Frankenstein

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hỡi Đấng Sáng tạo, tôi có xin Người nặn ra tôi từ đất sét? Từ tối tăm, tôi có xin Người cho tôi hiện hữu?

Paradise Lost [X. 743-5]

LÁ THƯ THỨ NHẤT

Gửi Mrs. Saville, Anh quốc

St. Petersburgh, Ngày 11 tháng 12 năm 17-

Chắc hẳn chị sẽ rất vui mừng khi được biết rằng không có bất trắc nào xảy ra vào lúc bắt đầu cuộc hành trình mà chị đã lo lắng sẽ có những hiểm nguy đang chờ đón phía trước. Em đã đến đây từ ngày hôm qua, và nhiệm vụ đầu tiên của em là "báo cáo" cho chị thân yêu của em biết rằng em hoàn toàn khỏe mạnh và ngày càng tin tưởng vào thắng lợi của cuộc thám hiểm này.

Em hiện đã ở rất xa London về hướng bắc, và khi đi bộ trên những con đường ở Petersburgh, em có thể cảm thấy những làn gió nhẹ mang theo hơi lạnh phương bắc mơn man trên má, làm dịu tâm hồn và rót vào lòng người một niềm vui sướng hân hoan. Chị có thể hiểu được cảm giác của em lúc này không? Những làn gió được thổi từ những vùng mà em đang đi đến, như đem lại một hương vị đầu tiên về những miền đất băng giá đó. Càng phấn khích, những viễn cảnh trước mắt em càng trở nên sôi sục và sống động hơn. Em đã cố để không tin rằng vùng cực bắc là một nơi lạnh lẽo, tách biệt và buồn tẻ, mà ngược lại, trong trí tưởng tượng của em đây luôn là một vùng đất gắn liền với niềm vui và vẻ đẹp. Ở nơi đó, lúc nào cũng có thể nhìn thấy mặt trời,1 cái đĩa rộng của nó chỉ lượn sát đường chân trời để rồi sau đó lại bùng lên những tia sáng rực rỡ. Ở đó _ với sự đồng ý của chị, em sẽ tìm vài người dẫn đường _ băng tuyết sẽ bị bỏ lại sau lưng, và khi thuyền đi qua hết một vùng biển lặng, bọn em sẽ đến vùng đất bao phủ bởi vẻ đẹp kỳ diệu mà cho đến nay chưa từng được con người biết đến. Những đặc điểm và cảnh quan của nó, có thể không cần nói nhiều, giống như những tinh cầu hiện diện trong sự tĩnh lặng bí ẩn nơi đây. Điều gì không được chờ đợi ở cái xứ sở của ánh sáng vĩnh hằng đó. Ở đó em có thể tìm ra cái sức mạnh kỳ lạ làm nhiễu loạn các cây kim la bàn; và có thể tác động lên vô số các quan sát thiên văn, điều này đặt ra yêu cầu duy nhất cho cuộc hành trình là phải giải mã được những điều kỳ lạ luôn tồn tại nơi đây. Em sẽ thỏa mãn sự tò mò khám phá của mình bằng khung cảnh của một phần thế giới mà chưa ai đặt chân đến, và có thể em sẽ là người đặt những bước chân đầu tiên trên vùng đất còn nguyên sơ này. Đó là những động lực thúc đẩy em, và chúng tỏ ra hiệu quả trong việc chiến thắng mọi nỗi sợ hãi về những hiểm họa hay chết chóc, và cũng chính chúng đã đưa em đến việc bắt đầu chuyến hành trình cực nhọc này, với niềm vui như niềm vui của một thằng bé khi nó leo lên chiếc thuyền nhỏ cùng những đứa bạn trong kỳ nghỉ, với một cuộc hành trình khám phá trên con sông quê hương. Nhưng dù mọi phỏng đoán này có sai hết đi nữa thì chị cũng không thể không đồng ý với em về lợi ích không thể đánh giá hết được mà em sẽ mang lại cho nhân loại từ nay về sau, bằng việc khám phá ra một con đường nhỏ gần Bắc cực đi đến những xứ sở đó, nơi mà hiện nay phải mất nhiều tháng mới tới được; hay bằng việc tìm ra bí mật của từ trường, cái mà với mọi phương diện khả thi, chỉ có thể đem lại hiệu quả bởi một nhiệm vụ như của em.

Những viễn cảnh phác họa ở trên đã xóa đi nỗi lo sợ của em lúc bắt đầu viết lá thư này, và giờ đây em cảm thấy tim mình tràn trề nhiệt huyết làm em lâng lâng; vì không điều gì có thể làm lòng em bình thản bằng một mục đích chắc chắn _ một điểm mà ở đó tâm hồn được gắn kết với lý trí. Cuộc hành trình này đã từng là mơ ước cháy bỏng của emvài năm trước và em đã từng đọc say sưa tài liệu về những cuộc thám hiểm khác nhau đi đến Bắc Thái Bình Dương qua các vùng biển bao quanh Bắc cực. Chị chắc còn nhớ chứ, thư viện của chú Thomas của chúng ta chất đầy sử sách về mọi cuộc thám hiểm. Chị biết đấy, em học hành tuy không giỏi giang gì lắm nhưng lại rất chăm đọc sách. Em đã đọc ngấu nghiến những cuốn sách thám hiểm ấy cả ngày lẫn đêm, và ngày càng say mê đến nỗi cảm thấy tiếc về việc trước kia khi em chỉ là một thằng nhóc, thì cha chúng ta trước khi mất đã cấm chú Thomas cho em bước chân vào cuộc sống lênh đênh trên biển.

Những hình ảnh ấy mờ dần khi em đọc kỹ, lần đầu tiên, những đoạn thơ trong các tập sách đó, ý thơ lai láng làm hồn người rộng mở và dâng lên đến tận trời cao. Gần như em đã thành một nhà thơ, và trong một năm sống trên thiên đường trong mộng; em đã tưởng tượng rằng em có thể có một chỗ trong tòa lâu đài thi ca nơi mà những tên tuổi như Homer và Shakespear được vinh danh. Chắc hẳn chị đã biết rõ sự thất bại của em cũng như hiểu được rằng em buồn như thế nào trước nỗi thất vọng to lớn đó. Nhưng chỉ đến khi em được thừa kế tài sản từ người anh họ của chúng ta, thì những ý nghĩ của em mới quay trở lại niềm đam mê ban đầu.

Sáu năm đã trôi qua từ khi em quyết định dứt khoát sẽ làm cuộc thám hiểm này. Cho đến bây giờ em vẫn còn nhớ cái thời điểm mà từ đó em đã dồn hết thời gian và tâm sức cho cuộc hành trình. Để rèn luyện cho cơ thể mình quen với cực nhọc, em đã đi cùng với những người săn cá voi trên các chuyến ra khơi đến biển Bắc, và đã tình nguyện chịu đựng lạnh giá, đói khát và thiếu ngủ. Ban ngày em thường làm việc cực nhọc hơn các thủy thủ khác, và dành ra ban đêm để học toán, dược lý học, và các ngành khoa học khác mà từ chúng một nhà hàng hải có thể rút ra nhiều bài học thực tế quí báu. Đã hai lần em làm việc trên một chiếc tàu săn cá voi ở Greenland, và dĩ nhiên "chì" như bất cứ tay thủy thủ thật sự nào. Thú thật là em cũng cảm thấy một chút hãnh diện khi ông thuyền trưởng con tàu đó đề nghị em tham gia chuyến đi săn lần thứ hai, và đối đãi với em rất tử tế, dựa trên những đánh giá về năng lực của em.

Và bây giờ, chị Margaret thân yêu, liệu em có xứng đáng để hoàn thành vài mục tiêu lớn lao hay không? Cuộc đời em có thể êm đềm trôi qua trong giàu sang phú quí; nhưng em thà tôn vinh những động lực thôi thúc em đến với một gia tài đáng giá hơn đang nằm trên con đường phía trước. Em có thừa tin tưởng và quyết tâm; nhưng hy vọng thì luôn trồi sụt, và tinh thần cũng thường rơi vào tình trạng trầm cảm. Lúc này em đang bận rộn để tiếp tục cuộc hành trình dài và gian khổ này, những yêu cầu cấp thiết của nó đòi hỏi ở em một ý chí kiên cường: không chỉ để nâng đỡ tinh thần của các thủy thủ khác mà còn để chính mình trụ vững khi những người chung quanh gục ngã.

Đây là quãng thời gian lý tưởng nhất để đi du lịch ở Nga. Ở đây người ta lướt như bay trên các xe trượt tuyết, di chuyển kiểu này thật sảng khoái, và theo ý em, thì dễ chịu hơn nhiều so với việc đi trên một chiếc xe ngựa kiểu Anh. Thời tiết sẽ không quá lạnh nếu phủ lên người các tấm áo lông thú _ em đã sắm một cái loại này; ở đây cũng có sự khác nhau ghê gớm giữa việc đi bộ trên boang tàu hay là ngồi bất động hàng giờ liền, khi không có cử động nào để tránh cho máu bị đông đặc lại. Dĩ nhiên em không muốn bỏ mạng lại ở đây, trên con đường nối liền St. Petersburgh và Archangel.

Em định sẽ khởi hành từ thị trấn cuối cùng trong vòng hai hay ba tuần tới và sẽ thuê một con tàu ở đây, điều này hoàn toàn dễ dàng khi ta thanh toán các khoản bảo hiểm cho chủ tàu, dĩ nhiên em cũng sẽ phải tuyển đủ số lượng thủy thủ cần thiết trong đám thợ săn cá voi. Khoảng tháng 6 năm sau em sẽ nhổ neo, và... ôi! không biết đến khi nào em mới có thể trở về được? Làm thế nào để trả lời được câu hỏi này chị nhỉ? Nếu em thành công, chắc phải mất nhiều tháng hay thậm chí nhiều năm. Nếu thất bại, chị sẽ sớm gặp lại em hoặc là không bao giờ nữa.

Tạm biệt chị Margaret yêu dấu, người chị tuyệt vời. Chúa sẽ chúc phúc cho chị, và nâng đỡ em, với lòng biết ơn vô hạn đối với tình yêu thương mà chị đã dành cho em.

Em yêu quí của chị

R. WALTON

LÁ THƯ THỨ HAI

Gửi Mrs. Saville, Anh quốc

Archangel, Ngày 28 tháng 3 năm 17-

Thời gian trôi qua thật chậm chạp, ở đây em có cảm giác như bị vùi lấp trong băng tuyết! Thật là sốt ruột khi phải chờ đến lúc có thể nhổ neo được! Em đã thuê được một chiếc tàu và cũng đã tuyển xong người, các thủy thủ gan dạ này đã cho thấy họ là những người mà em hoàn toàn có thể tin cậy được.

Nhưng có một ý muốn mà em vẫn chưa thể thỏa mãn được, và điều này làm em vô cùng khổ sở. Ở đây em không có người bạn nào cả,... khi em say sưa trong thành công, không ai chia sẽ cùng em niềm vui đó; khi em chìm trong thất vọng, không ai vực em dậy khỏi nỗi đau buồn. Em viết những dòng này ra đây, nhưng cũng không diễn tả được hết tâm sự của mình. Em khao khát có một người nào đó ở bên cạnh lúc này để chia sẻ vui buồn. Chị có thể cho rằng em là một kẻ lãng mạn, nhưng quả thật em cần một người bạn đồng hành lúc này hơn bao giờ hết, một người trầm tĩnh, hòa nhã, có đầu óc sâu sắc và khoáng đạt, có chung những sở thích, có thể bổ sung và nhất trí với những kế hoạch của em. Chắc là em sẽ không mắc phải nhiều sai lầm nếu có một người như thế ở bên cạnh. Em là một kẻ quá hăng hái trong công việc, và cũng dễ mất kiên nhẫn khi gặp trở ngại. Ngoài ra vẫn còn một chuyện làm em day dứt không kém đó là "trình độ học vấn" của chính mình, chị còn nhớ chứ, đến tận năm mười bốn tuổi em vẫn là một thằng nhóc lêu lỏng, không học hành gì, mà chỉ chúi mũi vào những cuốn sách của chú Thomas nói về các cuộc thám hiểm. Cho đến khi em bắt đầu say mê các bài thơ kinh điển, hay chính xác hơn là đến khi em quyết tâm dừng lại và nhận thấy sai lầm của mình, đồng thời cũng rút ra được sự cần thiết phải biết thêm một vài ngôn ngữ ngoại trừ tiếng mẹ đẻ. Em tuy đã hăm tám tuổi đầu nhưng thật sự là vốn liếng chữ nghĩa chưa chắc đã hơn một đứa học trò mười lăm tuổi. Thật sự là em cũng đã làm việc đầu óc nhiều nhưng những ảo tưởng cũng tăng lên theo tỉ lệ tương ứng. Do đó, em đang rất muốn có một người bạn bên cạnh, một kẻ đủ khôn ngoan để có thể chế giễu em như là một thằng mơ mộng gàn dở, cũng như đủ cảm thông để có thể khuyên giải, động viên tinh thần em.

Nhưng cứ phàn nàn như vậy cũng chẳng ích gì; khi chắc chắn là em sẽ không thể tìm được một người bạn đồng hành giữa biển cả mênh mông, hay thậm chí là ở Archangel này, giữa đám nhà buôn và thủy thủ, vì vậy mà những cảm xúc u ám nhất đôi khi lại xuất hiện trong tình cảnh có vẻ ổn định như hiện nay. Một người bạn như ngài đại úy của em, một con người táo bạo và can đảm tuyệt vời, khao khát vinh quang và danh vọng: hay theo cách diễn đạt đặc trưng hơn là sự thăng tiến trong nghề nghiệp. Ông là một người Anh, và tuy phải sống trong những định kiến về địa vị và giai cấp, cũng như toan tính của ai đó tìm cách lấy lòng mình, ông đã dành hết những tài sản quí giá nhất của mình để làm một việc hết sức cao thượng. Em làm quen với ông lần đầu tiên trên boong một con tàu săn cá voi ở Archangel này. Khi ấy ông đang thất nghiệp, và đã nhận ngay lời mời cộng tác của em để tham gia vào chuyến hành trình.

Vị thuyền trưởng này là một con người tuyệt vời, nổi bật với sự trầm tĩnh và kỷ luật mềm dẻo. Câu chuyện mà em kể dưới đây, như để minh chứng về lòng chính trực và can trường nổi tiếng của ông, làm em quyết tâm phải mời bằng được ông cộng tác. Tháng năm tuổi trẻ trôi qua trong cô đơn, em đã sống những năm đẹp nhất của mình dưới sự chăm sóc ân cần và dịu dàng của chị, điều đó đã làm nền tảng cho tính cách thiên về tình cảm của em, vì vậy em đã không thể kiềm chế sự ghê tởm đối với những cách đối xử tàn tệ thường xuyên diễn ra trên tàu: không bao giờ em tin rằng nó cần thiết, và khi em biết một thủy thủ già nổi tiếng tốt bụng, các thủy thủ khác rất kính trọng và tuân lệnh người này, vì vậy thật là may mắn cho em khi đã gặp được ông. Em lúc đầu biết về ông như một con người giàu tình cảm, qua câu chuyện về một cô gái, người mà nhờ có ông đã có một cuộc đời hạnh phúc. Vài năm trước ông đã yêu một tiểu thư người Nga, khi ấy ông sống khá đầy đủ, và đang tích lũy thêm được một khoản đáng kể nhờ vào các món tiền thưởng. Bố cô này đã chấp thuận cuộc hôn nhân của hai người. Không ngờ trước lễ cưới cô gái đến gặp ông, với nước mắt đầm đìa cô đã quì xuống chân ông xin được tha thứ vì cô đã trót yêu người khác, anh này nhà nghèo, và cha của cô sẽ không bao giờ cho phép hai người lấy nhau. Nghe vậy, ông đã rộng lượng tha thứ cho cô, và sau khi nghe cô nói tên anh chàng người yêu, ông đã ngay lập tức từ bỏ việc theo đuổi. Trước đó ông đã mua một trang trại bằng tiền của mình, trên đó ông đã sửa sang lại để vui hưởng tuổi già, nhưng ông đã đem tặng hết cho người yêu của cô kia, cùng với số tiền dành dụm còn lại của ông để mua gia súc. Sau đó đích thân ông đến thuyết phục cha cô gái cho phép cô lấy chàng trai kia, nhưng cha cô này vì thể diện đã dứt khoát không đồng ý, biết không thể lay chuyển được định kiến của cha cô gái, ông đã rời bỏ quê hương, không quay trở về cho đến khi biết tin người yêu cũ đã làm đám cưới theo tiếng gọi của ái tình. Có lẽ chị sẽ thốt lên "Thật là cao thượng làm sao!". Ông bạn già của em là con người như vậy đấy, dù rằng ông không hề trải qua trường lớp gì. Ông thầm lặng như một người Thổ, tính cách bình thản bề ngoài càng làm nổi bật nhân cách con người ông bao nhiêu thì lại khiến chúng ta có cảm giác ở ông như có vẻ lạnh lùng, vô cảm trong công việc chỉ huy con tàu.

Chị đừng nên tự nhủ rằng vì em đã phàn nàn một chút, hay bởi vì em có thể tự an ủi mình trước công việc chông gai, mà có thể không bao giờ biết nó là cái gì; để cho rằng em đang do dự trước những quyết định của mình. Chúng chắc chắn như định mệnh phía trước; và chuyến hành trình chỉ tạm trì hoãn cho đến khi thời tiết cho phép em lên đường. Mùa đông này quá khắc nghiệt, nhưng mùa xuân đang đến sớm sẽ hứa hẹn nhiều điều tốt lành, khiến em nghĩ rằng em có thể ra khơi sớm hơn dự kiến. Em sẽ không làm điều gì khinh suất hay đúng hơn sẽ luôn thận trọng và cân nhắc vì sự an toàn của mọi người trong đoàn.

Em không thể diễn đạt được cho chị rõ cái cảm giác của nhiệm vụ đang đến dần. Không thể nào nói ra được cái cảm giác run rẩy vì lo lắng xen lẫn vui mừng, khi em chuẩn bị khởi hành. Em sẽ tiến về những vùng đất chưa từng được biết đến, vùng đất của 'sương mù và băng tuyết'1, em sẽ không bắn con hải âu nào nên chị đừng lo về sự bình an của em, hay biết đâu em sẽ trở về một cách tơi tả và thảm hại như "Người Thủy Thủ Già"? Chắc chị sẽ cười trước lối nói ví von của em, nhưng em sẽ kể cho chị biết một bí mật. Em đang làm thơ, những bài thơ hoang đường nhất dựa trên lòng đam mê và tình yêu của em đối với sự huyền bí tràn đầy hiểm nguy của đại dương. Có điều gì đó không rõ rệt đang ẩn chứa trong tâm hồn em, thực tế là em đang rất cực nhọc, vất vả nhưng tràn đầy siêng năng và quyết tâm để hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên bên cạnh đó em còn có một tình yêu vĩ đại, một niềm tin cao cả hòa lẫn vào các kế hoạch của mình, thúc giục em ra khỏi những lối mòn để tiến đến những vùng đất liền hay biển cả hoang vu mà em dự định khám phá.

Nhưng thôi, hãy quay về với tình cảnh hiện tại. Không biết em sẽ còn gặp lại chị không, sau khi đã băng qua các đại dương mênh mông và quay trở về từ cực nam châu Phi hoặc châu Mỹ, em không dám mong đợi một thành công như vậy, nhưng biết đâu được chị nhỉ!, em vẫn luôn nuôi hy vọng vào chiến thắng. Xin chị hãy tiếp tục viết thư cho em vào bất cứ khi nào có thể. Em sẽ nhận được thư chị vào bất cứ khi nào em cần sự nâng đỡ về tinh thần nhất. Em yêu chị nhiều. Hãy luôn nhớ đến em, vì có thể chị sẽ không bao giờ nhận được tin em nữa.

Em yêu quí của chị

ROBERT WALTON.

LÁ THƯ THỨ BA

Gửi Mrs. Saville, Anh quốc

Ngày 7 tháng 7, 17__

CHỊ THÂN YÊU CỦA EM!

Em viết vội vài dòng để báo cho chị biết rằng em vẫn bình yên, và cuộc hành trình vẫn đang diễn ra thuận lợi. Lá thư này đến tay chị qua một nhà buôn trở về từ Archangel, ông ta thật may hơn em nhiều, vì có thể em sẽ không còn dịp thăm lại quê nhà ít ra là sau nhiều năm nữa. Tuy vậy em đang rất phấn khởi, các thủy thủ của em tỏ ra rất can đảm và không dao động (tinh thần) như những mảnh băng bồng bềnh đang liên tục lùi lại phía sau con thuyền, như đang cảnh báo những nguy hiểm đang đợi chờ phía trước. Chúng em đã tiến đến một vĩ độ rất cao, nhưng thời tiết bây giờ đang là mùa hè, tuy vậy không quá ấm như ở nước Anh ta, những cơn gió phương nam đang đẩy con thuyền đi nhanh về phía các bờ biển mà em nóng lòng muốn đến, để cảm nhận một niềm vui chưa từng trải qua trong đời.

Cho đến nay vẫn chưa có sự kiện bất thường gì đáng kể, chỉ có một hai trận gió rét và một chỗ rò rỉ nhỏ mà các thủy thủ lão luyện sẽ coi như là những kỷ niệm nhớ đời, do đó em sẽ rất mừng nếu như không có chuyện gì tệ hại hơn xảy ra.

Tạm biệt chị Margaret thân yêu. Hãy tin tưởng vào những điều tốt đẹp xảy đến cho em cũng như cho chị, em sẽ không vội vã lao mình vào chỗ nguy hiểm. Em sẽ bình tĩnh, thận trọng và quyết tâm.

Thành công sẽ tưởng thưởng cho những nỗ lực của em. Tại sao lại không cơ chứ? Không biết em đã đi bao xa, tiến bước trên con đường kiên định qua các vùng biển không lối mòn: các ngôi sao trên bầu trời sẽ làm chứng cho chiến thắng của em. Vì sao lại không tiếp tục tiến bước đến bất kể nơi đâu dù là lạ lẫm hay quen thuộc? Còn điều gì có thể lay chuyển trái tim sôi sục và ý chí quyết tâm của một người đàn ông chân chính?

Em còn rất nhiều điều muốn nói, nhưng đành phải dừng bút ở đây thôi. Cầu chúa chúc phúc cho chị, chị yêu quí!

R. W.

LÁ THƯ THỨ TƯ

Gửi Mrs. Saville, Anh quốc

Ngày 5 tháng 8, 17__

Có một sự việc bất ngờ kì lạ đã xảy ra đến nỗi em không thể không ghi lại, mặc dù rất có thể là em sẽ gặp lại chị trước khi chị đọc được những lá thư này.

Thứ hai tuần trước (31/7), con tàu gần như hoàn toàn bị băng tuyết bao vây từ mọi phía, khiến nó hầu như phải nằm chết dí một chỗ. Tình hình khá căng thẳng, nhất là khi bao quanh chúng em là một lớp sương mù dày đặc. Do đó chúng em đã quyết định neo lại, hy vọng thời tiết sẽ trở nên khá hơn.

Đến khoảng hai giờ, sương mù tan đi, trước mắt chúng em, trải dài về mọi phía là cánh đồng băng nhấp nhô, mênh mông như kéo dài đến vô tận, có tiếng vài người rên rỉ, và trong lòng em cũng bắt đầu xuất hiện những cảm giác lo âu. Thình lình có một hình ảnh kỳ lạ thu hút sự chú ý của mọi người, khiến tất cả tạm thời quên đi nỗi lo lắng về tình hình hiện tại. Từ khoảng cách độ nửa dặm, chúng em nhìn thấy một chiếc xe kéo thấp, gắn trên một cái máng trượt được kéo bởi vài con chó, đang lướt về phía bắc: một hình thù giống như một người đàn ông, nhưng trông cực kì to lớn ngồi trên chiếc xe và đang điều khiển bầy chó. Chúng em quan sát sự di chuyển rất nhanh của người đàn ông bằng ống nhòm cho đến khi anh ta mất hút giữa những rặng băng tuyết nhấp nhô.

Sự xuất hiện của người đàn ông này làm mọi người cảm thấy vô cùng khó hiểu. Chúng em đang ở một nơi, mà em tin chắc là đã cách đất liền hàng trăm dặm; nhưng sự việc này dường như phản bác lại điều đó, có lẽ nơi đây không quá xa như chúng em tưởng. Băng tuyết đã khiến cho chúng em không thể lần theo dấu của người đàn ông đã thu hút sự chú ý của mọi người.

Chừng hai giờ sau sự việc trên, mọi người nghe thấy những tiếng ầm ì bên dưới mặt băng, và trước khi đêm xuống những mảng băng lớn vỡ ra, giải phóng con tàu. Tuy nhiên, sợ trong đêm tối sẽ đụng phải những mảnh băng trôi nên chúng em quyết định neo lại đợi tới khi trời sáng. Còn em thì tranh thủ chợp mắt vài tiếng đồng hồ cho lại sức.

Hôm sau ngay khi trời còn tờ mờ sáng, em bước lên boong và nhận thấy các thủy thủ đang tụ tập về phía mạn sườn tàu, hình như họ đang nói chuyện với ai đó ở dưới nước. Em nhìn xuống và nhận ra chiếc xe kéo cùng người đàn ông giống như người mà chúng em đã nhìn thấy trước đó nằm trên một mảnh băng vỡ, chỉ còn một con chó kéo xe còn sống. Họ đã dạt vào sườn con tàu vào đêm hôm trước, và các thủy thủ đang cố thuyết phục người đàn ông lên tàu. Người lữ hành này trông không giống như những thổ dân man rợ ở các hòn đảo hoang vu, mà rõ ràng là một người Âu châu. Khi em đến, ông bạn thủy thủ già giới thiệu: "Đây là thuyền trưởng của chúng tôi, và ông ta sẽ không cho phép anh tự giết mình bằng cách lang thang dưới biển nữa đâu nhé".

Lúc nhận ra em, người lạ mặt bèn giới thiệu bằng tiếng Anh nhưng với giọng ngoại quốc. "Trước khi tôi lên thuyền,' anh ta nói, 'ông có thể làm ơn cho tôi biết là các ông đang đi về hướng nào không?"

Chắc chị có thể hình dung ra được sự kinh ngạc của em khi nghe câu hỏi đó, hơn nữa là từ một người đàn ông trông thảm hại như sắp chết đến nơi, và nhất là khi em cho rằng con tàu này là nơi an toàn nhất mà ông ta không bao giờ đánh đổi dù với bất cứ giá nào. Tuy vậy em vẫn trả lời người đàn ông rằng, con tàu đang trên đường tiến về Bắc cực.

Khi nghe điều này, ông ta tỏ ra hài lòng và đồng ý bước lên boong. Lạy Chúa! Margaret, nếu như chị được thấy con người coi thường tính mạng của mình, như người đàn ông này, thì ắt hẳn chị đã rất kinh ngạc. Chân tay ông ta gần như đông thành đá, thân hình thì gầy yếu xác xơ vì bệnh tật và kiệt sức. Em chưa từng nhìn thấy một con người nào trông tiều tụy như vậy. Chúng em cố dìu người này vào trong cabin; nhưng ngay khi bước vào, có lẽ vì không khí ngột ngạt, ông ta đã bất tỉnh, do đó chúng em đành phải đem ông ta ra phía đuôi boong tàu, cố làm cho ông ta tỉnh lại bằng cách dùng rượu brandy 'trong uống ngoài xoa'. Ngay khi tỉnh lại, chúng em liền phủ kín người ông ta bằng các tấm chăn, và mang anh ta lại gần ống khói của bếp lò. Dần dần trông ông ta đã có vẻ khá hơn, và đã ăn được một ít xúp, giúp ông ta lại sức nhanh chóng.

Đã hai ngày như vậy trôi qua trước khi người lạ mặt có thể nói chuyện được, trước đó em vẫn lo rằng những cú sốc vừa qua có thể ảnh hưởng ít nhiều đến trí óc ông ta. Ngay khi sức khỏe của ông có dấu hiệu tiến triển, em đã cho mang người đàn ông vào trong cabin của mình và để mắt đến con người ấy như là một phần trách nhiệm của mình. Thật là một con người lạ lùng mà em từng gặp: trong ánh mắt người đàn ông này hiện lên những tia sáng hung dữ thậm chí điên cuồng, nhưng khi có ai đó tỏ ra ân cần hay làm giúp cho những việc dù nhỏ nhặt nhất, thì khi ấy vẻ mặt người đàn ông sáng bừng lên những tia sáng nhân hậu và hiền hòa mà em chưa từng thấy bao giờ. Nỗi ưu sầu và tuyệt vọng luôn hiện lên trên khuôn mặt người đàn ông, đôi khi mọi người thấy ông nghiến răng như thể đã phải trải qua vô số nỗi đớn đau, mất mát.

Khi người khách lạ đã dần hồi phục, em đã phải rất vất vả để tránh cho ông ta bị hành hạ bởi vô số các câu hỏi tò mò không đâu vào đâu của các thủy thủ, lấy lí do là tình trạng sức khỏe hiện tại của ông yêu cầu phải được yên tĩnh. Tuy vậy, có một lần ông bạn đại úy già của em đã hỏi người đàn ông tại sao ông ta lại đi đến một nơi xa xôi lạnh lẽo bằng một phương tiện kỳ lạ như vậy?

Khuôn mặt ảm đạm người đàn ông liền tối sầm lại: "Để tìm một kẻ đang chạy trốn tôi", ông ta trả lời.

"Và người này cũng đi bằng thứ xe giống như của ông?"

"Phải."

"Vậy thì tôi nghĩ rằng trông thấy người ông cần tìm, một ngày trước khi ông trôi dạt vào con tàu này, chúng tôi đã nhìn thấy một chiếc xe trượt tuyết, được kéo bởi vài con chó, trên đó chở một người đàn ông, chạy lướt qua trên băng."

Câu nói này đã kích thích sự chú ý của người khách lạ, và ông ta liền hỏi rất nhiều câu hỏi liên quan đến lộ trình của con quỷ đó, theo như cách nói của ông ta. Một lát sau, khi chỉ còn lại một mình với em, người đàn ông nói: "Tôi biết đã làm anh, cũng như mọi người ở đây cảm thấy rất thắc mắc, nhưng anh bạn quá dè dặt để đặt câu hỏi."

"Đúng, nhưng thật sự là tôi sẽ cảm thấy không phải nếu làm phiền ông trong lúc này bằng những câu hỏi tò mò."

"Anh đã cứu tôi ra khỏi một tình huống hết sức nguy hiểm và kì lạ, anh đã cứu tôi thoát chết."

Sau đó người khách lạ hỏi rằng liệu vụ vỡ băng có phá hủy chiếc xe trượt tuyết chở kẻ mà ông ta truy đuổi hay không? Em trả lời rằng em không thể nào biết chắc được điều gì, băng đã vỡ ra vào lúc gần nửa đêm, và người mà ông ta tìm có thể đã đến được một nơi an toàn trước thời điểm đó, có thể là vậy mà cũng có thể là không.

Từ lúc này trở đi, thân hình tiều tụy của người khách lạ như được thổi một luồng sinh khí mới. Ông ta nôn nóng bày tỏ ý muốn được lên trên boong để theo dõi dấu vết của chiếc xe trượt tuyết đã xuất hiện trước đó; nhưng em đã thuyết phục ông ta nên ở yên trong cabin, vì sức khỏe ông ta còn quá yếu để có thể chịu đựng được không khí lạnh bên ngoài. Em đã hứa với người khách lạ rằng sẽ cho vài người nào đó quan sát giúp và sẽ lập tức báo cho ông ta biết nếu như có vật gì đó xuất hiện.

Cho đến giờ những sự việc kì lạ như vậy đã xảy ra với cuộc hành trình của em. Người khách lạ đã dần bình phục, nhưng vẫn rất lặng lẽ, và tỏ ra khó chịu khi có ai đó ngoại trừ em, vào trong cabin của ông ta. Tuy nhiên tính tình người khách rất hòa nhã và tử tế đến nỗi tất cả các thủy thủ đều quí mến người đàn ông, mặc dù họ rất ít khi nói chuyện với người khách lạ. Về phần em, em bắt đầu xem ông như một người anh em của mình, và nỗi buồn sâu thẳm và bất biến của ông làm em dấy lên cảm giác chia xẻ và cảm thông. Chắc hẳn ông là một người quí tộc, và tuy đang ở trong tình cảnh khốn khổ như hiện nay nhưng con người ông vẫn toát ra sức thu hút mạnh mẽ, qua cách cư xử tế nhị của mình.

Trong một lá thư trước em đã nói với chị rằng, em lo sẽ không thể tìm được một người bạn trên đại dương mênh mông, nhưng bây giờ em đã gặp được một người, một người mà giá như em gặp được trước khi ông bị những nỗi đau khổ làm rối loạn tinh thần, thì em sẽ rất vui mừng được kết giao như một người anh em thân thiết nhất.

Em sẽ viết tiếp câu chuyện liên quan đến người khách lạ ở những chặng dừng chân, hy vọng em sẽ có những sự kiện mới để ghi lại.

Ngày 13 tháng 8, 17__

Càng ngày em càng cảm thấy thân thiết với ông khách lạ, con người này đã khiến em vô cùng thương cảm xen lẫn ngạc nhiên. Làm thế nào mà một con người đáng kính như vậy lại bị dày vò trong đau buồn nếu không trải qua một một thảm kịch đau đớn nhất? Một con người vô cùng tử tế, với một đầu óc thông thái, những lời ông thốt ra mặc dù nhanh và thuyết phục nhưng luôn được trau chuốt kỹ càng.

Đến giờ ông đã bình phục nhiều, và vẫn ở lại trên tàu để tìm kiếm chiếc xe trượt tuyết bí ẩn kia. Tuy vẫn còn u sầu nhưng ông không còn chìm đắm trong nỗi buồn như trước nữa mà đã bắt đầu tìm thấy niềm vui trong công việc với mọi người. Em thường xuyên tâm sự cởi mở với ông, những lúc như thế ông và em tranh luận với nhau về viễn cảnh thắng lợi của cuộc hành trình cũng như mọi kế hoạch chi tiết để đảm bảo điều đó. Nhờ sự lắng nghe, chia xẻ của ông, em đã nói hết bằng ngọn lửa nhiệt tình trong tim rằng em sẽ vô cùng hài lòng hy sinh tất cả của cải, hy vọng và thậm chí cả bản thân mình vì thành công của cuộc hành trình; rằng sống chết đối với em chỉ là chuyện vặt so với những kiến thức quý giá mà em đang tìm kiếm, vì sự chinh phục của nhân loại đối với các thế lực tự nhiên. Khi em nói điều đó một vẻ ảm đạm tối tăm hiện lên trên khuôn mặt ông khách. Ông ta dường như đang cố kìm chế những cảm xúc của mình với đôi bàn tay đặt trên mắt; cổ họng em như nghẹn lại khi trông thấy từ khe hở giữa các ngón tay, từng giọt nước mắt tuôn chảy. Im lặng... một lát sau bằng một giọng khô nghẹn, ông nói: "Ôi, thật khốn khổ! Anh muốn hóa điên như tôi hay sao? Anh cũng chìm đắm trong những ảo tưởng chết người đó ư? Hãy nghe tôi, _ câu chuyện của tôi sẽ làm anh tỉnh ngộ!"

Chị có thể hình dung được những lời này đã kích thích sự tò mò của em như thế nào. Nhưng cũng chính điều này cũng làm cho ông xúc động mạnh, vì vậy em đã chuyển sang đề tài khác để ông bình tĩnh trở lại.

Vài giờ như vậy trôi qua, với vẻ ngượng nghịu vì sự thiếu kìm chế của mình, ông muốn biết rõ hơn về em, về thời niên thiếu của em sau khi đã bình tĩnh lại. Không dài dòng, em nói ngay điều trăn trở bấy lâu rằng em mong muốn có một người bạn đồng hành, một người để thông cảm, chia sẻ; và em tin rằng một người có thể tự hào về hạnh phúc dù là ngắn ngủi của mình.

"Đúng vậy," ông khách nói, "chúng ta sẽ không thể hoàn thiện bản thân nếu như không có một người sáng suốt, chân thành, thẳng thắn trước những lỗi lầm của chúng ta _ đó là những phẩm chất nên có ở một người bạn. Tôi đã từng có một người bạn thân, một người hết sức tuyệt vời. Tôi đã luôn tự hào về điều đó. Còn anh, anh có hy vọng, niềm tin, và thế giới này đang rộng mở trước mắt anh, anh không có lý do gì để tuyệt vọng. Nhưng tôi, tôi đã mất tất cả, và không còn có thể làm lại được nữa."

Khi nói điều này, một nỗi buồn sâu lắng hiện lên trên khuôn mặt ông ta. Im lặng, ông quay trở về cabin của mình.

Mặc dù nỗi đau buồn còn đè nặng nhưng ông vẫn có thể cảm nhận một cách sâu sắc vẻ đẹp thiên nhiên chung quanh: bầu trời sao, biển cả và tất cả quan cảnh của vùng đất tuyệt vời. Ông là một con người với hai trạng thái tồn tại: có thể đau khổ, nhưng khi quay về trú ẩn trong thế giới nội tâm, ông hiện hữu với một tinh thần sảng khoái, như có một vầng hào quang bao quanh mà trong đó không còn chỗ cho nỗi đau và sự liều lĩnh điên rồ.

Chị sẽ không cười sự hào hứng của em khi kể về con người lang thang kì lạ này nếu như chị gặp ông ta. Với vốn kiến thức của mình, dù có khó tính đến đâu, chị cũng sẽ cảm thấy mến mộ con người tuyệt vời này. Đôi khi em đã cố gắng để tìm ra những phẩm chất đã nâng ông lên trên hết thảy những người mà em đã từng được biết. Em tin rằng nó phải là một sự nhận thức sâu sắc mang tính trực giác, một khả năng phán đoán mau lẹ và đúng đắn, một cái nhìn xuyên suốt vào nguyên nhân của sự vật, với sự rõ ràng và chính xác hơn bất cứ ai; thêm vào đó là khả năng diễn đạt và một giọng nói với âm điệu như những nốt nhạc êm dịu của tâm hồn.

Ngày 19 tháng 8 năm 17__

Hôm qua, ông khách nói với em: "Thuyền trưởng Walton, anh chắc dễ dàng nhận thấy là tôi đã phải chịu đựng một nỗi bất hạnh to lớn và không gì có thể sánh được. Trước kia tôi đã quyết định mang những kí ức khủng khiếp đó theo xuống mồ; nhưng anh đã làm cho tôi thay đổi ý định. Anh đang đi tìm kiến thức và sự khôn ngoan, giống như tôi đã từng làm điều đó. Tôi hy vọng rất nhiều rằng những điều mong ước mà anh đạt được sẽ không làm cho anh đau khổ giống như tôi trước đây. Tôi không biết những bi kịch của tôi sẽ có ích cho anh, khi tôi nhận thấy rằng anh đang đi theo con đường giống như tôi đã đi, và dấn thân vào những nỗi nguy hiểm đã làm tôi trở nên thế này. Tôi hình dung rằng anh có thể rút ra bài học thích đáng từ câu chuyện của tôi, nó có thể dẫn đường cho anh đi đến thành công hoặc là niềm an ủi khi anh thất bại. Hãy chuẩn bị nghe những chuyện dường như rất kì lạ này. Chung quanh chúng ta lúc này, trời đất đang yên tĩnh, anh có thể không tin hay giễu cợt, nhưng rất nhiều chuyện có thể xảy ra ở những vùng đất hoang vu và bí ẩn này, những chuyện có vẻ khôi hài đối với những người không biết đến sức mạnh uyển chuyển của tự nhiên. Tôi có thể nói một cách chắc chắn rằng câu chuyện của tôi chứa những sự kiện để chứng minh cho tính xác thực của nó."

Dĩ nhiên là em rất hài lòng trước những điều kì lạ ông khách sắp nói, một phần vì cũng đã cảm thấy chán những lời kể lể đau buồn của ông ta. Em cảm thấy vô cùng háo hức trước một câu chuyện hứa hẹn nhiều tình tiết li kỳ, một phần vì tò mò, một phần vì mong muốn có thể giúp đỡ được gì cho ông, nếu như điều đó nằm trong khả năng của em. Em đã trả lời với ông như vậy.

"Cảm ơn anh," ông khách nói vì đã quan tâm đến tôi, nhưng chỉ vô ích thôi, số mệnh của tôi đã sắp sửa chấm hết, tôi đang chờ đợi một việc cuối cùng trước khi yên nghỉ. Tôi hiểu cảm giác của anh, _ ông nói tiếp khi thấy tôi muốn ngắt lời ông _ nhưng anh đã lầm, anh bạn của tôi, nếu như anh muốn cho phép tôi gọi anh như vậy; sẽ không có điều gì thay đổi được định mệnh của tôi. Hãy lắng nghe câu chuyện của tôi và anh sẽ hiểu được điều đó."

Sau đó ông khách bảo em rằng ông sẽ kể câu chuyện vào ngày hôm sau khi em đã rảnh rỗi. Em quyết định rằng mỗi buổi tối, khi đã hoàn thành xong công việc, sẽ lắng nghe câu chuyện của ông. Nếu vậy có lẽ em sẽ phải ghi chép lại, điều này chắc chắn sẽ làm chị hài lòng, nhưng đối với em, người được biết ông và trực tiếp nghe câu chuyện này, những ghi chép này sẽ là ghi lại một kỷ niệm đáng nhớ sau này. Bây giờ khi em đang ghi chép, giọng nói rõ ràng của ông vang lên trong tai em, cùng với đôi mắt sáng rực chăm chú, điệu bộ của đôi tay gầy, nét mặt phản chiếu nội tâm. Những điều ông kể sẽ rất kỳ lạ và bi thảm, sẽ khủng khiếp như bão tố bao phủ con thuyền trên biển cả, và... nhấn chìm nó.

CHƯƠNG I

Tôi sinh ra ở Geneva; gia đình tôi thuộc vào loại những gia đình đặc biệt nhất trong cái thể chế Cộng hòa đó. Tổ tiên tôi nhiều đời làm luật sư hoặc nếu không thì cũng là một trong số bốn quan tòa ở Tòa án tối cao Geneva, và cha tôi cũng đã vài lần được tuyên dương trước công chúng. Tất cả những ai biết ông đều kính trọng sự chính trực và hết lòng vì việc công của ông. Tuổi trẻ của ông gần như bị tràn ngập bởi công việc liên miên; và nhiều chuyện xảy ra đã khiến ông không thể có một mái ấm gia đình cho mãi đến những năm cuối đời.

Cuộc hôn nhân của cha tôi diễn ra trong những hoàn cảnh qua đó đã khắc họa rõ nét tính cách con người ông. Một thương gia nọ, là bạn thân của ông, từng rất giàu có nhưng về sau đã gặp nhiều rủi ro đến nỗi lâm vào cảnh tán gia bại sản. Người thương gia này tên là Beaufort, với bản tính tự tôn và kiên định, đã không thể chịu đựng được cuộc sống nghèo khổ trong quên lãng ngay chính nơi mà trước đó ông đã từng có một địa vị cao trong xã hội; sau khi trả hết nợ nần, ông cùng con gái lui về ở tại thị trấn Lucerne, cha tôi rất quý mến Beaufort và rất buồn về điều đó. Ông rất lấy làm tiếc rằng vì tự ái bạn ông đã xử sự không xứng đáng với tình bạn giữa hai người. Ông đã bỏ công tìm kiếm và nhanh chóng tìm ra Beaufort, hy vọng rằng có thể thuyết phục ông bạn làm lại từ đầu với uy tín và sự trợ giúp của mình.

Beaufort đã làm nhiều cách để che dấu nơi ở của ông ta trước khi cha tôi tìm ra mười tháng sau đó. Vui mừng khi tìm thấy, cha tôi vội bước vào ngôi nhà người bạn, nằm trên một con phố nhỏ bên bờ sông Reuss; trái với cảm giác ban đầu, khi vào nhà chỉ có nỗi buồn và tuyệt vọng đón tiếp ông. Beaufort đã dành giụm được một khoản tiền nhỏ trong phần gia tài còn sót lại, đủ để duy trì được trong vài tháng, trong khoảng thời gian đó ông ta hy vọng sẽ tìm được một công việc thích hợp với mình trong nhà một thương gia khác. Trong lúc đó, khi không có việc gì để làm, nỗi đau buồn lại quay trở lại giày vò và nhanh chóng bám rễ trong tâm trí ông, đến nỗi trong ba tháng cuối cùng Beufort đã phải nằm bất động một chỗ trên giường bệnh.

Con gái ông nhẹ nhàng và ân cần chăm sóc cho cha, nhưng càng ngày cô càng tuyệt vọng khi số tiền dành giụm ít ỏi của họ cạn kiệt nhanh chóng, cũng như không còn một chỗ nào khác để bấu víu. Nhưng Caroline Beaufort có một tính cách mạnh mẽ khác thường. Trong nghịch cảnh, lòng can đảm trong cô trỗi dậy, cô kiếm được một vài công việc lặt vặt như bện rơm, và sống qua ngày bằng số thù lao ít ỏi đó.

Vài tháng trời trôi qua như vậy, sức khỏe của cha cô ngày càng xấu hơn, cô phải bỏ gần hết công việc để dành thời gian trông nom ông; đến tháng thứ mười, Beaufort cuối cùng đã qua đời để lại người con gái mồ côi nghèo khổ. Cú sốc cuối cùng này làm cô gái gục ngã, cô quỳ trước quan tài người cha, với những giọt lệ cay đắng tuôn trào. Chính lúc này cha tôi bước vào, ông đã trở thành một chỗ dựa tinh thần cho cô gái tội nghiệp, người đã đồng ý lời đề nghị giúp đỡ của ông. Sau khi mai táng người bạn thân thiết của mình, cũng là cha cô gái, cha tôi đã đưa cô về lại Geneva, và nhờ một người bà con chăm sóc. Hai năm sau đó, cô Caroline đã trở thành vợ ông.

Sự chênh lệch đáng kể về tuổi tác của cha và mẹ tôi càng làm cho họ khăng khít với nhau hơn trong một tình yêu sâu đậm. Tình cảm của ông dành cho bà cũng cao cả như sự liêm khiết của ông, có lẽ một phần vì sự day dứt trước cái chết của người bạn thân. Ông thầm tỏ lòng biết ơn và kính trọng sự đức hạnh của bà bất chấp sự chênh lệch tuổi tác, hơn nữa ông cũng muốn bù đắp lại phần nào những đau khổ mà bà đã chịu đựng, điều đó thể hiện dưới những cử chỉ quan tâm chăm sóc âm thầm của ông. Ông che chở cho bà, và làm tất cả những điều có thể để làm cho người vợ dịu dàng nhân hậu của mình hài lòng; tuy nhiên tinh thần và thể xác của bà cũng đã dần sút kém sau những gì đã trải qua. Hai năm sau đám cưới, cha tôi đã xin được thôi công việc của một công chức nhà nước; ngay sau khi bàn bạc, ông và bà quyết định sang Ý để tận hưởng khí hậu dễ chịu nơi đây; sự thay đổi của cảnh vật và con người dường như có lợi cho sức khỏe vốn yếu ớt của bà hơn.

Từ nước Ý, họ đi sang Đức, Pháp, tôi, đứa con đầu lòng đã cất tiếng khóc chào đời tại Naples, thế là những chuyến du lịch có thêm một đứa trẻ, cho đến vài năm sau tôi vẫn là con một trong cái mái ấm thân thương đó. Tình yêu của cha mẹ tôi đậm đà đến mức nào thì hai người cũng dành cho tôi một tình thương yêu vô tận dường ấy. Trong kí ức lờ mờ tôi chỉ còn nhớ được những âu yếm dịu dàng của mẹ và nụ cười rạng rỡ của cha khi chăm sóc tôi. Đứa trẻ ngây thơ sinh ra như một quà tặng tuyệt vời của Thượng đế dành cho những người làm cha mẹ, sinh linh nhỏ nhoi đó như một niềm hạnh phúc cao cả mà bình dị, đứa trẻ sẽ lớn lên trong đôi tay nâng niu của mẹ cha, đôi tay đó sẽ tạo ra niềm vui hay nỗi đau cho đứa trẻ trong tương lai tùy theo ý thức trách nhiệm của họ. Cha mẹ tôi ý thức sâu sắc rằng họ phải có những nghĩa vụ gì đối với tôi, sinh linh mà cả hai đã mang lại sự sống cho nó cùng với một tình cảm trìu mến, có thể hình dung được rằng trong mỗi khoảnh khắc của thời thơ ấu, tôi không chỉ được dạy những bài học đầu tiên về lòng kiên nhẫn, sự hướng thiện và tính tự chủ; mà còn được dẫn dắt trong một mối dây ràng buộc êm đềm, tất cả điều đó là những niềm vui lớn lao lần đầu tôi cảm nhận được.

Trong suốt một thời gian dài, tôi là niềm quan tâm duy nhất của hai người, mặc dù mẹ tôi vẫn mong có thêm một đứa con gái. Lúc tôi được chừng năm tuổi, cha mẹ tôi đã trải qua một tuần bên bờ hồ Como, khi đó hai người đang làm một chuyến du ngoạn ở bên ngoài những vùng biên ải nước Ý. Ở đó hai ông bà thường ghé vào thăm nhà của những người nghèo, đối với mẹ tôi điều này gần như là một nghĩa vụ, một mệnh lệnh của con tim _ nó nhắc lại những gì mà bà đã trải qua để có cuộc sống như hôm nay _ để giờ đây bà quay trở lại như một vị thiên thần bảo hộ cho những người khốn khổ. Trong những cuộc thăm viếng đó, hai người chú ý đến một ngôi nhà nhỏ nằm hẻo lánh buồn bã trong các thung lũng nhấp nhô, xung quanh là những đứa trẻ rách rưới, lộ rõ sự nghèo khổ cùng cực nơi đây. Một ngày nọ, khi cha tôi phải vội trở về Milan, hai mẹ con tôi đã đến thăm ngôi nhà nọ. Ở đó chúng tôi đã gặp hai vợ chồng một người nông dân, cả hai đều lam lũ, khắc khổ vì lao động cực nhọc, đang chia những phần ăn ít ỏi cho năm đứa trẻ đói khát. Trong số đó có một đứa trẻ thu hút sự chú ý của mẹ tôi nhiều hơn cả; bé gái này dường như có một gốc gác không tần thường. Trong khi bốn đứa trẻ kia có mắt sậm, và trông có vẻ mạnh khỏe, chai lì thì đứa trẻ này lại gầy và rất xinh xắn. Mái tóc vàng óng của nó như một chiếc vương miện rực rỡ nổi bật lên trên bộ quần áo nghèo nàn, cặp chân mày đậm và rõ nét, đôi mắt xanh trong trẻo cùng đôi môi xinh trên một gương mặt dễ thương và đầy nét biểu cảm, khiến cho bất cứ ai nhìn thấy đều phải nghĩ rằng bé gái này phải thuộc về một dòng dõi đặc biệt, một thiên thần hạ thế, và mang trên mình những dấu chỉ cao quý.

Người đàn bà nhà quê nhận thấy ánh mắt chăm chú đầy ngạc nhiên và trìu mến của mẹ tôi đối với đứa bé gái, đã kể cho chúng tôi về lai lịch của nó. Bé gái này thật ra là con của một nhà quý tộc ở Milan, mẹ đứa bé là người Đức và đã chết khi sinh nó. Đứa trẻ sau đó được đưa vợ chồng người nông dân này chăm sóc, dĩ nhiên là họ rất vui mừng về điều này; hai người kết hôn chưa lâu và vừa mới sinh đứa con đầu lòng. Nhà quý tộc Milan nọ là một phần tử Phục quốc (diễn ra ở Italia vào thế kỷ 18-19 nhằm chống lại sự thống trị của đế quốc Áo_ND), luôn nỗ lực đấu tranh vì tự do cho đất nước Italia, tuy nhiên vì sự yếu kém của phong trào Cách mạng nên ông đã bị bắt, tài sản bị tịch biên. Hiện nay người ta vẫn không biết là ông đã chết hay vẫn còn bị cầm tù trong các trại giam ở Áo. Đứa bé tiếp tục sống với gia đình người nông dân, cô càng lớn càng xinh đẹp như một bông hồng giữa đám cỏ dại.

Khi cha tôi từ Milan trở về, ông thấy đang chơi đùa với tôi trong gian sảnh lớn của tòa nhà là một đứa trẻ còn xinh đẹp hơn cả thiên thần trong các bức tranh, bề ngoài của cô bé như tỏa ra những ánh sáng rực rỡ chói lọi, cùng với dáng điệu, cử chỉ thanh thoát uyển chuyển như một con sơn dương. Ông mau chóng biết được lý do hiện diện của cô bé tại nhà mình, và với sự đồng ý của ông, mẹ tôi đã thuyết phục được vợ chồng người nông dân để giành quyền trông nom đứa trẻ. Cha mẹ tôi rất vui mừng về điều đó, tuy nhiên thật là bất công nếu như cô bé tiếp tục phải chịu đựng cảnh sống nghèo khổ, khi mà Thượng đế đã ban cho cô một sự bảo hộ chắc chắn như vậy. Vì thế cha mẹ tôi đã hỏi ý kiến linh mục địa phương, kết quả là Elizabeth Lavenza (tên cô bé) đã chính thức là một thành viên trong gia đình, Elizabeth, đối với tôi, còn hơn cả một cô em gái _ một người người bầu bạn xinh đẹp và đáng yêu không ai sánh được trong mọi niềm vui, và trong những mối quan tâm trẻ con của tôi.

Tất cả mọi người đều yêu mến Elizabeth, với tôi, mọi tình cảm yêu quý của tôi dành cho nàng, dần dần trở thành niềm tự hào và sung sướng. Tôi vẫn còn nhớ vào đêm trước khi nàng về nhà chúng tôi, mẹ tôi đã nói đùa rằng: "Ngày mai, Victor của mẹ sẽ có một món quà xinh xắn." Đúng như vậy, sáng hôm sau, bà đã mang Elizabeth đến với tôi như là món quà mà bà đã hứa, về phần tôi, với sự ngây thơ con trẻ, đã hiểu lời nói đùa của mẹ theo đúng nghĩa đen của nó. Từ lúc đó Elizabeth đã thuộc về tôi, để cho tôi che chở, yêu thương, và dành cho nàng mọi lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Chúng tôi gọi nhau trìu mến như anh em họ. Không lời lẽ nào có thể miêu tả được sự gắn bó thân thiết của chúng tôi, nàng sẽ luôn thuộc về tôi,... mãi mãi.

CHƯƠNG II

Chúng tôi lớn lên bên nhau, hai đứa chỉ hơn kém nhau chưa đến một tuổi. Sự cãi vã, bất đồng là điều hoàn toàn xa lạ đối với tôi và nàng. Sự đồng điệu của tâm hồn làm nền tảng cho sự gắn kết của chúng tôi, những thiên hướng và sự khác biệt trong tính cách cũng làm cho tôi và Elizabeth gần gũi nhau hơn. Bản tính nàng điềm tĩnh và tập trung hơn, trong khi tôi, với tất cả niềm hăng hái của mình là một nỗi ám ảnh về sự khát khao kiến thức. Elizabeth luôn để tâm hồn bay bổng vào việc sáng tác thơ, với nguồn cảm hứng đam mê bất tận từ khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp tráng lệ chung quanh ngôi nhà chúng tôi ở Thụy Sĩ, với những rặng núi hùng vĩ; bốn mùa lần lượt nối nhau đi qua, bão tố ồn ào xen lẫn cái tĩnh lặng lạnh lẽo của mùa đông, sự sống tràn trề náo nhiệt của mùa hè trên dãy Alpine. Trong khi nàng say sưa với vẻ đẹp của tự nhiên thì niềm đam mê của tôi dồn hết vào việc tìm hiểu nguyên nhân của các hiện tượng đó. Thế giới đối với tôi là một điều bí mật to lớn mà tôi luôn khao khát tìm hiểu. Sự tò mò cùng với nỗi đam mê để vén bức màn bí ẩn của các định luật tự nhiên là những kỷ niệm đầu tiên của tuổi thơ tôi.

Bảy năm sau khi tôi chào đời, cha mẹ tôi sinh thêm cho tôi một đứa em trai; ông bà quyết định chấm dứt cuộc sống du ngoạn đây đó để định cư ở quê hương.Chúng tôi có một ngôi nhà ở Geneva và một ngôi nhà nhỏ nữa ở Belrive (nằm ở bờ Tây-Nam của hồ Geneva, cách Geneva khoảng 6 km) trên bờ hồ phía đông và cách Geneva khoảng hơn một dặm. Phần lớn thời gian chúng tôi sống ở Belrive, cuộc sống của cha mẹ tôi trôi qua yên bình trong sự hẻo lánh ở đây. Tính tôi cũng không thích ồn ào, và chỉ quen biết vài người ở đây. Vì vậy dường như tôi có vẻ khác biệt đối với những đứa bạn cùng trang lứa, trong số đó, người thân với tôi nhất là Henry Clerval, con trai của một thương gia ở Geneva. Anh bạn của tôi là người có một tài năng và óc tưởng tượng đặc biệt, con người luôn thích những thử thách khó khăn thậm chí nguy hiểm, cũng như rất thích đọc tiểu thuyết kiếm hiệp lãng mạn. Anh đã sáng tác được vài ca khúc ca ngợi những người anh hùng, và đang bắt đầu viết một cuốn truyện thám hiểm ly kì về những hiệp sĩ thời xưa. Anh thuyết phục chúng tôi đóng kịch, và tham gia vào các buổi dạ hội hóa trang, trong đó chúng tôi sẽ vào vai những anh hùng Roncesvalles dòng hiệp sĩ Bàn tròn và những kỵ sĩ cắt máu ăn thề quyết lấy lại thánh địa khỏi tay những kẻ ngoại đạo.

Có lẽ không ai trải qua thời kỳ thơ ấu hạnh phúc như tôi, trong sự âu yếm chiều chuộng của cha mẹ. Ông bà không bao giờ là hung thần áp đặt chúng tôi theo những ý muốn chủ quan thất thường như các bậc cha mẹ khác hay làm, mà ngược lại luôn là những người tạo ra và duy trì những chuỗi ngày hạnh phúc. Về sau khi khi có dịp quen biết những gia đình khác, tôi càng nhận thức rõ hơn về sự may mắn của mình cùng với lòng biết ơn và kính yêu vô hạn đối với cha mẹ.

Tính khí cùng tình cảm của tôi đôi khi bùng phát một cách cuồng nộ, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, bởi nguyên nhân nào đó đã làm dấy lên những niềm háo hức, không phải cho các đam mê trẻ con mà là niềm khao khát học hỏi, dĩ nhiên là không ôm đồm đủ thứ. Phải thú thực rằng tôi không cảm thấy hứng thú với các môn ngoại ngữ, luật pháp và chính trị các nước. Chỉ có những bí mật tự nhiên mới thật sự làm tôi khao khát tìm hiểu; dù đó là những tính chất biểu lộ ra bên ngoài của sự vật, những nguyên lý bên trong các hiện tượng hay những bí ẩn của tâm lý con người cũng luôn là những thắc mắc của tôi về sự tồn tại và hiện hữu của sự vật hay với ý nghĩa cao hơn hết đó là những bí mật trong thế giới vật lý.

Trong khi đó Clerval mải miết trong những tuyên ngôn về khía cạnh luân lý của sự việc. Những khoảnh khắc gai góc của cuộc đời, hình tượng cao đẹp phi thường của những người anh hùng, các nghĩa vụ của một người đàn ông chân chính luôn là đề tài của anh, là nguồn hy vọng, là những giấc mơ của anh rằng một ngày nào đó anh sẽ trở thành một người trong số họ, những con người sẽ đi vào sử sách như những người anh hùng khai phá mở đường cho nhân loại. Với Elizabeth, tâm hồn thánh thiện của nàng tỏa một ánh sáng thiêng liêng trong ngôi nhà yên bình, sự quan tâm của nàng là dành cho chúng tôi; nụ cười, giọng nói êm dịu, ánh mắt trong trẻo như bầu trời xanh luôn mang lại sinh khí và niềm vui cho mọi người. Nàng là một linh hồn tràn đầy tình yêu dịu dàng và sức thu hút mạnh mẽ: những khi tôi lầm lì hay nóng nảy theo bản tính tự nhiên của mình, nàng luôn là người giúp tôi lấy lại được sự yên tĩnh trong tâm hồn. Và còn Clerval, điều gì có thể phủ nhận tâm hồn cao đẹp của anh, một con người tuyệt vời, sâu sắc và rộng lượng, vô cùng lịch thiệp và hòa nhã là những đức tính nằm bên trong con người có óc phiêu lưu đó, Elizabeth cũng rất quý Clerval, luôn động viên và khích lệ anh trên con đường thực hiện những hoài bão lớn lao của mình.

Tôi luôn cảm thấy vô cùng sung sướng khi sống lại với những kỷ niệm thời thơ ấu, trước khi những tai họa đen tối làm lu mờ đầu óc của tôi, biến nó trở nên u tối, chật hẹp. Ngoài những chuyện thời thơ ấu, tôi cũng còn nhớ rất rõ những sự kiện, từng bước âm thầm dẫn đến phần kết bi kịch trong câu chuyện đời mình: khi tôi nhận ra sự yêu thích trong việc tìm hiểu những bí mật của tự nhiên, nỗi đam mê đã quyết định số mệnh đời mình, tôi cũng cùng lúc nhận ra nó càng ngày càng lớn dần, giống như một dòng thác, từ những con suối đầu nguồn nhỏ bé, yếu ớt nhưng ngày càng mạnh dần thành cơn lũ hung dữ cuốn phăng mọi niềm vui và hy vọng trong cuộc đời.

Khoa học tự nhiên là vị thần quyết định số mệnh của tôi, vì vậy tôi mong rằng, qua câu chuyện này sẽ giúp anh hiểu được những sự kiện đã làm tôi yêu thích các môn khoa học này. Khi tôi mười ba tuổi, tất cả gia đình chúng tôi đã tham gia một chuyến dã ngoại và đi bơi ở bờ hồ Geneva gần Thonon (nằm ở mạn Nam hồ Geneva tiếp giáp với Pháp _ ND). Thời tiết bất thường đã khiến chúng tôi bị giam một ngày trong nhà trọ. Ở đây tôi tình cờ tìm thấy một tập các công trình của Cornelius Agrippa (1486-1535, nhà nghiên cứu thuật huyền bí _ ND). Một cách hờ hững tôi mở nó ra xem; cái lý thuyết mà ông ta cố gắng chứng minh cùng những kết quả tuyệt diệu được đề cập đã nhanh chóng biến sự lạnh nhạt ban đầu của tôi thành niềm say mê. Trí óc tôi như được soi rọi bởi một luồng sáng mới mẻ; và trong niềm vui sướng tôi đã nói lại điều này với cha tôi. Ông cụ khi ấy lướt mắt một cách lơ đãng trên tựa đề cuốn sách và nói: "À, Cornelius Agrippa! Victor yêu quý của ta, tại sao con lại phung phí thời gian quý báu của mình vào cái thứ buồn tẻ nhảm nhí này cơ chứ."

Giá như lúc đó, thay vì chỉ nhắc nhở như vậy, cha tôi nghiêm khắc răn đe tôi rằng học thuyết của Agrippa đã bị 'vứt vào xọt rác' từ lâu, và rằng có một hệ thống mới về các ngành khoa học đã và đang được giới thiệu với nhiều với nhiều ưu thế vượt trội. Nhưng các học thuyết mới đó thật quá xa vời với tôi, trong khi những học thuyết cũ lại gần gũi và thực tế hơn; trong một vài tình huống nào đó, chắc tôi sẽ phải vứt Agrippa qua một bên và làm thỏa mãn trí tưởng tượng của mình cũng như sưởi ấm nó, bằng cách quay lại các môn học cũ trước đây với một niềm say mê mãnh liệt hơn. Như thế, hoàn toàn có khả năng là con tàu tưởng tượng của tôi sẽ không bao giờ nhận được lời cảnh báo chết chóc về một thảm họa đang chờ phía trước. Nhưng ánh mắt hờ hững của cha tôi khi ông xem qua cuốn sách làm cho tôi có cảm giác rằng ông chưa từng biết đến nội dung của nó; và vì vậy tôi vẫn tiếp tục đọc ngấu nghiến cuốn sách của Agrippa.

Khi trở về nhà, việc đầu tiên tôi làm là sưu tầm toàn bộ các tác phẩm của ông này; tiếp sau đó là Paracelsus (1493-1541, nhà vật lý và giả kim thuật) và Albertus Magnus (1193-1280, nhà triết học theo trường phái Aristote). Tôi đã đọc và nghiên cứu một cách say sưa những ảo tưởng điên rồ của họ; đối với tôi các học thuyết của họ là những kho báu mà chỉ một số rất ít người biết đến trong đó có tôi. Tôi đã từng mô tả mình như một kẻ luôn bị trói buột trong một nỗi khát khao làm sáng tỏ những bí mật của tự nhiên. Bất chấp sự lao động hăng say và những khám phá diệu kỳ của các nhà khoa học đương thời, tôi luôn cảm thấy một nỗi buồn bực và cảm giác không thỏa mãn trong công việc nghiên cứu của mình. Ngài Isaac Newton đã từng nói rằng ông cảm thấy mình giống như một đứa trẻ nhặt từng vỏ sò bên bờ đại dương bí ẩn và bao la của sự thật. So với ông, những 'nhà khoa học' mà tôi biết đến qua các cuốn sách, trong nỗi lo lắng trẻ con của tôi, giống hệt những 'tay mơ' đang theo đuổi cùng một mục đích.

Người nông dân ít học quan sát các sự vật, hiện tượng xung quanh anh ta và nhanh chóng quen với các ích lợi thực tiễn của chúng. Nhà khoa học biết ít hơn nhiều. Anh ta chỉ bóc được một phần khuôn mặt của Tự nhiên, nhưng các đặc tính, đường nét vĩnh hằng của 'cô ta' mãi mãi là một điều bí ẩn diệu kỳ (trong tiếng Anh và nhiều ngôn ngữ khác, Tự nhiên thường được xem là giống cái_ND). Anh ta có thể mổ xẻ, tách rời và đặt tên cho từng bộ phận, nhưng lại không hề đề cập đến cái nguyên nhân sâu xa tận cùng và những nguyên nhân bậc hai, bậc ba mà anh ta hoàn toàn mù mờ. Tôi đã cho rằng những pháo đài và trở ngại đó dường như đã cản trở bước tiến của nhân loại đi sâu vào tòa lâu đài của tự nhiên; và một cách hấp tấp, cẩu thả, tôi đã chuốc lấy nỗi đau cho mình.

Nhưng, ở đây là các cuốn sách và cũng ở đây là những con người, những người đã có các khám phá sâu hơn và hiểu biết nhiều hơn. Tôi đã nuốt lấy từng lời mà các tác giả này khẳng định là chân lý, và tôi gần như trở thành tín đồ của họ. Điều này có vẻ như kỳ quặc nhất là trong thế kỷ 18 này; nhưng trong khi hàng ngày tôi phải 'mài đũng quần' trong các trường học ở Geneva, thì ngược lại tôi thu nhận kiến thức chủ yếu từ việc tự học với niềm say mê đối với các môn học mà mình yêu thích. Cha tôi không hiểu biết nhiều về khoa học, và tôi bị bỏ mặc để vật lộn với sự ngốc nghếch của một thằng nhóc, cộng thêm với nỗi khao khát kiến thức của một sinh viên. Theo chỉ dẫn của các 'bậc thầy' đi trước này, tôi bước vào, với niềm nhiệt thành to lớn cuộc tìm kiếm 'Hòn đá Triết học' (các nhà giả kim thuật thời Trung cổ tin rằng đá này có thể biến mọi kim loại thành vàng _ ND) và thuốc Trường sinh; cái sau nhanh chóng thu hút sự chú ý của tôi. Sức khỏe con người là một cái gì đó thật yếu ớt, nhưng niềm vinh quang nào sẽ đến với một khám phá mà qua đó tôi có thể dẹp sạch mọi bệnh tật ra khỏi thân xác con người và giúp họ không bị tổn thương đối với tất cả, ngoại trừ cái chết!

Đó không phải là những viễn cảnh duy nhất mà tôi mường tượng ra. Hồn ma và ác quỷ là lời hứa hẹn rõ ràng của các tác giả mà tôi say mê, đó sẽ là kết cục cho những điều mà tôi hăng say tìm kiếm; và nếu như những 'câu thần chú' của tôi luôn thất bại, tôi sẽ xem những thất bại đó như là những lỗi lầm và sự non nớt về kinh nghiệm hơn là sự khao khát các kỹ năng hay là niềm tin tưởng tuyệt đối vào các tác giả này. Và cứ như vậy trong một thời gian, tôi chìm ngập trong sơ đồ các hệ cơ quan, chi tiết từng bộ phận và cách chúng liên hệ với nhau giống như một kẻ khờ khạo, hàng nghìn lý thuyết trái ngược và ấp úng một cách tuyệt vọng, vật vã trong mớ kiến thức hỗn độn, được dẫn dắt bởi một ảo tưởng cuồng tín và những lý lẽ trẻ con. Tôi lặn ngụp trong đó cho đến khi một sự kiện xảy ra làm thay đổi nhận thức của mình.

Khi tôi mười lăm tuổi, gia đình chúng tôi đi nghỉ ở ngôi nhà nhỏ gần Belrive, và đã trải qua một cơn giông hung dữ và khủng khiếp nhất. Nó tiến đến từ phía sau những rặng núi kỷ Jura, và ngay sau đó sấm sét ập đến tức thì trong những tiếng nổ kinh hoàng vang động khắp bầu trời. Tôi đứng lặng khi cơn giông lướt qua, ngắm nhìn diễn tiến của nó với sự tò mò thích thú. Khi tôi đang đứng ở ngưỡng cửa, bất thình lình từ khoảng cách hai mươi thước (thước Anh = 0.9144m_ND) một cột lửa bùng lên từ một cây sồi già và ngay khi ánh sáng chói lòa đó tắt hẳn, cây sồi đã... biến mất, không còn gì ngoài cái gốc cháy nham nhở. Vào sáng hôm sau khi chúng tôi ra xem, thân cây đã bị cháy vụn một cách kỳ lạ. Không phải là vỡ vụn ra từng mảnh bởi chấn động, mà là nát nhừ thành từng miếng mỏng như dăm bào. Tôi chưa từng thấy thứ gì bị hủy hoại khủng khiếp như thế.

Trước đó, tôi đã từng làm quen với các định luật trực quan của dòng điện. Lúc này ở chung với chúng tôi là một nhà nghiên cứu(*) về các môn khoa học tự nhiên. Phấn khích trước hiện tượng này, anh ta đã diễn giải cho chúng tôi nghe lý thuyết được anh 'thai nghén' dựa trên kiến thức về Điện và Điện hóa học, lý thuyết mới mẻ này ngay lập tức đã làm cho tôi kinh ngạc.

Tất cả những gì anh ta nói đã dập tắt ánh hào quang của Cornelius Agrippa, Albertus Magnus, và Paracelsus, các vị chúa tể trong trí tưởng tượng của tôi, nhưng trong nỗi lo sợ chết chóc mơ hồ, dường như hồn ma của các vị 'tiền bối' này vẫn níu kéo tôi đi theo con đường cũ. Nếu như thế mãi mãi tôi sẽ không thể biết chắc được một điều gì. Những gì thu hút sự quan tâm của tôi trong một thời gian dài đột ngột trở nên tầm thường, nếu không muốn nói là đáng ghê tởm. Một trong những sự thay đổi đột ngột về quan điểm mà hầu hết chúng ta đều trải qua khi còn trẻ, là việc ngay lập tức từ bỏ những vấn đề mà trước đây tôi rất quan tâm, cùng với việc 'đóng dấu' lên sự méo mó, nhảm nhí của cái gọi là 'Lịch sử tự nhiên' và tất cả các thứ liên quan đến nó. Tôi đã khoái trá xem thường cho cái đã từng được gọi là 'khoa học', cái sẽ không bao giờ nó chạm đến được ngưỡng cửa của sự thật. Trong tâm trạng và suy nghĩ như vậy, tôi bắt đầu nghiên cứu Toán học, vì mọi bộ môn khoa học khác đều cần nó để có những nền móng vững chắc. Tâm trí con người chúng ta được cấu trúc một cách kỳ lạ như vậy đó, và bởi các sợi dây chằng mảnh mai này, chúng ta sẽ tiến lên thịnh vượng hay đổ nát, suy tàn.

Điều đó, về sau mỗi khi tôi nhớ lại, giống như một sự thay đổi nhiệm mầu của lòng đam mê và khao khát, là sự dẫn dắt của vị thiên thần bổn mạng như là một nỗ lực cuối cùng của đấng cứu vớt, xua đi cơn bão đang lởn vởn tít trên cao và sẵn sàng ập xuống đầu tôi. Chiến thắng đó được loan báo bởi một niếm vui và sự thanh thản kỳ lạ trong tâm hồn khi tôi chấm dứt theo đuổi những vấn đế nghiên cứu lỗi thời và mò mẫm kia. Qua việc này, tôi đã được dạy rằng: những cái xấu phải bị loại bỏ và đó cũng là niềm hạnh phúc cho những ai làm như vậy.

Nhưng vị thiên thần bổn mạng của tôi đã thất bại rồi. Định mệnh khắc nghiệt đã phán quyết tôi phải chịu trừng phạt trong sự hủy diệt hoàn toàn.

Chương 3

Khi tôi đến tuổi mười bảy m cha mẹ quyết định tôi sẽ đi học đại học ở Ingolstadt. Trước nay tôi vẫn học tại các trường ở Geneva, nhưng cha tôi cho rẳng, để việc giáo dục tôi được toàn diện, tôi nên làm quen với phong tục các miền quê khác. Ngày ra đi được quyết định, nhưng trước khi kịp đến ngày đã định, nỗi đau khổ đầu tiên trong đời tôi xảy ra - có thể nói đó là điềm báo cho nỗi khốn khổ cửa tôi sau này.

Elizabeth mắc bệnh tinh hồng nhiệt, nàng ốm nặng lắm, tình hình nguy ngập. Bao nhiêu lý lẽ được đưa ra nhằm can ngăn mẹ tôi trực tiếp chăm sóc người bệnh. Lúc đầu mẹ tôi chịu theo những lời năn nĩ của chúng tôi; nhưng khi được biết cô bé được bà cưng chiều hết mực đang bên bờ vực sống chết, bà không kìm nổi nỗi lo lắng của mình nữa. Bà lúc nào cũng ở bên giường người bệnh - sự chăm sóc tận tình của bà đã chiến thắng cơn bệnh tàn độc - Elizabeth sống sót, tuy nhiên hậu quả của sự bất cẩn ấy đã gây khốc hại cho người coi sóc nàng. Ba ngày sau mẹ tôi ốm, sốt cao với những triệu chứng vô cùng đáng ngại. và vẻ mặt u ám của các thầy thuốc, y tá đã tiên lượng trước điều xấu nhất. Trên giường hấp hối, người đàn bà tuyệt vời đó vẫn giữ nguyên lòng nhân từ và sức chịu đựng kiên cường. Bà áp bàn tay Elizabeth và bàn tay tôi vào nhau mà nói: "Hai con ơi, những hy vọng bền vững nhất của mẹ về tương lai bây giờ đặt trọn trên hôn phối của hai con. Giờ đây, hy vọng đó sẽ là niềm an ủi cho cha của các con. Elizabeth, con yêu, con hãy thay mẹ chăm sóc các anh em còn nhỏ của con. Trời ơi! Mẹ rất khổ tâm vì bị chúa đưa xa khỏi các con; từ bỏ các con trong khi mẹ chỉ được cả nhà chiều chuộng yêu thương như thế này, lẽ nào đành lòng? Nhưng những ý nghĩ này thật không hợp lẽ, mẹ sẽ cố cam chịu cái chết một cách bình yên, và ấp ủ niềm hy vọng sau này gặp các con ở thế giới bên kia."

Bà ra đi thanh thản, cả trong cái chết nét mặt vẫn thể hiện tình yêu thương trìu mến. Tôi không cần phải tả ra đây nỗi đau đớn của những người đã bị mất mát không tài nào bù đắp nổi này cắt đứt những mối tâm tình tahn6 thiết nhất của mình; khoảng trống rỗng để lại tron mỗi tâm hồn, và nỗi đau thương đeo trên nét mặt chúng tôi. Phải mất bao lâu trí óc chúng tôi mới chấp nhận là bà - người mà ngày nào chúng tôi cũng trông thấy, dường như đã là một phần của cuộc đời chúng tôi - lại có thể ra đi vĩnh viễn; ánh mắt sáng long lanh mà chúng tôi thương mến từ nay đã tắt hẳn; giọng nói quen thuộc quý yêu bên tai lại có thể bặt đi, không bao giờ còn vang lên. Những ngày đầu sau khi bà mất là như vậy đấy; nhưng khi thời gian trôi qua khẳng định đó là sự thật, nỗi đau xpt1 thực sự mới bắt đầu. THế nhưng đâu có ai chưa từng bị bàn tay phũ phàng kia dứa đi một mối duyên thân thiết? Và tôi cứ phải mô tả mãi làm gì nỗi đau mà ai cũng từng qua, và cũng phải qua? Cuối cùng cũng sẽ đến lúc đau thương là do buông thả thì đúng hơn là nhu cầu cần thiết, và nụ cười trên môi ta, dù có thể bi6 báng bổ, không thể tắt bỏ hoàn toàn. Mẹ tôi đã mất, nhưng chúng tôi ai nấy đều có nhiệm vụ phải làm, phải đi theo con đường của mình cùng những người khác, tập suy nghĩ rằng mình may mắn khi còn chưa bị phá hoại cướp đi sinh mệnh.

Chuyến lên đường đến Ingolstadt của tôi, do chuyện này mà hoãn lại một thời gian, nay được hoạch định lại. Tôi xin phép cha tôi cho lùi lại vài tuần. Đối với tôi thật là báng bổ nếu rời bỏ quá sớm cảnh trầm lặng, gần như cái chết của ngôi nhà tang tóc để lao vào cuộc đời náo nhiệt quá sớm. Tôi lần đầu biết đến buồn phiền, tuy nhiên nó không khiến tôi hoảng hốt. Tôi chưa muốn rời bỏ những người thương yêu còn lại trên đời, và trên hết tôi muốn Elizabeth dịu hiền được khuyến khích phần nào.

Nàng thực ra đã che giấu nỗi khổ tâm, và đã gánh lấy vai trò xoa dịu tất cả chúng tôi. nàng bình tĩnh xem xét cuộc sống phía trước, và can đảm cũng như hết sức nhiệt thành nhận lấy những trách nhiệm trong đó.Nàng hết lòng hy sinh cho những người nàng đã quen gọi là bác và các anh em họ. Chưa bao giờ nàng quyến rũ đến mức ấy khi nàng tìm lại nụ cưới rực rỡ của mình để tỏa xuống chúng tôi. Và trong lúc đó cố gắng làm chúng tôi quên sầu muộn, nàng cũng đã bẵng quên luôn nỗi tiếc thương của chính mình.

Cuối cùng ngày ra đi của tôi đã tới. Clerval góp mặt cùng chúng tôi trong buổi tối cuối cùng tôi ở nhà. Anh đã cố thuyết phục cha mình được đưa tôi tới trường và cùng nhập học trường đó với tôi; nhưng vô ích. Cha anh là một thương nhân đầu óc hẹp hòi chỉ thấy niềm khao khát và tham vọng của con trai mình chứa đựng những lười nhác và hủy hoại. Henry cảm nhận sâu sắc nỗi bất hạnh của mình khi bị ngăn cản không được theo đuổi ngành khoa học xã hội. Anh không nói nhiều; tuy nhiên mỗi lần anh nói, tôi đều đọc được trong đôi mắt lấp lánh cũng như tia nhìn rung động của anh quyết tâm kiềm nén nhưng sắt đá, không để mình bị ràng buộc vào những điều tủn mủn thảm hại của nghề kinh doanh.

Chúng tôi thức rất khuya, không sao đủ sức tách rời nhau, hay thuet61 phục người kia nói câu "Vĩnh biệt!"Cuối cùng thì lời đó cũng được nói ra; và chúng tôi viện cớ nghỉ ngơi mà rút về phòng, mỗi người đều cố tưởng rằng người kia bị thuyết phục ; nhưng sáng sớm hôm sau khi xuống tới cỗ xe sẽ đưa tôi ra đi, họ đều có mặt: cha tôi lại ban phước cho tôi lần nữa, Cleval lại một lần nữa bắt tay tôi, Elizabeth lặp lại yêu cầu tôi thường xuyên viết thư về, và bày tỏ lần cuối những chăm chút rất phụ nữ đối với người bạn chơi đùa thuở nhỏ.

Tôi quăng mình vào chiếc xe đưa tôi đi xa, và cứ thế chìm vào nỗi buồn nhớ mênh mang. Luôn được bao quanh bởi những người yêu dấu suốt từ xưa đến nay, lúc nào cũng chỉ một lòng tìm cách đem lại cho nhau niềm vui, giờ đây tôi chỉ có một mình. Ở trường đại học, nơi tôi đang đi tới đây, tôi sẽ phải tự tìm lấy những người bạn, tự bảo hộ lấy mình. Đời tôi trước nay sống chủ yếu trong gia đình, xa lánh mọi người, phải lèm quen với bạn mới khiến tôi ghê sợ không tả xiết. Tôi yêu các em trai tôi, Elizabeth, Cleval; những " khuôn mặt thân thuộc cũ", nhưng tôi tin chắc mình hoàn toàn không thể phù hợp với người lạ được. Cảm xúc của tôi khi mới lên đường là như vậy; nhưng lần lần tinh thần tôi khá lên, hy vọng nảy sinh. Tôi nóng lòng khao khát thu thập kiến thức. Khi ở nhà, tôi đã nhiều lần nhìn tuổi trẻ của mình không thể bó buộc trong một xó, và đã mong mỏi nhập vào thế giới, chiếm một chỗ đứng giữa những con người khác. Giờ đây khát vọng đang được thực hiện, và thực tình, nếu còn tiếc nuối thì thật điên rồ.

Đường đi Ingolstadt khá xa và mệt, có thừa thì giờ cho những suy nghĩ vẩn vơ như thế của tôi. Cuối cùng tôi cũng trông thấy nóc nhà thờ trắng toát của thành phố. Tôi xuống xe, và được đưa tới căn hộ độc thân, buổi chiều tự do muốn làm gì thì làm.

Sáng hôm sau tôi đem thư giới thiệu đến gặp mấy vị giáo sư chủ chốt. Sự tình cờ, hay đúng hơn là thế lực đen tối có tên vị Thần Hủy Hoại, đã bắt đầu thống lĩnh kể từ lúc tôi miễn cưỡng rời khỏi ngưỡng cửa nhà cha tôi, dẫn tôi trước hết tới thầy Krempe, giáo sư môn triết học tự nhiên. Đó là một người đàn ông thô lỗ, tuy nhiên đi khá sâu vào những bí mật của môn khoa học mình theo đuổi. Ông hỏi tôi mấy câu về quá trình nghiên cứu của tôi trong nhiều nhánh khác nhau của triết học tự nhiên. Tôi trả lời một cách bất cẩn; và , có phần ghê tởm, nêu tên các nhà giả kim học là những tác giả chính yếu tôi nghiên cứu. Ông giáo sư nhìn chằm chằm vào tôi: "Anh thực mất thì giờ học những thứ lăng nhăng vậy sao?"

Tôi đáo vâng. Thầy Krempe nồng nhiệt tiếp: "Mi64 giở mỗi phút anh mất vào những quyển sách đó đều là toi công cả. Anh chồng chất lên trí nhớ mình những hệ thống đã bị đập tan, những tên tuổi đã vô dụng. Trời ơi! Anh đã sống trong sa mac5hoang vu nào vậy, không nh4 không có người nào tử tế cho anh biết những trò hoang tưởng mà anh ngốn ngấu đá đã cũ rích đến hàng ngàn năm rồi, và đã mốc meo lên cả rồi hay sao? Ở thời đại khoa học và khai sáng này tôi thật khó ngờ lại gặp được môn đệ của Albertus Magnus và Paracelsus! Ngài thân mến ơi, ngài phải bắt đầu lại từ đầu đi thôi!"

Nói xong ông bước sang một bên, ghi cho tôi một danh sách dài các sách về triết học tự nhiên để tôi tìm đọc; rồi cho tôi lui, sau khi lưu ý rằng đầu tuần sau ổng bắt đầu giảng một khóa học về những nguyên lý tổng quát của triết học tự nhiên, và rằng thầy Waldman, bạn đồng nghiệp của ông sẽ xen kẽ những buổi ông không có giờ giảng để lên lớp về hóa học

Tôi trở về nhà, không hề thất vọng, vì như tôi đã nói, từ lâu tôi đã coi mấy tác giả mà giáo sư bài xích là vô dụng; nhưng tôi trở về mà không hề có ý định khơi lại những môn học đó cho dù dưới hình thức nào chăng nữa. Ong krempe người mập lùn, giọng cộc cằn, mặt đầy ác ý, thế cho nên chẳng đưa lại cho tôi chút thiện cảm nào những điều ông ta theo đuổi. Tôi đã kể cho anh, trong một cơn phấn hứng có lẽ hơi quá triết lý và mạch lạc, những kết luận về chúng mà tôi đã rút ra từ nhiều năm trước. Từ hồi nhỏ tôi đã không hài lòng với những kết quả mà các giáo sư hiện đại của khoa học tự nhiên hứa hẹn. Đầu óc đầy những ý tưởng hỗn độn - chỉ có thể đổ lỗi cho thực tế là tôi quá trẻ, và thiếu hướng dẫn đúng đắn về những vấn đề đó - tôi đã đi ngược lại từng nấc kiến thức dọc theo những con đường xa xưa, đánh đổi những khám phá của các nhà khảo cứu mới đây lấy giấc mơ của các nhà giả kim đã từ lâu quên lãng. Hơn nữa tôi vốn rất khinh các ứng dụng của triết học tự nhiên hiện đại. Khi các nhà khoa học bậc thầy đi tìm sự bất tử và quyền lực, đó là một chuyện khác hẳn; quan niệm ấy tuy phù phiếm nhưng lại rất vi đại; còn bây giờ, quang cảnh đã đổi khác. Tham vọng của nhà khảo cứu có vẻ chỉ hạn chế ở chỗ làm sao tiêu diệt chính những viễn tượng đã làm cơ sở cho hứng thú khoa học của tôi. Người ta đòi hỏi tôi phải đánh đổi ảo tưởng lộng lẫy đến vô bờ ấy lấy thứ thực tế chẳng có giá trị bao nhiêu.

Đó là những suy nghĩ của tôi trong mấy ngày đầu ở Ingolstadt, thời gian này tôi chỉ dùng để thăm thú trong vùng và làm quen với những người ngụ tại nơi ở mới của tôi. Sang tuấn tiếp theo, tôi nghĩ đến những điều thầy Krempe cho biết về các buổi lên lớp. Và tuy không thể nào đến nghe cái gã lùn tì tự kiêu tự đại ấy giảng bài từ trên bục giảng, tôi lại nhớ lời ông ta nói về thầy Waldman mà tôi chưa gặp, thồi này không có mặt ở thành phố từ hôm tôi đến cho tới nay.

Phần vì tò mò, phần vì chẳng có việc gì làm, tôi bước vào giảng đường, chỉ ít phút trước lúc thầy Waldman tới. Vị giáo sư này hoàn toàn khác hẳn đồng nghiệp của mình. Trông thẩy chừng năm mươi, Phong thái biểu lộ sự nhân từ âu yếm nhất, tóc hai bên thái dương đã đốm bạc nhưng phía sau hầu như còn đen nguyên. Vóc người thầy thấp nhưng cực kỳ đỉnh đạc, và giọng thầy êm dịu chưa từng thấy. Thấy bắt đầu bài giảng bằng cách tóm tắt lịch sử môn hóa học những tiến bộ khác nhau đạt được bởi nhiều nhà thông thái; nêu tên tuổi các nhà phát minh danh tiếng nhất với tình cảm nhiệt thành. Rồi thầy nhận định sơ qua về hiện trạng ngành hóa học, giải thích nhiều thuật ngữ sơ đẳng của nó. Sau khi làm một vài thí nghiệm mở đầu, thầy kết luận bằng một bài tán dương ngành hóa học hiện đại với những lời lẽ không bao giờ quên.

"Những bậc thầy cổ đại của môn khoa học này hứa hẹn những điều không thể làm được, và không thực hiện cái gì hết. Những chuyên gia hiện đại thì hứa hẹn rất ít, họ biết kim loại không chuyển hóa được, còn nước trường sinh chỉ là thứ hảo huyền. Nhưng các triết gia này, với bàn tay hầu như chỉ quen vầy vò đất bẩn, mắt chỉ quen soi kính hiển vi hay nhòm vào lò nấu kim loại, chính họ đã tthực hiện được những phép thần. Họ sục vào nơi sâu kín nhất của tự nhiên và cho ta biết tự nhiên làm việc ra sao trong chốn náu mình của nàng. Họ lên tới tận trời xanh: họ phát hiện máu tuần hoàn như thế nào, và bản chất không khí ta thở ra sao. Họ đạt được những quyền lực không những mới mẻ mà hầu như vô hạn, sai khiến cả sấm sét của trời, bắt chước được cà chấn động của đất, thậm chí đùa cợt cả thế giới vô hình với chính những cái bóng của nó."

Những lời vị giáo sư là vậy - đúng hơn, xin để tôi nói rằng đó là những lời số mệnh, được cất lên để hủy diệt cuộc đời tôi. Trong khi thầy tiếp tục, tôi cảm giác như linh hồn tôi đang vật lộn với một kẻ thù hữu hình hữu thể, những cung đàn hợp thành cơ chế của con người tôi bấm lên từng phím một: các dây đàn lần lượt vang lên, và chẳng bao lâu tâm trí tôi tràn đầy một suy nghĩ, một ý niệm, một mục đích duy nhất. Đã bao nhiêu thành tựu được hoàn thành - linh hồn của Frankenstein kêu lên - ta sẽ còn làm được nhiều hơn nữa: lần theo từng bước chân đã được vạch đường, ta sẽ tiên phong một con đường mới, mở ra cho thế giới biết bí mật sâu kín nhất của sự sáng tạo.

Suốt đêm đó tôi không chợt mắt. Nội tâm tôi rợi vào tình trạng náo động và nổi loạn, tôi cảm thấy rồi trật tự sẽ trở về, nhưng không đủ mạnh để tự mình lập lại nó. Dần dà, khi bình minh tới, tôi mới thiếp đi. Tỉnh dậy, những ý tưởng của tôi đêm qua như một giấc mơ. Chỉ còn lại một quyết định duy nhất là quay lại nhiên cứu trước đây của mình, toàn lực hiến thân cho môn khoa học mà tôi tin mình có tài năng bẩm sinh. Cùng ngày tôi tới thăm thầy Waldman. Ở tư gia thầy còn mềm mỏng và hấp dẫn hơn trước đám đông nhiều; bởi khi lên lớp phong cách thầy có phần trang trọng, ở nhà cái đó đã thay bằng thái độ thân thiện và tử tế vô hạn. Tôi kể thầy nghe về việc học tập nghiên cứu trước đây của mình hệt như kể với vị giáo sư kia. Thầy lắng nghe vài trình bày nho nhỏ về chuyện học hành của tôi, đến tên Cornelius Agrippa và Paracelus thì mỉm cười, nhưng không có vẻ khinh rẻ như thầy Krempe. Thầy bảo rằng "đó là những người có lòng nhiệt tình không mệt mỏi mà các triết gia hiện đại phải chịu ơn về phần lớn những căn bản kiến thức như bây giờ. Họ để lại cho chúng ta nhiệm vụ dễ dàng hơn rất nhiều, đặt các tên mới, sắp xếp và phân loại rành mạch những thông tin mà phần lớn nhờ họ đã đem ra ánh sáng. Công sức của những thiên tài, cho dù nhằm vào những mục tiêu lệch lạc đến mức nào đi nữa, hiếm khi không cống hiến chút gì cho tiến bộ vững chắc của toàn nhân loại." Tôi lắng nghe lởi khẳng định của thầy, không hề kiêu căng, không hề giả tao5m rồi thưa với thầy rằng bài giảng của thầy đã đánh thức tan định kiến của tôi đối với các nhà hóa học hiện đại; tôi lựa chọn ngôn từ thật cân nhắc, thật khiêm tốn, nhún nhường, thích hợp với một người non nớt đang thưa với thầy dạy, không để lộ ra ( có lẽ sự thiếu từng trải khiến tôi ngượng ngùng) lòng hăm hở đã khiến tôi muốn dốc sức lao vào công việc. Tôi cũng xin thầy cho ý kiến về những sách cần tìm đọc.

Thầy bảo: "Tôi rất sung sướng có được một học trò; và nếu lòng chuyên vần của anh cũng cao như năng lực của anh, tôi tin anh dễ tahnh2 công. há học là ngành triết học tự nhiên đã và sẽ có những tiến bộ to lớn nhất; chính vì vậy mà tôi lựa chọn nó làm chuyên môn của mình, nhưng dù thế tôi cũng không sao lãng các ngành khác. Người ta sẽ là nhà hóa học rất tồi nếu chỉ chú trọng mỗi mảng đó trong kiến thức rộng lớn của nhân loại. Nếu anh mong muốn trở thành nhà khoa học thực sự chứ không phải người làm thực nghiệm xoàng xĩnh, tôi khuyên anh hãy theo tất cả các ngành triết học tự nhiên, kể cả toàn học."

Thầy đưa tôi vào phòng thí nghiệm của mình, giải thích cách sử dụng những máy móc lạ lùng trong đó, dạy tôi phải kiếm được cái nào, hứa cho tôi sử dụng máy móc của thầy khi tôi đã tiến đủ xa trong việc học hành để khỏi làm hỏng chúng. Thầy cũng đưa tôi danh sách sách cần đọc tôi yêu cầu; và tôi cáo lui.

Thế là kết thúc cái ngày đáng ghi nhớ đã quyết định vân mệnh tương lai của tôi.

Chương 4

Kể từ ngày đó. triết học tự nhiên, nhất là hóa học theo nghĩa rộng nhất của nó, trở thành công việc gần như duy nhất của tôi. Tôi nhiệt thành đọc các công trình đầy tài năng, đầy sáng suốt mà các nhà khảo cứu hiện đại đã biết về đề tài ấy. Tôi dự các giờ giản, vun đắp mối quen biết với các nhà khoa học ở trường đại học; thậm chí ngay cả thầy Krempe tôi cũng phát hiện ra một đầu óc minh mẫn và một nguồn thông tin đáng kể, dĩ nhiên, đi kèm với một tướng mặt và tác phong vô cùng phản cảm nhưng không vì thế mà giảm giá trị. Còn ở thầy Waldman tôi tìm được một người bạn thực sự . Sự tử tế của thày không hề bị vấy màu giáo điều chủ nghĩa; thầy dạy tôi một cách cởi mở và thằng thắn, không mang vẻ thông thái rởm chút nào. Cứ từng việc nhỏ thầy dọn quang con đường kiến thức cho tôi đi, làm các vấn đề khoa học thâm thúy nhất trở nên rõ ràng sáng sủa cho tôi hiểu. Lúc đầu sự chuyên tâm của tôi không đều và thường do dự; nhưng càng làm việc tôi càng nhiệt huyết và hăm hở, đến nỗi nhiều khi ánh ngày đến xòa mờ hết các vì sao mà tôi vẫn còn bận rộn trong phòng thì nghiệm

Chăm chỉ như thế nên dễ hiểu là tôi tiến bộ nhanh chóng, Nhiệt tình hăng say của tôi khiến các sinh viên phải ngạc nhiên, tài năng tôi khiến các thầy phải lấy làm lạ. Giáo sư Krempe thường hỏi tôi với nụ cười ranh mãnh: Cornelius Agrippa thế nào rồi? Trong khi thầy Waldman tỏ ra phấn chấn thật lòng trước tiến bộ của tôi. Suốt hai năm trôi qua như vậy, tôi không về thăm Geneva lần nào, tất cả tâm hồn và trí tuệ đặt vào việc đeo đuổi một số phát hiện mà tôi hy vọng tìm ra. Chỉ người làm nghiên cứu khoa học mới hiểu được sức quyến rũ của khoa học. Trong các ngành khoa học khác, ta chỉ đi đến nơi những người đi trước ta đạt tới, sau đó hết, không còn gì cần biết nữa; nhưng công cuộc nghiên cứu khoa học luôn dành phần cho những điều ta cần khám phá thêm, những điều kỳ lạ mới mẻ. Người có năng lực trí tuệ khá, lại chỉ chuyên tâm đi sâu vào nghiên cứu một vấn đề, tất sẽ trở thành uyên bác trong lĩnh vực đó; và tôi, hoàn toàn không ngó ngàng đến xung quanh, đã tiến bộ mau chóng tới nỗi sau hai năm tôi đã thực hiện một số phát minh nhằm cải tiến một số dụng cụ hóa học, khiến cả trường kính nể khâm phục tôi hết sức. Khi đã đạt tới mức này, thành thạo mọi kiến thức lý thuyết và thực hành về triết học tự nhiên mà bài giảng của các giáo sư ở Ingolstadt có thể cung cấp được, và sống ở đây không còn có ích gì cho tiến bộ của tôi nữa, tôi bắt đầu nghĩ đến việc trở về thăm bạn bè và thành phố quê hương, thì đúng lúc đó xảy ra một sự kiện khiến tôi phải hoãn chuyến thăm nhà lại.

Một trong những hiện tượng đặc biệt lôi cuốn sự chú ý của tôi là cơ thể con người, hoặc đúng hơn là bất cứ động vật nào có được sự sống. Căn nguyên của sự sống khởi điểm từ đâu, tôi thường tự hỏi mình như vậy. Đó là một câu hỏi táo bạo, một câu xưa nay vẫn được coi nhu huyền bí; ấy vậy nhưng có biết bao điều ta đã tới bến bờ hiểu biết của nó rồi, chỉ vì yếu hèn hay bất cẩn mà ta ngưng tìm kiếm. Tôi cứ lập đi lập lại vấn đề này trong đầu, rồi đi đến quyết định sẽ đặc biệt đi sâu vào những ngành của triết học tự nhiên có liên quan tới sinh lý chọ. Nếu không phải được kích động bởi một nhiệt tình gần như siêu tự nhiên, việc nghiên cứu của tôi ắt đã vô cùng buồn chán, thậm chí không chịu đựng nổi. Muốn xem xét nguyên nhân sự sống, trước hết ta phải tìm hiểu cái chết. Ti6 đã học môn giải phẩu học nhưng thế chưa đử; tôi còn phải quan sát quá trình tan rữa và phân hủy hoàn toàn cơ thể người trong tự nhiên. Khi giáo dục tôi, cha tôi đã hết sức lưu ý sao cho tâm trí tôi không chịu ảnh hưởng của những nỗi sợ siêu nhiên. Tôi nhớ chưa bao giờ run rẩy trước một chuyện mê tín dị đoan, cũng chưa bao giờ sợ ma hiện hồn. bóng tối chẳng tác động gì đến trí tưởng tượng của tôi, nghĩa trang cạnh nhà thờ đối với tôi đơn thuần là nơi yên nghỉ của những tấm than bị tước đi sự sống, trước là nai ngự trị của sắc đẹp và sức mạnh nay đã trở thành thức an cho sâu bọ. Giờ đây cần khảo sát nguyên nhân và quá trình tan rữa, tôi buộc phải ở trong các hầm mộ, nhà xác suốt nhiều ngày đêm. Tôi chú ý quan sát tất cả những gì là không thể chịu đựng được đối với cảm xúc tế nhị cú con người. Tôi nhìn xem hình hài đẹp đẽ của con người ta cứ từ từ thoái hóa rồi tan rữa; tôi quan sát quá trình phân hủy đầy chết chóc lan dần lên gò má hồng hào; tôi thấy dòi bọ nhấm nháp dần đôi mắt, bộ óc đã được sáng tạo đầy kỳ diệu. Tôi dừng lại, xem xét và phân tích chi tiết từng ly từng tí quá trình gây ra việc đó, thể hiện qua sự chuyển đổi từ sống sang chết, từ chết tời sống - cho tời khi giữa bóng tối mung lung một tia sáng đột ngộ bừng lên, tia sáng này sao mà rực rỡ, lạ kỳ, lại quả đỗi đơn giản, đến mức đang bàng hoàng về triển vọng to lớn mà nó vẻ ra, tôi vẫn phải ngạc nhiên tại sao giữa bao nhiêu thiên tài tiến hành nghiên cứu trên cùng một đề tài, chỉ riêng tôi được dành phần phát hiện ra bí mật kì diệu này.

Anh nhớ cho, tôi không ghi lại ảo ảnh của một thằng điên. Điều tôi khẳng định là sự thực, thực như mặt trời tỏa sáng trên bầu trời vậy. Có lẽ phép thần thông nào đó đã đưa nó tới, tuy nhiên mỗi giai đoạn của khám phá đều rõ rệt, đều hoàn toàn hợp lý. Sau nhiều đêm ngày vất vả mệt nhọc không sao tả xiết, tôi đã thành công trong việc phát hiện nguyên nhân của sinh sản và sự sống; chưa hết, tôi đã đạt tới mức có thể trao sự sống cho vật chất vốn vô tri vô giác.

Nỗi sửng sốt trước những gì vừa khám phá ra đã nhanh chóng nhường chỗ cho vui sướng mê ly. Bao thời gian lao động cực khổ để rồi ngay một lúc đạt tối đỉnh cao của niềm khao khát, đây là phần thưởng mãn nguyện nhất cho những công sức của tôi. Nhưng phát hiên này lớn lao quá, áp đảo quá, đến nỗi mọi quá trình dẫn dắt tôi tới được kết quả này đều đã mờ hết trong trí óc tôi, và tôi chỉ nhìn ngắm kết quả mà thôi. Những gì là nghiên cứu, ước mơ của các nhà thông thái hàng đầu từ thuở khai thiên lập địa đến giờ, nay đã trong tầm tay tôi. Không phải nó mở ra trước mắt tôi lập tức, như khi vén lên tấm màn ảo thuật: thông tin tôi đạt được sẽ hướng đạo mọi sự cố gắng của tôi ngay khi tôi tập trung vào đối tượng cần nghiên cứu, hơn là bày ra trước mắt tôi đối tượng đã được hoàn thành. Tôi chẳng khác gì anh chàng Ả Rập bị chôn cùng với những người chết đã tìm được đường trở về cõi sống, chỉ nhờ một tia sáng le lói, tưởng như vô tác dụng.

Trông anh hăm hở, ngạc nhiên và đôi mắt hy vọng thế kia, bạn ơi, tôi hiểu bạn muốn được tôi bảo cho bí mật mà tôi đã giành được; nhưng tôi không thể : hãy nghe cho hết cau chuyện của tôi đã, bạn sẽ thấy vì sao tôi dè dặt. Tôi không muốn lôi kéo bạn, một người đang cuồng nhiệt, và không được trông chừng cũng như tôi lúc bấy giờ, chẳng phải lời giáo huấn thì ít nhất cũng từ tấm gương của tôi: có được kiến thức nguy hiểm biết chừng nào, và kẻ nào coi quê hương mình là cả thế gian hạnh phúc hôn biết bao nhiêu so với kẻ khát khao trỏ nên vĩ đại hơn bản chất mình cho phép.

Khi thấy được một quyền lực dáng kinh ngạc đến thế đang nằm trong tay mình, tôi đắn đo khá lâu xem nên dùng nó ra sao. Mặc dù tôi đã sở hữu quyền lực tạo ra sự sống, nhưng để chuẩn bị một cơ thể để tiếp nhận sự sống ấy, với các sợi thần kinh, bắp thịt, mạch máu vô cùng phức tạp của nó, vẫn là một công việc khó khăn và vất vả không thể tưởng được. Lúc đầu tôi còn băn khoăn có nên sáng tạo một sinh vật giống như mình không, hay là một sinh vật có tổ chức cơ thể đơn giản hơn; nhưng trí tưởng tượng của tôi quá bị kích động sau thành công ban đầu, khiến tôi hoàn toàn không nghi ngờ việc mình thừa sức tạo ra sự sống cho một sinh vật phức tạp và tuyệt diệu như con người. Ngay lúc này thì vật liệu trong khả năng huy động của tôi chua đủ cho công việc gay go ấy, tuy nhiên tôi không mảy may nghĩ mình không thể thành công. Tôi chuẩn bị tinh thần đối phó với cản trở sẽ đến; công cuộc của tôi có thể vấp phải trở ngại không ngừng, kết quả sau rất không hoàn chỉnh; ấy thế nhưng khi xem xét tiến triển từng ngày của khoa học và cơ học, tôi lại được khích lệ thêm để hy vọng những cố gắng của mình ít nhất cũng đặt nền móng cho thành công trong tương lai. Tôi cũng không hề coi sự phức tạp và tầm vóc của ké hoạch đó là bằng chứng nó không thực tế. Trong tâm trạng ấy tôi khởi động cộng trình sáng tạo ra một con người. Vì tính chất quá tỉ mỉ của các phần cơ thể ảnh hưởng tới tiến độ công trình, tôi quyết định, trái với ý tưởng ban đầu, sẽ tạo một bộ khung khổng lồ; cụ thể là cao khoảng hai mét rưỡi và to ngang, nhưng hài hòa và cân xứng. Sau khi quyết định rồi, thêm mấy tháng đi thu thập và xắp xếp vật liệu, tôi bắt đầu công việc.

Không ai hình dung nỗi những cảm nghĩ khác nhau đến mức nào đã cuốn hút tôi xông lên như một cơn lốc tron niềm say sưa đầu tiên về thắng lợi. Sống và chết đối với tôi là những biên giới lý tưởng, tôi phải vượt qua trước nhất, mang rọi một dòng thác ánh sàng vào thế giới tối tăm của chúng ta. Một ging61 loài mới sẽ sùng kính tôi đã tạo ra chúng, là mẫu hình của chúng; bao nhiêu có thể siêu việt và vui sướng sẽ mang ơn tôi vì đã cho chùng có mặt trên đời này. Không người cha nào có thể đòi hỏi con cái biết ơn mình như tôi có quyền đòi hỏi chúng. Theo dòng tư tưởng lan man, tôi còn nghĩ: một khi mình có thể đem lại sự sống cho vật chất vô tri vo gián, thì dần dần( cho dù giờ đây tôi đã biết là không thể) tôi cũng có thể trả lại sự sống ở những cơ thể đã bị tử thần hiến hoàn toàn cho mục rữa.

Những ý nghĩ đó cỗ vũ tinh thần tôi khiến tôi theo đuổi công trình với nhiệt tình cháy cỏng không lúc nào thuyên giảm. Hai mà tôi đã vì thế mà xanh nhợt, thân hình tọp đi vì tự giam hãm trong nhà. Đôi lúc tưởng cập bến bờ của thành công rồi, tôi lại thất bại; ấy thế nhưng tôi vẫn bám lấy niềm hy vọng rằng sáng hôm sau hoặc giờ tiếp theo sẽ thức hiện được. Một bí mật chỉ riêng tôi sỡ hữu, dó chính là niềm hy vọng mà tôi đã dồn hết tâm sức vào; và trang soi rọi vào những đêm miệt mài của tôi, trong khi, say mê đến căng thẳng không thở được nữa, tôi truy đuổi tự nhiên đến tận nơi ẩn trốn của nàng. Ai hình dung được nhửng kinh hoàng trong công việc khó nhọc và bí mật của tôi, khi tôi đào lớp đất ẩm phạm thánh của mồ mả lên hoặc hành hạ súc vật đang sống nhằm dánh thức chất đất sét sâm lặng? Chân tay tôi vẫn đang còn run lên đây , mắt vẫn còn mờ lệ khi nhó lại những việc đó, ấy thế nhưng lúc đó một mãnh lực không thể cưỡng lại được, hàu như diên cuồng nào đó cứ thúc đẩy tôi tiến tới; tôi mất hết cả linh hồn và cảm xúc trừ một đeo đuổi duy nhất này. Đó cuối cùng cũng chỉ là một cơn hôn mê thoáng qua, chỉ làm tôi tỉnh táo hơn khi động lực bất thường đó qua đi và tôi trở lại thói quen cũ. Tôi thu thập xương người từ các nhà xác; và bằng những ngón tay phàm tục quấy nhiễu bí mật thiêng liêng về cơ thể người. Trong một căn phòng cô độc, hay là cái ổ thì đúng hơn, trên tầng áp mái, nhờ dãy hành lang và cầu thang mà tách rời khỏi mọi căn hộ khác, tôi bố trí gian xưởng làm cái công việc sáng tạo bẩn thỉu dơ dáy ấy; hai tròng mắt tôi đảo tròn trong hốc mắt, theo dõi từng chi tiết công cuộc của tôi. vật liệu chủ yếu lấy từ phòng giải phẩu tử thi và lò sát sinh, và thường phần nhân tính trong tôi quay đi ghê tởm trước việc tôi làm, trong khi, dưới cơn thôi thúc tăng lên vô tận, tôi tiếp tục công trình mình gần đến hoàn tất.

Các tháng hè trôi qua trong khi tôi mải mê làm việc, toàn tâm toàn ý. Lúc này là mùa đẹp nhất trong năm, đồng lúa chưa bao giờ báo hiệu được mùa hơn thế , đồng nho cũng hứa hẹn bội thu, thế nhưng mắt tôi hoàn toàn vô cảm với vẻ đẹp thiên nhiên. Lãnh cảm với cảnh vật xung quanh mình thế nào tôi cũng quên bẵng bạn bè nơi quê hương xa xôi cách trở, lâu ngày không gặp thế ấy. Tôi biết sự im lặng của tôi khiến họ lo âu, và tôi nhớ lời căn dặn của cha tôi: "Cha biết trong khi vui hưởng cuộc sống con vẫn nhớ tới chúng ta với tình thương yêu trìu mến, và nhà sẽ thường nhận được thư con. Con sẽ không thể trách được nếu cha coi việc con trễ nải thư từ cũng có nghĩa là con đang sao lãng mọi nhiệm vụ khác của mình."

Vì vậy tôi hiểu rõ cảm nghĩ của cha tôi sẽ ra sao: tuy nhiên tôi không làm sao cách ly tâm trí mình khỏi cái công việc bản thân thì thật ghê tởm, nhưng lại thu hút toàn bộ óc tưởng tượng của tôi không gì cưỡng lại được. Tôi đã cố trì hoản lại tất cả những gì liên quan đến tình cảm yêu thương , cho tới lúc mục tiêu to lớn nuốt hết mọi thói quen của bản chất tôi hoàn tất đã.

Lúc đó tôi nghĩ rằng cha tôi bất o\công nếu ông đổ sự sao lãng của tôi là do lỗi lầm tật xấu; nhưng giờ đây tôi lại thấy quả ông đã đúng khi cho rằng tôi không hoàn toàn không đáng trách. Con người hoàn thiện bao giờ cũng phải giữ được tâm hồn yên bình thanh thản, không để cho bất kỳ niềm say mê hay ý muốn nhất thời nào ảnh hưởng đến sự tĩnh tâm. Tôi nghĩ theo đuổi kiến thức cũng không được nằm ngoài quy luật đó. Nếu công cuộc anh dang dốc lòng theo đuổi lại có xu hướng làm suy yếu những tình cảm của anh, phá tan tình yêu dành cho những niềm vui giản đơn không gì pha tạp được, thì công cuộc ấy quả là bất chính, không thích hợp với tâm hồn con người. Giá quy luật này luôn được tuân thù; giá không ai để cho sự nghiệp mình đeo đuổi bất kể là gì can thiệp tới những tình cảm gia đình yên ả, hẳn Hy Lạp không đến nỗi bị đô hộ, Caesar đã tha thứ cho đất nước mình; châu Mỹ được phát hiện ra không nóng vội như thế; và các đế chế Mexico và Peru Không đến nỗi tiêu vong.

Nhưng quên, đến phần hay nhất của câu chuyện tôi lại mải lý luận về đạo đức, và trông anh tôi mới nhớ ra mình cần tiếp tục.

Cha tôi không trách móc gì trong thư từ của ông, và sự im lặng của tôi chỉ được ông lưu ý đến bằng cách hỏi han công việc của tôi kỹ lưỡng hơn trước. Đông qua, xuân lại, rồi hè tới trong lúc công việc gian khổ của tôi tiếp tục, nhưng tôi chẳng nhìn thấy cây cối đâm chồi nảy lộc - cảnh ấy xưa vẫn khơi lên niềm hân hoan vô hạn trong tôi - bởi qua lao tâm khổ tứ vào công việc. Việc gần xong thì lá cây cũng úa tàn, và giờ đây mỗi ngày càng chứng tỏ rõ ràng hơn tôi đã tiến được tới mức nào. Nhưng nhiệt tình của tôi bị nỗi lo lắng kìm nén lại, và trông tôi giống như người nô lệ lam lũ ngoài mỏ hay bất cứ nghề nghiệp lao lực khác thì đúng hơn là một nghệ sĩ đang đắm đuối trong công việc mình ưa thích. Đêm nào tôi cũng len cơn sốt nhẹ, và thần kinh căng thẳng đến cùng cực; một chiếc lá rơi cũng khiến tôi giật mình thon thót; tôi lảng trách đồng loại như người phạm tội. Đôi lúc tôi cũng hoảng hồn vì thấy mình đang ngày càng trở nên khốn khổ; chỉ mình sức mạnh của một tiêu giữ cho tôi đứng vững: mọi vất vả sắp qua rồi, và tôi tin rằng vận động và giải trí sẽ xua tan cơn bệnh mới chớm bắt đầu; và tôi tự hứa sẽ dành thời gian cho cả hai thứ đó, khi công cuộc sáng tạo của tôi đã được hoàn tất nghiêm chỉnh.

Chương 5

Vào một đên tháng mười một ảm đạm, cộng trình gian khổ của tôi hoàn thành. Lo lắng đến mức như đau đớn, tôi thu thập các khí quan của sự sống nằm quanh tôi, để đưa tia lửa sống vào cái cơ thể đang vô tri vô giác nẳm dưới chân tôi kia. Đã một giờ sáng, mưa buồn thảm đập vào ô kính cửa sổ, nến đã sắp sửa tàn, thì, dưới ánh sáng đang lụi dần chỉ còn le lói, tôi trông thấy con mắt vàng đục của cái sinh vật kia hé mở; nó thở nặng nhọc, và một cơn co giật chạy qua chân tay nó.

Làm sao miêu tả nổi nỗi xúc động của tôi trước tai ương ấy; làm sao phác họa nên cái của khốn nạn mà tôi đã bao đau đớn và chăm chút sáng tạo ra? Chân tay hắn cân đối đâu vào đấy, và tôi đã cố lựa chọn cho hắn nét mặt thật là đẹp đẽ. Đẹp đẽ ư! - Trời cao đất dày ơi! Làn da vàng của hắn che không nổi các cơ và mạch máu đang giần giật bên dưới; tóc đen óng chảy sóng mượt, răng trắng muốt như hạt ngọc trai; tuy nhiên những nét đẹp thừa thãi đó chỉ tạo thành mối tương phản khủng khiếp với đôi mắt ướt nhoèn, giống hệt màu nâu xám của xương hốc mắt, nước da úa tàn, và đôi môi đen mím chặt.

Cuộc đời có biến động đến mấy cũng ít khôn lường hơn tình cảm con người. Gần hai năm trời tôi miệt mài lao động, chỉ nhằm mục đích thổi sự sống vào một cái thi thể bất động. Vì mục đích ấy tôi đã tự tước đi cá nghỉ ngơi và sức khỏe. Tôi đã cháy lòng khao khát nó với một tình cảm vượt xa điều độ; ấy thế mà nay, hoàn tất công việc rồi, cái đẹp của giấc mơ biến mất, chỉ còn lại nỗi kinh hoàng và ghê tởm đến nghẹt thở trong tim, Chịu không nổi phải nhìn thấy cái thực thể mình đã tạo ra đó, tôi chạy bổ ra khỏi phòng , mất một hồi lâu đi tới đi lui trong phòng ngủ, không thể nào bình tĩnh lại mà ngủ được. Mãi sau, sự kiệt sức đã lên cao thành cơn hoảng loạn mà tôi đã trải qua lúc trước; và tôi để cả quần áo vật mình lên giường, cố tìm quên lãng. Nhưng chỉ vô ích: tôi ngủ được thật, nhưng lại gặp phải một giấc mơ rồ dại chưa từng thấy. Tôi tưởng như trông thấy Elizabeth, sức khỏe tràn trề, đang đi trên đường phố Ingolstadt. Quá sung sướng và ngạc nhiên, tôi ôm lấy nàng; nhưng khi tôi đặt nụ hôn đầu tiên lên môi nàng, nó chợt trở thành tím tái đầy chết chóc; nét mặt nàng dướng như thay đổi, và tôi tưởng như đang ôm xác người mẹ quá cố của tôi trong tay; một tấm khăn liệm phủ lấy hình hài, tôi trông thấy dòi bọ dưới mồ đang bò lổm ngổm trên các nếp gấp của tấm khăn. Tôi choàng dậy vì hoảng hốt; mồ hôi lạnh dấp trên trán, răng va lập cập vào nhau, tứ chi co rút: vừa lúc đó, nhờ ánh trăng vàng mờ chui lọt qua khe chớp cửa sổ, tôi nhìn thấy kẻ khốn nạn kia - con quái vật thảm hại mà tôi tạo ra. Hắn vén màn che giường lên, đôi mắt hắn, nếu ta có thể gọi là mắt , chăm chú nhìn tôi. Quai hàm há ra, hắn thì thầm những âm thanh không rành mạch, trong khi má nhăn lại trong một điệu cười. Có lẽ hắn đã nói gì đó, nhưng tôi không nghe thấy; hắn giơ một cánh tay ra, hầu như muốn nắm lấy tôi, nhưng tôi chuồn mất, và lao xuống cầu thang. Tôi náu vào sân sau ngôi nhà đang ở, trốn ở đó suốt đêm; tâm hồn xáo động, tôi cứ đi đi lại lại, nghe nghe ngóng ngóng, nắm bắt và tái người trước mỗi tiếng động nhỏ như thể nó báo hiệu cái thây ma quỷ kia đến gần, cái thây tôi đã phạm hành động kinh tởm là ban cho sự sống.

Ôi! Không người sống nào có thể chịu đựng nổi gương mặt kinh khủng ấy. Một cái xác ướp sống lại cũng không đến nỗi xấu xí ghê tởm như của khốn nạn này. Tôi đã nhìn kỹ hắn lúc hắn chưa hoàn thành; lúc ấy trông hắn đã xấu rồi; nhưng đến khi các cơ vá khớp cử động được, hắn trở thành một thứ ngay cả Dante cũng không hình dung nổi.

Đêm hôm ấy trôi qua thật khốn khổ đối với tôi. Có lúc mạch tôi đập nhanh và mạnh đến nổi tôi cảm thấy cơn run của từng nhịp đập; lúc khác, tôi gần như xỉu xuống đất do kiệt quệ và yếu ớt quá chừng. Giữa nỗi kinh hoàng ấy, tôi cảm thấy niềm thất vọng chua cay; những giấc mơ lâu nay nuôi dưỡng tôi, là nơi tôi ẩn náu êm đềm trong cả một thời gian dài đến thế, nay đối với tôi là địa ngục, sự thay đổi quá nhanh đến thế, tát cả đổ sụp hoàn toàn đến thế!

Buổi sáng ẩm thấp u sầu cuối cùng cũng rạng, và hé ra trước đôi mắt đau nhức và thiếu ngủ của tôi nhà thờ Ingolstadt, ngọn thép tráng với đồng hồ của nó, đang chỉ sáu giờ . Người gác mở cổng sân, nơi ẩn náu của tôi đêm đó, và tôi ào ra đường, bước nhanh lên các con phố, tựa như tìm cách lánh mặt cái của khốn nạn kia, mà tôi cảm giác sẽ ló ra ở bất cứ góc phố nào. Tôi không dám trở về căn phòng mình ở, mà cảm thấy bị buộc phải đi cho nhanh, dù đanh ướt sũng như chuột lột vì cơn mưa mới trút xuống từ bầu trời đen kịt u ám.

Tối cứ đi như thế một lúc lâu, mong hành xác để rũ bớt gánh nặng mang trong tâm trí. Tôi qua hết phố nọ đến phố kia, chẳng hề có chút khái niệm mình đang ở đâu, đang làm gì. Tim tôi giật lên từng hồi trong cơn sợ muốn phát bệnh; tôi bước vội bước vàng chân thấp chân cao, không dám đưa mắt nhìn quanh.:

Như ai đó, trên con đường cô quạnh

Bước đi trong khiếp đảm hãi hùng

Chỉ quay lại nhìn có một lần

Rồi thôi không dám quay đầu nữa

Bởi hắn biết một con quỷ khủng khiếp

Đang theo sát hắn từng bước chân.

Cứ tiếp tục đi như thế, cuối cùng tôi đến trước cái quán xưa nay nhiều xe ngựa chở khách hay hàng hóa đường dài hay tới đậu. Tôi dừng lại ở đó, chẳng hiểu tại sao: nhưng tôi cứ đứng yên dán mắt vào một chiếc xe từ đầu phố đằng kia đang tiến lại phía tôi. Tới gần, tôi thấy đó là một xe ngựa Thụy Sĩ: Nó dừng ngay nơi tôi đứng; cửa xe mở ra, và tôi trông thấy Henry Clerval đã nhảy ào ra khi trông thấy tôi. " Frankenstein thân mến của tôi ơi! Mừng Biết bao khi gặp lại bạn! May sao bạn ở đây đúng lúc tôi xuống xe!"

Không gì làm tôi sung sướng hơn khi trông thấy Clerval; nhìn thấy anh tôi tưởng ngay đến cha tôi, Elizabeth, mọi cảnh tượng quê nhà thân thương trong trí nhớ. Tôi vội nắm bàn tay anh, phút chốc quên hẳn cơn hải hùng và rủi ro đang chịu đựng; đột ngột và lần đầu tiên sau nhiều tháng trời tôi lại cảm thấy niềm vui yên bình và trong sáng. Thánh thử tôi đón tiếp Clerval thân tình vô hạn, và chúng tôi tản bộ về phía trường. Clerval tiếp tục nói khá lâu về những người bạn chung, về may mắn của bản thân được phép tới Ingolstadt. " Bạn hẳn quá biết", Clerval nói, "Thuyết phục được cha tôi khó như thế nào để ông hiểu rằng mọi kiến thức người ta cần ở đời đâu chỉ nhờ cái nghệ thuật cao quý là ôm sổ sách kế toán; và thực tế, tôi tin rằng mãi đến phút cuối tôi cũng không lay chuyển được lòng tin của cha tôi, bởi những cau trả lời thường trực cho những câu hỏi không mỏi của tôi vẫn y như ông thầy giáo Hà Lan nói trong Cha Sở Xứ Wakefield , 'chẳng cần tiếng Hy Lạp tôi vẫn có mười ngàn florin một năm, chẳng cần tiếng Hy Lạp tôi vẫn ăn ngon miệng.' Nhưng cuối cùng tình yêu dánh cho tôi đã chiến thắng được sự khinh miệt đối với học hành, và ông đồng ý cho tôi thực hiện một chuyến du hánh khám phá miền đất quê hương tri thức."

" Găp bạn là niềm vui mừng lớn nhất dành cho tôi, song hãy cho tôi biết tình hình cha tôi, các em trai tôi, Elizabeth ra sao khi bạn ra đi."

" Họ khỏe cả, và rất hạnh phúc, chỉ hơi không yên lòng khi bạn gần như chẳng viết thư về gì cả. Nhân đây, tôi cũng được giao nhiệm vụ phải thay họ diễn thuyết một bài dạo đức cho bạn nhớ. - Nhưng Frankenstein ạ," Clerval bỗng dửng lại, nhìn kỹ khuôn mặt tôi, " lúc nãy tôi chưa kịp để ý rằng trông bạn ốm quá đi mất, xanh và gầy quá, có vẻ đã thức trắng nhiều đêm."

" Bạn đoán đúng; gần đây tôi lao vào một đóng việc, nó không cho phép tôi được nghỉ ngơi đầy đủ như bạn thấy đấy: Nhưng tôi hy vọng, thành thực hy vọng là công việc ấy giờ đây đã chấm dứt rồi, và rằng tôi đã được hoàn toàn tự do."

Tôi run bắn hết cả người lên; nghĩ về nó tôi đã không chịu nổi, chưa nói đến chuyện nhắc nhở về sự việc đêm qua. Tôi bước nhanh và chẳng mấy chốc cả hai về đến trường tôi. Lúc đó tôi nhớ lại, và rùng mình, rằng cái sinh vật tôi tạo ra hôm qua, chắc vẫn còn đấy, sống nguyên, và đang đi lung tung trong nhà. Tôi sợ đến phát khiếp khi lại phải nhìn thấy con quái vật này, nhưng sợ hơn nữa là để Henry nhìn thấy nó. Vì vậy, yêu cầu bạn tôi đứng lại vài phút dưới chân cầu thang, tôi lao lên căn hộ của mình. Đã đặt tay lên núm cửa rồi mà tôi vẫn chưa bình tĩnh lại. Tôi ngừng một lát; và một cơn run rẩy cóng người lướt qua tôi. Tôi đẩy tung cánh cửa, giống kiểu trẻ con vẫn làm khi nghĩ rằng có ma đứng sẵn chờ chúng bên trong; nhưng chẳng thấy gì hết. Tôi bước vào tron kinh sợ, căn hộ trống rỗng, giường tôi cũng không còn vị khách kia. Tôi không sao tin được mình may mắn đến nhường ấy; nhưng khi chắc chắn kẻ thù đã chuồn mất rồi, tôi vỗ tay đầy mừng rỡ, và chạy xuống đón Clerval.

Hai chúng tôi lên phòng, và người phục vụ lâp tức mang thức ăn sáng tới, nhưng tôi không kiềm chế được mình. Tôi không chỉ tràn ngập trong sung sướng; tôi cảm thấy từng thớ thịt mình rạo rực như có kim châm, mạch tôi rộn lên. Tôi không đứng yên được lấy một chút; tôi nhảy lên ghế, vỗ hai bàn tay vào nhau, cười lên ha hả. Lúc đầu Clerval tưởng tôi vui bất thường là do anh đến, nhưng khi nhìn kĩ hơn anh thấy trong mắt tôi có ánh diên dại mà anh không hiểu được; và những tràn cười lớn, khô khốc, không kiềm chế được của tôi khiến anh lấy làm lạ và hoảng sợ nữa.

" Victor thân mến," anh kêu len, "Có chuyên gì thế này hả trời? Đừng có cười như thế. Bạn ốm quá rồi! Tất cả chuyện này là vì đâu vậy?"

" Đừng hỏi tôi bạn ơi," tôi vừa hét to vừa lấy tay che mắt, vì cảm giác như vừa thấy con ma kinh khủng lại lướt vào phòng: " hắn đấy, hắn sẽ cho bạn biết vì sao. - Ôi, cứu tôi với. Cứu tôi!" Tưởng như con quái vật nắm lấy mình, tôi vùng vẫy kịch liệt rồi lăn ra ngất xỉu.

Clerval tội nghiệp! Chẳng hiểu lúc đó cảm nghĩ anh ra sao? Một cuộc gặp gỡ mà anh đã mong chờ vui vẻ đến thế, nay biến thành cay đắng lạ lùng. Nhưng tôi nào có chứng kiến được nỗi dau khổ của anh; bởi tôi đã bất tỉnh nhân sự, và chỉ tỉnh lại sau một thời gian dài, rất dài.

Đó là khởi đầu của một cơn sốt thần kinh đã khiến tôi phải liệt giường nhiều tháng. Suốt thời kỳ này Henry là y tá duy nhất săn sóc tôi. Mãi về sau tôi mới biết rằng, vì biết cha tôi tuổi già sức yếu, khó lòng đi xa được, và Elizabeth sẽ khốn khổ đến đau nếu biết tôi ra thế này, anh đã giấu nhẹm không cho họ biết tôi nguy kịch đến đâu. Anh cũng hiểu chẳng ai chăm sóc cho tôi ân cần chu đáo hơn anh; và tin tưởng chắc chắn tôi sẽ khỏi, anh nghĩ mình làm vậy không phải là có hại, mà ngược lại là cưu xử tốt nhất đối với họ.

Nhưng tôi thực sự ốm rất nặng, và chắc chắn chỉ có sự chăm sóc tận tụy vô hạn của bạn tôi mới có thể trả tôi về với cuộc đời. Hình thù con quái vật tôi đã trao cho sự sống lúc nào cũng hiện trước mắt tôi, và tôi không ngừng nói mê sảng về nó. Hẳn lời tôi nói phải khiến Henry lấy làm lạ: lúc đầu anh cho đó là kết quả của óc tưởng tượng bị kích động của tôi; nhưng cứ nghe tôi dai dẳng nói mãi về cùng một đề tài anh đã bị thuyết phục rằng bệnh tinh tôi thực tế bắt nguồn từ một sự kiện bất thường và kinh khửng nào đó.

Thật chậm chạp, với nhiều đợt suy sụp lặp lại thường xuyên khiến bạn tôi hoảng hốt và xót ruột, tôi hồi phục lại. Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên toi lại có thể quan sát sự vật xung quanh mình với chút ít thích thú, tôi thấy rằng lá úa đã biến mất hoàn toàn, chồi non đang mọc ra từ đám câm xòa bóng vào cửa sổ. Mùa xuân ấy thật là thần thánh, và mùa xuân đến đã giúp cho quá trình dưỡng bệnh của tôi rất nhiều. Tôi cũng cảm thấy những cảm xúc vui sướng và yêu thương trở lại trong lồng ngực, tâm trạng u ám biến mất, và sau một thời gian ngắn tôi lại vui vẻ yêu đời như lúc chưa rơi vào niềm mê đắm định mệnh kia.

" Bạn clerval yêu mến nhất đời của tôi ơi," tôi nói," bạn tốt với tôi quá! Cả mùa đông mà bạn tự hứa sẽ dành để học hành, lại mất tiêu trong phòng người bệnh như thế này. Tôi biết làm sao trả ơn bạn đây? Tôi ân hận vô cùng vì đã là nguyên cớ cho nỗi thất vọng ấy của bạn; nhưng hẳn là bạn sẽ tha thứ cho tôi."

" Đừng lo ngại gì, cứ mau khỏe lên tức là bạn đã trả ơn tôi hoàn toàn rồi đó; và tiện đây bạn đang vui vẻ thế này, tôi nói với bạn vấn đề này được không?"

Tôi run quá. Một vấn đề! Vấn đề gì? Liệu có phải anh định ám chỉ tới cái đối tượng mà nghỉ đến tôi cũng không dám hay không?

" Bình tĩnh lại đi," Clerval nói, khi nhìn thấy tôi biến sắc." Tôi sẽ khong nhắc nữa, nếu nó khiến bạn kích động đến thế, nhưng cha bạn và cô em họ hẳn sẽ sung sướng lắm khi nhận được thư do chính tay bạn viết. họ chỉ biết lơ mơ về trận ốm của bạn, và rất hoang mang thấy bạn cứ im lặng hoài như vậy."

" Chỉ có thế thôi ư, hả Henry thân mến? Chẳng lẽ bạn nghĩ rằng những ý đầu tiên của tôi không phải về họ sao, những người bạn thân thương tôi yêu dấu và rất xứng đáng với tình yêu của tôi?"

" Nếu tâm trạng bạn lúc này đây là như vậy thì bạn ơi , có lẽ bạn sẽ vui mừng đọc là thư đang nằm chờ bạn từ mấy ngày nay rồi; tôi đoan chắc đó là của cô em họ bạn."

Chương 6

Vậy là Clerval trao vào tay tôi lá thư sau đây. Đó là nàng Elizabeth của riêng tôi:

Anh họ yêu quý của em,

Anh đang ốm nặng, nặng vô cùng, và ngay cả những bức thư liên tiếp của Clerval tốt bụng cũng không trấn an em về sức khỏe của anh được. Anh bị cấm viết thư, anh không cầm nổi bút; ấy thế nhưng chỉ cần một chữ tự tay anh viết. Victor yêu quý ạ, Cũng đủ trấn an cả nhà rồi. Suốt thời gian dài em cứ nghĩ rằng chuyến thư kế sẽ mang tới bức thư đầy mong đợi đó, và những lời thuyết phục của em đã kìm chân bác trai khỏi lên đường di Ingolstadt. Em đã ngăn không muốn ông gặp phải những bất tiện, thậm chí nguy hiểm của cuộc hành trình quá dài đến vậy, nhưng bao nhiêu lần em tiếc không tự mình thực hiện chuyến đi này! Em cứ hình dung nhiệm vụ coi sóc anh bên giường bệnh được trao cho một bà hộ lý đi thuê, không bao giờ hiểu được anh muốn gì, cũng chẳng đáp ứng những mong muốn đó tận tụy chu đáo như cô em họ đáng thương này được. Nhưng thôi tất cả đã qua rồi: Clerval viết là anh đang thực sự khá lên; em đang chờ đợi anh khẳng định điều này bằng những dòng chữ chính tay anh viết.

Anh mau khỏe - và trở về với mọi người. Anh sẽ tìm lại được một gia đình vui vẻ, hạnh phúc, những người bạn yêu anh thiết tha. Sức khỏe cha anh rất tốt, ông chỉ muốn có một điều là gặp lại anh - chỉ để chắc chắn anh đã khỏe; và khuôn mặt nhân từ của ông sẽ không còn vẩn nét lo âu nữa. Anh sẽ vui mừng biết bao với những tiến bộ của Ernest! Cậu ấy mười sáu tuôi rồi, đầy năng động và phấn chấn. Cậu ấy khao khát trở thành một người Thụy Sĩ thực thụ, và đi quân dịch ở nước ngoài; tuy nhiên cả nhà giờ vẫn chưa thể rời xa cậu, hoặc ít nhất đợi chừng nào anh cả của cậu trở về đã. Bác trai cũng chẳng ưa gì ý tưởng phục vụ binh nghiệp tại một xứ sở xa xôi; nhưng Ernest không có được ý chí chăm chỉ dùi mài kinh sử như anh. Cậu ấy coi học hành là xiềng xích đáng căm ghét; cả ngày cậu ấy chỉ ở ngoài trời, hết leo núi lại chéo thuyền. Em e rằng cậu ấy rồi sẽ trở thành một chàng công tử nhàn rỗi mất thôi, trừ phi cả nhà chiều lòng cậu ấy, và cho phép cậu ấy gia nhập hàng ngũ cậu ấy đã lựa chọn.

Chẳng có gì thay đổi lắm từ khi anh đi ngoài sự lớn lên của các em chúng ta. Mặt hồ xanh ngắt , những ngọn núi tuyết phủ, chẳng bao giờ thay đổi... và em nghĩ ngôi nhà bình dị của mình cùng những trái tim mãn nguyện trong đó cũng theo cùng quy luật bất biến này. Công việc vặt hàng ngày chiếm hầu hết thời gian của em và làm em vui thích, và vất vả đến đâu em cũng tự thấy mình đã được ban thưởng xứng đáng bằng sự hiện diện của những gương mặt hạnh phúc, tươi tắn quanh em. Có lẽ sau khi anh đi, chỉ còn mỗi mội thay đỗi đến với gia đình ta. Anh còn nhớ Justine Meritz đã về với nhà ta trong hoàn cảnh nào không? Có lẽ không; do đó em sẽ nhắc lại sơ qua câu chuyện. Bà Moritz, mẹ cô gái, ở góa với bốn đứa con, Justine là con thứ ba. Cô vốn được cha yêu quý nhất, nhưng do một tình cảm bất thường nào đó, mẹ cô không chịu nổi cô, và sau khi ông Moritz tạ thế, mẹ cô xử tệ với cô vô cùng. Bác gái đã chứng kiến cảnh này, và khi cô mười hai tuổi, bác đã thuyết phục mẹ cô cho cô đến ở với gia đình ta. Thế chế cộng hòa của nước ta đặt ra những tập tục đơn giản, dễ chịu hơn nhiều so với những gì đang thịnh trong các nước quân chủ hùng mạnh xung quanh. Vì thế không có những phân biệt quá đáng giữa các giai cấp trong xã hội ta; và những tầng lớp thấp hôn trong xã hội không quá nghèo và không bị khinh rẽ, phong thái họ vẫn tế nhị và đúng đắn. Gia nhân ở Geneva không phải là một gia nhân như ở nước pháp hay anh. Justine đến với gia đình ta trong cảnh đó, đã học những bổn phận của một người làm; một vị thế, trong xứ xở may mắn của chúng ta, không kiềm được sự dốt nát và thủ tiêu lòng tự trọng.

Chắc anh còn nhớ anh vẫn luôn rất quý mến Justine; và em nhớ có lần anh đã nhận xét, nếu anh đang chán nản, một ánh mắt cô bé sẽ làm anh dịu lại ngay; cũng cùng một lý do Ariosto nêu ra về sắc đẹp của Angelica - bởi tron cô thật vui tươi, thật chân thành. Bác gái trở nên gắn bó với cô vô kể, và giáo dục cô cẩn thận hơn nhiều so với ý định ban đầu của bác. Ơn này đã được đền đáp trọn vẹn; Justine là sinh linh biết hàm ơn nhất trên đời; ý em không phải cổ thổ lộ điều gì, mội cô chưa từng nói một lời tương tự; nhưng qua ánh mắt cô có thể thấy rõ ràng cô gần như sùng mộ người bảo trợ cho mình. Mặc dù tính cô vui vẻ, thoải mái vô tư, thế nhưng cô vẫn hết mực chú ý nhất cử nhất động của bác gái. Cô coi bác gái là diển hình ưu việt về mọi phương diện, và cố gắng phỏng theo từ cách nói năng, đi đứng đến tác phong xử xự, thành thử kể cả giờ đây cô vẫn thường nhắc em ngớ đến bác.

Khi bác gái yêu quý nhất của mình mất đi, ai nấy đều quá bận tâm với nỗi đau của mình, chẳng ai để ý đến Justine là người chăm sóc thật tận tâm, lo lắng khi bác ốm. Cô bé tội nghiệp ốm yếu lắm, nhưng vẫn còn nhiều thử thách đang chờ đón cô.

Từng người một , các anh em cô lần lượt qua đời; mẹ cô bị bỏ lại cô đơn chỉ còn người con gái bà từng ruồng bỏ. Lương tâm của người đàn bà chao đảo; bà bắt đầu ngờ rằng cái chết của đám con cưng là sự trừng phạt của tời đối với lòng thiên vị của bà. Bà là tín đồ Công giáo, và em tin chắc rằng cha xưng tội của bà đã cũng cố thêm ý tưởng này. Vài tháng sau khi anh di Ingolstdt, Justine bị bà mẹ hối hận gọi về. Tội ngiệp cô gái! Rời khỏi nhà ta cô khóc sướt mướt; sau cái chết của bác gái, cô thay đồi hẳn đi; nỗi đau đã khiến cô trở nên mềm mại hơn và dịu dàng quyến rũ lòng người hơn trước, so với những phong thái hoạt bát trước đó của cô. Cuộc sống ở nhà mẹ cô cũng không phải lối sống có thể trả cô niềm vui cũ. Nỗi ân hận của bà mẹ rất thất thường. bà lúc thì cầu khẩn cô tha thứ cho cách cư xử tàn nhẫn khi trước, nhưng thường xuyên hơn là đổ tội cho cô gây ra cái chết của anh chị em cô. Xáo động triền miên cuối cùng khiến bà Moritz suy nhược, lúc đầu chỉ khiến tính tình bà ta khó chịu thêm, nhưng giờ đây bà ta đã yen nghĩ vĩnh viễn rồi. Bà ta mất hồi đầu mùa đông này, khi đợt rét đầu tiên tới. Justine lại trở lại nhà ta; bảo đảm với anh, em yêu thương cô lắm. Cô rất thông minh và hiền dịu, và xinh ghê lắm; như em đã nói trên kia, dáng dấp, vẻ mặt cô luôn làm em nhớ tới bác gái thân yêu.

Cấn thêm vài lời với anh về em William bé nhỏ thân thương nữa. Ước gì anh nhìn thấy chú nhỏ; chú cao hơn tuổi nhiều, đôi mắt xanh hiền dịu như đang cười, hàng mu thẫm, tóc quăn từng lọn. Mỗi lần chú mỉm cười lúm đồng tiền hai bên má hồng hào lại hiện lên. Chú bé đã có một hai cô vợ bé bỏng rồi đấy, nhưng Louisa Biron là người chú thích nhất, một cô bé xinh xẻo.

Giờ thì, Victor thân mến, em dám nói rằng anh cũng muốn dư phần vào đôi câu chuyện ngồi lê đôi mách về đám thượng lưu ở Geneva. Cô Mansfield xinh đẹp đã nhận được những chuyến thăm mừng cuộc hôn nhân sắp tới của cô với một chàng người Anh trẻ, công tử John Melbourne. Cô chị xấu xí, Manon, mùa thu năm ngoài đã lấy ông chủ nhà băng giàu có Duvillard. Bạn học mà anh yêu nhất, Luois Manoir, đã gặp phải vài điều không may từ khi Clerval đi khỏi Geneva. Nhưng tinh thần anh ta đã hồi phục lại, và nghe nói còn sắp kết hôn với một bà người pháp xinh đẹp vui tươi là Madame Tavernier nữa. Đó là một bà góa già hơn Manoir nhiều; nhưng bà rất được mọi người hâm mộ, và ai cũng yêu mến bà ấy.

Anh họ thân yêu, viết cho anh em đã vui lên nhiều, nhưng đến cuối thư, nỗi lo lắng của em trở lại. Anh hãy viết về nhà, Victor yêu quý nhé, dù chỉ một dòng thôi, ngay cả một chữ cũng đũ khiến gia đình hạnh phúc lắm rồi. Cảm ơm Henry hàng chục ngàn lần vì lòng tử tế, vì tình thương eyu6 và vì những lá thư không ngớt của anh ấy; cả nhà chân thành biết ơn. Tạm biệt anh họ của em! Hãy lo giữ gìn sức khỏe; và hãy viết thư, em khẩn nài anh đấy!

Elizabeth Lavenza

Geneva, 18 tháng ba ,17...

" Elizabeth thân yêu! Elizabeth thân yêu!" tôi kêu lên sau khi đọc xong lá thư," tôi sẽ viết thu ngay lập tức để giải phóng họ khỏi nỗi lo lắng họ ắt đang cảm thấy." Và thế là tôi viết, nỗ lực ấy khiến tôi mệt nhoài người, nhưng kỳ dưỡng bệnh của tôi bắt đầu, sức khỏe cứ ngày một tiến triển tốt hơn. Sau nữa tháng, tôi đã rời khỏi phòng được.

Một trong những việc làm đầu tiên của tôi sau khi hồi phục là giới thiệu Clerval với các giáo sư trong trường. Làm việc này tôi phải cố gắng ghê gớm, nó chẳng thích hợp với những vết thương trí não tôi còn giữ lại. Kể từ cái đêm định mệnh ấy, cái đêm đã kết thúc mọi cực nhọc và bắt đầu mọi khốn khổ của tôi, tôi đâm ghét cay ghét đắng ngay cả cái tên môn triết học tự nhiên. Dù đã phục hồi về hầu hết các mặt khác rồi, nhìn thấy mấy dụng cụ thí nghiệm hóa học vẫn cứ khơi lại từ đầu các triệu chứng thần kinh vậ vã của tôi. Henry nhận thấy điều này, và dẹp sạch các dụng cụ thí nghiệm để tôi khỏi nhìn thấy. Anh đổi cả căn phòng tôi ở; bởi anh để ý biết tôi đã có ác cảm với căn phòng vốn là phòng thí nghiệm của tôi. Nhưng những nỗ lực của anh đều để sông đổ bể khi tôi đến thăm các giáo sư. Thầy Waldman khơi lai75 sự tra tấn khi nhiệt thành ân cần khen ngợi những tiến bộ đáng ngạc nhiên của tôi trong khoa học. Thày nhận ra ngay tôi không thích đề tài này; nhưng không đoán biết nguyên nhân thực, thày cho đó là vì khiêm tốn; bèn chuyển từ đề tài tiến bộ của tôi sang bản thân khoa học, rõ ràng muốnép tôi mở miệng. Tôi biết làm thế nào? Thầy muốn nlam2 tôi vui lòng, nhưng rốt cuộc chỉ càng hành hạ tôi. Tôi cảm giác như thầy cứ dần dần bày ra trước mắt tôi, lần lượt từng thứ một, những dụng cụ sau đó sẽ dùng để giết tôi một cách từ từ và hiểm ác. Tôi quằn quại dưới mỗi lời thầy nói, tuy không dám để lộ nỗi đau đớn ra. Clerval, mắt nhìn và cảm xúc vốn luôn luôn nhạy với cảm giác của những người xung quanh, từ chối ngay chủ đề đó, lấy cớ hoàn toàn không hiểu biết gì về để cáo lỗi, và câu chuyện chuyển sang một hướng chung hơn. Tôi cảm ơn bạn mình tự đáy lòng, nhưng không nói ra. Tôi thấy rõ anh lấy làm lạ, nhưng không bao giờ có ý định vặn hỏi tôi điều bí mật; và mặc dầu tôi yêu anh đồng thời trọng anh vô bờ bến, tôi vẫn không sao tự thuyết phục được mình thổ lộ với anh cái sự kiện lúc nào cũng lù lù trong ký ức tôi, mà nếu như kể sâu vào chi tiết với ai đó tôi sợ càng gây ấn tượng sâu sắc hơn lên bản thân mình.

Thầy Krempe thì không dễ bị đánh lừa như vậy; và trong tình trạng cực kỳ nhạy cảm đến mức chịu hết siết của tôi lúc bấy giờ, bài tán dương trắng trợn và thô lỗ của ông ta làm tôi còn khốn khổ hôn những lời ca ngợi hiền từ của thầy Waldman." Tiên sư cái thăng!"

Ông ta kêu lên, "này, Ông Clerval, tôi thề với ông thằng này đã vượt xa hơn tất cả chúng tôi. Ờ, ông cứ giương mắt ra tùy thích, nhưng đó là sự thật. Một con gà trống choai, mới vài năm trước còn tin ở Cornelius Agrippa như tin phúc âm, thế mà bây giờ nhất trường đấy; và nếu không kéo hắn xuống cho nhanh chúng tôi sẽ đều mắt mặt cho mà coi" - Ấy ấy," thấy vẻ mặt đau khổ của tôi ông ta nói tiếp. " Ông Frankenstein thật khiêm tốn, một đức tính hiếm có ở người trẻ tuổi . Khi còn trẻ người ta thường thiếu tự tin, ông biết đấy Ông Clerval ạ; Hồi trẻ tôi cũng vậy, nhưng chỉ ít lâu sẽ khác thôi. "

Rồi thầy Krempe bắt đầu một bài tán tụng bản thân mình, và câu chuyện may mắn chuyển sang hướng khác đỡ khó chịu cho tôi.

Clerval xưa nay không chia sẽ ý thích của tôi về khoa học tự nhiên; những sách vở anh tìm đọc khác hoàn toàn với những gì làm tôi bận trí. Anh đến trường đại học với ý định tự rèn mình tinh thông mọi ngôn ngữ Đông phương, mở ra một lĩnh vực cho kế hoạch đời mình mà anh đã hoạch định. Quyết tâm sẽ không theo đuổi sự nhiệp kém vinh quang, anh hướng tầm nhìn về phương đông: như thể chỉ nơi đó mới dủ tầm vóc cho khao khát được nên công nghiệp của anh. Các ngôn ngữ Ba Tư, Ả rập và Sanakrit khiến anh chú ý, tôi cũng dễ dàng bị lôi cuốn vào học cùng anh. Vô công rồi nghề luôn làm tôi khó chịu, chưa kể mong thoát khỏi các ám ảnh cũ, căm ghét những tri thức trước đây của mình, tôi nhẹ hẳn người khi làm bạn đồng học với bạn mình, tác phẩm của các nhà hiền triết phương Đông không những khiến tôi mở mang trí tuệ mà còn là nguồn an ủi lớn đối với tôi. Khác với Clerval, tôi không nhắm đến kiến thức uyên thâm về biến thể của những ngôn ngữ đó, bởi tôi không dự định sử dụng chúng vào mục đích gì khác ngoài giải trí nhất thời. Tôi đọc chỉ nhẳm hiểu nghĩa, và cũng bỏ công+. Cái buốn của chúng thật êm đềm, và cái vui lên tới đỉnh cao mà tôi chưa bao giờ thấy khi nghiên cứu văn học các nước khác. Đọc họ tôi cảm thấy đời chỉ là mặt trồi ấm áp với vườn hoa hồng, là nụ cười và đôi mày cau của địch thủ xinh đẹp, và là ngọn lửa thiêu đốt trái tim ta. Khác xa nền thi ca đầy nam tính và chất anh hùng của Hy Lạp và La Mã!.

Mùa hè cú trội đi trong những công việc đó; ngày trở về Geneva của tôi đã ấn định vào cuối mùa thu, song phải hoãn đi hoãn lại mãi vì sự kiện này đến sự kein65 khác; mùa đông tời, tuyết rơi đầy, đường xá không đi được, và chuyến đi của tôi lại phải để sang xuân. Tôi cảm thấy việc chậm tr64 này đặc biệt đắng cay, vì tôi mong mỏi nhìn thấy thành phố quê hương, gặp lại bạn bè thương yêu biết bao. Chuyến thăm nhà của tôi dời lại mãi như thế chỉ là vì không muốn để Clerval ở lại nơi anh còn lạ nước lạ cái, trước khi anh kịp quen với mọi người xung quanh. Mùa đông tuy vậy vẫn trôi qua đầy hạnh phúc; và mùa xuân tuy đến luộn một cách kỳ quặc, nhưng khi đến, vẻ đẹp của nó bù lại được hết thói biếng lười của nó.

Tháng năm giờ đã bắt đầu, và giữa lúc tôi đang từng ngày ngóng chờ thư nhà để ấn định ngày về, Henry đề xuất một cuộc ngao du, đi bộ xung quanh ngoại vi Ingolstadt để tôi đích thân tạm biệt vùng đất của tôi đã sống khá lâu như thế. Tôi sung sướng đồng ý: tôi vốn ưa vận động, mà Clerval luôn là bạn đồng hành thú vị của tôi trong những cuộc dạo chơi thăm thú thiên nhiên kiểu đó ở chốn quê nhà.

Chúng tôi mất nữa tháng cho những chuyến lữ hành ấy: sức khỏe cũng như tinh thần tôi vốn đã phục hồi, nay càng được cải thiện dáng kể nhờ không khí trong lành tôi hít thở, những cảnh vật tự nhiên tôi gặp trên đường, nhờ chuyện trò của bạn tôi nữa. Trước đây công việc học hành đã khiến tôi xa lánh mọi người, biến tôi thành kẻ tách biệt với xã hội; nhưng Clerval đã khơi dậy những tình cảm tốt đẹp trong trái tim tôi, dạy tôi lại từ đầu biết yêu thiên nhiên, yêu những khuôn mặt vui tươi của trẻ thơ. Người bạn tuyệt vời của tôi! Bạn đã yêu tôi đến thế, cố nâng đỡ tâm trí tôi cho tới lúc nó bắt kịp tâm trí bạn! Những đeo đẳng ích kỉ đã khiến tôi bị câu thúc và bó hẹp, cho tới khi tình càm dịu dàng của bạn đã sưởi ấm lại và khai thông các giác quan của tôi; tôi trở lại thành sinh linh hạnh phúc của ngày xa xưa, yêu và được yêu bởi tất cả mọi người, chẳng vẩn gợn lo âu buồn khổ. Đang hạnh phúc, ngay cả thiên nhiên bấy động cũng đủ sức đánh thức trong tôi cảm giác sung sướng nhất. bầu trời trong sáng và những cánh đồng xanh rờn khiến tôi tràn ngập ngất ngây. Mùa này thật là thần diệu, hoa xuân nở không còn bị xái trộn với những ý nghĩ mà năm ngoái đã đè trên người như một gánh nặng không lay chuyển, bát chấp những nỗ lực để rủ bỏ chúng.

Henry thấy tôi vui vẻ thì hoan hỉ lắm, và chân thành chia sẽ những cảm xúc củ tôi; anh tìm mọi cách giúp tôi tiêu khiển, trong lúc bày tỏ những xúc động tràn ngập tâm hồn mình. Và trong việc này đầu óc anh mới phong phú làm sao chứ: lời lẽ của anh đầy tưởng tượng cao xa; và rất thường xuyên, phỏng theo các nhà văn BaTu và Ả Rập , anh nghĩ ra những câu chuyện lạ lùng đầy say mê. Những lúc khác anh đọc lại những bài thơ tôi thích nhất, hoặc tôi lôi vào các cuộc tranh luận , tô điểm bằng những suy tưởng lạ kỳ.

Chúng tôi trở lại trường vào buổi trưa một ngày chủ nhật: nông dân nhảy múa trên đường, và những ai tôi gặp đều tỏ ra vui vẻ hạnh phúc. Tinh thần tôi cũng đang vô cùng phấn chấn, tôi tiến bước trong niềm hân hoan và vui nhộn không kiềm chế nổi.

Chương 7

Về đến nhà tôi thấy có thư của cha tôi:

Victor, con yêu quý.

Chắc hẳn cpnd ang9 sốt ruột chờ lá thư hẹn ngày con sẽ về với chúng ta và cha lúc đầu chỉ định viết vài dòng, vắn tắt nói ngày chúng ta muốn1 con về. Nhưng như vậy sẽ là tử tế một cách quá tàn nhẫn , cha không đành lòng làm vậy. Nếu vậy rồi con sẽ ngạc nhiên đến đâu, khi con đang chờ được chào đón vui vẻ tưng bừng, thì ngược lại, phải giáp mặt chỉ toàn nước mắt và khốn khổ? Và Victor ơi, cha biết kể cho con nghe thảm họa này như thế nào đây? Xa vắng lâu ngày đâu thể khiến con chai sạn trước vui buồn của gia đình , và cha sao đưa niềm đau tới cho con trai vắng mặt đã lâu? Cha mujon61 chuẩn bị tinh thần cho con trước tin dữ, nhưng cha biết rằng không thể; ngay giây ohut1 này đây mắt con đã lướt nhanh trên trang giấy, tìm xem đâu là những chữ tin tức khủng khiếp đến cho mình.

William chết rồi! - đứa bé dịu hiền, mỗi lần mìm cười lại đem niềm vui ấm áp cho lòng cha, đứa bé dịu dàng mà vui nhộn biết bao! Victor ơi, nó đã bị giết!

Cah không định an ủi con đâu, chỉ giản đôn kể lại hoàn cảnh xảy ra sự việt.

Thứ năm trước (mồng bảy tháng năm) cha ,cô cháu gái và hai em trai con đi dạo ở Plainpllais. Trời chiều trong và ấm, chúng ta dạo chơi lâu hơn ngày thường. Khi chuẩn bị quay về thì trời đã tối, hai em Ernest và William trước đã chạy chơi, và giờ không thế đâu cả. Mọi người ngồi xuống đợi chúng quay lại.. Ernest trở lại ngay sau đó, hỏi xem có ai nhìn thấy William đâu không, nó nói hai anh em chơi trốn tìm, thằng bé đi trốn, và nó tìm mãi không ra, rồi sau đó nó cứ chờ em mãi, nhưng thằng bé không trở lại.

Chuyện đó khiến chúng ta khá hốt hoảng , mọi người đi tìm khắp nơi cho đến khi đêm xuống, và Elizabeth phỏng đoán nó đã về nhà. Nhưng không có. Mọi người đem đuốc quay lại chỗ cũ; bởi cha không yên lòng khi nghĩ rằng đứa bé đáng yêu đã đi lạc và đang run lên trong sương gió đêm hôm. Elizabeth cũng khổ não không kể xiết. Năm giờ sáng cha tìm thấy em nó, mới đem qua cón linh hoạt và mạnh khỏe là thế, mà nau nằm trên cỏ nhợt nhạt và bất động, vết tay của tên sát nhân còn hằn nơi cổ.

Em con được đưa về nhà, và nét mặt đau khổ của cha khiến Elizabeth đoán ngay ra chuyện. Cô cứ nhất định đòi nhìn thấy xác em con. Cha định cản nhưng cô vùng ra, và lao vào phòng nơi em nằm; vội vàng kiểm tra cổ em William và chắp tay lại mà kêu. "Trời ơi! Tôi đã giết chết đứa em yêu quý của tôi rồi!."

Tếh là cô ngất đi, cứu chữa mải mới hồi tĩnh. Khi tỉnh rồi cô chỉ khóc lóc và than thở. Cô nói chiều qua em William cứ nằn nì đòi đeo bức ảnh nhỏ rất già trị mẹ emđã cho cô. Bcu71 ảnh đeo cổ giờ đã mất, rõ ràng đây là kẻ cướp giết em để trấn lột. Lúc này đây chưa thấy tăm hơi kẻ sát nhân, mặc dầu việc tìm kiếm được tiến hành không chậm trễ, nhưng làm sao William Yêu dấu của cha sống lại được nữa!

Con trai Victor yêu quý! Con hãy mau về, chỉ mình con an ủi được Elizabeth. Cô khóc hết nước mắt và tự buộc tội mình là nguyên nhân gây ra cái chết của em, thật bất công, nhữn lời tự buộc tội ấy xé nát lòng cha. Tất cả chúng ta đều đau khổ, nhưng chẳng phải đây càng thêm lý do để con trở về an ủi chúng ta? Mẹ yêu dấu của con! Chao ôi, Victor! Giờ cha tạ on Chứa vì bà ấy không còn sống để chứng kiến cái chết ác nghiệt thảm thương của cậu con út yêu thương!

Victor ơi, hãy về đi: không phải là với ý nghĩ nung nấu trả thù kẻ sát nhân, mà với những tình cảm yên bình nhân hậu, để hàn gắn vết thương của tâm hồn chúng ta chứ không phải làm nó càng mưng thêm. Hãy là một người bạn bước vào ngôi nhà tang tóc với tình yêu thương ân cần trìu mến đối với những người yêu en, không phải với lòng căm hờn kẻ thù của con.

Cha thân yêu và đau buồn của con

ALPHONSE FRANKENSTEIN

Geneva, 12 tháng Bảy 17...

Clerval, vẫn theo dõi nét mặt trong khi tôi đọc thư, lấy làm lạ nhận thấy vẻ thất vọng thao sau nỗi vui mừng của tôi khi tôi được tin nhà. Tôi ném bức thư lên bàn, lấy hai tay úp lên mặt.

" Frankenstein thân mến," Henry kêu lên khi thấy tôi khóc một cách cay đắng, " chẳng lẽ lúc nào bạn cũng bất hạnh thế sao? Bạn yêu ơi, chuyện gì xảy ra vậy?"

Tôi ra hiệu cho anh nhặt bức thư lên đọc, trong khi đó tôi đi đi lại lại trong phòng, hết sức kích động. Nước mắt chảy tràn trên má Clerval khi anh đọc về nỗi đau của tôi.

"Bạn ơi, biết phải an ủi bạn sao đây", anh nói,"tai họa ấy không cách gì cứu vãn được. bạn định làm gì bây giờ?"

"Về ngay Geneva: Henry, bạn hãy đi cùng với tôi ra gọi xe ngựa."

Trên đường đi gọi xe, Henry cố nói vài lời an ủi, nhưng chỉ bày tỏ được sự thông cảm tự đáy lòng anh. " Tội nghiệp William!" anh nói, "chú bé thân yêu đễ thương giờ đã yên ngủ bên bà mẹ thiên thần! Ai đã nhìn thấy chú hồn nhiên rạng rỡ như thế nào trong vẻ đẹp trẻ thơ của chú đều phải khóc than đau đớn cho sự mất mát quá sớm ấy! chết khổ sở như vậy, chịu đau đớn dưới bàn tay kẻ sát nhân! Làm sao lại có kẻ sát nhân khốn nạn đến mức này: đang tay hủy hoại vẻ thơ ngây trong sáng chói đến như thế! Tội nghiệp chú bé biết chừng nào! Chỉ còn mỗi một điều khả dĩ an ủi chúng ta; những người bạn đang khóc lóc thương tiếc chú, nhung chứ đã yên nghĩ rồi. Nỗi đau đã qua, mọi khổ ãi trên đời đối với chú đã hết. Cỏ xanh đã bao phủ hình hài chú, chú không biết đau đớn là gì nữa. không cần thương hại chú nữa, sự thương hại ta phải dành cho những kẻ ở lại thảm thương này."

Clerval nói như vậy trong khi chúng tôi bước vội vàng qua các phố; những lời này in đậm lên trí óc tôi, sau này tôi sẽ nhớ đến chúng khi ở một mình. Nhưng lúc ấy, ngựa vùa đến là tôi hớt hải lên xe, tạm biệt bạn tôi.

Trong chuyến trở về tôi chìm tron sầu não. Thoạt tiên tôi chỉ muốn đi cho nhanh, mau về an ủi, cảm thông với những người bạn thân yêu đang đau buồn, nhưng kho về gần đến nhà, tôi lại đi chậm lại. Tôi không kiềm chế nổi muôn vàn tình cảm đang ào ạt đổ về. Này đây là những cảnh vật quen thuộc với tôi hồi nhỏ nhưng đã sáu năm nay chưa nhìn lại. Suốt thời gian đó mọi điều đã biến đổi biết bao! Đã có một thay đổi bất ngờ và tan nát nhưng ngoài ra hẳn còn hàng ngàn sự kiện nho nhỏ âm thầm hơn nhưng không kém phần chắc chắn. Nỗi sợ xâm chiếm tôi, tôi không dám tiến lên nữa, khiếp sợ hàng ngàn điều xấu hổ vô danh đang khiến tôi run rẩy, mặc dù không định nghĩa được chúng là gì.

Tôi ở lại Lausanne hai ngày trong tình trang tinh thần thiểu não ấy. Tôi ngắm mặt hồ: mặt nước bình lặng, cung quanh vẫn yên tĩnh, những ngọn núi tuyết phủ, "những tòa lâu đài của thiên nhiên" không hề thay đổi . Dần dần, cảnh vật êm đềm thanh khiết khiến tôi bình tâm lại, tiếp tục hành trình đi Geneva.

Con đường chạy dọc bờ hồ và ngày càng hẹp lại khi về gần đến thành phố quê hương. Tôi nhìn thấy rõ hơn sườn tối của dãy Jura và đỉnh Mont Blanc sáng chói; tôi khóc như đứa trẻ. "Những ngọn núi thân thương của ta! Hồ đẹp của riêng ta! Các ngươi đang chào đón kẻ lang thang của các ngươi như thế nào đây? Đỉnh núi sáng trong, màu trời và màu nước hồ đều xanh đều dịu. Đó là điềm báo trước sự thanh thản yên bình hay sự chọc ghẹo nỗi bất hạnh của ta đây?" Bạn ơi, tôi sợ mình đi sâu quá vào những tiền đề chán ngán này, nhưng chúng là hiện thân của những ngày tương đối hạnh phúc, và tôi sung sướng bao nhiêu khi nghĩ về chúng. Quê hương ơi! Quê hương yêu dấu ơi! Chỉ có những ai chôm nhau cắt rốn ở đây mới hiểu niềm vui sướng của tôi khi nhìn thấy những dòng suối, những ngọn núi, và hơn hết, mặt hồ của quê hương tôi!

Ấy thế mà càng tới gần nhà tôi càng bị choáng ngợp bởi nỗi sợ hãi và đau đớn. Đêm đã buông xuống xung quanh, và khi không còn phân biệt rõ những mãng núi non đen kịt, tôi càng cảm thấy u ám thêm. Khưng cảnh trông như một sân khấu mênh mông mờ tối nơi ác tà ngự trị, và tôi lở mở tiên lượng được định phận mình là kẻ khốn nạn nhất trần gian. Trời ơi! Tôi tiên đoán không nhầm, chỉ sai duy nhất có một điều tôi, tức là nỗi khổ tôi vẫn hình dung và sợ hãi đó chưa bằng một phần trăm nỗi đau thực sự mà số phận tôi phải gánh chịu.

Tới ngoại ô Geneva thì trời tối mịt; cổng thành đã đóng, tôi buộc phải ngủ tại Secheron, một làng cách thành phố khoảng hai cây số. Bầu trời rất trong; và bởi không tài nào ngủ được, tôi quyết định đi tới nơi em William tội nghiệp của tôi bị giết. Vì không qua thành phố được, tôi phảo đi thuyền sang bên kia hồ tới PlainPalais. Trong Trong chuyến đi ngắn ngủi này tôi nhìn thấy ánh chớp bắt đầu loang loáng trên đỉnh Mont Blanc tạo thành những hình thù tuyệt đẹp. Cơn bão có vẻ đang lại rất nhanh, và khi lên bờ, tôi trèo lên một ngọn đồi thấp để có dịp quan sát tiến triển của bão. Bão ập tới, mây kéo đến đầy trời, và tôi lập tức cảm thấy mưa đang chầm chậm rơi từng giọt nặng, nhưng nó mau chóng trở nên hung hãn.

Tôi rời bỏ vị trí của mình và đi tiếp, dù bão táp và đêm tối tăng lên từng phút một, và sấm nổ đùng đùng trên đầu. Tiếng sấm vọng lại từ Saleve, từ Jura, từ dãy Alps miền Savoy, chới lóe lên chói cả mắt, chiếu sáng mặt hồ như một mặt lửa mênh mông ; chớp tan rồi trong phút chốc tất cả lại chìm trong bóng tối mịt mùng, tới khi mắt hồi lại sau cơn lóa. Thường ở Thụy sĩ, bão xảy ra cùng lúc ở khắp bầu trời. Cơn mạnh nhất ở phía bắc thành phố, ngay trên khu vực hồ nằm giữa mũi đất Belrive và làng Copet. Một cơn khác soi sáng núi Jura với những ánh chớp yếu hơn, và một cơn nữa làm đỉnh núi Mole nhọn hoắt về phía đông hồ lúc thì tối ôm, lúc thì lộ rõ.

Tôi vừa ngắm cơn bão, đẹp tuyệt với nhưng cũng rất kinh hoáng, vừa bước loanh quanh một cách gấp gáp,. Trận chiến thần thánh trên cao nâng tinh thần tôi lên; tôi chắp hai tay vào nhau gọi lớn: "William! Thiên thần yêu quý! Đây là tang lễ của em, bài hát truy điệu em đó!" Vừa kêu to lên như thế, tôi bắt gặp từ bụi cây gần đó nhô ra một dáng hình trong bóng tối mờ ảo; tôi đứng sững lại nhìn chăm chăm; không thể nhầm được. Vừa vặn chớp lóe lên soi tỏ bóng người rõ mồn một trước mắt tôi; vóc dáng kềnh càng, hình thù méo mó, xấu đến không thể coi là giống người, lập tức báo cho tôi đó chính là kẻ khốn nạn kia, tên ác thần bẩn thỉu mà tôi đã ban cho sự sống. Hắn làm gì ở đây? Chẳng lẽ hắn (tôi rùng mình với ý tưởng này) chính là kẻ đã giết em tôi? Ý nghĩ vừa lướt qua tôi đã tin ngay đó là sự thật; răng tôi va vào nhau lập cập, tôi phải đụa vào một thân cây để đứng cho vững. Dáng hình kia lướt nhanh qua tôi rồi biên mất trong bóng tối. Không kẻ nào mang hình dạng con người có thể đành lòng hủy hoại đứa trẻ xinh đẹp ấy. Chính hắn là kẻ sát nhân! Tôi không hề nghi ngờ điều đó. Riêng ý nghĩ về điều đó thôi cũng đủ là bằng chứng không chối cãi của sự việc rồi. Tôi đã tính chuyện đuổi theo tên ác quỷ; nhưng chắc sẽ vô ích, vì một ánh chớp nữa soi rõ hắn đang bám trên vách đá gần như thẳng đứng của ngọn Saleve thuộc dãy núi đồi bao bọc phía Nam Plainpalais. Hắn leo rất nhanh lên đỉnh núi, rồi mất hút.

Tôi đứng bất động một lúc. Sấm đã ngừng nổ, nhưng mưa vẫn rơi, cảnh vật bọc trong màn đêm dày đặc.trí óc tôi lật lại những sự kiện mà suốt từ bấy đến nay tôi cố quên đi: toàn bộ quá trình đi tới tạo nên sinh thể ấy; sự hiện diện của các tác phẩm do chính bàn tay tôi thực hiện bên giường tôi; cuộc bỏ trốn của nó. Gần hai năm trôi qua kể từ đêm hắn nhận được ự sống; và liệu đây có phải tội ác đầu tiên của hắn không? Trời ơi! Tôi đã thả ra thế giới này một kẻ khốn nạn, sa đọa, lấy sự giết người, khổ não làm vui; hắn chẳng vừa sát hại em tôi đấy thôi?

Không ai tưởng tượng nổi nỗi đau đớn của tôi phải chịu đựng suốt đêm hôm đó, cứ đứng giữa trời, dưới mưa, vừa ướt vừa lạnh. Nhưng tôi chẳng kể đến thời tiết, đầu óc tôi còn mãi hình dung những cảnh tượng ác độc, tuyệt vọng. Tôi ngẫm đi ngẫm lại về cái kẻ tôi đã vứt ra giữa nhân loại, được phú cho ý chí và quyền năng rùng rợn, giống như hắn vừa làm, như thể là con ma cà rồng của chính tôi, linh hồn của tôi đội mã chui lên, buộc phải hủy hoại tất cả những gì tôi yêu quý.

Ngày đã rạng, tôi cất bước đi về phía thành phố. Cổng thành đã mở, tôi vội vã về nhà cha tôi. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là cho mọi người hay những gì tôi biết về kẻ sát nhân rồi sau đó tiến hành truy tùm tức khắc. Nhưng tôi ngưng lại khi nghĩ về những gì mình sắp kể. Một sinh thể mà chính tay tôi tạo ra, được tôi ban cho sự sống, đã giáp mặt tôi lúc nữa đêm bên bờ vực thẳm của một ngọn núi không ai leo lên được. Tôi cũng nhớ lại cơn sốt thần kinh mắc phải ngay sau khi hoàn thành công việc, sẽ tạo thêm mùi vị mê sảng cho một câu chuyện vốn đã quá phi thực tế. Tôi quá biết nếu có người kể với tôi sự việc như thế, tôi cũng sẽ cho đó là những lời lảm nhảm từ một kẻ khùng. Hơn nữa sự lạ lùng đáng sợ của cái con vật ấy sẽ loại trừ mọi ý định về một cuộc săn đuổi, ngay cả nếu như tôi thuyết phục được họ hàng tin tôi mà đuổi theo. Thêm nữa, săn đuổi thì có ích gì? Ai có thể tóm được một kẻ có thể leo lên sườn dốc đứng của ngọn Saleve? Nghỉ đi nghĩ lại mãi, tôi quyết định im lặng

Năm giờ sáng thì tôi bước vào nhà cha tôi. Tôi bảo đầy tớ đừng làm rộn lên ảnh hưởng tới gia đình tôi rồi vào thư viện ngồi chờ tới giờ trở dậy thông thường.

Sáu năm đã trôi qua như một giấc mộng chỉ trừ một dấu vết không sao xóa được, và tôi lại đứng ở cái nơi mình đã ôm hôn cha lần cuối trước khi tôi rời nhà đi Ingolstadt. Bậc thân phụ đáng yêu, đáng trọng làm sao! Mãi mãi ông vẫn là như vậy đối với tôi. Tôi nhìn lên bức chân dung mẹ treo trên lò dưởi. Đó là một vật kỷ niệm có tính chất lịch sử được vẽ theo yêu cầu của cha tôi; nó vẽ cô Caroline Beaufort, tuyệt vọng đến cùng cực, đang quỳ bên quan tài cha mình. Quần áo tồi tàn, má xanh nhợt; nhưng ở cô toát lên vẻ tự trọn và đẹp đẽ không cho phép ai dám khing thường. Dưới tấm chân dung là bức tiểu họa của William; và nước mắt tôi tuôn trào khi nhìn vào đó. Đúng lúc tôi đang đắm chìm như thế thì Ernest bước vào: cậu đã hay tin tôi về, và vội vã vào đón tôi. Cậu bày tỏ một nỗi vui mừng buồn bã khi thấy tôi.:" Mừng anh Victor yêu quý nhất đã về," cậu nói. "Ôi, giá như anh về nhà trước đây ba tuần lễ để thấy cà nhà vui vẻ sung sướng như thế nào. Anh về bây giờ để chia sẽ nỗi buồn không cách gì làm nhẹ bớt đi được; tuy nhiên em hy vọng sự có mặt của anh sẽ làm cha được hồi sinh vì ông đang chìm trong bể khổ; và anh có thể thuyết phục Elizabeth thôi tự buộc tội mình một cách vô nghĩa và cay đắng. - Em William tội nghiệp! Em từng là nguồn thương yêu hết mực, niềm tự hào của tất cả chúng ta!"

Những giọt lệ không kìm giữ tuôn ra từ mắt em tôi; một cảm giác thống khổ đến lả người len vào thể xác tôi. Trước đây tôi chỉ mới hình dung cảnh khốn khổ của gia đình đang thất vọng; thực tế đến với tôi là một thảm họa mới mẻ và không kém phần tàn khốc. Tôi cố gắng làm cho Ernest bình tĩnh lại, và gặng hỏi cặn kẽ hơn về cha tôi và cô gái mà tôi gọi là em họ.

"Chị ấy mới là người cần an ủi nhất," Ernest nói,"Vì chị ấy cứ tự buộc tội về cái chết của em trai chúng ta, chị ấy khốn khổ vô chừng. Nhưng mà vì đã tìm ra kẻ sát nhân..."

"Tìm ra kẻ sát nhân! Trời ơi! Sao lại thế được? Ai dám đuổi theo hắn? Đó là việc không ai làm được; khác gì đuổi theo gió hay đem rơm ngăn sông. Chính anh cũng đã nhìn thấy hắn, hắn hoàn toàn tự do đêm qua mà!"

"Em không hiểu anh nói gì," Em tôi đáp, giọng ngạc nhiên," nhưng đối với cả nhà, tìm ra điều đó càng khổ tâm bội phần. Lúc đầu không ai tin được chuyện ấy, và Elizabeth đến giờ này vẫn vậy, cho dù đủ mọi bằng chứng. Quả vậy, ai tin dược rằng Justine Moritz dễ thương như thế, ey6u quý cả gia đình ta, mà lại có thể phạm một tội ác hãi hùng ghê tởm như thế?"

"Justine Moritz! Tội ngiệp cô gái, tội nghiệp quá! Cô bị buộc tội ấy ư? Nhưng chuyện đó thật là sai trái, ai cũng biết là vậy, chẳng ai tin nổi điều đó, nhất định là thế, phải không Ernest."

"Lúc đầu thì thế thật, nhưng sau thì một số sự kiện xảy ra, đã gần như ép mọi người phải tin; thái độ cô ta vô cùng rối loạn, lại thêm sức nặng cho các chứng cứ, và em sợ rằng không thể ngờ gì chuyện đó nữa. Nhưng hôm nay họ xử cô ta đấy, và anh sẽ được nghe tất cả."

Ernest kể rằng, sáng hôm sau phát hiện William đáng thương bị giết, Justine kêu ốm, nằm liệt giường mất nhiều ngày. Trong thời gian ấy, cô ở gái tình cờ tìm thấy trong túi chiếc áo cô mặc hôm xảy ra tội ác, bức ảnh nhỏ của mẹ tôi mà em William đeo ở cổ, vốn dĩ được coi là vật hấp dẫn kẻ giết người gây án. Cô ở gái lập tức đem cho một cô gái khác xem, và cô này không nói gì với gia đình mà đến gặp ngay thẩm phán; và theo lời khai của họ, Justine bị bắt. Khi nghe chất vấn về chuyện đó, cô gái đáng thương càng khẳng định thêm sự nghi ngờ bởi thái độ xử xự vô cùng hỗn loạn.

Thật là một câu chuyện kỳ quặc, nhưng nó không làm lay chuyển lòng tin của tôi chút nào, tôi hăm hở nói ngay: "Tất vả nhầm hết rồi. Anh biết kẻ sát nhân là ai. Justine tội nghiệp, cô bé tốt bụng, cô vô tội."

Đúng lúc này cha tôi vào. Tôi thấy nỗi bất hạnh để lại dấu ấn hằn sâu trên mặt ong, nhưng ông cố tỏ ra mừng rỡ đón tôi; và sau khi chào hỏi nhau đầy sầu não, ông đã định chuyển sang đề tài khác ngoài tai họa của chúng tôi nếu Ernest không kêu lên: "Cha này, trời ơi! Anh Victor bảo là anh ấy biết kẻ giết bé William đấy!"

"Chúng ta đều beti61 cả, bất hạnh thay," cha tôi đáp, "vì thà cha không bao giờ biết còn hơn thấy một người cha đánh giá cao như thế lại hóa ra vô ơn sa đọa như thế."

"Cha thân yêu ơi, cha nhầm rồi, justine vô tội."

"Nếu vô tội, Chúa sẽ không bắt cô ta phải chịu đau đớn vì bị coi là phạm tội. Hôm nay xử cô ta đấy, cha hy vọng, thành thật hy vọng cô ta sẽ được tha."

Lời cha tôi khiến tôi yên lòng. Tôi thực sự tin chắc trong tâm khảm là justine, hay đúng hơn là bất kể kẻ nào thuộc giống người, đều không phạm tội trong trường hợp này. Vì thế tôi không hề nghi ngờ người ta có thể tìm thấy bất cứ chứng cứ nào đủ mạnh để kết án cô. Câu chuyện của tôi thì không thể nào kể công khai ra được; tính khủng khiếp đáng ngạc nhiên của nó sẽ bị đám người thô thiển coi là chuyện điên rồ. Ngoài tôi, kẻ sáng tạo ra hắn, liệu có ai trên đời này tin được rằng - trù phi được chính những giác quan của anh ta khẳng định - quả thực đang tồn tại cái tượng đàu sống tôn vinh sự kiêu căng và ngu si liều lĩnh mà chính tay tôi đã thả chạy rông?

Ngay sau đó thì Elizabeth gặp chúng tôi. Thời gian làm nàng thay đởi nhiều kể từ lần sau cùng tôi nhìn thấy nàng, nàng đáng yêu hơn gấp bao nhiêu làm so với sắc đẹp thời niên thiếu. Vẫn vẻ cởi mởi, ngây thơ ấy nhưng kèm theo là nét nhạy cảm và thông minh hơn nhiều. nàng đón chào tôi nhất mực âu yếm. "Anh họ ơi, anh về làm em tràn đầy hy vọng. Có lẽ anh sẽ tìm cách biện minh cho sự vô tội của cô bé justine. Hỡi ơi! Justine mà bị kết tội thì trên thế gian này còn ai được an toàn nữa? Em tin ở sự vô tội của cô như tin ở sự vô tội của chính mình vậy. Nỗi đau buồn của chúng ta đã bị nhân đôi lên, đã mất cậu bé cưng, rồi đến cô gái tội nghiệp mà em thực sự mến yêu này cũng sắp bị tước đi bởi một vận mạng rủi ro hơn nữa. Cô mà bị kết án thì trên đời này em se không bao giờ còn vui lên nữa. Nhưng cô sẽ được tha, em tin chắc thế, lúc ấy em sẽ trở lại vui vẻ thôi, ngay cả sau cái chết đau buồn của em William bé bỏng."

"Cô ta vô tội, Elizabeth thân yêu," tôi nói, "và điều đó sẽ được chứng tỏ; đừng sợ gì hết, em cứ vui lên, cứ tin thế nào cô ta cũng được tha."

"Anh tử tế bao dung làm sao! Ai cũng tin cô bé phạm tội làm em khốn khổ quá chừng, bởi em biết đó là điều không thể xảy ra được; và thấy ai cũng định kiến đến mứt chết người như thế khiến em tuyệt vọng đến nản lòng," và thế là nàng khóc.

"Cháu gái yêu quý," cha tôi nói, "thôi đừng khóc nữa. Nếu quả cô ta vô tội như cháu tin tưởng, thì cháu hãy cứ yên tâm về phần luật pháp của ta, về những điều bác sẽ làm để ngan chặn bất kỳ một chút xíu bất công nào."

Chương 8

Chúng tôi trải qua mấy giờ đồng hồ buồn bã cho đến mười một giờ, giờ xử án. Cha tôi cùng mọi người trong gia đình buộc phải dự trong vai trò người làm chứng, tôi đi theo họ ra tòa. Trong cả tiến trình ngụy công lý khốn nạn này, tôi phải chịu đựng sự tra tấn đỏ sống dở chết. Chuyện này quyết định xem có phải chính kết quả của tính hiếu kỳ và những hành vi bất chấp pháp luật của tôi sẽ gây nên cái chết của hai con người thân thiết với tôi hay không: một là em bé tươi cười tràn trề niềm vui sướng ngây thơ, người kia còn bị sát hại kinh khủng hơn nhiều với đủ thứ ô nhục khiến vụ giết người càng đáng hãi hùng không ai quên nổi. Justine tùng là một cô gái đáng ca ngợi, có nhiều đức tính hứa hẹn đem lại cho cô cuộc đời hạnh phúc, giờ đây tất cả sắp bị xóa xổ trong một nấm mồ nhục nhã; tất cả do tội của tôi! Tôi thà ngàn lần thú nhận mình mắc tội sát nhân mà người ta gán cho Justine còn hơn; tuy nhiên lúc xảy ra vụ án tôi ở xa đây, và lời khai như vậy sẽ bị coi là những lời gầm rú cú kẻ điên, chẳng giải tội được cho người đã vì tôi mà chịu khổ.

Dáng vẻ của Justine rất bình tĩnh. Cô mặc đồ tang, vẻ mặt cô, vốn duyên dáng, nay mang nét trang nghiêm của cảm xúc bên trong, lại càng đẹp đẽ một cách tinh tế. Tuy nhiên cô tỏ ra hoàn toàn tin tưởng mình vô tội, và không hề run sợ, dù bị hàng ngàn người theo dõi và nguyền rủa; bởi lòng nhân ái mà lẽ ra vẻ đẹp của cô phảo gợi lên ở mọi người quan sát đã bị dập tắt với tưởng tượng về tội ác tày trời mà ai nấy cho rằng cô đã phạm. Cô vẫn yên lặng, nhưng rõ thấy sự yên lặng do kiềm chế, và vì cô biết sự mất bình tĩnh trước đây của mình đã được coi như chứng cứ phạm tội, cô cố gắng tỏ ra can đảm. bước vào phòng xử án cô đưa mắt nhìn xung quanh, nhận ra ngay chỗ chúng tôi ngồi. Thấy chúng tôi, mắt cô hình như mờ lệ, nhưng cô trấn tĩnh ngay, và vẻ mặt thương yêu đầy dau khổ của cô có vẻ chứng minh cô hoàn toàn vô tội.

Vụ xử bắt đầu; sau khi trạng sư bên công tố đọc lời buộc tội, nhiều người làm chứng được gọi lên. Rất nhiều sự kiện kỳ lạ liên tiếp với nhau chống lại cô; chẳng phải người nắm được chứng cớ xác thực như tôi hẳn sẽ phải lung lay dao động. Cô đi ra ngoài suốt đêm xảy ra vụ xác nhân, gần sáng bị bắt gặp ở chỗ gần ngay hiện trường bởi một người đàn bà bán hàng ngoài chợ. Bà này hỏi cô làm gì ở đó, nhưng trông cô rất lạ, chỉ ấp úng trả lời cái gì không rõ. Cô trở về nhà khoảng tám giờ sáng , khi có người hỏi đêm qua đi đâu thì cô trả lời đi tìm đứa nhỏ, sau đó hăm hở hỏi có ai nghe thấy gì về em không. Lại thấy sác William cô lên cơn động kinh dữ dội rồi liệt giường nhiều ngày. Rồi tòa đưa ra bức ảnh cô ở gái tìm thấy trong túi áo cô; và khi Elizabeth,bằng một giọng run rẩy, chứng nhận đó chính là bức ảnh mà trước khi em bé lạc một giờ tự tay nàng đã đeo vào cổ em, thì cả phòng xử tràn đầy tiếng rì rầm kinh hoàng và phẫn nộ.

Justine được gọi lên tự biện hộ. Vụ xử càng tiến triển nét mặt cô càng thay đổi. ngạc nhiên, hãi hùng và đau khổ hiện rõ trên mặt cô. Đôi lúc cô cố kìm nước mắt cứ muốn trào ra, nhưng khi đến lượt cô được yêu cầu bào chữa, cô thu hết sức lực, nói bằng một giọng rõ ràng mặc dầu không vững.

"Chỉ có trời mới biết," cô nói, "tôi hoàn toàn vô tội. nhưng tôi không dám vờ rằng chỉ những phản kháng sẽ giúp tôi trắng án: sự vô tội của tôi sẽ dựa trên lời giải thích giản dị về những sự việc đã được dùng để chống lại tôi. Tôi cũng hy vọng bản tính từ nhỏ của tôi sẽ khiến các quan tòa phán xét về tôi thuận lợi hơn, trong những tình huống có vẻ như đáng nghi ngờ."

Rồi cô thuật lại rằng, buổi chiều trước đêm xảy ra vụ án, được phép của Elizabeth, cô ở chơi nhà bà dì ở Chêne, một làng ở cách Geneva bốn cây số. Trở về nhà khoảng lúc chín giờ tối, giữa đường cô gặp một người đàn ông hỏi cô có thấy đứa trẻ lạc hay không. Điều đó làm cô hốt hoảng, và cô đi tìm em trong nhiều giờ, tới khi cổng thành Geneva đóng mắt, thế là cô phải nằm lại vài giờ tron kho thóc của một nhà nông dân, cô quen nhà đó nhưng không muốn thức người trong nhà dậy. hầu như suốt đêm cô chỉ ngồi nhìn ra ngoài, đến gần sáng, cô nghĩ mình đã chôp mắt vài phút, có tiếng bước chân khiến cô tỉnh dậy. Trời đã rạng đông, cô bèn rời nơi nương náu để tiếp tục đi tìm em tôi. Nếu như cô có đi qua gần chỗ xác em bé thì cô cũng không hề hay biết. Sỡ dĩ cô hoang mang ngơ ngác khi bà bán hàng hỏi cô vì cô vừa qua một đêm không ngủ, lại lo cho số phận bé William không biết ra sao. Còn về bức ảnh cô hoàn toàn không hiểu gì hết.

"Tôi biết rằng," nạn nhân bất hạnh nói, "chứng cớ duy nhất này chống lại tôi nặng nề và ác nghiệt không biết thế nào mà kể. nhưng tôi không có khả năng giải thích nó; và sau khi đã trình bày sự bất lực hoàn toàn của mình, tôi chỉ có thể cân nhắc khả năng nó đã được chủ tâm bỏ vào túi tôi. Nhưng cả giả thiết này cũng làm tôi rối trí. Tôi tin tưởng rằng trên đời này tôi không có kẻ thù nào, tôi cũng không tin có kẻ xấu xa đến nỗi muốn hại tôi chỉ do cơn ngẫu hứng. Liệu có phải chính là kẻ sát nhân bỏ vào túi tôi? Tôi không thấy có cơ hội nào cho hắn làm việc đó, hoặc nếu có, thì tại sao hắn phải ăn cắp thứ trang sức ấy, rồi lại quăng nó đi ngay?

"Trường hợp này tôi kêu gọi công lý từ các vị quan tòa, mặc dầu tôi không hy vọng bao nhiêu. Tôi kêu gọi tòa cho phép nghe lời chứng của một vài người về bản tính con người tôi; và giả sử lời xác nhận của họ không đánh đổ được tội lỗi giả định của tôi, thì tôi đành chịu kết án, cho dù tôi đặt trọn sự cứu rỗi sau này trên sự vô tội của tôi."

Vài nhân chứng được gọi lên, họ đều biết cô từ nhỏ, và nghĩ tốt về cô; tuy nhiên vừa sợ vừa căm ghét tội lỗi mà họ nghi cô đã phạm, họ đâm nhút nhát và không muốn nói gì hơn nữa. Elizabeth thấy nguồn hy vọng cuối cùng này, tính tình tốt đến tuyệt vời cũng như đức hạnh không gì chê trách được của Justine, cũng sắp bị bỏ rơi bị cáo, liền cin phát biểu trước tòa tuy nàng đang súc động dữ dội.

"Tôi là họ hàng của em bé bất hạnh," nàng nó, "hay nói đúng hơn là chị của em, vì tôi được cha mẹ em nuôi dạy từ tấm bé từ rất lâu trước khi em ra đời. Có thể vì vậy mà trong trường hợp này lời tôi bênh vực cho Justine sẽ coi là xấu xa; nhưng khi nhìn thấy một người đồng loại sắp phảo chết vì sự hèn nhát của những người vờ vĩnh là bạn của cô, tôi xin phép được lên tiếng , để tôi có thể nói những gì tôi biết về tính cách con người cô. Tôi đã sống cùng nhà với cô, một kỳ năm năm và một thời kỳ gần hai năm. Trong suốt những thời kỳ đó trước mắt tôi cô luôn là người tính tình dễ thương, nhân hậu nhất loài người. Cô đã chăm nom bác gái, bà Frankenstein, trong cơn ốm cuối cùng của bà, vô cùng chu đáo và thương yêu; sau đó lại chăm nom mẹ ruột cô trong một căn bệnh kéo dài, theo một cung cách khiến ai biết cô cũng phải khâm phục; sau đó cô lại về với gia đình bác tôi, nơi ai nấy cũng đều yêu mến cô. Cô gắn bó nồng nàn với đứa bé đã mất, và cư xử như một người mẹ trìu mến nhất. Về phần tôi , tôi không hề do dự mà nói rằng, bất kể các chứng cứ đưa ra để chống lại cô, tôi vẫn tin chắc cô hoàn toàn vô tội. Cô không thể bị cám dỗ để làm một hành động như vậy; thứ trang sức lòe loẹt mà ở đây ta coi là bằng cớ cụ thể, giả sử cô đã thực tình ưa thích nó, tôi đã sẵn lòng đưa nó cho cô, vì tôi quý mến cô và đánh giá cô cao vô kể."

Lại một đợt rì rào tán thưởng sau lời biện hộ đơn giàn mà hùng hồn của Elizabeth; nhưng nó nhằm vào sự can thiệp đầy rộng lượng của nàng. Và không hề có lợi cho Justine, sự phẫn nộ của công chúng đối với cô lại khơi thêm lần nữa, kết tội cô vô ơn bạc nghĩa. Cô đã khóc trong khi Elizabeth nói, nhưng không trả lời. Nỗi đau đớn và xáo động trong lòng tôi lên tới cực diểm trong toàn bộ quá trình xử án. Tôi tin cô ta vô tội, tôi biết điều đó. Chẳng lẽ tên ác thần kia sau khi ám sát em tôi (tôi không nghi ngờ một phút nào), lại tiếp tục trò tiêu khiển từ địa ngục của hắn bằng cách đưa cô bé trong trắng này vào nỗi nhục nhã và cõi chết hay sao? Tôi không còn chịu đựng được hoàn cảnh khủng khiếp của mình nữa; và khi tôi hiểu rằng sự đồng tình của quần chúng, và nét mặt của các quan tòa, đã tuyên án xong nạn nhân khốn khổ của tôi, tôi lao ra khỏi tòa án trong đau đớn cực độ. Những hành hạ mà bị cáo phải chịu đựng không thể so với những giày vò của tôi được; cô đứng vững là do biết mình vô tội; nhưng sự ăn năn nhe nanh xé nát lòng tôi, không muốn luông bỏ con mồi.

Đêm hôm đó đối với tôi thật là khốn nạn. Sáng sớm hôm sau tôi đến tòa án, họng tôi môi tôi khô nẻ như rang. Tôi không dám đưa ra câu hỏi định mệnh, nhưng ở đó họ biết tôi, và liên tục sự đoán được lý do tôi đến . Hôm qua bỏ phiếu phiên tòa đen cả, Justine đã bị kết án.

Tôi không mô tả nỗi cảm giác của mình lúc ấy. Trước đây tôi đã từng biết thế nào là cảm giác hãi hùng và tôi đã cố tỏ vẻ mặt thích hợp trước mặt họ, nhưng lời lẽ đâu diễn đạt nổi nỗi tuyệt vọng thảm sầu trong lòng tôi. Người mà tôi hỏi còn nói thêm: Justine đã nhận tội. "Ca đó rành rành chẳng cần nhận tội," ông ta nhận xét, "tuy nhiên tôi lấy làm mừng; và thực tình chẳng quan tòa nào muốn kết tội một phạm nhân chỉ dựa trên những chứng cứ gián tiếp do suy diễn, cho dù chúng chắc chắn đến đâu."

Tin tức gì mà quái lạ, mà bất ngờ thế này? Nghĩa là thế nào đây? Chẳng lẽ mắt tôi đánh lừa tôi? Phải chăng tôi điên, như người đời tất thảy sẽ nghĩ tôi điên nếu tôi tiết lộ đối tượng của những điều tôi ngờ vực? Tôi vội vã trở về nhà, Elizabeth sốt sắng hỏi tôi kết quả.

"Em họ ơi," tôi nói, "kết quả đã đúng như ta đã hình dung trước, quan tòa nào cũng thà bắt oan mười người vô tội, còn hơn để sống một tên tội phạm. Nhưng mà cô ấy đã thú nhận tội rồi."

Thật là một cú điếng người đối với Elizabeth người vẫn kiên trì tin là Justine vô tội. "Trời đất ơi!" nàng nói: "Tôi còn làm sao tin ở tính bản thiện của con người nữa đây? Justine mà tôi thương yêu, tôi quý mến như em gái ruột, làm sao cô ấy có thể khoác lên những nụ cười trong trẻo thế chỉ để che giấu sự phản phúc? Đôi mắt dịu dàng của cô hầu như không thể chịu được hung dữ và xảo trá, thế mà cô lại phạm tội sát nhân sao?"

Ngay sau đó chúng tôi nghe tin nạn nhân khốn khổ bày tỏ ý muốn được gặp cô em họ tôi. Cha tôi không muốn Elizabeth đi, nhưng nói tùy nàng, tùy tình cảm và phán xét của nàng mà quyết định. "Con sẽ đi," nàng nói " cho dù cô ta có tội đi chăng nữa; và Victor, anh sẽ đi cùng em, em không thể đi một mình được." Ý tưởng đi thăm này tra tấn tôi, nhưng tôi không từ chối được.

Chúng tôi bước vào phòng giam u tối, và thấy Justine ngồi tít đầu kia trên ổ rơm, đầu gục trên đầu gối, hai tay mang còng. Cô đứng dậy khi thấy chúng tôi vào, và khi chỉ còn lại chúng tôi cô quỳ sụp xuống chân Elizabeth, khóc nức nở. Cô em họ tôi cũng khóc theo.

"Chao ôi, Justine em ơi," Elizabeth nói, " sao em nỡ tước đi của chị niềm an ủi cuối cùng? Chị vẫn tin là em vô tội, và tuy lúc đó chị vô cùng khốn khổ, nhưng không đến nỗi thảm hại như ngày hôm nay."

"Cô thực sự tin em xấu xa thế sao? Đồng tâm với kẻ thù của em để nghiền nát em sao, mà kết tội em giết người?" Giong cô nghẹn ngào vì thổn thức.

"Đứng dậy đi, cô bé đáng thương," Elizabeth nói, "sao lại phải quỷ, nếu em vô tội? Chị không ở tron số kẻ thù của em; chị tin em không phạm tội, bất kể chứng cứ nào, cho đến khi chị nghe tin em đã tự mình thú tội. Vậy là họ nói dối, em ơi; và hãy tin rằng không gì trên đời làm lung lay lòng tin của chị đối với em dù chỉ trong phút chốc, ngoại trừ lời thừ tội của chính em."

Em đã thú, nhưng là lời dối trá; em thú tội để được xá tội, nhưng giờ đây sự lừa dối này lại đè nặng lên em hơn mọi tội lỗi khác. Lạy Chúa trên thiên đàng tha tội cho em! Kể từ lúc em bị kết tội, cha xưng tội của em đã tấn công em, dọa dẫm em, đến mức em tưởng như chính mình là con quái vật mà ông ta gán cho em vậy. Cha dọa em sẽ bị rút phép thông công, sau khi chết sẽ xuống hỏa ngục, nết em cứ cứng đầu cứng cổ. Cô chủ ơi, có ai nâng đỡ em đâu, ai cũng nhìn em như con khốn nạn phải chịu nhơ nhuốc , chịu kiếp đọa đầy nơi dịa ngục. Biết làm sao được? Trong một giờ khắc tệ hại em đã buông mình cho lời dối trá ấy, và chỉ tới bây giờ em mới thực sự khốn khổ."

Cô ngừng lởi, lại khóc, rồi nói tiếp: "Cô chủ dịu dàng ạ, em kinh hãi mà nghĩ rằng cô sẽ tin là Justine của cô, người mà cô yêu, lại là một thứ người có thể phạm một tội ác chỉ Quỷ vương mới đang tay làm. William thân yêu! Em bé yêu quý vô vàn! Chẳng bao lâu nữa đâu chị sẽ gặp em trên thiên đường. trên ấy chúng ta sẽ sung sướng, và điều đó an ủi chị nhiều, tuy chị phải chịu ô nhục mà chết."

"Ôi Justine, tha thứ cho chị đã có lúc mất lòng tin ở em. Tại sao em lại nhận tội hả em? Nhưng em đừng than khóc, em yêu. Đừng sợ gì hết. Chị sẽ công bố điếu này, chị sẽ chứng minh em vô tội. Chị sẽ dùng lời khẩn cầu, dùng nước mắt khiến những trái tim đá của kẻ thù em phải tan ra. Em không đựơc chết! - Em, bạn cùng chơi với chị, em gái chị, đời nào chết trên giá treo cổ! Không! Không ! Chị sẽ không bao giờ sống nổi sau rủi eo khủng khiếp đến thế."

Justine lắc đầu rầu rĩ. "Em không sợ chết, cơn đau ấy đã qua. Chúa đã làm em bớt yếu đuối, ban cho em can đảm để chịu được điều xấu nhất. Em từ giã một thế giới cay đắng, đau buồn; và nếu cô còn nhớ đến em, nghĩ về em như một người bị kết tội oan, em sẵn sàng đương đầu với số phận đang chờ đợi. Hãy học ở em, cô chủ ơi, biết cách cam chịu mà phục tùng ý muốn của Chúa!"

Trong suốt buổi nói chuyện tôi lui vào một góc phòng giam để che đậy nỗi đau đớn như cắt ruột của mình. Tuyệt vọng ư! Ai dám nói đến tuyệt vọng? Nạn nhân tội nghiệp kia, ngày mai phải bước qua ranh giới nghiệt ngã của cuộc sống để đến với cái chết, cũng còn không cảm thấy não nề tê tái như tôi lúc này. Tôi nghiến răng kèn kẹt, một lời rên rĩ bật ra tự đáy tâm hồn. Justine giật mình. Khi nhận ra tôi, cô lại gần tôi nói: "Kìa cậu chủ đáng kính mến, cậu tử tế biết bao khi vào thăm em; em hy vọng cậu không tin em phạm tội chứ?"

Tôi không đáp nổi. "Không đâu, Justine," Elizabeth nói, "anh ấy còn tin ở sự vô tội của em hơn là chị, bởi ngay cả khi nghe tin em thú tội anh ấy vẫn một mực không tin."

"Em thành thật cám ơn cậu. Trong những phút cuối cùng này em biết ơn sâu sắc nhất những người nghĩ tốt về em. Mọi người còn yêu thương em, con bé khốn nạn này, điều đó cảm động biết chừng nào! Nó làm vơi đi một nữa nỗi bất hạnh của em; giờ đây em cảm thấy mình yên tâm mà chết, bởi vì, cô chủ yêu mến của em ơi, cô và anh họ của cô thừa nhận em vô tội."

Đó, kẻ chịu khổ hạnh nói vậy đó, để an ủi chúng tôi và tự an ủi mình. Vậy là cô đạt được sự cam chịu mình muốn. Còn tôi, kẻ sát nhân đích thực, cảm thấy con dòi dai dẳng ngọ nguậy trong ngực mình không bao giờ chết, không cho phép chút an ủi, hy vọng nào. Elizabeth cũng khóc, và cũng khổ sở vô cùng; nhưng nỗi bất hạnh của nàng cũng là sự khốn khổ của kẻ ngây thơ trong trắng, chỉ như đám mây bay qua mặt trăng, che đi trong chốc lát nhưng không thể xóa nhòa ánh sáng ngời ngời của nó. Ngược lại đau khổ và tuyệt vọng đã ăn sâu vào tận cốt lõi trái tim tôi, tôi chứa trong mình cả một địa ngục không gì dập tắt nổi. Chúng tôi ở lại với Justine mấy tiếng đồng hồ ; vất vả lắm Elizabeth mới dứt khỏi cô bé được. "Chị chỉ muốn chết cùng em," nàng kêu lên, "làm sao chị sống nổi trong cái thế giới toàn khốn khổ này!"

Justine cố khoác vào một vẻ tươi vui, trong khi gắng nén những giot lệ cay đắng của chính mình một cách khó khăn. Cô ôm hôn Elizabeth và nghẹn ngào nói: "Vĩnh biệt Elizabeth thân yêu, cô chủ dịu dàng của em, người em yêu dấu, người bạn duy nhất của em, cầu cho trời cao rộng lòng ban phước và bảo hộ cho cô; cầu cho đây là nỗi bất hạnh cuối cùng trên đời mà cô phải chịu đựng. Cô hãy sống hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho ọi người."

Và thế là sáng hôm sau Justine chết. Bài hùng biện thết tha của Elizabeth đã không lay chuyển nỗi niềm tin sắt đá của các quan tòa về tội lỗi của kẻ thọ nạn thánh thiện kia . Tôi kêu nài khẩn thiết và bực bội đến đâu họ cũng vẫn trơ trơ. Và khi nghe câu trả lời lạnh nhạt và lý sự cứng rắn, vô tình của những con người ấy, lời thú nhận đã định sẵn tắt lịm trên môi tôi. Làm như vậy tôi có thể rước lấy tiếng điên, nhưng không thể xoay chuyển được bản án đã rơi xuống đầu nạn nhân khốn khổ của tôi. Cô đã chết trên giá treo cổ như một kẻ giết người!

Từ trái tim đang bị hành hạ của mình, tôi quay nhìn nỗi đau đớn xau xa không nói nên lời của Elizabeth. Cũng là do tôi gây ra cả thôi! Cả nỗi phiền muộn của cha tôi, cảnh gia đình mới đây ấm cúng thế mà nay tan tác - tất cả đều do bàn tay ba lần đáng nguyền rủa của tôi mà ra! Các người cứ khóc đi, những con người bất hạnh; nhưng đây chưa phải những giọt nước mắt cuối cùng đâu! Rồi đây các người còn phảo cất tiếng hờ khóc bên môi nữa, và lời các người khóc than sẽ còn vang lên nhiều lần nữa! Frankenstein, con trai các người, họ hàng các người, bạn hữu vô cùng yêu dấu từ bao năm nay của các người; kẻ sẵn sàng đỗ đến giọt máu cuối cùng của mình cho các người - kẻ không bao giờ cảm thấy niềm vui nếu nó không phản chiếu lại trên mặt thân yêu của các người - kẻ sẵn lòng ban phước tràn trề cho các người, đem cả đời mình phục vụ các người - hắn yêu cầu các người khóc lên - yêu cầu các người đổ hết những hàng lệ vô tận; hắn sẽ sung sướng không lời nào tả xiết, nếu bằng cách đó thần số phận nhẫn tâm có thể vừa lòng, nếu sự hủy diệt này ngừng lại trước khi nỗi giày vò thống khổ của các người đi đến chỗ kết thúc bởi nấm mồ yên ả.

Đó là những lời mà linh hồn tiên tri của tôi thốt ra, trong khi mà, lòng cào xé bởi nỗi ân hận, hãi hùng và tuyệt vọng, tôi nhìn những con người thương yêu khóc thương vô ích trên nấm mồ của William và Justine, hai nạn nhân bất hạnh đầu tiên của những ma thuật phạm thánh của tôi.

Chương 9

Sau khi mọi cảm nghĩ vừa bị xáo trộn hỗn loạn bới hàng loạt sự kiện diễn biến nhanh chóng, còn gì khổ cho tinh thần con người hơn là cảnh ngưng trệ cộng với sự chắc chắn mười mươi đền liền sau đó, thanh thản một cách chết chó, tước đi của linh hồn cả hy vọng lẫn hãi hùng. Justine đã chết, cô đả yên nghĩ; còn tôi thì vẫn sống. Máu tôi chảy mạnh trong huyết quản, nhưng tuyệt bọng và cắn rứt đè nặng lên trái tim tôi, không gì có thể cất đi. Mắt tôi không còn biết đến giấc ngủ bình yên; tôi đi lang thang như một linh hồn tà ác, bởi tôi đã phạm những hành động tàn ác khủng khiếp đến không mô tả nỏi, và còn nhiều nữa, rất nhiều nữa(tôi tự nhủ mình như vậy) đang đợi tiếp sau. Vậy mà lòng tôi vốn tràn đầy nhân ái và trân trông đức độ. Tôi bắt đầu cuộc đời với những ý định tốt đẹp nhất, khát khao đến lúc đem chúng ra thực hiện, để tôi được đóng góp lợi ích cho đồng loại. Giờ đây tất cả tan nát hết; đáng lẽ có được lương tâm thanh thàn, cho phép mình tự hào nhìn lại quá khứ, từ đó hứa hẹn những hy vọng mới, tôi lại day dứt vì ân hận và cảm giác tội lỗi, nó xua tôi vào một địa ngục để chịu cực hình tàn nhẫn, không lời nào tả được.

Tình trang tinh thần như thế khiến sức khỏe tôi, có lẽ chưa bao giờ hoàn toàn bình phục sau cú sốc ban đầu, càng thêm hao mòn. Tôi tránh mặt mọi người; những dấu hiệu từ sự vui vẻ hài lòng đối với tôi chẳng khác gì tra tấn; tôi chỉ còn tìm an ủi ở sự cô đơn - nỗi cô đơn đen tối, sau thẩm như cõi chết.

Cha tôi đau đớn quan sát sự thay đổi lồ lộ nơi tính tình, thói quen của tôi, và cố dựa vào những lý lẽ rút ra từ lương tâm trong sáng và cuộc đời thanh thản của ông để truyền cho tôi dũng cảm chịu đựng, thức tĩnh ở tôi đức tính can trường, xua tan mây đen đang bao trùm tôi. "Victor con," ông nói, "con nghĩ cha không đau khổ sao? Còn ai yêu đứa con é nhỏ của mình bằng cha yêu nó," nói đến đây ông trào nước mắt, "nhưng chẵng lẽ những người còn sống không thấy đó là bổn phận phải tránh không đào sâu thêm nỗi bất hạnh của nhau bằng vẻ mặt ai oán quá đáng đến mức ấy? Đó cũng là bổn phận với chính mình nữa, bởi buồn thương quá mức sẽ ngăn cản lạc quan, tiến bộ, thậm chí bê trễ công việc hàng ngày, điều duy nhất khiến con người ta còn hòa nhập được vào xã hội."

Lời khuyên này, tuy bổ ích, nhưng hoàn toàn không áp dụng cho trường hợp của tôi; và hẳn tôi phải là người đầu tiên cố che giấu đau thương để an ủi mọi người đầu tiên cố che giấu đau thương để an ủi mọi người, nếu không phải những cảm giác khác của tôi đã bị hòa trộn với niềm cay đắng từ nỗi ân hận, và sự hoảng hốt từ nỗi kinh hoàng. Giờ đây tôi chỉ có thể nhìn cha tôi một cách tuyệt vọng và tìm mi\ọi cách trành mặt ông.

Thởi gian này chúng tôi lui về căn nhà ở Belrive. Sự thay đổi này đối với tôi đặc biệt dễ chịu . Cái lệ ngày nào cổng cũng đóng lúc mười giờ tối, khiến sau lúc đó không ở bên hồ được, đã biến nơi ở trong phạm vi tường thành Geneva thành đặc biệt khó chịu đối với tôi, Bây giờ thì tôi tha hồ tự do. Thường thường, đợi cho cả nhà nghĩ đêm rồi, tôi đưa thuyền ra bơi một mình trên mặt nước suốt nhiều giờ. Đôi lúc tôi dong buồm mặc cho gió đưa đi, đôi lúc, chèo ra giữa hồ, tôi mặc cho con thuyền trôi nỗi và thả mình cho những suy tư ủ dột. Tôi thường cảm thấy nỗi thèm khát, khi quanh tôi tất cả đều tĩnh lặng, chỉ có duy nhất tôi không yên lang thang giữa một quang cảnh đẹp đẽ và thánh thiện - nếu không kể đến con đơi nào đó, hoặc tiếng oàm oạp đứa đoạn và khàn khàn của lũ ếch chỉ nghe được tiếng thuyền tôi cập lại bên bờ - thường xuyên, nhu đã nói, tôi cảm thấy nỗi thèm khát được lao xuống đáy hồ êm ả, cho làn nước khép lại bọc kín lấy tôi cùng những tai ương của tôi vĩnh viễn. Nhưng tôi chùn lại, khi nghỉ tới nàng Elizabeth đau khổ nhưng kiên xường, người con gái tôi yêu tha thiết, người mà cuộc đời đã gắn với đời tôi. Tôi cũng ngĩ đến cha tôi, cậu em còn lại của tôi: chẳng lẽ theo sự đào thoát hèn nhát cùa mình mà bỏ mặc họ không ai bảo vệ, phơi mình ra trước con quỷ xấu xa mà tôi đã thả ra giữa họ?.

Những lúc ấy tôi khóc một cách xót xa, mong cho tâm hồn mình yên bình trở lại chỉ để có thể đem đến cho họ chút an ủi và hạnh phúc. Nhưng không sao thực hiện được. Nỗi ân hận dập tắt bất cứ tia hy vọng nào. Tôi đã là tác giả của những nghiệp chướng không tài nào xoay ngược được, và giờ đây tôi sống trong nỗi sợ thường trực, rằng cái con quỷ mình sáng tạo ra sắp giở thêm trò độc địa mới nào. Tôi mơ hồ cảm thấy rằng tất cả chưa phải đã hết, thế nào hắn cũng còn phạm thêm tội ác tối hậu nào đó nữa, một tội ác tày trời sẽ khiến những gì đã có dường như chưa là gì cả. Chừng nào những người tôi yêu vẫn còn thì tôi còn lo sợ. Tôi không còn biết mình ghét cay ghét đắng con quỷ này đến mức nào đến mức nào đi nữa. Nghĩ đến hắn răng tôi nghiến lại, mắt tôi nảy lửa, tôi mong muốn cháy bỏng tiêu diệt đi sự sống tôi đã trao đi khing suất đến thế. Kiểm lại những tội ác và sự hiểm độc của hắn, lòng căm tức và khao khát trả thù của tôi bùng lên bất chấp mọi giới hạn. Giá có thể leo lên đỉnh cao nhất của dãy Andes để từ đấy đẩy hắn xuống chân núi, thì tôi đã làm từ lâu rồi. Tôi mong muốn gặp lại hắn để trút lên đầu hắn nỗi ghê tởm cùng cực của mình, và để trà thù cho cái chết của William và justine.

Nhà chúng tôi bây giờ là ngôi nhà tang tóc. Cha tôi kiệt quệ sức khỏe do những sự kiện khủng khiếp vừa xảy ra. Elizabeth buồn bã, nản lòng; nàng không còn lấy công việc hàng ngày làm vui; mọi thứ tiêu khiển đối với nàng đều là báng bổ với những người đã khuất; nàng cho rằng chỉ nước mắt và nỗi thống khổ triền miên mới bày tỏ được niềm thương tiếc xứng đáng với sự trong sáng ngây thơ đã bị hủy diệt tan tành đến vậy. Nàng không còn là sinh linh sung sướng thuở niên thiếu đã cùng tôi đi dạo bên bờ hồ, say sưa chuyện trò về viễn cảnh tương lai. Nỗi buồn đầu tiên trong cả chuỗi phiền muộn nhằm cướp chúng tôi đi xa lìa mặt đất đã đến thăm nành, sức nặng tối tăm của nó đã dập tắt những nụ cười thân thương nhất trên môi nàng.

" Anh họ thân yêu ơi," nàng nói, "nghĩ đến cái chết khốn khổ của Justine Meritz, em không còn nhìn được thế giới này cùng các công trình của nó bằng cno mắt trước kia nữa. Trước kia, những điều xấu xa, bất công đọc thấy trong sách hoặc nghe người ta kể, em cho là chuyện từ đời nào hoặc được bịa ra; chúng thật xa la, và chỉ hiểu được nhờ lý trí chứ không phải nhờ hình dung; nhưng nay thì đau thương đã tới tận nhà mình, người với người đối với nhau như những con quái vật khát máu. Tuy nhiên hẳn là em đang suy nghĩ bất công. Ai cũng tin cô gái tội nghiệp đó có tội, và giả sử đúng là cô đã phạm tội lỗi khiến cô chịu khổ nạn kia, cô ắt đã là kẽ đốn mạt nhất của giống người.. Chỉ vì mấy thứ nữ trang mà sát hại con trai của ân nhân mình, bạn mình, giết đi thằng em bé cô chăm bẵm từ lúc nó mới sinh, ra vẻ yêu nó như con ruột! Tuy em chẳng sung sướng với cái chết của bất cứ ai, em vẫn sẽ phải thừa nhận một thứ loài người như thế không xứng đáng tồn tại trong xã hội loài người. Nhưng cô ấy vô tội. Em biết, em cảm thấy là cô vô tội; anh cũng nghĩ thế, và điều đó càng làm em tin tưởng. Hỡi ôi! Victor! Khi mà giả dối giống như sự thực đến vậy, ai dám tự bảo đảm cho mình có hạnh phúc trên đời này nữa? Em có cảm giác mình đang đi trên bờ vách cheo leo, cả một đám đông hàng ngàn người đang ùa về đó muốn đẩy em xuống vực thẩm. William và Justine bị ám sát, ke sát nhân trốn thoát; hắn đang tự do đi lại ngoài vòng kiềm tỏa, thậm chí còn có thể được người đời tôn trọng nữa. Nhưng ngay cả nếu em bị buộc tội chết trên giá treo cổ vì tội giết người, em cũng không muốn đánh đổi với số phận tên khốn nạn kia."

Nghe bản độc thoại ấy tôi đau đớn như sắp chết. Tuy không thực sự nhúng tay vào, nhưng xét từ ảnh hưởng, tôi mới chính là kẻ giết người. Elizabeth qua nét mặt tôi, hiểu rằng tôi đau đớn , nàng nhẹ nhàng cầm tay tôi mà bảo: "Bạn thân yêu nhất của em, anh hãy bình tĩnh lại. Những sự kiện ấy tác động đến em rất lớn, chỉ có Chúa mới hiểu đến mức nào, nhưng em còn chưa khốn khổ bằng anh. Nét mặt anh biểu lộ niềm tuyệt vọng , đôi lúc còn thù hận, nó làm em run sợ lắm. Anh Victor, xin hãy từ bỏ những tình cảm đen tối ấy đi. Hãy nhớ tới bạn bè quanh anh, hô tập trung tất cả mọi hy vọng vào anh đó. Chẳng lẽ tất cả chúng em không còn khả năng làm anh sung sướng nữa sao? Ôi! Khi mà tất cả chúng ta còn yêu thương - khi chúng ta còn chân thành với nhau, ở xứ sở thanh bình và tuyệt mỹ này, quê hương của anh, nơi chúng ta có thể gặt hái mọi phước lành êm ả - thì còn gì có thể khuấy động sự yên bình của chúng ta?"

Và làm sao những lời như vậy từ nàng, con người tôi trìu mến coi là quý giá nhất hơn mọi may mắn mà tôi được hưởng, lại không đủ xua đi con quỷ đang luẩn quẩn trong lòng tôi? Ngay trong khi nàng nói tôi xích lại gần nàng; như sợ rằng bất cứ lúc nào kẻ hủy diệt kia cũng có thể tới đây tước nàng khỏi tay tôi.

Vậy đó, cả tình bạn đằm thắm lẫn vẻ đẹp của đất trời, đều không cứu vớt được tâm hồn tôi khỏi muộn phiền, kể cả những lời yêu thương cũng đều vô tác dụng. Tôi bị trùm trong một đám mây dày đặc không sức mạnh tốt đẹp nào thấu qua nổi. Con nai bị thương cố lết cái chân què tới một bụi cây chưa người giẫm tới, để ngắm nghía mũi tên xuyên qua chân mình rồi chết - đó chính là tôi.

Thình thoảng tôi đương đầu được với nỗi thất vọng não nề đè nặng lên tôi, nhưng đôi lúc cơn xúc động cuộn trong tâm hồn thức đẩy tôi, bằng cách vận động thân thể và lui tới chỗ nọ chỗ kia, đi tìm chút giải thoát khỏi những cảm giác không chịu đựng nổi. Một trong những cơn loại đó đưa tôi ra khỏi nhà, dời chân đến những thung lũng thuộc dãy Alps gần đó, mong chờ cảnh tráng lệ ving4 hằng nơi đó mà quên được bản thân, quên được những đau khổ phù du - bởi chỉ là của một con người. Bước chân lang thang đưa thẳng tôi đến thung lũng Chamounix. Hồi nhỏ tôi đến đây khá thường xuyên. Sáu năm đã trôi qua kể từ ngày đó: Tôi giờ là một kẻ khốn nạn, nhưng quang cảnh hon\ang dã và bền vững nơi đây vẫn không chút gì thay đổi.

Đoạn đầu chuyến đi tôi đi ngựa, sau đó thuê con la bởi bước đi của nó chắc chắn hơn, tránh thương vong trên dường núi gồ ghề. Thời tiế rất đẹp; lúc này vào khoảng giữa tháng tamm, hai tháng sau cái chết của Justine , giai đoạn thảm thương mà tôi tính mọi buồn phiền từ ngày đó. Gánh nặng đè trên tâm trí tôi vơi đi phần nào khi tôi đi sâu dần vào khe núi sông Arve. Những vách núi và đá nhọn bát ngát bao phủ tôi khắp phía, tiếng nước gầm qua giữa các tảng đá, thác dội xuống ào ào xung quanh, nói lên một thế lực hùng mạnh tới mức Toàn năng, và tôi không còn cảm thấy sợ hãi, hay quy phục bất cứ thực thể nào kém hùng mạnh hơn sức mạnh đã tạo ra và cai trị cả những yếu tố tự nhiên, đang hiện diện ở đây trng dáng vẻ kinh khiếp nhất của mình. Thế nhưng tôi càng lên cao, thung lũng càng trải ra hùng vĩ choáng người hơn nữa. Những lau96 đài hoang tàn nằm chót vót trên vách núi phủ thông xanh; dòng Arve dữ dội, và các ngôi nhà tranh rải rác ló ra giữa hàng cây cao, tất cả tạo nên một cảnh đẹp hiếm có. Dãy Alps uy nghi kề bên khiến nó càng huy hoàng hơn và khoác vào một vả siêu phàm, với những tháp và vòn cao hơn tất cả, tưởng đâu thuộc về một thế giới khác, là nơi trú ngụ một giống sinh vật khác.

Tôi đi qua cầu Pe1lissier nơi khe núi của dòng sông mở ra trước mắt tôi, rồi tôi trèo lên ngọn núi nhô ra bên trên. Chẳng mấy chốc vào đến thung lũng Chamounix. Thung lũng này còn kỳ diệu và siêu phàm hơn nữa, nhưng không xinh đẹp và sinh động như thung lũng Servox tôi vừa đi qua. Đường biên tận cùng của nó là núi cao chót vót phủ tuyết , nhưng không còn thấy những lâu đài đổ nát cùng cánh đồng phì nhiêu. Những dòng sông băng rộng kề sát con đường, tôi nghe thấy tiếng vang như sấm của các tảng băng tuyết lở đang lăn xuống, và theo dõi khói bay lên trên đường chúng đi. Mont Blanc, ngọn Mont Blanc nguy nga ngự trị, vươn thẳng lên từ những Aiguille - những đỉnh núi nhọn hoắt xung quanh, và cái vòm khổng lồ của nó phủ bóng lên thung lũng.

Một cảm giác vui sướng đến náo nức mất đi từ lâu nay trở lại với tôi suốt cuộc hành trình. Chỉ một khúc ngoặt, một cảnh tượng mới xuất hiện và nhận ra cũng nhắc nhở tôi về những ngày đã qua khi lòng tôi còn lâng lâng niên thiếu. Làn gió thoảng thì thào bên tai tôi những lời êm đềm, và thiên nhiên từ mẫu khiến tôi không thể khóc than được nữa. Rồi những vỗ về dụy ngọt tan biến, tôi lại trở lại với gông cùm đau đớn, chìm đắm trong suy tư khỗ não. Thế là tôi thúc con la, cố gắng bằng cách đó quên đi cả thế giới lẫm nỗi lo sợ, và trên tất cả, cố quên ngay bản thân mình; có lúc, tuyệt vọng hơn, tôi xuống la, lăn ra cỏ, trĩu nặng hãi hùng và thất vọng não nề.

Cuối cùng tôi tới làng Chamounix. Sau những mệt mỏi của cơ thể và cả tâm hồn đã chịu đựng lâu nay, tôi gần như kiệt quệ. Trong một lát tôi cứ đứng bên cửa số ngắm những ánh chớp nhợt nhạt đùa giỡn trên đỉnh núi Monblanc, lắng nghe dòng Arve đang ầm ĩ chảy bên dưới. Những tiếng ấy giống như bài hát ru cho những cảm giác quá buốt nhói trong lòng tôi; giấc ngủ lần đến khi tôi vừa đặt đầu lên gối; tôi cảm thấy nó đang xâm chiếm, và thầm chúc phúc cho vị thần ban tặng sự lãng quên.

cont....

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro