẩy tay ngắt lời. “Đứng nói dông dài. Kể những cái quan trọng thôi.”

Jeod lại nói lại. “Khoảng năm trăm năm trước, Nữ Hoàng For­na cử Erst Râu Bạc tới Dras – Leona hoặc đúng hơn tới thành phố sau này là Dras – Leona.”

“Vì sao lại cử ông ấy tới?” Na­sua­da hỏi trong khi đang nghịch mép cổ tay áo.

“Người lun lâm vào cảnh nội chiến, và For­na hy vọng với việc giúp Vua Radgar thiết kế và xây dựng vòng phòng thủ cho thành phố, họ có thể bảo vệ chính giống loài mình, mặc dù người lùn tự mình có thể tạo nên hàng phòng thủ cho Aroughs.”

Na­sua­da cuốn một sợi chỉ thừa trên ngón tay. “Và sau đó Dol­grath Chân Thọt giết For­na…”

“Đúng. Và Erst Râu Bạc không còn lựa chọn nào khác ngoài trở về Rặng núi Be­or nhanh hết mức có thể để chống lại sự xâm lăng của Chân thọt. Nhưng” – Jeod giơ một ngón tay rồi mở cuốn sách bìa đỏ - “trước khi rời đi hình như ông đã bắt tay vào công việc. Cố vấn của vua Radgar, Lãnh chúa Yard­ley, đã viết trong tự truyện rằng Erst đã phác họa sơ đồ hệ thống cống trong lòng thành phố để tăng hiệu quả cho hàng phòng thủ.”

Từ cái bàn ở giữa phòng của Na­sua­da, Orik gật đầu nói: “Đúng. Nhưng ngươi phải cho chúng ta biết rõ các nó ở đâu và xây bằng loại đất đá gì. Ngoài ra, ngươi phải tìm ra lối vào bị vùi lấp ở đâu.”

Jeod nói tiếp. “Tất nhiên, Dras – Leona không có hệ thống ngầm vì thế tôi đoán rằng bản thiết kế của Erst chưa bao giờ được thực hiện. Nhưng, trong vài trang sau, Yard­ley lại nói…” Jeod chú mục xuống sách đọc, “…trong một sự kiện đau lòng nhất, quân phản nghịch đã đốt phá và cướp bóc rất nhiều hộ gia đình. Những binh lính lúc đó không kịp phản ứng vì mải làm việc dưới cống ngầm như những nông dân bình thường.”

Jeod hạ sách xuống. “Giờ, họ đào cái gì? Tôi không thể tìm thêm bằng chứng về những hoạt động tương tự trong và ngoài Dras – Leona, cho tới khi…” Anh đặt cuốn sách bìa đỏ xuống và cầm một cuốn sách bìa gỗ dày và nặng chịch lên. “Tôi tình cờ đọc được cuốn Cuộc đời Taradas và những bí mật sâu kín trong Kỷ nguyên Loài người, Người lùn và những thần tiên già cỗi nhất thì…”

“Cuốn sách đó có nhiều sai sót,” Arya nói. Cô đứng bên trái bàn, đặt cả hai tay lên bản đồ thành phố. “Tác giả biết quá ít về loài tiên và những gì không biết, ông ta bịa ra.”

“Có thể,” Jeo­da nói, “nhưng ông ấy biết rất nhiều về loài người và những thứ con người chúng tôi tò mò muốn biết.” Jeod mở tới giữa cuốn sách và từ từ đặt xuống bàn. “Trong khi viết sách, Oth­man có nghiên cứu về chuyện này. Ông ta chủ yếu nghiên cứu về đạo Hel­grind và những sự việc bất thường xảy ra xung quanh nó. Tuy nhiên ông cũng có nói đôi nét về Dras – Leona: Dân cư thành phố thường xuyên than phiền vì những âm thanh và mùi khác lạ bốc ra từ dưới đường và sàn nhà, đặc biệt vào ban đêm. Họ cho rằng đó là do ma quỷ và những sinh vật siêu nhiên gây ra, nhưng nếu thật sự là do những linh hồn thì thật sự tôi chưa bao giờ nghe về loại nào như thể vì các linh hồn thường tránh xa con người.”

Jeod gấp sách lại. “Mai mà Oth­man có đánh dấu vị trí phát ra những tiếng động lạ trên bản đồ Dras – Leona mà, như quý vị có thể thấy, hình thành một đoạn đường thẳng xuyên qua phần phố cổ.”

“Vậy ông nghĩ có thể có đường hầm ngầm ở đây,” Na­sua­da nói. Đây là một câu nói, không phải câu hỏi.

“Chính xác,” Jeod nói và gật đầu.

Vua Or­rin ngồi cạnh Na­sua­da vốn kiệm lời bỗng cất tiếng. “Vậy là ông cũng chưa đưa chúng tôi bằng chứng chứng thực có tồn tại đường hầm. Nếu có một khoảng không dưới lòng thành phố, biết đâu nó chỉ là một căn phòng bí mật hay hầm mộ gì đó thì sao. Kể cả nó là đường hầm, chúng ta không biết nó có kéo ra tận ngoài Dras – Leona hay không và đường hầm đó dẫn tới đâu? Chẳng lẽ tới trung tâm lâu đài? Hơn nữa, theo những gì ông nói, đường hầm ngầm đó từ đầu đã không được hoàn thành.”

“Chắc chắn là đường hầm, thưa Đức Vua,” Jeod nói. “Không có một căn phòng hay hầm mộ nào lại dài và hẹp như vậy. Còn về chuyện nó có được hoàn thành hay không… chúng ta chỉ biết nó không được sử dụng cho mục đích ban đầu và còn được sử dụng ít nhất tới thời Oth­man. Như vậy, đường hầm ngầm, đường hầm bộ hay các ngài muốn gọi là gì cũng được đã phải hoàn thành ở một mức độ nào đó, không thì nước đã phá hủy nó từ lâu rồi.”

“Thế ông có biết lối ra – hoặc lối vào ở đâu không?” nhà vua hỏi.

Jeod lục tung những cuộn giấy trong một lúc trước khi lôi một tấm bản đồ Dras – Leona khác ra, lần này là tấm bản đồ địa hình. “Cái này tôi không chắc nhưng nếu nó dẫn ra ngoài thành phố, vậy thì lối ra sẽ nằm đâu đó quanh đây …” Ông chỉ tay vào một điểm góc phía đông thành phố. Hầu hết các tòa nhà bên ngoài bức tường bảo vệ trung tâm Dras – Leona đều nằm ở phía tây, cạnh hồ. Điều này có nghĩa rằng khu vực Jeod vừa chỉ vào, dù là khoảng đất trông nhưng lại gần với trung tâm Dras – Leona hơn. “Nhưng nếu không ai đi khảo sát thì chúng ta cũng chẳng biết có đúng không.”

Er­agon nhíu mày. Nó cứ nghĩ phát hiện của Jeod phải có gì chắc chắn hơn.

“Chúng tôi rất cám ơn vì những nghiên cứu của ngài, thưa Hiền triết Jeod,” Na­sua­da nói. “Một lần nữa ngài lại chứng tỏ được vai trò của ngài đối với Var­den.” Cô đứng dậy và bước lại nhìn tấm bản đồ. Đường viền váy thướt tha trên đất. “Nếu chúng ta gửi một đội quân tới xem xét, có thể chúng ta sẽ khiến Triều đình nghi ngờ. Lúc đó dù cho đường hầm có thực sự tồn tại, chúng ta cũng không thể sử dụng nổi. Murtagh và Thorn có thể sẽ đón lõng chúng ta.” Cô nhìn ông Jeod. “Ông nghĩ đường hầm rộng tới mức nào? Bao nhiêu người có thể đi vào đó?”

“Tôi không biết. Có thể…”

Orik húng hắng rồi nói. “Đất ở đây mềm và giống đất sét lại còn có phù sa – không thể nào xây đường hầm ngầm nổi. Nếu Erst thông minh ông ấy sẽ không phác thảo ra một đường cống rãnh lớn; ông ấy sẽ làm sập vài con đường, hoặc gây sói mòn chân móng thành phố. Trẫm đoán nó không rộng hơn một mét đâu.”

“Quá hẹp, chỉ vừa một người,” Jeod nói.

“Quá hẹp, chỉ vừa cho một knurla,” Orik nói thêm.

Na­sua­da quay về chỗ ngồi và nhìn mông lung vào tấm bản đồ như thể đang nhìn thứu gì khác.

Sau một vài khắc im lặng, Er­agon nói, “Tôi có thể đi tìm đường hầm. Tôi biết cách dùng phép thuật ẩn thân; lính canh sẽ không thể thấy tôi.”

“Có thể,” Na­sua­da nói thầm. “Nhưng tôi không thích chuyện cậu hay bất cứ ai loanh quanh chỗ đó. Khả năng quân Triều đình để ý rất cao. Nếu như Murtagh là người đứng gác thì sao? Cậu có thể lừa hắn không? Cậu có biết giờ khả năng của hắn tới đâu không?” Cô lắc đầu. “Không, chúng ta phải hành động như có đường hầm thật và theo đó mà đưa ra quyết đinh. Nếu quả thực nó không tồn tại, chúng ta cũng không mất gì… còn nếu nó có thực, chúng ta sẽ chiếm được Dras – Leona một lần và mãi mãi.”

“Nàng nghĩ gì vậy?” vua Or­rin cẩn trọng hỏi.

“NGhĩ một cái gì đó táo bạo; …không đoán trước được.”

Er­agon khụt khịt mũi. “Có thể cô nên triệu tập Ro­ran.”

“Tôi không cần Ro­ran giúp bày mưu, Er­agon.”

Na­sua­da lại im lặng và mọi người trong phòng, kể cả Er­agon đều đợi xem cô nảy ra ý tưởng gì. Cuối cùng cô nhúc nhích người và nói, “Thế này nhé: chúng ta cho một tiểu đội đi mở cổng thành từ bên trong.”

“Nhưng bằng cách nào?” Orik thắc mắc. “Chuyện xử lý hơn trăm tên lính đứng gác đã đủ khó rồi, và tôi xin nhắc cho cô nhớ, trong đó còn có một con thằn lằn không lồ thở ra lửa đó. Chắc chắn cu cậu sẵn sàng xơi tái bất cứ thằng ngu nào đi mở cổng. Đấy là chúng ta còn chưa tính tới Murtagh.”

Trước khi cuộc thảo luận tiếp tục, Er­agon nói. “Tôi có thể làm được.”

Câu nói đó có tác dụng ngay lập tức với cuộc nói chuyện.

Er­agon cứ nghĩ Na­sua­da sẽ gạt ngay lời đề nghị của nó, nhưng nó ngạc nhiên vì cô cân nhắc mội hồi. Sau đó nó còn ngạc nhiên hơn vì cô nói. “Rất tốt.”

Bao nhiêu lời biện hộ Er­agon nghĩ tới đã trôi đi khi nó kinh ngạc nhìn Na­sua­da. Chắc chắn cô cũng đồng quan điểm với nó ở một số khía cạnh.

Trong lều như chợ vỡ vì ai cũng tranh nói. Arya khiến mọi người dịu lại: “Na­sua­da, cô không thể để Er­agon tự gây nguy hiểm cho mình. Không thể được. Hãy cho một vài pháp sư của Blöd­hgarm đi thay; tôi chắc chắn họ sẽ đồng ý giúp. Ngoài ra họ là một trong những chiến binh thông thái nhất cô có thể tìm.”

Na­sua­da lắc đầu. “Không một tên lính của Gal­ba­torix nào dám giết Er­agon – Murtagh không dám và những chiến binh tép riu nhất cũng không dám. Chúng ta nên tận dụng ưu thế đó. Hơn nữa, Er­agon là pháp sư mạnh nhất của chúng ta, mà mở cổng thành tốn rất nhiều sức lực. Cậu ấy là người có cơ hội thành công lớn nhất.”

“Nhưng nếu chàng bị bắt thì sao? Chàng không thể chống nổi Murtagh. Cô biết mà!”

“Chúng ta sẽ dẫn Murtagh và Thorn đi chỗ khác và cho Er­agon cơ hội cậu ấy cần.”

Arya hất cằm. “Thế nào? Chúng ta làm thế nào?”

“Chúng ta sẽ tấn công Dras – Leona từ phía nam. Saphi­ra sẽ vay vòng quanh thành phố, đốt cháy vài căn nhà và giết chết lính canh trên tường. Thorn và Murtagh sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài đuổi theo nếu như Blöd­hgarm và các pháp sư thần tiên tạo ra một ảo ảnh của Er­agon cưỡi trên lưng Saphi­ra. Miễn là Murtagh không tới gần, hắn sẽ không thể nào biết được.”

“Cô muốn thực hiện chuyện này?”

“Đúng.”

Gương mặt Arya cứng lại. “Vậy thì tôi sẽ đi cùng Er­agon.”

Er­agon thấy nhẹ nhõm. Nó đã mong cô đi cùng nó nhưng nó không biết phải hỏi thế nào vì sợ nàng sẽ từ chối.

Na­sua­da thở dài. “Cô là con gái Is­lanzadí. Tôi không muốn đặt cô vào tình thế nguy hiểm. Nếu cô chết… Hãy nhớ xem mẹ cô đã phản ứng thế nào khi nghĩ Durza đã giết chết cô. Chúng tôi không thể nào mất đi sự hỗ trợ của thần tiên.”

“Mẹ tôi…” Arya ngậm miệng sau đó bắt đầu một câu khác. “Tôi có thể đảm bảo với cô, thưa tiểu thư Na­sua­da, Nữ hoàng Is­lanzadí sẽ không chấm dứt liên minh với Var­den dù cho tôi có gặp chuyện gì. Cô không phải lo. Tôi sẽ đi cùng Er­agon và hai pháp sư nữa của Blöd­hgarm.”

Na­sua­da lắc đầu. “Không. Cô chỉ có thể mang theo một. Murtagh biết số thần tiên bảo vệ Er­agon. Nếu hắn để ý thấy hai hoặc hơn hai người biến mất, hắn sẽ nghĩ chúng ta có đặt bẫy gì ở đây. Hơn nữa, Saphi­ra sẽ cần sự trợ giúp để thoát khỏi tầm với của Murtagh.”

“Ba người không đủ để hoàn thành nhiệm vụ khó tới mức đó,” Arya không chịu thua. “Chúng tôi sẽ không thể đảm bảo an nguy của Er­agon chứ đừng nói tới mở cổng.”

“Vậy thì các người có thể mang theo một người của Du Vran­gr Ga­ta.”

Trên mặt Arya thoáng nét chế giễu. “Các pháp sư của các người không đủ sức mạnh hay kỹ năng cho nhiệm vụ này. Chúng tôi sẽ phải một chọi một trăm, có khi hơn. Cả những kiếm sĩ bình thường hay những pháp sư đã được đào tạo đều không bằng chúng tôi. Chỉ có thần tiên hoặc Kỵ sĩ…”

“Hoặc Tà thần,” Orik gầm gừ nói.

“Hoặc tà thần,” Arya nói thêm dù Er­agon có thể thấy nàng đang tức giận. “Chỉ những người đó mới có thể hoàn thành một nhiệm vụ khó khăn thến ày. Và kể cả vậy còn chưa chắc đã thắng. Hãy để chúng tôi mang theo hai pháp sư của Blöd­hgarm. Không một Var­den nào có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ này.”

“Vậy tôi có được không?”

Mọi người ngạc nhiên quay lại nhìn khi An­gela bước ra từ một góc lều. Er­agon còn không biết bà ta ở đó.

Bà dừng trước mặt Arya. “Vậy cô không phản đối nếu tôi đi cùng chứ, Äl­fa? Tôi không phải Var­den nhưng tôi sẵn lòng đi cùng cô.”

Arya ngạc nhiên hơn khi thấy Arya cúi đầu nói, “Tất nhiên thưa nhà Thông thái. Tôi không có ý nói mỉa. Tôi rất vinh hạnh nếu bà đi cùng.”

“Tốt!” An­gela reo lên. “Vậy thì chắc cô cũng không phản đối,” bà nói hướng tới Na­sua­da.

Na­sua­da lại lắc đầu. “Nếu bà muốn và Er­agon lẫn Arya đều không phải đối vậy thì không có lý do gì mà bà không thể đi. Nhưng tôi không hiểu vì sao bà lại muốn đi.”

An­gela hất lọn tóc xoăn. “Cô muốn tôi giải thích cho mọi quyết định của mình à…. Được rồi, nếu như thỏa mãn được trí tò mò của cô thì chúng ta cứ cho là tôi có thù hằn với mấy tên thầy tu dòng Hel­grind và tôi muốn trả thù. Hơn nữa, nếu Murtagh xuất hiện, tôi có thể lừa hắn.”

“Hay chúng ta nhờ El­va đi cùng,” Er­agon nói. “Nếu ai có thể giúp chúng ta tránh nguy hiểm..”

Na­sua­da nhíu mày. “Trong cuộc nói chuyện lần cuối, cô bé đã tỏ rõ quan điểm. Tôi sẽ không cúi đầu trước cô bé đó để xin giúp đỡ đâu.”

“Tôi sẽ nói,” Er­agon nói. “Cô bé giận tôi và tôi sẽ đi hỏi cô bé.”

“Làm gì cậu muốn. Tôi không thích đưa một đứa bé – kể cả một đứa nhỏ được chúc phúc như El­va – vào chiến trường. Hơn nữa, chắc gì con bé có thể bảo vệ nổi mình.”

“Miễn là nỗi đau của những người xung quanh không quá lớn,” An­gela nói. “Trong vài trận chiến trước con bé đã cuộn mình lại như quả bóng không thể nào di chuyển hay thở nổi.”

Con bé khó đoán được lắm. Nếu con bé muốn đi thì cậu phải để ý thật kỹ đó Er­agon.”

“Vâng,” nó hứa.

Sau đó Na­sua­da bắt đầu thảo lu­aan­jv ới Or­rin và Orik về chiến thuật và Er­agon rút lui vì nó không biết gì nhiều.

Nó phóng tư tưởng tới Saphi­ra vẫn đang qua nó nghe ngóng chuyện xung quanh. Vậy em thấy sao? Nó hỏi. “Sao em im lặng thế? Anh nghĩ em muốn nói gì khi Na­sua­da nghĩ ra chuyện đột nhập Dras –Leona.

Em không nói gì vì em chẳng có gì để nói. Đây là một kế hoạch hay.

Em đồng ý?!

Chúng ta không còn là những đứa bé hèn nhát nữa, Er­agon. Có thể kẻ địch của chúng ta đáng sợ nhưng chúng ta cũng thế. GIờ là lúc chúng ta nhắc cho chúng nhớ.

Em có phiền nếu chúng ta tạm xa nhau?

Tất nhiên là có, cô nàng rống lên.Dù anh có đi đâu, quân dịch vẫn sẵn sàng đập chết anh như đập ruồi. Nhưng anh không còn vô dụng như xưa. Sau đó cô nàng rừ rừ.

Anh, vô dụng? Nó nói theo kiểu giận dỗi vu vơ

Ừ, một chút. Nhưng giờ cú táp của anh nguy hiểm hơn rồi.

Em cũng thế.

Mmm…Em phải đi săn đây. Sắp có bão rồi và em sẽ không có cơ hội đi săn cho tới khi chúng ta tấn công xong.

Bay cẩn thận nhé, nó nói.

Sau đó nó cảm nhận được sự hiện diện của cô em biến mất. Nó chuyện sự chú ý lại cuộc thảo luận trong lều vì nó biết cuộc đời nó, và cả Saphi­ra, sẽ phụ thuộc vào quyết định của Na­sua­da, Orik và Or­rin.

27. DƯỚI ĐỒI ĐÁ

Er­agon xoay vai để điều chỉnh áo giáp bên trong sao cho thoái mải dưới lớp áo chấn thủ.

Xung quanh họ là bóng tối tới nặng nề và ngột ngạt. Tầng mây dày che khuất trăng sao. Nếu như không có ánh sang từ ngọn đèn ma trên tay An­gela, kể cả Er­agon và các tiên nhân cũng chẳng thấy gì.

Thời tiết ẩm ướt. THi thoảng đôi lần Er­agon cảm thấy vài giọt mưa lạnh buốt rơi xuống má nó.

El­va đã cười và từ chối khi nó nhờ cô bé giúp. Nó đã tranh luận khá lâu nhưng chẳng đi tới kết quả gì. Saphi­ra thậm chí đã can thiệp, cô em nó đã bay xuống lều đứa bé phù thủy ở, chui cái đầu khổng lồ vào chỉ cách con bé có một mét, bắt cô bé nhìn vào cặp mắt xanh sang không chớp của Saphi­ra.

Lúc đó El­va không còn cười nữa nhưng cô nhóc vẫn không đồng ý. Sự cứng đầu của cô nhóc khiến Er­agon thất vọng. Tuy vậy, nó vẫn ngưỡng mộ cá tính mạnh của El­va; với cô nhóc này cả Kỵ sĩ lẫn rồng đều không là gì. Nhưng dù sao, cô nhóc đã phải chịu đựng quá nhiều nỗi đau và trải qua nhiều chuyện đau khổ mà kể cả những chiến binh nhiều năm cũng hiếm khi gặp phải.

Arya đang đứng cạnh nó, choàng áo choàng lên cổ. Er­agon cũng mặt một cái, cũng như An­gela và tiên nhân tóc đen Wy­dren, người Blöd­hgarm chọn ra để đồng hành với họ. Họ cần mặc áo choàng để chống lại cái lạnh cắt da cắt thịt của ban đêm và che giấu vũ khí khỏi tầm nhìn của cư dân thành phố, nếu như họ tới được đó.

Na­sua­da, Jör­mundur và Saphi­ra đã đi với họ tới rìa doanh trại. Trong các khu lều, những binh lính Var­den, người lùn và Ur­gal đang bận rộn chuẩn bị cho trận chiến sắp tới.

“Đừng quên,” Na­sua­da nói, hơi thở biến thành sướng khói trước mặt cô, “nếu tới bình minh mọi người không tới được cánh cổng, hãy đợi ở một nơi nào đó cho tới sáng hôm sau, và chúng ta sẽ thử lại.”

“Chúng ta làm gì có thì giờ mà chờ đợi,” Arya nói.

Na­sua­da xoa tay và nói. Cô có vẻ bồn chồn khác thường. “Tôi biết. Dù sao chúng tôi cũng sẽ sẵn sàng tấn công khi nhận được tín hiệu từ mọi người dù là lúc nào. Sự an toàn của mọi người quan trọng hơn việc chiếm được Dras – Leona. Hãy nhớ lấy.” Ánh mắt của cô dán chặt vào Er­agon.

“CHúng ta nên đi thôi,” Wy­dren nói. “Sắp sáng rồi.”

Er­agon áp trán vào đầu Saphi­ra trong giây lát. Chúc anh đi săn thành công, cô bé nhẹ nhàng nói.

Em cũng thế nhé.

Chúng miễn cưỡng chia tay rồi Er­agon cùng Arya và Wyr­den đi theo An­gela rời khỏi doanh trại, tiến tới khu phía đông thành phố. Na­sua­da và Jör­mundur thì thầm chúc họ thượng lộ bình anh khi họ đi ngang qua, sau đó tất cả rơi vào tĩnh lặng chỉ còn tiếng thở và tiếng gót giày nện trên nền đất.

An­gela điều chỉnh ánh sáng trong lòng bàn tay cho tới khi chỉ đủ sáng để Er­agon nhìn thấy chân mình. Nó phải căng mắt ra để ý những cục đá hay nhánh cây chìa ra giữa đường.

Họ bước đi trong im lặng gần tiếng đồng hồ cho tới khi bà lang dừng lại nói nhỏ, “Theo tôi biết thì chúng ta đã tới nơi rồi. Tôi khá giỏi trong ước lượng khoảng cách nhưng có lẽ chúng ta đã đi hơn một ngàn mét rồi. Trong cảnh tranh sáng tranh tối này thì cũng khó nói lắm.”

Phía trên trái họ là những ánh sáng đâu đó từ phía chân trời, đó là bằng chứng duy nhất cho thấy họ đã tới gần Dras – Leona. Những ánh sáng đó gần họ tới mức họ có cảm tưởng như có thể với tay hái chúng xuống.

Nó và hai người phụ nữ đứng xung quanh Wyr­den khi tiên nhân này quỳ xuống tháo găng tay phải ra. Wyr­den đặt lòng bàn tay lên mặt đất và ngâm nga câu thần chú anh đã học từ pháp sư người lùn mà Orik đưa tới hướng dẫn họ cách tìm căn phòng dưới lòng đất – ngay trước khi ra đi làm nhiệm vụ -

Trong khi tiên nhân hát, Er­agon chăm chú nhìn vào màn đêm, lắng nghe và quan sát động tĩnh của kẻ thù. Mưa nặng hạt dần. Nó mong sao thời tiết sẽ khá khẩm hơn trước khi trận chiến bắt đầu, nếu như nó có thể xảy ra.

Có tiếng cú rúc đâu đó và nó với tay nắm lấy thanh Bris­in­gr, nhưng sau đó dừng lại và nắm chặt tay. Barzûl, nó dùng câu chửi thề quên thuộc của Orik để nói với mình. Nó đang căng thẳng hơn mức cần thiết. Những ký ức về trận chiến giữa nó và Murtagh cùng Thorn một lần nữa – từng ký ức và tất cả - đang khiến nó nao núng.

Chắc chắn mình sẽ thua nếu tiếp tục thế này, nó nghĩ thầm. Vì thế nó từ từ thở ra và luyện tập bài thể dục cho tinh thần đầu tiên Glae­dr dạy để kiểm soát cảm xúc.

Con rồng già không mặn mà với nhiệm vụ nay khi Er­agon kể cho ông nghe nhưng ông rồng cũng không phản đối. Sau khi bàn luận xong về những tình huống bất ngờ có thể xảy ra, Gleadr nói: Hãy thận trọng với bóng tôi đó Er­ago. Những thứ kỳ lạ thường ẩn nấp trong bóng tôi. Er­agon không cho đó là một lời động viên ý chí nó.

Nó gạt những giọt nước mưa trên mặt còn tay kia nắm lấy chuôi kiếm. Găng tay da chạm vào da mặt nó sao ấm và mềm mại thế.

Nọ hạ bàn tay xuống ngoắc vào thắt lưng của Be­loth Thông Thái và cảm nhận được sức nặng của mười hai viên kim cương không tì vết nạm lên đó. Sáng nay nó đã tới khu nhốt thú và khi các đầu bếp giết chim và cừu làm bữa sáng, nó đã chuyển năng lượng chết của lũ động vật vào những viên đá quý. Nó ghét chuyện nay; khi nó phóng tư tưởng về phía những con vật – nếu như chúng còn đầu – nỗi sợ hãi và đau đớn của chúng biến thành của nó, và khi đầu óc chúng trống rỗng dần, nó cảm thấy như chính nó đang chết. Đó là một trải nghiệm kinh khủng, khiến con người ta hoàng loạn và sợ hãi. Bất cứ khi nào có thể nó đều thì thầm bằng ngôn ngữ cổ với những con vật để khiến chung dịu nỗi đau. Thi thoảng nó thành công nhưng đôi khi lại không. Mặc dù kiểu gì chúng cũng phải chết và dù nó cần năng lượng nhưng nó không thích công việc này, vì nó có cảm giác nó là người chịu trách nhiệm vì cái chết của chúng. Nó cảm thấy có tội.

Giờ nó thấy thắt lưng hơi nặng hơn một chút vì lượng năng lượng chuyển dời từ những on vật. Kể cả nếu như những viên kim cương khảm trên đó có vô giá trị đi chăng nữa, Er­agon vẫn thấy thắt lưng này còn quý hơn vàng, vì trên đó chứa hàng trăm ngàn mạng sống.

Khi Wyr­den ngừng hát, Arya hỏi, “Anh tìm ra không?”

“Lối này,” Wyr­den đứng thẳng lên nói.

Er­agon vừa bị chấn động vừa thấy nhẹ nhõm. Jeod nói đúng!

Wyr­den dẫn họ đi qua một con đường và rất nhiều ngọn đồi nhỏ sau đó đi tới một bãi bồi phù sa. “Cửa đường hầm phải ở đâu đó quanh đây,” tiên nhân nói và chỉ về phía bờ tây.

Bà lang tăng độ sáng của ngọn đèn ma để họ có thể tìm kiếm; sau đó Er­agon, Arya và Wyr­den bắt đầu ra soát hai bên bãi bồi bằng cách dùng que chọc xuống. Hai lần Er­agon vấp chân vào một thân cây bu lô đổ khiến nó nghiến răng nghiến lợi vì đau. Nó ước gì mình quấn xà cạp nhưng nó đã bỏ lại thứ đó cùng khiên vì sợ chúng sẽ khiến dân thành phố chú ý.

Sau hai mươi phút tìm kiếm cuối cùng Er­agon nghe thấy có tiếng kim loại rung lên, sau đó Arya nhẹ nhàng gọi. “Ở đây.”

Nó cùng những người còn lại tất tả chạy tới chỗ nàng đứng cạnh một lỗ nhỏ trên bãi.Arya rút que gậy ra để lộ một đường hầm lát đá cao năm mét rộng ba mét. Một lưới sắt đã gỉ sét che lỗ hổng lại.

“Nhìn đi,” Arya nói và chỉ xuống mặt đất.

Er­agon nhìn và nó thấy một lối nhỏ dẫn xuống đường hầm. Kể cả dưới ánh sáng đỏ kỳ dị từ ngọn đèn ma của bà lang, Er­agon cũng biết lối mòn đó có là do đi lâu mà thành. Một hoặc nhiều người đã sử dụng đường hầm này thường xuyên để ra vào Dras – Leona.

“Chúng ta nên cẩn thận,” Wyr­den nói.

An­gela hừ nhỏ trong họng. “Không thế thì các người tính đi thế nào? Với kèn trum pét thổi om sòm và sứ giả la hét báo tin chắc.”

Tiên nhân không trả lời nhưng rõ ràng anh ta rất không vui.

Arya và Wyr­den giỡ tấm lưới sắt và cẩn trọng đặt chân vào đường hầm. Cả hai mang theo ngọn đèn ma cho riêng mình. Quả cầu sang trôi trên đầu họ như những mặt trời đỏ rực con con dù ánh sang của chúng không hơn ánh lửa tỏa ra từ than đang cháy là mấy.

Er­agon lùi lại nói với An­gela. “Vì sao thần tiên lại kính trọng bà thế? Hình như họ sợ bà nữa là đằng khác.”

“Chẳng nhẽ ta không đáng cho người khác kính trọng à?”

Nó lưỡng lự. “Bà biết không, một ngày nào đó bà phải nói cho cháu biết rõ về bà.”

“Sao cháu lại nghĩ thế,” Sau đó bà bước vào đường hầm, áo choàng phấp phới sau lưng như cánh Lethrbla­ka.

Er­agon lắc đầu nối bước.

Bà lang nhỏ thó không phải cúi xuống nhiều để khỏi đụng đầu vào trần nhưng Er­agon và hai tiên nhân kia phải cúi xuống như một ông gia bị bệnh thấp khớp. Hầu như đường hầm trống không. Một lớp bụi bẩn dày bám trên sàn nhà. Vài cành cây và đá sỏi, thậm chí cả da rắn nằm rải rác gần miệng đường hầm. Con đường có mùi như rạ ướt và cánh bướm đêm.

Er­agon và những người khác im lặng bước nhưng đường hầm khuếch đại tiếng động. Một tiếng bước chân và tiếng lạo xạo vọng lại kèm theo tiếng văng vẳng thì thầm xì xào như có người sống quanh đây. Những tiếng xì xào khiến Er­agon cảm thấy như bị bao vây bởi những linh hồn người chết bám theo họ trong từng bước đi.

Quá nhiều kẻ theo dõi vài người, nó nghĩ khi đá phải một hòn đá khiến nó nảy lên với những tiếng lách cách lớn đã đường đường hầm làm lớn hơn gấp trăm lần.

“Xin lỗi,” nó nói khi mọi người quay lại nhìn nó.

Một nụ cười nhăn nhở hiện lên trên môi nó. Ít nhất chúng ta đã biết những âm thanh kỳ lạ dưới lòng Dras – Leona từ đâu mà ra. Khi về nó sẽ kể lại cho ông Jeod nghe.

Khi họ đã đi được một đoạn khá dài trong đường hầm, Er­agon dừng lại và nhìn về lối vào, lúc này hầu như đã lẫn trong bóng tối. Bóng chạng vạng như có thể nắm bắt lấy, như thể một tấm vài dày phủ lên toàn thế giới. Cùng với những bức tường sát sịt và trần nhà thấp, chúng khiến nó có cảm giác tù túng và bị bóp nghẹt. Thường nó không để ý nhiều tới việc ở trong không gi­an hẹp, nhưng đường hầm này khiến nó nhớ tới những con đường xấu xí trong núi Hel­grind nơi nó và Ro­ran chống trả lại lũ Ra’zac – một ký ức chẳng lấy gì làm vui vẻ.

Nó hít một hơi thật sâu sau đó thở ra.

Ngay khi định bước tiếp, nó thoáng nhìn thấy hai con mắt lớn sáng lên trong bóng tôi nhưn thể hai viên đá mặt trăng màu đồng. Nó nắm lấy thanh Bris­in­gr và rút thanh kiếm ra khỏi bao vài cen­timet thì Solem­bum xuất hiện khỏi bóng tối, nhẹ nhàng di chuyển trên bàn chân móng vuốt.

Con ma mèo dừng lại ngoài vùng ánh sáng. Nó nhúc nhích cái tai điểm đen và hàm rơi ra như ngạc nhiên lắm.

Er­agon thả lỏng người. Đáng nhẽ mình phải đoán ra chứ. An­gela đi đâu và Solem­bum theo đó. Lại một lần nữa, Er­agon nghĩ về quá khứ của bà lang: Sao bà lại có được sự trung thành của con mèo ma?”

Vì những người khác đã đi xa hơn, bóng tôi lại một lần nữa phủ lên Solem­bum.

Biết mèo ma bọc hậu nên Er­agon vui vẻ đuổi theo những người còn lại.

Trước khi nhóm rời doanh trại, Na­sua­da đã nói tóm tắt cho họ trong thành có chính xác bao nhiêu lính, họ đứng gác ở đâu cũng như nhiệm vụ và thói quen như thế nào. Cô cũng cho họ biết chi tiết về giờ giấc ngủ nghỉ của Murtagh, hắn ta ăn gì, và kể cả tâm trạng vào đêm trước. Thông tin của cô luôn luôn chính xác đến lạ lùng. Nếu có ai hỏi, cô chỉ cười và giải thích rằng, từ hồi Var­den xuất quân, mèo ma đã giúp cô do thám Dras – Leona. Một khi Er­agon và những người đồng hành vào được trong thành phố, mèo ma sẽ cùng họ đi tới cổng nam nhưng sẽ nếu được không xuất đầu lộ diện trước mặt quân Triều đình, nếu không họ sẽ không thể nào giúp Na­sua­da hiệu quả như trước. Dù sao thì làm gì có ai lại nghĩ một con mèo to tổ chảng lại là do thám của quân địch được chứ?

Sau đó, Er­agon đột nhiên nghĩ khi nhớ những lời chỉ dẫn vắn tắt của Na­sua­da rằng, điểm yếu lớn nhất của Murtagh là hiện giờ hắn vẫn phải ngủ. Nếu chúng ta không bắt hoặc giết được hắn trong ngày hôm nay, lần sau gặp lại, chúng ta phải tìm cách đánh thức hắn vào nửa đêm – hoặc nếu được thì nhiều hơn một đêm. Ba hay bốn đêm không ngủ đủ sẽ khiến hắn khó lòng chiến đấu.

Họ tiếp tục đi trong đường hầm chạy thẳng như một mũi tên, không có lấy một đoạn rẽ, ngõ quặt. Er­agon nghĩ nó thấy nền hơi dốc – cũng đúng thôi vì nó được thiết kế làm cống thoát nước cho thành phố - nhưng nó không chắc lắm.

Sau một hồi, lớp bụi bẩn dưới chân họ nhão hơn và dính vào giày của họ như đất sét ướt. Nước nhỏ xuống từ trần nhà, thi thoảng rơi xuống cổ và chảy xuống xương quai xanh Er­agon như một ngón tay lạnh lẽo lướt lên người nó. Có một lần nó bị trượt chân vì giẫm phải bùn khiến nó phải gi­ang tay giữ thăng bằng, khi đó nó phát hiện tường dính đầy chất nhờn.

Họ không biết đã đi bao lâu, có thể là một tiếng hoặc giả chỉ là vài phút. Nhưng thế nào đi nữa, cổ Er­agon ê ẩm vì nửa đứng nửa cúi và nó mệt mỏi phải nhìn chăm chăm vào bức tường đá giống nhau như đúc.

Cuối cùng nó để ý thấy vọng nhỏ đi và ngắt quãng lâu hơn. Ngay sau đó, đường hầm dẫn tới một căn phòng chữ nhật rộng với trần nhà nửa vòm chóp cao khoảng mười lăm mét. Căn phòng trống rỗng trừ có một cái thùng bị mọt ăn ở một góc. Phía đối diện với họ là ba cánh cổng vòm giống y sì nhau mở ra ba căn phòng giống nhau, đều nhỏ và tối. Er­agon không biết chúng sẽ dẫn tới đâu.

Cả nhóm dừng lại và Er­agon từ từ đứng thẳng lưng, nhăn mặt vì các cơ bắp đau nhừ giãn ra.

“Chắc phần này không nằm trong bản thiết kế của Erst Râu bạc,” Arya nói.

“Chúng ta nên chọn đường nào?” Wyr­den hỏi.

“Không rõ ràng sao?” bà lang hỏi. “Đường bên trái. Luôn luôn là đường bên trái.” Sau đó bà rảo bước tới cổng vòm đó.

Er­agon không thể nào im miệng. “Trái là trái nào? Nếu bà đứng ở chiều bên này thì bên trái là…”

“Trái có thể là phải và phải có thể là trái, đúng, đúng,” bà lang nói. Mắt bà nheo lại. “Thi thoảng cháu thông minh đột xuất quá đấy, Khắc tinh của tà thần ạ… Tốt thôi, chúng ta sẽ đi theo hướng của cháu. Nhưng đừng nói là ta không báo trước nếu chúng ta lạc đường lòng vòng trong đây hết ngày này tháng khác.”

Er­agon thực ra thích đi vào cổng vòm ở giữa hơn vì có vẻ nó sẽ dẫn chúng đi thẳng lên các con đường nhưng nó không muốn cãi nhau với bà lang. Đi đường nào chúng ta cũng sẽ sớm tìm ra cầu thang, nó nghĩ. Dưới Dras – Leona không thể có quá nhiều phòng bí mật được.”

An­gela giơ ngọn đèn ma lên cao và đi trước. Wyr­den và Arya đi theo và Er­agon chặn hậu.

Căn phòng đi vào qua cổng vòm bên phải rộng hơn họ tưởng. Nó phải dài tới hai mươi mét sau đó ngoặt ở một góc và kéo dài thêm vài mét nữa dẫn tới một hành lang cps gắn những chân đuốc trống. Qua hành lang là một cơn phòng nhỏ hơn với ba cổng vòm dãn tới ba cổng vòm khác, và cứ thế.

Ai xây dựng cái này và vì sao? Er­agon băn khoăn. Tất cả các căn phòng họ đi qua đều trống trải. Thứ duy nhất họ thấy là một chiếc ghế hai chân nằm chổng chow­vaf vài cái lọ vỡ nằm ở một góc phủ đầy mạng nhện.

An­gela dường như chưa bao giờ chần chừ hay bối rối chọn hướng đi vì bà luôn chọn bên phải. Er­agon có thể phản đối nhưng nó chẳng nghĩ được cách nào hay hơn nên thôi.

BÀ lang dừng lại khi họ tới một căn phòng hình tròn có bảy cổng vòm trên tường. Bảy hành lang tính cả cái họ vừa từ đó bước vào trải khắp bức tường trong phòng.

“Đánh dấu lối vào của chúng ta hoặc không chúng ta sẽ đi ngược lại mất,” Arya nói.

Er­agon đi tới hành lang và dùng đầu kiếm Bris­in­gr vẽ một dấu x lên bức tường đá. Trong khi đó nó nhíu mắt nhìn vào bóng tối tìm tung tích Solem­bum nhưng nó chẳng thấy gì. Er­agon nghĩ con mèo ma đã lạc đâu đó trong ma trận này rồi. Nó đã định phóng tư tưởng đi tìm mèo ma nhưng lại lo; nhỡ có ai đó biết nó ở đây, hoj sẽ báo cho Triều đình biết vị trí của họ.

“A!” An­gela reo lên và bóng tối xung quanh Er­agon chuyển sang chỗ khác khi bà lang đứng nhón chân nâng ngọn đèn ma lên cao nhất có thể.

Er­agon vội vàng chạy tới giữa phòng nơi bà đang đứng cùng Arya và Wyr­den. “Cái gì thế?” nó thì thầm.

“TRần nhà, Er­agon,” Arya nói nhỏ. “Nhìn trần nhà đi.”

Nó làm theo nhưng chỉ nhìn thấy những phiến đá cổ phủ rêu với rất nhiều đường rạn nứt, lạ là trần nhà vẫn chưa bị sập sau bao nhiêu năm.

Sau đó nó nhìn đi chỗ khác và thở hụt hơi.

Những đường đó không phải vết nứt mà là những chữ run được khắc sâu trong đá – nhiều hàng chữ. Chúng ngay ngắn và nhỏ với những nét sổ và góc sắc nét. Rêu phong và những vị khách của thời gi­an đã phủ kín một phần văn bản nhưng phần còn lại vẫn đọc được.

Er­agon vật lộn với những chữ rune trong­mootj lát nhưng chỉ nhận ra vài từ và những từ đó lại viết khác với cách nó viết. “Nó nói gì vậy?” nó hỏi. “Chữ người lùn à?”

“Không,” Wyr­den nói. “Đây là chữ của loài người nhưng được nói và viết từ rất lâu rồi, thuộc về một ngôn ngữ đặc biệt: kẻ cuồng tín Tosk.”

Cái tên đó khiến Er­agon giật mình. “Khi Ro­ran và tôi giải cứu Ka­tri­na, chúng tôi có nghe những thày tu dòng Hel­grind nhắc tới cuốn sách của Tosk.”

Wyr­den gật đầu. “Đó là tôn chỉ của giáo phái Hel­grind. Tosk không phải là người đầu tiên thờ phụng Hel­grind nhưng là người đầu tiên soạn luật lệ cho tín ngưỡng của họ sau đó nhiều người đã làm theo. Những người thờ phụng Hel­grind coi ông ta như người sáng lập giáo phái. Và cái này” – tiên nhân mở rộng tay – “là lược sử cuộc đời Tosk từ lúc ông ta sinh ra tới khi từ giã cõi đời: những câu chuyện thật cũng như những điều ông ta chưa từng nói với ai ngoài giáo phái.”

“Chúng ta có thể biết nhiều điều từ đây,” An­gela nói mà không rời mắt khỏi trần nhà. “Nếu như chúng ta có thời gi­an,” Er­agon ngạc nhiên khi thấy bà bị cuốn hút tới vậy.

Arya liếc nhìn bảy hành lang. “Một lúc cũng được nhưng nhanh lên.”

Trong khi An­gela và Wyr­den căng thẳng đọc, Arya đi tới một trong những cổng vòm và lầm rầm ngâm nga câu thần chú tìm đường và định vị. Khi ngâm xong, nàng ngẩng cổ đợi một lát rồi chuyển tới cổng vòm tiếp theo.

Er­agon nhìn những chữ rune thêm một lúc nữa. Sau đó nó trở lại cửa hành lang họ vừa bước vào, dựa người vào tường chờ đợi. Những phiến đá mang sự lạnh lẽo khoác lên vai nó.

Arya dừng lại trước cổng vòm thứ tư. Điệu hát dần trở nên quen thuộc của nàng tăng lên một cung bậc và nghe giống như tiếng gió thì thào.

Nhưng lại không có gì xảy ra.

Sự nhột nhạt ở bàn tay phải khiến Er­agon nhìn xuống. Một con dế lớn không có cánh bò lên găng tay nó. Con bọ thật xấu xí: đen và trông như củ hành, với những cái chân có ngạnh cùng cái đầu lớn trông như sọ người. Vỏ giáp cứng của nó bóng dầu.

Er­agon rùng mình, nổi da gà và phẩy tay để con bọ bay vào bóng tối.

Nó rơi xuống với một tiếng thụp nghe thấy rõ.

Hành lang thứ năm cũng không khả quan hơn 4 hành lang trước là mấy. Arya bước qua cánh cổng Er­agon đứng và đi tới trước cổng vòm thứ bảy.

Trước khi nàng đọc thần chú, một tiếng mèo kêu vang lên trong hành lang dường như xuất phát từ mọi hướng, sau đó là một tiếng rít và tiếng tát và cào khiến lông trên cơ thể Er­agon dựng ngược hết lên.

An­gela quay người. “Solem­bum!”

Cả bốn người như một đồng thời rút kiếm.

Er­agon lùi về giữa phòng, ánh mắt đảo từ cổng vòm này sang cổng vòm khác. ged­wëy ig­na­sia của nó ngứa ngáy như bị bọ chét cắn – một kiểu báo động vô ích vì nó không biết được nó đang gặp nguy hiểm gì và bắt nguồn từ đâu.

“Lối này,” Arya nói và đi về cánh cổng thứ bảy.

Bà lang không chịu đi. “Không!” bà thì thầm nhưng quả quyết. “Chúng ta phải giúp cậu ấy.” Er­agon để ý thấy bà cầm một thanh đoản kiếm có màu sắc lạ lùng đang phát sáng như đá quý.

Arya quắc mắt. “Nếu Murtagh biết chúng ta ở đây, chúng ta sẽ…”

Mọi chuyện xảy ra quá nhanh và im lặng nên Er­agon không thể biết rằng liệu nó có nhìn đúng hướng không: sáu cánh cửa ẩn trên tường mở ra ba hành lang mở toang, và khoảng xấp xỉ ba mươi tên mặc đồ đen với kiếm trong tay xông về phía họ.

“Let­ta!” Wyr­den hét lên và những tên trong một nhóm đụng vào nhau như thể chúng đụng phải một bức tường.

Sau đó những kẻ tấn công còn lại ngã đè lên và giờ họ không cần dùng tới phép thuật. Er­agon dễ dàng đỡ một nhát kiếm, và với một đòn đánh đảo tay nó chém bay đầu kẻ tấn công. Như những tên khác, tên này đeo khăn che mặt chỉ để lộ cặp mắt và chiếc khăn bay mất khi đầu hắn lăn lông lốc dưới đất.

Er­agon nhẹ nhõm khi thanh Bris­in­gr đẫm máu. Đã có lúc nó sợ rằng đối thủ của nó được bảo vệ bởi phép thuật và áo giáp – hoặc, tệ hơn, chúng không phải con người.

Nó đâm xiên vào ngực một kẻ khác và đang đối phó với hai kẻ khác thì một lưỡi kiếm không biết từ đâu nhằm cổ họng nó mà bay tới. Lưới phép bảo vệ đã giúp nó tránh được cái chết nhưng vì lưỡi kiếm chỉ cách cổ nó chưa đầy hai cen­timet, nó buộc phải lùi lại.

Nó ngạc nhiên khi thấy gã nó vừa đâm vẫn đứng nguyên, máu chảy ào ạt từ lỗ mà Er­agon xuyên qua.

Er­agon kinh hãi. “Chúng không cảm thấy đau,” nó hét khi đang chặn lưỡi kiếm chém tới từ ba hướng khác nhau. Nếu những người khác có nghe thấy tiếng nó, họ cũng không thể trả lời.

Nó không nói nữa mà tập trung vào những kẻ trước mặt và tin tưởng những người bạn đồng hành sẽ bọc hậu cho mình.

Er­agon chém tới chém lui thanh Bris­in­gr vào không khí như thể nó chẳng nặng hơn một cây gậy là mấy. Nếu như bình thường trong một tích tắc nó có thể giết rất nhiều tên địch nhưng giờ nó đang đụng độ những kẻ không biết đau nên nó không còn lựa chọn nào khác ngoài chặt đầu chúng, đâm xuyên tim chúng hoặc chém và kìm chân chúng cho tới khi mất máu nhiều khiến chúng mất ý thức. Nhưng những kẻ kia cứ liên tiếp tấn công nó dù cho vết thương có nặng tới đâu. Càng nhiều kẻ xông tới càng khó cho nó đỡ và đánh trả. Nó có thể không đỡ và để lá chắn bảo vệ mình nhưng việc vung thanh Bris­in­gr lên trở thành một phản ứng vô thức. Và vì nó không biết liệu lá chắn bảo vệ của nó có bị chọc thủng hay không – nếu chúng làm được điều đó, chúng sẽ giết chết nó – và nó nó sẽ còn cần tới nững lá chắn bảo vệ, vì vậy nó chiến đấu thận trọng như thể nó đang đụng độ với những kẻ có thể giết chết nó bằng một nhát chém.

Càng thêm nhiều tên lính mặc đồ đen xông ra từ cánh cửa bí mật trong hành lang. CHúng bao vây Er­agon, dùng số lượng buộc nó lùi lại. Nhữn bàn tay thò ra nhắm vào chân tay nó như muốn giữ chặt lấy nó.

“Kverst,” nó hét nên một trong mười hai từ tử thần mà Oros­mis đã dạy nó. Đúng như nó nghĩ, câu thần chú vô tác dụng: những tên lính kia được bảo vệ khỏi những đòn tấn công pháp thuật trực tiếp. Nó nhanh chóng dùng câu thần chú Murtagh đã từng sử dụng với nó: “Thrys­ta vin­dr!” Đó là một cách đánh gián tiếp vì nó không thực sự tấn công đối phương mà chỉ dùng khí nén lên người đối phương. Trong bất cứ trường hợp nào, nó cũng thành công.

Một trận gió lùa vào căn phòng, thổi bạt tóc và áo choàng của Er­agon và thổi bay tên lính gần nó nhất đụng vào những tên đồng bọn, khiến khu vực đường kính mười mét xung quanh nó sạch bách.

Nó quay người xem những người khác xoay sở ra sao. Nó không phải người đầu tiên tìm ra cách chọc thủng lưới phòng ngực của những tên lính; những tia chớp xoay tròn trên tay phải Wyr­den và bao bọc xung quanh những tên lính xấu xố đứng gần anh. Luồng năng lượng sáng lòa gần như trở thành chất lỏng khi chúng luồn lách xung quanh nạn nhân.

Nhưng càng càng nhiều tên lính xông vào phòng.

“Đường này!” Arya hét lên và lao về phía hành lang thứ bảy – nàng đã chưa kịp kiểm tra trước khi bọn lính tràn vào.

Wyr­den đi theo, Er­agon cũng vậy. An­gela khập khiễng đi cuối cùng. Máu trên vai bà đang chảy ra. Đằng sau họ, những tên lính mặc đồ đen ngần ngừ đứng lại trong phòng thêm một chốc. Sau đó, với một tiếng hét lớn, chúng đuổi theo họ.

Khi Er­agon chạy trong hành lang, nó cố gắng tìm ra câu thần chú nào đó có thể giết chết thay vì đánh ngã kẻ địch. Nó nhanh chóng tìm ra một câu và đọc ngay khi nhìn thấy kha khá tên địch.

Chúng là ai? Nó băn khoăn. Ở đây có bao nhiêu tên?

Qua lỗ hổng bên trên, nó nhìn thấy ánh sáng tím mờ nhạt. Nó vừa cảm thấy sợ hãi vì nơi bắt nguồn ánh sáng đó thì bà lang thốt lên một tiếng hét lớn sau đó là một ánh sáng vàng cam lóe qua cùng một tiếng thịch nghe ghê răng và mùi trứng thối bay lên.

Er­agon quay người quan sát xung quanh và thấy năm tên lính mang bà lang đi qua cánh cửa trong hành lang. “Không!” Er­agon hét lên nhưng trước khi nó ngậm miệng, cánh cửa đã đóng lại lặng lẽ như khi mở ra, và bức tường lại một lần nữa phẳng tới hoàn hảo.

“Bris­in­gr!” nó hét lên và thanh kiếm của nó cháy rừng rực. Nó đặt đầu mũi kiếm lên bức tường và cố ấn nó xuyên qua đá, cắt mở cánh cửa. Nhưng vì phiến đá dày và khó chảy nên nó sẽ tốn rất nhiều năng lượng vô ích.

Sau đó Arya xuất hiện bên cạnh nó và đặt tay lên chỗ từng là cánh cửa rồi lẩm bẩm, “Lá­drin.” Mở ra. Cánh cửa vẫn đóng nhưng Er­agon xấu hổ vì nó chưa từng nghĩ tới dùng pháp thuật.

Những kẻ địch đang đuổi theo sát nụt nên nó và Arya không còn lựa chọn nào khác là quay người nghênh chiến. Er­agon muốn dùng câu thần chú nó vừa nghĩ ra nhưng hành lang chỉ vừa cho hai người một lúc; nó sẽ không thể giết hết những tên còn lại khi chúng khuất dạng. Tốt nhất là để câu thần chú đó làm vũ khí bí mật.

Nó và Arya chặt đầu hai tên xông tới đầu tiên sau đó tấn công cặp tiếp theo khi chúng bước qua xác hai tên đồng bọn. Họ nhanh chóng chém chết sáu tên nhưng dường như cuộc chiến không thể nào đi tới hồi kết.

“Qua đằng đó!” Wyr­den hô.

“Stenr slau­ta!” Arya hét vang và trong suốt hành lang – kéo dài vài mét kể từ chỗ nàng đứng – đá trên tường rơi xuống. Trận mưa đã khiến những tên mặc đồ đen thu mình chùn bước và hơn một tên bị què, ngã xuống đất.

Er­agon và Arya cùng nhau chạy theo Wyr­den lúc này đang chạy về phía cửa cuối hành lang. Tiên nhân chỉ còn cách cửa ba mươi mét.

Rồi mười mét.

Rồi năm mét…

Đột nhiên một trận mưa mũi lao bằng thạch anh tím bay tới từ những lỗ hổng trên sàn nhà và trần nhà, khiến Wyr­den kẹt cứng ở giữa. Tiên nhân dường như trôi trong hành lang, những mũi lao chỉ còn cách da thịt anh một vài cen­timet vì lưới phòng hộ của anh bảo vệ anh. Sau đó một tiếng lách tách vang lên khi năng lượng phóng qua mỗi ngọn lao và những đầu lao sắc như kim tỏa sáng rực rỡ tới đau mắt. Một tiếng rắc vang lên và chúng xuyên qua mục tiêu.

Wyr­den kêu lên và khuỵu xuống, ngọn đèn ma của anh tắt lịm và anh không di chuyển nổi nữa.

Er­agon không tin vào mắt mình khi dừng lại trước trận địa lao. Với tất cả những kinh nghiệm chiến trận, nó chưa bao giờ chứng kiến cái chết của một tiên nhân. Wyr­den và Blöd­hgarm cùng những tiên nhân bảo vệ nó đều là những người ưu tú. Er­agon cứ nghĩ họ chỉ ngã xuống khi đối đầu với Gal­ba­torix hoặc Murtagh.

Arya cũng choáng váng y như nó. Nhưng cô phục hồi tinh thần nhanh hơn. “Er­agon,” cô vội vã nói. “dùng thanh Bris­in­gr mở đường đi.”

Nó hiểu. Thanh kiếm của nó, không giống của nàng, miễn dịch với thứ ma thuật của những mũi giáo, dù cho đó là ma thuật gì đi chăng nữa.

Nó kéo tay về phía sau và vung mạnh nhất có thể. Nửa tá lao gãy vụn dưới lưỡi kiếm Bris­in­gr. Đá thạch anh kêu vang như tiếng chuông khi vỡ vụn và khi đụng mặt đất chúng phát ra tiếng leng keng như băng đá.

Er­agon tiếp tục đi về phía bên phải hành lang và không chạm vào mũi lao đẫm máu đang găm trên mình Wyr­den. Nó vung kiếm hết lần này tới lần khác để mở đường đi qua rừng lao đang bay vun vút. Với mỗi nhát chém, nó làm cho nhiều mảnh thạch anh bay lượn trong không khí. Một mảnh sượt qua má trái nó khiến nó nhăn nhó ngạc nhiên và lo rằng lưới bảo vệ của nó đã bị vô hiệu hóa.

Những mạnh vụn của những mũi lao vỡ khiến nó phải di chuyển cẩn trọng. Những mảnh vụn bên dưới có thể dễ dàng làm rách giày nó trong những những mảnh đang lao vun vút bên trên đe dọa đầu và cổ nó. Nhưng nó vẫn xoay xở tránh, duy chỉ dính một vết cắt dài trên bắp chân phải khiến nó đau nhói mỗi lần dồn trọng lượng lên chân.

Những tên lính mặc đồ đen gần như tóm được họ khi Er­agon giúp Arya vượt qua những mũi lao cuối cùng. Một khi vượt qua, họ chạy qua lỗ hỏng và đi vào vùng ánh sáng tím. Er­agon quay người lại đối chọi với tụi lính, giết tới những tên cuối cùng để báo thù cho Wyr­den.

Ở phía bên kia lỗ hổng là một căn phòng xây nặng nề và tối om khiến Er­agon nghĩ tới những hang động bên dưới Tron­jheim. Những hoa văn hình tròn lớn in lên đá – đá hoa cương , đá can-​xê-​đoan và đá hê-​ma-​tít được đánh bóng - ở giữa phòng. Xung quanh đó là những khối đá thạch anh thô to bằng cổ tay lẫn trong những cột bạc. Những phiến đá tím phát ra ánh sáng mờ mờ - đó chính là nguồn sáng họ nhìn thấy trong hành lang. Ngang qua những phiến đá nền in hoa văn, ở bức tường bên kia là một bàn thờ đen lớn phủ vàng và khăn màu đỏ thẫm. Những cây cột và chúc đài đặt hai bên bàn thờ, bên cạnh đó là hai cánh cửa đóng kín ở hai bên.

Đó là tất cả những gì Er­agon nhìn thấy khi tiến nhanh vào phòng. Chỉ trong một tích tắc nó đã lao tới vòng tròn đá thạch anh và ban thờ. Nó cố dừng lại, cố đổi hướng nhưng nó đang di chuyển quá nhanh.

Nó tuyệt vọng làm một điều duy nhất: nhảy lên trên ban thờ và hy vọng với một cú nhảy nó có thể tránh chướng ngại vật trước mặt.

Khi đi qua những phiến đá thạch anh gần nhất, cảm giác cuối cùng của nó là hối hận và suy nghĩ cuối cùng của nó là về Saphi­ra.

28. TẾ THẦN

Điều đầu tiên Er­agon để ý là sự khác biệt về màu sắc. Phiến đá trên trần nhà dày hơn. Những chi tiết lúc trước có vẻ mờ nhạt thì giờ sáng sủa hơn và rõ nét hơn và những thứ nhấp nhô giờ trở nên bằng phẳng. Bên dưới nó, vẻ sa hoa của vòng tròn đá hóa văn càng trở nên rõ nét hơn.

Nó phải mất một lúc mới hiểu vì sao mọi sự thay đổi: ngọn đèn ma của Arya không còn chiếu sáng cho căn phòng. Thay vào đó, ánh sáng phát ra từ những viên đá pha lê sáng lập lòe và những ngọn nến trên chúc đài.

Tới lúc đó nói mới nhận ra có thứ gì đó tọng vô mồm nó, khiến quai hàm nó mở rộng đau đớn và nó bị trói treo tay lên xà nhà. Nó cố cử động nhưng cổ chân bị cùm xuống sàn nhà.

Khi vặn mình, nó thấy Arya ở bên cạnh, cũng đang vặn vẹo y như nó. Nàng cũng bị nhét giẻ vào miệng.

Nàng đã tỉnh và đang quan sát nó và nó nhận ra nàng an tâm khi thấy nó tỉnh lại.

Sao nàng lại không trốn? Nó tự hỏi.Rồi: Chuyện gì đã xảy ra? Nó suy nghĩ chậm chạp và kém nhanh nhạy như thể nó vừa uống rượu say tới không biết trời đất.

Nó nhìn xuống thấy giáp và vũ khí đã bị lấy mất chỉ để lại giáp chân. Thắt lưng của Be­loth Thông thái đã không còn cũng như vòng cổ người lùn tặng cho nó để tránh có kẻ bói cầu nó.

NHìn lên, nó thấy chiếc nhẫn của thần tiên Aren cũng bị tháo đi.

Nó thấy hốt hoảng. Sau đó nó tự an ủi mình rằng nó vẫn chưa hết hy vọng vì nó còn dùng được phép thuật. Vì bị nhét giẻ vào mồm nên nó không thể đọc thần chú, cách đọc thầm này còn nguy hiểm hơn – vì nếu tư tưởng của nó bị phân tán, nó có thể vô tình chọn sai từ - nhưng không nguy hiểm bằng việc dùng ngôn ngữ cổ mà thiếu hiểu biết. Nó chỉ mất một chút sức lực để giải phóng mình vì thế nó tự tin mình có thể làm được mà không gặp mấy khó khăn.

Nó nhắm mắt, dồn năng lượng để chuẩn bị khởi sự. Nhưng nó nghe tiếng Arya giật dây xích và gây ra những tiếng động không rõ ràng.

Nó liếc sang thấy nàng lắc đầu với nó. Nó nhướn mày ý hỏi: cái gì thế? Nhưng nàng không thể làm gì hơn là gầm gừ gì đó trong cổ và tiếp tục lắc đầu.

Er­agon thất vọng phóng tư tưởng về phía nàng – dù nó cũng lo có ai sẽ đọc tư tưởng của nó – nhưng không, nó chỉ cảm nhận thấy áp lực nhẹ nhàng xung quanh như có ai bọc len quanh tư tưởng nó.

Nó càng hoảng hốt hơn dù cố kiềm chế cảm xúc.

Nó không bị say thuốc. Nó dám chắc. Nhưng nó khôn biết còn cách nào nữa khiến nó không chạm tới tư tưởng của Arya được. Nếu là phép thuật thì đây không phải dạng phép thuật nó biết qua.

Nó và Arya nhìn nhau trong chốc lát; sau đó nó gì đó chuyển động khiến Er­agon nhìn lên. Nó thấy máu chảy xuống từ chỗ xích tay, máu nàng chảy ra khắp tay.

Nó tức giận. Nó cầm sợi dây xích trên đầu mà giật. Sợi dây khá chắc nhưng nó không bỏ cuộc. Trong cơn tức giận, nó cứ kéo và kéo không màng tới nguy hiểm cho bản thân.

Cuối cùng nó dừng lại và yếu ớt treo tại chỗ vì máu nóng rịn ra từ cổ tay chảy xuống cổ và vai nó.

Cố thoát, nó thu kết năng lượng trong cơ thể và nhắm về phía cài cùm mà hô thầm, Kverst malmr du huil­drs edtha, mar frë­ma né thön eka threy­ja!

Nó thét qua lớp giẻ vì từng thớ thịt trên cơ thể đau rần. Nó không thể tập trung nổi nên dừng câu thần chú lại.

Cơn đau ngay lập tức biến mất nhưng khiến nó khó thở, tim đập mạnh như nó vừa nhảy từ vách núi xuống vậy. Nỗi đau này giống với nỗi đau nó từng chịu đừng trước khi nhưng con rồng ma chữa trị vết sẹo trên lưng nó trong Lễ hội Agaetí Blödhren.

Khi từ từ phục hồi, nó nhận được ánh mắt quan tâm từ Arya. Chắc nàng cũng đã thử rồi. Rồi: Sao lại có thể? Cả hai đang bị trói và không cách nào thoát, Wyr­den chết, còn bà lang bị bắt chưa biết sống chết ra sao và Solem­bum thì có lẽ đang nằm chịu đau đớn ở nơi nào đó trong mê cùng ngầm, nếu như những tên lính mặc đồ đen chưa giết nó. Er­agon không thể hiểu nổi. Nó, Arya, Wyr­den và An­gela là những người có khả năng và nguy hiểm nhất tại Ala­gaësia. Nhưng giờ thì họ thất bại, còn sự sống chết của nó và Arya nằm trong tay kẻ thù.

Nếu chúng ta không thể thoát… Nó bỏ ngay ý nghĩ đó đi. Hơn lúc nào hết, nó muốn liên lạc được với Saphi­ra, chỉ để chắc rằng cô em nó vẫn an toàn và để được an ủi. Dù có Arya ở bên nhưng nó vẫn thấy cực kỳ cô đơn và căng thẳng.

Dù cổ tay đau đớn nhưng nó vẫn lấy hết sức níu dây xích xuống vì nghĩ nếu nó giữ xích đủ lâu, nó sẽ lỏng ra. Nó cố vặn dây xích vì cho rằng làm vậy sẽ dễ bẻ gẫy hơn nhưng cùm quanh chân nó khiến nó không thể.

Cổ tay quá đau khiến nó dừng lại. Cơn đau như lửa cháy và nó sợ nó sẽ cắt vào da thịt mình mất nếu tiếp tục. Ngoài ra nó sợ mất máu vì vết thương đang chảy máu nhiều và nó cũng không biết nó và Arya sẽ bị treo ở đây bao lâu nữa.

Nó không thể biết giờ là mấy giờ nhưng nó đoán đã bị treo ở đây cùng lắm là vài tiếng, vì nó không thấy đói, khát hay muốn giải quyết nhu cầu cá nhân. Nhưng càng lâu nó sẽ càng thấy khó chịu.

Cơn đau ở cổ tay khiến mỗi phút đối với Er­agon dài vô tận. THi thoảng, nó và Arya nhìn nhau và cố trao đổi tư tưởng, nhưng không có một lần thành công. Có hai lần khi cơn đau dịu bớt, nó cố níu dây xích xuống, nhưng vẫn vô vọng. Phần lớn thời gi­an, nó và Arya phải chịu đựng.

SAu đó, khi Er­agon bắt đầu tự hỏi liệu có ai sẽ tới không, nó nghe có tiếng chuông sắt kêu rổn rảng vang lên từ nơi nào đó trong đường hầm. Cánh cửa hai bên bệ thờ bật mở. Những cơ bắp trên người Er­agon căng ra vì đề phòng. Nó và Arya nhìn chăm chăm vào cánh cửa.

Một phút dài như vô tận trôi qua.

Tiếng chuông lại rổn rảng vang lên, khiến cả căn phòng rộn lên những tiếng vọng giận dữ. Ba thầy tu bước qua cửa: trẻ tuổi mặc đồ vàng kim, mỗi người cầm theo một khung kim loại gắn chuông. Đằng sau họ là hai mươi tư người đàn ông và phụ nữ, không ai trong số đó có đủ chân tay. Không giống ba người đi trước, nhóm tật nguyền đằng sau mặc áo choàng bằng da đen, cắt may phù hợp với vẻ ngoài xấu xí của từng người. Đi cuối cùng là sáu tên nô lê da bóng dầu khiêng một quan tài đặt một cơ thể không chân, không tay, không răng và dường như không xác định được cả giới tính: Giám mục của Hel­grind. Cái đầu nó nhô cao khoảng một mét, trông sinh vật trông còn dị dạng hơn.

Các thầy tu và những kẻ sùng đạo tự ổn định vị trí xung quanh vòng tròn trong khi những tên nô lệ nhẹ nhàng đặt cái quan tài lên ban thờ ở đầu gi­an phòng. Sau đó, ba người thanh niên trẻ tuổi, đẹp trai và không có một khiếm khuyết rung chuông lần nữa, tạo nên những hợp âm chói tai. Tất cả những thầy tu mặc áo da đen tụng nhanh vài từ mà Er­agon không nghe rõ, mặc dù nó đoán là họ đang cầu nguyện. Giữa những từ ngữ liến thoắng vang lên, nó nghe được ba cái tên của ba người sáng lập nên Hel­grind: Gorm, Il­da và Fell Angvara.

Giám mục nhìn nó và Arya bằng con mắt như đá. “Chào mừng tới đại sảnh của Tosk,” nó nói bằng cái miệng héo quắt. “Lần này là lần thứ hai ngươi xâm nhập cấm địa của chúng ta rồi đó Kỵ sĩ Rồng. Ngươi sẽ không có cơ hội làm việc đó thêm lần nữa… Gal­ba­torix muốn chúng ta tha mạng cho ngươi và đưa ngươi về Urû’baen. Hắn nghĩ có thể khiến ngươi phục vụ cho người. Hắn muốn phục sinh thời đại của các Kỵ sĩ và loài rồng. Ta đã nói giấc mơ của hắn thật hão huyền. Ngươi quá nguy hiểm và chúng ta không muốn loài rồng tái sinh. Mọi người nghĩ chúng ta thờ phụng Hel­grind. Đó chỉ là lời nói dối để che đậy sự thực bên trong mà thôi. Chúng ta không tôn thờ Hel­grind – mà là Thần Tối Cổ, người đã tạo nên tôn giáo chúng ta và là người chúng ta nguyện hiến dâng máu và da thịt. Ra’zac là thần của chúng ta đó Kỵ sĩ Rồng – Ra’zac và Lethrbla­ka.”

Sự sợ hãi lan truyền trong người Er­agon như một căn bệnh.

Giám mục phun phì phì vào mặt nó, nước đãi nhễu ra từ môi dưới. “Tội ác của ngươi không thể nào dung thứ nổi. Ngươi giết thần linh của chúng ta, ngươi và con rồng đáng nguyền rủa của ngươi. Vì thế, ngươi phải chết.”

Er­agon quẫy đạp và hét lên qua lớp giẻ. Nếu nó có thể nói, nó có thể trì hoãn bằng cách nói những lời cuối cùng của Ra’zac, hoặc giả như đe dọa chúng rằng Saphi­ra sẽ trả thù. Nhưng những kẻ kia đâu có ý định lấy giẻ ra.

Giám mục nở một nụ cười xấu xí, khoe hết phần lợi xám ngoét. “Ngươi sẽ không trốn nổi đâu, Kỵ sĩ. Những viên pha lê ở đây đã được phù phép để nhốt bất cứ ai xâm nhập cấm địa hoặc ăn cắp bảo vật của chúng ta, kể cả người đó có là ngươi. Hay những kẻ giải cứu ngươi. Hai người đồng hành của ngươi đã chết – đúng, kể cả mụ phù thủy thích chĩa mũi vào chuyện người khác – và Murtagh không hề biết ngươi ở đây. Hôm nay sẽ là ngày giỗ của ngươi, Er­agon Khắc tinh của Tà thần.” Sau đó Giám mục nghiêng đồi huýt sáo nghe ghê rợn.

Từ trong cánh cửa tối ở bên trái điện thờ xuất hiện bốn tên nô lệ ngực trần. Chung khiêng trên vai một tấm ván có hai hình tròn lồi lên ở giữa. Bên trong phần lồi lên và hai vật hình ô van dài khoảng 50 cm dày 15cm. Những vật đó có màu đen xanh và lỗ chỗ như sa thạch.

Đối với Er­agon thời gi­an trôi rất chậm. Không thể nào…, nó nghĩ. Quả trứng của Saphi­ra trơn mịn nhưng có vân như đá hoa cương. Dù vật này có là gì thì chúng cũng không phải trứng rồng. Nhưng vì không phải nên nó càng sợ hơn.

“Vì ngươi giết Thần Tối Cổ,” Giám mục nói, “ngươi phải trở thành món ăn để người hồi sinh. Đáng ra ngươi không xứng hưởng sự vinh hạnh thế này, nhưng làm vậy sẽ khiến Thần Tối Cổ vui lòng và chúng ta sẵn sàng làm mọi thứ miễn là ngài hài lòng. Chúng ta là những bầy tôi trung thành, còn các ngài là những chủ nhân hà khắc và không bao giờ thay đổi: một vị thần ba mặt – thợ săn người, kẻ ăn xác thịt và kẻ uống máu. Chúng ta hiến dâng thân xác để mong xóa bỏ nhục dục trên đời. Chúng con làm theo Tosk.”

Những thầy tu mặc đồ đen đồng thanh nhắc lại, “Chúng con làm theo Tosk.”

Giám mục gật đầu. “Thần Tối Cổ luôn luôn làm tổ ở Hel­grind nhưng tới thời cụ ta, Gal­ba­torix đã ăn trộm trứng và giết những Ra’zac non và buộc các ngài thề trung thành nếu không sẽ khiến Ra’zac tuyệt diệt. Hắn đào rỗng các hang động và đường ngầm các ngài từng dùng và hắn gi­ao cho các thầy tu chúng tôi quản lý trứng của các ngài – trông nom cho tới khi nào hắn cần các ngài. Chúng ta đã làm vậy và làm đúng phận sự.”

“Nhưng chúng ta vẫn mong tới ngày Gal­ba­torix bị hạ bệ để không ai được sai khiến Thần Tối Cổ nữa. Thật ghê tởm.” Khi sinh vật dị dạng liếm môi, Er­agon thấy rằng nó mất mất một đoạn lưỡi: bị dao khoét mất. “Chúng ta cũng mong cả ngươi cũng biến đi, Kỵ sĩ. Rồng là Kẻ thù không đội trời chung của Thần tối cổ. Không có chúng, không có Gal­ba­torix, không ai có thể ngăn Thần Tối cổ sinh sống ở đâu và như thế nào.”

Trong khi đó, bốn tên nô lệ mang tấm ván tiến lên và nhẹ nhàng hạ nó xuống hình tròn đá hoa văn, cách Er­agon và Arya vài bước. Khi làm xong, chúng cúi đầu và lùi lại phía cánh cửa mà chúng vừa từ đó đi tới.

“AI muốn hiến dâng từng mẩu xương tới thần thánh?” Giám mục hỏi. “Mọi người, hãy tụ lại quanh đây, vì hôm nay các người sẽ nhận được lời chúc phúc của Thần Tối Cổ, và nhờ sự hy sinh này, tội ác của các ngươi sẽ được xóa sạch và cuộc đời sau của các ngươi sẽ sạch sẽ như một đứa bé mới chào đời.”

Sau đó Giám mục và những người đi theo ngẩng đầu nhìn trần nhà và bắt đầu ngâm nga một bài hát có gi­ai điệu kỳ lạ mà Er­agon khó lòng hiểu nổi. Nó tự hỏi liệu đây có phải tiếng Tosk không. Thi thoảng nó nghe thấy một vài từ nó nghĩ là ngôn ngữ cổ - dù phát âm không đúng và bị dùng sai – nhưng vẫn là ngôn ngữ cổ.

Sau khi bài hát kết thúc với câu, “Chúng con làm theo Tosk,” ba tên thầy tu áo vàng rung chuông và những tên khác la hét hưởng ứng, to tới mức có thể làm sập trần nhà.

Vừa lắc xuông, ba tên kia vừa lùi khỏi phòng. Hai mươi tư thầy tu còn lại tiếng tới gần quan tài, cạnh chủ nhân què quặt đang được sáu tên nô lê đen bóng khiêng trên vai của chúng.

Cánh cửa đóng lại với cái sầm, và Er­agon nghe có tiếng thanh kim loại nặng nề chèn ngang qua.

Nó quay sang nhìn Arya. Trong mắt cô dâng lên nỗi sợ hãi và nó biết cô cũng không tìm ra cách nào để trốn thoát.

Nó lại nhìn lên và kéo dây xích xuống bằng hết sức bình sinh. Vết thương trên cổ tay nó lại rách thêm và chảy máu tong tong.

Phía trước họ, quả trứng bên trái bắt đầu rung lắc nhẹ nhè, rồi xuất hiện một vết nứt như thể bị đập bằng một cái búa nhỏ.

Er­agon thấy hoảng hốt. Nó chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bị Ra’zac ăn thịt. Nó như được tiếp thêm sức lực để dằng sợi xích và cắn chắt nùi giẻ trong miệng để giảm bớt cơn đau trên tay. Nó đau nảy đom đóm mắt.

Bên cạnh nó, Arya đang kéo giật, cả hai đều đang chiến đấu trong sự lặng lẽ chết người để tự cứu mình.

Những tiếng lách tách trên quả trứng xanh đen vẫn đều đều vang lên.

Không xong rồi, Er­agon nghĩ. Xích quá chắc. Ngay khi chấp nhận sự thật, nó cũng thấy rõ nó không còn có thể bị thương nặng hơn bây giờ. Vấn đề chỉ là nó chọn bị thương hay bị làm cho bị thương thôi. Dù gì mình cũng phải cứu Arya.

Nó quang sát cái cùm trên cổ tay. Nếu mình làm gẫy ngón tay cái, mình sẽ cho tay ra được. Sau đó ít nhất mình có thể chiến đấu. Có thể mình sẽ dùng một mảnh vỏ trứng Ra’zac và dùng nó làm dao. Có thứ gì đó để cắt, nó có thể giải phóng cho chân mình dù ý nghĩ đó có kinh khủng nhưng nó không quan tâm. Tất cả những gì mình cần làm là bước ra ngoài vòng tròn đá. Sau đó nó sẽ có thể sử dụng phép thuật để giảm đau và ngừng chảy máu. Nó suy nghĩ chỉ trong vài phút nhưng đó là những giây phút dài nhất cuộc đời nó.

Nó hít một hơi để chuẩn bị Tay trái trước.

Trước khi nó khởi sự thì Arya đã hét lên.

Nó quay sang nhìn và hét không thành tiếng khi thấy những ngón tay phải của nàng. Da nàng dồn lên như găng tay tới phần móng và đoạn xương trắng ơn nhô ra khỏi những thớ thịt đỏ thẫm. Arya co người và dường như ngất đi trong chốc lát; sau đó nàng tỉnh lại và kéo tay ra. Er­agon hét lên cùng nàng khi tay nàng trượt ra khỏi cái cùm khiến da thịt nàng rách toạc. Nàng hạ tay xuống khiến nó không nhìn thấy nữa nhưng vẫn thấy máu nàng nhỏ xuống dưới chân.

Nước mắt làm mờ mắt nó. Nó hét gọi tên nàng qua lớp giẻ nhưng hình như nàng không nghe thấy.

Khi nàng ôm lấy người để lặp lại quá trình đó, cánh cửa bên phải bật mở và một trong những thầy tu áo vàng bước vào. Arya khựng lại khi nhìn thấy hắn dù Er­agon biết nàng có thể nhẹ nhàng kéo tay ra khỏi chiếc vòng kia mà hắn không biết.

Gã thanh niên ngờ vực nhìn Arya rồi cẩn trọng bước vào trung tâm, ánh mắt lo sợ nhìn quả trứng đang rung lắc. Gã này gầy gò, mắt to và vẻ ngoài cân đôi; rõ ràng hắn có được vị trí hiện tại là nhờ vào vẻ bề ngoài.

“Đây,” hắn thì thầm. “Tôi mang những thứ này tới.” Hắn lấy từ trong áo choàng ra một cái đục, cái búa cán gỗ và một cái giũa. “Nếu tôi giúp, các người phải mang tôi đi theo. Tôi không thể ở đây lâu hơn. Tôi ghét nó. Thật kinh khủng! Hứa là các người sẽ mang tôi theo!”

Trước khi hắn nói xong, Er­agon đã gật đầu đồng ý. Nhưng khi hắn tiến về phía nó, Er­agon ừm ừm trong cổ và đánh mắt về phía Arya. Tên thầy tu tập sự phải mất một lúc mới hiểu.

“À, vâng,” gã thanh niên lầm bầm rồi đi tới chỗ Arya. Er­agon nghiến răng tức giận vì sự chậm chạp của gã.

Tiếng sột soạt từ cái giũa nhanh chóng nhấn chìm tiếng lách tách của vỏ trứng.

Er­agon quan sát cứu – tinh – bất – ngờ của họ cưa xích trên tay trái Arya. Đồ ngu, cưa đúng một mắt thôi chứ!” Er­agon giận dữ. Hình như hắn chưa bao giờ dùng giũa và Er­agon còn nghi hắn trói gà không chặt chứ nói chi cưa một mẩu kim loại con con.

Arya bị treo lơ lửng khi tên thầy tu trẻ tiến hành công việc, mái tóc dài của nàng phủ lên mặt. Nàng run lên và máu chảy không ngừng.

Er­agon mất hết tinh thần vì cái giũa không để lại một dấu vết nhỏ trên sợi xích. Chắc chắn thứ ma thuật yểm trên kim loại quá mạnh đối với một thứ đơn giản như cây giũa.

Gã thanh niên thở hổn hển, tức giận vì công việc không tới đâu. Sau đó hắn dừng lại, vuốt lông mày, rồi nhăn tít trán lại, tấn công sợi xích lần nữa trong khi đầu gối run rẩy, ngực phập phồng và tay áo phập phồng điên cuồng.

Cậu không nhận ra cậu không làm được gì sao? Er­agon nghĩ. Thử dùng đục cái cùm trên chân nàng xem nào.

Gã thanh niên vẫn tiếp tục công việc.

Một tiếng rắc sắc lạnh vang lên khắp căn phòng. Er­agon thấy một đường rãnh nhỏ xuất hiện trên đầu quả trứng đen rỗ. Đường rãnh lan ra thành một mạng nhện.

Sau đó quả trứng thứ hai bắt đầu lắc lư, vang lên những tiếng lách tách, hợp âm với quả trứng thứ nhất thành một gi­ai điệu khiến người khác bực mình.

Gã thanh niên trắng bệch, làm rơi cái giũa và lùi khỏi Arya. Gã lắc đầu, “Tôi xin lỗi… tôi xin lỗi. Quá muộn rồi.” Mặt hắn nhăn nhó và nước mắt rơi xuống. “Tôi xin lỗi.”

Er­agon hoảng sợ hơn khi hắn rút một con dao khỏi áo choàng. “Tôi không thể làm gì nữa,” hắn nói như thể nói với chính mình. “Không một điều gì…” Hắn sụt sịt và di chuyển về phía Er­agon. “Đây là điều tốt nhất.”

Khi hắn tiến tới gần, Er­agon vặn dây xích cố rút tay ra khỏi cùm. Nhưng cùm quá chặt và nó chỉ tổ làm rách da cổ tay.

“Tôi xin lỗi,” gã thì thầm khi dừng lại trước Er­agon và rút con dao ra.

Không! Er­agon thầm hét lên.

Một đoạn đá thạch anh bay ra từ đường hầm Er­agon và Arya bước vào. Nó đập vào gáy gã thầy tu khiến hắn ngã lên người Er­agon. Er­agon lùi lại vì cảm giác cạnh dao sượt qua lồng ngực. Rồi hắn ngã lăn ra đất, bất tỉnh.

Vì trong đường hầm xuất hiện một bóng hình nhỏ thó đi khập khiễng. Er­agon nhìn chăm chú và khi bóng người đó bước vào bóng tối, Er­agon nhận ra Solem­bum.

Er­agon thấy an tâm.

Con mèo ma ở dạng người. Cậu ta chỉ mặc độc chiếc khố rách trông như xé từ quần áo kẻ tấn công. Những sợi lông sắc như kim gần như dựng đứng lên cả cu cậu đang nhe răng ra. Trên tay mèo ma có vài vết cắt, tai trái lủng lẳng một bên đầu và mất một mảng da đầu. Cậu mang theo một cn dao dính máu.

Đi theo sau vài bước là bà lang An­gela.

29. NHỮNG KẺ NGOẠI ĐẠO ĐÀO TẨU

“Đúng là đồ ngu,” An­gela tuyên bố khi bà bước tới rìa hình tròn hoa văn. Bà bị chảy máu từ vài vết cắt và vết xước, quần áo dính nhiều máu khô hơn nhưng Er­agon không nghĩ đó là máu của bà. Hơn nữa, trông bà vẫn mảy may vô sự. “Tất cả những gì hắn phải làm là –thế này!”

Bà vung kiếm lên và chém xuống một trong những cột đá thạch anh hình thành vòng tròn. Viên pha lên vỡ tan với một tiếng rắc kỳ lạ, như khi bị giật tĩnh điện và ánh sáng từ đó chập chờn rồi biến mất. Những tảng đá khác vẫn sáng.

An­gela không dừng lại. Bà tiến tới tảng đá thạch anh bên cạnh chém vỡ nó, hết cái này tới cái khác.

Chưa bao giờ trong đời Er­agon lại thấy hạnh phúc khi nhìn thấy người khác như lúc này.

Nó vừa nhìn bà lang vừa nhìn vết nứt loang rộng trên đỉnh quả trứng. Ra’zac sắp ra được, vì nó đang kêu chói lói và mổ vào vỏ trứng mạnh hơn. Giữa những mảnh vỏ trứng, Er­agon thấy lớp màng trắng dày và cái đầu nhọn của Ra’zac đang đập một cách điên cuồng vào vỏ trứng.

Nhanh lên, nhanh lên, Er­agon nghĩ khi lỗ hổng to bằng cỡ bàn tay nó và càng nhiều vỏ trứng rơi xuống sàn nhà nghe như tiếng đĩa bằng đất nung rơi xuống.

Lớp màng rách ra và con Ra’zac non chui đầu ra khỏi quả trứng để lộ ra cái lưỡi tim tím có gai khi kêu ré lên tiếng kêu chiến thắng. Chất nhờn nhễu xuống từ mai nó và mùi nấm mốc bay nồng nặc trong phòng.

Con Ra’zac lại rít lên rồi cố chui hẳn ra khỏi vỏ trứng. Nó lôi một bàn tay đầy móng vuốt ra, nhưng lại làm đổ quả trứng nghiêng sang một bên khiến chất lỏng vàng đặc quánh chảy ra hình tròn họa tiết. Con non kệch cỡm đó nằm im một lúc vì choáng váng. Sau đó nó quẫy đạp đứng lên, xoay tròn như một con sâu hoảng loạn.

Er­agon nhìn mà sợ hãi nhưng thấy thích thú.

Ngực Ra’zac chia thành từng rãnh sâu nhô lên trông giống như xương sườn mọc bên ngoài cơ thể. Tứ chi của sinh vật gầy và có bướu, trông như nhưng cái que còn phần eo bé hơn so với loài người. Chân nó có thêm khớp phía sau mà Er­agon chưa bao giờ nhìn thấy vì giờ con Ra’zac non chưa đi đứng vững vàng. LỚp mai của nó mềm và mỏng, không giống những Ra’zac trưởng thành mà Er­agon từng đụng độ. Theo thời gi­an nó sẽ cứng lên thôi.

Ra’zac nghiêng đầu – đôi mắt không con ngươi to thô lố của nó nhìn về phía ánh sáng – và kêu ríu rít như phát hiện ra cái gì đó hay ho. Nó bước một bước về phía Arya… và một bước nữa… rồi thêm bước nữa, cái mào của nó rẽ ra khi vươn tới vũng máu dưới chân nàng.

Er­agon hét ú ớ mong đánh lạc hướng sinh vật nhưng Ra’zac không thèm nhìn nó.

“Xong!” An­gela reo lên khi đập vỡ tảng pha lê cuối cùng.

Dù những mảnh vụn đá thạch anh rải rác trên nền nhà nhưng Sole­bum vẫn nhào tới con Ra’zac. Hình dáng con mèo ma nhạt nhòa trong không khí – đầu rung lên – chân thu ngắn lại, lông dựng đứng – và nó hạ xuống bằng cả bốn chân trong hình dáng động vật.

Con Ra’zac rít lên và cào Sole­mum nhưng con mèo ma tránh được và nhanh như chớp, đánh gẫy cổ con Ra’zac bằng bàn chân to lớn.

Cổ Ra’zac gẫy cái rắc. Sinh vật nằm lăn ra đất nơi nó vừa đi loạng choạng vài phút trước.

Solem­bum phun phì phì, một bên tai lành lặn ép sát vào đầu; sau đó cậu ta giật cái khổ treo quanh hông và ngồi xuống chờ đợi quả trứng còn lại.

“Cô xem cô đã làm gì bản thân mình rồi?” An­gela nói khi vội vã chạy lại với Arya. Arya yếu ớt ngước lên nhưng không định trả lời.

Với ba nhát chém, bà lang tháo cái cùm trên tay Arya ra như thể nó là pho mát không bằng.

Arya ngã quỵ xuống và ấn bàn tay bị thương vào bụng. Cô dùng tay còn lại gỡ giẻ ra.

Cái đau cháy bỏng trên vai Er­agon biến mất khi An­gela thả nó ra để nó hạ tay xuống. Nó lôi giẻ ra và hoảng hốt nối, “Chúng cháu tưởng bà đã chết.”

“Nếu muốn giết ta chúng phải cố gắng nhiều hơn. Trong số đó chủ yếu toàn mấy tay trộm vặt ấy mà.”

Arya vẫn ngồi và lẩm nhẩm thầm chú trị thương. Những từ ngữ của cô nhẹ nhàng và bay bổng nhưng không hề có chút sai sót.

Trong khi cô chữa trị vết thương trên cánh tay, Er­agon chữa lành vết cắt trên lồng ngực và vết thương trên cổ tay. Sau đó nó nhìn Solem­bum và nói, “Tránh ra.”

Con ma mèo vẫy đuôi làm theo những gì Er­agon bảo.

Er­agon giơ tay phải lên và nói, “Bris­in­gr!”

Một cột lửa xanh lơ bốc lên từ quả trứng thứ hai. Sinh vật bên trong đó gào thét: những âm thanh nghe kinh khủng và không bình thường, giống như tiếng cào lên kim loại hơn là tiếng gào thét của con người hay động vật.

Er­agon nhíu mắt lại vì nóng khi hài lòng quan sát quả trứng bi đốt cháy. Mong đây là con cuối cùng. Khi tiếng thét biến mất, nó dập lửa. Sau đó là một khoảng im lặng bất thường vì Arya đã kết thúc câu thần chú trị thương.

An­gela là người phá vỡ sự im lặng. BÀ đến bên Solem­bum lẩm nhẩm làm phép bằng ngôn ngữ cổ để làm lành cái tai và những vết thương khác.

Er­agon quỳ xuống cạnh Arya và đặt tay lên vai nàng. Nàng nhìn nó rồi thả lỏng người cho nó nhìn thấy tay nàng. Lớp da dưới đốt thứ ba ngón cai cũng như dưới lòng bàn tay và ngang mu bàn tay sáng lên màu đỏ tươi. Nhưng thớ thịt bên dưới có vẻ đã lành lại.

“Sau nàng không chữa lành luôn đi?” nó hỏi. “Nếu nàng quá mệt, tôi có thể,”

Nàng lắc đầu. “Vết thương động tới một vài dây thần kinh… và tôi không thể chữa trị được. Tôi cần Blöd­hgarm giúp; ông ấy giỏi hơn tôi trong khoản chữa vết thương ngoài da.”

“Nàng còn chiến đấu nổi không?”

“Nếu tôi cẩn thận.”

Nó nắm chặt lấy vai nàng một lúc. “Những gì nàng làm…”

“Tôi chỉ làm những gì tôi cho là cần làm.”

“Hầu hết không có khả năng… tôi đã thử, nhưng bàn tay của tôi quá to. Thấy không?” Nó giơ tay cho nàng xem.

Nàng gật đầu rồi nắm lấy tay nó để đứng lên. Er­agon đứng lên để giúp nàng đứng vững.

“Chúng ta phải tìm vũ khí,” nó nói. “cùng với nhẫn, thắt lưng, và vòng cổ của tôi.”

An­gela nhíu mày. “Sao lại là thắt lưng? Nó được yểm chú à?”

Trong khi Er­agon lưỡng lự chưa biết nói sao thì Arya cất tiếng, “Có thể bà không biết tên người chế tạo ra nó nhưng trong cuộc hành trình đời mình, chắc bà đã nghe tới thắt lưng của mười hai ngôi sao.”

Mắt bà lang mở to. “Thắt lưng đó ư? Nhưng ta nghĩ nó đã thất lạc từ bốn thế kỷ trước, bị hủy diệt trong …”

“Chúng tôi đã phục chế nó,” Arya nhàn nhạt nói.

Er­agon có thể thấy bà lang muốn hỏi thêm, nhưng cuối cùng bà chỉ nói, “Ta hiểu…nhưng chúng ta nào có thời gi­an mà lật từng phòng mà tìm kiếm. Một khi các thầy tu biết hai người đã trốn thoát, họ sẽ bám sát gót chúng ta.”

Er­agon chỉ về phía tên thầy tu trẻ đang nằm dưới đất mà nói, “Có thể hắn sẽ cho chúng ta biết đồ đạc của chúng ta ở đâu.”

Bà lang đặt hai ngón tay bắt mặt cho gã thanh niên. Sau đó bà vỗ má hắn và banh mắt hắn ra.

Gã thầy tu vẫn bất tỉnh nhân sự.

Hắn không phản ứng khiến bà lang bực mình. “Đợi một lát,” bà nói rồi nhắm mắt lại. Bà hơi nhăn trán. Trong một lúc bà cứ bất động; sau đó bà lao về phía trước một cách đột ngột. “Thằng ranh con ích kỷ! Thể nào bố mẹ hắn chô hắn làm tu sĩ. Ta ngạc nhiên là họ chịu được hắn lâu tới vậy đấy.”

“Hắn có biết gì có ích không?” Er­agon hỏi.

“Chỉ biết lối lên mặt đất.” Bà chỉ về cánh cửa bên trái điện thờ, cùng cánh cửa các tu sĩ đã bước vào và đi ra. “Lạ là hắn muốn thả tự do cho hai người; ta ngờ rằng đây là lần đầu tiên hắn làm việc tốt.”

“Chúng ta phải mang hắn theo.” Er­agon ghét phải nói nhưng nhiệm vụ bắt buộc nó làm thế. “Cháu đã hứa là chúng tôi sẽ mang hắn theo nếu hắn giúp.”

“HẮn muốn giết cháu!”

“Nhưng cháu đã hứa.”

An­gela thở dài và đảo mắt. Bà nói với Arya. “Ta nghĩ cô cũng không thuyết phục được câu ta nhỉ?”

Arya lắc đầu rồi nhấc gã thanh niên lên vai mà không cần cố gắng nhiều. “Tôi sẽ cõng hắn,” nàng nói.

“Trong trường hợp này,” bà lang nói với Er­agon, “tốt nhất cháu nên cầm cái này vì có lẽ ta và cháu sẽ phải chiến đấu dài dài.” Bà đưa cho nó thanh đoản kiếm rồi rút ra một con dao găm chuôi nạm đá quý giấu trong váy ra.

“Cái này làm từ gì vậy?” Er­agon hỏi khi nhìn vào lưỡi kiếm trong suốt, để ý thấy nó nhận và phản chiếu ánh sáng. Vật liệu này khiến nó nghĩ tới kim cương nhưng nó không thể nào tưởng tượng ra có ai có thể làm vũ khí từ đá quý; bất kỳ một pháp sư bình thường nào cũng có thể kiệt sức nếu muốn duy trì hình dạng đá kiếm sau mỗi lần quai búa.

“Không phải đá cũng chẳng phải kim loại,” bà lang nói. “Dùng cẩn thân. Đừng chạm vào lưỡi kiếm hay bất cứ phần nào không cháu sẽ hối hận. Đừng để thanh kiếm gần bất cứ bộ phận cần thiết nào của cháu – chân chẳng hạn.”

Er­agon cảnh giác đặt thanh kiếm ra xa. “Vì sao?”

“Vì,” bà lang nói với vẻ thích thú hiện rõ trên mặt, “Đây là lưỡi kiếm sắc nhất từng tồn tại. Không một thanh kiếm, con dao hay lưỡi rìu nào có thể sắc bằng nó, kể cả Bris­in­gr. Nó là vật thể sắc bén độc nhất vô nhị. Cái này” – bà dừng lại để nhấn mạnh –“là nguyên mẫu của lưỡi bào dốc… Cháu sẽ không tìm ra thứ nào sánh bằng nó. Nó có thể cắt xuyên qua những thứ được phép thuật bảo vê. Cứ thử đi nếu không tin.”

Er­agon nhìn xung quanh xem co gì để thử kiếm. Nó đi tới bàn thờ và chém xuống một cạnh.

“Không nhanh thế chứ!” An­gela rên rẩm.

Lưỡi kiếm trong suốt chém ngọt qua tảng đá dày 10cm như chém quá bánh trứng, rồi nhắm xuống chân nó mà tiến tới. Er­agon la lên và lùi lạ, dừng tay để không chém vào chân.

Góc bàn thờ rơi xuống bậc tam cấp bên dưới rồi nảy lên và lăn lông lốc về giữa phòng.

Er­agon nhận ra lưỡi kiếm này phải cứng như kim cương. Nó không cần được bảo vệ nhiều vì khó vật liệu nào đối chọi nổi với nó.

“Đây,” An­gela nói. “Tốt hơn cháu nên cầm cái này nữa.” Bà đưa vỏ kiếm cho nó. “Đây là một trong số ít những thứ thanh kiếm không thể cắt xuyên qua.”

Mất một lúc Er­agon mới nói được sau khi suýt mất ngón chân. “Thanh kiếm này có tên không?”

An­gela cười. “Tất nhiên là có. Theo ngôn ngữ cổ, nó mang tên Al­bi­tr, đúng theo nghĩa cháu đang nghĩ. Nhưng ta thích gọi nó là Tin­kledeath (Thần chết – leng keng) hơn.”

“Tin­kledeath!”

“Đúng, vì tiếng kêu của nó phát ra khi cháu búng vào nó.” Bà dùng đầu móng tay chạm vào và mỉm cowif khi nghe nốt nhạc cao âm vang lên trong căn phòng tối như một tia sáng mặt trời. “Giờ thì chúng ta đi được chưa?”

Er­agon kiểm tra xem họ có bỏ quên gì không; sau đó nó gật đầu, rảo bước về cánh cửa bên trái và mở nhẹ nhàng hết mức có thể.

Sau cánh cửa là hành lang dài thắp đuốc. Dọc đó là hai hàng lính gác chính là hai mươi tên lính mặc đồ đen mà họ đã đụng độ lúc trươc.

Chúng nhìn Er­agon và rút vũ khí.

Er­agon thầm nguyền rủa và nó lao về phía trước định tấn công trước khi những tên lính kịp rút kiếm và sắp xếp đội ngũ tấn công hiệu quả. Nó mới chỉ đi được vài mét thì một chuyển động thoáng qua từng tên lính: một bóng mờ như khi cờ xí bay phấp phới trong gió vậy.

Không kịp rên lên một tiếng, hai mươi tên giật lùi lại rồi ngã xuống đất chết.

Er­agon hoảng hốt dừng lại trước khi đụng vào mấy cái xác. Tất cả bọn chúng đều bị chọc vào mắt rất gọn.

Nó quay lại định hỏi Arya và bà An­gela xem chuyện gì thì im luôn khi nhìn bà lang. Bà đứng chống tay vào tường, một tay chống lên đầu gối, thở dốc. Da bà trắng như da người chết và tay run lên. Máu nhỏ ra từ con dao găm.

Er­agon vừa sợ vừa nể. Dù bà lang vừa làm gì cũng vượt qua tầm hiểu biết của nó.

“Thưa Nhà Thông thái,” Arya nói có vẻ chính cô cũng không hiểu lắm về chuyện xảy ra. “sao bà có thể làm vậy?”

Bà lang cười khúc khích rồi nói, “Ta dùng mánh… học từ sư phụ ta… Ten­ga… nhiều năm về trước. Có lẽ hàng ngàn con nhện đã cắn nát tai ông ấy rồi.”

“Vâng, nhưng bà làm thế nào?” Er­agon gặng hỏi. Mánh này có thể sẽ hữu dụng ở Urû’baen.

Bà lang lại cười. “Cái gì là thời gi­an nhưng không là chuyển động? Là chuyển động nhưng không phải lửa? Là lửa và năng lượng nhưng lại là những cái tên khác nhau đặt cho cùng một vật?” Bà dựa vào tường và lần tới chỗ Er­agon đứng và vỗ vào má nó, “Khi nào cháu hiểu câu đó đó, cháu sẽ hiểu ta làm gì và làm thế nào… Hôm nay ta không thể dùng lại câu thần chú đó nếu không sẽ làm chính ta bị thương, vì thế dừng mong ta giết thêm ai nữa khi chúng ta gặp một đống người nhé.”

Er­agon khó khăn lắm mới nuốt trôi cơn tò mò và gật đầu.

Nó cởi áo trấn thủ và áo da của một tên lính chết sau đó mặc quần áo vào. Làm xong, nó dẫn đường đi qua hành lang xuống cổng vòm phía xa.

Họ không đụng độ thêm một ai trong những căn phòng và hành lang nối sau đó và cũng không tìm thấy đồ đạc. Dù Er­agon mừng vì không bị phát hiện nhưng không có bất kỳ tên lính nào cũng khiến nó lo lắng. Nó mong nó và những người đồng hành không báo động cho những tên thầy tu biết rằng họ đã trốn thoát.

Không giống những căn phòng trống không trước đó, những căn phòng bây giờ chứa đầy đồ nội thất, thảm trải phòng và những thiết bị kỳ lạ bằng đồng và phe lê mà Er­agon không thể đoán nổi mục đích sử dụng. Hơn một lần, những cái bàn hoặc tủ sách khiến nó muốn dừng lại xem xét nhưng nó luôn cưỡng lại được. Họ không có thời gi­an cho những trang giấy cũ mủn dù trong đó chứa những thông tin gì.

Bà An­gela chọn đướng mỗi khi có hơn một lựa chọn nhưng Er­agon vẫn đi đầu. Nó nắm chắt chuôi kiếm Tin­kledeath quá khiến tay nó bắt đầu bị chuột rút.

Rất nhanh sau đó, họ tới một hành lang nhỏ kết thúc bằng những bậc đá dốc lên. Hai thầy tu trẻ đứng hai bên cầu thang, cầm theo những cái chuông mà Er­agon đã nhìn thấy từ trước.

Nó chạy về phía bọn họ và đâm vào một tên trước khi hắn kịp la hét hay rung chuông. Nhưng tên còn lại có thời gi­an làm cả hai việc trước khi Solem­bum nhảy lên người hắn và đè ngửa hắn xuống đất, xé tan mặt hắn và khiến cả hành lang vang lên tiếng la hét.

“Nhanh!” Er­agon hét khi nhảy lên cầu thang.

Ở bậc cầu thang trên cùng là một bức tường không có gì đỡ rộng khoảng 3m5, trên đó có khắc hình cuộn sách trang trí hoa mĩ và những hình khắc trông khá quen mắt. Nó vòng qua bức tường và đi vào một luồng sáng cường độ mạnh khiến nó loạng choạng và bối rối. Nó đưa vỏ Tin­kledeath lên che mắt.

Cách nó chưa tới 1.5m là Giám mục đang ngồi trên quan tài, máu chảy xuống từ vết cắt trên vai . Một thầy tu khác – một phụ nữ mất cả hai bàn tay – quỳ cạnh quan tài, hứng máu vào một cái ly vàng mà bà ta giữ bằng phần cẳng tay. Cả Giám mục lẫn bà ta đều kinh ngạc nhìn Er­agon.

Sau đó Er­agon nhìn qua vai họ thấy những hàng cột chống lên trần nhà biến mất trong bóng tôi. Trên bức tường cao vút là các cửa sổ kính – cửa số bên trái sáng lên nhờ ánh bình minh trong khi phía bên phải tối om, không có sắc màu của sự sống. Những bức tượng trắng bệch đứng giữa các cửa sổ. Các hàng ghế bằng đá hoa cương với màu sắc khác nhau kéo dài từ lối vào từ đằng xa tới tận chính điện. Và, ngồi hàng đầu là các thầy tu mặc đồ da, mặt ngửng lên hát như chim non đòi ăn.

Er­agon muộn màng nhận ra nó đang đứng ở Đại Thánh Đường Dras – Leona, ở phía bên kia ban thờ mà nó từng quỳ gối cách đâu rất lâu.

Người đàn bà cụt tay hạ cái ly xuống và đứng dậy, mở rộng tay như định che chắn cho giám mục. Bên cạnh bà ta, Er­agon nhìn thấy màu xanh của vỏ bao Bris­in­gr nằm cạnh quan tài, và nó nghĩ nó thấy Aren ở cạnh đó.

Trước khi nó đoạt được gươm, hai tên bảo vệ vội chạy về phía nó và dùng ngọn giáo chạm trổ có quả tua đỏ trên đầu chém vào nó. Nó bước sang một bên tên lính đầu tiên và chém thân giáo ra làm đôi khiến cho lưỡi giáo bay vòng trong không khí. Sau đó Er­agon chém hắn làm đôi; Tin­kledeath lượt dọc các thớt thịt và xương nhẹ như không.

Er­agon hạ gục tên thứ hai rất nhanh và quay lại nghênh chiến hai tên đang lao tới từ đằng sau. Bà lang tham dự cùng nó; giơ cao con dao găm, và Solem­bum đang gào thét từ bên trái nó. Arya vẫn chưa tham gia cuộc chiến vì phải cõng gã thanh niên.

Máu từ cốc lênh láng khắp sàn nhà xung quanh bục thờ. Những tên lính trượt trên vũng máu và tên ngoài cùng trượt chân ngã lên ngời gã phía trước. Er­agon tiến tới – không nhấc chân lên để không mất thăng bằng – và trước khi những tên lính gác kịp phản ứng, nó chém cả hai trong khi vẫn cẩn trọng với thanh kiếm của bà lang.

Er­agon có nghe thấy tiếng la hét của Giám mục như vang từ nơi xa xăm nào đó, “Giết bọn ngoại đạo! Giết chúng! Đừng để những kẻ báng bổ đó chạy thoát! Chúng phải trả giá vì tội ác với Thần Tối Cổ!”

Những thầy tu bắt đầu la hét và giậm chân và Er­agon cảm nhận được tư tưởng chúng đang cào xé tư tưởng nó nhưng một đàn chó sói cào xé con nai yếu ớt. Nó lùi vào sâu bên trong, lập lá chắn theo như Glae­dr đã dạy. Thật khó khăn cho nó khi phải chống trả quá nhiều kẻ thù nên nó sợ nó sẽ không thể duy trì hàng phòng thủ lâu. Nó chỉ có một lợi thế duy nhất là các thầy tu đang tấn công nó đơn lẻ, không có tổ chức chứ không phải theo một khối; nếu chúng kết hợp với nhau có thể làm nó thất thủ.

Sau đó tư tưởng của Arya ép lên nó – một sự hiện diện thân thuộc mềm mại an ủi nó chống lại những kẻ thù đang cào xé lên lớp vỏ bảo vệ đầu óc của nó. Nó an tâm đón nhận luồng tư tưởng của nàng, họ hòa nhập tư tưởng, như nó và Saphi­ra vẫn làm, khiến nó không còn biết có bao nhiêu luồng tư tưởng đang nhắm tới nó nữa.

Họ cùng nhau tấn công tư tưởng một thầy tu. Y cố chuồi thoát như một con cá quẫy khỏi tay họ nhưng họ nắm chặt hơn không cho hắn thoát. Y một cụm từ kỳ lạ, khoa trương để khiến họ tránh xa tư tưởng y: Er­agon đoán y sử dụng một đoạn kinh trong cuốn sách của Tosk.

Nhưng tên thầy tu thiếu luyện tập nên hắn nhanh chóng mất tập trung khi nghĩ, “Những tên ngoại đạo này quá gần Chủ nhân. CHúng ta phải giết chúng trước khi… Đợi đã! Không! Không….!

Er­agon và Arya lợi dụng phút sơ hở và khuất phục suy tưởng của y. Một khi họ chắc chắn hắn không còn chống lại họ bằng ý chí hay thân xác, Arya đọc câu thần chú kiểm tra trí nhớ tên thầy tu, từ đó nàng biết nàng có thể vượt quá lá chắn phòng thủ của y.

Ở hàng ghế thứ ba, một tên hét lên và cháy rừng rực, ngọn lửa xanh bốc lên từ mắt, tai và mồm y. Ngọn lửa bén vào quần áo vài thầy tu bên cạnh khiến chúng chạy toán loạn, không thể tấn công Er­agon lâu hơn. Ngọn lửa lách tách cháy như tiếng cành cây bị quậy gẫy trong cơn bão.

Bà lang chạy xuống từ ban thờ và lẫn trong đám thầy tu, đâm chém tên này tên khác. Solem­bum bám sát gót, kết liễu đời những gã vừa ngã xuống.

Sau đó, Er­agon và Arya dễ dàng kiểm soát tư tưởng kẻ thù. HỌ tiếp tục cùng nhau giết bốn thày tu nữa còn những kẻ khác bỏ chạy tứ tán. Vài tên bỏ chạy qua hành lang mà Er­agon nhớ là dẫn tới tu viện cạnh giáo đường, trong khi những kẻ khác trốn dưới các hàng ghế và cho tay lên che đầu.

Nhưng sáu thầy tu không thèm bỏ chạy hay trốn mà đứng thách thức Er­agon với con dao cong giơ cao. Er­agon chém trúng tên đầu tiên trước khi hắn kịp đâm nó. Er­agon tức giận vì mụ ta lập lá chắn bảo vệ khiến lưỡi kiếm Tin­kledeath đi chật 15cm khỏi cổ mụ; lưỡi kiếm phản lực lại làm rung tay nó. Er­agon dùng tay trái đánh vào mụ. Không hiểu vì lý do gì, câu thần chú không ngăn được nắm đấm của nó và nó cảm thấy xương gò má mụ gãy vụn khi nó đánh bay mụ về những người đằng sau.

Những thầy tu còn lại ổn định vị trí. Er­agon bước lên chặn nhát gươm vụng về của tên thầy tu đứng đầu – cùng tiếng hét Ha! – nó thụi vào bụng hắn và khiến hắn bay một đường đẹp mắt về các hàng ghế.

Er­agon giết gã tiếp theo bằng cách tương tự. Một mũi lao xanh vàng găm vào họng tên thầy tu bên trái Cùng lúc đó, bóng hình màu hung của Solem­bum vụt qua nó và tấn công những kẻ còn lại.

Chỉ còn một tông đồ của Tosk đứng sau nó. Arya dùng cánh tay còn lại nắm lấy đằng trước áo choàng da và ném mụ bay xa 9m.

Bốn tên thầy tu học việc nâng quan tài của Giám mục lên và mang nó về phía đông qua cổng chính giáo đường.

Thấy chúng trốn chạy, Er­agon gầm lên và nhảy lên bệ thờ làm đổ đĩa và ly thánh xuống đất. Từ đó, nó nhảy trên người những thầy tu đã chết. Nó hạ cánh nhẹ nhàng xuống hành lang và lao tới cuối giáo đường, nhằm thẳng những tên thầy tu học việc mà tới.

Bốn gã thanh niên dừng lại khi thấy Er­agon. “quay lại!” Giám mục bài hải hét. “Quay lại!” Những nô bộc của nó vâng lệnh nhưng bị chặn đứng bởi Arya, một trong số đó bị Arya quật qua vai.

Chúng hoảng hốt la hét và quay người vụt chạy giữa hai hàng ghế. Trước khi chúng đi thêm được vài bước, Solem­bum bước ra chặn đường và lao vào chúng. Tai con mèo ma dán chặt xuống xương sọ và tiếng gầm trầm trầm của nó khiến Er­agon dựng tóc gáy. Sát sau con mèo ma là An­gela đi xuống từ bệ thờ, một tay cầm dao găm một tay cầm ngọn giáo xanh vàng.

Er­agon không hiểu bà mang theo bao nhiêu vũ khí.

Họ ấn tượng vì các thầy tu học việc không hề run sợ hay bỏ chủ nhân lại. Thay vào đó chúng la hét và lao nhanh tới Solem­bum, có lẽ vì cho rằng mèo ma là kẻ thù nhỏ nhất và gần nhất; và vì chúng tin đây là kẻ thù dễ chơi nhất.

Nhưng chúng đã lầm.

Solem­bum nhún người nhảy từ nền nhà lên ghế. Sau đó, không dừng lại, cậu ta hạ cánh trên người một trong hai gã dẫn đầu.

Khi mèo ma bay trong không khí, Giám mục hét gì đó bằng ngôn ngữ cổ - Er­agon không nhận ra từ đó là từ gì nhưng chắc chắn là ngôn ngữ chính thống của thần tiên. Dù câu thần chú đó là gì, nó cũng không ảnh hưởng tới Solem­bum, dù Er­agon thấy bà An­gela lảo đảo như dính đòn.

Solem­bum đụng trúng một tên thầy tu đang bay tới và hắn ngã ngửa xuống sàn, la hét khi Solem­bum vồ hắn. NHững tên con lại vấp lên xác đồng đạo, ngã xuống khiến Giám mục rơi khỏi quan tài trúng một trong những cái ghế. Nó nằm đó giãy giụa như giòi.

Một giây sau Er­agon đuổi kịp chúng và bằng ba nhát kiếm, nó giết hết những gã thày tu chỉ trừ một tên đang bị Solem­bum gặm cổ.

Khi Er­agon chắc chắn chúng đã chết hết, nó quay người định đâm chết Giám mục diệt trừ hậu họa. Khi nó tiến tới sinh vật không chi, một tư tưởng xâm nhập đầu óc nó, xục xạo đầu óc nó hòng khống chế đầu óc nó. Đòn tấn công xấu xa đó buộc nó dừng lại tập trung để chống lại kẻ xâm lăng.

Nó liếc thấy cả Arya và Solem­bum đều bất động. Chỉ có bà lang là không. Bà dừng lại một thoáng khi tên tấn công tiếp cận, nhưng sau đó bà chậm chạp tiến tới chỗ Er­agon.

Giám mục nhìn Er­agon chằm chằm, đôi mắt trũng sâu có quầng thâm của nó cháy lên sự hận thù và tức giận. Nếu sinh vật đó có tay và chân, Er­agon tin nó sẽ xé tan tim mình ra bằng tay không. Với ánh nhìn ác ý đó, Er­agon còn nghĩ sinh vật sẽ bò khỏi ghế và cắn chân nó nữa.

Cuộc tấn công vào đầu óc nó càng lên cao độ khi bà An­gela tới gần. Giám mục – chắc chắn là do tên Giám mục này – giỏi hơn bất cứ tên đồng đạo nào. Vừa đấu tư tưởng với bốn người một lúc lại còn đe dọa từng người quả là đáng kinh ngạc, đặc biệt khi đối thủ của nó lại là một tiên nhân, một Kỵ sĩ Rồng, một phù thủy và một ma mèo. Giám mục là một trong những đối thủ khó chơi nhất mà Er­agon từng đụng độ; nếu không có sự giúp đỡ của những bạn đồng hành, Er­agon nghi nó đã bị sinh vật này hạ gục. Điều giám mục làm là điều Er­agon chưa bao giờ chứng kiến, kể như cắt đứt luồng tư tưởng liên kết giữa Er­agon, Arya và Solem­bum, khiến họ bối rối. Er­agon còn tưởng mình đã quên bản thân là ai trong một lúc.

Cuối cùng An­gela bước tới giữa hàng ghế. Bà đi qua Solem­bum – đang co mình bên cạnh tên thầy tu học việc cậu ta vừa giết chết, mọi sợi lông trên cơ thể đều xù lên – rồi cẩn trọng bước qua xác ba gã Er­agon vừa giết.

Khi bà tới gần, giám mục bắt đầu quẫy như con cá mắc câu nhằm đẩy mình xa hàng ghế hơn. Cùng lúc đó, áp lực lên tư tưởng Er­agon nhẹ hơn dù không đủ để nó dám cử động.

Bà lang dừng lại khi tới gần Giám mục và Er­agon ngạc nhiên khi Giám mục không cử động mà nằm thở dốc trên ghế. Trong một phút, sinh vật mắt trũng sâu và người phụ nữ thấp bé, gương mặt cương nghị nhìn nhau trong một trận đấu trí vô hình.

Sau đó Giám mục náo núng còn bà An­gela mỉm cười. Bà hạ con dao găm xuống và lấy trong váy ra một chủy thủ nhỏ màu đỏ vàng của ánh hoàng hôn. Bà nhoài người về phía Giám mục, thì thầm nho nhỏ, “Ngươi nên biết tên ta, đồ không lưỡi. Nếu ngươi biết, ngươi sẽ không dám chống lại chúng ta. Đây, để ta nói cho ngươi hay…”

Bà hạ giọng rất nhỏ khiến Er­agon không nghe được. Nhưng Giám mục trắng bệch đi, cái mồm héo quắt của nó mở ra thành một hình ô van đen sì, một tiếng thét thoát ra từ họng nó. Cả giáo đường rung lên.

“Ôi, im lặng nào!” bà lang nói to và bà đâm chủy thủ vào ngực Giám mục.

Lưỡi dao lóe màu trắng sáng và biến mất cùng âm thanh như tiếng sấm nổ từ đằng xa. Khu vực xung quanh vết thương sáng lên như gỗ cháy; rồi da thịt Giám mục biến thành muội đen lan trên ngực nó. Với một tiếng ọc, tiếng hét của sinh vật ngừng lại đột ngột như khi bắt đầu.

Câu thần chú nhanh chóng lan khắp người Giám mục, khiến cơ thể hắn biến thành một lớp bụi đen có hình đầu và thân nó.

“Siêu thoát nhé,” An­gela gật đầu nói.

30. CHUÔNG RUNG

Er­agon rùng mình như vừa bước ra khỏi cơn ác mộng.

Giờ khi không phải chiến đấu với Giám mục, nó mới dần dà để ý tiếng chuông vang lên trong tu viện – âm thanh lớn, giục giã làm nó nhớ tới hồi Ra’zac đuổi theo nó trong giáo đường khi lần đầu tới Dras – Leona cùng ông Brom.

Murtagh và Thorn sẽ sớm có mặt, nó nghĩ. Chúng ta phải đi trước khi chúng tới.

Nó đặt thanh Tin­kledeath trong vỏ vào tay bà An­gela. “Đây,” nó nói. “Cháu nghĩ là bà muốn nó.” Rồi nó đẩy mấy cái xác sang một bên tới khi tìm ra thanh Bris­in­gr. Tới khi nắm chuôi kiếm trong tay nó mới thây an tâm. Dù thanh kiếm của bà lang là một thanh kiếm tốt và nguy hiểm nhưng đấy không phải vũ khí của nó. Không có Bris­in­gr, nó cảm thấy đầy điểm yếu – như khi nó và Saphi­ra tách rời nhau.

Nó mất một lúc nữa mới tìm thấy nhẫn bên dưới hàng ghế và vòng cổ bị treo bên cạnh tay nắm quan tài. Giữa đống xác chết, nó tìm ra thanh kiếm của Arya và nàng hài lòng nhận lại nó. Nhưng nó không tìm ra thắt lưng của Be­loth Khôn ngoan.

Er­agon tìm dưới các hàng ghế gần đó rồi bệ thờ và khu vực xung quanh nhưng không thấy đâu,

“Nó không ở đây,” cuối cùng nó tuyệt vọng lên tiếng. Nó trở ra bức tường treo che giấu lối vào căn phòng bí mật. “Chắc chúng để nó dưới đường hầm.” Nó nhìn vào tu viện, “Hoặc có thể…” Nó lưỡng lự giữa hai lựa chọn.

Lẩm bẩm câu thần chú tìm kiếm thắt lung nhưng nó chỉ thấy hình ảnh trống rỗng xám xịt. Đúng như nó đã lo sợ, thắt lưng đã bị yểm bùa không cho người khác sử dụng phép thuật để nhìn thấy, cũng như bùa yểm trên thanh Bris­in­gr.

Er­agon nhăn nhó và bước thêm nửa bước về phía bức tường treo.

TIếng chuông càng lúc càng lớn.

“Er­agon,” Arya gọi từ bên kia giáo đường. Nàng xốc tên thầy tu học việc lên vai kia.”Chúng ta phải đi.”

“Nhưng…”

“Oromis sẽ hiểu. Không phải lỗi của chàng.”

“Nhưng…”

“Bỏ đi! THắt lưng đó từng bị thất lạc rồi. CHúng ta sẽ tìm ra nó. Nhưng giờ chúng ta phải đi. Mau lên!”

Er­agon chửi thề, quay người lại và chạy tới cùng arya, bà An­gela và Solem­bum về cửa chính. Khi mọi thứ đã mất…Đối với nó bỏ lại thắt lưng là điều báng bổ đi quá nhiều sinh vật phải chết để thắt lưng có đủ năng lượng. Hơn nữa, nó có cảm giác kinh khủng rằng nó sẽ cần tới thắt lưng trong ngày hôm nay.

Ngay khi nó và bà lang đẩy cánh cửa nặng nề dẫn ra khỏi giáo đường, Er­agon phóng tư tưởng đi tìm Saphi­ra. Nó biết em nó đang bay lượn vòng trên thành phố, đợi nó tìm cô bé. Thời gi­an tự do hành động đã quá dài, và giờ nó không quan tâm liệu Murtagh hay bất cứ một pháp sư khác có cảm nhận thấy sự hiện diện của nó hay không.

Nó nhanh chóng cảm thấy tư tưởng quen thuộc của Saphi­ra. Ngay khi tư tưởng chúng hòa làm một, cơn quặn thắt trong ngực Er­agon biến mất.

Sao anh lâu thế? Saphi­ra reo lên. Nó có thể cảm nhận sự lo lắng từ cô em và nó biết em nó đã định hạ cánh xuống Dras – Leona và lục tung thành phố lên để tìm nó.

Nó cho ký ức của mình tràn ra, chia sẻ với cô em mọi thứ từ khi họ chia tay. Quá trình kéo dài vài giây khi nó, Arya, bà An­gela và ma mèo đang bước xuống được vài bậc tam cấp.

Không dừng lại để cho Saphi­ra có cơ hội hiểu những luồng tư tưởng lộn xộn của nó, Er­agon nói, Bọn anh cần thứ gì đó đánh lạc hướng – ngay bây giờ!

Cô nàng hiểu câu nói của nó và nó cảm thấy cô em nó đang lao thẳng xuống.

Ngoài ra, bảo Na­sua­da bắt đầu tấn công. Bọn anh sẽ tới cổng nam sau vài phút nữa. Nếu quân Var­den không tới kịp khi bọn anh mở cổng, anh không biết bọn anh sẽ trốn sao nữa!

31. ĐỘNG – GAI - ĐEN

Sương sớm mát mẻ tạt qua đầu Saphi­ra khi cô nàng lao tới thành phố - ổ - chuột khi ánh bình minh mới chiếu sáng được nửa. Những tia sáng thấp khiến những tòa nhà –có mùi- vỏ trứng-​gỗ sống động hơn trong khi mặt phía tây vẫn chìm trong bóng đêm.

Tiên nhân-​sói- trong-​hình dạng – Er­agon đang cưỡi trên lưng cô nàng hét gì đó nhưng cơn gió đói khát khiến từ ngữ của anh ta bị xé lẻ khiến cô nàng không hiểu. Anh ta hỏi cô bé về trí óc- đầy- nhạc thơ của mình nhưng cô nàng không để anh ta hỏi hết. Thay vào đó, cô nàng kể cho anh ta nghe về cảnh ngộ của Er­agon và yêu cầu anh đánh động cho Na­sua­da rằng đã tới lúc hành động.

Saphi­ra không hiểu làm sao Blöd­hgarm – giả dạng – Er­agon có thể qua mắt mọi người. Anh ta không có mùi của bạn đồng hành – linh hồn – và – trái tim của cô nàng và cũng không suy nghĩ như Er­agon. Nhưng giống hai – chân có vẻ bị ấn tượng vì sự xuất hiện này và nhiệm vụ của họ cũng chỉ là lừa giống hai – chân thôi.

Ở phía bên trái thành phố-​ổ-​chuột là hình dáng sáng lấp lánh của Thorn. Hắn ta đang nằm trải dài suốt khu thành lũy cổng nam. HẮn ngẩng cái đầu đỏ sậm lên và cô nàng biết nó thấy cô nàng bay tới mặt đất-​đầy-​xương, đúng như cô nàng mong đợi. Cảm xúc của cô nàng với Thorn rất phức tạp. Mỗi lần nghĩ về hắn, cô nàng lại thấy bối rối và mông lung không như bình thường.

Nhưng dù sao đi nữa, cô nàng cũng không để con thú non kia đánh bại nó.

Khi những ống khói đen sì và những mái nhà dốc đứng gần hơn, cô nàng sải cánh rộng hơn một chút, cảm nhận ngực, vai, cánh căng ra khi giảm tốc trên đà lao xuống. Khi cô nàng chỉ còn cách mấy khu nhà san sát nhau kia có vài mét, cô nàng đảo ngược lên và mở cánh rộng hết cỡ. Cô nàng cần một lực rất lớn để không bị ngã; trong một thoáng, cô nàng thấy cánh nó sắp bị gió xé rách tới nách.

Cô nàng quẫy đuôi để giữ cân bằng rồi bay lên trên quan sát động-​gai-​đen nơi các thầy tu-​cuồng-​máu thờ phụng. Cô nàng lại thu cánh, hạ thấp thêm vài mét nữa cho tới khu hạ xuống mái nhà thờ với một tiếng rắc như sấm dậy.

Cô nàng bám chặt móng xuống mái nhà thờ để không trượt xuống con đường bên dưới. Sau đó, cô nàng ngửng đầu gầm lớn hết cỡ để thách thức thế giới này và mọi thứ sống trong đó.

Có tiếng chuông lanh lảnh vang lên trong tòa tháp bên cạnh động-​gai-​đen. Cô nàng bực mình vì âm thanh đó nên ngoẹo cổ hà một hơi lửa xanh vàng vào đó. Tòa tháp không bắt lửa vì làm bằng đá, nhưng dây thừng và xà giữ chuông bắt lửa và vài giây sau, chuông đổ sập lên những thứ trong tòa tháp.

Cô nàng khoái trá nhìn giống-​hai-​chân-​tai-​tròn đang vừa chạy vừa la hét. Dù gì cô nàng cũng là rồng. Họ phải sợ cô nàng chứ.

Một kẻ hai-​chân dừng lại cạnh quảng trường trước động-​gai-​đen và cô nàng nghe hắn đọc thần chú bằng giọng lít chít như con chuột đang sợ hãi. Dù câu thần chú là gì thì lưới phòng hộ của Er­agon cũng bảo vệ cô nàng – cô nàng đoán thế vì không thấy có gì khác.

Tiên nhân-​sói-​trong-​hình dạng-​Er­agon giúp cô nàng giết hắn. Cô nàng cảm nhận Blöd­hgarm đã bóp chặt tư tưởng hắn và buộc tên – hai-​chân-​tai-​tròn khuất phục thế nào. Blöd­hgarm chỉ dùng một từ bằng ngôn ngữ-​ma thuật-​cổ xưa-​của tiên nhân và tên hai-​chân-​tai-​tròn ngã lăn ra đất, máu ứa ra từ miệng.

Sau đó tiên nhân-​sói vô vai cô nàng và nói, “Chuẩn bị đi Vảy sáng. Chúng tới kìa.”

Cô nàng thấy Thorn bay lên từ mái nhà với người anh-​cùng mẹ- khác cha- của Er­agon-​Murtagh, nhỏ bé, đen đúa trên lưng. Trong ánh bình minh, Thorn tỏa sáng lấp lánh y như nó. Nhưng lớp vảy của cô nàng sạch sẽ hơn sau khi được chăm sóc đặc biệt vào lúc trước. Cô nàng muốn vào trận trong hình tượng đẹp đẽ nhất. Kẻ thù không chỉ khiếp sợ mà còn ngượng mộ cô nàng.

Cô nàng biết chuyện đó là chẳng có tích sự gì, nhưng mà đã làm sao. Không giống loài nào có thể sánh nổi dáng vẻ hùng vĩ của loài rồng. Ngoài ra, cô nàng là con cái cuối cùng, và cô nàng muốn bất cứ ai nhìn thấy đều sững sờ trước vẻ ngoài và nhớ cô nàng thật kỹ. Dù cho loài rồng có tuyệt diệt thì giống hai-​chân sẽ mai rỉ tai nhau với sự kính trọng và ngưỡng mộ.

Khi Thorn bay lên cao hơn thành phố-​ổ-​chuột độ 300m, Saphi­ra đánh mắt nhìn quanh để chắc rằng người đồng hành-​từ trái tim-​tới khối óc Er­agon không ở gần động-​gai-​đen. Cô nàng không muốn vô tình làm ông anh bị thương. Anh nó là một thợ săn dũng manh nhưng lại quá nhỏ và dễ bị đạp trúng.

Cô nàng vẫn đang tìm hiểu những ký ức-​đau đớn- vọng lại-​từ bóng tối mà Er­agon chia sẻ cùng, nhưng cô nàng đã thấy những sự kiện vừa qua một lần nữa chứng minh cho điều cô nàng đã tin từ lâu: mỗi khi cô nàng là người bạn đồng hành –từ khối óc – tới trái tim chia lìa là anh nó lại gặp rắc rối, không kiểu này thì kiểu khác. Cô nàng biết, Er­agon sẽ không đồng tình nhưng anh nó không thể chối bỏ được những việc xảy ra trong cuộc phiêu lưu vừa qua. Cô nàng hài lòng vì mình đúng.

Khi Thorn đã bay tới độ cao thích hợp, hắn quay lại và lao và khè lửa về phía cô nàng.

Cô nàng đâu có sợ lửa – lá chắn của Er­agon sẽ bảo vệ nó – nhưng sự đồ sộ và sức mạnh của Thorn sẽ khiến bất cứ phép thuật nào yểm lên người cô nàng chống lại những nguy hiểm về mặt thể chất tiêu hao. Để bảo vệ mình, cô nàng lùi lại và ép chặt người vào giáo đường để có thể quay cổ đớp vào cái bụng trắng hếu của Thorn.

Một bức tường lửa nhấn chìm cô nàng, bao bọc và gầm thét như một thác nước khổng lồ. Ngọn lửa quá sáng khiến cô nàng phải nhắm mắt, giống như khi xuống nước, để ánh sáng không làm mù mắt.

Con lửa nhanh chóng tắt. Khi Thorn vọt lên trên, cái đuôi dày, xương xẩu của hắn vẻ một đường lên màng cánh phải cô nàng. Vết xước chảy máu, nhưng không nhiều. Cô nàng không nghĩ nó sẽ gây trở ngại trong khi bay dù rất đau.

Thorn lao về phía cô nàng lần nữa và cố dử nó bay lên. Cô nàng không mắc bây nên sau vài lần, hắn chán và đậu xuống một bên động-​gai-​đen, đôi cánh khổng lồ xòe rộng để giữ thăng bằng.

Toàn bộ tòa nhà rung lên khi Thorn hạ cánh bằng cả bốn chân, rất nhiều cửa sổ-​có-​họa tiết-​khắc từ đá quý vỡ tan tinh, rơi lanh canh trên mặt đất. Hiện giờ Thorn to lớn hơn cô nàng do Gal­ba­torix can thiệp vào quá trình nở, nhưng cô nàng không sợ. Cô nàng có nhiều kinh nghiệm hơn Thorn, hơn nữa, lại được huấn luyện bởi Glae­dr, con rồng to hơn cả cô nàng và Thorn cộng lại. Ngoài ra, Thorn không dám giết cô nàng… và cô nàng cũng không nghĩ hắn muốn thế.

Con rồng đỏ gầm ghè và bước lên trước, móng vuốt của nó ấn vụn mái ngói. Cô nàng gầm lại và lùi vài mét tới khi đuôi chạm vào mái chóp vươn lên như bức tường ở phía trước động-​gai-​đen.

Đuôi Thorn giật giật và cô nàng biết hắn định vồ.

Cô nàng hít một hơi và tắm hắn trong ngọn lửa. Nhiệm vụ của cô nàng là không cho Thorn và Murtagh biết Er­agon không ngồi trên lưng cô nàng. Vì thế cô nàng hoặc phải tránh xa Thorn để Murtagh không đọc được suy nghĩ của tiên nhân-​sói-​trong-​hình dạng- Er­agon hoặc cô nàng tấn công thường xuyên hơn và dữ dội hơn để Murtagh không có cơ hội – cái này hơi khó vì Murtagh vẫn thường tấn công trên lưng Thorn khi Thorn đang quay đảo trong không trung. Nhưng họ vẫn rất gần mặt đất, vậy là cô nàng có lợi thế, vì cô nàng thích tấn công hơn. Luôn luôn thích là người tấn công.

“Ngươi chỉ làm được thế?” Murtagh hét với giọng the thé tới kỳ lạ từ trong ngọn lửa đang nhảy múa.

Ngay khi cuộn lửa cuối cùng thoát ra khỏi miệng, Saphi­ra lao về phía Thorn. Cô nàng hạ cánh lên ngực hắn, cổ cả hai xoắn vào nhau, đầu va vào nhau vì cả hai đều nhắm răng vào cổ họng đối phương. Lực tác động khiến Thorn ngã lên động-​gai-​đen. Hắn đập cánh vào Saphi­ra để cả hai cùng ngã xuống đất.

Chúng hạ cánh làm vỡ đá lát vỉa hè và làm chấn động vài căn nhà gần đó. Hình như Thorn vị gẫy đoạn xương bả vai trái nào đó. Lưng hắn cong lên không tự nhiên vì lá chắn của Murtagh tránh cho hắn ngã dập lưng xuống đất.

Saphi­ra nghe tiếng Murtagh chửi thề từ đằng sau Thorn. Cô nàng quyết định phải tránh xa tên hai-​chân-​tai-​tròn đang giận dữ và bắt đầu đọc thần chú.

Cô nàng nhảy lên, đá vào bụng Thorn và đậu lên mái nhà đằng sau con rồng đỏ. Tòa nhà quá yếu không đỡ nổi cô nàng vì thế cô nàng bay lên và, để chắc chắn, đốt luôn một dãy nhà.

Để cho chúng xử lý, cô nàng hài lòng nghĩ, nhìn ngọn lửa đói khát liếm lên những kiến trúc bằng gỗ.

Cô nàng bay về động-​gai-​đen, trượt trên mái và bắt đầu xé rách mái nhà, giống như cách cô nàng xé tan nóc lâu đài ở Durza-​Gil’ead. Chỉ có điều giờ cô nàng đã lớn hơn. Và những khối đã này đối với cô nàng chỉ như viên đá sỏi đối với Er­agon. Những thầy tu-​cuồng-​máu trong đó đã làm bị thương bạn đồng hành-​từ khối óc –tới trái tim của cô nàng, làm bị thương tiên-​nữ-​mang dòng máu-​rồng Arya, người phụ nữ mang gương mặt trẻ-​nhưng- trí óc già cỗi An­gela và ma mèo Solem­bum – cậu ta còn mang nhiều tên khác – và đã giết Wyr­den. Vì thế, Saphi­ra quyết tâm hủy diệt động-​gai-​đen để trả thù.

TROng vài giây, cô nàng mở toang mái nhà. Cô nàng đốt sạch đồ đạc bên trong và thò móng vuốt vào trong lôi cây đại phong cầm và ném nó vào tường. Chúng kêu lanh canh và va vào những hàng ghế bên dưới.

Thorn gầm lên, sau đó bay lên bầu trời bên trên động-​gai-​đen và đập cánh tại chỗ dữ dội. Hắn xuất hiện như một hình bóng đen sì không rõ ràng trái ngược với bức tường lửa dâng lên từ những căn nhà bên dưới, trừ đôi cánh trong mờ, giờ đang tỏa ra ánh sáng vàng cam và đỏ sẫm.

Hắn lao tới, xòe những móng vuốt sắc nhọn ra.

Saphi­ra đợi tới khoảng khắc cuối cùng; sau đó cô nàng tránh sang một bên, bay khỏi động-​gai-​đen và Thorn đâm đầu vào ngọn tháp giữa nhà thờ. Ngọn giáo đá-​cao-​có lỗ vỡ ra và đỉnh của nó – một cây cột vàng được chạm khắc hoa văn – đổ sụp và rơi xuống quảng trường dưới đó 12m.

Thorn gầm lên vì thất vọng và cố đứng dậy. Nửa sau của hắn cắm vào lỗ hổng Saphi­ra vừa xé ra trên mái và hắn cào bới để kéo mình ra.

Trong lúc đó, Saphi­ra bay về phía trước động-​gai-​đen, đối diện với ngọn tháp Thorn vừa đánh sập.

Cô nàng lấy hết sức ực bám vào ngọn tháp bằng móng chân phải.

Tượng và những đồ trang trí công phu vỡ tan dưới chân cô nàng; mây bụi làm tắc lỗ mũi; vài mảnh gạch đá rơi xuống quảng trường. Nhưng tòa tháp vẫn đứng vững, thế là cô nàng lại lắc.

Thorn hoảng sợ rống lên khi nhận ra cô nàng đang làm gì, và nó cào cấu mãnh liệt hơn để thoát ra.

Sau cú lay thứ ba của Saphi­ra, ngọn tháp đá cao lớn đã vỡ tới chân và, từ từ sập xuống mái. Thorn chỉ còn thì giờ mà gầm gừ tức giận rồi sau đó tòa tháp đá cuội sập lên người hắn, khiến hắn chúi nhủi vào tòa nhà cháy, chôn hắn trong những cột đá.

Tiếng ngọn tháp vỡ tan thành từng mảnh vang vọng khắp thành phố-​ổ-​chuột như sấm động.

Saphi­ra gầm lên hưởng ứng, lần này là vì chiến thắng. Thorn sẽ sớm thoát ra, nhưng cho tới lúc đó, mạng hắn nằm trong móng vuốt cô nàng.

Cô nàng nghiêng cánh, đảo một vòng quanh động-​gai-​đen. Cô nàng bay qua hai phía tòa nhà, đâm mình vào những cột trụ khiến chúng đổ tắp lự. Những khối đá sụp xuống tạo ra âm thanh ầm ĩ khó chịu.

Khi đã đốn hạ toàn bộ các cột trụ, bức tường không có cột chống lắc lửa và đổ xuống. Nỗ lực thoát ra của Thorn chỉ làm tình thế xấu hơn. Sau vài giây, tường đã sập. Toàn bộ kiến trục phi phá hủy, bụi bay cao khủng khiếp.

Saphi­ra rống lên vì chiến thắng, sau đó đứng trên hai chân sau bên đống đổ vỡ và sơn màu cho chúng bằng ngọn lửa nóng nhất. Dùng phép thuật làm lửa đi chệch hướng thì dễ nhưng làm chệch hướng nhiệt bốc ra từ lửa cần rất nhiều cố gắng và năng lượng. Bằng cách buộc Murtagh dùng toàn bộ sức lực để giúp hắn và Thorn không bị nấu chín và khỏi bị đè nát, Saphi­ra hy vọng làm hắn kiệt sức, và Er­agon cũng những kẻ hai-​chân-​tai-​tròn sẽ có cơ hội đánh bại hắn.

Trong khi cô nàng khè lửa, tiên nhân-​sói tren lưng cô đọc thần chú, nhưng để làm gì thì cô nàng không biết, mà cũng chẳng quan tâm. Cô tin kẻ hai-​chân này. Dù anh ta làm gì cũng là để giúp đỡ.

Saphi­ra lùi ra sau khi đống đổ nát tung ra. Với một tiếng gầm, Thorn vươn mình khỏi đống đá vụn. Cánh hắn nhàu nát như bướm ép khô, và hắn chảy máu trên chân và lưng.

Hắn nhìn cô nàng mà gầm ghè, đôi mắt đỏ như đá ru­by đen lại vì giận dữ. Đây là lần đầu tiên cô nàng thực sự chọc giận hắn và hắn thực sự muốn xé thịt nếm máu cô nàng.

Tốt thôi, cô nàng nghĩ. Có thể hắn không con chó toi-​sợ-​bị thua như cô nàng vẫn nghĩ.

Murtagh lấy một cái bao nhỏ nơi thắt lưng ra và lấy một vật tròn nhỏ. Theo như kinh nghiêm, Saphi­ra biết đó là bùa dùng để chữa lành vết thương cho Thorn.

Cô nàng không chờ đợi mà bay cao nhất có thể trước khi Thorn đuổi theo. Cô nàng liếc xuống sau vài nhịp đập cánh và thấy hắn bay lên với tốc độ nhanh kinh ngạc, như một con chim cắt-​móng-​đỏ-​lớn.

Cô nàng lượn vòng và đang định lao về phía hắn thì cô nàng nghe tiếng Er­agon hét:

Saphi­ra!

Cô nàng hoảng hốt, tiếp tục lượn vòng tới khi định ra vị trí cổng nam, nơi Er­agon đang ở. Cô thu cánh và lao về phía đó.

Thorn đảo người, và cô nàng không quay lại nhìn cũng biết hắn đang bám sát đằng sau.

Và thế là cả hai đuổi nhau sát sượt trên bức tường của thành phố-​ổ-​chuột, và sương sớm mát lành tru lên trong tai Saphi­ra như một con sói bị thương.

32. BÚA VÀ MŨ TRỤ

Cũng tới lúc! Ro­ran nghĩ khi nghe tiếng kèn của quân Var­den vang lên từ xa.

Anh liếc nhìn Dras – Leona và thấy bóng dáng Saphi­ra đang lao về phía những tòa nhà tối om, vảy sáng lên trong ánh bình minh. Bên dưới cô nàng là Thorn, trông như một con mèo to vừa tắm nắng trên hàng rào xong giờ đang đuổi bắt con mồi.

Ro­ran bồn chồn. Cuối cùng đã tới thời khắc chiến đấu. Anh lo lắng đôi chút cho Er­agon sau đó đứng dậy khỏi khúc cây anh vừa ngồi đã bước tới hòa mình cùng những người lính đang xếp hàng ngũ theo hình chữ nhật rộng bề ngang.

Ro­ran nhìn các hàng lối kiểm tra xem đội đã sẵn sàng chưa. Họ đã đợi gần như cả đêm. Họ mệt mỏi nhưng anh biết sự sỡ hãi và phấn khích sẽ sớm biến mất. Ro­ran cũng mệt nhưng anh không quan tâm; anh có thể ngủ sau khi trận chiến kết thúc. Tới lúc đó, anh cần quan tâm làm sao giữ mạng mình và các binh lính dưới quyền.

Ro­ran hài lòng đội mũ trụ lên. Sau đó anh rút búa và đeo đeo khiên vào tay trái.

“Theo lệnh ngài,” Horst bước lên trước mặt.

Ro­ran gật đầu. Anh chọn người thợ rèn làm phó chỉ huy và được Na­sua­da chấp nhận ngay tắp lự. Ngoài Er­agon ra, anh không muốn ai ai khác ngoài chú Horst bên canh. Anh biết là mình ích kỷ - chú Horst vừa có con nhỏ và quân Var­den cần tới kỹ năng của chú – nhưng Ro­ran không đặc biệt hứng thú với vụ thăng chức này, nhưng anh cũng không hẳn là thất vọng. Thay vào đó, anh đón nhận vị trí tiểu đoàn trưởng với vẻ bình tĩnh vì anh tin vào khả năng và năng lực của mình.

Tiếng kèn lại vang lên và Ro­ran giơ búa lên trên đầu. “Tiến lên!” anh hét.

Anh đi vị trí tiên phong cùng với bốn tiểu đoàn trưởng khác.

Khi các chiến binh lao qua cánh đồng trống ngăn cách họ và Dras – Leona, tiếng hét báo động vang lên từ trong thành phố. TIếng chuông và kèn vang lên sau đó một khoảng khắc. Ngay sau đó toàn bộ thanh phố dội ra tiếng hét giận dữ của lính bảo vệ thành. Cùng với đó và tiếng gầm kinh khủng nhất và tiếng rơi vỡ ở trung tâm thành phố, nơi hai con rồng đang quần nhau. Thi thoảng, Ro­ran thấy một trong hai con xuất hiện trên nóc nhà, vảy sáng lấp lảnh. Nhưng phần lớn thời gi­an, chúng khuất dạng.

NHững căn nhà ổ chuột xung quanh thành phố càng lúc càng gần. Những con đường nhỏ hẹp, tối tăm trông như một điểm gở với Ro­ran. Quân triều đình – kể cả cư dân Dras – Leona dễ dàng phục kích họ trong những con đường ngoằn ngoèo. Đánh nhau trong những khu nhỏ hẹp có thể còn kinh khủng, gây bối rối và hỗn loạn hơn bình thường. Nếu rơi vào tình huống đó, Ro­ran biết chỉ có vài người lính bình yên trốn thoát .

Khi tới mái hiên của dãy nhà thấp đầu tiên, trong lòng Ro­ran quặn lên cảm giác không an tâm, anh càng thêm buồn bực. Anh liếm môi, thấy không khỏe.

Tốt nhất là Er­agon nên mở cổng ra, anh nghĩ. Nếu không… chúng ta sẽ kẹt ngoài này làm cừu cho đồ tể thịt.

33. VÀ TƯỜNG ĐỔ

Tiếng đổ nhà khiến Er­agon dừng lại nhìn.

GIữa hai mái nhà có một khoảng trống. Ở đó từng là ngọn tháp nhà thờ. Nhưng giờ ở đó chỉ còn một cột bụi bốc lên tận mây xanh, như một cột khói trắng.

Er­agon cười với mình, tự hào về Saphi­ra. Không sinh vật nào giỏi bằng rồng trong khoản gây hỗn loạn và hủy diệt. Tiếp đi, nó nghĩ. Đập nát ra! Đốt cháy thánh địa dưới hàng trăm mét đất của chúng luôn đi!

Sau đó nó tiệp tục đi vào bóng tối, lượn lách trên những con đường rải đá cuội cùng Arya, bà An­gela và Solem­bum. Cũng có vài người trên đường: những lái buôn chuẩn bị mở hàng, những người bảo vệ đêm trên đường về nhà ngủ, những quý tộc say xỉn vừa bước ra khỏi cuộc hoan lạc, những người ăn mày ngủ ngoài cửa cũng như những tên lính chạy toán loạn về tường thành.

Mọi người, kể cả những kẻ đang chạy cũng quay lại nhìn nhà thờ khi tiếng động do hai con rồng đánh nhau vang khắp thành phố. Mọi người – từ những người hành khất đi tập tễnh, những chiến binh kinh qua trận mạc tới những tên quý tộc ăn mặc mớ ba mớ bảy – đều hoảng hốt, không ai trong số họ nhìn tụi Er­agon tới lần thứ hai.

Er­agon cho rằng nhờ vậy nó và Arya có thể đi qua những người bình thường trong thời gi­an ngắn nhất.

Theo lời Er­agon, Arya đã đặt tên thầy tu học việc đang bất tỉnh trong một con hẻm khá xa nhà thờ. “Tôi hứa sẽ mang hắn đi cùng,” Er­agon đã giải thích. “nhưng tôi chưa bao giờ nói là mang đi bao xa. Hắn có thể tự tìm đường từ chỗ này.” Arya ưng thuận và có vẻ bớt mệt mỏi vì bỏ được hắn đi.

Khi ba người vội vã bước trên đường, một cảm giác thâm thuộc xuất hiện trong Er­agon. Lần cuối tới Dras – Leona cũng kết thúc khá tương tự: nó chạy giữa những tòa nhà san sát, bẩn thỉu, cầu mong tới cổng thành trước khi quân Triều đình tìm ra. Chỉ là lần này nó còn nhiều thứ hơn là Ra’zac để sợ.

Nó liếc nhìn nhà thờ lần nữa. Tất cả những gì Saphi­ra phải làm là giữ chân Murtagh và Thorn vài phút. Sau đó chúng sẽ không thể làm gì để ngăn chặn quân Var­den. Nhưng, vài phút này ngang với vài tiếng trong khi đánh trận, và Er­agon thừa biết cục diện cân bằng thay đổi nhanh thế nào.

Cố lên em! Nó nghĩ dù không gửi từ ngữ đó tới SAphi­ra. Nó không muốn làm cô em bị xao lãng hay cho người khác biết vị trí của mình. Một chút nữa thôi!

Đường càng ngày càng hẹp khi họ tới tường thành. Những tòa nhà nhấp nhô – chủ yếu là nhà dân – che hết mọi thứ trừ một khoảng trời trong xanh. Nước thải ứ đọng trên các máng cống cạnh các tòa nhà. Er­agon và Arya dùng tay áo để che mũi và miệng. Mùi hôi thối hình như không ảnh hưởng tới bà lang trong khi Solem­bum gầm gừ và đập đuôi vì giận dữ.

Một chuyển động thoáng qua trên mái nhà gần đó khiến Er­agon chú ý, nhưng dù là gì khi nó nhìn thì vật đó đã biến mất. Nó tiếp tục nhìn lên, nhưng sau một lúc, nó lại nhìn ra những quang cảnh kỳ lạ: một mảng trắng đối nghịch với ống khói dính đầy bồ hóng; một hình tam giác kỳ lạ đối nghịch với bầu trời ban sang; một điểm nhỏ hình ô van kích thước bằng đồng tiền xu đoan lập lòe trong bóng tối.

Trên mái nhà là hàng tá ma mèo trong dạng thú. Ma mèo chạy từ tòa nhà này sang tòa nhà khác, lặng lẽ quan sát trong khi Er­agon và bạn đồng hành rảo bước trong mê cùng chằng chịt ảm đạm của thành phố.

Er­agon biết những sinh vật biến hình đổi dạng khó hiểu này sẽ không giúp đỡ trừ khi họ rơi vào tình cảnh khốn đốn nhất – chúng muốn giữ bí mật chuyện liên quân với Var­den trước Gal­ba­torix lâu nhất có thể - nhưng nó vẫn thấy được cổ vũ tinh thần.

Con đường kết thúc bằng một ngã năm. Er­agon bàn bạc cùng Arya và bà lang; sau đó họ quyết định đi thẳng.

Sau độ ba mươi mét là một ngã rẽ ra quảng trường phía trước cổng nam của Dras – Leona.

Er­agon dừng lại.

Hàng trăm tên lính đang đứng trước cửa. Những tên lính đang bối rối mặc áo giáp và mang vũ khí trong khi chỉ huy hò hét ra lệnh. Đường chỉ vàng trên áo trấn thủ màu đỏ sâm của chúng lấp lánh khi chạy tới chạy lui.

Sự hiện diện của những người lính làm Er­agon thuất vọng, nhưng nó càng chán nản hơn khi thấy chúng đã chất một núi đã đồ sộ trước cổng, không cho Var­den công thành.

Er­agon chửi thề. Khối đá quá lớn. Cần ít nhất năm mươi người lính làm trong vài ngày mới dọn sạch được. Saphi­ra có thể mở cổng trong vài phút nhưng Murtagh và Thorn sẽ không cho cô em nó cơ hội.

Chúng ta cần đánh lạc hướng tiếp, nó nghĩ. Nhưng cách gì? Saphi­ra! Nó hét và phóng tư tưởng về cô em. Nó chắc chắn cô em nó nghe thấy nhưng nó không có thời gi­an mà cà kê giải thích, vì lúc đó tất cả tụi lính dừng lại và nhìn chằm chằm vào Er­agon và những người bạn đồng hành.

“Có địch!”

Er­agon rút thanh Bris­in­gr và giơ về phía trước trước khi những tên lính chú ý tới. Nó đâu còn lựa chọn nào khác. Nếu rút lui, quân Var­den sẽ nằm gọn trong lòng bàn tay của Triều đình. Hơn nữa, nó không thể để Saphi­ra một mình đương đầu với tường thành và những tên lính.

Nó hét vang khi chạy lên. Arya cùng nó tham gia trận chiến điên rồi này. HỌ cùng nhau mở đường máu xông qua những tên lính đang bị bất ngờ. Trong một khoảnh khắc, nhiều tên lính quá bối rối, chúng không nhận ra Er­agon là kẻ thù cho tới khi nó chém vào chúng.

Những mũi tên bay vun vút từ tường phòng hộ lao vun vút xuống quảng trường. Rất nhiều mũi nảy ngược lại vì lưới phòng vệ của Er­agon. Chúng giết chết hoặc làm bị thương những tên lính Triều đình.

Er­agon không thể đỡ toàn bộ các mũi giáo và dao đâm vào mình. Nó cảm thấy yếu sức ở mức đáng kể vì phép thuật của nó phản đòn tấn công. Nếu nó không thoát được, nó sẽ chết vì kiệt sức.

Nó hét lớn, xoay một vòng, giữ thanh Bris­in­gr gần eo khi chém những tên lính ở trong tầm kiếm.

Lưỡi kiếm xanh chém ngọt qua xương thịt như thể chúng không phải vật chất. Máu chảy đầu kiếm, nhỏ xuống thành từng giọt như tinh cầu san hô. NHững tên lính lùi lại, tay giữ chặt bụng để tránh vết thương hở miệng.

Mọi chi tiết dường như sáng chói và sắc cạnh, như thể được điêu khắc từ gương kính. Er­agon nhìn thấy từng sợi râu của tên lính trước mặt mình. Nó có thể đếm từng giọt mồ hôi chảy xuống từ mắt hắn, và nhìn thấy từng đường gấp, vết trầy rách trên bộ đồ hắn mặc.

Tiếng va chạm khiến Er­agon đau tai nhưng nó lại cực kỳ bình tĩnh. Nó không miễn dịch với những nỗi đau từng khiến nó khở. Nhưng nó không còn dễ động lòng như trước, vì thế nó chiến đấu tốt hơn.

Nó hoàn thành vòng xoay và đang di chuyển đến gần một tên lính khác thì Saphi­ra lượn vòng trên đầu. Đôi cánh của cô em nó áp sát cơ thể, vỗ như những chiếc lá trong cơn cuồng phong. Khi cô nàng bay qua, một cơn gió thổi bạt tóc Er­agon và khi ấn nó xuống đất.

Một giây sau, Thorn xuất hiện với hàm răng nhe ra và lửa phóng ra từ miệng. Hai con rồng quần nhau trên bầu trời trên Dras – Leona nửa dặm; sau đó lượn vòng và đuổi nhau theo hướng ngược lại.

Từ ngoài tường, Er­agon nghe tiếng reo hò rất lớn. Chắc quân Var­den sắp tới rồi.

Một mảnh da trên tay phải nó nóng bỏng như có ai dội mỡ nóng vào. Nó rít lên và lắc tay nhưng cảm giác vẫn còn.Sau đó nó nhìn thấy máu lan ra khắp áo trấn thủ của nó. Nó nhìn Saphi­ra. CHắc chắn là máu rồng nhưng nó không biết của con rồng nào.

Khi những con rồng tới gần, Er­agon lợi dụng phút sơ hở đó và giết thêm ba tên. Sau đó những tên lính định thần và trận chiến trở về như lúc đầu.

Tên lính cầm rìu tiến lên và vung rìu tới. Lưỡi rìu đi được một nửa thì Arya ngăn hắn bằng một cú chém từ đằng sau chia hắn thành hai.

Er­agon gật đầu một cái cám ơn nàng. Họ thỏa hiệp ngầm, đứng đối lưng vào nhau và cùng nhau đối mặt với tụi lính.

NÓ có thể cảm nhận nhịp thở gấp gáp của nàng. Dù họ khỏe hơn và nhanh hơn con người, nhưng sức lực của hạn cũng có hạn. Họ đã giết hàng tá tên lính nhưng ngoài kia còn hàng trăm tên nữa. Er­agon biết lực lượng tăng viện sẽ sớm xuất hiện thôi,

“Giờ sao?” nó hét và gạt một ngọn lao đang nhằm lên bắp đùi nó.

“Phép thuật!” Arya trả lời.

Trong khi trả đòn, Er­agon đọc tất cả các câu thần chú có thể giết chết kẻ địch.

Một cơn gió khác thổi tóc nó. Một bóng hình lướt qua. Saphi­ra đang lượn vòng trên đầu với tốc độ nhanh khủng khiếp. Cô nàng xòe cánh và chuẩn bị đáp xuống tường thành.

Trước khi kịp đậu xuống, Thorn đã tới kịp. Con rồng đỏ lao xuống, khè lửa dài 30m. Saphi­ra hét lên vì thất vọng và bay khỏi tường thành, đập cánh liên hồi để bay cao lên. Hai con rồng xoắn lấy nhau, cắn cấu nhau.

Thấy Saphi­ra gặp nguy chỉ làm Er­agon thêm quyết tâm. Nó tăng tốc độ đọc nhanh lên nhưng không được mắc lỗi. Nhưng dù nó và Arya làm gì cũng không ảnh hưởng tới binh lính.

Sau đó giọng Murtagh dội từ trên trời xuống nhưng giọng của người khổng lồ mây: “Ta bảo vệ họ, Em trai!”

Er­agon nhìn lên thấy Thorn đang lao tới quảng trường. Saphi­ra không lường được sự đổi hướng đột ngột của con rồng đỏ. Cô nàng vẫn bay cao trên bầu trời thành phố, màu xanh đậm tương phản với màu trời xanh nhạt hơn.

Chúng biết, Er­agon nghĩ và nỗi sợ hãi lấn át sự bình tĩnh trước đó.

Nó hạ mắt nhìn tụi lính. Càng ngày càng có nhiều tên ùa xuống đường hai bên tường thành Dras – Leona. Bà lang dựa mình vào một trong những căn nhà gần đó, dùng một tay ném các lọ thủy tinh, một tay vung Tin­kledeath chém giết. Những lo thủy tinh tỏa ra khói xanh lơ. Bất cứ tên lính nào hít phải đều lăn quay ra đất, nắm chặt cổ và quẫy đạp khi những cây nấm nâu nho nhỏ mọc lên trên da. Đằng sau An­gela, trên bức tường khu vườn bằng phẳng là Solem­bum đang co người. Con ma mèo dùng móng vuốt cào lên mắt những tên lính và kéo rơi mũ họ, làm họ quên mất việc tấn công bà lang. Cả ma mèo và An­gela đều bị bao vây tứ phía. Er­agon không tin họ còn trụ được lâu.

Er­agon không thấy có tia hy vọng nào. Nó nhìn Thorn gi­ang cánh và giảm tốc độ.

“Chúng ta phải đi!” Arya hét.

Er­agon lưỡng lự. Arya, bà An­gela và Er­agon dễ dàng nhảy qua tường tới nơi quân Var­den đang chờ đợi. Nhưng nếu họ trốn đi, quân Var­den sẽ không bao giờ có được cơ hội chiếm thành. Var­den không thể đợi lâu hơn: sau vài ngày nữa, nguồn nhu yếu phẩm sẽ cạm kiệt và lính tráng sẽ đào ngũ. Một khi chuyện đó xảy ra, Er­agon biết họ sẽ không bao giờ thành công trong việc đoàn kết tất cả các giống loài chống lại Gal­ba­torix.

Cơ thể và cánh của Thorn che phủ bầu trời, tỏa bóng râm màu hồng ngọc lên một vùng và che khuất Saphi­ra. Những giọt máu, to bằng cỡ nắm đấm tay Er­agon nhỏ xuống từ cổ và chân Thorn. Rất nhiều tên lính khóc thét lên vì chất lỏng chảy xuống.

“Er­agon! Đi thôi!” Arya hét. Nàng nắm lấy tay nó mà két nhưng nó vẫn đứng nguyên, không chấp nhận từ bỏ.

Arya kéo mạnh hơn, buộc Er­agon phải nhìn xuống mà giữ thăng bằng. Trong lúc đó nó nhìn xuống ngón tay trỏ đeo Aren trên bàn tay phải.

NÓ đã hy vọng sẽ dùng năng lượng dự trữ trong nhẫn trong ngày nó đối mặt với Gal­ba­torix. Nó không xá gì với số năng lượng lão thu được trong thời gi­an tại vị, nhưng đó là số năng lượng lớn nhất mà Er­agon có. Nó biết nó sẽ không có cơ hội có được lượng năng lượng tương tự trước khi Var­den tới Urû’baen, nếu như thực sự họ có thể. Ngoài ra, đây là một trong những thứ ít ỏi ông Brom để lại cho nó. Vì thế nó không muốn sử dụng chút xíu nguồn năng lượng nào.

Nhưng nó đâu còn lựa chọn.

Đối với Er­agon, lượng năng lượng dữ trự trong Aren là cực kỳ lớn; nhưng nó không biết liệu có đủ cho dự định của nó không.

Nó liếc nhìn Thorn đang bay tới với những móng vuốt to bằng một người đàn ông. Một phần trong nó đang hét váng lên đòi bỏ chạy trước khi con quái vật kia bắt nó ăn tưới nuốt sống.

Er­agon hít một hơi rồi chạm vào mặt Aren hét, “Jier­da!”

Lượng năng lượng tràn vào nó lớn hơn bao giờ hết.; nó cảm giác như một dòng sông băng đang tan chảy luồn vào từng thờ thịt nó, khiến nó nhột nhạt, căng người. Cảm giác này vừa khó chịu vừa đê mê.

Nó điều khiển khối đá lớn chặn cổng phóng lên trời. KHối đá đập vào người Thorn, xé nát cánh hắn và đánh bay Thorn đang gào thét ra khỏi nội thành Dras – Leona. Sau đó, khối đá vỡ vụn, tạo thành một mái vòm đá lơ lửng trên nửa phía nam thành phố.

Khối đá bay lên làm rung chuyển quảng trường và mọi người ngã nhào xuống đất. Er­agon chống tay và đầu gối tại chỗ, ngửng mặt lên duy trì câu thần chú.

Khi năng lượng trong nhẫn gần cạn kiệt, nó thì thầm, “Gán­ga rae­hta.”. Như đám mây trong cơn cuồng phong, cụm đá bị kéo về bên phải, phía bến cảng và hồ Leona. Er­agon tiếp tục đẩy chúng khỏi trung tâm thành phố xa nhất có thể, rồi, với chút năng lượng cuối cùng trong người, nó kết thúc câu thần chú.

Với một âm thành nhỏ tới gạt người, đám mây đá bụi đổ sập xuống. Những vật chất nặng hơn – đá, những khúc cây gẫy, đất cục – rơi thẳng xuống, làm mặt hồ dậy sóng, trong khi những thứ nhẹ hơn vẫn bay là là trên trời, tạo thành một đám khỏi nâu lớn từ từ bay về đằng tây.

Giờ trước cổng là một khoảng trống. Những viên đá lát đường bị vỡ tạo nên một cái hố, giống như vòng tròn những cái răng gẫy lởm chởm. Cổng thành phố mở, vỡ vụn và biến dạng, chắc chắn không sửa lại nổi.

Qua cảnh cổng hở toang hoác, Er­agon thấy quân Var­den tràn vào những con đường phía đưới. Nó thở ra và để kệ tim đập thình thịch vì kiệt sực. THành công, nó ngẩn người nghĩ. Sau đó nó từ từ đứng dậy vì còn mơ hồ biết rằng nguy hiểm chưa qua.

TROng khi tụi lính triều đình gắng gượng đứng dậy, quân Var­den tràn vào Dras – Leona, hét vang những tiếng hét của chiến tranh và gõ kiếm vào khiên. Vài giây sau, Saphi­ra hạ cánh xuống giữa họ. Cuộc chiến trở thành một cuộc tháo chạy vì những tên lính vội vã giẫm đạp lên nhau mà bỏ chạy.

Er­agon thoáng thấy Ro­ran giữ biển người và người lùn nhưng không kịp bắt anh chú ý tới mình.

Arya…? Er­agon quay người và hoảng hốt vì nàng không ở bên. Nó mở rộng tầm mắt tìm kiếm và nhanh chóng phát hiện nàng ở bên kia quảng trường, bị tầm hai mươi tên lính bao vây. Những tên lính đang nắm tay chân nàng để lôi đi. Arya thoát được một tay và đấm vào cằm một tên, khiến hắn gẫy cổ nhưng những tên khác ngay lập tức tóm lấy tay nàng trước khi nàng kịp trở tay.

Er­agon lao tới. Trong cơn kiệt sức nó chém quá thấp khiến mũi kiếm Bris­in­gr chạm vào áo giáp của tên lính đã chết, khiến nó tuột tay. Thanh kiếm rơi lanh canh trên đất. Er­agon lưỡng lự không biết nên quay lại không. Nhưng rồi nó thấy hai tên lính dùng dao đâm Arya và nó tăng tốc gấp đôi.

Khi thấy nó tới, Arya lắc mình một lúc. NHững tên lính tuột tay. Trước khi chúng kịp tóm nàng lại Er­agon đã hạ gục một tên, đấm vào ngực hắn. Tên lính để ria con kiến đâm dao vào ngực Er­agon. Er­agon dùng tay không nắm lưỡi kiếm mà giật lấy khiến nó gẫy làm đôi, sau đó dùng chính thứ vũ khí của hắn đâm vào bụng hắn. Trong vài giây, tất cả các tên lính vừa đe dọa Arya nằm chết trên đất hoặc đang hấp hối. Er­agon không giết thì Arya giết.

Sau đó, Arya nói. “Tự tôi có thể xử lý.”

Er­agon cúi người, đặt tay lên đầu gối mà thở. “Tôi biết…” Nó hất đầu về phía tay phải nàng – đã bị thương khi kéo tay ra khỏi cùm – lúc này đang nắm chặt xuôi bên mình. “Cứ coi như tôi trả ơn đi.”

“Quà bé thế.” Nàng cười nhẹ.

Hầu hết lính tráng đều đã trốn hết; những tên còn lại thì lùi vào các căn nhà vì bị Var­den dồn vào chân tường. Er­agon thấy một số lớn lính Gal­ba­torix hạ vũ khí đầu hàng.

Nó và Arya cùng nhau tới lấy lại thanh kiếm cho nó, sau đó họ đi tới bức tường đất vàng. MẶt đất khá bẩn. Họ ngồi trên tường quan sát quân Var­den diễu binh vào thành phố.

Saphi­ra nhanh chóng tới chỗ họ. Cô nàng dí mũi vào Er­agon. Nó cười và gãi mũi cho cô em. Cô nàng kêu rừ rừ trong họng trả lời. Anh đã thành công, cô em nó nói.

Chúng ta đã thành công, nó trả lời.

Blöd­hgarm từ trên lưng Saphi­ra đã thả lỏng bàn giằng trên yên cương rồi trượt xuống. Trong một thoáng, nó cực kỳ choáng váng vì gặp chính mình. Nó ngay lập tức quyết định rằng nó không thích tóc nó xoăn ở hai bên thái dương.

Blöd­hgarm nói gì đó không rõ bằng ngôn ngữ cổ; sau đó hình dạng anh ta mờ đi như khi nhiệt độ làm hơi nước bốc lên. Một lần nữa anh ta lại là chính mình: cao, lông lá, mắt vàng, tai dài, răng sắc. Anh ta chẳng giống tiên cũng chảng giống người. Nhưng từ những biểu hiện căng thẳng trên khuôn mặt, Er­agon thấy có chút buồn giận lẫn lộn.

“Thưa khắc tinh của tà thần,” anh nói và cúi đầu trước Arya và Er­agon. “Saphi­ra đã nói cho tôi biết về chuyện xảy ra cho Wyr­den. Tôi…”

Trước khi anh ta nói hết câu, mười tiên nhân dưới quyền Blöd­hgarm còn lại xuất hiên từ trong hàng ngũ Var­den và vội vàng chạy tới với kiếm cầm trên tay.

“Thưa khắc tinh của Tà thần!” họ reo vang. “Thưa Ar­get­lam! Thưa Vảy sáng!”

Er­agon mệt mỏi chào họ và trả lời vài câu hỏi, dù thật sự nó chẳng muốn làm gì.

Một tiếng gầm cắt ngang cuộc trò chuyện. Một bóng đen lướt qua. Er­agon nhìn thấy Thorn đang bay trên đầu – hắn lại gầm lên một lần nữa.

Er­agon lầm rầm nguyền rủa và cầm theo thanh Bris­in­gr leo lên lưng Saphi­ra trong khi Arya, Blöd­hgarm và những tiên nhân khác bảo vệ xung quanh cô em nó. Đó là một đội hình dễ nể nhưng Er­agon không biết họ có chống nổi Murtagh không.

Toàn quân Var­den nhìn lên, nhưng kể cả những người quả cảm nhất cũng run sợ khi thấy một con rồng.

“Em trai!” Murtagh hét lớn khiến Er­agon phải che tai. “Anh sẽ đòi máu từ chú mày vì tội làm Thorn bị thương! Cứ chiếm Dras – Leona đi. Thành phố chẳng là gì với Gal­ba­torix. Nhưng anh thề chú mày sẽ không sống lâu đâu.”

Sau đó Thorn quay người bay về phía bắc Dras-​Leona và nhanh chóng biến mất sau cụm khói đang bốc lên từ những căn nhà bốc lên từ nhà thờ cháy.

34. BÊN BỜ HỒ LEONA

Er­agon bước đi trong doanh trại đã chìm trong bóng tối, quai hàm nghiến chặt, tay nắm thành quyền.

Nó đã giành vài giờ cuối cùng để bàn luận cngf Na­sua­da, Orik, Arya, Garzhvog, vua Or­rin cùng rất nhiều các cố vấn. Họ nói về những sự kiện trong ngày và tình hình hiện tại của Var­den. Gần cuối cuộc họp, họ liên lạc với nữ hoàng Is­lanzadí để thông báo cho bà rằng Var­den đã chiếm được Dras – Leona và cái chết của Wyr­den.

Er­agon không thích giải thích cho bà chuyện một trong những pháp sư lớn tuổi và quyền lực nhất của bà hy sinh ra sao. Nữ hoàng cũng chẳng vui vẻ gì với tin đó. Phản ứng đầu tiên của bà là buồn bã, khiến nó ngạc nhiên; nó cứ nghĩ nữ hoàng không biết Wyr­den.

Nói chuyện với Is­lanzadí khiến tâm trạng của Er­agon rất xấu vì nó biết cái chết của Wyr­den ngẫu nhiên và không cần thiết thế nào. Nếu như mình đi đầu, mình sẽ là người bị mấy mũi lao chọc thủng, nó nghĩ trong khi đi dạo khắp doanh trại. Hoặc là Arya.

Saphi­ra biết nó định làm gì, nhưng cô nàng quyết định về bãi trống trước lều. Cô nàng chỉ giải thích, Nếu em đi rầm rầm trong doanh trại, Var­den sẽ không ngủ được, mà giờ họ đang cần hồi sức. Nhưng đầu óc chúng vẫn kết nối với nhau và nó biết nếu nó cần cô em, cô em nó sẽ đến trong vài giây.

Để không ảnh hưởng gì tới khả năng nhìn trong đêm, Er­agon tránh các đống lửa trại và đuốc đốt sáng trưng trước rất nhiều căn lều, nhưng nó xem xét kỹ từng nguồn sáng một.

Khi đi tìm, nó càng có cảm giác cô nhóc đang trốn tránh nó. Cảm giác của nó với cô nhóc hơn cả tình bạn, chính vì thế cô nhóc biết được vị trí cúa nó và trốn tránh nó, nếu nàng muốn. Nhưng nó không nghĩ nàng hèn nhát. Dù cô nhóc còn nhỏ, nhưng lại là một trong những người cứng rắn nhất nó từng gặp, dù là người, thần tiên hay người lùn.

Cuối cùng nó thấy El­va ngồi trước một căn lều nhỏ, không có gì nổi bật, dệt một cái ổ mèo nằm bên ánh sáng ngọn lửa đang tàn lụi. Bên cạnh cô nhóc là bà bảo mẫu Gre­ta đang ngồi đan lát.

TROng một lúc Er­agon chỉ đứng quan sát. Bà lão chăm chú hơn bình thường và nó không muốn làm phiền bà,

Rồi El­va nói, “Đừng mất tinh thần, Er­agon. Không phải khi ngài đã đi được một đoạn đường rất dài.” Giọng cô nhóc nhẹ nhàng đáng ngạc nhiên như thể cô nhóc vừa khóc. Nhưng khi cô nhóc nhìn lên, ánh mắt có chút dữ dội và thách thức.

Gre­ta giật mình khi Er­agon tiến tới; bà cầm cuộn len và que đen lại và cúi đầu nói, “Xin chào, Khắc tinh của Tà thần. Tôi mời ngài ăn uống chút gì được không ạ?”

“Không, cảm ơn bà,” Er­agon dừng lại trước El­va mà nhìn. Cô nhóc nhìn lại nó một lúc rồi tiếp tục dệt. Nó hơi nhói lên trong bụng khi nhận thấy màu mắt tím của cô nhóc giống màu đá thạch anh các thầy tu Hel­grind dùng để giết Wyr­den và gi­am cầm nó và Arya.

Er­agon quỳ gối và nắm lấy một đoạn len, dừng chuyển động của El­va.

“Tôi biết ngài định nói gì,” cô nhóc cất tiếng.

“Có thể,” nó nhăn mặt, “Nhưng tôi vẫn phải nói. Em đã giết Wyr­den – chính em là người đâm vào ngực anh ấy. Nếu em đi cùng chúng tôi, em có thể báo trước cho anh ấy về cái bẫy. Em có thể cảnh báo cho tất cả chúng tôi. Tôi đã phải giương mắt nhìn Wyr­den chết, Arya xé nát nửa bàn tay, chỉ vì em. Vì sự tức giận của em. Vì sự cứng đầu của em. Vì sự kiêu hãnh của em… Em thích ghét tôi cũng được, nhưng em đừng nên khiến những người khác phải hứng chịu tính khí của em. Nếu em muốn Var­den thua, vậy thì đi đầu quân cho Gal­ba­torix đi. Đó là điều em muốn đúng không?”

El­va từ từ lắc đầu.

“Vậy thì tôi không muốn nghe em từ chối giúp đỡ Na­sua­da thêm một lần nào nữa, không cần biết vì lý do gì, dù ân oán của tôi và em như thế nào. El­va Farseer, em không thắng nổi tôi đâu.”

“Ngài không bao giờ đánh bại nổi tôi,” cô nàng lẩm bẩm, giọng đầy cảm xúc.

“Em sẽ bị ngạc nhiên đấy. Em là một tài năng quý giá, El­va. Var­den cần em giúp đỡ nhiều hơn bao giờ hết. Tôi không biết chúng ta sẽ đánh bại bạo chúa ở Urû’baen kiểu gì, nhưng nếu em đứng cùng hàng ngũ với chúng tôi – nếu em dùng khả năng của mình chống lại lão – chúng ta có thể có cơ hội.”

El­va dường như đang đấu tranh tư tưởng. Sau đó cô nhóc gật đầu. Er­agon thấy cô nhóc khóc, nước mắt tràn ra ào ạt. Nó không thích cô nhóc đau khổ, nhưng nó lại thấy khá hài lòng vì những từ ngữ của mình tác động mạnh tới cô nhóc này tới vậy.

“Tôi xin lỗi,” cô nhóc thì thầm.

Nó thả cuộn len và đứng dậy. “Lời xin lỗi của em không mang Wyr­den quay lại. Trong tương lai em nên làm tốt hơn, có thể em sẽ xóa được lỗi lầm.”

Nó gật đầu chào bà Gre­ta nãy giờ vẫn im lặng, sau đó nó bước vào màn đêm trở về những dãy trại tăm tối.

Anh làm tốt lắm, Saphi­ra nói. TỪ giờ cô nhóc sẽ cư xử khác hơn đó.

Anh hy vọng vậy.

Er­agon không quen quở trách El­va. Nó nhớ lại hồi ông Brom và cậu Gar­row phạt nó vì phạm lỗi và giờ chính nó lại mắc nhiếc một người khác. Nó thấy…khác…và người lớn hơn.

Đó chính là vòng xoay của tạo hóa, nó nghĩ.

Nó đi dạo trong doanh trại, tận hưởng không khí mát mẻ từ hồ bốc lên trong màn đêm đen.

****

Sau khi chiếm Dras – Leona, Na­sua­da khiến mọi người ngạc nhiên vì quyết định Var­den không đóng quân trong thành phố. Cô không giải thích nhưng Er­agon nghĩ rằng sau thời gi­an bị cầm chân lâu ngày ở Dras – Leona, cô muốn nhanh chóng tiếp tục tiến tới Urû’baen. Ngoài ra cô không hứng thú cà kê ở trong thành huyến, nơi số lượng lớn lực lượng tình báo của Gal­ba­torix nằm vùng.

Một khi Var­den chiếm cứ các con đường, Na­sua­da cho một số binh sĩ chốt lại trng thành phố, dưới sự chỉ hy của tướng Mart­land Râu đỏ. Sau đó Var­den rời Dras – Leona và đi về phương bắc, dọc theo nhánh sống xuất phát từ hồ Leona. Trên đoạn đường, những người đưa thư liên tục đi đi về về chuyển tin giữa Var­den và Dras – leona vì Mart­land và Na­sua­da có nhiều vấn đề cần trao đổi nhằm nắm quyền kiểm soát thành phố.

Trước khi Var­den rời đi, Er­agon, Saphi­ra và những pháp sư của Blöd­hgarm trở lại giáo đường giờ đã thành đống tro tàn, mang xác Wyr­den về và tìm kiếm thắt lưng của Be­loth Khôn Ngoan. Saphi­ra chỉ mất vài phút để lật tung đống đá chặn lối vào căn phòng ngầm, giúp Blöd­hgarm và những tiên nhân khác tìm kiếm thi thể Wyr­den. Nhưng họ tìm kiếm bao lâu, dùng bao nhiêu câu thần chú cũng không tìm thấy thắt lưng.

Các tiên nhân đã đặt anh lên khiến mang tới một gò đất nhỏ cạnh lạch sông ngoài thành phố. Họ chôn cất anh trong khi hát vài bài ca bi thảm bằng ngôn ngữ cổ - những bài khát rất buồn khiến Er­agon khóc không đừng được và tất cả chim chóc cùng muông thú phải dừng lại lắng nghe.

Tiên nữ tóc bạc Yaela quỳ xuống bên mộ, lấy một quả sồi từ thắt lưng và đặt tên chính giữa ngực Wyr­den. Sau đó mười hai tiên nhân, bao gồm Arya hát với quả sồi, giúp nó mọc mầm và lớn dần lên, vươn lên bầu trời như một bàn tay.

Khi các tiên nhân hát xong, cây sồi xum xuê lá cành cao sáu mét. Cuối mỗi nhánh là một chùm hoa xanh dài.

Er­agon nghĩ rằng đây là một đám tang đẹp nhất nó được tham dự. Nó thích hơn việc người lùn chôn người chết trong những ngôi mộ đá lạnh lẽo, cứng rắn sâu trong lòng đất. Nó thích ý tưởng thân xác một người trở thành nguồn dinh dưỡng nuôi cho cây sống hàng trăm năm sau. Nếu nó chết, nó muốn trở thành một cây táo để bạn bè và người thân có được quả ngọt sinh ra từ thân xác nó (vấn đề là ai dám ăn?)

Ý tưởng đó khiến nó vui, dẫu theo kiểu bệnh bệnh một chút.

Bên cạnh vào giáo đường tìm kiếm thi thể Wyr­den, Er­agon cũng làm một vài thứ ở Dras – Leona sau khi nó thuộc về Var­den. Với sự đồng ý của Na­sua­da, nó đã trả tự do cho tất cả nô lệ trong thành phố. Nó còn tự mình vào các trang ấp và các khu bán nô lệ và thả rất nhiều đàn ông, phụ nữ và trẻ em khỏi xiềng xích. Nó rất hài lòng và hy vọng cuộc sống những người nó vừa trả tự do kia sẽ khá hơn.

Khi về gần tới lều nó thấy Arya đợi nó bên ngoài. Er­agon rảo bước nhưng trước khi nó kịp mở miệng chào, có ai đó gọi lớn. “Thưa Khắc tinh của Tà thần!”

Er­agon quay lại thấy một tiểu đồng của Na­sua­da đang chạy tới. “Thưa khắc tinh của Tà thần” cậu nhóc nhắc lại, hơi hút hơi rồi cúi chào Arya. “Tiểu thư Na­sua­da mời ngài tới lều một tiếng trước bình minh ngày hôm sau, để thảo luận với người. Ngài nói sao, thư Tiểu thư Arya?”

“Nói với cô ấy là tôi sẽ có mặt,” Arya trả lời và hơi cúi đầu.

Tiểu đồng cúi đầu lần nữa rồi quay người chạy đi.

“Thật đau đầu, vì cả hai chúng ta cùng giết một Tà Thần,” Er­agon cười nhạt nhận xét.

Arya cũng cười nhưng do bóng tôi nhìn không rõ. “Vậy chàng muốn ta để Va­raug sống?”

“Không… Không muốn.”

“Tôi có thể để hắn làm nô lệ, dưới sự kiểm soát của mình.”

“GIờ nàng đang trêu tôi,” nó nói.

Nàng vui thích cười.

“Có lẽ tôi nên gọi nàng là Công chúa vậy – Công chúa Arya.” Nó lại nói, thích thú nghe từ đó phát ra từ miệng mình.

“Chàng đừng gọi tôi thế,” cô nghiêm túc hơn nói. “Tôi không phải công chúa.”

“Vì sao? Mẹ nàng là nữ hoàng. Thế sao nàng lại không phải công cúa. Tước hiệu của bà ấy là dröt­tning, của nàng là dröt­tningu. Cái đầu nghĩa là “nữ hoàng” và cái sau là…”

“Không có nghĩa là ‘công chúa,’” nàng nói. “Không hẳn. Trong ngôn ngữ loài người không có từ tương đương.”

“Nhưng nếu mẹ nàng băng hà hoặc nhường ngôi, nàng sẽ trở thành người trị vì giống loài mình, đúng không?”

“Không đơn giản thế.”

Arya không hứng thú giải thích nhiều hơn, vì thế Er­agon nói. “Nàng muốn vào không?”

“Muốn,” nàng nói.

Er­agon mở cửa lều và Arya đi vào. Sau khi nhìn thoáng qua Saphi­ra – đang nằm cuộn tròn gần đó, thở nặng nề trong cơn ngủ sâu – Er­agon đi vào theo.

Nó tới ngọn đèn đặt ở giữa lều và thì thầm, “Istal­rí,” chứ không dùng bris­in­gr vì lo thanh kiếm phát hỏa. Ngọn lửa tỏa ánh sáng ấm áp khiến căn lều dã chiến trở nên ấm cúng hơn hẳn.

Họ ngồi xuống và Arya nói. “Tôi tìm thứ này trong những đồ của Wyr­den, tôi nghĩ chúng ta nên cùng nhau thưởng thức.” Từ trong túi quần, nàng lấy ra một bình thót cổ bằng gỗ, to bằng lòng bàn tay Er­agon. Nàng đưa cho nó.

Er­agon mở lọ và ngửi. Nó nhướn mày khi ngửi thấy mùi chất lỏng rất mạnh, ngọt ngào.

“Là fael­nirv?” nó hỏi, nói ra tên thứ đồ uống thần tiên làm từ cây cơm cháy mà Narí từng gọi là ánh trăng.

Arya cười, giọng vang như sắt tôi luyện tốt. “Đúng, nhưng Wyr­den cho thêm vài phụ gia.”

“Thế à?”

“Lá một loại cây sinh trưởng ở phía đông Du Welden­var­den, bên bờ hồ Rö­na.”

Nó nhíu mày. “Tôi biết tên cây đó không?”

“Có thể nhưng cũng chẳng quan trọng. Thôi uống thử đi. Chàng sẽ thích cho xem; ta thề.”

Sau đó nàng lại cười khiến nó chần chừ. Nó chưa bao giờ thấy nàng như thế. Nàng kỳ lạ và liều lĩnh. Nó ngạc nhiên vì nhận ra nàng đã say.

Er­agon lưỡng lự. Nó không biết ông Glae­dr có quan sát họ không. Sau đó nó rót thứ chất lỏng đó và nuốt. Nó khác: mạnh, có mùi xa, giống mùi xạ của chồn mactet hay chồn ecmin.

Er­agon nhăn mặt kiềm chế cảm giác muốn nhổ ra khi fael­nirv thiêu cháy cổ họng nó. Nó uống một ngụm nhỏ hơn và trả cái bình cho Arya để cô uống.

Hôm qua là một trong những ngày đẫm máu và rùng rợn. Nó dùng cả ngày chỉ để đánh đấm, giết chóc và suýt giết chết chính mình. GIờ nó muốn được giải thoát… Nó muốn quên. Sự căng thẳng ăn sâu vào tận trong đầu óc nó. Nó cần có một thứ gì đó. Một thứ gì đó từ bên ngoài, kể cả những thứ cực kỳ bạo lực, nhưng phải từ bên ngoài chứ không phải bên trong.

Khi Arya đưa bình lại cho nó, nó uống một ngụm lớn rồi cười không nín được.

Arya nhướn mày đánh giá nó. “Chàng cười gì?”

“Cái này…Chúng ta… Chúng ta vẫn còn sống, và chúng” - nó phẩy tay về phía Dras – Leona - “thì không. Cuộc sống khiến tôi vui, sự sống và cả cái chết.” Nó bắt đầu thấy ấm bụng, tai ngưa ngứa.

“Sống là tốt,” Arya nói.

Họ tiếp tục chuyền nhau bình rượu tới khi không còn giọt nào. Er­agon nhét hũ nút lại – nó phải nỗ lực mãi vì ngón tay nó cứ lóng ngóng vụng về, võng đang chao đảo như thể nó đang ngồi trên một con thuyền lênh đênh trên biển.

Nó trả cái bình rỗng cho Arya. Nàng cầm lấy, nó nắm tay nàng, tay phải nàng và giơ về phía ánh sáng. Không thấy vết thương. “Blöd­hgarm chữa hả?” Er­agon nói.

Arya gật đầu và nó thả tay nàng ra. “Hầu như vậy. Giờ tôi toàn quyền sử dụng tay rồi.” Nàng mở và nắm tay vài lần. :Nhưng một phần da dưới ngón cái vẫn không có cảm giác.” Nàng đung ngón trỏ tay trái chỉ vào.

Er­agon vươn tay nhè nhẹ chạm vào. “Đây à?”

“Đây,” nàng nói và đẩy tay nó sang phải một chút.

“Blöd­hgarm không làm được gì sao?”

Nàng lắc đầu. “Ông ta đã dùng sáu câu thần chú nhưng các dây thần kinh vẫn không liền lại nổi.” Nàng tạo ra một cử động tùy tiện. “Cũng chẳng sao. Tôi vẫn bắn cung và vung kiếm được. Thế là đủ.”

Er­agon chần chừ rồi nói. “Nàng biết đó… tôi rất cám ơn vì điều nàng làm – nàng đã cố làm. Tôi thấy có lỗi khi nàng mang một vết thương cả đời thế. Nếu tôi có thể tránh được chuyện đó xảy ra…”

“Đừng cảm thấy có lỗi chứ. Chúng ta không thể đi qua một đời mà không mang một vết sẹo. Kể cả khi chàng không muốn. Nhờ những vết thương chúng ta mới biết thực lực kẻ thù và khả năng của mình.”

“Bà An­gela cũng nói tương tự - rằng nếu nàng không mang sẹo, nàng sẽ chỉ là một kẻ hèn nhát hoặc tệ hơn.”

Arya gật đầu. “Có chút đúng.”

Nó tiếp tục nói cười khi đêm dần trôi. Hơi rượu không hề yếu đi mà còn mạnh hơn. Er­agon mơ hồ choáng váng. Nó thấy những mảng đen trong lều đang lượn lờ và những ánh sáng lập lòe kỳ lạ - trông như khi nó nhắm mắt trong đêm – trôi trước mắt nó. Tai nó nóng như sốt và da lưng ngứa ngáy nhưng kiến bò. Ngoài ra, những âm thanh được khuếch đại – tiếng côn trùng kêu, tiếng đuốc cháy lách tách ngoài lều; chúng cứ lùng bùng trong tai nó khiến nó khó lòng nghe thấy gì khác.

Mình bị trúng độc ư? Nó tự hỏi.

“Cái gì thế?” Arya hỏi vì để ý tới biểu tình kỳ lạ của nó.

Nó liếm môi vì giờ môi nó khô tới đau nhức và nói cho nàng nghe những gì nó cảm thấy.

Arya cười và ngửa mặt về sau, đôi mắt gần như nhắm. “Cũng đúng thôi. Nhưng tới bình minh chàng sẽ thấy đỡ. Tới lúc đó, hãy thư giãn và để bản thân hưởng thụ thôi.”

Er­agon suy nghĩ mông lung một hồi trước khi từ bỏ dùng thần chú thanh tỉnh đầu óc – nếu như nó còn làm nổi.

Thế giới đảo lộn xung quanh nó. Er­agon giờ mới thấy nó dựa vào các giác quan nhiều thế nào để biết đâu là thật đâu là giả. Nó dám thế là những đốm sáng có ở đó dù đầu óc nó biết thừa đó chỉ là ảo giác do fael­nirv tạo ra mà thôi.

Nó và Arya tiếp tục nói chuyện, nhưng cuộc nói chuyện chẳng đên đầu đến đũa. Nhưng nó tin rằng cuộc nói chuyện này cực kỳ quan trọng dù nó chẳng biết vì sao hoặc nó có còn nhớ nổi không.

Một lúc sau Er­agon nghe có tiếng nhạc của ống sáo sậy trầm mang âm cổ vang tới từ nơi nào đó trong trại. Lúc đầu nó nghĩ mình tưởng tượng ra thôi, nhưng sau nó thấy Arya nghiêng đầu hướng về phía phát ra tiếng nhạc như thể nàng cũng đang lắng nghe.

Ai đang chơi và vì sao, Er­agon không biết. Nó cũng chẳng quan tâm. Âm thanh như thể xuyên qua màn đêm, như một ngọn gió cô độc và lạc lõng.

Nó nghiêng đầu lắng nghe, mắt lim dim trong khi những hình ảnh tưởng tượng nháy múa trong đầu óc, fael­nirv là chất xúc tác giúp âm nhạc tạo nên hình ảnh.

Tiếng nhạc càng lúc càng hoang dại hơn, từ trầm buồn thành giục giã, các nốt nhạc lên bổng xuống trầm rất nhanh, rất quyết liệt, rất phức tạp, rất đáng sợ khiến Er­agon bắt đầu lo cho sự an nguy của người nhạc công. Để chơi nhanh và kỵ nghệ như thế này là không bình thường, cho dù đó là thần tiên.

Arya cười khi nhạc lên cao độ. NÀng loạng choạng đứng lên, hai tay giơ cao quá đầu. Nàng dậm chân và vỗ tay – một lần, hai lần, ba lần – sau đó, Er­agon ngạc nhiên khi thấy nàng nhảy. Lúc đầu nàng chuyển động chậm, gần như lả lướt, sau đó tốc độ tăng lên cho tới khi hòa nhịp với gi­ai điệu.

Bản nhạc lên đỉnh điểm rồi từ từ nhẹ nhàng như lúc đầu. Nhưng trước khi tiếng nhạc kết thúc, một cái nhói đột ngột khiến Er­agon gãi bàn tay phải. Cùng lúc, nó cảm giác trong đầu óc nhói đau, lá chắn phòng thủ sẵn sàng, báo hiệu cho nó nguy hiểm đang tới.

Một giây sau có tiếng rồng rống lên trên đầu.

Er­agon lạnh người.

TIếng rống đó không phải của Saphi­ra.

35. LỜI THẾ CỦA KỴ SĨ RỒNG

Er­agon nắm lấy thanh Bris­in­gr , sau đó, nó cùng Arya lao ra khỏi lều.

Er­agon loạng choạng bước ra. Nó khuỵu chân xuống vì mặt đất như đang dậy song. Nó nắm lấy một túm cỏ, dùng như mỏ neo giữ mình đợi cơn chóng mặt qua đi.

Khi nhìn lên, nó phải nheo mắt lại. Ánh đuốc gần đó sáng rực rỡ tới đau mắt; ánh lửa chập chờn trước mắt nó như những con cá, có điều sống nhờ dầu.

Mất thăng bằng rồi, Er­agon nghĩ. Không thể tin vào thị giác nữa. PHải thanh tỉnh đầu óc thôi. Phải…

Nó thấy có gì đó chuyển động nên lùi lại. Đuôi Saphi­ra quẹt qua nó, chỉ các đầu nó vài cm, sau đó đập phải lều nó, bẻ gẫy các cột gỗ như thể chúng là những cành cây khô.

Saphi­ra gầm gừ, cắn vào không khí khi đứng dậy. Sau đó cô nàng dừng lại vì bối rối.

Anh nhỏ bé, cái gì…

Âm thanh như tiếng gió lộng khiến cô nàng dừng lại. Từ trên bầu trời đen kịt, Thorn xuất hiện, đỏ như máu và lấp lánh như những ngôi sao. Hắn hạ xuống gần trại của Na­sua­da và mất đất rung lên dưới sức nặng của hắn.

Er­agon nghe tiếng lính cận vệ của Na­sua­da hô vang; sau đó Thorn tạt chân trước qua mặt đất và một nửa số âm thanh đó câm bặt.

Dưới lực tấn công của con rồng đỏ, vài chục người lính ngã xuống hoặc bắn đi vào các lều, làm ngã vài người lính canh đang chạy tới.

Tiếng kèn vang lên trong doanh trại. Cùng lúc, tiếng gi­ao đấu vang lên ngoài hàng phòng thủ khiến Er­agon nghĩ có thêm một cuộc tấn công nữa từ phía bắc.

Có bao nhiêu lính? Nó nghĩ. Chúng ta có bị bao vây chưa? Sự hoảng sợ làm lu mờ các giác quan và khiến nó mù quáng muốn chạy trong màn đêm. Nhưng nó biết ý nghĩ đó là do tác động của fael­nirv nên nó đứng im.

Nó thì thầm một câu thần chú trị thương, hy vọng nó có thể đảo ngược tác dụng của chất lỏng, nhưng không ích gì. THất vọng, nó cẩn thận đứng dậy, rút thanh Bris­in­gr và đứng cạnh Arya khi tên người lính khác chạy tới. Er­agon không biết nó sẽ đánh đấm thế nào. Không phải trong điều kiện hiện tại.

Khi những tên lính chỉ còn cách khoảng sáu mét thì Saphi­ra gầm vang và dùng đuôi quét bay chúng. Er­agon – cảm nhận được Saphi­ra định làm gì – liềm ôm lấy Arya và chính mình, nhờ sự tượng trợ lẫn nhau để có thể đứng vững.

Sau đó Blöd­hgarm và một tiên nhân khác, Laufin bước ra từ mê cung lều trại trước khi họ có thể đứng lại. Những tiên nhân khác bám sát gót.

Một toán lính khác, hơn hai mươi tên chạy tới chỗ Er­agon và Arya như thể chúng thừa biết tìm họ ở đâu.

Các tiên nhân dàn hàng ngang trước Er­agon và Arya. Nhưng trước khi chúng tới được tầm kiếm của các tiên nhân, môt trong các lều mở ra và bà An­gela hét vang, khiến chúng ngạc nhiên.

Bà lang mặc bộ đồ ngủ màu đỏ, mái tóc xoăn rối tung, hai tay vầm hai bàn chải len. Chúng dài gần một mét và có hai hàng răng sắt ở một đầu. Những chiếc răng sắt dài hơn nửa cánh tay Er­agon và sắc như đầu mũi kim – nó biết nếu chạm vào, nó sẽ bị nhiễm độc máu từ sợ len trên đó.

Hai tên lính ngã xuống khi bà An­gela cắm bàn chải len lên người, cào răng lược lên áo giáp chúng. Bà lang lùn hơn vài tên lính tới 30 phân nhưng bà không hề sợ hãi khi tả hữu xung đột giữa chúng. Ngược lại, bà là một bức tranh hung bạo, với mái tóc xõa tung, tiếng hét cùng biểu tình trong đôi mắt đen.

Những tên lính bao vây bà An­gela và siết chặt vòng vây. Er­agon không còn thấy bà và trong phút chốc, nó lo sợ bà sẽ thua.

Rồi, từ trong doanh trại, nó thấy Solem­bum chạy tới đám lính, tai dính sát da đầu. Càng nhiều mèo ma bám theo sau: hai mươi,, ba mươi, bốn mươi – một đàn và tất cả đều trong dạng thú.

Những tiếng rít, rống, gào thét vang động khi ma mèo lao vào tụi lính, kéo chúng xuống đất, dùng móng vuốt và răng nanh cắn xé chúng. Nhưng tên lính cố hết sức chống trả nhưng chúng làm sao có thể địch lại những con mèo lớn xác, dữ tợn kia.

Toàn bộ sự việc, từ khi bà lang xuất hiện tới sự can thiệp của bầy ma mèo khiến Er­agon không kịp phản ứng. Nó chớp mắt và liếm môi, cảm thấy có chút mơ hồ về những gì xảy ra xung quanh.

Sau đó Saphi­ra nói, Nhanh,lên lưng em, rồi cô em ngồi xuống để nó trèo lên lưng.

“Đợi đã,” Arya noi và đặt tay lên vai nó. Nàng nói vài từ bằng ngôn ngữ cổ. Một giây sau, sự hỗn loạn trong đầu óc Er­agon tan biến và nó thấy mình kiểm soát lại được cơ thể.

Nó liếc nhìn cảm ơn Arya rồi ném vỏ bao Bris­in­gr vào trong lều, leo lên chân phải cô nàng và ngồi yên vị ở vị trí quen thuộc ở cổ. Không có yên, những vảy sắc nhọn châm chọc vào chân nó, khiến nó nhớ tới chuyến bay đầu tiên.

“Chúng ta cần Dau­th­daert,” nó hét gọi Arya.

Nàng gật đầu và chạy về lều mình cách đó mấy chục mét, về phía đông doanh trại.

Một tư tưởng khác, không phải của Saphi­ra, ép lên đầu óc Er­agon khiến nó rút tư tưởng mình về để bảo vệ bản thân. Sau đó nó nhận ra tư tưởng đó của Glae­dr nên để cho ông rồng vàng vượt qua lá chắn bảo vệ.

Ta sẽ giúp, Glae­dr nói. Đằng sau từ ngữ của ông, Er­agon cảm thấy có cơn giận dữ kinh khủng hướng vào Thorn và Murtagh, một cơn giận đủ đốt cháy thế giới thành từng mảnh vụn. Hợp nhất tư tưởng với ta, Er­agon, Saphi­ra. Cả ngươi nữa, Blöd­hgarm, và ngươi, Laufin,cũng như tất cả các tiên nhân khác. Hãy để ta nhìn qua mắt các ngươi, nghe qua tai các ngươi, để ta đưa ra lời khuyên các ngươi nên làm gì và ta sẽ cho các ngươi mượn sức mạnh khi cần.

Saphi­ra nhoài lên, nửa bay nửa đi giữa các dãy trại về phía con rồng đỏ Thorn. Các tiên nhân theo sau bên dưới, giết bất cứ tên lính nào họ đụng độ.

Saphi­ra có lợi thế về chiều cao vì hiện tại Thorn vẫn trên mặt đất. Cô nàng hướng xuống – có chủ đích để đốt cháy lưng Thorn và nhằm hàm răng vào cổ hắn – nhưng khi con rồng đỏ thấy cô nàng tới, nó gầm ghè quay mặt nhìn cô nàng, co người lại như một con cún con đối mặt với con chó to hơn.

Er­agon chỉ có thời gi­an để để ý yên cương của Thorn trống không thì con rồng đỏ dùng cái chân trước cơ bắp to đùng đánh bào Saphi­ra. Bàn chân nặng nề của nó vờn trong không khí nghe vun vút. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, móng vuốt của hắn trắng tới ghê người.

Saphi­ra tránh sang một bên, vặn mình để tránh cú táp. Mặt đất và bầu trời xoay đảo quanh Er­agon. Khi nó nhìn lên doanh trại thì một bên cánh phải của Saphi­ra đã xé nát lều một ai đó.

Lực xoay khiến Er­agon lùi người lại. Những vẩy sáng của cô nàng bắt đầu trượt trên chân nó. NÓ ép sát đùi và nắm chặt cương trước mặt, nhưng chuyển động của Saphi­ra quá khủng khiếp khiến nó không chịu nổi. Một giây sau, nó tuột tay và bay trong không khí, không biết đâu là trên đâu là dưới.

Khi ngã, nó vẫn nắm chặt Bris­in­gr và kéo thanh kiếm xa người; dù có lưới bảo vệ hay không, thanh kiếm vẫn có thể làm nó bị thương vì bà Rhunön đã niệm chú vào đó.

Anh bé!

“Let­ta!” Er­agon hét và với một cú nảy, nó dừng chết trên trười, chỉ cách mặt đất ba mét. Trong khí thế giới tiếp tục đảo lộn, nó thoáng thấy những đường nét lấp lánh của Saphi­ra khi cô nàng đảo người đỡ nó.

Thorn gầm vang và làm thiêu cháy vài lều giữa hắn và Er­agon bằng ngọn lửa trắng nóng dội từ trên trời xuống. TIếng hét tức giận vang lên khi những người đàn ông bị chết cháy.

Er­agon giơ tay che mặt. Phép thuật bảo vệ nó khỏi những vết thương nghiêm trọng nhưng nhiệt độ không dễ chịu chút nào. Anh ổn, đừng quay lại, nó nói không chỉ với Saphi­ra mà còn với ông Glae­dr và các tiên nhân. Mọi người phải ngăn con rồng đo s lại. Tôi sẽ gặp mọi người ở lều chỉ huy của Na­sua­da.

Saphi­ra rõ ràng là không đồng ý nhưng vẫn tấn công Thorn tiếp.

Er­agon loại bỏ câu thần chú và ngã xuống đất. Nó hạ cánh nhẹ nhàng sau đó chạy giữa những căn lều cháy, rất nhiều trong số đó đã đổ sập, chỉ còn lại những đốm sáng vàng cam.

Khói và mùi vải bao bố đi đốt khiến Er­agon khó thở. Nó ho, mắt chảy nước làm giảm thị lực.

Trước đó vài trăm mét, Saphi­ra và Thorn đang quần nhau. Hai kẻ khổng lồ trong màn đêm. Er­agon cảm thấy một nỗi sợ bản năng. Nó đang chạy về phía chúng, về phía hai sinh vật đang gầm ghé, đớp táp nhau, lớn bằng cả một tòa nhà – Thorn còn lớn hơn thế - có móng vuốt, răng nanh, ngạnh lớn hơn cả người nó? Kể cả sau khi nỗi sợ qua đi, nó vẫn hơi run khi chạy lên.

Nó hy vọng Ro­ran và Ka­tri­na an toàn. Lều của họ ở phía bên kia doanh trại, nhưng Thorn và những tên lính có thể hướng tới đó bất cứ lúc nào.

“Er­agon!”

Arya xuất hiện khỏi đám cháy, mang theo thanh Dau­th­daert ở tay trái. Quầng sáng xanh mờ bao phủ lưỡi thương có ngạnh, dù quầng sáng khó thây trong màn lửa ngút trời. Đi cạnh nàng là Orik, đang dạo qua những lưỡi lửa như thể chúng chẳng hơi nước là mấy. Người lùn không mặc áo giáp và đội mũ trụ. Anh ta cầm chiếc búa cổ Vol­und bằng một tay còn tay kia cầm khiên tròn. Máu nhễu xuống từ lưỡi búa.

Er­agon vẫy tay hét gọi họ, mừng vì có bạn bè sát cánh. Khi tới nơi, Arya đưa nó cây thương nhưng Er­agon lắc đầu. “Giữ đi!” nó nói. “Chúng ta sẽ có cơ hội chặn Thorn nếu nàng dung Nier­nen còn tôi dùng Bris­in­gr.

Arya gật đầu và nắm chặt cây thương. Lần đầu tiên, Er­agon tự hỏi với vị trí một thần tiên nàng có thể tự mình giết rồng không. Sau đó nó bỏ qua ý nghĩ đó. Nếu nó biết gì về Arya thì cô luôn làm điều cần thiết, dù khó thế nào.

Thorn đâm móng vào lồng ngực Saphi­ra, Er­agon cảm nhận được nỗi đau qua kết nối giữa chúng. Từ tư tưởng của Blöd­hgarm, nó biết các tiên nhân đã tới gần con roongf, và đang bận rộn chiến đấu với những tên lính. Nhưng họ không dám lại gần Thorn hay Saphi­ra vì sợ bị dẫm bẹp.

“Đằng này,” Orik nói, rồi chỉ cây búa vào đám lính đang di chuyển giữa các căn lều cháy.

“Kệ chúng,” Arya nói. “Chúng ta phải giúp Saphi­ra.”

Orik càu nhàu. “Được, vậy chúng ta đi.”

Thế là ba người bọn họ lao về phía trước, nhưng Er­agon và Arya nhanh chóng bỏ Orik lại. Người lùn không thể nào đuổi kịp họ, dù người đó có khỏe và săn chắc như Orik.

“Đi tiếp đi!” Orik hét từ đằng sau. “Tôi sẽ theo nhanh nhất có thể!”

Khi Er­agon tránh những mảnh vải cháy bay trong không khí, nó thấy Nar Garzhvog quần nhau với một nhóm mười tên lính. Kull có sừng có vẻ biến dạng dưới ánh lửa, môi ông vén lên để lộ răng nanh, bóng tôi của hàng lông mày rậm làm mặt ông có vẻ độc ác, nguy hiểm, như thể xương sọ bị đục một lỗ. Ông ta dùng tay không nắm lấy một tên lính và xé đôi người hắn dễ dàng như Er­agon xé gà rán.

Đi thêm vài bước, những căn lều cháy không còn. Ở bên kia đống lửa, mọi thứ trở nên hỗn loạn.

Blöd­hgarm và hai pháp sư khác đứng đối diện với những tên mặc áo choàng đen mà Er­agon đoán là pháp sư Triều đình. Cả chúng và thần tiên đều không đụng đậy, dù mặt biểu lộ sự căng thẳng vô cùng. Hàng tá lính nằm chết trên mặt đất, vài người chạy trốn, vài tên mang những vết thương lớn đến nối Er­agon biết chúng là những kẻ không còn biết đau.

Nó không nhìn thấy những tiên nhân khác nhưng nó có thể cảm nhận sự hiện diện của họ ở cạnh căn lều chỉ huy màu đỏ của Na­sua­da, ở trung tâm trận tàn phá.

Những nhóm ma mèo đuổi những tên lính tới lui trên trảng trốn quanh lều chỉ huy. Vua Nửa vuốt và phu nhân, Thợ săn Đêm dẫn đầu hai nhóm; Solem­bum dẫn nhóm thứ ba.

Đứng gần lều chỉ huy là bà lang đang đấu với một gã cao lớn, lực lưỡng – bà dùng bàn chải lông, hắn một tay cầm mâu một tay cầm néo. Cả hai có vẻ ngang cơ dù khác nhau về giới tính, cân nặng, chiều cao, phạm vi đánh, và vũ khí.

Er­agon ngạc nhiên thấy El­va cũng ở đó, ngồi trên một cái thùng. Cô nhóc phù thủy khoanh tay quanh bụng và có vẻ bệnh sắp chết, nhưng cô nhóc cũng tham gia trận chiến theo cách của riêng mình. Bao quanh cô nhóc là một tá lính và Er­agon thấy cô nhóc đang nói liến thoắng với họ. Khi cô nhóc nói, những người xung quanh phản ứng khác nhau: kẻ đứng chết trân tại chỗ; kẻ gào khóc và dùng tay che mặt; có kẻ quỳ gối và dùng dao đâm vào ngực; kẻ hạ vũ khí chạy khỏi doanh trại nhưng cũng có những kẻ nói bập bê như kẻ ngốc. Không ai cầm vũ khí chống lại cô nhóc và không ai tiếp tục tấn công người khác.

Lờ mờ bên trên đống lộn xộn và hai ngọn núi sống, Saphi­ra và Thorn. Chúng dẹp sạch bên trái lều chỉ huy và vòng quanh nhau, giẫm nát hết lều này tới lều khác. Những ngọn lửa xuất hiện trên lỗ mũi và khẻ hở giữa những cái răng sắc như kiếm.

Er­agon chần chừ. Mớ hỗn độn những chuyển động và âm thanh quá mạnh, nó không biết ở đâu cần nó nhất.

Murtagh? Nó hỏi Glae­dr.

CHúng ta đang tìm hắn nếu hắn ở đây. Ta không cảm nhận được tư tưởng của hắn, nhưng cũng khó vì có quá nhiều người và câu thần chú ở môt nơi. Quay liên kết của họ, Er­agon có thể biết ông rồng vàng đang làm nhiều hơn chỉ nói chuyện với nó; Glae­dr đang đồng thời lắng nghe suy tưởng của Saphi­ra và thần tiên, cũng như giúp Blöd­hgarm và hai người đồng hành chống lại những pháp sư triều đình.

Er­agon tự tin rằng họ có thể đánh bại pháp sư cũng như bà An­gela và El­va sẽ thừa sức bảo vệ mình khỏi sự uy hiếp của bọn lính. Nhưng Saphi­ra đã bị thương vài nơi và cô nàng đang vất vả giữ không cho Thorn tấn công phần còn lại của doanh trại.

Er­agon liếc nhìn thanh Dau­th­daert trên tay Arya rồi nhìn những con rồng.Chúng ta phải giết hắn, Er­agon nghĩ và trái tim chùng xuống. Sau đó mắt nó nhìn El­va và một ý tưởng mới nảy sinh trong đầu nó. Những từ ngữ của cô nhóc còn mạnh hơn bất cứ loại vũ khí nào; không ai, kể cả Gal­ba­torix có thể chịu nổi chúng. NẾu cô nhóc có thể nói chuyện với Thorn, cô nhóc sẽ đuổi được hắn đi.

Không! Glae­dr gầm lên. Trò chỉ tốn thời gi­an thôi. Tới với con rồng của trò đi – ngay! Cô nhóc cần sự giúp đỡ của trò. TRò phải giết Thorn, chứ không phải dọa nó chạy mất! Nó đã hỏng, và con không thể làm gì để cứu nó.

Er­agon nhìn Arya và nàng nhìn nó.

“El­va có thể nhanh hơn,” nó nói.

“Chúng ta có thanh Dau­th­daert…”

“Quá nguy hiểm. Quá khó.”

Arya lưỡng lự rồi gật đầu. Họ cùng nhau bước tới với El­va.

Trước khi bước tới chỗ cô nhóc, Er­agon nghe có tiếng hét nghẹt lại. Nó quay lại, hoảng hốt thấy Murtagh bước ra khỏi lều chỉ huy, nắm lấy cổ tay Na­sua­da mà kéo.

Tóc Na­sua­da rối tung. Một vết sẹo xấu xí kéo dài trên má cô và chiếc váy vàng bị rách nhiều chỗ. Cô đá vào đầu gối Murtagh, nhưng gót chân nảy ra vì lá chắn, còn Murtagh không bị ảnh hưởng gì. HẮn bạo lực kéo cô tới gần hơn rồi dùng chuôi Zar’roc đánh vào thái dương cô, khiến cô bất tỉnh.

Er­agon hét lên và lao tới.

Murtagh liếc qua nó. Sau đó hắn bỏ kiếm vào bao, vác Na­sua­da lên vai và quỳ một bên gối, cúi đầu như thể cầu nguyện.

Cơn đau nhói từ Saphi­ra khiến Er­agon xao lãng, cô nàng hét lên. “Cẩn thận! Hắn muốn thoát!”

KHi Er­agon leo qua chồng xác chết, nó liều lĩnh liếc lên. Nó thấy cái bụng sáng lấp lánh của Thorn và đôi cánh màu nhung che hết nửa số vì sao trên trời. Con rồng đỏ hơi quay mình lao xuống, như một chiếc lá lớn và nặng.

Er­agon lùi về một phía và lăn về sau lều, cố gắng tăng khoảng cách giữa nó và con rồng. Một tảng đá đập vào vai nó.

Không chậm lại, Thorn chạm đất bằng chân phải to bằng cả một thân cây và đặt bàn chân to tướng gần Murtagh và Na­sua­da. Móng vuốt của hắn ấn sâu vào đất, cày sâu vài chục phân khi nhấc hai người lên.

Sau đó, với một tiếng gầm chiến thắng và tiếng vỗ cánh huỵch ghê răng, Thorn bay khỏi doanh trại.

TỪ nơi Saphi­ra và Thorn vừa quần nhau, Saphi­ra đuổi theo, máu chảy ra từ những vết cắn và cào xước trên chân. Cô nàng nhanh hơn Thorn nhưng dù có đuổi kịp, Er­agon cũng không nghĩ cô em nó làm sao mà cưu Na­sua­da trong khi không làm cô bị thương.

Một trận gió thối vào tai nó khi Arya tăng tốc vọt qua. Nàng chạy trên một đống thùng và nhảy cao lên trời, hơn bất cứ một thần tiên nào có thể. Nàng với lấy đuôi Thorn và đung đưa như thể một vật trang trí.

Er­agon bước nửa bước theo sau như đinh ngăn cô, rồi nguyền rủa và gầm lên, “Au­dr!”

Câu thần chú giúp nó bắn lên trời như một mũi tên. Nó vươn tư tưởng tới Glae­dr và con rồng già cho nó năng lượng/ Er­agon đốt cháy toàn bộ năng lượng vừa nhận, không cần quan tâm tới hậu quả, chỉ muốn tóm được Thorn trước khi chuyện gì đó kinh khủng xảy ra cho Na­sua­da hay Arya.

Khi va chạm vào Saphi­ra, Er­agon quan sát Arya bắt đầu leo lên đuôi Thorn. Nàng nắm lấy ngạnh trên xương sống bằng tay phải, sử dụng chúng như thang. Bằng tay trái, nàng đâm Dau­th­daert vào Thorn, dùng lưỡi thương để đẩy mình đi cao hơn và cao hơn. Thorn uốn éo để táp nàng như một con ngựa bị ruồi muỗi làm phiền, nhưng nó táp trượt.

Sau đó, máu con rồng đỏ chảy ra từ cánh và chân và, với hàng hóa quý giá đang mang sát ngực, nó lao xuống đất, với những đường lượn xoắn ốc chết người. Thanh Dau­th­daert xé toạc da thit Thorn và Arya đứng trên người nó dùng tay phải cầm cây thương – bàn tay yếu, bị thương trong trận tập kích dưới Dras – Leona.

Trước khi những ngón tay lỏng ra và rơi khỏi Thorn, cô gi­ang tay chân như nan xe. Chắc chắn cô dùng thần chú để bay từ từ trong bầu trời đêm. Qua thứ ánh sáng từ Dau­th­daert trên tay, Er­agon thấy nàng như một con đom đóm xanh lập lòe trong bóng tối.

Thorn dang cánh và bay về phía nàng. Arya quay đầu nhìn qua Saphi­ra rồi quay người đối diện với Thorn.

Ánh sáng hiểm ác xuất hiện giữa hàm Thorn và một giây sau, ngọn lửa hung tàn ào ra từ mồm hắn, bao gọn Arya.

Lúc đó, Er­agon chỉ còn cách nàng chưa đầy 17m – đủ gần để nhiệt độ khiến má nó nóng bỏng.

Ngọn lửa tan dần để lộ Thorn đang quay đi khỏi Arya, bay nhanh nhất có thể. Trong khí đó, hắn vẫy đuôi trong không nhanh nhất để nàng đừng mong tránh nổi.

“Không!” Arya thét lên.

Một tiếng rắc và đuôi hắn đập vào Arya. Nó khiến cô rơi vào bóng tôi, như một viên đá bị ná cao su bắn đi. Thanh Dau­th­daert rời khỏi tay cô rơi xuống, ánh sáng từ nó mờ nhạt và nhanh chóng biến mất.

Dường như có cái vòng sắt quấn chặt quanh ngực Er­agon, bóp nghẹt hơi thở của nó. Thorn bỏ đi nhưng Er­agon vẫn có thể tóm được hắn nếu lấy thêm năng lượng từ Glae­dr. Nhưng kết nối của nó với Glae­dr càng lúc càng mong manh và Er­agon không có cơ hội đánh bại Thorn và Murtagh một mình và trên khong trung, không phải khi Murtagh có hàng tá hoặc có thể nhiều hơn những El­dunarí.

Er­agon chửi thề rồi chấm dứt câu thần chú giúp nó bay trên trời và lao đầu xuống tìm Arya. Gió rít bên tai, thổi tạt tóc và quần áo nó, thổi dẹt má nó, khiến nó nhắm chặt mắt. Một con côn trùng bay trúng cổ nó; lực đập manh như thể nó bị đá cuội ném trúng.

Khi ngã xuống, Er­agon dùng tư tưởng tìm kiếm Arya. Nó cảm thấy có gì dó trong bóng tôi bên dưới khi Saphi­ra xuất hiện dưới nó, vảy không còn lấp lánh dưới ánh sao. Cô nàng quay ngược lại cho Er­agon thấy một vật nhỏ tối trong bàn chân trước.

Một nỗi đau chạm vào trí óc Er­agon, sau đó mọi sự qua đi và Er­agon không thấy gì nữa.

Anh bé à, em tóm được cô ấy rồi, Saphi­ra nói.

“Let­ta,” Er­agon nói và nó chậm lại rồi dừng hẳn,

Nó tìm Thorn một lần nữa nhưng chỉ thấy vài ngôi sao và màn đêm đen. Đằng đông nó nghe có tiếng đập cánh nho nhỏ rồi chìm vào im lặng.

Er­agon nhìn doanh trại quân Var­den. Những ngọn lửa tỏa ánh vàng cam và những cột khói bốc lên. Hàng trăm lều bị vùi dập trong đất cát cùng rất nhiều người không trốn kịp khi Thorn đánh úp. Nhưng những người đó không phải nạn nhân duy nhất của trận tấn công. Từ độ cao của mình, Er­agon không thể nhìn rõ từng thi thể, nhưng nó biết rất nhiều binh lính đã tử trận.

Vị khói tràn vào miệng Er­agon. Nó rùng mình, nước mắt của giận dữ và sợ hãi cùng thất vọng che mờ mắt nó. Arya bị thương – có lẽ đã chết. Na­sua­da đã đi mất, bị bắt cóc và cô sẽ sớm bị những kẻ hành hình độc ác của Gal­ba­torix hành hạ.

Er­agon thấy vô vọng.

Giờ họ tiếp tục thế nào đây? Sao họ mong chiến thắng khi không còn Na­sua­da dẫn dắt?

36. CUỘC HỌP KÍN CỦA CÁC VỊ VUA (kyle_rod và minh­phuc12 dịch)

Sau khi hạ cánh tại doanh trại của quân Var­den cùng Saphi­ra, Er­agon trượt xuống bên cạnh cô ả và chạy tới bãi cỏ mà Saphi­ra đã nhẹ nhàng thả Arya xuống.

Nàng tiên nằm úp mặt xuống đất, khuôn mặt ủ rũ và toàn thân bất động. Khi Er­agon lật Arya lên, mắt nàng chập chờn mở. “Thorn…Thorn thì sao?” Cô thì thào.

Hắn đã trốn thoát, Saphi­ra đáp.

“Na­sua­da sao rồi? Anh cứu được cô ấy không?” Er­agon nhìn xuống và lắc đầu.

Một thoáng buồn hiện lên trên khuôn mặt Arya. Cô ho và nhăn mặt, sau đó bắt đầu ngồi dậy. Một dòng máu trào ra từ khóe miệng cô.

“Đợi đã” Er­agon hét lên. “Đừng di chuyển. Tôi sẽ gọi Blöd­hgarm tới”.

“Không cần đâu”. Nắm chặt vai Er­agon, Arya kéo mình lên dồn một phần trọng lượng cơ thể vào đôi chân, sau đó mới thận trọng đứng thẳng lên. Hơi thở của cô trở nên khó nhọc vì căng cơ, Er­agon có thể trông thấy nỗi đau đớn mà cô cố che giấu. “Tôi chỉ bị bầm vài chỗ thôi, không sao đâu. Thần chú của tôi bảo vệ tôi khỏi những điều tồi tệ từ cú đánh của Thorn”.

Er­agon nghi ngờ, nhưng nó chấp nhận tuyên bố của nàng.

Bây giờ thì sao?, Nó hỏi Saphi­ra, di chuyển gần hơn với cô em rồng và nàng tiên. Mùi hắc và mùi tanh của máu ngập tràn khứu giác Er­agon.

Er­agon nhìn quanh trong doanh trại những ngọn lửa đã bị dập tắt. Mặt khác nó tự hỏi liệu Ro­ran và Ka­tri­na thế nào sau cuộc tập kích. “Chuyện gì nữa đây?”

Những tình huống xảy ra tiếp theo trả lời câu hỏi của nó. Đầu tiên, một cặp lính triều đình bị thương lao ra từ làn khói định tấn công nó và Arya. Ngay khi Er­agon kết liễu chúng, tám trong số mười một thần tiên còn lại trở về vị trí của họ quanh nó và cô em rồng.

Sau khi Er­agon thuyết phục họ rằng nó không hề hấn gì, thần tiên chuyển sự chú tâm của họ về phía Saphi­ra và khăng khăng đòi chữa lành vết cắn và vết trầy xước mà Thorn gây ra cho cô ả, mặc dù Er­agon thích tự làm lấy chuyện đó hơn.

Nhưng nó biết phải mất tới một vài phút để chữa lành cho cô em rồng, Er­agon rời khỏi Saphi­ra cùng những thần tiên và vội vã quay lại lối đi thông qua những dãy lều tới khu vực cắm trại của Na­sua­da, nơi Blöd­hgarm và hai thần tiên khác vẫn đang bị cầm chân trong cuộc chiến tâm trí với bốn pháp sư triều đình.

Pháp sư còn lại đang quỳ trên mặt đất, trán hắn ta ấn lên đầu gối và hai cánh tay quấn quanh gáy. Thay vì tấn công hắn ta bằng phép thuật, Er­agon sải bước tiến lại gần tên pháp sư, vỗ lên vai hắn và hét lên “Ha”.

Gã pháp sư run run, giật bắn mình mất tập trung và dễ dàng để cho thần tiên xuyên qua hàng rào phòng thủ tâm trí hắn. Er­agon biết điều này vì gã pháp sư co giật rồi lăn tròn trên đất, tròng mắt trắng dã và miệng sủi bọi vàng. Sau đó thì hắn ngừng thở.

Với vài câu ngắn gọn, Er­agon giải thích cho Blöd­hgarm và hai thần tiên khác những gì đã xảy ra với Arya và Na­sua­da. Lớp lông trên người Blöd­hgarm dựng lên giận dữ, và đôi mắt màu vàng của ông ta như bị thiêu đốt trong ngọn lửa thù hận. Nhưng ông ta chỉ có một nhận xét ngắn gọn bằng ngôn ngữ cổ, “bóng đen đang bao trùm chúng ta, thưa kỵ sỹ”. Sau đó ông ta cử Yaela đi tìm và thu hồi Dau­th­daert từ bất cứ đâu nó đã rơi xuống.

Cùng nhau, Er­agon, Blöd­hgarm và thần tiên ở lại với họ Uthi­narë chạy dọc theo doanh trại, khoanh vùng và giết chết những tên lính triều đình thoát khỏi nanh vuốt của ma mèo và lưỡi dao của quân Var­den, người lùn, thần tiên hay Ur­gals. Họ cũng tìm ra những ngọn lửa lớn và dập tắt chúng bằng phép thuật dễ dàng như thổi tắt một ngọn nến.

Trong khi đó, một cảm giác sợ hãi ngập tràn tâm trí Er­agon, như nhấn chìm nó vào một lớp lông cừu đẫm nước bóp chặt tâm trí nó khiến nó thấy khó mà nghĩ về bất kỳ điều gì khác hơn là cái chết, bại trận và thất bại. Nó cảm thấy như thế giới đang sụp đổ xung quanh mình, mọi thứ nó cùng Var­den đã nỗ lực hoàn thành đã bị rối tung nhanh chóng và không có gì có thể giúp nó giành lại quyền kiểm soát. Cảm giác bất lực làm suy yếu ý chí của nó để có thể làm bất cứ điều gì hơn là ngồi một góc và đau khổ. Tuy vậy, nó không để những cảm giác đó đánh gục, vì nếu làm thế nó sẽ chết ngay sau đó. Do đó, nó tiếp tục di chuyển, gắng bước theo thần tiên, mặc kệ nỗi tuyệt vọng của bản thân.

Tâm trạng nó vẫn chưa tốt lên khi Glae­dr liên lạc với nó giận dữ trách, Nếu con chịu nghe lời ta, chúng ta đã có thể ngăn chặn Thorn và cứu Na­sua­da rồi.

Và chúng ta có thể sẽ không làm được, Er­agon đáp. Nó không muốn thảo luận thêm về đề tài này, nhưng cảm thấy bắt buộc phải nói thêm:Thầy đã để cho cơn phẫn nộ che mất tầm nhìn rồi. Giết Thorn không phải là giải pháp tốt nhất, cũng như thầy có nên quá vội vã để tiêu diệt tiếp một thành viên của loài rồng hay không.

Đừng nghĩ đến việc thuyết phục ta, con chim mới nở! Glae­dr tức giận đáp.Mi không thể hiểu những mất mát của ta.

Con là người hiểu hơn hết, Er­agon trả lời, nhưng Glae­dr đã thu hồi tâm trí, và Er­agon nghĩ rồng vàng không nghe những gì nó nói.

Er­agon dập tắt một đám cháy và đang chuyển sang đám khác khi Ro­ran vội vã chạy tới và túm lấy cánh tay nó.”Em có bị thương không?”

Cảm giác nhẹ nhõm thoáng qua Er­agon khi nó nhìn thấy anh họ nó còn sống và khỏe mạnh. “Không” nó nói.

“Saphi­ra thì sao?”.

“Thần tiên đã chữa lành vết thương cho nó. Ka­tri­na thì sao? Chị ấy ổn chứ?”

Ro­ran gật đầu và tư thế thoải mái hơn, nhưng vẻ mặt vẫn bối rối.”Er­agon” anh nói, tiến lại gần hơn “Xảy ra chuyện gì vậy? Có chuyện gì vậy? Anh thấy Jör­mundur chạy quanh như một con gà mất đầu, đội lính gác của Na­sua­da ảm đạm như đưa đám và anh không tìm được bất cứ ai để hỏi. Có phải chúng ta vẫn còn nguy hiểm? Gal­ba­torix tấn công à?”.

Er­agon liếc nhìn xung quanh, sau đó kéo Ro­ran sang một bên, nơi không người nào khác có thể nghe thấy chúng. “Anh không được kể cho bất kỳ ai biết. Không phải lúc này” nó cảnh báo.

“Em có lời hứa của anh rồi”.

Với một vài câu ngắn gọn, Er­agon tóm tắt tình hình vụ đột kích cho Ro­ran. Khi nó kết thúc, biểu hiện của Ro­ran trở nên ảm đạm “Chúng ta không thể để Var­den tan rã” anh nói.

“Dĩ nhiên là không. Sẽ không có chuyện đó xảy ra, nhưng vua Or­rin có thể tạm thời chỉ huy hoặc…” Er­agon im lặng khi một nhóm quân lính đi qua gần đó. Sau đó, nó nói “Anh sẽ ở lại với em chứ? Em có thể cần sự trợ giúp của anh”.

“Trợ giúp của anh hả? Em cần anh giúp những gì?”

“Toàn bộ quân lính ủng hộ anh Ro­ran, ngay cả những Ur­gals cũng vậy. Anh là cây búa dũng mãnh, người anh hùng đã chiếm thành Aroughs và ý kiến của anh rất có trọng lượng. Những ý kiến đó có thể rất quan trọng đấy”.

Ro­ran im lặng trong giây lát, sau đó anh gật đầu. “Anh sẽ làm những gì anh có thể”.

“Bây giờ thì chỉ cần chỉ huy binh lính” Er­agon nói và tiếp tục dập tắt đám cháy mà nó đã định trước.

Nửa giờ sau, khi yên tĩnh và trật tự đã được lập lại trong doanh trại, một người đưa tin thông báo cho Er­agon rằng Arya muốn thấy sự hiện diện của nó trong lều của vua lùn Orik.

Er­agon và Ro­ran liếc nhìn nhau, sau đó họ bắt đầu tiến về hướng tây bắc của doanh trại, nơi hầu hết những người lùn đã dựng lều trên đất.

“Không có lựa chọn” Jör­mundur nói “Nguyện vọng của tiểu thư Na­sua­da rất rõ ràng. Cậu, Er­agon, phải thay thế địa vị và lãnh đạo Var­den thay mặt cô ấy”.

Trong lều, những khuôn mặt nghiêm khắc và kiên định ngồi quây thành vòng tròn. Nét u tối chập chờn trên thái dương của bọn họ và làm những nếp nhăn của loài hai chân trở nên sâu sắc hơn, như Er­agon đã biết đó là cách mà Saphi­ra gọi bọn họ. Điều duy nhất khiến nó không hài lòng là Saphi­ra, đầu của cô ả chen qua lối vào căn lều để cô ả có thể tham gia buổi hội nghị, nhưng cô ả liếm hàm như thể sắp gầm lên vì khó chịu.

Vua Or­rin cũng đã có mặt, áo choàng màu tía quấn ngoài lớp áo khoác đêm của ông; Arya nhìn mông lung, thẫn thờ; Vua lùn Orik cũng đã tìm được một chiếc áo sơ mi thay cho bộ giáp của ông; Vua của ma mèo, Grim­rr Half­paw, băng vải trắng quanh một vết thương do kiếm cắt trên vai phải; Nar Garzhvog, gã Kull to lớn, phải khom lưng để tránh cho cặp sừng khỏi đụng phải trần lều; Và Ro­ran đứng cạnh vách lều lắng nghe cuộc tranh luận, và cho đến lúc này vẫn chưa lên tiếng.

Không một ai khác được phép vào lều. Không có bảo vệ, không cố vấn, không người hầu, thậm chí ngay cả Blöd­hgarm và những thần tiên khác cũng không được phép. Bên ngoài lều, một đám đông người lùn và Ur­gals gồm mười hai người đứng trước lối vào, nhiệm vụ của họ là ngăn chặn bất kỳ ai, dù kẻ đó có mạnh mẽ hay nguy hiểm thế nào đi nữa, gây cản trở đến hội nghị. Một lưới phép thuật được thêu dệt để ngăn chặn việc nghe lén dù là bình thường hay bằng phép thuật.

“Tôi không bao giờ muốn chuyện này xảy ra” Er­agon nói, và nhìn chằm chằm xuống tấm bản đồ của Ala­gaësia trải dài trên bàn đặt ở trung tâm chiếc lều.

“Không ai trong chúng ta muốn điều đó cả” Vua Or­rin nói bằng giọng châm biếm.

Đây là sáng suốt của Arya, Er­agon nghĩ, tổ chức buổi hội nghị ở lều của Orik. Vua lùn là một người chắc chắn ủng hộ Na­sua­da và Var­den, ông ta cũng là tộc trưởng của Er­agon và còn là anh nuôi của nó. Nhưng không ai có thể buộc tội ông ta vì sự khát khao địa vị của Na­sua­da, và có thể con người cũng sẽ không ủng hộ việc ông thay thế Na­sua­da.

Tuy thế, bằng việc tổ chức hội nghị tại lều của Orik, Arya đã làm tăng uy tín của Er­agon và loại bỏ bớt những kẻ chống đối nó, không có bất kỳ biểu hiện nào của sự tán thành hay là phản đối. Nàng đã làm rất tốt, Er­agon phải thừa nhận điều đó, nàng thao túng nhiều việc hơn những gì nó nghĩ. Rủi ro duy nhất trong những việc nàng đã làm là có thể khiến những người khác nghĩ rằng Orik là người kiểm soát nó, nhưng đó là rủi ro mà Er­agon sẵn sàng chấp nhận để đổi lại sự hỗ trợ của những người ủng hộ nó.

“Tôi không bao giờ muốn điều này” nó lặp lại, đưa cái nhìn qua từng cặp mắt của những người xung quanh đang chăm chú nhìn. “Nhưng bây giờ nó đã xảy ra, tôi thề trên nấm mồ tất cả những gì chúng ta đã phải hy sinh, tôi sẽ cố gắng hết sức để sống xứng đáng với tấm gương của Na­sua­da và lãnh đạo Var­den chống lại Gal­ba­torix và đế quốc đi đến thắng lợi. Nó cố tỏ ra tự tin, nhưng sự thật là nỗi sợ hãi khổng lồ vẫn đang ám ảnh nó và nó còn không biết liệu nó có thể hoàn thành nhiệm vụ này không. Na­sua­da đã làm mọi chuyện thật xuất sắc, điều đó đe dọa nó ngay cả trong suy nghĩ cố gắng hoàn thành chỉ một nửa những gì cô đã làm được.

“Rất đáng khen ngợi, ta cam đoan đấy” vua Or­rin nói. “Tuy nhiên, quân Var­den đã luôn phối hợp làm việc rất tốt với các đồng minh-​với đàn ông của Sur­da; với vua Orik, người bạn hoàng tộc của chúng ta và những người lùn của dãy Be­or; với thần tiên; và bây giờ, mới đây thôi là với Ur­gals dưới sự chỉ huy của Nar Garzhvog, và với ma mèo”. Ông gật đầu với Grim­rr, và vua của ma mèo gật nhẹ đầu đáp lại. “Nhưng vẫn chưa đủ thuyết phục để tất cả chúng ta công khai đồng ý ủng hộ cậu. Cậu không đồng ý phải không?”

“Dĩ nhiên rồi”.

“Dĩ nhiên” vua Or­rin nói. “Ta tiếp thu ý kiến đó, giờ thì cậu sẽ tiếp tục bàn bạc với chúng ta về những vấn đề cấp bách, như Na­sua­da đã từng làm à?” Er­agon hơi do dự, nhưng trước khi nó có thể trả lời thì Or­rin lại tiếp tục nói:”Tất cả chúng ta” ông ta hướng sự chú ý tới những người khác trong lều, “Đã đặt cược rất lớn vào liên minh này, và không ai trong số chúng ta đánh giá cao sự sai khiến. Chúng ta cũng sẽ không phục tùng điều đó. Thẳng thắn mà nói, kỵ sỹ Er­agon, cậu vẫn còn trẻ và thiếu kinh nghiệm, và sự thiếu kinh nghiệm đó có thể sẽ dẫn đến những kết cục tai hại. Những người khác trong số chúng ta đã học tập được rất nhiều từ những năm lãnh đạo lực lượng của chúng ta, hay chí ít cũng được thấy xem xét sự chỉ huy của người khác. Chúng ta có thể chỉ ra con đường đúng đắn cho cậu, có lẽ cùng với nhau chúng ta có thể tìm ra cách chỉnh đốn mớ hỗn độn này và lật đổ Gal­ba­torix”.

Những gì vua Or­rin nói đều là sự thật, Er­agon nghĩ, nó vẫn còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, và nó cần lời khuyên của những người khác, nhưng nó cũng không thể tỏ ra quá yếu kém được.

Thay vào đó, nó trả lời, “Bệ hạ có thể yên tâm rằng thần sẽ tham khảo ý kiến với ngài khi cần thiết, nhưng vẫn như mọi khi, quyết định của thần là của riêng thần”.

“Tha thứ cho ta, kỵ sỹ, nhưng ta luôn gặp khó khăn để tin điều đó. Sự gắn bó của cậu với thần tiên” Or­rin liếc nhìn Arya “ đã được biết đến rộng rãi. Còn gì nữa, cậu là một thành viên ngoài huyết thống của bộ tộc người lùn In­gei­tum, chịu sự ảnh hưởng của tộc trưởng bọn họ và người đó là vua Orik. Có thể ta nhầm, nhưng ta nghi ngờ quyết định của cậu là của riêng cậu”.

“Trước tiên, bệ hạ khuyên thần lắng nghe ý kiến những đồng minh của chúng ta. Giờ ngài lại không nhớ điều đó. Có thể ngài cho rằng tôi thích nghe ngài nói hơn và chỉ mỗi mình ngài thôi sao?” Cơn giận của Er­agon lớn dần khi nó nói.

“Ta sẽ thích sự chọn lựa của cậu nếu điều đó là tốt nhất cho lợi ích người dân của chúng ta mà không phải những chủng tộc khác!”.

“Họ đã có điều đó” Er­agon gầm gừ. “Và họ sẽ tiếp tục nhận được điều đó. Vâng, thần có nghĩa vụ phải trung thành với cả Var­den lẫn bộ tộc In­gei­tum, cả Saphi­ra, Na­sua­da và gia đình thần. Nhiều người có quyền đòi hỏi thần, thậm chỉ cả những người dưới quyền của bệ hạ. Tuy nhiên, mối quan tâm hàng đầu của thần là đánh bại Gal­ba­torix và đế quốc. Nó vẫn luôn như vậy, và nếu có một sự xung đột nào giữa các mối ràng buộc về lòng trung thành của thần thì điều phải quan tâm là những gì sẽ được ưu tiên. Hãy chất vấn những phán quyết của thần, nếu bệ hạ cần phải làm, nhưng đừng đặt câu hỏi cho động cơ của thần. Thần cũng rất biết ơn nếu bệ hạ đừng ám chỉ thần là một kẻ phản bội đồng loại của mình”.

Or­rin cau mày, má ông đỏ lên và nhà vua sắp sửa lớn tiếng đáp trả thì Orik gõ Vol­und, cây búa chiến tranh của ông vào khiên cắt ngang.

“Tranh cãi vô nghĩa thế đủ rồi đấy!” Orik tức giận la lên, mắt nhìn trừng trừng. “Ngài lo lắng về một vết rạn trên sàn nhà khi mà toàn bộ quả núi sắp sửa đổ xuống trên đầu chúng ta!”

Vẻ cau có trên mặt vua Or­rin hằn sâu hơn, nhưng ông không theo đuổi vấn đề xa hơn nữa. Thay vào đó, nhà vua nhấc ly rượu vang khỏi bàn và ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế của mình, nơi ông nhìn chằm chằm vào Er­agon với sự tăm tối và ánh mắt biểu hiện sự căm thù ngấm ngầm.

Em nghĩ ông ta ghét anh, Saphi­ra nói.

Có thể, hoặc là ông ta ghét những gì anh trình bày. Nhưng bằng cách nào thì anh cũng là một trở ngại đối với ông ta. Ông ta sẽ chịu đựng để quan sát đấy.

“Câu hỏi trước hết đặt ra cho chúng ta rất đơn giản”, Orik nói. “Bây giờ chúng ta nên làm gì khi mà Na­sua­da đã bị bắt?” Ông đặt ngang Vol­und trên bàn và mân mê khối chỗ u trên đầu. “Ý kiến của tôi là tình trạng của chúng ta hiện nay rất giống sáng nay. Trừ khi chúng ta thừa nhận thất bại và cầu hòa, chúng ta chỉ còn một lựa chọn duy nhất: tiến quân đến Urû’baen nhanh nhất chúng ta có thể. Một mình Na­sua­da sẽ không bao giờ chống lại được Gal­ba­torix. Điều này sẽ phụ thuộc vào” ông ra hiệu về Er­agon và Saphi­ra “và thần tiên. Na­sua­da đã mang chúng ta tới nơi xa xôi này và mặc dù đã phải bỏ lỡ nó, nhưng chúng ta không cần cô ấy để tiếp tục. Con đường chúng ta đang đi có thể sai lệch chút ít. Kể cả khi cô ấy có mặt tại đây ngay, tôi cũng không thể để cô ấy làm điều gì khác hơn. Tiến tới Urû’baen, chúng ta phải đi, và chấm dứt nó.

Grim­rr đung đưa con dao găm có lưỡi màu đen, dường như chẳng quan tâm tới cuộc tranh luận.

“Tôi đồng ý”, Arya nói. “Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác”.

Phía trên bọn họ, cái đầu đồ sộ của Garzhvog khẽ gật, làm cái bóng biến dạng lướt qua vách lều. “Người lùn nói đúng. Ur­gral­gra sẽ ở lại với Var­den tới chừng nào mà Kiếm Lửa còn là người lãnh đạo cuộc chiến. Với sự lãnh đạo của anh ta và Lưỡi Lửa, chúng tôi sẽ đòi được những món nợ máu mà Kẻ phản bội không sừng, Gal­ba­torix còn nợ chúng tôi”.

Er­agon thở nhẹ, nó cảm thấy không được thoải mái.

“Tất cả những điều đó rất hay và hợp lý”, vua Or­rin nói, “nhưng ta chưa nghe thấy bằng cách nào chúng ta có thể đánh bại Murtagh và Gal­ba­torix khi chúng ta đến Urû’baen”.

“Chúng ta có Dau­th­daert”, Er­agon chỉ ra vì nó biết Yaela đã thu hồi ngọn giáo, “và với nó chúng ta có thể”.

“Phải rồi, phải rồi, Dau­th­daert. Nó đã không giúp cậu ngăn cản Thorn, và tôi không cho rằng Gal­ba­torix sẽ để cho cậu lại gần hắn ta hay Shruikan cùng với nó. Dù sao đi nữa, nó vẫn không thể thay đổi thực tế cậu không phải là đối thủ của tên phản bội có trái tim đen đó. Khốn kiếp, kỵ sỹ, cậu thậm chí còn không phải là đối thủ của anh trai cậu, kẻ chỉ mới trở thành kỵ sỹ trong thời gi­an ngắn hơn cậu”.

Nhà vua tiếp tục:”Chúng ta bước vào cuộc chiến này với sự hiểu biết rằng cậu sẽ tìm thấy một cách để chống lại sức mạnh siêu nhiên của Gal­ba­torix. Na­sua­da đã quả quyết với chúng tôi như vậy. Thế nhưng chúng ta đang ở đây, sắp sửa đương đầu với pháp sư mạnh mẽ nhất sử sách từng ghi lại, và chúng ta không có cơ hội nào rõ rệt hơn để đánh bại hắn như khi chúng ta vừa bắt đầu!”.

“Chúng ta sẽ chiến đấu”, Er­agon khẽ nói, “vì đây là lần đầu tiên kể từ thời kỳ suy tàn của các kỵ sỹ chúng ta đã có cơ hội dù là mong manh nhất để lật đổ Gal­ba­torix. Như bệ hạ biết đấy”.

“Cơ hội gì chứ?” nhà vua mỉa mai. “Chúng ta chỉ là những con rối, tất cả chúng ta, nhảy múa theo những ý thích bất chợt của Gal­ba­torix mà thôi. Lý do duy nhất chúng ta có thể đi xa thế này là vì hắn để cho chúng ta đi. Gal­ba­torix muốn chúng ta đến Urû’baen. Hắn muốn chúng tôi mang cậu đến cho hắn. Nếu hắn muốn ngăn chặn chúng ta, hắn hẳn đã bay ra gặp chúng ta ở Cánh Đồng Cháy và nghiền nát chúng ta ở đó rồi. Và một khi hắn đã có được cậu trong tay, những gì hắn phải làm chỉ là nghiền nát chúng tôi”.

Không khí trong lều trở nên rất căng thẳng giữa bọn họ.

Hãy cẩn thận, Saphi­ra nói với Er­agon. Ông ta sẽ cuốn gói rời khỏi nếu anh không thể dùng cách khác thuyết phục được ông.

Arya cũng cảm thấy lo lắng tương tự.

“Toàn thể quân đội ngưỡng mộ anh, Ro­ran à, thậm chí những Ur­gal nữa. Anh là Cây Búa Dũng Mãnh, anh hùng của thành Aroughs, lời nói của anh có sức nặng rất lớn. Chuyện đó có thể rất quan trọng.”

Ro­ran nín lặng trong khoảnh khắc, rồi gật đầu: “Anh sẽ làm tất cả những gì có thể”.

“Lúc này anh chỉ cần trông coi sĩ tốt là được” Er­agon nói, rồi tiếp tục đi về ngọn lửa như dự định.

Hơn nửa giờ sau, khi mà toàn doanh trại đã bắt đầu trở lại yên tĩnh và bình lặng, Er­agon được nhắn rằng Arya yêu cầu sự có mặt của nó ở lều của Orik.

Er­agon trao đổi ánh mắt với Ro­ran trong giây lát, rồi cùng đi tới khu trại phía Tây Bắc, nơi phần lớn người Lùn hạ trại.

“Không có lựa chọn nào khác hết”, Jor­mundur quả quyết nói, “Na­sua­da đã truyền đạt nguyện vọng rất rõ ràng. Cậu, Ero­gon, là người thay thế công nương lãnh đạo Var­den”.

Những khuôn mặt tụ họp trong gi­an lều trông đều khắc khổ và nghiêm nghị. Bóng đen u ám khắc sâu ở hai bên thái dương và những đường nét mặt tư lự của đám hỗn tạp người-​hai-​chân, như Er­agon biết Shaphi­ra vẫn hay gọi như vậy. Kẻ duy nhất không có vẻ gì như vậy là Shaphi­ra – cái đầu bự chảng của cô nàng thò vào qua cửa lều để tham dự vào cuộc họp – trong khi cặp môi của cô nàng hơi nhíu vào, như thể đang gầm gừ nhè nhẹ.

Vua Or­rin cũng có mặt, áo choàng tím phủ lên bộ đồ ngủ; Arya, trông có vẻ run rẩy nhưng quyết tâm; vua Lùn Orik, mặc một chiếc giáp mỏng bên ngoài; vua mèo ma Grim­rr Nửa-​vuốt, với dải băng trắng quấn vòng qua vết kiếm chém trên vai phải; Kull Nar Garzhvog, cố gắng khom lưng tránh cặp sừng đâm thủng mái lều; và Ro­ran, đứng sát vách lều im lặng lắng nghe cuộc họp, đến giờ vẫn chưa nói câu nào.

Không có ai khác được cho phép vào trong căn lều. Kể cả thủ vệ, các quân sư, thậm chí Blodgarm và những tiên nhân khác. Ở bên ngoài lều, một đám người, người lùn lẫn Ur­gal đứng thành hàng 12 lớp trước cửa vào – với nhiệm vụ ngăn cản bất kì kẻ nào dù cho có nguy hiểm hay mạnh mẽ tới đâu quấy rầy cuộc họp. Quanh chiếc lều, một cơ số những câu thần chú được niệm vội vàng nhằm chặn việc nghe trộm bằng bất kể hình thức nào.

“Tôi không bao giờ muốn chuyện này”, Er­agon nói, chăm chú nhìn vào bản đồ Ala­gae­sia trài dài trên mặt bàn ở trung tâm căn lều.

“Cũng chẳng ai muốn cả”, vua Orik cay đắng nói.

Er­agon nghĩ, Arya thật khôn khéo khi triệu tập cuộc họp trong lều của Orik. Vị vua Lùn từ trước đến giờ vẫn là người ủng hộ đáng tin cậy của Na­sua­da và quân Var­den – đồng thời vừa là thủ lĩnh bộ tộc lẫn anh kết nghĩa của Er­agon – nhưng không ai có thể buộc tội ông lăm le vị trí của Na­sua­da, cũng như không người nào có thể chấp nhận ông như người thay thế Na­sua­da.

Dù vậy, khi tổ chức cuộc họp ở lều của Orik, Arya đã nhấn mạnh tầm quan trọng của Er­agon cũng như làm yếu thế những kẻ chỉ trích nó, mà thậm chí không cần phải ra mặt ủng hộ hay công kích gì hết. Er­agon thầm nhủ, cô thật sự giỏi trong việc thao túng người khác hơn nó nhiều. Rủi ro duy nhất trong việc này là người khác có thể cho rằng Orik là chủ nhân của nó, nhưng Er­agon chấp nhận để đổi lấy sự ủng hộ của bạn bè mình.

“Tôi không bao giờ muốn điều đó”, nó lặp lại, nhìn chăm chú vào những cặp mắt đang dán vào mình xung quanh. “Tuy nhiên, giờ đây chuyện đã rồi, tôi thề trên mộ của những đồng đội đã mất rằng tôi sẽ làm hết sức để noi gương Na­sua­da, để lãnh đạo Var­den chiến thắng Gal­ba­torix và Đế quốc.” Nó cố gắng tỏ ra thật tự tin, nhưng sự thật là hoàn cảnh tàn khốc làm nó thấy sợ hãi, nó còn không biết là mình có thể đảm nhiệm phận sự này không nữa. Na­sua­da đã thể hiện năng lực quá ấn tượng, đến nổi chỉ nghĩ đến việc hoàn thành một nửa những gì cô đã làm cũng làm nó hết vía.

“Thực đáng khen ngợi, tôi chắc chắn đấy”, King Or­rin cười khẽ, “Tuy nhiên, quân Var­den trước giờ vẫn luôn hòa hợp với các đồng minh, với những chiến binh của Sur­da, với người bạn trung trinh Orik và những người Lùn của rặng Be­or Hùng Vĩ, với Ur­gal, lãnh đạo bởi Nar Garzhvog, và với tộc mèo ma”. Ông gật đầu về phía Grim­rr, và nhận được cái gật đầu khẽ đáp trả. “Thật không hay nếu các binh sĩ thấy chúng ta bất đồng công khai, phải không?

“Đương nhiên”.

“Đương nhiên”, vua Or­rin tiếp, “Thế nên, tôi cho rằng, cậu vẫn có thể tiếp tục nhận lời khuyên của chúng tôi về những vấn đề quan trọng, như Na­sua­da đã từng?”Er­agon hơi khựng lại, nhưng trước khi nó kịp nói gì, Or­rin lại tiếp tục nói: “Tất cả chúng tôi” – ông hướng đến những người khác trong lều – “đã mạo hiểm rất nhiều cho cuộc hành trình này, và không ai chấp nhận bị ra lệnh cả. Cũng không ai chịu phục tùng cả. Nói thẳng ra nhé, dù đã đạt được rất nhiều thành tựu, Er­agon Khắc tinh của Tà Thần à, cậu vẫn còn rất trẻ và thiếu kinh nghiệm, và sự thiếu thốn kinh nghiệm đó có thể trở thành điểm yếu chí tử đấy. Tất cả chúng tôi ở đây đã hưởng lợi ích từ bao nhiêu năm lãnh đạo lực lượng của mình, hoặc chứng khiến người khác lãnh đạo rồi. Chúng tôi có thể hướng dẫn cậu tìm ra lối đi đúng đắn, và biết đâu cùng nhau chúng ta có thể tìm cách sửa chữa đống hỗn độn này và lật đổ Gal­ba­torix.”

Er­agon nghĩ - tất cả những gì Or­rin nói đều đúng, từ chuyện nó còn quá trẻ và non kinh nghiệm, cũng như nó đã cần đến lời khuyên của người khác – nhưng nó không thể thừa nhận mà không tỏ ra yếu thế được.

Thay vào đó, nó đáp trả, “Ngài có thể chắc rằng tôi sẽ luôn tham khảo mọi người khi cần thiết, nhưng quyết định của tôi sẽ luôn luôn là quyết định của bản thân.”

“Thứ lỗi cho tôi, Khắc tinh của Tà Thần, nhưng thật khó khăn để tôi tin chuyện này. Mối quan hệ thân cận với loài tiên” – Or­rin liếc nhìn Arya – thì ai cũng biết cả. Hơn nữa, cậu còn là thành viên danh dự trong tộc In­gei­tum, và sẽ luôn tuân theo chỉ thị của tộc trưởng, người ngẫu nhiên lại là vua Orik đây. Có thể tôi đã nhầm, nhưng có lẽ thật đáng ngờ rằng quyết định của cậu sẽ là quyết định độc lập.”

“Trước tiên, ngài khuyên tôi lắng nghe đồng minh. Giờ thì lại không. Có khi ngài sẽ thoải mái hơn nếu tôi chỉ lấy ý kiến từ ngài, và riêng ngài mà thôi hả?” Càng nói Er­agon càng giận hơn.

“Tôi chỉ trông chờ rằng quyết định của cậu sẽ đem lại điều tốt đẹp nhất cho nhân dân ta, chứ không phải cho giống loài khác!”

Er­agon gầm lên, “Đã, và sẽ tiếp tục như thế. Tôi nợ lòng trung thành tới cả Var­den và tộc In­gei­tum, đúng thế, nhưng cũng với cả Saphi­ra, với Na­sua­da, và với gia đình tôi nữa. Rất nhiều người đòi hỏi ở tôi, và thậm chí đến cả ngài nữa, thưa Đức Vua. Tuy nhiên, mối quan tâm trước tiên của tôi là đánh bại Gal­ba­torix và Đế Quốc. Sẽ luôn là như vậy, và một khi nếu có xung đột về lòng trung thành của tôi nên đặt ở đâu, đó sẽ là chuyện được ưu tiên nhất. Cứ việc đặt nghi vấn đối với phán quyết của tôi nếu ngài muốn, nhưng đừng vào giờ nghi ngờ động cơ của tôi. Và tôi sẽ cảm tạ ngài vì đã kiềm chí không ám chỉ tôi là kẻ phản bội giống loài.”

Or­rin nhìn trân trối, má dần đỏ lựng lên, khi ông định phản pháo thì một tiếng bang lớn cắt ngang, vua Orik đập cây búa bự chảng Vol­und vào chiếc khiên của mình.

“Nói lời vô nghĩa đủ rồi đấy!” Orik la lên, quắc mắt. “Sao các người có thể bận tâm về một vết nứt trên sàn, trong khi cả ngọn núi đang đổ ập lên đầu chúng ta!”

Or­rin càng trợn mắt ra nữa, nhưng ông không hề tiếp tục nói. Thay vào đó, ông cầm lấy một cốc rựu trên bàn và ngồi phịch xuống ghế, nhìn Er­agon với ánh mắt tăm tối âm ỉ.

Em nghĩ lão ghét anh đấy, Saphi­ra chép miệng

Hoặc vậy, hoặc ông ta ghét cái mà anh đại diện. Dù sao đi nữa, anh vẫn là tảng đá ngáng chân ổng. Ổng sẽ phải chịu theo dõi anh thôi.

“Câu hỏi đặt ra cho chúng ta rất đơn giản”, Orik quả quyết. “Chúng ta nên làm gì bây giờ, khi Na­sua­da đã đi mất?” Ông đặt Vol­und lên chiếc bàn và quẹt bàn tay xương xẩu qua đầu. “Ý kiến của tôi là tình thế của chúng ta vẫn y hệt như buổi sáng nay. Trừ khi chúng ta chấp nhận thất bại và tìm cách cầu hòa, chúng ta vẫn còn lựa chọn duy nhất: hành quân đên Uru’baen nhanh nhất có thể. Na­sua­da không thể nào tự mình chiến đấu với Gal­ba­torix. Điều đó tùy thuộc vào các người” – ông nhìn về phía Er­agon và Saphi­ra – “cũng như loài tiên. Na­sua­da đã đưa chúng ta đến xa chừng này, và giờ tuy đều rất nhớ công nương, chúng ta không cần cô ấy để tiếp tục. Con đường phía trước không cho phép thay đổi gì nhiều. Thậm chí nếu công nương ở đây, tôi không thấy cô ấy có thể làm gì khác lắm. Chúng ta phải tới Uru’baen, và thế là kết thúc.”

Grim­rr vẫn nghịch ngợm với lưỡi dao màu đen, tỏ ra thờ ơ với cuộc đấu khẩu.

“Tôi đồng ý”, Arya nói. “Chúng ta không có lựa chọn khác.”

Ở trên đầu bọn họ, cái đầu vĩ đại của Garzhvog trầm xuống, phủ một chiếc bóng kì dị lên suốt dọc vách lều. “Người lùn nói rất hay. Những Ur­gral­gra sẽ sát cánh cùng Var­den một khi Hỏa Kiếm còn là thủ lĩnh. Có anh ta và Lưỡi Lửa dẫn đầu, chúng tôi sẽ đòi được món nợ máu từ kẻ phản bội không sừng, Gal­ba­torix.”

Er­gon cựa mình không thoải mái lắm.

“Thế cũng được thôi,” vua Or­rin trầm ngâm, “nhưng tôi vẫn chưa nghe làm sao chúng ta đánh bại Murtagh lẫn Gal­ba­torix khi đến Uru’baen.”

“Chúng ta có thanh Dau­th­daert”, Er­gaon chỉ vào Yaela đang lấy ra thanh thương, “với nó, ta có thể …”

Vua Orik xua tay. “Rồi rồi, thanh Dau­th­daert. Nó chả giúp cậu ngăn Thorn, và tôi thì càng không thể tưởng tượng Gal­ba­torix sẽ để cậu lại đâu đó gần lão và Shruikan với nó đâu. Dù sao đi nữa, nó cũng không thay đổi sự thực rằng cậu vẫn chưa thấm vào đâu với kẻ kẻ phản bội trái-​tim-​đen. Khỉ thật, Khắc tinh của Tà Thần, cậu thậm chí còn không bằng anh trai cậu, và hắn thì còn có ít thời gi­an là Kỵ sĩ hơn cậu nhiều!”

Anh cùng mẹ khác cha thôi, Er­agon thầm nhủ, nhưng không thốt ra lời nào. Nó không thể nghĩ ra cách nào để phản pháo lại luận điểm Or­rin, khi mà chúng đều rất hợp lý đến từng điểm một, và chúng làm nó rất xấu hổ.

Vua Or­rin tiếp lời: “Chúng ta tiến hành chiến tranh với niềm tin rằng cậu sẽ tìm ra cách để chống lại sức mạnh bất thường của Gal­ba­torix, thế nên Na­sua­da đã hứa hẹn, đảm bảo với chúng tôi. Và bây giờ ta ở đây, đối đầu với pháp sư hung mạnh nhất trong lịch sử, mà khả năng đánh bại hắn vẫn không cao hơn tí nào từ khi bắt đầu!”

“Chúng ta khơi mào cuộc chiến,” Er­agon khẽ nói, “vì đó là lần đầu tiên các Kỵ Sĩ cảm thấy chúng ta có cơ hội, dù là nhỏ nhất, để lật đổ Gal­ba­torix. Ngài biết vậy mà.”

“Cơ hội ở đâu ra?” nhà vua nhếch mép chế nhạo. “Tất cả chúng ta là những con rối, nhảy múa theo sự giật dây của Gal­ba­torix. Lý do duy nhất mà chúng ta đi xa được đến ngần này là bởi hắn để chúng ta đến. Gal­ba­torix muốn chúng ta tới Uru’baen. Hắn muốn chúng ta mang cậu tới. Nếu hắn thực muốn chặn chúng ta, hắn đã có thể bay đến Thung Lũng Cháy và đè bẹp chúng ta ở đó rồi. Và khi cậu ở trong tầm tay, hắn sẽ làm y như thế: đè bẹp chúng ta.”

Không khí trong lều càng lúc càng căng thẳng hơn.

Cẩn thận nhá, Saphi­ra nhắc Er­agon. Lão sẽ rời đi nếu anh không tìm được cách thuyết phục nào khác.

Arya tỏ ra lo lắng y như vậy

Er­agon chầm chậm dang tay ra trên bàn và tập trung suy nghĩ. Nó không muốn nói dối, nhưng đồng thời nó phải tìm cách cổ vũ hy vọng cho Or­rin, trong khi nó cũng khó làm được như thế với bản thân. Liệu đó có phải là những gì Na­sua­da phải trải qua khi cô ấy tập hợp chúng ta đến bây giờ, thuyết phục chúng ta tiến bước dù con đường phía trước vẫn mịt mù?

“Vị thế của chúng ta không đến nỗi … mong manh như ngài nghĩ đâu”, Er­agon thở ra.

Or­rin khịt mũi, ngửa cổ uống một hớp rượu.

“Thanh Dau­th­daert là mối đe dọa với Gal­ba­torix,” Er­agon tiếp,”và đó là lợi thế của chúng ta. Hắn sẽ phải lo lắng về nó. Vì thế, chúng ta có thể ép hắn làm điều mình muốn, dù chỉ một chút thôi. Thậm chí nếu không thể giết hắn, ta vẫn có thể tiêu diệt được Shruikan. Chúng không hẳn là một cặp rồng và Kỵ Sĩ, nhưng cái chết của Shruikan sẽ làm hẳn tổn thương nghiêm trọng.

“Chẳng bao giờ xảy ra chuyện đó đâu”, Or­rin bi quan. “Hắn biết rõ chúng ta có thanh Dau­th­daert rồi, và chắc chắn sẽ phòng bị kĩ càng”.

“Có thể không lắm chứ. Tôi nghi ngờ Murtagh với Thorn nhận ra nó”.

“Có thể, nhưng Gal­ba­torix sẽ nhận ra khi hắn kiểm tra trí nhớ của chúng.”

Và hắn cũng sẽ biết sự tồn tại của Glae­dr, nếu chúng vẫn chưa nói cho hắn, Saphi­ra nhắc Er­agon.

Tinh thần Er­agon lại chìm xuống nữa. Nó chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này, nhưng cô nàng nói đúng. Không có nhiều hy vọng gây bất ngờ cho hắn. Chúng ta chẳng có bí mật nào nữa cả.

Cuộc sống luôn chứa đầy bí mật. Gal­ba­torix vẫn không thể nào tiên đoán chính xác chúng ta chọn cách nào để chiến đầu với lão. Ít nhất như thế chúng ta có thể đánh bại lão.

“Cậu đã tìm được cây thương thần chết nào vậy, Khắc tinh của Tà Thần?” – Grim­rr hỏi với giọng buồn chán.

“Du Nier­nen – thanh Or­chid”

Gã mèo ma hấp háy, Er­agon có cảm tưởng rằng gã bị bất ngờ, dù biều tình của Grim­rr vẫn trống không. “Thanh Or­chid à. Thật không đấy? Quả là lạ nếu tìm được vũ khí cổ xưa như vậy, nhất là vũ khí … đặc thù như thế này”

“Vì sao vậy?” Jor­mundur hỏi tới.

Chiếc lưỡi nhỏ hồng của Grim­rr liếm phớt qua bộ vuốt. “Nier­nen thực khéttttttt tiếngggggggg”. Nó kéo dài từ cuối cùng ra thành một tiếng rít ngắn.

Trước khi Er­agon moi ra được thêm thông tin gì từ gã mèo ma, Garzh­bog lên tiếng với giọng ken két như đá mài: “Anh đang nói đến cây thương thần chết nào vậy, Hỏa Kiếm? Có phải là cây giáo đã đâm Saphi­ra bị thương ở Be­la­tona không? Chúng tôi đã nghe vài chuyện về nó, nhưng thực sự chúng rất kì cục.”

Giờ Er­agon mới nhớ Na­sua­da chưa từng nói cho loài Ur­gal lẫn mèo ma Nier­nen thực sự là gì. Hay lắm, nó nghĩ. Thế chả giúp được gì cả.

Nó giải thích cho Garzhvog về thanh Dau­th­daert, rồi buộc mọi người trong lều thề bằng cổ ngữ sẽ không bàn luận về cây thương với bất kì ai mà không được phép. Có vài tiếng càu nhàu, nhưng cuối cùng họ đều đồng ý, kể cả mèo ma. Cố gắng dấu diếm thanh thương khỏi Gal­ba­torix có vẻ vô nghĩa, nhưng Er­agon không thấy có lợi gì khi thanh Dau­th­daert được biết tới quá rộng rãi.

Khi người cuối cùng hoàn thành lời thề, Er­agon tiếp tục nói, “Rồi. Đầu tiên chúng ta có thanh Dau­th­daert, và đó là những gì chúng ta có thêm. Thứ hai, tôi không hề có ý đối đầu với Murtagh lẫn Gal­ba­torix cùng lúc, chưa bao giờ. Khi chúng ta đến Uru’baen, chúng ta sẽ dụ Murtagh ra khỏi thành phố, bao vây hắn, với toàn bộ quân số nếu cần thiết – kể cả các tiên nhân – và dứt khoát tiêu diệt hoặc bắt được hắn.” Nó nhìn vào những gương mặt xung quanh, cố gây gấn tượng với sức thuyết phục của mình.

“Thứ ba – và đây là điều mọi người phải tin tưởng sâu sắc – Gal­ba­torix không hề bất diệt, dù cho có hùng mạnh thế nào đi nữa. Hắn có thể đặt hàng nghìn lưới phòng vệ để bảo toàn bản thân, nhưng bất chấp kiến thức và sự xảo quyết của lão, chắc chắn vẫn có những phép thuật có thể giết lão, nếu chúng ta khôn khéo đủ để nghĩ ra chúng. Giờ đây, có thể tôi sẽ là người tìm ras phép thuật đánh bại lão, nhưng cũng có thể là một tiên nhân hoặc một thành viên của Con Đường Lãng Du. Gal­ba­torix có vẻ không thể động tới được, tôi biết, nhưng sẽ luôn luôn có điểm yếu, cũng như sẽ luôn có những kẽ hở để thọc con dao xuyên qua và tiêu diệt kẻ thủ.”

“Nếu các Kỹ Sĩ trước đây không thể tìm thấy điểm yếu của hắn, làm sao chúng ta tìm được?” Vua Or­rin gặng hỏi.

Er­agon dang rộng tay, bàn tay xòe ngửa. “Có thể chúng ta không tìm ra. Không có gì chắc chắn cả, hơn nữa còn là trong chiến tranh. Tuy nhiên, nếu tất cả phù thủy của năm giống loài vẫn không thể giết lão, thì chúng ta sẽ phải chấp nhận Gal­ba­torix sẽ tiếp tục thống trị lâu đến chừng nào lão muốn, và không có gì chúng ta có thể làm để thay đổi việc đó.”

Khoảng khắc im lặng, tuy ngắn nhưng sâu thăm thẳm, lan khắp căn lều.

Rồi Ro­ran tiến lên. “Tôi sẽ phát biểu”

Er­agon nhìn những người quanh bàn liếc nhìn nhau.

“Cứ nói đi, Cây Búa Dũng Mãnh,” Orik trầm giọng hướng về vẻ khó chịu rõ ràng của vua Or­rin.

“Thế này: đã có quá nhiều máu và nước mắt đổ xuống để chúng ta có thể quay lại. Sẽ thực bất kính với cả những người đã ngã xuống và những người nhớ đến họ. Đây có thể là trận chiến giữa những vị thánh” – anh có vẻ hoàn toàn nghiêm túc với Er­agon khi nói điều này – “nhưng tôi sẽ chiến đấu cho đến khi họ quật ngã mình, hoặc tôi quật ngã được bọn họ. Một con rồng có thể giết một vạn con sói một lúc, nhưng một vạn con sói cùng nhau cũng có thể giết được rồng.”

Không hẳn đâu nha, Saphi­ra khụt khịt trong tâm thức chung giữa cô nàng và Er­agon.

Ro­ran cười-​mà-​không-​tiếu, “Và chúng ta lại có một con rồng bên phía mình. Cứ quyết định đi, nhưng tôi, sẽ tiếp tục tới Uru’baen, và tôi sẽ đối mặt với Gal­ba­torix, kể cả khi phải tự mình là điều đó.”

“Không phải chỉ mình anh đâu”, Arya lên tiếng. “Tôi biết tôi đại diện cho Nữ hoàng Ilan­za­di khi tôi nói dân tộc tôi sẽ chiến đấu cùng anh.”

“Chúng tôi nữa”, Garzhvog gầm lên.

“Chúng tôi nữa,” Orik quả quyết.

“Chúng tôi nữa,” Er­agon nói, thầm mong sẽ làm nhụt chí những ai bất đồng.

Sau một khoảng lặng, khi bốn người bọn họ quay lại nhìn Grim­rr, gã mèo ma hít vào nói, “Ồ, tôi cho là chúng tôi cũng sẽ ở đó.” Gã lại kiểm tra lại móng vuốt sắc lẻm.

“Ai đó sẽ phải lén vượt qua hàng ngũ kẻ địch, và chắc chắn không thể là những người lùn vụng về với đôi ủng sắt của họ.”

Orik nhướng mày, nhưng nếu ông thấy bị xúc phạm, thì ông đã giấu nó đi rất tốt.

Or­rin uống cạn thêm hai cốc rượu nữa, rồi chùi tay vào miệng, “Tốt lắm, như các người muốn; chúng ta sẽ hành quân tiếp đến Uru’baen”, rồi vươn tay túm lấy bình rượu trước mặt.

37. MÊ CUNG KHÔNG LỐI THOÁT

Er­agon và những người khác dành suốt thời gi­an còn lại của cuộc họp kín để thảo luận những vấn đề thực tế: cách liên lạc – ai trả lời cho ai; thư lệnh; sắp xếp lại tháp canh và lính canh cho doanh trại nhằm tránh Thorn hay Shruikan đánh úp họ lần nữa; và làm sao để cung cấp đầy đủ quân trang cho những người lính đã bị hỏng hết các đồ dùng đó trong lần tấn công rồi. Họ thống nhất chưa tiết lộ chuyện Na­sua­da bị bắt cho tới ngày hôm sau; các chiên binh được nghỉ ngơi quan trọng hơn.

Nhưng họ không hề bàn tới việc làm sao cứu được Na­sua­da. Cách duy nhất rõ ràng là nắm được Urû’baen, và lúc đó có thể cô đã chết, bị thương hoặc buộc phải thề trung thành với Gal­ba­torix bằng ngôn ngữ cổ. Vì thế họ hoàn toàn tránh vấn đề này như thể đó là điều cấm kỵ

Tuy vậy cô vẫn thường trực trong suy nghĩ của Er­agon. Mỗi lần nó nhắm mắt, nó lại thấy Murtagh đánh cô, sau đó những ngón chân phủ vẩy sắc nhọn nắm chặt lấy cô rồi con rồng đỏ bay vào bóng tối. Ký ức đó chỉ khiến Er­agon thấy mình thảm hại hơn nhưng lại không thể không nghĩ tới.

Khi cuộc họp kín kết thúc, Er­agon ra hiệu cho Ro­ran, Jör­mundur, và Arya. Họ theo nó về lều không hỏi lấy một câu. Ở đó Er­agon hỏi xin lời khuyên từ họ và bàn kế sách cho ngày mai.

“Hội đồng Bô lão sẽ gây khó khăn cho ngài, tôi chắc chắn,” Jör­mundur nói. “Họ không coi ngài có kinh nghiệm chính trị như Na­sua­da và họ sẽ tấn công vào điểm đó.” Chiến binh tóc dài bình tĩnh tới đáng ngạc nhiên sau vụ tấn công, quá bình tĩnh đến nỗi Er­agon nghi ông đã không còn biết khóc hay giận dữ.

“Tôi không thể,” Er­agon nói.

Jör­mundur cúi đầu. “Nhưng dù gì ngài cũng phải kiên quyết vào. Tôi có thể giúp ngài, nhưng ngài phải dựa vào chính mình là chính. Nếu ngài để họ gây ảnh hưởng tới quyết định của mình, họ sẽ nghĩ họ là người nắm quyền chỉ huy Var­den, chứ không phải ngài.”

Er­agon liếc nhìn Arya và Saphi­ra, suy nghĩ.

Không bao giờ được sợ, Saphi­ra nói với mọi người. Không ai có thể thắng được anh ấy khi tôi đang đứng quan sát.

Khi cuộc họp nhỏ thứ hai đi tới hồi kết, Er­agon đợi tới khi Arya và Jör­mundur ra khỏi lều; sau đó nó nắm vai Ro­ran. “Lúc nãy anh nói đây là cuộc chiến của các vị thần là sao?”

Ro­ran nhìn chăm chăm vào nó. “Ừ anh nói thế… Em và Murtagh và Gal­ba­torix – quá mạnh nên không một người thường nào có thể hạ gục các người. Như vậy thật không đúng. Không công bằng. Nhưng sự thật lại như thế. Bọn anh như đàn kiến dưới gót giày các người. Em có biết bằng một tay em có thể giết bao nhiêu người không?”

“Rất nhiều.”

“Chính xác. Anh mừng vì em chiến đấu với bọn anh, anh mừng vì em là em anh, nhưng anh hy vọng bọn anh không phải dựa dẫm vào Kỵ sĩ, tiên nhân hay bất cứ pháp sư nào để chiến thắng. Không ai nên sống nhờ lòng thương hại của người khác. Không nên. Nó làm thế giới mất cân bằng.”

Sau đó Ro­ran rảo bước ra khỏi lều.

Er­agon ngồi xuống võng, cảm thấy như bị thụi vào ngực. Nó ngồi đó, toát mồ hôi suy nghĩ tới khi dòng suy nghĩ của nó buộc nó bật dậy và vội bước ra ngoài.

Khi nó ra khỏi lều, sáu Chim Ưng Đêm nhảy dựng lên, sẵn sàng vũ khí để hộ tống nó tới nơi nó muốn.

Er­agon ra hiệu cho họ đứng nguyên vị trí. Nó đã phản đối nhưng Jör­mundur khăng khăng bắt buộc các Chim Ưng đêm bảo vệ nó, cùng với Blöd­hgarm và các thần tiên khác. “Chúng tê không thể không cẩn thân,” ông nói. Er­agon không thích có thêm người bám theo nó nhưng nó buộc phải đồng ý.

Đi qua những người bảo vệ, Er­agon vội vã tới chỗ Saphi­ra đang nằm cuộn mình trên mặt đất.

Cô em nó mở một mắt khi nó tới gần rồi nâng cánh để nó có thể chui vào gần cái bụng ấm áp của cô nàng. Anh bé, cô em nói, bắt đầu rên rừ rừ nhè nhẹ.

Er­agon ngồi sát cô nàng, nghe tiếng rên và tiếng hơi thở nhè nhẹ. Đằng sau đó, cái bụng cô nàng nhô lên và xẹp xuống từ từ.

Lúc nào, sự hiện diện của cô em nó cũng giúp nó bình tĩnh. Nhưng lần này thì không. Đầu óc nó không chịu bình tĩnh, nhịp tim vẫn dồn dập và tay và chân nóng kinh khủng.

Nó giữ cảm xúc cho riêng mình, không muốn làm phiền Saphi­ra. Cô nàng đã mệt sau hai cuộc chiến với Thorn và cô nàng ngủ say, tiếng rên rừ rừ biến mất mà chỉ còn nhịp thở đều đặn.

Những suy nghĩ của Er­agon không cho nó được ngủ. Nó liên tục nghĩ tới sự thực không thể thay đổi, không thể chối cãi: nó là chỉ huy quân Var­den. Nó, chỉ là một đứa nhỏ nhất trong một gia đình nông dân nghèo, thế mà giờ lại là chỉ huy quân đội lớn thứ hai Ala­gaësia. Thật không tưởng, như thể định mệnh đang trêu đùa nó, nhử nó vào một cái bẫy có thể hủy diệt nó. Nó không bao giờ muốn và mưu cầu vị trí này, nhưng các sự kiện cứ cuốn nó vào.

Na­sua­da nghĩ sao lại để mình làm người kế nhiệm chứ? Nó băn khoăn. Nó nhớ những lý do cô đưa ra, nhưng chúng chẳng giải quyết được nghi ngờ của nó. Cô ấy thực sự tin rằng mình có thể ngồi vào vị trí này sao? Sao không chọn Jör­mundur? Ông ấy đã ở cùng Var­den hàng chục năm, và ông ấy biết nhiều về chỉ huy và các chiến lược.

Er­agon nghĩ tới hồi Na­sua­da chấp nhận liên quân với Ur­gal dù giữa hai loài tồn tại sự thù địch, và dù Ur­gal giết bố cô. Mình có làm nổi không? Nó tưởng tượng là không – ít nhất là vào thời điểm đó. Mình có thể đưa ra một quyết định như vậy, nếu chúng là bắt buộc để đánh bại Gal­ba­torix?

Nó không dám chắc.

Nó cố gắng không nghĩ. Nó nhắm mắt, tập trung đếm nhịp thở mười lần một. Khó để chỉ làm mỗi điều này; vài giây lại một ý nghĩ hay một cảm giác khiến nó sợ hay xao lãng, nó lại quên đếm.

Nhưng, theo thời gi­an, cơ thể nó thả lỏng hơn và nó không nhận ra rằng nó đã lơ mơ ngủ.

Nó nhìn thấy nhiều thứ, vài thừ mờ nhạt và không rõ ràng, vì giấc mơ phản ánh những sự kiện của ngày hôm qua. Những giấc mơ khác khiến nó buồn vui lẫn lộn: những ký ức và những điều nó ước ao.

Sau đó, đột ngột như khi hướng gió thay đổi, giấc mơ của nó gợn sóng và trở nên rắn chắc hơn và thực hơn, như thể đó là những sự vật nó có thể nắm với. Mọi thứ xung quanh nó mờ đi, nó được chứng kiến một thời gi­an và không gi­an khác – vừa quen vừa lạ, như thể nó đã từng thấy từ lâu nhưng đã quên.

Er­agon mở mắt nhưng hình ảnh vẫn còn đó, cảnh sắc xung quanh mờ mịt. Nó biết giấc mơ không bình thường.

Một cánh đồng tối và cô độc trải trước mắt, bị cắt ngang bởi một dòng sông chảy từ từ về phương đông: một dải lụa bạc sáng lên dưới ánh trăng….Trôi trên dòng sông vô danh đó là một con tàu lớn và kiêu hãnh với mái chèo trắng giơ lên chuẩn bị… Những hành lính cầm chắc cây thương và hai người đội mũ đi giữa họ, như trong một buổi diễu binh cấp nhà nước…. Mùi gỗ cây liễu và cây dương, giác một nỗi buồn man mác… Rồi một tiếng khóc đau khổ, những chiếc vảy ánh lên,những cử động hỗn loạn khó biết đâu với đâu.

Sau đó chỉ còn im lặng và màn đêm.

Er­agon nhìn rõ và lại thấy mình đang nhìn vào dưới cánh Saphi­ra. Nó thở ra – giờ nó mới biết nãy giờ mình nín thở - nó dùng bàn tay run run lau nước mắt. Nó không hiểu vì sao giấc mơ lại ảnh hưởng mạnh mẽ tới nó.

Liệu có phải một tiên đoán? Nó nghĩ.Hay một sự việc thực sự xảy ra vào thời điểm này? Và vì sao nó lại quan trọng với mình?

Sau đó, nó không tài nào ngủ lại. Sự lo lắng xuất hiện và sục sạo trong đầu óc nó như một bầy chuột, mỗi vết cắn của nó như khiến đầu óc nó nhiễm độc.

Cuối cùng nó chui ra khỏi cánh Saphi­ra – cố gắng không làm cô em thức giấc – và về lều.

Như lúc trước, những Chim Ưng đen lại đứng lên khi nhìn thấy nó. Chỉ huy của họ, một người đàn ông lực lưỡng mũi khoằm tiến lên gặp Er­agon, “Ngài cần gì thưa khắc tinh của Tà thần?” anh ta hỏi.

Er­agon nhớ mang mang tên anh ta là Gar­ven và anh ta đã mất các giác quan sau cuộc kiểm tra của thần tiên. Giờ trông anh đã khỏe lại nhưng ánh mắt vẫn mơ màng. Nhưng Er­agon nghĩ anh ta có đủ khả năng đảm đương nhiệm vụ; nếu không, Jör­mundur không bao giờ để anh ta về vị trí.

“không phải lúc này,” Er­agon hạ giọng nói. NÓ bước thêm một bước rồi dừng. “Tối nay chúng ta mất bao nhiêu Chim Ưng Đen?”

“Sáu, thưa ngài. Chúng ta sẽ thiếu lực lượng trong vài ngài cho tới khi tìm được người thích hợp. Và chúng ta sẽ cần trợ giúp niều. Chúng tôi muốn tăng gấp đôi lực lượng bảo vệ ngài.” Ánh nhìn đau khổ ánh hưởng tới cái nhìn xa xăm của Gar­ven. “Chúng tôi đã không bảo vệ được tiểu thư, thưa Khắc tinh của Tà thần. Nếu lực lượng đông hơn, có thể chúng tôi đã…”

Người đàn ông lưỡng lự rồi gật đầu, biểu cảm tiều tụy.

Tôi cũng không bảo vệ được cô ấy, Er­agon nghĩ khi bước vào lều. Na­sua­da là người nó thề trung thành; nó có nhiệm vụ bảo vệ cô còn cơn Những Chim Ưng Đen. Và lúc cô cần nó, nó lại không cứu được cô.

Nó chửi rủa chính mình.

Đáng ra nó phải tìm cách cứu cô, dù có bằng cách nào đi nữa. Nhưng nó cũng biết cô không muốn nó bỏ lại Var­den chỉ vì sự an nguy của bản thân cô. Cô thà chịu khổ và chết hơn là để sự vắng mặt của mình ảnh hưởng tới thứ cô đã cống hiến cả cuộc đời.

Er­agon lại chửi và bắt đầu đi đi lại lại trong lều.

Mình là chỉ huy của Var­den.

Giờ khi Na­su­da đã đi, Er­agon mới nhận ra Na­sua­da không chỉ là nó thề trung thành và là chỉ huy của nó; cô là bạn nó, nó cảm thấy cần bảo vệ cô y như cảm giác đối với Arya. Nhưng nếu nó cố đi cứu cô, nó sẽ khiến Var­den thua trận.

Mình là chỉ huy của Var­den.

Nó nghĩ tới những người nó phải chịu tránh nhiệm: Ro­ran và Ka­tri­na và những dân làng Car­va­hall; hàng trăm người lính nó đã sát cánh chiến đấu; và rất nhiều; những người lùn; ma mèo và kể cả Ur­gal. Giờ tất cả đều dưới sự chỉ huy của nó, và nó buộc phải đưa ra những quyết định sáng suốt để đánh bại Gal­ba­torix và Triều đình.

Nhịp tim của Er­agon tăng cao khiến nó nổ đom đóm mắt. Nó dừng đi lại và nắm chặt lấy cái cột giữa lều, sau đó lau mồ hôi trên lông mày và môi trên.

Nó ước nó có ai để cùng nói chuyện. Nó định đánh thức Saphi­ra nhưng lại thôi. Giấc ngủ của cô nàng quan trọng hơn việc lắng nghe nó phàn nàn. Nó không muốn Arya hay Glae­dr phải nặng gánh vì những vấn đề họ không thể giải quyết. Hơn nữa, sau cuộc nói chuyện gai góc lần trước, nó không nghĩ Glae­dr sẽ thông cảm với nó.

Er­agon đi theo nhịp: ba bước tiến, quay lại, ba bước tiến, quay lại.

Nó đã đánh mất thăt lưng Be­loth Khôn ngoan. Nó đã trơ mắt nhìn Murtagh và Thorn bắt cóc Na­sua­da. Và giờ nó chỉ huy Var­den.

Những suy nghĩ đó cứ chạy trong đầu óc nó, và càng lúc nó càng căng thẳng. Nó cảm thấy như nó kẹt trong mê cung không lối thoát và mỗi lần quặt vào một ngã rẽ nó lại đụng phải một con quái vật. Dù nó có nói gì trong buổi họp cùng Orik, Orin và những người khác, nó vẫn không thấy được bằng cách nào nó, Var­den và quân đồng minh có thể đánh bại Gal­ba­torix.

Mình thậm chí chẳng cứu được Na­sua­da kể cả khi tự do đuổi theo cô. Nó thấy chua sót. Nó vô vọng. Sao chúng ta lại gặp chuyện này? Nó chửi thề và cắn môi trong tới khi đau không chịu nổi.

Nó dừng đi lại và nằm xuống đất, kê tay sau gáy. “Không thể, không thể,” nó thì thầm và kéo người chạm đầu gối. “Không thể.”

Trong cơn tuyệt vọng, Er­agon nghĩ tới việc cầu xin sự giúp đỡ của vị thần người lùn Gûn­tera, như nó từng làm. Đặt vấn đề của mình dưới chân một đấng vĩ đại hơn nó và tin gửi gắm định mệnh của mình vào ngài có thể là một sự giải thoát. Làm vậy sẽ giúp nó chấp nhận số phận tốt hơn – cũng như số phận của những người nó yêu thương – vì nó sẽ không còn trực tiếp chịu trách nhiệm cho bất cứ chuyện gì xảy ra.

Nhưng nó không tài nào cầu khấn nổi. Nó phải chịu trách nhiệm cho số mệnh của họ, dù có thích hay không, và nó thấy bản thân sai khi gi­ao trách nhiệm của mình cho người khác, kể cả đó có là thần thánh – hay ý tưởng của thần thánh.

Vấn đề là nó không biết nên làm gì. Nó có thể chỉ huy Var­den; cái đo thì nó chắc. Nhưng sao nó có thể chiếm Urû’baen và giết Gal­ba­torix thì nó không biết. Nó không thể chống lại Murtagh, kém hơn lão bạo chúa rất nhiều. Nó không thể chọc thủng lưới phòng hộ tư tưởng của chúng. Nắm giữ tư tưởng của họ, hoặc ít nhất chỉ của Gal­ba­torix là hoàn toàn không thể rồi.

Er­agon ấn ngón tay vào gáy mà gãi trong khi suy nghĩ mông lung mọi khả năng.

Sau đó nó nghĩ tới lời khuyên mà Solem­bum đã nói với nó rất lâu rồi, hồi còn ở Teirm. Ma mèo đã nói, Tới thời điểm mi cần một vũ khí, hãy nhìn xuống gốc cây Menoa. Sau đó khi gần như sức tàn lực kiệt, mi hãy tới trước tảng đá Kuthi­an, tự xưng tên và cửa linh hồn sẽ mở.

Lời nói liên quan tới cây Menoa đã đúng; dưới gốc Menoa, Er­agon đã tìm thấy thép sáng để tạo nên lưỡi kiếm. Giờ khi đang tuyệt vọng Er­agon nghĩ tơi câu thứ hai trong lời nói của ma mèo.

Nếu thực sự mình sức tàn lực kiệt,thì chính là lúc này, Er­agon nghĩ. Nhưng nó nào biết tảng đá Kuthi­an và Cửa Linh Hồn ở đâu. Nó đã từng hỏi ông Oromis và Arya, nhưng cả hai chưa bao giờ đưa ra câu trả lời.

Er­agon vươn tư tưởng, tìm kiếm đầu óc ma mèo. Solem­bum, nó nói, tôi cần ngươi giúp! Làm ơn tới lều của tôi.

Sau một lát, nó cảm thấy sự bực tức của ma mèo và nó cắt đứt liên lạc.

Sau đó Er­agon ngồi một mình trong bóng tối…chờ đợi.

38. NHỮNG MẢNH VỤN, NỬA THẤY NỬA KHÔNG VÀ MƠ HỒ

Sau mười lăm phút, bức trướng cửa lều mở ra và Solem­bum nhảy vào, đêm móng hạ cánh nhẹ nhàng trên đất.

Con mèo hung bước qua Er­agon không thèm nhìn, sau đó nhảy lên võng của nó, yên vị trên chăn và sau đó liếm láp bàn chân phải. Cậu ta không thèm nhìn Er­agon mà nói, ta không phải chó cho mi gọi đến thì đến đi thì đi, Er­agon.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ thế,” Er­agon trả lời. “Nhưng ta cần ngươi, trường hợp khẩn.”

Umm. Tiếng lưỡi Solem­bum liếm soàn soạt to hơn khi cậu ta tập trung vào bàn chân. Vậy nói đi, Khắc tinh của Tà thần. Mi muốn gì?

“Đợi chút.” Er­agon đứng dậy tới cột treo đèn. “Tôi thắp cái này lên đã,” nó cảnh báo cho Solem­bum. Sau đó Er­agon nói bằng ngôn ngữ cổ. Một ngọn lửa sáng lên trên đèn, trong lều tràn ngập thứ ánh sáng ấm áp.

Cả Er­agon và Solem­bum đều nheo mắt khi đợi mắt tiết chế kịp với ánh sáng. Khi ánh sáng không còn khiến họ cảm thấy quá khó chịu, Er­agon ngồi xuống cái ghế đẩu, không xa võng là mấy.

Con ma mèo đang dùng ánh mắt xanh lạnh nhìn nó.

“Không phải mắt ngươi có màu khác à?”

Solem­bum chớp mắt một cái và mắt cậu ta chuyển từ xanh sang vàng. Sau đó cậu ta tiếp tục liếm bàn chân. “Mi muốn gì,Khắc tinh của Tà thần? Tối để làm nhiều việc, không chỉ để ngồi nói chuyện. Cái đuôi cậu ta quật từ bên này sang bên khác.

Er­agon liếm mép, hy vọng của nó làm nó lo lắng. “Solem­bum, ngươi đã nói rằng khi mọi hy vọng không còn và khi ta sức cùng lực kiệt, ta nên tới tảng đá Kuthi­an và mở Cửa Linh Hồn.”

Con mèo ma dừng liếm chân. À, cái đó.

“Đúng, cái đó. Ta muốn biết ngươi định nói gì. Nếu có gì giúp chúng ta chống lại Gal­ba­torix, ta cần biết ngay bây giờ - không phải sau này, không phải khi ta đã giải được một hai câu đó, mà là bây giờ. Vì thế, ta có thể thấy tảng đá Kuthi­an và làm sao ta mở được Cửa Linh Hồn, và ta sẽ tìm thấy gì ở đó?”

Cái tai điểm đen của Solem­bum hơi hướng lên phía trước, móng vuốt co lại đệm chân được một nửa. Ta không biết.

“Ngươi không biết?” Er­agon không tin mà kêu lên.

Mi có cần nhắc lại mọi điều ta nói không?

“Sao ngươi lại không biết?”

Ta không biết.

Er­agon nhoài người về phía trước, nắm lấy bàn chân to tướng của Solem­bum. Tai con ma mèo cụp lại, nó rít lên và cong móng, châm móng vuốt vào lòng bàn tay Er­agon. Er­agon cười và bỏ qua cơn đau. Con ma mèo khỏe hơn nó tưởng, đủ khiến nó ngã khỏi ghế.

“Không thêm một câu đố nào nữa,” Er­agon nói. “Ta cần sự thật, Solem­bum. Ngươi biết thông tin đó từ đâu và nó có nghĩa gì?”

Lông trên xương sống Solem­bum dựng đứng. Thi thoảng các câu đố là sự thật, đồ người đầu gạch. Giờ thả ta ra không ta xé nát mặt mi và đem ruột mi cho quạ ăn đấy.

Er­agon vẫn nắm một lúc lâu hơn, sau đó thả bàn chân Solem­bum ra và ngả về sau. Nó nắm chặt tay nén đau và để máu ngừng chảy.

Solem­bum nhìn nó, tất cả sự thờ ơ đều không còn. Ta nói ta không biết vì, dù cho mi nghĩ gì, thì ta thật sự không biết. Ta không biết đá Kuthi­an ở đâu và làm sao mi mở được Cổng Linh Hồn hay cổng đó chứa cái gì.

“Nói bằng ngôn ngữ cổ xem.”

Con ngươi mắt Solem­bum còn hẹp hơn, nhưng cậu ta vẫn nhắc lại bằng ngôn ngữ của thần tiên. Lúc đó Er­agon biết Solem­bum nói thật.

Er­agon có rất nhiều thắc mắc khiến nó không biết bắt đầu từ ddaaua. “Sau ngươi lại biết đến Đá Kuthi­an?”

Một lần nữa đuôi Solem­bum lại quật sang hai bên, làm các nếp gấp trên chăn phẳng thớm. Như cũ, ta không biết. Hay ta không nghĩ ra.

“Vậy sao…” Er­agon không nói hết vì bối rối.

Ngay sau ngày tàn của thời đại Kỵ sĩ, chúng ta tự nhiên mang một nhận thức rằng, khi nào gặp một Kỵ sĩ mới, người không phục vụ Gal­ba­torix, chúng ta phải nói với người đó điều ta nói với ngươi: về cây Menoa và về tảng đá Kuthi­an.

“Nhưng thông tin tới từ đâu?”

Miệng Solem­bum nhăn lại khi nó nhe những chiếc răng tạo ra một nụ cười không thoải mái. Cái đó chúng ta không biết, chỉ có ai hoặc cái gì nói cái đó mới biết nó có nghĩa gì.

“Sao ngươi lại biết?” Er­agon hô lên. “Nếu đó là Gal­ba­torix thì sao? Hắn ta có thể đã thử chơi các ngươi. HẮn có thể cố chơi ta và Saphi­ra, để tóm sống chúng ta.”

Không, Solem­bum nói, móng vuốt cắm sâu vào chăn. Ma mèo không dễ bị lừa như các loài khác. Gal­bar­torix không phải người đứng đằng sau chuyện này. Ta chắc chắn. Ai muốn mi biết thông tin này là ngươi sắp xếp để ngươi tìm được thép sáng tạo ra thanh gươm của ngươi. Liệu Gal­ba­torix có làm thế không?

Er­agon nhăn trán. “Các ngươi chưa bao giờ thử tìm xem ai đứng đằng sau sao?”

Có.

“Và?”

Thất bại. Con ma mèo xù lông. Có hai khả năng. Một, trí nhớ của chúng ta chống lại ý muốn của chúng ta và bị điều khiển bởi thực thể đáng ghê tởm nào đó. Hai là, chúng ta đồng ý để thay đổi ký ức, không hiểu vì lý do gì. Có lẽ chúng ta tự mình khống chế ký ức. Ta không thể tin có ai có thể thành công trong việc làm thay đổi trí nhớ của chúng ta. Nếu chỉ là vài người, ta sẽ hiểu. Nhưng đây lại là cả một loài. Không, không có khả năng.

Sao lại tin tưởng ma mèo để gi­ao thông tin này?

Ta đoán là vì, chúng ta luôn là bạn của Kỵ sĩ và bạn của rồng… Chúng ta là những kẻ quan sát. Những kẻ lắng nghe. Những kẻ lang thang. Chúng ta một mình du ngoạn tại những nơi tối tăm của thế giới, và chúng ta nhớ thế giới đang thế nào và sẽ thế nào.

Ánh mắt của Solem­bum chuyển động.Hiểu đi, Er­agon. Chúng ta không vui vẻ gì với tình thế này. Chúng ta đã từng tranh luận không biết bao nhiêu lần về thông tin sẽ gây lợi hay hại khi thời điểm đến. Cuối cùng, ta quyết định. Ta quyết định nói cho mi, để mi có được tất cả những giúp đỡ mi cần. Còn ngươi hiểu thế nào là chuyện của ngươi.

“Nhưng tôi phải làm gì?” Er­agon nói. “Làm sao tôi tìm được tảng đá Kuthi­an?”

Cái đó thì ta không thể nói.

“Vậy thì thông tin dùng làm cái gì? Không nghe với nghe rồi chẳng giải quyết được gì.”

Solem­bum chớp mắt lần nữa. Ta có thể nói cho ngươi nghe cái khác. Có thể chẳng có ý nghĩa gì nhưng có thể sẽ giúp ngươi tìm được đường đi.

“Cái gì?”

Nếu mi im lặng ta sẽ nói. Khi gặp ngươi ở Teirm, ta có một cảm giác rất lạ rằng mi nên có cuốn sách Do­mia abr Wyr­da. Ta mất một thời gi­an để dàn xếp nhưng ta chính là người đứng sau việc Jeod đưa mi cuốn sách đó. Sau đó ma mèo giơ chân kia lên, và sau một hồi kiểm tra, bắt đầu liếm.

“Trong mấy tháng qua ngươi có thêm cảm giác kỳ lạ nào nữa không?” Er­agon hỏi.

CHỉ thích ăn những cây nấm nhỏ màu đỏ, nhưng nó cũng qua nhanh.

Er­agon càu nhàu và cúi xuống lấy cuốn sách từ dưới võng ra. Nó nhìn chằm chằm vào cuồn sách bìa da dày trước khi mở tới một trang bất kỳ. Như thường lệ, những con chứ rune chằng chịt khiến nó khó hiểu khi mới liếc qua. Nó phải cố gắng lắm mới dịch được vài từ.

…Nếu tin Ta­ladorous nghĩa là chính những ngọn núi là thành quả của câu thần chú. Điều này, tất nhiên vô lý, vì…

Er­agon nhăn mặt vì thất vọng và gập cuốn sách lại. “Ta không có thời gi­an. Cuốn sách quá to còn ta lại đọc quá chậm. Ta chỉ mới đọc vài chương, và ta không thấy có liên quan gì tới Tảng đá Kuthi­an và Cửa Linh hồn.”

Solem dán mắt vào nó. Mi có thể nhờ ai đọc cho, nhưng nếu có bí mật ẩn giấu trong Do­mia abr Wyr­da, có lẽ ngươi là người duy nhất tìm ra.

Er­agon cưỡng lại ý muốn chửi thề. Nó đứng bật dậy và đi đi lại lại. “SAO ngươi không nói cho ta sớm hơn?”

Ta thấy không quan trọng. Bất cứ lời khuyên nào về cánh cổng hay tảng đá chẳng biết có giúp hay chẳng ích gì, và biết nguồn gốc thông tin – chẳng…thay…đôi…

Gì!

“Nhưng nếu ta biết có gì đó liên quan tới Cổng Linh Hồn, ta sẽ giành nhiều thời gi­an mà đọc hơn.”

Nhưng ta không biết ngươi cần, Solem­bum nói. Lưỡi nó thò ra khỏi mieengjj và liếm lên hàng ria. Cuốn sách có thể chẳng nói gì tới Tảng đá Kuthi­an hay Cổng Linh Hồn. Ai mà biết được? Ngoài ra, mi cũng đã đọc rồi. Liệu nếu ta nói ta có cảm giác thế này thế kia ngươi có chịu đọc thêm không? Hả?

“Có thể không… nhưng ngươi vẫn phải nói chứ.”

Con ma mèo xòe móng và không nói gì.

Er­agon nhăn mắt, nắm cuốn sách như muốn xé nó ra. “Cuốn sách này không thể là mọi thứ chúng ta cần. Phải có thông tin gì đó ngươi quên chứ.”

Có nhiều, nhưng ta nghĩ chẳng có cái gì liên quan tới chuyện này.

“Trong tất cả các chuyến du ngoạn ở Ala­gaësia, kể cả có hay không có đi cùng bà An­gela, ngươi chẳng nhẽ chưa bao giờ tìm thấy cái gì giải thích cho bí mật này? Hay kể cả thứ gì đó giúp chúng ta chống lại Gal­ba­torix ư?”

Không phải ta thấy mi sao?

“Không buồn cười đâu,” Er­agon nhăn mặt. “Chết tiệt, ngươi phải biết gì chứ.”

Không.

“Vậy thì nghĩ đi! Nếu ta không tìm ra biện pháp chống lại Gal­ba­torix, chúng ta sẽ thua đó Solem­bum. Chúng ta sẽ thua, hầu hết Var­den, kể cả ma m èo, sẽ chết.”

Solem­bum lại rít lên. Thế ngươi muốn gì ở ta? Ta không thể nghĩ ra nơi giúp ngươi. ĐỌc sách đi.

“Chúng ta sẽ tới Urû’baen trước khi chúng ta tìm ra cuốn sách. Cuốn sách sẽ như không tồn tại.”

Tai Solem­bum lại cụp xuống. Không phải lỗi của ta.

“Ta không quan tâm. Ta chỉ muốn tìm cách giúp chúng ta không đâm đầu vào chỗ chết. Nghĩ đi! Ngươi phải biết gì nữa chứ!”

Solem­bum phát ra tiếng gầm gừ nho nhỏ. Ta không biết. Và…

“Ngươi phải biết, nếu không chúng ta tiêu!”

Khi Er­agon nói từ đó, nó thấy sự thay đổi trên ma mèo. Tai Solem­bum từ từ dựng đứng, ria chùng xuống, ánh mắt nhẹ nhàng hơn và mất đi sự cứng rắn. Cùng lúc đó, đầu óc mèo ma như thể trống trỗng không bình thường, như thể trí óc của nó bị đóng băng hoặc móc mất.

Er­agon cứng người không hiểu gì.

Sau đó nó cảm thấy Solem­bum nói, tư tưởng bằng phẳng và không màu như một hồ nước dưới bầu trời ẩm đạm, đầy mây. Chương bốn mươi bảy. Trang ba. BẮt đầu từ khổ thứ hai.

Ánh nhìn của Solem­bum có thần sắc lại và tai nó về vị trí cũ. Cái gì? Nó hỏi với sự tức giận rõ ràng. Vì sao mi lại nhìn ta chằm chằm?

“Ngươi vừa nói gì?”

Ta nói ta không biết gì nữa. Và rằng…”

“Không, không phải cái đó, cái khác cơ, về chương và trang ấy.”

Đừng đùa. Ta không có nói.

“Có mà.”

Solem­bum nhìn kỹ nó vài giây. Sau đó, khi đã bình tĩnh, cậu ta nói, Nói cho ta nghe chính xác những gì ngươi nghe, Kỵ sĩ Rồng.

Thế là, Er­agon nhắc lại từng từ. Sau khi nó nói xong, con ma mèo im lặng trong một lúc. Ta không nhớ,cậu ta nói.

“Ngươi nghĩ nó nghĩa là sao?”

Nghĩa là chúng ta nên xem trong trang ba chương bốn mươi bảy viết gì.

Er­agon lưỡng lự rồi gật đầu và bắt đầu lật trang. Trong lúc đó, nó nhớ lại chương đó viết gì; về sự việc sự tái sinh của các hậu duệ Kỵ sĩ rồng, sau đó là cuộc chiến diễn ra trong thời gi­an ngắn giữa tiên và người. Er­agon đã đọc phần đầu nhưng nó thấy đó chỉ là một cuộc bàn luận khô khan về các hiệp ước và thỏa hiệp. Thế là nó bỏ qua để đọc trong lần khác.

Ngay sau đó, nó tìm thấy trang. Nó dùng đầu ngón tay di chuyển dọc theo các con chữ rune và đọc lớn lên.

…Hòn đảo có khí hậu cực kỳ ôn hoàn so với vùng đất liền ở cùng độ cao. Mùa hè thường mát mẻ và có mưa, mùa đông lại không quá lạnh và không phải chịu ảnh hưởng của các cơn gió lạnh cắt da cắt thịt thổi tới từ rặng Spine. Điều này có nghĩa là mùa màng ở đây cho thu hoạch tốt. Ngoài ra, đất đai ở đây rất tốt và màu mỡ - đất ba dan bồi tụ sau nhiều năm núi lửa phun trào và che phủ mặt đất với lớp bụi dày đặc – và các cánh rừng nhiều các thú vật cho rồng đi săn,bao gồm những loài không tồn tại ở nơi nào khác trên Ala­gaësia.

Er­agon dừng lại. “Chẳng liên quan.”

Đọc tiếp xem.

Er­agon nhíu mày tiếp tục đọc đoạn tiếp.

Ở lòng chảo trung tâm Vro­en­gard là nơi các kỵ sĩ xây dựng thành phố cực kỳ nổi tiếng của mình, Doru Arae­ba.

Doru Arae­ba! Thành phố duy nhất trong lịch sử được xây dựng làm nơi cư trú cho rồng cũng như người và tiên. Doru Arae­ba! Nơi của pháp thuật và học hỏi và những bí mật cổ xưa. Doru Arae­ba! Cái tên mang âm điệu phấn khởi.Thành phố không giống bất cứ thành phố nào trước nó và kể cả sau nó. Nhưng giờ nó đã không còn, bị hủy diệt – bị chôi vùi bởi tên bạo chúa Gal­ba­torix.

Các tòa nhà xây dựng theo phong cách thần tiên – với sự ảnh hưởng của các kỵ sĩ loài người vào vài năm cuối quá trình xây dựng – không dùng đá, cũng không dùng gỗ; các tòa nhà gỗ, rõ ràng không thể chịu nổi những sinh vật với móng vuốt sắc như dao cạo và khả năng thở ra lửa. Tuy nhiên, đặc điểm tuyệt diệu nhất của Doru Arae­ba là độ lớn. Mỗi con đường đều rộng rãi cho ít nhất hai con rồng đi sánh ngang, phòng và lối vào lướn đủ cho nhiều con rồng ở với đủ kích thước.

Kết quả, Doru Arae­ba là một thành phố rộng lớn thênh thang, điểm xuyết những tòa nhà to lớn vô cùng, khiến người lùn cũng phải ấn tượng. Những khu vườn và đài phun nước là những thứ quá bình thường trong thành phố, vì các thần tiên vô cùng yêu chuộng thiên nhiên. Ngoài ta còn có rất nhiều những tòa tháp cao vút xen lẫn những đại sảnh và pháo đài của kỵ sĩ rồng.

Trên rặng nui xung quanh thành phố, Kỵ sĩ rồng cho dựng các tháp canh và nhà tổ chim – để canh chừng các đợt tấn công – và các kỵ sĩ và rồng của họ có những hang động cao trên núi, nơi họ sống tách biệt khỏi những người còn lại. NHững con rồng già hơn, lớn tuổi hơn đặc biệt được sắp xếp tách khỏi các con rồng khác, vì chúng thích sống cô độc, trên lòng chào để chúng cất cánh dễ dàng hơn.

Er­agon thất vọng dừng đọc. Doru Arae­ba thực sự thú vị nhưng nó đã đọc những cái khác, chi tiết hơn về thành phố của kỵ sĩ rồng trong thời gi­an ở Ellesméra. Mà nó cũng không thích ngồi dịch chữ rune nữa.

“Chẳng có tích sự gì,” nó nói và hạ quyển sách xuống. Đừng từ bỏ. Đọc thêm hai trang nữa xem. Nếu sau đó không có gì, mi có thể dừng.

Er­agon hít một hơi và đồng ý. Nó chạy ngón tay theo trang cho tới khi tìm thấy chỗ nó vừa dừng và đọc tiếp:

Thành phố có nhiều kỳ quan, từ Đài nước biết hát của El­dimírim tới pháo đài pha lê của Svell­hjall hay cây tổ quạ của loài rồng, nhưng hơn cả, tôi tin tưởng kho báu lớn nhất của Doru Arae­ba là thư viện của nó. Không phải vì đây là một công trình quan trọng – dù thực sự như thế - mà vì qua nhiều thế kỷ, các Kỵ sĩ đã thu thập kho kiến thức quý báu nhất của toàn miền đất. Vào thời điểm thời đại các hiệp sĩ suy vong, trên toàn miền chỉ còn lại ba thư viện– một của Ilirea, một của Ellesméra và một của Tron­jheim—và cả tổng số sách trong ba thư viện đó không thể nào sánh bằng thư viện của Doru Arae­ba.

Thư viện nằm ở phía tây bắc thành phố, gần khu vườn được bao quanh bởi Ngọn tháp xoắn của Morae­ta, hay còn được biết tới với cái tên Tảng đá của Kuthi­an…

Giọng Er­agon chết nghẹn trong cổ họng khi nhìn thấy cái tên. Sau một lát, nó đọc tiếp, chậm rãi hơn:

Được biết tới với cái tên, tảng đá Kuthi­an,nó không xa Thượng viện, nơi các Kỵ sĩ rồng tối cao gặp mặt các vua và nữ hoàng khi họ tới gặp mặt là bao.

Er­agon vừa sợ vừa ngưỡng mộ. Một người hoặc cái gì đó đã sắp xếp để nó biết được thông tin này, cũng là người hoặc vật đã giúp nó tìm thép sáng rèn kiếm. Ý nghĩ đó thật đáng sợ và giờ khi Er­agon biết mình phải đi đâu, nó lại không chắc nó còn muốn tìm ngọn ngành nữa không.

Nó không biết cái gì đang chờ đợi nó ở Vro­en­gard? Nó sợ phải liều lĩnh, nhất là khi nó có được cơ hội thực hiện điều không tưởng.

39. CÂU HỎI KHÔNG LỜI ĐÁP

Er­agon tìm kiếm trong cả cuốn Do­mia abr Wyr­da cho tới khi tìm được phần nói về Kuthi­an ở chương mười hai. Nhưn nó chỉ thất vọng vì cả chương chỉ nói rằng Kuthi­an là tên một trong những Kỵ sĩ đầu tiên tìm ra đảo Vro­en­gard.

Sau đó nó gấp sách và ngôi chăm chăm nhìn vào nó, đấm thùm thụp lên lưng. Trên võng, Solem­bum cũng giữ yên lặng.

“Ngươi có nghĩ trong Cổng Linh Hồn chứa linh hồn không?” Er­agon hỏi.

Linh hồn này không phải linh hồn người chết.

“Không phải thì là gì?”

Solem­bum nhoài người dậy và duỗi thẳng người từ đầu tới đâu. Nếu mi tìm ra, ta sẽ có hứng nghe xem nó là gì.

“Vậy ngươi có nghĩ ta và Saphi­ra nên đi không?”

Ta không thể nói cho ngươi biết ngươi nên làm gì. Nếu đây là cái bẫy, thì toàn bộ giống loài chúng ta sẽ tuyệt diệt trong tích tắc. Ngoài ra lúc đó quân Var­den cũng phải đầu hàng rồi nên không ai có thể hạ bệ Gal­ba­torix. Nếu không phải thì đây có thể là cơ hội để tìm được một lực lượng trợ giúp mà chúng ta không ngờ tới. Mi phải tự quyết xem có nên không. Về phần ta, ta nắm giữ đủ thứ trong bí mật này rồi.

Cậu ta nhảy khỏi võng và đi về phía cửa lều, rồi dừng lại nhìn Er­agon. Có rất nhiều những thế lực kỳ lạ ở Ala­gaësia, Khắc tinh của Tà thần. Ta đã thấy những thứ đi ngược với niềm tin thông thường: cơn lốc ánh sáng quay vòng trong những hang động ẩn sâu trong lòng đất, đá biết nói, bóng người biết đi. Các căn phòng vào bên trong lớn hơn bên ngoài… Gal­ba­torix không phải thế lực duy nhất và thậm chí không phải kẻ mạnh nhất. Hãy chọn cẩn thận, Khắc tinh của Tà thần, và nếu ngươi chọn ra đi, hãy ra đi trong im lặng.

Sau đó, ma mèo chui ra khỏi lều và biến vào bóng đêm

Er­agon thở một hơi và ngửa người ra sau. Nó biết nó phải làm gì; nó phải tới Vroe­gard. Nhưng nó không thể quyết định mà không tham khảo ý kiến Saphi­ra.

Với một tiếng động nhỏ phát tới tư tưởng Saphi­ra, nó đánh thức cô em dậy. Một khi nó làm cô nàng yên lòng rằng không có gì bất ổn, nó chia sẻ với cô nàng ký ức chuyến thăm của Solem­bum. Cô nàng cũng vô cùng kinh ngạc.

Khi nó nói xong, cô em nó cất lời, Em không thích ý tưởng có trở thành con rối cho kẻ đã yểm bùa ma mèo.

Anh cũng thế, nhưng chúng ta còn lựa chọn nào đâu? Nếu Gal­ba­torix nhúng tay vào, vậy thì chúng ta đang tự mình dâng mình lên miệng hắn. Nếu nếu chúng ta ở lại, chúng ta cũng đang làm y như thế, ngay khi chúng ta tới Urû’baen.

Khác biệt ở đây là, chúng ta còn có quân Var­den và các thần tiên.

Đúng.

Họ im lặng một lúc lâu. Sau đó Saphi­ra nói, Em đồng ý. Em đồng ý là chúng ta phải đi. Chúng ta cần móng vuốt dài hơn và răng sắc hơn nếu chúng ta muốn đánh bại Gal­ba­torix và Shruikan cùng Murtagh và Thorn. Hơn nữa, Gal­ba­torix nghĩ chúng ta sẽ thẳng tiến tới Urû’baen để cứu Na­sua­da. Nếu có điều gì đó làm em ngứa vảy, đó là làm theo điều kẻ địch đã tiên liệu.

Er­agon gật đầu. Nếu đây là bây thì sao?

Một tiếng gầm nho nhỏ phát ra ngoài lều. Vậy thì chúng ta sẽ dạy cho kẻ chơi khăm chúng ta biết sợ danh tính chúng ta, kể cho kẻ đó có là Gal­ba­torix.

Nó mỉm cười. Lần đầu tiên kể từ khi Na­sua­da bị bắt nó thấy được phương hướng. Họ có thể làm được chuyện gì đó – một thứ sẽ ảnh hưởng tới các sự kiện trong tương lai, thay vì ngồi chờ đợi thụ động. “Vậy thì chúng ta sẽ đi,” nó lẩm bẩm.

Arya tới lều nó vài giây sau khi nó liên lạc với nàng. Tốc độ của nàng khiến nó choáng váng cho tới khi nàng giải thích rằng nàng cùng Blöd­hgarm và các thần tiên khác đang đứng ngoài can­hh gác phòng Murtagh và Thorn trở lại.

Với nàng ở đó, Er­agon vươn tư tưởng tới Glae­dr và mời ông nói chuyện, dù thật ra rồng vàng chẳng hứng thú gì.

Một khi bốn người bọn họ, bao gồm cả Saphi­ra cùng gi­ao nhập tư tưởng, Er­agon cuối cùng bật miệng nói, Tôi biết Tảng đá Kuthi­an ở đâu!

Đá gì? Glae­dr trầm rền nói, giọng chua chát.

Cái tên nghe quen quen, Arya nói, nhưng tôi không biết nó ở đâu.

Er­agon hơi nhíu mày. Cả hai người bọn họ đều đã nghe nói nói về lời khuyên của Solem­bum. Không thể nào cả hai cùng quên được.

Thế là, Er­agon nhắc lại câu chuyện nó gặp Solem­bum ở Teirm, và nó nói về những cảm giác của ma mèo và đọc cho họ nghe đoạn liên quan từ trong cuốn sách Do­mia abr Wyr­da.

Arya vén tóc ra sau đôi tai nhọn. Nàng nói cả bằng lời lẫn trong tư tưởng, “Chàng nhắc lại tên tảng đá được không?”

“…Ngọn tháp xoắn ốc Morae­ta hay tảng đá Kuthi­an,” Er­agon trả lời. Nó lưỡng lự trong nửa giây rồi cũng nói. “Đó là chuyến bay dài, nhưng…”

…nếu tôi và Er­agon đi ngay …. Saphi­ra nói.

“….. chúng tôi vó thể tới đó và trở về….”

…trước khi Var­den tới Urû’baen. Đây là…

“…cơ hội duy nhất để đi…”

Chúng ta không có thời gi­an ….

“… để thực hiện chuyến đi nữa đâu.”

Nhưng hai trò định bay tới đâu? Glae­dr hỏi.

“Thầy… nói sao?”

ĐÚng như ta nói, con rồng vàng gầm lên, đầu óc tôi đen lại Ngươi lảm nhảm từ nãy tới giờ mà có nói cho cái…vật bí ẩn kia ở đâu đâu.

“Con có nói!” Er­agon hoang mang nói. “Ở đảo Vro­en­gard!”

Nói lần cuối, trả lời thẳng vào vấn đề…

Vết hắn trên trán Arya càng sâu. “Nhưng chàng làm gì ở Vro­en­gard?”

“Ta không biết!” Er­agon nói, càng lúc càng nóng đầu. Nó bực chuyện ông Glae­dr cứ vòng vo mãi về mấy địa điểm; ông rồng dường như cố tình chọc tức nó. “Còn phải xem chúng tôi tìm thấy gì. Một khi tới đó, chúng tôi sẽ cố mở tảng đá Kuthi­an và tìm xem trong đó chứa đựng bí ẩn gì. Nếu đó là một cái bẫy…” Nó nhún vai. “thì chúng tôi sẽ chiến đấu.”

Biểu hiện trên mặt Arya càng lúc càng khó coi. “Tảng đá Kuthi­an…Tên có vẻ ấn tượng, nhưng tôi không biết vì sao, nó vọng lên trong trí óc tôi như một bài hát tôi đã từng biết nhưng đã quên rồi.” Nàng lắc đầu và đặt tay lên thái dương. “Giờ không nhớ gì rồi…” Nàng nhìn lên. “Xin lỗi nhé, chúng ta đang nhắc tới đâu thế?”

“Tới Vro­en­gard,” Er­agon nhắc từ từ.

“À, đúng… nhưng vì mục đích gì? Mọi người đang cần chàng ở đây, Er­agon. Mà dù sao ở Vro­en­gard cũng chẳng còn gì có giá trị.”

ĐÚng, Glae­dr nói. Đó là nơi bỏ hoang chết chóc. Sau sự hủy diệt của Doru Arae­ba, vài người trốn thoát được đã quay lại thứ gì hữu dụng, nhưng Tụi phản đồ đã dọn dẹp sạch sẽ rồi.

Arya gật đầu. “Sao chàng lại nghĩ tới chuyện này nhỉ? Tôi không hiểu sao chàng có thể bỏ mặc Var­den vào thời điểm nước sôi lửa bỏng này. Và để làm gì nào? Bay tới một nơi xa xôi của Ala­gaësia chẳng vì mục đích, nguyên nhân gì?… Tôi nghĩ chàng khá hơn thế… Chàng không thể đi chỉ vì chàng không thích vị trí mới, Er­agon.

Er­agon tách rời tư tưởng khỏi Arya và Glae­dr sau đó ra hiệu cho Saphi­ra làm điều tương tự. Họ không nhớ!… Họ không thể nhớ!

Do phép thuật. Phép thuật nằm sâu bên trong như phép thuật dấu tên những con rồng phản bội Kỵ sĩ.

Nhưng em không quên Tảng đá Kuthi­an, đúng không?

Tất nhiên là không, tư tưởng cô nàng thoáng xanh màu giận dỗi. Sao em có thể quên khi chúng ta liên kết cực kỳ gần gũi?

Er­agon hoa mắt khi cân nhắc những khả năng. Để hiệu quả, câu thần chú sẽ phải xóa bỏ kết ký ức những ai đã biết về tảng đá và ký ức của những ai nghe hoặc đọc về nó sau đó. CÓ nghĩa là… toàn bộ Ala­gaësia đều bị ếm chú. Không ai có thể thoát nổi.

Trừ chúng ta.

Trừ chúng ta,nó đồng tình. Và me mèo.

Và, có thể, Gal­ba­torix.

Er­agon rùng mình; nó cảm giác như những con nhện băng bò trên xương sống nó. Nó kinh ngạc và thấy mình chỉ là một sinh vật nhỏ bé, yêu đuối. Để che phủ đầu óc của thần tiên, người lùn, loài người và cả loài rồng, không khiến cho họ có chút mảy may nghi ngờ là một bài toán quá khó. Nó nghi đây có thể là một đòn phép có chủ tâm; hơn nữa, nó tin câu thần chú này được tạo ra theo bản năng, vì không thể dùng từ ngữ mà tạo ra nổi một câu thần chú phức tạp tới nhường này.

Nó phải biết ai đã làm méo mó tư tưởng của mọi người tại Ala­gaësia, và lý do. Nếu là Gal­ba­torix thì Er­agon sợ rằng Solem­bum đã suy luận đúng và quân Var­den không có nửa cơ hội chiến thắng.

Em có nghĩ đây là tác phẩm của loài rồng, giống như Xóa tên? Nó hỏi.

Saphi­ra mất lúc lâu mới trả lời. Có lẽ. Nhưng cũng theo như những gì Solem­bum nói với anh, trên Ala­gaësia có rất nhiều thế lực. CHỉ khi tới Vro­en­gard chúng ta mới biết được rõ ràng.

Nếu chúng ta tới được.

Đúng.

Er­agon vuốt tóc. Nó đột nhiên cảm thấy mệt mỏi vô cùng. VÌ sao mọi chuyện phải khó khăn đến thế? Nó băn khoăn.

Vì, Saphi­ra nói, ai cũng muốn ăn nhưng không ai muốn bị ăn.

Nó khụt khịt có chút phấn khởi.

Dù cuộc nói chuyện giữa nó và Saphi­ra rất ngắn nhưng cũng đủ khiến Arya và Glae­dr để ý,

“Sao chàng đóng tâm tưởng với chúng tôi?” Arya hỏi. ÁNh mắt nàng nhìn mông lung trên một bên vải bạt lều – gần chỗ Saphi­ra nằm trong bóng tối. “Có gì không đúng sao?”

Có vẻ trò bị rối loạn đầu óc rồi, Glae­dr nói thêm.

Er­agon cười không thành tiếng. “Có lẽ vì con đang thế.” Arya nhìn nó lo lắng khi nó bước tới võng và ngồi xuống. Nó đặt tay vào giữa hai chân. Nó im lặng trong một lúc để chuyển từ tiếng mẹ đẻ sang tiếng nói của thần tiên và phép thuật, “Hai người có tin Saphi­ra và tôi không.”

Sau một hồi ngắn ngủi Arya trả lời, “Có,” bằng ngôn ngữ cổ.

Ta cũng vậy, Glae­dr trả lời tương tự.

Anh nói hay em nói? Er­agon hỏi qua Saphi­ra.

Anh muốn nói thì nói đi.

Er­agon ngước nhìn Arya. Sau đó, vẫn bằng ngôn ngữ cổ nó nói với cả Arya và Glae­dr, “Solem­bum nói cho tôi nghe tên địa điểm, một địa điểm ở Vro­en­gard, nơi Saphi­ra và tôi có thể tìm thấy một người hoặc vật gì đó giúp chúng ta đánh bại Gal­ba­torix. Nhưng, cái tên đó bị yểm bùa. Mỗi lần tôi nói ra tên đó, mọi người sẽ quên ngay.” Arya có chút choáng váng. “Hai người tin tôi không?”

“Tôi tin chàng,” Arya chậm rãi đáp.

Ta tin rằng trò tin vào điều trò nói, Glae­dr gầm nên. Nhưng thực sự không cần làm vậy.

“Vậy con chứng minh kiểu gì? Người không nhớ nếu con nói tên hay chia sẻ ký ức với người. Người có thể hỏi Solem­bum, nhưng sau đó, để làm gì?”

Để làm gì à? Thứ nhất, chúng ta có thể biết con không bị lừa hay bị điều khiển bởi thế lực đứng sau Solem­bum. Đối với câu thần chú, có thể chúng ta sẽ tìm ra cách biết nó tồn tại. GỌi ma mèo và chúng ta sẽ xem làm thế nào.

Em làm nhé? Er­agon hỏi Saphi­ra. Nó nghĩ ma mèo sẽ thích tới vì Saphi­ra gọi hơn.

Một lát sau, nó thấy cô nàng tìm kiếm trong suốt doanh trại, rồi cảm nhận tư tưởng của Solem­bum chạm tới Saphi­ra. Một lát sau, cô nàng và ma mèo trao đổi gì đó rồi Saphi­ra tuyên bố, Cậu ta đang tới.

Họ im lặng chờ đợi, Er­agon nhìn chăm chăm xuống bàn tay trong khi lập danh sách những thứ cần đến trong cuộc hành trình tới Vro­en­gard.

Khi Solem­bum vào lều, Er­agon ngạc nhiên vì thấy cậu ta ở dạng người: trẻ, mắt đen và trông xấc xược. Ở tay trái, ma mèo cầm chân ngỗng nướng vốn cậu ta đang ngốn ngấu. Mỡ dính đầu môi và cằm, rơi xuống ngực trần của cậu ta.

Khi nhai thịt, solem­bum hất cái cằm nhọn về chỗ đất chôn tim của tim của Glae­dr. Ngài muốn gì, người thở ra lửa?” cậu ta hỏi.

Để biết ngươi có sống đúng những gì ta thấy không! Glae­dr nói, và tư tưởng con rồng bao vây lấy Solem­bum, như một đám mây đen bao lấy một ngọn lửa cháy sáng trong gió. Sức mạnh của con rồng là vô biên, và theo kinh nghiệm cá nhân, Er­agon biết rằng rất ít kẻ có thể chịu nổi ông.

Với một tiếng ngao trong miệng, Solem­bum há mồm đầy thịt và giật lùi lại như thể dẫm phải một con rắn độc. Cậu ta đứng nguyên tại chỗ, sau đó run lên, răng nhe ra và sự giận dữ hiện lên trên con mắt vàng. Er­agon phải đặt tay lên Bris­in­gr phòng trường hợp xấu. Ngọn lửa lụi nhưng vẫn còn: một ánh sáng trắng nóng giữa một biển mây đen.

Sau một phút, bão tan và mây rút đi, dù không hoàn toàn biến mất.

Xin lỗi nhé, ma mèo, Glae­dr nói, nhưng ta muốn biết chắc chắn.

Solem­bum rít lên, lông tóc dựng ngược như lông nhím. Nếu ông còn có cơ thể, ông già, tôi sẽ cắt đuôi ông ra.

Ngươi, con mèo con nhà ngươi á? Ngươi chỉ gãi ngứa cho ta thôi.

Một lần nữa Solem­bum lại phun phì phì sau đó quay gót bước ra ngoài, vai nhô lên gần tai.

Đợi đã, Glae­dr lên tiếng, Ngươi nói cho Er­agon biết cái chỗ ở Vro­en­gard phải không, chỗ bí mật không ai nhớ ra đấy?

Ma mèo dừng lại, không quay người, nó gầm lên và giơ chân ngỗng lên trên đầu vì mất bình tĩnh và khinh bỉ. Đúng.

Và ngươi nó cho hắn nghe trang nào trong Do­mia abr Wyr­da để tìm ra địa điểm đó.

Hình như vậy nhưng tôi không nhớ, và tôi mong dù gì ở Vro­en­gard, nó cũng nhổ râu đốt chân ông.

Cửa ra vào lều phấp phới bay khi Solem­bum gạt nó sang một bên; sau đó hình dáng nhỏ thó của cậu tan vào bóng tối, như chưa từng xuất hiện.

Er­agon đứng lên và, dùng mũi giày đá miếng thịt ăn dở ra khỏi lều.

“Đáng ra người không nên quá thô bạo với cậu ấy,” Arya nói.

Ta không còn lựa chọn khác, Glae­dr nói.

“Thật ư? Người có thể hỏi ý cậu ta trước.”

Và cho cậu ta cơ hội chuẩn bị sao? Không, ta làm xong rồi; bỏ qua đi, Arya.

“Tôi không thể. Lòng tự tôn của cậu ta bị tổn thương. Người nên xoa dịu cậu ấy. Không nên để ma mèo trở thành kẻ địch của mình.”

Nếu rồng là kẻ thù của cô còn nguy hiểm hơn. Bỏ qua đi, tiên nữ trẻ tuổi.

Er­agon lo lắng nhìn Arya. Giọng Glae­dr khiến nó lo lắng – nó biết Arya cũng thấy thế - nhưng Er­agon không biết phải giải quyết sao.

GIờ, Er­agon, con rồng vàng nói, ngươi để ta kiểm tra ký ức cuộc trò chuyện với Solem­bum chứ?

“Nếu người muốn, nhưng… vì sao ạ? Người sẽ quên ngay thôi.”

Có thể có nhưng cũng có thể không. Chúng ta phải thử mới biết. Glae­dr nói với Arya. Tách đầu óc cô ra, đừng để ký ức của Er­agon bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của cô.

“Nghe theo người, thưa Tiền bối Glae­dr.” Khi Arya nói, tiếng nhạc trong tâm tưởng của nàng càng ngày càng xa. Một lát sau, tiếng hát kỵ lạ biến mất.

Sau đó Glae­dr chú ý tới Er­agon, Cho ta xem, ông ra lệnh.

Lờ đi sự lo lắng, Er­agon nhớ lại lần đầu tiên Solem­bum tới lều, rồi nó cẩn trọng nhớ lại mọi lời trao đổi giữa hai người sau đó. Tư tưởng của Glae­dr hòa chung với Er­agon để con rồng có thể cùng trải nghiệm với nó. Đó là một cảm giác không thoải mái; như thể nó và ông rồng là hai hình ảnh khác nhau in lên cùng một mặt của đồng xu.

Khi xong, Glae­dr rút khỏi đầu óc Er­agon và sau đó nói với Arya. Nếu ta quên, hãy nhắc cho ta rằng ““An­dumë và Fíron­mas ở trên ngọn đồi đau khổ, da họ trông như thủy tinh.” Cái địa danh ở Vro­en­gard… ta biết nó. Hoặc từng biết. Có gì đó rất quan trọng, cái gì đó… Tư tưởng của con rồng vàng xám xịt trong một giây, như có một lớp sương mù phủ lên ngọn đồi và thung lũng tư tưởng của ông. À? Ông ra lệnh, trở lại thái độ cộc cằn như trước. Chần chừ gì nữa? Cho ta xem những ký ức đi.

”Con làm rồi.”

Ngay khi Glae­dr tỏ ra không tin, Arya nói, “Thưa Glae­dr, hãy nhớ lại: An­dumë và Fíron­mas ở trên ngọn đồi đau khổ, da họ trông như thủy tinh.’”

Làm sao – Glae­dr dợm nói nhưng rồi gầm lớn khiến Er­agon thấy như nghe thấy tiếng gầm ngoài đời thực. Ôi. Ta ghét những câu thần chú ám lên ký ức người khác. Chúng là dạng pháp thuật tồi tệ nhất, luôn luôn dẫn tới rối loạn và bối rối. Chúng gây ra một nửa số vụ người thân trong một gia đình chém giết lẫn nhau mà không biết.

Câu người nói có nghĩa gì ạ? Saphi­ra hỏi.

Chẳng có nghĩa gì với mọi người nhưng có ý nghĩa với ta và Oromis. Không ai hiểu trừ khi ta nói.

Arya thở dài. “Vậy câu thần chú có thật. Tôi đoán chàng phải tới Vro­en­gard thôi. Bỏ đi một thứ quan trọng thì thật là ngu ngốc. Chúng ta cần biết ai thao túng chuyện này.”

Ta cũng đi nữa, Glae­dr nói. Nếu ai đó muốn làm hại con, chúng không nghĩ mình sẽ phải chiến đấu với hai con rồng thay vì một. Hơn nữa, ngươi cần có hoa tiêu. Vro­en­gard đã trở nên nguy hiểm từ khi thời đại các kỵ sĩ rồng diệt vong, và ta không muốn con làm mồi cho một con quỷ bị lãng quên nào đó.

Er­agon lưỡng lự khi thấy sự mong muốn kỳ lạ trong ánh mắt Arya, nó biết nàng cũng muốn đi cùng. “Saphi­ra sẽ bay nhanh hơn nếu chỉ mang theo một người,” nó bình tĩnh nói.

“Tôi biết… chỉ có điều tôi luôn ước ao được tới quê hương của Kỵ sĩ Rồng.”

“Tôi chắc một ngày rồi nàng sẽ tới đó. Một ngày nào đó.”

Nàng gật đầu. “Một ngày nào đó.”

Er­agon mất một lúc để kiểm soát lại năng lượng và nhớ lại cần chuẩn bị những gì và sau đó, nó, Saphi­ra và Gleadr có thể lên đường. Nó hít một hơi và đứng lên.

“tướng quân Gar­ven!” nó gọi. “Anh vào đây được không?”

40. RA ĐI

Đầu tiên, Er­agon nhờ Gar­ven bí mật cử một Chim Ưng đen đi thu xếp vật dụng cần thiết cho cuộc hành trình. Saphi­ra sau khi chiếm Dras – Leona đã đi ăn nhưng cô nàng không ăn nó vì nếu không sẽ bay rất chậm và khó lòng bay cao. Vì thế giờ cô nàng ăn thêm rồi bay một mạch tới Vro­en­gard, nhưng một khi tới đó, Er­agon biết cô nangg sẽ sớm phải đi tìm thức ăn trong hoặc xung quanh hòn đảo. Nó rất lo về ván đề này.

Em luôn có thể bay về với cái bụng rỗng, cô nàng an ủi nó nhưng nó không tin.

Tiếp đó, Er­agon gửi một người đưa tin tới Jör­mundur vàBlöd­hgarm yêu cầu họ tới lều. Khi họ tới, Er­agon, Arya và Saphi­ra dành thêm một tiếng nữa nói cho họ tình hình của mình – lần này còn khó giải thích hơn – rằng chuyến đi này là cần thiết. Họ dễ dàng thuyết phục Blöd­hgarm nhưng Jör­mundur thẳng thừng phản đối. Không phải vì ông nghi ngờ thông tin của Solem­bum hay vì ông nghi ngờ tính quan trọng của nó – về cả hai vấn đề này ông đều chấp nhận lời của Er­agon mà không hỏi gì thêm – nhưng, ông càng lúc càng tranh cãi mạnh hơn về vấn đề này sẽ hủy hoại quân Var­den khi họ tỉnh dậy và phát hiện ra không chỉ Na­sua­da bị bắt cóc mà Er­agon và Saphi­ra cũng đã biến đi đâu không biết.

“Hơn nữa, chúng ta không dám để Gal­ba­torix nghĩ rằng hai người đã rời đi,” Jör­mundur nói. “Nhất là khi chúng ta đã tới gần Urû’baen. Có thể lão sẽ cử Murtagh và Thorn tới chặn đường ngài. Hoặc lão sẽ lợi dụng cơ hội này để đè bẹp quân Var­den một lần và mãi mãi. Chúng ta không thể liều.”

Er­agon buộc phải công nhận rằng lo lắng của ông có lý.

Sau khi thảo luận một lúc lâu, cuối cùng họ đi tới giải pháp: Blöd­hgarm và các thần tiên khác sẽ tạo nên bản sao của Er­agon và Saphi­ra, như hồi họ đã tạo ra bản sao Er­agon khi nó tới núi Be­or để tham gia buổi chọn người kế vị Hroth­gar.

Hình ảnh xuất hiện dần trở thành một bản sao sống biết suy nghĩ, biết thở của Er­agon và Saphi­ra, nhưng đầu óc chúng trống rỗng, và nếu ai đó tiếp cận đầu óc họ, họ sẽ biết ngay. Vì thế, bản sao của Saphi­ra không biết nói và mặc dù các thần tiên có thể tạo giọng nói cho bản sao Er­agon, nhưng cách phát âm kỳ cục sẽ khiến những người nghe phát hiện. Những nhược điểm của bản sao là mọi người chỉ nên thấy chúng từ đằng xa và những người gần gũi với họ - như vua Or­rin hay Orik – sẽ mới nhận ra.

Vì thế Er­agon ra lệnh cho Gar­ven đánh thức tất cả các Chim Ưng Đêm và cho họ tới gặp nó ngay. Khi toàn bộ đội đã tập hợp trước lều nó, Er­agon giải thích cho nhóm người, người lùn và Ur­gal biết vì sao nó và Saphi­ra phải đi, dù nó chỉ nói mù mờ về chi tiết và giữ bí mật về chuyện nó tới đâu. Sau đó nó giải thích các thần tiên sẽ che giấu sự vắng mặt của chúng như thế nào và nó bắt những người hộ vệ kia thề giữ bí mật bằng ngôn ngữ cổ. Nó tin họ, nhưng cẩn tắc vô áy náy vì biết đâu Gal­ba­torix có cài cắm mật thám ở đây.

Sau đó, Er­agon và Arya tới gặp Or­rin, Orik và Ro­ran và cả bà phù thủy Tri­an­na. Cũng giống như với đội Chim Ưng Đen. Họ giải thích tình hình và buộc họ thề giữ bí mật.

Đúng như Er­agon đoán, vua Or­rin là người khó chơi nhất. Ông tỏ ra phẫn nộ trước việc Saphi­ra và Er­agon sẽ tới Vro­en­gard và không chấp nhận ý kiến này. Ông nghi ngờ lòng dũng cảm của Er­agon, về thông tin của Solem­bum và đe dọa sẽ rút quân đội khỏi Var­den nếu Er­agon tiếp tục theo đuổi thứ ngu ngốc không rõ ràng thế. Nó mất một tiếng đe dọa, nịnh nọt ông mới đồng ý, mà cả cho tới sau đó, nó vẫn sợ ông đổi ý.

Chuyến tới thăm Orik, Ro­ran và Tri­an­na ngắn hơn, nhưng Er­agon và Arya vẫn phải mất lúc lâu để nói chuyện với họ. Sự mất kiên nhẫn làm nó cộc cằn; nó muốn đi, và mỗi phút trôi qua chỉ làm cho nó thêm khẩn trương.

Saphi­ra vẫn ở lại lều và những tiên nhân bao quanh, tay mở rộng và đầu ngón tay chạm vào khi họ hát. Mục đích của câu thần chú dài và phức tạp của họ là nhằm thu thập những thông tin cần thiết để tạo ra bản sao của Saphi­ra. Tạo ra bản sao một con người hay thần tiên đã khó; một con rồng còn khó hơn, đặc biệt trong việc tạo nên những cái vảy sống động. Blöd­hgarm đã nói cho Er­agon biết phần khó nhất của quá trình là tạo ra cho bản sao có sức nặng ảnh hưởng lên các vật xung quanh khi cất cánh hay hạ cánh như thật.

Khi Er­agon và Arya cuối cùng đi thăm mọi người xong, đêm đã gần sang ngày và mắt trời đã lấp ló đằng chân trời. Dưới những tia sáng ban mai, những thiệt hại trong đêm giờ trông nặng nề hơn.

Er­agon sẽ rất hạnh phúc được ra đi cùng Saphi­ra và Glae­dr, nhưng Jör­mundur khăng khăng buộc nó phải ra mặt quân Var­den một lần trên cương vị chỉ huy mới.

Thế là, ngay sau đó, một khi tập hợp quân đội, Er­agon ngồi đằng sau một xe ngựa, nhìn vào những gương mặt đang hướng lên – người và những giống loài khác – và nó ước gì nó không ở đây.

Er­agon đã hỏi xin Ro­ran lời khuyên, và Ro­ran trả lời. “Hãy nhớ, họ không phải kẻ thù của em. Em không phải sợ họ. Họ muốn giống em. Hãy nói rõ ràng, rành mạch, trung thực và dù em làm gì, cũng đừng để họ nghi ngờ em. Thế là em sẽ thắng được họ. Họ sẽ sợ và nản lòng nếu như em nói về Na­sua­da. Hãy trấn an họ và họ sẽ theo em tới bất cứ đâu ở Urû’baen.”

Dù Ro­ran đã động viên nhưng Er­agon vẫn thấy run trước bài phát biểu. Nó ít khi phát biểu trước đám đông, và chưa bao giờ nói với cả một đội quân lớn. Khi nó nhìn những người chiến binh đen sạm vì cháy nắng, bị chiến tranh làm gầy mòn, nó quyết định nó thà đánh nhau với một trăm kẻ địch còn hơn đứng trước mặt họ và lo họ sẽ không ủng hộ mình.

Tới lúc mở miệng Er­agon vẫn không biết sẽ nói gì. Khi nó bắt đầu, từ ngữ như thể cứ thế trôi ra nhưng nó quá căng thẳng, không nhớ nổi những gì mình nói. Bài phát biểu trôi qua, ấn tượng còn lại của nó là nóng nực và toát mồ hôi, tiếng rên rỉ của những người lính khi biết tới số phận của Na­sua­da, tiếng tung hô khi nó cổ vũ họ tới chiên thắng và tiếng hét vang hòa chung vào nhau khi nó kết thúc. Nó nhẹ nhõm nhảy xuống đi tới nơi Arya và Orik đang đứng đợi cạnh Saphi­ra.

Trong lúc đó, những lính bảo hộ của nó hình thành một vòng tròn bao quanh bốn người, tách họ khỏi đám đông và cản những người muốn nói chuyện với nó lại.

“Làm tốt lắm, Er­agon!” Orik vỗ tay nói.

“Thật sao?” Er­agon hoa mày chóng mặt hỏi.

“Chàng hùng biện giỏi nhất,” Arya nói.

Er­agon nhún vai và xấu hổ. Nó nhớ Arya biết hầu hết các chỉ huy của Var­den và nó không thể nghĩ tới Aji­had hay người tiền nhiệm của nó, Deynor. Có thể họ phát biểu còn hay hơn.

Orik kéo tay áo nó. Er­agon cúi người. Bằng giọng đủ to để lấn át đám đông, Orik nói. “Ta hy vọng cậu sẽ tìm thấy thứ đáng giá trong chuyến đi này, bạn của ta. Cẩn thận đừng bị giết nhé?”

“Tôi sẽ cố.”

Er­agon ngạc nhiên vì anh ta kéo tay nó và ôm lấy nó. “Gûn­tera sẽ bảo vệ cậu.” Khi tách ra, Orik vươn tay vỗ lên người Saphi­ra. “Và cả cô nữa, Saphi­ra. Thượng lộ bình an.”

Saphi­ra rền giọng đáp lại.

Er­agon nhìn Arya. Nó tự nhiên thấy lóng ngóng không biết phải nói gì. Đôi mắt đẹp của nàng vẫn dán vào nó; tầm ảnh hưởng của nàng trên nó chưa bao giờ nhạt đi.

Sau đó nàng giữ đầu nó, hôn lên lông mày nó.

Er­agon nhìn nàng chăm chăm, tâm trí bay đâu mất.

“Guliä waíse medh ono, Ar­get­lam.” Chúc chàng may mắn, Bàn tay bạc.

Khi nàng thả tay, nó nắm lấy tay nàng. “Chúng tôi sẽ không gặp gì xấu. Tôi sẽ không để nó xảy ra. Dù cho Gal­ba­torix có đợi chúng tôi. Nếu buộc phải làm, tôi sẽ sẵn sàng dùng tay xé toang những ngọn núi, nhưng tôi hứa, chúng tôi sẽ an toàn trở về.”

Trước khi nàng đáp lại, nó thả tay nàng ra và trèo lên lưng Saphi­ra. Đám đông lại hét vang khi nhìn thấy nó lên yên. Nó vẫy tay với họ, họ càng reo hò lớn hơn, dậm chân và dùng chuôi kiếm gõ lên khiên.

Er­agon thấy Blöd­hgarm và các thần tiên khác tụ thành một nhóm, một nửa ở sau lều lớn gần đó. Nó gật đầu với họ và họ cũng gật đầu đáp lại. Kế hoạch rất đơn giản: nó và Saphi­ra sẽ đi như thể họ chỉ định bay lên trời và phóng về vùng đất phía trước – như họ thường làm khi quân đội hành quân – nhưng sau khi bay lượn vài vòng, Saphi­ra sẽ bay lẫn vào những đám mây, và Er­agon sẽ niệm chú giấu cô nàng khỏi những người đang quan sát bên dưới. Sau đó, các thần tiên sẽ bóng Er­agon và Saphi­ra trong khi họ vẫn tiếp tục cuộc hành trình, trông như thể họ trồi lên từ các đám mây. Hy vọng là không ai nhận ra sự khác biệt.

Er­agon ấn chặt chân trên bàn đạp và kiểm tra túi đằng sau để chắc chắn túi đã đậy nắp cẩn thận. Nó đặc biệt quan tâm tới cái túi bên trái, vì có thứ được gói trong đó – lẫn trong đống quần áo và chăn – là cái hộp viền nhung đừng trái tim quý giá của Glae­dr, El­dunarí của ông.

Chúng ta đi thôi, ông rồng già nói.

Tới Vro­en­gard! Saphi­ra reo lên và cả thế giới rung lắc xung quanh Er­agon khi cô nàng nhảy khỏi mặt đất, một trận gió tạt vào nó khi cô nàng vỗ đôi cánh to tướng trông như cánh dơi, đưa họ lên càng lúc càng cao.

Er­agon nắm chặt dây cương phía trước, cúi thấp đầu để tránh hướng gió và nhìn vào bộ yên cương da bóng loáng. Nó hít một hơi sâu và cố không lo lắng về những thứ họ bỏ đằng sau cùng những điều đợi chờ họ phía trước. Họ không thể làm gì khác ngoài chờ đợi – chờ đợi và hy vọng Saphi­ra có thể bay tới Vro­en­gard và trở về trước khi quân Triều đình một lần nữa tấn công Var­den; hy vọng Ro­ran và Arya có thể an toàn; hy vọng rằng nó sẽ tìm ra cách cứu Na­sua­da; và hy vọng tới Vro­en­gard là quyết định chính xác, vì thời gi­an nó phải đối mặt với Gal­ba­torix càng lúc càng gần.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro