giã từ vũ khí 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 21

Vào đầu tháng Chín, đêm bắt đầu mát. Ngày cũng mát và trong công viên lá bắt đầu đổi màu. Ở mặt trận, cuộc chiến đấu không thu được kết quả gì. Chúng tôi không chiếm được San Gabrielle. Những trận đánh ở cao nguyên Bainsizza đã ngưng và giữa tháng cuộc tấn công San Gabrielle cũng ngưng nốt. Người ta không thể chiếm được nơi đó. Ettore đã trở lại mặt trận. Người ta cũng đã chở những con ngựa về La Mã cho nên không còn những cuộc đua ngựa nữa. Crowell cũng đi La Mã trước khi bị triệu hồi về Mỹ. Ở thành phố có hai cuộc biểu tình chống chiến tranh và ở Torino có một cuộc bạo động trầm trọng hơn. Tại câu lạc bộ, một thiếu tá người Anh đã nói với tôi rằng Ý đã mất một trăm năm chục ngàn người ở cao nguyên Bainsizza và ở San Gabrielle. Ông ta còn nói ngoài ra ở Carso họ còn mất thêm bốn chục ngàn người nữa. Chúng tôi cùng uống rượu và nói chuyện. Ông ta bảo “Năm nay thế là các trận đánh đã chấm dứt ở khu chúng tôi. Dân chúng đã có tham vọng quá lớn”. Ông lại thêm là cuộc tấn công ở Flanders đã thất bại. Nếu địch tiêu diệt quá nhiều như hồi đầu thì đến mùa thu sang năm quân đồng minh sẽ kiệt quệ. Ông ta lại bảo là “Chúng tôi đều kiệt quệ cả, nhưng điều đó không quan trọng, nếu chúng tôi không ngờ tới. Mà tất cả chúng tôi đều kiệt quệ thật”. Tôi hỏi ông về nước Nga. Ông ta bảo nước Nga kiệt quệ hoàn toàn, nước Áo và Ý cũng vậy. “Thôi tôi phải đi đây” - Tôi nói “Tôi phải trở về bệnh viện”. “Thôi chào anh” - Ông ta nói rồi vui vẻ tiếp “Chúc anh nhiều may mắn”.

Tôi ghé lại tiệm hớt tóc rồi mới về bệnh viện. Chân tôi đã lành hẳn. Tôi không ngờ chân tôi lành mau như vậy. Ba ngày trước tôi còn đi khám lại. Tôi cần phải điều trị thêm vài lần nữa. Dài theo lề đường, tôi đi trên hè phô, cố gắng không tập tễnh. Một ông lão đang ngồi cắt hình dưới cổng tò vò. Tôi dừng chân đứng ngắm ông. Hai thiếu nữ ngồi làm mẫu, ông ta cắt hình hai người chung nhau bằng kéo rất nhanh nhẹn, vừa cắt vừa nhìn họ, đầu nghiêng một bên. Hai cô gái cười khúc khích. Ông ta đưa cho tôi xem hai cái hình bóng rồi dán lên tờ giấy trắng rồi trao lại cho hai cô gái.

- Đẹp lắm - Ông ta bảo - Bây giờ đến lượt trung úy chứ?

Hai cô gái vừa đi vừa ngắm hình và cười. Trông họ rất đáng yêu. Một trong hai cô làm việc ở quán rượu trước cửa bệnh viện.

- Được rồi - Tôi bảo.

- Xin trung úy bỏ mũ ra cho.

- Không, tôi muốn đội mũ.

- Thế thì không được đẹp cho lắm - Ông ta bảo - Nhưng như thế có vẻ quân nhân hơn - Gương mặt ông rạng rỡ hẳn lên.

Ông cắt miếng giấy đen, tách ra làm đôi rồi dán hình nghiêng trên tờ bìa và đưa cho tôi.

- Bao nhiêu hả cụ?

- Không có chi cả - Ông khoát tay - Tôi tặng cho trung úy đấy.

- Xin ông vui lòng nhận cho - Tôi đưa cho ông tiền lẻ.

- Không, tôi thích cắt hình trung úy. Hãy đem về tặng cho cô bạn gái của trung úy đi.

- Cám ơn ông nhiều lắm, lần khác vậy.

- Tạm biệt.

Tôi tiếp tục đi về bệnh viện. Tôi nhận được một công văn và vài bức thư khác. Tôi còn ba tuần nghỉ phép dưỡng bệnh rồi lại phải trở ra mặt trận. Tôi cẩn thận đọc đi đọc lại bức công văn đó. Phải, đúng thế, giấy phép nghỉ dưỡng bệnh bắt đầu từ hôm mùng bốn tháng Mười. Khi tôi trị xong vết thương là ba tuần lễ, đi 21 ngày, vậy là tôi được nghỉ đến 25 tháng Mười. Tôi báo là tôi không về bệnh viện, tôi đi đến một nhà hàng hơi xa bệnh viện một tí, dùng cơm tại đó, đọc thư và báo. Có một bức thư của ông nội tôi gởi, gồm tin tức gia đình, những lời động viên yêu nước, một ngân phiếu 200 đô la, vài mẩu báo cắt. Một bức thư buồn bã của cha tuyên uý, một bức thư khác của người bạn phi công giúp việc cho Pháp kể chuyện đã gia nhập với một bọn hung dữ và một bức thư của Rinaldi hỏi tôi còn định chôn chân ở Milan bao nhiêu lâu nữa và hỏi thăm tin tức. Anh nhờ tôi mang cho anh mấy cái đĩa hát và kèm theo đó là một danh sách những đĩa hát anh thích. Tôi uống một chai Chianti nhỏ trong bữa ăn, sau đó lại uống cà phê và một ly cô nhắc. Tôi gấp tờ báo lại, cho mấy bức thư vào túi, để tiền thù lao và tờ báo ở trên bàn và đi ra. Về đến phòng riêng ở bệnh viện, tôi thay quần áo ngủ, khoác aó choàng ra bên ngoài. Tôi thả tấm màn che cửa nhìn ra bao lớn xuống, rồi ngồi trên giường đọc tờ báo Boston của bà Meyers mang đến cho các cậu con trai yêu quý trong bệnh viện này. Catherine mãi đến 9 giờ mới phải làm việc. Tôi nghe thấy tiếng chân nàng bước và có lần thấy nàng đi qua hành lang. Nàng đến thăm mấy phòng kia và sau cùng bước vào phòng tôi.

- Em đến trễ quá anh nhỉ? - Nàng bảo - Hôm nay có nhiều việc phải làm. Anh có khỏe không?

Tôi kể cho nàng nghe về báo chí và giấy phép.

- Tuyệt quá - Nàng bảo - Thế anh muốn đi đâu nào?

- Không muốn đi đâu cả. Anh chỉ muốn ở lại đây.

- Dại lắm, anh chọn một nơi nào đi, em sẽ đi với anh.

- Em làm cách nào?

- Không biết. Nhưng thế nào em sẽ tìm được cách.

- Em tài thật.

- Không đâu. Nhưng nếu mình không mất mát gì cả thì đời mình sẽ không khổ.

- Em muốn nói gì thế?

- Không có gì cả. Em chỉ nghĩ có những trở ngại không đáng kể trước đây mà mình lại cho là lớn lao.

- Anh nghĩ em khó mà đi được với anh.

- Ồ không đâu anh ạ, nếu cần em chỉ việc xin thôi việc, nhưng sẽ không đến nỗi thế đâu.

- Chúng ta sẽ đi đâu em?

- Em không cần. Anh muốn đi đâu cũng được. Đến nơi nào mà chúng ta không quen biết ai cả.

- Chúng ta đi đến đâu cũng được phải không?

- Vâng, bất cứ nơi nào mà anh thích.

Nàng trông có vẻ bồn chồn và bứt rứt.

- Có chuyện gì thế, Catherine?

- Không, không có chuyện gì cả.

- Có, em có chuyện gì.

- Không, không có gì. Thật không có chuyện gì cả mà.

- Anh biết là co. Em yêu, hãy nói cho anh nghe đi. Em hãy nói cho anh nghe mà.

- Chẳng có chuyện gì cả.

- Nói cho anh nghe đi.

- Em không muốn. Em sợ sẽ làm cho anh mất vui và lo lắng.

- Không, anh sẽ không lo lắng.

- Thật thế ư? Chuyện này không làm cho em lo lắng nhưng em e nó sẽ làm cho anh lo.

- Không, điều đó sẽ không làm cho anh lo lắng.

- Em không muốn nói cho anh nghe.

- Có. Nói anh nghe đi.

- Phải nói à?

- Ừ.

- Em sắp có con anh ạ, gần ba tháng rồi. Anh không lo chứ? Nói cho em biết đi anh. Em van anh đấy. Anh không nên lo lắng về chuyện đó.

- Có gì đâu.

- Thật ư?

- Thật thế chứ sao?

- Em đã làm đủ mọi cách. Em uống đủ mọi thứ nhưng vô ích.

- Có gì đâu mà phải lo lắng thế.

- Em không thể không lo được anh ạ. Em không bao giờ lo về chuyện đó. Anh cũng thế. Anh không nên khổ sở hay lo lắng về chuyện đó anh nhé.

- Anh chỉ lo cho em mà thôi.

- Đấy, đó chính là điều em không muốn. Hàng ngày biết bao nhiêu trẻ con ra đời. Ai cũng có thể có con cả. Đó là tự nhiên mà.

- Em đáng yêu quá.

- Không, không, anh đừng quan tâm được việc đó nữa anh yêu. Em cố làm cho anh không buồn. Em biết em vừa làm cho anh buồn. Nhưng từ trước đến giờ em vẫn là một thiếu nữ đứng đắn chứ? Anh không bao giờ nghi ngờ gì về điều đó phải không anh?

- Không.

- Sẽ mãi mãi như vậy. Chỉ có một điều thôi là đừng lo lắng gì cả. Em thấy rõ là anh lo lắng. Đừng, đừng như thế. Anh muốn uống một tí rượu không anh yêu? Em biết là khi anh uống rượu, anh sẽ vui vẻ lên ngay.

- Không, anh đang vui và em thì rất đáng yêu.

- Không đâu. Nnưng em sẽ thu xếp mọi việc để đi cùng với anh khi anh chọn được địa điểm. Vào độ tháng Mười này thật thú vị vô cùng. Chúng ta sẽ vui vẻ anh ạ, và khi nào anh trở ra mặt trận, mỗi ngày em sẽ viết thư cho anh.

- Lúc ấy em ở đâu?

- Em chưa biết được. Nhưng có thể ở một nơi danh lam thắng cảnh nào đó. Em sẽ lo chuyện đó.

Chúng tôi im lặng một lúc lâu không nói gì. Catherine ngồi trên giường. Tôi nhìn nàng nhưng chúng tôi không đụng vào nhau. Chúng tôi ngồi cách xa nhau như là có ai bất thình lình bước vào phòng. Catherine đưa tay nắm lấy tay tôi :

- Anh không giận gì chứ hả anh?

- Không.

- Và anh cũng không cảm thấy bị ràng buộc chứ?

- Có lẽ hơi hơi thôi. Nhưng không phải bị ràng buộc bởi em.

- Em không muốn nói là anh bị ràng buộc bởi em. Đừng nói bậy bạ, anh đừng giả vờ như thế. Em chỉ muốn nói là bị ràng buộc một cách tổng quát mà thôi.

- Người ta luôn luôn cảm thấy bị giam hãm, ràng buộc đứng về phương diên sinh lý.

Nàng không động đậy, cũng không rút tay lại, nhưng tôi cảm thấy nàng cách xa tôi quá.

- Tiếng luôn luôn nghe không được êm tai.

- Xin lỗi em.

- Không có gì cả. Nhưng có điều này anh như đã biết, em đã chưa hề có con cũng như chưa hề yêu ai cho đến bây giờ... Và em đã cố gắng để trở thành con người mà anh ao ước, thế mà bây giờ anh lại nói “luôn luôn”.

- Thế em có muốn anh cắt lưỡi đi không? - Tôi hỏi.

- Ồ anh yêu của em! (nàng trở lại từ thế giới xa xôi mà nàng vừa ở). - Anh đừng quan tâm đến lời em nói.

Chúng tôi lại cảm thấy gần gũi nhau. Mọi buồn bực đều tan biến.

- Thật ra chúng ta tuy hai mà một. Vậy chúng ta không nên hiểu lầm nhau.

- Đúng vậy.

- Tuy vậy điều đó vẫn xảy ra. Lắm người yêu nhau rồi chỉ vì hiểu lầm mà sinh ra cãi cọ rồi chia lìa.

- Chúng ta sẽ không bao giờ cãi cọ với nhau.

- Không, không nên cãi cọ. Bởi vì hai chúng ta là một và trên thế gian này còn có nhiều người khác nữa.

Nàng đến mở cánh cửa tủ rồi đem lại chai rượu và cái ly.

- Anh uống một tí cô nhắc nhé? Anh ngoan lắm - Nàng nói.

- Không, anh cảm thấy không muốn uống.

- Một chút thôi.

- Thôi được rồi.

Tôi rót đầy ba phần ly rồi uống cạn.

- Anh uống nhiều quá. Em biết rượu mạnh là đồ uống của người người anh hùng, nhưng cũng không nên quá chén.

- Sau chiến tranh chúng ta sẽ sống ở đâu nhỉ?

- Có lẽ ở nhà mấy ông già bà lão. Ba năm nay em ngây thơ chờ mong chiến tranh chấm dứt vào ngày lễ Giáng sinh. Nhưng bây giờ em cho là sẽ không trước khi con chúng ta làm đến chức tổng tư lệnh.

- Không, nó sẽ làm đến đại tướng.

- Nếu đó là chiến tranh 100 năm, nó sẽ có đủ thì giờ chiếm được cả hai chức ấy.

- Em uống tí gì nhé?

- Không, anh uống vào thấy thích chứ em uống thì thấy chóng mặt lắm anh ạ.

- Em có bao giờ uống rượu mạnh không?

- Không anh ạ, em là một người vợ cổ lỗ.

Tôi với tay lấy chai rượu đã để dưới đất và rót thêm một ly nữa.

- Em phải đi thăm các chiến hữu của anh một chút - Catherine bảo - Anh có thể đọc báo chờ em trở lại.

- Em phải đi thật à?

- Vâng, bây giờ hoặc tí nữa cũng được.

- Vậy thì đi bây giờ đi.

- Tí nữa em sẽ trở lại.

- Anh sẽ đọc xong tờ báo này

Chương 22

Đêm ấy trời trở lạnh và ngày hôm sau thì mưa. Từ Ospedale Maggiore về, trời mưa to cho nên khi đến nơi tôi ướt sũng. Mưa đổ nặng hạt bên ngoài bao lơn phòng tôi và nước mưa theo gió tạt vào cánh cửa kính. Tôi thay quần áo, uống một it rượu mạnh nhưng không thấy ngon. Ban đêm tôi đau tim, và sáng đó sau bữa điểm tâm, tôi nôn mửa ra hết.

- Thôi không còn nghi ngờ gì hết - Bác sĩ trưởng bảo - Này cô, cô hãy nhìn vào tròng trắng mắt hắn xem.

Cô Gage nhìn vào tròng mắt tôi. Họ bắt tôi nhìn vào trong gương. Tròng mắt tôi biến thành màu vàng, tôi đã mắc bệnh hoàng đản. Tôi nằm đau mất hai tuần vì thế chúng tôi không cùng nhau đi nghỉ ở đâu cả. Chúng tôi đã dự định đi Pallenza. Từ Milan đi Stresa dễ dàng nên ở đó có rất nhiều người quen biết. Ở Pallenza có một ngôi làng rất đẹp và có thể bơi thuyền ra các hòn đảo của những người chài lưới, đồng thời ở hòn đảo lớn nhất lại có cả tiệm ăn. Nhưng chúng tôi đã không đi được.

Một hôm tôi đang nằm trên giường vì bệnh hoàng đản thì cô Van Campen bước vào phòng. Cô mở cửa tủ ra và thấy chai rượu không trong đó. Tôi đã gởi đi cho ông thường trực rất nhiều chai không và chắc là cô ta trông thấy cho nên mới lên phòng tôi xem còn chai nào không. Phần nhiều là những chai Vermouth, Capri, Marala và vài hũ Chianti rỗng, một vài chai cô nhắc. Ông thường trực đã mang đi những chai lớn, loại chai đựng rượu Vermouth và các hũ Chianti có chèn rơm chung quanh, ông để lại các chai rượu mạnh. Cô Van Campen tìm thấy những chai rượu mạnh đó và một chai rượu mùi hình con gấu. Chai hình con gấu làm cô giận dữ nhất. Cô đưa cái chai ra ngoài ánh sáng. Gấu ngồi chồm hổm đưa chân lên. Ở đầu gấu có một cái nút và dưới đáy chai còn đóng mấy tảng thuỷ tinh. Tôi bật cười to lên.

- Rượu mùi đấy. Rượu ngon nhất từ Nga đưa sang, đóng trong chai hình con gấu.

- Tất cả những chai này đều là rượu mạnh cả phải không? - Cô Van Campen hỏi.

- Tôi không thấy gì hết, nhưng có lẽ thế - Tôi đáp.

- Như thế này đã bao lâu rồi?

- Tôi mua và chính tôi đem vào. Tôi thường có các sĩ quan Ý đến thăm và tôi phải có rượu để mời họ.

- Còn ông không uống chứ? - Cô hỏi.

- Có, tôi có uống chứ.

- Ồ, ông uống rượu à? - Cô nói - Mười một chai rượu hết sạch và còn cả chai rượu hình con gấu nữa.

- Rượu mùi đấy mà.

- Tôi sẽ cử người đi mua. Ông chỉ có tất cả bấy nhiêu chai hết phải không?

- Bây giờ thì chỉ có nhiêu đó.

- Tôi thương hại ông mắc phải chứng hoàng đản. Thương hại ông thật thừa!

- Cám ơn.

- Tôi cho rằng người ta không thể khiển trách ông không muốn trở lại mặt trận. Nhưng theo tôi nghĩ ông nên tìm cách nào khác hơn là tạo cho mình chứng hoàng đản bằng cách uống rượu.

- Bằng cách gì?

- Bằng cách uống rượu. Ông nghe tôi nói chứ?

Tôi không nói gì cả.

- Nếu ông không tìm cách nào khác nữa tôi lo rằng ông sẽ phải trở ra mặt trận khi hết chứng bệnh này. Tôi không tin rằng tự mình làm mắc chứng bệnh hoàng đản như thế mà ông được nghỉ phép dưỡng bệnh.

- Ồ, thật thế à?

- Vâng, tôi không tin như thế.

- Thế cô đã mắc chứng bệnh hoàng đản bao giờ chưa hả cô Van Campen?

- Chưa, nhưng tôi đã thấy có nhiều người bị rồi.

- Cô có nhận thấy bệnh nhân thích bệnh ấy như thế nào không?

- Nhưng tôi cho rằng thế còn hơn là bị ra trận.

- Này cô Van Campen - Tôi nói - Thế có bao giờ cô thấy người nào tự làm cho mình bất lực bằng cách đá vào bọng đái của mình không?

Cô Van Campen không ngờ đến câu hỏi hóc búa đó. Hoặc là cô giả vờ tảng lờ hoặc là cô nên rời khỏi phòng. Nhưng cô chưa muốn đi vội bởi vì cô đã ghét tôi từ lâu và bây giờ cơ hội đó đã đến.

- Tôi biết nhiều người tự làm cho mình bị thương để khỏi ra mặt trận.

- Tôi không muốn hỏi cô như thế. Chính tôi tôi cũng thấy nhiều vết thương cố tình. Tôi chỉ muốn hỏi cô một điều là cô đã thấy người nào tự ý làm cho mình bất lực bằng cách đá vào bọng đái của mình không. Vì trong những cảm giác, thứ đó giống bệnh hoàng đản nhất. Và đó là một cảm giác tôi tin chắc ít có người đàn bà nào biết. Chính vì thế mà tôi hỏi cô là cô đã mắc bệnh hoàng đản lần nào chưa. Này cô Van Campen, vì...

Cô Campen đã rời khỏi phòng, một lát sau cô Gage đi vào.

- Anh đã nói gì với cô Campen thế? Cô ta rất giận dữ.

- Chúng tôi so sánh các cảm giác. Tôi cố gợi hỏi xem cô ta có bao giờ cảm thấy đau đẻ chưa.

- Anh ngốc. Cô ấy sẽ lột da anh ra cho mà xem.

- Cô ấy đã làm rồi - Tôi nói - Cô ấy đã cắt giấy phép nghỉ dưỡng bệnh và có lẽ tìm cách đưa tôi ra tòa án quân sự. Như thế thì hèn thật.

- Cô ấy không bao giờ thích anh - Cô Gage nói - Vì sao thế?

- Cô ấy bảo tôi tự uống rượu cho mắc chứng hoàng đản để khỏi phải trở lại mặt trận.

- Ô tưởng gì - Cô Gage nói - Tôi sẵn sàng tin rằng anh không hề uống một giọt rượu nào cả và mọi người cũng sẽ tin như thế.

- Nhưng cô ấy đã tìm thấy mấy chai rượu không rồi.

- Tôi đã bảo anh cả trăm lần là nên vứt những chai ấy đi. Thế chúng đâu rồi?

- Trong tủ.

- Thế anh có một cái va ly không?

- Không, hãy bỏ chúng vào trong cái túi của tôi.

Cô Gage xếp chai vào túi rồi bảo “Tôi sẽ giao nó cho ông thường trực”. Nàng tiến ra cửa.

- Khoan đã - Cô Van Campen chặn lại - Tôi muốn chính tay tôi lấy mấy chai này đi - Ông thường trực đi theo cô ta - Ông hãy mang những thứ này đi - Cô ta bảo - Tôi muốn đưa cho bác sĩ coi để làm bản báo cáo.

Cô ta khuất dần trong hành lang. Ông thường trực mang chiếc túi mà ông biết rõ trong đó đựng những gì.

Chẳng có việc gì xảy ra ngoài việc mất giấy phép cả.

Chương 23

Vào buổi tối, ngày tôi trở lại mặt trận, tôi dặn ông thường trực giữ cho tôi một chỗ trong chuyến xe lửa từ Turin đến. Xe lửa khởi hành vào lúc nửa đêm. Xe từ Turin đến Milan vào khoảng mười giờ rưỡi đêm và ngừng tại đó cho đến lúc khởi hành. Người ta phải túc trực ở đó lúc xe đến để giữ chỗ ngồi. Ông thường trực cùng đi với bạn, là một xạ thủ súng máy nghỉ phép, trước kia là thợ may. Họ cho rằng đi cả hai chắc sẽ giữ được chỗ cho tôi. Tôi đưa cho họ tiền để họ mua vé vào ga và nhờ họ giữ giùm hành lý của tôi, gồm một túi lớn và hai cái túi dết.

Vào khoảng năm giờ, tôi từ giã tất cả mọi người trong bệnh viện rồi ra đi. Ông thường trực để hành lý của tôi ở chỗ ông và tôi bảo tôi sẽ đến ga trước nửa đêm một chút. Vợ ông gọi tôi là “ngài” và khóc. Bà lau nước mắt, bắt tay tôi rồi khóc nữa. Tôi vỗ vai, bà lại càng khóc thêm, bà đã từng vá quần áo cho tôi. Bà mập và lùn, gương mặt vui vẻ, tóc bạc trắng. Khi bà khóc thì gương mặt bà nhăn nhúm lại. Tôi xuống quán rượu ở góc đường vào trong ngồi nhìn ra cửa sổ và chờ đợi. Bên ngoài trời tối và lạnh, sương mù phủ kín. Tôi trả tiền rượu nho và cà phê rồi nhìn ngắm người qua lại nhờ ánh sáng nơi cửa sổ. Khi nhìn thấy Catherine, tôi gõ nhẹ vào cửa sổ. Nàng trông thấy tôi liền quay lại và mỉm cười, tôi ra ngoài đón nàng. Nàng choàng áo khoác ngoài màu xanh đậm, đội chiếc mũ da mềm. Chúng tôi thả bộ trên hè phố dọc theo các quán rượu, qua khu chợ, lên đường cái rồi băng qua cửa ngọ môn, đến khu nhà thờ. Chúng tôi đi qua đường sắt xe điện và thấy nhà thờ từ xa trỗi lên trong sương mù trắng xóa, ướt át. Bên trái chúng tôi là các cửa tiệm buôn bán sáng choang và cửa vào viện bảo tàng. Ở đây sương mù dầy đặc và khi chúng tôi đến trước nhà thờ tôi có cảm giác nó đồ sộ và mặt đá ướt đẫm sương.

- Em muốn vào không?

- Không - Catherine đáp.

Chúng tôi lại tiếp tục đi. Trong bóng tối nơi vòm cửa đá một người lính đang đứng với cô bạn gái. Chúng tôi đi ngang qua họ, họ ôm chặt lấy nhau, dựa vào tường đá và anh trùm cô trong chiếc áo choàng.

- Họ cũng giống như mình - Tôi bảo.

- Không ai giống như mình cả - Catherine trả lời. Ý nghĩ này làm nàng không vui.

- Phải chi họ có chỗ để đi.

- Thế họ cũng chẳng hạnh phúc hơn.

- Anh không biết. Ai cũng phải có một nơi để ẩn náu.

- Thế thì họ luôn luôn có nhà thờ - Catherine bảo.

Chúng tôi vượt qua họ. Bây giờ chúng tôi ở bên kia quảng trường và ngắm nhìn nhà thờ. Trong sương mù nó trông đẹp lạ thường. Chúng tôi dừng lại trước cửa hàng da. Trong tủ kính có trưng bày ủng, ba lô, giầy trượt tuyết. Các thứ hàng được sắp riêng ra, ba lô để ở giữa, ủng một bên, và bên kia là giày trượt tuyết, da đen bóng như yên ngựa đã dùng rồi. Ánh đèn điện phản chiếu lấp lánh trên mặt da đen bóng.

- Biết đâu ngày nào đó chúng mình có dịp trượt tuyết.

- Hai tháng nữa sẽ có trượt tuyết ở Murren - Catherine bảo.

- Vậy ta đến đó nhé?

- Vâng - Nàng đáp.

Chúng tôi tiếp tục đi qua những cửa hàng khác và rẽ xuống con đường bên cạnh.

- Em chưa bao giờ đi qua con đường này cả.

- Đây là con đường anh đi đến bệnh viện - Tôi trả lời.

Con đường hẹp. Chúng tôi đi qua bên tay phải. Trong sương mù dày đặc, nhiều người qua lại. Đây cũng có các cửa hiệu và quầy hàng tràn ngập ánh sáng. Chúng tôi nhìn vào cửa kính gian hàng bán pho mát. Tôi đứng trước cửa hiệu bán vũ khí.

- Vào đây một tí, anh phải mua một khẩu súng.

- Súng loại nào?

- Súng lục.

Chúng tôi bước vào cửa tiệm. Tôi cởi dây thắt lưng để trên quầy với một bao súng không. Sau quầy có hai người đàn bà, họ mang ra nhiều súng lục cho tôi xem.

- Phải vừa cái bao này mới được - Tôi vừa nói vừa mở bao súng. Đó là một thứ bao bằng da xám, tôi đã mua lại để mang trong thành phố.

- Mấy khẩu súng này có tốt không hả anh? - Catherine hỏi.

- Khẩu nào cũng giống nhau cả. Tôi thử khẩu này được không? - Tôi hỏi một bà.

- Ở đây không có chỗ để thử bắn - Bà ta bảo - Nhưng khẩu súng này rất tốt. Với khẩu súng này ông không bao giờ bắn trượt cả.

Tôi lên cò rồi bắn thử, lò xo hơi cứng nhưng rất trơn. Tôi nhắm và bấm cò một lần nữa.

- Súng này đã được dùng rồi. Súng này là của một sĩ quan thiện xạ.

- Thế ra bà đã bán cho ông ấy à?

- Vâng

- Thế làm sao bà có nó lại được?

- Người cần vụ của ông ấy bán lại.

- Biết đâu bà chẳng lấy lại súng của tôi như thế - Tôi bảo - Giá bao nhiêu đây?

- Năm chục đồng “lia”. Gía rất rẻ.

- Thôi được. Tôi muốn mua thêm hai gắp đạn và một hộp đạn.

Bà ta cúi xuống quầy hàng lấy những thứ ấy ra.

- Ông có cần gươm không? Tôi có vài cây đã dùng rồi, giá rẻ lắm.

- Tôi sắp sửa ra mặt trận.

- Ô, thế thì ông không cần gươm.

Tôi trả tiền, cho đạn vào súng, đút súng vào bao, nạp đạn dư vào hai gắp nhét vào hai túi dư nhô lên trên bao súng rồi tôi móc nó vào thắt lưng. Tôi nghe nằng nặng ở đai lưng vì có khẩu súng lục. Đến bây giờ tôi vẫn còn nghĩ là luôn luôn mang bên mình một khẩu súng lục.

- Thế là bây giờ mình võ trang đầy đủ rồi. Đó là điều luôn luôn phải nhớ làm trước. Người lấy khẩu súng kia của anh đã nằm viện rồi.

- Khẩu súng này chắc là thứ tốt chứ? - Catherine hỏi.

- Ông còn cần chi nữa không ạ? - Bà bán hàng hỏi.

- Không biết nữa, chắc là không.

- Khẩu súng có dây giật đấy.

- Tôi đã thấy.

Bà ta có vẻ muốn nài bán thêm món gì nữa.

- Ông không cần còi ư?

- Chắc là không.

Bà ta chào chúng tôi và chúng tôi bước ra ngoài. Catherine nhìn lại cửa tiệm. Bà bán hàng nhìn theo chúng tôi và cúi đầu chào một lần nữa.

- Mấy miếng gương nhỏ gắn vào mẩu gỗ kia để làm gì thế hả anh? - Nàng hỏi.

- Để gài bẫy chim. Người ta đặt nó ra ngoài đồng, những con chim sơn ca thấy lấp lánh sẽ đến và người ta bắn nó.

- Thật là những người tài giỏi - Catherine nói - Ở Mỹ anh có bắn chim sơn ca không anh yêu?

- Chẳng bao giờ.

Chúng tôi băng qua đường và lên phía bên kia.

- Bây giờ em cảm thấy dễ chịu hơn - Catherine bảo - Khi mới bắt đầu đi, em cảm thấy buồn vô cùng.

- Khi ở bên nhau chúng mình luôn luôn thấy sung sướng.

- Thì lúc nào chúng mình lại chẳng ở gần nhau.

- Ừ, nhưng nửa đêm anh phải đi xa rồi.

- Đừng nhắc đến nữa, anh yêu.

Chúng tôi vẫn bước đều. Sương mù làm cho ánh đèn trở nên vàng vọt.

- Anh có mệt lắm không? - Catherine hỏi.

- Thế còn em?

- Em chả sao cả. Đi bộ như thế này vui chứ?

- Phải. Nhưng không nên đi lâu quá.

- Vâng.

Chúng tôi rẽ sang con đường không có ánh đèn. Tôi dừng lại ôm hôn Catherine. Trong khi hôn, tôi thấy tay nàng ôm chặt lấy vai tôi. Nàng núp trong áo choàng của tôi khiến cho áo che kín cả hai. Chúng tôi đang đứng dựa vào bức tường cao bên đường.

- Chúng ta đi đâu đi - Tôi bảo.

- Vâng - Catherine đáp.

Chúng tôi tiếp tục đi dài theo con đường đến phố rộng xuôi theo con kênh. Phía bên kia có một bức tường gạch và nhà cửa. Trước mặt chúng tôi ở phía ngoài đường có một chiếc xe điện chạy qua cầu.

- Chúng ta có thể đi xe ngựa ở gần cầu kia - Tôi bảo.

Chúng tôi đứng trên cầu trong màn sương mù để chờ xe. Nhiều chiếc xe ngựa chạy ngang qua chở đầy hành khách trên đường về nhà. Một chiếc xe ngựa chạy đến nhưng trong xe đã có vài người khách. Sương mù đã biến thành mưa.

- Chúng ta đi bộ hay đi xe điện vậy anh nhỉ? - Catherine hỏi.

- Sắp có chiếc xe khác bây giờ. Ở đây có nhiều xe chạy qua.

- Một chiếc xe đang đến kìa - Nàng bảo.

Người đánh xe ngựa cho xe chạy chậm và dừng lại, hạ tấm bảng kim loại trên chiếc đồng hồ tính tiền xuống. Mui xe được căng lên và trên quần áo người đánh xe lấm tấm vài giọt mưa. Chiếc mũ bóng loáng của anh lấp lánh dưới cơn mưa. Chúng tôi ngồi nép vào trong xe và dưới mui xe rất tối.

- Anh bảo xe chạy đến đâu?

- Đến nhà ga. Chúng ta có thể vào khách sạn trước nhà ga.

- Đi như thế này à? Không hành lý gì cả liệu họ có chịu không?

- Được chứ - Tôi đáp.

Đoạn đường đến nhà ga rất dài và chạy qua những phố nhỏ dưới trời mưa.

- Tí nữa chúng ta sẽ ăn tối chứ? - Catherine hỏi - Em đang đói đây.

- Chúng ta sẽ ăn tối trong phòng.

- em không có gì để thay mặc cả. Ngay cả áo ngủ cũng không.

- Mình sẽ mua một cái - Nói xong tôi quay ra người đánh xe - Cho xe trở về Via Manzoni.

Anh ta gật đầu và cho xe rẽ sang con đường bên trái. Đến con đường lớn, Catherine tìm một cửa hiệu.

- Đây này - Nàng bảo.

Tôi bảo người đánh xe dừng lại. Catherine xuống xe, đi qua lề bên kia và vào cửa hiệu. Tôi ngồi dựa lưng trong xe chờ, trời mưa và tôi ngửi thấy mùi đường xá ẩm ướt cùng mùi ngựa dưới trời mưa. Nàng trở ra với một gói đồ trên tay, bước vội lên xe, chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình.

- Em hoang phí quá anh ạ - nàng nói - Nhưng chiếc áo này đẹp lắm.

Tới khách sạn, tôi bảo Catherine ngồi chờ trong xe còn tôi đi vào nói chuyện với viên quản lý. Khách sạn hãy còn nhiều phòng. Tôi trở ra trả tiền xe rồi cùng Catherine vào khách sạn. Chú nhỏ mang hộ gói đồ cho chúng tôi, viên quản lý đưa chúng tôi về phía thang máy. Đâu đâu cũng có màn nhung đỏ và ánh đồng sáng chói. Viên quản lý khách sạn theo chúng tôi vào thang máy.

- Thưa ông bà định dùng bữa tối trong phòng ạ?

- Vâng, mang hộ thực đơn lên nhé - Tôi nói.

- Ông dùng món gì đặc biệt không? Thịt rừng và khoai chiên?

Chiếc thang máy vượt qua ba tầng, đến mỗi tầng nó phát ra một tiếng “cách”. Sau một tiếng “cách” nữa, nó dừng lại.

- Thế thịt rừng ông có thịt con thú gì?

- Có chim trĩ, có gà lôi.

- Ông cho gà lôi.

Chúng tôi đi dọc theo hành lang. Tấm thảm đã mòn. Có nhiều phòng đóng cửa. Viên quản lý dừng lại và mở một cửa phòng.

- Đây, một phòng rất đẹp.

Chú nhỏ đặt gói đồ trên bàn giữa phòng. Viên quản lý mở màn cửa.

- Bên ngoài sương mù nhiều quá - Ông ta nói.

Phòng được trang hoàng bằng thảm đỏ, trong phòng có rất nhiều gương, hai ghế dựa, một cái giường lớn có phủ tấm trải bằng sa tanh. Một cánh cửa thông sang phòng tắm.

- Tôi sẽ gởi thực đơn lên - Người quản lý nói. Ông ta cúi chào rồi đi ra.

Tôi tới bên cửa sổ nhìn ra ngoài rồi kéo tấm màn nhung lại. Catherine đang ngồi trên giường nhìn chiếc đèn treo bằng thuỷ tinh. Nàng đã bỏ mũ ra, mái tóc nàng óng ánh dưới ánh đèn. Nàng soi mình trước gương treo trong phòng. Trông nàng không được vui. Nàng để áo choàng trên giường.

- Có chuyện gì thế em yêu?

- Đây là lần đầu tiên em cảm thấy mình như là một cô gái ăn chơi - Nàng bảo.

Tôi trở lại cửa sổ kéo màn sang một bên và đứng nhìn ra bên ngoài. Tôi không hề nghĩ là chuyện lại có thể xảy ra như thế.

- Nhưng em đâu phải là một cô gái ăn chơi.

- Em biết lắm anh ạ. Nhưng cảm thấy mình như thế đâu có hay ho gì - giọng nàng khô khan và đều đều.

- Chỉ có khách sạn này là tốt nhất thôi - Tôi bảo.

Tôi nhìn ra cửa sổ. Phía bên kia quảng trường có ánh đèn của nhà ga. Trên đường xe ngựa qua lại tấp nập, tôi nhìn thấy cả cây cối trong công viên. Ánh đèn từ khách sạn phản chiếu trên lề đường ướt át. Chẳng lẽ bây giờ lại cãi vã với nhau sao? Tôi thầm nghĩ.

- Đến đây với em đi anh - giọng Catherine trở lại bình thường - đến đây với em đi anh. Em ngoan lại rồi.

Tôi đưa mắt nhìn về phía giường. Nàng mỉm cười. Tôi tiến đến bên giường cạnh nàng và hôn nàng.

- Em là người vợ đáng yêu của anh.

- Vâng, em lúc nào cũng là của anh cả - Nàng bảo.

Khi ăn xong chúng tôi cảm thấy vui vẻ hơn và sau đó thật là hạnh phúc. Trong phút chốc căn phòng như trở thành nhà riêng của chúng tôi. Gian phòng của tôi ở bệnh viện trước kia cũng gần như là nhà riêng vậy.

Catherine vắt chiếc áo của tôi trên vai nàng suốt bữa ăn. Chúng tôi đang đói nên ăn rất ngon, chúng tôi uống hết một chai Capri và một chai St Estephe. Tôi uống nhiều còn Catherine cũng uống, nhưng bấy nhiêu cũng đủ làm cho nàng trở nên vui vẻ. Trong bữa ăn người ta dọn cho chúng tôi thịt gà lôi với khoai chiên và hạt dẻ nấu, sau cùng là món tráng miệng.

- Phòng đẹp đấy - Catherine nói - Chúng ta có thể ở đây suốt thời gian nghỉ tại Milan chứ?

- Phòng này trông buồn cười nhưng cũng dễ chịu.

- Tội lỗi là một điều thú vị - Catherine bảo - Những người lăn mình vào tội lỗi dường như thích thú lắm. Tấm màn nhung đỏ thật thích hợp, còn những chiếc gương này cũng hấp dẫn.

- Em quả là một thiếu nữ có tâm hồn cao cả.

- Em tự hỏi ở trong một gian phòng như thế này, sáng ra khi tỉnh dậy, mình sẽ có cảm tưởng gì nhỉ. Nhưng đây quả là một gian phòng tráng lệ.

Tôi rót ra thêm một ly rượu St Estephe.

- Em muốn chúng ta sa vào tội lỗi thật sự - Catherine bảo - Những gì chúng ta cùng làm có vẻ ngây thơ và giản dị. Em không tin chúng ta đã làm những điều xấu.

- Em cao cả quá.

- Em chỉ khao khát thôi. Và em khao khát đến cực độ.

- Em cũng chỉ là một người đàn bà mà thôi.

- Anh nói đúng. Em cũng chỉ là một người đàn bà. Không ai hiểu điều đó ngoài anh.

- Có một lần, lúc anh mới gặp em, anh đã nghĩ về em suốt một buổi chiều. Anh đã mơ có một ngày nào đó chúng ta cùng đưa nhau đến một khách sạn lớn ở Cavour và tưởng tượng những việc sẽ xảy ra ở đấy.

- Anh liều quá nhỉ. Đây không phải là khách sạn ở Cavour đấy chứ?

- Không, nếu là ở Cavour người ta sẽ không tiếp mình.

- Rồi có ngày họ sẽ tiếp mình. Nhưng chính nhờ thế mà mình khác hẳn anh ạ. Em không bao giờ mơ tưởng gì cả.

- Em không bao giờ nghĩ đến điều gì khác cả à?

- Một tí thôi - Nàng nói.

- Em tôi ngoan lắm.

Tôi rót một ly rượu vang nữa.

- Em chỉ là một cô gái thôi - Catherine nói.

- Thoạt tiên anh không nghĩ thế, anh cho rằng em điên.

- Em cũng có hơi điên một tí nhưng em không điên một cách quá phức tạp. Em chưa bao giờ làm phật ý anh phải không anh yêu?

- Rượu là tuyệt nhất - Tôi bảo - Rượu làm cho em quên những gì không tốt đẹp.

- Vâng - Catherine bảo - Nhưng rượu cũng đã làm cho ba em mắc bệnh phong rất nặng.

- Cha em còn sống à?

- Vâng, nhưng ông mắc bệnh phong rất nặng. Anh sẽ không bao giờ có cơ hội gặp ông. Còn anh, cha anh còn không?

- Không, chỉ có bố dượng.

- Em sẽ có thể đến thăm ông được không?

- Em không bao giờ có dịp gặp ông đâu.

- Chúng ta hạnh phúc như thế này em không hề quan tâm đến điều gì khác nữa. Em rất sung sướng được làm vợ anh - Catherine nói.

Người bồi đến dọn dẹp các thứ. Một lúc sau yên lặng đến mức chúng tôi nghe tiếng mưa rơi. Dưới đường một chiếc xe hơi bấm còi.

Tôi khẽ đọc

“Sau lưng tôi vẫn hàng nghe

thời gian sải cánh lăm le đến gần”

- Em biết bài thơ đó - Catherine bảo - Đó là một bài thơ của Marvell. Nhưng tả một cô gái không được sống chung với người bạn trai.

Tôi thấy đầu óc sảng khoái và tỉnh táo nên muốn bàn đến những vấn đề cụ thể hơn.

- Em sẽ sanh ở đâu?

- Em chưa biết nữa. Em sẽ tìm chỗ nào tốt nhất.

- Em làm sao có thể lo hết mọi việc?

- Em lo được chừng nào hay chừng đó. Anh đừng bận tâm lo nghĩ làm gì đến chuyện đó anh ạ. Chúng ta còn thì gờ có nhiều con trước khi chiến tranh chấm dứt.

- Gần đến giờ khởi hành rồi.

- Em biết. Chúng ta sẽ đi ngay nếu anh muốn.

- Không.

- Thế thì đừng bận tâm nữa anh nhé. Từ nãy đến giờ anh rất đáng yêu nhưng bây giờ anh bắt đầu lo lắng rồi.

- Anh sẽ không lo nghĩ nữa. Em sẽ viết thư cho anh thường xuyên chứ?

- Mỗi ngày anh nhé. Họ có kiểm duyệt thư anh không?

- Họ không biết tiếng Anh nhiều cho nên không nguy hiểm.

- Em sẽ làm cho họ điên đầu lên - Catherine bảo.

- Nhưng đừng quá lắm em nhé.

- Không, chỉ một tí thôi.

- Chắc đến giờ phải đi rồi.

- Phải đấy anh ạ.

- Anh không thích rời khỏi căn nhà đẹp đẽ này của chúng ta.

- Em cũng thế.

- Nhưng mà phải đi.

- Vâng, chúng ta không bao giờ được ở tại ngôi nhà của chúng ta lâu cả.

- Một ngày kia chúng ta sẽ ở lâu.

- Em sẽ có một ngôi nhà đẹp cho chúng ta khi anh trở lại.

- Có lẽ anh sẽ trở lại ngay.

- Có thể anh sẽ bị thương, chỉ một tí ở chân thôi.

- Hoặc ở vành tai.

- Không, em muốn tai anh vẫn như thế này.

- Hay ở chân?

- Chân anh đã bị thương sẵn rồi.

- Thôi phải đi em yêu ạ.

- Thế anh đi trước đi.

Chương 24

Chúng tôi xuống lầu mà không dùng thang máy. Thảm trải cầu thang đã mòn. Tôi trả tiền bữa ăn tối mà người ta đã dọn lên. Người hầu bàn dọn các thức ăn khi nãy đang ngồi cạnh cửa. Lúc chúng tôi đi ra hắn đứng phắt dậy rồi cúi đầu chào. Tôi theo hắn qua phòng bên cạnh để trả tiền phòng. Viên quản lý xem tôi như bạn thân nên không chịu lấy tiền trước, nhưng khi hắn đi vắng thì hắn không quên dặn người hầu bàn đứng túc trực ở cửa chờ tôi để cho tôi không thể nào đi ra mà không trả tiền. Tôi cho rằng việc đó vẫn xảy ra luôn mà ngay cả trước đây đối với bạn của hắn. Mà thời giặc gĩa người ta có nhiều bạn.

Tôi nhờ người bồi đi tìm cho chúng tôi một cỗ xe ngựa. Hắn đỡ hộ tôi gói đồ của Catherine rồi che dù đi ra. Ở cửa sổ nhìn ra chúng tôi thấy hắn băng qua đường dưới trời mưa tầm tã. Chúng tôi đứng bên cạnh phòng nhìn mưa đợi hắn.

- Em cảm thấy thế nào hả Catherine?

- Buồn ngủ.

- Còn anh, anh cảm thấy bụng trống rỗng và đói lắm.

- Anh có mang theo gì để ăn không?

- Có, trong túi dết.

Chiếc xe ngựa chạy đến và dừng lại, đầu cúi xuống trời mưa. Anh bồi bước ra khỏi xe, che dù và đi về phía khách sạn. Chúng tôi đón anh ta ở cửa và cùng che dù đi xuống con đường ướt át đến chỗ xe đậu bên lề đường. Nước chảy mạnh hai bên vệ đường.

- Gói đồ của hai ông bà để ở trong xe - Người bồi nói.

Hắn che dù đứng đó cho đến khi chúng tôi bước lên xe, tôi không quên tặng hắn ít tiền.

- Rất cám ơn. Chúc ông bà vui vẻ.

Người đánh xe ra roi, ngựa bắt đầu bổ vó, người bồi quay trở về khách sạn. Xe chạy xuống đường rẽ sang trái, rồi vòng sang phải và đến trước nhà ga. Có hai người lính mang súng trường đứng dưới ánh đèn tránh mưa. Ánh đèn chiếu lấp lánh trên mũ họ. Nước mưa trong vắt phản chiếu ánh đèn sân ga. Một người phu khuân vác từ trong sân ga bước ra, đôi vai gầy nặng trĩu những hạt mưa.

- Không - Tôi bảo - không, cám ơn. Tôi không có gì để nhờ đến anh.

Hắn trở lại núp mưa dưới cổng hình cung. Tôi quay sang Catherine, gương mặt nàng khuất sau bóng tối của mui xe.

- Chúng ta nên chia tay nơi đây.

- Em không thể nào vào trong được ư?

- Không. Giã biệt em, Catherine.

- Anh bảo người đánh xe đưa em về bệnh viện được không?

- Được.

Tôi bảo người đánh xe đưa nàng về bệnh viện. Hắn gật đầu.

- Từ biệt em. Em ráng giữ gìn sức khỏe và lo cho con nhỏ của chúng ta em nhé.

- Giã biệt anh yêu.

- Giã biệt.

Tôi bước đi dưới trời mưa. Chiếc xe từ từ lăn bánh. Catherine nhoài người ra ngoài, tôi thấy khuôn mặt nàng dưới ánh đèn. Nàng mỉm cười đưa tay vẫy, chiếc xe lên dốc, Catherine chỉ tay về phía cổng tròn. Tôi nhìn theo chỉ thấy hai tên lính và chiếc cổng vòng cung. Thì ra ý nàng muốn bảo tôi đi vào đó để tránh mưa. Tôi đi vào trong và đứng nhìn chiếc xe xa dần. Xong, tôi đi qua nhà ga để xuống sân ga.

Ông thường trực tìm tôi ở sân ga. Tôi đi theo ông vào trong toa xe lửa. Tôi phải lách người mở lối đi ở hành lang để đến chỗ anh xạ thủ súng máy ngồi trong góc một toa xe. Chiếc ba lô và hai túi dết của tôi để trên túi lưới phía trên đầu anh ta. Có nhiều người đứng trong hành lang. Nhiều người nhìn chòng chọc khi chúng tôi bước vào. Xe lửa không đủ chỗ ngồi cho nên ai nấy đều hằn học. Anh lính sử dụng súng máy đứng lên nhường chỗ cho tôi. Có ai vỗ nhẹ vào vai tôi, tôi nhìn quanh. Đó là viên đại úy pháo binh cao gầy, có một vết sẹo lớn dưới quai hàm. Nhìn thấy tôi qua cửa kính hành lang, anh ta bèn bước vào trong toa.

- Ông muốn gì? - Tôi hỏi.

Tôi quay người lại và quan sát anh ta. Anh ta cao lớn hơn tôi, khuôn mặt gầy gò dưới vành mũ và vết sẹo hãy còn mới, bóng loáng. Mọi người trong toa xe đều đưa mắt nhìn tôi.

- Ông không có quyền làm như thế - Anh ta bảo - Ông không có quyền dùng một người lính để giữ chỗ cho ông.

- Tôi làm đó.

Anh ta nuốt nước bọt, tôi thấy cục yết hầu của anh ta chạy lên xuống. Anh lính xạ thủ súng máy đứng tại chỗ. Những người khác nhìn qua cửa kính. Trong toa không ai nói gì cả.

- Ông không có quyền làm thế. Tôi đã đứng đây hai tiếng đồng hồ trước khi ông đến.

- Ông muốn gì?

- Chỗ ngồi này.

- Tôi cũng thế.

Tôi nhìn thẳng vào mặt hắn và cảm thấy cả toa đang nhìn tôi chòng chọc có vẻ phản đối. Tôi không trách họ. Họ có lý nhưng tôi cũng muốn có chỗ ngồi. Tuy nhiên không ai nói gì cả.

“Ồ mình cũng chẳng cần”. Tôi nghĩ.

- Xin mời đại úy ngồi - Tôi bảo.

Anh lính súng máy đã xê qua một bên và tên đại úy cao lớn ngồi xuống. Hắn nhìn tôi với vẻ tức giận nhưng dù sao hắn cũng đã có chỗ ngồi.

- Lo giùm tôi một chỗ khác - Tôi nói với anh lính.

Chúng tôi bước ra hành lang. Tàu đông quá và tôi biết khó mà tìm được một chỗ. Tôi biếu ông thường trực và anh lính mười lia. Họ đi dọc theo hành lang và xuống sân ga, vừa đi vừa nhìn vào các toa nhưng chẳng còn lấy một chỗ trống nào.

- Đến Brescia sẽ nhiều người xuống - Ông thường trực bảo.

- Đến đó họ lại còn lên thêm nữa - Anh lính súng máy bảo.

Tôi từ biệt. Hai người bắt tay tôi rồi đi. Cả hai đều có vẻ buồn. Ngoài hành lang mọi người đều đứng cả lúc tàu chạy. Tôi nhìn ánh đèn nhà ga và quảng trường. Trời vẫn mưa, chỉ một lát sau các cửa kính đều ướt khiến cho không thể nhìn ra ngoài được. Sau đó tôi nằm lăn ra ngủ ở hành lang. Tôi đã cất kỹ cái ví đựng tiền và giấy tờ vào áo trong và quần đùi sát người. Tôi ngủ suốt đêm, chỉ thức dậy khi đến ga Brescia và Verona, lúc hành khách lên lại ngủ tiếp. Tôi gối lên một chiếc túi còn tay thì ôm chiếc kia và để người tôi có thể chạm vào cái ba lô. Ai muốn đi thì phải bước qua tôi vậy. Hành khách nằm ngủ la liệt trên sàn ở hành lang. Nhiều người khác đứng tì tay trên song cửa sổ hoặc tựa lưng vào cửa toa. Chuyến tàu này luôn luôn đông khách.

Chương 25

Trời sang thu. Cây cối trơ trụi lá và đường xá lầy bùn. Từ Udine tôi đi xe ôtô đến Gorizia. Chúng tôi gặp những xe khác trên đường. Tôi nhìn cảnh vật hai bên. Những cây dâu trơ trụi lá, cánh đồng ngả màu nâu. Những chiếc lá úa rụng từ những hàng cây xơ xác rơi xuống mặt đường có nhiều người đang làm việc. Họ lấy đá chất đống cao bên đường giữa các hàng cây để lấp ổ gà. Chúng tôi thấy thành phố phủ một lớp sương mù che lấp cả núi. Chúng tôi qua sông, nước sông dâng cao. Trên núi trời đã mưa mấy ngày qua. Chúng tôi đi vào thành phố, trước tiên qua mấy xưởng máy, nhà cửa và biệt thự, tôi thấy có thêm nhiều nhà bị trúng bom trên con đường hẹp. Chúng tôi gặp một chiếc xe Hồng thập tự Anh. Người lái xe đội mũ lưỡi trai, khuôn mặt gầy gầy, nước da màu đồng... Tôi không quen hắn. Tôi bước xuống xe ở quảng trường lớn trước toà Đô chính. Người lái xe trao ba lô cho tôi. Tôi khoác ba lô trên lưng, treo lủng lẳng hai chiếc túi bên hông và đi vào toà biệt thự. Tôi không cảm thấy như người đi xa mới được trở về nhà.

Tôi đi theo con đường trải sỏi ướt, vừa đi vừa nhìn toà biệt thự qua hàng cây. Các cửa sổ đều đóng kín, chỉ chừa cửa lớn còn mở. Tôi bước vào, thấy viên thiếu tá đang ngồi ở bàn viết trong một phòng trống, trên tường treo la liệt các bản đồ và các tờ giấy đánh máy.

- Thế nào, khỏe chứ? - Ông hỏi. Trông ông có vẻ già và khô khan hơn trước.

- Tôi khỏe ạ - Tôi đáp - Còn mọi việc ở đây ra sao?

- Xong cả. Bỏ hành lý ra đi và ngồi xuống đây - Ông nói.

Tôi bỏ ba lô và hai chiếc túi dết xuống sàn nhà, đặt chiếc mũ lên trên ba lô. Tôi kéo chiếc ghế ở gần tường và ngồi xuống bên cạnh bàn viết.

- Mùa hè bị thất bại - Ông nói - Còn anh giờ mạnh hẳn rồi chứ?

- Vâng ạ.

- Anh được thăng chức chứ?

- Vâng, cám ơn ông.

- Đâu, đưa tôi xem.

Tôi mở áo choàng đưa cho ông xem hai cái tua.

- Thế anh có nhận được huy chương không?

- Không, chỉ thấy trên giấy tờ thôi.

- Thế thì nó sẽ đến sau. Việc đó đòi hỏi nhiều thì giờ.

- Bây giờ tôi phải làm gì đây?

- Mấy chiếc xe đi hết. Có sáu chiếc đi lên hướng Bắc, Caporetto. Anh biết Caporetto chứ?

- Vâng - Tôi đáp.

Tôi nhớ ra hình ảnh một thành phố nhỏ màu trắng với một gác chuông nằm trong thung lũng. Thành phố tuy nhỏ nhưng sạch sẽ, có rất nhiều vòi nước phun rất đẹp ở quảng trường.

- Bây giờ chúng ta làm việc ở đó đấy. Có rất nhiều bệnh nhân. Chíến cuộc đã tàn rồi.

- Thế còn những chiếc xe kia đi đâu?

- Hai chiếc đi lên núi, còn bốn chiếc ở Bainsizza, còn hai chiếc Hồng thập tự kia thì ở Carso với tiểu đoàn ba.

- Thế bây giờ thiếu tá cần tôi làm gì?

- Nếu thích, anh có thể phụ trách bốn chiếc xe ở Bainsizza. Gino đã lên đó khá lâu. Anh chưa bao giờ đi đến đó phải không?

- Chưa.

- Tệ lắm. Chúng ta mất ba chiếc xe.

- Tôi có nghe nói.

- À, chắc Rinaldi viết cho anh.

- Thế Rinaldi đang ở đâu?

- Hắn đang ở đây, trong bệnh viện này. Hắn phải ở hết mùa hè và mùa thu.

- Tôi cũng tin là thế.

- Thật là kinh khủng. Anh không thể tưởng tượng được. Tôi thường cho là anh rất may mắn khi bị thương ngay từ đầu.

- Tôi biết thế.

- Sang năm còn tệ nữa - Thiếu tá nói - không chừng họ sẽ tấn công bây giờ. Người ta nói là bọn chúng sắp tấn công, nhưng tôi không tin thế. Đã muộn rồi. Anh có thấy con sông kia không?

- Có ạ, nước sông đã dâng cao.

- Tôi không tin họ sẽ tấn công vì bây giờ mùa mưa bắt đầu, và lại sắp có tuyết. Mà này, kể chuyện các bạn đồng hương của anh đi. Ngoài anh có người Mỹ nào ở đó nữa không?

- Họ đang huấn luyện một đạo quân mười ngàn người.

- Tôi hy vọng sẽ nhận được thêm một số nữa, nhưng rồi tụi Pháp sẽ cuỗm hết. Chúng ta sẽ không còn thấy người nào ở đây nữa. Thôi được rồi, anh ở lại đây đêm nay. Ngày mai anh lấy xe nhỏ này đi đến đó và cho Gino về. Tôi sẽ cho người đi theo anh để chỉ đường. Gino sẽ nói cho anh. Anh sẽ thích thú ở Bainsizza.

- Thưa thiếu tá, tôi rất hân hạnh được trở lại với thiếu tá.

Ông mỉm cười.

- Cám ơn anh đã nói thế. Tôi đã chán ngán cuộc chiến tranh này lắm rồi. Nếu tôi ra đi thì tôi không tin rằng tôi sẽ trở về được nữa.

- Tệ đến thế cơ à?

- Phải, từ tệ biến thành nguy ngập. Thôi anh hãy đi tắm rửa và gặp anh bạn Rinaldi của anh đi.

Tôi bước ra và mang theo hành lý lên lầu. Rinaldi không có trong phòng, nhưng mọi thức của cậu ta để đó. Tôi ngồi trên giường và tháo bít tất ra. Tôi cởi chiếc giày bên phải và ngả lưng xuống giường. Tôi thấy mỏi mệt và chân phải bị đau. Nằm trên giường với một chân mang giày, trông tôi lúc đó buồn cười quá. Tôi bèn trỗi dậy tháo luôn chiếc kia và để nó rớt xuống đất. Sau đó tôi nằm trở lại trên giường. Gian phòng ngột ngạt vì cửa sổ đóng kín mít nhưng tôi quá mệt mỏi đến độ không muốn đứng dậy mở cửa. Tôi nhìn thấy hành lý của tôi bỏ một đống trong góc phòng. Bên ngoài trời đã bắt đầu tối. Nằm trên giường tôi nghĩ đến Catherine và chờ đợi Rinaldi. Tôi cố gắng không nghĩ đến Catherine chỉ trừ về đêm trước khi tôi ngủ. Nhưng giờ đây tôi đang mệt và rỗi rãi nên tôi có thể nghĩ đến nàng. Tôi đang mơ tưởng đến nàng thì Rinaldi bước vào. Cậu ta không thay đổi nhưng có vẻ gầy đi một tí.

- Thế nào em bé - Cậu ta bảo. Tôi nhổm dậy. Anh đến ngồi bên giường và choàng tay qua người tôi.

- Em bé yêu - Anh vỗ vai tôi và tôi nắm lấy hai tay anh.

- Này cưng - Anh nói - Đưa đầu gối cho tớ xem nào.

- Tôi phải cởi quần mới được.

- Cứ tự nhiên đi, chỗ bạn bè với nhau cả mà. Tớ muốn xem người ta đã làm những gì cho cậu.

Tôi đứng lên cởi quần và gỡ dây treo đầu gối xuống. Rinaldi ngồi xổm trên sàn nhà và nhẹ nhàng uốn chân tôi từ đàng trước ra đàng sau. Anh đưa ngón tay xoa lên vết sẹo và để mấy ngón kia lên xương bánh chè và xoa nhè nhẹ.

- Người ta nối các khớp xương cậu lại như thế này thôi ư?

- Ừ.

- Giờ cậu trở lại như thế này là phạm tội đấy nhé. Họ phải chờ cho cử động trở lại bình thường đã.

- Bây giờ đã khá hơn trước nhiều lắm. Lúc trước đầu gối tôi cứng như khúc cây.

Rinaldi lại uốn đầu gối tôi xuống lần nữa. Tôi ngắm đôi tay của anh, anh có đôi tay thần tình của nhà giải phẫu. Tôi nhìn trên đầu anh, mái tóc chải mượt và tươm tất. Anh uốn quá mạnh đầu gối tôi.

- Ái! - Tôi la lên.

- Cậu phải theo cách chữa trị bằng máy một thời gian nữa - Rinaldi bảo.

- Thế này trông còn khá hơn trước.

- Tôi biết mà em. Tớ biết nhiều về việc này hơn cậu mà - Rinaldi đứng dậy ngồi lại trên giường - Chính đầu gối thì làm rất dễ - Anh bỏ qua chuyện đầu gối - Nào, hãy kể cho tớ nghe em đã làm được những gì nào?

- Không có gì để kể hết. Mình đã sống một cuộc đời trầm lặng.

- Em có vẻ như người đã có vợ rồi. Có chuyện gì thế?

- Không có chuyện gì cả. - Tôi đáp - Thế còn anh?

- Tớ ấy à? Trận giặc này giết chết mình rồi - Rinaldi bảo - Chán quá! - Anh choàng tay qua đầu gối.

- Ồ - Tôi bảo.

- Thế nào? Tôi không được phép có những rung động của con người hay sao?

- Không phải. Mình ngỡ là cậu vui vẻ lắm. Có chuyện gì hãy kể cho mình nghe đi.

- Suốt mùa hè và mùa thu này mình bận việc giải phẫu. Rất bận. Những trường hợp nghiêm trọng người ta đều để lại cho mình. Chúa ơi, mình trở thành một nhà giải phẫu cừ khôi.

- Tôi thích như thế hơn.

- Tôi chẳng bao giờ nghĩ tới. Ôi Chúa ơi, tôi chẳng bao giờ nghĩ là mình mổ xẻ rất cừ.

- Rất tốt.

- Nhưng bây giờ em ơi, hết rồi. Mình không còn mổ xẻ nữa và cảm thấy như chết rồi. Cuộc chiến tranh này ghê gớm quá em ạ. Mình nói như vậy cậu có thể tin. Nào bây giờ em nói chuyện cho vui lên một tí đi. Em có mang đĩa hát về không nào?

- Có.

Đĩa hát bọc giấy, để trong bìa hộp các tông trong ba lô. Lấy nó ra cũng mệt.

- Còn về phần em, cũng không hay à?

- Ồ, ngốc ạ, không.

- Chiến tranh này thật là khủng khiếp - Rinaldi bảo - Nào chúng ta đi nhậu cho thật say, cho vui. Cậu sẽ thấy nó làm cho chúng ta phấn chấn.

- Tớ vừa mới mắc bệnh hoàng đản cho nên không uống nhiều rượu được.

- Ồ em bé, em trở lại đây với một con người nghiêm trang ý tứ thế kia à? Mình đã bảo cậu là cuộc chiến tranh này vô nghĩa. Thế sao chúng ta lại phải đeo đuổi nó chứ?

- Chúng ta sẽ uống một tí. Mình không muốn say nhưng sẽ uống một ly.

Rinaldi đi qua phòng đến bên bàn rửa mặt và quay lại với một chai cô nhắc và hai cái ly.

- Rượu cô nhắc Áo đấy - Anh nói - Nhãn hiệu với bảy ngôi sao. Toàn bộ chiến lợi phẩm lấy được ở San Gabrielle đấy.

- Lúc đó anh có ở đấy không?

- Không, mình không hề ở đấy. Lúc đó mình ở đây để mổ xẻ suốt. Này em xem, đây là cái ly đánh răng cũ của em đấy. Anh giữ kỹ để tưởng nhớ đến em.

- Và nhắc nhở anh đánh răng.

- Không, mình cũng có một cái nữa mà. Mình giữ cái này để nhớ lúc trước mỗi buổi sáng em làm gì. Cứ mỗi lần nhìn tới cái ly này, mình nhớ tới chuyện em cố tẩy sạch lương tâm bằng cái bàn chải - Anh lại gần giường - Hôn mình một cái đi nào và cam đoan với mình là em không hề đạo mạo.

- Không mình không bao giờ hôn cậu. Cậu là một con khỉ già.

- Tớ biết mà, cậu là loại Anglo Saxon lý tưởng. Tớ biết cậu là thằng con trai đang bị lương tâm cắn rứt, hối hận. Mình đợi đến lúc tên Anglo Saxon đó đánh tan sự truỵ lạc của mình bằng một cái bàn chải đánh răng.

- Rót thêm rượu vào ly nữa đi.

Chúng tôi cụng ly và uống cạn. Rinaldi nhìn tôi cười.

- Tớ sẽ làm cho cậu say, móc lá gan của cậu ra và cho vào đó lá gan của một người Ý mạnh khỏe rồi biến cậu trở thành con người như cũ.

Tôi đưa ly cho anh rót thêm rượu. Bên ngoài trời đã tối hẳn. Cầm ly rượu trong tay, tôi tiến lại mở cửa sổ. Trời đã tạnh mưa. Bên ngoài trời lạnh hơn và sương mù bao phủ các ngọn cây.

- Đừng hất rượu cô nhắc qua cửa sổ đấy - Rianaldi bảo - Cậu không uống được thì đưa cho tớ.

- Đến mà lấy - Tôi bảo.

Tôi vui mừng được gặp lại Rinaldi. Hai năm nay cậu ta luôn luôn chọc ghẹo tôi và tôi lấy thế làm thích. Chúng tôi luôn luôn hợp ý nhau.

- Em đã lấy vợ chưa? - Anh hỏi tôi.

Rinaldi ngồi trên giường, còn tôi đứng dựa lưng vào tường cạnh cửa sổ.

- Chưa.

- Cậu đang yêu phải không?

- Phải.

- Với cô gái người Anh đó chứ?

- Phải.

- Tội nghiệp em nhỏ, thế nàng có ngoan ngoãn với em không?

- Dĩ nhiên là có.

- Mình muốn nói là nàng có ngoan ngoãn một cách... một cách cụ thể hơn cơ.

- Im đi.

- Được rồi, mình sẽ chứng tỏ cho cậu biết mình là một người rất tế nhị, thế nàng có...

- Rinaldi, tôi van anh hãy im đi. Nếu anh muốn trở thành bạn của tôi thì anh hãy im đi.

- Mình không muốn trở thành bạn của cậu, vì mình đang là bạn của cậu kia mà?

- Vậy thì hãy im đi.

- Được rồi.

Tôi tiến lại giường ngồi bên cạnh Rinaldi. Ly cầm ở tay, hắn nhìn sàn nhà.

- Rinaldi, anh thấy như thế nào?

- Ồ, suốt đời mình gặp nhiều vấn đề thiêng liêng nhưng với em thì quá ít. Mình nghĩ cậu cũng phải có - Anh nhìn xuống sàn nhà.

- Thế em không có chuyện gì thiêng liêng sao?

- Không.

- Tuyệt nhiên một chuyện nào hết cả ư?

- Không.

- Ngay cả chuyện mẹ em và em gái em nữa ư?

- Ngay cả chuyện em gái em - Rinaldi nói nhanh. Hai chúng tôi phá lên cười.

- Thực là một con người kỳ dị - Tôi bảo.

- Có lẽ mình ghen cũng nên - Rianaldi nói.

- Không, không phải thế.

- Mình không muốn nói đến loại ghen thế. Mình muốn nói chuyện khác. Cậu có người bạn nào lập gia đình rồi không?

- Có - Tôi đáp.

- Mình thì không. Nhất là khi họ yêu nhau.

- Tại sao thế?

- Vì thế họ không yêu mình.

- Tại sao vậy?

- Tại vì mình là con rắn, con rắn của lẽ phải.

- Anh nhầm lẫn mất rồi. Quả táo mới là lẽ phải.

- Không, chính là rắn.

Trông Rinaldi có vẻ vui hơn.

- Khi anh không suy nghĩ sâu xa thì trông anh có vẻ khá hơn.

- Anh thích em lắm, em bé ạ. Nếu anh xét đóan chắc là em sẽ công kích. Nhưng mình biết nhiều điều mà mình không thể nói ra được. Anh biết nhiều hơn em mà.

- Phải, dĩ nhiên là như vậy.

- Nhưng em sẽ hạnh phúc hơn, cho dù có hối hận em cũng sẽ hạnh phúc hơn.

Nhưng tôi không tin thế.

- Ồ đúng mà. Đúng là sự thật mà. Còn mình, mình chỉ tìm thấy hạnh phúc khi làm việc - Anh lại nhìn xuống sàn nhà.

- Anh sẽ được toại nguyện.

- Không, mình chỉ thích có hai điều. Một, có hại cho nhiệm vụ của mình, còn một nữa thì chỉ kéo dài độ nửa giờ hoặc mười lăm phút, đôi khi ít hơn.

- Đôi khi còn ít hơn thế nữa.

- Có lẽ anh đã tiến bộ nhiều rồi đấy, em bé không biết à. Nhưng chỉ có hai điều đó và công việc.

- Rồi anh sẽ thấy những cái khác nữa.

- Không, không bao giờ chúng ta thấy gì khác hơn được nữa. Chúng ta sinh ra với tất cả những gì chúng ta có và chúng ta không bao giờ thay đổi cả. Chúng ta không bao giờ được thêm cái gì mới cả. Chúng ta đã được đầy đủ ngay từ lúc đầu. Mình thích mình không phải là người La tinh.

- Điều đó không có ở người La tinh. Tôi muốn nói là tư tưởng La tinh. Anh lại quá tự hào với các khuyết điểm của anh.

Rinaldi nhìn lên và mỉm cười.

- Đủ rồi em bé, nghĩ nhiều quá phát mệt.

Lúc mới bước vào trông Rinaldi có vẻ mệt mỏi.

- Sắp đến giờ ăn rồi. Mình rất vui khi thấy cậu trở lại. Cậu là người bạn chí thân và là chiến hữu của mình.

- Bao giờ thì các chiến hữu đi ăn? - Tôi hỏi.

- Ngay bây giờ. Chúng ta sẽ uống thêm một lần nữa để cho lá gan của em mạnh lên.

- Giống như thánh Paul.

- Không đúng thế. Đấy là rượu và dạ dày. Uống một it rượu cho ấm dạ dày.

- Uống bất cứ thứ gì anh có trong chai - Tôi nói - Và vì điều tốt lành cho bất cứ ai mà anh muốn.

- Uống để chúc mừng người bạn đời của cậu - Anh nâng ly lên.

- Được lắm.

- Mình không bao giờ nói chuyện nhảm nhí về nàng.

- Đừng quá cố sức như thế.

Anh nốc cạn ly cô nhắc.

- Mình trong sạch lắm, trong sạch như em vậy. Mình cũng sẽ tìm một cô gái trẻ người Anh. Sự thực là mình biết cô ta trước em, cô gái người Anh ấy mà, chỉ có một điều là cô ta hơi cao hơn mình một tí. Một cô gái cao hơn mình thì khác gì là chị mình.

- Tâm hồn anh thật trong sạch đáng mến - Tôi nói.

- Thật như vậy à? Thảo nào mà người ta gọi mình là “Rinaldi trong sạch”.

- Hay là “Rinaldi khỉ già”...

- Thôi đi em. Chúng ta hãy đi ăn vào lúc tâm hồn còn trong sạch.

Tôi tắm rửa, chải đầu rồi chúng tôi cùng đi xuống cầu thang. Rinaldi hơi chếnh choáng. Trong phòng ăn, bữa ăn còn chưa dọn xong.

- Để mình đi lấy chai rượu - Rinaldi nói.

Rinaldi lại lên cầu thang. Tôi ngồi vào bàn. Anh trở lại với chai cô nhắc và rót đầy hai ly.

- Nhiều quá - Tôi đưa ly lên soi về phía ánh đèn trên bàn.

- Có thấm vào đâu với cái bụng trống rỗng. Tuyệt lắm. Như thế này dạ dày sẽ hoàn toàn bị đốt cháy. Không có gì hại cho gan cả.

- Được rồi.

- Tự huỷ hoại mình mỗi ngày một ít - Rinaldi nói - rượu sẽ làm hại dạ dày và run tay. Toàn là những việc có hại cho nghề giải phẫu.

- Anh đoan chắc như thế chứ?

- Chắc chắn như vậy. Mình không nói sai đâu. Uống đi em rồi chờ ngày bị ốm.

Tôi uống nửa ly. Ngoài hành lang tôi nghe thấy tiếng người hầu bàn kêu lên :

- Xúp đây. Xúp dọn sẵn rồi.

Thiếu tá bước vào, gật đầu chào chúng tôi và ngồi xuống. Ngồi vào bàn, trông ông ta nhỏ người.

- Có thế thôi hả? - Ông ta hỏi.

Người phục vụ đặt xúp lên bàn. Ông múc đầy ra đĩa.

- Không - Rinaldi bảo - Miễn là cha tuyên úy không đến. Nếu ông ta biết có Federico ở đây, ông ta sẽ đến.

- Thế ông ấy ở đâu? - Tôi hỏi.

- Ông ấy ở tiểu đoàn 307 - Thiếu tá nói. Ông dùng xúp xong và lau miệng, lau kỹ bộ ria mép vểnh lên.

- Có lẽ cha sắp đến. Tôi đã gọi điện và báo cho cha biết là có anh ở đây.

- Tôi thấy thiếu không khí ỗn ào của buổi ăn chung - Tôi nói.

- Phải, yên lặng quá - Thiếu tá bảo.

- Để tôi gây ồn ào cho - Rinaldi nói.

- Dùng rượu chứ Henry? - Thiếu tá hỏi.

Ông ta rót đầy ly cho tôi. Món mì Ý được mang vào và tất cả chúng tôi đều bận rộn với món ăn này một lát. Chúng tôi ăn xong mì thì cha bước vào. Ông trông không thay đổi, vẫn người nho nhỏ, nước da sạm nắng và khuôn mặt khắc khổ. Tôi đứng dậy siết chặt tay tôi. Ông để tay lên vai tôi và nói :

- Tôi đến ngay khi hay tin anh trở lại...

- Mời cha ngồi - Thiếu tá nói - Cha đến hơi muộn.

- Chào cha - Rinaldi nói bằng tiếng Anh. Hắn nói giọng pha tiếng Anh của viên đại úy đã thường dùng để chế giễu vị linh mục.

- Chào anh, Rinaldi - Cha tuyên úy đáp lại.

Lính hầu bàn mang xúp đến cho ông nhưng ông bảo ông sẽ bắt đầu bằng món mì Ý này.

- Anh mạnh giỏi chứ? - Ông hỏi tôi.

- Vâng, tôi rất khoẻ. Còn cha?

- Cha uống rượu đi - Rinaldi bảo - Cha uống một tí rượu cho dạ dày dễ làm việc, đây là thánh Paul, cha biết mà.

- Phải tôi biết - Vị linh mục nói với vẻ trịnh trọng. Rinaldi rót rượu vào ly.

- Thánh Paul thiêng liêng - Rinaldi nói - Chính từ thánh xảy ra mọi điều xấu xa.

Viên thiếu tá mỉm cười. Bây giờ chúng tôi đang dùng đến món ragu.

- Tôi không bao giờ dám bàn luận đến một ông thánh lúc tối trời - Tôi nói.

Vị linh mục nhìn tôi mỉm cười.

- Xem tôi đây, tôi đang ngồi cạnh cha đây - Rinaldi nói - Còn những người bạn đã từng chọc phá cha đâu cả rồi. Brundi đâu? Cesare đâu? Để một mình tôi trêu ghẹo cha thôi à, không có ai phụ hoạ với tôi sao?

- Cha là một vị linh mục tốt - Thiếu tá nói.

- Cha là một vị linh mục tốt - Rinaldi lặp lại - Nhưng cha vẫn là một vị linh mục, không hơn không kém. Tôi ráng làm cho bữa ăn chung hôm nay sống động trở lại như những bữa ăn trước kia. Tôi muốn làm cho Federico vui thích. Còn cha, cha hãy cút đi là vừa.

Tôi thấy thiếu tá nhìn hắn và hiểu rằng hắn đã say. Mặt anh tái đi, đường ngôi rẽ thẳng xuống vầng trán trắng xanh.

- Thế đủ rồi - Vị linh mục bảo - Thế đủ lắm rồi Rinaldi, hãy thôi đi.

- Cha hãy cút đi - Rinaldi bảo - Cha hãy cút đi với tất cả các công việc vớ vẩn. - Anh ngả xuống ghế.

- Hắn ta làm việc quá sức và mệt mỏi - Thiếu tá nói với tôi. Ông dùng xong miếng thịt cuối cùng và dùng một mẩu bánh mì vét sạch nước sốt ragu.

- Tôi không cần gì cả - Rinaldi nói - Hãy cút đi với tất cả các công việc vớ vẩn - Anh nhìn quanh bàn ăn với vẻ mặt thách đố, mắt long lên và gương mặt xám ngoét.

- Được rồi - Tôi bảo - Cút đi với tất cả các công việc ngớ ngẩn.

- Không, không - Rinaldi bảo - Em không thể nói thế. Em không nên nói thế. Tôi bảo là anh không nên nói như thế mà. Người ta khô khan, trống rỗng và không có gì cả. Không có gì để kể với anh cả. Không có việc gì nhỏ nhen chê trách cả. Tôi biết, tôi am tường khi tôi ngưng làm việc.

Cha tuyên úy lắc đầu. Người phục vụ dọn đĩa ra gu.

- Cha ăn thịt đấy ư? - Rinaldi quay sang vị linh mục - Cha không biết hôm nay là ngày thứ sáu sao?

- Thứ năm mà - Vị linh mục trả lời.

Rinaldi cười lớn. Hắn rót rượu đầy ly.

- Đừng chú ý - Anh nói - Tôi hơi điên.

- Anh cần phải được đi nghỉ phép - Cha tuyên úy bảo.

Thiếu tá lắc đầu ra hiệu cho cha tuyên úy. Rinaldi nhìn ông :

- Ông cho rằng tôi phải đi nghỉ phép à?

- Tuỳ ý anh - Vị linh mục nói - Còn anh không muốn thì thôi.

- Ông xéo đi - Rinaldi nói - Họ cố tình gạt tôi ra mà. Nhưng tôi phải kháng cự.

- Thế đủ rồi - Thiếu tá nghiêm nghị ngắt lời.

Người hầu bàn mang đồ tráng miệng và cà phê vào. Món tráng miệng là bánh mì nướng có trét kem. Ngọn đèn dầu bốc khói, khói đen bốc thẳng lên cửa kính.

- Mang cho chúng tôi hai ngọn bạch lạp và dẹp cây đèn dầu này đi - Viên thiếu tá bảo.

Người hầu bàn đem đến hai ngọn nến đặt trên hai cái đĩa, tắt ngọn đèn dầu rồi mang đi nơi khác. Rinaldi đã im và trông anh có vẻ bình thường. Chúng tôi tiếp tục cùng nhau chuyện trò và sau tuần cà phê, tất cả đều rời khỏi phòng ăn và đi ra hành lang.

- Anh muốn nói chuyện với cha chứ? Tôi phải vào thành phố - Rinaldi bảo - Chào cha.

- Chào anh Rinaldi - Cha tuyên úy đáp lại.

- Chúng mình sẽ gặp lại nhau Federico - Rinaldi bảo.

- Vâng chào anh - Tôi nói - Đừng về muộn nhé.

Anh ta nhăn mặt và bước ra khỏi cửa. Thiếu tá đứng gần chúng tôi nói :

- Rinaldi làm việc quá sức và quá mệt mỏi. Thôi chào anh, Henry, anh sẽ rời khỏi nơi này trước khi trời sáng chứ?

- Thưa vâng.

- Thôi chào anh - Ông nói - Chúc anh gặp nhiều may mắn. Peduzzi sẽ đánh thức anh và cùng đi với anh.

- Xin chào thiếu tá.

- Chào anh. Nghe nói sắp có một cuộc tấn công của bọn Áo, nhưng tôi không tin điều đó. Hy vọng là tin đó không đúng. Nhưng dù thế nào cũng sẽ không xảy ra trong khu vực này. Gino sẽ cho anh biết mọi thứ. Đường dây điện thoại đến giờ vẫn tốt.

- Tôi sẽ gọi điện thoại thường xuyên.

- Xin vui lòng làm vậy, chào anh. Đừng để cho Rinaldi uống nhiều rượu mạnh nhé.

- Tôi sẽ cố gắng.

- Chào cha.

- Chào thiếu tá.

Ông đi vào phòng làm việc.

Chương 26

Tôi đi lại phía cửa và nhìn ra ngoài. Mưa đã dứt nhưng có sương mù.

- Chúng ta đi lên gác chứ? - Tôi hỏi vị linh mục.

- Tôi chỉ có thể nán lại đây giây lát thôi.

- Vậy thì ta đi lên.

Chúng tôi đi lên thang gác và bước vào phòng riêng của tôi. Tôi nằm xuống giường của Rinaldi. Cha tuyên úy ngồi vào giường của tôi mà người cần vụ vừa sửa soạn. Trong phòng tối om.

Vị linh mục hỏi tôi :

- Sao? Anh đã khỏe lại thật rồi chứ?

- Vâng. Chiều nay tôi mệt.

- Tôi cũng mệt nhưng không vì lý do nào cả.

- Thế còn chiến tranh?

- Tôi tin là nó sẽ chấm dứt. Tôi chẳng biết tại sao nhưng tôi cảm thấy là như thế đấy.

- Thế là thế nào?

- Anh có biết vị thiếu tá chỉ huy hiền lành của anh là thế nào không? Thế đấy, bây giờ nhiều người cũng như ông ấy.

- Chính tôi cũng cảm thấy như thế - Tôi nói.

- Chúng ta đã qua một mùa hè kinh hoàng - Cha tuyên úy nói - Anh sẽ chẳng bao giờ biết nó đã ra sao. Tuy nhiên anh đã ở dưới ấy và anh có thể tự hình dung ra. Nhiều người chỉ thấy cuộc chiến tranh trong mùa hè năm nay. Nhiều sĩ quan tôi tưởng không bao giờ hiểu được giờ đã hiểu ra.

- Thế rồi cục diện sẽ ra sao? - Tôi vừa hỏi vừa vuốt cái chăn.

- Tôi cũng không rõ. Nhưng tôi nghĩ rằng nó không thể tiếp tục quá lâu.

- Thế thì việc gì sẽ xảy đến?

- Họ sẽ đình chiến.

- Ai?

- Cả đôi bên.

- Tôi cũng hy vọng như vậy - Tôi nói.

- Anh không tin sao?

- Tôi không tin là cả đôi bên sẽ ngưng chiến trong cùng một lúc.

- Cứ cho là như thế đi. Đó là một yêu cầu quá cao. Nhưng khi tôi nhìn thấy tất cả những thay đổi đó trong lòng người là nó không thể tiếp tục được.

- Ai thắng trong mùa hè này?

- Không ai cả. - Cha tuyên úy nói.

- Bọn Áo thắng - Tôi nói - Bọn chúng cố giữ không cho chiến thắng ở San Gabrielle. Như vậy là chúng ta đã thắng và bọn chúng sẽ không chịu ngừng chiến.

- Nếu họ nghĩ như chúng ta, họ sẽ ngừng chiến. Họ cũng đã đau khổ nhiều như chúng ta.

- Chẳng bao giờ kẻ chiến thắng dừng lại.

- Anh nản chí quá.

- Tôi nghĩ sao thì nói vậy.

- Như vậy anh nghĩ rằng chiến tranh sẽ kéo dài mãi mãi sao? Sẽ không có chuyện gì xảy đến phải không?

- Tôi không biết. Tôi chỉ nghĩ là bọn Áo sẽ không bao giờ ngưng chiến chừng nào bọn chúng còn thắng trận. Vì chiến bại mà người ta trở thành những tín đồ Cơ đốc giáo.

- Bọn Áo cũng là những tín đồ Cơ đốc giáo chỉ trừ người Bosni.

- Tôi không muốn nói đến tín đồ Cơ đốc giáo như nghĩa chữ. Tôi muốn nói chúng ta thất bại như đấng Cứu thế của chúng ta.

Ông lặng thinh.

- Giờ đây chúng ta hiền lành vì chúng ta bị thua. Chẳng biết đấng Cứu thế của chúng ta sẽ ra như thế nào nếu lúc bấy giờ thánh Pierre giải thoát được Người trong vườn Olive.

- Người cũng sẽ như vậy thôi.

- Tôi không tin thế.

- Anh nản lòng quá. Tôi tin là có điều gì đó sắp đến và tôi không ngớt lòng cầu nguyện. Tôi cảm thấy việc ấy sắp đến.

- Có khả năng sẽ có một việc gì xảy đến - Tôi nói - Nhưng chỉ xảy đến riêng cho chúng ta thôi. Nếu họ cũng nghĩ như chúng ta thì thật tuyệt. Nhưng họ đánh bại chúng ta. Họ nghĩ khác hơn chúng ta.

- Nhiều binh sĩ cũng lập luận như chúng ta nhưng không phải vì họ bị tấn công.

- Họ bị tấn công ngay từ đầu. Họ bị tấn công ngay từ lúc người ta dứt họ ra khỏi trang trại và xung họ vào quân ngũ. Vì lý do đó người dân quê có lương tri vì họ từng chiến bại ngay từ lúc ban đầu. Hãy ban cho họ quyền lực đi rồi ta sẽ thấy lương tri của họ như thế nào.

Vị linh mục lặng thinh ra chiều nghĩ ngợi.

- Bây giờ chính tôi cũng đã chán nản quá rồi. Thế cho nên tôi cũng không còn muốn nghĩ đến những việc đó nữa. Tôi không hề nghĩ ngợi tuy nhiên khi bắt đầu nói thì tôi nói những gì hiện ra trong trí óc tôi mà chuyện đắn đo gì cả.

- Tôi đã từng hy vọng mấy điều.

- Thất trận chăng?

- Không có cái gì hơn thế cả, ngoại trừ chiến thắng. Điều này lại còn tệ hơn nữa.

- Đã từ lâu rồi, tôi ước mong chiến thắng.

- Tôi cũng thế.

- Bây giờ tôi không còn hy vọng nữa.

- Thì hoặc là chiến thắng hoặc là chiến bại chứ còn gì.

- Tôi không còn tin tưởng vào chiến thắng nữa.

- Tôi cũng thế. Nhưng tôi cũng không tin là sẽ chiến bại. Dù sao như thế sẽ có giá trị hơn.

- Thế anh tin tưởng gì nào?

- Giấc ngủ - Tôi nói.

Ông đứng lên.

- Xin lỗi anh, tôi đã ở lại quá lâu. Nhưng tôi rất thích đàm đạo với anh như vậy.

- Tôi rất hân hạnh đã nói chuyện thêm một lần nữa. Tôi không có ý gì khi nói về giấc ngủ đâu.

Chúng tôi đứng lên và bắt tay nhau trong bóng tối.

- Bây giờ tôi ngủ ở tiểu đoàn 307.

- Sáng mai tôi sẽ lên trạm sớm.

- Chúng ta sẽ cùng đi dạo và chuyện trò.

Tôi tiễn vị linh mục ra tận cửa.

- Thôi anh khỏi phải xuống - Ông nói - Anh trở lại đây thật quý hóa quá, mặc dù đối với anh thật không thích thú gì - Ông vừa nói vừa đặt tay lên vai tôi.

- Đối với tôi không có gì buồn phiền cả. Chúc cha ngon giấc.

- Vâng, chào anh. Tôi đã buồn ngủ rũ ra rồi.

Chương 27

Tôi choàng dậy khi Rinaldi bước vào phòng nhưng anh không nói gì với tôi cho nên tôi tiếp tục ngủ lại. Sáng hôm sau tôi mặc quần áo và ra đi trước bình minh, Rinaldi hãy còn ngủ say khi tôi rời phòng.

Tôi chưa biết gì về Bainsizza, và tôi thấy thật kỳ lạ khi phải leo lên sườn đồi thuộc bọn Áo, phía bên kia sông, nơi tôi bị thương dạo trước. Trên con đường dốc mới thẳng đứng có nhiều xe chạy. Xa xa, đến đoạn đường bằng phẳng, tôi nhìn thấy những khu rừng và đồi hiểm trở nằm ẩn khuất sau sương mù. Vài khu rừng đã bị đánh chiếm nhanh chóng và không hề bị hủy hoại. Xa hơn nữa, khi con đường không được đồi núi che khuất, thì nó lại được che phủ bởi những tấm ngụy trang ở hai bên và cả phía trên. Cuối đường là một ngôi làng đã bị tàn phá. Hầm hào ở cao hơn và người ta đã đặt nhiều trọng pháo chung quanh. Nhà cửa bị hoàn toàn phá huỷ nhưng tất cả đã được xếp đặt lại đâu vào đấy và người ta thấy nhan nhản những biển báo. Chúng tôi tìm gặp Gino, anh đãi chúng tôi một chầu cà phê, sau đó tôi theo anh. Tôi làm quen với nhiều người và đi thăm các trạm. Gino cho tôi biết những chiếc xe lửa của Anh đang đảm bảo công tác ở Ravne, cách xa Bainsizza một tí. Anh có vẻ phục công việc của người Anh. “Địch vẫn còn nã trọng pháo” - Anh nói “nhưng bị thương không bao nhiêu”. Lúc này đà bắt đầu mùa mưa nên có nhiều người bị ốm. Bọn Áo buộc phải tấn công nhưng anh không tin gì cả. Bên ta cũng định tấn công nhưng chưa nhận được viện binh nên anh nghĩ việc ấy cũng không thành. Lương thực thì khan hiếm nên anh hy vọng có được một bữa ăn thật sự ở Gorizia. Chiều nay tôi đã dùng gì? Tôi kể với anh và anh cho đó là tuyệt diệu. Anh ta đặc biệt ngạc nhiên về loại bánh Dolce, tôi không thể miêu tả tỉ mỉ loại bánh đó được mà chỉ nói vắn tắt đó là một loại bánh Dolce, và tôi tin rằng anh ta sẽ tưởng đó là một thứ gì bánh gì khác lạ hơn thứ bánh thường bằng ruột bánh mì.

Anh hỏi tôi có biết người ta sẽ cử anh đi đâu không. Tôi trả lời tôi không biết gì cả nhưng có vài chiếc xe của chúng tôi đang ở Caporetto. Anh hy vọng rằng người ta sẽ gởi anh đến đó. Caporetto là một nơi nhỏ hẹp nhưng rất nên thơ. Anh yêu thích những dãy núi cao ngất sừng sững phía xa. Anh là một thanh niên đáng mến. Anh bảo với tôi rằng San Gabrielle bây giờ thực sự là một địa ngục trần gian và cuộc tấn công vào Lom hoàn toàn thất bại. Anh nói bọn Áo đã đặt sẵn nhiều khẩu trọng pháo trong các khu rừng trên đỉnh núi Ternova, phía trên chỗ chúng tôi khá xa, và ban đêm chúng pháo kích dữ dội vào những con đường. Và có cả một đội đại bác hải quân đến quấy phá nơi đó. Anh nhận ra các trái phá do chúng bắn ra qua đường bắn thấp. Người ta nghe tiếng nổ ì ầm và tiếng rít liền sau đó. Chúng thường hay bắn hai cỗ đại bác cùng một lúc, thay phiên nhau. Anh đưa cho tôi xem một mảnh đạn bóng loáng, nhọn như răng cưa và dài khoảng 30 phân.

- Tôi không ngờ chúng bắn dai dẳng đến thế - Gino nói - Chúng cũng đã làm cho tôi khiếp sợ đấy. Ai cũng tưởng là chúng rơi trên đầu mình. Trước hết là người ta nghe thấy tiếng nổ, tiếp theo sau đó là tiếng rít rồi lại tiếng nổ. Người ta có thể chết vì bị khiếp đảm chứ đừng nói chi là bị thương.

Anh nói :

- Trong những hầm trú ẩn ở trước mặt chúng ta có những thổ dân và một vài người Hungari. Quân ta vẫn còn chiếm giữ vị trí tấn công. Không có một đường dây kẽm gai nào hoặc một hầm trú ẩn nào trong trường hợp bọn Áo tấn công. Dọc theo những ngọn núi thấp trên cao nguyên, có nhiều điểm tựa thích hợp cho sự phòng thủ nhưng người ta lại không tổ chức gì cả. Thực ra tôi liên tưởng đến Bainsizza ấy.

Tôi mong rằng Bainsizaa là một vùng bằng phẳng hơn, hay ít nhất nó cũng giống như một cao nguyên. Tôi không thể tưởng tượng được tại sao nó lại gồ ghề đến thế.

- Ước mong và thực tế không giống nhau - Gino nói.

Chúng tôi trở lại căn hầm chứa rượu trong ngôi nhà mà anh đã trú ngụ. Tôi nói :

- Theo tôi nghĩ thì đỉnh dãy đồi mà bằng phẳng nhưng lại có độ sâu đáng kể ấy sẽ giúp cho việc phòng thủ dễ dàng và thuận lợi hơn là một dãy núi nhỏ kế tiếp nhau. Tấn công lên một ngọn núi bao giờ cũng khó khăn hơn ở đồng bằng.

- Điều đó còn tuỳ thuộc theo những địa thế của ngọn núi. Cứ nhìn San Gabrielle thì rõ - Anh ta nói.

- Đúng rồi nhưng điều bất lợi từ trên cao nơi quá bằng phẳng. Người ta tiến lên đỉnh khá dễ.

- Không dễ dàng như thế đâu.

- Phải, tôi đồng ý với anh - Tôi đáp - Nhưng đó lại là một trường hợp đặc biệt vì nó là một thành luỹ hơn là một ngọn núi. Nghĩa là trong một cuộc chiến tranh cơ động thì về mặt kỹ thuật, một dãy núi kế tiếp nhau cũng không hơn gì một chiến tuyến.

Tôi nói thêm rằng tôi không tin tưởng gì vào chiến trận ở rừng núi. Mình chiếm được ngọn này thì địcn quân lại chiếm được ngọn khác, đến khi chiến trận trở nên thật sự quyết liệt thì cả đôi bên đều vội vã kéo nhau xuống đồng bằng.

- Làm thế nào được khi có biên giớinúi non hiểm trở? - Anh nói.

Tôi trả lời :

- Tôi chưa hề nghiên cứu vấn đề đó. (chúng tôi cùng nhau cười lớn). Nhưng ngày xưa bọn Áo luôn luôn bị càn quét trong một chu vi vuông vức quanh vùng Verona. Người ta để chúng xuống đồng bằng rồi quét sạch chúng ở đấy.

- Phải rồi - Gino nói - Nhưng đấy là những người Pháp, và giải quyết chiến sự dễ dàng hơn khi chiến đấu ở xứ sở của người khác.

- Vâng - Tôi đồng ý - Nhưng khi nơi đó là quê hương của anh thì anh không thể áp dụng lối giải quyết một cách khoa học như thế được.

- Người Nga đã làm như thế để gài bẫy Napoléon.

- Phải, nhưng nước của họ rộng mênh mông. Nếu anh giả vờ rút lui để gài bẫy Napoléon ở Ý thì anh sẽ gặp trường hợp ở Brindisi vậy.

- Một thành phố ghê tởm - Gino nói - Anh có đến đó bao giờ chưa?

- Chưa, tôi chưa đến đó bao giờ cả.

- Tôi là một người yêu nước - Gino bảo - Nhưng tôi không thể nào thích Brindisi lẫn Tarento.

- Vậy thì anh thích Brainsizza chứ? - Tôi hỏi.

- Đó là nơi đất lành. Nhưng tôi muốn ở đó được trồng nhiều khoai tây hơn. Anh biết không, khi chúng tôi mới để chân đến chốn này, chúng tôi đã thấy những cánh đồng mà bọn Áo trồng toàn khoai tây.

- Lương thực có thật là khan hiếm không?

- Riêng tôi, không bao giờ tôi được ăn no và tôi ăn rất khoẻ. Tuy nhiên tôi không đến nỗi phải chết đói. Các bữa ăn vẫn bất thường. Ở các chiến tuyến, các đoàn quân được ăn uống khá đầy đủ, nhưng các đoàn quân yểm trợ thì lại thiếu thốn. Chắc chắn là lương thực vẫn dồi dào nhưng bị vướng mắc đâu đó.

- Bọn hậu cần lấy bán đi chứ gì?

- Phải, chúng phân phát đầy đủ cho các sư đoàn ở chiến tuyến, còn những đơn vị ở hậu tuyến thì chịu thiếu thốn. Họ đã ăn hết khoai tây bọn Áo trồng và cả hạt dẻ trong rừng nữa. Phải nuôi nấng họ tốt hơn thế này. Chúng tôi là những kẻ khỏe ăn. Tôi chắc chắn rằng lương thực rất dồi dào. Nhưng thực là một điều tàn nhẫn khi để cho quân lính chịu thiếu thốn thức ăn. Anh có nghĩ điều đó ảnh hưởng đến tinh thần thế nào không?

- Phải - Tôi nói - Như thế đã không thể nào chiến thắng được mà có thể lại chiến bại nữa là khác.

- Chúng ta không nên bàn đến việc thất trận nữa. Người ta đã nói đến nó nhiều rồi. Những sự kiện trong mùa hè này không thể nào bỏ qua được.

Tôi im lặng. Tôi luôn luôn bị bối rối vì những tiếng thiêng liêng, vinh quang, hy sinh và từ ngữ “bỏ qua vô ích”. Chúng tôi đã từng nghe những tiếng ấy khi đứng ngoài trời mưa, hầu như không lọt vào tai, chỉ nghe thấy những tiếng thét. Chúng tôi đã đọc những tiếng ấy trên tờ thông cáo đã dán lâu ngày chồng lên những tờ thông cáo khác. Tôi không thấy gì là thiêng liêng cả. Những điều người ta gọi là quang vinh thì không có gì là quang vinh cả. Nhưng sự hy sinh thì giống như những lò mổ lợn ở Chicago chỉ khác là thịt chỉ dùng để chôn đi thôi. Có nhiều danh từ người ta không thể nào chịu đựng được khi nghe và cuối cùng chỉ có những danh từ địa phương là còn giữ được đúng ý nghĩa của nó. Cả những con số, cùng với những ngày tháng năm cũng thế. Với những tên địa phương người ta còn thấy có một chút ý nghĩa. Còn những danh từ trừu tượng như vinh quang, danh dự, dũng cảm hay thiêng liêng đều là những tiếng thô bỉ so với những danh từ cụ thể như tên làng mạc, số các con đường, tên những con sông, số các tiểu đoàn và ngày tháng năm. Gino là một người giàu lòng yêu nước, vì lắm khi anh ta nói ra những câu làm chúng tôi cảm thấy cách biệt nhau, nhưng anh ta là một thanh niên tốt, dễ thương, tôi đã hiểu rõ lòng yêu nước của anh. Anh sinh ra để mà yêu nước. Anh cùng đi với Peduzzi trên một chiếc xe để đến Gorizia.

Suốt ngày hôm ấy trời xấu. Gió rít, mưa rơi, nước đọng, bùn lầy khắp nơi. Với cát vụn của các căn nhà đổ nát xám thẫm và ướt át. Đến quá trưa thì mưa mới dứt, từ trạm số hai tôi có thể nhìn tường tận cảnh khu thôn dã ướt át với mây ngang đỉnh núi và lớp rơm ướt sũng xấu xí phủ kín những quãng đường. Ở cánh rừng chơ vơ phía bên kia đỉnh đồi, ánh sáng mặt trời loé lên vài tia sáng cuối cùng trước khi đi khuất vào hoàng hôn. Có nhiều khẩu đại bác của bọn Áo đặt trong cánh rừng bên kia đồi đó, nhưng chỉ có vài khẩu hoạt động. Tôi ngắm những cụm khói đen của đạn trái phá thình lình xuất hiện trên nền trời, nơi những trang trại đổ nát nằm gần chiến tuyến, những làn khói lung linh ở giữa có điểm những tia màu vàng sáng chói. Người ta thấy ánh chớp rơi, tiếp theo là tiếng nổ và khói cuồn cuộn nổi lên rồi tan dần trong gió. Có nhiều miểng đạn trái phá trộn lẫn trong đống gạch vụn của những ngôi nhà đổ nát và ngay cả ngoài mặt đường gần ngôi nhà sụp đổ nơi dùng làm trạm cứu thương, nhưng ngày hôm đó chúng lại không pháo kích vào trạm. Chúng tôi chất lên hai chiếc xe và cho xe chạy xuống con đường có rơm ướt phủ kín, những tia sáng cuối cùng của mặt trời chiếu xuyên qua các kẽ rơm. Chúng tôi ra khỏi con đường có phủ rơm ở phía sau đồi thì mặt trời đã lặn. Chúng tôi đi theo con đường trống trải và rẽ sang một nơi dẫn đến cửa vuông của một đường hầm lát rơm thì trời lại đổ mưa.

Đêm trời nổi gió và đến ba giờ sáng lúc trời mưa như thác đổ thì cuộc oanh kích bắt đầu. Những người Croat vượt qua cánh đồng cỏ và những chòm cây rồi xông vào chiến luỹ thứ nhất. Chúng đánh trong bóng đêm dưới trời mưa và một cuộc phản công của những binh sĩ hốt hoảng ở chiến tuyến thứ hai đã đẩy lùi được chúng. Trong mưa, tiếng đạn trái phá, hoả tiễn, súng liên thanh, súng trường nổ rền khắp chiến trường. Chúng không đến nữa và lúc bấy giờ chiến trường trở lại yên tĩnh. Giữa cơn gió lộng mưa sa, xa xa về phía Bắc chúng tôi có thể nghe thấy tiếng nổ rền rất mau của một loạt trọng pháo.

Thương binh ùn lên ở trạm. Một số được khiêng bằng băng ca, một số đi bộ và một số khác được các chiến hữu cõng trên lưng băng qua cánh đồng. Toàn thân họ ướt sũng nước mưa và tất cả đều lo sợ hãi hùng. Chúng tôi chất đầy hai xe những băng ca lấy trong hầm chứa rượu của trạm cấp cứu. Khi đóng cửa chiếc xe thứ nhì, tôi cảm thấy giọt nước mưa trên mặt đã biến thành tuyết. Những bông tuyết rơi dày đặc và dồn dập dưới trời mưa.

Lúc bình minh, dông gió vẫn còn nổi lên nhưng tuyết đã ngừng rơi. Tuyết đã tan ra khi rớt xuống đất và lúc bấy giờ trời lại mưa tầm tã. Một cuộc tấn công khác đã xảy ra ngay lúc tờ mờ sáng nhưng thất bại. Chúng tôi dự đóan sẽ có cuộc tấn công nữa vào buổi trưa, nhưng trận ấy chỉ xảy ra vào lúc mặt trời lặn. Tiếng trọng pháo bắt đầu rền vang ở khu rừng phía Nam, nơi tập trung nhiều súng đại bác của bọn Áo. Chúng tôi cũng chờ một trận pháo kích như thế nhưng không việc gì. Đêm đã buông. Đại bác bắn ở cánh đồng phía sau làng và những quả trọng pháo rơi nổ từ xa tạo nên một âm thanh ì ầm đều đều.

Chúng tôi được tin là trận tấn công ở phía Nam bị thất bại. Địch không tấn công đêm đó nhưng chúng tôi nghe tin rằng chúng đã tiến lên hướng Bắc. Đến đêm chúng tôi được lệnh sửa soạn rút lui. Viên đại úy cho tôi biết như thế tại trạm cấp cứu. Ông ta được lệnh từ bộ tham mưu của lữ đoàn. Một lát sau qua điện thoại, ông ta bảo rằng tin đó không đúng. Lữ đoàn đã được lệnh phải giữ mặt trận Bainsizza với bất cứ giá nào. Tôi hỏi tin về trận đột kích của địch thì ông ta bảo theo bộ tham mưu của lữ đoàn thì bọn Áo đã đột kích sư đoàn 27 gần Caporetto. Nơi đó đã xảy ra một trận đánh vô cùng ác liệt suốt cả ngày.

- Nếu tụi quỷ sứ đó để chúng tiến đến đây thì chúng ta sẽ bị nướng hết - Ông ta nói.

- Chính là bọn Đức tấn công - Một sĩ quan quân y nói. Tiếng “Đức” có điều gì khiếp đảm. Chúng tôi không muốn chạm trán với bọn Đức.

- Bọn Đức có cả thảy 15 sư đoàn - Viên sĩ quan quân y nói tiếp - Chúng nó đã chọc thủng phòng tuyến và chúng ta sắp sửa bị bao vây.

- Lữ đoàn muốn chúng ta giữ mặt trận này, việc chọc thủng phòng tuyến không có gì đáng ngại. Chúng ta chỉ lo phòng thủ giữ con đường từ Monte Maggiore xuyên qua núi.

- Ai đã bảo thế?

- Bộ tham mưu của sư đoàn.

- Sư đoàn đã ra lệnh cho chúng ta rút lui kia mà.

- Chúng ta làm việc theo lệnh của quân đoàn - Tôi bảo - Nhưng ở đây tôi thuộc quyền ông.Dĩ nhiên ông bảo đi đâu tôi sẽ đi đó. Nhưng ông cũng nên nhận những lệnh chính xác.

- Lệnh trên bảo chúng ta ở lại đây và đưa hết các thương binh đến trạm di chuyển.

- Đôi khi chúng ta cũng phải đưa họ từ trạm di chuyển ra xe cứu thương ở mặt trận nữa - Tôi nói - Vì tôi chưa bao giờ chứng kiến một trận rút lui. Vậy nếu có trường hợp như thế, tất cả thương binh phải được di chuyển như thế nào?

- Không phải đưa đi hết. Đưa được bao nhiêu thì đưa, còn thì để lại.

- Tôi phải đem theo những gì trên xe?

- Dụng cụ bệnh viện.

- Được rồi - Tôi đáp.

Đêm sau cuộc rút lui bắt đầu. Chúng tôi nghe tin bọn Đức và bọn Áo đã chọc thủng ở phía Bắc và đang di chuyển xuống núi về hướng Cividale và Udine. Cuộc rút lui tiến hành đúng theo lệnh, ướt át và gian khổ. Trong đêm tối, chúng tôi di chuyển chậm trên đường và gặp những đoàn quân đang đi dưới mưa, những con ngựa kéo xe, nào lừa, nào xe vận tải, tất cả đều rời khỏi mặt trận. Thật là một sự hỗn độn từ trước đến nay chưa bao giờ có.

Đêm đó chúng tôi giúp di chuyển những xe cứu thương đậu ở các cao nguyên và các làng mạc ít bị phá huỷ. Chúng tôi đưa thương binh đến Plava bằng đường sông. Và qua ngày hôm sau chúng tôi lại phải chạy xe suốt ngày dưới trời mưa để tản cư các thương binh ở bệnh viện và các trạm cứu thương ở Plava. Trời mưa tầm tã. Quân đội ở Bainsizza rời khỏi cao nguyên dưới những cơn mưa tháng Mười. Họ di chuyển qua sông, nơi họ đã đạt được nhiều chiến thắng vẻ vang vào mùa xuân năm ấy. Chúng tôi đến Gorizia vào chiều hôm sau. Trời đã tạnh mưa và thành phố gần như trống rỗng.

Chúng tôi cho xe chạy đến biệt thự nhưng ở đây không còn ai. Rinaldi đã đi theo bệnh viện, viên thiếu tá cũng đã đi theo các nhân viên bệnh viện. Người ta ghi lại cho tôi ở cửa, yêu cầu chất hết các dụng cụ văn phòng lên xe và đi đến Pordenone. Các cậu thợ máy đã đi hết rồi. Lúc tôi trở lại nhà xe thì hai chiếc xe khác cũng vừa tới, và hai người lái bước xuống. Trời lại đổ mưa.

- Từ Plava đến đây tôi buồn ngủ quá nên đã ngủ gật ba lần - Piani nói - Giờ đây chúng ta phải làm gì, thưa trung uý?

- Ta phải cho dầu, bôi mỡ, cho xăng đầy bình rồi đem xe ra trước nhà, chất hết những đồ đạc gì mà họ còn để lại.

- Và sau đó chúng ta có khởi hành không?

- Không, chúng ta phải ngủ ba tiếng đồng hồ đã.

- Chúa ơi, còn gì thích bằng được ngủ - Bonello nói - Tôi không còn thức nổi để mà lái xe.

- Chiếc xe anh thế nào, Aymo? - Tôi hỏi.

- Tốt lắm.

- Đưa hộ tôi chiếc áo làm việc, tôi sẽ giúp anh tra dầu.

- Không nên. Trung úy đừng làm thế. Có gì đâu. Trung úy nên lo sửa soạn công việc của trung úy.

- Tôi xong việc rồi - Tôi đáp - Tôi sẽ dọn ra tất cả những đồ đạc mà họ còn để lại cho chúng ta ở đây. Các anh đem xe ra ngay khi xong xuôi nhé.

Họ đưa mấy chiếc xe ra phía trước biệt thự và chúng tôi cho lên xe tất cả các dụng cụ chất đống trong phòng. Xong đâu đấy, ba chiếc xe đậu nối đuôi nhau trên đường, dưới tán cây và trong mưa.

- Nhóm lửa lên và hong quần áo đi - Tôi bảo.

- Tôi không cần quần áo khô - Piani nói - Tôi chỉ cần được ngủ.

- Tôi sẽ nằm ngủ trên giường của thiếu tá - Bonello nói.

- Tôi chẳng quan tâm đến chỗ ngủ - Piani nói.

- Trong này có hai giường - Tôi vừa nói vừa mở cửa phòng.

- Tôi luôn luôn tự hỏi không biết có cái gì trong phòng này - Bonello nói.

- Phòng này là của ông thợ cắt tóc - Piani trả lời.

- Hai anh ngủ cả ở đây, tôi sẽ đánh thức hai anh dậy.

- Bọn Áo sẽ đánh thức chúng mình dậy nếu trung úy ngủ quên - Bonello nói.

- Tôi sẽ không ngủ quên đâu, Aymo đâu rồi? - Tôi hỏi.

- Anh ta lẻn vào nhà bếp.

- Thôi ngủ đi - Tôi nói.

- Tôi sắp ngủ đây - Piani nói - Tôi đã ngủ đứng suốt cả ngày mà. Tất cả những gì trong óc tôi đều dồn xuống cả đôi mắt.

- Cởi bỏ đôi giầy ống ra - Bonello bảo - Giường này là của ông thợ cắt tóc đấy.

- Của ông thợ cắt tóc hay của ai đi nữa đối với tôi cũng thế thôi.

Piani nằm xuống giường với đôi ủng dính đầy bùn và gối đầu lên cánh tay. Tôi đi vào nhà bếp. Aymo đã nhóm lửa trong lò và bắc lên đấy một ấm nước.

- Tôi tưởng chúng ta cũng nên sửa soạn sẵn bữa ăn trước - Anh nói - Lúc thức dậy chắc mình đói lắm.

- Anh không buồn ngủ sao, Bartolomeo?

- Ít thôi. Khi nước sôi tôi sẽ để đấy, lửa sẽ tắt dần.

- Tốt hơn anh nên đi ngủ một lát, chúng ta có thể dùng đỡ pho mát và thịt khô vậy.

- Như thế càng hay. Nhưng nếu có cái gì nóng sốt sẽ đỡ khổ cho hai kẻ vô trật tự này. Thôi trung úy đi ngủ trước đi.

- Còn một cái giường trong phòng thiếu tá.

- Trung úy vào đó ngủ đi.

- Không, tôi lên phòng cũ của tôi. Anh uống tí rượu nhé Bartolomeo?

- Lúc chúng ta khởi hành trung úy. Bây giờ không có tác dụng gì.

- Ba tiếng đồng hồ nữa nếu anh thức được và nếu anh không nghe thấy tôi gọi, thì anh đánh thức tôi nhé. Anh bằng lòng chứ?

- Tôi không có đồng hồ, thưa trung úy.

- Đồng hồ treo trên tường trong phòng thiếu tá.

- Vâng, được rồi.

Tôi đi qua phòng ăn, phòng trước lên cầu thang bằng cẩm thạch vào gian phòng nơi mà tôi và Rinaldi đã cùng chung sống. Trời mưa. Tôi lại gần cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời tối đen như mực, tôi nhìn thấy ba chiếc xe đậu dưới hàng cây. Cây cối dầm mình dưới trận mưa. Trời lạnh như cắt và những giọt mưa đọng trên cành cây. Tôi trở lại giường của Rinaldi, nằm xuống và thiếp đi.

Chúng tôi dùng bữa tại bếp trước khi khởi hành. Aymo xào sẵn món mì thêm gia vị hành và thịt hộp. Ngồi ăn ở bàn, chúng tôi uống cạn hai chai rượu mà người ta để quên dưới hầm rượu trong tòa biệt thự. Bên ngoài trời tối và mưa vẫn chưa dứt. Piani ngồi ngủ gục bên bàn.

- Tôi thích lùi hơn là tiến - Bonello nói - Khi lùi người ta sẽ được nhậu rượu Barbera.

- Chúng ta đang nhậu rượu Barbera. Nhưng có lẽ ngày mai chúng ta sẽ uống nước mưa - Aymo nói.

- Ngày mai chúng ta sẽ có mặt tại Udine, chúng ta sẽ nốc sâm banh. Udine là thành phố của những người phục kích. Thức dậy đi thôi Piani. Ngày mai chúng ta sẽ nhậu sâm banh ở Udine.

- Tôi thức rồi đây - Piani đáp. Anh ta xúc mì và thịt đầy đĩa. - Anh không cho thêm nước sốt cà chua vào sao Barto?

- Không có - Aymo đáp.

- Chúng ta sẽ uống sâm banh ở Udine - Vừa nói Bonello vừa rót đầy rượu Barbera đỏ tươi vào ly.

- Có thể uống nước tiểu trước khi đi đến Udine - Piani bảo.

- Trung úy ăn no rồi chứ? - Aymo hỏi.

- Tôi ăn no lắm. Cho tôi chai rượu, Bartolomeo.

- Tôi còn một chai rượu ngoài xe - Aymo bảo.

- Anh không ngủ tí nào cả à?

- Tôi không cần ngủ nhiều, tôi chỉ cần ngủ một tí cũng được.

- Ngày mai chúng ta sẽ ngủ trên giường của đức vua - Bonello bảo. Anh tỏ ra phấn chấn.

- Ngày mai có lẽ chúng ta sẽ ngủ trong đống phân - Piani nói.

- Ngày mai tôi sẽ ngủ với hoàng hậu - Bonello nói - Hắn nhìn xem tôi có nói đùa không.

- Có thể là anh sẽ ngủ với phân ấy - Piani gà gật nói.

- Đó là sự phản bội, trung úy ạ - Bonello nói - Đó có phải là sự phản bội không?

- Thôi các anh im đi - Tôi bảo - rượu vào làm các anh nói năng hơi lố rồi đấy.

Bên ngoài trời mưa như thác đổ. Tôi nhìn đồng hồ thấy chín giờ rưỡi.

- Đến giờ “lăn” rồi - Tôi vừa nói vừa đứng dậy.

- Trung úy thích đi với ai đây? - Bonello hỏi.

- Aymo, các anh sẽ theo tôi và Piani bám tiếp đến Cormons.

- Tôi e rằng tôi sẽ ngủ gật mất - Piani nói.

- Thế thì tôi sẽ đi với anh trước, rồi đến Bonello và Aymo.

- Như thế thì hơn - Piani nói - Vì tôi buồn ngủ quá.

- Tôi sẽ lái thay và anh có thể ngủ một lát.

- Không. Tôi còn có thể lái được cơ mà miễn có ai bên cạnh đánh thức tôi dậy khi tôi ngủ gật.

- Tôi sẽ đánh thức anh dậy. Tắt hết đèn đi Barto.

- Tại sao không rời cho sớm? - Bonello nói - Chúng ta không còn cần đến chỗ này nữa.

- Tôi còn cái rương trong phòng, anh giúp tôi đem hộ xuống được không, Piani?

- Chúng tôi sẽ đem nó xuống ngay - Piani trả lời - Nào, lại đây Aldo.

Anh ta trở ra hành lang với Bonello. Tôi nghe tiếng họ bước lên thang lầu.

- Chỗ này tốt thật Bartolomeo - Aymo nói. Anh ta nhét vội hai chai rượu và miếng pho mát vào trong một cái bao. - Không bao giờ tìm ra được một nơi bằng như thế này. Họ rút quân về đâu Trung uý?

- Nghe nói họ dường như ở phía sau con sông Tagliamento. Bệnh viện và quân nhu thì ở Pordenone.

- Ở đây có lẽ đẹp hơn Pordenone.

- Tôi không biết Pordenone - Tôi bảo - Tôi chỉ đi ngang qua đấy thôi.

- Chỗ đó cũng không có gì đáng kể - Aymo nói.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 28

Trong đêm tối và mưa, xe chúng tôi chạy qua thành phố hoang vắng. Chỉ có vài đoàn quân cùng những khẩu đại bác kéo đi trên hè phố chính. Cũng có nhiều xe hơi và xe bò đang đi trên những con đường khác chạy ra quốc lộ. Sau khi xe chạy ngang qua trước cửa những xưởng thuộc da, chúng tôi gặp trên đường nào những đoàn quân, nhiều xe hơi, nhiều xe ngựa, súng đại bác, tất cả tạo thành một dòng di chuyển chậm chạp. Chúng tôi tiến chậm nhưng đều đều dưới mưa. Cái nắp thùng nước của xe tôi gần chạm phải tấm ván sau ô tô phủ bạt. Cả dòng người xe dừng, lại đị tiến lên một chút rồi dừng lại. Tôi xuống xe và lách đi giữa những chiếc xe hơi, xe bò và dưới cổ những con ngựa đẫm nước mưa. Chính ở phía trên, ngay đầu hàng bị nghẽn. Tôi rời khỏi con đường, đi băng ngang qua một cái hố có tấm ván bắc qua và đi xuyên cánh đồng. Tôi có thể nhìn thấy đội quân bị ách tắc giữa những hàng cây dưới cơn mưa. Tôi đi gần cả dặm đường. Đoàn quân không thể xê dịch được. Tuy nhiên ở phía bên trên kia, những chiếc xe bị ứ đọng, tôi thấy hàng quân đang đi. Tôi trở lại xe. Khối người ngựa này bị bất động đến tận Udine. Piani đang ngồi ngủ gục trên tay lái. Tôi leo lên ngồi cạnh anh và cũng ngủ. Vài tiếng sau, chiếc xe phía trước chúng tôi rồ ga. Tôi đánh thức Piani và chúng tôi cho xe tiến được vài thước rồi ngừng và lại tiếp tục đi nữa. Trời vẫn còn mưa. Về đêm, dòng người, xe lại dừng và không thể nào tiến lên thêm được nữa. Tôi xuống xe và trở lại phía sau xem chừng Bonello và Aymo. Trên xe Bonello có hai viên đội công binh cùng ngồi với hắn trên ghế.

Họ đứng cả dậy khi tôi tiến lại.

- Người ta để họ ở lại để sửa chữa cái gì đó trên cầu - Bonello nói - Họ không thể tìm được đơn vị vì thế tôi cho họ đi nhờ.

- Xin trung úy cho phép

- Đồng ý - Tôi nói.

- Trung úy là người Mỹ, trung úy sẽ chở bất cứ ai - Bonello nói.

Một trong hai viên đội mỉm cười, viên đội kia hỏi Bonelllo có phải tôi là người Ý ở Bắc hoặc Nam Mỹ không.

- Ông ấy không phải là người Ý, ông ấy là người Bắc Mỹ nói tiếng Anh.

Hai viên đội rất lễ độ nhưng họ tỏ vẻ không tin. Tôi đi và trở lại với Aymo. Hai cô gái ngồi trên ghế gần anh và hút thuốc.

- Barto, Barto - Tôi gọi.

Anh ta cười lớn.

- Tiếp chuyện họ đi, trung úy - Anh ta nói - Tôi không hiểu họ nói gì. Này! - Vừa nói anh ta vừa để tay lên đùi cô gái và véo yêu cô ta một cái. Cô gái vội vàng phủ chiếc khăn choàng quanh mình và đẩy tay anh ta ra - Này! - Anh ta nói - Giới thiệu tên với trung úy và nói các cô đang làm gì ở đây.

Cô gái nhìn tôi với vẻ giận dữ. Cô kia lại nhìn xuống đất. Cô vừa nhìn tôi nói mấy câu bằng thổ ngữ. Tôi không hiểu được tí gì cả. Cô ta có mái tóc đỏ, dáng người mập mạp và tuổi độ mười sáu.

- Em út của cô phải không? - Tôi hỏi và trỏ vào cô gái kia.

Cô ta gật đầu và mỉm cười.

- Tốt lắm - Tôi vỗ nhẹ lên đầu gối cô ta.

Tôi thấy cô co lại khi tôi chạm vào người cô ta. Cô em thì vẫn chưa ngẩng đầu lên. Có lẽ cô em kém cô chị một tuổi. Aymo đặt tay lên đùi cô chị liền bị cô này hất ra. Anh chế cô :

- Người hùng mà - Hắn tự chỉ vào người - Người hùng mà - Hắn lại trỏ vào tôi - Đừng ngại gì cả.

Cô gái nhìn hắn ta một cách giận dữ. Hai cô bé khác nào như đôi chim rừng hoang dại.

- Tại sao nàng lại đến với tôi nếu nàng không thích? - Aymo hỏi - Lúc tôi vẫy tay ra hiệu thì hai cô leo lên xe ngay. - Anh quay sang hai cô gái - Đừng lo, không ai làm gì các cô đâu, không sợ bị... (hắn nói theo giọng tục tĩu). Không có chỗ để...

Mỗi lần hắn nói các cô gái lại càng thêm bẽn lẽn. Sau cùng cô ngồi thẳng lên rồi nhìn thẳng vào mặt Aymo và òa khóc. Tôi thấy đôi môi nàng run run, nước mắt tuôn chảy xuống đôi má tròn. Cô em vẫn không nhìn lên, nắm chặt lấy tay chị và họ ngồi sát lại nhau. Cô chị có vẻ rất hằn học lại bắt đầu khóc.

- Chắc tôi làm cho cô ta sợ - Aymo nói - Tôi không cố ý làm cho nàng sợ đâu.

Aymo lấy pho mát trong túi dết ra, cắt hai miếng và bảo :

- Nào, ăn đi và đừng khóc nữa.

Cô chị lắc đầu và vẫn khóc, còn cô em thì lấy một miếng cầm ăn. Một lúc sau cô em đưa cho chị mình miếng pho mát kia và cả hai chị em cùng ăn. Cô chị vẫn còn thút thít.

- Một chốc nữa cô ta sẽ vui vẻ lại ngay - Aymo nói.

Tôi để cho họ tự do với Aymo đang ngồi trong góc xe. Tôi trở lại xe của Piani. Dòng xe vẫn chưa nhúc nhích được nhưng đoàn quân thì có thể vượt lên bên cạnh xe. Mưa vẫn còn nặng hạt. Tôi nghĩ sở dĩ đoàn quân phải ngừng từng chặp như thế này có thể là vì nước vào máy. Nhưng đúng hơn họ bị những con ngựa hay những người đang buồn ngủ cản trở. Ngay cả trong thành phố giao thông đôi khi cũng bị đình trệ. Nhưng mọi người lại rất tỉnh táo. Thật là một cảnh hỗn độn xe và ngựa. Họ không muốn giúp đỡ lẫn nhau. Đến những chiếc xe bò của các bác dân quê lại cũng không giúp được gì cả. Hai cô gái đi nhờ xe Barto thật là đáng yêu. Một cuộc lui quân không phải là nơi thuận tiện của các nàng trinh nữ. Các cô gái đồng trinh có thể rất mộ đạo. Nếu không có chiến tranh thì có lẽ tất cả chúng ta đều được ngả lưng trên giường vào giờ này. Trên giường tôi nằm gối đầu lên cánh tay. Giường có nệm. Ở đây giường nệm cứng như gỗ. Catherine giờ này đang ngủ trên giường giữa hai lớp chăn trên và dưới. Nàng nằm nghiêng bên nào? Có thể nàng không ngủ được, vì nàng đang bận nghĩ đến tôi. Thổi, thổi nữa đi, hỡi gió đông lạnh lùng. Đây, gió vẫn thổi mạnh và không chỉ có mưa phùn, mà là một trận mưa to như thác đổ. Trời mưa suốt đêm. Mưa to thế, bạn ơi, mưa to quá! Trời ơi giá gì được nằm trên giường siết chặt người yêu trong tay. Catherine yêu quý của anh ơi. Nếu Catherine dịu hiền và yêu quý có thể biến thành mưa nhỉ. Hãy thổi mạnh nàng đến đây với tôi. Rồi chúng tôi sẽ được hội ngộ. Ai cũng đều gặp cùng một cảnh như thế cả; nhưng cơn mưa ngắn ngủi không giải quyết gì được gì làm cho cảnh tình lắng dịu. “Chúc Catherine ngủ ngon - Tôi nói lớn - Mong rằng em sẽ được một giấc ngủ ngon. Nếu em cảm thấy bồn chồn không an, thì em yêu, em hãy trở mình sang phía bên kia. Anh sẽ mang đến cho em ít nước lạnh. Trời sắp sáng và em sẽ thấy thoải mái hơn. Anh rất buồn nếu em không thư thái như thế. Cố ngủ đi nhé, em yêu”.

- Suốt đêm em vẫn ngủ được yên giấc - Nàng nói - Anh đang nói những gì trong giấc mơ đó? Người anh có khỏe không? Anh đang ở bên em thật à?

- Dĩ nhiên. Anh còn ở đây mà. Anh không muốn đi nữa. Điều đó không có gì quan trọng đối với chúng ta. Em thật là dễ thương và hiền dịu. Ban đêm em sẽ không đi nữa chứ?

- Không đi đâu cả. Này anh xem, em có đi đâu. Em vẫn luôn luôn ở đây mà. Em vẫn luôn luôn đến với anh bất cứ lúc nào anh muốn.

- Thưa... - Piani nói - Họ đã bắt đầu đi nữa.

- Tôi vừa thiu thiu... - Tôi bảo.

Tôi nhìn đồng hồ. Mới ba giờ sáng. Tôi quay lại phía sau với lấy chai rượu Barbera.

- Trung úy nằm mơ nói to quá - Piani nói.

- Tôi nằm mơ thấy tôi đang ở Anh.

Mưa đã thưa hạt. Chúng tôi tiến lên. Chưa bình minh chúng tôi phải ngừng lại một lần nữa, và khi trời sáng hẳn thì thấy mình đang ở trên đỉnh dốc hơi cao. Tôi thấy xa tít tắp trên đường tất cả đều dừng lại, trừ đoàn bộ binh có thể lách qua đám đông. Chúng tôi lại đi nữa, nhưng nhìn lại đoạn đường đã đi được trong ngày, tôi quyết định phải bỏ con đường chính và băng qua cánh đồng nếu chúng tôi muốn tới được Udine.

Trong đêm, nhiều nông dân từ các thôn xóm nhập vào đoàn quân, vì thế người ta có thể thấy trong hàng người có nhiều xe bò chở đầy dụng cụ. Những tấm gương phản chiếu giữa những tấm nệm, gà vịt buộc chung quanh xe, một máy khâu đặt trên chiếc xe bò đầm đìa nước mưa đi trước chúng tôi, Họ lo bảo vệ những đồ đạc quý giá nhất. Nhiều phụ nữ bị dồn chặt trên những chiếc xe bò tìm cách tránh mưa, các bà khác thì đi nép sát bên cạnh những chiếc xe bò. Bây giờ có cả những con chó đi lẫn lộn trong đoàn và chúng vừa đi vừa ẩn dưới gầm xe. Đường lầy lội, hào rãnh hai bên đều ngập nước, và sau rặng cây chạy dài hai bên đường, cánh đồng tỏ ra quá ẩm ướt sình lầy không thể cho xe vượt qua được. Tôi xuống xe và mở một lối đi, hy vọng tìm ra một chỗ có thể nhìn ra được phía trước xem xem có con đường nào khác có thể đi tắt ngang qua cánh đồng. Tôi biết nhiều đường nhưng tôi không dám mạo hiểm lao vào ngõ cụt. Tôi không nhớ hết các con đường vì chúng tôi đã thấy chúng trong khi cho xe chạy hết tốc lực, và tất cả các con đường đều trông giống như nhau. Tuy nhiên chúng tôi vẫn phải tìm cho ra một con đường nếu chúng tôi muốn rời khỏi nơi này. Không một ai biết bọn Áo đóng quân nơi nào và tình hình ra sao. Nhưng tôi chắc chắn rằng khi dứt mưa, phi cơ địch sẽ lượn trên đầu và sẽ oanh tạc đoàn người và xe, như thế sẽ nguy hiểm cho chúng tôi. Chỉ cần vài chiếc xe bị bỏ lại hay vài con ngựa chết cũng đủ làm cho sự lưu thông trên đường bị ngưng trệ.

Mưa dịu dần và tôi hy vọng trời sẽ lại sáng. Tôi tiến dọc theo con đường cái và tìm thấy giữa hai hàng cây có một con đường nhỏ đưa đến cánh đồng về phía Bắc. Tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là nên chọn con đường này và tôi vội vàng quay lại xe. Tôi bảo Piani quay xe lại và tôi đi báo cho Aymo và Bonello hay.

- Nếu đó là con đường cụt thì chúng ta vẫn có thể quay xe lại và nối vào đoàn xe.

- Còn hai chú này thì sao? - Bonello hỏi. Hai viên đội ngồi trên ghế bên cạnh anh ta. Họ chưa cạo râu nhưng buổi sáng trông vẫn có dáng quân nhân.

- Họ sẽ giúp chúng ta đẩy xe vậy.

Tôi trở lại xe Aymo và báo cho cậu ta biết là sẽ đi tắt qua cánh đồng.

- Còn các nàng trinh nữ của tôi thì sao? - Aymo hỏi - Hai cô đang ngủ.

- Họ sẽ không giúp ích gì được cho ta cả - Tôi bảo - Anh nên kiếm người nào có thể đẩy xe được lúc cần.

- Có thể để họ ngồi trong xe, hãy còn chỗ - Aymo bảo.

- Nếu anh muốn - Tôi đáp - Ráng tóm được người nào khỏe mạnh để đẩy nhé.

- Tụi bộ binh - Anh ta vừa cười vừa nói - Họ lưng dài vai rộng. Người ta đã đo rồi đấy. Trung úy cảm thấy thế nào?

- Khỏe lắm. Còn anh thì sao?

- Khỏe nhưng đói quá.

- Sẽ kiếm được vài thứ ở cuối con đường này. Chúng ta sẽ dừng lại đó để ăn.

- Chân trung úy thế nào?

- Tốt - Tôi đáp.

Đứng trên bậc xe nhìn ra phía trước, tôi có thể trông thấy chiếc xe của Piani đang quẹo sang con đường nhỏ và xa dần. Chiếc xe hiện ra giữa những cành cây trụi lá. Bonello cũng bắt đầu quẹo và theo sau Piani. Đến phiên Aymo, anh ta thoát ra khỏi đám đông và chúng tôi chạy nối đuôi hai chiếc xe cứu thương phía trước, trên con đường hẹp giữa hàng rào. Con đường này đưa đến một nông trại. Chúng tôi thấy xe của Piani và Bonello ngừng trong sân trại. Ngôi nhà thấp và dài với giàn hoa nho bao quanh cửa ra vào và một giếng nước trước sân. Piani múc nước ở đấy cho vào bình xe. Xe chỉ cho chạy được số một nên máy bị nóng rất nhanh, bao nhiêu nước trong bình đều bốc hơi hết. Trại bị bỏ hoang. Tôi nhìn lại phía sau. Trại được xây hơi cao nên ở trong sân trại chúng tôi có thể nhìn bao quát được đồng quê. Chúng tôi nhìn thấy được con đường, hàng rào, cánh đông, hàng cây dọc theo con đường chính, con đường mà đoàn quân rút lui đang đi ngang qua. Hai viên đội đang quan sát ngôi nhà. Hai cô gái đã thức giấc và đang nhìn cái sân, giếng nước, hai chiếc xe cứu thương đậu trước nhà và ba người lái đang đứng quanh giếng. Một viên đội đi ra tay ôm chiếc đồng hồ treo tường.

- Hãy trả cái đồng hồ vào chỗ cũ - Tôi nói.

Hắn ta nhìn tôi, quay vào nhà và đi trở ra với tay không.

- Bạn anh đâu rồi? - Tôi hỏi.

- Anh ta đi ngoài.

Hắn trở lại ngồi trên chiếc xe cứu thương sợ bị chúng tôi bỏ lại.

- Ta dùng bữa trưa chứ Trung uý? - Bonello hỏi - Chúng ta có thể ăn một chút, không mất thì giờ lắm đâu.

- Không hiêu con đường này chạy dài xuống phía dưới kia là hết không?

- Chắc chắn như thế.

- Thôi, ta hãy dùng bữa đã.

Piani và Bonello vào trong nhà.

- Lại đây nào - Aymo gọi hai cô gái.

Anh ta đưa tay ra để giúp hai cô xuống xe. Cô chị lắc đầu. Cô không vào ngôi nhà hoang. Họ chỉ nhìn theo chúng tôi.

- Các cô khó tính quá - Aymo nói.

Chúng tôi cùng đi vào trang trại. Trang trại rộng rãi và tối om, đượm vẻ quạnh hiu. Bonello và Piani đang ở trong bếp.

- Không có gì để ăn cả - Piani nói - Người ta đã mang theo sạch cả rồi.

Bonelllo cắt một miếng pho mát trắng thật to trên cái bàn ăn lớn trong bếp.

- Anh thấy pho mát này ở đâu thế?

- Trong hầm rượu. Piani đã tìm ra cả rượu và táo nữa.

- Thật là hoàn hảo cho một bữa ăn trưa.

Piani rút bình rượu và rót vào đầy cái xoong bằng đồng rồi nói :

- Rượu ngon lắm, kiếm vài cái ly Barto.

Hai viên đội bước vào.

- Hai anh dùng pho mát - Bonello mời.

- Tới giờ đi rồi - Một viên đội vừa cắn một miếng pho mát vừa uống rượu nói.

- Chúng ta sẽ khởi hành. Đừng lo lắng gì cả - Bonello nói.

- Quân đội có đi cũng phải no bụng trước đã - Tôi bảo.

- Sao? - Viên đội hỏi.

- Phải ăn cái đã.

- Nhưng thì giờ eo hẹp quá.

- Tôi chắc là hai đứa nó đã no bụng rồi chứ gì - Piani nói.

Hai viên đội nhìn anh ta và lộ vẻ không ưa chúng tôi.

- Trung úy biết đường chứ? - Một viên đội hỏi tôi.

- Không.

Họ nhìn nhau.

- Chúng ta nên khởi hành thì vừa - Viên đội kia nói.

- Nào, chúng ta lên đường - Tôi nói.

Tôi uống thêm một ly rượu nữa. Nhắm với pho mát và táo cũng ngon đáo để.

- Lấy pho mát đem theo nhé - Tôi vừa đi ra vừa nói.

Bonello đi ra mang theo cả một vò rượu lớn.

- Kềnh càng quá - Tôi nói. Anh ta nhìn vò rượu tiếc rẻ.

- Tôi khoái nó quá - Anh ta bảo - Trao bi đông của các anh cho tôi, tôi sẽ rót đầy hết.

Anh ta rót rượu đầy bi đông, một ít rượu chảy xuống đá lát sân. Rồi anh đem để vò rượu vào phía sau cánh cửa.

- Bọn Áo sẽ tìm thấy vò rượu dễ dàng, khỏi phải phá cửa - Anh ta nói.

- Nào, chúng ta đi thôi - Tôi bảo - Tôi và Piani dẫn đầu.

Hai viên đội đã vào ngồi cạnh Bonello. Hai cô gái đang ăn pho mát và táo. Còn Aymo hút thuốc. Chúng tôi bắt đầu trở lại con đường hẹp. Tôi quay lại nhìn hai chiếc xe và trang trạii. Đó là một ngôi nhà thấp bằng đá, chắc chắn với bộ gọng sắt trên thành giếng rất đẹp. Phía trước mặt con đường kéo dài ra, nhỏ hẹp, bùn lầy, mỗi bên đều có đèo cao. Phía sau lưng là mấy chiếc xe đang nối đuôi nhau

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 29

Đến trưa, chúng tôi bị sa lầy tại cuối con đường lầy lội, đầy bùn, cách Udine độ mười cây số như chúng tôi đã đoán trước. Trời đã tạnh mưa vào lúc sáng và ba lần chúng tôi nghe tiếng phi cơ. Chúng bay ngang đầu chúng tôi rồi bay mất hút về hướng bên trái và liền đó chúng tôi nghe tiếng bom nổ ở con đường chính. Chúng tôi rất cực khổ vì phải xuyên qua một hệ thống đường đi chằng chịt. Chúng tôi đã sa vào nhiều đường cụt. Chúng tôi phải trở lui lại phía sau để tìm một lối khác, nhờ thế chúng tôi tiến đến dần Udine. Giờ đây khi để chúng tôi có thể rời khỏi ngõ cụt thì xe của Aymo sa lầy vào bùn bên lề đường và bốn bánh xe càng quay nhanh lại càng lún sâu xuống cho đến khi xe không còn cựa quậy gì được nữa. Chỉ có cách là đào đất phía trước bánh xe, lót những nhánh cây để cho những sợi dây xích có thể bám vào đấy và cho xe lên đường. Tất cả chúng tôi đều vây quanh chiếc xe. Hai viên đội nhìn chiếc xe, xem xét mấy bánh xe rồi họ bước thẳng lên đường không ngó lại mà cũng chẳng nói một lời. Tôi đuổi theo họ.

- Làm việc, đi chặt cây đi - Tôi bảo.

- Chúng tôi phải đi ngay - Một viên đội nói, còn người kia không nói gì cả. Họ hối hả đi và không dám nhìn tôi.

- Tôi ra lệnh cho các anh phải quay lại xe và đi chặt cây - Tôi nói.

Một người quay lại nói :

- Chúng tôi phải đi ngay vì lát nữa đây các ông sẽ bị chặn đường rút lui. Ông không có quyền ra lệnh vì ông không phải là thượng cấp của chúng tôi.

- Tôi ra lệnh cho các anh phải chặt cành cây - Tôi nói.

Họ vẫn quay lưng lại và đi dần ra đường.

- Đứng lại! - Tôi quát.

Họ vẫn tiếp tục bước trên con đường bùn lầy giữa hai hàng rào.

- Tôi ra lệnh cho hai anh phải dừng lại - Tôi la lớn.

Họ bước vội. Tôi mở bao súng lấy khẩu súng lục ra, nhắm vào viên đội đã nói nhiều nhất và bắn. Tôi bắn hụt nên cả hai đều bắt đầu chạy. Tôi bắn ba phát nữa và hạ được một. Tên còn lại liền phóng ngang hàng rào và mất hút. Tôi bắn xuyên qua hàng rào khi thấy hắn phóng ngang qua cánh đồng. Súng đã hết đạn, tôi liền nạp gắp đạn khác. Nhưng viên đội đã chạy khỏi tầm súng. Hắn cắm đầu chạy ra xa khỏi cánh đồng. Tôi đang nạp đạn vào gắp thì Bonello tiến lại và nói :

- Để cho tôi chấm dứt cuộc đời của hắn cho rồi.

Tôi trao súng. Anh liền đi đến chỗ tên đội đang nằm, mặt úp xuống đường. Bonello nghiêng người về phía hắn, gí súng vào đầu hắn rồi bóp cò. Nhưng súng không nổ.

- Anh phải lên đạn đã chứ - Tôi nói.

Anh ta lên đạn và nổ hai phát liền. Anh nắm hai chân viên đội kéo thây hắn và bỏ nằm bên vệ đường cạnh hàng rào. Anh trở lại trả súng cho tôi.

- Đồ chó chết. - Vừa nói anh vừa nhìn về phía viên đội - Trung úy có trông thấy tôi bắn hắn không hử?

- Thôi chúng ta phải đi chặt cành cây mau lên - Tôi bảo - Không biết có bắn trúng tên kia hay không.

- Tôi không tin thế - Aymo nói - Hắn chạy quá xa tầm súng lục.

- Quân hèn mọn - Piani nói.

Chúng tôi chặt cành cây, dọn đồ đạc trên xe xuống. Bonelli đào đất phía trước bánh xe. Khi xong xuôi đâu đấy, Aymo bắt đầu cho xe nổ máy và vào số xe. Bánh xe quay nhanh làm tung toé lá cây và bùn. Phía sau tôi và Bonello ráng sức đẩy chiếc xe cho đến nỗi chúng tôi cảm thấy thân thể như rã rời ra từng phần.Nhưng chiếc xe vẫn không nhúc nhích.

- Cho xe lui tới trước sau đi Barto - Tôi bảo.

Anh cho xe lùi lại rồi vọt tới, mấy bánh xe càng lún sâu thêm nữa rồi chiếc xe nằm yên một chỗ và các bánh quay tít trong hố. Tôi đứng dậy.

- Chúng ta thử cột dây thừng cho kéo xem sao - Tôi bảo.

- Tôi e rằng chúng ta chỉ hoài công vô ích thôi, trung úy ạ. Không thể kéo theo đường thẳng được.

- Thì cứ thử xem sao, không còn cách nào khác nữa - Tôi nói.

Hai chiếc xe của Piani và Bonello chỉ có thể chạy thẳng theo con đường hẹp. Chúng tôi cột hai chiếc xe lại rồi bắt đầu cho kéo. Mấy bánh xe chỉ nhích khỏi lằn một tí rồi thôi.

- Thôi không được đâu - Tôi la lớn - Ngưng lại đi.

Piani và Bonello xuống xe, quay lại phía chúng tôi. Aymo bước xuống xe. Hai cô gái thì ngồi trên tấm vách đá cách xa chỗ xe đậu độ bốn mươi thước.

- Trung úy bảo gì ạ? - Bonello hỏi.

- Chúng ta đào nữa và cố thử lót thêm cành cây xem sao - Tôi nói.

Tôi nhìn ra đường. Lỗi này do ở tôi. Chính tôi đã dẫn họ đến chốn này. Ánh mặt trời chói lọi sau những cụm mây và thi hài viên đội công binh còn nằm lịm bên hàng rào.

- Chúng ta thử lót áo choàng của hắn phía dưới bánh xe xem sao.

Bonello đi lấy áo, tôi chặt cành cây trong khi Aymo và Piani đào đất phía trước và giữa mấy bánh xe. Tôi cắt và xé áo choàng ra làm hai mảnh rồi lót phía dưới bánh xe, trong bùn. Tiếp đó tôi chất thêm cành cây để bánh xe có chỗ bám vào. Chúng tôi sẵn sàng để bắt đầu. Aymo lên cầm tay lái và bắt đầu cho xe chạy. Bánh xe bắt đầu quay nhanh trong khi chúng tôi cố lấy hết sức đẩy phía sau. Nhưng vô ích.

- Hỏng bét. Anh còn cần lấy gì trong xe nữa không, Barto?

Aymo cùng Bonello leo lên xe lấy bánh pho mát, hai chai rượu và chiếc áo choàng. Bonello ngồi phía sau tay lái và đang lục túi áo của viên đội đã bỏ lại.

- Vứt chiếc áo ấy đi cho xong - Tôi bảo - Còn các nàng trinh nữ của Barto thì tính sao đây?

- Cho họ ngồi phía sau xe - Piani bảo - Tôi tin rằng chúng ta không thể nào đi xa được.

Tôi mở cửa sau chiếc xe cứu thương và bảo :

- Nào, leo lên - Tôi nói.

Hai cô leo lên và ngồi sát trong góc xe. Họ có vẻ không quan tâm gì đến những tiếng súng vừa rồi. Tôi quay lại nhìn con đường, tên đội công binh nằm sõng sượt, bẩn thỉu với chiếc áo da dài. Tôi leo lên ngồi cạnh Piani, và chúng tôi bắt đầu cho xe chạy. Chúng tôi cố cho xe chạy ngang qua cánh đồng. Khi đến con đường để vào cánh đồng, tôi xuống xe và đi tiến lên phía trước, nếu tôi vượt qua được, chúng tôi sẽ thấy con đường ở phía bên kia cánh đồng. Nhưng xe của chúng tôi không thể nào băng qua được vùng đất quá mềm và nhiều bùn lầy như thế này. Khi mấy chiếc xe bị hoàn toàn sa lầy và bùn lún sâu đến tận nhíp xe, chúng tôi đành bỏ mặc chúng nằm ở cánh đồng và đi bộ về Udine.

Kh đến đường đổ vào quốc lộ, tôi chỉ cho hai cô gái.

- Hãy đi về hướng đó - Tôi nói - Các cô sẽ gặp được dân chúng. - Họ nhìn tôi. Tôi móc bóp lây ra cho mỗi cô mười đồng lia. - Hãy đi vào hướng đó - Tôi chỉ đường cho họ - Chúc hai cô gặp lại bạn hữu và gia đình nhé.

Họ không hiểu gì cả nhưng họ vẫn nắm tiền chặt trong tay và bắt đầu rảo bước. Họ quay nhìn lại phía chúng tôi dường như sợ tôi có thể lấy tiền lại. Tôi nhìn họ khuất xa dần trên đường, chiếc khăn choàng quấn sát vào người và họ quay nhìn lại chúng tôi với vẻ sợ sệt. Ba người lái xe phá lên cười.

- Trung úy sẽ cho tôi bao nhiêu tiền để tôi đi về hướng đó trung uý? - Bonello hỏi.

- Nếu các cô gái bị bắt, tốt hơn là họ không bị cô độc.

- Cho tôi hai trăm đồng lia để tôi có thể quay về thẳng nước Áo - Bonello nói.

- Họ sẽ đoạt các cô ra khỏi tay anh - Piani nói.

- Có lẽ chiến tranh sẽ chấm dứt - Aymo nói.

Chúng tôi cố gắng đi nhanh nhất. Mặt trời cố chọc thủng các cụm mây, bên vệ đường có những cây dâu. Qua cây lá tôi có thể nhìn thấy hai chiếc xe to của chúng tôi bị sa lầy giữa cánh đồng. Piani cũng nhìn theo và bảo :

- Họ sẽ phải mất công đắp một con đường mới nữa nếu họ muốn đem hai chiếc xe đó ra.

- Chúa ơi, ước gì chúng ta có được chiếc xe đạp lúc này - Bonello nói.

- Ở Mỹ người ta có thường dùng xe đạp không? - Aymo hỏi.

- Ngày trước có.

- Ở đây người ta dùng xe đạp rất nhiều. Chiếc xe đạp là một vật quý - Aymo nói.

- Chúa ơi, ước gì ta có xe đạp. Tôi không phải là một nhà vô địch đi bộ - Bonello nói.

- Có tiếng đại bác nổ phải không? - Tôi hỏi - dường như tôi nghe tiếng đại bác nổ đàng xa xa.

- Tôi không nghe rõ - Aymo bảo. Anh ta lắng tai nghe.

- Tôi tin chắc có tiếng súng nổ mà - Tôi nói.

- Điều đầu tiên sẽ thấy đó là đội kỵ binh.

- Lạy Chúa, tôi hy vọng không phải - Bonello nói - Tôi không muốn bị một trong những tên kỵ binh bêu xác tôi trên ngọn giáo.

- Trung úy có chắc chắn rằng trung úy đã hạ tên đội công binh khi nãy chứ? - Piani hỏi.

Chúng tôi bước nhanh.

- Tôi giết hắn đấy - Bonello bảo - Từ đầu cuộc chiến tranh này tôi chưa hề giết người nào và tôi luôn mơ ước giết một viên đội.

- Phải, phải, anh đã giết hắn khi hắn nằm tại chỗ - Paini nói - Hắn không bay kịp khi anh định giết hắn.

- Không sao. Thật là một điều mà tôi không bao giờ quên được. Tôi đã giết chết một viên đội.

- Anh sẽ xưng tội như thế nào? - Aymo hỏi.

- Tôi sẽ nói: xin cha hãy giáng phúc cho con bởi vì con đã giết chết một viên đội.

Tất cả cùng cười lớn

- Hắn theo chủ nghĩa vô chính phủ. Hắn ta không bao giờ chịu đi nhà thờ - Piani nói.

- Piani cũng theo chủ nghĩa vô chính phủ nữa - Bonello nói.

- Có phải các anh theo chủ nghĩa vô chính phủ thật không? - Tôi hỏi.

- Không, thưa trung uý, chúng tôi là những đảng viên xã hội, chúng tôi từ Imola đến mà.

- Anh có bao giờ ở đó không?

- Không.

- Ồ Chúa ơi, đó là một nơi tuyệt đẹp trung úy ạ. Sau chiến tranh trung úy nên đến đó. Trung úy sẽ thấy một số điều hay.

- Mọi người ở đó đều là đảng viên xã hội à?

- Vâng.

- Thành phố ở đó có đẹp không?

- Ô tuyệt lắm, trung úy sẽ không bao giờ trông thấy ở đâu đẹp bằng ở đó cả.

- Anh đã làm như thế nào để trở thành đảng viên đảng xã hội?

- Tất cả chúng tôi đều là đảng viên đảng xã hội. Mọi người đều là đảng viên đảng xã hội. Chúng tôi mãi mãi vẫn là đảng viên đảng xã hội.

- Trung úy nên đi đến đó. Người ta sẽ làm trung úy trở thành một đảng viên xã hội.

Trước mặt chúng tôi con đường rẽ sang phía trái. Ở đây có một ngọn đồi nhỏ sau một bức tường đá và vườn táo. Chúng tôi ngừng câu chuyện khi bắt đầu leo dốc. Chúng tôi cùng đi và bước thật nhanh để cho kịp giờ.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 30

Một lát sau chúng tôi đi theo con đường dẫn tới một con sông. Một hàng dài xe hơi và xe bò bị bỏ lại trên con đường đó. Con đường dẫn đến một cây cầu. Quanh đấy không một bóng người. Nước sông dâng cao và người ta đã đánh sập nhịp cầu ở giữa.

Nhịp cầu bằng đá và bị đổ sụp xuống sông, dòng nước màu nâu đang chảy phủ qua. Chúng tôi đi dọc theo bờ sông để tìm một lối sang. Tôi biết phía trên có một chiếc cầu đường sắt và tôi nghĩ có thể dùng nó để đi qua sông. Con đường đầy bùn lầy và ướt át. Không có một đội quân nào cả mà chỉ có những chiếc xe và vật liệu bị bỏ lại. Trên bờ sông không một bóng người mà chỉ có những cành cây ướt sũng và bùn lầy. Chúng tôi lần theo bờ sông và cuối cùng tìm thấy chiếc cầu.

- Cây cầu đẹp thật - Aymo khen.

- Đó là một chiếc cầu xe lửa tầm thường bắc ngang qua một lòng sông khô cạn.

- Chúng ta nên nhanh chân qua bên kia sông trước khi họ cho nổ mìn phá sập cây cầu này - Tôi bảo.

- Có còn ai đâu để phá cầu, họ đã đi hết rồi - Piani bảo.

- Có thể họ đã gài mìn sẵn, trung úy sang trước đi - Bonello nói với tôi.

- Nghe này anh chàng vô chính phủ, cho hắn sang trước đi - Aymo nói.

- Tôi sẽ sang trước - Tôi bảo - Người ta không gài mìn nổ khi chỉ có một người chạm phải thôi.

- Tôi hiểu- Piani nói - Lập luận đúng đấy. Cậu không có óc hả tên vô chính phủ?

- Nếu tôi là kẻ thông minh, tôi không có mặt tại đây - Bonello nói.

- Được lắm trung úy ạ - Aymo bảo.

- Vâng, thật là chí lý - Tôi nói.

Chúng tôi đến sát cây cầu, trời phủ đầy mây và mưa đã lấm tấm rơi. Cây cầu trông dài ra và có vẻ chắc chắn. Chúng tôi leo lên mô đất cao.

- Nào chúng ta cùng đi một lượt - Tôi vừa nói vừa vượt lên cây cầu.

Tôi nhìn kỹ những thanh tà vẹt và đường sắt xem có dấu vết dây điện hay thuốc nổ gì không, nhưng tuyệt nhiên không có gì cả. Dưới chân tôi giữa những thanh tà vẹt, nước vẫn đục màu bùn và cuồn cuộn chảy. Trước mặt chúng tôi qua cảnh miền quê ẩm ướt, tôi có thể trông thấy thành Udine qua làn mưa. Tôi nhìn phía bên kia cầu. Ở thượng nguồn, rất gần, lại có một cây cầu khác. Trong khi tôi còn đang xem xét thì một chiếc xe màu vàng xỉn tiến lại gần. Vì hai bên thành cầu cao cho nên khi chiếc xe chạy vào cầu là thân xe bị che khuất mắt ngay. Tuy nhiên tôi vẫn kịp trông thấy được đầu của người lái và người ngồi bên cạnh và hai người nữa ngồi ở phía sau. Họ đều đội mũ sắt của Đức. Rồi chiếc xe vượt thẳng qua cầu và mất hút sau hàng cây và những chiếc xe vô chủ nằm bên đường. Tôi ra hiệu cho Aymo đang vượt qua cầu và hai anh kia theo tôi. Tôi bước xuống và ngồi xổm xuống chân dốc. Aymo theo sát tôi.

- Anh có thấy chiếc xe chứ? - Tôi hỏi.

- Không, tôi mải nhìn theo trung úy.

- Một chiếc xe của bộ tham mưu Đức vừa vượt ngang cầu.

- Xe của bộ tham mưu à?

- Phải.

- Đức Mẹ đồng trinh ơi!

Hai anh kia tới và bốn chúng tôi ngồi xổm nép người sau mô đất, san sát chiếc cầu, đường sắt, hàng cây, hầm hố và con đường.

- Trung úy cho là chúng ta bị bao vây à?

- Tôi không biết. Tôi chỉ biết là có một chiếc xe của bộ tham mưu Đức vừa chạy qua con đường này.

- Trung úy không cảm thấy buồn cười sao? Trung úy không có cảm giác gì lạ trong đầu sao?

- Đừng đùa nữa Bonello.

- Ta uống tí đã nào - Piani đề nghị - Nếu chúng ta bị bao vây ở đây, chúng ta nên uống một chầu.

Anh ta lấy bi đông và mở nút.

- Trông kìa, trông kìa - Aymo kêu lên.

Dọc theo thành cầu, chúng tôi thấy nhiều mũ sắt của bọn Đức tiến lại. Chúng khom mình ra phía trước và tiến một cách chậm chạp gần như siêu việt. Khi họ ra khỏi cầu, thì ra đó là một đoàn quân đi xe đạp. Tôi trông thấy mặt hai tên dẫn đầu. Chúng trông có vẻ hồng hào và khỏe mạnh. Mũ sắt của chúng hạ thấp xuống tận trán và hai bên má. Chúng treo súng ở bên khung xe đạp. Những quả lựu đạn treo lủng lẳng ở thắt lưng. Mũ sắt và quân phục xám của chúng ướt đẫm nước mưa. Chúng đạp xe một cách thong thả, mắt nhìn về phía trước và hai bên đường. Có hai tên dẫn đầu rồi dàn một hàng bốn tên, rồi hai tên nữa, kế đó là một toán khoảng mười hai tên, tiếp theo là một toán khác mười hai tên và một tên đi cuối cùng. Chúng không chuyện trò mà chúng tôi cũng không nghe được gì vì tiếng nước chảy. Chẳng mấy chốc chúng khuất dạng trên đường.

- Ôi Đức Mẹ đồng trinh ơi! - Aymo kêu lên.

- Tụi nó là bọn Đức chứ không phải bọn Áo - Piani nói.

- Tại sao ở đây không ai chận chúng lại? - Tôi hỏi - Tại sao người ta không cho đánh sập cây cầu này? Tại sao không cho đặt liên thanh dọc theo mô đất này?

- Không phải với chúng tôi trung úy hỏi điều ấy.

Tôi rất tức giận.

- Bọn quỷ quyệt này điên cả. Chúng giật sập một cây cầu con chẳng quan trọng gì ở thượng nguồn và để ở lại đây gần đường cái, một chiếc cầu khác. Chúng đi đâu cả rồi? Sao ta lại không cố chận đứng chúng lại?

- Không phải với chúng tôi trung úy hỏi điều ấy - Bonello nói tiếp.

Tôi im lặng. Dù sao việc đó có can hệ gì đến tôi. Tôi có nhiệm vụ phải đem ba chiếc xe Hồng thập tự đến Pordenone. Tôi đã không hoàn thành. Tôi chỉ có mỗi một việc phải làm là tôi phải tới Pordenone. Cũng có thể tôi không thể tới nổi Udine được. Thực ra tại sao tôi không làm được? Điều quan trọng là giữ nguyên lòng dũng cảm, đừng để bị giết, bị bắt.

- Bi đông anh có mở nút sẵn không? - Tôi hỏi Piani. Anh ta trao bi đông cho tôi và tôi tu một hơi dài - Chúng ta có thể đi ngay được tuy nhiên không vội lắm. Các anh muốn ăn gì không?

- Đây không phải là chỗ nghỉ ngơi - Bonello nói.

- Chúng ta đi vậy.

- Có phải ở lại chỗ khuất này không?

- Tốt hơn là chúng ta nên đi lên trên. Bọn chúng cũng có thể đến cây cầu này và tôi không muốn trông thấy họ hiện ra thình lình phía trên chúng ta.

Chúng tôi đi theo đường sắt. Cánh đồng ướt át trải ra hai bên. Trước mặt chúng tôi là đầu cánh đồng, ngọn đồi và tháp chuông Udine vươn lên sừng sững. Chúng tôi có thể nhìn rõ nhà thờ và gác chuông. Dâu mọc nhiều ở khắp cánh đồng. Xa xa phía trước tôi thấy một khoảng đường sắt bị phá. Các thanh tà vẹt cũng bị đào và hất tung xuống phía dưới mô đất.

- Nằm xuống! Nằm xuống mau! - Aymo chợt bảo.

Chúng tôi nằm dán mình xuống sau mô đất. Một đoàn xe đạp khác nữa qua cầu. Tôi nhìn phía trên ụ đất và thấy chúng đi xa.

- Chúng đã trông thấy chúng ta nhưng chúng vẫn tiếp tục đi - Aymo bảo.

- Chúng ta có thể bị tiêu diệt ở nơi này, trung úy ạ - Bonello nói.

- Chúng cần gì phải giết bọn ta ở đây, chúng còn việc gì khác làm hơn. Chúng ta sẽ nguy hiểm hơn nữa nếu bọn chúng thình lình chộp được chúng ta.

- Tôi muốn đi khỏi nơi này bằng đường chiến lũy - Bonello nói.

- Tuỳ anh - Tôi đáp - Chúng ta sẽ đi theo đường sắt này.

- Trung úy có tin rằng chúng ta sẽ vượt qua được không? - Aymo hỏi.

- Chắc chắn là phải được. Chúng chưa đông lắm. Chiều tối chúng ta sẽ vượt qua trong bóng đêm.

- Chiếc xe của bộ tham mưu đó đang làm gì?

- Tôi cóc biết - Tôi bảo.

Chúng tôi đi theo đường sắt. Bonello đã thấm mệt vì phải lội trong bùn lầy của chiến luỹ, leo lên đi với chúng tôi. Đường xe lửa đi chếch về phía Nam, xa dần đường cái nên chúng tôi không thể trông thấy những gì xảy ra trên đường ấy. Chúng tôi đến một chiếc cầu nhỏ bắc qua con kênh, cầu đã bị phá huỷ nhưng chúng tôi vẫn vượt qua được nhờ vào những vòm cầu còn sót lại. Chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ ở phía trước.

Chúng tôi lại tiếp tục tiến dọc theo con đường sắt phía bên kia con kênh. Nó chạy thẳng hướng thành phố, xuyên qua cánh đồng. Ở phía trước, chúng tôi có thể nhìn thấy một đường sắt khác nữa. Về hướng Bắc là con đường cái mà chúng tôi đã trông thấy đoàn xe đạp chạy qua lúc nãy, và về hướng Nam một con đường nhánh băng ngang cánh đồng giữa hai hàng cây dày đặc. Tôi nghĩ là nên đi tắt về hướng Nam sau khi vòng qua thành phố rồi băng qua cánh đồng thẳng tới Compoformio, và con đường chính dẫn tới con sông Taglimento. Chúng tôi có thể tránh được dòng rút lui chếch bằng cách tiếp tục theo những con đường làng, phía bên kia Udine. Tôi biết là cánh đồng có nhiều ngả tắt. Tôi đi xuống gò đất.

- Lại đây - Tôi nói - Chúng ta thử đi theo con đường này tiến về phía Nam thành phố.

Tất cả bốn chúng tôi đều đi xuống sườn gò đất. Từ phía con đường tắt, một phát đạn bay về phía chúng tôi và cắm phập vào gò đất.

- Quay lại! - Tôi la lớn.

Tôi leo lên trong bùn lầy trơn tuột. Ba người lái xe đang ở trước mặt tôi. Tôi cố leo thật mau. Hai phát súng nữa nổ từ sau bụi rậm và Aymo đang băng qua đường sắt, lảo đảo, sẩy chân ngã sấp úp mặt xuống đường. Chúng tôi kéo anh sang phía bên kia và đặt nằm ngửa.

- Phải đặt đầu anh cao lên - Tôi bảo.

Piani quay người anh. Anh ta nằm dưới bùn lầy của gò đất, đôi chân thòng xuống thấp. Hơi thở của anh không đều và mỗi lần thở máu lại trào ra đàng mũi. Cả ba chúng tôi đều cúi mình xuống gần anh. Trời vẫn mưa. Anh bị thương vào gáy, viên đạn xuyên lên phía trên và trổi ra gần mắt phải, Aymo đã chết trong khi tôi đang bịt lại hai vết thương. Piani đặt đầu anh xuống, lau mặt anh bằng một mẩu băng cứu thương và, thế là hết.

- Quân tàn nhẫn - Piani càu nhàu.

- Không phải bọn Đức - Tôi nói - Không thể có bọn Đức ở nơi này.

- Tụi Ý - Piani dùng tiếng hình dung từ Ý “Italiani”.

Bonello không nói gì cả. Anh ngồi bên cạnh xác Aymo nhưng mắt không nhìn Aymo. Piani nhặt chiếc mũ của Aymo đã rơi xuống đất và đậy lên mặt bạn. Anh gỡ chiếc bi đông của Aymo ra.

- Anh uống không? - Piani nói rồi đưa bi đông cho Bonello.

- Không - Bonello trả lời rồi quay sang tôi.

- Điều này cũng có thể xảy đến với chúng ta trên đường sắt.

- Không đâu - Tôi đáp - Vì chúng ta đã đi trên cánh đồng.

Bonello lắc đầu.

- Aymo đã chết, rồi sẽ tới lượt ai nữa đây trung uý? Chúng ta làm gì bây giờ?

- Chính là bọn Ý đã bắn Aymo - Tôi nói - Chứ không phải bọn Đức.

- Tôi nghĩ rằng nếu là bọn Đức thì họ đã giết sạch chúng ta rồi - Bonello bảo.

- Tụi Ý còn nguy hiểm hơn là tụi Đức nữa - Tôi bảo - Hậu vệ thì sợ tất cả. Bọn Đức biết rõ điều chúng muốn.

- Trung úy lý giải hay đấy - Bonello bảo.

- Chúng ta làm gì bây giờ? - Piani nói.

- Tốt hơn là mình ẩn đâu đây để chờ trời tối. Nếu chúng ta có thể đi về hướng Nam thì thật là hoàn hảo.

- Họ sẽ giết sạch cả ba chúng mình để chứng tỏ rằng họ có lý ngay lần đầu - Bonello nói - Tôi không muốn tạo điều kiện cho chúng làm thế.

- Cố tìm một chỗ ẩn càng gần Udine càng hay. Chúng ta sẽ qua sau khi trời tối.

- Nào, chúng ta đi chứ - Piani giục.

Chúng tôi đi dọc theo phía Bắc con đường dốc. Tôi nhìn lại phía sau, Aymo nằm sõng sượt dưới bùn lầy trên triền gò đất. Trông anh ta thật nhỏ bé, đôi tay xuôi theo người, đôi chân quấn xà cạp, đôi giầy bết đầy bùn khép chặt vào nhau, chiếc mũ phủ kín mặt. Anh chỉ còn là một cái xác không hồn. Trời vẫn mưa. Tôi mến thương Aymo hơn tất cả những người mà tôi đã từng quen biết. Tôi cất giấy tờ của anh vào trong ví và sẽ báo tin cho gia đình anh hay. Phía trước mặt chúng tôi, bên kia thửa ruộng, một trang trại có cây cối bao bọc xung quanh với những gian phụ tiếp giáp. Một bao lơn có hàng cột đỡ ở tầng lầu thứ nhì.

- Chúng ta nên đi cách khoảng nhau một tí - Tôi nói - Tôi sẽ dẫn đầu.

Tôi tiến về phía trang trại theo một con đường xuyên qua thửa ruộng.

Trong lúc băng qua thửa ruộng, tôi thầm nghĩ, nếu có kẻ nào từ phía sau hàng cây quanh trang trại hoặc từ chính trong trang trại có thể bắn vào chúng tôi cũng nên. Tôi tiến lại gần và trông rõ ngôi nhà lơn. Bao lơn trên tầng thứ hai thông đến vựa cỏ và những bó cỏ khô lộ ra giữa những hàng cột. Sân lát gạch và nước mưa nhỏ giọt ở tất cả các cây. Một chiếc xe bò lớn, trống rỗng, hai càng chổng lên cao dưới mưa. Tới sân trại, tôi băng qua và ẩn mình dưới bao lơn. Cửa chính ngôi nhà mở. Tôi liền đi vào, Piani và Bonello đi theo tôi. Bên trong tối om. Tôi ra nhà bếp. Có nhiều tro trong lò. Nồi treo phía trên nhưng rỗng không. Tôi sục khắp nơi nhưng không có gì để ăn cả.

- Chúng ta nên leo lên nằm trên vựa cỏ. Piani, nếu anh có thể kiếm cái gì ăn được thì anh mang lên trên ấy nhé?

- Để tôi xem - Piani đáp.

- Tôi cũng sẽ đi kiếm nữa - Bonello nói.

- Tốt lắm. Để tôi lên xem vựa cỏ ra sao - Tôi nói.

Tôi thấy một cầu thang đá từ dưới chuồng gia súc đi lên. Giữa trời mưa tầm tã, chuồng gia súc xông lên mùi cỏ khô khan dễ chịu. Gia súc không có trong chuồng, có lẽ họ đã dẫn chúng theo khi chạy trốn. Cỏ chỉ dày nửa vựa thôi. Có hai cửa sổ trên mái ngói, một cái được chặn bằng những tấm ván, còn cái kia ở về hướng Bắc chỉ là một cái cửa tò vò nhỏ. Có một cái khe trượt để dùng ném cỏ xuống cho gia súc. Các cây xà xuyên qua cửa sập dưới đó xe bò chở cỏ ngừng lại và cho cỏ lên vựa. Tôi lắng nghe mưa rơi trên mái ngói, và khi bước xuống tôi ngửi thấy mùi phân khô dễ chịu trong chuồng. Chúng tôi có thể đẩy tấm ván lên để nhìn ra ngoài sân bằng một trong hai cửa sổ này hoặc đi xuống phía dưới, hay chạy,thoát ra ngoài bằng cái khe trượt cỏ trong trường hợp cầu thang không dùng được. Vựa cỏ rất lớn. Chúng tôi có thể trốn trong cỏ khô nếu chúng tôi trông thấy ai. Thật là một chỗ rất thuận tiện. Tôi tin chắc rằng chúng tôi có thể đi về phía Nam nếu không bị đạn nã theo sau lưng. Không thể có bọn Đức ở gần đâu đây. Bọn chúng từ hướng Bắc tới và theo con đường Cividale. Chúng không thể đi ngang qua đây từ hướng Nam. Bọn Ý thì nguy hiểm hơn nhiều. Họ hay sợ sệt và nã súng vào những gì chúng khả nghi. Đêm trước, trong khi lui quân, chúng tôi có nghe kể rằng có nhiều tên Đức mặc đồng phục Ý trà trộn trong đoàn quân rút lui. Tôi không tin điều đó. Người ta thường kể như thế trong tất cả các cuộc chiến tranh. Đó là một trong những điều kẻ thù hay làm. Đó là một torng những việc mà ta thường hay nghe nói đến trong các trận giặc, và quân thù luôn luôn tìm cách thực hiện. Ta không bao giờ nghe nói đến người nào mặc đồng phục Đức để gây lộn xộn trong hàng ngũ của chúng. Cũng có thể họ đã làm được nhưng đối với tôi việc đó vô cùng khó khăn. Tôi không tin bọn Đức làm điều đó. Tôi không thấy tại sao chúng đã làm như vậy. Không cần phải làm rối loạn cuộc rút lui của chúng ta. Khuôn khổ của quân đội và tình trạng thiếu đường xá đã làm điều đó rồi. Không ai ra lệnh gì cả. Họ đã để yên cho bọn Đức muốn làm gì thì làm. Trong khi đó họ coi chúng tôi là bọn Đức và giết chúng tôi. Họ đã giết chết Aymo. Cỏ khô xông lên một mùi thơm và nằm trong vựa cỏ như thế cũng đủ làm cho chúng tôi quên đi những năm tháng đã qua. Chúng tôi đã từng nằm trong cỏ khô như thế đã bao lần để nói chuyện tâm tình và bắn chim sẻ bằng những cây súng hơi, khi chúng đậu trong hốc tam giác ở mãi tít trên cao bức tường của vựa cỏ. Bây giờ vựa cỏ đã không còn, trong một năm qua họ đã đốn sạch khu rừng thông, chỉ còn trơ lại gốc và cành khô dùng để nhóm lửa. Bây giờ không thể nào lùi lại được nữa. Nếu chúng tôi không tiến lên được thì việc gì sẽ xảy ra? Không còn nghĩ đến việc trở lại thành Milan nữa. Và nếu trở lại Milan thì sẽ ra sao? Tôi lắng nghe tiếng súng nổ ở phía Bắc, hướng Udine. Tôi nhận ra được cả tiếng súng liên thanh. Không có trọng pháo. Chắc đã có chuyện gì xảy ra. Họ phải chặn bắt một vài toán quân trên đường. Xuyên qua ánh sáng lờ mờ trong vựa cỏ, tôi nhận ra Piani đang đứng dưới cái cửa sập. Anh ta cầm trên tay một khúc dồi dài, một hũ gì nữa và hai chai rượu.

- Lên đây nào, cây thang đây này - Tôi nói.

Rồi vì thấy anh ta bận mang nhiều thứ nên tôi nghĩ rằng nên giúp anh ta và tôi bèn leo xuống. Lúc nãy nằm trên cỏ khô tôi mơ màng và gần thiêm thiếp ngủ.

- Bonello đâu rồi? - Tôi hỏi.

- Tôi sẽ nói với Trung úy sau - Piani trả lời.

Chúng tôi leo lên thang. Lên đến trên, chúng tôi để các thứ xuống cỏ khô. Piani rút con dao ra và mở một chai rượu.

- Cái chai có dấu, chắc là rượu ngon - Anh ta vừa nói vừa mỉm cười.

- Bonello đâu rồi? - Tôi hỏi.

Piani nhìn tôi.

- Bonello đi mất rồi, trung úy ạ. Anh ta muốn đầu hàng.

Tôi không nói gì cả.

- Anh ta sợ chúng ta sẽ bị giết.

Tôi cầm chai rượu lặng thinh.

- Còn chúng ta, trung úy đã biết, không còn gì mà tin tưởng vào chiến tranh nữa.

- Vậy tại sao anh không đi? - Tôi hỏi.

- Vì tôi không nỡ rời trung úy.

- Bonello đi đâu?

- Tôi không biết trung úy ạ. Hắn đã đi rồi.

- Thôi được, anh cắt dồi đi chứ - Tôi nói.

Piani nhìn tôi trong tranh tối tranh sáng.

- Tôi đã cắt dồi trong khi nói chuyện với trung úy.

Chúng tôi ngồi trên cỏ khô, ăn dồi và uống rượu. Có lẽ rượu này dành cho đám cưới cho nên rượu quá cũ và nhạt.

- Anh canh ở cửa sổ này nhé Luigi - Tôi nói - Còn tôi sẽ quan sát ở cửa sổ bên kia.

Chúng tôi uống sạch mỗi người một chai rượu. Tôi nằm sấp trên cỏ rơm, cặp nách chai rượu và nhìn qua cửa tò vò nhỏ hẹp cánh đồng ướt át ngoài kia. Không biết tôi hy vọng trông thấy được những gì, nhưng chắc chắn là tôi sẽ không trông thấy gì ngoài cánh đồng mênh mông, những cây dâu trụi lá và mưa đang rơi. Tôi uống rượu mà không thấy say. Họ đã để dành nó quá lâu khiến nó mất đi cả phẩm chất lẫn màu mè. Tôi nhìn màn đêm buông xuống nhanh chóng quá. Đêm sẽ rất tối với trận mưa này. Trong cảnh tối om như thế này còn canh gác làm gì nữa, tôi bèn đi kiếm Piani. Anh ta đã lăn ra ngủ rồi. Tôi không đánh thức anh ta mà ngồi xuống bên cạnh. Đó là một anh chàng vạm vỡ và đang ngủ say sưa. Mấy phút sau tôi đánh thức anh dậy và chúng tôi tiếp tục lên đường.

Thật là một đêm lạ lùng. Tôi không biết tôi đã tưởng tượng những gì, có thể là cái chết, những tiếng súng trong đêm tối, cuộc chạy trốn. Nhưng không có gì xảy ra cả. Chúng tôi nằm sát xuống cái hố bên cạnh con đường cái, chờ cho tiểu đoàn Đức đi qua. Khi chúng đã khuất, chúng tôi mới băng qua đường và lao về hướng Bắc. Chúng tôi hai lần đến sát bên bọn Đức nhưng nhờ trời mưa nên chúng không trông thấy. Chúng tôi băng qua thành phố tiến về hướng Bắc nhưng không gặp một bóng người Ý nào cả. Và ít lâu sau chúng tôi nhập vào trong một trong những đoàn rút quân chính. Chúng tôi đi suốt đêm theo hướng Tagliamento. Tôi không thể hình dung được đoàn rút lui đông đảo đến mức nào. Không phải chỉ quân đội mà là cả một xứ sở chạy trốn. Chúng tôi đi suốt đêm, nhanh hơn cả xe nữa. Chân đau nhức, tôi mệt lả nhưng chúng tôi đi dẻo chân. Bonello thật là ngu ngốc khi đầu hàng quân thù. Chẳng có gì nguy hiểm cả. Chúng tôi đã vượt qua hai toán quân địch mà không có chuyện gì xảy ra cả. Nếu Aymo không bị giết, chúng tôi không ngờ rằng sẽ gặp nguy hiểm. Không ai ngạc nhiên khi chúng tôi đi công khai trên đường sắt. Cái chết xảy ra bất ngờ mà không ai hiểu được. Tôi tự hỏi không biết bây giờ Bonello đang ở đâu.

- Trung úy cảm thấy thế nào? - Piani hỏi.

Chúng tôi đang đi dọc theo lề đường đầy xe cộ và lính.

- Tốt.

- Tôi đi chán cả chân.

- Nhưng bây giờ chúng ta không còn cách nào khác. Đừng dằn vặt nữa.

- Bonello là một thằng ngốc.

- Đúng, hắn là một thằng ngốc.

- Trung úy sẽ đối phó với Bonello như thế nào?

- Tôi cũng không biết nữa.

- Xin trung úy coi như là hắn bị mất tích được không?

- Chưa biết được.

- Trung úy có thấy không, nếu chiến tranh cứ còn kéo dài mãi thì điều đó sẽ gây buồn khổ không ít cho gia đình.

- Tôi sẽ không báo cáo gì cả để tránh phiền lụy cho gia đình anh ta.

- Nếu chiến tranh chấm dứt thì việc đó không có gì quan trọng - Piani nói - Nhưng tôi tin là nó chưa chấm dứt. Nếu chiến tranh chấm dứt thì thật là hay.

- Không lâu nữa chúng ta sẽ biết - Tôi nói.

- Tôi không tin chiến tranh sẽ chấm dứt. Tất cả mọi người đều tin rằng chiến tranh sẽ chấm dứt, nhưng riêng tôi, tôi không tin.

- Hoan hô hòa bình! - Một người lính hô to - Chúng ta đi về nhà chúng ta.

- Nếu tất cả chúng ta đều được trở về với gia đình thì tuyệt biết bao! - Piani nói - Anh không thích được trở về quê hương anh sao?

- Thích chứ.

- Điều đó sẽ không bao giờ đến. Tôi không tin rằng chiến tranh sẽ chấm dứt.

- Nào, ta đi thôi.

Chúng tôi vượt qua hai chiếc xe cứu thương Anh bị bỏ lại trong đoàn xe.

- Mấy chiếc xe này từ Gorizia đến. Tôi nhận ra chúng rồi.

- Chúng chạy xa hơn xe chúng ta một chút.

- Họ khởi hành sớm hơn.

- Tôi lấy làm lạ, không biết những người lái xe đâu.

- Có lẽ họ đã bỏ đi trước hết rồi.

- Bọn Đức đã dừng lại trước Udine - Tôi nói - Tất cả những người kia sẽ vượt qua sông.

- Vâng - Piani nói - Vì thế tôi tin rằng chiến tranh vẫn còn tiếp tục.

- Tôi lấy làm lạ là tại sao bọn Đức có thể tiến binh được mà chúng không tiến - Tôi nói.

- Tôi không hiểu. Tôi không hiểu gì cả về cuộc chiến tranh này.

- Chắc họ phải chờ đợi các phương tiện chuyên chở - Tôi phỏng đoán.

- Tôi không biết - Piani nói.

Nếu chỉ có một mình anh ta tỏ ra dịu dàng hơn. Trước mặt nhiều người khác thì anh nói năng thô bạo.

- Anh lập gia đình chưa Luigi?

- Trung úy thừa biết là tôi đã có vợ rồi.

- Có phải vì thế mà anh không muốn bị bắt làm tù binh không?

- Đó cũng là một lý do. Còn trung úy đã lập gia đình rồi chứ?

- Chưa.

- Cả Bonello cũng chưa nữa. Việc lập gia đình không có gì quan trọng cả. Nhưng tôi thiết nghĩ một người đã có vợ thì có ước muốn được trở về với vợ con của họ. Tôi thích bàn chuyện phụ nữ lắm.

- Phải.

- Chân trung úy thế nào?

- Chúng làm tôi hơi đau.

Khi chúng tôi tới bờ sông Tagliamento, thì trời vẫn chưa sáng hẳn. Chúng tôi đi dọc theo con sông nước lớn, đến tận cầu nơi qua lại đông đảo nhất.

- Người ta phải phòng thủ sau con sông này - Piani nói.

Trong bóng đêm, trông nước sông có vẻ dâng cao. Nước cuộn xoáy và trải rộng ra. Cây cầu gỗ nằm cách đó chừng ba phần tư dặm và con sông với dòng nước bình thường chỉ là một dòng nhỏ chảy trong lòng sông nông đầy sỏi, rất thấp dưới gầm cầu, giờ đây gần chạm vào các thành cầu bằng gỗ. Chúng tôi đi dọc theo bờ sông rồi nhập vào đám đông đi qua cầu. Tôi tiến chậm chạp dưới mưa, chỉ cách mặt nước một chút. Tôi nhìn con sông qua lan can cầu. Lúc bấy giờ tôi không thể nhích được một bước nào nữa và người mệt lả. Việc sang sông không vui thú chút nào cả. Tôi tưởng tượng hậu quả của một vụ oanh tạc bằng phi cơ có thể xảy ra khi trời sáng hẳn.

- Piani - Tôi gọi.

- Dạ tôi đây, trung úy.

Anh ta đứng trước tôi một chút, trong đám đông. Không ai nói gì cả, tất cả mọi người đều nghĩ đến việc qua sông càng sớm càng hay. Chỉ có mỗi một ý nghĩ đó thôi. Chúng tôi hầu hết đều qua được sông. Phía bên kia đầu cầu, nhiều sĩ quan và hiến binh đang đứng ở hai bên đường, tay cầm đèn điện. Tôi thấy bóng họ in trên nền trời. Khi chúng tôi tới gần sát bên họ, tôi thấy một viên sĩ quan trỏ một người trong đám đông. Một hiến binh chen vào trong đám đông nắm tay lôi người đó ra ngoài. Chúng tôi tới gần, đối diện với họ. Các sĩ quan đang xem xét kỹ lưỡng từng người trong đám đông. Đôi khi họ thì thầm với nhau và bước tới rọi đèn vào mặt một người. Họ lôi một người nữa ngay khi chúng tôi đi ngang qua đó. Tôi thấy rõ người ấy. Ông ta là một trung tá. Tôi thấy mấy ngôi sao trên tay áo ông khi ánh đèn rọi vào. Ông ta mập và lùn. Người hiến binh đẩy ông ta ra phía sau hàng sĩ quan. Khi chúng tôi đi qua, trong bọn tôi thấy một trong hai người nhìn tôi rồi một người trỏ tôi và nói với người hiến binh. Tôi thấy anh ta bước tới và nắm lấy cổ áo tôi.

- Anh muốn gì? - Vừa nói tôi vừa đấm vào mặt hắn.

Tôi thấy mặt hắn dưới vành mũ, râu vểnh và một dòng máu chảy dài xuống má. Một người khác nhảy bổ vào tôi.

- Các anh muốn gì? - Tôi hỏi.

Hắn ta không trả lời. Hắn ta đang lừa thế để tóm tôi. Tôi cho tay ra phía sau để móc khẩu súng lục.

- Anh không biết rằng anh không có quyền chạm đến một sĩ quan à?

Một tên khác chụp phía sau lưng tôi và kéo tay tôi vặn tréo lại đưa lên trời, Tôi quay người theo hắn trong khi một tên khác tóm lấy cổ tôi. Tôi đá vào xương ống quyển và thúc đầu gối vào hạ bộ của hắn.

- Bắn chết nó đi nếu nó kháng cự - Một người nào đó nói.

- Như thế này là nghĩa lý gì? - Tôi cố la to lên nhưng giọng tôi bị lạc hẳn đi. Tôi đã ở bên vệ đường.

- Bắn chết nó đi nếu nó kháng cự - Một viên sĩ quan nói - Lôi hắn trở ra phía sau.

- Anh là ai?

- Quân cảnh - Một viên sĩ quan khác nói.

- Tại sao không để cho tôi đi qua mà lại cho mấy “phi cơ” này chụp tôi như vậy?

Họ không trả lời. Họ không cần trả lời tôi, họ thuộc lực lượng quân cảnh.

- Lôi hắn ra phía sau cùng với bọn kia - Viên sĩ quan thứ nhất nói - xem hắn nói tiếng Ý còn nặng lắm đấy.

- Anh cũng thế, đồ chó chết - Tôi bảo.

- Đưa hắn ta ra phía sau cùng với bọn kia - Viên sĩ quan thứ nhất nói.

Họ dẫn tôi ra phía sau hàng sĩ quan tới một nhóm người đang chờ đợi trên cánh đồng cạnh con sông. Trong khi chúng tôi đang đi thì nghe thấy tiếng súng nổ. Tôi thấy tia lửa và nghe thấy tiếng nổ. Chúng tôi tới gần đám đông. Họ gồm có bốn sĩ quan và trước họ có một người đang bị hai hiến binh giữ. Vài người khác cũng bị hiến binh canh phòng. Bốn hiến binh khác võ trang bằng cac bin đang hộ vệ những thẩm phán quân sự. Họ là những hiến binh đội mũ rộng vành. Hai tên khi nãy đã tóm tôi, đẩy tôi vào với nhóm người đang chờ bị tra hỏi. Tôi nhìn một người đang bị các sĩ quan hỏi cung. Ông ấy là viên trung tá mập mạp có mái tóc muối tiêu mà khi nãy bị bắt trong đoàn quân. Những thẩm phán này đã đủ nhiệt tình, sự lạnh lùng và lòng dũng đảm của dân tộc Ý để giết người mà không sợ trả thù.

- Ông ở lữ đoàn nào?

Ông ấy trả lời họ.

- Trung đoàn nào?

Ông ấy trả lời.

- Tại sao ông không theo trung đoàn của ông?

Ông ấy trả lời.

- Ông có biết rằng một viên sĩ quan luôn luôn phải có mặt trong quân đội của mình không?

Ông ấy có biết.

Chỉ có thế thôi. Một viên sĩ quan khác nói :

- Chính ông và những kẻ giống như ông đã để cho quân dã man dày xéo phần đất thiêng liêng của Tổ Quốc.

- Xin ông thứ lỗi cho - Viên trung tá nói.

- Vì có những hành động phản bội như của ông nên chúng ta đã mất biết bao nhiêu thành quả của chiến thắng.

- Chắc các ông không bao giờ rút lui cả? - Viên trung tá hỏi.

- Nước Ý sẽ không bao giờ chịu rút lui.

Chúng tôi trầm người dưới mưa và nghe như thế. Chúng tôi đứng đối diện với các viên sĩ quan còn tội nhân đứng trước mặt họ hơi né sang bên cạnh so với chúng tôi.

- Nếu các ông muốn xử bắn tôi - Viên trung tá nói - Thì cứ việc đem ra bắn ngay đi đừng tra hỏi gì thêm cả.

Ông làm dấu thánh giá. Các viên sĩ quan tham khảo với nhau trong khi một sĩ quan khác viết điều gì đó lên thếp giấy.

- Tội đào ngũ. Kết án tử hình - Viên sĩ quan nói.

Hai hiến binh lôi viên trung tá ra bờ sông. Ông lầm lũi đi dưới trời mưa, lom khom, đầu không mũ với hai tên lính kèm sát hai bên. Tôi không nhìn thấy cảnh xử bắn nhưng nghe thấy tiếng súng nổ. Họ hỏi một người khác. Cũng là một sĩ quan bỏ hàng ngũ. Ông ta không được phép trình bày một lời nào cả. Ông ta òa lên khóc khi nghe họ đọc bản án tử hình. Khi người ta bắn ông và hỏi tiếp người khác, tôi tự hỏi không biết tôi có nên đợi đến phiên phải bị xét hỏi hay tốt hơn tự giải quyết một việc gì ngay lập tức. Tất nhiên họ cho tôi là một tên Đức trong bộ đồng phục Ý. Trong khi họ thi hành nhiệm vụ, tôi thấy tinh thần làm việc của họ ra sao rồi.

Họ trẻ tuổi và làm việc để bảo vệ quê hương họ. Họ lập lại một đạo quân nữa ở phía sau con sông Tagliamento. Họ xử tử tất cả các sĩ quan cao cấp đào ngũ. Họ cũng sơ bộ tạm thời phụ trách những phần tử phá họai người Đức trong bộ đồng phục Ý nữa. Các viên sĩ quan này đều đội mũ sắt. Chỉ có tôi và Piani đội mũ sắt và một vài hiến binh cũng đội mũ sắt mà thôi. Còn tất cả những hiến binh khác đầu đội mũ rộng vành. Vì vậy chúng tôi gọi họ là “phi cơ”. Chúng tôi đứng chờ đợi dưới mưa và bị lôi ra điều tra từng người một rồi bị xử bắn. Những thẩm phán có một thái độ lãnh đạm tận tụy, xét xử nghiêm khắc đối với những người gần kề cái chết mà họ chẳng mảy may cho là nguy hiểm. Họ đang hỏi một thiếu tá bộ binh. Ba sĩ quan khác cũng vừa thêm vào nhóm chúng tôi. Lữ đoàn của ông đâu?

Tôi quay nhìn bọn hiến binh. Chúng xem xét những người mới đến. Những tên khác đang nhìn ông thiếu tá. Tôi bèn khom mình xuống, xô hai người, cắm đầu chạy ra sông. Tôi vấp phải bờ sông và lao xuống nước đến tòm một cái. Nước sông lạnh vô cùng nhưng tôi cố ngâm mình dưới nước. Tôi gặp dòng nước xoáy và tôi cố ngâm mình dưới nước cho đến khi có cảm tưởng không thể trồi lên được nữa. Vừa nổi lên, tôi hít một hơi thật dài rồi lại hụp xuống nữa. Tôi bơi dễ dàng với quần áo và giày ủng. Khi trồi lên mặt nước lần thứ hai, tôi thấy một khúc gỗ trôi trước mặt tôi. Tôi nắm và bíu lấy nó bằng một tay. Tôi giấu đầu sau đó chẳng buồn nhìn lên nữa. Tôi không buồn nhìn lên cả bờ sông. Họ đã nã súng khi tôi chạy và lúc tôi trồi đầu lên khỏi mặt nước. Bây giờ họ không bắn nữa. Khúc gỗ xoáy theo dòng nước, tôi bám lấy nó bằng một tay và nhìn vào bờ sông. Bờ dường như trôi rất nhanh. Dòng nước có nhiều củi gỗ. Nước sông lạnh buốt. Tôi lướt qua những cụm lau trên một hòn đảo. Hai tay tôi bám chặt lấy khúc gỗ và phó mặc cho nó trôi đi. Bờ sông đã xa khỏi tầm mắt.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 31

Nước lạnh và cao, nhiều vật bị nước cuốn ra từ trong bờ khi nước chảy mạnh. Rất may là tôi vớ được miếng gỗ to để bám vào đó. Tôi tì cằm lên khúc gỗ để mặc nước lạnh cuốn đi, hai tay cố ghì chặt, nhẹ nhàng thả người trên mặt nước giá băng. Tôi sợ bị chuột rút, và mong chóng giạt vào bờ. Tôi bị trôi đến một quãng sông uốn khúc dài. Trời đã khá sáng và tôi nhận ra được những bụi cây ở dọc theo bờ. Có một vùng cây xanh phía trước mặt và dòng nước trôi về phía bờ đó. Tôi phân vân không biết có nên cởi hết quần áo và giày vớ để bơi vào bờ không. Tôi từ bỏ giải pháp đó. Từ nãy tôi đã không nghĩ gì được hơn là làm sao vào đến bờ, nhưng nếu tôi vào bờ với hai bàn chân không giày thì cũng rất phiền. Dầu sao tôi cũng phải đến Mestre cho bằng được. Tôi thấy bờ sông tiến lại gần, lùi xa, rồi tiến lại gần nữa. Tôi bị trôi đi chậm dần. Bây giờ đã tiến được gần sát bờ rồi. Tôi đã phân biệt được cành một cây dương liễu. Khúc gỗ bập bềnh chầm chậm, bờ sông ở phía sau tôi và tôi biết rằng tôi đang ở một chỗ nước xoáy. Tôi bị nước xóay chầm chậm. Khi nhìn lại bờ thấy rất gần, tôi ráng giữ một tay, dùng tay kia và đôi chân đẩy khúc gỗ lại gần bờ. Thật vô ích. Tôi sợ sẽ bị trôi ra ngoài chỗ nước xoáy nên cố bám chặt khúc cây và đẩy mạnh vào bờ. Tôi đã nhìn thấy bụi cây, nhưng dù đẩy và bơi mạnh, dòng nước vẫn cuốn tôi đi. Lúc đó tôi nghĩ rằng có lẽ tôi sẽ chết đuôi vì đôi giày quá nặng, nhưng tôi cố vùng vẫy trong dòng nước và nhìn lên thì thấy bờ hiện ra rất gần. Đôi chân nặng chịch làm tôi hoảng hốt. Tôi tiếp tục vẫy vùng và bơi cho đến khi tiến được gần vào bờ. Tôi níu lấy cành dương liễu và không còn đủ sức để đu người lên, nhưng tôi biết rằng bây giờ tôi không bị chết đuối được nữa. Khi còn bám lấy khúc gỗ trên dòng nước, tôi cũng không nghĩ rằng tôi có thể chết đuối được. Tôi cảm thấy bụng trống rỗng và buồn nôn, đau ngực vì quá gắng sức. Tôi vẫn bám lấy cành cây và chờ đợi. Khi thấy cơn đau lắng xuống, tôi vội đu mình lên mấy cành liễu và lại nghỉ, vừa nghỉ hai tay vừa ôm chặt đám lá và cành cây. Tiếp đó tôi lần mò mở đường vào bờ giữa những cây dương liễu. Tôi nằm dài trên bờ sông và lắng tai nghe tiếng nước chảy và mưa rơi.

Một lúc sau tôi đứng dậy và bắt đầu đi dọc theo con sông. Tôi biết rằng từ đây đến Latisana không có cây cầu nào bắc ngang qua sông cả. Tôi phán đoán ở trước mặt là San Vito. Tôi không biết là đường ở phần nào. Trước mặt tôi là một cái mương nước chảy vào sông. Tôi bèn tiến lại gần. Đến nơi không thấy bóng ai cả, tôi ngồi xuống bên bụi rậm cạnh bờ nước, cởi giày và trút nước ra. Tôi cởi áo choàng ngoài và móc ví ở túi áo trong ra, giấy tờ tiền bạc đều bị ướt. Tôi vắt chiếc áo choàng rồi cởi quần, áo sơ mi và đồ lót ra vắt nước cho khô. Tôi xát mạnh và xoa bóp người rồi mặc quần áo lại. Tôi đã làm mất chiếc mũ lưỡi trai.

Trước khi mặc chiếc áo choàng ngoài, tôi bóc đi ngôi sao trên tay áo và nhét nó vào trong túi áo trong cùng với số tiền của tôi. Tiền đã bị ướt nhưng không sao, tôi đếm còn tất cả ba ngàn và vài đồng lia lẻ. Quần áo ướt đẫm và dính sát vào người. Tôi phải khua tay để cho máu lưu thông điều hoà. Quần áo của tôi bằng len nên tôi nghĩ tôi sẽ bị cảm nếu tôi không cử động. Họ đã đoạt mất khẩu súng lục của tôi ở dọc đường, còn cái bao súng không tôi giắt vào bên trong áo choàng. Tôi không có áo mưa và trời mưa lạnh buốt. Tôi đi dọc theo bờ kênh. Trời sáng tỏ ra, đồng quê ướt át, phẳng phiu và có vẻ ảm đạm. Đồng ruộng trơ trụi và ướt sũng. Xa xa mãi tận phía chân trời tôi trông thấy một tháp chuông đứng sừng sững trên cánh đồng. Tôi ra đến đường cái. Trước mặt tôi, vài đội quân đang tiến bước trên đường. Tôi đi tập tễnh dọc theo lề đường để họ vượt qua tôi. Họ là một phân đội đang hành quân về phía sông. Tôi vẫn tiếp tục đi. Ngày hôm đó tôi vượt qua đồng bằng Vénétie. Đó là một vùng rất thấp và dưới cơn mưa trông nó càng thấp hơn. Cạnh bờ biển có nhiều ruộng muối và các con đường. Các con đường đều chạy dọc theo các cửa sông ra tận biển và muốn băng qua cánh đồng thì phải đi theo các lôi mòn dọc theo các con kênh đào. Tôi tiến về phía Bắc và đã vượt ngang qua hai con đường sắt và nhiều con đường khác. Sau cùng tgdi đến cuối con đường mòn nơi có con đường sắt chạy dài bên cạnh đám ruộng muối. Đó là đường xe lửa chính chạy dài từ Venise đến Trieste. Nó gồm lũy cao và chắc chắn, nền vững vàng và trên có hai con đường sắt. Cách đó không xa là một trạm xe lửa có lính canh gác. Ở hướng khác có một cây cầu bắc ngang qua dòng suối thông với đám ruộng muối. Tôi cũng thấy một lính gác trên cầu. Lúc băng ngang cánh đồng để tiến về phía Bắc tôi đã trông thấy xe lửa chạy trên con đường sắt này, hiện ra từ xa, rõ ràng trên cánh đồng bằng mênh mông và tôi nghĩ rằng có lẽ đó là chuyến xe lửa từ Portograro đến. Tôi nhìn những tên lính gác và nằm xuống cạnh con đường đắp cao để dễ bề quan sát con đường cả hai phía. Tên lính gác cầu đi lần theo đường sắt về phía tôi, rồi quay trở lại đi về phía cây cầu. Tôi nằm im, đói bụng và chờ đợi chuyến tàu. Chuyến tàu mà tôi trông thấy lúc nãy rất dài và đầu tàu chạy rất chậm nên tôi tin chắc rằng tôi có thể nhảy lên tàu được. Trong lúc sắp hết hy vọng vào một chuyến tàu, thì xe lửa xuất hiện. Con tàu tiến lại gần càng lớn dần ra. Tôi nhìn tên lính gác cầu. Hắn lại đang đi về phía này cầu, nhưng ở phía bên kia con đường sắt, khiến hắn không thể nào trông thấy được tôi khi chiếc tàu chạy ngang qua. Tôi nhìn đầu tàu tiến lại gần, nặng nhọc, kéo theo nhiều toa xe. Tôi biết rằng sẽ có lính gác ở trên tàu nên tôi cố xem họ ở đâu nhưng tôi không thể trông thấy được vì tôi đang ẩn nấp. Đầu tàu tiến tới gần chỗ tôi đang nằm và khi nó sát bên tôi, tôi nghe tiếng máy xình xịch nhả khói ngay trên nền đất phẳng. Tôi chờ cho người thợ máy khuất mới đứng lên và bước tới gần các toa xe. Nếu các tên lính nhìn thấy thì chúng cho rằng tôi chỉ là một người đang đứng bên cạnh đường sắt không có gì đáng khả nghi. Nhiều toa chở hàng hóa đóng kín lướt qua. Kế đó tôi thấy tiến đến một toa thấp và để trống mà người Ý thường gọi là “chiếc xuồng” bên trên che bằng vải bạt. Tôi đứng đợi cho đến khi toa xe vừa chạy tới liền nhảy vọt lên nắm ngay song sắt và đu người lên. Tôi bò vào giữa “chiếc xuồng” và hàng hiên toa hàng mà “chiếc xuồng” móc vào. Tôi nghĩ chắc chắn rằng không ai trông thấy được tôi. Tôi bám chặt vào các song sắt và ngồi xổm, chân để trên thanh sắt đỡ. Chúng tôi sắp đến gần cầu. Tôi nhớ đến tên lính gác cầu. Khi chúng tôi chạy ngang qua, hắn nhìn tôi. Đó là một chàng trai trẻ, đội chiếc mũ sắt quá to. Tôi nhìn hắn ta một cách khinh bỉ và hắn quay đi chỗ khác. Hắn nghĩ rằng tôi là người của đoàn tàu.

Chúng tôi qua khỏi cầu. Người lính canh nhìn vào các toa khác chạy qua có vẻ bối rối. Tôi nghiêng mình nhìn xem tấm vải bạt cột ra sao. Nó có các vòng và buộc vào toa bằng thừng. Có những khối cứng dưới tấm bạt., bị cho nước mưa làm cứng thêm. Tôi rút con dao trong túi ra cắt sợi dây và luồn tay vào bên dưới. Tôi nhìn ra phía đầu tàu. Một tên lính đứng gác trên toa hàng hoá, nhưng hắn đang nhìn ra phía trước. Tôi bỏ các song sắt và chui xuống dưới các tấm bạt. Trán tôi chạm phải vật gì một cách thật mạnh làm cho máu tuôn xuống mắt nhưng tôi cố bò và nằm sấp xuống. Một lát sau tôi trở mình và cột lại tấm bạt.

Tôi ẩn mình dưới tấm bạt chung với các khẩu đại bác. Chúng toát lên mùi dầu mỡ. Tôi nằm lắng nghe mưa rơi trên tấm bạt và tiếng lách cách của toa xe nghiến trên đường. Ánh sáng yếu ớt lọt qua. Tôi ngắm các khẩu súng. Chúng được bao bọc một lần vải. Tôi cho rằng chúng được gơi đi từ quân đoàn thứ ba. Trán tôi sưng to và tôi cầm máu bằng cách nằm yên để cho máu đông lại. Rồi tôi gỡ máu khô quanh vết thương. Không có gì đáng ngại. Không có khăn tay, tôi dùng mấy ngón tay mò mẫm rửa các vết máu dính trên mặt bằng nước mưa ở tấm bạt nhỏ xuống, và sau cùng tôi lấy tay áo lau sạch. Tôi không muốn bị người ta để ý. Tôi biết rằng tôi phải xuống trước khi tàu tới Mestre, bởi vì họ sẽ xem xét đến các khẩu đại bác này. Họ không dám để mất hoặc quên súng. Tôi đói khủng khiếp.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 32

Tôi nằm trên sàn tàu, cạnh những khẩu đại bác dưới tấm bạt, ướt, lạnh và đói lả. Sau cùng tôi trở mình nằm sấp xuống, gối đầu lên cánh tay. Đầu gối tôi cứng đờ nhưng bây giờ đã dễ chịu lắm. Công trình giải phẫu của bác sĩ Valentini thật tài tình. Tôi đã đi bộ nửa đoạn đường rút lui và bơi trên một khúc sông Tagliamento với cái đầu gối này. Chính thật là cái đầu gối của bác sĩ. Còn cái đầu gối kia mới thật là của tôi. Bác sĩ đã chữa cho ta một bộ phận nào trong cơ thể thì bộ phận đó không thuộc về ta nữa. Khối óc vẫn thuộc về tôi và dạ dày nữa. Dạ dày đang kêu đói dữ lắm. Tôi cảm thấy nó đang lộn tung lên bên trong. Khối óc là của tôi nhưng tôi không dùng nó vào lúc này, không suy nghĩ gì được và cũng không còn nhớ gì nhiều nữa.

Tôi có thể nhớ đến Catherine nhưng tôi biết rằng tôi sẽ điên lên nếu tôi nghĩ đến nàng vì không biết rồi đây tôi có còn gặp lại nàng nữa không. Vì vậy không nên nghĩ đến nàng nữa... dù chỉ trong khoảnh khắc, dù chỉ nghĩ đến nàng mà thôi! Trong toa tàu chạy chầm chậm và tiếng bánh xe nghiền đều đều trên đường sắt với ánh sáng lờ mờ xuyên qua lần bạt và tôi nằm với Catherine trên sàn gỗ xe. Nằm trên sàn gỗ cứng trong toa xe không dám nghĩ ngợi mà chỉ mơ màng đến thời xa cách đã lâu, với bộ quần áo ướt đẫm... sàn gỗ chỉ tiến chầm chậm... nỗi cô đơn ở dưới... chỉ còn một mình với quần áo ướt cùng ván cứng thay cho phụ nữ. Không ai thích sàn toa tàu, hay súng đại bác trùm vải bạt hoặc mùi kim khí thoa mỡ, hay là tấm vải bạt ri rỉ nước mưa. Vậy mà mình vẫn thấy thoải mái dưới tấm bạt bên cạnh những khẩu đại bác. Khi thương nhớ đến một người mà mình biết chắc người ấy không thể có mặt được tại nơi đây, để rồi nằm sấp hồi tưởng lại một cách rõ rệt và lạnh lùng, nhưng nhất là rõ rệt và vô ích - rằng mình đã mục kích sự rút lui của một đạo quân và sự tiến lên của một đạo quân khác, rằng mình đã mất hết cả xe và binh sĩ giống như một anh chàng coi hàng đã để hàng hóa cháy hết trong một trận hoả hoạn. Một khi đã giải quyết và không còn trách nhiệm nữa.

Dòng sông đã cuốn theo nỗi căm hờn cùng tất cả trách nhiệm của tôi. Vả lại trách nhiệm đó cũng đã chấm dứt khi bọn hiến binh đã thộp cổ tôi. Tôi muốn vứt bỏ bộ quân phục dù còn đôi chút trách nhiệm tôi bị ràng buộc bởi cấp hiệu bề ngoài. Tôi đã tháo những sao cấp hiệu nhưng đó là vì lo xa chứ không phải vì danh dự. Về cơ bản, tôi không hề phản kháng. Tôi được giải thoát. Tôi cầu chúc mọi người được may mắn. Một số người, những người tốt, dũng cảm, bình tĩnh, thông minh, xứng đáng được hưởng. Riêng tôi, tôi không còn ở trong số những diễn viên của vở hài kịch và tôi chỉ mong sau chuyến tàu quý hóa này tới Mestre để được ăn và khỏi phải nghĩ ngợi gì nữa. Phải chấm dứt tuyệt đối.

Piani sẽ nói lại là tôi đã bị bắn. Họ thường hay lục túi và lấy hết giấy tờ của những người bị xử bắn. Họ không lấy được giấy tờ gì của tôi cả, họ sẽ cho tôi bị chết đuối. Tôi không rõ bên Mỹ người ta sẽ được tin như thế nào. Tử thương hay vì duyên cớ khác. Chúa ơi, đói quá. Tôi tự hỏi không rõ trong các buổi ăn chung, vị linh mục này ra sao, và Rinaldi nữa. Có lẽ anh chàng đang ở Pordenone nếu họ không rút lui xa hơn nữa. Thôi, có lẽ từ nay tôi không còn bao giờ gặp lại được anh ta nữa, không còn bao giờ gặp lại được một người nào trong bọn họ nữa. Cuộc đời quân nhân thế là chấm dứt.

Tôi không muốn nghĩ ngợi nữa. Tôi muốn ăn. Chúa ơi, phải rồi. Ăn uống và ngủ với Catherine. Có lẽ đêm nay... Không, điều đó không thể được. Nhưng đêm mai và một bữa ăn ngon lành... và chăn gối nữa... và không bao giờ đi đâu cả trừ phi hai đứa đi với nhau. Có lẽ phải ra đi gấp mới được. Nàng sẽ đến. Tôi biết nàng sẽ đến. Khi nào chúng tôi sẽ ra đi đây? Phải nghĩ đến điều đó. Đêm đã đến. Tôi nằm và nghĩ ngợi xem chúng tôi sẽ đi đến phương trời nào. Địa điểm thì không thiếu.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 33

Đến Milan tôi nhảy khỏi xe lửa khi nó chầm chậm vào ga. Trời hãy còn sớm và mờ mờ. Tôi vượt qua đường sắt và lách qua hai dãy nhà lớn. Tôi đi xuống phố. Một quán rượu đã mở cửa và tôi vào uống một ly cà phê. Trong quán dàn ra cảnh buổi sáng, bụi bay, thìa cắm trogn ly cà phê, những vành nước dưới đáy các ly rượu. Ông chủ quán đứng sau quầy hàng. Hai binh sĩ đang ngồi ở bàn. Tôi đang đứng ở quầy uống một ly cà phê, ăn một mẩu bánh mì. Cà phê sữa màu xám, tôi lấy mẩu bánh mì, lấy kem. Ông chủ quán nhìn tôi :

- Ông dùng một ly rượu Grappa nhé?

- Không, cám ơn.

- Tôi đãi mà - Ông ta vừa nói vừa rot một ly nhỏ và đẩy về phía tôi.

- Ở mặt trận có gì xảy ra không?

- Tôi chẳng rõ.

- Họ đã say - Ông ta vừa nói vừa trỏ về phía hai người lính. Tôi có thể tin lời ông ta, vì hai người lính ấy có vẻ rất say.

- - Kể cho tôi nghe những gì xảy ra ngoài mặt trận - Ông nói.

- Tôi không biết tí gì ở mặt trận cả.

- Tôi thấy ông đi lách theo tường. Ông vừa xuống xe lửa.

- Một cuộc rút lui lớn.

- Tôi đã đọc báo. Điều gì đã xảy ra? Đã chấm dứt chưa?

- Tôi không tin thế.

Ông rót đầy ly rượu Grappa trong một chai nhỏ vào ly của tôi.

- Nếu ông gặp nguy hiểm tôi có thể che giấu ông - Ông nói.

- Không, tôi có gì nguy khốn đâu?

- Nếu ông đang gặp cảnh nguy hiểm thì hãy ở lại đây với tôi.

- Ở đâu?

- Trong nhà này. Họ ở đây đông lắm. Những ai gặp nạn đều đến đây.

- Có nhiều người gặp nạn lắm sao?

- Cũng tuỳ theo tại nạn thuộc về loại nào. Ông là người Nam Mỹ?

- Không.

- Ông nói được tiếng Tây Ban Nha chứ?

- Ít thôi.

Ông ta lau quầy hàng.

- Vào lúc này, muốn xuất ngoại là một điều rất khó khăn, nhưng không phải không được.

- Tôi không muốn xuất ngoại.

- Ông có thể lưu lại đây bao lâu tùy ông. Rồi ông sẽ rõ tôi thuộc hạng người nào.

- Tôi phải đi ngay vào buổi sáng nay, nhưng tôi sẽ nhớ địa chỉ của ông.

Ông ta lắc đầu.

- Khi nói như thế người ta sẽ không bao giờ trở lại. Tôi tin rằng ông đang nguy khốn lắm thì phải.

- Không, tôi không có gì nguy khốn cả. Nhưng tôi trọng địa chỉ một người bạn.

Tôi để tờ mười đồng lia lên quầy hàng trả tiền cà phê.

- Ông uống một ly Grappa với tôi - Tôi nói.

- Thôi, cần gì.

- Ông uống một ly mà.

Ông ta rót ra hai ly.

- Nhớ trở lại đây nhé - Ông nói - đừng để bọn khác nó xô chụp được ông nhé. Ở đây ông sẽ được an toàn.

- Tôi tin thế.

- Ông tin thế chứ?

- Vâng.

Ông ta có vẻ nghiêm trang.

- Này, tôi bảo ông một việc, ông đừng đi ra đường với chiếc áo này.

- Tại sao?

- Người ta sẽ trông thấy rõ rệt chỗ những ngôi sao. Vì màu vải khác hẳn nhau.

Tôi không nói gì cả.

- Nếu ông không có giấy tờ, tôi có thể cấp cho ông.

- Giấy gì?

- Giấy phép.

- Tôi không cần đến giấy tờ vì tôi đã có rồi.

- Tốt lắm. Nhưng nếu ông cần đến giấy tờ, tôi có thể cung cấp cho ông tất cả những gì ông muốn - Ông nói.

- Giá của ông bao nhiêu?

- Tuỳ theo loại giấy tờ. Giá cả phải chăng mà.

- Tôi chưa cần bây giờ.

Ông ta nhún vai.

- Tôi hợp lệ mà - Tôi nói.

Khi tôi bước ra cửa, ông ta còn nói với theo.

- Đừng quên tôi vẫn là bạn ông đấy nhé.

- Chắc chắn rồi.

- Tôi sẽ gặp lại ông - Ông ta nói.

- Đồng ý - Tôi đáp.

Ra đến bên ngoài, tôi tránh nhà ga vì ở đó có nhiều quân cảnh. Tôi lên chiếc xe ngựa đậu cạnh công viên nhỏ. Tôi nói với người xà ích địa chỉ của bệnh viện. Đên bệnh viện tôi vào phòng ông thường trực. Ông ta bắt tay tôi, và vợ ông ta ôm chầm lấy tôi.

- Ông đã về. Bình yên chứ?

- Vâng.

- Ông ăn sáng chưa?

- Rồi.

- Ông mạnh giỏi chứ, trung uý? Ông mạnh giỏi chứ? - Bà vợ hỏi.

- Rất mạnh ạ.

- Ông dùng bữa với chúng tôi chứ?

- Không, cám ơn. Cho tôi biết cô Barkley còn ở bệnh viện lúc này không?

- Cô Barkley à?

- Cô y tá người Anh ấy mà.

- Cô người yêu của ông ấy mà - Bà vợ vừa vỗ nhẹ lên cánh tay tôi vừa mỉm cười.

- Không - Ông thường trực nói - Cô ta đi rồi.

Tim tôi se thắt lại.

- Ông có chắc như vậy không? Ông có biết tôi muốn nói đến ai không, cô thiếu nữ, người cao cao, có mái tóc màu hung hung?

- Chắc chắn mà. Cô ta đã đi Stresa.

- Cô ấy đi từ bao giờ?

- Cô ta cùng đi với một người đàn bà Anh khác, cách hai hôm rồi.

- Được rồi - Tôi nói - Tôi mong ông giúp tôi một việc là đừng nói với ai rằng ông đã trông thấy tôi trở lại nhé. Rất quan trọng đấy.

- Tôi sẽ không nói lại với ai cả - Ông thường trực nói.

Tôi cho ông mười đồng nhưng ông từ chối.

- Tôi xin hứa với ông là tôi sẽ không nói gì với ai cả. Tôi không cần tiền bạc gì hết.

- Chúng tôi có thể làm gì cho ông nữa không, trung úy? - Bà vợ hỏi.

- Chỉ có thế thôi - Tôi nói.

- Chúng tôi sẽ lặng thinh - Ông thường trực nói - Ông sẽ bảo cho tôi biết tôi có thể làm được điều gì không?

- Vâng, xin chào ông bà. Mong sẽ gặp lại ông bà - Tôi nói.

Họ đứng ở cửa và nhìn theo tôi.

Tôi lên xe và nói với xà ích địa chỉ của Simmons, một trong những ca sĩ mà tôi đã quen trước đây.

Simmons sống ở một nơi rất xa gần cửa Magenta.

Khi tôi đến, anh ta đang nằm trên giường còn ngái ngủ.

- Anh đến sớm thế, Henry - Anh nói.

- Tôi đến bằng chuyến tàu sớm.

- Câu chuyện rút lui như thế nào? Anh có ra mặt trận không? Anh hút thuốc lá không? Thuốc trong hộp để trên bàn đấy.

Gian phòng rộng rãi. Một chiếc giường kê sát tường, một chiếc đàn dương cầm kê ở đầu kia trong góc, một cái tủ với một cái bàn. Tôi ngồi xuống chiếc ghế ở cạnh giường. Simmons ngồi dựa lưng vào chiếc gối và hút thuốc lá.

- Sim này, tôi đang gặp khó khăn.

- Tôi cũng thế. Tôi luôn luôn sống trong cảnh khó khăn. Anh không hút thuốc à?

- Không. Điều gì đã xảy ra với anh khi tôi sang Thuỵ Sĩ?

- Anh à? Bọn Ý sẽ không để cho anh xuất ngoại dễ dàng đâu.

- Vâng, tôi biết điều đó. Nhưng còn dân Thụy Sĩ, họ sẽ có thái độ gì?

- Họ sẽ giam lỏng anh.

- Tôi biết, nhưng thủ tục ra như thế nào?

- Ồ, không có gì cả, điều đó rất là đơn giản. Anh có thể đi khắp mọi nơi, anh chỉ phải làm có mỗi một việc, tôi chắc thế, anh phải trình diện hay một việc gì tương tự như vậy. Tại sao? Anh đang lẩn trốn cảnh sát phải không?

- Không hẳn như thế.

- Nếu anh không thích thổ lộ với tôi thì cũng không sao. Nhưng tôi vẫn thích được nghe. Ở đây không có gì xảy ra cả. Tôi thất bại hoàn toàn ở Piacenza.

- Tôi rất tiếc.

- Ồ phải, thật là tệ. Nhưng sau đó tôi hát rất hay. Tôi sắp thử một lượt nữa ở Lyrico.

- Tôi thích được nghe anh...

- Anh thật đáng yêu. Tôi mong anh không có điều gì quá nghiêm trọng để mà lo nghĩ chứ?

- Thật ra tôi cũng không rõ nữa.

- Nếu anh không thích thổ lộ với tôi cũng không sao. Nhưng làm thế nào mà anh không phải ở mặt trận?

- Chắc là tôi chấm dứt với thứ chuyện đó.

- Hoan hô, tôi vẫn nghĩ anh là người có lương tri. Tôi có thể giúp anh được việc gì không?

- Anh bận nhiều việc quá.

- Có gì đâu, ông bạn Henry thân mến, có gì đâu. Tôi rất sung sướng được làm một việc gì đó cho anh.

- Người anh cùng một tầm vóc với tôi, có gì phiền anh không nếu anh đi mua giùm tôi một bộ thường phục. Tôi có quần áo nhưng để cả ở La Mã.

- Anh đã sống ở đó phải không? Đó là một thành phố chán ngấy. Làm sao anh có thể sống ở đó được?

- Tôi muốn trở thành một nhà kiến trúc.

- Đó không phải là một thành phố như thế. La Mã không phải là một nơi để đào tạo kiến trúc sư. Đừng mua y phục làm gì. Tôi sẽ biếu cho anh những quần áo nào mà anh thích, tôi sẽ làm cho anh trở thành đẹp đẽ. Anh vào phòng thay quần áo đi. Có cái tủ quần áo gắn trong tường đấy. Anh lựa những gì anh thích, ông bạn chí thân ạ. Mua một bộ com lê! Anh định làm trò cười à.

- Dù sao tôi cũng muốn mua một bộ, Sim ạ.

- Anh bạn của tôi ơi, dù sao với tôi, tặng anh một bộ còn dễ hơn là đi mua. Anh có giấy tờ thông hành không? Anh chẳng nên đi xa nếu anh không có giấy tờ thông hành.

- Có, tôi vẫn còn giữ giấy tờ của tôi đây.

- Nào mặc vào xem nào, ông bạn thân của tôi, rồi chúng ta sẽ đi cùng với Helvetie.

- Không đơn giản như thế đâu. Trước hết tôi phải đến Stresa cái đã.

- Tuyệt, ông bạn thân của tôi, anh chỉ việc đi tàu qua hồ. Nếu tôi không muốn thử biểu diễn lần nữa, tôi sẽ đi với anh. Tôi sẽ đi một ngày gần đây.

- Anh có thể tập ca giọng cao giống dân Tyrol

- Dĩ nhiên tôi sẽ học hát giọng dân Tyrol đấy anh ạ. Tôi chắc là tôi có thể hát được. Giọng đó khá kỳ đấy.

- Tôi không nghi ngờ gì. Tôi đánh cuộc là anh sẽ hát được.

Anh ta nằm xuống giường và hút một điếu thuốc.

- Đừng cá nhiều quá nhé. Tuy nhiên tôi có thể hát được. Thật là buồn cười, nhưng như thế đó. Tôi thích ca. Này nghe đây.

Anh ta rống lên bản “Africana”, hàm bạnh ra, mạch máu phồng lên.

- Tôi có thể hát, dù rằng họ thích hay không thích - Anh nói.

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ.

- Tôi đi xuống trả tiền xe ngựa.

- Rồi trở lên đây ngay, ông bạn nhé, chúng ta sẽ cùng nhau dùng điểm tâm.

Anh ta nhảy xuống giường, đứng thẳng người, thở một hơi thật dài và bắt đâu làm một vài động tác thể dục. Tôi đi xuống trả tiền xe ngựa.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 34

Tôi có ý cải trang khi mặc bộ thường phục.

Khoác bộ thường phục vào người tôi cảm thấy mình là một kẻ giả trang. Vì đã mặc quân phục quá lâu nên tôi mất cảm giác của người được mặc thường phục. Chiếc quần dài đối với tôi quá rộng. Tôi đã mua vé đi từ Milan đến Stresa. Tôi cũng mua một chiếc mũ mới vì tôi không thể đội mũ của Sim được, nhưng quần áo của anh thì rất vừa vặn, chúng có mùi thuốc lá. Tôi ngồi trong toa xe nhìn ra cửa sổ. Cái mũ của tôi trông rất mới, còn bộ đồ thì lại trông quá cũ. Riêng tôi thì cảm thấy buồn thấm thía không khác chi miền Lombardie ướt át mà tôi thấy đang dàn ra ngoài cửa sổ. Trong toa có vài viên phi công. Họ bình phẩm không hay về tôi. Họ tránh nhìn tôi và có vẻ rất coi thường một người ở tuổi tôi mà mặc thường phục. Tôi không thấy bực bội gì cả. Trước đây nếu như thế có lẽ tôi đã mắng họ và đánh nhau với họ. Đến Gallarate thì họ xuống. Tôi khoan khoái được ngồi một mình trong toa. Tôi có mang theo báo nhưng tôi không đọc vì tôi không thích nghe nói về chiến tranh. Tôi muốn quên chiến tranh. Tôi đã tạo nên cho mình một hòa bình riêng rẽ. Tôi cảm thấy rất cô độc và khi xe lửa đến Stresa tôi thấy hạnh phúc vô cùng.

Đến nhà ga, tôi mong tìm được phu khuân vác của khách sạn nhưng không có người nào cả. Mùa du lịch đã qua lâu rồi và không có ai đến tận ga để rước khách nữa. Tôi xuống xe lửa với cái va ly. Chiếc va ly nhẹ nhàng dễ mang của Sim vì nó chỉ có hai chiếc áo sơ mi. Tôi đứng dưới mái hiên nhà ga tránh mưa trong lúc con tàu từ từ chuyển bánh. Tôi gặp một người ở sân ga và hỏi thăm xem khách sạn nào còn mở cửa. Khách sạn Grand Hotel và Iles Borromées và nhiều khách sạn nhỏ khác vẫn mở cửa suốt năm. Tôi xách va ly đi dưới mưa đến khách sạn Iles Borromées. Một xe ngựa chạy tới, tôi ra hiệu cho người xà ích. Đi bằng xe ngựa đến đó tốt hơn. Xe dừng trước cổng dành cho xe cộ và người gác cổng lễ phép mang áo mưa ra đón.

Tôi chọn lấy một phòng tốt, phòng rộng rãi sáng sủa và nhìn ra hồ. Mây bay sà xuống thấp nhưng khi có ánh mặt trời quang cảnh trông đẹp hơn. Tôi tự bảo mình đang chờ vợ mình đấy. Trong phòng có một cái giường lớn trên có trải sa tanh. Khách sạn trông rất sang trọng. Tôi đến quán rượu, theo hành lang, theo cầu thang rộng đi qua nhiều phòng. Tôi có quen biết anh chủ quán. Tôi ngồi trên chiếc ghế cao nhấm nháp đậu phụng rang và khoai chiên mỏng. Rượu Martini thanh và trong ngần.

- Ông làm gì ở đây mà mặc thường phục thế? - Anh chủ quán hỏi tôi sau khi đã pha xong một ly Martini nữa.

- Tôi được nghỉ phép. Nghỉ để dưỡng bệnh.

- Ở đây không có ai cả. Tôi không biết tại sao người ta lại mở cửa khách sạn.

- Anh có thường câu cá không?

- Tôi có câu được vài con cá lớn. Câu cá vào độ này thế nào cũng được cá lớn.

- Thế thuốc lá tôi gởi cho anh, anh có nhận được không?

- Có ạ, thế ông không nhận được danh thiếp của tôi sao?

Tôi cười to lên. Tôi không kiếm đâu ra thuốc lá, anh thích loại thuốc lá tẩu của Mỹ nhưng gia đình tôi không gởi cho tôi hoặc thuốc đã có thể bị tịch thu đâu đó. Dù sao, tôi không còn nhận được thứ thuốc ấy nữa.

- Tôi sẽ kiếm ra được thôi. Mà này anh, anh có thấy hai cô gái người Anh trong thành phố không? Họ đến đây ngày hôm kia.

- Họ không ở trong khách sạn này.

- Họ là nữ y tá.

- Tôi có thấy hai cô y tá. Ông đợi tôi nhé, tôi sẽ mách ông họ ở đâu.

- Một cô là vợ tôi, tôi đến đây để gặp nàng - Tôi nói.

- Còn cô kia là vợ tôi.

- Tôi không đùa đâu.

- Xin ông tha lỗi cho câu nói đùa. Tôi không hiểu.

Hắn đi và tôi ngồi một mình một lát. Tôi ăn trái ô liu, đậu phụng rang, khoai chiên mỏng và nhìn bóng mình mặc thường phục trong chiếc gương phía sau quầy rượu. Anh chủ quán trở lại bảo :

- Họ đang ở trong một khách sạn nhỏ cạnh nhà ga - Anh nói.

- Anh có bánh sandwich không?

- Để tôi gọi lấy vài cái cho ông. Ông hiểu giùm là ở đây không có gì cả vì lúc này đang vắng khách.

- Thật không có ai cả à?

- Vâng, chỉ có một ít người thôi.

Bánh được mang tới. Tôi ăn một lúc ba cái và uống hai ly Martini nữa. Tôi chưa hề được nếm một thứ rượu nào thanh ngon như thế cả; uống rượu này tôi cảm thấy mình văn minh hẳn lên. Trước tôi chỉ dùng toàn rượu chát đỏ, bánh mì không có pho mát, cà phê hạng bét và rượu nho. Tôi ngồi trên chiếc ghế đẩu cao cạnh bàn gỗ trắc đẹp và trước những tấm gương ánh đồng. Tôi không nghĩ ngợi gì cả. Anh chủ quán hỏi tôi.

- Đừng nói đến chuyện chiến tranh - Tôi bảo - Chiến tranh rất xa vời. Thực ra có một cuộc chiến tranh không? Ở đây không có chiến tranh. Tôi đinh ninh rằng chiến tranh đối với tôi đã chấm dứt rồi. Nhưng tôi không có cảm giác là chiến tranh đã chấm dứt hẳn. Tôi có cảm giác mình như là một đứa bé đang nghĩ đến những gì xảy ra ở trường học vào một giờ nào đó khi nó trốn học.

* * * * *

Catherine và Helen Ferguson đang ăn tối khi tôi đến khách sạn. Đứng ngoài hành lang tôi nhìn thấy họ đang ngồi ở bàn. Mặt của Catherine không nghiêng về phía tôi nên tôi thấy đường ngôi tóc, má, chiếc cổ và đôi vai tròn của nàng. Ferguson đang nói chuyện bỗng ngưng lại khi tôi bước vào.

- Chúa ơi! - Cô ta thốt lên.

- Chào chị - Tôi nói.

- Ô kìa, anh đấy à? - Catherine reo lên. Nét mặt nàng sáng hẳn lên. Trông nàng vô cùng sung sướng trong sự bất ngờ. Tôi hôn nàng. Catherine đỏ mặt. Tôi ngồi xuống với họ.

- Anh này giỏi nhỉ. Anh làm gì ở đây? Anh đã ăn uống gì chưa? - Ferguson hỏi.

- Chưa.

Người hầu gái vào và tôi bảo cô ta mang cho tôi một đĩa. Catherine nhìn tôi suốt, mắt tràn đầy hạnh phúc.

- Anh làm gì ở đây với bộ thường phục này? - Ferguson hỏi.

- Tôi là công chức trong một công sở mà.

- Anh đã làm điều gì bậy bạ chứ gì.

- Vui lên nào, Fergy. Hãy vui lên trong giây lát đi.

- Thấy anh tôi không vui được. Tôi biết anh đã giày vò cô gái khốn khổ này như thế nào rồi. Nhìn anh tôi đâu thể vui được.

Catherine nhìn tôi mỉm cười và lấy chân ra hiệu cho tôi dưới gầm bàn.

- Không ai giày vò em cả, chị Fergy ạ. Chính em tự muốn như thế.

- Tôi không thể chịu nổi anh ta nữa. Anh ta chẳng đã làm cho cô mất danh dự bằng những mưu mẹo của người Ý. Những người Mỹ còn xấu hơn người Ý.

- Người Tô Cách Lan thì quá đạo đức - Catherine nói.

- Ý tôi không muốn nói như thế. Tôi chỉ muốn nói đến mưu mô theo kiểu Ý của anh ấy thôi.

- Tôi mưu mô ư, cô Ferguson?

- Đúng thế. Có khi còn hơn thế nữa kia. Anh chẳng khác gì một con rắn độc dưới bộ quân phục Ý với chiếc khăn choàng quanh cổ.

- Bây giờ tôi đâu còn mặc quân phục Ý nữa.

- Chính đó lại thêm một ví dụ khác về tâm địa nham hiểm của anh. Suốt mùa hè anh chỉ lo chuyện ân ái khiến cho cô gái này có mang rồi bây giờ nếu tôi đoán không lầm thì anh tính sẽ quất ngựa truy phong.

Tôi mỉm cười nhìn Catherine và nàng cũng cười đáp lại.

- Chúng tôi sẽ quất ngựa truy phong cùng với nhau - Catherine bảo.

- Cả hai anh chị đều cùng một phẩm chất - Ferguson nói - Này Catherine

Barkley, cô làm tôi xấu hổ. Cô không biết xấu hổ liêm sỉ là gì cả. Cô cũng mưu mẹo như anh ta.

- Đừng chị Fergy - Catherine vừa nói vừa vỗ nhẹ lên tay cô Ferguson - Đừng trách em tội nghiệp, chị biết rằng chúng em yêu nhau chứ.

- Bỏ tay ra - Ferguson nói (Mặt nàng ửng đỏ).

- Nếu cô biết hổ thẹn thì cô không làm thế. Nhưng nào ai biết cô có mang mấy tháng rồi, thế mà cô cứ xem như một trò đùa và vui sướng vì kẻ dụ dỗ cô quay trở lại. Cô không biết xấu hổ, không cảm thấy gì khác cả.

Ferguson òa lên khóc. Catherine đến bên nàng, choàng tay qua người nàng. Khi Catherine đứng an ủi Ferguson, tôi không thấy mặt nàng có sự thay đổi nào.

- Mặc tôi - Ferguson nửc nở rồi nói tiếp - Tôi thấy thật khủng khiếp.

- Thôi nín đi chị Fergy, đừng khóc nữa. Em thấy hổ thẹn lắm rồi chị Fergy yêu mến ạ.

- Tôi không muốn khóc nhưng lại phải khóc vì hoàn cảnh đáng sợ của cô... - Nàng nhìn vào mặt tôi rồi tiếp - Tôi thù ghét anh lắm. Catherine không làm sao cho tôi hết ghét anh được. Đồ nham hiểm xấu xa Mỹ - Ý!

Nàng khóc đỏ cả mắt, mũi.

Catherine nhìn tôi mỉm cười.

- Đừng có choàng tay qua người tôi mà lại cười với hắn như vậy.

- Chị vô lý quá chị Fergy ạ.

- Tôi biết thế - Ferguson lại nức nở - Cả hai người đừng chú ý đến tôi làm gì. Tôi bàng hoàng. Tôi không còn đủ lý trí suy xét, tôi biết lắm. Tôi mong cả hai người đều được hạnh phúc.

- Chúng em hạnh phúc lắm, chị Fergy ạ. Còn chị, chị thật dịu hiền.

Ferguson lại khóc nữa.

- Tôi không muốn hai người hạnh phúc theo cách đó. Tại sao hai người không cưới nhau? Anh chưa có vợ chứ?

- Chưa - Tôi đáp.

Catherine cười to.

- Không có gì đáng cười cả - Ferguson nói - Không thiếu gì ông có hai vợ.

- Chúng em sẽ làm lễ thành hôn để vui lòng chị - Catherine nói.

- Không phải để làm vui lòng tôi. Chính hai người phải có mong muốn được lấy nhau.

- Chúng em bận quá.

- Phải, tôi biết mà. Bận sanh con đẻ cái chứ gì.

Tôi tưởng nàng sẽ khóc nữa nhưng nàng chỉ nhận xét chua chát.

- Chắc hẳn tối nay chị sẽ đi với anh ấy chứ gì?

- Vâng, nếu anh ấy muốn - Catherine nói.

- Thế còn tôi?

- Chị có sợ ở lại lẻ loi một mình không?

- Có chứ.

- Vậy thì em sẽ ở lại với chị.

- Không, hãy đi với anh ta ngay tức khắc đi. Thấy hai người tôi khó chịu quá.

- Nhưng chúng ta hãy ăn cho xong đã chứ?

- Không, đi ngay đi.

- Chị Fergy, chị bình tĩnh lại nào.

- Tôi bảo là đi ngay đi mà, đi đi, cả hai người.

- Vậy thì chúng ta đi thôi - Tôi bảo - Tôi không chịu nổi Fergy nữa.

- Anh muốn đi lắm mà. Thấy không, anh không muốn giữ tôi lại cùng ăn. Tôi vẫn thường muốn đi viếng thăm các hồ ở Ý và đây này, tôi thấy chúng trong điều kiện nào - Nàng khóc nức nở, nhìn Catherine nghẹn ngào tức tưởi.

- Chúng em sẽ ở lại cho đến khi ăn xong - Catherine bảo - Em sẽ không bỏ chị lại một mình nếu chị muốn em ở lại. Em sẽ không bỏ chị một mình đâu, chị Fergy ạ.

- Không, không, tôi muốn cô đi đi - Nàng lau nước mắt - Tôi không còn sáng suốt nữa, xin đừng chú ý đến tôi.

Cô hầu gái phục vụ bữa ăn thấy Fergy khóc lóc, rất lúng túng trước những tiếng khóc ấy. Vì vậy khi bưng món tiếp, cô có vẻ nhẹ nhõm hơn vì mọi việc đều êm đẹp.

* * * * *

Đêm đó nơi khách sạn, phòng của chúng tôi, dãy hàng lang dài trống rỗng, giày của chúng tôi để ở ngoài cửa. Mưa rơi đập vào cửa kính và trong phòng ánh đèn vui tươi dễ chịu và êm dịu. Rồi khi ánh sáng tắt đi là sự thú vị êm ái của giường nệm tiện nghi. Cảm thấy như ở nhà mình, không cảm thấy cô đơn, thức giấc nửa đêm và thấy nàng đang ở cạnh mình. Mọi thứ còn lại như hư ảo. Chúng tôi ngủ thiếp đi khi thấm mệt và nếu một trong hai người thức giấc thì người kia cũng thức theo và vì thế không lúc nào chúng tôi thấy cô độc. Thường thường một người đàn ông mong được sống cô đơn và một người đàn bà cũng thế, nếu họ đã yêu nhau say đắm, họ lại thấy ghen về thứ tình cảm ấy. Nhưng tôi có thể thành thật nói rằng chúng tôi không bao giờ cảm thấy như thế. Khi chúng tôi ở bên cạnh nhau thì cảm giác cô đơn mới đến nhưng mà cô đơn đối với những người khác. Cảm giác đó đến với tôi chỉ có một lần. Tôi thường cảm thấy cô đơn đối với nhiều phụ nữ và cũng chính trong hoàn cảnh ấy mà người ta đang cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Nhưng đối với hai chúng tôi, không bao giờ thấy cô đơn và sợ hãi khi ở bên nhau. Tôi biết rằng đêm không thể nào giống như ngày được, và thời gian ấy mọi sự đều khác. Những sự việc của ban đêm không thể giải thích được vào ban ngày vì chúng không còn nữa. Ban đêm có thể kinh hoàng đối với những ai sống một mình khi họ bắt đầu cảm thấy cô đơn. Nhưng có Catherine bên cạnh, không thể nói rằng có sự khác biệt giữa ban đêm và ban ngày, nếu có chăng thì đó là ban đêm còn tuyệt vời hơn ban ngày nữa. Khi có những can đảm đương đầu với đời thì đời chỉ có thể đánh gục khi giết họ mà tho6i. Và tất nhiên nó sẽ giết họ. Đời đánh gục nhiều người và có trường hợp sẹo sẽ hình thành ở chỗ bị đánh. Nhưng những ai không chịu để đánh gục đời lại giết họ. Đời mặc nhiên giết những người rất tốt, rất hiền, rất dũng cảm. Nếu ta không thuộc vào hạng người nào trên đây, rồi đời cũng sẽ giết ta vậy, nhưng không hối hả.

Nhớ lại buổi sáng hôm ấy khi tôi thức dậy thì Catherine hãy còn ngủ. Ánh nắng xuyên qua cửa sổ. Mưa đã tạnh. Tôi bước xuống giường đến bên cửa sổ. Dưới kia vườn cây trơ trụi lá nhưng đẹp bình dị với lối đi trải sỏi, cây cối, bức tường đá dài theo bờ hồ, và mặt hồ phản chiếu ánh mặt trời với ngọn núi xa xa. Đứng bên cửa sổ tôi say sưa ngắm cảnh và lúc quay vào thì nàng đã thức giấc và đang nhìn tôi.

- Anh khỏe không anh yêu? - Nàng hỏi - Trời đẹp tuyệt.

- Em cảm thấy thế nào?

- Tuyệt. Chúng ta đã qua một đêm thần tiên.

- Em dùng điểm tâm nhé?

Nàng muốn ăn sáng và tôi cũng thế. Chúng tôi dùng điểm tâm ngay tại giường, khay thức ăn để trên đầu gối, trong ánh sáng của mùa đông xuyên qua cửa sổ.

- Anh không thích đọc báo sao? Ở bệnh viện anh thường hay đọc báo mà.

- Không, anh không thích đọc báo lúc này.

- Thế trận khủng khiếp đến mức ngay cả anh cũng không thiết tha đọc báo nữa sao?

- Anh không muốn nghe đến nó nữa.

- Vì thế em muốn biết để cùng chia xẻ với anh.

- Thong thả anh sẽ kể cho em nghe.

- Nhưng họ có bắt anh không nếu họ tìm thấy anh trong bộ đồ thường phục như thế này?

- Họ có thể sẽ bắn anh không chừng.

- Vậy thì chúng ta không nên ở đây nữa. Chúng ta phải xuất ngoại.

- Anh đã nghĩ đến điều đó.

- Chúng ta sẽ đi, anh yêu. Anh không nên liều lĩnh một cách dại dột. Anh nói cho em nghe, anh đi bằng gì từ Mestre đến Milan?

- Bằng xe lửa. Anh mặc quân phục.

- Anh không gặp gì nguy hiểm chứ?

- Không. Anh dùng một giấy đi đường cũ. Anh sửa lại ngày tháng ở Mestre.

- Anh yêu, nếu ở đây, anh có thể bị bắt bất cứ lúc nào. Em không muốn thế đâu. Dại gì mà làm như vậy. Rồi chúng ta sẽ ra sao nếu họ bắt mất anh?

- Chúng ta không nên nghĩ đến điều đó. Anh đã quá mệt vì nghĩ đến nó rồi.

- Anh sẽ làm gì nếu họ đến bắt anh?

- Anh sẽ giết họ.

- Anh thấy anh dại dột biết bao. Em sẽ không để cho anh rời khỏi khách sạn cho đến khi nào chúng ta đi.

- Chúng ta sẽ đi đâu bây giờ?

- Em xin anh đừng như thế nữa, anh yêu. Chúng ta sẽ đi đến nơi nào mà anh thích, nhưng xin anh hãy chọn một nơi mà chúng ta có thể đi ngay lập tức.

- Thụy Sĩ ở cuối biển hồ này. Chúng ta có thể đến đó.

- Nếu thế thì tuyệt.

Mây phủ bầu trời và mặt hồ tối sầm lại.

- Anh mong rằng chúng ta không bao giờ phải sống mãi như những tên tội phạm - Tôi nói.

- Anh yêu, đừng nói như thế. Anh sẽ không còn sống như một tội nhân lâu hơn nữa đâu, và chúng ta không bao giờ sống giống như những tên tội phạm. Chúng ta sắp sửa rất hạnh phúc.

- Anh cảm thấy mình là một tên tội phạm. Anh đã đào ngũ.

- Anh thân yêu, em xin anh, anh nên nghĩ lại. Người ta không gọi thế là đào ngũ. Dù sao đó chỉ là quân đội Ý mà thôi.

Tôi bật cười.

- Em tôi ngoan quá. Chúng ta trở lại giường đi thôi. Anh chỉ thấy dễ chịu khi nằm trên giường.

Một lát sau Catherine hỏi tôi :

- Anh không còn cảm thấy mình là tội phạm nữa, phải không anh?

- Phải - Tôi đáp - Nhất là khi có em bên cạnh.

- Anh thật ngốc - Nàng nói - Nhưng em sẽ trông nom săn sóc anh. Có tuyệt không hả anh yêu vì em không có chút buồn nôn nào vào buổi sáng cả.

- Tuyệt vời.

- Anh không biết đánh giá anh có một cô vợ ngoan như thế nào đâu. Nhưng em không cần, em sẽ tìm cho anh một nơi nào đó mà họ không thể bắt anh được và chúng ta sẽ rất hạnh phúc.

- Chúng ta đi ngay lập tức.

- Phải đấy anh yêu. Em sẽ đi đến bất cứ nơi nào và lúc nào mà anh thích.

- Chúng ta không nên nghĩ vơ vẩn nữa.

- Được rồi, anh yêu.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 35

Catherine đi dọc theo bờ hồ đến khách sạn nhỏ thăm Ferguson. Tôi đến quán rượu đọc báo. Trong quán có những ghế bành bọc da rất êm và tôi ngồi đọc báo đợi chủ quán đến. Quân đội không còn đóng trên sông Tagliamento nữa. Họ đã rút về Piave. Tôi hãy còn nhớ con sông Piave. Con đường xe lửa dẫn ra mặt trận băng qua sông ở San Doua. Ở địa điểm này sông sâu, chảy lờ đờ trong lòng sông hẹp. Phía trước là ao đầm đầy muỗi độc và kênh đào. Nơi đó có vài ngôi biệt thự xinh xắn. Trước chiến tranh có một lần lên Cortina D’Amezzo, tôi đã đi dọc theo con sông ấy trong nhiều tiếng đồng hồ xuyên qua những ngọn đồi. Đứng trên nhìn xuống nó trông giống như một con suối dùng nuôi cá hương, Dòng sông chảy nhanh với những vực nông nước lặng lờ trong bóng những khối đá to. Con đường từ đó đến Cadore. Tôi tự hỏi tại sao quân đội đang đóng quân trên cao lại có thể rút xuống đóng dưới thấp. Anh chủ quán bước vào.

- Bá tước Greffi vừa nói với tôi về ông đấy?

- Ai?

- Bá tước Greffi, ông không nhớ à? Ông lão đã từng ở đây cùng lúc với ông ấy.

- Ông ta ở đây à?

- Phải, ông ta ở đây với cô cháu gái. Tôi bảo với ông ta có ông vừa đến. Ông ta muốn chơi bi da.

- Hiện ông ta đang ở đâu?

- Ông ấy đang đi dạo.

- Ông ta trông thế nào?

- Trẻ hơn bao giờ hết. Chiều qua, trước lúc ăn, ông ta uống ba ly sâm banh.

- Ông ấy chơi bi da có khá không?

- Tuyệt. Ông ấy đã hạ tôi. Khi ông ấy biết ông có mặt tại đây thì ông ta rất hài lòng. Không có ai để chơi cả.

Bá tước Greffi đã chín mươi tư tuổi. Đó là một ông già râu tóc bạc phơ và phong nhã. Trước đây ông đã từng giúp việc trong ngành ngoại giao của hai nước Áo và Ý, và lễ sinh nhật của ông là sự kiện lớn trong giới thượng lưu của thành phố Milan. Ông thừa sức để hưởng thượng thọ và chơi bi da một cách trầm tĩnh, điêu luyện so với tuổi tác của ông. Tôi đã gặp ông khi tôi ở Stresa trong lúc không phải hội hè mà chúng tôi vừa đánh bi da vừa uống sâm banh. Đối với tôi đó là một tục lệ đặc sắc, ông ta chấp tôi mười lăm điểm nhưng rồi tôi vẫn bị hạ.

- Tại sao anh không cho tôi biết là có ông ấy ở đây?

- Tôi quên mất.

- Còn những ai khác ở đây nữa không?

- Ông không biết họ đâu. Chỉ vỏn vẹn có sáu người tất cả.

- Ông có bận gì trong lúc này không?

- Không.

- Đi câu với tôi nhé?

- Vâng, tôi có thể đi trong một tiếng đồng hồ.

- Tốt lắm, nhớ mang theo cần nhé.

Anh chủ quán mặc áo choàng vào và chúng tôi cùng ra đi. Chúng tôi đi xuống bờ hồ và chọn một chiếc thuyền. Tôi bơi trong khi anh chủ quán ngồi ở phía sau lái và thả cần câu xuống nước. Đó là một loại cần câu đặc biệt để câu cá hương ở hồ. Nó có một bộ phận cuốn dây và một hòn chì nặng trĩu. Chúng tôi bơi dọc theo bờ hồ. Anh chủ quán cầm cần câu ở tay và thỉnh thoảng giật một cái. Từ phía hồ trông lên, thành phố Stresa vắng vẻ vô cùng với những hàng cây trụi lá, những đại khách sạn và những ngôi biệt thự cửa đóng kín mít. Chúng tôi bơi qua tới Isola Bella và đi sát vách đá, chỗ nước sâu nhất và trông thấy vách đá chìm sâu dưới làn nước trong xanh. Sau đó chúng tôi lại bơi đến hòn đảo Ngư Ông. Mặt trời đã khuất sau đám mây, mặt hồ tối sầm lại, phẳng lặng và lạnh buốt. Cá hương không cắn câu lần nào dù chúng tôi có thấy những làn sóng khi chúng nổi lên mặt nước.

Tôi bơi thuyền đến trước hòn đảo Ngư Ông nơi có những chiếc thuyền được kéo lên bờ và nhiều người đang vá lưới.

- Chúng ta nên uống gì chứ?

- Vâng, được.

Tôi cho thuyền cập vào bến đá và anh chủ quán rút dây câu lên. Anh cuốn lại bỏ vào khoang thuyền và móc bộ phận cuốn dây vào mạn thuyền. Tôi bước lên bờ và cột thuyền lại. Chúng tôi đi vào một quán giải khát nhỏ, ngồi vào một cái bàn gỗ thô và gọi hai ly Vermouth.

- Ông bơi có mệt lắm không?

- Ồ, không.

- Lúc trở về tôi sẽ chèo.

- Tôi thích chèo thuyền hơn.

- Có lẽ ông giữ dây câu sẽ may mắn hơn.

- Được rồi.

- Chiến tranh diễn biến như thế nào?

- Tồi.

- Tôi không phải ra mặt trận nữa. Tôi có tuổi rồi, giống như bá tước Greffi vậy.

- Có lẽ ông sẽ phải đi một ngày nào đó.

- Năm tới họ gọi đến lứa tuổi của tôi nhập ngũ, nhưng tôi sẽ không đi.

- Rồi ông sẽ làm gì?

- Xuất ngoại. Tôi không muốn ra trận. Tôi đã có lần ở mặt trận Abissi rồi. Thật chán ngấy. Tại sao ông đi ra trận?

- Tôi cũng không biết. Tôi là một thằng ngốc.

- Thêm một ly vermouth nữa nhé?

- Vâng.

Anh chủ quán chèo lượt về. Chúng tôi câu phía bên kia thành phố Stresa rồi xuống phía dưới không xa bờ hồ mấy. Tôi giữ thẳng dây câu và thấy bộ phận cuốn dây rung và quay nhẹ trong khi tôi nhìn mặt nước tối sầm của tháng mười một và bờ hồ vắng vẻ. Anh chủ quán bơi những nhát chèo mạnh và mỗi lần con thuyền lướt tới thì dây câu rung động nhịp nhàng. Có một lần tôi trông thấy cá cắn câu. Dây câu thình lình căng thẳng và bị kéo đi. Tôi giật mạnh và thấy dây nằng nặng nhưng rồi dây câu trùng lại. Tôi đã câu trượt.

- Nó có vẻ to không?

- Khá to.

- Có một lần tôi đi câu một mình. Tôi cắn chặt cần câu trong miệng, giữa hai hàm răng. Có một con rắn cắn câu, thiếu chút nữa nó cuốn cả mồm tôi đi.

- Giữ dây câu bằng chân là tốt hơn hết - Tôi nói - Như thế anh thấy động ngay và anh khỏi sợ bị mất răng.

Tôi nhúng tay xuống nước, nước lạnh vô cùng. Chúng tôi ở gần trước khách sạn.

- Đã đến giờ tôi phải về - Anh chủ quán nói - Mười một giờ tôi phải có mặt tại đó.

- Được rồi.

Tôi kéo dây câu và quấn vào một cái gậy có khấc ở hai đầu. Anh chủ quán dẫn thuyền vào một vách đá trong hầm tàu rồi dùng dây xích có khóa neo lại.

- Lúc nào ông muốn dùng thuyền, tôi sẽ trao chìa khóa cho ông - Anh nói.

- Cám ơn.

Chúng tôi lên khách sạn và vào quán rượu. Tôi chưa muốn uống khi trời còn sớm như thế nên tôi trở về phòng riêng Cô bồi phòng vừa dọn dẹp xong và Catherine vẫn chưa trở lại. Tôi nằm xuống giường và cố gắng không nghĩ ngợi gì cả.

Khi Catherine trở về, tôi mới cảm thấy đỡ chán.

- Chị Ferguson ở dưới nhà - Nàng nói - Chị ấy đến ăn trưa với chúng mình. Em biết anh sẽ không thích.

- Không phải như thế đâu.

- Có chuyện gì hả anh yêu?

- Có chuyện gì đâu?

- Em biết mà. Anh thì rỗi rảnh và anh chỉ có mỗi mình em, nhưng em lại bỏ anh mà đi mất chứ gì.

- Đúng thế.

- Em xin lỗi nhé anh yêu. Em biết đó là một cảm giác kinh hoàng khi mình cảm thấy trống rỗng vô vị.

- Đời anh luôn luôn đầy đủ - Tôi nói - Và bây giờ nếu không có em bên cạnh thì anh không còn thấy gì trên thế gian này nữa.

- Nhưng em sẽ luôn luôn ở cạnh anh kia mà, em chỉ xa anh có hai tiếng đồng hồ thôi. Anh không làm gì trong lúc vắng mặt em sao?

- Anh đi câu với ông chủ quán.

- Việc đó không làm cho anh vui sao?

- Không.

- Đừng nghĩ đến em khi em vắng mặt.

- Đó là điều anh làm ở mặt trận, nhưng hồi đó anh còn có việc khác để làm.

- Othello thất nghiệp - Nàng trêu tôi.

- Othello là một chàng da đen, hơn nữa, anh không ghen đâu. Anh chỉ yêu em quá thôi khiến cho tất cả những gì còn lại đều thôi không tồn tại.

- Anh có muốn là một thanh niên tốt và tử tế đối với chị Ferguson không?

- Anh luôn luôn tốt và tử tế đối với chị Ferguson trừ lúc chị ấy nguyền rủa anh.

- Nên tử tế với chị ấy. Hãy nghĩ rằng chúng mình có tất cả mà chị ấy thì chẳng có gì.

- Anh không nghĩ rằng chị ấy mong muốn những gì mà chúng ta đang có.

- Một thanh niên thông minh như anh, anh yêu, em nghĩ rằng anh có vẻ không biết gì hết.

- Anh sẽ tử tế với chị ấy.

- Em tin chắc thế. Anh đáng yêu lắm.

- Chị ấy sẽ không ở lại sau bữa ăn chứ?

- Không, em sẽ để chị ấy ra về.

- Rồi sau đó chúng mình trở lại đây?

- Dĩ nhiên. Đố anh nghĩ ra em muốn làm gì nào?

Chúng tôi cùng đi xuống ăn trưa với Ferguson. Nàng thán phục khách sạn và phòng ăn tráng lệ. Chúng tôi dùng một bữa trưa thật ngon với một chai Capri trắng. Bá tước Greffi bước vào phòng ăn và chào chúng tôi. Cô cháu gái dẫn ông trông hao hao giống bà nội tôi. Tôi kể chuyện ông cho Catherine và Ferguson nghe, và Ferguson có vẻ rất phục. Khách sạn đồ sộ và lộng lẫy, vắng khách nhưng thức ăn thật ngon và rượu thật tuyệt. và sau cùng là nhờ có rượu chúng tôi cảm thấy vui vẻ. Catherine không cần thế. Nàng rất hạnh phúc. Ferguson đã gần vui lại. Cn tôi, tôi rất phấn chấn. Sau bữa ăn, Ferguson trở về khách sạn của nàng. Nàng bảo rằng nàng cần phải nằm nghỉ một tí sau bữa ăn.

Đến chiều thì có người đến gõ cửa phòng chúng tôi.

- Ai đấy?

- Bá tước Greffi hỏi xem ông có thể đến chơi bi da với ông ấy được không?

Tôi nhìn chiếc đồng hồ tôi đã cởi ra và để dưới gối.

- Anh phải đi à anh yêu? - Catherine thì thầm.

- Anh nghĩ anh cũng nên đi một tí.

Đồng hồ chỉ bốn giờ mười lăm. Tôi nói vọng ra cửa.

- Anh nói giùm với bá tước là tôi sẽ đến phòng bi da lúc năm giờ.

Đến năm giờ kém mười lăm tôi hôn Catherine và đi thay quần áo ở phòng tắm. Khi đứng thắt cà vạt trước gương, tôi thấy buồn cười với bộ thường phục. Tôi phải mua thêm vài chiếc sơ mi và mấy đôi vớ khác nữa.

- Anh có đi lâu lắm không? - Catherine hỏi. Nàng thật đáng yêu khi nằm trên giường - Anh đưa hộ em cái bàn chải tóc.

Tôi ngắm nàng chải tóc, đầu hơi nghiêng để cho cả suối tóc chảy về một bên. Bên ngoài trời đã tối. Ánh sáng ở đầu giường chiếu ngời trên mái tóc, trên cổ và đôi vai của nàng. Tôi tiến lại gần và ôm hôn nàng, và tôi nắm lấy bàn tay đang cầm chải tóc và nàng nằm ngả đầu trên gối. Tôi hôn lên cổ, lên vai nàng. Tôi ngây ngất trong hương tình bên cạnh nàng.

- Anh không còn thích đi đâu nữa.

- Em không muốn anh đi tí nào cả.

- Thôi thì anh không đi vậy.

- Có, đi đi, chỉ một lát thôi, rồi anh trở về ngay nhé.

- Chúng ta sẽ ăn tại đây.

- Anh đi đi và về gấp anh nhé.

Tôi gặp bá tước Greffi ở phòng bi da. Ông đang tập, người mảnh mai dưới ánh sáng tràn ngập trên thảm. Trên một bàn khuất trong bóng tối một chút có một cái xô bằng bạc đựng nước đá. Cổ và nút của chai sâm banh nhô lên trên đá. Khi tôi lại gần bàn bi da, bá tước Greffi thẳng người lên và tiến lại phía tôi. Ông bắt tay tôi và nói :

- Thật là hân hạnh cho tôi được gặp anh tại đây. Anh đến chơi với tôi thật quý hóa quá.

- Chính ông thật đáng mến khi mời tôi đến.

- Anh hoàn toàn bình phục rồi phải không? Tôi nghe người ta bảo rằng anh đã bị thương ở Isonzo. Tôi mong rằng anh đã hồi phục.

- Tôi rất khỏe, còn ông?

- Ỗ tôi ấy à? Tôi luôn luôn khỏe mạnh. Nhưng tuổi tôi đã về chiều rồi. Tôi đã bắt đầu nhận thấy những dấu hiệu của tuổi già.

- Tôi không tin thế.

- Thật mà. Anh cần một ví dụ không? Đối với tôi giờ đây nói tiếng Ý dễ dàng hơn. Tôi phản ứng lại nhưng khi mệt mỏi tôi thấy nói tiếng Ý dễ dàng hơn. Điều đó chứng tỏ là tôi đã già.

- Chúng ta có thể nói tiếng Ý. Chính tôi cũng thấy hơi mệt một tí.

- Ồ, anh thì phải khác. Khi mệt, anh phải thấy nói tiếng Anh dễ dàng hơn chứ?

- Tiếng Mỹ cơ.

- Phải, xin mời, chúng ta nói tiếng Mỹ vậy. Đó là một ngôn ngữ thú vị.

- Tôi gần như không được gặp một người Mỹ nào cả.

- Chắc anh thấy thiếu lắm. Người ta luôn thấy nhớ những người đồng hương của mình, nhất là phụ nữ đồng hương. Tôi có kinh nghiệm điều đó mà. Chúng ta chơi hay là anh đã mệt rồi?

- Tôi có mệt đâu. Tôi nói đùa vậy mà. Ông chấp trước tôi bao nhiêu đỉểm đây?

- Anh đã chơi nhiều rồi chứ?

- Chưa ạ.

- Anh đánh khá lắm mà. Mười phần trên một trăm nhé?

- Ông đùa tôi đấy à?

- Mười lăm nhé?

- Tốt lắm, nhưng ông sẽ hạ tôi ngay thôi mà.

- Chúng ta đánh ăn cá nhé. Hồi đó anh luôn thích chơi ăn cá mà.

- Tôi thiết tưởng có như thế mới thú vị.

- Rất tốt. Tôi chấp anh mười tám điểm đấy và chúng ta cá một quan ăn một điểm.

Ông có lối chơi thật tuyệt và với số chấp tôi đã có tới năm mươi, tôi chỉ còn dư bốn điểm thôi. Bá tước Greffi bấm nút chuông trên tường gọi chủ quán.

- Làm ơn mở chai rượu - rồi ông quay sang tôi - Chúng ta nên uống rượu để cho hăng lên.

Vang rất cay, nặng và ngon.

- Chúng ta dùng tiếng Ý nhé? Có gì làm phiền ông lắm không? Đó là nhược điểm của tôi lúc này đấy.

Chúng tôi tiếp tục chơi bi da và vừa nhấm nháp rượu. Chúng tôi nói tiếng Ý nhưng vì trò chơi quá hấp dẫn cho nên chúng tôi nói rất ít. Bá tước Greffi đã được một trăm điểm, còn tôi, mặc dù đã được chấp trước mới chỉ được 94 thôi. Ông mỉm cười và vỗ nhẹ lên vai tôi :

- Bây giờ uống thêm một chai nữa và anh kể cho tôi nghe tình hình chiến sự.

Ông đợi tôi ngồi vào chỗ rồi mới ngồi xuống.

- Nói mọi chuyện đều được nhưng trừ chuyện đó.

- Anh không muốn nói đến chuyện ấy à? Thôi được, tuỳ anh. Anh đọc gì rồi?

- Không đọc gì cả. Tôi e rằng ít truyện hay.

- Ồ nhưng mà anh phải đọc đi.

- Người ta viết gì trong thời chiến nhỉ?

- Có quyển Le Feu của tác giả người Pháp tên là Barbusse và quyển “Mr. Britsling sees through it”.

- Không, hắn không thấy gì cả.

- Gì chứ?

- Hắn không thấy gì cả. Ở bệnh viện có những cuốn đó.

- Thế thì anh đã đọc quyển ấy rồi chứ?

- Vâng, nhưng không có gì hay ho cả.

- Tôi nhận thấy ông Britling là một sự nghiên cứu kỹ tâm hồn trung giới người Anh.

- Tôi không biết tí gì về tâm hồn cả.

- Tội nghiệp cậu bé thì thôi. Nhưng không ai am tường về tinh thần cả. Anh có tin đạo không?

- Ban đêm.

Bá tước Greffi mỉm cười và ông xoay cái ly giữa mấy ngón tay.

- Tôi tưởng rằng tôi trở nên ngoan đạo hơn lúc tôi luống tuổi, nhưng không, tôi không thay đổi gì cả. Thật đáng tiếc.

- Ông có tha thiết được sống sau khi chết không? - Tôi hỏi và kịp nhận thấy mình đã dại dột khi đề cập đến cái chết trong lúc này. Nhưng tiếng đó không làm ông kinh hãi.

- Điều đó còn tùy thuộc theo cuộc sống. Cuộc sống hiện tại lúc này rất tốt đẹp. Nên tôi tha thiết muốn trường sinh (ông mỉm cười) và tôi đã gần đạt đến đó.

Chúng tôi ngồi trong những chiếc ghế đệm bọc da và uống sâm banh đặt trong xô đá và ly để trên bàn giữa chúng tôi.

- Nếu bao giờ anh sống đến bằng tuổi tôi, anh sẽ thấy có nhiều chuyện lạ lắm.

- Trông ông không có vẻ gì là già cả.

- Chỉ già về thể xác thôi. Đôi khi tôi sợ tôi sẽ bẻ gãy ngón tay như người ta bẻ một cục phấn. Nhưng trí óc tôi thì không già hơn mà cũng không khôn ngoan hơn.

- Ồ, tôi đoán chắc ông là một nhà hiền triết.

- Không, quan niệm rằng những người già cả là hiền triết là một điều lầm lẫn lớn. Không phải càng luống tuổi họ càng hiền triết, mà là thận trọng.

- Có lẽ ở trong đó chứa đựng sự hiền triết.

- Đó là sự hiền triết không có gì hấp dẫn cả. Anh quý những gì nhất trên đời này?

- Người mà tôi hằng yêu mến.

- Đối với tôi cũng thế. Đó không phải là hiền triết. Anh quý trọng cuộc đời lắm à?

- Vâng.

- Tôi cũng thế. Bởi vì đó là tất cả những gì mà tôi có được và để có thể tổ chức những cuộc sinh nhật của tôi - Ông cười to lên - Có lẽ anh là người khôn ngoan hơn tôi vì anh không bao giờ tổ chức những lễ sinh nhật như tôi.

Mỗi người chúng tôi uống một chút rượu.

- Ông nghĩ thật về chiến tranh như thế nào? - Tôi hỏi.

- Tôi nghĩ thật là ngu xuẩn.

- Ai sẽ dành được thắng lợi?

- Nước Ý.

- Tại sao?

- Vì Ý là một quốc gia trẻ nhất.

- Có phải các nước trẻ bao giờ cũng thắng trận chăng?

- Các nước đó có khả năng thắng trận trong một thời hạn nào đó.

- Rồi sau đó sẽ ra sao?

- Họ trở thành những quốc gia già cỗi.

- Vậy mà ông nói ông không phải là một nhà hiền triết.

- Cậu bé thân mến, đó không phải là hiền triết mà là một điều thông tục.

- Đối với tôi, tôi cho điều đó rất có vẻ hiền triết.

- Không hẳn thế, tôi có thể kể cho anh nghe một vài ví dụ trái ngược hẳn lại. Nhưng mà nó không đến nỗi tệ lắm. Chúng ta đã uống cạn phần sâm banh còn lại chưa?

- Gần hết rồi.

- Chúng ta uống thêm một chai nữa chứ? Tôi cần phải thay đổi y phục.

- Giờ thì có lẽ ta nên ngưng là vừa.

- Anh không muốn uống thêm nữa à?

- Không. Cám ơn.

Ông đứng lên.

- Chúc anh gặp nhiều may mắn, nhiều hạnh phúc và sức khỏe thật dồi dào.

- Cám ơn ông, còn tôi, tôi cầu chúc ông sống lâu muôn tuổi.

- Cám ơn. Điều đó tôi đã có rồi. Còn anh, nếu anh có trở nên ngoan đạo thì hãy cầu nguyện cho tôi lúc tôi chết. Tôi đã yêu cầu điều đó với các bạn tôi. Tôi hy vọng mình sẽ trở nên ngoan đạo nhưng điều đó không bao giờ xảy ra.

Tôi tưởng sẽ tìm thấy ở ông một nụ cười héo hắt, nhưng không chắc chắn vì ông già quá nên gương mặt nhăn nheo vì thế một nụ cười thường biến đổi các nếp nhăn và nét mặt không lộ ra.

- Có lẽ tôi sẽ trở nên rất ngoan đạo, trong bất cứ trường hợp nào tôi cũng sẽ cầu nguyện cho ông.

- Tôi luôn luôn mong rằng tôi sẽ trở nên ngoan đạo. Tất cả gia quyến tôi đều chết rất ngoan đạo. Nhưng vì một lý do nào đó tôi lại không như thế được.

- Điều đó quá sớm chăng?

- Có lẽ quá muộn. Có thể tôi đã vượt qua cái tuổi của lòng mộ đạo rồi.

- Lòng mộ đạo của tôi chỉ đến trong lúc ban đêm.

- Vậy thì anh đang yêu rồi. Đừng quên rằng đó cũng là một cảm giác tín ngưỡng đấy.

- Ông tin tưởng như vậy à?

- Dĩ nhiên - Ông đi về phía chiếc bàn và nói tiếp - Anh đến chơi với tôi thật là quý hóa quá.

- Tôi rất vui mừng được đến đây.

- Chúng ta cùng đi thôi

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 36

Đêm hôm ấy có bão và tôi thức dậy khi nghe tiếng mưa đập vào cửa kính. Mưa từ cửa sổ hé mở tạt vào. Có người gõ cửa. Tôi bước ra mở cửa nhè nhẹ để khỏi đánh thức Catherine. Đó là anh chủ quán. Anh ta mặc áo choàng và cầm chiếc mũ trên tay.

- Thưa trung úy, tôi có chuyện muốn nói với trung úy một chút được không?

- Chuyện gì thế?

- Chuyện này quan trọng lắm.

Tôi nhìn quanh phòng. Gian phòng tối om. Tôi thấy một vũng nước trên sàn nhà, trước cửa sổ.

- Mời anh vào - Tôi nắm tay kéo anh ta vào phòng tắm. Tôi khóa cửa lại và bật đèn lên. Tôi ngồi trên thành bồn tắm.

- Có chuyện gì thế, Emilio? Anh gặp nguy hiểm à?

- Không phải tôi mà chính là trung úy.

- Tôi à?

- Họ sẽ đến bắt trung úy sáng nay.

- Thật sao?

- Tôi đến báo cho trung úy. Tôi đi ra ngoài phố và nghe họ nói chuyện trogn quán cà phê.

Anh ta đứng đó với chiếc áo choàng ướt đẫm. Anh ta cầm chiếc mũ ướt trong tay và yên lặng không nói gì cả.

- Tại sao họ lại bắt tôi?

- Vì lý do gì đấy có liên quan đến chiến tranh.

- Anh có biết vì sao không?

- Không, nhưng tôi tin rằng họ biết ông ở đây mặc thường phục mà trước kia ông hay mặc quân phục. Sau cuộc rút lui này, họ sẽ bắt tất cả mọi người.

Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói :

- Đến mấy giờ họ sẽ đến bắt tôi?

- Buổi sáng, tôi không biết mấy giờ.

- Anh khuyên tôi phải làm gì bây giờ?

Anh để chiếc mũ lên bồn rửa mặt. Chiếc mũ ướt nhũn và nhỏ nước trên sàn nhà.

- Nếu ông hợp pháp thì bắt bớ cũng chẳng sao. Nhưng nếu bị bắt và nhất là bị bắt vào lúc này thì chẳng hay ho chút nào.

- Tôi không muốn để bị bắt.

- Thế thì hãy qua Thụy Sĩ.

- Bằng cách nào?

- Dùng thuyền của tôi.

- Nhưng trời đang bão...

- Bão đã qua, hồ động nhưng vẫn có thể đi được.

- Bao giờ phải đi?

- Ngay bây giờ. Có thể sáng mai họ sẽ đến bắt ông sớm.

- Thế còn hành lý của chúng tôi?

- Sửa soạn nhanh lên. Bảo bà mặc quần áo vào. Tôi lo hành lý cho.

- Tôi sẽ tìm anh ở đâu?

- Tôi sẽ đợi ở đây. Tôi không muốn ai trông thấy tôi ở hành lang cả.

Tôi đẩy cửa ra rồi khép lại, tôi đi qua phòng ngủ. Catherine đã thức giấc.

- Gì thế anh yêu?

- Đừng ngạc nhiên Cat ạ - Tôi đáp - Em nghĩ sao nếu ta phải mặc quần áo và đi Thụy Sĩ ngay lập tức?

- Anh nghĩ sao?

- Anh ấy à? Anh thích đi ngủ trở lại hơn.

- Có chuyện gì vậy?

- Anh chủ quán đến báo sáng mai họ sẽ đến đây bắt anh.

- Anh chủ quán có điên không?

- Không.

- Thế thì em xin anh, anh yêu, hãy mặc quần áo nhanh lên để chúng ta có thể đi ngay. - Catherine ngồi ở cạnh giường, trông nàng hãy còn ngái ngủ - Thế anh chủ quán vẫn còn ở trong buồng tắm à.

- Còn.

- Thế thì em không tắm. Anh hãy quay mặt đi chỗ khác một lát. Em sẽ sẵn sàng ngay.

Tôi trông thấy phần lưng trắng nõn của nàng lúc nàng cởi bỏ áo ngủ nhưng rồi tôi nhìn đi chỗ khác như nàng muốn. Người nàng bắt đầu sồ sề và nàng không muốn tôi thấy nàng như vậy. Tôi mặc quần áo trong tiếng mưa đập vào cửa sổ. Tôi chẳng có gì nhiều để cho vào va ly cả.

- Trong va ly anh hãy còn nhiều chỗ trống, em có muốn cho gì vào đó không?

- Em đã xếp soạn xong rồi. Này anh, em hỏi hơi ngớ ngẩn một tí nhé, tại sao anh chủ quán lại phải ở trong phòng tắm vậy?

- Suỵt, anh ta chờ để mang hành lý của mình xuống.

- Anh ta thật là tử tế.

- Anh ta là một người bạn cũ của anh - Tôi nói - Anh phải gởi thuốc lá cho anh ta một ngày gần đây mới được.

Qua khung cửa sổ mở rộng, tôi nhìn vào bóng đêm dày đặc. Tôi không thấy hồ đâu cả, chỉ thấy bóng đêm và mưa. Nhưng gió thì đã thấy dịu đi.

- Em xong rồi anh yêu - Catherine nói.

- Tốt lắm - Tôi liền đi về phía cửa phòng tắm.

- Hành lý của chúng tôi đây này, Emilio.

Anh chủ quán xách hai chiếc va ly.

- Anh tốt quá, đã giúp đỡ chúng tôi - Catherine nói.

- Thưa bà, chả có gì cả - Anh ta đáp - Tôi rất vui lòng được giúp đỡ ông bà tuỳ mức độ mà tôi không bị phiền phức - Quay sang tôi, anh nói - Này, tôi sẽ đưa những thứ này theo ngả cầu thang phụ rồi mang xuống thuyền luôn. Anh chỉ có việc đi ra ngoài như đi dạo mát vậy.

- Thật là một đêm đẹp để đi dạo - Catherine nói.

Chúng tôi theo hành lang xuống cầu thang có trải thảm dày. Đến chân cầu thang gần cửa, người thường trực ngồi sau bàn viết ngạc nhiên nhìn chúng tôi :

- Ông đi ra ngoài à? - Hắn hỏi.

- Vâng, chúng tôi muốn xem dông bão trên hồ.

- Thế ông không có áo mưa à?

- Không - Tôi đáp - Nhưng chiếc áo choàng này không thấm nước.

Hắn nhìn chiếc áo tỏ vẻ nghi ngờ.

- Để tôi đi kiếm cho ông chiếc áo mưa.

Nói xong hắn đi ra và trở lại với một chiếc áo mưa lớn.

- Thưa ông, áo hơi lớn một tí - Hắn nói.

Tôi cho hắn mười đồng lia.

- Ồ ông tốt bụng quá, cám ơn ông lắm.

Hắn mở cửa và chúng tôi đi ra, dưới trời mưa. Hắn nhìn Catherine mỉm cười và nàng cũng cười đáp lại.

- Ông bà đừng ở ngoài mưa lâu, không khéo lại ướt hết. - Hắn chỉ là người thường trực phụ nên nói tiếng Anh không thạo.

- Chúng tôi sẽ trở lại - Tôi đáp.

Hai chúng tôi che cây dù to tướng đi qua những con đường mòn qua những khu vườn tối tăm ẩm ướt rồi đến đường cái nối tiếp con đường có chắn lưới mặt cáo dọc theo hồ. Gió đang thổ vào bờ. Đó là tháng mười lạnh và ẩm ướt. Tôi biết lúc này tuyết đang rơi ở miền núi. Chúng tôi đi theo những con thuyền xích ở dưới bến rồi đến chỗ chiếc thuyền của anh chủ quán. Anh từ sau rặng cây bước ra.

- Hành lý đã để trong khoang thuyền rồi - Anh nói.

- Tôi muốn trả anh tiền chiếc thuyền này - Tôi nói.

- Ông có bao nhiêu tiền?

- Không nhiều lắm.

- Thế ông gởi tiền sau cho tôi cũng được. Như vậy tốt hơn.

- Bao nhiêu?

- Bao nhiêu cũng được.

- Anh cho biết là bao nhiêu đi.

- Nếu ông thoát khỏi xin ông gởi cho tôi năm trăm quan. Số đó có là bao nhiêu nếu ông thóat nạn.

- Cũng được.

Anh ta trao cho tôi một gói và bảo :

- Đây là bánh sandwich, ở quán chỉ có vậy. Ông bà có tất cả trong này. Đây là một chai rượu mạnh và một chai rượu vang.

Tôi cho các thứ vào bao.

- Tối thiểu hãy để cho tôi trả tiền các thức này.

- Xin ông năm chục lia.

Tôi trao tiền cho anh ta.

- Rượu mạnh này ngon lắm. Ông có thể cho bà dùng được, như thế lúc đi thuyền bà sẽ thấy khỏe hơn.

Anh ta giữ lấy chiếc thuyền, nó nhồi lên nhồi xuống dọc theo bức tường. Tôi đỡ Catherine xuống thuyền, nàng ngồi phía sau, cuộn người trong chiếc áo choàng.

- Ông biết đường không?

- Có, đi ngược lên hồ.

- Ông biết đến đâu không?

- Đến Luino.

- Qua khỏi Luino, Cannero, Cannobio, Tranzano. Khi tới Brissago là ông đã đặt chân lên Thụy Sĩ rồi đấy. Rồi ông còn phải đi qua rặng núi Tamara.

- Mấy giờ rồi? - Catherine hỏi.

- Chỉ mới mười giờ - Tôi bảo.

- Nếu ông chèo không nghỉ thì ông sẽ đến nơi vào lúc bảy giờ sáng.

- Xa thế cơ à?

- Độ ba mươi lăm cây số.

- Làm thế nào để đi bây giờ. Mưa như thế này chúng tôi cần có địa bàn.

- Không cần. Ông cứ chèo cho đến Isola Bella. Rồi qua đến phía bên kia của Isola Madre thì cứ nương theo chiều gió. Gió sẽ đưa ông đến Pallanza. Ở đó ông sẽ thấy ánh đèn rồi cứ việc bơi dọc theo bờ.

- Có thể gió sẽ đổi chiều.

- Không đâu, gió này sẽ kéo dài ba ngày. Nó từ Mattarone thổi thẳng xuống. Ông có một cái xô và dây dùng để tát nước.

- Bây giờ để cho tôi trả cho anh chút đỉnh tiền cái thuyền này nhé.

- Thôi, tôi thích mạo hiểm. Nếu thoát, ông trả cho tôi bao nhiêu cũng được.

- Thế cũng được.

- Chẳng có lý nào ông bị đắm thuyền đâu.

- Thế thì tốt lắm.

- Luôn luôn chèo với gió ở đàng sau.

- Được rồi.

Tôi bước xuống thuyền.

- Ông có để lại tiền trả cho khách sạn không?

- Có, tôi để trong phòng bì ở phòng ấy.

- Thế thì được rồi, thôi chúc trung úy may mắn.

- Chúc anh may mắn. Chúng tôi cám ơn anh nhiều lắm.

- Nếu ông bị đắm, chắc ông chẳng cám ơn tôi đâu.

Catherine hỏi tôi :

- Anh ta nói gì thế?

- Anh ta chúc mình gặp may mắn.

- Cám ơn anh nhiều, chúc anh may mắn.

- Sẵn sàng chưa?

- Rồi.

Anh ta khom người xuống và đẩy chúng tôi ra khơi. Tôi nhúng hai mái chèo xuống nước và đưa tay lên vẫy. Anh ta vẫy đáp lại. Tôi thấy ánh đèn của khách sạn chiếu sáng. Tôi bơi thuyền ra xa thẳng tắp cho đến khi không còn thấy ánh đèn nữa. Sóng lớn nhưng chúng tôi có gió đàng sau.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 37

Tôi bơi thuyền trong đêm tối, gió thổi tạt vào mặt. Mưa đã ngừng, chỉ thỉnh thoảng có những hạt nhỏ rơi xuống thôi. Và thỉnh thoảng mới đổ ào xuống một luồng. Trời tối đen, gió thổi mạnh. Tôi nhìn ra Catherine ngồi ở sau lái nhưng không thể nhìn thấy chỗ nước mà mái chèo nhúng xuống. Mái chèo rất dài mà không có mảnh da để giữ cho nó khỏi trượt ra ngoài. Tôi kéo lui cây dầm, đoạn nâng lên rồi ấn cây dầm xuống về phía trước, rồi lại kéo lui, và cứ thế mà cố bơi. Tôi biết tay tôi đã sưng lên và tôi cố trì hoãn giây phút ấy lâu chừng nào hay chừng ấy. Chiếc thuyền nhẹ nhàng trôi xuôi theo dòng nước đen ngòm. Tôi không trông thấy gì cả và mong rằng chúng tôi đến sớm được vùng bên kia của Pallanza.

Chúng tôi chưa bao giờ thấy Pallanza. Gió thổi ngang hồ, chúng tôi đi qua Pallanza, vùng này ẩn khuất trong màn đêm nên không thấy ánh đèn nào cả. Nhưng rồi sau đó chúng tôi cũng nhìn thấy vài ngọn đèn xa xa phía trên hồ và sát bờ hồ. Chỗ đó là Intra. Nhưng rất lâu sau đó chúng tôi lại không trông thấy một ánh đèn nào, bờ bến nào ở đâu cả. Chúng tôi bị sóng cản và kiên nhẫn tiến trong bóng đêm. Thỉnh thoảng một con sóng nâng thuyền lên làm chiếc dầm hụt ra khỏi mặt nước. Hồ bị động nhưng điều đó không cản được tôi chèo. Bất thình lình chúng tôi thấy mình ở sát bờ, bên cạnh một khối đá dựng đứng. Sóng vỗ vào đá, bắn nước tung lên rồi rơi xuống. Một tay tôi bơi mạnh, còn chiếc dầm bên trái thì cản nước về phía sau. Chúng tôi lại bơi ra giữa hồ, Hốc đá xa dần tầm mắt và chúng tôi tiếp tục bơi ngược lên phía trên hồ.

Tôi bảo Catherine :

- Chúng ta đang ở giữa hồ.

- Thế mình không thấy Pallanza à?

- Mình bị lạc mất rồi.

- Anh yêu, anh thấy trong người thế nào?

- Anh vẫn khoẻ.

- Để em chèo cho một lát.

- Không, anh vẫn khỏe mà.

- Tội nghiệp cho chị Ferguson, sáng nay chị ấy sẽ đến khách sạn và mới hay chúng mình đi rồi.

- Anh bận tâm hơn đến việc tới được Thụy Sĩ trước lúc mặt trời mọc và để bọn lính đoan có thể trông thấy chúng ta.

- Còn xa lắm không?

- Còn khoảng ba mươi cây số nữa.

Tôi bơi suốt đêm. Cuối cùng tay tôi rã rời khiến tôi khó lòng có thể giữ vững tay chèo. Nhiều lần chúng tôi gần va vào bờ. Tôi giữ cho thuyền đi nương sát vào bờ vì sợ bị lạc hướng và mất thì giờ. Đôi khi chúng tôi ở sát bờ đến nỗi có thể nhận ra hàng cây cùng con đường lớn chạy dài theo bờ hồ với phía sau là những rặng núi. Mưa đã tạnh, gió đã thổi tan mây và mặt trăng hiện ra. Nhìn lại phía sau tôi có thể trông thấy Castagnola hiện ra như một điểm dài tối sẫm, mặt hồ với những lượn sóng trắng xóa và hơn là vầng trăng lơ lửng trên rặng núi cao đầy tuyết phủ. Rồi mây lại che khuất trăng khiến cho không còn nhìn thấy núi, hồ đâu nữa. Nhưng dù sao cũng sáng hơn lúc nãy và chúng tôi có thể nhận ra đâu là bờ. Tôi nhận ra bờ rõ ràng và cho thuyền đi ra xa một chút phòng khi có lính đoan ở dọc theo đường Pallanza chúng cũng không thấy chúng tôi được. Khi vầng trăng lại hiện ra, chúng tôi có thể trông thấy những tòa biệt thự trắng trên bờ hồ nằm bên sườn núi cùng với con đường trắng xóa ẩn hiện giữa hàng cây. Tôi vẫn tiếp tục chèo.

Mặt hồ rộng ra, bên kia hồ, dưới chân ngọn núi, đây đó có một vài ánh đèn, có lẽ đó là Luino. Tôi thấy có một lỗ hổng giống hình tam giác giữa hai ngọn núi bên kia bờ hồ. Vì thế tôi nghĩ đó là thành phố Luino. Nếu quả vậy thì chúng tôi đã đi đúng hướng. Tôi kéo mái chèo về và ngả lưng xuống chỗ ngồi. Tôi mệt vô cùng, hai cánh tay, vai và lưng tôi mỏi như dần, còn hai bàn tay thì sưng lên.

- Em có thể mở dù được - Catherine nói - Có gió này thì có thể giương dù lên thay cánh buồm vậy.

- Em giữ lái được không?

- Có lẽ được.

- Em cầm lấy chiếc dầm này, giữ dầm dưới cánh tay và ép sát vào mạn thuyền để làm lái. Còn anh thì cầm dù.

Tôi bước ra sau chỗ lái và chỉ cho nàng cách cầm lái. Tôi cầm lấy chiếc dù to tướng của người thường trực đã đưa cho tôi rồi giương dù lên. Dù bung ra. Tôi nắm hai bên vành chiếc dù rồi ngồi cưỡi đè lên cán, tay dù móc vào ghế. Chiếc thuyền lướt tới. Tôi cố giữ thật chặt hai bên vành dù. Gió đẩy mạnh và chiếc thuyền trôi rất nhanh.

- Thuyền lướt kỳ diệu - Catherine nói.

Tôi không thấy gì ngoài gọng dù. Dù căng thẳng và bị giật mạnh. Tôi thấy hình như chúng tôi cũng bị kéo đi. Tôi đạp chân và đè người xuống sát cán dù. Bất thình lình cây dù bị lộn lại và một kèo dù đập vào trán tôi. Tôi cố sức chụp lấy chóp dù đang oằn xuống vì gió. Cây dù mới đây là một cánh buồm bọc đầy gió, bây giờ đã rách bươm. Tôi tháo móc dù ra, để dù xuống mũi thuyền và bước ra sau cầm lái chèo thay cho Catherine. Nàng cười như nắc nẻ. Cầm lấy tay tôi nàng vẫn còn cười.

- Gì thế? - Tôi vừa hỏi vừa đỡ lấy cây dầm.

- Khi anh cầm cây dù như thế, trông buồn cười quá đi mất.

- Vậy hả?

- Này, anh đừng giận nhé. Trông buồn cười quá đi. Anh trông giống như người có bề ngang độ sáu thước và bấu chặt vào vành dù trông có vẻ trìu mến lắm - Catherine đùa với tôi như thế\/

- Để anh chèo.

- Nghỉ một lát và uống tí gì đi đã, anh yêu ạ. Thật là một đêm tuyệt diệu và chúng ta đã đi đúng.

- Anh phải giữ cho chiếc thuyền không bị nhồi sóng.

- Vậy để em rót rượu cho anh nhé, anh nên nghỉ một tí đi anh yêu.

Hai mái dầm tôi giơ lên tạo thành buồm. Catherine mở va ly, nàng trao cho tôi chai rượu mạnh. Tôi dùng con dao bỏ túi mở chai rượu và tu một hơi dài. Thật là dịu và nóng. Tôi cảm thấy ấm áp và vui hẳn lên. “Rượu ngon thật”, tôi nói với Catherine. Trăng lại bị che khuất nhưng tôi vẫn có thể nhìn ra bờ hồ.

- Em có thấy khá ấm lên trong người không hả?

- Em khỏe lắm nhưng chỉ hơi bị cóng một tí thôi.

- Tát nước trong này ra thì em có thể đặt chân xuống.

Tôi lại bơi tiếp và lắng nghe tiếng mái chèo khua nước, tiếng lon tát nước dưới chỗ ngồi phía sau lái.

- Em đưa cho anh cái xô tát nước. Anh muốn uống nước.

- Thôi bẩn lắm.

- Không sao, anh sẽ rửa sạch đi.

Tôi nghe Catherine rửa xô tát nước rồi nàng trao cho tôi một xô đầy nước. Uống rượu mạnh xong tôi khát nước vô cùng. Nước lạnh buốt làm tôi ê cả răng. Tôi nhìn vào bờ. Chúng tôi đang tiến dần đến vùng đất đã thấy khi nãy. Trên vịnh trước mặt đã thấy thấp thoáng ánh đèn.

- Cám ơn em - Tôi trả lại chiếc xô cho nàng.

- Sẵn sàng phục vụ anh, nếu anh muốn thêm nữa cũng được.

- Em muốn ăn gì không?

- Không, lát nữa em mới đói. Phải để dành lương thực đến lúc ấy chứ.

- Thế cũng được.

Cái điểm sáng khi nãy là một vùng đất dài và cao. Tôi bơi thuyền ra xa bờ để vượt qua dải đất đó. Bây giờ mặt hồ hẹp lại. Trăng lại hiện ra. Nếu có bọn lính tuần thì chắc hẳn chúng sẽ nhìn thấy rõ mồn một chiếc thuyền của chúng tôi trên mặt nước.

- Em thấy trong người thế nào hả Cat?

- Em thấy khỏe lắm. Mình đang ở đâu hả anh?

- Có lẽ chúng ta chỉ còn độ tám dặm nữa thôi.

- Thế cũng còn phải chèo lâu. Tội nghiệp anh yêu. Liệu anh có kiệt sức không?

- Không sao đâu. Anh vẫn khoẻ, chỉ có hai bàn tay là hơi đau tí thôi.

Chúng tôi tiếp tục chèo ở bên ngoài chỗ hai ngọn núi giao nhau. Đất phẳng phiu đến tận bờ biển thấp. Tôi nghĩ đó có thể là vùng Cannobio. Tôi chú ý dừng lại giữa hồ vì đây là lúc có thể dễ gặp lính biên phòng nhất. Ở trước mặt, phía bờ bên kia là một rặng núi cao đỉnh tròn. Tôi mệt quá, tuy chẳng còn bơi bao xa nữa, nhưng khi đã kiệt sức rồi thì lại thấy quá xa. Tôi biết nếu muốn đến thuỷ phận của Thụy Sĩ thì phải đi qua rặng núi này và phải đi ít nhất năm dặm nữa ngược lên hồ. Lúc này thì trăng đã lặn, mây phủ kín bầu trời và bóng đêm dày đặc. Tôi ở cách bờ rất xa, vừa bơi vừa nghỉ và giữ đôi mái chèo khiến gió đập mạnh vào phía dưới.

- Đưa em chèo cho một lát - Catherine nói.

- Anh nghĩ đó không phải là việc của em.

- Anh lập luận sai rồi. Như thế tốt chứ có sao đâu. Em sẽ không bị trệ người.

- Anh cho là em nên tránh thì tốt hơn, Cat ạ.

- Anh vô lý quá. Bơi thuyền nhịp nhàng, vừa phải, thì có ích cho phụ nữ đang mang thai chứ có gì đâu.

- Thật à? Thế thì em chèo một chút... Để anh xuống đó rồi em lên đây nhé. Em bám chặt vào mạn thuyền mà đi lên đây nhé.

Tôi ngồi phía sau lái dựng cổ áo lên và ngắm Catherine chèo thuyền. Nàng chèo rất giỏi nhưng chiếc dầm quá dài làm nàng lúng túng. Tôi mở bao lấy hai chiếc sandwich ăn và uống một hớp rượu mạnh. Chẳng bao lâu tôi thấy mọi thứ đỡ u ám và tôi lại uống thêm một hơi nữa.

- Khi nào em mệt thì bảo anh nhé - Một lát sau tôi lại bảo - Này, khéo kẻo cây dầm đập vào bụng em đấy nhé.

- Nếu thế thì đời mình sẽ dễ tính hơn chứ sao - Catherine nói.

Tôi uống thêm một hơi rượu nữa.

- Em thấy thế nào?

- Được mà.

- Khi nào em muốn nghỉ thì bảo anh nhé.

- Vâng.

Tôi lại tu thêm một hơi nữa. Rồi tôi bám mạn thuyền lần lên chỗ Catherine.

- Thôi, đang tốt mà.

- Em nên trở lại phía sau lái mà ngồi. Anh nghỉ cũng khá lâu rồi.

Nhờ chất rượu, tôi bơi một lúc dễ dàng không nghỉ, rồi tôi lại bắt đầu mỏi mệt và ói ra cả mật xanh vì vừa uống rượu xong lại gắng quá sức.

- Cho anh ngụm nước đi em - Tôi nói.

- Dễ thôi - Catherine đáp.

Trước lúc rạng đông, mưa phùn bắt đầu rơi. Gió đã dịu hoặc vì chúng tôi được mấy ngọn núi bao quanh hồ che cản gió. Khi biết trời sắp sáng, tôi vội vã cố bơi. Tôi không biết chúng tôi đang ở đâu và tôi muốn đi vào địa phận Thụy Sĩ. Khi trời bắt đầu sáng, chúng tôi đã gần đến bờ. Tôi nhận ra những tảng đá và cây cối.

- Gì thế nhỉ? - Catherine hỏi.

Tôi dừng tay chèo và lắng nghe. Có tiếng thuyền máy nổ trên hồ. Tôi cập thuyền vào bờ và im lặng. Tiếng máy gần hơn và chúng tôi thấy qua màn mưa một chiếc thuyền máy ngay sau thuyền chúng tôi. Trên thuyền có bốn người lính tuần tiễu, với chiếc mũ sụp sâu, cổ áo kéo cao lên, và súng lủng lẳng ngang lưng. Trông họ còn có vẻ ngái ngủ vì trời quá sớm. Tôi nhận thấy màu vàng của áo họ. Chiếc thuyền máy vượt chúng tôi rồi khuất dần sau màn mưa.

Tôi bơi thuyền ra giữa hồ, nếu chúng tôi đến gần được biên giới như thế thì tôi lại càng không muốn bị lính tuần tiễu kêu hỏi. Tôi giữ một khoảng cách có thể nhìn thấy bờ và cứ thế chèo trong khoảng bốn mươi lăm phút nữa dưới làn mưa. Một lần nữa, chúng tôi lại nghe thấy tiếng chiếc thuyền máy. Tôi dừng lại và chỉ đi tiếp khi tiếng máy xa dần.

- Chắc mình đang ở trong địa phận của Thụy Sĩ, Cat ạ.

- Thật ư?

- Chúng ta chỉ có thể biết sau khi thấy lính Thụy Sĩ.

- Hoặc hải quân Thụy Sĩ.

- Hải quân Thụy Sĩ không phải chuyện đùa đâu. Chiếc thuyền máy mình nghe thấy lần thứ hai có lẽ là hải quân đấy.

- Nếu đến Thụy Sĩ rồi thì hãy dùng điểm tâm đã. Vì ở Thụy Sĩ người ta có món bơ, mứt và bánh mì ngon đặc biệt.

Trời đã sáng hẳn và sương mù đang nhẹ rơi. Gió vẫn thổi mạnh trên hồ. Chúng tôi có thể nhìn thấy những ngọn sóng sủi bọt trắng khuất dần phía trên hồ. Tôi chắc là chúng tôi hiện đang ở trong phần đất của Thụy Sĩ. Nhiều nhà cửa ẩn hiện sau rặng cây bên bờ hồ, và xa hơn là một ngôi làng với những căn nhà bằng đá, vài tòa biệt thự trên đồi và nhà thờ. Tôi đã cố nhìn lên đường ven bờ để xem có lính tuần không, nhưng chẳng có ai cả. Nhìn theo con đường chạy sát ven hồ, tôi nhìn thấy một anh linh từ trong quán rượu bước ra. Hắn mặc quân phục màu xám xanh và đội mũ sắt giống bọn Đức. Người hắn trông khỏe mạnh và hai mép râu lún phún. Hắn nhìn về phía chúng tôi.

- Vẫy tay cho hắn đi em - Tôi bảo Catherine.

Nàng vẫy tay. Anh lính mỉm cười bối rối rồi cũng vẫy tay lại. Tôi bơi chầm chậm. Chúng tôi bơi qua trước làng.

- Chúng ta đã qua khỏi biên giới nhiều rồi - Tôi bảo.

- Phải thật chắc chắn anh ạ. Đừng để họ dẫn chúng ta về Ý.

- Từ đây trở lại biên giới xa lắm. Theo anh, đây là thành phố thuế quan. Anh chắc đây là Brissago.

- Liệu ở đây có người Ý không? Ở các thành phố thuế quan luôn luôn có mặt người của cả hai nước.

- Ở vào thời chiến thì không như vậy. Anh tin là họ không để cho dân Ý vượt qua biên giới.

Đó là một thành phố nhỏ, dáng dấp tráng lệ. Dọc theo cảng, nhiều ngư thuyền đang trải lưới trên giá. Mưa tháng mười rơi nhẹ nhưng quang cảnh trông có vẻ vui và sạch sẽ dù rằng đang ở dưới cơn mưa.

- Anh có muốn lên đây dùng điểm tâm không?

- Đồng ý.

Tôi bơi mạnh dầm bên trái và đưa thuyền vào sát bờ. Khi đến sát bên, tôi chống thẳng dầm và cho thuyền đậu dài theo bến. Tôi bỏ mái chèo vào khoang thuyền rồi nhảy lên một tảng đá ướt. Tôi đang ở Thụy Sĩ rồi. Tôi buộc thuyền và đưa tay đỡ Catherine.

- Lên nhanh đi em, Catherine. Thật tuyệt vời.

- Thế còn các va ly?

- Cứ để dưới thuyền.

Catherine lên bờ. Chúng tôi đangcùng ở Thụy Sĩ.

- Xứ sở đẹp tuyệt - Nàng khen.

- Thế không thanh lịch sao?

- Chúng ta đi đi.

- Xứ sở không tuyệt à? Anh xúc động khi đặt chân lên mảnh đất này.

- Em bị cóng quá nên không cảm thấy rõ. Nhưng em có cảm giác đây là một địa điểm tráng lệ quá. Anh yêu, anh có nhận thấy rằng anh đang ở đây, ở Thụy Sĩ, đã xa cái xứ sở bẩn thỉu ấy không?

- Có, anh thấy thế, anh thấy rõ ràng thế. Chính hôm nay, lần đầu tiên, anh mới cảm thấy được một đôi điều.

- Anh nhìn mấy ngôi nhà kia. Những ngôi nhà ấy không đẹp à? Kìa, một chỗ ăn điểm tâm.

- Cơn mưa cũng thú vị quá em nhỉ? Ở Ý đâu bao giờ mưa như thế này. Ở đây là cơn mưa vui.

- Và chúng ta đang ở Thụy Sĩ, anh yêu, anh có nhận thấy thế không?

Chúng tôi vào quán cà phê ngồi xuống cạnh một bàn gỗ rất sạch. Chúng tôi điên lên vì vui sướng, lòng cảm thấy lâng lâng. Một bà duyên dáng khoác áo choàng đến hỏi chúng tôi cần gì.

- Cho bánh mì tròn, mứt và cà phê - Catherine bảo.

- Rất tiếc, từ lúc chiến tranh, chúng tôi không có bánh mì tròn.

- Thế thì bánh mì thường cũng được.

- Tôi có thể làm bánh mì nướng phết bơ.

- Cho tôi thêm trứng rán.

- Ông muốn dùng mấy quả ạ?

- Ba.

- Lấy bốn quả đi anh yêu.

- Bốn quả vậy.

Bà ta đi khuất. Tôi hôn Catherine và siết chặt tay nàng trong tay tôi. Chúng tôi nhìn nhau và nhìn khắp cả quán ăn.

- Anh yêu, có nên thơ không anh?

- Phong cảnh ở đây thật là kỳ diệu.

- Có bánh mì tròn đặc biệt hay không em không cần - Catherine nói - Suốt đêm em đã nghĩ đến món đó nhưng bây giờ thì em không cần, hoàn toàn không cần.

- Anh đặt giả thuyết rằng tí nữa họ sẽ bắt chúng ta.

- Anh yêu, đừng bận lòng đến việc ấy. Chúng ta cứ dùng điểm tâm đã. Ăn điểm tâm xong, việc ấy chẳng có gì quan trọng cả. Chúng ta là những kiều dân Anh và Mỹ hợp pháp kia mà.

- À, mà em có giấy thông hành chứ?

- Dĩ nhiên. Thôi đừng bàn đến việc ấy nữa. Hãy tận hưởng hạnh phúc đi đã.

- Anh không thể nào vui được.

Một con mèo xám to, đuôi vểnh lên lại gần bàn ăn và cọ mình vào chân tôi vừa gừ gừ khe khẽ. Tôi cúi xuống để vuốt ve nó. Catherine nhìn tôi mỉm cười sung sướng.

- Cà phê kìa - Nàng nói.

Sau bữa điểm tâm thì họ bắt chúng tôi. Chúng tôi đi dạo trong thành phố một lát rồi mới xuống bến lấy hành lý. Có một người lính đang đứng cạnh chiếc thuyền.

- Thuyền này của ông phải không?

- Phải.

- Thế ông từ đâu đến?

- Từ phía trên hồ này.

- Thế thì xin mời ông đi theo tôi.

- Thế còn hành lý?

- Ông có thể mang theo.

Tôi mang hành lý, còn Catherine đi bên cạnh tôi. Người lính đi theo tôi đến sở thuế quan. Ở đây có một viên trung úy rất gầy và trông có vẻ rất nhà binh hỏi chúng tôi.

- Ông bà thuộc quốc tịch nào?

- Tôi người Mỹ còn bà đây người Anh.

- Xin cho xem thông hành của ông bà.

Tôi trình giấy của tôi ra và Catherine tìm giấy tờ của nàng trong túi xách.

Hắn xem xét giấy tờ một hồi lâu.

- Sao ông bà vào Thụy Sĩ bằng thuyền như thế?

- Vì tôi là một nhà thể thao - Tôi đáp - Bơi thuyền là môn tôi thích nhất. Tôi thường bơi thuyền khi nào tôi có dịp.

- Thế tại sao ông lại đến đây?

- Để dự thể thao mùa đông, chúng tôi là những du khách và chúng tôi muốn chơi những môn thể thao mùa đông.

- Ở đây không có môn thể thao mùa đông.

- Tôi biết vậy. Tôi muốn đi đến nơi nào có tổ chức các môn thể thao mùa đông.

- Ở Ý ông làm gì?

- Tôi đã theo học kiến trúc. Còn cô em họ tôi đây thì theo học về môn mỹ thuật.

- Thế thì tại sao ông lại đi?

- Vì chúng tôi muốn chơi thể thao mùa đông. Với lại cuộc chiến tranh này chúng tôi không thể nào tiếp tục theo học được nữa.

- Xin ông vui lòng ở đây - Viên trung úy nói.

Hắn quay vào, cầm theo giấy tờ của chúng tôi.

- Anh cừ lắm anh yêu. Cứ tiếp tục như thế. Anh thích chơi thể thao mùa đông.

- Còn em, em biết gì về mỹ thuật không?

- Em biết Rubens - Catherine đáp.

- To và béo - Tôi thêm.

- Em biết Titian nữa.

- Tóc vàng hoe... Titian tóc hoe. Thế còn Mantegua?

- Đừng hỏi em mấy câu khó. Tuy nhiên em cũng biết về ông ấy. Rất dữ dội. Anh xem, em sẽ là một người vợ quý. Em có thể bàn luận về mỹ thuật với mấy ông khách của anh mà.

- Kìa, hắn đã trở lại - Tôi nói.

Viên trung úy cao gầy đi qua sở thuế quan, tay cầm các giấy tờ thông hành của chúng tôi.

- Tôi phải đưa ông bà đến Locarno - Ông ta nói - Ông bà có thể đi xe ngựa, một người lính đi cùng với ông bà.

- Được rồi, thế còn chiếc thuyền? - Tôi hỏi.

- Chiếc thuyền sẽ bị tịch thu. Ông bà có gì trong va ly?

Hắn xem hai va ly và tịch thu chai rượu mạnh.

- Ông có thích chúng ta cùng uống không? - Tôi hỏi.

- Không, xin cám ơn - Hắn ta đứng lên - Ông có bao nhiêu tiền?

- Hai ngàn rưởi lia.

Hắn rất ngạc nhiên.

- Thế còn cô em họ của ông có độ bao nhiêu?

Catherine có khoảng hơn một ngàn hai trăm lia. Viên trung úy tỏ vẻ hài lòng. Thái độ của hắn bớt hống hách.

- Nếu ông muốn dự thể thao mùa đông thì hãy đến Wengen. Wengen là địa điểm duy nhất. Cha tôi có một khách sạn ở Wengen, khách sạn ấy mở cửa quanh năm.

- Thế thì còn gì bằng. Ông có thể cho tôi địa chỉ được không?

- Tôi sẽ viết lên danh thiếp.

Hắn lễ phép trao cho tôi tấm danh thiếp.

- Lính sẽ đưa ông bà đến Locarno, hắn sẽ giữ các giấy tờ của ông, tôi rất tiếc nhưng đó là điều cần thiết. Tôi hy vọng họ sẽ cấp cho ông giấy quá cảnh hay giấy nghỉ phép ở Locarno.

Hắn trao giấy tờ của chúng tôi cho người lính. Chúng tôi mang hành lý và đi vào thành phố để gọi một cỗ xe ngựa. Viên trung úy nói gì với tên lính bằng thổ ngữ Đức. Người lính đeo súng sau lưng và xách cái va ly.

- Thật là một nước tế nhị - Tôi nói với Catherine.

- Và rất thực tế nữa.

- Cám ơn trung úy nhiều lắm - Tôi nói với viên trung úy.

Ông ta vẫy tay. Chúng tôi đi theo người lính vào thành phố.

Chúng tôi đi xe ngựa đến Locarno. Người lính ngồi đàng trước với người đánh xe. Ở Locarno mọi việc diễn ra tốt đẹp. Người ta hỏi chúng tôi nhưng họ rất lễ độ vì chúng tôi có giấy tờ và tiền bạc. Tôi không nghĩ là họ tin câu chuyện tôi bịa đặt và chính tôi cũng thấy chuyện đó ngớ ngẩn. Nhưng cũng gần giống như ở tòa án, người ta không ngạc nhiên nếu các lời khai hợp lý, miễn là chúng đúng kỹ thuật và người ta có thể dựa vào đó mà nói không cần giải thích gì cả. Chúng tôi có giấy thông hành và tiền tiêu xài, phải chăng vì vậy họ cấp cho chúng tôi giấy quá cảnh tạm thời. Giấy có thể bị thu hồi vào bất cứ lúc nào. Ở tất cả các nơi chúng tôi đi, chúng tôi phải trình cảnh sát nữa.

Liệu chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào mà chúng tôi muốn không? Được. Nhưng đi đâu bây giờ?

- Em muốn đi đâu hả Catherine?

- Em muốn đến Montreux.

- Đó là một nơi rất dễ chịu - Một nhân viên nói - Tôi tin là ông bà sẽ thích nơi ấy.

- Ở Locarno này cũng rất dễ chịu - Một nhân viên khác nói - Tôi chắc rằng ông cũng sẽ rất thích Locarno này chứ? Locarno là một thành phố rất đẹp.

- Chúng tôi tìm nơi có thể chơi thể thao mùa đông.

- Ở Montreux thì không có.

- Xin lỗi anh - Nhân viên kia nói - Tôi từ Montreux đến đây. Người ta chơi thể thao trên đường Montreux Orbeland Beraois. Ông không thể nói nơi khác được.

- Tôi không nói nơi khác. Tôi chỉ nói rằng ở Montreux không tổ chức thể thao mùa đông mà thôi.

- Tôi ngờ điều khẳng định đó.

- Riêng tôi, tôi tin điều khẳng định đó. Tôi vẫn nói lời khẳng định đó. Chúng tôi cũng đã từng đi xe trượt tuyết trên đường phố Montreux. Không phải một lần mà là nhiều lần. Đi xe trượt tuyết cũng là một môn thể thao mùa đông chứ gì nữa.

Nhân viên thứ hai quay sang tôi :

- Theo ý ông, đi xe trượt tuyết có phải là một môn thể thao mùa đông không? Tôi xin cam đoan với ông rằng ông sẽ thấy vô cùng cần thiết ở lại Locarno này. Rồi ông sẽ thấy khí hậu ở đây rất lành mạnh và những vùng lân cận rất dễ chịu. Rồi ông sẽ thấy thích thú.

- Ông đây đã tỏ ý ước ao đi Montreux mà.

- Đi xe trượt tuyết là như thế nào? - Tôi hỏi.

- Thấy chưa, ông đây chưa bao giờ nghe nói đến xe trượt tuyết.

Điều đó rất quan trọng đối với nhân viên thứ hai, ông ta tỏ ra rất hài lòng.

- Xe trượt tuyết cũng giống như xe trượt thấp- Người thứ nhất nói.

Nhân viên kia lắc đầu.

- Hãy cho phép tôi. Tôi xin được nói lại. Xe trượt thấp rất khác xe trượt tuyết. Xe trượt thấp được chế tạo bởi những thanh gỗ mỏng ở Canada, xe trượt tuyết là một xe trượt bình thường được đặt trên bánh trượt. Đó là một điều chính xác.

Nhân viên thứ hai hỏi?

- Ở đây ông sẽ ở đâu?

- Chúng tôi không biết, chúng tôi vừa mới từ Brissago tới. Cỗ xe ngựa còn đậu ngoài cổng kia - Tôi đáp.

Nhân viên thứ hai nói :

- Ông đến Montreux là có lý. Ở đó ông sẽ thấy khí hậu tốt, dễ chịu và thể thao mùa đông sẽ ngay bên cạnh.

Nhân viên thứ nhất nói :

- Nếu thật tình ông muốn tham gia thể thao mùa đông, thì ông nên đến Endagine hay Murren. Tôi thấy có nhiệm vụ phải phản đối lời khuyên đi Montreux để tham dự các cuộc thể thao mùa đông.

- Ở tại Les Avants phía trên vùng Montreux có đủ môn thể thao dành cho mùa đông - Anh chàng thuyết phục tôi đi Montreux nhìn xoáy vào anh bạn đồng nghiệp.

- Thưa các ông, tôi phải đi đây. Cô em họ tôi mệt lắm rồi. Tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ thử đi Montreux xem sao - Tôi nói.

- Tôi khen ngợi ông - Ông nhân viên thứ nhất bắt tay tôi.

- Tôi tin rằng ông sẽ tiếc khi rời khỏi Locarno - Nhân viên thứ hai nói - Dù sao khi đến Montreux ông hãy nhớ trình giấy tờ cho cảnh sát.

- Không có gì phiền nhiễu với cảnh sát đâu - Nhân viên thứ nhất trấn an tôi - Rồi ông sẽ thấy dân chúng ở đây vô cùng lịch thiệp và hiếu khách.

- Xin cám ơn cả hai ông. Chúng tôi sẽ nhớ đến lời khuyên của cả hai ông.

- Chào các ông, xin cám ơn nhiều - Catherine nói.

Họ cúi đầu chào, tiễn chúng tôi ra đến cửa. Anh chàng ca ngợi Locarno có vẻ hơi lạnh lùng. Chúng tôi bước xuống bậc thềm và lên xe ngựa.

- Trời ơi anh yêu, chúng ta không thể đi sớm hơn sao? - Catherine hỏi.

Tôi nói với người đánh xe ngựa tên khách sạn mà người sĩ quan giới thiệu khi nãy. Hắn nắm lấy dây cương.

- Anh đã quên quân đội rồi - Catherine nói.

Tên lính đứng cạnh cỗ xe, tôi biếu hắn mười đồng lia và bảo :

- Tôi chưa có tiền Thụy Sĩ.

Hắn cám ơn tôi, đưa tay chào rồi đi khuất. Chiếc xe chuyển bánh đưa chúng tôi đến khách sạn.

- Tại sao em lại chọn Montreux? - Tôi hỏi Catherine - Có thật em thích đến đó không?

- Montreux là nơi đầu tiên mà em nghĩ đến - Nàng đáp - Chỗ đó không chán đâu. Mình có thể tìm được một chỗ ở trên núi.

- Em có buồn ngủ không?

- Em đang buồn ngủ đây.

- Chúng ta sắp được ngủ ngon. Tội nghiệp Catherine, em đã trải qua một đêm thật tồi tệ.

- Đêm hôm qua là một đêm thú vị đấy chứ. Nhất là lúc anh giương cây dù lên làm buồm - Catherine đáp.

- Em có tin là chúng ta đang ở Thụy Sĩ không?

- Không, em sợ khi thức giấc sẽ thấy đây không phải là sự thật.

- Anh cũng vậy.

- Thực thế phải không, anh yêu? Đây không phải giống như lúc em tiễn anh ra ga Milan để thấy anh đi xa chứ?

- Anh hy vọng không phải như vậy.

- Đừng nói thế làm em sợ. Có thể đây là nơi chúng ta mong đi đến.

- Anh mệt nhoài đến mức không biết nữa.

- Đưa tay đây em xem nào.

Tôi đưa tay ra, thịt đỏ ửng.

- Anh không có thần thánh hỗ trợ bên mình.

- Đừng nói phạm thượng thế.

Tôi rất mệt và đầu óc trống rỗng. Mọi sự phấn chấn đã tan biến. Bánh xe vẫn lăn đều trên đường cái.

- Những bàn tay tội nghiệp - Catherine nói.

- Đừng sờ vào nó. Trời ơi, anh không biết mình đang ở đâu đây. Này bác đánh xe, chúng ta đang đi đây vậy?

Anh đánh xe ngựa cho xe dừng lại và nói :

- Đến khách sạn Métropole. Không phải đó là nơi ông muốn đến à?

- Đúng - Tôi nói - được chứ Catherine?

- Vâng anh yêu ạ. Đừng bực dọc nữa. Chúng ta sắp được ngủ ngon và sáng mai anh không còn thấy mệt mỏi nữa.

- Anh có cảm giác như say rượu. Hôm nay thật giống như là hài kịch. Có lẽ bây giờ anh cảm thấy đói.

- Anh chỉ mệt tí thôi, anh ạ. Rồi nó sẽ qua.

Chiếc xe ngựa dừng lại trước khách sạn. Một người ra mang hành lý của chúng tôi vào.

- Anh cảm thấy dễ chịu rồi - Tôi nói.

Chúng tôi bước xuống lề đường trước khách sạn.

- Em chắc là nó sắp qua. Anh chỉ mệt thôi. Anh phải đứng lâu quá mà.

- Dù sao điều chắc chắn là chúng ta đã đến nơi rồi.

- Vâng, thực chúng ta đã đến nơi rồi vậy.

Chúng tôi đi theo anh bồi xách hành lý vào khách sạn.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 38

Năm ấy tuyết rơi rất muộn. Chúng tôi ở trong một ngôi nhà bằng gỗ nâu, giữa rặng thông, trên sườn núi. Ban đêm trời giá lạnh, và sáng nào nước để trong hai chiếc bình trên tủ con cũng đóng một lớp băng mo?ng. Sáng sớm bà Guttingen vào phòng khép cửa sổ và nhóm lửa chiếc lò sưởi lớn bằng sứ. Trong lò, củi thông nổ lách tách và bắn ra những tia lửa, ngọn lửa reo ầm ĩ và bà Guttingen vào phòng lần nữa, mang theo mấy gốc củi lớn để đốt và một bình nước nóng. Khi căn phòng đã ấm áp, bà dọn bữa điểm tâm. Ngồi trên giường vừa ăn, chúng tôi vừa có thể ngắm hồ núi phía bên kia thuộc về Pháp. Đỉnh núi phủ tuyết và hồ xám xanh màu thép.

Bên ngoài, ở trước nhà là một con đường dốc chạy lên núi. Vì trời đông giá, những dấu xe và ổ gà trên đường rắn như sắt. Con đường xuyên thẳng qua rừng, vòng qua núi, dẫn tới nơi có đồng cỏ và vựa lúa, có những túp lều dựng trên cánh đồng ven rừng, trên thung lũng. Lòng thung lũng rất sâu, dưới đáy một dòng nước chảy vào hồ, và mỗi khi một ngọn gió thổi qua, người ta lại nghe thấy tiếng nước chảy róc rách trên đá.

Thỉnh thoảng chúng tôi rời đường cái để đi theo đường nhỏ qua những rặng thông. Đất rừng mềm đi rất êm chân. Băng giá không làm cho nó cứng như trên đường nhựa. Nhưng chúng tôi cũng không ngại đường trơn cứng vì đế giày của chúng tôi có đóng đinh.

Phía trước ngôi nhà của chúng tôi ở là ngọn núi dốc thẳng xuống cánh đồng bằng nho nhỏ ven hồ, ngồi trước đầu hồi nhà dưới nắng, chúng tôi thấy con đường ngoằn ngoèo trên sườn núi, những vườn nho trên ngọn núi thấp nhất với những dây nho đã héo khô vì trời lạnh, những bức tường đá ngăn cánh đồng, và dưới chân dàn nho là những mái nhà trong tỉnh cất trên những cánh đồng nhỏ hẹp ven hồ. Giữa hồ có một hòn đảo nhỏ với hai thân cây trông giống như hai cánh buồm của một chiếc thuyền câu. Phía bên kia hồ núi non lởm chởm, cuối hồ là thung lũng sông Rhône, ép mình giữa hai dãy núi. Từ thung lũng đi ngược lên đến vùng núi non có ngọn Dent du Midi. Đó là một ngọn núi cao tuyết phủ sừng sững bên thung lũng nhưng vì ngọn núi cách khá xa nên không có bóng.

Khi trời nắng gắt, chúng tôi ăn điểm tâm ở đầu hồi, còn những khi khác chúng tôi ăn trên lầu, trong một căn phòng nhỏ, vách ván, với một lò sưởi lớn ở góc phòng. Chúng tôi mua tạp chí sách báo ở tỉnh, một quyển Hoyle và chúng tôi tập chơi rất nhiều lối đánh bài lá tay đôi. Có hai chiếc ghế và một bàn để sách báo, chúng tôi chơi đánh bài ở bàn ăn, khi đã được dọn sạch. Ông bà Guttingen thì ở tầng dưới và đôi lúc chúng tôi nghe họ trò chuyện vào lúc chiều họ sống với nhau trông rất hạnh phúc. Trước kia ông Guttingen đã từng là đầu bếp và bà vợ là cô hầu gái cùng trong một khách sạn. Cả hai vợ chồng đã dành dụm và mua được ngôi nhà này. Đứa con trai của ông bà Guttingen cũng đang tập sự nghề nấu bếp trong một khách sạn ở Zurich.

Ở tầng dưới có một căn phòng nơi đó hai ông bà bán rượu vang và bia, thỉnh thoảng vào buổi chiều, chúng tôi nghe tiếng xe ngựa dừng lại bên đường và nhiều người đánh xe lên bậc thang vào phòng để uống một ly rượu vang.

Trong hành lang, gần cửa phòng khách có một thùng để chứa củi, dành cho tôi nhóm lửa. Nhưng chúng tôi không bao giờ thức khuya. Khi ngủ, chúng tôi tắt đèn trong căn phòng rộng lớn, cởi đồ xong, tôi mở cửa sổ và trong thấy bóng đêm, những vì sao lạnh cùng những ngọn thông dưới cánh cửa sổ rồi vội vã bước vào giường. Thật là thích thú được ngủ trong giường ấm trong khi ngoài song cửa màn đêm buông xuống với khí trời lạnh lẽo và trong lành. Chúng tôi ngủ rất say sưa, và nếu tôi có giật mình tỉnh giấc giữa đêm khuya là tôi hiểu ngay nguyên nhân độc nhất, và nhẹ nhàng kép đắp lại chiếc mền bông để khỏi đánh thức Catherine, rồi tôi ngủ lại trong chiếc mền nhẹ và ấm êm ấy. Lúc đó đối với tôi chiến tranh dường như quá xa vời như đối với những trận bóng dã cầu trong một trường học thưở nào. Nhưng tôi được biết qua báo chí chiến tranh vẫn còn đang tiếp diễn trong núi vì chưa đến mùa tuyết.

Đôi khi chúng tôi đi bộ xuống đến tận Montreux. Có một con đường mòn đi xuống chân núi nhưng lại rất dốc. Vì thế chúng tôi thường theo con đường cái vừa rộng vừa chắc chắn ấy. Chúng tôi đi bộ giữa những cánh đồng, rồi xuống đến giữa những dãy nhà bên ven lộ. Có ba làng: Cherneux, Fontavinent, và một làng nữa mà tôi quên mất tên. Tiếp tục con đường chúng tôi đi ngang qua một tòa lâu đài cổ bằng đá dựng trên sườn núi với những trái nho khô màu nâu, với mặt đất sẵn sàng chờ tuyết phủ, và phía dưới là mặt hồ phẳng lặng sáng màu xám thép. Qua khỏi lâu đài, con đường dốc rẽ về bên tay mặt và cuối cùng dẫn tới Montreux sau một quãng dốc lởm chởm những đá sỏi.

Chúng tôi không quen ai ở Montreux cả. Chúng tôi đi dọc theo bờ hồ ngắm đàn thiên nga, bầy hải âu và hải yến. Khi chúng tôi đến gần thì chúng bay vụt đi và cất tiếng kêu khi nhìn xuống nước. Xa xa giữa hồ, từng đàn chim cộc đen và nhỏ rẽ nước lội tung tăng. Chúng tôi đi theo đại lộ trong thành phố ngắm nhìn tủ kính của những cửa hàng. Nhiều khách sạn lớn đã đóng cửa nhưng phần nhiều những cửa hàng đều mở và họ vui mừng trông thấy chúng tôi. Một hôm Catherine vào một phòng uốn tóc sang trọng để sửa tóc. Nữ chủ nhân là người vui tính và là người duy nhất chúng tôi quen biết ở Montreux. Tôi đến một quán rượu vừa uống bia đen Munich vừa đọc báo để chờ Catherine. Tôi đọc tờ Correre della Serra và những tờ báo Anh-Mỹ ở Paris. Tất cả những mục quảng cáo đều bị bôi bỏ, hẳn là đề ngăn ngừa liên lạc với quân địch. Báo chí chẳng có gì đáng đọc. Tất cả diễn ra quá xấu. Tôi ngồi trong một góc với một ly bia lớn, một túi lớn hạt dẻ, tôi thích ăn hạt dẻ vì có muối mặn và nó làm tăng hương vị của rượu bia. Vừa ăn tôi vừa đọc tin tức về những thảm họa chiến tranh. Đợi mãi Catherine vẫn chưa đến, tôi trả lại tờ báo vào chỗ cũ, trả tiền bia và đi tìm nàng. Hôm ấy trời lạnh, âm u và phủ đầy sương mù. Cho đến đá ở những ngôi nhà cũng phủ đầy sương ướt lạnh. Catherine đang ở trong tiệm, một bà đang uốn tóc cho nàng. Tôi ngồi trong phòng và ngắm nhìn. Catherine mỉm cười và trò chuyện với tôi, tôi phấn chấn đến mức lạc cả giọng. Mấy cây kẹp tóc chạm vào nhau tạo thành tiếng kêu lách cách êm tai, và tôi nhìn thấy Catherine trong ba chiếc gương. Trong phòng thật là ấm áp dễ chịu. Sau cùng khi bà uốn tóc làm xong cho nàng, Catherine ngắm trong gương, thấy một số đổi thay, sửa vài cái kẹp tóc.

Cuối cùng nàng đứng dậy :

- Em rất tiếc đã để cho anh phải chờ lâu quá.

Người uốn tóc cười hỏi :

- Hẳn là ông cũng vui thích lắm, phải không ạ?

- Vâng - Tôi đáp.

Chúng tôi bước ra đường phố. Trời lạnh, có sương mù và gió thổi.

- Ồ em yêu, anh yêu em quá - Tôi nói.

- Chúng ta hạnh phúc quá anh nhỉ. Này, thay vì uống trà, chúng ta đi uống bia đi, có lợi cho bé Catherine hơn, như thế sẽ làm cho con mình thon người lại.

- Con bé Catherine à? Con bé ấy lười biếng tệ.

- Nó ngoan lắm. Nó không chòi đạp gì nhiều đâu. Em hơi cảm thấy thế. Bác sĩ bảo là bia có lợi cho em và giữ cho con bé thon người lại.

- Nếu em giữ cho con thon người và nếu nó là con trai thì nó có thể trở thành một tên đua ngựa đấy.

- Chắc rồi chúng ta cũng phải làm đám cưới sau khi sinh nó.

Chúng tôi đang ở quán bán rượu bia, bên một chiếc bàn ở góc phòng. Bên ngoài trời đã bắt đầu sập tối. Tuy còn sớm nhưng trời âm u và đêm tới rất nhanh.

- Chúng ta hãy làm đám cưới ngay lúc này đi - Tôi nói.

- Không, lúc này thì bất tiện lắm. Cái đó lộ liễu quá. Em không muốn làm đám cưới trong tình trạng như thế này.

- Lẽ ra chúng ta phải làm phép cưới sớm hơn.

- Hẳn là như vậy rồi. Chừng nào chúng ta làm được hả anh yêu?

- Anh cũng không biết nữa.

- Dù sao theo em thì chắc một điều là em không muốn cưới chừng nào còn dáng điệu bệ vệ như thế này.

- Em chưa lấy gì làm bệ vệ cho lắm.

- Có chứ anh yêu. Bà thợ uốn tóc hỏi em có phải là con so không. Em nói dối rằng không, em bảo rằng chúng ta đã có hai trai và hai gái.

- Thế chừng nào chúng ta làm lễ cưới?

- Khi nào em suôn sẻ trở lại. Đám cưới chúng mình phải long trọng và mọi người đều trầm trồ “thật là xứng đôi”.

- Nhưng em không thấy buồn vì chưa cưới ư?

- Không, anh yêu ạ, tại sao em lại thấy phiền? Chỉ có một lần em hơi khó chịu là ở Milan, khi ấy em có cảm giác là mình không đứng đắn, nhưng điều đó chỉ kéo dài độ dăm bảy phút thôi. Em chẳng phải là người vợ hiền của anh sao?

- Em đúng là người vợ đáng yêu.

- Vậy thì anh đừng nguyên tắc quá anh yêu. Em sẽ lấy anh khi em suôn sẻ trở lại.

- Đồng ý.

- Em uống một ly bia được chứ? Bác sĩ bảo là hông của em hơi hẹp và bé Catherine càng thon người càng tốt.

- Ông ta còn nói gì nữa không? (tôi hơi lo lắng).

- Không, huyết áp của em rất tốt, anh yêu ạ. Bác sĩ khen ngợi lắm đấy.

- Thế ông ta nghĩ sao về chỗ hông hơi hẹp của em?

- Không, không khuyên gì cả. Ông ta chỉ bảo em đừng chơi trượt tuyết.

- Ông ta nói phải đấy.

- Ông ta bảo nếu đến bây giờ mới chơi thì hơi muộn. Ông cũng nói nếu em muốn chơi thì cũng được nhưng chắc chắn đừng để bị ngã.

- Đúng là một ông đùa dai vui tính.

- Ông ta thật đáng mến. Khi sinh con, chúng ta sẽ mời ông ta tới.

- Em có hỏi ông ta xem em có nên làm lễ cưới hay không?

- Không, em nói với ông ta rằng chúng mình đã lấy nhau từ bốn năm nay rồi. Anh yêu, anh biết không, nếu em thành hôn với anh, em sẽ trở thành công dân Hoa Kỳ và con chúng ta sẽ được là con chính thức.

- Em học được điều đó ở đâu vậy?

- Trong quyển Nữu Ước thế giới niên lịch trong thư viện.

- Em giỏi thật.

- Chúng ta sẽ sang Mỹ, phải không anh yêu? Em muốn được ngắm thác Niagara.

- Em thật đáng yêu quá.

- Em còn muốn xem một chỗ nữa mà em quên mất tên rồi.

- Lò sát sinh chăng?

- Không, em quên mất tên rồi.

- Tòa nhà Woolworth chăng?

- Không.

- Hay Grand Caynon?

- Không, những chỗ ấy em cũng thích xem nữa.

- Thế thì là cái gì nhỉ?

- À, em nhớ ra rồi. Golden Gate. Phải, chính nó đấy. Golden Gate ở đâu anh nhỉ?

- Ở San Francisco.

- À, thế thì mình sẽ tới đó.

- Bây giờ mình đi chơi núi đã, em nhé. Không biết mình có đi kịp chuyến M.O.B. không?

- Có một chuyến xe lửa vào khoảng hơn năm giờ.

- Chúng ta lấy vé đi.

- Tuỳ anh, nhưng em muốn uống thêm một ly bia nữa.

Khi chúng tôi bước ra ngoài phố, lên bậc thang nhà ga thì trời lạnh ngắt. Ngọn gió rét căm căm từ thung lũng sông Rhone thổi lại. Đèn các cửa tiệm đã bật sáng, và chúng tôi bước lên những bậc đá dốc để lên phố trên, rồi lại lên những nấc thang đá khác. Chúng tôi đến nhà ga. Chiêc xe điện bật đèn sáng trưng đã chờ sẵn. Có một đồng hồ chỉ giờ khởi hành, kim chỉ năm giờ mười. Tôi nhìn đồng hồ nhà ga, đã năm giờ năm. Lúc chúng tôi bước lên toa xe, tôi thấy anh thợ máy và anh kiểm soát bước từ một quán rượu đi ra. Chúng tôi ngồi và hạ cửa kính xuống. Toa xe được sưởi bằng điện và không khí trong xe hơi khó thở. Nhưng khí mát từ cửa sổ tràn vào.

- Em có mệt không, Catherine?

- Không, em khỏe khoắn lắm.

- Đường đi không xa đâu.

- Không, em thích đi mà. Đừng lo cho em, anh yêu. Em rất khoẻ.

* * * * *

Ba ngày trước lễ Giáng sinh mới thấy tuyết rơi. Một buổi sáng chúng tôi thức dậy và thấy tuyết. Chúng tôi nằm trong giường và nhìn tuyết rơi, lửa reo lên trong lò sưởi. Bà Guttingen bưng khay thức ăn sáng và thêm củi vào lò. Đó là một trận bão tuyết lớn. Tôi đến bên cửa sổ và nhìn ra ngoài nhưng không thấy gì phía bên kia đường cả. Gió lộng và tuyết xoay tròn. Tôi trở vào giường nằm và chúng tôi cùng nhau trò chuyện :

- Em thích được chơi trượt tuyết. Không chơi trượt tuyết được thật là chán - Catherine nói.

- Chúng mình sẽ dùng xe trượt tuyết để đi trên đường như vậy đối với em cũng không thua gì xe thường.

- Như vậy e có xóc quá chăng?

- Để coi.

- Em ước gì nó đừng xóc quá.

- Lát nữa chúng ta sẽ đi dạo trên tuyết.

- Trước bữa ăn, như thế nó sẽ làm cho mình ăn ngon - Catherine bảo.

- Anh thì lúc nào cũng thấy đói.

- Em cũng vậy.

Chúng tôi đi ra trong tuyết, nhưng vì tuyết rơi quá dày cho nên không đi xa được. Tôi đi trước mở một con đường tới nhà ga. Khi tới đó chúng tôi thấy không muốn đi xa hơn nữa. Tuyết càng rơi dày đặc khiến chúng tôi chỉ thấy cảnh vật lờ mờ, và chúng tôi bước vào một quán nhỏ gần nhà ga. Chúng tôi dùng bàn chải lông để phủi tuyết cho nhau và ngồi xuống ghế cùng uống rượu Vermouth.

- Bão lớn thật - Cô hầu bàn nói.

- Vâng.

- Năm nay tuyết rơi muộn quá.

- Phải.

- Em có thể ăn một thanh kẹo sô cô la được không? Hay là gần tới giờ ăn rồi? Em luôn luôn cảm thấy đói.

- Được chứ, em cứ ăn đi - Tôi bảo.

- Em muốn ăn thứ có nhân hạt dẻ - Catherine nói.

- Sô cô la nhân hạt dẻ ngon lắm. Đó là thứ mà tôi thích nhất - Cô hầu bàn phụ họa.

- Anh thì sẽ uống thêm một ly Vermouth nữa - Tôi nói.

Khi chúng tôi quay lại con đường nhỏ lúc nãy, nó đã phủ đầy tuyết. Chỉ có những vết lún nhẹ ở chỗ tôi đã khoét. Tuyết va vào mặt khiến chúng tôi chỉ thấy lờ mờ. Chúng tôi phủi tuyết rồi ngồi vào bàn. Ông Guttingen dọn bữa cho chúng tôi rồi nói :

- Ngày mai chơi trượt tuyết được rồi đấy, thưa ông Henry, ông có chơi trượt tuyết không ạ?

- Không, nhưng tôi muốn tập.

- Ông tập rất dễ. Con trai tôi sẽ về đây dự lễ Giáng Sinh, để rồi nó sẽ hướng dẫn cho ông.

- Ồ tốt lắm, chừng nào cậu ấy về?

- Tối mai ạ.

Sau bữa ăn, trong khi chúng tôi ngồi trong căn phòng nhỏ bên lò sưởi, mải mê nhìn qua cửa sổ cảnh tuyết rơi, Catherine nói :

- Anh có thích đi dạo đâu đây một mình với những người trượt tuyết không, anh yêu?

- Không. Mà tại sao anh chỉ đi một mình thôi vậy?

- Em nghĩ rằng thỉnh thoảng chắc anh cũng thích gặp người khác.

- Còn em, em có muốn gặp ai khác không?

- Không.

- Thì anh cũng vậy.

- Em vẫn biết vậy, nhưng với anh thì khác. Riêng em, vì em sắp có con cho nên em không thiết gì khác nữa. Em biết rằng lúc này em thật là bồn chồn ngớ nhẩn và nói hơi nhiều nên em tưởng anh cần đi ra ngoài để khỏi mệt vì em.

- Em muốn anh đi biệt hay sao?

- Không, em muốn anh ở lại.

- Thì chính anh cũng muốn như vậy.

- Lại đây anh, em muốn rờ cục bướu trên đầu anh, nó lớn thật - Nàng xoa nhẹ cục bướu - Anh yêu ơi, anh không thích để râu à?

- Em có thích không?

- Chắc là ngộ lắm nhỉ? Em thích nhìn thấy anh để râu.

- Được rồi, anh sẽ để râu, bắt đầu ngay bây giờ. Ý kiến hay đấy, như vậy anh có việc để làm.

- Không làm gì chắc anh thấy buồn bực lắm phải không?

- Không, anh thích thế. Anh đang sống một cuộc đời kỳ diệu. Còn em?

- Em đang sống thơ mộng. Nhưng em cứ lo rằng em đang bụng mang dạ chửa sẽ làm anh buồn bực.

- Ồ Catherine, em không biết rằng tình anh đối với em say sưa đắm đuối như thế nào sao?

- Cả những lúc em như thế này nữa à?

- Hoàn toàn đúng. Cả lúc em như thế này. Anh rất hạnh phúc. Chúng ta chẳng đang sống một cuộc sống tươi đẹp hay sao?

- Em thì có, nhưng em nghĩ rằng anh muốn có đôi chút thay đổi.

- Không. Đôi khi anh nghĩ đến chiến trường và các chiến hữu. nhưng điều đó không làm anh bận trí. Ngoài ra anh chẳng còn nghĩ đến điều gì khác nữa.

- Anh nghĩ nhớ tới ai?

- Anh nghĩ tới Rinaldi, nhớ tới cha tuyên úy và hàng loạt người quen biết. Nhưng anh không để tâm đến họ nhiều. Anh không muốn nhớ tới chiến tranh nữa. Với anh, chiến tranh đã chấm dứt rồi.

- Thế bây giờ anh đang nghĩ gì?

- Chẳng nghĩ tới gì cả. Nhìn kìa em, tuyết rơi nhiều quá.

- Em thích nhìn anh hơn. Anh yêu ơi, sao anh không để tóc dài?

- Tại sao lại thế?

- Vâng, để tóc dài thêm một tí nữa.

- Anh thấy tóc anh cũng khá dài rồi.

- Không, anh hãy để dài thêm tí nữa, còn em, em sẽ cắt tóc ngắn, như thế tụi mình sẽ giống nhau, chỉ khác là em thì vàng nhạt còn anh thì màu đen.

- Anh không để em cắt tóc ngắn đâu.

- Như thế chắc ngộ lắm. Em mệt với nó lắm. Ban đêm đi ngủ hay vướng quá.

- Nhưng anh lại yêu mái tóc ấy.

- Thế anh không thích em cắt tóc ngắn à?

- Cũng thích, nhưng anh lại thích chúng như thế này.

- Tóc ngắn chắc đẹp lắm. Chúng mình sẽ giống hệt nhau. Chao ôi anh yêu quý, em yêu anh biết bao! Yêu đến nỗi em muốn rằng anh và em là một.

- Thì hẳn như vậy rồi, chúng ta tuy hai mà một.

- Em biết... ban đêm thì như vậy.

- Ban đêm thật tuyệt.

- Em muốn rằng chúng ta hòa hợp lẫn nhau. Em không muốn cho anh đi đâu cả. Nói vậy thôi anh muốn đi đâu thì đi, có điều nhớ mau mau quay về, vì anh yêu, đối với em, cuộc sống sẽ vô nghĩa nếu em thiếu anh.

- Anh sẽ không bao giờ đi đâu cả - Tôi nói - Anh không làm gì được cả nếu không có em ở bên cạnh. Bây giờ anh không còn có cuộc sống riêng nữa.

- Em muốn anh có cuộc sống riêng của anh. Em muốn anh có cuộc sống tươi đẹp. Chúng ta sẽ cùng chung sống một cuộc đời tươi đẹp, anh nhỉ?

- Thế bây giờ em có thích anh để râu không?

- Vâng, anh để cho nó mọc. Như vậy sẽ vui lắm. Nó sẽ mọc mừng ngày đầu năm.

- Em có muốn đánh cờ không?

- Em lại muốn chúng mình đùa với nhau hơh.

- Không, đánh cờ đi.

- Rồi sau đó chúng mình đùa với nhau nhé?

- Được rồi.

- Tốt lắm.

Tôi bày bàn cờ ra. Bên ngoài tuyết vẫn rơi nhiều.

* * * * *

Một đêm tôi thức giấc và biết rằng Catherine cũng đang thức. Ánh trăng rọi qua cửa sổ in bóng những chấn song cửa trên giường.

- Anh thức đấy ư anh yêu của em?

- Ừ, em không ngủ được à?

- Em vừa thức giấc và nhớ lại cái hôm đầu tiên em gặp anh, em thật là điên. Anh nhớ chứ?

- Phải, hôm đó em hơi điên một tí thôi.

- Em sẽ không bao giờ như thế nữa.

- Bây giờ em đàng hoàng rồi.

- Anh nói tiếng “đàng hoàng” nghe đáng yêu quá. Anh nói tiếng “đàng hoàng” nữa đi anh.

- Đàng hoàng.

- Ỗ, người yêu lý tưởng của em. Bây giờ em không điên nữa đâu. Em chỉ thấy rất rất hạnh phúc.

- Thế thì em ngủ lại đi - Tôi nói.

- Vâng, chúng mình sẽ ngủ lại cùng một lúc với nhau nhé?

- Được rồi.

Nhưng chúng tôi cũng không ngủ được. Tôi trằn trọc mãi vì nghĩ ngợi liên miên và cũng thích ngắm nhìn Catherine đang ngủ trong ánh trăng. Cuối cùng tôi cũng thiếp đi.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 39

Đến giữa tháng giêng thì tôi có một bộ râu. Mùa đông chỉ còn lại là một chuỗi ngày trong sáng lạnh lẽo và những đêm băng giá. Chúng tôi vẫn có thể đi dạo chơi trên đường. Những chiếc xe trượt tuyết chở cỏ khô, củi và gốc cây, xuôi ngược từ miền núi xuống đã khiến cho mặt tuyết nhẵn bóng và cứng. Tuyết phủ khắp đồng quê đến tận Montreux. Phía bên kia hồ là một dãy núi toàn màu trắng và cánh đồng trong thung lũng sông Rhône cũng phủ đầy tuyết. Chúng tôi thường dạo chơi rất xa, qua tận bên kia dãy núi thuộc vùng Brains de l’Alliaz. Catherine đi giày có đế sắt, mặc áo choàng và chống một cây gậy có đầu nhọn bịt thép. Khóac chiếc áo choàng, bụng nàng trông không có vẻ lớn lắm. Chúng tôi đi thong thả, và khi nàng mệt, chúng tôi dừng lại, ngồi nghỉ chân trên những thân cây bên vệ đường.

Trong khu rừng ở Bains de l’Alliaz có một quán trọ mà mấy bác tiều phu thường ghé lại uống rượu. Chúng tôi thường ghé lại quán, ngồi sưởi ấm bên cạnh lò sưởi, uống rượu chát hâm nóng điểm thêm gia vị và chanh. Người ta gọi là rượu Gluhwein uống vào làm ấm người và dùng trong các ngày lễ tết. Trong quán tối om, đầy khói và khi bước ra khỏi quán thì khí lạnh đột ngột tràn vào phổi làm cho vành mũi tê cóng khi thở. Chúng tôi quay lại nhìn quán ăn với những ánh đèn từ cửa sổ rọi ra, nhìn bầy ngựa của các bác tiều phu đang giậm chân lắc đầu cho đỡ lạnh. Sương đọng trên lông mõm của chúng, và mỗi lần thở, chúng tuôn ra từng làn hơi nước trong không khí. Con đường đi ngược về nhà chúng tôi, đoạn đầu thì trơn nhẵn, nhưng đến chỗ rẽ, gặp con đường dành cho xe ngựa, thì băng đá phủ trên mặt đường ngả sang màu cam vì vết chân ngựa dẫm lên. Rồi đoạn đường kế tiếp phủ đầy tuyết làc con đường dẫn xuyên qua rừng, mà trên đường về hai lần chúng tôi trông thấy các con chồn.

Đó là một vùng quê đẹp và chúng tôi luôn luôn thấy thích thú về những nơi dạo chơi khi trở về nhà.

- Bây giờ thì râu của anh tuyệt đẹp rồi, nó giống râu của mấy bác tiều phu. Anh có thấy người đàn ông đeo hoa tai nhỏ bằng vàng không? - Catherine hỏi.

- Ông ấy là thợ săn linh dương - Tôi đáp - Họ đeo bông tai vì cho rằng như thế sẽ thính tai hơn.

- Thật vậy sao? Em chả tin đâu. Em cho rằng đeo bông tai để tỏ ra họ là thợ săn linh dương. Ở vùng này có linh dương không anh?

- Có, ở sau núi Dent de Jaman.

- Thật là vui khi thấy cáo.

- Khi chúng ngủ, chúng quấn cái đuôi quanh mình cho ấm.

- Cách đó cũng tuyệt đấy chứ?

- Ấy, anh thường mơ ước có được một cái đuôi như thế. Em không thấy thật ngộ nghĩnh nếu người ta có được một cái đuôi cáo à?

- Đúng hơn là sẽ bực mình khi ăn mặc.

- Người ta có những quần áo may có ý hoặc sống ở một nơi mà điều đó chẳng quan trọng gì.

- Chúng ta đang sống ở một nơi mà mọi việc đều chẳng quan trọng gì. Không gặp ai cả có thích không? Anh yêu, anh không thích tiếp xúc với một ai đấy chứ?

- Không.

- Anh có thích chúng ta ngồi đây một lát không? Em hơi mệt.

Chúng tôi ngồi sát bên nhau trên một thân cây. Trước mặt chúng tôi là con đường mất hút trong cánh rừng.

- Chắc con bé sẽ không chen vào giữa chúng ta anh nhỉ.

- Không, chúng ta đâu có để cho nó chen vào.

- Chúng mình còn tiền không?

- Chúng ta còn nhiều. Anh còn một ngân phiếu chót.

- Gia đình anh có tìm cách bắt anh về không, vì họ đã biết anh đang ở Thụy Sĩ?

- Cũng có thể. Anh sẽ viết thư cho gia đình.

- Anh chưa viết thư về thăm nhà à?

- Chưa, chỉ nói về ngân phiếu thôi.

- Nhờ trời, em không là người trong gia đình anh.

- Anh sẽ gởi điện tín về nhà.

- Thế anh không có tình thương yêu gia đình sao?

- Trước kia thì có, nhưng rồi vì anh hay cãi nhau với gia đình quá cho nên nó cũng cạn đi.

- Em tin là em sẽ yêu mến các người trong gia đình anh. Chắc chắn là em sẽ rất yêu.

- Em đừng có nhắc tới họ nữa. Anh bực mình vì họ lắm đấy.

Một lúc sau tôi nói :

- Nếu em đã thấy khỏe thì ta đi thôi.

- Em hết mệt rồi.

Chúng tôi lại lên đường, lúc ấy trời đã sẫm tối. Dưới bước đi của chúng tôi, tuyết kêu rào rạo. Trời đêm nay khô ráo, lạnh lẽo và trong ngần.

- Em thích bộ râu của anh lắm - Catherine nói - Đó là một thắng lợi. Râu tuy có vẻ cứng và rậm rạp quá nhưng thật ra nó lại rất mịn màng và rất thích.

- Như thế này thì em yêu anh hơn là anh không để râu à?

- Đúng thế. Này anh yêu, anh biết không, em đợi đến khi nào sinh con bé Catherine rồi em mới cắt tóc. Bây giờ em sồ sề và lệt bệt quá. Nhưng khi sanh xong rồi, em sẽ suôn sẻ lại và em sẽ cắt tóc, và thế là anh có cảm tưởng mình có một cô vợ nhỏ nhắn, xinh đẹp và hoàn toàn mới. Khi cắt tóc, chúng ta sẽ cùng đi hay là em đi một mình và làm cho anh ngạc nhiên lúc trở về?

Tôi không nói gì.

- Anh sẽ không ngăn cản em chứ?

- Không, mà anh còn khuyến khích nữa là khác.

- Ồ anh đáng yêu quá. Mà có lẽ nhờ vậy em sẽ rất đẹp phải không anh yêu? Với lại khi mà em suôn sẻ và khêu gợi... thì anh sẽ lại mê mệt với em nữa cho coi.

- Trời đất. Thế em cho rằng anh yêu em chừng đó chưa đủ hay sao. Em còn muốn gì nữa? Muốn anh chết hay sao?

- Vâng, em muốn anh chết.

- Được rồi, anh chỉ mong có vậy.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương 40

Chúng tôi trải qua một tồn tại tuyệt vời. Tháng giêng, tháng hai trôi qua, mùa đông rất đẹp và chúng tôi rất hạnh phúc. Chúng tôi tận hưởng hạnh phúc qua hai tháng mùa đông và một mùa đông thật tuyệt vời. Khi có gió nồm thì tuyết chớm tan, nó mềm ra và không khí có vị mùa xuân, nhưng cái lạnh khô đẹp vẫn còn trở lại và mùa đông chưa dứt. Cho nên tháng ba mới bắt đầu có sự gián đoạn trong mùa đông. Một đêm trời bắt đầu mưa. Mưa suốt sáng. Tuyết biến thành bùn. Triền núi phủ một màu ảm đạm. Mây giăng khắp trên hồ và thung lũng. Mưa rơi trên đỉnh núi. Catherine mang đôi giày cao su to còn tôi mang đôi giày cao su của ông Guttingen. Chúng tôi che chiếc dù lớn đi xuống nhà ga, lội bì bõm trong tuyết tan và nước chảy cuốn theo những mảnh băng tan trên đường. Chúng tôi dừng lại quán uống một ly trước bữa điểm tâm. Ngoài trời chúng tôi nghe tiếng mưa rơi nặng hạt.

- Em có nghĩ rằng chúng mình nên dời xuống ở thành phố thì hơn không?

- Còn anh nghĩ sao? - Catherine hỏi lại.

- Nếu mùa đông tàn và trời tiếp tục mưa thì ở đây chẳng có gì vui cả. Còn bao lâu nữa trước khi bé Catherine ra đời?

- Độ một tháng hoặc hơn một chút.

- Có lẽ chúng ta nên xuống Montreux ở.

- Tại sao chúng ta không ở Lausanne? Ở đó có bệnh viện.

- Tùy em, nhưng anh nghĩ là Lausanne là một thành phố quá lớn.

- Chúng ta vẫn có thể sống biệt lập trong một thành phố lớn. Và ở Lausanne hẳn là dễ chịu.

- Khi nào chúng mình đi?

- Đối với em thì lúc nào cũng được. Khi anh thích, anh yêu ạ. Còn nếu anh không muốn đi thì em cũng không đi.

- Để chờ xem thời tiết ra sao.

Mưa đã ba hôm. Ở dưới nhà ga tuyết đã tan hẳn. Đường chỉ còn là một dòng thác bùn và tuyết tan. Trời hết sức ẩm ướt và đường đất quá bẩn. Sáng ngày thứ ba chúng tôi quyết định xuống thành phố.

Ông Guttingen nói :

- Không sao cả, ông Henry ạ, ông không cần phải báo trước cho tôi. Tôi cũng nghĩ rằng ông không thích ở lại đây lúc này, thời tiết đã bắt đầu quá xấu.

- Vả lại dù sao chúng tôi cũng thấy cần phải ở gần bệnh viện, để tiện cho nhà tôi.

- Vâng, tôi hiểu. Liệu ông bà có ẵm cháu bé trở lại đây chơi ít ngày không?

- Nếu ông có sẵn phòng.

- Đến mùa xuân nhân lúc tốt trời, ông bà nên đến đây thưởng xuân. Em bé và chị vú có thể ở căn phòng lớn hiện đang đóng cửa. Còn ông bà vẫn có thể ở căn phòng có cửa sổ trông ra hồ.

- Lúc nào trở lại, chúng tôi sẽ gởi thư cho ông - Tôi nói.

Chúng tôi thu xếp hành lý và đi chuyến xe lửa xế chiều. Ông bà Guttingen tiễn chân chúng tôi đến tận nhà ga. Ông Guttingen đỡ hộ hành lý của chúng tôi từ trên một chiếc xe kéo trên tuyết xuống. Ông bà đứng trên sân ga, dưới cơn mưa, vẫy tay chào từ biệt.

- Họ tử tế quá - Catherine nói.

- Phải, rất tốt bụng.

Từ Montreux, chúng tôi đáp xe lửa đến Lausanne. Qua khung cửa sổ nhìn về hướng chỗ ở cũ không thấy núi vì bị mây che khuất. Tàu ngừng lại tại Vevey rồi tiếp tục cuộc hành trình ngang qua giữa một bên là hồ, một bên là những cánh đồng xám sậm ẩm ướt, những khu rừng trụi lá và những ngôi nhà ướt át. Tới Lausanne, chúng tôi đến ngụ tại một khách sạn trung bình. Trời vẫn mưa rả rích khi chúng tôi đi xe qua những phố xá và vào cổng xe của khách sạn. Người gác cổng với xâu chìa khoá đồng trên ve áo, chiếc thang máy, những tấm thảm trên sàn nhà, những bồn rửa mặt màu trắng với những vòi nước chói sáng, chiếc giường đồng và căn phòng rộng lớn đầy đủ tiện nghi. Tất cả những thứ ấy hình như còn tiện nghi hơn nhiều so với ngôi nhà của ông bà Guttingen. Cửa sổ trông ra một khu vườn ướt át, có tường gắn song sắt bao bọc. Ở phía bên kia con đường dốc là một khách sạn khác có tường và vườn giống hệt. Tôi nhìn những giọt nước mưa rơi trên bể nước trong vườn.

Catherine bật tất cả các đèn lên và bắt đầu mở hành lý. Tôi gọi một ly whisky-soda và nằm trên giường đọc những tờ báo mua ở sân ga. Bấy giờ là tháng ba năm 1918, quân Đức bắt đầu mở cuộc tấn công trên đất Pháp. Tôi vừa uống whisky vừa đọc báo, trong khi Catherine mở các va ly và đi quanh quẩn trong phòng.

- Anh có biết là em phải mua gì bây giờ không anh yêu?

- Không, gì cơ?

- Quần áo cho con nhỏ. Ít có người đàn bà nào có mang tám tháng như em mà không có quần áo cho trẻ sơ sinh.

- Em chỉ việc mua thôi.

- Vâng, mai em sẽ mua ngay. Em sẽ hỏi mua những gì cần thiết.

- Em phải biết việc đó vì em đã từng là y tá mà.

- Vâng, nhưng ở bệnh viện ít thấy lính có con nhỏ.

- Thì anh đã có đó.

Nàng ném một chiếc gối vào tôi và làm đổ ly rượu.

- Để em kêu ly khác. Em xin lỗi.

- Có còn bao nhiêu rượu nữa đâu. Em lại giường nghỉ đi.

- Không, để em sửa soạn cho căn phòng có vẻ một tí.

- Vẻ gì?

- Có vẻ nhà riêng của chúng mình.

- Em hãy cắm cờ Đồng Minh.

- Ấy, khẽ miệng một chút.

- Em nói sao?

- Khẽ miệng chứ.

- Em nói điều đó thận trọng quá, làm như em sợ mất lòng ai vậy.

- Không phải vậy đâu.

- Vậy hãy lại giường đi.

- Được rồi - Nàng đến ngồi trên giường - Em biết đối với anh, em không hấp dẫn nữa. Em giống như một bao bột lớn.

- Không đâu. Em vẫn đẹp và đáng yêu lắm.

- Em là của ế mà anh đã vớ phải.

- Đâu có thế. Em vẫn càng ngày càng đẹp đó chứ.

- Rồi em sẽ thon thả lại, anh yêu.

- Em vẫn luôn luôn thon thả.

- Anh say rồi.

- Chỉ mới một ly whisky soda thôi mà.

- Sắp có một ly khác mang tới bây giờ - Nàng nói - Có gọi mang bữa ăn lên đây không anh?

- Ý kiến hay đó.

- Vậy thì mình không đi đâu cả à? Mình ở nhà tối nay sao?

- Và mình tha hồ đùa với nhau - Tôi nói.

- Em sẽ uống một tí rượu chát - Catherine nói - Không sao đâu. Không chừng ở đây có thứ rượu Capri trắng lâu năm.

- Nhất định là có rồi, trong một khách sạn cỡ này hẳn họ phải có các loại vang Ý chứ.

Anh bồi phòng gõ cửa. Anh mang đến một ly whisky có nước đá, bên cạnh là một chai soda nhỏ để trên một chiếc khay. Tôi nói :

- Cám ơn anh, anh cứ để xuống đó. Anh vui lòng mang lên đây hai phần ăn với hai chai Capri trắng ướp lạnh, không pha nhé.

- Ông bà có dùng xúp trước không ạ?

- Em có dùng xúp không Catherine?

- Có ạ.

- Vậy thì cho xúp một người ăn đi.

- Thưa ông vâng.

Anh ta bước ra và khép cửa lại. Tôi trở lại với các tin chiến sự trên báo. Đồng thời chậm rãi đổ soda vào ly whisky có đá. Tôi phải dặn anh ta đừng đổ nước đá vào whisky, cứ để nước đá riêng ra như thế mới biết tỷ lệ whisky là bao nhiêu để còn pha thêm soda. Tôi sẽ mua một chai whisky và kêu họ đem đá và soda tới là hơn cả. Được thứ whisky ngon thì thật là dễ chịu. Đó là một trong những thích thú của cuộc sống.

- Nghĩ ngợi gì thế anh yêu?

- Về whisky.

- Nhưng nữa cơ à?

- Xem whisky ngon đến mức nào. Anh nghĩ như thế là rất tốt.

- Em cũng thích.

Chúng tôi lưu lại khách sạn ba tuần lễ. Kể cũng dễ chịu. Phòng ăn thường vắng người và chúng tôi rất hay dùng bữa tối trong phòng riêng. Chúng tôi đi dạo trong thành phố và đáp xe lửa kéo bằng dây cáp đi Ouchy để dạo cảnh bờ hồ. Một thời gian trời khá nóng, không khác gì mùa xuân. Chúng tôi muốn quay lại núi nhưng tiết xuân ấm áp ấy chỉ kéo dài độ vài ngày rồi giá lạnh của buổi tàn đông lại kéo trở lại.

Catherine mua ở thành phố mọi thứ cần thiết cho đứa bé. Để vận động, vào buổi sáng, trong lúc Catherine còn ngủ, tôi thường đến đánh bốc ở một phòng tập thể dục. Trong những ngày lập xuân, sau khi đánh bốc và tắm rửa, tôi thích đi dạo theo những con đường đầy hương vị mùa xuân, và ngồi ở quán cà phê, ngắm thiên hạ qua lại, vừa đọc báo vừa uống rượu Vermouth, rồi trở về khách sạn dùng bữa với Catherine. Võ sư ở phòng tập thể dục để râu. Ông ta rất chính xác và nóng nảy, nhưng lại lúng túng khi bị tấn công ráo riết. Phòng thể dục trông cũng đẹp, vừa thoáng khí vừa sáng sủa. Tôi tập khá tốt, nào nhảy dây, tập võ trước mặt gương, nằm dài trên sàn có ánh sáng mặt trời từ cửa sổ chiếu vào, và thỉnh thoảng cũng làm cho võ sư phải khiếp sợ khi so tài. Lúc đầu tập bốc trước một tấm gương dài hẹp, tôi thấy khó khăn khi nhìn vào đánh một người có râu. Nhưng rồi tôi thấy thế thật là ngộ nghĩnh. Khi mới bắt đầu tập, tôi đã muốn cạo râu nhưng Catherine không tán thành.

Đôi khi Catherine và tôi cùng ngồi xe đi chơi ở đồng quê. Thật là thích thú nếu tiết trời quang đãng và chúng tôi tìm ra hai chỗ để ăn uống. Lúc này Catherine không còn đi bộ xa được nữa. Và tôi thích cùng nàng đi dạo trên những con đường đồng quê. Khi đẹp trời, chúng tôi thấy tràn trề hạnh phúc và không lúc nào thấy bất hạnh cả. Chúng tôi biết rằng mình sắp có con, và điều đó khiến cả hai chúng tôi có cảm giác vội vã và không để lỡ dịp ở bên cạnh nhau.

Ernest Hemingway

Giang Hà dịch

Chương kết

Một đêm tôi thức giấc quãng ba giờ và nghe Catherine trở mình trên giường.

- Em có bị ốm không, Catherine?

- Em thấy hơi đau, anh ạ.

- Đau liền liền hả em?

- Không, đau từng chập.

- Nếu đau liền liền thì phải đi bệnh viện.

Tôi buồn ngủ quá nên nằm ngủ lại. Một lát sau tôi lại thức giấc :

- Anh nên gọi bác sĩ thì hơn. Em nghĩ chắc là đúng rồi.

Tôi quay số gọi điện thoại cho bác sĩ.

- Có đau liên tục không Cat?

- Hình như độ mười lăm phút.

Vị bác sĩ nói :

- Vậy thì ông phải đưa bà đến bệnh viện ngay. Tôi sẽ mặc quần áo và đến đó bây giờ.

Tôi gác điện thoại rồi lại gọi cho nhà xe ở gần nhà ga để gọi một chiếc taxi. Một lúc lâu không có người trả lời. Mãi sau mới có người hứa cho xe tới liền. Catherine sửa soạn xong. Chiếc va ly xếp đầy những thứ cần thiết cho nàng và quần áo trẻ sơ sinh. Ngoài hành lang, tôi bấm chuông gọi thang máy, không có ai trả lời, tôi phải xuống cầu thang gác. Không có ai ở dưới nhà cả ngoài người gác đêm. Tôi phải đích thân điều khiển thang máy và để chiếc va ly vào trong đó. Catherine bước vào và chúng tôi xuống lầu. Người gác đêm mở cửa để chờ taxi. Trời đêm sáng tỏ và sao lấp lánh. Catherine rất bồn chồn. Nàng nói :

- Em rất hài lòng là việc đó bắt đầu. Một chút là xong chứ gì.

- Em là một phụ nữ thật can đảm.

- Em không lo sợ gì hết. Tuy nhiên em mong cho chiếc taxi tới.

Chúng tôi nghe tiếng xe chạy tới và thấy rõ ánh đèn pha. Xe rẽ vào lối đi. Tôi dìu Catherine vào trong xe và người tài xế đặt chiếc va ly lên phía trước.

- Chạy tới bệnh viện - Tôi nói.

Xe ra khỏi lối đi và bắt đầu leo dốc. Tới bệnh viện chúng tôi bước vào. Tôi xách chiếc valy. Một bà ngồi tại bàn giấy vào sổ ghi tên tuổi của Catherine, địa chỉ và tôn giáo của nàng. Nàng khai không theo tôn giáo nào và thiếu phụ gạch một hàng trong ô tương ứng. Nàng khai tên là Catherine Henry.

- Tôi sẽ đưa bà lên phòng - Bà ta nói.

Chúng tôi đi lên thang máy và bước ra đi theo bà ta qua một hành lang.

- Phòng đây - Bà ấy nói - Mời bà thay quần áo và bước lên giường. Đây là chiếc áo ngủ của bà.

- Tôi có đem theo áo ngủ - Catherine nói.

- Nhưng bà cứ mặc chiếc áo này thì hơn - Bà ta nói.

Tôi bước ra ngoài và ngồi trên một chiếc ghế ở ngoài hành lang.

- Ông có thể vào được - Bà ta đứng ở ngưỡng cửa bảo tôi.

Catherine nằm trên một chiếc giường hẹp, mặc chiếc áo ngủ cổ vuông được may bằng vải thô. Nàng nhìn tôi mỉm cười.

- Bây giờ em đang đau thúc lên.

Bà ta cầm tay bắt mạch, tay cầm đồng hồ và đo khoảng cách giữa những cơn đau.

- Đau quá - Catherine nói. Tôi nhận ra những cơn đau ấy trên nét mặt của nàng.

- Bác sĩ đâu? - Tôi hỏi.

- Ông ta ngủ ở tầng dưới. Khi nào cần, ông ta sẽ lên.

- Bây giờ để tôi làm một vài thứ với bà - Bà y tá nói - Mời ông ra ngoài chờ.

Tôi bước ra ngoài dãy hàng lang trống trải với hai cửa sổ và những cánh cửa đóng kín, phảng phất mùi nhà thương. Tôi ngồi trên ghế, đầu cúi xuống và cầu nguyện cho Catherine.

- Ông có thể vào được rồi - Bà y tá nói. Tôi bước vào.

- Này anh yêu ơi - Catherine gọi.

- Sao, đỡ không em?

- Nó đau liền liền - Nàng nhăn mặt rồi lại mỉm cười.

- Sao mà đau quá vậy, đau thật là đau. Bà y tá ơi, bà làm ơn đấm thêm dùm sau lưng cho tôi chút đi.

- Nếu làm thế có thể giúp bà bớt đau - Bà y tá nói.

- Anh đi ra ngoài một tí đi anh yêu. Anh hãy đi kiếm cái gì ăn đi. Bà y tá bảo sẽ còn lâu đấy.

- Sanh con so thì thường thường lâu lắm - Bà y tá nói.

- Anh hãy đi ăn uống tí gì đi. Em cảm thấy đỡ lắm rồi.

- Để anh nán lại một chút đã.

Những cơn đau nổi lên đều đều rồi lại dịu đi. Catherine bồn chồn. Mỗi khi đau thúc, nàng lại bảo đau thế là tốt. Nhưng khi cơn đau dịu đi thì nàng như thất vọng và mắc cở.

- Anh đi ra đi anh yêu - Nàng giục - Anh ở lại đây chỉ làm cho em thêm ngại ngùng thôi - Nàng nhăn nhó - Đó...Thế tốt. Em chỉ mong được làm một người vợ ngoan và sanh đẻ được mẹ tròn con vuông. Anh đi ăn điểm tâm đi anh yêu, rồi sẽ trở lại. Vắng anh cũng không hề gì đâu. Bà y tá tốt với em lắm.

- Ông còn nhiều thì giờ để ăn sáng mà - Bà y tá nói.

- Thì tôi đi vậy. Anh đi nhé, em yêu.

- Tạm biệt. Vâng, anh ăn sáng no đi, ăn luôn cả phần em nữa nhé.

Tôi hỏi bà y tá.

- Có thể ăn điểm tâm ở đâu được bà nhỉ?

- Có một quán cà phê ở gần quảng trường, cuối phố - Bà ta trả lời - Chắc bây giờ người ta mở cửa rồi đấy.

Bên ngoài ngày đã bắt đầu rạng. Tôi đi xuôi theo con phố vắng tới quán cà phê. Có ánh đèn ở cửa sổ. Tôi bước vào đứng bên cạnh quầy bọc thiếc. Một ông già dọn cho tôi một ly rượu chát và một miếng bánh cũ hôm qua. Tôi nhúng bánh vào rượu ăn rồi uống cà phê.

Ông già hỏi tôi :

- Ông làm gì ở đây giờ này sớm quá vậy?

- Nhà tôi sanh ở bệnh viện.

- À, xin chúc ông bà may mắn.

- Cho tôi một ly rượu chát nữa.

Ông ta nghiêng chai rượu, rót quá tay làm rượu rớt cả ra quầy. Tôi uống rượu xong, trả tiền và bước ra.

Bên ngoài, dọc theo đường phố, những thùng rác chờ được đổ. Một con chó hít hít vào một thùng rác.

- Chú mày muốn gì nào? - Tôi vừa hỏi vừa nhìn vào trong thùng rác xem có gì cho nó không, chẳng có gì hết ngoài bã cà phê, một ít bụi đất và vài cánh hoa héo.

- Chẳng có gì cả, chú khuyển ạ - Tôi nói.

Con chó qua đường. Tôi lên cầu thang bệnh viện, tới tầng của Catherine, đi dọc theo hành lang, tới phòng nàng và gõ cửa. Không có tiếng trả lời. Tôi mở cửa, phòng trống chỉ có chiếc va ly của Catherine để trên ghế và chiếc áo ngủ của nàng treo trên tường. Tôi bước ra đi dọc theo hành lang kiếm người để hỏi thì gặp một cô y tá.

- Bà Henry đâu, thưa cô?

- Người ta mới đưa bà đến phòng sinh.

- Ở đâu?

- Để tôi dẫn ông tới.

Cô y tá đưa tôi đến cuối hành lang. Cửa phòng hé mở. Tôi ghé mắt thấy Catherine nằm dài trên một chiếc bàn, mình đắp một tấm chăn. Bà y tá đứng một bên, và vị bác sĩ đứng phía bên kia, cạnh những ống tròn. Bác sĩ cầm trong tay một chiếc mặt nạ cao su gắn vào một cái ống.

- Để tôi đưa cho ông một chiếc áo choàng thì ông có thể vào được - Cô y tá nói - Mời ông lại đây.

Cô đưa cho tôi một chiếc áo choàng trắng và cài áo cho tôi.

- Bây giờ thì ông có thể vào được.

Tôi bước vào phòng.

- Này anh yêu - Catherine nói với một giọng mệt mỏi - Nó không tiến triển bao nhiêu.

- Ông là ông Henry à? - Bác sĩ hỏi.

- Vâng, công việc ra sao rồi thưa bác sĩ?

- Khá lắm. Chúng tôi đến đây cho tiện việc cho thuốc mê mỗi khi đau.

- Cho tôi thuốc đi - Catherine nói.

Bác sĩ chụp mặt nạ lên mặt nàng và vặn chiếc tay quay. Tôi nhìn Catherine. Nàng thở mạnh và sâu. Tiếp đó nàng đẩy chiếc mặt nạ ra và bác sĩ tắt vòi hơi.

- Cơn đau này không dữ lắm. lúc nãy em đau mới nhiều. Thế mà bác sĩ cũng làm cho hết đau, phải không thưa bác sĩ?

Giọng nàng nói hơi lạ, nàng nói lớn tiếng “bác sĩ”.

Ông bác sĩ mỉm cười.

- Tôi lại cần nữa đấy - Catherine nói rồi nàng chụp chiếc mặt nạ úp lên mặt và thở dồn dập. Tôi nghe nàng rên khe khẽ rồi nàng lại đẩy chiếc mặt nạ ra và mỉm cười.

- Cơn đau này dữ thật, đau lắm. Đừng lo lắng gì hết anh yêu. Anh đi đi. Anh đi ăn sáng nữa đi.

- Không, anh muốn ở lại đây - Tôi đáp.

Chúng tôi đến bệnh viện lúc ba giờ sáng mà đến trưa Catherine vẫn còn nằm trong phòng sanh. Những cơn đau chậm lại. Nàng có vẻ bải hoải nhưng vẫn vui vẻ.

- Em không được khỏe anh yêu. Buồn quá, thế mà em tưởng em sẽ sanh dễ dàng đấy. Ôi.. lại đau nữa.

Nàng với tay chụp chiếc mặt nạ úp lên mặt. Vị bác sĩ mở khóa hơi và chăm chú nhìn nàng. Độ một lát, cơn đau lại hết. Catherine mỉm cười.

- Không đau lắm. Em thích thứ hơi thuốc đó quá. Thật là kỳ diệu.

- Để mua một ít về nhà - Tôi nói.

- Đó, bắt đầu đang trở lại nữa - Catherine nói hấp tấp. Vị bác sĩ mở khóa hơi và nhìn đồng hồ.

Tôi hỏi ông bác sĩ :

- Bây giờ khoảng cách là bao lâu?

- Độ chừng một phút.

- Bác sĩ không đi dùng điểm tâm à?

- Lát nữa tôi sẽ đi ăn một chút.

- Bác sĩ đi ăn đi - Catherine nói - Buồn quá, sao mà lâu dữ vậy. Không biết nhà tôi có cho thuốc cho tôi được không ạ?

- Nếu bà muốn - Ông ta nói - Ông chỉ cần vặn tới số hai là được.

- Tôi hiểu.

Trên mặt đồng hồ có một kim quay theo sự điều khiển của tay quay.

- Em cần ngay bây giờ đấy - Catherine nói.

Nàng ụp sát chiếc mặt nạ lên mặt. Tôi vặn cho kim quay đến số hai và khi Catherine lấy chiếc mặt nạ ra thì tôi khóa máy lại. Vị bác sĩ đáng yêu đã để tôi làm vài việc.

- Chính anh đã để cho máy chạy đấy à anh yêu? - Catherine vừa hỏi vừa vuốt cổ tay tôi.

- Phải đấy anh ạ.

- Anh đáng yêu biết bao.

Chất thuốc làm cho nàng hơi say.

- Tôi sẽ đi ăn ở phòng bên cạnh đây. Có gì cứ gọi tôi - Ông bác sĩ nói.

Thời gian trôi đi. Tôi nhìn thấy ông ăn và một lúc sau ông ngả lưng và châm thuốc lá.

Catherine bắt đầu lả.

- Anh có tin rằng mẹ con em sẽ vuông tròn không?

- Thì chắc chắn là như thế chứ còn gì nữa.

- Em cố hết sức mình, em rặn mà nó không ra. Ôi lại bắt đầu đau nữa... cho em...thuốc đi...

Đến hai giờ trưa, tôi ra ngoài đi ăn. Có một ít người ngồi trong quán, và trên bàn là những tách cà phê, những ly rượu Kirsch hoặc rượu Marc. Tôi ngồi vào bàn.

- Có gì ăn không? - Tôi hỏi người hầu bàn.

- Ăn trưa thì quá muộn rồi ạ.

- Không có món gì ăn thường ngày à?

- Có. Ông có thể dùng món dưa cải bắp thái nhỏ.

- Vậy cho tôi một đĩa và rượu bia.

- Một nửa hay cả vại ạ?

- Nửa vại.

Người bồi bàn dọn đĩa cải bắp thái nhỏ có thêm miếng dăm bông xúc xích trộn với cải bắp nóng bỏng tẩm rượu chát. Tôi ăn và uống rượu bia. Tôi rất đói. Tôi nhìn thiên hạ ăn uống trong quán cà phê. Vài người đánh bài tại bàn. Hai người kế bên tôi vừa hút thuốc lá vừa nói chuyện. Tiệm cà phê đầy khói thuốc lá. Ở đàng sau quầy thiếc, chỗ tôi vừa ngồi ăn điểm tâm, có ba người, một ông già, một bà khỏe mạnh mặc đồ đen, ngồi chỗ thu tiền, ghi chép những thứ dọn ăn uống cho khách và một chú mang áo choàng. Tôi tự hỏi không biết bà ta có bao nhiêu con cái, và bà ta sinh đẻ ra làm sao.

Ăn xong tôi quay trở lại bệnh viện. Bây giờ thì đường phố rất sạch sẽ, không còn những thùng rác bên vệ đường nữa. Trời u ám nhưng cũng le lói ánh mặt trời. Tôi lên thang máy, theo hành lang đến phòng của Catherine nơi tôi để chiếc áo blouse. Tôi khóac áo, cài khuy cổ. Nhìn trong gương tôi có vẻ giống một bác sĩ già với bộ râu của tôi. Tôi đến phòng sanh. Cửa đóng. Tôi gõ cửa. Không có tiếng trả lời. Tôi vặn nắm đấm và bước vào. Vị bác sĩ đang ngồi cạnh Catherine. Cô y tá đang bận gì ở cuối phòng.

- Ông nhà đã trở lại kìa - Ông bác sĩ nói.

- Ồ anh yêu, bác sĩ thật tài tình - giọng của Catherine rất khác lạ - Ông kể cho em nghe một câu chuyện kỳ diệu và khi em quặn đau dữ dội, ông làm cho nó hết ngay. Ông ấy thật là bậc kỳ tài. Ông đúng là kỳ tài, bác sĩ ạ.

- Em say thuốc rồi - Tôi nói.

- Em biết mà, nhưng anh đừng nói như thế - rồi nàng tiếp - Cho tôi thuốc đi, cho tôi thuốc nữa đi.

Nàng giữ chặt chiếc mặt nạ và thở từng chặp, nàng hít mạnh và lâu, rồi nàng thở dài, và bác sĩ đưa tay trái gỡ chiếc mặt nạ ra cho nàng.

- Cơn đau vừa rồi dữ dội lắm - Giọng nàng thật khác lạ - Em không nguy hiểm gì đâu, anh yêu ạ. Em đã khỏi chết rồi, anh có bằng lòng không?

- Cầu cho em tai qua nạn khỏi.

- Không, em chuyện sợ đâu. Em sẽ không chết đâu, anh yêu dấu.

- Bà đừng nói dại thế - Ông bác sĩ nói - Bà đừng chết để cho ông cô độc.

- Ồ không, tôi không chết đâu, tôi không muốn chết, Ai lại điên mà đi chết như thế? Ồ, nó lại đến nữa đấy... cho tôi...

Một lát sau vị bác sĩ nói :

- Ông Henry, xin ông vui lòng ra ngoài một lát để tôi thăm thai cho bà.

- Bác sĩ muốn khám xem em như thế nào, rồi một lát nữa anh có thể trở lại, anh yêu. Phải thế không thưa bác sĩ? - Catherine nói.

- Phải, tôi sẽ cho gọi khi nào ông có thể trở lại được.

Tôi bước ra và theo hành lang tới căn phòng nơi Catherine sẽ nằm sau khi sanh. Tôi ngồi trên một chiếc ghế, nhìn quanh gian phòng. Trong túi tôi có tờ báo tôi mua lúc đi ăn trưa, tôi lấy ra đọc. Một lát sau tôi ngừng đọc, tắt đèn nhìn màn đêm phủ kín bên ngoài. Tôi tự hỏi là sao bác sĩ chưa cho gọi tôi. Có lẽ không có tôi ở đó thì có lợi hơn. Hẳn là ông ta muốn tôi lánh đi một lúc. Tôi nhìn đồng hồ. Trong mười phút nữa, nếu ông ta không cho gọi thì tôi vẫn cứ trở lại.

Tội nghiệp Catherine yêu quý, tội nghiệp! Đó là giá phải trả cho những buổi ân ái. Đó là kết thúc của cạm bẫy. Đó là kết tinh của tình ái. Ấy là nhờ trời còn có thuốc mê, không biết trước khi tìm ra được thuốc mê thì những chuyện gì đã xảy ra. Lúc mang bầu, Catherine rất khỏe khoắn, đâu có mệt nhọc gì, chỉ hơi khó ở một tí thôi. Thời gian cuối nàng mới thấy khó chịu. Và cuối cùng nàng mới chịu sự đau đớn, không cách gì thoát khỏi. Thoát ra ư? Giả sử chúng tôi có cưới nhau năm mười lần thì kết quả cũng chỉ thế thôi. Nhưng rủi nàng chết thì sao? Nàng sẽ không chết đâu. Ngày nay không ai chết vì sanh đẻ cả. Những ông chồng ai cũng nghĩ như thế cả. Nhưng nếu nàng chết thì sao? Nàng không chết đâu, nàng chỉ đau đớn một chút thôi. Đẻ con so thì thường lâu lắc hơn một chút. Đó là phút khó khăn phải trải qua. Sau này khi nhắc tới giây phút khó khăn ấy nàng sẽ bảo thật ra cũng chẳng có gì là ghê gớm cả. Nhưng nếu nàng chết thì sao? Nàng không thể chết được kia mà. Đừng có nghĩ dại. Đó chỉ là một phút khó khăn thôi. Đó chỉ là luật tự nhiên của tạo hoá bắt nàng phải như vậy. Sanh con so thì phải như vậy, bao giờ cũng lâu. Phải, nhưng rủi nếu nàng chết thì sao? Nàng không thể chết được. Tại sao lại chết? Có lý nào để chết được? Chỉ đơn giản là một đứa trẻ sắp chào đời, kết quả của những đêm thần tiên ở Milan. Nó tạo ra những phiền muộn, nhưng khi đã sanh ra rồi, nó sẽ được chăm sóc và thương mến. Nhưng nếu nàng chết thì sao? Nàng sẽ không chết đâu. Nhưng nếu rủi nàng chết thì sao? Nàng không sao đâu. Nàng mạnh khỏe lắm mà. Nhưng rủi nàng chết thì sao. Nàng không thể nào chết được. Nhưng nếu nàng chết thật thì sao? Hừ, làm thế nào đây nếu rủi nàng chết?

Bác sĩ bước vào phòng.

- Thế nào, có khá hơn không thưa bác sĩ.

- Không khá - Ông ta nói.

- Bác sĩ nói sao?

- Thì như vậy đó, tôi đã khám - Ông ta kể chi tiết về vụ khám nghiệm - Tôi đã thử chờ xem, nhưng không khá.

- Thế bác sĩ khuyên tôi phải làm gì?

- Có hai cách, hoặc dùng kẹp gắp, làm thế có thể bị rách thịt nguy hiểm, gây thương tích cho đứa bé, hoặc mổ.

- Mổ thì nguy hiểm như thế nào? Rủi nàng chết thì sao?

- Mổ thì không nguy hiểm hơn lối sanh thông thường.

- Chính bác sĩ sẽ tự tay mổ phải không?

- Phải. Có lẽ mất một tiếng đồng hồ để sửa soạn và kiếm người phụ mổ. Hoặc có thể nhanh hơn.

- Bác sĩ khuyên tôi thế nào?

- Tôi thì tôi khuyên nên mổ. Nếu là vợ tôi thì tôi sẽ quyết định mổ.

- Hậu quả sau này sẽ là gì?

- Chẳng có gì ngoại trừ một vết sẹo là cùng.

- Có sợ bị nhiễm trùng không?

- Ít hơn là theo cách kẹp.

- Và nếu đợi, không làm gì cả?

- Thế nào thì rồi cũng phải tiến hành điều gì đó. Bà Henry đã mất sức rồi. Mổ sớm chừng nào hay chừng đó.

- Vậy nếu được bác sĩ mổ ngay đi cho - Tôi nói.

- Tôi sẽ đi cho chỉ dẫn.

Tôi đến phòng sanh. Cô y tá ở đó với Catherine. Nàng nằm bệt trên bàn, trông đẫy đà dưới lớp chăn, trông tái mét và mệt mỏi. Nàng hỏi tôi :

- Anh có nói với bác sĩ là ông ta có thể mổ được không? Không sao đâu, chỉ độ một giờ đồng hồ là sẽ xong cả mà. Em không chịu nổi nữa anh ạ, em kiệt sức rồi. Làm ơn cho em cái đó đi. Cái đó đối với em không sao đâu.

- Bà hít mạnh vào.

- Tôi hít mạnh vào rồi, không ăn thua gì nữa.

- Không thấy gì hết.

- Lấy ông khác thử coi - Tôi nói với cô y tá.

- Đó là ống mới đấy.

- Em thật ngốc anh yêu - Catherine nói - Nhưng sao nó không có kết quả gì hết vậy? - Nàng oà lên khóc - Ôi, em chỉ ước mong việc sinh nở sẽ không làm phiền đến ai, thế mà giờ đây hết rồi, em kiệt sức nhưng điều đó đối với em chẳng sao, hoàn toàn không có chuyện gì, anh yêu. Em có chết cũng chẳng tiếc gì miễn sao cho dừng các cơn đau. Ôi! Anh yêu! Làm sao cho nó dừng các cơn đau giùm em. Nó lại đau nữa đấy! Úi cha! Ôi! Ôi! - Nàng vừa thở vừa thổn thức trong mặt nạ - Không kết quả gì hết. Không kết quả gì hết. Không kết quả gì hết. Đừng kể gì đến em, anh yêu. Em van anh đừng khóc. Đừng chú ý gì đến em. Em kiệt sức quá rồi. Anh đau khổ, em yêu anh nhiều. Em sẽ biết điều. Lần này em sẽ biết điều. Người ta không thể cho tôi cái gì à?

- Để anh cho máy chạy. Anh mở hết số đây này.

Tôi vặn tay quay đến hết mức và trong khi nàng hít thật sâu, tay nàng buông chiếc mặt nạ. Tôi khóa hơi và nhấc nó ra. Nàng trông như vừa mới hoàn hồn.

- Thật là tuyệt anh ạ. Ôi, anh tốt với em quá.

- Hãy can đảm lên. Anh không thể làm mãi thế được. Nó có thể làm nguy đến tính mạng em.

- Em hết can đảm rồi anh yêu. Em kiệt sức rồi. Người ta làm em kiệt sức rồi, em thấy thế.

- Mọi người đều ở đây cả.

- Nhưng mà khiếp quá. Họ để cho mình cầm cự cho đến lúc sức cùng lực kiệt.

- Chỉ một giờ đồng hồ là xong cả.

- Vậy hả anh. Anh yêu quý ơi, em sẽ không chết hả anh.

- Không, anh đoan chắc với em là không.

- Em không muốn chết và để lại anh, nhưng em mệt quá và em thấy như sắp từ giã cõi đời.

- Em đừng nói dại. Ai ai cũng có cảm giác thế cả.

- Đôi khi em biết chắc rằng em sắp chết.

- Không, em sẽ không chết đâu. Em không thể chết được.

- Nhưng ngộ nhỡ em chết thì sao?

- Anh sẽ không để cho em chết đâu.

- Cho em cái đó mau đi, cho em đi - rồi nàng tiếp - Em sẽ không chết đâu. Em sẽ không để cho mình chết đâu.

- Dĩ nhiên là em sẽ không chết đâu.

- Anh sẽ ở đây với em luôn nhé?

- Anh ở đây cũng chỉ nhìn suông.

- Không, miễn là anh ở đây với em.

- Nhất định là anh sẽ luôn luôn ở bên em.

- Anh tận tình với em quá. Mau đưa đây cho em, Đưa cho em đi. Không ăn thua gì cả.

Tôi vặn kim đồng hồ tới số ba rồi số bốn. Tôi chỉ mong bác sĩ trở lại. Tôi sợ những con số trên hai.

Cuối cùng một bác sĩ mới và hai cô y tá bước vào. Họ đặt Catherine lên chiếc cáng có bánh xe lăn rồi chúng tôi đi ra hành lang. Chiếc cáng được đẩy nhanh dọc theo hành lang rồi vào trong thang máy. Mọi người phải đứng nép vào vách cho rộng chỗ. Rồi thang máy lên, cửa mở, và trên bánh xe cao su, chiếc cáng được đưa ra khỏi thang, đẩy dọc theo hành lang tới phòng mổ. Tôi không nhận ra bác sĩ với chiếc mũ trùm kín đầu và chiếc khẩu trang. Có thêm một bác sĩ khác và nhiều y tá nữa.

- Phải cho tôi cái gì chứ - Catherine nói - Phải cho tôi cái gì chứ? Ôi bác sĩ ơi, hãy cho tôi cái gì để tôi đỡ đau một chút.

Một bác sĩ đặt chiếc mặt nạ lên mặt nàng. Qua cửa, tôi nhìn thấy phòng mổ sáng trưng.

- Ông có thể ngồi gần cửa ở đàng kia - Một cô y tá bảo tôi thế.

Có những chiếc ghế dài đặt sau lan can trông xuống bàn mổ trắng, chói chang ánh đèn. Tôi nhìn Catherine, mặt nạ đậy trên mặt. và bây giờ thì nàng im lặng. Người ta đẩy cáng tới. Tôi đi ra ngoài và bước dọc theo hành lang. Hai cô y tá vội vã đi vào cửa.

- Sắp mổ rồi đấy - Một cô nói - sắp tiến hành mổ để lấy hài nhi ra.

Cô kia cười.

- Chúng mình đến thật đúng lúc. Thật là may.

Họ bước qua cửa dẫn đến hành lang. Một cô y tá khác tới. Cô này cũng có vẻ vội vàng.

- Vào lối này đi. Vào đi - Cô ta nói.

- Không, tôi ở ngoài.

Cô ta lật đật bước vào. Tôi đi bách bộ ở hành lang. Tôi sợ nên không dám vào. Tôi nhìn qua cửa sổ. Trời tối, nhưng nhờ ánh đèn qua cửa sổ, tôi có thể trông thấy được trời đang mưa. Tôi bước vào một căn phòng ở mãi cuối hành lang, đứng xem những tờ nhãn dán trên chai lọ đặt trong tủ kính. Rồi tôi lại bước ra chờ ở hành lang, mắt dán vào cửa phòng mổ.

Một vị bác sĩ bước ra, theo sau là một cô y tá. Ông ta cầm trong tay một vật gì giống như một con thỏ bị lột da. Ông bước nhanh qua hành lang và biến mất sau một cánh cửa khác. Tôi tiến đến cánh cửa và ông vừa bước vào, xem ông ta làm gì với một trẻ vừa mới lọt lòng. Ông ta nâng hài nhi lên cho tôi xem. Ông nắm gót chân và phát mạnh và người nó.

- Đứa bé có khá không?

- Tuyệt. Nó cân đến năm ký lô.

Tôi hoàn toàn dửng dưng đối với đứa nhỏ. Nó có vẻ xa lạ đối với tôi. Tôi không cảm thấy chút tình phụ tử nào cả.

- Ông không thấy hãnh diện vì đứa con à? - Cô y tá hỏi tôi.

Họ đang tắm và bọc nó lại. Tôi nhìn thấy một khuôn mặt đen và bàn tay nhỏ xíu cũng đen, nhưng tôi không thấy nó cựa quậy, cũng không nghe nó khóc. Vị bác sĩ lại bận rộn với nó gì nữa đó, ông có vẻ bối rối.

- Không - Tôi nói - Nó suýt giết mẹ nó.

- Ồ, tội nghiệp, có phải lỗi tại nó đâu? Thế ông không muốn một đứa con trai à?

- Không - Tôi đáp.

Bác sĩ rất bận rộn. Ông nắm chân và phát mạnh vào người nó. Tôi không đứng nhìn nó ở đấy nữa. Tôi bước ra hành lang. Bây giờ thì tôi đi thăm nàng được rồi. Tôi bước qua cửa và tới phòng. Các cô y tá ngồi chỗ lan can làm hiệu cho tôi xuống chỗ họ. Tôi lắc đầu. Chỗ tôi đứng trông khá rõ rồi.

Tôi nghĩ rằng Catherine đã chết. Nàng giống như một xác chết. Mặt nàng mà tôi thấy được, xám ngắt. Phía dưới, qua ánh đèn, vị bác sĩ đang khâu lại vết mổ mà những chiếc kẹp banh lớn ra. Một vị bác sĩ khác đeo mặt nạ, đang cho thuốc mê. Hai nữ y tá đeo khẩu trang đứng trao dụng cụ...Quang cảnh y hệt như một pháp đình thời Trung cổ. Nhìn cảnh đó, tôi biết rằng nếu muốn thì tôi đã được chứng kiến đầy đủ, nhưng tôi mừng là mình không đứng coi. Tôi không tin rằng tôi lại có thể đứng nhìn họ mổ xẻ, nhưng tôi nhìn cái vành tròn vết thương mà vị bác sĩ, khéo tay như một bác thợ sửa giày, đang khâu kín lại bằng những nhát kim lớn. Tôi mừng thầm. Khi vết mổ được khâu kín lại xong, tôi quay ra đi bách bộ trong hành lang.

Một lát sau bác sĩ đi tới, tôi hỏi :

- Nhà tôi thế nào?

- Bà ấy khoẻ. Ông có mục kích cuộc giải phẫu không? - Trông ông ta có vẻ mệt mỏi.

- Tôi đã thấy ông khâu lại. Vết mổ có vẻ dài lắm.

- Ông đã thấy à?

- Vâng. Vết sẹo rồi có xẹp xuống không?

- Có chứ.

Một lát sau họ đẩy chiếc cáng có bánh xe cao su đưa nhanh qua hành lang tới thang máy. Tôi đi bên cạnh Catherine đang rên rỉ. Xuống tới phòng dưới, họ đặt nàng lên giường. Tôi ngồi trên ghế phía đầu giường của nàng. Trong phòng co một cô y tá. Tôi đứng bên cạnh giường. Trong phòng tối đen. Catherine đưa tay ra và nói :

- Này anh yêu...

Giọng của nàng yếu ớt và mệt nhọc.

- Em, em yêu của anh.

- Đứa bé, trai hay gái?

- Suỵt, đừng nói chuyện - Cô y tá bảo.

- Con trai. Nó dài, to và đen.

- Nó khỏe chứ?

- Ừ, khỏe lắm - Tôi nói.

Tôi thấy cô y tá nhìn tôi với dáng điệu khác thường.

- Em mệt quá sức... và đau nữa. Còn anh, anh có khỏe không anh yêu?

- Anh vẫn mạnh. Thôi em đừng nói chuyện nữa.

- Anh lo lắng cho em quá. Ôi anh yêu của em! Em đau quá! Trông nó giống gì nhỉ?

- Trông nó giống như một con thỏ bị lột da, với cái mặt nhỏ tí dúm dó như mặt một ông già.

- Ông nên đi ra thì hơn - Cô y tá nói - Bà Henry không nên nói chuyện.

- Tôi sẽ ở ngoài cửa.

- Anh nên đi ăn một chút gì đi.

- Không, anh sẽ ở ngoài cửa.

Tôi hôn Catherine, da nàng xám ngắt, vẻ yếu ớt và mệt nhọc. Tôi nói với cô y tá :

- Tôi có thể nói ít lời với cô được chăng?

Cô ta cùng đi với tôi ra hành lang. Tôi đi vài bước rồi hỏi :

- Đứa bé làm sao thế?

- Ông không hay biết gì à?

- Không.

- Nó không còn sống.

- Chết rồi à?

- Người ta không thể nào làm cho nó thở được. Nó có tràng hoa hay vật gì như thế quấn quanh cổ.

- Vậy là nó chết thật rồi à?

- Vâng, thật uổng. Một đưá bé xinh đẹp. Tôi cứ tưởng là ông đã biết.

- Không - Tôi nói - Cô nên trở lại với nhà tôi.

Tôi ngồi trên ghế, trước một chiếc bàn, cạnh đó treo những bản báo cáo của cô y tá, và nhìn qua khung cửa sổ. Tôi chỉ thấy một màu đen và mưa rơi trong ánh đèn rọi ra từ cửa sổ. À, ra thế đấy. Đứa bé chết rồi. Vì thế trông bác sĩ có vẻ mệt mỏi. Nhưng tại sao họ lại làm thế trong phòng? Có lẽ họ nghĩ rằng đứa bé sẽ tỉnh lại và thở được. Tôi không theo đạo nhưng hiểu rằng lẽ ra đứa bé phải được rửa tội. Tuy nhiên nếu nó đã chẳng thở được tí nào nghĩa là nó không sống, ngoại trừ lúc còn trong bào thai. Tôi thường thấy nó đạp nhiều lần. Nhưng trong tuần lễ cuối cùng thì không còn thấy nữa. Có lẽ lúc ấy nó đã chết ngạt rồi. Tội nghiệp đứa hài nhi. Tôi muốn chết ngạt như thế để khỏi phải trải qua những giờ phút hấp hối...Bây giờ thì Catherine sẽ chết. Ai cũng vậy. Ai cũng phải chết. Chết mà không hiểu thế nào là cái chết, không khi nào có thì giờ cho mình luật lệ hoặc mình hơi lầm lỗi là họ giết mình ngay. Hoặc giả chết vô cớ như Aymo. Hoặc giả bị dương mai như Rinaldi. Nhưng rồi cuối cùng mình cũng chết. Cứ tin như vậy đi, cứ kiên tâm đi rồi sẽ đến lượt mình.

Có lần ở trại, tôi liệng một khúc củi đầy kiến vào đống lửa. Khi khúc củi cháy, bọn kiến bò tứ tung và lúc đầu còn chạy nhào vào chỗ có ngọn lửa, sau chúng quay lại chạy tới đầu kia khúc củi. Đến khi chúng bám đầy vào đầu khúc củi thì chúng lại rớt vào đống lửa. Có vài con chạy thoát, thân mình cháy xém và xẹp lép. Chúng chạy mà không rõ sẽ chạy đi đâu. Nhưng phần đông đều tới phía ngọn lửa, rồi lại bò tới đầu bên kia, đê rồi tụ tập tại đó và cuối cùng rơi vào ngọn lửa. Tôi còn nhớ lúc đó tôi tưởng tượng rằng đó là giờ tận thế, đó là lúc đóng vai trò Chúa cứu thế bằng cách kéo khúc củi ra khỏi ngọn lửa và ném nó vào chỗ nào đó cho lũ kiến có thể trốn vào đất được. Nhưng tôi chỉ tưới khúc củi bằng chỗ nước trong cái ly, để khi hết nước, tôi đựng rượu whisky pha với nước. Tôi nghĩ rằng nước dội lên khúc củi đang cháy chỉ tổ làm cho lũ kiến bị phỏng.

Và bây giờ tôi đang ngồi trong hành lang để chờ nghe ngóng bệnh tình của Catherine. Một lúc, vì y tá tới chậm, tôi bước tới mở cửa nhè nhẹ nhìn vào trong. Mới đầu tôi không trông thấy gì vì đèn ở hành lang sáng chói mà trong phòng lại tối om. Nhưng rồi tôi nhìn thấy cô y tá ngồi ở đầu giường, và đầu Catherine đặt trên gối, toàn thân nàng dẹp lép dưới lớp chăn. Cô y tá để một ngón tay lên môi ra hiệu rồi đi ra cửa.

- Nàng ra sao? - Tôi hỏi.

- Bà khỏe. Ông đi ăn đi, rồi một lát nữa ông trở lại, nếu ông muốn.

Tôi đi dọc theo hành lang, xuống thang và bước ra khỏi cổng bệnh viện, theo con đường tối om đến tiệm cà phê dưới cơn mưa. Đèn trong tiệm sáng trưng và mấy bàn đều chật hết. Tôi không tìm ra chỗ trống, một anh bồi bàn tới đỡ lây chiếc áo choàng ướt và chiếc mũ của tôi rồi chỉ một chỗ ngồi mà trước mặt là một ông già đang uống bia và xem báo chiều. Tôi ngồi xuống và hỏi anh bồi bàn món ăn trong ngày.

- Bò ra gu, nhưng hết rồi.

- Thế bây giờ có gì ăn?

- Trứng với dăm bông, trứng với pho mát, hay dưa cải bắp xắt nhỏ.

- Tôi đã ăn dưa cải bắp hồi trưa rồi.

- Vâng, đúng rồi. Ông đã dùng dưa cải bắp lúc trưa. Phải rồi.

Anh là một người vào độ trung niên, đầu hói với vài sợi tóc lưa thưa, nét mặt dễ mến.

- Thế ông dùng món gì? Trứng với dăm bông, hay trứng với pho mát?

- Trứng dăm bông và rượu bia.

- Một bia nâu ly nhỏ chứ?

- Được.

- Tôi nhớ hồi trưa ông cũng uống một bia nâu ly nhỏ.

Tôi dùng món trứng dăm bông và uống bia. Món dăm bông trứng đặt trong một chiếc đĩa tròn, dăm bông ở dưới và trứng ở trên. Món ấy nóng quá, và khi ăn miếng đầu tiên, tôi phải hớp một ngụm bia cho khỏi bỏng miệng. Tôi cũng khá đói nên kêu thêm một đĩa nữa và uống mấy ly bia. Tôi không nghĩ gì cả và đọc báo của ông ngồi trước mặt. Đó là đề tài về phòng tuyến của Anh bị chọc thủng. Khi biết rằng tôi đang xem mặt sau của tờ báo của ông ta thì ông gấp lại. Tôi định gọi bồi cho một tờ báo nhưng tôi không thể tập trung tư tưởng. Bên trong tiệm cà phê rất nóng và không khí khó thở. Nhiều khách trong tiệm quen biết nhau. Nhiều người đang chơi bài. Bồi bàn lăng xăng lo bưng rượu đến các bàn. Hai người khách mới vào đứng nhìn quanh vì không còn chỗ trống, đứng tạm trước bàn tôi. Tôi gọi thêm một ly bia nữa. Tôi chưa muốn trở về bệnh viện vội vì còn sớm quá. Tôi cố không nghĩ ngợi gì cả và giữ bình tĩnh tuyệt đối. Hai người đứng chờ một lát không có chỗ trống lại bước ra. Tôi uống thêm một ly bia nữa. Trên bàn trước mặt tôi bây giờ có cả một chồng đĩa. Ông ngồi trước mặt tôi đã gỡ kính cất vào hộp, xếp tờ báo lại bỏ túi rồi cầm ly rượu mùi nhìn quanh phòng. Bỗng nhiên tôi thấy cần phải trở lại bệnh viện. Tôi gọi bồi tính tiền rồi khoác áo đội mũ bước ra cửa. Tôi rảo bước dưới cơn mưa đến bệnh viện.

Tới hành lang tôi gặp cô y tá vừa mới đi xuống.

- Tôi mới gọi dây nói đến khách sạn của ông - Cô ta nói.

Tôi giật mình đánh thót.

- Có chuyện gì thế? - Tôi hỏi.

- Bà Henry bị băng huyết.

- Tôi vào được không?

- Không, chưa được. Có bác sĩ đang ở trong ấy với bà.

- Có nguy không?

- Rất nguy hiểm - Cô ta trả lời rồi vội vã vào phòng khép cửa lại.

Tôi ngồi ngoài hành lang. Đầu óc tôi trống rỗng hoang mang. Tôi không biết tính sao và cũng không thể tính gì được cả. Tôi biết rằng nàng sắp từ giã cuộc sống và tôi cầu nguyện cho nàng đừng chết.

Cô y tá mở cửa và vẫy tay gọi tôi. Tôi theo cô ta vào phòng. Catherine không ngước nhìn. Tôi vội đến gần giường. Vị bác sĩ đứng cạnh giường, phía bên kia. Catherine nhìn tôi nhếch môi. Tôi gục mặt xuống giường khóc oà.

- Tội nghiệp mình - Catherine se sẽ nói.

Da mặt nàng xám ngắt.

- Không sao đâu Catherine ạ, em sắp mạnh hẳn.

- Em sắp chết - Ngừng một giây, nàng nói tiếp - Em không muốn, em không muốn...

Tôi nắm lấy tay nàng.

- Đừng chạm vào em - Nàng nói. Tôi buông tay nàng ra. Nàng mỉm cười - Tội nghiệp mình quá... Được, nào, mình cứ nắm lấy tay em đi.

- Em sẽ khoẻ, Catherine ạ, anh biết em sẽ khỏe.

- Em đã muốn viết cho anh bức thư phòng khi có chuyện gì nhưng em không viết được.

- Em có muốn anh mời một vị linh mục hay một ai khác tới thăm em hay không?

- Chỉ một anh thôi - Và lát sau nàng tiếp - Em không sợ chết, nhưng ý nghĩ về cái chết làm em khiếp.

- Bà đừng nói nhiều thế - Bác sĩ bảo.

- Vâng - Catherine bảo.

- Em có cần anh làm việc gì không? Catherine? Hay là anh đi kiếm cho em cái gì chăng?

- Không - Rồi một lát sau nàng tiếp - Những kỷ niệm chung sống giữa chúng ta, xin anh đừng san sẻ với người đàn bà nào khác, anh nhé? Và những lời ân ái, xin anh đừng trao gởi cho một ai khác, anh nhé?

- Không bao giờ.

- Nhưng dù sao em cũng muốn anh có một phụ nữ khác.

- Anh không thích.

- Bà nói chuyện nhiều quá - Bác sĩ nói - Ông Henry cần phải ra ngoài. Ông ấy có thể trở lại sau. Bà không chết đâu, bà đừng nói dại.

- Vâng - Catherine nói - Đêm đêm sẽ có em đến bên cạnh anh - Nàng nói với vẻ khó khăn.

- Xin ông hãy ra khỏi phòng - Bác sĩ bảo - Đừng để bà ấy nói.

Catherine mặt nhợt nhạt, hướng về phía tôi, chớp mắt.

- Anh sẽ chờ ở cửa - Tôi nói.

- Đừng lo ngại gì, anh nhé. Em chẳng lo sợ tí nào cả. Đó chỉ là một trò đùa xấu xa, thế thôi.

- Em can đảm lên, em yêu quý của anh...

Tôi chờ ngoài hành lang, tôi chờ rất lâu. Cô y tá mở cửa, đến gần tôi và nói :

- Bà Henry trầm trọng lắm. Tôi sợ bà...

- Nàng đã chết rồi sao?

- Chưa, nhưng bà đã mê man.

Hình như nàng băng huyết nhiều, không sao ngăn nổi.

Tôi vào phòng với Catherine và ở đó cho đến khi nàng tắt thở. Nàng không hồi tỉnh và chẳng bao lâu thì chết.

Trong hành lang, tôi hỏi bác sĩ :

- Tôi phải làm gì trong đêm nay?

- Không, không có gì cả. Để tôi đưa ông về khách sạn nhé?

- Thôi cám ơn bác sĩ. Tôi muốn nán lại đây giây lát.

- Tôi không biết nói gì hơn. Tôi không thể nói với ông rằng...

- Không - Tôi nói - Không có gì để nói cả...

- Tạm biệt - Ông ta nói - Ông thật không muốn tôi đưa ông về khách sạn à?

- Thôi, cám ơn bác sĩ.

- Chỉ có cách đó thôi. Cuộc giải phẫu chứng minh rằng...

- Tôi không còn muốn nhắc tới chuyện ấy nữa.

- Tôi muốn được đưa ông về khách sạn.

- Thôi, cám ơn bác sĩ.

Ông khuất dần trong hành lang. Tôi đến gần cửa phòng. Một cô y tá nói :

- Ông không vào được bây giờ.

- Xin lỗi cô - Tôi nói.

- Ông chưa vào được bây giờ.

- Cô đi ra đi, cả cô kia nữa - Tôi nói.

Nhưng sau khi bảo họ đi ra và đóng cửa, tắt đèn, tôi hiểu rằng tất cả đều vô ích. Cũng không khác nào lời nói từ biệt trước một pho tượng. Một lát sau tôi bước ra khỏi phòng, rời bệnh viện, và tôi trở về khách sạn dưới trời mưa.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro