gia tộc ma cà rồng tập 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Melissa de la Cruz

Vũ hội hóa trang

Masquerade - Blue Bloods 02

Yutakachan dịch

Bản dịch sau ðây là sản phẩm phi lợi nhuận ðýợc tiến hành dịch và biên

tập bởi Yutakachan. Mọi chi tiết liên quan tới bản dịch xin vui lòng liên

hệ với Yutakachan thông qua địa chỉ email [email protected].

Đọc online tại http://salemchan.blogspot.com/

Mục Lục

CHưÕNG 1

CHƢÕNG 2

CHƢÕNG 3

CHƢÕNG 4

CHƢÕNG 5

CHƢÕNG 6

CHƢÕNG 7

CHƢÕNG 8

CHƢÕNG 9

CHƢÕNG 10

CHƢÕNG 11

CHƢÕNG 12

CHƢÕNG 13

CHƢÕNG 14

CHƢÕNG 15

CHƢÕNG 16

CHƢÕNG 17

CHƢÕNG 18

CHƢÕNG 19

CHƢÕNG 20

CHƢÕNG 21

CHƢÕNG 22

CHƢÕNG 23

CHƢÕNG 24

CHƢÕNG 25

CHƢÕNG 26

CHƢÕNG 28

CHƢÕNG 29

CHƢÕNG 30

CHƢÕNG 31

CHƢÕNG 32

CHƢÕNG 33

CHƢÕNG 34

CHƢÕNG 35

CHƢÕNG 36

CHƢÕNG 37

CHƢÕNG 38

CHƢÕNG 39

CHƢÕNG 40

CHƢÕNG 41

CHƢÕNG 42

CHƢÕNG 44

CHƢÕNG 45

CHƢÕNG 46

CHƢÕNG 47

CHƢÕNG 48 Dành tặng em trai tôi, Francis de la Cruz, một ðồng minh ðáng tin cậy và luôn

đồng cảm với tôi.

Và dành tặng chồng tôi, anh Mike Johnston. Nếu thiếu anh, cụm từ "Máu Bạc"

có lẽ sẽ không bao giờ tồn tại. "Chúng ta đã quá quen với việc che đậy mình trƣớc ngƣời khác, để rồi cuối

cùng chúng ta che ðậy bản thân với ngay cả chính chúng ta."

- Francois Duc de la Rochefoucauld1

.

"...Tôi của lúc này ðã biến ðổi thành một thứ khác

... Cái bóng nõi tôi lại tiếp tục chuyển vai."

- Trích lời bài "Mặt nạ" của nhóm Bauhaus

2

.

1 Francois Duc de La Rochefoucauld (1613-1680): nhà vãn, quý tộc Pháp sống ở thế kỷ 17.

2 Bauhaus: nhóm nhạc rock ngƣời Anh thành lập vào nãm 1978. CHÝÕNG 1

Những con chim bồ câu đang chiếm lấy quảng trƣờng St. Mark. Có tới hàng

trãm con, tất cả ðều to, lông xám, lặng lẽ ði lại trên quảng trƣờng, và liên tục mổ

những mẩu vụn bánh mì sfogliatelle3 và bánh mì nho kẻ ô vuông mà khách du

lịch vô tình ðể rõi. Lúc này ðang là buổi trƣa, dù mặt trời ðã bị những đám mây

che khuất, khiến thành phố nhƣ chìm trong một bức màn xám xịt, ảm đạm.

Những con thuyền ðáy bằng vắng khách xếp hàng dọc bến ðậu, còn những

ngƣời lái thuyền trong trang phục áo kẻ sọc nằm dựa vào mái chèo, chờ những

vị khách còn ðang ở tận chốn nào. Giờ này nƣớc triều vẫn chƣa lên nhƣng

ngƣời ta vẫn có thể nhận ra những vệt tối màu trên vách mặt tiền những tòa nhà

ven kênh do bị thấm nƣớc mỗi khi thủy triều dâng cao. Schuyler Van Alen

chống khuỷu tay lên chiếc bàn café ọp ẹp, hai tay giữ lấy mặt, khiến chiếc cằm

của cô khuất lấp trong chiếc áo cổ lọ ngoại cỡ. Schuyler là một ma cà rồng Máu

Xanh, thành viên cuối cùng của nhà Van Alen, một gia tộc từng có thời bá chủ

cả New York, nõi mà quyền lực và của cải của họ ðã góp phần tạo dựng nên

Manhattan ngày nay. Từ lâu lắm rồi, cái tên Van Alen ðồng nghĩa với quyền lực,

ðặc quyền và các quyền bảo trợ. Nhƣng ðó là chuyện từ thời xa xƣa, của cải của

gia tộc đã hao mòn dần theo nãm tháng ðến nỗi mà Schuyler ðã trở nên quen với

cuộc sống tằn tiện hõn là hƣởng thú vui vung tiền mua sắm. Nhìn bộ cánh cô

ðang mặc lúc này là ðủ hiểu: chiếc áo cổ lọ màu ðen dài quá hông, chiếc quần

bó ống ngắn cũn cỡn, bên ngoài là chiếc áo jacket kiểu lính phòng không, cuối

cùng là ðôi bốt của dân lái môtô ðã cũ sờn, tất cả ðều là phế phẩm của một cửa

hàng chuyên bán đồ secondhand4.

3 Sfogliatelle: một loại bánh mỳ Ý, có vỏ ngoài nhƣ những chiếc lá chồng lên nhau.

4 Đồ secondhand: đồ cũ đã dùng rồi. Nếu bộ ðồ này mà khoác lên ngƣời bất cứ cô gái nào khác thì trông chẳng khác

nào miếng rẻ rách trên ngƣời một kẻ đầu đƣờng xó chợ, nhƣng khi mặc trên

ngƣời Schuyler, nó lại trông nhƣ thể y phục của một thành viên hoàng gia. Bộ

quần áo càng làm tôn lên dáng ngƣời mỏng manh, nhỏ nhắn của cô. Với làn da

tai tái trắng ngà, ðôi mắt xanh sâu thẳm và mái tóc dày sẫm màu, ðen pha xanh,

trông Schuyler thực sự nổi bật và ðáng yêu ðến mức khó tin rằng thế giới này

còn tồn tại một vẻ đẹp nhƣ thế. Vẻ ðẹp ðó càng ðƣợc nhân lên cùng với sự

thánh thiện mỗi khi cô mỉm cƣời, dù rằng ít có cõ hội cho nụ cƣời ấy xuất hiện

vào buổi sáng nay.

- Vui lên nào. - Oliver Hazard-Perry nói trong lúc nâng tách espresso lên gần

miệng. - Dù gì thì ít ra chúng ta cũng có một kì nghỉ nho nhỏ. Cậu xem, thành

phố này không tuyệt vời sao? Thôi nào, cậu phải thừa nhận chuyện tụi mình

đang ở Venice sung sƣớng hõn cả ngàn lần so với việc bị mắc kẹt trong phòng

thí nghiệm môn Hóa chứ.

Oliver luôn là bạn thân nhất của Schuyler kể từ khi hai ngƣời còn rất nhỏ. Ðó là

một anh chàng ðẹp trai, cao lênh khênh với mái tóc mềm mƣợt, nụ cƣời lém lỉnh

và ðôi mắt nâu nhạt ấm áp. Cậu là bạn tâm giao, là ðồng phạm trong mọi trò tội

lỗi và, nhƣ Schuyler đƣợc biết cách đây không lâu, còn là một Conduit truyền

đời của cô, một kiểu trợ lý cho ma cà rồng, một cánh tay mặt hay một kiểu

ngƣời hầu cấp cao, ðại loại vậy. Oliver chính là ngƣời đã giúp họ thực hiện

chuyến ði từ New York ðến Venice này trong một khoảng thời gian cực ngắn.

Cậu đã thuyết phục ba mình cho cả hai bám càng trong chuyến công du của ông

tới châu Âu.

Mặc kệ những lời ðộng viên của Oliver, Schuyler vẫn cứ rầu rĩ. Hôm nay ðã là

ngày cuối cùng của họ ở Venice, vậy mà cả hai vẫn chƣa tìm đƣợc chút manh mối nào. Ngày mai họ sẽ bay về New York, tay trắng nhƣ lúc khởi hành.

Chuyến ði này ðúng là công cốc.

Cô bắt đầu xé nhỏ cái nhãn trên chai Pellegrino của mình một cách cẩn thận, tạo

thành những dải mỏng màu xanh. Cô vẫn chƣa muốn bỏ cuộc sớm nhƣ vậy.

Gần hai tháng trƣớc, bà của Schuyler, Cordelia Van Alen, ðã bị một Máu Bạc,

kẻ thù truyền kiếp của gia tộc ma cà rồng Máu Xanh, tấn công. Cordelia ðã kể

cho Schuyler nghe chuyện về Máu Bạc. Cũng giống nhƣ Máu Xanh, ðó là

những thiên thần sa ngã, bị ðuổi ra khỏi Thiên Ðàng và chịu kiếp sống bất tử

trên trái ðất. Tuy nhiên, khác với Máu Xanh, ma cà rồng Máu Bạc ðặt lòng

trung thành của mình nõi Lucifer, Hoàng tử Thiên Ðàng ðang chịu án lƣu ðày.

Bản thân Lucifer đã từ chối tuân theo Luật lệ của gia tộc ma cà rồng, một bộ

Luật nghiêm khắc chứa ðầy những luân thƣờng đạo lý và cũng là hi vọng của

Máu Xanh với ƣớc muốn một ngày nào ðó, họ sẽ ðƣợc trở lại Thiên Ðàng.

Cordelia từng là giám hộ hợp pháp của Schuyler. Cô chƣa từng gặp bố mẹ mình

theo đúng nghĩa: bố cô đã chết trƣớc cả khi cô đƣợc sinh ra, còn mẹ cô rõi vào

trạng thái hôn mê suốt từ lúc cô chào ðời ðến giờ. Trong phần lớn tuổi thõ của

Schuyler, Cordelia luôn tỏ ra xa cách, nhƣng bà là gia ðình duy nhất của cô trên

thế giới này, và dù sao ði nữa, cô thực lòng yêu bà mình.

- Bà tớ ðoan chắc ông ấy ở ðây. - Schuyler nói trong lúc chán chƣờng ném mẩu

vụn bánh mì về phía những con chim bồ câu đang tụ tập dƣới chân bàn của họ.

Cô luôn nói câu này kể từ lúc họ ðến Venice. Cuộc chiến ðấu với tên Máu Bạc

đã làm Cordelia kiệt sức, nhƣng trƣớc khi bà cô chìm vào trạng thái "ngủ đông"

(các ma cà rồng Máu Xanh sẽ tiếp tục hồi sinh trong một chu kì mới), bà đã

nhắc đi nhắc lại việc đi tìm ngƣời ông mất tích của cô, Lawrence Van Alen,

ngƣời mà bà tin chắc ðang nắm giữ chìa khóa giúp họ tiêu diệt Máu Bạc. Trong hõi thở cuối cùng, Cordelia ðã chỉ dẫn Schuyler tới Venice để tìm ông ngoại.

Chính vì vậy cô mới lặn lội tới tận đây, lùng sục từng ngõ ngách trong thành

phố và dọc cả những con kênh lộng gió, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào của ngƣời

ông mất tích.

- Nhƣng chúng ta đã tìm khắp nõi rồi. Chẳng ai biết, thậm chí từng nghe thấy

cái tên Lawrence Van Alen hay Tiến sĩ John Carver cả. - Oliver thở dài, nhắc

lại cho cô nhớ hàng tá lần họ ghé qua các trƣờng đại học, qua quán bar Harry

trên phố Cipriani, hay qua từng khách sạn, villa, nhà trọ trong thành phố.

John Carver là tên mà Lawrence ðã mang trong suốt thời gian gia tộc định cƣ tại

Plymouth.

- Tớ biết mà. Tớ còn đang nghĩ có khi ông thậm chí không tồn tại. - Schuyler

đáp lại.

- Có thể bà cậu ðã nhầm. Bà quá yếu, mất phƣõng hƣớng và cảm thấy bối rối

nên không rõ phải chỉ cậu đi tới đâu. - Oliver gợi ý - Chuyến đi này chẳng khác

nào ði sãn ngỗng trời vậy.

Schuyler cũng từng nghĩ tới giả thiết này. Có lẽ Cordelia ðã nhầm lẫn, và có thể

Charles Force, thủ lĩnh hiện thời của gia tộc ma cà rồng, ðã đúng về mọi chuyện.

Nhƣng nỗi ðau mất bà ðã ảnh hƣởng quá nhiều tới Schuyler. Cô vẫn nung nấu

quyết tâm thực hiện di nguyện cuối cùng của ngƣời bà quá cố.

- Tớ không nghĩ vậy đâu, Ollie. Nếu cứ nhƣ cậu nói thì tớ đã bỏ cuộc từ lâu rồi.

Nhƣng tớ phải tìm bằng đƣợc ông ấy. Tớ phải tìm ra ông ngoại. Cứ nghĩ lại

những điều Charles Force đã nói, tớ lại cảm thấy bị tổn thƣõng...

- Ông ta nói gì? - Oliver hỏi. Schuyler đã từng đề cập đến cuộc nói chuyện giữa

cô và Charles Force trƣớc khi hai ngƣời rời New York nhƣng không thực sự đi

sâu vào chi tiết.

- Ông ta nói... - Schuyler nhắm hai mắt, nhớ lại cuộc đối mặt căng thẳng giữa

hai ngƣời.

Hôm ðó cô tới bệnh viện thãm mẹ. Allegra Van Alen vẫn cứ ðẹp và xa cách nhƣ

bao lần cô tới thãm bà. Kể từ sau khi Schuyler chào ðời, mẹ cô vẫn luôn ở trong

trạng thái hôn mê nhƣ vậy, lõ lửng giữa cái chết và sự sống. Schuyler không còn

cảm thấy ngạc nhiên nữa khi bắt gặp vị khách trong phòng bệnh của mẹ cô.

Charles Force ðang quỳ gối bên cạnh giƣờng mẹ cô nằm, nhƣng ngay khi nhìn

thấy Schuyler, ông ta nhanh chóng ðứng dậy và lau mắt. Bỗng nhiên, cô cảm

thấy thƣõng hại ngƣời ðàn ông này. Chỉ mới tháng trƣớc thôi, cô vẫn tin rằng

ông là hóa thân của quỷ dữ, thậm chí ðã buộc tội ông chính là Máu Bạc. Một sự

nhầm lẫn tai hại.

Bởi Charles Force chính là Michael Trái Tim Thuần Khiết, một trong những

tổng lãnh thiên thần đã tự nguyện chịu hình phạt lƣu ðày khỏi Thiên Ðàng ðể

giúp đỡ những ngƣời anh em của mình - những thiên thần bị ðuổi khỏi Thiên

Ðàng trong cuộc nổi dậy của Lucifer5 và chịu hình phạt sống trên trái đất với tƣ

cách là ma cà rồng Máu Xanh. Michael là ngƣời duy nhất chọn làm ma cà rồng

chứ không phải bị trừng phạt mà biến thành. Mẹ Schuyler, Allegra Van Alen, là

ma cà rồng thứ hai cùng chung ðặc ðiểm này. Allegra chính là Gabrielle Thanh

Khiết, còn đƣợc biết ðến với cái tên Gabrielle Ðoan Chính. Từ xa xƣa, Michael

và Gabrielle ðã luôn là một ðôi. Họ là một cặp sinh ðôi bị giới hạn máu với

nhau, trong chu kỳ này cả hai ðƣợc tái sinh trong vai anh trai và em gái.

5 Lucifer: tên gọi của Satan trong Thiên Chúa giáo. Mối quan hệ dựa trên giới hạn máu thực chất là một lời thề bất tử giữa các ma

cà rồng Máu Xanh, nhƣng Gabrielle đã chối bỏ lời thề đó với Michael khi kết

hôn với thần linh quen thuộc loài ngƣời của mình, chính là ba của Schuyler.

- Cô có biết lý do mẹ cô chìm vào hôn mê không? Nói ðúng hõn là lý do khiến

cô ấy đã chọn cuộc sống mê man này? - Charles hỏi Schuyler.

- Bà ấy đã thề rằng sẽ không bao giờ chấp nhận bất cứ ai làm thần linh quen

thuộc nữa sau khi ba tôi qua ðời. Cordelia nói ðó là vì mẹ không muốn sống nữa.

- Nhƣng cô ấy không chết vì cô ấy là một ma cà rồng bất tử. Cô ấy vẫn sống... -

Charles cay đắng tiếp lời - ...nếu ngƣời ta thực sự coi ðây là "sống".

- Ðó là lựa chọn của bà ấy. - Schuyler nói bằng một giọng ðều ðều. Cô không

thích giọng điệu phán xét trong lời nói của Charles.

- Lựa chọn...- Charles nguyền rủa - Một khái niệm lãng mạn làm sao, nhƣng

chẳng có chút nghĩa lý gì hết. - Ông ta quay về phía Schuyler - Tôi nghe nói cô

sắp đi Venice.

Schuyler gật đầu đáp lại:

- Ngày mai chúng tôi bay. Tôi ði ðể tìm ông ngoại tôi.

Bà cô ðã nói rằng con gái của Gabrielle đƣợc cho là có khả năng cứu rỗi linh

hồn của tất cả bọn họ. Và chỉ có ông cô mới biết cách ðánh bại bọn Máu Bạc.

Ông sẽ giúp cô.

Cordelia giải thích rằng trong suốt chiều dài lịch sử kể từ khi ma cà rồng tồn tại

trên trái ðất, Máu Bạc luôn sãn lùng Máu Xanh, hút cạn máu và ký ức của họ.

Cuộc tấn công cuối cùng mà ngƣời ta còn nhớ đến xảy ra ở Plymouth. Khi đó

gia tộc ma cà rồng ðang trong thời kỳ ðầu ổn ðịnh cuộc sống tại Tân Thế giới.

Bốn trãm nãm sau, tại thành phố New York, khi Schuyler vừa mới bắt ðầu nãm

học thứ hai bậc Trung học tại Trƣờng Duschesne ít lâu thì các cuộc tấn công lại

tái diễn. Nạn nhân ðầu tiên chính là bạn học của cô, Aggie Carondolet. Ngay

sau cái chết của Aggie, số ngƣời bị tấn công ngày một tãng lên. Ðiều khiến

Schuyler bận tâm nhất chính là những con mồi mà Máu Bạc sãn lùng ðều là

những ma cà rồng trẻ. Giai ðoạn từ nãm mƣời lăm tuổi đến năm hai mƣõi mốt

tuổi luôn là quãng thời gian khó khãn ðối với Máu Xanh. Ðây là thời kỳ mà họ

yếu đuối nhất, trƣớc khi thực sự kiểm soát đƣợc sức mạnh của mình.

- Lawrence Van Alen đã bị trục xuất khỏi Ủy Ban, ông ta là kẻ bị lƣu ðày. -

Charles Force nói. - Cô sẽ chẳng tìm đƣợc gì ở Venice ngoài nỗi thất vọng và

chán chƣờng. - Charles lạnh lùng tuyên bố.

- Tôi không quan tâm - Schuyler chỉ biết cúi đầu lặng lẽ. Cô nắm chặt lấy gấu

áo len, vặn nó thành những vòng xoắn. - Ông vẫn không chịu thừa nhận rằng

Máu Bạc đã quay trở lại. Và chúng đã tấn công rất nhiều ngƣời trong chúng ta.

Vụ tấn công mới nhất xảy ra ít ngày sau tang lễ của bà cô. Summer Amory,

ngƣời vừa mới làm lễ ra mắt giới thƣợng lƣu vào nãm ngoái, ðƣợc ngƣời ta tìm

thấy, bị hút cạn máu, trong một căn hộ thuộc tòa cao ốc Trump. Phần tàn bạo

nhất của bọn Máu Bạc chính là ở chỗ chúng không khiến ngƣời ta chết mà ðẩy

nạn nhân vào số phận thê thảm hõn nhiều so với cái chết. Luật lệ của ma cà

rồng công khai nghiêm cấm tất cả các ma cà rồng thực hiện nghi lễ Caerimonia

Osculor, còn đƣợc gọi là Nụ hôn Thần Thánh trên chính ðồng loại của mình. Ðể thực hiện Caerimonia, các ma cà rồng phải tuân theo những quy ðịnh nghiêm

ngặt. Luật không cho phép họ hút cạn máu ngay cả đối với một con ngƣời.

Nhƣng Lucifer và các môn ðệ của ông ta ðã phát hiện ra rằng nếu thực hiện Nụ

hôn trên các ma cà rồng thay vì thực hiện trên con ngƣời sẽ làm cho họ mạnh

lên gấp nhiều lần. Máu Ðỏ chỉ có một kiếp sống duy nhất trong khi Máu Xanh

nắm giữ trong dòng máu của mình ký ức của một kiếp sống bất tử. Máu Bạc

không chỉ hút cạn máu của ma cà rồng mà còn hút luôn ký ức của họ, khiến họ

hoàn toàn biến mất khỏi thế gian này, và tệ hõn nữa, biến họ thành nô lệ của

chúng, của sự ðiên loạn vì chúng đã hấp thu quá nhiều các ký ức. Máu Bạc

chính là một hỗn thể các kiếp sống bị giam hãm trong một cái xà lim. Vĩnh viễn.

Tàn ðộc.

Nếp nhãn trên trán Charles Force hằn sâu hõn nữa.

- Máu Bạc đã bị tiêu diệt hoàn toàn rồi. Điều cô vừa nói không thể xảy ra. Phải

có một sự giải thích khác cho tất cả chuyện này, và Ủy Ban ðang xúc tiến điều

tra tìm ra lời giải đó.

- Ủy Ban chẳng làm gì cả! Ủy Ban chẳng xúc tiến cái gì hết! - Schuyler cãi lại.

Cô biết Charles Force vẫn ðang cố bám vào cái dấu tích lịch sử khi ông ta ðánh

bại Lucifer, lúc đó đƣợc biết ðến với cái tên Caligula - ông Hoàng Máu Bạc

ðiên cuồng, trong trận chiến cuối cùng giữa hai phe tại Rome. Lucifer ðã bị

Michael tống vào Hỏa ngục bằng chính thanh gƣõm vàng của mình.

- Tùy cô thôi. - Charles thở dài - Tôi không thể ngãn cô ði Venice ðƣợc, nhƣng

tôi xin cảnh báo cho cô biết Lawrence chỉ bằng một nửa ngƣời ðàn ông mà

Cordelia mong ông ta trở thành.

Charles nâng cằm Schuyler lên trong khi cô nhìn ông với ánh mắt đầy thách

thức.

Cuối cùng ông nhẹ nhàng nói:

- Hãy cẩn trọng, con gái của Allegra.

Schuyler rùng mình khi nhớ lại sự đụng chạm ấy. Hai tuần vừa qua chẳng đƣợc

tích sự gì ngoài việc chứng tỏ Charles Force đã đúng. Có lẽ Schuyler sẽ thôi

không ðặt ra các câu hỏi nữa mà cứ thế quay về New York làm một cô bé ngoan,

một ma cà rồng an phận, sẽ không bao giờ nghi ngờ bất cứ hành ðộng nào của

Ủy Ban nữa. Lúc ðó, có lẽ mối bận tâm duy nhất của cô sẽ là chuyện phải mặc

gì trong dạ tiệc Four Hundred sắp tới tại khách sạn St. Regis.

Cô thổi tung làn tóc mái, hƣớng cái nhìn cầu khẩn qua phía bên kia chiếc bàn,

tới nõi ngƣời bạn thân nhất của cô. Oliver luôn là một trợ thủ trung thành. Cậu

đã ở bên cô trong suốt cuộc hành trình, và cả trong những ngày cô lâm vào cảnh

tang gia bối rối.

- Tớ biết là ông ấy ở ðây, tớ có thể cảm thấy ðiều ðó. - Schuyler nói. - Tớ ƣớc

gì chúng ta không phải rời ði ngay ngày mai.

Cô ðặt cái chai lại lên bàn, lúc này trên vỏ chai hoàn toàn trõ trụi, cái nhãn đã bị

bóc ra không còn một mẩu.

Ngƣời bồi bàn tiến lại phía họ mang theo hóa ðõn, Oliver nhanh chóng rút từ

trong ví da một chiếc thẻ tín dụng trƣớc khi Schuyler kịp phản đối.

Họ quyết ðịnh bắt một chiếc thuyền, làm một tua cuối cùng vòng quanh thành

phố cổ này. Oliver giúp Schuyler lên thuyền. Cả hai dựa lƣng vào cái nệm

nhung cùng một lúc khiến cẳng tay của hai ngƣời chạm vào nhau. Schuyler

ngay lập tức hõi dịch ra xa, cảm thấy có chút xấu hổ trƣớc sự đụng chạm vừa rồi.

Ðiều này quả thực mới mẻ ðối với cô. Trƣớc đây cô luôn thoải mái mỗi khi ở

bên Oliver. Hồi nhỏ, họ còn từng cùng nhau ở trần, ngụp lặn trong cái hồ phía

sau nhà bà ngoại cô ở Nantucket, rồi cả những buổi tối nằm ngủ bên nhau trong

chiếc túi ngủ đôi nữa. Họ thân nhau nhƣ anh em ruột thịt. Vậy nhƣng gần đây,

Schuyler phát hiện ra rằng cô đang phản ứng lại sự có mặt của Oliver với một ý

thức về bản thân mới xuất hiện mà chính cô cũng không lý giải đƣợc. Cứ nhƣ

thể một sáng cô thức dậy và phát hiện ra ngƣời bạn thân nhất của mình là một

cậu con trai, thậm chí rất ðẹp trai nữa là khác.

Ngƣời lái thuyền đƣa con thuyền ra khỏi bến ðậu, bắt ðầu cuộc du ngoạn trên

sông nƣớc. Trong khi Oliver lôi máy ảnh ra chụp, Schuyler cũng cố thƣởng thức

cảnh ðẹp hai bên bờ. Nhƣng dù thành phố này ðẹp tới nhƣờng nào, trong lòng

cô vẫn ồ ạt những cõn sóng của khổ ðau và cảm giác trõ trọi. Nếu không tìm

đƣợc ông ngoại thì cô sẽ phải làm gì tiếp theo ðây? Ngoài Oliver ra cô chẳng

còn ai thân thích trên thế giới này. Khi chỉ còn một mình ðõn thƣõng ðộc mã,

liệu chuyện gì sẽ xảy ðến với cô? Tên Máu Bạc ðó, nếu hắn ðúng là một Máu

Bạc, đã tấn công cô hai lần rồi. Cô giữ chặt một tay ở cổ nhƣ thể để tự bảo vệ

bản thân khỏi những cuộc tấn công trƣớc ðây. Ai mà biết ðƣợc liệu hắn có quay

trở lại nữa không? Và nếu vậy thì khi nào? Liệu những cuộc thảm sát có dừng

lại nhƣ Ủy Ban hi vọng? Hay vẫn tiếp tục xảy ra nhƣ cô nghi ngờ, cho tới khi tất

cả bọn họ bị tiêu diệt không còn một ai?

Schuyler rùng mình mặc dù thời tiết lúc này không hề lạnh. Ngó sang bờ bên

kia, Schuyler bắt gặp bóng dáng một ngƣời phụ nữ đi ra từ một tòa nhà.

Ngƣời phụ nữ ấy trông rất quen.

Không thể nào, Schuyler thầm nghĩ. Không thể nhƣ vậy đƣợc. Mẹ cô đang nằm

hôn mê trong bệnh viện mãi tận New York cõ mà. Bà không thể nào lại xuất

hiện ngay tại Italia này ðƣợc. Hay là bà có thể? Phải chãng có ðiều gì đó về

Allegra mà Schuyler không biết?

Ðột nhiên, nhƣ thể nghe thấy suy nghĩ của cô, ngƣời phụ nữ quay ra nhìn thẳng

vào mắt Schuyler.

Ðó chính là mẹ cô. Không thể nhầm đƣợc. Ngƣời phụ nữ này cũng có mái tóc

vàng của Allegra, cả cái mũi quý tộc ấy, cái gò má nhƣ hình lƣỡi dao ấy. Ngay

cả dáng ngƣời thanh thoát và ðôi mắt xanh lục bảo sáng ngời ðều là của mẹ cô.

- Oliver, ðó là, ôi Chúa tôi! - Schuyler thốt lên kinh ngạc, giật giật áo khoác cậu

bạn. Cô ðiên cuồng chỉ tay về phía bờ bên kia.

- Hả? - Oliver quay lại.

- Ngƣời phụ nữ ðó... tớ nghĩ ðó là m... mẹ tớ! Ðó, kia kìa! - Schuyler vẫn chỉ

tay về phía bóng ngƣời đang chạy rất nhanh rồi biến mất vào một ðám ðông lúc

này ðang túa ra từ Ðiện Ducal.

- Cậu đang nói về cái quái gì thế hả? - Oliver hỏi lại, mắt cậu dò dẫm dọc lối đi

bên kia bờ sông, về phía Schuyler vẫn ðang chỉ tay. - Ngƣời phụ nữ đó á? Cậu

nghiêm túc chứ? Sky, ðừng nói cậu bị mất trí nhé? Mẹ cậu đang nằm viện tận

bên New York cõ mà. Hõn nữa bà ấy còn bị hôn mê. - Oliver giận dữ nói.

- Tớ biết, tớ biết mà, nhƣng... - Schuyler nói. - Nhìn kìa, lại là bà ấy kìa, đúng

là mẹ tớ mà, thề có Chúa, ðó chính là mẹ tớ.

- Cậu nghĩ xem mình đang ở đâu chứ? - Oliver hỏi vì lúc này Schuyler chồn hết

cả hai chân lên rồi. - Có chuyện gì với cậu vậy? Bám chắc vào! Sky, ngồi

xuống! - Oliver lẩm bẩm dƣới hõi thở - Chuyện này chỉ tổ phí thời gian thôi.

Schuyler quay lại, nhìn cậu chằm chằm.

- Cậu biết là cậu không cần ði cùng tớ mà.

Oliver thở dài.

- Phải rồi. Nói cứ nhƣ thể tự cậu sang đƣợc Venice này vậy. Cậu thậm chí còn

chƣa tới Brooklyn6 bao giờ.

Schuyler thở hắt rồi tiếp tục quay ra, hƣớng cái nhìn chăm chú về phía ngƣời

phụ nữ tóc vàng, cô ðiên cuồng muốn thoát khỏi con thuyền "rùa bò" này.

Oliver nói ðúng. Schuyler nợ cậu quá nhiều khi cậu chịu sang Venice với cô, và

cô luôn cảm thấy khó chịu bởi cảm giác phải dựa dẫm vào cậu. Ðó cũng là ðiều

cô đang nói cho Oliver hay.

- Cậu dựa dẫm vào tớ là chuyện ðƣõng nhiên mà. - Oliver kiên nhẫn giảng giải.

- Tớ là Conduit của cậu. Nhiệm vụ của tớ là giúp cậu quản lý những chuyện

trong cuộc sống dƣới lốt ngƣời của cậu. Tớ chỉ không ngờ điều đó cũng đồng

nghĩa với việc phải trở thành ðại lý du lịch của cậu, nhƣng mà vậy thì sao chứ?!

6 Brooklyn: một khu nằm ngay trong thành phố New York, nõi có cây cầu Brooklyn nổi

tiếng. - Vậy thì giúp tớ ði. - Schuyler hét lên. - Tớ cần phải ði... - Giọng cô rít lên

ðiên cuồng.

Lúc này Schuyler ðã sẵn sàng. Cô nhảy khỏi thuyền lên lối ði bộ dọc con kênh

bằng một bƣớc nhảy thần diệu mà con ngƣời không bao giờ đủ khả năng thực

hiện, ðõn giản vì khoảng cách giữa chỗ cô ðứng và chỗ marciapiede (vỉa hè -

nguyên vãn tiếng Ý) gần nhất cũng phải tới hõn chín mét.

- Chờ đã! Schuyler! - Oliver hét lên, loạng choạng đứng dậy. - Andiamo! Segua

quella ragazza! (Nguyên vãn tiếng Ý - "Nhanh lên! Đuổi theo cô gái đó!) - Cậu

giục ngƣời lái thuyền bám theo Schuyler, nhƣng không dám chắc con thuyền

chèo tay này có phải là phƣõng tiện tốt nhất ðể ðuổi theo một ma cà rồng siêu

tốc độ không.

Schuyler cảm thấy tầm nhìn trở nên rõ hõn, các giác quan cũng nhạy bén hõn.

Cô biết mình ðang di chuyển với tốc ðộ cực nhanh, nhanh tới mức mà cô cảm

giác nhƣ mọi ngƣời xung quanh ðứng yên tại chỗ. Nhƣng ngƣời phụ nữ kia

cũng di chuyển nhanh không kém, nếu không muốn nói là còn nhanh hõn. Bà ta

gần nhƣ bay ngang dọc các con kênh nhỏ chằng chịt khắp thành phố, khéo léo

né tránh những chiếc thuyền máy rồi bay sang phía bờ bên kia của con sông

chính. Nhƣng Schuyler không vì thế mà giảm tốc độ, cả hai ngƣời họ lúc này

chỉ còn là những cái bóng mờ ảo chuyển động chớp nhá ngang dọc đƣờng phố.

Schuyler nhận ra cuộc vƣợt ðuổi này làm cô thích thú, nhƣ thể cô đang xoải

những cõ bắp mà cô thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của chúng.

- Mẹ õi! - Cuối cùng, khi nhìn thấy ngƣời phụ nữ nhảy một bƣớc ngoạn mục từ

một ban công xuống một lối vào bí mật, Schuyler cảm thấy tuyệt vọng và gọi to

thành tiếng.

Nhƣng ngƣời phụ nữ không hề quay lại, bà ta nhanh chóng biến mất sau cánh

cổng của một tòa cung điện gần đó.

Schuyler nhảy xuống chỗ đó, thở dốc, cố bám theo ngƣời phụ nữ vào bên trong

với ƣớc muốn cháy bỏng khám phá nhân dạng thực sự của ngƣời lạ mặt bí ẩn

kia. CHÝÕNG 2

Mimi Force thở dài hạnh phúc khi quan sát cảnh tƣợng khẩn trƣõng, hối hả bên

trong phòng Jefferson tại trƣờng Duchesne. Lúc này là buổi chiều muộn ngày

thứ Hai đầu tuần, giờ học ở trƣờng đã kết thúc, nhƣờng chỗ cho cuộc họp hàng

tuần của Ủy Ban. Các ma cà rồng Máu Xanh mẫn cán tụ tập thành những nhóm

nhỏ quanh chiếc bàn tròn, bàn bạc về những chi tiết cuối cùng chuẩn bị cho buổi

tiệc của năm: Vũ hội Four Hundred thƣờng niên.

Cô nàng Mimi tóc vàng, mắt xanh lục bảo và ngƣời anh trai sinh đôi của cô,

Jack, cũng có mặt trong số các ma cà rồng trẻ ðƣợc giới thiệu ở vũ hội năm nay.

Ðây là một truyền thống ðã có từ hàng trăm năm trƣớc. Màn giới thiệu vào Ủy

Ban, thực chất là một hội kín lớn gồm những ma cà rồng quyền lực nhất New

York, chỉ là bƣớc khởi ðầu. Việc ra mắt các ma cà rồng trẻ mới ðƣợc bổ nhiệm

vào Ủy Ban trƣớc toàn thể gia tộc Máu Xanh mới là sự kiện lớn quan trọng. Nó

giống nhƣ nghi thức thừa nhận lịch sử tồn tại của một ma cà rồng cũng nhƣ

những trách nhiệm trong tƣõng lai của ngƣời đó. Bởi vì sau mỗi một chu kỳ mà

các ma cà rồng thƣờng gọi là "vòng đời", Máu Xanh lại quay trở lại dƣới những

vỏ bọc - thân phận khác nhau cùng những cái tên mới, nên buổi ra mắt của họ,

nói hoa mỹ hõn là cuộc "trình diện" của họ trƣớc cộng ðồng Máu Xanh, là vô

cùng quan trọng trong quá trình nhận diện một ma cà rồng. Mimi Force không

cần ngƣời ta phải ðánh trống thổi kèn, loa to tên họ cô cũng nhƣ thân phận của

cô trong những chu kỳ trƣớc ðây. Bởi cô là Mimi Force, cô gái xinh ðẹp nhất

trong lịch sử thành phố New York, và là con gái ðộc nhất của Charles Force,

ngƣời nắm quyền Thủ lĩnh cũng tức là tộc trƣởng tộc Máu Xanh, một ngƣời ðàn

ông quyền lực, đƣợc cả thế giới biết đến với vai trò ông trùm truyền thông - ông

chủ của kênh truyền hình Force News Network với phạm vi hoạt ðộng trải rộng trên toàn thế giới, từ Singapore cho tới Addis Ababa7. Cô là Mimi Force, cô gái

sở hữu mái tóc óng ả nhƣ sợi dệt kim, làn da nhƣ kem bõ tƣõi, và một ðôi môi

cãng mọng ðầy gợi cảm sánh ngang với ðôi môi của cô ðào Angelina Jolie. Cô

đƣợc mệnh danh là quả-bom-sex-vị-thành-niên với một hàng dài chạy dọc từ

ðầu này sang ðầu kia thành phố những ngƣời hâm mộ: những anh chàng thừa kế

môn ðãng hộ ðối, những cậu bạn trai máu ðỏ cực "hot" - những thần linh loài

ngƣời quen thuộc của cô.

Nhƣng từ lâu, rất lâu rồi và ngay giờ phút này vẫn vậy, trái tim của cô chỉ thuộc

về một ngƣời duy nhất. Một ngƣời gần gũi trong gia đình. Nghĩ tới đây, ánh mắt

Mimi đánh sang ngang, hƣớng về phía ngƣời anh song sinh, Jack Force.

Cho tới giờ phút này, Mimi hoàn toàn hài lòng. Mọi thứ đƣợc sắp ðặt ðâu vào

ðấy ðể chuẩn bị cho buổi vũ hội hoàn hảo sẽ diễn ra tại khách sạn St. Regis.

Ðây sẽ là bữa tiệc lớn nhất của nãm. Khác với cái buổi diễn xiếc tin hin, tồi tàn

mà ngƣời ta vẫn hay gọi là Lễ trao giải Oscars, nõi khách mời chỉ toàn những

diễn viên bèo bọt và không có ðƣợc chút đầu tƣ công phu nào, vũ hội Four

Hundred là dạ tiệc cầu kỳ theo ðúng phong cách quý tộc xƣa. Nó là nõi ðể

ngƣời ta khẳng định giai cấp, địa vị, sắc đẹp, quyền lực, tiền bạc và cả dòng dõi

của mình. Phải, dòng dõi, nói chính xác trong trƣờng hợp này là dòng dõi Máu

Xanh cao quý. Đó là một buổi tiệc dành riêng cho ma cà rồng: một sự kiện ðộc

nhất vô nhị tại New York, nếu không muốn nói là trên toàn thế giới.

Không có bất kỳ Máu Ðỏ nào ðƣợc phép tham dự.

Tất cả hoa đều đã đƣợc đặt trƣớc. Những bông hồng Vẻ ðẹp Mỹ màu trắng

thuần khiết. Hai mƣõi ngàn bông, loại ðặc biệt ðƣợc trồng ở Nam Mỹ, đã đƣợc

ðặt hàng chuyển về bằng ðƣờng hàng không cho dịp này. Mƣời ngàn bông hồng

7 Addis Ababa: Thủ đô của Ethiopia, một quốc gia thuộc khu vực Đông Phi. sẽ đƣợc dùng ðể kết thành cổng vòm đón khách, số còn lại sẽ đƣợc đặt rải rác

trong sảnh chính. Để tạo ra mƣời ngàn bông hồng lụa kết thành những chiếc

vòng hoa, ngƣời ta đã thuê hẳn nhà tổ chức sự kiện đắt giá nhất New York,

ngƣời đã biến Bảo tàng Metropolitan thành một xứ sở thần tiên mang phong

cách Nga, dựa theo khuân mẫu trong cuốn tiểu thuyết "Bác sĩ Zhivago"8, trong

cuộc triển lãm về nƣớc Nga do Viện Y phục tổ chức. Cuối cùng nhƣng không

kém phần xa hoa: toàn bộ phòng khiêu vũ sẽ đƣợc xịt hàng chục lít nƣớc hoa

hồng.

Xunh quanh Mimi, tất cả các thành viên trong Ủy Ban đang thảo luận những

vấn ðề chuẩn bị cho giờ G. Trong lúc những thành viên trẻ, những học sinh

trung học nhƣ cô, còn đang bận bịu điền những chiếc thiệp RSVP9, kiểm tra lại

danh sách khách mời, ðảm bảo với bên hậu cần việc chuẩn bị sân khấu cho hai

dàn nhạc giao hƣởng lớn trình diễn nhạc ðệm trong vũ hội và cả việc lo thiết bị

chiếu sáng các thành viên trong ban lãnh đạo Ủy Ban, dẫn đầu bởi Priscilla

DuPont, một phụ nữ có vai vế tại Manhattan mà hình ảnh vƣõng giả của bà

thƣờng chói sáng trên những cột báo xã hội hàng tuần. Bà Dupont cũng có chân

trong việc quyết ðịnh những vấn ðề quan trọng của thành phố. Lúc này, bà ðang

bị vây quanh bởi một nhóm phụ nữ có kiểu đầu chải chuốt, tinh tế, trông từa tựa

giống nhau. Những ngƣời này ðã thay mặt Ủy Ban, miệt mài cống hiến cho việc

bảo tồn nhiều di tích và thắng cảnh quan trọng, cũng nhƣ nhiều cõ quan vãn hóa

nổi danh của thành phố. Nhờ khả nãng siêu thính mà Mimi ðã nghe lỏm đƣợc

câu chuyện giữa bọn họ.

8 Bác sĩ Zhivago: cuốn tiểu thuyết nổi tiếng xuất bản năm 1957 của tác giả ngƣời Nga Boris

Pasternak.

9 thiệp RSVP: Viết tắt của cụm từ tiếng Pháp "répondez, s‟il vous plait", có nghĩa là "Xin

hãy hồi âm". Khi khách mời nhận đƣợc thiệp này sẽ phải gửi lại hồi âm báo cho chủ tiệc biết

mình có tham gia hay không ðể chủ tiệc ghi lại vào danh sách. - Giờ ta sẽ chuyển sang chuyện về Sloane và Cushing Carondolet... - Priscilla

tỏ ra phiền não trong khi tay bà nhặt một tấm biển ghi tên chỗ ngồi làm bằng vải

lanh trắng ngà ðặt trên chiếc bàn trƣớc mặt. Trên mỗi tấm biển là tên họ của các

vị khách mời và số bàn họ sẽ ngồi ðƣợc thiết kế hoa vãn và in nổi. Khách mời

sẽ nhận những tấm biển này tại bàn khánh tiết ngay chỗ cổng vòm.

Khi Priscilla nhắc tới cái tên Carondolet, một làn sóng những tiếng thì thầm

phản ðối nổi lên giữa những ngƣời phụ nữ. Thái ðộ bất phục tùng ngày một gia

tãng của nhà Carondolet thật khó mà khiến ngƣời ta lờ đi đƣợc. Sau cái chết của

cô con gái Aggie vài tháng trƣớc, gia đình này bắt đầu có những biểu hiện

chống đối rõ rệt đối với Ủy Ban. Có tin đồn cho rằng họ thậm chí còn đe dọa sẽ

kêu gọi mọi ngƣời chống lại ba của Mimi.

- Sloane không thể tham dự cùng chúng ta hôm nay ðƣợc - Priscilla tiếp tục -

nhƣng chị ấy đã gửi phần ðóng góp hàng nãm của nhà họ. Tuy số tiền không

bằng năm ngoái nhƣng vẫn là một con số lớn, chứ không nhƣ nhiều gia đình

khác mà tôi không muốn kể tên ra ðây.

Tất cả tiền đóng góp cho vũ hội Four Hundred sẽ đƣợc chuyển vào quỹ của Ủy

Ban Ngân Hàng Máu New York, vỏ bọc bên ngoài của Ủy Ban dƣới hình thức

một tổ chức quyên tiền tài trợ cho các nghiên cứu về máu. Ngoài ra họ cũng ủng

hộ cho các chiến dịch chống bệnh AIDS và bệnh máu loãng khó đông.

Đó gần nhƣ là một nghĩa vụ mà các gia ðình phải làm để duy trì ngân sách của

Ủy Ban. Thêm vào ðó, các khoản hỗ trợ bên ngoài từ một số gia ðình khiến cho

ngân quỹ hàng triệu ðô-la của Ủy Ban nhƣ đƣợc tiếp thêm nhiên liệu. Chẳng

hạn nhƣ nhà Force, số tiền mà họ ðóng góp vƣợt xa con số mà Ủy Ban yêu cầu.

Trong khi ðó, một vài gia ðình khác nhƣ gia đình Van Alen, một chi tộc đáng

thƣõng từng có thời nắm quyền hùng bá thì giờ đây phải chịu cảnh thắt lƣng buộc bụng mới có đủ tiền đóng góp theo qui định. Còn hiện tại, chủ gia đình

Cordelia đã qua đời, Mimi không chắc Schuyler có thực sự hiểu chuyện gì đang

trông đợi cô ta không.

- Nhƣng vấn ðề là... - Trinity Burden Force, mẹ của Mimi, bắt ðầu bằng một

giọng du dƣõng - ... họ có xứng ðáng ngồi tại vị trí danh dự nhƣ trƣớc đây nữa

không? Sau tất cả những điều họ đã nói về Charles. - Câu hỏi của Trinity đã

ngầm thông báo cho Ủy Ban biết bà và chồng mình thà dự tiệc trên đống tro còn

hõn là ngồi chung một bàn với ngƣời nhà Carondolet.

- Theo tôi, cứ "cắt" họ ngồi ở bàn phía sau với những gia ðình thấp kém! -

BobiAnne Llewellyn the thé tuyên bố bằng chất giọng Texas ðặc trƣng. Vừa nói,

bà ta vừa ðƣa tay lên giả bộ hài hƣớc cắt một vết ngang cổ trong không khí,

thực chất là muốn khoe viên kim cƣõng ba mƣõi cara trên chiếc nhẫn của mình.

BobiAnne Llewellyn là ngƣời vợ thứ hai, ít tuổi hõn nhiều so với chồng mình,

thƣợng nghị sĩ Forsyth Llewellyn.

Một vài ngƣời phụ nữ khẽ rùng mình trƣớc lời gợi ý của BobiAnne dù rằng họ

cũng ngầm đồng ý với bạn mình. Chỉ là, cái cách diễn đạt thô thiển của

BobiAnne vốn không phải là cách mà các Máu Xanh vẫn làm.

Mimi nhận ra bạn cô, Bliss Llewellyn, cũng đang hƣớng cái nhìn về phía phát ra

giọng nói xé tai của bà mẹ kế mình. Bliss là một trong những thành viên mới

nhất của Ủy Ban. Mặt Bliss lúc này ðang từ từ chuyển sang màu gần giống với

màu tóc ðỏ rực của cô khi nghe thấy tiếng cƣời khùng khục phát ra từ nõi cổ

họng của BobiAnne ở đầu kia căn phòng.

- Vậy là xem ra chúng ta ðã có phƣõng án giải quyết cho vấn ðề này. - Priscilla

ôn tồn nói - Chúng ta sẽ giải thích với Sloane rằng họ không thể ngồi dự tiệc tại vị trí danh dự nãm nay, ðõn giản vì họ vẫn đang trong thời kỳ ðể tang con gái và

chúng ta muốn tỏ ra tôn trọng ðiều ðó. Chúng ta cũng sẽ ðể cô gái nhà Van Alen

ngồi chung với họ. Nhƣ vậy họ sẽ chẳng thể nói đƣợc điều gì nữa, bởi dù sao họ

cũng từng qua lại thân tình với Cordelia; và cháu gái bà ấy cũng đang chịu cảnh

mất ngƣời thân nhƣ họ.

Nhắc tới Schuyler mới nhớ, con nhãi ranh không biết biến ði ðằng nào rồi?

Chuyện đó không thực sự khiến Mimi quan tâm, nhƣng việc Schuyler không

thèm xuất hiện tại buổi họp mặt ngày hôm nay làm cô khó chịu. Cô nghe ai ðó

nói rằng Schuyler và tên Conduit Máu Ðỏ của cô ta, Oliver, ðã đi Venice. Trong

bao nhiêu nõi, tại sao lại là Venice chứ? Bọn chúng ðang làm cái chết tiệt gì ở

đó vậy? Mimi chun mũi. Nếu đã tới Ý thì không phải các thành phố thƣõng mại

lớn nhƣ Rome hay Milan sẽ là sự lựa chọn tốt hõn sao? Trong suy nghĩ của

Mimi, Venice lúc nào cũng ẩm ƣớt và nhớp nháp. Mà quan trọng là, làm sao

bọn chúng có đƣợc sự cho phép của nhà trƣờng vậy?

Trƣờng Duchesne không cảm thấy thoải mái với các kì nghỉ cá nhân tự do của

học sinh. Thậm chí ngay cả nhà Force cũng ðã nhận đƣợc lời khiển trách khi

đƣa hai đứa con sinh đôi của mình đi nghỉ tại một khu trƣợt tuyết vào tháng Hai

nãm ngoái. Theo lịch của nhà trƣờng, "tuần lễ trƣợt tuyết" chính thức là vào

tháng Ba, và các gia ðình tốt nhất là nên tuân theo sự sắp đặt đó. Nhƣng ai mà

thèm quan tâm chứ? Ðối với gia ðình nhà Charles Force, cái thứ "bột xốp" trên

núi Aspen vào tháng Ba làm sao có thể sánh ngang tầm với mùa tuyết tháng Hai

đƣợc.

Mimi ném một bông hồng lụa ngang qua bàn về phía anh trai mình. Jack lúc này

ðang tham gia một cuộc thảo luận sôi nổi với các thành viên khác trong tiểu ban

của cậu về vấn đề an ninh tại vũ hội. Bản thiết kế phòng khiêu vũ của khách sạn

St. Regis đang trải rộng trƣớc mặt họ.

Bông hồng rõi trúng ðùi Jack khiến cậu ngạc nhiên ngƣớc lên. Mimi nhe rãng

cƣời với cậu.

Mặt Jack hõi ửng hồng, nhƣng cậu cũng đáp lại cô bằng một nụ cƣời chết ngƣời

của riêng mình. Những tia nắng mặt trời chiếu rọi qua các khung cửa sổ làm

bằng kính màu càng khiến cho khuân mặt ðiển trai của Jack rạng ngời một sắc

vàng chói lóa.

Mimi chợt nghĩ cô sẽ chẳng bao giờ cảm thấy chán việc ngắm nhìn Jack. Cảm

giác ấy tuyệt vời gần nhƣ ngắm nhìn chính mình trong gƣõng vậy. Cô mừng là

sau khi sự thật về dòng dõi của Schuyler, thực chất là một Máu Lai, một Quái

thai, bị lộ ra, mọi chuyện giữa hai ngƣời họ lại quay trở về nhƣ bình thƣờng. Mà

có gì thực sự gọi là bình thƣờng xunh quanh cặp sinh ðôi nhà Force chứ?!

"Này anh chàng ðẹp trai" - Mimi ngầm phát tín hiệu.

"Gì vậy?" - Jack cũng ðáp lại mà không cần mở miệng.

"Chỉ là ðang nghĩ về anh thôi."

Nụ cƣời của Jack rạng rỡ hõn khi cậu ném trả bông hồng về phía em gái, bông

hồng lại rõi xuống trúng ðùi Mimi. Mimi giắt bông hồng ra phía sau tai, chớp

chớp lông mi ra chiều cảm kích.

Cô kiểm tra lại các thiệp RSVP một lần nữa. Vì buổi vũ hội này là một sự kiện

của toàn cộng ðồng ma cà rồng nên ban ðiều hành chủ yếu là các bậc Trƣởng

bối và các Giám hộ, tựu chung là toàn ngƣời lớn tuổi. Mimi mím chặt môi.

Chắc chắn rồi, ðây sẽ là một bữa tiệc thú vị, một sự kiện hoành tráng nhất kể từ trƣớc đến nay, nhƣng cô bỗng nảy ra một ý nghĩ. Một buổi tiệc phụ ngay sau đó

nghe thế nào nhỉ?

Một bữa tiệc chỉ có các ma cà rồng trẻ. Ðó sẽ là nõi mang lại cho họ cảm giác

thoải mái mà không phải giữ kẽ vì lo ngại ánh mắt phán xét từ phía các bậc phụ

huynh, các Giám hộ, và ban lãnh đạo Ủy Ban.

Một thứ gì đó phá cách và phiêu lƣu... một thứ mà chỉ có những ngƣời xuất sắc

nhất mới có quyền tham dự. Một nụ cƣời lạnh lùng sáng lên trên môi Mimi khi

cô tƣởng tƣợng ra cảnh những bạn bè cùng học tại Duchesne cầu xin cô mời họ

tham dự bữa tiệc. Trong vô vọng, Mimi nghĩ. Bởi vì sẽ chẳng có giấy mời nào

hết. Chỉ có những mẩu tin nhắn đƣợc gửi tới khách mời vào ðêm diễn ra vũ hội

Four Hundred, kèm theo ðó là tên ðịa ðiểm tổ chức buổi tiệc phụ. Một ðêm hai

vũ hội, chỉ dành cho ma cà rồng.

Mimi liếc nhìn Jack, lúc này ðang cầm một tờ giấy trƣớc mặt, làm che mất

khuôn mặt đẹp trai của cậu. Mimi bỗng nhớ lại một cảnh trong quá khứ: hai

ngƣời họ cúi chào nhau tại Cung ðiện Versailles, khuôn mặt họ ẩn sau những

chiếc mặt nạ trang trí bằng hạt cƣờm và lông vũ. Hiển nhiên rồi!

Một vũ hội hóa trang.

Buổi tiệc phụ sẽ là màn trình diễn của những chiếc mặt nạ.

Không ai biết chắc ai là ai cũng nhƣ có những ai đƣợc mời và ai không ðƣợc

mời, tự nhiên sẽ gây ra một nỗi lo sợ tập thể cực kỳ tinh tế. Mimi cảm thấy tràn

ngập vui thích trƣớc ý tƣởng này. Cô luôn luôn qua mặt ngƣời khác trong việc

kiếm tìm niềm vui thú, bởi Mimi lúc nào cũng sẵn sàng cho các cuộc vui. CHÝÕNG 3

Ðây không phải lần ðầu tiên Bliss Llewellyn mõ thấy những hình ảnh này.

Trong mõ, lúc nào cô cũng có cảm giác lạnh giá, ẩm ƣớt và khó thở. Những

giấc mõ trƣớc đây của cô đều nhƣ vậy, nhƣng riêng lần này, cô có cảm giác nó

chân thực hõn bao giờ hết. Ngƣời Bliss lạnh cóng, run lên từng cõn; rồi khi mở

mắt ra ðối diện với màn ðêm ðen ðặc, cô cảm nhận ðƣợc sự hiện diện của một ai

ðó khác nữa trong bóng tối. Một bàn tay nắm lấy cánh tay cô, kéo cô tiến lên

phía trƣớc, cứ nhƣ thế hƣớng về phía ánh sáng cho tới khi xuyên thủng làn nƣớc

lạnh giá. Ùm!

Bliss ho sặc sụa, đoạn thở hổn hển rồi nhìn ra xa xung quanh. Không phải là mõ.

Là hiện thực. Cô ðang nổi lênh ðênh giữa một hồ nƣớc.

- Bắm chắc vào, cô còn yếu lắm. Tôi sẽ đƣa cô vào bờ. - Một giọng nói trầm

thấp vang lên bên tai cô, ẩn chứa sự dịu dàng và bình tĩnh.

Bliss cố gắng xoay đầu lại để nhìn mặt ngƣời nọ nhƣng ngay lập tức bị anh ta

chặn lại.

- Đừng cử động, cũng đừng ngoái ra phía sau, chỉ tập trung hƣớng về bờ thôi.

Bliss gật đầu khiến những giọt nƣớc ðọng trên mái tóc chảy xuống mắt cô. Cô

vẫn còn ho vì sặc nƣớc và cảm thấy buồn nôn khủng khiếp. Hai cánh tay và ðôi

chân cô mỏi rã rời mặc dù không hề có dòng nƣớc nào cản trở họ. Mặt hồ phẳng

lặng không một gợn sóng. Trông nó thậm chí còn không giống một cái hồ. Mắt

Bliss dần điều chỉnh trong bóng tối, cô nhận ra mình ðang ở Công viên Trung tâm, giữa hồ nƣớc nhân tạo trong công viên, nõi mà mùa hè nãm ngoái, trƣớc

khi nhập học vào Duchesne, ba mẹ ðã đƣa cô và em gái ðến cửa hàng nhà bè ãn

tối.

Vào giờ này thì chẳng còn con thuyền nào trên hồ. Lúc này đã gần cuối tháng

Mƣời Một rồi nên chẳng còn mấy ai ra hồ chõi. Trên mặt ðất ðã bắt đầu xuất

hiện sƣõng giá, và lần ðầu tiên trong suốt tối hôm ðó, Bliss cảm nhận ðƣợc cái

lạnh tràn cả vào trong tĩnh mạch mình. Ngƣời cô bắt ðầu run lên nhƣ cầy sấy.

- Sẽ ổn thôi. Máu cô sẽ nóng lại nhanh thôi, ðừng lo. Ma cà rồng không bao giờ

chết vì lạnh ðâu. - Giọng nói ðó lại vang lên.

Bliss Llewellyn ðến từ Texas. Ðó luôn là thông tin ðầu tiên cô tiết lộ mỗi khi

làm quen với một ai ðó. "Tôi ðến từ Texas". Cứ nhƣ thể xác định đƣợc cô đến

từ đâu sẽ giải thích đƣợc tất cả mọi điều về cô: từ âm điệu giọng nói, mái tóc

xoãn dày tới những chiếc khuyên tai dát kim cƣõng nãm cara. Ðó cũng là cách

gợi cô nhớ về quê nhà yêu dấu và cuộc sống trƣớc đây của mình, một cuộc sống

dƣờng nhƣ cách xa cả thế kỷ so với cuộc sống hiện tại của cô trong vai một

trong những cô nàng ðỏm dáng nhất New York.

Ở Texas, Bliss luôn luôn nổi bật. Cô cao tầm một mét bảy bảy (cộng thêm cả

mái tóc dày, cô dễ cao ðến hõn mét tám), dáng ngƣời sãn chắc, và dƣờng nhƣ

không bao giờ biết đến nỗi sợ hãi là gì. Cô là thành viên đội cổ động duy nhất

có thể thực hiện đƣợc cú nhào lộn tiếp ðất từ trên ðỉnh tháp nãm mƣõi ngƣời

chồng lên mà vẫn an toàn hạ cánh xuống sân cỏ mềm mƣợt. Trƣớc khi phát hiện

ra mình là một ma cà rồng và sở hữu những sức mạnh phi thƣờng, Bliss luôn

nghĩ rằng những gì cô có đƣợc là nhờ may mắn cộng với việc chãm chỉ luyện

tập.

Bliss sống với gia đình tại một biệt thự sang trọng có cổng rào xung quanh ở

khu ngoại ô riêng biệt của thành phố Houston. Hàng ngày cô ðến trƣờng bằng

chiếc Cadillac cổ có thể bỏ mui của ông cô. Một chiếc xe cổ chính hãng với cặp

sừng trâu gắn trên nắp capo. Nhƣng ba cô vốn sinh trƣởng tại Manhattan, và sau

khi đã trở thành chính trị gia số một của Houston, ông ðột nhiên tranh cử chiếc

ghế Thƣợng nghị sĩ ðang trống của New York. Ông ðắc cử và gia ðình cô

chuyển về Manhattan.

Việc thích nghi với cuộc sống phù hoa tại "Big Apple" (Quả táo lớn)10 sau khi

đã sống cả tuổi thõ tại Houston thực sự khó khãn ðối với Bliss. Cô cảm thấy

không thoải mái trong những câu lạc bộ ðêm sang trọng và cả những buổi party

đình ðám mà Mimi Force, ngƣời bạn thân luôn cho mình là trung tâm mà cô

mới làm quen khi chuyển ðến ðây, ðã kéo cô vào. Chỉ cần đƣa cho Bliss một

chai Boone, một vài ngƣời bạn gái, một đĩa DVD phim "The Notebook" (Nhật

Ký) là ðủ làm cô hạnh phúc rồi. Cô không thích tụ tập tại những câu lạc bộ,

mang theo mình cái cảm giác chỉ là phông nền cho ngƣời khác trong khi nhìn

nhân vật chính Mimi Force chìm trong những cuộc vui tƣng bừng. Nhƣng cuộc

đời cô bỗng nhƣ rẽ sang một ngã khác khi cô gặp Dylan Ward, một chàng trai

mắt đen với khuôn mặt buồn bã nhƣng lại luôn có những biểu lộ chan chứa tình

cảm và... vô cùng quyến rũ. Chính tại con hẻm nhỏ dƣới khu Lower East Side

một ðêm cách ðây vài tháng, cậu ðã bắt chuyện với cô khi giúp cô châm điếu

thuốc lá. Cũng nhƣ cô, Dylan là một thành phần "ngoài rìa" tại trƣờng

Duchesne, nhƣng theo một hƣớng khác. Cậu là một kẻ nổi loạn tách biệt với các

học sinh khác, khuôn mặt lúc nào cũng sƣng sỉa ủ rũ, và chỉ chõi chung với ðám

bạn kém cỏi - Oliver Hazard-Perry và Schuyler Van Alen, hai học sinh mờ nhạt

nhất trong khối. Đối với Bliss, Dylan còn hõn cả một ngƣời bạn; cậu là ðồng

minh, thậm chí có thể coi là bạn trai của cô. Cô ðỏ mặt khi nhớ lại những nụ

10 Big Apple: tên lóng chỉ thành phố New York hôn sâu, ngọt ngào cậu trao cô. Ôi! Giá nhƣ cái ðêm ấy tại nhà cô, ba cô không

xuất hiện. Giá nhƣ...

Giá nhƣ Dylan đừng chết. Nhƣng cậu đã bị biến ðổi, trở thành một Máu Bạc

ðiên cuồng, khát máu và rồi lại bị chính những kẻ biến đổi cậu giết chết khi cố

quay lại cảnh báo cho cô... Đôi mắt Bliss lấp lánh những giọt nƣớc mắt mỗi khi

nhớ lại cảnh cô tìm thấy chiếc áo khoác ngoài của cậu nhàu nhĩ trên sàn phòng

tắm nhà cô. Chiếc áo thấm ðẫm toàn một màu đỏ của máu.

Bliss đã từng nghĩ rằng ðó là lần cuối cùng cô nhìn thấy Dylan, vậy mà... chàng

trai đã cứu cô... cái giọng trầm thấp nhƣ rót vào tai cô nghe sao mà thân thƣõng

ðến vậy. Cô không dám hy vọng, cô cũng không muốn tin vào một ðiều không

có thực. Cô bấu víu vào ngƣời thanh niên khi anh ta kéo cô vào bờ.

Ðây không phải là lần ðầu Blis thấy mỉnh tỉnh dậy ở một nõi xa lạ, và gần nhƣ

lúc nào cũng trong trạng thái nguy hiểm. Chỉ mới tuần trƣớc cô tỉnh giấc và

nhận ra mình đang nằm chênh vênh bên mép tầng cao nhất của Bảo tàng

Cloisters, mãi tận khu Công viên Fort Tryon. Thậm chí chân trái cô lúc đó đã

chới với ngoài không trung. Bliss tỉnh dậy vừa kịp lúc lãn ngƣợc trở lại, tự cứu

mình khỏi cú rõi kinh hoàng. Bliss nhận ra có lẽ cô cũng không thể chết kể cả

có rõi từ ðộ cao ðó xuống chãng nữa, nhiều lắm chỉ xây xƣớc vài chỗ là cùng,

rồi cô tự hỏi không lẽ trong tiềm thức cô muốn tự sát? Vậy thì cách nào mới

thành công ðối với một ngƣời bất tử nhƣ cô? Còn hôm nay thì cô lại tỉnh dậy ở

giữa một cái hồ.

Những cõn mất ý thức tạm thời, những ác mộng mà lúc nào cô cũng thấy hình

ảnh ai đó đang đuổi bám theo mình, và rồi tỉnh dậy thấy mình lúc thì ở đây, lúc

lại ở kia ngày, sự việc ngày một trở nên tồi tệ hõn. Chúng bắt ðầu từ nãm ngoái

khiến Bliss sợ hãi tột cùng, kèm theo là những cõn ðau ðầu nhƣ búa bổ do bị ám ảnh bởi những hình ảnh đáng sợ về đôi mắt đỏ ngầu, những cái răng sáng bóng,

sắc nhọn với con ngƣõi màu bạc... và cả những cảnh cô chạy dọc những hành

lang dài vô tận trong khi con quái thú bám sát ðằng sau, hõi thở hôi hám càng

lúc càng gần, ðoạn tóm lấy cô, giữ chặt cô trên sàn nhà nõi nó sẽ nuốt sống linh

hồn cô. Dừng lại ngay, cô ra lệnh cho bản thân. Tại sao phải nghĩ về những

chuyện ðó lúc này? Những hình ảnh ghê rợn ngay lập tức biến mất nhƣng con

quái thú hay dù nó là bất cứ cái gì chăng nữa cũng đã làm tổ trong trí tƣởng

tƣợng của cô mất rồi. Không phải ba cô đã nói rồi sao? Rằng những cõn ác

mộng ðõn giản chỉ là một phần của quá trình biến đổi? Bliss mới mƣời lăm tuổi,

cái tuổi mà kí ức của ma cà rồng bắt ðầu hồi phục, cái tuổi mà Máu Xanh bắt

đầu nhận ra nhân dạng thực sự của họ từ trƣớc khi họ bắt ðầu cuộc hành trình

bất tử trên trái ðất này.

Bliss cố gắng nhớ lại tất cả mọi chuyện đã xảy ra trong ngày hôm đó, xem có

một chút manh mối nào giải thích lý do tại sao cô lại bất tỉnh trong hồ nƣớc ở

Công viên Trung tâm hay không. Buổi sáng cô vẫn tới trƣờng nhƣ thƣờng lệ, rồi

sau đó tham gia buổi họp hàng tuần tẻ nhạt của Ủy Ban. Ủy Ban ðáng ra có

nhiệm vụ dạy dỗ cô cũng nhƣ tất cả những ma cà rồng mới cách kiểm soát và sử

dụng các siêu giác quan của họ, nhƣng trong suốt hai tháng qua, tất cả những gì

bọn họ làm là lên kế hoạch chuẩn bị cho cái bữa tiệc quý tộc ấy. Mẹ kế của

Bliss, BobiAnne, cũng tham gia buổi họp và ðã làm cô xấu hổ vì cái giọng chói

tai, bộ đồ lòe loẹt, từ đầu tới chân đâu đâu cũng thấy cái mác hiệu Vuitton của

bà. Bliss không biết là hãng này lại còn sản xuất cả những bộ quần áo ðồng màu

với những cái túi xách nâu đặc trƣng nữa cõ ðấy. Cô nghĩ trông mẹ kế cô nhìn

nhƣ thể một cái vali di ðộng to ðùng, sáng choang những màu nâu và vàng.

Khi buổi họp kết thúc, nhân ngày ba cô ðƣợc nghỉ ở nhà nên cả gia đình đi ăn

tối tại nhà hàng Le Cirque mới khai trƣõng tại một trong những khu sang trọng

nhất của tòa nhà One Beacon Court. Trong nhà hàng xuất hiện ðầy các nhân vật quyền lực và giàu có. Thƣợng nghị sĩ Llewellyn dành cả buổi tối cho việc bắt

tay với những vị tai to mặt lớn khác: Thị trƣởng, biên tập viên truyền hình, diễn

viên, và một Thƣợng nghĩ sĩ khác của New York. Lúc ngồi vào bàn, Bliss gọi

món pate gan tái, rồi sung sƣớng thƣởng thức lớp mứt quả lý gai phủ bên trên

chiếc gan rƣới đầy kem tƣõi ngậy.

Sau bữa ãn, họ ðến nhà hát xem opera. Ngồi tại một lô VIP dành riêng cho gia

đình, cả nhà cô theo dõi sản phẩm mới nhất của Met Production: vở Orfeo ed

Euridice11. Bliss rất thích câu chuyện tình bất hạnh về Orpheus, ngƣời đã dám

xuống tận Địa ngục để cứu ngƣời vợ yêu dấu, Eurydice, nhƣng rồi tới phút cuối

chàng vẫn mất nàng. Tuy yêu thích câu chuyện là vậy nhƣng giọng hát thống

thiết và sang sảng ðã đánh gục Bliss, đƣa cô chìm vào giấc ngủ. Và trong mõ,

cô thấy mình đang ở Địa ngục đầy nƣớc của Hades.

Ðó cũng chính là nõi hồi tƣởng của cô kết thúc. Không biết lúc này gia ðình cô

có còn trong nhà hát hay không? Cô nhớ lại hình ảnh ba cô ngồi nhƣ một bức

tƣợng thần cứng nhắc mà uy nghiêm, hai tay ông khum lại dƣới cằm, chăm chú

theo dõi vở diễn trong khi mẹ kế cô nhãn mặt và ngáp dài, còn đứa em gái,

Jordan, thì chỉ ngồi lặng lẽ, hát nhẩm theo từng lời của vở kịch. Jordan mới chỉ

mƣời một tuổi nhƣng là một tín ðồ cuồng nhiệt nhất của opera, ít ra ðối với

Bliss thì có vẻ là vậy.

11 Tên tiếng Pháp của "Orpheus và Eurydice" - cặp vợ chồng trong thần thoại Hy Lạp. Khi

ngƣời vợ yêu Eurydice chết, Orpheus ðã dùng tiếng ðàn lyre ðể cảm hóa thần Chết Hades và

vợ ông là Persephone. Hades ðồng ý cho Eurydice đƣợc hồi sinh với ðiều kiện trên ðƣờng về

dƣõng gian, Orpheus không ðƣợc ngoái đầu lại nhìn vợ ði ðằng sau. Tuy nhiên trên ðƣờng về,

khi không nghe đƣợc tiếng bƣớc chân và hõi thở của vợ ðã quay lại nhìn. Và Eurydice bị kéo

lại âm phủ. Orpheus đuổi theo nhƣng ngƣời lái đò sông Styx không chở chàng nữa dù chàng

quỳ trong 7 ngày 7 ðêm. Khi về dƣõng gian, Orpheus buồn chán và không thiết tha với bất cứ

cô gái nào. Trong một ðêm lễ hội chàng ðã bị những kẻ say rƣợu ðánh chết và quẳng xác

xuống sông. Cho tới lúc ðó mà ngƣời ta vẫn nghe thấy tiếng ðàn tha thiết, yêu thƣõng của

chàng. Giờ thì họ ðang tiến gần tới chiếc cầu nõi những con thuyền neo ðậu. Bàn tay

chắc chắn của ngƣời lạ mặt kéo cô lên chiếc thang gần chân cầu. Bliss bị trƣợt

chân nhƣng vẫn đi đƣợc. Cho dù ðó là ai ði nữa thì ít nhất anh ta cũng đúng ở

một điểm: dòng máu ma cà rồng trong cô ðang dần lấy lại sức nóng, và chỉ sau

ít phút, Bliss thậm chí còn không nhận ra nhiệt ðộ ngoài trời lúc này chỉ trên

dƣới nãm ðộ. Nếu là ngƣời bình thƣờng thì giờ này cô đã chết cóng và chìm

nghỉm trong hồ nƣớc lạnh rồi.

Bliss nhìn xuống bộ quần áo ƣớt nhƣ chuột lột. Cô vẫn mặc bộ đồ đó từ lúc đi

ãn tối và xem opera. Chiếc váy hiệu Temperley bằng vải sa-tanh với những

đƣờng thêu tinh tế giờ chỉ nhƣ một ðống nùi sũng nƣớc. Với một bộ đồ chỉ đƣợc

phép giặt khô thì ðây ðúng là thảm họa của thảm họa. Ðôi giày da cao nãm phân

hiệu Balenciaga giờ cũng còn đúng một chiếc. Chiếc thứ hai chắc đã nằm sâu

dƣới đáy hồ rồi. Bliss bối rối nhìn vào tờ giới thiệu chƣõng trình của vở opera

mà cô vẫn giữ chặt trong tay, ðoạn thả nó rõi nhẹ nhàng xuống nền ðất.

- Cám õn anh... - Cô nói, quay lại phía sau ðể nhìn cho rõ khuân mặt của ân

nhân.

Nhƣng chẳng có gì ðằng sau cô, ngoài làn nƣớc xanh yên bình nõi mặt hồ nhân

tạo. Chàng trai lạ mặt ðã biến mất. Mục Lýu Trữ tờ New York Herald.

Số ra ngày 1 tháng 10 nãm 1870.

SỰ BIẾN MẤT BÍ ẨN CỦA MAGGIE STANFORD

Con gái rýợu của ông trùm dầu khí ðã biến mất trong một ðêm vũ hội. Liệu có

phải một cuộc bắt cóc?

Cảnh sát New York đang đặt ra nhiều nghi vấn trƣớc sự biến mất bí ẩn của cô

gái mƣời sáu tuổi Maggie Stanford. Theo một số nguồn tin cho biết, cách đây ba

tuần có ngƣời đã nhìn thấy cô Stanford đi ra từ dinh thự của Đô đốc Hải quân

Thomas Vanderbilt, số 800 Ðại lộ Số Nãm, nõi lúc ðó ðang diễn ra vũ hội

thƣờng niên Patrician; và kể từ ðó không ai còn nhìn thấy cô nữa. Quý cô

Maggie Stanford là con gái của ông bà Tiberius Stanford, ngụ tại Newport. Các

thám tử ðang làm việc hết sức khẩn trƣõng nhằm làm rõ vụ việc trên nhƣng cho

tới giờ vẫn chƣa tìm ra manh mối nào.

Việc quý cô Stanford mất tích đã đƣợc báo lại tại ðồn cảnh sát số 10 vào hôm

thứ Sáu, ngày 22 tháng Tám vừa qua. Tối hôm ðó, theo lời kể của mẹ nạn nhân,

bà Dorothea Stanford - một phụ nữ có tiếng trong giới thƣợng lƣu, cô Maggie

vừa đƣợc giới thiệu tại vũ hội Patrician và là ngƣời mở đầu vũ hội với điệu cađri

dành cho bốn nguời. Maggie là ngƣời khá trầm tính. Cô nặng bốn mƣõi ba ký,

thân hình mảnh mai, xinh xắn, theo lời những ngƣời trong gia đình, Maggie có

tính cách rất ôn hòa. Cô có mái tóc ðỏ sẫm, mắt xanh lục bảo và khuân mặt

thanh tú, yêu kiều. Cũng trong buổi tối vũ hội hôm đó, cô đã tuyên bố chính

thức ðính hôn với Ngài Alfred Burlington, Bá tƣớc vùng Devonshire. Theo bà

Stanford, con gái bà có khả nãng ðã bị bắt cóc hoặc bị dụ dỗ bởi những kẻ thuộc thế lực đen. Gia đình Stanford treo thƣởng cho bất cứ ai tìm đƣợc thông tin nào

giúp ích việc giải cứu con gái họ. Ông Tiburus Stanford chính là ngƣời sáng lập

ra hãng dầu khí Stanford Oil, một trong những tập ðoàn hùng mạnh nhất nƣớc

Mỹ.

CHÝÕNG 4

Rõ ràng bà ấy vừa ở ðây cõ mà. Schuyler tin chắc nhƣ vậy. Ngƣời phụ nữ mà cô

đuổi theo suốt cả chặng đƣờng dài ban nãy đã chạy vào phía sau cánh cửa của

chính cái tòa nhà mà cô ðang ðứng ðây, thế mà giờ bà ta biến mất không thấy

tãm hõi ðâu.

Schuyler nhìn ra xung quanh. Cô ðang ở trong hành lang của một nhà trọ nhỏ.

Những nhà trọ và khách sạn bình dân kiểu này từng có thời là những cung điện

nổi12 tráng lệ của thành Venice cổ. Còn giờ ðây chúng trở thành nõi nghỉ tạm

của khách du lịch - những ngƣời không cảm thấy quá phiền lòng bởi những

song chấn gãy nát và lớp sõn trầy xƣớc của tòa nhà, vì cuốn cẩm nang du lịch

sáo rỗng đã hứa hẹn rằng chỉ nhƣ vậy họ mới đƣợc sống trong bầu không khí

kiểu Ý "đích thực".

Từ phía quầy lễ tân, một phụ nữ lớn tuổi, ðầu trùm một chiếc khãn ðen, ngƣớc

lên nhìn Schuyler với vẻ tò mò.

- Posso li aiuto? (Tôi có thể giúp gì ðýợc cô?)

Schuyler thực sự bối rối. Trong phòng không có bất kỳ dấu hiệu nào của ngƣời

phụ nữ tóc vàng kia. Sao bà ta có thể lủi nhanh nhƣ vậy đƣợc nhỉ? Cô hầu nhƣ

bám sát gót bà ta cõ mà. Cãn phòng này xem ra cũng không có cánh cửa phụ

hay chiếc tủ nào dành cho việc ðào tẩu.

12 Cung ðiện nổi: Hầu hết Venice cùng các công trình kiến trúc của thành phố này đƣợc xây

trên sông Po và sông Piave (Ý), chính vì vậy mà Venice còn có tên gọi là "Thành phố Nƣớc"

hay "Thành phố của các kênh ðào". - Ci era una donna qui, si? (Có một ngýời ðàn bà vừa vào ðây, ðúng không ạ?)

- Schuyler ðáp lời. Cô thầm biết õn vì trƣờng Duchesne yêu cầu học sinh theo

học không chỉ một mà những hai ngoại ngữ, và vì Oliver cứ khăng khăng muốn

cô học tiếng Ý, đõn giản chỉ ðể "chúng ta có thể dễ dàng gọi món lúc ðến nhà

hàng Mario Batali".

- Una donna? (Một phụ nữ ý?) - Ngƣời kia nhíu mày và lắc ðầu. Bà ðáp lại

nhanh bằng tiếng Ý. - Trừ tôi ra, trong này chẳng còn ai. Còn từ bên ngoài vào

thì chẳng có ai trừ cô.

- Bà chắc chứ ạ? - Schuyler vẫn nằn nì.

Cô tiếp tục hỏi bà chủ nhà trọ cho tới khi Oliver tới. Cậu nhảy lên bậc thềm tòa

nhà từ một chiếc thuyền máy bóng nhoáng. Thật may là cậu ðã nhanh chóng

nhận ra chiếc "taxi nƣớc" này hợp với hoàn cảnh của mình lúc ðó hõn là một

chiếc thuyền chèo tay.

- Cậu tìm đƣợc bà ta chƣa? - Oliver hỏi.

- Bà ấy vừa ở ðây. Tớ thề đấy. Nhƣng ngƣời phụ nữ này nói chẳng có ai vào ðây

cả.

- Không có phụ nữ. - Ngƣời kia xen vào, lắc lắc ðầu - Chỉ có một vị Giáo sƣ

sống ở đây thôi.

- Giáo sƣ ƣ? - Schuyler hỏi lại nhƣ thể vớ đƣợc vàng. Ông ngoại cô cũng từng

là giáo sƣ ngành ngôn ngữ học. Ðó là những gì cô đọc đƣợc trong Kho Lƣu Trữ

Lịch Sử, một kho lƣu trữ riêng của gia tộc Máu Xanh, nõi nắm giữ tất cả các tri

thức cũng nhƣ những bí mật của gia tộc. - Ông ấy đâu rồi?

- Ông ấy đã rời đi từ nhiều tháng trƣớc rồi.

- Khi nào ông ấy mới trở lại?

- Hai ngày, hai tháng, thậm chí là hai nãm - bất cứ khi nào ông ấy muốn. Cũng

có thể là ngày mai hoặc chẳng bao giờ cả. - Bà chủ nhà trọ thở dài - Chẳng ai

biết gì về vị Giáo sƣ này. Nhƣng may cho tôi là ông ấy luôn thanh toán đúng

hạn.

- Liệu chúng tôi có thể... có thể ngó qua phòng ông ấy đƣợc không? - Schuyler

hỏi.

Bà chủ nhà trọ nhún vai, ðoạn ðƣa tay chỉ về phía cầu thang. Tim Schuyler đập

mạnh trong lồng ngực, cô tiến về phía cầu thang, theo sát phía sau là Oliver.

- Khoan đã. - Oliver nói khi họ tới cánh cửa gỗ nhỏ nằm ở mặt trƣớc của toà

nhà. Cậu lắc nhẹ quả ðấm. - Bị khóa rồi. - Oliver thử lại lần nữa. - Vẫn không

đƣợc.

- Chết tiệt, cậu xem kĩ chƣa? - Schuyler chen lên trên ðể thử. Cô xoay quả đấm

và chốt cửa bật mở.

- Sao cậu làm ðƣợc nhƣ vậy? - Oliver kinh ngạc.

- Tớ có làm gì đâu.

- Nhƣng nó thật sự bị khóa mà. - Oliver thanh minh.

Schuyler nhún vai rồi nhẹ nhàng ðẩy cánh cửa. Bên trong là một cãn phòng nhỏ

sắp ðặt gọn gàng, ngãn nắp; trong phòng kê một chiếc giƣờng ðõn, một chiếc

bàn gỗ cũ và những hàng giá sách chất cao lên tới tận trần nhà.

Schuyler lôi ra một cuốn sách từ hàng kệ phía dƣới.

- "Cái Chết và Sự Sống ở Các Thuộc Ðịa Plymouth - tác giả Lawrence

Winslow Van Alen." - Schuyler ðọc tiêu ðề cuốn sách rồi giở trang ðầu tiên.

Ngay trên ðầu là một dòng chữ viết tay thanh thoát: "Dành tặng Cordelia thân

yêu của tôi."

- Ðúng là ông rồi. - Schuyler thì thầm - Ông ngoại tớ đang ở đây... - Schuyler

ngó qua vài cuốn sách khác trên giá và nhận ra có rất nhiều cuốn ðề tên tác giả

L. W. Van Alen.

- ...lúc này thì không, ông ấy đã ði rồi. - Bà chủ nhà trọ xuất hiện nõi cửa ra

vào, tiếp lời Schuyler ban nãy, khiến cả cô lẫn Oliver nhảy dựng lên vì giật

mình. - Nhƣng hôm nay cũng là ngày Biennale kết thúc mà Giáo sƣ thì chƣa

bao giờ bỏ lỡ dịp này.

Biennale, triển lãm nghệ thuật đƣợc tổ chức hai nãm một lần tại Venice, là một

trong số những cuộc triển lãm tầm cỡ và uy tín nhất của làng nghệ thuật cũng

nhƣ kiến trúc thế giới. Cứ hai nãm một lần, trong suốt hàng tháng trời, những

nghệ sĩ, những nhà buôn tranh, khách du lịch và cả học sinh, sinh viên từ khắp

mọi miền trên thế giới ðổ về Venice, háo hức đƣợc trở thành một phần của

festival nghệ thuật tầm cỡ này. Ðó là sự kiện mà Schuyler và Oliver ðã bỏ lỡ

trong suốt dịp cuối tuần ở đây chỉ vì mải mê với cuộc tìm kiếm vô vọng ông

ngoại cô.

- Nếu hôm nay triển lãm kết thúc... - Schuyler nói - ... thì chúng ta lại càng

phải nhanh lên.

Bà chủ nhà trọ gật ðầu ðồng tình rồi rời căn phòng.

Schuyler lại tiếp tục thắc mắc về ngƣời phụ nữ trông giống mẹ cô đến mức lạ kì.

Liệu có phải mẹ cô đã chỉ đƣờng dẫn lối cho cô tìm đến ông ngoại? Có phải mẹ

ðang cố giúp cô không? Hay chỉ là hồn phách của mẹ mà cô ðã nhìn thấy?

Họ vội vã xuống lầu và thấy bà chủ nhà trọ ðang sắp xếp lại giấy tờ trên bàn lễ

tân.

- Cám õn bà ðã giúp ðỡ chúng cháu. - Schuyler nói trong khi cúi chào ngƣời

phụ nữ đứng tuổi.

- Sao cõ? Cô nói gì vậy? Posso li aiuto? (Tôi có thể giúp gì cho hai ngƣời?) -

ngƣời phụ nữ ngạc nhiên.

- Về vị Giáo sƣ, về Biennale, tụi cháu sẽ đi tìm ông ấy ngay bây giờ đây.

- Giáo sƣ? Ồ, không, không. Không có Giáo sƣ nào ở ðây... - Bà chủ nhà trọ

làm dấu Thánh và liên tục lắc ðầu.

- Không có Giáo sƣ ƣ? Theo cậu, ý bà ta là sao? - Schuyler nhíu mày, quay

sang hỏi Oliver.

- Giáo sƣ đã đi... từ hai năm trƣớc rồi. - Bà chủ nhà trọ nói bằng thứ tiếng Anh

nhát gừng. - Ông ấy không còn sống ở đây nữa.

- Nhƣng bà vừa mới nói là... - Schuyler cãi lại. - Chúng ta vừa mới nói chuyện

trên lầu mà. Chúng cháu thậm chí ðã ở trong phòng ông ấy.

- Tôi chƣa bao giờ gặp hai ngƣời trƣớc ðây và phòng ông ấy đã bị khóa rồi. -

Bà chủ nhà trọ trả lời; trông mặt bà thực sự sốc trong khi vẫn kiên quyết dùng

thứ tiếng Anh khập khiễng, mặc kệ Schuyler từ nãy giờ vẫn đáp lại bằng tiếng Ý,

thậm chí cô còn nói rất lƣu loát là khác.

- Eravamo giusti qui. (Nhýng chúng cháu vừa ở ðây lúc nãy mà.) - Schuyler

tiếp tục đôi co trong khi ngƣời phụ nữ kia chỉ lắc ðầu và tự lẩm bẩm ðiều gì

nghe không rõ.

- Có cái gì đó khang khác ở ngƣời phụ nữ này. - Schuyler thì thầm với Oliver

khi họ bƣớc ra khỏi nhà trọ.

- Ừ ðúng ðấy, bà ta trông còn kì quặc hõn cả lúc trƣớc. - Oliver tếu táo.

Schuyler quay đầu lại để nhìn ngƣời phụ nữ một lần nữa, và nhận ra rằng bà ta

có một nốt ruồi bên dƣới cằm, thậm chí cô còn nhìn thấy vài sợi lông mọc ra từ

đó. Nhƣng ngƣời phụ nữ cô gặp lúc đầu không hề có nốt ruồi nào nhƣ thế. Cô

dám ðoan chắc chuyện này. CHÝÕNG 5

Mimi nhìn xuống chiếc di ðộng ðang rung lên, báo hiệu có tin nhắn tới trong lúc

bƣớc ra khỏi lớp tiếng Pháp nâng cao.

"Tớ có tên trong danh sách chứ?"

Lại thêm một tin nhắn khác. Chỉ mới có một buổi sáng mà cô ðã nhận đƣợc bảy

cái tin nhƣ thế này. Rõ ràng là mọi ngƣời không thể bình tĩnh hõn ðƣợc nữa rồi.

Bằng cách nào ðó, chỉ sau chƣa đầy hai mƣõi tƣ tiếng đồng hồ, tin tức về kế

hoạch tổ chức một bữa tiệc phụ sau Vũ hội Four Hundred do Mimi Force "sành

điệu" khởi xƣớng đã lan ra khắp cộng ðồng ma cà rồng trẻ ở New York. Hiển

nhiên ðó là nhờ Mimi ðã rỉ tai Piper Crandall, tay "buôn dƣa" số một trong

trƣờng; và cô nàng Piper này ðã không bỏ lỡ một phút giây nào giúp cho tin tức

nhanh chóng đƣợc loan truyền. Tất cả những gì mọi ngƣời biết là sẽ có một bữa

tiệc tổ chức tại một ðịa ðiểm bí mật và do cặp sinh ðôi nhà Force chủ trì. Nhƣng

không ai biết liệu mình có tên trong danh sách khách mời hay không, chỉ cho tới

ðêm diễn ra vũ hội. Thật ðúng là một màn tra tấn tập thể!

Chỉ cần bấm C hoặc K!!! Nhƣng Mimi xóa luôn mẩu tin mà chẳng thèm ðáp lại

dòng nào.

Mimi ði dọc xuống hành lang phía sau trƣờng, dẫn tới căng-tin nằm dƣới tầng

trệt. Khi thấy bóng cô ði ngang qua, một vài teen Máu Xanh ðã ra sức thu hút sự

chú ý của cô.

- Mimi à... tụi này ðã nghe tin về buổi tiệc phụ... Ðúng là một ý tƣởng tuyệt

vời! Cậu có cần tụi này giúp một tay không? Ba tớ có thể mời Kanye và cả DJ

cho bữa tiệc. - Blair McMillan gợi ý. Cô nàng này có ông bố là chủ công ty

phát hành bãng ðĩa lớn nhất thế giới.

- Này Mimi, cậu sẽ mời tớ, ðúng không? Tớ có thể mang theo bạn trai không?

Anh ấy là một MÐ13... Nhƣ thế sẽ rất cool, đúng không? - Soos Kemble giở

giọng nịnh bợ.

- Này cƣng, ðừng quên mời chị ðó nhen... - Lucy Forbes gọi với từ ðằng xa,

không quên gửi kèm một nụ hôn gió thật kêu.

Mimi chỉ cƣời nhã nhặn ðáp lại tất cả bọn họ và ðặt một ngón tay lên môi làm

hiệu.

- Dù là chuyện gì thì tớ cũng không thể tiết lộ bây giờ đƣợc. Nhƣng các cậu sẽ

sớm biết thôi.

Phía dƣới cầu thang dẫn xuống cãng-tin, ngay bên dƣới chiếc gƣõng mạ vàng

theo phong cách Ba-rốc treo trên lò sƣởi, Bliss Llewellyn đang ngẩn ngƣời gắp

miếng sushi, cứ nhƣ thể trƣớc mặt cô không phải là miếng sushi ngon lành mà

là thứ gì ðó ðáng ghê tởm. Bliss và Mimi Force ðã hẹn cùng ăn trƣa với nhau

nhƣng hiển nhiên cô ta lại ðến muộn nhƣ thƣờng lệ. Bỗng nhiên, Bliss cảm thấy

mừng vì cuộc hẹn tạm thời bị trì hoãn. Nó cho cô cõ hội ðể lạc lối trong những

suy nghĩ của riêng mình về sự kiện diễn ra ðêm qua.

13 MĐ: Máu Đỏ. Đang trong khu vực trƣờng nên cô bạn này không muốn nhắc nguyên tên

của cụm từ này (ND) Dylan. Chắc chắn ngƣời lạ mặt đã cứu cô khỏi chết chìm trong công viên chính

là cậu ấy. Bliss cần tin rằng Dylan ðã thoát đƣợc nanh vuốt của Máu Bạc. Có lẽ

lúc này cậu ấy ðang lẩn trốn ðâu ðây, và có lẽ việc lộ diễn với bạn bè sẽ khiến

cậu gặp nguy hiểm. Giống nhƣ một siêu nhân vậy, Bliss mõ màng. Còn ai khác

có thể cảm nhận đƣợc nỗi buồn của cô? Còn ai khác có thể bõi trong làn nƣớc

lạnh giá để cứu cô? Còn ai khác có sức mạnh nhƣ vậy? Và còn ai khác mang lại

cho cô cảm giác an toàn ðến vậy? Bliss cứ ôm khƣ khƣ lấy ðống câu hỏi này

nhƣ thể nó là cái chãn ấm quấn quanh ngƣời cô. Dylan vẫn sống. Cậu ấy phải

sống.

- Không ðói à? - Mimi hỏi khi ngồi xuống cạnh cô.

Thay vì trả lời, Bliss ðẩy cái khay thức ãn ra xa và xịu mặt. Ðã đến lúc cô phải

đẩy những ý nghĩ về Dylan ra khỏi tâm tƣ.

- Chuyện về bữa tiệc phụ là sao vậy? Mọi ngƣời cứ bám lấy mình ðể hỏi này hỏi

nọ mà chẳng ai chịu tin là mình không hề biết chuyện gì đang diễn ra. Sau cú

"vũ hội", cậu và Jack lại ðịnh ðập bóng tới tận ðâu ðây?14

Mimi nhìn ra xung quanh để đảm bảo không ai nghe lỏm đƣợc họ, và chỉ khi ðã

chắc chắn cả hai ðang trong vùng an toàn thì cô mới mở miệng nói.

- Ừ, mình ðang tính nói với cậu chuyện này ðây.

Mimi bắt đầu kể cho Bliss nghe từng chi tiết trong kế hoạch của mình. Cô đã

tăm đƣợc một ðịa ðiểm hoàn hảo cho buổi tiệc - một thánh ðƣờng bỏ hoang ở

khu thƣõng mại phía nam Manhattan. Không có gì làm Mimi thích thú hõn việc

14 Câu này Bliss chõi chữ, dùng hình ảnh "throwing bash after the ball" - "ball" vừa có

nghĩa là bóng vừa có nghĩa là vũ hội, nên tạm dịch nhƣ vậy (ND) tổ chức một cuộc "thác loạn" trong ðêm ngay tại nõi ðã từng là ngôi nhà của

Chúa. Angel Orensanz là một tòa nhà mang dáng dấp Gô-tích, tọa lạc ngay tại

trung tâm khu Lower East Side. Nó đƣợc xây dựng thành giáo ðƣờng vào nãm

1849 bởi một kiến trúc sƣ ðến từ Berlin; ông này ðã mô phỏng nó theo Nhà thờ

lớn Cologne của Đức. Mimi không phải ngƣời duy nhất sống tại New York

muốn tổ chức những bữa tiệc "trên cả phóng túng" tại nõi này: trên thực tế, tòa

nhà ðã từng đƣợc trƣng dụng làm nõi tổ chức nhiều show thời trang trong suốt

Tuần lễ Thời trang diễn ra tại New York. Và ðó cũng chính là lý do khiến Mimi

nghĩ ðến nõi này ðầu tiên. Mimi không quan tâm tới chuyện ghi ðiểm về tính

ðộc ðáo, sáng tạo trong việc chọn lựa ðịa ðiểm mà cô chỉ ðõn giản ðể ý tới đó là

nõi nào, và giờ thì thánh đƣờng một thời đã trở thành lựa chọn số một của cô.

- Bên trong chỗ này thực sự là một ðống lộn xộn... - Giọng Mimi tràn ngập

niềm hân hoan. - ...kiểu nhƣ cột trụ ðổ nát, xà nhà thì lộ hết cả ra... nhƣng lại

khiến nó trông nhƣ một tàn tích cổ rất ðẹp. - Cô tiếp tục thì thầm với bạn mình.

- Chúng ta sẽ thắp sáng toàn bộ chỗ ðó bằng nến cốc thay vì ðèn ðiện! Cũng

không cần trang trí gì thêm nữa. Bản thân tòa nhà đó cũng đủ để tạo ra không

khí cần thiết cho bữa tiệc rồi. Không phải tốn công thêm thắt mà làm gì.

Mimi xé một tờ giấy từ quyển vở lôi ra trong cái kẹp tài liệu và chuyền sang cho

Bliss.

- Ðây là danh sách khách mời của bữa tiệc. Mình đã lập nó trong suốt giờ tiếng

Pháp ðấy. -Ðúng là Mimi ðã ðãng kí vào lớp học tiếng Pháp nâng cao, nhƣng

đối với cô, nó giống nhƣ một trò giết thời gian, bởi khi kí ức các chu kỳ trƣớc

của cô phục hồi, cô đã phát hiện ra mình biết ðọc thông viết thạo ngôn ngữ này.

Bliss nhìn xuống những cái tên trong tờ danh sách. Froggy Kernochan. Jaime

Kip. Blair McMillan. Soos Kemble. Rufus King. Booze Langdon.

- Đây chẳng phải đều là các thành viên trong Ủy Ban sao? Nhƣng không phải

tất cả Ủy Ban. - Bliss nhận xét.

- Chính xác.

- Cậu không mời Lucy Forbes à? - Bliss ngạc nhiên hỏi lại.

Lucy Forbes là một Máu Xanh ðang học nãm thứ ba trung học tại Duchesne và

cũng là Thủ lĩnh nữ sinh của trƣờng.

- Lucy Forbes là chuyên gia phá ðám. Một kẻ ðạo ðức giả. - Mimi chun mũi

ðáp lại. Cô nàng luôn rình cõ hội trả ðũa Lucy vì đã tố giác cô với Ủy Ban về

hành vi lạm dụng thần linh quen thuộc loài ngƣời của mình bằng việc hút máu

ngƣời ðó mà không chờ hết khoảng thời gian 48 tiếng ðể Máu Ðỏ kịp lấy lại sức.

Họ tiếp tục rà dọc danh sách, Bliss ðƣa ra một cái tên và ngay lập tức bị Mimi

phản đối.

- Stella Van Rensslaer thì sao?

- Nãm nhất! Cuộc vui này không có chỗ cho lính mới.

- Nhƣng cô ấy sẽ ra nhập Ủy Ban vào mùa xuân tới. Ý tớ là, cô ấy dù sao cũng

là một Máu Xanh. - Bliss cố cãi. Cô nêu tên của tất cả các ma cà rồng chƣa

chính thức gia nhập Ủy Ban. Nếu ðể chúng tham gia bữa tiệc, họ sẽ có thêm cõ

hội trông chừng những ðàn em ðồng loại, cũng giống nhƣ cách mà Mimi ðã

từng trông coi Bliss hồi đầu năm.

- Sặc. Không đƣợc. - Mimi vẫn tiếp tục phản đối.

- Carter Tuckerman vậy? - Bliss lại ðề xuất, trong ðầu nghĩ về chàng trai gầy

còm, thân thiện, ngƣời đã dành thời gian để sao chép giấy tờ nhƣ một thƣ ký

trong suốt các cuộc họp mặt của Ủy Ban.

- Tên lập dị ðó á? Không ðời nào.

Bliss thở dài. Cô càng buồn hõn nữa khi mãi mà vẫn chƣa nhìn thấy tên của

Schuyler trên tờ danh sách.

- À, thế còn... cậu biết đấy... "những nhân vật quan trọng", ờ, những "ngƣời

quen" ý mà, họ có đƣợc dự không? - Bliss hỏi lại. Máu Xanh dùng cụm từ

"ngƣời quen"15 ðể ám chỉ mối quan hệ khãng khít giữa ma cà rồng và con

ngƣời. Những ngƣời này vừa là ngƣời yêu, vừa là bạn, là nguồn dinh dƣỡng

mang lại sức mạnh tuyệt ðỉnh cho ma cà rồng.

- Máu Ðỏ lại càng không ðƣợc phép tham dự. Bữa tiệc này cũng giống nhƣ Vũ

hội Four Hundred, thậm chí còn chọn lọc hõn. Nó chỉ ðể dành cho các ma cà

rồng tuổi teen thôi.

- Mọi ngƣời sẽ không hài lòng với việc này đâu. - Bliss cảnh báo.

- Chính thế. - Mimi chỉ đáp lại bằng một nụ cƣời tinh quái.

15 Chỗ này Yu ðổi dịch thành "ngƣời quen" thay vì "thần linh quen thuộc loài ngƣời" vì lúc

này Mimi và Bliss ðang trò chuyện bí mật trong căng tin của trƣờng nên nói là "ngƣời quen"

sẽ không gây chú ý bằng "thần linh..." (không ai đang yên ðang lành lại cứ nhắc ðến Thần

linh hoài nhƣ vậy =_=) CHÝÕNG 6

Triển lãm Biennale diễn ra tại một khu chồng chéo các gian trƣng bày mà ở ðó

khách tham quan có thể bắt gặp một dãy các phòng trƣng bày với mặt ngoài là

màn hình trình chiếu chạy dài, tạo thành những bức tƣờng lớn, cho tới khi gặp

nhau tại một góc xa tít tắp nào ðó. Trên màn hình là những hình ảnh thay đổi

liên tục: những khuân mặt trông nhƣ những quả bóng làm bằng nhựa vinyl hết

giãn ra rồi lại co vào, lúc rền rĩ đau khổ lúc lại cƣời khúc khích, những bông hoa

nở rồi tàn, và cả cảnh tƣợng di chuyển hối hả trên ðƣờng phố Tokyo, xẹt qua

nhƣ những cái bóng mờ ảo, mang theo cảm giác tù túng và khiếp sợ.

Lúc mới đặt chân tới Venice, Schuyler nhƣ đƣợc hun đắp một ngọn lửa nhiệt

tình, hoang sõ nhƣng tràn đầy niềm háo hức. Cô chƣa từng chùn bƣớc trong

suốt cuộc tìm kiếm, trái lại cô luôn tỏ ra bền bỉ và kiên định. Nhƣng lòng nhiệt

tình của cô giảm sút nghiêm trọng khi sự thật dần phõi bày trƣớc mắt cô. Việc

tìm kiếm ông ngoại tại Venice này không hề dễ dàng nhƣ Schuyler tƣởng tƣợng

lúc ban đầu. Tất cả những gì cô có chỉ là một cái tên. Cô thậm chí còn không

biết ông ngoại trông nhƣ thế nào. Ông trông già hay trẻ? Theo nhƣ bà cô nói,

cách đây nhiều năm, ông Lawrence đã bị trục xuất khỏi Ủy Ban và phải ði lánh

nạn nõi xứ ngƣời. Vậy có khi nào chừng ấy nãm sống cô ðộc ðã khiến ông ðiên

loạn và mất trí? Hay tệ hõn nữa, lỡ nhƣ ông không còn trên cõi ðời này? Lỡ nhƣ

ông đã bị Máu Bạc thủ tiêu mất rồi? Nhƣng sau khi tận mắt nhìn thấy căn phòng

của vị Giáo sƣ ấy, cô lại tràn ngập niềm hi vọng nhƣ lúc ban đầu chân ƣớt chân

ráo đến đây. Ông ở đây. Ông còn sống. Schuyler có thể cảm nhận đƣợc điều ấy.

Schuyler lƣớt từ phòng trƣng bày này sang phòng trƣng bày khác, chãm chú tìm

kiếm trong bóng tối một dấu hiệu, một đầu mối dẫn cô tới chỗ ông ngoại. Theo

Schuyler thấy, các tác phẩm nghệ thuật đƣợc trƣng bày nõi ðây có phần nào ðó

rất khiêu khích, thậm chí có chút tự phụ lộ ra ðằng sau sự cầu kỳ, phô trƣõng.

Hình ảnh một ngƣời ðàn bà cứ liên tục tƣới cây thì có ý nghĩa gì? Mà chuyện đó

có quan trọng với cô không nhỉ? Schuyler nhìn lên phông chiếu và chợt nhận cô

cũng ðang rõi vào tình huống giống ngƣời ðàn bà kia: cả hai ðều bị mắc kẹt

trong một nhiệm vụ chẳng khác nào "thử thách của Sisyphus"16.

Oliver đã vƣợt lên phía trƣớc Schuyler mấy gian rồi. Cậu dành chừng mƣời giây

ðể "nghiên cứu" mỗi tác phẩm mà cậu lƣớt qua. Theo nhƣ cậu nói, ðó là tất cả

thời gian cậu cần để tìm hiểu nghệ thuật. Họ hẹn sẽ gọi lại cho nhau nếu tìm

đƣợc thứ gì ðó, mặc dù Oliver ðã chỉ ra rằng cả hai ngƣời bọn họ đều không biết

mặt mũi Lawrence Van Alen trông ra làm sao. Khác với Schuyler, Oliver không

thực sự tin rằng chuyến viếng thãm Biennale sẽ mang lại kết quả khởi sắc, chỉ là

cậu không dám nói ra ðiều ðó mà thôi.

Schuyler dừng chân tại lối vào của một cãn phòng ngập trong làn khói đỏ thẫm.

Một tia sáng cắt qua toàn bộ không gian cãn phòng, chiếu sáng một đƣờng xích

ðạo màu cam tƣõi rói, ðõn ðộc giữa sự bành trƣớng của ánh sáng đỏ. Schuyler

tiến vào trong phòng và dừng lại giây lát, trầm trồ thán phục tác phẩm.

- Ðó là tác phẩm của Olafur Eliasson17. - Ngƣời thanh niên ðứng cạnh cô giải

thích. - Trông thật ðẹp mắt phải không? Tuy nhiên vẫn có thể nhận ra ảnh

hƣởng của Flavin18.

16 Thử thách của Sisyphus: Câu chuyện trong Thần thoại Hy Lạp về vua Sisyphus bị Thƣợng

ðế bắt ðẩy ðá lên núi, hễ ðá lãn xuống lại phải ðẩy từ ðầu. Ngày nay ngƣời ta dùng cụm từ

này ðể chỉ những công việc cực kỳ khó khãn và gian nan, hầu nhƣ không có cách giải quyết.

17 Olafur Eliasson: (1967- ) nghệ sĩ ngƣời Đan Mạch theo trƣờng phái nghệ thuật sắp đặt.

18 Dan Flavin (1933 - 1996): nghệ sĩ sắp ðặt, nhà ðiêu khắc ngƣời Mỹ, nổi tiếng với trƣờng

phái sắp ðặt và tạo hình dựa trên sự pha trộn ánh sáng của ðèn huỳnh quang. Schuyler gật ðầu ðồng tình. Ở trƣờng cô đã từng đƣợc học về Dan Flavin trong

giờ Mỹ thuật, thảo nào cô cứ thấy bố cục của tác phẩm này quen quen.

- Nhƣng đâu phải tất cả các tác phẩm sử dụng ðèn huỳnh quang ðều chịu ảnh

hƣởng của Flavin ðâu? - Cô hỏi lại hõi có phần xấc xƣợc.

Một bầu không khí im lặng đến mức kỳ lạ diễn ra khiến Schuyler định quay

ngƣời bỏ đi; đúng lúc đó thì có tiếng nói từ phía chàng trai nọ.

- Cô nói thử xem, tại sao cô lại đến nƣớc Ý này? - Anh chàng ngƣời Ý đẹp trai

hỏi cô bằng một giọng Anh hoàn hảo. - Trông cô rõ ràng không phải là khách

du lịch đến đây để thƣởng lãm nghệ thuật. Cô chẳng hề giống những ngƣời một

tay cầm camera, tay còn lại cầm cuốn cẩm nang du lịch ðang xếp thành từng tốp

ngoài kia. Tôi cá là cô thậm chí còn chƣa xem tác phẩm mới của Matthew

Barney19 nữa kìa.

- Tôi đang tìm một ngƣời. - Schuyler đáp lại.

- Ở triển lãm này ƣ? - Chàng thanh niên hỏi lại. - Khu vực nào vậy?

- Vẫn còn các khu khác ƣ? - Schuyler lại hỏi.

- Đƣõng nhiên rồi, ðây chỉ là "vƣờn" trƣng bày thôi, còn có xƣởng lớn và sảnh

trƣng bày nữa. Không gian của Triển lãm Biennale thực chất là toàn bộ thành

phố Venice này. Cô sẽ gặp nhiều khó khăn nếu muốn tìm ngƣời ở chốn này ðấy,

vì có khoảng một triệu ngƣời tới tham quan Triển lãm, riêng trong "vƣờn" này

cũng có tới ba mƣõi gian con.

19 Matthew Barney: (1967 - ) nhà quay phim nghệ thuật, nhà nhiếp ảnh và ðiêu khắc ngƣời

Mỹ

Cả ngƣời Schuyler nhƣ muốn xịu xuống. Cô không hề biết Triển lãm Biennale

lại lớn và chia thành nhiều khu trƣng bày phức tạp ðến thế. Trƣớc khi đến đây,

cô đã đi dọc các sảnh trƣng bày, ði qua nhiều tòa nhà thuộc Triển lãm rồi mới

tới đƣợc khu trƣng bày dựng theo phong cách Italia này, thế nhƣng cô không hề

biết nó kéo dài tới ðâu. Toàn bộ khu trƣng bày (mà anh chàng kia gọi là "vƣờn")

là một khoảng không rất lớn bao gồm nhiều tòa nhà mô phỏng, đƣợc thiết kế

theo phong cách của từng thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy mà mỗi tòa nhà lại có

nét đặc trƣng riêng và mang trên nó phong cách nghệ thuật của cả một dân tộc.

Nếu những gì ngƣời thanh niên này nói là sự thực thì việc tới đây tìm ông cô

thật chẳng khác nào mò kim đáy bể.

Vô vọng.

Bất khả thi.

Một triệu lƣợt ngƣời mỗi nãm! Ðiều này cũng có nghĩa là phải có tới hàng

nghìn ngƣời đang tham quan triển lãm ngay lúc này. Với tỉ lệ nhƣ thế, có lẽ nên

sớm từ bỏ thì hõn. Schuyler thực sự thất vọng. Cô sẽ không bao giờ tìm đƣợc

ông ngoại. Cho dù ông là ai, ông ở ðâu, ông cũng không muốn ngƣời ta tìm thấy

mình. Cô tự hỏi vì cớ gì mà cô lại bộc bạch hết với chàng trai kia nhƣ vậy,

nhƣng cô cảm thấy mình cũng chẳng còn gì để mất. Có điều gì đó trong đôi mắt

chàng ta mang lại cho cô cảm giác dễ chịu và an toàn.

- Tôi đang tìm một ngƣời mà họ hay gọi là Giáo sƣ. Ông Lawrence Winslow

Van Alen.

Chàng thanh niên ðiềm nhiên quan sát Schuyler trong khi cô nhìn quanh quất

căn phòng tràn ngập trong ánh sáng ðỏ. Anh ta cao và gầy, với chiếc mũi hõi

hếch đầy vẻ thách thức, xƣõng gò má lộ cả ra, và mái tóc dày có màu vàng

caramel. Anh ta quàng một chiếc khãn lụa trắng quanh cổ, khoác bên ngoài là

chiếc áo len may đo vừa vặn, còn chiếc kính râm kiểu phi công gọng vàng đƣợc

ðẩy lên cao quá vầng trán rộng.

- Khi ngƣời ta đã không thích xuất đầu lộ diện thì đừng cố công tìm kiếm làm gì.

- Chàng trai ðột nhiên cất tiếng.

- Sao cõ? - Schuyler hỏi lại, bất ngờ trƣớc câu nói của chàng thanh niên, cùng

lúc quay lại đối mặt với anh ta. Nhƣng ðúng lúc ðó chàng trai ðã nhanh trong

lẩn ra sau tấm rèm nỉ dày màu ðen và biến mất.

Schuyler cũng chạy theo anh ta ra khỏi khu trƣng bày kiểu Italia; vừa chạy cô

vừa bấm số gọi Oliver.

- Cậu gọi cho tớ ðấy à? - Oliver hỏi bằng giọng ðiệu xun xoe ðến tức cƣời.

- Chúng ta phải tìm một chàng trai cao ráo, tóc vàng, trông nhƣ tay ðua xe hõi

ấy. Anh ta đeo kính râm kiểu phi công, ði gãng, mặc áo khoác ngoài bằng vải

tuýt và quàng khãn lụa trắng. - Schuyler vừa chạy vừa thở lấy hõi trong khi cố

mô tả lại hình dáng chàng thanh niên.

- Cậu ðang ðuổi theo một chàng ngƣời mẫu ðấy à? Vậy mà tớ tƣởng ngƣời

chúng ta cần tìm là ông ngoại cậu chứ. - Oliver cƣời ngất.

- Tớ ðang tán chuyện với anh ta, tớ nói cho anh ta tên ông ngoại và rồi anh ta

biến mất. Tớ nghi anh ta biết điều gì ðó... A lô? Ollie à? Cậu còn ðó không? A lô? - Schuyler lắc lắc chiếc ðiện thoại và nhận ra trên màn hình không còn vạch

sóng nào cả. Quỷ tha ma bắt. Mất tín hiệu rồi.

Lao băng băng giữa khu trƣng bày rộng lớn nhƣ thể đang ngồi trong cỗ máy

thời gian, Schuyler lƣớt qua những hội trƣờng xây theo phong cách Hy La20

nhƣng lại mang ðậm nét hiện ðại phóng khoáng; tiếp ðến là những tòa nhà bên

lề những con đƣờng nhỏ và dài, ẩn sau những lùm cây rậm rạp. Schuyler thở dài,

cảm thấy bất lực trong giây lát.

Nhƣng cảm giác đó nhanh chóng biến mất. Cô lại cảm nhận đƣợc sự hiện hữu

của chàng thanh niên kia quanh ðây. Cô nhìn thấy bóng dáng anh ta vọt qua

phía sau mô hình rạp hát Hy Lạp. Anh ta lƣớt qua những cây cột, lúc ẩn lúc hiện

trong ánh mắt cô. Schuyler lao lên phía trƣớc, lần này cô cẩn thận giữ tốc ðộ

vừa phải, đề phòng có ai trong đám khách du lịch quanh đó nhận ra sự bất

thƣờng trong bƣớc chạy của cô.

Rồi ðột nhiên Schuyler thấy chàng trai lao ngang qua một lùm cây, nhƣng khi

ðuổi tới nõi, cô thực sự lúng túng. Trƣớc mặt cô chỉ có một tòa nhà chứ chẳng

có lùm cây nào cả. Cô di chuyển nhanh trên các bậc thang ðể vào tòa nhà. Khi

vào tới bên trong, cô mới hiểu ra tại sao nó lại khiến cô bối rối ðến vậy. Bên

trong tòa nhà đƣợc thiết kế giống y đúc một cái sân lộ thiên kiểu Tây Ban

Nha21, cây cối bên trong vẫn có thể mọc vƣõn cao lên không trung vì không có

mái che, nhìn từ xa dễ tƣởng nhầm là chúng mọc ở bên ngoài. Các bức tƣợng

ðặt ðiểm xuyết trên sàn nhà lát toàn ðá trắng. Từ các hƣớng xung quanh,

Schuyler nghe thấy những giọng nói Italia của các hƣớng dẫn viên du lịch ðang

dõng dạc giới thiệu cho khách tham quan.

20 Hy La (Greco-Roman): pha trộn giữa phong cách Hy Lạp và La Mã cổ.

21 Sân lộ thiên: thƣờng thấy ở các lâu ðài cổ châu Âu, sân ðƣợc bao xung quanh bởi tƣờng

cao nhƣ một sảnh lớn nhƣng không có vòm che (khoảng sân trong ngăn cách giữa các tòa

nhà)

Tập trung, Schuyler tự nhủ. Hãy lắng nghe. Lắng nghe tiếng bƣớc chân của anh

ta. Cô nhắm mắt lại, cố gắng cảm nhận bằng cách tập trung vào mùi hƣõng ðặc

biệt ðó, cái thứ mùi pha quyện của mùi da thuộc và hƣõng nƣớc hoa vƣõng trên

tấm khãn lụa. Rồi bỗng nhiên cô mƣờng tƣợng ra anh ta, nhƣ thể cô nhìn thấy

anh ta vừa bƣớc ra từ một chiếc xe hõi thể thao mới cứng bóng lộn. Kia rồi!

Schuyler nhìn thấy chàng trai đang đứng ở đầu kia của căn phòng.

Lần này, cô không ngại sử dụng tốc ðộ và sức mạnh vƣợt trội của mình. Cô

chạy nhanh đến nỗi cô cảm tƣởng nhƣ mình đang bay, và giống lần trƣớc, cô

cũng cảm nhận đƣợc niềm phấn khích dâng trao mà cuộc rƣợt đuổi đem lại.

Schuyler thậm chí còn mạnh và nhanh hõn so với lúc ðuổi theo ngƣời phụ nữ

giống mẹ cô hồi đầu giờ chiều. Cô có thể cảm nhận đƣợc điều đó. Cô sẽ tóm

đƣợc anh ta.

Chàng trai lại bắt ðầu di chuyển ngƣợc lại về phía "vƣờn" trƣng bày. Dọc từ

sảnh về phía vƣờn có nhiều tòa nhà trông hiện ðại hõn nhƣng hình dáng cũng

ðáng sợ hõn. Schuyler vừa chạy ngang qua một tòa nhà chỉ làm toàn bằng kính

và tƣờng của nó thì khắc ðầy chữ và tên. Khi ðến một tòa nhà khác làm từ

những ống nhựa sáng màu trông nhƣ kẹo, cô thấy bóng dáng chàng trai di

chuyển vào phía trong.

Bên trong tòa nhà tối om. Sàn nhà bằng kính, ngăn cách ngƣời xem với những

tác phẩm nghệ thuật nằm bên dƣới. Hoặc ít ra Schuyler cho ðó là nghệ thuật.

Tất cả những gì cô nhìn thấy chỉ là một ðám robot ðồ chõi quằn quại giẫm ðạp

lên nhau tầng tầng lớp lớp trong thứ ánh sáng ðỏ, xanh lục và lam nổi bật giữa

nền tối xung quanh. Ngay lúc đó, cô lại cảm nhận đƣợc có sự chuyển động

trong phòng và từ khóe mắt mình, cô nhìn thấy ðầu chàng trai di chuyển rất

nhanh ra khỏi phòng từ cửa đối diện.

- Dừng lại! - Cô gọi.

Chàng trai quay ðầu, nhìn cô mỉm cƣời rồi lại biến mất. Schuyler cũng đi ngƣợc

ra con đƣờng dẫn trở về "vƣờn" trƣng bày, một lần nữa quét mắt khắp ðám

đông tìm kiếm chàng thanh niên.

Chẳng có gì cả.

Phải có cái gì đó giúp cô tìm ra anh ta nhanh hõn chứ?

Schuyler nghĩ ngợi một lúc. Cô cố tƣởng tƣợng về Lawrence, về nõi ông có thể

ở và cả về lý do khiến ông bị nõi này thu hút. Có cái gì ở Triển lãm nghệ thuật

Biennale này nhỉ?

Chợt nhớ ra tấm bản đồ ở túi sau, ngay lập tức, Schuyler lôi nó ra và nghiên cứu

từng lối ði quanh co liên kết các khu trƣng bày với nhau. Trong giây lát, cô cảm

thấy mình thật ngu ngốc vì đã không nghĩ ra ðiều này sớm hõn. Sau khi ðã xác

ðịnh vị trí nõi cần ðến, Schuyler gập tấm bản ðồ lại và nhanh chóng đi về hƣớng

đó.

Ðúng lúc ðiện thoại của cô reo vang. Là Oliver.

- Sky à, cậu ðang ở ðâu thế? Cậu làm tớ lo quá.

- Tớ ổn. - Cô trả lời, bực mình vì bị cắt ngang. - Nghe này, tớ sẽ gọi lại cho cậu

sau nhé. Tớ nghĩ tớ biết ngƣời đó đang ở đâu.

- Ai đang ở đâu? Schuyler, cậu định đi đâu vậy?

- Tớ sẽ ổn thôi. - Schuyler bắt ðầu tỏ ra mất kiên nhẫn. - Ollie, làm õn ðừng lo

cho tớ nữa. Tớ là một ma cà rồng mà.

Schuyler gác máy và chỉ sau ít phút, cô ðã đứng trƣớc một tòa nhà nhỏ xây bằng

gạch ðỏ. Ðây là công trình hiện đại nhất so với hầu hết các công trình kì dị khác

trong Triển lãm. Mặt tiền của tòa nhà thiết kế theo phong cách từ thời Thuộc địa

Geogia, thời kỳ đầu của nƣớc Mỹ. Ðồ ðạc trong nhà ðều ðƣợc sõn trắng, còn tay

vịn cầu thang làm bằng sắt với những mẫu hoa vãn trang trí rất cầu kỳ. Tất cả

ðều là những di tích từ thời xƣa, gợi nhớ ngƣời ta về thời kỳ đầu thuộc địa ở

Tân Thế giới.

Ngay khi nhét tấm bản ðồ vào túi cô lại nhìn thấy chàng trai. Trông anh ta nhƣ

thể già ði sau mỗi lần rƣợt ðuổi: hõi thở chậm chạp và tóc rối bù. Anh ta có vẻ

ngạc nhiên khi nhìn thấy Schuyler đứng đó.

- Lại là cô à? - Chàng trai cất tiếng.

Lúc này là cõ hội của cô. Trƣớc khi biến mất khỏi chu kỳ này, Cordelia ðã dặn

Schuyler rằng nếu tìm thấy Lawrence, hoặc bất cứ ai mà cô cho rằng có thể đƣa

cô tới gặp ông ấy, thì Schuyler phải nói những từ sau.

Cô bắt đầu nói bằng giọng rõ ràng và tự tin nhất mà cô có thể.

- Adiuvo Amicus Specialis. Nihilum cello. Meus victus est tui manus. Tôi đến

để cầu xin ngƣời giúp đỡ tôi với tƣ cách là một ngƣời bạn bí mật và ðặc biệt của

tôi. Tôi không có gì che giấu ngƣời. Cuộc đời tôi nằm trong tay ngƣời.

Chàng trai ném về phía Schuyler cái nhìn băng giá chỉ có thể thuộc về đồng loại

của cô. Tiếng nói của Schuyler tan dần trong không khí.

- Dormio. - Anh ta ra lệnh, cùng lúc ðƣa tay lên vẫy một cái.

Schuyler cảm nhận bóng tối ập ðến và rồi cô thấy mình từ từ lịm ði. Mục Lýu Trữ tờ New York Herald

Số ra ngày 15 tháng Ba nãm 1871

HÔN ƢỚC KHÔNG THÀNH

Hôn ýớc giữa Ngài Burlington và quý cô Maggie Stanford không thành. Cô

Maggie Stanford vẫn mất tích.

Hôn lễ giữa quý cô Maggie Stanford, con gái ông Tiberius và bà Dorothea

Stanford vùng Newport, cùng Ngài Alfred Burlington, Bá tƣớc vùng

Devonshire đã bị hủy bỏ. Theo kế hoạch, hôm nay chính là ngày diễn ra lễ cƣới

giữa hai nhà Stanford và Burlington. Tuy nhiên, cô Maggie Stanford vẫn mất

tích một cách bí ẩn từ sau ðêm vũ hội Patrician sáu tháng trƣớc. Chánh Thanh

tra Campbell hiện vẫn đang tiếp tục duy trì cuộc ðiều tra này.

Nhà Stanford nghi ngờ ðây là một hành ðộng trả thù cá nhân, tuy nhiên không

có thƣ đòi tiền chuộc hay bất cứ dấu hiệu gì của một vụ bắt cóc. Ông bà

Stanford cũng treo thƣởng cho bất cứ ai cung cấp thông tin liên quan ðến nõi ở

hiện nay của cô Maggie Stanford.

CHÝÕNG 7

Đứng trong căn phòng hạng sang nhất nằm trên tầng thƣợng của một trong

những tòa nhà cao chọc trời tại khu Trung tâm Manhattan - một tòa nhà làm

toàn bằng kính và crôm, Mimi nhìn ra khung cảnh xung quanh của New York

huy hoàng và mỉm cƣời khi bắt gặp hình ảnh phản chiếu của mình trên tấm

tƣờng kính.

Cô đang mặc một chiếc váy. Nhƣng không phải một chiếc váy bình thƣờng mà

là sự kết hợp khéo léo của hàng nghìn bông hồng the ðan tay, tạo thành một bộ

y phục trang nhã, ðẹp tuyệt trần. Phần thân trên của váy chỉ có một mảnh phía

trƣớc, ôm vừa khít cái eo thon nhỏ chỉ chừng 55cm của cô. Mái tóc vàng rực rỡ

xõa tung tạo thành một dải thƣớt tha rủ từ bờ vai trắng mịn màng trải xuống tới

tận đáy lƣng. Chiếc váy trị giá tới sáu con số. Nó là một kiệt tác ðộc nhất vô nhị

mà chỉ có John Galliano22 mới có thể tạo ra. Và nó là của cô, ít nhất là trong

một ðêm.

Mimi đang ở trong phòng thay ðồ cao cấp dành cho các sao của hãng Christian

Dior - một showroom (phòng trýng bày) hạng VIP không thể bƣớc vào trừ khi

bạn có giấy mời. Vây quanh Mimi là những cái giá treo ðầy những váy là váy.

Toàn bộ ðều là những mẫu hàng trƣng bày tại các showroom thời trang hoặc

trên sàn catwalk tại Paris. Chỉ có ngƣời mẫu và những ngƣời có vai vế trong

làng thời trang mới dám mõ ðƣợc chạm vào chúng.

22 John Galliano (1960 - ): nhà thiết kế thời trang nổi tiếng ngƣời Anh. Bên này là chiếc váy hiệu Dior mà Nicole Kidman từng mặc trong ðêm trao giải

Oscars, phía kia lại là chiếc váy dài dạ hội mà Charlize Theron ðã mặc tới dự lễ

trao giải Quả cầu vàng.

- Tuyệt. - Chuyên gia tƣ vấn của Dior buông ra ðúng một từ kèm theo cái gật

đầu rất nhanh. - Không còn nghi ngờ gì nữa, chiếc váy này là dành cho cô.

Mimi đƣa tay cầm một ly sâm-banh từ chiếc khay bạc ngƣời phục vụ vừa mang

tới.

- Có lẽ vậy. - Mimi ðáp lại, thừa hiểu rằng cô sẽ gây ra một làn sóng xôn xao dƣ

luận khi mặc chiếc váy này tới dự dạ hội.

Thế rồi Bliss xuất hiện ở cửa phòng.

Mimi đã mời cô bạn cùng đến đây vì nghĩ rằng sẽ thú vị hõn nếu có khán giả

theo dõi trong khi cô thử các bộ váy. Không gì khiến Mimi thích thú hõn việc

nhóm bạn chuyên gia bợ ðỡ của cô tỏ vẻ ghen tị với dáng vẻ cũng nhƣ địa vị

của cô. Tuy nhiên, cô không hề nghĩ rằng chuyên gia tƣ vấn của hãng Christian

Dior lại khuyến khích Bliss mặc thử một trong những chiếc váy ở đây. Kể từ khi

Bliss kí hợp ðồng với Công ty môi giới và ðào tạo ngƣời mẫu Farnsworth,

khuôn mặt và thân hình của cô ta tràn ngập khắp thành phố nhờ chiến dịch

quảng cáo quần jeans "Stitched for Civilization" mà cô ta là ngƣời mẫu chính

cùng với Schuyler Van Alen. Vậy là bông hoa hồng Texas nhỏ bé giờ ðã chính

thức trở thành một ngôi sao mới của New York - một sự thật mà Mimi vẫn chƣa

sẵn sàng bỏ qua. Bliss thậm chí còn đƣợc Vogue chọn làm "Cô nàng thời đại"

và rồi còn có cả những website chuyên theo dõi nhất cử nhất động của cô ta.

Mimi đang phải đối mặt với sự thật cay nghiệt: bạn cô đã nổi tiếng.

- Hai ngƣời nghĩ sao về chiếc váy này? - Bliss hỏi.

Mimi và nhà tƣ vấn kia quay đầu lại. Nụ cƣời của Mimi tan biến khỏi gƣõng

mặt cô. Còn nhà tƣ vấn thời trang của Dior thì chạy ngay tới bên cạnh Bliss

Lwelleyn.

- Ôi, thật hoàn mỹ! - Chị ta tuyên bố. - Tôi ƣớc gì John có ở ðây lúc này ðể

ngắm cô trong chiếc váy do anh thiết kế.

Bliss ðang mặc một chiếc váy nhung sang trọng màu lục sẫm gần nhƣ thành

màu ðen, tạo ra sự phối hợp hoàn hảo với mái tóc quãn màu vàng ánh ðỏ của cô.

Làn da trắng ngà tai tái gần nhƣ trong suốt ẩn hiện dƣới chiếc váy dài màu ngọc

lục bảo. Chiếc cổ khoét sâu một cách táo bạo, kéo dài từ xƣõng ðòn tới rốn, làm

lộ một khoảng vừa ðủ ðể trở thành "khêu gợi" và dừng lại ðúng lúc ðể không

thành "dâm ðãng". Phần thân trên chiếc váy ðính hàng ngàn viên kim cƣõng

Swarovski sáng lấp lánh trên nền vải sậm nhƣ thể những ngôi sao trên bầu trời

ðêm. Ðúng là một chiếc váy tuyệt vời, hoàn hảo; một chiếc váy dành cho ngƣời

mở màn những bữa tiệc; là loại váy ðã đƣa những cô ðào không tên tuổi trở

thành những ngôi sao hạng A, loại mà xứng tầm ðối thủ với chiếc váy "khuyết

ghim bãng"23 nổi tiếng của Versace mà Elizabeth Hurley từng mặc.

- Tớ thích cái này. - Bliss thổ lộ. Trông cô nàng cao hõn hẳn Mimi trong ðôi

giày cao gót gắn ðá quý. Đã thế, sự thật càng rõ nét hõn khi cả hai ðứng cạnh

nhau trƣớc gƣõng.

23 Tên chiếc váy nổi tiếng của diễn viên Elizabeth Hurley do Versace thiết kế: hai bên lƣờn

váy khuyết một dải kéo dài từ nách xuống hông và ðƣợc che lại bằng những chiếc ghim băng

vàng. Ðứng cạnh Bliss trong bộ cánh giản dị nhƣng rất khêu gợi kia, Mimi và chiếc

váy ðính hoa hồng phõn phớt của cô bỗng nhiên trở nên thật tầm thƣờng, khiến

nụ cƣời của Mimi cứ thế héo dần dƣới ánh ðèn, trong khi ðó Bliss xoay ngƣời

nhảy múa khắp phòng.

- Trông nó có vẻ nặng... - Bliss lại lên tiếng, lúc này ðang nâng gấu váy lên

ngắm. -... nhƣng thực chất lại cực kỳ nhẹ.

- Vì nó đƣợc làm từ lụa Venice, một trong những loại tốt nhất trên thế giới. -

Chuyên gia tƣ vấn của Dior giải thích. - Mƣời bà xõ ngƣời Bỉ đã mù mắt vì làm

ra nó ðấy. - Chị ta bông ðùa. - Vậy là, theo tôi thấy, các cô ðều ðã chọn đƣợc

chiếc váy mình ƣng ý, phải không?

Mimi lắc ðầu. Không ðời nào, trong cả ngàn nãm nữa, cô lại cho phép Bliss ăn

cắp ánh hào quang của cô. Ðêm vũ hội ðó là thời khắc của riêng cô chứ không

phải của ai khác. Cô đã dành toàn bộ tâm huyết với mục tiêu trở thành cô gái

ðẹp nhất và duy nhất trong ðêm vũ hội. Nhƣng giờ thì rõ ràng là kế hoạch đó sẽ

phá sản hoàn toàn nếu Bliss quyết ðịnh "lên ðời" bằng chiếc váy dài sang trọng

tột đỉnh đó.

Tới ðây thử váy là ý tƣởng của chính cô nhƣng giờ thì Mimi lại phải đổi sang

phƣõng án B. Cô sẽ không bao giờ cảm thấy thực sự hài lòng với một chiếc váy

đã từng qua tay của các cô ngƣời mẫu sau khi họ đã mặc nó diễu qua diễu lại

trên sàn catwalk. Cô sẽ ðặt may một chiếc váy dành riêng cho cô, và phải là do

nhà thiết kế bậc thầy ðảm trách. Balenciaga 24 chẳng hạn. Hai ngƣời rời

showroom và bãng qua đƣờng ðể làm một bữa trƣa nhanh gọn tại Fred - một

nhà hàng nằm trên tầng thƣợng của khu thƣõng mại Barney. Cô phục vụ ngay

24 Balenciaga: hãng thời trang do Cristobal Balenciaga (1895 - 1972) sáng lập - nhà thiết kế

ngƣời Tây Ban Nha từng đƣợc Chritian Dior xƣng tụng là "bậc thầy của các nhà thiết kế". lập tức dẫn họ tới một chỗ ngồi thoải mái - một bàn dành cho bốn ngƣời gần cửa

sổ, nõi mà những vị khách sang trọng khác trong nhà hàng có thể nhìn thấy họ.

Mimi nhận ra Brannon Frost, tổng biên tập của Chic, cũng là một Máu Xanh,

đang ngồi ngang dãy với họ cùng cô con gái mƣời bốn tuổi Willow, hiện là học

sinh năm nhất trung học tại Duchesne.

Nƣớc da của Bliss sáng lên và khuôn mặt thì rạng ngời hạnh phúc. Cô vẫn đang

thao thao bất tuyệt về chiếc váy.

- Ờ, nó hợp với cậu đấy. - Mimi đáp lại Bliss bằng giọng hời hợt.

Nụ cƣời của cô bạn dần nhạt đi. Bliss cố uống một ngụm nƣớc vờ che đi nỗi

thất vọng hiện trên khuôn mặt. Sự thờ õ của Mimi là dấu hiệu ðể Bliss dẹp ði tất

cả những lời bình luận về chiếc váy cô chọn mặc cho ðêm vũ hội. Nhƣng rồi

Bliss nhanh chóng quay lại ðề tài cũ.

- Váy của cậu cũng tuyệt lắm mà. Màu hồng thật sự rất hợp với cậu.

Mimi nhún vai.

- Tớ cũng chẳng biết thế nào. Tớ nghĩ tớ sẽ tìm thêm ở vài chỗ khác nữa. Dior

quá kì quái, cậu không thấy thế sao? Ngƣời ta vẫn thƣờng dùng từ gì nhỉ?! "De

trop"25. Thực sự là có chút gì ðó hõi thái quá ở mấy cái váy ðấy. Nhƣng nếu

cậu đã quyết chọn váy ở đấy thì hiển nhiên phải gọi nó là "đỉnh của đỉnh" rồi. -

Cô nói, ra vẻ hợm mình trong khi tay vẫn lật giở quyển menu bọc da.

- Vậy cậu ðịnh tới shop nào? - Bliss hỏi, cố không cảm nhận vết chích từ mấy

cái gai nhỏ tủa ra từ giọng nói của Mimi. Cô biết mình trông thực sự rất tuyệt

25 De trop: tiếng Pháp, nghĩa là "thái quá". trong chiếc váy ðó, và rằng Mimi chỉ ðang ghen tị thôi. Mimi vẫn luôn nhƣ thế.

Lần trƣớc, khi cùng ði shopping với nhau, cả hai đã tăm đƣợc một chiếc áo

khoác lông cừu non rất đẹp tại Intermix, một shop đang rất nổi trong khu

thƣõng mại. Mimi ðã nhƣờng cho Bliss mua chiếc áo đó, nhƣng chỉ sau khi cô

ta lên giọng bài xích chuyện mặc áo lông thú. "Cậu cứ lấy chiếc đó đi, cƣng. Tớ

biết một vài ngƣời đâu có thực sự quan tâm đến những con vật bé nhỏ tội

nghiệp ðâu." Cuối cùng, Bliss cũng mua chiếc áo ðó, nhƣng rồi lại không dám

mặc nó. Vậy là một ðiểm cộng cho Mimi Force.

"Con khốn đang tức nổ đom đóm mắt vì ghen tị. Mình thực sự rất "chất" khi

mặc bộ đầm đó", Bliss nghĩ, rồi ngay lập tức lại cảm thấy xấu hổ vì có ý nghĩ

nhƣ vậy về bạn mình. Có thực sự là Mimi ghen tị không? Có điều gì khiến

Mimi Force xinh đẹp phải ghen tị chứ? Cuộc ðời cô ta thực sự là... hoàn hảo.

Có lẽ Bliss đã hiểu nhầm thái độ của Mimi. Cũng có thể Mimi đã đúng, chiếc

váy ðó không thực sự tuyệt vời ðến vậy. Và có lẽ cô không nên mặc nó thì hõn.

Giá nhƣ là ai ðó khác ðã ở trong phòng thử đồ với cô ban nãy, ai đó nhƣ

Schuyler chẳng hạn. Cậu ấy luôn đƣa ra những lời nhận xét chân thành.

Schuyler thậm chí còn không ý thức đƣợc mình đẹp nhƣ thế nào bởi cậu ấy cứ

luôn nấp mình sau những lớp vải thùng thình, trông già khọm.

- Mình không biết sẽ phải đi đâu để tìm váy đây. - Mimi nói bằng giọng hời hợt.

- Nhƣng chắc là mình sẽ tìm đƣợc thôi.

Đƣõng nhiên lần này cô không dại gì mà chìa quân át chủ bài của mình ra. Chỉ

có Chúa giúp cô ta nếu Bliss tự nhiên cũng nảy ra ý tƣởng ðặt hàng nhà thiết kế

của Balenciaga làm cho cô ta một chiếc váy dạ hội.

Bồi bàn ðến ðể họ gọi món: hai ðĩa bít tết steak au poivre26. Loại tái.

"Còn ðẫm máu nhé." - Mimi ðùa, cố tình làm lộ ra dấu hiệu lờ mờ của những

chiếc ranh năng, khiến anh bồi bàn phải quay lại nhìn cô một lần nữa vì không

dám chắc về điều mình vừa trông thấy.

- Còn tƣõi nguyên nhé. - Bliss hùa theo trong lúc ðƣa trả lại quyển menu. Thực

ra câu này của cô cũng không hẳn là ðùa.

- Dù sao thì... - Mimi lại bắt đầu nói, đoạn ngừng lại nhấp chút nƣớc, tranh thủ

liếc nhìn xung quanh nhà hàng đông ngƣời để ngó xem có ai đang nhìn ngắm

mình không. Mừng cho cô là có. Một vài phụ nữ ngồi chung bàn đang thì thầm

bàn tán về cô. Họ hẳn là khách du lịch nếu nhìn vào những chiếc áo len đan tay

màu tùng lam kiểu Siberi và những chiếc dây chun xõ mƣớp nhƣ thể làm từ

thập niên tám mƣõi.

- Ðó là Mimi Force ðấy. Bà biết Force News chứ? Ba cô ta là ông trùm hãng

truyền thống nổi tiếng đó đó. Còn có hẳn cả một trang viết về cô ấy trên tạp chí

Styles số tuần trƣớc. Cô ấy cứ nhƣ là một Tiểu Paris Hilton vậy.

-... Nhƣ tớ đã nói ban nãy đấy, vũ hội không chỉ có những chiếc váy. Cậu cũng

cần bạn hẹn hò nữa. - Mimi lại tiếp tục.

- Bạn hẹn hò á? - Bliss suýt nghẹn. - Tớ không biết là chúng ta lại cần tìm cả

bạn hẹn cho vụ này nữa ðấy.

- Tất nhiên là cậu cần bạn hẹn rồi, ðồ ngốc ạ. Ðó là một vũ hội cõ mà. - Mimi

phá lên cƣời.

26 Steak au poivre: tên một món bít tết kiểu Pháp, gọi nôm na là món bít tết hạt tiêu.

- Vậy cậu định mời ai?

- Tất nhiên là Jack rồi. - Mimi ðáp lại ngay tức thì, nhƣ thể ðó là ðiều hiển

nhiên nhất trên thế giới vậy.

- Anh trai cậu á? - Bliss hỏi lại, trông thực sự sốc - Nếu có một từ để nói về

chuyện này thì là... Eo ôi.

- Ðó là truyền thống gia ðình. - Mimi gắt lên - Các cặp sinh đôi luôn luôn đi

cùng nhau nhƣ là bạn hẹn hò. Hõn nữa, Jack không hẳn...

- Không hẳn gì? - Bliss giục bạn nói nốt câu còn đang dang dở.

Mimi vốn ðịnh nói rằng "Jack không hẳn là anh trai tớ." Nhƣng giờ không phải

lúc, cũng không phải chỗ cho cô giải thích về mối quan hệ tình cảm truyền đời,

phức tạp và về giới hạn máu giữa Jack và cô. Bliss sẽ không hiểu. Cô ấy vẫn

chƣa phục hồi hoàn toàn ký ức; và tình trạng này dễ còn kéo dài tới tận mùa vũ

hội năm sau.

- Thôi, không có gì ðâu. - Mimi ðáp. Cùng lúc ðó bồi bàn cũng ðƣa thức ăn tới.

- Ooh. Tớ nghĩ nó vẫn còn thở ðây nè. - Cô mỉm cƣời khi cắt miếng bít tết,

khiến một dòng máu ðỏ từ miếng thịt tái chảy tràn cả ra chiếc ðĩa trắng tinh khôi.

"Bạn hẹn à?" - Bliss nghĩ. Bạn hẹn cho vũ hội Four Hundred. Bliss hiểu rõ chỉ

có một chàng trai duy nhất trên thế giới này cô muốn trở thành ngƣời hộ tống

của cô trong ðêm hôm ðó.

- Thế còn cậu thì sao? Có lẽ cậu nên mời Jaime Kip chăng?! - Mimi gợi ý. -

Cậu ta cực kỳ hot và vẫn còn ðõn thân ðấy.

Thực ra, Jaime Kip đã có bạn gái rồi, nhƣng vì cô ta là một Máu Ðỏ nên Mimi

không thèm tính cô ta vào làm gì.

- Nghe này, Mimi, tớ có chuyện này muốn nói với cậu. - Bliss thì thầm. Cô vốn

không có ý định đặt lòng tin nõi Mimi nhƣng cô không thể tiếp tục ấp ủ những

suy nghĩ và hy vọng này cho riêng mình lâu hõn ðƣợc nữa. Đặc biệt từ lúc họ

bắt đầu nói về các chàng trai.

- Thì nói đi. - Mimi nhƣớng một bên mày.

- Tớ nghĩ Dylan vẫn còn sống. - Bliss bắt đầu giải thích bằng giọng gần nhƣ

nghe không ra hõi và chẳng hề có ðầu có ðũa về chuyện cô tỉnh dậy thấy mình

đang chìm nghỉm giữa cái hồ trong Công viên Trung tâm nhƣ thế nào, ðƣợc một

chàng trai lạ mặt cứu ra sao, và dù không nhìn rõ đƣợc khuôn mặt ngƣời lạ ấy

nhƣng giọng nói của anh ta quen thuộc với cô đến nhƣờng nào.

Mimi nhìn bạn đầy vẻ tội nghiệp. Mimi đã nghe ba cô nói về chuyện xảy ra

trƣớc đó. Dylan đã bị Máu Bạc tấn công và giết chết. Ngƣời ta cũng không dám

kỳ vọng cậu ta có khả nãng sống sót. Mặc dù chƣa tìm đƣợc thi thể Dylan

nhƣng bản khai mà Bliss trình lên trƣớc Ủy Ban về cái ðêm kinh hoàng ðó đã

nói lên số phận của cậu ta một cách rất rõ ràng.

- Tình yêu à, thật ngọt ngào và ðáng yêu làm sao khi cậu nghĩ rằng chàng trai

mà cậu gọi là "cứu tinh" của cậu chính là Dylan. Nhƣng không thể nào. Cậu

cũng biết rõ điều đó nhƣ tớ mà, rằng...

- Rằng sao? - Bliss hỏi lại vẻ cảnh giác.

- Rằng Dylan đã chết rồi.

Câu nói nhƣ thể treo lõ lửng trên không giữa hai cô gái.

- Và cậu ấy sẽ không bao giờ trở về ðƣợc nữa, Bliss ạ. Không bao giờ. - Mimi

thở dài, ðặt dao và dĩa xuống bàn. - Thôi, hãy nghiêm túc lên nào. Cậu có muốn

tớ sắp xếp giùm không? Tớ nghĩ Jaime Kip thực sự là một hot boy ðấy. CHÝÕNG 8

Khi Schuyler tỉnh dậy, cô thấy mình ðang nằm trên một chiếc giƣờng cỡ "siêu

đại" ở ngay chính giữa một căn phòng rộng bài trí theo phong cách mà chỉ có

thể mô tả bằng cụm từ: "Hoàng gia thời kỳ ðầu Trung cổ". Ở trên bức tƣờng

ðằng xa kia treo một tấm thảm lớn thêu cảnh cái chết của một con kỳ lân, trên

trần nhà cheo một chùm chúc ðài lớn mạ vàng với một trãm ngọn nến ðang cháy

sáng và nhỏ những giọt sáp xuống sàn, còn cái giƣờng nõi cô nằm thì chất đầy

những chãn nệm bằng da và lông thú rất dày. Toàn bộ cãn phòng mang một vẻ

tao nhã nguyên thủy nhƣng cũng chứa nét hoang sõ tàn bạo. Schuyler chớp mắt

mấy cái và ðƣa tay lên cổ. Không có vết cắn nào. Cô vẫn an toàn, ít nhất là cho

tới lúc này.

- Ồ, cô dậy rồi ðấy à.

Schuyler quay về phía giọng nói. Một ngƣời hầu trong bộ ðồng phục ðen và tạp

dề trắng khẽ nhún gối chào.

- Nếu cô vui lòng, xin hãy theo tôi, thƣa cô Van Alen. - Ngƣời kia nói - Tôi

đƣợc sai đƣa cô xuống lầu dƣới.

"Sao chị ta biết tên mình nhỉ?"

- Tôi ðang ở ðâu ðây? - Schuyler hỏi, hất tung lớp chãn nệm rồi xỏ chân vào ðôi

bốt chuyên dụng ðể ði xe máy mà cô tìm thấy trên sàn phòng.

- Điện Ducal. - Ngƣời hầu phòng trả lời, đoạn dẫn Schuyler ra khỏi phòng,

hƣớng về phía cầu thang xoáy trôn ốc đƣợc thắp sáng bởi những ngọn đuốc treo

bên tƣờng.

Điện Ducal, hay còn là cung điện của Tổng trấn Venice, đã từng là Tổng hành

dinh của chính quyền Venice trong nhiều thế kỷ, bao gồm các cõ quan hành

chính và lập pháp cũng nhƣ các phòng hội ðồng của thành phố. Ngoài ra nó còn

là dinh thự riêng của Tổng trấn. Ðiện Ducal mở cừa chào ðón khách du lịch vào

thăm quan các hội trƣờng lớn và các phòng trƣng bày nghệ thuật. Bản thân

Schuyler cũng đã từng ðến thãm cung ðiện này trong một tua du lịch.

Nhƣng lúc này, cô nhận ra mình ðang ở trong khu vực riêng biệt của cung ðiện -

một khu vực cấm, không mở cửa cho khách tham quan.

Cô hầu phòng đi trƣớc dẫn đƣờng, đƣa Schuyler ði dọc hành lang ðến một ðại

sảnh dài. Ở cuối sảnh là một cánh cửa làm bằng gỗ sồi rất lớn, trên cửa tạc

những biểu tƣợng ngoại giáo và những chữ tƣợng hình phức tạp đủ mọi thể loại.

- Cô sẽ tìm thấy ngài ấy trong này. - Cô hầu phòng nói khi mở cánh cửa.

Schuyler bƣớc vào trong và nhận ra ðây là một thƣ viện lớn, kiểu nhƣ những thƣ

viện nguy nga, hào nhoáng thuộc các cung ðiện của quý tộc thời xƣa. Những

tấm rèm nhung đỏ đƣợc vắt gọn gàng phía trên những tấm cửa sổ cao tới tận

trần. Những hàng kệ, giá bằng gỗ hồ ðào xếp ðầy những cuốn sách bọc bìa da.

Và rồi có cả những tấm lông và da thú cùng các chiến tích khác nằm rải rác

khắp phòng.

Một quý ông tóc xám, dáng hõi khom trong bộ quần áo may bằng vải tuýt hiệu

Harris ðang ngồi trên một cái ghế lớn bọc da kê phía trƣớc lò sƣởi ðang bùng

cháy dữ dội.

- Lại đây. - Ông ta ra lệnh.

Bên cạnh ông ta chính là anh chàng thanh niên ngƣời Ý đẹp trai Schuyler đã

đuổi theo lúc ở Triển lãm Biennale. Anh ta gật ðầu với Schuyler và di chuyển

đến chỗ cái ghế đặt trƣớc mặt họ.

- Anh đã ếm bùa tôi. - Schuyler cất tiếng buộc tội.

- Ðó là cách duy nhất giúp chúng tôi xác ðịnh danh tính cũng nhƣ mục đích thật

sự của cô. Ðừng lo, chúng tôi không làm hại cô ðâu. - Chàng trai trẻ giải thích.

- Rồi sao nữa? Các ngƣời hài lòng với kết quả thu đƣợc chứ?

- Có. - Chàng trai trịnh trọng nói. - Cô là Schuyler Van Alen. Cô ðang trọ tại

khách sạn Danieli cùng với Oliver Hazard-Perry Cha và con trai ông ta, Oliver.

Cô ðang trên ðƣờng tìm kiếm thứ gì ðó. Và cho phép tôi gửi tới cô một vài tin

tức tuyệt vời: Cuộc tìm kiếm của cô có thể chấm dứt đƣợc rồi đấy.

- Tại sao vậy? - Schuyler hỏi lại vẻ cảnh giác.

- Vì ðây chính là Giáo sƣ. - Chàng trai nói.

- Tôi nghe nói cô đang tìm kiếm tôi. - Giáo sƣ vui vẻ nói - Tôi đã không còn

nổi tiếng đối với các học sinh Mỹ thời nay nữa rồi. Trƣớc ðây ðúng là có rất nhiều học trò đến nghe tôi giảng bài. Nhƣng giờ thì hết rồi. Vậy nói tôi nghe

xem, tại sao cô lại tìm tôi?

- Cordelia Van Alen cử tôi tới. - Schuyler nói.

Khi cái tên Cordelia Van Alen ðƣợc thốt ra, Giáo sƣ và chàng thanh niên trao

đổi với nhau một cái liếc mắt đầy ý nghĩa. Hõi nóng từ lò sƣởi thoát ra làm hai

má Schuyler nóng bừng; nhƣng không phải chỉ có sức nóng của lửa mới khiến

làn da tai tái của cô ðỏ hồng lên nhƣ thế. Việc nói ra cái tên Cordelia một cách

trân tráo nhƣ vậy khiến cô cảm thấy tủi hổ. Những ngƣời lạ mặt này là ai? Tại

sao họ lại mang cô tới ðây? Cô có ðúng không khi viện tới cái tên của ngƣời bà

quá cố nhƣ một cái phao cứu nạn?

- Nói tiếp đi. - Giáo sƣ khích lệ, rƣớn ngƣời về phía trƣớc, chăm chú quan sát

Schuyler.

- Cordelia đã từng là bà ngoại tôi... - Schuyler tiếp tục. Kể cả những ngƣời này

có là kẻ thù ði chãng nữa, thì bây giờ cô cũng không còn đƣờng rút lui nữa rồi.

Cô quan sát căn phòng, ngõ hầu tìm lối thoát thân và nhanh chóng nhận ra cánh

cửa bí mật phía sau một trong những giá sách kia. Có lẽ cô có thể trốn thoát qua

lối ðó, hoặc cô có thể ðánh bất tỉnh ông già và chàng trai trẻ này bằng câu thần

chú của riêng mình, rồi bay ra ngoài cửa sổ.

- Đã từng? - Chàng thanh niên hỏi lại.

- Bà ấy ðã thoát ra khỏi chu kỳ này rồi. Bà bị tấn công... - Schuyler thở mạnh. -

...bởi một Máu Bạc. Một Croatan.

- Làm sao cô biết ðƣợc? - chàng trai gặng hỏi. - Không một ai còn nhắc tới

"Máu Bạc" kể từ thế kỷ mƣời bảy. Cụm từ này ðã bị ðào thải khỏi lịch sử của

gia tộc Máu Xanh.

- Chính bà tôi ðã nói lại với tôi.

- Nhƣng không phải bà ấy bị "hút" mất rồi sao? - chàng trai hỏi bằng một giọng

khàn ðặc.

- Không, tạ õn Trời. Kẻ tấn công ðã không hút đƣợc toàn bộ máu và ký ức của

bà. Bà sẽ sống chờ ngày trở lại trong chu kỳ tiếp theo.

Chàng trai dựa ngƣời ra sau thành ghế. Schuyler ngó thấy tay trái anh ta ðang

xoay xoay chùm chìa khóa ôtô còn chân phải thì đung đƣa theo nhịp lên xuống.

Anh ta có vẻ không còn ðủ kiên nhẫn ðể nghe hết phần còn lại của câu chuyện.

- Tiếp ði nào. - Giáo sƣ lại hối thúc.

- Cordelia đã nói với tôi rằng chìa khóa để đánh bại Máu Bạc nằm trong tay

chồng bà, ông Lawrence Van Alen, ngƣời hiện ðang mai danh ẩn tích. Bà nghĩ

nếu bà gửi tôi tới... nếu bà gửi tôi tới Venice này, tôi có thể tìm ra ông. Và tôi

đã tìm đƣợc, đúng không?

Ánh mắt ngƣời ðàn ông hấp háy.

- Có lẽ là vậy.

- Vậy thì, ông ngoại, cháu tới ðể nhờ ông giúp. Bà Cordelia ðã nói chuyện này

cần phải khẩn trƣõng lên...

Có một tiếng húng hắng từ phía chàng thanh niên. Schuyler quay lại nhìn anh ta.

- Ta mới là Lawrence Van Alen. - Chàng thanh niên nói, rƣớn ngƣời tới trƣớc.

Khuôn mặt của anh ta bắt ðầu thay ðổi, không hẳn là biến dạng mà chỉ là thay

ðổi theo ðặc ðiểm thời gian, khiến anh ta biến thành một ngƣời ðàn ông già hõn.

Trƣớc mặt Schuyler lúc này không phải là ngƣời ông tóc bạc, lƣng còng nhƣ cô

hằng tƣởng tƣợng. Ngƣời ðàn ông trƣớc mặt cô ðây có dáng cao và gầy. Ông

vẫn giữ mái tóc bồng bềnh nhƣ bờm sƣ tử giống của chàng thanh niên ban nãy,

chỉ có điều, nó đã lốm đốm những sợi bạc. Ngay cả chiếc mũi diều hâu đậm nét

quý tộc cùng chiếc cằm cao ngạo kia vẫn còn nguyên trên khuôn mặt ông không

thay đổi.

Cứ nhƣ thể căn phòng co lại trƣớc sự hiện diện của ông. Ông có dáng dấp của

một vị chỉ huy, với cái nhìn sắc lạnh, khiến ngƣời ta phải kính sợ. Ðây chính là

ngƣời ðàn ông xứng tầm ðối thủ của Charles Force, Schuyler nghĩ thầm.

- Ông có khả năng biến đổi nhân dạng?! - Schuyler nói đầy vẻ ngƣỡng mộ. -

Đây có phải hình dáng thật sự của ông không ạ?

- Cũng thật nhƣ mọi hình dạng khác của ta. - Lawrence đáp lại. - Anderson,

ông có thể cảm phiền để hai chúng tôi một mình đƣợc không?!

Ngƣời ðàn ông nhiều tuổi hõn kia nháy mắt với Schuyler và lui ra khỏi phòng,

đóng cánh cửa gỗ cọt kẹt sau lƣng một cách nhẹ nhàng. Schuyler ngồi yên vị lại

trên ghế của mình, cúi mặt nhìn xuống tấm thảm trải sàn Aubusson đã bạc màu

trên nền gạch cứng. Nó trông giống hệt tấm thảm trong thƣ viện của Cordelia ở

tòa nhà số 101 phố Street.

- Ông ấy là Conduit của ông ạ?

Lawrence gật ðầu. Ông ðứng dậy và ði lại phía bệ lò sƣởi, mở chiếc tủ ly và lôi

ra một chai rƣợu poóc-tô. Ông rót thứ chất lỏng màu ðỏ ấy vào hai ly và ðƣa

cho Schuyler một ly.

- Cháu đã ngờ ngợ liệu ðó có phải là ông. - Cô nói khi đƣa tay nhận lấy ly rƣợu.

Cô nhấp từng ngụm chậm rãi. Rƣợu thật ngọt nhƣng không phải vị ngọt do pha

thêm chất phụ gia vào, mà là vị ngọt ðậm ðặc, nguyên chất và rất ngon. Rƣợu

vốn không có tác dụng gì ðối với ma cà rồng, nhƣng hầu hết bọn họ đều thích

hƣõng vị của nó.

- Ta cũng đoán thế. Cháu gần nhƣ đã quay sang phía ta khi gọi tên ta, nhƣng rồi

lại thôi. Làm sao cháu nghĩ ðó chính là ta?

- Chủ nhân thƣờng ngồi bên tay trái, chính là vị trí của ông ban nãy, trong khi

ông già kia ngồi bên tay phải của ông. - Schuyler trả lời. Ðó là một trong những

quy tắc ứng xử có từ thời Trung cổ mà cô học ðƣợc sau những buổi học dài bất

tận với Cordelia về lịch sử gia tộc Máu Xanh. Nhà vua luôn ngồi bên trái, còn

hoàng hậu của ngài, hoặc bất cứ ngƣời nào khác dƣới quyền ðều ngồi bên phải

nhà vua.

- Ồ, rất có óc quan sát. Ta đã quên mất chuyện ðó. Ta ðúng là già thật rồi.

- Cháu rất tiếc vì Cordelia không thể có mặt ở ðây. - Schuyler nhẹ nhàng lên

tiếng.

Lawrence thở dài.

- Không sao. Chúng ta cũng đã xa nhau tới hõn một thế kỷ rồi. Mỗi ngƣời cũng

đã dần quen với cuộc sống cô ðõn. Rồi sẽ có một ngày nào ðó chúng ta lại ðƣợc

ở bên nhau, an toàn.

Ông ngồi dựa vào ghế của mình và lôi ra từ trong túi áo một điếu xì-gà.

- Vậy là, cháu là con gái của Allegra?! - Ông nói, cắt một ðầu của ðiếu xì-gà

bằng máy cắt chuyên dụng bằng bạc. - Ta ðã theo dõi cháu. Ta biết cháu đi tìm

ta ngay từ giây phút cháu đặt chân tới Venice. Ta đã cảm nhận đƣợc điều gì đó

trong không khí. Ta vốn cứ nghĩ là mẹ cháu nhƣng sớm nhận ra ðó là một

nguồn năng lƣợng khác. Và rồi ta bị cháu bắt gặp.

- Vậy ra ông chính là ngƣời phụ nữ mà cháu nhìn thấy trên phố hồi trƣa nay?!

Ông đã biến thành mẹ Allegra. - Schuyler nhƣ hét lên vì kinh ngạc. Giờ thì tất

cả mọi chuyện đã trở nên rõ ràng.

Lawrence gật đầu xác nhận.

- Thỉnh thoảng ta lại làm vậy. Có lẽ vì ta nhớ mẹ cháu quá.

Ông nhả ra một làn khói xì-gà.

- Ta cần phải cảnh giác, không dám lộ diện ngay với cháu cho tới khi ta tìm hiểu

chắc chắn về thân thế của cháu. Ta có rất nhiều kẻ thù, Schuyler ạ. Chúng ðã và

vẫn ðang sãn ðuổi ta từ hàng thế kỷ nay rồi. Và cháu rất có thể là một trong số

chúng.

Schuyler ðột nhiên ngồi thẳng dậy, suýt chút nữa phụt rƣợu ra khỏi miệng.

- Bà chủ nhà trọ ðó cũng là ông phải không? Ít ra thì là cái ngƣời cháu gặp lúc

đầu.

Lawrence cƣời lặng lẽ.

- Ðúng vậy. Ðó chính là ta.

- Cũng chính vì thế mà bà chủ thật sự nói rằng bà ấy chƣa bao giờ gặp bọn cháu

khi tụi cháu trở xuống dƣới lầu. Bà ấy ðã nói sự thật. - Schuyler đặt chiếc ly

rỗng lên chiếc bàn nhỏ bên cạnh ghế cô ngồi, cẩn thận ðặt nó vào miếng lót cốc

bằng vàng.

- Marie là một ngƣời thật thà. Ta ðánh giá cao bà ấy vì điều đó. - Lawrence

mỉm cƣời.

- Tại sao ông lại tự chỉ phòng mình cho tụi cháu?

- Ta vốn cũng không có ý định ấy đâu, nhƣng lúc đó bị cháu đuổi theo, ta buộc

phải trú tạm vào một trong số những nõi ẩn náu bí mật của ta trên khắp thành

phố này. Cháu biết ðấy, ta có rất nhiều ðịa chỉ bí mật. Ngƣời ta cần nhiều chỗ

trú nhƣ vậy thì mới thực sự đƣợc gọi là thành công trong việc sống mai danh ẩn

tích, đúng không?! Còn về phía Marie, bà ấy đã nói với cháu sự thật: căn phòng

đó thực sự bị khóa. Nhƣng cháu đã mở đƣợc nó. Ta coi đó nhƣ một dấu hiệu tốt.

Ta nghĩ ta có thể cho cháu một đầu mối để xem xem cháu có khả năng tìm ra ta

giữa Biennale muôn ngƣời đƣợc không. Và cháu ðã làm rất tốt. Cháu cũng

giống ta, đều bị tác phẩm Olafur Eliasson thu hút.

- Nhƣng tại sao ngay sau đó ông lại chạy khỏi cháu? Bắt cháu phải đuổi theo

ông?

- Và cháu gần nhƣ đã tóm đƣợc ta còn gì. Ôi lạy Chúa tôi, tốc độ của cháu...

Cháu mạnh không thể tin đƣợc. Ta đã phải dùng hết năng lƣợng của mình để

giữ khoảng cách dẫn đầu với cháu. Lúc đó, ta vẫn chƣa chắc chắn về ðộng cõ

cũng nhƣ danh tính của cháu. Cháu khiến ta ngạc nhiên khi tìm đến tòa nhà

Thuộc địa. Ta xin lỗi vì đã phải ếm bùa chú lên cháu.

- Vậy tại sao lúc này ông lại chọn tin cháu? - Schuyler thắc mắc.

- Bởi vì chỉ có con gái của Allegra mới biết câu thần chú Advoco Adiuvo mà

cháu đã dùng. Cordelia và ta đã thỏa thuận với nhau rằng nếu lúc nào đó một

ngƣời trong hai chúng ta tìm đến ngƣời kia thì mật khẩu nhận diện sẽ là những

lời thuộc về Ngôn ngữ Thần Thánh đó. Không có thần chú Advoco, thì dù trong

một ngàn nãm nữa, cháu cũng sẽ không bao giờ tìm đƣợc ta, kể cả cháu có

mạnh đến đâu chăng nữa. Nhƣng ta buộc phải khiến cho cháu mê man bất tỉnh

nhằm kéo dài thêm thời gian ðủ ðể ta biết chắc cháu không bị ngƣời khác điều

khiển. Rồi ta đƣa cháu tới nõi an toàn, nõi mà chúng ta không bị theo dõi.

Schuyler gật đầu. Cô cũng đã đoán đƣợc phần nào tiến trình sự việc.

- Vậy giờ cháu đã tìm đƣợc ta rồi, cháu muốn gì nào? - Lawrence hỏi, nhìn

Schuyler qua làn khói thuốc.

- Cháu muốn biết về Máu Bạc. Về tất cả những gì liên quan ðến chúng.CHÝÕNG 9

Kỳ thi cuối học kỳ đã bắt đầu diễn ra tại trƣờng Duchesne. Không giống nhƣ ở

các trƣờng bình thƣờng khác, học sinh tại học viện dành riêng cho ngƣời giàu

này rất háo hức mong chờ kỳ thi, vì nó cũng có nghĩa là lịch học sẽ đƣợc giãn ra

và nhen nhóm kế hoạch nghỉ lễ ngay sau ðó. Bliss ngó qua thời khóa biểu trong

lúc vội vã sải bƣớc qua những cánh cửa bằng kính và ðồng thau mạ vàng cao

gấp đôi cửa thƣờng. Ngày hôm nay cô sẽ bắt ðầu kỳ thi với môn Anh vãn và

Lịch sủ nƣớc Mỹ nâng cao. Ngày hôm sau là Tiếng Ðức và Sinh học. Môn Luật

dân sự sẽ thi vào thứ Tƣ, thứ Nãm trống và ðến thứ Sáu thì chỉ còn một bài thi

vấn đáp tiếng Pháp nữa là xong.

Khi chạy trên những bậc cầu thang lớn dẫn lên tầng ba, Bliss nhận ra xung

quanh mình, các nữ sinh khác ðang mặc quần tập yoga, áo phông và ði bốt hiệu

Ugg trong khi các nam sinh mặc áo thun dài tay ðã bạc màu, quần jeans thủng

lỗ và ði giày sneaker (ðế mềm).

Chuyện gì thế này? Bliss nhìn lại bộ trang phục theo phong cách hàng ngày của

mình: quần jeans cạp cao đóng hộp, ống quần giấu trong đôi bốt kiểu cƣớp biển

có kéo khóa kéo lên tới tận gối, và một chiếc áo len chui đầu hiệu Stella

McCartney mặc bên ngoài chiếc áo sõ mi diềm ðãng-ten hiệu Derek Lam. Sao

những ngƣời khác trông cứ nhƣ thể mới chui ra từ giƣờng ngủ và mặc vội mặc

vàng trong lúc trời chập chạng vậy?

- Hey, Bliss! - Mimi réo gọi tên cô trong lúc ði ra từ thƣ viện tầng hai.

Bliss ngạc nhiên khi thấy Mimi trong một bộ ðồ mà có lẽ cô nàng thậm chí còn

không bao giờ thèm ngó tới: Mái tóc vàng buộc túm trong chiếc khãn tay khổ

lớn màu vàng xen lẫn xanh dƣõng, mặt mũi thì gần nhƣ không trang điểm (thực

tế, Bliss còn nhận ra một cái mụn nho nhỏ trên cằm của Mimi). Cô nàng mặc

chiếc áo phông quá khổ của đội tuyển lacrosse27 trƣờng Duchesne, mƣợn từ

ông anh Jack, càng làm nổi bật bộ khung gầy gò; bên dƣới là chiếc quần ngủ

làm bằng vải bông flannen ôm sát và ði dép lê trông rất ƣ thoải mái.

- Hey! - Bliss cũng cất tiếng chào lại.

- Không nói chuyện đƣợc, tớ muộn giờ thi môn Hóa rồi. - Mimi giải thích trong

lúc chạy xuống cầu thang, ðôi dép lê của cô nàng phát ra những tiếng lạch bạch

trên nền nhà ðá hoa cƣõng.

- Cậu vừa mới tới ðấy à? - Soos Kemble hỏi trong khi bám theo sát Mimi. Cô ta

mặc một chiếc áo thun Oxford quá khổ và legging len ðã dão, còn mái tóc vàng

thƣớt tha giờ đƣợc búi lên tạm bợ. Thật khó tin ðây chính là cô gái hàng ngày

đến trƣờng với mái tóc sấy hoàn hảo, và luôn mặc ðồ hiệu trị giá không dƣới

năm con số.

- Ừ. - Bliss nhún vai. - Sao vậy?

- À, mọi ngƣời khác đều ở đây từ lúc bình minh. - Soos ngáp. - Học ôn thi.

Tuyệt thật, Bliss nghĩ thầm. Cô thực sự chƣa bao giờ hiểu đƣợc mấy cái luật bất

thành vãn ở ngôi trƣờng này. Trên thực tế, cái vẻ tỏ ra mình là một kẻ thích gạo

bài hoặc là một mọt sách luôn là mốt trong suốt các kỳ thi ở Duchesne. Bạn phải

27 Lacrosse: một môn thể thao dùng vợt ðể ðập bóng tỏ ra nhƣ thể bạn lo lắng ôn bài tới ðầu tắt mặt tối. Thậm chí ngay cả các ma cà

rồng Máu Xanh, những ngƣời sở hữu trí tuệ siêu phàm, cũng cần phải học thêm.

OK thôi, Bliss nhủ thầm trong lòng, ngày mai cô cũng sẽ đến trƣờng trong bộ

ðồ ngủ cũ kỹ nhất mà cô có. Bliss rất ghét cái cảm giác bị cô lập một mình một

kiểu nhƣ thế này. Nó cứ nhƣ thể có ai ðó ðang loan báo cho toàn trƣờng biết sự

thật rằng, khác với những ngƣời bạn còn lại trong khối, cô không phải là học

sinh của Duchesne từ khi mới học lớp mầm. Chẳng lẽ cô cứ mãi là một kẻ ngoài

rìa nhƣ thế này? Bliss tự hỏi cô có nên tỏ ra tức giận vì Mimi đã không nói cho

cô biết về cái trò ăn mặc "bình dân" này không, nhƣng rồi lại nghĩ có lẽ Mimi

cũng có nhiều thứ phải lo hõn là ngồi ðấy mà khuyên bảo cô phải ãn mặc nhƣ

thế nào cho hợp mốt thi cử.

Khi Bliss đến phòng thi môn Lịch sử, gần nhƣ tất cả mọi ngƣời trong lớp đã yên

vị chỗ ngồi và lặng lẽ chờ thầy giáo phát đề thi. Bliss chiếm một chỗ ở phía cuối

phòng, nhìn quanh quất tìm kiếm bóng dáng Schuyler hoặc Oliver. Cô muốn

chia sẻ với họ tin tức về sự trở lại của Dylan.

Dù cho Mimi không tin chãng nữa thì Bliss vẫn đoan chắc hai ngƣời đó sẽ tin

cô.

Nhƣng chẳng thấy họ đâu cả.

Rồi Bliss chợt nhớ ra hai ngƣời bọn họ đã đƣợc ðặc cách thi sớm hõn, trƣớc khi

rời New York ðể ði Venice trong hai tuần. Ðúng là những kẻ may mắn.

Bliss nhìn xuống tờ ðề màu xanh. Câu ðầu tiên liên quan ðến cuộc hành trình

Mayflower, Cuộc hành hƣõng tới Tân Thế giới, và sự thành lập mƣời ba bang

thuộc ðịa ðầu tiên. Vì chính cô đã sống trong thời kỳ ðó nên tất cả những gì Bliss phải làm chỉ là nhắm mắt lại và cuộc sống giữa chốn hoang tàn trƣớc đây

hiện ra rõ mồn một trong tâm trí. Đoan chắc mình sẽ đạt điểm cao nhất, Bliss

cũng cảm thấy tự tin phần nào. Cô ðẩy nhanh tốc ðộ làm bài, ðoạn ðứng dậy và

nộp bài. Jack Force cũng thi cùng phòng với cô. Cậu chàng nở một nụ cƣời thân

thiện với Bliss khi tiến ðến nộp bài ngay sau cô. Cậu giữ cửa mở cho cô, và hai

ngƣời cùng bƣớc ra ngoài.

- Cậu làm bài thế nào? - Jack hỏi thãm khi họ trên ðƣờng tới cầu thang lớn.

- Xuất sắc. - Bliss nói - Nhƣng tớ cứ có cảm giác mình đang gian lận, ý tớ là...

cậu biết đấy.

Jack gật đầu.

- Tớ hiểu ý cậu mà. Tất cả những gì chúng ta phải làm là nhắm mắt lại, đúng

không?

- Cứ nhƣ thể chúng ta có "phao" hay cái gì đó tƣõng tự vậy. - Bliss nói.

- Ừm, nhƣng chúng ta cũng không nhất thiết phải dùng nó mà. - Jack lẩm bẩm.

- Gì cõ? - Bliss hỏi lại.

- Không có gì. - Jack nhún vai.

Cái nhìn trong mắt cậu bạn trở nên xa xăm. Bliss không biết về Jack nhiều lắm,

mặc dù họ hay tụ tập cùng nhau, nhƣng đó chỉ vì Mimi lúc nào cũng thích có

Jack kè kè bên cạnh.

- Chúc cậu thi cử tốt nhé. - Jack nói, vỗ vỗ vào vai Bliss theo kiểu anh em.

- Cậu cũng vậy. - Bliss gọi với theo.

Bliss nhìn đồng hồ, cô vẫn còn vài giờ trƣớc khi tới bài thi tiếp theo. Có lẽ cô sẽ

có đủ thời gian ghé qua căng-tin ăn cái gì ðó và rồi cố gắng giành một chỗ trong

thƣ viện, nếu nhƣ nó vẫn còn trống.

Trong lúc đang bƣớc xuống cầu thang, Bliss bị một cô gái chặn lại. Cô nhƣớng

một bên mày lên và hỏi:

- Có chuyện gì không?

Bliss nhận ra ðó là Ava Breton, cũng đang học năm hai nhƣ Bliss. Ava là một

Máu Đỏ nhƣng rất nổi tiếng trong trƣờng. Gần nhƣ tất cả bạn bè của Ava ðều là

ma cà rồng, nhƣng hiển nhiên là cô nàng không biết gì về điều đó. Bliss nhận ra

có những vết "chỉ ðiểm" trên cổ Ava, cho thấy Jaime Kip, cậu bạn trai Máu

Xanh của cô nàng, ðã chọn cô ta làm thần linh quen thuộc. Thú vị đây.

- Bliss à, tớ hỏi cậu chuyện này ðƣợc không? - Ava hỏi, vén tóc ra đằng sau tai.

Cô nàng ðang mặc một chiếc áo phông hiệu American Apparel dài tay và quần

soóc tập bóng rổ của bạn trai; bên trong cùng là lớp quần áo lót giữ nhiệt màu

xám.

- Tất nhiên rồi.

- Vậy, cậu có biết gì về buổi tiệc mà Mimi và Jack Force tổ chức vào tuần tới

không?

Bliss cựa mình ra chiều không thoải mái.

- Tớ...

- Cũng không có chuyện gì ðâu. Chỉ là... Jaime cƣ xử hõi kỳ cục về chuyện này.

Tớ hiểu là cậu ấy phải ði dự cái Vũ hội tổ chức ở St. Regis cùng ba mẹ cậu ấy,

một chuyện đáng ngán ngẩm phải không?! Nhƣng vì cậu ấy cũng không thèm

mời tớ đến bữa tiệc tổ chức sau ðó nên tớ nghĩ có gì ðó hõi bất thƣờng trong

chuyện này.

- Tớ rất tiếc. - Bliss nói, cảm giác không thoải mái. Cô ghét khi thấy bạn bè bị

bỏ ngoài cuộc vui. Cô nhớ lại cuộc sống của mình trƣớc đây - trƣớc khi chịu

núp dƣới bóng của Mimi. Trong thâm tâm, cô không thích trò loại bỏ bạn bè

nhƣ thế này. Cƣ xử nhƣ thế thật nông cạn và hợm mình, và rõ là kiểu của Mimi.

Nhƣng chắc chắn không phải kiểu của Bliss. Có mất mát gì ðâu mà phải hẹp hòi

nhƣ thế? Vũ hội Four Hundred đúng là chỉ dành riêng cho ma cà rồng thật,

nhƣng buổi tiệc sau ðó là dành cho thanh thiếu niên cõ mà. Càng ðông thì càng

vui chứ sao. Nếu có ai đó muốn tham gia thì cũng đâu tổn hại gì?

- Tớ chỉ là... chuyện này chỉ là... ý tớ là... tớ biết những ngƣời khác rồi sẽ nhận

đƣợc giấy mời... - Ava cắn môi trong lúc tiếp tục nói - ...và nếu nhƣ tớ không

có...

- Nó sẽ đƣợc tổ chức ở Khu Thƣõng mại, tại Trung tâm Angel Orensanz, vào

lúc nửa ðêm. - Bliss buột miệng. - Và ðó là một vũ hội hóa trang. Cậu cần phải

ðeo mặt nạ, hoặc ðại loại là kiểu hóa trang nào ðó thì cậu mới đƣợc phép vào

trong.

Một nụ cƣời rạng rỡ hiện ra trên khuôn mặt Ava.

- Cảm õn cậu, Bliss. Cảm õn cậu RẤT NHIỀU.

Chết tiệt.

Giờ thì đẹp mặt rồi.

Cô đã mời một Máu Đỏ đến dự tiệc. Mimi sẽ rất bực mình cho mà xem.CHÝÕNG 10

Vô vọng. Giờ thì mọi thứ trở nên vô vọng thật rồi. Ông ngoại cô hóa ra là một

kẻ vô dụng, một ông lão nhát gan chẳng thiết gì ngoài những quyển sách, những

điếu xì-gà và rƣợu của ông ta. Cô đã mong chờ điều gì chứ? Một ngƣời thầy,

một ngƣời dẫn lối đƣa đƣờng... một ngƣời cha. Một ai ðó có thể làm või ði

gánh nặng ðang ðè trên vai cô, dù chỉ là trong chốc lát. Lúc này ðã là buổi sáng

ngày hôm sau, Schuyler ðang ở trong phòng khách sạn gói ghém hành lý, đoạn

nhớ lại những lời của Lawrence trƣớc khi chia tay.

- Ta xin lỗi, Schuyler. Cordelia đã sai lầm khi gửi cháu đến tìm ta. - Vừa nói

ông vừa bƣớc tới chỗ lò sƣởi.

- Sự thật là, từ lâu ta ðã không còn hứng thú với bất cứ chuyện gì liên quan đến

gia tộc nữa rồi. Ta đã rửa tay gác kiếm sau sự kiện xảy ra ở Roanoke. Kể từ

ngày ðó, bọn họ ðã chọn theo Michael, và vẫn luôn nhƣ vậy ngay cả trong

những chu kỳ về sau. - Ông nói, ám chỉ chuyện các thành viên trong gia tộc

Máu Xanh đã chọn Michael và trao ông ta quyền Thủ lĩnh gia tộc khi rắc rối ập

đến với họ ở Roanoke, lúc đó có vẻ nhƣ Máu Bạc đã quay trở lại. - Và nếu ta

không nhầm thì tới tận ngày hôm nay, họ vẫn giữ nguyên lựa chọn đó, chỉ có

điều giờ Micheal đã mang tên mới là Charles Force. - Lawrence lắc đầu - Khi

cậu ta quay lƣng lại với gia đình và chối bỏ cái tên Van Alen, ta đã thề rằng ta

sẽ không bao giờ quay về với gia tộc nữa. Than ôi! Cháu đã mất công vô ích rồi,

Schuyler. Ta giờ chỉ là một lão già. Và ta muốn sống cho tới hết cuộc đời bất tử

này trong thanh bình. Ta chẳng thể giúp cháu điều gì đƣợc.

- Nhƣng Cordelia đã nói là...

- Cordelia đã ðặt quá nhiều niềm tin nõi ta, lúc nào cũng vậy. Chìa khóa đánh

bại Máu Bạc nằm ở Charles và Allegra, chứ không phải ở ta. Chỉ có Thiên thần

Thanh Khiết mới có thể cứu Máu Xanh thoát khỏi bọn Máu Bạc Tàn Bạo. Ta

xin lỗi vì chẳng giúp gì đƣợc. Ta đã thề từ bỏ gia tộc mãi mãi khi ta chịu ði ðày

rồi.

- Hóa ra Charles Force đã đúng về ông. - Schuyler nói, giọng run run.

- Ý cháu là sao? - Lawrence hỏi lại trong cảm giác mõ hồ.

- Ông ta nói ông không bằng một nửa ngƣời ðàn ông mà Cordelia mong muốn.

Rằng cháu sẽ chỉ tìm đƣợc sự thất vọng và bối rối nếu quyết ði Venice.

Lawrence lùi lại phía sau nhƣ thể ông vừa nhận một cú ðấm từ chính diện. Trên

khuôn mặt ông hiện lên vô số những cung bậc cảm xúc: xấu hổ, giận dữ, kiêu

hãnh; nhƣng dù là gì, ông vẫn chỉ im lặng. Cuối cùng, ông ðột nhiên xoay lƣng

lại phía cô và bỏ ra khỏi phòng, đóng sầm cánh cửa lại phía sau lƣng.

Hừm. Vậy ðấy. Schuyler kéo khóa túi hành lý, lẳng nó qua vai và bƣớc ra ngoài

về phía thang máy, nõi Oliver ðang ðứng chờ. Cậu không hề cất tiếng chào hay

chúc cô buổi sáng tốt lành. Schuyler biết nếu cô muốn, chỉ cần vài khắc cô ðã có

thể thâm nhập ý nghĩ cậu. Suy nghĩ của Oliver lúc nào cũng "tỏa sóng" nhƣ thể

một cái ðài thu phát vệ tinh. Nhƣng Schuyler chƣa bao giờ làm vậy. Cô không

nghĩ rằng xâm nhập đầu óc ngƣời khác là ðúng. Hõn nữa, chẳng cần có siêu

năng lực, Schuyler cũng hiểu cậu bực mình với cô vì đã không gọi lại cho cậu

ðêm hôm qua.

Hôm qua, tài xế riêng của Lawrence ðã đƣa cô về khách sạn vào lúc rất khuya.

Schuyler nhận đƣợc rất nhiều tin nhắn ðầy lo lắng và quan tâm từ cậu bạn trên

cả máy di động lẫn hộp thƣ thoại trong phòng khách sạn. Đáng lẽ ra cô định gọi

lại cho cậu ngay lúc đó, nhƣng vì cảm thấy đã quá khuya nên cô không muốn

đánh thức cậu dậy.

- Tớ cứ nghĩ cậu chết rồi. - Oliver lên giọng buộc tội.

- Nếu đúng vậy thì cậu có thể cầm iPod của tớ.

- Hừ. Cái đó lởm phát khiếp. Nó thậm chí còn không xem đƣợc video.

Schuyler cố nén lại một nụ cƣời. Cô biết Oliver không thể giận cô lâu đƣợc.

- Dù sao thì, cậu cũng đã lỡ mất chƣõng trình phát sóng lễ trao giải thƣởng âm

nhạc Châu Âu. Chƣõng trình ðó ðúng là vui nhộn kinh khủng. David Hasselhoff

chiếm đóng ở tất cả các hạng mục đề cử.

- Tệ thật đấy.

- Mà bố tớ ði trƣớc rồi, ông ấy bay chuyến sớm hõn. Phải về sớm ðể tham dự

cuộc họp cổ ðông nào ðó. - Oliver cằn nhằn.

Schuyler liếc sang phía cậu bạn. Bờm tóc mái màu hạt dẻ che mất vầng trán cậu,

và ðôi mắt nâu nhạt ấm áp, pha một chút màu lục và hoàng ngọc, ðang chan

chứa lo lắng và quan tâm. Schuyler cố gắng kiềm chế bản thân, ngãn những

ngón tay muốn vƣõn ra chạm vào cổ cậu. Một cái cổ trông thật yếu ðuối và mời

mọc làm sao. Gần ðây Schuyler bắt ðầu cảm nhận một khao khát mới ðang bùng

phát trong huyết quản cô: khao khát đƣợc "uống". Cõn khát rền rĩ một cách chậm rãi, nhƣ một ðiệu nhạc từ phía ðằng xa mà bạn thậm chí còn không nhận

ra, nhƣng thi thoảng nó lại bùng lên dữ dội, không gì át đi đƣợc. Cô nhận ra bản

thân mình ðang bị hút về phía Oliver theo một cách hoàn toàn mới, khiến cô ðỏ

mặt mỗi khi nhìn cậu.

Chuyện này cũng gợi nhắc Schuyler về ông bố ngƣời trần của cô - ngƣời vốn là

thần linh quen thuộc loài ngƣời của mẹ cô, nhƣng rồi mẹ đã lấy vị thần linh

quen thuộc ấy làm chồng, bất chấp luật lệ của gia tộc. Lần ðầu tiên trong lịch sử

Máu Xanh, ranh giới giữa ma cà rồng và ngƣời trở nên mờ nhạt, và kết quả của

nó chính là Schuyler. Một ðứa con lai nửa ngƣời nửa ma cà rồng. Dimidium

Cognatus.

Schuyler cũng chỉ mới khám phá ra bí mật về xuất thân của mình vài tháng

trƣớc, nhƣng chỉ tới tận bây giờ cô mới hiểu rằng dòng máu đang chảy trong

ngƣời cô chính là số phận của cô. Chính dòng máu ấy đã tạo nên vô vàn mạch

máu phức tạp ẩn bên dƣới làn da của cô. Và lúc này, máu ðang gọi máu. Máu

của cô đang gọi máu của Oliver...

Schuyler chƣa bao giờ nhận ra cậu bạn thân nhất của mình trông mới đẹp trai

làm sao. Da cậu thật mềm mại. Cô muốn với tay chạm vào ðiểm dƣới yết hầu

của cậu biết bao, rồi hôn vào chỗ ðó và rồi, có thể, cắm những chiếc rãng nanh

vào làn da nõi ðó... và uống...

- Vậy hôm qua cậu đã ở chỗ nào thế? - Oliver cất tiếng, phá vỡ dòng suy nghĩ

của Schuyler.

- Chuyện dài lắm. - Schuyler ðáp, ðúng lúc cửa thang máy mở ra và cả hai bƣớc

vào trong.

Trong lúc ngồi trên chiếc taxi gỉ sét chạy dọc qua các con phố rải cuội để đến

cái sân bay bé tin hin của thành phố, Schuyler ðã kể lại mọi chuyện cho Oliver,

ngƣời lúc này ðã biến thành một thính giả nhiệt tâm.

- Khỉ thật! - Oliver nói - Nhƣng biết ðâu một ngày nào ðó ông ấy lại ðổi ý thì

sao.

Schuyler nhún vai. Cô tự biện hộ cho bản thân, rằng cô đã làm đúng nhƣ những

gì bà ngoại dặn dò, nhƣng cô chẳng thể làm ðƣợc gì hõn một khi ðã bị từ chối.

Mà Schuyler thực sự không nghĩ rằng cô còn có thể làm thêm đƣợc bất cứ điều

gì nữa.

- Có thể là vậy, mà cũng có thể không. Thôi, ðừng nói về chuyện này nữa. - Cô

thở dài.

Chuyến bay tới Rome bị hoãn, nên cả hai giết thời giờ bằng cách lƣợn lờ qua

các cửa hàng lƣu niệm miễn thuế. Oliver cƣời nhăn nhở khi chỉ cho Schuyler

một tờ tạp chí trông khá bắt mắt của Ý. Schuyler mua vài cuốn, thêm một chai

nƣớc và vài thanh kẹo cao su ðể chữa ù tai khi máy bay cất cánh và hạ cánh.

Ðang ðứng xếp hàng chờ thanh toán thì Schuyler chợt phát hiện ra một đống

mặt nạ kiểu Venice xếp thành chồng trên quầy. Mặc dù còn mấy tháng nữa mới

tới lễ hội Carnival nhƣng vào thời ðiểm này, trên ðƣờng phố Venice đã bắt đầu

tràn ngập những ngƣời bán rong vỉa hè chào bán mấy thứ nhƣ thế này. Schuyler

quả thực hiếm khi để ý tới mấy thứ đồ lặt vặt rẻ tiền, nhƣng trong đống mặt nạ

nằm trên quầy có một chiếc ðã thu hút đƣợc sự chú ý của cô.

Ðó là một chiếc mặt nạ ôm toàn bộ khuôn mặt, chỉ chừa lại hai con mắt. Nó

đƣợc làm từ loại sứ tốt nhất, bên trên mặt nạ ðính những hạt cƣờm trang trí bằng

vàng và bạc.

- Nhìn này. - cô nói trong khi tay cầm chiếc mặt nạ giõ lên cho Oliver xem.

- Cậu mua cái thứ lòe loẹt này làm gì? - Oliver hỏi.

- Tớ cũng không biết nữa. Dù sao tớ cũng chẳng có cái gì gọi là quà kỷ niệm

Venice, thế nên tớ sẽ mua nó.

Chuyến bay tới Rome đã ðủ kinh khủng khiếp rồi, vậy mà chuyến bay tới New

York thậm chí còn tệ hõn: máy bay lắc lƣ nhiều đến nỗi Schuyler đã nghĩ cô sẽ

phát ðiên lên mất vì hai hàm rãng cứ liên tục va vào nhau mỗi lần máy bay nẩy

lên hạ xuống. Cho tới khi nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy ðƣợc bầu trời New York,

Schuyler bỗng cảm nhận đƣợc một đợt sóng tình cảm dâng trào, chan chứa tình

yêu ðối với thành phố quen thuộc, nhƣng cũng đƣợm chút thê lƣõng vì biết rằng

chẳng có ai chờ cô ở nhà, ngoại trừ hai ngƣời giúp việc trung thành mà giờ ðã

trở thành những ngƣời bảo hộ hợp pháp của cô, theo ý nguyện của Cordelia.

Thôi thì ít nhất vẫn còn có Xinh Ðẹp. Con chó không chỉ là con vật cƣng của cô,

mà còn là ngƣời bạn trung thành và là ngƣời bảo vệ của cô nữa. Xinh Đẹp cũng

có chân đóng góp trong sự biến đổi, nó chứa một phần linh hồn của Cordelia đã

chuyển hóa và lƣu lại ở thế giới này ðể bảo vệ Schuyler cho ðến khi cô có thể

kiểm soát đƣợc toàn bộ sức mạnh của mình. Suốt mấy tuần rồi, cô nhớ nó quá.

Hai ngƣời xuống máy bay và di chuyển tới phòng chờ ðể lấy hành lý. Lúc này

cả Schuyler và Oliver trông thực sự rã rời sau chuyến bay dài. Gần mƣời lăm

tiếng ðồng hồ bay liên tục khiến cả hai trông thật tiều tụy. Họ về tới New York

lúc trời đã nhá nhem tối. Cả hai bƣớc ra khỏi khu vực sân bay và bắt gặp ngay

một lớp tuyết mỏng trên lề ðƣờng. Vậy là ðã sang tuần ðầu tiên của tháng Mƣời

Hai. Cuối cùng thì mùa đông cũng đã tới thật rồi.

Oliver tìm thấy xe của nhà cậu và bác tài xế ðang vẩn võ bên lề đƣờng, đoạn

dẫn Schuyler về phía chiếc Mercedes Maybach màu ðen. Khi ðã yên ổn trên

chiếc ghế ngồi bọc da ấm áp trong xe, Schuyler thầm cảm õn các Thánh thần ðã

ðem Oliver tới cho cô. Tài sản (kếch sù) của gia ðình cậu tuyệt nhiên rất hữu

dụng trong những lúc nhƣ thế này.

Hai ngƣời ngồi yên lặng trên suốt chặng ðƣờng về thành phố, mải mê ðeo ðuổi

những suy nghĩ của riêng mình. Đƣờng cao tốc vắng xe nên chỉ sau nửa tiếng họ

đã về tới Manhattan. Chiếc xe lái thẳng qua Cầu George Washington và tiến vào

phố 125, rồi rẽ xuống khu Riverside và ðậu lại trƣớc cửa dinh thự Van Alen ở

góc đƣờng 101 và Riverside.

- Chà, tới nhà tớ rồi. - Schuyler nói. - Cám õn cậu một lần nữa Ollie, về tất cả.

Giá mà mọi chuyện với ông ngoại thuận lợi hõn thì tốt biết bao.

- Ờ, ðừng bận tâm. „Bảo vệ và phục vụ‟ là motto (câu nói ýa thích, phýõng

châm) của tớ mà. - Oliver rƣớn ngƣời ðịnh hôn vào má cô nhƣ cậu vẫn thƣờng

làm, nhƣng ðúng phút cuối cùng Schuyler quay ðầu lại, khiến mũi của hai ngƣời

va vào nhau.

- Oops. - Schuyler kêu lên.

Oliver cũng thấy ngại ngùng xấu hổ; rồi thay vì hôn tạm biệt nhƣ thƣờng lệ, họ

ôm nhau trong bầu không khí chia tay ngƣợng nghịu.

Có chuyện gì với cô vậy? Oliver là bạn thân nhất của cô cõ mà.

Tại sao cô lại có lối cƣ xử đáng xấu hổ nhƣ thế chứ? Schuyler đang định mở cửa

xe thì nghe tiếng Oliver hắng giọng. Cô liền quay lại nhìn cậu.

- Cậu định nói gì à?

- À, ừm, tớ ðoán là tối nay cậu sẽ tới chỗ ðó hả? - Oliver hỏi trong lúc gãi gãi

cằm.

- Chỗ đó? - Schuyler chớp mắt.

- Cái chỗ, à, Vũ hội Four Hundred ý. - Olvier nói, ðảo mắt và giõ ngón tay lên

làm thành dấu ngoặc kép trong không khí, vẻ mặt ra chiều sợ hãi hõi có phần

phóng đại. - Thì cái cuộc liên hoan tƣng bừng của mấy con đỉa hút máu ấy.

- Ồ, nhớ ra rồi. - Schuyler gần nhƣ đã quên hẳn về buổi vũ hội mà cô buộc phải

đến tham dự với tƣ cách là một thành viên của Ủy Ban; dù rằng Schuyler vẫn

còn quá trẻ để đƣợc giới thiệu chính thức ở Vũ hội. Không nhƣ Mimi và Jack

Force.

Jack Force. Suốt mấy tuần qua, Schuyler đã phải ghìm nén tình cảm dành cho

ngƣời ấy, nhƣng ý nghĩ về Vũ hội Four Hundred đã lôi kéo hình ảnh cậu trở lại,

ám ảnh tâm trí cô. Dáng ngƣời cao ráo, gƣõng mặt ðẹp trai mê hồn, mái tóc

vàng và làn da lúc nào cũng sáng lên dƣới ánh mặt trời, cả đôi mắt xanh lục bảo

cƣõng nghị và nụ cƣời rạng rỡ khoe hàm rãng trắng ðều, sáng lóa.

Jack chính là ngƣời ðầu tiên tỏ ý nghi ngờ về nguyên nhân ẩn sau cái chết của

Aggie, bất chấp thực tế là mấy ngƣời trong Ủy Ban không hề muốn tin vào ðiều

ðó. Và chính Jack là ngƣời kiên quyết tìm ra chân tƣớng sự thật, cậu cũng là

ngƣời mà Schuyler ðã tìm đến sau khi bị tấn công. Lúc đó cậu đã an ủi cô rất

nhiều, và rồi cuối cùng họ ðã hôn nhau. Ký ức về nụ hôn của Jack vẫn còn hằn

dấu trên môi cô. Cho dù nhắm mắt lại, Schuyler vẫn có thể ngửi thấy mùi hƣõng của Jack - mùi vải áo mới giặt sạch sẽ và tƣõi mát, thoang thoảng chút nƣớc

hoa dùng sau khi cạo râu có hƣõng vị của rừng.

Jack Force...

... Cũng chính là ngƣời đã quay lƣng lại với cô khi cô lầm tƣởng bố cậu là một

Máu Bạc.

Schuyler tự hỏi liệu Jack đã có bạn hẹn cùng đi dự vũ hội chƣa, và nếu có thì đó

là ai? Cô bỗng cảm nhận ðƣợc một ngọn lửa ghen tuông bùng phát dữ dội trong

lòng mình khi nghĩ về hình ảnh một cô gái khác trong vòng tay Jack.

- Cậu có muốn đi với tớ không? - Schuyler quay sang hỏi Oliver; cô thậm chí

còn không có chút ý niệm nào về y phục phải mặc hay bạn hẹn cùng tham dự vũ

hội cho tới khi Oliver đề cập tới chuyện này.

Oliver đỏ mặt ngƣợng ngùng; trông cậu thật ðau khổ.

- Chỉ có, ƣm... ma cà rồng ðƣợc mời thôi. Ðó là luật rồi. Không một thần linh

quen thuộc loài ngƣời hay Conduit nào ðƣợc phép tới đó.

- Ôi, tớ xin lỗi, tớ không biết. - Schuyler nói - Vậy có lẽ tớ cũng không đi nữa.

Oliver nhìn ra ngoài cửa xe, lúc này tuyết đã phủ kín các nóc nhà và vỉa hè,

trông xa xa tƣởng chừng nhƣ một lớp pha lê trắng tinh khôi.

- Cậu nên ði. - Oliver nhẹ nhàng nói. - Cordelia chắc chắn sẽ muốn cậu tới đó.

Schuyler hiểu những lời của Oliver là ðúng. Giờ ðây cô là thành viên duy nhất

còn lại của nhà Van Alen ở New York. Cô phải đi để đại diện cho gia đình mình.

- Đƣợc rồi, tớ sẽ đi. Nhƣng tớ sẽ sớm rời khỏi ðó và có thể chúng ta sẽ hẹn gặp

nhau sau đó.

Oliver mỉm cƣời buồn bã.

- Chắc chắn rồiCHÝÕNG 11

Gia đình nhà Force đã thuê toàn bộ dãy phòng Tổng Thống với bốn phòng ngủ

riêng biệt tại khách sạn St. Regis. Hầu hết tất cả các dãy phòng trong khách sạn

này hiện ðều ðƣợc các gia đình Máu Xanh bao trọn gói trong ðêm nay. Từ lâu

vệc này gần nhƣ đã trở thành thông lệ, vì nó có nghĩa là chỉ cần di chuyển nhẹ

nhàng tới thang máy, ấn nút, vậy là có thể tới ðƣợc sảnh khiêu vũ mà không mất

nhiều thời gian, hõn nữa còn đảm bảo giữ cho váy áo của các quý bà, quý cô

tránh bị nhàu hay dính bụi.

Charles Force đang thắt nút ống tay áo còn lại. Ðó là một ngƣời ðàn ông cao ráo

với khuôn mặt ðiển trai, ðầy vẻ kiêu hãnh và mái tóc màu bạc. Ông mặc áo đuôi

tôm màu trắng, thắt cà-vạt trắng và ði gãng tay cũng màu trắng. Chiếc áo ðuôi

tôm của ông đƣợc may ðo cẩn thận theo kiểu truyền thống, với hai hàng khuy

trên áo và một ðƣờng viền nhung ở hai bên ống quần. Charles ðang ðứng trong

phòng khách, hai tay chắp ra phía sau, chờ vợ và con gái thay y phục. Con trai

ông, Jack, cũng ăn vận tƣõng tự và trông thật bảnh bao trong chiếc áo ðuôi tôm

ðặt may riêng cho cậu; bên trong, Jack mặc một chiếc áo sõ mi cổ bẻ thay vì

loại cổ đứng truyền thống.

Suốt ngày hôm nay Jack có vẻ im lìm. Rồi bỗng nhiên cậu ðu chân khỏi chiếc

ghế bành và ðứng dậy, nhìn thẳng vào mắt ba mình.

- Ba đã nói gì với Schuyler trƣớc khi cô ấy đi Venice?

- Vẫn còn quan tâm tới ðứa con gái nhà Van Alen à? - Charles hỏi. - Ta cứ nghĩ

sau khi cô ta buộc tội nhầm cho ta là một Máu Bạc, con sẽ không còn hứng thú

với cô ta nữa chứ.

Jack nhún vai.

- Con không quan tâm, thƣa ba. Chỉ là tò mò thôi. - Jack đáp. Sau vụ lộn xộn

xung quanh việc Dylan mất tích và Cordelia qua ðời, Charles ðã tin tƣởng và

nói cho Jack biết sự thật về thân thế của Schuyler. Tối hôm đó, Jack cũng khám

phá ra sự thật về mối quan hệ giữa cậu và em gái. Mimi chính là nửa kia của

Jack, và dù tốt hay xấu, cô cũng là ðồng minh thân cận nhất của cậu, nhƣng

đồng thời lại cũng là kẻ thù nguy hiểm nhất. Hai ngƣời là một cặp sinh ðôi theo

nhiều nghĩa chứ không phải chỉ một nhƣ thông thƣờng.

Nhƣng cho dù Jack chấp nhận tất cả những ðiều ðó thì vẫn còn một câu hỏi tồn

tại trong đầu cậu. Tại sao Ủy Ban phải giấu giếm? Có thật là Máu Bạc ðã quay

trở lại không? Ba cậu cƣ xử nhƣ thể toàn bộ chuyện này ðã đƣợc giải quyết ổn

thỏa, chỉ vì vài tháng trƣớc, các cuộc giết chóc ðột nhiên ngừng lại.

Charles thở dài.

- Ta chỉ nói với cô ta rằng chuyến đi của cô ta tới Venice là vô ích. Cô ta ðã

đƣợc tiêm vào ðầu cái ý tƣởng rằng ông ngoại của cô ta, bằng cách nào ðó, có

thể giải đáp tất cả các câu hỏi ngu ngốc của cô ta. Nhƣng ông ta sẽ không nhƣ

vậy. Ta biết Lawrence quá rõ; ông ta sẽ ðứng ngoài cuộc nhƣ ông ta vẫn thƣờng

làm. Và nhƣ vậy chuyến ði của cô ta chẳng phải là công cốc sao?!

Jack cũng đoán đƣợc phần nào sự việc. Cậu biết ba cậu không thích Lawrence

Van Alen, và qua những ký ức mới tìm lại đƣợc, Jack càng khẳng ðịnh chắc

chắn ðiều này.

- Còn câu hỏi nào nữa không? - Charles hỏi.

Jack nhìn xuống ðôi giày da sõn ðƣợc đánh bóng cho dịp đặc biệt. Cậu có thể

nhìn thấy hình ảnh trầm ngâm của chính mình phản chiếu trên bề mặt da sáng

loáng.

- Không, thƣa ba. - Jack lắc ðầu. Làm sao cậu có thể nghi ngờ ba mình chứ?

Charles Force chính là Michael Trái Tim Thuần Khiết, là Thủ lĩnh của gia tộc.

Ông là một ma cà rồng do lựa chọn chứ không phải do tội lỗi ðày ải.

- Tốt. - Charles nói, phủi phủi những xõ vải trên chiếc áo ðuôi tôm màu ðen của

Jack và chỉnh lại dáng ðứng của cậu con trai cho thẳng lƣng. - Ðây là Vũ hội

Four Hundred, nõi con sẽ ðƣợc giới thiệu chính thức trƣớc toàn cộng ðồng của

chúng ta. Ta tự hào về con.

Trinity, em yêu? Em ðã xong chƣa? - Charles gọi với vào phòng thay đồ.

Jack nhìn thấy mẹ mình, Trinity Burden Force, đi ra từ phòng thay ðồ và mỉm

cƣời âu yếm với chồng. Bà mặc một chiếc váy dạ hội dài may bằng lụa sác-mõ

màu ðỏ thẫm với chiếc cổ tim và phần lƣng ðể lộ. Ba mẹ cậu là cặp ðôi mở màn

vũ hội ðêm nay. Nhƣng Charles đã nói cho Jack biết rằng trƣớc đây, vinh dự

này vốn không thuộc về Trinity. Trên thực tế, bà có ðƣợc nó mới chỉ trong mƣời

sáu năm nay, vì Allegra Van Alen không thể đứng cạnh anh trai mình ở vị trí đó.

Ðó cũng là mƣời sáu năm gia tộc Máu Xanh thiếu vắng sự dẫn dắt của Gabrielle

Thanh Khiết.

Cùng lúc ðó, trong phòng bên cạnh, Mimi Force ðang ngồi trên chiếc ghế mạ

vàng, trên ngƣời khoác một chiếc áo choàng tắm may bằng lông Thổ Nhĩ Kỳ,

trong khi một toán các nhà tạo mẫu và thợ làm móng vây quanh cô, chãm sóc

từng xen-ti-mét cõ thể cô. Tóc cô ðƣợc chải ngƣợc ra sau thành một búi yêu

kiều, bên cạnh ðó là một trợ lý tay đang cầm chiếc máy sấy loại có công suất

cực mạnh. Phía trƣớc mặt là hai trong số những chuyên viên trang ðiểm nổi

tiếng nhất New York ðang làm nốt phần việc cuối cùng của mình: một ngƣời

thoa son môi, còn ngƣời kia thoa phấn nền quanh mặt Mimi.

Mimi vẫn ngồi trên ghế, tay cầm di ðộng trong lúc ghé miệng thổi lên những

chiếc móng tay sõn màu "Socialite" ngọc trai.

- Ôi Trời õi, ở ðây ðang tán loạn hết cả lên, xin lỗi nhé, tớ không nghe rõ. Cậu

nói mấy giờ thì nhà cậu mới tới đƣợc ðây cõ? Nhà tớ ở luôn tại khách sạn. Ừ,

trên dãy phòng tầng thƣợng. Xin lỗi, cậu chờ máy mấy giây nhé? Này anh, hey,

anh đó. - Mimi cất giọng sắc lẻm hƣớng về phía anh chàng tạo mẫu với chòm

râu dê ðang cầm máy sấy. - Suýt chút nữa anh làm tai tôi cháy xém rồi đấy. -

Cô nói đồng thời ném về phía anh ta cái nhìn hằn học. - Xin lỗi, Bliss, tớ phải

ði ðây. - Mimi gập di ðộng lại, mọi hoạt ðộng xung quanh cô ðột nhiên ngừng

hẳn.

- Xong chƣa đây? - Cô hỏi.

- Ðây, cô xem. - Một nhà tạo mẫu ðƣa cho cô tấm gƣõng.

- Polaroids!28 - Mimi ra lệnh.

28 Polaroids: máy ảnh chụp lấy ngay. Một trong những trợ lý mặc áo sõ mi ðen nhanh chóng bấm máy. Mimi kiểm tra

hình ảnh của mình trong gƣõng cũng nhƣ trên ảnh. Cô sãm soi bản thân từng li

một, cố tìm kiếm dấu vết của một lỗi nhỏ nào ðó mà không thèm quan tâm việc

ðó tốn bao nhiêu thời gian. Tóc của cô ðƣợc chải và tạo kiểu lộng lẫy, ôm lấy

khuôn mặt nhƣ thể một chiếc mũ miện bằng vàng. Da cô sáng ngời, duy chỉ có

viền phấn sậm màu quanh mí mắt càng làm nổi bật con ngƣõi màu xanh ngọc

lục bảo trong đôi mắt cô, còn môi cô nhuộm một màu hồng tƣõi mát.

- Đƣợc rồi, tôi nghĩ nhƣ vậy là ổn rồi ðấy. - Mimi cất giọng vƣõng giả, ðoạn

đuổi những ngƣời xung quanh ra ngoài chỉ bằng một cái vẫy tay mà không hề

có chút dấu hiệu nào tỏ lòng cảm õn. Mimi vốn coi ðó nhƣ là ân huệ của họ khi

đƣợc coi sóc cô, chứ không phải ngƣợc lại.

Ngay sau đó, cô hầu phòng bƣớc vào, mang theo một hộp các-tông màu trắng

kích cỡ gần bằng chiếc quan tài của một ðứa trẻ con. (Không còn gì để so sánh

sao?! >.<) Nó vừa đƣợc chuyển tới khách sạn vào phút cuối cùng. Mimi vỗ tay

khi vừa nhìn thấy nó.

- Nó đây ạ! - Cô hầu phòng sung sƣớng nói. Thật vô phúc cho cô gái, mới mấy

phút trƣớc thôi, cô vừa phải hứng chịu cõn thịnh nộ của Mimi chỉ vì vũ hội sẽ

bắt đầu trong vài giờ nữa mà váy của cô nàng vẫn chƣa đƣợc mang đến.

- Tôi thấy rồi. Tôi có phải con ngốc đâu. - Mimi nạt nộ.

Cô chạy lại phía chiếc hộp, ðặt nó lên tấm vải phủ giƣờng, rồi xé lớp giấy gói

hàng màu nâu mau lẹ nhƣ một cõn lốc xoáy. Sau khi rời khỏi showroom của

Dior, Mimi đã phàn nàn với mẹ cô về chuyện chƣa tìm đƣợc chiếc váy dạ hội

phù hợp. Ngay lập tức, Trinity ðã trấn an cô bằng một cuộc hẹn trực tiếp tại

xƣởng thiết kế của Balenciaga với nhà thiết kế trƣởng của hãng này.

Sau cuộc hội bàn kéo dài nãm giờ ðồng hồ, Mimi ðã từ chối và loại bỏ không

biết bao nhiêu mẫu váy, khiến nhà thiết kế phải xé mất mấy chục trang phác họa.

- Chính xác thì cô muốn thứ gì? - Ông ta hỏi, cõn tức giận ðã lên tới đỉnh điểm

- Cô còn khó tính hõn cả một cô dâu.

- Chính vậy. - Mimi thở hắt ra. Cô nhắm mắt lại và nhìn thấy hình ảnh của

chính mình ðang ði bên cạnh Jack trƣớc lễ "giới hạn máu" ðầu tiên của họ. Lúc

ðó, Mimi mặc một chiếc váy màu trắng giản ðõn, trông gần nhƣ chỉ là một tấm

vải bình thƣờng, hay giống nhƣ một tấm áo choàng. Jack và cô, tay trong tay,

ðang ði chân trần dọc các con phố của Venice ðể ðến nõi cử hành lễ.

- Màu trắng, chiếc váy phải màu trắng. - Mimi thì thầm. - Trắng nhƣ tuyết.

Trong suốt nhƣ những giọt nƣớc mắt.

Giờ thì nó đã ở đây, náu mình trong những lớp giấy lụa bọc ngoài. Chiếc váy

trong mõ của cô.

Nó đƣợc làm từ loại lụa sa-tanh trắng mỏng nhất, và khi Mimi cầm chiếc váy

lên, cô có cảm giác nó nhƣ một lời thì thầm mõn trớn giữa các ngón tay cô. Thật

mỏng manh làm sao. Ðúng nhƣ yêu cầu của Mimi, chiếc váy cực kỳ ðõn giản.

Chiếc móc áo lúc này trông nhƣ chẳng có gì ngoài một mảnh vải trắng ðõn

thuần treo trên ðó. Hai bên hông váy ðính sợi dây bạc khá nặng; ngoài ra còn có

một cái lỗ khóa khá tạo bạo nhƣng rất khêu gợi ngay chỗ phần xƣõng chậu. Ðó

là sự nhƣợng bộ duy nhất ðối với phong cách hiện ðại mà Mimi ðã cho phép

nhà thiết kế thêm vào. Mimi lắc mình khỏi chiếc áo choàng tắm, để nó trôi tuột

xuống sàn nhà. Cô ðứng giữa phòng, hoàn toàn khỏa thân khi cô hầu phòng giữ

cái váy ở trên cao. Mimi xỏ tay chân vào trong váy, cảm thấy sự nhẹ nhàng, thanh thoát của chiếc váy - những thớ vải mỏng nhƣ tõ dập dờn trên da cô nhƣ

thể làn sƣõng mờ giãng trên thân hình mảnh mai của cô.

- Lui đi. - Cô cất tiếng cộc lốc với ngƣời hầu phòng. Cô gái kia vẫn còn run lẩy

bẩy vì sợ hãi, suýt chút nữa vấp phải chiếc áo choàng tắm khi vội vã lui ra cửa.

Mimi buộc sợi dây bạc xung quanh eo, đoạn sãm soi làn da rám nắng lộ ra qua

chỗ lỗ khóa để hở. Khi đứng trƣớc ánh sáng, cả thân hình cô sẽ tạo thành một

bóng hình tối sẫm hoàn toàn, làm nổi bật mọi đƣờng cong của cõ thể cô, từ cổ

xuống ngực, từ eo xuống hông rồi xuống ðôi chân thon dài. Trông cô rõ ràng

mặc váy mà lại nhƣ không mặc. Kín ðáo mà lại hở hang.

Mimi quyết định không mặc đồ lót.

Sẽ không một ai có thể nhìn cô mà không thốt lên tiếng kêu trầm trồ kinh ngạc.

- Wow.

Cô mỉm cƣời. Cũng không cần đợi quá lâu phải không?!

Cô quay lại phía tiếng kêu vừa thốt ra và ðối diện với anh trai mình.

Jack đang đứng trƣớc ngƣỡng cửa phòng cô, một tay vẫn còn ðặt trên quả ðấm

cửa. Charles cử cậu tới đón em gái. Mái tóc ánh kim đẹp đẽ của cậu chải ngƣợc

ra sau, trên khuôn mặt cậu lộ rõ cái nhìn dịu dàng.

"Trông em..." - Cậu truyền tín hiệu tới cô.

"Em biết..."

Họ lại quay trở lại thói quen cũ: nói chuyện mà không cần mở miệng. Jack ðể

em gái xâm nhập vào từng suy nghĩ, ký ức của cậu.

Ánh mắt Jack đờ đẫn. Mimi có thể nhìn thấy cái mà cậu đang nhìn trong đôi mắt

kia, và cô biết Jack cũng ðang nhớ lại ðêm ðầu tiên ðó. Cô có thể nhìn thấy bầu

trời Venice không một gợn mây, và bƣớc chân họ nhẹ nhàng, mau lẹ trên cầu.

Cô có thể nhìn thấy chính mình qua ánh mắt cậu. Trẻ hõn lúc này hàng thế kỷ.

Trông họ mới non trẻ làm sao trƣớc bình minh của thế giới, trƣớc khi các cuộc

chiến tranh bắt ðầu và trƣớc khi ðêm tối tràn ðến bao phủ lấy họ.

"Sao em tìm đƣợc... có phải vẫn chiếc váy đó không?"

"Không, ðáng tiếc là chiếc váy cũ đã trôi theo dòng sông Tiber mất rồi... Lụa

không bền lâu đến thế đƣợc. Đã một nghìn nãm rồi mà, anh yêu. Ðây là chiếc

váy mới, cho hôn lễ mới.

"Nhƣng không phải lúc này." - Jack bật lại ngay.

Hình ảnh cả hai ðang cùng chia sẽ bỗng biến mất. Mimi bực mình vì bị kéo ra

khỏi ký ức dễ chịu.

- Chƣa, chƣa phải lúc này. - Mimi ðồng ý.

Jack và Mimi sẽ không giới hạn máu với nhau chính thức cho tới sinh nhật lần

thứ hai mốt của cả hai. Theo luật lệ của ma cà rồng, lễ giới hạn máu - một kiểu

hôn lễ thần thánh giữa ma cà rồng với nhau - về bản chất chính là một lời tuyên

thệ vĩnh cửu. Tuy nhiên nó sẽ không ðƣợc tiến hành cho tới khi họ ðủ tuổi. Cứ

mỗi lần xuất hiện trong chu kỳ mới, họ lại phải làm lại lễ giới hạn; mặc dù ðây

là lần ðầu tiên họ ðƣợc sinh ra với tƣ cách là một cặp sinh ðôi trong cùng một gia ðình, khiến cho tình hình rối hõn ðôi chút vì những ðiều luật rắc rối của loài

ngƣời. Nhƣng chẳng hề gì. Bản thân họ vốn là một cặp ma cà rồng sinh đôi, tuy

rằng ðối với ma cà rồng, ðiều này mang một ý nghĩa khác so với loài ngƣời. Nó

có nghĩa là tâm hồn họ ðã đƣợc gắn chặt với nhau từ khi còn ở Thiên Ðàng, nõi

họ đã tuyên thệ tình yêu của mình.

Lễ giới hạn không thể thực hiện cho tới khi cả hai lấy lại đƣợc toàn bộ ký ức và

hoàn toàn làm chủ ðƣợc sức mạnh của mình. Các cặp sinh ðôi ma cà rồng mất

nhiều chu kỳ để tìm kiếm nhau, và các cặp đƣợc giới hạn với nhau phải đến tuổi

mới có thể nhận ra hình dạng mới của ngƣời kia, vì cứ sau một chu kỳ, Máu

Xanh lại thay ðổi vỏ bề ngoài mới. Theo những gì Mimi biết, xuyên suốt chiều

dài lịch sử của gia tộc ma cà rồng, chỉ có một cặp ðôi duy nhất ðã phá vỡ lời thề

của mình. Gabrielle với thân phận là Allegra Van Alen đã chối bỏ Michael với

thân phận là Charles Van Alen Force trong chu kỳ này. Allegra ðã làm đám

cƣới - LÀM ÐÁM CƢỚI29 - trong nhà thờ, một thánh ðƣờng linh thiêng, và ðã

cam kết thề nguyền với một ngƣời trần mắt thịt! Chính xác là với thần linh quen

thuộc loài ngƣời của bà ấy! Và xem chuyện gì đã xảy ra... Gabrielle đã mắc kẹt

trong hôn mê, mãi mãi chịu cảnh dở sống dở chết. Hay ðúng hõn là vĩnh viễn bị

giam hãm trong sự câm lặng.

- Nhƣng sao phải đợi chứ? - Mimi hỏi. - Em đã nhận ra anh là ai kể từ khi em

bắt đầu lấy lại ký ức. Còn anh giờ cũng đã nhận ra em là ai rồi.

Mimi ám chỉ tới buổi tối trong thƣ phòng của Charles Force khi mà cuối cùng

Jack cũng lấy lại đƣợc một phần ký ức của mình, cho phép cậu nhìn ra chân

29 Trong bản gốc, tác giả dùng từ bonding khi nói về hôn nhân (hoặc giới hạn máu nhƣ bản

dịch tập 1 dùng) của ma cà rồng và marry ðể nói về hôn nhân của ngƣời thƣờng (thể hiện tính

tầm thƣờng hõn so với bonding) nên Yu dịch tạm là "làm ðám cƣới" tƣớng ngƣời luôn kề vai sát cánh bên cậu. Họ là hai mà nhƣ một. Cô thuộc về

cậu. Mãi mãi.

- Anh biết là em yêu anh mà. - Mimi nói - Anh khiến em phát ðiên lên ðƣợc,

nhƣng Chúa cứu vớt linh hồn em, Jack, em thực sự yêu anh.

Jack cúi ðầu, ðể sống mũi chôn vùi trong mái tóc của Mimi. Có mùi của cây

kim ngân và hoa nhài. Jack hít một hõi thật sâu.

- Anh cũng yêu em. - Cậu ðáp lại.

- Ôi lạy Chúa tôi. - Trinity thốt lên kinh ngạc.

Mimi và Jack từ từ tách nhau ra khỏi cái ôm và quay lại nhìn mẹ họ lúc này

đang đứng ở ngƣỡng cửa ra vào.

- Mimi, con mới chỉ mƣời sáu tuổi. Và chắc chắn ðó không phải là chiếc váy mà

một cô gái mƣời sáu tuổi nên mặc ðâu. - Trinity lên án, giọng bà run rẩy.

- Liệu con có nên nhắc cho mẹ nhớ con còn nhiều tuổi hõn mẹ hàng thế kỷ

không, thƣa Mẹ? - Mimi khụt khịt tỏ vẻ chế giễu. Cô đang bƣớc sang tuổi

trƣởng thành, những ký ức ðang tràn về ngày một rõ nét hõn. Và nó khiến Mimi

bắt đầu thấy chán ngán cái trò chõi gia-ðình-hạt-nhân-kiểu-Máu-Ðỏ này ðến tận

cổ rồi.

- Charles. - Trinity nói. - Kiểm soát các con anh đi.

- Mimi, trông con tuyệt quá. - Charles nói, hôn lên trán cô con gái. - Ði thôi

nào.

Trinity gầm gừ.

- Lại ðây nào, em yêu, ðến giờ vũ hội rồi. - Charles cất giọng dịu dàng, ðoạn

nắm lấy tay vợ và dẫn bà ra khỏi phòng.

- Chúng ta cũng đi chứ? - Jack hỏi, chìa tay cậu ra.

- Vâng, đi thôi. - Mimi mỉm cƣời.

Cặp sinh ðôi nhà Force sánh vai nhau bƣớc ra khỏi phòng, tay khoác tay, tiến

tới buổi vũ hội lớn nhất của nãm.CHÝÕNG 12

Cách ðó vài tòa nhà, trong khu cãn hộ ba tầng của nhà Llewellyn, với cái tên

thân mật "Penthouse des Rêves" ðƣợc đặt dựa theo vẻ lộng lẫy của nó, nếu

không muốn nói là lộng lẫy tới ðộ...kinh hoàng và khoe mẽ, Forsyth Llewellyn

đang đứng trƣớc gian phòng bí mật phía sau tủ giày. Ông nhanh nhẹn xoay nắm

đấm cửa hai vòng sang phải, thêm ba vòng sang trái, rồi lùi về phía sau khi cánh

cửa làm bằng thép không gỉ dày nãm inch từ từ mở ra.

- Baaaa, lại chuyện gì nữa đây? - Bliss hỏi trong lúc đứng cạnh ba mình. - Con

đã hẹn gặp Jaime tại sảnh khách sạn vào lúc tám giờ.

Trong tay cô là Tiểu thƣ Ellie, một con chó giống Chihuhua. Đối với Bliss, con

chó giống nhƣ một ngƣời bạn thân thiết, gần gũi. Cái tên Tiểu thƣ Ellie đƣợc

Bliss đặt theo tên nhân vật yêu thích của cô, và ðƣõng nhiên ngƣời đó sống ở

Dallas rồi.

Đúng nhƣ đã hứa, Mimi đã sắp đặt để Bliss hẹn hò với Jaime Kip trong buổi vũ

hội. Ðó hoàn toàn là một cuộc hẹn mang tính bạn bè. Jaime không hề có chút

hứng thú nào với Bliss và ngƣợc lại. Trên thực tế, chính Jaime ðã đề nghị họ

hẹn gặp ở sảnh khách sạn St. Regis vì cả hai ðều ðến tham dự vũ hội cùng gia

đình. Bliss có ấn tƣợng rõ rệt rằng Jaime hẹn hò với cô chỉ vì một lý do duy

nhất là ðể Mimi buông tha cho cậu ta. Nhiều lúc, Mimi có thể trở nên khá áp ðặt

nếu cô ấy thực sự muốn tỏ ra nhƣ vậy. Bliss khoanh tay trƣớc ngực và nhìn

quanh phòng thay ðồ khổng lồ của bà mẹ kế. Cãn phòng này chƣa bao giờ thất

bại trong việc gây ấn tƣợng với những vị khách khi họ đƣợc mời đi tham quan

nhà. "Cãn buồng" có diện tích dễ lên tới gần 190m2

. Trong phòng có một bồn tắm chìm so với mặt sàn và đƣợc lát bằng đá hoa cƣõng travectin quanh bồn,

ngoài ra nó còn đƣợc trang bị thêm những chiếc vòi hoa sen xung quanh, kiến

bạn có cảm giác nhƣ ðang tắm giữa một ðài phun nƣớc. Căn phòng kéo dài

tƣởng chừng nhƣ vô tận đƣợc ốp toàn gƣõng là gƣõng, hầu ngụy trang một

chuỗi những gian nhỏ chứa cả ngàn bộ quần áo hàng hiệu, tất cả đều đƣợc phân

loại và sắp xếp bởi trợ lý riêng của BobiAnne. Quá tệ là phần nhiều trong số đó,

theo đánh giá của Bliss, đều tầm thƣờng và thiếu thẩm mỹ. BobiAnne chƣa bao

giờ gặp một chiếc áo pông-sô trang trí lông cò già và in hình hoa báo nào mà bà

không thích.

Lúc này, BobiAnne ðang bận bịu trong toa-lét30 riêng của mình, và Bliss có thể

nghe thấy tiếng cƣời inh tai nhức óc vọng lại tới phòng thay ðồ khi bà buôn dƣa

lê bán dƣa chuột với hai nhà tạo mẫu của mình.

Bliss nhìn vào hình ảnh mình phản chiếu trong những chiếc gƣõng kéo dài ðến

vô tận. Cuối cùng cô vẫn quyết ðịnh mặc chiếc váy Dior xanh sẫm. Ba cô và cả

mẹ kế ðõn giản là không thể thốt lên lời nào khi nhìn thấy cô trong chiếc váy

mới.

- Ôi con yêu, trông con ðẹp quá. - BobiAnne thì thầm, ôm cô con gái riêng của

chồng trong hai cánh tay xƣõng xẩu có vẻ nhƣ càng lúc càng dài ra do tập quá

nhiều bài tập Pilates31. Bliss có cảm giác nhƣ thể cô bị ôm bởi một bộ xƣõng

khô vậy. BobiAnne lúc nào cũng ca ngợi vẻ ðẹp của Bliss lên tận trời xanh,

trong khi lại miệt thị vẻ ngoài giản dị của cô con gái ruột. Jordan mới mƣời một

tuổi, quá nhỏ để đƣợc mời tham dự vũ hội; cô bé đã nhòm vào phòng lúc Bliss

thay ðồ và ðƣa ra lời nhận xét của riêng mình.

30 ở ðây không phải là toa-lét theo nghĩa nhà vệ sinh thông thƣờng mà là tổ hợp phòng tắm +

thay đồ + trang điểm nhƣng Bliss đã nhại lại kiểu dùng tiếng Pháp của BobiAnne (toilette)

nên Yu ðể nguyên phiên âm.

31 Pilates: tên hệ thống những bài tập thể dục tãng cƣờng sức khỏe.

- Trông chị nhƣ một ả lẳng lõ ý.

Bliss ném cái gối vào ðứa em gái lúc ðó ðã kịp rút lui. Sau khi cô trình diện ba

mẹ chiếc váy, ba cô đã đƣa cô đến chỗ cái két sắt. Ông mở mấy cái ngăn kéo

bọc da lộn đƣợc ðặt làm riêng theo ðúng chỉ thị của BobiAnne. Bliss có thể nhìn

thấy những món ðồ trang sức của bà mẹ kế, nào là những chiếc vƣõng miện kim

cƣõng sáng lấp lánh, nào là vòng cổ, nhẫn và cả những sợi dây chuyền đeo tay.

Cứ nhƣ thể đang ở trong tiệm Harry Winston vậy. Thực tế, ngƣời ta đồn rằng

khi gia đình nhà Llewellyn chuyển từ Texas ðến Manhattan, phu nhân ngài

thƣợng nghị sĩ đã dọn sạch những cái hầm của tất cả các nhà buồn kim cƣõng

lớn nhất vùng ðể ãn mừng sự thãng tiến của gia đình họ trong xã hội thƣợng lƣu

New York.

Ba của Bliss lôi ra một chiếc hộp nhung ðen dài từ ngãn kéo cuối cùng.

- Cái này là của mẹ con. - Ông nói, ðoạn chỉ cho cô viên ngọc lục bảo to ðùng,

cắt thành hình vuông, vát bốn góc, đƣợc gắn vào một sợi dây chuyền bạch kim.

- Ý ba là mẹ đẻ của con ấy. Không phải BobiAnne đâu.

Bliss không thốt ra đƣợc lời nào.

- Tối nay, ba muốn con ðeo nó. Ðây là thời khắc quan trọng ðối với chúng ta,

đối với cả gia đình ta. Con sẽ tôn vinh ký ức về mẹ con bằng sợi dây chuyền

này. - Ngài thƣợng nghị sĩ tiếp tục nói trong lúc vòng sợi dây quanh cổ con gái.

Bliss biết rất ít về mẹ đẻ của mình, chỉ biết rằng bà sớm thoát khỏi chu kỳ này vì

một lý do nào đó cô không rõ. Ba cô chƣa bao giờ đề cập tới chuyện này, và

suốt từ thời thõ ấu ðến giờ, Bliss hiểu rằng mẹ cô là một ðề tài gây nhiều ðau ðớn cho ông. Ngay cả kỷ vật về bà cũng chẳng có nhiều ngoài một vài tấm ảnh

còn sót lại nhƣng chúng đều đã mờ và bong tróc hết cả, vì vậy Bliss thậm chí

còn không biết hình dáng mẹ mình ra sao.

Mỗi khi Bliss hỏi về mẹ đẻ của mình, ba cô chỉ nói rằng "hãy tập trung vào

phần ký ức liên quan" và rằng cô sẽ gặp lại mẹ nếu thời gian cho phép.

Con chó trong cánh tay Bliss bỗng nhiên nổi khùng. Nó sủa lên từng hồi và gầm

gừ khi trông thấy viên ðá.

- Tiểu thƣ Ellie! Dừng lại ngay!

- Yên nào! - Thƣợng nghị sĩ ra lệnh. Con chó ngay lập tức nhảy ra khỏi vòng tay

của Bliss và chuồn thẳng ra cửa.

- Ba làm nó sợ rồi ðấy.

Bliss nhìn xuống viên ngọc lục bảo, lúc này ðang nép bên khe hở trên ngực cô.

Nó khá nặng. Cô không rõ mình có thích nó hay không. No to quá. Mẹ cô thực

sự đã đeo nó sao?

- Viên ðá này ðƣợc gọi là "Bông hồng của Lucifer", hay "Sự hủy diệt của

Lucifer" - Ngài thƣợng nghị sĩ giải thích với một nụ cƣời. - Con đã nghe câu

chuyện về nó chƣa?

Bliss lắc đầu.

- Chuyện kể rằng khi Lucifer bị ðuổi khỏi Thiên Ðàng, một viên ngọc ðã rõi

khỏi vƣõng miện của ông ta. Viên ngọc ðó ðƣợc gọi là "Bông hồng của Lucifer - Ngôi sao Mai của Trái đất32". Còn trong một số câu chuyện khác, nó lại đƣợc

gọi là Chén Thánh.

Bliss lặng im ghi nhận thông tin vừa nghe đƣợc, vì cô không biết phải nghĩ thế

nào về chuyện này. Mẹ của cô sở hữu một viên ngọc liên quan tới bọn Máu Bạc

ƣ?

- Tất nhiên là... - Thƣợng nghị sĩ vừa lắc ðầu vừa nói - ...ðó chỉ là chuyện kể

thôi.

Đúng lúc đó, BobiAnne bƣớc vào phòng. Bà mặc một cái váy hiệu Versace

trông thật đáng kinh hãi. Cái váy trông nhƣ thể một tấm ván lợp làm từ nhựa

vinyl pha kim loại đƣợc phun sõn.

- Trông em thế nào? - bà hỏi chồng bằng một giọng ngọt ngào. Bliss và ba cô

trao đổi một cái liếc nhanh.

32 Xin giải thích một chút về tên gọi của Quỷ Satan: Lucifer là tên ðầu tiên của Quỷ Satan,

ðây là một từ trong tiếng Latin có nghĩa ý nghĩa rất đẹp, nghĩa là "mang theo ánh sáng", ðƣợc

nhắc ðến lần ðầu tiên trong Kinh Isaiah (ghi những lời tiên tri và rãn dạy của nhà tiên tri

ngƣời Do Thái Isaiah) ðể ám chỉ một thiên thần gãy cánh, rõi khỏi Thiên Ðàng, khi rõi xuống

trái đất vẫn còn mang theo ánh sáng của nhà Trời, vì vậy gọi là "lucifer" (lúc này lucifer chƣa

phải danh từ riêng). Sau này khi Kinh Thánh ðƣợc dịch ra tiếng Anh, các dịch giả dùng từ

The Morning Star (Sao Mai) ðể dùng thay từ lucifer trong tiếng Latin (vì sao Mai/ sao Kim là

ngôi sao ðầu tiên xuất hiện ở phía Ðông lúc mặt trời mọc, mang theo tia sáng ðầu tiên trong

ngày). Sau Kinh Isaiah, có nhiều truyền thuyết nói về Quỷ dữ và trong một số câu chuyện

ngƣời ta giả tƣởng rằng Quỷ dữ thực chất là một thiên thần gãy cánh bị Chúa ðuổi khỏi Thiên

Ðàng, vì vậy Lucifer dần biến thành danh từ riêng chỉ Quỷ dữ, cùng với tên The Morning

Star. Ngoài ra Quỷ Satan còn đƣợc Kinh Thánh nhắc tới bằng rất nhiều tên khác nhau, trong

ðó có rất nhiều tên có từ "Ánh sáng" thay vì từ "bóng tối" nhƣ nhiều ngƣời vẫn nghĩ, chỉ trừ 2

tên duy nhất là "Kẻ thống trị Bóng tối của thế gian" và "Sức mạnh Bóng tối". Tên Satan là

tên mãi về sau mới đƣợc nhắc đến lần đầu trong Kinh Tân Ƣớc. Bộ Kinh này không còn dùng

tên Lucifer nữa (có lẽ vì ý nghĩa khá hay của từ này). Tuy nhiên, giờ đây trong dân gian nhiều

ngƣời vẫn chuộng dùng tên Lucifer. - Ðẹp lắm, em yêu. - Ba cô nói với nụ cƣời đông cứng. - Chúng ta đi thôi nhỉ?

Xe đang chờ.

Trƣớc cửa khách sạn, một nhóm ðông ðảo thợ sãn ảnh ðang tụ tập, và cả một

nhóm càng lúc càng ðông những ngƣời đi đƣờng tò mò bị giữ lại bởi đội bảo vệ

và một ðội NYPD (Sở Cảnh sát New York). Mỗi khi có chiếc Town Car33 màu

ðen nào ðỗ lại trƣớc lối ra vào của khách sạn, những ánh ðèn flash lại ðƣợc dịp

lóe sáng tới tấp cùng tiếng ngƣời nhốn nháo và tiếng bấm máy tanh tách.

- Ta ðến rồi ðây. - BobiAnne reo lên hoan hỉ khi bƣớc ra khỏi xe và vịn vào

cánh tay chồng.

Nhƣng các tay paparazzi chỉ hứng thú với mỗi Bliss.

- Bliss! Bên này! Bliss! Một kiểu cho tôi nào! Bliss, hƣớng này!

- Váy của cô mang nhãn hiệu nào?

- Ai thiết kế chiếc váy này?

Một vài tay phó nháy và phóng viên còn tỏ ra lịch sự hỏi han vợ chồng Thƣợng

nghị sĩ, ðề nghị ông bà phát biểu cảm tƣởng về buổi vũ hội, nhƣng rõ ràng Bliss

vẫn là ngƣời thu hút nhiều sự chú ý nhất.

Từ vỉa hè ðến cửa ra vào của khách sạn chỉ có mƣời bƣớc chân, nhƣng Bliss

mất tới gần nửa giờ đồng hồ mới vào ðƣợc trong tiền sảnh.

33 Town Car: loại xe hõi có thân kiểu cổ, bên trong có vách ngãn giữa khoang trƣớc cho tài

xế và khoang sau.

- Náo nhiệt thật. - Bliss thốt lên, trông có vẻ hài lòng khi cuối cùng cũng vào

đƣợc bên trong tiền sảnh và thấy ngay bạn hẹn của mình đang đứng chờ ở phía

bàn lễ tân, trông có vẻ mất kiên nhẫn lắm rồi.

Toàn bộ Phòng Khiêu vũ của St. Regis đã biến thành thế giới thần tiên lung linh

trong tiết mùa ðông: những chùm ðèn pha lê treo trên những sợi dây mềm gắn

thạch anh, những bông hồng Vẻ Ðẹp Mỹ rạng rỡ nở khắp mọi nõi: chúng ðƣợc

dùng ðể trang trí những chùm chúc ðài trên không trung hoặc ðƣợc cắm trong

những bình lớn cao tới hõn 1m ðặt ngay giữa bàn (nặng tới nỗi mà chân bàn

phải đƣợc gia cố lại) và ðƣõng nhiên không thể quên vòng hoa hồng khổng lồ ở

mỗi lối vào. Một chiếc thảm trắng nhƣ tuyết trải trên nền ðá hoa cƣõng dẫn từ

phòng lễ tân phía trƣớc vào trong phòng khiêu vũ.

- Thƣợng nghĩ sĩ Forsyth Llewellyn và phu nhân. - Một tiếng thông báo xƣớng

lên khi nhà chính khách cùng vợ xuất hiện ở ðầu cầu thang. Một chùm ánh sáng

chiếu vào họ và các nhạc công dạo một hồi trống trang trọng.

- Ngài James Andrews Kip và Cô Bliss Llewellyn.

Cả bốn ngƣời cùng chậm tiến ra giữa sảnh khiêu vũ.

Hai dàn nhạc giao hƣởng lớn ngồi đối diện nhau ở hai đầu căn phòng, ðang chõi

một bản van-xõ nhẹ nhàng trong lúc các ma cà rồng Máu Xanh ði qua ði lại

trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Cánh ðàn ông hào nhoáng và quyến rũ trong

những chiếc áo đuôi tôm, còn các bà các cô với dáng vẻ siêu mảnh và kiểu cách

không thể hõn ðƣợc nữa trong những chiếc váy dạ hội. Ðúng là một cảnh quan

huyền diệu. Ủy Ban thực sự đã nỗ lực hết mình cho buổi tối hôm nay. Toàn bộ phòng khiêu vũ nhuốm một vẻ rực rỡ, sáng chói ðến lóa mắt: từ những chùm

ðèn pha lê cổ sáng lấp lánh ðến sàn nhà lát ðá bóng lộn.

Jaime đƣa Bliss tới bàn của cô, chào tạm biệt và nhanh chóng biến mất trong

suốt phần còn lại của buổi tối. Thế cũng là quá ðủ rồi. Bliss tìm thấy Mimi đang

ðứng cạnh ba mẹ cô chỗ hàng ngƣời đón tiếp.

- Wow, xem kìa! - Mimi thốt lên, ngay lập tức chuyển cái nhìn chãm chú vào

sợi dây chuyền trên cổ Bliss. - Ðúng là ðỉnh của ðỉnh!

- Là của mẹ mình đấy. - Bliss giải thích. Cô kể cho Mimi nghe truyền thuyết về

viên ngọc "Sự hủy diệt của Lucifer".

Mimi nâng viên ngọc trên tay, vuốt ve mặt ðá lạnh bãng. Khi chạm vào nó, cô

bỗng bị đƣa ngƣợc thời gian về nõi xảy ra trận chiến cuối cùng, những hình ảnh

về cái ngày ðen tối ðó tràn về trong óc cô cùng với tiếng kèn hiệu vãng vẳng từ

xa, Michael cùng thanh gƣõm rực lửa, sự hủy diệt, và rồi lạnh nhƣ băng. Cái

lạnh băng giá... đánh thức dòng máu bất tử trên cõi trần thế cùng với khao khát

uống máu.

- Ồ. - Mắt Mimi ðờ ðẫn, tay vẫn giữ viên ðá. Và rồi cô bỗng thả rõi nó xuống

nhƣ thể nó ðốt cháy da thịt cô. Bliss ngạc nhiên. Cô biết có ðiều gì đó đang xảy

ra với Mimi, hình ảnh quá khứ nhá lên, ký ức tràn về khi Mimi chạm vào viên

ngọc. Nhƣng tới khi Bliss chạm vào nó thì chẳng có điều gì xảy ra cả. Chỉ là

một viên ngọc lục bảo vô tri vô giác. "Sự hủy diệt của Lucifer". Cái tên khiến

cô rùng mình.

- Nó ðúng là "Trái tim của Ðại dƣõng"34 ðấy. - Mimi ðùa - Hãy hứa với tớ là

cậu sẽ không ném nó khỏi boong tàu Titanic ðấy nhé.

Bliss cố cƣời. Viên ðá 55 cara vẫn nặng trĩu trên da thịt cô.

Bông hồng của Lucifer. Sự hủy diệt của Lucifer. Hoàng tử Máu Bạc. Tài sản

quý giá nhất của ông ta đang ở trên cổ cô nhƣ một cái thòng lọng. Bliss rùng

mình. Một phần trong cô muốn giựt phãng sợi dây khỏi cổ và ném nó ði càng xa

càng tốt.

34 Trái tim của Đại dƣõng: sợi dây chuyền giả tƣởng xuất hiện trong phim Titanic (1997),

dựa theo hình mẫu sợi dây chuyền Hope Diamond nổi tiếng. CHÝÕNG 13

Dinh thự Van Alen nằm tại góc đƣờng 101 và Riverside từng có thời là một

trong những dinh thự bề thế và nguy nga nhất ở New York. Không biết bao

nhiêu thế hệ của gia tộc này ðã từng phục vụ các đời tổng thống, thống đốc, các

vị quan chức cấp cao ngoại quốc, những ngƣời đoạt giải Nobel cũng nhƣ những

nhân vật gạo cội của làng ðiện ảnh Hollywood, và thi thoảng còn có những nghệ

sĩ bohemien, những tiểu thuyết gia nổi bật của tháng. Thế nhƣng giờ thì nó chỉ

còn là một cái bóng của quá khứ: những gờ tƣờng sứt mẻ, một bên mặt tiền của

ngôi nhà nham nhở hình vẽ graffti, mái nhà thậm chí có chỗ bị dột và tƣờng thì

đầy những vết nứt nẻ. Rõ ràng là, sau bao nhiêu nãm tháng, nhà Van Alen

không còn đủ sức duy trì và bảo dƣỡng ngôi nhà ðƣợc nhƣ xƣa nữa.

Schuyler kéo lê chiếc vali hành lý lên bậc thềm và nhấn chuông cửa. Hattie,

ngƣời hầu trung thành của bà ngoại cô, ra mở cửa cho cô vào.

Phòng khách tối và phủ vải y nhƣ lúc Schuyler rời đi. Trong nhiều năm qua,

Schuyler và Cordelia chỉ sống quanh quẩn trong khoảng diện tích một phần tƣ

ngôi nhà, bao gồm cãn bếp rộng lớn, phòng ãn và phòng ngủ của hai ngƣời.

Những căn phòng khác ðều bị khóa và chẳng bao giờ đƣợc sử dụng. Schuyler

hiểu rằng ðó là vì gia đình cô lúc này đã rõi vào cảnh cùng cực, cần tiết kiệm

chi tiêu. Hầu hết ðồ ðạc trong nhà ðƣợc che phủ dƣới những tấm vải bạt, cửa sổ

thì luôn kéo rèm, và toàn bộ các chái nhà đều không đƣợc sử dụng tới.

Có lẽ bởi vậy mà cả ngôi nhà trông có vẻ gì ðó giống với một bảo tàng cũ kỹ,

ẩm mốc; bên trong chứa ðầy những ðồ tạo tác cổ kính và những tác phẩm nghệ thuật ðắt tiền ðƣợc giấu kín trong các phòng hoặc đƣợc giữ trong những tủ có

khóa.

Schuyler ði lên phòng mình, nõi Xinh Ðẹp ðón chào cô với một tiếng sủa vui

mừng vang dội; và chỉ tới lúc ðó Schuyler mới có cảm giác cô ðã thực sự về nhà.

Bây giờ, vấn ðề duy nhất là cô sẽ phải mặc gì trong vũ hội tối nay. Thiệp mời đã

ghi rõ "White Tie", cái mà theo Schuyler hiểu là những chiếc váy dài sang trọng

dành cho phụ nữ. Cô lờ mờ nhớ lại Cordelia ðã chuẩn bị thế nào cho Vũ hội

Four Hundred những năm trƣớc ðó, với những chiếc váy dài hiệu Oscar de la

Renta và những ðôi gãng opera dài tới tận khuỷu tay. Có lẽ cô có thể tìm thấy

thứ gì đó trong tủ đồ của Cordelia.

Schuyler mau chóng sang phòng ngủ của bà ngoại. Cô đã không vào đây kể từ

sau buổi tối kinh hoàng Cordelia bị tấn công. Schuyler sợ phải bƣớc chân vào

căn phòng này, sợ phải nhớ lại cảnh cô tìm thấy bà ngoại mình nằm trong vũng

máu. Nhƣng rồi cô tự an ủi bản thân với ý niệm rằng ít ra Cordelia cũng vẫn còn

giữ đƣợc linh hồn sau cuộc tấn công và nhƣ vậy Schuyler có thể mang chỗ máu

còn lại của bà tới trung tâm y tế. Họ sẽ giữ máu của bà ở ðó cho tới chu kỳ tiếp

theo. Một ngày nào ðó, bà ngoại cô sẽ trở lại. Bà không chết. Bà ðã không bị

"hút" bởi Máu Bạc.

- Cô tìm gì vậy, cô Schuyler? - Hattie hỏi, thò ðầu vào trong phòng và thấy

Schuyler đang đứng chống nạnh trƣớc tủ ðồ của bà ngoại cô bé.

- Tôi cần một chiếc váy, Hattie ạ. Cho buổi dạ vũ tối nay.

- Phu nhân Cordelia có rất nhiều váy.

- Vâng. - Schuyler nhíu mày, lật qua lật lại những cái móc áo và xem xét từng

chiếc váy treo trên ðó. Chúng ðều lỗi mốt cả rồi: những bộ váy với những ống

tay bồng choán hết cả cẳng tay. Một số thậm chí có dáng dấp của thời trang thập

niên 80, từ thời Tổng thống Reagan còn nắm quyền, với những miếng đệm vai

có thể sánh với những miếng ðệm vai trên những bộ quần áo hiệu Nolan Miller

mà Alexis Carrington từng mặc trong phim Dynasty35. - Nhƣng tôi không nghĩ

mấy bộ váy này còn mặc đƣợc.

- Cô Allegra cũng có nhiều váy lắm. - Hattie nói.

- Mẹ tôi á? Váy của mẹ tôi vẫn còn ở ðây à?

- Trong phòng của cô ấy, trên tầng ba.

Mẹ Schuyler cũng lớn lên trong ngôi nhà này, và Schuyler ðã từng hõn một lần

ƣớc rằng mẹ cô có ở đây để giúp cô giải quyết những vấn đề nan giải hiện thời.

Hattie dẫn cô lên tầng ba, ði dọc hành lang tới cãn phòng nằm ở góc cuối cùng.

Tim Schuyler ðập lên từng hồi vừa háo hức lại vừa nôn nao.

- Cô Allegra là nỗi xấu hổ của gia ðình này. - Hattie nói khi mở cửa phòng. -

Căn phòng vẫn ðể nguyên nhƣ hồi cô ấy mƣời tám tuổi. Trƣớc khi cô ấy bỏ trốn

khỏi nhà ðể kết hôn với ba cô.

Căn phòng vẫn sạch sẽ nhƣ mới. Schuyler bị sốc khi không tìm thấy dấu hiệu

của những tấm mạng nhện ở góc phòng, hay một lớp bụi nào vƣõng trên ðồ ðạc

35 Dynasty: một series phim truyền hình phát sóng trên ðài ABC (Mỹ) vào thập niên 80.

Trong đó nhân vật Alexis Carrington đã diện rất nhiều bộ quần áo với phong cách độc đáo, về

sau đƣợc bình chọn vào top 100 nhân vật có ảnh hƣởng tới ngành thời trang. trong phòng. Cô vốn trông đợi mình sẽ bƣớc vào một hầm mộ hay một lăng tẩm

nào ðó, nhƣng thực tế ðây lại là một cãn phòng sáng sủa, vui tƣõi với những

tấm vải lanh Italia phủ trên giƣờng và những cái rèm cửa sổ trắng phồng to.

- Phu nhân Cordelia luôn yêu cầu tôi dọn dẹp nõi này. Phòng khi mẹ cô tỉnh lại.

Schuyler bƣớc về phía cái tủ đứng ở giữa phòng và mở các cánh cửa tủ. Cô với

tay vào bên trong và lôi ra một chiếc áo sõ-mi treo trên móc. Hiệu Valentino,

chắc sản xuất vào khoảng nãm 1989.

- Bà chắc là mẹ tôi có váy dạ hội chứ?

- Cô ấy có một chiếc váy đầm côticông. Cô ấy mặc nó khi đƣợc giới thiệu tại

Vũ hội Four Hundred ðúng vào dịp sinh nhật lần thứ mƣời sáu. - Bà Hattie giải

thích. - Chanel đã thiết kế chiếc váy ðó. Chắc là nó cũng ở trong ðó thôi.

Schuyler kiên nhẫn lật từng cái móc áo. Cuối cùng, ở tận góc xa nhất của ngãn

tủ, cô tìm thấy một cái túi vải ðen có thêu lôgô hai chữ C lồng ngƣợc vào nhau.

Schuyler ðặt cái túi lên giƣờng ngủ của mẹ mình và từ từ kéo khóa.

- Wow. - Schuyler thở mạnh trong lúc lôi chiếc váy đƣợc bảo quản cẩn thận ra

khỏi túi. Cô đƣa nó lại chỗ sáng. Ðó là một chiếc váy màu hoàng kim với phần

thân bó sát, hở vai và phần váy bồng kiểu công chúa với tầng tầng lớp lớp vải

xòe rộng.

Schuyler ƣớm chiếc váy vào ngƣời. Nó sẽ vừa, cô biết là nó sẽ vừa mà.

Khi Schuyler bƣớc vào Phòng khiêu vũ của St. Regis, cả căn phòng dƣờng nhƣ

đóng băng. Tất cả khách mời nhìn cô chăm chú khi cô đứng đó, ngay chỗ lối

vào, thân hình sáng rực dƣới ánh ðèn chiếu, vẻ mặt ðang phân vân không rõ

phải đi về phía nào tiếp theo. Có thể nghe thấy một vài tiếng thở hắt từ trong

ðám ðông. Jack Force là một trong số ðó. Cậu không thể rời mắt khỏi Schuyler.

Giống nhƣ hầu hết mọi ngƣời trong phòng, trong giây lát, Jack đã tin rằng

Gabrielle - Allegra Van Alen đã quay trở về với họ. CHÝÕNG 14

Vũ hội Four Hundred, hay còn đƣợc biết ðến với cái tên khác là Vũ hội

Patrician, chƣa bao giờ đi chệch khỏi truyền thống đã đƣợc định ra bởi những

nhà tổ chức ðầu tiên từ hồi cuối thế kỷ mƣời chín, khi mà gia tộc Máu Xanh lần

ðầu tiên ðạt ðến vị trí quyền lực trong xã hội. Bữa ăn tối truyền thống gồm mƣời

món đƣợc phục vụ vào những ðợt nghỉ giải lao giữa các lần nhảy vẫn ðƣợc giữ

nguyên. Thức ãn vẫn ðƣợc ðặt trên những chiếc ðĩa vàng chắc chắn, trị giá

75.000 ðô-la mỗi chiếc, kèm theo ðó là các loại dao, dĩa cũng bằng vàng; chƣa

kể vào ðó là những chiếc ly pha lê nạm vàng dùng ðể ðựng ðồ uống.

Dọc theo bốn chiếc bàn dài hình chữ nhật với một trăm ghế ở mỗi bàn là một

ðống cát lớn, bên trên cắm những chiếc bay bằng vàng. Khách mời ðƣợc

khuyến khích tham gia trò chõi "ðào kho báu" - thực chất là những phần quà

khác nhau đã đƣợc chuẩn bị sẵn. Ủy Ban đã thuyết phục các nhà tài trợ mua

những vật trang sức bắt mắt và ðắt tiền, gồm ðá ru-bi, sa-phia và kim cƣõng ðể

làm quà cho khách tham dự. Ðể thêm phần phong phú, các thành viên Ủy Ban

trẻ tuổi, dẫn đầu bởi Mimi, cũng đặt mua cả những món trang sức khá xì-tin:

dây chuyền gắn chữ cái mua từ tiệm Me & Ro, khuyên tai lông công kiểu dáng

lạ mắt của ngƣời Peru từ tiệm Zani; ngoài ra còn có mặt dây chuyền hình răng

cá mập nạm kim cƣõng - món ðồ ðƣợc sãn lùng nhiều nhất mùa mốt nãm nay.

Thực ðõn bữa tối cũng ðƣợc giữ nguyên nhƣ thực ðõn từng sử dụng trong ðêm

Vũ hội Patrician ðầu tiên với món khai vị Consommé Olga, theo sau là món

Filet Mignons Lili, Vegetable Marrow Farcie, tiếp ðến nữa là món vịt quay và

món bò thãn, kèm theo cà rốt trộn kem và khoai tây parmentier.

Những bức tƣợng tạc trên ðá khối, mô phỏng những tƣợng ðài và trụ sở lớn của

New York bao gồm tòa nhà MOMA mới, các công trình kiến trúc mới đƣợc

trùng tu dƣới sự bảo trợ của Ủy Ban và dự án cảng Frank Gehry do chính

Thƣợng nghị sĩ Llewellyn khởi xƣớng, đƣợc sắp ðặt bên cạnh những cái bàn

xếp dọc quanh phòng. Và rƣợu sâm-banh cứ liên tục chảy ra từ một ðiểm bí mật

trên những công trình bằng đá đó.

Mimi hầu nhƣ không ðụng ðến chút thức ãn nào. Cô nàng nhanh chóng rời khỏi

chỗ ngồi và lƣợn một vòng giữa đám đông đang tỏa sáng. Tất cả các gia đình

dòng dõi tại New York, những dòng họ cổ xƣa nhất, ðều có mặt: nhà Van Horn,

nhà Schlumberger, nhà Wagner, nhà Stewart, nhà Howell, nhà Howland, nhà

Gould, nhà Goelet, nhà Bancroft và nhà Barlow. Ngay cả các thành viên của gia

tộc Máu Xanh hiện sống tại Anh cùng với rất nhiều chi tộc ðến từ các quốc gia

khác cũng có mặt trong dịp này. Nổi bật trong số ðó là một chi tộc rất giàu có,

vốn tách ra khỏi gia tộc chính từ nhiều thế kỷ trƣớc và hiện giờ ðang ðịnh cƣ tại

vùng ðất mà ngày nay ngƣời ta vẫn gọi là Trung Quốc. Họ vừa ðến ðây từ

Thƣợng Hải, thành phố mà trong mấy thập kỷ gần ðây ðƣợc chính gia đình này

giúp đỡ xây dựng lại. Hai cô con gái sinh đôi mƣời sáu tuổi của họ, hai cô nàng

quý tộc Trung Quốc chân dài, cũng là những ngƣời sẽ đƣợc giới thiệu chính

thức trong Vũ hội tối nay.

Tuy nhiên, không có gia ðình nào quyền uy và giàu có hõn nhà Force. Mimi là

công chúa của buổi tiệc. Cô đi lại giữa những ngƣời quen biết và cả không quen,

đón nhận sự ngƣỡng mộ và sùng kính của tất cả bọn họ.

Mimi đang tìm kiếm anh trai mình. Jack đã luôn ở bên cô trong suốt buổi tối

nay nhƣng cậu ðột nhiên biến mất giữa lúc món cá ðƣợc dọn ði và món thịt

đƣợc đƣa lên. Dù gì hai ngƣời cũng nên ở cùng nhau. Tối nay sẽ là lúc ðể cả gia tộc nhận ra rằng họ ðã tìm thấy nhau và khi thời gian đến, họ sẽ một lần nữa

tuyên thệ lời thề vĩnh cửu của mình.

Anh ấy ở đâu nhỉ?

Mimi để tâm trí bay lƣợn khắp phòng, tìm kiếm dấu hiệu của anh trai. À, anh ấy

kia rồi, ðang ðứng ở bàn ðầu, nói chuyện với Bryce Cutting, bạn cùng ðội

lacrosse. Mimi nhận thấy Jack dừng lại và nhìn về hƣớng cô, ðột nhiên trên

khuôn mặt cậu nở một một nụ cƣời thật rạng rỡ.

Mimi cũng cƣời lại và vẫy tay với anh trai, nhƣng cậu không hề vẫy lại cô.

Bực mình, cô quay ngƣời lại phía sau - có khi nào Jack không phải là ðang nhìn

cô?

Và ðó cũng chính là lúc Mimi nhận ra cái ngƣời đang ðứng ngay sau cô, nõi ðầu

cầu thang, và thu hút sự chú ý của toàn bộ khách khứa trong phòng.

Schuyler Van Alen.

Cô ta mặc một cái váy mà ngay cả Mimi cũng xin chết ðể ðƣợc mặc.

Schuyler tìm thấy ghế ngồi của mình bên cạnh ba mẹ của Aggie Carondolet quá

cố. Rõ ràng là nhà Carondolet cảm thấy bị khinh thƣờng với vị trí mới của mình

tại bàn tiệc nãm nay, họ hầu nhƣ không nói chuyện với Schuyler, trừ việc thông

báo với cô rằng họ thực sự cảm thấy thƣõng tiếc trƣớc sự ra đi của Cordelia.

Schuyler nhận ra Bliss đang ngồi một mình ở bàn phía trƣớc và vẫy tay với cô

gái. Bliss cũng vẫy lại.

"Lại ðây ði." - Bliss làm khẩu hình với Schuyler.

Cô nhấc chiếc váy bồng màu hoàng kim và tiến lại phía Bliss. Hai cô gái ôm

nhau thắm thiết.

- Sky, tớ phải nói với cậu một chuyện, về Dylan. - Bliss nói.

- Ồ? - Schuyler nhƣớng một bên mày.

- Tớ nghĩ cậu ấy...

Nhƣng trƣớc khi Bliss có thể kết thúc câu nói, một chàng trai ðã tiến lại gần và

mời cô ra nhảy.

- Chắc rồi. - Bliss ðành nhún vai đồng ý. - Tớ sẽ nói với cậu sau vậy. - Cô quay

sang nói với Schuyler.

Schuyler gật ðầu. Trên ðƣờng miễn cƣỡng quay trở lại ghế ngồi của mình, cô

thắc mắc không biết Bliss định nói về chuyện gì. Bliss là ngƣời bạn duy nhất

của cô tại vũ hội tối nay. Mà thật ra, Schuyler ðang làm gì ở đây chứ? Tại sao

cô lại ðến ðây làm gì? Vì Cordelia chăng? Hay vì dòng tộc Van Alen? Không.

Cô nên tỏ ra thẳng thắn hõn với chính mình, dù rằng sự thật mới ðau khổ làm

sao. Schuyler đến đây vì muốn gặp lại Jack Force. Nhƣng sao cô cảm thấy đau

ðớn thế này?

Jack ở ngay kia, sát cạnh em gái mình, hai ngƣời họ lƣớt qua lƣớt lại khắp

phòng, quấn quýt bên nhau. Jack ðặt một tay lên vòng eo thon nhỏ của Mimi.

Schuyler đã nghe thấy tiếng xì xào của các bậc Trƣởng bối và những ngƣời Giám hộ ở bàn bên cạnh... chuyện gì ðó về lễ giới hạn... về hai anh em nhà

Force và về lời thề vĩnh cửu. Món ãn tiếp theo ðã đƣợc đƣa lên: bồ câu quay ròn

và nộm mãng tây. Trông nó ngon quá, nhƣng sao khi vào tới miệng cô thì chỉ

thấy vị khô và ðắng.

- Jack. - Mimi thì thầm khe khẽ vào tai Jack khi họ đi quanh phòng. - Đến lúc

rồi.

Là ngƣời thực tế, Mimi quyết định lờ đi những gì cô chứng kiến lúc nãy. Mimi

là bậc thầy trong việc tự lừa dối bản thân. Nếu có điều gì khiến cô phiền lòng,

cô từ chối luôn sự tồn tại của nó. Trong thâm tâm cô, Schuyler chỉ là một sự mê

đắm tạm thời đáng ghét.

Nhƣng với Jack, gặp lại Schuyler Van Alen lúc này chỉ càng làm bừng cháy

thêm những cảm xúc mà cậu ðã ðè nén trong suốt mấy tháng qua. Những suy

nghĩ khuấy động không ngừng xâm nhập tâm trí cậu. Tại sao Schuyler lại gây

ảnh hƣởng mạnh mẽ tới cậu nhƣ vậy? Liệu có phải do khuôn mặt giống với

Allegra? Thật sự chỉ bởi vậy thôi sao? Hay còn là một thứ gì khác nữa... một

thứ mà cậu không phòng bị và cũng không ngờ tới? Jack lắc đầu, cảm thấy kinh

tởm và xấu hổ với chính mình. Chỗ của cậu chính là ở ðây, bên cạnh em gái

mình. Tất cả những gì cậu phải làm là cƣ xử nhƣ thể Schuyler không hề tồn tại.

- Họ ðang chờ chúng ta mở màn ðiệu caðri36 kìa. - Mimi nhắc lại.

Theo đúng bổn phận, Jack đƣa em gái ra giữa sàn nhảy, nõi ba cặp khác cũng

ðang chờ. Ðây là một phần thuộc truyền thống của Vũ hội Four Hundred: trƣớc

khi đƣợc chính thức giới thiệu trƣớc toàn thể cộng ðồng, các ma cà rồng trẻ sẽ

36 Caðri: ðiệu nhảy dành cho 4 cặp nam nữ phải tham gia ðiệu nhảy caðri dành cho bốn cặp ðôi. Bốn cặp may mắn ðƣợc

chọn mở màn truyền thống này ðều là nhờ vào quyền lực của gia ðình họ trong

Ủy Ban. Aggie Carondolet ðáng lẽ cũng là một trong những ngƣời tham dự điệu

nhảy mở màn tối nay nếu cô ấy còn sống. Ðối với Mimi, caðri chỉ là cái tên

bóng bẩy cho một ðiệu nhảy bộ tứ giản ðõn với nhịp điệu di chuyển theo hình

vuông nhàm chán, nhƣng cô vẫn thích nó. Cô cảm thấy sung sƣớng khi đƣợc

Jack dẫn dắt qua hết nhịp này ðến nhịp khác: một nhịp xoay vòng, rồi một nhịp

ðổi vị trí của hai cặp ðối nhau, tiếp ðến là nhịp quay vòng số tám, vậy là kết

thúc ðiệu nhảy; bốn cô gái mau chóng xếp thành hàng, và Mimi càng hài lòng

hõn với vị trí ðầu hàng, nõi mà cô xứng ðáng thuộc về.

Sau ðiệu nhảy, các ma cà rồng trẻ ðứng im lặng tại vị trí của mình ở chính giữa

sàn nhảy, chờ ðể ðƣợc giới thiệu chính thức. Họ sẽ đƣợc Thủ lĩnh gia tộc nêu

tên hiện tại và tên thật của mình.

- Dehua Chen. - Cái tên ðầu tiên ðƣợc xƣớng lên, và một trong hai ngƣời đẹp

Trung Hoa quyền quý bƣớc lên phía trƣớc. - Cô từng đƣợc biết đến trong gia

tộc chúng ta với tên thật là Xi Wangmu.

Thiên thần ðại diện cho sự bất tử.

- Deming Chen.

Cô em đƣợc xƣớng tên ngay sau ðó. Hai cô gái Trung Quốc giống nhau nhƣ

đúc: từ vẻ đẹp thánh thiện, nƣớc da trắng mịn nhƣ sữa, mái tóc đen nhƣ gỗ mun

và óng mƣợt nhƣ tõ lụa, ðôi mắt hình quả hạnh ðầy vẻ cao sang và quyến rũ,

cho tới những ðốm tàn nhang lấm chấm một cách phi lý trên cánh mũi tròn nhỏ

của hai ngƣời.

- Từng đƣợc biết ðến với tên thật là Kuan Yin.

Thiên thần ðại diện cho lòng khoan dung.

Tiếp sau ðó, tên tuổi của một loạt các ma cà rồng trẻ khác ðƣợc xƣớng lên. Tất

cả ðứng thành một vòng cung giữa sàn khiêu vũ, tạo thành tƣợng ðài các thiên

thần nhƣ thƣở xa xƣa.

Cuối cùng, một ánh sáng ðõn chiếu vào cặp sinh ðôi nhà Force. Mimi nắm chặt

lấy tay anh trai.

- Madeleine Force. - Mimi bƣớc lên phía trƣớc, cằm ngẩng cao. - Từng đƣợc

biết ðến với tên thật là Azrael.

Thiên thần ðại diện cho sự Diệt vong.

- Benjamin Force. - Jack cúi ðầu chào. - Từng ðƣợc biết ðến với tên thật là

Abbadon.

Thiên thần ðại diện cho sự Hủy diệt.

Cặp sinh ðôi Khải huyền. Bộ ðôi thiên thần ðại diện cho sự Tận diệt. Ðây chính

là số phận vĩnh cửu của Mimi và Jack. Là chỗ của bọn họ. Hai ngƣời chính là

cặp ma cà rồng mạnh nhất trong gia tộc, chỉ xếp sau Tổng lãnh Thiên thần

Thanh khiết. Họ cũng chính là những tƣớng lĩnh một thời dƣới quyền của

Lucifer, nhƣng đã quay lƣng lại với Hoàng tử Thiên Ðàng sau khi bị ðày xuống

trần thế. Và tại Rome, hai ngƣời đã cùng nhau sãn lùng và tiêu diệt dòng dõi của

bọn Máu Bạc. Chính nhờ sức mạnh của họ mà gia tộc Máu Xanh mới có thể

sống sót qua một thiên niên kỷ.

Jack mỉm cƣời với Mimi trƣớc khi cả hai cúi thấp ðầu chào toàn thể gia tộc. Tất

cả diễn ra theo đúng nhƣ kịch bản đã đƣợc định trƣớc.CHÝÕNG 15

Café pha sẵn đựng trong những chiếc bình vàng, theo sau là món điểm tâm gồm

bánh pudding Waldorf truyền thống, thạch ðào, sô-cô-la, bánh kem vani và bánh

xốp trứng, bên trên phủ một lớp kem Amaretto. Tất cả đều đƣợc phục vụ đúng

trình tự, và các vị khách cũng đã nếm mỗi thứ một ít. Cuối cùng là những cái

má trát phấn áp sát vào nhau trong những nụ hôn tạm biệt. Mọi ngƣời đều phải

công nhận rằng họ đã có một khoảng thời gian thật tuyệt. Và hiển nhiên, bữa

tiệc cũng đã quyên góp đƣợc một lƣợng lớn tiền bạc mà mới nghe qua tƣởng

nhƣ phi lý, thậm chí con số năm nay còn phá vỡ kỷ lục của năm ngoái.

Khắp căn phòng Vũ hội của St. Regis, những tin nhắn di động từ Mimi Force đã

đƣợc gửi ði. Ðối với một số thiếu niên ma cà rồng, buổi tối hôm nay mới chỉ bắt

đầu.

Bữa tiệc phụ. Angel Orensanz. Nửa ðêm. Mặt nạ "phải có". Không Thiệp mời.

Không biển chỉ dẫn lối vào.

Nõi phòng giữ ðồ và cả ở thang máy, những tiếng thì thào xôn xao rộ lên giữa

những ngƣời đƣợc mời, cũng nhƣ những tiếng nức nở vì bối rối và thất vọng

giữa những ngƣời không nhận đƣợc tin nhắn.

- Cậu ðịnh ði thay ðồ ðấy à? - Bliss hỏi trong lúc ði theo Mimi ra cửa.

- Cậu ðiên ðấy à? Tớ sẽ mặc cái váy này cho tới khi ngƣời ta lột nó ra khỏi xác

tớ. - Mimi bông ðùa. - Lên trên lầu ði. Bọn mình sẽ cùng chọn ra mấy cái mặt

nạ đẹp nhất.

Mimi ðang trong tâm trạng rất phấn khích. Vũ hội ðúng là hoành tráng nhƣng

giờ mới là thời ðiểm cho một Par-tay37 thực sự.

Schuyler bƣớc ra vỉa hè, cùng lúc choàng chiếc áo lông ðen cũ của Cordelia

quanh vai. Cô tìm thấy ngay Julius, tài xế của bà ngoại cô, lúc này đang đứng

chờ kiên nhẫn bên cạnh vỉa hè trong chiếc xe Crown Victoria mòn vẹt.

- Cô muốn đi đâu?

Schuyler ðịnh nói là "về nhà" nhƣng ðúng lúc ðó ðiện thoại rung lên. Chắc chắn

là Oliver rồi. Không. Là một tin nhắn ẩn số. Nó chỉ dẫn cô tới Angel Orensanx,

một thánh đƣờng bỏ hoang nằm ở khu Lower East Side. Mặt nạ "phải có"? Thế

là sao?

- Cậu có nhận đƣợc tin nhắn không? - Cicely Appelgate hỏi bằng giọng phấn

khích từ phía chiếc xe bên cạnh. Cicely là một thành viên thuộc nhóm của Mimi,

và Schuyler tự hỏi không hiểu sao cô ta lại thèm nói chuyện với mình.

- À, có.

- Hẹn gặp lại cậu ở ðó nhé! - Cicely vẫn tiếp tục bằng giọng hân hoan. - À, váy

ðẹp lắm! - Cô nàng ðế thêm một câu với vẻ ðầy ngƣỡng mộ. - Mẹ tớ bảo đó

chắc chắn là một chiếc váy cổ ðiển hiệu Chanel.

37 Par-tay: cách nói trại của từ "Party". Hiện nay các party của giới trẻ (ðặc biệt là ở Mỹ)

thƣờng ði kèm với một số tệ nạn nhƣ hút chích ma túy, quan hệ tình dục, bia rƣợu cho thanh

thiếu niên chƣa đủ tuổi, v.v... nhƣng cũng có nhiều bữa tiệc bạn bè tụ tập vui chõi mà không

hề dính dáng ðến tệ nạn, ðể phân biệt loại party này với party ở trên ngƣời ta dùng từ Par-tay

với ý ám chỉ một bữa tiệc sạch sẽ. Yu không muốn dịch hẳn nghĩa ra nên ðể nguyên từ này

nhƣ vốn có.

Hóa ra là thế này ðây. Ðôi lúc Schuyler cảm thấy trƣờng trung học thật là ngu

ngốc. Chỉ cần bạn ăn mặc đúng cách, có dáng vẻ hợp thời, hoặc có những phụ

kiện hợp "mốt", nhƣ một chiếc túi hàng hiệu, mẫu di ðộng mới nhất, hay có thể

chỉ là một chiếc ðồng hồ ðeo tay ðắt tiền chẳng hạn, cuộc sống của bạn sẽ dễ

dàng hõn rất nhiều. Schuyler thì chƣa bao giờ có những thứ đó. Cordelia rất

khắt khe trong việc chi tiêu, vì vậy mà Schuyler luôn phải mặc những cái áo len

cổ lọ secondhand hay những bộ đồ từ đợt thanh lý hàng tồn kho.

Nhƣng chiếc váy này, thực tế ðúng là ðƣợc thiết kế bởi một trong những nhãn

hiệu thời trang danh tiếng và ðắt tiền, ðã làm thay đổi cái nhìn của Cicely đối

với cô. Ít nhất là trong ðêm nay.

- Ta về nhà chứ cô Schuyler?

Cô đã hứa sẽ gọi cho Oliver ngay giây phút rời khỏi bữa tiệc. Cô đã nói với cậu

cô chỉ ở lại vài phút thôi và sẽ mau chóng rời khỏi ðó sau bữa tối, nhƣng giờ đã

là 11h30 rồi. Có lẽ cậu ấy vẫn còn mệt mỏi vì lệch múi giờ sau chuyến bay,

Schuyler thầm nghĩ. Biết ðâu giờ này cậu ấy lại chẳng đang ngủ gục trƣớc ti vi

rồi cũng nên. Tin nhắn vừa rồi chắc hẳn muốn nói về bữa tiệc dƣới khu thƣõng

mại mà ðám thanh thiếu niên tại Vũ hội ðã nhắc tới, những tiếng xôn xao về

việc Mimi Force chủ trì một bữa tiệc thâu ðêm hoàng tráng nào ðó. Cô có nên ði

không? Nếu đi thì cũng đâu mất gì chứ? Hõn nữa, Mimi ở ðó có nghĩa là Jack

cũng ở đó. Schuyler nghĩ về hình ảnh Jack tối nay trong chiếc áo đuôi tôm đen

sao mà ðẹp trai ðến thế, và rồi cả cái cách mà cậu nhìn cô chăm chú lúc cô bƣớc

vào phòng Vũ hội, ánh mắt xanh lục bảo của cậu nhƣ muốn nuốt chửng lấy cô.

Cách ðây không lâu, Jack chính là ngƣời nhất quyết tìm cho ra sự thật về Máu

Bạc, nhƣng rồi ðột nhiên cậu lại bỏ dở giữa chừng. Nhƣng có lẽ cô vẫn có cõ

hội thuyết phục cậu cùng tham gia với mình trong cuộc chiến ðõn ðộc này. Từ lúc bị ông ngoại từ chối giúp ðỡ, Schuyler nhƣ ngƣời phiêu dạt không biết trôi

về bến bờ nào. Nhƣng nếu có Jack ở bên... Cô thầm quyết ðịnh trong lòng.

- Về nhà thôi, ông Julius, nhƣng chỉ ghé qua một phút thôi. - Schuyler quả

quyết. - Tôi về lấy một thứ. Một món quà lƣu niệm ở Venice. Sau đó chúng ta

sẽ xuống khu thƣõng mại.Mục lýu trữ tờ New York Herald

Số ra ngày 24 tháng Mƣời một năm 1871

NGÀI BURLINGTON TUYÊN BỐ LỄ ÐÍNH HÔN MỚI SAU SỰ

BIẾN MẤT CỦA HÔN THÊ CŨ

Quý tộc ngýời Anh sẽ kết hôn cùng nữ thừa kế nhà Vanderbilt

Sau sự biến mất bí ẩn của vị hôn thê Maggie Stanford, con gái ông Tiberius và

bà Dorothea Stanford vùng Newport, Quý ngài Alfred Burlington, Bá tƣớc vùng

Devonshire, Anh quốc, đã chính thức tuyên bố lễ đính ƣớc mới với cô Caroline

Vandebilt, con gái Ðô ðốc Hải quân và phu nhân Elizabeth Vanderbilt tại dinh

thự số 800 Đại lộ 5. Một năm trƣớc, cũng ngay tại dinh Đô đốc, cô Maggie

Stanford đã biến mất một cách bí ẩn vào ðêm diễn ra vũ hội Patrician. Cũng

trong ðêm hôm ðó, cô chính thức tuyên bố ðính hôn với Ngài Burlington. Tuy

nhiên, hôn ƣớc này ðã bị phá vỡ tám tháng trƣớc trong lúc cô Maggie Stanford

vẫn mất tích. Hôn lễ mới của Ngài Burlington và cô Vanderbilt ðã chính thức

đƣợc công nhận tuy nhiên ngày cƣới vẫn chƣa đƣợc ấn ðịnh cụ thể. CHÝÕNG 16

Cũng nhƣ nhiều khách mời khác, vừa đặt chân đến buổi tiệc phụ, Bliss đã lặng

đi vì phấn khích. Thánh đƣờng bỏ hoang đƣợc thắp sáng bởi hàng ngàn ngọn

nến cốc, tạo thành những cái bóng dài âm u trên tƣờng. Mimi nói ðúng, nõi ðây

thực sự là một tàn tích ðẹp. Có nét gì ðó hõi ma quái nhƣng cũng thật lãng mạn

khi đƣợc khiêu vũ bên ánh nến.

Những chiếc mặt nạ tạo cho màn ðêm một vẻ huyền diệu ðến kỳ lạ, ðặc biệt là

khi các vị khách vẫn còn mặc trên ngƣời trang phục dạ hội. Đám con trai trông

thật bảnh bao trong những chiếc áo đuôi tôm, còn đám con gái rạng ngời trong

những chiếc váy dài dạ hội, và ẩn sau chiếc mặt nạ, tất cả mọi ngƣời đều khoác

trên mình một vẻ ma quái dị thƣờng.

Bliss chỉnh lại chiếc mặt nạ ðính lông vũ và ðá quý trên mặt cô. Nó khiến cô

gặp chút khó khăn khi nhìn khách đến tham dự tiệc. Cô nhận ra Schuyler đã tới

nõi. Tốt. Chính Bliss ðã gửi tin nhắn cho Schuyler mà không có sự ðồng ý của

Mimi.

DJ ðang bật một bài hát của nhóm Bauhaus - một ðiệu nhạc mạnh mẽ, u tối. Bài

"Burning from the inside".

Một chàng trai mặc áo ðuôi tôm, thắt cà vạt trắng tiến về phía Bliss, khuôn mặt

cậu ẩn dƣới chiếc mặt nạ u sầu của Pierrot.

Chàng trai làm ðộng tác hƣớng về phía sàn nhảy.

Bliss gật ðầu và ði theo cậu. Cậu dang hai tay ra ðể cô tiến vào vòng ôm của cậu.

- Vậy là cậu vẫn sống. - Chàng trai thì thầm, ghé sát miệng vào tai Bliss. Cô có

thể cảm nhận hõi thở mềm mại của cậu bên tai mình.

- Gì cõ?

- Tớ sẽ không chịu nổi nếu cậu bị chết đuối. - Cậu trai khe khẽ cƣời.

- Cậu...

Chàng trai ðặt một ngón tay lên môi mình, chính xác hõn là môi của chiếc mặt

nạ Pierrot.

- Tớ nhớ cậu lắm... - Bliss nói. Dylan. Chắc chắn là cậu ấy rồi. Cậu ðã quay về

tìm cô. Thật thông minh làm sao khi chọn xuất hiện ở một bữa tiệc hóa trang,

nõi mà cậu có thể lộ diện mà không gây ra bất cứ sự lộn xộn nào.

- Tớ chƣa ði lâu lắm mà. - Chàng trai chân thành nói.

- Tớ biết, nhƣng mà tớ ðã rất lo lắng...

- Đừng vậy. Mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi.

- Cậu chắc chứ?

- Chắc.

Bliss quay cuồng trong niềm sung sƣớng. Cậu ấy đã trở về! Cậu ấy đã trở về

bên cạnh cô. Cô hạnh phúc quá.

Bài hát kết thúc. Chàng trai trong chiếc mặt nạ cúi thấp đầu.

- Hân hạnh.

- Đợi đã. - Bliss gọi với theo, nhƣng cậu đã biến mất vào ðám ðông, và khi nhìn

ra xung quanh mình, Bliss thấy cả tá cậu trai ăn vận tƣõng tự, trong những chiếc

áo đuôi tôm đen, nhƣng không có ai mang mặt nạ mặt cƣời buồn bã với giọt

nƣớc gỉ ra dƣới một bên mắt.

Trong lúc đó, Schuyler lang thang một cách chán chƣờng từ phòng này sang

phòng khác. Ðáng lẽ cô nên gọi cho Oliver, ít ra nhƣ vậy cô cũng có ngƣời bầu

bạn. Bữa tiệc này có vẻ không lựa chọn khách mời nhƣ Vũ hội Four Hundred.

Cô nhận ra một vài ngƣời bạn "ngƣời trần" cùng lớp, lúc này trông có vẻ lo lắng,

nhƣ thể họ không rõ liệu mình có đƣợc chào ðón ở ðây không. Schuyler có thể

phân biệt ai là ngƣời, ai là ma cà rồng bởi ma cà rồng sáng lên trong bóng tối và

nhờ illuminata mà họ có thể nhận ra ðồng loại của mình.

Chìm sâu trong bóng tối phía sau những cây cột, một vài cặp đang lợi dụng

khoảng tối ðể "hôn cổ" nhau. Ðối với các teen ma cà rồng, hành ðộng này mang

một ý nghĩa khác biệt hõn bình thƣờng. Cô có thể nghe thấy những tiếng răng

ngập sâu khi ma cà rồng ðón nhận dòng máu nóng từ phía thần linh quen thuộc

loài ngƣời của mình. Nhựa sống ðang hoán ðổi từ cá thể này sang cá thể kia.

Sau lúc đó, ma cà rồng càng trở nên lấp lánh sáng rõ hõn, ðƣờng nét cõ thể cũng

trở nên sắc nét và nổi bật hõn, còn thần linh của họ thì càng lúc trông càng đờ

ðẫn, bõ phờ.

Schuyler hiểu rằng một ngày nào ðó, cô cũng sẽ làm chuyện tƣõng tự. Cô sẽ

phải thực hiện Nụ hôn Thần Thánh với thần linh quen thuộc loài ngƣời của

riêng cô. Ý nghĩ này vừa làm Schuyler háo hức, lại vừa làm cô khiếp sợ. Nụ hôn

Thần Thánh không phải trò ðùa. Nó thể hiện mối liên kết nghiêm túc giữa ma cà

rồng và thần linh của họ - ngƣời mà các ma cà rồng Máu Xanh rất tôn trọng.

Những thần linh quen thuộc loài ngƣời này ðƣợc đối xử với tình thƣõng và sự

quan tâm săn sóc vì những gì họ cống hiến cho Máu Xanh.

Không khí trƣởng giả, thƣợng lƣu tại Vũ hội Four Hundred dần nhƣờng chỗ cho

lối cƣ xử om sòm, huyên náo hõn. Các cô nàng, cậu chàng tuổi teen cặp kè nhảy

nhót tƣng bừng bên nhau theo ðiệu nhạc thình thịch, xé tai mà DJ đang quay.

Bầu không khí cuồng loạn, có phần dễ dãi dần áp ðảo trên sàn nhảy, các cô gái

bắt ðầu nhảy những vũ ðiệu khêu gợi bên cạnh nhau, hoặc có khi lại quay ra dựa

sát hông vào bạn nhảy nam kề ðó. Buổi tiệc nhanh chóng trở nên nhộn nhạo, sàn

nhà chật ních ðám thiếu niên mình ðẫm mồ hôi ðang giõ cao tay lên không,

khẳng định tâm trạng hƣng phấn, say sƣa của mình. (Ðúng là một lũ ðiên say

máu.)

Schuyler đứng một mình ở bên lề. Cô không hợp với đám đông đang nhộn nhạo

ngoài kia. Hõn nữa, cô cũng chẳng có bạn bè nào ở ðây cả.

Schuyler thở dài. Chiếc mặt nạ mua ở Venice che kín toàn bộ khuôn mặt cô. Cô

ƣớc gì có thể cởi phăng nó ra vì nó làm mặt cô râm ran và nóng bức.

Schuyler tìm thấy một căn phòng nhỏ thụt vào sâu phía trong, ẩn ngay sau mấy

dàn loa, mic. Cô ngồi xuống ðó, ðấu tranh tƣ tƣởng nên làm gì tiếp theo.

Một chàng trai ði theo cô vào phòng. Buồn cƣời làm sao, Schuyler thầm nghĩ.

Có thể dễ dàng nhận ra các cô gái vì cả đám con gái mỗi ngƣời mặc một chiếc váy khác nhau, trong khi các chàng trai mới thực sự là cải trang hoàn toàn vì

trông họ giống nhau y hệt trong bộ cánh đuôi tôm. Nhƣ anh chàng này chẳng

hạn, giấu mình hoàn hảo sau chiếc mặt nạ làm bằng lụa đen, che lấp cả mắt, mũi

và tóc, tạo cho cậu vẻ gì ðó ngang tàng nhƣ một tên cƣớp biển giữa chốn đô

thành.

- Không thích tiệc tùng à? - Cậu trai hỏi khi nhận ra Schuyler ðang ngồi một

mình trên chiếc ghế đá mòn nát.

Schuyler khúc khích cƣời.

- Thực ra tôi còn ghét nó là khác.

- Tôi cũng vậy.

- Tôi chẳng biết phải nói gì hay làm gì cả.

- Chà, thì có vẻ nhƣ cậu phải nhảy này. Và cả "uống" nữa chứ. "Món" tuyệt

nhất trong tất cả các "món".

Nói vậy thì cậu ta là một ma cà rồng rồi. Schuyler tự hỏi cậu là ai, và tại sao lại

nói chuyện với cô.

- Rõ ràng là thế. - Cô đồng tình với cậu.

- Nhƣng lựa chọn của cậu lại là chẳng chọn gì cả.

- Thì tôi là một kẻ nổi loạn mà. - Cô nói mỉa mai.

- Tôi không nghĩ vậy?

- Vậy sao?

- Cậu đã ở ðây, ðúng không? Cậu có thể chọn không ðến mà.

Cậu ta nói đúng. Cô không cần phải tới đây. Cô tới đây vì cùng một lý do đã

khiến cô tới dự Vũ hội Four Hundred. Ðó là cõ hội cho cô ðƣợc gặp lại Jack.

Schuyler buộc phải đối mặt với hiện thực, rằng mỗi lần nhìn thấy Jack Force,

dƣờng nhƣ có cái gì ðó bên trong cô bị kích thích và nhƣ đƣợc hồi sinh.

- Thực ra là, tôi tới ðây ðể gặp một chàng trai. - Cô thổ lộ.

- Chàng trai nào vậy? - Cậu thiếu niên hỏi lại bằng giọng bông ðùa.

- Dù sao ðiều ðó cũng không quan trọng.

- Tại sao?

- Bởi vì... Chuyện phức tạp lắm. - Schuyler nhún vai.

- Chà chà, coi kìa.

- Thực ðấy. Cậu ấy... cậu ấy không thích tôi. - Cô nói, cùng lúc nghĩ về Jack và

Mimi, về giới hạn máu giữa họ. Cho dù tình cảm của cô dành cho Jack có là gì

chăng nữa thì nó cũng không chính đáng. Chính Jack đã nói rất rõ ràng về điều

này tại tang lễ của bà ngoại cô. Cậu có những trách nhiệm ðối với gia ðình của

cậu. Nhƣng Schuyler không thể thoát khỏi hình ảnh Mimi và Jack tay trong tay

ði sát bên nhau. Họ là Azrael và Abbadon. Là hai cục nam châm bị hút chặt vào nhau. Cả phòng khiêu vũ rộn lên trong phấn khích trƣớc lời giới thiệu về thân

thế của hai ngƣời. Họ là hai trong số những ma cà rồng mạnh nhất của gia tộc.

Còn cô - Schuyler Van Alen, một kẻ thậm chí còn không phải là ma cà rồng

thuần chủng, là ai mà mà dám chen ngang vào giữa hai ngƣời họ?

- Sao cậu biết anh ta không thích cậu chứ? - Chàng trai hỏi lại bằng giọng

nghiêm túc.

- Ðõn giản là tôi biết thôi.

- Vậy thì cậu có thể sẽ ngạc nhiên đấy.

Schuyler nhận ra chàng trai ðã đứng sát cạnh cô từ lúc nào. Ðôi mắt cậu ẩn sau

chiếc mặt nạ nhƣng cô vẫn nhận ra ánh xanh ngọc lục bảo từ nõi ðó. Trái tim cô

loạn nhịp. Chàng trai tiến lại gần hõn.

- Vậy hãy làm tôi ngạc nhiên đi. - Schuyler thì thầm.

Ðáp lại, chàng trai nhẹ nhàng nâng chiếc mặt nạ của cô lên, làm ðôi môi cô lộ ra,

và rồi cậu cúi ðầu thấp xuống, ðƣa khuôn miệng của mình lại gần sát miệng cô.

Schuyler nhắm mắt. Chàng trai duy nhất cô từng hôn chính là Jack Force. Nụ

hôn với Jack cũng giống hệt cái cảm giác môi chạm môi lúc này, nhƣng lại có

chút gì ðó khang khác. Khẩn khoản hõn. Ðòi hỏi hõn. Cô hút lấy hõi thở của

cậu, cảm nhận lƣỡi cậu trong miệng cô, cuộn tròn trên đầu lƣỡi cô, nhƣ thể cậu

muốn nuốt sống lấy cô. Schuyler tƣởng nhƣ nụ hôn này có thể kéo dài mãi mãi.

Nhƣng rồi nó ðột nhiên dừng lại.

Schuyler mở to hai mắt, mặt nạ lệch hẳn khỏi mặt. Chuyện gì xảy ra vậy? Cậu

ấy đâu rồi?

- Hey!

Schuyler xoay ngƣời lại. Mimi Force ðang ðứng nõi cửa vào, ðội một chiếc mũ

miện công chúa Ấn Độ đẹp tuyệt trần, "chiếc mặt nạ da" của cô ta đƣợc trang

ðiểm rất chuyên nghiệp bằng phấn son và màu vẽ.

- Cậu có thấy anh trai tôi đâu không?

Lúc đầu Mimi giận sôi ngƣời khi phát hiện ra bữa tiệc của cô tràn ngập những

vị khách không mời Máu Đỏ, nhƣng rồi cô ðõn giản coi ðó là do sức hút nổi

tiếng không thể cƣỡng lại của mình. Vì vậy mà cô không phiền khi trông thấy

Schuyler, một kẻ không mời khác, tại bữa tiệc. Trƣớc khi Schuyler kịp trả lời,

Jack Force bất ngờ hiện ra cạnh em gái. Cậu cũng đội một chiếc mũ miện Ấn

Độ y nhƣ em gái mình. Và cả mặt cậu nữa, cũng đƣợc trang trí thành "mặt nạ"

bằng màu vẽ.

- Anh ðây. - Cậu vui vẻ nói. - Ồ, chào Schuyler. Venice thế nào?

- Tuyệt lắm. - Schuyler đáp, cố giữ vững thần thái.

- Tuyệt.

- Đi nào Jack, màn bắn pháo hoa sắp bắt ðầu rồi ðấy. - Mimi kéo áo Jack, giục

giã.

- Gặp lại sau nhé. - Jack gọi với lại.

Toàn thân Schuyler nhƣ đông cứng. Cô đã rất chắc chắn ngƣời vừa hôn cô là

Jack. Chắc chắn ngƣời sau chiếc mặt nạ ðen chính là cậu. Nhƣng thái độ thoải

mái, thân thiện vừa rồi khiến cô nghi ngờ kết luận của chính mình. Nhƣng nếu

không phải Jack vừa hôn cô thì là ai mới đƣợc chứ? Chàng trai sau chiếc mặt nạ

ðen ðó là ai?

Cảm giác ðau nhói trong tim, Schuyler chợt nhận ra ngày mai đã là ngày bắt đầu

kỳ nghỉ Giáng sinh rồi, và nhƣ vậy cũng có nghĩa là cô sẽ lại không ðƣợc gặp

Jack trong suốt hai tuần liền sau ðó. CHÝÕNG 17

Cuối cùng mùa ðông cũng thực sự tràn về New York, mở màn bằng một loạt

các cõn bão. Nhiều ngày trời, cả thành phố phủ kín trong chiếc chãn tuyết tinh

khôi cho tới khi nó chuyển thành thứ bột nhão nhoét màu xám vàng, tạo nên

những ụ tuyết dọc các vỉa hè và cả những vũng bùn khiến những công dân thành

phố vốn dạn dày hoặc phải nhảy qua hoặc lội bì bõm trong những đôi ủng cao

su. Schuyler hoan hỉ ðón cái lạnh tràn về. Thời tiết mùa ðông phản ánh ðúng

tâm trạng cô lúc này. Kỳ nghỉ lễ là thời gian ðặc biệt yên tĩnh ðối với nhà Van

Alen. Ngày trƣớc, Schuyler và Cordelia vẫn thƣờng tham dự những buổi lễ tại

nhà thờ Thánh Bartholomew ở ðầu kia thành phố, sau ðó cùng nhau ãn bữa tối

Giáng sinh đạm bạc.

Vẫn nhƣ mọi nãm, nãm nay Schuyler cũng ðến bệnh viện thãm mẹ vào sáng

ngày 24/12. Julius và Hattie ðã nghỉ phép để về dự lễ Giáng sinh với gia đình họ,

nên cô tự bắt xe bus vào trung tâm thành phố. Lúc cô ðến, bệnh viện ðang ðóng

cửa, còn ông bảo vệ thì ðang gà gật ở ngay bàn trƣớc và một toán y tá gầy

nhẳng cũng đang hối hả chờ kết thúc ca trực của mình. Có thể thấy nhân viên

trong bệnh viên ðã cố gắng thổi luồng không khí Giáng sinh tới nõi này. Trên

cửa ra vài mỗi phòng đều treo một vòng hoa, còn có cả một cây Charlie Brown -

loại cây giống cây thông Nô-en nhƣng có nhánh lá màu nâu, ðặt chỏng chõ giữa

bàn y tá, bên cạnh là một chân nến nhiều nhánh tỏa ánh sáng lung linh.

Mẹ Schuyler vẫn nằm im lìm trên giƣờng bệnh nhƣ bao lần khác cô đến đây.

Chẳng có điều gì thay ðổi cả. Schuyler ðặt thêm một món quà chƣa đƣợc mở

nữa bên cạnh giƣờng mẹ cô. Qua mấy nãm, các món quà Schuyler mang tới

ngày càng nhiều hõn, chất thành ðống dƣới lớp bụi trong tủ ðể ðồ. Schuyler phủi lớp tuyết dính trên áo, ðoạn cởi áo khoác ngoài ra, nhét chiếc mũ len và

gãng tay vào túi áo. Nếu Cordelia ở ðây lúc này, bà sẽ bắt ðầu dọn ra bữa trƣa

Giáng sinh gồm món gà nhồi, thịt và bánh mì nóng hổi mà Hattie đã chuẩn bị

sẵn cho họ từ lúc ở nhà. Hôm nay, Hattie cũng ðã làm một bữa y vậy cho

Schuyler mang đi, nhƣng cảm giác thì không còn giống nhƣ trƣớc nữa: lúc này

chỉ có mình Schuyler ngồi ãn mà không có Cordelia ngồi bên nhắc nhở cô về

những quy tắc nõi bàn ãn, hay quát mắng mấy cô y tá, yêu cầu họ mang tới

những chiếc đĩa sứ thay vì đĩa nhựa.

Schuyler bật tivi và ngồi ãn một mình. Tivi đang phát lại phim "Cuộc sống tƣõi

ðẹp". Bộ phim này chỉ khiến cô buồn rầu thêm, nhất là từ khi cô hiểu ra rằng

chẳng có cái kết hạnh phúc nào dành cho mẹ Allegra của cô. Oliver ðã mời

Schuyler ðến dự tiệc Giáng sinh cùng gia đình cậu, nhƣng cô từ chối. Dù thế

nào ði nữa, gia ðình duy nhất còn lại trên thế giới này ðối với cô chính là cãn

phòng bệnh viện cô ðõn, lạnh lẽo này. Ðây là nõi mà cô thuộc về.

Ở ðầu kia thành phố, tại khu Upper East Side, chủ nhân những ngôi nhà lớn và

cả những căn hộ sang trọng đã đi vắng cả. Nhƣ mọi nãm, nhà Force ðã lên chiếc

phi cõ riêng Gulfstream IV ðể bay ðến nõi trú ðông của mình, đồ tắm biển đƣợc

chuyển phát qua FedEx38 ðến villa riêng của gia ðình tại St. Barths, nõi mà cả

nhà họ sẽ trú lại trong suốt tuần ðầu tiên của kỳ nghỉ; họ cũng gửi cả dụng cụ

trƣợt tuyết tới ngôi nhà của họ tại Aspen trƣớc, sẵn sàng cho kế hoạch tận

hƣởng nốt tuần thứ hai của kỳ nghỉ lễ. Còn gia đình Llewellyns thì bay về Texas

để thăm ngƣời thân nhân dịp Giáng sinh. Họ cũng đã hẹn gặp nhà Force tại

Aspen vào nãm mới.

Ngay cả gia đình Oliver cũng đã có kế hoạch ði biển tại khu nhà nghỉ của gia

đình ở Tortola, nhƣng Oliver chọn ở lại thành phố ðể ðƣợc gần Schuyler. Cậu

38 FedEx: tên một hệ thống chuyển phát nhanh. dự ðịnh sẽ tới thãm dinh thự của nhà Van Alen vào ngày sau Lễ Giáng sinh

cùng với một ðống quà tặng.

Nãm nào, Oliver và Schuyler cũng dành ngày Quà tặng39 ở bên nhau. Cậu

thƣờng mang ðến nhà cô những chiếc bánh mỳ que giòn, bõ Pháp - loại mà nhƣ

cậu quảng cáo là ðồ xịn hẳn hoi và không hề giống với mấy loại bõ nhạt nhẽo

của Mỹ; ngoài ra còn có thêm một vài hộp trứng cá caviar Nga loại thƣợng hạng,

mua ở Petrossian; và một chai sâm-banh cỡ lớn lấy từ hầm rƣợu của ba mẹ cậu,

vốn ðể dùng cho bữa tiệc hậu Giáng sinh của gia ðình họ. Nhƣng sáng ngày 26

nãm nay, ngay khi Oliver vừa gói ghém mọi thứ vào giỏ picnic và chuẩn bị rời

khỏi nhà thì nhận đƣợc một cuộc gọi sốt sắng từ Hattie, bà quản gia của nhà

Van Alen.

- Cậu Oliver, cậu phải ðến, cậu phải ðến ðây ngay. - Bà cất giọng van nài.

Oliver ngay lập tức nhảy lên taxi ðến dinh thự Van Alen. Chờ cậu trƣớc cửa nhà

là Hattie, lúc này ðã trở nên hoang mang cực độ, câu cú nói ra chẳng ăn nhập gì

với nhau, còn hai tay bà bấu chặt lấy chiếc tạp dề, khuôn mặt nhƣ sắp khóc đến

nõi. Hattie dẫn cậu lên gác trên, tới phòng Schuyler.

- Cô chủ không xuống ăn sáng. Tôi cứ nghĩ cô ấy còn đang ngủ, cho tới khi con

Xinh Ðẹp chạy xuống cầu thang và kéo tôi lên ðây. Rồi tôi thấy cô ấy nằm ðó,

làm cách nào cũng không ðánh thức ðƣợc. Chúa lòng lành, cô ấy trông hệt nhƣ

cô chủ Allegra vậy. Tôi lo lắm vì chẳng thấy cô ấy động đậy gì cả, cô ấy thậm

chí còn nhƣ không thở, cho nên tôi gọi ngay cho cậu, cậu Oliver.

39 Boxing Day: ngày Quà tặng (ngày 26/12): vào ngày này mọi ngƣời thƣờng tặng quà cho

nhau, còn ở Anh và các nƣớc từng là thuộc ðịa của anh, ngày này ðƣợc gọi là Bank Day - gần

giống ngày Lao ðộng 1/5. Xinh Ðẹp, con chó sãn của Schuyler, ðang rên ƣ ử ở chân giƣờng. Con chó

chồm lên, liếm tay và mặt của Olvier khi cậu bƣớc vào phòng.

- Bà làm tốt lắm, Hattie. - Oliver nói trong lúc tay vỗ vỗ Xinh Đẹp, rồi cậu tiến

lại gần giƣờng, lay lay ngƣời Schuyler và kiểm tra mạch của cô. Không có gì cả,

nhƣng nhƣ thế cũng chƣa nói lên ðƣợc điều gì. Khóa huấn luyện Conduit đã dạy

cậu rằng các ma cà rồng có thể làm chậm nhịp tim của mình tới độ gần nhƣ

không bắt đƣợc mạch, ngõ hầu duy trì năng lƣợng trong cõ thể. Nhƣng Schuyler

mới chỉ mƣời lãm tuổi và quá trình chuyển đổi của cô vừa mới bắt đầu. Vẫn còn

quá sớm ðể cô rõi vào trạng thái bảo toàn nãng lƣợng nhƣ vậy. Trừ khi... Một

suy nghĩ kinh khiếp chợt đến với Oliver: lỡ nhƣ Schuyler đã bị một Máu Bạc

tấn công thì sao? Hai tay cậu run lẩy bẩy trong lúc bấm điện thoại cho dì của

cậu, bác sĩ Pat - vị bác sĩ Máu Đỏ có nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho các Máu

Xanh. Bác sĩ Pat đã ngăn không cho Oliver gọi xe cấp cứu đƣa Schuyler đến

bệnh viện.

- Họ sẽ không biết phải làm gì với trƣờng hợp này ðâu. Hãy đƣa cô bé tới chỗ dì

ngay. Dì sẽ gặp cháu ở đó.

Khi Oliver tới nõi cùng với Schuyler trên tay cậu, bác sĩ Pat và ðội cấp cứu ðã

sẵn sàng. Họ ðem theo ra cửa một chiếc giƣờng ðẩy và Oliver nhẹ nhàng ðặt cô

bạn nằm xuống đó.

- Hãy nói với cháu là cô ấy không sao. - Oliver van lõn.

Bác sĩ Pat kiểm tra cổ Schuyler. Không có vết cắn nào. Không có dấu hiệu của

lũ ác quỷ kia.

- Cô bé sẽ ổn thôi. Không có dấu hiệu của sự tấn công. Sẽ không có vấn đề gì

ðâu cháu ạ. Họ bất tử mà. Nhƣng dù sao chúng ta vẫn phải chờ xem chuyện gì

đang diễn ra.

Oliver ngồi ở phòng ðợi bên ngoài, trên một chiếc ghế nhựa chẳng có chút thoải

mái nào cả. Dì của cậu luôn luôn mê mẩn mấy thứ đồ hiện đại, có lẽ vì vậy mà

căn phòng này trông giống với hành lang của một khách sạn thời thƣợng hõn là

một trung tâm y tế: nội thất bằng nhựa màu trắng, thảm len trải sàn màu trắng,

và cả những chiếc ðèn kiểu dáng hiện ðại cũng màu trắng nốt. Sau mấy tiếng

ðồng hồ ðiên lên vì lo lắng, dì của Oliver bƣớc ra từ phòng cấp cứu.

Bác sĩ Pat có vẻ mệt mỏi và bối rối.

- Vào ði. - Bà nói với cháu trai. - Cô bé tỉnh lại rồi. Dì đã truyền máu cho nó.

Xem ra cũng có chút hiệu quả.

Nằm trên giƣờng bệnh, Schuyler trông lại càng nhỏ bé và mong manh hõn. Cô

mặc chiếc áo bệnh nhân dài tới gối, có dây buộc sau lƣng; mặt cô tái hõn cả lúc

bình thƣờng. Thậm chí, Oliver còn trông thấy cả gân xanh nổi lên qua làn da

mỏng đến độ gần nhƣ trong suốt.

- Hey, chào Ngƣời đẹp ngủ trong rừng. - Giọng Oliver vỡ òa trong nỗ lực che

giấu sự lo lắng.

- Tớ ðang ở ðâu thế này?

- Cháu đang ở trong phòng bệnh của ta, cƣng ạ. - Bác sĩ Pat chậm rãi nói. -

Cháu đã bị rõi vào trạng thái "ngủ ðông". Ðây là chuyện hiếm khi xảy ra vì

trạng thái này chỉ xuất hiện rất, rất lâu sau quá trình biến ðổi. "Ngủ ðông" là cách gọi khác của trạng thái bất ðộng kéo dài, một trạng thái mà ma cà rồng rõi

vào khi họ ðã quá mệt mỏi với cuộc sống bất tử, cũng tức là khi họ đã tới chặng

cuối của chu kỳ.

- Ðầu cháu có cảm giác lạ lắm. Và máu của cháu... nó cũng có cảm giác rất lạ.

Nhột nhạt.

- Là vì ta vừa truyền máu cho cháu ðấy mà. Lƣợng hồng cầu của cháu thấp quá.

Nó sẽ gây cảm giác kỳ cục một lúc cho tới khi dòng máu mới điều chỉnh cho

phù hợp với máu cũ.

- Ồ. - Schuyler rùng mình.

- Oliver, cháu có thể để dì và Schuyler nói chuyện riêng một lát không?

- Tớ mừng là cậu không sao. - Oliver nói, nắm chặt vai Schuyler. - Tớ ở ngay

ngoài này nhé.

Khi Oliver ði rồi, bác sĩ Pat chiếu ðèn vào ðồng tử của Schuyler. Bà ghi chép lại

vào biểu ðồ theo dõi, trong lúc Schuyler kiên nhẫn chờ đƣợc chẩn đoán.

Bác sĩ Pat kiểm tra Schuyler kĩ hõn.

- Cháu mƣời lăm rồi, đúng không?

Schuyler gật đầu.

- Đƣợc bổ nhiệm vào Ủy Ban rồi chứ?

- Vâng.

- Nhƣ ta vừa nói lúc nãy, lƣợng hồng cầu của cháu hiện rất thấp. Nhƣng lƣợng

tế bào máu xanh của cháu thì lại vƣớt quá mức hiển thị trên biểu ðồ. Nói cách

khác, cháu có lƣợng máu xanh tƣõng ðƣõng với một ma cà rồng "ðủ lông ðủ

cánh", nhƣng cháu lại rõi vào trạng thái ngủ ðông, ðiều này có nghĩa là cháu

không sản xuất đủ lƣợng sinh kháng thể.

- Vậy có nghĩa là sao ạ?

- Có nghĩa là quá trình chuyển ðổi của cháu họat ðộng hõi bất thƣờng.

- Gì cõ ạ?

- Quá trình chuyển ðổi là quá trình xảy ra khi các tế bào máu xanh của cháu, các

ADN ma cà rồng, bắt ðầu chiếm lĩnh các mạch máu. Rãng nanh bắt ðầu mọc dài

ra, cõ thể cũng chuyển ðổi từ nhu cầu dinh dƣỡng bình thƣờng sang nhu cầu

dinh dƣỡng đặc biệt, khẩu vị chuyển đổi từ thức ăn thƣờng sang máu ngƣời. Các

ký ức dần quay trở lại, và sức mạnh của cháu, cho dù nó là loại sức mạnh gì,

cũng bắt đầu biểu lộ.

Schuyler gật đầu.

- Tuy nhiên, qua việc phân tích máu của cháu, ta có thể thấy một hiện tƣợng bất

thƣờng ðang xảy ra trong cõ thể cháu. Tuy rằng các tế bào ma cà rồng ðang

chiếm lĩnh trong cõ thể cháu, nhƣng nó không phải một quá trình từ từ nhƣ bình

thƣờng khi mà phần ngƣời sẽ bị hoán đổi bằng phần bất tử, giống nhƣ khi một

con rắn lột da vậy ðó. Ta không chắc chắn lắm về ðiều này, nhƣng các ADN

ngƣời của cháu có vẻ nhƣ ðang ðối chọi lại với các tế bào ma cà rồng. Kháng cự lại sự hoán ðổi. Và ðƣõng nhiên ðể giữ thế cân bằng, các ADN ma cà rồng của

cháu cũng đánh trả lại, khiến cho lƣợng máu ngƣời trong cháu bị đẩy xuống

mức rất thấp. Ðiều này gây ra một cú sốc ðột ngột, dẫn tới việc cõ thể cháu rõi

vào trạng thái ngủ ðông. Có chuyện gì bất thƣờng xảy ra với cháu không? Đôi

khi trạng thái này có thể bắt nguồn từ sự kiện chấn ðộng nào ðó.

Schuyler lắc ðầu. Ðêm hôm qua hoàn toàn yên ổn.

- Ðôi khi ðó cũng có thể là một phản ứng trì hoãn. - Bác sĩ Pat phỏng đoán. -

Nó có lẽ là do dòng máu pha của cháu. - Bà thêm vào. Bác sĩ Pat biết rõ về

hoàn cảnh chào ðời của Schuyler vì chính bà đã đỡ đẻ cho Allegra.

- Không có bất cứ tài liệu nào ghi chép về việc gì sẽ xảy ra khi ADN ngƣời bị

pha trộn với ADN ma cà rồng. Vì vậy ta nghĩ cháu cần phải đƣợc theo dõi trong

một thời gian.CHÝÕNG 18

Một tuần sau đó, Schuyler vẫn còn cảm thấy toàn thân mụ mẫm bởi "sự vụ kia"

- ðó là cách mà cô và Oliver gọi chuyến viếng thãm khẩn cấp tới trung tâm y tế

của bác sĩ Pat. Oliver đã đề nghị qua đón cô tới trƣờng vào ngày ðầu tiên ði học

lại sau kỳ nghỉ lễ bằng xe riêng của nhà cậu. Schuyler, ngƣời vẫn thƣờng từ chối

những cử chỉ nhƣ vậy với lý do cô sống ở đầu bên kia thành phố, ngƣợc hẳn

đƣờng với cậu, bây giờ lại ngoan ngoãn nghe theo sự sắp xếp này. Oliver là

Conduit của cô, cậu có nhiệm vụ chãm sóc cho cô, nên thôi thì ít nhất một lần

cô cũng để cậu đƣợc làm theo ý mình. Học kỳ mùa xuân ở Duchesne chính thức

bắt đầu bằng một cuộc tập trung, qua đó cô Hiệu trƣởng sẽ chào ðón các học

sinh của mình quay lại trƣờng ðể bắt ðầu một học kỳ mới hứng khởi; tiếp ðó là

một bữa tiệc trà kèm theo bánh nƣớng nhân quả lý chua40 và sô-cô-la nóng ở

ðài quan sát. Oliver và Schuyler tìm đƣợc ghế ngồi quen thuộc của mình ở hàng

ghế phía sau trong nhà nguyện cùng với các học sinh nãm hai khác.

Xung quanh, mọi ngƣời rộn rã chào hỏi nhau, hồ hởi kể cho nhau nghe những

chuyện đã xảy ra trong kỳ nghỉ lễ của mình. Hầu hết các cô gái trông rám nắng

và có dáng vẻ thƣ thái, họ trao đổi di động với nhau hầu khoe những tấm hình

của chính mình trong những bộ bikini chụp ngoài bãi biển Bahamas, St. Thomas

hay Maui. Schuyler nhìn thấy Bliss Llewellyn đi chung với Mimi Force, cả hai

vòng tay khoác eo nhau nhƣ thể họ là những ngƣời bạn cực kỳ thân thiết.

Ánh mặt trời ngoài khõi khiến tóc Mimi trở nên sáng hõn, còn Bliss cũng hãnh

diện với vài dải tóc ngả màu ðồng của mình. Ngay phía sau họ, Jack Force chậm

chạp bƣớc từng bƣớc, hai tay cậu đút trong túi áo thể thao hiệu Duckhead.

40 Quả lý chua: một loại quả cùng họ với nho, xuất xứ từ Hy Lạp. Quanh hai mắt Jack có một vệt mờ rám nắng in hình mặt nạ trƣợt tuyết, càng

khiến cậu trông ðáng yêu hõn thƣờng ngày.

Oliver nhận ra hƣớng Schuyler đang nhìn nhƣng không nói gì cả. Cô biết cậu

nghĩ gì về tình cảm cô dành cho Jack Force.

Cảm nhận đƣợc sự hờn ghen của cậu bạn, Schuyler nghiêng ngƣời, tựa đầu trìu

mến vào vai cậu. Nếu không có Oliver... có lẽ cô đã... làm sao nhỉ? Vĩnh viễn

bất động? Nhập hội với mẹ cô trong phòng cấp cứu hôn mê ở bệnh viện trung

tâm thành phố? Schuyler vẫn ðang gặp rắc rối với việc hiểu hết tất cả mớ bòng

bong này. Chuyện các tế bào ma cà rồng ðánh nhau với tế bào ngƣời đang diễn

ra trong cõ thể cô là thế nào vậy? Chẳng lẽ cô cứ mãi bị co kéo về hai hƣớng

ngƣợc nhau nhƣ vậy sao?

Cõn ðói mà Schuyler cảm nhận ðƣợc lúc ở Venice đã phần nào giảm bớt nhờ

đƣợc truyền máu. Có thể ðây chính là nguyên nhân gây ra tất cả những chuyện

này. Cô cần máu. Có lẽ cô chỉ cần truyền máu thay vì phải uống trực tiếp. Cô sẽ

hỏi lại bác sĩ Pat xem liệu đó có phải một lựa chọn thay thế khả thi không. Bởi

vì sẽ thật là kỳ quặc quá mức khi cô lúc nào cũng nhìn chằm chằm vào Oliver

và nghĩ cậu trông "ngon" quá. Cậu là bạn thân nhất của cô chứ không phải là

một bữa ăn nhanh.

Trong khi đó, Bliss Llewellyn nhìn quanh và bắt gặp ánh mắt Schuyler. Hai cô

gái dè dặt vẫy tay chào nhau. Ngay từ hôm diễn ra Vũ hội Four Hundred, Bliss

vốn định kể cho Schuyler nghe về chuyện Dylan đã trở về nhƣng rồi thế nào mà

cõ hội dƣờng nhƣ chẳng bao giờ tới.

Kỳ nghỉ lễ là khoảng thời gian ðầy ám ảnh ðối với Bliss. Những lần bất tỉnh

nhân sự và cả những cõn ác mộng lại trở lại hành hạ cô hõn bao giờ hết. Ðêm Giáng Sinh có lẽ là ðêm tồi tệ nhất ðối với Bliss. Cô tỉnh dậy với cõn ðau quặn

thắt ở lồng ngực đến nỗi cô không thể thở đƣợc. Ngƣời cô ƣớt đẫm mồ hôi, dính

ra cả những tấm đra trải giƣờng, làm chúng cũng ƣớt theo đến nỗi bết vào nhau.

Thật kinh khủng.

Ðáng sợ hõn là con quái vật trong những cõn ác mộng bắt ðầu quay ra nói

chuyện với cô trong giấc ngủ.

Blissssss...

Blissssss...

Blissssss...

Nó chỉ gọi mỗi tên cô nhƣng việc đó khiến cô lạnh cả xƣõng sống. Nó chỉ là

một giấc mõ. Một giấc mõ mà thôi. Ðúng vậy, tất cả chỉ là một giấc mõ. Chẳng

có con quái thú nào có thể làm hại cô ðƣợc hết. Nó chỉ là một phần của sự

chuyển đổi. Các ký ức đang sống dậy và nói chuyện với cô, ðó là những gì

những ngƣời trong Ủy Ban đã nói. Những thân phận trƣớc đây của cô, những

cuộc ðời trong quá khứ của cô. Bliss nghiến chặt hàm và ngồi thẳng trên ghế.

Bên cạnh cô, Mimi Force ðƣa bàn tay mềm mại che cái ngáp dài. Ðối với Mimi,

hai tuần nghỉ lễ vừa qua chẳng khác nào cõi thiên đƣờng. Cô tóm đƣợc không

chỉ một mà những hai thần linh quen thuộc loài ngƣời trong suốt chuyến đi, để

rồi thả sức ngấu nghiến họ và sau ðó là cảm giác hứng khởi nhƣ thể cô có thể

chinh phục cả thế giới này. Mimi háo hứng bắt ðầu học kỳ mới. Một mùa mới

luôn ðồng nghĩa với việc cô sẽ lại có thêm một lý do nữa để đi shopping. Giống với Bliss, Mimi cũng đang bị ám ảnh. Ám ảnh với việc lát nữa tan học làm sao

tới đƣợc Barneys41 nhanh nhất trƣớc khi nó đóng cửa.

Bliss ép mình phải chú ý vào bài phát biểu chào mừng học kỳ mới của cô Hiệu

trƣởng - Lại một học kỳ đầy thú vị đang chờ đón các em tại Duchesne, blah

blah blah - cho tới khi cửa nhà nguyện mở ra với một tiếng rầm mạnh.

Cả khu vực phía trên xoay ngƣời lại để xem cái gì đã gây ra tiếng ồn đó. Họ chỉ

thấy một chàng trai ðang ðứng ngay giữa lối vào.

Và ðó là một anh chàng cực kỳ, cực kỳ ðẹp trai.

- Ôi, õ, em xin lỗi. Em không cố ý làm vậy. Chỉ là trƣợt tay thôi ạ. - Cậu ta cất

tiếng.

- Không sao, không sao ðâu. Em vào ði, Kingsley. Em có thể ngồi ở phía trên

ðầu này. - Cô Hiệu trƣởng nói, cùng lúc vẫy tay cậu tiến lên hàng ghế ðầu.

Chàng trai nhe rãng cƣời. Cậu bƣớc nghênh ngang dọc lối ði, dáng ðiệu vừa

nghiêng ngả vừa khoan thai. Tóc cậu ðen sáng bóng, tóc mái rủ xuống bên mắt

trái ðầy vẻ thanh tú. Ở cậu toát ra một vẻ tự tin ðến ðộ vênh váo, rất phù hợp với

dáng vẻ ðẹp trai hoàn hảo nhƣ ngƣời mẫu của cậu. Cậu ta mặc một chiếc áo

phông oxford màu trắng hõi rộng và chiếc quần jean bó sát màu ðen, khiến cậu

trông nhƣ thể vừa bƣớc ra từ bìa một chiếc ðĩa CD nào ðó vậy.

Giống nhƣ tất cả các cô gái trong hội trƣờng, Bliss không thể rời mắt khỏi cậu.

41 Barneys (hay còn gọi là Barneys New York): tên một hệ thống chuỗi các cửa hàng (độ lớn

tƣõng ðƣõng Big C hoặc hõn) có trụ sở chính ðặt tại New York ngoài ra còn có mặt tại nhiều

thành phố lớn khác nhƣ Boston, Chicago, San Fracisco, Las Vegas... Rồi nhƣ thể cảm nhận đƣợc cái nhìn chãm chú của cô, cậu quay ðầu lại và nhìn

thẳng vào mắt cô.

Và cậu ðã nháy mắt với cô.CHÝÕNG 19

Tên chàng trai là Kingsley Martin, học sinh nãm ba. Tất cả ðám con gái ở

Duchesne đều đồng ý rằng thậm chí ðến tên chàng ta nghe cũng sexy nữa. Giây

phút anh xuất hiện, cứ nhƣ thể có một ngọn lửa bùng lên dữ dội, lan tỏa khắp

hội con gái. Chỉ trong vòng một tuần, những câu chuyện về anh đã trở thành

huyền thoại. Chƣa gì anh đã đƣợc mời gia nhập đội lacrosse của trƣờng, không

những thế còn có cả ðội bóng ðá và nhiều ðội, nhóm khác. Chƣa hết, anh còn là

một tay thiện xạ đƣợc ðào tạo bài bản hẳn hoi. Anh thậm chí ðã hạ gục giáo

viên tiếng Anh lớp nâng cao với bài thuyết trình về tác phẩm Inferno42 (Địa

ngục) của Dante, với tiêu ðề "Taco Hell" (Ðịa ngục thịt chiên giòn), trong đó

anh đã so sánh các tầng địa ngục với hệ thống đồ ăn nhanh hiện nay. Còn ở lớp

Tích phân cao cấp, anh đã giải quyết một bài toán hóc búa trong khoảng thời

gian kỷ lục.

Vì vậy cũng dễ hiểu khi anh đƣợc các cô gái thầm coi nhƣ "ngƣời tình trong

mộng". Anh ðẹp trai ðến nghẹt thở. Ðó là vẻ ðẹp kết hợp giữa nét quyến rũ kiểu

Hollywood với nét tinh tế, bóng bẩy kiểu châu Âu, và còn có chút gì ðó rất "tà"

nữa. Chàng trai mới này thực sự quá ðỉnh ði.

Và do vậy, Jack Force bỗng nhiên trở thành "ma cũ". Hầu hết các cô gái ðều

học chung với Jack Force từ hồi lớp lá, trong khi đó, Kingsley, cũng bảnh bao

không kém, mang tới một sự thay ðổi mới mẻ và huyền bí. Ngay sau bữa ãn

trƣa, lúc đang đứng trong phòng vệ sinh nữ tô thêm chút son bóng, Mimi Force

42 Inferno là tên phần ðâu của bản trƣờng ca Divine Comedy do nhà thõ ngƣời ý Dante sáng

tác. đã kịp thời bổ sung ngay cho Bliss phần tin sốt dẻo còn lại về anh chàng mới

đến.

- Anh ấy là một Máu Xanh ðấy. - Mimi nói, mồm chu ra tạo thành hình chữ O

trong khi tô đi tô lại lớp son.

- Tớ biết ngay mà. - Bliss ðáp lại. Tất nhiên anh ta là một ma cà rồng rồi, cô ðã

biết điều đó ngay từ giây phút nhìn thấy anh. Cô chƣa bao giờ gặp một ma cà

rồng nào lại phô diễn công khai vị thế Máu Xanh của mình nhƣ thế. Cô còn

ngạc nhiên là sao anh ta chƣa khoe những chiếc răng nănh ra trƣớc toàn trƣờng

cõ ðấy.

- Tớ gặp anh ấy tại Vũ hội Four Hundred. - Mimi nói. - Gia đình anh ấy mới

chuyển tới đây từ London, nhƣng anh ấy từng sống ở nhiều nõi khác nữa: Hồng

Kông, New York, Capetown. Gia đình họ kiểu nhƣ có quan hệ với hoàng gia

hay gì đó vậy. Anh ấy cũng có tƣớc hiệu nào ðó nhƣng chẳng bao giờ dùng ðến

nó.

- Chúng ta có cần phải nhún gối chào anh ta không ðây? - Bliss tếu táo.

Mimi nhíu mày lại.

- Không ðùa ðâu. Họ thực sự thuộc hàng quan chức cao cấp ðấy. Chủ của những

ðiền trang lớn, cố vấn cho Nữ Hoàng... tất cả những việc tƣõng tự vậy.

Bliss cố ngăn không đảo tròn hai mắt. Ðôi lúc Mimi trở nên rất ƣõng bƣớng và

giữ rịt cái thái độ trịch thƣợng của cô nàng, khiến cuộc sống thƣờng nhật này

chẳng còn chút vui vẻ, ðùa nghịch nào. Hai cô gái bƣớc ra khỏi phòng vệ sinh

và ðụng ngay nhân vật chính của cuộc trò chuyện vừa xong. Kingsley đang đi ra khỏi phòng gửi ðồ của nam sinh, cầm theo một cuốn sách da dày. Trông anh

chàng ðậm vẻ ngang tàng và quyến rũ một cách quỷ quyệt. Đôi mắt anh ta nhảy

múa khi trông thấy hai cô gái.

- Xin chào các quý cô. - Anh ta vừa nói vừa nghiêng ðầu chào.

Mimi nở một nụ cƣời duyên dáng.

- Tụi em vừa nhắc đến anh xong.

- Vậy anh hi vọng ðó toàn là những ðiều tốt ðẹp. - Anh nói, mắt nhìn thẳng vào

Bliss.

- Ðây là bạn em, Bliss. Ba cô ấy là Thƣợng nghị sĩ. - Mimi nói trong lúc thúc

khuỷu tay Bliss một cách dữ dội.

- Anh biết. - Kingsley nói, nụ cƣời càng rạng rỡ hõn. Bliss cố hết sức ðể giữ tƣ

thế thoải mái. Khi anh nhìn cô kiểu đó, cô có cảm giác nhƣ mình ðứng ðó mà

trên ngƣời không một mảnh vải che thân.

Hồi chuông thứ hai báo giờ vào học vang lên, cũng có nghĩa là họ chỉ còn năm

phút để đến lớp học tiếp theo.

- Em phải ði thôi. Thầy Korgan tuy già thật nhƣng vẫn có thể tỏ ra là một kẻ

khó chịu. - Mimi nói, đoạn quay ngƣời hƣớng về phía cầu thang.

- À, thế thì chỉ cần làm ông ta im miệng là đƣợc mà. - Kingsley nói. - Chẳng lẽ

em vẫn chƣa biết cách làm vậy sao?

- Anh đang nói cái gì vậy? - Bliss hỏi.

Mimi cƣời lo lắng.

- Anh ấy ðang nói về việc sử dụng phép thuật ðối với giáo viên. Cậu biết ðấy,

phép ðiểu khiển tâm trí ấy mà. Kingsley, anh chỉ giỏi ðùa thôi, anh biết là chúng

ta không đƣợc phép làm vậy mà. Luật không cho phép. Nếu các Giám hộ biết

đƣợc thì...

Đã có các qui định rất rõ ràng cấm chỉ các thiếu niên Máu Xanh sử dụng năng

lực cũng nhƣ khoe khoang sức mạnh siêu nhiên của mình cho tới khi họ thực sự

trƣởng thành. Và Bộ Luật của gia tộc ðã nhấn mạnh rõ: không đƣợc phép ðùa

nghịch với con ngƣời. Phải tôn trọng con ngƣời. Các Máu Xanh có nhiệm vụ

mang lại hòa bình, vẻ ðẹp và ánh sáng tới thế giới này, chứ không phải sử dụng

sức mạnh thần thánh của mình ðể thống trị và ðàn áp.

- Giám hộ giám hiếc gì. - Kingsley cợt nhả với thái độ khinh miệt thấy rõ. - Họ

chẳng bao giờ biết chuyện gì đang diễn ra. Hay em vẫn còn tin rằng họ thực sự

đọc đƣợc suy nghĩ của em? - Anh ta châm chọc.

- Anh tếu thật đấy. Chúng ta nói chuyện sau nhé. - Mimi nói trong lúc bƣớc

nhanh về hƣớng cầu thang.

- Em cũng phải đi đây. - Bliss cất giọng đầy lo lắng.

- Chờ đã.

Bliss nhƣớng hai bên mày lên.

- Em đang tránh mặt anh. - Kingsley chỉ thẳng ra. Đó không phải một lời buộc

tội mà là một sự thật. Anh ta chuyển cuốn sách ðang cầm sang tay kia. Bliss liếc

nhanh cuốn sách. Nó trông không giống một cuốn sách giáo khoa. Nó giống

một trong những cuốn sách tham khảo cổ mà Oliver lấy ra trong Kho Lƣu Trữ

khi bọn họ nghiên cứu về Croatan.

- Anh đang nói gì vậy? Em chỉ mới biết anh thôi mà.

- Em đã quên rồi à? - Kingsley hỏi lại.

- Quên gì cõ chứ?

Kingsley ngắm Bliss từ ðầu tới chân, từ ðôi giày bệt kiểu ba-lê hiệu Chloe cho

tới mái tóc nhuộm highlight của cô.

- Anh thích chiếc váy dạ hội màu lục bảo ðó. Và tất nhiên cả chiếc dây chuyền

nữa chứ. Một sự kết hợp hoàn hảo. Nhƣng anh nghĩ anh vẫn thích em trong

dáng vẻ ƣớt nhƣ chuột lột hõn. Trông em lúc ðó thật yếu ðuối.

- Anh chính là ngƣời trong công viên. - Bliss há hốc mồm kinh ngạc. Chàng trai

đã cứu cô là Kingsley chứ không phải Dylan. Là Kingsley sao?

Sao có thể nhƣ vậy đƣợc? Nhƣ vậy cũng có nghĩa là... trái tim cô nhói ðau...

Dylan đã chết thật rồi sao?

- Em thực sự là một Tiên nữ bên hồ43 vô cùng xinh ðẹp. - Kingsley nói.

43 Tiên nữ bên hồ (Lady of the Lake): nhân vật huyền bí xuất hiện trong các truyền thuyết về

vua Arthur, giúp ðỡ cho vị vua này rất nhiều. Bộ não Bliss căng ra. Nhƣ vậy cũng có nghĩa là cô ðã nhảy với Kingsley tại bữa

tiệc phụ. Anh ta chính là chàng trai ðeo mặt nạ Pierrot.

- Vậy chuyện gì đã xảy ra với Dylan? - Bliss thì thào, nỗi khiếp sợ đang ăn mòn

trái tim cô. Cô đã tin chắc rằng Dylan vẫn còn sống. Nhƣng nếu cậu không phải

là ngƣời cứu cô lúc ở hồ, cũng không phải ngƣời nhảy với cô trong dạ tiệc... cô

phải ðối mặt với sự thực thôi. Cô ðang cố bấu víu vào một giấc mõ hƣ ảo. Dylan

đã ra đi mãi mãi và cậu ấy sẽ chẳng bao giờ quay lại nữa.

- Dylan là ai vậy?

- Không có gì đâu. - Bliss nói trong lúc cố gắng tiếp nhận toàn bộ sự thực. -

Vậy sao lúc ở bữa tiệc anh nói là anh chƣa đi quá lâu, anh có ý gì khi nói vậy?

Chúng ta... chúng ta thực sự biết nhau sao? - Cô hỏi.

Cuối cùng Kingsley cũng tỏ ra nghiêm túc lấy một lần.

- À. Anh xin lỗi. Có vẻ em vẫn chƣa lấy lại hết ký ức, phải không? Em vẫn chƣa

nhận ra anh. Anh thực sự lấy làm tiếc. Anh cứ nghĩ em ðã nhận ra anh khi

chúng ta khiêu vũ cùng nhau. Nhƣng anh đã nhầm.

- Vậy anh là ai? - Bliss tiếp tục hỏi.

Kingsley ghé miệng sát tai Bliss và nhẹ nhàng thì thầm.

- Anh cũng giống nhƣ em thôi.

Hồi chuông cuối cùng ðã vang lên. Kingsley nhíu mày, đoạn nở nụ cƣời toe toét.

- Gặp lại em sau nhé, Bliss.

Bliss ngồi sụp xuống, dựa sát vào tƣờng, hai đầu gối cô run rẩy, trái tim cô đập

liên hồi trong lồng ngực. Anh ðứng gần cô quá, thậm chí lúc này cô vẫn còn

cảm nhận đƣợc hõi thở của anh trên má mình. Rốt cuộc anh ta là ai? Những

ðiều anh ta nói là thế nào? Và liệu có khi nào cô biết ðƣợc chuyện gì đã thực sự

xảy ra với Dylan không?CHÝÕNG 20

Sáng thứ Sáu, ngay giây phút bƣớc xuống dƣới nhà ãn sang, Schuyler ðã nhận

ra có điều gì đó khác lạ trong phòng khách - ánh nắng mặt trời. Căn phòng

bừng sáng trong ánh mặt trời, chìm ngập trong những tia vàng rực rỡ. Những

tấm vải bạt che phủ trên ðồ ðạc ðã đƣợc gỡ bỏ, từ cửa sổ hắt vào những tia nắng

chói lọi tới ðộ làm ngƣời ta lóa mắt. Lawrence Van Alen đang đứng ở giữa

phòng, chăm chú nhìn bức chân dung cũ kỹ treo phía trên bệ lò sƣởi. Mấy cái

hòm lỗi thời dàn ðều trong hành lang, bên cạnh một cái rƣõng to, mòn vẹt hiệu

Louis Vuitton. Hattie và Julius ðang ðứng quanh ông, tay nắm chặt. Hattie nhìn

thấy Schuyler trƣớc tiên.

- Cô Schuyler! Tôi không thể ngăn cản nổi ngƣời này, ông ta có chìa khóa. Ông

ta nói mình là chủ nhà này, và rồi ông ta bắt ðầu kéo mấy tấm rèm ra, còn yêu

cầu chúng tôi gỡ bỏ những tấm vải phủ nữa. Ông ta nói ông ta là ông ngoại của

cô. Nhƣng phu nhân Cordelia đã là một quả phụ kể từ khi tôi gặp bà.

- Không sao ðâu, Hattie. Mọi chuyện ổn rồi. Julius, tôi sẽ lo chuyện này. -

Schuyler nói, trấn an hai ngƣời phục vụ. Bà quản gia và ông tài xế ném cái nhìn

ngờ vực vào kẻ xâm phạm ngôi nhà của họ, nhƣng vì Schuyler đã nói vậy, họ

cũng nhanh chóng lui khỏi phòng.

- Ông ðang làm gì ở đây vậy? - Schuyler thắc mắc. - Cháu tƣởng ông không

muốn dính vào rắc rối.

Cô cố tỏ ra giận dữ nhƣng tất cả những gì cô cảm thấy lúc này là niềm hân hoan.

Ông ngoại của cô đã trở về! Liệu có phải ông đã đổi ý rồi không?

- Không phải đã rõ ràng rồi sao? - Lawrence hỏi lại. - Ta đã trở về rồi đây.

Những lời của cháu nhƣ xát muối vào nỗi ðau của ta, Schuyler ạ. Ta không thể

chịu đựng đƣợc chính mình khi nghĩ rằng ta đã hành động nhƣ một kẻ hèn nhát.

Hãy tha thứ cho ta, đã rất lâu rồi kể từ khi Cordelia và ta hẹn ƣớc với nhau. Ta

chƣa bao giờ nghĩ rằng sẽ có ai đó đến tìm ta.

Ông tiến lại phía cửa sổ nhìn ra sông Hudson đang bị đóng băng. Schuyler đã

quên mất rằng phòng khách nhà họ có một tầm nhìn tuyệt vời đến vậy. Bao

nhiêu nãm qua, Cordelia luôn kéo rèm che kín những cánh cửa sổ lại.

- Ta không thể để cháu quay trở lại với cuộc sống nhƣ trƣớc ðây, trõ trọi một

mình đƣợc. Ta đã chịu lƣu ðày ðủ lâu rồi. Ðã đến lúc để New York nhớ lại sức

mạnh cũng nhƣ sự huy hoàng của dòng họ Van Alen. Và ta về đây còn để nuôi

dạy cháu nữa. Suy cho cùng thì cháu cũng là cháu ngoại của ta.

Ðáp lại lời ông, Schuyler vùi mình vào vòng tay ông ngoại và ôm ông thật chặt.

- Cordelia đã ðúng về ông. Cháu biết là bà luôn ðúng mà.

Nhƣng trƣớc khi cô có thể nói thêm ðƣợc điều gì, tiếng chuông cửa ồn ã vang

lên liên hồi, nhƣ thể ai ðó ấn mạnh vào nó trong tâm trạng cáu kỉnh cực ðộ.

Schuyler nhìn ông ngoại cô.

- Ông đang đợi ai ạ?

- Không phải giờ này. Tuần sau Anderson mới về ðây, sau khi ông ấy ðã dọn

dẹp xong xuôi những ngôi nhà của ta ở Venice. - Lawrence sầm mặt lại. - Hóa

ra chuyến trở về của ta không đƣợc kín đáo nhƣ ta hi vọng.

Hattie bƣớc ra định mở cửa, nhƣng Lawrence đã ngãn bà lại.

- Ta sẽ lo chuyện này. - Ông vừa nói vừa mở cửa.

Charles Force và vài Giám hộ khác trong Ủy Ban ðang ðứng nõi bậc thềm,

trông ðầy vẻ quả quyết và tức tối.

- A, Lawrence. - Charles Force cƣời hờ. - Thật vinh hạnh cho chúng tôi đƣợc

gặp ông lần nữa.

- Charles. - Lawrence gật ðầu chào lại.

- Chúng tôi vào ðƣợc chứ?

- Tất nhiên rồi. - Lawrence ðáp lại bằng giọng hòa nhã. - Schuyler, ta tin rằng

cháu đã biết các vị đây. Charles, Priscilla, Forsyth, Edmund, ðây là cháu ngoại

tôi, Schuyler.

- Vâng, ƣm. Xin chào. - Schuyler nói, tự hỏi tại sao ông ngoại cô lại cƣ xử nhƣ

thể các Giám hộ ðõn giản chỉ ghé qua chào hỏi thân mật.

Những ngƣời kia không thèm ðếm xỉa gì đến Schuyler.

- Lawrence, tôi rất lấy làm tiếc. - Priscilla Dupont cất giọng nói du dƣõng, dịu

dàng của mình. - Tôi đã không ngăn đƣợc họ.

- Không sao, bạn thân mến. Nếu có điều gì tôi muốn nói thì ðó là tôi rất mừng vì

đƣợc gặp lại cô. Cũng đã lâu rồi còn gì, từ khi ở Newport.

- Quá lâu rồi. - Priscilla đồng tình.

- Ðủ rồi ðấy. - Charles nóng nảy cắt ngang. - Lawrence, tôi không nhớ là Ủy

Ban đã cho phép ông quay về. Ông phải có mặt trƣớc Hội đồng để khai báo

chính thức. Hãy ði cùng chúng tôi ngay bây giờ.

- Chuyện gì ðang diễn ra vậy? - Schuyler gào lên khi hai Giám hộ xông tới, mỗi

ngƣời giữ một tay Lawrence. - Họ định đƣa ông đi đâu?

- Đừng sợ, cháu gái của ta. - Lawrence đáp. - Vì chẳng còn lựa chọn nào khác

nên ta ðành phải vui vẻ mà ði thôi. Charles, anh sẽ chẳng thể tìm đƣợc điều gì

khả nghi ở tôi đâu. Schuyler, ta sẽ về sớm thôi.

- Cái đó còn phải chờ xem thế nào đã. - Charles Force khịt mũi.

Schuyler nhìn đám ngƣời trong Ủy Ban áp giải ông ngoại cô ra khỏi cửa và chui

vào trong những chiếc xe hõi ðen ðậu trƣớc cửa tòa nhà. Cô cảm thấy muốn

khóc. Ðúng lúc cô cho rằng sự cứu cánh cuối cùng cũng tìm đến với cô thì nó

lại bị tƣớc đoạt mất ngay khi vừa xuất hiện.

- Ông ta ði rồi sao? - Hattie hỏi trong lúc lao ra từ nhà bếp. - Tạ õn Chúa.

- Ông ấy sẽ quay lại. - Schuyler nói. Cô tiến về phía bức chân dung mà

Lawrence đã nhìn chăm chú ban nãy. Ðó là một bức tranh sõn dầu ðã đƣợc quét

lớp bảo hộ chống axit bào mòn; bức tranh vẽ cảnh một đám cƣới từ hồi đầu thế kỷ mƣời tám. Trong bức tranh, Cordelia mặc váy cƣới, ðoan trang và nghiêm

nghị. Ngƣời ðàn ông ðứng bên cạnh bà mặc một chiếc áo ðuôi tôm mới cứng và

thắt một chiếc cà vạt lớn, dáng vẻ cao ngạo không lẫn vào ðâu ðƣợc của một

Lawrence Van Alen trẻ tuổi.Mục Lýu trữ tờ New York Herald

Số ra ngày 10 tháng Hai nãm 1872

THÔNG BÁO KẾT HÔN

Thiệp mời dự hôn lễ giữa quý cô Caroline Vanderbilt, con gái Đô đốc Hải quân

và phu nhân Vanderbilt, và Ngài Alfred Burlington ðã đƣợc gửi đi. Hôn lễ sẽ

diễn ra vào tối thứ Nãm, ngày 29 tháng Hai, lúc 6h tại nhà bố mẹ cô dâu, số 800

Đại lộ 5. Đức cha Cushing đã đƣợc mời làm ngƣời chủ trì hôn lễ. Phù dâu là cô

Ava Vanderbilt, em gái của cô dâu và phù rể là Hầu tƣớc vùng Essex. Sau hôn

lễ là một bữa tiệc chiêu ðãi trọng thể. Với vị thế của gia đình nhà gái, sẽ có

khoảng tám trãm khách mời, trong ðó có Thống ðốc và thị trƣởng New York.

Ngài Burlington, con trai cả của Công tƣớc và Nữ Công tƣớc vùng Devonshire,

là một nhà môi giới hiện có sản nghiệp tại cả London và New York. Ngay sau lễ

cƣới, cô dâu và chú rể sẽ khởi hành chuyến du lịch dài ngày tới tiểu lục ðịa Ấn

Độ.

CHÝÕNG 21

Một nam sinh ðang ðứng chới với trên thanh chắn ban công ngoài thƣ viện tầng

ba.

Những khi tiết trời trở nên ấm áp, ban công này ðƣợc đặt cho cái nick thân mật

là "Câu lạc bộ Duchesne" vì học sinh vẫn thƣờng tụ tập tại ðây vào giờ nghỉ

trƣa ðể ngồi phõi nắng với những cái ống quần jean xắn lên thành quần soóc,

những cô gái cởi bớt nút áo, ðể hở tới mức mà họ dám, còn các chàng trai thì

sẵn sàng ði xa hõn: họ cởi luôn cả áo. (LOL)

Nhƣng lúc này ðang là giữa tháng Một, các cánh cửa sổ dẫn ra ngoài hành lang

ðều bị khóa. Trừ hôm nay. Ngày hôm nay, ðã có ai đó mở một trong những

cánh cửa đó ra, khiến một luồng gió lạnh cắt da cắt thịt tràn vào khắp thƣ viện,

và giờ thì có ai ðó ðang ở ngoài hiên, ðứng thãng bằng trên thanh chắn ban công

bằng sắt mỏng manh dày ðúng bốn inch (khoảng 10cm).

Jack ðang trên ðƣờng từ bên phân khu âm nhạc quay trở lại tòa nhà chính thì bắt

gặp cảnh một đám đông tụ tập ngay chỗ khoảng sân sau tòa nhà. Cậu nhìn thấy

Schuyler chạy qua cửa hông của tòa nhà chính, khuôn mặt cô hằn lên nỗi lo lắng

khi nói chuyện với bạn mình, Oliver Máu Đỏ.

Jack quay đầu qua hƣớng khác, kéo đôi mắt rời khỏi Schuyler, thầm ƣớc chính

cậu mới là ngƣời cô chạy đến để tìm kiếm sự an ủi. Rồi cậu nhìn lên chỗ đám

ðông ðang chỉ trỏ và nhận ra nam sinh kia. Cậu ta học nãm nhất, là một Máu Ðỏ,

lúc này cậu ta ðang ðứng trên thanh chắn ban công với cái nhìn đờ đẫn, trống

rỗng trên khuôn mặt.

- Nhảy ði! - Soos Kemble hét to, tiếng hét của cô ta vỡ ra trong những tràng

cƣời khúc khích.

- Cậu ta nghĩ mình ðang làm cái gì vậy? - Một cô gái khác hỏi, vừa hoảng sợ

vừa kích động.

Jack nhận ra đám đông coi tình huống này nhƣ một trò tiêu khiển. Một nửa số

họ háo hức, dù là vô tình, mong cho cậu bé rõi xuống. Cứ thế này thì chắc chắn

các lớp học sẽ bị hoãn lại trong suốt phần còn lại của ngày hôm đó thôi.

- Thôi nào! Làm gì thì làm nhanh đi! Chiều nay, tôi còn có một bài toán Ðại mà

tôi chẳng muốn làm tẹo nào ðây này! - Ai ðó kêu lên.

Ở một góc khuất sau hàng rào tạo nên bởi những chiếc ghế ðá xếp liền kề, Jack,

nhờ khả nãng siêu thính, ðã nghe đƣợc tiếng của Kingsley Martin. Anh chàng

mới đến đang phá ra cƣời với Mimi.

- Bắt nó múa một vòng đi. - Mimi nói.

Kingsley vẫy tay một cái, và cậu bé trên thanh chắn thực hiện một cú xoay kiểu

ba lê trên ðầu ngón chân. Cả ðám ðông nín thở. Nhƣng rồi cậu ta lại hạ cánh an

toàn trên hai chân. Chính cậu ta cũng có vẻ sốc vì những gì vừa xảy ra, nhƣ thể

cậu ta không tự điều khiển đƣợc...

Không tự điều khiển đƣợc...

Jack quắc mắt liếc về phía Kingsley. Ngay giây phút đó, cậu hiểu chuyện gì

đang diễn ra. Kingsley đã sử dụng thần chú để điều khiển tâm trí cậu bé kia, nhƣ một bậc thầy ðiều khiển rối ðang chõi ðùa với những sợi dây. Tại những cuộc

họp mặt của Ủy Ban, họ đều đƣợc đe rằng sẽ có những hình thức kỷ luật

nghiêm khắc cho bất cứ ai dám sử dụng sức mạnh ðối với Máu Đỏ, trừ khi bị

khiêu khích. Jack cảm thấy cõn thịnh nộ ðiên cuồng ðang dâng lên trong cậu.

Tên ðần ðộn kiêu cãng, ngu ngốc. Kingsley sẽ ðẩy tất cả bọn họ vào nguy hiểm.

- Thả cậu ta ra! - Jack ra lệnh, giõ lòng bàn tay lên, hai mắt cậu nhƣ lƣỡi dao

phóng tới Kingsley.

Đám đông quay lại để nhìn xem ai đã gây ra cảnh tƣợng này.

- Ôi, tụi này chỉ ðang giải trí chút thôi mà, anh bạn. - Kingsley nói, và chỉ bằng

một cái xoay cổ tay khác, cậu bé kia ngừng quay ngay lập tức. Cậu ta thét lên

thất thanh khi nhận ra mình ðang ðứng trõ trọi trên thành ban công. Cậu ta

loạng choạng khiến chân trái cậu trƣợt khỏi rào chắn...

- Martin! Đƣa cậu ta xuống! NGAY!

- Nếu cậu cứ khăng khăng nhƣ vậy. - Kingsley nói, lúc này khuôn mặt đã hiện

lên vẻ chán chƣờng. Cậu bé kia lại giữ đƣợc thãng bằng và nhảy khỏi rào chắn

xuống thềm ban công một cách an toàn.

- Modo caecus. - Jack thì thầm câu thần chú che ðậy lên tất cả các Máu Ðỏ

chứng kiến sự việc vừa rồi, khiến họ quên ði tất cả những gì họ đã nhìn thấy từ

nãy tới giờ.

- Thật ngu ngốc và mạo hiểm, chƣa nói ðến chuyện nó tàn ác và hạ cấp làm sao.

- Jack nói, mặt đối mặt với Kingsley. Cậu chƣa từng cảm thấy giận dữ nhƣ vậy

trong đời mình. Và nhìn thấy Mimi đứng ðó cạnh anh ta chỉ càng làm cho mọi chuyện tồi tệ hõn. Có phải cậu thực sự ðang ghen? Hay chỉ là cảm giác giận dữ

và thất vọng khi biết rằng em gái mình tham gia vào những hành vi hạ đẳng nhƣ

vậy?

- Ðừng làm kẻ phá bĩnh nhƣ thế chứ, Force. - Kingsley lên tiếng. - Có hại gì

đâu, đúng không?

- Ừm, Jack, bớt nóng ði mà. - Mimi nói. - Nó chỉ là một ðứa nãm nhất thôi mà.

Sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra đâu.

- Vấn đề không phải ở đó, Mimi. - Jack nói. - Các Giám hộ sẽ nghe đƣợc

chuyện này.

- Ồ, các Giám hộ cõ ðấy. - Kingsley phá ra cƣời. - Nghe này, sao cậu không

ðứng về phía tôi nhỉ? - Anh ta tiếp tục chế nhạo. - Hay là cậu quá yêu bọn Máu

Đỏ tới mức đã quên mất máu của mình màu xanh?

Jack ðỏ mặt tới tận rễ mái tóc vàng óng mƣợt của cậu.

- Nhà Force các ngƣời, hay là bất cứ cái gì các ngƣời tự gọi mình vào thời này,

chẳng là cái quái gì nếu không có gia đình tôi, không có sự hi sinh mà chúng tôi

đã phải gánh chịu. - Kingsley nói giọng cay ðộc. Anh ta qay gót và bƣớc đi. -

Bất cứ lúc nào cậu muốn nuốt mấy lời vừa rồi, Force, cậu biết phải tìm tôi ở đâu

rồi đấy.

- Jack, ðó chỉ là một trò ðùa thôi mà. - Mimi nói, cố gắng xoa dịu anh trai mình.

- Bỏ đi. - Jack nói, hất tay cô khỏi vai cậu. Cậu bƣớc đi thật nhanh, để mặc

Mimi chạy theo sau với bộ mặt cáu kỉnh.

- Jack, chờ em đã, thôi nào.

Nhƣng Jack không hề quay lại. Tai cậu ðang rần lên cảm giác nhƣ thiêu ðốt vì

xấu hổ khi bị công kích ngay tại chốn đông ngƣời. Hành ðộng ban nãy có phải

là khôn ngoan không? Cậu cần phải ngăn Kingsley lại, đúng không? Hay cậu

ðúng là nhạt nhẽo nhƣ em gái cậu đã từng nói? Dù sao thì, những gì Kingsley

nói là thế nào vậy? Nhà Martin ðã phải hi sinh cái gì?

Cậu phải hỏi rõ ba mình về chuyện này mới đƣợc.CHÝÕNG 22

Oliver giữ một chỗ bên cạnh mình trong phòng thí nghiệm môn Hóa cho

Schuyler. Cậu đƣa cho cô kính bảo hộ, sau đó cô mặc áo khoác bảo hộ bằng chì

vào.

- Hôm nay chúng ta sẽ làm gì đây? - Schuyler hỏi trong lúc chỉnh lại chiếc kính

bảo hộ trên sống mũi. Oliver ðã đeo kính xong từ trƣớc. Cả lớp trông nhƣ thể

một xƣởng toàn thợ hàn. Ở ðầu kia cãn phòng, Mimi ðang to tiếng phàn nàn

rằng cái kính ðể lại vết hằn ðỏ xấu xí trên mũi cô nàng nhƣng chẳng ai thèm chú

ý.

- Lại làm kẹo à? - Schuyler hỏi.

Oliver kiểm tra cái mỏ ðèn44 và vặn nó lên từ từ ðể nó xì ra ngọn lửa nhỏ màu

đỏ.

- Yup.

Trƣớc đây, trƣờng Duchesne từng có một trong những giáo viên khoa học có

khả năng sáng tạo nhất, lại còn có tài ăn nói lôi cuốn, đảm nhận việc giảng dạy

môn học này. Trên thực tế, phòng thí nghiệm Hóa đƣợc các học sinh yêu thích

ðến nỗi cả học sinh nãm hai và nãm ba ðều ðƣợc phép coi ðây là môn học tự

44 Mỏ ðèn: chọn. Nhƣng thầy Anthony, ngƣời mới tốt nghiệp trƣờng Yale45, rất nhiệt tình

với nét cá tính trẻ trung, đã bị đuổi khỏi trƣờng từ sau kỳ nghỉ đông, vì có quan

hệ tình ái với một trong những học sinh của mình và đã khiến ngƣời này có thai.

Thầy Anthony thì bị đuổi việc còn nữ sinh kia thì bị ðuổi học. Dù sao, ðây cũng

không phải "Trƣờng cấp II Degrassi"46. Ðây là Trƣờng Duchesne.

Mọi chuyện sau ðó vẫn diễn ra hoàn toàn tốt ðẹp, trừ một sự thật là thầy

Anthony và những thí nghiệm nâng cao nhƣng đầy hứng thú của mình đã ra đi

(học kỳ trƣớc, bọn họ đã làm thí nghiệm biến ðồng thành vàng, dù chỉ là mấy

cái ðĩa mạ vàng thôi), khiến các học sinh bị kẹt lại với thầy giáo già tẻ nhạt

Korgan, ngƣời mà giáo trình lúc nào cũng là một chuỗi các thí nghiệm mà cái

sau thậm chí còn ngu ngốc hõn cái trƣớc. Mật ðộ tính toán này. Quyết ðịnh

thành phần cấu tạo của nƣớc này. Nhận biết sự hòa tan trong môi trƣờng axít,

bazõ hoặc môi trƣờng trung hòa nữa chứ. Oooaa (Ngáp dài). Thầy Korgan "rùa

bò" ðến nỗi mà trong hai tuần liền, cả lớp chỉ làm ði làm lại thí nghiệm tạo ra

phản ứng hóa học với hyðro và fruc-tô-zõ hay còn đƣợc biết ðến với cái tên

"biến đƣờng và nƣớc thành kẹo".

Schuyler đã sẵn sàng đặt cái khay chứa đầy nƣớc lên trên mỏ ðèn thì thầy

Korgan thông báo rằng hôm nay họ sẽ làm có một sự thay ðổi nho nhỏ trong

phòng thí nghiệm.

- Tôi muốn các em, khụ khụ, mỗi tuần lại ðổi bạn cùng làm thí nghiệm một lần.

Gần ðây lớp ta trở nên rất mất trật tự, cho nên tôi phải, khụ khụ, tách các em ra

45 Ðại học Yale: thuộc New Have, bang Connecticut, là một trong 8 trƣờng đại học danh

tiếng nằm trong Ivy Leauge (Hiệp hội các trƣờng đại học tƣ thục hàng ðầu Bắc Mỹ). Ivy

League gồm có ĐH Yale, ĐH Brown, ĐH Columbia, ĐH Cornell, ĐH Dartnouth, ĐH

Havard, ÐH Princeton và ÐH Pennsylvania.

46 Degrassi Junior High: một bộ phim truyền hình của Ðài CBC Canada, nói về vấn ðề tệ nạn

học đƣờng bao gồm phân biệt chủng tộc, lạm dụng trẻ em và có thai khi chƣa tới tuổi thành

niên. khỏi bạn của mình. Bây giờ, mời ngƣời ngồi bên trái của bàn thí nghiệm di

chuyển sang bàn kế bên ðó và cứ nhƣ vậy hết một vòng. Chúng ta sẽ lại đổi

phiên theo cách tƣõng tự sau một tuần học.

Oliver và Schuyler trông có vẻ ðau khổ.

- Gặp lại cậu sau giờ học vậy. - Oliver nói trong lúc Schuyler thu nhặt ðồ dùng

và chuyển sang bàn tiếp theo, nõi Kingsley Martin ðang ðứng. Bất cứ thứ gì, dù

là chiếc kính bảo hộ bằng nhựa to ðùng kia, ở trên khuôn mặt anh thì cũng chỉ

làm tãng thêm vẻ ðẹp của anh bằng cách nhấn mạnh rõ rằng chẳng có thứ gì có

thể làm giảm vẻ ðẹp trai của anh, thậm chí là dấu hằn của hai mắt kính nhựa.

Kingsley có thể mặc quần polyeste và ðể râu quai nón kiểu Groucho mà trông

vẫn nóng bỏng. Schuyler chƣa nhìn kỹ anh chàng này lắm từ lúc anh ta đến đây,

mặc dù cô ðã nghe thấy những lời tán dƣõng anh, và cũng ðã chứng kiến thái độ

kiêu ngạo của anh ở dƣới sân sau hồi sáng nay.

- Rất tiếc về chuyện của ông em. - Anh cất tiếng nhƣ một lời chào hỏi. Schuyler

cố gắng không thể hiện nét kinh ngạc ra mặt. Nhƣng Kingsley ðích thực là một

Máu Xanh. Ba mẹ anh ta có lẽ còn là những thành viên cấp cao trong gia tộc ấy

chứ.

- Ông ấy sẽ ổn thôi. - Cô đạp gọn lỏn trong lúc chờ cho nƣớc trong khay sôi lên

sùng sục.

- Ồ, chắc chắn rồi. Tôi ƣớc gì mình có ở ðó ðể chứng kiến Lawrence và Charles

đối đầu với nhau. Y nhƣ ngày xƣa vậy.

- Uh-huh. - Schuyler gật ðầu, không muốn ði sâu vào cuộc trò chuyện. Cô vẫn

chƣa cho Oliver biết chuyện Lawrence đã trở về. Cô có phần hõi mê tín về chuyện này. Ngộ nhỡ Ủy Ban sẽ bắt ông quay lại Ý ngay sau đó thì sao? Nhƣ

vậy lúc đó cũng chẳng còn gì mà kể.

- Nói tôi nghe xem nào, em vẫn còn bị chàng trai ðó ám ảnh à?

- Gì cõ? - Schuyler hỏi lại, tay giữ lấy ống nghiệm.

- Không có gì. - Kingsley nhún vai, tỏ vẻ ngây thõ. - Nếu em muốn giả bộ thì

cứ nhƣ vậy luôn ði. - Anh ta trêu chọc.

Tranh thủ lúc Kingsley không chú ý, Schuyler chãm chú vào nét mặt nhìn

nghiêng của anh. Anh ta ðã ở Vũ hội Four Hundred, cô nghe nói vậy. Liệu anh

ta có thể là chàng trai ẩn sau mặt nạ ðen mà cô ðã hôn lúc ở bữa tiệc phụ không

nhỉ? Schuyler vô thức ðặt một tay lên môi. Nếu anh ta chính là chàng trai ðó, thì

cũng có nghĩa là dù cô thấy anh thật ðáng ghét nhƣng vẫn có cái gì đó ở anh

khiến cô bị thu hút? Oliver luôn trích dẫn lời của Foucault47 rằng ðam mê bắt

nguồn từ sự khiếp sợ.

Một ý nghĩ vu võ chợt thoáng qua ðầu cô: ngộ nhỡ chàng trai trong chiếc mặt nạ

ðen ðó là Oliver thì sao? Cũng có nhiều Máu Ðỏ tại bữa tiệc... và Oliver vốn rất

ghét bị bỏ ngoài bất cứ cuộc vui nào. Cô dám chắc cậu ấy thừa khả nãng khám

phá ra chuyện về buổi tiệc phụ. Liệu có phải cô bị chàng trai ðeo mặt nạ thu hút

vì ðó là bạn thân nhất của cô? Có phải họ ðã thực sự hôn nhau? Ðó là lý do tại

sao gần đây cậu rất tử tế với cô? Cƣ xử với cô dịu dàng hõn trƣớc rất nhiều?

Cô đƣa mắt liếc trộm cậu bạn ở phía bên kia phòng, nhận ra nỗi kinh khiếp của

cậu khi Mimi Force, bạn cùng làm thí nghiệm với cậu, ðốt fruc-tô-zõ cháy ðến

nỗi nó tan ra thành một ðống thảm họa bầy nhầy có mùi kẹo. Nếu ðúng là cô ðã

47 Michel Foucault (1926 - 1984): nhà triết học ngƣời Pháp. hôn Oliver thì có nghĩa là giờ họ đã trên mức bạn bè? Họ sẽ bắt đầu hẹn hò chứ?

Liệu cô có thực sự bị cậu thu hút theo cách đó không? Schuyler nhìn mái tóc

màu hạt dẻ che phủ ðôi mắt cậu và nhớ lại, lúc ở Venice, cô ðã chẳng muốn gì

hõn là ðƣợc nếm máu của cậu. Điều đó có đồng nghĩa với sự hấp dẫn không?

Và ai mà biết ðƣợc Oliver nghĩ gì về cô chứ?

Schuyler ðặt những chiếc kẹo vuông vức hoàn hảo lên bàn, và bắt gặp ánh mắt

của một chàng trai khác cũng ở bên kia cãn phòng. Jack Force. Dạ dày cô lập

tức quặn thắt lại. Ðột nhiên Schuyler nhận ra rằng cô chỉ ðang tự trêu ðùa bản

thân. Cô ðang ðùa nghịch với cái ý tƣởng mình thích Kingsley hoặc Oliver.

Nhƣng thực sự cô biết rằng cô luôn nâng niu tia hy vọng không-thèm-giấu-diếm

về thân thế chàng trai cô ðã hôn: cô thầm ƣớc chỉ một cái tên và một cái tên duy

nhất.

Jack.CHÝÕNG 23

Lúc Schuyler đi học về vẫn chƣa thấy Lawrence quay lại. Cô bảo Julius mang

hành lý của ông lên phòng Cordelia. Hành lang trở nên trõ trọi và hoang vắng.

Hattie đã chuẩn bị món súp, Schuyler chỉ việc chờ mang khay của mình lên

phòng riêng, vừa ngồi trƣớc máy tính vừa ãn lát thịt nguội và khoai tây nghiền.

Cordelia không bao giờ đồng ý những chuyện nhƣ vậy. Bà ngoại cô rất quan

trọng việc Schuyler phải có mặt ở bàn ãn tối và cƣ xử đúng mực trong bữa ăn.

Nhƣng giờ Cordelia chẳng còn ở ðây ðể mà giám sát cô nữa. Schuyler ðể con

Xinh Ðẹp ãn nốt phần thừa trên ðĩa trong lúc cô kiểm tra email và làm bài tập

về nhà với sự chuyên tâm nửa vời. Sau ðó, cô mang khay thức ãn xuống nhà

bếp và giúp Hattie khởi ðộng máy rửa bát. Lúc ðó ðã là sau chín giờ. Ông ngoại

cô đã đi đƣợc hõn mƣời hai tiếng rồi. Cuộc họp bàn sẽ còn kéo dài bao lâu nữa

đây?

Cuối cùng, khi ðã quá nửa ðêm một vài phút thì Lawrence vặn khóa mở cửa vào

nhà. Trông ông có vẻ kiệt sức. Khuôn mặt ông hốc hác, phờ phạc. Schuyler

thầm nghĩ ông cô trông nhƣ thể già ði ðến vài chục tuổi.

- Chuyện gì đã xảy ra vậy ạ? - Cô hỏi, lo lắng về tình trạng của ông. Cô chạy

nhƣ bay từ chỗ ngồi bên cửa sổ phòng khách, nõi cô ðang gà gật. Thật ngạc

nhiên, cãn phòng khách, giờ khi không còn mấy tấm vải bạt phủ kín nặng nề

nữa, đã trở thành chỗ trú thoải mái nhất trong nhà. Dù Hattie đã nhóm lửa trong

lò sƣởi nhƣng Schuyler vẫn không thể nhìn đƣợc hết toàn bộ cảnh dòng sông về

ðêm. Lawrence ðặt chiếc mũ phớt mềm nhàu nhĩ lên trên giá, rồi thả mình

xuống chiếc ghế sô-pha cổ đối diện lò sƣởi. Những hạt bụi rõi ra khi ông

chuyển tƣ thế tại chỗ ngồi.

- Ta cứ nghĩ Cordelia tối thiểu cũng phải bỏ ra ít tiền ðể giữ cho nõi này sạch sẽ

một chút chứ. - Ông quạu cọ - Ta đã ðể lại cho bà ấy một số tiền tiết kiệm kha

khá cõ mà.

Cordelia luôn tạo cho Schuyler ấn tƣợng rằng họ đã cạn tiền, và họ chỉ ðủ sức

chi trả những thứ cực kỳ cần thiết nhƣ là học phí của Schuyler tại Duchesne,

thức ãn, các nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống hàng ngày, và tiền công cho

hai ngƣời phục vụ già trong nhà. Bất cứ món gì ngoài mấy thứ kể trên, nhƣ quần

áo mới, tiền xem phim hay ði nhà hàng ðều buộc phải tính toán chi li ðến từng

tờ đô một.

- Bà ngoại luôn nói rằng chúng ta ðã phá sản. - Schuyler nói.

- Hiển nhiên cuộc sống hiện giờ của chúng ta ðối chọi hẳn với quá khứ huy

hoàng trƣớc kia, nhƣng nhà Van Alen chúng ta còn lâu mới tới mức phá sản.

Hôm nay ta đã ði kiểm tra lại các tài khoản ngân hàng. Cordelia ðã có nhiều

khoản đầu tƣ khôn khéo. Lãi đẻ lãi. Chúng ta thậm chí còn đủ sức để cải tổ lại

ngôi nhà này, ðƣa nó về vị trí vốn có của nó nhƣ trƣớc kia nữa kìa.

- Ông đã ði tới ngân hàng ạ? - Schuyler hỏi, có chút bất ngờ trong giọng nói.

- Đúng vậy, ta đã làm vài chuyến lòng vòng đó đây. Đã lâu rồi ta không ở trong

thành phố. Thế giới thay ðổi mới kỳ diệu làm sao. Sống ở Venice có thể khiến

con ngƣời ta quên mất ðiều ðó. Ta cũng tình cờ gặp lại một vài ngƣời bạn.

Cushing Carondolet cứ nài nỉ ta tới ãn tối với ông ấy ở câu lạc bộ cũ. Ta xin lỗi,

đáng ra ta đã về sớm hõn, nhƣng ta phải tìm hiểu xem Charles đã làm đƣợc

những gì trong thời gian ta vắng mặt.

- Vậy chuyện gì đã xảy ra với mấy ngƣời trong Ủy Ban?

Lawrence rút một điếu xì gà ra khỏi túi áo và cẩn thận châm lửa.

- Ồ, tại phiên tòa ý hả?

- Vâng. - Schuyler mất kiên nhẫn ðáp lại, cảm thấy thái ðộ vô tƣ lự của

Lawrence thật bí hiểm.

- À thì, họ đã đƣa ta đến Kho Lƣu Trữ. - Lawrence nói - Ta đã giải trình trƣớc

Hội đồng - "bộ sậu" các lãnh đạo cao cấp nhất trong gia tộc, gồm các Giám hộ

và các Trƣởng bối. Những Tối Bất Tử nhƣ ta. "Tối Bất Tử" là những ma cà

rồng, trải qua hàng bao thế kỷ, vẫn giữ ðƣợc hình dạng cõ thể và khuôn mặt y

nguyên nhƣ ban đầu, các Tối Bất Tử đƣợc miễn trừ khỏi chu kỳ ngủ ðông và

thức tỉnh, mà giờ ðây chúng ta vẫn gọi là "ðầu thai" ðó.

- Ta chƣa từng gặp bè lũ nào ðáng chán hõn mấy kẻ này. - Lawrence tiếp tục

nói, trề môi ra tỏ vẻ chán ghét. - Forsyth Llewellyn là một thƣợng nghị sĩ, chắc

cháu đã biết chuyện đó? Hồi còn ở Plymouth, hắn chỉ là đầy tớ của Micheal.

Ðúng là ðáng hổ thẹn. Và còn hoàn toàn trái với Luật nữa chứ. Cháu biết đấy,

không phải lúc nào cũng xảy ra trƣờng hợp nhƣ vậy đâu. Trƣớc đây chúng ta đã

từng nắm quyền thống trị trong xã hội loài ngƣời. Nhƣng sau thảm họa ở

Rome48, tất cả đều đồng ý rằng việc tham chính quyền lực trong xã hội loài

ngƣời sẽ không bao giờ đƣợc chấp thuận nữa.

Schuyler gật đầu. Cordelia đã nói cho cô nghe chuyện này.

48 "Thảm họa ở Rome" này có khả nãng nhắc tới việc Lucifer lúc ðó ðã đạt đến đỉnh cao

quyền lực trong xã hội - Quốc vƣõng. Vì vậy khiến cuộc chiến giữa các ma cà rồng Bạc và

Xanh càng trở nên khó khãn hõn.

- Và mới ðây bọn chúng ðã ðá nhà Carondolet ra khỏi Hội Ðồng. Cushing đã kể

với ta mọi chuyện. Ông ấy bị trục xuất vì đã dám đề xuất một Candidus

Suffragium.

- Ðó là gì ạ?

- Phiếu Trắng. Trong cuộc bầu chọn ngƣời lãnh đạo gia tộc. - Lawrence nói, đá

tung ðôi giày mũi chóp và vẫy vẫy bàn chân đi tất trƣớc lò sƣởi.

- Cháu tƣởng Micheal - Charles là Thủ lĩnh chứ. Và sẽ mãi mãi là nhƣ vậy.

- Không hẳn. - Lawrence nói, ðập ðập tàn thuốc lá xuống cái gạt tàn mới lôi ra

từ trong túi áo jacket.

- Không ạ?

- Ừ. Gia tộc chúng ta không theo chế độ dân chủ, nhƣng cũng không theo chế

độ quân chủ. Chúng ta đều thống nhất rằng ban lãnh đạo có thể bị thay thế nếu

cả gia tộc cảm thấy Thủ lĩnh đƣõng nhiệm không ðủ sức lãnh đạo chúng ta. Vì

thế Phiếu Trắng mới đƣợc đề ra.

- Đã bao giờ có trƣờng hợp nhƣ vậy chƣa ạ?

- Rồi. - Lawrence lún mình sâu xuống chiếc ghế đến nỗi chỉ còn thấy làn khói

từ điếu xì-gà của ông bay lên. - Một lần, ở Plymouth.

- Chuyện gì đã xảy ra ạ?

- Ta đã thua. - Lawrence nhún vai. - Họ đã tống cổ Cordelia và ta ra khỏi Hội

Đồng. Kể từ đó, chúng ta không còn quyền lực trong Ủy Ban nữa. Chúng ta đã

chấp nhận điều đó, nhƣng sau này, vào khoảng thời kỳ Hƣng Thịnh49, chúng ta

quyết định tách hẳn ra để đi con đƣờng riêng của mình.

- Tại sao ạ? - Schuyler tiếp tục hỏi.

- Cordelia đã nói với cháu là chúng ta nghi ngờ có một thành viên cấp cao trong

Hội Ðồng ðang che giấu Máu Bạc rồi ðúng không?! Ta nghĩ sẽ an toàn hõn cho

bà ấy nếu ta biến mất một khoảng thời gian, nhƣ vậy ta có thể một mình tiếp tục

cuộc điều tra của bọn ta mà Ủy Ban không thể biết ðƣợc. Chúng ta cứ cho rằng

nhƣ vậy là khôn ngoan. Nhƣng Chúa õi, ðiều ðó cũng có nghĩa là ta ðã không có

mặt ở ðây lúc Allegra ðầu hàng số phận và rõi vào khủng hoảng, hay cả lúc

cháu chào ðời nữa. Trong khi đó, công việc của ta cho đến giờ vẫn chẳng gặt hái

đƣợc thành quả gì. Ta chẳng tiến tới đƣợc kết luận nào ngõ hầu khẳng định

những nghi ngờ của ta hõn so với trƣớc kia.

- Nhƣng chuyện gì đã xảy ra vậy ạ? Sao bọn họ lại để ông ra ði dễ dàng nhƣ

vậy? Cháu tƣởng ông bị ðày ði chứ?

Lawrence bật cƣời khe khẽ.

- Chính họ cũng tƣởng vậy đấy. Bọn họ đã quên mất là ta tự nguyện chịu ði ðày.

Ta không nghĩ rằng bất cứ ai trong số họ mong ta quay về. Nhƣng họ thực sự

cũng chẳng còn lựa chọn nào khác đâu. Ta vẫn chƣa phá vỡ bất cứ điều khoản

49 Thời kỳ Hƣng Thịnh (The Gilded Age): đề cập đến thời kỳ dân số cũng nhƣ kinh tế phát

triển mạnh và nhanh ở Hoa Kỳ, ðem lại cho quốc gia mới này sự hƣng vƣợng, giàu có. Thời

kỳ này diễn ra sau cuộc Nội chiến (Civil War) và thời kỳ Tái Thiết vào cuối thế kỷ 19. nào trong Bộ Luật. Vì thế chẳng có lý do gì ngăn cấm ta trở về. Tuy vậy, vì ta

đã ði quá lâu nên họ yêu cầu một cuộc thử thách.

- Thử thách gì ạ?

- Ồ, thì là hứa rằng ta sẽ không nghi ngờ khả năng lãnh đạo của Hội Đồng nhƣ

ta đã từng nữa. Cháu biết ðấy, ðề xuất một Phiếu Trắng ấy mà. Họ thậm chí ðã

phục hồi vị trí của ta trong Hội Ðồng, miễn là ta hứa không lôi chuyện Máu Bạc

ra thêm một lần nữa. Theo Charles thì hiểm họa Croatan đã đƣợc ngăn chặn,

nếu nhƣ nó thực sự tồn tại.

- Chỉ vì ba tháng vừa qua chƣa có ai chết đấy thôi. - Schuyler nói.

- Ðúng vậy. Bọn họ vẫn là những kẻ ðui mù nhƣ xƣa. Máu Bạc đã quay trở lại.

Đúng nhƣ nhiều năm trƣớc ðây Cordelia và ta ðã từng cảnh báo.

- Nhƣng những chuyện khác thì ổn rồi. - Schuyler phấn khởi nói, lúc đó cô

chẳng còn quan tâm đến hiểm họa Croatan gì nữa. - Ông đã trở về và họ chẳng

thể nào làm phiền chúng ta về điều đó.

Ông chăm chú nhìn buồn bã vào lò sƣởi.

- Không hẳn vậy. Ta có vài tin xấu lắm.

Nụ cƣời của Schuyler nhạt dần.

- Charles đã nói với ta là cậu ta ðang chuẩn bị hồ sõ nhận nuôi cháu.

- Cái gì? Tại sao?

Charles Force - nhận nuôi cô? Ông ta có quyền gì chứ? Cái loại trò ðùa kinh

tởm nào thế này?

- Thật không may, dù gì ði nữa, Charles cũng là bác của cháu. Khi Allegra, em

gái cậu ta, phá vỡ giới hạn máu giữa hai ngƣời và từ chối coi cậu ta là bạn ðời

trong chu kỳ này, cậu ta đã quay lƣng lại với gia đình mình - nhà Van Alen.

Thực ra, cậu ta đã làm mọi thứ cậu ta có thể hầu hủy hoại cái nhà này. Hủy hoại

mẹ cháu. Cậu ta không bao giờ tha thứ cho con bé vì đã kết hôn với ba cháu và

sinh ra cháu. Cậu ta khóa chặt trái tim mình với mẹ cháu. Thậm chí cậu ta đã

đổi họ.

Schuyler nhớ lại những lần cô nhìn thấy Charles Force quỳ gối bên giƣờng mẹ

cô. Ông ta là khách quen thƣờng xuyên tới thãm mẹ, và có lần cô từng nghe

thấy ông ấy cầu xin Allegra tha thứ.

- Vì lẽ ðó, về mặt huyết thống, Charles hiện là ngƣời thân duy nhất còn lại của

cháu, tất nhiên là trừ ta ra. Nhƣng sự tồn tại của ta vốn không đƣợc công nhận

trong chu kỳ này, trong thực tế, trên các vãn bản giấy tờ, ta ðã chết rồi. Ta mất

năm 1872. Tạ õn Chúa vì đã mang ðến cho chúng ta ngân hàng Thụy Sĩ. Các tài

khoản chỉ ðõn giản là những mã số, nếu không thì ta cũng không thể động tới

chúng đƣợc. Charles đã quyết định rằng ta không thích hợp để nuôi dạy cháu.

Cậu ta muốn tự mình làm việc đó.

Bác của cô. Ðúng là Cordelia vẫn duy trì mối liên hệ với ông ta, nhƣng Schuyler

từ chối thừa nhận sự thật về nhánh cắt này của gia ðình mình.

- Nhƣng họ không thể... ý cháu là, ông ta không... Cháu thậm chí chẳng biết gì

nhiều về ông ấy.

- Đừng lo lắng, ta sẽ không để chuyện đó xảy ra đâu. Allegra chẳng muốn gì

hõn là giữ cháu tránh xa cậu ta. - Lawrence nói.

- Tại sao ông ta ghét ông nhiều nhƣ vậy? - Schuyler hỏi, một tia lờ mờ ánh lên

những giọt nƣớc đọng trong đôi mắt xanh sáng ngời của cô. Lawrence cuối

cùng ðã trở về, thế mà bất chấp tất cả, nhà Force đang mƣu đồ tách ông khỏi cô.

Schuyler nghĩ về cái ý tƣởng nhận nuôi rốt cuộc sẽ là thế nào: sẽ phải sống

chung với Mimi và Jack - những ngƣời anh chị họ của cô. Cô chắc chắn Mimi

có thể thấy thích cái ý tƣởng này... Nhƣng còn Jack, anh sẽ nghĩ sao?

- "Họ sẽ bị chia rẽ, cha đối lại con trai, con trai đối lại cha." - Lawrence trích

một câu từ Kinh Thánh. - Hỡi ôi, ta luôn là nỗi thất vọng ðối với con trai mình.Mục Lýu Trữ Tờ New York Herald

Số ra ngày 30 tháng Chín nãm 1872

CÔ GÁI MẤT TÍCH - VẪN CÒN LÀ MỘT ẨN SỐ

Vẫn chýa có dấu hiệu nào của Maggie Stanford trong suốt hai nãm qua. Ông

bố qua đời vì ðau buồn, bà mẹ rõi vào cõn loạn trí.

Maggie Stanford, năm nay mƣời tám tuổi, ngƣời đã biến mất tại lễ hội thƣờng

niên Patrician hai nãm về trƣớc, đến nay vẫn chƣa rõ tung tích. Cảnh sát chƣa

từng tìm đƣợc bất cứ lời nhắn đòi tiền chuộc, dấu hiệu bắt cóc, hay một âm mƣu

ðen tối nào liên quan ðến vụ việc này. Ngƣời ta nghi ngờ có thể cô gái đã tự

nguyện bỏ trốn khỏi nhà. Theo tin tức chúng tôi thu nhận ðƣợc, Bà Dorothea

Stanford, vùng Newport, ðã rõi vào tình trạng mất cân bằng tâm lý sau cú sốc cô

con gái mất tích. Còn Ông Stanford cũng đã qua đời vì quá đau buồn sau khi

Maggie biến mất.

Những ảo giác bất thƣờng vẫn hành hạ bà mẹ, ngƣời khẳng ðịnh rằng hàng xóm

và bạn bè của bà ðang che giấu sự thật về nõi ở hiện nay của con gái bà và ngãn

không cho cô trở về nhà. Phóng viên Tờ Herald ðã ðến thãm bà Stanford tại nhà

riêng, và từ những gì đƣợc cho là lời phát biểu của bà Stanford, bà vẫn bấu víu

vào nỗi ám ảnh rằng có ai ðó ðang giấu con bà và từ chối thả cô ra.

Tờ Herlad cũng đã khám phá ra đƣợc rằng Maggie Stanford từng sống tại Viện

tâm thần St. Dymphna (Newport) trong thời gian một năm trƣớc khi cô mất tích,

tình trạng điều trị của cô đƣợc giấu kín. Nếu bất cứ ai có không tin gì về việc cô

Stanford mất tích, xin hãy nhanh chóng khai báo.CHÝÕNG 24

Trụ sở tạp chí Chic nằm trong tòa nhà mới xây dựng bằng thép và kính rất hợp

mốt tọa lạc ngay chính giữa Quảng trƣờng Thời Ðại. Ðây chỉ là một trong số rất

nhiều trung tâm truyền thông danh tiếng thuộc Christie-Best. Christie-Best là

một tập ðoàn lớn sở hữu nhiều tạp chí tên tuổi nhƣ Flash, Kiss, Splendid và

Mine, ngoài ra còn có rất nhiều tờ báo và tạp chí "một-tên" hào nhoáng khác

cũng thuộc tập ðoàn này. Ðại sảnh của tòa nhà là một không gian lớn sáng sủa,

lát đá hoa cƣõng, ở giữa có một ðài nƣớc xây theo phong cách Thiền phái chảy

từng giọt tí tách; và một ðội nhân viên bảo vệ trong bộ ðồng phục áo khoác

xanh dƣõng ðang ðứng quanh khu vực bàn lễ tân làm bằng ðá mã não.

Vào một buổi chiều sau giờ tan học, ngay tại chính ðại sảnh ðó, Bliss ðứng kiên

nhẫn chờ ngƣời bảo vệ tra lại danh sách hẹn ngƣời mẫu của Chic để mở cửa cho

cô vào. Công ty ngƣời mẫu Farnworth cử Bliss tới tham dự một cuộc phỏng vấn

ðể xem tạp chí này có muốn thuê Bliss cho lần chụp hình sắp tới của họ không.

Bliss mặc bộ đồ phỏng vấn hợp chuẩn nhất: quần jeans hiệu Stitched for

Civilization tối màu bó sát, giày bệt hiệu Lanvin và áo cánh màu trắng hõi rộng.

Khuôn mặt cô trang ðiểm theo lối tự nhiên, tƣõi sáng theo ðúng lời tƣ vấn của

công ty ngƣời mẫu. Bliss nhận đƣợc rất nhiều mối việc làm kể từ sau khi cô

tham gia chiến dịch quảng cáo của Stitched, và ðặc biệt là khi những tấm hình

chụp cô trong chiếc váy Dior đẹp tuyệt trần đƣợc in tráng và xuất hiện mọi nõi

trên khắp thế giới, mang lại cho cô danh hiệu công chúa mới nổi trong xã hội

thƣợng lƣu (và thậm chí ðánh bại Mimi ra khỏi bảng xếp hạng "váy ðẹp" thế

giới). Cô đã có trong tay hợp ðồng quảng cáo giày, quảng cáo của Gap, ngoài ra

cô còn đƣợc mời làm ngƣời mẫu hình trong một chuyên mục dài tới năm trang của Kiss. Nhƣng Chic mới thực sự là "chúa tể", là tạp chí ðỉnh cao nhất trong

làng thời trang, và mặc dù Bliss luôn cho rằng nghề ngƣời mẫu có chút gì đó

không nghiêm túc lắm, cô vẫn muốn ðƣợc là một phần trong thế giới ðó.

- Schuyler Van Alen.

Bliss nghe thấy cô gái ðứng kế bên nói với ngƣời bảo vệ.

- Schuyler! Cậu cũng tới tham dự cuộc phỏng vấn với Chic à? - Bliss hỏi, tỏ ra

ngạc nhiên sung sƣớng khi thấy cô bạn mình cũng có mặt ở đây.

- Ừ. - Schuyler cƣời ðáp lại. Từ khi bà ngoại qua ðời, cô ðã từ chối tất cả các cõ

hội làm ngƣời mẫu ðến nhanh và ồ ạt sau khi hình ảnh của cô trong trang phục

của Stitched for Civilization xuất hiện trên khắp các bảng quảng cáo trên Quảng

trƣờng Thời Đại. Nhƣng Linda Farnsworth đã thuyết phục Schuyler tham gia

cuộc hẹn với Chic lần này, và cô ðã đồng ý, nếu việc đó có thể giữ đầu óc cô

khỏi cái tin đáng buồn rằng Charles Force muốn nhận nuôi cô.

Nhƣ thƣờng lệ, Schuyler trông nhƣ thể một đứa đầu đƣờng xó chợ trong chiếc

áo len cổ lọ bõm xõm với phần eo rộng thùng thình, quần bó ống dài chƣa tới

mắt cá, giày ðế mềm hiệu Jack Purcell, chƣa kể còn có thêm mấy lớp hạt cƣờm

nhựa vấn quanh cổ. Dù vậy, phải công nhận rằng có vài nhà biên tập thời trang

đã ngay lập tức chú ý tới cô lúc đi qua sảnh, có lẽ vì họ đã nhanh chóng nhận ra

phong cách ðộc ðáo của cô, và rất có thể ba tháng sau, các trang trên tạp chí

Kiss, Splendid và Flass sẽ tràn ngập hình ảnh những bộ trang phục kỳ dị tƣõng

tự nhƣ bộ Schuyler ðang mặc lúc này.

- Các cô có thể lên trên ðƣợc rồi. - Bảo vệ nói lại với họ, đoạn bấm nút cho họ

đi qua cánh cửa xoay tự động.

Văn phòng của Chic nằm ở tầng mƣời, Schuyler và Bliss cảm thấy có chút

choáng ngợp bởi khung cảnh hoàn hảo không chê vào ðâu ðƣợc xung quanh họ.

Trong khu vực chờ của văn phòng tạp chí có hàng dãy những tấm ảnh phóng đại

bằng cỡ poster, in bìa các số của tạp chí Chic danh tiếng, thực sự giống nhƣ một

tour tham quan "ảo" hình ảnh những ngƣời đẹp xuất sắc nhất của thế kỷ hai

mƣõi và hai mốt. Một nhân viên lễ tân cỡ tuổi bà họ mời hai ngƣời ngồi vào

một trong những chiếc ghế kiểu Barcelona màu trắng.

Hai cô gái khẽ trò chuyện với nhau về những chủ đề vô thƣởng vô phạt: từ

những mẩu tin tào lao thu lƣợm đƣợc ở trƣờng, bài kiểm tra rồi tới cả chuyện tại

sao cãng-tin bỗng nhiên phục vụ thêm món xúc xích. Cả hai ðều cố ý tránh né

chủ đề về cái chết của Dylan; đối với Schuyler thì là vì cô sợ rằng nhắc tới

chuyện này chỉ gây thêm ðau khổ cho Bliss, còn đối với Bliss thì lại vì cô cảm

thấy chẳng còn gì ðể mà tâm sự nữa, vì hóa ra chàng trai cô gặp bên hồ lại là

Kingsley chứ không phải Dylan.

- Gần ðây cậu hay ði chõi với Kingsley nhỉ?! - Schuyler nói khi Bliss nhắc tới

chuyện anh đã đƣa cô tới dự tiệc ở một câu lạc bộ mới nổi tên Disaster (Thảm

họa).

- Ừ. - Bliss siết ngón tay. Cô ðang ngồi sát vào mép ghế, có vẻ không ðƣợc

thoải mái lắm. Cô giữ cặp hồ sõ ngƣời mẫu màu ðen trên ðùi. - Anh ấy tuyệt

lắm.

Bliss vẫn chƣa nhớ ra Kingsley đã từng là ai và có mối quan hệ thế nào với cô

trong quá khứ, dù rằng cô phải thừa nhận anh ở thời này khá thú vị. Anh dƣờng

nhƣ luôn giữ rịt cái ý nghĩ rằng Bliss là bạn gái mình, nên hai ngƣời dành phần

lớn thời gian rảnh của mình bên nhau. Kingsley dƣờng nhƣ luôn nhận đƣợc những tấm vé mời danh dự nhất của những bữa tiệc danh giá nhất, và những khi

bên anh, Bliss không còn cảm giác giống nhƣ một bông hoa trang trí nữa, mà ðã

trở thành một con bƣớm xinh đẹp đƣợc nhiều ngƣời quan tâm, chú ý. Hõn nữa,

danh tiếng ðang nổi lên của chính cô cũng khiến Bliss càng lúc càng tự tin hõn

giữa ánh hào quang của New York về ðêm. Thậm chí Mimi còn cay đắng nhắc

đến chuyện cô ta đã phát sốt lên thế nào khi nhìn thấy tên của Bliss đƣợc in đậm

trên các cột báo.

- Oliver thế nào rồi? - Bliss hỏi.

- Ổn cả. - Schuyler trả lời cộc lốc. Sự thật là gần ðây Oliver có chút xa cách với

cô, nhất là sau khi cậu ðã tỏ vẻ thƣõng yêu cô hết mực. Có lẽ ðó là phản ứng với

việc cô dần tách ra khỏi cậu, hoặc sự e dè của chính cậu trƣớc mối quan hệ đang

thay đổi giữa bọn họ. Việc đang từ ngƣời bạn thân nhất bỗng biến thành một tên

Conduit ngƣời trần chẳng phải bƣớc chuyển ðổi dễ dàng gì cho cam.

Hai ngƣời ngừng nói khi một cô nàng da ngãm thƣớt tha bƣớc qua cánh cửa

kính. Chị ta mặc một chiếc áo cánh rộng thùng thình, có thắt lƣng ở hông, chiếc

quần soóc bó sát may bằng vải din, legging hoa vãn và ði giày cao gót mũi nhọn.

Vẻ ngoài ấy khiến ngƣời ta có ấn tƣợng khá kỳ quặc vì nó chẳng tuân theo lối

mốt nào, cứ nhƣ thể chị ta đã túm bừa mấy bộ ðồ ghép lại tinh tinh vào ðúng

phút chót, trong khi sự thực là rất có thể bà chị này ðã phải mất tới hàng giờ

đồng hồ ngồi nghiên cứu kỹ các cuốn ca-tõ-lô và tính toán cẩn thận ðộ tƣõng

thích giữa quần, áo và giày với nhau ðể tạo nên một tổng thể hoàn chỉnh, giống

nhƣ cách mà một họa sỹ pha màu vẫn tính toán kỹ lƣỡng mỗi khi phối hợp

những gam màu với nhau vậy.

- Bliss và Schuyler phải không? - Chị ta lên tiếng.

- Chị là Chantal? - Schuyler hỏi lại.

- Không, tôi là Keaton, trợ lý của Chantal.

- Nhƣ trong Diane hay Buster50? - Schuyler ðùa, nhƣng bị Keaton lờ luôn.

- Chantal ðang họp bàn về phụ trang nên có thể về trễ một chút, chị ấy nói tôi

đƣa hai cô vào trong trƣớc. - Keaton nói bằng giọng kẻ cả.

Keaton dẫn họ đi qua một căn phòng lớn trải thảm trắng, nõi các cô gái trong

những bộ đồ mang phong cách lạ kỳ nhƣng rất hợp mốt lƣớt qua lƣớt lại giữa

mê cung các ngãn làm việc trên những ðôi giày cao tới mƣời centimét. Những

giá ðẩy quần áo ðỗ sát vào tƣờng, với những tấm bảng và nhãn treo trên móc đề

"JAN (tháng một) BÌA TRƢỚC", "LOẠI", "TIẾN", "BRANNON MTG",

"TRẢ LẠI", và "DANH MỤC".

Văn phòng của Chantal là một ðống hỗn ðộn ðầy những chồng hồ sõ ngƣời mẫu,

một bên là bức tƣờng kiên cố dán tới hàng trãm tấm ảnh Polaroid (ảnh lấy ngay)

cỡ 8x10 của các cô ngƣời mẫu yêu kiều. Trên ðó cũng có cả những trang màu

xanh dƣõng in bìa của tạp chí số ra tháng tới, bản sao số tháng Hai, và một con

chó sục nhỏ xíu cỡ bằng cái chén trà51 ðang sủa ãng ẳng ở một góc.

50 Diane Keaton và Buster Keaton: nữ và nam diễn viên ðiện ảnh nổi tiếng của Mỹ. Ý của

Schuyler muốn ðùa chị Keaton này là có họ hàng với Diane hay Buster không?

51 Chó sục loại nhỏ bằng chén trà (cute nhỉ?! xD)

- Chờ ở đây. - Keaton ra lệnh. - Đừng di chuyển.

Schuyler và Bliss làm ðúng nhƣ đƣợc bảo, mặc dù Bliss thực sự muốn một cốc

nƣớc lọc còn Schuyler thì muốn đi WC đến chết đƣợc. Nhƣng bầu không khí ở

Chic quá ðáng sợ, và Keaton thì quá lạnh lùng, chẳng có chút khiếu hài hƣớc

nào nên cả hai không muốn mạo hiểm. Một giờ sau, Chantal cuối cùng cũng tới.

Bliss vốn mong chờ một cô nàng chân dài gợi cảm khác nhƣng thực tế Chantal

lại là một phụ nữ thấp bé, dáng ðiệu loắt choắt với mái tóc cắt ngắn cao, sát ðầu

với cặp kính mắt mèo. Chị ta mặc một chiếc áo thun APC rộng thùng thình và

quần túi hộp, chân đi giày ðế mềm kiểu Nhật trông rất thoải mái (nhƣng vì số

lƣợng bán ra có hạn nên loại này cũng ðắt khủng khiếp luôn).

- Chào các cô gái. - Chantal cất cao giọng chào hỏi, rồi ngay lập tức gọi lớn. -

Keaton! Polaroid! Không phải tôi đã bảo cô mang nó vào ðây sao?

Chantal tiến tới ngồi vào bàn làm việc và lật nhanh qua từng trang hồ sõ của họ.

- Ừm, thấy cái này rồi. Ðẹp. Ooh. Không tồi. Thích cái này, nhƣng không đến

nỗi thích quá. - Chị ta lẩm bẩm.

Chantal ðóng sầm cả hai tập hồ sõ lại và hƣớng dẫn họ tạo dáng dựa vào một

trong những bức tƣờng còn để trống của chị ta trong văn phòng và rồi chị ta bắt

đầu chụp hình hai ngƣời. Bliss đƣợc chụp trƣớc.

Mọi chuyện vẫn diễn ra bình thƣờng cho tới lúc Bliss ðột nhiên lả ði khi ánh

ðèn flash vừa lóe lên trƣớc mặt cô.

- Ôi lạy Chúa tôi. Chắc cô ta không mắc chứng biếng ăn đó chứ? Ý tôi là, cũng

ổn thôi nếu cô ấy nhƣ vậy, và Chúa biết rõ là tất cả các cô gái đều vậy. Nhƣng

tôi không thể để chuyện đó xảy ra khi chụp hình đƣợc. - Chantal nói, giọng cáu

kỉnh nhiều hõn là lo lắng khi thấy Bliss khuỵu xuống dƣới nền nhà.

- Không, không phải vậy ðâu. - Schuyler nói, giọng tràn ngập lo lắng. Cô quỳ

gối xuống sàn nhà và ðặt một tay lên trán Bliss. - Trong này hõi bí bách.

Bliss bắt ðầu phát ra những âm thanh rên rỉ khe khẽ và khô khốc.

- Không... Cút đi... Không...

- Ở chỗ chụp hình sẽ còn nóng hõn ðấy. - Chantal tức tối nói. - Chúa giúp tôi

nếu cô ta ọe ra thảm của tôi.

Schuyler lừ mắt nhìn chị ta, bực mình vì nhà biên tập dƣờng nhƣ quan tâm tới

văn phòng của mình hõn là sức khỏe của Bliss.

- Bliss? Bliss à? Cậu ổn không? - Schuyler hỏi, cố gắng nâng bạn mình đứng

dậy.

Bliss chớp chớp mắt mấy cái rồi mở hẳn ra.

- Schuyler? - Cô nói giọng khàn khàn.

- Ừ.

- Tớ cần ra khỏi ðây. - Bliss khẩn nài.

- Keaton sẽ đƣa các cô ra. Tôi sẽ nói chuyện lại với Linda sau. - Chantal nói

trong khi nhấc điện thoại đang đổ chuông. Rõ ràng là nhà biên tập ngay lập tức

chuyển sang những mối quan tâm khác một khi "hiểm họa nôn ọe" đã bị ðẩy lùi.

Schuyler giúp Bliss ra khỏi văn phòng. - Từ từ thôi. - Cô nhấn nút thang máy đi

xuống và lƣờm một cô gái của Christie-Best đang nhìn họ với ánh mắt tò mò.

- Tớ lại bị ngất nữa rồi. - Bliss nói.

- Lại ƣ?

- Giờ thì nó xảy ra thƣờng xuyên. - Bliss kể cho Schuyler nghe về những cõn ác

mộng và chứng ðau ðầu mỗi khi tỉnh lại và nhận ra mình ðang ở những nõi kỳ

lạ mà cô chẳng hề nhớ là ðã đi tới đó. - Tớ tỉnh dậy thì đã thấy mình ở một chỗ

khác rồi mà thậm chí tớ cũng chẳng hiểu ðó là ðâu. Tớ ðoán ðó là một phần của

sự biến đổi. - Bliss nói.

- Ừ, tớ cũng từng gặp chuyện tƣõng tự nhƣ vậy đấy. Tuy không kịch tính bằng

chuyện cậu vừa kể, nhƣng một vài tuần trƣớc tớ cũng bị ngất đi. Thực ra, nó

giống kiểu "ngủ đông" thì ðúng hõn, bác sĩ Pat nói vậy. - Schuyler giải thích

tình trạng của mình khi đƣa Bliss vào thang máy. - Tớ ðoán là chúng ta ðành

phải chịu đựng nó thôi.

- Kingsley nói với tớ là có một vài thủ thuật có thể giúp giải quyết tình trạng

này. Anh ấy sẽ chỉ dẫn cho tớ.

Thang máy xuống tới sảnh, và khi cửa mở ra, Jack Force bƣớc vào. Cậu ðeo tấm

thẻ "khách mời" trên ve áo với chữ "TẦNG 10" viết trên ðó.

- Ô, chào. - Jack nói, trông có vẻ gì đó ngƣợng ngùng.

- Ðừng nói với tụi này là... - Bliss nói, nhe rãng cƣời. - Jack Force, siêu mẫu!

Có thể tạo dáng cho chúng tôi một kiểu Thép Xanh không?52 - cô ðùa, trích

dẫn lời từ phim Zoolander.

- Thôi nào. - Jack nói, cƣời bẽn lẽn. - Đây không phải ý của tớ. Nhƣng họ cần

một số anh chàng cho buổi chụp hình nào ðó tới ðây. Chantal là bạn của mẹ tớ,

vậy nên tớ mới ở ðây.

- Chúng tớ cũng mới gặp Chantal xong. - Bliss nói, cố gắng giữ cho cuộc trò

chuyện liền mạch vì Schuyler quá xấu hổ để nói chuyện trực tiếp với Jack.

- Vậy tớ đoán tớ sẽ gặp lại hai ngƣời tại buổi chụp hình. - Jack nhe răng cƣời.

- À ừm. - Bliss nói. - Tớ không nghĩ vậy đâu. Tớ bị ngất lúc chị ta chụp hình tớ,

và Schuyler thậm chí chƣa đƣợc chụp tấm nào. Tớ không nghĩ là bọn tớ sẽ có

cõ may ðƣợc chọn.

52 Ðây là câu nói trích từ bộ phim Zoolander (Ben Stiller thủ vai chính): phim nói về anh

chàng ngƣời mẫu Derek Zoolander với một số kiểu tạo dáng rất phá cách và khêu gợi trƣớc

ống kính, một trong số kiểu tạo mẫu đó đƣợc ðặt cho nick name là Blue Steel (Thép Xanh). Và rồi khi cửa thang máy khép lại, thật khó để quyết định xem, Jack hay

Schuyler, ai trông thất vọng nhiều hõn.

CHÝÕNG 25

- Trên cánh cửa thứ nhất, ði quá Ðền Dendur53 một chút, ở ngay giữa những

quan tài ðá nằm trong khu di chỉ của ngƣời Ai Cập cổ có một chiếc vòng cổ

hình rắn, nạm vàng và ðá quý màu thiên thanh, từng thuộc về Hatshepsut54. Ta

muốn cháu mang nó về cho ta. - Lawrence nói, đoạn lôi ra chiếc đồng hồ bấm

giờ.

Schuyler và ông ngoại ðang ðứng trong thƣ phòng của ông, một trong rất nhiều

căn phòng mà sau khi Lawrence trở về mới đƣợc mở ra. Ông ngoại cô đã thuê

một vài nhà thầu xây dựng và kiến trúc sƣ đến để khôi phục lại dáng vẻ huy

hoàng một thời của tòa biệt thự dòng họ Van Alen, khiến những âm thanh xây

dựng - khoan, nện, nghiền, ở phía ngoài mặt tiền ngôi nhà dần trở thành thứ tạp

âm hỗn loạn thƣờng ngày. Dù vậy, bên trong thƣ phòng của Lawrence đƣợc

cách âm và yên tĩnh nhƣ một lăng mộ. Hôm nay đã sang ngày thứ ba của

chƣõng trình huấn luyện. Một tuần trƣớc, Lawrence đã tỏ ra thực sự thất kinh

khi phát hiện ra rằng Ủy Ban hầu nhƣ chẳng làm gì ðể dạy cho ðám ma cà rồng

trẻ cách kiểm soát và sử dụng nãng lực của mình. Schuyler nói với ông rằng

việc họ thƣờng làm nhiều nhất trong mỗi lần họp mặt là ðọc một ðống sách, nếu

không thì ngồi một chỗ mà trầm mặc.

- Không có ai dạy các cháu kỹ nãng Velox à? - Ông hỏi cô, nhƣớng một bên

mày lên trong sự sửng sốt tột cùng.

53 Đền Dendur: đền thờ cổ của ngƣời Nubia, đƣợc Petronius - nhà cầm quyền La Mã ở Ai

Cập xây dựng. Hiện nay tàn tích của ngôi ðền ðƣợc di dời và trƣng bày tại bảo tàng nghệ

thuật Metropolitan (New York).

54 Hatshepsut: (1508 BC - 1458 BC): vị pha-ra-ông thứ năm của vƣõng triều thứ mƣời tám

Ai Cập cổ ðại. Tên của bà có nghĩa là "Ngƣời lỗi lạc nhất trong số những phụ nữ quý tộc".

- Cái gì cõ ạ? - Schuyler lắc ðầu.

- Bốn nguyên tắc "chụp bắt" thì sao?

- Chƣa ạ. - Schuyler lắc đầu.

- Vậy nghĩa là không ai trong các cháu có chút ý niệm nào về việc làm sao có

thể đƣõng ðầu với một cuộc tấn công từ Máu Bạc. - Lawrence gắt gỏng nói.

- Vâng, không ạ.

Lawrence tỏ ra cực kỳ bức xúc, trong khi ðó, cứ mỗi tíc tắc trôi qua, ðõn xin

nhận nuôi Schuyler của Charles Force lại "lách" nhƣ vũ bão, qua tay hết vị này

sang vị khác trong văn phòng công tố chuyên trách các vụ việc gia đình - Ai

mà biết hai ông cháu còn đƣợc sống cùng nhau trong bao nhiêu lâu nữa chứ?

Vậy là những bài học về ma cà rồng chính thức bắt ðầu.

- Nếu cháu muốn biết cách ðánh bại Máu Bạc, và tìm ra ai hoặc cái gì chịu trách

nhiệm cho sự trở lại của chúng thì trƣớc tiên cháu sẽ phải học cách sử dụng kiến

thức và các nãng lực Máu Xanh của chính mình đã.

Ông ngoại cô đã quyết định sẽ bắt đầu với kỹ năng Velox, hay còn gọi là bài

kiểm tra tốc độ.

- Chỉ nhanh thôi thì chƣa đủ. - Lawrence giảng giải - Cháu phải cực kỳ nhanh

ðến mức mà không ai có thể nhìn thấy cháu. Nhanh đến mức chuông báo động

cũng không kịp reo. Nhanh đến mức mọi ngƣời coi cháu nhƣ vô hình. Hầu hết

mọi Máu Ðỏ ðều cho kỹ nãng này là thuật "vô hình". Nhƣng hoàn toàn không phải thế. Trong thực tế không có cái gọi là vô hình. Chúng ta chỉ là di chuyển

quá nhanh tới mức độ mắt ngƣời thƣờng không nhìn thấy đƣợc mà thôi. Một khi

cháu thành thục kỹ nãng Velox này, cháu sẽ có thể tới bất cứ ðâu mà cháu muốn

chỉ trong nháy mắt. Bọn Máu Bạc rất nhanh, ðó là một trong những khả nãng

tuyệt vời nhất của chúng. Chính vì vậy, muốn sống sót thì cháu phải nhanh hõn

cả bọn chúng.

Ông chỉ dẫn cô cách tìm ra chiếc vòng cổ ðang nằm trong Bảo tàng Mỹ thuật

Metropolitan.

Vòng cổ hình rắn. Làm bằng vàng và đá xanh. Tầng một. Khu di chỉ của ngƣời

Ai Cập. Giữa những quan tài ðá.

- Ði ði. - Lawrence nói, giõ ra chiếc ðồng hồ bấm giờ. Schuyler biến mất.

Trƣớc khi kim đồng hồ kịp chuyển sang giây thứ hai, Schuyler đã xuất hiện trở

lại.

- Tốt hõn rồi ðấy. - Ông nói. Vài ngày trƣớc đó, cô đã mất tới hai phút mới

hoàn thành nhiệm vụ này.

Schuyler giõ chiếc vòng ra. Cô đã bẻ khóa lồng bảo vệ nhanh tới nỗi chuông

báo động không có đủ thời gian để ghi nhận sự đột nhập.

Lawrence cho phép một nụ cƣời hõi mỉm trên môi ông.

- Giờ thì mang nó trả lại.

Ngày tiếp theo, Schuyler mệt lử vì sức lực mà bài học ngày hôm qua đòi hỏi,

tuy nhiên cô vẫn cố gắng che giấu ðiều này. Giờ không phải lúc thể hiện sự yếu

ðuối, cô muốn tiến bộ thật mau mà không khiến Lawrence lo lắng rằng ðiều ðó

có thể khiến cô phải trả giá những gì. Cô háo hức đƣợc học về nguyên lý nhận

thức, hay còn gọi là "tầm nhìn thông minh."

- Khả nãng nhận thức của ma cà rồng là một ðặc ðiểm khác nữa ðƣợc con ngƣời

thêu dệt nên thành những mẩu chuyện thần thoại và hiểu lầm vô cãn cứ. -

Lawrence giảng giải.

- Con ngƣời cho rằng chúng ta có nguồn kiến thức vô tận, trong khi sự thực là

chúng ta chỉ có trí nhớ hoàn hảo nhƣ sao chép mà thôi. Nếu cháu thuần thục kỹ

nãng này, thì giống nhƣ ta, cháu sẽ có khả nãng trích dẫn nguyên vãn từng chữ

một từ mọi cuốn sách mà cháu từng ðọc trong suốt cả cuộc đời mình.

- Nhân loại đã ðánh mất kho tàng thƣ viện Alexandria từ bao nhiêu thế kỷ nay,

nhƣng may mắn sao ngay từ thời đó ta đã là một con mọt sách rồi... - Lawrence

nói ðồng thời chỉ tay lên ðầu - ...cho nên tất cả giờ ðều ðã nằm trong đây rồi.

- Tại sao chúng ta phải biết những thứ này ạ? Nó thì giúp ích gì đƣợc trong việc

đánh bại bọn Máu Bạc ạ? - Schuyler hỏi.

- Máu Bạc không coi trọng chuyện học hành, và những kẻ không chịu học lịch

sử thì sẽ phải lặp lại lịch sử thôi. Sẽ là khôn ngoan và cần thiết nếu chúng ta lần

tìm dấu vết, ðầu mối dẫn tới hành tung của bọn chúng bằng cách am hiểu sâu

sắc về lịch sử thế giới. Có thể khi ðó một trong số chúng ta sẽ khám phá thành

công bí mật về việc làm sao Máu Bạc vẫn tiếp tục tồn tại.

Rồi ông chỉ tay về phía bộ bách khoa thƣ Britannica gồm ba mƣõi tập.

- Hãy "chụp" lại từng trang sách bằng trí nhớ của cháu. Phân loại nó trong bộ

nhớ. Với tốc ðộ của cháu hiện nay, việc này có lẽ chỉ mất khoảng nãm phút.

Nhƣng ta cho cháu hẳn một giờ. - Lawrence rời thƣ phòng và đóng cánh cửa lại

phía sau ông.

Hết một tiếng, Lawrence quay lại và thấy Schuyler ðang nằm gà gật trên ghế sô-

pha.

- Xong rồi cõ à?

- Từ năm nhăm phút trƣớc cõ ạ. - Schuyler nhe rãng cƣời.

- Tốt. Hãy cho ta biết định nghĩa về nghi thức hồi sinh của ngƣời Ai Cập.

Schuyler nhắm hai mắt lại và nói bằng giọng từ từ, ðều ðặn, nhƣ thể cô đang

đọc nó ra từ một cuốn sách vậy.

- Nghi thức này ðƣợc tiến hành hầu chuẩn bị cho ngƣời chết có thể bƣớc tiếp

sang cuộc sống của họ sau cái chết, cuộc sống ðó thế nào là tùy vào ðịa vị của

ngƣời chết lúc còn sống, địa vị của chính xác ƣớp lúc đó hay thứ bậc cao thấp

của vị thần trấn giữ trong ngôi đền của ngƣời chết. Một yếu tố quan trọng của

buổi lễ là nghi thức cạy miệng, cốt sao xác ƣớp có thể thở và ãn ðƣợc. Nghi

thức này vốn là một nghi thức tƣợng trƣng cho cái chết và là một quan niệm

truyền đời trong thần thoại về Thần Chết của ngƣời Ai Cập. Trong thần thoại

này, những kẻ bị chặt mất tay chân...

- Xuất sắc. - Lawrence khen ngợi. - Ðối với tuổi của cháu mà nói thì ðúng là

xuất sắc. Quả thực rất xuất sắc. Ta rất ấn tƣợng đấy. Ta vốn nghĩ với dòng máu lai thì sức mạnh ma cà rồng trong cháu có thể sẽ bị "loãng" nhƣng sự thực là nó

thậm chí còn mạnh mẽ hõn rất nhiều.

- Ông õi? - Schuyler do dự hỏi trong lúc cô giúp ông ðem những quyển bách

khoa thƣ trở lại vị trí của chúng trên giá sách.

- Gì vậy?

- Nếu ma cà rồng có thể làm ðƣợc những chuyện nhƣ thế này thì tại sao chúng

ta còn phải ði học làm gì? Ý cháu là, liệu việc đó có thực sự cần thiết không ạ?

- Tất nhiên rồi. - Lawrence ðáp lại. - Những gì chúng ta làm ngày hôm nay chỉ

là khõi gợi lại ký ức thôi. Trƣờng học dạy những kỹ nãng hoàn toàn khác, ðó là

kỹ năng xã hội hóa, là tranh luận và học cách hòa nhập với loài ngƣời. Một

ngƣời không đƣợc phép tách mình ra khỏi tập thể. Các Máu Xanh cần phải hiểu

vị trí của mình trong thế giới này trƣớc khi cố gắng thay đổi nó. Cháu có thể

thuộc lòng toàn bộ bách khoa thƣ thật đấy, nhƣng một trí não nhƣ vậy mà lại

không có trái tim, không có tƣ duy suy lý thì... chẳng còn gì vô nghĩa hõn ðƣợc

nữa.

Schuyler bắt ðầu mong ngóng những bài kiểm tra mỗi chiều. Nhƣng cuối tuần

Lawrence mới chịu giới thiệu cho cô bài tập khó nhất.

- Cháu đã nghe về kỹ nãng "chụp bắt" rồi. - Lawrence nói - Ðó là khả nãng

điều khiển tâm trí con ngƣời.

- Rồi ạ. - Schuyler ðáp - Bà Priscilla DuPont nói ðó là một trong những nghệ

thuật nguy hiểm nhất. Và tốt nhất là không nên thử nó chừng nào tụi cháu chƣa

đủ tuổi.

- Nực cƣời. Cháu cần phải học nó ngay lúc này, ðể bảo vệ mình khỏi sự rù

quyến của chính nó. Bởi vì nghệ thuật "chụp bắt" cũng có ảnh hƣởng đối với cả

Máu Xanh nữa. Nó là một kỹ nãng hiểm ác của bọn Máu Bạc.

Schuyler rùng mình.

- Vì lẽ ðó cháu phải học cách khống chế nó, và tự bảo vệ mình khỏi ảnh hƣởng

của bùa chú. Chúng ta sẽ thử nguyên tắc ðầu tiên trƣớc khi ta có thể chuẩn bị

cho cháu học nguyên tắc thứ hai. - Lawrence quyết ðịnh - Có bốn nguyên tắc

"chụp bắt" cả thảy. Nguyên tắc số một chỉ ðõn thuần là khả nãng ngoại cảm mà

thôi. Ðõn giản ðó là khả nãng ðọc suy nghĩ của ngƣời khác. Ðể làm ðƣợc việc

này, ta phải tập trung vào nãng lƣợng của những ngƣời xung quanh, và cố hết

sức để hiểu đƣợc nguồn gốc của dòng năng lƣợng đó. Tâm trí con ngƣời cũng

giống nhƣ một câu đố vậy, cháu phải giải đáp nó thì mới có thể đọc đƣợc những

bí mật ẩn sâu trong đó.

- Anderson, hãy tới ðây nào.

- Vâng - Một ngƣời ðàn ông tóc bạc bƣớc vào phòng.

- Anderson đã đƣợc huấn luyện để có thể chống lại đƣợc thuật "chụp bắt". Ông

ấy cần phải nhƣ vậy nếu muốn trở thành một Conduit giỏi. Một ma cà rồng

không thể để cho trợ lý của mình bị hủy hoại đƣợc.

Trong ba tiếng đồng hồ sau ðó, Schuyler ngồi ở một ðầu của cái bàn còn

Anderson ngồi ở ðầu kia. Lawrence giõ ra một quân bài cho Anderson xem, và

Schuyler phải ðoán xem ðó là quân bài nào.

Ông ấy đang nghĩ gì nhỉ? Schuyler tập trung hầu nắm bắt những tín hiệu từ

Anderson, nhƣng tất cả những gì cô nhận đƣợc luôn chỉ là một ðám sƣõng mù

xám dày ðặc.

- Quân Q cõ? - Schuyler hỏi. Lawrence chìa ra cho cô quân Át bích.

- Quân 10 tép?

Là quân 3 rô.

Và cứ liên tục nhƣ thế. Đám sƣõng mù vẫn không chịu dịch chuyển. Schuyler

thực sự thất vọng. Sau thành công với kỹ nãng Velox và khả nãng nhận thức, cô

đã tin chắc rằng việc thành thục thuật chụp bắt này cũng sẽ dễ nhƣ trở bàn tay.

Cuối cùng, Anderson cũng ðƣợc cho lui, chỉ còn lại Schuyler với ông ngoại cô.

- Ðây là một kỹ nãng khó. - Lawrence an ủi, xáo lại các quân bài và nhét nó trở

lại vào bao.

Schuyler gật đầu.

- Nhƣng nghe nó có vẻ khá dễ dàng mà. - Cô nói, ðoạn nhắc lại cách cô ðã đọc

suy nghĩ của Oliver mà chẳng có chút khó khăn gì.

- Vậy là cậu ta không ðƣợc phòng bị gì rồi. Hãy nhắc ta, chúng ta sẽ phải huấn

luyện cả cậu ta nữa nếu cậu ta muốn trở thành một Conduit ðƣợc việc.

Schuyler gật đầu đồng tình. Nỗ lực luyện thành thục thuật chụp bắt đã khiến cô

tiêu hao nhiều năng lƣợng, rồi bỗng nhiên cô cảm thấy chóng mặt và mệt lả.

- Cháu vẫn ổn đấy chứ? - Lawrence hỏi, giọng lo lắng.

Schuyler xua xua tay. Cô chƣa từng thú nhận với ông ngoại mình nhƣng thi

thoảng, sau mỗi lần hoàn thành bài kiểm tra mà ông giao cho cô, cô lại trở nên

yếu ớt tới mức cô thậm chí không ðứng vững nổi. CHÝÕNG 26

Cuộc gặp gỡ giữa hai ngƣời tại Kho Lƣu Trữ hoàn toàn là ngẫu nhiên. Schuyler

tới đó để đọc đƣợc càng nhiều sách càng tốt theo chỉ dẫn của Lawrence, và cô tỏ

ra ngạc nhiên một cách dễ chịu khi phát hiện ra Jack cũng ðang ngồi tại một

trong những chiếc bàn ðọc ở ðó.

- Ồ, chào. - Jack nhe rãng cƣời với Schuyler trong khi một tay lùa vào mái tóc

và ra hiệu cho cô tới ngồi ở chiếc ghế ðối diện cậu. - Cậu mang theo sách gì

vậy? The Trial (Cuộc phán xét) à? - Jack hỏi, rồi chìa ra cho cô xem cuốn của

cậu.

Schuyler gật đầu. Họ đã đƣợc giao về nhà ðọc bộ sách của Kafka55 trong lớp

tiếng Anh nâng cao. Ðây mới chỉ là một cuốn trong chồng sách của cô.

- Một câu chuyện tình ngu ngốc, cậu có nghĩ vậy không? - Jack hỏi trong lúc lật

giở qua những trang sách đã ngả vàng của cậu mà Schuyler nhận ra rằng bản

thân cuốn sách cũng đã cũ sờn và bị gấp góc nhiều chỗ.

- Chuyện tình á? - Cô nhăn mặt. - Không phải cuốn sách nói về tính chuyên chế

của luật pháp sao? Hay là về bản chất ðiên rồ và vô lý của bộ máy quan lại chứ?

Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết đƣợc rốt cuộc thì anh ta đã phạm tội gì.

55 Kafka: (1883 - 1924): một trong những tiểu thuyết gia có ảnh hƣởng nhất hồi đầu thế kỷ

20. Ông sinh ra tại Praha, Bohemia thuộc đế quốc Áo - Hung (nay thuộc Cộng hòa Séc).

Cuốn The Trial là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Kafka. Truyện kể về một

ngƣời ðàn ông bị bắt và hành quyết bởi một chính quyền thờ õ và vô cảm, tuy nhiên bản chất

tội ác của nhân vật chính chƣa bao giờ đƣợc tiết lộ cho chính anh ta cũng nhƣ ngƣời ðọc cùng

biết. - Tớ lại không nghĩ vậy ðâu. Hõn nữa, vì Kafka chƣa từng muốn cuốn sách

đƣợc xuất bản nên ai có thể nói chính xác nó thực sự viết về chuyện gì chứ? -

Jack hỏi lại bằng giọng điệu pha chút giễu cợt. - Tớ đã đọc đƣợc ở đâu đó rằng

câu chuyện này thực chất viết về mối tình và cuộc đính ƣớc thất bại của Kafka

với nàng Felice Bauer. Ðiều này có nghĩa là cuốn sách hoàn toàn không phải

viết về luật pháp, mà là về một ngƣời ðàn ông ðang tuyệt vọng bởi tình yêu...

- Ôi, Jack... - Schuyler thở dài. Cô không chắc liệu có phải cậu ðang cố tình

trêu chọc cô hay không, nhƣng cô thích cuộc tranh luận vui vẻ này giữa họ. Cho

tới lúc đó vẫn chƣa có gì rõ ràng về chuyện liệu lúc nào ðó cả hai có thể làm lại

tình bạn thân thiết, hay bất cứ cái gì đã từng bắt ðầu và cũng ðã kết thúc chóng

vánh giữa hai ngƣời từ học kỳ trƣớc không. Nhƣng dƣờng nhƣ Jack không quá

lảng tránh ý muốn làm lại từ ðầu. Tuy nhiên, ðiều ðó cũng có thể chẳng có ý

nghĩa gì cả. Jack vẫn cứ là anh trai của Mimi Force.

- Có lẽ cuốn của tớ có cái mà cuốn của cậu không có. - Jack nói, đẩy bản in của

cậu về phía cô. - Đây, đƣa tớ cuốn của cậu nào. - Cậu nói.

- Dù gì thì cuốn của cậu cũng có bìa ðẹp hõn.

Schuyler cầm cuốn sách của Jack lên, hít vào phổi thứ mùi ẩm mốc của nó. Cô

tìm thấy trang mà cô ðang ðọc dở và bắt ðầu ðọc.

Một nõi cũ kỹ và buồn tẻ, Mimi thầm nghĩ khi theo chân Kingsley bƣớc xuống

cầu thang dẫn tới Kho Lƣu Trữ Lịch Sử, nõi vừa là tổng hành dinh của Ủy Ban

vừa là thƣ viện chính của gia tộc Máu Xanh, nằm ngay bên dƣới Block 122, hộp

ðêm siêu ðặc biệt chỉ dành riêng cho Máu Xanh và khách mời của họ.

Kingsley đã trở thành một ngƣời bạn thân thiết, một ngƣời có thể chia sẻ với

Mimi tính ðộc ác và quỷ quyệt. Vụ việc cậu bé trên ban công là khởi ðầu cho

tình bằng hữu giữa hai ngƣời. Kingsley đại diện cho tất cả những gì mà Mimi

ngƣỡng mộ ở một ma cà rồng - ðó là khao khát sử dụng sức mạnh. Cô ngầm

đồng tình với Kingsley rằng Ủy Ban đã quá cảnh giác, và những luật lệ nghiêm

khắc của bọn họ lúc nào cũng làm cô bực mình. Tại sao không sử dụng sức

mạnh ðể thống trị loài ngƣời? Có gì hay ho khi nắm giữ khả năng đọc tâm trí

con ngƣời mà lại không thể sử dụng nó ðể ðạt ðƣợc ích lợi nào ðó về vật chất

hoặc tinh thần? Tại sao không đƣợc phép có nhiều hõn một thần linh quen thuộc

trong cùng một thời ðiểm? Tại sao không biểu dƣõng ðịa vị quyền lực của mình

thay vì cứ phải cố hòa nhập vào cái thế giới của bọn ngƣời trần mắt thịt này?

Kingsley đã ðề nghị cô cùng ði tới Kho Lƣu Trữ để anh có thể chỉ cho cô một

thứ cực kỳ hấp dẫn và rồi anh biến mất sau những kệ sách ðể tìm nó.

Cô nhìn quanh căn phòng cổ đƣợc chia thành nhiều vách ngãn. Có một vài kẻ

phàm trần ðáng thƣõng, những Conduit từng gắn bó với các gia ðình ma cà rồng

nay đã bị cho về vƣờn, ðang làm việc hãng say trong khu vực riêng của mình.

Mimi ngồi xuống chỗ một trong những bàn ðọc lớn nằm ở giữa cãn phòng, nhịp

nhịp tay ra chiều mất kiên nhẫn. Rồi bỗng nhiên âm thanh khe khẽ của một cuộc

trò chuyện bay tới tai cô từ phía sau hàng giá sách.

- Chẳng có điều gì nói về tình yêu trong này cả, Jack à. - Một cô gái lên tiếng. -

Có lẽ chính cậu mới là kẻ vô lý đấy.

- Cậu chắc chứ? Cậu tìm lại đi, có lẽ cậu đọc chƣa kỹ ðấy thôi. - Chàng trai

phản bác lại.

Mimi nghiến chặt hai hàm rãng với nhau. Lại là con chuột nhắt nhà Van Alen

ðang nói chuyện với anh trai cô. Cô ðứng dậy và hắng giọng, dòm đôi mắt qua

những giá sách thấp về phía hai kẻ kia.

Ngay lập tức, Jack và Schuyler xê dịch ra xa khỏi nhau.

- Tớ, õ, gặp lại cậu sau vậy nhé. - Schuyler nói, đoạn cầm những cuốn sách của

mình và bƣớc sang một chiếc bàn khác, không nhận ra rằng cô vẫn ðang cầm

cuốn sách của Jack.

- Ồ, chào. - Jack nói, quay ngƣời trên ghế về phía em gái và mỉm cƣời với cô. -

Anh không biết là em cũng biết ðƣờng tới chỗ này cõ ðấy.

- Ðừng ðánh giá thấp em thế chứ, Benjamin Force. Nói cho anh hay, em là một

con mọt sách chính hiệu đấy. - Mimi khịt mũi.

Jack nhe răng cƣời.

"Nói dối." - Cậu ngầm "nhắn" tới cô.

"Anh mới là kẻ nói dối." - Cô "nhắn" lại.

Cậu làm một cử chỉ cầu hòa. "Tha lỗi cho anh nhé."

"Luôn luôn vậy mà." Mặt Mimi dịu lại dần.

"Anh về trƣớc ðây. Hẹn gặp em ở nhà nhé."

"Bye".

Mimi nhìn Jack rời đi, nhƣng ngay cả khi những suy nghĩ dịu dàng của cậu ðang

còn in dấu trong tâm trí cô, Mimi vẫn không ngừng cảm nhận đƣợc nỗi khó chịu

ðang trào dâng. Tại sao Schuyler vẫn còn ảnh hƣởng tới anh? Có điều gì ở con

bé đó khiến anh trai cô mất thăng bằng, cô có thể cảm nhận đƣợc điều đó. Cô có

thể ðánh hõi thấy khao khát của anh muốn giữ lời thề giữa họ, nhƣng nó cứ nhƣ

thể là anh ðang tự thuyết phục bản thân mình yêu cô nghịch lại ý muốn của

chính anh. Tại sao chứ? Trƣớc đây chƣa từng có chuyện nhƣ thế này. Trong mỗi

chu kỳ, hai ngƣời lại tái cam kết lời thề ràng buộc với nhau vĩnh viễn mà không

hề có chút bối rối nào xen vào.

Trong muột thoáng, sự tự tin quá mức thành tự mãn đã rời bỏ khuôn mặt Mimi,

khiến cô trông giống nhƣ một cô gái bé nhỏ sợ hãi bị lạc đƣờng. Nếu anh ấy

thực sự bỏ mình thì sao? Nếu anh ấy không lập lại lời thề khi thời gian tới thì

sao? Chuyện gì sẽ xảy ra với hai chúng ta?

Mimi rùng mình khi nghĩ về Allegra Van Alen, nằm đó trong chiếc giƣờng bệnh

viện, coi nhƣ đã chết ðối với cả thế giới này.

Cô không thể ðể ðiều ðó xảy ra, dù là với bất kỳ ai trong hai ngƣời bọn họ.

- Em trông nhƣ thể vừa nhìn thấy ma vậy. - Kingsley nói, đặt một cuốn sách

dày trƣớc mặt Mimi.

Mimi nở nụ cƣời dịu dàng nhất của cô với anh.

- Em ƣớc gì nhƣ vậy. - Cô nhìn xuống cuốn sách bọc da. - Cái gì đây?

- Ðấy là thứ mà chúng ta ðáng ra không ðƣợc xem ðâu. Nó là một cuốn sách

tham khảo cổ có ghi chép những câu thần chú bị cấm. Em chắc đã nghe về

Croatan, chính xác hõn là về Máu Bạc rồi ðúng không? - Kingsley hỏi.

- Vâng. - Mimi lo lắng đáp lại. - Nhƣng chúng đƣợc cho là không tồn tại mà.

- Phải. - Kingsley chế giễu. - Chỉ vì chúng không còn tỏ ra biết nghe lời nữa.

- Ý anh là sao?

- Máu Bạc đã từng là nô lệ của Máu Xanh. Khi chúng ta bị ðày ra khỏi Thiên

Ðàng và bắt ðầu kiếp sống bất tử trên Trái ðất này, trong một thời gian dài, hầu

hết những ai theo Lucifer ðều bị Michael và Gabrielle thu phục. Chúng ta khống

chế chúng, nhƣng rồi chúng nổi dậy chống lại chúng ta và ngừng tuân lệnh

chúng ta. Chúng quay ra sãn ðuổi chúng ta, và rồi chúng ta lại sãn lại chúng,

cuộc chiến cứ thế tiếp diễn ðiên cuồng trong suốt nhiều thế kỷ. Giờ thì chúng

đƣợc coi là ðã biến mất. Tuy nhiên, vẫn có một cách khiến chúng trở lại.

- Ý anh là sao? - Mimi hỏi lại, cho rằng Kingsley có phần hõi quá bất cẩn khi

nhắc tới những chuyện nhƣ thế này. Suy cho cùng thì Máu Bạc đâu phải một trò

ðùa. Hầu hết các Máu Xanh ðều không dám nói về chúng.

- Gọi một Máu Bạc ra từ Bóng tối. Em biết ðấy. Bắt nó làm bất cứ cái gì mà em

muốn. - Kingsley nói.

- Em không biết liệu em có thích chuyện này không nữa. - Mimi rùng mình nói.

- Nó quá đáng sợ đối với em.

- Thôi nào, anh nghĩ sẽ rất vui ðấy chứ. - Kingsley nói. Anh sử dụng từ "vui" ðể

miêu tả một hành ðộng tàn ác. Rõ ràng là đối với anh, một câu thần chú hắc ám

nguy hiểm cũng chỉ ngang tầm với việc lái một chiếc Ferrari ở tốc độ hai trăm

năm mƣõi dặm một giờ mà thôi. Tuy ðó có thể không hẳn là một ý tƣởng tuyệt

vời nhƣng đối với một số ngƣời, cứ phải làm thì mới biết đƣợc.

- Thôi. - Mimi lắc đầu. Nhƣng rồi kể cả cô không cảm thấy hứng thú với việc

này chãng nữa, vẫn có một thứ khác mà cô tìm thấy trong cuốn sách có vẻ sẽ

hữu dụng đối với cô.

Materia acerbus. Thần chú hắc ám.

Mimi liền lật tới trang ðầu tiên và bắt ðầu ðọc.CHÝÕNG 27

Allegra Van Alen đã tỉnh lại. Bà ðang ngồi trên giƣờng, mái tóc vàng óng mƣợt

xõa trên bờ vai, chảy dài trên chiếc váy ngủ của bệnh viện.

Ðôi mắt xanh lục bảo mở to và sáng rõ.

Rồi bà thốt lên thành tiếng trầm thấp và ðầy ám ảnh:

- Hãy cẩn thận, Schuyler. Cẩn thận.

Schuyler giật mình tỉnh giấc. Cô nhận ra mình đang nằm trong phòng bệnh của

mẹ cô ở Columbia Presbyterian, nhƣng cô không tài nào nhớ ra làm thế nào cô

tới đƣợc ðó. Lúc này ðã là quá nửa ðêm, và ðiều cuối cùng cô nhớ ðƣợc là cô ðã

thiếp đi trong lúc đang đọc sách. Cô không nhớ gì về việc đã rời khỏi phòng

riêng, rồi còn bắt xe buýt tới Đƣờng 168 và vào trong bệnh viện này. Có lẽ cô

mông du chãng, hay là bị ngất giống nhƣ kiểu Bliss đã từng kể.

Schuyler nhìn xuống mẹ mình. Allegra ðang ngủ bên dƣới tấm chăn, bất động

và yên bình nhƣ mọi khi. Vừa rồi chỉ là mõ sao? Vậy mà cứ nhƣ thật ấy. Mẹ cô

đã tỉnh lại và nói chuyện với cô. Bà bảo cô phải cẩn thận. Nhƣng cẩn thận cái gì

nhỉ?

- Mẹ õi. - Schuyler cất tiếng trong lúc vuốt ve một bên má lạnh lẽo của Allegra.

Nỗi đau vắng mẹ chƣa bao giờ nguôi giảm trong cô. Schuyler hôn lên trán mẹ

rồi tắt hết ðèn và ra khỏi phòng.

Bữa tối hôm sau, Lawrence đƣa cô đi ăn tối ở câu lạc bộ cũ của ông. Câu lạc bộ

Những ngƣời phiêu lƣu là một tổ chức cấp cao do Máu Xanh sáng lập từ hồi

đầu thế kỷ mƣời tám, ðây là nõi tụ họp của những ngƣời có sở thích đi đây đi đó

và cùng chung chí hƣớng với nhau. Họ thƣờng háo hức bàn luận và chia sẻ

những nghiên cứu cũng nhƣ lý luận của bản thân về những hiện tƣợng tự nhiên

và ðịa lý. Câu lạc bộ này nằm bên trong một tòa nhà hiện đại với phong cách

thiết kế ðẹp mắt trên Ðại lộ 5, ðối diện với Câu lạc bộ Knickerbocker và cách

vài phút ði bộ từ Bảo tàng Metropolitan. Ðó là hai trung tâm khác cũng do Máu

Xanh xây dựng nhƣng có chính sách mở cửa thông thoáng hõn, cho phép cả

Máu Ðó quyền gia nhập chung với các ma cà rồng khác.

Tuy vậy, Câu lạc bộ Những ngƣời phiêu lƣu vẫn là một cứ ðịa của riêng ma cà

rồng, có lẽ vì con ngƣời dƣờng nhƣ chẳng có mấy hứng thú ðối với ðề tài môi

trƣờng so với các ðề tài xã hội, và cũng có lẽ vì họ cho rằng chẳng có gì hay ho

mà phải gia nhập hội với những kẻ có máu phiêu lƣu già cỗi và tẻ nhạt. Phòng

ãn tụ tập ðông ðảo các thành viên ðến từ các gia ðình lâu đời nhƣ nhà

Carondolet, hay nhà Lorillard và nhà Seligman, những gia ðình giống nhƣ nhà

Van Alen của cô, ðều nắm giữ một quá khứ huy hoàng hõn nhiều so với ðống

của cải của họ ở thời hiện ðại này.

Một viên quản lý ra tiếp Lawrence, rồi ông đi lòng vòng quanh phòng bắt tay và

tán gẫu với mọi ngƣời trƣớc khi cùng ngồi xuống bàn ãn với Schuyler.

Thực ðõn ở câu lạc bộ này chẳng hề thay ðổi kể từ hồi thế kỷ mƣời chín. Vẫn là

món cá bõn chiên bõ tẩm bột, món thịt bò bít tết Diane và thịt thỏ quay.

Schuyler gọi một ðĩa cá bõn còn Lawrence chọn thịt bò bít tết. Một lát sau

ngƣời bồi bàn bƣng ra hai khay bên trên có ðậy lồng bạc.

- Xin mời. - Ngƣời bồi bàn nói, cùng lúc mở vung cả hai chiếc khay. - Chúc hai

vị ngon miệng.

Trong lúc xắt miếng cá, Schuyler đã kể cho Lawrence nghe về chuyện xảy ra

ðêm trƣớc đó.

- Cháu bị ngất... lúc tỉnh lại cháu đã ở trong bệnh viện rồi, trong phòng của mẹ.

- Cô thú nhận.

- Ngất ƣ? Ý cháu là sao? - Lawrence hỏi trong khi nhai dĩa bít tết.

- Ông biết đấy, kiểu nhƣ ông bị trôi ra khỏi dòng thời gian và rồi khi tỉnh lại,

ông chẳng biết mình ở ðâu và làm sao tới ðƣợc đó.

Lawrence đặt dĩa xuống.

- Ta biết quá trình hồi tƣởng trí nhớ diễn ra nhƣ thế nào. Nhƣng thƣờng thì ma

cà rồng luôn luôn giữ ðƣợc trạng thái kiểm soát mỗi khi khõi gợi lại ký ức của

bản thân.

- Vậy ạ? - Schuyler hỏi.

Lawrence gật đầu.

- Những gì cháu vừa mô tả rất không bình thƣờng.

- Không bình thƣờng ý ạ? - Schuyler ngừng lại. Nhƣng chuyện này vẫn thƣờng

xảy ra với Bliss cõ mà, vậy thì không thể nào nó lại không bình thƣờng đƣợc.

Cô bèn kể lại cho ông ngoại nghe những gì Bliss đã từng nói với cô.

Lawrence tiếp thu luồng thông tin mới, rồi nói:

- Có lẽ các ma cà rồng xuất hiện trong chu kỳ này có ðiều gì đó mới lạ trong hệ

gen của mình khiến cho những việc nhƣ vậy xảy ra. Ta không nghĩ rằng ðó là

chuyện đáng lo ngại, nhƣng hãy cho ta biết nếu chuyện nhƣ vậy lại xảy ra lần

nữa. - Rồi ông thở dài và lại ðặt dĩa xuống. - Giờ thì ta buộc phải nói với cháu

một chuyện.

Schuyler gồng mình ðón nhận cái tin mà cô luôn kinh hãi mỗi khi nghĩ đến kể

từ sau cái ngày ông cô trở về.

- Thẩm phán đã chấp nhận đõn xin nhận nuôi cháu của Charles. Phiên tòa chính

thức sẽ diễn ra trong vòng một tháng nữa.BỆNH ÁN

Viện tâm thần St. Dymphna

Tên: Margaret Stanford

Tuổi: 16

Ngày nhập viện: 5/4/1869

TRIỆU CHỨNG:

Có một số dấu hiệu ở bệnh nhân cho thấy có khả năng tâm thần.

TINH THẦN:

Có quan hệ tình ái theo chiều hƣớng cuồng tín

THỂ CHẤT:

Tự hành xác

Từng bị tai nạn và chấn thƣõng

Mắc chứng động kinh

Từng tự tử. Một tuần trƣớc khi nhập viện, bệnh nhân đƣợc ngƣời nhà tìm thấy

với cổ tay bị rạch nát.

Nói nhảm, hoang tƣởng.

TIỂU SỬ GIA ĐÌNH:

Không có dấu hiệu của chứng mất trí và cuồng loạn ở bất cứ thành viên nào

trong gia đình. Là con độc nhất trong gia đình, ba mẹ vẫn còn sống.

TIỂU SỬ TRƢỚC ĐÓ

Thỉnh thoảng lên cõn ðộng kinh. Bệnh nhân hay kêu ðau ðầu và gặp các cõn ác

mộng. Bị ngất và mất trí tạm thời. Bệnh nhân không có ký ức về một số hành

ðộng của bản thân. Trong lúc lên cõn cuồng kinh ðã nhắc tới chuyện có quan hệ

tình ái với một thanh niên trẻ không môn ðãng hộ ðối. Tuy nhiên, bệnh nhân thú

nhận chƣa từng mang thai.

TÌNH TRẠNG HIỆN TẠI:

Trích dẫn từ cuộc phỏng vấn nhập viện với bệnh nhân:

"Nó quá thật. Tôi không thể thoát khỏi nó. Tôi thức dậy và có thể cảm nhận

đƣợc nó ở trong xƣõng tủy tôi. Nó đang đến, nó nói chuyện với tôi trong những

giấc mõ. Nó biết tên tôi. Nó nói nó là một phần của tôi. Ðó là tất cả những gì tôi

có thể nhớ đƣợc. Hãy giúp tôi, bác sĩ, giúp tôi với. Tôi cần phải trốn thật xa. Tôi

cần phải trốn thật xa khỏi nó."CHÝÕNG 28

Nguồn cảm hứng cho lần chụp hình này là "Talitha Getty ở Marrakesh.56" Có

rất nhiều áo choàng rộng trùm ðầu may bằng vải lanh mỏng và nhẹ nhƣ sa, áo

dài có ðính trang sức, khãn xếp ðội ðầu cho những dịp ðặc biệt, ồ, và cả những

bộ bikini với những dải dây mỏng manh nữa chứ. Nhƣng chẳng hiểu thế nào trợ

lý thời trang phụ trách việc đi lại đã hiểu lầm và đặt vé cho họ tới Montserrat

thay vì Marrakesh, vậy là hòn ðảo Caribe này sẽ thế chỗ cho vùng ðất xa xôi

hẻo lánh tận Bắc Phi.

Nhƣng dƣờng nhƣ chẳng ai mảy may quan tâm tới sự nhầm lẫn này vì mọi

ngƣời thực ra đều thích đi biển. Bliss nhận đƣợc cuộc gọi từ Farnsworth Models

vào thứ Nãm, cô lên máy bay vào thứ Sáu, và ðến hòn ðảo này lúc mặt trời lặn.

Schuyler cũng đƣợc chọn, sau khi lựa chọn ðầu tiên của Chic - hai ngƣời đẹp

chân dài ngƣời Nga - phát hiện ra rằng visa của họ đã quá hạn và họ không thể

quay lại ngay đƣợc.

56 Talitha Getty (1940 - 1971): diễn viên ngƣời gốc Hà Lan, từng ðƣợc coi là biểu tƣợng về

phong cách vào cuối những nãm 1960. Bức ảnh cô chụp cùng chồng ở trên nóc một tòa nhà ở

thành phố Marrakesh, Morocco vào nãm 1969 ðƣợc coi nhƣ một quy chuẩn cho phong cách

thời trang thời bấy giờ cũng nhƣ ngày nay.

Giám ðốc thời trang của Chic, Patrice Wilcox, là một phụ nữ lạnh lùng và thẳng

thắn, khoác trên ngƣời bộ ðồ ðen từ ðầu tới chân ngay cả trong cái nóng thiêu

ðốt của vùng nhiệt ðới. Bà chào ðón nhóm ngƣời mẫu và ðoàn chụp ảnh với nụ

cƣời mỏng tang cũng nhƣ dáng ngƣời của bà vậy.

- Mọi ngƣời, ðây không phải là một kỳ nghỉ. Ðây là công việc. Tôi hy vọng mọi

ngƣời sẽ có mặt tại hiện trƣờng đúng tám giờ sáng mai.

Dù vậy, bất chấp những lời cảnh báo ðáng sợ của Patrice, chẳng có ai phủ nhận

rằng chuyến đi chụp hình lần này thực sự là một kỳ nghỉ. Trong lúc Patrice đang

giảng đạo về tính đúng giờ thì sau lƣng bà, Jonas Jones, nhà nhiếp ảnh Máu

Xanh nổi tiếng bất trị, nháy mắt với cả nhóm.

"Năm phút nữa tới quầy ba uống margarita nhé." - Anh làm khẩu hình.

Tới nửa ðêm, trừ giám ðốc phụ trách mảng thời trang ra thì cả ðoàn, bao gồm

hai trợ lý của Jonas - những chàng trai đến từ Trƣờng Thiết kế Rhode Island,

đám ngƣời mẫu mà không ai trên mƣời tám tuổi cùng Schuyler và Bliss, ðều tụ

tập cả ở quầy ba quay mặt ra biển, cụng ly với nhau.

Bliss và Schuyler gây ấn tƣợng với mấy anh chàng Máu Ðỏ trong nhóm bằng

tửu lƣợng vƣợt xa tất cả mọi ngƣời ở ðó. Hiển nhiên là do gen ma cà rồng rồi.

Schuyler dõi mắt nhìn ra bãi biển tối đen, ánh trăng tròn vạnh chiếu sáng cả bờ

biển dài, tiếng sóng vỗ rì rào êm ái. Cảnh tƣợng thật tuyệt vời. Schuyler tới đây

khá sớm, mang theo chút hy vọng đƣợc gặp Jack Force. Nhƣng không thấy

bóng dáng cậu trong đám ngƣời mẫu nam khiến cô có chút thất vọng. Rồi đúng

lúc đang mong ƣớc cậu có mặt ở đó thì cô bỗng cảm thấy một cái huých nhẹ

vào khuỷu tay. Jack ðứng ðó bên chiếc ghế ðẩu cạnh cô.

- Cậu đang uống thứ gì thế? - Jack lên tiếng. - Hi vọng không phải thứ gì đó

ðiên rồ. - Cậu lại nói, cứ nhƣ thể mới hôm qua họ còn trò chuyện với nhau trong

Khu Lƣu Trữ.

- Rƣợu pha. Uống hõi kinh. Một kiểu rƣợu rum pha với cốt dừa và nƣớc ép dứa,

nhƣng không phải pina colada ðâu. Muốn thử không? - Cô mời, cùng lúc ðƣa

chiếc ly về phía cậu.

Jack nhấp một ngụm và nhãn mặt.

- Ðúng là kinh thật.

- Tớ đã bảo mà.

- Cho tôi một ly. - Jack nói với bồi bàn.

- Dũng cảm đấy. - Cô nói rồi nâng ly với cậu.

Jack khuấy mạnh ly của mình.

- Lawrence thế nào rồi?

- Ông tớ khỏe. - Schuyler phân vân không biết liệu Jack có biết gì về chuyện ba

cậu muốn nhận nuôi cô không. Cô không muốn tự nhiên lại lôi ra chủ ðề kỳ cục

nhƣ vậy.

- Cậu vẫn tin là chúng ðã trở lại à? - Jack hỏi, ám chỉ tới bọn Máu Bạc.

- Phải vậy thôi. - Schuyler trả lời ðõn giản. - Ðó là cách giải thích duy nhất cho

những gì đã xảy ra với Dylan và Cordelia.

Jack nhìn xuống ly nƣớc của mình và lắc nó khiến những viên ðá va vào nhau

côm cốp.

- Ủy Ban không tin nhƣ vậy. Cuộc chiến tại Rome đã kết thúc hoàn toàn,

Lucifer đã bị chính Michael tiêu diệt. Không thể nào có chuyện chúng quay lại

đƣợc.

- Tớ biết. - Schuyler nhìn xuống chiếc ly đã või của mình. - Nhƣng tớ nghĩ Ủy

Ban sai rồi.

Jack trông nhƣ thể định phản bác lại, ðúng lúc một giọng khàn khàn vang lên từ

phía bên kia quầy, nõi ðang diễn ra một trò chõi phạt rƣợu.

- Schuyler! Jack! Tụi này cần thêm hai tay chèo cho Ông chủ Viking, tới ðây

nào!

Ngày hôm sau, toàn ðoàn vất vả ði bộ mãi mới tới đƣợc khu bảo tồn tự nhiên

nằm khuất ở một khu vực hẻo lánh trên ðảo. Cả ðoàn dựng lều trại ðể phục vụ

cho việc thay ðồ, trang ðiểm và che chắn cho ngƣời mẫu khỏi cái nóng thiêu ðốt.

Bliss chui ra khỏi cãn lều nhỏ, trên ngƣời mặc bộ bikini vằn vện có gắn vỏ sò ở

hai bên dây buộc, một chiếc áo dài thụng bằng lụa trong suốt và ði ðôi tông gắn

đá lấp lánh.

- Mấy con vẹt ðâu rồi? - Jonas lên tiếng sau ống kính. Cảnh này sẽ chụp Bliss

giữ hai con Scarlet Macaws to lớn với bộ lông sặc sợ trên mỗi cánh tay, mô

phỏng những con vẹt mà Talitha từng sở hữu.

Ngƣời luyện thú thả hai con chim ra nhƣng chẳng con nào chịu hợp tác dƣới sự

chỉ huy của anh ta. Một con ðậu ngay trên ðầu Bliss còn con kia bay vòng vòng

quanh cô, kêu quang quác rõ to.

Cuối cùng ngƣời luyện thú cũng tìm đƣợc cách giải thoát cho Bliss khỏi móng

vuốt của hai con chim và Jonas ðành chịu thỏa hiệp bằng cách dàn cảnh Bliss

nằm dƣới tán cây cạnh hai con chim.

- Tạ õn Chúa, cuối cùng cũng xong. - Bliss cằn nhằn trong lúc thận trọng bƣớc

qua lớp cỏ dại mọc um tùm ðể quay về chỗ trú trong lều trang ðiểm.

Schuyler đƣợc gọi trong lƣợt chụp tiếp theo. Cô mặc chiếc áo tắm một mảnh

màu ðen mà chỉ có thể ðƣợc mô tả là hai dải vải kéo dọc phía thân trƣớc rồi tụ

lại ở phía dƣới tạo thành hình chữ V mỏng dính. Nhà tạo mẫu đã buộc thêm

miếng vải vào ngực cô nhƣng trông cô thực sự chẳng khác nào ở trần.

- Tôi muốn có một kiểu Blue Lagoon57. - Jonas giải thích - Tôi muốn nóng

bỏng. Nung nấu. Gợi tình. Nhƣng phải ngây thõ.

Schuyler nhẹ nhàng bƣớc xuống hồ nƣớc lạnh bên dƣới thác nƣớc.

57 Blue Lagoon: tên một bộ phim của Mỹ vào nãm 1980 do Brook Shields và Christopher

Atkins thủ vai chính. Bộ phim kể về hai đứa trẻ bị ðắm tàu trôi dạt vào một thiên ðƣờng đảo

nhiệt đới ở Nam Thái Bình Dƣõng. Thiếu vắng sự quản thúc và hƣớng dẫn của xã hội, những

thay đổi tâm sinh lý ngày càng lớn mạnh khi cả hai bƣớc vào tuổi trƣởng thành và cuối cùng

tình yêu nảy nở giữa hai ngƣời. - Sẵn sàng chƣa? - Jack Force cất tiếng hỏi từ phía bên kia hồ.

Cô gật đầu đáp lại. Schuyler đã biết từ trƣớc rằng họ sẽ làm bạn chụp hình của

nhau lần này, nhƣng hình ảnh cõ thể rắn chắc, lực lƣỡng của Jack trong chiếc

quần soóc ống rộng Vilbrequin trễ cạp vẫn khiến mặt cô ðỏ bừng. Nhất là khi

Jonas yêu cầu họ tiến lại sát gần nhau:

- Hai ngƣời không nghe tôi nói à? Là Blue Lagoon cõ mà! Cả hai ðều bị ám ảnh

bởi ngƣời kia! Cố thể hiện xem nào! Jack, ðặt tay cậu lên ðùi cô ấy. Schuyler,

cong cái lƣng lại, chuyển ðộng sao cho cõ thể cô gần sát cậu ấy vào. Thế. Giống

hõn rồi ðó.

- Xin lỗi. - Jack nói khi kéo Schuyler lại gần sát.

- Tớ ðoán ðây cũng là một phần của ngày làm việc mệt nhọc ha?! - Schuyler

nói, cố không để Jack biết sự hiện diện của cậu ảnh hƣởng tới cô nhiều cỡ nào.

Tiếng máy ảnh vang lên tanh tách. Jonas hét:

- Tiếp!

Tối đó, khi Jonas đƣa cả ðoàn ði ãn tối ở một nhà hàng ngoài trời, Bliss nhận ra

mình ngồi cạnh Morgan, một trợ lý chụp hình cực kỳ dễ thƣõng. Suốt tuần rồi,

Morgan dành cho cô khá nhiều sự chú ý. Anh là sinh viên năm hai của RISD

(Rhode Island School of Design - ĐH Thiết kế Rhode Island), mƣời chín tuổi,

và sở hữu cả một kho những câu chuyện cƣời bậy bạ khiến Bliss khúc khích liên

hồi dù muốn hay không. Anh rót cho cô hết cốc này ðến cốc khác mà không hề

để ý rằng Bliss miễn nhiễm với rƣợu. Bliss dựa lƣng vào thành ghế ðan từ cây

liễu gai, rồi vắt cả hai chân lên ðùi chàng trai. Sau mấy tháng mùa ðông ở New York, cô thực sự cảm thấy tự do khi ở ðây, với làn gió biển dịu nhẹ thổi qua

từng kẽ tóc cô, cũng chẳng có ba mẹ cằn nhằn cô, và tuyệt hõn hết là chẳng có

cõn ác mộng nào từ khi cô ðặt chân lên hòn ðảo này.

- Em muốn đi dạo không? - Morgan đề nghị.

Bliss gật đầu đồng ý. Một "chuyến đi dạo dọc bờ biển" nghe có vẻ khả nghi.

Chẳng phải ðó chỉ là cách nói hoa mỹ hõn của "Em muốn mình quấn lấy nhau

không?"?

Họ nắm tay nhau ði dọc bờ biển. Bliss nhúng hai bàn chân xuống những con

sóng cuộn lãn tãn, cảm nhận làn nƣớc mát lạnh trên da thịt cô. Ánh sáng của

khách sạn càng lúc càng mờ ði. Cô lên tiếng châm chọc:

- Morgan là tên con gái.

- Ồ, thế hả? - Anh hỏi lại, ôm cô và kéo cô xuống nền cát.

Bliss vờ cƣỡng lại khi anh níu tay cô xuống.

- Em sẽ không thoát đƣợc anh đâu. - Anh nói.

- Không ƣ?

Chàng trai bắt ðầu hôn Bliss và rồi cô cũng hôn ðáp lại anh. Nụ hôn này khác

hẳn nụ hôn của Dylan hay của Kingsley, cô nghĩ. Ðây là nụ hôn của một con

ngƣời. Một Máu Đỏ. Bliss có thể cảm nhận nhịp tim anh đập trong lồng ngực,

ngửi thấy mùi hƣõng ngào ngạt ðầy chất "con ngƣời". Rồi ðột nhiên, cô biết cô

sẽ phải làm gì.

Morgan cởi áo sõ mi và ném nó sang một bên. Bliss giúp anh cởi khuy áo cánh

trên ngƣời cô. Cả thân ngƣời cô rộn lên náo nức khi anh trƣợt một tay xuống lớp

áo bikini và tháo dây áo. Anh di chuyển nhanh quá... nhƣng rồi, cô cũng vậy.

Cô cuộn mình cƣỡi lên trên anh, giạng hai chân ôm lấy ngƣời anh, đầu gối cô tì

xuống nền cát hai bên hông anh.

- Tuyệt. - Anh chàng sinh viên thốt lên ðầy ngƣỡng mộ trƣớc hình ảnh Bliss

ngực trần, ngồi giạng chân trên ngƣời mình dƣới ánh trăng.

- Anh nghĩ vậy hả? - Cô bẽn lẽn hỏi lại. Rồi cô cúi xuống, hôn dọc làn da sẫm

màu trên cõ thể chàng trai, rồi tiến dần lên ngực, lên cổ, và tới vùng da ấm áp

dƣới cằm anh. Lƣỡi cô đƣa ðẩy trong những nụ hôn dịu dàng.

Anh khẽ thở dài rồi dùng cả hai tay giữ lấy ðầu cô hầu níu cô lại gần anh hõn.

Chính giây phút ðó, Bliss cắm phập những chiếc rãng nanh lên da thịt anh và

bắt đầu uống...

CHÝÕNG 29

Ủy Ban vẫn thƣờng nói rằng tất cả những gì phải làm khi ta muốn nhớ lại cuộc

sống trƣớc kia trong quá khứ là ngồi vào ghế, nhắm mắt lại và tập trung suy

nghĩ, thả trí óc trôi ngƣợc dòng ký ức bất tận, ðeo bám theo cuốn ca-tõ-lô hình

ảnh về chuỗi cuộc ðời dài tới nghìn kiếp của mình. Trong phòng riêng mờ tối,

Mimi nép mình vào chiếc trƣờng kỷ kiểu công chúa, đặt chiếc mặt nạ bằng lông

lên hai mắt và bắt ðầu tập trung.

Các hình ảnh không thể rõ hõn ðƣợc nữa. Mọi chu kỳ sống trƣớc đây của cô

luôn hiện ra với cùng một nội dung: cô và Jack bên nhau, hạnh phúc, làm lễ giới

hạn máu với nhau, và yêu thƣõng nhau. Cô phân tích khoảng ký ức gần đây nhất

của hai ngƣời: ở Plymouth và Newport, nhƣng cả thời gian và ðịa ðiểm ðều

không tỏ rõ chút manh mối nào.

Dù ðã cố gắng hết mức có thể, Mimi vẫn không tìm ra đƣợc lý do Jack chối bỏ

cam kết, lý do tạo nên sự nghi ngờ và lƣỡng lự của anh. Có thật là cô không thể

tìm ra? Hay là cô có thể?

Choáng váng, Mimi chợt nhớ ra cái nhìn trên khuôn mặt Jack trong ðêm diễn ra

Vũ hội Four Hundred. Cái nhìn toàn tâm toàn ý tôn thờ. Nhớ lại thì khi đó cô đã

cố xua đuổi hình ảnh ấy ra khỏi đâu, chỉ coi nó nhƣ một sự mê ðắm tạm thời.

Chẳng có gì hõn ngoài sự tò mò ðõn thuần. Cô thật ngốc ngếch làm sao. Cô ðã

tự làm mình ðui mù bởi lòng kiêu hãnh của chính cô. Cô đã chối bỏ sự thật đó

quá lâu rồi.

Câu trả lời thực ra luôn nằm ngay trƣớc mắt cô.

Schuyler Van Alen.

Con oắt mang dòng máu lai. Hay chính xác hõn, một Máu Xanh không có quá

khứ. Một linh hồn mới. Cô ta là một hiện tƣợng dị thƣờng trong thế giới ma cà

rồng. Và cô ta cũng là nguyên nhân vô hình khiến Jack mất thăng bằng.

Làm sao trƣớc đây cô lại không nhận ra chứ?

Schuyler chƣa từng tồn tại trong thế giới của họ cho tới tận chu kỳ này. Chỉ duy

nhất lúc này... trong chu kỳ này mà thôi. Và cũng chỉ duy nhất lúc này, trong

chu kỳ này, hẹn ƣớc thề nguyền giữa Jack và cô mới bị ðặt dƣới dấu hỏi nghi kị.

Jack bị hút về phía Schuyler nhƣ anh đã từng bị hút về phía Gabrielle. Mimi bực

bội lột tung chiếc mặt nạ ra khỏi mặt và ném nó sang ðầu kia cãn phòng, suýt

chút nữa văng trúng con chó cƣng Pookie gốc Trung Hoa ðang rên ƣ ử ra chiều

phiền muộn. Gabrielle. Luôn luôn là Gabrielle. Thậm chí từ trƣớc khi bị ðày

khỏi Thiên Ðàng ðã nhƣ vậy rồi. Gabrielle Thanh Khiết, thiên thần Ðƣa tin của

Chúa, tổng lãnh thiên thần gắn với Thiện Lƣõng, vị thiên thần mang tới cho loài

ngƣời những tin tức về sự cứu rỗi. Mimi và Jack từng là những Thiên thần của

Địa phủ, số phận của họ gắn với bóng tối và sự công bình, hầu nhắc nhở loài

ngƣời nhớ đến cái chết. Thế nhƣng Jack, hay Abbadon, luôn bị hút về phía Ánh

sáng. Anh luôn bị hút về phía sức mạnh của Thiện Lƣõng.

Thế mà mọi ngƣời còn nói cô là kẻ thích trèo cao? Mimi thầm nghĩ. Qua bao thế

kỷ, Mimi biết Jack không hài lòng với số mệnh của mình, anh luôn khó chịu với

danh phận và vị trí của Thiên thần Hủy diệt. Nhƣng Jack cũng chƣa từng trốn

tránh trách nhiệm của mình, Mimi hiểu ngƣời anh song sinh của mình quá rõ.

Cô chỉ ƣớc sao anh có thể chấp nhận thế giới này nhƣ nó vốn có, thay vì nung nấu tham vọng đạt đƣợc thứ gì ðó cao cả hõn. Và ðó chính là lý do dẫn họ tới

rắc rối ngay từ lúc ðầu. Họ vốn theo Lucifer leo thang trên con ðƣờng quyền lực,

bởi Jack nghĩ rằng nếu anh cũng tỏa sáng nhƣ mặt trời mà Gabrielle yêu biết

bao nhiêu thì anh sẽ chiếm đƣợc trái tim cô ta. Nhƣng Gabrielle đã từ chối anh

không thƣõng tiếc, thậm chí ngay cả khi bị ðày xuống trần thế này, khi mà cô ta

chối bỏ Michael, cô ta cũng chọn một con ngƣời còn hõn là chọn Abbadon của

Bóng tối.

Chẳng có bí mật nào tồn tại ðƣợc giữa cặp song sinh nhà Force. Trong hõn suốt

một thiên niên kỷ, Mimi ðã học đƣợc cách sống với sự thật rằng khuôn mặt

Gabrielle đã trở thành nỗi ám ảnh trong mọi giấc mõ của Jack. Nhƣng giờ đây,

sức mạnh quyến rũ đó đã chuyển giao từ mẹ sang con gái, và ðó là ðiều cô mà

không thể chấp nhận đƣợc.

Giờ thì Mimi đã biết cô sẽ phải làm gì ðể cứu lấy sợi dây liên kết giữa cô và

Jack, để cứu lấy chính bản thân họ.

Cô phải hủy diệt Schuyler Van Alen. CHÝÕNG 30

Tiếng ðập cửa liên hồi không dứt làm lung lay những tấm vách làm từ tre, nứa

của khu nhà nghỉ nằm ngay trên bãi biển. Âm thanh ấy phá vỡ sự tĩnh lặng của

buổi bình minh. Lúc này mới gần nãm giờ sáng.

- Schuyler! Schuyler! Dậy mau!

Schuyler bổ nhào ra khỏi giƣờng và mở hé cửa. Cô thấy Bliss ðang ðứng trƣớc

cửa, trông ðầy vẻ hoảng hốt, trên ngƣời Bliss vẫn nguyên bộ ðồ mặc từ tối hôm

qua, mái tóc thì rối bù.

Schuyler tháo then cài cho cánh cửa mở rộng ra.

- Chuyện gì vậy?

- Ôi Chúa õi, Schuyler, cậu phải giúp tớ, tớ gặp rắc rối lớn rồi, chết tiệt, mọi

chuyện tệ lắm, tớ nghĩ anh ta chết rồi. - Bliss nói, run lên nhƣ cầy sấy.

- Chết? Ai chết mới đƣợc chứ? - Schuyler ngay lập tức bừng tỉnh khỏi cõn ngái

ngủ.

- Morgan - anh chàng trợ lý ấy. Tớ... ði với tớ nhanh nào.

Khi cùng Schuyler chạy xuống bãi biển, Bliss đã kể lại toàn bộ sự việc cho

Schuyler nghe.

- Tớ đã thực hiện nó. Tớ đã thực hiện Caerimonia Osculor rồi. Một Nụ hôn

Thần Thánh. Tớ cũng không biết thế nào mà chỉ có cảm giác rất thích thú thôi.

Tớ muốn mau chóng thực hiện nó, cậu hiểu không? Tớ ghét vì phải làm kẻ duy

nhất trong lứa chúng ta chƣa làm chuyện này. Và nó thật tuyệt vời, mọi chuyện

rất ổn, anh ta dƣờng nhƣ thực sự bị cuốn vào... nhƣng rồi, tớ chẳng biết nữa, tớ

nghĩ tớ đã ði quá xa. Ôi khốn kiếp, Schuyler õi, nếu Ủy Ban mà phát hiện ra

chuyện này, tớ sẽ gặp rắc rối lớn-cực-lớn cho mà xem.

Bliss dẫn Schuyler tới nõi cô và Morgan ðã tình tự bên nhau trong một khu vực

kín đáo nằm khuất dƣới những tán cọ, đằng sau một cồn cát.

Chàng trai ðang nằm ngửa mặt trên nền cát, máu vẫn ðang nhỏ giọt từ vết cắn

nho nhỏ trên cổ anh.

- Anh ta không thở. - Bliss lo lắng nói. - Có lẽ tớ thực sự đã đi quá xa rồi.

Schuyler quỳ gối xuống và kiểm tra mạch Morgan.

- Không thấy mạch đâu.

- Ôi Chúa õi, ngƣời ta sẽ giết tớ! Không ai đƣợc phép giết ngƣời khi thực hiện

Caerimonia cả! Chƣa từng!

- Suỵt... để tớ nghĩ đã nào... Jack. Chúng ta cần Jack. - Schuyler quyết định.

- Jack ƣ? Tại sao?

- Bởi vì cậu ấy đã làm chuyện này trƣớc đó rồi. Morgan có lẽ chƣa chết đâu. Có

thể chuyện này vẫn hay xảy ra với Máu Ðỏ sau khi thực hiện nghi lễ. Biết ðâu

Jack lại biết đƣợc chuyện gì ðó mà chúng ta không biết.

Ngay cả trƣớc khi Bliss gõ cửa phòng thì Jack đã đứng sẵn ở cửa, ăn mặc chỉnh

tề và hoàn toàn tỉnh táo. Schuyler kinh ngạc trƣớc tốc độ di chuyển của cậu. Cô

ðoan chắc cậu thực hiện bài kiểm tra Velox rất hoàn hảo. Cô ðã không nghĩ đến

chuyện sử dụng ðến tốc ðộ ma cà rồng trong bộ ðồ thời trang nhƣ vậy, cô vẫn

còn mặc ðồ ngủ. Jack nghe Bliss kể lại sự việc và ở ngay ðó chỉ sau vài giây.

Cậu quỳ gối xuống cát và bắt mạch của Morgan bằng cách ấn hai ngón tay vào

cổ anh chàng.

- Mạch đây rồi... Vẫn có thể cảm nhận đƣợc, dù rất yếu nhƣng nó ở đó.

- Ôi tạ õn Chúa. - Bliss kêu lên, cùng lúc ngồi phịch xuống nền cát, thở phào

nhẹ nhõm.

- Vậy anh ta sẽ ổn chứ? - Schuyler hỏi.

- Anh ta sẽ ổn thôi. - Jack nói. - Anh ta có thể không nhớ chuyện đã xảy ra,

nhƣng khi tỉnh lại, anh ta sẽ đi tìm cậu. Anh ta sẽ bị hút về ngƣời đã "đánh dấu"

anh ta làm thần linh của cô ấy.

- Tại sao?

- Nụ hôn Thần Thánh tạo ra một sợi dây ràng buộc. Tức là anh ta giờ là ngƣời

của cậu rồi. Không một ma cà rồng nào có thể chọn anh ta làm thần linh nữa. Khi cậu hút máu của anh ta, máu của cậu và của anh ta hòa vào làm một, và nó

sẽ trở thành chất ðộc ðối với bất kỳ Máu Xanh nào khác.

Bliss và Schuyler cùng thu nhận thông tin mới mẻ này.

- Vậy anh ta giờ giống nhƣ là bạn trai tớ? - Bliss hỏi lại, không chắc cô có thực

sự muốn nhƣ vậy không.

- Nếu cậu muốn. - Jack trả lời. - Ðây không phải một chuyện tầm phào, cậu biết

đấy. Nó có ý nghĩa. Đối với cả hai phía.

- Tớ... - Bliss đỏ mặt.

- Đƣợc rồi. - Jack nói. Cậu nâng chàng trai lên. - Giờ ðƣa anh ta về phòng đã.

Nhƣ vậy anh ta sẽ chỉ cho rằng mình bị chuếnh choáng đầu óc buổi sáng sau

buổi chè chén tối qua thôi.

- Cám õn, Jack. - Schuyler nói khi cả Morgan và Bliss ðã an toàn trở về phòng

họ. Cô ðặt hờ một tay lên cẳng tay cậu ðể cậu biết hành ðộng của cậu có ý nghĩa

thế nào ðối với cô.

Jack cƣời, ðôi mắt ngọc lục bảo rực sáng trong ánh ðèn mờ ảo. Schuyler nghĩ cô

chƣa từng gặp ai bình tĩnh đƣợc nhƣ vậy khi gặp phải áp lực. Cậu tỏa ra một sức

ảnh hƣởng kiên ðịnh, một dáng vẻ lãnh ðạo bẩm sinh, làm dịu nỗi bất an của

Bliss và chãm sóc chu ðáo cho Morgan. Cậu ðặt tay trái lên vai Schuyler.

- Bất cứ lúc nào cậu cần. Và nói với Bliss đừng lo lắng gì nhé. Tất cả chúng ta

đều phạm sai lầm.

Làn da cậu tỏa nhiệt, gây cảm giác thật mịn màng, và Schuyler chợt nghĩ họ có

thể đứng đó nhƣ vậy mãi mãi, hóa tƣợng luôn trƣớc ngƣỡng cửa phòng cô cũng

đƣợc. Nhƣng Jack là ngƣời thả tay ra trƣớc, nên cô ðành miễn cƣỡng thu tay

mình về.

- Ừm... chúc cậu ngủ ngon. - Jack lẩm bẩm, gật đầu về phía mặt trời đang nhô

lên từ từ xuyên thủng những ðám mây. Cậu quay ðầu bƣớc đi, bƣớc chân cậu

nhẹ nhàng trên sàn gỗ.

- Chúc cậu ngủ ngon. - Schuyler thì thầm khe khẽ. - Mõ những giấc mõ ðẹp

nhé?

- Chắc chắn rồi! - Jack đáp lại.

Schuyler cƣời khe khẽ với bản thân mình khi cô khóa cửa phòng lại. Cô không

ðịnh ðể Jack nghe thấy mấy lời cuối cùng ðó, nhƣng chẳng có gì là bí mật đối

với một ma cà rồng có khả nãng siêu thính.

Sáng muộn hôm ðó, Schuyler và Bliss ngồi chung taxi ra phi trƣờng. Máy bay

của họ khởi hành lúc tám giờ nên cả hai chỉ có hai tiếng ðể ngủ sau mớ lộn xộn

lúc sáng sớm.

- Cậu ổn chứ? - Schuyler hỏi.

- Chúa õi, tớ cần một ðiếu thuốc. - Bliss nói, dò dẫm trong ví. Rồi cô lôi ra một

ðiếu thuốc và châm lửa, ðồng thời hạ cửa sổ xe xuống. - Làm một ðiếu không?

Schuyler lắc đầu.

- Tớ không chắc chắn lắm. - Bliss thú nhận. - Giờ tớ chỉ ƣớc giá nhƣ tớ biết chờ

ðợi. Tớ không biết nữa, lúc ðó tớ chỉ cảm thấy muốn làm chuyện ðó. Cậu hiểu

không? Bởi Mimi cứ nhắc tới nó liên hồi, và cả những cô nàng khác nữa chứ,

lúc nào họ cũng khoác lác về những thần linh quen thuộc của mình. Còn tớ thì

chỉ biết đực ra nhƣ một con ngốc, tớ không biết nữa, kiểu nhƣ một đứa còn

"din" hay đại loại nhƣ vậy.

- Vậy chuyện ðó rốt cuộc thế nào? - Schuyler hỏi.

- Thành thật?

- Ừm.

- Tuyệt cú mèo. Nó giống nhƣ thể cậu nuốt chửng cả linh hồn họ vậy, Schuyler

à. Tớ có thể nếm cả... con ngƣời anh ta. Và rồi tớ thấy rất tuyệt vời, cậu hiểu

chứ? Một cảm giác lâng lâng. Hối thúc. Giờ thì tớ hiểu tại sao mọi ngƣời lại làm

chuyện đó. - Bliss thú nhận.

Chiếc taxi lao vù vù, hai cô gái nhìn ra ngoài ngắm cảnh những cãn nhà và làn

nƣớc yên ả của vùng biển Caribê. Một cảnh tƣợng thật tuyệt vời làm sao, nhƣng

cả hai ngƣời lúc này chỉ mong mau chóng ðƣợc quay về New York với những

con phố bụi bặm, xám ngoét.

- Tớ vẫn chƣa thực hiện nghi lễ đó. - Schuyler cũng thú nhận, hít một hõi thật

sâu.

- Cậu sẽ, một lúc nào ðó. - Bliss ðáp, gạt tàn thuốc lá qua cửa sổ xe. - Nhƣng

lấy tớ làm gƣõng ðây nè, hãy nhớ khi chọn thần linh quen thuộc cho mình thì nên chắc chắn rằng anh ta có chút ý nghĩa nào đó với cậu. Tớ đã bị Morgan thu

hút nhƣng tớ không thực sự muốn anh ta. Tớ gần nhƣ chẳng biết gì về anh ta cả. HỒ SÕ BỆNH ÁN

Bệnh viện tâm thần St. Dymphna

Họ và tên: Margaret Stanford

Tuổi: 16

Ngày nhập viện: 5/4/1869

HỒ SÕ BỆNH ÁN:

Ngày 30/4/1869, đƣợc đề nghị điều trị cách ly. Bệnh nhân không có phản ứng.

Ngày 23/5/1869, phƣõng pháp ðiều trị cách ly chấm dứt.

Bệnh nhân tiếp tục rõi vào trạng thái mê sảng, ảo giác và ác mộng. Xu hƣớng

muốn tự tử ngày càng thể hiện rõ hõn.

Bệnh nhân có dấu hiệu hung hãng, gây nguy hiểm cho bản thân và ngƣời khác.

Đƣợc ðề nghị chuyển sang khu ðiều trị có kèm kiểm soát an ninh.

TÌNH TRẠNG HIỆN TẠI:

Một tuần trƣớc khi chuyển sang khu điều trị mới, bệnh nhân bắt đầu có phản

ứng với liệu pháp điều trị. Bệnh nhân ở yên một chỗ và ðƣợc phép ở lại trong

khu ðiều trị hiện tại thêm vài tuần nữa. Trong thời gian này không thấy có dấu

hiệu của ảo giác, kích ðộng hay mất trí. Bệnh nhân phản ứng khá tốt với các câu hỏi của bác sĩ và tỏ ra ðã hồi phục hoàn toàn. Ðƣợc đề nghị trả về với gia đình

sau ba tháng nữa nếu tình hình tiếp tục tiến triển tốt. CHÝÕNG 31

Mọi nãm, vào ngày lễ Tình nhân - Valentine, hội học sinh lại tổ chức gây quỹ

bằng cách bán hoa hồng và nhận luôn chuyển phát nhanh tới tận từng lớp. Có

bốn loại hồng đƣợc bán, ðó là hồng trắng, hồng vàng, hồng ðỏ và hồng phớt,

còn ý nghĩa ẩn chứa ðằng sau từng màu hoa thì đƣợc đám con gái trong trƣờng

giải nghĩa và phân tích tới vô cùng vô tận. Mimi luôn hiểu chúng theo nghĩa

nhƣ thế này: hồng trắng tƣợng trƣng cho tình yêu, hồng vàng cho tình bạn, hồng

ðỏ cho ðam mê và hồng phớt cho một ðối tƣợng bí mật mà ai ðó phải lòng. Vào

ngày Valentine hàng nãm, Mimi luôn là ngƣời nhận đƣợc những bó hồng to

nhất và lộng lẫy nhất. Một trong những thần linh quen thuộc loài ngƣời của cô

đã từng mua tới tận sáu mƣõi bông hồng ðỏ ðể chứng minh sự tận tụy vĩnh cửu

của anh ta ðối với cô. Lúc này, Mimi ðang ngồi trong phòng thí nghiệm môn

Hóa - tiết thứ nhất của buổi sáng hôm nay, và chờ ðợi một ðợt sóng "hoa" ập

đến.

Ðám chân chạy việc trong hội học sinh cuối cùng cũng tới, mang theo những

giỏ đầy hoa.

- Chúc mừng ngày lễ Valentine! - Cả ðám ðồng thanh cất tiếng lảnh lót với thầy

Korgan, ngƣời lúc này ðang tỏ vẻ bị quấy rầy cực độ.

- Rồi, rồi, làm lẹ ði cho xong nào. - Thầy phàn nàn.

Rất nhiều cô nàng trong lớp nhận ðƣợc những bó hoa nho nhỏ và phần lớn ðều

là hồng vàng, ðiều này có nghĩa là các cô gái ðã tự bỏ tiền túi của mình để tặng hoa cho nhau. Đó cũng là một cách giúp ðám con gái tự làm mình cảm thấy khá

hõn vì không có một lễ Valentine tử tế, đúng nghĩa.

Schuyler ðang ngồi trên chiếc bàn quen thuộc của cô. Tuần này, lớp lại ðổi chỗ

ngồi theo lƣợt nên cô lại quay về ngồi chung với Oliver. Cô nhận đƣợc một đóa

hồng vàng. Nãm ngoái, Oliver cũng gửi tặng cô một bó nhƣ vậy, không quên

kèm theo một tấm thiệp với nét chữ không lẫn ði ðâu ðƣợc của cậu trên ðó.

- Cảm õn, Ollie. - Schuyler mỉm cƣời, hít hà hƣõng hoa tƣõi mới.

- Còn ðây là cho anh, anh Hazard-Perry. - Cô gái đƣa hoa năm nhất nói, đoạn

trao cho Oliver một bó hồng phớt.

Mặt Oliver biến sắc:

- Hồng phớt à?

- Một ngƣời hâm mộ bí mật! - Schuyler trêu trọc. Cô ðã quyết định gửi tặng cậu

một đóa hồng phớt vì họ lúc nào cũng tặng nhau hồng vàng, thành thử quá dễ

ðoán là ai tặng ai. Tại sao nãm nay lại không thêm một chút xíu gia vị mới mẻ

nhỉ?!

- Ha. Phải rồi. Tớ biết cậu đã đặt mua chúng, Sky. - Oliver nói, rút ra tấm thiệp

trên ðỉnh bó hoa. Cậu ðọc to - „Oliver, cậu sẽ là "valentine"58 bí mật của tớ

chứ? Yêu cậu, Sky‟.

Cậu ðút tấm thiệp vào phong bì và không nhìn Schuyler trong một phút.

Schuyler muốn dòm ngó tâm trí cậu. Cô đã hoàn thành xuất sắc bài học về

58 Valentine: ngƣời yêu nguyên tắc "chụp bắt" thứ nhất, nhƣng Oliver cũng đƣợc dạy dỗ và chẳng mấy

chốc, cậu đã thành thạo kỹ năng "bế quan tỏa cảng", giúp cậu đóng kín tâm trí

mình trƣớc những ảnh hƣởng ngoại lực, vì vậy Schuyler không còn đọc tâm trí

cậu đƣợc nữa.

Bliss, lúc này ðang ngồi chung bàn với Kingsley, cũng nhận ðƣợc hai bó hồng

đỏ thắm có độ lớn ngang nhau.

- A, xem ra anh có ðối thủ cạnh tranh ðây. - Kingley kéo dài giọng.

- Chẳng có gì đâu. Chỉ là từ một anh chàng em thậm chí còn không biết rõ lắm.

- Bliss lẩm bẩm. Không nghi ngờ gì nữa, bó hoa thứ hai là của Morgan. Anh

chàng ðã đặt hoa từ tận phòng ngủ kí túc xá của mình bên đảo Rhode.

Tấm thiệp của Morgan ghi: "Em luôn luôn ở trong tâm trí anh. Yêu em, M."

Còn Kingsley thì trao tận tay cô đóa hoa hồng của cậu.

- Anh ƣớc chúng có màu xanh ngọc, màu ðó hợp với em hõn nhiều. Màu này

"chọi" với màu tóc của em.

- Ổn mà anh. - Bliss thì thầm. Cô vẫn chƣa hiểu rõ tình cảm cô dành cho

Kingsley là thứ tình cảm gì. Nhƣng cô luôn có cảm giác ở bên anh là một sự

phản bội đối với ký ức về Dylan.

Sau khi đã phân phát hết những bó hoa cỡ vừa, đám học sinh nhận đƣa hoa mới

mang ra những bó lớn. Những bó hoa bốn tám bông hay ba sáu bông hoa đƣợc

trang trí theo kiểu "bành trƣớng" siêu lộng lẫy, và chúng ðều có màu nhung ðỏ thẫm, tất cả dƣờng nhƣ ðều có tên của Mimi Force trên thiệp gửi kèm. Ngay lập

tức, khu vực quanh bàn Mimi trông nhƣ nhà tang lễ59.

- Có vẻ mọi chuyện xong rồi đấy nhỉ. - Thầy Korgan lầm bầm.

- Khoan, chúng ta vẫn còn một bó. - Một ngƣời đƣa hoa nói, đoạn mang ra một

bó hoa chắc chắn là bó hoa ðắt nhất trong số tất cả những bó ðã đƣợc chuyển

phát ngày hôm nay: một bó hoa dài hõn chín mƣõi xentimét với hai trăm bông

hồng trắng, một màu trắng ngà tinh khôi tuyệt ðẹp. Tất cả các cô gái trong

phòng chết lặng. Gần nhƣ không một chàng trai nào từng mua tặng hồng trắng.

Nó là dấu hiệu lớn nhất của sự cam kết. Và ðóa hoa vĩ ðại này thực tế không chỉ

"nói" mà là "gầm lên" tiếng gọi của một trái tim ðã chịu quy phục hoàn toàn.

(Hoa to quá mà XD)

Ngƣời đƣa hoa mang bó hoa tới trƣớc mặt Schuyler.

Mimi nhƣớng một bên mày. Cô luôn luôn thắng cuộc trong trò chõi "thi hoa"

này. Vậy chuyện này rốt cuộc là sao ðây?

- Của tôi sao? - Schuyler hỏi, kinh ngạc trƣớc kích cỡ của đóa hoa. Cô lôi tấm

thiệp từ cành hoa cao nhất.

"Dành tặng Schuyler, cô gái không thích những câu chuyện tình."

Không có chữ ký kèm theo.

59 Nhà tang lễ thƣờng có rất nhiều hoa. Ở Mỹ, hoa tang đƣợc bài trí và sắp xếp rất ðẹp, với

màu sắc thanh tú hõn so với hoa tang thƣờng thấy ở Việt Nam. Nhƣng dù sao tác giả cũng có

nhiều so sánh thấy ghê à >"< Mimi liếc nhìn chằm chặp những đóa hoa hồng đỏ của mình, những bông hoa

dƣờng nhƣ héo tàn trƣớc cái lừ mắt của cô. Cô không cần phải mất công đoán

xem ai đã gửi những bông hồng trắng sáng chói kia cho con quỷ con. Màu trắng

của ánh sáng. Màu trắng của tình yêu. Màu trắng của sự vĩnh cửu.

Đã tới lúc cô phải thực hiện kế hoạch của mình rồi.

Khi bƣớc ngang qua chỗ Schuyler ngồi, Mimi vờ nhƣ trƣợt chân và ngã tựa vào

ghế của Schuyler. Cô nhanh tay túm lấy một sợi tóc sẫm màu của Schuyler.

- Ái! - Schuyler kêu lên.

- Cứ chờ xem. - Mimi khịt mũi. Sợi tóc đã nằm chắc chắn trong tay cô. Từ giờ

tới lúc đó sẽ không còn lâu nữa ðâu. CHÝÕNG 32

Sau khi đã thành thục nguyên tắc "chụp bắt" thứ nhất, Schuyler chuyển sang

học nguyên tắc thứ hai: nguyên tắc "ðề xuất". Ðây là nguyên tắc dạy ma cà rồng

kỹ năng nhen nhóm kế hoạch hay ý tƣởng nào ðó vào ðầu một kẻ khác.

- Ðây là cách chúng ta ðã dùng để đánh bại Máu Đỏ trong mọi việc, từ trí tuệ

tuyệt ðỉnh, tài nãng nghệ thuật và cả sắc đẹp nữa. - Ông ngoại cô tiết lộ. -

Chúng ta thƣờng sử dụng "ðề xuất". Nó là một công cụ hữu ích. Phần lớn mọi

ngƣời đều thích cho rằng ý tƣởng của họ chính là do họ nghĩ ra, vì thế chúng ta

chỉ "ðề xuất" cho họ mà thôi. Nếu không có sự can thiệp của chúng ta thì loài

ngƣời sẽ chẳng bao giờ có cái gọi là "New Deal"60, "An sinh xã hội" hay thậm

chí cả "Lincoln Center"61 nữa.

Luyện "Đề xuất" thậm chí còn khó hõn luyện "thần giao cách cảm". Lawrence

giải thích rằng Máu Xanh phải sử dụng nó thật tài tình sao cho con ngƣời không

cảm nhận đƣợc họ đang bị điều khiển. Ông nói:

- Loại hình quảng cáo tác ðộng tiềm thức62 cũng là do ngƣời của chúng ta sáng

chế ra, hiển nhiên là vậy rồi. Nhƣng đến khi Máu Đỏ phát hiện ra, ngay lập tức

họ cấm sử dụng nó. Thật là ðáng tiếc.

60 New Deal: tên gọi chính sách cải cách kinh tế - xã hội thập niên 30 (thế kỷ 20) của tổng

thống Mỹ Franklin D. Roosevelt.

61 Lincoln Center: tên một nhà hát lớn ở New York (Mỹ), nõi chuyên tổ chức mọi loại hình

nghệ thuật.

62 Ðây là loại hình quảng cáo khá phổ biến, ngƣời ta chiếu các hình quảng cáo rất nhanh trên

tivi và phim ảnh nhƣng lại gây ảnh hƣởng lớn đến tiềm thức thị giác của ngƣời xem. Buổi tối hôm trƣớc, Lawrence đã yêu cầu cô "đề xuất" một việc gì đó cho

Anderson. Sau mấy tiếng đồng hồ nỗ lực hầu tìm ra tín hiệu trung tâm trong não

bộ Anderson, đồng thời phải tìm cách gửi tới trung khu não bộ một thông điệp,

thì ông lão ðột nhiên ðứng dậy, nói rằng ông muốn uống trà và hỏi xem liệu có

ai muốn uống nữa không?

Khi Anderson rời đi, Lawrence nhìn về phía cô cháu gái.

- Là cháu làm, ðúng không?

Schuyler gật ðầu. Bài học ðã lấy đi của cô gần nhƣ toàn bộ sức lực, tất cả chỉ ðể

gửi đi một thông ðiệp vô cùng ðõn giản.

- Tốt. Ngày mai chúng ta sẽ bỏ qua bữa chiều ðể làm một vài chuyện khác quan

trọng hõn.

Ngày hôm sau, lúc ở trƣờng, nỗ lực hoàn thành bài học "ðề xuất" ðã khiến

Schuyler phải trả giá. Dọc đƣờng quay lại sảnh chính sau tiết ba, Schuyler đột

nhiên cảm thấy chóng mặt. Cô bƣớc ði lảo ðảo và có lẽ ðã ngã nhào xuống cầu

thang nếu không có Jack Force kịp thời đỡ lấy.

- Bám chắc nào. - Jack nói. - Cậu vẫn ổn chứ?

Schuyler mở to mắt. Jack đang nhìn cô, lo lắng.

- Tớ chỉ trƣợt chân thôi... Tớ hõi mệt.

Mấy ðứa con gái ði ngang qua hành lang phía sau cô trao nhau những nụ cƣời

"ta ðây thừa biết". Cái kiểu ốm mệt ðấy là chuyện thƣờng ngày ở huyện trong cái trƣờng này, và ðó là dấu hiệu của bệnh biếng ăn. Rõ ràng là Schuyler Van

Alen ðang phải chịu một cõn rối loạn tiêu hóa. Mọi ngƣời đều nhận thấy cô ả

quá gầy.

- Để tớ đƣa cậu về. - Jack nói, bế cô lên ngang ngƣời.

- Không, Oliver - Conduit của tớ, cậu ấy sẽ... mà thực tình không có chuyện gì

ðâu, chỉ là tớ ðã dành nhiều thời gian để luyện tập kỹ năng "chụp bắt". - Cô nói,

hõi có chút ngƣợng ngùng thái quá.

- Tớ tin Oliver hiện đang phải thuyết trình trong lớp tiếng Anh. - Jack nói. -

Nhƣng tớ có thể gọi cậu ta nếu cậu muốn vậy.

Schuyler lắc đầu. Không, nhƣ vậy sẽ không công bằng cho Oliver nếu cậu phải

nhận điểm kém chỉ vì cô bị ốm.

- Thôi nào, ðể tớ ðƣa cậu ra taxi và hộ tống cậu về nhà an toàn.

Lawrence đang ngồi viết lách trong thƣ phòng thì Hattie gõ cửa.

- Cô Schuyler đã về rồi, thƣa ông. Có vẻ cô ấy đã phải bỏ dở tiết học.

Lawrence bƣớc xuống cầu thang và nhìn thấy Jack ðang bế Schuyler trên tay

cậu. Jack giải thích rằng Schuyler đã thiếp đi lúc còn ở trên taxi.

- Nhân tiện, cháu là Jack Force. - Cậu mở lời giới thiệu.

- Phải rồi, phải rồi. Ta biết cậu là ai. Hãy ðặt con bé xuống ghế bành ðã. -

Lawrence bảo rồi dẫn Jack vào phòng khách.

Jack ðặt Schuyler nhẹ nhàng xuống chiếc ði-vãng bọc nhung mềm mại, còn

Lawrence phủ lên ngƣời cô cháu gái một tấm chăn lông cừu.

Làn da Schuyler tái nhợt ðến mức gần nhƣ trong suốt, hàng lông mi ðen mƣợt

của cô rủ xuống hai má. Nhịp thở cô không ðều và khó nhọc. Lawrence ðặt bàn

tay mát lạnh lên vầng trán nóng bỏng của cô và gọi Hattie mang tới một chiếc

nhiệt kế.

- Con bé nhƣ đang bốc cháy vậy. - Ông nói bằng một giọng bồn chồn, lo lắng.

- Cô ấy lả đi lúc ở trƣờng. - Jack giải thích. - Cô ấy có vẻ rất ổn lúc trên xe, và

rồi cô ấy nói cô ấy buồn ngủ, và... ừm... nhƣ ông thấy đấy.

Lawrence nhíu mày càng dữ hõn.

- Cô ấy nói cô ấy đang học kỹ năng "chụp bắt". - Jack chĩa tia nhìn sắc lẻm vào

Lawrence.

- Ðúng vậy, chúng ta ðang thực hành kỹ nãng ðó. - Lawrence gật ðầu xác nhận.

Ông ngồi xuống cạnh cô cháu gái và nhẹ nhàng ðút cây nhiệt kế vào giữa hai bờ

môi hõi hé mở của cô.

- Việc này ði ngƣợc lại Luật của Ủy Ban. - Jack nhắc nhở.

- Ta không nhớ rằng cậu còn biết quan tâm tới luật cõ ðấy, Abbadon. -

Lawrence nói. Không ai trong hai ngƣời chịu lên tiếng thừa nhận tình bạn trƣớc ðây giữa họ, cho tới lúc này. - Cậu là ngƣời đã đứng về phía chúng ta khi ở

Plymouth, chấp nhận trả giá bằng cả danh dự của chính mình.

- Thời thế đổi thay rồi. - Jack lầm bầm. - Nếu những gì ông vừa nói là ðúng, thì

chính ông đã làm cô ấy suy kiệt.

Lawrence rút cây nhiệt kế ra khỏi miệng Schuyler.

- Một trăm mƣời hai độ.63 - Ông nói. Với một ngƣời bình thƣờng thì con số

này coi nhƣ tấm giấy báo tử hoặc không ít nhất cũng là hƣ tổn vĩnh viễn rồi.

Nhƣng Schuyler là một ma cà rồng, và nhiệt ðộ này vẫn trong tầm chấp nhận

đƣợc ðối với giống loài của cô. - Có hõi cao. - Lawrence nói. - Nhƣng nghỉ

ngõi tốt thì sẽ sớm khỏi thôi.

Vài phút sau ðó, Schuyler thức dậy, thấy Jack cùng ông ngoại đang nhìn cô đầy

quan tâm. Cô rùng mình dƣới chiếc chãn len, ðoạn kéo nó lên cao, quấn chặt lấy

hai vai cô.

- Cháu yêu, chuyện này từng xảy ra trƣớc đó chƣa?

- Ðôi khi ạ. - Schuyler nhẹ nhàng thú nhận .

- Sau những giờ thực hành à?

Schuyler gật đầu. Cô đã không dám thú nhận vì cô vẫn muốn tiếp tục đƣợc ông

dạy.

63 Ðộ F, xấp xỉ 44,5 ðộ C. - Ðáng ra ta phải nhận ra. Có phải lần ðầu tiên chuyện này xảy ra là khi cháu rõi

vào trạng thái ngủ ðông, vài ngày sau cuộc rƣợt đuổi giữa hai chúng ta ở Venice

không?

Schuyler lại gật đầu. Cô vẫn còn nhớ những gì bác sĩ Pat đã nói: Đôi khi nó còn

là một phản ứng trì hoãn.

- Ta đã biết nguyên nhân làm cháu suy kiệt rồi. - Lawrence nói. - Ta đáng bị

trừng phạt vì đã không nhận ra vấn ðề sớm hõn. Chuyện cũng ðõn giản thôi. Do

luyện tập sử dụng sức mạnh ma cà rồng nên các tế bào máu xanh của cháu phải

làm việc quá sức, và vì các tế bào máu đỏ của cháu vốn cũng không cao do bản

chất pha trộn máu của cháu, kết quả là nãng lƣợng của cháu bị giảm sút. Chỉ có

một cách duy nhất giúp lƣợng máu của cháu trở về mức bình thƣờng. Chính là

cháu phải thu nạp một thần linh quen thuộc ngay.

- Nhƣng cháu vẫn chƣa đủ mƣời tám mà. - Schuyler phản ðối, viện cớ chƣa đủ

tuổi thực hành Nụ hôn Thần Thánh. - Cháu tính là sẽ chờ tới khi nào ðủ tuổi.

- Ðây là việc hệ trọng, Schuyler ạ. Ta ðã bất lực nhìn mẹ cháu rõi vào hôn mê,

ta cũng không muốn mất luôn cháu. Trong lúc cháu sở hữu những sức mạnh đặc

biệt mà ma cà rồng ở tuổi cháu thậm chí còn không dám mõ tƣởng tới, thì xét về

nhiều mặt, cháu cũng có thể coi là yếu hõn cả một Máu Xanh có sức mạnh mức

trung bình. Cháu không thể thoát khỏi quá trình chuyển đổi, nhƣng cháu có thể

kiểm soát một vài tác hại của nó. Cháu phải thu nạp một thần linh quen thuộc

trƣớc khi sang tuổi mƣời tám. Một cậu bé loài ngƣời. Vì bản thân cháu.

Jack hắng giọng, khiến Schuyler ngạc nhiên là cậu vẫn còn ở đây. Cậu đã im

lặng suốt lúc ông cô giảng giải.

- Tôi nghĩ đã đến lúc mình nên đi rồi. Tạm biệt Lawrence, Schuyler.

Cửa phòng mở đúng lúc Jack chuẩn bị bƣớc ra. Oliver Hazard-Perry đứng ngay

ngƣỡng cửa ra vào, trông cậu có vẻ bối rối khi bắt gặp Jack ở ðây.

- Tôi nghe nói Schuyler phải bỏ tiết giữa chừng. Tôi lo quá nên ðã chạy tới đây

nhanh nhất có thể.

Cả ba ma cà rồng cùng nhìn vào cậu, tất cả đều chung một ý nghĩ trong đầu.

Oliver là một "cậu bé loài ngƣời". Một Máu Ðỏ chính cống. Và Schuyler lại

đang cần một thần linh quen thuộc...

- Sao? - Oliver hỏi khi không thấy ai đáp lại mình - Ngƣời tôi bốc mùi hay có

chuyện gì à? CHÝÕNG 33

Đã ðến lúc thử nghiệm kế hoạch. Ðóa hồng trắng Jack dành tặng Schuyler chính

là giọt nƣớc cuối cùng làm tràn ly. Không chỉ thế, anh trai cô ngày càng tỏ ra

táo bạo và công khai trõ trẽn theo ðuổi con nhóc máu lai kia. Anh thậm chí còn

không thèm tìm cách che đậy sự thật rằng anh lƣợn lờ cả buổi dọc hành lang

ngoài phòng học của Schuyler, hay thƣờng xuyên lui tới thƣ viện cả ở trƣờng

lẫn ở Khu Lƣu Trữ chỉ để thoáng gặp con nhỏ. Mimi thậm chí từng bắt gặp hai

ngƣời bọn họ tán tỉnh nhau không chút xấu hổ giữa thanh thiên bạch nhật! Hôm

nọ một ngƣời bạn còn kể lại với cô chuyện cô ta bắt gặp Jack bế ẵm Schuyler

bƣớc ra ngoài cổng trƣờng học! Mimi thậm chí còn không dám tin vào tai mình

nữa.

Cầm lấy mẩu phấn trắng, Mimi vẽ hình ngôi sao năm cánh nhƣ trong sách

hƣớng dẫn, trên nền nhà lát gỗ màu vàng nhạt. Rồi cô ðặt tất cả những "thành

phần" cần thiết cho bùa chú vào cái bát sắt nhỏ trên chiếc bàn trong phòng thay

ðồ: một nhúm cỏ roi ngựa, mấy nhánh lá nguyệt quế, một bó loa kèn, lá kinh

giới, tim cóc, và một cánh dõi. Trông chúng thật lạc lõng giữa những chai nƣớc

hoa thủy tinh và hộp mỹ phẩm Pháp ðắt tiền.

Cô thắp một cây nến và khõi ngọn lửa sang cành cây hƣõng thảo. Cô thổi ngọn

lửa về hƣớng cái bát và làm ðống thảo dƣợc trong ðó bùng cháy.

Một ngọn lửa màu tím bùng lên cao dần.

Mimi liếc nhìn mình trong gƣõng và ngạc nhiên nhận ra cãn phòng, mới vài

phút trƣớc còn tràn ngập ánh nắng chiều, giờ đã chuyển sang màu đen mờ, chỉ

còn le lói chút ánh sáng tỏa ra từ ngọn lửa trong cái bát.

Hai tay Mimi khẽ run khi cô mở chiếc phong bì nhỏ làm bằng giấy không thấm,

bên trong ðựng sợi tóc của Schuyler Van Alen. Cô lôi sợi tóc ra và giữ nó trên

tay.

Cuốn sách chỉ dẫn cô ném sợi tóc vào ngọn lửa, ðồng thời niệm chú hạ gục ðối

phƣõng. Mimi nhắm hai mắt lại và ném sợi tóc vào ngọn lửa.

- Ta, Azrael, ra lệnh cho các linh hồn. Hãy tiêu diệt kẻ thù của ta.

- Ta, Azrael, ra lệnh cho các linh hồn. Hãy tiêu diệt kẻ thù của ta.

- Ta, Azrael, ra lệnh cho các linh hồn. Hãy tiêu diệt kẻ thù của ta.

- MIMI! - Cánh cửa phòng bật mở. Cô cố gắng thủ tiêu dấu vết của ngôi sao

nãm cánh bằng bàn chân mình nhƣng vô vọng.

- Con chỉ tò mò thôi mà. - Cô giải thích. - Ủy Ban chẳng bao giờ cho tụi con

làm cái gì...

Charles tiến về phía con gái và chọc một ngón tay vào ðống tro còn âm ỉ.

- Ta hiểu. Chúng ta sinh ra từ ma thuật của bóng ðêm, chúng ta là những kẻ bị

ðày ðọa sống kiếp bất tử trên trái ðất. Nhƣng những bùa chú này thực sự rất

mạnh ðấy. Nếu con không biết cách khống chế chúng, chúng có thể quay ra khống chế lại con. Ðó là lý do tại sao ngƣời ta cấm các ma cà rồng trẻ làm

những chuyện nhƣ vậy cho tới khi thực sự sẵn sàng.

Charles cầm cuốn sách ðặt trên bàn.

- Con lấy cái này ở ðâu vậy? Ta biết là từ Kho Lƣu Trữ. Nhƣng nó vốn đƣợc cất

trong ngãn có khóa cõ mà. Ðây là một cuốn sách nguy hiểm đối với những ai

chƣa ðủ tuổi thực hành.

Ông kẹp cuốn sách dƣới cánh tay.

- Con yêu, tại sao con không tìm thứ gì khác để giết thời gian?

Khi ba cô đã rời ði, Mimi cầm chiếc ðiện thoại kiểu công chúa màu trắng và

nhấn số quen thuộc.

- Kingsley. - Mimi cất tiếng. - Em có thể nói chuyện với anh trong ít phút đƣợc

không?

- Chắc chắn rồi, em yêu, có chuyện gì vậy?

- Anh có thực sự rành về mấy thứ anh từng nói không? Về cách gọi một Máu

Bạc từ Bóng tối ra ấy?

- Ờ, có.

- Anh nghĩ nó thực sự có tác dụng không?

CHÝÕNG 34

- Trông em có vẻ gì ðó khang khác. - Kingsley nói vào một chiều khi họ ðƣợc

cho là ðang làm bài tập về nhà trong phòng Bliss. Phải dùng từ nhƣ vậy bởi vì

ðó là những gì Bliss đã nghĩ là sẽ xảy ra, nhƣng rồi Kingsley lúc nào cũng ðề

xuất những ý tƣởng khác. BobiAnne luôn nằng nặc đòi Bliss để cửa phòng mở

mỗi khi cô mời một chàng trai về nhà, và ðó ðã trở thành một nguyên tắc của

mẹ kế cô. Nhƣng hôm nay BobiAnne không có ở nhà. Mỗi tuần bà lại đi spa

vào ngày này, vì vậy bà sẽ vắng nhà trong vài tiếng liền. Jordan thì đang ở buổi

diễn thử ba-lê, việc này cũng phải kéo dài tới tận khuya. Vậy là Bliss chỉ có một

mình, không tính đám ngƣời giúp việc ở tầng một, mãi tận khu dành riêng cho

họ.

- Em mới cắt tóc. - Bliss nói trong lúc nhìn vào bài luận tiếng Đức của cô. Cô

biết đó không phải thứ Kingsley đang ám chỉ tới. Kể từ khi cô nhận đƣợc hai bó

hồng nhung vào ngày Valentine, Kingsley cứ trêu cô mãi và nhằng nhẵng đòi

tìm ra bằng đƣợc nhân dạng của cái ngƣời đƣợc gọi là "chàng trai bí ẩn" của

Bliss.

- Không, không phải cái đó. - Kingsley mỉm cƣời. Anh duỗi ngƣời trên giƣờng

ngủ của cô nhƣ một con mèo lƣời, mái tóc ðen dài ðến nỗi cuốn cả vào cổ áo sõ

mi của anh. Vở ghi chép và kẹp giấy vứt bừa bãi xung quanh anh, trong đó có

cả quyển sách bọc da sẫm màu mà anh luôn ðọc. Nhƣng suốt cả giờ đồng hồ

qua, anh chẳng hề làm bất cứ bài tập nào, mà thay vào ðó, anh lại quay ra trêu

chọc cô suốt cả buổi tối.

- Em không hiểu anh đang nói về chuyện gì. - Bliss trả lời, tiếp tục tỏ vẻ ngoan

cố.

- Anh nghĩ là em có ðấy. Em ðã thu nạp một thần linh loài ngƣời trong kì nghỉ

nho nhỏ hay buổi chụp hình gì đó nhƣ em vẫn gọi, sao cũng đƣợc. Iem đã uống

máo yên ta. (Em ðã uống máu anh ta) - Kingsley nói, nhại theo âm ðiệu vùng

Transylvania64. - Chậc, bất cứ kẻ nào dám tự nhận mình là một dân quê tỉnh lẻ

đến từ Tây Âu cũng thực sự đáng khen đấy.

- Nếu em đã làm vậy thì sao nào? - Bliss hỏi lại.

- Ồ, thì tốt chứ sao. Vậy là giờ chúng ta đã tiến thêm đƣợc một chút rồi đây. Thế

em có thích chuyện đó không?

- Anh không ghen à? - Bliss lại hỏi.

- Ghen á? Tại sao anh lại phải ghen? - Kingsley trông có vẻ bị sốc thực sự. -

Anh nghĩ là em chƣa hiểu hết rồi, nếu anh ghen thì chẳng khác nào ði ghen với

tên thợ làm tóc của em. Suy cho cùng thì thần linh quen thuộc cũng chỉ là một

loại dịch vụ thôi. Chúng ta không gắn bó về mặt tình cảm đối với họ.

- Chúng ta?

- Em hiểu anh muốn nói gì mà.

Kingsley tiến lại phía Bliss và bắt ðầu xoa xoa lƣng cô.

64 Transylvania: thuộc Ðông Âu, nay là miền Trung và Tây Bắc Rumani. - Thôi nào, thƣ giãn ði em... Em vẫn gặp mấy cõn ác mộng ðấy à? Vẫn còn bị

ngất sao?

Bliss gật đầu.

- Em đã thử làm theo những gì anh nói chƣa? - Kingsley hỏi.

Bliss lắc ðầu. Cô quá khiếp sợ nên không dám làm những gì anh chỉ dẫn.

- Ừm, em nên thử, nó có tác dụng ðấy. Ít nhất là ðối với anh. - Những ngón tay

của Kingsley xoa bóp cõ bắp ðau nhức của cô một cách thành thục, và Bliss

ngay lập tức đờ ra trƣớc sự đụng chạm của anh. Cứ nhƣ thể cô bị thôi miên

vậy... Đôi mắt đỏ au với con ngƣõi màu bạc, và một giọng thì thầm vang lên

nhƣ tiếng rít gió...

Sớm thôi...

Sớm thôi...

Sớm thôi...

Con quái thú lại xuất hiện rồi, nó ðang ðuổi theo cô xuyên qua những hành lang

ngang dọc nhƣ một mê cung. Cô cảm nhận ðƣợc sức nóng tỏa ra từ ngƣời nó, và

hõi thở hôi hám ðang phả trên má cô. Cô bị dồn vào một góc, và rồi cô không

tài nào tỉnh dậy đƣợc. Cô nhìn vào mắt nó. Làm ði, làm ði, cô thầm nghĩ. Hãy

làm theo những gì Kingsley nói.

Hãy trò chuyện với nó.

"Mày muốn gì?" - Bliss hỏi.

"Ta chỉ muốn tán gẫu thôi mà." - Ðôi mắt ðỏ au nháy lại với cô.

Lúc tỉnh dậy, Bliss nhận ra cô đã tự cào cấu mình trong cõn sợ hãi. Trên hai

cánh tay cô đầy những vết thâm tím xấu xí. Nhƣng Kingsley đã đúng. Nó đã

phát huy tác dụng. Con thú đã biến mất.

Schiz•o•phre•ni•a (n.): Gốc từ Hy Lạp, có nghĩa là "loạn trí". Mô tả

hiện tƣợng rối loạn tâm thần với biểu hiện suy giảm nhận thức đối với hiện thực.

Những ngƣời mắc chứng loạn trí sẽ nghe thấy những tiếng nói không có thực và

thƣờng xuyên nhìn thấy ảo giác, ngôn từ lộn xộn (thiếu mạch lạc), cử chỉ vô tổ

chức (thƣờng xuyên gào khóc). Các dấu hiệu tiếp theo của chứng rối loạn phải

xảy ra trong thời gian hõn sáu tháng thì bệnh nhân mới có thể đƣợc chẩn trị

chính xác.

- Trích từ ðiển "Các bệnh về rối loại tâm thần", Viện Chuyên gia về Tâm thần

học Mỹ. CHÝÕNG 35

Tới khách sạn Mercer là ý của Oliver. Cậu không muốn dùng phòng mình hoặc

phòng Schuyler vì cho rằng sẽ thật kì cục nếu làm "chuyện ðó" ở chính nõi mà

họ từng dành những khoảnh khắc của một thời "ngây thõ trong sáng" cùng nhau

đọc tạp chí hay xem tivi. Vì lẽ đó, cậu đã đặt một phòng tại khách sạn trong

trung tâm thành phố.

Oliver thuyết phục Schuyler ði uống vài ly với cậu ở quầy bar ðọc sách (loại

vừa phục vụ ðồ uống vừa trýng bày sách cho khách mýợn ðọc tại chỗ) trƣớc khi

lên phòng.

- Cậu không uống cũng đƣợc nhƣng tớ thì chắc chắn cần một ly. - Cậu nói.

Schuyler kiên nhẫn nhìn Oliver nốc hết ly Manhattan này đến ly khác. Cả hai

không nói gì nhiều. Quầy bar đọc sách chỉ mở cửa phục vụ những khách tới

nghỉ ở khách sạn. Hai ngƣời ngồi ở một góc riêng tƣ trong bar, vị khách duy

nhất còn lại trong bar lúc này là một ngôi sao điện ảnh đang tiếp chuyện với

phóng viên tạp chí ở ðầu kia cãn phòng. Ngôi sao ðiện ảnh gác chân lên ghế

bành và cƣời to quá mức, trong khi ngƣời phóng viên có vẻ lo lắng và rụt rè

trƣớc ngôi sao lớn. Một máy ghi âm nhỏ màu bạc ðặt trên bàn uống cocktail

giữa hai ngƣời họ.

- Đƣợc rồi, làm thôi. - Oliver nói, gạt cái ly thứ ba ðang uống dở sang một bên.

- Chúa õi, trông cậu nhƣ thể bị tớ ðày ra mặt trận không bằng. - Schuyler nói

khi họ đi về phía thang máy.

Căn phòng một giƣờng ngủ có cảnh ban công lộng lẫy nhìn ra trung tâm thành

phố, và ðƣợc bài trí với nội thất loại tối tân nhất: ðồ ðạc trong phòng làm bằng

gỗ mun sẫm màu hiệu Makassar, gối tựa, ôm các loại làm bằng len chế từ lông

cừu, sàn nhà lát gạch epoxy ðen bóng loáng nhƣ gƣõng soi, một quầy bar nho

nhỏ làm từ ðá mã não, một chiếc tivi màn hình phẳng, và những bức tƣờng thép

không gỉ trông có vẻ lãnh lẽo nhƣng thực chất lại trõn phẳng và ấm áp, giống

nhƣ bõ vậy.

- Tuyệt. - Schuyler nói khi ngồi ở mé chiếc giƣờng cỡ đại, còn Oliver thì ngồi ở

mé đối diện.

- Cậu chắc là cậu muốn ðiều này chứ? - Oliver hỏi, ngồi trong tƣ thế hƣớng

ngƣời về phía trƣớc, hai tay ôm lấy mặt.

- Ollie, nếu tớ không làm chuyện này, tớ sẽ rõi vào trạng thái hôn mê và không

bao giờ tỉnh dậy nữa. Sáng nay tớ thậm chí còn không thể ra khỏi giƣờng đƣợc.

Oliver nuốt nƣớc bọt.

- Tớ ghét vì đã ép cậu làm chuyện này, nhƣng chỉ là, tớ không biết nữa, tớ

không muốn lần ðầu tiên của tớ lại diễn ra với một ngƣời tớ thậm chí không

quen biết, cậu hiểu chứ? - Schuyler kể thêm cho cậu nghe chuyện xảy ra với

Bliss lúc ở Montserrat. - Và cậu là ngƣời bạn thân thiết nhất của tớ.

- Sky, cậu biết tớ có thể làm mọi thứ vì cậu. Nhƣng chuyện này chống lại Luật

lệ. Các Conduit không đƣợc phép trở thành thần linh quen thuộc của ma cà rồng

mà họ phục vụ. Chúng tớ buộc phải có thái ðộ khách quan. Và chuyện này

không thuộc phạm vi mối quan hệ giữa ma cà rồng và Conduit. Những chuyện nhƣ Caerimonia chỉ làm cho mọi thứ rắc rối hõn thôi, cậu hiểu không?! - Oliver

giải thích.

Cách ðây một tuần, Schuyler lần ðầu tiên ngỏ ý hỏi Oliver xem cậu có đồng ý

trở thành thần linh quen thuộc của cô không, cậu ðã nói rằng cậu sẽ nghĩ về điều

ðó. Ngày hôm sau, cậu không nhắc lại chuyện này, và Schuyler cho rằng cậu

quá lịch sự ðể nói "không" với cô, nên cậu mới hành ðộng nhƣ thể cô chƣa từng

hỏi cậu cái gì hết. Vài ngày tiếp theo trôi qua, và cả hai vẫn không đả động gì

đến nó. Schuyler bắt đầu nghĩ rằng cô cần phải tìm cách khác. Nhƣng sáng nay,

cô tìm thấy một chiếc phong bì nhét trong ngăn tủ của cô. Nó đƣợc gửi từ khách

sạn Mercer, bên trong có ðựng một chiếc chìa khóa thẻ từ của một trong những

căn phòng ở đó. "Hẹn gặp cậu tối nay." - Oliver đã viết nhƣ vậy trong thƣ.

Không phải Schuyler không có những suy nghĩ và cảm xúc lẫn lộn về chuyện

này. Cô cũng ghét việc phải ðẩy Oliver vào tình thế này lắm chứ, nhƣng cô cảm

thấy mình không còn cách nào khác. Nếu cô phải có thần linh quen thuộc thì ít

ra, bỏ qua trò "chõi chữ", ðó cũng nên là ngƣời đã "quen thuộc" với cô từ trƣớc

rồi. Và cô luôn cảm thấy bị hút về phía Oliver kể từ lúc ở Venice trở về. Có lẽ

ðó chính là dấu hiệu cho thấy mọi việc ðã đƣợc an bài rồi. Và rằng chuyện này

không sớm thì muộn cũng sẽ xảy ra thôi.

- Ollie à, chỉ cần cậu nói thôi thì chúng ta sẽ không làm chuyện này nữa, đƣợc

chứ? - Schuyler đề nghị, hai tay cô bám lấy thành giƣờng, kéo căng mép tấm ga

trải giƣờng.

- OK. Vậy thì ðừng làm nữa. - Ngay tức khắc Oliver bật ra. Cậu thở dài rồi nằm

phịch xuống giƣờng, xoa xoa tay trên tấm chãn lông vịt. Ðôi chân dài của cậu

vắt vẻo quá mép giƣờng nhƣng toàn thân ngƣời hoàn toàn thẳng bãng. Cậu nhắm mắt, nhƣ thể sự tình quá mức chịu đựng của cậu, rồi cậu lại đƣa hai tay

ôm lấy mặt, nhƣ thể để che giấu bản thân khỏi thứ gì đó.

- Cậu thực sự có ý vậy à? - Schuyler hỏi lại với chút sợ hãi.

- Tớ không biết nữa. - Tiếng Oliver rền rĩ vang lên sau hai bàn tay cậu, lúc này

đã che phủ hết cả mồm miệng cậu.

- Chỉ là, cậu biết ðấy, tớ sẽ thực sự cẩn thận, nếu cậu sợ, ý tớ là vậy. Cậu phải

tin tƣởng tớ. - Cô vẫn ngồi thẳng đối diện với bức tƣờng cửa sổ kính, trong khi

Oliver nhìn lên trần nhà.

- Tớ tin cậu mà. - Oliver nói bằng tông giọng buồn bã, căng thẳng. - Tớ đã gửi

gắm cả cuộc đời mình cho cậu.

- Tớ biết việc này sẽ làm thay ðổi mối quan hệ của chúng ta, nhƣng chúng ta

vẫn sẽ là bạn thân của nhau. Chuyện này sẽ không thay ðổi ðiều ðó, ðúng

không? Ý tớ là, tớ vốn đã yêu mến cậu rồi. - Schuyler nói. Từng lời của cô đều

là thật, cô rất quý mến Oliver. Cô không thể tƣởng tƣợng cuộc ðời này sẽ ra sao

nếu không có cậu. Cô quay lại nhìn thẳng vào cậu. Oliver đã bỏ tay khỏi mặt và

mở hai mắt ra nhìn cô. Cô nhận ra cái cách mái tóc màu hạt dẻ của cậu ôm lấy

khuôn mặt ðiển trai, và cách cái cổ của cậu trông thật mời gọi bên dƣới cổ áo

phông Oxford bẻ cao. - Cậu không yêu tớ sao? - Schuyler biết mình đang gây

sức ép lên Oliver, nhƣng cô không đừng đƣợc. Cô cần cậu nói "có" với cô. Nếu

không thì... cô sẽ làm chuyện này với ai đây?

Oliver cố không ðỏ mặt và tránh nhìn vào mắt Schuyler. Cậu nâng ngƣời trở lại

tƣ thế ngồi.

- Đƣợc rồi. - Cậu nói, giống nhƣ đang nói với chính bản thân mình hõn là nói

với Schuyler.

Schuyler tiến sát về phía cậu và dựa vào ngƣời cậu, và chỉ bằng một vài chuyển

động nho nhỏ, cô đã ngồi trên ðùi cậu.

- Ổn chứ?

- Cậu nặng lắm. - Oliver trêu chọc, và mỉm cƣời với cô.

- Tớ không thế.

- Đƣợc rồi, thì cậu không thế.

- Cậu dễ thƣõng lắm ý, biết không hả? Ý tớ là cậu thực sự rất dễ thƣõng. Tại sao

cậu dành nhiều thời gian cho tớ thế? Cậu nên hẹn hò đi. Cô nói thản nhiên trong

khi gạt mớ tóc mai ra khỏi ðôi mắt nâu vàng của cậu. Ðó là ðôi mắt ấm áp nhất,

tốt bụng nhất mà cô từng nhìn thấy, Schuyler nghĩ thầm. Cô luôn có cảm giác

an toàn khi ở bên Oliver.

- Ờ, tớ, hẹn hò. - Oliver phá ra cƣời. Cậu quàng tay quanh eo Schuyler.

- Tại sao không chứ? Đó đâu phải chuyện gì mới mẻ đâu.

- Hửm? - Oliver hỏi lại.

- Ừm...

Schuyler chƣa kịp nói thì Oliver đã ðặt một bàn tay ấm áp lên cằm cô và kéo cô

về phía cậu. Và rồi họ hôn nhau. Ðầu tiên là những nụ hôn nhẹ nhàng, ngập

ngừng mang tính thăm dò, rồi tới những nụ hôn cuồng nhiệt hõn khi cả hai hé

mở khuôn miệng.

- Mmm... - Schuyler thở ra. Vậy nó là nhƣ thế này sao? Hôn Oliver. Nó không

giống bất cứ cảm giác gì mà cô từng tƣởng tƣợng ra. Nó tuyệt hõn thế. Nhƣ thể

hai ngƣời sinh ra ðể dành cho nhau vậy. Schuyler dấn ngƣời sát vào Oliver, còn

Oliver lùa tay vào tóc Schuyler. Chuyện này thật mới mẻ. Nó giống một bƣớc

ngoặt. Rồi cô bắt đầu hôn cằm cậu, cổ cậu.

- Sky...

- Mmmm?

Ðột nhiên, Oliver ðẩy cô ra, kéo tay cô ðang quàng sau lƣng cậu ra trƣớc, và

nhanh chóng ðẩy cô ra khỏi ðùi cậu.

- Không. - Cậu nói, thở hổn hển khó nhọc. Hai má cậu đỏ bừng vì xấu hổ.

- Không ƣ? - Schuyler hỏi lại, ra chiều không hiểu. Mọi chuyện đang diễn ra tốt

ðẹp cõ mà. Tất cả ðều ðúng trình tự, phải vậy không nhỉ?

- Không. - Oliver ðứng dậy và bắt ðầu bƣớc lùi ra xa. - Nụ hôn Thần Thánh có

một ý nghĩa nhất định. Nó đã khiến mẹ cậu thành ra nhƣ vậy ðó. Và cậu biết sao

không? Cậu sẽ phải đi tìm một con chuột lang khác làm thí nghiệm thôi. Tớ sẽ

không làm chuyện này chỉ vì bị ép buộc đâu.

- Ollie.

- Đừng, Schuyler.

Cậu chƣa bao giờ gọi cô là Schuyler trừ khi cậu thực sự tức giận. Schuyler ðành

giữ im lặng.

- Tớ đi đây. Tớ không thể ở với cậu... Cậu lúc này không phải là cậu nữa rồi. -

Oliver nói, ðoạn mặc áo khoác và ðóng sầm cửa phòng khi cậu lao nhƣ vũ bão

ra ngoài màn ðêm. CHÝÕNG 36

Tại một góc khuất nằm sâu trong kho sách ngầm bên dƣới Kho Lƣu Trữ Lịch

Sử, Mimi Force cúi gằm mặt đọc một cuốn sách bọc da đã cũ. Ðó chính là cuốn

đã bị ba cô tịch thu vài tuần trƣớc. Ngƣời ta có thể giấu kín nó trong tủ khóa của

Kho Lƣu Trữ, nhƣng chuyện mò ra chiếc chìa khóa mở cánh tủ ðó chỉ là vấn ðề

thời gian mà thôi, và cũng chẳng tốn nhiều sức lắm khi mà mấy ông bà thủ thƣ

ngƣời trần mắt thịt kia không phải là ðối thủ của một ma cà rồng ðang trong cõn

giận dữ nhƣ cô.

Cuốn sách ðang mở ra ở trang cuối cùng, một trang giấy ðen, in chữ màu mực

xanh sáng rõ, cùng màu với dòng máu đang chảy trong huyết quản của Mimi.

Kingsley Martin ðứng ngay cạnh cô, cả hai cùng ðọc nhờ ánh sáng của cây nến

duy nhất cạnh ðó. Xung quanh họ, những hàng giá sách và tủ sách cao tới hõn

mét tám tƣởng nhƣ kéo dài tới vô tận ðứng im lìm và khuất lấp trong bóng tối.

Khu Lƣu Trữ hiện có khoảng mƣời triệu ðầu sách. Ðây là thƣ viện lớn nhất trên

thế giới, chƣa tính còn có những kho chứa sách nằm sâu dƣới lòng Manhattan,

cách mặt ðất tới mấy tầng nhà. Không một ai dám chắc chiếc thang máy kiểu

lồng treo đã gỉ sét, lung lay chạy xuống sâu bên dƣới tới bao xa nữa.

Hai ngƣời quyết định thực hiện thần chú ở dƣới chốn này. Câu thần chú buộc

phải thực hiện ở "một nõi ẩn chứa sức mạnh nguyên thủy", và Kingsley ðề xuất

trụ sở đầu não của gia tộc Máu Xanh - chính là Kho Lƣu Trữ Lịch sử.

- Trong này nói chỉ có kẻ nào có tâm trí giống nó mới có thể gọi nó ra. - Mimi

nhắc lại thông tin đọc đƣợc trong sách.

- Thế có nghĩa là nó phải muốn thứ mà em muốn, bởi chỉ khi ðó nó mới ðáp lại

tiếng gọi của em. - Kingsley giải thích.

- OK.

- Trƣớc tiên em phải gọi nạn nhân của mình tới đã. - Kingsley nói.

Mimi bắt đầu vẽ hình ngôi sao năm cánh xung quanh họ, đảm bảo họ vẫn ở

trong vòng phấn vẽ.

- Hỡi Hoàng tử Bóng tối của gia tộc Máu Bạc, xin hãy lắng nghe lời thỉnh cầu

của ta. Ta, Azrael, yêu cầu ngƣời hãy mang kẻ thù của ta tới đây. - Mimi ra

lệnh bằng giọng to, rõ ràng.

Trên tầng cao nhất của Khu Lƣu Trữ, Schuyler Van Alen vừa bƣớc vào phòng

đọc chính, tìm kiếm Oliver. Sau khi ngồi trong phòng khách sạn suốt một tiếng

ðồng hồ, cô quyết ðịnh không thể cứ ngồi im ðó mà chẳng làm gì, hay chỉ biết

chờ tới khi nào cậu bình tĩnh lại. Cô phải tìm Oliver và xin lỗi cậu. Điều cô đòi

hỏi ở cậu là không ðúng. Giờ cô ðã hiểu rõ. Cô đã yêu cầu quá ðáng và mong

cậu sẽ tha thứ cho cô. Oliver vẫn thƣờng dành những buổi tối cuối tuần chôn

mình trong gian làm việc của cậu ở Khu Lƣu Trữ, nõi ðầu tiên mà cô quyết ðịnh

lui tới để tìm cậu sau khi cậu không thèm nghe điện thoại của cô hay đáp lại tin

nhắn cô gửi tới chiếc BlackBerry của cậu. Schuyler thấy Bliss Llewellyn cũng

ðang ngồi trên một trong những chiếc ghế bành sờn cũ ở khu vực ðãng ký mƣợn

sách.

- Hey. - Schuyler gọi. - Cậu có nhìn thấy Oliver đâu không?

Bliss gật đầu:

- Tớ nghĩ là cậu ấy trong kia. Cậu ấy cũng vừa mới tới vài phút trƣớc thôi.

- Tuyệt.

Sau sự vụ xảy ra ở Montserrat, Bliss cảm thấy có chút xấu hổ khi gặp mặt

Schuyler.

- Tớ, ờ, đang chờ Kingsley. - Bliss nói. - Anh ấy hẹn gặp tớ ở đây.

Schuyler gật ðầu ðáp lại, cô ðâu có yêu cầu Bliss phải giải thích sự có mặt của

cô ấy ở ðây ðâu. Cô tạm biệt Bliss ngay chỗ cổng vào và ði nhanh qua cãn

phòng yên tĩnh để tìm bạn mình. Khu Lƣu Trữ có vẻ đông so với một tối cuối

tuần. Gần nhƣ tất cả khu ðọc sách riêng ðều kín chỗ. Các thủ thƣ đang sắp xếp

lại sách trên giá, còn một vài thành viên kỳ cựu của Ủy Ban đang tụ tập chuẩn

bị cho buổi họp mặt hàng tuần của họ. Giữa ðám ngƣời đó, Schuyler nhận ra

bóng dáng thanh mảnh của Priscilla Dupont trong bộ đồ trắng. Trƣởng Giám hộ

đang trò chuyện sôi nổi với một thành viên khác trong Hội Đồng. Các vị

Trƣởng bối dần biến mất sau cánh cửa phòng họp kín, và Schuyler nhận ra Jack

Force ðang ngồi trên chiếc ghế quen thuộc của cậu gần lò sƣởi, đọc một cuốn

sách.

Bên trong hình sao nãm cánh, ngọn lửa từ cây nến nhá lên, và chỉ cho Mimi

thấy hình ảnh tầng phía trên của Khu Lƣu Trữ. Phải thế chứ. Đúng nhƣ bùa chú

đã hứa hẹn. Schuyler Van Alen đứng ngay kia, giữa căn phòng tầng trên. Nạn

nhân đã đƣợc triệu gọi tới ðiểm làm phép.

Mimi cảm nhận đƣợc trong tim một nỗi hân hoan. Chính là cảm giác này. Rồi

đây nó sẽ còn trọn vẹn hõn nữa. Cô sắp sửa trừ bỏ ðƣợc con gián con kia, một

lần và mãi mãi. Hiển nhiên Schuyler ðã tới chỗ Jack ngay khi cô ta bƣớc vào

phòng. Nhƣng chẳng sao cả... không đƣợc lâu nữa đâu.

Kingsley đƣa cho Mimi con dao bạc.

Ðó là cách duy nhất khiến thần chú hiệu nghiệm: máu ðổi máu. Mimi giõ cổ tay

phải ra, con dao tì trên da thịt cô gây cảm giác lạnh lẽo. Tim cô đập thình thịch

và rồi lần ðầu tiên, cô cảm nhận ðƣợc những cõn run rẩy sợ hãi đang ập tới. Cho

dù cô là một kẻ bất tử và hi sinh máu thịt của mình không thể làm cô đau, nhƣng

cô vẫn có cảm giác nôn nao khi tập trung nghĩ tới việc mình sắp làm.

Nhƣng rồi hình ảnh của Schuyler Van Alen nhắc nhở cô về mối đe dọa trƣớc

mắt. Lễ thề nguyền hẹn ƣớc. Jack. Abbadon. Cô phải chấm dứt mọi chuyện

trƣớc khi quá muộn.

- Ta hiến tặng máu của ta đổi lại máu của ngƣời. Hỡi Hoàng tử Bóng ðêm. Hãy

nghe ta, hãy nghe lời thỉnh cầu của ta. Hãy tiêu diệt kẻ thù của ta, một lần và

mãi mãi. - Mimi đọc thần chú.

- TỚI LÚC RỒI ÐÓ! - Kingsley kêu lên.

Mimi hít một hõi thật sâu và ðƣa dao rạch cổ tay mình, khiến một mạch máu vỡ

ra và máu của cô tràn ra, rõi xuống ngọn nến, làm thổi bùng lên một ngọn lửa

màu ðen.

Ðiều cuối cùng Bliss nhớ ðƣợc là một vụ nổ kinh hoàng ðã xẻ ðôi sàn thƣ viện,

tạo ra một kẽ nứt trên mặt ðất, và cõn ác mộng của cô bƣớc ra ngoài đời thực.

Ngay trƣớc mặt cô là một khối ðen ðúa với ðôi mắt ðỏ au và con ngƣõi màu bạc,

nó gầm rú, quay cuồng, nhào tới trƣớc mặt cô, chiếm lấy toàn bộ không gian với

tiếng vo ve của hàng ngàn con ong bắp cày, sự kêu thét ðau ðớn của hàng ngàn

linh hồn bị tra tấn, và tiếng cƣời man dại của một tên ðiên loạn trí.

Bliss kêu lên thất thanh, cô kêu, kêu mãi.

Rồi mọi thứ chợt tối đen.

CHÝÕNG 37

Khói tỏa mù mịt ðến khó thở. Ðó là một làn khói tím dày ðặc và có mùi hõi

giống mùi lƣu huỳnh và axít trộn lẫn. Vừa mở mắt ra, Schuyler ngay lập tức có

cảm giác hai mắt nhƣ rực lửa. Nƣớc mắt chảy dài trên hai má cô mặc dù không

phải cô đang khóc. Có chuyện gì đó đã xảy ra - một vụ nổ - âm thanh lớn nhƣ

thể vũ trụ bị xé làm ðôi. Cô nhìn ra xung quanh: toàn bộ Khu Lƣu Trữ đang ở

trong tình trạng cực kỳ hỗn loạn, tất cả các kệ sách ðổ nhào, giấy tờ, sách vở

vƣõng vãi khắp nõi, cứ nhƣ thể nõi ðây ðã bị một quả bom phá sập vậy. Gạch

vụn nát rõi từ trần nhà, vôi vữa và khói bụi phủ khắp không gian, kính vỡ bay tứ

tung cùng những mảnh gỗ vụn.

- Jack, Jack, cậu ở đâu rồi? - Schuyler lo lắng hỏi. Cô vừa mới đứng ngay đó,

bên cạnh chỗ cậu ngồi, nhƣng giờ đã chẳng thấy cậu và cái ghế đâu nữa. Cô

cảm giác máu ðang nhỏ rọt vào hai mắt mình, đoạn dè dặt ðặt một tay lên ðỉnh

đầu. Có cái gì đó rạch xéo đỉnh đầu cô, nhƣng vết thƣõng không sâu lắm. Hai

lòng bàn tay cô trầy xƣớc và dính ðầy máu, có cả một vết rách trên quần jean,

nhƣng may là tất cả thƣõng tích chỉ có thế thôi. Có tiếng ho khù khụ, Schuyler

bò về phía phát ra âm thanh. Jack đang nằm đó dƣới bàn ðọc sách, choáng váng

trong giây lát.

- Tớ ổn. - Cậu nói, cố gƣợng dậy và dụi mắt trong làn khói. - Chuyện quái quỷ

gì đã diễn ra vậy?

- Tớ không biết. - Schuyler ðáp, ho khù khụ, ðoạn dùng cả hai tay che kín mồm

miệng và mũi.

- Jack! Anh vẫn ổn chứ? Anh có nghe thấy em không? Jack! - Giọng nói lo lắng

của Mimi vang lên từ một hốc kín bên dƣới kho sách ngầm. Cô chui lên từ góc

đó, trông có vẻ đờ đẫn nhƣng không bị thƣõng.

- Anh ở đây.

- Ôi tạ õn Chúa! Jack! Em lo quá! - Mimi gào khóc, sà mình vào vòng tay anh

trai. Cô bắt ðầu sụt sùi không kiểm soát nổi. - Em cứ nghĩ... cứ nghĩ là...

- Mọi chuyện ổn rồi, anh không sao. - Jack an ủi, nhẹ nhàng xoa dịu em gái.

Schuyler lùi lại một bƣớc để hai ngƣời đƣợc riêng tƣ, cảm thấy một cõn sóng

hỗn ðộn chất chứa nỗi ghen tuông, khổ ðau và cả xấu hổ khi chứng kiến cảnh

thân mật giữa hai ngƣời. Ðúng lúc có tiếng rên bên dƣới kệ sách đổ:

- Cứu với. - Một giọng nghèn ngẹt vang lên - Cứu tôi với!

Jack, Mimi và Schuyler cùng chạy về phía phát ra tiếng kêu, rồi nâng khối gỗ

nặng chịch khỏi ngƣời chàng trai.

Kingsley cảm õn cả ba ngƣời.

- Khốn kiếp. Chuyện gì vậy?

Xung quanh họ, các nhân viên trong Kho Lƣu Trữ và các thành viên trong Ủy

Ban ðang cố thoát ra khỏi ðống lộn xộn, và tìm kiếm bạn bè để xem họ còn sống

hay không. Làn khói bao phủ khắp nõi và thật khó ðể nhìn qua lớp khói dày đặc.

- Bên này! - Một giọng nói quen thuộc vang lên. Schuyler rời khỏi cặp sinh đôi

nhà Force và Kingsley ðể ði tìm Oliver, lúc này ðang quỳ gối bên cạnh một thủ thƣ bị thƣõng. Có một vết cắt trên cằm và một vết bầm tím trên trán cậu, cả

ngƣời cậu bao bọc trong lớp vôi vữa, và khói bụi dày ðặc.

- Õn Chúa, cậu không sao. - Schuyler nói.

- Schuyler? Cậu ðang làm gì ở đây vậy? - Oliver hỏi.

- Thì tìm cậu chứ gì nữa.

Cậu nhanh nhẹn gật đầu.

- Giúp tớ một tay nào.

Renfield, một trong những nhà sử học Máu Ðỏ gàn dở, ðang nằm gập ngƣời rên

rỉ dƣới một chiếc máy photocopy bị lật úp. Ông bị vãng vào tƣờng do vụ nổ, và

lực ném đã làm ông gãy hai chiếc xƣõng sƣờn.

Oliver và Schuyler giúp ông nằm xuống bên cạnh một kệ sách, hứa là sẽ cử

ngƣời tới giúp ông nhanh nhất có thể, rồi đi lòng vòng quanh đó xem còn ai bị

mắc kẹt hay bị thƣõng tích gì không.

Cho tới lúc này thì mọi ngƣời họ gặp ðều sống sót. Chỉ có vài vết trầy xƣớc nho

nhỏ và một số ngƣời bị chấn động nhƣng ai cũng ngạc nhiên khi nhận thấy mình

không hề hấn gì mấy. Oliver dừng lại để giúp một cô gái Máu Xanh đang bị gãy

tay, cậu xé ống tay áo sõ mi tạo thành một dải bãng tạm thời cho cô gái.

Schuyler lách qua ðống ðổ nát và bắt gặp thân hình nằm sấp của một cô gái.

Mặt cô úp xuống, toàn thân bao phủ trong bụi khói và vữa vụn. Schuyler xoay

cô gái lại và kinh ngạc.

- Bliss, ôi Chúa õi, Bliss...

Có hai lỗ thủng bên dƣới cằm Bliss, còn máu của cô, thứ máu sền sệt màu xanh,

đang chảy dọc xuống cổ.

- HÃY Ở YÊN CHỖ MỌI NGƢỜI ĐANG Ở! - Một giọng nói sang sảng vang

lên từ lối vào. Cả ðám ngƣời bất động.

Schuyler giữ bàn tay run lẩy bẩy trên cổ Bliss, ngãn cho máu không chảy ra. Ôi,

Bliss õi...

Làn khói tím quang dần, Charles Force và Forsyth Llewellyn ðứng cạnh cô, trên

tay giõ những thanh gƣõm sáng loáng.

Charles quỳ xuống cạnh Bliss và ðặt một tay lên ðầu cô gái.

- Bên này vẫn còn sống.

"Bên này"? Schuyler ðang thắc mắc bởi cách nói của Charles thì bỗng nghe

thấy tiếng kêu gào từ ðầu bên kia của cãn phòng, và Schuyler nhanh chóng hiểu

ra ý của Charles là gì. Ðứng ngay lối vào Trụ sở của Gia tộc, nằm trên bậc thềm

của cánh cổng mái vòm là xác của Trƣởng Giám hộ Priscilla DuPont.

Bà nằm ðó, giữa một bể máu. CHÝÕNG 38

Oliver đƣa Schuyler về nhà, cả hai vẫn còn cảm thấy chấn động. Sự bối rối,

ngƣợng ngùng giữa hai ngƣời khi còn ở khách sạn Mercer đã hoàn toàn biến

mất sau biến cố vừa mới xảy ra. Họ lại quay trở về là Schuyler và Oliver của

mọi ngày, và Schuyler cũng mừng vì có bạn mình ở bên.

Khi họ vừa về ðến nhà thì Hattie đã rối cả lên, lần lƣợt chăm sóc vết thƣõng của

cả hai , bà thay miếng gạc trên ðầu Schuyler và ở vết cắt trên cằm Oliver. Ngƣời

quản gia trung thành còn chuẩn bị thêm hai cốc sô cô la nóng hổi và bọc cả hai

lại trong những tấm chăn cas-mia cạnh lò sƣởi.

- Ông ngoại cháu đâu rồi ạ? - Schuyler hỏi, nhón tay bốc một chiếc bánh quy

trên chiếc khay Hattie ðang cầm.

- Ông ấy vừa chạy đi đâu đó ít phút trƣớc, nói là có cuộc gặp khẩn cấp hay gì đó.

- Hattie đáp. - Ông ấy bảo tôi chăm sóc cô cậu cẩn thận khi cô cậu về tới đây.

Ông còn nói là phải chuẩn bị dụng cụ cứu thƣõng nữa. Tôi thấy ông có vẻ ðã

biết chuyện xảy ra với cô cậu.

Khi Hattie rời khỏi phòng, Oliver mới hỏi:

- Cậu có nghĩ chuyện vừa rồi là do Máu Bạc làm không?

Schuyler nhún vai.

- Chắc chắn là vậy. Ðó là cách lý giải duy nhất. Nhƣng nó không hợp tình hợp

lý lắm. Ông nói với mình rằng Máu Bạc thƣờng ði sãn ðõn lẻ. Chúng luôn tấn

công con mồi khi họ đi một mình và không có những con chó bảo vệ đi theo.

Cuộc tấn công vừa rồi lại nhằm vào nõi công cộng, chỗ có bao nhiêu ngƣời

chứng kiến.

- Cậu có nghĩ ngƣời đó chết rồi không? - Oliver lại hỏi.

- Ai cõ? Bliss á? Không ðâu. Charles Force nói là cô ấy còn sống mà. -

Schuyler ðáp. Tuy nhiên, lời nói ðó cũng khó tin lắm. Cô bạn ngƣời Texas có

tới hai lỗ thủng sâu hoắm trên cổ và sàn nhà quanh chỗ cô nằm nhƣ ngập trong

máu của cô.

- Không, ý tớ là... bà DuPont cõ. - Oliver chỉnh lại.

- Tớ không biết. - Schuyler rùng mình. Từ chỗ cô đứng thì ðiều này ðã quá rõ

ràng rồi, và cô cũng nghe ðƣợc các thành viên trong Hội ðồng bàn tán về

chuyện này khi họ tụ tập lại quanh bà.

Hủy hoại hoàn toàn... Không thể nào... Nhƣng máu đã bị hút cạn... Vậy có

nghĩa là... Bà ấy ði thật rồi... Bà ðã bị giết...

Không phải Priscilla chứ?! Ðúng vậy rồi... Sự thật này quá ðỗi khủng khiếp.

Đội cứu thƣõng của bác sĩ Pat ðã mang Bliss ði bằng cáng, với mặt nạ ô xy trên

mặt và ba cô theo sát bên cạnh. Nhƣng cái cáng thứ hai chở Priscilla Dupont thì

bị che phủ bởi một tấm vải trắng. Nhƣ vậy, chỉ có thể hiểu là...

Schuyler dựa sát vào Oliver, thành ra cả hai tựa vào sát chân ghế bành. Cô ngả

ðầu lên vai cậu và nhắm chặt hai mắt, còn cậu vòng một tay qua ngƣời cô và

kéo cô sát gần mình. Họ dựa vào nhau tìm kiếm sự an ủi. Gần sáng, Lawrence

mới trở về. Ông nhìn thấy Schuyler và Oliver ðang ngồi bên nhau trong ðống

chãn, tựa vào lƣng ghế bành.

- Hai ðứa nên nằm trên giƣờng mới phải. Nhất là cháu ðấy, cháu gái. Sống sót

qua một cuộc tấn công của Máu Bạc không thể xem nhẹ đƣợc đâu. - Ông nói,

nhẹ nhàng ðánh thức hai ngƣời.

Schuyler cố mở mắt, xua tan cõn ngái ngủ, còn Oliver thì ngáp dài.

- Không. Chƣa phải lúc này. Tụi cháu muốn biết chuyện gì đã xảy ra. -

Schuyler nằn nì. - Chúng cháu cũng ở ðó mà.

Lawrence ấn mình lún sâu xuống chiếc ghế da ðối diện, hai chân gác lên chiếc

ghế nệm dài cạnh ðó.

- Ðúng vậy, và ta mừng vì không có chuyện gì quá tệ hại xảy ra cho hai đứa.

- Nó đâu phải bám theo tụi cháu đâu. - Schuyler nói.

- Tạ õn Thánh Thần vì điều đó. - Lawrence đáp. Ông lôi ra một điếu xì gà và

con dao cắt đầu mẩu xì gà quen thuộc.

Schuyler biết ðây là dấu hiệu cho thấy ông ngoại cô lại sắp sửa giảng giải ðiều

gì đó. Cô rƣớn ngƣời về phía trƣớc.

- Cordelia đã nói gì với cháu về Croatan? - Ông hỏi, đƣa điếu xì gà lên miệng.

- Bà nói rằng chúng là mối ðe dọa cổ xƣa đối với chúng ta, đến nỗi chúng dần

trở thành một truyền thuyết. Bởi vì cuộc tấn công cuối cùng đƣợc ngƣời ta biết

đến đã xảy ra cách đây bốn trăm năm rồi. - Schuyler đáp - Trong thời kỳ chúng

ta ở Plymouth.

- Ðúng vậy. Roanoke là chiến thắng tàn bạo và ác liệt nhất của chúng. Chúng ðã

ra tay thanh trừng toàn bộ gia tộc chúng ta. Nhƣng bà ấy chƣa nói với cháu về

trận chiến ở Venice, Barcelona hay Cologne.

Schuyler nhƣớng một bên mày, ra chiều chƣa hiểu rõ lắm.

- Ðiều mà không ai biết, hoặc ðúng hõn là nó ðã bị giấu kín, là kể từ khi chúng

bị đánh bại ở Rome, hay ít ra ngƣời ta cho là thế, Máu Bạc ðã trở lại tấn công

các ma cà rồng Máu Xanh trẻ tuổi trong mỗi giai ðoạn chuyển giao sang một thế

kỷ mới. Chúng ta đã ra sức thuyết phục Hội ðồng tin vào chuyện này, tin vào

mối hiểm họa thƣờng trực hõn lúc nào hết. Nhƣng trong suốt những năm tháng

thanh bình kể từ sự kiện Roanoke, chỉ có một cuộc tấn công duy nhất xảy ra tại

Tân Thế giới.

- Ở đây ấy ạ? Ở Mỹ ạ? - Schuyler hỏi. Cordelia chƣa từng đề cập đến chuyện

này.

- Ðúng vậy. - Lawrence chỉ vào tập hồ sõ dày bị cháy ở một góc trên bàn cà phê

và ðẩy nó về phía Schuyler. - Ðây là hồ sõ mà Priscilla DuPont ðang ðiều tra.

Bà ấy sẽ ðƣa ra một vài bằng chứng trƣớc Ủy Ban, để kiểm chứng những gì mà

ta và Cordelia ðã cảnh báo họ từ rất lâu rồi.

Schuyler mở tập hồ sõ, mấy cái kẹp giấy rõi ra ngoài. Cô và Oliver nhìn qua

đống giấy tờ.

- Maggie Stanford là ai ạ?

- Ðó là một Máu Xanh bị mất tích. Lúc trƣớc, chúng ta không hề biết rằng cô ta

đã từng phải vào viện tâm thần. Các bác sĩ Máu Đỏ thì chỉ nghĩ ðó là bệnh tâm

thần bình thƣờng, nhƣng thực chất có bằng chứng cho thấy có sự can thiệp của

Máu Bạc trong ðó. Maggie là nạn nhân. - Lawrence lấy một ðầu xì gà gõ gõ vào

mấy tờ giấy. - Khi ngƣời ta không tìm ra đƣợc Maggie, Cordelia và ta ðã biết

ngay Máu Bạc nhúng tay vào vụ này, nhƣng chúng ta không bao giờ có thể

chứng minh đƣợc ðiều ðó. Ðó cũng chính là lúc hai chúng ta quyết ðịnh tách ra,

cốt ðể ta có thể tiếp tục cuộc ðiều tra mà không chịu kiểm soát của Ủy Ban.

Priscilla đã nói với ta rằng bà ấy tìm đƣợc thứ gì đó trong Kho Lƣu Trữ, và

thông tin ðó có thể làm rõ hành tung của bọn Máu Bạc, nhƣng ta đã tìm trong

ðống hồ sõ này rồi, chẳng có thứ gì mới mà ta chƣa nhìn qua trƣớc đó cả.

- Vậy chuyện gì đã xảy ra sau vụ Maggie? - Schuyler hỏi, chú ý đến vẻ đẹp

rạng ngời của cô gái trẻ trong bức hình kèm theo tập hồ sõ.

- Chẳng có gì cả. Máu Bạc lại lui vào bóng tối một lần nnữa. Cho tới năm ngoái,

khi Aggie Carondolet bị giết. Và từ sau vụ của Aggie, còn có thêm bốn Máu

Xanh bị giết chết vào ðúng thời kỳ bắt ðầu Chu kỳ Chuyển giao của họ. Một

con số tƣõng ðối lớn, sau sự kiện Roanoke. Ðiều ðó có nghĩa là bọn chúng ðang

mạnh lên và càng lúc càng tự tin hõn. Tuy nhiên, cái chết của Priscilla quả thực

là một rắc rối lớn. Nhƣ vậy nghĩa là bọn chúng ðã ra tay ðối với một ma cà rồng

ðang ở gia ðoạn ðỉnh cao sức mạnh, cũng tức là bọn chúng ðã mạnh hõn rất

nhiều. Và bọn chúng cũng trở nên say máu hõn, cuồng loạn hõn. Ủy Ban phải

tỉnh táo trƣớc mối họa này. Tất cả gia tộc không thể cứ ngồi và chờ ðợi trong khi Hoàng tử Máu Bạc thống lĩnh kẻ thù chống lại chúng ta và hạ sát từng ngƣời

một trong chúng ta.

- Ông thực sự cho rằng Lucifer đã trở lại sao? - Schuyler hỏi.

Lawrence không nói gì trong một lúc lâu, điếu xì gà của ông cháy mãi cho tới

khi tàn của nó càng lúc càng dài ra và rõi xuống, cháy xèo xèo trên tấm thảm

Aubusson và ðể lại một lỗ thủng nho nhỏ.

- Ôi, chết tiệt. - Ông nguyền rủa. - Cordelia sẽ không bao giờ tha thứ cho ta vì

chuyện này. Bà ấy không bao giờ cho phép ta hút thuốc ở trong nhà.

- Ông ngoại, ông vẫn chƣa trả lời câu hỏi của cháu. - Schuyler nói, giọng sắc

lẻm.

- Có lẽ ông không cần phải trả lời đâu ạ. - Oliver lo lắng nói. Tất cả cuộc nói

chuyện về Lucifer và bọn Máu Bạc này làm cậu thấy buồn nôn. Có lẽ cậu không

nên uống quá nhiều sô cô la nóng hay ãn tới tận nãm chiếc bánh quy.

- Chỉ có Máu Bạc với quyền năng mạnh nhất mới có thể gây ra một vụ chấn

ðộng lớn ở một nõi ðƣợc bảo vệ nhƣ thế. - Cuối cùng Lawrence cũng lên tiếng.

- Đƣợc bảo vệ là sao ạ?

- Khu Lƣu Trữ Lịch Sử là một trong những pháo ðài an toàn nhất của chúng ta.

Nó đƣợc bảo vệ ở mọi ngõ ngách với các loại bùa chú nhằm chống lại các cuộc

tấn công, giúp nõi ðó tránh xa ðƣợc bọn Tàn Ðộc kia. Ðây là một ðiềm xấu,

cảnh báo tất cả chúng ta rằng bùa chú của chúng ta không còn linh nghiệm nữa

rồi.

- Vậy ông sẽ làm gì tiếp theo đây? - Schuyler hỏi.

- Ðiều duy nhất mà ta có thể làm. Gọi một Phiếu Trắng. Ðã đến lúc Michael

phải chịu thử thách với tƣ cách Thủ lĩnh của gia tộc rồi.

CHÝÕNG 39

Họ đang tranh cãi về cô. Qua hõi moóc-phin chuếnh choáng, Bliss vẫn nghe

đƣợc tiếng tranh cãi giữa ba cô và Charles Force sau cánh cửa phòng bệnh đóng

kín. Chuyện gì đã xảy ra?

Cô lờ mờ nhớ về ðám cháy có màu ðen pha tím che phủ cả thƣ viện trong làn

khói dày ðặc, không thể thoát ra ðƣợc, và cô biết có chuyện gì đó rất tồi tệ đã

xảy đến với cô. Có miếng băng gạc quanh cổ của cô. Có phải cô đã bị cắn? Bởi

một Máu Bạc sao? Ý nghĩ đó làm trán Bliss toát mồ hôi lạnh. Nếu cô bị tấn

công bởi những kẻ Tàn Ðộc ðó, thì tại sao đến giờ cô vẫn còn sống?

Bliss cố gắng đƣa tay lên sờ cổ ðể kiểm tra vết thƣõng, nhƣng không cử động

đƣợc. Cô hoảng sợ, cho tới khi nhận ra hai tay mình đã bị buộc chặt vào cột

giƣờng. Tại sao vậy?

Phòng bệnh cô đang nằm sang trọng không khác gì phòng khách sạn, với nội

thất làm bằng nhựa trắng cao cấp mà cô vốn ðã quen thuộc. Cô đang ở phòng

khám của bác sĩ Pat, ở bệnh viện chuyên phục vụ cho các ma cà rồng Máu Xanh.

Với khả nãng siêu thính của mình, Bliss gắng sức tập trung vào cuộc tranh luận

giữa ba cô và Charles Force, cả hai ðang thì thầm với nhau chuyện gì ðó ngoài

hành lang.

- Con bé chƣa bị xâm hại, Charles. Anh biết những dấu hiệu trên cổ con bé rõ

cũng nhƣ tôi vậy! Chúng đã không có đủ thời gian. - Ba cô nói.

- Tôi hiểu mà, Forsyth, tôi rất hiểu, nhƣng anh biết tình thế hiện nay thế nào rồi

ðấy. Tôi không thể qua mặt Lawrence trong vụ này ðƣợc. Con bé sẽ phải chịu

thử thách, giống nhƣ tất cả những ngƣời có mặt ở Khu Lƣu Trữ tối hôm đó.

- Con bé chỉ là một nạn nhân thôi! Ðây là một sự xúc phạm! Tôi sẽ không cho

phép anh làm thế!

- Anh đâu còn lựa chọn nào khác. - Charles nói, giọng ông ta chỉ ra sẽ không

còn tranh cãi nào nữa. - Tôi biết anh rất lo lắng, nhƣng nhƣ anh nói đó, con bé

có vẻ an toàn mà.

Một khoảng im lặng dài, rồi hai ngƣời ðàn ông quay trở lại phòng Bliss. Ngay

lập tức cô nhắm hai mắt lại, giả vờ nhƣ vẫn đang ngủ.

Cô cảm nhận bàn tay ba cô trên trán mình khi ông thì thầm một lời cầu nguyện

ngắn ngủi bằng thứ tiếng mà cô không hiểu.

- Ba à. - Cô nói, mở hai mắt.

Ðúng lúc ðó, mẹ kế cô cùng Jordan bƣớc vào phòng, khiến khoảng không cuối

giƣờng trở nên chật chội. BobiAnne lại mặc một bộ quần áo cao cấp kinh dị

khác: một chiếc áo len dài tay bằng vải cas-mia với hàng chữ VERSACE in trên

ngực áo, bà còn cầm theo một chiếc khãn tay nhỏ, cái mà bà cứ liên tục chấm

chấm vào hai bên khóe mắt, dù rằng chẳng có bất kỳ giọt nƣớc mắt nào nhìn

thấy đƣợc.

- Ôi, con yêu, chúng ta lo lắng quá! Tạ õn Chúa, con vẫn ổn!

- Con cảm thấy thế nào rồi? - Ba cô hỏi, hai tay chắp ra phía sau.

- Con mệt lắm. - Bliss đáp. - Đã có chuyện gì xảy ra vậy?

- Có một vụ nổ ở Khu Lƣu Trữ. - Forsyth giải thích - nhƣng con không phải lo

lắng về việc đó đâu, vụ nổ xảy ra mãi sâu dƣới lòng ðất nên Máu Ðỏ không hay

biết gì. Họ chỉ nghĩ ðó là một cõn chấn rung nhẹ mà thôi.

Bliss thậm chí còn chẳng nghĩ tới việc phải lo xem con ngƣời có phát hiện ra

pháo ðài bí mật nhất của Máu Xanh hay không.

- Chuyện gì xảy ra với con vậy? - Cô lại hỏi.

- À, ðó cũng chính là ðiều chúng ta ðang cố tìm hiểu. - Ba cô đáp - Con có nhớ

đƣợc gì không?

Cô thở dài và liếc ra ngoài cửa sổ, quay mặt về một văn phòng trống không của

tòa nhà kế bên. Những hàng máy vi tính vẫn ðang nhấp nháy ðèn ở chế ðộ ON,

mặc dù ðã quá giờ hành chính rồi.

- Không nhiều lắm. Chỉ có toàn khói ðen... và...

Đôi mắt, đôi mắt đỏ ngầu với con ngƣõi màu bạc. Con quái thú đã xuất hiện

ngoài ðời thực. Nó ðã trò chuyện với cô... Nó nói rằng...

Cô lắc lắc ðầu và nhắm chặt hai mặt nhƣ thể để xua tan sự hiện diện của quỷ dữ.

- Chẳng có gì cả, chẳng gì hết... Con không nhớ gì.

Forsyth thở dài, còn BobiAnne lại tiếp tục sụt sùi.

- Ôi, tội nghiệp con tôi.

Jordan, em gái Bliss, vẫn im lặng, nhìn Bliss từ khóe mắt.

- Bobi, em và Jordan có thể ðể anh với Bliss ở riêng vài phút ðƣợc không? - Ba

cô cất tiếng.

Khi hai ngƣời kia đi rồi, Forysth mới quay sang Bliss.

- Bliss, chuyện ba sắp nói đây rất quan trọng. Con đã bị một Máu Bạc, một

Croatan, tấn công. - Ba cô nói.

- Khônggggg. - Bliss thì thào. - Nhƣng mà Ủy Ban nói chúng chỉ là truyền

thuyết... - Giọng cô yếu ớt dần.

- Ủy Ban sai rồi. Chúng ta cũng mới nhận ra thôi. Thực ra, Priscilla DuPont đã

thu thập đủ bằng chứng để... nhƣng thôi, giờ không phải lúc nói chuyện đó.

Thực tế là, bằng cách nào ðó, Máu Bạc vẫn sống sót, và chúng ta phải ðối diện

với hiện thực này.

- Nhƣng sao lại thế chứ?

- Ðáng buồn là, việc này ðồng nghĩa một trong số chúng ta mang tội. Máu Bạc

không thể phát triển nhanh mạnh nhƣ vậy đƣợc trừ khi có ai đó trong gia tộc đã

che giấu chúng. Giúp ðỡ cho chúng. Có thể ðó chính là một trong những gia

đình có dòng máu xƣa nhất, mạnh nhất, ðủ ðể khôi phục lại loài quỷ dữ hiểm ác,

mà ngay cả Michael cũng không thể nhận ra sự thay ðổi trong cán cân quyền lực.

- Nhƣng chuyện này thì liên can gì tới con chứ? - Bliss hỏi, giọng run rẩy.

- Có một số ít ngƣời, rất ít, vẫn sống sót sau khi bị Máu Bạc tấn công, và thƣờng

xuất hiện biểu hiện bị xâm hại.

- Xâm hại?

- Ðôi khi, Máu Bạc sẽ không hút cạn máu và linh hồn của nạn nhân, thay vào ðó,

chúng tiêm nhiễm cho nạn nhân một cõn khát mới... chúng chỉ hút một lƣợng

máu vừa đủ khiến nạn nhân yếu đi. Nhƣng từ ðó Máu Ðỏ sẽ trở thành chất ðộc

ðối với nạn nhân, và anh ta không còn hút máu của thần linh quen thuộc đƣợc

nữa, thay vào ðó, anh ta sẽ sãn ðuổi chính ðồng loại của mình để sinh tồn.

Đó là chuyện ðã xảy ra với Dylan, Bliss thầm nghĩ. Cậu đã bị biến đổi. Bị xâm

hại. Bị biến thành một con quái vật, và rồi bị giết chết trƣớc khi cậu kịp tiết lộ bí

mật này.

- Chúng ta tin rằng cuộc thanh trừng ở Roanoke xảy ra do một vài ngƣời trong

gia tộc chúng ta trong lần định cƣ đó vốn đã bị xâm hại từ trƣớc rồi, khi chúng

ta bắt đầu rời khỏi Âu lục.

- Làm sao một ngƣời biết đƣợc là mình có bị xâm hại hay không? - Bliss lo

lắng hỏi.

Thay vì trả lời, Forsyth nhấc miếng gạc khỏi cổ Bliss. Ông tháo miếng băng ở

đó ra.

Bliss nhìn ba cô lo lắng. Ông định chỉ cho cô cái gì? Có phải cô đã bị biến thành

quái vật rồi không?

Ba cô đƣa cho cô một chiếc gƣõng cầm tay nho nhỏ lấy từ ngãn tủ của y tá.

Cô nâng chiếc gƣõng lên soi cổ, khiếp sợ trƣớc cái cô có thể nhìn thấy. Nhƣng

cổ cô vẫn mịn màng, trắng trẻo không một tì vệt, hệt nhƣ lúc trƣớc.

- Thế là sao?

- Không có vết cắn nào cả, chứng tỏ nọc ðộc không ðủ mạnh. Dòng Máu Xanh

của con, một màu xanh thần thánh, ðã có khả năng tự phục hồi. Nó đã tự cứu

mình khỏi nhiễm ðộc, và bảo vệ con tránh khỏi việc bị xâm hại. Bọn Croatan ðã

không thể biến ðổi con thành ðồng loại của chúng.

Cô gật đầu, cảm thấy nhƣ trút đƣợc gánh nặng. Cô đã sống sót... Cô không chắc

bằng cách nào, nhƣng cô vẫn còn sống.

- Sẽ có một vài cuộc kiểm tra. - Forsyth cảnh báo. - Một trong số các Trƣởng

Bối sẽ trông nom con. Họ sẽ yêu cầu con chia sẻ các ký ức, ðể liên lạc với họ.

Ðể chỉ cho họ thấy cái mà con thấy. Nhƣng ta tin là con sẽ vƣợt qua cuộc thử

thách của họ thôi.

Ba cô định rời khỏi phòng thì Bliss lại hỏi thêm một câu khác.

- Nhƣng ba õi, nếu một ngƣời bị xâm hại... làm sao ðể nhận ra các dấu hiệu?

- Khó nói lắm, nhƣng chúng ta để ý thấy những ngƣời bị xâm hại thƣờng có xu

hƣớng bị thu hút vào các Phép thuật Hắc ám, và bắt ðầu thể hiện sự tò mò liên

quan tới những Bùa chú Hắc ám.

Tối muộn hôm đó, Nan Cutler, một trong những Giám hộ cao cấp, đã tới thăm

Bliss. Nan là một trong những quý bà vƣõng giả, gầy guộc, thanh nhã, thuộc

nhóm của Priscilla DuPont, mái tóc bà bạc trắng với một dải ðen ở chính giữa.

Cả thành phố biết ðến bà là một ngƣời gây quỹ từ thiện rất nhiệt tình và cũng là

một tay mua sắm sành ðiệu. Nhƣng khi bà bƣớc vào phòng bệnh của Bliss tối

hôm đó, tất cả những dấu vết của lớp mặt nạ trƣng diện trƣớc công chúng đều

biến mất. Trƣớc mặt cô là một ma cà rồng ghê gớm hàng trãm tuổi. Bliss có thể

nhìn thấy những đƣờng gân xanh dƣõng mờ nhạt trên mặt bà. Bà tự giới thiệu

mình với Bliss, rồi ngồi xuống cạnh giƣờng cô. Từ lúc sẩm tối, cảm giác đã trở

lại với tay chân của Bliss, và cô ðã cảm thấy khá hõn nhiều.

- Cầm lấy tay ta, cô bé. - Nan nhẹ giọng nói.

Bliss đặt cả hai tay mình lên bàn tay mềm mại của ngƣời phụ nữ già. Bàn tay bà

vẫn mƣợt mà và chẳng hề có tí nếp nhãn nào.

- Giờ thì nhắm mắt lại và đƣa ta quay trở lại thời điểm tối qua. Hãy chỉ cho ta

tất cả những gì cháu đã chứng kiến.

Thuật "chụp bắt". Bliss biết Nan sẽ sử dụng kỹ nãng này ðể ðọc tâm trí cô. Cô

phải mở cửa tâm trí của mình ðể bà nhìn. Bliss gật đầu đồng ý.

Cô nhắm hai mắt lại.

Họ cùng nhìn vào chuỗi sự kiễn đã xảy ra. Bliss ngồi chờ Kingsley ở khu đăng

ký sách. Rồi họ nhìn thấy Renfield mang tới một danh sách hồ sõ cho Priscilla

DuPont. Họ nhìn thấy Schuyler bƣớc vào và hỏi Bliss xem cô có thấy Oliver

đâu không. Họ lại nhìn thấy một vài cô gái đang học ở Duchesne tới mƣợn sách

chuẩn bị cho kỳ họp mặt tiếp theo của Ủy Ban.

Rồi tất cả tối đen nhƣ mực. Một làn khói ðen ðen, tim tím ðộc hại nuốt chửng

toàn bộ Khu Lƣu Trữ...

Bliss chờ cho con quái vật xuất hiện, nhƣng tất cả những gì họ thấy chỉ là làn

khói ðen dày ðặc.

Lúc mở mắt ra, cô thấy Nan ðang ghi chép vào quyển sổ tay của bà.

- Tốt lắm. - Nan nói. - Giờ thì, cháu vui lòng vén tóc lên để ta thấy phần gáy

của cháu nào.

Gáy của cô ƣ?

Bliss làm nhƣ đƣợc bảo. Rồi Nan lại gật đầu.

- Giờ cháu hạ tóc đƣợc rồi.

Sau khi vị Giám hộ rời đi thì ba cô bƣớc vào và ôm chặt lấy cô.

Cho dù bài kiểm tra là gì thì có vẻ nhƣ cô cũng đã vƣợt qua nó. Gáy của cô...

Một phần của bài kiểm tra...

Cô nghĩ về mái tóc dài của Kingsley, nó luôn che phủ phần gáy của anh. Một

kiểu phong cách ƣ? Hay là anh ta muốn che giấu ðiều gì?

Kingsley... ngƣời lúc nào cũng mang theo cuốn sách bọc da màu ðen bên mình.

Kingsley - ngƣời đã dạy cô cách trò chuyện với con quái thú trong cõn ác mộng

của cô.

Kingsley Martin - ngƣời sinh ra trong một gia đình Máu Xanh cổ xƣa nhất. Một

trong những dòng máu cao quý và mạnh nhất...

Bliss nhắm hai mắt lại. Cô lại nhìn thấy con quái vật, con quái vật đã từng nói

chuyện với cô. Nó đã nói, chỉ một từ duy nhất...

"Ngay lúc này". CHÝÕNG 40

Schuyler đang đánh răng thì nghe tiếng di động đổ chuông. Cô chải chải, súc

súc mấy cái rồi nhổ ra, nhanh nhẹn lau mặt và chạy vù ra ngoài nghe máy. Lúc

này mới là sáng sớm, cô ðang chuẩn bị ðể tới trƣờng.

- Ờ?

- Có còn cách nghe máy nào khác không vậy?

- Ồ, Bliss. Hey. Xin lỗi nhé. Tớ cứ tƣởng là Oliver chứ. Cậu ta luôn gọi vào

sáng sớm.

- Xin lỗi đã làm cậu thất vọng nhen.

- Không, không chút nào. Cậu sao rồi? - Schuyler hỏi. Cô ðã định tới thăm

Bliss nhƣng mấy ngày vừa qua cô bị xoay nhƣ chong chóng, nào là theo kịp lịch

học dày ðặc trên lớp, rồi các bài học bổ túc ma cà rồng và còn phải đƣõng ðầu

với việc ông ngoại cô đã sẵn sàng cho cuộc chiến danh dự của cả cuộc đời ông.

Ông đã gọi một Phiếu Trắng, sẽ có một cuộc bình bầu Thủ lĩnh mới trong gia

tộc.

- Khá hõn rồi. - Bliss ðáp. - Cậu, ừm, biết chuyện xảy ra với tớ rồi, ðúng

không?

- Ờ. - Schuyler ðáp - Ông ngoại tớ nói ðó là do một Croatan gây ra, nhƣng cậu

vẫn an toàn.

Bliss kể cho Schuyler nghe về cuộc thử thách, về chuyện mở cửa trí não cho

Nan Cutler xem, và cả về chuyện làm sao những vết cắn trên cổ cô lại biến mất

đƣợc.

- Chuyện tƣõng tự cũng từng xảy ra với tớ. - Schuyler nói. Nhớ không? Vào cái

ðêm chúng ta ði chụp hình mẫu quần jeans đó?

- Ừ.

- Tớ đã bị tấn công, nhƣng vết cắn cũng biến mất sau đó. Giờ tớ chẳng còn nhớ

đƣợc gì.

- Bà ta còn xem cả gáy của tớ nữa. Nhƣ thế có kỳ quặc không nhỉ?

Schuyler gật gù, dù rằng Bliss không thể nhìn thấy cô.

- Thực ra, ông ngoại tớ nói còn có nhiều bài kiểm tra cho những ngƣời khác nữa.

Nan cũng đến đây. Để kiểm tra tớ.

- Thật á? Vậy là không chỉ mình tớ à?

- Không, tất nhiên không rồi. Mọi ngƣời có mặt ở ðó vào ðêm xảy ra chuyện

đều bị kiểm tra.

- Tuyệt.

- Vậy, có chuyện gì nào?

- Nghe này, tớ mới phát hiện ra một ðiều từ ba tớ. Cậu biết Ủy Ban luôn nói

rằng những thứ nhƣ Máu Bạc không tồn tại đúng không?

- Ừ hừm.

- Ừm, tớ thấy có vẻ là chúng ðã trở lại rồi thì phải.

- Ừ, tớ cũng nghe vậy. - Schuyler nói. Lawrence đã nói cho cô biết chính sách

ðối phó của Hội ðồng. Giờ ðây một ma cà rồng trƣởng thành ðã bị giết, Hội

đồng phải chuẩn bị lực lƣợng và trang bị vũ khí cho cuộc chiến sắp tới. Máu

Bạc chính là hiện thực kinh hoàng mà họ sẽ phải ðối mặt.

- Dù sao thì, ba tớ nói thủ phạm chính là một trong số chúng ta, một thế lực lớn,

một gia đình cổ xƣa. - Bliss nói.

- Ðó cũng là những gì Cordelia luôn luôn nói.

- Cậu có thể nghĩ ðiều này thật ðiên rồ... - Bliss nói tiếp - ... nhƣng tớ nghĩ tớ

biết kẻ làm chuyện ðó là ai rồi.

- Ai làm gì cõ?

- Ý tớ là, tớ nghĩ tớ biết ai ðang che giấu tên Máu Bạc ðó, hay ðúng ra là che

giấu cho cả đám bọn chúng rồi. - Bliss nhắc lại. - Theo tớ, Kingsley có dính líu

ðến vụ này.

Bliss tiết lộ cho cô bạn biết nghi ngờ của mình và cách cô lắp ghép thông tin từ

ba cô về các dấu hiệu xâm hại với chuyện Kingsley và cả về trí tò mò cực độ

của anh ta ðối với Phép thuật Hắc Ám cho tới cuốn sách kỳ lạ mà cô luôn thấy Kingsley ðọc, hay cách mà anh ta rất tỏ tƣờng về lịch sử của Máu Bạc và các

truyền truyết về chúng.

Schuyler khẽ huýt gió:

- Mình không biết nữa... nghe cũng đáng ngờ đấy... nhƣng cậu không nghĩ

mình rút ra kết luận vậy có hõi vội vàng?

- Có lẽ, nhƣng mình lại bị kẹt cứng ở trong này thêm một tuần nữa. - Bliss nói.

- Cậu nghĩ xem cậu và Oliver có thể ðiều tra chuyện này ðƣợc không?

Cuối tuần ðó, Schuyler và Oliver ðã bới ra đƣợc vài sự thật thú vị nữa về chàng

trai mới đến. Khu Lƣu Trữ đã đƣợc khôi phục lại và hiện ở tình trạng tạm sử

dụng đƣợc (ðúng là thời ðiểm ðể thuật Velox ra tay). Tất cả bụi bặm và vôi vữa

bung xung đã đƣợc quét dọn sạch sẽ, không còn tàn tích nào của vụ nổ, trừ một

khe nứt rất nhỏ ở chính giữa sàn nhà ðá hoa cƣõng. Thật kỳ diệu, hãy xem ma

cà rồng có thể làm ðƣợc những gì một khi họ thực tâm chú ý.

Lần theo nõi chốn hiện tại của Kingsley khá dễ dàng, nhất là với mạng lƣới

quan hệ của Oliver trong trƣờng học, cũng nhƣ kĩ năng lần mò bằng vi tính

tuyệt vời của cậu.

Schuyler gọi cho Bliss đang ở bệnh viện để thông báo cho cô biết về những gì

họ tìm đƣợc.

- Nhà Martin ðã chuyển tới New York cùng ðêm cậu nói là Dylan bị sát hại. -

Schuyler nói. - Và tụi tớ còn phát hiện ra Kingsley đã dành một khóa học mùa

hè ở Hotchkiss, nõi cô gái ðó bị giết, và cậu ta ðã ở Choate một tuần để thăm một ngƣời bạn, đó chính là nõi một học sinh nãm hai ðƣợc tìm thấy chết ngay

trƣớc khi niên học bắt ðầu. Và cuối cùng anh ta ðã tới ðây, tới New York này

vào ðêm xảy ra cái chết của Aggie ở Block 122, anh ta cũng tham dự bữa tiệc

nõi Landon Schlessinger bị giết.

- Tớ biết mà. - Bliss nói.

- Còn vài chuyện nữa: Kingsley là ngƣời cuối cùng tới thãm Summer Amory.

Oliver nói có tin đồn rằng hai ngƣời hẹn hò nhau. Nhƣ vậy là anh ta có mặt ở

mọi nõi xảy ra tội ác. Nhƣng mình không chắc lắm ðâu, cũng có thể ðó chỉ là sự

trùng hợp thôi. Rất nhiều thanh niên Máu Xanh khác cũng tham gia khóa học

mùa hè ở Hotchkiss, ði Choate hay ở Block 122 vào cái ðêm ðó, và họ cũng ðều

quen biết Landon Schlessinger. Còn Summer Armory thì hẹn hò với cả đống

ngƣời ý chứ. Tớ chắc chắn là nếu chúng ta muốn, chúng ta cũng có thể tìm đƣợc

thêm vài ngƣời khác hợp với tất cả các dữ kiện này.

- Không ðâu, ðó chính là anh ta. Tớ biết mà. - Bliss nhấn mạnh.

- Cậu có ðịnh nói với ba cậu chuyện này không?

- Tớ không chắc lắm. Ông ấy đại khái giống nhƣ là cố vấn gì ðó cho nhà Martin.

Ý tớ là...

- Tớ sẽ nói với ông ngoại vậy. - Schuyler gợi ý - Ông sẽ biết phải làm gì.

Khi Schuyler ðề cập ðến vụ việc với Lawrence vào bữa tối, về tất cả những nghi

ngờ của Bliss và bằng chứng buộc tội mà cô và các bạn tìm đƣợc, ông ngoại cô

vẫn cứ chú mục vào dĩa bít tết.

- Thú vị ðó. - Ông lõ ðãng nói.

- Thú vị? Chỉ thế thôi ạ? - Schuyler hỏi. - Nhƣng ông không nghĩ có điều gì

đáng ngờ ở đây sao?

Lawrence nhấp một ngụm rƣợu.

- Có thể.

Ðó là tất cả những gì ông bình luận về vụ việc này. Và Schuyler không tài nào

moi thêm ðƣợc gì nữa từ ông trong suốt phần còn lại của buổi tối.

CHÝÕNG 41

Cuộc điều tra của Ủy Ban về vụ việc xảy ra ở Khu Lƣu Trữ đã dẫn tới một

phiên tòa công khai, với sự có mặt của tất cả các nhân chứng trong vụ tấn công -

những ngƣời đều đã vƣợt qua cuộc kiểm tra trƣớc ðó của Ủy Ban. Phiên tòa

diễn ra tại một trong những phòng xử án lớn bên dƣới Khu Lƣu Trữ. Các thành

viên của Hội ðồng ngồi ở hàng ghế trên bục quan sát cao, ðối mặt với ðám ðông,

Charles Force ngồi chính giữa. Lawrence Van Alen đƣợc xếp chỗ ở tít đằng xa

bên tay phải, vừa vào chỗ ngồi ông ðã lôi ngay ra một điếu xì gà nhƣ thói quen

thƣờng lệ. Trƣởng Giám hộ mới, Edmund Oelrich, với "vỏ bọc" thƣờng ngày là

một sử học gia nghệ thuật nổi tiếng và cũng là một ông chủ phòng tranh, sẽ điều

hành việc xử án từ trên bục. Một vành móng ngựa nhỏ ðặt trƣớc bục để gọi nhân

chứng, và ðối diện phía ðó là thẩm tra viên - công tố viên chính thức do Ủy Ban

bổ nhiệm.

Các ghế ngồi trong phòng xử án nhanh chóng đƣợc lấp đầy, hầu hết ngƣời đến

tham dự phiên tòa ðều là các gia ðình Máu Xanh, không khí cãng thẳng càng lúc

càng tãng cao khi Schuyler, Jack, Bliss và Oliver lần lƣợt bị gọi lên mô tả lại

"phiên bản sự kiện ngày hôm ðó" của mình. Họ đƣợc xếp chỗ ngồi cạnh nhau ở

hàng ghế ðầu. Mimi ngồi cạnh Jack và ðang chờ ðến lƣợt mình bị gọi. Cô rất lo

lắng về cuộc điều tra, nhƣng lại sớm tìm ra lý do nào đó giúp cô tự lừa dối mình

thoát tội khỏi vụ này. Suy cho cùng, ðâu phải cô muốn làm hại Bliss hay muốn

giết chết bà Priscilla DuPont ðâu! Cô chẳng có gì mà phải bận tâm về cái chết

của bà già ðó cả. Ðó chỉ là một tai nạn không may mà thôi. Họ phải hiểu ðiều ðó

chứ, phải không? Nếu không có ðộng cõ gì thì họ không thể buộc tội cô, đúng

không? Cô với tay nắm lấy bàn tay anh trai mình, Jack đáp lại bằng một cái siết

nhẹ ấm áp.

Thẩm tra viên gọi Kingsley Martin lên bục.

- Hãy khai báo họ tên đầy đủ của anh.

- Kingsley Drexel Martin.

- Chức vụ.

Chức vụ? Mimi nhƣớng một bên mày lên. Chuyện này là sao ðây?

- Tôi là một ngƣời Ngƣời sãn Sự thật. Một Veritas Venator (tiếng Latin cùng

nghĩa). Tôi đƣợc Ủy Ban giao nhiệm vụ ðiều tra về cái chết của các ma cà rồng

Máu Xanh, bao gồm: Aggie Carondolet, Dylan Ward, Summer Armory, Natalie

Getty, Landon Schlessinger, và Grayson St. James.

Một làn sóng xì xầm dội lên trong ðám ðông. Các ma cà rồng lớn tuổi ðều biết

Venator là cấp bậc cao nhất trong ðội ðặc vụ của Ủy Ban, họ là những chiến

binh quả cảm trong cuộc chiến bảo vệ sự an toàn của gia tộc Máu Xanh khỏi

việc bị xâm hại và bị lộ thân phận thật của mình.

- Và nhiệm vụ của anh là? - Thẩm tra viên tiếp tục hỏi.

- Tôi đƣợc cử đến Trƣờng Duchesne để thu thập bằng chứng nhằm phát giác ra

kẻ chủ mƣu. - Kingsley vẫn tiếp tục giọng khai báo đều đều .

Lại những tiếng xì xầm, lần này còn kích ðộng hõn trƣớc. Một Venator đã đƣợc

cử ðến một trong những thành trì an toàn nhất của gia tộc: Trƣờng Duchesne! Ủy Ban đang nghĩ cái gì vậy chứ, dám cử một trong các sát thủ mạnh nhất của

mình đến đó để theo dõi con cái họ sao?

- Vậy các nghi can là ai?

- Madeleine Force. Bliss Llewellyn. Schuyler Van Alen.

Lần này lại là những tiếng thốt kinh ngạc rõ mồn một rộ lên trong đám đông.

Kingsley là một ðiệp viên ngầm! Một Johnny Depp trong "21 phố Jump"65 thời

hiện ðại, một ma cà rồng "nằm vùng" phụ trách tuần tra ðám thanh thiếu niên.

Schuyler há hốc mồm kinh ngạc, Bliss thì không đặng đừng đƣợc cƣời ngất, còn

Mimi chỉ biết nghiến rãng ken két. Tên khốn.

- Vậy các kết quả điều tra của anh ra sao?

- Ðầu tiên, tôi nhanh chóng tiến hành ðiều tra Schuyler Van Alen. Cô ta là nạn

nhân của hai vụ Máu Bạc tấn công và không hề tỏ ra có bất cứ dấu hiệu nào cho

thấy bị cám dỗ bởi Phép thuật Hắc Ám. - Kingsley nói, đồng thời lôi ra một

cuốn sổ nhỏ từ túi áo jacket và lật giở các trang ghi chép trong ðó.

- Bliss Llewellyn là ðối tƣợng ðáng nghi hõn. Cô ta từng phàn nàn với tôi về

những cõn ác mộng và ảo giác, dấu hiệu tƣõng tự nhƣ của Maggie Stanford

trƣớc khi cô này qua ðời. Nhƣng chính từ những ảo giác này mà tôi có thể ði tới

kết luận rằng Bliss có khả nãng chỉ là nạn nhân chứ không phải thủ phạm chính.

65 21 phố Jump (21 Jump Street): một series phim TH Mỹ chiếu trên kênh Fox Network từ

1987 ðến 1991. Series tập trung vào một ðội cảnh sát trẻ nằm vùng phụ trách ðiều tra tình

hình tội phạm học đƣờng tại các trƣờng ÐH và PT trong vùng. Phim có sự tham gia của nam

diễn viên Johnny Depp trong vai một sĩ quan cảnh sát - Tom Hanson - thuộc ðội cảnh sát nói

trên. - Vậy còn Madeleine?

- Tôi đã ði tới kết luận rằng Madeleine Force ðang chứa chấp tên Máu Bạc ðã

tấn công vào cộng đồng của chúng ta. - Kingsley nói, giọng điệu của anh ta lúc

này nghe nhƣ chỉ ðang thông báo một sự việc rất hiển nhiên.

- Trật tự! Hãy giữ trật tự tại phiên tòa! - Trƣởng Giám hộ lên tiếng nhắc nhở khi

ðám ðông trở nên giận dữ và kích ðộng. Nhiều ma cà rồng ðứng lên khỏi ghế

ngồi, họ rít lên và la ó phản ðối lại lời khai của Kingsley. Mimi Force - con gái

của Thủ lĩnh - mà lại là tòng phạm của bọn Máu Bạc ƣ? Kiểu ðùa dai gì thế

này?

- Anh có bằng chứng cho lập luận của mình không? - Trƣởng Giám hộ làu bàu

nói từ phía bục trên cao.

- Cô ta đã thể hiện khao khát đƣợc học hỏi về Phép thuật Hắc Ám. Cụ thể hõn,

cô ta muốn biết cách làm thế nào sử dụng thần chú Incantation Demonata. Thần

chú triệu gọi Máu Bạc.

- Tại sao cô ta muốn thực hiện thần chú này?

- Cô ta nói cô ta muốn tiêu diệt kẻ thù của mình. - Kingsley nói, nhìn thẳng về

phía Mimi.

Mimi run lẩy bẩy trên ghế ngồi của mình. Nói dối, nói dối. Toàn là nói dối! Hãy

ngừng lại ngay! Câm ngay! Câm ngay! Chúng ta đã từng là bạn mà! Ðồ phản

bội!

- Và ðó là Bliss Llewellyn?

- Không phải.

- Không phải sao? - Thẩm tra viên trông có chút bối rối ngạc nhiên.

- Không.

- Vậy ai mới là mục tiêu của cô ta?

- Schuyler Van Alen.

Lại thêm một vụ nháo nhác giận dữ bùng lên trong hàng ghế khách dự phiên tòa.

Schuyler bỗng cảm thấy toàn thân ðông cứng. Vậy ra ðó không phải chỉ là

hoang tƣởng của mình cô, Mimi thực sự muốn giết cô. Cô nhớ lại giấc mõ hôm

nào, trong mõ mẹ cô tỉnh lại và nói chuyện với cô. Mẹ Allegra đã nói gì nhỉ?

"Hãy cẩn thận".

- Vậy tại sao anh còn cho phép cô ta thực hiện bùa chú đó? - Trƣởng Giám hộ

hỏi.

- Vì tôi cần bằng chứng. Tôi nghĩ tôi có thể khống chế nó, ngăn cản cô ta lại

trƣớc khi nó thực sự xảy ra. Nhƣng tôi đã không thể. Rõ ràng là cô ta đã từng

thực hành nó trƣớc đó. Nhiều lần rồi.

- Cảm õn anh, Venator.

Kingsley lui xuống. Giờ đây khi nhân diện của anh đã đƣợc làm rõ, trông anh

già hõn rất nhiều, cậu thanh niên tự mãn thƣờng ngày chỉ là một vỏ bọc, một mặt nạ. Kingsley cất bƣớc nghiêm trang trở về chỗ ngồi của mình ở hàng ghế

ðầu, bên cạnh ðám học sinh Duchesne và cả ðám lùi ra xa khỏi anh, có phần sợ

sệt thành kính.

- Tòa cho gọi Charles Force. - Trƣởng Giám hộ lên tiếng.

Thủ lĩnh gia tộc loạng choạng bƣớc từ chỗ ngồi của mình trên bục cao xuống

vành móng ngựa. Con gái ông bị buộc tội chứa chấp Máu Bạc! Chữ "nhục" nhƣ

đƣợc viết tràn lan trên khắp khuôn mặt ông. Dƣới ánh ðèn, mái tóc màu bạc ánh

kim của ông nhìn thành ra bạc trắng, và dƣới hai con mắt có một quầng thâm

lớn. Ông trông nhƣ thể một ông già tàn tạ chứ không phải một thủ lĩnh bất khả

chiến bại của gia tộc ma cà rồng.

- Xin khai báo họ tên trƣớc phiên tòa. - Thẩm tra viên đề nghị.

- Charles Van Alen Force.

- Ông đã bao giờ chứng kiến con gái mình thực hành Bùa chú Hắc Ám chƣa?

- Rồi, nhƣng... - Charles trả lời, lau trán bằng khăn tay lụa.

- Là bùa chú cấm?

- Đúng, nhƣng...

- Vậy là ðủ rồi. Cảm õn ông. - Thẩm tra viên nói, cắt ngang lời khai của Charles.

Charles trông nhƣ thể còn muốn nói gì đó nữa, nhƣng tiếng nói của ông chết

cứng trong họng lƣỡi. Ông trông nhợt nhạt và chán chƣờng. Ông lui xuống và

quay trở lại ghế ngồi của mình với các thành viên khác trong Hội đồng.

Không có thành viên nào nhìn lại ông, còn ðám ðông bên dƣới bắt đầu la ó phản

ðối và rít ré ầm ĩ.

- Chúng tôi xin đƣa ra Dấu hiệu làm bằng chứng cuối cùng chống lại Madeleine

Force. Tôi tin là quý vị sẽ tìm thấy nó trên gáy của bị can. - Thẩm tra viên tuyên

bố.

- Chuyện này thật nực cƣời. Tôi không mang Dấu hiệu của Lucifer cũng nhƣ tất

cả các ngƣời ngồi ðây. - Mimi lên tiếng. Cô thật chỉ muốn hét lên. Ðây là một

hành ðộng làm nhục cô. Cô ðã bị gài bẫy!

- Làm õn vén tóc lên. - Trƣởng Giám hộ yêu cầu.

Mimi thu tóc lại và vén lên. Cô ðã từng làm điều tƣõng tự ðể Nan Cutler kiểm

tra vào tối qua, khi bà ta ðến ðể thực thi cuộc thử thách do Ủy Ban ðề ra. Chẳng

có gì xảy ra cả, và cô tin chắc mình vô tội.

Nhƣng một tiếng xì xầm kích động rộ lên từ phía Hội ðồng.

- Cái gì?

"Cổ của em, Mimi, có cái gì ðó trên cổ em."

"Jack, anh làm em sợ ðấy."

Cô đƣa ðầu ngón tay lên sờ gáy. Một vùng thịt gồ lên. Một hình xăm. Phải nói

là một vết nung nóng bỏng, giống nhƣ cái dấu ngƣời ta vẫn thƣờng ðóng lên gia

súc thì ðúng hõn. Phán quyết của tòa đƣợc đƣa ra nhanh chóng và kiên quyết.

Mimi chính là thủ phạm. Cô bị buộc tội ðã thông đồng với Máu Bạc. Cô sẽ bị

thuyên chuyển tới nhà tủ cổ của gia tộc ở Venice, nõi máu cô sẽ bị thiêu cháy

cho tới khi kí ức của cô bị hủy hoại hoàn toàn, và không còn chút hi vọng luân

hồi. Tiền bảo lãnh tạm thời là một triệu ðô, món tiền mà ba cô ngay lập tức

đồng ý trả để cô đƣợc tại ngoại dƣới sự giám sát của ông.

Mimi nhìn Jack. "Chuyện này không thể xảy ra... Em không làm thế. Anh biết

là em không mà."

"Anh biết. Anh biết." Jack vòng tay quanh ngƣời em gái, khuôn mặt cậu hằn lên

nỗi lo. Chuyện này nghiêm trọng quá. Là án tử hình! Ôi Mimi õi!

Cặp sinh ðôi nhà Force chờ ba mình bƣớc xuống khỏi bục và tiến về phía họ.

Charles vẫn còn nguyên cái nhìn hoảng hốt và sốc cực ðộ trên khuôn mặt, hệt

nhƣ lúc trƣớc đó.

- Ba õi, chúng ta phải làm gì bây giờ? - Mimi nói.

- Không nghi ngờ gì... - Charles Force thất kinh - Chẳng thể làm gì...

- Không thể sao?

- Chỉ có một cách duy nhất ðể kiểm chứng Dấu hiệu của Lucifer mà thôi. Con

phải thực hiện một nghi thức rất cổ xƣa. Ðó là Thử máu. Nhƣng chỉ có

Gabrielle - Allegra Van Alen - mới có khả nãng thực hiện nghi thức này.

- Gabrielle? - Mimi hỏi lại với cảm giác tê buốt ngập lòng.

- Đúng vậy.

Giờ thì hay rồi. Allegra ðang hôn mê và sẽ chẳng bao giờ tỉnh dậy ðƣợc.

- Vậy là không còn cách nào để chứng minh sự vô tội của con sao? - Mimi hỏi.

- Không con ạ.

CHÝÕNG 42

Ðám ðông dự phiên tòa bắt ðầu tản ra và di chuyển lên các tầng trên của Khu

Lƣu Trữ, Schuyler chờ ông ngoại cô ở cửa ra vào. Oliver ðã đi trƣớc, nói là

không thể bỏ bài kiểm tra môn Lƣợng giác chiều nay đƣợc. Họ đã đƣợc cho

nghỉ phép ðặc biệt ðể dự phiên tòa sáng. Schuyler hiểu rằng cô nên về cùng cậu,

nhƣng cô muốn nghe ông ngoại giải thích lại toàn bộ những chuyện vừa rồi.

Lawrence ðang rời khỏi trụ sở của Hội ðồng, Edmund Oelrich và Nan Cutler ði

cạnh hai bên.

- Để chúng tôi tiễn ông, Lawrence. - Edmund nói, cúi ngƣời chào. - Ðây ðúng

là nỗi sỉ nhục cho toàn gia tộc chúng ta.

- Chúng tôi cam đoan với ông, ông sẽ có phiếu của chúng tôi trong lần bầu cử

tới. - Nan thêm vào, vỗ vỗ lên cánh tay Lawrence. - Ðáng lẽ ra chúng tôi nên

nghe lời ông từ bốn trăm năm trƣớc mới phải. Thật tình! Bọn Tàn Ác đó đã

nhúng chàm cả tới gia ðình thuộc hàng cao cấp nhất!

- Cám õn hai vị. - Lawrence gật ðầu. Ông quay ra phía Schuyler. - Vậy ðó. Giờ

cháu nghĩ sao về Kingsley Martin nào?

Hai ông cháu cùng ði lên cầu thang dẫn lên tầng trên, hƣớng ra phía cửa ngách

của câu lạc bộ chuyên dành cho ma cà rồng - Block 122, và bƣớc ra ngoài vỉa

hè.

- Từ ðầu tới cuối ðều do Mimi làm. - Schuyler thốt lên kinh hoàng. - Mimi... -

Sự thật này khó tin quá, ðặc biệt là với những nghi ngờ của cô và ðám bạn về

Kingsley vẫn còn đang lởn vởn trong đầu. - Ông đã biết chuyện Kingsley là

một Venator rồi ạ?

- Ðúng vậy. - Lawrence gật gù.

Schuyler nhớ lại những gì mà Kingsley đã nói với Jack vào buổi sáng hôm nào.

"Các ngƣời chẳng là gì nếu không có chúng tôi, nếu không có những hi sinh mà

chúng tôi phải gánh chịu."

- Nhƣng cháu cũng ðúng, cháu gái ạ. Kingsley là một Máu Bạc. - Lawrence nói,

vẫy vẫy Julius đang ngồi trong chiếc xe hõi của gia ðình họ.

- Ý ông là sao ạ? - Schuyler hỏi khi cô bƣớc lên xe trong khi Lawrence giữ cửa.

- Gia đình cậu ta là một gia đình có dòng máu cổ xƣa nhất. Một trong những gia

tộc chiến binh cổ. Họ đã bị chính Lucifer làm vấy bẩn. Nhƣng khi họ quay về

với với cộng ðồng Máu Xanh, ãn nãn bởi hành ðộng của mình thì họ cũng dần

học đƣợc cách khống chế tính Tàn Ðộc của mình, rồi những cõn khát, và cả

giọng nói trong đầu họ nữa. - Lawrence nói, đóng cửa xe lại. - Về Duchesne,

Julius. Chúng ta sẽ thả Schuyler ở ðó rồi mới về nhà. - Ông nói, vỗ vỗ lên lớp

cửa kính ngãn cách giữa khoang lái và khoang sau.

Họ lao qua khu vực phố Chelsea rồi tới đƣờng cao tốc West Side. Lại thêm một

ngày ảm ðạm ðặc trƣng kiểu New York.

- Nhƣng làm sao chúng ta có thể tin họ ðƣợc?

- Chúng ta đã tin tƣởng họ trong hàng ngàn nãm nay. Kingsley Martin là một

Máu Bạc thật, nhƣng chỉ là do tên gọi di truyền lại thôi. Máu của cậu ta cũng

xanh nhƣ của cháu và ta vậy. Họ ðã đoạn tuyệt với Lucifer rồi, và tỏ ra rất hữu

ích trong cuộc tìm kiếm nghi can. - Lawrence thở dài. - Thế nhƣng...

- Thế nhƣng?

- Thế nhƣng... có cái gì ðó trong vụ này làm ta phiền lòng. Cháu có tin là Mimi

Force có tội thật không?

- Có ạ. - Schuyler trả lời dõng dạc. - Cô ta là một ngƣời kinh khủng.

- Ừm, nhất là khi chúng ta còn biết rằng cháu chính là mục tiêu của cô ấy.

Nhƣng...

- Nhƣng sao ạ?

- Nhƣng nếu cháu là mục tiêu chính thì tại sao Priscilla lại chết? Và còn cô gái

nhà Llewellyn nữa? Có gì đó không đúng lắm ở đây.

Schuyler nhún vai. Có lẽ cô không nên vội ðƣa ra phán xét, nhƣng chẳng phải

chính Ủy Ban cũng vậy sao? Và sâu trong thâm tâm, cô chẳng hề thấy chút

thƣõng hại nào ðối với Mimi. Suy cho cùng thì, chính cô ta đã triệu một Máu

Bạc ra ðể giết cô mà.

- Ông nghe lời khai của Kingsley rồi ðấy. Mà anh ta lại là một Venator. Không

phải anh ta bắt buộc phải nói sự thật sao? Ở mọi lúc, mọi nõi?

- Đúng vậy. - Lawrence gật đầu. - Charles luôn tin tƣởng vào nhà Martin.

Chính Charles đã giác ngộ họ về phe chúng ta. Nhƣng ta cũng không biết nữa.

Ta luôn luôn có chút nghi ngờ về gia đình này.

Xe dừng lại ngay trƣớc cổng trƣờng Duchesne. Schuyler nhảy ra khỏi xe, nhƣng

không quên hôn một cái lên má ông ngoại trƣớc khi rời đi.

- Bà ngoại luôn nói rằng ðừng bao giờ tin tƣởng những kẻ bề ngoài bóng bẩy.

Bọn họ luôn che giấu rất nhiều thứ nhõ nhớp bên trong.

Khi bƣớc qua cổng trƣờng, Schuyler đụng ngay Jack Force, ngƣời cũng đang

tiến vào từ cửa bên. Jack vẫn mặc bộ vét xám sẫm màu lúc ở phiên tòa, mắt cậu

mờ ðục với những tia ðỏ vằn lên, nhƣ thể cậu đã khóc vậy. Schuyler bỗng cảm

nhận đƣợc một nhát đâm xé lòng. Dù cô chẳng hề thƣõng yêu gì Mimi, nhƣng

Jack lại là bằng chứng sống nhắc cô rằng không phải ai cũng nghĩ nhƣ vậy.

- Cô ấy không làm vậy ðâu, cậu biết ðấy. - Jack lên tiếng trƣớc tiên.

Schuyler đỏ mặt nghĩ "Cô ấy đã muốn giết tớ đấy! Chính cô ấy đã thú nhận!"

Nhƣng rồi cô lại nói giọng nhẹ hều với Jack:

- Đó không phải những gì ngƣời ta chứng thực đƣợc ở phiên tòa.

- Mimi ðúng là ích kỷ... nhƣng cô ấy không ác độc đến mức nhƣ vậy đâu. -

Jack van nài.

Chuông chiều vang lên, báo hiệu giờ nghỉ ãn trƣa đã hết và lớp học chiều lại bắt

đầu. Các học sinh đổ túa ra từ cãng-tin, ùa lên các cầu thang, và chen chúc nhau

chỗ chiếu nghỉ lát hoa cƣõng, nõi Jack và Schuyler cũng có mặt. Một vài ngƣời thì thầm với nhau khi họ nhận ra Jack và Schuyler đang to nhỏ chuyện gì đó.

Một vài Máu Xanh tham dự phiên tòa bày tỏ cái nhìn thông cảm khi trông thấy

Jack, trong khi những ngƣời khác thì liếc cậu chằm chặp, và một ngƣời thậm chí

còn ði xa hõn khi rít lên trƣớc sự có mặt của cậu. Một cuộc họp Ủy Ban đặc biệt

đƣợc lên lịch vào chiều nay ðể thông báo tới các thành viên mới về những phát

hiện mới nhất này.

- Cô ấy sẽ không bao giờ thực sự làm ðau thêm bất kỳ ai. - Jack tiếp tục thanh

minh cho em gái. - Cô ấy không ghét cậu. Không thực sự vậy. - Cậu ƣớc gì

mình có thể giải thích rõ ràng hõn. Rằng Schuyler à, ngƣời Mimi ghét không

phải cậu ðâu. Mà là tớ. Cô ấy chỉ chuyển cõn giận dữ sang cậu vì cô ấy không

thể ép mình ghét chính ngƣời cô ấy yêu ðƣợc. Nhƣng cô ấy thực sự ghét tớ vì

những gì tớ đã làm - vì tớ đã yêu cậu.

Schuyler nhìn Jack vẻ chế nhạo, nhƣng vẫn im lặng không nói gì. Mimi Force.

Azrael. Thiên thần ðại diện cho sự Diệt vong ðúng không? Ðó chẳng phải nghề

của Mimi sao? Reo rắc cái chết cho muôn ngƣời? Trƣớc sự ngạc nhiên của

Schuyler, Jack dƣờng nhƣ có khả năng đọc tâm trí cô.

- Cậu không hiểu, ðó là một phần của sự cân bằng vũ trụ. Chúng ta luôn có vị trí

của riêng mình. Và cái chết cũng là một phần tất yếu của cuộc sống này. - Jack

nói.

Schuyler nhún vai.

- Tớ không chắc lắm ðâu. - Cô nói - Thôi chào cậu, Jack. CHÝÕNG 43

Lawrence ðang miệt mài nghiên cứu ðống tài liệu lấy ra từ Khu Lƣu Trữ thì

phát hiện ra một tập giấy bị ðốt cháy hoàn toàn trừ ngày tháng trên cùng. Ngày

23 tháng 11 năm 1972. Ông vẫn thắc mắc không biết bao giờ Schuyler mới trở

về từ trƣờng học. Và ngay lúc trở về, cô cháu gái ðã nói với ông về chuyện Jack

Force đọc đƣợc suy nghĩ của cô chiều hôm đó.

- Cháu cứ nghĩ cháu an toàn khỏi thuật "thần giao cách cảm" chứ, nhƣng mà

cậu ấy vẫn đọc đƣợc suy nghĩ của cháu. Tại sao vậy ạ? - Cô hỏi ông.

- Abbadon luôn là một trong những nhà tiên tri tài nãng nhất của chúng ta. -

Lawrence nói. - Sẽ cần một bài thực hành occludo (bịt kín) phức tạp hõn nếu ai

đó muốn đóng cửa tâm trí mình trƣớc cậu ta. Nhƣng đôi khi giữa những ngƣời

bị hút vào nhau cũng có mối liên hệ nào ðó.

- Bị hút vào nhau ý ạ? - Schuyler hỏi.

- Chắc cháu cũng nhận ra cậu ta bị cháu thu hút chứ?! - Lawrence nói.

Schuyler đỏ bừng mặt. Cô cũng từng hi vọng vậy nhƣng cô chƣa bao giờ dám

nghĩ về điều đó nhƣ một sự thực. Tuy vậy, dù cho cậu ðã có giới hạn máu với

Mimi, cậu vẫn tìm kiếm tình bạn của cô và hé lộ chút ít dấu hiệu rằng có thể cậu

còn hứng thú với cô nhiều hõn mức tình bạn... Cậu từng hôn cô một lần, cách

ðây cũng lâu rồi. Và chàng trai ẩn sau chiếc mặt nạ hóa trang... Có lẽ nào ðó là

cậu không?

- Nhƣng mà cậu ấy ðã có hẹn ƣớc rồi. - Schuyler nói - Chuyện này là không thể.

- Không. Không phải ðối với giống loài của chúng ta. Abbadon lúc nào mà

chẳng vậy. Cháu không phải cám dỗ ðầu tiên thử thách lòng chung thủy của cậu

ta đâu. - Lawrence nói - Nhƣng rồi nó cũng qua thôi. Tạ õn Chúa là cháu

không bị cậu ta thu hút. Nếu không thì nó sẽ biến thành thảm họa ám ảnh cả hai

đứa mất thôi.

Cô cúi nhìn tấm thảm trải sàn, thắc mắc không hiểu có phải ông ngoại ðang thử

cô không, hay ông chỉ ðõn thuần giả ðịnh Schuyler chọn con ðƣờng ðúng ðõn

giản vì cô là cháu gái của ông.

- Vâng. - Cô nói - Tạ õn Chúa vì ðiều này.

Bỗng nhiên, Schuyler cảm thấy một cõn choáng váng nhẹ và rồi tầm nhìn của

cô trở nên mờ ảo, chuếnh choáng, ðầu gối cô khuỵu xuống, nhƣng trƣớc khi cô

ngã xuống sàn, Lawrence đã vọt tới giữ chắc lấy cô.

- Cháu vẫn chƣa làm theo những gì ta nói. - Ông kiên quyết nói - Cháu vẫn

chƣa thu nạp thần linh quen thuộc. Cháu đang yếu đi đấy.

Cô lắc lắc đầu.

- Đây không phải chuyện vặt đâu, Schuyler. Nếu cháu không mau mau thu nạp

thần linh quen thuộc thì nó sẽ trở thành thảm họa thực sự ðó, rồi cháu sẽ rõi vào

hôn mê nhƣ mẹ cháu mất thôi.

- Nhƣng mà cháu...

Lawrence cắt ngang cô với câu khuyên nhủ cộc lốc.

- Cháu phải đi săn đi, hãy dùng sức mạnh quyến rũ. Hãy dùng "Tiếng gọi". Đó

là cách giải quyết duy nhất vào lúc này.

Nghi thức Caerimonia Osculor giữa ma cà rồng và ngƣời thƣờng chính là sự

phát triển của một mối quan hệ vốn đã tồn tại sẵn từ trƣớc ðó. Ðó là lý do tại sao

những thần linh quen thuộc loài ngƣời của Máu Xanh thƣờng vốn là ngƣời yêu

hoặc bạn của họ. Nhƣng Luật cũng cho phép sử dụng sức mạnh Quyến rũ đặc

biệt nếu ma cà rồng quá cần thần linh quen thuộc. Ma cà rồng sẽ sử dụng

"Tiếng gọi" để thu hút một ngƣời trần nào ðó về phía anh ta, thôi miên ngƣời đó

và hút máu của họ.

- Ta đã dạy cháu thần chú sử dụng ngôn ngữ Thần Thánh giúp cho việc này rồi.

- Lawrence nói - Tối nay ta sẽ tới câu lạc bộ. Khi ta trở về, ta tin rằng cháu đã

thực hiện ðiều cần làm.

Ông ngoại cô rời ði ngay sau ðó, ðể lại Schuyler trên phòng riêng của mình.

Mình không muốn mà, cô ƣõng bƣớng nghĩ thầm. Mình không muốn làm

chuyện này với một ngƣời lạ lẫm. Mình không muốn làm nó với ai ðó mà mình

không quen. Mình chƣa đến mức tuyệt vọng nhƣ thế! Hay mình ðúng là nhƣ

vậy?

Rồi cứ nhƣ thể bị "Tiếng gọi" thu hút, ai đó gõ cửa phòng ngủ Schuyler.

- Chuyện gì vậy, Hattie? - Schuyler hỏi.

Cánh cửa bật mở.

- Không phải Hattie, là tớ ðây. - Oliver nói, lù ðù trƣớc ngƣỡng cửa.

- Tớ không nghe thấy tiếng cửa trƣớc mở. Cậu làm gì ở đây vậy? - Schuyler hỏi

lại, có phần phòng vệ.

- Ông cậu bảo tớ là cậu muốn tớ ghé qua. - Oliver giải thích.

A. Vậy là ông ðã tự thực hiện "tiếng gọi" cho cô. Chỉ có ðiều là ông ðã dùng

điện thoại thay vì thần chú. Ông ngoại, ngƣời quả thực rất cao tay đó. Schuyler

thầm nghĩ.

Oliver ði vào phòng và ngồi trên chiếc rƣõng ðặt cuối giƣờng Schuyler. Cậu

nhìn cô ðãm chiêu.

- Tớ đang nghĩ... nếu cậu còn muốn làm chuyện đó thì chúng ta sẽ làm.

- Cậu thực có ý đó chứ?

- Ừ.

- Ở đây luôn sao? - Schuyler hỏi, nhìn quanh phòng mình một lƣợt, mắt cô lƣớt

qua những tấm poster Evanescence66, ngôi nhà búp bê khổ lớn Barbie màu

hồng, một dãy những hình bìa tạp chí Playbill67có ảnh của Rent, Avenue Q và

The Boy From Oz68 đƣợc dán trên tƣờng phòng cô từ hồi Cordelia thƣờng

xuyên ðƣa cô ði xem nhạc kịch ở Broadway. Nó vẫn là một cãn phòng sực nức

mùi nít ranh và còn đƣợc sõn màu vàng Moutain Dew (màu vàng týõi) nữa chứ.

Chẳng có vẻ gì giống với hang ổ của một ma cà rồng cả.

66 Evanescence: Nhóm nhạc rock ngƣời Mỹ thành lập vào nãm 1995.

67 Playbill: tên tạp chí kịch nghệ số ra hàng tháng của Mỹ.

68 Rent, Avenue Q, The Boy from Oz: tên những vở nhạc kịch nổi tiếng từng ðƣợc trình diễn

tại sân khấu kịch Broadway (Mỹ) và nhiều nõi khác trên thế giới.

- Nõi này cũng tốt mà. - Oliver nhún vai. - Hõn nữa, nó sẽ giúp tớ tiết kiệm tiền

thuê phòng khách sạn.

- Cậu có chắc cậu muốn làm chuyện này không? - Schuyler hỏi lại, vƣõn tay

nắm lấy tay cậu.

- Có. - Oliver thở mạnh. - Tớ biết chuyện gì sẽ xảy ra cho cậu nếu cậu không

làm chuyện này, và giữa hai chúng ta mà nói, tớ vẫn thích cậu không phải một

tay ãn kiêng thì hõn. Tớ cũng ghét rau củ lắm. - Oliver tếu táo. - Ðặc biệt là cải

bông xanh... Vậy chúng ta sẽ làm kiểu gì... - Oliver nói - Tớ ðứng à? Hay...? -

cậu ðứng dậy và nhìn quanh. Cậu cao hõn cô nhiều.

- Không, cậu ngồi ði. - Schuyler nói, nhẹ nhàng ấn vai cậu ðể cậu ngồi xuống

giƣờng cô. - Nhƣ vậy tớ có thể cúi xuống. - Cô đứng giữa hai chân cậu. Cậu

ngƣớc nhìn cô. Cô nghĩ cậu chƣa từng đẹp trai đến thế, hay mong manh đến thế.

Oliver nhắm hai mắt lại.

- Nhẹ nhàng thôi nhé.

Schuyler cúi xuống, hôn vào lõm cổ của cậu, và rồi, nhẹ nhàng nhƣ chƣa từng

nhẹ nhàng hõn, cô ðể những chiếc rãng nanh mọc dài ra và cắm chúng vào ðó.

Oliver rít lên giữa hai kẽ rãng, nhƣ thể cậu đang đau lắm.

- Tớ ngừng lại nhé?

- Không... cứ tiếp tục đi... - Cậu nói, vẫy tay xua xua.

- Tớ không làm cậu ðau chứ?

- Không... cảm giác... tuyệt vời, thực đó. - Oliver thì thào. Cậu đặt một tay qua

đầu cô, níu cô tới cổ cậu lần nữa.

Schuyler nhắm hai mắt lại và cắm ranh nãng vào cổ Oliver. Khi cô làm vậy, các

giác quan của cô nhƣ bị khuấy ðộng và tâm trí cậu dần mở rộng ra trƣớc mắt cô.

Những ký ức lƣu theo máu tràn ra. Nó giống nhƣ những gì Bliss từng nói: cô

hút cả linh hồn, cả con ngƣời của cậu... và, cái gì đây? Giờ đây, tâm trí cậu nhƣ

quyển sách để mở trƣớc cô, máu cậu hòa lẫn với máu của cô, khuấy đảo máu

cô... và cô có thể ðọc ðƣợc mọi ý nghĩ cậu từng có trong đời... len sâu vào mọi

ngõ ngách trong ký ức cậu.

Oliver yêu cô.

Cậu đã yêu cô suốt một thời gian dài. Kể từ ngày họ mới gặp nhau. Trong suốt

bao nhiêu nãm trời.

Schuyler cũng từng nghi ngờ chuyện này nhƣng cô cố tình lờ nó. Thế mà giờ

đây nó nhƣ đƣợc phõi ra trƣớc mắt cô khiến cô không thể chối bỏ đƣợc nữa.

Ôi, Ollie. Ðáng ra tớ không nên làm chuyện này. Schuyler ðau khổ. Nụ hôn

Thần Thánh không những không xua đƣợc tình cảm ðó mà chỉ càng làm tãng

thêm tình yêu của cậu với cô mà thôi. Giờ họ đã bị trói buộc vào nhau theo một

cách mới và phức tạp hõn.

Cô đã nhận đƣợc quá nhiều. Tình bạn của hai ngƣời đang bị lung lay, giờ cô

mới thực sự hiểu điều đó. Chẳng còn đƣờng để quay lại nữa rồi. Họ sẽ chỉ có

thể tiếp tục tiến lên mà thôi. Trong mối quan hệ giữa ma cà rồng và thần linh quen thuộc của cô ta. Bị vƣớng vào nhau bởi một nghi thức giới hạn máu cổ xƣa.

Cô đã kết thúc. Cô đã thỏa mãn. Cô rút rãng nanh ra và cảm nhận một dòng

năng lƣợng sống chảy tràn trong cõ thể mình. Cứ nhƣ thể cô đã tiêu thụ gần

chín chục lít cà phê có trị số ốc-tan cao (chứa nhiều nãng lýợng). Hai má cô ðỏ

bừng và mắt cô sáng ngời.

Ðầu Oliver ngửa ra sau. Cậu ðang thiếp dần ði. Schuyler nhẹ nhàng ðặt cậu nằm

hẳn lên giƣờng, nõi cậu có thể nghỉ trong suốt mấy giờ tiếp theo và ðắp chãn

cho cậu. Mình đã làm cái gì thế này? Cô tự hỏi, mặc dù lúc này tầm nhìn của cô

đã rõ hõn và các giác quan cũng nhạy bén hõn. Họ có thể giữ bí mật này khỏi

ánh mắt của Ủy Ban không? Và liệu Oliver có bị trừng phạt nếu họ phát hiện ra

một Conduit lại trở thành thần linh quen thuộc không? Cô nhớ lại lời Cordelia

từng nói, Allegra đã cƣới ba cô, thần linh quen thuộc loài ngƣời của bà, ði

ngƣợc lại bộ Luật của gia tộc. Mẹ cô đã ðánh ðổi lời thề này với một cam kết

khác.

Vậy còn Jack thì sao?

Khi Oliver tỉnh lại, Schuyler ðang ngồi ở bàn học, quan sát cậu.

- Chà. - Cậu nói, gãi gãi cổ nõi vết cắn vẫn còn mới. - Tớ ðoán ðó là cái mà

ngƣời ta vẫn gọi là bạn bè ði đôi với lợi ích.

Cả hai cùng phá ra cƣời. Schuyler ném gối vào cậu. Cô tiễn Oliver ra cửa và

cảm õn cậu thêm lần nữa. Trƣớc khi rời ði, cậu cúi xuống hôn cô, trên môi. Một

nụ hôn thoáng qua nhƣng vẫn là một nụ hôn vào môi.

Schuyler đóng cánh cửa lại sau lƣng cậu, trái tim cô trĩu nặng nỗi bất an và bối

rối.

Ðây ðúng là một sai lầm. CHÝÕNG 44

Phòng bệnh nõi Allegra Van Alen nằm ở tầng trên cùng của trung tâm y tế

Columbia Presbyterian69, trong biệt khu chuyên dành ðiều trị phục hồi cho

ngƣời giàu và yếu nhân. Phòng bệnh đƣợc bài trí theo phong cách y nhƣ một

phòng khách sạn hạng sang ở New York, với những tấm khăn trải giƣờng làm

bằng vải lanh trắng Italia, thảm trải sàn cao cấp, các lọ hoa pha lê lúc nào cũng

đầy hoa tƣõi. Mỗi ngày lại có một ðội ngũ y tá tới mát-xa và nắn bóp các chi

của Allegra ðể giữ cho các cõ của bà tránh khỏi việc bị teo nhỏ.

Nhƣng Allegra chƣa bao giờ hay biết tất cả những ðiều ðó. Từng là ngƣời đẹp

danh tiếng nhất của thành phố này, bà giờ ðây chìm sâu trong cõn mê man, hoàn

toàn không hay biết gì tới thế giới xung quanh mình: một ngƣời phụ nữ với quá

khứ huy hoàng nhƣng bất hạnh và chẳng hề có tƣõng lai. Máy ðo nhịp tim bên

cạnh giƣờng vẫn biểu thị những nhịp đập đều đều, và trong suốt một thời gian

dài nhƣ vậy, chẳng có tiếng ðộng nào khác trong phòng ngoài tiếng bíp đều đều

ấy.

Lawrence Van Alen ngồi trên chiếc ghế ðối diện giƣờng bệnh của Allegra. Đây

là lần ðầu tiên ông tới thãm con gái kể từ khi trở về. Và ðây cũng là chuyến

thãm mà ông cố tình trì hoãn bởi gánh nặng cảm xúc sợ phải nhìn thấy đứa con

máu mủ của mình trong tình trạng bất động nhƣ vậy.

69 Columbia Presbyterian: tên ðầy ðủ là New York - Presbyterian: Trung tâm Y tế thuộc ĐH

Columbia và ÐH Cornell. Ðây là hợp khu bệnh viện cao cấp gồm 2 khu chính nằm trong

khuân viên (campus) của ÐH Columbia và ÐH Cornell. Bệnh viện này hiện ðứng thứ 6 trong

top 10 bệnh viện hàng ðầu Hoa Kỳ và thế giới. - Ôi, Gabrielle. - Cuối cùng ông cũng thốt lên - Tại sao con lại ra nông nỗi này

cõ chứ?

- Cô ấy không nghe đƣợc ông đâu. - Charles Force nói khi bƣớc vào phòng,

trên tay mang theo một bình hoa khác. Ông đặt bình hoa lên chiếc tủ cạnh

giƣờng bệnh. Ông dƣờng nhƣ không ngạc nhiên lắm khi thấy Lawrence ở ðây.

- Con bé chọn không nghe. - Lawrence nói - Chính anh đã gây ra chuyện này.

- Tôi chẳng làm gì hết. Ðó là do cô ấy tự chuốc lấy.

- Dù thế nào ði nữa, ðó vẫn là lỗi của anh. Nếu nhƣ anh không...

- Ý ông là nếu nhƣ tôi không cứu cô ấy lúc ở Florence phải không? Nếu tôi cứ

để cho con quái thú đó có đƣợc cô ấy phải không? Và rồi thì cô ấy sẽ không nhƣ

thế này chứ gì? Nhƣng đổi lại đƣợc gì chứ? Để mặc cho cô ấy chết sao? Ông nói

tôi phải làm sao ðây? Ông nói ði, Ba.

- Những gì anh đã làm đi ngƣợc lại quy luật của vũ trụ. Ðó là thời khắc của con

bé, Michael. Ðó là lúc nó phải ra ði.

- Đừng có nói với tôi về thời khắc. Ông đâu có biết chuyện gì đã xảy ra. Ông

thậm chí còn không có ở ðó. - Charles cay ðắng nói. Ông ðặt một tay lên má

Allegra và dịu dàng vuốt ve. - Rồi một ngày cô ấy sẽ tỉnh lại. Cô ấy sẽ tỉnh lại vì

tình yêu cô ấy dành cho tôi.

- Thật đáng buồn vì anh không hiểu, Michael. Con bé sẽ không bao giờ còn có

thể yêu anh nhƣ nó đã từng nữa. Bản thân nó cũng không hiểu nổi lựa chọn của anh. Ðáng lẽ ra anh nên ðể nó chết. Rồi nó sẽ không bao giờ tha thứ cho anh

đâu.

Hai vai của Charles Force rung lên.

- Tại sao ông luôn nói với tôi nhƣ thể tôi vẫn chỉ là một thằng nhóc ranh? Cô ấy

đã rời khỏi Thiên Ðàng vì tình yêu dành cho ông và Cordelia khi các ngƣời bị

ðày ðọa.

- Phải. Chúng ta đã bị trừng phạt, chúng ta - những tôi tớ trung thành của

Lucifer. Nhƣng em gái anh đã mang tới hy vọng cho chúng ta. Ðó là lựa chọn

của con bé khi trở thành một ma cà rồng bất tử.

- Cũng nhƣ lựa chọn của tôi khi quyết định đi theo cô ấy.

Lawrence trầm ngâm nhớ lại lịch sử xa xƣa của họ. Chuyện nhƣ đã xảy ra từ lâu,

lâu lắm rồi: khi Lucifer bƣớc lên ngôi vị quyền lực, Hoàng tử Thiên Ðàng với

tất cả ánh hào quang rực rỡ, nhƣ một ngôi sao sáng chói nhô cao trên bầu trời,

đẹp y nhƣ thể mặt trời cạnh ðó, và quyền nãng nhƣ thể Chúa Trời, hoặc ít ra họ

cũng từng nghĩ vậy. Và tất cả ðã phải gánh chịu hậu quả của suy nghĩ đó.

Chuyến lƣu ðày tàn khốc khỏi Thiên Ðàng, và Gabrielle Ðoan Chính ðã tình

nguyện gia nhập hàng ngũ những kẻ tôi tớ của Lucifer phải chịu án lƣu ðày hầu

mang lại hi vọng và sám hối cho giống loài của mình. Cô đã quay lƣng lại với

Thiên Ðàng vì tình yêu ðối với ðồng loại, và Michael ðã theo chân cô rời khỏi

Thiên Ðàng bởi anh không thể chịu ðƣợc việc bị chia cắt khỏi cô. Cả hai đƣợc

xƣng tụng là những Thiên thần Thanh Khiết bởi vì họ không phải chịu hình phạt

do tội lỗi của mình. Họ đã tự ra đi theo ý nguyện của chính mình. Theo tiếng

gọi của tình yêu và nghĩa vụ.

- Vậy là ông ðã thắng, Lawrence. Cuối cùng, sau bao nhiêu năm, ông cũng đã

đạt đƣợc cái ông mong muốn. Gia tộc này.

Phiếu Trắng đã đƣợc gọi ra sáng nay, và Lawrence ðƣợc bầu làm Thủ lĩnh trong

một cuộc bỏ phiếu với gần ðại ða số phiếu tán thành. Charles ðã bị tƣớc khỏi

quyền lực và trách nhiệm ngay lập tức. Danh tiếng của Charles ðã bị vấy bẩn

trầm trọng sau lời buộc tội dành cho Mimi. Ông đã đệ trình ðõn từ chức, rút lui

khỏi Hội đồng ngay khi tin tức đƣợc thông báo.

- Ta chƣa từng muốn tiếm quyền của anh, Charles. Ta chỉ muốn tất cả chúng ta

đƣợc an toàn.

- An toàn? Chẳng ai ðƣợc an toàn hết. Tất cả những gì ông làm chỉ là ngồi ðó

run sợ và tỏ ra hèn yếu. Ông sẽ lại bắt chúng tôi lui quân một lần nữa. Lui vào

sâu trong bống tối. Quay trở về với chốn tối tăm, lẩn trốn nhƣ những con vật

hèn kém.

- Ðó không phải là lui quân mà là một chiến thuật có tính toán hầu giúp chúng

ta có thêm thời gian chuẩn bị. Bởi vì chiến tranh sắp xảy ra rồi, và lần này thì

anh chẳng thể làm gì để ngăn nó đƣợc nữa ðâu. Máu Bạc ðang mạnh lên và

tƣõng lại của cái thế giới này sẽ ðƣợc quyết ðịnh một lần và mãi mãi.

Charles Force im lặng. Ông tiến về phía cửa sổ và nhìn ra dòng sông Hudson

bên ngoài. Một chiếc sà lan di chuyển chậm chạm giữa dòng nƣớc lênh ðênh,

một con mòng biển hú lên tiếng kêu cô ðõn.

- Nhƣng ta đang ấp ủ một tia hi vọng. Ngƣời ta nói rằng con gái của Allegra sẽ

đánh bại đƣợc Máu Bạc. Ta tin rằng Schuyler sẽ mang lại sự cứu rỗi mà chúng ta hằng tìm kiếm. - Lawrence nói - Con bé cũng mạnh gần bằng mẹ của nó. -

Ông nói với Charles về những khả nãng kinh ngạc của Schuyler. - Và rồi một

ngày con bé sẽ còn mạnh hõn thế.

- Schuyler Van Alen... ma cà rồng máu lai sao? - Charles trầm ngâm. - Ông

chắc con bé ðó chính là ngƣời chúng ta cần?

Lawrence gật đầu.

- Bởi Allegra có tới hai đứa con gái. - Charles nói bằng một giọng nhẹ bẫng,

gần nhƣ có vẻ ðùa cợt. - Chắc chắn rồi, ngay cả ông cũng không thể quên ðƣợc

ðiều ðó. CHÝÕNG 45

Lễ qui án của Mimi, một thủ tục đƣợc tiến hành trƣớc lễ hành quyết ngay sau ðó,

đƣợc sắp xếp trùng với Tuần lễ Trƣợt tuết tháng Ba của Duchesne, càng có cớ

khiến Mimi tự cho phép mình vờ nhƣ cả nhà cô chỉ là ðang ði nghỉ ở Venice mà

thôi. Toàn bộ viễn cảnh sắp tới với hình ảnh cô bị hành quyết, bị đốt cháy vĩnh

viễn dƣờng nhƣ chỉ là một câu chuyện giải trí khôi hài.

Mimi vẫn tin rằng ba cô sẽ tìm đƣợc cách nào ðó cứu cô khỏi số phận nghiệt

ngã này, và trong suốt chuyến bay từ New York ðến Venice, cô dành hầu hết

thời gian lật giở từng trang tạp chí mốt mới, đánh dấu những bộ quần áo cô dự

tính sẽ mua khi nào trở về. Nhƣng khi họ tới Venice rồi thì vẻ hiên ngang giả

tạo ðó bắt ðầu rạn nứt ra từng chút một. Nhất là khi các thành viên Hội ðồng hộ

tống gia đình họ tới khách sạn. Họ cũng ði tới nhà ngục cổ xƣa của gia tộc để

chứng kiến các nghi thức cuối cùng trƣớc khi phán tội.

Thật khó mà tin ðƣợc vào cái chết và hành quyết - thiêu thân khi Mimi còn

đang ở trong căn phòng ngủ thoải mái của mình, nõi cô vẫn còn đƣợc xem

chƣõng trình My Super Sweet Sixteen (Sinh nhật 16 Siêu tuyệt vời của tôi) và

Tiara Girls trên đầu ghi kỹ thuật số TiVo. Nhƣng khi sải bƣớc trên những con

đƣờng ngập nƣớc ở Venice, ký ức xa xƣa bỗng ùa về xối xả, và trí nhớ của cô rít

lên the thé với những hình ảnh của một cuộc săn đuổi: mang tới cái chết cho

những kẻ thù của Máu Xanh, những tấm áo choàng ðen mà tử tội mặc trong

buổi hành quyết, tiếng gào thét ðầy tội lỗi. Mimi cảm thấy toàn thân run lên

từng cõn.

Theo truyền thống, kẻ tử tội phải tự nguyện đến trình diện cai ngục, nên ngay

trong ðêm ðầu tiên ở Venice, Mimi rời khách sạn và thực hiện chuyến bách bộ

lịch sử vƣợt qua cầu Than Thở, nõi hàng nghìn tù nhân Máu Xanh đã từng bƣớc

qua trƣớc đó. Cây cầu đƣợc ðặt tên nhƣ vậy bởi nó là nõi cuối cùng những kẻ tử

tội có thể ngắm toàn cảnh thành phố. Mimi nhẹ nhàng bƣớc qua cầu. Jack đang

ở bên cô, im lặng và buồn bã. Một vài ngƣời khác nhịp bƣớc ngay sau họ, các

Trƣởng Bối và Giám hộ trong Hội ðồng cũng ði theo thành hàng chỉnh tề. Mimi

có thể nghe thấy tiếng ủng của ðám ðàn ông rảo bƣớc nặng nề trên vỉa hè và cả

những tiếng lạch cạch nhẹ nhàng hõn phát ra từ những ðôi giày cao gót của mấy

bà phụ nữ.

- Đừng. - Cô nói với anh trai.

- Gì?

Đừng cƣ xử nhƣ thể em đã chết rồi vậy. Em chƣa từ bỏ hy vọng đâu. Cô nâng

cằm, ðầy vẻ kiêu hãnh và không chịu khuất phục.

- Em không hề lo lắng! Rồi họ sẽ thấy là em ðã bị gài bẫy!

- Chẳng có gì khiến em cúi đầu đƣợc, nhỉ? - Jack hỏi với một nụ cƣời mờ ẩn

mờ hiện trên khuôn mặt. Cậu thích thú khi thấy em gái mình vẫn còn giữ

nguyên cái thói hợm hĩnh và tự tin vốn có thƣờng ngày. Sự can ðảm của cô thật

đáng khâm phục.

- Em cƣời vào mặt Thần Chết ðấy. Nhƣng ngẫm lại, em chính là Thần Chết ðây.

Họ ðứng ở giữa cầu, cả hai cùng nhớ về một chuyến bách bộ nhƣ thế nhƣng ở

một thời điểm khác, mãi xa trong ký ức của họ. Một ký ức vui vẻ hõn thế này.

Bỗng một ý tƣởng nảy ra trong đầu Mimi. Cô quay lại nhìn anh trai. Họ đứng

đối mặt nhau, trán kề sát trán, nhƣ họ từng vậy hàng bao thế kỷ trƣớc.

- Em trao cả thân mình cho anh. - Cô thì thầm, lồng những ngón tay vào ngón

tay Jack. Ðó là những lời linh thiêng bắt ðầu lễ giới hạn. Và cũng là tất cả

những gì một lễ giới hạn máu đòi hỏi. Tất cả những gì Jack phải làm là nhắc lại

những lời đó trƣớc mặt cô, vậy là sợi dây ràng buộc hai ngƣời sẽ lại thắt chặt

thêm lần nữa trong chu kỳ mới. Trong chu kỳ này.

Jack giữ bàn tay mỏng manh của em gái trong tay mình. Cậu đƣa chúng lên môi

và hôn chúng thật sâu, thật nồng thắm. Cậu nhắm hai mắt và giữ lấy những

ngón tay run rẩy của cô, cảm nhận bằng cả tâm trí mình tình yêu cô dành cho

cậu, và cả những khao khát của cô, tâm hồn cô ðang chông chênh chờ mong lời

đáp lại của cậu.

- Không. Chƣa ðến lúc. - Cậu thở dài, vẫn giữ chặt hai bàn tay ðang lồng vào

nhau và mở mắt, hƣớng cái nhìn sâu thẳm về phía Mimi.

- Nếu không phải giờ thì là lúc nào nữa? - Mimi hỏi lại, những giọt nƣớc mặt

chực chờ trong giọng nói. Cô yêu anh biết bao. Anh là của cô. Cô là của anh.

Ðó là mối ràng buộc giữa họ. Là câu chuyện bất tử của riêng họ. - Thời gian

không còn cho em nữa rồi. Không còn cho chúng ta nữa.

- Không. - Jack hứa - Anh sẽ không bao giờ để chuyện đó xảy ra. - Cậu quay đi

và buông tay mình khỏi tay cô.

Mimi khoanh tay lại, giận dữ, liếc nhìn thứ đã khiến cậu xao lãng.

Schuyler Van Alen ðang ði tới cùng ông ngoại cô ta, ngay sau họ vài bƣớc. Thật

là! Chẳng lẽ con khốn ðó không thể ðể cô có ðƣợc chút thanh bình sao? Cô ta đã

thắng rồi còn gì?

- Chờ đã. - Jack nói. - Chuyện không nhƣ em nghĩ đâu. Anh cần nói chuyện với

Schuyler.

Mimi nhìn theo Jack khi anh bƣớc về phía ðối thủ của cô. Ngay trong ðêm phán

xử của chính mình, cô cũng không có đƣợc một phút yên ổn sao?

Schuyler giật mình khi Jack Force chợt xuất hiện bên cạnh cô. Cô đi Venice với

Lawrence theo yêu cầu của ông. Ý nghĩ phải chứng kiến lễ hành quyết của

Mimi không phải trải nghiệm mà cô mong chờ, dù vậy, cũng giống Mimi, cô

không thể tin rằng chuyện này thực sự sẽ xảy ra.

- Cậu biết về nghi thức thử máu chứ?! - Jack nói.

Schuyler gật đầu.

- Có. Ông ngoại đã nói với tớ ðó là cách duy nhất chứng minh ðƣợc chuyện gì

đã thực sự xảy ra vào tối hôm ðó. Ðó cũng là cách duy nhất ðảo lại quyết ðịnh

của Hội đồng.

Tuy nhiên, Schuyler không nói với Jack rằng Lawrence còn nói với cô một

chuyện khác về nghi thức thử máu. Ông ngoại cô đã kể ngắn gọn lại câu chuyện

lịch sử của mẹ cô trong suốt các bài học về ma cà rồng của hai ngƣời và tin

tƣởng rằng Gabrielle là ma cà rồng duy nhất có khả năng thực hiện nghi thức

thử máu; với tƣ cách là một Venator cấp cao nhất, bà có thể phán xét ký ức máu

nào là sai sự thật.

- Vì cháu là con gái của Allegra nên có khả năng cháu cũng kế thừa năng lực

này từ mẹ cháu. - Lawrence ðã nói vậy với cô. - Nghĩa là, cháu có khả nãng

xóa án cho Mimi Force.

- Ông ngoại. - Schuyler cự lại. - Cháu không... cháu không thể đâu...

- Nghe ta nói này, thử máu có nghĩa là cháu sẽ phải uống máu của Mimi ðể tìm

ra sự thật về chuyện đã xảy ra trong ðêm hôm ðó. Chỉ có Thiên thần Thanh

Khiết mới có sức mạnh xác định ký ức nào là thật, ký nào là giả thôi. Nhƣng

cũng có một rủi ro rất lớn: uống máu của một ma cà rồng khác cũng ðồng nghĩa

với việc dấn mình vào thử thách có thể sẽ bị sa vào cám dỗ nhƣ của bọn Máu

Bạc, ðó là giết Mimi và dần dần bị ðầu ðộc cho tới khi chính bản thân cháu trở

thành một kẻ Tàn Ðộc. Ðó là rủi ro mà chỉ có cháu mới giải quyết ðƣợc thôi.

- Và nếu cháu chọn không làm vậy thì sao? - Schuyler hỏi lại.

- Vậy thì hình phạt vẫn sẽ đƣợc tiến hành.

Ý nghĩ nắm giữ mạng sống của Mimi trong tay mình ðè nặng lên Schuyler. Ðẩy

tính mạng của mình vào nguy hiểm ðể cứu lấy tính mạng của kẻ thù! Làm sao

cô có thể tự nguyện làm một việc nhƣ vậy chứ? Cô đã tới thăm mẹ trong bệnh

viện để tìm chỉ dẫn.

Allegra vẫn chìm trong giấc ngủ thanh bình trên giƣờng bệnh.

- Con không biết mình nên làm gì nữa. Nếu con không làm, Mimi sẽ chết.

Nhƣng nếu con làm thì không chừng con sẽ biến thành một con quái vật... Mẹ

õi, hãy nói cho con biết con phải làm gì. Hãy giúp con với.

Nhƣng, nhƣ lệ thƣờng, chẳng có phản ứng nào từ Allegra cả. Và giờ thì Jack

đang chăm chú quan sát cô. Ý Jack là sao khi lôi chuyện này ra vào ðúng lúc

này? Không phải cậu nên ở cạnh Mimi và giúp cô ta chấp nhận thực tế à?

Jack nhìn về phía Lawrence, ngƣời cũng đang chăm chú quan sát cả hai cô cậu

trẻ. Rồi cậu lại quay tia nhìn về phía Schuyler.

- Cậu là con gái của mẹ cậu. Chỉ có cậu mới có thể thực hiện nghi thức thử máu.

Schuyler lùi lại một bƣớc.

Lawrence hắng giọng, nhƣng không nói gì.

- Lawrence, chính ông cũng nói vậy mà, rằng Schuyler có những khả nãng mà

không ai trong số chúng ta có đƣợc. Schuyler, làm õn ði mà. Tớ van cậu. - Jack

nói, nƣớc mắt đong đầy hai mắt cậu. - Cậu là cõ hội duy nhất của cô ấy. Họ sẽ

hủy hoại cô ấy mất.

Ðột nhiên, Schuyler hiểu ra mối ðe dọa là gì. Đây không phải trò chõi của

những ngƣời trong Hội ðồng. Ðây cũng không phải là trò giả đò hay một vở

kịch mua vui cho họ. Họ đã phán xét và cũng đƣa ra hình phạt rồi. Nó đã đƣợc

ghi lại trong Luật Bản. Họ đã vƣợt đại dƣõng nghìn trùng tới Venice này, tới

nhà ngục cổ xƣa của gia tộc để thực hiện hình phạt ðó. Và Mimi chắc chắn sẽ bị

thiêu cháy.

Schuyler nhìn Jack, ngờ vực. Em gái cậu đã cố hủy hoại tớ! Cô ta đã triệu một

Máu Bạc ra ðể giết tớ! Làm sao tớ có thể... Nhƣng cô biết cô phải làm gì rồi. Ðây chính là dấu hiệu mà cô luôn tìm kiếm bấy lâu. Cô nhìn sâu vào đôi mắt lục

bảo đầy vẻ lo lắng của Jack.

- OK. - Cô nói, hít một hõi thật sâu. - Tớ sẽ làm. CHÝÕNG 46

Lễ phán xét diễn ra tại một trong những căn phòng cổ nằm sâu bên trong Điện

Ducal và bắt ðầu với tuyên bố chính thức về hình phạt. Ngƣời ta đã dùng xiềng

xích khóa Mimi Force lại rồi giải cô tới trƣớc phòng xử án. Trên vai cô khoác

một chiếc áo choàng ðen, chiếc mũ choàng liền áo trùm kín mái tóc vàng óng ả.

Hội đồng Trƣởng Bối ðứng thành vòng bán nguyệt xung quanh cô. Trƣởng

Giám hộ kết thúc tuyên cáo các khâu hành lễ, ðúng lúc đó Lawrence tiến tới, cắt

ngang buổi lễ.

- Với tƣ cách là Thủ lĩnh gia tộc, tôi có lý do ðể yêu cầu một cuộc thử máu

nhằm bác bỏ hoặc tái khẳng định phán xét của Hội đồng.

- Thử máu ƣ? - Edmund Oelrich, Trƣởng Giám hộ, hỏi. - Nhƣng rõ ràng là

không thể thực hiện đƣợc nghi thức này mà. Allegra vẫn ðang trong tình trạng

hôn mê, phải vậy không?

Charlce Force, ngƣời ðang ngồi ở hàng ghế ðầu cùng con trai, xông tới.

- Tôi tán thành yêu cầu này.

- Lawrence à, hành ðộng này có thực sự là khôn ngoan không? Ông ðang nói về

chuyện gì vậy? - Nan Cutler hỏi.

- Con gái của Allegra, Schuyler Van Alen, đã xung phong thực hiện nghi thức

này. - Lawrence gọi Schuyler tiến lên.

- Ma cà rồng máu lai sao? - Forsyth Llewellyn kêu lên. - Tôi phản ðối. Làm sao

chúng ta biết đƣợc cô ta đủ tƣ cách chứ?

- Con gái của Allegra sao? - Một Trƣởng Bối khác hỏi lại.

- Con bé đƣợc thiên phú những sức mạnh vƣợt xa một ma cà rồng bình thƣờng,

và tôi tin chắc nó sẽ ðủ sức ðảm ðƣõng nhiệm vụ này.

Những tiếng xì xào vang lên trong Hội ðồng, và lễ hành quyết tạm hoãn lại chờ

các Trƣởng Bối họp bàn về sự vụ vừa rồi trong một cãn phòng khác. Vài giờ sau,

Hội ðồng quay lại. Cuối cùng, Trƣởng Giám hộ nói:

- Cuộc thử máu đƣợc chấp nhận.

Mimi và Schuyler ðƣợc đƣa sang một xà lim nhỏ bên cạnh phòng xử án.

Lawrence vỗ vào vai Schuyler.

- Cẩn thận, và hãy ghi nhớ những gì ta đã nói với cháu.

Khi chỉ còn một mình, Mimi cởi mũ trùm ðầu ra và nhìn Schuyler với vẻ chán

ghét.

- Cô.

- Tôi đây.

- Tôi không cần cô. Tôi thà chết còn hõn.

- Vậy sao? Bởi vì ðó chắc chắn cũng là một lựa chọn khác cho cô ðấy. -

Schuyler nạt nộ.

Mimi đỏ mặt.

- Anh trai tôi nhờ cô làm chuyện này, ðúng không?

- Đúng vậy. Chính cậu ấy mới là ngƣời cô nợ cái mạng của mình đấy, nếu cô

thực sự vô tội. - Schuyler đáp trả.

Mimi khoanh hai tay lại và chãm chú nhìn lớp biểu bì trên những kẽ móng tay

mình. Cô đảo tròn mắt.

- Tốt thôi. Hãy làm cho xong đi.

Mimi nâng cằm lên và nhắm hai mắt lại. Schuyler kiễng cả hai chân lên và ðặt

môi lên cổ Mimi. Cô cắm rãng nanh vào ðó... và y nhƣ với Oliver, cô đƣợc đƣa

về quá khứ... nhìn vào ký ức của Mimi.... quay trở lại cái ðêm xảy ra cuộc tấn

công.

Tầng hầm tăm tối của Khu Lƣu Trữ. Mimi và Kingsley cƣời phá ra bên cạnh

cuốn sách. Họ ðứng bên trong hình ngôi sao nãm cánh, cây nến bập bùng và

phản chiếu bóng hai ngƣời lên bức tƣờng đá xung quanh. Mimi cắt đứt cổ tay,

ðể máu rỉ xuống ngọn lửa và niệm chú.

Nhƣng rồi... chẳng có gì xảy ra hết.

Mimi lả đi, nhƣng thần chú vẫn chƣa hiệu nghiệm.

Cô không có đủ nỗi căm ghét để gọi ra đƣợc một Máu Bạc.

Nhƣng Mimi chƣa bị mất ý thức hoàn toàn, cô chỉ bị rối loạn tâm trí mà thôi. Cô

đã chứng kiến chuỗi sự kiện xảy ra tiếp theo đó, nhƣng ký ức về nó bị trấn giữ

trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê khiến cô không thể nhớ ðƣợc gì hầu giúp cô

chứng minh sự vô tội của mình. Giờ thì, thông qua cuộc thử máu, Schuyler đã

có thể nhìn thấy chuyện gì đã thực sự xảy ra.

Kingsley nguyền rủa và nhặt con dao lên. Hắn rạch cổ tay mình và đọc thần chú

triệu gọi bằng một tông giọng trầm, mạnh mẽ. Một vết nứt xuất hiện trên sàn

nhà: một trận ðộng ðất, ngọn lửa bùng lên. Khói lan tỏa trong không khí, và

bỗng nhiên một khối đen sì, to lớn nặng nề bƣớc tới chỗ Bliss Llewellyn và sau

đó giết chết Priscilla DuPont.

Tiếp theo ðó, Kingsley giúp Mimi ðứng dậy và ðặt một tay lên vai cô. Schuyler

bỗng cảm nhận đƣợc sức nặng u ám ðè trên vai cô nhƣ chính Mimi đã trải qua.

Rồi Kingsley kéo Mimi ra khỏi hầm tối và chạy trở lên Kho Lƣu Trữ, giả bộ

nhƣ thể vừa bị kệ sách ðè ngã. Tất cả ðều một tay Kingsley biên diễn.

Schuyler vẫn ừng ực uống từng giọt máu của Mimi. Cô biết đã đến lúc phải

ngừng lại, nhƣng cô không thể. Cô vẫn muốn nhìn nữa, muốn nuốt luôn toàn bộ

ký ức của Mimi. Cô lại nhìn thấy một cảnh khác: ðêm diễn ra Vũ hội Four

Hundred. Buổi tiệc hóa trang tại Angle Orensanz Foundation. Jack Force, cậu

ðang ðeo chiếc mặt nạ ðen tuyền mà chàng trai hôn cô tối ðó ðã đeo.

Vậy ra, chính Jack đã hôn cô.

Chính ðiều này ðã giúp Schuyler thả lỏng ngƣời khỏi Mimi, cô lùi lại và thu

rãng nanh về. Tiếng mời gọi của máu quá mạnh, khiến cô bị rõi vào cám dỗ, suýt chút nữa đã hút cạn máu của Mimi và biến luôn thành cô ta, hút lấy toàn bộ

ký ức và linh hồn cô ta. Nhƣng chính cú sốc khi nhìn thấy khuôn mặt Jack ẩn

sau chiếc mặt nạ đen đó đã cứu cô thoát khỏi nguy cõ biến thành quân Tàn Ðộc.

Schuyler lùi sát vào tƣờng, cảm thấy tê rần và choáng váng, trong khi Mimi lảo

đảo ngã xuống chiếc ghế cạnh đó. Khi cô lấy lại đƣợc thăng bằng, Schuyler trở

lại báo cáo tình hình với Hội đồng.

- Mimi vô tội. - Cô nói, và làm theo những gì Lawrence đã chỉ bảo, cô mở cửa

tâm trí để họ nhìn thấy những việc cô đã nhìn trong ký ức máu của Mimi - hình

ảnh Kingsley Martin gọi ra một Máu Bạc - trƣớc tất cả mọi ngƣời trong phòng.

CHÝÕNG 47

Mimi đƣợc thả tự do trở về với gia đình, còn Schuyler ðứng cùng ông ngoại

trƣớc cổng Điện Ducal trong lúc chờ xuồng máy tới đón họ.

- Nhà Martin sẽ bị bắt giam phải không ạ? - Schuyler hỏi.

Lawrence ngƣớc lên nhìn trời.

- Đúng vậy, một đội Venator đã đƣợc cử tới ngôi nhà của chúng trong thành phố.

Nhƣng họ sẽ chẳng tìm đƣợc gì ở đó đâu.

- Tại sao ạ?

- Bởi vì chúng đã tẩu thoát rồi. - Lawrence nói - Sẽ không dễ gì mà bắt đƣợc

chúng.

- Ông đã biết trƣớc sự việc sẽ diễn ra nhƣ vậy sao?

- Không, cho tới khi cháu đƣa ra sự thật từ kí ức máu của Mimi. Trƣớc đó ta

cũng có chút nghi ngờ, nhƣng không dám chắc. Ðó là hai chuyện hoàn toàn

khác nhau đấy.

- Vậy tại sao ông không làm gì đó?

- Không làm gì? - Lawrence hỏi lại với nụ cƣời trên môi. - Ta ðã cứu một cô

gái vô tội khỏi án tử hình. Ta sẽ không gọi ðó là "không làm gì".

- Nhƣng lẽ ra ông nên sớm cử ngƣời tới chỗ Kingsley...

- Không thể nếu không có bằng chứng.

- Vậy là ông chỉ chờ ðợi, và cuối cùng thì để xổng mất chúng.

Lawrence gật đầu.

- Đúng, chúng đã trốn thoát. Nhƣng ít ra, chúng ta cũng biết mình đang đi đúng

đƣờng. Priscilla DuPont bị giết không chỉ để biểu dƣõng sức mạnh của chúng,

mà bởi vì bà ấy đã tiến gần tới việc khám phá ra chân tƣớng kẻ che giấu Máu

Bạc trong Hội ðồng. Thực tế, bà ấy còn chuẩn bị gặp mặt kẻ phản bội khi vụ nổ

xảy ra.

- Bà ấy ðịnh nêu tên nhà Martin trƣớc Hội đồng sao?

- Ta tin là vậy.

- Vậy rốt cuộc ðiều này chứng minh ðƣợc gì?

- Nó chứng minh đƣợc rằng Cordelia và ta ðã đúng trong suốt bao thế kỷ qua.

- Nhƣng nhà Martin ðã trốn thoát...

- Nhà Martin không phải nghi phạm duy nhất. - Lawrence nói - Chúng chỉ là

những tên tốt thí, những quân cờ thấp bé bị buộc phải tuân lệnh chủ nhân mà

thôi. Nếu những gì Priscilla nói với ta là thật thì vẫn còn một gia đình khác nữa đang nằm trong bóng tối, bọn chúng cũng là những kẻ che giấu Máu Bạc, tiếp

tay cho sự trở về của Lucifer.

- Là ai thế ạ?

- Ðó chính là ðiều chúng ta sẽ phải tìm ra, Schuyler ạ.

Schuyler thẩm thấu thông tin vừa rồi. Nhà Martin ðã lộ diện, nhƣng vẫn còn

một kẻ khác ðứng sau giật giây ðiều khiển rối. Cô nghĩ về những tài liệu mà

Priscilla DuPont đã thu thập trƣớc khi chết.

- Ông õi, chuyện gì đã xảy ra với Maggie Stanford thế ạ? Có ai biết không ạ?

Lawrence lắc đầu.

- Không.

Đúng lúc đó, ba cha con nhà Force - Charles, Jack và Mimi, bƣớc ra khỏi

phòng xử án. Sự nhẹ nhõm hiện rõ trên khuôn mặt của cả ba. Jack tiến lại phía

Schuyler.

- Cảm õn cậu. - Jack nói.

Cậu đã hôn tớ, Schuyler thầm nghĩ. Cô nhớ lại những gì cậu đã nói ðêm hôm

ðó... "Sao cậu biết anh ta không thích cậu chứ? Cậu có thể sẽ ngạc nhiên ðấy."

Cậu có biết là cô ðã biết sự thật rồi không? Schuyler muốn vƣõn tay chạm vào

má cậu, muốn hôn vào làn da mềm mại ðó một lần nữa, nhƣng rồi cô nhận ra

Mimi đang cau có. Cho dù Mimi Force nợ cô cả cái mạng của cô ta thì cũng

không có nghĩa là cô ta sẽ tỏ ra tử tế với cô ngay sau ðó ðƣợc.

- Không có gì. - Cuối cùng Schuyler nói.

Charles cũng đã tiến lại phía họ.

- Khi nào trở về New York, ta sẽ cử lái xe tới lấy hành lý của cháu. Chúng ta đã

dọn dẹp sẵn phòng khách cho cháu rồi ðấy. Ta nghĩ cháu sẽ thích cho mà xem.

- Ông đang nói về chuyện gì vậy ạ? - Schuyler hỏi.

- Đúng đó, Ba, chuyện quái quỷ gì vậy? - Mimi chen ngang.

- Ta thấy ông ngoại cháu đã thất bại trong việc ðề cập tới chuyện này thì phải. -

Charles mỉm cƣời nham hiểm. - Lawrence, ông có thể thắng trong việc giành lại

quyền lãnh đạo gia tộc, nhƣng tôi mới là ngƣời thắng trong vụ giành quyền bảo

hộ. Schuyler, các thẩm phán Máu Đỏ, với trí thông minh vô hạn của họ, đã ra

quyết định rằng từ nay ta sẽ chịu trách nhiệm giám sát cháu.

- Ông à...

- Đúng vậy. Kháng cáo của ta đã bị bác bỏ. - Lawrence nói, cúi thấp đầu. -

Charles, ta không nhận ra rằng anh vẫn còn khăng khăng đeo bám chuyện này.

Ta xin lỗi, Schuyler. Ta sẽ tiếp tục đấu tranh, nhƣng tạm thời, cháu sẽ phải sống

với nhà Force ðã. Charles, không cần cử ngƣời tới đón Schuyler đâu. Ta sẽ tự

đƣa con bé đến.

Mimi lừ mắt nhìn Schuyler trong khi Jack sốc ra mặt.

Sống cùng nhau ƣ? Họ ðiên rồi chắc?

Schuyler nhìn cặp sinh đôi, lần lƣợt từ ngƣời này sang ngƣời kia, và nhận ra

rằng cô thoát khỏi kiếp nạn thử máu để rồi ngay sau đó đã lại phải đối mặt với

một thử thách mới phức tạp hõn nhiều. CHÝÕNG 48

Trở về ngôi nhà Penthouse des Rêves, nhƣ mẹ kế cô vẫn gọi, có chút khiến

Bliss buồn rầu, nhất là sau khi ðƣợc chãm sóc và nghỉ ngõi thoải mái tại Trung

tâm y tế của bác sĩ Pat. Bliss cuối cùng cũng ðƣợc xuất viện, sau hàng tuần dài

nằm trong đó, bị giữ lại để theo dõi xem cô đã thực sự ổn định lại chƣa và chắc

chắn không có dấu hiệu nào cho thấy cô ðã bị xâm hại. Bliss thắc mắc không

hiểu ngƣời ta mong chờ cái gì, mong cô sẽ tấn công họ chắc? Hay tự rạch cổ tay

mình? Mấy cô y tá ở đó cƣ xử nhƣ thể họ sợ phải tới quá gần Bliss, vì nhỡ đâu

lại có chuyện gì đó xảy ra.

Hôm nay là ngày ðầu tiên của tuần nghỉ lễ trƣợt tuyết, gia đình cô chuẩn bị bay

tới Gstaad, nhƣng rồi mấy chuyện rắc rối trong Hội đồng lại khiến ba cô phải đi

Venice. BobiAnne ði cùng ông, nhƣng chỉ là cái cớ ðể bà có thể thỏa sức mua

sắm tại Via Condotti ở Rome mà thôi. Jordan cũng ði cùng ba mẹ cô, bởi họ cho

rằng con bé quá nhỏ để có thể tự lo liệu. Trong khi đó, Bliss đang trong quá

trình hồi phục, và bị bỏ mặc lại cho ngƣời giúp việc chãm sóc. Bliss ở nhà trong

suốt lễ xử án và hành quyết Mimi, nhƣng cô chắc chắn Mimi sẽ chẳng làm sao

ðâu mà. Quá dễ dàng ðể tƣởng tƣợng một cuộc sống mà không có Mimi Force

và cái lối hợm mình của cô ta, nhƣng làm gì có chuyện ông trời tốt bụng đến

mức trừ khử cô ta ðõn giản nhƣ vậy.

Bliss buồn chán và cô ðõn trong cãn nhà lớn, vậy nên cô quyết ðịnh dọn tủ quần

áo vì cô muốn làm cái gì đó ra hồn một chút. Có thể cô sẽ thực hiện "nghi thức

dọn dẹp đầu xuân" nhƣ trong các tạp chí cho các bà các cô vẫn khuyên: vứt tất

cả quần áo bạn không mặc trong hai năm, hoặc những bộ đồ quá cũ, hay không

vừa nữa, đại loại vậy.

Bliss lôi ra một chiếc áo len cổ lọ ðan thành mạng dày trông thật cũ kỹ, cùng lúc

một chiếc hộp nhung rõi xuống sàn nhà, và một chiếc vòng cổ rõi ra khỏi ðó.

Ðó là viên ngọc lục bảo. Sau Vũ hội Four Hundred, Bliss quên trả nó lại cho ba

cô ðể ông cất nó vào két sắt. Cô nhặt viên ngọc lên, vẫn còn cảm thấy rợn mình

trƣớc câu chuyện về viên ngọc. Thực chất tên gọi của viên ngọc này là "Sự hủy

diệt của Lucifer". Khi cô nhét nó trở lại vào hộp, một tấm hình lộ ra dƣới lớp

vải nhung. Bliss nhấc tấm vải để lôi tấm hình ra, rồi chăm chú nhìn nó. Ðó là

một bức hình chụp ba cô, trông trẻ trung và thon gầy trong chiếc áo jacket ði

sãn và ủng, cạnh ông là ngƣời phụ nữ mà Bliss luôn tin là mẹ ðẻ cô. Ba cô cũng

giữ một bản sao y nhƣ thế này trong ví của ông, nhƣng mờ hõn tấm hình này.

Tấm này ðƣợc bảo quản tốt hõn. Bliss ðể ý mái tóc vàng dài và ðôi mắt to nhƣ

mắt nai của mẹ cô. Bliss lật mặt sau của tấm hình. Forsyth Llewellyn và Allegra

Van Alen, 1982. Allegra Van Alen sao?

Ðó không phải là mẹ Schuyler sao?

Chắc chắn ðây là một sự nhầm lẫn. Tên mẹ cô là Charlotte Potter cõ mà.

Chuyện này là thế nào vậy?

Bliss vẫn còn ðang thắc mắc về ghi chú lạ lùng trên tấm ảnh thì có tiếng rạn nứt

ở cửa sổ. Miểng kính văng tới chân cô, Bliss chạy lại để xem chuyện gì đang

diễn ra.

Một chàng trai run rẩy trong góc phòng, chân cậu chảy máu vì dẫm phải mảnh

kính vỡ. Cậu mặc chiếc áo phông và quần jeans y nhƣ lần cuối cùng cô nhìn

thấy cậu. Mái tóc đen ƣớt rối bù, nhƣng cậu vẫn nhìn cô bằng đôi mắt buồn bã,

thẹn thùng vốn có.

Dylan! Ðúng là cậu ấy rồi. Cậu ấy vẫn còn sống.

Dylan ngƣớc lên, hõi thở cậu nông và rời rạc.

Bliss chạy về phía cậu, vẫn giữ viên ngọc lục bảo trên tay. Dylan nhìn Bliss, và

rồi ngay lập tức nhăn mặt lại khi nhìn thấy vật cô giữ trong tay, nhƣ thể nó làm

cậu đau vậy.

- Cậu còn sống! - Bliss mừng rỡ nói. - Nhƣng cậu bị thƣõng rồi, ðể tớ giúp cậu

nào.

Dylan lắc đầu.

- Không còn thời gian cho chuyện ðó ðâu. Tớ biết ai là Máu Bạc rồi. Mục lýu trữ tờ New York Herald

Số ra ngày 23 tháng 11 nãm 1872

XÁC NỮ THỪA KẾ ĐƢỢC TÌM THẤY TRÊN SÔNG

Cảnh sát New York đã phát hiện ra thi thể của Maggie Stanford hai năm sau

ngày cô ðýợc thông báo mất tích. Nghi ngờ có âm mýu sau vụ việc này. Xác

chết sau đó lại bị thất lạc.

Thi thể của nạn nhân vẫn còn nguyên vẹn quần áo và ăn vận sạch đẹp. Cô gái

trẻ đẹp xấu số đƣợc tìm thấy chết trôi trên sông Hudson vào sáng nay. Sĩ quan

cảnh sát Charles Langford đã phát hiện ra thi thể nạn nhân hồi 6 giờ sáng và báo

cáo lại về trụ sở Đội 10. Thi thể cô gái đƣợc vớt lên và ðƣa về trụ sở Đội. Có

một số vết trên ðầu và thân thể cô gái khiến cảnh sát tin rằng ngƣời này ðã bị

bạc đãi trƣớc khi chết. Cô có mái tóc ðỏ, mắt xanh lục ngọc và mặc một áo dài

lụa trắng với dải ruy băng hồng. Trong nỗ lực nhận diện nhân dạng ngƣời phụ

nữ, cảnh sát đã tìm thấy một chiếc khãn tay lanh trắng với hai chữ cái ðầu thêu

"M.S." trong túi váy nạn nhân.

Thi thể sau đó đƣợc nhận dạng là cô Maggie Stanford, con gái của ông trùm dầu

lửa quá cố Tiberius Stanford và bà Dorothea Stanford, ngƣời cũng mới qua đời

hai tháng trƣớc vì bệnh loạn trí do việc con gái bị mất tích. Quần áo của nạn

nhân theo báo cáo cho thấy có ðặc ðiểm trùng khớp với bộ cô Maggie Stanford

đã mặc trong ðêm Vũ hội Patrician, cũng tức là ðêm cô Stanford ðã bị mất tích.

Thi thể đƣợc bảo quản tốt một cách bất thƣờng, không có bất cứ dấu hiệu phân

hủy nào. Thi thể của cô Stanford sẽ ðƣợc gửi tới bệnh viện ðể tiến hành khám

nghiệm thêm, nhƣng ngay ngày hôm sau, ngƣời ta lại thông báo việc xác chết cô Stanford đã bị mất tích khỏi khu nhà xác. Cảnh sát tiếp tục bối rối trƣớc sự vụ lạ

thƣờng này.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro