gia tộc macarong tập 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

MELISSA DE LA CRUZ

GIA TỘC MA CÀ RỒNG

Tập 3: Hé lộ

REVELATIONS

Đỗ ThịĐào dịch

Cách thử nghiệm lòng can đảm tốt nhất là dám đấu tranh bằng tất cả trái tim

Robert G. Ingersoll

Nếu bạn là ma cà rồng thì có thể tôi sẽ không bao giờ được thấy ánh sáng

Concrete Blonde, “Bloodletting”

Lúc này chiến tranh đang nổ ra trên thiên đường

Michael cùng các thiên thần đang chiến đấu chống lại rồng

Rồng đang đánh nhau với các thiên thần

nhưng họ đã bị đánh bại và rồi không còn nơi nào cho họ trên thiên đường…

“Hãy than khóc đi hỡi anh em, hỡi biển cả và mặt đất,

Vì quỷ dữ sẽ tìm tới anh em trong cuồng lọan tột cùng,

Vì nó biết mình không còn nhiều thời gian!

Sách Khải Hòan 12:7-12

TRẬN CHIẾN CCORCOVADO

Cô ngước nhìn lên và thấy Lawrence đang kẹt trong trận chiến khủng khiếp với kẻ thù. Thanh gươm của ông đã rơi xuống đất. phía trên ông, lờ mờ ánh sáng trắng của một cái gì đó rất sáng. Sáng đến nỗi làm ta lóa mắt. Giống như nhìn lên mặt trời vậy. Đó là người mang tới ánh sáng, là Sao Mai.

Máu cô như đông cứng lại.

Schuyler! - Giọng Oliver lạc cả đi - Giết nó đi!

Schuyler nâng thanh kiếm của mẹ lên, thanh kiếm vụt sáng trong ánh trăng, cán kiếm dài, xanh xám và lạnh lẽo. Cô nâng kiếm lên theo hướng của kẻ thù. Chạy hết tốc lực rồi lao vũ khí vào tim nó.

Nhưng rồi lưỡi kiếm trượt đi.

BẢN GHI ÂM LƯU TRỮ:

Kho lưu giữ lịch sử

TÀI LIỆU ĐÃ ĐƯỢC PHÂN LỌAI

Bản báo cáo của Venator filed 1/5

“Tiếng xì xào rồi tiếng click”

Tôi đã rà sóat các vị trí ở khu tiêu điểm và sẽ bắt đầu điều tra cái chết bất ngờ của Augusta Caronđolet. Nạn nhân được tìm thấy bị cạn kiệt máu tại hộp đêm The Bank ở New York. Những người có mặt trong khu vực xảy ra án mạng dưới đây cần đặc biệt quan tâm:

Schuyler Van Alen: Máu lai. Cha là người thường, không có gì đặc biệt. Mẹ là Allegra Van Alen (hay còn gọi là Gabrielle), mười lăm tuổi.

Bliss Llewellyn: Con gái của thượng nghị sĩ Forsyth Llewellyn, giấy khai sinh không cho biết tên mẹ (không biết có đúng không), mười lăm tuổi.

Mađeleine Force: Con gái của Charles Force (hay còn gọi là Michael) và Trinity Burđen Force, mười sáu tuổi. Anh sinh đôi là Benjamin Force cũng có mặt tại hiệnt rường vào đêm mùng 9 tháng 12, nhưng đã lọai ra khỏi danh sách diện bị tình nghi vì đã có bằng chứng ngọai phạm. Đây là một tình huống CỰC KÌ TẾ NHỊ vì đối tượng tình nghi này là con gái của Regis1 đương thời. Không được để lộ danh sách đối tượng tình nghi này cho Regis biết cho tới khi mọi thứ được hòan tất.

Đối tượng tình nghi nhất là Dylan Ward - vẫn còn là một bí ẩn lớn, đã mất tích.

1Regis: người đứng đầu hội kín của máu xanh

CHƯƠNG MỘT

Một buổi sáng sớm lạnh lẽo ảm đạm cuối tháng ba, Schuyler Van Alen đang nhốt mình trong những cánh cửa kính của trường Duchesne. Cô cảm thấy nhẹ cả người khi bước vào hành lang hình nòng súng cao vút được treo đầy những bức chân dung người đã sáng lập ra ngôi trường do John Singer Sargent1 vẽ. Cô trùm mũ chiếc áo paca, được tô điểm bằng lông vũ lên mái tóc dày và đen. Cô thích sự vô danh hơn là mấy kiểu chào hỏi phải phép của những học sinh khác trong trường.

Thật khác thường khi nghĩ về ngôi trường này như một nơi ẩn náu an tòan, nơi để trốn tar1nh hay nơi cô luôn mong đến. Lâu nay, Duchesne với những sàn nhà làm bằng đá cẩm tạhch sạch bóng, nhìn bao quát ra Công viên Trung tâm, không hơn gì một nơi tra tấn. Cô thấy khiếp sợ mỗi khi bước trên chiếc cầu thang lớn, cảm thấy thật khốn khổ trong những phòng học được sưởi lúc lạnh quá lúc lại nóng quá. Thậm chí cô còn thấy khổ sở với cái nền nhà lát đá mài của nhà ăn.

Ở trường, Schuyler thường cảm thấy mình xấu xí và vô hình, mặc dù đôi mắt xanh sâu thẳm của cô rất dễ nhầm với vẻ mỏng manh của búp bê Dresden. Trong suốt cuộc đời mình, những cô bạn chuyên đi giày siêu cao gót cùng lớp luôn cư xữ với cô như thể cô là một kẻ kì quái, một thứ bỏ đi – không nên động vào. Thậm chí ngay cả khi gia đình cô là một trong những dòng họ danh tiếng trong lịch sử thành phố này thì qua thời gian nó cũng đã đổi khác. Gia đình Van Alen, từng là một gia tộc danh giá và đáng tự hào, đã dần dần lụi tan qua các thế kỉ, và thực tế bây giờ thì những điều về gia tộc này chỉ còn là dĩ vãng. Nó đang dần biến mất và Schuyler là một trong những người cuối cùng.

Có lúc, Schuyler đã hy vọng sự trở về của ông ngọai sau chuyến đày ải sẽ thay đổi điều đó, rằng sự có mặt của Lawrence trong cuộc sống của cô nghĩa là cô sẽ không còn cô đơn nữa. Nhưng những hy vọng này đã vỡ tan khi Charles Force đưa cô đi khỏi ngôi nhà đá cũ kĩ trên con đường lớn Riverside, ngôi nhà duy nhất cô từng biết.

- Là cậu tự ra khỏi chỗ này hay tôi phải làm gì đó hả?

Schuyler giật mình. Cô mải nghĩ linh tinh mà quên mất nãy giờ mình đang đứng ngơ ngác trước cái tủ khóa chặt của cô và một người đang đứng phía sau. Những tiếng hcuông báo hiệu một ngày mới bắt đầu vang lên. Đứng ngay sau cô là Mimi Force, người bạn cùng nhà mới.

Không cần biết lúc ở trường Schuyler cảm giác lạc lõng thế nào, nhưng chắc chắn là không gì có thể so sánh nổi sự lạnh lẽo giống như Bắc cực mà cô phải trải qua thường ngày ở ngôi nhà uy nghi lộng lẫy của gia đình Force trong thành phố, phía bên kia bảo tàng Metropolitan. Ở Duchnese, cô không phải nghe Mimi làu bàu mỗi giây trong ngày hay ít nhất vài tiếng một lần. Không có gì đáng ngạc nhiên khi gần đây cô thấy Duchnese sao mà gần gũi thế.

Mặc dù Lawrence Van Alen giờ đây đã là Regis người đứng đầu Máu Xanh, nhưng ông vẫn bất lực trong việc ngăn chặn quá trình nhận con nuôi. Bộ luật của ma cà rồng có quy định rất nghiêm ngặt về việc gắn bó giữa họ và người thường, để đảm bảo an tòan cho Máu Xanh khỏi sự dòm ngó không mong muốn. Trong bản di chúc cuối cùng của mình, bà Schuyler đã tuyên bố cô là một trẻ vị thành niên được giải phóng, nhưng những luật sư cùa Charles Force đã đưa vấn đề đó ra tranh luận ở phiên tòa của Máu Đỏ. Tòa án đã công nhận Charles là người nắm quyền hành và giành được quyền nuôi Schuyler.

- Sao? – Mimi vẫn đứng đợi.

- À ừ, mình xin lỗi – Schuyler nói, cô chộp lấy cuốn sách giáo khoa và bước sang một bên.

- Xin lỗi là phải rồi – Mimi nheo đôi mắt màu xanh ngọc bích, nhìn Schuyler một cách khinh bỉ. Đó cũng là cái nhìn cô ta ném cho Schuyler qua bàn ăn vào tối qua, và cũng là cái nhìn khi họ tình cờ chạm mặt nhau ở hành lang sáng hôm đó. Cái nhìn ám chỉ: “Mày đang làm cái quái gì ở đây thế hả? Mày không có quyền tồn tại.”

- Tôi đã làm gì cậu nào? – Schuyler nói lí nhí rồi xếp cuốn sách vào cái túi bằng vải bạt đã sờn rách của mình.

- Cậu đã cứu sống cô ta đấy.

Bliss Lewellyn, cô gái Texan, cũng là người đã từng là tùy tùng của Mimi cũng nhìn lại. Hai má Bliss đỏ ửng lên như mái tóc của cô.

Bliss đã từng là cái bóng của Mimi và đã từng thấy hạnh phúc khi được tuân theo những chỉ thị của cô ta. Nhưng sự tin tưởng giữa hai người bạn cũ đã vỡ vụn từ cuộc tấn công lần trước của Máu Bạc – khi Mimi bị phát giác là một kẻ đầy âm mưu nhưng kém hiệu quả. Mimi súyt nữa đã bị hiêu sống nếu như không có sự trợ giúp từ Schuyler tại cuộc thử máu.

- Cô ta không hề cứu sống tôi. Cô ta chỉ nói ra sự thật mà htôi. Cuộc sống của tôi chẳng khi nào phải gặp nguy hiểm cả - Mimi vừa đáp vừa chải lại mái tóc mượt mà của mình bằng chiếc lược bạc.

- Đừng để ý đến cô ta làm gì! – Bliss nói với Schuyler.

Schuyler cười, cảm thấy dũng cảm hơn khi giờ đây cô đã có người hậu thuẫn.

Cũng hơi khó đấy. Giống như kiểu phải giả vờ việc trái đất đang dần ấm lên là không hề có ấy – Schuyler nói, dù biết thế nào mmình cũn phải trả giá cho lời nhận xét vừa rồi. Thế nào cũng có những viên sỏi trong ngũ cốc bữa sáng hay hắc ín trên chăn đệm của mình. Hoặc giống như việc khó chịu gần đây nhất là những tài sản ít ỏi của cô bị biến mất một cách đột ngột. Vừa mới đây cô đã bị mất chiếc mề đay của mẹ, đôi găng tay da và một bản copy cuốn The Trial của Kafka đã quăn mép mà cô rất thích, có khắc tên trên trang đầu tiên với hai chữ cái “J.F”

Schuyler sẽ là người đầu tiên thừa nhận căn phòng ngủ dành cho khách thứ hai trong khu biệt thự của gia đình Force (phòng đầu tiên là để cho các vị chức sắc ghé thăm) không đến nỗi quá tệ. Phòng của cô được trang trí rất lộng lẫy với đầy đủ những thứ mà một cô gái muốn: chiếc giường khung kiểu công chúa với chiếc chăn lông vịt rất êm, những tủ chật quần áo của những nhà thiết kế riêng, một trung tâm giải trí cao cấp, hàng tá đồ chơi cho phái đẹp, một chú chó bảo vệ và một cái Macbook Ria mới, nhẹ như tơ hồng. Nhưng nếu nhà mới của cô đầy đủ tiện nghi vật chất bao nhiêu thì nó lại thiếu đi vẻ đẹp đầy mê hoặc so với ngôi nhà đá cổ lỗ mà cô từng ở.

Cô thấy rất nhớ căn phòng cũ của mình với bức tường màu vàng mà cô gọi là Sương Núi và chiếc bàn ọp ẹp. Cô nhớ cái phòng khách đầy bụi bẩn bao phủ. Cô nhớ Haitie và Julius - những ngườii đã sống với gia đình cô từ khi cô còn là đứa trẻ. Và tất nhiên, cô cũng rất nhớ ông mình. Nhưng trên tất cả, cô nhớ sự tự do.

- Cậu ổn chứ? – Bliss thúc vào khuỷu tay cô và hỏi. Schuylet trở về từ Vernice với một địa chỉ mới và một đồng minh không báo trước. Nếu như trước đây cô và Bliss vẫn luônt hân thiện, thì bây giờ họ gần như không thể tách rời.

- Oao! Mình cũng thấy quen rồi. Mình còn có thể chiến đấu với cô ta một trận trong lồng ấy chứ - Schuyler mỉm cười. Được nhìn thấy Bliss ở trường là một hạnh phúc nhỏ nhoi mà Duchenes ưu ái dành cho cô.

Schuyler đi cầu thang cuốn phía sau, theo dòng người đổ xô về cùng một hướng, và khi tầm mắt được thông thóang, cô mơ hồ nhận thấy có gì đó đặc biệt phía trước. Đúng là Jack rồi. Cô không cần nhìn cũng biết anh ấy đang ở giữa đám học sinh đối diện. Cô luôn luôn có thể cảm thấy anh ấy, như thể dây thần kinh của cô là bộ máy cảm nhận có ăng ten điều chỉnh rất chính xác mỗi khi anh đến gần vậy. Cũng có thể đó là do con ma cà rồng trong cô, đã làm cho cô có khả năng biết được khi nào thì một người khác đang đến gần, hoặc cũng có thể sức mạnh khác biệt của cô chẳng có ý nghĩa gì ở đây cả.

Đó là Jack.

Ánh mắt anh tập trung nhìn thẳng phía trước, nhưt hể anh không hề thấy cô, chưa bao giờ biết cô vậy. Mái tóc vàng óng ánh của anh, cũng giống như tóc em gái được chải mượt về sau cái trán cao. Không giống những nah con trai khác xung quanh – ăn mặc luộm thuộm, lôi thôi, anh bảnh bao trong chiếc ảo nỉ ngắn và một chiếc cà vạt. Anh đẹp trai đến mức khiến Schuyler cảm thấy nghẹt thở. Nhưng cũng giống như căn nàh trên phố kia - nơi Schuyler không thể nào gọi nhó là nhà – Jack không thèm để ý đến cô.

Cô lén liếc nhìn Jack thêm một cái rồi vội vã đi lên cầu thang. Lớp học vừa bắt đầu khi cô bước vào. Schuyler đã cố gắng giấu mình hết mức có thể khi đi vào lớp và cũng khác với thói quen cũ là đi thẳng đến chỗ ngồi phía cuối cạnh cửa sổ nơi Oliver Hazard-Perry cũng đã ngồi đó, và đang nằm ngả ngón trên cuốn vở ghi chép của cậu.

Schuyler đến ngồi cạnh bộ tỏa nhiệt đang phát ra những tiếng kêu rền rền, mà không hề chào người bạn thân nhất của mình.

Charles Force đã nói rõ ràng: bây giờ cô đang sống hcung một mái nhà với ông ta, nên cô phải tuân theo những luật lệ của ông ta. Điều đầu tiên là Schuyler bị cấm gặp ông ngọai. Sự thù óan giữa Charles và Lawrence càng trở nên sâu đậm hơn, không chỉ bởi vì Lawrence vừa mới thay thế vị trí của Charles trong Hội Kín.

- Tôi không muốn ông ta làm mụ mị đầu óc cô bởi những lời nói dối – Charles bảo cô – Ông ta có thể thống trị Tổ Chức, nhưng ông ta không có quyền lực trong nhà tôi. Nếu cô không tuân lệnh tôi, cô sẽ phải hối hận.

Điều lệ thứ hai khi sống trong gia đình Force là cô bị ngăn cấm giao thiệp với Oliver. Charles đã sôi máu khi phát hiện ra Scuyler đã biến Oliver thành một Conduit - một Huyết Linh, liên kết giữa cô và người thường.

- Trước tiên, cháu còn quá trẻ. Thứ hai, đó là một lời nguyền - một sự ghê tởm. Conduit chỉ là những kẻ phục tùng. Chúng không… không thể đáp ứng những yêu cầu về sự gần gũi, thân mật. Cháu phải giao thiệp với một người mới ngay lập tức và cắt đứt mọi quan hệ với cậu ta.

Nếu bị ép quá thì chắc Schuyler cũng sẽ miễn cưỡng thừa nhận Charles có thể đã đúng. Oliver là người bạn thân nhất của cô, và cô đã coi cậu ấy như của riêng mình, cô cũng đã hòa máu của cậu ấy vào trong máu mình rồi phải gánh hậu quả vì những hành động đó. Thỉnh thỏang cô cũng ước họ có thể trở về cuộc sống trước đây, truớc khi mọi thứ trở nên quá phức tạp như thế này.

Schuyler không biết tại sao Charles lại quan tâm đến người mà cô thân mật như thế, bởi vì gia đình nhà Force đã mất đi thói quen lỗi thời của việc giữ những Conduit con người trong nhà. Nhưng cô thì tuân theo từng từ một trong luật. Ai cũng có thể nhìn thấy, cô hòan tòan không liên lạc gì với Lawrence, và đã kiềm chế những Nụ Hôn Thần Thánh với Oliver.

Nhưng có một số nơi những luật lệ sẽ không được thi hành – nơi Charles không có quyền lực – nơi Schuyler có thể được tự do.

Đó chính là nơi ta có thể chôn giấu những bí mật.

1 John Singer Sargent là một họa sĩ vẽ chân dung nổi tiếng người Mỹ (1856-1925)

2 Áo paca- một lọai áo da có mũ trùm đầu của người Eskimo

CHƯƠNG HAI

Mimi Force rất thích nghe âm thanh của tiếng giày cao gót nện trên nền đá cẩm thạch. Đôi Jimmy Choo1một hãng giày dép nổi tiếng thế giới bằng da của cô tạo nên những tiếng cạch cạch rất vừa ý, vang dọc hành lang của tháp Force. Trụ sở chính mới đầy ánh nắng mặt trời, đế chế truyền thông của bố cô là một tổng thể bao gồm vài tòa nhà nằm giữa trung tâm của Mahattan. Những ngân hàng có thang máy sáng bóng thường xuyên thấy một đội quân của gia đình Force đi ra – nhưng nhân viên xinh đẹp của tập đòan truyền thông Force, nhà thiết kế, nhà biên tập thời trang, biên tập lối sống, đều đang vội vã đến buổi họp trưa tại nhà của Michael hay vào trong những chiếc xe sang trọng sẽ hộ tống họ đến hàng lọat các cuộc hẹn khác nhau quanh thành phố. Họ là một nhóm người ăn mặc rất lịch thiệp, sang trọng, với những khuôn mặt hình sự na ná nhau, như thể lịch làm việc luôn luôn bận rộn không bao giờ cho phép họ có chút thời gian để cười. Mimi vội trà trộn vào trong đám người đó.

Cô mới 16 tuổi, nhưng khi cô bước qua đám đông, qua hành lang và đi vào góc tường tối om che đi cái thang máy chỉ có thể tiếp cận được bằng một chiếc chìa khóa bí mật và duy nhất, thì cô lại cảm thấy mình già dặn một cách không thể tin được. Cô còn nhớ lúc ban đầu tháp Force được đặt tên là Van Alen Building. Sau nhiều năm, nó vẫn đứng đó trên nền móng của tòa nhà ba tầng, bởi vì cái tháp theo như kế hoạch chỉ được xây dựng sau cuộc đại suy thóai2 vào năm 1929. Đến năm ngóai thì công ty của bố cô cuối cùng cũng hòan thành công việc xây dựng tòa nhà theo như kế hoạch cũ và đặt cho nó một cái tên mới.

Mimi nhìn quanh và kín đáo đưa ra lời đề nghị với bất cứ ai có thể đến gần là hãy lờ cô đi. Cô tìm thấy cái tay nắm cửa rồi đặt ngón tay vào chiếc khóa, ấn mạnh cho tới khi nó hút được máu của cô. Việc dùng hệ thống phân tích máu trong chiếc khóa này không phải là thứ mới nhất trong công nghệ bảo mật an tòan, đó là cách của người xưa. Máu của cô đang được phân tích và so sánh với các tập tin AND trong kho dữ liệu để khẳn định rằng chỉ có Máu Xanh đích thực mới được đứng ở cổng. Mẫu máu ấy không thể trùng lặp hoặc được chiết xuất. Máu ma cà rồng sẽ biến mất chỉ trong vài phút ngay khi tiếp xúc với không khí.

Cánh cửa được mở ra rất nhẹ nhàng, Mimi bước vào cầu thang đi xuống phía dưới. Có một điều mà những người Máu Đỏ không biết đó là vào năm 1929, tòa nhà đã được xây dựng một cách hòan thiện, nhưng lại mở rộng xuống phía dưới thay vì lên trên.

Cái tháp thực sự là sự thành công sau nhiều khó khăn - một công trình được xây dựng dưới lòng đất, đường hầm được đào xuống tâm cuả trái đất thay vì thẳng lên bầu trời. Mimi nhìn sàn nhà như dốc xuống. Cô đi năm mươi mét, một trăm mét, hai trăm mét, rồi một nghìn mét dưới bề mặt đất. Trong quá khứ, Máu Xanh đã từng phải sống dưới lòng đất để trốn tránh những kẻ Máu Bạc tấn công. Giờ thì Mimi đã hiểu hàm ý cuả Charles Force khi cười khinh bỉ mà nói rằng Lawrence và Cordelia sẽ có những ma cà rồng “khóc lóc trốn trong những cái hang”.

Cuối cùng thì thang máy cũng dừng và cánh cửa mở ra, Mimi gật đầu với một Coduit đứng cạnh bàn. Máu Đỏ đó giống như một con chuột chũi bị đui, như thể gã không nhìn thấy mặt trời lâu lắm rồi. Khá giống với những truyền thuyết bất tận về ma cà rồng, Mimi suy nghĩ một cách đầy hứng thú và say mê.

Cô có thể cảm nhận được là tòan bộ khu vực đang được theo dõi và bảo vệ cẩn trọng. Đây được coi là nơi trú ẩn bí mật và an tòan nhất của máu Xanh. Lawrence thấy thích thú với chiếc tháp mới tràn ngập ánh nắng nổi tiếng này, được xây dựng trên đỉnh của tòa nhà. “Chúng ta đang trốn trong một cảnh thật yên bình”, ông ta hớn hở. Kho chứa dữ liệu đã được chuyển xuống vài tầng thấp hơn. Từ sau cuộc tấn công lần trước, chỗ trú bên dưới câu lạc bộ đã bị bỏ hoang. Mimi vẫn cảm thấy có chút gì đó tội lỗi về những gì đã diễn ra ở đây. Nhưng nó hòan tòan không phải do lỗi của cô. Cô không cố tình mang đến bất cứ tai hại nào. Cô chỉ muốn Schuyler biến mất khỏi đường đi của mình. Có lẽ cô đã quá ngây thơ và khờ khạo. không cần phải gặm nhấm những suy nghĩ đó nữa.

- Chào cô Madaleine - một phụ nữ rất thanh lịch trong bộ đồ hiệu Chanel sang trọng chào cô một cách lịch thiệp.

- Chào bà Dorothea – Mimi cúi chào, rồi đi theo bà già ấy đến phòng họp. Co biết rõ một vài thành viên trong Hội Kín này không hài lòng bởi sự có mặt của cô trong những phiên họp nội bộ. Họ lo lắng cô còn quá trẻ, và chưa lĩnh hội đầy đủ kí ức cũng như tất cả sự khôn ngoan trong cuộc sống quá khứ. Quá trình một Máu Xanh hòan thiện và tự khẳng định mình thường bắt đầu trong suốt những biến đổi diễn ra ở tuổi 15, và tiếp diễn cho đến những năm Hòang hôn ( gần 21 tuổi), đó là thời điểm cái vỏ bọc con người hòan tòan biến mất, để lộ thân thể của một ma cà rồng. Mimi không quan tâm đến những gì họ nghĩ. Cô ở đây là để hòan thành nhiệm vụ của mình, và nếu cô chưa thể nhớ được mọi thứ thì hiện tại cô cũng đã nhớ đủ rồi.

Cô ở đó vì Lawrence đã đến biệt thự gia đình Force vào một đêm muộn ngay sau khi họ trở về từ Vernice, để nói chuyện với Charles. Mimi đã nghe lén đựoc tòan bộ cuộc trò chuyện đó. Khi lawrence lên tiếp quản vị trí Regis, Charles đã tự nguyện rút lui khỏi vị trí của mình trong Hội Kín. Nhưng Lawrence khuyên ông nên xem xét lại quyết định ấy.

- Chúng ta cần huy động tất cả sức mạnh lúc này. Chúng tôi cần anh, Charles ạ. Đừng quay lưng lại với chúng tôi - Giọng Lawrence nhẹ nhàng, sâu lắng. Thỉnh thỏang ông ta lại bị ho và mùi khói xì gà thơm từ chiếc tẩu của ông ta lan cả ra ngòai sảnh bên ngòai phòng làm việc của bố cô.

Charles rất cố chấp. Ông đã bị làm bẽ mặt và bị lọai bỏ. Vậy nên nếu Hội Kín không có ông, thì ông cũng không cần Hội Kín.

- Tại sao họ vẫn cần tôi khi mà họ đã có ông rồi, Regis? – Charles nhổ nước bọt, như thể chỉ mới nói đến điều đó thôi cũng đã ghê tởm lắm rồi.

- Tôi sẽ đi.

Lawrence chỉ hơi nhướn mày khi phát hiện ra Mimi đang đứng trước mặt họ. Charles cũng không tỏ ra quá ngạc nhiên. Tìm thấy đường vào qua những cánh cửa đã được khóa luôn là tài nghệ của Mimi, thậm chí từ khi còn là một đứa trẻ cô cũng đã có khả năng đó.

- Azrael – Lawrence thì thào – Cháu nhớ không?

- Cũng không phải tất cả. Vẫn chưa. Nhưng cháu nhớ ông…ông nội. Mimi nói với một nụ cười nhạo báng.

- Đối với ta thế là đủ lắm rồi – Lawrence cười một cách không phải là không giống Charles – Charles, quyết định thế nhé. Mimi sẽ giữ vị trí của anh trong Hội Kín. Con bé sẽ báo cáo cho anh, như một người đại diện cho anh. Azrael, cháu ra ngòai được rồi.

Mimi đã định phản đối, cho đến khi cô nhận ra mình đã bị glom - thuật sai khiến – đưa ra khỏi căn phòng nhỏ đó mà không hề biết gì. Sự cụ rất thông minh. Nhưng chẳng gì có thể ngăn cô áp tai vào cửa để nghe chuyện cuả hai người cả.

- Con bé rất nguy hiểm đấy – Lawrence nhẹ nhàng nói – Tôit hật sự kinh ngạc khi biết anh đã gọi cặp sinh đôi ấy đến kiếp này. Điều đó thật sự cần thiết không?

- Như ông đã nói đấy, con bé có sức mạnh – Charles thở dài - Nếu như trước mắt có một cuộc chiến, giống điều mà ông muốn tất cả chúng tôi tin thì ông sẽ cần con bé bên cạnh.

Lawrence khịt mũi:

- Nếu con bé chân thực

- Nó luôn như thế - Charles lạnh lùng nói – và con bé không phải là người duy nhất trong chúng ta đã từng yêu Sao Mai.

- Đó là một sai lầm đáng chôn vùi của tất cả chúng ta – Lawrence gật gù.

Giọng Charles chùng xuống:

- Không đâu, không phải tất cả chúng ta.

Mimi chuồn khỏi cánh cửa, cô đã nghe được hết những gì cần nghe.

Azrael. Ông ta đã gọi cô bằng tên thật của cô. Cái tên đã ăns âu vào tiềm thức, vào tận xương tủy, trong từng giọt máu đang chảy trong người cô. Cô là cái gì ngọai trừ cái tên đó? Khi bạn vẫn sống hàng nghìn năm, lấy hết biệt danh này đến biệt danh khác thì lúc đó những cái tên chỉ giống như giấy bọc quà. Đó chỉ là thứ dùng để trang trí, thứ bạn dùng để cho người khác gọi. Lấy tên của cô trong thời kì này làm ví dụ: Mimi. Đó ìa cái tên của một người đàn bà phù phiếm có vai vế trong xã hội, người dành hầu hết thời gian của mình dùng thẻ tín dụng, cũng như chỉ biết quan tâm đến chăm sóc sắc đẹp hay những buổi tiệc tối.

Cái tên đó đã che giấu con người thật của cô.

Vì cô là Azrael – Thiên thần báo tử. Cô đem bóng đêm vào trong ánh sáng. Nó là khả năng thiên phú và cũng là lời thề độc của cô.

Cô là một Máu Xanh. Như Charles từng nói, cô cũng là một trong những người mạnh nhất. Charles và Lawrence đã từng nói chuyện về những ngày cuối cùng – Ngày tận thế. Trong suốt cuộc chiến tranh với Lucifer, chính Azrael và người anh em sinh đôi của cô, Abbadon, đã làm đảo lộn tình thế, đã thay đổi cục diện của trận chiến cuối cùng. Họ đã phản bội lại hòang tử của mình, gia nhập cùng Michael, quỳ gối trước thanh kiếm vàng. Họ đã đi theo chân lý, trung thành với ánh sáng mặc dù được sinh ra từ bóng tối.

Những việc làm của họ chính là một cuộc thập tự chinh. Nếu như không phải cô và Jack, thì ai dám chắc bên nào sẽ chiến thắng? Lucifer có thể là vua của các vua trên thiên đường này không, nếu như họ không bỏ hắn ta lại. Thế mà họ đã dành được cái gì ngòai sự sống bất diện trên mặt đất? Vòng đời bất tử của sự chuộc tội và xá tội này chứ? Họ đã cải tà quy chính như thế là vì ai và vì cái gì chứ? Chúa có biết rằng họ vẫn đang tồn tại không? Liệu họ có thể giành lại thiên đường mà họ đã đánh mất không?

Như thế có đáng không chứ? Mimi phân vân khi ngồi vào chỗ của mình trong Hội Kín, lắng nghe tiếng càu nhàu từ những người xung quanh.

Cô nhìn lại Dorothea Rockefeller đang nhìn cô chằm chằm. Cô gần như bị chóang váng. Bên trong nơi trú ẩn được bảo vệ an tòan nhất của Máu Xanh, ngồi ngay cạnh Lawrence trên hàng danh dự, không phải ai khác lại là một Venator thất sủng, kẻ phản bội Máu Bạc – Kingsley Martin.

Hắn ta bắt gặp ánh mắt cô, và chỉ hai ngón tay thành hình khẩu súng về hướng cô. Kingsley vẫn là Kingsley, hắn cười khi làm điệu bộ giả vờ bóp cò súng.

Jimmy Choo1: một hãng giày dép nổi tiếng thế giới

Cuộc đại suy thóai2 :diễn ra vào năm 1929, bắt đầu từ Mỹ

CHƯƠNG BA

Không giống hầu hết các phòng trưng bày của các nhà htiết kế khác; những thứ được trang trí theo phong cách nhẹ nhàng, đơn giản gần như không mảy may có sắp xếp lòe loẹt nào để tạo sự đột phá cho những căn phòng trắng tóat trống không; những tủ kính bày hàng ở phiá trong trưng bày bộ sưu tập của Rolf Morgan trông giống như những góc tường của một câu lạc bộ đã lỗi mốt của các quý ông: những cuốn sách bìa da nằm trên giá, trong khi những chiếc ghế và những tấm vải bông rất dễ chịu lại được xếp quanh ngọn lửa đang bập bùng. Rolf Morgan đạt được danh tiếng vì đã tạo ra kiểu thời trang học sinh tư thục thời xưa được công chúng yêu thích, mẫu thiết kế phổ biến nhất của ông là một chiếc áo cổ đơn giản được thêu một cách cẩn thận logo của ông: một cặp những thanh chắn thẳng hàng như trong môn bóng rổ.

Bliss bồn chồn ngồi trên một trong những chiếc ghế bành bằng da, đặt tệp giấy cân bằng trên đầu gối cô. Cô đã phải rời khỏi trường học sớm hơn vài phút để đến cuộc hẹn, nhưng hóa ra cô đến sớm chỉ để chứng kiến nhà thiết kế muộn hàng nửa giờ. Hay thật đấy!

Cô nhìn quanh những người mẫu khác - tất cả đều mang một vẻ đẹp Mỹ rất cổ điển, thường được tìm thấy trong mục quảng cáo “Croquet của Rolf Morgan “: má thoa kem chống nắng, tóc vàng, mũi cao. Cô không có ý kiến gì về việc tại sao nhà thiết kế này lại tỏ ra thích thú với cô đến thế. Bliss trông giống cô gái trong tranh thời tiền Raphael1, với mái tóc màu nâu đỏ dài đến eo, làn da nhợt nhạt và đôi mắt to màu xanh, hơn là kiểu con gái vừa chơi xong một trận tennis. Nhưng do Schuyler đăng kí buổi diễn vào một ngày khác ở màn đầu tiên, có lẽ vì thế mà họ tìm kiếm một kiểu con gái khác vào thời điểm này.

- Tôi lấy cho các cô chút gì để uống nhé? Nước hay soda dành cho người ăn kiêng? - Người tiếp tân vui vẻ đề nghị.

- Cảm ơn! Tôi không cần gì đâu – Bliss từ tốn đáp, trong khi những cô gái khác cũng lắc đầu. Thật tốt khi được hỏi và được mời cái gì đó. Là một người mẫu, cô đã quen với việc bị lờ đi, hoặc phải hạ mình trước đội ngũ nhân viên. Chẳng một ai tỏ ra thân thiện cả. Bliss so sánh cuộc hẹn gặp này với cuộc kiểm tra mà ông cô thường làm ở trại gia súc. Ông kiểm tra răng, móng vuốt và cả sườn của chúng. Người mẫu cũng bị đối xử như gia súc vậy - những con vật mà cơ thể chúng được đem ra cân đong đo đếm.

Bliss ưuóc gì nhà htiết kế nhanh chân lên chút để cô sẽ thóat khỏi vụ này. Súyt nữa cô đã hủy buổi gặp. Nhưng do một chút cảm giác hàm ơn với người môi giới của cô (và một chút sở hãi với người đăng kí làm mẫu cho cô - một người đàn ông gay có cái đầu hói độc đóan - người đã quay cô như chong chóng cứ như thể cô là nô lệ của ông ta vậy) đã giữ cô ở lại.

Cô không thấy lo lắng bởi những gì xảy ra ở trường trước đó, khi cô cố tin tưởng Schuyler.

- Có gì không ổn với tớ ấy – Bliss băn khoăn - Chắc tại bữa tối ở nhà ăn.

- Ý cậu là sao? Cậu không khỏe à? – Schuyler lo lắng, tay đang mở một túi khoai tây chiên.

Có phải mình bị ốm không nhỉ? Bliss phân vân. Cô chắc chắn gần đây cô cảm thấy không được khỏe. Nhưng nó là một lọai khác, cứ như thể linh hồn cô bị ốm.

- Điều này rất khó giải thích – Cô cố gắng diễn đạt – Mình…chỉ như đang nhìn thấy những thứ không mấy tốt đẹp ấy…những thứ khủng khiếp - Rồi cô kể cho Schuyler nghe việc những chuyện đó bắt đầu thế nào.

Vào một ngày, khi cô đi bộ xuống khu Hudson, rồi khi cô vừa chớp mắt một cái thì con sông gần đó thay vì dòng nước màu xám trôi lững lờ lại là một dòng sông máu đỏ đang cuồn cuộn chảy.

Sau đó vào một đêm khác cô lại thấy có mấy người kỵ sỹ kéo rầm rầm vào phòng ngủ của cô - bốn người trong số họ, cưỡi trên những con ngựa cao màu đen, núp sau mặt nạ. Trông họ thật bẩn thỉu, nhưng mùi của họ còn ghê hơn, như thể người chết sống lại vậy. Nhưng có điều trông họ rất thật, thậm chí những con ngựa còn để lại vết chân bẩn trên cái thảm trắng trong phòng cô. Cảnh tượng từ những đêm khác thậm chí còn tồi tệ hơn nhiều: đó là những đứa bé lưỡi dài, những nạn nhân bị ổ bụng, những bà xơ bị treo cổ, bị chặt đầu…và chúng cứ thế tiếp diễn.

Nhưng đó có phải là điều đáng sợ nhất trên thế giới không?

Rồi ngay giữa những cảnh tượng đó, một người đàn ông xuất hiện, một người đàn ông trong bộ đồ màu trắng. Đó là người đàn ông điển trai trên mái tóc vàng có đội mũ miện, và nụ cười ngọt ngào của ông làm cô thấy ớn lạnh đến tận xương tủy.

Người đàn ông đi ngang qua căn phòng rồi ngồi ngay cạnh cô trên chiếc giường: “Bliss, con gái ta”. Người đàn ông nói, đặt tay lên đầu cô như cha xứ vẫn làm với con chiên khi ban phúc lành vậy.

Schuyler ngước mắt nhìn lên từ miếng sanwich cá ngừ của cô. Bliss phân vân tại sao Schuyler vẫn có thể thèm những thức ăn bình thường này. Với mấy thứ đó Bliss đã mất vị giác hòan tòan. Cô gần như không thể ăn nỏi chiếc bánh hamburger mà thỉnh thỏang cô vẫn làm. Có thể đó là bởi vì một nữa Schuyler vẫn còn là con người. Bliss tiến đến túi khoai tây chiên mà chẳng thấy chút háo hức nào. Cô cắn một miếng. Nó vừa mặn vừa cay - tậht chả có gì hấp dẫn. Nhưng cô vẫn lấy một miếng khác.

Trông Schuyler có vẻ đang nghĩ ngợi.

- Tốt rồi, người đàn ông huyền bí đó đã gọi cậu là con gái, một món hời lớn đấy. Nhưng cậu phải hiệu, nó chỉ là một giấc mơ thôi mà. Và cũng như tất cả những giấc mơ khác, cậu có dám chắc là cậu không thức quá khuya, xem mấy bộ phim của Rob Zombie1 đấy chứ?

- Không, nó chỉ là…- Bliss lắc đầu, rất khó chịu khi không biết phải diễn tả người đàn ông đó đáng sợ như thế nào cũng như tỏ cho Schuyler thấy chuyện của cô là hòan tòan có thật. Nhưng sao lại như thế được chứ? Bố cô là Forsyth Llewellyn - một htượng nghị sĩ ở New York cơ mà. Cô lại thấy băn khoăn về mẹ mình. Bố cô không bao giờ nói về vợ; và chỉ vài tuần trước thôi, Bliss rất đỗi ngạc nhiên khi tìm thấy một bức ảnh bố cô chụp cùng một người phụ nữ tóc vàng, người mà cô luôn cho rằng đó là mẹ mình, đằng sau bức ảnh ấy có chữ kí “Allegra Van Alen”.

Allegra là mẹ của Schuyler, một bệnh nhân đang hôn mê, rất nổi tiếng ở thành phố New York này. Nu như Allegra là mẹ cô, thì Schuyler sẽ là chị em gái với cô ư? Mặc dù với Máu Đỏ, những con ma cà rồng đều không có gia đình, nhưng trước đây họ đều là con của Chúa - họ đều bất tử và không bao giờ có cha mẹ thật.

Forsyth chỉ là bố của cô ở kiếp này thôi. Có lẽ điều đó cũng đúng đối với Allegra. Cô đã kiềm chế để không kể cho Schuyler biết phát hiện này của mình. Schuyler rất bảo thủ khi nói về mẹ, còn Bliss thì lại xấu hổ không thể khẳng định mối liên hệ với một người phụ nữ mà cô chưa từng gặp mặt. Nhưng cô vẫn linh cảm có mối quan hệ họ hàng với Schuyler từ sau khi phát hiện ra tấm ảnh đó.

- Cậu vẫn còn thấy chúng à? Cậu biết đó, những thứ tăm tối ấy? – Schuyler lo lắng hỏi.

Bliss lắc đầu, chúng đã biến mất ngay khi những cảnh tượng kia bắt đầu. Cô cũng không biết cái nào tồi tệ hơn nữa.

- Sky, đã bao giờ cậu nghĩ về Dylan chưa? – Cô hỏi một cách ngập ngừng.

- Lúc nào cũng nghĩ. Mình ước mình có thể biết được điều gì đã xảy ra với cậu ấy – Schuyler vừa nói vừa tách miếng sanwich của cô ra và ăn chúng từng phần một: bánh mì trước, sau đ1o đến miếng cá ngừ, rồi mới đến rau diếp – Mình nhớ cậu ấy quá! Cậu ấy là người bạn tốt.

Bliss gật đầu. Cô cũng không biết phải thổ lộ chuyện đó như thế nào nữa. Cô đã giấu một bí mật lớn như vậy lâu lắm rồi. Dylan, người đã bị đem đi bởi Máu Bạc - người đã từng biến mất hòan tòan, cũng đã trở lại, lao ra cửa sổ nhà cô mới hai tuần trước và kể cho cô nghe những câu chuyện kì quặc nhất. Từ đêm anh ấy trở về, Bliss cũng không biết nên tin vào cái gì nữa.

Dylan chắc hóa điên mất rồi. Điều mà anh ta đã nói vào tối hôm đó – nó chẳng có ý nghĩa gì cả, nhưng anh ta cứ khăng khăng rằng đó là sự thật của Chúa. Cô chưa bao giờ nói rõ với anh ấy về chuỵên đó được. Rồi gần đây, anh ấy đã bị đe dọa, bị ép làm gì đó. Chỉ ngay sáng hôm nọ thôi anh ấy đã bị rối trí rồi bỗn gla hét ầm ĩ như một gã điên. Thật khổ tâm khi phải chứng kiến cảnh đó. Rồi cô đã hứa với anh là cô sẽ…cô sẽ…cô sẽ làm gì chứ? Cô hòan tòan không biết phải làm gì.

- Bliss Llewellyn?

- Tôi đây – Bliss đáp rồi đứng dậy, kẹp tập tài liệu dưới cánh tay.

- Chúng tôi sẵn sàng cho cô rồi. Xin lỗi đã bắt cô đợi lâu.

- Không sao – Cô nói rồi nở một nụ cười rất chuyên nghiệp, theo cô gái dẫn đường, đến một căn phòng thóang khí ở phía sau. Cô phải đi bộ nhiều như thể đi qua cả một sân bóng để đến được cái bàn nhỏ nơi nhà thiết kế đang ngồi.

Lúc nào mà chẳng thế. Người ta thích xem bạn bước đi, và sau khi chào hỏi, họ sẽ lại yêu cầu bạn quay một vòng và lại bước đi. Rolf đang tuyển người cho buổi diễn Fashion Week của ông. Ông ngồi theo dõi cùng nhóm của mình. Đó là một người phụ nữ tóc vàng, đeo cặp kính râm, và một người đàn ông trông ẻo lả như đàn bà, cùng một số người trợ lý.

- Chào cô ,Bliss - Rolf nói – Đây là Randy - vợ tôi, còn đây là Cyrus - người đang chuẩn bị cho buổi diễn.

- Xin chào – Bliss đưa tay ra và bắt rất chặt.

- Chúng ta sẽ vào việc ngay thôi – Rolf nói, nhìn lướt nhanh qua những bức ảnh của cô. Ông là một người đàn ông có làn da rám nắng với mái tóc muối tiêu. Khi ông ta đưa cánh tay qua lại, cơ bắp cuộn lên. Nếu nhìn xuống đôi ủng làm bằng da cá sấu Mỹ của ông ta thì trông ông giống một tên cao bồi miền Tây trong các bộ phim. Đấy là, nếu như những tên cao bồi có được làn da rám nắng từ việc phơi nắng ở St. Barth2 và những chiếc áo sơ mi được làm ở Hồng Kông - Thực ra thì chúng tôi đã chắc chắn cô chính là cô gái chúng tôi cần. Chúng tôi chỉ muốn gặp lại cô thôi.

Thay vì việc làm cho cô thỏai mái, thì sự thân thiện của nhà thiết kế làm cho cô càng cảm thấy lo lắng và sợ hãi hơn. Cô sợ sẽ phải nghe thấy người ta nói rằng nhiệm vụ bây giờ của cô là làm thế nào để bị thua. “Ồ, rồi, tốt thôi”.

Randy Morgan, vợ của nhà htiết kế, là một “cô gái Morgan” thuần túy với mái tóc xù như vừa gặp gió to, đẩy cặp kính râm lên đầu và nhìn Bliss với nụ cười tươi tắn. Bliss biết bà ta chính là người mẫu đầu tiên của ông Morgan, hồi những năm bảy mươi, và thỉnh thỏang cũng vẫn tỏa sáng trong một vài chiến dịch quảng cáo.

- Trong buổi biểu diễn tới, nhản hàng của chúng tôi sẽ đi theo một hướng khác. Chúng tôi muốn tạo các mẫu theo phong cách Edwardian - một phong cách lãng mạn thời xưa. Sẽ có rất nhiều lớp vải nhung, rất nhiều dải dây và cả một hoặc hai chiếc áo nịt ngực trong bộ sưu tập. Chúng tôi muốn một cô gái trông không quá thời thượng.

Bliss gật đầu, nhưng không chắc chắn lắm về cái mà họ đang hướng đến, bởi mọi nhãn hàng trước đây đã từng mời cô diễn đều cho rằng cô đã đủ “thời thượng” rồi.

- Bà muốn tôi đi lại hay là…

- Mời cô!

Bliss tiến đến cuối căn phòng, hít một hơi thật sâu rồi bắt đầu đi. Cô đi như thể giữa những cánh đồng hoang vào ban đêm, như thể một mình đi trong sương mù, như thể bị lạc đường và mơ mộng. ngay khi cô chạm vào trục đánh dấu, căn phòng quay tròn và cô lại thấy một cảnh tượng khác.

Như cô đã nói với Schuyler, cô không bao giờ thấy những cảnh đen tối ấy nữa. Giờ đây, cô vẫn nhìn thấy phòng trưng bày, cũng như nhà thiết kế và nhóm của ông ta; nhưng có một thứ ở giữa nhà thiết kế và vợ ông ta - một con thú có đôi mắt màu đỏ thẫm và một cái lưỡi với răng nanh bằng bạc, những con giòi đang bò ra khỏi mắt của nó. Cô đã muốn hét lên. Nhưng thay vì thế cô lại nhắm mắt và cứ đi lại như người mộng du.

Lúc Bliss mở mắt ra thì Rolf và nhóm của ông ta đều đang vỗ tay.

Không cần biết những cảnh Bliss vừa thấy có kinh hòang hay không thì cô cũng đã được thuê.

Rob Zombie1 : đạo diễn nổi tiếng, chuyên làm các phim kinh dị

St. Barth2 : Một bãi tắm nổi tiếng thuộc quần đảo Leeward ở vùng biển Caribbean.

P/S: Tập 3 chưa có ebook bạn ạ. Hiện tại, chỉ có mình đang type thôi. Mình ngán quá. À! iluvbook09 mình đã gởi rồi. Bạn kiểm tra thử đi

Chương bốn

- Mình nhớ cậu quá! - Cái hôn vào má cô của Oliver thật nhẹ nhàng và ấm áp, làm cho Schuyler cảm thấy nhoi nhói ở dạ dày trước sự âu yếm của cạu bạn.

-Mình cũng nhớ cậu - cô thì thầm đáp lại. Thế là đủ lắm rồi. Họ đã không ở bên nhau như thế đã nửa tháng. Trong khi cô rất muốn hôn vào cằm cậu ta, thì như một lẽ tự nhiên, cô dừng lại. Cô không cần phải làm điều đó ngay lúc này, và cô rất thận trọng về việc đó, bởi vì nó có thể làm cho cô cảm thấy thế nào. Cearimonia Osculor - Nụ hôn Thần thánh là một thứ thuốc phiện - một dộng lực thúc giục và không thể cưỡng lại được. Nó đem đến cho cô quá nhiều sức mạnh và quá nhiều sức mạnh dối với cậu ấy.

Cô không thể. Không phải ở đây. Không phải lúc này. Có lẽ để sau. Ngoài ra, nó cũng không an toàn nữa. Họ đang ở trong buồng cung cấp bên ngoài phòng sao chép. Bất cứ ai cũng có thể đi vào và bắt gặp hai người đang bên nhau, giống như họ luôn thế, giữa tiếng chuông đầu tiên và thứ hai của quãng thứ tư. Họ chỉ có năm phút.

- Cậu sẽ ở đây...tối nay chứ? - Oliver hỏi, giọng khàn khàn rót vào tai cô. Cô muốn đan những ngón tay mình vào mái tóc dày, màu caramel của cậu, nhưng cô đã kịp ngăn lại. Thay vào đó, cô chạm mũi mình vào cạnh đầu cậu bạn, mùi thơm của cậu ấy thơm ngai ngái.

Lâu nay họ đã trở thành bạn như thế nào mà cô không hề biết tóc của cậu lại có mùi như vậy? Nhưng bây giờ thì cô đã biết: nó giống như những ngọn cỏ sau cơn mưa. Cậu ấy có mùi thật tuyệt đến mức cô có thể khóc lên được. Nhưng dù có biện minh cách nào đi nữa thì vẫn phải thú nhận là cô đã bỏ quên cậu ấy. Cậu ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho cô nếu cậu thực sự hiểu được những gì cô đã làm với mình.

- Mình không biết - Schuyler đáp lại, rồi ngập ngừng - Mình sẽ cố.

Cô muốn giảm nhẹ sự thất vọng của cậu bạn hết mức có thể. Cô nhìn vào khuôn mặt điển trai, đôi mắt màu lục nhạt ấm áp với những vết lốm đốm vàng nâu của cậu.

- Hứa đi - Giọng của Oliver rất lạnh lùng - Hứa đi - Cậu ghì chặt cô vào người mình, và cô rất đỗi ngạc nhiên trước sức mạnh của cậu. Cô không hề nghĩ rằng con người cũng có thể có sức mạnh như ma cà rồng trong một số trường hợp đặc biệt.

Trái tim cô tan nát. Charles Force đã đúng. Cô nên tránh xa cậu ấy thì hơn. Ai đó sẽ phải chịu đau đớn, và cô thì không thể chịu được khi nghĩ về những đau đớn Oliver phải chịu đựng vì cô. Cô không xứng đáng được như thế.

- Oliver, cậu biết không, mình...

- Đừng nói gì cả. Ở nguyên đó! - Cậu nói một cách dứt khoát rồi vội dời đi nhanh đến mức cô suýt bị mất thăng bằng. Sau đó cậu ấy đi nhanh hết mức có thể, bỏ lại cô một mình trong căn phòng tối với cảm giác trơ trọi, mất mát la lùng.

Tối hôm ấy, Schuyler đã vút qua con đường mưa tối om, thấp thoáng như một cái bóng màu bạc trong chiếc áo mưa mới. Cô có thể bắt một chiếc taxi, nhưng sẽ không có cái nào trong trời mưa như thế này, vả lại cô thích đi bộ hơn, hay nói cách khác là lướt đi hơn. Cô thích làm mềm cơ bắp ma cà rồng, thích xem xem mình có thể nhanh đến mức nào nếu mình chú tâm sử dụng các khả năng dặc biệt ấy... Cô đã đi bộ hết chiều dài của hòn đảo như một con mèo: cô di chuyển nhanh đến mức người vẫn còn khô nguyên. Không hề có giọt nước mưa nào dính trên người.

Tòa nhà ấy là một trong những tòa nhà kiểu căn hộ bằng kính trông đến lóa cả mắt được thiêt kế bởi vị kiến truc sư Richard Meier[1], nằm ở góc đường Pery và West Side Highway. Chúng phát ra ánh sáng giống như pha lê trong sương mù lúc chạng vạng. Schuyler chưa bao giờ cảm thấy mệt mỏi khi nhìn vào chúng, chúng mới đẹp làm sao.

Schuyler trượt nhanh vào bên trong những cánh cửa, cô rất thích thú với vận tốc của ma cà rồng - thứ đã làm cô trở nên vô hình đối với người gác cửa và cả những cư dân khác. Cô bỏ qua chiếc thang máy vì thích dùng khả năng siêu nhiên của mình đẻ chạy trên cầu thang phía sau. Cô nhảy từng nhịp ba, bốn, năm bậc một lần hoặc thỉnh thoảng còn mười bậc cùng lúc. Chỉ sau vài giây cô đã lên đến tầng thượng tòa nhà.

Thật là ấm áp khi ở trong căn hộ. Đèn đường thì rọi sáng mọi thứ bên trong những cửa sổ bằng kính từ sàn đến trần nhà. Cô ấn nút kéo rèm cửa tự động - họ lại để chúng mở ra một cách lộ liễu. Thật tuyệt vời làm sao khi một nơi lẩn trốn bí mật thế này lại nằm trong một trong những tòa nhà dễ nhìn thấy nhất ở Manhattan.

Người quản gia đã để gỗ lại cho cái lò sưởi, vì thế mà Schuyler nhanh chóng nhóm lên một ngọn lửa, dễ dàng chỉ như ấn một cái nút nữa vậy. Ngọn lửa bùng lên cao rồi bén vào gỗ. Schuyler nhìn ngọn lửa cháy, rồi, như thể cô còn nhìn thấy cả tương lai của mình trong đó, cô gối đầu lên tay.

Mình đang làm gì ở đây thế này?

Tại sao mình lại đến đây/

Điều bọn họ đang làm không phải chút nào. Anh ấy biết. Cô cũng biết. Họ đã nói với nhau đây là lần cuối cùng. Cứ như thể họ có thể chịu đựng được điều đó vậy. Cô co cảm giác vừa say mê cừ phiền muộn trước viễn cảnh cuộc gặp gỡ của họ.

Cô tự làm cho mình bận rộn bằng việc làm sạch cái máy rửa bát đĩa và dọn bàn ăn. Châm nến. Cô kết nối dàn máy nghe nhạc vào chiếc iPod, và nagy sau đó giộng hát của Rufus Wainwright vang vọng khắp các bức tường. Đó là bài hát về sự khát khao tình yêu - bài hát yêu thích của họ.

Cô ngắm nhìn phòng tắm và biết rằng chiếc áo choàng của mình vẫn đang treo trên móc trong căn phòng nhỏ. Có rất ít bằng chứng cho thấy sự có mặt của họ ở nơi này: một vài cuốn sách, một vài bộ quần áo và hai tuýp thuốc đánh răng. Đây không phải là nhà. Đây là một nơi trốn bí mật thì đúng hơn.

Cô tự ngắm mình trong gương - tóc rối tung còn đôi mắt thì sáng lên. Anh ấy sẽ ở đây ngay thôi. Tất nhiên là anh ấy sẽ đến rồi. Anh ấy là người rất kiên định mà.

Giờ hẹn đã trôi qua mà vẫn không thấy có ai đến. Cô co đầu gối lại trước ngực, cố gắng kìm nén nỗi thất vọng đang dâng lên.

Suýt chút nữa cô đã ngủ thiếp đi ngay trước khi cô thấy một bóng người trên bậc cầu thang.

Cô ngước mắt lên một cách đầy hi vọng, cảm thấy trong mình lẫn lộn cảm xúc vừa tò mò dự đoán vừa có một nỗi sầu miên man. Tim cô đập dồn dập. Thậm chí nếu ngày nào cô cũng nhìn thấy anh ấy, thì nó vẫn như là lần đầu tiên vậy.

- Hây! - Giọng nói vang lên rồi một chàng trai bước ra khỏi góc khuất tối om.

Nhưng người ấy không phải người cô đang mong đợi

BẢN GHI ÂM LƯU TRỮ:

Kho lưu giữ lịch sử

TÀI LIỆU ĐÃ ĐƯỢC PHÂN LOẠI:

Bản thu âm báo cáo của Venator, file 2/1

Schuyler Van Alen - một người trong giai đoạn chuyển đổi, rraats đáng chú ý. Thích được bao bọc bởi Huyết Linh của cô - một cậu con trai tên OliverHazazard Perry. Người còn sống sót sau hai cuộc tấn công của Máu Bạc. Sẽ tiếp tục giám sát vì vẫn chưa tìm ra chứng cứ thuyết phục cho việc cô ta vô tội.

Bliss Llewlly: một trường hợp thú vị. Hay phàn nàn về việc bị đau đầu, hay chóng mặt, quay cuồng và thấy những cảnh tượng hắc ám. Có thể đó là do tác dụng phụ của sự chuyển đổi. Được phát hiện bị chìm trong hồ ở công viên Central vào tối 28/11. Đã xoay xở để cứu vớt vấn đề mà không để lộ ra cái vỏ bọc.

Madeleine Force: sở hữu sức mạnh đặc biệt của bóng tối và thể hiện sự coi thường luật lệ một cách công khai. dặc biêt là về những thứ liên quan đến sự gần gũi với con người.

Cập nhật về Dylan Ward:

Đội trên đảo Long Island báo cáo là đã thấy đối tượng chạy trốn khỏi nhà Ward trên đảo Shelter. Đã cho quân tăng cường đến để mang cậu ta về.

Chương năm

Cuộc họp được tập hợp như thường lệ. Tất cả các gia đình lâu đời đều có mặt, bảy gia đình đầu tiên (Van Alen, Cutler, Oelrich, Van Horn, Schlumberger, Stewart, và Rockefeller) đã lớn mạnh dần, cùng thích ứng với các gia đình Llewellyns, Dupont (đại diện bởi Eliza - người trông có vẻ đang lo lắng - cháu gái gần đây nhất của Priscilla), Whitneys, và Carondonet. Đây là hội những bô lão trong Hội Kín - là sự tụ hội của những quý tộc Máu Xanh. Đây là nơi người ta sẽ đưa ra các quyết địnhcho dòng tộc, cho tương lai của dòng họ.

Lawrence chào đón mọi người đến phiên họp mùa xuân đầu tiên một cách nồng nhiệt, ấm áp rồi bắt đầu điểm qua những vấn đề trong chương trình nghị sự: chuyện người gây quỹ sắp tới cho Ngân hàng Máu New York, tin mới nhất về những căn bệnh sinh ra từ máu và chúng có thể ảnh hưởng đến Máu Xanh như thế nào, rồi chuyện tài khoản của họ ra sao - tiền của Máu Xanh đã được đầu tư rất nhiều vào thị trường chứng khoán, cuộc suy thoái gần đây nhất đã làm cho hàng triệu đo la không cánh mà bay.

Mimi im lặng. Lawrence tổ chức cuộc họp như thế chẳng có điều gì không ổn đang diễn ra, như thể không có kẻ phản bội nào dang ngồi ngay cạnh ông ta vậy. Thật là bực mình. Chính Kingsley là người đã gọi Máu Bạc tới , chính hắn đã dàn xếp cuộc tấn công ở Kho Lưu Trữ, hắn là kẻ tính toán hết mọi chuyện, thế mà giờ hắn vẫn ngồi đây cứ như hắn thuộc về nơi này vậy.

Bề ngoài thì Hội Kín rất yên bình và phẳng lặng, mặc dù vậy Mimi vẫn cảm thấy có gì đó không ổn, dù chỉ là sự bất đồng nhỏ trong đội ngũ.Tại sao Lawrence lại không nói bất cứ điều gì về chuyện đó? Tên sư cụ già đang lảm nhảm về thị trường,những sự kiện thảm khốc gần đây ở phố Wall. À, cuối cùng thì... Lawrence cũng quay sang Kingsley. cuối cùng thì cũng đã có một lời giải thích.

Nhưng không. Lawrence lại tuyên bố rằng Kingsley có một bài phát biểu và sẽ chuyển quyền phát biểu cho một kẻ mà thiên hạ vẫn gọi là Venator - Thợ Săn - một nhà Phát Ngôn của Sự Thật - một cảnh sát ma cà rồng mật.

Kingsley tiếp nhận vị trí với nụ cười nhăn nhó.

- Thưa quý vị... và ưm, Mimi - hắn bắt đầu. Mới đây thôi hắn đã từng đẹp trai đến mê hoặc người khác. nhưng kể từ lúc tháo bỏ mặt nạ ra để quay lại là một Venator thì trông gã lại có vẻ già hơn. Không còn là cậu ttrai trẻ ngông cuồng nữa mà la một người nghiêm túc trông đến là thiểu não trong chiếc áo choàng tối màu cùng một cái cà vạt.

Vài thành vien của Conclave thay nhau nhếch lông mày, và Brooks Stewart đầu bạc đã có một cơn ho thật vừa vặn, đúng lúc - nó đủ nặng để làm cho Cushing Carondonet đem anh ta xuống cuối đến vài lần. Khi sự náo động đã chìm xuống,Kingsley lại tiếp tục mà không hề có một lời nhận xét nào.

- Tôi mang đến cho quý vị một tin rất nghiêm trọng. Đã có nhiễu loạn điện từ ở lục địa Nam Mỹ. Đội của tôi vừa phát hiện ra những dấu hiệu đáng ngờ về một infractio.

Mimi hiểu cái từ thuộc ngôn ngữ hiếm mà Kingsley vừa nói có nghĩa là sự phá vỡ. Nhưng cái gì vỡ mới được chứ?

- Chuyện gì đang xảy ra vậy? - Dashiell Van Horn muốn biết. Mimi đã nhận ra ông ta chính là người thẩm tra trong phiên tòa của cô.

- Đó là những vết rạn nứt ở nền Corcovado. Đã có mấy bản báo cáo về sự mất tích của những Huynh Trưởng của Hội Kín ở đó. Alfonso Almeid đã đi tạm trú như thường lệ ở vùng núi Andes nhưng không thấy trở về. Gia đình cậu ta đang rất lo lắng.

Esme Schlumberger khịt mũi:

- Thế thì cũng chỉ giống như chuyện hàng năm anh ta vẫn bị lạc ở mấy vùng hoang dã thôi. Chúng sẽ giúp câu ta gần gũi với thiên nhiên hơn. Nó chẳng co ý nghĩa gì cả

- Nhưng Corcovado - đấy mới là vấn đề - Edmund Oelrich lên tiếng - Anh là người quản lí chính từ sau cái chết của Priscilla

- Với những gì chúng ta đã biết về Máu Bạc - làm thế nào mà một người có thể tự mình xâm nhập vào Kho Lưu Trữ được chứ? Nếu điều đó xảy ra thì bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra - Kingsley tuyên bố.

Lawrence gật dầu.

-Tất nhiên là các bạn đều đã biết tin đồn về việc Máu Bạc đã chạy trốn tới Nam Mỹ trước khi chúng biến mất. Máu Xanh tiếp quản phần phía Bắc và một số người cho rằng Máu Bạc đã thẳng hướng tới phương Nam để tập hợp lại. Tất nhiên là chúng ta cũng chẳng bao giờ có chứng cứ về việc này...

Vài thành viên trong Hội Kín bàn tán một cách lộ liễu. Từ sau cuộc tấn công ở Kho Lưu Trữ, họ phải thừa nhận rằng Lawrence - người đã từng bị ruồng bỏ luôn luôn đúng từ trước tới nay. Rằng những người đứng đầu đã bỏ qua những dấu hiệu đó, đã vùi đầu vào trong cát như những con đà điểu châu Phi, đã quá sợ hãi, không dám chấp nhận sự thật là: Máu Bạc - những con quỷ trong thần thoại, kẻ thù cổ xưa của họ, đã trở lại.

- Cho đến giờ chúng ta vẫn không có bất cứ bằng chứng nào - Kingsley gật đầu - nhưng có vẻ như những nghi ngờ của Lawrence là chính xác.

- Nếu chuyện ở Corcovado không được giải quyết tôi không thể chắc chắn được chúng ta đang gặp nguy hiểm nghiêm trọng như thế nào - Lawrence nói.

- Nhưng đã có cái chết nào đâu? - Eliza Dupont hỏi với giọng rụt rè.

- Chẳng ai trong chúng ta biết về điều đo cả - Kingsley khẳng định lại - Một trong số những người trẻ tuổi có tên Yana Riberio vừa mới mất tích. nhưng mẹ cô ta nghĩ cô đang trốn đi nghỉ cuối tuần cùng bạn trai ở Puanta del Este - anh ta nói với một điệu cười châm chọc.

Mimi im lặng, cô là thành viên duy nhất phải tiếp tục cuộc thảo luận. Ở New York, chưa thây có thêm cái chết hay vụ tấn công nào từ sau đêm ở Kho Lưu Trữ. Cô cảm thấy khó chịu đến nỗi không thể nhở được tại sao Corcovado lạ quan trọng đến thế - hiển nhiên là mọi người ở Conclave đều biết tại sao, nhưng cô lại không biết. Thật khó chịu khi không thể khôi phục được đầy đủ bộ nhớ của mình.

Từ đó hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì đối với cô. Và cô cũng sẽ không bao giờ hỏi bất cứ một ai đó về ý nghĩa của nó - cô quá kiêu hãnh để có thể hỏi ai đó. Có thể cô sẽ nhờ Charles làm sáng tỏ điều đó cho mình, mặc dù có vẻ như thứau sự thoái lui khỏi Conclave, ông chẳng có mấy hứng thú với bất cứ chuyện gì nữa, chỉ ngồi lì trong phòng, nghiền ngẫm mấy cuốn sách cũ, lật lại những bức ảnh cũ và nghe mấy bản nhạc ghi âm cổ.

- Như cuộc tấn công ở Kho Lưu Trữ đã chỉ ra thì Máu Bạc không còn la truyền thuyết mà chúng ta có thẻ làm ngơ được nữa. Chúng ta phải hành động nhanh thôi. Phải giữ Corcovado! - Lawrence tuyên bố.

Lawrence đang nói về cái quái quỷ gì vậy? Mimi ước mình có thể hiểu được.

- Thế, kế hoạch thế nào? - Edmund hỏi. Bầu không khí lúc này đã thay đổi. Vẻ nặng nề bởi sự hiên diện của Kingsley giờ đã chuyển sang do tin tức anh ta đem đến.

Kingsley xáo lộn đống giấy tờ trước mặt hắn lên.

- Tôi sẽ tham gia cùng đội của tôi ở thủ đô. Sao Paolo đúng là một cái ổ chuột. Nó sẽ làm thành một nơi ẩn nấp tuyệt vời. Sau đó chúng ta sẽ đi bộ tới Rio, kiểm tra xem Corcovado thế nào và nói chuyện với vài gia đình khác nữa.

Lawrence gật đầu. Mimi nghĩ là ông sắp giải tán cuộc họp, nhưng ông ấy lại không làm thế. Thay vào đó ông lấy ra một điếu xì gà từ túi áo sơ mi. Kingsley nhanh tay châm ngay một que diêm và Lawrence hít hít một hơi thật sâu. Khói thuốc lấp đầy cả bầu không khí. Mimi muốn vẫy tay dể nhắc nhở Lawrence vveef luật cấm hút thuốc ở Ủy ban, nhưng cô lại không dám.

Regis quan sát cả bàn họp một cách rất nghiêm nghị.

- Tôi đã nhận ra một số người đang phân vân tại sao Kingsley lại ở đây ngày hôm nay - Lawrence nói, cuối cùng thì ông ấy cũng giải quyết câu hỏi đang nhức nhối trong đầu mọi người.

Ông ta lấy một điếu xì gà khác.

- Đặc biệt tôi cũng quan tâm dến những bằng chứng được chỉ ra trong cuộc thử máu. Tuy nhiên, tôi vừa biết gia đình nhà Martin, và cụ thể la Kingsley hoàn toàn vô can. Hành động của họ được bào chữa bằng sứ mệnh mà họ đã được giao bởi Regis cũ. Vì sự an toàn của Coven, tôi không thể tiết lộ thêm bất cứ thông tin nào về chuyện đó.

Chính bố cô - Charlesddax có việc gì đó để làm với chuyện ấy, nhưng tại sao Lawrence lại không nói cho họ biết nó là gì nhỉ?

- Đây không phải là chỗ để chúng ta thẩm tra Regis - Forsyth Llewellyn nhắc nhở một cách rất sắc sảo.

Nan Cutler gật đầu.

- Đó không phải cách của chúng ta.

Mimi có thể thấy cái bàn chật hẹp bị chia làm đôi: một nửa thành viên lo lắng và phẫn nộ, trong khi nửa còn lại đang chuẩn bị chấp nhận lời tuyên bố của Lawrence mà không có bất cứ sự nghi vấn nào. Đó không phải là vấn đề. Hội Kín không phải một đảng dân chủ, và Regis là một người lãnh đạo mà người ta không được phép tranh luận, người mà lời nói đã thành luật. Mimi cảm thấy hơi run lên với cơn phẫn nộ đang kìm nén. Điều gì đã xảy ra với Hội Kín mà người ta lại kết án thiêu chết cô chỉ mới cách đây vài tháng? Điều đó thật sự không công bằng chút nào. Sao người ta có thể tin tưởng một "người cải cách" thuộc dòng họ Máu Bạc chứ?

- Có ai đó quan tâm đến sự bất đồng quan điểm này một cách nghiêm túc không? - Lawrence hỏi một cách thẳng thắn - Edmund? Dashiell?

Dashiell cúi đầu.

- Không. Chúng tôi đặt tất cả lòng tin tưởng vào ông, thưa ông Lawrence.

Edmund gật đầu đầy hằn học.

- Cảm ơn! Một lần nữa Kingsley sẽ lại là một thành viên có quyền bầu cử ở Hội Kín, với đầy đủ địa vị của một Venator. Hãy cùng với tôi chào đón anh ấy về với chúng ta nào. Nếu như không có Kingsley, chúng ta sẽ không thể biết về Corcovado sớm như vậy.

Một tràng pháo tay lẹt đẹt vang lên.

Cuộc họp giải tán còn các Huynh Trưởng thì được chia thành những nhóm tranh luận khác nhau. Mimi chú ý thấy Lawrence đang nói chuyện, hạ thấp giọng một cách bí mật với Nan Cutler.

Kingsley đứng dậy, đi đến chỗ Mimi rồi đặt nhẹ tay lên khuỷu tay cô

- Tôi rất lấy làm tiếc về những gì đã xảy ra. Về phiên tòa và tất cả.

- Anh đã cài bẫy tôi - Cô khẽ rít trong cổ họng và hất tay anh ta ra.

- Điều đó không thể tránh được. Tuy vậy, tôi rất vui vì thấy cô vẫn ổn - Anh ta nói, nhưng giọng anh ta cho thấy là việc cô vẫn ổn chẳng làm anh ta bận tâm chút nào dù là nhỏ nhất.

Chương 6:

Cậu ta bước vào trong ánh sáng, khuôn mặt cậu được chiếu bởi ngọn lửa. Trông cậu vẫn vậy – ánh mắt buồn, mái tóc đen rối bù. Cậu vẫn mặc cái áo phông và quần jeans nhem nhuốc mà Schuyler nhìn thấy vào lần cuối gặp cậu ta.

- Dylan! Cậu không sao chứ? chuyện gì đã xảy ra vậy? Cậu đã ở đâu chứ? – Cô hạy tới, ôm chặt Dylan, nụ cười vui ngất ngây hiện trên khuôn mặt cô. Dylan! Vẫn còn sống! Dù không được mong đợi nhưng cậu vẫn rất được chào mừng. Schuyler có vô số câu hỏi: chuyện gì đã xảy ra vào cái đêm cậu mất tích? Cậu đã trốn thóat khỏi bọn máu bạc thế nào? Làm sao cậu có thể sống sót?

Nhưng ngay khi lại gần cậu, cô nhận ra có điều gì đó không ổn. Mặt Dylan xám xịt và giận dữ. Ánh mắt cậu ấy không tập trung và gần như bị kích động.

- Chuyện gì nữa vậy?

Nhanh như chớp Dylan đẩy mạnh Schuyler ra xakhỏi người mình một cách đầy hung bạo - SẦM! May mắn là Schuyler đã phản xạ nhanh hơn để kịp không bị bể đầu.

- Dylan! Cậu đang làm gì vậy? – Cô đưa tay lên để che chắn như cô có thể bảo vệ mình với hai bàn tay không.

SẦM! Lại một cú đẩy nữa. Lần này, cô bị ném đến tận ban công.

Schuyler nghẹt thở, cô cảm thấy như đầu mình có thể nổ tung dưới sức ép mà cô đang phải chịu.

Cô cố tháo chạy lên sân thượng, không có thời gian mà nghĩ xem mình nên làm gì. Cô ngóai nhìn qua vai mình. Dylan ngay đằng sau. Trông cậu ấy thật dữ dằn và điên lọan như đang bi một thế lực độc ác nào đó khống chế vậy.

- Sao cậu lại làm thế? – Cô khóc, khi cậu ta đưa ra một yêu cầu khác dứt khóat và tàn nhẫn hơn.

NHẢY ĐI!

Đúng. Cô phải phục tùng, cô phải nghe theo - NHẢY! – đúng vậy, cô sẽ làm, nhưng nếu cô không cẩn thận và cô không có thời gian để…cô có thể sẽ bị trượt chân…cô có thể…Ôi Chúa, điều gì sẽ xảy ra nếu Lawrence sai? Điều gì sẽ xảy ra nếu cô không phải bất tử? Dù sao thì cô cũng vẫn còn một nửa là con người. Sẽ thế nào nếu cô không sống sót? Sẽ thế nào nếu không giống các Máu Xanh khác, khi chu kì ngủ, nghỉ và đầu thai không thuộc về cô? Sẽ thế nào nếu đây là cuộc đời duy nhất cô có? Nhưng bây giờ đã quá muộn để lo lắng về bất cứ chuyện gì – cô không còn lựa chọn nào khác. NHẢY! Cô không thể nhìn hấy mình sẽ đi đâu, cô sẽ rơi xuống, sẽ cố vùng vẫy…Cậu ấy ở ngay đằng sau cô, vì vậy, cô sẽ…

Cô nhảy khỏi sân thượng rồi bay….

Không có thời gian nghĩ tới một cái gờ rìa nào để bám vào, không có thời gian để bấu víu lấy một chấn song nào hết…Rồi mặt đất dần dần hiện ra…

Schuyler gắng hết mình chạm tới mặt đất bằng đôi chân, trên đôi giày của mình. UỴCH! Ngay chính giữa đám đông sành điệu tập trung trước nhà hàng phố Perry, người New York không để ý tới những kẻ phá rối bởi họ đang hút thuốc.

Bất thình lình, Dylan ở ngay sau cô. Quá nhanh, cậu ta quá nhanh…

Sau đó, có một sức mạnh mãnh liệt đã chi phối: không còn cú đánh nào nữa – mà là một cái khóa điều khiển. Nó đang đâm vào. Đây là cái mà Lawrence đã nói với cô, là yếu tố thứ 15 ít được biết đến của glom. Consummo Alienari. Làm mất hòan tòan trí não của một ai đó.

Với Máu Đỏ, alienari nghĩa là cái chết tức thì. Còn với ma cà rồng, nó hun đúc sự tê liệt vĩnh hằng – não bộ bị chi phối vì thế lý trí của người ta hàon tòan bị kiểm sóat. Lawrence đã nói với Schuyler Máu Bạc không chỉ biết đến là một lòai hút máu và lấy đi trí nhớ của mà cà rồng đực, thực hiện Caerimonia Osculor trên chính giống lòai của mình mà chúng còn có rất nhiều mánh khóe và trò lừa đảo khác sẵn sàng mỗi khi cần. Chúng không hút cạn máu tất cả các nạn nhân mà sẽ để một vài người sống sót bởi vì họ sẽ có nhiều ích lợi cho chúng. Schuyler cảm thấy sức nặng của alienari trên cơ thể…cô gần như không hcịu nổi; sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu cô đầu hàng…cô cảm thấy chính mình đang yếu dần dưới sự điều khiển của alienar.

Cô sẽ còn lại gì nếu Dylan thành công? Cô nghĩ về mẹ mình - người còn sống nhưng như đã chết. Đó phải chăng cũng là số phận của cô? Cô không đứng vững trên đôi chân của mình nữa, nó đang run rẩy; chuyện này sẽ kết thúc sớm thôi. Nhưng rồi cô đột nhiên cảm thấy có cái gì đó trong bóng đêm - giống một cái đuôi, cái đuôi của một glom – và cô có thể phân tích đựơc tín hiệu, có thể thấy được phần nào đang cố gắng điều khiển mình, và cô xoắn nó lại, như đang vặn một cái đinh ốc…nhổ nó ra…rồi ngay khi giành thế chủ động, cô uốn cong nó bằng lý trí của mình và…

Dylen hét lên - cậu ấy đang đau - cậu ấy là người đã bị đập vào tường, không thể di chuyển trong khi cô đang nắm giữ cậu ta, kiểm sóat cậu ta bằng lý trí của mình. Cô có thể cảm nhận điều đó, có thể cảm nhận được mình đang chiếm ưu thế. Cô đang chiếm lĩnh, hoan hỷ một cách tham lam về thành công của mình. Cô vặn xoắn cậu ta – tòan bộ con người cậu ta bằng tâm trí của mình. Nó giống như một gọng kìm đang kẹt chặt cậu ta lại…

Cô đang giết cậu ấy…

Cậu ấy sớm đã không còn là chính mình…nhưng ý muốn của cô cứ kéo dài mãi…

Cho đến khi…

- SCHUYLER! DỪNG LẠI!

- ĐỪNG!

- SCHUYLER! - Một tiếng hét vang lên.

Tên cô. Đã có ai đó gọi tên cô, Oliver…bảo cô dừng lại.

Schuyler lờ mờ nhận ra hành động của mình nhưng vẫn chưa hòan tòan tỉnh táo. Cô vẫn đang đưa tay ra, và cách đó khỏang gần 10m, Dylan đang bị dính chặt vào tường. Cậu ấy bị treo lên đó do tâm trí của cô đang điều khiển chuyện ấy. Cậu ấy đang quằn quại. Cậu ấy không thể thở được.

- LÀM ƠN! - Lần này là giọng của một cô gái. Bliss.

Cô buông ra.

Dylan gục xuống đất.

Chương7:

Bliss chạy nhanh hết mức có thể. Cô đã nhìn thấy tất cả mọi thứ. Cô đang ngồi trong cabin, và đã thấy tất cả: Schuyler nhảy xuống, Dylan rượt đuổi theo sau rồi tình huống đảo ngược lại. Cô dã chứng kiến nỗi đau đớn của Dylan và sự tinh thông của Schuyler.

Ôi Chúa, đừng để Schuyler giết cậu ấy.

- Dylan! – Bliss quỳ xuống bên cạnh anh. Anh nằm sấp mặt xuống vỉa hè nên cô nhẹ nhàng xoay người anh lại và để anh ngả người trong tay cô. Anh ấy gầy quá…chỉ da bọc xương dưới lớp áo phông. Cô ôm anh dịu dàng như đang nâng niu một con chim non. Anh ấy đã bị hủy họai, đã trở nên điên dại, nhưng anh ấy là của cô. Nước mắt cô lăn trên má.

- Dylan! – Cô nghẹn ngào.

Khi về đến nhà sau cuộc hẹn với Dylan mà không thấy anh ấy tới như đã định, cô biết ngay có gì đó không ổn. Cô gọi cho Oliver và hẹn đến gặp mình ở tòa nhà căn hộ Phố Perry sớm nhất có thể. Dylan đã nói tất cả những điều anh dự định mà bây giờ đã hòan thành. May mắn thay, Bliss biết về bí mật của Schuyler và nơi cô đến vào tối hôm đó.

Dylan mở mắt. Cậu giật mình khi nhìn thấy Bliss, rồi quay sang Schuyler, cậu kêu lên một tiếng kinh hãi “Argento Croatus!”.

- Cậu có bị điên không? – Schuyler hỏi. Oliver đứng ngay cạnh để bảo vệ cô. Cô không thể tin vào tai mình. Dylan vừa gọi cô là Máu Bạc. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Chuyện gì đã xảy ra với cậu ấy? Sao giọng cậu ấy lại như thế?

- Dylan, dừng lại đi! Sky…anh ấy không biết mình đang nói gì đâu – Bliss kêu lên lo lắng – Dylan, làm ơn đi, anh không biết mình đang nói gì đâu.

Dylan phớt lờ, con ngươi giãn to ra nhanh chóng như thể vừa có ánh đèn flash chiếu vào mắt. Rồi cậu bắt đầu cười ré lên.

- Cậu biết cậu ta quay lại mà không nói cho mình biết sao? – Schuyler hỏi với giọng buộc tội.

- Ừ - Bliss thở dài - Tớ không muốn nói cho cậu biết vì…- Vì cậu sẽ nói cho Hội Kín. Cậu sẽ bảo họ đưa anh ấy đi. Và đúng, anh ấy đã thay đổi. Anh ấy đã khác trước. Anh ấy không giống như trước nữa. Vài chuyện khủng khiếp không thể nói ra được đã xảy ra với anh ấy. Nhưng mình vẫn yêu anh ấy. Cậu hiểu đúng không? Chính cậu, cậu cũng đã mong chờ một cuộc hẹn với một người, nhưng người đó đã không đến còn gì.

Schuyler gật đầu. Cả hai đều hiểu nhau mà không cần nói ra. Đó là cách của ma cà rồng.

- Bình tĩnh nào, cậu ấy không thể như thế được; chúng ta cần giúp cậu ấy! – Schuyler tiến đến gần họ hơn.

- Đừng chạm vào tôi! – Dylan hét lên. bất ngờ, cậu ta đứng dậy rất nhanh, túm lấy cổ Bliss, những ngón tay xương xẩu của cậu ta bóp một cách thô bạo lên cần cổ xanh xao của cô.

- Nếu các người không giúp tôi thì tức là các người là một trong số chúng - Cậu ta nói đầy đe dọa, càng siết chặt cổ Bliss hơn.

Bliss bắt đầu khóc.

- Dylan…đừng mà!

- Schuyler lao tới Dylan nhưng Oliver đã ngăn cô.

- Đợi chút! - Cậu nói - Đợi chút!...Tớ không thể để cậu bị đau thêm lần nữa….

Trong khi đó, Dylan càng đẩy Bliss ra xa hơn, xa hơn bằng lý trí của mình. Bliss khụy gối xuống.

Bây giờ, đến lượt Schuyler hét lên, đến lượt Schuyler cầu xin Dylan dừng lại.

Dylan không thèm để ý tới họ, cậu ta giữ chặt cổ Bliss bằng tay rồi nghiêng người xuống, miệng kề lên cổ cô. Schuyler có thể nhìn thấy những chiếc răng nanh trắng của cậu đang thò ra. Cậu ấy chuẩn bị hút máu.

- Không…Dylan…Làm ơn! – Bliss thì thào – Không…!

- Để tớ đi – Schuyler hất tay Oliver ra. Bliss nhìn người bạn của mình cuống quýt chuẩn bị một câu thần chú để giải thóat cô khỏi Dylan.

Nhưng ngay trước khi Schuyler có thể tạo ra công lực thì đôi vai Dylan run lên rồi cậu ta gục xuống đất một cách tự nguyện, đột nhiên thả nạn nhân ra. Bliss ngã xuống, những vết bầm tím do ngón tay gây ra vẫn in hằn trên cổ cô. Dylan gục đầu giữa hai đầu gối thổn thức:

- Địa ngục nào vừa xảy ra thế này? – Anh khóc nấc lên. Cuối cùng thì Bliss cũng có thể nhận ra giọng nói của anh. Lần đầu tiên vào tối hôm đó, Dylan mới có vẻ là chính mình.

Chương 8:

- Thử một miếng nào! – Mimi cầm một cái thìa trên có một viên tròn tròn đưa lên trước mặt anh trai – Ngon lắm đấy!

Anh trai cô nhìn món ăn có vẻ nghi ngờ. Một con nhím biển với măng tây có bọt, nghe vẻ không hay lắm. Nhưng anh vẫn dũng cảm cắn một miếng.

- Thế nào? – Mimi cười.

- Cũng không tệ - Jack gật đầu. Cô ấy lúc nào cũng đúng.

Họ đang ngồi ở một gian tách biệt trong nhà hàng tọa lạc tại Trung tâm Time Warner lấp lánh ánh đèn. Đó là nhà hàng thuộc lọai đắt nhất và nổi tiếng nhất ở Manhattan. Đặt chỗ trước ở Per Se cũng tương tự như được tiếp kiến Giáo hòang vậy. Gần như là không thể. Nhưng những cô thư kí của bố để làm gì cơ chứ.

Mimi thích thú với khu trung tâm mua sắm mới. Nó, như cô đã gọi, trông sáng bong và trơn nhẵn y như Force Tower. Mùi của nó cũng đủ thấy xa xỉ đến rùng mình, giống như những chiếc Mercedes mới toanh ấy. Tòa nhà và mọi thứ bên trong nó là một bản hợp xướng ca ngợi chủ nghiã tư bản và tiền bạc. Bạn không thể tiêu dưới 500 đô la cho một bữa ăn hai người trong bất kì nhà hàng bốn sao nào. Đây là một New York nổ chậm, tiền thưởng có bảy con số, một New York của các nhà tài phiệt và những tỷ phú bất ngờ, một New York của những kẻ đua ngựa ngỗ ngược với mấy bà vợ suốt ngày chỉ biết đến chuyện đầu tóc, trang phục.

Jack, đương nhiên, ghét điều đó, Jack thích một thành phố mà cậu chưa bao giờ trải nghiệm. Cậu thích khơi dậy nỗi nhớ về những ngày tháng huyền thọai của Ngôi Làng, nơi mà bất cứ ai từ Jack Pollock đến Dylan Thomas đều có thể đi lang thang trên những con phố đầy sỏi. Cậu thích sỏi, bùn và một Quảng trường Thời Đại tất bật với những con người bước vội vàng trên phố và những tay chơi bài bạc, cá độ cùng những quầy bar nước hoa quả dưới mặt đất (vì ở những câu lạc bộ không phục vụ rượu). Cậu không thể chịu nổi một New York bị lấn át bởi những thứ như nước trái cây Jamba Juice, sữa chua Pinkberry hay kem Cold Stone.

Cậu đã chuẩn bị sẵn sàng để tỏ ra xem thường cái nhà hàng sang trọng, mười sáu bàn, mà thiết yếu là phải được đặt giữa một khu mua sắm sầm uất như nơi cậu đang ngồi. Nhưng khi mỗi món ăn xuất hiện - trứng cá hồi muối và món hàu làm theo kiểu Pháp cùng nấm cục trắng được cắt nhỏ ăn với mỳ Ý, bí ngô nấu với thịt bò Kobe lọai ngon nhất thì Mimi có thể thấy cậu đang bắt đầu thay đổi suy nghĩ của mình. Mỗi món ăn chỉ có một nhúm, đủ để thưởng thức hương vị và để chúng lại cho người sành ăn tiếp theo.

Tối đó, họ đi bộ để tìm kiếm nơi có Máu Xanh tụ tập. Họ cũng chẳng mong đợi gì nhiều vì thực ra mà cà rồng chỉ ăn cho vui thôi. Nhưng rõ ràng người ta vẫn cần có cái gì đó để giúp kích thích vị giác. Một cặp vợ chồng Tiền Bối – thành viên danh dự trong Hội Kín – Margery và Ambrose Barlow – đang ngồi ở một cái bàn trong góc. Mimi nói rằng Margery lại ngủ thiếp đi vào khỏang thời gian giữa hai món. Nhưng người bồi bàn, người trông có vẻ quen với việc này, đơn giản chỉ lay bà ấy tỉnh dậy mỗi khi anh ta mang một món mới đến.

- Thế buổi mít-ting thế nào rồi? – Jack hỏi như tình cờ nhớ ra rồi đặt thìa xuống và gật đầu với người dọn bàn, ý rằng anh ta đã xong việc ở đó.

- Thật thú vị - Cô nói, nhấp một chút rượu – Kingsley Martin đã tở lại.

Jack nhìn một cách ngạc nhiên.

- Nhưng anh ta…

- Em biết – Mimi nhún vai – Lawrence sẽ không giải thích. Rõ ràng là có một lý do, nhưng nó quá quan trọng để cho cả Hội đồng biết. Em thề là, ông ấy đang điều hành Hội Kín cứ như đang ở thế kỉ mười bảy ấy. Đó là một trò hề “các thành viên cùng bầu cử”. Ông ta chẳng thèm quan tâm xem chúng ta nghĩ gì. Ông ấy chỉ làm điều ông ấy muốn thôi.

- Ông ấy hẳn phải có một lí do chính đáng cho hành động đó – Jack nói, mắt sáng lên khi bồi bàn mang ra một món mới trông ngon mắt. Cậu nhìn vẻ thất vọng khi thấy đấy chỉ là một nữa đĩa salad khoai tây.

Mimi cũng cau mày. Cô mong đợi màn pháo hoa về nghệ thuật ăn uống, chứ không phải chỉ là một món ăn đơn thuần. Nhưng khi đã thưởng thức, dù một miếng thôi cũng làm thay đổi suy nghĩ của cô.

- Đây là…món salad khoai tây ngon…nhất…trên thế giới.

Jack đồng tình, khi cậu nhai ngấu nghiến.

- Thật đẹp phải không? – Mimi hỏi về căn phòng và khung cảnh Central Park. Cô đi tới bàn và cầm tay Jack kéo đi.

Suýt bị giết ở Vernice có thể là điều tốt đẹp nhất đã xảy ra trong mối quan hệ giữa họ. Đối mặt với viễn cảnh sẽ mất đi người em song sinh mãi mãi, Jack bỗng trở nên vô cùng tận tâm.

Cô vẫn còn nhớ anh đã ôm cô thế nào vào cái đêm sau khi THỬ MÁU. Chỉ sau một đêm thôi mà gương mặt anh trông như đã già hơn nhiều vì lo lắng: “Anh rất lo. Anh sợ mất em”.

Mimi đã rất xúc động, đủ để tha thứ cho sai phạm của anh. “Không bao giờ, tình yêu của em. Chúng ta sẽ luôn luôn bên nhau”.

Sau lần đấy, không còn bất cứ cuộc nói chuyện nào nữa về Schuyler. Thậm chí ngay cả khi cái con chuột nhắt ấy chuyển về sống cùng nhà với họ thì Jack cũng không nói hcuyện với cô ta, anh ấy thậm chí cònn không thèm nhìn cô ta nữa. Theo như Mimi có thể thấy, khi cô bí mật thăm dò suy nghĩ của anh khi hàng rào bảo vệ anh bị tháo bỏ thì anh ấy không còn nghĩ gì về Schuyler nữa. Cô ta đơn giản chỉ là một vị khách phiền phức mà thôi. Nó cũng giống một vết bẩn mà ta không thể xóa sạch được.

Có thể sau tất cả thì cô cũng đã đạt được mọi thứ cô muốn. Cô đã không thể lọai bỏ được Schuyler nhưng vụ tấn công cũng thành công trong việc bảo vệ tình yêu của cặp ma cà rồng song sinh.

- Tôm càng và bơ chần - người bồi bàn thì thầm, nhẹ nhàng đặt hai món mới xuống.

- Vậy em nghĩ, chúng ta tội gì không mời mọi người đến buổi lễ đính ước – Mimi vừa nhai vừa nói.

Jack nhấm nhẳng.

- Ồ, em biết mà. Anh tòan thích những kiểu cổ lỗ sĩ, chỉ hai chúng ta dưới ánh trăng, bla, bla, bla. Nhưng anh nhớ Newport chứ? Giờ nó là một bữa tiệc đấy. Với lại anh cũng biết mốt bây giờ là tụ tập được bốn trăm người trong lễ đính ước mà. Em nghe nói Daysy Van Horn và Toby Abeville vừa đính ước ở Bali đấy. Nó được gọi là “Điểm đến của lễ đính ước”, Mimi cười khúc khích.

Jack ra hiệu cho bồi bàn mang một chai rượu khác ra.

- Em biết đấy, ngày nay phần lớn Máu Đỏ đều chờ đến tầm tuổi ba mươi mới kết hôn. Vậy sao ta phải vội vàng làm gì? – Anh hỏi nhưng vẫn chăm chú một cách rất hài lòng tới món ăn thứ bảy hay thứ tám gì đó: một bát súp đậu ớt.

- Được thôi, nhưng máu tôi màu xanh, anh bạn ạ - Mimi cong môi lên.

Đúng là Máu Đỏ người ta biết cách chờ đợi suốt một thời gian đến là nực cười, chờ cho đến đám cưới của mình nhưng tất cả đều chỉ là những đám cưới trần tục mà thôi. Người ta vẫn phá vỡ những lời thề của mình nhan nhản mà chẳng hề có hậu quả gì cả. Nhưng đây lại là một trường hợp thần thánh. Theo truyền thống thì các cặp ma cà rồng song sinh sẽ tổ chức đính ước vào dịp sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của họ. Nhưng Mimi thấy chẳng có lý do gì phải chờ đợi lâu đến thế vì trong Bộ Luật cũng không thấy có điều khỏan nào nói họ không thể tiến hành chuyện đó sớm hơn. Họ càng thề nguyền sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.

Khi những lời thề nguyền được trao đổi, linh hồn họ sẽ hòa trộn với nhau. Sẽ không gì có thể chen vào giữa hai người. Họ sẽ trở thành một cặp trong kiếp đời này, cũng giống như bao kiếp trước của họ. Một khi đính ước được thực hiện thì nó không thể phá vỡ trong suốt kiếp. Schuyler sẽ chẳng là gì ngòai một quá khứ xa xôi. Jack sẽ quên hết những cảm giác mà anh có về cô ta. Đính ước được vận hành theo những cách bí mật và không thể thay đổi được.

Mimi đã nhìn thấy điều này trong những kiếp trước - người anh sinh đôi của cô mong mỏi, đợi chờ Gabrielle (người mà giờ đây là Allegra Van Alen trong kiếp này) như thế nào khi anh còn trẻ, nhưng một khi anh nói ra lời thề nguyền của mình thì thậm chí anh sẽ không thể nhớ được tên cô ta là gì. Azrael sẽ là vì sao đêm duy nhất trong vũ trụ của anh.

- Chúng ta có nên tốt nghiệp trung học trước đã không? - Jack gợi ý.

Mimi không nghe anh nói. Cô còn đang mải nghĩ làm thế nào để giảm cân vừa chiếc váy đính ước.

- Mà, em không biết nữa nhưng có lẽ chúng ta nên trốn đi Mexico, anh nghĩ thế nào?

Jack mỉm cười và tiếp tục với món súp.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#ngungo