Gheisa2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chuong 10

Mấy tháng sau, vào một buổi sáng, trong khi chúng tôi thay áo lót lụa mỏng mặc khi trời nóng bằng loại áo lót dày hơn cho mùa đông, bỗng tôi ngửi thấy mùi khét rất khó chịu bay ra tận ngõ vào, tôi vội thả cả đống áo quần trên tay xuống. Mùi khét từ phòng Bà Ngoại bay ra. Tôi chạy lên lầu tìm bà Dì vì tôi biết ngay đã có chuyện không ổn xảy ra. Bà Dì ba chân bốn cẳng chạy xuống, phát hiện ra Bà Ngoại nằm chết trên nền nhà, chết với tư thế rất kỳ cục.
Trong nhà chỉ có Bà Ngoại mới có lò sưởi điện. Đêm nào bà cũng dùng, ngoại trừ mùa hè. Bây giờ là tháng 9, chúng tôi đã thay áo lót mặc mùa hè, cho nên bà dùng lò sưởi lại. Nói thế không có nghĩa là trời đã lạnh, chúng tôi thay áo mỏng mặc áo dày theo lịch chứ không phải theo thời tiết ngoài trời, và Bà Ngoại cũng dùng lò sưởi như thế. Bà đã dựa vào lịch mà làm một cách phi lý, có lẽ vì trước đây bà đã chịu lạnh khổ sở rất nhiều rồi.
Bà Ngoại có thói quen là sáng nào cũng vấn sợi dây điện quanh lò rồi đẩy lò vào sát vách. Nhiều lần như thế khiến cho hơi nóng của lò làm cháy phần bọc ngoài của dây điện, để thòi dây đồng ở trong ra, cho nên khi sờ vào dây sẽ bị điện giật.
Cảnh sát cho biết sáng ấy khi bà đụng vào sợi dây điện, bà bị điện giật chết ngay tức khắc. Khi bà nhào xuống nền nhà, mặt bà úp lên mặt kim loại nóng bỏng. Vì thế mới có mùi khét lẹt như thế. May cho tôi là tôi không thấy bà sau khi bà chết, ngoại trừ hai cái chân. Tôi đứng ngoại cửa nhìn vào chỉ thấy hai chân bà khẳng khiu bọc trong tấm lụa nhăn nhúm.
Sau khi Bà Ngoại mất được hai tuần, chúng tôi rất bận rộn, không những vì phải lau chùi nhà cửa cho thật sạch – vì theo đạo thờ thần linh, thì tử khí là mùi ô uế nhất trong tất cả các mùi hôi – mà còn chuẩn bị nhà cửa để tiếp khách đến viếng. Chúng tôi phải sắp xếp các đèn cầy, khay cúng cơm, treo lồng đèn ngòai cổng, bàn uống trà, khay để tiền do khách phúng điếu và đủ thứ việc lặt vặt khác. Chúng tôi quá bận rộn đến nỗi một buổi tối bà đầu bếp ngã bệnh, phải mời bác sĩ đến, nhưng thật ra bà ta ngã bệnh là vì đêm trước bà ta ngủ không quá hai giờ, cả ngày thì đứng, và ăn chỉ một tô cháo trắng. Tôi cũng rất ngạc nhiên là Mẹ chi tiền không tiếc để đền Chion tổ chức tụng kinh cầu siêu cho Bà Ngoại và mua những bình sen của người lo tống táng – những việc quá tốn kém trong thời buổi đại suy thoái. Mới đầu tôi tự hỏi phải chăng Bà Ngoại là người quá đạo hạnh khiến cho Mẹ phải đau xót như thế, nhưng về sau tôi mới nhận ra như thế này: sẽ có nhiều người ở Gion sẽ đến nhà chúng tôi để phúng điếu Bà Ngoại, rồi sau đó sẽ đến dự lễ ma chay ở đền. Mẹ phải tỏ ra mình là người trọng lễ nghĩa.
Suốt mấy ngày, tất cả mọi người ở Gion đều đến nhà của chúng tôi, hay hình như thế thì phải. Chúng tôi phải dọn trà bánh cho mọi người dùng. Mẹ và Dì tiếp đón các bà chủ của các phòng trà và nhà dạy kỹ nữ, cũng như đón một số người giúp việc có quen biết với Bà Ngoại, họ lại còn tiếp các chủ tiệm buôn, những người làm tóc giả và thợ uốn tóc, hầu hết những người này đều là đàn ông, và dĩ nhiên họ đón rất nhiều geisha. Những geisha lớn tuổi thì biết Bà Ngọai từ thời bà còn hành nghề geisha, nhưng những geisha còn trẻ thì chưa bao giờ nghe nói đến bà, họ đến là để tỏ lòng tôn kính với Mẹ - hay có những người đến là vì họ có liên hệ này nọ với Hatsumono.
Công việc của tôi trong những ngày bận rộn này là mời khách vào phòng khách, nơi đây Mẹ và Dì đang ngồi đợi. Khoảng cách từ cửa cho đến phòng khách chỉ có vài bước thôi, nhưng khách không thể vào phòng một cách dễ dàng, và ngoài ra, tôi phải nhớ kỹ giày nào là của ai, vì tôi có bổn phận mang giày họ vào để trong phòng gia nhân cho rộng chỗ ở trước cửa, và đên khi họ về tôi phải mang ra cho họ. Thoạt tiên tôi rất khó nhớ. Tôi không được nhìn thẳng vào mặt khách vì như thế là vô phép vô tắc, nhưng chỉ nhìn sơ qua thôi, tôi khó mà nhớ cho được. Cho nên cuối cùng, tôi phải nhìn kỹ vào áo kimono để nhớ.
Khoảng vào chiều hôm thứ hai hay thứ ba của lễ tang, tôi thấy một chiếc kimono xuất hiện trên ngưỡng cửa, chiếc kimono làm tôi ngơ ngác vì nó quá đẹp, đẹp nhất trong số khách đên viếng. Chiếc áo có màu tối vì người mặc đến dự lễ tang – nền vải màu đen – nhưng các hình trang trí trên áo có màu lục và màu vàng bao quanh lai áo và tà áo, khiến cho cái áo trông rất đẹp. Tôi nghĩ nếu các bà các cô, vợ con của ngư phủ ở làng Yoroido, trông thấy, chắc họ sẽ hết sức kinh ngạc. Người khách có mang theo một cô hầu khiến tôi nghĩ bà ta chắc là chủ phòng trà hay chủ một nhà kỹ nữ nào đó, vì rất ít cô nàng geisha nào bỏ ra nhiều tiền để mua người hầu như thế. Trong khi cô ta nhìn vào bàn thờ thần ở cửa ra vào, tôi chợt nghĩ đến bức tranh cuốn treo trong phòng bà Dì, trên bức tranh vẽ hình người kỹ nữ bằng mực Tàu từ thời Hán cách đây một ngàn năm. Cô ta không sắc sảo như Hatsumono nhưng nét mặt cô ta trông hoàn hảo đến nỗi không thể nào chê vào đâu được. Và bỗng nhiên tôi nhận ra cô ta là ai.
Chính là Mameha, nàng geisha có chiếc kimono mà Hatsumono đã ra lệnh cho tôi làm hỏng.
Việc làm hỏng chiếc kimono của cô ta không phải lỗi của tôi, thế nhưng tôi vẫn muốn độn thổ để cô ta khỏi trông thấy mình. Tôi cúi đầu thật thấp khi mời cô và người hầu vào phòng khách. Tôi nghĩ chắc cô ta không nhận ra tôi, vì khi tôi đem áo trả cho cô, cô không nhìn thấy mặt tôi, mà cho dù cô ta có thấy đi nữa, thì thời gian trôi qua đã hai năm rồi. Người giúp việc theo hầu cô ta bây giờ không giống cô gái lấy áo kimono vào đêm ấy, và hơn nữa khi ấy cô ta đầy nước mắt. Khi cúi chào họ ở phòng khách để đi lui ra ngoài, tôi thấy lòng nhẹ nhõm.
Hai mươi phút sau, khi Mameha và chị hầu chuẩn bị ra về, tôi tìm giày của họ, sắp trước cửa vào, đầu vẫn cúi thấp, và lòng lo sợ như hồi nãy. Khi chị hầu kéo cửa mở ra, tôi cảm thấy điều lo sợ đã qua. Nhưng thay vì đi ra, Mameha cứ đứng ở cửa. Tôi bắt đầu lo. Tôi sợ trí óc của tôi không điều khiển được cặp mắt, vì mặc dù tôi không muốn ngước lên nhìn mà cặp mắt vẫn tự động ngước lên. Tôi hoảng khi thấy Mameha đang nhìn tôi.
- Này bé, em tên gì? – Cô ta hỏi, với giọng nói mà tôi cho là rất nghiêm nghị.
Tôi nói cho cô ta biết tôi tên Chiyo.
- Đứng lên một lát xem nào, Chiyo. Tôi muốn xem em cho biết.
Tôi đứng dậy theo lời cô ta yêu cầu nhưng mà giá tôi có tài biến hóa để biến mất, tôi sẽ làm ngay.
- Đứng yên, tôi muốn xem em một lát – cô ta lại nói – Em làm gì như đứng không vững thế?
Tôi ngẩng đầu lên, nhưng không ngước mắt. Khiến cho Mameha thở dài, biểu tôi ngước mắt nhìn cô ta.
- Cặp mắt tuyệt quá! – Cô ta thốt lên – Tôi mơ có cặp mắt như thế này quá! Này Tatsumi, cô gọi màu mắt này là màu gì?
Chị hầu quay vào trong cửa, nhìn tôi và đáp:
- Thưa cô, màu xanh xám.
- Tôi cũng thấy thế. Này, cô biết có bao nhiêu con gái ở Gion này có cặp mắt như thế này?
Tôi không biết Mameha nói với tôi hay với Tatsumi, nhưng không ai trả lời. Cô nhìn tôi, nét mặt rất kỳ lạ - chú ý tập trung vào cái gì đấy trên mặt tôi. Rồi cô ta chào ra về, và tôi thấy nhẹ cả người.
Lễ an táng Bà Ngọai được tổ chức va khoảng tuần sau, thầy bói chọn giờ vào buổi sáng. Sau đó, chúng tôi thu dọn nhà cửa lại cho ngăn nắp, nhưng có nhiều thay đổi, bà Dì chuyển xuống ở tại phòng Bà Ngọai, còn Bi Ngô – bây giờ đã tập sự làm geisha khá lâu rồi – lên ở phòng bà Dì ở tầng hai. Nhà có thêm hai gia nhân mới, họ ở tuổi trung niên và rất khỏe mạnh. Kể ra thì Mẹ nuôi thêm người cũng lạ, nhưng nhà kỹ nữ mà người như thế này là ít, sở dĩ lâu nay ít là vì Bà Ngoại không chịu được cảnh đông đúc trong nhà.
Việc thay đổi cuối cùng là Bí Ngô được miễn làm những công việc lặt vặt. Cô ta được dành nhiều thì giờ để luyện tập những bộ môn mà geisha cần biết. Thường thường các cô không được dành nhiều thì giờ như thế, nhưng Bí Ngô học hành chậm chạp nên cô ta cần có thêm nhiều thời gian hơn. Thỉnh thoảng tôi nhìn cô ta quỳ trên hành lang gỗ tập đàn, cái lưỡi thè ra một bên mệng như muốn liếm cái má cho sạcn. Mỗi khi nhìn thấy nhau, cô ta mỉm cười với tôi một cách dịu hiền và tử tế. Thế nhưng tôi thấy khó mà chịu đựng sự kiên nhẫn trong cuộc sống, sự kiên nhẫn nặng trĩu, bắt ta đợi chờ cánh cửa tương lai mà mãi không hé mở, trông mong mãi một cơ may xảy đến. Nhiều đêm khi đi ngủ, tôi lấy chiếc khăn của ông Chủ tịch cho tôi, mở ra ngửi mùi phấn thơm. Tôi cố xua đuổi tất cả những hình bóng khác ra khỏi đầu óc, mà chỉ giữ lại hình ảnh của ông ta, giữ lại cảm giác nắng ấm trên mặt tôi và bức tường đá nơi tôi ngồi khi gặp ông ta. Ông ta là vị Bồ đề Đạt ma có ngàn tay sẽ giúp tôi. Tôi không tưởng tượng được sự giúp đỡ của ông ta sẽ ra như thế nào, nhưng tôi cầu nguyện sự giúp đỡ đó mau đến.
Sau ngày Bà Ngoại chết được một tháng, một hôm, chị giúp việc mới đến tìm tôi báo cho tôi biết có khách đứng đợi ngòai cửa. Hôm ấy là một buổi chiều tháng mười mà lại nóng thật kỳ la, người tôi nóng chảy mồ hôi ướt mèm, vì tôi dùng máy hút bụi quay tay để làm vệ sinh mấy chiếc chiếu cói trên phòng mới của Bí Ngô, cái phòng của bà Dì trước đây, Bí Ngô có thói quen ăn vụng bánh tráng ngô trên lầu, cho nên chiếu thảm phải làm vệ sinh luôn. Tôi lấy khăn ướt lau qua người rồi chạy xuống nhà dưới, thấy một thiếu nữ đứng ở trước cửa, mặc kimono gia nhân. Tôi quỳ xuống cúi chào chị ta. Chỉ khi tôi nhìn chị ta lần thứ hai, tôi mới nhận ra chị là người hầu thoe Mameha đến nhà chúng tôi mấy tuần trước đây. Thấy chị ta ra dấu cho tôi bước ra ngoài cửa, tôi bèn mang guốc vào, đi theo chị ta ra đường.
- Chiyo, thỉnh thoảng cô có đi làm những công việc lặt vặt ở ngoài không? – Chị ta hỏi.
Chuyện tôi bỏ trốn đã qua lâu rồi, cho nên tôi không bị nhốt trong nhà nữa. Tôi không biết tại sao chị ta lại hỏi thế, nhưng tôi cũng trả lời tôi có đi.
- Tốt – chị ta đáp –cô thu xếp để chiều mai đi ra ngoài làm việc lặt vặt lúc ba giờ và đến gặp tôi tại chiếc cầu vồng nhỏ bắc qua suối Karakawa.
- Thưa chị vâng – tôi đáp – nhưng xin phép hỏi chị lý do để làm gì ạ?
- Ngày mai sẽ biết, được không? – chị ta đáp, lỗ mũi hơi nhăn lại khiến cho tôi tự hỏi không biết có phải chị ta trêu chọc tôi hay không.
Tôi không mấy vui khi nghe chị hầu của Mameha yêu cầu tôi gặp chị ta,vì tôi nghĩ có lẽ chị ta gọi tôi đên đấy để cho Mameha mắng tôi vì việc tôi đã làm. Nhưng dù thế, ngày hôm sau tôi nói Bí Ngô sai tôi đi làm công việc ở ngoài, một công việc không cần phải gấp lắm. Cô ta sợ gặp chuyện rắc rối, nhưng sau khi nghe tôi hứa sẽ tìm cách trả ơn, cô ta liền bằng lòng. Vì thế vào khoảng ba giờ, cô ta gọi tôi:
- Chiyo ơi, làm ơn đi mua cho tôi vài sợi dây đàn và vài tạp chí viết về Kabuki được không? – Cô ta được lệnh phải đọc tạp chí về Kabuki để trau giồi kiến thức. Rồi tôi nghe giọng cô ta cất lên to hơn - Được không, thưa Dì?
Nhưng bà Dì không đáp vì bà đang ngủ trưa trên lầu.
Tôi ra khỏi nhà kỹ nữ, đi dọc theo suối Shirakawa đến cầu vồng bắc ngang qua khu vực Motoyoshi-cho, quận Gion. Vì thời tiết đẹp, ấm áp cho nên một số đàn ông sánh vai cùng các geisha đi dạo chơi, ngắm nhìn anh đào rũ ngọn xõa những chùm hoa xuống nước. Trong khi đứng đợi bên cầu, tôi ngắm nhìn một tốp du khách nước ngòai đến tham quan ngắm cảnh ở quận Gion nổi tiếng. Họ trông rất kỳ lạ, đàn bà thì mũi to, áo dài và tóc màu sáng, đàn ông thì quá cao và quá tự tin, đi giày có gót cao gõ lóc cóc trên vỉa hè. Một người đàn ông chỉ tôi cho những người khác thấy, ông ta nói tiếng ngọai quốc và tất cả những người khác quay qua nhìn tôi. Tôi cảm thấy luống cuống, giả vờ tìm kiếm cái gì dưới đất để che mặt đi.
Cuối cùng chị hầu của Mameha tới, và trong lúc tôi đang lo sợ, chị ta dẫn tôi đi qua cầu, dọc theo con suối đến đúng cổng nhà mà Hatsumono và Korin đưa chiếc kimono cho tôi và bảo tôi đi lên lầu. Thật bất công là sau một thời gian dài mà việc như thế này lại xảy đến cho tôi một lần nữa, gây cho tôi thêm nhiều phiền phức. Nhưng khi chị hầu đẩy cửa mở ra, tôi bước lên than lầu ánh sáng lờ mờ. Lên đến đầu cầu thang, chúng tôi tháo giầy ra và đi vào phòng.
- Thưa cô, Chiyo đã đến - chị hầu nói lớn.
Rồi tôi nghe tiếng Mameha từ phòng sau vọng ra:
- Tốt, cám ơn Tatsumi.
Chị hầu dẫn tôi đến chiếc bàn gần cửa sổ, tôi quỳ xuống trên một chiếc nệm và cố giữ vẻ bình tĩnh. Lát sau một cô hầu khác mang cho tôi một tách trà- thì ra Mameha có hai cô hầu chứ không phải một. Tôi không ngờ lại được chủ nhà mời trà như thế này. Chưa bao giờ có chuyện này xảy ra kể từ ngày tôi được mời ăn cơm ở nhà ông Tanaka cách đây mấy năm, tôi cúi người chào chị ta, uống vài hớp cho đúng phép xã giao. Sau đó tôi ngồi một hồi lâu không biết làm việc gì khác ngoài việc lắng nghe tiếng nước chảy róc rách từ các nguồn nước cao đổ xuống suối Shirakawa ở ngòai.
Căn hộ của Mameha không lớn nhưng cực kỳ sang trọng, thảm trải sàn rất đẹp và còn mới, chúng có màu vàng lục rực rỡ và thơm mùi rơm. Nếu anh đã nhìn kỹ một chiếc thảm rơm, chắc anh thấy quanh tấm thảm có viền vải, thường là bằng vải đen hay vải lanh đen, nhưng chiếu ở đây được viền bằng lụa có hoa văn màu lục và vàng. Trong một hốc tường gần đấy có treo một bức trướng chữ viết rất đẹp, đó là quà tặng cho Mameha của nhà thư pháp nổi tiếng Matsudaira Koichi. Dưới bức trướng, trên cái bệ trong hốc, những cành hoa hồng dại nở rộ được cắm trong cái dĩa cạn có hình lập thể màu đen tuyền.
Tôi thấy cái dĩa rất kỳ lạ , nhưng thực ra đấy là quà do Yoshida Sakuhei tặng cho Mameha, ông ta là nhà chế tạo gốm sứ theo trường phái Seteguro vĩ đại, tác phẩm này sau chiến tranh thế giới lần thứ hai trở thành tài sản quý báu của quốc gia.
Cuối cùng Mameha từ phòng sau bước ra, mặc chiếc áo kimono kem có hình vẽ ở lai áo rất đẹp. Trong khi cô ta đi đến bàn, tôi quay người, cúi chào thật thấp, rồi khi đến bàn, cô ta quỳ đối diện với tôi, uống một hớp trà do chị hầu mới bưng ra, rồi cô nói:
- Nào..Chiyo? Tại sao cô không nói cho tôi biết chiều nay làm sao cô rời được nhà kỹ nữ? Tôi chắc bà Nitta không thích gia nhân đi làm công việc riêng vào giữa ngày như thế này.
Thật tôi không ngờ cô ta hỏi như thế. Tôi không biết nói sao, mặc dù tôi biết không trả lời rất cù lần. Mameha nhấp trà, nhìn tôi với vẻ mặt nhân ái trên khuôn mặt trái xoan hòan hảo. Cuối cùng cô ta nói:
- Chắc cô nghĩ tôi sẽ mắng cô chứ gì. Nhưng tôi chỉ muốn biết việc cô đến đây có gặp phải chuyện gì rắc rối không.
Tôi nhẹ người khi nghe cô ta nói thế. Tôi đáp:
- Thưa cô không. Tôi được sai đi mua tạp chí Kabuki và dây đàn Shamisen.
- Ồ tốt, tôi có nhiều các thứ ấy – cô ta nói, rồi gọi chị hầu bảo đi lấy một ít các thứ ấy đem đến để trước mặt tôi trên bàn – Khi cô về nhà, cô cứ việc đem về và không ai biết cô đi đâu. Bây giờ cho tôi biết vài chuyện nhé. Khi tôi đến nhà kỹ nữ của cô để phúng điếu, tôi có thấy một cô gái bằng tuổi cô.
- Chắc là Bí Ngô đấy. Có phải cái cô mặt tròn không?
Mameha hỏi tôi tại sao gọi cô ta là Bí Ngô, tôi giải thích cho cô nghe. Nghe xong cô ta bật cười.
- Cô Bí Ngô này, cô ta và Hatsumono sống với nhau ra sao?
- Thưa cô, theo tôi thì Hatsumono xem Bí Ngô chẳng hơn gì cái lá phất phơ ngoài kia.
- Có phải Hatsumono cũng đối xử với cô như thế không?
Tôi mở miệng định nói, nhưng tôi không biết nói gì. Tôi biết về Mameha rất ít, bây giờ nói xấu Hatsumono cho người ngoài nghe thì quả không đúng đắn. Mameha hình như hiểu được tâm trạng của tôi, vì cô nói:
- Cô khỏi cần trả lời. Tôi biết Hatsumono đối xử với cô ra sao rồi, đối xử như con rắn trước miếng mồi, tôi nghĩ như thế đấy.
- Xin phép hỏi cô, ai nói với cô như thế ạ?
- Không ai nói với tôi hết – cô ta đáp – Hatsumono và tôi biết nhau từ khi tôi lên sáu và cô ta lên chín. Khi người ta nhìn một sinh vật có tính xấu trong một thời gian dài như thế, thì chuyện biết sinh vật ấy hành động như thế nào không còn là chuyện lạ lùng khó hiểu.
- Tôi không biết tôi đã làm gì khiến cho cô ta ghét tôi như thế.
- Dễ hiểu Hatsumono như dễ hiểu con mèo thôi. Con mèo thấy sung sướng nằm phơi nắng ngoài sân khi không có những con mèo khác bên cạnh. Nhưng nếu nó thấy có những con mèo khác chọc mũi vào đĩa thức ăn của nó…Đã có ai kể cho cô nghe chuyện Hatsumono xua đuổi cô Hatsuoki ra khỏi quận Gion chưa?
Tôi bảo chưa nghe ai nói hết.
- Hatsuoki là một cô gái rất xinh đẹp – Mameha kể - cô ta là bạn thân của tôi. Cô ta và Hatsumono là chị em. Nghĩa là hai người được cùng một geisha huấn luyện, người geisha nổi tiếng này là Tomihatsu, khi ấy bà đã già rồi. Hatsumono không ưa Hatsuoki, khi hai người tập sự làm geisha, cô ta không chịu được việc để cho Hatsuoki làm đối thủ của mình. Cho nên cô ta phao tin khắp Gion rằng có người đã thấy Hatsuoki làm chuyện đồi bại với một cảnh sát. Dĩ nhiên chuyện này không có thực. Nếu Hatsumono đi khắp Gion để kể chuyện này thì chẳng ai tin. Ai cũng biết Hatsumono ghen tị với Hatsuoki. Cho nên cô ta đã làm như thế này, bất cứ khi nào cô ta gặp một người quá say – một geisha hay là một người hầu, hay bất kỳ một người đàn ông nào đến thăm Gion, người nào cũng được – cô ta đều rỉ tai câu chuyện bịa về Hatsuoki cho họ nghe để ngày hôm sau người nghe không nhớ ra Hatsumono là người kể. Chẳng bao lâu sau, cô Hatsuoki tội nghiệp bị mang tiếng xấu, và Hatsumono chỉ cần sử dụng một vài mẹo vặt nữa thôi là loại được Hatsuoki.
Tôi cảm thấy nhẹ người khi nghe có người khác nữa ngoài tôi đã bị Hatsumono đối xử quá dã man như thế.
- Cô ta không chịu được cảnh có đối thủ - Mameha nói tiếp – đấy là lý do cô ta đối xử với cô như thế đấy.
- Thưa cô, chắc Hatsumono không xem tôi là một đối thủ. Tôi không phải là đối thủ của cô ấy như vũng nước không thể là đối thủ của đại dương.
- Trong các phòng trà ở Gion thì có lẽ không. Nhưng trong nhà dạy kỹ nữ của cô thì…cô không lấy làm lạ tại sao bà Nitta không nhận Hatsumono làm con sao? Nhà kỹ nữ Nitta hẳn là nhà giàu nhất ở Gion không có người thừa kế. Khi nhận Hatsumono làm con, không những bà Nitta giải quyết được vấn đề khó khăn này, mà bà ta còn giữ hết của cải của Hatsumono cho nhà dạy kỹ nữ, không cho Hatsumono một đồng ten nào, mà Hatsumono là một geisha rất thành công! Chắc cô nghĩ là bà Nitta, người ham tiền như những người khác, muốn nhận cô ta làm con từ lâu rồi. Hẳn phải có lý do gì đấy chính đáng bà ta mới không làm thế, cô không thấy thế hay sao?
Trước đây chưa bao giờ tôi nghĩ đến chuyện này, nhưng sau khi nghe Mameha nói, tôi cảm thấy tôi đã hiểu ra lý do. Tôi đáp:
- Nhận Hatsumono làm con chẳng khác nào thả con hổ ra khỏi chuồng.
- Chắc đúng thế. Tôi nghĩ bà Nitta biết rõ việc nhận Hatsumono làm con sẽ dẫn bà ta đến đâu, thế nào cô ta cũng tìm cách loại bà mẹ ra. Nhưng dù sao, Hatsumono cũng là kẻ thiếu kiên nhẫn. Tôi không tin cô ta có thể nuôi một con dế trong lồng mây. Sau một vài năm, có thể cô ta sẽ bán số kimono của nhà kỹ nữ rồi rút lui. Cô Chiyo, đấy là lý do Hatsumono ghét cay ghét đắng cô. Còn cô Bí Ngô, tôi không tin là Hatsumono sợ bà Nitta nhận cô ta làm con.
- Cô Mameha, chắc cô còn nhớ cái kimono của cô bị làm hỏng…
- Chắc cô sẽ nói cô là người làm vấy mực lên áo.
- Dạ phải, thưa cô. Mặc dù tôi biết cô thừa hiểu Hatsumono âm mưu việc này, nhưng tôi cứ hy vọng có ngày tôi sẽ xin lỗi cô vì việc ấy.
Mameha nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không biết cô ta nghĩ gì, nhưng cuối cùng cô ta nói:
- Nếu cô muốn thì cứ xin lỗi đi.
Tôi xích lui khỏi cái bàn rồi cúi người xuống thật thấp tận chiếu, nhưng trước khi tôi nói lên lời xin lỗi, Mameha liền chặn tôi lại. Cô ta nói:
- Giá cô là một nông dân đến thăm Kyoto thì cúi người chào như thế là quá đẹp. Nhưng vì cô muốn trở thành người có giáo dục, cô phải làm như thế này này. Hãy nhìn tôi này, xích lui xa cái bàn thêm chút nữa. Được rồi, quỳ xuống đấy, bây giờ thẳng hai tay ra và để đầu ngón tay lên chiếu ở trước mặt cô. Chỉ đầu ngón tay thôi, không cả bàn tay. Cô đừng xòe ngón tay ra, tôi còn thấy khoảng hở giữa mấy ngón. Tốt, để lên chiếu…hai tay…đấy. Giờ thì đẹp rồi. Cúi người thật thấp, nhưng giữ cổ cho thật thẳng, đừng để đầu gục xuống như thế. Trời đất ơi, đừng đè lên hai tay, nếu không cô sẽ giống đàn ông! Thế là tốt. Bây giờ cô hãy làm lại xem.
Tôi cúi chào cô ta như thế một lần nữa, và nói là tôi rất ân hận vì đã góp phần làm hỏng chiếc áo kimono đẹp của cô.
- Áo kimono ấy đẹp phải không? Thôi, bây giờ ta quên chuyện ấy đi. Tôi muốn biết tại sao cô không tập luyện thành geisha nữa. các giáo viên đều nói cô học hành rất giỏi, rồi bỗng nhiên cô bỏ học. Đúng ra cô phải học tiếp để có sự nghiệp rạng rỡ ở Gion mới đúng. Tại sao bà Nitta không cho cô học tiếp?
Tôi kể cho cô nghe chuyện nợ nần của tôi, kể cả nợ cái áo kimono và chiếc ghim hoa mà Hatsumono vu cho tôi lấy. Sau khi nghe tôi kể xong, cô ta nhìn mãi tôi một lát mới nói:
- Cô chưa kể hết cho tôi nghe chuyện của cô. Căn cứ vào số nợ của cô, tôi nghĩ bà Nitta rất mong muốn cô trở thành geisha. Làm người hầu chắc không bao giờ cô trả hết nợ cho bà ấy.
Khi nghe thế, tự dưng tôi cụp mắt nhìn xuống vì cảm thấy xấu hổ, Mameha có vẻ như hiểu được ý nghĩ trong đầu óc tôi, cô hỏi:
- Có phải cô đã tìm cách chạy trốn không?
- Phải , thưa cô – tôi đáp – tôi có người chị, chúng tôi bị sống cách biệt nhau nhưng chúng tôi cố tìm cách gặp nhau. Chúng tôi hẹn nhau vào một đêm để cùng chạy trốn…nhưng tôi bị rớt từ trên mái nhà xuống gẫy tay.
- Từ mái nhà! Chắc cô nói đùa! Có phải cô leo lên mái nhà để nhìn Kyoto cho được bao quát không?
Tôi giải thích cho cô ta nghe tại sao tôi làm thế, rồi tôi nói tiếp:
- Tôi nghĩ tôi thật điên khùng, bây giờ Mẹ không đầu tư xu nào vào việc học tập của tôi vì bà sợ tôi lại bỏ trốn một lần nữa.
- Còn lắm chuyện đáng lo hơn thế nữa. Một cô gái chạy trốn làm bà chủ nhà mang tiếng xấu. Dân ở Gion sẽ nghĩ như thế này “Trời đất, mụ ấy làm gì mà để tôi tớ trong nhà bỏ trốn hết!” Thế đấy, đại loại là như vậy. Nhưng Chiyo này, bây giờ cô tính sao? Tôi thấy hình như cô không muốn làm cô hầu suốt đời.
- Ồ thưa cô, tôi muốn làm gì để chuộc lại lỗi lầm của mình. Đã hơn hai năm trôi qua rồi, tôi kiên nhẫn chờ đợi cơ hội mở ra cho tôi, và tôi hy vọng cơ hội sẽ đến.
- Kiên nhẫn đợi chờ không hợp với cô đâu. Tôi thấy cô là người có mạng thủy, mà nước không bao giờ chờ đợi. Nó biến dạng, chảy khắp nơi, tìm những xó xỉnh không ai ngờ để chảy tới. Nó tìm cái lỗ tí ti trên mái nhà hay dưới đáy thùng để chảy qua. Nước là yếu tố đa năng nhất trong ngũ hành, rõ ràng như vậy. Nó cuốn đất đi, dập tắt lửa, làm cho sắt rỉ và mục ra. Ngay cả gỗ, là yếu tố quan trọng trong ngũ hành, cũng không thể sống được nếu không có nước mang thức ăn đến cho nó. Thế mà cô không biết lợi dụng sức mạnh ấy trong cuộc đời ư?
- Thưa cô, có chứ. Chính hình ảnh nước chảy đã làm tôi nảy ra ý định trốn thoát qua mái nhà.
- Tôi biết cô thông minh lanh lợi, Chiyo à, nhưng tôi nghĩ hành động ấy không được thông minh lắm. Những người có mạng thủy không phải muốn chảy đi đâu thì chảy, mà chúng ta phải chảy theo dòng đời chúng ta đang sống.
- Tôi thấy tôi là con sông chảy vấp phải con đê, và con đê ấy chính là Hatsumono.
- Phải, đúng thế đấy – cô ta đáp, nhìn tôi một cách bình tĩnh – nhưng có lúc sông phải đẩy con đê văng đi.
Ngay từ khi tôi mới đến nhà cô ta, tôi tự hỏi không biết cô ta gọi tôi đến làm gì. Tôi cứ nghĩ bụng, chắc là chuyện chiếc áo kimono, nhưng bấy giờ tôi thấy không phải chuyện ấy mà là có chuyện gì khác. Chắc Mameha có ý định dùng tôi để trả thù Hatsumono. Tôi thấy rõ ràng hai người kình địch nhau, tại sao Hatsumono làm hỏng chiếc kimono của Mameha cách đây hai năm. Rõ ràng Mameha chờ đợi đến lúc thích hợp để trả thù, và bây giờ cô ta đã tìm ra đúng lúc. Cô ta sẽ dùng tôi đóng vai cây sậy lấn át những cây khác ra khỏi vườn. Cô ta không chỉ trả thù không thôi đâu, nếu tôi không lầm thì cô ta muốn loại hẳn Hatsumono.
- Nhưng dù sao – Mameha nói tiếp - nếu bà Nitta không để cho cô tiếp tục học tập thì chẳng có gì thay đổi.
- Tôi không mấy hy vọng thuyết phục được bà.
- Bây giờ cô đừng lo vấn đề thuyết phục, cô hãy lo tìm được đúng lúc thích hợp để làm việc ấy.
Tôi đã học được nhiều bài học ở trường đời, nhưng tôi không biết kiên nhẫn - thậm chí không đủ kiên nhẫn để tìm hiểu câu nói “tìm được đúng lúc thích hợp” của Mameha có ý nghĩa gì. Tôi nói với cô rằng nếu cô giúp tôi ý kiến để nói, thì ngày mai tôi sẽ nói với Mẹ.
- Chiyo này, ở đời mà làm việc tùy tiện sẽ không thành công. Làm việc gì cô cũng phải biết cách tìm cho đúng lúc thích hợp và nơi thích hợp. Con chuột muốn chọc tức con mèo không phải lúc nào muốn chạy ra khỏi hang thì chạy. Cô có biết cách tra cứu niên lịch không?
Tôi không biết anh đã thấy cuốn niên lịch bao giờ chưa. Mở cuốn lịch ra, lật từng trang người ta sẽ tìm thấy nhiều biểu đồ phức tạp và nhiều câu tối nghĩa. Giới geisha rất mê tín, như tôi đã nói với anh rồi. Bà Dì và bà Mẹ, ngay cả bà nấu bếp hay người giúp việc, hiếm khi làm việc gì mà không mở lịch ra xem ngày, cho dù chỉ để mua một đôi giày thôi. Nhưng tôi không bao giờ tra cứu lịch.
- Thảo nào mà cô gặp toàn chuyện không may – Mameha nói – Có phải cô chạy trốn mà không xem ngày tốt không?
Tôi nói cho cô biết chị tôi quyết định ngày ra đi khi nào chúng tôi đi được. Mameha muốn biết ngày tôi chạy trốn, tôi cho cô ta biết đó là thứ ba tuần cuối của tháng 10 năm 1929, chỉ có mấy tháng sau ngày Satsu và tôi bị lôi ra khỏi nhà.
Mameha sai chị hầu lấy cuốn niên lịch ra, sau khi hỏi tuổi tôi - tuổi thân – cô ta xem kỹ các biểu đồ rồi đọc cả một trang sách nói về công việc khái quát trong tháng. Cuối cùng cô ta đọc:
- Thời điểm thất lợi nhất. Phải tuyệt đối tránh kim, thức ăn lạ và đi xa. - đến đây cô ta dừng lại để nhìn tôi – Đi xa! Cô nghe không. Ngoài ra lịch còn cho biết cô phải tránh các thứ sau đây nữa; “tắm vào giờ Dậu”, “đổi áo mới ”, “thành lập cơ sở mới ”, và hãy nghe câu này này “đổi nơi cư trú” - đọc đến đây Mameha gấp sách lại nhìn tôi – cô có lưu tâm đến những chuyện như thế này không?
Nhiều người không tin chuyện bói toán như thế này, nhưng nếu khi ấy anh có mặt ở đấy để chứng kiến cảnh xảy ra tiếp theo, tôi chắc lòng nghi ngờ của anh sẽ tiêu tan ngay. Mameha hỏi tuổi của chị tôi và tra cứu lịch để xem vận mạng cho chị ấy. Xem một lát, cô ta nói:
- Đây nhé, sách có nói “ngày tốt, có thể chuyển dịch tí chút”, có lẽ không phải là một ngày tốt để làm việc động trời như là chạy trốn, nhưng cũng là ngày tốt hơn so với các ngày khác trong tuần hay là tuần tới. Và còn điều này nữa mới đáng ngạc nhiên, sách còn nói “ngày tốt để di chuyển theo hướng Hoàng đạo”. Mameha đọc xong, cô ta lấy bản đồ, tìm làng Yoroido, làng nằm ở phía Đông Bắc Kyoto, hướng này quả là hướng Hoàng đạo. Satsu có tra cứu niên lịch. Chị ấy có lẽ tra cứu niên lịch để xem ngày ra đi lúc để tôi ngồi một mình trong phòng dưới chân cầu thang ở nhà thổ Tatsuyo. Và có lẽ chị đã làm đúng: chị trốn được còn tôi thì không.
Chính lúc ấy tôi mới hiểu ra - tôi dốt nát làm sao! Không những trong kế họach chạy trốn mà còn trong tất cả mọi thứ khác nữa. Tôi không hiểu mọi vật trên đời này có liên quan mật thiết với nhau. Không phải chỉ theo đúng hướng Hoàng đạo như tôi vừa đề cập mà thôi. Con người chúng ta chỉ là một phần tử trong một thực thể to lơn hơn nhiều. Khi chúng ta đi, chúng ta có thể đạp nát một con bọ hay là gây xáo trộn không khí để cho một con ruồi không thể bay đến chỗ nó mong muốn. Nếu chúng ta lấy cái ví dụ đó để áp dụng cho chúng ta là sâu bọ, còn thế giới to lớn hơn là chúng ta thì rõ ràng những thế lực to lớn hơn chúng ta đã gây ảnh hưởng lên đời sống chúng ta rất dễ, chẳng khác nào chúng ta gây ảnh hưởng lên sâu bọ. Vậy chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải dùng bất cứ phương pháp nào để hiểu được sự vận hành của vũ trụ quanh ta, hiểu được thời gian ta hành động, để ta khỏi chiến đấu chống lại dòng vận hành ấy mà chỉ theo chúng thôi.
Mameha lại mở lịch ra xem, lần này cô ta chọn nhiều ngày trong số những ngày tiếp theo để chọn ngày tốt dùng trong công việc. Tôi hỏi tôi có nên nói với bà Mẹ vào một trong những ngày đó không, và tôi nên nói ra sao cho đúng.
- Tôi không có ý định khuyên cô đích thân đi nói với bà Nitta – cô ta đáp – bà ta sẽ bác bỏ yêu cầu của cô ngay. Nếu tôi là bà ta, tôi cũng sẽ làm thế. Vì bà ta biết không có ai ở Gion muốn làm chị cả của cô hết.
Nghe cô ta nói, tôi rất buồn. Tôi hỏi :
- Cô Mameha,vậy thì tôi nên làm gì?
- Chiyo, cô nên về nhà kỹ nữ của cô thôi. Và đừng có nói cho ai biết việc tôi đã nói chuyện với cô.
Nói xong, cô ta nhìn tôi với ánh mắt khuyên tôi nên cúi chào xin phép ra về ngay, và tôi đã làm thế. Tôi rất hoang mang bối rối , đến nỗi khi ra về tôi quên lấy các tờ tạp chí Kabuki và mấy sợi dây đàn mà Mameha cho tôi. Người hầu của cô phải mang tất cả chạy ra đường đưa cho tôi.

Chuong 11

Tôi cần phải nói rõ cho anh biết cái từ “chị cả” mà Mameha đã nói đến, mặc dù khi ấy chính tôi cũng không hiểu. Khi cô gái nào được phép chuẩn bị tập sự geisha, đều phải thiết lập quan hệ với một geisha dày dặn kinh nghiệm. Mameha có nói đến chị cả của Hatsumono, nàng geisha tiếng tăm Tomihatsu. Khi bà ta huấn luyện cho Hatsumono thì bà đã già rồi, nhưng không phải các chị cả khi nào cũng phải lớn tuổi hơn người geisha họ huấn luyện nhiều. Bất kỳ người geisha nào cũng có thể làm chị cả cho các cô nhỏ tuổi hơn, miễn là họ chỉ cần lớn tuổi hơn một ngày cũng được.
Khi hai cô đã gắn bó với nhau như chị em, họ thực hiện một nghi lễ như nghi lễ đám cưới vậy. Sau đó họ xem nhau như chị em trong một gia đình, gọi nhau là “chị cả” và “em út”. Có geisha không thể đóng vai của mình một cách nghiêm trang như ý muốn, nhưng nếu người chị cả nào làm công việc đứng đắn, sẽ trở thành hình ảnh quan trọng nhất trong cuộc đời của người geisha trẻ. Cô ta sẽ thực hiện được nhiều điều hơn nữa ngoài những việc chỉ bảo đảm cho em út học đúng cách giả vờ làm bối rối và cười khi đàn ông kể chuyện tục tĩu, hay là chỉ giúp cô ta chọn đúng thứ sáp thoa mặt trước khi hóa trang. Cô ta còn phải làm cho cô em út biết cách thu hút sự chú ý của những người mà cô ta cần biết. Cô làm công việc này bằng cách dẫn cô em đi khắp quận Gion, giới thiệu cô em với những bà chủ phòng trà đứng đắn, giới thiệu với người làm đầu tóc giả dùng vào các buổi trình diễn trên sân khấu, với các người chủ các nhà hàng ăn uống quan trọng…
Thật sự có rất nhiều việc phải làm. Nhưng công việc gíới thiệu cô em út khắp Gion trong thời gian ban ngày, mới chỉ là nửa công việc của người chị cả. Vì quận Gion giống như một ngôi sao lờ mờ sẽ trở nên rực rỡ sau khi mặt trời lặn. Ban đêm, người chị cả phải dẫn cô em út đi theo mình để vui chơi giải trí, để giới thiệu cô em với khách và người bảo trợ mà cô ta đã thỏa thuận trong những năm qua. Cô ta sẽ nói với họ “Ồ, ông đã gặp cô em út của tôi chưa? Vui lòng cố nhớ đến tên cô ta nhé, vì cô ta sắp thành đại minh tinh rồi! Và vui lòng cho phép cô ta gọi ông vào dịp ông đến thăm Gion sau này” – dĩ nhiên có vài người trả phí tổn cao để có buổi tối nói chuyện với cô gái 14 tuổi, thực tế thì người khách này có thể không gọi cô em út vào dịp đến chơi sau. Nhưng người chị cả và bà chủ phòng trà sẽ tiếp tục đẩy cô ta đến với khách cho tới khi ông ta gọi. Nếu tình hình không xuôi, vì lý do gì đấy mà ông ta không thích…thì thôi, còn trường hợp ông ta thích, có lẽ ông ta sẽ nhận làm người bảo trợ cho cô, y như ông ta là chị cả của cô ta vậy.
Đảm nhiệm vai trò chị cả thường cho ta cảm giác như mang bao gạo đi lui đi tới qua thành phố. Bởi vì người em út không những lệ thuộc vào chị cả như người hành khách lệ thuộc vào chiếc tàu họ đi, mà khi cô em có hành vi không tốt, chính người chị cả phải gánh lấy trách nhiệm. Lý do khiến cho người geisha đã thành đạt và bận bịu nhận lãnh chuyện rắc rối cho cô em út, là vì moi người ở Gion đều có lợi khi người tập sự geisha thành công. Người tập sự có lợi là trả được nợ của mình, và nếu gặp may, cô ta có thể trở thành tình nhân của một người giàu có. Người chị cả có lợi bằng cách nhận một phần tiền thu nhập của cô em – cũng như các bà chủ các phòng trà nơi mà cô gái đến giải trí cho khách. Ngay cả người làm tóc giả, cửa tiệm bán đồ trang sức, và các tiệm bánh kẹo mà cô geisha tập sự thỉnh thoảng đến mua quà tặng cho các người bảo trợ cô ta...có thể họ không trực tiếp nhận tiền của cô gái, nhưng họ có lợi ở chỗ cô geisha thành công thu hút khách đến Gion để xài tiền.
Công bằng mà nói, mọi việc của cô em út đều phụ thuộc vào người chị cả. Thế nhưng có vài cô khó tìm được người chị cả. Người geisha cóc cuộc sống ổn định không muốn mất tiếng tăm của mình bằng cách nhận một cô em út mà cô ta cho là buồn bã hay nhận một cô mà cô ta nghĩ các ông bảo trợ của mình không thích. Mặt khác, bà chủ nhà dạy kỹ nữ đã đầu tư một số tiền lớn vào việc huấn luyện cho người tập sự, sẽ không ngồi yên để đợi cô geisha buồn bã nào đến đề nghị dạy cho cô ta. Kết quả là, nàng geisha thành đạt đưa ra yêu cầu quá sức bà ta chịu được. Người thì bà ta từ chối không chấp nhận, người thì bà không thể…đây là lý do khiến cho Mẹ nghĩ rằng không có nàng geisha nào ở Gion bằng lòng đóng vai chị cả của tôi, giống như ý kiến của Mameha.
Trở lại thời tôi mới đến nhà dạy kỹ nữ, có lẽ Mẹ có ý định để cho Hatsumono – có thể là người đàn bà ném đá dấu tay – nhưng hầu như người tập sự nào cũng tỏ ra sung sướng khi được làm em út cô ta. Hatsumono đã làm chị cả ít ra cũng cho hai nàng geisha trẻ có tiếng ở Gion. Thay vì hành hạ họ như hành hạ tôi, cô ta lại đối xử rất tốt. Chính cô ta chọn người làm em út và cô ta làm thế là vì tiền. Cho nên giao cho Hatsumono làm chị cả của tôi để chỉ hưởng thêm vài đồng là thất sách, vì làm thế chẳng khác nào giao cho con chó dẫn con mèo ra đường, không chóng thì chầy con chó cũng cắn con mèo thôi. Mẹ có thể buộc Hatsumono làm chị cả của tôi – không những chỉ vì Hatsumono ở trong nhà kỹ nữ của chúng tôi mà còn vì cô ta có quá ít áo kimono và phải lệ thuộc vào số áo của nhà kỹ nữ. Nhưng tôi không tin có thế lực nào trên đời này có thể bắt buộc Hatsumono huấn luyện tôi một cách đúng đắn. Tôi tin chắc vào ngày cô ta được yêu cầu đưa tôi đến phòng trà Mizuki để giới thiệu tôi với bà chủ ở đấy, thay vì dẫn tôi đến đấy, thế nào cô cũng đưa tôi ra bờ sông và nói “Hỡi sông Kamo, người có muốn gặp em út không?” rồi đẩy tôi xuống sông.
Còn việc nghĩ đến có người geisha khác lãnh nhiệm vụ huấn luyện tôi…thì, chắc cô ta phải đối đầu với Hatsumono. Ít người nào ở Gion có can đảm dám làm như thế.
Sau ngày tôi gặp Mameha vài tuần, một hôm gần trưa khi tôi đang hầu trà cho Mẹ tiếp khách trong phòng khách thì bà Dì đẩy cửa mở ra.
- Tôi xin lỗi làm gián đọan – bà Dì nói – không biết chị có vui lòng xin lỗi khách một lát được không, chị Kayoko – Kayoko là tên thật của Mẹ, nhưng hiếm khi chúng tôi nghe tên này trong nhà – chúng ta có khách đợi ngoài cửa.
Khi nghe thế, Mẹ nhìn Dì cười, bà nói:
- Dì ơi, chắc Dì có chuyện buồn phải không, nên mới vào báo có khách đến. Dì làm như tôi tớ trong nhà bận lắm đến nỗi Dì phải làm công việc của chúng.
- Tôi nghĩ chắc chị thích nghe tôi báo khách của chúng ta là Mameha.
Tôi đã bắt đầu lo cuộc gặp gỡ của tôi với Mameha chẳng đi đến đâu. Nhưng bây giờ bỗng nghe cô ta đến đây…Trời, máu chạy rần rật trên mặt tôi nóng phừng phừng. Căn phòng im lặng một hồi, rồi khách của Mẹ lên tiếng:
- Cô Mameha..thôi, tôi xin kiếu từ, nhưng ngày mai bà nhớ cho tôi biết cô ta có chuyện gì.
Tôi thừa lúc khách của Mẹ ra về để lẻn ra ngoài. Rồi khi ra ngoài hành lang trước, tôi nghe Mẹ nói chuyện với Dì, chuyện mà tôi không ngờ đến. Bà gõ ống vố vào cái gạt tàn thuốc mà bà đã mang theo từ trong phòng khách ra, và khi bà đưa cái gạt tàn cho tôi, bà nói:
- Này Dì, đến đây sửa lại tóc cho tôi một chút
Trước đây tôi chưa bao giờ thấy bà quan tâm đến dung nhan của mình. Đúng là bà mặc áo thật sang, nhưng mắt bà kèm nhèm như cá ươn thối, và đúng là bà xem tóc của mình như kiểu tàu hỏa xem ống khói của nó: ống khói chỉ là vật nằm trên chóp tàu mà thôi.
Trong khi Mẹ ra đón khách ở cửa, tôi đứng chùi cái gạt tàn thuốc trong phòng gia nhân. Tôi cố lắng tai nghe Mameha và Mẹ nói gì, đến nỗi tôi không thấy ngạc nhiên khi hai lỗ tai đau nhừ vì căng thẳng.
Mẹ lên tiếng trước:
- Tôi xin lỗi phải để cô chờ lâu, cô Mameha. Được cô đến thăm thật hân hạnh biết bao!
Rồi Mameha đáp:
- Thưa bà Nitta, mong bà tha lỗi vì ghé nhà bà đột ngột như thế này…
Câu chuyện tiếp theo tẻ nhạt như thế một hồi. Việc tôi ráng sức để nghe kết quả câu chuyện chẳng khác nào người đàn ông ráng bò lên đỉnh đồi toàn đá.
Cuối cùng hai người đi qua hành lang trước để vào phòng khách. Tôi hết sức muốn nghe câu chuyện của họ đến nỗi tôi lấy cái giẻ lau nhà ở phòng gia nhân ra chùi nền nhà ở hành lang trước phòng khách. Thường khi bà Dì không cho phép tôi làm việc ở đấy khi có khách ở trong phòng, nhưng chính bà cũng bận nghe lén như tôi. Khi chị hầu rót trà xong đi ra, Dì đứng sang một bên để khỏi bị thấy và giữ cửa hé mở một chút để nghe cho rõ. Hai người nói rất nhỏ, và vì quá chú ý lắng tai để nghe, tôi hầu như không chú ý đến những gì xảy ra chung quanh, và kết quả là bỗng tôi bắt gặp ánh mắt của Bí Ngô đang nhìn vào mặt tôi. Cô ta đang quỳ đánh bóng sàn nhà, mặc dù tôi đã làm rồi và cô ta được miễn làm công việc lặt vặt trong nhà.
- Mameha là ai thế? – cô ta hỏi nhỏ tôi.
Rõ ràng cô ta đã nghe các gia nhân bàn tán với nhau, tôi thấy họ ngồi túm tụm với nhau trên hành lang đất, gần bên lối đi lát gỗ.
- Cô ta và Hatsumono là hai người kình địch nhau – tôi đáp – là người có áo kimono mà Hatsumono sai tôi vấy mực vào.
Bí Ngô có vẻ như sắp muốn hỏi gì nữa, nhưng bỗng tôi nghe Mameha nói:
- Thưa bà Nitta, tôi mong bà tha lỗi cho, vì tôi đã quấy rầy công việc của bà, nhưng vì tôi muốn nói chuyện với bà một chút về cô hầu Chiyo của bà.
- Ô đừng – Bí Ngô thốt lên, và nhìn vào mắt tôi để tỏ ý lo lắng, sợ tôi sắp gặp rắc rối.
- Con Chiyo của chúng tôi tính tình hư hỏng – Mẹ đáp – tôi hy vọng nó không làm phiền cô.
- Không, không phải thế. Mấy tuần rồi, tôi không thấy cô ấy đến trường. Thỉnh thoảng tôi có gặp cô ta trên hành lang…mới hôm qua, tôi đoán chắc cô ấy bị bệnh nặng. Tôi vừa mới làm quen với một ông bác sĩ rất giỏi. Tôi xin phép được mời ông ta đến khám cho cô ấy có được không?
- Cô thật tốt, nhưng chắc cô lầm với cô gái khác rồi. Cô không thể gặp Chiyo ở trên hành lang nhà trường được. Nó đã thôi học hai năm rồi.
- Có phải chúng ta đang nói đến cô ấy không? Cô ấy rất đẹp, cặp mắt màu xanh xám hấp dẫn.
- Nó có cặp mắt khác thường. Nhưng chắc có hai cô gái như thế ở Gion. Ai mà biết được!
- Tôi tự hỏi không biết có phải thời gian đã hai năm trôi qua từ khi tôi gặp cô ấy ở đấy không. Có lẽ cô ấy đã gây cho tôi ấn tượng mạnh khiến tôi có cảm giác như mới gần đây. Thưa bà Nitta, xin phép hỏi bà, cô ấy có khỏe không?
- Ồ khỏe, khỏe như cái cây đang lớn và nếu tôi nói không ngoa thì cô ta rất ngang bướng.
- Thì ra cô ta thôi học lâu rồi à? Kỳ lạ nhỉ?
- Đối với một geisha trẻ trung có tiếng như cô, tôi nghĩ Gion là nơi dễ sống. Nhưng cô biết đấy, thời buổi khó khăn, tôi không thể đầu tư tiền bạc vào bất kỳ ai được. Khi tôi nhận ra con Chiyo không xứng hợp…
- Tôi tin chắc chúng ta đang nói đến hai cô gái khác nhau rồi – Mameha nói – Thưa bà Nitta, tôi không tin rằng một nhà kinh doanh khôn ngoan như bà mà lại gọi Chiyo là người không xứng hợp.
- Cô có tin chắc tên cô ấy là Chiyo không? – Mẹ hỏi.
Không ai nghĩ có chuyện như thế, nhưng khi hỏi xong, bà ta đứng dậy, đi qua căn phòng nhỏ. Lát sau bà mở cửa và thấy Dì đang áp tai vào cửa để lắng nghe. Dì tránh sang một bên, tỉnh bơ như không có chuyện gì xảy ra, và tôi đoán Mẹ cũng giả vờ không thấy Dì, và bà chỉ nhìn vào tôi và nói:
- Chiyo-Chan, vào đây một lát.
Khi tôi đóng cửa, đến quỳ trên chiếu để chào, Mẹ đã trở về ngồi lại ở bàn:
- Chiyo của chúng tôi đấy – Mẹ nói.
- Đúng là cô gái tôi nghĩ đến – Mameha nói – cô Chiyo, cô mạnh khỏe chứ? Tôi sung sướng khi thấy cô mạnh khỏe như thế này. Tôi vừa mới nói với bà Nitta, tôi rất lo cho sức khỏe của cô. Nhưng trông cô khỏe quá.
- Ồ, thưa cô, tôi rất khỏe – tôi đáp.
- Cám ơn con, Chiyo – Mẹ nói với tôi. Tôi cúi người chào để xin lui ra, nhưng trước khi tôi đứng dậy, Mameha nói:
- Thưa bà Nitta, cô ta thật đẹp. Xin thưa với bà, nhiều lần tôi có ý định đến xin phép bà cho cô ấy làm em út của tôi. Nhưng bây giờ biết cô ta không còn luyện tập…
Chắc Mẹ kinh ngạc khi nghe thế, vì mặc dù bà đã đưa tách trà lên miệng để uống, nhưng bà dừng lại nửa chừng và ngồi bất động trong suốt thời gian tôi ra khỏi phòng. Tôi vừa trở về chỗ cũ trên nền hành lang mới nghe bà cất tiếng đáp:
- Cô Mameha, một geisha nổi tiếng như cô…cô có thể có học trò tập sự ở Gion làm em út rất dễ.
- Đúng là nhiều người thường yêu cầu tôi nhận họ làm em út. Nhưng hơn một năm nay, tôi không nhận người nào làm em út hết. Chắc bà nghĩ đang thời buổi đại suy thoái khủng khiếp như thế này, khách làng chơi sẽ thưa bớt, nhưng thực ra, tôi chưa bao giờ quá bận rộn như bây giờ. Tôi nghĩ người giàu vẫn cứ giàu, ngay cả thời buổi như thế này.
- Bây giờ họ cần vui chơi giải trí hơn bao giờ hết – Mẹ đáp – nhưng cô nói…
- À, chuyện tôi nói ư? Thì chẳng có gì khác. Chắc tôi không nên dông dài làm mất thì giờ của bà nữa. Tôi rất sung sướng khi thấy Chiyo khỏe mạnh trở lại.
- Vâng, rất khỏe, Nhưng thưa cô Mameha, xin cô nán lại một lát rồi hãy về. Cô vừa nói cô có ý định nhận Chiyo làm em út à?
- Phải, nhưng cô ấy đã thôi tập luyện từ lâu rồi. Vả lại, tôi tin chắc bà có lý do chính đáng khi quyết định không cho cô ấy học tiếp. Tôi không dám mạn đàm đến quyết định của bà.
- Thật khổ là thời buổi bây giờ người ta phải buộc lòng làm những việc ngoài ý muốn của mình. Tôi không thể để cho nó luyện tập tiếp được. Tuy nhiên, thưa cô Mameha, nếu cô thấy nó có tiềm năng, tôi nghĩ tiền bạc cô bỏ ra đầu tư cho nó, thê nào cô cũng được đền bù xứng đáng.
Mẹ đang cố lợi dụng Mameha, không có geisha nào trả tiền học phí cho em út của mình hết.
- Tôi rất muốn đầu tư, nhưng đang lúc đại suy thoái…
- Có lẽ tôi phải cố tìm ra cách để giải quyết – Mẹ nói – Nhưng Chiyo là đứa rất cứng đầu và nợ rất nhiều. Tôi nghĩ, nếu nó trả lại được, quả là điều hết sức ngạc nhiên.
- Cô gái đẹp như thế mà ngạc nhiên à? Phải nói nếu cô ta không trả được nợ mới là ngạc nhiên.
- Dù sao cũng còn những chuyện phiền phức trong cuộc sống hơn cả tiền bạc phải không? Ai cũng muốn giúp đỡ một cô gái như Chiyo hết, tôi có thể tìm cách để đầu tư thêm vào nó, chỉ vào việc học thôi, xin cô hiểu cho như thế. Nhưng việc đầu tư này sẽ đi đến đâu?
- Tôi biết nợ của Chiyo lớn đấy. Song tôi tin cô ta sẽ trả hết vào năm cô ta hai mươi tuổi.
- Hai mươi? – Mẹ thốt lên – Tôi không tin cô gái nào ở Gion làm được việc ấy. Mà đang lúc gặp thời khó khăn…
- Phải, đúng là đất nước đang ở trong thời kỳ suy thoái kinh tế.
- Theo tôi thì đầu tư vào Bí Ngô có lẽ an toàn hơn, dù sao trong trường hợp của Chiyo, với người chị cả như cô, nợ của nó sẽ gia tăng trước khi trả dần được.
Mẹ không nói đến học phí của tôi, mà bà nói đến phí tổn bà phải trả cho Mameha. Một geisha tầm cỡ như Mameha hưởng phần lợi tức của em út lơn hơn một geisha bình thường.
- Thưa cô Mameha, - Mẹ nói tiếp - nếu cô còn thì giờ nán lại, tôi xin đưa ra một đề nghị như thế này cô nghe có được không. Nếu cô Mameha danh tiếng nói rằng Chiyo sẽ trả hết nợ vào năm 20 tuổi, làm sao tôi không tin? Đương nhiên một cô gái như Chiyo sẽ không thành công nếu không có một người chị cả như cô, thế nhưng nhà kỹ nữ của chúng tôi bây giờ gặp nhiều khó khăn, tôi không thể đưa với cô những điều kiện mà cô thường được người ta đề nghị. Cho nên tôi chỉ có thể đề nghị trả cho cô một nửa số tiền công cô lấy của người khác khi nào Chiyo có lợi tức.
- Hiện giờ tôi có nhiều người đưa ra những đề nghị rất rộng rãi – Mameha nói - Nếu tôi nhận cô ta làm em út, tôi không thể nào giảm bớt tiền công được.
- Tôi chưa nói hết, cô Mameha. Đây là đề nghị của tôi, quả thật tôi chỉ có đủ khả năng trả cho cô một nửa số tiền công cô lấy của người khác. Nhưng nếu Chiyo tìm cách trả hết nợ cho tôi vào năm 20 tuổi, như cô tiên kiến, thì tôi sẽ trả hết phần còn lại kia cho cô, cộng thêm tiền phụ trội ba mươi phần trăm nữa. Chắc cô sẽ kiếm được nhiều tiền thêm dài dài.
- Còn nếu đến năm 20 tuổi mà Chiyo không trả được hết nợ?
- Trường hợp này tôi xin lỗi thưa trước là cả hai chúng ta đều lỗ thôi. Nhà kỹ nữ chúng tôi chắc không thể trả nổi tiền phí tổn chúng tôi mắc nợ cô được.
Im lặng một lát rồi Mameha thở dài.
- Thưa bà Nitta, tôi rất dốt tính toán, nhưng nếu tôi hiểu không lầm thì bà muốn tôi nhận lãnh một nhiệm vụ mà bà nghĩ có thể bất khả thi, vì tiền phí tổn ít hơn thể lệ rất nhiều. Nhiều cô ở Gion muốn làm em út tôi, đã đưa ra những điều kiện khích lệ hơn nhiều. Chắc tôi phải từ chối đề nghị của bà thôi.
- Cô nói đúng - Mẹ đáp – ba mươi phần trăm quả thấp thật, nhưng nếu cô thành công, tôi sẽ trả cho cô gấp đôi.
- Nhưng nếu tôi thất bại thì không có gì hết.
- Xin cô đừng nghĩ đến chuyện không có gì. Một phần phí tổn của Chiyo sẽ được trả đền cho cô. Nhà kỹ nữ chỉ không thể trả cho cô số tiền phụ trội mà thôi.
Tôi nghĩ Mameha sẽ trả lời không, nhưng cô ta nói:
- Tôi muốn biết củ thể số nợ của Chiyo bao nhiêu.
- Để tôi lấy sổ kế toán cho cô xem - Mẹ đáp.
Tôi không nghe hai người nói thêm gì nữa vì khi ấy bà Dì không muốn để tôi nghe lén thêm nên sai tôi đi làm một số công việc lặt vặt ở ngoài. Suốt buổi chiều tôi nôn nao bồn chồn vì không biết câu chuyện giữa hai người ra sao. Nếu Mẹ và Mameha không thỏa thuận được với nhau, tôi sẽ sống mãi cuộc đời của một đứa hầu gái y như con rùa vẫn là con rùa.
Khi tôi về lại nhà, Bí Ngô vẫn quỳ trên hành lang gỗ ngoài sân, gảy đàn Shamisen rất ồn. Khi thấy tôi, cô ta có vẻ mừng rỡ gọi tôi đến:
- Kiếm cớ mà vào phòng Mẹ - cô ta nói – Bà ấy ngồi trong phòng suốt cả buổi chiều với cái bàn tính. Mình đóan bà muốn nói chuyện với bạn đấy. Xong việc, chạy xuống đây ngay báo cho mình biết với.
Tôi nghĩ đây là một ý kiến hay. Một trong những công việc lặt vặt tôi làm là mua thuốc xức ghẻ cho bà bếp, nhưng tiệm thuốc hết thuốc, cho nên tôi định lên lầu xin lỗi Mẹ về việc đi mua không có thuốc. Dĩ nhiên bà chẳng quan tâm đến chuyện này, thậm chí có lẽ bà còn không biết chuyện tôi được đi sai làm công chuyện bên ngoài. Nhưng ít ra tôi cũng có cớ để vào phòng bà.
Thì ra khi ấy Mẹ đang nghe kịch trên radio. Mọi khi nếu tôi vào phòng bà như thế, bà ta sẽ vẫy tôi vào và tiếp tục nghe radio. Nhưng hôm nay tôi ngạc nhiên thấy bà tắt radio, gấp sổ lại khi thấy tôi bước vào. Tôi cúi người chào và đến quỳ trước bàn.
- Trong khi cô Mameha đến đây – bà nói – tao thấy mày chùi sàn nhà ở hành lang trước. Mày có nghe tao và cô ấy nói chuyện phải không?
- Không thưa Mẹ, trên mặt sàn có vết xước, Bí Ngô và con cố sức để chùi cho hết.
- Tao chỉ mong sao cho mày thành một geisha tốt chứ không thành một đứa nói láo – bà nói và cười nhưng vì không lấy ống vố ra khỏi miệng, nên bà thổi vào ống vố khiến cho tàn thuốc trong bầu thép văng ra ngoài. Một số tàn thuốc còn cháy bay xuống áo kimono của bà. Bà liền để ống vố lên bàn, đưa tay hất lấy hất để tàn thuốc ra khỏi áo, và khi thấy áo không bị hề hấn gì, bà có vẻ mừng ra mặt.
- Này Chiyo – bà nói tiếp – mày đã ở đây hơn một năm rồi.
- Thưa Mẹ, hơn hai năm.
- Trong thời gian này tao không để ý đến mày. Thế mà hôm nay có một nàng geisha như Mameha đến nói là muốn làm chị cả của mày. Tao thấy khó hiểu quá!
Theo chỗ tôi biết thì Mameha muốn trả thù Hatsumono hơn là muốn giúp tôi. Nhưng tôi không thể nói như thế với Mẹ. Tôi định trả lời Mẹ rằng tôi không biết lý do tại sao Mameha quan tâm đến tôi, nhưng chưa kịp nói, cửa phòng của Mẹ mở ra, và giọng nói của Hatsumono cất lến:
- Xin lỗi Mẹ, con không biết Mẹ đang mắng con ở!
- Nó sắp không phải là con ở nữa rồi - Mẹ đáp – hôm nay chúng ta có người khách đến thăm, chuyện này chắc làm cho cô quan tâm đấy.
- Phải, con nghe Mameha có đến để vớt con cá tuế trong bể nước ra – Hatsumono nói. Cô ta bước tới quỳ trước bàn, quỳ gần đến nỗi tôi phải nhích ra xa để đủ chỗ cho hai người.
- Mameha lấy cớ gì đấy cho rằng Chiyo sẽ hoàn lại số tiền nợ vào năm nó hai mươi tuổi.
Hatsumono quay mặt về phía tôi. Nhìn nụ cười của cô ta, người ta có thể nghĩ đấy là nụ cười nhân hậu của người mẹ thương con. Nhưng cô ta đã nói như thế này:
- Thưa Mẹ, có lẽ được, nếu Mẹ bán nó cho nhà thổ…
- Thôi Hatsumono, tôi không mời cô vào đây để nghe chuyện này. Tôi muốn biết vừa rồi cô đã làm gì khiêu khích cô ta?
- Có lẽ con đã làm cho cô Hoàn Hảo cảm thấy thua sút khi đi ngoài đường thì có, chứ làm việc gì khác thì không.
- Cô ta có ý đồ gì đấy. Ta muốn biết ý đồ của cô ta.
- Thưa Mẹ, chẳng có gì bí mật. Cô ta chỉ muốn đuổi kịp con bằng cách dùng cô Bé Ngốc.
Mẹ không trả lời, bà có vẻ suy ngẫm về điều Hatsumono vừa nói. Cuối cùng bà ta nói:
- Có lẽ cô ta nghĩ Chiyo sẽ thành công hơn Bí Ngô, và muốn kiếm ra được nhiều tiền ở nó. Nếu thế thì ai mà có thể trách cô ta được?
- Thưa Mẹ, thực ra Mameha không cần Chiyo để kiếm nhiều tiền đâu. Bộ Mẹ nghĩ là vô cớ mà cô ta chịu bỏ thì giờ ra huấn luyện một con bé đang ở cùng nhà kỹ nữ với con sao? Mameha muốn lập quan hệ với con chó của Mẹ, nếu cô ta nghĩ việc này giúp cô ta loại con ra khỏi Gion.
- Thôi thôi Hatsumono, tại sao cô ta lại muốn lọai cô ra khỏi Gion?
- Vì con đẹp hơn. Có phải cô ta cần có lý do chính đáng không? Cô ta muốn làm nhục con bằng cách nói với mọi người “Ồ, xin mời gặp cô em út của tôi. Cô ta đang sống cùng nhà với Hatsumono đấy. Nhưng cô ta là viên ngọc quý cho nên họ muốn phó thác cô ấy cho tôi để dìu dắt?"
- Tôi không tin Mameha làm thế - Mẹ nói, hơi thở hổn hển.
- Nếu cô ta nghĩ có thể làm cho Chiyo trở thành một geisha giỏi hơn Bí Ngô, - Hatsumono nói tiếp – cô ta sẽ thất vọng cho mà xem, nhưng con vui mừng khi thấy Chiyo mặc áo kimono đi dạo phố. Đây là cơ hội ngàn vàng cho Bí Ngô. Có khi nào Mẹ thấy cảnh con mèo con chụp bắt quả bóng ở sợi dây chưa? Bí Ngô sẽ trở thành xuất sắc sau khi được rèn luyện đầy đủ.
Mẹ có vẻ thích được như thế vì bà nhếch mép như muốn cười.
Ta không biết rồi sẽ có ngày được huy hòang như thế không. Sáng hôm nay khi ta thức dậy thì thấy hai đứa con gái vô dụng đang sống trong nhà kỹ nữ. Giờ đây chúng sẽ chiến đấu với nhau, dưới sự dìu dắt của hai geisha sáng chói nhất Gion.

Chuong 12

Ngay chiều hôm sau Mameha gọi tôi đến nhà cô ta. Lần này cô ngồi sẵn ở bàn đợi tôi khi chị hầu mở cửa. Tôi cẩn thận cúi chào nghiêm túc trước khi vào và đến ngồi ở bàn, cúi đầu xuống.
- Thưa cô Mameha, em không biết cái gì dẫn cô đến quyết định…- Tôi nói – Nhưng em không biết làm sao tả hết lòng biết ơn của em..
- Khoan cám ơn đã – cô ta ngắt lời tôi – chưa có gì xảy ra hết. Cô nên nói cho tôi nghe bà Nitta nói gì sau chuyến đến thăm hôm qua của tôi.
- Dạ - tôi đáp - Mẹ có vẻ thắc mắc tại sao cô chú ý đến em. Và nói thật ra, em cũng thế - tôi tưởng cô Mameha sẽ nói gì, nhưng cô không nói – còn phần Hatsumono thì…
- Đừng mất công nghĩ đến chuyện gì cô ta nói. Cô đã biết cô ấy rất sung sướng khi thấy cô thất bại, cũng như bà Nitta.
- Em không hiểu tại sao Mẹ cũng muốn thấy em thất bại, vì nếu em thành công, bà ấy cũng có tiền mà.
- Ngoại trừ việc nếu cô trả hết nợ của cô khi cô hai mươi tuổi, bà ta sẽ nợ tôi rất nhiều tiền. Hôm qua tôi đã chơi trò đánh cá với bà ấy - Mameha nói trong khi chị hầu phục vụ trà cho chúng tôi - Tôi không muốn chơi trò đánh cá trừ phi tôi biết chắc cô sẽ thành công. Nhưng nếu tôi là chị cả của cô, chắc cô thừa biết tôi có những điều khoản rất nghiêm ngặt.
Tôi đợi cô nói những điều khoản đó ra nhưng cô chỉ quắc mắt:
- Chiyo, cô phải bỏ cái cách thổi nước trà như thế đi! Trông cô nhà quê quá! Đặt tách nước lên bàn đợi nguội rồi hãy uông.
- Em xin lỗi. Em không để ý.
- Đã đến lúc cô phải để ý, người geisha phải giữ gìn ý tứ trước mặt mọi người . Bây giờ tôi nói các điều nghiêm ngặt cho cô nghe. Trước hết tôi yêu cầu cô làm tất cả những điều tôi yêu cầu mà đừng hỏi tôi hay là nghi ngờ tôi. Tôi biết thỉnh thoảng cô không vâng lời Hatsumono hay bà Nitta, chắc cô cho đấy là việc đáng thông cảm, nhưng đối với tôi, cô nên tuyệt đối vâng lời, đừng để những việc như trước xảy ra nữa.
Hatsumono hoàn toàn đúng. Cuộc đời đã đổi thay rất nhiều rồi. Khi tôi còn nhỏ, con gái mà không vâng lời người lớn sẽ bị trừng phạt rất gắt.
- Cách đây mấy năm, tôi đảm trách huấn luyện hai cô em út - Mameha nói tiếp – Một cô làm việc cật lực, còn cô kia thì lơ là. Một hôm tôi gọi cô ta đến đây nói cho cô ta biết tôi không chấp nhận việc cô ta không vâng lời tôi nữa, nhưng cô ta không nghe lời. Tháng sau tôi bảo cô ta đi tìm một chị cả mới.
- Thưa cô Mameha, em xin hứa như thế với cô. Việc như thế sẽ không bao giờ xảy đến cho em. Em thật cám ơn cô, em cảm thấy em như con tàu lần đầu tiên đi biển được thuận chiều xuôi gió. Em sẽ không tha thứ cho mình nếu làm cho cô bất bình.
- Thế là tốt, nhưng tôi không nói đến việc cô phải làm gì cật lực đâu. Cô phải hết sức cẩn thận đừng để cho Hatsumono lừa cô. Và lạy trời, đừng làm cái gì để nợ của cô bị gia tăng thêm. Ngay cả việc đừng làm bể một tách trà.
Tôi hứa tôi sẽ không làm thế, nhưng thú thật khi nghĩ tới việc Hatsumono lừa bịp tôi, tôi không biết tôi có giữ mình được không và để cho cô ta đánh lừa.
- Còn chuyện này nữa – Mameha tiếp tục - Bất cứ chuyện gì mà cô và tôi bàn với nhau, cô phải giữ thật kín. Cô không được nói lại chuyện ấy cho Hatsumono biết, cho dù đấy là chuyện thời tiết đi nữa, cũng không. Cô hiểu chứ? Nếu Hatsumono có hỏi, cô chỉ đáp như thế này “Ồ cô Hatsumono ơi, cô Mameha không nói chuyện gì hấp dẫn hết. Vừa nghe xong là tôi quên liền. Cô ấy là người quá vô duyên”
Tôi nói với Mameha là tôi hiểu.
- Hatsumono là người rất khôn lanh – cô ta nói tiếp - nếu cô chỉ nói hở một tí thôi là cô ta sẽ đoán được hết toàn bộ.
Bỗng Mameha nghiêng người tới trước nói bằng một giọng tức giận:
- Hôm qua khi tôi gặp hai người đi trên đường, hai người đã nói chuyện gì thế?
- Thưa cô không có gì hết – tôi đáp, và mặc dù cô ta quắc mắt nhìn tôi nhưng tôi vẫn cương quyết không nói gì hết.
- Không có gì nghĩa là sao? cô phải trả lời cho tôi, con bé ngốc, nếu không, tối nay tôi sẽ đổ mực vào lỗ tai cô khi cô đang ngủ.
Phải mất một lát tôi mới hiểu ra Mameha đang bắt chước Hatsumono. Tôi thấy thái độ bắt chước của cô không giống, nhưng tôi chợt hiểu cô đang có ý đồ gì, nên tôi đáp:
- Thưa cô Hatsumono, thú thật cô Mameha thường nói chuyện rất vô duyên, em không nhớ được chuyện gì hết. Chúng vào lỗ tai bên này là bay sang lỗ tai bên kia thôi. Hôm qua cô có thật thấy chúng em nói chuyện à? Vì nếu có, thì em cũng không thể nhớ được.
Mameha tiêp tục bắt chước Hatsumono thêm một lát nữa và cuối cùng, cô nói tôi làm tốt. Tôi không tin lắm điều cô nói. Bị Mameha hỏi, cho dù cô ta giả làm Hatsumono, cũng không giống như chuyện thực, khi tôi mặt giáp mặt với Hatsumono.
Trong hai năm kể từ khi Mẹ chấm dứt việc học của tôi, tôi hầu như quên hết những gì đã học. Và trong thời gian đi học trước đây, tôi hầu như cũng chẳng học được gì nhiều, vì trí óc tôi bận nghĩ đến trăm nghìn thứ khác. Cho nên khi tôi đi học lại sau khi đã được Mameha nhận làm chị cả, tôi cảm thấy như mình đi học lần đầu tiên.
Tôi đã 12 tuổi rồi, cao gần bằng Mameha rồi. Đi học đã lớn tuổi tưởng chừng như có lợi, nhưng thật sự không phải thế. Hầu hết các cô bắt đầu đi học khi còn nhỏ, có cô theo tập tục cổ truyền đi học lúc mới ba tuổi ba ngày. Số ít đi học lúc còn nhỏ này hầu hết là con của các geisha, học được học cách múa và nghệ thuật pha trà, xem như công việc hàng ngày trong đời sống, như tôi trước đây thường đi bơi trong hồ vậy.
Tôi đã miêu tả cách học đàn Shamisen với cô Chuột cho anh biết ra sao rồi. Nhưng geisha phải học nhiều môn nghệ thuật khác ngòai đàn Shamisen. Thực vậy, từ “gei” trong “geisha” có nghĩa là nghệ thuật, cho nên từ “geisha” có nghĩa là “thợ khéo tay” hay “nghệ nhân”. Bài hoc đầu tiên của tôi vào sáng hôm ấy là học về loại trống nhỏ mà chúng tôi gọi là tsutsumi. Chắc anh thắc mắc tại sao geisha phải học trống làm gì, nhưng câu trả lời rất đơn giản. Trong các buổi đại tiếc hay trong các buổi họp mặt chính thưc ở Gion, geisha chỉ thường múa với đàn Shamisen phụ họa hay với một ca sĩ. Nhưng khi lên trình diễn trên sân khấu, như diễn vở Vũ khúc cố đô vào mỗi mùa xuân, thì phải có đến sáu hay nhiều hơn nhạc công đàn Shamisen hợp nhau làm thành một ban nhạc, được nhiều loại trống đánh đệm và một cây sáo Nhật mà chúng tôi gọi là fue. Cho nên anh thấy đấy, geisha phải biết chơi tất cả các nhạc cụ này, mặc dù cuối cùng họ được khuyên nên chuyên chú vào một hay hai thứ thôi.
Như tôi vưa nói, bài học khi sáng sớm là trống cơm mà chúng tôi gọi là tsutsumi, trống này đánh với thế quỳ như tất cả các nhạc cụ khác mà chúng tôi đã học. Trống tsutsumi khác với các loại trống khác, vì trống được để trên vai và đánh bằng tay, không giống lọai trống Okawa lớn hơn phải để trên đùi, hay trống lớn hơn hết, trống này được gọi là Taiko, phải để nằm nghiêng một bên trên giá và đánh bằng đũa lớn. Tôi lần lượt học hết các lọai trống. Mỗi lọai trống có thể được xem như một nhạc cụ, ngay cả trống cho trẻ em chơi, nhưng thực ra có nhiều cách đánh mỗi lọai trống, như loại trống lớn taiko chẳng hạn, người đánh phải hoa cánh tay qua thân trống rồi mới đánh chiếc đũa vào mặt trống, lối đánh này gọi là Uchikomi, hay khi tay đánh thì tay kia đưa lên, lối đánh này gọi là Sarashi. Còn nhiều cách đánh nữa, và mỗi cách phát ra một âm thanh khác nhau, nhưng chỉ sau khi luyện tập nhiều mới đánh được. Điều quan trọng nhất là ban nhạc thường ngồi trước mặt công chúng, nên các động tác cần phải uyển chuyển duyên dáng, cũng như phải hòa hợp với các nhạc công khác, một nửa là tạo nên âm thanh chính xác, nửa kia là động tác đúng quy cách.
Tiếp theo môn trống, bài học trong buổi sáng là sáo Nhật và đàn Shamisen. Phương pháp học các nhạc cụ này có ít nhiều điểm giống nhau. Giáo viên chơi nhạc trước rồi học viên theo đó mà làm. Có khi chúng tôi trông như bầy thú ở thảo cầm viên, nhưng thường thì không, vì các giáo viên cẩn thận chỉ cho từng người. Như khi bắt đầu học sáo, giáo viên thổi một nốt nhạc, rồi chúng tôi lần lượt thổi lại nôt đó. Thậm chi chỉ sau một nốt thôi, giáo viên tìm ra cả đống chỗ mà nói.
- Này này, cô phải hạ ngón tay út xuống. Đừng chống lên như thế. Còn cô kia, cái ống sáo của cô có mùi hôi hả? Tại sao nhăn lỗ mũi như thế?
Cô giáo rất nghiêm khắc, giống hầu hết các giáo viên khác, và tất nhiên là chúng tôi sợ mắc phải lỗi lầm. Rât nhiều cô giáo lấy cái ống sáo của cô gái thổi sai và đánh lên vai cô ta.
Sau trống, sáo và đàn, bài học tiếp theo là hát. Ở Nhật, chúng tôi thường hát trong các bữa tiệc, và dĩ nhiên đàn ông ở Gion đều thích đi dự tiệc. Nhưng cho dù một cô gái hát không đúng nhạc và không bao giờ được yêu cầu lên trình diễn trước mặt những người khác, cô ta cũng vẫn phải học hát để giúp cô ta hiểu được vở múa. Bởi vì các điệu múa thường được phỏng theo các bài nhạc hay, đều được một ca sĩ hát có đàn đệm theo.
Có nhiều loại ca khúc khác nhau – ôi, quá nhiều, tôi không sao kể hết – nhưng trong các bài học của chúng tôi, chúng tôi chỉ học năm loại khác nhau. Có loại là những bài dân ca phổ biến, có loại là những bài trường ca của kịch nghệ Kabuki kể chuyện cổ tích, còn có những bài như bài thơ phổ nhạc. Tôi thấy khó mà miêu tả hết cho anh những ca khúc này. Nhưng tôi xin nói rằng trong khi tôi coi những ca khúc này là mê ly, thì người nước ngoài lại cho rằng chúng nghe như tiếng mèo kêu trong sân đền hơn là âm nhạc. Quả đúng là cách hát cổ truyền của Nhật nghe có vẻ ê a thật và thường được hát trong họng cho nên âm thanh phát ra ở mũi chứ không phải từ miệng. Nhưng đây là vấn đề phải nghe quen mới thấy hay.
Trong tất cả các môn học, múa và âm nhạc là hai môn chúng tôi phải chú trọng nhất. Vì cô gái nào có giỏi nhiều môn đi nữa, mà không học kỹ cách xử thế hay tư cách thái độ, thì khi đi dự tiệc sẽ bị chê trách ngay. Cho nên đấy là lý do khiến cho giáo viên thường rất gắt gao về mặt tư cách, thái độ của học viên, thậm chí phải chú đến các điểm này ngay cả khi đi trên hành lang đến phòng vệ sinh. Thật vậy, việc một cô gái bị la rầy nặng nề nhất không phải là cô ta sử dụng nhạc cụ sai hay không thuộc lời bài ca, mà vì cô tay để móng tay dơ bẩn, hay tỏ ra bất kính hay vì một việc gì đại loại như thế.
Thỉnh thỏang khi tôi nói chuyện về việc luyện tập của tôi cho những người ngoại quốc nghe, họ thường hỏi tôi “Thế cô học cách cắm hoa khi nào?” – Câu trả lời của tôi là không bao giờ. Bất kỳ ai ngồi trước mặt đàn ông cắm hoa để cho họ mua vui, đều có thể bất thần nhìn lên, bắt gặp họ gục đầu xuống bàn mà ngủ hết. Anh phải nhớ rằng geisha là nhà nghệ sĩ, người trình diễn. Chúng tôi có thể rót rượu sake hay trà cho đàn ông, nhưng chúng tôi không đi lấy dưa chua cho họ nhấm. Và thực tế thì giới geisha có nhiều người hầu hạ nuông chiều, hiếm khi chúng tôi phải lo chăm sóc mình, lo chăm sóc phòng ngủ cho ngăn nắp, đừng nói gì đến chuyện cắm hoa để trang điểm cho phòng trà.
Bài học cuối cùng cho buổi sáng là nghệ thuật hầu trà. Đây là môn đã được nhiều sách vở nói đến, cho nên tôi không đi sâu vào chi tiết làm gì. Nhưng cơ bản thì nghệ thuật hầu trà được một hoặc hai người thực hiện, họ ngồi trước mặt khách, chuẩn bị trà theo phương pháp cổ truyền, dùng những cái tách thật đẹp, và những cái lọc bằng tre, và các thứ khác. Thậm chí khách cũng góp phần tham gia vào nghi thức này, vì họ phải cầm tách trà ra sao và uống trà như thế nào cho đúng kiểu. Nếu anh suy ngẫm đến nghi thức này khi ngồi trước mặt một tách trà ngon, ừ…nó giống một vở múa hay là một buổi thiền, được thực hiện trong khi đang quỳ gối. Trà được chế ra từ lá trà xay thành bột, rồi lọc vào trong nước sôi một hỗn hợp ga sủi bọt màu xanh lục mà chúng tôi gọi là matcha, thứ này rất xa lạ với người nước ngpài. Tôi xin nói trà giống như nước xà phòng màu xanh lục, có vị đắng, dùng lâu rất ngon.
Nghi thức uống trà là bộ môn quan trọng nhất trong việc luyện tập của geisha. Khi mở tiệc ở nhà riêng, thường thường người ta bắt đầu lễ uống trà gọn nhẹ. và khách đến xem múa hát theo mùa ở Gion đều được các geisha phục vụ trà trước tiên.
Cô giáo dạy môn phục vụ trà của chúng tôi là một cô gái khoảng 25 tuổi, cô ta là một geisha không thành đạt lắm, sau này tôi mới biết như thế; nhưng cô ta mê say môn nghi thức phục vụ trà, cho nên cô dạy môn này rất nhiệt tình, mỗi động tác của cô đều mang tính chất thiêng liêng. Vì cô ta nhiệt tình như thế nên tôi rất hâm mộ môn dạy của cô, và phải nói rằng đây là môn học hứng thú nhất trong cả buổi sáng. Ngay cả bây giờ, tôi vẫn còn thấy nghi thức uống trà thật dễ chịu khoan khoái như một giấc ngủ ngon.
Điều làm cho việc luyện tập của người geisha quá khó khăn không phải chỉ các môn nghệ thuật mà họ phải học không thôi, mà còn nhiều việc khác nữa, khiến cho cuộc sống của họ trở nên quá bận rộn. Sau khi học cả buổi sáng, nàng geisha còn phải làm việc ở nhà vào buổi chiều và buổi tối nữa. Mỗi đêm cô ta chỉ được ngủ từ ba đến năm giờ. Trong những năm luyện tập này, nếu tôi làm việc như thế thì cuộc sống của tôi quá ư bận rộn. Nếu Mẹ cho tôi khỏi làm việc lặt vặt như Bí Ngô thì tôi rất biết ơn, nhưng nghĩ đến chuyện bà đã đánh cuộc với Mameha tôi không tin bà nghĩ đến chuyện cho tôi có nhiều thì giờ để luyện tập. Một số công việc trong nhà của tôi đã được trao cho gia nhân, nhưng tôi cũng phải làm một số công việc khác, việc luyện tập đàn Shamisen chỉ được một giờ vào mỗi buổi chiều. Vào mùa đông, cả Bí Ngô và tôi phải luyện tập đôi bàn tay cho trơ cứng ra bằng cách ngâm vào nước đá cho đến khi hai tay đau nhức đến phát khóc mới thôi, rồi ra ngoài sân lạnh để thực hành. Nghe có vẻ độc ác quá nhưng hiệu quả đem lại thật tuyệt. Thực vậy, luyện tập cho hai bàn tay trơ cứng như thế này giúp tôi đàn được tốt hơn. Như anh biết đấy, sự lo sợ khi lên sân khấu làm cho hai bàn tay luống cuống, và khi anh đã tập đàn với hai bàn tay tê cóng, cứng ngắc quen rồi, đến khi lên sân khấu, sự lo sợ không còn là vấn đề đáng lo nữa.
Mới đầu Bí Ngô và tôi cùng tập đàn với nhau vào buổi chiều, ngay sau khi đã học đọc học viết thật lâu với bà Dì. Chúng tôi học chữ Nhật ngay từ khi tôi mới đến, và Dì luôn luôn bắt chúng tôi học hành nghiêm túc. Nhưng khi thực tập đàn vào buổi chiều, Bí Ngô và tôi có dịp vui đùa với nhau. Nếu chúng tôi cười to, Dì hay một gia nhân chạy đến la chúng tôi, nhưng khi chúng tôi nói chuyện nho nhỏ và vừa đàn vừa nói chuyện, chúng tôi đã có thì giờ bầu bạn với nhau rất là vui vẻ. Đây là lúc mà tôi mong mỏi nhất trong ngày.
Bỗng một buổi chiều trong khi Bí Ngô giúp tôi học kỹ thuật luyện âm thì Hatsumono xuất hiện trên hành lang trước mặt chúng tôi. Chúng tôi không nghe cô ta về nhà khi nào.
- Kìa, người coi như em út của Mameha! – cô ta nói với tôi, cô ta thêm hai từ “coi như” vì Mameha và tôi chưa chính thức chị em cho đến khi tôi bắt đầu thành geisha tập sự.
- Đáng ra tôi gọi cô là cô Bé Ngốc kìa – cô ta nói tiếp – nhưng sau khi tôi thấy cảnh hai đứa như thế này, tôi nghĩ nên để dành từ ấy cho Bí Ngô.
Bí Ngô hạ cây đàn xuống hai đùi chân, y như con chó cụp đuôi giữa hai chân, cô ta hỏi:
- Tôi làm gì sai trái à?
Tôi không dám nhìn vào mặt Hatsumono để thấy vẻ tức giận trên mặt cô ta ra sao. Tôi quá sợ những việc sắp xảy ra. Hatsumono nói:
- Không làm gì hết! Tôi chỉ không nhận ra cô là đồ cạn nghĩ mà thôi.
- Tôi xin lỗi, cô Hatsumono – Bí Ngô nói – Tôi chỉ muốn giúp Chiyo mà thôi.
- Nhưng Chiyo không cần cô giúp đỡ học đàn, nó sẽ tìm đến cô giáo của nó. Có phải đầu cô là quả bầu khổng lồ rỗng tuếch rồi không?
Nói xong Hatsumono véo mạnh vào môi Bí Ngô khiến cây đàn tuột khỏi tay cô, rơi xuống nơi chỗ cô ngồi trên hành lang gỗ, lăn xuống hành lang đất.
- Tôi cần nói chuyện với cô một chút – Hatsumono nói với cô ta – Cất đàn đi, tôi đứng chờ ở đây để cô khỏi làm những chuyện ngu ngốc nữa.
Khi Hatsumono nói xong, Bí Ngô bước xuống lượm cây đàn lên và tháo rời các bộ phận ra. Cô ta buồn bã nhìn tôi, tôi nghĩ chắc cô không sao. Nhưng bỗng nhiên tôi thấy môi cô run run, rồi cả mặt cô cũng rung động như mặt đất sắp bị động đất, và thình lình cô thả những bộ phận của cây đàn lên sàn gỗ, và đưa tay lên môi – môi đã bắt đầu sưng – trong khi nước mắt tuôn ra chảy dài xuống hai má. Mặt Hatsumono dịu lại như thể bầu trời đã hết giông tố, rồi cô quay qua nhìn tôi, mở miệng cười khoan khoái.
- Chắc cô sẽ có một người bạn khác – cô ta nói với tôi – sau khi Bí Ngô và tôi nói chuyện xong, cô ấy sẽ biết cách nói chuyện với cô, phải không Bí Ngô?
Bí Ngô gật đầu, vì cô ta chẳng còn lựa chọn nào khác hơn. Nhưng tôi thấy cô ta rất buồn. Không bao giờ chúng tôi thực tập đàn Shamisen với nhau nữa.
Tôi đem chuyện chạm trán này nói cho Mameha biết vào lần tôi đến nhà cô sau đó.
- Tôi mong cô ghi nhớ những lời Hatsumono nói với cô – Mameha nói với tôi – nếu Bí Ngô không nói gì với cô, cô cũng không nên nói gì với cô ta. Cô chỉ gây nên cho cô ta lắm chuyện rắc rối mà thôi. Vả lại, thế nào cô ta cũng nói lại cho Hatsumono nghe những gì cô nói. Trước đây cô tin tưởng cô ấy, nhưng bây giờ thì không được nữa.
Nghe thế tôi cảm thấy rất buồn, tôi im lặng một hồi lâu mới nói được.
- Sống trong nhà kỹ nữ với Hatsumono giống như con heo sống trong lò mổ.
Khi nói thế là tôi nghĩ đến Bí Ngô, nhưng chắc Mameha cho rằng tôi muốn nói về tôi, nên cô ấy đáp:
- Cô nói đúng. Cách đề phòng duy nhất của cô là phải làm sao để thành công hơn Hatsumono và loại cô ta ra.
- Nhưng ai cũng nói cô ta là geisha nổi tiếng nhất, em không tin em sẽ nổi tiếng hơn cô ấy.
- Tôi không nói nổi tiếng – Mameha đáp – Tôi nói thành công. Đi đến dự nhiều buổi tiệc không phải là vấn đề. Tôi sống trong căn hộ rộng rãi với hai người hầu, trong khi Hatsumono – có lẽ cô ta đi dự tiệc nhiều như tôi – cứ phải sống trong nhà kỹ nữ Nitta. Khi tôi nói thành công, tôi muốn nói geisha nào không sắm được toàn bộ áo kimono cho mình – hay cô nào không được nhà dạy kỹ nữ nhận làm con, điều này giống như điều trên – thì cô ta sẽ bị người khác điều khiển cả đời. Chắc cô đã thấy số áo kimono của tôi rồi? Cô có biết làm sao tôi có được số áo này không?
- Em nghĩ có lẽ cô đã được nhà kỹ nữ nào đấy nhận làm con trước khi cô chuyển đến nhà này.
- Tôi ở trong một nhà kỹ nữ cho đến một ngày cách đây năm năm. Nhưng bà chủ ở đấy có cô con gái bà sinh ra, nên bà ta không nhận người khác làm con.
- Vậy em xin phép hỏi, có phải cô đã mua toàn bộ áo kimono của cô không?
- Chiyo, làm sao cô nghĩ một geisha có thể mua nổi? Toàn bộ kimono không phải chỉ hai hay ba cái áo mặc trong mỗi mùa, đàn ông họ đi chơi khắp Gion, nếu họ thấy đêm nào mình cũng mặc áo giống nhau, họ sẽ đâm chán.
Chắc khi ấy tôi tỏ ra có vẻ hốt hoảng lắm, vì Mameha cười to khi nhìn thấy nét mặt của tôi
- Vui lên Chiyo, để tôi trả lời rõ làm cho cô hết thắc mắc. Ông “danna” của tôi rất rộng rãi, ông ta đã mua cho tôi tất cả số áo ấy. Vì thế mà tôi thành công hơn Hatsumono. Nhiều năm rồi mà cô ta không có ông “danna” nào cả.
Tôi đã ở Gion khá lâu nên tôi hiểu rõ từ danna mà Mameha nói đến. Đây là từ một người vợ dùng để gọi chồng mình – hay đúng hơn là vào thời của tôi. Nhưng geisha nói đến danna của mình không phải nói đến chồng, geisha không lấy chồng, nếu không, họ không còn là geisha nữa.
Thỉnh thoảng sau khi dự tiệc có geisha, một số đàn ông cảm thấy chưa thỏa mãn cuộc vui, họ muốn đi xa hơn nữa. Có người muốn cùng nàng geisha đi đến những nơi như quận Myagawa-cho, đến đấy để họ đóng góp thêm mùi mồ hôi hôi hám vào những ngôi nhà dơ bẩn mà tôi đã thấy vào đêm tôi đến tìm chị tôi. Có ông bạo dạn trơ tráo hỏi nhỏ cô geisha ngồi bên cạnh về “giá cả” cô ta đòi hỏi. Những geisha hạ cấp có thể bằng lòng cách thu xếp như thế này, có lẽ họ sung sướng khi nhận thêm lợi tức của người đàn ông đề nghị. Người phụ nữ như thế nầy có thể tự cho mình là geisha và được ghi vào danh sách ở phòng đăng ký hộ tịch, nhưng tôi nghĩ anh nên nhìn vào cách cô ta múa, cách cô ta đàn, và khả năng hiểu biết của cô ta về nghi thức hầu trà trước khi anh quả quyết cô ta là geisha hay không. Một geisha thực thụ không bao giờ làm ô danh của mình bằng những cuộc hẹn hò với đàn ông đến những nơi không đứng đắn.
Tôi không quả quyết người geisha nào cũng đi theo đàn ông khi họ thấy ông ta hấp dẫn. Nhưng đi theo hay không là chuyện riêng của họ. Geisha cũng có những đam mê như mọi người, và họ cũng hành động sai lầm như mọi người. Người nào phạm phải sai lầm, họ chỉ còn cách hy vọng dấu giếm sao để người ta khỏi biết. Tiếng tăm của họ rất dễ bị ô uế, nhưng điều quan trọng hơn hết là nếu họ có một danna, họ lại càng phải cẩn thận hơn nữa. Điều đáng lo hơn hết là cô ta sẽ làm cho bà chủ nhà dạy kỹ nữ tức giận. Người geisha nào quyết tâm theo đuổi đam mê này đều có thể gặp nguy hiểm, nhưng có lẽ họ không làm thế để tiêu xài tiền bạc phung phí như tiền họ kiếm ra bằng con đường hợp pháp.
Cho nên anh biết không, người geisha bậc một hay bậc hai ở Gion đều không thể để cho bất kỳ ai mua một đêm. Nhưng nếu có một ông đứng đắn muốn được yêu đương tình tứ - không phải qua một đêm với nhau, mà gặp nhau trong một thời gian dài – và nếu ông ta bằng lòng với điều kiện thỏa đáng, thì geisha sẽ sung sướng chấp nhận đề nghị này. Họ vẫn tiếp tục đi dự tiệc hay dự cái gì thoảii mái, tự nhiên, nhưng thực sự tiền bạc ở Gion đều đến từ tay ông danna, và nàng geisha nào không có ông danna như Hatsumono – sẽ giống như con mèo hoang ngoài đường không có chủ nuôi ăn vậy.
Chắc anh nghĩ rằng một người đẹp như Hatsumono thế nào cũng có nhiều đàn ông đưa ra đề nghị làm danna cho cô ta, mà tôi biết đã có nhiều người muốn thế. Thực vậy, cô ta đã có danna một thời gan. Nhưng vì lý do gì đấy mà cô ta đã làm cho bà chủ phòng trà Mizuki quá tức giận – phòng trà này là nơi họat động chính của cô ta – đến nỗi có ông nào nhờ bà ta giới thiệu đều được bà ta trả lời là cô ta không xứng – có lẽ họ nghĩ cô ta đã có danna, mặc dù cô ta không có. Bất hòa với bà chủ, Hatsumono chỉ làm hại cho mình thôi chứ không làm ai thiệt hại hết. Là một geisha rất có tiếng, cô ta làm ra nhiều tiền khiến cho Mẹ sung sướng, nhưng geisha mà không có danna, cô ta không đủ sức để dành cho mình quyền độc lập và không dọn ra ở chỗ khác được. Cô ta cũng không thể đăng ký làm cho phòng trà khác để bà chủ ở các phòng trà này có cơ hội giúp cô ta tìm danna, không một bà chủ phòng trà nào muốn làm hỏng mối giao hảo với phòng trà Mizuki.
Dĩ nhiên lớp geisha hạng trung không bị kẹt vào thế khó xử như thế này. Nhưng họ có thể dùng thì giờ để ve vãn các ông, với hy vọng có người sẽ đưa ra lời yêu cầu bà chủ phòng trà giới thiệu các cô. Có nhiều người yêu cầu nhưng chẳng đến đâu, người này thì có tiền đầu tư quá ít, người khác lại ngần ngừ lẩn tránh khi các cô yêu cầu ông ta tặng cho cô chiếc kimono đắt giá để tỏ ra mình có thiện chí. Nhưng nếu sau vài tuần thương lượng mà được cả hai bên bằng lòng, cô geisha và người danna mới tổ chức một nghi lễ như nghi lễ hai geisha tổ chức làm chị em. Thông thường, mối ràng buộc này kéo dài sáu tháng hay lâu dài hơn, vì dĩ nhiên đàn ông thường mau chán. Các điều khoản trong cuộc ràng buộc này thường buộc anh chàng danna trả một phần nợ nần của nàng geisha và bao nhiêu thứ chi phí để mua đồ hóa trang, trả tiền học phí, và có thể cả tiền thuốc men khi bệnh hoạn nữa. Đại lọai là các thứ như thế, mặc dù đã tốn kém quá nhiều như thế rồi, nhưng ông ta vẫn tiếp tục trả tiền công phục vụ của cô ta tính theo giờ, bất cứ khi nào ông ta giải trí với cô, y như những khách hàng khác vậy. Nhưng ông ta sẽ được hưởng một vài “đặc quyền”.
Đây là những thỏa thuận đôi với giới geisha trung bình. Còn đôi với geisha siêu đẳng, loại này ở Gion có chừng 30 hay 40 cô, thì nguyên tắc thỏa thuận còn nhiều hơn nữa. Trước hết là nàng geisha không muốn làm lu mờ danh tiếng vì có nhiều danna, nhưng có thể có một hay hai trong suốt cả đời. Người danna không những chỉ bao hết những chi phí của cô ta, như là phí đăng ký, phí học tập và ăn uống hàng ngày, mà còn bao nhiêu thứ khác nữa. Ông ta phải cung cấp tiền cho cô ta, bảo trợ những buổi múa trình diễn có cô ta tham gia, mua kimono và nữ trang làm quà tặng cho cô ta. Và khi ông ta giải trí với cô ta, ông ta không phải trả phí tổn tính hàng giờ như thường lệ, có lẽ ông ta còn trả nhiều hơn thế, như là một cử chỉ khích lệ.
Mameha có lẽ là một trong những geisha siêu đẳng này. Quả vậy, theo chỗ tôi biết, cô ta là một trong số hai ba geisha nổi tiếng nhất của Nhật. Chắc anh đã nghe danh tiếng của nàng geisha Mametsuki rồi. Nàng là người đã dan díu với thủ tướng Nhật một thời gian ngắn trước Đệ nhất thế chiến và đã gây ra nhiều tai tiếng. Bà ta là chị cả của Mameha – vì thế mà cả hai đều có từ “Mame” trước tên của họ. Thông thường thì người geisha em có tên xuất phát từ tên của người chị cả.
Có người chị cả như Mametsuki đủ để cho Mameha thành công trong nghề. Vào đầu những năm 1920, phòng du lịch Nhật bản bắt đầu chiến dịch quảng cáo khắp thế giới. Những tấm bích chương in hình ngôi chùa ở đên Joji nằm ở phía đông nam Kyoto, một bên chùa là cây anh đào, và phía bên kia là hình cô geisha tập sự xinh đẹp, trông cô ta rất e lệ, duyên dáng và thanh lịch. Cô geisha tập sự ấy là Mameha.
Chỉ nói Mameha nổi tiếng là chưa nói hết về cô ta. Những tấm bích chương trưng bày ở các thành phố khắp thế giới với hàng chữ “Mời đến thăm xứ mặt trờii mọc” được in bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài – không những chỉ tiếng Anh mà còn Đức, Pháp, Nga. Lúc ấy Mameha chỉ mới 16 tuổi, nhưng bỗng nhiên cô được mời đến để gặp các nguyên thủ quốc gia đến thăm Nhật, và các nhà quý tộc ở Anh hay Đức, và các nhà triệu phú từ Hoa kỳ đến. Cô ấy đã chuốc rượu sake cho đại văn hào Đức Thomas Mann, ông này sau đó đã kể cho cô nghe một câu chuyện dài, buồn, thông qua người phiên dịch gần suốt một giờ, cũng như rót rượu cho Charlie Chaplin và Tôn Dật Tiên, và sau này cho Ernest Hemingway, nhà văn này đã say và nói rằng đôi môi đỏ đẹp đẽ trên khuôn mặt trắng của cô làm cho ông ta nghĩ đến máu trên tuyết. Từ đó về sau, Mameha nổi tiếng thêm như diễn một số vở mu’a được đại đa số quần chúng ưa thích trên sân khấu nhà hát Kabukiza ở Tokyo, nơi thường được thủ tướng và nhiều nhân vật danh tiếng đến xem.
Khi Mameha tuyên bố cô có ý nhân tôi làm em út, tôi chưa biết những chuyện này về cô. Nếu biết, chắc thế nào tôi cũng quá lo sợ, không làm gì được ngoài việc run lên khi đứng trước mặt cô.
Mameha đã rất tế nhị với tôi, cô bảo tôi ngồi xuống và giảng giải cho tôi nghe chuyện này vào hôm tôi đến nhà cô. Khi thấy tôi hiểu, cô hài lòng nói:
- Theo ngày bắt đầu nhập môn của cô, cô sẽ thành geisha tập sự cho đến năm 18 tuổi. Sau đó cô cần phải có danna nếu cô muốn trả nợ. Một danna rất giàu. Công việc của tôi là làm sao cho cô nổi tiếng ở Gion, nhưng cô phải nỗ lực học tập sao cho thành vũ công thành thạo. Nếu cô không đạt được xếp hạng tối thiểu là thứ năm vào năm 16 tuổi, thì tôi không thể làm gì giúp cô được và bà Nitta sẽ rằng vui sướng khi thắng cuộc với tôi.
- Nhưng thưa cô Mameha, em không hiểu múa để làm gì.
- Múa là thứ cần thiết vô cùng, nếu cô nhìn vào những geisha thành công nhất ở Gion, họ đều là những vũ công hết.
Múa là môn nghệ thuật được trọng vọng nhất trong các môn nghệ thuật của giới geisha. Chỉ có những geisha xinh đẹp và nhiều hứa hẹn nhất mới được khích lệ để học chuyên sâu vào bộ môn này, và không có bộ môn nào ngoài nghệ thuật pha trà có thể so sánh được với tính phong phú của môn cổ truyền này. Trường múa Inoue, nơi giới geisha ở Gion thực tập, bắt nguồn từ nhà hát Noh. Vì Noh là nơi nghệ thuật rất xưa luôn luôn được hòang gia bảo trợ, vũ công ở Gion xem nghệ thuật của họ hơn trường múa ở quận Ponto-cho nằm bên kia sông. Nghệ thuật của trường này bắt nguồn từ nhà hát Kabuki. Bấy giờ tôi rất hâm mộ nghệ thuật Kabuki, và thực tế tôi may mắn có một số bạn bè là nghệ sĩ Kabuki danh tiếng của thế kỷ này. Nhưng Kabuki là một thể nghệ thuật còn tương đối mới mẻ, trước những năm 1970, bộ môn này chưa có, và Kabuki được giới bình dân ưa chuộng chứ không được hòang gia bảo trợ, không đơn giản so sánh vũ ở Ponto-cho với trường Inoue ở Giion được.
Tất cả các geisha tập sự phải học múa, nhưng như tôi đã nói, chỉ có những geisha xinh đẹp và đầy hứa hẹn mới được khích lệ để học chuyên sâu và tiếp tục để trở thành vũ công thật sự, chứ không phải như người học đàn Shamisen hay là ca sĩ. Rủi thay cho Bí Ngô, vì lý do có khuôn mặt tròn, bẹt nên phải chú tâm vào đàn Shamisen, vì cô không được chọn làm vũ công. Còn tôi, tôi không phải quá đẹp đến nỗi đương nhiên được học múa, như Hatsumono. Tôi nghĩ rằng tôi được trở thành vũ công chỉ là nhờ tôi đã tỏ cho các giáo viên thấy rằng tôi sẵn lòng làm việc cật lực khi cần.
Tuy nhiên chính nhờ Hatsumono mà bước đầu tiên học múa của tôi tránh được những điều tệ hại. Cô giáo dạy múa khoảng 50 tuổi, chúng tôi thường gọi là cô giáo Bướu vì cô có một cái bướu nhỏ dưới cằm. Cô giáo Bướu rất ghét Hatsumono, Hatsumono biết rõ điều này, và anh có biết cô ta làm gì không? Cô ta đến gặp cô giáo – tôi biết điều này vì mấy năm sau cô Bướu nói cho tôi nghe – và nói:
- Thưa cô giáo, cô làm ơn giúp tôi một việc được không? Tôi có để ý đến một học viên trong lớp cô. Tôi thấy học viên này có vẻ có tài năng. Nếu cô giáo cho tôi biết cô nghĩ sao về cô ta, tôi sẽ hết sức biết ơn cô. Tên cô ta là Chiyo, và tôi rất rất thích cô ta. Tôi sẽ mang ơn cô nhiều nếu cô tận tình giúp ỡ cô ấy.
Hatsumono không cần nói thêm một lần nào nữa, vì cô giáo Bướu đã “tận tình giúp đỡ” như lời Hatsumono yêu cầu. Thật tình tôi múa không tệ, nhưng cô Bướu lập tức đem tôi ra làm ví dụ điển hình về những việc “không” được làm. Tôi nhớ một buổi sáng khi cô giáo biểu diễn một điệu múa bằng cách kéo cánh tay quanh thân hình như thế này, rồi dậm một chân lên chiếu. Tất cả chúng tôi đều bắt chước làm theo, nhưng vì chúng tôi mới bắt đầu học, nên khi chúng tôi dậm chân, tiếng dậm vang lên như một đĩa đầy đậu văng tung tóe lên nền nhà, vì các học viên dậm chân không cùng một lượt. Tôi cam đoan với anh tôi dậm không tệ hơn các cô khác, nhưng cô Bướu đến đứng ngay trước mặt tôi, cục bướu dưới cằm cô rung rung, cô nhịp cái quạt xếp lên đùi mấy lần rồi vung tay đánh cái quạt lên một bên đầu tôi.
- Chúng ta không dậm chân như thế - cô nói – và chúng ta không nhăn cằm.
Trong các điệu vũ của trường Inoue, mặt của vũ công phải giữ cho thật hoàn hảo, vô cảm như đeo mặt nạ trong kịch Noh. Nhưng cô giáo mắng tôi vì tội nhăn cằm trong khi cằm của tôi run lên vì tức giận, tôi như sắp khóc vì bị cô đánh thì bỗng các học viên khác phá ra cười. Cô giáo Bướu khiển trách tôi vì tội làm cho học trò cười, cô phạt đuổi tôi ra khỏi lớp.
Tôi không thể nói thân phận tôi sẽ ra sao dưới sự chăm sóc cẩn thận của cô giáo, nếu sau đó Mameha không đến nói chuyện với cô và giúp cô khám phá sự thật đã xảy ra. Tuy nhiên, tôi nghĩ cô Bướu trước đó đã ghét Hatsumono rồi, bây giờ sau khi biết cô ta đã lừa phỉnh mình, chắc cô còn ghét nhiều hơn nữa. Tôi sung sướng nói rằng cô giáo ân hận kinh khủng về cách cô đã đối xử với tôi, đến nỗi sau đó tôi đã trở thành cô học trò cô thích nhất.
Tôi xin nói là tôi không có thiên tài về bất kỳ môn gì hết, nhưng tôi có quyết tâm cao, làm việc với mục đích rõ ràng, cho đến khi tôi đạt được mục đích mới thôi. Từ ngày tôi gặp ông Chủ tịch vào mùa xuân, tôi chỉ ước mong sao tôi có được cơ may để trở thành geisha, tìm được chỗ đứng trong cuộc đời. Nay Mameha cho tôi cơ may này, tôi phải quyết tâm làm việc cho thật tốt. Nhưng vì học hành nhiều mà lại còn làm việc nhà với yêu cầu cao, cho nên tôi cảm thấy quá mệt trong sáu tháng luyện tập đầu tiên. Rồi sau đó tôi nghĩ ra cách để cho công việc dễ dàng hơn. Ví dụ tôi tìm các luyện tập đàn Shamisen trong khi đi làm các việc lặt vặt. Tôi vừa hát trong óc vừa làm những động tác đàn, tôi hình dung ra bàn tay trái di chuyển trên cổ đàn ra sao, và gảy cái gảy đàn vào dây như thế nào. Nhờ thế mà khi tôi ôm đàn vào lòng, là tôi đàn được một ca khúc trơn tru mặc dù trước đó tôi mới tập được một lần mà thôi. Có người tưởng tôi học mà không thực tập, thực ra tôi đã thực tập khi đi trên các nẻo đường ở Gion.
Tôi đã dùng một trò mánh lới khác để học các dân ca và các ca khúc khác mà chúng tôi đã học ở trường. Lúc còn thơ ấu, tôi thường chỉ cần nghe hát một lần là hôm sau tôi nhớ ngay. Tôi không biết tại sao, tôi đóan chắc trí óc tôi minh mẫn. Cho nên tôi viết lời ca lên một tờ giấy trước khi đi ngủ, rồi mỗi khi thức giấc, trong khi trí óc tôi còn sáng suốt, tôi đọc tờ giấy trước khi trở mình trên nệm. Thường như thế là đủ cho tôi nhớ, nhưng với âm nhạc thì khó khăn hơn, tôi bèn dùng mánh là nghĩ ra hình ảnh nào nhắc tôi nhớ đến âm thanh ấy. Ví dụ cành cây rơi từ trên cao xuống làm cho tôi nghĩ đến tiếng trống, hay là dòng suối chảy trên đá nhắc tôi nhớ đến động tác căng sợi dây đàn để nốt nhạc cao lên, và tôi hình dung ra bài ca như là một cuộc dạo chơi ngắm cảnh.
Nhưng dĩ nhiên bộ môn thách thức nhất, và quan trọng nhất đôi với tôi là múa. Nhiều tháng trời, tôi đã thử áp dụng các mánh lới tôi đã tìm ra, nhưng các phương pháp này không giúp gì được. Rồi một hôm bà Dì nổi giận khi tôi làm bắn nước trà lên tờ tạp chí bà đang đọc. Điều kỳ lạ là tôi nghĩ tốt về bà trong khi bà quắc mắt nhìn tôi. Sau đó tôi cảm thấy buồn da diết và tôi nghĩ đến chị tôi, hiện đang ở đâu đó trên nước Nhật mà không có tôi, và tôi nghĩ đến mẹ tôi, tôi hy vọng là bà được bình an ở trên thiên giới, và tôi nghĩ đến bố tôi, người sẵn lòng bán chúng tôi để sống cô độc cho đến hết đời. Khi những ý nghĩ này hiện ra trong óc tôi, cơ thể tôi trở nên nặng nề. Cho nên tôi leo lên lầu, về phòng Bí Ngô và nằm ngủ - vì Mẹ đã chuyển tôi lên đấy sau khi Mameha đến thăm nhà kỹ nữ của chúng tôi. Thay vì nằm xuống nệm rơm và khóc, tôi di chuyển cánh tay theo cách biểu lộ trạng thái khóc qua ngực. Tôi không biết tại sao tôi làm thế, đấy là một động tác trong bài học múa sáng nay, một động tác tôi thấy rất buồn. Lúc ấy tôi liền nghĩ đến ông Chủ tịch và tôi nghĩ đời tôi sẽ vô cùng hạnh phúc nếu tôi được sửa túi nâng khăn cho một người như thế. Khi tôi nhìn cánh tay tôi quét qua không khí, chuyển động dịu dàng của cánh tay như muốn biểu lộ cảm giác buồn bã và ham muốn. Cánh tay tôi lướt qua không khí với sự chuyển động rất đường hoàng – không phải như chiếc lá rung rinh trên cành cây, mà như chiếc tàu thủy lướt trên mặt biển. Tôi nghĩ sự chuyển động “đường hoàng” là vì tôi muốn nói đến lòng tự tin, hay là tin tưởng, tôi tin rằng gió táp mưa sa gì cũng không làm thay đổi được hòan cảnh của tôi.
Điều mà tôi đã khám phá ra chiều hôm đó, là khi cơ thể tôi cảm thấy nặng nề, tôi di chuyển với thái độ rất đường hoàng. Và nếu tôi tưởng tượng ra ông Chủ tịch đang nhìn tôi, các cử động của tôi đã để lộ ra một ý nghĩ sâu xa, cho thấy rằng thỉnh thoảng mỗi chuyển động trong khi múa là một thứ ngôn ngữ giao tiếp với ông. Khi quay người đầu nghiêng về một bên là ý muốn hỏi “Ông Chủ tịch ơi, chúng ta sẽ ở bên nhau cả ngày ở đâu?” Duỗi cánh tay ra và quạt, là nói lên lòng biết ơn bao la của tôi khi ông ban cho tôi cái vinh dự được đến thăm công ti của ông. Rồi sau đó khi tôi khép quạt lại trong vở múa, đấy là lúc tôi nói với ông rằng trên đời này đôi với tôi không có gì quan trọng bằng việc làm cho ông hài lòng.

Chuong 13

Suốt mùa xuân năm 1934, sau khi tôi đã luyện tập được hai năm, Hatsumono và Mẹ quyết định đã đến lúc cho Bí Ngô làm lễ chính thức trở thành geisha tập sự. Dĩ nhiên không ai nói cho tôi biết chuyện ấy, vì Bí Ngô đã được lệnh không được nói chuyện với tôi, còn Hatsumono và Mẹ thì không đời nào bỏ thì giờ nghĩ đến một việc như thế này. Tôi phát hiện ra việc này là vào một buổi chiều Bí Ngô bỗng ra khỏi nhà, rồi vào lúc chập tối cô ta trở về với mái tóc kiểu của một geisha tập sự - kiểu tóc được gọi là momoware, có nghĩa là “trái đào nứt”. Khi tôi thấy cô ta bước vào nhà, tôi cảm thấy đau đớn vì thất vọng và ganh tị. Cô ta không nhìn tôi, có lẽ cô ta nghĩ rằng việc khởi đầu làm geisha của cô đã tác động mạnh đến tôi. Với mái tóc chải ra sau thành hình một quả cầu từ hai bên thái dương rất đẹp, chứ không buộc lại sau gáy như mọi khi, cô ta trông ra vẻ là một thiếu nữ mặc dù khuôn mặt của cô ta vẫn còn non choẹt. Từ nhiều năm nay, cô ta và tôi thường ganh tị với các cô có mái tóc đẹp như thế. Bây giờ Bí Ngô sắp ra ngoài đời như geisha, còn tôi phải ở lại trong nhà, mù tịt về cuộc sống mới của cô ta.
Rồi đến ngày Bí Ngô mặc áo kimono của geisha tập sự lần đầu tiên cùng với Hatsumono đi đến phòng trà Mizuki để làm lễ ràng buộc hai người với nhau như chị em. Mẹ và Dì cũng đi, nhưng tôi thì không được. Tôi chỉ được đứng cùng họ trên hành lang trước nhà cho đến khi Bí Ngô từ trên lầu đi xuống có các chị hầu theo sau. Cô ta mặc chiếc kimono màu đen lộng lẫy, có huy hiệu của nhà kỹ nữ Nitta, và thắt chiếc khăn quàng lưng màu mận và vàng, mặt cô ta được tô trắng lần đầu tiên. Chắc anh nghĩ với đồ nữ trang trên tóc, và đôi môi tô đỏ choét, trông cô ta hãnh diện và xinh đẹp, nhưng tôi thấy cô ta có vẻ lo lắng nhiều hơn. Cô ta đi rất khó khăn vì áo quần lộng lẫy của người geisha tập sự rằng cồng kềnh. Mẹ đưa máy ảnh cho Dì, bảo Dì ra ngoài để chụp ảnh Bí Ngô khi cô được đánh đá lửa sau lưng để cầu may lần đầu tiên. Tất cả chúng tôi ở lại trong hành lang để khỏi bị dính hình vào ảnh. Các chị hầu nắm chặt tay của Bí Ngô trong khi cô xỏ chân vào giày gỗ cao mà chúng tôi gọi là okobo, lọai giày các geisha tập sự thường mang. Rồi Mẹ đến đứng sau lưng Bí Ngô, chụp một tấm ảnh với tư thế như là bà sắp đánh đá lửa, mặc dù trên thực tế lúc nào Dì hay một người hầu làm việc ấy. Khi chụp ảnh xong, Bí Ngô bước ra cửa, đi vài bước rồi quay nhìn lui. Những người khác đều đi ra ngoài với cô ta, nhưng tôi là người cô ta nhìn đến, vẻ mặt cô ta như muốn nói cô rất buồn trước tình thế xoay vần như thế này.
Cuối ngày ấy, Bí Ngô có tên geisha mới là Hatsumitjo. Từ “Hat” xuất phát từ Hatsumono và mặc dù tên mới này có thể giúp Bí Ngô hưởng được đôi chút danh tiếng của Hatsumono, nhưng thực tế cô ta không được như thế. Anh biết không, rất ít người biết tên geisha của cô, mà họ cứ gọi cô ta là Bí Ngô như trước.
Tôi rất nôn nóng muốn kể cho Mameha nghe chuyện nhập môn của Bí Ngô, nhưng cô ấy trong thời gian vừa qua rất bận rộn công việc, thường đi Tokyo theo lời yêu cầu của ông danna, và kết quả là chúng tôi không gặp nhau gần sáu tháng trời. Thêm vài tuần nữa trôi qua, cô ấy mới cho gọi tôi đến nhà cô ấy. Khi tôi bước vào nhà, chị hầu há hốc mồm sửng sốt, rồi một lát sau, Mameha từ phòng sau bước ra, cô ta cũng há hốc mồm sửng sốt. Tôi không biết cái gì làm cho họ kinh ngạc như thế. Rồi khi tôi quỳ xuống chào họ, nói tôi rất hân hạnh được gặp lại cô ta, thì cô ta không chú ý đến lời chào của tôi mà quay qua nói với chị hầu:
- Trời ơi, chị Tatsumi, lâu quá rồi phải không? Tôi đã không nhận ra cô ấy.
- Tôi mừng khi nghe cô nói thế, thưa cô – chị Tatsumi đáp – Tôi tưởng mắt tôi bị gì mà tôi không thấy rõ.
Khi ấy tôi tự hỏi không biết họ nói với nhau về cái gì. Nhưng rõ ràng trong sáu tháng không gặp nhau, tôi đã thay đổi quá nhiều mà tôi không nhận ra. Mameha bảo tôi quay đầu qua bên này rồi qua bên kia, miệng cứ lặp đi lặp lại “trời ơi, cô ta lớn xồ ra thành thiếu nữ rồi!”, rồi bỗng Tatsumi lôi tôi đứng lên, lôi hai tay tôi giang ra, chị dùng bàn tay đo eo, đo mông tôi rồi nói:
- Tốt rồi, chắc cô mặc kimono vừa văn rồi, và mang vớ cũng vừa rồi – tôi nghĩ chị nói thế là để khen mừng, vì khi chị nói, mặt chị lộ vẻ hân hoan sung sướng.
Cuối cùng Mameha sai chị Tatsumi dẫn tôi ra phòng sau, mặc kimono vào cho tôi. Tôi mặc áo vải xanh trắng khi đến đây, chiếc áo tôi mặc đi học sáng nay, nhưng chị Tatsumi đã thay cho tôi chiếc kimono bằng lụa màu xanh đậm, có in hình những chiếc bánh xe nhỏ màu vàng tươi và đỏ. Đây không phải là chiếc kimono đẹp nhất, nhưng khi tôi nhìn vào tấm gương lớn trong khi chị Tatsumi buộc dải thắt lưng màu lục nhạt quanh bụng tôi, tôi thấy ngoại trừ mái tóc thường, tôi có thể xem mình như một nàng geisha tập sự chuẩn bị đi dự tiệc. Khi ra khỏi phòng, tôi cảm thấy tự hào và tôi nghĩ thế nào Mameha cũng há hốc mồm ra mà nhìn, hay có cử chỉ ngạc nhiên. Nhưng cô chỉ đứng dậy, nhét cái khăn nhỏ vào ống tay áo, rồi đi ra cửa, mang đôi hài sơn màu lục vào chân và quay lại nhìn tôi:
- Rồi chưa? – cô hỏi – có đi không?
Tôi không biết chúng tôi đi đâu nhưng tôi cảm thấy rất sung sướng khi nghĩ đến chuyện được cùng Mameha đi ra phố cho mọi người thấy. Chị hầu đem ra cho tôi một đôi hài sơn mài có màu xám nhạt. Tôi mang hài vào rồi đi theo Mameha xuống cầu thang âm u. Chúng tôi đi ra đường, một bà già cúi thấp người chào Mameha, rồi bà quay qua phía tôi, bà cũng chào tôi như thế. Tôi ngẩn người sửng sốt vì chưa có ai chú ý đến tôi ở ngoài đường như thế này. Ánh mặt trời chói chang làm tôi hoa mắt, khiến tôi không biết bà ta có quen biết gì với tôi không. Nhưng tôi chào trả trước khi bà ta đi tiếp. Tôi nghĩ có lẽ bà ta là một trong các cô giáo của tôi, nhưng chỉ một lát sau, chuyện như thế lại diễn ra nữa, lần này là một geisha trẻ tôi thường mến mộ, nhưng trước đây chưa bao giờ cô ta nhìn đến tôi.
Hình như tất cả mọi người chúng tôi gặp trên đường đều nói đôi lời với Mameha, hay ít ra cũng cúi chào cô, rồi sau đó họ gật đầu hay cúi chào tôi. Nhiều lần tôi dừng lại để chào trả, thành ra tôi đi tụt ra sau Mameha vài bước. Cô ấy thấy tôi đi đứng khó khăn, liền dẫn tôi vào một con hẻm yên tĩnh để dạy cho tôi cách đi. Cô ấy nói rằng tôi đi lúng túng như thế là vì tôi chưa biết cách chuyển động nửa người phía trên riêng rẽ với nửa người phía dưới. Khi tôi chào ai, tôi phải dừng bước. Cô ấy nói:
- Chậm bước là cách biểu lộ lòng kính nể rồi. Càng chậm chừng nào càng tỏ ra mình kính nể chừng nấy. Cô có thể dừng lại để chào giáo viên của cô, nhưng đôi với những người khác, đừng có dừng lại làm gì, vì như thế biết khi nào cô mới đi đến nơi. Cô cứ bước chậm lại một chút, sao cho vạt áo kimono phất phơ là được. Khi người đàn bà đi, làm sao cho người ta có cảm giác đấy là làn sóng lăn tăn tỏa vào bờ cát.
Tôi đi lui đi tới trong đường hẻm như Mameha đã chỉ dẫn, cô ấy nhìn thẳng vào chân tôi để xem vạt áo kimono có phất phơ hay không. Khi Mameha thấy tôi đã làm được, bấy giờ chúng tôi mới đi ra ngoài đường phố lại.
Tôi thấy việc chào hỏi của chúng tôi đều theo một hay hai cách giản dị mà thôi. Khi chúng tôi gặp các cô geisha trẻ, thường thường các cô ấy đi chậm lại hay thậm chí có cô dừng hẳn lại để cúi chào Mameha thật thấp, và Mameha đáp lại bằng vài tiếng chào và gật nhẹ đầu, rồi cô geisha trẻ quay mặt nhìn tôi vẻ ngạc nhiên, lúng túng cúi chào, tôi phải chào trả, cúi người thấp hơn – vì tôi là người hạng thấp nhất trong số những người tôi gặp. Thế nhưng khi chúng tôi gặp một bà trung niên hay già, Mameha chào trước, rồi bà kia chào trả với vẻ kính cẩn, nhưng không cúi thấp như Mameha và sau đó, bà nhìn khắp người tôi rồi gật nhẹ đầu. Tôi luôn luôn đáp lễ bằng cách cúi người thật thấp trong khi hai chân vẫn bước.
Chiều hôm đó tôi kể cho Mameha nghe chuyện nhập môn của Bí Ngô, và mấy tháng sáu đó, tôi cứ mong sao cho cô ta nói đã đến lúc tôi bắt đầu tập sự làm geisha. Thế nhưng mùa xuân qua, rồi mùa hè đến, tôi vẫn không nghe cô ấy nói gì hết. Trái với cuộc sống hấp dẫn của Bí Ngô, tôi chỉ biết học tập và làm việc nhà, cũng như gặp Mameha chừng 15, 20 phút vào những buổi chiều khác trong tuần. Thỉnh thoảng tôi ngồi trong nhà cô ấy để nghe cô dạy những điều tôi cần biết, nhưng phần nhiều cô bảo tôi mặc áo kimono của cô rồi dẫn tôi đi khắp quận Gion, khi thì đi làm những việc lặt vặt, khi thì ghé vào nhà của người bói toán, khi thì đến tiệm người làm tóc giả. Thậm chí khi trời mưa, và cô ấy không có việc gì làm ngoài phố, chúng tôi cũng chống dù để đi từ tiệm buôn này đến nhà hàng khác để xem khi nào có loại nước hoa từ Ý nhập vào, hay là hỏi xem chiếc kimono sửa xong chưa, mặc dù kỳ hạn người thợ nhận sửa chưa đến ngày.
Mới đầu, tôi nghĩ có lẽ Mameha dẫn tôi đi như thế để cô ấy có thể dạy cho tôi nhiều chuyện như tư thế đi đứng cho đúng cách – vì cô ấy thường lấy quạt đánh vào lưng tôi để sửa dáng đứng của tôi cho thẳng hơn – và dạy cách xử thế với mọi người. Mameha hình như quen biết với tất cả mọi người, và luôn luôn dừng lại để cười chào họ, chúc tụng họ, thậm chí cả với những người hầu hèn hạ nhất, vì cô ấy cho rằng chính nhờ những người này cô ấy mới được cao sang, mới được nhiều người trọng vọng. Nhưng một hôm khi chúng tôi từ trong một tiệm sách bước ra, bỗng tôi nhận ra ý nghĩa của công việc cô ấy làm trong bấy lâu nay. Thật ra, cô ấy quan tâm đến việc đi đến tiệm sách hay đến tiệm người làm tóc giả, hay là đi đến tiệm người bán văn phòng phẩm. Việc đi mua sắm lặt vặt không phải là việc quan trọng, vả lại, cô ấy có thể sai gia nhân đi mua lúc nào không được. Cô ấy chỉ đi như thế cốt để cho mọi người ở Gion thấy chúng tôi đi với nhau trên phố. Cô ấy trì hoãn ngày nhập môn cho tôi là để mọi người có thì giờ chú ý đến tôi thôi.
Vào một buổi chiều tháng mười nắng ráo, chúng tôi ra khỏi nhà của Mameha, đi dọc theo bờ con suối Shirakawa, nhìn lá hoa anh đào rơi bay phất phới trên mặt nước. Rất nhiều người khác đi dạo như chúng tôi, và chắc chắn cũng đoán được là tất cả mọi người đều chào hỏi Mameha. Hầu như người nào chào Mameha, họ cũng đều chào tôi.
- Cô thấy cô cũng được mọi người biết hết không? – Cô ta hỏi.
- Em nghĩ, nếu con cừu mà đi theo người đẹp Mameha, người ta cũng chào nó.
- Đem cô so với cừu thì cũng lạ đấy. Nhưng thực ra tôi đã nghe nhiều người hỏi về cô gái có cặp mắt xám xinh đẹp. Họ không biết tên cô, nhưng chuyện này chẳng quan trọng. Dù sao thì người ta cũng sắp hết gọi cô là Chiyo rồi.
- Có phải cô Mameha muốn nói…
- Tôi muốn nói tôi đã hỏi ông Waza – đây là tên ông thầy bói của cô – ông ta cho biết ngày mùng ba tháng 11 là ngày tốt để làm lễ nhập môn cho cô.
Mameha dừng lại nhìn tôi vì tôi đứng sững như trời trồng, cặp mắt mở to bằng cái bánh tráng. Tôi không reo lên hay vỗ tay, nhưng tôi quá sung sướng đến nỗi nói không lên lời. Cuối cùng tôi cúi chào Mameha và cám ơn cô ấy.
- Cô sẽ thành một geisha xinh đẹp – cô ấy nói – nhưng nếu cô biết dùng con mắt để nói lên tư tưởng của mình thì chắc cô sẽ thành một geisha tuyệt vời hơn nữa.
- Em không biết dùng con mắt để biểu lộ tư tưởng ra sao.
- Con mắt là cơ quan biểu cảm nhất trên thân thể người ta. Nhất là cặp mắt của cô. Cô hãy đứng dậy để tôi chỉ cho cô thấy.
Mameha đến góc đường, để tôi đứng yên một mình trên con đường hẻm. Một lát sau cô ta đi tới, đi qua trước mặt tôi, mắt nhìn sang một bên. Tôi có cảm giác cô ấy sợ có chuyện gì xảy ra nếu cô nhìn về phía tôi.
- Nếu cô là đàn ông, cô sẽ nghĩ gì? – cô ta hỏi.
- Em nghĩ là cô lo đến chuyện tránh né em nên cô không nghĩ đến chuyện gì hết.
- Có khả năng tôi nhìn vào các vòi nước nằm dọc theo nền nhà không?
- Cho dù cô nhìn vào đấy thì em vẫn nghĩ cô tránh để khỏi nhìn vào em.
- Chính đấy là điều tôi đề cập đến. Cô gái nào có nét nhìn nghiêng đẹp thì đừng bao giờ “cố tình” dùng nó để biểu lộ sự bất bình của mình cho đàn ông thấy. Nhưng đàn ông sẽ nhìn vào mắt cô và tưởng cô nói với họ cái gì đấy bằng mắt, mặc dù cô không nói. Bây giờ cô hãy nhìn tôi lần nữa.
Mameha lại đi đến đầu góc đường rồi đi quay lại về phía tôi, nhưng lần này mắt cô nhìn xuống đất, cô đi với thái độ mơ mộng. Rồi khi đi đến gần tôi, mắt cô ấy ngước lên nhìn tôi một lát rồi vội vã quay đi. Phải nói là tôi cảm thấy như bị điện giật, nếu tôi là đàn ông chắc tôi nghĩ rằng cô ấy quá xúc động, phải quay mắt đi để che giấu cảm xúc.
- Nếu tôi nói lên được điều gì với đôi mắt bình thường của tôi – cô ấy nói với tôi – thì chắc cô còn nói được nhiều hơn nữa bằng đôi mắt của cô. Nếu cô dùng mắt để làm cho đàn ông hồn xiêu phách lạc, xỉu ngay tại đây trên đường, chắc tôi cũng không ngạc nhiên.
- Cô Mameha, nếu em có khả năng làm cho đàn ông hồn xiêu phách lạc, em nghĩ em sẽ sẵn sàng làm ngay cho cô xem.
- Tôi cam đoan cô làm được. Được rồi, ta thỏa thuận như thế này nhé, nếu cô dùng mắt để chặn được một người đàn ông đang đi trên đường, tôi sẽ làm lễ nhập môn cho cô ngay.
Tôi rất nóng lòng được làm lễ nhập môn, đến nỗi nếu Mameha thách tôi dùng mắt nhìn cho cây đổ xuống, e tôi cũng cố sức làm. Tôi yêu cầu cô ấy đi với tôi trong khi tôi thử với vài người đàn ông, cô ấy chịu liền. Người đầu tiên tôi gặp là một ông già rất già, đến nỗi trông ông ta như cái áo kimono bọc xương. Ông ta chống gậy đi chầm chậm trên đường, cặp kính lấm bụi lờ mờ đến nỗi nếu ông ta đi va vào góc nhà chắc cũng không làm tôi ngạc nhiên. Ông ta không chú ý gì đến tôi cho nên chúng tôi đi tiếp đến đại lộ Shijo. Chẳng bao lâu sau tôi thấy hai thương gia mặc âu phục, nhưng tôi cũng không gặp may. Tôi nghĩ họ đã nhận ra Mameha. Hay có lẽ họ cho cô ấy đẹp hơn tôi, vì họ không rời mắt khỏi cô ấy.
Tôi sắp bỏ cuộc thì tôi thấy một thanh niên khỏang 20 tuổi làm công việc đi giao hàng, anh ta đang bê một cái khay chất đầy các hộp đựng cơm trưa. Vào thời ấy, một số nhà hàng ăn uống ở Gion bán cơm hộp giao tận nơi, và vào buổi chiều họ cho một thanh niên đi lấy hộp không về. Thường thường hộp được chất vào cần xé rồi người đi lấy hộp hoặc là xách trên tay hoặc là buộc vào xe đạp. Tôi không hiểu tại sao anh thanh niên này lại dùng cái khay. Nhưng anh ta đã đến gần rồi, đang đi về phía tôi. Mameha nhìn anh ta và nói với tôi:
- Làm cho anh ta rớt khay đi.
Tôi đang phân vân không biết có phải cô ấy nói đùa không, thì bỗng cô đi rẽ sang con đường bên cạnh.
Tôi không tin một cô gái 14 tuổi – hay một phụ nữ bằng tuổi tôi, lại có thể dùng cách nhìn một thanh niên để cho anh ta làm rớt vật đang cầm trên tay, tôi nghĩ việc như thế này chỉ xảy ra trên màn ảnh hay trong tiểu thuyết mà thôi. Nếu hôm ấy tôi không thấy được hai điểm đáng lưu ý thì chắc tôi đã bỏ cuộc không thử làm gì. Trước hết anh thanh niên nhìn tôi hau háu như con mèo thấy chuột, và điểm thứ hai, hầu hết đường xá ở Gion không có lề đường, nhưng con đường tôi đang đi thì lại có, và anh chàng giao hàng đang đi giữa đường, không xa lề đường mấy. Nếu tôi tìm cách ép anh ta, thế nào anh ta cũng phải đi lấn vào lề đường rồi ép vào lề và làm cái khay rớt xuống. Tôi cúi xuống nhìn dưới đất trước mặt tôi, cố bắt chước như Mameha đã làm lúc nãy. Rồi tôi ngước mắt lên nhìn vào mặt anh ta một lát, đoạn quay mắt đi. Sau vài bước, tôi lại làm như thế một lần nữa. Lần này anh ta nhìn tôi đăm đăm, quên phứt cái khay trên tay, cũng như quên phứt lề đường dưới chân. Khi đến gần anh ta, tôi đi vào bên trong, đến gần sát bên anh đến nỗi anh ta không thể tiếp tục đi thẳng mà phải lấn vào để tránh đường, vừa đi vừa nhìn tôi, thế là anh ta vấp phải lề đường, té xuống một bên và làm rớt cái khay, các hộp đựng đồ ăn văng tung tóe ra. Tôi không làm sao khỏi cười cho được! Và tôi vui mừng thấy anh chàng thanh niên kia cũng cười. Tôi giúp anh ta lượm hộp lên, cười mỉm với anh trước khi anh cúi chào, anh cúi thật thấp, thấp hơn bất kỳ người đàn ông nào cúi chào tôi trước đó, rồi anh ta đi tiếp.
Một lúc sau tôi gặp Mameha, cô ấy thấy hết. Cô ta nói:
- Tôi nghĩ bây giờ cô em đã sẵn sàng để làm lễ nhập môn như lòng mong mỏi bấy lâu của cô rồi.
Nói xong, cô ấy dẫn tôi đi qua đại lộ chính, tới nhà của ông Waza, thầy tướng số của cô, yêu cầu ông ta chọn ngày tốt để làm lễ nhập môn, cũng như đến đền để cáo lễ trước thần linh, định giờ để làm tóc, cũng như định giờ để tổ chức nghi lễ cho tôi và Mameha kết làm chị em.
Đêm đó tôi không ngủ được. Điều mà tôi ao ước từ lâu nay cuối cùng đã đến khiến lòng tôi rạo rực biết bao! Nghĩ đến chuyện mặc áo đẹp mỹ miều và ra mắt trước mặt các ông ở trong phòng là đủ làm cho lòng bàn tay tôi ướt đẫm mồ hôi. Mỗi lần nghĩ đến chuyện này, tôi cảm thấy bải hoải chân tay. Tôi tưởng tượng tôi đang ở trong phòng trà, mở cửa căn phòng trải thảm rơm. Đàn ông quay đầu nhìn tôi, và dĩ nhiên tôi thấy ông Chủ tịch trong số họ. Thỉnh thoảng tôi tưởng tượng chỉ có mình ông trong phòng, không mặc âu phục mà mặc nhật phục như đàn ông thường mặc vào buổi tối để nghỉ ngơi thư giãn. Ông bưng tách rượu sake, mấy ngón tay láng lẩy như gỗ đánh bóng, và điều tôi mong muốn nhất trần đời là được rót rượu cho ông trong khi ông ngước mắt nhìn tôi, bốn mắt gặp nhau.
Tôi chưa quá 14 tuổi, nhưng tôi thấy mình như đã sống hai cuộc đời. Cuộc đời thì chưa bắt đầu, nhưng cuộc đời cũ thì đã chấm dứt rồi. Ngày ấy khi nhận được tin buồn từ gia đình, tâm hồn tôi lạnh lẽo như cảnh tuyết phủ vào mùa đông. Còn giờ đây vào cái đêm trước ngày làm lễ nhập môn, tâm hồn tôi như một vườn hoa đang bắt đầu đơm hoa kết trái, và giữa mảnh vườn ấy hiện ra một bức tượng. Đó là hình ảnh nàng geisha mà tôi ao ước.

Chuong 14

Tôi đã nghe nói tuần lễ để cô geisha tập sự chuẩn bị làm lễ nhập môn giống như thời gian khi con sâu biến thành con bướm. Lời ví von nghe thật hay nhưng tôi không hiểu tại sao người ta lại ví như thế. Bởi con sâu bướm chỉ việc làm kén rồi ngủ một giấc trong kén, còn tôi thì trải qua một tuần mệt bở hơi tai. Đầu tiên, tôi phải làm tóc theo kiểu nàng geisha tập sự, kiểu “trái đào nứt”. Vào thời ấy ở Gion có nhiều thợ làm tóc, Mameha thường làm tóc tại một nơi rất đông khách. Tôi phải đợi gần hai giờ mới đến phiên mình. Mùi tóc bẩn tràn ngập cả phòng. Kiểu tóc lộng lẫy của giới geisha lúc bấy giờ quá cầu kỳ và tốn kém đến nỗi không ai đi làm một tuần quá một lần. Vì thế tóc của họ cũng hôi ngay cả khi họ rẩy nước hoa lên tóc.
Cuối cùng đến phiên tôi, đầu tiên người thợ làm tóc để đầu tôi tựa lên cái bồn gội lớn, với tư thế đó, tôi cảm thấy như ông ta sắp sửa chặt đầu tôi. Rồi ông ta xối nước ấm và xát xà phòng lên đầu tôi. Từ “xát” chưa đủ để miêu tả hết công việc của ông ta, vì mấy ngón tay của ông cào cấu vào da đầu tôi như người nông dân cào đất ruộng của họ vậy. Nhìn lại thời ấy, tôi hiểu lý do tại sao. Gàu trên đầu là vấn đề khó khăn nhất của người geisha, không có gì làm cho họ mất vẻ hấp dẫn bằng, và không có gì làm cho mái tóc của họ dơ bẩn bằng. Người thợ làm tóc đã có lý do chính đáng để làm thế, nhưng sau một lát, đầu tôi ê ẩm đến phát khóc. Nhưng ông thợ vẫn nói:
- Nếu cô thấy muốn khóc thì cứ khóc, cô hiểu lý do tại sao tôi để đầu cô lên bồn gội rồi.
Tôi nghĩ đây là lời nói đùa rất ý nhị vì sau khi nói xong, ông ta cười ha hả.
Khi đã gội đầu xong, ông ta bảo tôi ngồi lên mép chiếu, lấy cái lược gỗ chải lên tóc tôi cho đến khi cổ tôi đau nhừ vì phải ghì lại mỗi khi ông ta kéo lược trên tóc tôi. Cuối cùng, khi thấy tóc thẳng thớm rồi, ông ta chải dầu hoa trà lên tóc, làm cho mái tóc thơm ngát. Tôi sợ chưa hết các giai đoạn gay cấn, và quả vậy, ông ta lấy thỏi sáp ra. Mặc dù tóc đã chải dầu hoa trà thơm lừng, nhưng khi thoa sáp vào tóc, ông ta phải dùng thanh sắt nóng cho sáp mềm ra. Quả con người là con vật thông minh, cho nên người thiếu nữ mới chịu ngồi yên để cho người khác chải sáp vào tóc mà chỉ biết khóc lặng lẽ thôi. Nếu người ta làm thế cho một con chó, thế nào nó cũng cắn cho toạc tay ra.
Khi tóc đã thoa sáp đều rồi, người thợ làm tóc chải tóc phía trước ra sau, rồi chải cả đầu tóc lên thành một cái núi lớn, trông như cái gối để găm kim trên đỉnh đầu. Khi nhìn từ phía sau, cái gối găm kim này có đường nứt ở giữa như bị chẻ ra làm hai, vì thế mà kiểu tóc này có tên là “trái đào nứt”.
Mặc dù tôi đã để kiểu tóc "trái đào nứt" này nhiều năm, nhưng vẫn còn một thứ tôi không biết, mãi cho đến một thời gian sau mới có người cho tôi hay. Đó là cái nùi – mà tôi gọi là cái gối găm kim – được thành hình bằng cách vấn tóc quanh một miếng vải. Ở phía sau nùi nơi có chỗ nứt, người ta thấy miếng vải lòi ra. Miếng vải có thể có hình vẽ hay màu sắc, nhưng của người geisha tập sự thường là màu đỏ, ít ra cũng phải một thời gian sau mới thay đổi. Một buổi tôi có người đàn ông nói với tôi:
- Hầu hết các cô gái còn thơ ngây không biết kiểu tóc “trái đào nứt” có ý nghĩa khêu gợi như thế nào đâu. Cô hãy tưởng tượng có người đàn ông đi sau lưng cô geisha, những ý nghĩ tục tĩu nảy ra trong óc anh ta, khiến anh ta muốn thực hiện những ý nghĩ đó. Rồi anh ta thấy mái tóc “trái đào nứt” trên đầu cô ta, mái tóc có một miếng vải đủ lớn nằm trong một cái khe…cô nghĩ đến cái gì?
À, tôi không nghĩ đến cái gì hết, tôi nói với ông ta.
- Cô không sử dụng trí tưởng tượng à?
Một lát sau tôi hiểu ra, đỏ mặt e thẹn, thấy thế ông ta cười khà.
Trên đường trở về nhà, tôi quên phắt da đầu đau nhức như đất sét quên chuyện người thợ dùng dụng cụ để nắn nó thành đồ gốm sứ. Mỗi lần tôi nhìn bóng tôi trong tủ kính ở các tiệm hàng, tôi cảm thấy tôi trở thành một người rất nghiêm trang, không còn bé bỏng nữa mà đã trở thành thiếu nữ. Khi tôi về đến nhà kỹ nữ, bà Dì khen lấy khen để kiểu tóc của tôi. Ngay cả Bí Ngô cũng không chịu được, cô đến nhìn tôi một lần, ánh mắt khâm phục, nhưng chắc Hatsumono sẽ giận lắm nếu cô ta biết được. Còn anh có biết phản ứng của Mẹ ra sao không? Bà nhón chân để nhìn cho kỹ - vì tôi đã cao hơn bà – rồi phàn nàn rằng có lẽ tôi nên đến tiệm làm tóc của Hatsumono hơn là tiệm của Mameha.
Cô geisha tập sự nào mới đầu cũng rất hãnh diện vì mái tóc của mình, nhưng ba bốn ngày sau là họ bắt đầu đâm ghét. Vì chắc anh đã biết, khi làm tóc xong về nhà, cô ta mệt phờ người, sẽ nằm lăn ra ngủ khì, kê đầu lên gối, thế nào đầu tóc cũng xẹp xuống. Khi thức dậy, cô ta phải đến tiệm làm tóc lại ngay. Cho nên cô geisha tập sự phải học cách để giữ mái tóc cho khỏi hư. Cô ta sẽ không dùng cái gối bình thường nữa, mà dùng cái gối đặc biệt gọi là Takamakura, loại gối tôi đã nói cho anh biết rồi. Cái gối này có hình như cái nôi để cho ta tựa gáy lên đấy. Mặc dù trên gối có chêm một lớp vỏ trấu, nhưng cổ vẫn đau nhừ như kê trên đá. Cô gái nằm ngủ, mái tóc sẽ hở lên trên, nhưng khi thức dậy, có thể cô ta di chuyển đầu sao đó khiến cho mái tóc chạm vào chiếu khiến nó xẹp đi. Trường hợp của tôi, bà Dì đã giúp tôi tránh khỏi tình trạng này bằng cách để một cái khay bột gạo dưới mái tóc của tôi, khi ngủ mà đầu tôi gục ra sau thì tóc sẽ chạm lên bột gạo, bột dính vào sáp sẽ làm hư mái tóc. Cho nên tôi phải cố giữ đầu cao lên khi ngủ. Tôi đã thấy cảnh Bí Ngô phải trải qua thử thách này. Bây giờ đến phiên tôi. Mỗi khi thức dậy vào buổi sáng thấy tóc bị hư, tôi phải đến xếp hàng ở tiệm làm tóc đợi đến phiên bị hành hạ.
Chiều nào trong tuần chuẩn bị làm lễ nhập môn của tôi, bà Dì cũng mặc cho tôi áo quần đủ bộ của một geisha tập sự và tập cho tôi đi lui đi tới trên hành lang đất trong nhà kỹ nữ để tôi quen dần. Mới đầu rất khó đi, tôi cứ sợ ngã nhào ra phía sau. Thiếu nữ thường mặc áo có nhiều trang trí hơn người già, nghĩa là màu sắc sặc sỡ hơn, vải màu mè hơn, nhưng chiếc khăn quàng bụng cũng dài hơn. Người phụ nữ đứng tuổi thắt khăn quành phía sau theo kiểu mà chúng tôi gọi là “nút trống”, vì cái nút có hình một cái hộp nhỏ gọn gàng, cái nút này không cần nhiều vải lắm. Nhưng các cô còn trẻ vào khoảng hai mươi, họ quàng dải thắt lưng theo kiểu văn nghệ hơn. Trong trường hợp nàng geisha tập sự, kiểu này là kiểu thời trang hấp dẫn nhất thường được gọi là dải darari – “dải lủng lẳng” – được bím thành cái nút cao lên tận đầu xương bả vai, và đầu mút dải lủng lẳng gần phết đất. Áo kimono không cần phải có màu sáng, nhưng dải thắt lưng hầu như luôn luôn có màu sắc tươi sáng. Khi người geisha tập sự đi trước mắt anh trên đường phố, anh không để ý đến cái áo kimono mà chú ý đến dải thắt lưng lủng lẳng óng ánh sáng – với một phần cái kimono ở trên hai vai và hai bên vạt áo. Để có được như thế này, dải thắt lưng phải dài, dài bằng chiều dài cả căn phòng. Nhưng không phải chiều dài của dải thắt lưng làm cho cô geisha khó mặc, mà chính trọng lượng mớii làm cho cô ta khó khăn, vì nó được làm bằng gấm thêu nặng nề.
Ngoài dải thắt lưng nặng nề, cái áo kimono cũng nặng vì hay tay áo quá rộng. Khi người mặc dang hai tay ra, tay áo thụng xuống làm thành hai cái túi. Cái túi thụng này chúng tôi gọi là furi, người geisha tập sự phải mặc áo tay thụng này một thời gian. Nếu không cẩn thận, cô ta có thể để tay áo lên mặt đất, và khi múa cô ta rất dễ dẫm chân lên nó, nên cô ta phải nhớ cẩn thận vấn chúng lên nhiều lần để khỏi vướng.
Nhiều năm sau, nhà khoa học danh tiếng của trường đại học Kyoto, trong một đêm quá say đã nói về bộ y phục của cô geisha tập sự như thế này “Loài khỉ ở Trung Phi được xem là loài linh trưởng điển hình nhất, nhưng tôi nghĩ cô geisha tập sự ở Gion có lẽ là loại linh trưởng có màu sắc tươi sáng hơn hết!”
Cuối cùng ngày Mameha và tôi làm lễ kết tình chị em đã đến. Tôi tắm rửa từ sớm, mặc quần áo. Bà Dì giúp tôi hóa trang và sửa sang mái tóc. Vì sáp và chất hóa trang phủ lên da tôi, tôi thấy mặt tôi chẳng còn cảm giác gì hết. Mỗi lần tôi sờ vào má, tôi chỉ cảm thấy nằng nặng nơi ngón tay. Tôi làm thế nhiều lần quá khiến bà Dì cứ phải làm hóa trang lại. Sau khi nhìn vào gương, tôi thấy một người hiện ra rất xa lạ. Tôi thấy trong gương là một cô gái khác đang nhìn tôi. Cô ta đang điểm trang tuyệt mỹ của một geisha. Đôi môi đỏ tươi trên khuôn mặt trắng toát, hai má phớt hồng. Tóc trang điểm bằng hoa lụa và nữ trang có hình chùm lúa. Cô ta mặc kimono đen có huy hiệu của nhà kỹ nữ Nitta, từ dưới lai áo một con rồng thêu uốn mình vươn lên tận giữa hai đùi chân. Cái bờm thêu bằng chỉ có màu đỏ rất tươi, móng và răng của nó màu bạc và mắt màu vàng, vàng thật. Không làm sao tôi ngăn được nước mắt khỏi trào ra, tôi phải nhìn lên trần nhà để nước mắt khỏi trào xuống má. Trước khi ra khỏi nhà, tôi lấy cái khăn của ông Chủ tịch cho, nhét vào dưới dải thắt lưng để cầu may.
Bà Dì đi theo tôi đến tận nhà Mameha, tôi bày tỏ lòng biết ơn cô ấy, xin hứa sẽ kính trọng cô ấy. Rồi cả ba chúng tôi đến đền thờ Gion, ở đây Mameha và tôi vỗ tay xin cáo trước thần linh là chúng tôi sắp làm lễ kết tình chị em. Tôi cầu nguyện thần linh gia hộ cho chúng tôi rồi tôi nhắm mắt, cám ơn thần linh đã ban cho tôi điều tôi ước vọng từ ba năm nay, đó là trở thành geisha.
Lễ kết tình chị em được tở chức tại phòng trà Ichiriki, có lẽ đây là phòng trà nổi tiếng nhất tại Nhật. Nổi tiếng tại vì ở đây có một võ sĩ đạo danh tiếng ẩn náu vào những năm đầu thập niên 70. Hầu hết các phòng trà ở Gion đều nằm khuất sau mặt đường, ngoại trừ cổng vào đơn sơ, nhưng phòng trà Ichiriki nằm ngay mặt tiền, nó tọa lạc trên một góc đường đông đúc ở đại lộ Shijo, có tường bao quanh sơn màu hồng nhạt, với mái ngói che tường. Nơi này trông giống một lâu đài.
Đến họp mặt với chúng tôi có hai người em út của Mameha và bà Mẹ nữa. Khi chúng tôi gặp nhau ở vườn ngoài, một người hầu dẫn chúng tôi vào tiền sảnh rồi đi theo một hành lang thật đẹp chạy ngoằn ngoèo dẫn đến một căn phòng nhỏ trải thảm nằm phía sau nhà hàng. Chưa bao giờ tôi thấy đồ đạc quanh phòng sang trọng và đẹp như thế này. Đồ đạc bằng gỗ bóng láng, tường trát vữa láng mịn. Phòng ngát mùi thơm của phấn kuroyaki – một lọai phấn thơm làm từ gỗ thơm xay nhỏ có màu xám. Đây là lọai phấn thơm cổ truyền, ngay cả Mameha là người geisha có đầu óc bảo thủ cũng ưa loại nước hoa của Tây phương hơn. Nhưng nhà hàng Ichiriki vẫn thích lọai hương thơm kuroyaki, loại mùi hương đã được nhiều thế hệ geisha xử dụng. Ngay cả tôi bây giờ cũng còn giữ lại một ít trong cái chai gỗ, mỗi khi ngửi đến, tôi lại nhớ tới ngày hôm ấy.
Buổi lễ có bà chủ phòng trà Ichiriki đến dự, bà ta chỉ ở khoảng 10 phút. Một chị hầu mang đến một cái khay đựng nhiều tách sake, Mameha và tôi cùng uống chung. Tôi uống 3 hớp ở một tách rồi đưa cho Mameha, cô ấy uống ba hớp. Chúng tôi tiếp tục như vậy với ba tách rựơu, thế là xong. Kể từ khi ấy, tôi không còn là Chiyo nữa, tôi là nàng geisha tập sự có tên là Sayuri. Trong tháng đầu học nghề, nàng geisha trẻ này được xem là người “thực tập”, không được trình diễn múa hay giải trí với khách mà không có người chị cả, và chỉ làm việc ít thôi, còn thì đều dùng để quan sát và học hỏi. Riêng cái tên Sayuri của tôi, Mameha đã hội ý với người thầy bói khá lâu mới tìm ra được. Âm thanh của cái tên không thành vấn đề, mà ý nghĩa của nó mới quan trọng, cũng như các nét viết của cái tên – vì các nét viết của cái tên này mới đáng kể. Từ “Sa” trong tên tôi có nghĩa là “cùng nhau”, “Yu” có nghĩa là cung Dậu – cung này để quân bình ngũ hành trong người tôi và “Ri” có nghĩa là “hiểu biết” . Ông thầy bói đã tìm ra cái tên sao cho dung hòa với tên của Mameha, nhưng không có tên nào tốt có thể mang lại may mắn cho tôi được.
Tôi nghĩ Sayuri là một tên đẹp, nhưng cái tên cho tôi cảm giác kỳ lạ là con bé Chiyo không còn nữa. Sau khi làm lễ xong, chúng tôi vào phòng khác để ăn “Cơm đỏ”, cơm nấu gạo trộn đậu đỏ. Tôi xúc cơm ăn mà lòng không cảm thấy bất ổn, không mấy vui. Bà chủ phòng trà hỏi tôi một câu, khi nghe bà gọi tôi là “Sayuri”, tôi nhận ra có cái gì đấy làm cho tôi hoang mang bối rối. Tôi cảm thấy con bé có tên Chiyo từng chạy chân không từ hồ về nhà ngà say không còn nữa. Thay vào đó là cô gái có tên Sayuri với khuôn mặt trắng toát và đôi môi màu đỏ.
Mameha đã có kế hoạch chiều hôm đó dẫn tôi đi khắp Gion để giới thiệu với các bà chủ phòng trà và chủ nhà dạy kỹ nữ mà cô ấy có liên hệ làm ăn quen biết. Nhưng khi ăn trưa xong, cô ấy không dẫn tôi đi mà dẫn tôi vào một căn phòng của nhà hàng Ichiriki và bảo tôi ngồi xuống. Dĩ nhiên người geisha không ngồi trong khi mặc kimono, cái thế mà chúng tôi gọi là ngồi có lẽ những người khác gọi là quỳ. Khi tôi ngồi xuống, cô ấy nhăn mặt bảo tôi ngồi lại. Cái áo cồng kềnh khiến tôi phải đứng lên ngồi xuống nhiều lần mới đúng được quy cách. Mameha đưa tôi một thứ trang sức nhỏ có hình quả bầu, và chỉ cho tôi cách đeo nữ trang vào thắt lưng cho nó lủng lẳng. Trái bầu nhỏ, nhẹ khiến cô geisha phải chú ý đến thân hình nặng nề của mình, nhiều cô nhờ vào thứ này giữ cho mình khỏi bị té xuống.
Mameha nói chuyện với tôi một lát, rồi khi chúng tôi sắp sửa ra đi, cô ấy bảo tôi rót cho cô ấy một tách trà. Bình trà hết nước, nhưng cô bảo cứ giả làm như rót trà thật. Cô ấy muốn nhìn cách tôi giữ tay áo cho khỏi vướng ra sao khi rót trà. Tôi tin tôi biết cách và cố sức làm, nhưng Mameha tỏ ra không hài lòng cách làm của tôi.
- Cô rót tách của ai trước tiên? – cô ấy hỏi.
- Của chị! – tôi đáp.
- Trời ơi! Em không cần quan tâm đến chị, em cứ xem chị là ai đấy, chị là đàn ông hay đàn bà?
- Đàn ông.
- Tốt. Rót cho chủ một tách.
Tôi làm theo lời cô ấy, Mameha ngẩng mặt nhìn theo tay áo của tôi khi tôi đưa ra để rót trà.
- Tại sao cô thích làm như thế? – cô ấy hỏi – vì nếu cô đưa cánh tay quá cao như thế trông có vẻ hớ hênh.
Tôi rót lại với cánh tay hạ thấp. Lần này cô ấy giả vờ ngáp và quay qua nói chuyện với một cô geisha tưởng tượng đang ngồi ở phía bên kia.
- Em nghĩ chị đã cho em biết chị chán nản – tôi hỏi – tại sao em rót trà mà chị tỏ ra chán nản như thế?
- Vì cô không muốn tôi nhìn lên tay áo của cô, nhưng làm thế không có nghĩa là cô đoan trang. Đàn ông chỉ quan tâm đến một chuyện mà thôi. Cô hãy tin tôi đi, rồi cô sẽ hiểu những điều tôi nói. Có có thể làm cho họ sung sướng bằng cách để cho họ tin rằng họ được cô cho phép nhìn vài nơi trên thân thể của cô mà không ai có thể nhìn được. Nếu người geisha tập sự mà hành động như cô vừa rồi – rót trà như người hầu rót – thì anh chàng ngồi với cô sẽ mất hết hy vọng. Làm thử lại đi, nhưng trước hết cô phải đưa cánh tay cô cho tôi xem.
Tôi kéo tay áo lên tận khuỷu tay và đưa cánh tay ra cho cô ấy xem. Cô ấy nắm tay tôi, quay qua quay về, nhìn trên nhìn dưới.
- Cánh tay cô tuyệt đẹp, làn da thật tuyệt. Cô nên làm sao cho người đàn ông nào ngồi bên cạnh cô ít ra cũng có dịp trông thấy tay cô một lần.
Tôi tiếp tục rót trà lại nhiều lần, cho đến khi Mameha thấy hài lòng, tức là khi tôi kéo tay áo sao cho để lộ cánh tay một cách tự nhiên chứ không phải có ý đồ như thế. Nếu tôi xăn tay áo lên tận khuỷu tay, tôi sẽ trông lố bịch buồn cười, nên phải làm ra vẻ tình cờ mà kéo lên, đồng thời kéo sao cho ống tay áo rộng hở ra chừng vài ngón tay ở cổ tay, để họ có thể nhìn vào cánh tay. Mameha nói cái phần đẹp nhất của cánh tay là ở bên dưới, cho nên tôi phải cầm bình trà thế nào để cho đàn ông họ thấy dưới cánh tay hơn là ở phía trên.
Cô ấy yêu cầu tôi làm lại một lần nữa, lần này tôi giả vờ rót trà cho bà chủ phòng trà Ichiriki. Tôi để lộ cánh tay theo kiểu cô ấy nói, nhưng Mameha liền nhăn mặt.
- Trời đất, tôi là phụ nữ - cô ấy nói – tại sao cô lại để lộ cánh tay như thế? Làm thế không sợ tôi giận hay sao?
- Giận ư?
- Cô biết tôi nghĩ sao không? Cô phô bày ra trước mặt tôi vẻ đẹp trẻ trung của cô, trong lúc tôi già nua. Trừ phi cô làm thế để thỏa lòng kiêu căng…
- Sao gọi là kiêu căng?
- Tại sao cô có ý đồ để cho tôi xem phía dưới cánh tay cô? Làm thế giống như cô để cho tôi xem phim trong đùi chân của cô. Nếu tôi nhìn vào những nơi ấy thì hay quá rồi. Nhưng để cho tôi xem những nơi ấy là có ý đồ kiêu căng!
Tôi rót thêm vài lần nữa, cho đến khi tôi thành thạo các phương pháp thích hợp như cô ấy chỉ vẽ. Khi Mameha thấy đã vừa ý, cô ấy nói hai chúng tôi cùng đi ra phố.
Tôi đã ăn mặc đúng kiểu của người geisha tập sự nhiều giờ rồi. Bây giờ tôi phải tập đi khắp Gion với đôi giày mà chúng tôi gọi là okobo. Giày cao và làm bằng gỗ, với dây giày sơn màu rất đẹp ôm lấy bàn chân. Nhiều người cho rằng đi giày này rất lịch sự, vì nó có hình thuôn thuôn như miếng chêm, cho nên phần đế giày hẹp bằng nửa phần trên mặt giày. Nhưng tôi thấy đi giày này rất khó khăn. Tôi cảm thấy như mang hai mái nhà dưới chân.
Mameha và tôi ghé khoảng hai mươi phòng trà và nhà kỹ nữ, nhưng nơi nào chúng tôi cũng chỉ dừng lại vài phút thôi. Thường thường có người hầu ra mở cửa, và Mameha lịch sự yêu cầu gặp bà chủ, rồi bà chủ đến. Mameha nói với bà ta “Tôi muốn giới thiệu với bà cô em út của tôi, cô Sayuri” – rồi tôi cúi chào thật thấp và nói “Thưa bà, trăm sự nhờ bà” – bà chủ và Mameha sẽ nói chuyện với nhau vài phút, rồi chúng tôi kiếu từ. Vài nơi, chúng tôi được mời uống trà, chúng tôi nán lại chừng năm phút. Nhưng tôi sợ uống nhiều nước nên chỉ thấm môi vào tách rồi thôi. Mặc kimono mà phải vào phòng vệ sinh là cả một vấn đề khó khăn, tôi chưa đủ kinh nghiệm trong việc này.
Đi chừng một giờ là tôi thấy mệt rồi, nhưng tôi phải cố gắng hết sức để khỏi lộ vẻ mệt mỏi của mình khi đi với cô ấy. chúng tôi phải đi nhiều nơi mới được. Vào thời ấy, tôi đoán có chừng ba bốn chục phòng trà hạng nhất ở Gion và hàng trăm loại nhì. Dĩ nhiên chúng tôi không đi hết được, chúng tôi đến chừng 15 hay 16 phòng trà hạng nhất, những nơi mà Mameha thường đến để giải trí. Còn các nhà kỹ nữ thì có đến hàng trăm nhà, nhưng chúng tôi chỉ đến vài nơi mà Mameha có quan hệ mật thiết thôi.
Sau ba giờ chiều, chúng tôi hoàn tất. Tôi muốn về ngay nhà để ngủ một giấc, nhưng Mameha đã có kế họach buổi tối rồi. Tôi phải tham gia cuộc vui lần đầu với nhiệm vụ của một nàng geisha tập sự.
- Đi tắm đi – cô ấy nói với tôi – chắc cô ra mồ hôi nhiều rồi, và phần trang điểm không còn tốt nữa.
Hôm ấy là một ngày mùa thu nóng bức, mà tôi thì làm việc cật lực.
Trở về nhà kỹ nữ, bà Dì giúp tôi cởi áo và bà thương tình để cho tôi ngủ khoảg nửa giờ. Bà Dì đã có thái độ tử tế lại với tôi, vì tôi đã hết mắc phải những lỗi lầm ngu ngốc và tương lai có vẻ sáng sủa hơn Bí Ngô. Ngủ dậy, tôi vội đi tắm liền. Đúng 5 giờ tôi đã mặc áo quần và trang điểm xong. Chắc anh biết tôi rất kích thích vì tôi đã từng thấy Hatsumono cũng như Bí Ngô trải qua những giờ khắc như bây giờ. Tối hôm đó rất quan trọng đôi với tôi vì đây là lần đầu tiên tôi đến dự buổi đại tiệc được tổ chức tại Khách sạn Quốc tế Kansai. Đại tiệc là những buổi tiệc chính thức rất long trọng, khách ngồi sát nhau thành hình chữ U trong căn phòng lớn trải thảm, khay đồ ăn để trên bàn trước mặt họ. Các nàng geisha có mặt ở đây để giúp vui, đi quanh giữa phòng – nghĩa là họ di chuyển bên trong dãy khay thức ăn có hình chữ U, họ đến trước mặt khách, quỳ xuống rót rượu sake và nói chuyện vài phút. Công việc này không mấy hấp dẫn, và vai trò người geisha tập sự như tôi lại càng kém phần hấp dẫn hơn vai trò của Mameha nữa. Tôi đi lè kè bên cô ấy như cái bóng. Mỗi khi cô ấy giới thiệu mình, tôi cũng tự giới thiệu như thế, cúi chào rất thấp và nói:
- Tôi là Sayuri, mới tập sự, xin ra mắt quý ông – sau đó tôi không nói gì nữa và cũng không ai nói gì với tôi.
Đến cuối buổi tiệc, cửa một bên phòng mở ra, Mameha và một nàng geisha khác xuất hiện, trình diễn một vở múa có tên là Chi - Yo no Tomo – nghĩa là “bạn bè vĩnh cửu”. Vở múa rất hay, diễn tả cảnh hai người phụ nữ thân thiết gặp nhau sau một thời gian xa cách. Đàn ông vừa xỉa răng vừa xem, họ là nhân viên điều hành một công ty lớn sản xuất van cao su, hay là sản xuất cái gì đại loại như thế, họ tụ họp đến Kyoto để dự buổi liên hoan hàng năm. Tôi tin chắc không ai trong số họ phân biệt được sự khác nhau giữa vũ với mộng du. Nhưng phần tôi, tôi rất thích thú. Giới geisha ở Gion thường dùng cái quạt khi múa rất tài tình. Mới đầu cô ấy đóng quạt lại, quay một vòng, vừa quay vừa vẫy cái quạt uyển chuyển như để diễn tả dòng nước đang chảy qua. Rồi cô ấy xòe quạt ra, biến nó thành cái tách để cho người cùng múa rót rượu sake cho cô ấy uống. Vở múa không những đẹp về hình thức mà còn gây ấn tượng bởi tiếng đàn Shamisen điêu luyện.
Buổi tiệc chính thức thường không kéo dài lâu hơn hai tiếng đồng hồ. Cho nên đến khoảng 8 giờ, chúng tôi ra đường lại. Tôi định quay qua cám ơn Mameha và chúc cô ấy ngủ ngon thì bỗng cô nói với tôi:
- Tôi định để cô về nhà ngủ, nhưng trông cô còn có vẻ hăng hái quá, cho nên tôi đưa cô đến phòng trà Komoriya. Đến đấy, cô sẽ được nếm mùi loại tiệc không chính thức đầu tiên. Chúng ta có thể giới thiệu cô với mọi người ở đấy.
Tôi không thể nói tôi quá mệt không muốn đi nữa, cho nên tôi chỉ biết im lặng đi theo cô ấy thôi.
Khi trên đường đến đấy, Mameha nói cho tôi biết người đứng ra tổ chức buổi tiệc này là người điều hành Phòng trà quốc gia ở Tokyo. Ông ta biết hết những nàng geisha nổi tiếng ở hầu hết các khu geisha trên nước Nhật, thế nhưng khi nào Mameha giới thiệu tôi với ông ta, dù ông ta rất thân mật, tôi cũng không nên mong ông ta nói chuyện với tôi nhiều. Nhiệm vụ duy nhất của tôi là luôn luôn giữ cho mình đẹp đẽ và linh lợi. Cô ấy báo cho tôi hay:
- Cô hãy cố hết sức đừng để cho cô có vẻ không được mắt.
Chúng tôi đi vào phòng trà, người hầu dẫn chúng tôi lên một căn phòng ở tầng hai. Khi Mameha quỳ xuống để mở cửa, tôi không dám nhìn thẳng vào trong, nhưng tôi vẫn có thể thấy được bảy tám người đàn ông đang ngồi trên nệm quanh một chiếc bàn với bốn người geisha. Chúng tôi chào rồi vào trong phòng, và sau khi vào rồi, chúng tôi quỳ xuống trên chiếu để đóng cửa – vì đây là cách geisha vào phòng. Chúng tôi chào các nàng geisha trước, như Mameha đã dặn, rồi chào chủ nhân, bà ta ngồi ở góc bàn, sau đó mới chào khách.
- Kìa cô Mameha – một nàng geisha nói – cô đến vừa đúng lúc để kể cho chúng tôi nghe chuyện ông làm tóc giả Konda.
- Ôi, trời ơi! Tôi không nhớ tí nào hết – Mameha đáp và mọi người cười vang, tôi không hiểu họ cười cái gì. Mameha dẫn tôi đi quanh bàn để quỳ bên cạnh bà chủ. Tôi đã quỳ một bên.
- Thưa ông Giám đốc, xin phép ông cho tôi giới thiệu cô em út của tôi – cô ấy nói với ông ta.
Đây là dấu hiệu bảo tôi cúi người chào, xưng tên và xin ông Giám đốc bỏ lỗi. Ông ta có vẻ rất nóng tính, cặp mắt lồ lộ, người trông yếu đuối. Ông ta không thèm nhìn đến tôi mà chỉ gảy tàn thuốc vào cái gạt tàn đã đầy ở trước mặt và nói:
- Chuyện về cái anh chàng làm tóc giả Konda là chuyện gì thế? Các cô cứ nhắc đến chuyện đó suốt cả buổi tối mà không ai kể hết.
- Thú thật là tôi không biết! – Mameha nói.
Cô geisha khác lên tiếng:
- Như thế tức là chị ấy quá bối rối nên không kể được thôi. Nếu chị ấy không kể được, chắc tôi phải kể.
Các ông có vẻ thích nghe kể, nhưng Mameha lại thở dài.
- Trong lúc nghe kể, tôi mời Mameha một tách sake cho cô ấy bình tĩnh – ông Giám đốc nói rồi rửa cái tách của mình trong tô nước đặt giữa bàn, cái tô nước đặt ở đấy dùng để làm việc ấy - rồi đưa cho cô.
- Chuyện như thế này –cô geisha kia nói – anh chàng Konda là thợ làm tóc giả giỏi nhất ở Gion, hay ít ra mọi người đều nói thế. Mameha thuê anh ta làm tóc đã nhiều năm rồi. Quý vị biết không, chị ấy luôn luôn có mái tóc giả tuyệt vời nhất. Cứ nhìn vào chị ấy là quý vị sẽ thấy.
Mameha nhăn mặt giả vờ giận dữ một cách khôi hài.
- Cô ấy có nụ cười nhạo quá tuyệt! - một ông nói.
- Trong một buổi trình diễn – cô kia nói tiếp – người làm tóc giả luôn luôn đứng sau sân khấu để giúp các cô thay y phục. Thường thường trong khi cô thay áo, thế nào cũng có thứ bị tuột ra, và rồi thình lình …lộ ngực ra, hay là lộ ra một dúm lông! Quý vị chắc biết những việc như thế này thế nào cũng xảy ra. Thế nhưng…
Một ông lên tiếng:
- Tôi làm việc ở ngân hàng đã nhiều năm. Vậy mà tôi lại muốn làm anh chàng làm tóc giả quá!
- Có nhiều chuyện đáng biết hơn là chuyện lo nhìn các cô hở hang. Thế nhưng Mameha luôn luôn hàng động đoan trang, chị ấy ra sau cái màn để thay đồ…
- Để tôi kể chuyện này cho – Mameha cắt ngang lời cô kia - Chị thế nào cũng gán cho tôi cái tên không hay. Tôi không phải đoan trang đâu. Konda thường nhìn tôi không ngớt, nên tôi đã mang vào tấm màn chắn. Cũng lạ là cái anh chàng Konda này không chọc một lỗ nơi màn để nhìn sang.
- Tại sao thỉnh thoảng cô không để anh ta nhìn một chút? – ông Giám đốc cắt ngang lời cô – Nhìn một chút cô có đau đớn gì đâu?
- Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện đấy – Mameha đáp – ông nói đúng, thưa ông Giám đốc, nhìn một chút đâu có thiệt hại gì đâu. Có lẽ bây giờ ông muốn chúng tôi để cho ông nhìn một chút phải không?
Nghe thế mọi người trong phòng cười ồ. Khi mọi người đã yên lặng trở lại, ông Giám đốc bèn đứng dậy, tháo chiếc dải nơi thắt lưng ông ta ra.
- Để tôi làm việc này xem sao - ông ta nói với Mameha – nếu cô cho tôi xem một lát.
- Tôi không đề nghị với ông như thế - Mameha đáp.
- Cô thế là hẹp hòi quá.
- Người không hẹp hòi không làm geisha được – Mameha nói - họ chỉ làm người bảo trợ cho geisha thôi.
- Vậy thì thôi, chẳng sao - ông Giám đốc nói rồi ngồi xuống. Phải nói là tôi thấy nhẹ người khi ông ta ngồi xuống, vì mặc dù tất cả những người khác có vẻ vui thích, nhưng tôi lại rất bối rối .
- Tôi kể đến đâu rồi nhỉ? – Mameha hỏi – À, đến chỗ một hôm tôi mang cái màn che vào, tôi nghĩ nhờ cái màn mà tôi khỏi bị Konda quấy rầy. Nhưng có một lần khi đi vệ sinh xong, tôi vội vã quay về, tôi không thấy anh ta ở đâu hết. Tôi hoảng hồn, vì tôi cần đầu tóc giả để diễn màn sắp đến, nhưng sau đó tôi tìm thấy anh ta ngồi trên cái thùng kê sát bên tường, trông có vẻ rất yếu và người toát đầy mồ hôi. Tôi tự hỏi không biết có phải anh ta bị đau tim hay không. Anh ta để cái đầu tóc giả bên cạnh, và khi thấy tôi, anh ta xin lỗi, rồi sau đó giúp tôi đội tóc giả lên. Sau buổi diễn ngày hôm đó, anh ta đưa cho tôi một mẩu giấy viết…
Đến đây, Mameha ngập ngừng không nói hết câu. Cuối cùng một ông lên tiếng hỏi:
- Sao? Tờ giấy viết gì?
Mameha lấy tay che mắt. Cô ấy quá bối rối nên không thể tiếp tục kể được. Mọi người trong phòng phá lên cười .
- Được rồi, để tôi kể cho qúy vị nghe tờ giấy viết gì - một cô geisha lên tiếng - tờ giấy viết có nội dung đại khái như thế này “Cô Mameha thân mến, cô là nàng geisha đẹp nhất ở Gion. Sau khi cô đội đầu tóc giả của tôi, tôi rất lấy làm sung sướng, tôi cứ giữ mãi trong phòng làm việc của tôi, ngày nào tôi cũng úp mặt vô trong đó để ngửi mùi tóc của cô. Nhưng hôm nay cô đi vào phòng vệ sinh, cô đã cho tôi hưởng những giây phút sung sướng nhất trong cuộc đời tôi. Trong khi cô ở trong phòng, tôi núp ngoài cửa, những âm thanh tuyệt vời khiến người ta cảm thấy ngứa ngáy, nghe còn hay ho thú vị hơn nước suối reo…”
Đám đàn ông phá ra cười vang khiến cô geisha phải dừng lại không nói tiếp được.
- Những âm thanh tuyệt vời khiến tôi cảm thấy ngứa ngáy, còn hay ho thú vị hơn cả tiếng nước suối reo..
- Anh ta không nói theo cách đó đâu – Mameha nói – anh ta viết như thế này “Những âm thanh tuyệt vời khiến người ta cảm thấy ngứa ngáy; còn hay ho thú vị hơn cả tiếng suối reo khiến cho tôi phồng ra, căng lên khi nghĩ đến thân thể lõa lồ của cô”
- Rồi anh ta nói với chị ấy rằng – cô geisha kia nói tiếp – sau đó anh ta không thể đứng nổi vì quá bị kích thích, và anh ta hy vọng một ngày nào đó anh ta sẽ được trải qua những giây phút sung sướng như thế nữa.
Dĩ nhiên mọi người cười vang, và tôi cũng giả vờ cười. Nhưng thật ra tôi cảm thấy thật khó tin những người đàn ông này – những người đã trả tiền rất đáng kể để đến ngồi ở đây với đám phụ nữ mỹ miều mặc áo đẹp đẽ đắt tiền – muốn nghe những câu chuyện loại bọn trẻ con ở Yoroido đã kể. Trong thâm tâm, tôi cứ tưởng họ sẽ nói những chuyện về văn chương, về kịch nghệ Kabuki hay những chuyện gì đại loại như thế. Và dĩ nhiên ở Gion đã có những buổi tiệc như thế này, và đây là buổi tiệc đầu tiên với loại vui đùa theo kiểu con nít của tôi.
Trong khi mọi người nghe câu chuyện của Mameha, người đàn ông ngồi bên cạnh tôi đưa tay lau chùi cái mặt dơ bẩn của mình và ít chú ý đến câu chuyện. Khi mọi người đã yên lặng, ông ta đưa mắt nhìn tôi một lát rồi hỏi:
- Mắt cô có phải khác biệt lạ thường không? Hay là tôi say quá hóa cuồng?
Có lẽ ông ta đã quá say, nhưng tôi nghĩ không nên nói thật với ông ta như thế. Nhưng tôi chưa kịp trả lời thì ông ta đã cau mày, rồi đưa tay gãi đầu thật mạnh khiến cho một lớp bụi tuyết thật mỏng bay xuống hai vai. Thì ra chính vì thế mà ông ta được mọi người ở Gion gọi là ông “Mưa tuyết”, vì ông ta có nhiều gàu. Ông ta có vẻ như đã quên câu hỏi, hay có lẽ không đợi tôi trả lời, vì ông ta hỏi sang tuổi của tôi. Tôi nói cho ông ta biết tôi 14 tuổi.
- Chưa bao giờ tôi thấy một cô gái 14 tuổi mà lớn như cô. Này, cầm cái này – ông nói và đưa cái tách sake uống hết rượu cho tôi.
- Ồ, không được thưa ngài – tôi đáp – vì tôi chỉ mới tập sự… - Đây là câu nói mà Mameha đã dạy cho tôi nói, nhưng ông Mưa tuyết không chịu nghe, ông ta cứ cầm cái tách không cho đến khi tôi lấy cái tách, rồi ông bưng bình rượu để rót cho tôi.
Tôi không được phép uống sake vì geisha tập sự - nhất là người mới hoc việc – phải tỏ ra mình còn bé bỏng. Nhưng tôi không thể không vâng lời ông ta. Tôi bưng cái tách không đưa ra, nhưng trước khi rót rượu, ông ta đưa tay gãi đầu, tôi khiếp sợ khi thấy một ít bụi gàu rơi vào tách. Ông Mưa Tuyết rót đầy tách rồi nói với tôi:
- Nào uống đi, uống nhiều vào.
Tôi cười nhìn ông ta, tư từ đưa tách lên môi – vì không biết làm gì nữa – bỗng thật nhờ trời, Mameha cứu tôi:
- Sayuri, hôm nay là ngày đầu của cô ở Gion, không được để say - cô ấy nói nhưng cô ấy cũng không muốn làm phật lòng ông Mưa Tuyết – chỉ nhấp cho ướt môi là đủ rồi.
Tôi làm theo lời cô ấy, chỉ nhấp ướt môi. Khi tôi nói ướt môi thôi, tức là tôi mím môi thật chặt đến đau cả miệng, rồi đưa môi lên tách sake cho đến khi tôi cảm thấy rượu chạm vào vành môi. Rồi tôi vội vàng để tách xuống và nói:
- Chà chà! Tuyệt quá!
Vừa nói vừa đưa tay lấy cái khăn trong dải thắt lưng. Tôi cảm thấy nhẹ người khi chấm cái khăn lên môi và tôi sung sướng mà nói rằng ông Mưa tuyết không chú ý đến, vì ông ta đang nhìn tách rượu trên bàn trước mặt ông. Một lát sau ông ta đưa tách rượu lên môi uống một hơi cạn, rồi ông đứng lên, xin phép đi vào phòng vệ sinh.
Người geisha tập sự phải đưa người đàn ông đi phòng vệ sinh và trở về với họ, nhưng không ai yêu cầu người mới vào nghề làm như thế. Khi không có geisha tập sự trong phòng, các ông thường phải đi một mình đến phòng vệ sinh hay thỉnh thoảng một geisha đi theo ông ta. Nhưng ông Mưa Tuyết cứ đứng yên nhìn tôi cho đến khi tôi nhận ra ông ta đang chờ tôi đứng lên.
Tôi không biết đường trong phòng trà Komoriya, nhưng ông Mưa Tuyết thì biết. Tôi đi theo ông ta dọc theo hành lang. Ông ta bước sang một bên trong khi tôi mở cửa phòng vệ sinh cho ông. Sau đó tôi đứng trên hành lang đợi ông ta, tôi nghe có tiếng người đi lên cầu thang, nhưng tôi không lưu tâm đến việc ấy. Lát sau ông Mưa Tuyết đi ra, chúng tôi về lại phòng. Khi vào, tôi thấy một geisha khác nữa vào nhập tiệc cùng đi có cô geisha tập sự. Họ quay lưng ra phía cửa, cho nên tôi không thấy mặt họ cho đến khi tôi theo ông Mưa Tuyết đi vòng qua bên kia bàn để ngồi vào chỗ cũ. Chắc anh biết tôi hết sức kinh ngạc khi nhìn thấy họ, vì bên kia bàn là người phụ nữ mà tôi rất muốn lẩn tránh. Đấy là Hatsumono, cô ta cười nhìn tôi, bên cạnh là Bí Ngô.

Chuong 15

Khi Hatsumono sung sướng, cô ta cười như mọi người khác, và khi cô ta sắp làm cho người khác đau khổ, cô ta lại càng sung sướng hơn bao giờ hết. Cho nên cô ta đã cười rất rạng rỡ khi nói:
- Ôi trời ! Cuộc hội ngộ mới tình cờ làm sao! Gặp người tập sự! Thật tôi không nên nói hết chuyện này, vì nói ra chắc sẽ làm con người khốn khổ này bối rối.
Tôi mong Mameha cáo từ, đưa tôi ra ngoài, nhưng cô ấy chỉ nhìn tôi, ánh mắt âu lo. Chắc cô ấy nghĩ để Hatsumono ở lại đây với các ông kia mà ra đi tức là bỏ ngôi nhà đang cháy mà chạy, cho nên chúng tôi ở lại để tìm cách làm giảm bớt thiệt hại.
- Thật vậy, tôi nghĩ không có gì khó khăn hơn công việc của người geisha mới vào nghề tập sự geisha - Hatsumono nói – cô có nghĩ thế không, Bí Ngô?
Bấy giờ Bí Ngô đã tập sự được sáu tháng, tôi nhìn cô ta cố gây thiện cảm, nhưng cô ta nhìn vào mặt bàn, hai tay để trên lòng. Tôi đã biết tính cô ta, khi thấy chóp mũi cô ta nhăn lại là tôi hiểu cô ta đang buồn.
- Dạ phải, thưa bà – cô ta đáp.
- Đây là thời gian khó khăn nhất đời - Hatsumono nói tiếp – Tôi còn nhớ tôi gặp nhiều chuyện khó khăn hết sức. Cô mới vào nghề à, tên cô là gì?
May thay tôi khỏi phải trả lời vì Mameha đã lên tiếng.
- Chị nói thời gian mới vào nghề của chị khó khăn là đúng, chị Hatsumono à. Tuy nhiên chị là người vụng về nhất.
- Tôi muốn nghe phần cuối câu chuyện - một ông nói.
- Và để làm cho cô mới vào nghề này bối rối à? - Hatsumono nói - nếu ông hứa khi ông nghe hết chuyện này, ông không nghĩ đến cô gái tội nghiệp kia, tôi sẽ kể cho ông nghe. Ông phải cam đoan ông sẽ hình dung ra cô gái khác mới được.
Ngón đòn độc ác quỷ quyệt của Hatsumono rất tài tình. Đàn ông không thể hình dung được câu chuyện xảy ra cho tôi hồi nãy, nhưng bây giờ chắc thế nào họ cũng hình dung ra được.
- Để xem nào, tôi nói đến đâu rồi – Hatsumono tiếp tục - Ồ, phải rồi , tôi nói đến cô mới vào nghề này…Tôi không nhớ tên cô ta nhưng tôi có thể cho cô ta một cái tên để quý vị khỏi lẫn lộn cô ta với cô gái tội nghiệp này. Này cô mới vào nghề, cô tên gì?
- Thưa bà, Sayuri - tôi đáp.
Mặt tôi nóng phừng phừng vì căng thẳng, đến nỗi nếu đồ mỹ phẩm trên mặt tôi tan ra, chảy thành giọt xuống áo chắc tôi cũng không ngạc nhiên.
- Sayuri, tên đẹp quá, nhưng tên này không hợp với cô. Thôi được, chúng ta gọi cô mới vào nghề trong chuyện là Mayuri. Chuyện như thế này, một hôm tôi đi trên đại lộ Shijo với Mayuri, trên đường đi đến nhà chị cả của cô ta. Bỗng có cơn gió thật mạnh nổi lên, loại gió làm cho cửa sổ rung loảng xoảng, và cô Mayuri tội nghiệp chưa có kinh nghiệm trong việc mặc kimono. Cô ta nhẹ như chiếc lá và hai ống tay áo rộng đồ sộ như hai cánh buồm. Khi chúng tôi qua đường, bỗng cô ta biến mất, tôi nghe phía sau có tiếng nho nhỏ thốt lên như là “a…a…” nhưng rất yếu ớt.
Đến đây Hatsumono quay qua nhìn tôi.
- Giọng tôi không được lớn, cô hãy nói cho tôi nghe tiếng “a…a…” đi nào.
Trời, tôi biết làm gì hơn? Tôi cố sức nói.
- Không, không, nói hơn thế nữa. Nhưng mà thôi, khỏi cần. – Hatsumono quay sang người đàn ông ngồi bên cạnh thì thào – cô ta không sáng dạ, phải không? – cô ta lắc đầu rồi nói tiếp – khi tôi quay lui, cô Mayuri tội nghiệp bị gió thổi bay lui phía sau tôi độ một khu phố, hai tay hai chân múa may như con bọ nằm ngửa, múa cẳng lên không. Tôi cười muốn bể bụng, nhưng thình lình cô ta chạy ra khỏi lề đường, đi vào một ngã tư đông đúc vừa khi một chiếc xe hơi phóng tới. Nhờ trời, cô ta bị gió thổi bay lên nắp đậy máy xe! Hai chân chổng ngược lên …và không biết quý vị có tưởng tượng được cảnh này không, gió thổi tốc áo kimono cô ta lên! Và thôi, tôi khỏi cần kể cho quý vị biết chuyện gì đã xảy ra.
- Cô phải kể ra mới được – một ông lên tiếng nói.
- Ông không có óc tưởng tượng à? – cô ta đáp – gió thổi lật ngược áo của cô ta lên khỏi hông. Cô ta không muốn người ta nhìn thấy phần thân thể lõa lồ, cho nên để giữ gìn sự đoan chính của mình, cô ta quay người, giang hai chân ra, và phần kín đáo áp vào kính chắn gió trước mặt anh tài xế…
Đám đàn ông bây giờ rất háo hức, kể cả ông Giám đốc, ông ta gõ cái tách rượu trên bàn như súng máy.
- Đúng, thưa ông Giám đốc – Hatsumono nói – cô gái chỉ là người mới vào nghề. Tuồng như anh tài xế không thấy gì hết. Tôi muốn nói quý vị có thể tưởng tượng ra phần kín của cô gái đang ngồi ở bên kia bàn không? – Dĩ nhiên cô ta nói đến tôi – Có lẽ cô ta không khác gì một em bé.
- Con gái nhiều lúc mới có 11 tuổi đã có lông rồi - một ông nói.
- Cô mấy tuổi rồi bé Sayuri? – Hatsumono hỏi.
- Mười bốn tuổi, thưa bà – tôi đáp, giữ thái độ rất lễ phép – nhưng đã gần tròn 14.
Các ông có vẻ rất thích chuyện này và nụ cười của Hatsumono trở nên gay gắt.
- Mười bốn à? Hoàn hảo biết bao. Và dĩ nhiên là cô không có lông…
- Ồ có chứ, có rất nhiều – Tôi đưa tay vỗ lên mái tóc trên đầu.
Tôi nghĩ làm thế là một hành động khôn ngoan, nhưng xem ra không phải thế. Các ông cười to hơn cả khi họ cười vì nghe câu chuyện của Hatsumono. Hatsumono cũng cười, tôi nghĩ vì cô ta không muốn tỏ ra chuyện cười đùa này nhắm vào cô ta.
Khi mọi người hết cười, tôi và Mameha ra về. Chúng tôi không cần phải đóng cửa vì khi đó chúng tôi cũng nghe Hatsumono cáo từ ra về. Cô ta và Bí Ngô đi theo chúng tôi xuống cầu thang.
- Này chị Mameha – Hatsumono nói - chuyện quá vui! Tôi nghĩ tại sao chúng ta không cùng nhau giải trí thường xuyên nhỉ.
- Phải, chuyện thật vui – Mameha đáp – tôi cũng thích cảnh cùng nhau ta vui chơi sau này.
Nói xong Mameha nhìn tôi với ánh mắt rất thoải mái. Cô ấy vui thích khi nghĩ đến cảnh Hatsumono bị làm cho đau khổ.
Tối đó, sau khi tắm rửa lau chùi hóa trang xong, tôi ra đứng ở hành lang trước để trả lời các câu hỏi của bà Dì về công việc trong ngày. Thì Hatsumono từ ngoài đường đi vào, cô ta đến đứng trước mặt tôi. Thường khi cô ta không về sớm như thế, nhưng khi tôi thấy mặt cô ta hằm hằm là tôi biết ngay cô ta về để đụng độ với tôi. Thậm chí cô ta không thèm cười nụ cười nham hiểm nữa, mà hai môi mím lại trông rất dữ dằn. Cô ta đứng trước mặt tôi một lát, rồi giang tay đánh vào mặt tôi. Trước khi cô ta giang tay đánh vào mặt tôi, tôi chỉ thấy hai hàm răng cô ta nghiến vào nhau như chuỗi ngọc.
Tôi quá kinh ngạc, không nhớ chuyện gì đã xảy ra sau đó. Nhưng tôi nhớ là bà Dì và Hatsumono cãi nhau, vì câu sau cùng tôi nghe Hatsumono nói là:
- Nếu con này còn làm mất mặt tôi trước mặt mọi người nữa, tôi sẽ đánh vào má bên kia của nó.
- Tôi làm mất mặt chị như thế nào đâu? – tôi hỏi cô ta.
- Mày quá hiểu điều tao muốn nói rồi, khi tao nói tao không biết mày có lông chưa, thì mày đã làm cho tao trông như đồ điên. Tao mang ơn mày một việc, bé Chiyo à. Tao hứa tao sẽ trả cho mày trong một ngày gần đây thôi.
Hình như Hatsumono đã bớt giận khi đánh được tôi, cho nên cô ta bỏ ra khỏi nhà, Bí Ngô đang đợi cô ta ở ngoài đường để cúi chào cô ta.
Chiều hôm sau tôi kể lại chuyện này cho Mameha nghe, nhưng cô ấy không quan tâm đến.
- Có gì khó khăn đâu? – Mameha nói - nhờ trời Hatsumono không để lại dấu gì trên mặt cô là được. Cô tin là cô ấy sẽ rất đau đớn khi nghe cô nói, phải không?
- Em chỉ sợ những chuyện sẽ xảy ra sau này mà thôi.
- Đừng lo, nếu gặp cô ấy chúng ta sẽ bỏ ra về. Chắc bà chủ sẽ ngạc nhiên khi thấy chúng ta mới vào tiệc mà đã về liền, nhưng làm thế tốt hơn là tạo cho Hatsumono có lợi để làm nhục cô. Vả lại, nếu chúng ta đụng phải cô ta, đấy cũng là điều may mắn.
- Thật không, chị Mameha? Em không hiểu tại sao đụng phải cô ta lại là điều may mắn.
- Nếu Hatsumono buộc chúng ta phải rời vài phòng trà, thì chúng ta sẽ ghé vào các tiệc vui khác. Cô sẽ được mọi người ở Gion biết đến nhanh chóng hơn.
Lời khuyên của Mameha làm cho tôi yên tâm. Thật vậy, sau đó mỗi khi chúng tôi đi đâu ở Gion, tôi hy vọng sau một đêm dài vui chơi giải trí, tôi sẽ được hân hoan sung sướng khi lau chùi mỹ phẩm trên mặt đi. Nơi ghé vào đầu tiên của tôi là hai buổi tiệc mừng một diễn viên điện ảnh trẻ, anh ta có vẻ chưa quá 18 tuổi mà trên đầu không còn một sợi tóc, thậm chí không có cả lông mi, lông mày. Anh ta tiếp tục nổi tiếng trong vài năm sau nữa, nhưng nổi tiếng chỉ vì cách chọn con đường chết. Anh ta tự sát bằng gươm sau khi giết một cô hầu bàn ở Tokyo. Nhưng dù sao tôi cũng thấy anh ta rất lạ lùng cho đến khi tôi thấy anh ta cứ nhìn tôi mãi, tôi đã sống rất cô đơn trong nhà kỹ nữ, cho nên thấy anh ta chú ý đến mình, tôi rất sung sướng. Chúng tôi ngồi với nhau hơn một giờ và không thấy Hatsumono xuất hiện. Tôi hy vọng sự mơ ước thành công của tôi sẽ thành hiện thực.
Tiếp theo, chúng tôi ghé vào một buổi tiệc do ông Viện trưởng viện đại học Kyoto tổ chức. Mameha đến nói chuyện với một người đàn ông đã lâu cô không gặp, để tôi lại một mình. Còn một chỗ duy nhất nơi bàn tôi phải ngồi là cạnh một ông già mặc sơ mi trắng dơ dáy, có lẽ ông ta khát qúa vì ông ta uống bia liên tục, ngoại trừ khi ông ta ợ. Tôi quỳ bên cạnh ông ta và định tự giới thiệu thì cửa bật mở. Tôi đoán chị hầu vào, nhưng té ra là Hatsumono và Bí Ngô đang quỳ ngoài cửa.
- Ôi trời ơi! – tôi nghe Mameha nói chuyện với người đàn ông mà cô ấy đang tiếp – đồng hồ của ông đúng không?
- Rất đúng – ông ta đáp – chiều nào tôi cũng so với đồng hồ ngoài ga xe lửa.
- Chắc tôi và Sayuri phải chịu thất lễ. Xin cáo biệt thôi. Chúng tôi đã trễ hẹn ở chỗ khác cách đây nửa giờ rồi.
Nói xong chúng tôi đứng lên bước ra khỏi phòng ngay sau khi Hatsumono và Bí Ngô vào.
Khi chúng tôi rời khỏi phòng, Mameha kéo tôi vào một phòng trống. Trong căn phòng lờ mờ tối , tôi không thấy rõ nét mặt cô ấy, ngoài khuôn mặt trái xoan xinh đẹp và cái vương miện rực rỡ đội trên đầu. Nếu tôi không thấy rõ cô ấy thì cô ấy cũng không thấy rõ nét mặt của tôi, mặt tôi khi ấy thụng xuống bởi chán nản và thất vọng, vì tôi cảm thấy lo sợ không bao giờ thoát khỏi tay Hatsumono.
- Sáng nay cô đã nói gì với con mụ quái đản ấy? – Mameha hỏi tôi.
- Thưa chị, không nói gì hết!
- Thế tại sao mụ ấy biết chúng ta ở đây?
- Chính em cũng không biết chúng ta sẽ đến đây, làm sao em có thể nói cho chị ta biết?
- Chị hầu của tôi biết mấy chỗ hẹn của tôi, nhưng tôi không tin. Thôi được, chúng ta sẽ đến dự một buổi tiệc khó có ai biết được. Naga Teruomi vừa được chỉ định điều khiển giàn nhạc Tokyo Philharmomic vào tuần trước. Chiều nay anh ta đã đến thành phố để mọi người có cơ hội chúc mừng. Tôi không muốn đi, nhưng Hatsumono sẽ không đến đấy đâu.
Chúng tôi băng qua đại lộ Shijo, rẽ vào một con đường nhỏ ngát mùi rượu sake và khoai chiên. Một tràng cười từ trên các cửa sổ tầng hai bay xuống tận chỗ chúng tôi, đèn đuốc sáng choang lên. Vào trong một cô hầu dẫn chúng tôi lên một phòng ở tầng hai, chúng tôi thấy người nhạc trưởng đang ngồi trong đó, mái tóc thưa chải dầu bóng láng, mấy ngón tay mân mê tách rượu sake với vẻ tức tối. Những người đàn ông kia đang chơi trò uống rượu đấu với hai cô geisha. Nhưng người nhạc trưởng không tham gia với họ. Ông ta nói chuyện với Mameha một lát, rồi yêu cầu cô múa một vở múa. Tôi nghĩ là ông ta chẳng thiết gì đến múa may, và ông yêu cầu thế để chấm dứt cái trò thách đấu uống rượu, hòng lôi các vị khách đến để tâng bốc ông ta. Ngay khi người hầu mang đàn Shamisen đến cho cô geisha, thì cửa phòng mở - ngay trước khi Mameha đứng vào tư thế múa – và anh nghĩ anh biết tôi sắp nói cho anh nghe ai sẽ đi vào phòng rồi. Chính là Hatsumono và Bí Ngô, họ như hai con chó lẽo đẽo đi theo chúng tôi.
Chính anh hình dung được cảnh Hatsumono và Mameha cười với nhau ra sao rồi. Người ta tưởng hai người vui mừng khi gặp nhau, nhưng thật ra, tôi nghĩ, Hatsumono cười vì sung sướng, vì đã tìm ra chúng tôi, còn Mameha thì…nụ cười của cô ấy như che giấu sự tức giận trong lòng. Trong khi cô ấy múa, tôi thấy hàm xai của cô ấy bạnh ra, hốc mũi phập phồng. Khi múa xong, cô ấy không đến bàn mà nói ngay với ông nhạc trưởng:
- Xin cám ông đã cho phép chúng tôi ghé vào chơi. Tôi nghĩ bây giờ quá trễ rồi...Sayuri và tôi xin cáo lỗi…
Tôi không làm sao tả hết cho anh nghe vẻ hả hê trên khuôn mặt của Hatsumono khi chúng tôi đi ra ngoài. Tôi theo Mameha xuống cầu thang. Khi đến bậc thang cuối cùng, cô ấy dừng lại chờ. Cuối cùng một cô hầu chạy ra hành lang trước để xem chúng tôi đi ra – chính cô hầu đã dẫn chúng tôi lên lầu hồi nãy.
- Nhiệm vụ người hầu của cô sao mà khó khăn quá nhỉ - Mameha nói với cô ta – có lẽ cô muốn nhiều thứ mà tiền thì lại ít, không đủ chi tiêu chứ gì? Mà này, cô cho tôi biết số tiền cô vừa kiếm được cô sẽ tiêu vào việc gì.
- Thưa bà, tôi không có tiền gì hết – chị ta đáp. Nhưng cứ nhìn cách chị ta sượng sùng, tôi biết chị ta nói láo.
- Hatsumono hứa sẽ cho cô bao nhiêu tiền?
Bỗng chị hầu cụp mắt nhìn xuống sàn nhà. Bây giờ tôi mới hiểu ra Mameha muốn nói cái gì. Sau đó một lát, chúng tôi biết Hatsumono đã hối lộ cho ít ra là một gia nhân trong các phòng trà hạng nhất ở Gion. Họ có nhiệm vụ gọi cho Yoko – cô gái giữ điện thọai ở nhà kỹ nữ của chúng tôi – để báo Mameha và tôi đến dự tiệc ở đâu. Dĩ nhiên là khi ấy tôi không biết chuyện Yoko có dính líu vào đấy, nhưng Mameha đã đoán đúng khi cho rằng chị hầu ở phòng trà này đã gởi tin cho Hatsumono biết.
Chị hầu không dám ngước mắt nhìn lên Mameha. Thậm chí khi Mameha đỡ cằm chị ta lên, chị vẫn nhìn xuống như thể hai mắt có đeo hai viên chì. Khi chúng tôi rời khỏi phòng trà, chúng tôi nghe tiếng của Hatsumono từ trên cửa sổ vọng xuống – vì cửa ngõ hẹp nên tiếng gì cũng vang vọng xuống đấy hết.
- Phải, tên cô ta là gì? – Hatsumono hỏi.
- Sayuri – một người đàn ông nói.
- Không phải Sayoko mà là Sayuri – người khác nói.
- Tên ấy đúng đấy – Hatsumono trả lời – nhưng cô ta trông rất ngượng ngập, biết nói sao với ông! Cô ta trông cũng xinh…
- Tôi chưa tiếp xúc nhiều với cô ta – một ông nói – nhưng cô ta rất đẹp.
- Cặp mắt rất kỳ lạ - một geisha nói.
- Quý vị có biết tôi nghe một ông mới đây nói sao về cặp mắt của cô ta không? – Hatsumono nói – ông ta nói cặp mắt có màu sắc như màu của con giun chết.
- Giun chết…Tôi chưa bao giờ nghe ai nói có màu gì giống như màu giun chết hết.
- Thôi, để tôi kể chuyện về cô ấy cho quý vị nghe – Hatsumono nói tiếp – nhưng quý vị phải hứa là không nói lại cho ai biết chuyện này. Cô ta có bệnh truyền nhiễm, ngực cô ta như ngực bà già, chảy xuống và nhăn nheo, thật khiếp! Tôi đã có lần thấy cô ta trong phòng tắm.
Mameha và tôi đã dừng lại để nghe, nhưng khi nghe đến chuyện này, cô ấy đẩy nhẹ tôi đi và chúng tôi cùng ra khỏi đường hẻm. Mameha đứng lại một lát, nhìn lên nhìn xuống trên đường rồi nói:
- Tôi đã suy tính chúng ta đi đâu, nhưng…tôi không tìm ra chỗ nào hết. nếu con mẹ ấy đã tìm ra chúng ta ở đây, thì chắc cũng sẽ tìm ra chúng ta ở chỗ khác trong Gion. Bây giờ cô hãy về nhà đã, đợi cho đến khi ta tìm ra kế hoạch rồi hãy hay.
Mấy năm sau ngày xảy ra những chuyện tôi vừa mới kể cho anh nghe, đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ. Vào một buổi chiều trong thời gian xảy ra chiến tranh này, trong một buổi tiệc tổ chức dưới tàn cây thích, một ông sĩ quan rút súng ra khỏi bao, để trên chiếc chiếu rơm để hù dọa tôi. Tôi nhớ khẩu súng đẹp đã làm cho tôi kinh ngạc. Ánh thép màu xám láng lẩy, những đường cong hài hòa tuyệt hảo, báng súng bằng gỗ dầu nổi vân thật nhiều. Nhưng khi tôi nghĩ đến mục đích giết người của khẩu súng, tôi thấy khẩu súng hết đẹp.
Sau khi tôi bị Hatsumono tìm cách phá bước đường vào đời của tôi, dưới mắt tôi, cô ta chẳng khác nào khẩu súng tàn bạo mà đẹp đẽ đấy cả. Nói thế không có nghĩa là trước đó cô ta không tàn bạo. Nhưng trước đó tôi thường ganh với sắc đẹp của cô ta, còn bây giờ thì không. Trong khi đáng ra hàng đêm tôi được đi đến các buổi đại tiệc và ngoài đại tiệc tôi còn có thể đến dự từ 10 đến 15 nơi có tiệc nhỏ, thì tôi phải ngồi ở nhà, tập múa và tập đàn. Khi Hatsumono đi qua hành lang trước mặt tôi, mặc quần áo lộng lẫy, mặt tô trắng toát trên nền áo màu sẫm y như mặt trăng trong một đêm có sương mờ, tôi nghĩ ngay cả người mù chắc cũng biết cô ta đẹp. Thế nhưng tôi chỉ cảm thấy căm thù cô ta, tai tôi nghe rõ tiếng trái tim mình đập thình thịch.
Trong mấy ngày sau đó, tôi được Mameha gọi đến nhà cô ấy nhiều lần. Mỗi lần đến là tôi hy vọng cô ta cho tôi biết đã tìm ra cách tránh được Hatsumono, nhưng cô ấy chỉ nhờ tôi đi làm những công việc lặt vặt mà cô không tin vào người giúp việc. Một buổi chiều, tôi hỏi cô ấy đã tìm ra được biện pháp gì cho tôi chưa, cô ấy đáp:
- Tôi nghĩ cô cứ ở nhà một thời gian đi đã. Tôi mong sao cô có quyết tâm cao để hủy diệt con mẹ đàn bà độc ác ấy đi! Nhưng trong khi chưa có kế hoạch, cô không nên theo tôi đi khắp Gion làm gì.
Dĩ nhiên tôi rất buồn khi nghe cô ấy nói như thế, nhưng Mameha đã nói đúng. Hành động phá phách của Hatsumono sẽ làm cho tôi trở thành lố bịch dưới mắt các ông các bà ở Gion, cho nên tốt hơn hết là tôi nên tạm ở nhà.
May thay, Mameha là người giỏi xoay sở, cô ấy đã tìm cách liên hệ các nơi an toàn để thỉnh thoảng đưa tôi đến đấy. Hatsumono có thể cô lập tôi ở Gion, nhưng cô ta không thể cô lập tôi khỏi thế giới bên ngoài Gion. Khi Mameha rời khỏi Gion đi xa để thực hiện hợp đồng, cô ấy thường mời tôi đi theo. Tôi đã theo cô ấy đến Kobe bằng xe lửa một ngày, ở đấy Mameha cắt băng khánh thành một nhà máy mới. Vào dịp khác, tôi theo cô ấy để tháp tùng ông Cựu giám đốc công ty điện báo và điện thoại Nippon đi tham quan Kyoto một vòng bằng xe hơi màu đen. Chuyến đi này đã gây cho tôi một ân tượng thật sâu sắc. Vì đây là lần đầu tiên tôi thấy Kyoto rộng rãi nằm ngoài ranh giới quận Gion nhỏ bé của chúng tôi không kể đến lần đầu tiên đi xe hơi của tôi. Trong những năm sống ở đây, tôi không hề biết là có nhiều người sống rất cơ cực cho đến khi xe của chúng tôi chạy theo bờ sông xuôi Nam, tôi thấy những người đàn bà dơ bẩn cho con bú dưới gốc cây, dọc theo đường rầy xe lửa, còn đàn ông thì ngồi xổm nhổ cỏ dại, chân đi dép rơm rách tả tơi. Tôi không nói ở Gion không có người nghèo, nhưng tôi thấy những nông dân ở đây quá nghèo đến độ không thèm tắm rửa. Tôi không bao giờ tin rằng tôi, đứa nô lệ bị Hatsumono đối xử độc ác rằng khủng khiếp – đã sống cuộc sống tương đối may măn qua giai đọan đại suy thoái kinh tế. Nhưng hôm ấy tôi nhận ra đấy là sự thật.
Một hôm tôi ở trường học về đã gần trưa, tôi thấy có tờ giấy báo tôi đem đồ trang điểm đến nhà Mameha gấp. Khi tôi đến nơi, ông Ichoda, thợ may giống như ông Bekku, đang ở trong phòng sau, buộc dải thắt lưng cho Mameha trước tấm gương soi lớn.
- Trang điểm nhanh lên – Mameha nói với tôi – tôi đã để sẵn áo kimono của cô ở phòng bên kia rồi.
Nhà của Mameha rộng lớn đúng tiêu chuẩn nhà cửa ở Gion. Ngoài phòng chính ra, rộng đến sáu chiếc chiếu cói, cô ấy còn có hai phòng nhỏ hơn, phòng thay áo quần rộng gấp hai lần phòng gia nhân, và một phòng cô ấy ngủ. Trong phòng ngủ, tấm nệm mới trải vải xong, trên nệm, chị giúp việc đã để sẵn chiếc áo kimono cho tôi. Tôi kinh ngạc khi thấy tấm nệm. Vải trải nệm không phải vải mà Mameha đã ngủ đêm trước, vì vải còn láng mướt mịn màng như tuyết mới rơi. Tôi vừa thay chiếc áo vải tôi mang theo đến, vừa phân vân thắc mắc việc này. Khi tôi bắt đầu trang điểm, Mameha nói cho tôi nghe lý do tại sao cô ấy gọi tôi đến.
- Ông Nam tước đã trở về thành phố - cô ấy nói – ông ấy sẽ đến ăn cơm trưa tại đây. Tôi muốn cô gặp ông ấy.
Tôi chưa có cơ hội để nói về ông Nam tước, nhưng Mameha nói ông Nam tước tức là ông Nam tước Matsunaga Tsuneyoshi – ông danna của cô ấy. Ở nước Nhật chúng tôi bây giờ không còn nam tước, bá tước gì nữa, nhưng trước đại chiến lần 2, chúng tôi vẫn còn, và ông Nam tước Matsunaga này là một trong số những người giàu nhất. Gia đình ông ta làm chủ một trong số những nhà ngân hàng lớn của nước Nhật và rất có ảnh hưởng đến nền tài chính của Nhật. Nguyên thủy, người anh cả của ông ta thừa hưởng danh hiệu Nam tước, nhưng ông ấy bị ám sát trong thời gian làm bộ trưởng tài chính trong nội các của thủ tướng Inukai. Danna của Mameha khi ấy đã ngoài ba mươi, không những thừa hưởng chức Nam tước mà còn thừa hưởng tất cả tài sản của người anh, kể cả ngôi nhà đồ sộ ở Kyoto nằm không xa Gion bao nhiêu. Vì công việc kinh doanh, nên ông ta phải ở lại Tokyo nhiều hơn, và cũng còn nhiều việc khác nữa níu chân ông lại đây –vì mấy năm sau tôi biết được chuyện ông ta có tình nhân khác nữa, ở trong khu geisha tại Tokyo. Vài đàn ông giàu có mới có geisha làm tình nhân, nhưng ông Nam tước Matsunaga Tsunegoshi có đến hai tình nhân.
Khi tôi biết ông danna của Mameha sẽ ở chơi cả buổi chiều với cô ấy, tôi mới hiểu ra lý do tại sao nệm trong phòng ngủ trải vải mới.
Tôi vội thay áo mà Mameha đã để sẵn cho tôi – chiếc áo lót màu lục non, còn chiếc kimono có màu nâu đỏ và màu vàng, dưới lai có in hình hàng cây thông. Lúc ấy, một chị hầu của Mameha vừa từ nhà hàng ăn trở về, mang theo cái hộp sơn mài lớn đựng thức ăn trưa cho ông Nam tước. Thức ăn đựng trong đĩa và tô, dùng ăn liền như trong nhà hàng vậy. Dĩa lớn nhất đựng hai con cá ướp muối nướng nằm áp bụng lên dĩa như đang bơi theo dòng nước. Một bên để hai con cua nhỏ hấp hơi, lọai cua lột vỏ. Một hàng muối rắc dọc theo mép dĩa sơn đen làm cho người ta nghĩ chúng bò qua mặt cát.
Mấy phút sau ông Nam tước đến. Tôi nhìn qua khe cửa hở thấy ông ta đứng trên đầu cầu thang để cho Mameha cởi giây giày. Cảm giác đầu tiên của tôi là ông ấy giống như trái hạnh đào hay là trái hồ đào, vì ông ta nhỏ và tròn quay, với nét mặt thô tháp và nặng nề, nhất là quanh hai mắt. Thời ấy để râu là hợp thời trang, nên ông Nam tước để một số lông dài và mềm trên mặt mà tôi nghĩ ông ta cho đó là bộ râu, nhưng tôi thì thấy số lông ấy giống như đám rau thơm rải trên đĩa thức ăn, hay là đám rong biển nhỏ thường được trộn rải rác vào trong cơm.
- Ô Mameha, anh mệt quá! – tôi nghe ông ta nói – anh ghét tàu hỏa chạy lâu như thế này quá!
Cuối cùng ông tuột chân ra khỏi giày, đi qua phòng, bước chân ngắn và nhanh. Từ sáng sớm, người thợ may của Mameha đã mang vào phòng chiếc ghế bành lớn và tấm thảm Ba tư lấy từ phòng chứa đồ nằm bên kia hành lang, ông ta đã kê ghế và lót thảm gần bên cửa sổ. Ông Nam tước ngồi xuống đấy, nhưng chuyện gì xảy ra sau đó tôi không thể nói được vì chị hầu của Mameha đã đến bên tôi, cúi chào xin lỗi rồi nhẹ đẩy cánh cửa để đóng lại, ngăn cách phòng chính với phòng thay áo quần.
Tôi ngồi trong phòng thay áo quần của Mameha suốt một giờ hay hơn nữa trong khi chị hầu đi vào đi ra phục vụ bữa ăn cho ông Nam tước. Thỉnh thoảng tôi nghe Mameha nói nho nhỏ nhưng chủ yếu là ông Nam tước nói. Có lúc tôi tưởng ông ta nổi giận với Mameha nhưng cuối cùng khi nghe đầu đủ câu chuyện tôi mới hiểu rằng ông ta chỉ phàn nàn về một người đàn ông mà ông ta đã gặp vào ngày hôm trước, yêu cầu ông một sự việc riêng tư khiến cho ông tức giận. Cuối cùng bữa ăn xong, chị hầu đem tách trà ra, và Mameha gọi tôi. Tôi bước ra quỳ xuống trước mặt ông Nam tước, cảm thấy người căng thẳng – vì trước đây chưa bao giờ tôi gặp một nhà quý tộc như thế này. Tôi cúi người chào, xin ông bỏ lỗi, lòng nghĩ rằng có lẽ thế nào ông ta cũng phải nói cái gì với tôi. Nhưng ông ta có vẻ cứ nhìn quanh căn phòng, không mảy may chú ý đến tôi.
- Mameha – ông ta nói – bức tranh cuốn mà em thường treo trong góc tường kia ra sao rồi? Đấy là bức tranh tàu vẽ cái gì đấy…xem ra đẹp hơn các bức hiện em đang treo.
- Thưa Nam tước, bức tranh cuốn ở đấy là bài thơ do chính tay của Matsudaira Koichi viết. Bức cuốn treo ở đấy đã gần 4 năm nay.
- Bốn năm à? Thế không phải bức tranh tàu treo ở đấy khi anh đến vào tháng trước sao?
- Không phải…Nam tước đâu có cho em cái vinh dự đón anh đến thăm trong gần ba tháng nay.
- Thảo nào mà anh cảm thấy quá mệt mỏi. Anh thường nói anh phải đi Kyoto nhiều hơn nữa, nhưng cứ việc này rồi việc khác níu kéo anh. Nhìn vào bức tranh cuốn anh vừa nói đến, anh không tin bức tranh đã treo ở đấy 4 năm từ khi anh nhìn thấy nó.
Mameha gọi chị hầu vào, sai chị lấy bức tranh cuốn ở trong tủ. Tôi có nhiệm vụ mở bức tranh ra, tay tôi run run đến nỗi tôi để bức tranh trượt khỏi tay khi tôi đưa lên cho ông xem.
- Hãy cẩn thận, cô em – ông ta nói.
Tôi quá sức bối rối đến nỗi sau khi cúi người xin lỗi, tôi không thể nào không nhìn lui nhìn tới mãi vào mặt ông để xem ông có giận không. Trong khi tôi giữ bức tranh cho ông xem, tưởng chừng như ông nhìn tôi nhiều hơn là nhìn bức tranh, nhưng ánh mắt không phải ánh mắt khiển trách. Một lát sau tôi nhận ra đấy là ánh mắt hiếu kỳ, và chính vì thế tôi lại cảm thấy lúng túng hơn nữa.
- Bức tranh này trông đẹp hơn bức tranh em treo ở hốc tường nhiều, Mameha à – ông nói, nhưng ông vẫn có vẻ cứ nhìn vào tôi, và khi tôi nhìn ông ta, ông ta không chịu quay mắt đi – dù sao thì thư pháp cũng đã xưa lắm rồi – ông ta nói tiếp – em nên hạ cái bức trên hốc tường ấy xuống và treo bức tranh phong cảnh này lên.
Mameha không có lựa chọn nào khác ngoài việc làm theo lời yêu cầu của ông ta, thậm chí cô ấy còn làm ra vẻ như thể cô cho ý kiến của ông ta là chính xác. Khi chị hầu và tôi treo xong bức tranh, và cuốn bức kia lại, Mameha gọi tôi đến để hầu trà cho ông Nam tước. Từ hốc tường nhìn vào, chúng tôi tạo thành cái thế ba chân – Mameha, ông Nam tước, và tôi. Nhưng dĩ nhiên Mameha và ông Nam tước nói chuyện với nhau, còn phần tôi, tôi không làm gì cả ngòai việc chỉ quỳ ở đấy, cảm thấy mình như người ngòai cuộc, như con bồ câu ở trong tổ chim ưng. Trước đây tôi nghĩ tôi có thể xứng đáng ngồi cùng ông Nam tước, nhưng bây giờ tôi không thể không nhận ra một lần nữa rằng tôi không đáng gì hết mà chỉ là một con bé ngu ngốc từ một làng đánh cá đến. Nếu Hatsumono mà có quyền hành, thế nào cô ta cũng đè đầu tôi xuống, bất kỳ người đàn ông nào đến thăm Gion, chắc cũng sẽ không đến gần tôi đâu. Tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ gặp lại ông Nam tước Matsunaga, cũng như không bao giờ tôi gặp lại ông Chủ tịch. Có thể nào Mameha không nhận ra hoàn cảnh vô vọng của tôi và để tôi chết dần chết mòn trong nhà kỹ nữ như chiếc kimono cũ nhưng còn đẹp, người ta treo làm kiểu trong tiệm. Ông Nam tước – người mà tôi bắt đầu nhận ra có tính nóng nảy – nghiêng mình cào cái dấu gì đấy trên mặt Mameha, hành động của ông nhăc tôi nhớ đến bố tôi vào cái ngày tôi thấy ông lần cuối cùng, hôm ấy ông cũng lấy móng tay xoi bụi nằm trong các khe hở trên bàn. Tôi tự hỏi bố tôi sẽ nghĩ gì nếu ông thấy tôi quỳ ở đây trong nhà của Mameha, mặc chiếc áo đắt tiền hơn bất cứ thứ gì mà ông thấy, với ông Nam tước ngồi trước mặt tôi cùng nàng geisha danh tiếng nhất nước Nhật ngồi bên cạnh. Tôi thật không xứng với những gì ở quanh tôi. Nhưng bỗng tôi nghĩ đến chiếc áo lụa mỹ miều trên người tôi, tôi có cảm giác tôi có thể bị đắm đuối vào cái đẹp. Ngay khi ấy, cái đẹp đã làm cho tôi sững sờ kinh ngạc như chính nỗi buồn đã dày vò tôi.

Chuong 16

Một buổi chiều khi Mameha và tôi đi qua cầu đại lộ Shijo để mua đồ nữ trang cài tóc ở quận Pontocho – vì Mameha không thích các cửa hàng bán nữ trang ở Gion – bỗng cô ấy dừng lại. Dưới cầu, một chiếc thuyền máy cũ kỹ đang phì phạch chạy qua, tôi tưởng Mameha muốn dừng lại để tránh khói đen nơi chiếc tàu phun ra, nhưng sau một lát cô ấy quay qua nhìn tôi với vẻ mặt thật khó hiểu.
- Có chuyện gì, chị Mameha? – tôi hỏi.
- Tôi phải nói cho cô nghe chuyện này, vì cô chỉ nghe người ngoài nhà cô nói cho biết thôi – cô ấy đáp – Cô bạn Bí Ngô của cô vừa nhận được phần thưởng dành cho geisha tập sự. Người ta còn nghĩ chắc cô ấy sẽ được nhận lần thứ hai nữa.
Mameha muốn nói đến phần thưởng dành cho người tập sự đạt thành tích cao nhất trong tháng trước. Bày ra phần thưởng như thế cũng kỳ lạ thật, nhưng có lý do rất tốt. Việc khuyến khích các cô tập sự đạt thành tích cao như thế là giúp họ đi vào khuôn phép của người geisha sẽ được đánh gía cao nhất ở Gion – nghĩa là, những người kiếm ra lợi tức nhiều không những cho họ thôi mà còn cho mọi người nữa.
Nhiều lần, Mameha đã tiên đoán là Bí Ngô phải phấn đấu vài năm mới thành được nàng geisha chỉ có khách tạm bợ và xoàng xỉnh, không có khách giàu có. Đây là chuyện tương lai đáng buồn, và tôi vui mừng khi nghe Bí Ngô đã phấn đấu tốt hơn thế. Nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy xót xa trong dạ, Bí Ngô đã thành geisha tập sự giỏi nhất ở Gion rồi, trong khi đó tôi vẫn còn chìm trong bóng tối. Khi tôi tự hỏi không biết tương lai của tôi sẽ ra sao, cảnh vật chung quanh bỗng trở nên ủ dột buồn rầu.
Tôi đứng yên trên cầu, nghĩ đến chuyện thành công của Bí Ngô, và điều làm cho tôi ngạc nhiên nhất, là cô ta đã xoay sở để vượt lên trên cô gái duyên dáng có tên là Raiha, cô này đã đạt được phần thưởng vào những tháng trước đây. Mẹ của Raiha là một geisha nổi tiếng và bố cô ta là con một gia đình có tiếng tăm nhất nước Nhật, giàu nứt đố đổ vách. Mỗi khi Raiha đi qua trước mặt tôi, tôi cảm thấy mình như tôm như tép, còn cô ta như cá kình cá ngạc. Làm sao Bí Ngô loại bỏ cô ta ra được? Có lẽ Hatsumono đã thúc đẩy cô ta phấn đấu ngay từ ngày mới nhập môn, thúc đẩy quá sức đến nỗi gần đây cô ta gầy đi, mặt mày hốc hác. Nhưng cho dù Bí Ngô có cố gắng đến đâu đi nữa, làm sao cô ta nổi tiếng hơn Raiha được?
- Này, này, thôi đi – Mameha nói – đừng buồn rầu như thế. Đáng ra cô phải vui mới phải.
- Dạ phải, em ích kỷ quá – tôi đáp.
- Tôi không muốn nói như thế đâu. Hatsumono và Bí Ngô sẽ trả giá rất đắt cho phần thưởng học viên này. Trong vòng năm năm nữa, sẽ chẳng ai nhớ Bí Ngô là ai hết.
- Theo em, mọi người sẽ nhớ vì cô ta đã vượt qua Raiha.
- Không ai vượt qua Raiha hết. Có thể Bí Ngô đã kiếm được nhiều tiền trong tháng qua, nhưng Raiha vẫn là người học viên giỏi nhất ở đây. Đến đây, tôi sẽ giải thích cho cô nghe.
Mameha dẫn tôi vào phòng trà ở Pontocho và bảo tôi ngồi xuống.
Mameha nói:
- Ở Gion, người geisha nổi tiếng nhất thường làm sao để đảm bảo cô em út của mình kiếm được tiền nhiều hơn người khác – nếu cô ta dám liều để phạm đến danh tiếng của mình. Lý do khiến cho họ có thể mang tiếng là đã viết nhiều hóa đơn các Ohana, tức là lệ phí chơi hoa. Ngày xưa, cách đây khỏang 100 năm, mỗi lần nàng geisha đến một buổi tiệc để giúp vui, bà chủ phòng trà đốt một que nhang lâu một giờ - gọi là một Ohana, hay là “hoa”. Lệ phí cho geisha tính trên số bao nhiêu que nhang đã đốt cháy khi cô ta ra về.
Giá tiền một Ohana thường do văn phòng đăng ký hộ tịch Gion ấn định. Trong thời gian tôi làm tập sự, giá ấy là 3 yen, nghĩa là giá bằng 2 chai rượu. Nghe ra có vẻ nhiều, nhưng một geisha không nổi tiếng kiếm một giờ một Ohana, thì cuộc sống rất khó khăn. Có lẽ cô ta ngồi cả buổi tối bên lò than để đợi người hẹn, thậm chí khi cô ta đắt khách đi nữa, cô ta cũng không kiếm được mỗi đêm quá 10 yen, với số tiền kiếm ra như thế cô ta không làm sao có đủ để trả nợ. Trong khi tiền bạc đổ vào Gion như nước, cô ta chỉ như con sâu rúc rỉa bộ xương thú – so với Hatsumono và Mameha, hai người này dường như những con sư tử đánh chén khi mới hạ con thú, không những vì họ đêm nào cũng có người hẹn suốt đêm, mà họ còn tính tiền rất cao nữa. Trường hợp Hatsumono, cô ta tính một Ohana chỉ trong 15 phút chứ không phải một giờ, còn Mameha…Ồ, không có ai ở Gion giống cô ấy hết, cô ấy tính một Ohana chỉ trong năm phút thôi.
Dĩ nhiên không có cô geisha nào hưởng hết số tiền mình kiếm được, ngay cả Mameha cũng không. Phòng trà nơi cô ta kiếm ra tiền hưởng một phần, rồi một phần nhỏ hơn nộp cho hội geisha, và một phần trả cho người thợ may, và một phần cho hệ thống điều hành, kể cả lệ phí phải trả cho nhà kỹ nữ nào lo việc sổ sách cho cô ta và giới thiệu khách hò hẹn. Có lẽ cô ta chỉ còn giữ lại chừng hơn một nửa số tiền mình kiếm được. Thế nhưng nếu đem so với một geisha không nổii tiếng thì đây là cả một số tiền lớn, người geisha không nổi tiếng, sẽ bám sâu dần vào cái hố tối tăm của cuộc sống.
Còn sau đây là cách thức một geisha như Hatsumono có thể làm cho người em út có vẻ thành công hơn thực chất của cô ta.
Thoạt tiên, nàng geisha nổi tiếng ở Gion được đón tiếp nồng hậu ở khắp các buổi tiệc, và họ chỉ ghé lại các nơi trong vòng 5 phút mà thôi. Khách của cô ta vẫn sung sướng trả phí tổn, mặc dù cô ta chỉ chào hỏi rồi đi. Họ biết lần sau họ đến Gion, cô ta sẽ cùng ngồi với họ lâu hơn, làm cho họ được thích thú hơn. Trái lại, người tập sự không thể bỏ đi tùy tiện như thế. Vai trò của họ là thiết lập mối dây liên hệ. Cho đến khi họ trở thành geisha thành thạo vào năm 18 tuổi, họ không được đi từ tiệc này sang tiệc khác nhiều nơi. Nhưng họ phải ở lại lâu hơn một giờ, và chỉ điện thoại về cho nhà kỹ nữ của mình để hỏi người chị cả ở đâu, rồi cô ta đến phòng trà khác để được giới thiệu với khách mới khác. Trong khi người chị có thể ghé vào 20 nơi có tiệc trong một đêm, thì cô tập sự chỉ ghé được không quá 5 nơi. Nhưng Hatsumono không làm theo quy tắc này, cô ta đi đâu là dẫn Bí Ngô đi theo đấy.
Cho đến khi được 16 tuổi, người geisha tập sự tính nửa Ohana một giờ. Nếu Bí Ngô ở tại chỗ tiệc nào chỉ 5 phút thôi, bà chủ vẫn ghi vào hóa đơn số tiền giống như cô ta đã ở đấy một giờ tròn. Ngoài ra, không ai nghĩ đến chuyện Bí Ngô chỉ ở tại đó có 5 phút. Có lẽ các ông cho qua chuyện Hatsumono đem cô em út đến dự trong chốc lát một đêm, hay hai đêm là cùng. Nhưng sau một thời gian, chắc thế nào họ cũng thắc mắc tại sao cô ta quá bận đến nỗi không ở lại lâu được, và tại sao cô em út không ở lại như nhiệm vụ yêu cầu cô ta phải làm thế. Lợi tức của Bí Ngô có thể cao – có lẽ cao đến ba hay bốn Ohana trong một giờ, nhưng thế nào cô ta cũng phải trả giá về tai tiếng của mình, và Hatsumono cũng thế.
- Hành động của Hatsumono như thế thật quá liều lĩnh – Mameha kết luận – cô ta làm thế chỉ hại cho Bí Ngô thôi. Và chắc cô biết lý do tại sao cô ta làm thế, phải không?
- Em không biết, chị Mameha à.
- Cô ta muốn Bí Ngô có uy tín để bà Nitta nhận làm con nuôi. Nếu Bí Ngô được nhận làm con nuôi, tương lai của cô ta sẽ được đảm bảo, và tương lai của Hatsumono cũng vậy. Nói tóm lại, Hatsumono là chị của Bí Ngô, bà Nitta chắc không đuổi cô ta ra khỏi nhà. Cô có hiểu những điều tôi nói không? Nếu Bí Ngô được nhận làm con, cô sẽ không bao giờ thoát nợ Hatsumono, trừ phi chính cô là người bị tống cổ đi.
Tôi cảm thấy lạnh người như sóng biển bị mây che hết ánh mặt trời.
- Cho nên tôi mong sao cô thành người tập sự nổi tiếng sớm – Mameha nói tiếp – nhưng chắc có lẽ Hatsumono cản đường chúng ta rất nhiều.
- Dạ phải, cô ta sẽ làm thế!
- Mà thôi, không lo, ít ra cô đã biết cách làm cho đàn ông vui rồi. Cô may mắn đã gặp ông Nam tước, không biết Hatsumono đã biết chuyện này chưa, nhưng nói thật ra – nói đến đây bỗng cô ấy dừng lại.
- Thưa cô sao ạ?
- Ồ thôi, Sayuri, không sao. Tôi quả điên khi nói thật cho cô nghe.
Tôi rất buồn khi nghe cô ấy nói thế. Có lẽ Mameha đã nhận ra tâm trạng của tôi cho nên cô ấy nói tiếp:
- Cô sống cùng nhà với Hatsumono phải không? Bất cứ tôi nói cho cô nghe cái gì, cô ta cũng có thể biết.
- Thưa chị Mameha, nếu em có cái gì khiến cho chị nghi ngờ như thế, thì xin chị tha lỗi cho. Chị có thể tin rằng khi em về nhà, em kể hết các chuyện cho Hatsumono nghe sao?
- Tôi không lo chuyện cô sẽ làm như thế. Con chuột không bị mèo ăn thịt vì khí nó chạy qua chỗ mèo ngủ và đánh thức mèo dậy. Chắc cô biết Hatsumono có tài xoay sở ra sao rồi, Sayuri, cô phải tin tôi đi.
- Vâng thưa chị - tôi không còn biết phải đáp ra làm sao nữa.
- Tôi sẽ nói cho cô biết một chuyện – Mameha nói, nghiêng người tới một chút, tôi rất kinh ngạc khi thấy cô ấy làm thế - Tôi và cô sẽ đến một nơi hẹn trong hai tuần nữa tại một nơi mà Hatsumono không tìm ra được.
- Em xin hỏi ở đâu được không?
- Không được! Thậm chí tôi sẽ không nói cho cô biết khi nào nữa. Chỉ chuẩn bị tinh thần thôi. Khi đến lúc, cô sẽ biết những gì cô muốn.
Chiều ấy khi trở về nhà, tôi trốn lên lầu để xem niên lịch. Trong hai tuần sắp đến có nhiều ngày tốt để xuất hành. Một ngày đúng vào thứ tư sắp đến, ngày này hợp cho việc đi về phía Tây, có lẽ Mameha có kế hoạch đưa tôi đi khỏi thành phố. Ngày khác đúng vào thứ hai tiếp theo đó, ngày này đúng vào dịp Đại An – ngày tốt nhất trong tuần sáu ngày của đạo Phật. Cuối cùng, ngày chủ nhật kế tiếp, lịch có ghi một đọan rất lạ lùng “Sự quân bình giữa cái tốt và cái xấu sẽ mở cửa số phận”, câu này nghe hấp dẫn hơn cả.
Vào ngày thứ tư, tôi không nghe tin gì của Mameha hết. Mấy ngày sau, cô ấy gọi tôi đến nhà cô – vào ngày cuốn lịch của tôi nói là ngày xấu. Nhưng chỉ có bàn thảo về sự thay đổi trong lớp dạy nghi thức phục vụ trà ở trường. Sau đó, suốt cả một tuần trôi qua tôi không nhận được tin tức gì của cô ấy hết. Rồi vào trưa ngày chủ nhật, tôi nghe cửa nhà kỹ nữ mở ra, tôi để đàn xuống trên hành lang gỗ, nơi tôi đã tập đàn khỏang một giờ rồi và chạy ra cửa. Tôi tưởng sẽ gặp chị người hầu của Mameha, nhưng đấy là người ở tiệm thuốc Bắc mang thuốc đến cho bà Dì chữa bệnh thấp khớp. Sau khi người hầu lớn tuổi của chúng tôi lấy gói thuốc, tôi định trở lại với cây đàn Shamisen thì bỗng tôi chú ý thấy anh chàng giao thuốc có ý muốn nói chuyện với tôi. Anh ta nắm trên tay miếng giấy, nhưng có ý chỉ muốn để cho mình tôi thấy nó thôi. Chị hầu định kéo cửa đóng lại, nhưng anh ta nói với tôi:
- Thưa cô, tôi xin lỗi làm phiền cô, cô làm ơn ném miếng giấy này giúp tôi được không? – chị hầu thấy việc này có vẻ kỳ quặc, nhưng tôi đã lấy miếng giấy, giả vờ ném vào phòng gia nhân. Tờ giấy có ghi lời nhắn, không ký tên nhưng đúng nét chữ của Mameha “Xin phép bà Dì mà đi. Nói với bà tôi có việc nhờ cô làm giúp ở nhà tôi và đến gấp trong vòng không quá một giờ. Đừng để cho ai biết cô đi đâu”.
Tôi nghĩ Mameha cẩn thận như thế này là rất tế nhị, nhưng dù sao thì hiện bà Mẹ đang ăn cơm trưa với một người bạn, còn Hatsumono và Bí Ngô đã đi đến điểm hẹn buổi chiều rồi. Trong nhà chỉ còn bà Dì và gia nhân. Tôi lên phòng Dì, thấy Dì đang trải tấm vải dày lên nệm để ngủ trưa. Trong khi tôi nói, bà đứng run run trong chiếc áo ngủ. Khi nghe Mameha gọi tôi, bà không hỏi đến để làm gì. Bà chỉ vẫy tay cho phép tôi đi, rồi chui vào dưới chăn để ngủ.
Khi tôi đến nhà Mameha, cô ấy bận đi đến điểm hẹn buổi sáng chưa về, nhưng chị hầu đưa tôi vào phòng thay áo quần để làm hóa trang, rồi sau đó mang bộ kimono đã soạn sẵn cho tôi. Tôi đã quen cảnh mặc kimono của Mameha, nhưng đây là chuyện hy hữu, vì ít có người geisha nào cho mượn áo của mình như thế. Hai người bạn ở Gion có thể đổi áo cho nhau trong một vài đêm, nhưng hiếm khi một geisha có lòng tốt với em út như thế này. Quả vậy, Mameha rất mất công vì tôi, cô ấy không mặc những cái áo có tay dài như thế này, cô phải lấy áo từ nhà kho cho tôi. Tôi tự hỏi không biết cô ấy có nghĩ đến chuyện đòi trả lui hay không.
Chiếc kimono cô soạn ra cho tôi hôm ấy là chiếc áo đẹp nhất – áo bằng lụa màu vàng cam in hình thác nước màu bạc chảy từ đầu gối xuống đến mặt biển xanh ngắt. Cái thác tuôn ra từ mõm núi đá có màu nâu, dưới chân núi đá là cánh rừng thấp nhỏ được thêu bằng chỉ màu. Tôi không biết, nhưng chiếc áo này mọi người ở Gion đều biết, người ta nhìn chiếc áo, có lẽ họ sẽ nghĩ đến Mameha. Tôi nghĩ rằng khi cho phép tôi mặc áo này, chắc cô ấy muốn truyền cái tinh hoa của mình sang cho tôi.
Sau khi ông Itchoda buộc dải thắt lưng cho tôi – dải màu gạch và nâu đậm có điểm chỉ vàng – tôi sửa lại mặt hóa trang lần cuối và cài nữ trang lên tóc. Tôi nhét cái khăn tay của ông Chủ tịch – tôi thường mang theo mỗi khi rời nhà – vào dải thắt lưng, rồi đứng soi trước gương lớn. Tôi há hốc mồm kinh ngạc. Tôi quá kinh ngạc khi nghĩ đến chuyện Mameha có ý đồ biến tôi thành người quá đẹp như thế này, nhưng khi cô ấy về đến nhà, cô ấy còn làm tăng thêm vẻ đẹp của tôi lên nữa bằng cách cô thay cho mình chiếc áo kimono bình dị xinh xắn. Cái áo có màu khoai mì, phủ những đường sọc màu xám nhạt, còn dải thắt lưng có hình những viên kim cương màu đen giản dị trên nền màu xanh đậm. Cô ấy có nét đẹp kín đáo của viên ngọc trai như mọi khi, nhưng lúc chúng tôi ra đường, các phụ nữ cúi chào Mameha đều đưa mắt nhìn tôi.
Từ đền thần ở Gion, chúng tôi đi xe kéo theo hướng Bắc chừng nửa giờ, đến một khu vực của Kyoto mà tôi chưa hề biết. Trên đường đi, Mameha nói cho tôi biết chúng tôi đến dự buổi biểu diễn đô vật, chúng tôi xem như khách của ông Iwamura Ken, người sáng lập ra Công thấy sản xuất đồ điện Iwamura ở Osaka – công ty đã sản xuất lò sưởi điện làm chết bà ngoại. Cánh tay phải của ông Iwamura là ông Nobu Toshisazu, ông này làm quản lý cho công ty cũng đến dự. Nobu là người hâm mộ môn đô vật và đã tiếp tay giúp tổ chức buổi biểu diễn chiều hôm ấy.
- Tôi báo trước cho cô biết – cô ấy nói với tôi – cái ông Nobu ấy…trông đặc biệt lắm. Khi gặp ông ta, cô phải cư xử sao để gây ấn tượng với ông ta – nói xong, cô ấy nhìn tôi như muốn nói rằng nếu tôi không làm được như thế, cô ấy sẽ hết sức thất vọng.
Còn về việc Hatsumono, chúng tôi khỏi lo, vì vé vào xem cuộc biểu diễn đã bán hết mấy tuần trước rồi.
Cuối cùng chúng tôi xuống xe ở trong khuôn viên của trường đại học Kyoto. Mameha dẫn tôi đi theo con đường đất có hai hàng thông nhỏ hai bên. Những ngôi nhà xây theo kiểu Tây phương hai bên đường chúng tôi đi qua đều đóng cửa kín mít, cửa sổ lồng kính nhỏ vuông vức và khung cửa bằng gỗ sơn. Nhìn cảnh nhà cửa ở khu đại học, tôi mới nhận ra Gion là quê hương thân thiết của tôi. Chung quanh tôi có nhiều thanh niên da dẻ láng mướt, mái tóc chải rẽ, có người mặc quần áo dây treo cho khỏi tuột. Họ có vẻ lạ lùng ngạc nhiên khi thấy Mameha và tôi đi qua, thậm chí họ còn nói đùa với nhau nữa. Sau đó chúng tôi đi qua một cánh cổng sắt có một đám người già và một số phụ nữ, có cả vài cô geisha nữa. Kyoto có ít chỗ có thể dùng biểu diễn đô vật ở trong nhà được và ở đại học Kyoto dùng nhà biểu diễn cũ của trường để tổ chức. Nhà này bây giờ không còn nữa, nhưng lúc ấy, nó đứng chen lẫn trong đám nhà xây theo kiểu Tây phương trông giống như một ông già còm cõi mặc áo kimono đứng giữa đám thương gia tân tiến. Ngôi nhà giống cái hộp khổng lồ, mái nhà có vẻ không được vững chãi, nhưng tôi nghĩ nó như cái nắp đậy vừa cái bình trà méo mó. Những cánh cửa khổng lồ nằm một bên đã bị hư hỏng nhiều, gỗ cong queo bung ra khỏi khung sắt. Vẻ hư hỏng xấu xí của ngôi nhà này khiến tôi nhớ lại ngôi nhà ngà say của tôi, và bỗng nhiên tôi cảm thấy buồn.
Khi tôi bước lên bậc thềm đá để vào nhà, tôi trông thấy hai cô geisha đi qua sân rải sỏi, tôi cúi người chào họ. Họ gật đầu chào lại tôi, và một cô nói gì đấy với cô kia. Tôi thấy chuyện này lạ lùng quá, bèn nhìn kỹ họ hơn. Bỗng tim tôi đập nhanh, một cô là Korin, bạn của Hatsumono. Tôi cúi chào cô ta lần nữa vì tôi đã nhận ra cô ta, và tôi cố mỉm cười. Khi họ quay nhìn chỗ khác, tôi thì thào với Mameha:
- Chị Mameha, em vừa thấy người bạn của Hatsumono!
- Tôi không tin Hatsumono có bạn.
- Chị Korin đấy, chị ấy vừa mới ở đây, với một số các cô geisha khách nữa.
- Tôi biết Korin. Tại sao cô quá lo về cô ta? Cô ta có thể làm gì được?
Tôi không trả lời, nhưng nếu Mameha không lo thì tại sao tôi phải lo sợ làm gì.
Cái gây cho tôi ấn tượng mạnh nhất khi bước vào nhà biểu diễn là khoảng trống khổng lồ chạy lên tận mái nhà, dưới mái nhà, ánh sáng chiếu xuống qua các khung cửa sổ có màn che nằm cao trên đầu chúng tôi. Tiếng người ồn ào vang lên trong khoảng không gian khổng lồ ấy, với khói từ các lò nướng bánh bột gạo từ bên ngòai bay vào. Giữa nhà có một mô đất vuông vức nơi dùng làm chỗ cho các nhà đô vật tranh tài, trên mô đất có mái che theo kiểu mái đền thờ thần. một ông thầy tu đi quanh trên mô đất, tụng kinh cầu phú,c phất qua phất lại cái phương trượng co ‘trang hòang những dải giấy hình xoắn ốc.
Mameha dẫn tôi đến hàng chỗ ngồi ở phía trước, ở đấy chúng tôi tháo giày ra, đi vớ có xẻ ở đầu ngón chân trên một mép ván gỗ nhỏ. Những người tổ chức đã có mặt trong dãy ngồi này rồi, nhưng tôi không biết ai hết cho đến khi có một người đưa tay vẫy gọi Mameha, tôi hiểu ngay đó là ông Nobu. Tôi cũng hiểu lý do tại sao Mameha đã dặn dò trước với tôi về vẻ ngòai của ông ta. Ngay cả khi nhìn ông ta từ xa, tôi cũng thấy mặt ông như cây đèn cầy bị hơ chảy. Ông ta đã bị cháy phỏng mặt đâu đó từ lâu rồi, toàn bộ bề ngoài của ông ta trông rất thê thảm, tôi không thể tưởng tượng được sự đau đớn mà ông ta đã gánh chịu khi mới xảy ra tai nạn. Tôi đang lo lắng về chuyện gặp Korin, thì bây giờ lại lo thêm về chuyện sẽ gặp Nobu. Thế nào tôi cũng có những hành động thiếu bình tĩnh mất thôi. Khi đi sau Mameha, tôi chỉ chú ý đến một người đàn ông rất lịch sự ngồi bên cạnh ông Nobu trên chiếu rơm, ông ta mặc áo kimono có sọc. Khi tôi để mắt tới người đàn ông này, tôi bỗng thấy lòng tôi lặng đi một cách lạ lùng. Ông ta đang nói chuyện với người ngồi bên cạnh, nên tôi chỉ thấy phía sau đầu của ông ta mà thôi. Nhưng trông ta quá quen đến nỗi bỗng tôi không còn chú ý đến cái gì chung quanh nữa hết. Tôi nghĩ đến người tôi quen biết ở chỗ khác, không phải ở trong nhà biểu diễn này. Tôi đang loay hoay suy diễn thì bỗng trong óc tôi nảy ra hình ảnh của người đàn ông quay nhìn tôi trên đường làng của quê nhà.
Và tôi nhớ ra: đấy là ông Tanaka!
Ông ta đã thay đổi ra sao, tôi không thể miêu tả được. Tôi nhìn ông ta đưa tay vuốt mái tóc hoa râm và sững sờ kinh ngạc trước mấy ngón tay vuốt tóc một cách duyên dáng mềm mại. Tại sao tôi thấy cách vuốt tóc của ông ta có nét đặc biệt khiến tôi phải nhìn vào ông ta nhỉ? Có lẽ tôi bị chóa mắt khi nhìn ông ta và tôi cảm thấy hoang mang. Phải, trên đời này nếu người nào tôi ghét nhất, thì đó chính là ông Tanaka, tôi phải nhắc nhở mình nhớ lấy điều này. Tôi sẽ không đến quỳ bên ông ta và nói “Kìa ông Tanaka, tôi thật sự hân hạnh được gặp lại ông. Cái gì đã mang ông đến Kyoto thế này?” Nhưng thay vì làm thế, tôi sẽ tìm cách chứng tỏ cho ông ta thấy tôi nghĩ sao về ông ta, mặc dù điều ấy là một việc mà một geisha tập sự không được phép làm. Thật ra trong những năm vừa qua, tôi nghĩ đến ông Tanaka rất ít. Thế nhưng tôi thề với lòng mình là sẽ không đối xử tử tế với ông ta, nếu buộc lòng phải rót rượu sake cho ông ta, tôi sẽ rót tràn ra chân ông ta. Nếu buộc lòng phải cười với ông ta, tôi sẽ cười với nụ cười tôi thường thấy trên mặt Hatsumono, và rồi tôi sẽ nói “Ồ, ông Tanaka, mùi cá tanh rích.. Khi ngồi bên ông làm tôi nhớ nhà!” Chắc ông ta sẽ hết sức bàng hoàng sửng sốt! Hay có lẽ tôi sẽ nói như thế này “Kìa ông Tanaka, trông ông tuyệt vời quá!” Thế nhưng thật ra khi tôi nhìn kỹ vào ông ta, vì bây giờ tôi đã đến gần chỗ ông ta ngồi, quả trông ông tuyệt vời thật, tuyệt vời hơn bao giờ hết. Mameha vừa đến chỗ ông ta, cô ta quỳ xuống cúi người chào. Bỗng ông ta quay đầu nhìn lui, và đó là lần đầu tiên tôi nhìn vào khuôn mặt rộng, xương gò má sắc sảo…nhất là hai hàng mi, sít lại ở hai đuôi mắt, mượt mà thẳng thớm. Bỗng gió thổi và tôi là đám mây được gió cuốn đi.
Ông ta quen với tôi, đương nhiên, trên vài phương diện nào đó, ông ta còn quen hơn cả chính hình ảnh của tôi trong gương. Nhưng ông ta không phải là ông Tanaka, ông ta chính là ông Chủ tịch.

Chuong 17


Tôi chỉ mới gặp ông Chủ tịch trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, nhưng tôi đã để dành rất nhiều thời gian để mơ tưởng đến ông ta. Ông ta là bài ca tôi chỉ được nghe một lần, nhưng bài ca ấy cứ được hát lại mãi trong trí óc tôi. Thế nhưng những nốt nhạc đã thay đổi theo từng giai đoạn của thời gian – nghĩa là tôi đã nghĩ đến chuyện trán ông cao thêm, tóc hoa râm của ông thưa bớt. Khi tôi thấy ông, tôi thoáng sợ không biết ông có thật sự phải là ông Chủ tịch không, nhưng tôi lại cảm thấy yên ổn trong lòng ngay, tôi tin chắc tôi đã tìm ra được ông.
Trong khi Mameha chào hai người đàn ông, tôi đứng phía sau đợi đến phiên mình chào họ. Nếu như khi tôi cất tiếng chào mà giọng tôi nghe như tiếng giẻ lau sàn nhà thì sao nhỉ? Nobu, với những vết sẹo thê thảm, nhìn tôi đăm đăm, nhưng tôi không biết ông Chủ tịch có để ý đến tôi hay không, tôi quá rụt rè, không dám nhìn về phía ông ta. Khi Mameha ngồi vào chỗ, vuốt chiếc kimono trên đầu gối cho phẳng, tôi thấy ông Chủ tịch nhìn tôi với ánh mắt mà tôi nghĩ là có vẻ hiếu kỳ. Hai chân tôi cóng lại vì máu đã dồn hết lên mặt.
- ông Chủ tịch Iwamura, ông quản lý Nobu – Mameha giới thiệu – đây là em út của tôi, Sayuri.
Tôi nghĩ chắc anh có nghe nói đến tên tuổi nổi tiếng của Iwamura Ken, nhà sáng lập ra công ty chế tạo đồ điện Iwamura. Và có lẽ anh cũng có nghe tiếng của Nobu Toshikazu. Có lẽ trên nước Nhật không có ai hùn hạp làm ăn nổi tiếng hơn sự hùn hạp của họ. Họ như thân với rễ trong cùng một cây, hay là như đền thờ với cái cổng ở đàng trước. Ngay như tôi, một cô gái mới có 14 tuổi, mà cũng nghe nói đến họ. Nhưng tôi không ngờ chính Iwamura Ken là người đàn ông tôi đã gặp bên bờ suối Shirakawa. Tôi quỳ xuống cúi chào họ, nói những lời như mọi khi. Khi chào nói xong, tôi đến quỳ bên chỗ còn rộng ở giữa họ. Nobu nói chuyện với người đàn ông bên cạnh, trong khi ông Chủ tịch, ngồi phía bên kia của tôi, bàn tay ôm tách trà không để trên đầu gối, Mameha nói chuyện với ông ta, tôi bưng bình trà nhỏ lên, giữ tay áo cho khỏi vướng để rót trà. Tôi ngạc nhiên thấy ông Chủ tịch đưa mắt nhìn vào cánh tay của tôi. Dĩ nhiên tôi rất muốn biết ông ta nhìn thấy cánh tay tôi ra sao. Có lẽ vì ánh sáng trong nhà lờ mờ nên phía dưới cánh tay tôi loang loáng sáng như bề mặt của viên ngọc mịn màng, và có màu ngà đẹp đẽ. Không có nơi nào trên cơ thể tôi đẹp bằng nơi ấy. Tôi thấy ông Chủ tịch không hề nhấp nháy mắt, vì ông ta cứ nhìn đăm đăm vào cánh tay tôi, nên tôi không hạ tay xuống. Rồi bỗng Mameha im lặng. Tôi nghĩ chắc cô ấy ngừng nói chuyện vì ông Chủ tịch cứ chăm chú nhìn vào cánh tay tôi, thay vì nói chuyện với cô ấy. Rồi tôi bỗng nhận ra sự thật trước mắt.
Mới trước đó một lát, tôi cảm thấy mình duyên dáng, nhưng bây giờ tôi vội vàng xin lỗi và để bình trà xuống. Mameha cười và nói:
- Ông Chủ tịch, chắc ông thấy cô ấy là người cương quyết như thế nào rồi. Nếu trong bình còn giọt nước nào, chắc Sayuri đã rót cho ông rồi.
- Cái áo kimono cô em út của cô mặc đẹp quá, Mameha à – ông Chủ tịch nói – nếu tôi nhớ không lầm, thì cô đã mặc cái áo này trong thời gian tập sự phải không?
Nếu tôi còn nghi ngờ người đàn ông này có phải đúng là ông Chủ tịch không, thì bây giờ khi nghe giọng ông ta nói, giọng tử tế quen thuộc, tôi không còn nghi ngờ gì nữa.
- Tôi nghĩ có thể tôi có mặc – Mameha đáp – nhưng ông Chủ tịch đã thấy tôi mặc quá nhiều kimono khác nhau trong nhiều năm qua, cho nên tôi nghĩ ông không thể nhớ hết được.
- Phải, tôi không khác mọi người khác. Sắc đẹp gây cho tôi ấn tượng mạnh. Khi nói đến các nhà đô vật, tôi không thể nói người nào đẹp hơn người nào.
Mameha nghiêng người tới trước mặt ông Chủ tịch và nói nhỏ với tôi:
- Ý của ông Chủ tịch muốn nói là ông không thích môn đô vật.
- Thôi, Mameha – ông ta nói – nếu cô muốn tôi gặp chuyện rắc rối với Nobu thì…
- Thưa ông Chủ tịch, ông Nobu đã biết sở thích của ông từ lâu rồi.
- Nhưng cũng không nên nói ra. Sayuri này, có phải đây là lần đầu tiên cô xem đô vật không?
Tôi đã đợi cơ hội để nói với ông ta, nhưng trước khi tôi lên tiếng thì bỗng có tiếng rầm thật lớn vang lên làm ngôi nhà rung rinh, khiến cho tất cả chúng tôi đều giật mình. Mọi người im lặng, chúng tôi quay đầu nhìn, nhưng chẳng có gì ngoài cánh cửa lớn đóng lại. một lát sau, chúng tôi nghe tiếng bản lề cửa kêu răng rắc rồi thấy cánh cửa thứ hai từ từ mở ra, cánh cửa do hai võ sĩ đô vật đẩy mở ra. Nobu quay đầu khỏi tôi để nhìn tới chỗ ấy, tôi không thể nào không nhìn vào cái vết sẹo khủng khiếp do lửa đốt ở bên mặt và trên cổ ông ta, và vết sẹo trên lỗ tai làm tai ông biến dạng. Rồi tôi thấy cánh tay áo khoác của ông ta trống trơn. Nãy giờ tôi bận bịu nên không để ý đến cánh tay, cánh tay áo được xếp gấp lên, ghim vào vai bằng một cây ghim thật dài.
Nếu anh không biết, tôi xin kể chuyện Nobu bị thương cho anh nghe. Khi ông ta làm trung úy trong Hải quân Nhật, ông ta bị thương trong một vụ đánh bom ngoài Seoul vào năm 1910, khoảng thời gian Triều tiên bị sáp nhập vào Nhật. Khi tôi gặp ông ta, tôi không biết gì về hành động anh hùng của ông hết – mặc dù câu chuyện này đã được cả nước Nhật biết đến. Nếu ông ta không hợp tác với ông Chủ tịch để rồi sau đó trở thành quản lý của công ti sản xuất đồ điện Iwamura, thì có lẽ chuyện ông là anh hùng trong chiến tranh đã bị rơi vào quên lãng. Nhưng vì ông hợp tác với Iwamura, cho nên những vết thương khủng khiếp của ông đã làm cho câu chuyện thành công của ông được mọi người chú ý hơn, và hai người thường được nhắc nhở tới luôn.
Tôi không biết nhiều về lịch sử - vì nhà trường tôi học thường chỉ dạy cho chúng tôi nghệ thuật – nhưng tôi biết chính phủ Nhật nắm quyền kiểm soát hết Triều tiên vào lúc chấm dứt cuộc chiến tranh Nga – Nhật, và mấy năm sau chính phủ Nhật quyết định sáp nhập nước Triều tiên vào đế chế Nhật đang lớn mạnh. Tôi biết người dân Triều tiên không thích chuyện này. Nobu sang đó như là một lực lượng nhỏ giữ quyền kiểm soát. Một buổi chiều, ông ta đi theo vị sĩ quan chỉ huy đi thăm một ngôi làng gần Seoul. Khi trở về đến chỗ buộc ngựa, đơn vị tuần tra bị tấn công. Khi họ nghe tiếng tạc đạn nổ khủng khiếp, vị chỉ huy cố leo xuống một giao thông hào, nhưng ông ta già rồi và chậm chạp như một con ốc sên bò trên đá. Nobu chạy đến để giúp ông, nhưng vì ông sĩ quan chỉ huy qúa chậm chạp, nên quả tạc đạn bay đến nổ trên đầu ông. Quả tạc đạn nổ giết chết ông sĩ quan chỉ huy và làm cho Nobu bị thương nặng. Khi ở bệnh viện ra, Nobu mất cánh tay trái ở trên khuỷu tay.
Lần đầu tiên tôi thấy ống tay áo ghim lên, tôi hoảng hốt quay mặt đi chỗ khác. Trước đó tôi chưa bao giờ thấy người nào mất tay mất chân – mặc dù khi còn nhỏ đã thấy người phụ tá của ông Tanaka mất đầu ngón tay. Trong trường hợp của ông Nobu, nhiều người cho rằng một cánh tay chưa ghê lắm, mà chính cá vết thương ở da mới ghê gớm. Thật khó mà miêu tả hết vẻ ghê tởm trên da mặt của ông, và có lẽ quá độc ác khi muốn miêu tả ra. Tôi chỉ xin lặp lại một câu của geisha miêu tả về ông ta như thế này mà thôi “mỗi lần tôi nhìn vào mặt ông ta, tôi cứ nghĩ đến củ khoai lang nướng phồng trong lò lửa”.
Khi những cánh cửa khổng lồ đã đóng lại, tôi quay qua phía ông Chủ tịch để trả lời câu hỏi của ông. Vì là tập sự, nếu tôi muốn, tôi được phép ngồi yên lặng như một giỏ hoa, nhưng tôi quyết không để cho cơ hội này trôi qua. Cho dù tôi chỉ gây cho ông ta chút ít ấn tượng thôi, như bàn chân của em bé để lên nền đất, thì ít ra đây cũng là bước khởi đầu của tôi.
- Ông Chủ tịch hỏi có phải đây là lần đầu tiên em xem đô vật không – tôi nói – đúng thế đấy, và nếu được ông Chủ tịch giảng giải cho biết đôi điều về môn võ này thì em sẽ hết sức cám ơn ông.
- Nếu cô em muốn biết môn võ này đấu như thế nào – ông Nobu nói – cô nên nói với tôi thì tốt hơn. Tên cô em là gì, cô tập sự? Hồi nãy trong phòng ồn quá tôi nghe không rõ.
Tôi quay khỏi ông Chủ tịch với vẻ rất khó khăn như đứa bé đang đói bụng quay khỏi đĩa thức ăn.
- Tôi tên là Sayuri, thưa ngài – tôi đáp.
- Cô là em út của Mameha, tại sao cô không là “Mame” này nọ? – Nobu nói tiếp – không phải lấy tên kiểu ấy là cái tục lệ điên khùng của các cô hay sao?
- Dạ phải, thưa ngài. Nhưng tất cả các tên có chữ “Mame” theo lời ông thầy bói đều không được tốt cho tôi.
- Thầy bói! – Nobu nói với vẻ khinh bỉ - có phải ông ta là người đã chọn tên cho cô không?
- Tôi là người chọn tên ấy – Mameha đáp – thầy bói không chọn tên mà họ chỉ cho biết tên ấy có thích hợp hay không thôi.
- Mameha – Nobu nói tiếp – một ngày nào đó cô sẽ trưởng thành và không nghe những chuyện điên khùng như thế nữa.
- Thôi, thôi, Nobu – ông Chủ tịch nói – người nào nghe anh nói chắc đều nghĩ rằng anh là người tân tiến nhất nước Nhật, nhưng tôi chưa thấy ai tin vào số mệnh như anh cả.
- Mỗi người đều có số phận của mình. Nhưng có ai cần đến thầy bói để tìm ra số phận của mình không? Có phải tôi phải đến người đầu bếp để hói xem tôi có đói hay không à? – Nobu nói – nhưng dầu sao, Sayuri là một cái tên đẹp – mặc dù tên đẹp và người đẹp thường không đi đôi với nhau.
Tôi thấy phân vân không biết câu nói vừa rồi của ông ta có phải hàm ý như thế này không – “Mameha, cô đã chọn cô em út xấu quá!” – hay là có nghĩa gì đại loại như thế. Nhưng may thay ông ta nói tiếp:
- Trường hợp này tên và người đều đi đôi với nhau. Tôi nghĩ cô ta còn đẹp hơn cả cô nữa, cô Mameha à.
- Ông Nobu! Đàn bà không ai muốn nghe mình không phải là người đẹp nhất.
- Nhất là cô hả? Này, cô phải tập cho quen đi thì vừa. Cô ấy có đôi mắt rất đẹp. Sayuri, cô quay mặt cho tôi nhìn cặp mắt cô lần nữa đi.
Tôi không thể nhìn xuống chiếu được, vì Nobu muốn nhìn mắt tôi. Tôi cũng không thể nhìn thẳng vào mặt ông ta liền, vì như thế có vẻ tự phụ quá. Cho nên tôi phải từ từ nhìn quanh như thể đang tìm cái gì, rồi đưa mắt nhìn vào chỗ dưới cằm ông ta. Nếu tôi có thể bắt cặp mắt đừng thấy, chắc tôi sẽ làm liền, vì nét mặt của ông Nobu như bức tượng nắn bằng đất sét tồi. Chắc anh nhớ khi ấy tôi chưa biết chuyện đã gây cho khuôn mặt ông ta trở thành xấu xí như thế. Khi tôi tự hỏi chuyện gì đã xảy ra cho ông ta, tôi cảm thấy lòng nặng nề kinh khủng.
- Cặp mắt cô lung linh tỏa sáng một cách kỳ diệu – ông ta nói.
Ngay lúc ấy, cánh cửa nhỏ thông với hành lang bật mở, một người đàn ông đi vào, ông ta mặc áo kimono rất đặc biệt và đội cái mũ vải cao màu đen, trông như thể ông ta từ trong bức tranh của Hoàng triều bước ra. Ông ta đi vào con đường đi ở giữa, dẫn đầu đoàn đô vật khổng lồ, họ phải khom người xuống để đi qua ngưỡng cửa.
- Này cô em, cô biết gì về môn đô vật không? – Nobu hỏi tôi.
- Thưa ngài, chỉ biết võ sĩ đô vật khổng lồ như cá voi thôi – tôi đáp – có một người làm việc ở phòng đăng ký hộ tịch ở Gion trước đây đã từng là võ sĩ đô vật.
- Chắc cô muốn nói đến Awajiumi. Anh ta ngồi kia kìa – Nobu đưa tay chỉ về một bậc ngồi khác, nơi có Awajiumi đang ngồi, ông ta đang cười về chuyện gì đấy với Korin đang ngồi bên cạnh. Chắc cô ta nhìn thấy tôi, vì cô ta mỉm cười rồi nghiêng người sang nói gì đó với Awajiumi, ông này bèn nhìn sang phía chúng tôi.
- Anh ta không phải là đô vật giỏi – Nobu nói – anh thích dùng vai để húc đối thủ. Anh chàng ngốc, không bao giờ thắng ai mà lại bị gãy xương đòn gánh nhiều lần.
Khi ấy các nhà đô vật đã vào hết trong nhà, họ đứng quanh dưới mô đất. Người ta xướng tên từng người một, và họ leo lên bệ, đứng xếp hàng thành một vòng tròn nhìn ra khán giả. Sau đó, khi họ đi ra bên ngòai, để cho những võ sĩ đô vật phía bên kia đi vào. Nobu nói với tôi:
- Sợi dây có hình tròn trên mặt đất là ranh giới võ đài. Người đô vật nào bị đẩy ra ngòai trước, hay là chạm người xuống đất trước, chạm bất cứ cái gì ngòai hai bàn chân là thua. Nghe thì dễ, nhưng làm sao cô đẩy nổi một con người khổng lồ như thế qua sợi dây?
- Chắc tôi phải lẻn ra sau lưng ông ta, rồi lấy mõ đánh lên cho ông ta sợ mà phải chạy ra ngài.
- Hãy nói năng cho nghiêm túc – Nobu nói.
Tôi không nghĩ đó là cách ăn nói khôn ngoan, nhưng tôi nghĩ đây là nỗ lực đầu tiên của tôi để nói đùa với đàn ông cho vui. Tôi cảm thấy lúng túng, không biết nói gì nữa. Bỗng ông Chủ tịch cúi người qua phía tôi.
- Ông Nobu không đùa bỡn về chuyện đô vật – ông bình tĩnh nói.
- Tôi không đùa bỡn ba loại chuyện quan trọng trong đời sống – Nobu nói – đó là đô vật, kinh doanh và chiến tranh.
- Trời đất, theo tôi thì đây cũng là loại nói đùa thôi – Mameha nói – ông không thấy ông đã mâu thuẫn với mình sao?
- Nếu cô đã thấy cảnh một trận chiến – Nobu nói với tôi – hay cảnh đấu tranh tôi một buổi họp về kinh doanh, cô có biết cái gì sẽ xảy ra không?
Tôi không biết ông ta muốn gì, nhưng cứ theo giọng ông ta nói, thì có lẽ ông ta muốn tôi nói không.
- Ồ, tôi không biết gì hết – tôi trả lời.
- Đúng thế. Và cô cũng không biết cái gì xảy ra trong đô vật nữa. Cho nên, cô có thể cười câu nói đùa của Mameha hay là lắng nghe tôi nói để hiểu rõ ý nghĩa của vấn đề.
- Ông ấy đã cố dạy tôi nhiều năm rồi – ông Chủ tịch nói với tôi – nhưng tôi là người học trò rất dốt.
- Ông Chủ tịch là người rất thông minh – Nobu đáp – ông ấy là học sinh dốt về đô vật vì ông không lưu tâm đến môn này thôi. Chiều nay ông ấy không muốn đến đây đâu, nhưng vì ông rộng lượng chấp nhận lời đề nghị của tôi để công ty Iwamura bảo trợ cho buổi biểu diễn này.
Liền sau đó hai đội làm xong các nghi thức lên võ đài. Hai nghi thức tiếp theo rất long trọng, đó là giới thiệu người Yokozuna của mỗi đội. Người yokozuna là người có cấp bậc cao nhất trong đô vật, Nobu giảng cho tôi nghe rằng cấp bậc này “y như vị trí của Mameha ở Gion vậy”. Đương nhiên tôi phải tin ông ta, nhưng nếu Mameha chỉ ở trong buổi tiệc nửa chừng rồi bỏ về như các ông yokozuna này lên võ đài trong chốc lát, thì thế nào cô ấy cũng không được mời lại lần nữa. người yokozuna thứ hai có thân hình thấp lùn và có khuôn mặt rất đáng chú ý – không phải bự thịt mà rắn rỏi như đá, hàm xai bạnh ra khiến tôi nghĩ đến mũi thuyền đánh cá vuông vức. Khán giả vỗ tay hoan hô đinh tai nhức óc. Tên ông ta là Miyagiyama, và nếu anh biết về môn đô vật, chắc anh hiểu lý do tại sao người ta hoan hô nhiệt liệt đến thế.
- Chưa bao giờ tôi thấy một người đô vật nào vĩ đại như thế - Nobu nói với tôi.
Trước khi các trận đấu bắt đầu, người giới thiệu chương trình tuyên bố danh sách phần thưởng dành cho người thắng. Nobu Toshikaza, quản lý công ty điện Iwamura, tặng thưởng một số tiền khá lớn. Khi nghe tuyên bố tin này, ông ta có vẻ bực mình, nói:
- Đồ điên! Tiền này đâu phải của tôi, mà của công ty điện Iwamura, ông Chủ tịch, tôi xin lỗi nhé. Tôi xin gọi người đến bảo xướng ngôn viên đính chính lại.
- Khỏi đính chính, Nobu. Cứ xem như tôi nợ anh rất nhiều, việc này quá nhỏ.
- Ông Chủ tịch quá rộng lượng – Nobu nói – tôi rất cám ơn – nói xong ông ta đưa tách uống sake cho ông Chủ tịch rót đầy, và hai người cụng tách.
Khi cặp vô địch đầu tiên lên võ đài, tôi cứ tưởng trận đấu sẽ bắt đầu ngay. Nhưng không, họ dành 5 phút hay nhiều hơn nữa để rảy muối trên nền võ đài, rồi ngồi xổm xuống, nghiêng người qua một bên rồi đưa một chân lên cao và dậm xuống đất. Chốc chốc họ thu mình lại như sẵn sàng tấn công, quắc mắt nhìn nhau, nhưng ngay khi tôi tưởng họ tấn công thì bỗng một người đứng lên, đi bốc một nắm muối khác. Cuối cùng khi tôi nghĩ chưa đến họ tấn công thì họ xáp vào nhau. Họ nhào vào nhau, nắm dải thắt lưng của nhau, nhưng chỉ trong nháy mắt, một người đẩy người kia mất thăng bằng nhào xuống, và thế là trận đấu kết thúc. Khán giả vỗ tay hoan hô nhưng Nobu lắc đầu chê trách.
Trong những trận tiếp theo, tôi cảm thấy một tai tôi dính vào óc, một tai dính vào tim, vì một tai tôi nghe ông Nobu nói, mà những điều ông nói rất hay, nhưng tai kia tôi lại nghe ông Chủ tịch nói chuyện với Mameha khiến tôi bị chia trí.
Hơn một giờ trôi qua như thế, rồi bỗng tôi chợt thấy có cái gì màu tươi sáng ở bên chỗ ngồi của Awajumi động đậy. Vật ấy là một đóa hoa lụa màu vàng cam nhúc nhích trên mái tóc người phụ nữ khi chị ta quỳ gối ngồi vào chỗ ngồi. Thoạt tiên tôi nghĩ đấy là Korin, tôi tưởng cô ta đã thay kimono. Nhưng nhìn kỹ, tôi thấy không phải Korin mà là Hatsumono.
Gặp cô ta ở đây quả là một điều tôi không ngờ đến. Tôi cảm thấy thót người lên như dẫm phải dây điện. Dĩ nhiên việc cô ta tìm cách làm nhục tôi chỉ là vấn đề thời gian, thậm chí ở đây, trong ngôi nhà khổng lồ này, giữa hàng trăm người. Tôi cóc cần cô ta chọc quê tôi trước mặt đám đông, nếu xảy ra việc ấy, nhưng tôi không chịu đựng được cảnh khi thấy mình như đồ hèn trước mặt ông Chủ tịch. Cuống họng tôi nóng ran như lửa đốt, thậm chí tôi không thể giả vờ nghe ông Nobu nói về cặp đô vật khác đang leo lên võ đài. Khi tôi nhìn qua Mameha, cô ấy nháy mắt qua phía Hatsumono rồi nói:
- Thưa ông Chủ tịch, xin mạn phép ông, tôi xin lỗi ra ngoài một lát. Và tôi nghĩ Sayuri cũng muốn ra ngoài một lát.
Cô ấy đợi cho đến khi Nobu nói xuống chuyện rồi tôi theo cô ấy ra ngoài.
- Ôi chị Mameha, mụ ta như quỷ sứ! – tôi nói.
- Korin rời khỏi đây hơn một giờ rồi. Chắc cô ta đi tìm Hatsumono để báo cho cô ta biết mà đến đây. Cô em phải hãnh diện về việc này mới đúng, vì Hatsumono đã cất công đến đây để quấy phá cô.
- Em không chịu được cảnh cô ta sẽ làm nhục em trước mắt ..ờ, trước mắt những người này.
- Nhưng nếu cô ta làm gì để cho cô ta thấy hả dạ thì chắc cô ta sẽ để cho cô yên, phải không?
- Chị Mameha, chị vui lòng …đừng để em lúng túng.
Chúng tôi đi qua sân, đến gần nhà vệ sinh, nhưng thay vì chúng tôi bước lên tầng cấp vào phòng vệ sinh, thì Mameha dẫn tôi đến một con đường nhỏ cách xa đấy một đoạn để không ai nghe được, và cô ta bảo:
- Ông Nobu và ông Chủ tịch đã bảo trợ cho tôi nhiều năm nay. Chỉ có trời mới biết ông Nobu gay gắt với những người ông ta không ưa ra sao, nhưng ông ta rất trung thành với bạn như người hầu cận của lãnh chúa trung thành với chủ, và cô sẽ không bao giờ gặp được người đàn ông nào đáng tin như ông ta đâu. Cô có biết Hatsumono hiểu rõ những chuyện đáng quý này không? Khi cô ta nhìn Nobu, cô ta chỉ thấy ông ta là “ông thằn lằn” thôi. Cô ta gọi ông ta thế đấy, và sẽ nói như thế này này “chị Mameha, đêm qua tôi thấy chị với ông thằn lằn đấy! Ôi trời đất, trông chị bết quá. Tôi nghĩ chị mất mặt vì ông ta đấy” – đại loại như thế. Bây giờ tôi không cần lưu tâm đến việc cô nghĩ sao về ông Nobu. Với thời gian, cô sẽ thấy ông ta là người tốt như thế nào. Nhưng nếu Hatsumono nghĩ rằng cô quá thích ông Nobu, thế nào cô ta cũng để cho cô yên thân.
Tôi không biết phải trả lời ra sao khi nghe cô ấy nói như thế. Thậm chí tôi cũng chưa biết tính sao về những việc cô ấy yêu cầu tôi phải làm.
- Ông Nobu đã nói chuyện với cô về đô vật cả buổi chiều – cô ấy nói tiếp – mọi người đều nghĩ cô mến ông ta. Bây giờ cô hãy tiếp tục làm thế để cho Hatsumono hả dạ. Hãy làm cho cô ta nghĩ rằng cô mê ông ta hơn bất cứ ai hết. Cô ta sẽ nghĩ đây là chuyện khôi hài đáng cười. Có lẽ cô ta còn muốn cô ở lại Gion để làm trò cười cho cô ta nữa.
- Nhưng thưa chị Mameha, làm sao em làm cho Hatsumono nghĩ em đã mê mẩn ông ấy được?
- Nếu cô không tìm ra cách để làm được một việc như thế thì tôi đã không huấn luyện cô đúng đắn rồi – cô ấy trả lời.
Khi chúng tôi trở lại chỗ ngồi, Nobu đang nói chuyện với người ngồi bên cạnh. Tôi không thể cắt ngang câu chuyện của họ, nên tôi giả vờ chăm chú xem các võ sĩ đô vật trên võ đài đang chuẩn bị giao đấu. Khán giả trở nên cuồng nhiệt hơn, không phải chỉ có Nobu nói chuyện thôi. Tôi rất muốn quay qua hỏi ông Chủ tịch có nhớ chuyện cách đây mấy năm ông đã tỏ ra có lòng tốt với một cô bé…nhưng dĩ nhiên tôi không thể nói chuyện như thế. Ngoài ra nếu Hatsumono thấy tôi chú ý đến ông ta, thì tình hình sẽ trở nên rất tai hại.
Một lát sau Nobu quay qua tôi và nói:
- Những trận đấu này quá tẻ nhạt. Đợi đến khi Mijagiyama thi đấu, chúng ta mới thấy tài năng thật sự.
Tôi thấy đây là cơ hội để tôi tỏ ra mê mẩn ông ta. Tôi đáp:
- Nhưng các trận em vừa xem rất ấn tượng, thưa ông. Và những điều ông nói cho em biết thật quá hấp dẫn, em không thể tưởng tượng ra được chuyện gì có thể hay hơn thế.
- Đừng ngớ ngẩn – Nobu nói – không có tay đô vật nào trong số vừa rồi đáng sánh với Miyagiyama đâu.
Tôi nhìn qua vai Nobu, thấy Hatsumono ngồi ở tầng đằng xa. Cô ta đang nói chuyện với Awajiumi và làm ra vẻ không nhìn về phía tôi.
- Em muốn hỏi ông một câu ngốc nghếch này – tôi nói – tại sao một người đô vật nhỏ con như Miyagiyama lại có thể trở thành một nhà đô vật vĩ đại nhất?
Nếu khi ấy anh thấy mặt tôi, thế nào anh cũng nghĩ không có vấn đề gì làm cho tôi quan tấm đến hơn vấn đề về đô vật này. Tôi cảm thấy mình kỳ cục, giả vờ chăm chú vào chuyện vặt vãnh, nhưng những người thấy chúng tôi khi ấy, chắc ai cũng nghĩ rằng chúng tôi đang tâm sự mật thiết với nhau. Tôi sung sướng mà nói rằng chính vào lúc ấy, tôi thấy Hatsumono đang quay đầu về phía tôi.
- Miyagiyama trông nhỏ con vì những người khác quá mập mà thôi – Nobu nói – những ông ta rất tự phụ về tầm vóc của mình. Chiều cao và trọng lượng của ông ta được đăng trên báo chính xác cách đây mấy năm, thế nhưng ông ta thấy nhục. Nên để cho người bạn lấy tấm ván đánh trên đầu, rồi ngốn một bụng khoai lang với nước, và đi đến tòa báo để chứng minh cho họ thấy họ sai lầm.
Tôi phải cười khi nghe Nobu nói đến bất cứ cái gì – nghĩa là tôi phải làm cho Hatsumono hài lòng. Nhưng thật ra, nghĩ đến cảnh Miyagiyama nhắm mắt đợi tấm ván phang xuống đầu, làm sao mà không cười được! Tôi cứ mường tượng hình ảnh ấy trong óc và cười ngặt nghẽo khiến cho Nobu cuối cùng cũng cười theo. Trước mắt Hatsumono, chúng tôi có vẻ như đôi bạn thân thiết nhất đời, vì tôi thấy cô ta vỗ tay có vẻ khoan khoái.
Lát sau, tôi bèn nghĩ ra một ý, giả vờ xem Nobu là ông Chủ tịch, mỗi lần ông ta nói, tôi không để ý đến giọng cáu kỉnh gay gắt của ông ta, mà cố tưởng tượng ra đấy là giọng nói dịu dàng của ông Chủ tịch. Dần dần tôi có thể nhìn vào môi ông ta, cố loại ra khỏi óc hình ảnh đôi môi nhợt nhạt trên khuôn mặt đầy sẹo, hình dung ra đấy là môi của ông Chủ tịch, và mỗi câu nói của ông ta là lời của ông Chủ tịch nói với tôi. Đôi lúc tôi có cảm giác như mình không phải đang ngồi trong nhà biểu diễn mà đang ở trong một căn phòng yên tĩnh, quỳ một bên ông Chủ tịch. Khi ấy tôi cảm thấy mình hạnh phúc một cách lạ lùng. Như quả bóng tung lên trên không, đứng yên bất động một lát rồi mới rơi xuống. Tôi cảm thấy mình treo lơ lửng trên không trong trạng thái yên ổn phi thời gian. Khi tôi nhìn quanh phòng, tôi chỉ thấy sắc đẹp của những thanh gỗ khổng lồ và ngửi mùi thơm của bánh bột gạo. Tôi cứ ngỡ tình trạng sung sướng này không bao giờ chấm dứt, nhưng bỗng nhiên tôi lên tiếng nói cái gì đấy mà tôi không nhớ được. Và Nobu đáp:
- Cô nói gì thế? Chỉ có đồ điên mới nghĩ đến chuyện ngu dốt như thế.
Nụ cười tắt trên môi tôi ngay lập tức như cái vật buộc đầu sợi dây rơi xuống ngay khi dây bị cắt. Nobu nhìn đăm đăm vào mắt tôi. Dĩ nhiên Hatsumono ngồi xa chúng tôi, nhưng tôi vẫn còn cảm thấy cô ta đang nhìn chúng tôi. Rồi tôi nghĩ rằng nếu một nàng geisha hay một cô tập sự đang rơm rớm nước mắt trước một người đàn ông, thử hỏi có ai mà không động lòng? Có lẽ tôi đã xin lỗi khi nghe ông ta trả lời gay gắt, nhưng tôi đã cố tưởng tượng ra chính ông Chủ tịch đã nói với tôi, nên môi tôi bỗng run run, tôi cúi đầu làm ra vẻ mình bé bỏng.
Tôi ngạc nhiên khi nghe Nobu hỏi:
- Tôi đã làm cho cô đau khổ, phải không?
Giả vờ hít mũi thút thít đôi với tôi chẳng khó khăn gì, Nobu cứ nhìn tôi một lát nữa rồi mới nói:
- Cô thật có duyên!
Tôi nghĩ chắc ông ta định nói thêm gì nữa, nhưng ngay lúc ấy Miygiyama bước vào nhà thi đấu và đám đông la hét hoan hô rầm rĩ.
Miyagiyama và nhà đô vật kia, tên là Saho, quần thảo nhau trên võ đài một hồi lâu, họ bốc muối ném lên nền đất, hay là dậm chân thình thịch như các võ sĩ trước đã làm. Mỗi lần họ thu mình lại nhìn nhau, tôi cứ tưởng hai tảng đá lớn trơn láng sắp sửa nhào vào nhau. Miyagiyama hơi chồm tới trước một chút so với Saiho, ông này cao và nặng hơn nhiều. Tôi nghĩ khi họ xông vào nhau, thế nào ông Miyagiyama tội nghiệp kia cũng bị té ngửa ra sau, tôi không tin có ai có thể đẩy Saiho ra ngoài sợi dây kia được; họ đứng vào thế tấn công. Bỗng Nobu nói nhỏ vào tai tôi:
- Thế Hataki Komi! Ông ta sắp dùng thế Hataki Komi. Nhìn vào mắt ông ta tôi biết!
Tôi làm theo lời Nobu nói, nhưng tôi chỉ thấy Miyagiyama không nhìn vào Saiho. Tôi nghĩ chắc Saiho không thích bị đối thủ coi thường như thế này, vì ông ta quắc mắt nhìn đối thủ dữ tợn như một con thú. Thịt hai bên má quá dầy và bự nên cái đầu ông ta trông như trái núi nhỏ, và vì tức giận nên mặt ông ta đỏ rần. Nhưng Miyagiyama vần ra vẻ như không thèm chú ý đến ông ta.
- không còn lâu nữa đâu! – Nobu nói nhỏ với tôi.
Và quả vậy, lần thu mình tiếp theo, Saiho tấn công.
Nhìn Miyagiyama chồm người tới trước như hồi nãy, ai cũng nghĩ ông ta sẽ phóng mình vào đối thủ, nhưng không, ông ta dùng sức mạnh của Saiho để gượng người đứng tấn. Rồi nhanh như chớp, ông ta xoay người như cánh cửa xoay, tay ông ta chụp vào gáy của Saiho. Trong khi ấy thân hình nặng nề của Saho nhào tới trước như người ngã nhào từ trên cầu thang xuống, Miyagiyama đem hết sức đẩy mạnh đối thủ tới trước, Saiho văng qua khỏi sợi dây và nhào xuống. Tôi kinh ngạc thấy hòn núi người bay qua khỏi mép ụ võ đài, văng vào hàng ghế đầu của khán giả. Mọi người nhanh chân chạy tránh chỗ, nhưng khi xong xuôi, một người đàn ông đứng lên, thở hổn hển vì vai ông ta bị Saiho táng vào.
Cuộc chạm trán chỉ kéo dài một giây, chắc Saiho cảm thấy nhục nhã thất bại, vì ông chỉ cúi đầu chào chiếu lệ như những người thua cuộc trước đó, rồi đi ra khỏi đấu trường trong khi khán giả vẫn còn hò hét hoan hô.
- Đấy – Nobu nói với tôi – thế ấy gọi là Hataki komi.
- Thật kỳ lạ - Mameha nói, vẻ thẫn thờ. Thậm chí cô ấy không nói ra hết ý nghĩ của mình nữa.
- Cái gì mà thật kỳ lạ? – ông Chủ tịch hỏi cô ấy.
- Điều Miyagiyama làm đấy. Chưa bao giờ tôi thấy một việc như thế này.
- Phải. Dân đô vật thường làm được như thế.
- Ờ, việc này khiến cho tôi nghĩ…- Mameha nói.
Sau đó, khi trên đường về lại Gion, Mameha quay qua nói với tôi rất hăng say trên xe kéo:
- Anh chàng đô vật ấy đã gợi cho tôi một ý rất kỳ diệu. Hatsumono không biết được ý này đâu. Cô ta đã bị hỏng cẳng rồi. Và nếu cô ta có tìm ra được thì cũng đã quá trễ rồi.
- Ồ chị Mameha, chị đã có kế hoạch rồi phải không? – tôi hỏi – xin chị vui lòng cho em biết đi.
- Cô tin bây giờ tôi nói cho cô biết à? Ngay cả người hầu thân tín của tôi, tôi cũng không nói. Cô chỉ có việc hãy làm cho Nobu chú ý đến cô là được. Mọi việc đều phụ thuộc vào ông ta, và vào một ông khác nữa.
- Ông khác nào thế?
- Một người cô chưa gặp. Bây giờ ta đừng nói đến chuyện này nữa! Tôi nói thế có lẽ hơi nhiều rồi, hôm nay cô gặp ông Nobu thật quá tuyệt vời. Ông ta có thể là người cứu tinh của cô đấy.
Tôi phải thú nhận khi nghe cô ấy nói như thế, tôi cảm thấy đau nhói trong lòng. Nếu tôi có được một vị cứu tinh, tôi muốn người ấy là ông Chủ tịch, chứ không ai khác.
Thế là tôi biết được nguồn gốc ông Chủ tịch, cho nên ngay tối hôm đó, tôi gặp được tờ báo nào là tôi đọc liền, hy vọng sẽ biết thêm về ông ta. Trong vòng một tuần, tôi thu lượm được cả một chồng báo cất trong phòng tôi, khiến cho bà Dì nhìn tôi như thể tôi là đồ mất trí. Tôi đọc thấy có vài bài viết về ông, nhưng chỉ nói phớt qua, chứ không có bài nào cho tôi biết những tin tức mà tôi muốn biết. Thế nhưng, tôi tiếp tục thu nhập bất kỳ tờ báo nào thòi ra ở trong sọt rác, cho đến một hôm tôi tìm thấy một gói bao sau một phòng trà. Lục tìm trong gói báo này, tôi thấy một số báo phát hành cách đây 2 năm có nói đến công ty điện Iwamura.
Thì ra công ty điện Iwamura làm lễ kỷ niệm thứ 20 vào năm 1931. Tôi kinh ngạc khi nghĩ đến việc này, vì khi tôi gặp ông Chủ tịch bên bờ suối Shirakawa đúng vào tháng này. Nếu trên các tờ báo mà tôi xem có đăng ảnh của ông ta, thế nào tôi cũng nhận ra. Thế là tôi có ngày để tìm, tôi tìm các bài báo viết về buổi lễ kỷ niệm này. Hầu hết các số báo viết về công ty đều nằm trong đống đồ tạp nham từ nhà kỹ nữ phía trước bên kia đường vứt ra sau ngày bà ngoại của bên nhà ấy mất.
Ông Chủ tịch sinh năm 1890, theo chỗ tôi biết, nghĩa là khi tôi gặp ông ta lần đầu, mặc dù tóc đã hoa râm, nhưng ông chỉ mới trên 40 một chút. Ngày hôm ấy, tôi cứ nghĩ ông chỉ là chủ tịch một công ty xoàng xĩnh, nhưng tôi đã lầm. Theo các bài báo viết thì công ty Iwamura không lớn bằng công ty Osaka, đối thủ chính của công ty Iwamura ở phía Tây nước Nhật. Nhưng ông Chủ tịch và ông Nobu được nhiều người biết tiếng hơn cả các ông thủ trưởng của nhiều công ty lớn hơn, là vì nhờ sự hợp tác làm ăn nổi tiếng của họ. Tóm lại công ty Iwamura được xem là công ty có óc sáng tạo và có tiếng tăm hơn.
Năm 17 tuổi, ông Chủ tịch đến làm việc cho một công ty đồ điện nhỏ ở Osaka. Chẳng bao lâu sau, ông ta giám sát một toán nhân viên lắp đặt giây điện cho các xí nghiệp trong khu vực. Lúc ấy nhu cầu về ánh sáng đèn điện trong nhà và trong các xí nghiệp càng ngày càng cao, tối nào ông Chủ tịch cũng thiết kế một loại dụng cụ dùng hai bóng đèn cho một ổ cắm thay vì một bóng đèn mà thôi. Tuy nhiên ông Giám đốc công ty không muốn thiết kế và chế tạo loại này, cho nên vào năm 22 tuổi, năm 1912, sau khi đã cưới vợ một thời gian ngắn, ông Chủ tịch ra riêng thành lập công ty của mình.
Tình hình khó khăn kéo dài mấy năm, đến năm 1914, công ty mới của ông Chủ tịch ký được hợp đồng thi công lắp ráp dây điện cho một tòa nhà mới trong khu quân sự Osaka. Khi ấy Nobu vẫn còn trong quân đội, vì thương tích chiến tranh trên người nên ông khó tìm được việc. Ông được giao nhiệm vụ giám sát công trình của công ty Iwamura, ông và ông Chủ tịch nhanh chóng trở thành bạn bè, và khi ông Chủ tịch đề nghị giao cho ông đảm trách một số công việc của công ty vào năm sau, ông liền nhận lời.
Tôi càng đọc nhiều về sự hợp tác làm ăn của họ, tôi càng hiểu tại sao hai người gắn bó với nhau như keo sơn như thế. Hầu hết các bài báo đều có in tấm hình của hai người, ông Chủ tịch mặc bộ đồ vét hợp thời trang bằng len dày, tay cầm cái ổ cắm điện bằng sứ cắm hai bóng điện, sản phẩm đầu tiên của hãng họ. Ông ta làm ra vẻ như có ai đấy vừa đưa ổ cắm điện cho ông ta, và ông chưa biết phải làm gì với cái thứ này. Miệng ông hơi hé mở, để lộ hai hàm răng trắng, nhìn vào ống kính với cặp mắt ham he, như thể ông sắp sửa ném cái ổ cắm đi. Trái lại Nobu đứng bên cạnh ông, thấp hơn ông nửa cái đầu, mặt cau có, bàn tay duy nhất nắm chặt lại để bên hông, ông ta mặc áo khoác mỏng và quần vải sọc. Cái mặt sẹo hoàn toàn vô cảm và cặp mắt sùm sụp. ông Chủ tịch trông đáng là cha của Nobu, có lẽ vì tóc của ông đã hoa râm và dáng của ông to cao, mặc dù ông chỉ lớn hơn Nobu hai tuổi. Các bài báo viết rằng trong khi ông Chủ tịch có trách nhiệm về sự phát triển của công ty thì Nobu có nhiệm vụ quản lý điều hành công ty. Nobu tuy là người ít nổi bật hơn và đảm trách công việc ít quan trọng hơn, nhưng ông ta đã làm việc rất tốt đến nỗi ông Chủ tịch thường tuyên bố với mọi người rằng nếu không nhờ tài năng của Nobu thì công ty không vượt qua được nhiều cơn khủng hoảng. Chính Nobu đã mang đến cho công ty một nhóm đầu tư và cứu công ty khỏi bị suy sụp vào đầu những năm 1920. Ông Chủ tịch thường nói “tôi nợ Nobu một món nợ mà tôi không thể nào trả được.”

Chuong 18

Nhiều tuần trôi qua, một hôm tôi nhận được giấy báo đến nhà Mameha vào chiều hôm sau. Lúc này tôi đã quen mặc áo kimono vô giá do chị hầu của Mameha mang ra cho tôi, nhưng khi tôi đến, chị hầu đưa ra một chiếc áo kimono lụa dùng mặc mùa thu, có màu đỏ tươi và vàng, trên áo có in hình những chiếc lá tung bay nhảy múa trên cánh đồng cỏ úa. Bỗng tôi giật mình khi trông thấy một đường rách ngay phía sau áo, rộng đủ chuồi lọt hai ngón tay. Mameha chưa về, nhưng tôi cầm cái áo ra nói cho chị người hầu biết:
- Này chị Tatsumi, thật đáng tiếc…nhưng chiếc áo kimono này hỏng rồi .
- Không sao đâu thưa cô, chỉ cần khâu lại là xong. Cô chủ mượn cái áo này sáng nay ở nhà Kỹ nữ cuối đường.
- Chắc cô ấy không biết - tôi nói – tôi sợ cô ấy cho rằng tôi đã làm hỏng chiếc áo này.
- Ồ, cô ấy đã biết cái áo rách rồi – Tatsumi đáp - thực ra cái áo lót cũng rách và rách cùng một chỗ…
Tôi đã mặc cái áo lót màu kem vào rồi, nghe thấy thế, tôi đưa tay ra sau sờ vào chân. Tôi thấy Tatsumi nói đúng.
- Năm ngoái, cô geisha tập sự vô ý làm chỗ ấy móc vào đinh – Tatsumi nói tiếp – nhưng rõ ràng cô chủ muốn cô mặc cái áo đấy đấy.
Tôi thấy thật vô lý nhưng vẫn làm theo lời Tatsumi. Một lát sau Mameha về, trong khi cô sửa sang lại khuôn mặt, tôi hỏi cô lý do. Cô ấy đáp:
- Cô mặc cái áo ấy cho phù hợp với kế hoạch của tôi. Hai người đàn ông có ảnh hưởng quan trọng trong tương lai của cô. Cô đã gặp Nobu cách đây mấy tuần rồi, còn người đàn ông kia đi xa có việc mới về, nhưng nhờ cái áo kimono rách này mà cô sắp gặp ông ta. Cái anh chàng đô vật ấy đã gợi cho tôi một ý thật tuyệt vời! Tôi không thể đợi lâu để xem phản ứng của Hatsumono ra sao khi cô từ cõi chết trở về. Cô có biết ngày hôm kia cô ta đã nói với tôi ra sao không? Cô ta cám ơn tôi mấy cũng không đủ, vì tôi đã đưa cô đến xem buổi biểu diễn đô vật. Cô ta nói rằng công lao của cô ta đến đấy chỉ để nhìn cô đắm đuối say mê ông Thằn Lằn, thật rất xứng đáng. Tôi tin rằng cô ta sẽ để cho cô yên thân khi cô giải trí cho ông ấy, nhưng có thể thỉnh thoảng cô ta ghé đến một tí để xem cho biết. Thật vậy, khi có cô ta bên cạnh, cô nói chuyện thân mật với ông Nobu càng nhiều càng tốt. Nhưng trái lại, cô không được nói một tiếng nào về người đàn ông mà cô sẽ gặp chiều nay.
Khi nghe thế, tôi đau đớn tận tâm can, ngay cả khi tôi làm ra vẻ hài lòng với những điều cô ấy vừa nói, vì anh biết không, người đàn ông sẽ không bao giờ gian díu ân ái với người geisha là tình nhân của người hợp tác làm ăn thân cận với họ. Mới trước đó vài tháng, một buổi chiều trong buồng tắm, tôi nghe một thiếu nữ an ủi người kia, cô này vừa được tin vị danna mới của mình sẽ là người liên doanh cùng với người đàn ông mà cô ta mơ ước. Tôi không muốn rồi đây tôi cũng lâm vào tình cảnh như cô ấy.
- Thưa chị - tôi nói – em xin phép hỏi chị được không? Có phải kế hoạch của chị là rồi đây ông Nobu sẽ là danna của em không?
Mameha dừng tay trang điểm, hạ cái bàn chải xuống, nhìn tôi trong gương với ánh mắt mà tôi nghĩ là nó có thể sẽ chặn đứng cả một đòan tàu, rồi cô ấy trả lời :
- Ông Nobu là người tốt. Có phải cô nghĩ rằng có người danna như ông ấy là nhục nhã không?
- Dạ không, thưa chị. Em không nghĩ thế. Em chỉ phân vân…
- Rất tốt. Vậy tôi có hai điều muốn nói với cô. Điều thứ nhất, cô là cô gái mới có 14 tuổi và chưa có tiếng tăm gì hết. Cô rất may mắn để trở thành một nàng geisha với đầy đủ uy tín để cho một người đàn ông như ông Nobu tính đến chuyện đưa ra đề nghị làm danna của cô. Thứ hai, ông Nobu chưa bao giờ tìm được một nàng geisha nào làm cho ông ta vừa ý để làm tình nhân. Nếu cô là người đầu tiên, tôi nghĩ đấy là điều cô phải đáng tự hào.
Tôi cảm thấy mặt nóng bừng như đang đứng bên bếp lửa. Mameha nói rất đúng, nhớ lại những chuyện đã xảy ra cho tôi trong những năm qua, tôi phải cho là mình may mắn khi gây được sự chú ý của một người như ông Nobu. Nếu Nobu mà tôi còn chưa với tới được, thì chắc người như ông Chủ tịch chắc tôi cũng chẳng bao giờ với tới được. Khi gặp lại ông ta trong buổi biểu diễn đô vật, tôi đã tưởng cuộc đời tôi sắp sửa lên hương, nhưng bây giờ nghe Mameha nói, tôi có cảm tưởng mình đang ngụp lặn trong biển sầu.
Tôi vội vã mặc áo rồi Mameha dẫn tôi đi đến nhà kỹ nữ nơi cô ấy sống cho đến ngày cô ta ra ở riêng cách đây sáu năm. Khi đến cửa, chúng tôi được một chị hầu lớn tuổi ra đón chào, chị ta chép môi, lắc đầu rồi nói:
- Chúng tôi mới gọi điiện đến bệnh viện. Hôm nay bác sĩ sẽ về nhà lúc 4 giờ. Bây giờ ba giờ rưỡi rồi đấy.
- Chúng tôi sẽ gọi điện đến cho ông ta trước khi chúng tôi đi, chị Kazuko à - Mameha đáp - Tôi nghĩ ông ta đang đợi tôi.
- Tôi hy vọng thế. Để cho cô gái chảy máu lâu thì quá tàn ác.
- Ai chảy máu thế? – tôi hoảng hồn hỏi.
Nhưng chị hầu chỉ nhìn tôi mà thở dài rồi dẫn chúng tôi lên cầu thang đến một hành lang nhỏ ở tầng hai có nhiều người đang đứng. Trong một khoảng hẹp chỉ trải vừa hai chiếc chiếu rơm, có không những Mameha, tôi và chị hầu, mà còn có thêm ba thiếu nữ khác nữa và một người đầu bếp cao gầy, mặc cái tạp dề cứng ngắc. Tất cả đều nhìn tôi với vẻ mặt lo lắng, ngoại trừ bà đầu bếp, bà ta vắt trên vai cái khăn lớn và mài con dao, loại dao dùng chặt đầu cá. Tôi cảm thấy mình như lát cá thu mà người bán hàng vừa giao, vì tôi hiểu ra bây giờ tôi sẽ là người bị làm cho chảy máu.
- Chị Mameha …- tôi nói.
- Này Sayuri, tôi biết cô sắp nói gì rồi - cô ấy nói với tôi và tôi chỉ biết lắng nghe, nghẹn họng không biết nói gì được nữa - trước khi tôi làm chị cả của cô, có phải cô đã hứa sẽ làm bất cứ cái gì tôi yêu cầu không?
- Nếu em biết những điều chị yêu cầu bao gồm cả việc cắt lá gan…
- Không ai cắt lá gan của cô đâu – bà đầu bếp nói, giọng như muốn trấn an tôi, nhưng chẳng làm tôi yên tâm.
- Sayuri, chúng ta sẽ cắt trên da cô một vết nhỏ - Mameha nói – chỉ một vết nhỏ thôi để cô có thể đến bệnh viện, khi đó mới gặp được ông bác sĩ ấy. Cô có nhớ người đàn ông tôi đã nói đến với cô không? Ông ta là bác sĩ.
- Tôi không thể giả vờ đau đầu được à?
Tôi thật tình nói thế, nhưng hình như mọi người cho đó là câu nói đùa, vì họ phá ra cười, ngay cả Mameha.
- Sayuri – Mameha đáp – tất cả chúng tôi đều muốn công việc của cô được bảo đảm. chúng tôi chỉ cần một vết nhỏ chảy máu, đủ cho ông bác sĩ bằng lòng đến khám cho cô.
Ngay khi ấy bà đầu bếp đã mài dao xong, đến đứng trước mặt tôi, rất bình tĩnh như thể bà sắp giúp tôi làm công việc trang điểm, nhưng lạy trời, bà lại nắm cây dao trên tay. Kazuko, chị hầu lớn tuổi đưa tay mở cổ áo tôi ra. Tôi bắt đầu cảm thấy hốt hoảng, nhưng may thay Mameha lên tiếng nói:
- Chúng ta cắt trên chân.
- Đừng ở chân – Kazuko nói - ở cổ trông hấp dẫn hơn.
- Sayuri – Mameha nói – làm ơn quay người để cho chị Kazuko trông thấy chỗ rách ở sau áo kimono của cô.
Khi tôi quay người theo lời cô ấy bảo xuống, Mameha lại tiếp tục:
- Này chị Kazuko, nếu cắt ở cổ mà không cắt ở chân thì làm sao chúng ta giải thích vết rách này ở đàng sau áo của cô ấy?
- Tại sao lại ghép hai chuyện lại với nhau? Cô ấy mặc áo kimono bị rách và bị rách da ở cổ thôi.
- Tôi không hiểu tại sao chị Kazuko cứ nói huyên thuyên chuyện này để làm gì – bà bếp lên tiếng – cô Mameha, cứ nói cho tôi biết cô muốn tôi cắt cô ta ở đâu, tôi sè làm cho.
Nghe thấy thế đáng ra tôi nên mừng mới phải, nhưng tôi lại đâm lo.
Mameha sai cô hầu trẻ đi lấy chiếc đũa dùng để to son môi, rồi thọc qua chỗ rách trên áo kimono của tôi, vạch một dấu phía sau chân tôi ở trên cao.
- Chị cắt một đường ở đấy cho tôi – Mameha nói với bà đầu bếp.
Tôi mở miệng định nói, Mameha đã bảo tôi:
- Sayuri, bây giờ cô hãy nằm im. Nếu cô làm chậm trễ công việc thêm nữa, tôi sẽ giận đấy.
Nếu nói tôi muốn vâng lời cô ấy là tôi nói láo nhưng dĩ nhiên tôi không được làm thế. Tôi đành nằm lên tấm khăn trải giường trên sàn ván, nhắm mắt lại trong khi Mameha kéo áo tôi lên tận mông.
- Nên nhớ là vết cắt nếu cần sâu thêm thì phải cắt lại lần nữa – Mameha nói – bắt đầu cứ cắt cạn thôi.
Khi tôi cảm thấy mũi dao đụng vào chân, tôi cắn môi chờ đợi. Tôi cứ sợ mình sẽ thét lên, mặc dù tôi không muốn mình làm thế. Tôi cảm thấy mũi dao ấn xuống rồi Mameha nói:
- Như thế không được, chị mới rạch ngoài lớp da thôi mà.
- Trông giống như hai cái môi – Kazuko nói với bà đầu bếp – chị mới rạch một đường ngay giữa dấu son môi đỏ, trông như đôi môi. Ông bác sĩ sẽ cười chết.
Mameha đồng ý lau sạch vết son để bà đầu bếp có thể thấy rõ vết cắt và làm tiếp. Rồi tôi cảm thấy mũi dao ấn mạnh xuống một lần nữa.
Tôi là người rất yếu bóng vía khi thấy máu. Chắc anh còn nhớ tôi kể chuyện tôi bị rách môi ngày tôi gặp ông Tanaka rồi. Cho nên chắc anh hình dung được cảnh lúc ấy ra sao khi tôi quay người nhìn thấy một dòng máu chảy ngoằn ngoèo xuống chân, chảy lên cái khăn lớn mà Mameha đang cầm để hứng giọt máu xuống phía trong đùi tôi. Tôi liền cảm thấy hoa mắt, choáng váng đầu óc khiến tôi không nhớ sau đó chuyện gì đã xảy ra. Chắc tôi được dìu ra xe kéo, hay là xe gì đấy để đi bệnh viện. Lúc đến gần bệnh viện, Mameha mới lay đầu tôi, để cho tôi tỉnh táo. Cô ấy nói:
- Bây giờ nghe tôi nói đây. Chắc cô đã nghe nhiều lần người ta nói người tập sự phải gây ấn tượng mạnh lên các geisha khác, vì họ sẽ là những người giúp đỡ cô trong nghề, và đừng bận tâm về những điều đàn ông nghĩ cái gì. Bây giờ hãy quên hết những chuyện ấy đi. Trong trường hợp của cô, chúng ta không làm theo cách ấy! Tương lai của cô phụ thuộc vào hai người đàn ông, tôi đã nói rồi. Và cô sắp gặp người thứ hai. Cô phải gây ấn tượng thật mạnh lên ông ấy. Cô có nghe tôi nói không?
- Dạ nghe, thưa chị, em nghe không sót lời nào – tôi nói nho nhỏ.
- Khi người ta hỏi cô tại sao cô bị toạc chân, cô trả lời là cô mặc kimono đi vào phòng tắm và bị té vào vật gì đấy rất sắc. cô không biết vật ấy là cái gì,vì khi ấy cô bị ngất xỉu. Cô muốn miêu tả chuyện cô té xuống ra sao tùy cô, nhưng nói làm sao nghe có vẻ hợp lý là được. và làm ra vẻ bị xây xẩm khi chúng ta đi vào. Bây giờ làm thế tôi xem nào.
Tôi ngẩng đầu ra sau, nhắm nghiền mắt lại. tôi tưởng làm thế là đạt yêu cầu nhưng Mameha không hài lòng.
- Tôi không nói làm như chết. Tôi nói làm như bộ xây xẩm thôi. Như thế này này.
Mameha mở mắt nhìn lờ đờ như thể không định thần được, cặp mắt như không nhìn vào đâu hết và bàn tay áp lên má giống như cô sắp xỉu. Cô bảo tôi bắt chước làm cho giống vẻ mặt của cô cho đến khi cô ấy hài lòng mới thôi. Khi người lái xe dìu tôi vào bệnh viện, tôi làm theo lời cô ấy dặn. Mameha đi kèm bên tôi, kéo áo tôi khi phía bên này, khi phía bên kia sao cho tôi trông vẫn còn khêu gợi.
Chúng tôi đi qua hai cánh cửa xoay bằng gỗ rồi hỏi ông giám đốc bệnh viện, Mameha nói ông ta đang đợi chúng tôi. Một người y tá dẫn chúng tôi đi theo một hành lang dài đến một căn phòng bụi bặm, có kê cái bàn gỗ và tấm bình phong đơn giản chắn ngang cửa sổ. Trong khi chúng tôi chờ đợi, Mameha lấy cái khăn vấn quanh chân tôi vất vào sọt rác.
- Nhớ đấy Sayuri – cô ta thì thào – chúng ta cần ông bác sĩ thấy cô thơ ngây và đang bị xây xẩm. Nằm xuống đi và làm bộ yếu đuối mệt mỏi.
Tôi làm theo lời cô ấy không mấy khó khăn. Một lát sau cửa mở và ông bác sĩ Cua đi vào. Dĩ nhiên tên thật của ông ta không phải là Cua, nhưng nếu anh nhìn thấy ông ta, thế nào anh cũng cho rằng cái tên đấy thật thích hợp, vì hai vai ông ta rút vào nhau, hai khuỷu tay khùynh ra. Nếu ông ta nghiên cứu về cua thì chẳng mất công đi đâu xa, mà chỉ lấy mình để làm mẫu là được. Thậm chí khi đi, ông ta còn chìa một vai về phía trước, như con cua bò ngang vậy. Ông ta để râu mép và có vẻ rất mừng rỡ khi gặp Mameha, nhưng chỉ để lộ sự mừng rỡ trên ánh mắt ngạc nhiên hơn là trên nụ cười.
Bác sĩ Cua là người ngăn nắp, cẩn thận. Khi ông đóng cửa, ông quay tay nắm để cho cái then khỏi phát ra tiếng ồn, rồi ấn mạnh vào cửa để xem cửa đã đóng chưa. Sau khi đóng cửa xong, ông ta lấy trong túi áo ra một cái hộp, ông cẩn thận mở hộp ra, như thể ông sợ nếu không cẩn thận, đồ trong hộp sẽ văng ra ngoài ngay. Nhưng đó chỉ là một cặp kính đeo khác. Khi đã thay cặp kính xong, ông bỏ cặp kính kia vào hộp, bỏ hộp vào túi áo và vuốt áo cho thẳng thắn. Cuối cùng ông ta nhìn tôi và gật nhẹ đầu. Mameha liền lên tiếng:
- Thưa bác sĩ, xin lỗi đã quấy rầy bác sĩ. Nhưng Sayuri đang có trước mắt tương lai tươi sáng, thế mà hiện cô ta đang gặp rủi ro vì bị rách chân! Có khả năng cô ấy sẽ bị mang sẹo, bị nhiễm trùng, nguy hiểm khác nữa. Nên tôi nghĩ ông là người duy nhất có thể chữa trị được cho cô ấy thôi.
- Đúng thế - bác sĩ Cua đáp – có lẽ tôi phải xem qua vết thương cho biết.
- Tôi biết Sayuri rất yếu bóng vía khi nhìn thấy máu, bác sĩ à – Mameha nói – tốt nhất nên để cô ấy quay mặt đi chỗ khác, để cho ông dễ dàng khám vết thương phía sau đùi cô ta.
- Tôi hiểu. Tôi nhờ cô yêu cầu cô em nằm sấp trên bàn khám, có được không?
Tôi không hiểu tại sao bác sĩ Cua không hỏi tôi, nhưng để tỏ ra vâng lời, tôi đợi cho đến khi Mameha nói với tôi. Rồi ông bác sĩ kéo áo tôi lên đến tận mông, lấy vải hay cái gì đấy nhúng nước sát trùng lau lên chân tôi rồi nói:
- Cô Sayuri, vui lòng nói cho tôi biết tại sao cô lại bị thương như thế này.
Tôi hít vào một hơi dài, làm như có vẻ vẫn còn quá yếu, rồi mới trả lời:
- Dạ, khó nói quá, nhưng sự thật là chiều nay tôi uống quá nhiều nước trà…
- Sayuri vừa mới làm tập sự - Mameha nói chen vào – tôi dẫn cô ấy đi giới thiệu với mọi người ở Gion, đương nhiên mọi người đều mời cô ấy uống trà.
- Phải, đương nhiên là thế - bác sĩ Cua đáp.
- Cho nên – tôi nói tiếp – tôi cảm thấy cần phải …ờ, chắc ông biết…
- Uống trà nhiều thì phải đi tiểu thôi – bác sĩ nói.
- Ồ, cám ơn bác sĩ. Đúng ra thì nói “phải đi tiểu” thôi chưa đủ. Vì khi ấy tôi thấy trước mắt tôi mọi vật đều quay cuồng, nói thế chắc ông hiểu…
- Sayuri – Mameha lên tiếng – nói cho bác sĩ nghe chuyện xảy ra như thế nào thôi.
- Dạ xin lỗi – tôi đáp – tôi muốn nói khi ấy tôi chóng mặt nên thấy phòng vệ sinh không rõ… cho nên khi đến đấy…tôi loay hoay lo giữ chiếc kimono cho khỏi vướng, và thế là tôi đã mất thăng bằng, nên té xuống. Khi té như vậy, chân tôi đâm phải một cái gì rất sắc. Tôi không biết vật ấy là cái gì, vì khi đó tôi đã ngất xỉu.
- Cũng lạ là khi cô ngất xỉu, cô không đi tiểu ra ngoài – ông bác sĩ nói.
Khi ấy tôi đang nằm sấp, hai tay đỡ mặt lên khỏi mặt bàn vì sợ bị bẩn phần hóa trang, và nói trong khi bác sĩ nhìn sau đầu tôi. Nhưng khi ông bác sĩ Cua nói như thế, tôi quay đầu nhìn Mameha. May thay cô ấy nghĩ ra một ý nhanh hơn tôi, cô ấy vội trả lời:
- Sayuri muốn nói rằng cô ấy mất thăng bằng khi cố đứng lên sau khi ngồi xổm để tiểu.
- Ra thế - bác sĩ nói – vết thương bị vật gì rất sắc cắt phải. Có lẽ cô ấy nhào lên trên kính vỡ hay miếng sắt mỏng.
- Dạ phải, có lẽ vật ấy rất sắc – tôi nói – sắc như dao!
Ông bác sĩ Cua không nói gì nữa. Ông rửa vết thương rất nhẹ tay như thể ông sợ làm tôi đau, rồi sau đó ông dùng nước oxy già để lau máu khô trên chân tôi. Cuối cùng ông nói vết thương chỉ cần thoa kem và băng lại là được. ông ta dặn dò tôi cách chăm sóc vết thương trong vài ngày tiếp theo. Dặn xong, ông kéo áo tôi xuống, tháo cặp kính trên mắt ra như thể ông sợ dùng nhiều quá kính sẽ vỡ mất.
- Rất tiếc cô đã làm hỏng chiếc áo đẹp – ông ta nói – nhưng tôi rất mừng là vì có cơ hội này tôi mới gặp cô. Mameha biết tôi rất quan tâm đến những khuôn mặt mới.
- Ồ không, thưa bác sĩ, chính tôi mới sung sướng được hân hạnh gặp ông – tôi đáp.
- Có lẽ tôi sẽ gặp lại cô vào một buổi tối gần đây ở phòng trà Ichiriki.
- Nói thật ra, thưa bác sĩ – Mameha nói – Sayuri là của báu, chắc ông cũng thấy thế. Cô ấy có rất nhiều người hâm mộ cho nên tôi cố giữ cô ấy khỏi đến phòng trà Ichiriki chừng nào hay chừng nấy. Có lẽ chúng tôi nên đến thăm ông ở phòng trà Sharao thì hơn, có phải thế không?
- Được, tôi cũng thích phòng trà ấy – bác sĩ Cua đáp. Rồi ông ta lặp lại cái thủ tục thay kính đeo mắt để ông ta có thể nhìn vào cuốn sổ nhỏ ông ta lấy ra từ túi áo – tôi sẽ đến đấy…xem nào…cách đây hai hôm nữa. Tôi hy vọng gặp các cô ở đấy.
Mameha hứa chắc chắn với ông ta rằng chúng tôi sẽ ghé vào đấy rồi chúng tôi cáo từ ra về.
Ngồi trên xe kéo về lại Gion, Mameha nói rằng tôi đã làm rất tốt.
- Nhưng thưa chị Mameha, em có làm gì đâu?
- Ồ thế à? Thế cô không trông thấy cái trán của ông bác sĩ ra sao à?
- Em chẳng thấy gì hết ngoài cái bàn khám trước mặt em.
- Này nhé, trong khi ông bác sĩ lau máu trên chân cô, trán ông ta lấm tấm mồ hôi như thể chúng ta đang ở giữa mùa nóng. Nhưng trong phòng khi ấy trời không nóng, phải không?
- Dạ, phải.
- Đấy, vì sao thế? - cô ấy thốt lên.
Tôi không biết cô ấy muốn nói đến cái gì, hay đúng ra tôi không biết cô ấy dẫn tôi đến gặp ông bác sĩ với mục đích gì, nhưng tôi không dám hỏ . Vì cô ấy đã nói rằng sẽ không cho tôi biết trước kế hoạch của cô ấy. Rồi khi người phu kéo đưa chúng tôi qua cầu ở đại lộ Shijo, Mameha chấm dứt câu chuyện ở nửa chừng.
- Sayuri này, chắc cô biết khi mặc cái áo kimono này, mắt cô rất tuyệt vời. Màu đỏ tươi và màu vàng…làm cho mắt cô sáng long lanh như ánh bạc! Ôi trời ơi! Không biết tại sao tôi không nghĩ ra ý này sớm hơn! Này bác phu! – cô gọi lớn – chúng ta đã đi qua rồi. Cho chúng tôi xuống chỗ này thôi.
- Cô đã bảo đến Gion Tominaga kia mà, thưa cô. Tôi không hạ càng xe xuống ở giữa cầu được.
- Bác hoặc là để chúng tôi xuống, hoặc kéo chúng tôi qua cầu rồi kéo ngược lại. Nói trắng ra, tôi thấy bác chẳng cần nhọc công làm gì.
Bác phu xe hạ càng xe xuống tại chỗ, tôi và Mameha bước ra khỏi xe. Một số xe đạp đi qua rung chuông inh ỏi nhưng Mameha chẳng tỏ vẻ quan tâm tí nào. Tôi nghĩ cô ấy rất tự tin vào địa vị của mình, chuyện cản trở lưu thông do cô ấy gây như thế đối với cô ấy chỉ là chuyện nhỏ, chẳng ai phiền phức gì hết. Cô ấy cứ thủng thỉnh như không có việc gì xảy ra, móc chiếc ví lụa ra và đếm từng xu để trả tiền xe. Rồi cô ấy dẫn tôi đi lui qua phía bên kia cầu nơi chúng tôi vừa mới đi qua.
- Chúng ta sẽ đến phòng vẽ của Uchida Kosaburo - cô ấy nói - ông ta là họa sĩ có tiếng, thế nào ông ta cũng thích cặp mắt của cô, tôi nghĩ thế. Rồi cô sẽ thấy thỉnh thoảng ông ta có hơi lơ đãng. Còn phòng vẽ của ông ta thì rất lộn xộn. Có thể phải mất một thời gian ông ta mới để ý đến cặp mắt của cô, nhưng cô cứ nhìn vào ông ta để cho ông ta thấy.
Tôi đi theo Mameha qua mấy con đường rẽ cho đến khi tới một con hẻm nhỏ. Cuối con đường này là một cái cổng của đền thờ Thần màu đỏ nhạt, nhỏ và nằm giữa hai ngôi nhà. Qua khỏi cổng, chúng tôi đi qua nhiều phòng triển lãm nhỏ, đến chân một cầu thang bằng đá, có hai hàng cây hai bên. Trời đã sang thu nên lá cây đổi màu óng ánh. Gió thoảng đưa hơi lạnh như nước từ con đường hầm nhỏ ẩm ướt ở dưới chân cầu thang lên, tôi có cảm giác như mình đang đi vào một thế giới xa lạ. Tôi nghe có tiếng rào rào như tiếng thủy triều tràn lên bãi cát, nhưng nhìn kỹ té ra đấy là tiếng nước chảy do một người đàn ông đang quét nước trên đầu cầu thang, ông ta đứng quay lưng về phía chúng tôi, tay cầm cây chổi.
- Chào ông Uchida - Mameha lên tiếng - ông không có ai để dọn dẹp nhà cửa à?
Người đàn ông trên đầu cầu thang đứng giữa nắng, cho nên khi ông quay lại nhìn chúng tôi, có thể ông không trông rõ chúng tôi đang đứng dưới bóng cây. Tuy nhiên tôi thấy ông ta rất rõ. Ông có vẻ kỳ cục lạ đời. Một nốt ruồi khổng lồ nằm bên khóe miệng giống như dính một miếng thức ăn, hai hàng lông mày rậm như hai con ngài bò từ trên tóc xuống nằm ngủ tại đấy. Cái gì trên người ông ta cũng lộn xộn, mất trật tự. Không chỉ mái tóc thôi, mà cả cái áo kimono ông ta mặc cũng nhàu nhò trông như ông ta mặc đi ngủ tối hôm trước.
- Ai đấy? - ông ta hỏi.
- Uchida! Quen nhau nhìều năm rồi mà ông vẫn không nhận ra được giọng của tôi à?
- Dù các người là ai, mà nếu có muốn chọc giận tôi thì hãy cút đi ngay tức khắc. Tôi bận, không rảnh đâu. Nếu các người không cho tôi biết các người là ai, tôi sẽ ném cái chổi này vào mặt đấy!
Nếu ông Uchida cắn cái mụn nốt ruồi rồi phun vào mặt chúng tôi, thì việc ông ta tức giận chẳng làm tôi ngạc nhiên. Nhưng Mameha cứ đi tiếp lên cầu thang và tôi đi theo cô ấy, nhưng tôi cẩn thận đi sau lưng cô để nhỡ ông ta có ném cái chổi thì cô hứng lấy.
- Ông tiếp khách như thế sao ông Uchida? – Mameha nói khi lên đến đoạn cầu thang có ánh nắng.
Uchida nhìn vào mặt cô.
- Thì ra là cô. Tại sao cô không xưng danh tánh như mọi người ? Này, cầm cái chổi quét cầu thang đi. Không ai được vào nhà tôi khi tôi chưa thắp nhang. Một con chuột khác của tôi đã chết, nhà cửa hôi hám như có thây ma.
Mameha có vẻ thích thú khi nghe ông ta nói, cô ấy đợi cho đến khi Uchida đi khỏi mới dựng cái chổi vào trong một góc.
- Có khi nào cô bị mụt nhọt chưa? - cô ấy nói nhỏ với tôi – khi công việc của Uchida không trôi chảy, ông ta lâm vào tình trạng rất khủng khiếp. Người ta phải làm cho ông ta bớt căng thẳng, như ngắt cái mụt nhọt đi để cho ông ta bình tĩnh trở lại. Nếu người ta làm gì cho ông ấy tức giận, ông ấy sẽ uống rượu và chỉ có hại mà thôi.
- Thế ông ấy có nuôi chuột trong nhà à? – tôi hỏi nhỏ - ông ấy vừa nói có một con chuột nữa bị chết…
- Trời đất, không có. Ông ta để mực dính khắp nơi, chuột đến ăn rồi ngộ độc chết. Tôi đã cho ông ta cái thùng để bỏ mực vào đấy, nhưng ông ta không dùng đến.
Cánh cửa bỗng bật mở - vì ông đạp cho nó mở toang ra – rồi ông bước ra. Mameha và tôi tháo giày ra đi vào nhà. Nhà chỉ là căn phòng rộng theo kiểu nhà ở nông trại. Tôi thấy nhang cháy ở trong góc phòng nhưng chưa có hiệu quả gì, vì mùi chuột chết nồng nặc hôi như có ai trét phân vào mũi tôi. Căn phòng còn bừa bãi lộn xộn hơn cả phòng của Hatsumono nữa, bút vẽ vứt rải rác khắp nơi, cái thì gãy, cái thì mòn, những khung vẽ lớn bằng gỗ vẽ tranh thủy mặc còn lở dở chưa xong. Ở giữa cảnh ngổn ngang lộn xộn này là tấm đệm làm giường ngủ với chăn mền dính đầy mực, và khi tôi quay qua ông để xem sao thì ông ta nhìn tôi và hỏi:
- Cô nhìn cái gì thế?
Mameha nói:
- Ông Uchida, xin giới thiệu với ông đây là cô em của tôi, Sayuri. Chúng tôi đi từ Gion đến đây để hân hạnh được gặp ông.
Đường đi từ Gion đến đây không xa lắm, nhưng dù sao tôi cũng qùy xuống chiếu thực hiện thủ tục cúi chào, xin Uchida miễn lỗi, mặc dù tôi không tin ông ta nghe được tiếng nào của Mameha nói với ông.
- Tôi đã có một ngày đẹp cho đến tận bữa ăn trưa – ông ta nói - rồi thấy chuyện xảy ra như thế này đây!
Uchida đi qua phòng lấy một cái khung gỗ. Trên khung, đính bằng kim găm một bức phác thảo vẽ một người phụ nữ nhìn từ phía sau, cô ta nhìn nghiêng và tay cầm cái dù. Nhưng một con mèo rõ ràng dẫm chân vào mực rồi bước lên bức vẽ, để lại dấu chân trên đó. Con mèo đang cuộn mình nằm ngủ giữa đống quần áo dơ.
- Tôi mang con mèo vào để bắt chuột, thế mà nhìn kìa! – ông ta nói tiếp – tôi định ném nó đi đấy.
- Ồ, nhưng dấu chân con mèo đẹp quá – Mameha nói – tôi nghĩ nó làm tăng giá trị của bức tranh. Sayuri, cô nghĩ sao?
Tôi có ý định không nói gì vì Uchida có vẻ buồn chán khi nghe ý nghĩ của Mameha, nhưng bỗng tôi nghĩ rằng cô ấy muốn “ngắt cái mụt nhọt” mà cô đã gây nên đi. Cho nên tôi lấy giọng hết sức thân ái mà nói:
- Tôi ngạc nhiên thấy cái dấu chân mèo mới hấp dẫn làm sao. Tôi nghĩ con mèo là giống vật có máu họa sĩ.
- Tôi biết tại sao ông không thích con mèo – Mameha tiếp tục – ông ganh với tài năng của nó.
- Tôi ganh à? – Uchida hỏi – con mèo ấy không phải là họa sĩ. Nếu nó có tài năng gì, thì đấy là tài năng của quỷ sứ.
- Xin tha lỗi cho tôi, ông Uchida – Mameha đáp – Tùy ông thôi. Nhưng xin ông cho tôi biết có phải ông định vứt bức tranh ấy đi hay không? Vì nếu ông vứt, xin ông vui lòng cho tôi. Treo nó trong phòng tôi đẹp chán đi chứ, phải không Sayuri?
Khi nghe thấy thế, Uchida lột tấm tranh ra khỏi khung.
- Cô thích bức tranh phải không? Được rồi , tôi tặng cô hai món quà. – nói xong ông ta xé bức tranh ra làm hai đưa cho Mameha và nói tiếp – đây là một, và đây là một nữa. Bây giờ cô hãy đi ra khỏi đây!
- Tôi ước gì ông đừng làm thế - Mameha nói – đây là bức tranh đẹp nhất chưa từng có của ông.
- Đi ra khỏi đây!
- Ô ông Uchiđa, tôi không thể đi ra khỏi được! Nếu tôi không dọn dẹp ngăn nắp nhà cửa cho ông một tí trước khi ra về, thì chắc tôi không phải là bạn của ông.
Nghe thế, Uchida bước nhanh ra khỏi nhà, để cửa mở. Chúng tôi thấy ông ta đá cái chổi mà Mameha đã để dựa vào một góc, và tí nữa thì trượt chân té nhào khi ông đi xuống tầng cấp ẩm ướt. Chúng tôi dọn dẹp phòng vẽ của ông gần nửa giờ mới thấy ông về, thái độ bình tĩnh hơn, y như Mameha đã tiên đoán. Ông ta chưa trở lại trạng thái mà tôi có thể gọi là vui vẻ, ngoài ra, ông ta có thói quen cứ nhai vào cái nốt ruồi bên cạnh miệng nên trông ông ta có vẻ lo âu rầu rĩ. Tôi đoán chắc ông ta cảm thấy ân hận vì thái độ đối xử với chúng tôi hồi nãy, vì ông không nhìn thẳng vào hai chúng tôi. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi nhận thấy ông chẳng chú ý đến mặt của tôi chút nào hết, nên Mameha nói với ông ta:
- Ông không nhận ra Sayuri là người đẹp à? Ông không thèm nhìn đến cô ấy hay sao?
Tôi nghĩ cô ấy nói như thế là hết nước, nhưng Uchida chỉ liếc mắt nhìn thoáng tôi như quét vụn bánh mì trên bàn. Mameha có vẻ rất thất vọng. Ánh chiều tà đã ngả bóng, nên cả hai chúng tôi đứng dậy ra về. Cô ấy cúi chào lấy lệ và nói lời tạm biệt. Khi chúng tôi đi ra ngoài, tôi không thể nào không dừng một lát để ngắm cảnh hoàng hôn, bầu trời sau những cánh đồng xa xa nhuốm màu gạch và màu hồng trông tươi đẹp như màu chiếc kimono đẹp - thậm chí còn đẹp hơn, vì chiếc áo kimono có đẹp đến đâu đi nữa thì màu sắc của nó cũng không nhuốm lên tay mình được. Trái lại ánh mặt trời lúc hoàng hôn đã rót lên tay tôi đủ màu sắc như cầu vòng. Tôi đưa hai bàn tay lên trong ánh chiều hôm và ngắm nhìn một lúc:
- Chị Mameha, chị nhìn kìa.
Tôi nói với cô ấy nhưng cô ấy tưởng tôi nói về cảnh hoàng hôn, cô quay đầu lại nhìn với vẻ lãnh đạm. Ông Uchida đứng bất động nơi ngưỡng cửa, vẻ mặt chăm chú, tập trung, một tay lồng vào trong mái tóc đốm bạc. Nhưng ông ta không nhìn cảnh hoàng hôn. Ông ta nhìn tôi.
Nếu anh thấy được bức tranh thủy mặc lừng danh của Uchida Kosaburo về người thiếu nữ đang đứng trong trạng thái ngây ngất, cặp mắt long lanh…Ừ, ngay từ đầu ông ta đã nhất quyết giữ cảnh ông ta thấy vào chiều hôm ấy. Quả tôi không tin nổi ông ta. Tôi không ngờ cái bức tranh đẹp tuyệt vời như thế lại có thể căn cứ vào hình ảnh cô gái đứng ngây ngô nhìn vào hai bàn tay mình trong ánh hoàng hôn.

Chuong 19

Cái tháng mà tôi gặp lại ông Chủ tịch, và gặp ông Nobu, ông bác sĩ Cua, và Uchida Kosaburo, là tháng huy hoàng, khiến tôi có cảm giác mình là con dế nuôi trong lồng mây đã thoát ra ngoài được. Lần đâu tiên trong đời, mỗi đêm khi đi ngủ, tôi tin tưởng rằng tôi có thể là cho một số người ở Gion chú ý đến. Tôi vẫn chưa biết kế họach của Mameha như thế nào, hay là không biết kế hoạch của cô ấy dẫn tôi đến chỗ thành công ra sao, hay không biết khi đã là geisha thành công rồi, tôi có gặp lại ông Chủ tịch nữa không. Nhưng mỗi đêm tôi nằm trên đệm, tôi ép cái khăn của ông ta cho vào má, lòng bồi hồi nhớ lại cuộc hội ngộ của tôi với ông ta.
Mấy tuần trôi qua không có người nào nhắn gởi gì hết, Mameha và tôi bắt đầu thấy lo. Nhưng cuối cùng, vào một buổi sáng, người thư ký ở công ti điện Iwamura điện thoại đến cho phòng trà Ichiriki để yêu cầu tôi đến gặp họ vào buổi tối ở đó. Mameha vui mừng khi nghe tin này, vì cô ấy hy vọng lời mời là của ông Nobu. Tôi cũng vui mừng, tôi hy vọng đấy là lời mời của ông Chủ tịch. Cuối ngày hôm đó, trong khi có sự hiện diện của Hatsumono, tôi báo với bà Dì tôi sẽ đi giải trí cho ông Nobu và yêu cầu bà giúp tôi chọn một bộ kimono. Tôi ngạc nhiên khi thấy Hatsumono đến giúp tôi một tay, tôi nghĩ rằng nếu có người lạ nhìn thấy chúng tôi, thế nào người đó cũng tin chúng tôi sống rằng hòa thuận trong một gia đình. Hatsumono không cười khích, không nói châm biếm, mà tỏ ra rất thành tâm. Tôi đoán chắc bà Dì cũng kinh ngạc như tôi. Chúng tôi đều đồng ý tôi sẽ mặc cái áo kimono màu lục nhạt có hình vẽ những chiếc lá bạc và đỏ son, và dải thắt lưng màu xám điểm chỉ vàng. Hatsumono hứa sẽ ghé vào chơi xem Nobu và tôi cùng mua vui giải trí với nhau.
Tối hôm đó tôi quỳ trên hành lang gỗ của phòng trà Ichiriki, cảm thấy rằng vận may đã dẫn tôi đến giây phút này. Tôi nghe những tiếng cười nho nhỏ, lòng tự hỏi không biết trong đó có tiếng cười của ông Chủ tịch hay không, và khi tôi mở cửa, tôi thấy ông ngồi ở đầu bàn, còn ông Nobu thì ngồi quay lưng ra phía tôi. Trời, tôi quá mê mẩn trước nụ cười của ông Chủ tịch, nhưng đấy chỉ là dư vị của nụ cười hồi nãy, quá mê mẩn đến nỗi tôi phải cố giữ mình để khỏi cười lại với ông. Trước hết tôi chào Mameha, rồi chào mấy cô geisha khác trong phòng, và sau cùng là chào sáu hay bảy người đàn ông. Khi tôi đứng lên, tôi đi thẳng đến chỗ ông Nobu như Mameha đã dặn. Thế nhưng tôi phải quỳ sát bên ông ta hơn dự kiến của tôi, vì bỗng thình lình ông ta dằn cái tách rượu sake xuống bàn vẻ tức tối và ngồi ra xa tôi một chút. Tôi xin lỗi, nhưng ông ta không thèm để ý, còn Mameha thì cau mày. Suốt thời gian còn lại, tôi nghĩ vẩn vơ đủ thứ. Sau đó khi chúng tôi cùng ra về, Mameha nói với tôi:
- Ông Nobu rất dễ giận. về sau cô nhớ cẩn thận đừng để cho ông ta giận.
- Em xin lỗi, thưa chị. Rõ ràng ông ta không thích em như chị tưởng.
- Ồ, ông ta có thích cô. Nếu ông ta không thích cô ngồi một bên, cô đã rời khỏi tiệc trong nước mắt rồi. Thỉnh thoảng tính khí của ông ta có vẻ kỳ cục, nhưng khi cô đã quen, cô sẽ thấy ông ta là người tốt.
Tôi được công ty Iwamura mời đến phòng trà Ichiriki lại trong tuần ấy và nhiều lần trong những tuần tiếp theo – và có lúc không có Mameha. Cô ấy dặn tôi đừng ở lâu quá, vì sợ tôi trông có vẻ thua sút những cô khác, cho nên sau khoảng một giờ là tôi chào xin cáo lỗi ra về, như thể tôi bận đến dự một tiệc khác. Thường thường khi tôi mặc áo để đi trong những buổi tối này, Hatsumono bắn ý là cô sẽ ghé lại chơi, nhưng không bao giờ cô ta đến. Rồi một buổi chiều khi tôi không nghĩ đến chuyện này nữa, cô ta báo cho tôi biết tối ấy cô ta có thì giờ rảnh, nên chắc chắn cô ta sẽ đến.
Chắc anh hình dung được khi ấy tôi rất lo lắng, nhưng sự việc xảy ra lại còn tồi tệ hơn thế nữa. Vì khi tôi đến phòng trà Ichiriki, chỉ vỏn vẹn có hai geisha khác nữa và bốn người đàn ông. Nếu Hatsumono đến mà thấy tôi đang tiếp ông Chủ tịch và không có Nobu thì sao? Tôi chưa biết tính như thế nào thì bỗng cửa xịch mở, tôi quá hoảng hốt khi thấy Hatsumono quỳ ngoài hành lang.
Cách duy nhất của tôi phải làm là tỏ vẻ buồn rầu như thể trong công ti này không có ai ngoài Nobu có thể làm cho tôi quan tâm. Có lẽ phương pháp này mới giúp được tôi trong đêm ấy, nhưng may thay, chỉ mấy phút sau, Nobu đến. Ngay khi Nobu vào phòng, là Hatsumono tươi cười, nụ cười duyên dáng, đôi môi mọng đỏ như những giọt máu ứa ra bên mép vết thương. Nobu ngồi vào bàn xong là lập tức Hatsumono bảo tôi rót rượu cho ông ta, giọng nói dịu dàng thân mến. Tôi đến ngồi bên cạnh ông ta, cố tỏ ra vui mừng sung sướng khi được hầu rượu cho ông ta. Bất kỳ khi ông ta cười, tôi liếc mắt nhìn ông như thể tôi không cách gì rời mắt ra khỏi ông ta được , Hatsumono rất sung sướng hả dạ, nhìn chúng tôi, đến nỗi không thèm lưu tâm đến những ánh mắt hâm mộ của các ông dành cho cô ta. Hay có thể cô ta đã quen được người ta nhìn như thế này rồi. Đêm đó cô ta đẹp một cách mê hồn, người thanh niên ngồi ở cuối bàn ngồi sững sờ hút thuốc và chỉ nhìn cô ta. Ngay cả ông Chủ tịch cũng thế, ông ngồi yên, mấy ngón tay hững hờ ôm quanh cốc rượu, chốc chốc lại đưa mắt nhìn lên cô ta. Tôi không ngạc nhiên khi đàn ông thường mù quáng trước sắc đẹp, đến nỗi họ đem hết đời mình để phục vụ cho một con quỷ có nhan sắc. Bỗng tôi mường tượng ra trong óc một buổi khuya, ông Chủ tịch bước vào gian tiền sảnh của nhà kỹ nữ chúng tôi để gặp Hatsumono, tay cầm mũ phớt, mỉm cười nhìn tôi rồi đưa tay kia cởi áo khoác. Tôi hy vọng ông ta không bị sắc đẹp của Hatsumono làm mờ mắt, cũng như hy vọng ông ta nhận ra những nét độc ác lộ rõ trên mặt cô ta. Nhưng có một điều tôi tin chắc, nếu Hatsumono biết được tình cảm của tôi dành cho ông Chủ tịch, thế nào cô ta cũng tìm cách để dụ dỗ ông ấy, mục đích duy nhất chỉ để làm cho tôi đau khổ.
Tôi đoán chắc thế nào Hatsumono cũng rời bàn tiệc ra về sớm. Tối biết cô ta đến đây là để gíam sát “mối tình đang phát triển”, cho nên tôi quyết định phải trình diễn cho cô ta thấy. Tôi cứ đưa tay lên sờ trên cổ, trên tóc hoài, để tỏ cho cô ta thấy tôi rất lo về vẻ ngoài của tôi. Khi tay tôi bất ngờ chạm phải một món nữ trang trên tóc, tôi liền nảy ra một ý trong óc. Tôi đợi cho đến khi có người nói chuyện khôi hài để cười, và trong lúc vừa cười vừa sửa mái tóc, tôi nghiêng người qua phía ông Nobu. Tôi xin thú nhận rằng việc sửa tóc là điều kỳ lạ khó tin, vì tóc tôi đã được chải sáp dính vào nhau rất chặt, khỏi sợ chúng bung ra. Nhưng mục đích của tôi là làm tung ra một món trang sức – một chuỗi hoa lụa màu vàng và cam – và thả nó rơi xuống lòng của ông Nobu. Nhưng cái cây trâm gỗ đính chuỗi hoa lụa dính rất sâu vào mái tóc tôi, nên khi tôi cố lôi mạnh nó ra, nó văng trúng vào ngực ông Nobu, rồi rơi xuống hai chân bắt tréo của ông. Tôi định đưa tay vào giữa lòng ông để lấy lên với vẻ lúng túng của một cô gái mới lớn, nhưng tôi không đưa tay vào giữa hai chân ông được.
Chính ông Nobu lấy món nữ trang lên, ông cầm cái trâm gỗ quay quay trong tay rồi nói với tôi:
- Cô đi tìm chị hầu chào đón tôi hồi nãy, nói với chị ấy tôi muốn lấy cái gói tôi đã gởi cho chị ta.
Tôi làm theo lời Nobu và quay về phòng, thấy mọi người đang đợi. Ông ta vẫn còn cầm cái trâm gỗ, để cho chùm hoa trắng lủng lẳng trên mặt bàn. Và khi tôi đưa cái gói cho ông, ông không buồn nắm lấy.
- Tôi định chốc nữa mới tặng món qùa này cho cô, khi nào cô ra về, nhưng bây giờ tôi thấy muốn tặng cho cô – ông ta nói rồi gật đầu chỉ cái gói như muốn bảo tôi mở cái gói ra xem. Tôi cảm thấy lúng túng trước mắt mọi người đang nhìn tôi, nhưng tôi vẫn mở gói giấy ra. Bên trong là một cái hộp gỗ nhỏ, đựng một cái lược cài tóc rất đẹp để trên lớp sa tanh. Cái lược có hình bán nguyệt, màu đỏ tươi có đính đóa hoa sáng lấp lánh.
- Đó là món đồ cổ tôi đã mua được cách đây vài hôm – Nobu nói.
Ông Chủ tịch nhìn món trang sức trong hộp để trên bàn với vẻ thích thú, ông mấp máy môi nhưng chưa nói ngay được mà đợi hắng giọng rồi mới lên tiếng, giọng có vẻ buồn buồn:
- Trời Nobu, tôi không ngờ anh là con người đa cảm như thế này!
Hatsumono đứng lên, tôi tưởng tôi đã thoát được cô ta, nhưng không, tôi quá kinh ngạc khi thấy cô ta đến quỳ bên cạnh tôi. Tôi không biết làm gì hơn là ngồi yên cho đến khi cô ta lấy cái lược ra khỏi hộp rồi cẩn thận cài lên tóc tôi, ngay dưới búi tóc lớn có hình như cái gối găm kim. Cô ta đưa tay ra và Nobu trao cho cô ta món trang sức có hình chùm hoa lủng lẳng cô ta cẩn thận đeo vào tóc tôi như người mẹ ân cần chăm sóc cho con. Tôi nhẹ cúi người để cám ơn cô ta.
- Cô ta quá đẹp phải không? – cô ta nói, chủ yếu nói cho Nobu nghe. Rồi cô ta buông tiếng thở dài rất kịch, như thể những giây phút vừa qua rất tình tứ, lãng mạn không thua sút gì đời cô ta, sau đó cô ta đứng dậy ra về như lòng tôi mong đợi .
Chuyện đời không ai dám nói đàn ông có cá tính khác nhau rõ ràng như hoa nở theo mùa. Mặc dù ông Nobu và ông Chủ tịch quan tâm đến tôi trong vòng mấy tuần sau buổi trình diễn đô vật, nhưng nhiều tháng trôi qua mà chúng tôi không nghe tin tức gì của ông bác sĩ Cua và ông Uchida. Mameha nhất quyết chúng tôi nên đợi cho đến khi nào họ nhắn tin, chứ không tìm cớ để gặp họ lại, cuối cùng cô ấy không chịu được sự căng thẳng nữa, bèn đến tìm Uchida vào một buổi chiều.
Thì ra sau lần chúng tôi ghé thăm Uchida một thời gian ngắn, con mèo của ông ta bị chồn cắn khiến cho nó bị nhiễm trùng và mấy ngày sau thì chết. Kết quả là Uchida uống rượu giải sầu một thời gian. Mameha đến thăm để động viên ông ta mất mấy hôm. Và cuối cùng khi ông ta đã bình tĩnh trở lại, cô ấy bảo tôi mặc áo kimono màu xanh láng có thêu ở lai áo nhiều dải vải ngũ sắc, thêm vào phần hóa trang vài nét trang điểm kiểu phương Tây cho có vẻ màu mè, như cô ấy thường làm, rồi sai tôi đến tặng cho ông ta một con mèo con có bộ lông trắng như ngọc, con mèo đáng giá bao nhiêu tiền, tôi không biết. Tôi thấy con mèo rất dễ thương, nhưng Uchida không thèm chú ý, mà chỉ ngồi nhìn tôi, nghiêng đầu qua bên này, nghiêng đầu qua bên kia. Mấy ngày sau ông ta nhắn tin ông ta muốn tôi làm mẫu cho ông ta vẽ. Mameha không muốn tôi nói nhiều và phái cô hầu Tatsumi đi theo canh chừng tôi, chị ta ngồi ngủ gà ngủ gật cả buổi trong góc phòng vẽ, trong khi ông Uchida chuyển tôi từ chỗ này sang chỗ khác, loay hoay pha mực và vẽ trên giấy bổi rồi lại đi di chuyển tôi sang chỗ khác nữa.
Nếu anh đã đi khắp nước Nhật và đã xem những tác phẩm của Uchida vẽ trong thời gian tôi làm mẫu cho ông ta suốt mùa đông năm đó và nhiều năm sau nữa, như là bức tranh sơn dầu duy nhất còn sót lại đang treo trong phòng của ban lãnh đạo ngân hàng Sumitomo ở Osaka, thì chắc anh có thể tưởng tượng ra cảnh ngồi làm mẫu cho ông ta là việc đáng hãnh diện. Thế nhưng công việc ấy không có gì buồn chán hơn. Hầu hết thời gian ngồi làm mẫu rất khó chịu, mỗi lần lâu khoảng hơn một giờ. Tôi nhớ điều làm tôi khó chịu nhất là khát nước, vì Uchida không bao giờ cho tôi uống gì cả. Thậm chí có khi tôi mang theo bình nước trà, ông ta cũng đem nó để vào một xó để cho ông ta không bị phân tâm. Theo lời dặn dò của Mameha thì không được nói năng gì với ông ta hết, thậm chí có một buổi chiều vào giữa tháng hai trời quá lạnh, tôi định nói đôi lời, nhưng rồi tôi cũng thôi. Uchida đến ngồi ngay trước mặt tôi, miệng nhai cái nốt ruồi bên khóe môi. ông ta có nhiều thỏi mực tàu và một ít nước để mài mực, nhưng rất nhiều lần ông mài mực để pha với màu xanh và màu xám, màu pha rồi ông không vừa ý, ông liền đem đổ ra ngoài tuyết. Cứ nhìn tôi suốt buổi chiều, mắt ông đâm ra mệt mỏi, ông ta bắt đầu tức giận và một lát sau ông ta bảo tôi đi về.
Tôi không nghe ông ta nhắn nhe gì hơn hai tuần, và sau đó tôi biết ông ta đang uống rượu trở lại.
Còn về phần ông bác sĩ Cua, trong lần chúng tôi gặp ông ta đầu tiên hôm đó, ông ta hứa gặp lại chúng tôi ở phòng trà Shirao, nhưng mãi cho đến sáu tuần sau, chúng tôi không nhận được tin tức gì của ông hết. Tuần này tuần nọ trôi qua, Mameha càng lo lắng thêm. Tôi vẫn không biết kế họach làm cho Hatsumono hỏng chân của cô ấy ra sao, nhưng tôi chỉ thấy kế họach ấy như cánh cửa có hai bản lề, một bản lề để mở cho ông Nobu, bản lề kia dành cho bác sĩ Cua. Còn kế họach cô ấy dùng với Uchida, tôi không biết nói sao, nhưng tôi nghĩ đây là một kế họach riêng biệt, có lẽ không phải là kế họach trọng tâm của cô ấy.
Cuối cùng, vào cuối tháng hai Mameha gặp bác sĩ Cua ở phòng trà Ichiriki, mới biết lâu nay ông ta bận lo việc thành lập bệnh viện mới ở Osaka. Công việc đã xong xuôi, ông hy vọng gặp chúng tôi ở phòng trà Shirao vào tuần sau. Chắc anh còn nhớ Mameha kể rằng tôi có rất nhiều khách ái mộ ở phòng trà Ichiriki, nếu tôi đến đấy, thế nào cũng có nhiều người mời, cho nên ông bác sĩ Cua mời chúng tôi đến phòng trà Shirae. Dĩ nhiên nguyên nhân Mameha không muốn chúng tôi đến phòng trà Ichiriki là vì cô ấy không muốn gặp mặt Hatsumono, thế nhưng khi tôi chuẩn bị gặp mặt ông bác sĩ Cua, tôi không thể nào không lo sợ việc Hatsumono có thể tìm ra chúng tôi. Nhưng khi tôi tìm thấy phòng trà Shirae, tôi liền bật cười, vì đây là chỗ mà Hatsumono không bao giờ thèm đến. Phòng trà làm cho tôi nghĩ đến một đóa hoa nhỏ xơ xác trên một cái cây nhiều hoa nở rực rỡ. Gion là khu vui chơi đông đúc ngay cả khi đất nước đang trải qua những năm cuối cùng của thời đại suy thoái, nhưng phòng trà Shirae, nơi không được sang trọng, lại càng vắng khách hơn nữa. Lý do duy nhất mà ông bác sĩ Cua đứng ra bảo trợ nơi này là vì ông không được giàu có cho lắm. Trong những năm giàu có đầu tiên của ông, phòng trà Shirae có lẽ là nơi tốt nhất cho ông bảo trợ. Nhưng khi phòng trà Ichiriki chào đón ông niềm nở, không vì thế mà ông cắt đứt mối dây liên lạc với Shirae. Khi đàn ông có tình nhân, không bắt buộc họ phải về ly dị với vợ.
Tối đó ở phòng trà Shirae, tôi rót rượu sake còn Mameha thì kể chuyện, và suốt thời gian vui chơi, ông bác sĩ ngồi chìa hai khuỷu tay ra thật xa đến nỗi thỉnh thoảng ông đụng hai chúng tôi, rồi ông quay qua gật đầu xin lỗi. Tôi nhận ra ông ta là người trầm lặng, suốt buổi tối hôm đó, ông chỉ nhìn xuống mặt bàn qua cặp kính tròn nhỏ và nhiều lần ông để những vụn thức ăn dính vào bộ râu dưới mép. Tối đó khi ra về, chúng tôi tưởng mình đã thất bại và chắc sẽ không gặp lại ông ta nữa, vì thường thường người đàn ông nào thấy không được mấy vui, họ không bận tâm trở lại Gion làm gì. Nhưng trái lại tuần sau chúng tôi nhận được tin nhắn của ông bác sĩ mời tôi đến, và hầu như trong suốt các tuần sau đó, kéo dài mấy tháng trời, ông đều mời tôi đến vui chơi.
Chuyện của tôi với ông bác sĩ diễn ra trôi chảy cho đến một buổi chiều vào giữa tháng ba thì tôi gây nên một chuyện ngu ngốc, gần như làm hỏng bét kế hoạch của Mameha. Tôi nghĩ trên đời này có nhiều cô gái làm hỏng tương lai sự nghiệp của mình bằng cách không chịu làm những việc phải làm, hay cư xử sai lầm với một nhân vật quan trọng, hay đại lọai một vài việc như thế. Nhưng lỗi lầm tôi gây ra hết sức tầm thường, thậm chí tôi cũng không biết là mình đã gây ra nó nữa.
Chuyện xảy ra trong nhà kỹ nữ tôi ở, chỉ trong khoảnh khắc chừng một phút, không lâu sau bữa ăn trưa, vào một hôm trời lạnh, tôi đang quỳ trên lối đi lát ván với chiếc đàn Shamisen, Hatsumono đi ngang qua để đến nhà vệ sinh. Nếu tôi có mang giày, chắc tôi đã bước qua hành lang đất để tránh chỗ cho cô ta đi, nhưng vì không có giày nên tôi cố đứng dậy, tay chân lạnh cóng. Nếu tôi nhanh chân một chút thì chắc Hatsumono không bực mình để phải gây gỗ với tôi. Đàng này tôi đứng lên hơi chậm nên cô ta nói với tôi:
- Ông Đạ sứ Đức đến thành phố, nhưng Bí Ngô không rảnh để giúp vui cho ông ta, cô hỏi Mameha thu xếp công việc để đến thay thế chỗ cho Bí Ngô được không? – nói xong cô ta phá ra cười như thể cô ta muốn nói tôi làm công việc ấy trông thật nực cười như việc dọn cho vua ăn hạt đấu không bằng.
Khi ấy ngài Đại sứ Đức đang gây nên cảnh ồn ào ở Gion. Trong thời gian này, 1935, ở Đức, chính phủ mới lên cầm quyền. Mặc dù tôi không biết nhiều về chính trị, nhưng tôi cũng biết nước Nhật quay lưng với Hoa kỳ và hăm hở gây ấn tượng tốt đẹp với ông Đại sứ Đức mới. Mọi người ở Gion đều muốn biết ai là người có hân hạnh được đến hầu vui ông ta trong chuyến thăm sắp tới của ông.
Khi Hatsumono nói thế với tôi, đáng ra tôi phải cúi đầu xuống, làm ra vẻ buồn rầu đau khổ, không dám so sánh với tài năng của Bí Ngô. Nhưng tôi đã không làm thế, tôi nghĩ đến tương lai tươi sáng của tôi với kế hoạch của Mameha dùng để loại Hatsumono, hai chúng tôi thực hiện đã thành công. Khi nghe Hatsumono nói như thế, tôi đã định cười, nhưng tôi kịp giữ mặt bình thảnh như chiếc mặt nạ, và lòng cảm thấy vui vì không thốt ra điều gì. Hatsumono nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ, đáng ra tôi phải nhận ra ngay cô ta đang nghĩ gì trong óc mới phải. Tôi bước nhanh sang một bên và cô ta đi qua. Câu chuyện chấm dứt ngang đó và tôi không có tí nghi ngờ gì cả.
Rồi mấy ngày sau tôi và Mameha đến phòng trà Shirae để gặp bác sĩ Cua. Nhưng khi chúng tôi đẩy cửa ra thì thấy Bí Ngô đang ngồi xỏ chân vào giày để đi về. Tôi giật mình kinh ngạc tự hỏi không biết cái gì đã đưa cô ta đến đây. Rồi Hatsumono cũng đi ra cửa và thế là tôi hiểu: Hatsumono đã khôn ngoan hơn chúng tôi.
- Chào chị Mameha – Hatsumono nói – và kìa, người đi cùng chị! Cô tập sự được ông bác sĩ ưa chuộng!
Tôi biết Mameha cũng sửng sốt như tôi nhưng cô ấy không để lộ ra mặt.
- Kìa chị Hatsumono – Mameha đáp – tôi không nhận ra chị..nhưng trời ơi, chị trông già quá!
Hatsumono chưa già, cô ta chỉ có 28 hay 29 tuổi, tôi nghĩ Mameha chỉ tìm cách chọc tức cô ta mà thôi.
- Tôi đoán chị đến để gặp ông bác sĩ – Hatsumono nói – thật là một con người tuyệt vời! Tôi hy vọng ông ta vẫn còn sung sướng khi gặp chị. Thôi xin chào – Hatsumono bỏ đi với vẻ vui tươi, nhưng dưới ánh đèn đường, tôi thấy nét mặt buồn rầu của Bí Ngô.
Mameha và tôi tuột giày ra mà không nói một tiếng, chúng tôi không ai biết phải nói cái gì. Khung cảnh trong phòng trà Shirae đêm ấy âm u ngột ngạt như nước tù trong hồ. Không khí thoảng mùi hôi do đồ hóa trang bốc ra, hồ vữa ẩm ướt tróc ra khỏi vách tường, trong các góc phòng. Tôi muốn sự vật thay đổi để tôi ra về.
Khi chúng tôi mở cửa ở hành lang, chúng tôi thấy bà chủ phòng trà đang ngồi tiếp bác sĩ Cua. Thường khi bà ta ở lại vài phút sau khi chúng tôi đến, có lẽ để đủ thì giờ tính tiền ông bác sĩ. Nhưng đêm nay bà ta cáo lỗi rút lui ngay khi chúng tôi vào và thậm chí không ngước mắt nhìn khi bà ta đi ngang qua. Bác sĩ Cua ngồi quay lưng về phía chúng tôi, cho nên chúng tôi bỏ qua nghi thức cúi chào mà đi ngay đến ngồi với ông ta ở bàn.
- Thưa bác sĩ, ông có vẻ mệt – Mameha nói – tối nay ông khỏe chứ?
Bác sĩ Cua không nói, ông ta chỉ xoay xoay cái ly bia trên bàn để giết thì giờ, mặc dù ông là người có tửu lượng cao, ông có thể uống bất cứ lúc nào ông muốn.
- Phải, tôi mệt – cuối cùng ông đáp – tôi không muốn nói chuyện nữa.
Nói xong ông ta uống hết ly bia rồi đứng dậy ra về. Mameha và tôi nhìn nhau. Khi bác sĩ Cua ra đến cửa, ông ta quay lại nhìn chúng tôi và nói:
- Tôi không tôn trọng những người lừa dối tôi khi tôi tin tưởng vào họ.
Nói xong ông ta đi ra mà không thèm đóng cửa lại.
Mameha và tôi quá kinh ngạc không nói được một lời nào. Cuối cùng cô ấy đứng lên đóng cửa lại. Trở lại bàn, cô ấy vuốt áo kimono cho thẳng thắn rồi nheo mắt giận dữ và nói với tôi:
- Sayuri, được thôi. Cô đã nói gì với Hatsumono?
- Chị Mameha, nói gì về chuyện này à? Em đã hứa với chị em không bao giờ nói cái gì để hại đến tương lai của em!
- Có lẽ bác sĩ đã dẹp cô sang một bên như thể cô không có gì giá trị hơn một cái bao rỗng. Tôi nghĩ chắc có lý do gì. Nhưng chúng ta chỉ biết được lý do khi nào chúng ta biết được Hatsumono đã nói gì với bác sĩ Cua tối nay.
- Làm sao chúng ta biết được?
- Bí Ngô có mặt ở đây. Cô phải tìm hỏi cô ta mới được.
Tôi không biết Bí Ngô có chịu nói cho tôi biết không, nhưng tôi vẫn trả lời là tôi sẽ cố hỏi cô ta, và Mameha có vẻ hài lòng khi nghe thế. Cô ấy đứng lên chuẩn bị ra về, nhưng tôi nán lại cho đến khi cô ấy quay qua để xem cái gì đã giữ tôi ở lại.
- Thưa chị Mameha, em xin hỏi chị một câu được không? Bây giờ Hatsumono đã biết từ lâu em mua vui giải trí cho ông bác sĩ, và có lẽ cô ta biết lý do tại sao. Chị biết lý do, thậm chí Bí Ngô cũng có thể biết. Chỉ có em là người không biết! xin chị làm ơn nói rõ kế họach của chị cho em nghe được không?
Mameha có vẻ rất buồn khi nghe tôi hỏi như thế. Cô ấy nhìn tôi đăm đăm một hồi lâu, cuối cùng cô buông ra tiếng thở dài và quỳ xuống bên bàn để nói cho tôi nghe những điều tôi muốn biết.
Cô ấy nói:
- Chắc cô thừa biết ông Uchida nhìn cô với con mắt của nhà họa sĩ. Nhưng ông bác sĩ quan tâm đến cô vì chuyện khác. Và ông Nobu cũng thế. Cô có biết cái từ “con bướm không tổ” có nghĩa như thế nào không?
Tôi trả lời là tôi không biết điều cô vừa nói.
- Đàn ông có một thứ ..ờ.. có “con lươn” trong người họ- cô ấy nói tiếp – đàn bà không có con lươn, nhưng đàn ông thì có. Nó ở tại…
- Em biết chị nói cái gì rồi – tôi nói – nhưng em không biết nó được gọi là con lươn.
- Thực ra không phải con lươn, nhưng cứ để cho nó là con lươn cho dễ hiểu vấn đề hơn. Con lươn cả đời đi tìm cái tổ và cô có biết đàn bà có cái gì trong người họ không? Có cái hang nơi con lươn thích ở. Cái hang là nơi máu chảy ra hàng tháng khi “Mây bay qua mặt trăng”, như chúng ta thường nói.
Tôi đã lớn nên hiểu điều Mameha nói về mây bay qua mặt trăng, vì tôi đã trải qua chuyện này mấy năm nay rồi. Lần đầu tiên, tôi không thể nào không cảm thấy hoảng hốt như hỉ mũi mà thấy những miếng óc của mình dính trong khăn. Thú thật tôi sợ sắp chết đến nơi, cho đến khi bà Dì thấy tôi giặt miếng giẻ dính máu, bà ta mới giảng cho tôi hiểu rằng đàn bà thường chảy máu như thế hàng tháng.
- Chắc cô chưa hiểu về chuyện những con lươn này – Mameha nói tiếp – chúng rất cần có lãnh thổ. Khi chúng đã tìm ra cái hang chúng thích, chúng vùng vẫy trong hang một hồi để biết chắc rằng…ờ, để biết chắc rằng đấy là một cái hang đẹp, tôi đóan thế. Và khi chúng tin chắc rằng đấy là chỗ an tòan, đảm bảo, chúng làm dấu cái hang như là lãnh thổ của mình, bằng cách phun vào đấy. Cô hiểu không?
Nếu Mameha nói thẳng những điều cô ấy muốn nói, chắc thế nào tôi cũng bàng hoàng hoảng hốt, nhưng đàng này cô ấy nói dông dài, cho nên chí ít ra tôi cũng có thì giờ để chuẩn bị tư tưởng. Mấy năm sau, tôi phát hiện ra rằng những điều cô ấy giải thích cho tôi nghe chính là những điều cô ấy đã được nghe từ bà chị cả của cô ấy.
- Sau đây là phần sẽ làm cho cô thấy kỳ lạ - Mameha nói tiếp như thể nãy giờ cô toàn nói chuyện không kỳ lạ - đàn ông rất thích làm cái việc này. Quả vậy, họ rất thích. Thậm chí có những ông chẳng làm việc gì cả ngoài việc đi tìm những cái hang khác cho con lươn của họ ở. Hang của người đàn bà nào chưa có con lươn nào vào ở, thì rất có giá trị cho đàn ông, cô hiểu chứ? Chúng ta gọi trường hợp này là mizuage.
- Chúng ta gọi cái gì là mizuage?
- Lần đầu tiên hang của phụ nữ được con lươn đàn ông khám phá. Việc này chúng ta gọi là mizuage.
Thực ra thì chữ “mizu” có nghĩa là nước còn age có nghĩa là “dâng lên” hay “để vào”. Cho nên từ mizuage có nghĩa là có cái gì đấy làm cho nước dâng lên hay thả cái gì đấy vào nước. nếu anh gặp ba người geisha trong phòng, tất cả đều hiểu khác nhau về ý nghĩa của từ này. Khi nghe Mameha giảng giải xong, tôi cảm thấy hoang mang hơn nữa, nhưng tôi cố giả vờ đã hiểu hết lời cô ấy nói.
- Tôi nghĩ chắc cô đoán được lý do tại sao bác sĩ Cua thích giải trí ở Gion – Mameha nói tiếp – ông ta kiếm ra rất nhiều tiền ở bệnh viện. Ngoài số tiền ông ta để dành ra nuôi gia đình, ông dùng tiền để tìm thú hưởng mizuage. Sayuri, cô cần phải quan tâm đến chuyện này vì cô đúng là loại thiếu nữ mà ông ta thích nhất. Tôi biết chuyện này rất rõ, vì chính tôi đã trải qua chuyện này rồi.
Sau đó tôi mới hiểu ra rằng trước ngày tôi đến Gion một hay hai năm gì đấy, bác sĩ Cua đã trả một số tiền kỷ lục để mua mizuage của Mameha – có lẽ là 7000 hay 8000 yen gì đấy. Bây giờ nghe ra có vẻ không nhiều, nhưng vào thời ấy đó là một số tiền lớn. Ngay cả những người như Mẹ - người luôn luôn nghĩ đến tiền và làm sao kiếm ra tiền – chỉ thấy được một hoặc hai lần trong đời mà thôi. Mizuage của Mameha cao giá như thế là vì cô ấy nổi tiếng. Nhưng còn có lý do khác nữa, như cô ấy nói cho tôi biết vào chiều hôm ấy. Hai người đàn ông rất giàu hô giá ganh đua nhau để mua Mizuage của Mameha, một người là bác sĩ Cua, người kia là một thương gia có tên Fugikado. Thông thường đàn ông ở Gion không cạnh tranh nhau theo kiểu này, họ đã biết nhau và thích đi đến thỏa thuận về mọi việc. Nhưng Fujikado ở chỗ khác, chỉ thỉnh thoảng mới đến Gion. Nếu ông ta có làm cho bác sĩ Cua mất mặt, ông ta cũng cóc cần. Còn bác sĩ Cua thường tuyên bố ông ta là giòng dõi quý tộc, rất ghét loại người tự lập như Fujikado, mặc dù thật ra thì chính ông ta cũng là người tự lập, căn bản là như thế.
Khi Mameha và tôi đi xem đấu đô vật, cô ấy đã báo cho tôi biết Nobu rất thích tôi, cô nghĩ đến chuyện Nobu rất giống ông Fujikado, tự lập và ghê tởm những người như ông bác sĩ Cua. Với Hatsumono săn đuổi tôi khắp nơi như bà nội trợ săn đuổi gián, có lẽ tôi sẽ không trở thành người nổi tiếng như Mameha để có giá mizuage cao. Nhưng nếu hai người đàn ông này thấy tôi hấp dẫn, họ có thể thi nhau trả giá, khiến cho tôi có thể đạt được vị thế đủ tiền trang trải nợ nần, như thể tôi là geisha đã nổi tiếng bấy lâu. Đây chính là lý do khiến cho Mameha muốn làm cho “Hatsumono hổng cẳng”. Hatsumono vui mừng khi thấy Nobu thích tôi, điều mà cô ta không nhận ra được là việc Nobu thich tôi sẽ có thể nâng giá mua mizuage của tôi lên rất cao.
Rõ ràng chúng tôi phải lấy lại tình cảm của ông bác sĩ. Không có ông ta, Nobu có thể đưa giá ra mua mizuage của tôi theo ý ông muốn – nghĩa là nếu ông ta có ý quan tâm đến chuyện này. Tôi không chắc ông ta quan tâm, nhưng Mameha quả quyết rằng người đàn ông nào mà không có ý mua mizuage của một cô gái tập sự 15 tuổi, thì ông ta không đời nào quan tâm đến chuyện thắt chặt mối dây liên hệ tình cảm với cô ta hết.
- Cô hãy tin rằng không phải vì chuyện trò với nhau mà ông ta thích cô đâu – cô ấy nói.
Tôi cố giả vờ làm ra vẻ tôi không cảm thấy đau đớn khi nghe cô ấy nói như thế.

Chuong 20

Sau này tôi thấy cuộc nói chuyện của tôi với Mameha đã đánh dấu sự chuyển biến của tôi trong quan niệm cuộc đời. Trước đó tôi không biết gì về mizuage hết, tôi vẫn là cô gái thơ ngây, biết việc đời rất ít. Nhưng sau đó tôi biết một người như bác sĩ Cua muốn gì với số thời gian và tiền bạc ông ta có. Khi người ta biết chuyện này rồi, người ta không thể không tìm hiểu vấn đề. Tôi không nghĩ về ông ta như trước nữa.
Đêm đó sau khi trở về nhà kỹ nữ, tôi ngồi đợi Hatsumono và Bí Ngô đi lên cầu thang. Khoảng một giờ sáng hai người mới về. Nhìn cách Bí Ngô chống hai tay trên cầu thang mà đi, tôi biết cô ta mệt, vì thỉnh thoảng cô ta lên thang lầu bằng bốn chân như chó. Trước khi đóng cửa phòng, Hatsumono sai một chị hầu đem lên cho cô ta ly bia.
- Khoan, đợi một chút - cô ta nói – mang lên cho tôi hai ly bia. Tôi muốn Bí Ngô cũng uống với tôi.
- Thôi chị Hatsumono – tôi nghe Bí Ngô nói – em thích uống nước lạnh hơn.
- Cô sẽ đọc to cho tôi nghe trong khi tôi uống bia, cho nên cô cũng phải có một ly. Ngoài ra tôi rất ghét những người quá điều độ. Trông nhức con mắt lắm.
Sau đó chị hầu đi xuống cầu thang. Lát sau chị đi lên, tôi nghe tiếng ly va vào nhau trên khay kêu leng keng. Tôi ngồi dán tai vào cửa phòng tôi một hồi lâu, lắng nghe giọng Bí Ngô đọc một đọan bài viết về người diễn viên mới trong đoàn kịch Kabuki. Sau cùng Hatsumono đi ra hành lang, mở cửa phòng vệ sinh trên lầu.
- Bí Ngô này – tôi nghe cô ta nói – cô có thích ăn mì sợi không?
- Không, thưa chị.
- Nhờ cô tìm mua giúp tôi một tô. Và cô cũng ăn một tô để thức cùng với tôi cho có bạn.
Bí Ngô thở dài đi xuống cầu thang. Tôi đợi cho Hatsumono vào phòng rồi lẻn theo. Nếu Bí Ngô không mệt, chắc tôi sẽ không đuổi kịp cô ta. Cô ta có vẻ hoảng hốt khi trong thấy tôi và hỏi tôi tìm gặp cô ta để làm gì.
- Chẳng có chuyện gì quan trọng – tôi đáp - ngọai trừ tôi nhờ bạn giúp cho tôi một việc…
- Ô Chiyo – cô ta nói với tôi –tôi nghĩ cô ta là người duy nhất còn gọi tôi là Chiyo – mình không có thì giờ, mình phải đi mua mì sợi cho Hatsumono!
- Bí Ngô, cô tội nghiệp quá! – tôi nói và Bí Ngô giống như nước đá bắt đầu tan, mặt cô ta xịu xuống vì mệt mỏi, cái áo kimono nặng nề như muốn lôi cô ta nhào xuống đất. Tôi bảo cô ta tìm chỗ ngồi nghỉ, tôi đi mua mì sợi cho. Cô ta quá mệt nên không từ chối, bèn đưa tiền cho tôi rồi đến ngồi bên chiếc ghế dài bên bờ suối Shirakawa.
Tôi phải tìm một hồi mới thấy cái xe bán rong mì sợi, tôi mua hai tô mì nóng hổi khói bốc lên nghi ngút. Bí Ngô tựa đầu ra lưng ghế ngủ ngon lành, miệng hé ra như hy vọng hứng được nước mưa. Đã gần hai giờ sáng mà vẫn còn vài người đi chơi. Một tốp đàn ông nhìn thấy Bí Ngô, có lẽ họ cho đây là cảnh buồn cười nhất họ thấy trong nhiều tuần nay – và tôi xác nhận cảnh cô geisha tập sự ngồi ngủ trên ghế đá như thế này quả là kỳ cục.
Khi tôi để hai tô mì sợi xuống bên cạnh Bí Ngô, nhẹ nhàng đánh thức cô ta dậy rồi nói:
- Bí Ngô mình muốn yêu cầu bạn giúp mình một việc…nhưng mình sợ bạn không vui khi nghe chuyện này.
- Không thành vấn đề - cô ta đáp ngay – chẳng có chuyện gì làm cho mình vui hơn.
- Khi Hatsumono nói chuyện với ông bác sĩ tối nay, bạn có mặt trong phòng. Mình nghĩ câu chuyện này có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của mình. Chắc Hatsumono đã bày chuyện nói xấu mình với ông bác sĩ, vì bây giờ ông ta không muốn thấy mình nữa.
Vì quá ghét Hatsumono, vì quá muốn biết tối nay cô ta đã nói gì với ông bác sĩ, nên tôi cảm thấy ân hận đã khơi chuyện này lên với Bí Ngô. Cô ta có vẻ đau đớn khi nghe tôi nói, tôi nghĩ chỉ một chuyện nhỏ nhặt thôi cũng đủ làm cô ta đau khổ nhiều. Nước mắt trào ra trên mặt cô như thể chúng đã nằm chực sẵn đấy từ lâu.
- Chiyo, mình không biết – cô ta nói, đưa tay ra moi chiếc khăn trong thắt lưng – mình không rõ chuyện gì hết!
- Chắc bạn nhớ Hatsumono nói chuyện gì chứ? Có ai nữa biết chuyện đó không?
- Không có. Thật mình không biết có ai độc ác như thế! Mình không biết chuyện ấy. Cô ta làm mọi việc chỉ để làm cho người khác đau khổ mà thôi. Và điều bậy nhất là cô ta nghĩ rằng mình khâm phục cô ta và muốn được như cô ta. Nhưng mình ghét cô ta! Chưa bao giờ mình ghét ai như ghét cô ta!
Chiếc khăn tay màu vàng của Bí Ngô lấm đồ hóa trang trắng hếu. Nếu mới đây cô ta là thỏi nước đá bắt đầu tan thì bây giờ cô ta là vũng bùn.
- Bí Ngô làm ơn nghe mình nói – tôi nói – nếu mình có ai khác để hỏi chắc mình đã không hỏi bạn chuyện này đâu. Mình không muốn trở lại làm kẻ tôi tớ suốt đời, và nếu Hatsumono có cách hại mình, thì mình sẽ như thế đấy. Cô ta sẽ không bao giờ dừng tay lại cho đến khi mình trở thành con gián dưới chân cô ta! Nếu bạn không giúp mình chạy thoát được, mình sẽ bị cô ta chà đạp cho nát bét!
Bí Ngô cho đây là chuyện tức cười, cho nên cả hai chúng tôi đều phá ra cười. Trong khi cô ấy vừa khóc vừa cười, tôi lấy cái khăn tay lau mặt cho cô ấy. tôi cảm thấy quá xúc động khi thấy lại Bí Ngô trước đây, Bí Ngô đã từng là bạn của tôi nên mắt tôi cũng bắt đầu rướm lệ và bỗng hai chúng tôi ôm ghì lấy nhau.
- Ôi Bí Ngô, mặt hóa trang của bạn bị nhòe hết rồi! – sau cùng tôi lên tiếng.
- Không sao, mình sẽ nói với Hatsumono rằng có thằng say gặp mình giữa đường, hắn lấy khăn lau lên mặt mình mà mình không làm gì được vì hai tay phải bưng hai tô mì.
Tôi tưởng cô ta sẽ không nói gì nữa nhưng rồi cô ta cất tiếng thở dài và nói tiếp:
- Chiyo, mình muốn giúp bạn, nhưng mình đi ra ngoài lâu quá rồi. Nếu mình không về ngay, thế nào Hatsumono cũng đi tìm. Khi ấy cô ta sẽ thấy hai đứa mình.
- Mình chỉ hỏi bạn vài câu thôi, Bí Ngô à. Bạn chỉ nói cho mình biết làm sao Hatsumono biết được mình đang mua vui cho ông bác sĩ ở phòng trà Shirae.
- Ồ dễ thôi – Bí Ngô đáp – cô ấy đã nói khích bạn về chuyện ông Đại sứ Đức cách đây mây ngày, nhưng bạn không tỏ vẻ gì quan tâm đến chuyện ấy, trông bạn có vẻ bình tĩng nên cô ta nghĩ bạn và Mameha đang có kế hoạch gì đấy. Cho nên cô ta đến gặp ông Awajiuma ở phòng đăng ký, hỏi ông ta bạn ghi hóa đơn tính tiền ở phòng trà nào. Khi cô ta nghe trong số các phòng trà bạn lui tới, có hóa đơn phòng trà Shirae, cô ta nghi liền. Thế là chúng tôi đến gặp tìm ông bác sĩ ngay đêm ấy. Chúng tôi đến hai lần mới gặp ông ta.
Ít có nhân vật quan trọng nào bảo trợ cho phòng trà Shirae. Cho nên Hatsumono nghĩ ngay đến bác sĩ Cua. Sau này tôi mới biết ông ta nổi tiếng là người “chuyên mua trinh con gái”. Ngay khi Hatsumono nghĩ đến ông ta, có lẽ cô ta biết được kế họach của Mameha ra sao.
- Tối nay cô ta đã nói gì với ông ấy? khi chúng tôi ghé đến gặp ông ta, vừa lúc bạn và cô ta ra về, ông ta không muốn nói chuyện với chúng tôi.
- Hai người nói chuyện gẫu một lát, rồi Hatsumono giả vờ sực nhớ một chuyện gì đấy. Thế là cô ta kể ra “có một geisha tập sự ở cùng nhà với tôi tên là Sayuri..”, khi ông bác sĩ nghe đến tên bạn, bạn biết không, ông ta ngồi sững như bị ong đốt. Rồi ông ta hỏi “cô biết cô ấy à?’ Thế là Hatsumono đáp liền “biết chứ , dĩ nhiên là tôi biết chứ, thưa bác sĩ. Cô ta ở cùng nhà kỹ nữ với tôi mà” Sau đó cô ta nói cái gì đấy mà mình không nhớ hết, nhưng chỉ nhớ vài câu như thế này “tôi không nên nói về Sayuri, thú thực với ông, tôi phải giữ kín chuyện bí mật cho cô ta.”
Tôi lạnh người khi nghe như thế. Tôi biết Hatsumono có tài bịa đặt nhiều chuyện rất độc ác.
- Bí Ngô, chuyện bí mật gì thế?
- Ồ, mình không biết chuyện này, mà hình như cũng không có. Hatsumono nói với ông ta rằng có một thanh niên ở gần nhà chúng ta, là bạn trai của bạn mà Mẹ rất nghiêm khắc về việc này. Hatsumono nói bạn và chàng trai này thương nhau, và cô ta cương quyết bao che cho bạn vì Mẹ quá nghêm khắc. Cô ta còn nói cô ta để cho hai người vào tình tứ với nhau ngay trong phòng cô ta mỗi khi Mẹ đi khỏi. Rồi cô ta nói như thế này “Ồ, mà thưa bác sĩ, đáng ra tôi không nên nói chuyện này ra với ông!” Nhưng ông ta đã trả lời rằng ông ta cám ơn Hatsumono về chuyện cô ta vừa nói, và ông hứa sẽ giữ kín, chỉ mình ông ta biết mà thôi.
Khi ấy tôi đã hình dung ra sự sung sướng của Hatsumono sau khi đã thực hiện xong mưu mô của mình. Tôi hỏi Bí Ngô còn có chuyện gì nữa không, nhưng cô ta bảo là không.
Tôi cám ơn cô ta nhiều lần vì đã giúp đỡ tôi, và tôi nói rất buồn khi thấy trong mấy năm vừa qua, cô ta như là kẻ nô lệ cho Hatsumono.
- Mình thấy có vài dấu hiệu đáng mừng cho mình – Bí Ngô trả lời – mới cách đây mấy hôm, Mẹ có ý định nhận mình làm con. Cho nên giấc mơ có nơi để sống đến hết đời của mình có thể thành hiện thực.
Tôi cảm thấy đau đớn khi nghe cô ta nói như thế, mặc dù tôi nói tôi rất mừng cho cô ta. Quả tôi mừng cho Bí Ngô thôi, nhưng tôi nghĩ kế hoạch của Mameha có tầm rất quan trọng là để cho Mẹ nhận tôi làm con.
Ngày hôm sau khi đến nhà Mameha, tôi kể cho cô ta nghe chuyện tôi đã biết, khi nghe chuyện về anh chàng bạn trai, cô ta lắc đầu ghê tởm. Tôi biết cô ta nghĩ cái gì rồi, nhưng cô ấy vẫn nói cho tôi nghe rằng Hatsumono đã khôn ngoan làm cho bác sĩ Cua tin rằng “cái hang” của tôi đã có “con lươn” của người khác khám phá rồi.
Mameha còn chán nản khi nghe Bí Ngô sắp được nhận làm con. Cô ấy nói:
- Nhưng còn mấy tháng nữa mới đến ngày nhận làm con xảy ra. Nghĩa là ta phải tính đến chuyện mizuage của cô, Sayuri à, dù cô có chuẩn bị sẵn sàng hay chưa.
Ngay trong tuần ấy, Mameha đến tiệm bánh kẹo đặt làm cho tôi một cái bánh ngọt bằng bột gạo có tên là ekubo, nghĩa là núm đồng tiền. Nhúng tôi gọi là ekubo là vì trên đầu bánh có cái núm đồng tiền và ở giữa có cái vòng tròn màu đỏ nho nhỏ, có người cho rằng hình này trông thật khêu gợi. Tôi thường nghĩ bánh này trông giống như những chiếc gối nhỏ, có lõm xuống một tí, như thể người phụ nữ vừa kê mặt lên đó mà ngủ đã để dính một tí son môi vào gối, vì trước khi đi ngủ, cô ta mệt quá mà không lau mặt được. Nhưng dù sao thì khi người geisha tập sự đến tuổi mizuage, họ đều phải tặng quà bằng bánh ekubo này cho những người đàn ông bảo trợ cho họ. Hầu hết các cô tập sự đều tặng bánh cho ít ra cũng đến hàng chục ông, có lẽ còn nhiều hơn nữa, nhưng với tôi, có lẽ tặng cho ông Nobu và ông bác sĩ Cua là đủ - nếu chúng tôi may mắn. Tôi cảm thấy buồn vì không gởi cho ông Chủ tịch, nhưng nếu gởi cho ông ta, tôi thấy việc này đáng tởm quá, cho nên tôi không buồn lắm khi gạt tên ông ra ngoài danh sách.
Tặng bánh ekubo cho Nobu dễ dàng. Bà chủ phòng trà Ichiriki thu xếp cho ông ta đến vào ban đêm, rồi Mameha và tôi gặp ông trong một căn phòng nhỏ nhìn ra sân trước. Tôi cảm ơn ông ta vì đã lưu tâm nhiều đến tôi, không những thường gọi tôi đến giúp vui ở các buổi tiệc ngay cả khi không có ông Chủ tịch, mà còn cho tôi rất nhiều quà ngoài cái lược cài tóc vào đêm có Hatsumono đến. Sau khi cám ơn ông ta, tôi lấy cái hộp bánh ekubo lên, hộp được gói trong giấy dày màu xám và buộc dây bện. Tôi cúi chào ông và đẩy cái hộp qua bàn cho ông. Ông nhận món quà, Mameha và tôi cám ơn ông ta nhiều lần về lòng tốt của ông, cúi chào nhiều lần cho đến khi tôi choáng váng. Nghi thức gọn nhẹ và Nobu cầm món quà trên một tay, đi ra khỏi phòng. Sau đó khi tôi hầu vui ở buổi tiệc của ông, ông không đá động gì đến chuyện này. Tôi nghĩ chắc chuyện này đã làm cho ông ta bất ổn trong lòng.
Còn bác sĩ Cua thì nhiều khó khăn hơn. Mameha phải đến khắp các phòng trà ở Gion để nhờ các bà chủ ở đấy, khi nào thấy ông ta xuất hiện thì báo cho cô ấy biết. có thể đợi mấy đêm mớii có tin nhắn cho biết ông ta đang có mặt ở phòng trà Yshino, đóng vai khách của một ông khác. Tôi chạy đến nhà của Mameha để thay áo quần rồi đem hộp bánh đến phòng trà Yashiro, hộp ekubo được gói trong một tấm lụa vuông.
Phòng trà Yashino mới xây cất rất đẹp, hoàn toàn theo kiểu phương Tây. Phòng ốc mới tân kỳ, xà gỗ màu đen sẫm và các thứ khác đều đẹp đẽ, nhưng thay vì trải chiếu rơm quanh bàn lót nệm, thì cái phòng tôi được đưa vào tối đó có nền nhà lát gỗ cứng, trải thảm Ba tư màu đen, bàn xa lông với vài cái ghế bọc nệm. Tôi nghĩ là ngồi trên ghế chắc không hợp cho tôi, cho nên tôi quỳ trên thảm để đợi Mameha, mặc dù nền nhà dưới đầu gối tôi cứng như đá. Tôi quỳ như thế suốt nửa giờ mới thấy cô ấy quay trở lại.
- Cô làm cái gì thế? – cô ấy nói với tôi – phòng này không phải phòng kiểu Nhật, cứ ngồi trên ghế tự nhiên đi.
Tôi làm theo lời của Mameha, nhưng khi cô ấy ngồi xuống trước mặt tôi, trông cô ấy có vẻ bất an như tôi.
Tôi nghe cô ấy cho biết ông bác sĩ đang dự tiệc ở phòng bên cạnh. Mameha phục vụ mua vui cho ông ta một lát rồi. Cô ấy nói với tôi:
- Tôi đã rót cho ông ta uống nhiều bia, thế nào ông ta cũng phải đi vệ sinh. Khi nào ông ta đi, tôi sẽ chặn ông ta ở ngoài hành lang và mời ông ta lại đây. Cô phải trao bánh ekubo cho ông ta ngay. Tôi không biết ông ta sẽ phản ứng ra sao, nhưng chúng ta chỉ còn hy vọng có cơ may để phá hỏng kế hoạch gian ác của Hatsumono mà thôi.
Mameha đi ra, tôi ngồi trên ghế đợi một hồi lâu. Tôi thấy nóng và căng thẳng. Tôi sợ lớp hóa trang của tôi sẽ thành một đống hổ lốn nhem nhuốc và nhàu nhò như cái nệm sau một đêm ngủ dậy. Tôi tìm trong phòng xem có cái gì để giải trí không, nhưng thứ tốt nhất trong phòng xem ra có thể để giải trí là đến soi mặt vào trong tấm gương nhỏ treo trên tường.
Sau cùng tôi nghe có tiếng người, rồi có tiếng gõ cửa và Mameha mở cửa ra:
- Một lát thôi, thưa bác sĩ, xin bác sĩ vui lòng – cô ấy nói.
Tôi thấy bác sĩ Cua đứng trong hành lang lờ mờ tối, vẻ mặt nghiêm trọng như các bức tranh cổ người ta thường thấy trong các hành lang ở các ngân hàng. Ông ta nhìn tôi qua cặp kính đeo mắt. Tôi không biết phải làm gì, mọi khi tôi cúi người trên chiếu để chào, cho nên tôi quỳ xuống thảm để chào như trước, mặc dù tôi tin chắc Mameha sẽ không hài lòng việc tôi làm. Tôi không biết ông bác sĩ có nhìn tôi không, nhưng tôi nghe ông ta nói:
- Tôi muốn về lại buổi tiệc, xin cô tha lỗi cho tôi.
- Sayuri có mang đến cho ông một món quà – Mameha nói với ông – xin ông vui lòng đợi cho một lát thôi.
Cô ấy mời ông ta vào phòng và mời ngồi vào trong chiếc ghế bành êm ái. Mời xong, tôi thấy cô ấy quên phứt chuyện cô ấy nói với tôi hồi nãy, vì hai chúng tôi đều qùy trên thảm, mỗi người một bên đầu gối ông bác sĩ Cua. Tôi nghĩ ông bác sĩ hẳn hãnh diện lắm vì có hai người đàn bà ăn mặc đẹp đẽ đang qùy bên chân ông ta như thế.
- Em rất buồn không gặp được ông nhiều ngày rồi – tôi nói – mà thời tiết thì đã ấm áp. Em thấy mùa lạnh sắp hết đến nơi rồi đó.
Ông bác sĩ không đáp nhưng đã nhìn lại tôi.
- Xin bác sĩ vui lòng nhận bán ekubo của em – tôi nói và sau khi cúi chào, tôi để hộp bánh trên bàn gần tay của ông ta,. Ông thụt tay vào lòng như muốn nói rằng ông ta không muốn nhận.
- Tại sao cô biếu tôi đồ này?
Mameha nói chen vào:
- Tôi xin lỗi, thưa bác sĩ. Tôi thuyết phục cho Sayuri tin rằng ông sẽ vui lòng nhận bán ekubo của cô ta. Hy vọng tôi không lầm chứ?
- Cô lầm rồi. Có lẽ cô không biết hết cô gái này như cô tưởng đâu. Cô Mameha, tôi đánh giá cô cao, nhưng cô đã sai lầm khi giới thiệu cô gái này cho tôi.
- Xin lỗi bác sĩ, tôi không hiểu tại sao ông nói thế. Tôi hoàn toàn có linh cảm là ông rất thích Sayuri.
- Đúng là rất thích. Nhưng bây giờ thì mọi việc rõ ràng rồi, tôi phải về dự tiệc lại thôi.
- Nhưng xin phép ông được không? Có thể Sayuri đã xúc phạm đến ông chăng? Mọi việc thay đổi một cách quá bất ngờ.
- Cô ta đã xúc phạm đến tôi, như tôi đã nói rồi, tôi bị xúc phạm vì người ta đã lừa dối tôi.
- Cô Sayuri, thật xấu hổ là cô đã lừa dối bác sĩ- Mameha nói với tôi – cô đã nói với bác sĩ điều gì không đúng sự thật rồi. chuyện gì thế?
- Em không biết – tôi trả lời ra vẻ thơ ngây – trừ phi cách đây mấy tuần em có nói là trời đang bắt đầu ấm áp mà không đúng…
Mameha nhìn tôi như thể cô ấy không thích câu nói của tôi.
- Đây là chuyện liên quan giữa hai người với nhau – ông bác sĩ lên tiếng – không dính dáng gì đến tôi, xin tha lỗi cho tôi.
- Nhưng thưa bác sĩ – Mameha nói – trước khi ông đi, xin phép ông cho biết, có thể có sự hiểu lầm gì ở đây? Sayuri là cô gái chân thật, mọi người đều biết không bao giờ cô ấy lừa dối ai hết. Nhất là người đã đối xử tử tế với cô ấy.
- Tôi yêu cầu cô hỏi cô ấy về anh chàng hàng xóm của cô ấy thì biết – ông bác sĩ nói.
Tôi rất nhẹ người khi thấy cuối cùng ông ta đã nêu vấn đề chính ra. Ông ta là người kín đáo, nếu ông ta không chịu nói chuyện này ra, thì tôi cũng sẽ không ngạc nhiên.
- Thì ra chuyện rắc rối là thế - Mameha nói với ông ta – chắc ông đã có nói chuyện với Hatsumono rồi.
- Nói chuyện với cô ấy thì có sao đâu?
- Cô ấy phao tin này khắp cả Gion. Tin này hoàn toàn bịa đặt. Kể từ khi Sayuri được giao cho một vai quan trọng trên sân khấu trong vũ khúc cố đô thì Hatsumono ra sức bêu riếu cô ta.
Vũ khúc cố đô là vở múa hàng năm trọng đại nhất ở Gion. Buổi múa sẽ tổ chức vào đầu tháng tư. Các vai múa đã được phân bố trước đây mấy tháng rồi, và tôi rất hân hạnh được chọn đóng một vai. Một cô giáo của tôi đã cho tôi biết rồi, nhưng theo chỗ tôi biết, thì vai của tôi chỉ ở trong chỗ ban nhạc, chứ không lên sân khấu. Mameha nói thế để nhấn mạnh đến ý đồ xấu của Hatsumono.
- Thưa bác sĩ, tôi không muốn nói đến chuyện này, nhưng quả thật Hatsumono là người nói láo nổi tiếng – Mameha nói tiếp – tin vào điều cô ta nói thật nguy hiểm.
- Nếu Hatsumono là người nói láo, thì đây là lần đầu tôi nghe nói như vậy.
- Không ai muốn nói cho ông biết chuyện như thế đâu – Mameha đáp, giọng nho nhỏ như thể cô ấy sợ có ai nghe – rất nhiều geisha không thành thật. Không ai muốn mình là người đầu tiên lên tiếng tố cáo cô ta là người nói láo cả. Nhưng hoặc là tôi đang nói láo với ông hoặc là Hatsumono đã nói láo khi cô ta kể câu chuyện ấy cho ông nghe. Thưa bác sĩ, đây là vấn đề của ông phải quyết định giữa hai chúng tôi ai là người ông biết rõ hơn, và trong hai chúng tôi ai là người được ông tin tưởng hơn.
- Tôi không hiểu tại sao Hatsumono lại bày trò nói xấu Sayuri chỉ vì cô ấy có vai trên sân khấu?
- Chắc ông đã gặp cô em út của Hatsumono rồi, cô Bí Ngô. Hatsumono hy vọng cô Bí Ngô sẽ có vai trong vở múa, nhưng kết quả lại là Sayuri. Còn tôi thì được giao cho vai mà Hatsumono mong muốn! Nhưng thưa bác sĩ, chuyện này không thành vấn đề. Nếu sự thành thật của Sayuri đáng nghi ngờ, tôi rất thông cảm chuyện ông không nhận bánh ekubo do cô ấy tặng cho ông.
Ông bác sĩ ngồi nhìn tôi một hồi lâu. Cuối cùng ông nói:
- Tôi sẽ cho một bác sĩ ở bệnh viện tôi đến khám cho cô ấy.
- Tôi hoàn tòan ủng hộ việc này – Mameha đáp – nhưng tôi rất khó thu xếp để làm việc này, vì ông chưa bằng lòng làm người bảo trợ mizuage cho cô ấy. Nếu ông còn nghi ngờ tính chân thật của cô ta..mà thôi, Sayuri sẽ gởi bánh ekubo cho nhiều người. Tôi tin chắc hầu hết đều không tin câu chuyện do Hatsumono dựng lên.
Câu nói hình như đã có tác dụng tốt như Mameha mong muốn. Bác sĩ Cua ngồi im lặng một lát. Cuối cùng ông ta nói:
- Tôi không biết phải tính sao đây. Đây là lần đầu tiên tôi lâm vào một hoàn cảnh đặc biệt như thế này.
- Thưa bác sĩ, xin ông vui lòng nhận bánh ekubo và quên chuyện điên khùng của Hatsumono đi.
- Tôi thường nghe có nhiều cô gian xảo thu xếp chuyện mizuage trúng vào thời gian có kinh, lúc ấy đàn ông dễ bị nhầm lẫn. Tôi là bác sĩ, chắc cô biết. Tôi sẽ không để cho cô qua mặt dễ dàng đâu!
- Nhưng không ai muốn qua mặt ông hết!
Ông ta ngồi một lát nữa rồi đứng dậy, hai vai co lại để đi, một khủy tay chìa tới trước, ông bước ra khỏi phòng. Tôi quá bận cúi chào tạm biệt đến nỗi tôi không biết ông ta có lấy hộp bánh hay không, nhưng may thay, sau khi ông ta và Mameha đi rồi, tôi nhìn vào bàn, thấy bánh không còn ở đấy nữa.
Khi Mameha nêu ra vai trò của tôi trên sân khấu, tôi cứ nghĩ cô ấy bày chuyện ra để giải thích lý do tại sao Hatsumono đặt điều nói láo về tôi. Cho nên chắc anh biết tôi quá đỗi ngạc nhiên khi vào ngày hôm sau tôi biết chuyện cô ấy nói là có thật. Hay nếu chuyện không đúng, thì chắc Mameha đã tin tưởng chuyện ấy sẽ thành hiện thực vào cuối tuần.
Thời ấy, vào giữa thập niên 30, ở Gion lúc đó có khoảng bảy hay tám trăm geisha, nhưng vì số geisha được chọn để đóng các vai trong vở Vũ khúc cố đô để diễn vào mùa xuân, có không quá 60 người, nên mọi người ganh đua nhau để có được một vai, khiến cho nhiều tình bạn bị sứt mẻ. Khi Mameha nói cô ấy chiếm vai của Hatsumono là cô nói không đúng, cô ấy là một trong vài geisha ít ỏi ở Gion được đảm bảo thủ vai một mình hàng năm. Nhưng chuyện Hatsumono rất muốn thấy Bí Ngô lên sân khấu là chuyện hòan toàn có thật. Tôi không biết cô ta căn cứ vào đâu mà nghĩ ra chuyện như thế có thể xảy ra được. Bí Ngô có thể có phần thưởng của geisha tập sự và ngoài ra còn nhận được nhiều vinh dự khác nữa, nhưng cô ta không có tài múa. Tuy nhiên mấy ngày trước ngày tôi tặng bánh ekubo cho ông bác sĩ, một cô tập sự 17 tuổi thủ vai diễn một mình đã bị trượt chân ở cầu thang té gãy chân. Cô gái tội nghiệp bị loại, và các cô tập sự khác ở Gion đều hy vọng được thay thế. Cuối cùng chính vai này được rơi vào tay tôi. Lúc ấy tôi mới 15 tuổi và trước đó chưa bao múa trên sân khấu, nói thế không có nghĩa là tôi không chuẩn bị để múa. Nhiều đêm tôi ở nhà và bà Dì thường đánh đàn Shamisen để tôi thực tập múa. Vì thế tôi đã được xếp thứ 11 vào năm 15 tuổi, mặc dù có lẽ tôi không có tài múa như các vũ công khác. Nếu Mameha không bảo tôi ở nhà vì sợ Hatsumono theo đuổi quấy phá mà được ra mắt công chúng nhiều, có lẽ tôi đã có vai trong các vở múa vào mùa xuân năm trước rồi.
Vai này giao cho tôi vào giữa tháng ba, cho nên tôi chỉ có chừng một tháng để diễn tập. May thay, cô giáo của tôi rất tận tâm, thường làm việc riêng với tôi suốt các buổi chiều. bà Mẹ không biết chuyện gì xảy ra hết – có lẽ Hatsumono không nói cho bà biết – cho đến nhiều ngày sau đó, khi bà nghe người ta nói trong một buổi đánh mạt chược. Bà quay về nhà, hỏi có phải tôi được giao cho vai ấy không. Sau khi nghe tôi trả lời, bà ta đã quay đi với ánh mắt kinh ngạc như bà đã bắt gặp con chó Taku ghi thêm nhiều cột nợ trong sổ kế toán của bà.
Dĩ nhiên Hatsumono rất tức giận, nhưng Mameha không quan tâm đến việc này. Thời gian để chúng tôi hất cẳng Hatsumono ra khỏi sợi dây trên võ đài đã đến, như cô ấy đã định.

Chuong 21

Khoảng một tuần sau vào buổi xế chiều, trong giờ giải lao của buổi diễn tập, Mameha đến tìm tôi, trông cô ấy nôn nóng muốn nói về chuyện gì đấy. Tôi biết vào ngày hôm trước, ông Nam tước bất thần nó cho cô ấy biết ông muốn tổ chức một buổi tiệc vào cuối tuần sắp đến để chiêu đãi một ông thợ may áo kimono nào đấy tên là Arashino. Ông Nam tước có rất nhiều áo kimono đẹp nổi tiếng khắp nước! Hầu hết số áo của ông đều xưa, nhưng thỉnh thoảng ông mua một cái rất đẹp do một họa sĩ trang trí. Quyết định mua cái áo của Arashino khiến cho ông có ý định mở buổi tiệc chiêu đãi.
- Chắc tôi biết cái người tên Arashino này - Mameha nói với tôi – nhưng khi nghe ông Nam tước nói, tôi không nhớ ra cụ thể. Ông ta là một trong số bạn thân nhất của Nobu. Cô không thấy đây là một dịp tốt hay sao? Tôi sẽ thuyết phục Nam tước mời cả Nobu và ông bác sĩ đến dự buổi tiệc nhỏ này. Hai người chắc chắn không ưa nhau. Khi việc hô giá về chuyện mizuage của cô bắt đầu, cô sẽ thấy họ không ngồi yên đâu, vì người này sợ người kia ra giá cao hơn.
Tôi cảm thấy mệt nhưng vì Mameha mà tôi làm ra vẻ phấn khởi và cám ơn cô ấy hết lời, vì cô ấy đã nghĩ ra được kế hoạch hay ho như vậy. Và tôi nghĩ đây là kế hoạch hay ho thật, nhưng điều hay ho rõ ràng nhất là cô ấy tin chắc cô không gặp khó khăn gì trong việc thuyết phục ông Nam tước mờI hai người đàn ông này đến dự tiệc. Rõ ràng hai người này sẽ bằng lòng đến - trường hợp của ông Nobu vì ông Nam tước là nhà đầu tư ở công ty đồ điện Iwamura, còn trường hợp của ông bác sĩ Cua thì vì…ờ phải, vì ông bác sĩ tự xem mình là người thuộc giai cấp quý tộc, mặc dù ông có một vị tổ tiên không chắc có dòng máu quý tộc, và chắc ông ta xem việc này là bổn phận của một người quý tộc đến dự tiệc do ông Nam tước mời. Còn chuyện ông Nam tước có muốn mờI họ hay không thì tôi không biết. Ông ta không ưa ông Nobu, rất ít người ưa ông ta. Còn phần ông bác sĩ Cua, ông Nam tước chưa bao giờ gặp ông ta lần nào, và xem như ông mời một người xa lạ.
Nhưng Mameha rất có tài thuyết phục, tôi biết rất rõ. Buổi tiệc đã được thu xếp, cô ấy tin cô giáo dạy múa của tôi sẽ cho tôi nghỉ diễn tập vào ngày thứ bảy sắp tới để tôi có thể đến dự. Buổi tiệc bắt đầu vào buổi chiều và kéo dài qua buổI ăn tối – nhưng tôi và Mameha đến lúc buổi tiệc đang diễn tiến. Cho nên chúng tôi đã lên xe kéo lúc ba giờ để đến dinh cơ của ông Nam tước tọa lạc dưới chân đồi nằm phía Đông Bắc của thành phố. Đây là lần đầu tiên tôi đến một chỗ sang trọng như thế này, và tôi đã hoàn toàn choáng ngợp trước những gì tôi thấy, vì bất cứ cái gì ở đây cũng gợi lên cho nhà nghệ sĩ những chi tiết để họ sáng tạo ra áo kimono. Ngôi nhà chính xây theo kiểu thời ông nội của ông ta, nhưng các khu vườn, những khu vườn làm cho tôi sửng sốt vì trông giống các bức thảm thêu khổng lồ, được bố ông ta tạo mẫu thiết kế xây dựng. Ngôi nhà và các khu vườn không ăn khớp vườn nhau cho đến khi người anh cả của ông Nam tước đã di chuyển vị trí cái hồ đi - trước khi ông ta bị ám sát một năm - lại còn thiết lập một vườn hoa có đường đi lát đá chạy từ lầu vọng nguyệt nằm ở một bên nhà. Những con thiên nga đen lướt trên mặt hồ với vẻ hiếu kỳ, làm cho tôi cảm thấy xấu hổ vì đã sinh ra làm phận con người vụng về xấu xí như thế này.
Chúng tôi phải chuẩn bị buổi uống trà theo nghi thức cổ truyền để các ông đến dự khi họ đã chuẩn bị sẵn sàng, cho nên tôi rất bàng hoàng kinh ngạc khi chúng tôi đi qua cổng chính rồi đến nơi uống trà, nhưng không phải là phòng trà bình thường. Mà đi thẳng đến bờ hồ để lên một chiếc thuyền nhỏ. Thuyền rộng bằng một cái phòng nhỏ. Chỗ ngồi hầu hết bằng gỗ sắp dọc hai bên mạn thuyền, nhưng ở một đầu thuyền nhô lên một cái lều nhỏ có mái riêng che một cái bệ trảI chiếu rơm. Vách lều làm bằng màn giấy có thể đẩy mở ra cho thoáng khí, và ngay giữa lều có một cái hộc gỗ hình vuông đổ đầy cát, cái hộc này xem như cái lò than để Mameha đốt than nấu nước trong một cái ấm trà bằng sắt rất đẹp. Trong khi cô ấy làm việc này, tôi cũng tỏ ra mình là người hữu dụng bằng cách sắp xếp các dụng cụ dùng cho nghi lễ. Tôi đang cảm thấy lo lo trong lòng, bỗng Mameha quay qua phía tôi sau khi đã bắc ấm nước lên lò lửa và nói:
- Sayuri, cô là người thông minh. Tôi không cần nói đến tương lai của cô ra sao nếu ông bác sĩ Cua hay ông Nobu không quan tâm đến cô. Cô không được để cho người này nghĩ là cô để ý đến người kia. Nhưng dĩ nhiên ghen tuông là sự thường tình. Tôi tin chắc cô xoay sở được việc này.
Tôi không biết sao, nhưng tôi hiểu là tôi phải cố gắng. Nửa giờ sau, ông Nam tước và khoảng 10 người khác đi ra khỏi nhà, chốc chốc dừng lại để ngắm cảnh sườn đồi từ nhiều góc cạnh khác nhau. Khi họ lên thuyền, ông Nam tước dùng sào đưa thuyền ra giữa hồ. Mameha pha trà, còn tôi đem tách ra để trước mặt các quan khách.
Sau đó, chúng tôi đi qua vườn với các ông, rồi lát sau đến một cái bệ gỗ treo lơ lửng trên mặt nước, ở trên bệ, các cô hầu mặc kimono giống nhau sắp nệm cho các ông ngồi, và để những chai rượu sake đã hâm ấm trên khay. Tôi tìm chỗ quỳ bên cạnh bác sĩ Cua, và đang loay hoay tìm câu chuyện gì để nói với ông ta, thì ông bác sĩ quay qua nhìn tôi và hỏi:
- Vết rách trên đùi của cô lành có đẹp không?
Anh biết, khi ấy là tháng ba, mà lúc tôi bị cắt chân là vào tháng 11 năm trước. Thời gian đã qua nhiều tháng rồi, tôi đã gặp bác sĩ Cua không biết bao nhiêu lần rồi, cho nên tôi không biết tại sao ông ta đợi đến lúc ấy mới hỏi tôi về vết cắt, và hỏi trước mặt nhiều người. May thay, tôi nghĩ là không ai nghe hết, cho nên tôi trả lời nho nhỏ với ông ta:
- Cám ơn bác sĩ rất nhiều. Nhờ sự giúp đỡ của bác sĩ mà nó lành rất tốt.
- Tôi hy vọng vết thương không để sẹo nhiều lắm - ông ta nói.
- Ồ không, chỉ một đường nho nhỏ thôi.
Tôi có thể chấm dứt câu chuyện ngang đó bằng cách rót thêm rượu cho ông ta, hay là thay đổi đề tài, nhưng tôi chợt trông thấy ông ta lấy tay thoa lên ngón tay cái của bàn tay kia. Ông bác sĩ là loại người không bao giờ làm việc gì mà không có mục đích. Nếu ông thoa vào ngón tay cái theo kiểu ấy trong khi nghĩ đến cái chân của tôi …phải rồi, tôi thấy nếu tôi thay đổi đề tài thì quả là điên.
- Cái sẹo không lớn - tôi nói tiếp - thỉnh thoảng khi em ở trong phòng tắm, em chà ngón tay lên cái sẹo và… nó chỉ là một đường gồ lên nho nhỏ. Quãng như thế này.
Tôi lấy ngón tay trỏ chà lên khớp đốt ngón tay ở bàn tay kia rồI đưa khớp ra cho ông bác sĩ để ông ta làm như thế. Ông ta đưa tay lên, nhưng rồi ông ngần ngừ. Tôi thấy mắt ông nhìn vào mắt tôi. Bỗng ông rút tay về và chà lên khớp ngón tay của ông thôi.
- Một vết cắt như thế sẽ lành trơn tru thôi - ông ta nói.
- Có lẽ nó không lớn như em nói đâu. Chân em rất …ờ, nhạy cảm. Chỉ một giọt nước giọt vào cũng đủ làm cho em giật mình.
Tôi nói chân tôi nhạy cảm là không nói ngoa. Một đường gồ nho nhỏ không làm cho chân tôi mất nhạy cảm, nhưng lần tôi cảm thấy nước gịot lên cái chân trần của tôi là khi nào? Nhưng thế là tôi đã hiểu lý do tại sao ông bác sĩ Cua quan tâm đến tôi, tôi thấy tôi vừa ghê tởm lạI vừa say sưa thích thú khi nghĩ đến những gì đang diễn ra trong óc ông ta. Bỗng ông bác sĩ đằng hắng giọng và nghiêng qua gần tôi, ông hỏI;
- Và…có phải cô có thực tập?
- Thực tập à?
- Cô bị vết thương trong khi cô mất thăng bằng trong khi cô…ờ, chắc cô biết tôi muốn nói gì rồi. Cô không muốn việc như thế xảy ra lại, Cho nên tôi nghĩ là cô đang thực tập. Nhưng tại sao người ta lại thực tập một việc như thế?
Nói xong, ông ta tựa người ra sau và nhắm mắt lại. Tôi thấy rõ ràng ông ta đợI nghe tôi trả lời nhiều chứ không phải chỉ nói một hai tiếng.
- Phải, chắc chắn ông cho em là đồ ngu ngốc, nhưng mỗI đêm - tôi nói, rồi dừng lại một lát như con chim con chờ mỏ chim mẹ mớm mồi - mỗi đêm - tôi nói tiếp - trước khi vào phòng tắm, em thực tập giữ thăng bằng với nhiều tư thế. Thỉnh thoảng em run vì lạnh, hơi lạnh phả lên da thịt để trần của em, nhưng em trải qua được như thế năm hay mười phút.
Ông bác sĩ đằng hắng giọng, tôi thấy như thế là co dấu hiệu tốt.
- Trước hết em giữ thăng bằng trên một chân rồi đổi qua chân kia, nhưng chuyện rắc rối là…
Mãi cho đến bấy giờ, ông Nam tước ngồi phía bên kia bệ trước mặt tôi, bận nói chuyện với những người khách khác, nhưng khi ấy ông thôi nói với họ. Những lời tôi nói tiếp theo rõ ràng như thể tôi đứng trên bục mà nói ra:
- Khi em không có áo quần trên người…
Tôi đập tay lên miệng nhưng trước khi tôi có thể suy nghĩ được điều gì để làm tiếp thì ông Nam tước đã nói:
- Trời đất! Hai người nói chuyện gì với nhau thế. Nghe ra có vẻ hấp dẫn hơn chuyện của chúng tôi nhiều.
Những người đàn ông cười lớn khi nghe thế. Sau đó, ông bác sĩ tỏ ra tốt bụng đã lên tiếng giải thích:
- Vào cuối năm ngoái, cô Sayuri đã đến nhờ tôi chữa một vết thương ở chân. Cô ấy bị thương vì té. Do đó tôi khuyên cô ấy nên tập giữ thăng bằng cho tốt.
- Cô ấy tập giữ thăng bằng nhiều lắm – Mameha nói – Áo quần cồng kềnh nên khó di chuyển lắm.
- Vậy thì ta cởi hết chúng ra! - một ông nói, nhưng đấy chỉ là một câu nói đùa, nên mọI ngườI cườI vang.
- Đúng, tôi đồng ý – ông Nam tước nói – Tôi không hiểu tại sao đàn bà cứ bận tâm đến việc mặc kimono như thế. NgườI đàn bà khi không mặc áo quần là tuyệt vờI nhất.
- Nếu mặc kimono của ông bạn thân Arashino của tôi may, thì điều ông vừa nói không đúng – Nobu lên tiếng.
- Ngay cả áo của Arashino may rất đẹp đi nữa cũng không bằng – ông Nam tước nói, và cố để ngay ngắn cốc sake xuống bệ, nhưng rượu vẫn bắn ra ngòai. Ông ta không say, nhưng ông đã uống quá chén hơn mọI khi nhiều - Đừng hiểu sai ý của tôi – ông ta nói tiếp – tôi xác nhận áo của Arashino may là tuyệt vời. Nếu không thì chắc ông ấy đã không ngồi bên tôi như thế này, phải không? Nhưng nếu ông hỏi tôi là tôi thích nhìn phụ nữ mặc kimono hay thích nhìn phụ nữ ở truồng thì…ôi!
- Không ai hỏI ông đâu – Nobu đáp – tôi muốn nghe ông Arashino trong thời gian gần đây đã may được bao nhiêu áo đẹp mà thôi.
Nhưng ông Arashino không có cơ hội để trả lời, vì ông Nam tước vừa nốc hết rượu trong tách, vội vã lên tiếng xen vào khiến cho ông ta gần như bị sặc.
- Chà…chà…này nhé - ông ta nói - bộ không phải tất cả đàn ông trên trái đất này đều thích nhìn đàn bà lõa thể hay sao? Ông Nobu này, tôi muốn hỏi ông, bộ cơ thể đàn bà lõa lồ không làm cho ông chú ý à?
- Tôi không muốn nói thế - ông Nobu đáp - Điều tôi muốn nói là theo tôi thì đã đến lúc chúng ta nghe Arashino nói về sự nghiệp sáng tác của ông ta lâu nay ra sao.
- Ồ đúng, chính tôi cũng muốn thế - ông Nam tước đáp – nhưng xin ông biết cho điều này, tất cả đàn ông chúng ta đều chẳng khác gì nhau, tất cả chúng ta đều có ham muốn như nhau. Ông đừng giả vờ làm ra vẻ ta đây hơn người. Ông Nobu à. Chúng ta đều biết sự thật hết, phảI không? Không có người đàn ông nào ngồi ở đây mà lại không muốn trả một số tiền lớn để nhìn Sayuri tắm trong bồn, phải không? Tôi xác nhận chính tôi cũng ao ước như thế. Này ông ơi, đừng giả vờ làm ra bộ ta đây không muốn như thế.
- Sayuri chỉ là một cô tập sự tội nghiệp – Mameha lên tiếng – có lẽ chúng ta nên tha cho cô ấy khỏi nghe chuyện này.
- Không được! – ông Nam tước đáp - cô ấy thấy rõ thực chất cuộc đời sớm chừng nào thì tốt chừng ấy. Nhiều người cứ làm ra vẻ ta đây không chạy theo đàn bà để có cơ hội chui vào dưới áo họ, nhưng cô hãy nghe tôi nói đây, Sayuri: ở đời chỉ có một loại đàn ông mà thôi! Và trong lúc chúng ta đang bàn về vấn đề này, thì đây là điều cô nên ghi nhớ trong óc: bất kỳ người đàn ông nào đang ngồi ở đây đều cũng rất muốn nhìn cô ở truồng. Cô nghĩ sao về chuyện này?
Tôi ngồi để hai tay trên lòng, mặt nhìn xuống và cố làm ra vẻ e thẹn. Đằng nào tôi cũng phải trả lờI câu hỏi của ông Nam tước, nhất là khi mọi người đều im lặng để chờ đợi, nhưng trong lúc tôi đang tìm ý để nói thì bỗng ông Nobu có một hành động rất tốt. Ông để tách rượu sake xuống bục rồI đứng lên, xin lỗi mọi người để đi đến nhà vệ sinh.
- Xin lỗi ông Nam tước, tôi không biết đường đến nhà vệ sinh - ông ta nói. Dĩ nhiên đấy là dấu hiệu báo cho tôi biết để dẫn ông đi.
Tôi cũng không biết đường đi đến nhà vệ sinh như ông Nobu, nhưng tôi để mất cơ hội đi khỏi đám người đang chờ tôi nói. Khi tôi đứng lên, một cô hầu chỉ đường cho tôi, dẫn tôi đi vòng quanh hồ, có ông Nobu đi theo sau.
Vào trong nhà, chúng tôi đi theo hành lang dài bằng gỗ vàng có cửa sổ một bên. Phía bên kia, nhiều tủ kính lên tận nóc đựng các vật quý giá sáng long lanh dướI ánh mặt trời. Tôi định dẫn Nobu đi đến cuối hành lang, thì bỗng ông ta dừng lại trước một cái tủ đựng bộ sưu tập về gươm cổ. Ông ta có vẻ đang nhìn vào đồ trưng bày ở trong tủ, nhưng ông gõ mấy ngón tay lên mặt kính, mũi thở phì phò, vì ông đang còn tức giận. Tôi cũng cảm thấy bối rối trước những việc đã xảy ra, nhưng tôi rất cám ơn ông ta đã cứu tôi ra khỏi tình trạng ấy, tôi không biết làm sao để nói lên lòng biết ơn của mình. Đến tủ kế bên – trưng bày đủ thứ hình chạm trổ trên ngà voi – tôi hỏi có phải ông thích đồ cổ không.
- Cô muốn nói là đồ cổ như ông Nam tước à? Dĩ nhiên là không.
Ông Nam tước không phải là một ông già lụ khụ - ông ta còn trẻ hơn ông Nobu. Nhưng tôi hiểu ông ta muốn nói gì, ông ta cho ông Nam tước là di sản của thời đại phong kiến.
- Em xin lỗi, em muốn nói đến đồ cổ trong tủ này.
- Khi tôi nhìn vào các thanh gươm trong tủ kia, chúng làm cho tôi nghĩ đến ông Nam tước. Ông ta là người nâng đỡ công ty của chúng tôi, và tôi nợ ông ta rất nhiều. Nhưng không vì thế mà tôi phí thì giờ để nghĩ đến ông ta. Tôi trả lời như thế được chưa?
Tôi cúi người chào ông ta, ông ta bỏ đi theo hành lang về phía nhà vệ sinh, đi rất nhanh đến nỗi tôi không theo kịp để mở cửa cho ông ta.
Sau đó khi chúng tôi về lại bên bờ hồ, tôi vui mừng thấy bữa tiệc đã tan. Chỉ còn vài người đàn ông ở lại để dùng cơm tối. Mameha và tôi đưa những người khác ra tận cổng.Chúng tôi chào tạm biệt cho đến người cuối cùng và tôi quay lại đã thấy một gia nhân của ông Nam tước đứng chờ dẫn chúng tôi vào nhà.
Mameha và tôi ngồi cả một giờ sau đó trong khu của gia nhân, ăn bữa tối ngon lành gồm có món tai so usugiri - những lát cá vền biển cắt mỏng như giấy trải trên cái đĩa có hình ngọn lá và ăn với nước sốt ponzu. Nếu Mameha không có vẻ buồn rầu thì chắc tôi sẽ cảm thấy vui vẻ. Cô ấy chỉ ăn vài lát cá rồi đưa mắt nhìn qua cửa sổ. Trông vẻ mặt của cô ấy, tôi nghĩ chắc cô ấy muốn trở ra ngoài hồ và ngồi ở đấy, có lẽ để cắn môi giận dữ nhìn bầu trời đang phủ màn đêm.
Chúng tôi ra nhập vào nhóm vớI ông Nam tước khi họ đã ăn được nửa chừng, trogn căn phòng mà ông Nam tước gọi là “phòng tiệc nhỏ” . Thực ra, phòng tiệc nhỏ có thể dùng thết đãi đến 20 hay 25 người, nhưng khi ấy buổi tiệc đã giảm bớt người, chỉ còn ông Arashino, ông Nobu và ông bác sĩ Cua. Khi chúng tôi đi vào, họ đang lặng lẽ ăn. Ông Nam tước đã say mèm, tròng mắt như muốn văng ra ngoài.
Ngay khi Mameha bắt đầu nói chuyện, bác sĩ Cua lấy khăn ăn lau bộ râu mép hai lần rồi xin lỗi đi vệ sinh. Tôi dẫn ông ta đi qua hành lang hồi nãy ông Nobu và tôi đã đi. Khi ấy trờI đã tối rồi, tôi không thấy rõ đồ vật gì hết, vì ánh sáng trên cao phản chiếu vào mặt kính trên cái tủ trưng bày. Nhưng bác sĩ Cua dừng lại ở tủ đựng các thanh gươm, ông ta nghiêng đầu cho đến khi trông thấy các đồ vật trong đó.
- Chắc cô biết rõ đường đi trong nhà ông Nam tước - ông ta nói.
- Ồ không, thưa ông, em hoàn toàn bị lạc trong ngôi nhà đồ sộ như thế này. Sở dĩ em biết đường là vì hồi nãy em đã dẫn ông Nobu đi trên hành lang này.
- Tôi chắc ông ta đã đi khắp nơi – ông bác sĩ nói - một người như Nobu không đủ trình độ để thưởng thức những thứ trong các tủ này.
Tôi không biết trả lời ra sao, nhưng ông bác sĩ nhìn tôi đăm đăm.
- Cô chưa tiếp xúc nhiều vớI mọi người - ông ta nói tiếp – nhưng đã đến lúc cô nên học cách đề phòng những người kiêu ngạo đã nhận lời mời của một người như ông Nam tước, rồi nói năng lôm côm với ông ta ngay trong nhà ông ta, như ông Nobu đã nói vào chiều hôm nay.
Tôi cúi người chào khi nghe ông ta nói thế, và khi thấy bác sĩ Cua không nói gì thêm nữa, tôi dẫn ông ta đến phòng vệ sinh.
Khi chúng tôi về lại phòng tiệc nhỏ, các ông đã nói chuyện rôm rả, nhờ vào tài của Mameha, cô ấy chỉ ngồi lặng lẽ phía sau để chuốc rượu thôi. Cô ấy thường nói vai trò của người geisha là chỉ khuấy tô canh cho đều. Nếu có khi nào anh thấy người ta dùng đũa để khuấy tô canh cho đều trước khi múc vào chén của mình, thì anh sẽ hiểu được ý cô ấy muốn nói gì.
Chẳng bao lâu sau câu chuyện quay qua đề tài áo kimono, và chúng tôi đi xuống phòng chứa áo của ông Nam tước ở dưới tầng hầm. Dọc theo tường phòng là những chiếc tủ gỗ khổng lồ treo đầy áo kimono. Ông Nam tước ngồI trên chiếc ghế dựa ở giữa phòng, chống hai khuỷu tay lên đầu gối - mắt vẫn kèm nhèm – và không nói một tiếng trong khi Mameha dẫn chúng tôi đi xem bộ sưu tập áo. Tất cả chúng tôi đều nhất trí chiếc áo đặc biệt nhất là chiếc áo có hình vẽ phỏng theo cảnh của thành phố Kobe, thành phố này nằm trên sườn đồi thoai thoải chạy ra tận biển. Bức hình bắt đầu ở hai vai áo với cảnh trời xanh mây trắng, ở hai đầu gối vẽ cảnh sườn đồi, dưới đó là cảnh biển màu xanh lục chảy thành một đường dài ra phía sau áo, trên mặt biển, lốm đốm những ngọn sóng vàng đẹp đẽ và những chiếc tàu li ti.
- Mameha này – ông Nam tước nói – tôi nghĩ chắc em phải mặc cái áo ấy để đến dự tiệc thưởng hoa của tôi tại Hakone vào tuần sau. Mặc áo ấy, em đẹp phải biết, đúng không?
- Em thật rất thích – Mameha đáp – nhưng như em đã nói hôm kia rồi, em sợ năm nay em không đi dự tiệc được.
Tôi thấy ông Nam tước có vẻ bất bình, vì cặp lông của ông ta sụp xuống như hai cánh cửa khép lại.
- Em nói thế nghĩa là sao? Ai đã ký hợp đồng với em khiến em không hủy hợp đồng được?
- Em rất thích đến đấy ghê lắm, ông Nam tước à. Nhưng năm nay thì không được. Em đã có hẹn bên y tế nên không đi dự tiệc được.
- Hẹn với bên y tế à? Như thế nghĩa là sao? Mấy ông bác sĩ có thể thay đổi thời gian kia mà. Ngày mai em hãy đổi lại buổi hẹn, và có mặt ở buổi tiệc của anh vào tuần sau như mọi khi em thường làm.
- Em xin lỗi – Mameha nói – em đã hẹn với bên y tế cách đây mấy tuần và có sự bằng lòng của Nam tước rồi, kế hoạch này không thể thay đổi được.
- Tôi không nhớ đã bằng lòng cho em hẹn với họ khi nào. Đâu phải là chuyện cần kíp như thể em cần phải phá thai, hay là việc gì như thế…
Mọi người im lặng và có lẽ bối rối một hồi thật lâu. Mameha chỉ sửa lại tay áo cho ngay ngắn trong khi tất cả chúng tôi đứng yên lặng, đến nỗi chúng tôi nghe được cả hơi thở khò khè của ông Arashino. Tôi nhận thấy ông Nobu có vẻ không chú ý gì hết, bỗng quay qua để xem phản ứng của ông Nam tước ra sao.
- Được rồi – cuối cùng Nam tước nói – chắc là tôi quên, bây giờ nghe em nhắc đến…dĩ nhiên chúng ta không thể để có những chú nhóc nam tước rơi rớt chạy rong ngoài đường, đúng không? Nhưng Mameha này, tôi không biết tại sao em không nhắc tôi chuyện này trong chốn riêng tư…
- Em xin lỗi, Nam tước.
- Nếu em không đến Hakone được thì thô! Nhưng còn quý vị đây thì sao? Buổi tiệc này tuyệt lắm, tổ chức tại nhà tôi ở Hakone vào cuối tuần sau. Quý vị phải đến mới được! Tôi tổ chức hàng năm vào mùa hoa anh đào nở!
Ông bác sĩ và ông Arashino không thể đến được. Nobu không trả lời, nhưng khi ông Nam tước thúc ông, ông ta đáp:
- Ông Nam tước này, thực tình ông không muốn tôi đến Hakone để xem hoa anh đào nở đâu.
- Ồ việc hoa nở chỉ là cái cớ để ta mở tiệc – ông Nam tước nói – nhưng cũng chẳng sao. Chúng tôi sẽ có ông Chủ tịch của ông rồi. Năm nào ông ấy cũng đến hết.
Tôi kinh ngạc thấy mình đỏ mặt khi nghe nhắc đến ông Chủ tịch, và suốt cả buổi chiều, nhiều lúc tôi đã nghĩ đến ông ta. Bỗng tôi cảm thấy như thể mọi người đã biết chuyện bí mật của tôi.
- Tôi thật bực mình khi các vị không ai đến với tôi, - ông Nam tước nói tiếp – chúng ta đã có một buổi tối tuyệt vời cho đến khi Mameha nói đến chuyện mà đáng ra cô ấy phải nói riêng. Này Mameha, tôi phải phạt em mới được. Năm nay thế là tôi không mời được em đến dự tiệc của tôi. Thế nhưng tôi muốn em cho Sayuri đến thay em.
Tôi nghĩ ông Nam tước nói đùa, nhưng thú thực, tôi nghĩ đến cảnh sung sướng khi được cùng ông Chủ tịch đi dạo quanh dinh cơ lộng lẫy của ông Nam tước mà không có ông Nobu, hay là bác sĩ Cua, hay thậm chí cả Mameha.
- Ý kiến thật tuyệt, thưa Nam tước – Mameha nói – nhưng buồn thay là Sayuri bận diễn tập rồi.
- Vô nghĩa – ông Nam tước đáp – Tôi hy vọng sẽ gặp cô ấy ở đấy. Tại sao em cứ khăng khăng không chịu nghe lời tôi yêu cầu em một việc nhỏ nhặt như thế?
Ông ta có vẻ giận dữ, và khốn thay, vì ông ta đang say, nước dãi chảy xuống ròng ròng hai bên khóe miệng. Ông ta lấy lưng bàn tay lau đi, nhưng chỉ làm cho nước dãi lấm lem vào những sợi lông đen dài trên bộ râu cằm.
- Em có quan tâm đến yêu cầu này của tôi không? – ông ta nói tiếp – Tôi muốn thấy Sayuri ở Hakone. Em chỉ việc trả lời “Dạ được thưa Nam tước” là xong.
- Dạ được, thưa Nam tước.
- Tốt – ông Nam tước nói. Ông ta dựa người ra sau ghế, lấy cái khăn trong túi ra lau mặt.
Tôi rất buồn cho Mameha. Nhưng nói sao cho hết nỗi lòng hân hoan sung sướng của tôi khi nghĩ đến ngày dự tiệc ở nhà ông Nam tước. Khi ngồi trên xe kéo trở về Gion, mỗi lần nghĩ đến chuyện ấy, tôi cảm thấy hai tai tôi đỏ rần. Tôi sợ Mameha để ý thấy, nhưng cô chỉ nhìn ra ngòai, cho đến khi về tới nơi mới quay qua nói với tôi:
- Sayuri, cô phải rất cẩn thận khi đến Hakone.
- Vâng thưa chị, em sẽ cẩn thận.
- Hãy nhớ rằng một cô tập sự sắp sửa bán mizuage, giống như bữa cơm đã dọn trên mâm. Nếu người ta nghe nói đã có kẻ khác ăn vụng một miếng thì chẳng có ai muốn ăn mâm cơm ấy đâu.
Sau khi nghe thế, tôi không dám nhìn vào mắt cô ấy. Tôi thừa biết cô ấy muốn nói đến ông Nam tước.

Chuong 22

Đến lúc ấy tôi chưa biết Hakone nằm ở đâu, nhưng sau đó, tôi tìm hiểu mới biết nó nằm phía Đông nước Nhật, khá xa Kyoto. Tôi cảm thấy mình quan trọng suốt cả tuần ấy, mỗi khi nhớ đến việc một nhân vật danh tiếng như ông Nam tước mời tôi đi từ Kyoto đến đấy để dự tiệc. Thực vậy, tôi đã cố sức giữ vẻ bình tĩnh để khỏi lộ ra sự kích thích khi ngồi vào chỗ ngồi trên toa tàu hạng nhì sang trọng với ông Itchoda, người thợ may của Mameha. Ông ta ngồi ở phía ngoài gần lối đi giữa, để khỏi có ai lấy cớ đến nói chuyện với tôi. Tôi giả vờ giải trí bằng cách xem báo, nhưng thật ra tôi chỉ lật các trang báo cho có lệ, nhưng mắt thì vẫn liếc nhìn những người đi trên lối đi, họ đi chậm lại để nhìn tôi. Tôi cảm thấy sung sướng vì được họ chú ý đến, nhưng khi chúng tôi đến Shizuoka sau nửa trưa một chút, và khi đứng đợi tàu đi Hakone, bỗng tôi cảm thấy trong lòng dâng lên một nỗi buồn khó tả. Suốt ngày tôi đã cố quên đi cảm giác ấy, nhưng khi đứng đợi tàu trên sân ga, trong óc tôi hiện lên rất rõ hình ảnh của chính tôi vào thời gian khác, đang đứng trên sân ga khác, đợi đáp con tàu khác - lần ấy đi với ông Bekku – vào ngày mà tôi và chị tôi bị lôi ra khỏi nhà. Tôi lấy làm xấu hổ mà xác nhận rằng trong nhiều năm qua, tôi đã cố hết sức để khỏi nhớ đến chị Satsu, bố tôi, mẹ tôi và ngôi nhà ngà say của chúng tôi trên bờ núi đá ven biiển. Tôi không giống như đứa bé rúc đầu vào trong cái bao. Ngày này qua ngày nọ, tôi chỉ thấy có Gion, chỉ thấy có Gion đến nỗi tôi nghĩ Gion là tất cả, và chỉ có Gion là nơi quan trọng đáng kể trên đời này. Nhưng nay tôi ra khỏi Kyoto, tôi nhận thấy nhiều người cho rằng Gion chẳng nghĩa lý gì hết, và tôi không thể không nghĩ đến một cuộc sống khác. Sự sầu khổ là điều kỳ lạ nhất, chúng ta hết sức thất vọng khi gặp phải cảnh sầu khổ. Sự sầu khổ như cánh cửa sổ chỉ mở ra theo ý của nó. Căn phòng trở nên lạnh lẽo, và chúng ta không thể làm gì được ngoài việc run. Nhưng nó mở mỗi khi một ít, một ít, và một hôm chúng ta tự hỏi cái gì sẽ đến khi cánh cửa sầu muộn mở toang.
Gần trưa hôm sau tôi được đón đi trong một quán trọ nhỏ nhìn lên núi Phú Sĩ, và được chở trên một chiếc xe hơi của ông Nam tước để đến ngôi nhà nghỉ mát của ông ta nằm giữa khu rừng thơ mộng bên bờ hồ. Khi xe chạy vào con đường vòng trước nhà và tôi bước ra khỏi xe với khăn đai áo mão của nàng geisha tập sự ở Kyoto, nhiều người khách của ông Nam tước quay lại nhìn tôi. Tôi thấy trong đám người này có một số phụ nữ, người thì mặc kimono, người thì mặc áo theo kiểu phương Tây. Sau đó tôi mới biết họ hầu hết là geisha ở Tokyo.
Vì chúng tôi chỉ đi tàu hỏa từ Tokyo đến trong vòng vài giờ mà thôi. Rồi ông Nam tước xuất hiện, đi trên con đường từ trong rừng với nhiều các ông khác.
- Kìa, đây là nhân vật chúng ta đang chờ đợi! - ông ta nói – Cô gái xinh đẹp này là Sayuri từ Gion đến, có lẽ một ngày nào đó sẽ là Sayuri tuyệt vời nhất ở Gion. Quý vị sẽ không bao giờ thấy lại được cặp mắt như mắt của nàng đâu, tôi cam đoan với quý vị như thế. Và cứ đợi cho đến khi quý vị thấy cách nàng di chuyển. Sayuri, xin mời cô đến đây, để tất cả quý ông có cơ may nhìn cô, cho nên cô có một công việc quan trọng. Cô phải đi khắp nơi – trong nhà, xuống hồ, qua rừng, khắp nơi. Nào bây giờ đi đi! Họat động đi!
Tôi đi khắp trong nhà như lời ông Nam tước yêu cầu, đi qua rừng anh đào trĩu hoa, cúi chào khách đây đó trên đường đi và cố đừng tỏ ra quá lộ liễu muốn tìm xem ông Chủ tịch ở đâu. Tôi đi chậm chạp, vì cứ vài bước lại có người chặn tôi lại và nói đại loại như thế này:
- Trời ơi, cô là geisha tập sự ở Gion à?
Rồi ông ta lấy máy ảnh ra, nhờ người khác chụp chúng tôi đứng chung với nhau, hay là đưa tôi đi dọc theo hồ đến nhà vọng nguyệt nhỏ, hay đến bất cứ đâu mà bọn họ có thể nhìn tôi được – y như cảnh ông ta đã làm với vài sinh vật từ thời tiền sử mà ông ta đã đánh lưới bắt được. Mameha đã căn dặn tôi rằng thế nào mọi người cũng rất kinh ngạc khi thấy tôi, vì không có ai giống một nàng geisha tập sự ở Gion hết. Đúng là trong các khu khá giả ở Tokyo, như là Shimbashi và Akasak, cô gái nào muốn vào nghề geisha đều phải học nghệ thuật cho thật thành thạo. Nhưng phần nhiều geisha ở Tokyo thời ấy đều rất tân tiến về mặt suy tư, tình cảm, cho nên một số geisha đi trong dinh cơ của ông Nam tước đều mặt âu phục.
Buổi tiệc của ông Nam tước có vẻ kéo dài. Vào lúc giữa chiều, tôi gần như hết hy vọng tìm thấy ông Chủ tịch. Tôi vào trong nhà để tìm một chỗ ngồi nghỉ, nhưng khi vừa bước vào tiền sảnh, tôi cảm thấy người khựng lại. Ông ta từ trong phòng trải thảm rơm bước ra, vừa đi vừa nói chuyện với một người đàn ông khác. Họ chào chia tay nhau xong, thì bỗng ông Chủ tịch quay qua nhìn tôi.
- Sayuri! – Ông thốt lên – Làm sao ông Nam tước dụ cô từ Gion đến đây được? Tôi không ngờ cô có quen ông ta.
Tôi nghĩ phải quay mặt đi chỗ khác nhưng tôi cứ đăm đăm nhìn vào ông Chủ tịch như bị nam châm hút. Cuối cùng tôi cúi người chào ông và nói:
- Cô Mameha cử em đi dự tiệc thay cho cô ấy! Em rất sung sướng được gặp ông Chủ tịch ở đây.
- Tôi cũng vui mừng được gặp cô. Cô có thể góp ý giúp tôi một việc. Cô đến xem món quà tôi mang tặng ông Nam tước ra sao. Tôi định ra về mà không đưa tặng cho ông ta.
Tôi đi theo ông ta vào phòng như con diều được sợi dây kéo lên. Tôi đang ở tại Hakone, xa nơi tôi quen biết, đang ở với người đàn ông tôi thường nghĩ đến hơn bất kỳ người nào khác, nghĩ đến chuyện này, tôi kinh ngạc vô cùng. Trong khi ông ta đi trước mặt tôi, tôi thán phục cách ông đi thoải mái trong bộ vét len may đo. Tôi thấy được hai bắp chân ông ta phồng ra sau ống quần, thậm chí thấy được đường nứt sau lưng như chỗ rẽ nơi gốc cây phân rễ. Ông ta lấy gói qùa trên bàn đưa cho tôi xem. Mới đầu tôi tưởng là một khối trang trí bằng vàng, nhưng xem lại thì ra là cái hộp đựng mỹ phẩm xưa tặng cho ông Nam tước. Ông Chủ tịch cho tôi biết đây là tác phẩm của nhà họa sĩ thời Edo, tên là Arata Gonroku. Cái hộp giống như cái gối sơn màu vàng có in hình những con sếu đang bay và những chú thỏ đang nhảy nhót màu đen. Khi ông ta đặt vào tay tôi, tôi sửng sốt đến ngạt thở khi nhìn vào món quà này.
- Cô có tin ông Nam tước sẽ thích món quà này không? - ông ta hỏi - tôi tìm thấy nó tuần trước và liền nghĩ đến ông ta, nhưng…
- Thưa ông Chủ tịch, tại sao ông sợ ông Nam tước không thích món quà này?
- Ồ, ông ta có nhiều thứ quý giá. Có lẽ ông ta xem đồ này chỉ là loại ba.
Tôi cam đoan với ông Chủ tịch là không ai nghĩ như thế đâu, và khi tôi đưa cái hộp cho ông, ông gói lại trong tấm vải lụa rồi gật đầu ra hiệu bảo tôi đi theo ông. Ra đến cửa, tôi giúp ông mang giầy. Khi tôi giúp ông xỏ chân vào giày, tôi nghĩ đến chuyện chúng tôi sẽ ở cùng nhau suốt buổi chiều và cả một đêm. Nghĩ thế, tôi bàng hoàng ngây ngất đến nỗi quên cả thời gian đang trôi qua, một hồi lâu tôi mới bình tĩnh trở lại. Ông Chủ tịch không có dấu hiệu gì tỏ ra nôn nóng, nhưng tôi cảm thấy ngượng ngùng khi xỏ chân vào giày Okobo của tôi, khiến cho chúng tôi mất rất nhiều thì giờ.
Ông ta dẫn tôi đi theo con đường đến hồ nước, ở đây chúng tôi thấy ông Nam tước đang ngồi trên chiếu với ba cô geisha từ Tokyo đến dưới gốc cây anh đào. Họ đứng dậy, nhưng ông Nam tước có vẻ lúng túng. Mặt ông ta có những vết đỏ vì uống rượu, cho nên trông như có ai đã lấy roi đánh vào mặt ông ta.
- Ông Chủ tịch! - ông Nam tước nói - tôi rất hân hạnh được thấy ông đến dự tiệc của tôi. Chắc ông biết tôi rất vui khi có ông ở đây chứ? Công ty của ông không ngừng phát triển phải không? Sayuri có nói cho ông biết Nobu có đến dự tiệc của tôi ở Kyoto tuần trước chứ?
- Tôi đã nghe Nobu nói lại, rất đầy đủ.
- Thế sao - ông Nam tước nói – Anh ta nhỏ nhen lắm, phải không?
Tôi không hiểu ông Nam tước muốn nói gì, vì tôi thấy ông ta nhỏ nhen hơn ông Nobu. Ông Chủ tịch có vẻ không bằng lòng lời nhận xét của ông ta, ông nhíu mày.
- Tôi muốn nói thế đấy – ông Nam tước nói tiếp. Nhưng ông Chủ tịch cắt ngang lời ông ta:
- Tôi đến để xin cám ơn ông và tạm biệt ông, nhưng trước hết tôi xin tặng ông một món quà – Nói xong ông ta đưa cái hộp đựng mỹ phẩm cho ông Nam tước. Ông Nam tước quá say nên không mở dây ra được, nên ông ta đưa cho một cô geisha để cô này mở gói quà ra.
- Món quà đẹp quá! – ông Nam tước nói – Không ai thấy sao? Nhìn này, có lẽ nó còn đẹp hơn cả con người tuyệt vời đứng bên ông nữa, ông Chủ tịch à. Ông có biết Sayuri không? Nếu không, để tôi giới thiệu với ông.
- Ồ Sayuri và tôi đã quen qua rồi – ông Chủ tịch nói.
- Quen như thế nào ông Chủ tịch? Có đủ cho tôi ganh tị không đấy?- ông Nam tước cười cho lời nói đùa của mình, nhưng không ai cười với ông ta hết – Dù sao thì món quà này đã nhắc tôi nhớ đến món quà tôi sẽ tặng cô, cô Sayuri à. Nhưng đợi cho đến khi nào các cô geisha này về hết rồi tôi mới tặng, vì tôi e rằng họ sẽ đòi tôi tặng mỗi người một món mất, cho nên cô phải ở đây cho đến khi nào mọi người về hết.
- Ông Nam tước quá tốt – tôi nói – nhưng thực tôi không muốn bị hư thân mất nết.
- Tôi thấy cô học hỏi rất nhiều ở Mameha về lời từ chối những cái mình không thích rất tài. Chỉ đợi gặp tôi ở tiền sảnh sau khi khách của tôi ra về hết thôi. Ông Chủ tịch, nhờ ông khuyên cô ấy giúp tôi, trong khi cô ta tiễn ông ra xe.
Nếu ông Nam tước không say, tôi nghĩ thế nào ông ấy cũng tiễn ông Chủ tịch ra tận xe. Nhưng hai người đã chào tạm biệt nhau, và tôi đi theo ông Chủ tịch vào nhà. Trong khi người tài xế giữ cửa xe cho ông, tôi cúi người chào, cám ơn lòng tốt của ông. Ông định bước vào xe, nhưng rồi dừng lại.
- Sayuri này – ông nói, rồi ngần ngừ một lát như không biết nói tiếp ra sao – Mameha đã nói gì với cô về ông Nam tước?
- Không nói gì nhiều, thưa ông. Hay ít ra…mà, em không biết ông Chủ tịch muốn nói gì.
- Mameha có đóng vai người chị cả tốt cho cô không? Cô ấy có nói cho cô biết những điều cần biết không?
- Ồ có, thưa ông Chủ tịch. Mameha giúp em rất nhiều.
- Tốt – ông ta nói – nếu tôi là cô, tôi phải cảnh giác khi có người đàn ông như ông Nam tước quyết định tặng quà cho cô.
Tôi không biết phải trả lời ra sao, cho nên tôi nói ông Nam tước có lòng tốt nghĩ đến tôi.
- Phải, tốt rồi, tôi biết. Có điều cô phải đề phòng, vậy thôi - ông ta nói, nhìn tôi một lát rồi bước vào xe.
Suốt một giờ sau đó, tôi đi chơi cùng một vài người khách cuối cùng, cứ nhớ mãi đến những lời ông Chủ tịch nói với tôi trong thời gian chúng tôi gặp nhau. Tôi nghĩ đến lời cảnh cáo của ông thì ít, mà hân hoan sung sướng vì đã nói chuyện với ông ta thì nhiều. Thật vậy, tâm trí tôi không rảnh để nghĩ đến chuyện gặp ông Nam tước cho đến khi tôi thấy tôi một mình đứng trước tiền sảnh trong ánh chiều tà yếu ớt. Tôi đến quỳ trong một phòng trải chiếu rơm gần đấy, nhìn ra ngoài sân qua cánh cửa sổ có kính.
Mười hay mười lăm phút trôi qua, cuối cùng ông Nam tước đi vào tiền sảnh. Vừa nhìn thấy ông ta là tôi cảm thấy lo sợ, vì ông ta chỉ mặc chiếc áo ngủ bằng vải sơ sài. Ông ta cầm cái khăn tắm trên tay lau những sợi lông đen dài trên mặt được xem là bộ râu. Rõ ràng ông ta vừa tắm xong. Tôi đứng lên, cúi người chào ông ta.
- Sayuri, tôi thật điên! - ông ta nói với tôi - tôi uống quá nhiều - chuyện này quả đúng - tôi quên mất chuyện cô đang đợi tôi! Tôi hy vọng khi cô thấy món quà tôi để dành cho cô, cô sẽ tha thứ cho tôi.
Ông Nam tước đi theo hành lang để vào phòng trong, ông nghĩ tôi sẽ đi theo ông ta. Nhưng tôi cứ đứng tại chỗ, nghĩ đến những lời Mameha đã nói với tôi: người geisha tập sự sắp sửa bán mizuage của mình như bữa cơm dọn sẵn trên mâm.
ông Nam tước dừng lại. Ông ta nói:
- Đi với tôi!
- Ồ thưa Nam tước. Không nên. Xin ông cho tôi ở lại đây.
- Tôi có món quà tặng cô. Đến phòng tôi ngồi đợi thôi. Đừng có ngu xuẩn như thế.
- Dạ thưa Nam tước, đương nhiên tôi là đứa ngu xuẩn vì tôi phải thế.
- Ngày mai cô sẽ trở về dưới sự giám sát của Mameha phải không? Nhưng ở đây không có ai giám sát cô hết.
Nếu khi ấy mà tôi có chút bình tĩnh, chắc tôi đã cám ơn ông Nam tước mời tôi đến dự buổi tiệc thịnh soạn này và tha thiết yêu cầu ông ta cho xe chở tôi về nhà trọ. Nhưng mọi việc đã diễn ra như trong giấc mơ…Tôi thấy mình đang bị rơi vào trạng thái chấn động. Điều tôi chỉ còn biết là sự lo sợ.
- Đi theo tôi, chờ tôi mặc áo quần - ông Nam tước nói - chiều nay cô uống rượu sakê phải không?
Một lát trôi qua, tôi cảm thấy mặt tôi mất hết cảm giác, không có một biểu hiện gì, trơ như đá.
- Không, thưa ông – cuối cùng tôi đáp được.
- Tôi nghĩ cô phải đi theo tôi. Tôi sẽ cho cô món quà quý giá. Nào ta đi.
- Thưa Nam tước, xin ông vui lòng cho tôi về. Chắc người ta đang đợi tôi ở quán trọ.
- Đợi à? Ai đợi cô thế?
Tôi không trả lời.
- Tôi hỏi ai đợi cô? Tôi không hiểu tại sao cô xử sự như thế. Tôi có cái này cho cô. Có phải cô muốn tôi đi lấy cho cô không?
- Tôi xin lỗi.
Ông Nam tước nhìn tôi.
- Đợi đây – cuối cùng ông ta nói, rồi đi vào nhà trong. Một lát sau ông ta trở ra, trên tay cầm một cái gói phẳng, gói trong giấy dày. Tôi mới nhìn qua là biết đấy là cái áo kimono.
- Đây - ông ta nói – vì cô cứ khăng khăng muốn làm kẻ ngu xuẩn, nên tôi phải đi lấy quà cho cô. Món quà có làm cho cô vui hơn không?
Tôi xin lỗi ông Nam tước thêm một lần nữa.
- Tôi thấy hôm nọ cô rất thích chiếc áo này. Tôi muốn tặng nó cho cô.
Ông Nam tước để cái gói lên bàn rồi mở dây buộc, tháo gói ra. Tôi nghĩ chắc đây là cái áo kimono thêu cảnh thành phố Kobe, và nói thực ra, tôi cảm thấy vừa mừng vừa lo, vì tôi biết tôi sẽ làm gì với cái áo đẹp tuyệt vời như thế này, và tôi sẽ giải thích ra sao với Mameha về việc ông Nam tước cho tôi cái áo. Thế nhưng khi ông Nam tước mở cái gói ra, tôi chỉ thấy trước mắt lớp vải sậm tuyệt vời với hình thêu màu bạc. Ông ta lấy cái áo ra và đưa lên tận vai. Đây là cái áo kimono của một viện bảo tàng – theo ông Nam tước cho tôi biết thì áo này may vào những năm thuộc thập niên 1860 cho cô cháu của Tokugawa Yoshinobu, vi tướng quân Nhật sau cùng. Hình vẽ trên áo là cảnh những con chim màu bạc bay trong bầu trời đêm, với cảnh vật huyền bí gồm cây và đá màu sẫm đen vươn lên từ dưới lai áo.
- Cô phải đi theo tôi để mặc thử áo này - ông ta nói – bây giờ đừng có ngu xuẩn! Tôi rất có kinh nghiệm trong việc buộc giải thắt lưng. Tôi sẽ giúp cô mặc áo kimono của cô vào lại, để không ai hay biết gì hết.
Tôi muốn thử cái áo của ông Nam tước cho tôi ở đâu đó chỉ một mình tôi. Nhưng ông ta là người có quá nhiều quyền đến nỗi Mameha mà cũng không dám trái lời. Nếu cô ấy không dám từ chối những điều ông ta muốn, thì làm sao tôi từ chối cho được? Tôi thấy ông ta có vẻ nôn nóng, chỉ có trời mới biết ông ta có phải tốt thật với tôi trong mấy tháng tôi mới vào nghề không, ông ta cho phép tôi đến hầu ông khi ông ăn trưa, và cho phép Mameha dẫn tôi đến dự tiệc tại nhà ông ở Kyoto. Rồi bây giờ ông tốt với tôi thêm một lần nữa, cho tôi cái áo kimono quý giá.
Cuối cùng tôi nghĩ trong bụng rằng tôi không còn lựa chọn nào khác là phải vâng lời ông ta và dù kết quả ra sao đi chăng nữa, tôi cũng phải trả cho ông ta. Tôi cụp mắt nhìn xuống chiếu, lòng thấy xấu hổ, và trong trạng thái như nằm m này, tôi cảm thấy mình buông xuôi theo số phận, tôi ý thức được bàn tay ông Nam tước nắm lấy tay tôi, dẫn tôi ra phòng phía sau nhà. Đến giữa hành lang, một gia nhân đang đi tới, anh ta cúi chào rồi quay lưng ngay khi trông thấy chúng tôi. Ông Nam tước không nói một lời, chỉ dẫn tôi đi cho đến khi chúng tôi vào một căn phòng trải thảm rơm, trên một bức tường treo đầy gương soi. Đây là phòng thay áo quần. Bức tường bên kia kê nhiều tủ, các cánh cửa tủ đều đóng kín.
Tay tôi run vì lo sợ, nhưng nếu ông Nam tước có để ý thì ông ta cũng không nói gì. Ông để tôi đứng trước dãy gương rồi đưa tay tôi lên môi, tôi tưởng ông ta hôn tay tôi, nhưng ông ta chỉ đưa lưng bàn tay tôi chạm vào những sợi râu trên mặt ông, rồi làm một việc tôi thấy rất kỳ cục, ông ta kéo tay áo của tôi lên khỏi cổ tay, rồi hít mùi thơm trên da thịt tôi. Râu của ông ta chích vào tay tôi, nhưng tôi không có cảm giác gì hết. Hình như tôi không còn cảm thấy gì hết, tình trạng của tôi khi ấy như thể tôi bị chôn vùi dưới lớp vỏ lo sợ, hoang mang, khủng khiếp…rồi ông Nam tước lôi tôi ra khỏi cơn lo sợ kinh hoàng ấy bằng cách đi ra phía sau lưng tôi, đưa tay tới trước ngực để tháo sợi dây Obujime của tôi ra. Đấy là sợi dây buộc dải khăn quàng của tôi.
Tôi hoảng hốt khi biết ông Nam tước có ý định cởi áo của tôi ra. Tôi cố nói lên cái gì nhưng mệng tôi ấp úng không nói ra lời, vả lại ông Nam tước bảo tôi im đi. Tôi cố đưa tay chặn ông ta lại, nhưng ông ta đẩy tay tôi đi và cuối cùng ông ta tháo được cái Obujime của tôi. Sau đó, ông ta bước lui, loay hoay một hồi lâu để mở cái nút của dải thắt lưng nằm ở giữa xương bả vai của tôi. Tôi van ông ta đừng tháo cái nút ra nhưng cuống họng tôi khô khốc đến nỗi nhiều lần tôi cố nói mà nói không được – nhưng ông ta không nghe tôi, và liền sau đó ông ta tháo dải khăn quàng quanh lưng tôi ra, tay ông ta vòng quanh hông tôi rồi mở ra. Tôi thấy cái khăn tay của ông Chủ tịch văng ra khỏi dải thắt lưng và rơi xuống đất. Bỗng ông Nam tước thả cái khăn quàng lưng rơi xuống một đống trên nền nhà, rồi mở miếng datejime ra. Đấy là dải vải lót quấn quanh bụng dưới dải thắt lưng. Tôi cảm thấy đau khổ khi thấy chiếc kimono mở rộng quanh eo tôi. Tôi đưa tay kéo nó cho sít lại, nhưng ông Nam tước hất tay tôi ra. Tôi không chịu được cảnh nhìn tôi trong gương. Việc cuối cùng tôi nhớ khi nhắm mắt lại là chiếc áo nặng nề được nâng lên khỏi hai vai tôi, bên tai tôi nghe tiếng vải kêu sột soạt.
Ông Nam tước hình như thực hiện xong kế hoạch ông ta vạch ra, hay trước mắt ông ta không tiến xa hơn nữa. Tôi cảm thấy hai tay ông ta để bên hông tôi, mân mê lớp vải áo lót của tôi. Cuối cùng tôi mở mắt ra lại, tôi thấy ông ta đứng yên sau lưng tôi, hít hương thơm trên tóc tôi, trên cổ tôi. Mắt ông ta nhìn đăm đăm vào gương – đúng ra là đăm đăm vào dải vải quanh eo để giữ áo của tôi cho kín. Mỗi lần mấy ngón tay của ông di động là tôi quyết tâm phải đẩy chúng đi, nhưng bỗng nhiên nhanh như cắt, chúng bò lên bụng tôi như con nhện, rồi trong khoảnh khắc chúng bám vào dải vải và lôi mạnh. Rất nhiều lần tôi cố ngăn ông ta lại, nhưng ông Nam tước đẩy tay tôi đi như những lần trước. Cuối cùng dải vải bung ra và ông Nam tước thả nó xuống nền nhà. Hai chân tôi run rẩy, căn phòng mờ đi trước mắt tôi khi ông ta nắm hai vạt áo lót của tôi mở rộng ra. Tôi không thể đứng yên mà không nắm hai tay ông giữ lại.
- Sayuri, đừng lo sợ gì hết! - ông Nam tước nói nhỏ bên tai tôi - Lạy trời, tôi không làm gì không nên làm đâu. Tôi chỉ muốn nhìn cô thôi, cô không hiểu sao? Không có gì sai phạm trong việc này hết, bất cứ người đàn ông nào cũng muốn làm thế hết.
Một sợi râu láng bóng trên mặt ông ta cọ vào vai tôi khi ông nói thế, cho nên tôi quay mặt sang một bên. Tôi nghĩ chắc ông ta cho hành động này của tôi là dấu hiệu bằng lòng, vì khi ấy hai tay ông hoạt động cấp bách hơn. Ông ta kéo rộng cái áo lót ra. Khi ông ta cố mở sợi dây thắt cái yếm trên người tôi, tôi cảm thấy mấy ngón tay của ông cà vào xương sườn tôi, làm cho tôi nhột nhạt. Một lát sau ông cởi xong. Tôi không chịu đựng được ý nghĩ không biết ông ta thấy cái gì trên người tôi, cho nên mặc dù tôi quay mặt sang một bên, nhưng tôi vẫn cố liếc mắt nhìn vào gương. Chiếc yếm mở rộng để lộ một mảng da phía dưới ngực tôi.
Rồi hai tay ông Nam tước di chuyển xuống mông tôi, hai tay ông ta lại loay hoay mở dải vải koshimaki quanh mông tôi ra. Sáng sớm hôm ấy, khi tôi quấn vải koshimaki nhiều lần quanh mông, tôi đã buộc ở eo chặt hơn mọi khi. Ông Nam tước tìm mãi không ra múi dải buộc, nên ông giật nhiều lần cho dải vải bung ra, cho nên cuối cùng ông giật mạnh một cái và cả sợi dải vải dài bung ra dưới áo lót của tôi. Khi dải lụa trượt trên da thịt tôi, tôi nghe có tiếng phát ra từ cổ họng tôi, như là âm thanh của một tiếng nấc. Tôi đưa tay chụp dải koshimaki lại, nhưng ông Nam tước đã lôi đi và thả nó xuống nền nhà. Rồi từ từ như người đàn ông lôi tấm chăn đắp cho đứa trẻ nằm ngủ, ông ta kéo cái áo lót của tôi mở rộng ra với vẻ hết sức thận trọng như thể ông ta đang lôi tấm khăn đậy cái gì tuyệt vời lắm. Tôi cảm thấy cuống họng nóng như lửa đốt, dấu hiệu cho tôi biết tôi sắp khóc, nhưng tôi không muốn để cho ông Nam tước vừa thấy thân thể loã lồ của tôi lại vừa thấy tôi khóc. Dù sao tôi cũng phải cố giữ để cho khỏi khóc, cho đúng theo quyết tâm của tôi, và tôi nhìn đăm đăm vào gương một hồi lâu. Tôi cảm thấy như thời gian ngừng trôi. Tôi chưa bao giờ nhìn tôi hoàn toàn loã lồ như thế. Thực ra tôi còn mang bít tất gài nút trên chân, nhưng tôi cảm thấy thân hình tôi phô ra quá lộ liễu vì hai tà áo lót kéo rộng ra, ngay cả khi trong phòng tắm không mặc áo quần trên người, tôi cũng không cảm thấy tôi loã lồ như thế này. Tôi thấy hai mắt ông Nam tước dán vào chỗ này rồi dán vào chỗ khác trên thân hình tôi phản chiếu trong gương. Thoạt tiên, ông ta kéo rộng hai vạt áo ra để ông ta thấy rõ đường cong hai bên hông tôi. Rồi ông hạ mắt nhìn xuống chỗ có đám lông đen, đám lông đã mọc trước khi tôi đến Kyoto. Mắt ông ta dán vào đấy thật lâu, nhưng cuối cùng ông ta từ từ nhìn lên, lướt qua bụng tôi, qua xương sườn, đến hai vòng tròn có màu trái mận - thoạt tiên nhìn một bên rồi nhìn qua bên kia. Rồi ông Nam tước thả một tay, để cho vạt áo trở lại chỗ cũ ở một bên. Ông ta làm gì với tay ấy, tôi không biết, nhưng tôi không thấy lại tay ấy nữa. Bỗng tôi hoảng hốt khi thấy một bên vai trần của ông ta nhô ra khỏi chiếc áo tắm. Tôi không biết ông ta làm gì – và mặc dù bây giờ tôi đã biết chính xác ông ta làm gì, nhưng tôi không muốn nói ra làm gì. Điều khi ấy tôi biết là tôi cảm thấy hơi thở của ông ta làm cho cổ tôi nóng lên. Sau đó, tôi không thấy gì nữa. Tấm gương soi nhoà đi và tôi không cầm được nước mắt.
Rồi một lát sau hơi thở của ông Nam tước chậm lại. Da tôi nóng lên và ẩm ướt vì lo sợ, cho nên khi ông ta thả cái áo lót của tôi ra, tôi cảm thấy luồng hơi phả vào một bên tôi như một cơn gió nhẹ. Sau đó, tôi đứng một mình trong phòng. Ông Nam tước đã ra ngoài khi nào tôi không biết. Khi biết ông ta đi ra rồi, tôi vội vàng mặc áo vào, tôi hối hả vội vàng đến nỗi khi tôi quỳ xuống nền nhà để lượm áo lên, trong óc tôi đã nảy ra hình ảnh một đứa bé đói khát vội vã chụp lấy những mảnh vụn đồ ăn.
Tôi mặc áo vội vã với hai bàn tay run run. Nhưng mãi đến khi có sự giúp đỡ của người khác, tôi chỉ làm được có việc khép kín chiếc áo lót chung quanh người và thắt chặt chiếc dải vải quanh hông để giữ áo lót cho kín. Tôi đợi trước gương, nhìn mặt hoá trang của tôi nhem nhuốc, lòng hoang mang lo lắng. Tôi chuẩn bị tinh thần, nếu đợi một giờ tôi cũng đợi. Nhưng chỉ vài phút sau, ông Nam tước quay lại, chiếc khăn quàng bên hông ngoài áo tắm của ông ta thắt chặt cái bụng phệ. Ông ta giúp tôi mặc áo kimono không nói một tiếng, và thắt dải Datejime thật chặt như ông Itchoda. Trong khi ông ta nắm chặt dải thắt lưng dài, rộng bản trên tay, sửa lại cho ngay ngắn trước khi quấn vào hông tôi, tôi có cảm giác lo sợ kinh khủng. Thoạt tiên tôi không nhận ra cái cảm giác này là cảm giác gì, nhưng rồi nó ngấm qua người tôi như vết bẩn thấm qua áo quần, rồi sau đó tôi hiểu. Đó là cảm giác tôi đã làm một chuyện sai lầm kinh khủng. Tôi không muốn khóc trước mặt ông Nam tước nhưng không thể ngăn được nước mắt - vả lại khi ông ta trở lại trong phòng, ông ta không nhìn vào mắt tôi nữa. Tôi tưởng tượng ra cảnh tôi là ngôi nhà đứng giữa trời mưa, nước xối xả chảy xuống trước mặt. Nhưng chắc ông Nam tước đã thấy, vì ông ta ra khỏi phòng rồi trở lại, mang theo chiếc khăn tay có chữ ký tắt của ông ta trên khăn. Ông ta nói tôi cứ giữ chiếc khăn, nhưng sau khi dùng xong, tôi để nó lại trên bàn.
Rồi ông ta dẫn tôi ra trước nhà, bỏ đi và không nói một tiếng. Vừa lúc ấy một gia nhân đi tới, cầm trên tay cái áo kimono xưa được gói trong giấy dày. Anh ta cúi chào tôi rồi đưa tôi ra xe của ông Nam tước. Tôi lặng lẽ khóc khi ngồi trên xe chạy về quán trọ, nhưng anh tài xế giả vờ không hay biết gì. Tôi không khóc về những việc đã xảy ra. Nhưng tôi khóc vì điều khủng khiếp đang ám ảnh trí óc tôi – nói thẳng ra là khóc vì chuyện rồi đây ông Itchoda sẽ thấy mặt hoá trang của tôi nhem nhuốc, rồi khi giúp tôi cởi áo, ông ta sẽ thấy cái nút thắt trên dải thắt lưng xấu xí, và khi mở gói giấy ra ông ta sẽ thấy món quà tôi nhận quá đắt tiền.
Trước khi xuống xe, tôi lấy khăn tay của ông Chủ tịch để lau mặt, nhưng tôi vẫn không thấy đỡ chút nào. Ông Itchoda nhìn mặt tôi, ông ta gãi cằm như thể đã hiểu mọi việc xảy ra. Khi ông ta mở dải thắt lưng cho tôi ở trong phòng trên lầu, ông hỏi:
- Có phải ông Nam tước cởi áo cô ra không?
- Tôi xin lỗi - tôi đáp.
- Ông ta cởi áo cô và nhìn cô trong gương. Nhưng ông ta không hưởng lạc với cô. Ông ta không sờ cô, hay nằm trên người cô, phải không?
- Dạ phải, thưa ông.
- Thế thì tốt - ông Itchoda nói, nhìn tới trước.
Chúng tôi không nói gì với nhau nữa.

Chuong 23

Vào sáng sớm hôm sau, khi tàu vào ga Kyoto, tinh thần tôi vẫn chưa ổn định. Nói tóm lại, khi ném một viên đá vào hồ, mặt nước vẫn còn dao động một thời gian sau khi viên đá đã chìm xuống nước. Nhưng khi tôi bước xuống những tầng cấp gỗ để ra khỏi sân ga, ông Itchoda đi sau tôi một bậc, một việc khiến tôi kinh ngạc quên hết mọi sự trong một thời gian.
Tờ bích chương mới trong một tủ gương quảng cáo Vũ khúc cố đô mùa xuân, và tôi đứng lại để xem. Chỉ còn hai tuần nữa là đến ngày khai mạc. Tờ bích chương mới dán vào ngày hôm kia, có lẽ vào lúc tôi đang đi quanh trong khuôn viên nhà ông Nam tước với hy vọng gặp ông Chủ tịch. Vũ khúc mỗi năm có một chủ đề, như là Màu sắc bốn mùa ở Kyoto, hay là Địa danh trích từ chuyện của xứ Heike. Năm nay chủ đề là Ánh sáng long lanh của mặt trời ban mai. Bích chương, dĩ nhiên là do Uchida Koraburo vẽ - người đã sáng tạo hầu hết bích chương từ năm 1919 - vẽ một cô geisha tập sự mặc chiếc kimono màu lục và vàng cam rất đẹp đứng trên cầu vòng bằng gỗ. Tôi quá mệt vì đi xa và ngủ ít trên tàu cho nên tôi đứng choáng váng một lúc trước tấm bích chương, nhìn cái nền bức vẽ màu xanh lục và màu vàng tươi trước, mới nhìn qua hình cô gái mặc áo kimono. Cô a nhìn vào ánh sáng mặt trời rực rỡ, cặp mắt màu xanh xám quá tuyệt vời. Tôi phải vịn một tay lên lan can cho vững. Tôi là cô gái mà Uchida đã vẽ đứng trên cầu ấy.
Trên đường từ ga xe lửa về nhà, ông Itchoda chỉ cho tôi thấy từng tấm bích chương trên đường, thậm chí ông ấy còn yêu cầu bác phu xe kéo chúng tôi đến toà nhà Siêu thị Daimaru cũ để xem bích chương dán đầy cả một bức tường ở đấy nữa. Nhìn thấy hình tôi được dán khắp thành phố như thế này, cũng không làm cho tôi được hoàn toàn sung sướng, vì tôi vẫn nghĩ đến cô gái tội nghiệp đang đứng trước tấm kính soi để một gã đàn ông cởi dải thắt lưng. Mặc dù tôi chờ đợi những giây phút được người ta chúc mừng trong những ngày sắp đến, tôi cũng biết rằng bên cạnh những vinh hạnh này, tôi sẽ gặp nhiều chuyện đắng cay. Từ khi Mameha thu xếp để tôi được có vai trong những vũ khúc mùa xuân này, tôi đã nghe một số lời bình phẩm không mấy đẹp về tôi. Sau khi bích chương dán xong, tình hình càng tệ thêm ra. Ví dụ, vào sáng hôm sau, một cô geisha tập sự từng là bạn của tôi tuần trước, thì nay gặp tôi, cô ta quay mặt khi tôi cúi chào.
Riêng về phần Mameha, tôi đến thăm cô ấy tại nhà cô, cô ấy đã tỏ ra tự hào như chính cô là người trên tờ bích chương. Dĩ nhiên cô ấy không hài lòng về việc tôi đi Hakone, nhưng cô ấy có vẻ rất mãn nguyện về thành công của tôi. Tự nhiên tôi lo sợ cô ấy biết chuyện kinh khủng đã xảy ra giữa tôi với ông Nam tước, sợ cô ấy cho đây là một sự phản bội. Tôi nghĩ thế nào ông Itchoda cũng nói cho cô ấy biết chuyện này…nhưng nếu ông ta có nói, chắc không bao giờ cô ấy nêu vấn đề này ra giữa chúng tôi. Và tôi cũng không.
Hai tuần sau, vũ khúc mùa xuân bắt đầu. Vào hôm đầu tiên trong phòng thay áo quần ở Nhà hát Kaburenjo, tôi cảm thấy lòng tràn ngập hân hoan, vì Mameha cho biết ông Chủ tịch và ông Nobu có mặt trong đám khán giả. Trong khi hóa trang, tôi nhét cái khăn tay của ông Chủ tịch dưới chiếc áo lót, sát vào chỗ da trần. Tóc tôi buộc sát vào da đầu bằng một dải lụa, vì tôi phải đội tóc giả, và khi soi gương không thấy mái tóc quen thuộc phủ quanh khuôn mặt, các góc cạnh ở hai má và quanh hai mắt bỗng trở nên xa lạ với tôi. Nói ra có vẻ kỳ cục, nhưng khi tôi nhận ra khuôn mặt của tôi có vẻ xa lạ với tôi, tôi bỗng nghĩ rằng không có gì trên đời này đơn giản như ta tưởng.
Một lát sau tôi đứng với các cô tập sự khác bên cánh gà nhà hát, chuẩn bị vở múa khai mạc. Chúng tôi mặc kimono giống nhau, màu vàng và đỏ, dải thắt lưng màu vàng cam và màu vàng – cho nên mỗi người chúng tôi trông như những bóng người lung linh trong ánh mặt trời. Khi âm nhạc nổi lên, thoạt tiên tiếng trống rồi sau đó tiếng đàn Shamisen vang lên, chúng tôi cùng hiện ra, quạt trong tay mở rộng – chưa bao giờ tôi cảm thấy mình được nhập cuộc với đời như thế này.
Sau vở múa khai mạc, tôi chạy lên lầu để thay kimono. Vở múa của tôi diễn một mình có tên Nắng Mai Trên Sông, nói về một trinh nữ tắm buổi sáng dưới biển và yêu một chú cá heo đẹp mã. Y phục của tôi là kimono màu hồng lộng lẫy với hình vẽ mặt nước màu xám, tôi cầm những dải lụa xanh để tượng trưng cho nước gợn sóng sau tôi. Vai hoàng tử cá heo đẹp mã do cô geisha tên Umiyo đóng, thêm vào, có nhiều vai khác do các geisha thủ diễn để tả gió, ánh sáng mặt trời và những tia nước – cũng như một vài geisha tập sự bôi đen, mặc kimono màu xanh đứng ở xa xa ngoài mép sân khấu, làm những chú cá heo gọi hoàng tử của chúng trở về.
Tôi vội thay áo thật nhanh đến nỗi tôi còn dư được vài phút để nhìn ra khán giả ở dưới. Tôi đi theo tiếng trống chốc chốc gióng lên để đến một hành lang hẹp, âm u, chạy phía sau một trong hai căn buồng của ban nhạc nằm hai bên nhà hát. Một vài cô tập sự và geisha đang nhìn qua những khe hở nơi cửa lầu. Tôi chen vào với họ và nhìn ra, thấy ông Chủ tịch và ông Nobu ngồi với nhau – nhưng tôi thấy hình như ông Chủ tịch đã nhường cho Nobu chỗ tốt hơn. Nobu say sưa nhìn lên sân khấu, nhưng tôi ngạc nhiên thấy ông Chủ tịch có vẻ ngủ gục. Theo tiếng nhạc, tôi nhận ra vở múa của Mameha đang bắt đầu, tôi đến cuối hành lang nơi có những đường khe hở nơi cửa sổ có thể nhìn ra sân khấu.
Tôi chỉ xem Mameha múa vài phút thôi, nhưng ấn tượng mà vở múa của cô ấy in vào óc tôi không bao giờ phai. Hầu hết những vở múa của trường Inoue thường kể sự tích của một chuyện gì đấy, và sự tích của vở múa này có tên Vị Triều Thần trở về với vợ - dựa trên một tác phẩm Trung Hoa nói đến mối tình vụng trộm của một Triều Thần với một Cung Phi. Một đêm bà vợ của vị Triều Thần núp ngoài hoàng cung để xem chồng bà đi chơi ở đâu. Cuối cùng, đến lúc rạng sáng, bà thấy chồng bà chia tay với tình nhân trong một đám cây – nhưng ngay lúc đó bà ta phát bệnh vì trời quá lạnh, và sau đó bà ta mất.
Vũ khúc mùa xuân của chúng tôi, sự tích chuyển sang của Nhật chứ không dùng chuyện Trung Hoa, nhưng đàng nào thì câu chuyện cũng giống nhau. Mameha đóng vai người phụ nữ chết vì lạnh và đứng tim, còn cô geisha Kamako đóng vai người chồng, vị quan trong triều. Tôi xem vở múa đúng vào lúc vị quan triều thần chia tay với tình nhân. Cảnh trên sân khấu đẹp mê hồn, ánh sáng bình minh yếu ớt, tiếng đàn Shamisen dìu dặt như tiếng thổn thức sau hậu trường. Vị quan múa một điệu múa mê hồn để cám ơn người tình đã cho ông ta một đêm hạnh phúc, rồi tiến ra phía ánh mặt trời mọc để hứng lấy hơi ấm cho nàng. Chính lúc này Mameha múa điệu múa diễn tả nỗi sầu muộn của người vợ, cô ấy đứng khuất một bên sân khấu ngoài tầm mắt của người chồng và tình nhân của ông ta. Tôi không biết có phải vì điệu múa của Mameha quá đẹp hay vì nội dung câu chuyện mà tôi cảm thấy buồn da diết khi nhìn cô ta, tôi cảm thấy như chính tôi là nạn nhân gây ra sự phản bội kinh khủng ấy. Cuối vở múa, ánh mặt trời chiếu sáng khắp sân khấu, Mameha đến một rừng cây để múa một mình diễn tả cái chết. Tôi không thể nói cho anh nghe chuyện gì đã xảy ra sau đó. Tôi quá xúc cảm đến nỗi tôi không thể đứng lại xem được nữa, vả lại, tôi phải về hội trường để chuẩn bị phiên mình ra trình diễn.
Trong lúc tôi đợi bên cánh gà, tôi có cảm giác kỳ lạ là sức nặng của toà nhà đè nặng lên tôi – vì đối với tôi, sự buồn phiền là thứ nặng nề vô cùng kỳ lạ. Người vũ công giỏi thường mang vớ có cài nút màu trắng với cỡ rất nhỏ, cho nên cô ta cảm biết được các đường nối trên sàn gỗ với bàn chân mình. Nhưng khi tôi đứng đấy, cố sức giữ bình tĩnh để biểu diễn, tôi đã có cảm giác như có sức nặng nào đấy đè mạnh lên tôi, đến nỗi không những tôi cảm nhận được các đường nối trên đường ván, mà còn cảm nhận được cả những sợi chỉ trong đôi vớ nữa. Cuối cùng tôi nghe tiếng trống và tiếng đàn Shamisen cất lên và tiếng áo quần sột soạt của các vũ công vội vã đi qua tôi để ra sân khấu, nhưng tôi thấy rất khó mà nhớ được chuyện gì sau đó. Tôi chỉ biết tôi đã đưa tay lên với chiếc quạt khép lại và đầu gối tôi cong xuống – thì đấy là các thế để vào vở múa. Sau đó tôi không nghe ai nói gì về việc tôi không có dấu hiệu báo bắt đầu, nhưng tôi chỉ nhớ rõ ràng tôi đã nhìn hai cánh tay tôi với vẻ ngạc nhiên là động tác của tôi rất chính xác và rất đều đặn. Tôi đã tập vở múa nhiều lần, tôi nghĩ tôi tập như thế là quá đủ. Và mặc dù tinh thần tôi bị sa sút nhưng tôi đã diễn vai của tôi không khó khăn hay bị lúng túng.
Bất kỳ buổi trình diễn nào trong tháng đó, tôi đều chuẩn bị ra sân khấu một cách giống nhau, bằng cách tập trung vào vở Vị Triều Thần Trở Về Với Vợ cho đến khi tôi cảm thấy nỗi sầu muộn đè nặng lên tôi. Loài người chúng ta có đặc tính là quen với hoàn cảnh rất mau, nhưng khi tôi hình dung ra cảnh Mameha múa để miêu tả cảnh đau buồn đứng khuất trước cặp mắt của người chồng và tình nhân của chồng, tôi không thể không cảm thấy buồn phiền, không phải như anh có thể không ngửi thấy mùi trái táo cắt ra để trên bàn trước mặt anh.
Một hôm vào tuần cuối cùng của đợt trình diễn, Mameha và tôi ngồi nán lại lâu trong phòng thay áo, nói chuyện với các geisha khác. Khi chúng tôi ra khỏi nhà hát, chúng tôi cứ nghĩ chắc không gặp ai ở ngoài – và quả vậy, mọi người đã về hết. Nhưng khi chúng tôi ra đến đường, một tài xế mặc đồng phục từ trên một chiếc xe hơi bước ra, mở cửa sau xe. Mameha và tôi định đi qua thì ông Nobu xuất hiện.
- Kìa ông Nobu - Mameha thốt lên - tôi đang lo không biết sao lâu nay ông không cần Sayuri đến giúp vui! Suốt tháng này ngày nào chúng tôi cũng mong nhận được tin ông…
- Thử hỏi ai là người đợi ai? Tôi đợi ngoài nhà hát này gần một giờ rồi.
- Ông lại đến xem múa mới ra về đấy phải không? – Mameha hỏi – Sayuri đúng là một minh tinh.
- Tôi không vừa mới từ đâu đến hết – Nobu nói – Tôi vừa xem múa cách đây một giờ. Đủ thì giờ để tôi gọi một cuốc điện thoại và sai tài xế ra phố để lấy đồ về đây cho tôi.
Nobu đấm tay lên cửa xe với bàn tay độc nhất, làm cho người tài xế giật mình mạnh đến nỗi cái mũ lưỡi trai rơi ra khỏi đầu. Anh tài xế hạ kính cửa xe xuống, đưa cho Nbbu cái bao nhỏ ở nhà hàng theo kiểu phương Tây, bao làm bằng giấy trông như giấy kẽm bạc. Nobu quay qua tôi, tôi cúi chào ông ta thật thấp, nói với ông tôi rất sung sướng được gặp ông ta.
- Cô là vũ công có tài, Sayuri à. Tôi không tặng quà vô cớ đâu - ông ta nói, nhưng tôi không tin ông ta nói thật – có lẽ vì thế mà Mameha và những người khác ở Gion không thích tôi bằng những người khác.
- Ông Nobu – Mameha nói – ai có ý kiến lạ đời như thế?
- Tôi biết rõ các cô geisha thích gì. Cho nên khi đàn ông tặng cô quà, cô phải bỏ qua các thứ vô nghĩa đi.
- Kìa, ông Nobu – tôi nói - chuyện gì vô nghĩa mà ông yêu cầu tôi phải bỏ qua? – Dĩ nhiên tôi cho đây là chuyện đùa, nhưng Nobu thì không xem đấy là chuyện đùa.
- Thì tôi không vừa nói tôi không giống các người khác đó à? – ông ta cau có nói - Tại sao giới geisha các cô không tin chuyện người ta nói với các cô? Nếu cô muốn nhận gói quà này thì nhận đi, kẻo tôi đổi ý.
Tôi cám ơn ông Nobu và nhận gói quà, và ông ta đấm tay vào cửa xe. Người tài xế nhảy ra mở cửa xe cho ông ta.
Chúng tôi cúi người chào cho đến khi chiếc xe rẽ vào góc đường rồi Mameha và tôi đi lại vào trong vườn của nhà hát Kaburenjo, chúng tôi ngồi trên ghế đá nhìn ra hồ cá chép và nhìn cái gói của Nobu vừa cho tôi. Cái gói đựng một cái hộp nhỏ gói trong giấy màu vàng có in nổi tên của tiệm kim hoàn nổi tiếng, hộp được buộc bằng dải vải to. Tôi mở hộp ra, trong hộp chỉ có một viên ngọc, viên hồng ngọc to bằng hạt đào. Nó giống như giọt máu khổng lồ lấp lánh dưới ánh mặt trời trên hồ. Khi tôi xoay viên ngọc trong mấy ngón tay, ánh sáng lóng lánh nhảy từ mặt này sang mặt khác trên viên ngọc. Tôi cảm thấy ngực tôi cũng nhảy theo nhịp nhảy của từng mặt viên ngọc.
- Tôi thấy cô có vẻ sung sướng – Mameha nói – và tôi rất mừng cho cô. Nhưng đừng vui quá. Đời cô sẽ có nhiều ngọc nữa, Sayuri à, tôi nghĩ là sẽ có nhiều. Nhưng cô sẽ không có cơ hội như thế này lại nữa đâu. Cô hãy đem viên ngọc này về nhà và đưa cho bà Mẹ.
Nhìn vào viên ngọc đẹp thế này, ánh sáng từ viên ngọc toát ra nhuộm hồng đôi tay tôi, rồi nhìn bà Mẹ với cặp mắt vàng khè, mi mắt bầm tím…hừ, tôi thấy cho bà ta viên ngọc này chẳng khác nào mặc đồ lụa cho chồn. Nhưng dĩ nhiên tôi phải vâng lời Mameha.
- Khi cô đưa viên ngọc này cho bà ta - cô ấy nói tiếp – cô phải hết sức dịu dàng, nói như thế này “Thưa Mẹ, con không cần viên ngọc, con rất hân hạnh được Mẹ nhận viên ngọc này. Con đã gây cho Mẹ quá nhiều phiền hà trong những năm vừa qua” Nhưng đừng nói nhiều, nếu không bà ta sẽ cho là cô mỉa mai.
Sau đó khi tôi ngồi trong phòng, mài mực tàu để viết vài lời cám ơn ông Nobu, tôi lại thấy tức tối trong lòng. Nếu Mameha yêu cầu tôi cho cô ta viên ngọc, tôi sẽ vui vẻ đưa cho cô ta ngay. Nhưng đưa cho bà Mẹ thì ôi! Tôi cảm thấy thích ông Nobu, tôi rất buồn khi thấy món quà đắt tiền này lọt vào tay bà Mẹ. Tôi thừa biết nếu viên ngọc này là của ông Chủ tịch, tôi sẽ không cho ai hết. Nhưng dù sao, tôi đã viết xong lời cám ơn, tôi bèn đến phòng bà Mẹ để nói chuyện với bà. Bà ta đang ngồi trong ánh sáng lờ mờ, vuốt ve con chó và hút thuốc.
- Mày muốn gì đấy? – bà ta hỏi tôi – Ta định gọi đem đến một bình trà.
- Con xin lỗi đã quấy rầy Mẹ. Chiều nay khi Mameha và con rời khỏi nhà hát, ông quản lý Nobu Toshikazu đợi con…
- Chắc mày muốn nói đợi cô Mameha…
- Con không biết, thưa Mẹ. Nhưng ông ta tặng cho con một món quà. Món quà rất đẹp, nhưng con không dùng nó làm gì.
Tôi muốn nói tôi rất hân hạnh nếu được bà nhận món quà này, nhưng bà Mẹ không nghe tôi. Bà để ống vố xuống bàn, lấy cái hộp trên tay tôi trước khi tôi đưa cho bà. Tôi lại muốn nói tiếp cho rõ hơn, nhưng bà Mẹ đã lật ngược cái hộp đổ viên hồng ngọc ra trong tay bà.
- Cái gì thế này? – Bà ta hỏi.
- Đây là quà ông quản lý Nobu tặng con. Nobu Toshikazu ở công ty đồ điện Iwamura.
- Mày tưởng tao không biết Nobu Toshikazu là ai à?
Bà ta đứng dậy, đến bên cửa sổ, đẩy khung cửa giấy ra và đưa viên ngọc ra chỗ có ánh sáng của buổi chiều tà chiếu vào. Bà ta làm công việc như tôi đã làm ngoài đường, xoay quanh viên ngọc trong tay và nhìn ánh sáng lấp lánh từ mặt này sang mặt khác. Cuối cùng, bà đóng khung cửa sổ lại và về chỗ cũ.
- Chắc mày lầm, có phải ông ta bảo mày đưa viên ngọc cho Mameha không?
- Dạ, Mameha có mặt với con lúc ấy.
Tôi có thể hình dung được cảnh tượng diễn ra trong óc bà Mẹ lúc ấy, chẳng khác nào cảnh ngã tư đường vào giờ xe cộ đông đúc. Bà ta để viên ngọc lên bàn, tiếp tục hút ống vố. Tôi nghĩ tâm trí bà rối bời như đám khói thuốc bà nhả ra. Cuối cùng bà ta nói:
- Vậy là Nobu Toshikazu đã quan tâm đến mày, phải không?
- Con hân hạnh được ông ta chú ý đến từ ít lâu nay.
Nghe xong bà ta để ống vố xuống bàn như thể muốn nói rằng câu chuyện của chúng tôi sắp chuyển sang phần nghiêm trọng hơn. Bà ta nói:
- Tao chưa canh chừng mày được kỹ càng. Nếu mày đã có bạn trai, thì bây giờ hãy nói cho tao biết.
- Thưa Mẹ, con không có bạn trai nào hết.
Tôi không biết bà ta có tin tôi hay không, nhưng đến đây thì bà bảo tôi đi ra. Tôi chưa kịp nói lời tặng bà ta viên ngọc như Mameha đã dặn. Tôi cố nghĩ ra cách để nêu vấn đề. Nhưng khi tôi nhìn vào cái bàn nơi có viên ngọc, chắc bà tưởng tôi muốn lấy viên ngọc lại. Cho nên, tôi chưa kịp nói thêm lời nào, bà ta đã đưa tay nắm gọn lấy viên ngọc.

OOo
Cuối cùng, việc đó xảy ra vào một buổi chiều. Mameha đến nhà kỹ nữ, dẫn tôi vào phòng khách để báo cho tôi biết việc hô giá mua mizuage của tôi bắt đầu. Cô ấy đã nhận được tin báo của phòng trà Ichiriki vào sáng ấy.
- Tôi buồn là thời điểm tổ chức không thuận lợi – Mameha nói với tôi – Vì chiều nay tôi phải đi Tokyo. Nhưng cô không cần phải có mặt của tôi. Cô sẽ thấy giá hô sẽ cao, vì mọi việc chắc thế nào cũng xảy ra.
- Tôi không hiểu – tôi nói - Mọi việc gì thế?
- Tất cả mọi việc - cô ấy đáp, rồi ra về mà không đụng đến tách trà.
Cô ấy đi ba ngày. Mới đầu, mỗi khi tôi nghe tiếng chân của các chị hầu đến gần là tim tôi đập thình thịch. Nhưng hai ngày trôi qua không có tin tức gì mới mẻ. Sang ngày thứ ba, bà Dì đến tìm tôi ở hành lang để báo là bà Mẹ muốn gặp tôi trên lầu.
Tôi vừa bước lên tầng cấp thứ nhất của thang lầu, bỗng nghe có tiếng cửa mở, rồi Bí Ngô ào ào chạy xuống. Cô ta phóng như gió, hai chân hầu như không chạm phải bậc thang, đến giữa cầu thang, một ngón tay móc phải tay vịn quặp lại. Chắc cô ta đau lắm, vì cô ta hét lên một tiếng và khi xuống đến chân cầu thang, cô ta dừng lại để nắm lấy ngón tay.
- Hatsumono đâu rồi? - cô ta hỏi, rõ ràng cô ta đau đớn – tôi phải tìm cô ấy!
- Xem cô có vẻ đau nhiều đấy! – bà Dì nói – Cô phải tìm Hatsumono để cô ta làm cho cô đau thêm nữa phải không?
Bí Ngô có vẻ rất chán nản. Không những vì ngón tay mà thôi, nhưng khi tôi hỏi cô ta có việc gì quan trọng không, cô ta không đáp mà chạy ra cửa trước rồi biến mất.
Khi tôi vào phòng Mẹ, bà ta đang ngồi nơi bàn. Bà nhồi thuốc vào ống vố, nhưng rồi không biết nghĩ sao, bà ta dẹp đi. Trên kệ để sách kế toán, có cái đồng hồ theo kiểu Tây phương rất đẹp trong tủ kính. Chốc chốc Mẹ nhìn đồng hồ, nhưng mấy phút trôi qua mà bà vẫn không nói gì với tôi hết. Cuối cùng tôi lên tiếng:
- Thưa Mẹ, con xin lỗi đã quấy rầy Mẹ, nhưng con được lệnh lên đây để gặp Mẹ.
- Ông bác sĩ đến trễ - bà đáp – chúng ta đợi ông ta một lát.
Tôi nghĩ bà nói đến bác sĩ Cua, chắc ông ta đến đây để thu xếp về việc mua mizuage của tôi. Tôi không trông mong chuyện như thế cho nên thấy lòng xốn xang khó chịu. Mẹ vuốt ve con chó Taku để giết thì giờ, con chó có vẻ mệt mỏi vì bà ta lưu tâm đến nó quá, nên nó kêu ư ử trong họng để phản đối.
Cuối cùng tôi nghe các chị hầu cất tiếng chào khách dưới tiền sảnh, và Mẹ vội vã xuống lầu. Mấy phút sau, bà trở lên, nhưng không dẫn bác sĩ Cua lên theo mà dẫn một người đàn ông trẻ hơn có mái tóc màu bạch kim mượt mà, xách cặp da trên tay.
- Cô gái này đây - Mẹ nói với ông ta.
Tôi cúi đầu chào ông bác sĩ trẻ, ông ta chào lại tôi.
- Thưa bà, chúng ta sẽ khám tại đây?
Mẹ nói với ông ta khám ngay trong phòng chúng tôi đang ngồi là tiện nhất. Cách bà đóng cửa, tôi biết chuyện sắp xảy ra không thú vị gì. Bà bèn tháo dải thắt lưng của tôi ra, để lên bàn. Rồi bà cởi áo kimono của tôi qua vai và đến móc vào giá ở trong góc. Tôi đứng bình tĩnh với chiếc áo lót trên người, nhưng một lát sau Mẹ đến tháo dải vải buộc áo lót ra. Tôi tự nhiên đưa tay cản lại, nhưng bà hất tay tôi đi như ông Nam tước đã làm, khiến cho tôi cảm thấy đau đớn. Sau khi tháo dải vải buộc xong, bà chuồi tay vào dưới áo lót và kéo dải vải Koshimaki quanh mông ra - một lần nữa như khi ở Hakone. Tôi không thích chuyện như thế này chút nào hết, nhưng thay vì kéo rộng hai vạt áo lót ra như ông Nam tước đã làm, bà ta vấn hai vạt áo lên quanh người tôi rồi bảo tôi đến nằm xuống chiếu.
Ông bác sĩ quỳ gối xuống, sau khi xin lỗi, ông ta lôi rộng áo lót tôi để cho hai chân phô ra. Mameha đã nói cho tôi biết một ít về chuyện mizuage rồi, nhưng tôi thấy bây giờ mới đến lúc biết rõ nhiều hơn. Có phải việc hô giá đã xong xuôi và ông bác sĩ trẻ này đã thắng? Thế ông bác sĩ Cua và ông Nobu ra sao rồi? Tôi bỗng nghĩ là có thể bà Mẹ âm mưu phá hỏng kế hoạch của Mameha. Ông bác sĩ trẻ chỉnh lại hai chân tôi cho ngay thẳng rồi đưa tay vào giữa, tôi cảm thấy bàn tay ông ta mịn màng, mềm mại như tay của ông Chủ tịch. Tôi cảm thấy quá xấu hổ và trơ tráo khiến cho tôi phải lấy tay che mặt. Tôi muốn khép hai chân lại, nhưng tôi sợ làm thế sẽ gây trở ngại cho công việc của ông ta, rồi kéo dài thêm thời gian chạm trán này. Cho nên tôi nằm yên, hai mắt nhắm nghiền, nín thở. Tôi cảm thấy như con chó Taku khi nó bị mắc xương, bà Dì phải banh miệng nó ra cho bà Mẹ thọc tay vào họng nó. Bỗng tôi cảm thấy ông bác sĩ đưa cả hai tay vào giữa hai chân tôi, nhưng cuối cùng ông ta lấy tay ra rồi kéo áo lót che kín cho tôi. Khi tôi mở mắt ra, tôi thấy ông ta lau tay trên miếng vải.
- Cô gái còn trinh - ông ta nói.
- Tốt, thế là tuyệt! - Mẹ đáp – Có sẽ ra nhiều máu không?
- Chắc không ra máu đâu. Tôi chỉ nhìn mà khám thôi.
- Không, tôi nói lúc bán mizuage kìa.
- Khó nói. Tôi đoán máu sẽ chảy ra như mọi người khác thôi.
Khi ông bác sĩ trẻ về rồi, Mẹ giúp tôi mặc áo và bảo tôi ngồi vào bàn. Rồi không nói không rằng, bà ta chụp dái tai của tôi, kéo rất mạnh khiến tôi la lên. Bà ta giữ đầu tôi kê sát bên đầu bà trong khi nói:
- Mày là món hàng đắt giá, con ơi! Tao đã đánh giá mày thấp. Tao may mắn là không có gì xảy ra. Nhưng mày phải nhớ là từ rày về sau tao giám sát mày chặt chẽ đấy. Đàn ông phải trả giá thật đắt mới mua trinh của mày được, mày hiểu không?
- Dạ hiểu, thưa Mẹ! – tôi đáp. Dĩ nhiên bà ta nói gì tôi cũng dạ vì bà kéo tai tôi đau quá.
- Nếu mày để cho đàn ông trả giá tuỳ tiện tức là mày lường gạt nhà kỹ nữ này đấy. Mày còn mắc nợ tiền, tao phải lấy lại tiền của mày. Chuyện này hiển nhiên không cần phải nói nữa! - Đến đây, bà Mẹ làm phát ra tiếng kêu gớm ghiếc từ bàn tay kia, bà chà mấy ngón tay vào lòng bàn tay khiến phát ra tiếng kêu ken két.
- Đàn ông sẽ trả tiền để mua trinh – bà ta nói tiếp – nhưng họ cũng trả tiền để nói chuyện khác với mày nữa. Nếu mày trốn đi để gặp thằng nào, cho dù chỉ để nói chuyện một lát thôi – Đến đây bà kết thúc ý nghĩ của mình bằng cách kéo mạnh dái tai tôi một lần nữa mới buông ra.
Tôi phải nghiến răng chịu đau một lát mới lấy lại hơi thở. Khi bình tĩnh trở lại, tôi nói:
- Thưa Mẹ, con sẽ không làm gì cho Mẹ giận đâu!
- Chưa đấy thôi! Nếu mày có lương tri, mày không nên làm.
Tôi xin lỗi để rút lui, nhưng Mẹ bảo tôi ngồi nán lại. Bà gõ ống vố, mặc dù ống vố trống trơn, rồi khi đã nhồi thuốc và châm lửa xong, bà mới nói:
- Tao đã có quyết định. Địa vị của mày trong nhà này sắp thay đổi.
Tôi hốt hoảng khi nghe thấy thế, định lên tiếng hỏi thì Mẹ đã ngăn tôi lại.
- Tuần sau, tao và mày sẽ tổ chức một buổi lễ. Sau đó mày sẽ là con gái của tao. Tao sẽ tuyên bố quyết định nhận con nuôi. Ngày nào đó, nhà kỹ nữ này sẽ là của mày.
Tôi không biết nói năng gì, và tôi cũng không nhớ hết những gì xảy ra sau đó. Tôi chỉ nhớ Mẹ nói liên hồi, bà nói rằng vì tôi là con gái của nhà kỹ nữ, nên rồi đây tôi sẽ dọn đến ở tại phòng của Hatsumono và Bí Ngô đang ở, còn hai người ấy phải dọn đến phòng tôi đang ở nhỏ hơn. Tôi chỉ nghe mang máng cho đến khi nhận ra rằng khi đã là con gái của Mẹ rồi, tôi không còn phải vật lộn dưới sự bạo tàn của Hatsumono nữa.
Đấy là kế hoạch của Mameha, thế nhưng tôi không tin lại có ngày xảy ra được. Mẹ cứ tiếp tục nói. Tôi nhìn vào đôi môi chảy xuống và cặp mắt vàng khè của bà. Bà ta là mụ già đáng ghét thật đấy, nhưng khi tôi đã là con gái của bà ta, tôi sẽ đứng trên kệ cao khỏi tầm với của Hatsumono.
Đang nói nửa chừng, cửa mở ra và Hatsumono hiện ra nơi ngưỡng cửa.
- Cô cần gì đấy? – Mẹ hỏi – tôi đang bận.
- Đi ra – cô ta nói với tôi – tôi cần nói chuyện với Mẹ.
- Nếu cô muốn nói chuyện với ta – Mẹ nói – cô nên hỏi xem Sayuri có vui lòng ra ngoài hay không đã.
- Làm ơn vui lòng ra ngoài cho với, Sayuri – Hatsumono nói, giọng mỉa mai.
Lần đầu tiên trong đời, tôi trả lời cô ta mà không sợ cô ta trừng phạt tôi.
- Nếu Mẹ muốn tôi ra, tôi sẽ ra – tôi nói với cô ta.
- Thưa Mẹ, mẹ có vui lòng bảo cô bé ngốc này ra ngoài để yên cho chúng ta được không? – Hatsumono hỏi.
- Đừng có sinh chuyện ồn ào nữa! – Mẹ đáp – muốn nói gì thì cứ vào mà nói.
Hatsumono không thích thế, nhưng cô ta vẫn đi vào. Mẹ ngồi ở bàn. Cô ta ngồi ở giữa Mẹ và tôi, nhưng rất gần bên tôi đến nỗi tôi ngửi được cả mùi nước hoa trên người cô ta.
- Bí Ngô vừa chạy đi tìm tôi, nó rất buồn – cô ta nói – Tôi hứa tôi sẽ nói chuyện với Mẹ. Bí Ngô nói “Ôi chị Hatsumono, Mẹ đã đổi ý rồi!”, nhưng tôi nói với nó không có chuyện kỳ lạ như thế đâu.
- Ta không biết nó nói chuyện gì, chưa bao giờ ta thay đổi ý kiến về chuyện gì hết.
- Chính tôi đã nói với nó như thế, tôi nói rằng Mẹ sẽ không bao giờ nuốt lời hứa. Nhưng thưa Mẹ, nếu Mẹ nói thẳng cho cô ấy biết, chắc cô ta mới yên tâm.
- Nói với nó về việc gì thế?
- Nói Mẹ không đổi ý về việc nhận cô ta làm con.
- Cái gì khiến cho nó có ý ấy? Có bao giờ ta nảy ra ý kiến sẽ nhận nó làm con nuôi đâu?
Nghe bà ta nói, tôi đau đớn kinh khủng, vì không làm sao tôi khỏi nhớ lại cảnh Bí Ngô chạy xộc xuống cầu thang với vẻ đau khổ, và cô ta đau đớn là đúng, vì không ai biết được tương lai của cô ta sẽ ra sao. Khi mới vào, Hatsumono cười tươi rói, nhưng khi nghe Mẹ nói, mặt cô ta đanh lại như đá. Cô ta hậm hực nhìn tôi.
- Vậy là đúng rồi! Mẹ đã có kế hoạch nhận “nó” làm con nuôi. Mẹ này, thế Mẹ không nhớ Mẹ đã hứa sẽ nhận Bí Ngô làm con nuôi hay sao? Mẹ yêu cầu tôi nói lại cho cô ta biết kia mà?
- Việc cô nói với Bí Ngô không phải là ý kiến của ta. Vả lại, cô không tổ chức cho Bí Ngô thực tập được tốt như ta mong đợi. Cô chỉ làm tốt một thời gian rồi gần đây…
- Mẹ, Mẹ đã hứa rồi! – Hatsumono nói bằng giọng làm cho tôi khiếp sợ.
- Đừng nói chuyện ngu ngốc! Chắc cô biết ta đã để mắt đến Sayuri từ lâu rồi. Tại sao ta quay qua nhận Bí Ngô làm con nuôi?
Tôi thừa biết Mẹ nói láo. Rồi bà ta còn đi xa hơn nữa, vì bà quay qua tôi hỏi như thế này:
- Này Sayuri, lần đầu ta nêu vấn đề nhận cô làm con nuôi là khi nào nhỉ? Có lẽ cách đây một năm phải không?
Chắc anh đã thấy con mèo mẹ dạy con mèo con săn chuột rồi – cách nó nắm con chuột bất lực rồi xé xác ra – như thế đấy, tôi cảm thấy như thế là Mẹ giúp tôi cơ hội học hỏi để trở thành như bà ta sau này. Tôi chỉ có việc nói láo như bà ta đã nói láo, và tôi đáp:
- Dạ phải, thưa Mẹ, Mẹ đã nói chuyện này với con nhiều lần rồi!
Đây là bước đầu tiên để một ngày nào đấy tôi trở thành bà già mắt vàng khè, sống trong căn phòng âm u với sổ sách kế toán. Tôi ghét Hatsumono mà cũng không phục bà Mẹ. Tôi cụp mắt nhìn xuống chiếu để khỏi thấy người nào hết, và trả lời rằng không nhớ khi nào.
Mặt Hatsumono đỏ dừ vì tức giận. Cô ta đứng dậy, đi ra cửa, nhưng Mẹ chận lại.
- Trong vòng một tuần nữa là Sayuri làm con gái của ta – bà nói – Trong thời gian này, cô phải học cách cư xử với cô ấy cho phải phép. Khi xuống lầu, cô hãy bảo chị hầu đem trà lên cho Sayuri và ta.
Hatsumono cúi nhẹ chào, đi ra cửa.
- Thưa Mẹ - tôi nói – con rất buồn khi thấy mình là nguyên nhân sinh ra chuyện rắc rối như thế này. Con nghĩ Hatsumono hoàn toàn sai lầm trong các kế hoạch Mẹ đã đề ra cho Bí Ngô, nhưng, con xin hỏi điều này được không? Mẹ không thể nhận cả Bí Ngô và con làm con nuôi được à?
- Ồ thì ra bây giờ mày đã biết công việc làm ăn rồi phải không? – Bà ta trả lời – Mày muốn dạy ta cách thức điều hành nhà kỹ nữ phải không?
Mấy phút sau chị hầu mang khay trà lên, trên khay có bình trà và một cái tách – không phải hai cái tách, mà chỉ có một cái thôi. Hình như Mẹ chẳng cần để ý, Mẹ rót đầy tách trà và uống, giương cặp mắt vàng khè nhìn tôi.

Chuong 24

Ngày hôm sau khi Mameha về lại thành phố, nghe chuyện Mẹ nhận tôi làm con nuôi, cô ấy không có vẻ vui mừng như tôi mong đợi. Cô ấy gật đầu với vẻ hài lòng, đương nhiên, nhưng không cười. Tôi hỏi công việc như thể không như ý cô ấy mong muốn hay sao.
- Ồ không, việc hô giá giữa ông bác sĩ Cua và ông Nobu tiến triển như tôi mong đợi – cô ấy nói – và kết cuộc là số tiền đáng kể. Khi có tin chính thức, tôi nghĩ thế nào bà Nitta cũng nhận cô làm con. Làm sao tôi không vui?
Cô ấy nói thì như thế. Nhưng sự thực, như điều tôi được biết trong mấy năm sau, hoàn toàn khác hẳn. Điều thứ nhất là không có tranh nhau hô giá giữa bác sĩ Cua và ông Nobu. Mà tranh nhau giữa ông bác sĩ và ông Nam tước. Tôi không tưởng tượng ra được Mameha nghĩ sao về việc này, nhưng tôi tin vì việc này mà cô ấy đã tỏ ra lạnh lùng với tôi một thời gian ngắn, và tại sao cô ấy giữ kín chuyện đã xảy ra.
Tôi muốn nói không phải ông Nobu không tham gia vào việc này. Ông ta hăng hái hô giá mua mizuage của tôi, nhưng chỉ trong thời gian mấy ngày đầu, cho đến khi con số lên đến 8.000 yen. Khi ông ta bỏ cuộc, có lẽ không phải vì lý do quá cao, Mameha tin rằng nếu ông ta muốn, ông ta có thể hô giá chống bất kỳ ai. Vấn đề rắc rối là, vấn đề mà Mameha không tiên liệu trước, Nobu không thiết tha đến việc mua mizuage của tôi. Cô ấy nghĩ ông ta là loại đàn ông dùng thì giờ và tiền bạc để chạy theo mua mizuage, nhưng thực ra ông ta không phải là người như thế. Cách đây mấy tháng, chắc anh còn nhớ, Mameha nói rằng không có người đàn ông nào muốn có quan hệ mật thiết với cô geisha tập sự mười lăm tuổi trừ phi ông ta có quan tâm đến việc mizuage của cô ta. Trong thời gian cô ấy lập luận như thế, cô ấy từng nói với tôi “Tôi cá với cô rằng ông ta mê mệt cô không phải vì nói chuyện với nhau đâu”. Tôi không biết cô ấy có đúng về trường hợp của tôi không, nhưng nếu có gì khiến cho Nobu mê tôi, điều ấy không phải là chuyện mua mizuage của tôi.
Còn về phần bác sĩ Cua, ông ta là người có lẽ chọn cách tự tử theo phương pháp cổ điển trước khi cho phép người nào như Nobu chiếm mizuage khỏi tay ông ta. Dĩ nhiên ông ta không biết chuyện ấy, và bà chủ phòng trà Ichiriki quyết định không nói cho ông ta biết. Bà ta muốn giá cao chừng nào hay chừng ấy. Cho nên khi bà ta nói chuyện điện thoại với ông ta, bà đã nói như thế này “Ồ thưa bác sĩ, tôi vừa nhận được tin từ Osaka, và lời đề nghị báo đến 5000 yen” Có lẽ bà ta có nhận tin từ Osaka. Nhưng có thể tin từ bà chị của bà ta, vì bà chủ không thích nói láo triệt để. Nhưng khi bà ta nói đến Osaka và nói đến lời đề nghị một cách tự nhiên, đương nhiên bác sĩ Cua nghĩ rằng lời đề nghị là của Nobu, mặc dù đó là của ông Nam tước.
Còn phần ông Nam tước, ông thừa biết đối thủ của ông là ông bác sĩ nhưng ông cóc cần. Ông muốn chiếm được mizuage, và khi ông thấy không thể thắng được, ông bèn bĩu môi như một chú bé. Sau này, một geisha nói cho tôi nghe về câu chuyện giữa cô ấy với ông ta vào lúc đó – “Cô có nghe chuyện gì xảy ra không? – ông Nam tước nói với cô ta – tôi cố mua cho được một mizuage, nhưng có anh chàng bác sĩ hung hăng nào đấy đã cản đường tôi. Chỉ có một người đàn ông mới làm người khám phá ra cái vùng chưa được khám phá và tôi muốn là người ấy! Nhưng tôi biết làm sao được? Anh chàng bác sĩ điên cuồng hình như không hiểu rằng con số mà ông ta đưa ra là một số tiền quá lớn!”
Khi việc hô giá càng lúc càng cao, ông Nam tước bèn nói đến chuyện bỏ cuộc. Nhưng con số đã lên đến rất gần với kỷ lục mới, đến nỗi bà chủ phòng trà Ichiriki quyết định đẩy sự việc lên cao hơn nữa, bằng cách lừa dối ông Nam tước cũng như lừa dối ông bác sĩ. Trên điện thoại, bà ta nói với ông ta rằng cái “ông quý tộc” kia đã hô một giá rất cao, rồi nói thêm “Tuy nhiên nhiều người tin rằng ông ta là loại quý tộc sẽ không tăng giá lên cao nữa” – Tôi nghĩ có nhiều người tin một việc như thế về ông bác sĩ, nhưng bà chủ không phải là người trong số này. Bà tin khi ông Nam tước hô giá cuối cùng, bất kỳ là bao nhiêu, ông bác sĩ sẽ chặn đứng lại giá đó.
Cuối cùng bác sĩ Cua bằng lòng giá 11.000 yen để mua mizuage của tôi. Trở lại thời ấy, đây là cái giá mua mizuage cao nhất ở Gion, và có lẽ ở bất cứ khu vực geisha nào ở Nhật. Cứ nghĩ vào thời ấy, một giờ geisha phục vụ giá khoảng 4 yen, và cái kimono đẹp nhất có thể bán 1.500 yen. Cho nên nghe ra thì không phải là một số tiền lớn, nhưng phải nói rằng với số tiền như thế này, một người lao động phải làm một năm mới có được.
Tôi phải thú nhận rằng tôi không biết gì nhiều về tiền bạc. Hầu hết geisha đều tự hào không mang theo tiền mặt trên người, và mua các thứ bất kỳ họ đi đến đâu. Ngay bây giờ ở tại New York City này, tôi cũng sống như thế. Tôi vào mua tại các cửa tiệm biết tôi, các nhân viên ở đấy chỉ viết các thứ tôi cần là đủ. Khi hoá đơn gởi đến vào cuối tháng, tôi có người phụ tá dễ thương trả tiền thay cho tôi. Cho nên anh thấy đấy, tôi không thể nói cho anh biết tôi tiêu bao nhiêu tiền, hay là giá một chai nước hoa đắt hơn một tờ tạp chí bao nhiêu. Cho nên tôi là người dở nhất trên trái đất này nói các chuyện liên quan đến vấn đề tiền bạc. Tuy nhiên tôi muốn kể cho anh nghe câu chuyện có lần người bạn thân của tôi đã nói với tôi – người mà tôi tin là rất sành về vấn đề ông ta nói đến, vì ông ta là Thứ trưởng Bộ tài chánh Nhật trong một thời gian dài thập niên 1960. Ông ta nói tiền bạc thường mất giá năm này so với năm trước, và vì thế mà mizuage của Mameha năm 1929 có giá hơn của tôi vào năm 1035, mặc dù giá của tôi là 11.000 yen, còn của Mameha đâu khoảng 7.000 hay 8.000 yen gì đó.
Dĩ nhiên vào thời tôi bán mizuage, kỷ lục này không thành vấn đề. Ai cũng biết tôi đã có kỷ lục mới, và kỷ lục này giữ mãi cho đến năm 1951, khi Hatsumiyo phá kỷ lục – theo tôi, cô ta là người geisha vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Thế nhưng theo người bạn Thứ trưởng Tài chánh của tôi, kỷ lục của Mameha mới là kỷ lục đích thực duy trì cho đến thập niên 1960. Nhưng cho dù kỷ lục thực thuộc về tôi, hay thuộc về Hatsumiyo, hay thuộc về Mameha – hay thậm chí thuộc về Mamemitsu vào thập niên 1890 – thì anh cũng có thể tưởng tượng ra được hai bàn tay múp míp của bà Mẹ ngứa ngáy như thế nào khi bà ta nghe số tiền kỷ lục này.
Hiển nhiên vì thế mà bà ta nhận tôi làm con. Tiền bán mizuage của tôi quá nhiều, dư sức trả nợ của tôi cho nhà kỹ nữ. Nếu bà mẹ không nhận tôi làm con, một phần số tiền ấy sẽ rơi vào tay tôi – và anh có thể tưởng tượng ra cảnh bà Mẹ nghĩ sao về chuyện này. Khi tôi trở thành con gái của nhà kỹ nữ, nợ nần của tôi không còn nữa, vì nhà kỹ nữ phải gánh lấy hết. Nhưng tất cả lợi tức của tôi đều nhập vào nhà kỹ nữ hết, không những chỉ lúc ấy thôi, lúc tôi bán mizuage, mà mãi mãi sau này nữa.
Kể đến những giây phút trọng đại trong đời của người geisha, thì giờ phút bán mizuage là giây phút được xếp vào loại trọng đại. Việc bán mizuage của tôi diễn ra vào đầu tháng Bảy năm 1935, khi tôi được 15 tuổi. Sự việc bắt đầu vào buổi chiều khi bác sĩ Cua và tôi uống sakê để làm nghi thức ràng buộc hai chúng tôi lại với nhau. Lý do làm nghi thức này là mặc dù việc bán mizuage sẽ xong chóng vánh, nhưng bác sĩ Cua vẫn duy trì việc bảo trợ mizuage của tôi cho đến hết đời ông ta – không phải việc này sẽ cho ông ta đặc ân gì đâu anh nhớ cho việc này. Nghi thức được diễn ra tại phòng trà Ichiriki, trước sự hiện diện của bà Mẹ, bà Dì, và Mameha. Bà chủ phòng trà Ichiriki cũng đến dự, và ông Bekku, thợ may của tôi – vì người thợ may luôn luôn tham gia vào các nghi thức thuộc loại này, đại diện cho quyền lợi của người geisha. Tôi mặc bộ đồ đúng quy cách nhất của người tập sự mặc, chiếc áo có hình năm cái vương miện đen và cái áo lót màu đỏ, là màu của sự bắt đầu mới mẻ. Mameha dặn tôi phải xử sự cho thật nghiêm trang, như thể tôi không nghĩ gì đến chuyện vui cười. Vì trong lòng lo lắng, nên tôi thấy dễ dàng làm ra vẻ nghiêm nghị khi tôi đi dọc theo hành lang của phòng trà Ichiriki, với chiếc kimono dài phủ gót.
Sau khi xong nghi thức, tất cả chúng tôi đến nhà hàng ăn có tên là Kitcho để ăn cơm tối. Việc này cũng là việc quan trọng, tôi nói ít và ăn cũng ít. Ngồi trong bữa ăn, bác sĩ Cua có lẽ đã bắt đầu nghĩ đến giây phút sắp đến, và chưa bao giờ tôi thấy có người đàn ông nào đáng chán như thế. Suốt bữa ăn tôi cứ nhìn xuống, để tỏ ra mình thơ ngây trong trắng, nhưng mỗi lần tôi liếc mắt nhìn trộm ông ta, tôi thấy ông nhìn xuống qua cặp kính như người đang tham dự buổi họp làm ăn.
Sau khi ăn xong, ông Bekku đưa tôi đi bằng xe kéo đến một quán trọ thật đẹp nằm trong khuôn viên của đền Nazen-ji. Ông ta đã đến đây trước hồi nãy để thu xếp quần áo cho tôi trong căn phòng bên cạnh quán ăn. Ông ta giúp tôi cởi áo kimono để thay một cái áo bình thường, loại này cũng có khăn quàng lưng nhưng không có đồ chêm ở nút buộc – vì đồ chêm sẽ làm cho ông bác sĩ khó mở. Ông ta thắt cái nút rất đơn giản để cho dễ mở. Sau khi mặc áo xong, tôi cảm thấy rất căng thẳng đến nỗi ông Bekku phải giúp tôi trở về phòng của tôi và thu xếp chỗ cho tôi ngồi gần cửa để đợi ông bác sĩ đến. Khi ông ta bỏ đi, tôi cảm thấy lo sợ kinh khủng, như thể tôi sắp lên bàn mổ để mổ thận hay gan hay cái gì như thế.
Lát sau bác sĩ Cua đến, bảo tôi gọi sakê cho ông ta trong khi ông nằm trong phòng tắm nằm sát kề bên. Tôi đoán chắc ông ta đợi tôi đến giúp ông ta cởi áo, vì ông nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ. Nhưng hai tay tôi lạnh cóng, tôi thấy tôi không thể làm được. Mấy phút sau, ông từ phòng tắm trở vào, trên người mặc áo ngủ và đến mở cửa nhìn ra vườn. Rồi chúng tôi đến ngồi trên chiếc ban công gỗ nhỏ, nhấp sakê nghe tiếng dế kêu và tiếng nước chảy róc rách dưới con suối nhỏ. Tôi làm bắn rượu sakê trên áo kimono, nhưng ông bác sĩ không để ý. Thực ra mà nói, hình như ông ta không chú ý đến gì hết, ngoại trừ con cá nhảy trong cái hồ gần bên, ông ta chỉ cho tôi thấy con cá, như thể chưa bao giờ tôi thấy con cá như thế. Trong khi chúng tôi ngồi ở đấy, một cô hầu đến trải hai tấm nệm bên cạnh nhau.
Cuối cùng ông bác sĩ để tôi ngồi trên ban công một mình, ông ta đi vào phòng. Tôi nhích người để có thể liếc mắt nhìn thấy ông ta. Ông ta tháo túi xách, lấy ra hai cái khăn lau trắng, để trên bàn, sửa lui sửa tới cho đến khi vừa ý mới thôi. Ông ta cũng sửa hai chiếc gối trên hai tấm nệm cho đến khi vừa ý mới ra đứng ở cửa cho đến khi tôi đứng lên, theo ông vào trong.
Trong khi tôi còn đứng, ông ta tháo khăn quàng lưng tôi ra, bảo tôi đến nằm trên một tấm nệm êm ái. Mọi việc đều lạ lùng, làm cho tôi sợ, tôi không cảm thấy êm ái được, mặc dù tôi cố hết sức giữ bình tĩnh. Nhưng tôi nằm ngửa ra và dùng một cái gối độn đầu để nâng cổ tôi lên. Ông bác sĩ mở áo tôi ra và chậm rãi tháo các thứ đồ lót dưới áo, lần lượt cái này rồi cái khác mất một thời gian dài mới xong, ông ta đưa tay thoa lên hai chân tôi, tôi nghĩ chắc ông ta muốn làm cho tôi thư giãn. Ông ta thoa một hồi lâu như thế, nhưng cuối cùng, ông lấy hai cái khăn trắng hồi nãy. Ông ta bảo tôi nâng mông lên để ông ta lót khăn ở dưới.
- Những cái khăn này để hút máu - ông ta nói.
Dĩ nhiên khi bán mizuage, thường thì ai cũng ra máu rất nhiều, nhưng không ai giải thích cho tôi biết lý do tại sao. Tôi nghĩ nên giữ im lặng hoặc không cám ơn ông bác sĩ đã rất cẩn thận lót khăn dưới người tôi, nhưng thốt nhiên tôi buộc miệng hỏi:
- Máu gì thế? - Giọng tôi khàn khàn vì cổ họng tôi khô khốc.
Bác sĩ Cua bèn giảng cho tôi nghe rằng “màng trinh” của tôi sẽ chảy máu vì bị rách - rồi vì cái này cái nọ đủ thứ - nhưng tôi vẫn không hiểu ất giáp gì hết – tôi nghĩ chắc vì quá lo sợ khi nghe nói thế, nhưng tôi đã nhổm người lên trên nệm, vì ông bác sĩ đưa tay để lên vai tôi, ấn nhẹ tôi nằm xuống.
Tôi nghĩ như thế này chắc làm cho đàn ông mất hết hứng thú khiến họ không làm những việc họ định làm nữa, nhưng ông bác sĩ không phải là loại đàn ông đó. Khi ông đã giải thích cho tôi nghe xong, ông nói với tôi:
- Đây là lần thứ hai tôi có cơ hội thu mẫu máu của cô. Tôi cho cô xem nhé?
Tôi nhận thấy ông ta đến đây không những chỉ với cái xách da đựng đồ ở lại đêm, mà còn thêm một cái vali nhỏ nữa. Bác sĩ tìm xâu chìa khóa trong túi quần móc trong tủ. Ông mang đến, mở nắp vali ra nửa chừng như cái thùng trưng bày hàng hóa. Cả hai bên vali đều có kệ để những chai lọ thuỷ tinh nhỏ có nắp đậy kín và có dây giữ cho chúng đứng yên tại chỗ. Trên cái kệ ở bên dưới là vài thứ dụng cụ như kéo, nhíp, nhưng phần lớn chỗ trogn vali đều chất đầy chai lọ nhỏ, có lẽ nhiều đến bốn hay năm chục cái. Ngoại trừ một vài cái còn để không nằm trên kể cao nhất, còn bao nhiêu đều đựng đồ gì đấy, nhưng tôi không biết là cái gì. Chỉ khi ông bác sĩ đem cây đèn trên bàn đến, tôi mới thấy được những cái nhãn trắng trên đầu mỗi chai, nhãn có ghi tên nhiều geisha. Tôi thấy có tên Mameha ở đấy, cũng như có tên của cô geisha tuyệt vời Mamekichi. Tôi còn thấy nhiều tên geisha quen khác nữa, kể cả tên cô bạn Korin của Hatsumono.
- Cái chai này – ông bác sĩ nói, vừa lấy cái chai - thuộc về cô đây.
Ông ta viết tên tôi sai, cái nét ri trong chữ Sayuri khác với tên của tôi. Nhưng trong chai đựng một thứ gì co lại giống như trái mận dầm giấm, nhưng nó có màu nâu hơn là màu tía. Ông bác sĩ mở nút chai, và dùng nhíp để kẹp nó ra.
- Đây là miếng gạc đã thấm máu của cô - ông ta nói – khi cô bị rách chân, chắc cô còn nhớ, tôi thường không giữ máu của bệnh nhân, nhưng tôi…bị cô hớp hồn. Sau khi thu cái mẫu này, tôi quyết định thế nào cũng phải mua mizuage của cô. Tôi nghĩ, chắc cô nhất trí với tôi đây là loại mẫu máu bất thường, vì không những tôi có mẫu máu mizuage của cô, mà còn có mẫu máu do vết cắt nơi chân cô cách đây mấy tháng nữa.
Tôi cố giấu sự ghê tởm của tôi đi, trong khi ông bác sĩ chỉ cho thấy nhiều chai lọ khác, kể cả chai của Mameha. Chai của cô ấy không phải đựng miếng gạc, mà một miếng đệm nhỏ bằng vải trắng dính màu đỏ gạch và cứng ngắc, ông bác sĩ Cua có vẻ rất thích thú thứ mẫu này, nhưng tôi thì…tôi nhìn vào các thứ ấy để tỏ ra lịch sự, nhưng khi bác sĩ Cua không để ý, tôi quay mắt đi chỗ khác.
Cuối cùng, ông ta đóng vali lại, để sang một bên rồi tháo kính ra, xếp lại, để trên bàn gần đấy. Tôi sợ cái giây phút ấy xảy đến, và quả vậy, ông bác sĩ Cua kéo hai chân tôi hở ra và quỳ vào giữa hai chân tôi. Tôi thấy tim tôi đập nhanh như tim con chuột. Khi ông bác sĩ mở dải thắt lưng trên áo ông ta ra, tôi nhắm mắt lại và đưa tay lên che miệng, nhưng tôi nghĩ tốt hơn là nên giữ bình tĩnh cho đến giây phút cuối cùng, cho nên tôi để bàn tay xuống một bên đầu.
Tay ông bác sĩ sờ quanh một lát, làm cho tôi cảm thấy khó chịu như lần ông bác sĩ trẻ tóc bạch kim sờ cách đây mấy tuần. Rồi ông hạ người xuống trên người tôi. Tôi cố sức nghĩ ra một biện pháp gì đó để khỏi nghĩ đến việc này, nhưng không làm sao giữ được mình khỏi có cảm giác “con lươn” của ông bác sĩ – như Mameha đã gọi – chui vào bên trong giữa hai chân tôi. Ngọn đèn vẫn còn cháy, tôi cố tìm trên trần nhà có cái gì nhìn cho khỏi nghĩ đến chuyện này, nhưng ông bác sĩ đẩy thật mạnh đến nỗi đầu tôi lăn ra khỏi gối. Tôi không biết làm gì với hai tay, nên tôi nắm chặt lấy cái gối và nhắm nghiền mắt lại. Sau đó, tôi cảm thấy trên người tôi có sự hoạt động rất mạnh, đồng thời bên trong của tôi cũng có sự hoạt động mạnh. Chắc là máu chảy ra nhiều, vì tôi ngửi thấy mùi tanh. Tôi nhớ là ông bác sĩ đã trả giá rất nhiều tiền để có được cái đặc ân này, và tôi nhớ khi ấy tôi mong sao ông ấy được vui sướng hơn tôi. Tôi chỉ cảm thấy khó chịu như thể có người cầm cái dũa, dũa tới dũa lui bên trong tôi cho đến khi tôi chảy máu.
Cuối cùng con lươn không tổ đánh dấu lãnh thổ của nó, tôi nghĩ thế, còn ông bác sĩ đè nặng lên người tôi, mồ hôi nhễ nhại. Tôi không muốn nằm sát bên ông ta như thế này, cho nên tôi giả vờ khó thở, hy vọng ông ta ngồi dậy cho khỏi nặng. Ông ta nằm yên một hồi lâu, nhưng cuối cùng ông ta qùy lên và loay hoay bận bịu trở lại. Tôi không nhìn thẳng vào ông ta, nhưng tôi liếc mắt thấy ông ta lấy cái khăn lót dưới người tôi lên lau mình mẩy. Ông ta buộc dải thắt lưng, mang kính lên, không để ý thấy có dính vết máu một bên mắt kính, rồi ông lấy khăn và gạc vải lau giữa hai chân tôi, như thể ông ta đang làm việc trong phòng chữa bệnh ở bệnh viện. Giây phút khó chịu nhất của tôi đã qua, tôi phải xác nhận khi ấy tôi cảm thấy vui vui khi nằm yên như thế, dù hai chân mở rộng ra, mắt nhìn ông ta mở vali gỗ và lấy kéo ra. Ông ta cắt một miếng khăn có tẩm maú lót ở dưới người tôi, rồi nhét vào cái chai cùng với miếng bông ông ta vừa dùng để lau xong, trên chai có ghi tên của tôi bị viết sai. Rồi ông ta cúi chào lấy lệ và nói:
- Cám ơn cô rất nhiều – tôi đang nằm nên không cúi chào trả được, nhưng không hề gì vì ông bác sĩ đứng lên để đi tắm lại.
Tôi không nhận ra là tôi đang thở rất nhanh vì lo sợ. Bây giờ thì xong rồi và tôi có thể lấy lại được hơi thở bình thường, có lẽ tôi xem như tôi đang được người ta giải phẫu, nhưng bây giờ công việc xong xuôi, nhẹ người, khiến tôi mỉm cười. Tôi thấy việc này có vẻ rất kỳ cục, càng nghĩ đến, tôi càng thấy khôi hài, và bỗng tôi muốn phá ra cười. Nhưng tôi phải nín lại, vì ông bác sĩ đang ở phòng bên cạnh. Tôi nghĩ phải chăng việc này đã chuyển hướng tương lai của tôi? Tôi tưởng tượng ra cảnh bà chủ phòng trà Ichiriki điện thoại gọi cho ông Nobu và cho ông Nam tước trong thời gian đang tiến hành cuộc hô giá, bao nhiêu tiền bạc đã tiêu phí, và lắm chuyện rắc rối diễn ra. Chuyện của ông Nobu, nghĩ ra cũng thật kỳ lạ, tôi bắt đầu cảm thấy ông ta như một người bạn. Tôi không thắc mắc chuyện tôi với ông Nam tước rồi sẽ ra sao.
Trong khi ông bác sĩ đang tắm, tôi gõ cửa phòng ông Bekku. Chị hầu liền vào thay vải trải giường, rồi ông Bekku đến giúp tôi mặc áo ngủ. Sau đó, trong khi ông bác sĩ thiu thiu ngủ, tôi ngồi dậy đi tắm. Mameha đã dặn tôi phải thức suốt đêm, phòng trường hợp ông bác sĩ thức dậy, và cần cái gì. Nhưng, mặc dù tôi cố không ngủ nhưng không tài nào chịu nổi. Tôi cố thức dậy sớm để khi ông bác sĩ thức dậy, ông ta đã thấy tôi sẵn sàng phục vụ ông ta rồi.
Sau bữa ăn sáng, tôi thấy ông bác sĩ Cua ra trước cửa quán trọ, tôi giúp ông ta mang giày. Trước khi đi, ông ta cám ơn tôi đã cho ông một đêm hạnh phúc, rồi trao cho tôi một cái gói. Tôi không biết có phải ông ta cho tôi viên ngọc như là ông Nobu hay là cho tôi miếng vải cắt ra nơi tấm khăn tẩm máu vào đêm qua. Khi tôi vào phòng lại và lấy hết can đảm để mở gói ra, hoá ra đấy là gói thuốc Bắc. Tôi không biết gói thuốc này dùng làm gì, bèn đem hỏi ông Bekku, ông ta bo tôi pha vào nước trà mà uống mỗi ngày một lần để ngừa thai. Ông ta nói:
- Phải giữ gìn cẩn thận, vì thuốc này rất đắt tiền. Nhưng đừng quá khinh thường, vì vẫn còn rẻ hơn tiền khi phá thai nhiều.
Nói ra nghe thật kỳ lạ và khó giải thích, nhưng cuộc đời tôi xem ra đổi khác sau khi bán mizuage. Bí Ngô chưa bán, nên cô ta có vẻ thiếu kinh nghiệm và bé bỏng, mặc dù cô ta lớn tuổi hơn tôi. Bà Mẹ, bà Dì, và cả Hatsumono lẫn Mameha đều có ý nghĩ như thế, dĩ nhiên, và tôi ý thức được chuyện thay đổi này rõ ràng hơn họ. Sau khi bán mizuage xong, người geisha tập sự có kiểu tóc mới, với dải vải lụa đỏ ở dưới chân búi tóc hình cái gối găm kim, chứ không mang dải lụa hoa. Lúc này tôi biết rõ cô tập sự nào đeo dải vải màu đỏ trên tóc và cô tập sự nào đeo dải vải hoa, nên tôi có vẻ hãnh diện khi đi trên đường phố hay trên hành lang trường học. Tôi được người ta kính nể vì tôi thuộc loại thiếu nữ đã kinh qua mizuage, tôi cảm thấy mình sõi đời hơn những người chưa qua chuyện này.
Tôi tin tất cả các cô tập sự đều cảm thấy mình thay đổi khi đã trải qua việc mizuage như tôi. Nhưng với tôi, không phải chỉ có vấn đề nhìn thế giới với con mắt khác trước thôi. Cuộc sống hàng ngày của tôi cũng đổi thay,vì quan niệm mới của bà Mẹ về tôi. Tôi tin chắc anh nhận ra bà ta là loại chỉ đánh giá sự vật theo nhãn ghi giá trị trên vật đó. Khi bà ta đi trên phố, óc bà ta có lẽ hoạt động như cái bàn tính - Ồ kìa, con bé Yukiyo ngu ngốc, hồi năm ngoái nó đã làm cho chị cả nó phải thiệt hại gần 100 yen, và Ichimitsu đến kìa, cô ta chắc rất sung sướng với số tiền bảo trợ do danna của cô ta trả. Nếu bà Mẹ đi trên bờ suối Shirakawa vào một ngày xuân đẹp đẽ, trong khi mọi người thưởng thức cảnh đẹp trên suối, say sưa ngắm nhìn những sợi tua trên cây anh đào xoã xuống mặt nước, thì có lẽ bà ta không thèm nhìn đến các thứ này mà chắc chỉ nghĩ đến chuyện bán cái cây này được bao nhiêu.
Trước khi tôi bán mizuage, tôi không nghĩ đến chuyện việc này sẽ làm thay đổi thái độ của bà Mẹ về việc Hatsumono gây rắc rối cho tôi ở Gion. Nhưng bây giờ tôi đã có bảng giá trên người, bà ta phải ngăn chặn việc Hatsumono quấy nhiễu tôi, ngay cả khi tôi không yêu cầu. Tôi không hiểu bà ta làm việc ấy như thế nào. Có lẽ bà chỉ nói – “Này Hatsumono, nếu cô có thái độ gây rắc rối cho Sayuri để nhà kỹ nữ này thiệt hại về tiền bạc, thì cô phải đền đấy!” - kể từ ngày mẹ tôi bệnh nặng, cuộc đời của tôi trở nên khó khăn, đến lúc này mọi việc trở nên phức tạp. Tôi không muốn nói là tôi không cảm thấy mệt mỏi hay chán nản, thật vậy, lúc này tôi cảm thấy rất mệt mỏi. Cuộc sống ở Gion khó thở cho phụ nữ kiếm sống. Nhưng tôi hết sức sung sướng được thoát khỏi sự đe dọa của Hatsumono. Ở trong nhà, cuộc sống cũng dễ chịu hơn. Khi làm con nuôi rồi, tôi ăn khi nào tôi muốn ăn. Tôi chọn kimono trước thay vì đợi cho Bí Ngô chọn trước – và khi tôi đã chọn xong, bà Dì lo khâu các đường may cho vừa với chiều rộng và khâu cổ áo vào áo lót, trước khi đụng đến áo của Hatsumono. Tôi không thèm để ý đến ánh mắt hằn học căm thù của Hatsumono, vì bây giờ tôi được đối xử đặc biệt như thế. Nhưng khi Bí Ngô gặp tôi trong nhà, cô ta tránh mặt không nhìn đến tôi ngay cả khi xáp mặt nhau, tôi thấy buồn kinh khủng. Tôi thường nghĩ giá mà hoàn cảnh trớ trêu trên không xảy ra giữa chúng tôi, thì chắc tình bạn của chúng tôi thắm thiết hơn nhiều.
Chuyện bán mizuage của tôi đã xong, bác sĩ Cua hầu như biến mất ra khỏi cuộc đời tôi. Tôi nói “hầu như” vì mặc dù Mameha và tôi không đến phòng trà Shirae để hầu vui cho ông ta nữa, nhưng thỉnh thoảng tôi gặp ông ta tại các buổi tiệc ở Gion. Trái lại, tôi không bao giờ gặp ông Nam tước. Tôi không biết vai trò của ông ta trong việc nâng giá mizuage của tôi ra sao, nhưng nhớ lại, tôi hiểu lý do tại sao Mameha muốn hai chúng tôi chia tay nhau. Có lẽ tôi cảm thấy rất khó chịu khi gặp ông Nam tước cũng như Mameha không muốn tôi gặp lại ông ta. Dù sao tôi cũng không thể giả vờ làm bộ nhớ những người này.
Nhưng vẫn có một người tôi rất muốn gặp lại, chắc không nói anh cũng biết tôi nói đến ông Chủ tịch. Ông ta không đóng vai trò gì trong kế hoạch của Mameha, cho nên tôi không muốn mối liên hệ giữa tôi và ông ta thay đổi hay đi đến chỗ chấm dứt vì chuyện mizuage của tôi đã xong. Thế nhưng, tôi phải xác nhận rằng tôi cảm thấy hết sức sung sướng khi sau đó mấy tuần tôi được tin công ty đồ điện Iwamura mời tôi đến mua vui cho họ. Tối đó khi tôi đến, cả ông Nobu lẫn ông Chủ tịch đều có mặt. Trước đây tôi đương nhiên phải đến ngồi cạnh ông Nobu, nhưng bây giờ bà Mẹ đã nhận tôi làm con nuôi, tôi không phải nghĩ đến ông ta như vị cứu tinh của tôi nữa. Vả lại, khi tôi vào, bên cạnh ông Chủ tịch còn một chỗ trống, nên tôi đến ngồi vào đấy với lòng ha6n hoan hớn hở. Ông Chủ tịch rất thân tình mỗi khi tôi rót sakê cho ông, ông cám ơn bằng cách nâng tách rượu lên cao trước khi uống, nhưng suốt cả buổi tối, không bao giờ ông ta nhìn tôi. Trong khi Nobu, bất kỳ khi nào tôi nhìn đến ông ta, ông ta đều nhìn lại như thể tôi là người duy nhất trong phòng ông ta lưu tâm đến. Tôi nghĩ ông có vẻ ao ước được ngồi bên tôi, cho nên trước khi buổi tối chấm dứt, tôi quyết định dành một ít thời gian với ông ta. Sau đêm đó, tôi không bao giờ giả mặt làm ngơ với ông ta nữa.
Quãng một tháng sau, một đêm đang lúc dự tiệc, tôi nói cho ông Nobu biết chuyện Mameha có thu xếp cho tôi tham dự buổi lễ hội ở Hiroshima. Tôi cứ nghĩ ông ta không để ý đến, nhưng ngay ngày hôm sau khi tôi đi học về, tôi thấy trong phòng tôi cái rương du lịch bằng gỗ do ông ta gởi đến tặng. Cái rương còn đẹp hơn cái tôi mượn của bà Dì khi đi dự tiệc của ông Nam tước ở Hakone. Tôi cảm thấy hết sức xấu hổ vì đã nghĩ cần phải xa lánh ông Nobu, vì ông ta không còn là trọng tâm trong kế hoạch của Mameha nữa. Tôi viết tờ giấy cám ơn ông, nói với ông tôi đang mong đợi đến dự buổi tiệc do công ty đồ điện Iwamura tổ chức vào tuần sắp đến, khi ấy tôi sẽ gặp mặt ông và tỏ lòng tri ân.
Nhưng một chuyện kỳ cục đã xảy ra. Trước khi buổi tiệc tổ chức một thời gian ngắn, tôi nhận được tin báo công ty không cần tôi giúp vui nữa. Yoko, chị giữ điện thoại ở nhà chúng tôi nghĩ rằng người ta huỷ bỏ buổi tiệc. Tình cờ xảy ra vào đêm ấy tôi đến phòng trà Ichiriki để tham dự một buổi tiệc khác. Khi tôi vừa quỳ xuống trên hành lang để mở cửa vào phòng, tôi thấy cánh cửa ở phòng đại tiệc nằm ở cuối hành lang mở ra và một geisha trẻ tên là Katsue bước ra. Trước khi cô ta đóng cửa, tôi bỗng nghe có tiếng cười của ông Chủ tịch từ trong phòng vọng ra. Tôi rất ngạc nhiên, bèn đứng dậy đến chặn Katsue lại trước khi cô ta ra về.
- Xin lỗi làm phiền hỏi chị - tôi nói – có phải chị vừa dự tiệc của công ty đồ điện Iwamura trong ấy ra phải không?
- Phải, rất vui nhộn, e cũng có đến ba mươi lăm geisha và gần năm mươi các ông.
- Và…có cả ông Chủ tịch Iwamura và ông Nobu trong ấy à?
- Không có ông Nobu. Sáng nay về nhà ông ấy mắc bệnh rồi. Chắc thế nào ông ấy cũng tiếc. Nhưng ông Chủ tịch có mặt trong ấy. Tại sao cô hỏi thế?
Tôi ấp úng vài lời – tôi không nhớ mình đã nói gì – và chị ta ra về.
Nhưng dù sao mãi cho đến khi ấy tôi vẫn nghĩ là ông Chủ tịch muốn tôi đến dự cũng như ông Nobu. Rồi tôi phân vân không biết có phải đấy là hy vọng hão huyền không, và Nobu có phải là người duy nhất lưu tâm đến tôi hay không.



Chuong 25

Mameha có thể đã thắng cá với Mẹ, nhưng cô ấy vẫn còn trận cá cược về tương lai của tôi. Cho nên trong suốt mấy năm tiếp theo, cô ấy đã làm cho khuôn mặt của tôi quen thuộc với tất cả các khách hàng ngon lành nhất của cô ấy, và còn quen với các geisha khác ở Gion nữa. Chúng tôi vẫn vượt qua được cơn đại suy thoái tuy không có nhiều đại tiệc như lòng mong muốn của cô ấy, nhưng cô thường đem tôi đến những buổi họp mặt không chính thức, không những các buổi tiệc ở phòng trà thôi mà còn đến các buổi đi biển bơi lội, tham quan thắng cảnh, xem kịch Kobuki…Trong cái nóng của mùa hè khi mọi người cảm thấy thư thái hơn, thì những cuộc họp mặt bất thường này rất vui, ngay cả những người làm nghề giải trí cho thiên hạ như chúng tôi. Ví dụ, một nhóm đàn ông thỉnh thoảng tổ chức đi thuyền nhỏ dọc theo sông Komo, vừa uống sakê vừa đung đưa chân trên mặt nước. Tôi còn quá nhỏ không thể tham gia vào các cuộc chè chén, nên thường bào nước đá để làm bánh kem, nhưng dù sao đấy cũng là một sự thay đổi thú vị.
Có nhiều đêm, các thương gia giàu có hay các nhà quý tộc tổ chức những buổi tiệc geisha cho họ vui chơi. Họ nhảy nhót hát hò trong đêm và uống với geisha thường mãi cho đến sau nửa đêm. Tôi nhớ có một lần như thế, vợ của ông chủ nhà đứng nơi cửa đưa phong bì đựng tiền trà lá rất hậu hĩ khi chúng tôi ra về. Bà ta đưa cho Mameha hai phong bì như thế, nhờ cô ấy làm ơn đưa cho cô geisha Tomizuru một cái, cô này “đã về nhà sớm vì đau đầu”, theo lời bà ta thì như thế. Thực ra bà ta cũng như chúng tôi đều biết Tomizuru là tình nhân của chồng bà, hiện đang cùng ông du hí trong chái nhà bên kia suốt đêm.
Nhiều buổi tiệc lộng lẫy vui nhộn ở Gion đã có nhiều họa sĩ, văn sĩ và diễn viên sân khấu Kabuki đến dự, và thỉnh thoảng những buổi tiệc này là những buổi tiệc vui chơi rất hấp dẫn. Nhưng tôi rất buồn khi nói cho anh biết rằng loại tiệc geisha trung bình là loại tiệc rất buồn tẻ. Chủ nhà có thể là trưởng phòng của một công ty nhỏ và khách danh dự là người cung cấp hàng hoá cho ông ta, hay có lẽ là một nhân viên ông ta vừa đề bạt, hay là người cùng làm ăn với mình. Thường khi, vài cô geisha từng trải báo cho tôi biết rằng vì là tập sự, nên trách nhiệm của tôi – ngoài việc cố làm cho đẹp - chỉ ngồi yên lặng, lắng nghe người ta nói chuyện để hy vọng một ngày kia trở thành người nói chuyện duyên dáng khôn ngoan. Phải, hầu hết những câu chuyện tôi nghe trong các buổi tiệc này không hấp dẫn tôi vì rất tẻ nhạt. Một ông có thể quay qua hỏi cô geisha ngồi bên cạnh như thế này “Thời tiết nóng nảy một cách bất thường, cô nghĩ sao?” – và cô geisha kia trả lời cũng vô duyên như thế “Dạ phải, nóng quá!” Rồi cô ta chơi trò thi đấu uống rượu với ông ta, hay cố làm cho tất cả các ông hát, và rồi sau đó người đàn ông nói chuyện với cô ta say khướt không nhớ nổi ông ta có được vui vẻ hay không nữa. Còn phần tôi, tôi thường xem chuyện như thế này là một sự phí phạm kinh khủng. Nếu người đàn ông đến Gion chỉ với mục đích được giải trí xả hơi, và cuối cùng tham gia vào những trò trẻ con như đánh tù tì, thì theo tôi, ông ta nên ở nhà chơi với con hay cháu, vì ít ra con cháu của họ có lẽ còn thông minh lanh lợi hơn các cô geisha buồn tẻ khốn khổ mà ông ta không may ngồi bên cạnh.
Thế nhưng có nhiều khi tôi được may mắn nghe một geisha thông minh nói, và Mameha là một trong những geisha này. Tôi đã học hỏi rất nhiều trong các câu chuyện của cô ấy. Ví dụ, nếu một người đàn ông hỏi “Cô có thấy trời nóng không?” – Cô ấy sẽ có hàng chục cách trả lời. Nếu ông ta già và phóng đãng, cô ấy có thể đáp “Nóng à? Có lẽ ông bị hơi hám của nhiều phụ nữ đẹp ngồi gần ông tác động đến ông rồi!” Hay nếu ông ta là một thương gia trẻ kiêu ngạo không biết địa vị của mình, cô ấy sẽ làm cho anh ta cứng họng bằng cách trả lời “Ông đang ngồi với một nửa tá geisha đẹp ở Gion mà ông chỉ nói được có vấn đề thời tiết thôi” - Một lần tôi chăm chú nhìn cô ấy đang quỳ bên cạnh một thanh niên rất trẻ, anh ta đâu khoảng mười chín đôi mươi, nếu bố anh ta không phải là chủ nhà thì chắc anh ta không được tham dự buổi tiệc geisha. Dĩ nhiên, anh ta không biết nói gì hay cư xử ra sao với các cô geisha, và tôi tin là anh ta cảm thấy lo sợ, nhưng anh ta quay qua Mameha với vẻ dạn dĩ rồi nói với cô ấy “Nóng, phải không? “ - cô ấy hạ giọng và trả lời anh ta thế này – “Phải, có lẽ anh cho trời nóng là đúng. Đáng ra sáng nay anh nên đến thăm tôi khi tôi ở trong phòng tắm bước ra mới phải! Thường khi nào tôi ở trần, tôi cảm thấy lạnh và thư giãn. Nhưng sáng nay, mồ hôi nhỏ giọt chảy khắp cả người tôi - chảy trên đùi, trên bụng và..trên những chỗ khác nữa.”
Khi chàng trai để tách salê xuống bàn, mấy ngón tay anh ta run run. Tôi nghĩ chắc anh ta không bao giờ quên buổi tiệc geisha ấy cho đến lúc mãn đời.
Nếu anh hỏi tôi tại sao hầu hết những buổi tiệc này quá buồn như thế, tôi nghĩ có lẽ có hai lý do. Thứ nhất, chỉ vì cô gái đã bị gia đình bán đi rồi được luyện tập để thành geisha ngay khi còn rất nhỏ, tất nhiên sẽ không làm sao thông minh cho được, hay là có cái gì hay ho để nói. Và thứ hai, trường hợp xảy ra cho đàn ông cũng như thế. Chỉ vì người đàn ông làm ra đủ tiền để đến Gion tiêu pha không thương tiếc, không có nghĩa ông ta đã được vui vẻ tại đấy. Thật vậy, nhiều người đàn ông đã được người đời đối xử với họ một cách hết sức trọng vọng. Họ nghĩ giải trí tức là ngồi ngửa người, hai tay để trên đầu gối, mày cau lại là được. Một lần tôi nghe Mameha ngồi kể chuyện cho một người đàn ông nghe suốt một giờ liền mà ông ta thì không hề nhìn vào cô ấy, mà nhìn vào người khác trong khi cô ấy nói. Mà kỳ thay chính đó là điều ông ta muốn và mỗi khi ông ta đến thành phố Kyoto, ông ta thường yêu cầu Mameha kể chuyện mua vui cho ông ta.
Sau hai năm đi dự tiệc tùng và đi chơi ngoài trời – trong thời gian này tôi vẫn tiếp tục học hành và thực tập trong các buổi trình diễn múa bất cứ khi nào thuận tiện - tôi đã chuyển biến từ cô tập sự thành cô geisha thực thụ. Đấy là vào mùa hè 1938, khi ấy tôi được mười tám tuổi. Chúng tôi gọi sự thay đổi này là “lật cổ áo”, vì cô tập sự mang cổ áo đỏ, còn cô geisha mang cổ áo trắng. Nhưng nếu anh thấy một cô tập sự với một geisha đi bên nhau, cái cổ áo là vật cuối cùng để cho anh chú ý đến. Cô tập sự mặc áo kimono có tay áo dài, rườm rà và dải thắt lưng lủng lẳng đàng sau lưng, hình ảnh này chắc làm cho anh nhớ đến con búp bê Nhật Bản, trong khi đó cô geisha trông đơn giản hơn, lại còn ra vẻ chững chạc hơn.
Cái ngày tôi “lật cổ áo” là ngày sung sướng nhất trong đời của Mẹ, hay ít ra, bà đã có vẻ hân hoan hơn bao giờ hết. Lúc ấy tôi không hiểu, nhưng bây giờ tôi mới thấy rõ bà ta suy nghĩ như thế nào. Như anh đã biết, nàng geisha không giống cô tập sự, nàng ngồi chơi với đàn ông không phải chỉ có việc rót trà cho ông ta uống, mà nàng ấn định những điều khoản thích hợp. Vì mối liên hệ của tôi với Mameha và tiếng tăm của tôi ở Gion, nên chỗ đứng của tôi đã làm cho bà Mẹ có nhiều nguyên nhân để phấn khích - trường hợp của Mẹ phải nói là phấn khích mới đúng, vì từ nay chỉ là một từ khác nói về tiền bạc.
Từ khi tôi chuyển đến ở New York, tôi mới hiểu người phương Tây hiểu từ “geisha” như thế nào. Thỉnh thoảng khi đến dự các buổi tiệc sang trọng, tôi được giới thiệu với một số thiếu nữ hay với những bà áo quần lộng lẫy đeo đầy châu báu. Khi bà ta nghe tôi từng là geisha ở Tokyo, bà ta mở miệng cười, nhưng nụ cười gượng gạo không cởi mở. Bà ta không biết nói gì! Rồi rốt cục, người giới thiệu tôi với khách phải mang lấy trọng trách nói chuyện với tôi – vì tôi không thông thạo tiếng Anh, mặc dù tôi ở Mỹ ba năm rồi. Dĩ nhiên, lúc ấy không có vấn đề cố gắng để nói chuyện với nhau, vì bà này đã nghĩ trong óc “Lạy Chúa, mình đang nói chuyện với một gái điếm!” Một lát sau bà ta được người đi kèm giải cứu, ông ta là một người giàu có lớn tuổi hơn bà ta đến ba bốn chục tuổi. Thế đấy, tôi thường tự hỏi tại sao bà ta không thấy được giữa chúng tôi có điều hoàn toàn rất giống nhau. Bà ta được đàn ông bảo trợ, và tôi lúc ấy cũng thế.
Tôi nghĩ là có rất nhiều chuyện về các bà các cô áo quần lộng lẫy này mà tôi không biết, nhưng tôi thường có cảm giác rằng nếu họ không có những ông chồng hay những ông bố giàu có, thì nhiều người trong số họ chắc sẽ phải vật lộn hết sức mới kiếm sống được, và chắc khi ấy họ sẽ không có những thái độ kiêu kỳ như thế. Và dĩ nhiên các nàng geisha hạng nhất cũng thế. Nàng geisha hạng nhất dễ dàng tham dự bữa tiệc này sang bữa tiệc khác, và nổi tiếng trong đám đàn ông giàu sang, nhưng nếu cô ta muốn trở thành minh tinh, thì phải hoàn toàn phụ thuộc vào ông danna của mình. Ngay cả Mameha cũng vậy, cô ấy có tiếng tăm là nhờ vào chiến dịch quảng cáo, nếu cô ấy không nhờ ông Nam tước bảo bọc hết các chi phí để dùng vào việc thăng tiến nghề nghiệp, thì chắc cô ấy sẽ mất chỗ đứng và thành một cô geisha bình thường mà thôi.
Sau ngày tôi lật cổ áo chưa đầy ba tuần lễ, một hôm Mẹ đến gặp tôi trong khi tôi đang ăn vội bữa trưa trong phòng khách, và ngồi trước mặt tôi, miệng phì phà ống vố. Tôi đang đọc một tờ tạp chí, nhưng tôi dừng lại vì lịch sự - mặc dù Mẹ không có điều gì để nói với tôi hết. Sau một lát, bà để ống vố xuống và nói:
- Cô không nên ăn những thứ dầm giấm vàng khè ấy. Chúng làm cho răng cô mục hết. Cứ nhìn vào răng của tôi thì biết.
Tôi không hề nghĩ là Mẹ tin rằng răng của bà bẩn thỉu là vì bà đã ăn những thứ dầm giấm. Khi bà nhe răng ra cho tôi xem xong, bà lấy ống vố lên hút lại.
- Bà Dì thích những thức ăn dầm giấm vàng khè này, thưa Mẹ - tôi nói – nhưng răng Dì rất đẹp.
- Ai thèm lưu tâm đến chuyện răng của bà ấy đẹp hay xấu? Bà ấy có cái miệng nhỏ đẹp, nhưng chẳng làm ra được đồng nào. Nói bà đầu bếp đừng đem các thứ ấy cho cô nữa. Nhưng không phải tôi đến đây để nói chuyện thức ăn dầm giấm của cô. Tôi đến nói cho cô biết vào thời gian này tháng sau, cô sẽ có danna.
- Có danna à? Nhưng thưa Mẹ, con mới có mười tám…
- Hatsumono mãi đến năm hai mươi tuổi mới có danna. Cho nên tất nhiên không bền. Đáng ra cô phải mừng mới phải chứ.
- Ồ, con mừng chứ. Nhưng con phải cần nhiều thời gian hơn nữa mới làm cho danna được hạnh phúc. Mameha cho rằng con phải tạo danh tiếng trước đã, thời gian cũng mất vài năm.
- Mameha à? Cô ấy biết gì về chuyện làm ăn? Cô hãy cho tôi biết lần dự tiệc sắp tới ở đâu, tôi sẽ đến để yêu cầu cô ta bằng lòng.
Bây giờ ở Nhật, các cô đã quen cảnh vùng đứng dậy, hét vào mặt mẹ họ, nhưng vào thời tôi, chúng tôi chỉ biết cúi đầu chào và nói “Vâng thưa Mẹ” rồi xin lỗi đã làm phiền lòng bà, và tôi đã trả lời như thế.
- Cứ để công việc làm ăn cho tôi lo – bà ta nói - chỉ có đứa nào điên mới từ chối lời đề nghị như lời đề nghị của ông Nobu Toshikazu đưa ra.
Tim tôi gần như ngừng đập khi nghe tin này. Tôi nghĩ chắc chắn có ngày ông Nobu sẽ đề nghị làm danna của tôi. Tóm lại, ông ta là người đã hô giá mua mizuage của tôi cách đây mấy năm, và từ khi ấy đến giờ, ông ta là người thường mời tôi đến giúp vui giải trí với ông ta nhiều hơn bất cứ người nào khác. Tôi không thể giả vờ nói rằng tôi không nghĩ đến khả năng này, nhưng tôi không thể ngờ rằng cuộc đời tôi lại trôi theo dòng như thế này. Vào hôm đầu tiên gặp Nobu tại trận thi đấu đô vật, cuốn niên lịch đã viết về tuổi tôi rằng “Sự quân bình giữa cái tốt và cái xấu sẽ mở cánh cửa số phận.” Kể từ đó, gần như ngày nào tôi cũng suy nghĩ về câu này theo cách này hay cách khác. Cái tốt và cái xấu - phải rồi, chính Mameha và Hatsumono, chính chuyện mizuage của tôi đã mang đến việc tôi được nhận làm con nuôi, và đương nhiên chính ông Chủ tịch và Nobu. Tôi không muốn nói là tôi không thích ông Nobu, trái lại, tôi rất thích ông ta. Nhưng làm tình nhân ông ta là vĩnh viễn chia tay ông Chủ tịch.
Chắc Mẹ đã thấy tôi có vẻ hoảng hốt khi nghe tin ấy. Bà ta có vẻ bất bình trước thái độ của tôi. Nhưng trước khi bà ta cất tiếng trả lời, chúng tôi nghe có tiếng người ngoài hành lang như tiếng ai đấy cố nín ho, và lát sau, Hatsumono bước vào ngưỡng cửa đang mở rộng. Cô ta bưng tô cơm trên tay, trông rất lố bịch – đáng ra cô ta không nên bưng tô cơm trên tay đi khỏi bàn ăn như thế mới phải. Khi nuốt hết miếng cơm trong miệng rồi, cô ta cười to.
- Mẹ à! - cô ta nói - Mẹ đã làm cho con sặc cơm phải không? – Rõ ràng cô ta đã nghe được câu chuyện giữa chúng tôi trong khi cô ăn cơm trưa.
- Như vậy là cô Sayuri nổi tiếng này sắp có ông Nobu Toshikazu làm danna - cô ta tiếp - Thế không tuyệt sao?
- Dạ có chứ - Hatsumono nghiêm trang đáp rồi cô ta đến quỳ ở bàn – Sayuri này, có thể cô không nhận ra, nhưng chuyện lui tới giữa geisha với danna có thể gây cho người geisha mang thai, cô có hiểu không? Và đàn ông họ sẽ rất buồn nếu tình nhân của họ sinh ra đứa con của người khác. Trong trường hợp của cô, cô phải hết sức cẩn thận mới được, vì Nobu sẽ biết ngay lập tức, nếu đứa bé sinh ra mà có đủ hai tay như chúng ta, như thế tức là đứa bé không phải là con của ông ấy.
Hatsumono cho rằng lời nói đùa của cô ta rất vui.
- Hatsumono này - Mẹ đáp – nếu cô chặt đi một cánh tay mà thành công như Nobu Tashikazu thì cô cũng nên chặt.
- Và nếu làm cho mặt tôi giống như thế này thì có lẽ tôi cũng nên làm - cô ta nói rồi cười, vừa bưng tô cơm lên để cho chúng tôi thấy cơm như thế nào. Cô ta đang ăn cơm trộn với đậu đỏ có hình lưỡi rìu cong cong, hạt đậu trông như da nhăn nheo, phồng rộp lên.
Chiều lại, tôi cảm thấy buồn rầu, đầu óc chóang váng, tôi bèn đến nhà Mameha nói chuyện chơi. Tôi ngồi nơi bàn với cô ấy, uống trà đá pha với mật lúa mạch – vì chúng tôi đang ở mùa hè nắng nóng – và cố không để cho cô ấy biết tôi đang lo buồn. Vì mơ ước gặp được ông Chủ tịch, nên tôi mới phấn đấu hết mình để luyện tập. Nếu đời không đạt được cái gì hết ngoài ông Nobu và những buổi diễn múa hết đêm này qua đêm nọ ở tại Gion, thì tôi nghĩ tại sao phải phấn đấu làm gì cho mệt.
Mameha ngồi đợi tôi nói lý do khiến tôi đến đây đã lâu, nhưng khi để ly trà xuống bàn, tôi cứ sợ giọng tôi sẽ ấp úng khi nói ra. Tôi ngồi đợi thêm một lát nữa để lấy bình tĩnh, cuối cùng tôi nuốt nước bọt và nói:
- Mẹ cho em biết trong vòng một tháng nữa có lẽ em sẽ có danna.
- Phải, tôi biết rồi. Và danna chắc là Nobu Toshikazu.
Nghe thế tôi cố hết sức tập trung vào việc làm sao giữ cho mình khỏi khóc, nên tôi không nói tiếp gì được.
- Ông Nobu là người tốt, và rất thích cô.
- Phải, nhưng, thưa chị Mameha, em không biết nói sao…Em thật chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này!
- Cô nói thế là sao? Nobu luôn luôn cư xử tốt với cô kia mà.
- Nhưng chị Mameha, em không muốn lòng tốt!
- Thế à? Tôi tưởng tất cả chúng ta đều muốn lòng tốt chứ. Có lẽ cô muốn nói cô cần cái gì hơn lòng tốt nữa. Và cô không đủ tư cách để đòi hỏi điều này.
Dĩ nhiên Mameha đã nói đúng. Khi tôi nghe cô ấy nói những lời này, nước mắt tôi trào ra, và tôi cảm thấy xấu hổ, bèn gục đầu xuống bàn để cho nước mắt tuôn ra xối xả. Khi tôi đã bình tĩnh trở lại, Mameha mới nói:
- Sayuri, cô trông mong cái gì?
- Cái gì không giống như thế này.
- Tôi nghĩ chắc cô thấy Nobu khó nhìn. Nhưng…
- Chị Mameha, không phải như thế. Nobu là người tốt, như chị nói. Chỉ có điều…
- Chỉ có điều cô muốn số phận mình được như Shizue chứ gì?
Shizue là nàng geisha không được nổi tiếng, nhưng mọi người ở Gion đều cho bà ta là người phụ nữ may mắn nhất ở Gion. Bà ta làm tình nhân cho một dược sĩ suốt ba mươi năm. Ông ta không giàu có gì, và bà ta cũng không đẹp, nhưng người ta không tìm đâu ra ở Gion một cặp thương yêu nhau, đi đâu đều có nhau như thế. Như mọi khi, Mameha bao giờ cũng nói đúng sự thật như lòng tôi mong ước.
- Sayuri, cô đã mười tám tuổi rồi - cô ấy nói tiếp - cả cô lẫn tôi đều không thể biết được số phận của cô. Sẽ không bao giờ cô biết được! Số phận không phải như kết thúc một buổi tiệc trong đêm đâu. Thỉnh thoảng số phận chỉ là sự phấn đấu trong cuộc sống ngày này qua ngày nọ.
- Chị Mameha, số phận như thế quá độc ác.
- Đúng, số phận độc ác thật. Nhưng không ai thoát khỏi số phận.
- Thưa chị, không phải là vấn đề thoát khỏi số phận, hay cái gì như thế. Nobu là người tốt. Em biết em phải biết ơn lòng tốt của ông ấy đối với em, nhưng…có rất nhiều điều em mơ ước…
- Và cô sợ sau khi Nobu đã đụng đến cô rồi, những mơ ước ấy không thành hiện thực phải không? Sayuri này, cô nghĩ người geisha phải sống như thế nào? Chúng ta không trở thành geisha để cho mơ ước của chúng ta ở đời được mãn nguyện. Chúng ta trở thành geisha vì chúng ta không còn con đường nào nữa để lựa chọn.
- Ồ chị Mameha, thưa chị, có phải em quá ngu ngốc vì cứ hy vọng một ngày nào đó những ước vọng của em sẽ…
- Các cô còn trẻ hy vọng đủ thứ chuyện ngu ngốc, Sayuri à. Hy vọng cũng như đồ trang điểm trên tóc. Con gái muốn mang rất nhiều thứ này. Nhưng khi thành bà già, họ thấy chỉ đeo một cái thôi cũng đã ngu xuẩn rồi.
Tôi quyết không để cho mình lộ vẻ yếu đuối nữa. Tôi cố dằn lòng khỏi khóc tiếp ngoài số nước mắt.
- Chị Mameha – tôi nói – có phải chị rất có cảm tình với ông Nam tước không?
- Ông Nam tước là người danna tốt với tôi.
- Đúng, dĩ nhiên đúng thế, nhưng có phải chị có cảm tình với ông ta không? Em muốn nói, có phải các cô geisha đều có cảm tình với danna của họ không?
- Mối liên hệ của tôi với ông Nam tước thuận tiện cho ông ta, và rất có lợi cho tôi. Nếu việc chung đụng của chúng tôi đậm màu sắc đam mê, thì sự đam mê dẫn đến ghen tuông và hận thù rất nhanh. Có lẽ tôi không chịu được cảnh người đàn ông mạnh mẽ bực mình vì tôi. Tôi đã phấn đấu nhiều năm trời để dành cho mình một vị thế ở Gion, nhưng nếu một người đàn ông có ý định loại bỏ mình, chắc họ loại bỏ thôi! Sayuri, nếu cô muốn thành công, cô phải luôn luôn giữ cho được tình cảm của đàn ông. Ông Nam tước có nhiều lúc rất khó tánh, nhưng ông ta có nhiều tiền, và ông ta không sợ xài tiền. Và lạy trời, ông ta không muốn có con. Nobu có lẽ là một thử thách cho cô. Ông ta có đường lối riêng rõ ràng rồi. Nếu ông ta mong muốn cô nhiều việc hơn ông Nam tước mong muốn ở tôi, chắc tôi không ngạc nhiên.
- Nhưng thưa chị, tình cảm của chị như thế nào? Em muốn nói, có người đàn ông nào…
Tôi muốn hỏi có người đàn ông nào đã làm cho cô ấy đâm ra mê mẩn chưa nhưng tôi sợ cô ấy giận, nếu sự giận dữ mới chỉ là cái nụ nho nhỏ, thì khi nghe tôi hỏi thế, có thể cái nụ nở thành cái hoa. Cô ấy thu mình lại, hai tay để vào lòng, tôi nghĩ chắc cô ấy sắp khiển trách tôi, tôi bèn xin lỗi cô ấy về sự lố bịch của tôi, và cô trở lại vui vẻ như cũ. Cô ấy nói:
- Cô và Nobu có cùng một “en” rồi, Sayuri à, cô không thể thoát khỏi được đâu.
Tôi nghĩ cô ấy nói đúng. “En” tức là sợi dây oan nghiệt buộc người ta lại với nhau suốt đời. Bây giờ nhiều người tin rằng cuộc đời của họ hoàn toàn do chính họ lựa chọn, nhưng vào thời của tôi, chúng tôi xem mình như những vật được nắn ra bằng đất sét, mãi mãi mang dấu tay của người sờ đến chúng tôi. Dấu tay của Nobu đã gây ấn tượng mạnh lên tôi hơn tất cả. Không ai có thể nói ông ta sẽ là số phận suốt đời của tôi hay không, nhưng tôi luôn cảm thấy rằng giữa chúng tôi đã có cái “en”. Trên những chặng đường đời của tôi, ở đâu cũng có bóng dáng của Nobu hiện ra. Nhưng có thể nào trong số những bài học tôi đã học, bài khó nhất đang nằm ngay trước mắt tôi? Phải chăng tôi phải ném cái điều tôi hy vọng vào một chỗ nào đấy cho mọi người đừng thấy, và ngay cả tôi nữa cũng đừng thấy?
- Sayuri, về nhà đi – Mameha nói với tôi – về mà chuẩn bị cho công việc buổi tối. Chỉ có công việc mới làm cho ta khỏi thấy chán nản.
Tôi ngước mắt nhìn cô ấy định biện minh cho mình lần cuối cùng, nhưng khi thấy nét mặt của cô ấy, tôi nghĩ tốt hơn là nghe theo lời cô ấy. Tôi không biết cô ấy đang nghĩ gì, nhưng cô ấy có vẻ đang nhìn vào cõi hư vô, khuôn mặt trái xoan đẹp đẽ, hai bên khoé mắt và khóe miệng hiện lên những đường nhăn do suy tư mà có. Rồi bỗng cô ấy buông tiếng thở dài, đưa mắt xuống tách trà, tôi thấy ánh mắt chứa đựng nhiều đắng cay.
Người phụ nữ sống trong một ngôi nhà đồ sộ có thể tự hào về đồ đạc sang trọng trong nhà, nhưng khi bà ta nghe tiếng lửa nổ lách tách trong lò, bà ta bỗng nhận ra ngay tức khắc rằng ngọn lửa là thứ nhỏ nhất nhưng là thứ có giá trị nhất. Trong những ngày sau lần tôi và Mameha nói chuyện với nhau, tôi bắt đầu cảm thấy đời tôi tàn lụi dần, và khi tôi phấn đấu cố tìm cho mình cái gì còn có thể khêu gợi lên sự sống cho tôi sau ngày ông Nobu làm danna cho tôi, tôi xin thú thật là tôi bó tay thất bại. Một buổi tối trong khi tôi quỳ bên bàn trong phòng trà Ichiriki, cố sức để khỏi nghĩ đến hoàn cảnh đau khổ của mình, tôi bỗng nghĩ đến một đứa bé bị lạc trong cánh rừng phủ đầy tuyết, và khi tôi ngước mắt nhìn lên những người đàn ông tóc bạc mà tôi đang hầu hạ mua vui, họ trông rất giống như những cây bị tuyết phủ trên ngọn, đến nỗi tôi bỗng cảm thấy hoảng hốt như thể tôi là con người duy nhất còn sống trên trái đất.
Những buổi tiệc duy nhất làm cho tôi có tin tưởng rằng cuộc đời vẫn còn mục đích đáng sống, là những buổi tiệc có giới nhà binh đến dự. Lúc ấy là vào năm 1938, hàng ngày chúng tôi thường xem báo chí viết về cuộc chiến ở Mãn châu, và hàng ngày chúng tôi thường nghe nói đến đoàn quân viễn chinh của chúng tôi bằng những cái tên như là Cơm Hộp Mặt trời mọc - giữa hộp cơm có nhét trái mận dầm giấm, trông như lá cờ Nhật. Nhiều thế hệ sĩ quan lục quân đến Gion để giải trí. Nhưng bây giờ họ nói với chúng tôi rằng, với cặp mắt đẫm lệ sau bảy tám tách sakê, không còn gì giữ được tinh thần của họ cao khi họ đã đến thăm Gion. Có lẽ đây là cách các ông sĩ quan nhà binh nói với những phụ nữ họ đang tiếp chuyện. Nhưng còn chuyện cho rằng tôi – cô gái làng biển - có thể đóng góp cái gì có ích cho tổ quốc…Tôi không giả vờ cho rằng những buổi tiệc này đã làm giảm bớt đau khổ của tôi, mà chúng đã giúp tôi nhớ rằng sự đau khổ của tôi thật ích kỷ biết bao.
Một tuần lễ trôi qua, đến một buổi tối, trong hành lang phòng trà Ichiriki, Mameha nói rằng đã đến lúc cô ấy lấy tiền thắng cuộc nơi bà Mẹ. Chắc anh còn nhớ chuyện hai người đã đánh cuộc về việc nợ nần của tôi có được trả hết trước khi tôi hai mươi tuổi hay không. Nay nợ của tôi được trả hết khi tôi mới mười tám tuổi. Mameha nói với tôi:
- Bây giờ cô lật cổ áo rồi, tôi thấy không lý do gì mà đợi nữa.
Nhưng cô ấy nói thì nói, sự thật rất phức tạp. Mameha biết Mẹ rất ghét trả nợ, và càng ghét hơn nữa khi tiền cá cược quá cao. Lợi tức của tôi rất đáng kể sau khi tôi có danna. Chắc Mẹ rất muốn ẵm gọn số lợi tức do tôi kiếm được. Tôi tin là Mameha nghĩ rằng cô ấy thu lại tiền nợ sớm chừng nào hay chừng nấy, và cô ấy lo sợ về món lợi tức của tôi sau này trong tương lai.
Mấy ngày sau, tôi được gọi xuống phòng khách có việc, tôi thấy Mameha và Mẹ đang ngồi đối diện nhau qua bàn, nói chuyện về thời tiết mùa hè. Ngồi bên cạnh Mameha là một bà già tóc bạc tên là Okada, tôi đã gặp bà ta nhiều lần. Bà ta là bà chủ nhà kỹ nữ nơi trước đây Mameha ở, bà ta còn lo việc kế toán cho Mameha để ăn hoa hồng. Chưa bao giờ tôi thấy bà nghiêm trang như thế này, mắt cứ nhìn xuống bàn, không lưu tâm gì đến câu chuyện hai người kia đang nói.
- Kìa, cô đến rồi! - Mẹ nói với tôi - Chị cả của cô đã quá bộ đến chơi đem theo bà Okada. Cô phải có bổn phận ngồi đây với chúng tôi.
Bà Okada lên tiếng, nhưng mắt vẫn nhìn lên mặt bàn:
- Thưa bà Nitta, như Mameha đã gọi điện thoại báo cho tôi biết, đây là vì công việc làm ăn chứ không phải đến thăm xã giao. Nên không cần có cô Sayuri ở đây. Tôi nghĩ chắc cô ấy có việc khác để làm.
- Tôi sợ nếu cô ấy không đến sẽ mang tội bất kính với quý vị - Mẹ đáp – nên để cô ấy ngồi với chúng ta vài phút.
Vì thế tôi phải ngồi xuống bên Mẹ, chị hầu mang trà vào cho chúng tôi. Sau đó Mameha nói:
- Thưa bà Nitta, chắc bà tự hào về công việc của con bà, cô ấy rất tuyệt vời! Tài sản của cô ấy đã vượt quá mức mong đợi! Chắc bà hài lòng chứ?
- Tôi không hiểu mức mong đợi của cô là bao nhiêu, cô Mameha? - Mẹ đáp.
Nói xong bà nhe răng ra cười, nụ cười kỳ lạ, vừa nhìn quanh chúng tôi để xem chúng tôi có khen tài ứng xử của bà không. Không ai cười với bà, còn bà Okada sửa lại cặp kính và đằng hắng giọng. Cuối cùng Mẹ nói thêm:
- Riêng về sự mong đợi của tôi, có lẽ tôi phải nói lợi tức của Sayuri không vượt quá sự mong đợi được.
- Ngày đầu tiên chúng ta bàn về tương lai của cô ấy cách đây mấy năm – Mameha nói – tôi có cảm giác là bà không tin tưởng gì nhiều về cô ấy. Thậm chí bà còn miễn cưỡng để cho tôi đảm nhận công việc huấn luyện cô ấy.
- Xin lỗi cô - Mẹ nói – tôi nghĩ rằng giao phó Sayuri vào tay một người ở ngoài nhà kỹ nữ là điều thiếu khôn ngoan. Chắc cô biết chúng tôi có Hatsumono chứ.
- Ồ bà Nitta, bà đùa sao. – Mameha vừa cười vừa nói – Hatsumono chắc sẽ bóp cổ cô ta trước khi huấn luyện cô ấy!
- Tôi công nhận Hatsumono có thể gây khó khăn cho cô ấy. Nhưng khi cô thấy một cô gái như Sayuri có những nét khác biệt, cô mới quyết định đúng thời điểm và đến thu xếp với tôi. Nhưng cô Mameha, chắc hôm nay cô đến đây để tính toán tiền bạc phải không?
- Bà Okada đã tính tóan rồi – Mameha đáp – Xin bà làm ơn xem qua cho biết.
Bà Okada sửa cặp kính đeo mắt, lấy cuốn sổ kế toán trong xách ra, Mameha và tôi ngồi yên lặng trong khi bà ta mở sổ để trên bàn và trình bày các cột sổ cho Mẹ thấy.
- Những con số này là lợi tức của Sayuri trong hai năm qua à? - Mẹ cắt ngang nói - Lạy trời, ước gì mà chúng tôi quá may mắn được như bà tin thế! Số tiền này còn cao hơn cả số thu nhập tổng quát của nhà kỹ nữ chúng tôi.
- Đúng thế đây, những con số rất đáng kinh ngạc – bà Okada nói – Chúng tôi tin những con số này rất chính xác. Tôi lấy đúng các số liệu này ở phòng đăng ký Gion.
Mẹ nghiến răng cười khi nghe thế, tôi nghĩ vì bà ta bối rối khi bị bắt quả tang bà nói láo. Bà đáp:
- Có lẽ tôi không xem kỹ sổ kế toán.
Sau mười hay mười lăm phút, hai người đàn bà nhất trí với nhau về số tiền mà tôi đã kiếm được kể từ ngày tôi mới bắt đầu đến đây nhập môn. Bà Okada lấy bàn tính trong xách ra, làm vài phép tính, viết những con số lên trang giấy trắng trong sổ kế toán. Cuối cùng bà viết tổng số, và gạch dưới chân con số ấy. Bà ta nói:
- Đây là số tiền Mameha được nhận.
- Nghĩ đến công lao của cô ấy đối với Sayuri - Mẹ nói - tôi nghĩ Mameha còn đáng được hưởng nhiều hơn thế. Rủi thay là theo thoả ước của chúng tôi thì Mameha nhận một nửa số tiền công của người geisha hướng dẫn thường nhận, cho đến khi Sayuri trả hết nợ. Bây giờ thì nợ đã trả xong, dĩ nhiên Mameha đáng được nhận nửa kia để cho cô ấy có đủ tiền công của mình.
- Theo chỗ tôi biết thì Mameha bằng lòng nhận nửa số tiền công – bà Okada nói – nhưng cuối cùng được trả gấp hai. Đấy là lý do tại sao cô ấy bằng lòng đảm nhận một công việc nguy hiểm. Nếu Sayuri không trả nổi nợ, Mameha sẽ không có gì nữa ngoài nửa số tiền công đã nhận. Nhưng Sayuri thành công, Mameha phải được nhận gấp hai.
- Thưa bà Okada, thật bà tin tôi bằng lòng những điều khoản như thế à? - Mẹ nói - Mọi người ở Gion đều biết tôi rất cẩn thận về chuyện tiền nong như thế nào rồi. Quả đúng, Mameha đã giúp đỡ Sayuri rất nhiều nhưng tôi không thể trả gấp hai được , mà tôi xin đề nghị được trả thêm mười phần trăm. Làm thế là tôi đã quá rộng rãi rồi, vì nhà kỹ nữ chúng tôi không có cảnh vung tiền một cách bất cẩn được.
Lời lẽ của người phụ nữ ở vị trí của Mẹ là phải đảm bảo mới được – và với bất kỳ người đàn bà nào trừ Mẹ ra, chắc lời nói của họ cũng được đảm bảo, nhưng bà Mẹ đã quyết định nói láo. Cho nên chúng tôi ngồi yên một hồi lâu. Cuối cùng bà Okada nói:
- Thưa bà Nitta, tôi thấy vấn đề thế này là quá khó khăn, tôi nhớ rõ ràng Mameha đã nói với tôi như thế.
- Dĩ nhiên bà nhớ chứ - Mẹ đáp – Mameha nhớ chuyện ấy cách khác, còn tôi, tôi nhớ cách khác. Điều chúng ta cần bây giờ là người thứ ba, và may thay, chúng ta có một người thứ ba đang có mặt tại đây. Lúc ấy, Sayuri có thể còn nhỏ thật đấy, nhưng chắc cô ấy nhớ chuyện này.
- Tôi tin chắc trí nhớ cô ấy rất tốt – bà Okada nói – nhưng người ta không thể nói cô ấy không có quyền lợi cá nhân. Tóm lại, cô ấy là con gái của nhà này.
- Phải, đúng thế - Mameha nói, đây là lần đầu tiên cô ấy nói sau một hồi lâu ngồi im – Nhưng cô ấy là người chân thật. Tôi sẵn sàng chấp nhận câu trả lời của cô ấy, miễn là bà Nitta cũng chấp nhận.
- Đương nhiên là tôi nhận – Mẹ nói, bà để ống vố xuống – Nào, Sayuri, nói đi, như thế nào?
Nếu tôi được phép lựa chọn giữa việc trườn trên mái nhà để gãy tay lần nữa như ngày còn bé, hay là ngồi trong phòng này cho đến khi nghĩ ra câu trả lời cho câu hỏi họ nêu ra, chắc tôi chọn con đường leo lên lầu, lên thang, trèo ra mái nhà ngay. Trong số phụ nữ ở Gion này, Mameha và Mẹ là hai người đàn bà có ảnh hưởng đến đời sống của tôi nhất, và rõ ràng chuyện này thế nào cũng có một người giận tôi. Tôi nghĩ sự thật đã qúa rõ ràng rồi, nhưng mặt khác, tôi còn phải tiếp tục sống trong nhà với bà Mẹ. Dĩ nhiên Mameha đã giúp tôi nhiều hơn bất cứ ai ở Gion. Tôi không thể đứng về phe Mẹ để chống lại cô ấy.
- Sao? – Mẹ nói với tôi.
- Theo chỗ tôi nhớ, Mameha đã nhận nửa tiền công, nhưng Mẹ bằng lòng trả gấp hai số tiền ấy khi con thành công, Mẹ à. Con xin lỗi nhưng con đã nhớ chuyện này như thế.
Im lặng một lát, rồi Mẹ nói:
- Được thôi, tôi không còn trẻ như trước nữa. Đây không phải lần đầu trí nhớ của tôi sai lầm.
- Tất cả chúng ta đều thỉnh thoảng mắc phải sai lầm như thế này – bà Okada đáp – Thưa bà Nitta, bây giờ tôi xin hỏi bà nghĩ sao về việc bà đề nghị trả cho Mameha số tiền thêm mười phần trăm? Tôi nghĩ chắc bà muốn nói mười phần trăm trên số tiền gấp hai mà trước đây bà bằng lòng trả cho cô ấy chứ gì?
- Giá mà tôi được làm một việc như thế - Mẹ đáp.
- Nhưng bà mới đề nghị hồi nãy đấy. Chắc bà không thay đổi ý kiến một cách nhanh chóng như thế chứ?
Bà Okada không nhìn lên mặt bàn nữa mà nhìn thẳng vào mặt Mẹ. Sau một hồi lâu, bà ta nói:
- Tôi nghĩ chúng ta làm theo đề nghị của bà thôi. Nhưng hôm nay thế là chúng ta làm việc đủ rồi. Tại sao chúng ta không gặp nhau khi khác để tính ra tổng số?
Mặt Mẹ có vẻ nghiêm nghị, nhưng bà cũng cúi người tỏ dấu hiệu tán thành và cám ơn hai người đã đến.
- Tôi tin chắc bà rất hài lòng – bà Okada nói, trong khi dẹp bàn tính và sổ sách đi – về việc Sayuri sắp có danna. Và có vào lúc mười tám tuổi! Mới mười tám tuổi mà đã bước một bước lớn như thế này là còn quá trẻ!
- Mameha chắc đã hoạt động tốt để có danna vào tuổi ấy – Mẹ nói.
- Mười tám tuổi đôi với các cô là còn quá trẻ - Mameha nói – nhưng tôi chắc bà Nitta đã có quyết định đúng đắn trong trường hợp của Sayuri.
Mẹ hút ống vố một lát, nhìn Mameha ngồi bên kia bàn. Bà nói:
- Mameha, tôi khuyên cô như thế này, cô lo dạy cho Sayuri cách liếc mắt đưa tình là tốt, còn chuyện quyết định làm ăn, xin cô để đấy cho tôi.
- Thưa bà Nitta, tôi không dám bàn chuyện làm ăn với bà đâu. Tôi tin quyết định của bà là nhắm đến việc có lợi nhất. Nhưng xin hỏi bà việc này được không? Có phải đề nghị của Nobu Toshikazu là đề nghị béo bở nhất không?
- Chỉ mới có duy nhất đề nghị của ông ta thôi. Tôi nghĩ đây là lời đề nghị béo bở nhất.
- Mới có một lời đề nghị duy nhất thôi à? Tội nghiệp thay…Khi có nhiều đàn ông tranh dành, việc thu xếp mới có lợi hơn. Bà không thấy như thế sao?
- Mameha, như tôi đã nói rồi, cô cứ để quyết định làm ăn ấy đấy cho tôi. Tôi đã nghĩ ra một chương trình rất đơn giản để Nobu Toshikazu chấp nhận những điều khoản có lợi.
- Nếu bà không ngại – Mameha nói – tôi rất mong muốn được nghe chương trình của bà.
Mẹ để ống vố xuống bàn. Tôi cứ tưởng bà ta sẽ mắng Mameha một trận, nhưng không, bà nói:
- Được rồi, cô đã muốn biết, tôi sẽ nói cho cô nghe. Cô có thể giúp tôi đấy. Nếu Nobu Toshikazu biết được chuyện cái máy sưởi của công ty đồ điện iwamura đã giết chết Bà Ngoại thì tôi nghĩ chắc ông ta sẽ rất rộng rãi. Cô không nghĩ như thế sao?
- Ồ, tôi biết rất ít về việc kinh doanh, bà Nitta à.
- Có lẽ cô và Sayuri nên nêu ra việc này trong khi nói chuyện với ông ta trong lần gặp ông ta sắp đến. Nói cho ông ta biết đây là một vụ tai nạn kinh khủng. Tôi nghĩ thế nào ông ta cũng muốn đền bù cho chúng ta.
- Phải, tôi nghĩ đây là một ý kiến hay – Mameha đáp – Tuy nhiên, kế hoạch này chán lắm. Tôi có cảm giác là có một người khác đang quan tâm đến Sayuri.
- Một trăm yen là một trăm yen, cho dù nó xuất phát từ người này hay người khác.
- Điều này đúng trong nhiều trường hợp – Mameha nói – Nhưng người tôi muốn nói là ông Tướng Tottori Junnosuka…
Câu chuyện đến đây, tôi không theo dõi được hai người nói gì với nhau nữa, vì tôi nhận ra Mameha đang ra sức cô cứu tôi thoát khỏi Nobu. Tôi thật không ngờ có chuyện như thế này xảy ra. Tôi không biết cô ấy đổi ý về việc giúp tôi, hay không biết có phải cô ấy cám ơn tôi về việc tôi đứng về phe cô ấy chống lại Mẹ. Dĩ nhiên có thể cô ấy không cố tình giúp đỡ tôi, nhưng chắc có mục đích gì khác đây. Tôi nghĩ trong óc loay hoay đủ thứ cho đến khi tôi cảm thấy Mẹ lấy cán ống vố gõ vào tay tôi.
- Sao? – bà ta hỏi.
- Thưa Mẹ cái gì?
- Tôi hỏi cô có biết ông Tướng không?
- Con gặp ông ta vài lần, Mẹ à. Ông ta thường đến Gion.
Tôi không biết tại sao tôi lại trả lời như thế. Thực ra tôi đã gặp ông Tướng nhiều hơn vài lần. Tuần nào ông ta cũng đến Gion, nhưng thường là khách của người nào đấy. Ông ta nhỏ xác, còn thấp hơn tôi nữa, nhưng ông ta không phải loại người dễ bỏ qua đâu, không thể làm ngơ như làm ngơ trước khẩu súng máy. Ông ta di chuyển rất nhanh, mồm luôn luôn phì phà thuốc lá, cho nên quanh ông ta khi nào cũng có khói như khói trên đoàn tàu đang chạy rì rì. Một buổi tối, trong lúc ngà ngà say, ông Tướng đã nói chuyện với tôi một hồi thật lâu về cấp bậc trong quân đội, ông ta thấy vui vì tôi cứ lẫn lộn các cấp bậc với nhau. Cấp bậc của Tướng Tottori là “Shojo”, có nghĩa là Thiếu tướng, vị trí thấp nhất trong hàng ngũ tướng lĩnh, và cô gái ngốc nghếch là tôi cứ nghĩ cấp bậc này không cao lắm. Có thể vì khiêm tốn nên ông ta hạ tầm quan trọng của cấp bậc mình xuống, và tôi không còn các nào khác là chỉ biết tin ông ta thôi.
Khi ấy, Mameha cho Mẹ biết ông Tướng đã đảm nhiệm công tác mới. Ông được giữ nhiệm vụ điều hành một công việc được gọi là “Tiếp liệu quân nhu”. Nhưng khi nghe Mameha giải thích thì công việc này nghe như là việc của một bà nội trợ lo việc đi chợ. Chẳng hạn nếu quân đội thiếu hụt giấy in, công việc của ông Tướng là kiếm ra cho đủ số giấy in cần thiết, và với giá rất rẻ.
- Với công việc như thế này – Mameha nói – ông Tướng đang ở vị thế cần có tình nhân ngay. Và tôi tin chắc ông ta sẽ rất thích Sayuri.
- Nếu ông ta quan tâm đến Sayuri – Mẹ đáp – tại sao tôi phải chú ý đến – giới quân nhân không bao giờ chăm sóc đến geisha như giới thương nhân hay là giới quý tộc.
- Quả đúng như thế, thưa bà Nitta. Nhưng tôi nghĩ thế nào bà cũng nhận thấy nhiệm vụ mới của Tottori sẽ giúp ích rất nhiều cho nhà kỹ nữ.
- Vô nghĩa! Tôi không cần ai giúp nhà kỹ nữ của tôi hết. Điều tôi cần là lợi tức phong phú, đều đặn, mà việc này thì một quân nhân không thể làm được.
- Cuộc sống của chúng ta ở Gion đang gặp may là còn đầy đủ - Mameha đáp – nhưng nếu tình trạng chiến tranh vẫn còn tiếp diễn, thế nào chúng ta cũng bị thiếu hụt các thứ.
- Tôi biết nếu chiến tranh tiếp diễn, thế nào các thứ cũng sẽ thiếu hụt – Mẹ nói – Cuộc chiến tranh này sẽ chấm dứt trong sáu tháng thôi.
- Và khi chiến tranh chấm dứt, địa vị của giới nhà binh sẽ mạnh hơn bao giờ hết. Thưa bà Nitta, xin bà đừng quên rằng Tướng Tottori giám sát tất cả nguồn tiếp liệu của quân đội. Không người nào ở Nhật có được vị trí ngon lành hơn ông ta để cung cấp cho bà những thứ bà cần, cho dù chiến tranh còn tiếp diễn hay không. Ông ta phê chuẩn tất cả các thứ hàng nhập cảng khắp các hải cảng ở Nhật.
Sau này hỏi ra, tôi mới biết những điều Mameha nói về Tướng Tottori là không hoàn toàn đúng. Ông ta chỉ là thủ trưởng của năm khu vực hành chính lớn mà thôi. Nhưng ông ta là thượng cấp của những người phụ trách giám sát các khu vực khác, nên có thể xem ông ta là người phụ trách toàn diện. Nhưng dù sao, khi nghe Mameha nói thế, chắc anh cũng biết thái độ của Mẹ ra sao rồi. Chắc anh có thể hiểu được đầu óc bà ta làm việc ra sao trong kế hoạch nhờ cậy một người có nhiệm vụ như Tướng Tottori. Bà ta nhìn xuống bình trà, và tôi có thể mường tượng ra ý nghĩ trong óc bà ta – Thế là tốt, mình khỏi lo vấn đề thiếu hụt trà…bây giờ thì chưa…nhưng giá trà sẽ lên…Và có lẽ chưa biết tính toán ra sao, nhưng bà cũng đưa tay sờ vào trong dải thắt lưng, bóp cái bao lụa đựng thuốc lá để xem thử thuốc còn bao nhiêu, nhiều hay ít.
Mẹ bỏ cả tuần sau để đi khắp Gion, gọi điện đến các nơi để thăm dò tin tức về ông Tướng Tottori. Bà ta mải mê công việc này đến nỗi đôi lúc tôi nói với bà, bà cũng không nghe tôi nói cái gì. Tôi nghĩ chắc bà bận suy nghĩ, trí óc bà như cái đầu máy xe lửa kéo quá nhiều toa.
Trong thời gian này, tôi tiếp tục gặp Nobu bất cứ khi nào ông ta đến Gion, và tôi cố làm ra vẻ như không có gì thay đổi. Có lẽ ông ta đợi tôi làm tình nhân của ông vào giữa tháng bảy. Dĩ nhiên tôi cũng chờ đợi ngày ấy đến, nhưng khi gần đến tháng ngày ấy, những cuộc thương lượng cũng không đi đến đâu. Trong những tuần lễ kế tiếp, nhiều lần tôi thấy ông ta nhìn tôi với vẻ kinh ngạc. Rồi một đêm, ông ta chào bà chủ phòng trà Ichiriki với thái độ cộc cằn tôi chưa từng thấy, bằng cách đi qua mặt bà ta mà không thèm gật đầu nữa. Bà thường xem Nobu là vị khách quí, nên bà ta nhìn tôi với ánh mắt kinh ngạc và lo sợ. Khi tôi vào tham gia buổi tiệc do ông chi trả, tôi không thể nào không chú ý đến những thái độ giận dữ của ông ta được – như là hai quai hàm bạnh ra, thái độ hắt tách rượu vào miệng. Tôi không trách ông ta về thái độ cộc cằn của ông. Tôi nghĩ ông ta hẳn xem tôi là một kẻ vô tâm, là kẻ đã trả ơn lòng tốt của ông ta bằng sự thờ ơ lạnh nhạt. Tôi ngồi yên buồn bã một hồi lâu, đầu óc suy nghĩ lung tung, cho đến khi tiếng cái tách sakê dằn mạnh xuống bàn phát ra tiếng “cách” tôi mới giật mình tỉnh lại. Khi tôi nhìn lên, Nobu đang nhìn tôi. Khách ngồi quanh ông ta cười ồ lên với vẻ thích thú, còn ông ta vẫn ngồi yên, mắt dán vào mặt tôi, trầm ngâm suy nghĩ như tôi đã trầm ngâm suy nghĩ hồi nãy. Chúng tôi như hai vũng nước trong lò than cháy rần rần.
Chuong 26

Vào tháng chín năm ấy, khi tôi còn mười tám tuổi, Tướng Tottori và tôi cùng ngồi uống sakê với nhau trong một buổi lễ tại phòng trà Ichiriki. Buổi lễ này giống như buổi lễ lần đầu tiên tôi với Mameha kết tình chị em, và sau này giữa tôi với bác sĩ Cua trước khi tôi bán mizuage. Trong những tuần lễ tiếp theo, mọi người đều chúc mừng Mẹ đã làm được sự kết hợp có lợi như thế.
Ngay đêm đầu tiên sau khi làm lễ kết hợp xong, tôi theo lời chỉ dẫn của ông Tướng đến một nhà trọ nhỏ nằm ở phía Tây Bắc của Kyoto có tên là Suyura, nhà trọ chỉ có ba phòng. Lâu nay tôi đã quen với cảnh xa hoa lộng lẫy, nên bây giờ cảnh tồi tàn của nhà trọ Suyura làm tôi quá kinh ngạc. Phòng hôi mùi ẩm mốc, thảm rơm ẩm ướt, phồng rộp, đến nỗi khi tôi bước chân lên đấy, thảm phát ra tiếng kêu xì xì. Hồ vữa gần nền nhà trong một góc lở lói. Càng quỳ lâu ở đấy, tôi cảm thấy nhẹ người – mặc dù ông ta chẳng làm gì cải thiện tình trạng trong phòng ngoài việc ông ta mở radio và ngồi uống bia sau khi tôi đã chúc mừng ông ta.
Sau một lát ông ta xuống lầu đi tắm. Khi ông ta về lại phòng, ông ta cởi áo ngủ ra ngay, người trần truồng như nhộng, vừa đi quanh trong phòng vừa lau tóc, cái bụng nhỏ tròn quay nhô ra dưới bộ ngực có một đám lông lớn. Tôi chưa từng thấy đàn ông ở truồng, cho nên tôi thấy cái bụng ông Tướng xệ xuống rất buồn cười. Nhưng khi ông ta nhìn tôi, tôi phải cúi mặt nhìn xuống dưới nơi…ờ, nơi chắc có “con lươn” của ông ta. Có cái gì nhúc nhích ở đấy, nhưng chỉ khi ông Tướng nằm ngửa ra và bảo tôi cởi áo quần, khi đó cái ấy mới bắt đầu hiện ra. Ông là người cao sang thật đấy, nhưng rất trơ trẽn sai tôi làm những việc ông ta muốn. Tôi cứ sợ tôi phải tìm cách để làm cho ông ta thoả mãn, nhưng hoá ra tôi chỉ làm theo lệnh của ông ta mà thôi. Sau ba năm từ ngày bán mizuage, tôi đã quên hết nỗi kinh hoàng khi ông bác sĩ chồm lên người tôi. Bây giờ tôi nhớ lại, nhưng chuyện kỳ lạ nhất là tôi không cảm thấy kinh hoàng như trước mà cảm thấy muốn nôn mửa. Ông Tướng cứ để radio mở, và cả đèn sáng nữa, như thể ông ta muốn để cho tôi thấy cảnh buồn tẻ trong phòng cho rõ ràng, ngay cả vết nước bẩn rịn trên trần nhà.
Ngày tháng trôi qua, sự nôn mửa cũng hết, hàng tuần tôi phải gặp ông Tướng hai lần như thế, không mấy thú vị. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi nếu đến với ông Chủ tịch tình trạng có như thế này không nhỉ, và nói thật ra, tôi vẫn sợ tôi ghê tởm như là khi tôi ở với ông bác sĩ và với ông Tướng. Rồi bỗng có một chuyện xảy ra khiến cho tôi nhìn cuộc đời khác đi. Lúc này có một người đàn ông tên là Yasuda Akira, ông ta đã được xuất hiện trên các tạp chí vì có công sáng chế ra loại đèn xe đạp mới, đến Gion giải trí đều đặn. Tuy nhiên ông ta không được phòng trà Ichiriki tiếp đón nồng nhiệt vì có lẽ ông ta không chịu nổi chi phí ở đấy, cho nên ông ta đến một phòng trà mới có tên là Tatematsu ba bốn đêm mỗi tuần, phòng trà này nằm ở quận Tominaga, không xa nhà tôi ở. Lần đầu tiên tôi gặp ông ta tại một buổi đại tiệc vào mùa xuân năm 1939, khi ấy tôi đã mười chín tuổi. Anh ta trẻ hơn tất cả đàn ông trong buổi tiệc – có lẽ không quá ba mươi – nên khi mới bước chân vào phòng là tôi chú ý đến anh ta liền. Anh ta có vẻ cao quí như ông Chủ tịch. Tôi thấy anh ta rất hấp dẫn, anh ngồi xắn tay áo sơ mi lên, áo vét để phía sau trên thảm. Bỗng tôi nhìn sang một ông già ngồi bên cạnh anh ta, ông già đưa đũa gắp một miếng đậu khuôn chiên đưa lên miệng, miệng há to để ngoạm gọn cả miếng, cảnh này cho tôi có cảm giác như cánh cửa mở ra để cho con rùa từ từ bò ra. Trái lại, khi nhìn qua cách ăn của Yasuda, tôi thấy mến phục anh ta, vì anh đưa cánh tay rắn chắc đẹp đẽ lên, đưa miếng đậu khuôn rán vào miệng và cắn một miếng, cái miệng há ra để lộ đôi môi gợi cảm.
Tôi đi một vòng quanh các ông, khi đến bên anh ta, tôi tự giới thiệu và anh ta nói:
- Tôi mong cô tha lỗi.
- Tha lỗi à? Tại sao, anh làm gì mà phải xin lỗi?
- Vì tôi lố bịch quá, không rời mắt khỏi cô suốt buổi tối.
Theo thói quen, tôi đưa tay vào trong dải thắt lưng lấy cái bao đựng danh thiếp bằng gấm, kín đáo lấy ra một tờ đưa cho anh ta. Geisha thường mang theo danh thiếp như giới doanh nhân. Danh thiếp của tôi nhỏ, bằng nửa danh thiếp người khác dùng, in trên giấy láng chỉ vỏn vẹn hai chữ “Gion” và “Sayuri” viết bằng lối thư pháp. Khi ấy vào mùa xuân, nên tôi mang loại danh thiếp có nền in hình một chùm hoa mận có màu sáng. Yasuda nhìn tấm danh thiếp một lát rồi cất vào túi áo sơ mi. Tôi nghĩ không có lời nào chúng tôi nói với nhau có thể hùng hồn bằng thái độ giao cảm giản dị như thế, nên tôi cúi người chào rồi đi sang người khác.
Từ hôm đó, Yasuda yêu cầu tôi đến phòng trà Tatematsu hàng tuần để hầu vui cho anh ta. Tôi không thể đến được thường xuyên theo ý muốn của anh ta. Nhưng khoảng ba tháng sau, vào một buổi chiều, anh ta mang đến tặng cho tôi một món quà. Tôi cảm thấy vinh dự mặc dù cái áo không phải loại đẹp – vải dệt bằng lụa xấu với màu sắc loè loẹt, hình vẽ rất bình dân với hoa và bướm. Anh ta muốn tôi mặc vào một buổi tối sắp đến, tôi hứa tôi sẽ mặc. Nhưng đêm ấy khi tôi mang áo về nhà, Mẹ thấy tôi mang cái gói lên lầu, bà chận tôi lại để lấy xem. Bà cười ngạo khi thấy cái áo, và nói bà không muốn thấy tôi mặc áo xấu như thế. Ngày hôm sau, bà bán cái áo đi.
Khi tôi biết bà bán cái áo rồi, tôi không ngán nói thẳng vào mặt bà là cái áo là món quà của tôi, chứ không phải của nhà kỹ nữ, bà không có quyền bán nó đi.
- Dĩ nhiên là áo của cô – bà ta nói – nhưng cô là con gái của nhà kỹ nữ. Cái gì thuộc nhà kỹ nữ là thuộc về cô, và ngược lại cái gì của cô là của nhà kỹ nữ.
Tôi giận bà Mẹ đến độ tôi không thèm nhìn đến bà. Còn phần Yasuda, anh ta muốn thấy tôi mặc cái áo ấy, tôi nói với anh ta rằng vì màu sắc và mô hình bướm hoa trên áo, cho nên chỉ hợp mặc vào lúc sơ xuân, mà khi ấy đang mùa hè, cho nên phải một năm nữa, anh mới có thể thấy tôi mặc áo ấy được. Anh ta có vẻ không buồn khi nghe tôi nói.
- Một năm nghĩa lý gì – anh ta nói, mắt đắm đuối nhìn tôi – anh đợi mấy cũng được, miễn cái anh đợi có đến thì thôi.
Chúng tôi ở một mình với nhau trong phòng, Yasuda để ly bia xuống bàn với cử chỉ khiến tôi đỏ mặt, anh đưa tay nắm tay tôi, tôi để yên cho anh, vì tôi cứ nghĩ anh nắm trong hai tay một lát rồi thả ra thôi. Nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta đưa tay tôi lên môi rồi hôn vào bên trong cổ tay tôi một cách hết sức say đắm, tôi tưởng chừng như anh ta hôn đến tận dưới đầu gối tôi. Tôi thấy tôi là người đàn bà biết vâng lời mãi cho đến lúc ấy tôi thường làm những việc do Mẹ hay Mameha bảo làm, thậm chí còn làm theo lời Hatsumono khi bắt buộc phải làm, nhưng bây giờ tôi cảm thấy tức giận Mẹ và ao ước được ân ái với Yasuda, cho nên tôi quyết làm cho được cái công việc mà Mẹ không cho phép làm. Tôi yêu cầu anh ta đến gặp tôi vào lúc mười hai giờ đêm tại chính phòng trà này, rồi tôi để cho anh ta ngồi một mình ở đấy.
Trước nửa đêm, tôi trở lại và nói với một chị người hầu, hứa cho chị ta một số tiền khá lớn nếu chị ta đừng để ai quấy rầy Yasuda và tôi trong một phòng trên lầu khoảng nửa giờ. Tôi đến đấy, đợi trong bóng tối một lát, rồi chị hầu mở cửa và anh bước vào. Anh thả cái mũ phớt trên chiếu, rồi kéo tôi đứng lên ngay cả khi cửa chưa đóng. Áp người vào thân thể anh thật sướng như ăn bữa ăn sau một thời gian bị đói lâu. Anh ôm tôi vào lòng, và tôi ôm lại mạnh không kém. Tôi không ngạc nhiên khi thấy tay anh lần dưới áo tôi để sờ vào da thịt tôi một cách sành sỏi. Tôi không muốn giả vờ mình chưa có kinh nghiệm trong tình dục như tôi thường làm với ông tướng, nhưng tôi cũng không tỏ ra quá hăm hở. Cuộc chung đụng giữa tôi với ông Tướng nhắc tôi nhớ lại thời thơ ấu, khi tôi cố trèo lên đọt cây để ngắt mấy ngọn lá trên ấy. Công việc này phải hết sức cẩn thận, rất nguy hiểm cho đến khi hái được lá. Nhưng với Yasuda, tôi cảm thấy như một đứa bé chạy xuống sườn đồi một cách thoải mái. Một lát sau khi chúng tôi hổn hển nằm xuống chiếu, tôi hất hai vạt áo sơ mi của anh sang hai bên để sờ vào bụng anh xem hơi thở của anh ra sao. Mặc dù chúng tôi không nói với nhau một tiếng, nhưng tôi cảm thấy chưa bao giờ trong đời tôi gần gũi với ai như với anh.
Vì thế tôi mới hiểu tại sao tôi chỉ có một việc là nằm yên trên nệm cho ông bác sĩ và ông Tướng. Còn với ông Chủ tịch, chắc tình hình sẽ khác hơn.
Cuộc sống hàng ngày của nhiều geisha sau khi có danna thay đổi một cách rất ấn tượng, nhưng trong trường hợp của tôi, tôi không thấy có gì thay đổi hết. Hàng đêm, tôi vẫn đi quanh Gion như những năm vừa qua. Thỉnh thoảng có những buổi chiều tôi đi chơi, kể cả những buổi đi chơi rất kỳ cục như đi theo một người đàn ông vào thăm anh ông ta trong bệnh viện. Nhưng còn phần những thay đổi mà tôi mong đợi - Những buổi trình diễn múa đặc sắc được danna của tôi trả tiền, những món quà tặng hậu hĩnh, thậm chí được nghỉ ngơi một hai ngày có lương – thì ôi thôi, không bao giờ có chuyện này xảy ra. Đúng như lời bà Mẹ nói. Giới quân nhân không chăm lo cho geisha bằng giới thương nhân hay giới quý tộc.
Có thể ông Tướng mang lại cho đời tôi rất ít sự thay đổi, nhưng quả thật sự liên kết của ông ta với nhà kỹ nữ thật vô giá ít ra theo quan điểm của Mẹ là như thế. Ông bao hết nhiều thứ chi phí của tôi như một danna thường làm, kể cả chi phí học tập của tôi, phí đăng ký hàng năm, tiền thuốc men…thậm chí những thứ tôi không ngờ tới, bí tất, có lẽ thế. Nhưng quan trọng hơn hết, chức vụ mới của ông ta làm Giám đốc Nha quân nhu, theo lời của Mameha, cho nên ông ta có thể làm cho chúng tôi những việc mà không một ông danna nào khác làm được. Ví dụ như bà Dì bệnh vào đầu tháng ba năm 1939, chúng tôi rất lo sợ cho bà, các bác sĩ đều chịu, nhưng sau một cuốc điện thoại gọi đến cho ông Tướng, một ông bác sĩ giỏi từ bệnh viện quân y ở Kamigyo Ward đến nhà chúng tôi, cho Dì một gói thuốc và thế là bà lành bệnh. Cho nên, mặc dù ông Tướng không thể gởi tôi đến Tokyo để trình diễn múa, hay tặng tôi những viên đá quý, không ai trách ông ta không giúp đỡ nhà kỹ nữ chúng tôi. Ông ta thường xuyên gởi đến cho chúng tôi trà, đường, cũng như chocolat, món ăn hiếm hoi ở Gion. Và dĩ nhiên bà mẹ sai lầm trong việc tiên đoán chiến tranh chấm dứt trong vòng sáu tháng. Chúng tôi không biết khi nào chấm dứt chiến tranh, nhưng chúng tôi cũng chưa biết khi nào sẽ đến những năm đen tối.
Suốt cả mùa thu thời gian ông Tướng làm danna của tôi, Nobu không mời tôi đến những nơi tôi thường hầu vui ông ta. Rồi sau đó, tôi nghe ông không đến phòng trà Ichiriki nữa. Tôi không biết ông ta có lý do gì không ngoài lý do tránh mặt tôi. Bà chủ phòng trà Ichiriki thở dài, đồng ý với ý kiến của tôi. Vào năm mới, tôi viết tấm thiệp chúc tết gởi đến cho Nobu, như tất cả các thân chủ của tôi, nhưng ông ta không trả lời. Bây giờ nhìn lại chuỗi ngày đã qua vào thời gian ấy, tôi nhớ lại công việc lúc ấy một cách dễ dàng, nhưng lúc ấy tôi sống trong tình trạng đau khổ. Tôi cảm thấy tôi đã đối xử sai lầm với một người đàn ông đã cư xử rất tốt với tôi. Hơn nữa, nếu không có Nobu bảo trợ, tôi sẽ không được mời đến dự các buổi tiệc của công ty Iwamura, tức là tôi không có cơ may gặp được ông Chủ tịch.
Còn ông Chủ tịch dĩ nhiên ông ta vẫn thường đến vui chơi ở phòng trà Ichiriki mặc dù ông Nobu không đến. Tôi thấy ông một lần bình tĩnh quở trách người nhân viên thuộc cấp trên hành lang vào một buổi tối, cầm cây bút máy trên tay làm dấu để nhấn mạnh những điều ông nói, tôi không dám chắc vì sợ quấy rầy ông. Một đêm khác, một cô tập sự có vẻ sợ sệt tên Moatsu, đang rụt rè dẫn ông đi về phía nhà vệ sinh, và ông gặp tôi. Ông để Moatsu đứng đấy, đến nói chuyện với tôi. Chúng tôi trao đổi nhiều chuyện vui. Thấy ông cười buồn, tôi nghĩ ông là loại đàn ông không có tính kiêu ngạo, thường tỏ ra dạt dào tình cảm khi nhìn đám con của mình. Trước khi chia tay, tôi nói với ông:
- Ông Chủ tịch, nếu có tối nào ông cần thêm một vài geisha thì…
Tôi nói thế là quá tiến bộ, nhưng may thay cho tôi ông Chủ tịch không phật ý. Ông đáp:
- Ý kiến thật hay, Sayuri. Tôi sẽ mời cô đến.
Nhưng nhiều tuần trôi qua, ông không mời.
Một buổi tối tháng ba khi trời đã khuya, tôi ghé vào một buổi tiệc rất vui nhộn do Quận trưởng quận Kyoto tổ chức ở phòng trà có tên Shunju. Ông Chủ tịch có mặt ở đấy, đang ở chặng cuối của trò thi đấu uống rượu, ông ta có vẻ mệt mói, tay áo sơ mi xắn cao, cà vạt tháo lỏng ra. Thật ra, ông Quận trưởng thua hết các vòng đầu, nhưng còn nắm vững ly sakê hơn ông Chủ tịch.
- Sayuri, gặp cô đây tôi mừng quá – ông ta nói – cô phải giúp tôi mới được. Tôi đang gặp rắc rối đây.
Nhìn làn da mịn màng trên mặt ông lốm đốm đỏ và hai cánh tay thòi ra khỏi hai ống tay áo xắn cao, tôi liền nghĩ đến Yosuda vào cái đêm ở phòng trà Tatematsu. Bỗng tôi cảm thấy mọi vật trong phòng đều biến mất chỉ còn lại một mình ông Chủ tịch và tôi, và ông ta đang trong tình trạng ngà ngà say, tôi nghĩ có thể nghiêng mình đến phía ông cho đến khi hai tay ông quàng quanh tôi và tôi đặt môi tôi lên môi ông. Tôi cảm thấy bôi rối vì nghĩ chắc ông Chủ tịch đã hiểu được ý nghĩ của tôi, nhưng nếu biết tại sao ông nhìn tôi bình thản như thế. Để giúp ông ta, tôi phải kết hợp với cô geisha kia, làm chậm tốc độ cuộc chơi lại. Ông Chủ tịch có vẻ cám ơn việc này, và khi tiệc xong, ông ngồi nói chuyện với tôi một lát, uống nước lạnh cho giã rượu. Cuối cùng ông lấy chiếc khăn tay trong túi áo ra, giống cái tôi đang dắt trong dải thắt lưng, lau trán, rồi vuốt lại tóc tai cho ngay thẳng và nói với tôi:
- Lần cuối cùng cô nói chuyện với ông bạn Nobu của tôi là khi nào?
- Lâu rồi, thưa ông – tôi đáp – nói thật ra, tôi nghĩ chắc ông Nobu giận tôi.
Ông Chủ tịch vừa xếp cái khăn vừa nhìn nó. Ông nói:
- Tình bạn là thứ quí báu, Sayuri. Đừng vứt nó đi.
Suốt mấy tuần sau đó, tôi cứ nghĩ đến chuyện này mãi. Rồi một hôm vào cuối tháng tư, tôi đang hóa trang để diễn Vũ Khúc Cố Đô thì một cô tập sự tôi không quen biết đến nói chuyện với tôi. Tôi hạ bút kẻ chân mày xuống, đợi cô ta yêu cầu làm giúp việc gì đấy – vì nhà kỹ nữ của chúng tôi vẫn là nơi cung cấp những điều mà các nhà kỹ nữ ở Gion cần biết. Nhưng thay vì nhờ công việc, cô ta nói:
- Em xin lỗi vì đến quấy rầy chị, chị Sayuri, em tên là Takazuru. Em tự hỏi không biết chị có giúp em được việc này không. Em biết trước đây chị rất thân với ông Nobu…
Nhiều tháng trời thắc mắc về ông ta và cảm thấy xấu hổ vì cư xử không tốt với ông ta, nay bỗng nhiên nghe tên ông ta, tôi cảm thấy như bên ngoài trời đang bão táp mà tôi mở cửa sổ ra cho gió mạnh lùa vào.
- Bất cứ khi nào chúng ta giúp nhau được, thì cứ giúp nhau, Takazuru à – tôi đáp – Và nếu đây là vấn đề khó khăn với Nobu, tôi sẵn sàng giúp đỡ. Chắc ông ta khoẻ chứ?
- Dạ, ông ta khoẻ, thưa chị, hay ít ra là em nghĩ thế. Ông ấy đến phòng trà Awazumi, ở Đông Gion. Chị có biết nơi ấy chứ?
- Biết, tôi biết. Nhưng tôi biết Nobu có đến đây.
- Phải, thưa chị, ông ta đến luôn – Takazuru nói – Nhưng, chị cho phép tôi hỏi việc này được không? Chị đã quen ông ta một thời gian lâu, và ông Nobu là người tốt phải không?
- Takazuru, tại sao cô hỏi tôi chuyện ấy? Nếu cô đã vui chơi với ông ấy, chắc chắn cô biết ông ta tốt hay là xấu rồi.
- Chắc em có vẻ ngu ngốc. Nhưng em quá bối rối! Mỗi lần đến Gion là ông ta cho gọi em đến, chị cả của em nói ông ta là một thân chủ rất tốt, cô nào cũng hy vọng được ông ta mời đến. Nhưng bây giờ ông ta giận em vì em khóc trước mặt ông ta nhiều lần. Đúng ra em không nên làm thế, nhưng em không hứa được em sẽ không làm lại như thế.
- Ông ta xử ác với cô à, phải không?
Để trả lời tôi, cô Takazuru tội nghiệp mím chặt đôi môi run run, và tự nhiên ứa nước mắt ra, nước mắt nhiều đến nỗi cặp mắt tròn nhỏ của cô ta nhìn tôi như nhìn từ hai vũng nước.
- Thỉnh thoảng ông Nobu không biết mình có vẻ gay gắt – tôi nói – nhưng chắc ông ta thích cô, Takazuru à, vì nếu không, tại sao ông ta mời cô đến?
- Theo em thì ông ta mời em đến vì em là người không xứng với ông – cô ta đáp – một lần ông ta nói tóc em có vẻ sạch sẽ, rồi ông ta nói với em đấy là sự thay đổi rất tuyệt.
- Thế mà cô gặp ông ta luôn cũng lạ đấy – tôi nói – Tôi mong được gặp ông ta từ nhiều tháng nay.
- Ồ, đừng, chị Sayuri! Ông ta đã nói em đối với chị chẳng nghĩa lý gì hết. Nếu ông ta gặp lại chị, ông ta chỉ nghĩ đến cái xấu của em thôi. Đáng ra em không nên làm phiền chị vì những vấn đề khó khăn của em, thưa chị, nhưng….em nghĩ chị biết những chuyện có thể giúp em làm cho ông ta vừa lòng. Ông thích những chuyện kích thích, nhưng em không biết nói gì hết. Mọi người đều nói là em không sáng ý.
Người ở Kyoto được huấn luyện đã nói những chuyện như thế, nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy cô gái này nói năng thật thà. Nếu ông Nobu xem cô ta chỉ là cái cây cho con hổ mài vuốt thì chẳng có gì làm cho tôi ngạc nhiên.
Tôi không thể giúp gì được cho cô ta, cho nên cuối cùng tôi khuyên cô ta tìm đọc những cuốn sách có nội dung lịch sử mà ông Nobu thích, rồi khi gặp ông ta, kể lần lượt cho ông ta nghe. Chính tôi cũng thỉnh thoảng làm thế - vì có nhiều ông chỉ thích ngồi tựa lưng vào ghế, lim dim mắt, lắng nghe giọng của đàn bà kể chuyện. Tôi không biết như thế có làm cho Nobu vui lòng không, nhưng Takazuru có vẻ rất mừng khi nghe tôi khuyên thế.
Thế là tôi biết chỗ tìm ra Nobu, tôi quyết định đi tìm gặp ông ta. Tôi rất buồn vì đã làm cho ông ta giận tôi, và nếu không có ông ta, không bao giờ tôi gặp được ông Chủ tịch. Tôi không muốn gây đau khổ cho Nobu, nhưng tôi hy vọng gặp được ông ta, tôi sẽ tìm cách để nối lại tình bạn. Khó khăn cho tôi là tôi không thể vào phòng trà Awazumi vì không được mời, tôi không có quan hệ chính thức với phòng trà này. Cho nên cuối cùng tôi quyết định vào buổi tối nào có thể đi qua trước cửa phòng trà được, tôi đến đấy, với hy vọng gặp Nobu. Tôi biết thói quen của ông rất rõ, cho nên tôi đoán được ông ta đến vào giờ nào.
Tôi thực hiện kế hoạch này suốt tám chín tuần. Rồi một buổi tối, tôi thấy ông từ sau chiếc limousine bước ra trên con đường nhỏ tối tăm trước mặt tôi. Tôi biết đấy là ông ta, vì ống tay áo rỗng kẹp lên vai, nhìn vào không thể nào lầm được. Khi tôi đến gần, người tài xế đưa cái cặp cho ông. Tôi dừng lại dưới ánh đèn lồng trên đường, thở phào nhẹ nhõm. Nobu nhìn về phía tôi như lòng tôi mong đợi.
- A, à – ông ta nói – không ai để ý ở đây đang có một geisha xinh đẹp – giọng ông ta bình thường, tôi không biết ông ta có nhận ra tôi không.
- Kìa thưa ông, trông ông giống ông bạn Nobu của tôi quá. Nhưng ông không thể là ông ấy được, vì ông ấy biến mất khỏi Gion rồi.
Người tài xế đóng cửa, chúng tôi đứng im lặng cho đến khi xe chạy.
- Tôi rất sung sướng được gặp lại ông Nobu, và may mắn cho tôi biết bao là ông đang đứng trong bóng tối chứ không phải trong ánh sáng.
- Thỉnh thoảng tôi không hiểu cô đang nói cái gì một chút nào hết. Chắc cô học điều này ở Mameha. Hay là có thể người ta dạy cho geisha nói năng như thế.
- Vì ông Nobu đứng trong bóng tối, tôi không thể thấy vẻ mặt giận dữ của ông ấy được.
- Ra thế. Vậy cô cho là tôi giận cô à?
- Tôi biết nghĩ sao khi người bạn cũ biệt tích suốt nhiều tháng trời? Tôi tưởng ông sẽ nói cho tôi biết ông quá bận không thể đến phòng trà Ichiriki được chứ.
- Tại sao cô khẳng định một việc như thế?
- Vì tôi biết ông thường đến Gion. Nhưng xin ông đừng bận tâm hỏi tôi làm sao tôi biết. Tôi sẽ nói cho ông biết nếu ông bằng lòng đi dạo một vòng với tôi.
- Được thôi. Vì đêm nay trời đẹp một cách dễ chịu.
- Ồ, ông Nobu, đừng nói thế. Tôi muốn ông nói như thế này “Vì tôi gặp người bạn cũ lâu ngày không gặp, nên tôi dẹp hết mọi chuyện khác để đi chơi với cô một vòng.”
- Tôi sẽ đi với cô một vòng. Cô nghĩ sao về lý do khiến tôi đi thì tùy cô.
Tôi nhẹ cúi chào bằng lòng, rồi chúng tôi cùng đi đến phía công viên Maruyama. Tôi nói:
- Nếu ông Nobu muốn em đừng nghĩ là ông giận, thì ông nên đối xử thân thiện hơn, chứ đừng làm như con báo đói mồi từ nhiều tháng nay. Thảo nào cô bé Takazuru tội nghiệp quá sợ ông…
- Vậy là cô ấy có nói chuyện với cô à? Phải rồi, nếu cô ta không giận điên lên như thế…
- Nếu ông không thích cô ta, tại sao mỗi lần ông đến Gion, ông cho gọi cô ta tới?
- Tôi không cho gọi cô ta tới, không lần nào! Chính người chị cả của cô ta đẩy cô ta đến với tôi. Cô nhắc đến cô ấy là bậy rồi. Thì ra cô tìm đến gặp tôi tối nay là để trách tôi không thích cô ta!
- Ông Nobu, thật ra em không “tìm đến gặp” ông đâu. Em đã đi quanh trên đường trước phòng trà này nhiều tuần lễ cốt để tìm ông đấy chứ.
Câu nói của tôi có vẻ làm cho ông Nobu suy nghĩ, vì chúng tôi đi lặng lẽ một hồi lâu. Cuối cùng ông ta nói:
- Đáng ra tôi không nên ngạc nhiên mới phải. Tôi biết cô là người rất đa mưu.
- Ông Nobu, em biết làm sao được? Em tưởng ông đã biến mất. Nếu Takazuru không đến tìm em, khóc lóc vì chuyện ông xử tệ với cô ta thì chắc em không biết tìm ông ở đâu cả.
- Phải, tôi biết tôi cứng rắn với cô ta. Nhưng cô ấy không lanh lợi như cô, hay nói trắng ra là không đẹp như cô. Nếu cô cho là tôi giận cô, quả cô đã nghĩ đúng.
- Xin hỏi em đã làm gì để cho người bạn cũ tức giận?
Đến đây ông Nobu dừng lại, quay mặt nhìn tôi, mắt buồn bã. Tôi cảm thấy lòng rạo rực vô cùng, sự rạo rực chỉ có với một số rất ít đàn ông trong đời tôi. Tôi đã nhớ ông ta biết bao, và tôi đã hành động sai trái với ông ấy biết bao. Nhưng tôi thấy xấu hổ khi nghĩ đến tình cảm này, tình cảm rạo rực tội nghiệp đáng thương.
- Sau nhiều công phu tìm hiểu – ông ta nói – tôi đã tìm ra được lý lịch ông danna của cô.
- Nếu ông hỏi em, chắc em đã vui lòng nói cho ông biết rồi.
- Tôi không tin cô. Giới geisha các cô rất kín miệng kín mồm. Tôi đã hỏi khắp Gion về ông danna của cô, nhưng ai cũng giả vờ không biết. Nếu tôi không hỏi Michizono thì chắc tôi không biết được, cô ấy đến giúp vui cho tôi vào một đêm, khi ấy chỉ có hai chúng tôi thôi.
Michizono lúc ấy vào khoảng năm mươi, bà ta là người từng nổi tiếng ở Gion. Bà ta không đẹp, nhưng thỉnh thoảng làm cho Nobu vui bằng cách nhăn mũi khi chào ông ta.
- Tôi yêu cầu bà ta chơi trò thi đấu uống rượu – ông ta nói tiếp – và tôi thắng, thắng mãi cho đến khi bà ta say ngất ngư. Khi ấy tôi hỏi gì bà ta cũng nói hết.
- Mưu mẹo đấy chứ!
- Bậy, bà ta rất vui. Không có gì gọi là mưu mẹo hết. Nhưng tôi nói cho cô nghe chuyện này nhé, khi tôi biết danna của cô là anh chàng nhà binh nhỏ con không ai mến phục, thế là tôi hết kính nể cô!
- Ông Nobu nói như thể em có quyền lựa chọn danna cho mình. Em chỉ có quyền chọn kimono để mặc thôi. Thậm chí…
- Tại sao cô biết ông ta có công việc bàn giấy như thế không? Vì không ai tin tưởng ông ta về công việc gì quan trọng hết. Tôi biết rất rõ về quân đội, Sayuri à. Ngay cả thượng cấp của ông ta cũng không tin dùng ông ta. Cô đã kết hợp với một tên ăn mày. Thực vậy, tôi đã từng thích cô, nhưng…
- Đã từng à? Thế ông không còn thích em nữa à?
- Tôi không thích những người khùng.
- Thật chua xót biết bao! Có phải ông chỉ muốn làm cho em khóc? Có phải em là đồ khùng vì danna của em là người ông không mến phục?
- Giới geisha các cô thật khiếp! Không có loại người nào đáng giận hơn. Đi đâu cũng xem lịch, rồi nói: “Ôi hôm nay không đi về hướng Đông được, vì lá số tử vi nói sẽ gặp rủi ro!” Nhưng đến khi có chuyện gì khó khăn có ảnh hưởng đến cuộc sống, thì các cô lại nhìn cách khác.
- Nhìn cách khác ít khó khăn hơn là nhắm mắt trước những việc mà chúng tôi không thể chặn đứng được.
- Có thật thế không? Này nhé, tôi đã biết đôi điều khi nói chuyện với Michizono vào cái đêm tôi làm cho bà ta say. Cô là con gái của nhà kỹ nữ, Sayuri à. Cô không có thể nói láo là cô không có quyền gì. Cô có quyền dùng ảnh hưởng của mình chứ, trừ phi cô mặc cho dòng đời trôi xuôi như con cá no mồi trôi xuôi theo dòng nước.
- Ước gì em tin cuộc đời này giá trị hơn dòng nước mang chúng ta trôi xuôi với cái bụng no nê.
- Đúng thế, nếu cuộc đời là dòng nước, cô vẫn được tự do lội bên này, bên kia, phải không? Nước phân dòng mãi, nếu nhảy nhót, vùng vẫy và biết sử dụng lợi thế của mình thì…
- Ồ em biết khi ta có lợi thế thì cuộc đời qúa tuyệt rồi.
- Nếu cô chịu khó nhìn xem, cô sẽ thấy các thứ có lợi khắp nơi. Trường hợp của tôi, ngay cả khi tôi không có gì cả ngoài hạt điều ăn còn lở dở, hay cái gì đại loại như thế, tôi sẽ không để cho nó phí phạm. Khi đến lúc ném nó đi, tôi sẽ tính toán cân nhắc để ném cho kẻ tôi không thích!
- Ông Nobu, có phải ông khuyên em ném những hạt điều đi không?
- Đừng đùa như thế, cô thừa biết tôi muốn nói gì rồi. Chúng ta rất giống nhau, Sayuri à. Tôi biết người ta gọi tôi là ông “thằn lằn”, còn cô là người đẹp nhất ở Gion. Nhưng ngay vào lần đầu tiên tôi gặp cô ở buổi thi đấu đô vật, khi ấy cô mới mười bốn tuổi, phải không? Tôi đã biết cô có tài xoay sở.
- Em thường nghĩ ông cho em là người giỏi giang hơn thực chất của em.
- Có lẽ cô nói đúng, tôi nghĩ cô giỏi giang thật Sayuri à. Nhưng hóa ra cô không biết thân phận của mình. Đem vận may của mình để ràng buộc với một người như ông Tướng ấy! Chắc cô biết tôi muốn chăm sóc cho cô tốt hơn chứ. Cứ nghĩ đến chuyện này là tôi quá tức! Khi ông Tướng này đi khỏi cuộc đời cô rồi, ông ta không để lại cái gì đáng nhớ cho cô hết. Có phải cô định tiêu phí tuổi trẻ của mình như thế không? Cô có thấy người đàn bà nào hành động như đồ điên là điên không?
Nếu chúng ta chà xát vải vào nhau mãi, vải sẽ chóng đổ xơ ra, lời lẽ của Nobu mài dũa vào tâm trí tôi, khiến tôi không thể giữ được bộ mặt bình thản như Mameha thường khuyên tôi phải che dấu sự bất bình. May cho tôi là tôi đứng vào chỗ tối, vì nếu Nobu thấy vẻ mặt đau khổ của tôi, thế nào ông ta cũng nghĩ xấu về tôi. Nhưng chắc sự im lặng của tôi đã phản bội tôi, vì ông ta đưa bàn tay duy nhất nắm lấy vai tôi, xoay tôi lại cho đến khi ánh sáng chiếu vào mặt tôi. Và khi ông ta nhìn vào mắt tôi, ông buông tiếng thở dài thất vọng.
- Sayuri, tại sao trông cô có vẻ già như thế này? – ông ta nói sau một lát im lặng – có lúc tôi quên là cô còn trẻ. Chắc cô sắp nói là tôi quá gay gắt với cô phải không?
- Em không mong đợi ông có thái độ như người khác.
- Tôi có thái độ tệ mạt khiến cho cô thất vọng. Đáng ra cô phải hiểu điều đó mới phải. Cô làm cho tôi thất vọng, hoặc vì cô quá trẻ, hoặc là vì tôi lầm…Có phải một trong hai cách ấy không?
- Ông Nobu, nghe ông nói những chuyện như thế này, em sợ quá. Em không biết là em có chịu nổi các tiêu chuẩn mà ông đưa ra để xét đoán em…
- Tiêu chuẩn gì thế? Tôi chỉ mong cô mở mắt mà đi thôi! Nếu cô sống theo số phận, sẽ có lúc cơ hội ngàn vàng xảy đến cho cô. Tôi không mong gì cái cô Takazuru điên khùng kia sẽ nhận ra được số phận mình, nhưng…
- Ông Nobu cứ gọi em là đồ điên cả buổi tối à?
- Chắc cô biết cô thường nghe tôi gọi thế khi tôi giận.
- Em biết ông không giận lâu. Vậy ông sẽ đến gặp em ở phòng trà Ichiriki được chứ? Hay mời em đến thăm ông được chứ? Tối nay em không có việc gì khẩn cấp, em có thể đến đấy ngay bây giờ cũng được, nếu ông yêu cầu em đến.
Khi ấy chúng tôi đã đi hết khu phố, đang quay về đứng trước cửa phòng trà.
- Tôi sẽ không yêu cầu cô – ông ta nói và đưa tay đẩy cửa.
Tôi không thể nào không thở dài khi nghe ông ta nói thế. Tôi phải gọi đây là tiếng thở dài ngao ngán vì trong tiếng thở dài đã chứa đựng nhiều nỗi thất vọng, giận hờn, buồn rầu…Tôi không biết nói sao cho hết.
- Ồ, ông Nobu – tôi nói – đôi lúc em thấy khó hiểu ông quá.
- Tôi dễ hiểu lắm, Sayuri à. Tôi không thích những việc áp đặt trước cho tôi.
Tôi chưa kịp trả lời, ông đã đi vào trong phòng trà và đóng cửa lại.

Chuong 27

Suốt mùa hè năm ây, năm 1939, tôi quá bận rộn với các hợp đồng, các buổi gặp gỡ bất thường với ông Tướng, các buổi trình diễn múa, và nhiều chuyện khác như thế, đến nỗi buổi sáng khi thức dậy tôi cảm thấy mình như một cái xô đầy đinh. Thường thường vào lúc giữa trưa, tôi cố làm cái gì cho quên mệt mỏi, nhưng tôi thường phân vân không biết tôi làm hết sức như thế mà lợi tức được bao nhiêu. Nhưng tôi không mong gì tìm biết được, cho nên tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy Mẹ gọi tôi vào phòng một buổi chiều cho tôi biết lợi tức kiếm được trong sáu tháng qua nhiều hơn cả lợi tức của Hatsumono và Bí Ngô cộng lại.
- Như thế nghĩa là – bà ta nói – đã đến lúc cô đổi phòng cho hai cô ấy.
Chắc anh biết tôi không vui mừng khi nghe thế. Tôi và Hatsumono tìm cách sống bên nhau trong mấy năm qua không ai động đến ai. Nhưng tôi vẫn xem cô ta là con hổ ngủ quên, chứ không phải là con hổ bị hạ gục. Dĩ nhiên Hatsumono không nghĩ Mẹ muốn đổi phòng, cô ta sẽ cho là phòng cô ta bị chiếm đoạt.
Tối đó khi tôi gặp Mameha, tôi nói cho cô ấy biết việc Mẹ đã nói với tôi, và tôi nói tôi sợ lửa hận trong lòng Hatsumono sẽ cháy bùng lên lại.
- Ồ, tốt, thế là tốt – Mameha nói – Con mụ ấy chưa bị đánh gục cho đến đổ máu là chưa xong. Cứ để cho mụ ta sáng mắt ra, và để lần này mụ ta như thế nào.
Sáng sớm hôm sau, bà Dì lên lầu để ra lệnh cho chúng tôi di chuyển đồ đạc. Bà dẫn tôi vào phòng Hatsumono, tuyên bố bây giờ phòng này thuộc về tôi, tôi muốn để đồ đạc của tôi ở đâu thì tôi để, không ai dám đụng vào vật gì hết. Rồi bà dẫn Hatsumono và Bí Ngô sang phòng nhỏ hơn của tôi và tuyên bố phòng ấy là của họ. Sau khi chúng tôi thu dọn xong đồ đạc, công việc đổi phòng mới hoàn tất.
Tôi bắt đầu dọn dẹp đồ đạc của tôi ngay chiều hôm đó. Tôi đã thu thập được một số đồ đẹp như Mameha, nhưng thời buổi lúc bấy giờ đã thay đổi nhiều. Mỹ phẩm và đồ nữ trang bị chính quyền quân nhân ban hành luật cấm dùng vì là đồ xa xỉ phẩm – nhưng ở Gion chúng tôi được dùng vì đây là nơi các ông lớn có quyền hành thường đến giải trí. Tuy nhiên, các món quà lãng phí thì không ai thèm để ý đến, cho nên tôi tích luỹ được trong mấy năm vài bức tranh cuốn, vài cái nghiên mực tàu, vài cái tô xưa cổ, cùng một số hình nổi chụp danh lam thắng cảnh và một đồng bạc bằng bạc có đúc hình nổi thật đẹp do nhà diễn viên Kabuki Onoe Yoegoro XVII đã cho tôi. Tôi mang hết những thứ này đi qua hành lang, cùng với đồ hoá trang, áo quần lót, sách và tạp chí, vào chất một đống trong phòng. Nhưng mãi cho đến hôm sau, Hatsumono và Bí Ngô vẫn không mang đồ đạc đi. Vào trưa ngày thứ Ba, khi đi học ở trường về, tôi quyết định nếu chai lọ và thuốc mỡ của Hatsumono vẫn còn để bừa bãi trên bàn trang điểm, tôi sẽ đi nhờ bà Dì lên giúp.
Khi tôi lên đến đầu cầu thang, tôi ngạc nhiên thấy cửa phòng của Hatsumono và của tôi để mở. Một cái lọ đựng nước mỡ trắng vỡ nằm trên nền hành lang. Tình hình có vẻ không ổn rồi. Khi tôi bước vào phòng, tôi thấy quả như vậy. Hatsumono đang ngồi trên cái bàn nhỏ của tôi, uống cái gì nơi ly nước nhỏ, và đọc cuốn sổ ghi chép của tôi!
Người geisha có bổn phận phải giữ kín chuyện về những người đàn ông mà họ quen biết, cho nên chắc anh ngạc nhiên khi nghe trước đó mấy năm, lúc tôi còn là cô tập sự, một buổi chiều tôi vào tiệm sách mua một cuốn sổ giấy trắng để đem về viết nhật ký. Tôi không điên để viết những chuyện mà người geisha không được tiết lộ. Tôi chỉ viết về những suy nghĩ và cảm tưởng của tôi thôi. Khi tôi muốn viết gì về ai đó, tôi cho ông ta một bí danh. Ví dụ khi nói đến ông Nobu, tôi dùng “ông Xì” vì thỉnh thoảng ông ấy xì xì nơi miệng một cách khinh bỉ. Còn ông Chủ tịch tôi viết “ông Hà” vì đôi khi ông hít vào một hơi thật dài rồi thở phào ra từ từ nghe như tiếng “hà” và mỗi khi ông ta làm thế, tôi đã tưởng tượng ra cảnh ông thức dậy sau giấc ngủ bên tôi – dĩ nhiên tôi đã quá bị ám ảnh. Nhưng không bao giờ tôi nghĩ đến chuyện có ai khác xem những gì tôi viết.
- Kìa Sayuri, rất sung sướng được gặp cô! – Hatsumono nói - tôi đợi cô để cho cô biết tôi rất thích cuốn nhật ký của cô. Nhiều đoạn rất hấp dẫn, và bút pháp của cô rất có duyên! Về lối chữ viết của cô không mấy ấn tượng, nhưng…
- Cô có thấy chữ tôi viết ở trang đầu không?
- Tôi chưa xem, để coi nào – “Chuyện riêng” . Được thôi, đây tôi muốn nói đến lối viết chữ của cô.
- Hatsumono, xin cô vui lòng để cuốn tập xuống bàn và ra khỏi đây ngay.
- Thật ư? Tôi quá ngạc nhiên Sayuri à. Tôi chỉ muốn giúp ý kiến cho cô thôi. Này nhé, cô lắng nghe rồi sẽ thấy. Ví dụ, tại sao cô chọn ông Nobu Tashikazu là “ông Xì”? Tên này không hợp cho ông ta. Theo tôi, cô nên gọi là “ông Phỏng da” hay có thể là “ông Cụt tay”. Cô không bằng lòng à? Nếu cô muốn cô cứ thay đổi đi, và cô khỏi phải trả công cho tôi.
- Tôi không biết cô nói cái gì, Hatsumono. Tôi không viết cái gì về ông Nobu hết.
Hatsumono thở dài, như thể nói với tôi rằng tôi là kẻ nói láo không sách, rồi cô ta lật cuốn nhật ký của tôi.
- Nếu cô không viết về Nobu, tôi muốn cô cho biết tên của người cô đề cập đến trong này, xem nào…A, đây rồi, “Thỉnh thoảng tôi nhìn mặt ông Xì nổi cơn thịnh nộ khi cô geisha nhìn vào mặt ông. Nhưng còn tôi, tôi muốn nhìn mặt ông khi nào thì nhìn, và ông có vẻ hài lòng khi thấy tôi nhìn. Tôi nghĩ rằng ông ta trở nên thích tôi là vì ông thấy tôi không xem làn da của ông và cánh tay cụt của ông là kỳ lạ và đáng sợ như những cô gái khác.” Vậy tôi muốn cô cho tôi biết có người nào trông giống như ông Nobu thế này không?
Khi ấy tôi cảm thấy đau đớn vô cùng, không bút nào miêu tả cho được. Bỗng nhiên để cho người ta biết được chuyện bí mật của mình, nhưng vì điên khùng ngu ngốc mới ra nông nỗi này. Phải, nếu tôi định nguyền rủa ai thì chính tôi là người đáng bị nguyền rủa nhất, vì tôi để cuốn nhật ký vào chỗ Hatsumono có thể tìm được. Người bán sách để cửa sổ mở cho gió thổi mưa vào cửa ướt sách, thì chỉ có nước giận mình mà thôi.
Tôi đi đến bàn để lấy lại cuốn nhật ký từ tay Hatsumono, nhưng cô ta ôm cuốn sổ vào ngực và đứng dậy. Tay kia cô lấy cái ly mà tôi nghĩ là ly nước, nhưng khi đến gần tôi ngửi thấy mùi sakê. Cô ta đã say.
- Sayuri, dĩ nhiên là cô muốn lấy lại cuốn nhật ký, và dĩ nhiên tôi sẽ đưa lại cho cô - cô ta nói, nhưng cô ta vừa nói vừa bước ra cửa – vấn đề phiền phức là tôi đọc chưa hết. Cho nên tôi đem nó về bên phòng tôi…trừ phi cô muốn tôi đem đến cho Mẹ. Tôi tin chắc bà ấy rất thích thú khi đọc những trang cô viết về bà ấy.
Hồi nãy tôi có nói cái lọ mỡ bị vỡ nằm trên nền hành lang. Đây là do Hatsumono gây nên và không thèm nói cho người hầu đến dọn dẹp. Nhưng bây giờ khi rời phòng tôi, cô ta đã lãnh hậu quả do mình gây ra. Có lẽ cô ta quên việc có cái lọ bị bể vì cô ta say, cho nên cô ta bước ngay lên mảnh chai và kêu thét lên một tiếng. Tôi thấy cô ta nhìn xuống chân mình một lát, miệng rên rỉ nhưng vẫn đi tiếp.
Tôi cảm thấy hoảng hốt khi thấy cô ta bước vào phòng tôi. Tôi nghĩ đến chuyện dành cuốn sổ lại khỏi tay cô ta…nhưng tôi bỗng nhớ lời nhận xét của Mameha lúc chúng tôi xem đô vật. Đuổi theo Hatsumono là điều rõ ràng phải làm. Tốt hơn hết là tôi phải đợi cho đến khi cô ta thấy thoải mái, cho là mình đã thắng, rồi khi nào cô ta sơ ý thì giật lấy nó. Tôi nghĩ đây là ý hay nhưng một lát sau tôi nghĩ đến khả năng cô ta có thể giấu cuốn sổ vào một chỗ tôi không thể tìm ra.
Khi ấy cô ta đã đóng cửa. Tôi đến đứng ở ngoài, bình tĩnh gọi lớn:
- Cô Hatsumono, nếu tôi có vẻ giận dữ với cô, tôi xin lỗi. Tôi vào phòng được chứ?
- Không, không được vào - cô ta trả lời.
Nhưng tôi vẫn mở cửa, phòng hết sức bừa bãi, vì Hatsumono để đồ đạc khắp nơi khi dọn phòng. Cuốn nhật ký nằm trên bàn trong khi Hatsumono cầm cái khăn áp vào bàn chân. Tôi không biết làm sao để cho cô ta lơ đãng, nhưng đương nhiên tôi không thể rời phòng mà không có cuốn nhật ký.
Mạng cô ta là mạng chuột, chuột cống, nhưng cô ta không phải đồ điên. Nếu cô ta không say, tôi chắc khó mà lừa cô ta được. Nhưng xem tình hình trước mắt…Tôi nhìn khắp nền nhà nào là từng đống áo quần lót, nào là chai lọ nước hoa, và các thứ linh tinh cô ta vứt bừa bãi trên nền nhà. Cánh cửa tủ để mở, và cánh cửa tủ két nhỏ cất đồ nữ trang mở he hé, nhiều thứ nữ trang rơi xuống chiếu như thể sáng nay cô ta ngồi uống rượu ở đấy và lấy ra đeo thử. Bỗng một thứ đập vào mắt tôi rõ ràng như một vì sao sáng trên bầu trời đen.
Đấy là chiếc ghim hoa cài trên dải thắt lưng bằng bích ngọc, chính chiếc ghim mà Hatsumono đã hô tôi ăn trộm cách đây mấy năm về trước, vào cái đêm mà tôi bắt gặp cô ta và ông bồ nằm trong phòng gia nhân. Tôi không ngờ thấy lại được thứ này. Tôi đi đến tủ, đưa tay xuống lấy chiếc ghim nằm lẫn trong số nữ trang khác.
- Có ý định tuyệt vời nhỉ! – Hatsumono nói – Đến ăn trộm đồ nữ trang của tôi. Đúng đấy, tôi muốn có tiền mặt cô trả cho tôi.
- May cho tôi là cô không có ý định ấy – tôi đáp – nhưng tôi phải trả cái này bao nhiêu tiền mặt?
Vừa nói tôi vừa bước tới đưa chiếc ghim ra trước mặt cô ta. Nụ cười tươi trên mặt cô ta biến mất, y như bóng tối trong thung lũng biến mất khi mặt trời mọc lên.
Ngay khi ấy, trong lúc Hatsumono đang ngồi sửng sốt, tôi đưa tay xuống bàn lấy cuốn nhật ký lên.
Tôi không nghĩ đến chuyện Hatsumono sẽ phản ứng ra sao, nhưng tôi bước ra ngoài và đóng cửa lại. Tôi định đi thẳng đến gặp Mẹ để nói cho bà biết vật tôi vừa tìm ra, nhưng dĩ nhiên tôi không thể đến gặp bà với cuốn nhật ký trên tay. Nhanh như gió, tôi nhét cuốn nhật ký vào giữa hai cái áo gói trong giấy lụa. Chỉ trong mấy giây đồng hồ là xong, trong lúc đó tôi cứ lo sợ Hatsumono mở cửa phòng cô ta và thấy tôi. Sau khi đóng tủ lại, tôi chạy vào phòng tôi, mở và đóng cửa hộc bàn hoá trang của tôi để cho Hatsumono nghĩ tôi giấu cuốn nhật ký trong đó.
Khi tôi đi ra ngoài hành lang, cô ta đang đứng nơi ngưỡng cửa phòng đưa mắt nhìn tôi, miệng mỉm cười như thể cô ta đã biết hết chuyện này. Tôi cố làm ra vẻ lo sợ - điều này không khó đôi với tôi – rồi đem chiếc ghim hoa đến phòng bà Mẹ, để trên bàn trước mắt bà. Bà để tờ báo đang xem xuống một bên rồi lấy chiếc ghim nhìn, vẻ thán phục.
- Đồ nữ trang đẹp đấy – bà ta nói – nhưng lúc này thị trường chợ đen khó khăn, không ai trả giá nhiều để mua đồ như thế này.
- Chắc Hatsumono sẽ bán được giá, Mẹ à – tôi đáp – Mẹ có nhớ cái ghim mà cô ta đã gán cho con ăn cắp cách đây mấy năm không, cái ghim đã được cộng thêm vào nợ của con đấy? Đây là cái ghim ấy đấy. Con đã tìm thấy trên nền nhà gần bên hộp đựng nữ trang của cô ta.
- Mẹ biết không – Hatsumono nói, cô ta đã vào phòng và đứng sau lưng tôi – Tôi tin Sayuri nói đúng. Đấy là chiếc ghim tôi đã bị mất! Hay ít ra giống thế. Tôi không ngờ tôi được thấy nó lại!
- Phải, rất khó tìm đồ đạc khi người ta say cả ngày – tôi nói – giá mà cô nhìn kỹ vào hộp nữ trang của cô thì chắc cô sẽ thấy liền.
Mẹ để cái ghim xuống bàn, và quắc mắt nhìn Hatsumono.
- Tôi tìm thấy trong phòng của nó – Hatsumono nói – Nó giấu trong bàn trang điểm của nó.
- Tại sao cô nhìn vào trong bàn trang điểm của cô ấy? – Mẹ hỏi.
- Tôi không muốn nói cho Mẹ nghe chuyện này, Mẹ à, nhưng Sayuri để cái gì trên bàn, tôi định cất đi cho cô ta. Đáng ra tôi đem đến cho Mẹ ngay, nhưng…Mẹ biết không, nó đang giữ một cuốn nhật ký. Năm ngoái nó có đưa cho tôi xem. Nó viết xấu một số các ông, và..nói thật cho Mẹ biết, có vài đoạn nó viết về Mẹ nữa.
Tôi định nói chuyện ấy không thật, nhưng chẳng cần nữa. Hatsumono đang gặp chuyện rắc rối, cô ta có nói gì cũng không thay đổi được tình thế. Mười năm trước đây khi cô ta còn là người làm ra tiền chính của nhà kỹ nữ, có lẽ cô ta buộc tôi cái gì cô ta muốn đều được hết. Cô ta có thể buộc tội tôi đã ăn chiếu rơm trong phòng cô ta, chắc Mẹ cũng buộc tôi phải mua chiếu mới để đền. Nhưng bây giờ thời thế đã đổi thay, sự nghiệp sáng chói của Hatsumono đã khô héo rồi, trong lúc sự nghiệp của tôi đang nở rộ. Tôi là con gái của nhà kỹ nữ và là geisha chính. Tôi nghĩ Mẹ sẽ không thèm biết thực hư ra sao.
- Không có nhật ký đâu Mẹ ạ - tôi nói – Hatsumono đặt điều ra đấy.
- Tôi đặt điều à? – Hatsumono hỏi – Để tôi đi lấy cho mà xem, rồi khi Mẹ đọc, cô sẽ mặc sức cho là tôi đặt điều.
Hatsumono đi đến phòng tôi, có Mẹ đi theo. Nền nhà ở hành lang bê bối kinh khủng. Không những Hatsumono làm bể chai rồi dẫm lên, mà cô ta còn vấy thuốc mỡ và máu ở khu vực cầu thang, và bê bối hơn nữa là vấy lên chiếu rơm trong phòng cô ta, phòng của Mẹ, và bây giờ trong phòng của tôi nữa. Khi tôi nhìn vào, cô ta đang quỳ nơi bàn trang điểm của tôi, từ từ đóng các ngăn kéo lại, vẻ thất bại hoàn toàn.
- Hatsumono nói đến nhật ký gì thế? – Mẹ hỏi tôi.
- Nếu có nhật ký, con chắc Hatsumono sẽ tìm ra – tôi đáp.
Nghe thế, Hatsumono để hai tay vào lòng, cười gượng như thể câu chuyện chỉ là trò cười, và cô ta đã bị mắc mưu thua cuộc.
- Hatsumono – Mẹ nói với cô ta – cô phải trả cho Sayuri cái ghim hoa mà cô đã buộc tội cô ấy ăn cắp. Ngoài ra, tôi không muốn có thảm trong nhà vấy máu như thế. Phải thay hết và tiền phí tổn cô phải chịu. Hôm nay thế là cô tốn mất nhiều tiền rồi đấy, mà chưa quá trưa. Không biết cô đã xong việc chưa để tôi tính toán vào sổ?
Tôi không biết Hatsumono có nghe Mẹ nói không. Cô ta đang chú ý nhìn tôi, với ánh mắt mà tôi chưa quen thấy bao giờ.
Thời tôi còn trẻ, nếu anh yêu cầu tôi nói cho anh biết về bước ngoặt của tôi trong mối liên hệ với Hatsumono, tôi sẽ nói rằng đấy là chuyện mizuage của tôi. Cho dù quả đúng chuyện mizuage của tôi đưa tôi lên kệ cao nơi Hatsumono không tài nào với tới, mà nếu không có gì xảy ra giữa chúng tôi, thì cô ta và tôi có thể sống bên nhau cho đến ngày già yếu. Theo chỗ tôi thấy thì lý do tạo ra bước ngoặt chính là việc cô ta đọc nhật ký của tôi và việc tôi tìm ra chiếc ghim cài dải thắt lưng mà cô ta đã tố cáo tôi ăn trộm.
Để giải thích lý do tại sao như thế, tôi xin kể cho anh nghe chuyện có lần Đô đốc Hải quân Yamamoto – người thường được miêu tả là cha đẻ của ngành hải quân Hoàng gia Nhật bản – nhưng tôi có hân hạnh được đến tham dự những buổi tiệc vui chơi với ông ta vài lần. Ông ta nhỏ con, nhưng ông nghĩ rằng thanh thuốc nổ cũng nhỏ. Những buổi tiệc thường vui nhộn sau khi Đô đốc đến. Đêm đó, ông ta và một người đàn ông đang thi vòng chung kết trò thi uống rượu, họ nhất trí rằng người nào thua phải đi mua một cái bao cao su ở tiệm thuốc tây gần nhất – chắc anh biết chỉ nhằm mục đích làm cho người thua bối rối mà thôi, chứ không có mục đích gì khác. Dĩ nhiên cuối cùng ông Đô đốc thắng, và tất cả mọi người hoan hô vui mừng.
- Thưa Đô đốc, thật may là ngài không thua – một người phụ tá nói với ông ta – ngài cứ nghĩ đến cảnh anh chàng bán thuốc tây ngước mắt nhìn thấy Đô đốc Yamamoto đứng trước quầy, chắc ngài sẽ ngượng biết mấy.
Mọi người đều cho đây là chuyện khôi hài, nhưng Đô đốc trả lời không bao giờ ông ta tin là ông ta thua.
- Tôi đồng ý là người nào cũng có lần thua – ông ta đáp – nhưng tôi thì không bao giờ.
Có người trong phòng có thể cho đây là thái độ kiêu ngạo của ông ta, nhưng tôi thì không nghĩ thế. Theo tôi, Đô đốc là người đã quen với cảnh chiến thắng. Cuối cùng có người hỏi ông ta bí mật gì đã giúp ông ta thành công.
- Tôi không bao giờ tìm cách đánh bại người tôi đang chiến đấu – ông ta trả lời – tôi tìm cách đánh bại lòng tin của họ. Người nào tâm trí đang bấn loạn vì nghi ngờ sẽ không tập trung tư tưởng vào con đường dẫn đến chiến thắng. Hai người bằng nhau – bằng nhau thật sự - chỉ khi nào họ cùng có niềm tin như nhau.
Lúc ấy tôi không nhận ra hết ý nghĩa câu nói này, nhưng sau khi Hatsumono và tôi đụng độ nhau vì cuốn nhật ký, tâm trí cô ta bị bấn loạn vì nghi ngờ, như lời ông Đô đốc đã nói. Cô ta biết rằng không có cách gì khiến cho Mẹ đứng về phe cô ta để chống lại tôi nữa, và vì thế, cô ta như chiếc áo lấy trong tủ khô ráo đem ra treo ngoài trời, thời tiết khắc nghiệt ở bên ngoài sẽ làm cho cái áo bị hư ngay.
Nếu Mameha mà nghe tôi giải thích tình hình như thế này, thế nào cô ấy cũng không đồng ý và cãi lại ngay. Quan điểm của cô ấy về Hatsumono hoàn toàn khác tôi. Cô ấy cho rằng Hatsumono có hành động ác độc. Khi cuộc đời đã bắt đầu xuống dốc, cô ta vẫn có những hành động ác độc với mục đích rõ ràng, y như người võ sĩ đạo rút gươm ra – không chém vu vơ mà chém vào kẻ thù. Nhưng đến lúc này thì cô ta đã mất đối tượng để tấn công, không nhắm vào kẻ thù được, và đôi lúc quay qua tấn công vào Bí Ngô.
Thỉnh thoảng trong các buổi tiệc, thậm chí cô ta còn có lời sỉ nhục những người cô ta đang giúp vui. Và thêm một điều nữa, cô ta không còn đẹp như trước. Da bị bủng và nét mặt bự ra. Hay có lẽ tôi thấy như thế thôi. Cái cây trông bao giờ cũng đẹp, nhưng nếu người ta thấy côn trùng đục khoét, đầu cành bị sâu nấm làm biến màu, thì thân cây có còn cũng mất hết vẻ đẹp.
Ai cũng biết con hổ khi bị thương sẽ rất nguy hiểm, vì thế Mameha cương quyết chúng tôi phải theo Hatsumono khắp Gion trong những buổi tối vào mấy tuần tiếp theo. Một phần, Mameha muốn canh chừng cô ta vì chúng tôi không ai muốn cô ta tìm Nobu, nói cho ông ta biết nội dung trong cuốn nhật ký, và cả cảm nghĩ của tôi về “ông Hà” mà thế nào ông Nobu cũng biết tôi muốn nói đến ông Chủ tịch. Nhưng phần quan trọng hơn là Mameha muốn làm cho đời sống của Hatsumono khó khăn không chịu đựng nổi.
- Khi cô muốn làm gãy một tấm ván – Mameha giải thích – bước đầu là làm cho nó gãy ngay tại giữa. Muốn thế, cô cứ việc đạp lên giữa tấm ván cho đến khi nó gãy làm hai.
Cho nên tối nào Mameha cũng đến nhà kỹ nữ chúng tôi lúc trời bắt đầu tối và đợi đi theo Hatsumono, trừ những buổi cô ấy có hẹn không thể vắng mặt được. Mameha và tôi thường không thể cùng đi với nhau, nhưng thường thì có một trong hai chúng tôi đi theo cô ta từ chỗ hẹn này sang chỗ hẹn khác hết một phần suốt buổi tối. Vào đêm đầu tiên chúng tôi làm thế, Hatsumono giả vờ xem chuyện này là trò vui. Nhưng cuối đêm thứ tư thì cô ta nhìn chúng tôi với cặp mắt giận dữ và khó khăn trong việc mua vui với thân chủ của cô ta. Rồi vào đầu tuần sau, bỗng nhiên cô ta đi rẽ vào một con đường nhỏ rồi xông tới phía chúng tôi.
- Bây giờ thì biết tay tao – cô ta nói – chó theo chủ là chuyện thường. Hai đứa bây theo tao lẽo đẽo cho nên tao nghĩ là chúng bây muốn tao cư xử như chó! Để tao cho chúng bây biết tao đối xử với chó tao không ưa như thế nào nhé!
Nói xong cô ta giáng tay đánh vào một bên đầu của Mameha. Tôi hét lên, tiếng hét làm cho Hatsumono dừng tay để nhớ mình đang làm gì. Cô ta nhìn tôi, mắt nẩy lửa, và một lát sau, cặp mắt bình tĩnh trở lại, cô ta mới bỏ đi. Mọi người đi trên đường đều chứng kiến cảnh đã xảy ra, vài người đến gần Mameha để xem cô ấy có hề hấn gì không. Cô ấy trả lời là cô không sao, rồi buồn bã nói với họ:
- Tội nghiệp Hatsumono! Đúng như lời bác sĩ đã nói, cô ta có lẽ đã mất trí rồi.
Dĩ nhiên chẳng có bác sĩ nào hết, nhưng lời của Mameha nói ra đã có kết quả như cô ấy mong muốn. Chẳng bao lâu sau, người ta đồn khắp Gion rằng bác sĩ đã tuyên bố Hatsumono tâm thần bất định.
Hatsumono rất thân với một diễn viên kịch Kabuki nổi tiếng là Bando Shojiro nhiều năm rồi. Shojiro là diễn viên mà chúng tôi thường gọi là Onna-gata, nghĩa là diễn nam thường đóng vai nữ. Có một lần, anh ta được báo chí phỏng vấn đã tuyên bố rằng Hatsumono là người phụ nữ đẹp nhất anh từng gặp, và trên sân khấu, anh thường bắt chước dáng dấp cô ta để làm cho vai mình đóng có vẻ quyến rũ hơn. Cho nên, chắc anh biết cứ mỗi khi Shojiro đến thành phố, là Hatsumono đến thăm anh ta.
Một buổi chiều tôi nghe tin Shojiro sẽ đến dự một buổi tiệc vào ban đêm tại một phòng trà trong khu geisha ở quận Pontocho, nằm phía bên kia con sông ranh giới với quận Gion. Tôi nghe được tin này trong khi đang chuẩn bị một buổi lễ uống trà cho một nhóm sĩ quan hải quân nghỉ phép. Sau đó tôi tuôn về nhà kỹ nữ, nhưng Hatsumono đã mặc áo quần và lẻn đi rồi. Cô ta làm cái công việc mà trước đây tôi đã từng làm, đi sớm để không ai theo dõi mình. Tôi nôn nóng muốn nói cho Mameha biết việc tôi đã biết, cho nên tôi đi thẳng đến nhà cô ấy. Rủi thay, chị hầu cho biết cô ấy đã đi được nửa giờ rồi để “cúng bái”. Tôi biết chuyện cúng bái này ra sao rồi. Mameha đến ngôi đền nhỏ nằm ở mé Đông quận Gion để cầu nguyện trước ba cái tượng Jiro nhỏ mà cô ấy đã trả tiền cho đền để lập nên ở đấy. Chắc anh biết tượng Jiro để thờ vong hồn của con cô ấy đã chết, trường hợp của Mameha, có ba tượng thờ ba đứa con đã bị cô ấy phá thai theo yêu cầu của ông Nam tước. Trong trường hợp khác, thế nào tôi cũng đi tìm cô ấy, nhưng gặp trường hợp có tính riêng tư này, tôi không muốn làm phiền cô ấy, và chắc cô không muốn tôi biết là cô ấy đến đây. Cho nên tôi ngồi đợi cô ở trong phòng, để cho chị Tatsumi phục vụ trà. Cuối cùng, Mameha về nhà, mắt lờ đờ mệt mỏi. Tôi không muốn nói đến vấn đề ngay, nên chúng tôi ngồi nói chuyện một lát về buổi lễ hội này, Mameha sẽ thủ vai phu nhân Murasaki Shikibu, tác giả cuốn Chuyện Kể Genji. Cuối cùng Mameha tươi cười nhìn tôi sau khi đã uống hết tách trà nâu – chị Tatsumi đã rang lá trà khi tôi đến – và tôi kể cho cô ấy nghe chuyện tôi đã biết được trong buổi chiều.
- Tuyệt quá – cô ấy nói – thế nào Hatsumono cũng đến giải trí ở đấy và tưởng thoát được chúng ta. Shojiro đã lưu tâm đến cô ta, thế nào ông ta cũng để cho cô ta dự tiệc, và đây là dịp cô ta có thể lấy lại được tinh thần. Cô và tôi phải đến đấy, làm ra vẻ tình cờ tạt vào chơi, và để phá hỏng buổi tối của cô ta.
Cứ nhớ lại cảnh Hatsumono xử tệ với tôi trong những năm qua, và nghĩ đến việc tôi ghét cô ta biết bao, đáng lẽ ra tôi phải vui mừng khi thực hiện kế hoạch này mới phải. Nhưng tôi không ngờ tôi không mấy vui khi âm mưu để làm cho Hatsumono đau khổ. Tôi nhớ mãi buổi sáng lúc tôi còn nhỏ, khi tôi ra bơi lội ở cái hồ gần nhà ngà say của tôi, bỗng tôi cảm thấy một bên vai đau nhói kinh khủng. Một con ong vò vẽ đã đốt vào tôi và đang cố vùng vẫy để bay ra khỏi người tôi. Tôi đau quá bèn la toáng lên, không nghĩ đến chuyện làm gì hết, nhưng một thằng bé đã chụp cánh con ong lôi ra khỏi tôi, nó đem con ong đè lên tảng đá để chúng tôi tính cách giết nó. Tôi quá đau đớn nên không thương xót gì cho cái chết của con ong. Nhưng tôi cảm thấy nhoi nhói nơi ngực vì biết con ong không còn cách nào để thoát chết. Với Hatsumono, tôi cũng có cảm giác xót xa như thế. Suốt những buổi tối chúng tôi theo dõi cô ta khắp Gion cho đến khi cô ta quay về nhà kỹ nữ chỉ để thoát khỏi chúng tôi, tôi cảm thấy như thể chúng tôi đã hành hạ cô ta.
Tuy nhiên, khoảng chín giờ tối đêm đó, chúng tôi qua sông sang quận Pontocho. Khác với Gion, Pontocho chỉ là một con đường nhỏ dài chạy theo bờ sông, trong khi Gion trải dài trên nhiều khu phố. Người ta gọi đây là “tổ lươn” vì hình thể của Pontocho giống như thế. Đêm đó, trời thu khá lạnh, nhưng buổi tiệc của Shojiro tổ chức ở ngoài trời, trên một cái hành lang rộng bằng gỗ tựa trên những chiếc cột đóng xuống nước. Khi chúng tôi đi qua cửa kính để vào trong, không ai chú ý nhiều đến chúng tôi. Khắp hành lang treo đèn lồng bằng giấy cháy sáng rất đẹp, dòng sông lung linh vàng, ánh sáng từ một nhà hàng ăn uống bên kia sông chiếu xuống. Mọi người đang lắng nghe Shojiro, ông ta đang kể một câu chuyện, giọng nghe thánh thót, nhưng chắc anh đoán được vẻ mặt của Hatsumono ủ rũ như thế nào khi cô ta trông thấy chúng tôi. Tôi bỗng nhớ đến trái lê thối mà tôi đã nắm trong tay vào ngày hôm kia, vì giữa những khuôn mặt tươi vui, mặt của Hatsumono sầu thảm như mặt của một kẻ đưa đám ma.
Mameha đến quỳ trên chiếc chiếu ngay bên cạnh Hatsumono, tôi thấy cô ấy làm thế là liều lĩnh. Tôi quỳ ở cuối bên kia hành lang, cạnh một ông già có vẻ dịu dàng, và hóa ra ông ta là ông Tachibana Zensaku, người chơi đàn Kêtô, hiện tôi còn giữ những bài báo cũ viết về tài năng của ông ấy. Đêm đó tôi mới biết ông ta mù. Nếu tôi không đến đây với mục đích riêng của mình, chắc tôi sẽ rất sung sướng được ở đây suốt đêm để nói chuyện với ông ta, vì ông là người rất dễ thương, hấp dẫn. Nhưng chúng tôi chưa kịp nói chuyện thì mọi người bỗng cười ồ lên.
Shojiro có tài bắt chước rất giỏi. Người ông mềm như cây liễu, mấy ngón tay đẹp di động từ tốn, và khuôn mặt rất dài quay quanh trông rất tuyệt diệu, ông ta có thể làm trò cho một bầy khỉ tưởng ông ta là đồng loại của chúng. Ngay khi ấy, ông ta bắt chước nàng geisha ngồi bên cạnh ông ta, bà ấy cỡ ngoài năm mươi. Với dáng điệu ẻo lả, môi trề mắt đảo quanh, ông ta cố làm cho thật giống bà ấy đến nỗi tôi không biết phải cười to hay là ngồi yên lấy tay bịt miệng vì quá kinh ngạc. Tôi đã xem Shojiro diễn trên sân khấu, nhưng chưa khi nào tôi thấy ông ta làm tuyệt như thế này.
Tachibana nghiêng về phía tôi hỏi nhỏ:
- Anh ta làm cái gì thế?
- Ông ta bắt chước bà geisha lớn tuổi ngồi bên cạnh.
- A – Tachibana nói – Chắc đấy là Ichiwanri – rồi ông ta lấy lưng bàn tay đánh vào tôi như muốn để cho tôi chú ý nghe – Giám đốc nhà hát Minamiza – ông ta nói rồi chìa ra ngón tay út ở dưới bàn để cho không ai thấy được. Ở Nhật, đưa lên ngón tay út có nghĩa là “bạn trai” hay “bạn gái”. Tachibana muốn nói rằng bà geisha lớn tuổi, tên Ichiwari, là tình nhân của giám đốc nhà hát. Và quả vậy, ông giám đốc cũng có mặt ở đấy, ông ta cười to hơn ai hết.
Một lát sau, vẫn đang làm trò bắt chước, Shojiro đưa một ngón tay đè vào mũi. Thấy thế, mọi người phá ra cười vang đến nỗi người ta cảm thấy cả hành lang rung lên. Lúc ấy tôi chưa hiểu, nhưng việc đè ngón tay vào mũi là thói quen nổi tiếng của Ichiwari. Khi thấy ông ta làm thế, bà đỏ mặt, đưa tay áo kimono lên che mặt, và Shojiro, khi ông đã uống sakê quá say, bắt chước ngay hành động che mặt của bà ta. Mọi người cười vì lịch sự, nhưng chỉ có Hatsumono có vẻ xem đó là điều khôi hài đáng cười, và đến đây, Shojiro đã bắt đầu vượt giới hạn giải trí để vào lãnh địa châm chọc ác độc. Cuối cùng, ông giám đốc nhà hát nói:
- Thôi thôi ông Shojiro, để dành sức cho buổi trình diễn ngày mai. Vả lại, ông không biết ông đang ngồi bên cạnh một vũ công tài ba nhất của Gion hay sao? Tôi đề nghị yêu cầu cô ta trình bày một vở múa.
Dĩ nhiên ông giám đốc nói đến Mameha.
- Trời ơi, thôi! Bây giờ tôi không muốn xem múa – Shojiro đáp. Theo chỗ tôi biết thì ông ta chỉ muốn mình là trung tâm cho mọi người chú ý thôi – Vả lại, tôi đang làm trò vui mà.
- Ông Shojiro, chúng ta không nên bỏ qua cơ hội được xem cô Mameha lừng danh biểu diễn – ông giám đốc nói, lần này ông ta nói nghiêm trang.
Một vài cô geisha cũng nói như thế, cho nên cuối cùng Shojiro buộc lòng phải mời Mameha trình diễn, nhưng vẻ mặt ông ta sưng sỉa như mặt trẻ con. Tôi thấy Hatsumono có vẻ bất bình. Cô ta rót thêm sakê cho Shojiro, và ông ta rót thêm cho cô. Họ nhìn nhau một hồi như thể nói lên rằng buổi tiệc của họ thế là hỏng.
Mấy phút trôi qua trong khi một chị hầu đi lấy đàn Shamisen, và một cô geisha lên dây để chuẩn bị đàn. Mameha đứng sát vào tấm phông của phòng trà rồi trình diễn vài vở múa rất ngắn. Hầu như mọi người đều đồng ý là Mameha đáng yêu, nhưng rất ít người thấy cô ấy đẹp hơn Hatsumono, cho nên tôi không thể nói chính xác cái gì hợp nhãn của Shojiro. Có thể khi ấy ông ta đã say, mà cũng có thể do Mameha múa quá tuyệt vời, vì Shojiro cũng là vũ công. Nhưng bất kể vì cái gì, người ta chỉ biết khi Mameha múa xong về ngồi lại nơi bàn, Shojiro có vẻ khâm phục cô ấy, ông ta mời cô đến ngồi bên cạnh ông ta. Khi cô ấy đến ngồi bên ông ta, ông rót sakê cho cô, và ngồi quay lưng với Hatsumono như thể cô ta là một cô tập sự đáng yêu nào đó thôi.
Tức thì miệng của Hatsumono mím chặt, mắt nhíu lại còn một nửa. Còn về phía Mameha, chưa bao giờ tôi thấy cô ấy ve vãn người nào một cách quyết liệt như cô ve vãn ông Shojiro. Giọng cô dịu dàng, thánh thót, mắt lướt từ ngực ông lên mặt rồi lướt xuống ngực lại. Thỉnh thoảng cô ấy đưa mấy đầu ngón tay lên vuốt qua dưới cuống họng như thể cô ngượng ngùng vì có những chỗ phấn hồng bị lem nhem ở đấy. Thực ra chẳng có phấn hồng nào nhem nhuốc hết, rồi có một geisha hỏi – ông Shojiro có nghe tin tức gì về ông Bajiru không.
- Ông Bajiru à – Shojiro nói bằng một giọng rất kịch – ông ta đã bỏ tôi.
Tôi không biết Shojiro nói đến ai, nhưng Tachibana, người nhạc công đàn Kêtô, đã tử tế nói nhỏ cho tôi biết rằng “ông Bajiru” là diễn viên người Anh tên Basil Rathbone – nhưng lúc ấy tôi không nghe nói đến ông ta. Trước đây mấy năm Shojiro đi một chuyến sang Anh và trình diễn kịch nghệ Kabuki ở đấy. Diễn viên Basil Rathbone rất mến phục nghệ thuật này, đến nỗi ông ta nhờ một thông dịch viên để hai người làm bạn với nhau, và hai người đã chơi với nhau rất thân thiết. Shojiro có thể lưu tâm quá đáng đến những phụ nữ đẹp như Hatsumono hay Mameha, nhưng thật ra ai cũng biết ông ta đồng tính luyến ái, và từ khi ông ta sang Anh, ông ta đã tạo nên một chuyện đùa cợt cho mọi người, thiên hạ đồn rằng trái tim của ông ta tan nát vì ông Bajiru không quan tâm đến đàn ông.
Một cô geisha bình tĩnh nói:
- Tôi rất buồn khi chứng kiến một cuộc tình tan vỡ.
Mọi người đều cười ồ lên ngoại trừ Hatsumono, cô ta quắc mắt nhìn vào mặt Shojiro.
- Sự khác nhau giữa Bajiru và tôi là như thế này đây. Để tôi chỉ cho quý vị thấy – Shojiro nói rồi ông ta đứng lên mời Mameha đứng dậy với ông ta. Ông ta dẫn cô ấy ra một bên phòng cho có chỗ rộng hơn.
- Khi tôi làm công việc của tôi, trông tôi như thế này – ông ta nói, rồi ông ta di chuyển từ bên này phòng qua bên kia, vẫy chiếc quạt xếp, cổ tay rất dẻo, và để đầu đung đưa từ đàng sau ra đàng trước, rồi trước ra sau như quả bóng lăn trên tấm ván lắc lên lắc xuống – Còn ông Bajiru làm có vẻ thì trông ông ta như thế này – đến đây, ông ta nắm tay Mameha, và chắc anh sẽ thấy mặt cô ấy hết sức ngạc nhiên khi ông ta đè ngửa cô ấy xuống phía nền nhà và hôn tới tấp lên mặt cô ấy. Mọi người trong phòng ré lên cười và vỗ tay. Mọi người, trừ Hatsumono.
- Ông ta làm cái gì thế? – Tachibana hỏi nhỏ tôi.
Tôi không biết mọi người có nghe không, nhưng trước khi tôi trả lời, Hatsumono nói lớn:
- Anh ta làm như thằng điên! Anh ta làm như thế đấy.
- Ồ Hatsumono – Shojiro nói – cô ghen phải không?
- Dĩ nhiên cô ta ghen – Mameha nói – Bây giờ anh phải cho chúng tôi thấy anh và cô ấy làm như thế nào, Shojiro. Đừng e thẹn! Anh phải hôn cô ấy như đã hôn tôi. Thế mới công bằng. Và cũng cách ấy.
Shojiro phải vất vả lắm mới nói cho Hatsumono đứng lên. Rồi khi đám đông vây quanh sau lưng ông ta, ông ôm cô ta vào tay và đè ngửa cô ta ra hôn. Nhưng chỉ một lát thôi, ông ta hét lên một tiếng và đứng thẳng người lên, đưa tay ôm miệng. Hatsumono đã cắn ông ta, không mạnh đủ làm cho môi ông chảy máu, nhưng cũng đủ làm cho ông ta kinh ngạc. Hatsumono đứng nhìn trừng trừng vào ông ta, vẻ giận dữ, hai hàm răng phô ra, rồi cô ta giang tay đánh vào ông ta.
- Chuyện gì xảy ra thế? – ông Tachibana hỏi tôi.
Giọng ông ta nghe rõ như tiếng chuông reo vì trong phòng im phăng phắc. Tôi không đáp, nhưng khi ông ta nghe tiếng khóc thút thít của Shojiro và tiếng thở hồng hộc của Hatsumono, tôi nghĩ ông ta đã hiểu.
- Này chị Hatsumono – Mameha nói, giọng rất bình tĩnh nghe như giọng của người ngoài cuộc – chị làm ơn giúp tôi một việc...cố bình tĩnh lại đi.
Tôi không biết có phải những lời của Mameha đã có tác động như lòng mong muốn của cô ấy không, hay là Hatsumono đã bấn loạn tinh thần. Nhưng Hatsumono đã nhào vào Shojiro, đánh ông ta túi bụi. Tôi nghĩ chắc cô ta điên loạn rồi, không thể nói như thế là tinh thần lệch lạc được, cảnh tượng trong phòng trở nên hỗn độn. Ông giám đốc nhà hát đứng lên khỏi bàn, chạy đến để giữ cô ta lại. Trong lúc lộn xộn, Mameha lẻn ra ngoài và chỉ một lát sau, cô ấy trở lại với bà chủ phòng trà. Khi ấy, ông giám đốc đứng phía sau Hatsumono và để giữ yên cô ta. Cuộc lộn xộn đã xong, nhưng Shojiro cứ hét to vào mặt Hatsumono, tiếng hét thật lớn bay ra khỏi căn phòng, vang qua sông đến tận Gion.
- Đồ quái vật! – ông ta hét lớn – Mày cắn tao!
Tôi không biết có ai trong chúng tôi làm được gì không, nếu không có sự giải quyết bình tĩnh của bà chủ phòng trà. Bà nói nhẹ nhàng với Shojiro, giọng khuyên lơn, trong khi ra dấu cho ông giám đốc nhà hát dẫn Hatsumono đi. Sau này tôi mới hay rằng, ông ta không đưa cô ấy vào phòng trà, mà ông ta dẫn cô ấy xuống lầu, ra cửa trước, và đẩy cô ta ra ngoài đường.
Đêm đó Hatsumono không trở về nhà kỹ nữ. Ngày hôm sau cô ta mới trở về, tóc tai rối bời. Cô ta liền được gọi đến phòng Mẹ ngay và ở đấy một hồi lâu.
Mấy ngày sau, Hatsumono rời khỏi nhà kỹ nữ, mặc độc chiếc áo vải của Mẹ cho cô ta, và mái tóc xoã xuống một khối quanh hai vai, chưa bao giờ tôi thấy tóc cô ta như thế. Cô ta mang theo cái xách đựng đồ đạc của mình và đồ nữ trang, cô ta không chào từ biệt ai cả, chỉ lặng lẽ đi thẳng ra đường. Cô ta không muốn đi, Mẹ phải đẩy cô ta ra đường. Và quả thế, Mameha tin rằng Mẹ có lẽ đã muốn tống khứ Hatsumono đi từ nhiều năm rồi. Dù chuyện này có đúng hay không, tôi chắc Mẹ vui mừng vì bớt được một miệng ăn trong nhà, vì Hatsumono không làm ra tiền như trước nữa, mà thức ăn thì chưa bao giờ khó kiếm như thế.
Nếu Hatsumono không nổi tiếng là ác độc, có thể có vài nhà kỹ nữ khác muốn cho cô đến ở, ngay cả sau khi cô ta gây ra chuyện với Shojiro. Nhưng cô ta như cái ấm trà hư hỏng, có thể có ngày nó làm cho người dùng nó bị phỏng tay. Mọi người ở Gion đều biết như thế về cô ta.
Tôi không biết đích xác số phận của Hatsumono ra sao. Sau chiến tranh mấy năm, tôi nghe cô ta làm gái điếm để sống ở quận Miyagawa. Chắc cô ta không ở đấy lâu, vì vào một hôm tôi nghe chuyện này, có một người đàn ông đang dự tiệc với tôi thề rằng nếu Hatsumono làm điếm, ông ta sẽ tìm cô ta và cho cô ta công việc làm. Ông ta có đi tìm cô ta, nhưng không tìm thấy cô ở đâu hết. Có lẽ trong những năm làm điếm, cô ta đã uống rượu đến mang bệnh mà chết. Dĩ nhiên cô ta không phải là người geisha đầu tiên làm thế. Giống như kiểu người đàn ông quen dần với cái chân có tật, chúng tôi quen dần với việc có Hatsumono ở trong nhà. Trước ngày cô ta ra đi, chúng tôi khó mà biết trước cô ta gây chuyện phiền phức cho chúng tôi ra sao khi có cô ở nhà. Thậm chí khi cô ta không làm gì hết mà chỉ ngủ trong phòng, các gia nhân cũng lo sợ, không biết khi nào sẽ bị cô ta hành hạ. Họ sống trong cảnh căng thẳng như người đi qua mặt hồ đóng băng, họ không biết băng vỡ ra khi nào. Còn về phần Bí Ngô, tôi nghĩ chắc cô ta được giải thoát khỏi bà chị cả và cảm thấy lạc lõng khi không có người chị ấy.
Tôi đã trở thành tài sản quý giá chủ yếu trong nhà kỹ nữ, nhưng tôi phải mất một thời gian mới bỏ được thói quen kỳ cục đã ăn sâu trong tiềm thức của tôi vì Hatsumono gây nên. Mỗi lần có người đàn ông nhìn tôi một cách kỳ lạ, tôi phân vân tự hỏi không biết ông ta có nghe những chuyện bất hảo do cô ta nói về tôi không , thậm chí sau khi cô ta ra đi đã lâu. Bất cứ khi nào tôi đi lên cầu thang, tôi cứ cụp mắt nhìn xuống vì sợ Hatsumono đứng trên đầu cầu thang đợi có người nào lên để hành hạ. Không biết bao nhiêu lần khi tôi lên đến bậc thang cuối cùng, bỗng tôi ngước mắt nhìn lên với lòng đinh ninh không có Hatsumono, và sẽ không bao giờ có nữa. Tôi biết cô ta đi rồi, thế mà dãy hành lang vắng vẻ như còn lởn vởn hình bóng của cô ta. Ngay bây giờ, tôi đã già rồi, thế mà thỉnh thoảng tôi lấy cái màn gấm che tấm gương trên bàn trang điểm, tôi vẫn còn thoáng sợ sẽ thấy mặt cô ta hiện ra trong gương, cười châm chọc tôi.

Chuong 28

Ở Nhật, chúng tôi gọi những năm từ thời đại suy thoái cho đến hết chiến tranh thế giới thứ hai là thời Kuraitani - thời kỳ tối tăm, mọi người sống hụp lặn trong bể khổ. Nhưng chúng tôi ở Gion không khổ như những người khác. Ví dụ, trong lúc hầu hết nước Nhật sống trong thung lũng tối tăm trong những năm thập niên 1930, thì chúng tôi ở Gion được sống dưới ánh mặt trời ấm áp. Tôi nghĩ không cần nói chắc anh cũng biết lý do tại sao. Phụ nữ nào là tình nhân của các ông Thứ trưởng và chỉ huy trưởng hải quân đều nhận hàng hóa rất nhiều, rồi họ chuyển các hàng hoá ấy cho người khác.
Nhờ có Tướng Tottori mà nhà kỹ nữ chúng tôi trở thành một trong những nơi có nguồn hàng phong phú đổ đến. Tình hình càng lúc càng tệ quanh chúng tôi suốt nhiều năm trường, thế nhưng mặc dù chế độ cung cấp khẩu phần đã áp dụng từ lâu, chúng tôi vẫn tiếp tục nhận được thực phẩm phong phú, có trà, vải, thậm chí có những thứ xa xỉ như mỹ phẩm, chocolat. Chúng tôi có thể giữ các thứ ấy cho chúng tôi để xài trong nhà, nhưng Gion không phải là nơi để sống như thế. Mẹ chia bớt cho các nơi khác dùng, dĩ nhiên không phải vì bà ta rộng lượng, nhưng vì chúng tôi như những con nhện cùng sống trên một mạng nhện. Thỉnh thoảng có người đến yêu cầu cái này cái nọ, và khi có thể được, chúng tôi vui vẻ chia sớt cho họ ngay. Ví dụ vào mùa thu năm 1941, quân cảnh bắt gặp một cô hầu mang cái thùng đựng khẩu phần thực phẩm nhiều hơn đến mười lần khẩu phần của nhà kỹ nữ của cô ta được phép nhận. Bà chủ nhà kỹ nữ của cô hầu gởi cô ta đến nhà chúng tôi xin tá túc cho đến khi xong việc thu xếp, để khỏi đưa cô ta về nông thôn. Và dĩ nhiên, nhà kỹ nữ nào ở Gion cũng đều có nhiều phiếu mua thực phẩm, nhà kỹ nữ nào ngon lành hơn, phiếu mua thực phẩm càng nhiều hơn. Cô gái hầu được gởi đến nhà chúng tôi là vì ông Tướng đã ra lệnh cho quân cảnh để yên nhà kỹ nữ của chúng tôi.
Khi cảnh tối tăm tiếp tục bao trùm nước Nhật, tất có lúc sẽ xảy đến điều không hay cho chúng tôi, thậm chí giờ ấn định có ánh sáng cũng tắt. Chuyện ấy xảy ra vào lúc xế trưa một ngày sắp hết tháng 12 năm 1942. Tôi đang ăn sáng – hay ít ra là buổi ăn đầu tiên trong ngày, vì tôi bận rộn lo giúp lau chùi nhà cửa để chuẩn bị đón năm mới. Thì bỗng có tiếng đàn ông gọi ngoài cổng. Tôi tưởng đấy là người giao hàng đến, tôi bưng cả tô cơm đi ra, nhưng chưa ra đến cửa thì người giúp việc chặn tôi lại, cho biết có quân cảnh đến tìm Mẹ.
- Quân cảnh à? – tôi hỏi – nói với anh ta Mẹ đã đi khỏi.
- Rồi, thưa cô, nhưng anh ta muốn nói chuyện với cô.
Khi ra đến tiền sảnh, tôi thấy người quân cảnh đang cởi ủng ra ở trước cửa. Có lẽ hầu hết mọi người đều cảm thấy thoải mái khi thấy súng của quân cảnh nằm yên trong bao da, nhưng xin thú thật, nhà kỹ nữ chúng tôi lúc ấy sống rất khác với những nơi khác. Thường thường chúng tôi đối xử với cảnh sát nhã nhặn hơn khách đến nhà nhiều, vì sự hiện diện của họ làm cho chúng tôi lo sợ. Nhưng thấy anh ta tháo giày ra…tôi hiểu ngay anh ta muốn vào nhà, dù chúng tôi có mời hay không.
Tôi cúi đầu chào, nhưng anh ta nhìn tôi với ánh mắt như muốn nói anh ta sẽ làm việc với tôi. Cuối cùng anh ta tháo bít tất, cất mũ, rồi bước vào tiền sảnh và nói anh ta muốn xem vườn rau của chúng tôi. Anh ta vào nhà mà không thèm xin lỗi xin phải gì hết. Chắc anh ta biết trong giai đoạn này, gần như mọi người ở Kyoto, và có lẽ ở khắp nước Nhật, đều biến vườn trồng hoa thành vườn trồng rau hết, mọi người, trừ những người như chúng tôi. Tướng Tottori đã cung cấp cho chúng tôi đầy đủ thực phẩm cho nên chúng tôi khỏi cần trồng rau, mà tiếp tục trồng hoa và cây cảnh. Vì trời đang mùa đông nên tôi hy vọng người quân cảnh chỉ nhìn vào những nơi đất bị đóng băng để nghĩ rằng rau trồng đã chết, và tôi hy vọng anh ta nghĩ chúng tôi đã trồng bầu bí và khoai lang xen kẽ vào những vồng hoa. Cho nên khi tôi dẫn anh ta ra sân sau, tôi không nói một tiếng. Tôi chỉ đứng nhìn anh ta quỳ xuống đưa tay sờ vào mặt đất. Tôi đoán chắc anh ta xem thử đất có đào xới lên để trồng trọt hay không.
Tôi quá chán nản đến nỗi tự nhiên tôi buột miệng nói:
- Có phải bụi tuyết trên mặt đất làm anh nghĩ đến bọt sóng biển không?
Anh ta không đáp và đứng dậy, hỏi chúng tôi trồng rau ở đâu.
- Thưa ông sĩ quan – tôi đáp – tôi xin lỗi, sự thật là chúng tôi không có cơ hội để trồng rau. Mà bây giờ thì đất quá cứng và lạnh…
- Tổ khu phố của cô nói về nhà cô thật đúng! – Anh ta nói và lấy chiếc mũ lưỡi trai xuống.
Anh ta lấy trong túi ra một tờ giấy rồi đọc một danh sách dài về những hành vi sai trái của nhà chúng tôi. Tôi không nhớ hết các hành vi sai trái ấy – nào là tích trữ nhiều vải vóc, không nộp kim loại và các thứ bằng cao su để dùng vào việc chế biến thành dụng cụ phục vụ chiến tranh, nào là dùng thẻ mua khẩu phần không đúng quy định, và đủ các thứ đại loại như thế. Quả đúng chúng tôi vi phạm các thứ ấy, cũng như bất cứ nhà kỹ nữ nào khác ở Gion. Tôi nghĩ tội của chúng tôi là chúng tôi hưởng thụ lợi lộc quá nhiều hơn những nơi khác, và chúng tôi thuộc vào số rất ít đã có cuộc sống phè phỡn hơn những nhà khác.
May cho tôi là khi ấy Mẹ trở về, Mẹ có vẻ không ngạc nhiên khi thấy có quân cảnh đến nhà, và quả vậy, bà đối xử với người quân cảnh hết sức tử tế, tôi chưa bao giờ thấy bà tử tế với ai như thế. Bà mời anh ta vào phòng khách, mời anh ta uống trà đã mốc. Cửa phòng đóng kín, nhưng tôi có thể nghe họ nói chuyện một hồi thật lâu. Đến lúc bà ra ngoài để tìm cái gì đấy, bà kéo tôi sang một bên và nói:
- Tướng Tottori đã bị bắt sáng nay rồi! Cô hãy đem đồ đạc thu giấu ngay đi, kẻo sáng mai không còn đâu.
Nhớ lại thời tôi còn ở tại Yoroido, vào những ngày xuân mát lạnh, tôi thường đi bơi ở hồ, sau đó nằm trên đá để sưởi nắng. Nhưng nếu mặt trời bỗng bị mây che, khí lạnh ập đến, da thịt tôi như bị tấm giấy kẽm đắp lên người. Khi tôi nghe chuyện bất hạnh của ông Tướng, tôi cũng có cảm giác như thế. Tôi cảm thấy như mặt trời biến mất và tôi đứng trần truồng, ướt đẫm nước trong không khí lạnh ngắt như nước đá. Trong tuần lễ sau khi người quân cảnh ghé đến, nhà kỹ nữ chúng tôi bị tịch thu hết đồ đạc như các nhà kỹ nữ khác. Chúng tôi thường cung cấp cho Mameha nhiều trà gói, tôi nghĩ cô ấy dùng để biếu xén ơn nghĩa. Nhưng nay thì cô ấy có nhiều hàng hơn chúng tôi, và chính cô ấy cho chúng tôi hàng hoá. Vào khoảng cuối tháng, tổ khu phố bắt đầu tịch thu các đồ gốm sứ, tranh cuốn của chúng tôi để bán vào loại chợ gọi là “chợ xám”, chợ này khác với chợ đen thường bán các thứ như chất đốt, thực phẩm, kim loại, v..v.. . Các thứ này lấy ở phần phân phối theo khẩu phần hay là buôn bán phi pháp. Còn chợ xám nhẹ tội hơn, phần lớn các bà nội trợ bán để lấy tiền chi tiêu thêm. Nhưng trong trường hợp của chúng tôi, người ta đem bán để trừng phạt chúng tôi vì lý do khác, và tiền bán đem cho những người khác. Người tổ trưởng là bà chủ một nhà kỹ nữ bên cạnh, mỗi lần bà đến nhà chúng tôi để lấy đồ đi, bà tỏ ra rất ân hận. Nhưng quân cảnh đã ra lệnh như thế, nên không ai dám bất tuân.
Nếu những năm đầu chiến tranh giống một chuyến du hành hấp dẫn ngoài biển, thì người ta có thể nói vào giữa năm 1943, tất cả chúng tôi đều nhận ra sóng biển quá lớn, có thể đánh chìm tàu của chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều nghĩ chúng tôi sẽ bị chìm, và quả đã có nhiều người bị chìm. Không phải chỉ cuộc sống hàng ngày càng lúc càng khốn khó mà thôi. Không ai nghĩ thế, mà theo tôi, chúng tôi đều lo sợ hậu quả của chiến tranh. Không ai đến mua vui nữa. Nhiều người còn cho rằng đi vui chơi giải trí là phản quốc. Chuyện nghe có vẻ đùa bỡn nhất là chuyện một đêm tôi nghe đồn là chính quyền quân nhân sắp đóng cửa hết các khu geisha trên khắp nước Nhật, gần đây, chúng tôi mới bắt đầu nhận thấy việc này sắp xảy ra. Rồi khi nghe Roihs nói, tất cả chúng tôi đều phân vân không biết rồi đây cuộc sống của chúng tôi sẽ ra sao.
- Chúng ta đừng phí thì giờ để nghĩ đến những chuyện như thế - cô ta nói – chúng ta chỉ biết chuyện trong quá khứ thôi.
Chẳng ai thấy vui khi nghe cô ta nói thế, nhưng đêm ấy, chúng tôi cười đến chảy nước mắt. Khi họ đóng cửa các khu geisha, thế nào chúng tôi cũng phải làm việc trong các nhà máy. Để anh thấy được cảnh làm việc trong các nhà máy như thế nào, tôi xin kể cho anh nghe chuyện cô bạn Korin của Hatsumono.
Vào mùa đông trước đó, tai hoạ mà bất cứ cô geisha nào ở Gion cũng lo sợ đã xảy đến cho Korin. Người giúp việc trong nhà kỹ nữ của chị ấy nấu nước tắm, chị ta lấy giấy báo để nấu, nhưng không kiểm soát được ngọn lửa. Cả nhà kỹ nữ cháy rụi, và tất cả áo kimono trong nhà cũng cháy hết. Korin phải vào làm việc trong nhà máy ở phía Nam thành phố, lắp kính vào thiết bị dùng thả bom trên máy bay. Thỉnh thoảng chị ta có về thăm Gion, và chúng tôi rất sửng sốt khi thấy chị ấy, chị thay đổi rất nhiều. Không phải chị ấy không được vui sướng thôi đâu, tất cả chúng tôi không ai được hạnh phúc, và đều chuẩn bị để đón nhận cuộc sống ấy. Nhưng chị ấy bị ho khèn khẹt luôn mồm. Còn làn da thì bẩn thỉu như lấm mực – vì than dùng trong nhà máy là loại than kém chất lượng, cho nên thải ra rất nhiều bồ hóng. Korin bị bắt buộc phải làm việc hai ca liên tiếp mà chỉ ăn một tô súp loãng với một ít mì sợi mỗi lần một ngày, hay là ăn cháo gạo với vỏ khoai.
Cho nên anh có thể tưởng tượng ra nỗi kinh hoàng của chúng tôi khi phải làm việc trong nhà máy. Ngày nào mà thức dậy chúng tôi còn thấy Gion mở cửa là chúng tôi còn mừng.
Rồi vào một buổi sáng tháng giêng năm sau, khi tôi đang đứng sắp hàng dưới tuyết trước một cửa hàng gạo, trên tay cầm phiếu khẩu phần, bỗng người chủ quán bên cạnh thò đầu ra ngoài trời lạnh, nói lớn:
- Chuyện xảy ra rồi!
Tất cả chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Tôi lạnh cóng cả người không để ý ông ta nói gì, vì tôi chỉ quàng chiếc khăn dày ngoài chiếc áo đơn sơ quê mùa, vì không ai mặc áo kimono suốt ngày nữa. Cuối cùng, cô geisha đứng trước mặt tôi, phủi tuyết trên lông mày rồi hỏi ông chủ quán nói cái gì.
- Chiến tranh chưa chấm dứt chứ? - cô ta hỏi.
- Chính phủ ra lệnh đóng các khu geisha - ông ta đáp - tất cả các cô phải đến đăng ký ở phòng đăng ký vào sáng mai.
Chúng tôi nghe tiếng radio trong nhà phát ra một hồi, rồi cánh cửa đóng sầm lại, và không còn tiếng gì ngoài tiếng tuyết rơi rì rào. Tôi nhìn nỗi thất vọng hiện ra trên mặt của các cô geisha đứng quanh tôi, tôi nghĩ tất cả chúng tôi đều có chung một cảm nghĩ, có người đàn ông nào chúng tôi quen biết đến cứu chúng tôi khỏi cuộc sống trong các nhà máy không?
Mặc dù Tướng Tottori là danna của tôi cho đến năm trước, nhưng dĩ nhiên tôi không phải là người geisha duy nhất quen biết ông ta. Tôi phải đến gặp ông ta trước những người khác. Tôi mặc áo quần không đủ ấm, nhưng tôi cũng bỏ các phiếu mua hàng vào túi quần kiểu nông dân, rồi đi lên phía Tây Bắc thành phố ngay. Người ta đồn ông Tướng đang ở trong quán trọ Sayura, nơi chúng tôi thường gặp hai đêm mỗi tuần trong nhiều năm liền.
Sau khoảng một giờ, tôi đến đấy. Nhưng khi tôi chào bà chủ, bà ta nhìn tôi một hồi lâu rồi mới cúi người chào, xin lỗi tôi vì bà ta đã không biết tôi là ai.
- Thưa bà, tôi là Sayuri đây! Tôi đến để gặp ông Tướng.
- Cô Sayuri à? Trời ơi! Tôi không ngờ trông cô như bác nhà quê nào.
Bà ta dẫn tôi vào trong nhà ngay, nhưng không muốn tôi gặp ông ta liền. Bà ta dẫn tôi lên lầu, thay cho tôi chiếc kimono của bà, rồi thậm chí còn trang điểm cho tôi bằng một ít đồ trang sức mà bà ta giấu kín, để cho ông Tướng khi gặp tôi sẽ nhận ra tôi.
Khi tôi vào phòng, Tướng Tottori đang ngồi nơi bàn nghe kịch nói trongr radio. Chiếc áo vải hở vạt để lộ bộ ngực trơ xương và đám lông bạc thưa thớt. Tôi thấy ông chịu đựng cảnh gian khổ trong năm qua còn nhiều hơn tôi nữa. Nói tóm lại, ông bị kết tội về nhiều tội ác tày trời, nào là tắc trách, thiếu khả năng, lạm dụng quyền hành…Có người cho ông còn may là khỏi ngồi tù. Có một bài báo lên án ông đã gây nên cuộc bại trận của hải quân Hoàng gia ở Nam Thái Bình Dương, bài báo viết rằng ông không giám sát việc vận chuyển hàng tiếp liệu. Tuy nhiên, có người chịu đựng được gian khổ giỏi hơn người khác, và khi nhìn vào ông Tướng tôi thấy cuộc sống gian khổ trong một năm qua đã đè nặng lên người ông, khiến cho ông gầy trơ xương, mặt mày biến dạng. Trước đây, lúc nào ông ta cũng có mùi thức ăn dầm giấm. Còn bây giờ, khi tôi cúi người trên chiếu chào, gần bên ông, ông có mùi chua khác.
- Chào ông Tướng, ông có vẻ mạnh khoẻ - tôi nói, nhưng dĩ nhiên đấy là lời nói láo - tôi rất sung sướng được gặp lại ông.
Ông Tướng tắt radio, trả lời:
- Không phải cô là người đầu tiên đến đây, Sayuri à. Tôi không giúp gì cô được đâu.
- Thế mà tôi chạy đến đây rất nhanh đấy! Tôi không nghĩ nổi có người lại còn nhanh hơn tôi!
- Vì tuần trước, gần như cô geisha nào tôi quen biết cũng đều đến đây gặp tôi, nhưng tôi không còn bạn bè nào uy quyền nữa. Tôi không hiểu tại sao một geisha có hạng như cô lại đến tìm tôi. Chắc có nhiều nhân vật có quyền thế thích cô chứ.
- Được ưa thích và có bạn chân thành sẵn sàng giúp đỡ là hai việc rất khác nhau – tôi đáp.
- Phải, đúng thế. Nhưng cô đến nhờ tôi giúp cái gì?
- Giúp cái gì cũng được, thưa ông Tướng. Độ này dân chúng ở Gion chẳng nói gì ngoài đời sống khốn khổ trong các nhà máy.
- Chỉ có ai may mắn mới được sống khốn khổ. Còn ngoài ra những người khác chắc không sống để thấy chiến tranh chấm dứt.
- Tôi không hiểu.
- Bom sắp rơi đến nơi - ông Tướng nói – Cô sẽ thấy các nhà máy bị lãnh bom nhiều hơn hết. Nếu cô muốn sống cho đến khi chiến tranh chấm dứt, tốt hơn hết là cô tìm người nào có thể đưa cô đến một nơi an toàn. Tôi rất tiếc là không phải người đó. Tôi đã cạn kiệt hết nguồn ảnh hưởng rồi.
Ông Tướng hỏi thăm sức khoẻ của bà Mẹ, bà Dì, rồi giã từ tôi. Sau này tôi mới hiểu câu nói “cạn kiệt nguồn ảnh hưởng” . Bà chủ nhà trọ Sayura có cô con gái, ông Tướng đã thu xếp gởi cô ta đến một thành phố ở phía Bắc nước Nhật.
Trên đường trở về nhà kỹ nữ, tôi nghĩ đã đến lúc phải hành động, nhưng tôi không biết làm gì. Chỉ việc làm sao giữ cho mình khỏi hốt hoảng thôi, tôi cũng không làm được. Tôi đến nhà Mameha đang ở - vì mối liên hệ của cô ấy với ông Nam tước đã chấm dứt nhiều tháng rồi, cô phải dọn sang ở nhà khác nhỏ hơn. Tôi tưởng Mameha sẽ giúp tôi phương cách để giải quyết tình hình, nhưng thật ra, cô ấy cũng đang hốt hoảng như tôi.
- Ông Nam tước không làm gì giúp được tôi - cô ấy nói, mặt tái mét vì lo sợ - tôi không thể đến nhờ ai khác được, Sayuri, cô nên tìm một người nào đó để nhờ, cô hãy đi tìm nhanh lên.
Khi ấy tôi đã mất liên lạc với ông Nobu hơn bốn năm rồi. Tôi thấy không thể đến tìm ông ta được. Còn phần ông Chủ tịch - phải, tôi có thể kiếm cớ để nói chuyện với ông ta, nhưng hỏi nhờ cậy ông thì chắc không được. Tuy nhiên, mặc dù ông ta đã tỏ ra thân mật với tôi ngoài hành lang đấy, nhưng ông ta không mời tôi đến dự tiệc, thậm chí cả khi ông ta chỉ có những geisha hạng xoàng. Tôi cảm thấy đau đớn vì chuyện này, nhưng tôi có thể làm gì được? Vả lại, cho dù ông Chủ tịch muốn giúp tôi, thì việc ông ta xích mích với chính quyền quân nhân vừa rồi đã được báo chí đăng tải, chắc bây giờ ông ta cũng đang gặp chuyện rắc rối.
Cho nên tôi đi suốt cả buổi chiều từ phòng trà này sang phòng trà khác dưới trời lạnh như dao cắt, tôi hỏi về một số đàn ông tôi không gặp nhiều tuần hay thậm chí đã nhiều tháng. Không bà chủ phòng trà nào biết họ ở đâu.
Tối đó, phòng trà Ichiriki bận rộn về nhiều buổi tiệc chia tay. Giới geisha tỏ ra lãnh đạm đối với những buổi tiệc như thế này. Có cô geisha trông như mất hồn, có người như tượng Phật – bình thản, dễ thương, nhưng phảng phất nét buồn. Tôi không thể nói được tôi trông như thế nào, nhưng tâm trí tôi như cái bàn tính, tôi bận tính toán cái này cái kia, suy nghĩ để xem tôi phải đến tiếp xúc với người nào, và phải nói năng với họ ra làm sao, đến nỗi tôi không nghe được tiếng một chị giúp việc nói cho tôi biết có người ở phòng bên kia đang muốn gặp tôi. Tôi đoán chắc một tốp đàn ông yêu cầu tôi sang ngồi với họ cho vui, nhưng chị ta dẫn tôi lên lầu, đi dọc theo hành lang tầng hai ra tận phía sau phòng trà. Chị ta mở cửa một căn phòng có trải thảm rơm, trước đây chưa bao giờ tôi vào phòng này. Và nơi chiếc bàn trong phòng, ông Nobu ngồi một mình với ly bia.
Tôi chưa kịp cúi chào và nói tiếng nào, ông ta đã lên tiếng:
- Sayuri, cô đã làm cho tôi thất vọng.
- Trời ơi! Từ bốn năm nay em chưa có vinh dự được hầu ông, thưa ông Nobu, thế mà mới gặp ông, em đã làm cho ông thất vọng. Em đã làm gì sai lầm mà nhanh thế?
- Tôi đã đoán thế nào khi thấy tôi, cô cũng há hốc mồm kinh ngạc.
- Đúng thế. Em quá kinh ngạc đến nỗi không nhúc nhích được.
- Vào trong phòng để cho chị hầu đóng cửa lại, nhưng trước hết, bảo họ mang thêm ly và bia. Có chuyện khiến cho cô và tôi phải uống.
Tôi làm theo lời ông Nobu rồi đến quỳ ở cuối bàn, cái góc bàn nằm giữa hai chúng tôi. Tôi cảm thấy mắt của ông Nobu nhìn vào mặt tôi như thể ông ta sờ vào tôi. Tôi đỏ mặt như đứng dưới ánh mặt trời nóng bức, vì tôi cảm thấy sung sướng được ông ta chiêm ngưỡng.
- Mặt cô hốc hác chứ không phải như trước - ông ta nói - đừng nói vì cô đói như những người khác. Không bao giờ tôi tin một việc như thế xảy ra cho cô.
- Ông trông cũng gầy hơn trước.
- Tôi có đủ thức ăn. Chỉ có điều không có thì giờ mà ăn thôi.
- Em mừng vì ít ra ông có công việc để bận bịu.
- Từ trước đến giờ tôi mới nghe một điều kỳ cục hết sức như thế này. Khi cô thấy một người đàn ông tránh được đạn để sống còn, có phải cô mừng cho anh ta khi anh ta có việc gì để làm cho hết thì giờ phải không?
- Em hy vọng ông không muốn nói ông “thật sự” lo sợ cho cuộc sống của mình…
- Không có ai ở ngoài đợi để giết tôi hết, nếu cô muốn nói như thế. Nhưng nếu công ty đồ điện Iwamura là lẽ sống của tôi, thì đúng thế, tôi sợ cho nó thật. Bây giờ nói cho tôi biết điều này, ông danna của cô ra sao rồi?
- Em nghĩ ông Tướng cũng sống như chúng ta thôi. Ông hỏi han đến ông ấy thật tốt quá.
- Ồ, tôi hỏi không có ý tốt đâu.
- Rất ít người có hảo ý với ông ta. Nhưng thôi, nói chuyện khác đi ông Nobu, có phải đêm nào ông cũng đến phòng trà Ichiriki này, nhưng vì không muốn gặp em nên dùng căn phòng đặc biệt trên lầu này phải không?
- Đây là căn phòng đặc biệt à? Theo tôi thì đây chỉ là căn phòng không thưởng thức được cảnh đẹp ngoài vườn. Nó hướng ra phía đường, nếu cô mở mấy màn giấy ấy ra.
- Ông Nobu biết căn phòng rõ đấy chứ.
- Không phải đâu, đây là lần đầu tiên tôi dùng nó.
Tôi nhăn mặt nhìn ông ta để tỏ ý tôi không tin.
- Cô muốn nghĩ sao thì nghĩ, tuỳ cô, cô Sayuri à, nhưng thú thật chưa bao giờ tôi dùng phòng này. Tôi nghĩ đây là phòng ngủ cho khách ngủ qua đêm, khi bà chủ có khách nào cần ở lại. Bà ấy có lòng tốt để cho tôi dùng phòng này đêm nay khi tôi trình bày cho bà nghe tại sao tôi đến đây.
- Bí mật quá nhỉ? Vậy ông đến đây có mục đích. Em muốn biết lý do có được không?
- Tôi nghe có tiếng chân chị hầu mang bia đang đi đến. Khi chị ấy đi rồi, cô sẽ biết.
Cửa mở, chị hầu để bia lên bàn, bia là món giải khát hiếm hoi, cho nên uống bia như uống nước vàng. Khi chị hầu đi rồi, chúng tôi nâng ly. Nobu nói:
- Tôi đến đây để ăn mừng danna của cô!
Nghe ông ta nói, tôi để ly bia xuống.
- Ông Nobu, em nghĩ chúng ta người nào cũng có thể có vài chuyện để ăn mừng. Nhưng còn chuyện ông uống mừng cho danna của em, chắc em không tài nào hiểu cho nổi.
- Tôi phải nói cho cụ thể hơn. Ở đây ta uống mừng vì danna của cô quá điên khùng! Bốn năm trước, tôi đã nói ông ta là đồ vô dụng, và ông ta đã chứng minh cho lời tôi nói là đúng. Cô không thấy thế sao?
- Thực ra thì…ông ta hết là danna của em rồi.
- Thì đúng thế! Và cho dù ông ta còn, thì ông ta cũng không thể làm gì được cho cô, phải không? Tôi biết Gion sắp đóng cửa, mọi người hoảng hốt vì chuyện này. Hôm nay ở văn phòng, tôi nhận được một cú điện thoại của một cô geisha…Tôi không muốn nêu tên cô ta ra…nhưng cô biết cô ta nói gì không, cô ta nhờ tôi tìm cho cô ta một công việc làm ở công ty Iwamura.
- Ông có thể cho em biết ông trả lời cô ta ra sao không?
- Tôi không có việc gì cho cô ta hết, ngay cả tôi cũng không. Thậm chí cả ông Chủ tịch rồi cũng hết việc, và nếu ông ấy không làm theo đơn đặt hàng của chính phủ thì có thể ông ta phải đi ở tù nữa. Ông ấy đã trả lời họ là chúng tôi không có phương tiện để chế dao găm và bao đựng đạn, nhưng bây giờ họ muốn chúng tôi chế tạo các thiêt bị để ráp máy bay chiến đấu! Đôi lúc tôi tự hỏi không biết những người này nghĩ gì.
- Ông Nobu nên nói nhỏ hơn một chút.
- Ai sẽ nghe tôi, ông Tướng của cô à?
- Nói đến ông Tướng, em xin cho ông biết hôm nay em có đến gặp ông ta, để nhờ ông ta giúp đỡ.
- Cô gặp may là ông ta còn sống để gặp cô.
- Ông ta bệnh à?
- Không phải bệnh, nhưng nếu ông ta can đảm, chắc ông ta tìm chỗ tự tử rồi.
- Ông Nobu, xin ông.
- Ông ta không giúp cô, phải không?
- Không, ông ta nói ông ta hết ảnh hưởng với các nơi rồi.
- Hết thời thì hết ảnh hưởng thôi. Tại sao ông ta không dành một chút ảnh hưởng nào để giúp cô?
- Hơn một năm nay em không gặp ông ta.
- Cô không gặp tôi hơn bốn năm nay, và tôi “đã” dành ảnh hưởng tối đa để giúp cô. Tại sao cô không đến để gặp tôi?
- Em cứ tưởng ông giận em mãi, ông Nobu, nhìn vào ông thì biết! Làm sao em đến tìm ông cho được?
- Sao lại không được? Tôi có thể cứu cô khỏi làm việc trong các nhà máy. Tôi có chỗ ẩn náu rất an toàn. Cứ tin tôi đi, chỗ này rất an toàn, giống như cái tổ cho con chim. Cô là người duy nhất tôi dành cho cô chỗ ấy đấy, Sayuri à. Và tôi chỉ cho cô chỗ ẩn náu ấy chừng nào cô ra trước mặt tôi, cúi người tận sát nền nhà để nói với tôi rằng cô đã phạm sai lầm trong bốn năm qua. Cô nói tôi giận cô là đúng đấy! Chúng ta có thể chết cả hai trước khi gặp lại nhau. Có thể tôi đã để mất cơ hội của mình. Và không phải vì thế mà cô gạt tôi sang một bên. Cô đã tiêu phí những năm tháng đẹp nhất của đời cô cho một thằng điên, một thằng không trả được nợ cho tổ quốc, cũng như ít nhiều cho cô. Hắn tiếp tục sống như thể hắn không làm gì sai trái.
Anh có thể tưởng tượng được tâm trạng của tôi lúc ấy ra sao, vì Nobu là người nói năng cứng rắn như đá. Không phải chỉ lời nói và ý nghĩa làm cho người ta khó chịu, mà chính cái cách ông ta nói. Thoạt tiên tôi quyết định không khóc, bất chấp ông ta muốn nói gì thì nói, nhưng sau đó tôi nghĩ khóc mới là điều ông Nobu mong muốn nơi tôi. Và khóc thì quá dễ dàng, như thả tờ giấy ra khỏi mấy ngón tay. Mỗi giọt nước mắt chảy xuống má tôi đều có một lý do khác nhau. Tôi có nhiều điều cần phải khóc! Tôi khóc cho Nobu và cho tôi, tôi khóc vì tự hỏi cuộc đời chúng tôi rồi sẽ ra sao. Thậm chí tôi khóc cho Tướng Tottori, và cho Korin, cô ta gầy đét, đen đủi vì làm việc trong nhà máy. Rồi tôi làm theo lời yêu cầu của Nobu. Tôi xích ra xa cái bàn cho rộng chỗ, rồi cúi người sát xuống nền nhà.
- Xin ông tha lỗi cho em vì em quá điên khùng – tôi nói.
- Ồ, đứng lên khỏi chiếu đi. Tôi rất sung sướng nếu cô nói cô sẽ không phạm sai lầm như thế nữa.
- Em sẽ không phạm nữa.
- Thời gian cô sống với ông ấy thật phí phạm! Những điều tôi nói với cô đều xảy ra đúng hết, phải không? Có lẽ bây giờ cô đã biết sống theo số phận rồi.
- Em sẽ sống theo số phận, ông Nobu à. Em không mong gì ở cuộc đời này nữa.
- Tôi rất mừng khi nghe cô nói thế. Mà số phận sẽ dẫn cô đi đâu?
- Dẫn đến người điều hành công ty đồ điện Iwamura – tôi đáp. Dĩ nhiên tôi nghĩ đến ông Chủ tịch.
- Được đấy – Nobu nói – Bây giờ ta cụng ly uống cùng nhau.
Tôi chỉ hớp một chút, vì tôi quá bối rối và quá buồn nên không thấy khát. Sau đó, ông Nobu nói cho tôi biết về cái tổ mà ông đã để dành cho tôi. Đấy là nhà người bạn thân của ông ta, ông Arashino Isamu, người làm áo kimono. Tôi không biết anh còn nhớ ông ta không, ông ta là khách danh dự ở buổi tiệc tại nhà ông Nam tước nhiều năm về trước, buổi tiệc có cả ông Nobu và bác sĩ Cua tham dự. Nhà của ông Arashino, đồng thời là xưởng thợ của ông ta, nằm trên bờ thượng nguồn sông Kame, cách Gion khoảng năm cây số. Trước kia, ông ta cùng vợ và con gái làm kimono theo kiểu Yasen, kiểu này thật đẹp và nhờ thế ông được nổi tiếng. Nhưng mới đây, tất cả thợ may kimono đều phải may dù cho lính dù – vì họ quen với việc may vá. Ông Nobu nói rằng đây là công việc tôi có thể học hỏi rất nhanh, và gia đình Arashino sẽ rất bằng lòng nhận tôi. Ông Nobu sẽ đích thân đi thu xếp với chính quyền để tôi được đến ấy. Ông viết cho tôi địa chỉ nhà của ông Arashino trên miếng giấy rồi đưa cho tôi.
Tôi cám ơn ông Nobu nhiều lần, mỗi lần tôi cám ơn là ông ta nhìn tôi với vẻ hài lòng. Khi tôi định đề nghị chúng tôi đi dạo một vòng dưới trời tuyết mới rơi, thì bỗng ông ta nhìn đồng hồ rồi uống hết ly bia.
- Sayuri, - ông ta nói với tôi – Không biết khi nào chúng ta gặp lại nhau hay khi chúng ta gặp lại nhau thì thế giới sẽ như thế nào. Cả hai chúng ta đã chứng kiến những việc rất khủng khiếp. Nhưng tôi sẽ nghĩ đến cô mỗi khi tôi muốn nhắc nhở mình nhớ rằng trên đời này luôn luôn có cái Mỹ và cái Thiện.
- Ông Nobu, đáng ra ông phải làm thi sĩ mới phải!
- Chắc cô biết quá rõ nơi người tôi không có gì nên thơ hết.
- Có phải những lời hay ho của ông là dâu hiệu cho biết ông sắp về không? Em muốn chúng ta cùng đi bộ một vòng.
- Trời lạnh quá. Nhưng cô có thể ra đứng ở cửa tiễn tôi ra về, và chúng ta chia tay nhau ở đây.
Tôi theo ông Nobu đi xuống thang lầu đến cửa trước, tôi ngồi xổm xuống để giúp ông ta mang giày. Sau đó tôi mang giày gỗ đế cao “Geta” vì trời tuyết, rồi tiễn ông Nobu ra tận đường. Mây năm trước thế nào cũng có xe hơi đến đón ông ta, nhưng bây giờ chỉ có viên chức cao cấp của chính quyền mới có xe để đi, và hầu hết mọi người đều không tìm ra xăng dễ dàng. Tôi đề nghị tiễn ông ta đi một đoạn, nhưng ông ta nói:
- Bây giờ tôi không muốn có cô đi theo. Tôi đến họp với nhà đại lý ở Kyoto. Tôi đang có rất nhiều việc phải giải quyết.
- Ông Nobu, em thú thật em rất thích những lời chia tay khi ở trong phòng trên lầu.
- Vậy thì lần sau đến đấy nữa.
Tôi cúi chào, nói lời chia tay. Đàn ông đi trên đường đều quay mặt nhìn Nobu, nhưng ông vẫn bước ào ào trong tuyết đến tận góc đường rồi rẽ qua đại lộ Shijo và biến mất. Tôi đứng nhìn, trên tay nắm chặt tờ giấy ông ta viết địa chỉ của ông Arashino. Tôi nhận ra tôi bóp chặt tờ giấy thiếu điều nó muốn nát vụn ra. Tôi không ngờ tôi quá căng thẳng và lo sợ đến thế. Nhưng sau một hồi nhìn tuyết rơi, nhìn vào dấu chân của Nobu in trên tuyết đến tận góc đường, tôi cảm biết nguyên do nào làm cho tôi bối rối lo sợ. Khi nào tôi sẽ gặp lại ông Nobu? Hay khi nào tôi có thể gặp lại ông Chủ tịch? Hay biết có thấy lại Gion hay không? Một lần nữa, tôi cảm thấy mình như hồi còn nhỏ khi bị lôi ra khỏi nhà. Tôi thấy chính những kỷ niệm của những năm tháng kinh hoàng ấy đã làm cho tôi cảm thấy hết sức cô đơn.

Chuong 29

Chắc anh nghĩ rằng nếu ông Nobu không giúp tôi thì cũng có thể có ai đấy cứu tôi, vì tôi là một geisha thành đạt được nhiều người ngưỡng mộ. Nhưng nàng geisha khi sa chân thất thế không phải như đồ nữ trang rơi ở ngoài đường khiến cho ai thấy cũng lượm được. Trong số hàng trăm geisha ở Gion, cô nào cũng cố tìm cho ra một ai đó giúp chỗ ẩn náu cho đến khi hết chiến tranh, và chỉ vài người mới có may mắn tìm ra được một người giúp. Cho nên anh thấy đấy, khi tôi còn sống với gia đình Arashino ngày nào là tôi cảm thấy mang ơn Nobu ngày đó.
Sang mùa xuân năm sau, tôi cảm thấy tôi được may mắn biết bao khi nghe tin Raiha chết ở Tokyo vì trúng bom. Chính Raiha là người đã làm cho chúng tôi cười bằng câu nói rằng chẳng ai biết được tương lai bằng quá khứ. Cô ta và mẹ cô đều là những geisha nổi tiếng, bố cô ta thuộc một gia đình thương gia giàu có. Đối với những người như chúng tôi ở Gion không ai dám nghĩ mình có thể sống qua chiến tranh hơn cô Raiha. Lúc chết, cô ta đang đọc sách cho cháu trai nghe trong dinh cơ của bố cô ấy ở quận Denenchofu tại Tokyo, và tôi nghĩ chắc cô ta cảm thấy rất an toàn khi ở đấy. Kỳ lạ thay là máy bay oanh tạc giết chết Raiha còn giết luôn cả nhà đô vật vĩ đại Mizagiyama. Cả hai đang hưởng cuộc sống êm ả cùng nhau. Thế nhưng Bí Ngô, người mà tôi cho là kẻ đã bị bỏ rơi, thì lại sống qua khỏi chiến tranh, mặc dù nhà máy làm thấu kính nơi cô ta làm việc nằm ngoài thành phố Osaka đã bị dội bom năm sáu lần. Năm đó tôi mới hiểu ra rằng không ai tiên đoán được người này sống còn sau chiến tranh và người kia không qua khỏi. Mameha qua khỏi, cô ấy làm hộ lý trong một bệnh viện nhỏ ở quận Fukui, nhưng chị hầu Tatsumi thì bị chết vì quả bom ác nghiệt rơi xuống Nagashaki, còn người lo áo quần cho cô là ông Itchoda chết vì đứng tim trong một trận máy bay oanh kích. Trái lại, ông Bekku, làm việc tại một căn cứ hải quân ở Osaka thì vẫn còn sống. Ông Tướng Tottori cũng vậy, ông ta sống ở quán trọ Sayura cho đến giữa thập niên 1950 mới chết, còn ông Nam tước cũng sống qua khỏi chiến tranh, nhưng tôi rất buồn nói cho anh biết ông ta trầm mình tự vẫn trong cái hồ đẹp đẽ của mình sau khi chức danh và nhiều tài sản của ông ta bị tước đi. Tôi nghĩ là ông ta không thể sống nổi cuộc sống mà ông không còn được tự do làm theo những ý nghĩ điên khùng của mình nữa.
Còn về phần bà Mẹ, tôi luôn luôn tin rằng bà sẽ sống còn với tài năng kiếm lợi trên sự đau khổ của người khác, bà dấn thân vào công việc làm ăn ở chợ xám, như thể bà đã làm ăn lâu ngày ở thị trường này rồi vậy. Bà ta nhờ chiến tranh mà giàu thêm chứ không phải nghèo đi bằng cách buôn bán các thứ di vật của người khác. Bất cứ khi nào ông Arashino bán một chiếc kimono trong số áo của mình để thêm vốn làm ăn, ông ta nhờ tôi đến tiếp xúc với bà Mẹ để bà có thể cho ông chuộc lại. Anh biết không, nhiều áo kimono bán ở Kyoto đều qua tay bà. Ông Arashino có lẽ hy vọng Mẹ sẽ hy sinh lợi nhuận để giữ kimono của ông vài năm cho đến khi ông có tiền mua lại, nhưng chắc không bao giờ ta có thể tìm ra chúng, hay ít ra, đấy là chuyện bà ta nói.
Gia đình Arashino đối xử với tôi rất tử tế trong những năm tôi sống với họ. Ban ngày, tôi làm việc may dù với họ. Ban đêm tôi ngủ với cô con và đứa cháu ngoại của họ trên tấm đệm trải trên nền xưởng thợ. Chúng tôi có rất ít than, nên dùng lá ép để sưởi ấm – hay là giấy báo, nghĩa là bất kỳ cái gì chúng tôi kiếm được. Dĩ nhiên thực phẩm càng khan hiếm, anh không thể tưởng tượng ra nổi những thứ chúng tôi ăn, như bã đậu nành thường làm thức ăn gia súc, và một thứ rất ghê tởm mà chúng tôi gọi là “Nukapan”, đó là thức ăn gồm cám gạo rang trộn với bột lúa mạch. Trông như da khô lâu ngày, nhưng tôi cảm thấy da e còn ngon hơn thứ này. Rất hiếm khi mới ăn được một ít khoai tây hay khoai lang, thịt cá voi phơi khô, xúc xích bằng thịt hải cẩu, và thỉnh thoảng có cá mòi, thứ mà người Nhật thường dùng làm phân bón. Tôi gầy tong teo đến nỗi khi đi trên đường phố Gion, không ai nhận ra tôi. Vài ngày, đứa cháu ngoại của ông Arashino, bé Juntaro, lại khóc kêu đói – thế là ông Arashino quyết định đem một cái kimono đi bán. Cuộc sống như thế này người Nhật gọi là “cuộc sống củ hành”, lột lần ra mà sống.
Một đêm vào mùa xuân năm 1944, sau khi tôi đã sống ở nhà ông Arashino khoảng ba bốn tháng, chúng tôi chứng kiến cảnh oanh kích đầu tiên. Chúng tôi thấy trên không trung những chiếc phóng pháo cơ gào thét vang trời, trong khi đó những quả đạn cao xạ từ mặt đất bắn lên nổ tung chung quanh chúng như sao sa. Chúng tôi sợ nghe tiếng rít kinh khủng vang lên và thấy Kyoto bùng cháy khắp nơi quanh chúng tôi, và nếu thế, cuộc sống chúng tôi sẽ chấm dứt ngay cho dù chúng tôi có chết hay không, vì Kyoto mảnh mai như cánh con bướm đêm, nếu nó bị đập tan, sẽ không bao giờ bình phục lại. Còn Osaka và Tokyo, cũng như nhiều thành phố khác, các nơi này có thể bình phục lại được. Nhưng những chiếc phóng pháo đi qua đầu chúng tôi, không những chỉ đêm ấy mà còn các đêm sau nữa. Nhiều đêm chúng tôi thấy mặt trăng trở thành đỏ rực vì lửa cháy ở Osaka, và thỉnh thoảng chúng tôi thấy tro bay trong không khí như lá vàng rơi – đến tận Kyoto, cách đây năm mươi cây số. Chắc anh biết tôi lo lắng đến dường nào cho ông Chủ tịch và ông Nobu, vì công ty của họ đặt ở Osaka và hai người đều có gia đình ở đấy cũng như ở Kyoto. Tôi cũng tự hỏi không biết chị Satsu của tôi ra sao và đang ở đâu. Tôi không biết hiện chị ở đâu, nhưng trong thâm tâm, tôi cứ tin có ngày chúng tôi sẽ lại gặp nhau. Tôi nghĩ có thể chị ấy viết thư gởi đến nhà kỹ nữ Nitta cho tôi, hay trở về Kyoto để tìm tôi. Rồi vào một buổi chiều – trong khi tôi dẫn bé Juntaro ra bờ sông chơi, chúng tôi lượm đá trên bờ ném xuống nước, bỗng tôi nghĩ rằng chắc Satsu không bao giờ trở lại Kyoto để tìm tôi. Tôi đang sống trong cảnh nghèo khổ, làm sao đi xa khỏi thành phố cho được. Vả lại, nếu gặp nhau ngoài đường, tôi và Satsu cũng không nhận ra nhau. Còn chuyện tôi mơ ước chị ấy gởi thư cho tôi…thì ôi, tôi thấy mình điên, bộ tôi không biết là chị Satsu không biết nơi tôi ở có tên là nhà kỹ nữ Nitta hay sao? Nếu muốn viết, chị ấy cũng không thể viết được – trừ phi chị có tiếp xúc với ông Tanaka, mà chắc không bao giờ chị làm được việc này. Trong khi bé Juntaro tiếp tục ném đá xuống nước chơi, tôi ngồi xổm xuống bên cạnh chú bé, lấy tay vọc nước đắp lên mặt, cười với chú, giả vờ rửa mặt cho mát. Mưu vặt của tôi hữu hiệu, vì Juntaro có vẻ không biết gì hết và cứ tiếp tục trò chơi.
Vận rủi của con người như luồng gió mạnh. Nó xô đẩy lôi cuốn ta từ chỗ không may này đến chỗ không may khác cho đến khi ta đành phải buông xuôi cho số phận. Như trường hợp của con cái ông Arashino chẳng hạn, cô gái đau khổ vì chồng chết trong chiến tranh, và sau đó đổ hết sức lực vào hai việc: chăm sóc thằng bé và may dù cho lính dù. Cô ta có vẻ sống buông xuôi không mục đích. Cô ta gầy dần gầy mòn, chắc anh biết từng gam thịt của cô ta biến đi đâu. Đến ngày chiến tranh chấm dứt, cô ta chỉ biết bám vào thằng bé ấy như thể nó là mép núi đá trên bờ biển giữ cô ta khỏi rơi xuống biển.
Vì tôi đã sống qua vận rủi rồi nên tôi biết, lúc nào cũng có cái gì đấy nhắc nhở tôi nhớ đến những ngày rủi ro, cho nên tôi không quên được – nói trắng ra là dưới lớp vỏ quần áo sang trọng, với điệu múa hoàn hảo, và với cách nói chuyện khéo léo, cuộc đời của tôi không có gì phức tạp hết, mà đơn giản như hòn đá lăn xuống đất. Mục đích tối hậu trong mười năm qua của tôi là phải chiếm cho được tình thương của ông Chủ tịch. Ngày này qua ngày nọ, tôi nhìn dòng nước ở thượng nguồn sông Kame xuôi dòng gần xưởng thợ, thỉnh thoảng tôi ném một cánh hoa xuống nước, hay là một cọng rơm, nghĩ rằng chúng sẽ chảy qua Osaka trước khi chảy ra biển. Tôi tự hỏi không biết ông Chủ tịch khi ngồi làm việc có nhìn qua cửa sổ vào một buổi chiều thấy cánh hoa hay là cọng rơm và nhớ đến tôi không. Có thể ông Chủ tịch thấy, nhưng tôi không tin. Cho dù ông thấy đi nữa, ông cũng có trăm nghìn chuyện nghĩ đến chẳng khác gì cánh hoa đập vào trong óc ông, tôi có thể chỉ là một trong số đông đó. Ông ta thường tốt với tôi, ông ta vốn là người tốt. Chưa bao giờ ông tỏ vẻ nhận ra tôi là cô gái ông đã an ủi ngày nào, hay nhận ra tôi lưu tâm tới ông, hay nghĩ đến ông.
Một hôm, tôi nhận ra rằng chuyện tôi và chị Satsu gặp lại nhau là điều không thể có được, lòng tin này dựa theo nhiều thực tế trước mắt chứ không phải vì bốc đồng. Đêm trước tôi đã dằn vặt suốt đêm, lần đầu tiên tự hỏi nếu tôi chết đi mà vẫn chưa được ông Chủ tịch đoái hoài đến thì sao. Sáng hôm sau, tôi xem lịch thật kỹ với hy vọng tìm ra dấu hiệu gì cho tôi đời tôi sẽ có ý nghĩa. Tôi rất chán nản đến nỗi ông Arashino có vẻ nhận thấy, ông nhờ tôi đi mua kim khâu ở một tiệm bán tạp hoá. Tôi cố tìm có dấu hiệu gì về ông Chủ tịch, nhưng không thấy. Từ kinh nghiệm này, tôi kết luận rằng cứ chạy theo điều phi thực là rất nguy hiểm. Nếu tôi cứ phí cả đời chạy theo một người đàn ông không bao giờ đến với tôi thì sao? Cuộc đời tôi sẽ buồn rầu tê tái biết bao khi nhận ra tôi không thưởng thức được thức ăn mình đang ăn, vì tôi không nghĩ đến gì khác ngoài ông Chủ tịch, ngay cả khi cuộc đời của tôi đã trôi về một nẻo khác. Thế nhưng nếu tôi không nghĩ đến ông ta nữa, cuộc đời của tôi sẽ ra sao? Chắc khi ấy tôi sẽ là một vũ công tập luyện từ nhỏ để chờ buổi trình diễn không bao giờ đến được.
Chiến tranh chấm dứt vào tháng Tám năm 1945. Bất cứ ai đã sống ở Nhật trong giai đoạn này đều sẽ nói với anh rằng đây là thời điểm hoang mang nhất trong đêm tăm tối. Đất nước chúng tôi không những bị bại trận, mà còn bị tàn phá – tôi không muốn nói chỉ bị bom tàn phá rất kinh khủng mà thôi đâu. Khi đất nước anh bại trận, và quân chiếm đóng ùa vào, chắc anh sẽ cảm thấy như bị trói tay dẫn đến pháp trường chờ lưỡi gươm đầu. Suốt thời gian một hay hai năm, tôi không nghe được tiếng cười – ngoại trừ tiếng cười của Juntaro, vì chú bé không biết gì hết. Và khi Juntaro cười, ông ngoại chú huơ tay bảo im đi. Tôi thường quan sát những người đàn ông và đàn bà mà vào thời kỳ ấy họ còn nhỏ, họ rất nghiêm nghị vì thời thơ ấu họ rất ít cười.
Vào mùa xuân năm 1946, tất cả chúng tôi đều nhận ra rằng chúng tôi sẽ sống qua cảnh thử thách của sự thất bại. Thậm chí có người còn tin rằng một ngày nào đó nước Nhật sẽ đổi mới. Tất cả những chuyện nói rằng nước Mỹ giết chóc, hãm hiếp, hoá ra đều sai hết, trên thực tế, chúng tôi nhận thấy người Mỹ rất tốt. Một hôm có đoàn lính đi trên xe ngang qua khu vực tôi đang ở. Tôi cùng các phụ nữ khác trong xóm ra đứng xem. Trong thời gian ở Gion, tôi tự cho mình là người cách biệt với các phụ nữ khác, và thực tế tôi cảm thấy cách biệt với họ chỉ vì tôi không chịu tìm hiểu họ, không biết họ sống ra sao, thậm chí cách biệt với cả những bà vợ của những ông tôi đã giúp vui. Thế rồi bây giờ tôi đứng với họ, mặc quần lao động rách rưới, tóc xoã sau lưng nhớp nhúa. Tôi không tắm nhiều ngày vì chúng tôi thấy không đủ nhiên liệu để nấu nước tắm, phải vài ngày mới được tắm một lần. Trước mắt những lính Mỹ ngồi trên xe chạy qua trước mắt tôi, trông tôi chẳng khác gì những người đàn bà chung quanh tôi. Một cái cây mà không lá, không vỏ, không rễ, có gọi là cây được không? Tôi là nông dân – tôi tự nhủ - và không còn là geisha chút nào hết. Nhìn hai bàn tay chai sần, tôi cảm thấy hoảng hốt lo sợ. Cố xua đuổi hết những điều lo sợ trong óc đi, tôi chú ý nhìn đoàn xe lính chạy qua. Đây là những người lính Mỹ mà chúng tôi đã được dạy bảo phải căm thù, những người đã dội bom lên các thành phố của chúng tôi rất ác liệt phải không? Bây giờ họ đi qua đất nước chúng tôi, ném kẹo cho con nít.
Sau ngày đầu hàng được một năm, ông Arashino được mọi người khuyến khích làm áo kimono lại. Tôi không biết gì về áo kimono ngoài việc mặc áo, cho nên tôi được giao công việc chăm sóc các vại thuốc nhuộm nấu ở dưới tầng hầm nơi nhà phụ gần bên xưởng thợ. Đây là một việc rất khủng khiếp, một phần vì chúng tôi chỉ có chất đốt gọi là “taidon”, một loại than bùn đóng thành bánh, khi đốt mùi hôi toả ra rất khó chịu. Trong thời gian này, ông bà Arashino dạy cho tôi cách đi kiếm lá và cọng, vỏ cây nào có thể đem về dùng làm thuốc nhuộm, công việc xem như là bước khởi đầu học nghề. Và chính công việc này đã làm co dạ dày của tôi hư hỏng. Bàn tay tôi dùng để múa trước đây phải dùng kem để nuôi da, bây giờ da tróc ra như vỏ hành và lem luốc như bị bầm tím. Trong thời gian này tôi có quen biết thân mật với một thanh niên làm nghề dệt thảm rơm – có lẽ vì quá cô đơn – anh tên là Inoue. Anh ta rất đẹp trai, đường chân mày thanh như vẽ, làn da mịn màng và đôi môi mềm mại rất gợi cảm. Suốt mấy tuần liền, cứ vài đêm, tôi lẻn vào phòng phụ và để cho anh ta vào đây với tôi. Tôi không nhận ra hai bàn tay tôi ghê tởm như thế nào cho đến một đêm, ánh lửa nấu thuốc nhuộm cháy rất sáng khiến cho chúng tôi trông thấy nhau. Sau khi Inoue trông thấy tay tôi, anh ta không muốn tôi sờ tay vào anh ta nữa.
Để cho da tay tôi khỏi hư, ông Arashino giao cho tôi công việc đi hái hoa nhện trong mùa hè. Hoa nhện là loại hoa được dùng ép lấy nước cốt để vẽ trên lụa trước khi phủ hồ và nhuộm. Loại hoa này mọc quanh các mép ao, hồ trong suốt mùa mưa. Tôi nghĩ đây là công việc dễ dàng, cho nên một buổi sáng, tôi mang giỏ lên lưng, đi thưởng thức một ngày tạnh ráo, mát mẻ. Nhưng sau đó, tôi phát hiện ra loài hoa nhện này rất quỉ quái. Chúng được xếp vào loại hoa được côn trùng ưa thích nhất ở nước Nhật. Mỗi khi tôi ngắt một đóa hoa, là cả một bầy bọ chét và muỗi vây vào tấn công tôi, và điều đáng ngại hơn nữa, là chốc chốc tôi lại dẫm lên một con nhái gớm ghiếc. Rồi sau một tuần thu gom hoa khổ sở, tôi làm một công việc mà tôi tưởng chắc sẽ dễ dàng hơn, đó là ép hoa để vắt nước cốt ra. Nhưng khi ngửi mùi nước cốt của hoa nhện đó rồi, tôi thấy sung sướng khi đến cuối tuần lại được đi hái hoa.
Tôi làm việc rất cực nhọc vào những năm ấy. Nhưng mỗi đêm khi đi ngủ, tôi vẫn nghĩ đến Gion. Tất cả các khu geisha ở Nhật đã được mở cửa trở lại sau ngày đầu hàng mấy tháng, nhưng tôi phải đợi cho đến khi Mẹ gọi về tôi mới về được. Bà ta làm ăn rất phát đạt bằng nghề bán áo kimono, tác phẩm nghệ thuật, gươm Nhật cho lính Mỹ. Cho nên trong thời gian này, bà và Dì vẫn ở tại một nông trại nhở ở phía Bắc Kyoto, họ có mở gian hàng buôn bán ở đấy trong khi tôi vẫn tiếp tục sống và làm việc với gia đình ông Arashino.
Chắc anh nghĩ rằng tôi chỉ ở một nơi cách Gion có mấy cây số, nên có lẽ tôi đến thăm họ luôn. Thế nhưng suốt gần năm năm rời Gion, tôi chỉ về lại đấy một lần. Đó là một buổi chiều mùa xuân, khoảng một năm sau khi hết chiến tranh trong khi tôi đi mua thuốc cho Juntaro tại bệnh viện ở quận Kamigyo trở về. Tôi đi dọc theo đại lộ Kawaramachi cho đến tận đại lộ Shijo rồi qua cầu để vào Gion. Tôi rất sửng sốt khi thấy nhiều gia đình sống nheo nhóc khổ sở dọc theo bờ sông.
Ở Gion tôi nhận ra một số geisha, nhưng dĩ nhiên họ không nhận ra tôi, và tôi không nói với họ một tiếng, hy vọng được xem Gion như người ngoài cuộc. Nhưng thật ra, tôi không thấy gì ở Gion hết, mà khi đi qua đấy, tôi chỉ thấy những kỷ niệm hãi hùng thôi. Khi tôi đi dọc theo bờ suối Shirakawa, tôi nhớ đến những buổi chiều tôi và Mameha đi qua đấy. Gần đấy là chiếc ghế đá nơi tôi và Bí Ngô ngồi với hai cái tô mì vào cái đêm tôi nhờ cô ta giúp đỡ. Không xa đấy bao nhiêu là con đường nhỏ nơi Nobu đã khiển trách tôi chấp nhận ông Tướng làm danna. Từ đấy tôi đi nửa khu phố là đến góc đường nằm trên đại lộ Shijọ nơi tôi làm cho anh chàng giao hàng để rơi khay đựng các hộp cơm. Tại tất cả những nơi này, tôi cảm thấy như tôi đang đứng trên sân khấu mấy giờ sau khi vở múa chấm dứt, khi sự yên lặng nặng nề bao trùm lên nhà hát như bức màn tuyết. Tôi đi đến nhà kỹ nữ, nhìn vào chiếc khoá móc bằng sắt nặng nơi cửa với lòng khấp khởi. Khi tôi bị nhốt trong nhà, tôi muốn ra. Bây giờ cuộc sống đã đổi thay, thấy mình bị khóa ở ngoài, tôi lại muốn vào trong. Thế nhưng tôi đã là người lớn rồi, nếu tôi muốn, tôi tự do đi ra khỏi Gion, và không bao giờ trở về nữa.
Một buổi chiều của tháng mười một trời lạnh như cắt, ba năm sau ngày chiến tranh chấm dứt, khi tôi đang hơ tay cho ấm trên những vại nấu thuốc nhuộm ở phòng phụ, thì bà Arashino xuống tìm tôi, bà cho biết có người khách muốn gặp tôi. Nhìn vẻ mặt bà, tôi cứ tưởng đấy là bà hàng xóm nào đấy đến chơi. Nhưng chắcanh có thể tưởng tượng ra vẻ mặt kinh ngạc của tôi khi tôi thấy người khách là ông Nobu. Ông ta ngồi nơi xưởng thợ với ông Arashino, cầm trên tay cái tách trà đã uống hết như thể ông ta đã nói chuyện đã lâu rồi. Khi thấy tôi, ông Arashino đứng dậy. Ông ta nói:
- Tôi có công việc ở phòng bên cạnh. Hai người cứ ngồi đây nói chuyện. Tôi rất sung sướng được ông đến thăm, ông Nobu à.
- Đừng nói chuyện điên, Arashino – Nobu đáp – Sayuri mới là người tôi đến thăm.
Tôi nghĩ ông Nobu đã nói năng thiếu tế nhị, không đáng cười chút nào. Thế nhưng ông Arashino phá lên cười rồi bước ra ngoài và đóng cửa lại.
- Em tưởng thế giới đã đổi thay – tôi nói – nào ngờ ông Nobu vẫn không thay đổi gì hết.
- Tôi không thay đổi – ông ta nói – Nhưng tôi không đến đây để nói chuyện. Tôi muốn biết cô có vấn đề gì không.
- Không có vấn đề gì hết. Thế ông không nhận được thư của em à?
- Thư của cô đọc nghe như thơ! Cô chẳng nói gì đến ngoài việc “nước chảy róc rách thơ mộng” hay là những chuyện vô nghĩa như thế.
- Kìa, ông Nobu, em sẽ không bao giờ mất công gởi thư cho ông nữa.
- Nếu viết thư như thế thì tôi thích cô đừng gửi còn hơn. Tại sao cô không nói cho tôi nghe những chuyện tôi muốn biết, như là khi nào cô trở về Gion? Tháng nào tôi cũng điện thoại đến phòng trà Ichiriki để hỏi về cô, và bà chủ cứ viện cớ này cớ nọ. Tôi cứ tưởng cô mắc bệnh truyền nhiễm gì khủng khiếp rồi. Tôi thấy cô gầy nhiều nhưng khoẻ mạnh. Cái gì giữ cô ở lại đây?
- Ngày nào em cũng nghĩ đến Gion.
- Cô bạn Mameha đã về cách đây hơn một năm rồi. Ngay cả Michizono đã già rồi, mà bà ta cũng có mặt ngay ngày mở cửa. Nhưng không ai có thể nói cho tôi biết tại sao Sayuri không về.
- Nói thật ra, quyết định không phải của em. Em phải đợi Mẹ mở cửa nhà kỹ nữ đã chứ. Em rất sẵn sàng về lại Gion như ông mong muốn em về đấy vậy.
- Vậy thì gọi bà Mẹ nói cho bà ấy biết đã đến lúc trở về. Tôi đã quá kiên nhẫn chờ đợi hơn sáu tháng nay rồi. Cô không hiểu những điều tôi viết trong thư à?
- Khi ông nói ông muốn em về Gion, em nghĩ ông muốn nói ông hy vọng thấy em về đấy cho sớm.
- Nếu tôi nói tôi muốn thấy cô về Gion, tức là tôi muốn nói tôi muốn cô mang hành lý về Gion. Tôi không biết tại sao cô phải đợi cái bà Mẹ ấy của cô! Nếu bây giờ mà bà ta chưa nghĩ đến chuyện quay về, thì bà ta là đồ điên.
- Ít người nói tốt về bà ta, nhưng em cam đoan bà ta không điên. Nếu ông biết bà ta, thế nào ông cũng khâm phục bởi bà ta làm ăn rất phát đạt bằng cách bán đồ lưu niệm cho lính Mỹ.
- Lính tráng không còn ở đây nữa đâu. Cô nói cho bà ta biết ông bạn tốt Nobu của cô muốn cô quay về Gion – nói xong ông ta lấy một cái gói nhỏ, thảy xuống chiếu gần chỗ tôi ngồi. Ông ta không nói tiếng nào nữa, chỉ uống nước trà và nhìn tôi.
- Ông Nobu ném cái gì cho em đấy – tôi hỏi.
- Tôi mang quà đến cho cô. Mở mà xem.
- Nếu ông cho em quà, trước hết em phải mang quà cho ông đã.
Tôi đến góc phòng, nơi tôi để cái rương của tôi, lấy ra chiếc quạt tôi định tặng ông từ lâu. Cái quạt có thể là vật quá đơn giản khi đem tặng người đã cứu tôi khỏi cảnh làm việc khổ nhọc trong nhà máy. Nhưng với một geisha, quạt dùng để múa là vật thiêng liêng – và đây không phải là cái quạt của một vũ công thường, mà là cái quạt của cô giáo cho tôi khi tôi đạt được mức shisho trong trường múa Inoue. Chưa bao giờ tôi nghe có cô geisha nào đem quạt cho ai như thế - chính vì lý do này mà tôi tặng ông.
Tôi gói quạt trong vuông vải, rồi đến đưa cho ông Nobu. Ông giật mình khi mở cái gói vải ra, như tôi biết trước thế nào ông cũng ngạc nhiên. Tôi giải thích rõ ràng lý do tại sao tôi tặng ông vật ấy.
- Cô thật tốt – ông ta nói – nhưng tôi không xứng đáng để nhận món quà này. Cô hãy tặng cho người nào hiểu biết về múa hơn là tặng cho tôi.
- Em không muốn tặng quà này cho ai hết. Nó là một phần của em, và em tặng nó cho ông thôi.
- Nếu vậy, tôi rất cám ơn cô, tôi sẽ nâng niu món quà này. Bây giờ cô hãy mở gói của tôi ra mà xem.
Quà được gói trong giấy, buộc dây chèn một lớp giấy báo, là một viên đá to bằng nắm tay. Tôi nghĩ ít ra tôi cũng ngạc nhiên khi nhận viên đá này như ông Nobu ngạc nhiên khi nhận món quà của tôi. Khi tôi nhìn kỹ, tôi thấy không phải viên đá mà là cục bê tông.
- Trong tay cô là một miếng phế liệu trong nhà máy của chúng tôi ở Osaka – Nobu nói với tôi – Hai trong bốn nhà máy của chúng tôi bị tiêu huỷ. Có nguy cơ toàn bộ công ty của tôi không sống được trong vài năm sắp tới. Cho nên cô thấy đấy, nếu cô cho tôi một phần của cô là cái quạt, tôi nghĩ tôi cũng vừa cho cô một phần của tôi.
- Nếu đây là một phần của ông, em sẽ nâng niu nó.
- Tôi không cho cô để cô nâng niu. Đây là miếng bê tông thôi! Tôi muốn cô giúp tôi biến nó thành đồ nữ trang đẹp đẽ cho cô giữ gìn.
- Nếu ông Nobu biết cách làm như thế, xin ông cho em biết, chúng ta sẽ giàu to!
- Tôi có một công việc cho cô làm ở Gion. Nếu công việc này thành công như tôi hy vọng, công ty của chúng tôi sẽ đứng vững trở lại trong vòng một năm. Khi tôi yêu cầu cô trả cho tôi miếng bê tông này để lấy viên đá quý, thì đã đến lúc tôi trở thành danna của cô.
Khi tôi nghe ông ta nói như thế, tôi cảm thấy da tôi trở nên lạnh ngắt. Nhưng tôi không tỏ vẻ gì hết.
- Bí mật thế ông Nobu, có phải công việc em có thể làm được này sẽ giúp cho công ty điện Iwamura không?
- Đây là một công việc rất khó khăn. Tôi phải nói cho cô biết. Trong hai năm cuối cùng trước khi các phòng trà ở Gion đóng cửa, có một người đàn ông tên là Sato thường đến dự các buổi tiệc như là khách của ông Bộ trưởng. Tôi muốn cô trở lại để giúp ông ta mua vui.
Nghe xong tôi phải bật cười.
- Công việc gì mà phải khủng khiếp như thế không biết! Tuy nhiên ông Nobu không thích ông ta bao nhiêu, em nghĩ chắc em đã hầu vui ông ta tệ bấy nhiêu.
- Nếu cô còn nhớ ông ta, chắc cô sẽ thấy công việc này khủng khiếp như thế nào. Ông ta hay gắt gỏng, khó chịu, cư xử như một con heo. Ông ta nói ông ta thường ngồi đối diện với cô nơi bàn để có thể nhìn thẳng vào cô được. Cô là người duy nhất ông ta thường nói chuyện – nghĩa là khi ông ta nói – vì hầu hết thời gian ấy ta chỉ ngồi. Có thể cô đã thấy ông ta được báo chí nhắc nhở đến trong tháng qua, ông ta vừa được chỉ định làm Thứ trưởng bộ tài chính.
- Trời đất ơi! Chắc ông ta rất có năng lực – tôi nói.
- Ồ, có mười lăm người hay hơn nữa đã năm chức vụ ấy rồi. Tôi biết ông ta có khả năng nốc sakê vào miệng thôi, tôi chỉ thấy ông ta làm được có mỗi công việc ấy thôi. Tương lai của một công ty lớn như chúng ta mà phải chịu ảnh hưởng của một người như anh chàng này thì quả thật bi đát! Thật là một giai đọan kinh khủng để sống còn, Sayuri à.
- Ông Nobu, ông không nên nói chuyện như thế.
- Tại sao không? Không ai nghe tôi hết.
- Không phải là vấn đề có ai nghe ông hay không. Mà là thái độ của ông! Ông không nên suy nghĩ theo kiểu ấy.
- Tại sao không nên? Công ty chưa bao giờ gặp tình cảnh tệ mạt như lúc này. Trong những năm chiến tranh, ông Chủ tịch nhất quyết không làm theo lệnh của chính quyền. Rồi đến khi ông ta bằng lòng hợp tác, thì chiến tranh gần chấm dứt, không làm gì được cho chính phủ hết. Họ không lấy được một thứ gì để đem vào mặt trận hết. Nhưng phải chăng vì thế mà đã ngăn người Mỹ xếp loại công ty đồ điện Iwamura vào lọai đại tư sản như công ty Misubishi? Rất kỳ cục, so với công ty Misubishi, chúng tôi như con chim sẻ nhìn con sư tử. Và đây là điều tệ hại hơn nữa: nếu chúng tôi không thuyết phục được họ về trường hợp của chúng tôi, công ty sẽ bị đem bán để trả nợ tiền bồi thường chiến tranh! Cách đây hai tuần tôi đã thấy tình hình quá tệ, rồi bây giờ họ chỉ định anh chàng Sato này đến điều tra làm báo cáo đề nghị trường hợp của chúng tôi. Người Mỹ cho rằng họ rất khôn khéo khi chỉ định người Nhật. Còn tôi, tôi muốn thấy họ chỉ định con chó vào chức vụ này hơn anh ta.
Bỗng Nobu ngừng lại và nói sang chuyện khác:
- Hai bàn tay của cô sao thế?
Từ khi bên nhà phụ sang, tôi đã cố giấu hai bàn tay. Và bây giờ ông Nobu trông thấy được. tôi đáp:
- Ông Arashino có hảo ý cho em làm công việc nấu thuốc nhuộm.
- Hy vọng ông ấy biết cách làm cho hai bàn tay mất hết các vết bẩn này đi – ông Nobu nói – cô không thể về Gion với hai bàn tay như thế này.
- Ông Nobu, hai bàn tay của em là vấn đề khó khăn nhất. Em nghĩ em không thể về Gion được. Em đã cố sức thuyết phục Mẹ nhưng thú thực, em không có quyền quyết định. Vả lại chắc có nhiều geisha khác có thể giúp được…
- Không có cô geisha nào khác được! Ngày hôm kia tôi đã đưa Thứ trưởng Sato cùng năm sáu người khác nữa đến một phòng trà. Ông ta không nói một tiếng suốt cả giờ, rồi cuối cùng, ông ta đằng hắng giọng và nói “Đây không phải là phòng trà Ichiriki” - tôi đáp lại “Không, không phải, ông nói đúng!” – ông ta gầm gừ như con heo rồi nói “Cô Sayuri giải trí ở phòng trà Ichiriki?” – thật phải đáp lại – “Không, thưa Thứ trưởng, nếu cô ấy ở Gion, cô ta đã đến đây để giải trí cho chúng ta rồi. Tôi đã nói với ông rồi, cô ta không có ở Gion!” – nghe xong ông ta bưng tách sakê lên.
- Em hy vọng ông lịch sự với ông ta hơn thế - tôi đáp.
- Đương nhiên tôi không lịch sự hơn thế! Tôi chịu đựng ông ta nửa tiếng đồng hồ như thế là đủ rồi. Sau đó tôi không giữ gìn ý tứ gì nữa. Chính vì thế mà tôi muốn cô đến đấy. Đừng lập lại là cô không có quyền quyết định. Cô phải làm việc này giúp tôi và chắc cô biết rất rõ tầm quan trọng của việc này. Vả lại, sự thật là...tôi muốn có cơ hội để sống gần cô.
- Và em cũng muốn sống gần ông, thưa ông Nobu.
- Khi cô về lại, cô đừng mang theo ảo tưởng gì hết.
- Sau mấy năm qua, chắc em không còn ảo tưởng gì nữa. Nhưng có phải ông Nobu nghĩ đến chuyện thực tế không?
- Đừng nghĩ đến chuyện trong vòng một tháng là tôi trở thành danna của cô. Trước khi công ty đồ điện Iwamura hồi phục, tôi sẽ không tính đến chuyện đưa ra đề nghị ấy. Tôi rất bận lo cho tương lai của công ty. Nhưng thực sự mà nói, Sayuri, tôi cảm thấy yên tâm về tương lai của công ty sau khi gặp cô.
- Ông Nobu! Tốt làm sao!
- Đừng kỳ cục, tôi không nịnh cô đâu. Số phận cô và tôi đã vướng mắc vào nhau. Có lẽ sự tái ngộ của chúng ta đã được an bài như lần chúng ta gặp nhau đầu tiên.
Trong những năm cuối cùng của chiến tranh, tôi đã cố không thắc mắc đến chuyện số phận an bài hay không nữa. Tôi thường nói với các người đàn bà xóm giềng ở đây rằng không biết tôi có trở về Gion lại hay không – nhưng thực ra, tôi luôn luôn biết rằng tôi sẽ về. Số phận của tôi, dù sao cũng đang đợi tôi ở đấy. Trong những năm qua, tôi đã đợi chờ số phận bằng cách biến nước trong người thành nước đá. Tôi đợi chờ bằng cách không thắc mắc đến số phận...đúng rồi, tôi cảm thấy ông ta đã đập tan khối nước đá trong người tôi và đánh thức lòng ham muốn của tôi dậy.
- Ông Nobu – tôi nói – nếu việc gây ấn tượng tốt với ông Thứ trưởng là điều quan trọng, có lẽ ông nên yêu cầu ông Chủ tịch có mặt ở đấy khi ông mua vui cho ông ta.
- Ông Chủ tịch rất bận công việc.
- Nhưng nếu quả thật ông Thứ trưởng thật quan trọng cho tương lai của công ty thì…
- Cô lo có mặt ở đấy. Còn tôi lo về những việc có lợi cho công ty. Nếu cuối tháng mà cô không có mặt ở Gion thì tôi sẽ hết sức thất vọng đấy.
Nobu đứng dậy để ra về, vì ông ta phải về Osaka trước khi trời tối. Tôi tiễn ông ta ra cửa, giúp ông mặc áo khoác, mang giày, đội mũ phớt lên đầu. Khi tôi làm xong, ông ta đứng nhìn tôi một hồi lâu. Tôi nghĩ chắc ông ta sẽ nói rằng tôi đẹp – vì đây là lối nói của ông mỗi khi ông nhìn tôi một cách vô cớ như thế.
- Trời ơi, Sayuri! Trông cô như một con mụ nhà quê! – Ông ta nói, nhăn mặt, quay đi.

Chuong 30

Ngay đêm đó, trong khi gia đình Arashino đã đi ngủ, tôi viết thư cho Mẹ dưới ánh lửa than “taidon” nấu thuốc nhuộm ở nhà phụ. Tôi không biết có phải do bức thư của tôi mà Mẹ chuẩn bị mở cửa nhà kỹ nữ lại hay không. Nhưng một tuần sau có một bà già đến gõ cửa nhà Arashino, và khi tôi ra mở cửa, tôi thấy bà Dì đang đứng bên ngoài. Hai má bà hóp vào, vì răng đã rụng hết, và da dẻ xám ngắt như người bị sốt rét. Nhưng tôi thấy bà vẫn mạnh khỏe. Bà xách theo một bao than trên một tay, còn tay kia xách một bao thực phẩm, bà mang đến biếu gia đình Arashino để cám ơn họ đã cho tôi tá túc bấy lâu nay.
Ngày hôm sau, tôi chảy nước mắt từ giã gia đình Arashino về lại Gion để cùng Mẹ và Dì bắt tay vào việc dọn dẹp nhà cửa. Khi nhìn cảnh nhà kỹ nữ tôi nghĩ ngôi nhà đã trừng phạt chúng tôi vì tội bỏ bê bao nhiêu năm qua. Chúng tôi phải bỏ ra bốn năm ngày liền để giải quyết các vấn đề khó khăn nhất: đó là lau chùi bụi bặm bám một lớp dầy trên các đồ gỗ, vớt chuột chết ở dưới giếng lên, lau chùi phòng của Mẹ ở trên lầu, ở đây chim đã phá rách chiếu rơm, lôi rơm để làm tổ ở hốc tường. Tôi ngạc nhiên thấy Mẹ làm việc rất cật lực, một phần vì chúng tôi chỉ còn giữ lại bà đầu bếp và một chị hầu lớn tuổi, nhưng chúng tôi có thêm một con bé tên là Etsuko. Cô bé là con gái ông chủ trại đã để bà Mẹ và Dì tá túc. Etsuko làm tôi nhớ lại những năm khi tôi mới đến Kyoto, vì cô bé cũng mới chín tuổi. Cô bé nhìn tôi cũng với ánh mắt sợ sệt như khi tôi nhìn Hatsumono, mặc dù tôi thường cười với cô ta. Cô bé cao, gầy như một cái chổi, khi đi trong nhà, mái tóc dài phất phơ phía sau. Khuôn mặt nhỏ xíu như hạt gạo, khiến tôi phải nghĩ rằng chắc đến một ngày nào đó cô ta cũng bị đem nấu như tôi để thành hạt cơm trắng toát ngon lành dọn giữa mâm cơm.
Khi nhà cửa đã yên ổn, tôi đi thăm viếng chào hỏi những nơi quen biết ở Gion. Tôi ghé thăm Mameha, bây giờ cô không có danna để có tiền thuê căn hộ rộng rãi được. Khi gặp tôi, cô ấy có vẻ kinh ngạc, vì cô nói mặt tôi trơ xương, nhưng phải nói là tôi kinh ngạc khi gặp cô ấy mới phải. Khuôn mặt trái xoan xinh đẹp của cô vẫn không thay đổi, nhưng cái cổ nổi gân và trông cô ấy quá già. Điều lạ nhất là thỉnh thoảng miệng cô ấy nhăn lại như bà già, vì răng của cô tuy không có gì thay đổi, nhưng đã bị long chân trong thời gian chiến tranh nên làm cho cô đau nhức.
Chúng tôi nói chuyện một hồi lâu, tôi quay qua hỏi cô không biết chúng tôi có tổ chức Vũ điệu Cố đô vào mùa xuân sắp đến không. Nhiều năm rồi không tổ chức trình diễn các vũ điệu này.
- Ỗ, sao lại không? – cô ấy đáp – Chủ đề của các màn trình diễn sẽ có tên “Vũ điệu trong suối”.
Nếu anh đã có lần đi thăm khu nghỉ mát có suối nước nóng hay chỗ nào đại loại như thế, anh sẽ thấy ở đấy có nhiều phụ nữ giả làm geisha để mua vui cho khách, họ đều là gái điếm cả, anh sẽ hiểu được lời nói có tính khôi hài này của Mameha. Người phụ nữ trình diễn màn Vũ điệu trong suối này có hành động như vũ thoát y. Chị ta giả vờ lội nước càng lúc càng lâu, nên chị vén vạt áo lên cho đến lúc khách thấy cái gì họ muốn thấy, rồi họ vui vẻ cụng ly với nhau.
- Với lượng lính Mỹ ở Gion như hiện nay – cô ấy nói tiếp – tiếng Anh của cô sẽ được việc cho cô nhiều hơn là múa. Tuy nhiên, nhà hát Kaburenjo đã biến thành một Kyabarei rồi đấy.
Tôi chưa bao giờ nghe nói đến từ này, nó do từ tiếng Anh Cabaret mà ra, tôi hỏi cô ấy mới biết nó có nghĩa là nơi múa hát vui chơi trong các hộp đêm. Trong thời gian còn ở với gia đình Arashino, tôi đã nghe nhiều chuyện về lính Mỹ với các buổi tiệc ồn ào của họ. Thế nhưng vào xế chiều hôm ấy, khi tôi đi vào một phòng trà, tôi quá đỗi ngạc nhiên thấy nhiều giày lính để lộn xộn trước cửa, chiếc nào chiếc nấy to như con chó Taku của Mẹ, chứ không phải một hàng giày đàn ông nằm ngay ngắn dưới tầng cấp như lúc trước nữa. Đi vào tiền sảnh, vật đầu tiên tôi thấy là một lính Mỹ mặc đồ lót đang co mình dưới kệ ở hốc tường, trong khi hai phụ nữ vừa cười vừa cố lôi anh ta ra. Khi tôi nhìn vào những đám lông đen trên tay, trên ngực, và ngay cả trên lưng anh ta, tôi cảm thấy chưa bao giờ tôi nhìn thấy một cảnh tượng không mấy đẹp như thế này. Rõ ràng anh ta đã mất cả áo quần trong trò thi uống rượu và cố đi trốn, nhưng sau đó anh ta để cho các cô nắm tay lôi ra khỏi hốc tường, dẫn ra hành lang và đẩy vào cửa. Tôi nghe tiếng reo hò, cười cợt khi anh ta vào phòng.
Khoảng một tuần sau ngày trở về, tôi chuẩn bị để xuất hiện lần đầu tiên làm geisha lại. Tôi bỏ trọn một ngày để đi từ tiệm làm tóc đến nhà người bói toán, ngâm tay để tẩy sạch vết dơ cuối cùng, và tìm khắp Gion để mua đồ hóa trang cần thiết. Khi ấy tôi đã gần ba mươi rồi, tôi không cần phải tô trắng mặt nữa, ngoại trừ vào những trường hợp đặc biệt. Nhưng ngày hôm ấy tôi cũng bỏ ra nửa giờ ngồi trước bàn trang điểm, dùng các thứ son phấn trang điểm theo kiểu Tây phương cho khuôn mặt của tôi bớt gầy ốm. Khi ông Bekku giúp tôi mặc áo, bé Etsuko đứng nhìn tôi như lúc trước tôi nhìn Hatsumono, và khi nhìn vào cặp mắt kinh ngạc của cô bé đang nhìn tôi trong gương, không nhìn gì khác nữa, tôi cũng biết tôi đã thực sự thành geisha trở lại.
Thế là tối đến tôi ra khỏi nhà, khắp Gion phủ một tấm màn tuyết thật đẹp, bụi tuyết phủ trắng các mái nhà. Tôi quàng khăn ra ngoài kimono, cầm dù sơn, tôi nghĩ người ta sẽ không nhận ra tôi như ngày tôi về Gion giống một cô gái quê. Tôi chỉ nhận ra khoảng một nửa các cô geisha tôi gặp ngòai đường. Rất dễ nhận ra cô nào sống ở Gion trước chiến tranh, và họ cúi chào tôi lịch sự khi gặp tôi, thậm chí có người có vẻ không nhận ra tôi. Còn những người khác chỉ gật đầu nhẹ thôi.
Thấy những lính ngoài đường, tôi sợ không biết khi đến phòng trà Ichiriki, tôi sẽ thấy cái gì. Nhưng khi đến nơi, cả một dãy giày sĩ quan đen bóng để ngoài cửa, và lạ thay, phòng trà im lặng hơn cả vào những ngày tôi còn làm tập sự. Nobu chưa đến – hay ít ra tôi chưa thấy dấu hiệu gì của ông ây – nhưng tôi được mời đến thẳng một căn phòng ở tầng dưới và được báo cho biết ông ta sắp đến. Thường khi tôi phải đợi ở khu gia nhân ở cuối hành lang, ở đây tôi được sưởi ấm tay và uống một tách trà nóng, không geisha nào muốn khách thấy mình ngồi nhàn rỗi. Nhưng tôi không nôn nóng vì phải đợi Nobu, mà tôi cảm thấy được ngồi đây vài phút quả là một đặc ân. Trong năm năm qua, tôi rất thèm được nhìn ngắm các đồ mỹ thuật, mà căn phòng này lại rất đẹp, khiến tôi say sưa chiêm ngưỡng. Tường phòng được phủ một lớp lụa màu vàng nhạt, cách sắp xếp rất mỹ thuật, tôi cảm thấy ấm cúng như được che chở an tòan, y như quả trứng được lớp vỏ bao bọc.
Tôi đợi Nobu đến, nhưng khi tôi nghe tiếng ông ta ngoài hành lang, tôi biết ông ta đã đưa ông Thứ trưởng Sato đến. Như tôi đã nói, tôi không quan tâm đến chuyện Nobu thấy tôi ngồi đợi, nhưng tôi nghĩ để cho ông Thứ trưởng thấy tôi ngồi đợi thì rất tai hại, vì có thể ông ta cho tôi là đồ tâm thường. Cho nên tôi vội lẻn nhanh qua phòng bên cạnh đấy. Phòng này không có ai hết. Nhờ thế mà tôi nghe được ông Nobu ba hoa chích chòe ở phòng bên kia.
- Phòng được không, thưa ông Thứ trưởng? – ông ta nói. Tôi nghe có tiếng trả lời nho nhỏ - tôi đã yêu cầu dành phòng này cho ông. Bức tranh vẽ theo kiểu trường phái Zen đẹp chứ, phải không thưa ông? – Rồi sau một hồi im lặng, Nobu nói thêm – phải đêm thật đẹp. Ồ, không biết ông đã nếm rượu sakê đặc biệt của phòng trà Ichiriki chưa nhỉ?
Chuyện tiếp diễn như thế đấy. Nobu có vẻ thoải mái khi giả vờ nhã nhặn hiền lành. Cuối cùng tôi đẩy cửa đi vào. Nobu mừng rỡ ra mặt khi trông thấy tôi.
Sau khi tự giới thiệu xong và quỳ xuống bên bàn, tôi mới ngước mắt nhìn ông Thứ trưởng. Mặc dù ông ta tuyên bố ông ta đã ngồi hàng giờ để nhìn tôi, nhưng tôi vẫn không nhận ra ông ta. Tôi không biết tại sao tôi lại có thể quên được ông ta, vì ông ta có một diện mạo rất dễ nhớ: tôi chưa bao giờ trông thấy có người nào quá lúng túng như thế, cứ cúi gầm mặt xuống mãi. Cằm của ông ta gần sát xương đòn gánh như là ông ta không thể ngẩng đầu lên được. còn hàm dưới thì bạnh ra trước, đến nỗi hơi thở có vẻ như bay ngược trở lại vào mũi. Sau khi gật nhẹ đầu chào tôi và xưng tên, tôi không nghe ông ta nói gì nữa ngòai những tiếng càu nhàu không ai hiểu ông ta muốn nói gì.
Tôi cố gợi chuyện một hồi lâu mới thấy cô hầu bưng khay sakê vào. Tôi rót rượu đầy tách cho ông ta, và tôi ngạc nhiên khi thấy ông ta trút tách rượu vào hàm dưới như trút vào ống cống. Ông ta ngậm miệng một lát rồi lại mở ra và trút rượu vào, rượu chảy xuống họng, không có dấu hiệu gì lộ ra như mọi người làm mỗi khi họ nuốt rượu xuống họng. Tôi chỉ biết ông ta đã nuốt rượu xong khi ông ta đưa cái tách không ra.
Ông ta uống rượu như thế mười lăm phút liền, hay nhiều hơn nữa trong khi tôi cố sức làm cho ông Thứ trưởng thoải mái bằng cách kể chuyện và nói đùa cho ta nghe, rồi hỏi ông ta đôi ba câu. Nhưng rồi tôi nhận thấy không có gì có thể làm “cho ông Thứ trưởng thoải mái” được. Ông ta không trả lời tôi một tiếng. Tôi đề nghị chúng tôi chơi trò chơi thi uống rượu, thậm chí tôi còn hỏi ông ta có thích hát hay không. Nửa giờ đầu trôi qua như thế, ông Thứ trưởng mới hỏi tôi có phải là vũ công hay không.
- Phải, em là vũ công. Ông Thứ trưởng có muốn em múa một điệu ngắn không?
- Không – ông ta đáp. Và thế là hết.
Ông Thứ trưởng có thể không nhìn thẳng vào mắt ai, nhưng ông thích nhìn kỹ thức ăn, vì tôi nhận ra điều này sau khi người hầu mang bữa cơm tôi đến cho hai người đàn ông. Trước khi bỏ thức ăn vào miệng, ông ta dùng đũa trở qua trở lại để xem xét thật kỹ. Nếu ông ta không biết đấy là thức ăn gì, ông ta hỏi tôi.
- Thưa đấy là khoai mỡ rán chấm với nước tương đậu nành – tôi nói cho ông ta biết khi ông ta đưa miếng thức ăn có màu vàng cam lên.
Thực ra tôi không biết chắc đấy có phải là miếng khoai mỡ, hay là lát gan cá voi, hay là cái gì, nhưng tôi nghĩ là ông Thứ trưởng không muốn nghe những thứ ấy. Sau đó, khi ông ta gắp lên một miếng thịt bò chấm nước sốt và hỏi tôi, tôi bèn định trêu ông ta chơi.
- Ỗ, đây là da chấm nước sốt – tôi nói – Đây là món đặc sản ở đây. Món ấy là da voi.
- Da voi à?
- Thưa Thứ trưởng, chắc ông biết em nói đùa chứ! Đây là thịt bò. Tại sao ông nhìn thức ăn kỹ thế? Bộ ông nghĩ là ở đây dọn thịt chó hay thịt gì ba láp cho ông ăn à?
- Tôi ăn được thịt chó mà. – ông ta đáp.
- Thế thì tuyệt quá. Nhưng đêm nay ở đây không có thịt chó. Ông đừng nhìn kỹ vào đũa như thế nữa.
Sau đó chúng tôi chơi trò thi uống rượu. Nobu rất ghét chơi trò này, nhưng ông ta giữ bình tĩnh sau khi tôi nhăn mặt với ông ta. Chắc chúng tôi đã để cho ông Thứ trưởng thua nhiều, vì sau đó, khi chúng tôi giải thích luật lệ chơi trò thi uống rượu mà chưa bao giờ ông ta chơi này, thì cặp mắt ông ta đã lờ đờ thất thần rồi. Ông ta đứng dậy đi đến phía góc phòng.
- Kìa ông Thứ trưởng – Nobu nói – ông đi đâu thế?
Câu trả lời của ông Thứ trưởng là một tiếng ợ, tôi nghĩ đây là câu trả lời quá rõ ràng rồi, nghĩa là ông ta sắp sửa mửa ra. Nobu và tôi chạy đến phía ông ta, nhưng ông ta đã lấy tay bịt lấy miệng. Nếu ông ta là ngọn núi lửa, thì bây giờ là lúc đang phun khói, cho nên chúng tôi phải mở nhanh cánh cửa thông ra vườn để cho ông ta mửa lên trên tuyết. Chắc anh kinh hòang khi nghĩ đến chuyện một người mửa trên một mảnh vườn trồng cây cảnh đẹp như thế, nhưng ông Thứ trưởng không phải là người đầu tiên. Giới geisha chúng tôi giúp ông ta đi đến nhà vệ sinh, nhưng thỉnh thỏang chúng tôi làm không được. Nếu chúng tôi nói cho cô hầu biết có một ông ra viếng vườn hoa, họ sẽ vội vàng mang dụng cụ làm vệ sinh chạy đến ngay.
Nobu và tôi cố giữ cho ông Thứ trưởng quì trên ngưỡng cửa để đầu chồm ra ngoài trên mặt tuyết. Nhưng mặc dù chúng tôi đã cố gắng hết sức, ông ta vẫn ngã nhào về phía trước. Tôi cố đẩy ông ta sang một bên để cho ông ta khỏi ngã lên chỗ mửa. Nhưng ông Thứ trưởng to như con bò mộng, cho nên tôi chỉ làm được công việc là đẩy ông ta nằm nghiêng một bên.
Nobu và tôi không làm gì được ngoài việc thất vọng nhìn cảnh ông Thứ trưởng nằm bất động trên tuyết, như một cành cây rơi xuống đất.
- Kìa ông Nobu – tôi nói – tôi không hiểu tại sao khách của ông lại tức cười như thế này.
- Theo tôi thì chúng ta đã giết ông ấy. Nếu cô hỏi tôi thì tôi xin đáp là ông ta đáng đời. Con người gì thật đáng giận!
- Ông cư xử với khách như thế này sao? Ông phải đưa ông ta ra ngoài đường, dẫn ông ta đi một vòng cho tỉnh táo. Hơi lạnh sẽ làm cho ông ta chóng tỉnh.
- Ông ta đang nằm trong tuyết không lạnh sao?
- Ông Nobu! – tôi nói.
Tôi nghĩ lời tôi nói ra có vẻ như lời khiển trách, vì Nobu thở dài, rồi ông ta bước ra ngoài vườn, chân chỉ mang vớ, cố làm cho ông Thứ trưởng tỉnh dậy. Trong lúc ông ta làm công việc này, tôi đi tìm một cô hầu đến giúp, vì tôi thấy ông Nbbu chỉ với một tay thật rất khó khăn đưa được ông Thứ trưởng vào lại trong nhà. Sau đó tôi đi tìm vớ khô cho hai người rồi báo cho cô hầu biết để cô ta ra dọn sạch sau vườn. Khi tôi trở vào phòng, ông Nobu và ông Thứ trưởng đã ngồi lại vào bàn. Chắc anh có thể tưởng tượng ra ông Thứ trưởng trông như thế nào, và có mùi như thế nào. Tôi phải đích thân cởi vớ của ông ta ra, nhưng tôi phải nhích người ra xa khi làm việc này. Khi tôi tháo vớ xong, ông ta gục xuống nằm dài trên chiếu một lát.
- Ông ấy có nghe chúng ta nói không? – tôi hỏi nhỏ Nobu.
- Ngay cả khi còn tỉnh, ông ấy cũng đã không nghe chúng ta nói. Có bao giờ cô gặp thằng cha nào điên hơn ông ta chưa?
- Ông Nobu, nói nhỏ nhỏ thôi chứ. Ông có tin ông ta vui thích đêm nay không? Có phải là ông có dự định làm như thế này không?
- Không phải tôi dự định, mà chính ông ta có dự định ấy.
- Em không tin chúng ta sẽ làm như thế này nữa vào tuần sau.
- Nếu ông Thứ trưởng đêm nay mà hài lòng, tôi cũng hài lòng.
- Thật sao ông Nobu? Chắc ông không hài lòng đâu! Trông ông có vẻ quá khổ sở. Nhìn tình trạng của ông Thứ trưởng như thế này, em nghĩ chúng ta phải xác nhận là ông ấy không được hưởng một đêm tốt lành.
- Cô đừng xác nhận gì hết khi thấy chuyện này xảy đến cho ông ta.
- Em nghĩ nếu chúng ta tạo được không khí vui nhộn thì chắc ông ấy sẽ được vui. Ông không nghĩ như thế sao?
- Nếu cô nghĩ làm thế sẽ tốt hơn, thì lần sau cô mời đến ít cô geisha nữa. Cuối tuần sau chúng tôi sẽ quay lại, cô mời cô chị cả của cô đến.
- Mameha thông minh thật đấy, nhưng chắc ông Thứ trưởng sẽ không vui với chị ấy đâu. Chúng ta cần một geisha thật vui nhộn mới được! một người làm cho ai nấy đều thấy vui. Mà này, theo em nghĩ thì..chúng ta cần thêm một người khách nữa, chứ không cần thêm geisha.
- Tôi thấy chẳng có lý do gì để làm như thế.
- Nếu ông Thứ trưởng bận uống và nhìn em, còn ông thì càng lúc càng chán mứa ông ấy, chúng ta sẽ trải qua một buổi tối chẳng vui chút nào hết. Ông Nobu này, thật sự mà nói, có lẽ ông nên mời ông Chủ tịch đến vào lần sau.
Có lẽ anh tự hỏi phải chăng tôi đã thu xếp buổi tối sao cho có được giây phút như thế. Dĩ nhiên, khi về lại Gion, tôi hy vọng sẽ tìm ra cách để được gần gũi ông Chủ tịch. Tôi ao ước sao có cơ hội để được ngồi gần một bên ông ấy, thì thào nói chuyện với ông, hít ngửi mùi da thịt của ông. Mặc dù cuộc đời của tôi đang bị ràng buộc vào cuộc đời của ông Nobu, nhưng tôi vẫn không từ bỏ sẽ có cơ hội gặp ông Chủ tịch.
- Tôi đã nghĩ đến chuyện dẫn ông Chủ tịch đi – Nobu trả lời – ông Thứ trưởng cũng rất thích ông Chủ tịch. Nhưng như tôi đã nói, ông ấy rất bận việc.
Ông Thứ trưởng vùng vằng trên chiếu như thể có ai đang thọc lét ông, rồi ông ta cố gắng lồm cồm ngồi dậy. Nobu có vẻ ghê tởm khi thấy quần áo dơ bẩn của ông ta, bèn bảo tôi đi tìm người hầu để đem khăn đến lau áo quần của ông ấy. Lua xong, cô hầu rút lui. Nobu nói:
- Có lẽ đêm nay là đêm tuyệt vời của ông, ông Thứ trưởng à. Lần sau chắc chúng ta sẽ vui hơn, bởi vì thay vì ông mửa vào tôi, ông sẽ được mửa vào ông Chủ tịch và có lẽ mửa vào vài cô geisha khác nữa.
Tôi rất vui mừng khi nghe Nobu nhắc đến ông Chủ tịch, nhưng tôi không dám để lộ vẻ gì.
- Tôi thích cô geisha này – ông Thứ trưởng nói – tôi không thích cô geisha khác.
- Cô ấy tên là Sayuri, ông nên gọi như thế, nếu không, cô ta sẽ không đến nữa đâu. Thôi bây giờ xin mời ông đứng dậy, thưa ông Thứ trưởng. Đến lúc ta về nhà rồi.
Tôi tiễn hai người ra cửa, giúp họ mặc áo khoác và mang giày, rồi đứng nhìn họ đi ra trong tuyết. Ông Thứ trưởng đã say mèm, nếu không có ông Nobu nắm tay dẫn đi, chắc thế nào ông ta cũng té nhào đầu vào cổng.
Cũng vào đêm đó, sau khi ra về, tôi đã cùng Mameha đến dự một buổi tiệc có nhiều sĩ quan Mỹ. Lúc chúng tôi đến, người thông ngông không giúp gì cho ai được, vì họ đã cho anh ta uống say mèm, nhưng các sĩ quan nhận ra được Mameha. Tôi ngạc nhiên khi thấy họ vẫy tay hò hét ra dấu yêu cầu cô ấy múa. Tôi cứ tưởng chúng tôi ngồi yên để xem cô ấy múa, nhưng không, các sĩ quan đứng dậy nhảy múa theo. Thấy thế, tôi bật cười thoải mái. Sau đó chúng tôi bày ra một trò chơi khác, Mameha và tôi thay phiên nhau đàn, còn các sĩ quan nhảy múa quanh bàn. Bất cứ khi nào chúng tôi ngưng bàn, họ phải chạy về chỗ ngồi, kẻ nào về chỗ ngồi sau cùng sẽ bị phạt uống rượu sakê.
Đến giữa chừng buổi tiệc, tôi nói với Mameha rằng bữa tiệc rất vui mặc dù ngôn ngữ bất đồng, trong khi mới trước đó một buổi tiệc chỉ có ba người mà lại rất buồn. Cô ấy bảo tôi miêu tả bữa tiệc cho cô ấy nghe rồi nói:
- Ba người thì quá ít, mà một người là Nobu rồi, người tính tình thường cau có.
- Em đề nghị lần sau mời ông Chủ tịch đến. Và chúng tôi cũng cần thêm geisha nữa, chị nghĩ sao? Cần cô nào cho ồn ào vui nhộn.
- Phải, có lẽ tôi sẽ đến.
Tôi hoảng hốt khi nghe cô ấy nói như thế. Vì không ai cho Mameha là “người ồn ào vui nhộn”. Tôi định nói cho cô ấy biết ý của tôi thì cô ấy bỗng nói:
- Phải, tôi muốn ghé đến …nhưng tôi nghĩ nếu cô muốn có người ồn ào vui nhộn, thì cô nên mời cô bạn Bí Ngô của cô.
Từ khi trở lại Gion, tôi thấy khắp nơi trong nhà đều có những kỷniệm về Bí Ngô. Thật vậy, khi tôi vừa mới bước vào nhà lần đầu, tôi liền nhớ cảnh cô ấy đứng trong tiền sảnh vào ngày Gion đóng cửa, cô ta buồn rầu cúi chào giã biệt tôi, thái độ cúi chào của người có bổn phận phải chào cô gái được nhận làm con nuôi trong nhà. Suốt cả tuần làm vệ sinh nhà cửa, tôi cứ nghĩ đến cô ta mãi. Trong lúc giúp chị hầu chùi bụi các đồ gỗ, tôi hình dung ra cảnh Bí Ngô ngồi trên hành lang gỗ đang tập đàn Shamisen. Chiếc hành lang nhỏ gợi lại cho tôi bao nhiêu kỷ niệm buồn. Đã bao nhiêu năm trôi qua rồi nhỉ? Không bao giờ tôi quên được những ngày đau buồn ấy. Tôi trách Hatsumono đã làm cho tình bạn của chúng tôi bị sứt mẻ. Việc tôi được nhận làm con nuôi là nhát cắt cuối cùng làm đứt hẳn tình bạn của chúng tôi, nhưng tôi không thể nào quên được nó. Bí Ngô đã cư xử tốt với tôi. Tôi phải tìm cách để cám ơn cô ấy mới được.
Lạ thay, tôi phải đợi cho tới khi Mameha nhắc đến cô ta, tôi mới nghĩ đến cô, tôi nghĩ tiếp xúc lại với cô ấy thế nào cũng ngượng ngùng khó chịu, nhưng tôi đã suy nghĩ cả đêm và đi đến quyết định phải giới thiệu cho Bí Ngô trở lại các buổi tiệc, bây giờ là các buổi tiệc của lính. Thế là sau nhiều năm, có lẽ bây giờ chúng tôi bắt đầu hàn gắn lại tình bạn với nhau.
Tôi không biết gì về tình trạng của Bí Ngô hết, ngoại trừ chuyện tôi biết cô ta đã về lại Gion rồi. Tôi đến nói chuyện với bà Dì, mới biết mấy năm về trước, bà có nhận được một bức thư của cô ấy. Trong thư, Bí Ngô xin được trở về lại nhà kỹ nữ khi nào mở cửa lại, vì cô ta cho biết cô ta không biết đi đâu. Bà Dì thì bằng lòng để cho cô ta trở về, nhưng bà Mẹ không muốn, bà cho rằng đầu tư vào Bí Ngô không có lợi. Bà Dì nói với tôi:
- Nó đang ở trong một nhà kỹ nữ nhỏ nghèo khổ ở khu vực Hanami. Nhưng đừng thương hại mà đem nó về đây. Mẹ không muốn thấy nó. Tôi nghĩ nếu cô đem chuyện này mà nói với Mẹ là điên đấy.
- Tôi xin thú thực rằng những chuyện xảy ra giữa tôi và Bí Ngô trước đây là bất công…
- Không có gì xảy ra giữa cô và Bí Ngô hết. Bí Ngô thất bại, còn cô thành công. Dù sao, bây giờ cô ấy cũng đã có nơi ăn chốn ở rồi. Tôi nghe lính Mỹ không mấy ưa cô ấy. Chắc cô biết rồi, cô ấy cục cằn, không thích hợp cho ta.
Ngay chiều hôm đó tôi qua đại lộ Shijo đến khu vực Hanami, tìm nhà kỹ nữ nhỏ mà bà Dì nói cho tôi biết. Nếu anh còn nhớ cô bạn Korin của Hatsumono, và nhớ chuyện nhà kỹ nữ của cô ta bị cháy rụi vào những năm chiến tranh khốc liệt…thì ngọn lửa đã gây thiệt hại nặng cho nhà kỹ nữ bên cạnh, chính Bí Ngô đang ở trong nhà này. Ở phía ngoài một bức vách cháy đen thui, và một phần của mái ngói đã bị cháy, nay được chắp vá thay bằng những tấm ván.
Một cô hầu dẫn tôi vào phòng khách, phòng hôi mùi tro ẩm, rồi một lát sau quay lại mời tôi một tách trà thật loãng. Tôi ngồi đợi một hồi lâu Bí Ngô mới đẩy cửa bước vào. Căn phòng tối, cho nên tôi không thấy rõ mặt cô ta, nhưng thấy cô ta, bỗng tôi cảm thấy ấm lòng, tôi bèn đứng dậy bước tới ôm lấy cô ta. Cô ta bước lui vài bước rồi quỳ xuống cúi đầu chào tôi như thể tôi là bà Mẹ. Tôi kinh ngạc đứng sững một chỗ.
- Bí Ngô! Mình đây mà…- tôi nói.
Cô ta không nhìn tôi mà cứ nhìn xuống chiếu như một cô hầu đang đợi lệnh. Tôi cảm thấy rất chán nản, bèn quay về ngồi lại bên bàn.
Trong những lần gặp nhau vào những năm cuối cùng của chiến tranh, mặt của Bí Ngô vẫn còn tròn trịa, đầy đặn như thời còn nhỏ, mặc dù trông có vẻ buồn rầu. Bây giờ trông cô ta thay đổi nhiều. Sau khi các nhà máy làm thấu kính đóng cửa, Bí Ngô phải làm gái điếm để sống hai năm ở Osaka. Miệng cô ta có vẻ như co lại, không biết có phải vì cô ta mím lại như thế hay không, nhờ cái mặt to và hai má nay gầy đi, nên trông cô ta có nét mặt xương xương trông rất có nét, khiến tôi phải ngạc nhiên. Tôi không nói Bí Ngô đẹp bằng Hatsumono, nhưng bây giờ khuôn mặt cô ta trông sắc sảo hơn trước nhiều.
- Bí Ngô này – tôi nói – chúng ta đã trải qua những năm khó khăn gian khổ, nhưng mình lại thấy bạn xinh đẹp ra.
Bí Ngô không trả lời. Cô ta chỉ nghiêng cái đầu một chút cho biết cô ta đã nghe tôi nói. Tôi khen ngợi cô ta và hỏi han về cuộc sống sau chiến tranh, nhưng cô ta vẫn ngồi yên không đáp một tiếng, khiến tôi cảm thấy hối tiếc vì đã đến đây.
Cuối cùng sau một hồi im lặng nặng nề, cô ta nói:
- Cô đến đây chỉ để nói chuyện với tôi thôi phải không Sayuri? Tôi không có gì để nói cho cô vừa lòng đâu.
- Chuyện như thế này nhé – tôi đáp – tôi vừa mới gặp Nobu Toshikazu và…Bí Ngô này, thỉnh thoảng ông ta có đưa một người đến Gion. Tôi nghĩ chắc bạn bằng lòng đến giúp chúng tôi mua vui cho ông ta.
- Nhưng chắc khi cô thấy tôi, cô sẽ đổi ý.
- Không – tôi đáp – không biết tại sao bạn lại nói thế. Ông Nobu Toshikazu và ông Chủ tịch, Iwamura Ken, tôi muốn nói… ông Chủ tịch Iwamura – sẽ rất muốn có bạn giúp họ mua vui. Chuyện chỉ đơn giản như thế thôi.
Bí Ngô cứ quỳ yên lặng một lát, nhìn xuống chiếu. Cuối cùng cô ta nói:
- Tôi không còn tin mọi việc trên đời chỉ đơn giản như thế. Tôi biết cô cho tôi là đồ ngốc…
- Bí Ngô!
- Nhưng tôi nghĩ cô có lý do gì đấy mà cô không muốn nói ra…
Bí Ngô nhẹ cúi chào, tôi thấy thái độ cô ta có vẻ khó hiểu. Hoặc là Bí Ngô xin lỗi về những lời cô ta vừa nói, hay có lẽ cô ta sắp xin cáo từ.
- Mình thực có lý do khác – tôi đáp – thú thật với bạn là mình hy vọng sau bao nhiêu năm qua, chúng ta nối lại sợi dây tình bạn như thưở xưa. Chúng ta đã vượt qua được rất nhiều khó khăn, kể cả Hatsumono. Mình thấy chuyện chúng mình nối lại tình bạn là tự nhiên thôi.
Bí Ngô không nói gì.
- Ông Chủ tịch Iwamura và ông Nobu sẽ chiêu đãi ông Thứ trưởng mua vui vào thứ bảy tuần tới tại phòng trà Ichirki – tôi nói – nếu bạn đến tham dự với chúng mình, mình sẽ rất sung sướng.
Tôi có mang theo cho cô ta gói trà, tôi mở tấm khăn lụa, lấy gói trà để lên bàn. Khi đứng lên, tôi nghĩ nên nói đôi lời thân ái với cô ta trước khi chia tay, nhưng cô ta có vẻ rất bối rối kinh ngạc, nên tôi nghĩ tốt hơn là nên ra về, không nói thêm gì nữa.

Chuong 31

Trong khoảng thời gian năm năm không gặp mặt ông Chủ tịch, thỉnh thoảng tôi có đọc báo viết về những khó khăn ông gặp phải trong công việc làm ăn – không những khó khăn trong mối bất hòa giữa ông ta với chính quyền quân nhân trong những năm cuối cùng của cuộc chiến, mà còn khó khăn trong việc phấn đấu để giữ cho lực lượng chiếm đóng khỏi chiếm lấy công ty của ông. Cho nên tôi không ngạc nhiên khi thấy ông có vẻ già đi nhiêu. Tờ nhật báo Yomori có đăng hình ông, vẻ mặt ông trông căng thẳng, ánh mắt lo âu, giống như khuôn mặt lo âu của người hàng xóm ông Arashino, vì ông này thường nhìn lên trời để canh máy bay đến thả bom. Khi ngày cuối tuần đến gần, tôi cứ đinh ninh chắc ông Nobu không có ý định đưa ông Chủ tịch đến. Tôi chỉ còn hy vọng mà thôi.
Vào sáng thứ bảy, tôi dậy sớm, đẩy bức màn giấy ở cửa sổ nhìn ra ngoài, thấy trời mưa lạnh đập vào cửa kính. Trên con đường nhỏ ở dưới, một cô hầu trượt chân trên lớp sỏi đóng băng, đang lồm cồm đứng dậy. Trời có vẻ thê lương ảm đạm, tôi không muốn nghĩ đến việc xem lịch nữa. Đến trưa thời tiết càng tệ hơn, khi ăn cơm trưa trong phòng khách, tôi thấy hơi thở của mình bốc hơi, và nghe tiếng nước đá rơi gõ vào kính cửa sổ. Một số buổi tiệc đã bị hủy bỏ vì đường xá rất nguy hiểm, và tối đến, bà Dì điện thoại đến hỏi phòng trà Ichiriki để biết buổi tiệc của công ty Iwamura có còn duy trì được không. Bà chủ phòng trà trả lời đường dây điện thọai đến Osaka bị gián đoạn, bà ta không biết rõ. Cho nên tôi tắm rửa, thay áo quần, níu tay ông Bekku đi bộ đến phòng trà Ichiriki, ông Bekku đi đôi ủng cao su ông mượn của người em trai, cũng là người phụ trách áo quần ở quận Pontocho.
Khi tôi tới quán Ichiriki, quán rất ồn ào hỗn độn. Ống dẫn nước trong khu gia nhân bị bể, các gia nhân bận bịu dọn dẹp, không ai để ý đến tôi hết. Tôi tự động đi vào hành lang đến phòng tôi đã ngồi phục vụ cho ông Nobu và ông Thứ trưởng tuần trước. Tôi nghĩ chắc không có ai ở trong phòng vì tôi đoán cả ông Nobu và ông Chủ tịch chắc đang trên đường từ Osaka đến – và thậm chí cả Mameha cũng đang ở ngoài thành phố và đang khó khăn tìm cách trở về. Trước khi đẩy cửa ra, tôi quỳ một lát, mắt nhắm lại, một tay để lên bụng, cố giữ tin thần bình tĩnh. Bỗng tôi nhận ra hành lang quá lặng lẽ. Tôi không nghe một tiếng gì từ trong phòng phát ra hết. Tôi chán nản lo sợ trong phòng không có ai cả. Tôi định đứng dậy bỏ đi, nhưng rồi tôi nghĩ nên đẩy cửa phòng xem thử sao. Tôi bèn đẩy cửa mở ra, và ngạc nhiên thấy ông Chủ tịch ngồi một mình nơi bàn, hai tay cầm tờ báo, nhìn tôi qua trên đầu cặp kính lão. Tôi giật mình khi thấy ông ta, không mở miệng nói được tiếng nào. Nhưng cuối cùng tôi cố gắng cất tiếng thốt lên:
- Trời ơi! Ông Chủ tịch! Ai để cho ông ngồi một mình ở đây? Chắc bà chủ rất buồn.
- Chính bà ấy để tôi ngồi ở đây đấy - ông ta đáp và gấp tờ báo lại – Tôi không biết có gì xảy đến cho bà ta không.
- Ông không có gì để uống cả. Để em đi lấy rượu sakê cho ông.
- Chính bà chủ cũng nói như thế. Nếu cô không đến, chắc tôi phải đọc báo suốt cả đêm. Tôi rất mừng có cô đến ngồi cho vui – nói xong, ông ta tháo cặp kính xuống, xếp vào túi, vừa nheo mắt nhìn tôi.
Khi tôi đứng lên để đến ngồi với ông Chủ tịch, tôi cảm thấy căn phòng thoáng đãng với những bức tường lát lụa màu vàng nhạt bỗng trở nên nhỏ bé, vì tôi nghĩ không có căn phòng nào đủ lớn để chứa hết niềm vui trong lòng tôi. Sau một thời gian dài, bây giờ gặp lại ông ta, lòng tôi nôn nao khó tả. Tôi ngạc nhiên là cảm thấy lòng buồn phiền nhiều hơn vui, trái với lòng mong ước của tôi. Nhiều lần tôi cứ sợ ông Chủ tịch sẽ trở nên già cằn cỗi giống như bà Dì vì chiến tranh. Thậm chí khi ngồi đối diện với ông nơi bàn, tôi nhận thấy hai bên khóe mắt của ông nhăn nheo hơn trước rất nhiều. Da hai bên miệng cũng xệ xuống. Nhưng khi tôi thấy như thế khiến cho quai hàm của ông trông càng khỏe thêm, có vẻ cao quý hơn lên. Khi quỳ xuống bên bàn, tôi liếc mắt nhìn ông, tôi thấy ông vẫn đăm đăm nhìn tôi không rời mắt. Tôi định gợi chuyện nói, nhưng ông Chủ tịch đã lên tiếng trước.
- Sayuri, cô vẫn đẹp như trước.
- Kìa, ông Chủ tịch. Em không tin ông nói thật đâu. Tối nay em phải mất nửa giờ ngồi hóa trang để che bớt hai cái má gầy trơ xương.
- Tôi nghĩ vì cô sống vất vả quá trong những năm qua nên hơi gầy đấy thôi. Tôi cũng thế.
- Thưa ông Chủ tịch, nếu ông miễn chấp thì em xin hỏi ông …Em có nghe ông Nobu cho biết về sự khó khăn mà công ty của ông đã gặp phải …
- Phải, nhưng chúng ta không cần nói đến chuyện ấy làm gì. Thỉnh thoảng chúng ta gặp phải rủi ro vì cứ nghĩ rằng cuộc đời sẽ diễn ra theo mơ ước của mình.
Ông ta nhìn tôi, cười buồn, nụ cười quá đẹp khiến tôi mê mẩn nhìn mãi vào đôi môi rất có duyên của ông.
- Đây là cơ may để cô trổ tài duyên dáng và thay đổi đề tài – ông nói.
Tôi chưa kịp trả lời thì cửa xịch mở và Mameha bước vào, theo sau cô ấy là Bí Ngô. Tôi rất kinh ngạc khi thấy Bí Ngô, tôi không ngờ cô ta đến. Riêng Mameha, rõ ràng cô ấy mới từ Nagoya trở về và sợ quá trễ nên tuôn đến phòng trà Ichiriki liền. Việc đầu tiên cô ấy hỏi là tại sao ông Nobu và ông Thứ trưởng không có mặt – sau khi cô đã chào ông Chủ tịch. Ông Chủ tịch trả lời chính ông cũng đang thắc mắc như thế.
- Cái ngày gì mà thật kỳ cục – Mameha nói, thái độ như muốn nói với mình – Tàu hỏa đậu ngoài ga Kyoto suốt một giờ liền, chúng tôi không thể xuống tàu được. Cuối cùng hai thanh niên đã nhảy ra khỏi cửa sổ. Tôi đoán chắc một người đã bị té đau. Rồi cuối cùng khi đến được phòng trà Ichiriki mới cách đây một lát thôi, phòng trà không có người nào hết. Tội nghiệp cô Bí Ngô đang đi lang thang một mình ở ngoài hành lang. Ông Chủ tịch đã gặp Bí Ngô rồi phải không?
Mãi cho đến khi ấy tôi mới nhìn kỹ Bí Ngô. Cô ta mặc chiếc kimono màu xám tro thật tuyệt vời, chiếc áo có những đốm vàng sáng ở dưới thắt lưng, và nhìn kỹ đấy là hình thêu những con đom đóm, nổi bật trên nền một dãy núi và nước dưới ánh trăng. Áo của tôi và của Mameha không sánh nổi với chiếc áo này. Ông Chủ tịch hình như cũng thấy cái áo quá đẹp như tôi, vì ông ta yêu cầu cô ấy ra đứng trước mặt cho ông xem. Cô ta đứng rằng duyên dáng và quay một vòng.
- Em nghĩ em không thể đặt chân vào phòng trà Ichiriki này với những chiếc áo em thường mặc – cô ta nói – Áo của em tại nhà kỹ nữ không có cái nào lộng lẫy hết. Nhưng người Mỹ không phân biệt được áo nào với áo nào.
- Bí Ngô này – Mameha nói – nếu cô không quá thật tình với chúng tôi, chắc chúng tôi nghĩ đây là áo thường nhật của cô.
- Có phải chị đùa với em không? Cả đời, em chưa mặc được cái áo nào đẹp như cái này, em mượn của nhà kỹ nữ ở cuối phố. Chắc chị không tin nổi giá tiền họ buộc em phải trả đâu, nhưng em không có tiền, cho nên tất cả đều huề cả làng, phải không chị?
Tôi thấy ông Chủ tịch có vẻ thích thú – vì không có cô geisha nào nói trước mặt một người đàn ông về chuyện giá cả một cái áo kimono ngốc nghếch như thế. Mameha quay qua nói gì đấy với ông, nhưng Bí Ngô chặn lại.
- Chắc đêm nay ở đây có đại tiệc.
- Cô thấy có ông Chủ tịch chứ gì? – Mameha nói – có phải cô muốn nói ông ấy mở “đại tiệc”?
- Có mở hay không thì làm sao em biết? Chỉ có ông ấy cho biết có hay không thôi.
Ông Chủ tịch nhướng mày nhìn Mameha với vẻ ngạc nhiên hài hước. Bí Ngô tiếp:
- Nhưng Sayuri đã cho em biết về một người khác.
- Ông Sato Noritake, Bí Ngô à – ông Chủ tịch đáp – ông ấy là Thứ trưởng bộ tài chính mới.
- Ồ, em biết ông Sato rồi. Ông ta trông như một con heo bự.
Tất cả chúng tôi đều cười. Mameha nói:
- Bí Ngô này, chính cô nói đấy nhé.
Ngay khi ấy cửa mở, Nobu cùng ông Thứ trưởng bước vào. Cả hai mặt đỏ au vì lạnh. Sau lưng họ, cô hầu bưng khay rượu sakê và bánh dòn. Ông Nobu đứng lại, lấy cánh tay duy nhất ôm lấy người và dậm chân, nhưng ông Thứ trưởng bước qua trước, đi đến phía bàn. Ông ta càu nhàu với Bí Ngô, hất đầu ra dấu cho cô ta ngồi xích sang một bên để ông ta chen vào ngồi một bên tôi. Khi việc giới thiệu xong xuôi, Bí Ngô lên tiếng:
- Thưa ông Thứ trưởng, chắc ông không nhớ em, nhưng em biết ông rất nhiều.
Ông Thứ trưởng hắt cốc rượu tôi vừa mới rót vào miệng, và nhìn Bí Ngô với ánh mặt có vẻ như muốn khiển trách.
- Cô biết cái gì? – Mameha hỏi – Nói cho chúng tôi nghe đi.
- Em biết ông Thứ trưởng có cô em gái lấy ông Thị trưởng Tokyo – Bí Ngô đáp – Em còn biết ông thường tập Karate và có lần bị gẫy tay.
Ông Thứ trưởng có vẻ ngạc nhiên, điều này chứng tỏ những điều cô ta nói là có thật.
- Thưa ông Thứ trưởng, em còn biết cô gái mà ông thường gặp nữa – Bí Ngô nói tiếp – cô ta là Nao Itsuko. Chúng tôi cùng làm việc với nhau trong một nhà máy ở ngọai ô Osaka. Ông biết cô ta nói gì với em không? Cô ta nói ông và cô ấy đã tìm “hiểu nhau” hai lần.
Tôi sợ ông Thứ trưởng nổi giận, nhưng trái lại, mặt ông ta lại có vẻ hớn hở khiến tôi nghĩ rằng ông ta tự hào về việc ấy.
- Cái cô Itsuko ấy xinh lắm – ông ta nói, vừa nhìn Nobu với nụ cười tủm tỉm.
- Thế à, ông Thứ trưởng? – Nobu nói – Tôi không nghĩ ông đã làm thế với các cô. – giọng ông ta nghe rất thành thật nhưng tôi thấy mặt ông ta để lộ vẻ ghê tởm. Ông Chủ tịch đưa mắt nhìn tôi, ánh mắt có vẻ vui thích vì biết được một chuyện rất lý thú.
Một lát sau, cửa phòng mở và ba cô hầu mang bữa ăn tối vào cho ba người đàn ông. Tôi quá đói nên phải quay mắt để khỏi nhìn món sữa trứng vàng trộn quả hồ đào với rau thơm, dọn trên những cái chén sứ thật đẹp. Rồi sau đó, các cô hầu trở lại với dĩa cá nướng nhiệt đới ăn với bún xào. Chắc Nobu biết tôi đói, cho nên ông ta ép tôi ăn. Sau đó ông Chủ tịch đề nghị Mameha ăn một miếng, và cũng mời Bí Ngô, nhưng cô ta từ chối.
- Em không đụng đến cá ấy đâu – Bí Ngô nói – Thậm chí em cũng không muốn nhìn đến nó nữa.
- Có cái gì mà ghê thế? – Mameha hỏi.
- Nếu em nói ra, thế nào chị cũng cười em.
- Cứ nói đi Bí Ngô – Nobu nói.
- Nói sao được, câu chuyện dài dòng lắm, vả lại chắc quý vị không tin đâu.
- Đại láo rồi – tôi nói.
Thực ra tôi không gọi Bí Ngô là nói láo. Trở lại thời trước khi Gion đóng cửa, chúng tôi thường chơi trò chơi có tên là “Đại láo”, trong trò chơi này, mỗi người kể hai câu chuyện, chỉ một chuyện là láo thôi. Sau đó những người khác cố đoán chuyện nào thực, chuyện nào láo, người đoán sai bị uống một ly sakê.
- Tôi không chơi – Bí Ngô nói.
- Kể chuyện về cá cũng được – Mameha nói – rồi cô sẽ được miễn kể chuyện khác.
Bí Ngô có vẻ không thích nhưng sau khi thấy Mameha và tôi quắc mắt nhìn, cô ta bèn kể.
- Thôi được rồi, chuyện như thế này. Tôi ra đời ở Sapporo, ở đấy có một ngư ông một hôm đánh được một con cá trông rất kỳ lạ, nó có thể nói được tiếng người.
Mameha và tôi nhìn nhau bật cười.
- Các cô cứ cười – Bí Ngô nói – nhưng đây là chuyện thật.
- Được rồi, kể tiếp đi Bí Ngô – ông Chủ tịch nói – chúng tôi lắng nghe đấy.
- Được thôi, chuyện xảy ra tếp theo như thế này: người đánh cá đem con cá ra để rửa cho sạch, và nó phát ra tiếng nghe như tiếng người nói, nhưng bác đánh cá không hiểu gì hết. Ông ta bèn gọi những người ngư phủ khác đến thật đông, và họ lắng nghe một lát. Một lát sau, con cá gần chết vì nằm ngoài nước quá lâu, cho nên họ quyết định làm thịt con cá. Nhưng bỗng nhiên có một ngư ông khác xăm xăm đi vào, ông ta nói ông ta nghe hiểu được những tiếng con cá nói, vì nó nói tiếng Nga.
Tất cả chúng tôi đều phá ra cười vang, thậm chí ông Thứ trưởng cũng nhếch mép cười nho nhỏ. Khi chúng tôi ngớt cười, Bí Ngô nói tiếp:
- Em biết quí vị không tin, nhưng đây là chuyện thật!
- Tôi muốn biết con cá nói gì – ông Chủ tịch nói.
- Nó gần chết cho nên nó chỉ thì thào…Và khi lão ngư phủ cúi sát người xuống để tai vào môi nó...
- Cá không có môi! – tôi nói.
- Phải rồi, sát vào cái mà ta muốn gọi gì thì gọi – Bí Ngô nói tiếp – sát vào mép miệng của nó. Và con cá nói “Nói họ rửa tiếp tôi cho sạch đi. Tôi không có gì để sống nữa. Con cá ở đàng kia mới chết hồi nãy là vợ của tôi đấy”
- Thì ra cá cũng có đám cưới – Mameha nói – Chúng cũng có chồng có vợ à?
- Trước chiến tranh mới có – tôi nói – từ khi xảy ra chiến tranh, chúng không thể làm đám cưới được. Chúng chỉ lội quanh để kiếm việc làm.
- Chuyện này xảy ra trước chiến tranh – Bí Ngô nói. – ngay cả trước khi mẹ tôi ra đời nữa.
- Thế thì tại sao cô biết đây là chuyện có thực? – Nobu hỏi – Dĩ nhiên con cá không nói chuyện này cho cô nghe.
- Con cá chết liền ngay sau đó. Nếu em chưa sinh ra thì làm sao nó kể cho em nghe được? Ngoài ra em không biết nói tiếng Nga.
- Thôi được rồi Bí Ngô – tôi nói – vì thế mà bạn tin rằng con cá của ông Chủ tịch đang ăn cũng là cá biết nói chứ gì?
- Tôi không nói thế. Nhưng nó có vẻ giống con cá biết nói. Nếu tôi đói sắp chết, tôi cũng không ăn.
- Nếu cô chưa sanh – ông Chủ tịch nói – và thậm chí mẹ cô cũng chưa sanh, thì làm sao cô biết con cá ra làm sao?
- Chắc ông biết ông Thủ tướng ra sao chứ? – cô ta đáp – nhưng có bao giờ ông gặp ông ta chưa? Chắc có lẽ ông đã gặp rồi. Chắc ông cũng biết Hoàng đế ra sao, nhưng ông chưa bao giờ được hân hạnh gặp ông ta!
- Ông Chủ tịch có hân hạnh gặp ông ấy rồi, Bí Ngô à – Nobu nói.
- Chắc ông biết tôi muốn nói gì rồi. Mọi người đều biết Hoàng đế ra sao. Đấy là điều tôi muốn nói.
- Tranh của Hoàng đế có rất nhiều – Nobu nói – còn con cá thì cô không có bức hình nào chụp nó hết.
- Con cá rất nổi tiếng lúc em lớn lên. Mẹ em kể cho em nghe nhiều về nó, cho nên xin thưa với ông rằng “nó trông rất giống con cá trên bàn này”.
- Nhờ trời có được những người như cô, Bí Ngô – ông Chủ tịch nói – cô làm cho tất cả chúng tôi quá buồn.
- Thì đấy là chuyện của tôi, nếu quý vị muốn chơi trò “đại láo” thì ta cứ chơi.
- Tôi chơi – Mameha nói – chuyện đầu tiên của tôi như thế này. Khi tôi được sáu tuổi, một buổi sáng tôi ra giếng ở nhà kỹ nữ đê múc nước, bỗng tôi nghe có tiếng đàn ông đằng hắng và ho. Tiếng ho xuất phát từ “trong” giếng! Tôi đánh thức bà chủ dậy, bà ta đi ra để xem, chúng tôi thấy không có ai hết, nhưng chúng tôi cứ nghe cho đến khi mặt trời lên cao. Rồi tiếng người biến mất, chúng tôi không nghe lại nữa.
- Chuyện kia mới là chuyện thực – ông Nobu nói – tôi chưa được nghe chuyện kia.
- Ông phải nghe cả hai mới được – Mameha đáp – đây là chuyện thứ hai. Có lần tôi cùng nhiều geisha khác đến Osaka để hầu vui tại nhà ông Akita Masaichi – ông ta là doanh gia nổi tiếng, có một gia tài kếch xù trước chiến tranh – sau khi chúng tôi hát và uống rượu suốt nhiều giờ liền, ông Akita nằm xuống chiếu ngủ, và một cô geisha lẻn qua phòng bên cạnh mở một cái tủ lớn đựng đầy các thứ khiêu dâm. Có những bức hình khiêu dâm in từ bản khắc gỗ, kể cả một vài bản của Hiroshige…
- Hiroshige không làm hình khiêu dâm – Bí Ngô nói.
- Phải đúng thế, Bí Ngô à – ông Chủ tịch đáp – tôi có xem một số bản in của ông ấy rồi.
Mameha nói tiếp:
- Ông ta cũng có những bức hình chụp các phụ nữ và đàn ông Châu Âu thật mập, và một vài cuốn phim chiếu bóng.
- Tôi biết rõ Akita Masaichi – ông Chủ tịch nói – ông ta không có tranh ảnh khiêu dâm. Câu chuyện kia là thật.
- Kìa ông Chủ tịch – Nobu nói – ông tin câu chuyện về giọng người đàn ông dưới giếng ấy thật à?
- Tôi khỏi cần tin. Vấn đề quan trọng là Mameha có tin hay không thôi.
Bí Ngô và ông Chủ tịch tin chuyện người đàn ông dưới giếng là thật. Ông Thứ trưởng và ông Nobu tin chuyện về khiêu dâm. Còn tôi, tôi nghe cả hai chuyện này rồi, tôi biết câu chuyện người đàn ông dưới giếng là thật. Ông Thứ trưởng uống ly rượu phạt mà không kêu ca gì, nhưng Nobu cứ càu nhàu mãi, cho nên chúng tôi đề nghị ông ta kể chuyện tiếp.
- Tôi không chơi trò này nữa – ông ta nói.
- Ông phải chơi, nếu không, đợt nào ông cũng phải uống rượu phạt hết – Mameha nói.
- Được rồi, các người muốn hai chuyện thì tôi sẽ kể hai chuyện. Đây là chuyện đầu. Tôi có một con chó trắng nhỏ tên là Kubo. Một đêm tôi về nhà, tôi thấy lông của Kubo xanh hết.
- Tôi tin chuyện này – Bí Ngô nói – có lẽ nó bị loài quỷ sứ nào đó bắt cóc.
Nobu có vẻ như không tin Bí Ngô nói thật. Ông ta dè dặt nói tiếp:
- Ngày hôm sau lại xảy ra chuyện như thế nữa, nhưng lần này lông của Kubo màu đỏ tươi.
- Thế đúng là quỷ sứ rồi – Bí Ngô nói – quỷ thích màu đỏ. Màu đỏ là màu máu.
Nobu nghe thế ông ta có vẻ giận. Ông ta nói:
- Đây là chuyện thứ hai của tôi. Tuần trước tôi đi làm quá sớm đến nỗi khi đến văn phòng, cô thư ký vẫn chưa đến. Đấy, chuyện nào là chuyện thực?
Dĩ nhiên tất cả chúng tôi đều chọn chuyện cô thư ký là thật, ngoại trừ Bí Ngô, nên cô ta phải bị uống rượu phạt. Và không phải là một tách mà là một ly. Ông Thứ trưởng rót cho cô ta, giọt từng giọt cho đến khi ly đầy tràn ra ngoài. Bí Ngô phải hớp cho cạn bớt mới bưng ly lên được. Tôi nhìn cô ấy, lo lắng cho cô vì tửu lượng của cô rất thấp.
- Tôi tin chuyện con chó là có thật – cô ta nói sau khi đã uống xong ly rượu – tại sao ông có thể bịa đặt ra chuyện ấy được?
- Làm sao tôi có thể bịa đặt ra ấy à? Vấn đề tại sao cô tin chuyện ấy là thực? Chó không trở thành màu xanh được. Hay không trở thành màu đỏ. Và không có quỷ quái gì hết.
Đến phiên tôi kể chuyện tiếp theo:
- Câu chuyện đầu tiên của tôi như thế này. Một đêm cách đây chỉ vài năm, nhà diễn viên kịch Kabuki là Yoegoro bị say oắt đã nói với tôi rằng ông ta lúc nào cũng thấy tôi đẹp.
- Chuyện này không đúng – Bí Ngô nói – Tôi biết Yoegoro.
- Tôi biết cô biết ông ta, nhưng ông ta đã nói ông ta thấy tôi đẹp. Và từ cái đêm hôm ấy, thỉnh thoảng ông ta lại gởi thư cho tôi. Trong góc mỗi lá thư, ông ta có dán một sợi tóc quăn nhỏ.
Ông Chủ tịch cười khi nghe tôi kể, nhưng Nobu thì ngồi nhổm dậy, vẻ giận dữ và nói:
- Bọn diễn viên Kabuki thật đáng ghét.
- Tôi không cho là đúng. Cô nói sợi tóc đen quăn là muốn nói gì thế? – Bí Ngô nói, nhưng nhìn vẻ mặt của cô, người ta có thể nghĩ rằng cô ta đã hình dung ra được câu trả lời rồi.
Mọi người im lặng chờ đợi câu chuyện thứ hai của tôi. Câu chuyện này đã có sằn trong óc tôi từ khi cuộc chơi bắt đầu, nhưng tôi lo sợ không dám kể ra, và cũng không nên kể làm gì.
- Khi tôi còn nhỏ - tôi nói tiếp – một hôm tôi quá đau khổ, tôi ra bờ suối Shirakawa ngồi khóc…
Khi bắt đầu kể, tôi cảm thấy như tôi đưa tay qua bên kia bàn để sờ vào tay ông Chủ tịch. Vì tôi nghĩ chắc không ai trong phòng sẽ thấy câu chuyện tôi kể có điều gì khác thường cả, trong khi đó ông Chủ tịch chắc sẽ hiểu câu chuyện riêng tư này – hay ít ra tôi hy vọng ông ta sẽ hiểu. Tôi cảm thấy tôi trò chuyện hết sức thân mật với ông, và tôi cảm thấy người ấm lên khi kể. Trước khi kể tiếp, tôi ngước mắt nhìn lên, hy vọng ông Chủ tịch đang háo hức nhìn tôi. Nhưng không, ông ta không để ý gì đến tôi hết. Tôi cảm thấy thất vọng, như cô gái đi ngoài đường mong để cho mọi người nhìn, nhưng bỗng thấy đường phố vắng hoe.
Tôi thấy mọi người bồn chồn nôn nóng chờ tôi kể tiếp, vì Mameha lên tiếng:
- Sao, kể tiếp đi.
Bí Ngô nói càu nhàu gì đấy, nhưng tôi không nghe rõ.
- Tôi xin kể câu chuyện khác đây – tôi nói – quý vị có nhớ cô geisha Okaichi không? Cô ta chết vì tai nạn trong chiến tranh. Mấy năm trước đó, một hôm tôi và cô ta nói chuyện với nhau, cô ta nói với tôi cô ta thường sợ cái thùng gỗ nặng rơi trúng đầu mà chết. Và chính cô ta đã chết như thế. Một cái thùng sắt phế liệu từ trên kệ cao rơi xuống.
Tôi quá bồn chồn lo sợ vì tôi nhận thấy không có chuyện nào tôi kể ra là có thực hết, thế nhưng tôi cố lấy lại bình tĩnh ngay, vì hầu hết người nào chơi trò chơi này cũng đều bị lừa bịp hết. Cho nên tôi đợi cho đến khi ông Chủ tịch chọn một chuyện để tuyên bố đó là chuyện thực – và chuyện ông chọn là chuyện về diễn viên Yoegoro và sợi tóc quăn. Bí Ngô và ông Thứ trưởng phải uống ly rượu sakê phạt.
Sau tôi là đến phiên ông Chủ tịch.
- Tôi không có tài về trò chơi này – ông ta nói – không như geisha các cô, các cô có tài nói láo.
- Kìa ông Chủ tịch! – Mameha thốt lên, nhưng dĩ nhiên cô ấy chỉ muốn trêu đùa thôi.
- Tôi lo cho Bí Ngô nên tôi kể câu chuyện giản dị thôi. Nếu cô ấy bị uống phạt nữa, chắc cô không chịu nổi.
Quả thật Bí Ngô đã lờ đờ hết sức rồi. Tôi nghĩ cô ta không nghe được ông Chủ tịch nói gì cho đến khi ông ta gọi tên cô.
- Này Bí Ngô, lắng nghe nhé. Đây là câu chuyện đầu tiên của tôi. Tối nay tôi được đến dự buổi tiệc tại phòng trà Ichiriki. Và đây là câu chuyện thứ hai: cách đây mấy năm có một con cá đi vào văn phòng tôi làm việc – không bỏ chuyện ấy đi. Quý vị có thể tin con cá biết đi. Chuyện tôi kể như thế này: cách đây mấy ngày, tôi mở hộc bàn làm việc ra, liền có một người đàn ông nhỏ nhảy ra, anh ta mặc đồng phục, vừa hát vừa khiêu vũ. Đấy, chuyện nào là có thực?
- Ông đừng mong em tin chuyện người đàn ông nhảy từ trong hộc bàn ra là đúng – Bí Ngô nói.
- Cứ chọn một chuyện thôi. Chuyện nào đúng?
- Chuyện kia, em không nhớ chuyện ấy là chuyện gì.
- Ông Chủ tịch ơi, chúng tôi phải bắt ông uống ly rượu phạt thôi – Mameha nói.
Khi Bí Ngô nghe từ rượu phạt, chắc cô ta nghĩ cô ta đã làm điều gì sai trái, vì sau đó chúng tôi thấy cô ta uống hết nửa ly sakê, trông cô bắt đầu say rượu. Ông Chủ tịch là người trông thấy trước tiên, ông lấy ly rượu trên tay cô ta.
- Bí Ngô, cô không phải uống đâu – ông ta nói.
Cô ta đờ đẫn nhìn ông ấy, ông hỏi cô ta có nghe ông nói không.
- Chắc cô ta nghe anh nói – Nobu nói – nhưng dĩ nhiên cô ta không trông thấy anh.
- Nào Bí Ngô – ông Chủ tịch nói – Tôi đưa cô về nhà, hay là phải lôi cô về nhà cũng được.
Mameha đề nghị giúp sức, hai người cùng dẫn Bí Ngô ra khỏi quán, để ông Nobu và ông Thứ trưởng ở lại cùng tôi.
- Thưa ông Thứ trưởng – Nobu hỏi – buổi tối ra sao?
Tôi thấy ông Thứ trưởng cũng say như Bí Ngô, nhưng ông ta cố nói lí nhí rằng buổi tối rất vui.
- Thật vậy, rất vui – ông ta nói thêm, gật đầu vài lần. Sau đó, ông ta đưa tách cho tôi rót rượu, nhưng Nobu lấy cái tách trên tay ông ta đi.

Chuong 32

Suốt mùa đông năm đó và cả mùa xuân năm sau, Nobu thường đưa ông Thứ trưởng đến Gion mỗi tuần một lần, thậm chí có khi hai lần. Cứ nghĩ đến chuyện hai người đến vui chơi với nhau suốt mấy tháng liền như thế này, chắc thế nào anh cũng nghĩ rằng trong thâm tâm ông Thứ trưởng ông cho rằng ông Nobu rất cay cú tức giận, sẵn sàng tìm cách để ngăn chặn ông ta thân mật với tôi. Nhưng thật ra, ông Thứ trưởng có vẻ như không cần chú ý đến cái gì khác ngoài việc có tôi quỳ bên ông và rót sakê đầy cốc cho ông ta. Cái nhiệm vụ này nhiều lúc làm cho cuộc đời của tôi khó khăn thêm. Khi tôi chú ý nhiều đến ông Thứ trưởng là ông Nobu trở nên bẳn tính thêm, phía bên mặt ít sẹo của ông ta ửng đỏ vì tức giận. Cho nên sự có mặt của ông Chủ tịch, Mameha và Bí Ngô rất có ích cho tôi. Họ giúp cho tình hình bớt căng thẳng.
Dĩ nhiên tôi còn thích sự hiện diện của ông Chủ tịch vì lý do khác nữa. Trong những tháng này tôi gặp ông Chủ tịch nhiều hơn bao giờ hết, và bất cứ khi nào tôi nằm ngủ vào ban đêm, tôi cũng thấy hình ảnh ông hiện ra trong óc tôi rất rõ ràng. Ví dụ, tôi thường hình dung ra cặp mắt ông không có lông nheo, nhưng thực ra mắt ông có rất nhiều lông nheo, lông nheo mềm mại như chiếc bàn chải lông nhỏ. Và miệng của ông cũng rất gợi cảm, gợi cảm đến độ nhiều khi ông cố che giấu tình cảm một cách rất vụng về. Khi ông ta thích thú một việc gì mà không muốn để lộ ra bên ngoài, hai bên mép miệng của ông ta rung lên nhè nhẹ. Hay khi ông ta suy nghĩ điều gì – có lẽ nghĩ về những khó khăn gặp phải trong ngày – ông ta thường xoay xoay cốc rượu trong tay, và miệng mím lại làm thành những đường nhăn chạy từ hai khóe môi xuống cằm. Mỗi khi ông ta trầm ngâm suy nghĩ như thế, tôi có dịp nhìn ông ta một cách thoải mái. Mỗi lần ông ta chìm đắm trong trạng thái suy tư, tôi lại thấy ông ta rất đẹp. Tôi nghĩ ông ta đang lo nghĩ về công việc làm ăn. Một buổi tối, khi Mameha đang kể chuyện, tôi say sưa ngắm nhìn ông Chủ tịch, đến nỗi khi tôi trở lại với thực tế trước mắt, tôi thấy cô ấy đang nhìn tôi với vẻ kinh ngạc. May thay là ông Thứ trưởng quá gật gù với tách rượu nên không chú ý đến tôi, còn phần Nobu, ông ta đang bận nhóp nhép cái gì đấy, và lấy đũa vét quanh đĩa thức ăn, nên không chú ý gì đến tôi và Mameha. Nhưng hình như Bí Ngô đã nhìn thấy tôi. Khi tôi nhìn cô ta, cô mỉm cười, nụ cười khó hiểu.
Một buổi tối vào cuối tháng hai, Bí Ngô mắc bệnh cúm, không đến phòng trà Ichiriki được. Còn ông Chủ tịch bận việc đến trễ, nên Mameha và tôi giải trí cho Nobu và ông Thứ trưởng một giờ. Cuối cùng chúng tôi quyết định múa, mục đích là để cho chúng tôi vui chứ không phải cho họ. Nobu không khoái gì múa, còn ông Thứ trưởng chẳng quan tâm gì đến khiêu vũ. Không phải chúng tôi chọn cách múa để giết thì giờ, mà vì chúng tôi không biết làm gì cho vui hơn.
Thoạt tiên, Mameha múa vài vở múa ngắn, còn tôi đệm đàn Shamisen. Sau đó, chúng tôi thay chỗ. Ngay khi tôi mới vừa đứng vào tư thế để múa – người cúi xuống, tay cầm quạt sát mặt đất, còn tay kia giang rộng qua phía bên kia – thì bỗng cửa mở và ông Chủ tịch bước vào. Chúng tôi chào ông ta, đợi ông ngồi vào chỗ. Tôi rất sung sướng khi thấy ông đến, vì mặc dù ông đã thấy tôi trình diễn trên sân khấu rồi, nhưng chắc chưa bao giờ ông ta xem tôi múa một cách thân mật như thế này. Mới đầu, tôi định múa vở có tên Lá thu xào xạc, nhưng bây giờ tôi đổi ý, tôi yêu cầu Mameha chơi bài Mưa. Bài này kể một câu chuyện về một thiếu nữ rất xúc động khi người yêu cởi áo khoác kimono ra để cho nàng mặc trong khi trời giông tố, và nàng biết người yêu là người khuất mặt hiện hình, nếu bi ướt là cơ thể anh ta tan biến ngay. Các cô giáo dạy múa của tôi thường khen ngợi tôi về cách tôi biểu lộ sự buồn rầu của người thiếu nữ, trong những biểu cảm động tác này, khi tôi từ từ khuỵu hai đầu gối xuống, tôi không để cho hai chân run như nhiều vũ công khác thường mắc phải. Có lẽ tôi đã nói đến chuyện này rồi, nhưng trong vở múa của trường Inoue, vẻ biểu cảm trên mặt là điều quan trọng hơn các động tác của tay và chân, cho nên mặc dù tôi rất muốn nhìn ông Chủ tịch khi tôi đang múa, nhưng tôi phải luôn luôn giữ cặp mắt nhìn thẳng cho nghiêm trang, không được nhìn vào người nào hết. Để giúp cho tôi biểu lộ được tình cảm khi múa, tôi phải để tâm nghĩ đến chuyện buồn nhất, nghĩa là tôi phải tưởng tượng ra rằng có mặt ông danna của tôi trong phòng – không phải ông Chủ tịch, mà Nobu. Khi tôi nghĩ đến diều này, mọi người quanh tôi bỗng trởn nên u sầu ảm đạm. Phía ngoài vườn, nước mưa từ mái nhà nhỏ giọt tí tách trên cửa kính. Thậm chí chiếu ngồi cũng có vẻ dính chặt xuống nền nhà. Tôi nhớ khi ấy tôi múa không phải để diễn tả nỗi sầu muộn của nàng thiếu nữ có người yêu là hồn ma bóng quế, mà tôi múa để diễn tả nỗi đau khổ trong lòng tôi, nỗi khổ của kẻ bị mất cái mà mình thương mến nhất. Tôi lại còn nhớ đến chị Satsu nữa. Tôi múa để diễn tả nỗi sầu chia ly. Cuối cùng, tôi cảm thấy lòng quá sầu muộn, bất thần tôi ngước mắt nhìn thẳng vào mặt ông Chủ tịch.
Ông ta ngồi gần ở góc bàn, cho nên không có ai thấy ông ta khi tôi nhìn vào mặt ông. Tôi thấy mặt ông lộ vẻ kinh ngạc, vì hai mắt ông mở to. Nhưng không như mọi khi ông ta thường mím chặt môi để khỏi cười, khi ấy tôi thấy miệng ông ta mím lại vì cảm xúc dâng trào. Tôi không biết có chắc ông quá cảm động hay không, nhưng tôi có cảm giác hai mắt ông mọng lên vì nước mắt. Ông ta liền quay mắt nhìn ra cửa, rồi giả vờ đưa ngón tay gãi vào sóng mũi để đưa ngón tay lên khóe mắt, rồi ông vuốt lông mày như thể chính chúng là nguồn gốc phát sinh ra sự bối rối của mình. Tôi quá kinh ngạc khi thấy ông Chủ tịch có vẻ đau khổ như thế, đến nỗi tôi cảm thấy tôi luống cuống một lát. Múa xong, tôi về lại bàn ngồi, Mameha và Nobu bắt đầu nói chuyện trở lại. Một lát sau ông Chủ tịch nói xen vào:
- Tối nay Bí Ngô đi đâu?
- Ồ, cô ấy bị bệnh, ông Chủ tịch à – Mameha đáp.
- Cô nói sao? Cô ấy không đến đây à?
- Không, không đến – Mameha đáp – Bị sởi không đến là tốt thôi.
Mameha tiếp tục nói chuyện. Tôi thấy ông Chủ tịch xem đồng hồ rồi nói với giọng vẫn còn xúc động.
- Mameha, xin cô miễn lỗi, tôi phải ra về. Tối nay tôi cảm thấy không được khoẻ.
Khi ông Chủ tịch đã ra ngoài, đóng cửa lại, ông Nobu nói chuyện vui gì đấy khiến mọi người bật cười. Nhưng trong tôi nảy ra một ý nghĩ làm cho tôi lo sợ. Trong vở múa, tôi đã cố diễn tả nỗi đau khổ về sự biệt ly. Dĩ nhiên tôi làm thế vì lòng tôi đau khổ, nhưng vô tình tôi cũng làm cho ông Chủ tịch đau khổ. Và phải chăng ông nghĩ đến sự vắng mặt của Bí Ngô? Tôi không tin ông ta muốn khóc vì nghe Bí Ngô bị bệnh, hay là vì chuyện gì như thế, nhưng có lẽ tôi đã gợi lên trong ông lòng trắc ẩn. Tôi chỉ biết khi tôi múa xong là ông hỏi đến Bí Ngô, và khi nghe cô ấy bị bệnh, ông ta ra về. Tôi không tin có chuyện như thế được. Nếu quả thật ông Chủ tịch có cảm tình với Mameha, đương nhiên tôi không ngạc nhiên. Nhưng còn Bí Ngô? Tại sao ông Chủ tịch mơ ước một người…một người thiếu tế nhị như thế?
Bất kỳ người phụ nữ nào thông minh cũng đều mất hết hy vọng trước thời cuộc lúc bấy giờ. Thời ấy, ngày nào tôi cũng đến nhà người bói toán và xem niên lịch để biết vận mạng mình ra sao. Dĩ nhiên người Nhật chúng tôi đã sống trong một thập niên không dám hy vọng. Tôi không ngạc nhiên khi thấy mình cũng mất hết hy vọng như mọi người. Nhưng ngược lại, nhiều người tin rằng có ngày đất nước chúng tôi sẽ vươn lên. Và tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng, nếu chúng tôi không cố vươn lên khỏi đống đổ nát, thì đất nước chúng tôi sẽ không bao giờ đổi thay. Mỗi lần đọc báo, tôi thấy một số cửa hàng làm đồ phụ tùng xe đạp trước chiến tranh bây giờ bắt đầu làm lại như thể chiến tranh không xảy ra. Tôi tự nhủ lòng, nếu tổ quốc tôi vươn lên được khỏi thung lũng tối tăm, thì tôi cũng sẽ hy vọng vươn lên khỏi thung lũng tối tăm của tôi.
Từ đầu tháng ba năm ấy cho đến hết mùa xuân Mameha và tôi bận bịu công việc về Vũ khúc cố đô, vũ khúc này được trình diễn trở lại lần đầu kể từ khi Gion bị đóng cửa vào những năm cuối của cuộc chiến. Và trong những tháng này, ông Chủ tịch và Nobu cũng bận công việc, cho nên họ chỉ đưa ông Thứ trưởng đến Gion có hai lần. Rồi bỗng một hôm vào tuần đầu tháng sáu, tôi được tin nhắn cho biết công ty đồ điện Iwamura yêu cầu tôi tối đó đến phòng trà Ichiriki cho sớm. Tôi đã có chỗ hẹn đăng ký trước đó mấy tuần, nên không vắng mặt được, cho nên khi tôi mở cửa phòng tiệc ở phòng trà Ichiriki, thì tôi đã trễ mất nửa giờ rồi. Nhưng tôi ngạc nhiên thấy rằng đáng lẽ mọi người đã ngồi quanh bàn tiệc, thì tôi chỉ thấy có ông Nobu và ông Thứ trưởng thôi.
Tôi thấy Nobu có vẻ tức giận. Dĩ nhiên ông ta giận tôi vì tôi để cho ông ta ở một mình với ông Thứ trưởng quá lâu – nhưng thực ra, hai người không ở một mình với nhau như con sóc với con sâu cùng trên một cành cây. Mà ông Nobu thì gõ ngón tay trên mặt bàn, vẻ mặt giận dữ, còn ông Thứ trưởng đứng nơi cửa sổ nhìn ra ngoài vườn.
Khi tôi ngồi vào bàn, ông Nobu lên tiếng:
- Tốt rồi, thưa ông Thứ trưởng! Nhìn cây mọc thế đủ rồi. Bộ ông bắt chúng tôi ngồi đợi ông cả đêm hay sao?
Ông Thứ trưởng giật mình, nhẹ cúi chào xin lỗi rồi ngồi vào chiếc nệm tôi vừa đưa ra cho ông. Thường thường tôi rất khó tìm lời để nói với ông ta, nhưng đêm ấy tôi nói năng dễ dàng hơn, vì lâu rồi tôi không gặp mặt ông ta. Tôi nói:
- Ông Thứ trưởng không thích em nữa rồi!
- Hả? – ông Thứ trưởng đáp, cố làm ra vẻ ngạc nhiên.
- Ông không gặp em hơn một tháng rồi! Có phải vì ông Nobu không tốt, không đưa ông đến Gion thường xuyên cho phải phép không?
- Không phải ông Nobu không tốt đâu – ông Thứ trưởng trả lời. Ông ta thở ngược hơi thở lên mũi mấy lần nữa rồi mới nói tiếp – tôi đã yêu cầu ông ấy nhiều lần.
- Vắng xa ông một tháng, thế là không tốt rồi. Chúng ta phải vui thật nhiều để bù lại mới được.
- Phải – ông Nobu nói xen vào – phải uống nhiều vào.
- Trời ơi, đêm nay ông Nobu gắt gỏng quá. Bộ ông ấy sẽ như thế này cả đêm hay sao? Và ông Chủ tịch, Mameha và Bí Ngô đâu? Bộ họ không đến với chúng ta à?
- Tối nay ông Chủ tịch không đến được – ông Nobu đáp – còn những người kia tôi không biết họ ở đâu. Đấy là việc khó khăn của cô, chứ không phải của tôi.
Một lát sau, cửa phòng mở, hai cô hầu mang thức ăn vào cho hai người. Tôi cố hết sức làm cho họ thân thiện với nhau khi ăn – nghĩa là tôi cố làm cho Nobu nói chuyện, nhưng ông ta không muốn nói chuyện. Rồi tôi cố làm cho ông Thứ trưởng nói chuyện, nhưng cũng chỉ moi được vài tiếng nơi đĩa cá nướng. Thành ra cuối cùng tôi bỏ cuộc, và chỉ nói một mình những điều tôi muốn nói, như bà già nói chuyện với hai con chó. Trong suốt thời gian này, tôi rót rượu liên miên cho hai người. Nobu không uống nhiều, nhưng ông Thứ trưởng nâng cốc thoải mái bất cứ khi nào tôi rót đầy. Khi thấy mắt ông Thứ trưởng đã bắt đầu kèm nhèm, Nobu như người vừa tỉnh dậy, dằn mạnh cái tách rượu lên bàn, lấy khăn lau miệng rồi nói:
- Tốt rồi, ông Thứ trưởng, buổi tối như thế này đầy đủ rồi. Đã đến giờ ông về nhà thôi.
- Ông Nobu! – tôi nói – Em có cảm tưởng khách của ông bắt đầu vui.
- Ông ấy vui nhiều rồi. Chúng ta đưa ông ấy về nhà cho sớm. Nào ông Thứ trưởng, vợ ông chắc mừng lắm!
- Tôi không có vợ mà! – ông Thứ trưởng đáp. Nhưng ông ta kéo vớ lên và chuẩn bị đứng dậy.
Tôi dẫn Nobu và ông Thứ trưởng ra hành lang đến cửa trước, giúp ông Thứ trưởng mang giày. Tắc xi vẫn còn hiếm vì nhiên liệu có hạn, nhưng cô hầu đã gọi xe kéo, tôi giúp ông ta lên xe. Trước đây tôi đã thấy ông ta rất kỳ lạ, nhưng khi ấy tôi thấy ông ta cứ cụp mặt xuống hai đầu gối, thậm chí cũng không nói lời giã biệt. Ông Nobu đứng trên ngưỡng cửa, quắc mắt nhìn vào trời đêm như là đang nhìn thấy mây kéo đến, nhưng thực ra bầu trời rất trong sáng. Khi ông Thứ trưởng về rồi, tôi nói với ông Nobu:
- Ông Nobu, hai người có chuyện gì xích mích với nhau phải không?
Ông ta nhìn tôi, vẻ khinh khỉnh, rồi quay vào trong nhà. Tôi theo ông ta vào phòng, ông ta dằn cái tách sakê không có rượu trên bàn. Tôi nghĩ ông ta muốn uống sakê, nhưng khi tôi hỏi, ông ta không trả lời gì hết – vả lại bình rượu cũng hết sạch. Tôi đợi một lát lâu, tưởng ông ta muốn nói cái gì đấy, nhưng cuối cùng chính tôi nói:
- Ông Nobu, nhìn ông mà xem. Giữa hai mắt ông có đường sâu như cái rãnh trên đường.
Ông ta để cho các bắp thịt quanh mắt nghỉ ngơi, nên đường nhăn có vẻ biến mất. Ông ta đáp:
- Tôi đâu còn trẻ trung như trước nữa.
- Ông nói thế nghĩa là sao?
- Nghĩa là có những đường nhăn vĩnh viễn như thế, và chúng không tan đi như cô nghĩ đâu.
- Có những đường nhăn đẹp và những đường nhăn xấu, ông Nobu à. Ông đừng quên điều ấy.
- Cô cũng không còn trẻ trung như trước nữa.
- Bây giờ ông lại sỉ nhục em rồi! Ông cau có hơn bao giờ hết. Tại sao ở đây không có chút rượu nào hết? Ông cần uống gì một chút mới được!
- Tôi không sỉ nhục cô. Tôi khẳng định một sự thật.
- Có những đường nhăn đẹp, những đường nhăn xấu, có những sự thật đẹp, sự thật xấu. Sự thật xấu ta nên tránh chúng đi.
Tôi tìm cô hầu bảo mang đến khay đựng uýt ki, scott và nước, với mực khô nướng – Vì tôi ngạc nhiên thấy Nobu không ăn gì nhiều khi nãy. Khi cô gái mang khay đến, tôi rót rượu scott vào ly, pha thêm nước, để ly trước mặt ông ta. Tôi nói:
- Đấy, bây giờ cứ xem như đây là thuốc bổ, uống đi – ông ta hớp một hớp, nhưng chỉ một hớp nhỏ thôi. Tôi nói tiếp – Uống hết đi.
- Tôi uống theo cách của tôi.
- Khi bác sĩ ra lệnh cho bệnh nhân uống thuốc, bệnh nhân phải uống theo lệnh! Uống hết đi!
Nobu uống hết ly rượu, nhưng khi uống ông ta không nhìn tôi. Sau đó tôi rót them ly nữa và ra lệnh cho ông ta uống nữa.
- Cô không phải là bác sĩ – ông ta nói – tôi uống từ từ theo cách của tôi.
- Nào ông Nobu, mỗi lần ông mở miệng là ông chuốc thêm rắc rối vào người. Bệnh nhân đau càng nặng, thuốc uống càng nhiều.
- Tôi không làm thế. Tôi ghét uống một mình.
- Được rồi, em sẽ uống với ông – tôi đáp.
Tôi bỏ vài cục đá vào ly rượu rồi đưa ly cho ông Nobu rót rượu. Ông mỉm cười khi nắm cái ly tôi đưa – có lẽ đây là nụ cười đầu tiên của ông ta trong buổi tối – và cẩn thận rót rượu scott một lượng gấp đôi lượng tôi rót cho ông ta, rót thêm tí nữa cho đầy ly. Tôi lấy ly rượu nơi ông, đổ hết rượu còn lại vào cái tô để ở giữa bàn, rồi rót đầy vào ly lại với số lượng như ông ta đã rót vào ly tôi, thêm một ít xem như rượu phạt.
Tôi nhăn mặt khi uống rượu. Tôi thấy uống scott thú vị như lội ngược dòng nước mưa chảy ngoài đường. Tôi nghĩ nhăn mặt như thế để tỏ lòng khoan khoái, và sau đó, Nobu trông có vẻ bớt gắt gỏng hơn. Khi lấy lại được hơi thở, tôi nói:
- Tôi không biết tối nay ông có chuyện gì không vừa ý. Hay ông Thứ trưởng không vừa ý.
- Đừng nhắc đến con người ấy! Tôi đã bắt đầu quên anh ta thì cô lại nhắc đến! Cô có biết vừa rồi anh ta nói với tôi cái gì không?
- Ông Nobu, em có trách nhiệm làm cho ông vui vẻ, dù ông uống nhiều rượu hay ít. Ông đã thấy cảnh ông Thứ trưởng say đêm này qua đêm nọ rồi. Bây giờ đến lượt ông phải say.
Nobu nhìn tôi với ánh mắt khó chịu, nhưng ông ta bưng ly lên như một gã đàn ông sắp ra pháp trường, rồi ông ta nhìn ly rượu một lát trước khi uống cạn. Ông ta để cái ly lên bàn rồi đưa lưng bàn tay dụi mắt như thể cố làm cho mắt sáng ra.
- Sayuri – ông ta nói – tôi phải cho cô biết chuyện này. Không chóng thì chầy, cô cũng sẽ nghe chuyện này thôi. Tuần trước ông Thứ trưởng và tôi đã nói chuyện với bà chủ phòng trà Ichiriki. Chúng tôi đã tính đến khả năng làm cho ông Thứ trưởng thành danna của cô.
- Ông Thứ trưởng à? – tôi hỏi – ông Nobu, em không hiểu. Có phải ông muốn chuyện như thế xảy ra không?
- Đương nhiên là không, nhưng ông Thứ trưởng đã giúp đỡ chúng tôi hết mình, và tôi không còn lựa chọn nào khác. Nhà cầm quyền chiếm đóng đang chuẩn bị kết thúc việc thanh sát công ty đồ điện Iwamura. Thế nào công ty cũng bị chiếm giữ. Tôi nghĩ ông Chủ tịch và tôi chắc phải học cách làm thợ hồ hay việc gì đấy thôi, vì chắc không bao giờ chúng tôi được phép hành nghề kinh doanh lại được nữa. Tuy nhiên, ông Thứ trưởng sẽ làm cho họ xét lại trường hợp của chúng tôi, và ông ta cố thuyết phục họ rằng chúng tôi đã bị giáng một đòn quá khắc nghiệt. Chắc cô biết sự thật là thế đấy.
- Thế mà ông Nobu cứ gọi ông Thứ trưởng là đồ này đồ nọ. Em thấy rằng…
- Ông ta đáng được gọi đồ này đồ nọ như thế. Tôi không ưa anh ta, Sayuri à. Và cứ nghĩ đến chuyện tôi mắc nợ anh ta là tôi không ưa anh ta rồi.
- Em biết – tôi nói – Như vậy là em bị giao cho ông Thứ trưởng chỉ vì…
- Không ai muốn giao cô cho ông Thứ trưởng hết, ông ta không có khả năng để làm danna của cô. Tôi đã nói cho ông ta biết rằng công ty Iwamura bằng lòng trả công cho ông ta, tất nhiên chúng tôi không muốn làm thế. Tôi phải nói thẳng cho ông ta biết, thà mất lòng trước mà được lòng sau. Ông Thứ trưởng rất thất vọng. Nhiều lúc tôi cảm thấy ân hận cho ông ta.
Những điều ông Nobu vừa nói không có gì buồn cười hết, thế mà tôi không làm sao để khỏi bật cười, vì bỗng nhiên trong óc tôi hiện ra hình ảnh ông Thứ trưởng là danna của tôi, ngồi cúi sát vào tôi, hàm dưới chìa ra trước, cho đến khi hơi thở của ông ta đập vào lỗ mũi tôi.
- Ỗ, cô thấy chuyện này đáng cười à? – Ông Nobu hỏi.
- Thật vậy, ông Nobu à. Em xin lỗi, nhưng cứ hình dung ra cảnh ông Thứ trưởng…
- Tôi không muốn hình dung ra ông Thứ trưởng! Ngồi bên cạnh ông ta để nói chuyện với bà chủ phòng trà Ichiriki là đã quá tệ mạt rồi.
Tôi rót uýt ki pha thêm nước cho ông một ly nữa và cho tôi một ly. Tôi muốn uống thêm ly cuối cùng, căn phòng đã lờ mờ trước mắt tôi. Nhưng Nobu đã nâng ly lên, và tôi chỉ còn nước cùng uống với ông ta. Uống xong, ông ta lấy khăn lau miệng và nói:
- Thật là một thời đại khó sống, Sayuri à.
- Ông Nobu, em nghĩ rằng chúng ta uống để cùng vui.
- Chúng ta đã biết nhau lâu rồi, Sayuri. Có lẽ…mười lăm năm rồi, phải không? Không, đừng trả lời. Tôi muốn nói cho cô nghe việc này, cô ngồi yên mà nghe tôi nói. Tôi đã muốn nói cho cô nghe chuyện này từ lâu lắm rồi, nay mới có dịp. Tôi mong cô lắng nghe, vì tôi chỉ nói một lần thôi. Chuyện như thế này, tôi không mấy ưa geisha, có lẽ cô cũng biết điều đó. Nhưng Sayuri à, tôi luôn cảm thấy rằng cô không giống các geisha khác.
Tôi đợi ông ta nói tiếp nhưng ông ta không nói nữa.
- Có phải ông muốn nói với em như thế thôi sao?
- Phải, không cần nói là tôi nên làm nhiều chuyện cho chứ? Chẳng hạn tôi nên mua nữ trang cho cô.
- Ông đã mua nữ trang cho em rồi, thật vậy, ông rất tốt với em, chắc ông không tốt với ai như thế.
- Đúng, tôi nên mua nhiều hơn nữa cho cô mới phải. Nhưng đấy không phải là chuyện tôi muốn đề cập đến. Tôi thật lúng túng khó nói. Điều tôi muốn nói là tôi cảm thấy tôi là đồ điên. Hồi nãy cô đã cười khi nghe tôi nói ông Thứ trưởng làm danna của cô. Nhưng cô cứ nhìn vào tôi thì thấy, cụt một tay và da thì…Họ gọi là thằn lằn, cô biết không?
- Ồ, ông Nobu, ông đừng nói về ông như thế…
- Đã đến lúc phải nói. Tôi đã đợi nhiều năm rồi. Tôi phải đợi cho hết thời gian cô sống vô nghĩa với ông Tướng. Mỗi lần tôi nghĩ đến chuyện cô với ông lão ấy…Thôi, tôi không muốn nghĩ đến chuyện ấy nữa, rồi nghĩ đến thằng cha Thứ trưởng điên khùng này nữa! Tôi đã nói cô biết tối nay hắn đã nói với tôi ra sao không? Đây là chuyện tệ hại nhất. Sau khi hắn biết hắn không làm danna của cô được, hắn ngồi ỳ một đống như đất, rồi cuối cùng hắn nói “Tôi tưởng anh đã nói tôi sẽ làm danna của Sayuri” – “Trời, không bao giờ tôi nói chuyện như thế. Chúng tôi đã làm hết sức mình rồi, thưa ông Thứ trưởng, nhưng chuyện không thành được” – Tôi nói với hắn như thế và hắn nói “Anh có thể thu xếp cho tôi một lần thôi không được sao?” – Tôi đáp “Một lần à? Cho ông làm danna của Sayuri một lần à? Ông muốn nói một đêm phải không?” – Và hắn gật đầu! Tôi bèn nói “Xin ông nghe đây, ông Thứ trưởng, thật quá bậy khi đến gặp bà chủ phòng trà để đề nghị một những như ông làm danna cho một người như Sayuri. Tôi chỉ làm việc này vì tôi biết chuyện không thể xảy ra được. Nếu ông nghĩ rằng…”
- Ông không nói thế đâu!
- Đương nhiên là có. Tôi nói “nếu ông nghĩ rằng tôi bằng lòng thu xếp cho ông ở riêng với cô ấy một phần tư giây thôi…tại sao ông thích cô ta? Vả lại cô ta không phải của tôi để cho ông, đúng không? Đừng nghĩ đến chuyện tôi đến gặp cô ấy và yêu cầu một việc như thế!”
- Ông Nobu, em hy vọng ông Thứ trưởng không xem việc này là bậy đâu, vì ông ta đã giúp đỡ công ty Iwamura rất nhiều.
- Này nhé. Tôi không muốn cô cho tôi là đồ vô ơn. Ông Thứ trưởng giúp chúng tôi là vì ông ta có công việc phải giúp. Tôi đã đối xử với ông ta thật tốt trong mấy tháng qua, và bây giờ vẫn không ngưng cư xử tốt. Nhưng không phải vì thế mà tôi từ bỏ điều tôi chờ đợi hơn mười năm nay và để cho ông ta chiếm đọat điều ấy! Nếu tôi tìm cô để yêu cầu điều ông ta muốn thì sao? Có phải cô sẽ nói “Được rồi, ông Nobu, tôi sẽ làm việc ấy cho ông.”
- Xin ông…Làm sao em có thể trả lời một câu hỏi như thế?
- Dễ thôi. Chỉ nói với tôi cô sẽ không làm một việc như thế.
- Nhưng, ông Nobu này, em mang ơn ông rất nhiều, nếu ông yêu cầu em làm giúp ông một việc, em không thể nào từ chối được.
- A, chuyện mới lạ rồi đây! Sayuri, cô đã thay đổi hay tôi chưa hiểu hết lòng cô?
- Em thường nghĩ ông đánh giá em quá cao…
- Tôi không đánh giá ai sai lầm hết. Nếu quả tôi đánh giá cô sai, tôi cũng đánh giá thế giới này sai. Có phải cô bằng lòng hiến thân cho một anh chàng như ông Thứ trưởng ấy? Cô không thấy được cái đúng, cái sai, cái tốt, cái xấu sao? Hay cô đã sống quá nhiều ở Gion nên thế?
- Trời ơi, ông Nobu…thật lâu rồi bây giờ em mới thấy ông giận dữ như thế này.
Lời nói của tôi chắc có điều gì sai trái, vì bỗng nhiên mặt Nobu phừng phừng tức giận. Ông ta nắm cái ly ném mạnh xuống bàn, cái ly vỡ vụn, nước đá bắn tung toé trên mặt bàn. Nobu lật ngửa bàn tay ra xem. Một dòng máu chảy giữa lòng bàn tay ông ta.
- Ôi, ông Nobu!
- Trả lời tôi đi.
- Em không thể nghĩ ra được câu trả lời ngay bây giờ. Xin ông cảm phiền, em phải đi tìm cái gì để băng tay cho ông.
- Có phải cô sẽ hiến thân cho ông Thứ trưởng, bất kể ai yêu cầu cô làm việc đó, phải không? Nếu cô là người bằng lòng làm việc đó, tôi muốn cô đi ra khỏi phòng này ngay lập tức và đừng bao giờ nói năng gì với tôi nữa!
Tôi không biết tại sao buổi tối lại ra nông nỗi này, nhưng tôi thấy tôi chỉ cần trả lời thôi là được. Tôi rất muốn đi tìm khăn để buộc tay cho Nobu – máu đang nhỏ giọt trên bàn – nhưng ông ta vẫn nhìn tôi đăm đăm khiến tôi không dám đi.
- Em sẽ không bao giờ làm một việc như thế… - tôi nói.
Tôi nghĩ nói xong chắc thế nào ông ta cũng dịu lại, nhưng ông ta vẫn quắc mắt nhìn tôi một hồi lâu, ánh mắt rất đáng sợ. Cuối cùng, ông ta buông tiếng thở dài:
- Lần sau, hãy trả lời câu hỏi của tôi trước khi tôi tự cắt mình đấy.
Tôi chạy ra khỏi phòng để tìm bà chủ nhà. Bà ta chạy đến với mấy cô hầu, mang theo thau nước và khăn. Nobu không muốn để cho bà ta gọi bác sĩ, và thật ra, vết cắt không sâu như tôi lo sợ. Sau khi bà chủ đi ra rồi, Nobu im lặng một cách vô cùng kỳ lạ. Tôi cố gợi chuyện, nhưng ông ta không chú ý đến. Cuối cùng tôi nói:
- Thoạt tiên, em không thể làm cho ông bình tĩnh, rồi bây giờ, em không làm cho ông nói chuyện được. Em không biết có nên mang rượu cho ông uống thêm hay rượu sẽ gây thêm nhiều chuyện nữa.
- Chúng ta uống rượu như thế là đủ rồi, Sayuri. Bây giờ đã đến lúc cô về mang viên đá đến đây.
- Viên đá nào thế?
- Viên đá tôi giao cho cô vào mùa thu năm trước, miếng bê tông lấy ở nhà máy. Đi mang đến đây.
Nghe ông ta nói thế, tôi lạnh da gà, vì tôi biết rõ ông ta đang nói đến cái gì rồi. Đã đến lúc ông Nobu đưa ra đề nghị làm danna của tôi.
- Ồ, xin thú thực với ông, em uống đã quá chén, không biết em có đi được hay không - tôi đáp – Có lẽ ông cho phép em lần sau ta gặp nhau, em sẽ mang đến, có được không?
- Cô phải mang đến đêm nay. Cô biết tại sao tôi ngồi lại đây sau khi ông Thứ trưởng ra về không? Cô về lấy đi, tôi sẽ đợi cô ở đây.
Tôi định nhờ một cô hầu về nhà tôi lấy giúp, nhưng tôi nghĩ cô ta sẽ không biết nơi tôi để đâu mà lấy. Cho nên tôi bước ra hành lang, mang giày, và mặc dù tôi đang say, tôi cũng bước ra ngoài đường để về nhà.
Khi về đến nhà, tôi lên phòng, lấy cục bê tông gói trong vuông lụa để trên kệ trong tủ. Tôi mở gói lụa ra, thả vuông lụa rơi xuống nền nhà, tôi không biết tại sao tôi làm thế. Khi tôi ra đi, bà Dì gặp tôi nơi đầu cầu thang – chắc bà nghe tiếng chân tôi về và bà lên gặp để xem có chuyện gì – bà hỏi tôi tại sao tôi mang viên đá trên tay để làm gì.
- Tôi mang đến cho ông Nobu. Bà Dì à, bà giữ tôi ở nhà đi!
- Cô say rồi, Sayuri. Tối nay đầu óc cô sao thế?
- Tôi phải đem cái này đến cho ông ấy. Và…ôi, nếu tôi đem đến thì cuộc đời tôi chấm dứt mất. Xin Dì vui lòng giữ tôi ở nhà đi…
- Say và khóc lóc! Còn tệ hơn Hatsumono nữa! Cô không thể quay lại đấy như thế này được!
- Vậy thì nhờ Dì gọi đến phòng trà Ichiriki. Nhờ họ báo cho ông Nobu biết tôi không đến đấy được. Dì làm giúp tôi được không?
- Tại sao ông Nobu đợi cô mang viên đá này đến?
- Tôi không giải thích được. Tôi không thể…
- Chẳng sao. Nếu ông ta đợi cô, cô phải đi thôi.
Bà ta nói rồi dẫn tôi vào phòng lại, lấy khăn lau mặt cho tôi và trang điểm mặt mày cho tôi dưới ánh đèn điện lồng trong chụp. Tôi ngồi yên bất động, người mềm nhũn trong khi bà ta chuẩn bị cho tôi, bà ta phải giữ cằm tôi để đầu tôi khỏi gục xuống. Bà ta quá nôn nóng đến nỗi cuối cùng phải đưa cả hai tay nắm chặt đầu tôi để nhắc tôi nhớ bà muốn tôi để đầu yên như thế.
- Tôi mong sao cô đừng làm như thế này nữa, Sayuri à. Có trời mới biết việc gì xảy đến cho cô.
- Tôi là đồ điên, Dì à.
- Đêm nay cô đúng là đồ điên – bà ta đáp – bà Mẹ sẽ rất giận cô nếu cô làm gì để mất lòng ông Nobu khiến cho ông ta hết thương cô.
- Tôi chưa làm thế - tôi đáp – nhưng nếu Dì nghĩ đến chuyện…
- Không được nói năng như thế… - bà Dì đáp rồi bà ta không nói gì nữa cho đến khi trang điểm cho tôi xong.
Tôi quay lại phòng trà Ichiriki, cầm viên đá trên cả hai tay. Tôi không biết vì viên đá quá nặng hay là vì tay tôi yếu do uống rượu quá nhiều. Nhưng khi tôi đến ngồi với ông Nobu lại trong phòng, tôi cảm thấy tôi đã cạn hết sức lực trong người. Nếu ông ta có nói đến chuyện tôi phải làm tình nhân cho ông ta, chắc tôi cũng đành buông xuôi theo số phận.
Tôi để viên đá lên bàn. Nobu cầm viên đá lên trong chiếc khăn băng quanh bàn tay ông ta.
- Tôi không hứa tôi sẽ tặng cô một viên đá quý lớn như viên bê tông này – ông ta nói – vì tôi không có nhiều tiền – nhưng sự thể bây giờ đã khác trước đây rồi.
Tôi cúi người chào, cố làm ra vẻ tươi tỉnh. Nobu không nói thêm gì để cho rõ nghĩa điều ông ta vừa nói.

Chuong 33

Đêm ấy, khi nằm ngủ, tôi thấy căn phòng quay quanh trước mặt tôi. Tôi cố định thần như người đánh cá cố sức chú ý múc cá trong lưới ra. Mỗi khi ý nghĩ về ông Chủ tịch hiện ra trong óc tôi, tôi cố múc ra đổ hết, đổ mãi cho đến khi hình ông ta không còn lại chút nào trong đầu tôi. Muốn làm cho được thế, tôi phải dùng phương pháp thật khéo léo mơi được. Nhưng mỗi khi hình ảnh ông ta hiện ra, tôi chưa kịp trở tay, nó liền đưa tôi đến chính cái nơi mà tôi muốn xua đuổi hình ảnh ông ta ra đi. Nhiều lần tôi dừng tay, tự nhủ - đừng nghĩ đến ông Chủ tịch, mà bây giờ nghĩ đến Nobu. Và tôi cố tình hình dung ra cảnh tôi gặp gỡ ông Nobu ở đâu đó ở Kyoto. Cái chỗ mà tôi hình dung ra có thể là nơi tôi thường nghĩ đến cảnh gặp gỡ của tôi với ông Chủ tịch, và rồi bỗng nhiên tôi lại miên man nghĩ đến ông Chủ tịch.
Tôi trải qua tình trạng như thế này suốt mấy tuần liền. Thỉnh thoảng tôi không nghĩ đến ông Chủ tịch một lát, thì trong khoảng thời gian đó, tôi cảm thấy lòng tôi trống rỗng một cách ghê gớm. Thậm chí tôi không muốn ăn nữa. Có đêm về khuya, bé Etsuko mang súp đến cho tôi, tôi cũng không thèm ăn. Vài lần tôi cố tập trung tư tưởng vào Nobu, nhưng tôi thấy mình trơ ra như đá, chẳng suy nghĩ được gì. Trong khi làm hoá trang, mặt tôi bất động như chiếc kimono treo trên giá. Bà Dì nói tôi trông như bóng ma. Tôi thường đi dự tiệc lớn, tiệc nhỏ, nhưng tôi chỉ lặng lẽ quỳ một nơi, hai tay để vào lòng.
Tôi nghĩ ông Nobu sắp đưa ra đề nghị làm danna của tôi, cho nên ngày nào tôi cũng chờ đợi tin ấy đến. Nhưng tuần này rồi tuần nọ trôi qua mà tôi không nghe được tin gì hết. Rồi vào một buổi chiều nóng nực vào cuối tháng 6, gần một tháng sau ngày tôi mang viên đá đến trả cho Nobu, vào lúc tôi đang ăn trưa, Mẹ đem vào tờ báo, mở ra cho tôi xem bài có nhan đề “Ngân hàng Mitsubishi đảm bảo tài chánh cho công ty Iwamura”. Tôi nghĩ thế nào tôi cũng biết được tình hình có liên quan đến ông Nobu và ông Thứ trưởng, và dĩ nhiên có liên quan đến ông Chủ tịch, nhưng hầu hết bài báo đều nói về những vấn đề tôi không thể nào nhớ được. Bài báo cho rằng tên của công ty đồ điện Iwamura đã được chính quyền đồng minh chiếm đóng đổi thành …tôi không nhớ - đại loại công ty cao cấp này sang công ty cao cấp khác thôi. Nghĩa là, theo tờ báo giải thích, công ty không còn bị hạn chế về mặt ký hợp đồng, vay tiền ngân hàng, vân vân. Những đoạn tiếp theo của bài báo, viết về lãi suất và tín dụng, rồi cuối cùng nói đến món tiền vay rất lớn mà công ty đã vay của ngân hàng Mitsubishi. Bài báo đọc khó hiểu vì toàn những con số và những điều khoản kinh doanh. Khi đọc xong, tôi ngước mắt nhìn Mẹ, bà quỳ phía bên kia bàn.
- Tình hình công ty Iwamura đã hoàn toàn chuyển hướng rất thuận lợi – bà nói – Tại sao cô không nói cho tôi biết chuyện này?
- Mẹ à, con không hiểu nội dung bài báo ra sao cả.
- Thảo nào mà mấy ngày vừa qua chúng ta nghe người ta nói nhiều về Nobu Toshikazu. Chắc cô biết ông ta đã đưa đề nghị làm danna cho cô rồi. Tôi định trả lời từ chối ông ta. Ai muốn một người có tương lai bấp bênh đề nghị làm danna cho mình kia chứ? Bây giờ tôi mới hiểu lý do tại sao trong mấy tuần qua, cô thẫn thờ như một kẻ mất hồn! Thôi, bây giờ cô hãy thư giãn đi. Cuối cùng chuyện ấy cũng xảy đến. Tất cả chúng tôi đều biết trong nhiều năm qua Nobu rất thích cô.
Tôi cứ nhìn xuống mặt bàn như cô con gái chính chuyên. Nhưng tôi biết mặt tôi lộ vẻ đau đớn, vì bỗng nhiên bà Mẹ nói tiếp:
- Cô không được có thái độ hững hờ như thế khi Nobu muốn cô vào giường với ông ta. Có lẽ sức khoẻ của cô không như trước. Tôi sẽ đưa cô đến bác sĩ khi cô đi Amani trở về.
Amani là một hòn đảo nhỏ không xa Okinawa, tôi chỉ nghe nói đến mà thôi. Tôi không tin bà ta nói đến nơi này. Nhưng quả thật, khi Mẹ nói tiếp, bà ta cho tôi biết phòng trà Ichiriki sáng nay đã nhận cú điện thoại từ công ty Iwamura, báo cho biết họ sẽ mời tôi đi đến đảo Amani vào cuối tuần sau. Tôi được họ mời đi với Mameha và Bí Ngô cùng một geisha khác nữa mà Mẹ không nhớ tên. Chúng tôi sẽ lên đường vào chiều thứ sáu sắp tới.
- Nhưng thưa Mẹ, thật vô lý – tôi nói – đi chơi cuối tuần đến tận Amani à? Nội tàu chạy cũng đã mất cả ngày rồi.
- Không đi theo cách đó. Công ty Iwamura đã thu xếp để các cô đi máy bay.
Bỗng tôi quên phứt những chuyện lo buồn về Nobu, tôi ngồi thẳng người lên thật nhanh, như có ai chích kim vào mình.
- Mẹ! Con không thể đi máy bay được!
- Nếu cô ngồi lên máy bay, cứ để cho nó bay, không có gì phải lo sợ hết! – bà ta đáp. Chắc bà nghĩ câu nói của mình khôi hài lắm, cho nên bà cười hinh hích.
Vì nhiên liệu hiếm hoi, nên tôi nghĩ không thể nào đi máy bay được, thành ra tôi yên chí không lo – và tôi yên chí như thế cho đến khi tôi nói chuyện với bà chủ phòng trà Ichiriki vào ngày hôm sau. Thì ra nhiều sĩ quan Mỹ trên đảo Okinawa thường đi máy bay đến Osaka nghỉ cuối tuần mỗi tháng vài lần. Thường thì máy bay trở lại để đón họ về. Công ty Iwamura đã thu xếp để chúng tôi đi trên chuyến máy bay quay về không có người ấy. Ngoài ra, khi chúng tôi đến Amani sẽ được ở tại khu nghỉ mát có suối nước nóng. Điều cuối cùng bà chủ phòng trà nói với tôi là “Tôi mừng là chính cô chứ không phải tôi đi trên máy bay”.
Sáng thứ sáu, chúng tôi đáp xe lửa đi Osaka. Ngoài ông Bekku ra, người đi theo để giúp chúng tôi xách rương hòm đến tận phi trường, đoàn người gồm có Mameha, Bí Ngô và tôi, cùng bà geisha lớn tuổi có tên là Shizue. Shizue ở quận Pontocho chứ không phải ở Gion, bà ta đeo cặp kính dày cộm và có mái tóc màu bạch kim, khiến bà ta trông còn già hơn nữa. Tệ nhất là chiếc cằm chẻ, khiến cho chiếc cằm trông như hai cái vú. Shizue đối với chúng tôi như cỏ dại dưới cây tuyết tùng. Bà ta thường nhìn ra ngoài cửa xe lửa, nhưng thỉnh thoảng mở dây kéo trên cái xách tay màu đỏ và vàng cam để lấy ra cái kẹo, và nhìn chúng tôi như thể bà không hiểu nổi tại sao chúng tôi đã xuất hiện để quấy rầy bà như thế.
Từ ga Osaka, chúng tôi đi trên chiếc xe buýt không lớn hơn chiếc xe hơi bao nhiêu, xe chạy bằng than và rất dơ. Cuối cùng sau khoảng một giờ, chúng tôi bước xuống bên cạnh chiếc máy bay màu bạc có hai chong chóng thật lớn ở hai cánh. Sau đuôi có bánh xe nhỏ khiến tôi cảm thấy không an tâm. Khi chúng tôi vào trong máy bay, lối đi ở giữa xuôi xuống rất nghiêng, tôi cảm thấy như chiếc máy bay bị gãy.
Cánh đàn ông đã ngồi trên máy bay rồi, họ ngồi phía sau đuôi và đang nói chuyện kinh doanh. Ngoài nhóm của ông Chủ tịch, Nobu, ông Thứ trưởng, còn có một ông già, sau này tôi mới biết đó là ông Giám đốc chi nhánh ngân hàng Mitsubishi tại địa phương. Ngồi bên cạnh ông ta là một thanh niên tuổi ngoài 30 có cái cằm như cằm bà Shizue, anh ta cũng đeo kính dày như bà. Té ra bà Shizue một thời là tình nhân của ông Giám đốc Ngân hàng, và anh ta là con của hai người.
Chúng tôi ngồi ở phía trước máy bay, để cho nhóm đàn ông mặc sức nói chuyện. Liền sau đó, tôi nghe tiếng nổ rồi máy bay rung động… và khi tôi nhìn ra cửa sổ, tôi thấy cái chong chóng khổng lồ quay tít. Trong nháy mắt, cánh quạt quay nhanh chỉ cách mặt tôi có gang tấc, phát ra tiếng kêu vù vù. Tôi có cảm giác như nó sẽ chặt đứt thân máy bay và chặt tôi ra làm hai. Mameha để tôi ngồi nơi cửa sổ, chị ấy nghĩ rằng để tôi nhìn ra cảnh vật bên ngoài khi máy bay lên cao sẽ là cho tâm thần tôi bình tĩnh, nhưng bây giờ thấy chong chóng quay, cô ấy không chịu đổi chỗ cho tôi nữa. Tiếng động cơ to dần và máy bay bắt đầu chạy tới, quay qua quay về. Cuối cùng tiếng ồn to kinh khủng, và lối đi ở giữa nằm ngang bằng phẳng. Một lát sau, chúng tôi nghe tiếng nổ ầm ầm và máy bay cất cánh. Chỉ trong nháy mắt, mặt đất nằm xa phía dưới và có người nào đấy nói chuyến bay dài 700 cây số, và phải bay mất gần bốn giờ. Khi nghe thế, tôi cảm thấy ứa nước mắt, và mọi người bật cười nhìn tôi.
Tôi kéo màn che cửa sổ, cố đọc báo để giữ bình tĩnh. Một lát sau Mameha thiu thiu ngủ bên cạnh tôi, bỗng tôi thấy ông Nobu đứng ở lối đi.
- Sayuri, cô khoẻ chứ? – ông ta nói, giọng nho nhỏ như sợ đánh thức Mameha dậy.
- Em thấy ông Nobu trước đây chưa bao giờ hỏi em như thế - tôi trả lời – Chắc ông ấy đang vui vẻ.
- Chưa bao giờ tương lai có vẻ hứa hẹn như thế này.
Mameha nhúc nhích khi nghe có tiếng người nói chuyện, cho nên Nobu phải đi tiếp tới phòng vệ sinh. Trước khi mở cửa, ông ta nhìn lui về phía chỗ các ông ngồi. Bỗng tôi nhìn ông qua một góc cạnh mà tôi chưa bao giờ từng nhìn, góc cạnh làm cho ông trông có vẻ dữ tợn. Khi ánh mắt ông lướt về phía tôi, tôi thấy ông có vẻ như nghĩ rằng tôi đang lo lắng cho tương lai của tôi và ông cảm thấy yên ổn về phần tương lai của ông. Khi tôi nghĩ đến điều ấy, tôi cảm thấy kỳ lạ biết bao, vì Nobu hiểu tôi rất ít. Dĩ nhiên người geisha chờ mong thông cảm của danna chẳng khác nào con chuột mong sự thông cảm của con rắn. Vả lại làm sao Nobu hiểu được tôi khi mà ông ta chỉ xem tôi là người geisha giữ chuyện đời tư của mình rất kín đáo? Chỉ có ông Chủ tịch là người mà tôi hầu vui như là nàng Sayuri có cái tên Chiyo – nhưng không biết ông ta có hiểu được nỗi lòng của tôi không. Còn ông Nobu, nếu ông ta là người tôi đã gặp vào hôm ấy trên bờ suối Shirakawa, ông ta sẽ làm gì? Dĩ nhiên ông ta sẽ đi qua không đoái hoài gì đến tôi, và nếu ông ta làm thế, thì khoẻ cho tôi biết bao. Tôi sẽ khỏi mất công trằn trọc thâu đêm để mơ tưởng đến ông Chủ tịch. Tôi sẽ không thỉnh thoảng ghé lại các hàng mỹ phẩm để ngửi mùi phấn thơm trong không khí và nhớ đến mùi da thịt của ông ta. Tôi sẽ không cố sức hình dung ra hình ông ta nằm bên cạnh tôi. Nếu anh hỏi tại sao tôi muốn những chuyện như thế này, tôi sẽ trả lời rằng, tại sao quả hồng vàng khi chín lại có hương vị ngọt ngào? Tại sao gỗ khi đốt lên có mùi cây?
Nhưng đôi với tôi, sự đời đâu lại hoàn đấy, tôi vẫn như một cô gái dùng tay bắt chuột. Tại sao tôi không chấm dứt việc nghĩ đến ông Chủ tịch?
Tôi đoán sự buồn phiền chắc đã hiện rõ ràng trên mặt tôi khi cánh cửa phòng vệ sinh mở ra một lát sau đó, và ánh sáng phụt tắt. Tôi không chịu đựng được việc Nobu nhìn tôi trong trạng thái như thế này, nên tôi giả vờ tựa đầu lên cửa sổ máy bay mà ngủ. Sau khi ông ta đi qua rồi, tôi mở mắt ra lại. Tôi thấy khi tựa đầu lên cửa sổ, tôi đã kéo tấm màn mở ra, cho nên tôi nhìn ra ngoài máy bay lần đầu kể từ khi máy bay cất cánh khỏi phi đạo. Trải dài phía dưới là vùng biển xanh rộng bao la, lốm đốm vài nơi có màu lục bích ngọc như đồ trang sức trên tóc của Mameha. Chưa bao giờ tôi nghĩ trên biển lại có những đám màu lục như thế này. Đứng trên bờ núi đá ở Yoroido, tôi thấy biển luôn luôn có màu đá phiến. Còn ở đa6y tôi thấy biển trải rộng ra thành từng đường như những sợi chỉ len chạy từ chân trời. Cảnh tượng không có gì đáng sợ, mà trông rất đẹp. Ngay cả cái chong chóng quay thành vòng tròn như cái dĩa trông rất đẹp, và chiếc máy bay màu bạc cũng có nét đẹp riêng, nó được trang hoàng bằng những biểu tưiợng cho biết đây là phi cơ quân đội Mỹ. Giá cách đây năm năm mà thấy chúng thì kỳ cục biết bao! Chúng tôi đã đánh nhau như kẻ thù không đội trời chung, còn bây giờ tại sao? Chúng tôi đã giã từ quá khứ, tôi biết đây là điều đương nhiên, vì chính tôi cũng đang giã từ quá khứ. Giá mà tôi có cách gì để từ bỏ luôn cả tương lai.
Và rồi một hình ảnh hãi hùng hiện ra trong óc tôi: tôi thấy mình đưa tay cắt sợi dây số phận ràng buộc tôi với Nobu, và nhìn ông ta rơi xuống biển xa xa phía dưới.
Tôi không muốn nói đây chỉ là ý nghĩ hơn là điều mơ mộng viễn vông. Tôi muốn nói bỗng nhiên tôi biết tôi phải làm gì. Dĩ nhiên tôi sẽ không ném ông Nobu xuống biển, nhưng tôi phải làm cho ông ta thông cảm, phải thấy rõ hoàn cảnh như khi căn phòng mở rộng cửa, phải thấy rõ nguyên nhân tại sao tôi cắt đứt vĩnh viễn mối liên hệ giữa tôi và ông ta. Tôi không muốn làm sứt mẻ tình bạn giữa tôi với ông ta, nhưng trong nỗ lực của tôi tiến gần tới ông Chủ tịch, Nobu là trở ngại chính khó vượt qua. Thế nhưng, tôi có thể làm cho ông ta bị chính lửa hận của mình thiêu đốt mình. Chính Nobu đã nói cho biết cách làm ấy mấy phút sau khi ông ta làm rách tay mình tại phòng trà Ichiriki cách đây mấy tuần. Hôm ấy ông ta đã nói nếu tôi là loại đàn bà muốn hiến thân cho ông Thứ trưởng thì ông ta muốn tôi rời ngay khỏi phòng và đừng bao giờ nói chuyện với ông ta nữa.
Khi tôi nghĩ đến chuyện này, tự nhiên tôi cảm thấy lo sợ. Như cơn sốt đột nhiên bùng ra. Tôi cảm thấy mồ hôi nhễ nhại cả người. Tôi mừng vì Mameha ngủ yên bên cạnh tôi. Tôi tin chắc thế nào cô ấy cũng tự hỏi có vấn đề gì xảy ra khi thấy tôi thở hổn hển, lấy tay lau trán. Cái ý ấy đã xảy đến cho tôi, tôi tự hỏi tôi có thể làm việc ấy được không. Tôi không muốn nói đến hành động dụ dỗ ông Thứ trưởng, tôi biết rất rõ tôi có thể làm được điều đó. Việc đó chỉ giống như việc đi đến bác sĩ để chích ống thuốc thôi. Tôi chỉ việc tìm ra đúng lúc, thế là xong. Nhưng tôi có thể làm một việc như thế cho Nobu không? Trả ơn cho ông ta như thế thật khủng khiếp quá. So sánh với những loại đàn ông mà nhiều geisha đã chịu cảnh đau đớn trong nhiều muốn, thì Nobu có lẽ là người danna rất đáng được ưa chuộng. Nhưng tôi có thể chịu đựng nổi một cuộc sống mà tất cả mọi hy vọng đều tiêu tan hết không? Suốt mấy tuần liền, tôi cố thuyết phục mình để chịu đựng một cuộc sống như thế, nhưng liệu có thể sống được không? Tôi nghĩ có lẽ tôi đã thông cảm việc tại sao Hatsumono tàn ác đến thế, và tại sao bà Ngoại lại ti tiện đến thế. Thậm chí Bí Ngô, dù chưa đến 30, nhưng cô ta đã có vẻ thất vọng não nề nhiều năm nay. Điều duy nhất còn giữ cho tôi khỏi chán nản là hy vọng, và bây giờ để duy trì sự hy vọng, liệu tôi có phạm phải một hành động ghê tởm không? Tôi không nói đến chuyện dụ dỗ ông Thứ trưởng, mà tôi nói đến việc phản bội sự tin cậy của Nobu.
Trong suốt chuyến bay, tôi đã vật lộn với các ý nghĩ này. Chưa bao giờ tôi đắn đo suy nghĩ về một kế hoạch như thế này, nhưng lúc ấy, tôi đã nghĩ ra những bước trong kế hoạch như nghĩ ra những nước cờ trên bàn cờ. Tôi sẽ kéo ông Thứ trưởng ra riêng với tôi trong quán trọ - không, không trong quán trọ, mà nơi nào đấy – rồi tôi lừa sao để cho Nobu bắt gặp chúng tôi.. hay có nên chỉ cần cho ta nghe ai đó nói lại là đủ? Chắc anh có thể tưởng tượng ra hình ảnh tôi mệt mỏi bơ phờ sau chuyến đi ấy như thế nào. Khi tôi bước xuống máy bay, chắc trông tôi có vẻ lo sợ ghê lắm. Vì Mameha đã trấn an tôi bằng cách nói vbtg rằng chuyến bay đã hết và tôi được bình an vô sự.
Chúng tôi đến quán trọ khoảng một giờ trước khi trời hoàng hôn. Những người khác ca ngợi căn phòng chúng tôi ở, nhưng tôi chỉ giả vờ khen lấy lệ vì tôi quá dao động. Căn phòng rộng rãi thoáng đãng như căn phòng rộng nhất ở phòng trà Ichiriki, đồ đạc đẹp lộng lẫy theo kiểu Nhật, với chiếu rơm và đồ gỗ láng bóng. Dọc theo một bức tường dài, lắp toàn cửa kính, bên ngoài cửa là hàng cây nhiệt đới rất đẹp. Một con đường rợp bóng dẫn xuống bờ suối.
Khi hành lý đã thu xếp ngăn nắp rồi, tất cả chúng tôi đều chuẩn bị để tắm. Nhà trọ đã cung cấp cho chúng tôi những bức mành chắn xếp lại được, để chúng tôi ngăn ở giữa phòng cho riêng rẽ. Chúng tôi thay áo vải rồi đi theo lối đi có bóng cây rợp mát xuyên qua đám cây rậm rạp đến hồ suối nước nóng đẹp lộng lẫy nằm ở phía bên kia quán trọ. Cửa vào hồ có vách ngăn đàn ông đàn bà riêng, và bờ hồ nghiêng nghiêng riêng rẽ để đi xuống tắm. Nhưng khi đi xuống khu nước sâu của con suối thì đã ra khỏi vách ngăn, nên đàn ông đàn bà đều tắm chung một chỗ. Ông giám đốc ngân hàng đi theo đùa bỡn với Mameha và tôi, ông ta nói ông ta muốn một trong hai chúng tôi cùng qua bên kia bờ suối để tìm sỏi, hay là cành cây, hay cái gì cũng được – ông ta nói ông ta muốn trông thấy chúng tôi trần truồng, dĩ nhiên là ông ta nói đùa. Trong khi đó, người con trai của ông ta mải mê nói chuyện với Bí Ngô, và chúng tôi không còn đợi lâu mới hiểu được lý do. Vì bộ ngực của Bí Ngô rất đồ sộ cứ nổi lều bều trên mặt nước, còn cô ta thì cứ luôn mồm nói tía lia.
Có lẽ anh cho việc chúng tôi tắm chung đàn ông đàn bà với nhau, rồi tối đó cùng ngủ chung một phòng là điều kỳ dị. Nhưng thật ra, giới geisha chúng tôi thường làm như thế với những khách hàng quý – hay ít ra thì cũng như thế vào thời của tôi. Người geisha vẫn giữ tiếng tăm của mình khi không bị ai bắt quả tang là ở riêng một mình với người đàn ông nào không phải là danna của mình là được. Nhưng tắm vô tư chung chạ như thế này với nước đục phủ kín người, lại là vấn đề khác. Còn việc ngủ chung phòng, người Nhật chúng tôi có từ zakone, cá ngủ. Nếu anh hình dung ra cảnh một bầy cá thu vứt nằm chung trong cái giỏ, thì chắc anh hiểu được ý nghĩa của từ này.
Như tôi đã nói, tắm chung như thế này là vô tư. Nhưng nói thế không có nghĩa là bàn tay để yên một chỗ, và tôi cứ nghĩ đến cảnh bàn tay không để yên này khi tôi trầm mình trong nước suối. Nếu Nobu là loại người ưa quấy phá ông ta có thể bơi đến phía tôi, và sau chuyện trò một lát, ông ta có thể thình lình ôm lấy hông tôi, hay là có thể sờ đến bất cứ chỗ nào. Bước tiếp theo là có thể tôi sẽ cười ré lên, Nobu cũng cười, và thế là hết. Nhưng Nobu không phải là loại người ưa chọc ghẹo. Ông ta ngâm mình trong nước một hồi, nói chuyện với ông Chủ tịch, nhưng sau đó, ông ta lên ngồi trên một tảng đá, thòng một chân xuống nước, phủ cái khăn tắm nhỏ qua hông, ông ta không chú ý đến chúng tôi, mà lơ đãng thoa cái tay cụt và nhìn xuống nước. Khi ấy vầng dương đã lặn, trời đã tối nhưng Nobu ngồi dưới vầng ánh sáng của ngọn đèn lồng bằng giấy. Chưa bao giờ tôi thấy ông ta ngồi phô người ra như thế. Phần vai dưới bên mặt có sẹo cũng ghê gớm không thua gì sẹo trên mặt – nhưng phía vai bên kia thì trơn láng đẹp đẽ, như cái trứng. Và chuyện tôi nghĩ cách phản bội ông ta…Thế nào ông ta cũng nghĩ rằng tôi làm thế là vì một lý do duy nhất thôi, và chắc ông ta không bao giờ biết được sự thật. Tôi không thể nào chịu đựng được ý nghĩ sẽ làm cho Nobu đau đớn hay sẽ phá huỷ lòng thương yêu của ông ta đối với tôi. Tôi không tin tôi sẽ chịu đựng được sự phản bội này.
Sáng hôm sau khi ăn sáng xong, tất cả chúng tôi đi bách bộ qua rừng nhiệt đới để đến bờ núi đá ven biển gần đấy, ở đây có con suối từ quán trọ nơi chúng tôi ở chảy đến, đổ vào cái thác nhỏ rất đẹp. Chúng tôi đứng ngắm cảnh đẹp một hồi lâu, thậm chí cho đến khi chúng tôi chuẩn bị ra về, ông Chủ tịch cũng không rời mắt khỏi cảnh thiên nhiên trước mặt. Lúc trở về, tôi đi bên cạnh Nobu, chưa bao giờ tôi thấy ông ta vui vẻ như hôm ấy. Sau đó chúng tôi đi một vòng thăm hòn đảo trên chiếc xe tải nhà binh, chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế dài gắn vào phía sau xe. Chúng tôi thấy chuối và dừa, cùng những loại chim đẹp. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống, chúng tôi thấy biển như tấm chăn nhàu nhò bằng màu ngọc lam, có những vết màu xanh đậm.
Chiều hôm đó, chúng tôi đi lang thang trên những con đường đất của ngôi làng nhỏ, và sau đó gặp một ngôi nhà cổ xưa trông rất giống một nhà kho, với mái nhà xuôi xuôi lợp tranh. Chúng tôi đi vòng quanh ra phía sau, ở đây Nobu leo lên mấy bậc cấp để mở một cánh cửa nằm ở góc nhà, ánh sáng chiếu vào trên một cái sân khấu bằng gỗ bám đầy bụi. Rõ ràng nơi này trước kia dùng làm kho chứa hàng, nhưng nay đã trở thành nhà hát của thị trấn. Khi mới bước vào, tôi không nghĩ đến chuyện ấy. Nhưng sau khi cánh cửa đóng sầm lại và chúng tôi đi ra ngoài đường, tôi mới bắt đầu cảm thấy như bị một cơn sốt hành hạ, vì trong óc tôi hiện ra hình ảnh tôi nằm dài trên nền nhà có màu huyết ấy với ông Thứ trưởng trong khi cánh cửa xịch mở để ánh sáng bên ngoài chiếu vào chúng tôi. Chúng tôi sẽ không có chỗ nào để lẩn tránh hết. Nobu không thể nào không trông thấy chúng tôi. Tôi nghĩ đây là nơi thuận tiện nhất. Nhưng tôi không nghĩ đến những chuyện ấy, đúng ra là tôi không nghĩ đến tôi cố sức phấn đấu để khỏi suy nghĩ lung tung. Tôi cảm thấy tư tưởng của tôi như gạo chảy ra khỏi cái bao rách.
Khi chúng tôi leo lên đồi để về lại quán trọ, tôi phải đi chậm sau đoàn người để lấy khăn trong tay áo. Dĩ nhiên đi bộ trên đường, người phát nóng, ánh sáng buổi chiều chíếu thẳng lên mặt chúng tôi. Tôi không phải là người duy nhất toát mồ hôi. Nhưng Nobu đi thụt lùi ra sau để hỏi tôi có khoẻ không. Khi tôi không trả lời ngay cho ông ta được, tôi hy vọng ông ta sẽ nghĩ rằng vì leo lên đồi qúa căng thẳng nên tôi bị mệt.
- Sayuri, cô cũng không được khoẻ cả ngày cuối tuần. Có lẽ cô nên ở lại Kyoto mới phải.
- Thế thì khi nào em mới được xem hòn đảo xinh đẹp này?
- Theo tôi thì đây là nơi xa nhà cô nhất. Bây giờ chúng ta xa Kyoto bằng xa Hokkaido rồi đấy.
Những người khác đã đi khuất trong đoạn đường rẽ ở phía trước. Qua vai của Nobu, tôi thấy chái nhà của quán trọ nhô lên giữa đám cây. Tôi muốn trả lời ông ta nhưng bỗng cái ý nghĩ đã làm cho tôi bối rối khi ngồi trên máy bay lại hiện đến xâm chiếm lấy tôi, cái ý nghĩ cho rằng Nobu không hiểu tôi gì hết. Kyoto không phải quê nhà tôi, theo cái nghĩa mà ông Nobu muốn nói đến, không phải là nơi tôi lớn lên, nơi tôi không bao giờ bị lạc. Và bỗng thình lình, trong khi tôi nhìn ông ta dưới ánh mặt trời nóng gắt, tôi quyết định phải thực hiện kế hoạch mà tôi lo sợ. Tôi phải phản bội ông Nobu, mặc dù ông đang đứng nhìn tôi với vẻ thật thà chất phác. Tay tôi run run cất cái khăn đi, và chúng tôi tiếp tục đi lên đồi, không ai nói với nhau một tiếng.
Khi tôi về đến phòng, ông Chủ tịch và Mameha đã ngồi vào bàn bắt đầu trò chơi ra câu đối, họ một phe đấu lại phe của ông giám đốc ngân hàng, với Shizue và người con trai làm giám sát. Cửa kính ở phía tường đàng kia để mở, ông Thứ trưởng tựa một khuỷu tay lên gối, mắt nhìn ra ngoài, vừa tước vỏ một khúc mía ngắn mà ông ta vừa mang theo về. Tôi sợ ông Nobu cứ theo tôi mà nói chuyện, khiến tôi không làm sao mà tránh được, nhưng may thay, ông ta đi thẳng tới bàn để nói chuyện với Mameha. Tôi không biết làm sao dụ cho được ông Thứ trưởng đi theo tôi đến nhà hát, và cũng không biết làm sao để cho ông Nobu tìm ra được chúng tôi. Có lẽ Bí Ngô sẽ đưa ông đi dạo một vòng, nếu tôi nhờ cô ta làm thế, có được không? Tôi nghĩ không thể nhờ Mameha làm công việc đó được, còn Bí Ngô và tôi đã cùng sống với nhau trong những ngày còn nhỏ. Và mặc dù tôi không gọi cô ta là đồ cục cằn thô lỗ như bà Dì thường gọi, nhưng Bí Ngô vẫn có tính khờ khạo, cho nên cô ta không thắc mắc gì khi tôi nhờ cô ta làm việc ấy. Tôi phải hướng dẫn Bí Ngô cho thật rõ ràng để cô ấy dẫn Nobu đến nhà hát, họ không thể nào tình cờ mà đến chỗ ấy cho được.
Tôi quỳ một hồi lâu, đưa mắt nhìn ra đám lá lấp lánh dưới ánh mặt trời, lòng ước sao được yên ổn nhìn ngắm cảnh đẹp của buổi chiều vùng nhiệt đới. Tôi cứ tự hỏi không biết mình có đủ bình tĩnh để thực hiện kế hoạch này không, nhưng cho dù tôi có lo sợ đến đâu đi nữa, tôi cũng phải thực hiện cho bằng được. Rõ ràng không có chuyện gì xảy ra cho đến khi tôi lôi được riêng ông Thứ trưởng ra, và trước mắt tôi không thể hành động gì được. Vì ông ta vừa gọi cô hầu mang đồ nhắm đến, ngồi khoanh chân bên mâm thức ăn, đũa găp mực ống lia lịa và nốc bia ừng ực. Cá đối với tôi cũng đủ làm cho tôi buồn ói rồi huống chi là mực. Nhưng trong các quán ăn quán nhậu khắp nước Nhật, món mực rất phổ biến. Bố tôi rất thích món này, nhưng tôi thì chịu, bao tử tôi không dung nạp được. Thậm chí nhìn ông Thứ trưởng ăn thôi, tôi cũng không muốn nhìn.
Lát sau tôi nói nhỏ nhẹ với ông Thứ trưởng:
- Thưa ông, em xin phép đi lấy món gì ngon hơn cho ông nhậu nhé?
- Thôi - ông ta đáp - tôi không đói.
Câu trả lời của ông ta khiến cho tôi thắc mắc, vì tại sao ông không đói mà ông ta ăn uống như thế. Khi ấy Mameha và Nobu đi ra phía sau cửa để nói chuyện, còn những người khác, kể cả Bí Ngô, tụ lại quanh bàn cờ trên bàn. Rõ ràng ông Chủ tịch đi bậy một nước cờ, mọi người cười rộ lên. Tôi thấy cơ hội tốt đã đến.
- Thưa ông Thứ trưởng - tôi nói – nếu ông cảm thấy buồn, tại sao chúng ta không đi dạo một vòng cho vui? Em rất muốn đi xem quanh đây, nhưng không có dịp.
Tôi không đợi ông ta đứng dậy mà đi ra khỏi phòng. Tôi vui mừng khi thấy ông ta bước theo tôi đi ra ngoài. Chúng tôi lặng lẽ bước theo dọc hành lang, cho đến khi chúng tôi đến chỗ ngoặc, tôi dừng lại nhìn xem có ai đi theo chúng tôi không. Không có ai hết.
- Thưa ông Thứ trưởng, chúng ta đi xuống làng chơi có được không?
Ông ta có vẻ bối rối khi nghe tôi nói như thế.
- Chúng ta còn một giờ nữa mới hết buổi chiều – tôi nói tiếp – và tôi nhớ có chỗ rất hấp dẫn, tôi muốn xem lại cho biết.
Ngẫm nghĩ một lát, ông Thứ trưởng nói:
- Để tôi đi vào phòng vệ sinh trước cái đã.
- Dạ tốt, xin ông cứ đi, và khi nào xong, xin ông đợi em ở đây để chúng ta cùng đi với nhau. Ông đừng đi đâu hết cho đến khi em đến tìm ông.
Ông Thứ trưởng có vẻ thích thú ra mặt, bèn lui lại hành lang để đi đến phòng vệ sinh. Tôi quay lại phòng. Tôi cảm thấy choáng váng – thế là tôi đang thực hiện kế hoạch – khi đặt tay mở cửa, tôi không có cảm giác gì nơi mấy ngón tay.
Bí Ngô không còn ngồi ở bàn nữa, cô ta đang tìm cái gì trong vali của mình. Tôi mở miệng nói nhưng nói không ra lời. Tôi phải đằng hắng cho thông cổ rồi mới nói được.
- Xin lỗi Bí Ngô, mình muốn nhờ bạn một việc…
Cô ta có vẻ muốn ngừng tay, nhưng cô ta vẫn miễn cưỡng để vali lộn xộn đồ đạc như thế và theo tôi ra ngoài hành lang. Tôi dẫn cô ta đi ra xa và nói:
- Bí Ngô, mình muốn bạn giúp mình một việc.
Tôi cứ nghĩ cô ta sẽ nói cô ta rất sung sướng được giúp tôi, nhưng cô ta chỉ đứng im trố mắt nhìn tôi.
- Mình nhờ bạn làm một việc…
- Nhờ à? - cô ta hỏi.
- Ông Thứ trưởng và mình sẽ đi chơi một vòng, mình sẽ đưa ông ta đến chỗ nhà hát cũ, và…
- Tại sao?
- Để mình và ông ấy được ở riêng với nhau.
- Ông Thứ trưởng à? - Bí Ngô kinh ngạc hỏi.
- Lúc khác mình sẽ giải thích cho bạn hiểu, còn bây giờ mình muốn nhờ bạn một việc như thế này. Mình nhờ bạn dẫn ông Nobu đến đấy và…Bí Ngô này, chuyện này rất kỳ khôi đấy. Mình muốn bạn bắt quả tang chuyện ông ấy với mình.
- Cô nói sao? Bắt quả tang ông ấy và cô à?
- Mình muốn bạn tìm cách dẫn ông Nobu đến đấy, mở cánh cửa sau mà hồi nãy chúng ta đã thấy, và…cho ông Nobu thấy ông Thứ trưởng với mình.
Trong khi tôi trình bày cho cô ta nghe kế hoạch, thì cô ta thấy ông Thứ trưởng đang đợi tôi trên hành lang nằm khuất dưới những tàn lá. Đoạn cô ta quay lui nhìn tôi.
- Cô âm mưu làm cái gì thế, Sayuri? - cô ta hỏi.
- Bây giờ mình không có thì giờ để nói rõ cho bạn nghe được. Nhưng chuyện này rất quan trọng, Bí Ngô à. Thật vậy, tương lai của mình nằm trong tay bạn đấy. Bạn nhớ là đừng để cho ai biết ngoài bạn và ông Nobu. Và lạy trời đừng để cho ông Chủ tịch biết, hay bất kỳ ai biết, mình sẽ trả công cho bạn bất kỳ cái gì bạn muốn.
Cô ta nhìn tôi một hồi lâu.
- Đã đến lúc cần Bí Ngô giúp đỡ lại, phải không? - cô ta nói.
Tôi không hiểu câu hỏi của cô ta có ý nghĩa gì, nhưng thay vì nói thêm cho tôi hiểu, cô ta bỏ đi.
Tôi không biết Bí Ngô có chịu giúp tôi hay không, nhưng đến nước này, tôi phải tiếp tục kế hoạch của tôi, và tôi hy vọng cô ta và Nobu sẽ đến. Tôi đến gặp ông Thứ trưởng đứng đợi trên hành lang, và chúng tôi đi xuống đồi.
Khi chúng tôi đến chỗ đường rẽ, khuất quán trọ, tôi bỗng nhớ đến ngày Mameha cắt chân tôi và đem tôi đến bác sĩ Cua. Chiều hôm ấy tôi cảm thấy mình đã dấn thân vào một việc rất nguy hiểm không tài nào hiểu nổi, và bây giờ tôi lại dấn thân vào một việc cũng nguy hiểm không kém. Mặt tôi nóng ran vì ánh mặt trời chiều chiếu vào, như đang ngồi bên cạnh lò lửa, và khi nhìn qua ông Thứ trưởng, tôi thấy mồ hôi chảy nhễ nhại trên cổ ông ta. Nếu chốc nữa mà ông ta áp cái cổ ấy vào tôi…nghĩ đến chuyện ấy, tôi liền lấy cái quạt trong dải thắt lưng ra, quạt lia lịa cho cả hai người cho đến khi tay tôi mỏi nhừ. Vừa quạt, tôi vừa nói chuyện huyên thuyên cho đến khi chúng tôi đến gần nhà hát. Chúng tôi dừng lại trước ngôi nhà có mái tranh. Ông Thứ trưởng có vẻ hoang mang. Ông đằng hắng giọng và ngước mắt nhìn trời.
- Ông vào trong nhà với em một lát nhé, thưa ông? – tôi nói.
Ông ta có vẻ ngơ ngác như không hiểu tôi muốn vào để làm gì, nhưng khi thấy tôi đi vào, ông ta cũng đi theo. Tôi bước lên tầng cấp bằng đá, mở cửa cho ông ta vào. Ông ta đứng lại ngần ngừ một lát mới đi vào trong. Nếu ông ta thường đến Gion vui chơi, thì chắc thế nào ông ta cũng hiểu được ý đồ của tôi – vì người geisha nào quyến rũ đàn ông đến chỗ vắng vẻ tức là cô ta đã đánh liều danh tiếng của mình, và người geisha loại một không bao giờ làm một việc như thế. Nhưng ông Thứ trưởng chỉ đứng trong nhà hát, trong vệt ánh sáng mặt trời chiếu vào như người đứng đợi xe buýt. Hai tay tôi run lập cập, tôi xếp quạt nhét vào trong dải thắt lưng, lòng lo sợ không thực hiện được kế hoạch đến nơi đến chốn. Nội việc đóng cửa lại thôi cũng là công việc quá mức của tôi, rồi chúng tôi đứng trong ánh sáng lờ mờ lọt vào dưới khe các chái nhà. Thế nhưng ông Thứ trưởng vẫn đứng bất động, mặt quay về đống chiếu rơm để trong góc sân khấu.
- Thưa ông – tôi nói.
Giọng tôi vang to trong căn phòng bé nhỏ, tôi liền nói nhỏ lại:
- Thưa ông, nếu ông cho phép, tôi xin kể ông nghe câu chuyện cô geisha tên Kazuyo. Cô ta không còn ở Gion nữa, nhưng tôi biết rất rõ về cô ta. Một nhân vật rất quan trọng – như ông vậy – gặp Kazuyo, vui chơi với cô ta rất thoải mái đến nỗi ông ta trở lại Gion hằng đêm để gặp cô ta. Mấy tháng sau, ông ta muốn được làm danna của Kazuyo, nhưng bà chủ phòng trà xin lỗi, nói rằng việc ấy không thể được. Ông ta rất thất vọng, nhưng rồi một buổi chiều, Kazuyo dẫn ông ta đến một chỗ vắng vẻ chỉ có hai người với nhau thôi. Một chỗ vắng vẻ như nhà hát này. Và có thể giải thích cho ông ấy hiểu rằng mặc dù ông ta không thể làm danna của cô ta được nhưng…
Khi nghe tôi nói thế, mặt ông Thứ trưởng thay đổi như cái thung lũng được ánh sáng mặt trời rọi xuống. Ông ta vụng về tiến lại gần tôi. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch. Tôi nhắm mắt quay đi chỗ khác. Khi tôi mở mắt ra lại, tôi thấy ông ta đã đến gần, rồi tôi cảm thấy làn da mịn màng trên mặt ông ta áp vào má tôi. Ông ta kéo nhẹ người tôi vào sát người ông ta rồi ôm tôi siết vào lòng. Ông ta nắm tay tôi, có lẽ muốn kéo tôi nằm xuống trên sàn ván, nhưng tôi chặn ông ta lại và nói:
- Sàn ván sân khấu quá dơ. Ông đến lấy chiếc chiếu trên đống chiếu mang tới đây.
- Chúng ta cùng đến đó – ông Thứ trưởng nói.
Nếu chúng tôi nằm trên đống chiếu trong góc nhà hát thì Nobu mở cửa, ông ta sẽ không thấy chúng tôi.
- Không, đừng nằm ở đấy. Ông hãy đem chiếu đến đây thôi.
Ông Thứ trưởng làm theo ý tôi yêu cầu, rồi đứng yên nhìn tôi. Mãi cho đến khi ấy, tôi vẫn còn lo ngại có chuyện gì xảy ra có thể ngăn tôi lại, nhưng đến lúc ấy, tôi thấy chẳng có gì ngăn cản chúng tôi được nữa. Thời gian như ngừng trôi. Khi tôi tuột chân ra khỏi đôi hài để đứng vào chiếu, tôi thấy chân tôi như chân của ai khác.
Liền khi đó ông Thứ trưởng tháo giày ra bước vào chiếu, quàng tay quanh tôi để mở nút trên dải thắt lưng của tôi ra. Tôi không biết ông ta nghĩ gì, nhưng tôi không muốn cởi áo kimono ra. Tôi đưa tay ra sau lưng chặn ông lại. Sáng nay khi mặc áo, tôi chưa có quyết định dứt khóat, nhưng để chuẩn bị trước, tôi đã mặc cái áo lót màu xám tôi không thích – để phòng có bị vấy bẩn – và mặc ra ngoài chiếc kimono bằng lụa có màu xanh và màu tím, cũng như thắt dải thắt lưng bạc dùng đã lâu ngày rồi. Còn đồ lót, tôi vấn cao chiếc koshimoki – vải quấn quanh mông – lên trên eo, để phòng khi tôi dụ được ông Thứ trưởng, ông ta có thể dễ dàng vào trong tôi. Khi thấy tôi kéo tay ông ta ra, ông đứng ngơ ngác, ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi đoán ông ta tưởng tôi ngăn cản, nhưng khi thấy tôi nằm xuống chiếu, ông ta vui sướng trở lại. Chiếu không phải là chiếu nệm, mà là chiếu rơm đơn sơ, nên tôi cảm thấy sàn ván cứng ngắc dưới lưng. Tôi đưa tay kéo áo kimono và áo lót lên cao sang một bên để cho hai chân phô ra tận đầu gối. Ông Thứ trưởng vẫn còn mặc quần, nhưng ông ta nằm chồm lên người tôi liền, khiến cái nút sau dải thắt lưng cộm lên sau lưng tôi, tôi phải nâng mông lên cho khỏi khó chịu. Đầu tôi phải nghiêng sang một bên vì tôi làm tóc theo kiểu tsubushi shimada, kiểu búi tóc lên một cục phía sau gáy, nghĩa là nếu tôi nằm ngửa đầu đè mạnh lên búi tóc, tóc sẽ hỏng ngay. Cách nằm như thế này thật khó chịu, nhưng sự khó chịu này so với sự bất ổn, lo buồn trong lòng tôi thì chẳng nghĩa lý gì. Bỗng thình lình tôi tự hỏi tôi đã suy nghĩ kỹ càng chưa khi dấn thân vào tình huống khó khăn này. Ông Thứ trưởng chống một tay để nhổm người lên, rồi lấy tay kia kéo vạt áo kimono của tôi lên, mấy ngón tay cọ vào da thịt trên đùi tôi. Như một phản xạ tự nhiên, tôi đưa tay lên vai ông ta như muốn đẩy ông ta đi…nhưng bỗng hình ảnh ông Nobu hiện ra trong óc tôi, tôi nghĩ đến chuyện Nobu sẽ làm danna của tôi và tôi sẽ sống cả một cuộc sống vô vọng, cho nên tôi cất tay đi, để lại trên chiếu. Bàn tay ông Thứ trưởng mò lên cao dần trên đùi tôi, không thể nào không có cảm giác được. Tôi cố quên đi bàn tay của ông bằng cách nhìn ra phía cửa. Có lẽ cửa sẽ mở trước khi ông Thứ trưởng đi xa hơn, nhưng ngay khi ấy, tôi nghe tiếng sợi dây thắt lưng mở ra lích kích, rồi tiếng sợi dây kéo trên quần kéo ra, và một lát sau, ông ta đẩy vào trong tôi. Bất giác tôi cảm thấy mình là cô gái 15 tuổi trở lại, vì tôi xót xa nhớ cái ngày bán thân cho ông bác sĩ Cua. Thậm chí tôi còn nghe tôi khóc thút thít nữa. Ông Thứ trưởng chống trên hai cùi tay, sát mặt vào với mặt tôi. Tôi thấy mặt ông ta qua khoé mắt. Khi nhìn mặt ông ta gần như thế này, với cái quai hàm chìa ra phía mặt tôi, tôi thấy ông ta có vẻ thú vật hơn là người. Và thậm chí điều này còn chưa phải tệ nhất, và khi quai hàm ông ta chìa ra như thế, môi dưới ông ta trông như cái tách đựng đầy nước dãi. Không biết có phải vì ông ta ăn mực không mà nước dãi của ông có màu xám sền sệt khiến tôi nghĩ đến chất dơ nằm trên cái thới làm cá.
Khi tôi mặc áo sáng nay, tôi đã nhét nhiều giấy lau ở phía sau dải thắt lưng. Tôi không nghĩ đến chuyện phải dùng chúng cho đến bây giờ, tôi muốn lấy chúng ra để lau mặt khi nước dãi của ông ta chảy vào mặt tôi. Thế nhưng, thân hình ông ta quá nặng. Tôi không thể nào đưa tay ra phía sau dải thắt lưng được. Tôi cố thử, và mỗi lần thế, tôi thở hổn hển, và tôi sợ ông Thứ trưởng hiểu lầm tôi đang sung sướng – hay có thể ông ta hiểu thật, và dĩ nhiên ông hoạt động mạnh lên, và lúc này thì nước dãi của ông tuôn ra như sóng trào, tôi nghĩ thế nào chúng cũng chảy xuống mặt tôi như nước suối. Tôi chỉ còn việc nhắm mắt chờ đợi thôi. Tôi cảm thấy đau đớn như đang nằm dưới lòng một chiếc thuyền nhỏ, bị sóng dồi lên dồi xuống, đầu lắc lư va vào mạn thuyền. Thế rồi bỗng dưng ông Thứ trưởng rên lên một tiếng và nằm yên một hồi lâu, đồng thời tôi cảm thấy nước dãi của ông chảy xuống má tôi.
Tôi lại cố đưa tay ra sau để lấy khăn giấy, nhưng ông Thứ trưởng nằm đè lên người tôi, thở hồng hộc như vừa chạy đua về. Tôi định đẩy ông ta xuống thì bỗng tôi nghe có tiếng sột soạt ở bên ngoài. Tôi cảm thấy quá ghê tởm đến độ không muốn làm gì hết. Nhưng chợt tôi nhớ đến Nobu, tim tôi đập mạnh trở lại. Tôi nghe tiếng sột soạt to hơn, như tiếng chân người đi lên thang cấp bằng đá. Ông Thứ trưởng có vẻ như không quan tâm lắm đến việc sắp xảy ra, ông thờ ơ ngẩng đầu nhìn ra cửa như thể có con chim nào đang cào chân vào cửa. Nhưng bỗng nhiên cánh cửa bật mở ra và ánh sáng ùa vào chiếu rõ chúng tôi. Tôi phải nhìn xiên, nhưng tôi cũng thấy được có hai bóng người. Một người là Bí Ngô, cô ta đã đến nhà hát đúng lúc tôi mong đợi. Nhưng người đàn ông đứng bên cạnh cô ta đang nhìn xuống chúng tôi không phải là Nobu. Tôi không hiểu tại sao cô ta đã làm thế, thay vì dẫn Nobu đến, cô ta lại dẫn ông Chủ tịch.

Chuong 34

Sau khi cánh cửa mở ra, tôi chẳng nhớ cái gì nữa – vì tôi nghĩ chắc máu đã chảy hết ra khỏi người tôi, tôi lạnh cóng và cứng đờ. Tôi biết ông Thứ trưởng lồm cồm ngồi dậy, hay có lẽ tôi đã đẩy ông ta ra. Tôi nhớ tôi đã khóc và hỏi ông ta có phải ông ta cũng thấy như tôi thấy không, có phải ông ta nhìn thấy ông Chủ tịch đứng nơi ngưỡng cưả không. Với ánh sáng chiều tà yếu ớt, tôi không thấy rõ nét mặt của ông Chủ tịch, thế nhưng khi cánh cửa đóng lại, tôi không thể nào không mường tượng ra nét mặt kinh ngạc của ông ta. Không biết ông ta có thật kinh ngạc không, hay là tôi lo sợ như thế. Nhưng khi chúng ta đau khổ, ngay cả hoa đang nở cũng buồn lây, và trong trường hợp này, sau khi thấy ông Chủ tịch đứng đấy…thì than ôi, hình như cái gì quanh tôi cũng lây nỗi đau khổ của tôi.
Nếu anh cho hành động của tôi đưa ông Thứ trưởng vào nhà hát trống vắng ấy là chỉ nhằm mục đích dấn thân vào vòng nguy hiểm – nghĩa là để cho cái dao chặt mạnh lên cái thớt – tôi nghĩ chắc anh hiểu rằng trong nỗi lo âu, sợ sệt ghê gớm tràn ngập cõi lòng tôi, tôi còn có cảm giác kích thích nữa. Trong những giây phút trước khi cửa mở, tôi cảm thấy cuộc đời tôi phải rộng như dòng sông đang mùa nước lớn, vì trước đây chưa bao giờ tôi thực hiện một bước đột phá như thế để thay đổi tương lai của tôi. Tôi như một đứa trẻ mò mẫm từng bước leo lên vách núi dựng đứng nhìn xuống biển. Thế nhưng tôi không nghĩ đến sẽ có một cơn sóng lớn ào đến đập vào tôi và cuốn phăng mọi thứ ra biển.
Khi cơn dao động hỗn lọan trong lòng lắng xuống, tôi từ từ ý thức được mình, tôi thấy Mameha đang quỳ bên cạnh tôi. Tôi sửng sốt kinh ngạc không thấy mình không phải nằm trong nhà hát trống vắng mà thấy mình nằm trên nệm rơm trong căn phòng tối nhỏ ở quán trọ. Tôi không nhớ tôi rời khỏi nhà hát như thế nào, nhưng dù sao tôi cũng đã rời khỏi đó. Sau đó Mameha kể cho tôi nghe rằng tôi đến gặp chủ quán, yêu cầu ông ta dành cho tôi một nơi nào yên tĩnh để nghỉ ngơi. Ông ta thấy tôi không được khỏe, nên đi tìm Mameha để báo cho cô ấy biết.
May thay là Mameha có vẻ tin rằng tôi bị bệnh, cô ấy để tôi nằm yên ở đấy. Sau đó tôi trở lại phòng ngủ chung, lòng hoang mang lo sợ khủng khiếp, tôi trông thấy Bí Ngô từ trong phòng đi ra hành lang trước mặt tôi. Cô ta trông thấy tôi bèn dừng lại, nhưng thay vì vội vã đến xin lỗi như lòng mong đợi của tôi, thì cô ta nhìn tôi chằm chằm như con rắn thấy con chuột.
- Bí Ngô – tôi nói – tôi yêu cầu cô dẫn Nobu đến, thì cô lại dẫn ông Chủ tịch. Tôi không hiểu.
- Phải, thật khó hiểu, Sayuri à, khi cuộc đời không diễn ra hoàn hảo.
- Hoàn hảo à? Việc xảy ra không có gì tệ bằng.. phải cô hiểu lầm lời yêu cầu của tôi không?
- Chắc cô cho tôi là đồ ngốc! – cô ta đáp.
Tôi bang hoàng đứng yên một hồi lâu, cuối cùng tôi nói:
- Tôi cứ tưởng chúng ta là bạn bè.
- Đã một thời tôi tưởng cô là bạn tôi. Nhưng thời ấy đã qua lâu lắm rồi.
- Cô nói như thể tôi đã làm gì hại cô, nhưng…
- Không à, có phải cô không làm gì hại tôi? Cô Sayuri Nitta hoàn hảo không làm gì à? Không phải cô đã dành chỗ con gái nhà kỹ nữ của tôi à? Cô không nhớ sao Sayuri? Cô không làm gì sau khi tôi đã cố giúp cô chuyện về ông bác sĩ, chẳng cần nhớ tên ông ta làm gì. Không làm gì sau khi đã giúp cô để rồi bị Hatsumono trút cơn thịnh nộ lên đầu à? Thế rồi cô quên hết và chiếm cái mà đáng ra là của tôi. Tôi cứ phân vân suốt mấy tháng nay không biết cô lôi tôi vào cái đám người có ông Thứ trưởng này để làm gì. Tôi xin lỗi vì đã không để cho cô lợi dụng tôi lần này một cách dễ dàng nữa…
- Nhưng Bí Ngô này – tôi cắt ngang lời cô ta – Cô có thể cứ từ chối đừng giúp tôi được chứ? Tại sao cô dẫn ông Chủ tịch đến?
Cô ta đứng thẳng người lên, đáp:
- Tôi biết rõ cô cảm mến ông ta, khi nào không có ai để ý, cô dán mắt vào ông ta như mèo thấy mỡ.
Cô ta rất giận dữ mím chặt đôi môi, tôi thấy một vệt son dính trên răng cô ta. Tôi nhận ra cô ta có ý đồ làm cho tôi đau đớn.
- Sayuri, cô đã tước đoạt tài sản của tôi lâu rồi. Tại sao bây giờ cô không nhớ? – cô ta nói, hai lỗ mũi phồng ra, mặt đỏ gay tức giận như thanh củi cháy phần phật. Cô ta đã tiêm nhiễm tính khí của Hatsumono trong bao nhiêu năm qua.
Suốt buổi tối hôm đó, tôi cứ thấy hiện ra trước mắt một số biến cố lộn xộn khiến tôi tê tái cõi lòng. Trong khi những người khác quây quần ăn uống, cười đùa, tôi chỉ có việc giả vờ cười theo họ. Chắc mặt tôi phừng phừng đỏ suốt buổi tối, vì chốc chốc Mameha sờ vào cổ tôi để xem tôi có sốt không. Tôi cố ngồi xa ông Chủ tịch ra để chúng tôi khỏi nhìn thấy nhau, và suốt buổi tối tôi không nhìn vào mặt ông ta lần nào. Nhưng sau đó, hai chúng tôi chuẩn bị đi ngủ, tôi vừa bước ra ngoài hành lang thì gặp ông ta đi vào phòng. Đáng ra tôi phải tránh mặt ông ta mới đúng, nhưng tôi cảm thấy quá xấu hổ, nên tôi cúi nhẹ người chào rồi vội vã bước đi, không thèm che giấu nỗi khổ tâm của mình.
Đêm ấy tôi đã sống trong cảnh dằn vặt đau khổ và tôi chỉ còn nhớ có một chuyện về cảnh giày vò này mà thôi. Sau khi mọi người đã đi ngủ, tôi lẻn ra ngoài quán trọ một mình, thơ thẩn đi ra bờ núi đá ven biển, nhìn vào bầu trời đêm tăm tối,lắng nghe tiếng song vỗ ì ầm dưới chân. Tiếng sóng vỗ ì ầm như lời than vãn nỉ non. Tôi như thấy dưới bóng tối trước mắt tôi đầy dẫy thế lực độc ác mà tôi không hề ngờ đến – như cây cối, gió, và thậm chí cả những tảng đá nơi tôi đang đứng, tất cả đều liên minh với kẻ thù trước đây của tôi, Hatsumono. Tiếng gió rì rào và tiếng cây rung động như cười cợt châm biếm tôi. Có thể nào dòng đời của tôi đã bị phân chia vĩnh viễn? Tôi lấy cái khăn của ông Chủ tịch trong tay áo ra, vì tôi đã đem theo vào giường ngủ trong đêm ấy để an ủi mình lần cuối cùng. Tôi lau mặt rồi đưa ra trước gió. Tôi định thả ra cho nó bay theo gió, nhưng bỗng tôi nhớ đến những cái bài vị nhỏ mà ông Tanaka đã gởi đến cho tôi trước đây. Chúng ta phải giữ lại cái gì của những người thân yêu đã từ giã chúng ta. Những chiếc bài vị nhỏ nằm ở nhà kỹ nữ là những thứ còn lại trong thời thơ ấu của tôi. Chiếc khăn tay của ông Chủ tịch cũng sẽ là di vật của cuộc đời tôi.
Trở về Kyoto, tôi lại tiếp tục sinh hoạt hàng ngày như trước, tôi lại hoá trang mặt mày bình thường, đến gặp gỡ các nơi hẹn tại các phòng trà như thể trên đời này không có gì thay đổi. Tôi nhớ lời Mameha có lần đã nói với tôi rằng chỉ có công việc mới làm cho ta quên hết sầu muộn, nhưng công việc của tôi hình như không giúp gì được cho tôi hết. Mỗi lần tôi đi đến phòng trà Ichiriki là tôi nhớ một ngày nào đó Nobu sẽ gọi tôi đến đấy để báo cho tôi biết mọi sự thu xếp đã xong xuôi. Vì ông ta đang bận bịu công việc trong mấy tháng qua, nên ông ta hoãn chuyện này them một thời gian nữa, có lẽ một hay hai tuần nữa. Nhưng vào sáng thứ tư, ba ngày sau khi ở Amani về, tôi nhận được tin cho biết công ty Iwamura đã điện thoại báo cho phòng trà Ichiriki hay rằng họ muốn tôi đến đấy vào tối ấy.
Xế chiều hôm đó tôi mặc chiếc kimono bằng lụa màu vàng và chiếc áo lót có màu lục cùng chiếc thắt lưng màu xanh đậm điểm thêm chỉ vàng. Bà Dì nói tôi mặc áo này trông rất đẹp, nhưng khi tôi nhìn vào gương, tôi thấy tôi như người thất chí. Trước khi ra khỏi nhà, tôi thấy bất bình với mình trong thời gian vừa qua nhưng tôi cố tìm ra một nét gì xem được để tôi đem ra sử dụng vào buổi tối. Ví dụ cái áo lót màu quả hồng vàng chẳng hạn, vì màu này làm nổi bật màu mắt xanh của tôi, chứ không phải màu xám, cho dù gặp lúc tôi mệt mỏi cũng thế. Nhưng đêm nay trông mặt tôi có vẻ hốc hác vì xương gò má nhô lên – mặc dù tôi đã trang điểm theo kiểu phương Tây – và mái tóc còn có vẻ chệch sang một bên nữa. Tôi không thể nghĩ đến cách nào khác để cải tiến dung nhan, ngoài việc nhờ ông Bekku buộc lại dải thắt lưng cho cao hơn một tí nữa để có thể làm mất đi vẻ buồn bã nơi người tôi.
Nơi tôi đến giúp vui đầu tiên là buổi đại tiệc do một đại tá Mỹ tổ chức để chúc mừng ông tân thị trưởng thành phố Kyoto. Tiệc được tổ chức tại dinh cơ cũ của gia đình Sumitomo, bây giờ là tổng hành dinh của sư đoàn Bảy bộ binh Mỹ. Tôi kinh ngạc khi thấy rất nhiều hòn đá đẹp ngoài vườn được sơn trắng và nhiều tấm bảng được viết bằng tiếng Anh – đương nhiên tôi không đọc được – đóng rải rác vào các gốc cây. Sau khi buổi tiệc xong, tôi đến phòng trà Ichiriki và được cô hầu dẫn lên lầu, đến cái phòng nhỏ kỳ cục mà tôi đã gặp Nobu vào đêm Gion đóng cửa. Chính tại căn phòng này tôi đã được ông ta cho biết nơi ẩn náu để tránh chiến tranh, và có thể cũng tại chính căn phòng này chúng tôi sẽ làm lễ để ông ta thành danna của tôi – nhưng chắc chỉ là hình thức công bố đối với tôi. Tôi quỳ ở cuối bàn, để Nobu có đến, ông ta sẽ ngồi quay mặt về phía hốc tường. Tôi cẩn thận ngồi với tư thế để Nobu có thể rót sake với cánh tay duy nhất của mình cho khỏi vướng vào bàn. Có lẽ ông ta muốn rót cho tôi một tách sake sau khi nói cho tôi biết việc thu xếp đã xong xuôi. Đêm nay hẳn là một đêm vui cho Nobu. Tôi sẽ cố hết sức để đừng làm hỏng đêm vui của ông.
Với ánh sáng lờ mờ và màu đỏ toả ra từ các bức vách có màu trà, không khí trong phòng rất dễ chịu. Tôi đã quên mùi vị đặc biệt trong căn phòng – mùi vị pha trộn với mùi dầu đánh bóng đồ gỗ - nhưng khi ngửi lại mùi vị ấy, tôi bỗng nhớ lại các chi tiết về cái buổi tối tôi gặp Nobu nhiều năm về trước, những chi tiết mà tôi không thể nào quên được. Ông ta mang đôi vớ có thủng nhiều lỗ, tôi nhớ thế, một ngón chân cái mảnh mai thòi ra ngoài, các móng chân được săn sóc sạch sẽ. Có thể nào mới chỉ năm năm rưỡi từ đêm ấy đến nay thôi? Tôi thấy hình như cả một thế kỷ trôi qua, rất nhiều người tôi quen biết đã chết. Phải chăng đây là cuộc sống mà tôi phải về Gion để sống? Đúng như Mameha đã nói với tôi: chúng ta không trở thành geisha vì chúng ta muốn sống sung sướng, mà vì chúng ta không có sự lựa chọn nào khác. Nếu mẹ tôi còn sống, có thể tôi đã làm vợ làm mẹ tại một làng ven biển, xem Kyoto là một nơi chúng tôi chở cá tới để bán – và khi ấy đời tôi có gì xấu xa không? Có lần Nobu đã nói với tôi “Tôi là người rất dễ hiểu, Sayuri à. Tôi không thích những việc áp đặt hão huyền”. Có lẽ tôi cũng là người như thế đấy. Suốt đời tôi ở Gion, tôi đã mơ tưởng đến ông Chủ tịch, và tôi không thể có ông được.
Sau khi chờ đợi ông Nobu chừng mười lăm phút, tôi bắt đầu tự hỏi không biết ông ta có đến hay không. Tôi nghĩ tôi không nên có ý nghĩ ấy, nhưng tôi cũng tựa đầu lên bàn để nghỉ ngơi, vì mấy đêm qua tôi không ngủ được bao nhiêu. Tôi không ngủ nhưng vì quá đau khổ nên tôi bị rơi vào tình trạng mơ màng nửa tỉnh, nửa mê. Rồi dường như tôi mơ thấy một giấc mơ kỳ cục. Tôi như nghe có tiếng trống vỗ ở xa xa, và nghe có tiếng nước chảy rì rì trong vòi nước, rồi tôi cảm thấy tay ông Chủ tịch sờ lên vai tôi. Tôi nghĩ đấy là bàn tay ông Chủ tịch vì khi tôi ngẩng đầu lên khỏi bàn để xem ai đã đụng vào tôi, tôi thấy ông ta đứng đấy thật. Tiếng trống vỗ là tiếng bước chân của ông, tiếng rì rì là tiếng cánh cửa chạy trên đường khe. Và bây giờ ông ta đứng đấy, một cô hầu đứng đợi sau lưng ông. Tôi cúi chào xin lỗi vì đã ngủ gục.Tôi cảm thấy quá bối rối đến nỗi bỗng nhiên tôi tự hỏi không biết có phải tôi tỉnh ngủ không, nhưng sự thể trước mắt tôi không phải là chuyện trong mộng. Ông Chủ tịch ngồi xuống ngay cái nệm mà tôi biết ông Nobu sẽ ngồi, thế nhưng tôi không thấy ông Nobu ở đâu hết. Trong khi cô hầu để khay sake lên bàn, bỗng một ý nghĩ quái đản hiện ra trong óc tôi. Có phải ông Chủ tịch đến để báo cho tôi biết ông Nobu đã gặp tai nạn, hay việc gì đấy rất khủng khiếp đã xảy ra cho ông ta? Nếu không, tại sao ông Nobu không đến? Tôi định hỏi ông Chủ tịch thì bà chủ phòng trà đã nhìn vào phòng. Bà ta thốt lên:
- Kìa ông Chủ tịch! Mấy tuần nay chúng tôi không thấy ông.
Bà chủ phòng trà thường rất vồn vã với khách, nhưng tôi thấy qua giọng nói có vẻ kinh ngạc của bà, hình như bà đang thắc mắc về chuyện gì đó. Có lẽ bà ta cũng phân vân về ông Nobu sao không đến, như tôi đã phân vân vậy. Trong khi tôi rót rượu cho ông Chủ tịch, bà chủ đến quỳ xuống bên bàn. Khi ông Chủ tịch đưa tách rượu lên để uống thì bà ta đưa tay chặn ông lại, rồi bà cúi người tới phía ông để ngửi mùi rượu trong tách.
- Ông Chủ tịch à, tôi không hiểu tại sao ông thích uống thứ sake bình dân như thế này – bà ta nói – chiều nay tôi đã khui số rượu ngon nhất chúng tôi cất từ nhiều năm nay. Tôi nghĩ khi ông Nobu đến, thế nào ông ta cũng khen cho mà xem.
- Tôi cũng nghĩ như thế - ông Chủ tịch đáp – ông Nobu rất thích rượu ngon. Nhưng đêm nay, ông ấy không đến.
Tôi giật mình kinh ngạc khi nghe ông ta nói như thế, nhưng tôi vẫn giữ bình tĩnh, nhìn xuống mặt bàn. Tôi thấy bà chủ cũng ngạc nhiên không kém, vì bà vội vã nói sang chuyện khác ngay.
- Ồ thế à? Nhưng ông có thấy tối nay cô Sayuri của chúng ta duyên dáng hay không?
- Kìa thưa bà, Sayuri khi nào mà không duyên dáng? – ông Chủ tịch đáp – Câu hỏi của bà khiến cho tôi nhớ…để tôi cho hai người xem một thứ tôi có mang theo đây.
Ông Chủ tịch để lên bàn một gói nhỏ bọc trong tấm lụa xanh, khi ông vào phòng, tôi không để ý ông có mang theo gói này. Ông mở cái gói lấy ra một cuộn giấy ngắn nhưng dày cộm, rồi ông mở tờ giấy ra. Đấy là bức tranh cuốn đã cũ, nứt rạn nhiều nơi, vẽ cảnh hoàng cung thu nhỏ lại, bằng màu sắc thật tươi. Nếu anh đã từng xem loại tranh cuốn như thế này rồi, chắc anh nhớ là bức tranh sẽ được trải rộng qua căn phòng, và ta có thể nhìn cả toàn cảnh khuôn viên hoàng cung từ cổng đằng này lâu đài cho đến cổng đàng kia. Ông Chủ tịch ngồi trước bức tranh, nắm cái trục để mở rộng bức tranh ra. Trong tranh từ từ hiện ra cảnh các nhà quý tộc chơi đá cầu, áo kimono buộc lại giữa hai chân, rồi đến cảnh cô thiếu nữ mặc 12 lớp áo thật đẹp quỳ hầu trên sàn gỗ ngoài phòng của Hoàng đế.
- Đấy, các cô nghĩ sao về bức tranh? – ông nói.
- Bức tranh cuốn hoàn hảo – bà chủ đáp – ông Chủ tịch kiếm cái này ở đâu thế?
- Ồ, tôi mua lâu rồi. Nhưng bà xem cô gái này này. Chính vì cô ta mà tôi mua bức tranh. Bà có chú ý thấy gì đặc biệt không?
Bà chủ nhìn vào hình cô gái, sau đó ông Chủ tịch quay hình ấy cho tôi xem. Hình cô gái tuy không lớn hơn đồng xu bao nhiêu, nhưng được vẽ đầy đủ chi tiết nét rất đẹp. Mới đầu tôi chưa thấy rõ, nhìn qua tôi thấy màu trắng bạc – nhưng khi nhìn kỹ, tôi thấy màu xanh xám. Cặp mắt làm tôi nhớ đến tác phẩm của Uchida đã vẽ khi nhờ tôi ngồi làm mẫu. Tôi đỏ mặt, lí nhí nói rằng bức tranh đẹp tuyệt vời. Bà chủ ngắm nghía một lát rồi nói:
- Thôi, tôi xin phép để hai vị ngồi nói chuyện với nhau. Tôi đi cho người mang đến loại sake thơm ngon tôi vừa giới thiệu. Trừ phi ông muốn tôi để dành lần sau khi có ông Nobu tới?
- Bà đừng bận tâm – ông ta đáp – Xin bà cứ để chúng tôi dùng thứ sa kê hiện có.
- Ông Nobu khoẻ chứ, thưa ông?
- Ồ khoẻ, rất khoẻ.
Tôi mừng thầm khi nghe thế. Nhưng đồng thời tôi cảm thấy đau đớn vì xấu hổ. Nếu ông Chủ tịch không phải đến để báo cho tôi biết tin tức về Nobu, thì chắc ông đến vì lý do khác – có lẽ la mắng tôi về hành vi tôi đã mắc phải. Mấy ngày khi về lại Kyoto, tôi đã cố quên chuyện xảy ra mà ông ta đã chứng kiến, ông Thứ trưởng chưa mặc quần xong, còn tôi thì hai chân thòi ra ngoài áo kimono…
Khi bà chủ ra khỏi phòng, bà đóng cửa, tiếng cánh cửa chạy trên ngạch khiến cho tôi cảm thấy như tiếng chiếc gươm tuốt ra khỏi vỏ.
- Thưa ông Chủ tịch, - tôi cố giữ thật bình tĩnh để nói – em xin ông bỏ qua hành vi của em ở Amani.
- Sayuri, tôi biết cô sợ chuyện gì rồi. Nhưng không phải tôi đến đây để cho cô xin lỗi. Cô cứ ngồi bình tĩnh một lát. Tôi muốn kể cho cô nghe một chuyện xảy ra cách đây nhiều năm rồi.
- Thưa ông Chủ tịch, em cảm thấy bối rối qúa – tôi cố nói – Xin ông tha thứ cho, nhưng…
- Cô nghe tôi nói đây. Rồi cô sẽ hiểu tại sao tôi nói chuyện này cho cô nghe. Cô có nhớ nhà hàng ăn uống có tên là Tsumijo không? Nhà hàng này đã đóng cửa vào cuối thời đại suy thoái nhưng mà thôi chuyện này chẳng quan trọng gì, khi ấy cô còn rất nhỏ. Tôi muốn kể cho cô biết chuyện một hôm cách đây đã lâu lắm rồi – chính xác là 18 năm rồi – tôi đi đến nhà hàng ấy để ăn trưa cùng với nhiều người có cổ phần trong công ty. Đi theo chúng tôi có một cô geisha tên là Izuko, ở quận Pontocho.
Tôi nhớ ngay tên Izuko này liền.
- Cô ta là một geisha được nhiều người ưa chuộng vào thời ấy – ông Chủ tịch nói tiếp – chúng tôi ăn trưa rồi khi thấy còn sớm, tôi đề nghị đi bộ dọc theo con suối Shirakawa để đến nhà hát.
Khi ấy tôi đã lấy cái khăn của ông Chủ tịch trong dải thắt lưng ra rồi, và khi ông nói xong, tôi lặng lẽ trải cái khăn lên bàn, vuốt thẳng ra để cho ông thấy rõ chữ ký tắt của mình trên khăn. Trải qua nhiều năm tháng, cái khăn có vết bẩn ở một góc và vải đã ngả sang màu vàng. Nhưng ông Chủ tịch có vẻ nhận ra chiếc khăn ngay. Ông nghẹn ngào, nhưng vẫn cất tiếng hỏi:
- Cô lấy cái khăn này ở đâu?
- Thưa ông Chủ tịch, bao nhiêu năm nay em cứ tự hỏi không biết ông có biết em là cô gái mà ông đã nói chuyện không. Ông đã cho em cái khăn vào chiều ấy, khi ông đến xem vở kịch Shibaraku. Ông còn cho em một đồng tiền nữa.
- Cô muốn nói...ngay khi làm geisha tập sự, cô đã biết chính tôi là người đã nói chuyện với cô à?
- Em nhận ra ông ngay khi gặp lại ông tại buổi thi đấu đô vật. Xin thú thật, em rất kinh ngạc khi ông Chủ tịch nhớ em.
- Ồ, có lẽ thỉnh thoảng cô nên ngắm mình trong gương thì biết, Sayuri à. Nhất là khi cặp mắt cô ướt vì khóc, vì cặp mắt cô trở thành…tôi không thể giải thích được. Tôi chỉ cảm nhận khi nhìn mà thôi. Cô biết không, nhiều khi tôi ngồi đối mặt với đàn ông nơi bàn, họ không bao giờ nói thật với tôi, còn đây là cô gái trước đây không bao giờ nhìn thẳng vào tôi, thế nhưng lại bằng lòng để cho tôi nhìn thấu tâm can.
Rồi bỗng nhiên ông Chủ tịch chuyển sang chuyện khác.
- Có bao giờ cô tự hỏi tại sao Mameha trở thành chị cả của cô không? – ông hỏi.
- Mameha à? Em không biết tại sao Mameha lại làm thế.
- Thật cô không hiểu phải không?
- Hiểu cái gì, thưa ông Chủ tịch?
- Sayuri, chính tôi là người yêu cầu Mameha giúp đỡ dìu dắt cô. Tôi kể cho cô ấy nghe tôi đã gặp một cô gái thật đẹp, có đôi mắt sáng tuyệt vời, tôi yêu cầu cô ấy nếu gặp cô bé ấy ở Gion thì hãy giúp đỡ cô ta. Tôi nói nếu cần chi phí gì, tôi sẽ chi trả cho cô. Và chỉ mấy tháng sau, cô ấy gặp được cô. Theo lời cô ấy cho biết trong những năm về trước thì nếu không có sự giúp đỡ của cô ấy, chắc không bao giờ cô trở thành geisha được.
Những lời của ông Chủ tịch thật sự làm tôi rúng động tâm can. Lâu nay tôi cứ nghĩ Mameha giúp tôi là vì cô ấy muốn khử Hatsumono khỏi tác oai tác quái. Nhưng bây giờ tôi mới hiêu ra nguyên nhân khiến cô ấy đỡ đầu tôi là vì ông Chủ tịch. Ờ phải rồi, tôi bỗng nhớ lại lời lẽ cô ấy thường nói với tôi trong qúa khứ, khiến nhiều lúc tôi phải thắc mắc về ý nghĩa của chúng. Và không phải chỉ có Mameha bỗng nhiên thay đổi trước mắt tôi, mà chính tôi, hình như tôi cũng biến đổi thành người đàn bà khác. Khi mắt tôi nhìn lên hai bàn tay tôi để trên lòng, tôi thấy hai tay mình là do chính ông Chủ tịch tạo nên. Tôi cảm thấy sung sướng nhưng đồng thời cũng thấy lo sợ và tri ân. Tôi bước ra khỏi bàn để cúi chào và để bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với ông, nhưng trước khi làm thế, tôi đã nói:
- Thưa ông, xin ông tha lỗi cho em, trước đây nhiều lần em ao ước ông nói cho em biết về chuyện này. Nếu được thế thì hay biết bao…
- Có lý do khiến cho tôi không nói được, Sayuri à. Và tôi cũng dặn Mameha không được nói chuyện này cho cô hay. Vì nó có liên quan đến Nobu.
Nghe nhắc đến tên Nobu, tôi bỗng thấy buôn rười rượi, vì tôi cảm thấy như ông Chủ tịch muốn dẫn dắt vấn đề đến đâu.
- Thưa ông – tôi nói – em biết em không xứng với lòng tốt của ông. Chuyện xảy ra vào cuối tuần vừa qua, khi em…
- Sayuri – ông ngắt lời tôi – thú thực với cô chuyện xảy ra ở Amani đã ghi dấu ấn sâu sắc lên tâm trí tôi.
Tôi cảm thấy ông Chủ tịch nhìn tôi đăm đăm nhưng tôi không thể nào nhìn ông cho được.
- Có chuyện này tôi muốn nói với cô – ông nói tiếp – Tôi phân vân cả ngày không biết làm sao nói lên cho được. Tôi cứ nghĩ đến chuyện đã xảy ra nhiều năm rồi. Tôi nghĩ phải tìm lúc thật thích hợp mới nói chuyện này ra được, nhưng…tôi hy vọng cô sẽ hiểu điều tôi muốn nói.
Đến đây ông ngừng lại để cởi áo khóac ra, xếp lại để trên chiếu bên cạnh ông ta. Tôi ngửi thấy mùi hồ trên áo sơ mi của ông ta, mùi này khiến tôi nhớ lại lần đầu đến thăm ông Tướng tại quán trọ Suyura, căn phòng ông ta ở thường có mùi ủi áo quần.
- Trở lại thời công ty Iwamura còn son trẻ, - ông Chủ tịch nói tiếp – tôi có quen biết một người đàn ông tên là Ikada, anh ta làm việc cho một hãng cung cấp nguyên liệu cho công ty chúng tôi ở bên kia thành phố. Anh ta có tài giải quyết về các khâu khó khăn trong mạng điện. Thỉnh thoảng khi chúng tôi gặp khó khăn trong việc láp ráp hệ thống điện, chúng tôi mời anh ta đến giúp trong một ngày, anh ta giải quyết xong ngay. Thế rồi một buổi chiều tôi làm việc xong về nhà, bỗng tôi gặp anh ta ở tiệm bán dược phẩm. Anh ta cho biết anh ta đang thảnh thơi vì đã thôi việc. Khi tôi hỏi tại sao anh thôi việc, anh ta đáp “Đến lúc phải nghỉ việc cho nên tôi thôi!” – thế là tôi thuê anh ta làm việc cho công ty của tôi. Rồi mấy tuần sau tôi hỏi anh ta “Này anh Ikada, tại sao anh thôi việc ở bên ấy?” Anh ta đáp “Thưa ông Iwamura, từ lâu rồi tôi muốn đến làm cho công ty ông. Nhưng vì ông không mời. Mỗi lần ông có vấn đề gì khó khăn, ông thường gọi tôi đến làm, nhưng không bao giờ ông yêu cầu tôi làm việc cho công ty ông. Rồi bỗng một hôm tôi nhận ra rằng ông không muốn thuê tôi, vì ông không muốn thuê một người đang làm cho công ty cung cấp nguyên liệu cho công ty của ông, ông sợ làm thế sẽ mất hoà khí giữa hai công ty. Giá mà tôi tự động xin thôi việc bên kia trước, khi ấy ông sẽ có cơ hội để thuê tôi. Thế là tôi xin nghỉ việc ở bên kia.”
Tôi nghĩ ông Chủ tịch đợi tôi trả lời, nhưng tôi không dám nói.
- Bây giờ tôi nghĩ rằng – ông nói tiếp – có lẽ chuyện của cô và ông Thứ trưởng vừa rồi cũng giống như việc Ikada bỏ việc. Để tôi nói cho cô nghe tại sao tôi có ý so sánh như thế này. Chính vì những điều Bí Ngô đã nói với tôi khi cô ta dẫn tôi đến nhà hát. Tôi hết sức giận cô ta, tôi hỏi tại sao cô ta dẫn tôi đến đó. Cô ta không nói năng gì một hồi thật lâu, rồi cô ta nói loanh quanh tào lao một hồi nữa. Sau cùng cô ta nói cô yêu cầu cô ta dẫn Nobu đến.
- Thưa ông, xin ông cảm phiền – tôi ấp úng nói – em đã phạm lỗi lầm rất lớn…
- Trước khi cô nói thêm điều gì nữa, tôi chỉ muốn biết tại sao cô đã làm một việc như thế. Có lẽ cô làm thế để trả ơn cho công ty Iwamura. Tôi không biết rõ. Hay là cô nợ nần ông Thứ trưởng cái gì đấy mà tôi không được biết.
Chắc tôi đã lắc đầu, vì bỗng ông Chủ tịch ngừng nói. Cuối cùng tôi trả lời:
- Em rất xấu hổ, ông Chủ tịch à. Nguyên do em làm thế chỉ là chuyện cá nhân thôi.
Một lát sau, ông ta thở dài rồi đưa tách sakê ra. Tôi rót rượu vào tách cho ông, lòng cảm thấy hai bàn tay của tôi là tay của ai khác, rồi ông hắt tách rượu vào miệng, cầm tách không trên tay một lát mới nuốt rượu xuống cổ. Nhìn miệng ông ngậm đầy rượu một lát như thế, tôi nghĩ mình như loại người đã chuốc vào thân không biết bao nhiêu điều nhục nhã.
- Thôi được rồi, Sayuri – ông nói – để tôi nói cho cô nghe lý do tại sao tôi hỏi cô như thế. Nếu cô không rõ mối liên hệ giữa tôi với Nobu như thế nào, thì cô không thể nào hiểu được tại sao tối nay tôi đến đây, hay là tại sao tôi đã cư xử với cô nhiều năm qua như thế. Cô hãy tin tôi đi, không có ai ngoài tôi biết rõ những chuyện khó khăn mà Nobu thường gặp phải. Nhưng anh ta là một thiên tài, tôi đánh giá anh ta cao hơn cả một đội ngũ chuyên viên giỏi.
Tôi không biết nói gì hay làm gì, cho nên tôi lấy bình rượu lên, hai tay run run, để rót vào tách cho ông Chủ tịch. Thấy thế, ông ta không đưa tách ra cho tôi rót.
- Sau một thời gian ngắn đã quen biết cô – ông nói tiếp – một hôm Nobu đem đến tặng cho cô cái lược ngay trước mặt mọi người trong buổi tiệc. Cho đến lúc ấy tôi mới nhận ra ông ta có cảm tình với cô. Dĩ nhiên trước đó đã có những dấu hiệu biểu lộ tình cảm rồi, nhưng chắc tôi không để ý đến. Khi tôi thấy ông ta có cảm tình với cô, thấy cách ông ta nhìn cô vào tối ấy…thế là tự nhiên tôi nghĩ rằng tôi không thể lấy mất của ông ta cái mà ông ta đang muốn có. Việc ấy không làm giảm sút mối quan tâm của tôi đối với việc lợi ích cho cô. Thật ra, mỗi khi nghe Nobu nói về cô, tôi cảm thấy rất bực mình, không muốn nghe.
Đến đây ông Chủ tịch dừng lại hỏi tôi:
- Sayuri, cô có nghe tôi nói không?
- Dạ có, thưa ông.
- Tôi kể chuyện này cho cô hiểu rõ vấn đề hơn, tôi nợ Nobu một món nợ rất lớn. Đúng tôi là người sáng lập ra công ty, là chủ của ông ấy. Nhưng khi công ty Iwamura còn non trẻ, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn về tiền bạc, có lần gần như bị phá sản. Tôi không muốn từ bỏ quyền lãnh đạo và tôi không nghe lời Nobu khi ông ta nhất quyết mời người vào đâu tư. Cuối cùng ông ta thắng, mặc dù việc này đã gây nên rạn nứt về tình bạn trong một thời gian, ông ta đòi xin thôi việc, và tôi gần như để cho ông ta từ chức. Nhưng dĩ nhiên ông ta đúng, và tôi sai. Nếu không có ông ta, tôi sẽ mất sạch cả công ty. Làm sao mình không mang ơn một người như thế? Cô biết tại sao người ta gọi tôi là “Chủ tịch” mà không gọi “Quản lý” không? Là vì tôi nhường chức ấy cho ông ta, mặc dù ông ta muốn từ chối. Cho nên khi tôi biết ông ta thương mến cô, tôi quyết định tôi phải âm thầm kín đáo quan tâm đến cô thôi, để cho ông ta có thể chiếm đoạt được cô. Cuộc đời đã đối xử tàn bạo với ông ta rồi, Sayuri à. Ông ta gặp ít người đối xử tử tế với ông.
Suốt những năm làm geisha, chưa bao giờ tôi có ý nghĩ ông Chủ tịch đặc biệt quá quan tâm đến tôi như thế. Và bây giờ tôi mới hiểu ra, ông ta tỏ thái độ thờ ơ với tôi vì ông muốn nhường tôi cho Nobu.
- Tôi không nói tôi ít quan tâm đến cô – ông nói tiếp – nhưng chắc cô biết là nếu tôi tỏ thái độ có tình cảm thương mến cô, thế nào ông ta cũng bỏ cô ngay lập tức.
Từ ngày còn nhỏ, tôi đã mơ có ngày ông Chủ tịch sẽ nói cho tôi biết rằng ông chăm sóc tôi, nhưng không bao giờ tôi tin có ngày chuyện này sẽ xảy ra. Dĩ nhiên tôi cũng không nghĩ đến chuyện ông sẽ nói cho tôi hay về điều tôi muốn nghe, và còn chuyện Nobu nặng nợ với tôi nữa. Có lẽ mục đích trong đời tôi nhắm đến đã trật lất, nhưng ít ra trong giây phút này, tôi đã được ngồi trong phòng này với ông Chủ tịch và nói cho ông nghe tâm tư tình cảm của tôi.
- Xin ông tha thứ cho em vì những điều em sắp nói cho ông nghe – cuối cùng tôi nói.
Tôi cố nói tiếp nhưng cổ họng tôi nghẹn ngào – mặc dù tôi không biết cái gì làm cho tôi nghẹn ngào. Phải một lát tôi mới biết đấy là mối cảm xúc mà tôi đã dồn nén xuống để cho nó khỏi hiện ra trên mặt.
- Em rất cảm mến ông Nobu, nhưng chuyện em đã làm ở Amani – nói đến đây tôi phải dừng lại một lát để cho cổ họng hết nghẹn ngào, bỏng rát, tôi mới nói tiếp được – chuyện em đã làm ở Amani, em làm thế là vì em thương yêu ông, ông Chủ tịch à. Từ khi gặp lại ông rồi, mỗi một bước của em trên đường đời là mỗi bước hy vọng được xích lại gần ông.
Khi nói xong câu này, tất cả hơi nóng trong người tôi đều dồn hết lên mặt. Tôi cảm thấy mình bay bổng lên không, như đám tàn lửa, nhưng tôi vẫn chú ý đến những vật ở trong phòng. Tôi cố tìm một vết dơ trên mặt bàn, nhưng cái bàn đã trở nên lờ mờ rồi biến mất trước mắt tôi.
- Sayuri, hãy nhìn tôi đi.
Tôi muốn làm theo lời ông yêu cầu, nhưng tôi không thể làm được.
- Lạ thay – ông nói nho nhỏ như nói với chính mình – cùng một người phụ nữ mà khi còn nhỏ thì nhìn tôi một cách hết sức thẳng thắn, còn nay sau nhiều năm trôi qua, lại không ngước mắt được để nhìn tôi.
Có lẽ công việc ngước mắt nhìn ông chỉ là một công việc đơn giản thôi, công việc mà tôi thấy không khó khăn gì khi đứng trên sân khấu với bao nhiêu người ở Gion đang nhìn lên tôi. Chúng tôi ngồi gần nhau bên một góc bàn, rất gần đến độ cuối cùng tôi lau mắt rồi nhìn vào mặt ông, tôi thấy rõ những vòng đen quanh hai con ngươi của ông. Tôi phân vân không biết có nên quay mắt đi cúi chào rồi rót sakê vào tách cho ông…nhưng chắc không có hành động nào có thể phá tan được sự căng thẳng này. Khi tôi đang miên man suy nghĩ như thế, ông Chủ tịch lùa chai và tách sang một bên bàn, rồi đưa tay nắm cổ áo tôi, kéo tôi sát bên ông. Khi mặt tôi kề sát mặt ông, tôi cảm thấy hơi ấm nơi người ông toả sang mặt tôi. Tôi đang bàng hoàng không biết hư thực ra sao, không biết phải làm gì hay nói gì, thì bỗng ông Chủ tịch kéo tôi sát vào ông và hôn tôi.
Chắc anh ngạc nhiên khi nghe đây là lần đầu tiên trong đời tôi mới có người hôn. Tướng Tottori thỉnh thoảng cũng ép môi vào tôi khi ông làm danna của tôi, nhưng tôi thấy hoàn toàn vô cảm. Lúc ấy tôi thường tự hỏi phải chăng ông ta chỉ tìm nơi để tựa cái mặt lên đấy cho khoẻ. Thậm chí với Yasuda Akira – người đã mua cho tôi cái kimono, và người tôi đã dụ dỗ vào một đêm ở tại phòng trà Tatematsu – đã hôn hàng chục lần lên mặt lên cổ tôi, nhưng anh ta chưa bao giờ hôn vào môi tôi. Cho nên anh có thể cho rằng nụ hôn này, nụ hôn thật sự đầu tiên trong đời tôi, đôi với tôi rất quý giá, hơn bất cứ cái gì trên đời. Tôi có cảm giác tôi đã lấy của ông Chủ tịch cái gì đấy, và ông đã cho tôi cái ấy, cái rất riêng tư của ông, có giá trị hơn tất cả những của cải của những người khác đã cho tôi. Nụ hôn có mùi vị rất tuyệt vời, ngọt lịm như trái chín, và khi tôi nếm hương vị ấy, hai vai tôi chùng xuống, bụng tôi phồng lên, tâm trí tôi lâng lâng ngây ngất, vượt lên chín tầng mây không làm sao tôi nhớ hết cho được. Tôi nghĩ đến đám hơi trên nồi cơm khi bà bếp mở nắp vung ra. Tôi thấy trong óc hiện ra hình ảnh con đường nhỏ mà là phố chính của quận Pontocho, con đường tôi thấy vào một buổi tối tràn ngập những người chúc lành ông Kichisaburo sau buổi diễn cuối cùng của ông, vào hôm giã từ sân khấu Kabuki để về hưu. Tôi thấy tôi đã nghĩ đến hàng trăm thứ để diễn tả hạnh phúc của tôi khi ấy, vì như thể các ranh giới trong tâm tưởng tôi đã được phá vỡ và tôi mặc sức để cho ký ức tự do phiêu lưu. Nhưng rồi ông Chủ tịch nhích đầu lui, một tay để trên cổ tôi. Ông ta ngồi quá gần tôi, tôi có thể thấy môi ông ươn ướt và vẫn còn cảm thấy hương vị của nụ hôn chúng tôi vừa hôn.
- Thưa ông – tôi nói – tại sao?
- Tại sao cái gì?
- Tại sao…đủ thứ? Tại sao ông hôn em? Ông vừa mới nói em là quà ông tặng cho ông Nobu.
- Nobu đã bỏ cô rồi, Sayuri à. Tôi không lấy gì của ông ta hết.
Tôi quá hoang mang bối rối, nên không hiểu ông ta muốn nói gì.
- Khi thấy em với ông Thứ trưởng, em có ánh mắt giống như ánh mắt mà tôi đã thấy cách đây bao nhiêu năm bên bờ suối Shirakawa – ông nói tiếp – Em có vẻ quá thất vọng, như người sắp chết đuối mà không có ai đến cứu. Sau khi Bí Ngô nói cho tôi biết em có ý định làm thế với ông Thứ trưởng để cho Nobu bắt gặp, tôi bèn quyết định nói cho ông ấy biết những gì tôi đã thấy. Ông ta đã phản ứng rất giận dữ…thì thôi, nếu ông ta không tha thứ cho em chuyện em đã làm, thì theo tôi, rõ ràng ông ta không có duyên nợ gì với em hết.
Tôi nhớ thời tôi còn bé ở Yoroido, có một cậu bé tên Gisuke leo lên một cái cây để nhảy xuống hồ. Cậu ta leo quá cao, mà mực nước ở hồ thì cạn. Nhưng khi chúng tôi bảo cậu ta đừng nhảy, cậu ta không dám trèo xuống vì đá dưới thân cây. Tôi chạy về làng để tìm bố cậu ta, ông Yamashita, ông bình tĩnh leo lên đồi, tôi tự hỏi không biết ông ta có nhận thấy tình trạng con ông nguy hiểm hay không. Ông ta bước đến gốc cây ngay khi cậu bé rơi xuống – cậu ta không biết có bố mình ở dưới. Ông Yamashita hứng lấy con mình một cách dễ dàng như có ai thả cái bao vào tay ông, rồi để cậu con đứng xuống đất. Tất cả chúng tôi đều reo hò sung sướng, chạy nhảy quanh hồ trong khi Gisuke đứng nhấp nháy mắt, nước mắt lưng tròng vì kinh ngạc.
Bây giờ tôi có cảm giác như Gisuke ngày ấy. Tôi đang rơi thẳng xuống đá thì ông Chủ tịch bước ra hứng lấy tôi. Tôi quá đỗi sung sướng đến nỗi không thèm lau nước mắt đang trào ra. Bóng ông nhoà đi trước mặt tôi, nhưng tôi vẫn thấy ông nhích người đến sát hôn tôi, rồi ông choàng lấy tôi như ôm tấm chăn vào lòng. Môi ông đặt vào phần da hở có hình tam giác trên cổ tôi nơi tiếp giáp với cổ áo kimono. Khi tôi cảm thấy hơi thở của ông phả lên cổ tôi, và cảm thấy những động tác gấp gáp của ông hoạt động trên người tôi, tôi liền nhớ đến nhiều năm về trước, khi tôi đi vào nhà bếp ở nhà kỹ nữ, bắt gặp cô hầu dựa người trên bồn rửa, cố đưa tay che trái lê chín cô ta đang ăn trong miệng, nước lê chảy ròng ròng xuống cổ. Cô ta nói cô ta thèm ăn lê, xin tôi đừng nói lại với bà Mẹ.

Chuong 35

Sau gần 40 năm, bây giờ khi nhớ lại cái đêm tôi với ông Chủ tịch gặp nhau, tôi không khỏi bồi hồi vì đó là lúc nỗi khổ của tôi đã lên tới cực điểm, đến độ trơ lì ra. Từ ngày tôi rời Yoroido, đời tôi chỉ gặp toàn chuyện đau khổ, gian truân. Và dĩ nhiên bước gian truân ấy vẫn còn rất rõ trước mắt tôi. Khi chúng ta lội ngược trong một dòng suối có nhiều đá ngầm, chúng ta phải cẩn thận từng bước một.
Nhưng cuộc đời tôi trở nên dễ chịu hơn sau khi ông Chủ tịch trở thành danna của tôi. Tôi cảm thấy đời tôi như cái cây có rễ đâm vào vùng đất ẩm phì nhiêu. Trước kia chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến chuyện mình may mắn hơn người khác, nhưng nay thì tôi có thể nghĩ rằng tôi là người có diễm phúc. Nhưng tôi phải thú thật rằng tôi đã sống trong cảnh hạnh phúc một thời gian lâu tôi mới nhìn về quá khứ để thấy lại cuộc sống cô đơn của mình trước đó. Tôi nghĩ không thể kể chuyện đời mình ra được, tôi không tin có ai thành thật nói về nỗi khổ đau của mình cho đến khi không chịu đựng được nữa.
Vào buổi chiều, ông Chủ tịch và tôi cùng uống sakê trong buổi lễ tại phòng trà Ichiriki, có một chuyện kỳ cục đã xảy ra. Tôi không biết tại sao, nhưng khi tôi nhấp tí rượu trong ba cái tách chúng tôi thường dùng, tôi đã để cho rượu sakê chảy ra khỏi lưỡi, một giọt chảy ra khóe miệng. Tôi mặc chiếc áo kimono màu đen có năm cái vương miện, với con rồng thêu chỉ vàng và đỏ uốn mình từ lai áo cho đến ngang đùi. Tôi nhớ tôi thấy giọt rượu rơi xuống dưới cánh tay, lăn trên nền vải đen cho đến khi nó dừng lại tại sợi chỉ lớn màu bạc ở cái răng của con rồng. Tôi biết hầu hết geisha đều cho hiện tượng này là một điềm xấu, nhưng với tôi, giọt rượu ấy như giọt nước mắt đã kể lại đời tôi. Nó rơi vào khoảng trống hoàn toàn không bị cái gì cản trở, rồi lăn theo một đường trên lớp lụa, và rồi chảy đến dừng lại trên răng con rồng. Tôi nghĩ đến những cánh hoa tôi đã ném trên thượng nguồn sông Kame, ở phía ngoài xưởng thợ của ông Arashino, mong sao chúng đến được với ông Chủ tịch. Và tôi cũng nghĩ chúng đã đến được.
Suốt thời con gái, tôi thường nuôi hy vọng điên cuồng, tôi nghĩ nếu được làm tình nhân của ông Chủ tịch thì chắc đời tôi sẽ tuyệt hảo. Hy vọng trẻ con ấy tôi mang theo bên mình cho đến lúc trưởng thành. Đáng ra tôi phải biết rõ hơn điều này, tôi đã gặp bao nhiêu bài học đắng cay có thể xem như cái ngạnh móc vào da thịt, phải chăng nó sẽ để lại những vết sẹo không bao giờ mất? Khi xua đuổi Nobu ra khỏi đời tôi vĩnh viễn, tôi không chỉ mất tình bạn của ông thôi, mà tôi còn tự mình xua đuổi mình ra khỏi Gion nữa.
Lý do quá đơn giản, đáng ra tôi phải biết trước mới phải. Người đàn ông thắng được giải thưởng mà bạn mình ao ước phải đương đầu với sự lựa chọn khó khăn, anh ta phải hoặc là thu giấu giải thưởng đi cho người bạn không thấy hoặc đành chịu cảnh sứt mẻ tình bạn. Đây cũng là vấn đề rất khó khăn giữa tôi và Bí Ngô, tình bạn của chúng tôi không hàn gắn được sau ngày tôi được nhận làm con của nhà kỹ nữ. Cho nên mặc dù việc thương lượng của ông Chủ tịch với Mẹ để ông làm danna của tôi kéo dài mấy tháng trời, nhưng cuối cùng hai bên cũng đồng ý để cho tôi không làm geisha nữa. Dĩ nhiên tôi không phải là nàng geisha đầu tiên rời khỏi Gion, bên cạnh những cô bỏ đi, có cô lấy chồng và sống cuộc đời làm vợ, những người khác thì rút lui để mở phòng trà hay mở nhà kỹ nữ riêng cho mình. Thế nhưng trường hợp của tôi, tôi bị kẹt vào một tình thế ở giữa thật là kỳ khôi. Ông Chủ tịch muốn tôi rời khỏi Gion để không gặp Nobu nữa, nhưng dĩ nhiên ông ta cũng không cưới tôi được vì ông đã có vợ rồi. Có lẽ giải pháp tuyệt hảo nhất, giải pháp do ông Chủ tịch đề nghị, là để cho tôi mở phòng trà hay quán trọ, nơi mà Nobu sẽ không bao giờ đến thăm. Nhưng bà Mẹ không bằng lòng để cho tôi rời khỏi nhà kỹ nữ, nếu tôi không còn là thành phần trong nhà kỹ nữ nữa, thì bà sẽ không có lợi tức gì thu được từ mối liên hệ của tôi với ông Chủ tịch. Vì thế mà cuối cùng, ông Chủ tịch bằng lòng trả cho nhà kỹ nữ một số tiền đáng kể để Mẹ cho phép tôi chấm dứt hành nghề geisha. Tôi tiếp tục sống trong nhà kỹ nữ, y như lâu nay, nhưng tôi không đến trường học buổi sáng, hay đi quanh Gion để ra mắt khách khứa vào những buổi tiệc lớn, tiệc nhỏ, và dĩ nhiên, tôi không còn đi hầu vui cho khách vào buổi tối nữa.
Vì tôi đã có ý đồ trở thành geisha để có cơ hội chiếm được tình thương của ông Chủ tịch, nên có lẽ tôi không nên luyến tiếc gì về việc phải rút lui khỏi Gion. Thế nhưng trải qua nhiều năm trời làm geisha, tôi đã có nhiều bạn bè thân thiết, không những chỉ có geisha thôi, mà còn với nhiều đàn ông tôi quen biết nữa. Tôi không phải chia tay với các geisha khác vì tôi đã chấm dứt công việc giúp vui, mà còn chia tay với những người sinh sống ở Gion chỉ biết công việc nội trợ trong nhà. Tôi thường ghen với các cô geisha đang hấp tấp đi đến chỗ hẹn tiếp theo, vừa đi vừa cười đùa với nhau. Tôi không ghen vì cuộc sống bất định của họ, mà tôi ghen vì họ có nhiều hứa hẹn trước mắt, vì buổi tối của họ sẽ mang lại cho họ nhiều điều thích thú.
Tôi thường gặp Mameha. Ít ra chúng tôi cũng cùng uống trà với nhau nhiều lần trong một tuần. Vì cô ấy đã giúp tôi từ lúc tôi còn nhỏ - và nhất là cô đã thay mặt ông Chủ tịch để đóng vai trò đặc biệt trong đời tôi – nên chắc anh cảm thấy tôi mang ơn cô ấy không biết bao nhiêu mà kể. Một hôm vào trong một nhà hàng tôi thấy bức tranh lụa từ thế kỷ 18 vẽ cảnh một phụ nữ dạy cho một thiếu nữ tập viết. Cô giáo trong tranh có khuôn mặt trái xoan xinh đẹp, đang nhìn cô học trò với vẻ nhân từ, khiến tôi nghĩ đến Mameha, tôi bèn mua bức trang để làm quà tặng cho cô ấy. Vào một buổi chiều trời mưa, khi cô ấy treo bức tranh lên tường trong căn hộ buồn bã của cô, tôi đứng lắng nghe tiếng xe cộ chạy trên đại lộ Hagashi-Oji. Không làm sao tôi khỏi nhớ căn phòng đẹp đẽ của cô trước kia, tôi luyến tiếc vì không còn được nghe tiếng nước chảy róc rách ngoài cửa sổ từ cái thác nhỏ đổ vào con suối Shirakawa. Gion lúc ấy đối với tôi như một bức tranh cổ tuyệt vời, nhưng đã thay đổi quá nhiều. Bây giờ căn hộ của Mameha chỉ còn là một phòng nhỏ trải chiếu có màu u tối và phảng phất mùi thuốc Bắc của tiệm dược phẩm ở phía dưới – cho nên vì thế áo kimono của cô ấy thường thường cũng có mùi thuốc Bắc.
Sau khi treo bức tranh thuỷ mặc lên tường xong, cô ấy ngắm nghía một lát rồi trở về ngồi ở bàn. Cô ấy ngồi hai tay ôm lấy tách trà nóng, mắt nhìn vào tách trà như thể đang suy nghĩ để tìm ra lời gì để nói. Tôi kinh ngạc thấy gân tay nổi lên thật rõ trên hai tay cô, vì tuổi già đã xồng xộc đến. Cuối cùng, vẻ mặt buồn buồn, cô lên tiếng nói:
- Cuộc đời kỳ lạ thật, tương lai bất định. Cô phải cẩn thận đấy nhé, Sayuri, đừng đòi hỏi nhiều.
Tôi hoàn toàn cho lời cô ấy nói là đúng. Nếu tôi không tiếp tục tin rằng một ngày nào đó Nobu sẽ tha thứ cho tôi thì chắc tôi đã sống thoải mái hơn vào những năm sau đó. Cuối cùng tôi không hỏi Mameha về việc ông ta có hỏi han gì về tôi không, tôi rất đau khổ khi thấy cô ấy thở dài và nhìn tôi với ánh mắt buồn da diết, như thể muốn nói rằng cô ấy rất buồn khi thấy tôi không nghĩ đến chuyện gì hay ho, hơn là cứ hy vọng một chuyện như thế.
Vào mùa xuân năm sau, sau khi tôi đã thành tình nhân của ông Chủ tịch, ông mua một ngôi nhà thật sang ở phía Đông Bắc của thành phố Kyoto, và ông đặt tên là Eishin-an, có nghĩa là Đại phú ẩn cư. Ngôi nhà dùng đón khách của công ty, nhưng thực ra ông Chủ tịch sử dụng ngôi nhà này nhiều hơn ai hết. Đây là nơi tôi và ông cùng sống với nhau qua đêm mỗi tuần ba bốn lần, có khi nhiều hơn nữa. Gặp ngày bận bịu nhiều công việc, ông thường đi đến khuya và chỉ muốn tắm nước nóng trong khi tôi nói chuyện với ông, rồi sau đó đi ngủ. Nhưng hầu hết các buổi tối, ông đến vào lúc hoàng hôn, hay sau một chút, ông ăn cơm trong khi chúng tôi nói chuyện với nhau và nhìn gia nhân thắp đèn lồng trong vườn.
Thường thường khi nào ông đến, trước hết ông nói chuyện một lát về công việc trong ngày. Ông nói về những sự rắc rối trong việc sản xuất sản phẩm mới, hay về tai nạn giao thông có liên quan đến các bộ phận do công ty sản xuất, hay những việc đại loại như thế. Dĩ nhiên tôi rất sung sướng khi được ngồi nghe ông nói, nhưng tôi thừa biết ông Chủ tịch không phải kể những chuyện này vì muốn cho tôi biết, mà ông kể là vì ông muốn nói cho nhẹ bớt tâm trí, như đổ nước ra khỏi cái xô. Cho nên tôi nghe mà không chú ý đến nội dung, chỉ chăm chú đến giọng của ông thôi, vì khi ông cất giọng lên, tôi cảm thấy như nước chảy ra khỏi xô, nghĩa là ông trở nên dịu dàng, thoải mái. Khi nào thấy thuận tiện là tôi thay đổi đề tài, và sau đó, không nghiêm trang nói chuyện làm ăn nữa, mà chúng tôi nói về các chuyện vui khác, như là sáng ấy khi đi làm ông thấy có cái gì xảy ra, hay là cuốn phim mà chúng tôi vừa mới xem tại Đại phú ẩn cư cách đây mấy đêm có hay không, hay tôi kể cho ông về câu chuyện vui mà tôi đã nghe Mameha kể, cô ấy thỉnh thoảng vài đêm lại đến thăm chúng tôi. Nói tóm lại, công việc giản dị này đã làm cho ông thư thái tâm hồn, như chiếc khăn sũng nước đem phơi ngoài nắng mặt trời. Khi ông mới đến, tôi rửa tay cho ông bằng khăn nước nóng, mấy ngón tay ông cứng như que củi. Sau khi nói chuyện một lát, chúng mềm mại dễ thương như ông đang nằm ngủ.
Tôi cứ tưởng cuộc đời như thế mà trôi, hầu vui cho ông Chủ tịch buổi tối, sống thanh thản hạnh phúc suốt ngày tùy theo sở thích, nhưng vào mùa thu năm 1952, tôi theo ông sang Hoa kỳ, đây là chuyến đi thứ hai của ông ấy. Mùa đông năm trước ông sang một lần rồi, và chưa có bao giờ trong đời ông có chuyện gì gây cho ông nhiều ấn tượng sâu sắc như chuyện đi này. Ông nói rằng đây là lần đầu tiên ông chứng kiến được cảnh phồn vinh thực sự. Ví dụ, trong lúc ấy, hầu hết người Nhật mới chỉ được hưởng điện lực trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng ánh sáng trong các thành phố Mỹ thì sáng suốt ngày suốt đêm. Và trong khi chúng tôi ở Kyoto tự hào nhà ga xe lửa mới được đúc bê tong chứ không lát ván như trước, thì nền nhà các ga xe lửa ở Mỹ được lát đá hoa cứng. Ngay trong các thành phố nhỏ ở Mỹ, các rạp chiếu bóng cũng lớn như nhà hát quốc gia của chúng tôi, ông Chủ tịch nói thế, và các phòng vệ sinh công cộng khắp nơi đều sạch bong. Điều làm cho ông kinh ngạc nhất là hầu như mọi gia đình ở Mỹ đều có tủ lạnh, việc mua tủ lạnh rất dễ, chỉ cần một tháng lương của một công nhân trung bình thôi là mua được. Trong khi đó ở Nhật, một công nhân phải mất 15 tháng lương mới mua nổi cái tủ lạnh, cho nên rất ít gia đình có nổi một cái tủ lạnh như thế.
Như tôi đã nói, ông Chủ tịch cho tôi đi theo ông vào chuyện đi Mỹ lần thứ hai. Tôi đi xe lửa một mình đến Tokyo rồi từ đấy chúng tôi đáp máy bay sang Hawaii. Chúng tôi nghỉ ngơi vài ngày rất thoải mái ở đây. Ông Chủ tịch mua cho tôi một bộ đồ tắm – lần đầu tiên tôi có đồ này – và tôi mặc ngồi trên bãi biển, tóc xoã dài xuống vai, như bao phụ nữ khác quanh tôi. Hawaii nhắc tôi nhớ đến Amani, tôi lo sợ ông Chủ tịch cũng có ý nghĩ như thế, nhưng nếu có, ông cũng không nói gì hết. Từ Hawaii, chúng tôi bay đến Los Angeles, rồi cuối cùng đến New York. Tôi không biết gì về nước Mỹ ngoại trừ những điều tôi thấy trên màn ảnh. Tôi không tin chuyện ở New York lại có những toà cao ốc vĩ đại như thế. Và khi vào ở trong phòng tại khách sạn Walforf-Astoria, nhìn qua cửa sổ thấy nhà cửa trùng điệp cao ngất quanh tôi và nhìn đường phố phẳng phiu sạch sẽ ở phía dưới, tôi cảm thấy như chuyện cổ tích. Thú thật tôi thấy mình như một em bé lôi ra khỏi mẹ, vì chưa bao giờ tôi rời khỏi nước Nhật, tôi không tin rằng một nơi xa lạ như New York này sẽ làm tôi sợ. Có lẽ nhờ tình thương của ông Chủ tịch mà tôi vững tâm đến đây. Ông lấy một phòng riêng dùng để làm việc, nhưng mỗi đêm ông đến ở với tôi tại căn hộ ông dành riêng cho tôi. Thường thường tôi thức dậy trong căn phòng kỳ lạ ấy, quay qua nhìn ông ngồi trong bóng tối, trên chiếc ghế kê bên cửa sổ, kéo màn che cửa để nhìn xuống Công viên Trung tâm. Một lần vào khoảng sau hai giờ sáng, ông nắm tay lôi tôi đến bên cửa sổ để nhìn một cặp tình nhân mặc áo quần như vừa đi dạ hội trở về, đứng hôn nhau dưới ngọn đèn ở góc đường.
Trong ba năm tiếp theo, tôi cùng ông Chủ tịch sang Hoa kỳ thêm hai lần nữa. Trong khi ban ngày ông đi lo công việc, tôi và cô hầu đi xem các viện bảo tang rồi vào ăn nhà hàng – và ngay cả vào xem một buổi múa ba lê, vở múa làm tôi thích thú vô cùng. Kỳ lạ thay là một trong số mấy nhà hàng ăn uống của người Nhật ở New York, có người quản lý tôi đã quen rất thân ở Gion trước chiến tranh. Vào một buổi chiều trong giờ ăn trưa, tôi đến phòng riêng của ông ta ở phía sau nhà hàng, giúp vui một số người đã lâu tôi không gặp lại, như Phó giám đốc công ty Điện thoại điện báo Nippon, Tổng lãnh sự mới của Nhật, nguyên là thị trưởng thành phố Kobe, một vị giáo sư khoa chính trị ở đại học Kyoto. Tôi có cảm tưởng như được sống ở Gion trở lại.
Mùa hè năm 1956, ông Chủ tịch có hai cô con gái với vợ chính thức, nhưng không có con trai – thu xếp để cho cô con gái đầu lấy một người có tên là Nishioka Mimoru. Ý đồ của ông là ông Nishioka sẽ lấy tên họ Iwamura rồi thừa kế ông, nhưng đến giây phút chót, ông Nishioka đổi ý, báo cho ông Chủ tịch biết ông ta không bằng lòng lấy con gái của ông Chủ tịch nữa. Ông này là một thanh niên có tính khí thất thường, nhưng ông Chủ tịch tin anh ta là người thông minh đĩnh ngộ. Ông Chủ tịch chán nản suốt mấy tuần, ông nạt nộ gia nhân và tôi thật vô cớ. Chưa bao giờ tôi thấy ông rối loạn tinh thần như thế.
Không ai nói cho tôi biết lý do tại sao. Nishioka Minoru thay đổi ý kiến, nhưng chắc có người biết. Vào mùa hè trước, người sáng lập ra công ty bảo hiểm lớn nhất ở nước Nhật đã không cho người con trai làm giám đốc, mà lại giao cho người con trai ngoại hôn còn trẻ hơn, anh này là con của ông ta với một geisha ở Tokyo. Chuyện này đã gây ra tai tiếng một thời gian. Những chuyện như thế này trước đây đã từng xảy ra ở Nhật, nhưng thường ở các giới thấp hơn, trong những gia đình buôn bán áo kimnono hay bán bánh kẹo, hay những gia đình buôn bán khác. Ông giám đốc công ty bảo hiểm đã cho báo chí hay rằng cậu cả của ông ta là “người kém tài năng hơn…” và ông nêu tên người con trai ngoại hôn của mình, mà không nói rõ về mối liên hệ tình dục với ai hết. Nhưng chẳng cần ông nói rõ hay không, mọi người ai cũng biết sự thật.
Nếu anh cho rằng Nishioka Minoru, sau khi đã bằng lòng làm kẻ thừa kế cho ông Chủ tịch, đã phát hiện ra một vài tin tức mới mẻ, như là ông Chủ tịch có con trai ngoại hôn chẳng hạn, thì theo tôi, việc anh ta không bằng lòng lấy con gái ông Chủ tịch là điều dễ hiểu thôi. Mọi người đều biết ông Chủ tịch ta than không có con trai và chỉ trông mong vào hai cô con gái. Nhưng ai biết ông ta không trông cậy vào cậu con trai ngoại hôn và biết đâu một ngày nào đấy, trước khi chết, ông ta thay đổi ý kiến, đem chuyển giao công ty mà ông đã dày công xây dựng cho cậu con trai ấy? Còn tôi thì không biết có đẻ cho ông Chủ tịch một đứa con trai hay không. Nếu tôi có đẻ, thì chắc tôi cũng không dám đề cập đến nhiều, vì sợ mang tai mang tiếng cho ông ta. Tốt nhất là không nên nói ra, vì không có lợi cho ai hết. Đối với tôi phương pháp hay nhất là không nói gì hết, tôi nghĩ chắc anh hiểu rồi.
Khoảng một tuần sau ngày Nishioka Minoru thay đổi ý kiến, tôi quyết nêu vấn đề rất tế nhị này với ông Chủ tịch.
Chúng tôi đang ở Đại phú ẩn cư, sau khi ăn tối xong, chúng tôi ngồi ở hàng lang trông ra vườn hoa. Trước bữa ăn ông Chủ tịch suy nghĩ miên man không nói một tiếng.
- Người yêu của em – tôi nói – vừa mới đây, em có thưa với mình một chuyện rất lạ, phải không?
Tôi nhìn ông, nhưng ông không có dấu hiệu gì chứng tỏ có nghe tôi nói.
- Em cứ nghĩ đến phòng trà Ichiriki hoài – tôi nói tiếp – thú thật, em rất nhớ cảnh hầu vui ngày trước.
Ông Chủ tịch đang ăn kem, ông liền đặt muỗng xuống.
- Dĩ nhiên em không thể về lại Gion được, em thừa biết như thế. Nhưng em tự hỏi không lẽ ở New York không có chỗ để mở một cái phòng trà nho nhỏ hay sao.
- Tôi không hiểu em đang nói cái gì – ông đáp – không có lý do gì để cho em rời khỏi nước Nhật hết.
- Bây giờ các thương gia Nhật, các nhà chính khách Nhật đổ xô đến New York làm ăn rất nhiều như rùa con đua nhau lội xuống hồ - tôi nói – hầu hết những người này em đã quen biết từ lâu. Rời bỏ nước Nhật đúng là một sự thay đổi đột ngột đấy. Nhưng em nghĩ rồi đây người em yêu sẽ sống ở New York nhiều…- Tôi không biết đây là chuyện thật, vì ông đã nói với tôi, ông có kế hoạch mở chi nhánh tại đấy.
- Tôi không có ý định như thế, Sayuri – ông đáp.
Tôi nghĩ ông muốn nói thêm cái gì nữa, nhưng tôi nói tiếp như thể tôi không nghe ông nói gì.
- Người ta nói đứa bé lớn lên giữa hai nền văn hoá khác nhau thường gặp nhiều chuyện rất khó khăn. Cho nên, người mẹ mang con đến ở một nơi như Hoa kỳ chẳng hạn có lẽ là hành động rất khôn ngoan, vì để cho đứa bé lấy chỗ ấy làm quê hương vĩnh viễn.
- Sayuri…
- Nghĩa là – tôi nói tiếp – người mẹ nào chọn lựa như thế có lẽ không mang con về lại Nhật làm gì.
Đến đây, ông Chủ tịch chắc hiểu ý tôi muốn nói gì, tôi sang Mỹ tức là tôi sẽ mang theo chướng ngại vật làm cản trở việc chọn Nishioka Minoru làm người thừa kế của ông. Ông kinh ngạc nhìn tôi một lát. Rồi, có lẽ ông hình dung ra trong óc cảnh tôi ra đi, nét cau có trên mặt ông biến mất, và một giọt nước mắt ứa ra bên khóe mắt ông, ông vội nhấp nháy mắt cho giọt nước mắt rơi đi như xua một con ruồi.
Tháng tám năm ấy, tôi sang New York để mở một phòng trà tí hon cho các thương gia và chính trị gia Nhật mỗi khi họ sang Hoa Kỳ. Dĩ nhiên bà Mẹ cương quyết cho rằng bất kỳ công việc kinh doanh nào của tôi ở New York cũng đều xem như một chi nhánh của nhà kỹ nữ Nitta, nhưng ông Chủ tịch thẳng thừng bác bỏ, không chấp nhận. Mẹ chỉ có quyền với tôi chừng nào tôi ở Gion, nhưng khi đã đi ra khỏi đấy, xem như tôi đã cắt đứt hết mọi rang buộc với bà ta. Ông Chủ tịch đã phái hai kế toán viên đến giúp tôi kiểm soát tiền bạc để bà Mẹ không thu được một yen nào hết.
Khi cánh cửa căn hộ của tôi tại khách sạn Waldorf Towers đóng lại lần đầu tiên, xin thú thật, tôi không sợ sệt gì hết như cách đây nhiều năm về trước. Nhưng New York là một thành phố sôi động. Phải mất một thời gian thật lâu tôi mới cảm thấy quen như ở Gion được, và cảm thấy đây là quê nhà của mình. Thật vậy, khi nhìn lại thời ấy, rất nhiều kỷ niệm của tôi với ông Chủ tịch ở đây đã làm cho tôi cảm thấy cuộc đời của tôi tại Hoa kỳ phong phú hơn rất nhiều so với thời còn ở Nhật. Phòng trà nhỏ của tôi nằm trên lầu hai của một câu lạc bộ cũ trên Đại lộ Thứ Năm, gặt hái được thành quả ngay từ đầu. Một số geisha ở Gion sang làm việc cho tôi, thậm chí cả Mameha thỉnh thoảng cũng sang thăm. Bây giờ, chỉ khi nào có bạn bè thân thiết hay khách quen cũ đến thành phố, tôi mới đến hầu vui. Thế nhưng tôi đã dùng thì giờ vào cách khác. Buổi sáng tôi thường gặp các nhà văn, các nghệ sĩ Nhật ở tại đấy để nghiên cứu về các vấn đề có quan hệ đến chúng tôi – như là thi ca hay âm nhạc, lịch sử thành phố New York suốt khoá lâu một tháng. Ngày nào tôi cũng ăn trưa với một người bạn. Còn buổi chiều, tôi quỳ trước bàn trang điểm để hoá trang chuẩn bị cho các buổi tiệc – thỉnh thoảng tổ chức tại căn hộ của tôi. Khi tôi lấy tấm vải thêu che tấm gương soi ra, không làm sao tôi quên được mùi của chất hóa trang màu trắng tôi thường dùng ở Gion. Tôi rất muốn về đấy thăm, nhưng tôi sợ những đổi thay ở đấy sẽ làm tôi xúc động. Khi có người bạn nào đến, mang ảnh chụp Kyoto cho tôi xem, tôi thường nghĩ rằng Gion bé nhỏ đi như một mảnh vườn thiếu chăm sóc, để cho cỏ dại mọc khắp nơi. Ví dụ, sau ngày bà Mẹ chết cách đây mấy năm, nhà kỹ nữ Nitta bị triệt hạ để xây vào đấy một ngôi nhà bê tong cốt sắt nhỏ, ở dưới dùng làm tiệm sách, tầng trên dùng cho hai gia đình ở.
Khi tôi mới đến Gion, ở đấy có tám trăm geisha hoạt động, bây giờ chưa đến 60 với một ít tập sự, và mỗi ngày lại một ít đi, vì sự đổi thay càng ngày càng gia tăng. Lần đến thăm New York sau cùng của ông Chủ tịch, ông và tôi đi bách bộ qua công viên Trung Tâm. Tự nhiên chúng tôi nhắc đến quá khứ, và khi chúng tôi đi trên con đường chạy qua rừng thông, bỗng ông Chủ tịch thình lình dừng lại. Ông thường nói cho tôi nghe về những hàng thông chạy ven đường ở ngoài thành phố Osaka nơi ông lớn lên. Khi nhìn ông dừng lại, tôi biết ông đang nhớ đến hàng thông ở đấy. Ông đứng yên, hai tay yếu đuối tựa lên chiếc can, mắt nhắm lại, hít thở thật sâu hương vị của quá khứ.
- Nhiều khi – ông thở dài nói – tôi nghĩ những điều trong ký ức còn thật hơn những điều trước mắt nhiều.
Khi tôi còn trẻ, tôi cứ nghĩ đam mê của người đời sẽ nhạt phai theo năm tháng, như tách nước để trên bàn sẽ bốc hơi cạn dần theo thời gian. Nhưng khi ông Chủ tịch và tôi về lại căn hộ của tôi, chúng tôi đã cùng nhau ân ái như thời còn trẻ với nhiều đam mê khát vọng, đến nỗi sau đó tôi cảm thấy tất cả sinh lực của tôi đã bị ông Chủ tịch lấy đi, nhưng đồng thời cũng được sinh lực của ông bù đắp lại. Tôi lăn ra ngủ say, mơ thấy tôi đang dự một buổi đại tiệc ở Gion, đang nói chuyện với một ông già, ông ta nói với tôi rằng vợ ông, người vợ ông rất thương yêu, không chết, vì những lạc thú mà họ đã cùng nhau hưởng vẫn còn sống mãi trong lòng của ông. Trong khi ông ta nói những lời này, tôi húp một tô súp ngon chưa từng thấy, mỗi một ngụm súp húp vào miệng là một cực khoái. Tôi cảm thấy những người tôi quen biết đã chết đi hay đã xa tôi, thật ra không ai từ giã tôi đi đâu hết, họ vẫn còn sống mãi trong lòng tôi như người vợ của ông già này cứ sống mãi trong lòng ông ta vậy. Tôi cảm thấy như tôi đã uống hết họ vào người, - chị Satsu của tôi, người đã bỏ trốn để lại tôi một mình khi còn bé nhỏ, mẹ tôi và bố tôi, ông Tanaka, với vẻ đạo đức giả, ông Nobu, người không bao giờ tha thứ cho tôi, thậm chí cả ông Chủ tịch nữa. Tô súp tôi húp đầy những thứ mà tôi đã lo nghĩ suốt cả đời, và trong khi tôi húp, ông già này rót những lời ông ta nói vào trái tim của tôi. Tôi thức dậy với nước mắt đầm đìa hai bên thái dương, tôi vội nắm tay ông Chủ tịch, lòng lo sợ khi ông chết đi để lại tôi một mình, chắc tôi không thể nào sống nổi. Vì ông đã quá yếu rồi, ngay cả khi ông nằm ngủ bên tôi, không tài nào tôi không nghĩ đến hình ảnh của mẹ tôi ở Yoroido. Thế nhưng, khi ông chết vào mấy tháng sau, tôi hiểu ra rằng ông từ giã tôi ra đi là điều rất tự nhiên, như những chiếc lá lìa cành mà thôi.
Tôi không thể nói với anh cái gì đã đưa chúng tôi đến với nhau trong cuộc đời này, nhưng đối với tôi, tôi đã đến với ông Chủ tịch như hòn đá phải rơi xuống đất. Khi tôi bị rách môi và gặp ông Tanaka, khi mẹ tôi chết và tôi bị bán đi một cách tàn nhẫn, thân tôi như một dòng suối rơi xuống bờ núi đá trước khi đổ ra biển. Thậm chí bây giờ ông ấy chết rồi, nhưng với tôi, ông ấy vẫn còn bên tôi, những ky niệm về ông ấy vẫn còn nguyên vẹn trong lòng tôi. Khi kể chuyện này cho anh, là tôi đã sống lại cuộc đời tôi.
Quả thật, thỉnh thoảng tôi đi qua công viên Trung Tâm, tôi lại giật mình sửng sốt trước những cảnh vật chung quanh. Những chiếc taxi màu vàng chạy vụt qua, bóp còi inh ỏi, những phụ nữ xách cặp đi qua, họ có vẻ ngơ ngác bàng hoàng khi thấy một bà già nhỏ con người Nhật mặc kimono đứng bên góc đường. Nhưng có thật nếu tôi về lại Yoroido, cảnh tượng ở đấy sẽ ít kỳ lạ hơn không? Khi còn là con gái, tôi tin rằng nếu ông Tanaka không lôi tôi ra khỏi ngôi nhà ngà say, thì chắc đời tôi sẽ không trải qua phong ba bão táp. Nhưng bây giờ tôi thấy rằng thế giới của chúng ta chẳng khác nào ngọn sóng dâng trào trên biển cả. Cho dù chúng ta thành công hay gặp thất bại, thì đàng nào chúng ta cũng nếm mùi đau khổ, tất cả trước sau gì cũng bị thời gian cuốn trôi, như mực nước trên giấy, sẽ bị thời gian xoá mờ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro