Giã từ vũ khí Q3 c25- c32

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Quyển 3 - Chương 25

Trời sang thu. Cây cối trơ trụi lá và đường xá lầy bùn. Từ Udine tôi đi xe ôtô đến Gorizia. Chúng tôi gặp những xe khác trên đường. Tôi nhìn cảnh vật hai bên. Những cây dâu trơ trụi lá, cánh đồng ngả màu nâu. Những chiếc lá úa rụng từ những hàng cây xơ xác rơi xuống mặt đường có nhiều người đang làm việc. Họ lấy đá chất đống cao bên đường giữa các hàng cây để lấp ổ gà. Chúng tôi thấy thành phố phủ một lớp sương mù che lấp cả núi. Chúng tôi qua sông, nước sông dâng cao. Trên núi trời đã mưa mấy ngày qua. Chúng tôi đi vào thành phố, trước tiên qua mấy xưởng máy, nhà cửa và biệt thự, tôi thấy có thêm nhiều nhà bị trúng bom trên con đường hẹp. Chúng tôi gặp một chiếc xe Hồng thập tự Anh. Người lái xe đội mũ lưỡi trai, khuôn mặt gầy gầy, nước da màu đồng…Tôi không quen hắn. Tôi bước xuống xe ở quảng trường lớn trước toà Đô chính. Người lái xe trao ba lô cho tôi. Tôi khoác ba lô trên lưng, treo lủng lẳng hai chiếc túi bên hông và đi vào toà biệt thự. Tôi không cảm thấy như người đi xa mới được trở về nhà.

Tôi đi theo con đường trải sỏi ướt, vừa đi vừa nhìn toà biệt thự qua hàng cây. Các cửa sổ đều đóng kín, chỉ chừa cửa lớn còn mở. Tôi bước vào, thấy viên thiếu tá đang ngồi ở bàn viết trong một phòng trống, trên tường treo la liệt các bản đồ và các tờ giấy đánh máy.

- Thế nào, khoẻ chứ? – ông hỏi. Trông ông có vẻ già và khô khan hơn trước.

- Tôi khoẻ ạ - tôi đáp – Còn mọi việc ở đây ra sao?

- Xong cả. Bỏ hành lý ra đi và ngồi xuống đây – ông nói.

Tôi bỏ ba lô và hai chiếc túi dết xuống sàn nhà, đặt chiếc mũ lên trên ba lô. Tôi kéo chiếc ghế ở gần tường và ngồi xuống bên cạnh bàn viết.

- Mùa hè bị thất bại – ông nói – Còn anh giờ mạnh hẳn rồi chứ?

- Vâng ạ.

- Anh được thăng chức chứ?

- Vâng, cám ơn ông.

- Đâu, đưa tôi xem.

Tôi mở áo choàng đưa cho ông xem hai cái tua.

- Thế anh có nhận được huy chương không?

- Không, chỉ thấy trên giấy tờ thôi.

- Thế thì nó sẽ đến sau. Việc đó đòi hỏi nhiều thì giờ.

- Bây giờ tôi phải làm gì đây?

- Mấy chiếc xe đi hết. Có sáu chiếc đi lên hướng Bắc, Caporetto. Anh biết Caporetto chứ?

- Vâng – tôi đáp.

Tôi nhớ ra hình ảnh một thành phố nhỏ màu trắng với một gác chuông nằm trong thung lũng. Thành phố tuy nhỏ nhưng sạch sẽ, có rất nhiều vòi nước phun rất đẹp ở quảng trường.

- Bây giờ chúng ta làm việc ở đó đấy. Có rất nhiều bệnh nhân. Chíến cuộc đã tàn rồi.

- Thế còn những chiếc xe kia đi đâu?

- Hai chiếc đi lên núi, còn bốn chiếc ở Bainsizza, còn hai chiếc Hồng thập tự kia thì ở Carso với tiểu đoàn ba.

- Thế bây giờ thiếu tá cần tôi làm gì?

- Nếu thích, anh có thể phụ trách bốn chiếc xe ở Bainsizza. Gino đã lên đó khá lâu. Anh chưa bao giờ đi đến đó phải không?

- Chưa.

- Tệ lắm. Chúng ta mất ba chiếc xe.

- Tôi có nghe nói.

- À, chắc Rinaldi viết cho anh.

- Thế Rinaldi đang ở đâu?

- Hắn đang ở đây, trong bệnh viện này. Hắn phải ở hết mùa hè và mùa thu.

- Tôi cũng tin là thế.

- Thật là kinh khủng. Anh không thể tưởng tượng được. Tôi thường cho là anh rất may mắn khi bị thương ngay từ đầu.

- Tôi biết thế.

- Sang năm còn tệ nữa – thiếu tá nói – không chừng họ sẽ tấn công bây giờ. Người ta nói là bọn chúng sắp tấn công, nhưng tôi không tin thế. Đã muộn rồi. Anh có thấy con sông kia không?

- Có ạ, nước sông đã dâng cao.

- Tôi không tin họ sẽ tấn công vì bây giờ mùa mưa bắt đầu, và lại sắp có tuyết. Mà này, kể chuyện các bạn đồng hương của anh đi. Ngoài anh có người Mỹ nào ở đó nữa không?

- Họ đang huấn luyện một đạo quân mười ngàn người.

- Tôi hy vọng sẽ nhận được thêm một số nữa, nhưng rồi tụi Pháp sẽ cuỗm hết. Chúng ta sẽ không còn thấy người nào ở đây nữa. Thôi được rồi, anh ở lại đây đêm nay. Ngày mai anh lấy xe nhỏ này đi đến đó và cho Gino về. Tôi sẽ cho người đi theo anh để chỉ đường. Gino sẽ nói cho anh. Anh sẽ thích thú ở Bainsizza.

- Thưa thiếu tá, tôi rất hân hạnh được trở lại với thiếu tá.

Ông mỉm cười.

- Cám ơn anh đã nói thế. Tôi đã chán ngán cuộc chiến tranh này lắm rồi. Nếu tôi ra đi thì tôi không tin rằng tôi sẽ trở về được nữa.

- Tệ đến thế cơ à?

- Phải, từ tệ biến thành nguy ngập. Thôi anh hãy đi tắm rửa và gặp anh bạn Rinaldi của anh đi.

Tôi bước ra và mang theo hành lý lên lầu. Rinaldi không có trong phòng, nhưng mọi thức của cậu ta để đó. Tôi ngồi trên giường và tháo bít tất ra. Tôi cởi chiếc giày bên phải và ngả lưng xuống giường. Tôi thấy mỏi mệt và chân phải bị đau. Nằm trên giường với một chân mang giày, trông tôi lúc đó buồn cười quá. Tôi bèn trỗi dậy tháo luôn chiếc kia và để nó rớt xuống đất. Sau đó tôi nằm trở lại trên giường. Gian phòng ngột ngạt vì cửa sổ đóng kín mít nhưng tôi quá mệt mỏi đến độ không muốn đứng dậy mở cửa. Tôi nhìn thấy hành lý của tôi bỏ một đống trong góc phòng. Bên ngoài trời đã bắt đầu tối. Nằm trên giường tôi nghĩ đến Catherine và chờ đợi Rinaldi. Tôi cố gắng không nghĩ đến Catherine chỉ trừ về đêm trước khi tôi ngủ. Nhưng giờ đây tôi đang mệt và rỗi rãi nên tôi có thể nghĩ đến nàng. Tôi đang mơ tưởng đến nàng thì Rinaldi bước vào. Cậu ta không thay đổi nhưng có vẻ gầy đi một tí.

- Thế nào em bé – Cậu ta bảo. Tôi nhổm dậy. Anh đến ngồi bên giường và choàng tay qua người tôi.

- Em bé yêu – Anh vỗ vai tôi và tôi nắm lấy hai tay anh.

- Này cưng – anh nói – Đưa đầu gối cho tớ xem nào.

- Tôi phải cởi quần mới được.

- Cứ tự nhiên đi, chỗ bạn bè với nhau cả mà. Tớ muốn xem người ta đã làm những gì cho cậu.

Tôi đứng lên cởi quần và gỡ giây treo đầu gối xuống. Rinaldi ngồi xổm trên sàn nhà và nhẹ nhàng uốn chân tôi từ đàng trước ra đàng sau. Anh đưa ngón tay xoa lên vết sẹo và để mấy ngón kia lên xương bánh chè và xoa nhè nhẹ.

- Người ta nối các khớp xương cậu lại như thế này thôi ư?

- Ừ.

- Giờ cậu trở lại như thế này là phạm tội đấy nhé. Họ phải chờ cho cử động trở lại bình thường đã.

- Bây giờ đã khá hơn trước nhiều lắm. Lúc trước đầu gối tôi cứng như khúc cây.

Rinaldi lại uốn đầu gối tôi xuống lần nữa. Tôi ngắm đôi tay của anh, anh có đôi tay thần tình của nhà giải phẫu. Tôi nhìn trên đầu anh, mái tóc chải mượt và tươm tất. Anh uốn quá mạnh đầu gối tôi.

- Ái! – tôi la lên.

- Cậu phải theo cách chữa trị bằng máy một thời gian nữa – Rinaldi bảo.

- Thế này trông còn khá hơn trước.

- Tôi biết mà em. Tớ biết nhiều về việc này hơn cậu mà – Rinaldi đứng dậy ngồi lại trên giường – Chính đầu gối thì làm rất dễ - Anh bỏ qua chuyện đầu gối – Nào, hãy kể cho tớ nghe em đã làm được những gì nào?

- Không có gì để kể hết. Mình đã sống một cuộc đời trầm lặng.

- Em có vẻ như người đã có vợ rồi. Có chuyện gì thế?

- Không có chuyện gì cả. – Tôi đáp – Thế còn anh?

- Tớ ấy à? Trận giặc này giết chết mình rồi – Rinaldi bảo – chán quá! – Anh choàng tay qua đầu gối.

- Ồ - tôi bảo.

- Thế nào? Tôi không được phép có những rung động của con người hay sao?

- Không phải. Mình ngỡ là cậu vui vẻ lắm. Có chuyện gì hãy kể cho mình nghe đi.

- Suốt mùa hè và mùa thu này mình bận việc giải phẫu. Rất bận. Những trường hợp nghiêm trọng người ta đều để lại cho mình. Chúa ơi, mình trở thành một nhà giải phẫu cừ khôi.

- Tôi thích như thế hơn.

- Tôi chẳng bao giờ nghĩ tới. Ôi Chúa ơi, tôi chẳng bao giờ nghĩ là mình mổ xẻ rất cừ.

- Rất tốt.

- Nhưng bây giờ em ơi, hết rồi. Mình không còn mổ xẻ nữa và cảm thấy như chết rồi. Cuộc chiến tranh này ghê gớm quá em ạ. Mình nói như vậy cậu có thể tin. Nào bây giờ em nói chuyện cho vui lên một tí đi. Em có mang đĩa hát về không nào?

- Có.

Đĩa hát bọc giấy, để trong bìa hộp các tông trong ba lô. Lấy nó ra cũng mệt.

- Còn về phần em, cũng không hay à?

- Ồ, ngốc ạ, không.

- Chiến tranh này thật là khủng khiếp – Rinaldi bảo – Nào chúng ta đi nhậu cho thật say, cho vui. Cậu sẽ thấy nó làm cho chúng ta phấn chấn.

- Tớ vừa mới mắc bệnh hoàng đản cho nên không uống nhiều rượu được.

- Ồ em bé, em trở lại đây với một con người nghiêm trang ý tứ thế kia à? Mình đã bảo cậu là cuộc chiến tranh này vô nghĩa. Thế sao chúng ta lại phải đeo đuổi nó chứ?

- Chúng ta sẽ uống một tí. Mình không muốn say nhưng sẽ uống một ly.

Rinaldi đi qua phòng đến bên bàn rửa mặt và quay lại với một chai cô nhắc và hai cái ly.

- Rượu cô nhắc Áo đấy – anh nói – Nhãn hiệu với bảy ngôi sao. Toàn bộ chiến lợi phẩm lấy được ở San Gabrielle đấy.

- Lúc đó anh có ở đấy không?

- Không, mình không hề ở đấy. Lúc đó mình ở đây để mổ xẻ suốt. Này em xem, đây là cái ly đánh răng cũ của em đấy. Anh giữ kỹ để tưởng nhớ đến em.

- Và nhắc nhở anh đánh răng.

- Không, mình cũng có một cái nữa mà. Mình giữ cái này để nhớ lúc trước mỗi buổi sáng em làm gì. Cứ mỗi lần nhìn tới cái ly này, mình nhớ tới chuyện em cố tẩy sạch lương tâm bằng cái bàn chải – Anh lại gần giường – Hôn mình một cái đi nào và cam đoan với mình là em không hề đạo mạo.

- Không mình không bao giờ hôn cậu. Cậu là một con khỉ già.

- Tớ biết mà, cậu là loại Anglo Saxon lý tưởng. Tớ biết cậu là thằng con trai đang bị lương tâm cắn rứt, hối hận. Mình đợi đến lúc tên Anglo Saxon đó đánh tan sự truỵ lạc của mình bằng một cái bàn chải đánh răng.

- Rót thêm rượu vào ly nữa đi.

Chúng tôi cụng ly và uống cạn. Rinaldi nhìn tôi cười.

- Tớ sẽ làm cho cậu say, móc lá gan của cậu ra và cho vào đó lá gan của một người Ý mạnh khoẻ rồi biến cậu trở thành con người như cũ.

Tôi đưa ly cho anh rót thêm rượu. Bên ngoài trời đã tối hẳn. Cầm ly rượu trong tay, tôi tiến lại mở cửa sổ. Trời đã tạnh mưa. Bên ngoài trời lạnh hơn và sương mù bao phủ các ngọn cây.

- Đừng hất rượu cô nhắc qua cửa sổ đấy – Rianaldi bảo – Cậu không uống được thì đưa cho tớ.

- Đến mà lấy – tôi bảo.

Tôi vui mừng được gặp lại Rinaldi. Hai năm nay cậu ta luôn luôn chọc ghẹo tôi và tôi lấy thế làm thích. Chúng tôi luôn luôn hợp ý nhau.

- Em đã lấy vợ chưa? – anh hỏi tôi.

Rinaldi ngồi trên giường, còn tôi đứng dựa lưng vào tường cạnh cửa sổ.

- Chưa.

- Cậu đang yêu phải không?

- Phải.

- Với cô gái người Anh đó chứ?

- Phải.

- Tội nghiệp em nhỏ, thế nàng có ngoan ngoãn với em không?

- Dĩ nhiên là có.

- Mình muốn nói là nàng có ngoan ngoãn một cách…một cách cụ thể hơn cơ.

- Im đi.

- Được rồi, mình sẽ chứng tỏ cho cậu biết mình là một người rất tế nhị, thế nàng có…

- Rinaldi, tôi van anh hãy im đi. Nếu anh muốn trở thành bạn của tôi thì anh hãy im đi.

- Mình không muốn trở thành bạn của cậu, vì mình đang là bạn của cậu kia mà?

- Vậy thì hãy im đi.

- Được rồi.

Tôi tiến lại giường ngồi bên cạnh Rinaldi. Ly cầm ở tay, hắn nhìn sàn nhà.

- Rinaldi, anh thấy như thế nào?

- Ồ, suốt đời mình gặp nhiều vấn đề thiêng liêng nhưng với em thì quá ít. Mình nghĩ cậu cũng phải có – Anh nhìn xuống sàn nhà.

- Thế em không có chuyện gì thiêng liêng sao?

- Không.

- Tuyệt nhiên một chuyện nào hết cả ư?

- Không.

- Ngay cả chuyện mẹ em và em gái em nữa ư?

- Ngay cả chuyện em gái em – Rinaldi nói nhanh. Hai chúng tôi phá lên cười.

- Thực là một con người kỳ dị - tôi bảo.

- Có lẽ mình ghen cũng nên – Rianaldi nói.

- Không, không phải thế.

- Mình không muốn nói đến loại ghen thế. Mình muốn nói chuyện khác. Cậu có người bạn nào lập gia đình rồi không?

- Có – tôi đáp.

- Mình thì không. Nhất là khi họ yêu nhau.

- Tại sao thế?

- Vì thế họ không yêu mình.

- Tại sao vậy?

- Tại vì mình là con rắn, con rắn của lẽ phải.

- Anh nhầm lẫn mất rồi. Quả táo mới là lẽ phải.

- Không, chính là rắn.

Trông Rinaldi có vẻ vui hơn.

- Khi anh không suy nghĩ sâu xa thì trông anh có vẻ khá hơn.

- Anh thích em lắm, em bé ạ. Nếu anh xét đóan chắc là em sẽ công kích. Nhưng mình biết nhiều điều mà mình không thể nói ra được. Anh biết nhiều hơn em mà.

- Phải, dĩ nhiên là như vậy.

- Nhưng em sẽ hạnh phúc hơn, cho dù có hối hận em cũng sẽ hạnh phúc hơn.

Nhưng tôi không tin thế.

- Ồ đúng mà. Đúng là sự thật mà. Còn mình, mình chỉ tìm thấy hạnh phúc khi làm việc – Anh lại nhìn xuống sàn nhà.

- Anh sẽ được toại nguyện.

- Không, mình chỉ thích có hai điều. Một, có hại cho nhiệm vụ của mình, còn một nữa thì chỉ kéo dài độ nửa giờ hoặc mười lăm phút, đôi khi ít hơn.

- Đôi khi còn ít hơn thế nữa.

- Có lẽ anh đã tiến bộ nhiều rồi đấy, em bé không biết à. Nhưng chỉ có hai điều đó và công việc.

- Rồi anh sẽ thấy những cái khác nữa.

- Không, không bao giờ chúng ta thấy gì khác hơn được nữa. Chúng ta sinh ra với tất cả những gì chúng ta có và chúng ta không bao giờ thay đổi cả. Chúng ta không bao giờ được thêm cái gì mới cả. Chúng ta đã được đầy đủ ngay từ lúc đầu. Mình thích mình không phải là người La tinh.

- Điều đó không có ở người La tinh. Tôi muốn nói là tư tưởng La tinh. Anh lại quá tự hào với các khuyết điểm của anh.

Rinaldi nhìn lên và mỉm cười.

- Đủ rồi em bé, nghĩ nhiều quá phát mệt.

Lúc mới bước vào trông Rinaldi có vẻ mệt mỏi.

- Sắp đến giờ ăn rồi. Mình rất vui khi thấy cậu trở lại. Cậu là người bạn chí thân và là chiến hữu của mình.

- Bao giờ thì các chiến hữu đi ăn? – tôi hỏi.

- Ngay bây giờ. Chúng ta sẽ uống thêm một lần nữa để cho lá gan của em mạnh lên.

- Giống như thánh Paul.

- Không đúng thế. Đấy là rượu và dạ dày. Uống một it rượu cho ấm dạ dày.

- Uống bất cứ thứ gì anh có trong chai – tôi nói – và vì điều tốt lành cho bất cứ ai mà anh muốn.

- Uống để chúc mừng người bạn đời của cậu – anh nâng ly lên.

- Được lắm.

- Mình không bao giờ nói chuyện nhảm nhí về nàng.

- Đừng quá cố sức như thế.

Anh nốc cạn ly cô nhắc.

- Mình trong sạch lắm, trong sạch như em vậy. Mình cũng sẽ tìm một cô gái trẻ người Anh. Sự thực là mình biết cô ta trước em, cô gái người Anh ấy mà, chỉ có một điều là cô ta hơi cao hơn mình một tí. Một cô gái cao hơn mình thì khác gì là chị mình.

- Tâm hồn anh thật trong sạch đáng mến – tôi nói.

- Thật như vậy à? Thảo nào mà người ta gọi mình là “Rinaldi trong sạch”.

- Hay là “Rinaldi khỉ già”…

- Thôi đi em. Chúng ta hãy đi ăn vào lúc tâm hồn còn trong sạch.

Tôi tắm rửa, chải đầu rồi chúng tôi cùng đi xuống cầu thang. Rinaldi hơi chếnh choáng. Trong phòng ăn, bữa ăn còn chưa dọn xong.

- Để mình đi lấy chai rượu – Rinaldi nói.

Rinaldi lại lên cầu thang. Tôi ngồi vào bàn. Anh trở lại với chai cô nhắc và rót đầy hai ly.

- Nhiều quá – tôi đưa ly lên soi về phía ánh đèn trên bàn.

- Có thấm vào đâu với cái bụng trống rỗng. Tuyệt lắm. Như thế này dạ dày sẽ hoàn toàn bị đốt cháy. Không có gì hại cho gan cả.

- Được rồi.

- Tự huỷ hoại mình mỗi ngày một ít – Rinaldi nói – rượu sẽ làm hại dạ dày và run tay. Toàn là những việc có hại cho nghề giải phẫu.

- Anh đoan chắc như thế chứ?

- Chắc chắn như vậy. Mình không nói sai đâu. Uống đi em rồi chờ ngày bị ốm.

Tôi uống nửa ly. Ngoài hành lang tôi nghe thấy tiếng người hầu bàn kêu lên:

- Xúp đây. Xúp dọn sẵn rồi.

Thiếu tá bước vào, gật đầu chào chúng tôi và ngồi xuống. Ngồi vào bàn, trông ông ta nhỏ người.

- Có thế thôi hả? – ông ta hỏi.

Người phục vụ đặt xúp lên bàn. Ông múc đầy ra đĩa.

- Không – Rinaldi bảo – Miễn là cha tuyên uý không đến. Nếu ông ta biết có Federico ở đây, ông ta sẽ đến.

- Thế ông ấy ở đâu? – tôi hỏi.

- Ông ấy ở tiểu đoàn 307 – thiếu tá nói. Ông dùng xúp xong và lau miệng, lau kỹ bộ ria mép vểnh lên.

- Có lẽ cha sắp đến. Tôi đã gọi điện và báo cho cha biết là có anh ở đây.

- Tôi thấy thiếu không khí ỗn ào của buổi ăn chung – tôi nói.

- Phải, yên lặng quá – thiếu tá bảo.

- Để tôi gây ồn ào cho – Rinaldi nói.

- Dùng rượu chứ Henry? – thiếu tá hỏi.

Ông ta rót đầy ly cho tôi. Món mì Ý được mang vào và tất cả chúng tôi đều bận rộn với món ăn này một lát. Chúng tôi ăn xong mì thì cha bước vào. Ông trông không thay đổi, vẫn người nho nhỏ, nước da sạm nắng và khuôn mặt khắc khổ. Tôi đứng dậy siết chặt tay tôi. Ông để tay lên vai tôi và nói:

- Tôi đến ngay khi hay tin anh trở lại…

- Mời cha ngồi – thiếu tá nói – Cha đến hơi muộn.

- Chào cha – Rinaldi nói bằng tiếng Anh. Hắn nói giọng pha tiếng Anh của viên đại uý đã thường dùng để chế giễu vị linh mục.

- Chào anh, Rinaldi – cha tuyên uý đáp lại.

Lính hầu bàn mang xúp đến cho ông nhưng ông bảo ông sẽ bắt đầu bằng món mì Ý này.

- Anh mạnh giỏi chứ? – ông hỏi tôi.

- Vâng, tôi rất khoẻ. Còn cha?

- Cha uống rượu đi – Rinaldi bảo – Cha uống một tí rượu cho dạ dày dễ làm việc, đây là thánh Paul, cha biết mà.

- Phải tôi biết – vị linh mục nói với vẻ trịnh trọng. Rinaldi rót rượu vào ly.

- Thánh Paul thiêng liêng – Rinaldi nói – Chính từ thánh xảy ra mọi điều xấu xa.

Viên thiếu tá mỉm cười. Bây giờ chúng tôi đang dùng đến món ragu.

- Tôi không bao giờ dám bàn luận đến một ông thánh lúc tối trời – tôi nói.

Vị linh mục nhìn tôi mỉm cười.

- Xem tôi đây, tôi đang ngồi cạnh cha đây – Rinaldi nói – Còn những người bạn đã từng chọc phá cha đâu cả rồi. Brundi đâu? Cesare đâu? Để một mình tôi trêu ghẹo cha thôi à, không có ai phụ hoạ với tôi sao?

- Cha là một vị linh mục tốt – thiếu tá nói.

- Cha là một vị linh mục tốt – Rinaldi lặp lại – Nhưng cha vẫn là một vị linh mục, không hơn không kém. Tôi ráng làm cho bữa ăn chung hôm nay sống động trở lại như những bữa ăn trước kia. Tôi muốn làm cho Federico vui thích. Còn cha, cha hãy cút đi là vừa.

Tôi thấy thiếu tá nhìn hắn và hiểu rằng hắn đã say. Mặt anh tái đi, đường ngôi rẽ thẳng xuống vầng trán trắng xanh.

- Thế đủ rồi – vị linh mục bảo – thế đủ lắm rồi Rinaldi, hãy thôi đi.

- Cha hãy cút đi – Rinaldi bảo – Cha hãy cút đi với tất cả các công việc vớ vẩn. – Anh ngả xuống ghế.

- Hắn ta làm việc quá sức và mệt mỏi – thiếu tá nói với tôi. Ông dùng xong miếng thịt cuối cùng và dùng một mẩu bánh mì vét sạch nước sốt ragu.

- Tôi không cần gì cả - Rinaldi nói – Hãy cút đi với tất cả các công việc vớ vẩn – Anh nhìn quanh bàn ăn với vẻ mặt thách đố, mắt long lên và gương mặt xám ngoét.

- Được rồi – tôi bảo – Cút đi với tất cả các công việc ngớ ngẩn.

- Không, không – Rinaldi bảo – Em không thể nói thế. Em không nên nói thế. Tôi bảo là anh không nên nói như thế mà. Người ta khô khan, trống rỗng và không có gì cả. Không có gì để kể với anh cả. Không có việc gì nhỏ nhen chê trách cả. Tôi biết, tôi am tường khi tôi ngưng làm việc.

Cha tuyên uý lắc đầu. Người phục vụ dọn đĩa ra gu.

- Cha ăn thịt đấy ư? – Rinaldi quay sang vị linh mục – Cha không biết hôm nay là ngày thứ sáu sao?

- Thứ năm mà – vị linh mục trả lời.

Rinaldi cười lớn. Hắn rót rượu đầy ly.

- Đừng chú ý – anh nói – tôi hơi điên.

- Anh cần phải được đi nghỉ phép – cha tuyên uý bảo.

Thiếu tá lắc đầu ra hiệu cho cha tuyên uý. Rinaldi nhìn ông:

- Ông cho rằng tôi phải đi nghỉ phép à?

- Tuỳ ý anh – vị linh mục nói – Còn anh không muốn thì thôi.

- Ông xéo đi – Rinaldi nói – Họ cố tình gạt tôi ra mà. Nhưng tôi phải kháng cự.

- Thế đủ rồi – thiếu tá nghiêm nghị ngắt lời.

Người hầu bàn mang đồ tráng miệng và cà phê vào. Món tráng miệng là bánh mì nướng có trét kem. Ngọn đèn dầu bốc khói, khói đen bốc thẳng lên cửa kính.

- Mang cho chúng tôi hai ngọn bạch lạp và dẹp cây đèn dầu này đi – viên thiếu tá bảo.

Người hầu bàn đem đến hai ngọn nến đặt trên hai cái đĩa, tắt ngọn đèn dầu rồi mang đi nơi khác. Rinaldi đã im và trông anh có vẻ bình thường. Chúng tôi tiếp tục cùng nhau chuyện trò và sau tuần cà phê, tất cả đều rời khỏi phòng ăn và đi ra hành lang.

- Anh muốn nói chuyện với cha chứ? Tôi phải vào thành phố - Rinaldi bảo – Chào cha.

- Chào anh Rinaldi – cha tuyên uý đáp lại.

- Chúng mình sẽ gặp lại nhau Federico – Rinaldi bảo.

- Vâng chào anh – tôi nói – Đừng về muộn nhé.

Anh ta nhăn mặt và bước ra khỏi cửa. Thiếu tá đứng gần chúng tôi nói:

- Rinaldi làm việc quá sức và quá mệt mỏi. Thôi chào anh, Henry, anh sẽ rời khỏi nơi này trước khi trời sáng chứ?

- Thưa vâng.

- Thôi chào anh – ông nói – Chúc anh gặp nhiều may mắn. Peduzzi sẽ đánh thức anh và cùng đi với anh.

- Xin chào thiếu tá.

- Chào anh. Nghe nói sắp có một cuộc tấn công của bọn Áo, nhưng tôi không tin điều đó. Hy vọng là tin đó không đúng. Nhưng dù thế nào cũng sẽ không xảy ra trong khu vực này. Gino sẽ cho anh biết mọi thứ. Đường giây điện thoại đến giờ vẫn tốt.

- Tôi sẽ gọi điện thoại thường xuyên.

- Xin vui lòng làm vậy, chào anh. Đừng để cho Rinaldi uống nhiều rượu mạnh nhé.

- Tôi sẽ cố gắng.

- Chào cha.

- Chào thiếu tá.

Ông đi vào phòng làm việc.

Chương 26

Tôi đi lại phía cửa và nhìn ra ngoài. Mưa đã dứt nhưng có sương mù.

- Chúng ta đi lên gác chứ? – tôi hỏi vị linh mục.

- Tôi chỉ có thể nán lại đây giây lát thôi.

- Vậy thì ta đi lên.

Chúng tôi đi lên thang gác và bước vào phòng riêng của tôi. Tôi nằm xuống giường của Rinaldi. Cha tuyên uý ngồi vào giường của tôi mà người cần vụ vừa sửa soạn. Trong phòng tối om.

Vị linh mục hỏi tôi:

- Sao? Anh đã khoẻ lại thật rồi chứ?

- Vâng. Chiều nay tôi mệt.

- Tôi cũng mệt nhưng không vì lý do nào cả.

- Thế còn chiến tranh?

- Tôi tin là nó sẽ chấm dứt. Tôi chẳng biết tại sao nhưng tôi cảm thấy là như thế đấy.

- Thế là thế nào?

- Anh có biết vị thiếu tá chỉ huy hiền lành của anh là thế nào không? Thế đấy, bây giờ nhiều người cũng như ông ấy.

- Chính tôi cũng cảm thấy như thế - tôi nói.

- Chúng ta đã qua một mùa hè kinh hoàng – cha tuyên uý nói – Anh sẽ chẳng bao giờ biết nó đã ra sao. Tuy nhiên anh đã ở dưới ấy và anh có thể tự hình dung ra. Nhiều người chỉ thấy cuộc chiến tranh trong mùa hè năm nay. Nhiều sĩ quan tôi tưởng không bao giờ hiểu được giờ đã hiểu ra.

- Thế rồi cục diện sẽ ra sao? – tôi vừa hỏi vừa vuốt cái chăn.

- Tôi cũng không rõ. Nhưng tôi nghĩ rằng nó không thể tiếp tục quá lâu.

- Thế thì việc gì sẽ xảy đến?

- Họ sẽ đình chiến.

- Ai?

- Cả đôi bên.

- Tôi cũng hy vọng như vậy – tôi nói.

- Anh không tin sao?

- Tôi không tin là cả đôi bên sẽ ngưng chiến trong cùng một lúc.

- Cứ cho là như thế đi. Đó là một yêu cầu quá cao. Nhưng khi tôi nhìn thấy tất cả những thay đổi đó trong lòng người là nó không thể tiếp tục được.

- Ai thắng trong mùa hè này?

- Không ai cả. – Cha tuyên uý nói.

- Bọn Áo thắng – tôi nói – Bọn chúng cố giữ không cho chiến thắng ở San Gabrielle. Như vậy là chúng ta đã thắng và bọn chúng sẽ không chịu ngừng chiến.

- Nếu họ nghĩ như chúng ta, họ sẽ ngừng chiến. Họ cũng đã đau khổ nhiều như chúng ta.

- Chẳng bao giờ kẻ chiến thắng dừng lại.

- Anh nản chí quá.

- Tôi nghĩ sao thì nói vậy.

- Như vậy anh nghĩ rằng chiến tranh sẽ kéo dài mãi mãi sao? Sẽ không có chuyện gì xảy đến phải không?

- Tôi không biết. Tôi chỉ nghĩ là bọn Áo sẽ không bao giờ ngưng chiến chừng nào bọn chúng còn thắng trận. Vì chiến bại mà người ta trở thành những tín đồ Cơ đốc giáo.

- Bọn Áo cũng là những tín đồ Cơ đốc giáo chỉ trừ người Bosni.

- Tôi không muốn nói đến tín đồ Cơ đốc giáo như nghĩa chữ. Tôi muốn nói chúng ta thất bại như đấng Cứu thế của chúng ta.

Ông lặng thinh.

- Giờ đây chúng ta hiền lành vì chúng ta bị thua. Chẳng biết đấng Cứu thế của chúng ta sẽ ra như thế nào nếu lúc bấy giờ thánh Pierre giải thoát được Người trong vườn Olive.

- Người cũng sẽ như vậy thôi.

- Tôi không tin thế.

- Anh nản lòng quá. Tôi tin là có điều gì đó sắp đến và tôi không ngớt lòng cầu nguyện. Tôi cảm thấy việc ấy sắp đến.

- Có khả năng sẽ có một việc gì xảy đến – tôi nói – Nhưng chỉ xảy đến riêng cho chúng ta thôi. Nếu họ cũng nghĩ như chúng ta thì thật tuyệt. Nhưng họ đánh bại chúng ta. Họ nghĩ khác hơn chúng ta.

- Nhiều binh sĩ cũng lập luận như chúng ta nhưng không phải vì họ bị tấn công.

- Họ bị tấn công ngay từ đầu. Họ bị tấn công ngay từ lúc người ta dứt họ ra khỏi trang trại và xung họ vào quân ngũ. Vì lý do đó người dân quê có lương tri vì họ từng chiến bại ngay từ lúc ban đầu. Hãy ban cho họ quyền lực đi rồi ta sẽ thấy lương tri của họ như thế nào.

Vị linh mục lặng thinh ra chiều nghĩ ngợi.

- Bây giờ chính tôi cũng đã chán nản quá rồi. Thế cho nên tôi cũng không còn muốn nghĩ đến những việc đó nữa. Tôi không hề nghĩ ngợi tuy nhiên khi bắt đầu nói thì tôi nói những gì hiện ra trong trí óc tôi mà chuyện đắn đo gì cả.

- Tôi đã từng hy vọng mấy điều.

- Thất trận chăng?

- Không có cái gì hơn thế cả, ngoại trừ chiến thắng. Điều này lại còn tệ hơn nữa.

- Đã từ lâu rồi, tôi ước mong chiến thắng.

- Tôi cũng thế.

- Bây giờ tôi không còn hy vọng nữa.

- Thì hoặc là chiến thắng hoặc là chiến bại chứ còn gì.

- Tôi không còn tin tưởng vào chiến thắng nữa.

- Tôi cũng thế. Nhưng tôi cũng không tin là sẽ chiến bại. Dù sao như thế sẽ có giá trị hơn.

- Thế anh tin tưởng gì nào?

- Giấc ngủ - tôi nói.

Ông đứng lên.

- Xin lỗi anh, tôi đã ở lại quá lâu. Nhưng tôi rất thích đàm đạo với anh như vậy.

- Tôi rất hân hạnh đã nói chuyện thêm một lần nữa. Tôi không có ý gì khi nói về giấc ngủ đâu.

Chúng tôi đứng lên và bắt tay nhau trong bóng tối.

- Bây giờ tôi ngủ ở tiểu đoàn 307.

- Sáng mai tôi sẽ lên trạm sớm.

- Chúng ta sẽ cùng đi dạo và chuyện trò.

Tôi tiễn vị linh mục ra tận cửa.

- Thôi anh khỏi phải xuống – ông nói – Anh trở lại đây thật quý hoá quá, mặc dù đối với anh thật không thích thú gì – Ông vừa nói vừa đặt tay lên vai tôi.

- Đối với tôi không có gì buồn phiền cả. Chúc cha ngon giấc.

- Vâng, chào anh.

Tôi đã buồn ngủ rũ ra rồi.

Chương 27

Tôi choàng dậy khi Rinaldi bước vào phòng nhưng anh không nói gì với tôi cho nên tôi tiếp tục ngủ lại. Sáng hôm sau tôi mặc quần áo và ra đi trước bình minh, Rinaldi hãy còn ngủ say khi tôi rời phòng.

Tôi chưa biết gì về Bainsizza, và tôi thấy thật kỳ lạ khi phải leo lên sườn đồi thuộc bọn Áo, phía bên kia sông, nơi tôi bị thương dạo trước. Trên con đường dốc mới thẳng đứng có nhiều xe chạy. Xa xa, đến đoạn đường bằng phẳng, tôi nhìn thấynhững khu rừng và đồi hiểm trở nằm ẩn khuất sau sương mù. Vài khu rừng đã bị đánh chiếm nhanh chóng và không hề bị huỷ hoại. Xa hơn nữa, khi con đường không được đồi núi che khuất, thì nó lại được che phủ bởi những tấm ngụy trang ở hai bên và cả phía trên. Cuối đường là một ngôi làng đã bị tàn phá. Hầm hào ở cao hơn và người ta đã đặt nhiều trọng pháo chung quanh. Nhà cửa bị hoàn toàn phá huỷ nhưng tất cả đã được xếp đặt lại đâu vào đấy và người ta thấy nhan nhản những biển báo. Chúng tôi tìm gặp Gino, anh đãi chúng tôi một chầu cà phê, sau đó tôi theo anh. Tôi làm quen với nhiều người và đi thăm các trạm. Gino cho tôi biết những chiếc xe lửa của Anh đang đảm bảo công tác ở Ravne, cách xa Bainsizza một tí. Anh có vẻ phục công việc của người Anh. “Địch vẫn còn nã trọng pháo” – Anh nói “nhưng bị thương không bao nhiêu”. Lúc này đà bắt đầu mùa mưa nên có nhiều người bị ốm. Bọn Áo buộc phải tấn công nhưng anh không tin gì cả. Bên ta cũng định tấn công nhưng chưa nhận được viện binh nên anh nghĩ việc ấy cũng không thành. Lương thực thì khan hiếm nên anh hy vọng có được một bữa ăn thật sự ở Gorizia. Chiều nay tôi đã dùng gì? Tôi kể với anh và anh cho đó là tuyệt diệu. Anh ta đặc biệt ngạc nhiên về loại bánh Dolce, tôi không thể miêu tả tỉ mỉ loại bánh đó được mà chỉ nói vắn tắt đó là một loại bánh Dolce, và tôi tin rằng anh ta sẽ tưởng đó là một thứ gì bánh gì khác lạ hơn thứ bánh thường bằng ruột bánh mì.

Anh hỏi tôi có biết người ta sẽ cử anh đi đâu không. Tôi trả lời tôi không biết gì cả nhưng có vài chiếc xe của chúng tôi đang ở Caporetto. Anh hy vọng rằng người ta sẽ gởi anh đến đó. Caporetto là một nơi nhỏ hẹp nhưng rất nên thơ. Anh yêu thích những dãy núi cao ngất sừng sững phía xa. Anh là một thanh niên đáng mến. Anh bảo với tôi rằng San Gabrielle bây giờ thực sự là một địa ngục trần gian và cuộc tấn công vào Lom hoàn toàn thất bại. Anh nói bọn Áo đã đặt sẵn nhiều khẩu trọng pháo trong các khu rừng trên đỉnh núi Ternova, phía trên chỗ chúng tôi khá xa, và ban đêm chúng pháo kích dữ dội vào những con đường. Và có cả một đội đại bác hải quân đến quấy phá nơi đó. Anh nhận ra các trái phá do chúng bắn ra qua đường bắn thấp. Người ta nghe tiếng nổ ì ầm và tiếng rít liền sau đó. Chúng thường hay bắn hai cỗ đại bác cùng một lúc, thay phiên nhau. Anh đưa cho tôi xem một mảnh đạn bóng loáng, nhọn như răng cưa và dài khoảng 30 phân.

- Tôi không ngờ chúng bắn dai dẳng đến thế - Gino nói – Chúng cũng đã làm cho tôi khiếp sợ đấy. Ai cũng tưởng là chúng rơi trên đầu mình. Trước hết là người ta nghe thấy tiếng nổ, tiếp theo sau đó là tiếng rít rồi lại tiếng nổ. Người ta có thể chết vì bị khiếp đảm chứ đừng nói chi là bị thương.

Anh nói:

- Trong những hầm trú ẩn ở trước mặt chúng ta có những thổ dân và một vài người Hungari. Quân ta vẫn còn chiếm giữ vị trí tấn công. Không có một đường dây kẽm gai nào hoặc một hầm trú ẩn nào trong trường hợp bọn Áo tấn công. Dọc theo những ngọn núi thấp trên cao nguyên, có nhiều điểm tựa thích hợp cho sự phòng thủ nhưng người ta lại không tổ chức gì cả. Thực ra tôi liên tưởng đến Bainsizza ấy.

Tôi mong rằng Bainsizaa là một vùng bằng phẳng hơn, hay ít nhất nó cũng giống như một cao nguyên. Tôi không thể tưởng tượng được tại sao nó lại gồ ghề đến thế.

- Ước mong và thực tế không giống nhau – Gino nói.

Chúng tôi trở lại căn hầm chứa rượu trong ngôi nhà mà anh đã trú ngụ. Tôi nói:

- Theo tôi nghĩ thì đỉnh dãy đồi mà bằng phẳng nhưng lại có độ sâu đáng kể ấy sẽ giúp cho việc phòng thủ dễ dàng và thuận lợi hơn là một dãy núi nhỏ kế tiếp nhau. Tấn công lên một ngọn núi bao giờ cũng khó khăn hơn ở đồng bằng.

- Điều đó còn tuỳ thuộc theo những địa thế của ngọn núi. Cứ nhìn San Gabrielle thì rõ – anh ta nói.

- Đúng rồi nhưng điều bất lợi từ trên cao nơi quá bằng phẳng. Người ta tiến lên đỉnh khá dễ.

- Không dễ dàng như thế đâu.

- Phải, tôi đồng ý với anh – tôi đáp – Nhưng đó lại là một trường hợp đặc biệt vì nó là một thành luỹ hơn là một ngọn núi. Nghĩa là trong một cuộc chiến tranh cơ động thì về mặt kỹ thuật, một dãy núi kế tiếp nhau cũng không hơn gì một chiến tuyến.

Tôi nói thêm rằng tôi không tin tưởng gì vào chiến trận ở rừng núi. Mình chiếm được ngọn này thì địcn quân lại chiếm được ngọn khác, đến khi chiến trận trở nên thật sự quyết liệt thì cả đôi bên đều vội vã kéo nhau xuống đồng bằng.

- Làm thế nào được khi có biên giớinúi non hiểm trở? – anh nói.

Tôi trả lời:

- Tôi chưa hề nghiên cứu vấn đề đó. (chúng tôi cùng nhau cười lớn). Nhưng ngày xưa bọn Áo luôn luôn bị càn quét trong một chu vi vuông vức quanh vùng Verona. Người ta để chúng xuống đồng bằng rồi quét sạch chúng ở đấy.

- Phải rồi – Gino nói – Nhưng đấy là những người Pháp, và giải quyết chiến sự dễ dàng hơn khi chiến đấu ở xứ sở của người khác.

- Vâng – tôi đồng ý – nhưng khi nơi đó là quê hương của anh thì anh không thể áp dụng lối giải quyết một cách khoa học như thế được.

- Người Nga đã làm như thế để gài bẫy Napoléon.

- Phải, nhưng nước của họ rộng mênh mông. Nếu anh giả vờ rút lui để gài bẫy Napoléon ở Ý thì anh sẽ gặp trường hợp ở Brindisi vậy.

- Một thành phố ghê tởm – Gino nói – Anh có đến đó bao giờ chưa?

- Chưa, tôi chưa đến đó bao giờ cả.

- Tôi là một người yêu nước – Gino bảo – Nhưng tôi không thể nào thích Brindisi lẫn Tarento.

- Vậy thì anh thích Brainsizza chứ? – tôi hỏi.

- Đó là nơi đất lành. Nhưng tôi muốn ở đó được trồng nhiều khoai tây hơn. Anh biết không, khi chúng tôi mới để chân đến chốn này, chúng tôi đã thấy những cánh đồng mà bọn Áo trồng toàn khoai tây.

- Lương thực có thật là khan hiếm không?

- Riêng tôi, không bao giờ tôi được ăn no và tôi ăn rất khoẻ. Tuy nhiên tôi không đến nỗi phải chết đói. Các bữa ăn vẫn bất thường. Ở các chiến tuyến, các đoàn quân được ăn uống khá đầy đủ, nhưng các đoàn quân yểm trợ thì lại thiếu thốn. Chắc chắn là lương thực vẫn dồi dào nhưng bị vướng mắc đâu đó.

- Bọn hậu cần lấy bán đi chứ gì?

- Phải, chúng phân phát đầy đủ cho các sư đoàn ở chiến tuyến, còn những đơn vị ở hậu tuyến thì chịu thiếu thốn. Họ đã ăn hết khoai tây bọn Áo trồng và cả hạt dẻ trong rừng nữa. Phải nuôi nấng họ tốt hơn thế này. Chúng tôi là những kẻ khoẻ ăn. Tôi chắc chắn rằng lương thực rất dồi dào. Nhưng thực là một điều tàn nhẫn khi để cho quân lính chịu thiếu thốn thức ăn. Anh có nghĩ điều đó ảnh hưởng đến tinh thần thế nào không?

- Phải – tôi nói – như thế đã không thể nào chiến thắng được mà có thể lại chiến bại nữa là khác.

- Chúng ta không nên bàn đến việc thất trận nữa. Người ta đã nói đến nó nhiều rồi. Những sự kiện trong mùa hè này không thể nào bỏ qua được.

Tôi im lặng. Tôi luôn luôn bị bối rối vì những tiếng thiêng liêng, vinh quang, hy sinh và từ ngữ “bỏ qua vô ích”. Chúng tôi đã từng nghe những tiếng ấy khi đứng ngoài trời mưa, hầu như không lọt vào tai, chỉ nghe thấy những tiếng thét. Chúng tôi đã đọc những tiếng ấy trên tờ thông cáo đã dán lâu ngày chồng lên những tờ thông cáo khác. Tôi không thấy gì là thiêng liêng cả. Những điều người ta gọi là quang vinh thì không có gì là quang vinh cả. Nhưng sự hy sinh thì giống như những lò mổ lợn ở Chicago chỉ khác là thịt chỉ dùng để chôn đi thôi. Có nhiều danh từ người ta không thể nào chịu đựng được khi nghe và cuối cùng chỉ có những danh từ địa phương là còn giữ được đúng ý nghĩa của nó. Cả những con số, cùng với những ngày tháng năm cũng thế. Với những tên địa phương người ta còn thấy có một chút ý nghĩa. Còn những danh từ trừu tượng như vinh quang, danh dự, dũng cảm hay thiêng liêng đều là những tiếng thô bỉ so với những danh từ cụ thể như tên làng mạc, số các con đường, tên những con sông, số các tiểu đoàn và ngày tháng năm. Gino là một người giàu lòng yêu nước, vì lắm khi anh ta nói ra những câu làm chúng tôi cảm thấy cách biệt nhau, nhưng anh ta là một thanh niên tốt, dễ thương, tôi đã hiểu rõ lòng yêu nước của anh. Anh sinh ra để mà yêu nước. Anh cùng đi với Peduzzi trên một chiếc xe để đến Gorizia.

Suốt ngày hôm ấy trời xấu. Gió rít, mưa rơi, nước đọng, bùn lầy khắp nơi. Với cát vụn của các căn nhà đổ nát xám thẫm và ướt át. Đến quá trưa thì mưa mới dứt, từ trạm số hai tôi có thể nhìn tường tận cảnh khu thôn dã ướt át với mây ngang đỉnh núi và lớp rơm ướt sũng xấu xí phủ kín những quãng đường. Ở cánh rừng chơ vơ phía bên kia đỉnh đồi, ánh sáng mặt trời loé lên vài tia sáng cuối cùng trước khi đi khuất vào hoàng hôn. Có nhiều khẩu đại bác của bọn Áo đặt trong cánh rừng bên kia đồi đó, nhưng chỉ có vài khẩu hoạt động. Tôi ngắm những cụm khói đen của đạn trái phá thình lình xuất hiện trên nền trời, nơi những trang trại đổ nát nằm gần chiến tuyến, những làn khói lung linh ở giữa có điểm những tia màu vàng sáng chói. Người ta thấy ánh chớp rơi, tiếp theo là tiếng nổ và khói cuồn cuộn nổi lên rồi tan dần trong gió. Có nhiều miểng đạn trái phá trộn lẫn trong đống gạch vụn của những ngôi nhà đổ nát và ngay cả ngoài mặt đường gần ngôi nhà sụp đổ nơi dùng làm trạm cứu thương, nhưng ngày hôm đó chúng lại không pháo kích vào trạm. Chúng tôi chất lên hai chiếc xe và cho xe chạy xuống con đường có rơm ướt phủ kín, những tia sáng cuối cùng của mặt trời chiếu xuyên qua các kẽ rơm. Chúng tôi ra khỏi con đường có phủ rơm ở phía sau đồi thì mặt trời đã lặn. Chúng tôi đi theo con đường trống trải và rẽ sang một nơi dẫn đến cửa vuông của một đường hầm lát rơm thì trời lại đổ mưa.

Đêm trời nổi gió và đến ba giờ sáng lúc trời mưa như thác đổ thì cuộc oanh kích bắt đầu. Những người Croat vượt qua cánh đồng cỏ và những chòm cây rồi xông vào chiến luỹ thứ nhất. Chúng đánh trong bóng đêm dưới trời mưa và một cuộc phản công của những binh sĩ hốt hoảng ở chiến tuyến thứ hai đã đẩy lùi được chúng. Trong mưa, tiếng đạn trái phá, hoả tiễn, súng liên thanh, súng trường nổ rền khắp chiến trường. Chúng không đến nữa và lúc bấy giờ chiến trường trở lại yên tĩnh. Giữa cơn gió lộng mưa sa, xa xa về phía Bắc chúng tôi có thể nghe thấy tiếng nổ rền rất mau của một loạt trọng pháo.

Thương binh ùn lên ở trạm. Một số được khiêng bằng băng ca, một số đi bộ và một số khác được các chiến hữu cõng trên lưng băng qua cánh đồng. Toàn thân họ ướt sũng nước mưa và tất cả đều lo sợ hãi hùng. Chúng tôi chất đầy hai xe những băng ca lấy trong hầm chứa rượu của trạm cấp cứu. Khi đóng cửa chiếc xe thứ nhì, tôi cảm thấy giọt nước mưa trên mặt đã biến thành tuyết. Những bông tuyết rơi dày đặc và dồn dập dưới trời mưa.

Lúc bình minh, dông gió vẫn còn nổi lên nhưng tuyết đã ngừng rơi. Tuyết đã tan ra khi rớt xuống đất và lúc bấy giờ trời lại mưa tầm tã. Một cuộc tấn công khác đã xảy ra ngay lúc tờ mờ sáng nhưng thất bại. Chúng tôi dự đóan sẽ có cuộc tấn công nữa vào buổi trưa, nhưng trận ấy chỉ xảy ra vào lúc mặt trời lặn. Tiếng trọng pháo bắt đầu rền vang ở khu rừng phía Nam, nơi tập trung nhiều súng đại bác của bọn Áo. Chúng tôi cũng chờ một trận pháo kích như thế nhưng không việc gì. Đêm đã buông. Đại bác bắn ở cánh đồng phía sau làng và những quả trọng pháo rơi nổ từ xa tạo nên một âm thanh ì ầm đều đều.

Chúng tôi được tin là trận tấn công ở phía Nam bị thất bại. Địch không tấn công đêm đó nhưng chúng tôi nghe tin rằng chúng đã tiến lên hướng Bắc. Đến đêm chúng tôi được lệnh sửa soạn rút lui. Viên đại uý cho tôi biết như thế tại trạm cấp cứu. Ông ta được lệnh từ bộ tham mưu của lữ đoàn. Một lát sau qua điện thoại, ông ta bảo rằng tin đó không đúng. Lữ đoàn đã được lệnh phải giữ mặt trận Bainsizza với bất cứ giá nào. Tôi hỏi tin về trận đột kích của địch thì ông ta bảo theo bộ tham mưu của lữ đoàn thì bọn Áo đã đột kích sư đoàn 27 gần Caporetto. Nơi đó đã xảy ra một trận đánh vô cùng ác liệt suốt cả ngày.

- Nếu tụi quỷ sứ đó để chúng tiến đến đây thì chúng ta sẽ bị nướng hết – ông ta nói.

- Chính là bọn Đức tấn công – một sĩ quan quân y nói. Tiếng “Đức” có điều gì khiếp đảm. Chúng tôi không muốn chạm trán với bọn Đức.

- Bọn Đức có cả thảy 15 sư đoàn – viên sĩ quan quân y nói tiếp – Chúng nó đã chọc thủng phòng tuyến và chúng ta sắp sửa bị bao vây.

- Lữ đoàn muốn chúng ta giữ mặt trận này, việc chọc thủng phòng tuyến không có gì đáng ngại. Chúng ta chỉ lo phòng thủ giữ con đường từ Monte Maggiore xuyên qua núi.

- Ai đã bảo thế?

- Bộ tham mưu của sư đoàn.

- Sư đoàn đã ra lệnh cho chúng ta rút lui kia mà.

- Chúng ta làm việc theo lệnh của quân đoàn – tôi bảo – Nhưng ở đây tôi thuộc quyền ông.Dĩ nhiên ông bảo đi đâu tôi sẽ đi đó. Nhưng ông cũng nên nhận những lệnh chính xác.

- Lệnh trên bảo chúng ta ở lại đây và đưa hết các thương binh đến trạm di chuyển.

- Đôi khi chúng ta cũng phải đưa họ từ trạm di chuyển ra xe cứu thương ở mặt trận nữa – tôi nói – Vì tôi chưa bao giờ chứng kiến một trận rút lui. Vậy nếu có trường hợp như thế, tất cả thương binh phải được di chuyển như thế nào?

- Không phải đưa đi hết. Đưa được bao nhiêu thì đưa, còn thì để lại.

- Tôi phải đem theo những gì trên xe?

- Dụng cụ bệnh viện.

- Được rồi – tôi đáp.

Đêm sau cuộc rút lui bắt đầu. Chúng tôi nghe tin bọn Đức và bọn Áo đã chọc thủng ở phía Bắc và đang di chuyển xuống núi về hướng Cividale và Udine. Cuộc rút lui tiến hành đúng theo lệnh, ướt át và gian khổ. Trong đêm tối, chúng tôi di chuyển chậm trên đường và gặp những đoàn quân đang đi dưới mưa, những con ngựa kéo xe, nào lừa, nào xe vận tải, tất cả đều rời khỏi mặt trận. Thật là một sự hỗn độn từ trước đến nay chưa bao giờ có.

Đêm đó chúng tôi giúp di chuyển những xe cứu thương đậu ở các cao nguyên và các làng mạc ít bị phá huỷ. Chúng tôi đưa thương binh đến Plava bằng đường sông. Và qua ngày hôm sau chúng tôi lại phải chạy xe suốt ngày dưới trời mưa để tản cư các thương binh ở bệnh viện và các trạm cứu thương ở Plava. Trời mưa tầm tã. Quân đội ở Bainsizza rời khỏi cao nguyên dưới những cơn mưa tháng Mười. Họ di chuyển qua sông, nơi họ đã đạt được nhiều chiến thắng vẻ vang vào mùa xuân năm ấy. Chúng tôi đến Gorizia vào chiều hôm sau. Trời đã tạnh mưa và thành phố gần như trống rỗng.

Chúng tôi cho xe chạy đến biệt thự nhưng ở đây không còn ai. Rinaldi đã đi theo bệnh viện, viên thiếu tá cũng đã đi theo các nhân viên bệnh viện. Người ta ghi lại cho tôi ở cửa, yêu cầu chất hết các dụng cụ văn phòng lên xe và đi đến Pordenone. Các cậu thợ máy đã đi hết rồi. Lúc tôi trở lại nhà xe thì hai chiếc xe khác cũng vừa tới, và hai người lái bước xuống. Trời lại đổ mưa.

- Từ Plava đến đây tôi buồn ngủ quá nên đã ngủ gật ba lần – Piani nói – Giờ đây chúng ta phải làm gì, thưa trung uý?

- Ta phải cho dầu, bôi mỡ, cho xăng đầy bình rồi đem xe ra trước nhà, chất hết những đồ đạc gì mà họ còn để lại.

- Và sau đó chúng ta có khởi hành không?

- Không, chúng ta phải ngủ ba tiếng đồng hồ đã.

- Chúa ơi, còn gì thích bằng được ngủ - Bonello nói – Tôi không còn thức nổi để mà lái xe.

- Chiếc xe anh thế nào, Aymo? – tôi hỏi.

- Tốt lắm.

- Đưa hộ tôi chiếc áo làm việc, tôi sẽ giúp anh tra dầu.

- Không nên. Trung uý đừng làm thế. Có gì đâu. Trung uý nên lo sửa soạn công việc của trung uý.

- Tôi xong việc rồi – tôi đáp – Tôi sẽ dọn ra tất cả những đồ đạc mà họ còn để lại cho chúng ta ở đây. Các anh đem xe ra ngay khi xong xuôi nhé.

Họ đưa mấy chiếc xe ra phía trước biệt thự và chúng tôi cho lên xe tất cả các dụng cụ chất đống trong phòng. Xong đâu đấy, ba chiếc xe đậu nối đuôi nhau trên đường, dưới tán cây và trong mưa.

- Nhóm lửa lên và hong quần áo đi – tôi bảo.

- Tôi không cần quần áo khô – Piani nói – tôi chỉ cần được ngủ.

- Tôi sẽ nằm ngủ trên giường của thiếu tá – Bonello nói.

- Tôi chẳng quan tâm đến chỗ ngủ - Piani nói.

- Trong này có hai giường – tôi vừa nói vừa mở cửa phòng.

- Tôi luôn luôn tự hỏi không biết có cái gì trong phòng này – Bonello nói.

- Phòng này là của ông thợ cắt tóc – Piani trả lời.

- Hai anh ngủ cả ở đây, tôi sẽ đánh thức hai anh dậy.

- Bọn Áo sẽ đánh thức chúng mình dậy nếu trung uý ngủ quên – Bonello nói.

- Tôi sẽ không ngủ quên đâu, Aymo đâu rồi? – tôi hỏi.

- Anh ta lẻn vào nhà bếp.

- Thôi ngủ đi – tôi nói.

- Tôi sắp ngủ đây – Piani nói – tôi đã ngủ đứng suốt cả ngày mà. Tất cả những gì trong óc tôi đều dồn xuống cả đôi mắt.

- Cởi bỏ đôi giầy ống ra – Bonello bảo – Giường này là của ông thợ cắt tóc đấy.

- Của ông thợ cắt tóc hay của ai đi nữa đối với tôi cũng thế thôi.

Piani nằm xuống giường với đôi ủng dính đầy bùn và gối đầu lên cánh tay. Tôi đi vào nhà bếp. Aymo đã nhóm lửa trong lò và bắc lên đấy một ấm nước.

- Tôi tưởng chúng ta cũng nên sửa soạn sẵn bữa ăn trước – anh nói – Lúc thức dậy chắc mình đói lắm.

- Anh không buồn ngủ sao, Bartolomeo?

- Ít thôi. Khi nước sôi tôi sẽ để đấy, lửa sẽ tắt dần.

- Tốt hơn anh nên đi ngủ một lát, chúng ta có thể dùng đỡ pho mát và thịt khô vậy.

- Như thế càng hay. Nhưng nếu có cái gì nóng sốt sẽ đỡ khổ cho hai kẻ vô trật tự này. Thôi trung uý đi ngủ trước đi.

- Còn một cái giường trong phòng thiếu tá.

- Trung uý vào đó ngủ đi.

- Không, tôi lên phòng cũ của tôi. Anh uống tí rượu nhé Bartolomeo?

- Lúc chúng ta khởi hành trung uý. Bây giờ không có tác dụng gì.

- Ba tiếng đồng hồ nữa nếu anh thức được và nếu anh không nghe thấy tôi gọi, thì anh đánh thức tôi nhé. Anh bằng lòng chứ?

- Tôi không có đồng hồ, thưa trung uý.

- Đồng hồ treo trên tường trong phòng thiếu tá.

- Vâng, được rồi.

Tôi đi qua phòng ăn, phòng trước lên cầu thang bằng cẩm thạch vào gian phòng nơi mà tôi và Rinaldi đã cùng chung sống. Trời mưa. Tôi lại gần cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời tối đen như mực, tôi nhìn thấy ba chiếc xe đậu dưới hàng cây. Cây cối dầm mình dưới trận mưa. Trời lạnh như cắt và những giọt mưa đọng trên cành cây. Tôi trở lại giường của Rinaldi, nằm xuống và thiếp đi.

Chúng tôi dùng bữa tại bếp trước khi khởi hành. Aymo xào sẵn món mì thêm gia vị hành và thịt hộp. Ngồi ăn ở bàn, chúng tôi uống cạn hai chai rượu mà người ta để quên dưới hầm rượu trong toà biệt thự. Bên ngoài trời tối và mưa vẫn chưa dứt. Piani ngồi ngủ gục bên bàn.

- Tôi thích lùi hơn là tiến – Bonello nói – Khi lùi người ta sẽ được nhậu rượu Barbera.

- Chúng ta đang nhậu rượu Barbera. Nhưng có lẽ ngày mai chúng ta sẽ uống nước mưa – Aymo nói.

- Ngày mai chúng ta sẽ có mặt tại Udine, chúng ta sẽ nốc sâm banh. Udine là thành phố của những người phục kích. Thức dậy đi thôi Piani. Ngày mai chúng ta sẽ nhậu sâm banh ở Udine.

- Tôi thức rồi đây – Piani đáp. Anh ta xúc mì và thịt đầy đĩa. – Anh không cho thêm nước sốt cà chua vào sao Barto?

- Không có – Aymo đáp.

- Chúng ta sẽ uống sâm banh ở Udine – vừa nói Bonello vừa rót đầy rượu Barbera đỏ tươi vào ly.

- Có thể uống nước tiểu trước khi đi đến Udine – Piani bảo.

- Trung uý ăn no rồi chứ? – Aymo hỏi.

- Tôi ăn no lắm. Cho tôi chai rượu, Bartolomeo.

- Tôi còn một chai rượu ngoài xe – Aymo bảo.

- Anh không ngủ tí nào cả à?

- Tôi không cần ngủ nhiều, tôi chỉ cần ngủ một tí cũng được.

- Ngày mai chúng ta sẽ ngủ trên giường của đức vua – Bonello bảo. Anh tỏ ra phấn chấn.

- Ngày mai có lẽ chúng ta sẽ ngủ trong đống phân – Piani nói.

- Ngày mai tôi sẽ ngủ với hoàng hậu – Bonello nói – hắn nhìn xem tôi có nói đùa không.

- Có thể là anh sẽ ngủ với phân ấy – Piani gà gật nói.

- Đó là sự phản bội, trung uý ạ - Bonello nói – Đó có phải là sự phản bội không?

- Thôi các anh im đi – tôi bảo – rượu vào làm các anh nói năng hơi lố rồi đấy.

Bên ngoài trời mưa như thác đổ. Tôi nhìn đồng hồ thấy chín giờ rưỡi.

- Đến giờ “lăn” rồi – tôi vừa nói vừa đứng dậy.

- Trung uý thích đi với ai đây? – Bonello hỏi.

- Aymo, các anh sẽ theo tôi và Piani bám tiếp đến Cormons.

- Tôi e rằng tôi sẽ ngủ gật mất – Piani nói.

- Thế thì tôi sẽ đi với anh trước, rồi đến Bonello và Aymo.

- Như thế thì hơn – Piani nói – Vì tôi buồn ngủ quá.

- Tôi sẽ lái thay và anh có thể ngủ một lát.

- Không. Tôi còn có thể lái được cơ mà miễn có ai bên cạnh đánh thức tôi dậy khi tôi ngủ gật.

- Tôi sẽ đánh thức anh dậy. Tắt hết đèn đi Barto.

- Tại sao không rời cho sớm? – Bonello nói – Chúng ta không còn cần đến chỗ này nữa.

- Tôi còn cái rương trong phòng, anh giúp tôi đem hộ xuống được không, Piani?

- Chúng tôi sẽ đem nó xuống ngay – Piani trả lời – nào, lại đây Aldo.

Anh ta trở ra hành lang với Bonello. Tôi nghe tiếng họ bước lên thang lầu.

- Chỗ này tốt thật Bartolomeo – Aymo nói. Anh ta nhét vội hai chai rượu và miếng pho mát vào trong một cái bao. – Không bao giờ tìm ra được một nơi bằng như thế này. Họ rút quân về đâu Trung uý?

- Nghe nói họ dường như ở phía sau con sông Tagliamento. Bệnh viện và quân nhu thì ở Pordenone.

- Ở đây có lẽ đẹp hơn Pordenone.

- Tôi không biết Pordenone – tôi bảo – Tôi chỉ đi ngang qua đấy thôi.

- Chỗ đó cũng không có gì đáng kể - Aymo nói.

Chương 28

Trong đêm tối và mưa, xe chúng tôi chạy qua thành phố hoang vắng. Chỉ có vài đoàn quân cùng những khẩu đại bác kéo đi trên hè phố chính. Cũng có nhiều xe hơi và xe bò đang đi trên những con đường khác chạy ra quốc lộ. Sau khi xe chạy ngang qua trước cửa những xưởng thuộc da, chúng tôi gặp trên đường nào những đoàn quân, nhiều xe hơi, nhiều xe ngựa, súng đại bác, tất cả tạo thành một dòng di chuyển chậm chạp. Chúng tôi tiến chậm nhưng đều đều dưới mưa. Cái nắp thùng nước của xe tôi gần chạm phải tấm ván sau ô tô phủ bạt. Cả dòng người xe dừng, lại đị tiến lên một chút rồi dừng lại. Tôi xuống xe và lách đi giữa những chiếc xe hơi, xe bò và dưới cổ những con ngựa đẫm nước mưa. Chính ở phía trên, ngay đầu hàng bị nghẽn. Tôi rời khỏi con đường, đi băng ngang qua một cái hố có tấm ván bắc qua và đi xuyên cánh đồng. Tôi có thể nhìn thấy đội quân bị ách tắc giữa những hàng cây dưới cơn mưa. Tôi đi gần cả dặm đường. Đoàn quân không thể xê dịch được. Tuy nhiên ở phía bên trên kia, những chiếc xe bị ứ đọng, tôi thấy hàng quân đang đi. Tôi trở lại xe. Khối người ngựa này bị bất động đến tận Udine. Piani đang ngồi ngủ gục trên tay lái. Tôi leo lên ngồi cạnh anh và cũng ngủ. Vài tiếng sau, chiếc xe phía trước chúng tôi rồ ga. Tôi đánh thức Piani và chúng tôi cho xe tiến được vài thước rồi ngừng và lại tiếp tục đi nữa. Trời vẫn còn mưa. Về đêm, dòng người, xe lại dừng và không thể nào tiến lên thêm được nữa. Tôi xuống xe và trở lại phía sau xem chừng Bonello và Aymo. Trên xe Bonello có hai viên đội công binh cùng ngồi với hắn trên ghế.

Họ đứng cả dậy khi tôi tiến lại.

- Người ta để họ ở lại để sửa chữa cái gì đó trên cầu – Bonello nói – họ không thể tìm được đơn vị vì thế tôi cho họ đi nhờ.

- Xin trung uý cho phép

- Đồng ý – tôi nói.

- Trung uý là người Mỹ, trung uý sẽ chở bất cứ ai – Bonello nói.

Một trong hai viên đội mỉm cười, viên đội kia hỏi Bonelllo có phải tôi là người Ý ở Bắc hoặc Nam Mỹ không.

- Ông ấy không phải là người Ý, ông ấy là người Bắc Mỹ nói tiếng Anh.

Hai viên đội rất lễ độ nhưng họ tỏ vẻ không tin. Tôi đi và trở lại với Aymo. Hai cô gái ngồi trên ghế gần anh và hút thuốc.

- Barto, Barto – tôi gọi.

Anh ta cười lớn.

- Tiếp chuyện họ đi, trung uý – anh ta nói – Tôi không hiểu họ nói gì. Này! – Vừa nói anh ta vừa để tay lên đùi cô gái và véo yêu cô ta một cái. Cô gái vội vàng phủ chiếc khăn choàng quanh mình và đẩy tay anh ta ra – Này! – Anh ta nói – Giới thiệu tên với trung uý và nói các cô đang làm gì ở đây.

Cô gái nhìn tôi với vẻ giận dữ. Cô kia lại nhìn xuống đất. Cô vừa nhìn tôi nói mấy câu bằng thổ ngữ. Tôi không hiểu được tí gì cả. Cô ta có mái tóc đỏ, dáng người mập mạp và tuổi độ mười sáu.

- Em út của cô phải không? – tôi hỏi và trỏ vào cô gái kia.

Cô ta gật đầu và mỉm cười.

- Tốt lắm – tôi vỗ nhẹ lên đầu gối cô ta.

Tôi thấy cô co lại khi tôi chạm vào người cô ta. Cô em thì vẫn chưa ngẩng đầu lên. Có lẽ cô em kém cô chị một tuổi. Aymo đặt tay lên đùi cô chị liền bị cô này hất ra. Anh chế cô:

- Người hùng mà – hắn tự chỉ vào người – người hùng mà – hắn lại trỏ vào tôi – Đừng ngại gì cả.

Cô gái nhìn hắn ta một cách giận dữ. Hai cô bé khác nào như đôi chim rừng hoang dại.

- Tại sao nàng lại đến với tôi nếu nàng không thích? – Aymo hỏi – Lúc tôi vẫy tay ra hiệu thì hai cô leo lên xe ngay. – Anh quay sang hai cô gái – Đừng lo, không ai làm gì các cô đâu, không sợ bị…(hắn nói theo giọng tục tĩu). Không có chỗ để…

Mỗi lần hắn nói các cô gái lại càng thêm bẽn lẽn. Sau cùng cô ngồi thẳng lên rồi nhìn thẳng vào mặt Aymo và oà khóc. Tôi thấy đôi môi nàng run run, nước mắt tuôn chảy xuống đôi má tròn. Cô em vẫn không nhìn lên, nắm chặt lấy tay chị và họ ngồi sát lại nhau. Cô chị có vẻ rất hằn học lại bắt đầu khóc.

- Chắc tôi làm cho cô ta sợ - Aymo nói – tôi không cố ý làm cho nàng sợ đâu.

Aymo lấy pho mát trong túi dết ra, cắt hai miếng và bảo:

- Nào, ăn đi và đừng khóc nữa.

Cô chị lắc đầu và vẫn khóc, còn cô em thì lấy một miếng cầm ăn. Một lúc sau cô em đưa cho chị mình miếng pho mát kia và cả hai chị em cùng ăn. Cô chị vẫn còn thút thít.

- Một chốc nữa cô ta sẽ vui vẻ lại ngay – Aymo nói.

Tôi để cho họ tự do với Aymo đang ngồi trong góc xe. Tôi trở lại xe của Piani. Dòng xe vẫn chưa nhúc nhích được nhưng đoàn quân thì có thể vượt lên bên cạnh xe. Mưa vẫn còn nặng hạt. Tôi nghĩ sở dĩ đoàn quân phải ngừng từng chặp như thế này có thể là vì nước vào máy. Nhưng đúng hơn họ bị những con ngựa hay những người đang buồn ngủ cản trở. Ngay cả trong thành phố giao thông đôi khi cũng bị đình trệ. Nhưng mọi người lại rất tỉnh táo. Thật là một cảnh hỗn độn xe và ngựa. Họ không muốn giúp đỡ lẫn nhau. Đến những chiếc xe bò của các bác dân quê lại cũng không giúp được gì cả. Hai cô gái đi nhờ xe Barto thật là đáng yêu. Một cuộc lui quân không phải là nơi thuận tiện của các nàng trinh nữ. Các cô gái đồng trinh có thể rất mộ đạo. Nếu không có chiến tranh thì có lẽ tất cả chúng ta đều được ngả lưng trên giường vào giờ này. Trên giường tôi nằm gối đầu lên cánh tay. Giường có nệm. Ở đây giường nệm cứng như gỗ. Catherine giờ này đang ngủ trên giường giữa hai lớp chăn trên và dưới. Nàng nằm nghiêng bên nào? Có thể nàng không ngủ được, vì nàng đang bận nghĩ đến tôi. Thổi, thổi nữa đi, hỡi gió đông lạnh lùng. Đây, gió vẫn thổi mạnh và không chỉ có mưa phùn, mà là một trận mưa to như thác đổ. Trời mưa suốt đêm. Mưa to thế, bạn ơi, mưa to quá! Trời ơi giá gì được nằm trên giường siết chặt người yêu trong tay. Catherine yêu quý của anh ơi. Nếu Catherine dịu hiền và yêu quý có thể biến thành mưa nhỉ. Hãy thổi mạnh nàng đến đây với tôi. Rồi chúng tôi sẽ được hội ngộ. Ai cũng đều gặp cùng một cảnh như thế cả; nhưng cơn mưa ngắn ngủi không giải quyết gì được gì làm cho cảnh tình lắng dịu. “Chúc Catherine ngủ ngon – tôi nói lớn – mong rằng em sẽ được một giấc ngủ ngon. Nếu em cảm thấy bồn chồn không an, thì em yêu, em hãy trở mình sang phía bên kia. Anh sẽ mang đến cho em ít nước lạnh. Trời sắp sáng và em sẽ thấy thoải mái hơn. Anh rất buồn nếu em không thư thái như thế. Cố ngủ đi nhé, em yêu”.

- Suốt đêm em vẫn ngủ được yên giấc – nàng nói – Anh đang nói những gì trong giấc mơ đó? Người anh có khoẻ không? Anh đang ở bên em thật à?

- Dĩ nhiên. Anh còn ở đây mà. Anh không muốn đi nữa. Điều đó không có gì quan trọng đối với chúng ta. Em thật là dễ thương và hiền dịu. Ban đêm em sẽ không đi nữa chứ?

- Không đi đâu cả. Này anh xem, em có đi đâu. Em vẫn luôn luôn ở đây mà. Em vẫn luôn luôn đến với anh bất cứ lúc nào anh muốn.

- Thưa…- Piani nói – Họ đã bắt đầu đi nữa.

- Tôi vừa thiu thiu… - tôi bảo.

Tôi nhìn đồng hồ. Mới ba giờ sáng. Tôi quay lại phía sau với lấy chai rượu Barbera.

- Trung uý nằm mơ nói to quá – Piani nói.

- Tôi nằm mơ thấy tôi đang ở Anh.

Mưa đã thưa hạt. Chúng tôi tiến lên. Chưa bình minh chúng tôi phải ngừng lại một lần nữa, và khi trời sáng hẳn thì thấy mình đang ở trên đỉnh dốc hơi cao. Tôi thấy xa tít tắp trên đường tất cả đều dừng lại, trừ đoàn bộ binh có thể lách qua đám đông. Chúng tôi lại đi nữa, nhưng nhìn lại đoạn đường đã đi được trong ngày, tôi quyết định phải bỏ con đường chính và băng qua cánh đồng nếu chúng tôi muốn tới được Udine.

Trong đêm, nhiều nông dân từ các thôn xóm nhập vào đoàn quân, vì thế người ta có thể thấy trong hàng người có nhiều xe bò chở đầy dụng cụ. Những tấm gương phản chiếu giữa những tấm nệm, gà vịt buộc chung quanh xe, một máy khâu đặt trên chiếc xe bò đầm đìa nước mưa đi trước chúng tôi, Họ lo bảo vệ những đồ đạc quý giá nhất. Nhiều phụ nữ bị dồn chặt trên những chiếc xe bò tìm cách tránh mưa, các bà khác thì đi nép sát bên cạnh những chiếc xe bò. Bây giờ có cả những con chó đi lẫn lộn trong đoàn và chúng vừa đi vừa ẩn dưới gầm xe. Đường lầy lội, hào rãnh hai bên đều ngập nước, và sau rặng cây chạy dài hai bên đường, cánh đồng tỏ ra quá ẩm ướt sình lầy không thể cho xe vượt qua được. Tôi xuống xe và mở một lối đi, hy vọng tìm ra một chỗ có thể nhìn ra được phía trước xem xem có con đường nào khác có thể đi tắt ngang qua cánh đồng. Tôi biết nhiều đường nhưng tôi không dám mạo hiểm lao vào ngõ cụt. Tôi không nhớ hết các con đường vì chúng tôi đã thấy chúng trong khi cho xe chạy hết tốc lực, và tất cả các con đường đều trông giống như nhau. Tuy nhiên chúng tôi vẫn phải tìm cho ra một con đường nếu chúng tôi muốn rời khỏi nơi này. Không một ai biết bọn Áo đóng quân nơi nào và tình hình ra sao. Nhưng tôi chắc chắn rằng khi dứt mưa, phi cơ địch sẽ lượn trên đầu và sẽ oanh tạc đoàn người và xe, như thế sẽ nguy hiểm cho chúng tôi. Chỉ cần vài chiếc xe bị bỏ lại hay vài con ngựa chết cũng đủ làm cho sự lưu thông trên đường bị ngưng trệ.

Mưa dịu dần và tôi hy vọng trời sẽ lại sáng. Tôi tiến dọc theo con đường cái và tìm thấy giữa hai hàng cây có một con đường nhỏ đưa đến cánh đồng về phía Bắc. Tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là nên chọn con đường này và tôi vội vàng quay lại xe. Tôi bảo Piani quay xe lại và tôi đi báo cho Aymo và Bonello hay.

- Nếu đó là con đường cụt thì chúng ta vẫn có thể quay xe lại và nối vào đoàn xe.

- Còn hai chú này thì sao? – Bonello hỏi. Hai viên đội ngồi trên ghế bên cạnh anh ta. Họ chưa cạo râu nhưng buổi sáng trông vẫn có dáng quân nhân.

- Họ sẽ giúp chúng ta đẩy xe vậy.

Tôi trở lại xe Aymo và báo cho cậu ta biết là sẽ đi tắt qua cánh đồng.

- Còn các nàng trinh nữ của tôi thì sao? – Aymo hỏi – Hai cô đang ngủ.

- Họ sẽ không giúp ích gì được cho ta cả - tôi bảo – Anh nên kiếm người nào có thể đẩy xe được lúc cần.

- Có thể để họ ngồi trong xe, hãy còn chỗ - Aymo bảo.

- Nếu anh muốn – tôi đáp – Ráng tóm được người nào khoẻ mạnh để đẩy nhé.

- Tụi bộ binh – anh ta vừa cười vừa nói – Họ lưng dài vai rộng. Người ta đã đo rồi đấy. Trung uý cảm thấy thế nào?

- Khoẻ lắm. Còn anh thì sao?

- Khoẻ nhưng đói quá.

- Sẽ kiếm được vài thứ ở cuối con đường này. Chúng ta sẽ dừng lại đó để ăn.

- Chân trung uý thế nào?

- Tốt – tôi đáp.

Đứng trên bậc xe nhìn ra phía trước, tôi có thể trông thấy chiếc xe của Piani đang quẹo sang con đường nhỏ và xa dần. Chiếc xe hiện ra giữa những cành cây trụi lá. Bonello cũng bắt đầu quẹo và theo sau Piani. Đến phiên Aymo, anh ta thoát ra khỏi đám đông và chúng tôi chạy nối đuôi hai chiếc xe cứu thương phía trước, trên con đường hẹp giữa hàng rào. Con đường này đưa đến một nông trại. Chúng tôi thấy xe của Piani và Bonello ngừng trong sân trại. Ngôi nhà thấp và dài với giàn hoa nho bao quanh cửa ra vào và một giếng nước trước sân. Piani múc nước ở đấy cho vào bình xe. Xe chỉ cho chạy được số một nên máy bị nóng rất nhanh, bao nhiêu nước trong bình đều bốc hơi hết. Trại bị bỏ hoang. Tôi nhìn lại phía sau. Trại được xây hơi cao nên ở trong sân trại chúng tôi có thể nhìn bao quát được đồng quê. Chúng tôi nhìn thấy được con đường, hàng rào, cánh đông, hàng cây dọc theo con đường chính, con đường mà đoàn quân rút lui đang đi ngang qua. Hai viên đội đang quan sát ngôi nhà. Hai cô gái đã thức giấc và đang nhìn cái sân, giếng nước, hai chiếc xe cứu thương đậu trước nhà và ba người lái đang đứng quanh giếng. Một viên đội đi ra tay ôm chiếc đồng hồ treo tường.

- Hãy trả cái đồng hồ vào chỗ cũ – tôi nói.

Hắn ta nhìn tôi, quay vào nhà và đi trở ra với tay không.

- Bạn anh đâu rồi? – tôi hỏi.

- Anh ta đi ngoài.

Hắn trở lại ngồi trên chiếc xe cứu thương sợ bị chúng tôi bỏ lại.

- Ta dùng bữa trưa chứ Trung uý? – Bonello hỏi – Chúng ta có thể ăn một chút, không mất thì giờ lắm đâu.

- Không hiêu con đường này chạy dài xuống phía dưới kia là hết không?

- Chắc chắn như thế.

- Thôi, ta hãy dùng bữa đã.

Piani và Bonello vào trong nhà.

- Lại đây nào – Aymo gọi hai cô gái.

Anh ta đưa tay ra để giúp hai cô xuống xe. Cô chị lắc đầu. Cô không vào ngôi nhà hoang. Họ chỉ nhìn theo chúng tôi.

- Các cô khó tính quá – Aymo nói.

Chúng tôi cùng đi vào trang trại. Trang trại rộng rãi và tối om, đượm vẻ quạnh hiu. Bonello và Piani đang ở trong bếp.

- Không có gì để ăn cả - Piani nói – Người ta đã mang theo sạch cả rồi.

Bonelllo cắt một miếng pho mát trắng thật to trên cái bàn ăn lớn trong bếp.

- Anh thấy pho mát này ở đâu thế?

- Trong hầm rượu. Piani đã tìm ra cả rượu và táo nữa.

- Thật là hoàn hảo cho một bữa ăn trưa.

Piani rút bình rượu và rót vào đầy cái xoong bằng đồng rồi nói:

- Rượu ngon lắm, kiếm vài cái ly Barto.

Hai viên đội bước vào.

- Hai anh dùng pho mát – Bonello mời.

- Tới giờ đi rồi – một viên đội vừa cắn một miếng pho mát vừa uống rượu nói.

- Chúng ta sẽ khởi hành. Đừng lo lắng gì cả - Bonello nói.

- Quân đội có đi cũng phải no bụng trước đã – tôi bảo.

- Sao? – viên đội hỏi.

- Phải ăn cái đã.

- Nhưng thì giờ eo hẹp quá.

- Tôi chắc là hai đứa nó đã no bụng rồi chứ gì – Piani nói.

Hai viên đội nhìn anh ta và lộ vẻ không ưa chúng tôi.

- Trung uý biết đường chứ? – một viên đội hỏi tôi.

- Không.

Họ nhìn nhau.

- Chúng ta nên khởi hành thì vừa – viên đội kia nói.

- Nào, chúng ta lên đường – tôi nói.

Tôi uống thêm một ly rượu nữa. Nhắm với pho mát và táo cũng ngon đáo để.

- Lấy pho mát đem theo nhé – tôi vừa đi ra vừa nói.

Bonello đi ra mang theo cả một vò rượu lớn.

- Kềnh càng quá – tôi nói. Anh ta nhìn vò rượu tiếc rẻ.

- Tôi khoái nó quá – anh ta bảo – Trao bi đông của các anh cho tôi, tôi sẽ rót đầy hết.

Anh ta rót rượu đầy bi đông, một ít rượu chảy xuống đá lát sân. Rồi anh đem để vò rượu vào phía sau cánh cửa.

- Bọn Áo sẽ tìm thấy vò rượu dễ dàng, khỏi phải phá cửa – anh ta nói.

- Nào, chúng ta đi thôi – tôi bảo – Tôi và Piani dẫn đầu.

Hai viên đội đã vào ngồi cạnh Bonello. Hai cô gái đang ăn pho mát và táo. Còn Aymo hút thuốc. Chúng tôi bắt đầu trở lại con đường hẹp. Tôi quay lại nhìn hai chiếc xe và trang trạii. Đó là một ngôi nhà thấp bằng đá, chắc chắn với bộ gọng sắt trên thành giếng rất đẹp. Phía trước mặt con đường kéo dài ra, nhỏ hẹp, bùn lầy, mỗi bên đều có đèo cao. Phía sau lưng là mấy chiếc xe đang nối đuôi nhau.

Chương 29

Đến trưa, chúng tôi bị sa lầy tại cuối con đường lầy lội, đầy bùn, cách Udine độ mười cây số như chúng tôi đã đoán trước. Trời đã tạnh mưa vào lúc sáng và ba lần chúng tôi nghe tiếng phi cơ. Chúng bay ngang đầu chúng tôi rồi bay mất hút về hướng bên trái và liền đó chúng tôi nghe tiếng bom nổ ở con đường chính. Chúng tôi rất cực khổ vì phải xuyên qua một hệ thống đường đi chằng chịt. Chúng tôi đã sa vào nhiều đường cụt. Chúng tôi phải trở lui lại phía sau để tìm một lối khác, nhờ thế chúng tôi tiến đến dần Udine. Giờ đây khi để chúng tôi có thể rời khỏi ngõ cụt thì xe của Aymo sa lầy vào bùn bên lề đường và bốn bánh xe càng quay nhanh lại càng lún sâu xuống cho đến khi xe không còn cựa quậy gì được nữa. Chỉ có cách là đào đất phía trước bánh xe, lót những nhánh cây để cho những sợi dây xích có thể bám vào đấy và cho xe lên đường. Tất cả chúng tôi đều vây quanh chiếc xe. Hai viên đội nhìn chiếc xe, xem xét mấy bánh xe rồi họ bước thẳng lên đường không ngó lại mà cũng chẳng nói một lời. Tôi đuổi theo họ.

- Làm việc, đi chặt cây đi – tôi bảo.

- Chúng tôi phải đi ngay – một viên đội nói, còn người kia không nói gì cả. Họ hối hả đi và không dám nhìn tôi.

- Tôi ra lệnh cho các anh phải quay lại xe và đi chặt cây – tôi nói.

Một người quay lại nói:

- Chúng tôi phải đi ngay vì lát nữa đây các ông sẽ bị chặn đường rút lui. Ông không có quyền ra lệnh vì ông không phải là thượng cấp của chúng tôi.

- Tôi ra lệnh cho các anh phải chặt cành cây – tôi nói.

Họ vẫn quay lưng lại và đi dần ra đường.

- Đứng lại! – tôi quát.

Họ vẫn tiếp tục bước trên con đường bùn lầy giữa hai hàng rào.

- Tôi ra lệnh cho hai anh phải dừng lại – tôi la lớn.

Họ bước vội. Tôi mở bao súng lấy khẩu súng lục ra, nhắm vào viên đội đã nói nhiều nhất và bắn. Tôi bắn hụt nên cả hai đều bắt đầu chạy. Tôi bắn ba phát nữa và hạ được một. Tên còn lại liền phóng ngang hàng rào và mất hút. Tôi bắn xuyên qua hàng rào khi thấy hắn phóng ngang qua cánh đồng. Súng đã hết đạn, tôi liền nạp gắp đạn khác. Nhưng viên đội đã chạy khỏi tầm súng. Hắn cắm đầu chạy ra xa khỏi cánh đồng. Tôi đang nạp đạn vào gắp thì Bonello tiến lại và nói:

- Để cho tôi chấm dứt cuộc đời của hắn cho rồi.

Tôi trao súng. Anh liền đi đến chỗ tên đội đang nằm, mặt úp xuống đường. Bonello nghiêng người về phía hắn, gí súng vào đầu hắn rồi bóp cò. Nhưng súng không nổ.

- Anh phải lên đạn đã chứ - tôi nói.

Anh ta lên đạn và nổ hai phát liền. Anh nắm hai chân viên đội kéo thây hắn và bỏ nằm bên vệ đường cạnh hàng rào. Anh trở lại trả súng cho tôi.

- Đồ chó chết. – Vừa nói anh vừa nhìn về phía viên đội – Trung uý có trông thấy tôi bắn hắn không hử?

- Thôi chúng ta phải đi chặt cành cây mau lên – tôi bảo – Không biết có bắn trúng tên kia hay không.

- Tôi không tin thế - Aymo nói – hắn chạy quá xa tầm súng lục.

- Quân hèn mọn – Piani nói.

Chúng tôi chặt cành cây, dọn đồ đạc trên xe xuống. Bonelli đào đất phía trước bánh xe. Khi xong xuôi đâu đấy, Aymo bắt đầu cho xe nổ máy và vào số xe. Bánh xe quay nhanh làm tung toé lá cây và bùn. Phía sau tôi và Bonello ráng sức đẩy chiếc xe cho đến nỗi chúng tôi cảm thấy thân thể như rã rời ra từng phần.Nhưng chiếc xe vẫn không nhúc nhích.

- Cho xe lui tới trước sau đi Barto – tôi bảo.

Anh cho xe lùi lại rồi vọt tới, mấy bánh xe càng lún sâu thêm nữa rồi chiếc xe nằm yên một chỗ và các bánh quay tít trong hố. Tôi đứng dậy.

- Chúng ta thử cột dây thừng cho kéo xem sao – tôi bảo.

- Tôi e rằng chúng ta chỉ hoài công vô ích thôi, trung uý ạ. Không thể kéo theo đường thẳng được.

- Thì cứ thử xem sao, không còn cách nào khác nữa – tôi nói.

Hai chiếc xe của Piani và Bonello chỉ có thể chạy thẳng theo con đường hẹp. Chúng tôi cột hai chiếc xe lại rồi bắt đầu cho kéo. Mấy bánh xe chỉ nhích khỏi lằn một tí rồi thôi.

- Thôi không được đâu – tôi la lớn – ngưng lại đi.

Piani và Bonello xuống xe, quay lại phía chúng tôi. Aymo bước xuống xe. Hai cô gái thì ngồi trên tấm vách đá cách xa chỗ xe đậu độ bốn mươi thước.

- Trung uý bảo gì ạ? – Bonello hỏi.

- Chúng ta đào nữa và cố thử lót thêm cành cây xem sao – tôi nói.

Tôi nhìn ra đường. Lỗi này do ở tôi. Chính tôi đã dẫn họ đến chốn này. Ánh mặt trời chói lọi sau những cụm mây và thi hài viên đội công binh còn nằm lịm bên hàng rào.

- Chúng ta thử lót áo choàng của hắn phía dưới bánh xe xem sao.

Bonello đi lấy áo, tôi chặt cành cây trong khi Aymo và Piani đào đất phía trước và giữa mấy bánh xe. Tôi cắt và xé áo choàng ra làm hai mảnh rồi lót phía dưới bánh xe, trong bùn. Tiếp đó tôi chất thêm cành cây để bánh xe có chỗ bám vào. Chúng tôi sẵn sàng để bắt đầu. Aymo lên cầm tay lái và bắt đầu cho xe chạy. Bánh xe bắt đầu quay nhanh trong khi chúng tôi cố lấy hết sức đẩy phía sau. Nhưng vô ích.

- Hỏng bét. Anh còn cần lấy gì trong xe nữa không, Barto?

Aymo cùng Bonello leo lên xe lấy bánh pho mát, hai chai rượu và chiếc áo choàng. Bonello ngồi phía sau tay lái và đang lục túi áo của viên đội đã bỏ lại.

- Vứt chiếc áo ấy đi cho xong – tôi bảo – còn các nàng trinh nữ của Barto thì tính sao đây?

- Cho họ ngồi phía sau xe – Piani bảo – tôi tin rằng chúng ta không thể nào đi xa được.

Tôi mở cửa sau chiếc xe cứu thương và bảo:

- Nào, leo lên – tôi nói.

Hai cô leo lên và ngồi sát trong góc xe. Họ có vẻ không quan tâm gì đến những tiếng súng vừa rồi. Tôi quay lại nhìn con đường, tên đội công binh nằm sõng sượt, bẩn thỉu với chiếc áo da dài. Tôi leo lên ngồi cạnh Piani, và chúng tôi bắt đầu cho xe chạy. Chúng tôi cố cho xe chạy ngang qua cánh đồng. Khi đến con đường để vào cánh đồng, tôi xuống xe và đi tiến lên phía trước, nếu tôi vượt qua được, chúng tôi sẽ thấy con đường ở phía bên kia cánh đồng. Nhưng xe của chúng tôi không thể nào băng qua được vùng đất quá mềm và nhiều bùn lầy như thế này. Khi mấy chiếc xe bị hoàn toàn sa lầy và bùn lún sâu đến tận nhíp xe, chúng tôi đành bỏ mặc chúng nằm ở cánh đồng và đi bộ về Udine.

Kh đến đường đổ vào quốc lộ, tôi chỉ cho hai cô gái.

- Hãy đi về hướng đó – tôi nói – Các cô sẽ gặp được dân chúng. – Họ nhìn tôi. Tôi móc bóp lây ra cho mỗi cô mười đồng lia. – Hãy đi vào hướng đó – tôi chỉ đường cho họ - Chúc hai cô gặp lại bạn hữu và gia đình nhé.

Họ không hiểu gì cả nhưng họ vẫn nắm tiền chặt trong tay và bắt đầu rảo bước. Họ quay nhìn lại phía chúng tôi dường như sợ tôi có thể lấy tiền lại. Tôi nhìn họ khuất xa dần trên đường, chiếc khăn choàng quấn sát vào người và họ quay nhìn lại chúng tôi với vẻ sợ sệt. Ba người lái xe phá lên cười.

- Trung uý sẽ cho tôi bao nhiêu tiền để tôi đi về hướng đó trung uý? – Bonello hỏi.

- Nếu các cô gái bị bắt, tốt hơn là họ không bị cô độc.

- Cho tôi hai trăm đồng lia để tôi có thể quay về thẳng nước Áo – Bonello nói.

- Họ sẽ đoạt các cô ra khỏi tay anh – Piani nói.

- Có lẽ chiến tranh sẽ chấm dứt – Aymo nói.

Chúng tôi cố gắng đi nhanh nhất. Mặt trời cố chọc thủng các cụm mây, bên vệ đường có những cây dâu. Qua cây lá tôi có thể nhìn thấy hai chiếc xe to của chúng tôi bị sa lầy giữa cánh đồng. Piani cũng nhìn theo và bảo:

- Họ sẽ phải mất công đắp một con đường mới nữa nếu họ muốn đem hai chiếc xe đó ra.

- Chúa ơi, ước gì chúng ta có được chiếc xe đạp lúc này – Bonello nói.

- Ở Mỹ người ta có thường dùng xe đạp không? – Aymo hỏi.

- Ngày trước có.

- Ở đây người ta dùng xe đạp rất nhiều. Chiếc xe đạp là một vật quý – Aymo nói.

- Chúa ơi, ước gì ta có xe đạp. Tôi không phải là một nhà vô địch đi bộ - Bonello nói.

- Có tiếng đại bác nổ phải không? – tôi hỏi – dường như tôi nghe tiếng đại bác nổ đàng xa xa.

- Tôi không nghe rõ – Aymo bảo. Anh ta lắng tai nghe.

- Tôi tin chắc có tiếng súng nổ mà – tôi nói.

- Điều đầu tiên sẽ thấy đó là đội kỵ binh.

- Lạy Chúa, tôi hy vọng không phải – Bonello nói – Tôi không muốn bị một trong những tên kỵ binh bêu xác tôi trên ngọn giáo.

- Trung uý có chắc chắn rằng trung uý đã hạ tên đội công binh khi nãy chứ? – Piani hỏi.

Chúng tôi bước nhanh.

- Tôi giết hắn đấy – Bonello bảo – Từ đầu cuộc chiến tranh này tôi chưa hề giết người nào và tôi luôn mơ ước giết một viên đội.

- Phải, phải, anh đã giết hắn khi hắn nằm tại chỗ - Paini nói – Hắn không bay kịp khi anh định giết hắn.

- Không sao. Thật là một điều mà tôi không bao giờ quên được. Tôi đã giết chết một viên đội.

- Anh sẽ xưng tội như thế nào? – Aymo hỏi.

- Tôi sẽ nói: xin cha hãy giáng phúc cho con bởi vì con đã giết chết một viên đội.

Tất cả cùng cười lớn

- Hắn theo chủ nghĩa vô chính phủ. Hắn ta không bao giờ chịu đi nhà thờ - Piani nói.

- Piani cũng theo chủ nghĩa vô chính phủ nữa – Bonello nói.

- Có phải các anh theo chủ nghĩa vô chính phủ thật không? – tôi hỏi.

- Không, thưa trung uý, chúng tôi là những đảng viên xã hội, chúng tôi từ Imola đến mà.

- Anh có bao giờ ở đó không?

- Không.

- Ồ Chúa ơi, đó là một nơi tuyệt đẹp trung uý ạ. Sau chiến tranh trung uý nên đến đó. Trung uý sẽ thấy một số điều hay.

- Mọi người ở đó đều là đảng viên xã hội à?

- Vâng.

- Thành phố ở đó có đẹp không?

- Ô tuyệt lắm, trung uý sẽ không bao giờ trông thấy ở đâu đẹp bằng ở đó cả.

- Anh đã làm như thế nào để trở thành đảng viên đảng xã hội?

- Tất cả chúng tôi đều là đảng viên đảng xã hội. Mọi người đều là đảng viên đảng xã hội. Chúng tôi mãi mãi vẫn là đảng viên đảng xã hội.

- Trung uý nên đi đến đó. Người ta sẽ làm trung uý trở thành một đảng viên xã hội.

Trước mặt chúng tôi con đường rẽ sang phía trái. Ở đây có một ngọn đồi nhỏ sau một bức tường đá và vườn táo. Chúng tôi ngừng câu chuyện khi bắt đầu leo dốc. Chúng tôi cùng đi và bước thật nhanh để cho kịp giờ.

Chương 30

Một lát sau chúng tôi đi theo con đường dẫn tới một con sông. Một hàng dài xe hơi và xe bò bị bỏ lại trên con đường đó. Con đường dẫn đến một cây cầu. Quanh đấy không một bóng người. Nước sông dâng cao và người ta đã đánh sập nhịp cầu ở giữa.

Nhịp cầu bằng đá và bị đổ sụp xuống sông, dòng nước màu nâu đang chảy phủ qua. Chúng tôi đi dọc theo bờ sông để tìm một lối sang. Tôi biết phía trên có một chiếc cầu đường sắt và tôi nghĩ có thể dùng nó để đi qua sông. Con đường đầy bùn lầy và ướt át. Không có một đội quân nào cả mà chỉ có những chiếc xe và vật liệu bị bỏ lại. Trên bờ sông không một bóng người mà chỉ có những cành cây ướt sũng và bùn lầy. Chúng tôi lần theo bờ sông và cuối cùng tìm thấy chiếc cầu.

- Cây cầu đẹp thật – Aymo khen.

- Đó là một chiếc cầu xe lửa tầm thường bắc ngang qua một lòng sông khô cạn.

- Chúng ta nên nhanh chân qua bên kia sông trước khi họ cho nổ mìn phá sập cây cầu này – tôi bảo.

- Có còn ai đâu để phá cầu, họ đã đi hết rồi – Piani bảo.

- Có thể họ đã gài mìn sẵn, trung uý sang trước đi – Bonello nói với tôi.

- Nghe này anh chàng vô chính phủ, cho hắn sang trước đi – Aymo nói.

- Tôi sẽ sang trước – tôi bảo – người ta không gài mìn nổ khi chỉ có một người chạm phải thôi.

- Tôi hiểu- Piani nói – Lập luận đúng đấy. Cậu không có óc hả tên vô chính phủ?

- Nếu tôi là kẻ thông minh, tôi không có mặt tại đây – Bonello nói.

- Được lắm trung uý ạ - Aymo bảo.

- Vâng, thật là chí lý – tôi nói.

Chúng tôi đến sát cây cầu, trời phủ đầy mây và mưa đã lấm tấm rơi. Cây cầu trông dài ra và có vẻ chắc chắn. Chúng tôi leo lên mô đất cao.

- Nào chúng ta cùng đi một lượt – tôi vừa nói vừa vượt lên cây cầu.

Tôi nhìn kỹ những thanh tà vẹt và đường sắt xem có dấu vết dây điện hay thuốc nổ gì không, nhưng tuyệt nhiên không có gì cả. Dưới chân tôi giữa những thanh tà vẹt, nước vẫn đục màu bùn và cuồn cuộn chảy. Trước mặt chúng tôi qua cảnh miền quê ẩm ướt, tôi có thể trông thấy thành Udine qua làn mưa. Tôi nhìn phía bên kia cầu. Ở thượng nguồn, rất gần, lại có một cây cầu khác. Trong khi tôi còn đang xem xét thì một chiếc xe màu vàng xỉn tiến lại gần. Vì hai bên thành cầu cao cho nên khi chiếc xe chạy vào cầu là thân xe bị che khuất mắt ngay. Tuy nhiên tôi vẫn kịp trông thấy được đầu của người lái và người ngồi bên cạnh và hai người nữa ngồi ở phía sau. Họ đều đội mũ sắt của Đức. Rồi chiếc xe vượt thẳng qua cầu và mất hút sau hàng cây và những chiếc xe vô chủ nằm bên đường. Tôi ra hiệu cho Aymo đang vượt qua cầu và hai anh kia theo tôi. Tôi bước xuống và ngồi xổm xuống chân dốc. Aymo theo sát tôi.

- Anh có thấy chiếc xe chứ? – tôi hỏi.

- Không, tôi mải nhìn theo trung uý.

- Một chiếc xe của bộ tham mưu Đức vừa vượt ngang cầu.

- Xe của bộ tham mưu à?

- Phải.

- Đức Mẹ đồng trinh ơi!

Hai anh kia tới và bốn chúng tôi ngồi xổm nép người sau mô đất, san sát chiếc cầu, đường sắt, hàng cây, hầm hố và con đường.

- Trung uý cho là chúng ta bị bao vây à?

- Tôi không biết. Tôi chỉ biết là có một chiếc xe của bộ tham mưu Đức vừa chạy qua con đường này.

- Trung uý không cảm thấy buồn cười sao? Trung uý không có cảm giác gì lạ trong đầu sao?

- Đừng đùa nữa Bonello.

- Ta uống tí đã nào – Piani đề nghị - nếu chúng ta bị bao vây ở đây, chúng ta nên uống một chầu.

Anh ta lấy bi đông và mở nút.

- Trông kìa, trông kìa – Aymo kêu lên.

Dọc theo thành cầu, chúng tôi thấy nhiều mũ sắt của bọn Đức tiến lại. Chúng khom mình ra phía trước và tiến một cách chậm chạp gần như siêu việt. Khi họ ra khỏi cầu, thì ra đó là một đoàn quân đi xe đạp. Tôi trông thấy mặt hai tên dẫn đầu. Chúng trông có vẻ hồng hào và khoẻ mạnh. Mũ sắt của chúng hạ thấp xuống tận trán và hai bên má. Chúng treo súng ở bên khung xe đạp. Những quả lựu đạn treo lủng lẳng ở thắt lưng. Mũ sắt và quân phục xám của chúng ướt đẫm nước mưa. Chúng đạp xe một cách thong thả, mắt nhìn về phía trước và hai bên đường. Có hai tên dẫn đầu rồi dàn một hàng bốn tên, rồi hai tên nữa, kế đó là một toán khoảng mười hai tên, tiếp theo là một toán khác mười hai tên và một tên đi cuối cùng. Chúng không chuyện trò mà chúng tôi cũng không nghe được gì vì tiếng nước chảy. Chẳng mấy chốc chúng khuất dạng trên đường.

- Ôi Đức Mẹ đồng trinh ơi! – Aymo kêu lên.

- Tụi nó là bọn Đức chứ không phải bọn Áo – Piani nói.

- Tại sao ở đây không ai chận chúng lại? – Tôi hỏi – Tại sao người ta không cho đánh sập cây cầu này? Tại sao không cho đặt liên thanh dọc theo mô đất này?

- Không phải với chúng tôi trung uý hỏi điều ấy.

Tôi rất tức giận.

- Bọn quỷ quyệt này điên cả. Chúng giật sập một cây cầu con chẳng quan trọng gì ở thượng nguồn và để ở lại đây gần đường cái, một chiếc cầu khác. Chúng đi đâu cả rồi? Sao ta lại không cố chận đứng chúng lại?

- Không phải với chúng tôi trung uý hỏi điều ấy – Bonello nói tiếp.

Tôi im lặng. Dù sao việc đó có can hệ gì đến tôi. Tôi có nhiệm vụ phải đem ba chiếc xe Hồng thập tự đến Pordenone. Tôi đã không hoàn thành. Tôi chỉ có mỗi một việc phải làm là tôi phải tới Pordenone. Cũng có thể tôi không thể tới nổi Udine được. Thực ra tại sao tôi không làm được? Điều quan trọng là giữ nguyên lòng dũng cảm, đừng để bị giết, bị bắt.

- Bi đông anh có mở nút sẵn không? – tôi hỏi Piani. Anh ta trao bi đông cho tôi và tôi tu một hơi dài – Chúng ta có thể đi ngay được tuy nhiên không vội lắm. Các anh muốn ăn gì không?

- Đây không phải là chỗ nghỉ ngơi – Bonello nói.

- Chúng ta đi vậy.

- Có phải ở lại chỗ khuất này không?

- Tốt hơn là chúng ta nên đi lên trên. Bọn chúng cũng có thể đến cây cầu này và tôi không muốn trông thấy họ hiện ra thình lình phía trên chúng ta.

Chúng tôi đi theo đường sắt. Cánh đồng ướt át trải ra hai bên. Trước mặt chúng tôi là đầu cánh đồng, ngọn đồi và tháp chuông Udine vươn lên sừng sững. Chúng tôi có thể nhìn rõ nhà thờ và gác chuông. Dâu mọc nhiều ở khắp cánh đồng. Xa xa phía trước tôi thấy một khoảng đường sắt bị phá. Các thanh tà vẹt cũng bị đào và hất tung xuống phía dưới mô đất.

- Nằm xuống! Nằm xuống mau! – Aymo chợt bảo.

Chúng tôi nằm dán mình xuống sau mô đất. Một đoàn xe đạp khác nữa qua cầu. Tôi nhìn phía trên ụ đất và thấy chúng đi xa.

- Chúng đã trông thấy chúng ta nhưng chúng vẫn tiếp tục đi – Aymo bảo.

- Chúng ta có thể bị tiêu diệt ở nơi này, trung uý ạ - Bonello nói.

- Chúng cần gì phải giết bọn ta ở đây, chúng còn việc gì khác làm hơn. Chúng ta sẽ nguy hiểm hơn nữa nếu bọn chúng thình lình chộp được chúng ta.

- Tôi muốn đi khỏi nơi này bằng đường chiến lũy – Bonello nói.

- Tuỳ anh – tôi đáp – chúng ta sẽ đi theo đường sắt này.

- Trung uý có tin rằng chúng ta sẽ vượt qua được không? – Aymo hỏi.

- Chắc chắn là phải được. Chúng chưa đông lắm. Chiều tối chúng ta sẽ vượt qua trong bóng đêm.

- Chiếc xe của bộ tham mưu đó đang làm gì?

- Tôi cóc biết – tôi bảo.

Chúng tôi đi theo đường sắt. Bonello đã thấm mệt vì phải lội trong bùn lầy của chiến luỹ, leo lên đi với chúng tôi. Đường xe lửa đi chếch về phía Nam, xa dần đường cái nên chúng tôi không thể trông thấy những gì xảy ra trên đường ấy. Chúng tôi đến một chiếc cầu nhỏ bắc qua con kênh, cầu đã bị phá huỷ nhưng chúng tôi vẫn vượt qua được nhờ vào những vòm cầu còn sót lại. Chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ ở phía trước.

Chúng tôi lại tiếp tục tiến dọc theo con đường sắt phía bên kia con kênh. Nó chạy thẳng hướng thành phố, xuyên qua cánh đồng. Ở phía trước, chúng tôi có thể nhìn thấy một đường sắt khác nữa. Về hướng Bắc là con đường cái mà chúng tôi đã trông thấy đoàn xe đạp chạy qua lúc nãy, và về hướng Nam một con đường nhánh băng ngang cánh đồng giữa hai hàng cây dày đặc. Tôi nghĩ là nên đi tắt về hướng Nam sau khi vòng qua thành phố rồi băng qua cánh đồng thẳng tới Compoformio, và con đường chính dẫn tới con sông Taglimento. Chúng tôi có thể tránh được dòng rút lui chếch bằng cách tiếp tụctheo những con đường làng, phía bên kia Udine. Tôi biết là cánh đồng có nhiều ngả tắt. Tôi đi xuống gò đất.

- Lại đây – tôi nói – chúng ta thử đi theo con đường này tiến về phía Nam thành phố.

Tất cả bốn chúng tôi đều đi xuống sườn gò đất. Từ phía con đường tắt, một phát đạn bay về phía chúng tôi và cắm phập vào gò đất.

- Quay lại! – tôi la lớn.

Tôi leo lên trong bùn lầy trơn tuột. Ba người lái xe đang ở trước mặt tôi. Tôi cố leo thật mau. Hai phát súng nữa nổ từ sau bụi rậm và Aymo đang băng qua đường sắt, lảo đảo, sẩy chân ngã sấp úp mặt xuống đường. Chúng tôi kéo anh sang phía bên kia và đặt nằm ngửa.

- Phải đặt đầu anh cao lên – tôi bảo.

Piani quay người anh. Anh ta nằm dưới bùn lầy của gò đất, đôi chân thòng xuống thấp. Hơi thở của anh không đều và mỗi lần thở máu lại trào ra đàng mũi. Cả ba chúng tôi đều cúi mình xuống gần anh. Trời vẫn mưa. Anh bị thương vào gáy, viên đạn xuyên lên phía trên và trổi ra gần mắt phải, Aymo đã chết trong khi tôi đang bịt lại hai vết thương. Piani đặt đầu anh xuống, lau mặt anh bằng một mẩu băng cứu thương và, thế là hết.

- Quân tàn nhẫn – Piani càu nhàu.

- Không phải bọn Đức – tôi nói – Không thể có bọn Đức ở nơi này.

- Tụi Ý – Piani dùng tiếng hình dung từ Ý “Italiani”.

Bonello không nói gì cả. Anh ngồi bên cạnh xác Aymo nhưng mắt không nhìn Aymo. Piani nhặt chiếc mũ của Aymo đã rơi xuống đất và đậy lên mặt bạn. Anh gỡ chiếc bi đông của Aymo ra.

- Anh uống không? – Piani nói rồi đưa bi đông cho Bonello.

- Không – Bonello trả lời rồi quay sang tôi.

- Điều này cũng có thể xảy đến với chúng ta trên đường sắt.

- Không đâu – tôi đáp – Vì chúng ta đã đi trên cánh đồng.

Bonello lắc đầu.

- Aymo đã chết, rồi sẽ tới lượt ai nữa đây trung uý? Chúng ta làm gì bây giờ?

- Chính là bọn Ý đã bắn Aymo – tôi nói – chứ không phải bọn Đức.

- Tôi nghĩ rằng nếu là bọn Đức thì họ đã giết sạch chúng ta rồi – Bonello bảo.

- Tụi Ý còn nguy hiểm hơn là tụi Đức nữa – tôi bảo – Hậu vệ thì sợ tất cả. Bọn Đức biết rõ điều chúng muốn.

- Trung uý lý giải hay đấy – Bonello bảo.

- Chúng ta làm gì bây giờ? – Piani nói.

- Tốt hơn là mình ẩn đâu đây để chờ trời tối. Nếu chúng ta có thể đi về hướng Nam thì thật là hoàn hảo.

- Họ sẽ giết sạch cả ba chúng mình để chứng tỏ rằng họ có lý ngay lần đầu – Bonello nói – Tôi không muốn tạo điều kiện cho chúng làm thế.

- Cố tìm một chỗ ẩn càng gần Udine càng hay. Chúng ta sẽ qua sau khi trời tối.

- Nào, chúng ta đi chứ - Piani giục.

Chúng tôi đi dọc theo phía Bắc con đường dốc. Tôi nhìn lại phía sau, Aymo nằm sõng sượt dưới bùn lầy trên triền gò đất. Trông anh ta thật nhỏ bé, đôi tay xuôi theo người, đôi chân quấn xà cạp, đôi giầy bết đầy bùn khép chặt vào nhau, chiếc mũ phủ kín mặt. Anh chỉ còn là một cái xác không hồn. Trời vẫn mưa. Tôi mến thương Aymo hơn tất cả những người mà tôi đã từng quen biết. Tôi cất giấy tờ của anh vào trong ví và sẽ báo tin cho gia đình anh hay. Phía trước mặt chúng tôi, bên kia thửa ruộng, một trang trại có cây cối bao bọc xung quanh với những gian phụ tiếp giáp. Một bao lơn có hàng cột đỡ ở tầng lầu thứ nhì.

- Chúng ta nên đi cách khoảng nhau một tí – tôi nói – Tôi sẽ dẫn đầu.

Tôi tiến về phía trang trại theo một con đường xuyên qua thửa ruộng.

Trong lúc băng qua thửa ruộng, tôi thầm nghĩ, nếu có kẻ nào từ phía sau hàng cây quanh trang trại hoặc từ chính trong trang trại có thể bắn vào chúng tôi cũng nên. Tôi tiến lại gần và trông rõ ngôi nhà lơn. Bao lơn trên tầng thứ hai thông đến vựa cỏ và những bó cỏ khô lộ ra giữa những hàng cột. Sân lát gạch và nước mưa nhỏ giọt ở tất cả các cây. Một chiếc xe bò lớn, trống rỗng, hai càng chổng lên cao dưới mưa. Tới sân trại, tôi băng qua và ẩn mình dưới bao lơn. Cửa chính ngôi nhà mở. Tôi liền đi vào, Piani và Bonello đi theo tôi. Bên trong tối om. Tôi ra nhà bếp. Có nhiều tro trong lò. Nồi treo phía trên nhưng rỗng không. Tôi sục khắp nơi nhưng không có gì để ăn cả.

- Chúng ta nên leo lên nằm trên vựa cỏ. Piani, nếu anh có thể kiếm cái gì ăn được thì anh mang lên trên ấy nhé?

- Để tôi xem – Piani đáp.

- Tôi cũng sẽ đi kiếm nữa – Bonello nói.

- Tốt lắm. Để tôi lên xem vựa cỏ ra sao – tôi nói.

Tôi thấy một cầu thang đá từ dưới chuồng gia súc đi lên. Giữa trời mưa tầm tã, chuồng gia súc xông lên mùi cỏ khô khan dễ chịu. Gia súc không có trong chuồng, có lẽ họ đã dẫn chúng theo khi chạy trốn. Cỏ chỉ dày nửa vựa thôi. Có hai cửa sổ trên mái ngói, một cái được chặn bằng những tấm ván, còn cái kia ở về hướng Bắc chỉ là một cái cửa tò vò nhỏ. Có một cái khe trượt để dùng ném cỏ xuống cho gia súc. Các cây xà xuyên qua cửa sập dưới đó xe bò chở cỏ ngừng lại và cho cỏ lên vựa. Tôi lắng nghe mưa rơi trên mái ngói, và khi bước xuống tôi ngửi thấy mùi phân khô dễ chịu trong chuồng. Chúng tôi có thể đẩy tấm ván lên để nhìn ra ngoài sân bằng một trong hai cửa sổ này hoặc đi xuống phía dưới, hay chạy,thoát ra ngoài bằng cái khe trượt cỏ trong trường hợp cầu thang không dùng được. Vựa cỏ rất lớn. Chúng tôi có thể trốn trong cỏ khô nếu chúng tôi trông thấy ai. Thật là một chỗ rất thuận tiện. Tôi tin chắc rằng chúng tôi có thể đi về phía Nam nếu không bị đạn nã theo sau lưng. Không thể có bọn Đức ở gần đâu đây. Bọn chúng từ hướng Bắc tới và theo con đường Cividale. Chúng không thể đi ngang qua đây từ hướng Nam. Bọn Ý thì nguy hiểm hơn nhiều. Họ hay sợ sệt và nã súng vào những gì chúng khả nghi. Đêm trước, trong khi lui quân, chúng tôi có nghe kể rằng có nhiều tên Đức mặc đồng phục Ý trà trộn trong đoàn quân rút lui. Tôi không tin điều đó. Người ta thường kể như thế trong tất cả các cuộc chiến tranh. Đó là một trong những điều kẻ thù hay làm. Đó là một torng những việc mà ta thường hay nghe nói đến trong các trận giặc, và quân thù luôn luôn tìm cách thực hiện. Ta không bao giờ nghe nói đến người nào mặc đồng phục Đức để gây lộn xộn trong hàng ngũ của chúng. Cũng có thể họ đã làm được nhưng đối với tôi việc đó vô cùng khó khăn. Tôi không tin bọn Đức làm điều đó. Tôi không thấy tại sao chúng đã làm như vậy. Không cần phải làm rối loạn cuộc rút lui của chúng ta. Khuôn khổ của quân đội và tình trạng thiếu đường xá đã làm điều đó rồi. Không ai ra lệnh gì cả. Họ đã để yên cho bọn Đức muốn làm gì thì làm. Trong khi đó họ coi chúng tôi là bọn Đức và giết chúng tôi. Họ đã giết chết Aymo. Cỏ khô xông lên một mùi thơm và nằm trong vựa cỏ như thế cũng đủ làm cho chúng tôi quên đi những năm tháng đã qua. Chúng tôi đã từng nằm trong cỏ khô như thế đã bao lần để nói chuyện tâm tình và bắn chim sẻ bằng những cây súng hơi, khi chúng đậu trong hốc tam giác ở mãi tít trên cao bức tường của vựa cỏ. Bây giờ vựa cỏ đã không còn, trong một năm qua họ đã đốn sạch khu rừng thông, chỉ còn trơ lại gốc và cành khô dùng để nhóm lửa. Bây giờ không thể nào lùi lại được nữa. Nếu chúng tôi không tiến lên được thì việc gì sẽ xảy ra? Không còn nghĩ đến việc trở lại thành Milan nữa. Và nếu trở lại Milan thì sẽ ra sao? Tôi lắng nghe tiếng súng nổ ở phía Bắc, hướng Udine. Tôi nhận ra được cả tiếng súng liên thanh. Không có trọng pháo. Chắc đã có chuyện gì xảy ra. Họ phải chặn bắt một vài toán quân trên đường. Xuyên qua ánh sáng lờ mờ trong vựa cỏ, tôi nhận ra Piani đang đứng dưới cái cửa sập. Anh ta cầm trên tay một khúc dồi dài, một hũ gì nữa và hai chai rượu.

- Lên đây nào, cây thang đây này – tôi nói.

Rồi vì thấy anh ta bận mang nhiều thứ nên tôi nghĩ rằng nên giúp anh ta và tôi bèn leo xuống. Lúc nãy nằm trên cỏ khô tôi mơ màng và gần thiêm thiếp ngủ.

- Bonello đâu rồi? – tôi hỏi.

- Tôi sẽ nói với Trung uý sau – Piani trả lời.

Chúng tôi leo lên thang. Lên đến trên, chúng tôi để các thứ xuống cỏ khô. Piani rút con dao ra và mở một chai rượu.

- Cái chai có dấu, chắc là rượu ngon – anh ta vừa nói vừa mỉm cười.

- Bonello đâu rồi? – tôi hỏi.

Piani nhìn tôi.

- Bonello đi mất rồi, trung uý ạ. Anh ta muốn đầu hàng.

Tôi không nói gì cả.

- Anh ta sợ chúng ta sẽ bị giết.

Tôi cầm chai rượu lặng thinh.

- Còn chúng ta, trung uý đã biết, không còn gì mà tin tưởng vào chiến tranh nữa.

- Vậy tại sao anh không đi? – tôi hỏi.

- Vì tôi không nỡ rời trung uý.

- Bonello đi đâu?

- Tôi không biết trung uý ạ. Hắn đã đi rồi.

- Thôi được, anh cắt dồi đi chứ - tôi nói.

Piani nhìn tôi trong tranh tối tranh sáng.

- Tôi đã cắt dồi trong khi nói chuyện với trung uý.

Chúng tôi ngồi trên cỏ khô, ăn dồi và uống rượu. Có lẽ rượu này dành cho đám cưới cho nên rượu quá cũ và nhạt.

- Anh canh ở cửa sổ này nhé Luigi – tôi nói – còn tôi sẽ quan sát ở cửa sổ bên kia.

Chúng tôi uống sạch mỗi người một chai rượu. Tôi nằm sấp trên cỏ rơm, cặp nách chai rượu và nhìn qua cửa tò vò nhỏ hẹp cánh đồng ướt át ngoài kia. Không biết tôi hy vọng trông thấy được những gì, nhưng chắc chắn là tôi sẽ không trông thấy gì ngoài cánh đồng mênh mông, những cây dâu trụi lá và mưa đang rơi. Tôi uống rượu mà không thấy say. Họ đã để dành nó quá lâu khiến nó mất đi cả phẩm chất lẫn màu mè. Tôi nhìn màn đêm buông xuống nhanh chóng quá. Đêm sẽ rất tối với trận mưa này. Trong cảnh tối om như thế này còn canh gác làm gì nữa, tôi bèn đi kiếm Piani. Anh ta đã lăn ra ngủ rồi. Tôi không đánh thức anh ta mà ngồi xuống bên cạnh. Đó là một anh chàng vạm vỡ và đang ngủ say sưa. Mấy phút sau tôi đánh thức anh dậy và chúng tôi tiếp tục lên đường.

Thật là một đêm lạ lùng. Tôi không biết tôi đã tưởng tượng những gì, có thể là cái chết, những tiếng súng trong đêm tối, cuộc chạy trốn. Nhưng không có gì xảy ra cả. Chúng tôi nằm sát xuống cái hố bên cạnh con đường cái, chờ cho tiểu đoàn Đức đi qua. Khi chúng đã khuất, chúng tôi mới băng qua đường và lao về hướng Bắc. Chúng tôi hai lần đến sát bên bọn Đức nhưng nhờ trời mưa nên chúng không trông thấy. Chúng tôi băng qua thành phố tiến về hướng Bắc nhưng không gặp một bóng người Ý nào cả. Và ít lâu sau chúng tôi nhập vào trong một trong những đoàn rút quân chính. Chúng tôi đi suốt đêm theo hướng Tagliamento. Tôi không thể hình dung được đoàn rút lui đông đảo đến mức nào. Không phải chỉ quân đội mà là cả một xứ sở chạy trốn. Chúng tôi đi suốt đêm, nhanh hơn cả xe nữa. Chân đau nhức, tôi mệt lả nhưng chúng tôi đi dẻo chân. Bonello thật là ngu ngốc khi đầu hàng quân thù. Chẳng có gì nguy hiểm cả. Chúng tôi đã vượt qua hai toán quân địch mà không có chuyện gì xảy ra cả. Nếu Aymo không bị giết, chúng tôi không ngờ rằng sẽ gặp nguy hiểm. Không ai ngạc nhiên khi chúng tôi đi công khai trên đường sắt. Cái chết xảy ra bất ngờ mà không ai hiểu được. Tôi tự hỏi không biết bây giờ Bonello đang ở đâu.

- Trung uý cảm thấy thế nào? – Piani hỏi.

Chúng tôi đang đi dọc theo lề đường đầy xe cộ và lính.

- Tốt.

- Tôi đi chán cả chân.

- Nhưng bây giờ chúng ta không còn cách nào khác. Đừng dằn vặt nữa.

- Bonello là một thằng ngốc.

- Đúng, hắn là một thằng ngốc.

- Trung uý sẽ đối phó với Bonello như thế nào?

- Tôi cũng không biết nữa.

- Xin trung uý coi như là hắn bị mất tích được không?

- Chưa biết được.

- Trung uý có thấy không, nếu chiến tranh cứ còn kéo dài mãi thì điều đó sẽ gây buồn khổ không ít cho gia đình.

- Tôi sẽ không báo cáo gì cả để tránh phiền lụy cho gia đình anh ta.

- Nếu chiến tranh chấm dứt thì việc đó không có gì quan trọng – Piani nói – Nhưng tôi tin là nó chưa chấm dứt. Nếu chiến tranh chấm dứt thì thật là hay.

- Không lâu nữa chúng ta sẽ biết – tôi nói.

- Tôi không tin chiến tranh sẽ chấm dứt. Tất cả mọi người đều tin rằng chiến tranh sẽ chấm dứt, nhưng riêng tôi, tôi không tin.

- Hoan hô hoà bình! – một người lính hô to – Chúng ta đi về nhà chúng ta.

- Nếu tất cả chúng ta đều được trở về với gia đình thì tuyệt biết bao! – Piani nói – Anh không thích được trở về quê hương anh sao?

- Thích chứ.

- Điều đó sẽ không bao giờ đến. Tôi không tin rằng chiến tranh sẽ chấm dứt.

- Nào, ta đi thôi.

Chúng tôi vượt qua hai chiếc xe cứu thương Anh bị bỏ lại trong đoàn xe.

- Mấy chiếc xe này từ Gorizia đến. Tôi nhận ra chúng rồi.

- Chúng chạy xa hơn xe chúng ta một chút.

- Họ khởi hành sớm hơn.

- Tôi lấy làm lạ, không biết những người lái xe đâu.

- Có lẽ họ đã bỏ đi trước hết rồi.

- Bọn Đức đã dừng lại trước Udine – tôi nói – Tất cả những người kia sẽ vượt qua sông.

- Vâng – Piani nói – Vì thế tôi tin rằng chiến tranh vẫn còn tiếp tục.

- Tôi lấy làm lạ là tại sao bọn Đức có thể tiến binh được mà chúng không tiến – tôi nói.

- Tôi không hiểu. Tôi không hiểu gì cả về cuộc chiến tranh này.

- Chắc họ phải chờ đợi các phương tiện chuyên chở - tôi phỏng đoán.

- Tôi không biết – Piani nói.

Nếu chỉ có một mình anh ta tỏ ra dịu dàng hơn. Trước mặt nhiều người khác thì anh nói năng thô bạo.

- Anh lập gia đình chưa Luigi?

- Trung uý thừa biết là tôi đã có vợ rồi.

- Có phải vì thế mà anh không muốn bị bắt làm tù binh không?

- Đó cũng là một lý do. Còn trung uý đã lập gia đình rồi chứ?

- Chưa.

- Cả Bonello cũng chưa nữa. Việc lập gia đình không có gì quan trọng cả. Nhưng tôi thiết nghĩ một người đã có vợ thì có ước muốn được trở về với vợ con của họ. Tôi thích bàn chuyện phụ nữ lắm.

- Phải.

- Chân trung uý thế nào?

- Chúng làm tôi hơi đau.

Khi chúng tôi tới bờ sông Tagliamento, thì trời vẫn chưa sáng hẳn. Chúng tôi đi dọc theo con sông nước lớn, đến tận cầu nơi qua lại đông đảo nhất.

- Người ta phải phòng thủ sau con sông này – Piani nói.

Trong bóng đêm, trông nước sông có vẻ dâng cao. Nước cuộn xoáy và trải rộng ra. Cây cầu gỗ nằm cách đó chừng ba phần tư dặm và con sông với dòng nước bình thường chỉ là một dòng nhỏ chảy trong lòng sông nông đầy sỏi, rất thấp dưới gầm cầu, giờ đây gần chạm vào các thành cầu bằng gỗ. Chúng tôi đi dọc theo bờ sông rồi nhập vào đám đông đi qua cầu. Tôi tiến chậm chạp dưới mưa, chỉ cách mặt nước một chút. Tôi nhìn con sông qua lan can cầu. Lúc bấy giờ tôi không thể nhích được một bước nào nữa và người mệt lả. Việc sang sông không vui thú chút nào cả. Tôi tưởng tượng hậu quả của một vụ oanh tạc bằng phi cơ có thể xảy ra khi trời sáng hẳn.

- Piani – tôi gọi.

- Dạ tôi đây, trung uý.

Anh ta đứng trước tôi một chút, trong đám đông. Không ai nói gì cả, tất cả mọi người đều nghĩ đến việc qua sông càng sớm càng hay. Chỉ có mỗi một ý nghĩ đó thôi. Chúng tôi hầu hết đều qua được sông. Phía bên kia đầu cầu, nhiều sĩ quan và hiến binh đang đứng ở hai bên đường, tay cầm đèn điện. Tôi thấy bóng họ in trên nền trời. Khi chúng tôi tới gần sát bên họ, tôi thấy một viên sĩ quan trỏ một người trong đám đông. Một hiến binh chen vào trong đám đông nắm tay lôi người đó ra ngoài. Chúng tôi tới gần, đối diện với họ. Các sĩ quan đang xem xét kỹ lưỡng từng người trong đám đông. Đôi khi họ thì thầm với nhau và bước tới rọi đèn vào mặt một người. Họ lôi một người nữa ngay khi chúng tôi đi ngang qua đó. Tôi thấy rõ người ấy. Ông ta là một trung tá. Tôi thấy mấy ngôi sao trên tay áo ông khi ánh đèn rọi vào. Ông ta mập và lùn. Người hiến binh đẩy ông ta ra phía sau hàng sĩ quan. Khi chúng tôi đi qua, trong bọn tôi thấy một trong hai người nhìn tôi rồi một người trỏ tôi và nói với người hiến binh. Tôi thấy anh ta bước tới và nắm lấy cổ áo tôi.

- Anh muốn gì? – vừa nói tôi vừa đấm vào mặt hắn.

Tôi thấy mặt hắn dưới vành mũ, râu vểnh và một dòng máu chảy dài xuống má. Một người khác nhảy bổ vào tôi.

- Các anh muốn gì? – tôi hỏi.

Hắn ta không trả lời. Hắn ta đang lừa thế để tóm tôi. Tôi cho tay ra phía sau để móc khẩu súng lục.

- Anh không biết rằng anh không có quyền chạm đến một sĩ quan à?

Một tên khác chụp phía sau lưng tôi và kéo tay tôi vặn tréo lại đưa lên trời, Tôi quay người theo hắn trong khi một tên khác tóm lấy cổ tôi. Tôi đá vào xương ống quyển và thúc đầu gối vào hạ bộ của hắn.

- Bắn chết nó đi nếu nó kháng cự - một người nào đó nói.

- Như thế này là nghĩa lý gì? – tôi cố la to lên nhưng giọng tôi bị lạc hẳn đi. Tôi đã ở bên vệ đường.

- Bắn chết nó đi nếu nó kháng cự - một viên sĩ quan nói – Lôi hắn trở ra phía sau.

- Anh là ai?

- Quân cảnh – một viên sĩ quan khác nói.

- Tại sao không để cho tôi đi qua mà lại cho mấy “phi cơ” này chụp tôi như vậy?

Họ không trả lời. Họ không cần trả lời tôi, họ thuộc lực lượng quân cảnh.

- Lôi hắn ra phía sau cùng với bọn kia – viên sĩ quan thứ nhất nói – xem hắn nói tiếng Ý còn nặng lắm đấy.

- Anh cũng thế, đồ chó chết – tôi bảo.

- Đưa hắn ta ra phía sau cùng với bọn kia – viên sĩ quan thứ nhất nói.

Họ dẫn tôi ra phía sau hàng sĩ quan tới một nhóm người đang chờ đợi trên cánh đồng cạnh con sông. Trong khi chúng tôi đang đi thì nghe thấy tiếng súng nổ. Tôi thấy tia lửa và nghe thấy tiếng nổ. Chúng tôi tới gần đám đông. Họ gồm có bốn sĩ quan và trước họ có một người đang bị hai hiến binh giữ. Vài người khác cũng bị hiến binh canh phòng. Bốn hiến binh khác võ trang bằng cac bin đang hộ vệ những thẩm phán quân sự. Họ là những hiến binh đội mũ rộng vành. Hai tên khi nãy đã tóm tôi, đẩy tôi vào với nhóm người đang chờ bị tra hỏi. Tôi nhìn một người đang bị các sĩ quan hỏi cung. Ông ấy là viên trung tá mập mạp có mái tóc muối tiêu mà khi nãy bị bắt trong đoàn quân. Những thẩm phán này đã đủ nhiệt tình, sự lạnh lùng và lòng dũng đảm của dân tộc Ý để giết người mà không sợ trả thù.

- Ông ở lữ đoàn nào?

Ông ấy trả lời họ.

- Trung đoàn nào?

Ông ấy trả lời.

- Tại sao ông không theo trung đoàn của ông?

Ông ấy trả lời.

- Ông có biết rằng một viên sĩ quan luôn luôn phải có mặt trong quân đội của mình không?

Ông ấy có biết.

Chỉ có thế thôi. Một viên sĩ quan khác nói:

- Chính ông và những kẻ giống như ông đã để cho quân dã man dày xéo phần đất thiêng liêng của Tổ Quốc.

- Xin ông thứ lỗi cho – viên trung tá nói.

- Vì có những hành động phản bội như của ông nên chúng ta đã mất biết bao nhiêu thành quả của chiến thắng.

- Chắc các ông không bao giờ rút lui cả? – viên trung tá hỏi.

- Nước Ý sẽ không bao giờ chịu rút lui.

Chúng tôi trầm người dưới mưa và nghe như thế. Chúng tôi đứng đối diện với các viên sĩ quan còn tội nhân đứng trước mặt họ hơi né sang bên cạnh so với chúng tôi.

- Nếu các ông muốn xử bắn tôi – viên trung tá nói – thì cứ việc đem ra bắn ngay đi đừng tra hỏi gì thêm cả.

Ông làm dấu thánh giá. Các viên sĩ quan tham khảo với nhau trong khi một sĩ quan khác viết điều gì đó lên thếp giấy.

- Tội đào ngũ. Kết án tử hình – viên sĩ quan nói.

Hai hiến binh lôi viên trung tá ra bờ sông. Ông lầm lũi đi dưới trời mưa, lom khom, đầu không mũ với hai tên lính kèm sát hai bên. Tôi không nhìn thấy cảnh xử bắn nhưng nghe thấy tiếng súng nổ. Họ hỏi một người khác. Cũng là một sĩ quan bỏ hàng ngũ. Ông ta không được phép trình bày một lời nào cả. Ông ta oà lên khóc khi nghe họ đọc bản án tử hình. Khi người ta bắn ông và hỏi tiếp người khác, tôi tự hỏi không biết tôi có nên đợi đến phiên phải bị xét hỏi hay tốt hơn tự giải quyết một việc gì ngay lập tức. Tất nhiên họ cho tôi là một tên Đức trong bộ đồng phục Ý. Trong khi họ thi hành nhiệm vụ, tôi thấy tinh thần làm việc của họ ra sao rồi.

Họ trẻ tuổi và làm việc để bảo vệ quê hương họ. Họ lập lại một đạo quân nữa ở phía sau con sông Tagliamento. Họ xử tử tất cả các sĩ quan cao cấp đào ngũ. Họ cũng sơ bộ tạm thời phụ trách những phần tử phá họai người Đức trong bộ đồng phục Ý nữa. Các viên sĩ quan này đều đội mũ sắt. Chỉ có tôi và Piani đội mũ sắt và một vài hiến binh cũng đội mũ sắt mà thôi. Còn tất cả những hiến binh khác đầu đội mũ rộng vành. Vì vậy chúng tôi gọi họ là “phi cơ”. Chúng tôi đứng chờ đợi dưới mưa và bị lôi ra điều tra từng người một rồi bị xử bắn. Những thẩm phán có một thái độ lãnh đạm tận tuỵ, xét xử nghiêm khắc đối với những người gần kề cái chết mà họ chẳng mảy may cho là nguy hiểm. Họ đang hỏi một thiếu tá bộ binh. Ba sĩ quan khác cũng vừa thêm vào nhóm chúng tôi. Lữ đoàn của ông đâu?

Tôi quay nhìn bọn hiến binh. Chúng xem xét những người mới đến. Những tên khác đang nhìn ông thiếu tá. Tôi bèn khom mình xuống, xô hai người, cắm đầu chạy ra sông. Tôi vấp phải bờ sông và lao xuống nước đến tòm một cái. Nước sông lạnh vô cùng nhưng tôi cố ngâm mình dưới nước. Tôi gặp dòng nước xoáy và tôi cố ngâm mình dưới nước cho đến khi có cảm tưởng không thể trồi lên được nữa Vừa nổi lên, tôi hít một hơi thật dài rồi lại hụp xuống nữa. Tôi bơi dễ dàng với quần áo và giày ủng. Khi trồi lên mặt nước lần thứ hai, tôi thấy một khúc gỗ trôi trước mặt tôi. Tôi nắm và bíu lấy nó bằng một tay. Tôi giấu đầu sau đó chẳng buồn nhìn lên nữa. Tôi không buồn nhìn lên cả bờ sông. Họ đã nã súng khi tôi chạy và lúc tôi trồi đầu lên khỏi mặt nước. Bây giờ họ không bắn nữa. Khúc gỗ xoáy theo dòng nước, tôi bám lấy nó bằng một tay và nhìn vào bờ sông. Bờ dường như trôi rất nhanh. Dòng nước có nhiều củi gỗ. Nước sông lạnh buốt. Tôi lướt qua những cụm lau trên một hòn đảo. Hai tay tôi bám chặt lấy khúc gỗ và phó mặc cho nó trôi đi. Bờ sông đã xa khỏi tầm mắt.

Chương 31

Nước lạnh và cao, nhiều vật bị nước cuốn ra từ trong bờ khi nước chảy mạnh. Rất may là tôi vớ được miếng gỗ to để bám vào đó. Tôi tì cằm lên khúc gỗ để mặc nước lạnh cuốn đi, hai tay cố ghì chặt, nhẹ nhàng thả người trên mặt nước giá băng. Tôi sợ bị chuột rút, và mong chóng giạt vào bờ. Tôi bị trôi đến một quãng sông uốn khúc dài. Trời đã khá sáng và tôi nhận ra được những bụi cây ở dọc theo bờ. Có một vùng cây xanh phía trước mặt và dòng nước trôi về phía bờ đó. Tôi phân vân không biết có nên cởi hết quần áo và giày vớ để bơi vào bờ không. Tôi từ bỏ giải pháp đó. Từ nãy tôi đã không nghĩ gì được hơn là làm sao vào đến bờ, nhưng nếu tôi vào bờ với hai bàn chân không giày thì cũng rất phiền. Dầu sao tôi cũng phải đến Mestre cho bằng được. Tôi thấy bờ sông tiến lại gần, lùi xa, rồi tiến lại gần nữa. Tôi bị trôi đi chậm dần. Bây giờ đã tiến được gần sát bờ rồi. Tôi đã phân biệt được cành một cây dương liễu. Khúc gỗ bập bềnh chầm chậm, bờ sông ở phía sau tôi và tôi biết rằng tôi đang ở một chỗ nước xoáy. Tôi bị nước xóay chầm chậm. Khi nhìn lại bờ thấy rất gần, tôi ráng giữ một tay, dùng tay kia và đôi chân đẩy khúc gỗ lại gần bờ. Thật vô ích. Tôi sợ sẽ bị trôi ra ngoài chỗ nước xoáy nên cố bám chặt khúc cây và đẩy mạnh vào bờ. Tôi đã nhìn thấy bụi cây, nhưng dù đẩy và bơi mạnh, dòng nước vẫn cuốn tôi đi. Lúc đó tôi nghĩ rằng có lẽ tôi sẽ chết đuôi vì đôi giày quá nặng, nhưng tôi cố vùng vẫy trong dòng nước và nhìn lên thì thấy bờ hiện ra rất gần. Đôi chân nặng chịch làm tôi hoảng hốt. Tôi tiếp tục vẫy vùng và bơi cho đến khi tiến được gần vào bờ. Tôi níu lấy cành dương liễu và không còn đủ sức để đu người lên, nhưng tôi biết rằng bây giờ tôi không bị chết đuối được nữa. Khi còn bám lấy khúc gỗ trên dòng nước, tôi cũng không nghĩ rằng tôi có thể chết đuối được. Tôi cảm thấy bụng trống rỗng và buồn nôn, đau ngực vì quá gắng sức. Tôi vẫn bám lấy cành cây và chờ đợi. Khi thấy cơn đau lắng xuống, tôi vội đu mình lên mấy cành liễu và lại nghỉ, vừa nghỉ hai tay vừa ôm chặt đám lá và cành cây. Tiếp đó tôi lần mò mở đường vào bờ giữa những cây dương liễu. Tôi nằm dài trên bờ sông và lắng tai nghe tiếng nước chảy và mưa rơi.

Một lúc sau tôi đứng dậy và bắt đầu đi dọc theo con sông. Tôi biết rằng từ đây đến Latisana không có cây cầu nào bắc ngang qua sông cả. Tôi phán đoán ở trước mặt là San Vito. Tôi không biết là đường ở phần nào. Trước mặt tôi là một cái mương nước chảy vào sông. Tôi bèn tiến lại gần. Đến nơi không thấy bóng ai cả, tôi ngồi xuống bên bụi rậm cạnh bờ nước, cởi giày và trút nước ra. Tôi cởi áo choàng ngoài và móc ví ở túi áo trong ra, giây tờ tiền bạc đều bị ướt. Tôi vắt chiếc áo choàng rồi cởi quần, áo sơ mi và đồ lót ra vắt nước cho khô. Tôi xát mạnh và xoa bóp người rồi mặc quần áo lại. Tôi đã làm mất chiếc mũ lưỡi trai.

Trước khi mặc chiếc áo choàng ngoài, tôi bóc đi ngôi sao trên tay áo và nhét nó vào trong túi áo trong cùng với số tiền của tôi. Tiền đã bị ướt nhưng không sao, tôi đếm còn tất cả ba ngàn và vài đồng lia lẻ. Quần áo ướt đẫm và dính sát vào người. Tôi phải khua tay để cho máu lưu thông điều hoà. Quần áo của tôi bằng len nên tôi nghĩ tôi sẽ bị cảm nếu tôi không cử động. Họ đã đoạt mất khẩu súng lục của tôi ở dọc đường, còn cái bao súng không tôi giắt vào bên trong áo choàng. Tôi không có áo mưa và trời mưa lạnh buốt. Tôi đi dọc theo bờ kênh. Trời sáng tỏ ra, đồng quê ướt át, phẳng phiu và có vẻ ảm đạm. Đồng ruộng trơ trụi và ướt sũng. Xa xa mãi tận phía chân trời tôi trông thấy một tháp chuông đứng sừng sững trên cánh đồng. Tôi ra đến đường cái. Trước mặt tôi, vài đội quân đang tiến bước trên đường. Tôi đi tập tễnh dọc theo lề đường để họ vượt qua tôi. Họ là một phân đội đang hành quân về phía sông. Tôi vẫn tiếp tục đi. Ngày hôm đó tôi vượt qua đồng bằng Vénétie. Đó là một vùng rất thấp và dưới cơn mưa trông nó càng thấp hơn. Cạnh bờ biển có nhiều ruộng muối và các con đường. Các con đường đều chạy dọc theo các cửa sông ra tận biển và muốn băng qua cánh đồng thì phải đi theo các lôi mòn dọc theo các con kênh đào. Tôi tiến về phía Bắc và đã vượt ngang qua hai con đường sắt và nhiều con đường khác. Sau cùng tgdi đến cuối con đường mòn nơi có con đường sắt chạy dài bên cạnh đám ruộng muối. Đó là đường xe lửa chính chạy dài từ Venise đến Trieste. Nó gồm lũy cao và chắc chắn, nền vững vàng và trên có hai con đường sắt. Cách đó không xa là một trạm xe lửa có lính canh gác. Ở hướng khác có một cây cầu bắc ngang qua dòng suối thông với đám ruộng muối. Tôi cũng thấy một lính gác trên cầu. Lúc băng ngang cánh đồng để tiến về phía Bắc tôi đã trông thấy xe lửa chạy trên con đường sắt này, hiện ra từ xa, rõ ràng trên cánh đồng bằng mênh mông và tôi nghĩ rằng có lẽ đó là chuyến xe lửa từ Portograro đến. Tôi nhìn những tên lính gác và nằm xuống cạnh con đường đắp cao để dễ bề quan sát con đường cả hai phía. Tên lính gác cầu đi lần theo đường sắt về phía tôi, rồi quay trở lại đi về phía cây cầu. Tôi nằm im, đói bụng và chờ đợi chuyến tàu. Chuyến tàu mà tôi trông thấy lúc nãy rất dài và đầu tàu chạy rất chậm nên tôi tin chắc rằng tôi có thể nhảy lên tàu được. Trong lúc sắp hết hy vọng vào một chuyến tàu, thì xe lửa xuất hiện. Con tàu tiến lại gần càng lớn dần ra. Tôi nhìn tên lính gác cầu. Hắn lại đang đi về phía này cầu, nhưng ở phía bên kia con đường sắt, khiến hắn không thể nào trông thấy được tôi khi chiếc tàu chạy ngang qua. Tôi nhìn đầu tàu tiến lại gần, nặng nhọc, kéo theo nhiều toa xe. Tôi biết rằng sẽ có lính gác ở trên tàu nên tôi cố xem họ ở đâu nhưng tôi không thể trông thấy được vì tôi đang ẩn nấp. Đầu tàu tiến tới gần chỗ tôi đang nằm và khi nó sát bên tôi, tôi nghe tiếng máy xình xịch nhả khói ngay trên nền đất phẳng. Tôi chờ cho người thợ máy khuất mới đứng lên và bước tới gần các toa xe. Nếu các tên lính nhìn thấy thì chúng cho rằng tôi chỉ là một người đang đứng bên cạnh đường sắt không có gì đáng khả nghi. Nhiều toa chở hàng hóa đóng kín lướt qua. Kế đó tôi thấy tiến đến một toa thấp và để trống mà người Ý thường gọi là “chiếc xuồng” bên trên che bằng vải bạt. Tôi đứng đợi cho đến khi toa xe vừa chạy tới liền nhảy vọt lên nắm ngay song sắt và đu người lên. Tôi bò vào giữa “ chiếc xuồng” và hàng hiên toa hàng mà “chiếc xuồng” móc vào. Tôi nghĩ chắc chắn rằng không ai trông thấy được tôi. Tôi bám chặt vào các song sắt và ngồi xổm, chân để trên thanh sắt đỡ. Chúng tôi sắp đến gần cầu. Tôi nhớ đến tên lính gác cầu. Khi chúng tôi chạy ngang qua, hắn nhìn tôi. Đó là một chàng trai trẻ, đội chiếc mũ sắt quá to. Tôi nhìn hắn ta một cách khinh bỉ và hắn quay đi chỗ khác. Hắn nghĩ rằng tôi là người của đoàn tàu.

Chúng tôi qua khỏi cầu. Người lính canh nhìn vào các toa khác chạy qua có vẻ bối rối. Tôi nghiêng mình nhìn xem tấm vải bạt cột ra sao. Nó có các vòng và buộc vào toa bằng thừng. Có những khối cứng dưới tấm bạt., bị cho nước mưa làm cứng thêm. Tôi rút con dao trong túi ra cắt sợi dây và luồn tay vào bên dưới. Tôi nhìn ra phía đầu tàu. Một tên lính đứng gác trên toa hàng hoá, nhưng hắn đang nhìn ra phía trước. Tôi bỏ các song sắt và chui xuống dưới các tấm bạt. Trán tôi chạm phải vật gì một cách thật mạnh làm cho máu tuôn xuống mắt nhưng tôi cố bò và nằm sấp xuống. Một lát sau tôi trở mình và cột lại tấm bạt.

Tôi ẩn mình dưới tấm bạt chung với các khẩu đại bác. Chúng toát lên mùi dầu mỡ. Tôi nằm lắng nghe mưa rơi trên tấm bạt và tiếng lách cách của toa xe nghiến trên đường. Ánh sáng yếu ớt lọt qua. Tôi ngắm các khẩu súng. Chúng được bao bọc một lần vải. Tôi cho rằng chúng được gơi đi từ quân đoàn thứ ba. Trán tôi sưng to và tôi cầm máu bằng cách nằm yên để cho máu đông lại. Rồi tôi gỡ máu khô quanh vết thương. Không có gì đáng ngại. Không có khăn tay, tôi dùng mấy ngón tay mò mẫm rửa các vết máu dính trên mặt bằng nước mưa ở tấm bạt nhỏ xuống, và sau cùng tôi lấy tay áo lau sạch. Tôi không muốn bị người ta để ý. Tôi biết rằng tôi phải xuống trước khi tàu tới Mestre, bởi vì họ sẽ xem xét đến các khẩu đại bác này. Họ không dám để mất hoặc quên súng. Tôi đói khủng khiếp.

Chương 32

Tôi nằm trên sàn tàu, cạnh những khẩu đại bác dưới tấm bạt, ướt, lạnh và đói lả. Sau cùng tôi trở mình nằm sấp xuống, gối đầu lên cánh tay. Đầu gối tôi cứng đờ nhưng bây giờ đã dễ chịu lắm. Công trình giải phẫu của bác sĩ Valentini thật tài tình. Tôi đã đi bộ nửa đoạn đường rút lui và bơi trên một khúc sông Tagliamento với cái đầu gối này. Chính thật là cái đầu gối của bác sĩ. Còn cái đầu gối kia mới thật là của tôi. Bác sĩ đã chữa cho ta một bộ phận nào trong cơ thể thì bộ phận đó không thuộc về ta nữa. Khối óc vẫn thuộc về tôi và dạ dày nữa. Dạ dày đang kêu đói dữ lắm. Tôi cảm thấy nó đang lộn tung lên bên trong. Khối óc là của tôi nhưng tôi không dùng nó vào lúc này, không suy nghĩ gì được và cũng không còn nhớ gì nhiều nữa.

Tôi có thể nhớ đến Catherine nhưng tôi biết rằng tôi sẽ điên lên nếu tôi nghĩ đến nàng vì không biết rồi đây tôi có còn gặp lại nàng nữa không. Vì vậy không nên nghĩ đến nàng nữa…dù chỉ trong khoảnh khắc, dù chỉ nghĩ đến nàng mà thôi! Trong toa tàu chạy chầm chậm và tiếng bánh xe nghiền đều đều trên đường sắt với ánh sáng lờ mờ xuyên qua lần bạt và tôi nằm với Catherine trên sàn gỗ xe. Nằm trên sàn gỗ cứng trong toa xe không dám nghĩ ngợi mà chỉ mơ màng đến thời xa cách đã lâu, với bộ quần áo ướt đẫm…sàn gỗ chỉ tiến chầm chậm…nỗi cô đơn ở dưới …chỉ còn một mình với quần áo ướt cùng ván cứng thay cho phụ nữ. Không ai thích sàn toa tàu, hay súng đại bác trùm vải bạt hoặc mùi kim khí thoa mỡ, hay là tấm vải bạt ri rỉ nước mưa. Vậy mà mình vẫn thấy thoải mái dưới tấm bạt bên cạnh những khẩu đại bác. Khi thương nhớ đến một người mà mình biết chắc người ấy không thể có mặt được tại nơi đây, để rồi nằm sấp hồi tưởng lại một cách rõ rệt và lạnh lùng, nhưng nhất là rõ rệt và vô ích – rằng mình đã mục kích sự rút lui của một đạo quân và sự tiến lên của một đạo quân khác, rằng mình đã mất hết cả xe và binh sĩ giống như một anh chàng coi hàng đã để hàng hoá cháy hết trong một trận hoả hoạn. Một khi đã giải quyết và không còn trách nhiệm nữa.

Dòng sông đã cuốn theo nỗi căm hờn cùng tất cả trách nhiệm của tôi. Vả lại trách nhiệm đó cũng đã chấm dứt khi bọn hiến binh đã thộp cổ tôi. Tôi muốn vứt bỏ bộ quân phục dù còn đôi chút trách nhiệm tôi bị ràng buộc bởi cấp hiệu bề ngoài. Tôi đã tháo những sao cấp hiệu nhưng đó là vì lo xa chứ không phải vì danh dự. Về cơ bản, tôi không hề phản kháng. Tôi được giải thoát. Tôi cầu chúc mọi người được may mắn. Một số người, những người tốt, dũng cảm, bình tĩnh, thông minh, xứng đáng được hưởng. Riêng tôi, tôi không còn ở trong số những diễn viên của vở hài kịch và tôi chỉ mong sau chuyến tàu quý hoá này tới Mestre để được ăn và khỏi phải nghĩ ngợi gì nữa. Phải chấm dứt tuyệt đối.

Piani sẽ nói lại là tôi đã bị bắn. Họ thường hay lục túi và lấy hết giấy tờ của những người bị xử bắn. Họ không lấy được giấy tờ gì của tôi cả, họ sẽ cho tôi bị chết đuối. Tôi không rõ bên Mỹ người ta sẽ được tin như thế nào. Tử thương hay vì duyên cớ khác. Chúa ơi, đói quá. Tôi tự hỏi không rõ trong các buổi ăn chung, vị linh mục này ra sao, và Rinaldi nữa. Có lẽ anh chàng đang ở Pordenone nếu họ không rút lui xa hơn nữa. Thôi, có lẽ từ nay tôi không còn bao giờ gặp lại được anh ta nữa, không còn bao giờ gặp lại được một người nào trong bọn họ nữa. Cuộc đời quân nhân thế là chấm dứt.

Tôi không muốn nghĩ ngợi nữa. Tôi muốn ăn. Chúa ơi, phải rồi. Ăn uống và ngủ với Catherine. Có lẽ đêm nay…Không, điều đó không thể được. Nhưng đêm mai và một bữa ăn ngon lành…và chăn gối nữa…và không bao giờ đi đâu cả trừ phi hai đứa đi với nhau. Có lẽ phải ra đi gấp mới được. Nàng sẽ đến. Tôi biết nàng sẽ đến. Khi nào chúng tôi sẽ ra đi đây? Phải nghĩ đến điều đó. Đêm đã đến. Tôi nằm và nghĩ ngợi xem chúng tôi sẽ đi đến phương trời nào. Địa điểm thì không thiếu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro