3: BỆNH VIỆN BERGSTRÖM

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Thế này đi, anh có một bao thuốc lá trong tay, việc đầu tiên anh sẽ làm là gì?"

"Đương nhiên là móc một điếu ra hút rồi."

"Sai, anh phải mang ngay bao thuốc đó đến tiệm tạp hóa ở đầu trấn, thay vì tận hưởng lạc thú chỉ kéo dài có vài phút,một bao thuốc sẽ đổi được cho anh vài vé đấy. Ấy còn tùy vào cái bao bì, Luckies sẽ đủ để giữ anh lại vài ngày ở một căn nhà trọ [1]; Fatima thì sẽ cho anh một bữa tối đầy ụ ở quán ăn đối diện [2], còn Nordland thì sẽ cứu anh khỏi những ngày tháng cực khổ nhất. Nhưng đấy là khi anh may mắn tìm được một bao."

Lão dở người, Blasius bực dọc nghĩ thầm sau khi rời khỏi quán bia ven đường, và gã thề rằng nếu gã có thể quay ngược thời gian thì gã sẽ thà bước vào quán ăn tanh mùi cá mòi biển bên trái thay vì bị hấp dẫn bởi những vại bia chất đầy. Bạn hỏi chuyện gì vừa xảy ra đấy à? Tất cả bắt nguồn từ quán bia ven đường ấy đấy. Vừa đặt chân lên mảnh đất nhiệm màu của Quedlinburg, Blasius đã phải rẽ ngay vào quán bia gần nhất để tìm cái gì bỏ bụng; gã gọi cho đã đời những đĩa khoai nghiền và thịt viên đúc, và đương nhiên không thể thiếu món sa-lát trộn mỡ yêu thích rồi. Nhưng thế đấy, gã cứ mải mê thưởng thức bữa ăn bình dân mà không hề biết rằng cái túi của gã để dưới chân đã bị thó đi từ lúc nào. Đến khi gã phát hiện ra thì đã quá muộn, Blasius chỉ biết căm giận nốc nốt cốc bia, ngán ngẩm khi mà nghĩ đến đôi giày da mông ngựa gã còn chưa kịp đi lần nào [3]. Và cả cách làm sao để ra khỏi quán mà không bị người ta lột đồ đánh gãy chân.

"Tệ thật, lại một vị khách thứ năm trong tuần bị trộm mất đồ, nhưng trách ai được ngoài chính bản thân anh, giờ thì anh định trả cho bữa ăn hôm nay như nào đây?"

Lão chủ quán ngồi xuống đối diện với gã, bộ râu màu bạc xù lên do không được tỉa tót, nhưng sẽ chẳng có thằng đàn ông nào muốn phá hỏng cái vẻ đẹp nam tính mộc mạc này bằng bất cứ dụng cụ nào đâu. Quay lại câu chuyện, vốn dĩ Blasius đã sẵn sàng tinh thần cởi bỏ cái áo choàng lông cừu của gã ra để gán nợ rồi, nhưng lão chủ quán lại chú ý tới chiếc hộp thiếc đặt trong túi quần ngoài của anh, thế là ta lại có một cuộc trò chuyện nhỏ giữa lão chủ quán tò mò và gã bác sĩ hết tiền:

"Ồ, ít ra thì chàng trai của chúng ta cũng biết để ví trên người nhỉ. Nhưng ta chưa bao giờ thấy một ai để tiền trong hộp thiếc và coi nó là vật thay thế cho cái ví da tiện lợi hơn đâu. Hơn nữa đó còn là một anh chàng bảnh bao với cái kính gọng bạc ra dáng tiến sĩ."

"Không may là nó chỉ là hộp đựng thuốc thôi thưa lão" Thậm chí nó còn không phải là của tôi, Blasius nghĩ thầm, hộp thiếc là của Dankert, nhưng ngay cả gã cũng không nhớ rằng mình đã lấy nó từ lúc nào. "Tuy rằng tôi cũng ước mình đã bỏ tiền vào trong đó."

"Ôi trời, anh nói thật chứ? Anh có thuốc đấy à? Nó thậm chí còn tuyệt hơn mớ xu lẻ anh nợ ta."

Blasius khó hiểu hơn bao giờ hết, trong phút chốc gã đã nghĩ lão chủ quán là một tên nghiện thuốc bị cắt đi nguồn cung của gã, nhưng nhìn xuống chóp ngón tay lão, màu da bình thường, có vẻ hơi nhạt do tuổi tác, nhưng không có sắc vàng uể oải nên có của những tay hút lâu đời. Thế nên loại trừ khả năng ấy ra, chỉ có duy nhất một lý do mà thôi:

"Lão cho tôi mạn phép hỏi, thuốc lá ở đây có giá lắm sao?" Nhìn lão chủ quán gật đầu, gã lại tiếp tục hỏi, trong đầu có nhiều nghi vấn không ngừng đá xéo lẫn nhau "Vậy người ta trả tiền bằng thuốc thay vì mấy đồng xu đấy à, hay chẳng qua lão đang thèm thuốc thôi?"

Lão chủ quán bật cười ha hả, cái kiểu cười mà phải ngửa cả cổ ra đằng sau, ưỡn cái bụng lớn giấu sau hàng khuy bị giãn, cái kiểu cười mà Blasius ghét nhất. Nhưng rồi thì sau khi lão cười được nửa phút mà vẫn thấy Blasius cau mày nhìn lão, thì cái mớ câu hỏi đang nhảy loạn trong đầu gã mới được giải đáp.

"Tuy rằng ta thích Nordland hơn, nhưng nhìn thuốc của anh ta có cảm giác nó khá hơn rất nhiều." Lão nói trong khi tay mân mê điếu thuốc bằng ngón trỏ và ngón cái "Vỏ gói đều mà vừa đủ chặt, nhân bên trong có tỉ lệ trộn hoàn hảo giữa lá thuốc khô và lá lên men, màu lá cũng tươi và đậm nhưng vì anh để trong cái hộp thiếc không đủ ẩm cũng quá khô của anh, ta đoán là anh cũng đã phần nào trút đi hương vị của nó rồi."

"Nhưng chỗ thuốc ấy đủ để tiễn tôi ra cửa an toàn chứ?" Blasius vừa nói vừa ngước về phía mấy gã to con ngồi trước cửa, bắp tay săn chắc của chúng khiến gã run người.

"Ôi chàng trai, thuốc lá của anh tuy không nguyên vẹn lắm, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng nó là hàng thượng hạng! Ta đoán là lãnh đạo cấp cao cũng có vài ba điếu dắt trong túi áo. Và vì anh đã cho ta cơ hội được cầm trên tay những điếu thuốc tuyệt vời như này, ta sẽ không thu tiền anh, thậm chí ta còn phải trả cho anh một món tiền cơ đấy!"

Nói rồi lão rút từ trong ví ra một sấp tiền mặt, tuy không dày nhưng cũng chẳng mỏng, nhét vào túi áo ngực của gã, vỗ nó một cách mạnh mẽ như cái cách người ta thường vỗ vai nhau, chẳng qua người ta vỗ nhẹ còn lão vỗ mạnh, thế nên giờ ngực trái của Blasius cứ ẩn ẩn đau. Gã muốn rời khỏi đây lắm rồi, nhưng nghĩ đến lý do mình đặt chân đến Quedlinburg, gã bèn nán lại một chút, hỏi nhỏ lão chủ quán:

"Tôi biết là mình đã làm phiền lão lắm rồi, nhưng lão cho tôi hỏi nốt một câu, liệu lão có biết bệnh viện Bergström ở hướng nào không?"

Blasius không nghĩ rằng một cái bệnh viện tâm thần sẽ có sức ảnh hưởng lớn đến vậy, vì gã vừa dứt lời xong, sắc mặt của lão chủ quán đã xanh mét. Khi mà gã còn đang tự hỏi xem liệu mình có phát âm nhầm tên bệnh viện với một từ lóng nào đấy của thị trấn hay không thì đã nghe lão chậm rãi lên tiếng:

"Bệnh viện Bergström thì ta không biết, cả cái trấn này chỉ có một phòng khám duy nhất ở khu Cửa Đông thôi. Nhưng anh có thể tìm đến Người Lái Xe Khách của Lâu Đài, có lẽ anh ta sẽ biết được điều gì đó."

"Vậy cảm ơn lão nhiều lắm" Blasius đứng dậy, bước về phía chiếc cửa, cố gắng không nhìn đến bọn bảo vệ với thân hình đồ sộ đang chăm chú vào mình mà đi một mạch về phía trước. "Mong rằng quán lão làm ăn thuận lợi!"

Ra khỏi quán bia, Blasius bước đi trên con đường lát đá cuội, men theo những con ngõ nhỏ mà qua lời chỉ dẫn của người dân đến chân đồi. Blasius mất nửa giờ đi bộ đến chân đồi Lâu Đài, chân gã đã mỏi nhừ, mái tóc vàng rơm trên trán đã lấm tấm những giọt mồ hôi, ấy còn chưa kể gã rất ít khi toát mồ hôi. Nhưng trong nửa giờ ấy gã cũng đã đắm chìm trong cái đẹp của Quedlinburg đủ để tạm thời quên đi bả vai đang nhức và cẳng chân đang đau. Thị trấn Quedlinburg nghìn năm tuổi nằm ở rìa Đông Bắc của dãy núi Harz phủ trắng tuyết trở nên thơ mộng dưới những tuyệt tác nghệ thuật của chính nó. Các con phố hẹp lúc nhúc với những ngôi nhà khung gỗ, biệt thự từ thời kỳ Gründerzeit và Art Nouveau cùng với các tòa nhà xây theo kiến trúc Roma [4]. Ngay cả vào một buổi chiều mùa đông lạnh lẽo, ánh sáng mặt trời ngả lên nhà thờ trên đỉnh đồi của Quedlinburg cũng đủ để sưởi ấm mái nhà lợp bằng đá sa thạch với sắc vàng mật tỏa nhiệt. Càng đi xuống dưới đồi, những ngôi nhà gỗ ngày một thưa thớt, thay vào đó là hàng cây thủy tùng cao tít tắp trải dài hai bên đường. Blasius không nhớ lần cuối mình dành thời gian để tận hưởng cái đẹp thanh lặng nhất của thiên nhiên là từ khi nào, bởi lẽ gã hầu như đều đắm mình trong những buổi thí nghiệm ở trại tập trung; tiếng hét thê lương và tiếng lạo xạo của kim loại đã hằn quá sâu vào tâm trí gã, đủ để gã khó mà tận hưởng được bất cứ cái đẹp nào của âm thanh mà không bị nỗi ám ảnh dày vò. Nhưng những ký ức tồi tệ ấy không nán lại quá lâu trong gã, vì xa xa bóng dáng thấp thoáng của chiếc Chrysler Sedan 1935 màu đen đã thu hút một kẻ chưa bao giờ được sờ vào một con xe xịn như Blasius.

Một người đàn ông bước ra khỏi chiếc xe, Blasius có thể nhìn thấy khung gỗ đậm và ghế da lộn màu kem trong giây lát cửa xe mở. Người đàn ông mặc bộ quần áo ngực đơn với vai đệm lớn, ve cao điểm, chiếc áo sơ mi xanh dương đơn giản giấu sau các họa tiết sọc đỏ trên nền màu xanh hải quân [5]. Đôi giày oxford hai tông nâu trắng bước về phía gã, tiếng gót giày gõ cồm cộp trên nền gạch, rồi dừng lại khi chỉ cách mũi giày gã có vài căng. Blasius nhìn người đàn ông giơ tay về phía gã, nụ cười trên miệng câu lên đủ để tỏ lẽ lịch sự:

"Chào ngài, tôi là Người Lái Xe Khách của Lâu Đài, ngài hẳn là đang muốn tìm tôi?"

"Đúng là tôi đang muốn tìm ông" Blasius đáp, ánh mắt cảnh giác liếc người đàn ông, vẻ mặt bình thản khiến gã nghi hoặc "Nhưng làm sao mà ông biết được điều đó vậy?"

"Thưa ngài, ở Quedlinburg ai cũng biết đến tôi, và tôi cũng quen mặt tất cả mọi người ở cái trấn này. Ngài và cái áo blu bám bụi của ngài là điều lạ lẫm duy nhất xung quanh, không quá khó để nhận ra ngài."

"Thôi được rồi, cảm ơn ông đã giải quyết khúc mắc của tôi, nhưng mục đích chính của tôi tìm gặp ông là để hỏi ông về bệnh viện Bergström. Tôi nghe nói ông biết chút ít về nó."

"Bệnh viện Bergström? Đã lâu lắm rồi tôi không nghe thấy ai nói về nó, tôi cũng không chắc nó có còn ở vị trí cũ nữa hay không. Người ta đã dừng nhắc đến cái tên này đã hơn chục năm rồi. Nhưng cho tôi mạn phép hỏi, ngài biết đến cái tên này từ đâu vậy?"

"Tôi..." Blasius im lặng một lát, nghĩ đến Argan gã lại muốn chửi thề một tiếng, làm sao đây khi gã muốn giả danh Argan nhưng lại chẳng mảy may biết một chút gì về anh ta? Thông tin mỗi người ở trại tập trung là một bí mật, ngay cả gã cũng không cho ai biết gì về mình ngoại trừ cái tên và tuổi tác; và đương nhiên, Argan cũng thế, ngoại trừ việc gã còn biết anh ta có một đứa em trai cùng cha khác mẹ đang ở bên Pháp. "Tôi nghĩ là cái này nằm ngoài sự quan tâm của ông."

Người Lái Xe Khách bật cười ha hả, song vẫn giữ được vẻ lịch thiệp vốn có của ông. Ông ngả chiếc mũ xuống, vuốt vuốt lọn tóc cong cong trên trán "Thứ lỗi cho sự mạo phạm của tôi, trời cũng đang gần tối rồi, một người xa lạ với đất Quedlinburg sẽ không thể sống sót sau một đêm lạnh giá ở đây đâu. Tôi sẽ đưa ngài đến bệnh viện Bergström, nếu như nó vẫn ở vị trí cũ mấy chục năm nay."

Người Lái Xe Khách mở cửa sau của chiếc xe, Blasius cũng không khách sáo ngồi vào. Cửa đóng chặt, ngăn lại những cơn gió gào thét bên ngoài, chỉ còn lại mùi hương thoang thoảng của nệm lông và chất gỗ bao quanh vô lăng. Hàng cây thủy tùng dần dần chạy ngược về phía sau, xe chạy vào trong rừng, theo con đường uốn khúc mà chạy lên đồi. Trong xe không có ai nói chuyện, Blasius cũng chỉ tập trung nhìn ra bên ngoài, nhưng gã vẫn có cảm giác Người Lái Xe đang chăm chú quan sát gã qua gương chiếu hậu, tuy rằng gã không hề thích cái cảm giác ấy chút nào song cũng không thể hiện ra trên khuôn mặt. Mưa dần rơi những giọt nước lẻ tẻ lăn dài trên mặt kính mà cùng lúc đó, trước mặt dần xuất hiện một tòa biệt thự lớn từ đằng xa, giấu mình sau những mảng sương mù giăng kín vạt trời. Một tòa biệt thự đồ sộ, xa hoa nhưng lại mang vẻ đẹp lâu đời cổ điển với mái ngói nhọn hoắt tô một màu xanh ngọc lam. Chẳng mấy chốc đã lên đến cổng chính, xe dừng lại trước chiếc cổng đen cao sừng sững, xác hoa hồng leo kín những chiếc song sắt, dòng chữ Bergström trên chiếc biển có phần cũ mòn, sét đã đánh cháy đen một góc. Blasius nhận ra không có ai canh gác ngoài cổng cả.

"Lạ thật đấy, có vẻ như xe không thể đi vào rồi." Gã lầm bầm, định bụng tự mình đi xuống, thì lại bắt gặp khuôn mặt có chút sợ sệt của Người Lái Xe. "Ông không sao chứ?" Gã hỏi.

"Xin lỗi ngài, nơi này quả thực khác xa so với những gì tôi nhớ." Nói rồi ông ta lục từ trong ngăn dưới ra một chiếc ô đưa cho gã "Có vẻ như tôi chỉ có thể tiễn ngài tới đây thôi, ngài hãy cầm lấy chiếc ô này và bảo trọng."

Việc Blasius cầm ô và bước dần vào khuôn viên đã là chuyện của mười phút sau. Chiếc xe Chrysler đã đi xuống đồi, vội vã khuất mất tầm mắt. Mưa không những không tạnh mà còn rơi nặng hơn, đến mức chiếc tay cầm ô của gã cũng hơi run. Hai bên đường là xác những bụi hồng khô quắp lại, màu xám xịt của những cánh hoa như hòa vào làm một với khung cảnh hiện giờ. Xung quanh im ắng đến mức Blasius có thể nghe thấy tiếng thở khe khẽ của chính mình, cảm giác cô độc khiến gã ớn lạnh, vì lý nào đó mà trực giác mách bảo rằng gã không có một mình. Gió thổi mạnh những cành cây trụi lá, rít lên những hồi cao như đang giục giã gã hãy mau chóng rời khỏi đây. Blasius cảm nhận được nỗi sợ hãi vô hình đến từ xung quanh, cảnh sắc u ám khiến gã căng thẳng, những bước chân cũng vô thức đi nhanh hơn vài nhịp. Chỉ đến khi trước mặt hiện ra ánh đèn phát ra từ bên trong tòa nhà, Blasius mới khẽ thở phào một hơi. Nhanh chóng chạy vào bên trong, đón chào gã là một nàng y tá, mái tóc đen vuốt ngược về phía sau, búi thấp xuống ngang gáy. Nhưng ánh mắt nàng có chút không tự nhiên, chẳng qua Blasius không rõ nó lạ ở chỗ nào. Gã cụp chiếc ô xuống, nước mưa chảy tong tỏng xuống chiếc thảm chùi chân sần sùi, cùng lúc đó nàng y tá lên tiếng:

"Xin lỗi, giờ thăm bệnh nhân đã hết rồi. Mời ngài quay lại vào ngày hôm sau."

Giọng nói khàn khàn bất thình lình khiến Blasius giật mình, nó không có cái tông mềm mại của phụ nữ, lại không có âm nặng nên có, chất giọng lạnh tanh, bằng bằng, lại rè rè như chiếc máy phát thanh cũ kỹ bị hỏng. Ngẩn người một lúc Blasius mới khẽ ho vài tiếng, gã đoán rằng tai mình bị ù vì chênh lệch áp suất.

"Không không, cô nhầm rồi, tôi là bác sĩ phụ trách đến từ trại tập trung Auschwitz. Tôi đến là để nhận việc." Rồi gã móc từ trong túi áo ra chiếc các-vi-dít đưa cho nàng y tá.

Ánh mắt nàng y tá cũng không lay động gì sau lời nói của gã, chỉ khẽ cầm lấy chiếc thẻ, bước đến phía sau quầy trực, tay cầm bút viết lên những ký tự kỳ quặc mà gã đoán là ngôn ngữ địa phương. Rồi bất ngờ nàng ngẩng đầu lên, con mắt đen kịt nhìn thẳng vào mắt gã, trong phút chốc gã thề mình đã nhìn thấy hình ảnh những bàn tay gầy guộc màu xám vươn ra từ đôi mắt ấy.

"Thứ lỗi, tôi cần biết tên của ngài."

Âm thanh của nàng y tá lại đánh tan suy nghĩ mù mờ của gã. Blasius giật mình một lúc lâu mới do dự thốt lên:

"Là Argan, Argan Haase."

Blasius nhìn tên vị chiến hữu quá cố được nét chữ ngay ngắn viết trên giấy mà trong lòng nảy sinh sự nuối tiếc và nỗi buồn không thể lý giải. Từ giờ gã sẽ phải sống dưới cái tên Argan Haase, có Chúa mới biết là đến bao giờ mới thoát khỏi nó. Người ta sẽ biết đến gã là Argan, chứ không còn là Blasius nữa. Nhưng thôi thì, chúng ta không thể lúc nào cũng thắng; gã cướp đi danh tính của Argan cho một cuộc sống mới, mà cái giá phải trả là danh tính của chính gã sẽ bị chôn vùi xuống cát bụi và sự lãng quên.


————- GHI CHÚ ————-

[1] Luckies (Lucky Strike) là một hãng thuốc lá đến từ Mỹ, rất nổi những năm 1930.

[2] Fatima, cũng là một hãng thuốc lá có xuất xứ ở Mỹ, đã từng rất được ưa chuộng vào những năm 1940, nhưng tạo hình cổ lỗ sĩ của nó đã dẫn đến việc giá cổ phiếu giảm thấp đáng kể qua năm tháng, cho đến năm 1980 thì mặt hàng này chính thức bị loại bỏ trên thị trường.

[3] Da mông ngựa, hay còn được biết đến là Shell Cordovan, là dòng da thượng hạng quý hiếm và bền nhất trên thế giới.

[4]
-Gründerzeit là giai đoạn kinh tế trong thế kỷ 19 của Đức và Áo trước khi thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1873. 
-Art Nouveau là trường phái nghệ thuật đặc biệt bởi tính kết cấu, các họa tiết, cách điệu hóa, và cách sử dụng các đường cong. 
-Kiến trúc Roma phần lớn là kiến trúc tôn giáo như nhà thờ, tu viện và các nhà ở và công trình kiến trúc có tính phòng thủ của giai cấp phong kiến.

[5] Thời trang của đàn ông những năm 1940 thường bao gồm quần áo ngực đơn hoặc đôi với vai đệm lớn, ve rộng hoặc ve cao điểm, và thắt lưng. Quần cũng khá rộng, có vòng eo cao và chúng được củng cố ​​bằng dây đai. Một chiếc áo sơ mi trắng hoặc xanh dương đơn giản là lựa chọn linh hoạt nhất cho tất cả các màu sắc phù hợp. Những bộ quần áo sọc đỏ với màu xanh hải quân, xám và nâu rất được ưa chuộng. Các mẫu hoa văn tinh tế khác như kẻ ô hoặc kẻ sọc cũng rất phổ biến.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro