gia dinh ngot ngao cua toi c10-18

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 9

Hôm nay là ngày thứ chín Triết rời bỏ tôi, tôi đã viết trong nhật ký như vậy.

Cuối cùng trưa nay tôi cũng lên được chiếc xe đi Đan Ba. Tim tôi không khỏi đập thình thịch. Lúc mở đầu cuộc hành trình có thể là mù quáng, trên chuyến đi chỉ còn một phần nhỏ vẫn có thể là mụ mẫm, nhưng càng gần chặng cuối chuyến đi, bạn lại không thể không xúc động, tim nhảy nhót như một con hươu nhỏ.

Tôi và Lộ Phong Thiền ngồi xuống hai ghế cạnh nhau. Cuối cùng cũng bỏ được cái vòng chống cắn cho nó. Bệnh viêm da của nó đã khỏi, nom nó thật nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Ngồi trên ghế, đầu nó không khỏi đảo qua đảo lại, còn cọ dỉ mắt lên cái áo khoác hiệu Marc Jacobs của tôi, cuối cùng lại nhảy xuống ghế nhai đôi dép da dê đế bằng của tôi. Chưa bao giờ tôi thấy nó điên rồ đến vậy.

Lúc này, một người đàn ông lên xe, ngồi xuống ghế đối diện cách nhau một lối đi. Mấy lần anh ta quay sang nhìn tôi, khiến tôi không khỏi quan sát anh ta một lượt, hình như đã gặp ở đâu. “Cô là cô gái đã bị ngất”, đột nhiên anh ta kêu lên.

Tôi chợt nhớ ra đã gặp anh ta ở đâu. Đó chính là người học y đã giúp tôi trên chặng đường từ Thượng Hải tới Nghi Xương, khi tôi bị ngất đi vì con chó đột nhiên cất tiếng nói. Tôi còn ấn tượng về cái tên của anh ta, “Anh là Đường Cương?”.

Anh ta gật đầu, nhoẻn cười, rõ ràng rất vui vì tôi còn nhớ tên anh. “Sao lại trùng hợp thế? Quả nhiên lại gặp nhau”.

“Đúng là rất trùng hợp”. Tôi cũng rất ngạc nhiên.

“Cô tới Xuyên Tây du lịch sao? Nơi đó phong cảnh rất tuyệt, có núi tuyết, hồ bạch, dân tộc Tạng, từng bầy dê, bầy cừu”, anh ta thử đoán.

Tôi lắc đầu, rồi lại gật đầu. “Cứ cho là vậy”, tôi cười.

“Chà, nhà tôi ở đó”. Không đợi tôi trả lời, anh tự nói, rồi lôi ra một tấm danh thiếp, đưa cho tôi. “Tôi làm kinh doanh, nơi đó chúng tôi sản xuất rất nhiều loại thảo dược, đông trùng, tuyết liên hoa… Cô có nghe nói không?”.

“Anh cũng sống ở Đan Ba sao?”, tôi nhìn tấm danh thiếp, bên trên ghi giám đốc một công ty bán buôn thảo dược ở Đan Ba.

Anh ta khẽ cười kiêu hãnh, “Đúng vậy, đó là một nơi tuyệt vời. Năm 2001, vệ tinh nước Pháp từ độ cao hơn mười vạn mét đã chụp được một tấm hình rất thần kì. Năm dòng sông, năm ngọn núi cùng tạo nên một đóa hoa mai nở trên mặt đất. Đó chính là đóa hoa của trái đất- Đan Ba”, anh ta nói bằng giọng hướng dẫn du lịch.

“Bạn trai tôi cũng là người Đan Ba”, tôi nói. Vừa nói dứt lời, tôi lại thấy ân hận. Xem ra tôi nói quá nhiều với một người lạ.

Quả nhiên anh ta chú y tới và hỏi rất hào hứng: “Bạn trai cô tên là gì?”.

“Nhất định anh không biết đâu”, tôi từ chối.

“Hơn mười năm qua, tôi đi hết các ngóc ngách thôn xóm để mua thảo dược. Đan Ba đâu có rộng lớn gì, về cơ bản tôi có thể nhận ra được mặt. Cô cứ nói ra đó, xem tôi có quen không?”, anh ta vẫn kiên trì hỏi.

Tôi lắc đầu, cười xin lỗi, rồi quay lại ngắm cảnh bên đường. Hai bên đường phần lớn là các đỉnh núi cao ngất, có lẽ đã vào địa phận của Tứ Xuyên.

Nhớ lại nhà thơ Lý Bạch thời Đường từng có những câu thơ miêu tả những vùng núi hiểm trở, giao thông không thuận tiện như Tứ Xuyên. Những câu thơ đó lúc này thực sự nói đúng tâm trạng của tôi mong mỏi được gặp Triết.

Dù khó khăn đến mấy, cũng vẫn phải đi tiếp.

Xe đột nhiên lắc mạnh, rồi một tiếng phanh chói tai vang lên. Mọi người trong xe hầu như đều bị ngã nhào. Rồi xe dừng hẳn, mọi thứ hồi phục lại bình thường. Không khí yên tĩnh tới đáng sợ, có tiếng gió lốc cuốn.

Tôi đang mơ màng ngủ, đột nhiên bị cú xóc xe làm bừng tỉnh, toàn thân mồ hôi ướt lạnh, trán bị đập vào thành cửa sổ bên cạnh đau điếng.

Chỉ nghe thấy mọi người trong xe hoảng loạn, có tiếng ai đang kêu, “Chết chết người rồi, xe đâm chết người rồi!”. Tim tôi đập thình thịch, ôm vội Lộ Phong Thiền vào lòng. Trong phút chốc lại nhớ tới cảnh tượng thương tâm bố tôi bị xe đâm, nằm trong vũng máu đã đỏ sẫm. Không biết cái gì đã khiến tôi đột nhiên dũng cảm đến vậy. Tôi đứng bật dậy, len qua đám người co rúm, nhốn nháo và nóng rãy trên xe. Lúc này cửa xe đã mở toang, tôi nhảy xuống, cùng mấy người đi sang đường.

Bên kia đường là một chiếc xe đạp bị nghiến gãy dúm dó. Cách đó không xa là một người đàn ông hơn năm mươi tuổi trong bộ cà sa màu vàng cam nằm vật trên đường. Đầu ông ta cạo trọc, lưng đeo một túi vải. Ông là một hòa thượng Tây Tạng.

Nửa thân trước của ông đều đẫm máu, nhưng mắt ông vẫn mở to, lóe lên những tia sáng quái lạ. Tôi không khỏi sững sờ nhìn ông đăm đăm, phảng phất như thể nhìn thấy một thế giới chưa từng nhìn thấy với vô số vì sao lấp lánh và những cơn lốc đầy bụi vàng. Tôi đã bị thổi tới một không gian thần bí ở ngoài trái đất.

Ảo ảnh chưa đầy một giây rồi tan hẳn.

Rồi tôi ngạc nhiên khi thấy vị hòa thượng đó đột nhiên mỉm cười với tôi.

Tôi không dám tin, cứ ngỡ là nhìn lầm, đang định cúi xuống sát gần ông thêm chút nữa, thì vị hòa thượng đã nhắm mắt lại. Lúc này, toàn thân tôi bị úp chụp trong nỗi đau thương và khiếp sợ không tài nào tả nổi, nước mắt tôi không ngừng tuôn. “Mau tới đây, phải đưa ông ấy đi bệnh viện”, tôi nghe thấy giọng nói tuyệt vọng của mình vang trong không gian.

Người đàn ông có tên Đường Cương xuất hiện bên cạnh tôi. Anh ta ấn mạnh lên vai tôi, “Đừng hoảng hốt”, anh ta nói nhỏ rồi ngồi sụp xuống xem mạch cho hòa thượng, vạch mắt ông ra xem. “Ông ấy chết rồi”, anh ta khẽ nói, như thể tự nói vậy.

“Tôi không tin”, tôi gắng hạ giọng, kêu ầm lên, “Chúng ta phải đưa ông ấy vào bệnh viện ngay”. Anh ta không thèm đáp trả, cũng không nhìn tôi.

Lướt mắt qua đám hành khách vây quanh, không thấy tài xế đâu. Đầu tôi như sắp nổ tung, liền rảo bước tới cửa xe. Quả nhiên bác tài vẫn đang ngồi trên xe, ra sức hút thuốc, lớn tiếng thanh minh với mấy hành khách nhát gan còn sót lại. “Không phải lỗi tại tôi. Rõ ràng ông ta cưỡi chiếc xe đạp rách đi lảo đảo. Tự mình tìm tới chỗ chết, còn trách ai nữa? Các người nói xem, hôm nay sao chúng ta lại xui thế nhỉ, không biết gặp chuyện ma quỉ gì?”.

Mấy hành khách cũng phụ họa theo, “Đúng thế, chuyện này không trách bác được. Người đó gặp chuyện xúi quẩy, tự mình tìm tới chỗ chết thôi”.

“Im đi”, tôi quát to, rồi chỉ vào bác tài, “Bác xuống đây!”.

“Cô là ai?”, bác tài xế nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống sàn xe, “Tại sao tôi phải nghe cô?”.

“Bác trốn cũng không xong đâu”. Tôi tức giận tới run người, rồi phát hiện thấy mình đang lôi điện thoại ra, bắt đầu bấm số 120 gọi xe cấp cứu. Gọi thông rồi, khi đầu dây bên kia hỏi tôi đang ở đâu, tôi đang ngần ngừ thì phát hiện thấy Đường Cương đứng bên tôi. Vừa định đưa điện thoại cho anh, chiếc di động trong tay tôi đột nhiên bị một người giật lấy.

Tôi không hề chuẩn bị, quay lại nhìn, thì ra là một hành khách cùng đi. Đó là một người đàn ông nom cũng chưa đứng tuổi, nhưng mặt đầy vết sẹo, miệng ngậm một điếu thuốc. Tay anh ta lật qua lật lại chiếc điện thoại của tôi, như thể sắp ném nó đi bất kỳ lúc nào.

Tôi tức giận và kinh ngạc nhìn anh ta, chưa hiểu tại sao anh ta lại làm vậy. Tôi chỉ tay về phía anh ta: “Trả lại điện thoại cho tôi!”. Lộ Phong Thiền đứng bên cạnh tôi, lông lá dựng đứng, cổ họng gầm gừ, như sắp lao xổ ra cắn người kia.

“Được thôi”, anh ta liếc tôi, lại liếc con chó, “Nhưng cô không được gọi điện thoại cho cảnh sát, bệnh viện, bất kỳ ai cũng không được gọi”.

“Tại sao?”, tôi thực sự không thể tin nổi tai mình.

“Chẳng tại sao cả. Làm người cũng không thể quá thật thà. Người ta đã chết rồi, trốn được thì trốn. Chúng ta đều vội lên đường, nếu cảnh sát hoặc xe cấp cứu tới, chúng ta sẽ bị muộn bao lâu nào? Thời gian của mọi người, cô không thể lãng phí!”, anh ta nói từng câu từng chữ rất rõ ràng.

Lúc này cuối cùng tôi cũng hiểu rõ, nhưng không nói nổi thành lời. Tôi thấy rõ mình đang run lập cập, có cái gì đó rất lạnh, xọc thẳng vào xương cốt tôi.

Tôi cầu cứu nhìn mấy chục hành khách khác đang vây quanh, nhưng họ đều quay đi, hoặc nhìn tôi bằng ánh mắt lạ lẫm. Mấy người đi lên xe, bắt đầu đập cửa sổ, oán trách rất lớn tiếng: “Xem cái đống chết tiệt kìa, mẹ kiếp, rốt cuộc còn phải mất bao lâu mới tới nơi đây. Thời gian là vàng bạc, là sinh mạng. Chúng ta không thể để lỡ được”.

Tôi hầu như không thể thở nổi.

Câu chuyện có ý nghĩa châm biếm nhất đang diễn ra trước mắt. Mấy người kia mồm nói thời gian là sinh mạng, nhưng không phải chúng ta vừa nhìn thấy một sinh mạng vừa ngã xuống ngay trước mắt sao? Tại sao chúng ta không thể gánh lấy trách nhiệm phải làm? Chí ít cũng phải tôn trọng một chút với ông hòa thượng già đáng thương chứ? Có lẽ còn cứu được ông ấy, chỉ cần chúng ta tranh thủ thời gian đưa ông ấy đi bệnh viện, ông ta có thể sống được… Đúng vậy, tất cả đều là có thể, nhưng lẽ nào chúng ta không nên vì một chút “có thể” đó để gắng hết sức mình?”.

Lúc này Đường Cương đứng sát tôi, đặt tay lên vai tôi như an ủi. Nước mắt tôi lại tuôn ra từng giọt lớn.

“Thế này nhé”, anh vỗ vỗ vai tôi, mãi hồi lâu mới cất tiếng, “Tôi và cô ở lại lo chuyện cho vị hòa thượng”.

Tôi ngạc nhiên ngẩng đầu lên. Qua hàng nước mắt, nhìn thấy một gương mặt cương nghị và lương thiện. “Dù sao, tôi cũng có thời gian”, anh ta nói bằng giọng bình thản, nhìn một lượt những người xung quanh.

Tôi quyết định tin vào trực giác của mình, như vậy thôi, cùng anh ta ở lại lo liệu chuyện hậu sự cho vị hòa thượng.

Lúc này đã là khoảng sáu giờ tối, chúng tôi ngồi bên đường chờ xe cấp cứu và xe cảnh sát tới. Đường chân trời phía Tây điểm ráng chiều, không gian dần biến thành màu xanh nhạt. Con đường trước mặt không ngớt xe qua lại, cuốn theo bụi bay mù mịt. Những con đường đã chạy qua đều là đường rải nhựa, nhưng tới khúc này đột nhiên lại biến thành đường đất xen lẫn đá vụn.

Theo cú điện thoại ban nãy, phải nửa giờ nữa, xe cảnh sát và xe cấp cứu mới tới nơi.

Gió thổi vù vù, cái rét chiều tối tháng năm vẫn buốt giá. Tôi không khỏi vài lần rùng mình vì lạnh. Áo khoác của tôi đã đắp lên ngực vị hòa thượng. Có lẽ nó không còn tác dụng với ông ta, nhưng tôi vẫn làm như vậy, bất chấp lời khuyên ban nãy của Đường Cương. Làm như vậy, về tâm ýtôi cũng phần nào được an ủi. Đường Cương đứng bên cạnh chú ý thấy tôi lạnh, không nói thêm câu nào, cởi luôn áo khoác của anh, khoác lên vai tôi. Tôi cũng không nói, chỉ lặng lẽ đón nhận lòng tốt của anh.

Rồi anh đi về phía sườn núi phía sau chúng tôi, đi một đoạn không xa thì dừng lại. Tôi chú ý thấy anh cúi xuống, nhặt nhạnh gì một lúc rồi quay lại, trong tay là một nắm cành cây khô.

Tôi lặng lẽ nhìn anh chụm củi thành một đống, lấy bật lửa ra đánh lửa. Không khí khô và gió lớn làm củi bùng lên rất nhanh. Ngọn lửa ấm áp nhảy nhót như đám thú con, hoạt bát tinh nghịch. Không khí nặng nề tang thương ban nãy trong chớp mắt đã tan biến.

“Ngồi xuống đi”, anh gọi, lấy tay chỉ một nơi khuất hướng gió.

Tôi dịch sang đó, lại nhìn thấy vị hòa thượng nằm bên cạnh. Nom ông rất gầy, nửa thân trên hoàn toàn lọt thỏm trong chiếc áo khoác trắng của tôi. Những vết máu trên mặt đã được tôi dùng khăn giấy ướt lau sạch. Mắt ông vẫn nhắm nghiền, bên miệng hình như vẫn đọng lại nụ cười mong manh. Cả gương mặt ông có sự tĩnh lặng và thanh bình như ru ngủ rất đặc biệt. Ánh mắt của tôi vừa chạm tới gương mặt ông đã thấy thật khó rời. Không rõ vì một nguyên nhân nào đó, phảng phất như từng gặp ông ở một nơi nào đó, ông khiến tôi có cảm giác thật gần gũi, rất tôn trọng. Trong lòng tôi tràn ngập một tình cảm rất lạ đối với ông.

Song những suy nghĩ vẩn vơ như ảo giác đó rất ngắn ngủi.

Vừa quay lại hiện thực, tôi vẫn là một đứa con gái tha hương ngồi bên đống lửa cùng một người lạ cùng chờ đợi. Và nằm bên cạnh chúng tôi là một hòa thượng cùng tương ngộ trong chuyến hành trình này bởi một hình thức rất bi kịch. Ba người lạ cùng tụ lại với nhau trong một lần gặp không may mắn, chỉ như vậy mà thôi.

Tôi nhỏm dậy, đi gần về phía hòa thượng, ngồi xuống bên ông. Chiếc tay nải ông đeo đã được mở ra khi giúp ông lau máu, phủ áo. Bên trong có một cuốn kinh thánh, một chiếc bát gỗ, một bộ cà sa sạch. Tất cả chỉ có vậy.

Theo Đường Cương nói: Ở Xuyên Tây, đặc biệt là nơi chúng tôi muốn tới có rất nhiều dân tộc Tạng sinh sống, những người thuộc tộc Hán như anh trở thành dân tộc thiểu số. Nơi có người tộc Tạng sinh sống rất tự nhiên có không ít chùa chiền và hòa thượng theo phật giáo Tây Tạng. Và giờ đây, chúng tôi hiện đang dừng ở ráp gianh vùng đó, hẳn vị hòa thường này cũng là hòa thượng nơi đó vừa đi xa về. Có thể ông đang trên đường đi hóa nguyện, cũng có thể đang vội về chùa. Không thể biết được tên tuổi và lai lịch của ông. Những hòa thượng lang thang như ông như thể cọng cỏ bay theo gió, trầm lặng, không được người ta chú y, nhưng tới đâu cũng bình lặng như vậy. Như thể bất cứ nơi nào đối với họ cũng xa lạ hoặc thân thiện như nhau, đâu đâu cũng là cảnh màn trời chiếu đất.

Chiếc xe đạp của vị hòa thượng vốn đã rất cũ kỹ. Sau khi bị đâm, nó hoàn toàn trở thành một đống phế thải, nằm cùng chủ nhân đang chảy máu, khiến người ta không nỡ nhìn.

Sờ tay vị hòa thượng lạnh như băng, nước mắt tôi lại tuôn ra. Tôi nghĩ bụng, ông già xa lạ trước mặt này đã chết thực rồi.

“Không biết có nên hỏi không?”. Một lúc sau, Đường Cương cất tiếng, phá vỡ không khí trĩu nặng, “Tôi cảm thấy hình như trước đây cô cũng từng gặp qua cảnh hôm nay”.

Tôi im lặng, đi tới bên con chó đang nằm nghỉ, thò tay khẽ vuốt ve đầu nó. Nó lập tức tỉnh giấc, thoắt một cái đã ngồi dậy, cảnh giác quan sát xung quanh. Sau khi xác định không có gì khác thường, nó mới trầm ngâm ngồi bên tôi, ngáp một cái rõ dài, rồi lại nằm bẹp xuống, gác đầu lên hai chân trước, nhưng mắt vẫn mở to. Tôi thấy nó nhìn vị hòa thượng rất lâu.

Tôi vuốt ve đầu nó, lấy mấy miếng bánh gạo nướng còn sót lại trong ba lô, đưa cho nó, rồi nói với Đường Cương, mắt vẫn không nhìn anh: “Đúng vậy, từng gặp phải”.

Mắt anh ta mở to: “Thật sao? Hẳn nào, tôi thấy lúc nãy nom cô rất xúc động. Hình như trong tim cô có cái gì đó vừa bị kích động”. Anh ta lại gật đầu, “Thì ra là vậy”.

Chương 10

HUYỆN THÀNH

Vừa tỉnh giấc đã tới Đan Ba. Lúc này đã hơn một giờ sáng.

Cả huyện tối om, đường xá chưa lắp bóng điện thật trống trải. Các tiệm hai bên đường vẫn đóng cửa. Nhà cửa cũng tối thui, chưa có ánh đèn. Dưới ánh sao xa xa, có thể nhìn thấy từng dãy núi nối nhau liên tiếp, bên tai vẳng tới vài tiếng chim đêm không rõ tên gì, không gian phả tới một cảm giác tha hương thật khó tả. Tôi chưa phản ứng kịp, cứ ngỡ đang ở nước ngoài. Nhớ tới Thượng Hải, lúc này chắc chắn đèn đóm đã rực rỡ, đường phố đã nhộn nhịp người qua lại.

Tôi định tìm một nhà nghỉ, nhưng Đường Cương kiên quyết bắt tôi về nhà anh. Anh nói để bạn bè phải đi ở trọ sẽ không phù hợp với lệ tiếp đón khách của người địa phương. Rõ ràng, anh đã coi tôi là bạn anh. Tôi không thể từ chối, nhận lời sẽ ở lại nhà anh đêm nay. Anh vui mừng đỡ ba lô của tôi, khoác lên vai mình, dắt tôi và con chó xuyên qua một con phố nhỏ tĩnh mịch, lại đi qua một đám cây đầy hoa trắng mà tôi cũng không biết tên, tới trước một căn nhà hai lầu có độc một cửa. Anh cười sung sướng, “Tới rồi”.

Đèn trong nhà đã bật, hiển nhiên đang đợi ông chủ về muộn. Chưa kịp gọi cửa, trong nhà đã vọng ra một loạt tiếng chó sủa ran, tiếp đó là cánh cửa kẹt mở, một phụ nữ hơn ba mươi tuổi dung mạo đoan trang xuất hiện. Trên đường đi, anh đã giới thiệu cho tôi về gia đình anh. Đây hẳn là Anh-vợ anh, người dân tộc Tạng. Gương mặt cô thanh tú, trắng ngần, trên người ăn vận rất giản dị. Nếu không nhìn kiểu tóc của dân tộc Tạng trên đầu cô, nom cô cũng không khác tôi là bao.

Sau lưng cô là một cậu bé chừng bốn, năm tuổi đang thập thò. Má cậu đỏ hây, mắt đen láy đảo qua đảo lại quan sát tôi và con chó. Bên cạnh cậu bé cũng có một con chó. Nó cũng đang quan sát Lộ Phong Thiền, như thể đang nhận ra đó là kẻ thù hay bạn hữu.

Đường Cương nói với vợ bằng tiếng địa phương. Cô ta vội vã mỉm cười, đỡ ba lô của tôi trong tay chồng, nhiệt tình đưa tôi vào nhà.

Trong phòng bày biện khá đơn giản nhưng rất sạch sẽ. Tôi nhìn thấy trước hình Phật Quan Âm là một cái khay đầy hoa quả và một lư hương nhỏ. Hương trong lư đã tắt, nhưng vẫn thoang thoảng mùi thơm rất dễ chịu.

Tôi được sắp xếp ở phòng khách trên tầng hai. Họ đã thay ga, gối mới, lại mang thêm một khăn mặt sạch và đôi dép lê. Lúc họ bận rộng dọn dẹp, cậu con trai mang một ly nước tới cho tôi. Tôi mỉm cười đón lấy, chắp hai tay lại cám ơn, rồi cúi người xuống ôm chầm lấy cậu bé. Cậu bé đỏ bừng mắt, cúi đầu xuống, tự tóm chặt lấy ngón tay mình. Tên cậu là Brazil. Ông ngoại cậu người dân tộc Tạng khi đặt tên cho cậu hẳn cũng không biết bên kia trái đất còn có một đất nước mang tên Brazil.

Cuối cùng, tôi và con chó lăn ra ngủ. Lộ Phong Thiền nhanh chóng phát ra tiếng răng nhai kèn kẹt, tiếng khịt mũi và tiếng chóp chép rất lạ đã thành thói quen như thể tiếng nhai lại các đồ ăn trong mơ. Một con chó có thể ngủ thiếp đi một cách bận rộn và nhiệt tình như vậy không khỏi khiến tôi ngưỡng mộ. Có được một con chó bầu bạn như vậy, dù có mất ngủ, tôi cũng thấy thỏa mãn.

Ngủ được một lúc, tôi lại bò dậy, mò mẫm tìm điện thoại trong bóng tối, kiểm tra xem có tin nhắn hoặc điện thoại nào gọi tới không.

Không hề có.

Tôi thở dài, ngẩng mặt lên trần nhà, ngần ngừ không biết có nên nhắn cho Triết một cái tin không. “Nhắn đi”, tiếng bố tôi đột nhiên vang lên. Tôi nhìn sang bên cạnh. Con chó đã tỉnh, đôi mắt nó tỏa ra thứ ánh sáng thật kì quái trong bóng tối.

“Bố! Tốt quá, con đang đợi bố giúp đỡ”, tôi vui sướng khi thấy bố tôi lại xuất hiện.

“Lần này, bố không thể ở lại quá lâu. Ngụy, bố chỉ muốn dặn con hai điều: khi sắp được gặp Triết, con càng phải cần bình tĩnh, tin nhắn gửi Triết phải đơn giản. Việc của vị hòa thượng già, con xử lí rất khéo, sau này con sẽ hiểu. Thôi ngủ đi, bố phải đi thăm một người bạn, sắp muộn rồi”. Nói xong, mọi thứ lại trở nên yên tĩnh như cũ.

Tôi thử gọi mấy câu: “Bố ơi”, nhưng không thấy tiếng trả lời. Tôi lại nhìn Lộ Phong Thiền bên giường. Nó lại lăn ra ngủ, có lẽ đang mơ tiếp giấc mơ dở dang bị bố tôi làm ngắt đoạn ban nãy.

Lúc nãy bố tôi nói đang vội đi gặp một người bạn, không biết có phải hẹn hò với một cô bạn ngọt ngào nào không nhỉ? Chắc hẳn thế giới của bố thú vị hơn so với những gì chúng tôi tưởng tượng rất nhiều. Tôi kinh ngạc thầm nghĩ, không khỏi lắc đầu và tự nhủ phải ghi nhớ lần sau hỏi bố về cuộc gặp với người bạn đó ra sao. Tôi tưởng tượng cảnh bố từ chỗ tôi vụt đi gặp bạn như một làn khói (hoặc như tốc độ ánh sáng nhỉ? Tôi cũng không rõ nữa), không khỏi cười thầm.

Hồi lâu, tôi cầm điện thoại lên, nhắn cho Triết bốn chữ vắn tắt như lời bố dặn: “Đã tới Đan Ba”. Bố nói rất đúng, càng mong gặp Triết bao nhiêu, càng phải giữ bình tĩnh bấy nhiêu. Không thể xảy ra sơ suất gì vào thời khắc quan trọng này. Lại liên tưởng tới tin nhắn chỉ có mấy chữ mà tôi nghi ngờ là Triết nhờ Ưu Ưu gửi hộ. Tôi càng cần phải khống chế mình, hết sức bình tâm.

Dù sao Triết cũng đã biết hành động của tôi. Thoắt một cái, tôi đầy tự tin. Tôi không tin anh không nhớ tôi, chưa biết chừng anh càng nôn nóng gặp mặt hơn tôi.

Nhưng thực lòng không muốn có điều gì bất ngờ xảy ra nữa. Trên chặng đường đi không cướp của thì gặp người chết, tuy tôi không ân hận về mọi chuyện đã xảy ra, nhưng thực tình thế là quá đủ.

Tôi cứ mơ màng nghĩ vẩn vơ như vậy, rồi lại nhanh chóng ngủ thiếp đi.

Hôm nay là ngày thứ mười Triết rời bỏ tôi. Tôi đã viết vào nhật kí như vậy.

Hôm nay trời nắng ráo, chim véo von như một khúc nhạc trầm bổng. Không khí tỏa mùi vừa ngọt vừa cay mà tôi chưa từng được ngửi qua. Nếu bạn ngửi kĩ, mỗi nơi quả thực đều có mùi khác nhau. Điều này có liên quan tới năng lượng của mỗi vùng miền, liên quan tới thời tiết và tấm lòng của người dân địa phương.

Lúc tỉnh giấc, trời vẫn còn sáng. Đây là giấc ngủ đầu tiên vừa sâu vừa thoải mái kể từ ngày rời Thượng Hải. Có lẽ do tôi quá mệt.

Lộ Phong Thiền cũng tỉnh giấc, đi lại thư thái trong phòng, không ngừng với hai chân trước lên cửa sổ, ngó ra ngoài. Khung cảnh mới mẻ đẹp đẽ khiến nó rất háo hức. Khi tôi tắm xong, đang đứng trước cửa sổ hóng gió chải đầu, nó hết liếm tay tôi lại chạy tới cùng tôi ngắm cảnh bên ngoài, một lúc sau lại lăn tròn trên thảm, hoặc chổng bốn chân lên trời như trẻ con nằm ngửa, lưỡi thè ra, mặt cười thật ngốc ngếch. Chưa từng thấy nó vui vẻ đến vậy. Tôi vô cùng cảm động.

Chăm chút lại chỗ da bị viêm, cho nó ăn chút đồ ăn thừa còn sót lại và thêm nước uống mới. Tôi cũng uống mấy ngụm nước lớn, hít một hơi sâu, chưa bao giờ thấy thoải mái như vậy. Dọn dẹp xong, tôi dắt chó ra khỏi phòng. Gian phòng kế bên cửa vẫn đóng chặt, chắc chắn chủ nhà vẫn đang ngủ.

Trên sàn trải một tấm thảm lông cừu được dệt thủ công rất dày. Chúng tôi rón rén đi xuống lầu. Khi đi qua bức tranh hình Quan Âm, tôi không khỏi bất giác ngắm nghía thật kĩ. Hình Quan Âm ở đây nom rất khác với những tượng Quan Âm mà tôi đã từng gặp trước đây, màu sắc tô rất đậm, phía sau có mấy vị thần đặc trưng của Tây Tạng. Cái lư hương hình như cũng được làm thủ công, mùi hương đốt bên trong tôi cũng chưa từng được ngửi qua, mang đậm hương liệu vốn có ở đây.

Tôi chắp tay, khom lưng lạy một cái rồi dắt Lộ Phong Thiền ra cửa. Trước khi đi, tôi nhìn kĩ tên phố và số nhà của Đường Cương và ghi lại vào một mảnh giấy, cất vào túi áo.

Con phố bên ngoài khá nhỏ nhưng sạch sẽ. Nhà cửa hai bên cũng thấp, vuông vắn, không khác nào các huyện khác của Trung Quốc. Chỉ có màu sắc trên các khung cửa sổ và mái ngói là còn mang hơi hướng đặc trưng dân tộc thiểu số của vùng. Đan Ba thực sự rất nhỏ, mặt trước giáp sông, mặt sau giáp núi. Cả huyện là một mảnh đất dài nhỏ hẹp kẹp ở giữa. Tôi và chó nhanh chóng đi qua chiếc cầu, bên trên ghi dòng chữ “Chiếc cầu thứ nhất”. Còn có bia kỷ niệm hồng quân, có lẽ thời hồng quân chinh chiến đã đi qua đây.

Người trên phố rất ít, nhưng lại khá nhiều người đứng trên cầu, trong đó một nửa là khách du lịch ngoại tỉnh. Lộ Phong Thiền giành lao lên trước, tôi vội chạy theo sau ngó theo. Thì ra một chiếc ô tô màu xanh đang rơi giữa sông. Nước cũng không sâu lắm, một chiếc xe cẩu trên bờ đang ra sức kéo chiếc xe này lên.

Tôi dắt Lộ Phong Thiền đi ra hướng khác, bước vào một con đường nom rộng rãi, bằng phẳng như đường chính của huyện. Tại đây, tôi nhìn thấy nhà nghỉ, tiệm ăn, nhà hàng và một tiệm net. Tôi bước vào tiệm net, định check mail, nhưng được thông báo ở đây chỉ chơi điện tử, không lên mạng được.

Tôi lại hỏi chỗ nào có thể kiểm tra được email. Ông chủ tiệm có lẽ ngủ chưa đã giấc, chớp chớp đôi mắt đỏ quạch, nói bằng giọng rất khó chịu: các tiệm net ở Đan Ba chỉ chơi điện tử, không thể check mail.

Thoạt đầu, tôi không tin, nhưng thử tới một tiệm net khác cũng thấy kết quả như vậy. Thật quái lạ, khách du lịch ở đây ngày càng nhiều. Lẽ nào họ chỉ có hứng thú chơi điện tử, không cần gửi email?

Ra khỏi tiệm net, tôi quay lại đường lớn, đi lên trước một đoạn, tới một ngã tư, chó đột nhiên ngừng lại không chịu đi. Nó cứ đứng im một chỗ, ngọ ngoạy mũi không yên, rồi đột ngột vùng lên, chạy về phía một con đường nhỏ bên cạnh. Tôi cuống cả lên, vội vã chạy theo sau.

Loáng một cái, nó dừng lại, đợi khi tôi đuổi kịp tới nơi, đã phát hiện thấy miệng nó cắn một vật gì trăng trắng. Tim tôi đập thình thịch, như nhận ra được điều gì. Tôi giơ tay ra đón lấy, chìa trước mặt xem kĩ. Đó là loại khăn mùi xoa bằng loại vải mà giờ rất hiếm người dùng. Tôi cũng học cách của chó, cho khăn dưới mũi ngửi, có mùi thơm của da thịt đàn ông thoang thoảng.

Một nỗi xúc động khôn xiết ùa tới, khiến tôi không khỏi úp mặt lên tấm khăn. Đó là mùi của Triết. Đó là khăn tay của Triết. Khi anh ở Thượng Hải vẫn có thói quen dùng mùi xoa, chí ít cũng là loại khăn tay màu trắng bằng vải bông nguyên chất như vậy. Anh thường để thò một đầu khăn tay sạch sẽ ra ngoài túi áo, nhưng không bao giờ dùng khăn để lau mũi, mà dùng để lau mồ hôi. Anh hơi bị ngứa da, nên một khăn mùi xoa như vậy đối với anh giống như một tấm thảm an toàn, đi đâu cũng thấy dễ chịu.

Tôi quỳ xuống, xúc động vuốt ve đầu con chó, “Mày giỏi quá, Lộ Phong Thiền”. Nó thè lưỡi ra, gừ gừ mấy tiếng trong cổ họng. Đó là cách nó biểu hiện tình cảm.

“Nào! Lộ, xem còn tìm được những gì!”. Tôi hối hả vỗ lên đầu nó, đồng thời dáo dác ngó xung quanh. Đây là một con phố yên tĩnh, phần lớn hai bên là nhà dân, xen vào giữa là vài tiệm trà, còn có một tiệm chuyên bán đồ trang sức bằng bạc của dân tộc Tạng. Chúng tôi men theo con đường đó đi tới tận đầu đường nhưng không thu hoạch được gì.

Tôi vò chiếc khăn tay, sững sờ đứng đó hồi lâu.

Rõ ràng Triết đã về Đan Ba, chí ít cũng là một tin hay, chỉ có điều anh chưa từng liên hệ với tôi. Nhưng theo trực giác của tôi, tôi tin rằng anh đã nhận được mấy tin nhắn tôi gửi từ trước.

Tôi quyết định không nghĩ ngợi nhiều. Dù sao tôi cũng đã theo anh đến Đan Ba, cách thời khắc gặp nhau cũng không bao xa nữa. Nhớ lại lời bố tôi: Phải bình tĩnh!

Khi đi qua một tiệm ăn, tôi mới phát hiện bụng mình đói meo, liền cùng chó bước vào.

Thức ăn rất đơn giản, chỉ có hai loại, đồ ăn kiểu Hán và đồ ăn kiểu Tạng. Đồ ăn kiểu Hán có cháo, màn thầu, trứng gà, ba đồng một suất. Đồ ăn kiểu Tạng có trà dầu và Đan Ba (hỏi chủ tiệm mới biết đó là một loại mỳ xào nóng), ba đồng một suất.

Tuy tôi rất tò mò về trà dầu và mỳ Đan Ba đã nức tiếng từ lâu, nhưng bây giờ còn sớm quá, dạ dày tôi có thể không chịu nổi những đồ ăn lạ. Tôi gọi một suất đồ ăn Hán.

Đang ăn, điện thoại đột ngột réo vang, tôi vội vã lục tìm trong túi xách. Lúc cầm điện thoại, tôi thấy hiển thị số gọi rất lạ. Theo kinh nghiệm, đây ắt là số từ nước ngoài gọi về qua mạng Internet hoặc điện thoại thẻ.

Ngần ngừ vài giây, tôi vẫn nghe.

Bên kia đầu dây vẳng tới giọng một phụ nữ nói tiếng Thượng Hải, “Ngụy, con có khỏe không?”.

Đầu tôi như vỡ tung, chỉ nghe thấy tiếng vo vo như lũ ong đang bay loạn xạ trong tai.

Tôi đã nhận ra giọng bà. Chính là bà, người mẹ tám năm trời chưa từng liên lạc. Tại sao khi tôi đang ăn sáng tại một tiệm ăn cách Thượng Hải hai ngàn cây số, bà lại đột nhiên xuất hiện?

Im lặng hồi lâu, tôi chợt nhớ tới lời tiên đoán của bố tôi hôm trước: “Chẳng mấy chốc, mẹ con sẽ gọi điện về”. Xem ra ông nói rất đúng. Tôi hít một hơi sâu, đáp khô khốc: “Vẫn khỏe”.

Giọng bà nghe run rẩy: “Ngụy, lâu rồi không có tin tức của con. Con sống ra sao?”.

“Chí ít… con vẫn sống”. Tôi đã hồi phục từ trong kinh ngạc, cũng khống chế được giọng nói. Bà nói rất đúng, từ sau khi tốt nghiệp đại học năm 1998, có được kinh tế độc lập, tôi từ chối số tiền viện trợ của bà hàng tháng, cắt đứt mọi liên lạc với bà.

Lúc này tôi đột nhiên nhận thức được rằng bà có thể liên lạc được với tôi quả là điều bất thường. Vì tôi chưa bao giờ cho bà số điện thoại và cách liên hệ với tôi.

“Sao mẹ có được số điện thoại của con?”, tôi hỏi, cố dùng giọng bình tĩnh. Tôi không muốn khi nói chuyện với bà lộ vẻ căm ghét hoặc kinh ngạc. Có lúc không biểu lộ tình cảm cũng là thứ vũ khí tốt nhất để bảo vệ mình không bị thương.

“Hy vọng con không tức giận”, giọng mẹ vẫn vậy, dịu dàng, đầy nữ tính, chỉ có điều nghe lúc này có vẻ bất an, “Tình cờ mẹ đọc được một số chuyên đề về Thượng Hải trên một tạp chí du lịch bên này, trong đó có giới thiệu về con và tiệm thời trang của con, ghi cả số điện thoại của tiệm. Mẹ thử gọi, gặp một cô họ Lí nói rằng con không ở Thượng Hải, hỏi mẹ có việc gì gấp không. Mẹ nói là mẹ của con…”. Nói đến đây, bà ngừng lại, như thể xác nhận xem những câu nói của bà có làm tôi tức giận hay không.

Thì ra, dì Lí ở tiệm đã cho bà số điện thoại của tôi. Tuy chưa bao giờ mọi người được nghe tôi kể về mẹ tôi, nhưng hầu hết đầu biết tôi có một bà mẹ sống bên Austria.

“Có chuyện gì vậy?”, giọng tôi vẫn lạnh tanh, không mang sắc thái tình cảm.

“Là như thế này”, lúc này giọng bà hơi gấp gáp hơn, “Một tháng nữa, mẹ sẽ về Thượng Hải vài ngày. Hơn mười năm chưa về…”. Nói tới đây, bà ngừng lại, như chất chứa nhiều điều đau buồn. Xem ra, đúng là bà đã rời đó được hơn mười năm rồi.

“Ngoài ra, mẹ cũng muốn cho con biết”, ngần ngừ một lúc, bà nói tiếp, “Mẹ đang làm thủ tục li dị với Alison”.

Alison là ông chồng Austria của bà. Tôi đã từng gặp ông ta một lần tại Thượng Hải.

Đó là năm tôi mười bảy tuổi, bố tôi vừa chết chưa đầy một năm. Một hôm, mẹ đưa tôi tới nhà hàng dùng đồ ăn Tây có tên “Nhà Đỏ” trên đường Thiểm Tây Nam Lộ. Đó là tiệm ăn kiểu Pháp đầu tiên ở Thượng Hải trước thập niên 70. Sau giải phóng, qua đận “cách mạng văn hóa” tới cuối thập niên 90 của thế kỉ trước, nơi đây luôn là nơi người Thượng Hải thể nghiệm cuộc sống kiểu châu Âu thời thượng.

Hôm đó, mẹ tôi đặc biệt trang điểm kĩ. Còn nhớ hôm đó mẹ mất hai tiếng ở tiệm làm đầu gần nhà, làm thành kiểu tóc lượn sóng lớn, lại vuốt thêm dầu, nom mềm mại và bóng sáng. Mẹ mặc chiếc áo dài Thượng Hải tự tay may, vải bông thêu hoa bằng tơ thật màu xanh lam nước biển, từ ngực áo đến eo được thắt bằng những cái cúc hình hoa cúc. Mẹ biết may loại áo này từ lâu, chỉ vì cuộc sống gia đình luôn đơn giản bình dị, thường nhật không có cơ hội để mặc, thế nên từ trước tới giờ hầu như mẹ chưa từng mặc loại trang phục long trọng và đẹp đến vậy. Hôm đó, tôi được mẹ yêu cầu gội đầu, rồi buộc tóc bằng một sợi dây tơ đỏ, mặc váy áo đẹp nhất.

Đi được nửa đường, tôi vứt sợi dây buồn cười đó ra, không hề muốn đi ăn bữa tối này, cũng không muốn gặp ông già ngoại quốc đó. Trước đó mẹ kể, mẹ đọc được một quảng cáo tìm bạn đời trên một tờ báo Thượng Hải, liền viết thư và gửi ảnh cho ông ta. Lần này, ông ta tới Thượng Hải để gặp mấy người trong số những ứng cử viên đó. Yêu cầu của ông ta là người nào có con cái nhất định phải mang con tới cùng gặp mặt.

Theo bản năng, tôi nhận thấy được vẻ kiêu ngạo, thực tế và thông minh của người đàn ông ngoại quốc này.

Quả nhiên không sai, bữa tối trôi qua rất ngượng ngập. Ông ta nom không xấu, thậm chí có thể nói còn có chất quí tộc, có thể nói tiếng Trung khá lưu loát. Điều này khiến tôi thật bất ngờ. Nhưng đôi mắt màu xám xanh của ông ta khi nhìn người khác luôn có kiểu cười nhạo và khó tin cậy, như thể ông ta đang hàm chứa điều gì. Còn mẹ tôi luôn cúi gằm mặt với nụ cười tự bi. Hầu như tôi không ăn tí gì, trên bàn bầy ê hề súp hành, rượu vang đỏ, thịt bò bít tết… Nghe nói đều là món nổi tiếng của tiệm này. Nhưng trong mắt tôi, chúng như thể món ban thưởng của lão già nước ngoài xa lạ cho hai mẹ con đáng thương.

Nghe nói ông ta buôn bán đồ cổ giữa Trung Quốc và châu Âu, kinh doanh rất lớn, đồng thời cũng là một nhà Hán học, luôn có hứng thứ đối với mọi thứ liên quan tới truyền thống Trung Quốc. Chiếc áo dài Thượng Hải mẹ mặc hôm đó hiển nhiên đánh đúng vào tâm lí của ông. Mẹ tôi năm đó ba mươi tám tuổi như một bông hoa xuân sắp nở, tràn trề sắc hoa, xem ra còn giàu sức quyến rũ và nữ tính hơn hồi bố tôi còn sống.

Tôi thường nghĩ, có lẽ sau khi bố chết, mẹ được giải thoát. Đối với bất kì người phụ nữ nào, mất đi một người chồng có ý nghĩa như cánh cửa vĩnh viễn bị đóng chặt, nhưng đối với một dạng phụ nữ khác lại có nghĩa là một cánh cửa khác được mở ra. Mẹ tôi chính là loại phụ nữ này. Bà dành hầu hết thời gian vào việc tìm kiếm quảng cáo chọn bạn đời trên báo chí và viết thư đáp lại. Thư từ và ảnh gửi đi nhiều như hoa tuyết rơi, mang theo tất cả hy vọng và dũng khí của mẹ tôi về cuộc sống mới.

Tối đó, sau khi bữa tối kết thúc, ông ta lấy xe đưa tôi về nhà, nhưng mẹ tôi không xuống xe, mà cùng đi về khách sạn của ông ta, mãi tới sáng sớm hôm sau mới về.

Kết quả của chuyện này là: lão già lắm tiền Alison người Austria đó sau cuộc gặp mặt lần đầu tiên đã quyết định lấy mẹ tôi. Nửa tháng sau, ông ta gửi mọi thủ tục có liên quan để mẹ tôi tới Lãnh sự quán Austria tại Thượng Hải xin visa.

Nhưng khi mẹ tôi đề nghị đưa tôi cùng đi, ông ta đã cự tuyệt.

Mẹ tôi day dứt đấu tranh giữa tôi và ông chồng tương lai hồi lâu, cuối cùng ngả về phía ông ta.

Tôi đã bị mẹ vứt bỏ như vậy.

Chỉ có điều mẹ đi cũng không dễ dàng. Một phần là do ông bà tôi rất tức giận, giấu luôn hộ khẩu của mẹ, ngăn không cho mẹ làm hộ chiếu và visa. Một phần do quan hệ giữa hai mẹ con nhanh chóng lạnh nhạt dần, mãi tới tận điểm rơi cuối cùng. Cũng thời gian này, bạn bè, người thân và hàng xóm xung quanh đều nhìn bà bằng ánh mắt rất cố y. Chỉ trong một đêm, mẹ bị khoác tiếng “đàn bà hư hỏng”.

Trong điện thoại là một cơn trĩu nặng kéo dài.

Mọi chuyện xảy ra trước đây như những mảnh vụn đột ngột rơi xuống mặt chúng tôi bởi một cơn gió lốc, không có chỗ để trốn, cũng không thể né tránh mãi, dù cho tôi đã né tránh suốt tám năm qua. Một đầu dây điện thoại ở Trung Quốc, một đầu dây điện thoại ở Austria. Giữa chúng cách xa nghìn trùng, cách cả ngày và đêm, cùng vô số giấc mơ bị vỡ nát và những kí ức bị lãng quên. Chúng đã quá lâu, quá xa vời. Mẹ và tôi như hai đỉnh núi đối diện nhau lặng ngắt, cũng xuất hiện quá đột ngột. Mẹ đang li hôn, sắp trở về Thượng Hải một tháng nữa. Tôi không được chuẩn bị trước về những thứ này.

Ở đầu dây bên kia, mẹ ho một tiếng, phá vỡ sự im lặng như băng. Rồi bà khẽ hỏi tôi: “Ngụy, sau khi mẹ về Thượng Hải, con có thời gian gặp mẹ không?”.

Tôi sững sờ ôm ống nghe, nghĩ một lúc rồi trả lời không hào hứng cũng không lạnh nhạt: “Tới lúc đó rồi tính”.

Câu trả lời của tôi hình như không làm mẹ thất vọng. Trái lại, mẹ còn nói bằng giọng khá cảm kích: “Được, được, mẹ biết con bận. Mẹ tới Thượng Hải sẽ liên lạc với con nhé?”.

Tôi không nói gì, dập máy.

Mãi một lúc sau, tôi mới bình tâm trở lại. Màn thầu trong đĩa và cháo trong bát trước mặt đã lạnh. Tôi cố ép mình húp hết bát cháo lạnh ngắt. Hồi nhỏ, cứ mùng một đầu năm, món cháo bát bửu bố nấu là món tôi yêu thích nhất. Húp cháo xong, tôi vục mặt xuống liếm sạch sẽ quanh miệng bát. Chỉ có điều bát cháo này trở nên nhạt nhẽo vô vị bởi cuộc điện thoại vừa rồi.

Tôi đứng dậy trả tiền, kêu chó cùng ra khỏi quán, đi về phía nhà của Đường Cương.

Hôm nay là cuối tuần nên cả nhà Đường Cương đều ở nhà. Khi chúng tôi đi vào nhà, họ đang chơi trò lật giấy ở phòng khách tại lầu một. Nhìn thấy chúng tôi, họ đứng dậy đón.

“Ngủ thế nào?”, Đường Cương cười vui vẻ. “Ăn tí gì đã nhé, hẳn cô đói lắm rồi”, Anh-vợ Đường Cương- cũng mỉm cười với tôi, nói xong liền đi vào bếp. “Không cần đâu”, tôi vội nói, “Tôi vừa ăn ở ngoài rồi”.

“Vậy uống trà nhé”, Đường Cương hỏi. Anh đã bê tới một tách trà đỏ, bên trong đã đổ ít mật ong. Tôi cám ơn nhận lấy, rồi ngồi xuống, hỏi Đường Cương cách tới “Đại Trại Thôn”.

“Đại Trại Thôn?”, Đường Cương nghĩ một lúc, “Không biết có phải là thôn ở bên Bố Liệu Hương không?”.

“Tôi cũng không rõ”, tôi đáp mơ hồ, “Chỉ biết chỗ đó gọi là Đại Trại Thôn. Ở Đan Ba chỉ có một nơi có tên gọi như vậy chứ?”.

“Cô đoán đúng đấy, chỉ có một nơi đó thôi. Tôi biết ở nơi nào trên huyện có thể ngồi xe xuống chỗ đó, nhưng không biết rõ xe chạy lúc mấy giờ và mỗi ngày có mấy chuyến xe”, anh ta đáp. Nghĩ hồi lâu, anh lại nói thêm: “Không sao, nói chung có thể thuê xe tới đó. Giờ đây khách du lịch tới Đan Ba ngày càng nhiều. Nhiều người có xe cũng làm thêm kinh doanh cho thuê xe”.

“Tốt quá!”, tôi vỗ tay, mỉm cười.

Đường Cương tò mò nhìn tôi, hồi lâu mới hỏi: “Cô Ngụy này, có thể hỏi cô tới vùng xa xôi hẻo lánh như Đại Trại Thôn làm gì không?”.

“Tới thăm bạn trai tôi”, tôi không muốn giấu diếm anh ta nữa.

Anh ta lộ rõ vẻ ngạc nhiên, “Thì ra là vậy, còn nhớ lúc trên xe, cô có nói bạn trai cô là người Đan Ba”.

Rồi anh ta cau mày, cúi đầu như gắng sức nghĩ điều gì, đột nhiên anh ta ngẩng phắt đầu dậy, hỏi tôi: “Có phải bạn trai cô tên là Phương Triết?”.

Tôi kinh ngạc tròn mắt, không thốt nổi ra câu nào.

“Tôi đoán chắc đúng vậy”, anh ta cười đắc y. Tôi nhớ lại lúc trên xe, anh ta từng kể hơn mười năm qua luôn đi thu mua nguyên liệu thảo dược ở các vùng thôn ở Đan Ba nên hầu như quen biết hết mọi người trong vùng.

Chỉ có điều không ngờ lại trùng hợp như vậy.

“Anh quen anh ấy sao?”, hồi lâu sau tôi hỏi lại, coi như thừa nhận.

“Cũng năm, sáu năm nay không gặp rồi. Nhưng tôi khá thân quen với bố mẹ anh ấy. Họ là hộ người Hán duy nhất ở đó, sao lại không biết được cơ chứ?”. Từ khẩu khí của Đường Cương, hình như quan hệ giữa anh ta với bố mẹ của Triết không phải chỉ là mối quan hệ thông thường.

“Tôi có thể dẫn cô tới nơi cô muốn đến”, anh nói. 

Chương 11

TỚI NƠI

Xe đi trên đường núi quanh co, xóc đến thảm hại, như một chiếc thuyền nhỏ dập dềnh trên mặt sóng. Bầu trời xanh như ngọc, từng cụm mây trắng như những bầu ngực lớn đè xuống đầu chúng tôi. Tất cả đều hùng tráng, bát ngát, mang vẻ đẹp xao lòng, chúng tôi đã tới một thế giới khác. Không khí bắt đầu mỏng dần. Nơi chúng tôi cần đến cách mực nước biển hơn hai nghìn mét, mang một số đặc trưng của cao nguyên.

Tôi không nhớ rõ tâm trạng ngồi xe cùng Triết về thăm bố mẹ anh lần trước ra sao. Ngay cả cảnh vật xung quanh và con người ở đó, ấn tượng trong tôi cũng rất mờ nhạt. Tôi chỉ nhớ bị phản ứng khí hậu cao nguyên khiến đầu đau nhức và chóng mặt vô cùng. Nhưng lúc này, chúng tôi trên xe đi qua những ruộng lúa mạch và dòng sông, có những khu dân cư lấp ló trong đám hoa lê và cây đào. Trong mắt tôi, những cảnh đẹp như đồng thoại hầu như luôn ẩn chứa một nguy cơ gì đó, không thể nói rõ là tại sao. Có lẽ do tôi bị phản ứng vì khí hậu cao nguyên, cũng có thể vì cảm giác bồn chồn bất an khi sắp được gặp Triết.

Đường Cương ngồi bên cứ bắt tôi uống nhiều nước, lại rút một quả táo trong túi ra đưa cho tôi, nói là nước và hoa quả có tác dụng giúp tôi tránh được phản ứng cao nguyên. Tôi miễn cưỡng uống vài ngụm nước, nhìn Lộ Phong Thiền. Hình như nó không có vẻ gì khó chịu, chỉ ngoác mồm thè lưỡi ra, ngó ra bên ngoài qua cánh cửa sổ lắc lư không ngớt. Đối với một con chó sống lâu ở thành phố lớn, cảnh vật quanh đây đầy cảm giác mới mẻ. Tôi có thể tưởng tượng vậy.

Tôi ôm chiếc ba lô, ngồi co rúm một góc. Đó là chiếc xe nhỏ cũng khá mới. Do lỡ chuyến xe khách, chúng tôi đành vội vã thuê với giá năm mươi đồng. Thoạt đầu Đường Cương chê đắt, định mặc cả, tôi phải ngăn lại. Mức giá này nếu so với tình hình Thượng Hải vẫn là rẻ chán, không cần phải cò kè với lái xe. Trong chuyến du hành rời Thượng Hải, vô hình chung, tôi đang từng bước tiếp nhận việc giáo dục tiền bạc. Càng đi về phía Tây, tôi càng cảm thấy cuộc sống của tôi ở Thượng Hải quá sung túc, đầy ắp những thứ hư danh không cần thiết. Tiền bạc ở những thành phố lớn như Thượng Hải không chỉ đơn thuần là tiền, mà càng là một phương tiện thể hiện cá nhân. Tiền càng nhiều, thể hiện càng nhiều, thậm chí còn vượt qua cả chính con người thật của mình.

Ở khu núi phía Tây, cuộc sống đơn giản càng khiến bạn đột nhiên phát hiện ra chính mình một cách đơn giản. Rất nhiều khi đơn giản lại chính là sự thật. Đi du lịch từ Đông sang Tây, thực ra là một quá trình vứt bỏ những thứ rắc rối, quay về những thứ thuần khiết, đơn giản.

Càng gần tới nơi, tim tôi càng đập mạnh. Dù Đường Cương nói khi bị phản ứng cao nguyên, tốt nhất là hạn chế nói chuyện, nhưng tôi vẫn không nhịn được xin anh kể những chuyện anh biết về Triết hồi nhỏ, vì Triết rất hiếm khi kể những chuyện đó. “Đều là chuyện cũ ấy mà. Giờ đây Triết thay đổi rất nhiều”, anh nói. Tôi cho anh xem tấm hình chụp chung giữa tôi và Triết trong căn hộ ở Thượng Hải.

“Phương Triết là người thông minh nhất mà tôi từng gặp”, Đường Cương mở miệng đã khen ngợi, “Anh ấy ít hơn tôi tám tuổi, nhưng trưởng thành rất sớm, nỗ lực học tập, rất mạnh mẽ. Bố mẹ anh ấy kể năm mới tám, chín tuổi, anh ấy đã nói nhất định sẽ có một ngày đi ra khỏi vùng núi này, tới những nơi rất xa. Hỏi rốt cuộc muốn đi đâu, anh ấy không nói, chỉ nói là tới vùng có nhiều nhà, nhiều người. Hỏi anh ấy rốt cuộc nhiều bao nhiêu mới được coi là nhiều, anh ấy nói phải nhiều như sao trên trời”.

Kể tới đây, Đường Cương không nhịn nổi cười, cuối cùng đưa ra một tổng kết: “Một đứa trẻ mới tám, chín tuổi đã có thể nói ra những câu như vậy, có thể thấy rõ rất khác người. Sự nghiệp mà anh ấy lập nên ngày nay và cuộc sống giờ đây cũng hoàn toàn chứng minh được câu nói hơn hai mươi năm trước của anh ấy”.

Tôi cũng cười, nhưng vừa cười đã thấy ngực nặng trĩu, đầu đau thắt, không khỏi cau mày. Đường Cương vội đỡ tôi, “Nghỉ ngơi đi, đừng nói nữa”. Tôi rút từ trong túi ra một lọ thuốc “Hồng Cảnh Thiên” mua ở Đan Ba trước khi khởi hành, nghe nói đây là thuốc chữa phản ứng cao nguyên, liền ngậm một viên. Rồi tôi nhắm mắt, mơ màng thiếp đi bên cạnh Lộ Phong Thiền.

Tôi mơ một giấc mơ khá giống thật: Bố tôi dắt tay tôi đi trên con đường núi quanh co, bên đường nở đầy hoa dại li ti màu vàng. Bố tôi ngồi thụp xuống, chỉ vào một bông hoa nhỏ, nói: “Đoạn Dương Thảo đấy”. Rồi ông bắt tôi lặp lại từ đó, ghi nhớ hình dáng loài hoa đó. Ông nói loài hoa này tiêu biểu cho tâm trạng của ông vừa rời bỏ thế giới này. Khi nói tới đây, cả ông và tôi đều thấy buồn.

Rồi trời đột nhiên đổ mưa, tôi lạnh phát run. Bố tôi cởi áo khoác ngoài cho tôi mặc, ôm lấy tôi và nói: “Đừng sợ, có bố ở đây”. Thoắt một cái, tôi thấy một luồng ấm chạy qua tim, rồi bố hứa với tôi, “Ngụy, bố sẽ mãi mãi ở bên con”. Tôi mỉm cười gật đầu.

Đột nhiên phía trước có hai người đi tới, một nam một nữ. Lúc lại gần, tôi mới nhận ra là Triết và mẹ tôi. Tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên, nhưng dường như họ không thấy tôi, như thể đã biết trước chỉ đi lướt qua tôi mà thôi.

Tôi còn nhớ rất rõ, Triết đi sang bên trái tôi, mẹ đi sang bên phải tôi. Tôi giơ hai tay ra định giữ họ lại nhưng không được.

Tôi khóc ầm lên, lúc này lại nghe thấy tiếng bố: “Đừng khóc, con không mất họ đâu”.

Tôi giật mình tỉnh giấc, mở to mắt, mấy giây sau mới nhận ra gương mặt đen nhẻm của Đường Cương trước mặt. “Mười phút nữa sẽ tới”, anh thông báo.

Tôi vùng ngồi thẳng dậy, nhìn ra ngoài cửa xe. Lúc này, xe chúng tôi đã tới đường lớn trên núi. Nhìn sang bên trái là rặng núi xanh rì, nhìn sang bên phải là một dãy ruộng bậc thang hẹp. Phía dưới là một dòng sông mà Đường Cương vừa gọi là “sông Cách Thập Trát”.

Ngó nghiêng bốn phía xong, tôi lấy lại tinh thần, đột nhiên ý thức được rằng thời gian không còn lâu nữa, nhưng tôi chưa chuẩn bị được gì, liền lập tức thấy căng thẳng. Tôi rút điện thoại từ trong túi ra, cũng có tín hiệu có sóng, nhưng không thấy tin nhắn hoặc nhận được cuộc điện thoại nào. Trước khi lên xe ở huyện, tôi đã nhắn cho anh một tin vắn vắt: “Ba tiếng nữa gặp ở Đại Trại Thôn”, hy vọng anh đã nhận được. Mà cũng không cần biết anh đã nhận được chưa, lần này tôi không để ý đến những thứ khác nữa, chỉ cầm gương đánh lại son phấn trên chiếc xe vẫn đảo như lạc rang.

Tuy chỉ có mấy ngày ngắn ngủi, nhưng tôi trong gương đã đen đi khá nhiều, mắt bị quầng thâm mờ vì liên tục thiếu ngủ, tóc nom thô ráp và khô vì bôn ba hết ngày này sang ngày khác. Nhìn thấy bóng mình, tôi lại nhớ tới người ta miêu tả dung nhan tiều tụy cũng những thiếu phụ cổ đại mòn mỏi chờ chồng từ chiến trận trở về, giờ đây thấy rất hợp với hoàn cảnh của tôi.

Nghĩ tới đây, tôi đóng sập gương lại, lòng lại trào lên một cảm giác thật khó nói, vừa đau khổ, vừa ngọt ngào. Tôi cũng không rõ đó là “sự ngọt ngào trong cay đắng” hay là “nỗi đau đớn trong mật ngọt”?

Chợt nhớ tới giấc mơ ban nãy, lại nhìn con đường núi đang đi, chợt nhận ra đúng là con đường núi mà tôi và bố tôi vừa đi trong mơ. Bên cạnh đường còn có những vạt hoa dại màu vàng nhạt giống hệt trong giấc mơ. Tôi chỉ đám hoa đó cho Đường Cương, hỏi chúng tên gì, anh đáp, “Đoạn Dương Thảo”.

Tôi sững người, đúng là cái tên mà bố tôi đã nói trong giấc mơ. Tôi còn nhớ trong mơ, bố bắt tôi lặp lại ba từ này. Đường Cương nói, nghe kể lại nếu cừu ăn loại hoa cỏ này, ruột sẽ đứt thành từng khúc. Tôi chìm đắm trong lời giải thích của anh, hoảng hốt giữa mơ và thực được lặp lại. Giấc mơ đó phải chăng được bố tôi gửi gắm vì không thể thông qua con chó nói chuyện với tôi được. Những tình tiết trong mơ phảng phất như sinh động trước mắt, nhất là tình cảm đau thương cách biệt giữa bố con tôi do cái chết chia lìa, còn có cảnh Triết và mẹ tôi cùng đi lướt qua tôi, khiến tôi đau đớn khóc ròng.

Nhớ tới cảnh sau, tôi không khỏi bị một nỗi khiếp sợ vô danh đè nặng lấy. Cũng chính lúc đó, tiếng phanh xe thắng két và xe bị dừng đột ngột. Tôi thấy toàn thân đau nhức không chịu nổi.

Đường Cương nhảy xuống xe trước, vặn lưng, đá chân, rồi rút ví ra định gửi tiền cho lái xe. Lúc này, tôi mới phản ứng kịp thời, vội vã giành lấy, rút năm mười đồng từ ví ra, đưa cho bác tài và cám ơn. Bác tài cũng không nói nhiều, đợi tôi và chó xuống hẳn xe, liền đánh xe vòng lại. Chiếc xe nhanh chóng chạy biến như một làn khói.

Dứt khỏi đám bụi mù cuốn theo chiếc xe, tôi quay lại, tự nhiên người cứ đờ ra như toàn thân bị niệm chú. Đứng trước ngôi nhà mới, to sừng sững là người mà tôi ngày đêm nhung nhớ-Triết.

Chiếc ba lô trong tay đã rơi phịch xuống đất, môi run lẩy bẩy, nói không ra nổi một chữ, nước mắt tuy bị kìm mãi nhưng vẫn tuôn ròng ròng như những viên trân châu bị đứt dây, sau cơn khiếp hãi, thi nhau tuôn xuống.

Qua làn nước mắt, tôi thấy Triết đột ngột sải từng bước lớn về phía tôi. Con chó nãy giờ vẫn im lặng đứng sát bên tôi như một vệ sĩ trung thành nhất. Thấy Triết đi về phía tôi, nó lập tức sủa lên một tràng dài hoan hỉ, rối rít tít mù như phát điên, không còn nhớ ra người đàn ông trước mặt từng là ân nhân cứu mạng của nó, và cũng chính là người từng nhặt nó ở ngoài đường về nhà, làm thành món qua cầu hôn tặng tôi.

Triết không thèm để tâm tới tiếng sủa điên rồ của Lộ Phong Thiền, vẫn tiếp tục bước về phía tôi, và đột ngột dừng lại khi chỉ còn cách tôi một bước, gương mặt vẫn mang vẻ khó xử không ra cười.

Không biết mặt trời hay thứ gì đó rất mạnh như xọc thẳng vào mặt, khiến tôi không tài nào mở mắt ra nổi. Tôi lảo đảo trước mặt anh, thấy chân mềm khụy, tôi biết mình đã ngất đi.

Chương 12

NGƯỜI YÊU

Lúc tỉnh lại, bốn bề yên tĩnh. Giường rất mềm mại, bên cạnh là chiếc đèn bàn đang tỏa ra thứ ánh sáng dìu dịu. Trong chớp mắt, tôi ngỡ mình như đang nằm trên chiếc giường trong căn hộ ở Thượng Hải.

Nhưng dưỡng khí trong không khí không đủ và cơn đau đầu ngấm ngầm lập tức khiến tôi nhận thức quay về hiện thực. Tôi ngó bốn phía, Lộ Phong Thiền lặng lẽ nằm sau cánh cửa, đang hít hà tấm thảm lông cửa, quay đầu lại, thấy tôi đã tỉnh, nó vẫn ngoạc cái mõm ra như cười hớn hở. Chó cũng biết khóc biết cười, cũng biết hỉ nộ ái ố. Về điểm này, chúng không khác con người là bao.

Nó chạy tới thành giường, liếm ngón tay tôi. Rồi nó quay đầu về phía cốc nước đặt cạnh cái đèn bàn. Tôi ngỡ nó khát nước, liền đổ một ít nước vào tay cho nó uống. Nó không chịu, tôi chợt hiểu, thì ra nó nhắc tôi nên uống nhiều nước.

“Tao chưa từng gặp con chó nào thông minh như mày”, tôi lẩm bẩm, cầm cốc nước lên uống một ngụm, quả thật đã thấy dễ chịu hơn.

“Lộ Phong Thiền quả thực là con chó tuyệt vời”, giọng bố tôi khẽ vang lên. Tôi vui sướng quá, kêu “Bố ơi” rồi ôm chầm lấy con chó.

Bố tôi hạ giọng, “Đừng lo, Ngụy, suốt chuyến đi, con đã lo lắng quá nhiều”.

Tôi bình tĩnh lại. Bố nói rất đúng. Tôi lo lắng quá nhiều, đã khóc quá nhiều. Lúc này tôi nhớ tới giấc mơ trên đường. “Nhưng giải nghĩa về giấc mơ đó ra sao?”, tôi hỏi bố tôi, “Đoạn Dương Thảo, Triết và mẹ cùng lúc đi qua con, nhưng không nghe thấy tiếng con gọi”.

“Những cái đó đều là miêu tả chuyện đã qua. Đoạn Dương Thảo là đại diện cho tâm trạng của bố hơn mười năm trước lúc sắp chết, nhưng giờ đây đã khác rồi. Cảnh Triết và mẹ con đi ngang qua con, quả thực cả hai đều rời bỏ con. Nhưng con có nhớ câu nói của bố lúc cuối giấc mơ không? Bố dặn đừng khóc, con không hề mất họ. Giấc mơ ám chỉ về nỗi khiếp sợ trong thẳm sâu con người con”. Giọng của bố thật hiền từ. Mặc dù ông đang trò chuyện, đúng thật trong lòng tôi vẫn ẩn giấu một nỗi khiếp sợ từ lâu, đó là: những người yêu tôi nhất trên thế gian này rốt cuộc đều rời bỏ tôi.

Tôi ôm Lộ Phong Thiền, tỉ mỉ nghĩ kĩ về câu nói của bố, bắt đầu cảm thấy nỗi sợ hãi trong lòng tiêu tan dần. Khi bạn khiếp sợ điều gì, càng né tránh, nỗi sợ chỉ càng tăng lên. Nhưng khi nói ra, sau khi phơi nó dưới ánh mặt trời, nó trở nên vô hại và có thể cùng bạn chung sống hòa bình. Mọi việc luôn là như vậy.

“Mẹ đã gọi điện thoại tới”, tôi nói lạnh nhạt.

“Bố biết”, bố tôi đáp bằng giọng rất bình tĩnh.

“Giờ đây, con không chỉ đối diện với Triết, mà còn phải đối phó với bà ấy trong tương lai không xa”, tôi cố gắng nói bằng giọng không quá lo lắng.

“Không sao, việc gì cũng có thể giải quyết từng cái một”, bố nói như không chút lo lắng về tôi.

“Bố…”, tôi hơi chần chừ, “Con đã gặp Triết, hẳn bố cũng gặp rồi. Vậy giữa con và anh ấy rốt cuộc ra sao?”.

Bố cười phá lên, “Con thật vô dụng quá, sao suốt ngày lo lắng thế?”.

Khi bố cười giễu tôi, Lộ Phong Thiền đột nhiên hắt hơi. Lúc này tôi cũng không khỏi nhịn được cười. Nó nháy mắt, như thể hơi ngại. Tôi lại thầm nghĩ thực ra rất thích bố cười như lúc nãy. Bố không chỉ là người cha đem lại cho tôi tình yêu vô bờ, cũng là một người bạn có thể trò chuyện rất tâm đắc và biết nói đùa. Mấy năm trước khi mất, bố đã bắt đầu như vậy khi phải đối mặt với những trò đùa con trẻ của tôi.

“À, đúng rồi, lần trước bố vội vã đi, nói là gặp một người bạn…”, tôi chuyển đề tài, cố tình nháy mắt với Lộ Phong Thiền, “Không bị muộn chứ?”.

“Cũng muộn một chút”, bố không hề bị tác động bởi trò đùa của tôi.

“Là bạn gái phải không?”, tôi đành phải hỏi thẳng.

“Không, là bà ngoại của Triết”. Ông đáp thẳng thắn, không hề giấu diếm. Tôi giật mình. Rõ ràng cái thế giới của bố luôn làm tôi ngạc nhiên. Ngay cả cái thế giới trước mắt có thể vươn tay chạm tới được, chúng tôi còn hiểu rất lờ mờ, huống gì nói đến một thế giới khác nơi bố ở.

“Bố làm sao quen được bà ngoại của Triết?”, tôi hỏi nhỏ, một tay khum miệng, chỉ sợ mình hét lên.

“Chúng ta quen nhau từ lâu, trước khi con quen Triết cơ”, bố đang nói, bỗng ngừng lại, khịt một tiếng, nói nhỏ, “Khi khác bố kể cho nghe, Triết sắp vào đấy, bố đi đây”.

Tôi vội vàng túm lấy một chân trước của Lộ Phong Thiền, “Bố ơi, đợi đã, câu cuối cùng”.

“Cái gì?”, bố vội vã hỏi.

“Bố có thích Triết không?”, câu hỏi này khiến tôi thấy căng thẳng. Mặc dù về mặt lí luận, cảm giác của bố đối với Triết ra sao cũng không ảnh hưởng đến tình cảm của tôi đối với Triết.

“Triết là một người đàn ông tốt”, bố nhận xét đơn giản, “Đúng rồi, bà ngoại Triết có nhờ bố nhắn con một câu, nói rằng con phải tranh thủ…”. Câu nói chưa dứt, cửa phòng đã kẹt mở, Triết xuất hiện trong bộ đồ trắng, tay đỡ một đĩa salad hoa quả thập cẩm. Hồi ở Thượng Hải, anh vẫn thường làm món salad đơn giản nhưng ngon miệng này.

Tôi vẫn chưa định thần từ cuộc trò chuyện của bố, chỉ biết giương mắt ngồi tựa vào đầu giường nhìn anh đột ngột xuất hiện. Con chó cũng sững người đứng nhìn anh.

“Sao thế?”, phản ứng đầu tiên của Triết cũng là ngạc nhiên, rồi anh nhanh chóng y thức được câu nói của anh có vẻ không hợp lí, liền sửa lại, “Em khỏe hơn chưa?”. Anh đặt đĩa salad lên cái kệ bên đầu giường, “Ăn chút hoa quả đi, tốt lắm đấy”.

“Tốt như thế nào?”, tôi cúi đầu hỏi, tay trái lồng vào tay phải, lập tức như biến thành một đứa trẻ.

Anh cũng ngạc nhiên. Rõ ràng phản ứng kiểu trẻ con của tôi nằm ngoài sức tưởng tượng của anh.

Thực ra, tôi cũng ngạc nhiên về mình không kém. Mặc dù hồi ở Thượng Hải, trước mặt anh, tôi luôn có biểu hiện đỏng đảnh, nhưng đó là liều thuốc kích thích trong cuộc sống tình ái hào quang suốt ba năm của chúng tôi (có lúc, ngay cả tôi cũng không thể tin nổi rằng suốt ba năm qua, chúng tôi hầu như không hề cãi cọ nhau lấy một lần). Nhưng giờ đây khác hẳn, hầu như chúng ta đã chia tay. Anh chỉ cần để lại mảnh giấy và rời bỏ tôi. Mỗi ngày trong hơn một tuần qua, tôi đau khổ tìm anh, mong mỏi mọi thông tin về anh. Trong mấy ngày ngắn ngủi đó, tôi và hẳn anh cũng tin rằng, trong lòng chúng tôi đều trải qua những đấu tranh mãnh liệt mà trước đây chưa từng có, nhất định là đã suy nghĩ rất nhiều, hối hận rất nhiều, nhung nhớ cũng rất nhiều. Cuối cùng và đồng thời cũng là điều chủ yếu nhất, phải là yêu rất nhiều.

Tôi vẫn cúi đầu, không muốn nhìn anh, chỉ sợ vừa nhìn thấy anh sẽ rơi nước mắt. Nước mắt tôi mấy ngày qua đã tuôn ra quá mức. Thực ra, tôi không phải là một phụ nữ thích khóc.

Im lặng rất lâu, bốn bề tĩnh mịch. Ngón tay tôi đặt trên tấm chăn mềm mại bị tôi cứ gằm mặt cúi xuống nhìn, như thể sắp tan ra đến nơi. Và đôi mắt tôi cũng như sắp bị mù bởi thứ tình cảm mãnh liệt trong lòng cứ rọi chiếu.

Có khoảnh khắc, tôi không nhìn thấy bất cứ thứ gì, cũng không nghe thấy gì, không cảm nhận được bất kì thứ gì. Tôi cho rằng cả thế giới chỉ còn chừa lại mình tôi và Triết cũng đã bỏ đi.

Nhưng mọi thứ lại dễ dàng xảy ra như vậy, như một trái chín tự nhiên rơi từ trên cây xuống, như những hạt mưa nặng trĩu từ trên đám mây ập xuống. Đầu tiên là cái ôm thân quen tới mức không thể nào gần gụi hơn, rồi tiếp đến là đôi môi nóng bỏng và nồng nàn.

Tôi thở phào một hơn, ôm chặt lấy Triết. Lần này, quyết không để anh đi nữa.

Cùng nằm với Triết trên chiếc giường mềm mại, tôi thấy người tan chảy như miếng kẹo ngọt mềm. Cảm giác mãnh liệt được ở bên anh cũng dào dạt không bờ bến như đại dương mênh mang sóng, nhận chìm cả chiếc giường, cả căn phòng, thậm chí là cả vùng đất này, Có lúc, tôi không thể phân biệt nổi mình đang ở đâu, đang ở thế giới này hay thế giới khác, mãi cho tới khi tôi vuốt ve lên từng múi thịt chắc nịch và bóng loáng của anh hết lần này tới lần khác, tôi mới tin rằng hạnh phúc đang nằm trong tay mình.

Triết vẫn lấy một tay kê đầu như xưa, một tay kia vò nghịch mớ tóc tôi, tỉ mỉ quan sát kĩ khuôn mặt tôi. Tôi nhắm nghiền mắt.

“Em gầy đi đấy”, ngắm tôi hồi lâu, anh mới nói.

Tôi không nói gì. Mọi thứ trải qua suốt mười ngày qua đều viết trên mặt tôi. Tôi tin rằng anh vừa nhìn đã hiểu, không cần nói gì thêm. Một khi hai người yêu nhau đã hiểu nhau đến một mức độ nhất định, có lúc không cần nói gì lại còn diễn đạt được ý của mình rõ ràng hơn nói. Giống như từng khoảng màu đen trắng trong bức tranh thủy mặc truyền thống Trung Quốc, tuy không thấy gì, song lại ẩn chứa những ý tứ mênh mang. Bạn có thể thỏa sức tự do tưởng tượng theo ý nguyện của chính bạn.

Im lặng.

Lộ đột nhiên sủa lên vui vẻ, như không cần lí do gì. Triết nhỏm dậy nhìn nó ngạc nhiên, như thể không biết ở đâu chui ra một quái vật như vậy. Hai bên nhìn nhau vài giây, con chó nhanh chóng im bặt.

Triết đột nhiên cười, vò đầu, như thể lần đầu tiên phát hiện ra đúng là tôi đã mang theo con chó mà anh từng đưa về nhà chúng tôi.

“Tới đây nào”. Anh nói nhỏ, vẫy tay với con chó. Nó ngần ngừ một lát rồi chạy tới bên giường.

Triết ngắm con chó trước mặt rất lâu, rồi đưa tay ra, khẽ vuốt ve nó, từ đầu tới đuôi. Hàng ngày qua, tôi chăm sóc Lộ Phong Thiền đã có kết quả rõ rệt. Nom nó giờ đây sạch sẽ và khỏe mạnh rất nhiều so với lúc đầu.

“Em chăm sóc nó rất tốt…”, Triết nói với tôi đầy kinh ngạc, “Em thật giỏi, anh thực sự bất ngờ về nó”.

Tôi khẽ ngắm gương mặt anh, mỉm cười, không nói gì. Lòng thầm nghĩ: “Lẽ nào trước đây, bạn trai mình lại không cho rằng mình là một người biết chăm sóc người khác?”.

“Không phải như vậy”, Triết đột nhiên nói, như hiểu hết suy nghĩ của tôi. “Anh còn nhớ hơn mười ngày trước, khi anh đưa nó về căn hộ của chúng ta, trông nó hoàn toàn khác, bệnh tật, ốm yếu, bẩn thỉu…”, lúc nói tới đây, như ý thức được điều gì, anh lại im bặt.

Tôi vẫn lặng lẽ nhìn anh. Thật lạ, dù anh không nói tiếp, tôi vẫn hoàn toàn hiểu rõ anh định nói gì nhưng lại không muốn nói tiếp. Đó là: “lúc đó, trông nó bệnh tật, ốm yếu, bẩn thỉu, nhưng anh lại đem nó làm món quà cầu hôn tặng em…”.

Anh nhìn tôi, lại nhìn con chó, đột nhiên mắt long lanh nước, rồi ôm chầm lấy tôi. Tôi khẽ vuốt ve mái tóc đen nhánh và mềm mại của anh, trái tim nhạy cảm đột nhiên như bị tấn công. Nước mắt tôi không khỏi tuôn trào. Chúng tôi ôm siết lấy nhau trong nước mắt. Trong khoảnh khắc, chúng tôi lại hòa thành một, lại tìm được nhau.

“Cám ơn em”, anh thì thầm vào tai tôi.

Tôi ra sức gật đầu lại, lại lắc đầu, rồi sụt sịt cười, nhưng vẫn không nói gì. Đúng khoảnh khắc tình cảm mãnh liệt nhất, tôi lại không muốn nói gì, thực ra cũng không thể nói ra nổi. Không có ngôn từ, chỉ có tình cảm, thuần khiết như tuyết.

Chúng tôi đều im lặng, như hai con chim yên bình nghỉ chân trong làn không khí mỏng mảnh.

Anh và tôi cách nhau một khoảng cách không xa cũng không gần, mắt mở to, nhẫn nại và dịu dàng nhìn tôi. Tôi luôn nhắm hờ mắt, nhưng biết anh đang nhìn tôi.

Đúng lúc tôi sắp ngủ, anh lại sáp gần tôi, bắt đầu hôn tôi, vuốt ve tôi. Lúc đó, tôi hiểu anh đã hoàn toàn đọc thấu tôi, cuối cùng đã lí giải hết tất cả tình cảm của tôi dành cho anh, cùng những gian khó vất vả trên chặng đường tôi đi tìm kiếm anh.

Mặc dù tôi vẫn chưa kịp nói với anh một câu nào.

Tôi thấy mình nhẹ nhõm, gánh nặng trên vai tôi như thể được trút xuống, ngay cả phản ứng cao nguyên cũng tiêu tan mất tăm tích.

Tối đó, tôi ngủ rất say, như thể ngủ dưới đáy biển yên tĩnh, không sóng không gió, chỉ có rong rêu khẽ lay động. Từ xa lắc bên bờ vọng tới tiếng hát của mỹ nhân ngư, bốn bề có một thứ ánh sáng lung linh mềm mại như cầu vồng, và niềm vui hoan hỉ như vàng ròng.

Suốt đêm không hề mơ, cũng không cần mơ. Khi giấc mơ đã hòa tan vào cơ thể bạn, như những dây leo cuốn bò lên trán bạn.

Hôm nay là ngày thứ mười một, tôi rời Thượng Hải để tìm Triết và đồng thời cũng là ngày thứ hai tôi gặp lại anh. Tôi đã ghi trong nhật kí như vậy.

Sáng sớm, khi tôi tỉnh giấc, Triết không còn bên cạnh nữa. Một sự căng thẳng khe khẽ theo bản năng lướt qua tim tôi, rồi cửa phòng lại mở, xuất hiện gương mặt vui vẻ của Triết.

Con chó tranh lao ra, rối rít vẫy đuôi với anh. Triết vuốt ve lên đầu nó, rồi vỗ lên cái lưng nâu sẫm pha trắng của nó, hỏi tôi, “Tên nó là gì?”.

“Lộ Phong Thiền”, tôi đáp.

Anh cười ha hả, đọc lại tên nó một lượt, rồi làm một động tác tay tỏ y bái phục đối với tôi. “Vừa Lộ, vừa Phong, lại vừa Thiền. Đúng là chỉ có em mới nghĩ ra nổi”, anh nói.

Tôi không khỏi mỉm cười, mở rộng hai tay với anh. Anh sải bước vội đến bên giường, ôm tôi rất chặt. “Good morning!”, anh cố tình dùng tiếng Anh chào hỏi tôi, quả nhiên tôi cười rất to. Trong một ngôi nhà miền núi hẻo lánh thuộc vùng Xuyên Tây này, được nghe một câu tiếng Anh chẳng khác nào như đàn gẩy tai trâu, kì quái đến phát sợ.

Đột nhiên tôi nhớ ra điều gì, bắt anh bịt mắt lại, tôi muốn anh xem hai thứ.

“Cái gì thế?”, anh tò mò hỏi, nhưng tôi chỉ cười không đáp. Anh đành ngoan ngoãn nhắm mắt lại. Tôi rút từ trong túi xách ra hai thứ tôi vẫn cất kĩ: một là chiếc bật lửa nhặt được ở Thượng Hải, hai là chiếc mùi xoa trắng nhặt được ở Đan Ba. Đây hẳn là những thứ anh không cẩn thận làm rơi mất. Rồi tôi bắt anh mở mắt ra. Anh vừa nhìn thấy, đã kinh ngạc hỏi: “Sao em có được những thứ này? Em lấy từ nhà mang đi sao?”.

Tôi lắc đầu: “Đều nhặt được trên đường”. Thấy anh có vẻ không hiểu, tôi kể lại một lượt chuyện Lộ Phong Thiền phát hiện ra chiếc bật lửa cạnh gian bán báo gần căn hộ chúng tôi ở Thượng Hải và chuyện tìm được chiếc khăn tay trắng ở một con phố yên tĩnh nơi huyện thành Đan Ba ra sao.

“Thần kì quá, đúng là thần kì quá”, Triết không ngớt lẩm bẩm, tay cầm hai món đồ, vẫn không ngừng quan sát con chó. Tôi đứng bên gật đầu, lòng thầm nghĩ con chó này còn có một điểm càng thần bí hơn mà anh còn lâu mới được biết.

Nhớ ra chuyện gì, tôi lục túi xách, lấy ra cuốn kinh của vị hòa thượng già còn để lại, đưa anh xem. Anh lật vài trang, “Cái gì thế?”.

“Cũng phát hiện được ở bên đường”, tôi đáp và lấy lại cuốn kinh.

Anh rất hưng phấn ngắm tôi một lúc, rồi nói, “Đúng là mấy ngày không gặp, em giờ đây thật bí hiểm”.

Tôi cất cuốn kinh rất cẩn thận vào túi xách, “Em đói!”. Tôi lười nhác vươn mình, nói tiếp, “Ăn xong bữa sáng sẽ kể cho anh nhiều chuyện nữa”.

“Công chúa Thượng Hải, xin hỏi sáng nay muốn ăn gì?”, anh xoa tay, giống hệt một nhân viên phục vụ rất tận tâm.

“Anh có những gì?”, tôi cố tình nói bằng giọng ngạo mạn của một công chúa.

“Cái gì cũng có, nhưng…”, anh cố tình kéo dài giọng, rồi đè mạnh lên người tôi, vẫn nói tiếp, “nhưng xin lỗi, tôi phải ăn công chúa trước đã”.

Tôi vừa cười ha ha, vừa cố vặn qua vặn lại để tránh bàn tay của anh, nhưng cuối cùng vẫn bị anh ghì chặt, đành phải nằm im kêu lớn xin tha, cuối cùng ngoan ngoãn để anh cắn một miếng trên cổ.

Khi anh buông tôi ra, qua vai anh, tôi nhìn thấy mẹ Triết đứng bên cửa phòng. Tôi sững người, nhìn kĩ lại, bà đã đi qua. Tôi nói nhỏ với Triết: “Em nhìn thấy mẹ anh”. Triết nhìn tôi ngờ vực, rồi quay lại nhìn về hướng cửa, không có ai.

Nhưng cửa phòng đang mở. Khi đi vào, anh đã quên đóng cửa phòng.

Bữa sáng được Triết bầy biện rất công phu. Khăn bàn phủ bằng vải trắng, trên đó bày bảy, tám đĩa. Có hoa quả tươi ngon, cháo cá bên trên rắc hành hoa và vừng, có bánh trứng gà điểm thịt xay, thậm chí còn có cả sữa chua nữa. Một bên đầu bàn còn đặt một lọ hoa dại vừa hái.

Hoa là do mẹ Triết hái trong vườn trước cửa, coi như đón khách. Thức ăn trên bàn do Triết dậy sớm, lái xe cả đi và về mất bốn tiếng đồng hồ mua từ một tiệm ăn khá ngon ở huyện về cho tôi.

Tôi ngồi ở đây, đối diện với bữa sáng phong phú tới mức bất ngờ, vừa cảm động vừa vui sướng.

Tôi ngồi cạnh Triết, bố mẹ anh ngồi cạnh anh. Tôi cám ơn mẹ Triết về lọ hoa mới hái vì tôi, Triết giúp tôi dịch cho mẹ anh nghe. Bà gật đầu, nói lại điều gì với con. Triết dịch ra: “Mẹ nói em từ Thượng Hải xa xôi tới đây, chắc chắn rất vất vả, điều kiện ở đây không bằng Thượng Hải, làm khó cho em rồi”.

Tôi hơi đỏ mặt, nhớ tới tình cảnh lần đầu tới đây một năm trước, không quen với mọi thứ, oán trách suốt ngày, mặt mũi lúc nào cũng xị ra như thể ai cũng nợ nần tôi. Kết quả giữa chừng, tôi một mình chuyển ra ở một khách sạn ở huyện. Hẳn họ không bao giờ quên chuyện này.

Trên bàn ăn bữa sáng, mọi người nói chuyện rất ít. Chỉ có mẹ Triết thỉnh thoảng nói với anh mấy câu mà tôi không tài nào hiểu nổi. Nhưng Triết hình như không để tâm, chỉ đáp lại rất vắn tắt.

Tôi không ngừng quan sát mẹ anh. Bắt gặp ánh mắt tò mò của tôi, Triết giấu diếm khều chân tôi dưới gậm bàn. Tôi cố nhịn cười, giả vờ như không có chuyện gì xảy ra, nhét luôn một miếng bánh trứng gà vào miệng, rồi đột ngột đá vào chân anh. Gương mặt anh cũng không có phản ứng gì, vẫn chậm rãi đáp chuyện với mẹ. Rồi mẹ anh nói vội vài câu gì đó, Triết đột ngột cúi đầu, im lặng.

Tôi ngừng ngay cử chỉ trẻ con và vô nghĩa dưới gầm bàn, tỉ mỉ quan sát thần sắc của anh. Anh né tránh ánh mắt như dò hỏi của tôi, chỉ cúi đầu ăn cháo. Hẳn mẹ anh vừa nói chuyện gì liên quan đến tôi. Không rõ họ nói cụ thể những gì, nhưng từ sắc mặt của Triết, tôi đoán chắc hẳn không phải là chuyện vui vẻ. Ở nơi công cộng, Triết rất giỏi, thường không dễ để lộ tình cảm. Nhưng khi ở bên tôi và gia đình anh, tâm tư của anh được viết rõ trên mặt. Sự khác nhau rõ rệt giữa vẻ mạnh mẽ và sự mềm mại ở những hoàn cảnh khác nhau đó, cũng là một trong điểm khiến tôi yêu anh.

Ăn cơm xong, Lộ Phong Thiền ngủ trên sàn nhà bếp. Ngay từ sáng sớm, rất hiếm khi thấy nó lại lăn ra ngủ say đến vậy. Hôm biết tối qua nó làm gì. Đêm qua là đêm đầu tiên chúng tôi rời Thượng Hải, cùng với một người khác chia sẻ không gian của tôi và nó. Có lẽ chính vì vậy, nó có thể chưa quen nên ngủ không ngon giấc chăng? Cũng không rõ nữa.

Còn Triết vô cùng vui mừng khi gặp lại con chó này. Anh tới bên cạnh nó đang ngủ, say sưa ngắm nghía, rồi như nhớ ra điều gì, đi vào phòng. Khi đi ra, tay anh cầm một chiếc máy ảnh. Anh cầm máy lên, tắt đèn chớp, chụp mấy bức Lộ Phong Thiền đang ngủ say, rồi kiểm tra ngay kết quả chụp, mặt nở nụ cười vô cùng mãn nguyện.

Thấy tôi đứng bên cười thầm, anh ngượng ngùng giải thích: “Anh quá yêu Lộ Phong Thiền”.

Tôi gật đầu. “Như yêu chính con trai mình vậy”, anh nói thêm.

“Nhưng nó là một con chó già, nếu căn cứ theo tỉ lệ, có lẽ nó còn nhiều tuổi hơn anh, có thể làm bố anh đấy”, tôi nói, không nhịn nổi cười. Vì cùng lúc đó, tôi cũng nghĩ tới linh hồn của bố tôi có lúc nhập vào Lộ Phong Thiền. Đương nhiên, đối với Triết, đó vẫn là một bí mật. Tôi cũng không biết tới khi nào có thể tiết lộ được bí mật đó với anh.

Hôm nay thời tiết rất đẹp. Triết đề nghị đưa tôi đi chơi. Tôi vui vẻ nhận lời.

Ra bên ngoài, nhìn ra xe, những dãy núi trùng điệp một màu xanh tươi non, xen lẫn những cây đào nở hoa màu phấn hồng và những cây lê đầy hoa trắng muốt. Không khí tỏa một mùi tanh ngọt như tình cảm trào dâng, mùa xuân đã tới điểm cao trào nhất.

Nơi đây đã cuối tháng Năm, thời gian như trôi đi như vậy không chút cảm giác. Tôi và Triết cũng rời Thượng Hải được mười một ngày.

Trên đường đi, Triết luôn nắm chặt tay tôi, suốt một đoạn, cả hai đều im lặng, chỉ chậm rãi bước. “Anh tin rằng cuối cùng em có thể tìm ra anh”, cuối cùng anh lên tiếng. “Em cũng vậy”, tôi nói.

“Tại sao em cự tuyệt lời cầu hôn của anh?”. “Tại sao anh đột ngột bỏ đi?”. Câu hỏi của hai chúng tôi hầu như cùng bật ra đồng thời. Vừa dứt lời, chúng tôi không khỏi bật cười.

“Thực ra chúng ta đều biết đáp án, hoặc chúng ta đã không cần câu trả lời nữa. Đúng không?”, Triết nói. Tôi không nói gì, chỉ lặng lẽ đi bên anh, còn anh ra sức miết tay tôi.

Khi đi qua cây cầu đá, một phụ nữ dân tộc Tạng đứng tuổi dắt theo mấy con cừu đi tới. Triết chắp tay chào bà. Bà mỉm cười, nói mấy câu gì mà tôi không hiểu nổi. Triết đỏ mặt, vẫy tay chào tạm biệt.

“Mọi người trong thôn đều biết có một phụ nữ thành phố từ nơi rất xa tới tìm anh”, Triết nói có vẻ ngượng ngùng.

Tôi mỉm cười, không nói.

Đi xuyên qua một con đường nhỏ, khi tới một sườn núi, Triết đột ngột ôm ghì lấy tôi. Tôi hầu như không thể thở nổi, mặt rực đỏ. Anh lập tức buông tôi ra, cười, “Sao thế?”, anh dịu dàng hỏi.

“Phản ứng cao nguyên thôi”, tôi đáp, không nhìn anh.

Từ sau khi gương vỡ lại lành với bố mẹ Triết lần này, chúng tôi trò chuyện với nhau luôn đơn giản như vậy.

Anh lại ngắm tôi một lúc, rồi mỉm cười lắc đầu, nói: “Em thật lợi hại”.

Tôi hít một hơi sâu, vẫn không nhìn anh, đáp: “Anh cũng vậy mà”.

Anh tiến sát lại gần tôi hơn, đặt tay lên eo tôi, cùng tôi vai kề vai nhìn về dãy núi và cánh rừng xa xa.

Núi màu xanh, rừng cũng màu xanh, các màu xanh nối tiếp nhau.

Ngoài màu xanh ra, chỉ có màu xanh.

Cứ đứng như vậy, lặng yên, chỉ trong tiếng thở mới có thể cảm nhận được sự tồn tại của chúng tôi. Cùng tồn tại còn có tình yêu của chúng tôi.

Càng yên tĩnh, càng có thể thấy rõ.

Tình yêu có liên quan tới sự yên tĩnh, không liên quan tới nỗi khiếp sợ.

“Anh yêu em”. Rất lâu sau, tôi nghe thấy tiếng Triết từ nơi xa vẳng tới. 

Chương 13

TRƯỜNG HỌC

Tối đó, Triết đưa tôi tới thăm trường tiểu học trong thôn của bạn anh là Ích Tây Trác Mã. Cô là cô gái dân tộc Tạng xinh đẹp cùng khôn lớn với Triết, được bố mẹ anh một lòng muốn cưới cho anh. Sau khi tốt nghiệp cấp ba, cô không thi đỗ vào đại học như Triết, mà ở lại trường tiểu học trong thôn làm cô giáo. Nghe nói cả trường chỉ có ba giáo viên, kể cả cô.

Buổi tối, đường đi hiểm trở, không tiện lái xe, nhưng trường học cách gia đình anh không xa, chúng tôi quyết định đi bộ.

Trên đường đi, Triết một tay cầm đèn pin, một tay dắt tôi, cẩn thận đi trên con đường quanh co. Đường núi uốn lượn ngoằn nghèo, những viên đá vụn luôn bắn vào chân tôi, cơ thể cứ mềm trượt, may còn có Triết kịp thời giữ tôi lại mới không khỏi ngã. Vẳng lên âm thanh của mấy viên đá rơi từ bên phải chúng tôi xuống vực sâu. Nó kêu rất vang trong buổi tối tĩnh mịch. Toàn thân tôi đầm đìa mồ hôi lạnh toát.

“Không sao đâu, cứ nắm chặt lấy anh là được”, Triết an ủi.

“Không thể tưởng tượng nổi anh đi trên con đường như vậy tới hai mươi năm, thật bái phục”, tôi thở hổn hển nói. Lúc này không khí như tụt xuống mười độ, tôi không mang đủ áo ấm từ Thượng Hải, đành phải mượn mẹ Triết chiếc áo lông vũ. Còn anh chỉ mặc một chiếc áo khoác mỏng, nhưng kiên quyết kêu không lạnh.

“Còn lâu không?”, tôi hỏi, thấy hai chân vừa đi vừa lạnh, run lập cập trên con đường núi gập nghềnh.

“Sắp rồi, năm phút nữa thôi”. Triết ngừng lại, quay đầu nói với tôi. Luồng khí nói ra từ miệng anh đã hóa thành một đám khói trắng. Anh ngẩng đầu lên, chỉ một tay lên trời, “Nhìn kìa, đẹp quá…”.

Tôi nhìn lên trời, quả trên, trên đỉnh đầu chúng tôi là một vầng trăng sáng rỡ, xung quanh nó như dải ngân hà tỏa ra khắp nơi. Chưa bao giờ, tôi được ngắm nhiều sao rực rỡ đến vậy trên bầu trời Thượng Hải. Mỗi ngôi sao như đang nói chuyện, đang nhảy múa, hùng tráng đến mê người.

Tôi không nhìn trời nữa, mà quay sang nhìn Triết và cười, lại cùng rảo bước đi. Những mệt mỏi ban nãy như đã tiêu tan không chút tăm tích.

Chẳng bao lâu ở phía trước đã thấy mấy đốm đèn sáng. “Tới nơi rồi!”, Triết nói.

Ích Tây Trác Mã và mấy học sinh đang đợi trước cổng trường. Thấy chúng tôi, họ rất vui sướng, lập tức ùa ra đón. Ích Tây Trác Mã trước tiên ôm choàng lấy Triết rất chặt, rồi chắp tay thi lễ với tôi, và cũng vươn tay ra ôm lấy tôi. Gương mặt đầy đặn của cô như tỏa ra cái đẹp bàng bạc dưới ánh trăng, toàn thân có mùi sữa dê pha lẫn thảo dược. Cô như một loài thực vật quí hùng tráng và nhiều chất trong màn đêm, để lại ấn tượng khó quên.

Cô quay đầu lại, vẫy tay với mấy học sinh phía sau. Chúng ngượng ngập đứng im một chỗ. Nhờ ánh trăng vẫn có thể thấy rõ phần lớn quần áo của chúng đều cũ kĩ, trong đó phần lớn là các em hơn mười tuổi, đứa nhỏ nhất chỉ có sáu, bảy tuổi.

Triết nói tiếng địa phương với Trác Mã, nom cô ta vui hẳn lên, chắp tay cảm tạ anh rồi quay sang nói với tôi bằng tiếng phổ thông: “Đi thôi!”.

Chúng tôi bị mấy đứa trẻ vây kín, cùng kéo nhau vào trường. Sân trường không rộng lắm, nhưng khá gọn gàng. Một dãy nhà như vừa mới quét vôi, trên sân bóng trước mặt vừa làm chỗ chơi bóng rổ, nhưng ngoài ra không có gì hết, trên đất chỉ thấy đặt vừa mấy súc gỗ to nằm thẳng đờ.

Trác Mã khoe cả trường có tất cả bốn mươi học sinh, đều là dân tộc Tạng. Mấy em học sinh mà chúng tôi được gặp ở đây phải ở nội trú vì nhà quá xa. Cô chỉ về phía kí túc xá giáo viên ngay bên cạnh.

Vào phòng Trác Mã, thoắt một cảm đã thấy ấm áp hơn rất nhiều.

Trong phòng có hai bếp lò đang cháy. Một bếp đang đun nước, bếp kia đang đặt một siêu thuốc, phả ra mùi thảo dược mà tôi không biết tên. Cô nhiệt tình mời chúng tôi ngồi, rồi kêu các em nhỏ rót nước vừa đun pha trà và lấy lạc ra đãi khách. Tôi hỏi Trác Mã bếp kia đang sắc thuốc gì, cô giải thích hôm nay vừa hái một ít thảo dược trên núi, nên sắc cho hai học sinh bị cảm.

Cô chỉ vào hai em học sinh bị ốm, nói tên chúng. Trong đó có một em tên là Đăng Châu, chính là cậu bé trai thấp nhất mà tôi để y ban nãy, có đôi mắt to, đen láy như mắt chim, hai má rám bồ quân bởi mặt trời. Đăng Châu năm nay bảy tuổi, là trẻ mồ côi. Nhà trường đã giảm học phí cho cậu, nhưng các chi phí khác gồm chi phí ăn ở, chí ít cũng cần một trăm năm mươi đồng một học kì. Thế nên Trác Mã đành phải tự bớt từ số tiền lương ít ỏi của mình trả hộ.

Trác Mã giới thiệu mọi điều kiện vật chất của nhà trường vẫn được coi là tốt ở đây. Vì Đại Trại Thôn có được mấy người lập nghiệp thành công, bao gồm cả Triết, nên mấy năm qua đã quyên góp cho nhà trường không ít tiền. Lần này Triết tới để tìm hiểu những nhu cầu cần thiết của nhà trường hiện nay.

Trác Mã nói nhà trường hiện đang cần một bộ máy đun nước, vì các em học sinh trong kí túc xá không có nước nóng để tắm rửa. Ngoài ra còn cần một bộ loa tốt để cho môn thể dục và biểu diễn văn nghệ, một số giáo trình, đồ dùng thể dục. Quả bóng rổ duy nhất của nhà trường vừa bị hỏng, ngoài ra còn cần một số quần áo cho các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Trác Mã chỉ vào mấy em học sinh nội trú nói, mỗi học kì, các em này đều phải nộp một gánh củi cho nhà trường, mỗi tháng phải nộp mười lăm cân lương thực. Nhưng chính quyền huyện mỗi tháng cũng giúp cho các học sinh nội trú năm mươi đồng tiền ăn. Gia đình các em này phần lớn sống trên núi và hồ cốc nên nguồn kinh tế chủ yếu đều từ hoa quả và thảo dược. Thu nhập bình quân mỗi hộ gia đình khoảng một nghìn đồng hàng năm.

Nghe những con số này, tôi thấy toàn thân nóng rãy như bị kim châm. Bộ đồ lót tôi đang mặc cũng đã tới một nghìn đồng.

Triết đột nhiên đứng dậy nói: “Đi xem kí túc của học sinh thôi”.

Trác Mã nhìn hai chén trà trên bàn còn nóng, liền nói uống xong trà hẵng đi. Triết nhìn tôi, tôi lắc đầu. “Đi xem trước đã”, Triết nói với Trác Mã.

Kí túc xá học sinh ở ngay bên cạnh. Trong phòng có bốn cái giường, gồm tầng trên tầng dưới. Trên giường chỉ có một tấm ván mỏng, bên trên trải một tấm thảm nhỏ của dân tộc Tạng. Học sinh đắp những tấm ga mỏng mang từ nhà đi. Cửa sổ bằng kính bị thủng một lỗ, gió lạnh ban đêm không ngừng ùa vào. “Tôi sẽ tìm người chữa ngay”, Triết chỉ về phía tấm kính, nói với Trác Mã.

Quay về kí túc xá giáo viên của Trác Mã, lần đầu tiên tôi nếm thử loại trà của dân tộc Tạng, hơi mặn hơi đắng, nhưng sau cảm giác kích thích thô ráp đó, đầu lưỡi lại thấy nhẩn nha mùi thơm và vị ngọt. Tôi nhìn những nụ cười hớn hở trên các gương mặt đen nhẻm và phơi nắng của các em dân tộc Tạng đứng vây quanh, lại nghĩ tới vùng đất khô cằn này lại chứa nhiều dịu dàng và y thớ đến vậy. Con người ở đây, đất đai ở đây vừa vặn lại làm nên vị độc đáo của loại trà mà tôi đang thưởng thức.

Tôi cẩn thận nhấp từng ngụm trà, mãi cho tới khi uống cạn sạch. Triết ngồi bên đã kết thúc cuộc trò chuyện với Mã Trác. Họ nói bằng tiếng địa phương. Tuy không được dịch lại, nhưng tôi cũng có thể đoán ra Triết đã quyết định bỏ toàn bộ chi phí giúp nhà trường những thứ cần thiết này.

Khi rời khỏi trường, trời đã tối lắm. Chúng tôi đi trên con đường núi, liên tục quay lại vẫy tay chào nhau, mãi cho đến khi không nhìn thấy rõ Trác Mã và đám học sinh trước cổng trường mới thôi.

Chương 14

SẮP RA ĐI

Ngày hôm sau, chúng tôi dậy rất sớm.

Hôm nay là ngày thứ mười hai tôi và Triết rời Thượng Hải, cũng là ngày thứ ba gặp lại Triết. Tôi đã viết trong nhật kýnhư thế này: chúng tôi đã quyết định ngày mai khởi hành về Thượng Hải, nhưng trước khi đi cũng có nhiều việc phải làm.

Hôm nay đúng lúc truyền hình có phát trực tiếp cuộc thi bóng bàn quốc tế, có đội Trung Quốc tham gia. Hơn nửa thôn đều chạy tới nhà bố mẹ Triết xem ti vi. Triết bận rộn hết đưa thuốc lá, lại pha trà, giúp bố mẹ đón khách. Tôi và Lộ Phong Thiền vui vẻ đứng bên cạnh xem cảnh tượng náo nhiệt trước mắt.

Đợi đến khi Triết có thể lui ra sau, chúng tôi cùng lái xe đi lên huyện.

Một là cần mua những vật dụng thiếu thốn cho học sinh trong thôn, hai là sắm thêm những vật dụng thiết yếu cho sinh hoạt của bố mẹ Triết, và quà cáp nữa. Họ từ núi ra vẫy xe lên huyện một chuyến cũng rất vất vả, chân cũng không còn cứng cáp. Mỗi năm họ cũng không đi được mấy chuyến lên tận huyện. Ba là mời Đường Cương ăn bữa cơm.

Nói tới Đường Cương, gia đình Triết đều có ấn tượng sâu sắc, nhất là Triết luôn cảm kích anh ta, vì Đường Cương đã hết lòng chăm sóc và giúp đỡ tôi trên chuyến đi vừa qua. Sau khi đưa tôi đến nhà bố mẹ Triết, Đường Cương được bố mẹ Triết một mực giữ lại ăn tối. Chỉ có điều lúc đó tôi bị ngất nằm trên giường nên không biết tí gì.

Đường Cương đã kể cho gia đình Triết về việc hai lần gặp tôi rất bất ngờ trên đường như thế nào, nhất là lần thứ hai khi ngồi xe cùng tôi, gặp phải vị hòa thượng già Tây Tạng bị tai nạn, tôi và anh xuống xe chờ bên đường để xử ýchuyện hậu sự của ông.

Mẹ Triết vốn rất tín Phật thậm chí còn cho rằng mọi chuyện xảy ra như vậy đều do Bồ Tát sắp xếp. Tối qua khi đi bộ bên ngoài, Triết còn nói mẹ anh có ấn tượng sâu sắc về việc làm nghĩa cử của tôi, còn nói riêng với anh rằng “Cô Ngụy này có tấm lòng rất tốt”.

Sáng hôm qua, sau khi tôi đưa quyển kinh cho Triết xem, lại kể tỉ mỉ về chuyện vị hòa thường xấu số, Triết luôn miệng nói “Thật không ngờ”. Và sau khi tôi kể rất đơn giản về vụ cướp của ở Trùng Khánh, mặt anh trắng bệch, như thể sắp ngất đến nơi. Anh không tài nào tin nổi tôi lại dũng cảm đến vậy. Trong ấn tượng của anh, thậm chí tôi luôn sợ hãi kêu toáng lên khi bắt gặp một con sâu. Rõ ràng tôi giờ đây khác hẳn với tôi thời ở Thượng Hải.

“Hoặc là trước đây, anh chưa thực sự hiểu em”, cuối cùng anh ôm lấy tôi và nói vậy.

Đường đi có một đoạn dài khấp khểnh, Triết cố gắng lái xe không bị xóc. Tôi ngồi cạnh anh, không hề có cảm giác lạ lẫm như mấy hôm trước ngồi xe từ huyện tới. Có thể điều này có liên quan rất lớn đến tâm trạng. Phong cảnh bên ngoài vẫn náo nhiệt, một mảng trời xuân.

Tôi nhắm mắt, rồi đột ngột mở mắt ra hỏi, “Sáng hôm qua lúc ăn sáng, mẹ anh nói với anh những gì?”.

Triết liếc vào gương chiếu hậu. Con chó lúc này cũng đang nhắm mắt, nghỉ ngơi ở ghế sau. Chắc chắn nó cũng mệt rã rời bởi thời gian qua (tôi cũng kể với Triết về chuyện suýt nữa nó bị ăn thịt ở giữa chuyến đi). Giờ đây, mọi nhiệm vụ đã hoàn tất, nó bắt đầu nhắm mắt ngủ suốt ngày. “Không có gì”, Triết chuyển ánh nhìn về tôi ở bên cạnh, cố tình nói bằng giọng bình thản.

“Em không tin”, tôi nói. Tiếp đó là im lặng tới vài phút, chỉ nghe thấy tiếng bánh xe nẩy tưng tưng trên con đường đầy đá sỏi.

“Được rồi”, Triết đành chịu thua, “Chẳng phải vẫn là chuyện đó sao?”

“À”, tôi cố tình kéo dài giọng, “Bắt anh lấy Trác Mã chứ gì?”.

Triết lắc đầu, “Không phải”.

“Thế là gì?”, tôi hỏi.

Anh thở dài, “Thực ra cũng không có gì…”. Rồi anh kể mẹ anh biết được nguyên do anh từ Thượng Hải trở về quê vì bị tôi từ chối lời cầu hôn. Và tôi vội vã từ Thượng Hải đuổi theo tới đây, bây giờ cả hai lại quay về với nhau tốt đẹp. Mẹ anh thấy hai đứa đều vất vả, nên trong bữa sáng đã hỏi anh rốt cục có dự định ra sao. Nói tới đây, Triết đột nhiên im bặt. Tôi hỏi dồn lúc đó anh trả lời ra sao. Anh lắc đầu, mỉm cười, “Anh không nói cho em đâu”.

Tôi nhún vai, giả bộ không quan tâm, “Rồi sao nữa?”.

“Rồi mẹ nói phụ nữ thành phố không thật tình”, Triết thật thà kể.

“Thì ra là vậy”, tôi nói, rồi đột ngột cù nách anh. Anh vội vàng kêu ầm lên: “Em điên rồi, anh đang lái xe đấy!”.

“Chẳng phải mẹ anh nói phụ nữ thành phố không thật tình mà?”, tôi nói.

Anh trầm ngâm hồi lâu, “Quả thật anh có bố mẹ nông dân rất ngoan cố, nhất là mẹ anh. Cả đời bà không ra khỏi núi, chỗ xa nhất là tới huyện Đan Ba, tầm nhìn có hạn, nên bản năng luôn ngờ vực về người thành phố, nhất là về phụ nữ thành phố”.

Tôi không nói gì. Những gì Triết nói đều đúng sự thật. Còn nhớ một năm trước khi chúng tôi mua căn hộ ở Thượng Hải, muốn mời bố mẹ anh tới ở một thời gian, nhưng mẹ anh nhất định không chịu. ýdo đưa ra rất buồn cười, nói là người Thượng Hải quá đông, nông dân tới đó sẽ rơi mất linh hồn. Hồi đó nghe vậy, tôi không thể tin nổi, cứ ngỡ bà bị điên. Nhưng sau khi rời Thượng Hải một thời gian, hàng ngày ăn uống, ngủ ở những nơi đơn giản hơn Thượng Hải rất nhiều, tôi được hít thở bầu không khí trong lành, được tận hưởng bầu trời cao hơn, xanh hơn, nhớ lại về câu nói của mẹ Triết, quả cũng có ýcủa nó. Tôi phát hiện thấy mình không còn phản cảm về bà như trước nữa.

“Này, anh có muốn lấy Trác Mã không? Cô ấy đẹp thật”, tôi thờ ơ ngắm nghía mấy đầu ngón tay, rồi ngẩng đầu lên hỏi Triết.

Thoắt một cái, nom anh rất kinh ngạc, như thể rất tức giận, rồi anh lại cười, và lắc đầu, “Em thật ghê gớm”.

Tôi cũng cười, đã sớm đoán ra được phản ứng của anh, nhưng cố y muốn nhìn nét biểu hiện của anh. Cái kiểu vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ vừa cười của anh có thể khiến đầu gối của tôi mềm nhũn. Trời ơi, tôi nghĩ rằng tôi thật lòng yêu anh.

“Em đừng lo”, Triết an ủi tôi, “Lần này em vượt ngàn dặm xa xôi từ Thượng Hải tới đây tìm anh đã khiến mẹ anh có ấn tượng rất sâu đậm. Mẹ rất kinh ngạc khi thấy em tới không chỉ một mình, mà còn mang thêm một con chó. Mẹ nói em không giống các tiểu thư thành phố, mà có phần giống phụ nữ nông thôn”. Nói tới đây, Triết không nhịn nổi cười.

“Cám ơn mẹ anh”, tôi lúng búng, rồi cũng phá lên cười. Lần đầu tiên tôi được nghe thấy người ta khẳng định về mình như vậy.

“Khi tới huyện mua quà tặng mẹ anh, nhớ để tâm chọn lựa một chút, gắng tìm ra những thứ bà thích, để lấy lòng”. Triết gợi ý cho tôi.

“Được thôi”, tôi nói, lòng thầm nghĩ làm sao tôi biết được bà thích cái gì cơ chứ.

Rốt cuộc cũng tới huyện. Triết đề nghị một mình đi mua những thứ cần thiết cho trường học, còn tôi và con chó có thể ngồi nơi nào đó chờ anh như tiệm trà chẳng hạn. Anh rất thông thạo mọi nơi trong huyện, chỉ việc đi một lượt là mua xong. Như vậy sẽ tiết kiệm thời gian và không làm tôi thấy nhàm chán. Tôi cũng nhất trí.

Thế nên anh chọn một tiệm trà vắng vẻ, để tôi và con chó ở đó. Tôi xuống xe, nhìn xung quanh, cảm giác như đã từng tới đây. Lộ Phong Thiền cũng khịt khịt mũi, tôi chợt nhận ra đây là nơi mấy ngày trước đã từng lui tới. Chính nơi đây, con chó phát hiện ra tấm khăn mùi xoa trắng của Triết. Tôi kể lại với anh, anh cũng rất ngạc nhiên.

Tôi có đọc một cuốn sách, nói rằng bất kì sự trùng lặp nào đều không chỉ là sự tình cờ đơn giản. Đằng sau nó còn ẩn chứa những nguyên nhân mà ngay từ thoạt đầu có lẽ chúng tôi không hề hay biết, nhưng càng về sau mới rõ dần. Phải chăng chiếc khăn tay nhặt được trên đường của Triết đã ám chỉ một kết thúc tốt đẹp ngày hôm nay? Tôi nghĩ vậy và tạm biệt anh, dắt chó vào tiệm trà.

Trong tiệm không một bóng người. Tôi rất vui vì linh cảm rằng bố tôi sẽ về trò chuyện ở nơi vắng vẻ. Ông luôn thích những nơi thanh nhã, hồi còn sống và sau khi chết vẫn không khác nhau.

Ngồi xuống một góc gần cửa sổ, tôi gọi một bình trà hoa cúc và mấy đĩa hoa quả khô. Lộ Phong Thiền ngồi bên chân tôi. Cửa sổ mở tung, từng đợt gió man mát nhè nhẹ ùa vào. Thoắt một cái, cảm thấy cuộc sống cũng trơn tru là vậy, như thể chưa hề có chuyện gì xảy ra, không có khe hở, không có gì trái ý, tôi và cơ thể tôi vẫn hoàn mỹ, yên ổn và ung dung như vậy. Mọi gập ghềnh hơn mười ngày qua phảng phất như đã tiêu tan.

Tôi chìm trong tĩnh lặng vài phút, đột nhiên bị móng vuốt của chó khẽ cào cào. Tôi nhìn Lộ Phong Thiền, nó ngáp dài vài cái, mấy sợi râu của nó rung rung, tiếp đó là tiếng nói của bố tôi.

“Bố xin lỗi”, ông nói và vội giải thích, “Hôm nay bố hơi say”.

Tôi không thể tin nổi, cứ tròn mắt nhìn con chó. Mãi lâu sau, tôi mới khẽ hỏi, “Tại sao?”.

“Chẳng tại sao cả. Chỉ vì vui quá thôi”, ông nói. Rồi con chó lại ợ lên, như để tôi tin rằng đúng là ông đã uống rượu. Mùi rượu thoảng bay qua mũi tôi.

Tôi thực sự kinh ngạc, không nhịn nổi cười. “Thật không bố?”. Tôi nỗ lực hết sức ghìm giọng xuống để nhân viên phục vụ không nghe thấy. Một cô nhân viên ăn bận rất lạ mắt đã bắt đầu nhìn về phía tôi. Tôi đành cầm điện thoại lên, giả bộ đặt dưới tai, như thể đang nói chuyện điện thoại với ai đó. Nhưng kì thực, tôi đang nói chuyện với con chó của tôi.

“Vừa uống rượu với bà ngoại Triết…”, bố tôi như hơi tỉnh lại “Vui quá, nhìn thấy con và Triết đã quay lại với nhau êm ả. Không phải, còn thắm thiết hơn trước nữa…”.

“Bà ngoại của Triết?”, đây là lần thứ hai tôi nghe thấy ông nhắc đến bà, “Rốt cuộc là có chuyện gì?”.

“Chà, thế này, thực ra bà ngoại Triết luôn có tác dụng rất lớn trong chuyện yêu đương của con và Triết. Ba năm trước, bọn con quen nhau là do một tay bà sắp đặt. Lúc đó, bố cũng quen bà được vài năm rồi. Còn nhớ hôm đó, bà đột nhiên nói với bố: con gái anh và cháu ngoại tôi đúng là một cặp trời sinh. Rồi sang ngày thứ hai, trong ngày sinh nhật của bạn Triết, con đã quen anh ta và nhanh chóng rơi vào lưới tình. Sau đó, bà đã kể với bố rằng đã mất rời nhiều thời gian điều tra kĩ lưỡng mới phát hiện được con và Triết đúng là một cặp tuyệt tác trời sinh”. Nói tới đây, bố ngừng lại, như thể xem tôi có thái độ gì. Rồi ông nói tiếp: “Mọi chuyện xảy ra giữa con và Triết đều có liên quan tới bà ngoại Triết. Tóm lại, bà ấy là một nhân vật quan trọng, dù cho cả hai đều không cảm thấy”.

Tiếng của bố nghe có vẻ rất đắc ý. Tôi hoàn toàn có thể hiểu được. Nếu đột nhiên tôi được tiết lộ với người khác về thông tin độc nhất vô nhị mang tính bùng nổ này, nhất định tôi cũng có khẩu khí như vậy.

Tất nhiên bạn có thể tượng tượng ra cảnh tôi vô cùng kinh ngạc sau khi nghe bố tôi tiết lộ bí mật. Thì ra là vậy. Nhưng, thực sự như vậy chăng?

Khi nỗi ngờ vực vừa lướt qua đầu tôi, bố tôi lập tức lại an ủi: “Cứ nghĩ xem tại sao con Lộ Phong Thiền lại xuất hiện một cách bí ẩn vào nhà con. Rồi chiếc bật lửa của Triết mà con nhặt được tại quầy bán báo gần chung cư ở Thượng Hải, còn chiếc khăn mùi xoa của Triết rơi trên con đường bên cạnh tiệm trà nữa chứ…”.

Tôi chớp chớp mắt, “Nói vậy lẽ nào cũng đều liên quan tới bà ngoại Triết?”.

“Con phải biết rằng những người như bố dù linh hồn trôi dạt ở một thế giới khác nhưng vẫn có thể làm được rất nhiều vậy, nhiều hơn cả các con tưởng đấy. Chẳng hạn như, chúng ta có thể làm cho một người tình cờ bị rơi đồ hoặc tự nhiên nhớ tới một ai đó, hoặc khiến người ta đột nhiên gọi điện thoại cho một người đang âm thầm chờ đợi. Con đã từng xảy ra chuyện đang nhớ đến ai đó thì đột nhiên người ta gọi điện tới cho con không?”.

Bố tôi không trả lời thẳng câu hỏi của tôi, nhưng tôi nghĩ đáp án sẽ là: đúng thế, bố tôi và bà ngoại Triết ở một thế giới khác đã làm rất nhiều chuyện trong chuyện tình cảm của tôi và Triết, còn nhiều hơn cả sức tưởng tượng của tôi.

“Thôi, nói sang chuyện chính nhé”, bố tôi tiếp tục nói. Giọng ông như thể chuyện chúng tôi vừa nói ban nãy không phải là chuyện chính. Tôi bất mãn chớp chớp mắt.

“Ngày mai con và Triết đi rồi, chặng hành trình này sẽ kết thúc. Cho tới giờ, con thấy ra sao?”. Lúc này giọng bố thật nghiêm nghị, khiến người ta phải nhớ ra bố từng là giáo viên hơn hai mươi năm.

“Cảm giác rất tuyệt”, tôi đáp rất thành thực, “Như thể đã học được rất nhiều kiến thức mà trước đây đã xao lãng. Về tình cảm, về quan hệ giữa con người với con người, về cách đối mặt với hiểm nguy và đưa ra sự lựa chọn đúng đắn…”. Tôi nhìn ra cửa sổ, hướng về con đường vắng tanh không một bóng người, trong khi vẫn giả bộ thì thầm điện thoại. Cô nhân viên phục vụ lại vừa liếc về phía tôi.

“Bố mừng cho con”, bố tôi lại hạ giọng, “Từ đầu chuyến đi, bố có hơi lo, còn nhớ lúc nhỏ con rất ốm yếu, lại được bố mẹ yêu chiều, không khỏi có tính hơi kiêu căng. Sau này dù bố mẹ không ở bên cạnh nữa, nhưng đã có Triết cũng rất yêu thương con, con vẫn là một công chúa Thượng Hải. Lần này từ Thượng Hải tới Xuyên Tây, con đã thực sự nếm không ít cay đắng. Tuy có bố và Lộ Phong Thiền giúp đỡ, nhưng con cũng phải dựa vào chính mình, tin tưởng vào mình và cuối cùng đã chiến thắng chính mình. Chỉ trong mười ngày ngắn ngủi, con đã trưởng thành. Bố kiêu hãnh vì con”.

“Bố…”, giọng tôi có phần nghẹn ngào, “Cám ơn bố”.

“Ngụy, con gái của ta, cuộc đời là một bài học dài, hãy tiếp tục cố gắng nhé”. Rồi bố vội vã nói, “Bố đi đây”.

“Con chào bố”, tôi đáp nhỏ.

Tôi đặt điện thoại xuống, bắt đầu uống trà. Vừa uống được vài ngụm, Lộ Phong Thiền sán lại gần tôi, liếm tay tôi. Tôi ngầm hiểu có thể bố lại quay lại, liền cúi đầu xuống, quả nhiên giọng bố tôi khe khẽ cất lên: “Này, suýt nữa quên không nói, con sắp phát hiện ra mình đang có thai đấy”.

“Cái gì?”, tôi nhảy lên như bị con gì cắn, luống cuống đánh đổ cả tách trà trên tay, làm ướt đẫm quần áo một mảng, cũng may tách trà không vỡ.

Cô phục vụ rốt cuộc cũng tìm được cơ hội lại gần tôi. Cô ta nói tôi không cần lo lắng rồi đưa cho tôi một tập khăn giấy, rồi nỗ lực lau bàn. Tôi chỉ muốn nhanh chóng nối tiếp cuộc trò chuyện với bố tôi. Tôi rất muốn biết thêm nhiều thông tin.

Sau khi nhìn xung quanh, nhanh chóng tìm được toilet, tôi lập tức dắt chó vào theo. Đây là toalet dùng chung cho cả nam và nữ. Tôi khóa cửa lại, ngồi xuống trước mặt Lộ Phong Thiền, hai tay ôm mặt nó. Nó bình thản nhìn tôi.

Tôi cuống lên hỏi: “Bố, lúc nãy bố vừa nói gì?”. Chờ một lát, không thấy trả lời. Tôi cắn móng tay, nhẫn nại ngồi chờ, rồi quyết định rằng bố tôi đã bay rồi.

Ông thoắt ẩn thoắt hiện như làn gió, để lại cho tôi nỗi ngờ vực và hưng phấn vô biên. “Con sắp phát hiện thấy đang mang thai sao?”.

Câu hỏi nghe thật nực cười. Lẽ nào đó cũng là một quyết định đã sắp sẵn? Nếu đúng như vậy, ai thay tôi làm quyết định đó? Bố? Bà ngoại Triết? Hay ông chủ nào trên thiên đường?

Đầu óc tôi hỗn loạn trong bầu không khí không mấy trong sạch ở toalet. Tôi vội vã tới bồn nước rửa tay, vặn vòi nước, khỏa nước lên rửa mặt. Trên tấm gương phản chiếu một gương mặt không thể thấy rõ có biểu hiện gì. Tôi quyết định tự cười mình, rồi đi ra. 

Chẳng mấy chốc, Triết đã quay lại tiệm trà, nói rằng những thứ mua được đều xếp gọn trong xe. Bình đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời sẽ được nhân viên bán hàng dùng xe chuyên dụng chở đến tận trường học ở Đại Trại Thôn, dự tính hôm nay có thể mắc xong. Bữa trưa với Đường Cương cũng đã hẹn sẵn ở một nhà hàng Tứ Xuyên cách đây không xa chừng một tiếng rưỡi đồng hồ nữa. Bây giờ còn thời gian trước khi ăn, tranh thủ đi mua quà cho bố mẹ Triết.

Xem ra tâm trạng Triết rất hưng phấn, kéo tay tôi đi ngay. Tôi vẫn bị tác động bởi câu nói ban nãy của bố, nên nghe Triết nói cứ câu được câu chăng, chỉ tiện miệng dạ vài câu.

“Em sao thế?”, Triết cũng phát hiện thấy tôi khác thường.

“Không có gì”, tôi vội vã đáp, bụng thầm nghĩ không biết Triết sẽ có phản ứng ra sao nếu biết được những điều mà bố vừa nói với tôi?

Nào là bà ngoại anh, nào là mang thai, chắc chắn anh sẽ kinh ngạc tới rơi cả cằm ấy chứ. Tôi không khỏi mỉm cười, nói với anh: “Chúng ta đi thôi”.

Chúng tôi ra khỏi tiệm trà, lái xe qua mấy con phố, lượn đi lượn lại chọn mua quà tặng cho bố mẹ Triết.

Cuối cùng Triết chọn được một cái tẩu khắc hoa để tặng bố và mấy bộ quần áo mùa hè bằng vải bông, một đôi giầy đi núi rất chắc chắn để tặng mẹ. Chúng tôi cùng chọn một số quần áo và một bức Phật bằng ngọc. Nó khá đắt nhưng màu sắc rất đẹp, hình tượng khắc họa rất sinh động, người thợ làm ra ắt hẳn rất tài hoa. Triết nói nhất định mẹ anh sẽ thích. Nhưng quả thực quá đắt, Triết trả phần lớn, nhưng anh không cho tôi nói ra, dặn tôi chỉ nói rằng đây là quà tặng mẹ anh là được.

Tôi khe khẽ nhìn ngắm bức tượng Phật như khẩn cầu, thầm một lời nguyện ước, mong sao mẹ Triết có thể mở lòng với tôi, thực sự chấp nhận tôi như người bạn đời của con trai bà.

Chúng tôi lại mua một số thuốc đông y quí hiếm để tặng cho bố mẹ Triết. Tới giữa đường đi, tôi rất thích một bộ đồ uống trà, liền lập tức mua ngay làm quà tặng cho Đường Cương, và mua thêm một số đồ ăn của chó cho Lộ Phong Thiền. Nhân lúc Triết không chú y, tôi còn chạy vào tiệm thuốc mua que thử thai. Đợi tới tiệm ăn có thể tìm cơ hội đi thử.

Hơn một tiếng đồng hồ mua sắm, quà tặng chất trên xe đã đầy kín như một quả núi nhỏ. Triết nhìn và nói, “Được rồi đấy”.

Tới tiệm ăn, thấy Đường Cương đã ngồi đợi.

Hai ngày chưa gặp, tưởng như nhiều năm chưa gặp lại bạn cũ. Tôi và anh ta ôm nhau rất chặt, rồi ngồi xuống. Đường Cương hỏi sức khỏe của tôi ra sao, tôi đáp đã khá hơn rất nhiều. Anh nhìn Triết rất lâu đầy y nghĩa, rồi lại nhìn tôi, nâng cốc, nói: “Tôi thực sự vui mừng vì hai người. Nào, nâng cốc”.

Bữa cơm hầu như không ai chịu ăn, nhưng uống khá nhiều. Mặc dù sau bữa cơm còn phải lái xe, song Triết vẫn uống không ít. Ngoài bia, chúng tôi còn uống cả loại rượu đặc sản của Đan Ba được làm từ lương thực, gọi là “Tra Tửu”. Trên vò rượu được bịt kín có cắm một ống hút dài, mỗi người uống một ngụm, rồi lấy dao cắt một đoạn ống hút, để người khác dùng hút tiếp. Vị rượu ngọt, nồng độ cũng không cao, nhưng khi uống rất dễ say.

Giữa bữa, tôi đi vào toilet, mang theo cả que thử thai đã mua trộm trước đó, run rẩy làm theo những chỉ dẫn trong giấy hướng dẫn, rồi chờ mấy phút. Trên giấy hằn một đường màu tím. Theo giấy hướng dẫn, nếu có thêm một đường màu tím nữa xuất hiện, đó chính là đã mang thai. Nhưng mãi vẫn không thấy. Tôi kiên nhẫn đợi đủ thời gian mà giấy hướng dẫn yêu cầu, nhưng vẫn không thấy vạch thứ hai xuất hiện. Để xác định đây là một kết quả chính xác, tôi lại đợi thêm một lúc, vẫn chỉ có một vạch.

Tôi vứt que thử vào thùng rác, đẩy cửa đi ra. Trong lòng trào dâng một cảm giác thật khó tả, không rõ thất vọng hay vui sướng.

Khi trở lại bàn, Đường Cương đưa cho tôi ống hút rượu vừa cắt. Họ đã gọi vò rượu thứ hai. Lúc này tôi mới để ý mình vào toilet cũng khá lâu. Triết hỏi tôi: “Em không sao chứ?”.

“Không sao”, tôi mỉm cười lắc đầu và ngậm ống hút, hút một hơi.

Khi bữa trưa vừa kết thúc, tôi thấy mình hơi say, chỉ nhớ trước lúc ra về có lấy bộ uống trà tặng cho Đường Cương. Anh cũng tặng tôi mấy túi thảo dược, và dặn dò kĩ công dụng và cách dùng.

Tôi lơ mơ nhận lấy mấy gói thuốc có mùi kì lạ này, không thể nhớ nổi chúng có tác dụng gì, và chào tạm biệt Đường Cương, dắt Lộ Phong Thiền, theo Triết lên xe. Rồi tôi thiếp đi rất nhanh.

Trung Quốc xưa có câu: “Rượu được gặp tri kỉ, ngàn chén vẫn ít”. Lẽ nào được ngồi uống rượu cùng một người bạn quen nhau bởi cơ duyên như Đường Cương mà lại không say?

Tối đó, trước khi mặt trời xuống núi, Triết đưa tôi tới trường học ở Đại Trại Thôn. Từ xa đã nhìn thấy trên mái nhà đã mắc máy đun nước nóng sử dụng năng lượng mặt trời. Triết và tôi cùng cười. “Anh thật anh hùng!”. Tôi ôm lấy anh, in dấu một nụ hôn lên mặt.

Trác Mã và một đám học sinh đang ngồi quây thành nhóm trên sân. Ở giữa có vài vị khách đáng quí, vài vị hòa thượng Tây Tạng khí chất khác thường.

Trác Mã thấy chúng tôi liền lập tức chạy ra, nụ cười lấp lánh như ráng chiều. “Cám ơn các bạn”, cô nói bằng tiếng phổ thông, chắp hai tay cúi người thi lễ. Chúng tôi cũng chắp tay đáp lại. Rồi cô nhìn lướt về phía các hòa thượng, nói với chúng tôi, “Lại đây, để tôi giới thiệu các bạn”.

Chúng tôi đi tới, hành lễ với các hòa thượng. Trong đó có một vị đeo kính không gọng là Phật sống Li Thố, hai vị đứng bên là tùy tòng của ông. Họ từ chùa Bộ Khoa tới. Hôm nay tới thăm trường tiểu học Đại Trại Thôn theo thông lệ mỗi tháng một lần. Phật sống Li Thố quyên góp giúp đỡ cho các học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Lần này, ông lại mang tới một lô sách, một thùng táo. Nhìn lũ trẻ vừa hát, vừa chơi trò chơi trên sân, tay lại cầm mấy trái táo, những nếp nhăn trên gương mặt ông dưới ánh chiều tà như dãn ra, bừng sáng nụ cười.

Triết cho chuyển hết các thùng loa, bóng rổ, sách vở và quần áo vào văn phòng nhà trường, rồi lại tới kýtúc xá học sinh kiểm tra. Lỗ thủng trên cửa sổ đã được anh mời thợ trong thôn sửa xong sáng nay. Anh thở phào, nom rất hài lòng.

Rồi chúng tôi lại trở lại sân chơi. Trác Mã đến trước đám học sinh, kêu cậu học sinh nhỏ nhất là Đăng Châu biểu diễn một bài hát tặng Phật sống và chúng tôi. Thoạt đầu, cậu bé rất ngượng, nhưng đám bạn xung quanh bắt đầu vỗ tay, kêu to “Đăng Châu, lên đi!”. Cuối cùng, cậu cũng hát, vừa hát vừa nhảy, hai tay xòe lên xòe xuống như một con chim non đang bay, giọng cậu nghe non nớt nhưng khá vang.

Cậu hát một bài dân ca dân tộc Tạng. Triết dịch cho tôi nghe, đại y nội dung như sau: “Quả núi nhỏ như cái lọ bằng vàng, trên núi tuy không có chùa, nhưng phong cảnh đẹp đủ khiến tôi lưu luyến. Tây Hải trong như gương soi, tuy biển không có rồng, nhưng nước biển xanh ngắt khiến rôi mê mẩn. Mặt trời vàng phương Đông tuy đã lấp lánh xuống núi, nhưng hơi ấm của bạn mãi trùm lên người tôi”. Tuy là đứa trẻ mồ côi, nhưng giọng ca của cậu bé không hề mang chút bi thương, trái lại còn khiến người ta thêm hy vọng.

Chúng tôi ra sức vỗ tay khen hay.

Trên đường trở về, chúng tôi đều không nói chuyện. Triết khe khẽ hát lại bài dân ca ban nãy.

Lúc này, mặt trời đã hoàn toàn xuống núi. Bầu trời phía Tây còn giữ lại một cụm mây cuối cùng đẹp rực rỡ.

Đây là đêm cuối cùng của chúng tôi ở Xuyên Tây. Sáng mai, chúng tôi sẽ lên xe về Thành Đô, rồi từ đó bay thẳng về Thượng Hải. Thực ra Triết đang rất nóng ruột. Ngày nào công ty thiết kế của anh cũng gọi điện giục giã về. Đây đang đúng giai đoạn công ty rất bận rộn. Là người hợp tác và là nhà thiết kế chủ chốt, quả thực anh rất khó có thể vắng mặt.

Triết quyết định tạm để chiếc xe Volvo lái từ Thượng Hải ở lại nhà bố mẹ. Rồi sau đó thuê người lái về Thượng Hải. Vì chúng tôi đi máy bay, Lộ Phong Thiền vướng phải một số thủ tục rắc rối về vận chuyển hàng không, đành phải ở lại đây, rồi theo chiếc Volvo về Thượng Hải sau.

Tôi để lại hết số đồ ăn của chó và thuốc men của nó trong một chiếc làn mây. Mẹ Triết đã nhận lời chăm sóc nó. Đây là lần đầu tiên tôi và nó tạm xa nhau, tuy chỉ vài ngày, nhưng cả hai đều thấy rất buồn, bữa tối cũng ăn rất ít.

Sau bữa tối, Triết quyết định là lúc tặng quà cho bố mẹ. Anh dọn bàn ăn sạch sẽ, mời bố mẹ ngồi chờ bên bàn. Rồi cả hai chúng tôi từ trong phòng đi ra, cùng bê đủ các gói to gói bé, lần lượt đặt vào tay bố mẹ Triết. Họ nhận hết, nét mặt lộ vẻ vui sướng.

Cuối cùng, tôi đặt bức tượng Phật bằng ngọc trước mặt mẹ Triết. Quả nằm ngoài sức tưởng tượng của bà. Bà đứng dậy, tỉ mỉ vuốt ve pho tượng, miệng không ngớt phát ra những tiếng than đầy kinh ngạc.

Triết đứng bên nói thầm với tôi: “Đạt được mục đích rồi nhé!”.

Lòng tôi như bừng tỉnh, thấy đã đúng thời cơ liền chắp tay khom lưng làm lễ với mẹ Triết một cái, rồi với bố Triết một cái, thành khẩn nhìn họ, nói: “Thưa bác trai, bác gái, cháu quen Triết đã ba năm qua, xin cám ơn hai bác luôn rộng lượng với cháu. Cháu biết mình chưa hoàn hảo, nhưng tình cảm của cháu đối với Triết là chân thực một trăm phần trăm. Cám ơn hai bác đã sinh thành và nuôi dưỡng anh ấy. Đối với cháu, anh ấy là thứ quí giá nhất”.

Triết đứng bên cạnh, thoắt một cái mặt đỏ bừng. Tuy bố mẹ anh nghe không hiểu tôi nói gì, nhưng từ những biểu hiện của họ, có thể thấy họ đã hiểu được y tứ mà tôi muốn diễn đạt. Triết húng hắng ho một tiếng và bắt đầu hạ giọng dịch lại cho bố mẹ nghe.

Đầu tôi đột nhiên nhảy vọt ra hai chữ và một dấu chấm than: “Vỗ tay!”. Tôi sững người, rồi nhanh chóng hiểu rằng bố tôi đã tranh thủ thời cơ, kịp thời viết hai chữ đó vào đầu tôi. Tôi cũng không khỏi đỏ bừng mặt, cúi đầu nhìn chân mình.

Đột nhiên tôi thấy một bàn chân đi lại về phía tôi, nhìn dép đi ắt phải là mẹ Triết. Rồi tôi cảm thấy hai cánh tay gầy nhưng rắn rỏi ôm chầm lấy tôi, và hơi ấm của mẹ vẫn còn vương mùi bùn đất. Tôi khẽ gọi: “Mẹ!” và cảm thấy từng giọt nước mắt trên mặt mình rơi xuống bờ vai của bà.

Hôm nay là ngày tôi và Triết từ Xuyên Tây quay về Thượng Hải, Lộ Phong Thiền tạm thời ở lại nhà bố mẹ Triết. Tôi đã ghi trong nhật kýnhư vậy.

Sáng nay đột nhiên có mưa, chúng tôi vội vàng ăn bữa sáng rồi từ biệt bố mẹ Triết và con chó, mang theo rất ít hành lí, lên chuyến xe khách tới huyện. Qua lớp cửa kính xe, chúng tôi thấy bố mẹ Triết giương ô đứng đó, Lộ Phong Thiền đứng bên cạnh.

Đúng lúc họ sắp vượt ra khỏi tầm nhìn của chúng tôi, con chó đột nhiên vùng chạy, đuổi theo xe chúng tôi. Trong mưa, lông nó ướt sũng, bết lại từng mảng trên người. Nhưng chiếc xe phóng nhanh dần, rốt cuộc cũng không thấy bóng dáng con chó đâu nữa.

Lúc này mưa ngày càng to, tôi rất nhớ Lộ Phong Thiền, không khỏi đau lòng, co rúm lại trong vòng ôm ấm áp của Triết. 

Chương 15

TRỞ VỀ

Thượng Hải vẫn vậy, như một con tàu vũ trụ chìm trong đám bong bóng vui vẻ, hào hoa, phức tạp và mê hồn. Vào lúc máy bay hạ cánh xuống sân bay quốc tế Phố Đông, Thượng Hải, trên loa phát thanh bắt đầu mở một khúc nhạc Jazz. Nghe nói Thượng Hải và New York là hai thành phố trên thế giới có không khí nhạc Jazz nhất thế giới. Về điểm này, tôi không dám chắc, nhưng tôi có thể thầm nghe thấy tiếng nhạc Jazz không ngừng bay lơ lửng trên không trung của thành phố này-nơi tôi sinh ra và lớn lên, cũng giống như vô vàn những linh hồn phiêu động bất an bởi dục vọng dày vò.

Khoảng khắc đầu tiên vừa từ máy bay xuống là bầu không khí ẩm ướt nhưng cũng rất khô xộc thẳng vào phổi. Tôi như bị đánh khẽ một cú, có phần không thích nghi lắm.

Triết kéo tay tôi lên chiếc xe bus hàng không, rồi suốt chặng đường phải xuyên qua những đám người nhốn nháo trên đường, tới cổng sân bay. Thấy ngay Tiểu Lâm-thư kýcủa Triết- và tài xế đang chờ phía trước. Sau lưng họ là một chiếc xe Benz mới tinh. Tiểu Lâm xúc động vẫy tay với chúng tôi, rồi chạy tới xách hộ túi hành ýcủa Triết, dẫn chúng tôi lên xe.

Vừa vào xe, Triết đã bắt đầu vào ngay trạng thái công việc, cùng Tiểu Lâm bàn chuyện công ty. Tôi mở điện thoại di động đã tắt suốt hai, ba ngày qua, thấy một số tin nhắn của dì Lí, của Sa, một nhà thiết kế họ Trương của tiệm và một phóng viên thân thiết. Tôi vội vã đọc một lượt, đều là tin nhắn hỏi thăm hoặc hẹn đi ăn, không có việc gì lớn. Tôi lại tắt máy, vẫn cần một ít thời gian mới có thể thực sự từ chuyến đi vừa kết thúc để quay về thành phố mà tôi từng quen thuộc nhưng ngày nay đã trở nên hơi xa lạ này.

Nhìn những hàng cây xanh, hoa lá, những biển quảng cáo to đùng vụt lướt nhanh qua cửa xe, hút thở bầu không khí ô nhiễm, cứ xuyên qua mãi cầu Lư Phố, lên cao tốc Nam Bắc lại tới đường cao tốc Diên An, rồi tới khu phố quen thuộc gần nhà tôi. Nhìn thấy siêu thị tôi vẫn thường đi, tiệm hoa, tiệm hoa quả, quầy bán báo… tất cả đều lướt qua, một con phố thanh nhã, đầy hơi hướng văn minh. Lúc này, tôi không khỏi nghĩ, thứ khiến tôi nhung nhớ nhất ở Thượng Hải có thể chỉ là chiếc bồn cầu giật nước sạch sẽ và các tiệm tiệm hóa 24/7.

Tới trước chung cư chúng tôi ở, Triết và tôi xuống xe, giúp tôi mang hành ýlên gác. Anh rút chìa khóa ra, mở cửa nhưng không vào, hôn lên má tôi trước cửa và nói, “Một lát nữa, anh sẽ gọi điện cho em”, rồi hối hả chạy xuống cầu thang, mất hút.

Tôi xách hành ývào nhà, rồi dùng chân đạp mạnh, nghe thấy tiếng “sầm” một cái cửa đã đóng lại phía sau. Tôi vặn eo, vứt túi lên chiếc ghế sô pha to dễ chịu, rồi quăng vội luôn người lên đó, thoắt một cái đã chìm xuống đại dương gia đình. Thật tuyệt, cảm giác quay về nhà…

Ngẩng đầu lên nhìn thấy tấm hình chụp chung giữa tôi và Triết ở Venice đóng trên tường trước khi đi, tôi ngoạc một nụ cười lớn đầy thắng lợi, lấy tay làm thành hình chữ V đảo qua đảo lại trước hình Triết.

Hôm nay là ngày thứ hai tôi và Triết về Thượng Hải, tôi đã viết trong nhật kýnhư vậy.

Hôm nay, tôi dậy rất muộn, lúc tỉnh dậy, Triết đã đi làm. Trên chiếc gối của anh có để lại một mảnh giấy, viết rằng “sữa đậu nành và trứng gà ở trên bàn, trong tủ lạnh có salad hoa quả”, bên dưới anh vẽ những thứ đó như nét vẽ của đứa trẻ lên ba.

Tôi không nhịn nổi cười, nhưng một lúc sau, mắt tôi đã dần mọng nước. Tôi úp chặt mảnh giấy vào ngực, nơi đó là trái tim. Nửa tháng trước cũng trên cái gối này cũng là một mảnh giấy anh viết, nhưng nội dung trên đó khiến tôi thoắt một cái như rơi vào hố băng và bước vào cuộc hành trình dằng dặc tìm kiếm anh. Giờ đây sau khi trải qua bao hiểm nguy khó khăn, chúng tôi đã tìm lại nhau, tất cả vẫn như vậy, tôi và Triết như một cặp sinh đội, như chưa từng chia lìa.

Tôi đi ra khỏi phòng ngủ, đầu tiên phát hiện thấy sữa đậu nành và trứng gà, rồi tìm được salad hoa quả trong tủ lạnh ở bếp. Tôi lấy salad ra đặt trên bàn, rồi vẫn mặc quần áo ngủ, tôi ngồi xuống bên cạnh, bắt đầu ăn bữa sáng đầu tiên sau khi quay về Thượng Hải. Nhấm nháp từng miếng, cảm giác hạnh phúc một lần nữa lại in dấu trên đầu lưỡi.

Ánh nắng ngoài cửa sổ thật đẹp, cây ngô đồng Pháp là đặc trưng vốn có ở Thượng Hải đã lớn, cành lá rậm rạp. Chim bồ câu nuôi của hộ nào đó trên phố đang lượn vòng vòng phía trên. Âm thanh của xe cộ huyên náo trên đường chứng tỏ một ngày mới bận rộn đã bắt đầu.

Tôi vươn vai, đứng dậy khỏi bàn ăn, cầm cái đĩa rếch vào bếp, rồi đi vào buồng tắm bước vào bồn, vặn nước.

Sau khi ra khỏi buồng tắm, tôi buộc tóc lại, búi cao ở phía sau, rồi thay một chiếc váy màu xanh nhạt, đi đôi giầy đầu nhọn màu sữa hiệu Ferragamo, nhanh như chớp mở cửa xuống lầu.

Ra tới bên ngoài, đầu hè như nụ hồng vừa hé, không khí tỏa mùi thơm kích thích nhưng cũng hơi đè nén. Trên đường, tôi sải từng bước dài nhẹ nhõm, khi lướt qua những người lạ, tôi luôn gửi tặng một nụ cười. Khi một người đang vui vẻ, anh ta sẽ làm như vậy.

Tới tiệm thời trang, tôi nhìn thấy dì Lý đang bận rộn nơi quầy thu ngân. Cánh cửa kính mở toang, tôi đứng trước cửa, cười hi hi gõ vào cánh cửa. Vừa ngẩng đầu lên nhìn thấy tôi, dì ýlập tức chạy tới.

“Rốt cuộc cô đã về”, dì Lý nắm chặt tay tôi, nói lớn.

Hai cô nhân viên trong tiệm cũng chạy tới, hỏi thăm. Tôi vỗ vai họ, nói: “Suốt thời gian qua, mọi người vất vả quá!”.

“Vất vả cũng không sao, cô có thể bình an trở về là tốt rồi”, dì Lý nói và kéo tôi tới bên quầy thu ngân.

“Dì đang ghi lại các khoản tháng này sao?”, tôi nhìn tập hóa đơn trên quầy.

“Ừ, tình hình tháng này của tiệm rất tốt, nhất là các trang phục do Sa thiết kế bán rất chạy”, dì Lý nói với vẻ mãn nguyện, đưa cho tôi tập hóa đơn. Tôi nhận lấy, ngồi xuống chiếc sa lông bên cạnh, bắt đầu lật giở xem. Dì đi vào phòng trong pha trà cho tôi. Tôi đảo mắt nhìn quanh tiệm, mọi thứ vẫn như cũ, chỉ có điều trên giá sách có nhiều quần áo mùa hè mới.

Tôi đứng dậy, tiến lại gần chỗ trang phục mới, mở từng món ra xem. Đang xem, đột nhiên thấy xung quanh như thiếu cái gì, thì ra là giàn loa thùng. Đúng vậy, không có âm nhạc. Tôi rút cái đĩa “Tiệm bar Phật” trong đống CD ở ngăn kéo, nhét vào đầu đũa. Âm thanh nhẹ nhàng nổi lên. Tôi không khỏi thích thú, nhảy một bước.

Dì Lý bưng trà ra, nhìn thấy cười vui vẻ. Dì khổ tâm tận tụy với tiệm này đã nhiều năm, gắn bó với tôi như một người mẹ, lại thân thiết như một người bạn tri âm. Những lúc tôi vui, dì cũng vui vì tôi. Những lúc tôi buồn, dì cũng buồn theo tôi.

Tôi đón tách trà từ tay dì, nói lời cảm tạ. Dì lặng lẽ ngắm tôi uống trà, một lúc sau, nói, “Cô Ngụy, cô gầy đi nhiều đấy. Hẳn bên ngoài rất vất vả”.

Tôi nói đùa: “Từ trước tới giờ mãi không giảm béo được, nhưng giờ đã làm được rồi. Tôi còn chưa kịp vui mừng nữa”.

Dì lắc đầu, “Cô không nói ra, tôi cũng có thể đoán được suốt chặng đường đi không hề dễ dàng”. Nói tới đây, dì đột nhiên nhớ ra điều gì: “Đúng rồi, cách đây không lâu mẹ cô gọi tới xin số điện thoại. Tôi đã cho rồi”.

“Biết rồi”, tôi đáp.

Lúc này có khách vào, dì vội quay ra đón, tôi lại ngồi trên sa lông, xem các hóa đơn bán hàng. Đúng như dì lý nói, tình hình kinh doanh của tháng này thật tuyệt, các đồ thiết kế của Sa bán rất chạy.

Điện thoại tôi chợt reo, nhìn số đúng là của Sa gọi tới. “Cuối cùng cậu cũng về rồi”, nghe giọng cô ta thật vui sướng, “Chiều nay cùng đi uống cà phê nhé!”, Sa đề nghị, “Nhân tiện làm quen với bạn trai mới của mình”. Tôi giật mình, rồi nhanh chóng nhận lời.

Tìm được tiệm cà phê mà Sa nói qua điện thoại, hình như là tiệm mới mở. Bên trong, mọi thứ đều sáng rực rỡ, còn tỏa ra mùi nội thất mới. Có lúc thầm nghĩ trong một ngày Thượng hải có thể có hàng ngàn cửa tiệm đóng cửa và đồng thời cũng có hàng ngàn cửa tiệm mọc lên như nấm sau cơn mưa. Có lúc tôi thấy thành phố này chạy rất nhanh, rất điên rồ.

Chả mấy chốc, Sa xuất hiện, tay trong tay với một thanh niên cao lớn đẹp trai. Tôi đứng dậy ôm lấy cô. Cô nhìn tôi khắp lượt, tôi cũng nhìn cô khắp lượt. “Đẹp lắm!”, không hẹn mà gặp chúng tôi đều thốt lên như vậy và cùng phá lên cười.

Cô giới thiệu cho tôi chàng trai nom rõ ràng trẻ hơn cô. Anh ta tên là Jack, là một nhà thiết kế phần mềm của một công ty mạng. Tôi không tài nào ýgiải được tại sao một chàng trai trẻ Trung Quốc lại lấy tên tiếng Anh. Phần lớn thế hệ trẻ Trung Quốc đều không thích dùng tên tiếng Trung, cứ thay hết bằng tên tiếng Anh. Nhưng nếu so ra, đám thanh niên phương Tây nói tiếng Anh cũng không có mấy người có tên tiếng Trung. Nhưng giờ đây, khắp các thành phố lớn như Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu đều có không ít các công ty yêu cầu nhân viên phải có tên tiếng Anh. Ngay cả một lô các cô gái mát xa từ nông thôn tới Thượng Hải làm thuê trong tiệm Spa mà tôi thường tới cũng có những tên tiếng Anh nghe rất kì quái, mặc dù tiếng phổ thông cũng chưa nói sõi. Nhưng khi tôi nằm ở đó, đột nhiên muốn nói chuyện dăm câu, thường không thể gọi nổi tên của họ, là Jasmine, Ginger hay Cecile nhỉ? Nhưng so với tên mà bố mẹ họ đặt ở quê nhà từ nhỏ quả nhiên hay hơn rất nhiều. Đó là một trong những vấn đề rất nhỏ nhưng cũng khiến người ta dễ bực mình sau khi Trung Quốc mở cửa với phương Tây.

Vừa ngồi xuống, Sa đã vội vã hỏi thăm tình hình hiện giờ giữa tôi và Triết. Tôi giơ tay ra hiệu chữ V chiến thắng.

Cô lập tức cười lớn, “Mình đoán là kết cục sẽ như vậy mà. Một cô gái vượt ngàn dặm tìm bạn trai như cậu, đúng là cảm động cả trời đất, sao mà không thành công cơ chứ?”.

Cô ta cười rũ rượi, bắn cả nước bọt lên mặt tôi. Rồi cô ta ngừng lại, chân thành nói: “Mình dám cá là hai cậu sắp có tin mừng đấy, cứ đợi xem”.

Tôi nói, “Nhờ phúc của cậu thôi”.

Nhân viên bưng nước uống lên. Tôi và Sa bắt đầu nói chuyện làm ăn. Giờ đây do tên tuổi của cô đã nổi tiếng nên nhiều siêu thị lớn cũng bắt đầu mời nhập hàng của cô. Cô đang tính chuyện chấp thuận, tuy nhiên vẫn để lại một số để tiêu thụ ở cửa tiệm tôi và chúng sẽ là những sản phẩm mới, hiện đại hơn. Vì cửa tiệm tôi luôn có các vị khách khác người, ăn bận rất kì quái thường lui tới.

Sau khi bàn chuyện làm ăn một lúc, do không muốn để cậu bạn trai ngồi lạc lõng, Sa liền chuyển đề tài, kể về một bữa tiệc mà cô và Jack vừa tham dự tối qua do LV tổ chức. Đó là một bữa tiệc tập trung rất nhiều ngôi sao, cô nói, giọng đầy tự hào.

Từ một nhà thiết kế vô danh, chỉ sau một đêm được nhận giải thưởng, cô đã có địa vị xã hội và sự giao tiếp xã hội cũng mở rộng hơn, kinh doanh thành công. Tất cả điều này đều tác động tới cuộc sống của Sa. Tôi hoàn toàn có thể ýgiải được. Nhưng sau đó cô nói tên một số ngôi sao, những loại sâm banh đắt tiền và thứ nhạc tuyệt diệu, tôi không hề thấy hứng thú.

Sa cũng nhận thấy tôi không thích thú nên ngừng lại, nhìn tôi và quả quyết tôi đã mắc phải “chứng bệnh khác biệt giữa thành thị và nông thôn” mà ngày nay bắt gặp ngày càng nhiều. Do được chứng kiến nhiều chuyện ở nông thôn và ở các thị trấn nhỏ nên nhất thời sẽ nảy sinh cảm giác xa lạ và lạnh lẽo với Thượng Hải. Tôi không bình luận, chỉ nhìn Jack ngồi yên tĩnh như một quái nhân khoa học, lại nhìn Sa đang rất đắc y, tôi không khỏi ngạc nhiên hỏi: “Hai người quen nhau ra sao?”.

Họ nhìn nhau một lúc, rồi Sa thụi vào eo của bạn trai: “Anh nói đi”.

Jack đỏ mặt, một lát sau mới lắp bắp kể ra quá trình quen nhau. Đại khái như sau: Họ vô tình quen nhau trên một trang web kết bạn. Jack có nick là “Đạn nguyên tử” và Sa có nick là “Miếng cá sống”. Hai người trò chuyện qua lại với nhau khá lâu, trao đổi hình cho nhau và hai tiếng sau, họ rơi vào lưới tình. Ngày thứ hai, họ hẹn hò nhau ở tiệm Pizza Hut. Tối hôm đó…. Tôi nghe xong, cũng không lấy làm ngạc nhiên về tốc độ phát triển nhanh chóng trong chuyện tình cảm của họ. Vì những chuyện yêu đương trên mạng như vậy luôn đầy rẫy trên báo chí, truyền hình. Tôi cũng không ngạc nhiên khi họ hẹn hò nhau ở tiệm Pizza Hut. Nhưng cũng không hiểu sao người Thượng Hải lại mê Pizza Hut đến vậy.

Những nét biểu hiện trên gương mặt tôi khiến Sa hơi thất vọng. Một lần nữa, cô lại khẳng định tôi đúng là mắc chứng “bệnh khác biệt giữa thành thị và nông thôn”.

“Vẫn chưa hồi phục lại”, tôi thanh minh, quả thực những mệt mỏi trên chuyến đi vẫn còn để lại một phần trên cơ thể tôi.

Cô lắc đầu, thấy tôi hiện nay đã hết thuốc chữa, trở thành một người không còn yêu thích thành phố.

Một lúc sau, Triết gọi điện, hẹn tôi ăn tối ở tiệm, tôi nhận lời.

Trước khi chia tay, khi đứng trước cửa tiệm cà phê, đột nhiên Sa kéo tôi sang một bên đầy bí ẩn. “Vệ này”, cô chân thành nói, “Cậu nên kiểm tra lại sức khỏe, sắc mặt cậu rất kém, mặc dù cậu vẫn đẹp”. Cô ôm lấy tôi, rồi buông ra, nháy nháy mắt, kéo tay anh bạn trai mới cùng đi.

Tôi không hiểu Sa muốn nói gì. Tôi đứng ở đó một lúc, nhìn theo bóng họ, rồi quay người, đi về hướng khác. Nhớ lại câu Sa vừa nói, tôi bất giác đưa tay lên sờ mặt mình, lắc đầu, quyết định quên hết những gì cô vừa nói. Lúc này bên đường lại xuất hiện một tiệm thuốc, tôi nhìn tấm bảng hiệu to đùng, ngần ngừ một lúc rồi đi vào.

Cô nhân viên có gương mặt tròn trịa nhiệt tình bước tới hỏi tôi cần gì. Đầu óc tôi trống rỗng, nhất thời không thể trả lời nổi, vội vã lướt nhìn các kệ bán đồ sinh hoạt tình dục, rồi ngừng lại ở que thử thai. Tôi chỉ tay, “Cần cái này”.

Ra khỏi tiệm thuốc, tôi vẫy tay gọi một chiếc taxi, nói địa điểm cần đến.

Triết đã đợi sẵn ở một góc nhà hàng, gương mặt rất mệt mỏi. Từ Xuyên Tây quay về Thượng Hải, anh bận không ngớt. Tối qua, anh ở lại văn phòng tới hai giờ sáng mới về.

Thấy tôi, anh vẫy tay. “Hôm nay em đẹp quá!”, anh nói khi tôi lại gần, và ôm chầm lấy tôi. Tôi nhớ lại ban nãy từ tiệm cà phê đi ra, Sa kêu sắc mặt tôi rất kém, thật không biết nên tin lời bình phẩm của ai. Nhưng trong túi đã có sẵn thứ mà tôi cần, đợi xem kết quả ra sao.

Chúng tôi gọi mấy món đơn giản, yên tĩnh ngồi ăn và trò chuyện về công việc ở tiệm và ở văn phòng của Triết. Tôi kể về bạn trai mới của Sa mới quen trên mạng, Triết chỉ “Ừ” một tiếng. Anh có phần bảo thủ, luôn có thái độ ngờ vực về mối quan hệ trên mạng dù ngày nay đang phát triển như vũ bão ở Trung Quốc.

Triết đổi đề tài, khoe là đã tìm được người tin cậy lái chiếc Volvo của anh từ Xuyên Tây về Thượng Hải, Lộ Phong Thiền sẽ theo xe về, ngày mai sẽ tới nơi. “Đó là một tin tốt”, tôi rất vui mừng, vừa nghĩ tới con chó không được gặp hai ngày qua, lòng tôi lại trào lên một cảm giác ấm áp. 

Về nhà, tôi vẫn nhớ tới que thử thai cất kỹ trong túi, liền vội vã vào luôn phòng tắm, không kịp cởi giầy.

Tôi cẩn thận rỏ một ít nước tiểu lên que thử, để nó dựng lên trên nắp bồn cầu. Tôi kiên nhẫn rửa tay, ngắm nghía mình trong gương, thấy mình vẫn bình thường, vẫn đẹp không có gì quá mức, và cũng không hề lộ “sắc mặt rất tệ” như Sa nói.

Mấy phút trôi qua, tôi quay ra nhìn que thử. Chưa kịp đụng tới, cả người tôi đã run lẩy bẩy, sững lại vài giây. Cuối cùng tôi cũng cầm được que thử trên tay, tìm chỗ có sáng đèn để quan sát.

Tôi nhìn không chớp mắt hai vạch màu đỏ tím trên que thử, một tay kia túm chặt lấy tờ giấy hướng dẫn thử thai, mãi cho đến khi tôi phải xác định hàng ngàn lần-tôi đã thực sự có thai.

Lúc này, Triết đứng ngoài cửa gọi to: “Vệ baby, em không sao chứ?”. Tôi không dám đáp, như thể sợ lên tiếng sẽ làm kinh động thiên sứ bé bỏng mà tôi không nhìn thấy nhưng thực sự đã tồn tại, tôi sợ nó sẽ bỏ đi mất. Tôi không biết nó là trai hay gái, nhưng biết rõ đã có một sinh mạng trong người tôi. Nó đã bị thuật luyện kim và lời chú thần bí hiệu triệu, đã lặng lẽ đi vào đây, sinh rễ bám chồi. Đúng vậy, đúng như vậy.

Hôm nay là ngày thứ ba tôi và Triết về Thượng Hải. Sáng nay, tôi đã báo với anh rằng tôi có thai. Tôi đã viết như vậy trong nhật kí.

Sáng sớm hôm nay, vừa mở mắt, tôi thấy đầu óc cực kỳ tỉnh táo, như thể chưa từng ngủ tí nào. Không nhớ tối qua tôi lên giường bằng cách nào, cũng không nhớ rõ có nằm mơ hay không, nhưng có một chuyện mà hầu như suốt đêm tôi cứ canh cánh trong lòng. Tôi nhìn trần nhà và suy nghĩ, trong đầu xẹt ra hai từ “có thai”. Đúng vậy, chính là chuyện này. Lúc nãy rõ ràng là bố đang nhắc tôi.

Tôi thầm cám ơn bố dù đang vô hình trong không gian. Lời dự đoán của ông quả đã thành hiện thực.

Cạnh tôi có tiếng động, Triết cũng tỉnh giấc. Anh luôn có thói quen chìa cánh tay trái ra lôi tôi vào lòng. Tôi khẽ cuộn người nằm im trong lòng anh, mãi một lúc sau, tôi mới ghé sát tai anh: “Anh sắp được làm bố”. Tôi khẽ nói.

Nín thở hồi lâu, không gian như đông cứng lại. Tiếng dương cầm như từ trên trời vọng xuống chợt thánh thót, dịu dàng lay động trái tim chúng tôi, ùa vào cơ thể chúng tôi. Nó khiến thứ gì đó trong mắt chúng tôi trở nên ướt và sáng hơn.

Hai tay anh khẽ nâng gương mặt tôi, đặt lên môi tôi một nụ hơn ẩm ướt và nồng nàn như cá gặp nước. “Chúc mừng em, bà mẹ yêu!”. Giọng anh hơi run run, mắt anh bắt đầu ửng đỏ. Nom anh thật căng thẳng và ngượng ngùng, nhưng lại cố nhịn không muốn bật khóc. Có lẽ khi được báo mình sắp làm bố, đàn ông thực sự trở thành đàn ông.

Nhanh như cắt, Triết nhảy phóc xuống giường, chạy vào bếp chuẩn bị bữa sáng cho tôi. Tôi vẫn nằm trên giường, lười nhác không muốn động đậy, mãi đến khi anh bưng khay bữa sáng đầy những món mà tôi yêu thích.

Anh hôn tôi rất mãnh liệt: “Vệ baby, anh phải đi đây. Nhớ là từ nay, em nhất định phải ăn nhiều uống nhiều vì con trai của chúng ta”. Tôi nóng bừng, kêu to sau lưng anh đang vội vã đi ra: “Làm sao anh biết được nhất định là con trai?”.

Suốt buổi sáng, tôi ở nhà, chậm rãi thu dọn tủ quần áo, giày dép, giá sách, giá CD. Tôi mất nhiều thời gian nhất trước tủ quần áo, lấy ra một số bộ đồ bó sát người, trong đó có khá nhiều bộ hàng hiệu tôi chưa từng mặc, vẫn còn treo nhãn. Tôi cũng không thể giải thích nổi về sự xa hoa phung phí trước đây của mình.

Tôi gấp gọn số quần áo này, nhét vào một chiếc túi xách lớn, chuẩn bị khi ra tiệm tặng cho hai cô nhân viên trẻ. Họ từ nông thôn lên, phần lớn tiền lương hàng tháng đều gửi về quê cho bố mẹ, nên tiêu pha hàng ngày rất tiết kiệm, quần áo luôn mặc đi mặc lại vài bộ.

Sau khi làm xong mọi việc, tôi ngồi trên sa lông nghỉ ngơi, muốn đọc sách nhưng không hiểu sao không thể đọc nổi, cũng không có hứng thú làm gì. Tôi đi lại trong phòng bất an, không ngừng nhìn đồng hồ trên tường, thử tính xem còn bao lâu thì Lộ Phong Thiền có thể tới nơi. Cuối cùng, tôi ngủ thiếp đi trên sa lông lúc nào không hay.

Một hồi chuông điện thoại khiến tôi choàng tỉnh, nhưng ngay lập tức không thể mở nổi mắt. Tôi thò tay mò mẫm hồi lâu, cuối cùng mới tìm được điện thoại. Triết gọi tới, thông báo Lộ Phong Thiền đã ở Thượng Hải, còn mấy giây nữa sẽ có mặt ở nhà. Tôi lập tức tỉnh ngay, đứng dậy, phát hiện thấy mình vẫn đang mặc đồ ngủ, liền vào phòng thay quần áo.

Không bao lâu, chuông cửa vang lên. Tôi mở cửa, trước mặt là lái xe và Lộ Phong Thiền.

Tôi cám ơn anh tài đã vất vả lái xe từ Xuyên Tây tới Thượng Hải, rồi cho anh ta không ít tiền thưởng. Thoạt đầu, anh ta nhất định không chịu nhận, nói rằng Triết đã trả tiền. Mãi tới khi tôi nói đây là luật lệ ở Thượng Hải, anh ta mới chịu nhận với nụ cười sung sướng, liên mồm nói, “Thật ngại quá”. Ở quê anh, tuy du khách tới ngày càng nhiều nhưng hiện giờ vẫn chưa có thói quen thưởng thêm.

Anh ta tạm biệt ra về, tôi dắt chó vào nhà. Vừa đóng cửa lại, tôi ôm chầm lấy nó, “vui mừng đã quay về nhà”, tôi thì thầm và ôm nó vào lòng.

“Nó khát nước lắm”, giọng bố tôi vang lên. Vì đang ở nhà tôi, ông không ngại gì. Lần đầu tiên nghe thấy ông lớn tiếng nói chuyện, trong nhà lại hơi có tiếng vọng, tôi không khỏi hơi giật mình.

“Vâng, thưa bố. Con sẽ cho nó uống nước ngay”. Tôi mỉm cười, nháy mắt với con chó và đi lấy nước.

Vừa nhìn nó thè lưỡi uống nước ừng ực, tôi không nhịn nổi, mách với bố rằng, lời tiên đoán của bố đã ứng nghiệm.

“Bố biết, chúc mừng con. Con gái của ta! Bố sắp được làm ông ngoại rồi”. Bố nói nhanh, “Đây là món quà ông trời tặng con. Con đã đi qua một chặng đường gian khổ nhưng nhiều màu sắc. Con đáng được hưởng như vậy”. Câu cuối cùng, bố nói bằng tiếng Anh, tôi vô cùng kinh ngạc. Ông cũng nhận ra phản ứng của tôi, liền giải thích rằng mấy ngày qua, ông bắt đầu học tiếng Anh”.

“Con cứ ngỡ rằng trong thế giới đó, không cần phải học bất kì ngôn ngữ chuyên ngành nào nữa. Tất cả đều được cảm nhận từ tâm linh”, tôi nghi ngờ nói. Lúc này Lộ Phong Thiền đã uống xong nước, bắt đầu ngồi bên cạnh chân tôi, nhiệt tình liếm gót chân, ngửi đi ngửi lại cái dép lê của tôi.

“Thực ra”, bố húng hắng ho. Tôi chú y mỗi cách nói khi bố cần đính chính lại điều gì, bố đều ho một tiếng. Đó là thói quen mới được hình thành từ khi bố về thế giới bên kia. Bố tiếp tục nói: “Trong mỗi khoảnh khắc, tụi bố có thể hiểu y nghĩa của bất kì ai khi họ dùng bất kì ngôn ngữ nào, không hạn chế về quốc gia, ngôn ngữ, giữa thế giới này với thế giới kia. Nhưng học tập rốt cuộc vẫn là một niềm hạnh phúc. Hơn nữa cách giết thời gian ở đây không có nhiều như ở thế giới của chúng ta. Nói rõ hơn là ở đây, tụi bố về cơ bản không có thời gian”.

Nói tới đây, ông im lặng, như gặp điều gì buồn rầu, nhưng rồi ngay sau đó, ông quyết định phải vui mừng. “Bố rất thích cách phát âm tiếng Anh, mặc dù nghe không hay bằng tiếng phổ thông và tiếng Thượng Hải. Nhưng nó có cảm giác ngoại quốc rất lạ. Đúng, trong tiếng Anh gọi từ đó là “exotic”. Ông thử dạy tôi.

“Con biết”, tôi cười thầm. Nhìn thấy bố tôi vui vẻ như vậy, tôi liền hỏi mấy ngày qua bà ngoại Triết có khỏe không?

“Rất khỏe!”, bố tôi đáp, “Đang có kế hoạch mở một bữa tiệc lớn”.

Tôi tò mò: “Một bữa tiệc ra sao?”.

“Có tất cả mọi thứ, hát hò, khiêu vũ, uống rượu, làm quen, trò chuyện về nghệ thuật, triết học, chiến tranh, chính trị… Nhưng bà ngoại Triết thích nhất là chuyện mai mối cho người khác. Bà ấy là một bà mối chuyên nghiệp. Chuyện của con và Triết chẳng phải do bà ấy xe duyên đắp cầu nên đó sao?”.

Nói tới đây, tôi lại được hiểu thêm về bà ngoại bí ẩn của Triết. “Trước khi làm mối, hẳn bà phải điều tra nghiên cứu kĩ chứ? Nếu phối ngẫu nhầm sẽ khiến người ta không chấp nhận đâu”.

“Nhưng, cũng có khi, họ cố tình làm mối nhầm. Đó là một bài học tất yếu để người ta phải học cách trưởng thành. Đó cũng là nhân quả kiếp trước của người đó định ra”. Bố tôi nói bằng giọng nghiêm khắc, một lần nữa giúp tôi nhớ rằng ông từng là một giáo viên.

“Con hiểu”, tôi gật đầu, “Để Triết rời bỏ con, sau đó con theo anh ta tới Tứ Xuyên, bao gồm cả những việc con đã gặp trên đường. Những chuyện đó cũng đều được sắp xếp phải không?”

“Đúng vậy”, bố nói.

“Bố quen với bà ngoại Triết như thế nào?”, thực ra tôi rất muốn hỏi câu này từ lâu.

“Tụi bố quen nhau trước khi con quen Triết. Tất nhiên là ở bữa tiệc sinh nhật của bà. Đó là người thích tổ chức sinh nhật nhất mà bố từng gặp”.

“Tại sao lại chọn con và Triết?”, tôi hỏi dồn.

“Cái này…”, bố có phần hơi mất lúng túng. Từ khi được trò chuyện lại cùng bố, ấn tượng của tôi là linh hồn ở một thế giới khác có phần kì quái. Có lúc, họ rất rảnh rỗi thao thao bất tuyệt với bạn rất lâu. Nhưng khi họ cảm thấy cần phải đi liền lập tức biến mất chỉ trong nửa giây. Bất kể bạn còn nhiều câu hỏi ngờ vực trong lòng, họ cứ đi mất hút, khiến bạn cứ ngắc ngứ mãi trong cổ họng, nuốt xuống không trôi.

Nhưng may mà bố tôi vẫn tiếp tục nói, “ Con và Triết đều được chọn thành một đôi vì đó là do karma (nghiệp chướng) của các con quyết định. Đồng thời, chúng ta cũng thấy các con rất đẹp đôi, nếu không tranh thủ tác thành cho hai con ở bên nhau thì quá tiếc. Cần phải biết là các con vốn dự định một năm nữa mới có con”. Nói tới đây, bố tôi không khỏi bất giác cười hi hi, như thể rất tự hào về tác dụng của ông và bà ngoại Triết đối với quan hệ của chúng tôi.

“Karma là chúa tể tuyệt đối quyết định nên vạn vật trên thế giới. Nó giống như một tấm lưới bắt bướm dầy đặc kết trong vũ trị. Con không thể chạy thoát. Song, các linh hồn ở một thế giới khác như chúng ta có thể làm được, có thể đẩy câu chuyện xảy ra sớm hơn hoặc muộn hơn, cũng có thể thay đổi cách thức xảy ra câu chuyện. Tuy nhiên, tuyến chủ đạo của câu chuyện vẫn không đổi”, bố giải thích khá rõ ràng.

Lúc này, Lộ Phong Thiền nằm bên salông như đang lơ mơ ngủ. Tôi kết luận hơi thất vọng: “Vậy, nói như bố, chúng con dù làm gì cũng không thể thay đổi được số mệnh do nhân quả mang tới?”.

“Không phải, không phải”, bố cắt lời, “Con người có thể thông qua những tu luyện về tinh thần lúc thường nhật để thay đổi nhân quả. Từ đó thay đổi cuộc sống của mình. Thôi, bố đi đây”.

“Đợi đã, bố, con vẫn muốn biết chuyện có thai sẽ có tác động ra sao đối với quan hệ giữa con và Triết? Xin bố đấy”. Tôi khẩn cầu.

“Con và Triết đều rõ cả”, bố đáp quả quyết.

“Chưa chắc”.

“Vậy tối nay con sẽ biết”, bố rốt cuộc đã đi.

Lời của bố thật chí lí. Tối nay, tôi sẽ được biết đáp án mà tôi muốn biết. Triết về nhà khá sớm, mang theo một bó hoa hồng đỏ và một hộp trang sức màu đỏ. Anh mở chiếc hộp đẹp đẽ đó ra, bên trong là một chiếc nhẫn kim cương lấp lánh. Anh quì một chân, dâng hoa hồng và nhẫn trước mặt tôi.

“Lấy anh nhé!”, anh nói.

Tôi sững lại một phút. Từng giây trong đó cứ trôi qua dài dằng dặc theo tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ trên tường. Tôi nhìn thấy trên chóp mũi của bạn trai tôi đã có một lớp mồ hôi rất mỏng.

Cuối cùng, tôi chìa tay ra, nhận lấy hoa hồng và nhẫn kim cương. 

Chương 16

Mẹ

Hơn một tháng sau, hầu như ngày nào tôi cũng bận rộn. Chuyện kinh doanh ở tiệm ngày càng tốt hơn. Tôi bắt đầu tính tới việc mở một chi nhánh ở một khu khác tại Thượng Hải. Trong thời kỳ này, tôi cũng chạy tới bệnh viện mấy lần

thường. Cuối cùng là hôn lễ sắp tới. Vì công ty vừa nhận một công trình lớn, Triết quả thực không ngơi được tay. Phần lớn chuyện chuẩn bị hôn lễ và làm việc với công ty tổ chức hôn lễ, đặt trang phục cưới và danh sách khách mời

Bố mẹ Triết cuối cùng cũng chấp nhận lời mời của chúng tôi, lần đầu tiên tới Thượng Hải, tham dự hôn lễ của chúng tôi đã định vào ngày 10 tháng 7. Tới lúc đó, cùng đến với họ còn có cả Đường Cương.

Trong hành trình từ Xuyên Tây đi tìm Triết, anh đã giúp tôi rất nhiều, và trở thành một người bạn mà mỗi lần nhớ tới, chúng tôi lại có cảm giác gắn bó thân thiết. 

Mọi thứ hầu như đã chuẩn bị xong.

Ngày 8 tháng 7, tức là trước ngày cưới của tôi và Triết hai ngày, thời tiết vô cùng nóng bức, khoảng ba, bốn giờ chiều đột nhiên có một cơn mưa lớn. Tôi đang thử đồ cưới lần cuối cùng trong tiệm.

Đó là chiếc váy cưới màu trân châu nhạt hở vai, do tôi và Triết cùng trước đó không lâu. Trong gương phản chiếu hình tôi đẹp tới mức khó tin là thật, như thể cái bóng đảo ngược dưới nước. Tôi đứng đó, chỉ sợ làm vỡ bóng hình

Phần eo váy đã được sửa lại cho chặt hơn, xem ra càng hợp hơn. Tôi đi vào phòng thay đồ, cởi cái váy ra dưới sự giúp đỡ của nhân viên cửa tiệm. “Như vậy được rồi đấy”, tôi nói với cô nhân viên đứng bên cạnh. Cô ta cười, gật đầu, cất váy đi.

Tôi thay lại trang phục cũ, lúc này điện thoại trong túi xách réo vang. Tôi nhìn số, thấy là số cố định ở Thượng Hải, nhưng không quen, định không nghe máy. Nhưng có cái gì đó khiến tôi thay đổi y định, tôi lại nghe máy.

Ở đầu dây bên kia vẳng tới tiếng “hello”, đầu tôi ong ong, tiếp đó không nghe lọt vào nổi những gì bà nói. Chỉ biết một sự thật rằng: mẹ tôi đã về Thượng Hải.

Tôi không nhớ đã kết thúc cuộc trò chuyện ra sao, đã nói những gì trong điện thoại, nhưng có một điều có thể khẳng định rằng, tôi không hề nói với bà về tin tôi sắp lấy chồng. Ngay cả việc bà đề nghị gặp mặt cũng bị tôi tôi viện cớ quá bận mà từ chối.

Tôi đội mưa về nhà, vừa mở cửa, Lộ Phong Thiền đã chạy ra. Tôi vuốt ve đầu nó, rồi đi vào phòng ngủ, thay quần áo đã ướt, quyết định ngâm mình trong bồn nước nóng. Tôi nhỏ vào nước mấy giọt tinh dầu hoa hồng. Sau khi thử độ ấm của nước, tôi bước vào, nằm dài.

Lộ Phong Thiền kêu lên mấy tiếng ngoài phòng ngủ. Tôi suỵt một tiếng, nó mới yên lặng trở lại. Tôi chìm sâu vào suy nghĩ như bị thôi miên.

Hơi nước ấm bốc lên như nước ối trong tử cung của mẹ, bọc chặt lấy tôi. Tôi nhớ tới cuộc trò chuyện ban nãy với mẹ. Không biết việc tôi không báo với bà về tin đám cưới có phải là một quyết định đúng đắn hay không, không biết tôi có nên tha thứ cho bà không. Nếu đáp án là “tha thứ”, vậy nên gặp bà lúc nào, ở đâu?

Tôi thở dài, ấn sâu người xuống, cả người và mặt đều chìm trong nước. Buổi tối, Triết về nhà, tôi làm một bữa cơm ê hề đồ ăn. Anh hỏi hôm nay sao lại muốn vào bếp? Vì thông thường đều là anh nấu cơm hoặc kêu đồ ăn ngoài. Đa phần đều là đi ăn ở ngoài.

Tôi đáp: Vì em sắp cưới anh rồi.

Anh cười, lại gần hôn tôi, rồi nói đám cưới đúng là tốt thật, có thể biến một phụ nữ chưa từng làm cơm trở thành một đầu bếp siêu cấp.

Chúng tôi ngồi ăn dưới ánh đèn dịu, Triết không ngừng vứt mấy miếng sườn nướng cho con chó chờ bên cạnh. Tiếng gặm xương của Lộ Phong Thiền càng đặc biệt rõ trong đêm lúc chín giờ tối.

Hôm nay là ngày mùng 9 tháng 7, trước ngày cưới của tôi và Triết. Tôi đã ghi trong nhật ký như vậy.

Hôm nay ngay từ sáng sớm cho tới tận bốn, năm giờ chiều, mọi thứ đều đang được diễn ra rất thuận lợi. Bốn giờ chiều, tiệm đã nghỉ. Dì Lý và Sa đều tới nhà tôi để làm nốt những chuẩn bị cuối cùng.

Đang bận, điện thoại chợt réo vang. Từ số điện thoại, tôi đoán ắt là mẹ gọi từ khách sạn tới. Ngần ngừ vài giây, rốt cuộc tôi vẫn không nghe, mặc cho nó kêu suốt vài phút rồi yên lặng.

Dì Lý và Sa đều ngoái lại nhìn tôi, ánh mắt đầy ngờ vực nhưng cuối cùng cũng không hỏi gì. Tâm thần tôi bấn loạn, tôi đi vào phòng tắm, đóng cửa lại. Lộ Phong Thiền cào ngoài cửa. Tôi nghe thấy tiếng dì Lý nạt nó, làm nó bỏ đi. Hơn một tháng qua, ngày nào tôi cũng mang tới tiệm thời trang, dì Lý cũng cực kỳ thích nó, đã kết bạn với nó.

Tôi ngồi trên bồn cầu, lặng lẽ cắn móng tay, lòng đầy dằn vặt. Có nên gọi điện cho mẹ không nhỉ? Có nên mời mẹ đến dự đám cưới không? Có nên tha thứ cho mẹ không?

“Lẽ nào mày lại hận mẹ đến vậy? Lẽ nào một chút tình yêu, mày cũng không có?”, cuối cùng tôi hỏi chính mình như vậy.

Khi từ phòng tắm ra, tôi vẫn chưa quyết định nổi. Dì Lý hỏi thăm tôi, tôi đáp vẫn ổn. “Nhưng sắc mặt cậu không tốt đâu”, Sa vẫn kiên trì.

“Có lẽ do đang mang thai thôi”, tôi chống đối. Hai người bọn họ vì có quan hệ mật thiết với tôi nên đã biết tin này từ lâu. “Ừ nhỉ”, Sa nói giọng đầy ngạc nhiên, “Mình hiểu rồi. Cậu mắc chứng “bệnh khiếp sợ trước hôn nhân”.

“Đừng nói linh tinh được không? Lần trước cậu nói mình bị “bệnh khác biệt giữa thành thị và nông thôn”. Bây giờ lại là “bệnh khiếp sợ trước hôn nhân” gì đó. Không biết sau này cậu sẽ nói thêm gì nữa?”. Tôi nháy mắt với Sa.

Dì Lý cười, giơ một bông hồng giả vừa làm xong cài lên tóc Sa, hỏi: “Đúng rồi, khi chúng tôi được ăn kẹo của Sa đây?”. Tôi vỗ tay cười lớn: “Đẹp lắm!”. Sa giơ hai tay tỏ ý đầu hàng.

Tôi bước tới, lấy bông hồng trên tay dì Lý. Lúc này Lộ Phong Thiền chạy tới vẫy đuôi rối rít, tôi cài một bông hồng lên đầu nó. Nó tò mò quay đầu, ra sức định cắn thử bông hoa, nhưng không với tới, thoắt một cái, nó chạy vào phòng tắm, trong đó có một tấm gương. Vừa nhìn thấy bóng mình trong gương, nó lập tức há mõm, mắt trợn lên, im bặt, như không thể tin nổi hình dạng kỳ quái của mình. Ba người phụ nữ trong phòng cười nghiêng ngả như đổ trời.

Cài hoa cho chó là chủ ý của tôi. Tay nghề làm hoa giả của dì Lý rất khéo Giờ đây, hiệu quả thực tế còn đẹp hơn điều tôi dự đoán. Trong hôn lễ ngày mai, Lộ Phong Thiền sẽ được trang điểm như vậy.

  “Cô Ngụy, cô thực lòng yêu quí chó đến vậy. Nay mai khi đứa bé ra đời, nhất định cô sẽ trở thành một người mẹ tốt”, dì Lý không khỏi khen ngợi.

“Này, Vệ, mẹ cậu có tới dự đám cưới không?”, Sa đột nhiên hỏi. Lúc này dì Lý cũng như nhớ ra điều gì: “Phải rồi, mẹ cô vẫn đang ở Austria chứ?”.

Tôi trầm ngâm hồi lâu, đáp: “Bà ấy đang ở Thượng Hải.

 Hai người họ nhìn nhau, trong phòng thoắt yên tĩnh.

Khoảng sáu, bảy giờ, Triết về nhà. Dì Lý và Sa vẫn còn ở đây. Tôi đề nghị cùng tới nhà hàng gần đây ăn tối.

Tới một nhà hàng Nhật. Giữa bữa ăn, tôi đi vào toalet. Khi trở thành một bà bầu, tỉ lệ ra vào toalet cũng tăng hơn. Sau khi trở về, tôi phát hiện thấy ba người họ đang chụm đầu bàn tán gì đó. Thấy tôi vào, họ lập tức ngừng nói.

“Chuyện gì thế?”, tôi hỏi, nhưng trong lòng đã đoán được vài phần.

Quả nhiên khi trở về nhà, Triết cẩn thận hỏi thăm về chuyện mẹ tôi. 

“Bà đang ở Thượng Hải thật sao?”.

Với đề tài này, tôi vốn định kháng cự, nhưng lại không muốn giấu diếm anh điều gì, đành đáp: 

“Vâng, bà đang ở Thượng Hải”.

Triết trầm ngâm rất lâu. Từ khi quen tôi ba năm về trước, anh đã biết tôi có một bà mẹ sống tận Austria xa xôi. Nhưng vì tôi không có quan hệ với mẹ, lại không bao giờ muốn nói về bà, nên dần dần anh cũng quên mất chuyện này.

Sau khi chúng tôi quyết định ngày tổ chức hôn lễ, mời bố mẹ anh tới Thượng Hải, anh cũng từng nhớ tới mẹ tôi và ám chỉ với tôi rằng liệu có nên mời bà về tham dự đám cưới. Nhưng tôi mặc kệ, giả bộ không hiểu, mọi chuyện lại dừng ở đó. Lúc nãy ở nhà hàng, dì Lý và Sa mới tiết lộ thông tin mẹ tôi đã về Thượng Hải, nên anh quyết định thử thuyết phục tôi một lần nữa mời mẹ đến dự hôn lễ.

“Không có mẹ, hơn mười năm qua, em vẫn sống tốt đó thôi?”, giọng tôi lạnh lùng, “Vì thế đám cưới ngày mai cũng vậy, không cần tới mẹ”. Vừa nhắc tới chuyện cũ hơn mười năm trước, nhớ tới bà đã từng vứt lại đứa con gái mười bảy tuổi, chỉ để sang Austria lấy một ông già máu lạnh, lòng tôi lại bị bóng tối phủ lên. Cho tới tận ngày nay, tôi vẫn không tài nào lý giải nổi tại sao lúc đó bà lại làm vậy. Một người mẹ lẽ nào nhẫn tâm bỏ con gái mình? Và giờ đây, bà phải ly hôn, đó thực sự là một câu chuyện ngu ngốc.

“Hơn mười năm qua, có thực là em không hề để tâm tới mẹ không?”, Triết buông một câu rồi thở dài, đi vào phòng làm việc.

Tôi đi tới chiếc cửa sổ bằng kính dài xuống tận nền trong phòng khách, ngắm nhìn đường phố và những kiến trúc rực ánh đèn. Dưới vẻ bề ngoài phồn hoa của thành phố, lúc này phút này ắt có bao nhiêu chuyện vui buồn, tan hợp đang diễn ra đây? Và mẹ tôi hiện đang ở một góc nào đó của thành phố to lớn này. Bà vui hay buồn, sống hay chết, đều khó thể hiện trong biển người mười bảy triệu dân của thành phố này. Nhưng điều đó có thấm tháp gì, nhưng nó có một mối quan hệ không tài nào gỡ ra nổi với một số người. Và tôi là một trong số đó, cũng phải là người quan trọng nhất. Vì tử cung của mẹ đã nuôi dưỡng tôi.

Tôi cũng hiểu có một từ gọi là “tha thứ”. Mỗi ngày qua, tôi đều nỗ lực nhìn về phía trước, nhìn về phía có ánh sáng và hi vọng. Nhưng những chuyện này nói thì dễ, làm thì khó. Trái tim và cái đầu của con người có lúc không thể thống nhất. Có chuyện nghĩ kĩ trong đầu nhưng trong lòng chưa thông, vì trái tim còn quá tình cảm. Hơn mười năm qua, những gì liên quan với mẹ vẫn chưa thể thuyết phục được phần tình cảm nhất trong tim tôi, cũng chưa thể thuyết phục tôi chỉ sau một đêm có thể tha thứ cho bà và mời bà đến dự lễ cưới của tôi.

Triết đi tới, ôm tôi vào lòng, âu yếm vuốt ve mái tóc tôi, hồi lâu mới cất tiếng: 

“Vệ, anh tin rằng em sẽ có một quyết định gì đó, và anh cũng tin rằng em hiểu làm thế nào để đối diện với phần sâu thẳm nhất trong lòng”.

Đêm đó, tôi trở người suốt, không tài nào ngủ được. Quay đầu nhìn Triết đang ngủ say bên cạnh, tôi khẽ trườn ra khỏi giường, vào phòng tắm đóng chặt cửa. Lộ Phong Thiền đột nhiên lách vào không một tiếng động. “Chà”, tôi ngồi xuống vuốt ve nó. Trực giác của tôi mách bảo bố đã về.

“Bố”, tôi gọi.

“Ngụy”, bố biết tâm sự của con”, bố dịu dàng nói. Tôi ngồi co chân trên nắp bồn cầu, hai tay bưng mặt, thoắt một cái như biến thành một đứa trẻ đau khổ hơn hai mươi năm trước.

“Nhưng con thực sự không thể tha thứ cho mẹ”, tôi nói nhỏ.

“Bố hiểu”, bố tôi vẫn nói bằng giọng ôn hòa, “Nhưng con sẽ làm được”.

“Như thế nào?”

“Hãy để sự tha thứ đi vào trái tim con”, bố nhấn mạnh, “Còn nhớ câu bố đã nói ngay từ lúc đầu trên chuyến hành trình con đi Xuyên Tây không? Bố đã từng nói con sẽ gặp dược bốn chân ýcuộc đời trên chuyến đi. Cuối cùng, trên hai người mà con không ngờ, con sẽ học được chân ýthứ năm. Cũng chính là chân ýkhó nhất đối với con: “Tha thứ”. Mẹ con chính là một trong hai người đó”.

Tôi không đáp. Chuyến đi khó quên đó cứ quay đi quay lại nhanh chóng trong đầu tôi như một bộ phim quay chậm. “Thế bố có tha thứ cho mẹ không?”.

“Mẹ không cần bố tha thứ”, bố nói nhanh, “Vì mẹ chưa từng nợ bố điều gì”.

Câu trả lời của ông khiến tôi rất kinh ngạc, nhưng suy nghĩ kĩ, có lẽ lời của bố cũng đúng. Năm mười sáu tuổi, bố tôi bất ngờ qua đời, năm mười bảy tuổi, mẹ tôi lấy chồng tha phương. Khi chồng còn sống, mẹ là luôn làm tròn trách nhiệm của một người vợ, cùng chồng dạy dỗ con cái, duy trì gia đình có nền nếp trước sau. Xét về lý, quả thực bà không hề có chỗ nào có lỗi với bố tôi.

Dường như bố đọc thấu tâm tư của tôi. Nắm đúng thời khắc tôi có phần dao động, bố nói: “Bây giờ con đi ngủ đi, bố sẽ gửi cho con một giấc mơ”.

Thấy tôi có vẻ không hiểu, bố bổ sung:

 “Bố bảo đảm trong mười phút, con sẽ ngủ ngay, và sẽ thấy một giấc mơ. Trong đó sẽ tái hiện cảnh liên quan tới mẹ con. Giấc mơ có dùng một số thủ pháp tượng trưng, không phải mọi chi tiết đều giống hệt như thật. Nhưng con có thể dễ dàng đoán ra được câu chuyện này sẽ mách bảo con điều gì. Nó có thể thuyết phục được phần tình cảm nhất trong trái tim con. Và sáng mai con sẽ biết cần phải làm như thế nào”.

Tôi bán tín bán nghi, nhưng nhanh chóng tạm biệt bố và Lộ Phong Thiền, lên giường đi ngủ. Quả nhiên, đầu vừa chạm vào gối, tôi đã thấy cơn buồn ngủ rũ rượi bò lên mi mắt. Khắp người tôi như có thứ gì đó vừa nặng lại vừa nhẹ đè xuống, dần dần chìm xuống đáy đại dương ngủ say.

Tôi mơ.

 Giấc mơ không dài nhưng rõ ràng và mãnh liệt. Tôi thấy tóc tai mẹ tôi rối bời, quần áo xộc xệch, đi đi lại lại trong một căn phòng bày trí sang trọng nhưng đóng kín. Trong phòng chỉ có một cửa sổ. Qua lớp rèm cửa sổ dày và nặng, bên ngoài trời đang đổ tuyết rất lớn. Mẹ tôi đang tự lẩm bẩm điều gì, tôi không nghe rõ. Bà nói tiếng Đức, vì thế tôi đoán câu chuyện hẳn xảy ra ở Austria. Trên giá sách chạy dọc một bức tường chất đầy sách. Có lẽ đây là phòng đọc trong nhà chồng mẹ tôi.

Rồi bỗng nhiên, mẹ tôi rút ra một đoạn lụa trắng. Bà ngước nhìn trần nhà, như thể tìm kiếm chỗ nào có thể treo được. Rồi bà đẩy chiếc ghế cao tới, đứng lên trên, móc một đầu lên đó. Đoạn lụa rủ xuống, được bà nhanh chóng tóm lấy, thắt thành một chiếc thòng lọng. Rồi bà kiễng chân lên, đưa đầu mình vào đó.

Mơ tới đó, tôi đã hoảng hốt. Nhưng trong mơ, tôi không thể kêu, cũng không thể chạy tới, không thể làm bất cứ điều gì để giúp bà. Tôi chỉ có thể đứng trong góc, tiếp tục đóng nhân vật nhìn trộm. Mặt tôi ướt đầm, ắt hẳn tôi đã khóc.

Đúng vào thời khắc giấc mộng sắp kết thúc, như thể cảnh đặc tả trong phim, tôi nhìn thấy nét biểu hiện rất kỳ lạ trên gương mặt xinh đẹp nhưng trắng bệch của mẹ tôi. Mắt bà đẫm lệ, nhưng gương mặt lại nở nụ cười, như thể không chút sợ hãi trước cái chết, thậm chí còn vui mừng, như thể cái chết là một sự giải thoát to lớn. Nhưng trong ánh mắt bà vẫn đầy cảm giác lưu luyến và nhung nhớ.

Tôi đột nhiên chú y tới trên tấm lụa trắng có thêu mấy dòng chữ bằng tơ đỏ. Tim tôi thoắt đập mạch, một cảm giác nóng rực từ gót chân ùa lên. Trên mấy dòng chữ đó chính là tên tôi: “Vệ”.

Đúng lúc gương mặt mẹ đang dần mờ đi trước mắt tôi, tôi bật khóc, khóc dữ dội, như một đứa trẻ, bất chấp tất cả, mãi tới khi Triết lay mạnh làm tôi tỉnh lại.

Tôi lơ mơ mở mắt, nước mắt không ngừng tuôn ròng ròng. Cổ họng tôi vẫn phát ra những tiếng nức nở không ngừng. Triết ôm chặt lấy tôi, vỗ lên vai tôi khẽ khàng như dỗ một đứa trẻ không được giúp đỡ, không ngừng động viên: “Qua rồi, qua rồi… Mọi thứ đã qua rồi”.

Tôi dần tỉnh lại, mất rất lâu sau mới ngưng được tiếng nghẹn ngào, dần bình tĩnh lại.

Tôi biết đó chính là giấc mơ mà bố đã nói muốn gửi cho tôi. Đúng như ông nói, giấc mơ có liên quan tới mẹ tôi đã trực tiếp làm rung động tới phần nhạy cảm nhất trong thẳm sâu trái tim tôi. Tôi đã hoàn toàn hiểu rõ y mà giấc mơ muốn gửi gắm cho tôi: cuộc sống của mẹ tôi bên Austria không hề hạnh phúc, giống như lời bố tôi đã từng tiết lộ trong chuyến đi của tôi tới Xuyên Tây. Chỉ duy nhất có điều tôi không ngờ rằng bà đã từng có y định tự tử. Có lẽ chưa thành công vì trong lòng bà vẫn không nỡ rời bỏ tôi. Bà vẫn luôn nhớ tới tôi dù xa cách nghìn trùng.

Sau khi tốt nghiệp đại học, có thể độc lập được về kinh tế, tức là tám năm về trước, tôi đã đoạn tuyệt quan hệ với bà. Không còn chút tăm tích về đứa con gái duy nhất.

Suốt tám năm ròng, hai mẹ con tôi sống trong vùng băng giá tới vô hạn. Và một người sống tha phương, không họ hàng, bạn bè thân thích, lại không biết nói tiếng Đức như bà, nhất định sống rất khó khăn, rõ ràng tinh thần bị tổn thương dữ dội. Nếu tôi ở trường hợp bà, chắc chắn cũng có ý định tử sát. Cuối cùng quan hệ giữa bà với đức ông chồng lạnh nhạt dần là điều có thể tưởng tượng được, cho tới cuộc ly hôn ngày nay.

Lại nghĩ về tôi bên này. Tuy mấy năm trước kia, tôi hầu như có đủ mọi thứ mà tất cả phụ nữ đều mong ước: tình yêu, tiền bạc, nhà cửa, xe hơi, quần áo đẹp chật cứng tủ không còn chỗ để, cả đứa con trong bụng tôi hôm nay và đám cưới sắp tới… Đúng thế, tất cả tôi đều có đủ, nhưng lẽ nào mẹ tôi lại không phải là một vết thương trong đáy lòng tôi từ bấy lâu nay?

Chiếc đồng hồ điện tử bên giường đã hiển thị con số nhấp nhánh trong ánh đêm âm u. Đã gần một giờ sáng, tôi mở mắt nằm trên giường, lòng đã quyết sẵn một điều.

Chương 17

ĐÁM CƯỚI

Hôm nay là đám cưới của tôi và Triết. Tôi đã viết trong nhật ký như vậy.

Chúng tôi tỉnh giấc từ tờ mờ sáng, lặng lẽ làm tình trong ánh ban mai yếu ớt và đồng thời đạt tới cao trào như một trận tuyết lở dịu dàng.

Đúng khoảnh khắc tôi gần như mê man, tôi lại ý thức được rằng đúng hôm nay tôi sẽ đội vòng hoa, mặc đồ cưới đẹp nhất thế giới, trở thành cô dâu của người đàn ông mà tôi yêu nhất.

Da thịt anh dính sát trên người tôi, một tay anh khẽ vuốt ve làn tóc xõa ra của tôi. Anh ngắm tôi âu yếm: 

“Thật vui sướng khi được gặp em trong cuộc đời anh!”.

“Em cũng vậy”. 

Tôi nhìn đắm đuối vào mắt anh. Khi trên giường, mắt anh luôn ngập ánh trăng và một rừng các vì sao thần bí vô bờ bến.

Tôi sẽ mất cả đời để thám hiểm dần trong căn rừng đó.

Anh nhỏm dậy, ra khỏi giường. Tôi lặng lẽ nằm thêm một lúc, rồi xuống giường, ra khỏi phòng ngủ.

Chim véo von bên ngoài cửa sổ, một ngày mới đã treo trước mắt chúng tôi. Tôi hít sâu một hơi, rồi tới ngồi trước chiếc sa lông êm ái, bấm một số điện thoại sau khi kiểm tra di động.

 Đó là việc đêm qua tôi rất muốn làm.

Không có người nghe máy, tổng đài khách sạn giúp tôi nhận tin nhắn bằng ghi âm. Tôi hơi căng thẳng, không biết phải bắt đầu ra sao, máy ghi âm đã chạy vài giây trắng, rồi tôi bắt đầu nói.

“Mẹ ơi”, tôi nghẹn ngào gọi, “Hôm nay là ngày cưới của con”. Nói tới đây, mũi tôi cay sè.

Tôi sụt sịt nói tiếp:

 “Không biết mẹ có thời gian không? Con muốn mời mẹ tới tham gia đám cưới của chúng con”. 

Rồi tôi cố gắng nói rõ rành thời gian và địa điểm tổ chức đám cưới và đọc lại số di động của tôi, mặc dù tôi biết rõ bà đã có.

Vừa đặt điện thoại xuống, Triết lại gần tôi. Hình như anh đã hiểu mọi chuyện xảy ra. Gương mặt anh nở nụ cười rạng rỡ nhất mà tôi từng bắt gặp. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. “Nói như vậy, mẹ sẽ tới chứ?”, anh hỏi.

“Em nghĩ…”, tôi ngần ngừ một giây, nhưng ngay lập tức thấy rõ bố tôi viết một chữ to đùng trong đầu tôi: “Có”. Thế là tôi hét to, bảo đảm với Triết:

 “Vâng, nhất định mẹ sẽ tới”.

Mấy tiếng tiếp theo, chúng tôi bận rộn và hưng phấn. Khi tôi kiên nhẫn ngồi trước tấm gương lớn để người trang điểm rất mốt với kiểu đầu vô song ra sức phết quẹt lên mặt tôi, Triết đã tự lái xe ra ga đón bố mẹ anh và Đường Cương.

Bố mẹ anh chưa từng đi máy bay, nên cương quyết ngồi xe lửa hơn bốn mươi tiếng đồng hồ tới Thượng Hải. Rồi chúng tôi phát hiện ra họ mang tới tám gói quà lớn, bên trong chất đầy các đặc sản địa phương Đan Ba: thịt bò khô, nhân đào, đồ dùng làm bếp bằng sứ… Còn cả hai tấm khăn Ha Ta trắng muốt là món quà của Trác Mã đã thức suốt một đêm để dệt cho chúng tôi. Nghe Triết nói, cũng may suốt chặng đường có Đường Cương mang giúp số quà này và hết lòng chăm sóc, bố mẹ anh mới bình yên vô sự tới được Thượng Hải.

Trong phòng trang điểm cô dâu, tôi đã làm mặt và làm tóc xong, người hóa trang giúp tôi đội chiếc vương miện hoa được kết bằng hoa nhài trắng thơm ngát. Sa giúp tôi mặc chiếc váy cưới dài quét đất hở vai, màu trân châu nhạt. Trang điểm và ăn vận xong xuôi, tôi xoay một vòng trước gương, khiến mọi người xung quanh không ngớt vỗ tay.

“Còn đẹp hơn cả Angelia Jolie”, Sa không ngớt tán thưởng. Đó là lời khen ngợi quá cao, nó khiến tôi chỉ thấy cô đang tâng bốc tôi.

Hôm nay Sa cũng mặc một chiếc váy màu phấn hồng hở vai, thắt dây eo do cô tự thiết kế và đi đôi giầy cùng cao gót cùng màu, nom vô cùng tươi tắn và xinh đẹp. Hôm nay cô là phù dâu của tôi. Nhà thiết kế phần mềm Jack không tới cùng cô. Sa thừa nhận họ đã chia tay.

Vừa thông báo xong tin này, như ý thức được điều gì, cô lập tức xin lỗi tôi vì cảm thấy nói ra điều này trong đám cưới tôi là điều không tốt lành. Tôi xua tay, “Không sao đâu”.

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Lúc này trên thảm cỏ bằng phẳng đã túm tụm khá nhiều quan khách. Người điều khiển nghi thức buổi lễ đã đứng dưới rạp cưới trên thảm cỏ. Tôi chú ý quan sát khách khứa một lúc, không thấy mẹ tôi đâu. “Có lẽ hơn chục năm không gặp nhau, đã không nhận ra nữa”, tôi thầm an ủi mình như vậy. Lại nhìn điện thoại, không thấy hiển thị cuộc gọi nào.

Lộ Phong Thiền chạy tới chạy lui bên cạnh chúng tôi. Dì Lý đã đeo cho nó một bông hoa lớn. Nhìn từ xa, nom đầu nó như nở hoa. Nó không còn là một con chó biết nói, mà là một con chó nở hoa, luôn đem lại cho tôi bao sung sướng và dũng khí. Nhưng lúc này tôi phải cẩn thận tránh xa nó, đề phòng nó cắn cái váy lê thê quét đất của tôi.

Bố mẹ Triết và Đường Cương được Triết đưa vào. Sa vừa nhìn thấy Triết đã cương quyết đẩy anh ra khỏi phòng trang điểm, nói rằng theo quy định chú rể không được gặp cô dâu trước lễ cưới chính thức bắt đầu. “Luật lệ ở đâu ra?”, tôi nghe thấy tiếng Triết vọng ngoài cửa. “Anh không cần biết, chỉ biết luật lệ vậy, có sốt ruột cũng phải nhịn”, Sa cười ha ha.

Dường như xem phim tình ái của Hollywood quá nhiều, tôi thầm nghĩ, và mời bố mẹ Triết cùng Đường Cương ngồi xuống.

Hai ông bà già vừa từ nơi xa xôi tới Thượng Hải, nét mệt mỏi còn vương trên mặt, nhưng có thể thấy rõ họ rất vui mừng. Cả hai đều mặc quần áo mới do tôi và Triết mua tặng từ lần trước, tóc tai chải nghiêm chỉnh gọn gàng. Bố Triết thậm chí còn thắt một chiếc calavát, nom không hợp lắm với chiếc sơ mi ngắn tay của ông, nhưng rất đáng yêu.

Nắm tay hai bố mẹ già, nhìn nụ cười mang những vết nhăn giãn bung như hoa cúc, tôi gọi họ một tiếng bằng tất cả tấm lòng: “Bố! Mẹ!”. Họ vui sướng gật đầu liên tiếp. Mẹ Triết lần tìm trong chiếc túi vải tự làm, lấy ra một thứ gì đó bọc trong một chiếc khăn tay. Bà trịnh trọng đặt nó vào tay tôi.

Tôi nhìn bà, rồi mở chiếc khăn tay ra, bên trong lấp lánh một chiếc lắc vàng khảm hoa. Hai tay bà nắm chặt lấy tay tôi, vội vã nói một hồi. Lúc này Đường Cương phải làm phiên dịch. Bà chúc tôi có thể hạnh phúc trọn đời với Triết, và chúc những lời tốt đẹp nhất cho đứa trẻ trong bụng tôi. Lúc này tôi mới biết rằng chiếc lắc tay này là đồ hồi môn của mẹ bà trước đây tặng cho bà. Cả đời bà chỉ dùng nó ba lần: khi lấy chồng, vào tiệc rượu mừng sinh Triết đầy tháng và vào năm Triết đỗ đại học, cả nhà tới huyện Đan Ba chụp hình. Ngoài ra, bà luôn cẩn thận cất nó dưới đáy rương, không nỡ dùng.

Tôi nhận món quà, khom lưng đáp lễ trước bà. Bà cười sung sướng, kéo tay tôi nói rất nhiều. Rồi bà giơ ngón tay cái, tôi mỉm cười gật đầu.

Buổi lễ chỉ còn khoảng mười phút nữa là bắt đầu. Âm nhạc đột nhiên mở vang trời. Tôi không ngừng ngó ra đám khách trên thảm cỏ, lại không ngừng nhìn đồng hồ trên tường, không khỏi sốt ruột. Sa chú ý thấy tôi có vẻ bất an, liền khẽ kéo tôi vào toilet cạnh phòng trang điểm. Đây là nơi duy nhất mà chúng tôi phát hiện thấy nói chuyện có thể nghe được.

“Cậu không sao chứ?”, cô hỏi.

“Không sao”, tôi lắc đầu. Cô ngờ vực nhìn tôi một lúc, rồi nói: “Vậy thì tốt, buổi lễ sắp bắt đầu rồi, một mình cậu ở lại đây bình tâm nhé”.

Tôi gật đầu, rồi nghe thấy tiếng cô đóng cửa lại. Tôi đứng một mình trong toa let, ngắm mình trong gương, rồi lại nhìn điện thoại trong tay, vẫn không có điện thoại của mẹ. Tôi ngửa mặt, nhắm nghiền mắt.

Bỗng có tiếng gõ cửa rất to, Sa cuống quýt gọi: “Nhanh lên, nhanh lên, sắp bắt đầu rồi”. Tôi hít sâu một hơi, mở cửa đi ra.

Trên thảm cỏ đã có mấy dãy ghế khách ngồi kín, ở giữa chừa một lối đi. Một đầu lối đi chính là rạp cưới. Người chủ trì hôn lễ đang đứng ở giữa, Triết đứng một bên, cạnh anh là anh bạn thân Ưu Ưu. Ưu Ưu là phù rể hôm nay. Quanh đó là không ít phóng viên. Triết đã trở thành người nổi tiếng, tôi và tiệm thời trang của tôi cũng có chút tiếng tăm. Các phóng viên này không có trong danh sách khách mời, nhưng không biết họ lấy tin từ đâu, sáng sớm đã xuất hiện ở đây.

Lúc này, dàn nhạc đã tấu một khúc nhạc lãng mạn, nhẹ nhàng thanh thoát. Tôi được Sa đưa ra, tới đứng trước cửa rạp. Trước khi đi ra, tôi hít một hơi sâu cuối cùng. Lộ Phong Thiền đứng sau chúng tôi rất nghiêm túc.

Tôi nhắm mắt, trong đầu chợt xuất hiện một dòng chữ. Tôi lập tức nhận ra đó là thông tin của bố. Dòng chữ đó là: 

“Bố mãi mãi chúc phúc cho các con!”. 

Tôi mở bừng mắt, mỉm cười, khẽ nói: 

“Cám ơn bố!”.

Tôi cùng Sa chậm rãi đi xuyên qua đám quan khách đang chăm chú nhìn, đi tới đầu bên kia của lối đi. Nơi đó có Triết-chồng tôi-đang đứng nhìn.

Tôi không còn nghe rõ người chủ trì hôn lễ nói những gì. Tôi và Triết đứng kề vai nhau, tay nắm chặt. Cuối cùng tôi nhận thấy đã đến lúc trao nhẫn cho nhau. Tôi đeo nhẫn cưới lên tay Triết, Triết cũng đeo chiếc nhẫn kim cương lóng lánh lên ngón tay của tôi.

Tiếp đó, anh cúi xuống, dịu dàng hôn lên môi tôi một cái hôn dài. Cả đám khách chợt reo hò và vỗ tay vang dội. Đám phóng viên chụp ảnh lách tách. Chúng tôi mỉm cười, vẫy tay về phía khách khứa, đúng lúc đó, tôi sững người lại.

Mẹ!

Tôi nhìn thấy một người phụ nữ vừa gần gụi vừa xa lạ ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Nom bà già và gầy đi nhiều, nhưng vẫn đẹp. Bà mặc chiếc áo dài Thượng Hải màu đỏ nhiều năm trước tự tay làm mà thoáng một cái, tôi đã nhận ra. Bà ngồi đó, thẳng đơ.

Tôi vùng tay ra khỏi chú rể, nhấc chiếc váy dài lượt thượt, ra sức chạy về phía mẹ tôi. Tất cả quan khách đều im bặt, ngay cả dàn nhạc cũng dừng lại. Mọi người đều ngẩn ra nhìn, như sắp phải đối mặt với một sự cố gì. Chỉ có một mình Triết đoán được điều gì đã xảy ra.

Tôi vẫn chạy. Tôi nhìn thấy gương mặt mẹ cách đó không xa đang nước mắt đầm đìa. Bà không khỏi vịn một tay vào chiếc ghế trước mặt như để phòng ngã quị. Thế giới xung quanh lặng phắc. Tôi chỉ nghe thấy tiếng thở nặng nhọc của mình. Tim tôi đập thình thịch như sắp nhảy vọt ra khỏi cổ họng. Tôi đột ngột ngã quị khi chỉ cách bà một bước.

Chỉ nghe thấy tiếng mọi người hò hét ầm ĩ, trong đó có tiếng hét gọi của Triết đặc biệt vang nhất. Điều đó nhắc nhở tôi rằng tôi đang mang thai, tiếp đó đầu gối chân trái của tôi đau nhức.

Rồi mọi thứ cũng dần lặng lẽ được đẩy lùi ra sau như cơn sóng tan. Tôi được mẹ dịu dàng đỡ dậy, ôm chặt vào lòng.

“Mẹ…”, tôi nghe thấy tiếng tôi kêu nhỏ.

“Baby của mẹ”, mẹ khẽ vỗ lưng tôi, như những lúc ru tôi ngủ hồi nhỏ.

“Mẹ xin lỗi con… Mẹ đã về đây”.

Tôi ra sức gật đầu, vừa lau nước mắt cho mình, vừa giúp mẹ lau những dòng nước mắt nóng bỏng không ngừng lăn ra từ khóe mắt bà.

Triết dẫn con Lộ Phong Thiền không biết đến bên chúng tôi từ lúc nào. Anh hơi lo lắng nên chạy tới ôm tôi, hỏi han xem có làm sao không. Thấy tôi gật đầu, anh mới mỉm cười và đưa tay bắt tay mẹ rất chặt.

“Con đoán mẹ đúng là mẹ của Vệ. Con là Triết, chồng Vệ. Rất mừng khi mẹ tới tham dự đám cưới của chúng con. Tận đáy lòng, con muốn nói với mẹ rằng: Cám ơn mẹ. Xin chào đón mẹ trở về”.

 Mẹ nhìn gương mặt rạng rỡ và chân thành của Triết, nước mắt lại tuôn ra, nghẹn ngào:

 “Cám ơn! Cám ơn!”.

Lộ Phong Thiền không ngừng liếm váy tôi và chân mẹ, rồi lại vẫy đuôi như phát điên, họng không ngừng rên rỉ, khiến chúng tôi không khỏi cúi xuống nhìn nó.

“Nó tên là Lộ Phong Thiền”, tôi lau nước mắt, giới thiệu với mẹ. Bông hoa đỏ trên đầu nó vẫn rất bắt mắt,

Mẹ cúi xuống vuốt ve đầu nó. Nó vui sướng lăn mấy vòng trên đất. Mẹ không khỏi tò mò, hỏi chúng tôi:

 “Các con tìm được ở đâu con chó đáng yêu thế?”.

Chương 18

LỜI KẾT

Trời mùa hè xanh sẫm và sâu thẳm. Cơn gió mỏng mảnh cùng tiếng chim khẽ làm rung đám lá trên cây dương và cây liễu, truyền tới từng cơn rung động. Mọi thứ xung quanh đều tỏa ra sức nóng của sinh mệnh.

Mộ bố cỏ mọc kín, mấy cây hoa hồng trồng từ năm ngoái đang xòe nở những đóa hoa to trắng muốt dưới nắng.

Tôi và Lộ Phong Thiền lặng lẽ ngồi trước mộ bố hồi lâu. Tôi lấy một cái lọ trong túi ra, mở nắp, đổ ít nước lên chiếc bát sứ màu xanh đặt trước tấm bia, rồi đứng dậy hái một bông hồng, ngắt từng cánh thả xuống bát nước. Hồi còn sống, bố vẫn rất yêu thích loại hoa này, và cũng là một người trồng hoa rất giỏi.

Tôi lấy ra một mảnh khăn giấy, thấm chút nước, rồi chậm rãi lau từng chữ trên tấm bia. Lộ Phong Thiền kiên nhẫn ngồi bên cạnh, trìu mến nhìn tôi.

Xung quanh vẫn tĩnh lặng như thế, như thể nghe thấy hơi thở của cỏ và tiếng hát ca của thiên sứ bé bỏng đã được ba tháng trong bụng tôi. Một luồng nóng cay sè xộc lên mắt tôi. Qua làn lệ trong như thủy tinh, tôi thấy bố đang mỉm cười.

Sau đám cưới, ngày tháng xem ra cũng không có gì biến đổi mấy. Tôi và Triết vẫn sống trong căn hộ đáng yêu và ấm cúng của chúng tôi.

Ngày ngày, anh tới công ty của anh, tôi tới tiệm thời trang của tôi.

Nhưng cảm giác ngọt ngào sau khi đã trở thành vợ người ta không tài nào miêu tả nổi cứ nồng nàn trôi trong không khí từng phút từng giây. Từ sáng sớm, vừa mở mắt nhìn thấy Triết nằm bên cạnh, tôi lại lấy làm kinh ngạc về sự thật rằng mình đã trở thành vợ của người đàn ông này. Tôi thường hít sâu, nở một nụ cười, thầm cảm tạ ông trời đã ban thưởng cho tôi tất cả. Tôi là người phụ nữ hạnh phúc nhất trên đời. Dù hai bên có yêu thương nhau, nhưng làm vợ của một người đàn ông và làm bạn gái của anh ta vẫn có khoảng cách rất khác xa, không thể cùng một cấp độ.

Triết vẫn bận rộn như thế, tôi cũng giảm bớt thời gian ở tiệm. Nhìn cái bụng ngày càng vồng lên, tôi hơi căng thẳng, nhưng phần lớn vẫn vui mừng. Tôi luôn đi khám thai ở bệnh viện đúng định kì, bác sĩ nói mọi thứ rất bình thường.

Giờ đây tôi đều cố gắng nghỉ ngơi hàng ngày nhiều hơn, đi ngủ sớm. Máy tính và ti vi cũng giảm xem rất nhiều so với trước. Nghe nói những thứ phát ra sóng đều không có lợi tới sự trưởng thành của thai nhi. Được Sa thúc giục, tôi bắt đầu nghĩ tới việc đăng kýmột lớp tập huấn cho các bà bầu.

Lộ Phong Thiền ít nhiều cũng hồi phục lại thói quen ngồi thiền như hồi đầu mới tới nhà tôi. Nó thường ngồi một mình ở ban công, ngắm nhìn rất lâu lên trời nơi thỉnh thoảng có đàn chim bay qua, hoặc qua hàng rào ban công ngắm nhìn xuống làn xe và dòng người trên đường. Có thể một khoảnh khắc nào đó, nó đột nhiên nhớ tới cuộc sống lang thang trên đường phố trước kia chăng?

Gần đây, mẹ từ Austria gọi điện thoại về, thông báo thủ tục ly hôn đã hoàn tất, và sắp về Thượng Hải. Lần này trở về, mẹ sẽ ở lại hẳn, không đi nữa.

Tuy bố tôi không xuất hiện nhiều như trước đây, nhưng thỉnh thoảng vẫn trò chuyện với tôi qua Lộ Phong Thiên, qua các giấc mơ hoặc bằng cách viết chữ lên đầu tôi. Chúng tôi nói về một số chuyện quan trọng, bao gồm cả bốn chân ýcuộc đời mà tôi đã được chứng kiến trên chuyến đi của tôi từ Thượng Hải tới Xuyên Tây. Nói cả về thủ phạm đâm xe vào bố tôi khiến ông phải rời bỏ thế giới này mười ba năm trước. Cuối cùng là dự đoán liên quan đến đứa con trong bụng tôi.

Ông nói việc tôi giúp đỡ cậu sinh viên ýPhương bốn năm tiền ăn học đại học đã chứng minh được một chân ýnhân sinh: lương thiện. Dù hành vi ban đầu của cậu ta đối với tôi không thành thực, nhưng đã được bản tính lương thiện của tôi cảm hóa.

Tiếp đó là vụ cướp trên xe taxi, tôi đã trải nghiệm được cái gì là dũng cảm, có thể đối mặt với hiểm nguy và cuối cùng đã khống chế được tên tội phạm truy nã với vô số tội danh.

Rồi bố lại nhắc đến vụ tai nạn thương tâm của vị hòa thượng già. Điều tôi lựa chọn chính là đối diện với sự cố đó, ở lại, chứ không bỏ đi như các hành khách khác. Từ điểm đó đã chứng minh được cho tôi cái gì là sự chính trực.

Cuối cùng qua bao nhiêu khó khăn, rốt cuộc tôi đã tìm được Triết, làm lành với anh. Đó chính là niềm tin. Chính niềm tin này đã giúp tôi kiên trì khắc phục mọi trở ngại, đi hết toàn bộ quá trình. Bố nhấn mạnh tới điểm cuối cùng này, và cũng là y nghĩa tận cùng của cả chuyến đi. Một người tất yếu phải có niềm tin đối với mình, đối với người khác, đối với thế giới này, có như vậy anh ta sống một cuộc đời mới không lãng phí.

Và trên chuyến đi đó, mấy người mà tôi từng gặp đều có liên quan tới tiền thân của tôi từ các kiếp trước.

Ở một kiếp nào đó, tôi từng là sư phụ và ýPhương từng là một trong số môn đệ của tôi. Ở kiếp đó, anh ta cũng xuất thân từ gia cảnh nghèo túng, nhưng vẫn chịu khó ham học, được tôi rất yêu quí.

Còn ở một kiếp khác, tôi từng bị một tên hung thủ dùng dao sát hại. Lúc đó, tôi cũng là con gái và ngày chết đúng vào ngày tôi đi lấy chồng. Khi đang ngồi kiệu hoa trên đường đi qua một cánh đồng hoang vắng để về nhà chồng, tôi đã bị tên hung thủ phi dao cắt đứt cổ. Và trên chuyến đi tới Xuyên Tây, tên tội phạm cũng từng kề dao vào cổ tôi. Hai tên hung thủ ở hai thời gian khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một người. Khi bố nói tới đây, nhắc tôi nhớ tới vết sẹo mờ trên cổ chính là có liên quan tới vết dao chém đứt cổ tôi từ kiếp trước.

Rồi mặc kệ gương mặt tôi đầy kinh ngạc, ông không nhịn được, lại tán thưởng sự dũng cảm của tôi trên xe vào tối đó. “Tối đó, nhờ khống chế được tên tội phạm bị truy nã đó, con đã thay đổi được định mệnh xấu từ kiếp trước quay ngược khỏi kiếp này”, ông tiết lộ.

Nhưng câu chuyện vẫn chưa kết thúc. Tiếp đó bố mách với tôi rằng, đám thanh niên rước kiệu hoa hồi đó vừa nhìn thấy lũ cướp xông tới đã hoảng hốt bỏ chạy tan tác như lũ chim, chỉ còn lại một chàng trai trẻ. Anh ta định cứu tôi nhưng không kịp và đánh nhau quyết liệt với tên cướp khiến hắn phải tháo chạy. Rồi anh ta đào mộ chôn tôi. “Anh ấy chính là Triết ngày nay”, bố nói. Và linh hồn đã chết của tôi hồi đó từng thề rằng kiếp sau sẽ lấy anh để đền ơn.

Tới kiếp này, quả nhiên chúng tôi lại được làm vợ chồng. Và Triết ở kiếp trước có một con chó rất hiểu tính người. Hàng năm nó thường cùng Triết tới trước mộ tôi thắp hương vào ngày giỗ của tôi. Không còn nghi ngờ gì nữa, ở kiếp này, nó đã trở thành Lộ Phong Thiền đáng yêu và trung thành.

Thậm chí cả Đường Cương mà tôi từng tình cờ gặp hai lần trên chuyến đi, ở một kiếp trước cũng là thị vệ của tôi. Trong kiếp đó, tôi là một công chúa, do một vụ tranh giành quyền lực trong hoàng cung nên bị vạ lây, phải chạy trốn băng đèo vượt núi. Sau khi trải qua một cuộc hành trình dài dằng dặc và đầy gian khó, cuối cùng mới bình an tới được nơi cần đến. Tất cả đều nhờ Đường Cương hết dạ trung thành luôn bảo vệ suốt chặng đường, giống hệt như anh đã từng giúp tôi trên chuyến hành trình từ Thượng Hải tới Xuyên Tây mấy tháng trước.

Cuối cùng vị hòa thượng già từng là sư phụ của tôi ở một kiếp khác. Trong kiếp đó, tôi chỉ là một tiểu hòa thượng mười bảy, mười tám tuổi, vô cùng kính trọng vị hòa thượng già kiến thức sâu rộng. Thân hình ông gầy yếu lắm bệnh, chẳng bao lâu sắp tới ngày về cõi niết bàn. Vị hòa thượng già kêu tôi đi tìm một chỗ có phong thủy thích hợp để chôn cất ông. Tôi nhận lời và thực tình đã làm đúng như vậy. Hẳn nào khi gặp vị hòa thượng này trên đường đi Xuyên Tây, tôi đã có cảm giác rất gần gũi như từng quen biết nhau. Tôi kiên trì ngồi bên đường chờ xe cảnh sát và xe cứu thương tới, sau đó lại đốt các di vật của ông và giữ lại cuốn kinh của ông. Giờ đây, khi nghe bố giải thích, tôi mới hiểu.

Nhưng điều khiến tôi kinh ngạc nhất là bố lại chủ động nhắc tới mảnh giấy từng để lại trước mộ ông. Ông biết trên đó viết ba chữ “Xin lỗi ông”. Ông nói đương nhiên ông bố ai đã đâm phải ông, và mấy năm trước vẫn còn oán hận kẻ gây ra tai nạn, nhưng giờ đây mọi việc đã qua, vì thế ông không có y định kể cho tôi biết tên người đó.

Thoạt đầu, tôi rất kinh ngạc và tức giận, không thể chấp nhận sự thật bố tôi hoàn toàn biết tất cả nhưng nhất định không chịu tiết lộ tên kẻ gây ra ra tai nạn. Nhưng bố tôi một lần nữa lại nói tới “tha thứ”. Vừa nghe từ này, tôi đã im bặt.

Bố tôi từng nói “tha thứ” chính là chân ýnhân sinh thứ năm và cũng khó làm nhất đối với tôi. Nhưng tôi lại học được trên hai con người mà tôi không ngờ đến. Giờ đây nghĩ kĩ thì ra thủ phạm gây ra tai nạn cho bố tôi chính là kẻ thứ hai mà tôi cần tha thứ sau mẹ tôi. Khi tôi hỏi lại bố điều này, ông đã thừa nhận.

“Người đã chết rồi, không thể sống lại”, bố tiếp tục nói. Câu này được thốt ra từ miệnh một linh hồn nên không khỏi phần kì quái. “Và giờ đây ở thế giới bên kia, bố cũng rất vui vẻ, bình thản, có thể được thường xuyên tâm sự với con thế này, bố đã mãn nguyện lắm rồi. Bố sẽ tiếp tục theo sát con, chú y tới con, bảo vệ con và có lúc có thể làm con vui nữa”, nói tới đây, ông bật cười.

Tôi không cười, mắt rưng rưng lệ nóng hổi. Nhưng tôi gắng nhin không để nước mắt trào ra. Nếu bố là kẻ bị hại nhưng không nhìn nhận bằng con mắt bi kịch, vậy tại sao tôi lại không thể?

Tôi hít một hơi sâu, “Được rồi, con cũng tha thứ cho thủ phạm đó”.

Cuối cùng là một lời tiên đoán liên quan đến đứa con tương lai của con. Quả nhiên, bố tôi dùng một cách thức vui vẻ để tạo nên một giấc mơ, sẽ gửi cho tôi vào một tối.

Trong giấc mơ, tôi thấy mình nằm trên thảm cỏ, bụng to đùng như quả dưa hấu. Đột nhiên quả dưa đó nứt bung ra. Tôi không thấy đau, cũng không lấy thế làm kinh hoàng sợ hãi, chỉ mỉm cười nhìn thấy từ trong quả dưa nhảy ra một con chuột nhắt trắng tinh. Nó chạy tới mũi tôi, thông báo nó chính là con trai tôi bằng giọng rất đáng yêu. Tôi có phần hơi thất vọng vì con trai mình là một chú chuột nhắt, nhưng nó bắt đầu ca hát nhảy múa, thậm chí nhanh như cắt còn đào ngay một cung điện dưới đất ngay dưới thảm cỏ, và nói rằng nó sẽ trở thành một quốc vương. “Và mẹ, tử cung của mẹ sắp sinh dưỡng một quốc vương vĩ đại”. Con chuột nhắt giơ hai chân trước, trịnh trọng thông báo với tôi.

Vừa tỉnh giấc, tôi đã cười ha hả, giấc mơ đó quá buồn cười.

Triết nằm bên cạnh hỏi tôi cười gì. Tôi liền ngưng lại, nghiêm trang nói: “Con trai chúng ta sau này sẽ là một người rất giỏi giang”.

Anh ngạc nhiên nhìn tôi, như sắp cười bất cứ lúc nào. Nhưng trên gương mặt tôi không hề còn chút gì buồn cười, nên anh cảm thấy thực mơ hồ. “Nhưng chúng ta vẫn chưa biết giới tính của con mà”.

“Là con trai. Lớn lên rồi sẽ là một người đàn ông uy nghiêm như quốc vương!”, tôi phát hiện thấy mình đột nhiên nói bằng giọng nghiêm trang như con chuột trong giấc mơ, nên bất giác lại phá lên cười.

“Tốt quá!”, Triết vỗ tay, rồi ngồi dậy ra khỏi giường. Anh không thể nào tin nổi đây là thông tin mà người bố đã chết gửi gắm cho tôi. Theo kinh nghiệm trước đây, bố tôi luôn luôn đúng.

Tôi nhún vai, cũng ra xuống giường, đi vào toalet. Đứng bên cạnh Triết đang dùng chiếc bàn chải đánh răng điện yêu quí, tôi cũng bắt đầu đánh răng. Chồng tôi chắc chắn đang nghĩ đến câu nói của tôi vừa nãy, nên vừa đánh răng vừa nhìn tôi cười. Tôi cũng làm mặt quỉ chọc lại anh.

Lúc này Lộ Phong Thiền lững thững đi tới bằng những bước đi lười nhác rất đặc trưng vào mỗi sáng. Tôi cúi xuống vuốt ve đầu nó, rồi đứng dậy tiếp tục đánh răng bên chồng. Tôi nghĩ sẽ tìm một lúc thật thích hợp để nói với chồng tôi tất cả những điều liên quan tới bố tôi. Sẽ kể cho anh về ông bố đã chết của tôi làm sao lần đầu tiên nói chuyện với tôi qua một con chó. Sẽ kể cho anh về bố tôi và bà ngoại anh ở thế giới khác đã tác động tới tình yêu của chúng tôi bằng cách rất thần kì. Cuối cùng, tôi sẽ kể với anh rằng bố tôi yêu tôi nhiều như thế nào, yêu anh như thế nào và cả đứa con sắp sinh của chúng tôi nữa.

Triết đã tắm rửa xong, đi vào bếp để chuẩn bị bữa sáng.

Tôi bắt đầu mở vòi nước, rửa sạch bọt kem đánh răng trên bàn chải.

Lộ Phong Thiền đã nghịch ngợm trong phòng khách. Vèo, vèo là tiếng nó chạy nhanh như chớp từ đầu phòng tới cuối phòng. Bịch, bịch, là tiếng nó va phải sọt đựng báo bằng mây đặt cạnh bàn cà phê. Sột soạt, sột soạt là tiếng nó dùng răng nhai rách các tờ báo trên sàn. Rồi cuối cùng vẳng lại là tiếng Triết từ bếp đi ra đang la mắng nó.

Tôi vươn vai, mỉm cười trước gương.

Gia đình. Đây chính là gia đình ngọt ngào của tôi./.

HẾT 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro