Gió - truyện tình cảm - cực hay

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1: Gió



Tôi đạp lên một phiến lá thu, bước vào quán cà phê.


Đang định đi tới chỗ ngồi dựa vào ven tường, bỗng nghe thấy có người nói.


“Xin lỗi, anh có thể nhấc chân lên được không?”


Tôi ngừng bước, nhìn theo hướng giọng nói, thấy một cô gái ngồi sát cửa sổ.


Cô gái ấy ngồi thẳng, ánh mắt hướng về phía tôi, ánh nắng quá trưa chiếu xuống khiến bên mặt trái của cô nhuộm một màu trắng nhàn nhạt.


“Cô đang nói chuyện với tôi à?” Tôi dùng ngón tay chỉ vào mũi mình.


“Đúng vậy.” Cô ấy nói. “Phiền anh rồi.”


“Chân nào đây?”


“Chân trái.”


Tuy tôi hơi bối rối những vẫn nhấc chân trái lên.


“Không phải thế, tôi muốn xem đế giày.” Cô ấy lại nói.


Tôi xoay chân ra, chĩa đế giày về phía cô ấy, thân thể vì vậy mà lúc la lúc lắc, phải cố lắm mới giữ được thăng bằng.


Cô gái chăm chú nhìn đế giày tôi, miệng khẽ cắn bút, chìm vào trầm tư.


Tôi cúi đầu ngắm nghía, phát hiện một phiến lá rụng dính trên đế giày.


“Được rồi.” Cô gái tặng tôi một nụ cười hiền hòa. “Cám ơn anh.”


Tôi nhấc chiếc lá rụng ra, thả chân trái xuống rồi nói: “Có cần tôi trả lại không?”


“Không cần.” Cô ấy lắc đầu. “Nó không thuộc về tôi.”


Tôi tiếp tục bước về phía trước, ngồi xuống cạnh tường, tiện tay đặt chiếc lá rụng lên trên bàn.


Chủ quán đi tới, tôi nhận menu trong tay anh ta, chọn một cốc cà phê.


Cầm chiếc lá rụng kia lên, lại quan sát kỹ một hồi, phát hiện ở mặt sau của chiếc lá, bên cạnh thứ gì đó vàng vàng có vài vết trông rất giống mặt bên của người.


Ngoài ra không có gì đặc biệt.


Không khỏi quay mặt sang phía trái, lén chú ý tới cô gái kia.


Cô ấy đang cầm bút, bôi bôi trát trà lên một quyển sổ.


Hình như là viết, hay như là vẽ.


Động tác nhanh chóng lưu loát, không chút chần chừ.


Đây đã là lần thứ tám hay thứ chín tôi thấy cô ấy.


Có khi tôi đến sớm hơn cô ấy, thấy cô ấy bước thẳng vào bàn thứ hai cạnh cửa sổ, cầm tấm thẻ “Đã đặt chỗ” trên bàn lên, đặt quyển sổ mang theo lên trên bàn rồi từ từ ngồi xuống.


Sau đó thân hình nghiêng về phía trước, khuôn mặt quay sang trái, nhìn ra ngoài cửa sổ.


Ánh mắt cô luốn hướng ra ngoài cửa sổ, ngay cả lúc nhấc cốc cà phe lên uống, ánh mắt cũng chẳng đổi hướng.


Người bình thường khi nhìn về một phía nào đó lâu lâu, cằm sẽ hơi mỏi, vì vậy sẽ dùng bàn tay nâng má hoặc chống cằm lên.


Nhưng cô ấy chưa bao giờ làm vậy, tôi nghi cơ thịt chỗ cằm của cô gái này chắc phải cực tốt.


Có lẽ đây là hình tượng của rất nhiều nhân vật nam chính trong tiểu thuyết tình yêu – có một cái cằm kiên nghị.


Trước đây dù thế nào tôic cũng chẳng hiểu nổi kiên nghị thì có liên quan gì tới cằm, chẳng ngờ rốt cuộc thì trăm nghe không bằng một thấy.


Chủ quán đặt cốc cà phê trước mặt tôi, cũng liếc mắt nhìn tôi một cái.


Tôi hơi xấu hổ, nhanh chóng dời mắt khỏi cô gái ấy.


Mở cặp tài liệu ra, lấy một cái bút và một tờ giấy, đặt lên bàn.


Vì tôi không có cái cằm kiên nghị, thế nên tay trái nâng má, đầu ngón tay phải đặt bút lên giấy, phách thảo xem nên viết ra sao.


Đột nhiên phịch một tiếng, khuỷu tay trái tống trên bàn của tôi đột nhiên trượt sang, làm tôi giật mình một cái.


Hóa ra là cô gái kia chạm vào góc bàn kia, khiến cái bàn dịch chuyển theo chiều kim đồng hồ khoảng mười độ.


Cốc cà phê với thì trên bàn cũng vì vậy mà va vào nhau, kêu leng keng leng keng.


Cô ấy chỉ quay lại nhìn tôi, không ngừng bước, nhanh chóng đi khỏi.


Lúc mở cửa, ba chiếc chuông nhỏ trên trên cửa quán lay động, va vào nhau.


Tiếng “boong boong” vang lên không dứt.


Ánh mắt tôi nhìn theo lưng cô, cảm thấy cô gái này chẳng khác nào linh dương bị sư tử rượt đuổi trên thảo nguyên,


Cô ấy đứng trước vạch đèn đỏ, mắt căng thẳng nhìn về phía con đường đối diện, có vẻ lo lắng bất an.


Đèn xanh vừa sáng, cô đã nhanh chóng bước về phía trước, lao tới con đường đối diện, lại chạy về phía bên phải bảy tám bước.


Sau đó nhanh chóng chui vào một chiếc xe màu đỏ đỗ bên đường.


Xe chuyển động, cô ấy cũng đi rồi.


Tôi thu lại ánh mắt, trở lại trong quán cà phê.


Giờ chỉ còn tôi và chủ quán, nhưng anh ta có vẻ chẳng vì hiếu kỳ mà ngừng việc làm trên tay.


Thậm chí ngay cả tiếng “bịch của bàn”, tiếng “leng keng” của thìa cốc, tiếng “boong boong” của chuông, anh ta đều như chẳng nghe thấy.


Thật quá bình tĩnh, cực kỳ thích hợp làm nguyên bản cho đại hiện trong tiểu thuyết kiếm hiệp.


Đem anh ta ra so sánh, tôi cũng tự thấy ngạc nhiên, cười lên khanh khách.


Ánh mắt lại chuyển lại tờ giấy trắng trên bàn, thấy phía bên trái tờ giấy có một giọt cà phê đang lan ra.


Cầm lấy bút, vẽ liền vài vòng tròn đồng tâm bao quanh phía ngoài giọt cà phê đó.


Càng vẽ vòng càng lớn, khiến cho bức hình nhìn chẳng khác nào cái bia bắn tên, hồng tâm là giọt cà phê kia.


Lại vẽ thêm vài mũi tên từ phía bên phải bắn lại.


Để nhấn mạnh tốc độ và uy lực của mũi tên, lại vẽ thêm vài đường thẳng phía sau, đồng thời miệng cũng phát ra tiếng “phiu phiu” phối hợp.


Đây là thói quen lúc tôi vẽ.


Hồi còn bé, lúc học mỹ thuật, thầy giáo từng nói:


“Họa sĩ giỏi, khi vẽ gió sẽ khiến người ta nghe thấy tiếng vù vù, khi vẽ mưa sẽ khiến người ta nghe tiếng lộp bộp, còn khi vẽ sấm chớp sẽ làm người ta vô thức che lỗ tai lại.”


Để đám bạn học khen mình là họa sĩ giỏi, lại sợ lỗ tai bọn nó không tốt, không nghe thấy mình “vẽ” thế nên lúc vẽ miệng tôi luôn phối thêm chút âm thanh.


Lâu ngày thành thói quen.


Vì vậy lúc tôi vẽ chó thì sẽ gâu gâu, vẽ mèo thì sẽ meo meo, vẽ chim thì sẽ chiếp chiếp.


Lúc đó tôi còn ngây thơ, cho rằng mình sẽ trở thành một họa sĩ cực kỳ tài ba.


Mãi cho đến lúc giáo viên bảo chúng tôi vẽ “mẹ của mình”, miệng tôi rất tự nhiên hô lên: “Thằng chết tiệt! Không đi mà học đi còn xem ti vi cái gì!”


Kết quả khiến cả lớp cười ầm lên.


Thầy giáo đi xuống bục giảng, tới chỗ tôi, nhìn bức vẽ của tôi một cái rồi nói:


“Em à, hội họa là do thiên phú, không nên quá cưỡng cầu.”


Tôi mới biết mình chẳng thể thành họa sĩ được.


Kéo xa quá rồi.


Kéo ánh mắt về tờ giấy trắng vẽ đầy những mũi tên, về bên vệt cốc cà phê sậm màu bên cạnh.


Lại chuyển tới cái bàn sậm màu, cái ghế sậm màu, người ngồi trên ghế mặc áo sơ mi sậm màu là tôi.


Sau đó ngẩng đầu, nhìn lên chủ quán đang pha cà phê trong quầy bar sậm màu.


Cảm xúc của tôi cuối cùng cũng trở lại quán cà phê này.


Từ khi không nghĩ tới chuyện trở thành họa sĩ nữa, tôi không quá để ý tới chuyện phân biệt màu sắc.


Chỉ cần hơi bẩn hơn màu nâu một chút, hơi đậm hơn màu tím một chút, hơi nhạt hơn màu đen một chút, tôi đều gọi là màu sậm.


Tính cách tôi là nếu không thể làm chuyện gì đến mức tốt nhất, vậy dứt khoát buông bỏ nó luôn.


Nhưng giờ không phải lúc cho tôi buông bỏ.


Tôi phải nghĩ ra một cái tên nam, một cái tên nữ, đại diện cho nhân vật nam nữ chính trong câu chuyện.


Tuy nói tên chỉ là để tiện xưng hô thôi, không quan trọng mấy, quan trọng là bản thân câu chuyện.


Nhưng tôi vẫn mong mình có thể nghĩ ra một cái tên thích hợp cho hai nhân vật chính trước khi bắt đầu câu chuyện, để biểu thị lòng tôn trọng của mình.


Tính cách tôi là nếu đã không định buông bỏ chuyện gì, vậy đều muốn làm tới mức tốt nhất.


Vì thế, nên đặt tên là gì đây?


Tôi gãi gãi đầu, lại chuyển ánh mắt lên tờ giấy trắng, giọt cà phê trên đó đã khô.


Nhìn kỹ lại, hình dáng của vệt cà phê cũng thật giống mặt bên của một người.


Đang định so sánh với hình mặt người trên chiếc lá, phía trước góc trái bỗng vang lên tiếng “boong boong” nho nhỏ.


Tôi ngẩng đầu lên như phản xạ, quay về phía giọng nói truyền tới.


Cô gái ấy đẩy cửa quán, lại bước vào.


“Hi! Thật xin lỗi.” Cô nói.


Tôi ngẩng đầu lên nhìn cô ấy, vẻ mặt nghi hoặc.


Cô ấy đứng bên cạnh bàn, chỉ vào góc bàn bị lệch rồi dùng hai tay chỉnh nó lại.


“Không sao.”


Bàn không phải của tôi, nếu cô va làm hỏng bàn (hay hỏng xương cô) thì cũng không liên quan gì tới tôi.


“A? Anh cũng vẽ à?” Cô nghiêng đầu, chăm chú nhìn vào tờ giấy trắng trên bàn.


“Tiện tay vẽ bừa thôi.” Tôi hơi xấu hổ.


“Ừm…” Cô ấy có vẻ đang nghiên cứu cẩn thận bức “vẽ” này, sau khi quan sát một lúc bèn nói: “Tôi có thể ngồi không?”


“Hả?” Tôi ngạc nhiên. “Mời ngồi.”


“Đứng xem bức vẽ này mệt quá.” Cô mỉm cười, ngồi xuống ở ghế chéo phía đối diện với tôi.


Rồi cầm tờ giấy lên, đưa tới gần trước mắt, sau đó lại bất động.


“Anh chắc chắn không phải người học hội họa.”


Mấy phút sau, rốt cuộc cô cũng mở miệng nói, nhưng con mắt vẫn không rời tờ giấy trắng.


Tôi cảm giác như bị cười nhạo, mặt đỏ bừng lên.


“Bức hình này gần như không có cảm giác hội họa, chỉ do rất nhiều đường cong hỗn tạp hợp thành thôi.”


“Ừm.” Tôi ậm ừ đáp lại.


“Hơn nữa cũng chẳng có chút kỹ xảo hội họa nào.”


Đúng vậy đúng vậy, tôi không biết gì về hội họa.


“Kết cấu rất kém, hoàn toàn không có chủ đề gì cả.”


Thì sao nào! Không được sao?


“Sao lại vẽ như vậy kia chứ?” Cô lắc đầu. “Ài, thật tiếc cho tờ giấy trắng này.”


Còn chưa nói đủ sao? Thưa cô.


Tôi kéo khóa cặp tài liệu lại, dùng tay trái nhấc nó lên, định đứng dậy bỏ đi.


“Vừa rồi tâm trạng anh chắc chắn rất loạn.”


Cô không thấy động tác của tôi, vẫn nhìn vào tờ giấy trắng.


“Ừm, vừa rồi tôi đang nghĩ chút chuyện.”


Tôi có phần khâm phục sự nhạy cảm của cô ấy, bèn trả lời.


“Chắc chắn anh chưa nghĩ ra đáp án?”


“Không sai. Sao cô biết?”


“Vì trên tờ giấy này tuy vẽ rất nhiều mũi tên, nhưng không mũi nào cắm vào hồng tâm.”


Con mắt cô ấy rốt cuộc cũng rời tờ giấy trắng, nhìn về phía tôi.


Tôi buông cặp tài liệu trên tay trái xuống, nhìn lại cô.


“Chắc anh học khoa học hả?” Cô ấy đặt tờ giấy trắng lên bàn, hỏi tôi.


“Tôi học kỹ thuật, chắc cũng có thể coi là khoa học.”


“Ừm. Quả nhiên tôi đoán không sai.”


“Sao lại đoán thế?”


“Anh xem.” Cô chỉ tay vào tấm bia do rất nhiều vòng tròn đồng tâm tạo thành, nói:


“Có cảm giác những hình tròn này không phải là vẽ mà là một loại hình học đơn giản.”


Cô di ngón tay, chỉ vào mấy mũi tên. “Cả mấy mũi tên hình thoi này cũng thế.”


Tôi theo ngón tay cô ấy, ngắm nghía bức vẽ kia, chẳng có cảm giác gì đặc biệt.


“Chắc anh đã quen với việc vẽ mấy hình kiểu tam giác, vuông, tròn.”


Cô nhìn tôi rồi gật đầu một cái, lộ vẻ tự tin.


“Nhưng những bức hình này không biểu đạt được ‘cảm giác’ của anh, chúng chỉ là công cụ giúp anh giải thích hay suy nghĩ về điều gì đó mà thôi. Cái này hình như là thói quen mà người học khoa học thường hay có.”


“Ừm.”


Tôi lại nhìn tờ giấy trắng, cảm thấy cô ấy nói cũng có vẻ có lý.


“Có điều mấy đường thẳng này tôi không hiểu lắm.” Cô ấy chỉ vào những vạch phía sau mũi tên. nói tiếp. “Những đường cong này rất có lực, là điểm thú vị nhất trong toàn bộ bức hình này, nhưng, nó đại biểu cho cái gì chứ?”


“Cô đoán thử xem.” Tôi xấu hổ không dám nói đấy là tiếng “phiu phiu”.


“Tôi không đoán ra. Chỉ có cảm giác như nghe thấy tiếng mưa tên rít trong không trung.”


“Thật chứ?” Tôi đột nhiên kích động hẳn lên.


Thầy ơi, thầy lừa em! Em có thiên phú thành họa sĩ mà.


“Sao vậy?” Cô tò mò hỏi lại.


“Không sao. Có thật cô nghe thấy tiếng động không?”


Tuy tôi vẫn không quá tin cô ấy thật sự nghe được tiếng phiu phiu, nhưng đã bắt đầu cảm thấy cô gái này thật đáng yêu.


Tính cách tôi là, chỉ cần con gái nào tin tưởng tôi, tôi sẽ cảm thấy cô ấy đáng yêu.


“Có thể cho tôi mượn một tờ giấy trắng không?” Cô mỉm cười. “Tôi muốn vẽ.”


Tôi lập tức lấy một tờ giấy trắng trong cặp tài liệu ra, đưa cho cô ấy.


Cô ấy đứng dậy lấy chiếc bút chì kim đặt trên bàn mình, rồi trở lại chỗ ngồi chéo với tôi.


Sau đó cúi đầu, chăm chú vẽ tranh, không nói một lời.


Tôi phát hiện khi cô ấy bắt đầu tập trung, bầu không khí xung quanh như tỏa ra một mùi hương tĩnh lặng.


Như mọi âm thanh đều chìm vào giấc ngủ.


Trong quán cà phê bỗng yên tĩnh tới lạ thường, chỉ nghe thấy tiếng loẹt xoẹt của bút máy vẽ trên trang giấy trắng.


Thi thoảng lại xen lẫn tiếng cô dùng ngón tay hay bàn tay bấm bút chì kim.


Vì thế, tôi lặng lẽ ngắm cô vẽ tranh, không muốn phát ra bất cứ âm thanh nào, tránh quấy rầy cô.


“Được rồi.”


Cô bỏ bút xuống, ngẩng đầu lên nói.


“Có thể cho tôi xem không?” Tôi hỏi.


“Đương nhiên là được rồi.” Cô xoay tờ giấy 180 độ, khẽ đẩy tới trước mặt tôi. “Xin được chỉ giáo.”


“Không dám không dám. Tôi không biết vẽ, chỉ muốn xem chút thôi.”


“Vẽ là một vẻ đẹp, không phải để tìm hiểu mà là để thưởng thức.”


Tôi cảm thấy câu này có hơi hướm triết học, mơ hồ ẩn chứa một tầng đạo lý.


Tính cách tôi là, chỉ cần cảm thấy cô gái nào dễ thương sẽ tin lời của cô ấy có lý.


Kết cấu của bức tranh này rất đơn giản.


Bên trái là một cậu con trai đang đi, dọc đường có vài cái cây, ba phiến lá rụng bay lượn giữa không trung.


Mái tóc cậu con trai hơi rối, chân trái đạp lên mảng lá rụng.


Trên bầu trời còn vẽ vài đường vòng canh, còn cả vết dùng tay bấm bút chì kim nữa.


Tập trung quan sát một hồi, tôi cảm thấy hơi man mát, đó là cảm giác gió thu phất qua khuôn mặt trên đường tới quán cà phê này.


Tôi không khỏi nhắm mắt lại, hít một hơi thật sâu.


“Sao thế?” Cô hỏi.


“Không sao.” Tôi mở mắt. “Chỉ cảm thấy man mát thôi.”


“Mát?”


“Đúng vậy. Như gió mát thổi qua.”


“Thật chứ?” Hình như cô cũng đang kích động.


“Sao thế?” Lần này tới phiên tôi tò mò.


“Trước đây thầy dạy vẽ của tôi từng nói…” Giọng cô mang theo chút hưng phấn. “Họa sĩ giỏi khi vẽ gió sẽ khiến người ta có cảm giác như gió mát thổi qua; khi vẽ mua sẽ khiến người ta thấy như mắc mưa, toàn thân ướt đẫm; còn khi vẽ sấm sét sẽ khiến người ta toàn thân tê dại, như bị điện giật.”


Hả? Sao lại không giống thầy tôi nói?


Họa sĩ giỏi mà thầy tôi bảo với họa sĩ giỏi mà thầy cô ấy bảo, rốt cuộc loại nào lợi hại hơn?


Hay nên nói là, thầy tôi với thầy cô ấy, rốt cuộc ai nói đúng hơn?


“Tôi còn nghe thấy tiếng ‘vi vu’ nữa.” Chủ quán đột nhiên xuất hiện bên cạnh bọn tôi, nói.


Tôi và cô ấy cùng quay đầu lại, phát hiện anh ta cũng đang xem bức tranh.


Đang muốn hỏi anh ta sao lại nghe thấy tiếng gió thổi thì cô ấy lại mở miệng trước:


“Thích không?”


“Ừ.” Chủ quán gật đầu. “Năm cốc.”


“Bảy cốc thì sao?” Cô nói.


“Vậy sáu cốc đi.” Chủ quán nói.


“OK.” Cô cũng gật đầu.


Sau đó chủ quán cầm bức vẽ kia, trở về quầy bar.


“Cái này…” Tôi lập tức nghẹn lời.


Vì tôi không biết nên hỏi anh ta hay hỏi cô ấy, cũng chẳng biết nên hỏi chuyện gì trước.


Cô ấy lại chuyển ánh mắt về tấm hình vạn tiễn xuyên tâm của tôi, khiến tôi thấy thật xấu hổ.


“Cái này là vẽ bừa thôi, không thể để người ta thấy được.” Tôi nahnh chóng nhét nó vào trong cặp tài liệu.


“Đâu có. Bức tranh cũng như người thân hay người yêu, cho dù kém hấp dẫn tới mức nào vẫn luôn khiến một vài người có cảm giác đặc biệt.”


“Hả?”


“Nói ví dụ như, trông anh như vậy…”


“Xin hỏi.” Tôi ngắt lời cô. “‘Trông anh như vậy’ là có ý gì?”


“Đây là ví dụ thôi.” Cô mỉm cười. “Nói cách khác, trong mắt người khác anh rất bình thường; nhưng người thân hay người yêu của anh thấy anh sẽ có cảm giác đặc biệt hơn nhiều so với người bình thường.”


“Ồ.” Tôi lại lấy bức vẽ vạn tiễn xuyên tâm ra. “Thế nên cô là người thân của bức vẽ này?”


“Có lẽ vậy.” Cô cười nói: “Anh cũng là người thân với bức vẽ của tôi mà.”


Cô cười còn chưa dút tiếng đã thoáng nhìn qua phiến lá rụng trên bàn, cầm nó lên rồi nói:


“Tôi vừa hao tổn tâm trí xem nên vẽ lá cây khi còn sống ra sao.”


“Thật không?”


“Có chiếc lá cây khô héo rơi xuống, song lại có gió thổi qua giúp nó vẽ lên những đường nét cuối cùng trong cuộc sống.


“Ừm.” Tôi bắt đầu nghe mà chẳng hiểu rồi.


“Tôi rất tò mò, nếu những giây phút cuối cùng của chiếc lá là ở gót giày, nó sẽ có cảm giác ra sao?”


“Có lẽ sẽ cảm thấy là vận mệnh an bài.”


“Không.” Cô cười rất thoải mái. “Là vận mệnh trêu ngươi.”


Tôi ngắm nhìn cô, lại ngắm nhìn phiến lá kia, cả vết tích trên chiếc lá.


“Anh thường tới đây à?” Cô ấy lại hỏi tôi.


“Hai ba ngày lại tới một lần, đã tới tám chín lần rồi. Lần nào tới tôi cũng thấy cô.”


“Thật không?” Cô cầm bút, khẽ cắn cắn, như đang cố nhớ lại.


“Xin lỗi.” Cuối cùng cô ấy lắc đầu. “Tôi không nhớ là từng thấy anh.”


“Không sao. Người đi trên đường cao tốc, thường đều chẳng thấy chú kiến bên đường.”


Cô lại mỉm cười, đặt cái bút cắn trong miệng xuống, nói: “Không phải thế, tôi chỉ không quen nhớ mặt người ta thôi.”


Tay phải cô cầm bút, chỉ về phía ngực tôi, vẽ vài nét giữa không trung.


“Cô đang làm gì thế?”


“Thử nhớ anh xem.” Cô ấy mỉm cười đáp.


Tôi vô thức cúi đầu ngắm nghía, không phát hiện trước ngực mình có gì lạ.


“Đúng rồi, sau này anh còn hay tới đây không?”


“Chắc là có.”


“Sao lại trả lời không chắc chắn vậy chứ? Chẳng có tí khí phách của người học khoa học.”


“Được. Tôi sẽ tới thường xuyên.” Tôi hỏi lại cô ấy. “Vậy còn cô? Có thường tới đây nữa không?”


“Chắc là có.”


“Cô cũng trả lời không chắc chắn nhé.”


“Tôi đâu cần khí phách chứ.” Cô mỉm cười. “Tôi học nghệ thuật mà, xin chỉ giáo.”


Cô trở lại chỗ ngồi của mình, thu thập bút vẽ và quyển sổ của mình, thần sắc có vẻ cực kỳ thoải mái.


Lúc đi qua bên cạnh tôi, cô nói: “Tôi đi trước nhé.”


“Ừ.”


Lúc sắp mở cửa quán, cô lại quay lại vẫy tay với tôi nói:


“Bye bye, người học khoa học.”


Tôi cũng gật đầu đáp lại cô ấy.


Khi tiếng boong của chuông cửa sắp ngừng, đầu óc tôi như đột nhiên lóe sáng.


Cô ấy học nghệ thuật, tôi học khoa học.


Nghệ thuật, khoa học?


Cuối cùng tôi cũng nghĩ ta cái tên thích hợp rồi.


Cầm bút lên, vẽ một mũi tên lên bức tranh vạn tiễn xuyên tâm, đâm thẳng vào hồng tâm.

Chương 2: Mơ màng



Tôi quyết định nhân vật nam nữ chính trong câu chuyện sẽ là Diệc Thứ và Kha Tuyết




Diệc Thứ là chàng trai học khoa học, còn Kha Tuyết là cô gái học nghệ thuật.




Vậy địa điểm và khung cảnh lần đầu tiên họ gặp nhau thì sao đây?




Cứ chọn luôn cái quán cà phê này đi.




Thời gian gặp gỡ là tầm quá trưa một ngày mùa thu, ngoài quán gió thổi hiu hiu, ven đường đôi khi lá rụng.




Khi chiếc lá thứ ba rụng khỏi cành cây, Kha Tuyết nhấc chiếc bút vẽ lên, ngồi trong quán cà phê, bắt đầu vẽ.




Còn Diệc Thứ, ngay khi chiếc lá thứ ba rụng xuống, đạt lên ba chiếc lá rơi, bước vào quán cà phê.




Kha Tuyết muốn vẽ chiếc lá dính trên đế giày Diệc Thứ, vì vậy bọn họ bắt đầu lần nói chuyện đầu tiên.




Cứ vậy trước đã, tôi cũng phải về rồi.




Đây là tiến độ lớn nhất của tôi trong suốt ba ngày qua, đúng là nên cám ơn cô gái học nghệ thuật kia.




Cầm tờ giấy trên bàn lên, tới quầy bar tính tiền.




Trả tiền xong tôi mới đột nhiên nhớ ra, cô gái kia còn chưa trả tiền.




Tôi có nên nhắc chủ quán không đây? Dẫu sao uống cà phê, phải trả tiền, đây là chân lý.




Nhưng cô ấy lại khiến tôi có linh cảm, có thể nói là tôi nợ nhân tình của cô ấy, cũng nên trả tiền cà phê giúp.




Tôi là người học khoa học, khi chân lý và nhân tình xảy ra xung đột thì luôn luôn đứng về bên chân lý.




“Cô ấy chưa trả tiền.” Tôi chỉ về hướng cố ấy vừa đi.




Tính cách tôi là cực kỳ thẳng thắn, không thích ăn nói vòng vo.




“Anh muốn trả tiền thay cho cô ấy à?”




Giọng chủ quán trầm trầm khô khốc, như âm thanh nghẹn lại ở cổ.




“Cà phê hôm nay ngon thật.”




Tính cách tôi là nếu đã không muốn đối diện trực tiếp với chuyện gì thì sẽ bắt đầu ăn nói vòng vo.




Ra khỏi quán cà phê, qua đường, hòa bóng mình vào dòng người trong ga tàu điện ngầm.




Từ khi bắt đầu viết gì đó, tôi rất cố gắng dùng đôi mắt quan sát tất cả mọi thứ xung quanh.




Biến hóa của bầu trời bốn mùa, màu sắc tia nắng từ bên ngoài hắt vào, phương hướng và biên độ lay động của cây cối, nụ cười của nhân viên cửa hàng tiện lợi, sắc mặt của những người chờ đèn xanh đèn đỏ, bóng lưng người vừa đi sát qua.,,




Nhưng tôi tôi không quan sát người trong ga tàu điện ngầm.




Vì tôi thấy người trong ga tàu chẳng khác nào những cái hộp.




Ai nấy đều bao phủ bản thân rất kỹ lưỡng, bề ngoài tuy khác nhau, nhưng vẫn chỉ là những cái hộp.




Những thứ trong hộp dẫu khác nhau, nhưng con mắt tôi nào phải dụng cụ mở hộp, làm sao biết trong đó là gì?




Thế nên chẳng thà nhắm chặt mắt lại, coi như không thấy.




Tôi đã nói rồi, tính cách tôi là nếu không thể làm chuyện gì đến mức tốt nhất, vậy dứt khoát bor qua nó luôn,




Xuống tàu, trở lại nhà trọ của mình.




Vừa mới ngồi vào ghế sô pha trong phòng khách, lại phát hiện trên chiếc bàn nhỏ phía trước có đặt một chồng giấy.




Trên trang giấy đầu tiên có viết: “Hoang địa hữu tình phu”.




Đây là bản phác thảo kịch bản do bạn cùng phòng của tôi, Đại Đông viết.




Tôi cảm thấy tên kịch bản thật mờ ám, không nhịn được cầm lên, lật vài tờ sang.




Đang lúc suy nghĩ xem vì sao lại là “Hoang địa hữu tình phu” thì Đại Đông về nhà.




“Này, sao cậu lại lấy cái tên này?” Tôi hỏi cậu ta.




Cậu ta ngắm nghía tờ giấy trên tay tôi rồi nói: “Tên rất bình thường mà, sao nào?”




“Bình thường?” Tôi lấy làm lạ, hỏi lại: “Tên này mà bảo là bình thường á, có mà thiếu văn hóa ấy.”




“Thiếu văn hóa?”




Đại Đông có vẻ cũng bối rối, tới bên cạnh tôi, ngồi xuống, tôi đưa trả chồng giấy cho cậu ta.




“Hoang địa hữu tình thiên.” Cậu ta đọc xong bèn hỏi. “Cái tên này có gì mà thiếu văn hóa?”




“Hả?” Tôi kinh ngạc. “Không phải ‘Hoang địa hữu tình phu’ à?”




“Phu cái đầu nhà cậu!” Cậu ta đứng dậy quát. “Hoang địa hữu tình thiên cơ mà!”




Tôi xấu hổ, đành cười trừ.




Thật ra cái này đâu trách tôi được, trên đầu chữ “thiên” của Đại Đông hơi nhôlên, nhìn cũng giống chữ “phu” mà.




Có điều mấy thứ thế này tôi đã hay mơ màng từ hồi nhỏ rồi.




Ví dụ như truyện cổ tích “cô bé bán diêm”, tôi luôn đọc thành “diêm bán cô bé”.




Tính cách tôi có khi giống như đi tất, không phân rõ được phải hay trái.




“Tiểu thuyết của cậu tiến triển ra sao rồi?”




Đại Đông đặt “Đất hoang hữu tình thiên” xuống, quay sang hỏi tôi.




“Mới đặt xong tên nhân vật chính với xắp xếp xong bối cảnh gặp gỡ thôi.”




“Chậm quá.” Cậu ta lắc đầu. “Hai nhân vật chính trong truyện của tớ đã bắt đầu hôn nhau rồi.”




“Nhưng cậu không phải đi làm.” Tôi không phục. “Tớ còn phải đi làm, đương nhiên không thể viết nhanh được.”




“Đi làm?” Cậu ta ra vẻ khinh thường. “Cậu đi làm chắc chỉ để nhìn lén mấy đồng nghiệp nữ chứ gì.”




“Cậu…” Mặt tôi nóng lên, nói không ra lời.




Tinh cách tôi là, nếu bị người khác nói tới chuyện xấu hổ sẽ bắt đầu nói lắp.




“Đúng rồi, tối nay bạn gái tớ qua.”




“Hả? Không phải cô ấy lơ cậu rồi sao?”




“Đâu có. Bọn tớ chỉ hiểu nhầm nhau một chút thôi mà.”




“Tớ biết rồi. Chắc chắn cậu lại quỳ xuống xin lỗi người ta hả?” Tôi cười he he. “Dưới gối nam nhi có hoàng kim là chân lý, nhưng bạn gái đại diện cho tình yêu; cậu không như tớ, nếu như chân lý với tình yêu có xung đột, chắc chắn cậu sẽ đứng ở phía tình yêu.”




“Cậu…” Giờ tới phiên Đại Đông nói lắp.




Tính cách tôi là, nếu đã bắt đầu nói tới chuyện đáng xấu hổ của người khác, miệng lưỡi sẽ lập tức trở nên lưu loát.




Tôi cười he he hai tiếng, cầm cặp tài liệu về phòng mình.




Phòng này cũng chẳng có gì đặc biệt, chỉ có điều trên giường cực kỳ bừa bộn.




Vì tôi không muốn bản thân lúc rảnh lại đánh một giấc trên giường.




Tính cách tôi là, nếu không muốn bản thân chết dí trong yên vui, sẽ nghĩ cách tạo ra gian nan khổ cực.




Mở máy tính, chỉnh lý một tập tài liệu xong, bắt đầu gõ chữ trên bàn phím.




Tôi viết cũng có thể coi là thuận lợi, có điều vì đánh chữ quá chậm nên vẫn tốn không ít thời gian.




Viết xong, đang định lưu lại nhưng nghĩ suốt vài phút vẫn không ra được cái tên nào thích hợp, đành lưu tạm tên là: Diệc Thứ và Kha Tuyết.




Nhìn đồng hồ, đã khuya rồi nhưng bạn gái Đại Đông vẫn chưa tới, thế nên tôi vẫn chưa đi ngủ được.




Nói cũng lạ, người khác nếu bạn gái tới sẽ đá đít bạn cùng phòng ra khỏi cửa, thế nhưng Đại Đông lại kiên quyết giữ tôi ở lại.




Đại Đông tuy nói là bạn cùng phòng với tôi nhưng thật ra là chủ nhà, gian nhà này là do cha mẹ cậu ta để lại cho.




Cậu ta tốt nghiệp hệ sân khấu điện ảnh, sau khi hoàn binh lại làm ở công ty quảng cáo hai năm.




Nhưng lúc tôi chuyển tới cậu ta đã rời công ty quảng cáo vài năm rồi.




Những năm đó cậu ta sống dựa vào việc viết văn quảng cáo với viết kịch bản, lúc nào cũng làm việc ở nhà.




Tôi vặn eo, cảm thấy hơi mệt, ra ngoài phòng bảo Đại Đông mình định ngủ trước.




“Cậu ngủ trong phòng khách có được không?”




“Có phòng ngủ lại không ngủ, ngủ trong phòng khách làm gì?”




“Cậu ngủ trong phòng khách, tớ có thể hát hay kể chuyện cổ ru cậu ngủ.”




“Cậu bị điên à! Tớ không phải trẻ con ba tuổi nhé!”




“Xin cậu đấy!” Giọng Đại Đông gần như cầu xin. “Nếu có cậu cô ấy sẽ không mắng tớ.”




“Tớ ngủ trong phòng khách có khi cô ấy chửi cho chứ chẳng phải mắng nữa.”




“Không đâu, cô ấy sợ đánh thức cậu.”




“Tớ về phòng ngủ cũng được mà.”




“Không được. Phòng cậu cách âm tốt lắm, bên ngoài có án mạng giết người cũng chẳng đánh thức cậu nổi.”




“Muốn tớ ngủ trong phòng khách cũng được, có điều cậu phải giảm tiền thuê nhà một ngày.”




“Được, không thành vấn đề.”




“Hơn nữa lúc tớ tỉnh phải thấy bữa sáng của mình.”




“Cậu đừng có được voi đòi tiên.”




“Tớ về phòng ngủ đây?”




“Bữa sáng cậu thích uống sữa bò hay sữa đậu nành?”




“Sữa đậu nhé.” Tôi về phòng lấy gối với chăn ra, nằm trên ghế sô pha nói. “Trên bánh nướng phải có hạt vừng, đen phải nhiều hơn trắng, phải nướng giòn, đừng có mềm quá đấy.”




“Rõ.”




“Quỳ cho tốt nhé.”




“Chết tiệt.” Đại Đông chửi.




Tính cách tôi là nếu đã bắt đầu trêu chọc sẽ chẳng thể ngừng lại.




Lúc tôi dậy trời đã hừng sáng, trong giấc mơ cũng không nghe thấy tiếng Đại Đông bị mắng, sau khi tỉnh lại cũng thấy bữa sáng của mình.




Đánh răng rửa mặt xong, tôi bất đầu đi tìm tất.




Đối với thứ gọi là bít tất này, tôi lúc nào cũng mơ mơ màng màng, thường tìm chẳng ra một chiếc khác.




Sau bèn quyết định tất cả tất được mua đều cùng là sậm màu, không hoa văn trang trí, chỉ cần vớ bừa hai cái đi vào là được.




Tuy rằng màu sậm cũng có dăm bảy loại, nhưng cũng may màu sắc chênh lệch không nhiều, không dễ bị phát hiện.




Có điều cái tất nào trông cũng như nhau, tôi bắt đầu không phân biệt được cái nào là nên đem đi giặt, cái nào là vừa giặt xong.




Xỏ hai cái tất vào, lại đi giày xong, lúc này mới phát hiện trên người chỉ mặc quần đùi.




Đành phải cởi giầy, quần đùi ra, đổi quần, đi giầy vào.




Bình thường trước khi ra ngoài, tôi nhất định sẽ nhắc nhở bản thân phải thật cẩn thận, đừng bỏ sót thứ gì.




Nhưng vẫn thường quên vài thứ.




Hôm nay thì khá, chỉ quên mang mỗi bữa sáng thôi.




Thật ra chỗ làm của tôi ở ngay gần quán cà phê đó.




Trước đây, mỗi lần đi làm về, lúc qua quán cà phê, tôi đều học tập Đại Vũ, qua cửa mà không vào.




Mãi đến lúc giờ tan ca của tôi từ năm giờ rưỡi chuyển sang bốn giờ rưỡi, tôi mới thỉnh thoảng vào uống cà phê.




Vì tình trạng công ty không được tốt lắm nhưng tổng giám đốc lại không muốn cắt giảm biên chế, thế nên từ tháng trước trở đi, mỗi ngày chúng tôi phải làm việc ít đi nhưng tiền lương cũng ít đi vài ngàn đồng.




Để bù đắp khoản tiền lương thiếu hụt đó, tôi bắt đầu giúp Đại Đông làm việc.




Nhưng những việc tôi có thể làm thực sự có hạn, ngoại trừ giúp cậu ta xử lý một ít việc vặt ra, cùng lắm cũng chỉ là giúp cậu ta nghĩ vài lời văn quảng cáo hay slogan quảng cáo trong lúc cậu ta đang cạn kiệt ý tưởng.




Như trung tâm dưỡng da “Nhân tẫn khả phu” (Ai cũng có da), quảng cáo bên ngoài lại là “Nhân tẫn khả phu.” (Ai cũng có thể dùng)




(Cùng đọc là “nhân tẫn khả phu” nhưng chữ phu đầu tiên là 肤 – nghĩa là da, còn chữ phu thứ hai là 敷 – nghĩa là bôi, xoa)




Có công ty quảng cáo muốn một quảng cáo bán dầu gội trị gầu cho các tác giả bán chạy nhất, tôi đã đề nghị cậu ta dùng câu này: “Tôi đã dùng loại dầu gội trị gầu này, lúc gội đã nảy sinh linh cảm”




Có điều hầu hết các trường hợp, Đại Đông đều không chọn dùng ý kiến của tôi.




Tuy vậy, cậu ta vẫn căn cứ theo độ cống hiến của tôi mà xem xét xem giảm tiền thuê nhà bao nhiêu ngày.




Gần đây Đại Đông nhận công việc biên kịch cho một đài truyền hình, ngày nào cũng bận rộn viết kịch bản.




Đội biên kịch bọn họ thường hay phải họp, thời gian họp cũng không nhất định.




Đầu tiên là tôi chẳng biết gì về viết kịch, thứ hai thời gian không tương thích, đáng lẽ ra là không thể giúp được gì.




Có điều, một hôm, lúc cả hai đang ngồi trong phòng khách xem bóng đá, cậu ta bỗng hỏi tôi:




“Bóng rổ, bóng chày, tennis đều chỉ có một màu, vì sao bóng đá lại có hai màu đen trắng?”




“À.” Tôi thuận miệng đáp. “Bóng đá vốn có màu trắng, nhưng vì bị người ta đá tới đá lui, dần dà vết đá thâm lại, cho nên mới biến thành chỗ trắng chỗ đen.”




Cậu ta quay sang nhìn ta, quan sát một lúc rồi nói: “Cậu có thiên phú đấy.”




“Thiên phú gì?” Tôi cũng nhìn lại. “Đá bóng à? Tớ già quá rồi.”




“Không.” Cậu ta nói. “Trí tưởng tượng của cậu không tồi, chắc có thiên phú viết tiểu thuyết.”




“Thật không?”




“Ừ. Tiểu thuyết tiếng Anh là fiction, nghĩa là có bao gồm cả trí tưởng tượng.” Đại Đông vỗ vai tôi. “Thế nào? Có muốn viết thử không?”




“Nhưng tớ chưa từng viết tiểu thuyết bao giờ.” Tôi lắc đầu đáp.




“Có ai học cướp ngân hàng chưa? Nhưng người cướp ngân hàng lần đầu vẫn cướp được tiền cơ mà.”




“Ví dụ này kỳ quái quá.”




“Đừng để ý tới cái ví dụ đó, dù sao viết tiểu thuyết cũng chỉ đơn giản như húp một bát canh thôi. Hơn nữa nếu viết hay còn có thể kiếm được tiền thuê nhà vài tháng, thậm chí vài năm.”




“Thật chứ?” Tôi suy nghĩ một chút. “Vậy để tớ nghĩ xem.”




“Không cần phải nghĩ, cứ viết đi.” Đại Đông nói. “Có điều chủ đề của tiểu thuyết phải là tình yêu.”




“Tình yêu?” Tôi lắc đầu. “Tớ làm gì có kinh nghiệm, viết sao được?”




“Tác giả viết tiểu thuyết trinh thám từng giết người à? Tác giả viết tiểu thuyết kiếm hiệp là cao thủ võ lâm à?” Đại Đông cười nói. “Thế nên người viết tiểu thuyết tình yêu cần gì phải có kinh nghiệm tình yêu phong phú cơ chứ?”




“Nói cũn đúng.” Tôi cũng bật cười.




“Cậu viết xong, tớ chỉnh sửa lại thành kịch bản, không khéo lại có cơ hội làm thành phim.”




“Nghe cũng không tồi.” Tôi vẫn hơi do dự.




“Đương nhiên là không tồi rồi, hơn nữa con gái hay có hảo cảm với người viết tiểu thuyết lắm đấy.”




“Được. Để tớ thử xem.”




Tính cách tôi là nếu đã do dự, vậy sẽ để gái gú làm động lực.




Dẫu sao tôi cũng là người học khoa học, khi gặp chuyện gì thì phản ứng đầu tiên sẽ là thu thập tư liệu.




Tôi tới hàng cho thuê truyện, mượn rất nhiều tiểu thuyết về đọc, thử nghiên cứu về tiểu thuyết xem sao.




Tiểu thuyết khác rất nhiều so với báo cáo nghiên cứu mà tôi viết trước đây, đầy những tính từ và phó từ.




Ví dụ như “trên khuôn mặt kiên nghị của kỵ sĩ kiên cường là đôi môi lạnh lùng nghiêm nghị”, quá nhiều tính từ.




Hơn nữa nếu sắp xếp lại các tính từ, đổi thành “trên khuôn mặt kiên cường của kỵ sĩ lạnh lùng nghiêm nghị là đôi môi kiên nghị” hay “trên khuôn mặt lạnh lùng nghiêm nghị của kỵ sĩ kiên nghị là đôi môi kiên cường”, cũng chẳng chênh lệch mấy.




Tôi còn từng thấy “trên khuôn mặt kiên cường của kỵ sĩ kiên định ánh lên vẻ kiên nhẫn và đôi mắt kiên nghị”, một loạt những tính từ có chữ kiên.




Sau khi đọc tiểu thuyết được vài ngày, tôi quyết định buông bỏ công trình nghiên cứu này.




Vì tôi sợ mưa dầm thấm đất, khéo mình lại đem câu “tớ chờ cậu ở bãi biển” nói thành “tớ lặng lẽ đứng ở bãi biển tĩnh lặng, khe khẽ chờ cậu nhẹ nhàng bước tới.”




Vì vậy đành thử tới quán cà phê đó, tìm linh cảm để viết tiểu thuyết.




Đáng tiếc là tôi chẳng có kinh nghiệm gì, chỉ mỗi tên nhân vật chính cũng đã mất mất ba ngày.




Nếu không có cô gái học nghệ thuật kia, khéo tôi vẫn đang phí tiền trong quán cà phê ấy.




Nghĩ tới tiểu thuyết đã có khởi đầu, tôi vừa đi vừa vung vẩy cặp tài liệu, tâm trạng rất thoải mái.




Bước vào cửa công ty, vừa vào đã thấy cô nhân viên trực tổng đài, cô ấy đang nhận điện thoại, không để ý thấy tôi.




Nhân viên trực tổng đài họ Tào, trông rất xinh xắn đáng yêu, rất được lòng các đồng nghiệp nam trong công ty.




Khi tổng giám đốc bắt đầu giảm lương, vì cô ấy còn ở lại nên tôi mới quyết định ở lại cùng.




Thậm chí tôi thấy nguyên nhân lớn nhất của chuyện cả công ty không thằng con trai nào chịu nộp đơn thôi việc cũng là vì cô ấy.




Tính cách tôi là nếu tự mình làm việc ngốc, vậy cũng sẽ cảm thấy người khác ngốc như mình.




Từ ngày đầu tiên đi làm tôi đã để ý tới cô ấy, cũng rất muốn tiếp cận.




Tuy không biết tên cô, nhưng hôm nào gặp mặt cũng luôn chào hỏi, gật đầu, cười.




Nhưng không bao lâu sau, tôi mắc mắc một sai lầm lớn, cũng lại do mơ màng mà ra.




Khi đó, cô ấy mới treo thẻ nhân viên mà công ty cấp cho lên trước ngực.




Lúc chào nhau, tôi nhìn thoáng qua thẻ nhân viên của cô ấy rồi đọc:




“Tào Lễ Mụ”




Đang lúc cảm thấy đọc ba chữ này giông giống ba chữ gì đó thường nghe, lại thấy cô ấy thu lại nụ cười, trừng mắt nhìn tôi.




(Hình như giống một câu chửi, nhưng mình chưa tra ra đc, cáo lỗi ^^)




Tôi lại chẳng rõ tình hình của mình, vuốt mũi trở về bàn làm việc của mình.




Sau mới rõ, tên cô ấy là Tào Lễ Yên, không phải Tào Lễ Mụ.




Tôi rất muốn giải thích đấy chỉ là do tính cách mơ màng của mình mà thôi, không có ý trêu đùa gì cả; thế nhưng lần nào gặp cô ấy cũng không biết phải mở miệng ra sao.




Suốt mấy ngày sau, cô ấy chẳng buồn để ý tới tôi nữa, cũng không buồn nói với tôi tới nửa câu, cuối cùng tôi cố dốc hết dũng khí ra nói: “Cô… Cô Tào, đừng thế nữa.”




Cô ấy chỉ ngẩng đầu lên nhìn tôi một cái rồi nói. “Anh đừng tới nữa thì tôi cũng không thế nữa.”




Từ đó trở đi, chỉ cần thấy cô ấy tôi thẹn quá hóa… sợ, thậm chí cảm thấy cô ấy rất dữ.




Tính cách tôi là, nếu thấy sợ cô nào thì cũng thấy cô ấy rất dữ.




Tuy vậy, tôi vẫn rất muốn tiếp cận cô ấy.




Lúc đứng dậy đi lấy nước, tôi luôn lén liếc sang nhìn cô ấy một cái.




Đại Đông nói không sai, nếu tôi giảm thời gian nhìn lén cô ấy xuống, chắc sẽ viết tiểu thuyết nhanh hơn.




Nếu ánh mắt của cô ấy chạm vào ánh mắt tôi, tôi luôn căng thẳng tới mức uống một hơi cạn sạch luôn cốc nước.




Vì là nước nóng nên tôi cũng thường hay bị bỏng, lâu dần thành ra đầu lưỡi tôi đỏ hơn so với người bình thường.




Mỗi ngày khi vào công ty, tôi luôn thử chào cô ấy.




Nhưng luôn cảm thấy tư thế với sắc mặt mình chẳng khác nào con khỉ trốn trong đống lá tránh mưa.




Hôm nay cũng vậy.




Sau khi đi khỏi tầm mắt cô ấy, tinh thần tôi cũng khôi phục, lại ưỡn ngực đi về bàn làm việc của mình.




Tuy công ty của tôi không nhỏ nhưng những công trình nhận thầu lại chẳng lớn.




Tính chất công việc của tôi rất đơn giản, vẽ bản thiết kế, chạy ra công trường, thỉnh thoảng lại ra ngoài đi họp.




Tuy khi đi làm có rất nhiều lúc thời gian rảnh rỗi, có thể tranh thủ để viết tiểu thuyết, đây là chuyện thường tình của con người; nhưng khi làm việc phải thật chuyên nghiệp, không được xao nhãng, đây là chân lý.




Tôi là người học khoa học, cho nên khi chân lý với thường tình xảy ra xung đột, tôi luôn đứng về phía chân lý.




Thông thường, chỉ cần ngồi trước bàn làm việc tôi sẽ cực kỳ tập trung, như lão tăng nhập định.




Cũng vì tập trung như vậy, cho nên thường bị tiếng chuông điện thoại làm cho giật mình.




Theo lý thuyết, một người mơ màng đáng lẽ không khiến người ta nghĩ tới hai chữ tập trung, cũng như khi thấy công chúa Bạch Tuyết cũng không liên tưởng tới kỹ viện vậy.




Có điều sự tập trung của tôi cũng có thứ gọi là đồng hồ báo thức sinh lý, chỉ cần tới giờ tan tầm, sẽ như cảm thấy có một luồng sát khí, vì vậy lập tức tỉnh táo lại, chuẩn bị ra về.




Theo thói quen cũ, trước khi ra về, tôi vẫn phải nhìn sang phía cô Tào một cái.




Chỉ cần thấy cô ấy đứng dậy ra khỏi công ty, tôi cũng sẽ dùng tốc độ nhanh nhất thu dọn cặp lại liệu, rời công ty theo.




Nếu may mắn, tôi có thể cùng chờ thang máy với cô ấy, có điều những lúc như thế cô ấy sẽ lập tức chuyển hướng, đi vào toa lét.




Tôi đành một mình bước vào thang máy, để nỗi phiền muộn cùng đi xuống với mình.




Hôm nay tôi vẫn ôm theo phiền muộn cùng xuống thang máy.




Theo cơ học mà nói, khi thang máy đi lên, trọng lượng con người sẽ tăng lên, còn khi thang máy đi xuống, trọng lượng con người sẽ giảm đi.




Nhưng bị cô Tào lơ đi như vậy, dẫu thang máy đang đi xuống, tôi vẫn cảm thấy người mình nặng nề thêm.




Lâu dần, tôi cảm thấy, cảm giác của con người thường vượt ngoài các định luật vật lý.




Vì vậy, cũng như trong phim, siêu nhân luôn thay quần áo trong buồng điện thoại; tôi luôn thay đổi cách suy nghĩ trong thang máy, chuẩn bị tiến vào trạng thái viết tiểu thuyết.




Rời thang máy, ra khỏi tòa cao ốc công ty, rẽ phải, đi chừng ba trăm mét sẽ tới quán cà phê kia.




Đẩy cửa quán ra, trên bàn thứ hai sát cửa sổ vẫn bày một tấm thẻ “đã đặt chỗ”.




Tôi ngồi vào vị trí cũ, bàn dựa vào vách tường.




Lấy một tờ giấy trắng từ trong cặp tài liệu ra, bắt đầu nghĩ về tính cách của Diệc Thứ và Kha Tuyết.




Sau khi nghĩ một lúc, không tự chủ được, cầm lấy bút, lại vẽ một loạt vòng tròn lên giấy.




Đang lúc tâm tư của tôi chìm trong vòng xoáy do những đường tròn kia tạo thành thì tiếng “coong coong” lại vang lên.




Khi tôi rút tâm tư khỏi vòng xoáy, ngẩng đầu lên, cô gái học nghệ thuật đã ngồi vào bàn thứ hai sát cửa sổ, con mắt nhìn ra phía ngoài.




Đang lúc tôi đang do dự xem có nên chào không thì cô ấy quay đầu ấy lại, bắt đầu tìm thứ gì đó trên bàn.




Thứ cô ấy muốn tìm có vẻ không ở trên bàn, vì vậy lại nhấc cái túi trên tay lên, lục lọi một hồi.




Một lát sau, tay phải cô vỗ vỗ lên đầu, thở dài một cái.




Cô dựa lưng về phía sau, tựa vào ghế, ánh mắt bắt đầu chuyển khắp nơi.




Khi ánh mắt cô ấy chuyển sang phải, vừa hay bốn mắt chạm nhau.




Tôi gật đầu, mỉm cười, coi như chào hỏi.




Còn cô ấy tuy vì nụ cười của tôi mà cười lại nhưng vẻ mặt mơ màng, có vẻ như không nhận ra tôi.




Theo lý thuyết, chúng tôi mới gặp nhau hôm qua, đáng lẽ cô ấy phải nhận ra tôi mới đúng.




Vì thế tôi cũng vì sự mơ màng của cô ấy mà mơ màng theo, chẳng khác nào con khỉ đang nghĩ xem nải chuối ở đâu.




Tính cách tôi là, nếu cảm thấy khó hiểu, trông sẽ hệt như con khỉ, cái này là mẹ tôi nói.




Có lẽ cô ấy thấy phản ứng của tôi lạ lạ bèn mở miệng hỏi:




“Chúng ta có quen biết à?”




“Phiu phiu”




“Hả?”




“Rất nhiều mũi tên bay tới.” Tôi lại nói.




“Cái gì?” Vẻ mặt cô ấy càng thêm khó hiểu.




Tôi thở dài một hơi, đành nói: “Người học khoa học.”




“A…” Cô như đột nhiên nhớ ra. “Anh là người hôm qua.”




“Cô giỏi thật, mới qua một ngày thế mà đã chẳng nhận ra tôi nữa rồi.”




“Xin lỗi, tôi không giỏi chuyện nhớ người.”




Cô mỉm cười, chắc là nghe ra hàm nghĩa trong câu “thế mà đã” của tôi.




“Cái này không thể trách cô được, tại tôi sinh ra đã có khuôn mặt gián điệp rồi.”




“Mặt gián điệp?”




“Ừ. Khuôn mặt tôi chẳng hề đặc sắc, rất khó nhận ra, thế nên thích hợp làm gián điệp nhất.”




“Ha ha, anh đúng là thích nói đùa. Cái này không liên quan gì tới khuôn mặt anh cả.” Cô ngừng một chút rồi nói. “Thật ra nguyên nhân chính là —— tôi không hay dùng ‘mặt’ để phân biệt mọi người.”




“Hả?” Tôi thấy khó hiểu. “Vậy cô dùng cái gì để nhận ra người ta?”




“Cảm giác.”




“Cảm giác?” Con khỉ tôi lại bắt đầu nghĩ xem nải chuối đâu rồi.




“Trong mắt tôi, khuôn mặt mọi người đều không khác nhau mấy.” Cô ấy vừa cười vừa nói. “Thế nên tôi luôn dựa theo cảm giác của mình về họ để phân biệt mọi người.”




“Con mắt cô thật kỳ quặc.”




“Có lẽ vậy.” Cô ấy nói. “Nhiều loại động vật cũng có dùng thị giác để phân biệt các cá thể khác đâu, chúng có thể dùng âm thanh, cũng có dùng mùi. Nếu anh từng nuôi chó anh sẽ biết, cho dù anh có cố thay đổi khuôn mặt ra sao, thậm chí đẹo mặt nạ, chó anh nuôi vẫn dễ dàng nhận ra chủ.”




“Nói thế cũng có lý, nhưng dẫu sao chúng ta cũng là người.”




“Người thì đã sao?” Cô mỉm cười. “Trong mắt mọi người, khuôn mặt của chó, mèo, khỉ, cọp cũng chẳng khác nhau mấy.”




Tuy tôi không hiểu ý cô ấy lắm, có điều lại nhớ tới một bộ phim.




Kurosawa Akira trong “Ảnh Võ Giả”, là ảnh vũ giả (thế thân) của Takeda Shingen, trông rất giống nhau, có thể lừa được bất cứ ai, kể cả người thân của Takeda Shingen, thậm chí cả vợ.




Nhưng không thể giấu diếm được ngựa yêu của Takeda Shingen.




“Đúng rồi, tôi có vẽ anh đấy, có muốn xem không?” Cô mở bản vẽ trên bàn ra.




“Được.” Tôi đứng dậy, tới chỗ đối diện của cô ấy, ngồi xuống.




“Hả? Mặt tôi vuông thế sao?”




Nhân vật trong bức vẽ khuôn mặt vuông vắn, hơn nữa các đường nét trên khuôn mặt cũng mơ màng, trên mép còn có vài sợi râu ria.




“Đây là cảm giác của tôi mà.”




“Khuôn mặt của tôi rõ ràng là trong tròn có nhọn, có cảm giác thế nào cũng không thể thành hình vuông được.”




Tôi rời mắt khỏi bức vẽ, hỏi cô ấy: “Cô có đem quả trứng cảm giác thành quyển sách không?”




“Cái này không liên quan gì tới hình dạng, chỉ là cảm giác của tôi đối với bản thân anh thôi.”




Tay cô ấy lại như cầm một chiếc bút tàng hình, vẽ tới vẽ lui trong không trung, sau đó lại chỉ vào bức vẽ: “Cảm giác của tôi về anh như đang làm việc vậy, tính cách rất cứng rắn, đường nét không đủ smooth. Cho nên đối với tôi, đây là ‘khuôn mặt’ của anh.”




“Nhưng tôi đâu có râu ria gì, sao lại có mấy sợi tua tua này? Trông cứ như…”




“Như chó, đúng không?” Cô có vẻ hài lòng. “Anh cũng có cảm giác như vậy, thế thì đúng rồi.”




“Đúng cái…” Tôi cố nuốt cái “rắm” vào, cao giọng nói tiếp: “Cô vẽ tôi như chó, đương nhiên tôi phải có cảm giác giống chó rồi!”




Cô càng cười như nắc nẻ, thân thể run run, làm rất nhiều tiếng cười văng ra. “Hôm qua cảm giác anh tạo cho tôi là như đang rất cố gắng tìm thứ gì đó, nhưng lại không phải tìm bằng mắt mà là đi ngửi khắp nơi…”




“Nói tới nói lui, cô vẫn bảo tôi giống chó.”




“Tôi không nói anh giống chó.” Cô ấy lắc đầu. “Tôi chỉ cảm thấy anh có tính cách của chó thôi.”




Cứ nghe cô ấy nói chó chó, trong lòng tôi cũng hơi khó chịu.




Tuy cha tôi cũng từng bảo tôi giống chó nhưng lần đó là vì tôi cúi xuống đất tìm tiền bị rơi.




Tôi cố nhớ lại dáng vẻ mình ngày hôm qua, lúc ngồi đây tìm linh cảm, thật sự khiến người ta cảm thấy giống chó à?




Nghĩ ngợi tới mức xuất thần, tới lúc tôi hoàn hồn lại vừa vặn tiếp xúc với ánh mắt của cô ấy.




“Lại cảm thấy giống chó à?” Tôi hỏi cô ấy.




“Không.” Cô ấy có vẻ xấu hổ. “Cảm giác về anh hiện giờ thật giống…”




“Giống khỉ, đúng không?”




“Không sai.” Cô ưỡn thẳng người, ánh mắt sáng lên: “Đúng là khỉ.”




“Cảm giác của cô giống mẹ tôi.” Tôi mỉm cười.




Tính cách của tôi là chỉ cần có người nhất trí với mẹ tôi, tôi sẽ rất vui vẻ.




“Đúng rồi, vừa nãy cô tìm gì vậy?”




“Bút.” Cô có vẻ uể oải. “Tôi cứ luôn mơ mơ màng màng, hôm nay lại quên không mang bút.”




“Tôi cũng rất hay mơ mơ màng màng.”




“Thật không? Tôi không thấy thế.” Cô mỉm cười. “Khỉ mà hay mơ mơ màng màng thì dễ rớt từ trên cây xuống lắm.”




Nói xong, cô phát hiện còn chưa có cà phê, bèn vươn ngón trỏ tay phải ra, chỉ về phía quầy bar.




“Cô đang làm gì thế?”




“Gọi cà phê.” Cô ấy đáp. “Tôi làm vậy, chủ quán sẽ hiểu tôi muốn gọi cà phê.”




Cô cúi đầu xuống nhìn vào bản vẽ, lật lật vài tờ, chỉ vào một bức tranh rồi nói: “Chủ đề của bức tranh này là mơ màng.”




Trong bức tranh là một cô gái cúi rạp trên mặt đất, tay phải nhấc khăn trải giường, hình như đang tìm thứ gì đó dưới sàn.




“Mơ màng?” Tôi không nghĩ ra hàm nghĩa cửa bức tranh.




“Anh nhìn xem, tay trái cô ấy cầm cái gì? Chân trái đi cái gì?”




“Đều là dép mà.”




“Đúng vậy. Nhưng cô ấy lại vẫn đi kiếm dép dưới sàn, thế chẳng phải mơ màng à?” Cô ấy lại cười, cười tới mức không nói tiếp được, vì thế đành ngừng lại một chút rồi mới kể tiếp: “Thật ra chỉ cần cô ấy nhớ ra trên tay phải với chân trái đều có một cái dép rồi là được rồi, có điều cô ấy cứ luôn không nghĩ tới cả chân với tay, mỗi lần chỉ nhớ tới một thứ.”




“Cô tự vẽ chính mình.”




“Đúng vậy.” Cô ấy cười đáp. “Mỗi lần tôi chỉ nghĩ tới một thứ được thôi, vì vậy rất hay mơ màng.”




“Không ngờ đấy.” Tôi cũng cười nói.




“Tôi thường định đi thang máy xuống, nhưng lại hay ấn vào nút ‘△’ .”




“Vì sao?”




“Vì thang máy đang ở tầng một, thế nên tôi muốn gọi thang máy lên trên chở tôi đi xuống.”




Sau khi nói xong, cô ấy luôn cười. Tôi cũng cảm thấy vui, vì vậy bèn cười theo.




Vì tôi luôn thấy cô ấy chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ, thế nên rất khó tưởng tượng là cô ấy lại có tính mơ màng.




Trong ấn tượng về người học nghệ thuật, hoặc là chán chường, hoặc là tiên phong, có vẻ không thấy mơ màng.




Hơn nữa tôi thấy suy nghĩ của nghệ thuật gia tương đối nhẹ nhàng, vì vậy nên tâm hồn cũng luôn lâng lâng, rất khó nắm bắt được điểm rơi và phương hướng.




Không như những người học khoa học chúng tôi, suy nghĩ vừa cứng vừa nặng, chẳng khác nào bê tông với mặt đường.




Khi suy nghĩ thay đổi cũng vẫn rất cứng rắn, hơn nữa còn phải xem xét quỹ đạo và lực ly tâm.




“Tôi có một cách tránh tình trạng mơ màng đấy.”




“Thật chứ.”




“Ừ. Tôi thường hay viết chữ lên lòng bàn tay, chỉ cần lúc nào cũng mở lòng bàn tay ra…”




Nói xong, tôi giơ bàn tay ra cho cô ấy xem. “Có thể nhắc nhở bản thân, tránh quyên thứ gì.”




“Trên tay anh có chữ kìa.”




“Thật không?” Tôi xoay lòng bàn tay ra trước mặt mình, trên đó có viết: năm rưỡi chiều họp ở hội trường thành phố.




“Hả!” Tôi nhìn đồng hồ, hét toáng lên, đã sắp năm rưỡi rồi.




Tôi như bắn khỏi ghế, nói với cô ấy; “Tôi đi trước nhé. Bye bye.”




Lúc xoay người đang muốn chạy ra ngoài, thiếu chút nữa va phải chủ quán đang bê cà phê ra cho cô ấy.




Hai chân chủ quán dính chặt trên mặt đất, thân thể khẽ cong về phía sau, né đòn tấn công trực diện của tôi.




Thật khó tưởng tượng một người lạnh lùng lại có cái eo mềm dẻo như thế.




“Anh còn chưa trả tiền.” Giọng anh ta vẫn trầm trầm như trước.




Xem ra trong quán cà phê này chỉ có mình anh ta không mơ màng.




Thanh toán tiền, lao ra ngoài quán bắt taxi.




Tới hội trường thành phố rồi mới phát hiện cặp tài liệu để quên ở quán cà phê chưa cầm.



Chương 3: Bối rối



Lúc tôi tới hội trường thành phố thì đã muộn mười phút.




Rón ra rón rét tìm đường vào phòng hội nghị, ký tên lên danh sách tham gia hội nghị xong, di động lại đột nhiên đổ chuông.




“Shit!”




Tức tối lôi di động từ trong túi ra, còn không quên nhỏ giọng chửi rủa một câu.




Tính cách tôi là chỉ cần di động đổ chuông lúc không nên đổ, sẽ chửi rủa rất tục.




Hóa ra là có tin nhắn ghi âm tới, thông báo nhắc nhở phí điện thoại.




Tôi không đợi giọng nói ngọt xớt đó nói xong đã nhanh chóng tắt máy.




Thật đáng tiếc, có giọng nói dễ nghe như vậy mà lại đi làm công việc đòi nợ này.




Đang muốn tìm một chỗ ngồi thì phát hiện nhiều người đang nhìn chằm chằm vào mình.




Trong phòng hội nghị rất yên tĩnh, bầu không khí lại có vẻ kỳ quái, có vẻ oi bức như rừng cây nguyên thủy trước khi mưa dông mùa hạ trút xuống; lại giống như khoảnh khắc tĩnh lặng ngắn ngủi trên thảo nguyên, khi sư tử chuẩn bị săn bắt con mồi.




Tôi hiểu ra, vừa rồi tiếng chuông di động và tiếng chửi nhỏ vừa rồi có thể đã quấy rầy bọn họ, vì vậy da đầu tê dại, vô cùng bối rối.




Tính cách tôi là, nếu xảy ra chuyện do tính mơ màng của mình, sẽ cảm thấy rất bối rối.




Hội nghị trong hội trường thành phố này chủ yếu là để thảo luận về môi trường sống của thủy cầm gần nhà máy điện.




Những người tham gia hội nghị lần này, có thể phân chia đại khái làm ba loại: nhân viên chuyên nghiệp, đơn vị thi công và tổ chức bảo vệ môi trường.




Đơn vị thi công muốn có nhà máy điện, đoàn thể bảo vệ môi trường không muốn có nhà máy điện, lập trường hai bên mâu thuẫn.




Các nhân viên chuyên nghiệp thì ở giữa, có người thiên về đơn vị thi công, có người thiên về tổ chức bảo vệ môi trường.




Còn có người ở giữa trong giữa.




Tổng giám đốc của tôi có thể tính vào loại nhân viên chuyên nghiệp, có điều ông ta không muốn đến, bèn bảo tôi đến thay.




Ông ta chỉ đạo tôi, lập trường của ông là giữa trong giữa, phải xem xét các manh mối thật kỹ rồi mới chọn nghiêng sang bên nào.




Ngay từ khi hội nghị bắt đầu, hai phe đã lần lượt lên bục thuyết trình ý kiến của mình..




Đơn vị thi công nhấn mạnh việc cần thiết khi có nhà máy phát điện, cứ như không có nhà máy điện này nền kinh tế sẽ suy thoái, mọi người chỉ có nước la hét gọi tên, lần mò tìm tay người thân.




Tổ chức bảo vệ môi trường lại không ngừng đề cập tới loại thủy cầm này hiếm có ra sao, nghe tên cũng đã thấy hiếm có rồi, nếu không bảo vệ môi trường sống cho chúng, chúng sẽ chỉ có cách kêu lên chiêm chiếp trong làn gió lạnh.




Hai bên nêu ý kiến của mình xong, ngay sau đó là thời gian thảo luận, hội trường đầy mũi thuốc súng.




Tôi theo bản năng khép chặt đôi môi, sợ ngọn lửa chiến tranh lan tới.




“Chúng tôi đã thực hiện tốt việc đánh giá những ảnh hưởng tới môi trường sinh thái, chắc chắn sẽ không quấy nhiễu tới loài thủy cầm.”




“Nếu anh là thủy cầm, ngay bên cạnh có cái nhà máy điện ầm ĩ suốt ngày, anh còn muốn sống ở đó không?”




“Chúng tôi sẽ quản lý chuyện tiếng ồn thật chặt.”




“Quản lý tiếng ồn có ích gì? Nếu anh là thủy cầm, bên cạnh có cái nhà máy điện lấp lóe suốt ngày, anh còn muốn sinh chim non ở đấy sao?”




“Lấp lóe thì có liên quan gì tới chuyện không sinh chim non?”




“Anh thích lúc sinh con có người cứ cầm đèn pin chiếu vào à?”




“Nhưng chúng ta cần có điện!”




“Việc sinh sống và sinh sản của thủy cầm quan trọng hơn!”




“Anh muốn tối nào cũng thắp nến hay muốn thấy thủy cầm sống hạnh phúc thoải mái?”




“Tôi hi vọng con cháu mình sau này vẫn có thể ngắm loại thủy cầm xinh đẹp này!”




Hai bên càng lúc càng to tiếng, cục diện đã tới mưucs gần như khống chế được, còn nhân viên chính phủ đảm nhiệm chức vụ chủ tịch lại như một chú chó chuẩn bị qua đường, bị hai làn xe từ hai bên ngăn cản.




Tính cách tôi là, chỉ cần đứng trong cảnh không hợp lời hay có chuyện mâu thuẫn, sẽ cảm thấy bối rối.




Vậy nên đành lật mặt trái của tờ chương trình hội nghị lên, suy nghĩ kết cấu, tính toán phác thảo tiến độ tiểu thuyết để tránh cảnh bối rối này.




Một lát sau bỗng nghe thấy tiếng chủ tịch cuộc họp hô: “Ông Chu Tại Tân.”




Đó là tên giám đốc của tôi.




Khi tôi đang vui sướng trước tai họa của người khác, chuẩn bị nhìn xem ông ta sẽ phát biểu cao kiến gì trong trường hợp này, lại đột nhiên nhớ ra hôm nay mình đại diện ông ta tới tham dự, lúc ký tên lên danh sách tham gia cũng là tên ông ta!




Đáng lẽ tôi phải ký tên ông ta rồi ghi thêm chữ “đại diện: mới đúng!




Tôi lập tức đứng dậy, bối rối tới mức da đầu tê dại, một lúc lâu sau không nói nên lời.




“Loại người vừa đi muộn vừa không biết nên tắt điện thoại trước khi vào họp này nhất định là kẻ ích kỷ, làm gì biết tôn trọng tự nhiên sinh thái cơ chứ? Ý kiến của hắn ta không nghe cũng được.!




Tôi càng bối rối, cảm thấy như tóc đang dời ra đầu, dần dần bay xa.




“Anh có biệt loại thủy cầm này trên thế giới còn lại mấy con không? Chẳng lẽ anh không muốn bảo vệ chúng sao? Đang thảo luận đề tài quan trọng như vậy, thế mà anh lại không tập trung lắng nghe!”




“Nếu bác hàng xóm của anh đã rất già rồi, bạn bè và người thân đều đã chết sạch, anh nghĩ lại xem ông ấy còn muốn sống tiếp không?”




Tôi vừa nói xong, bầu không khí trong hội trường như đột nhiên giảm vài độ, chắc hẳn do những lời tôi nói quá lạnh.




Thôi xong rồi, không ngờ tôi lại lỡ lời trong trường hợp này.




Tính cách tôi là nếu bối rối tới mức không thể bối rối hơn, sẽ buột miệng lỡ lời.




Phòng họp yên tĩnh trong vài giây, chủ tịch quay đầu sang thư ký ghi chép có vẻ như đang không biết làm sao, nói:




“Câu này của ông Chu phải nghi lại.




Thư ký ghi chép biên bản cuộc họp bừng tỉnh, cúi đầu xuống giấy viết loạt xoạt.




Tôi cứng người một lúc lâu, thấy toàn trường không có động tĩnh gì, vì vậy từ từ ngồi xuống.




Cúi đầu, tay trái che khuất trán, tay phải luồn xuống bàn véo mạnh lên chân trái mấy cái.




Tính cách tôi là nếu đã buột miệng lỡ lời sẽ tự ngược đãi bản thân.




May là ngay sau đó tới phiên một số nhân viên chuyên nghiệp, những ý kiến dưa ra đều đầy vẻ khách quan, vì vậy nhiệt độ buổi họp lại bắt đầu tăng trở lại.




Nếu không vì không cách nào trốn tránh, tôi nhất định sẽ chui vào góc tường vẽ vòng tròn.




Vốn định viết kết cấu tiểu thuyết để giết thời gian, nhưng giờ da đầu vẫn còn tê dại, hơn nữa suy nghĩ của tôi cũng đã biến thành thủy cầm không ngừng bị tiếng ồn và ánh sáng của nhà máy điện quấy nhiễu.




Vất vả lắm mới họp xong, tôi dùng tốc độ nhanh nhất rời hội trường thành phố, đi thẳng tới quán cà phê kia.




Tôi vội vàng đẩy cửa quán ra, do dùng nhiều sức quá nên cánh cửa va phải một cô gái đang định bước ra.




“Ai da!” Cô kêu lên một tiếng thảm thiết, tay phải xoa xoa trán.




“Xin lỗi.” Tôi lập tức nói.




Cô gái ấy hung hăng trừng mắt nhìn tôi một cái rồi mới đi ra ngoài. Sau khi ra khỏi quán rồi còn xoay người lại lườm tôi một lần nữa.




Tôi lại cảm thấy bối rối.




“Anh chủ quán ơi, cái…” Tiếng chiếc chuông treo ở cửa còn chưa ngừng, tôi đã vội vàng hỏi.




“Đã đi từ lâu rồi.” Chủ quán không ngừng việc trên tay.




“Cái gì đi rồi?”




“Cô gái vẽ cậu như chó ấy.”




“Tôi không hỏi cô ấy!” Tôi chỉ về phía mình ngồi lúc trước.




“Anh có thấy cặp tài liệu của tôi không?”




“Có.”




Tôi nhẹ nhõm thở phào một hơi, vốn còn đang lo mất cái cặp tài liệu.




Chủ quán đang rửa cốc chén, đưa lưng về phía tôi, xét theo tính lễ phép, tôi cũng ngại giục anh ta.




Sau khi rửa cốc chén và lau khô xong, anh ta quay người lại, vừa vặn mặt đối mặt với tôi.




“Còn việc gì à?” Anh ta hỏi tôi.




Đầu tiên tôi ngạc nhiên, sau đó mới hiểu ý, đành cười khổ đáp: “Có thể trả cặp tài liệu cho tôi được không?”




“Dùng từ ‘trả’ này không được, vì tôi không mượn, làm sao mà trả?”




“Được rồi.” Tôi lại cười khổ: “Có thể ‘đưa’ cặp tài liệu cho tôi được không?”




“Ừ.” Anh ta cúi đầu lấy căp tài liệu từ dưới quầy bar lên, đưa cho tôi.




“Cám ơn.” Sau khi nói xong, tôi xoay người mở cửa quán, định ra về.




“Người viết tiểu thuyết phải sử dụng từ ngữ thật chính xác, nhất là động từ.”




Tôi nghe câu nói này xen giữa những tiếng leng keng của quả chuông, không khỏi quay lại hỏi:




“Làm sao anh biết tôi viết tiểu thuyết?”




“Cảm giác.”




“Lại là cảm giác.” Tôi lại cười khổ lần thứ ba: “Chẳng lẽ trông tôi giống một chú chó đang đi tìm đồ lắm sao?”




“Giờ thì không giống.” Anh ta dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Lúc tìm linh cảm thì mới giống.




Sau khi nói xong, anh ta bước ra khỏi quầy bar, tới bên cái bàn mà khách hàng vừa đi khỏi, thu dọn cốc chén.




Tôi đột nhiên cảm thấy anh ta thật giống võ lâm cao thủ quét rác ở chùa Thiếu Lâm, thâm tàng bất lộ.




Tôi rời quán cà phê, qua đường, bước vào trạm xe điện ngầm, lên xe.




Rốt cuộc cũng có thể nhắm mắt lại, buông lỏng đôi chút.




Da đầu không còn tê dại nữa, tóc trên đầu cũng đã an phận, không rục rịch như hồi nãy.




Như mọi cảm giác tê ngứa đều từ từ bốc hơi khỏi cơ thể tôi, cũng tiện tay mang theo một ít oi bức.




Khi mở mắt ra, toàn thân đều cảm thấy mát mẻ.




Về nhà, vừa mở cửa ra bước vào, còn chưa kịp cúi người tháo giày đã thấy hai người trong phòng khách đang đứng nghiêng người về phía tôi: Đại Đông và bạn gái của cậu ta – Tiểu Tây




Tôi còn chưa kịp mở miệng chào đã nghe thấy tiếng Tiểu Tây chỉ thẳng vào Đại Đông quát:




“Anh đáng ghét chẳng khác nào con rùa đen chỉ khi cháy rừng và động đất mới chịu chui ra!”




Tôi lại chui vào một trận mâu thuẫn khác rồi.




Ba người Đại Đông, Tiểu Tây và tôi cùng cảm thấy bối rối.




Da đầu tôi lại nhanh chóng tê dại, ánh mắt Đại Đông giả vờ như đang bận nhiều việc, hết nhìn đông lại nhìn tây.




Tiểu Tây đầu tiên là kinh ngạc, vài giây sau mới bước nhanh qua bên cạnh tôi, tông cửa bỏ về.




Sau khi Tiểu Tây đi, Đại Đông thong thả đi về phía ghế sô pha, sau đó ngồi xuống, bật ti vi.




Tôi cúi người cởi giày, sau đó cũng đi tới bên ghế sô pha, ngồi xuống.




“Con rùa đen chỉ khi cháy rừng và động đất mới chịu chui ra là sao?”




Một lúc sau, khói thuốc súng trong không khí tan hết, tôi quay đầu lại hỏi Đại Đông.




“Tớ cũng không rõ lắm.” Cậu ta lắc đầu: “Đại khái là bảo, cho dù trong tình huống khẩn cấp tới mức nào tớ vẫn chịu nhanh nhẹn lên, cứ lề mề chần chừ.”




“Cách so sánh này không tồi, ít ra cũng được bốn sao. Có điều…” Tôi cười một cái rồi nói tiếp: “Tớ chưa từng nghe Tiểu Tây nói như vậy bao giờ.”




“Lúc cô ấy tức lên, câu cú cứ nói thẳng một lèo, chẳng có chấm phảy gì cả.”




“Vậy à.” Tôi suy nghĩ một chút. “Nhưng trước giờ tớ chưa từng thấy cô ấy tức giận.”




“Đương nhiên là cậu không thấy rồi.” Cậu ta cười khổ: “Lúc có người cô ấy sẽ không nổi giận.”




Đại Đông nói cũng đúng.




Quen Tiểu Tây cũng được một thời gian, trong ấn tượng của tôi, cô ấy luôn rất hiền lành thoải mái.




Cô ấy luôn nói chuyện khá chậm, hơn nữa phát âm từng câu từng chữ rất rõ ràng, không có chút nóng giận nào.




Lấy câu “anh đáng ghét chẳng khác nào bọn rùa đen chỉ khi cháy rừng và động đất mới chịu chui ra” làm ví dụ, trong tình huống bình thường, chắc cô ấy sẽ nói như sau:




“Anh đáng ghét, chẳng khác nào, con rùa đen, chỉ khi cháy rừng, và động đất, mới chịu chui ra.”




Giọng điệu sau khi nói xong sẽ là dấu chấm tròn chứ không phải dấu chấm than.




Tên của Tiểu Tây thật ra không phải Tiểu Tây, biệt danh cũng không phải Tiểu Tây, cái tên Tiểu Tây này chỉ có mình tôi gọi.




Vì cô ấy là bạn gái của Đại Đông nên tất nhiên tôi gọi cô ấy là Tiểu Tây.




Nếu sau này Đại Đông thay bạn gái, tôi vẫn sẽ gọi bạn gái mới của cậu ta là Tiểu Tây.




Đại Đông nghe lâu cũng lười sửa lại cách gọi của tôi, thậm chí đôi khi còn quen miệng gọi Tiểu Tây theo tôi.




Tôi vốn định hỏi Đại Đông nguyên nhân khiến cô ấy trách mắng, nhưng sau nghĩ lại vẫn thấy bỏ đi thì hơn.




Bởi khuôn mặt Đại Đông trông chẳng khác nào mặt con rùa chỉ thiếu có một bước là về được với biển.




Tính cách tôi là nếu thấy người khác chán nản, sẽ nghĩ cách nói sang chuyện khác.




“Kịch bản của cậu ra sao rồi?”




“Đợi tới lúc họp.” Đại Đông cầm điều khiển từ xa, chuyển sang một kênh khác rồi nói tiếp: “Bọn tớ phải thảo luận xem nên gia tăng mâu thuẫn giữa các nhân vật chính ra sao.”




“Mâu thuẫn ra sao?” Tôi theo bản năng sờ sờ lên tóc: “Hòa bình không được à?”




“Cậu không hiểu rồi.” Đại Đông buông điều khiển từ xa xuống, quay đầu lại bảo tôi: “Nhân vật chính trong phim truyền hình, tốt nhất nên có mâu thuẫn ở một trong những phương diện ngoại hình, tính cách, bối cảnh, hoàn cảnh sống; hoặc là quan hệ giữa bọn họ có mâu thuẫn với đạo đức lễ giáo hoặc quan niệm về giá trị. Như vậy các tình tiết diễn ra trong câu truyện mới gay cấn.”




Vừa nhắc tới kịch bản, tinh thần Đại Đông lập tức phấn chấn trở lại, như một cơn sóng biển đột nhiên cuốn chú rùa vào trong biển.




“Phim kiếm hiệp đương nhiên không cần làm vậy, trong loại phim này các nhân vật thiện ác đều rất rõ ràng, do đó có mâu thuẫn trực tiếp. Còn trong phim tình cảm, lấy một ví dụ đơn giản nhất nhé.” Đại Đông quay đầu lại suy nghĩ một lát rồi nói tiếp: “Lấy ‘Romeo cùng Juliet’ làm ví dụ, nếu khi Romeo yêu Juliet, gia tộc hai người không phải kè thù truyền kiếp mà là bạn bè, vậy câu chuyện đó còn hấp dẫn không?”




“Nhưng tớ vẫn thấy có mâu thuẫn là không tốt, không thể hoàn toàn không có mâu thuẫn à?”




“Có thể. Có điều tác phẩm hoàn toàn không có tình tiết mâu thuẫn nào chỉ có thể chiếu lúc mười hai giờ đêm.”




“Vì sao?”




“Vì như vậy người ta có thể vừa xem vừa ngủ được.” Đại Đông như bỏ được lớp vỏ rùa đi, thoải mái đáp: “Đó là liều thuốc ngủ tốt nhất đấy. Người viết kịch bản đó có thể thử đổi nghề sang làm bác sĩ.”




Lúc tôi đang định nói thêm gì đó, Đại Đông lại tiếp lời:




“Cũng như quan hệ giữa hai đứa bọn mình vừa là chủ nhà và khách trọ, lại vừa là bạn tốt. Nếu đưa chúng ta vào trong tiểu thuyết, đây là một điểm mâu thuẫn.”




“Ừ.” Tôi lên tiếng. “Tớ hiểu đại khái rồi.”




“Nói đến đây thì…” Đại Đông đột nhiên xòe một tay ra. “Cậu cũng nên đóng tiền thuê nhà tháng này đi nhỉ.”




“Này, tiền điện thoại tớ còn chưa đóng, cậu nỡ lòng nào đòi tớ tiền thuê nhà?”




“Cứ theo cách cậu thường nói, cho ở trọ phải thu tiền nhà là chân lý, giữa chúng ta là tình bạn; khi chân lý và tình bạn nảy sinh mâu thuẫn, tớ luôn đứng ở bên chân lý.”




“Cậu đâu phải người học khoa học.” Tôi hét lớn một tiếng.




Đại Đông cười he he hai tiếng, mở cửa rồi quay đầu lại nói: “Tớ đi họp đây.”




Đại Đông đi rồi, tôi tính toán lại tháng này mình phải đóng tiền thuê nhà bao nhiêu ngày.




Nếu tính cả thù lao ngủ trong phỏng khách tối qua, tháng này tôi chỉ phải đóng tiền thuê nhà mười tám ngày.




Nhưng nghĩ tới tiền điện thoại còn chưa đóng với cả vài ngàn đồng tiền lương bị cắt giảm, tôi cảm thấy mình đáng thương như con rùa đen chỉ khi cháy rừng và động đất mới chịu chui ra.




Tôi về phòng, bật máy tính, mở file “Diệc Thứ và Kha Tuyết” lên.




Trước khi đặt bút viết, nghĩ lại “mâu thuẫn” mà Đại Đông vừa nói, hình như cũng đúng đúng.




Nhớ kỹ lại những bộ phim truyền hình hay điện ảnh mà trước kia từng xem, lấy phim Nhật làm ví dụ,


“Kỳ nghỉ dài hạn” là nữ lớn tuổi hơn nam;


“Cùng em nói yêu em” nhân vật nam chính câm điếc, nhân vật nữ chính là người bình thường;


” Lương duyên chiếc giày thần Tokyo” nhân vật nam chính đẹp trai tới mức không còn thiên lý, lại còn người có tiền, nhân vật nữ chính thì cực kỳ bình thường.


“Chuyện tình Tokyo” là một nam hai nữ, A yêu B, B yêu C, C cho dù yêu ai cũng mâu thuẫn;


“101 lần cầu hôn” là nam xấu nữ đẹp, hơn nữa trong lòng nữ còn bị ám ảnh bởi cái chết của vị hôn phu;


Ám ảnh tương tự cũng xuất hiện ở nhân vật phim điện ảnh Hàn Quốc với nam chính thành thật nữ chính hung hãn, “Cô bạn gái dã man của tôi.




Cho dù giữa các nhân vật chính không có mâu thuẫn, thậm trí khá hòa hợp thì có thể loại hòa hợp này lại tạo thành một loại mâu thuẫn khác,


Ví dụ như “Khu vườn lạc mất niềm vui” và “Người yêu ơi”, hai nhân vật chính hợp nhau ở mọi mặt, song lại tự có gia đình của mình, vì thễ dễ tạo thành mâu thuẫn về mặt đạo đức xã hội.




Vì thế “Người yêu ơi” phát triển thành vấn đề tư tưởng ngoại tình;




“Khu vườn lạc mất niềm vui” lại bày biện ra việc đắm chìm và đấu tranh của cơ thể.




Những bộ phim Hàn tràn vào Đài Loan thời kỳ đầu cũng đầy những mâu thuẫn như vậy.




Xem ra những mâu thuẫn rõ rệt đó đều là tâm điểm của câu chuyện.




Nhưng vừa nghĩ tới chuyện phải tăng thêm mâu thuẫn giữa các nhân vật chính, mái tóc vốn dán trên da đầu lại dựng đứng lên.




Hôm nay đã trải qua vài lần mâu thuẫn, tôi rất không thích cảm giác bối rối như thế.




Tính cách tôi là nếu gặp chuyện gì bản thân không thích, thì cũng không muốn nhân vật trong chuyện cũng gặp phải.




Vì thế theo sự sắp sếp của tôi, Diệc Thứ với Kha Tuyết đều là người hay mơ màng.




Khi Kha Tuyết quên mang bút vẽ, đang kéo cửa quán cà phê ra, chuẩn bị về nhà lấy thì vừa hay gặp Diệc Thứ muốn đẩy cửa quán cà phê ra để vào tìm cặp tài liệu.




Đây là tình cảnh khi bọn họ gặp nhau lần đầu.




Vì cánh cửa bị kéo đẩy cùng lúc nên bước chân Diệc Thứ lảo đảo, Kha Tuyết cũng sũy nữa đụng vào cửa.




Tính cách bọn họ không hề mâu thuẫn.




Nếu thực sự muốn nhấn mạnh mâu thuẫn giữa bọn họ, vậy bắt đầu từ phương diện học tập của họ thôi.




Dẫu sao một người học khoa học, người khác học nghệ thuật, giữa họ chắc chắn có rất nhiều mâu thuẫn về mặt ý tưởng.




Ví dụ như Kha Tuyết nói với Diệc Thứ: “Chuyện em muốn làm nhất trên đời này là bay lượn.”




Diệc Thứ sẽ không nói: “Vậy hãy nhận lấy tình yêu của anh! Đây là đôi cánh chắc chắn nhất anh có thể dành tặng cho em.”




Mà sẽ nói: “Anh sẽ phát minh ra một loại chip sinh vật, khi đưa nó vào trong đầu, nó sẽ khiến cho cơ thể người bắt chước động tác bay của loài chim.”




Ừm, đây là mâu thuẫn lớn nhất giữa bọn họ, cũng là mâu thuẫn lớn nhất mà tôi tiếp nhận được.




Có điều đây là khi câu chuyện phát triển tơí một mức này đó, trước mắt hai người bọn họ vẫn có điểm chung, hơn nữa còn khá hòa hợp.




Sau khi hoàn thành tiến độ trong ngày xong, tắm rửa một chút, định ngủ một giấc thật ngon.




Nhưng vì trong đầu luôn bồi hồi suy nghĩ xem mẫu thuẫn ở điểm nào, mâu thuẫn như thế nào, khiến cho đầu tôi với cái gối cũng mâu thuẫn, có đổi tư thế ra sao cũng không ngủ được.




Sau một lần xoay một 180 độ, tôi thầm niệm trong lòng:




“Mình sẽ cố chăm sóc cho Diệc Thứ và Kha Tuyết thật tốt, sẽ không khiến bọn họ thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn.”




Tính cách tôi là nếu buổi tối không ngủ được, sẽ cảm thấy bản thân chắc hẳn đang làm chuyện trái với lương tâm.




Cũng quên luôn là bao lâu sau mới ngủ, nhưng tóm lại là đã ngủ rồi.




Sau khi tỉnh lại đã hơi muộn, trong cơn mơ mơ màng màng chỉ súc miệng rửa mặt một chút rồi ra ngoài đi làm.




Khi vào cửa công ty, cô Tào vừa thấy tôi lại cúi đầu cầm điện thoại lên.




Tôi luôn thấy thật kỳ cục, hình như sáng nào khi vừa thấy tôi cô ấy cũng vừa khéo nhận được điện thoại.




Tôi đột nhiên hiểu ra, chắc hẳn cô ấy giả bộ nhận điện thoại để tránh gặp mặt tôi mỗi sáng.




Lại cảm thấy bối rối, tôi hoàn toàn tỉnh táo lại.




Mông ngồi xuống ghế còn chưa ấm chỗ, tổng giám đốc đã gọi điện kêu tôi lên văn phòng ông ấy.




Ngay bước đầu tiên khi vào tôi đã phát hiện cô Tào cũng ở đó, có vẻ như tổng giám đốc đang giao chuyện gì đó cho cô ấy.




“Cậu chờ tôi một chút.” Tổng giám đốc nói với tôi.




Tôi đành quay người, chờ bọn họ nói chuyện xong, tiện đó đảo mắt dạo qua bức tường.




Trên tường dán đầy những giấy khen của con tổng giám đốc ở nhà trẻ, cái nào cũng là khen thưởng bé ngoan.




Cái này có gì hay mà khoe, có tội phạm giết người nào thích chưoi dao từ hồi đi nhà trẻ?




Hồi nhỏ giấy khen của tôi cũng dán đầy vách tường đấy, chẳng phải giờ cũng thành một tên giang hồ nghèo đói à.




“Xin chào, cậu Chu Tại Tân.”




Đang lúc tôi suy nghĩ linh tinh, đột nhiên nghe thấy tổng giám đốc gọi tên mình, tôi tò mò quay đầu lại.




“Cậu giỏi lắm, cậu Chu Tại Tân.” Tổng giám đốc nhìn tôi nói.




“Sếp đang nói chuyện với em à?” Tôi nhìn tổng giám đốc, chỉ vào mũi mình nói.




Cô Tào vẫn còn trong phòng, tôi nhìn sang cô ấy, phát hiện vẻ mặt cô cũng đầy vẻ khó hiểu.




“Đương nhiên là tôi đang nói chuyện với cậu rồi, cậu Chu Tại Tân.”




“Chu Tại Tân là sếp mà.” Tôi đến cạnh bàn làm việc của ông ấy, hỏi lại: “Có phải áp lực công việc quá lớn làm sếp mất trí nhớ tạm thời không?”




“Có cậu mới mất trí nhớ tạm thời ấy! Thằng chết tiệt!”




Tổng giám đốc có vẻ đang rất tức giận, lấy một tập giấy fax ra, lật tới một tờ. “Cậu tự xem đi!”




Tôi cầm lên xong, lập tức hiểu đây là biên bản hội nghị ở hội trường thành phố ngày hôm qua.




“Cái này…” Tôi đặt tập tài liệu xuống, vô thức gãi gãi đầu, lại bắt đầu bối rối.




“Nếu bác hàng xóm của anh đã rất già rồi, bạn bè và người thân đều đã chết sạch, anh nghĩ lại xem ông ấy còn muốn sống tiếp không?” Tổng giám đốc đọc xong, hỏi tôi: “Xin hỏi đại ca, câu này nghĩa là sao?”




“Ừm… Cái này…” Tôi lén lút liếc sang cô Tào, chỉ cảm thấy da đầu vừa tê vừa ngứa. “Có lẽ do thủy cầm thấy không còn mấy đồng loại cho nên không muốn trở lại.”




“Không cái đầu nhà cậu.” Tổng giám đốc như một con chim nổi điên, không ngừng vỗ vỗ cánh.




“Cậu làm cái trò gì ở hội trường thành phố hả? Thích làm trò sao không tự ký tên mình vào?”




“Xin lỗi.” Tôi lại gãi gãi đầu. “Lúc ấy tôi mơ màng, quên mất.”




“Cậu…” Cánh tổng giám đốc vẫn vỗ mãi không thôi, nói không nên lời.




Tính cách tôi là nếu bị ai đó trách móc trước mặt người khác sẽ cảm thấy rất bối rối.




Nhất là “người khác” này lại là cô Tào.




“Cái này…” Tôi thấy tổng giám đốc nãy giờ không nói gì, đành phải hỏi: “Sếp bảo em đến là…”




“Vốn định hỏi cậu chuyện hội nghị ngày hôm qua, giờ không cần hỏi nữa rồi.”




“Vậy có cần em tả lại tình cảnh hỗn loạn lúc ấy không?”




“Cậu cút ngay cho tôi!”




Tổng giám đốc quắc mắt đứng phắt dậy, như chú chim cuối cùng cũng bay vút lên bầu trời.




Tôi bước khỏi phòng tổng giám đốc, tôi lung lay thân thể đang tê ngứa do bối rối, chẳng khác nào một chú chó bị ướt đang giũ nước.




Lúc sắp lay hết tê ngứa, cô Tào cũng đi ra, thấy động tác của tôi bèn giật mình một cái.




Tôi mỉm cười bối rối, như một chú chó vừa rũ hết nước trên người xong lại gặp phải cơn mưa.




“Xin lỗi.” Cô nói.




Tôi ngạc nhiên, một lúc lâu sau mới phản ứng lại.




Cái này thật giống bạn ngắm trăng cả đời, một ngày ánh trăng lại đột nhiên mở miệng nói chuyện với bạn.




“Sáng nay tôi nhận được bản fax đó, vừa rồi mới đưa cho giám đốc Chu xem, cuối cùng hại anh bị mắng một trận.”




“À.” Tôi hiểu ra. “Không sao, cái này là do tính mơ màng của tôi tạo ra thôi.”




“Có thật anh hay mơ màng không?”




“Ừ.” Tôi ngượng ngùng đáp: “Có cẩn thận thế nào cũng vô dụng, vì vậy thường hay xảy ra chuyện.”




“Anh đọc sai tên của tôi cũng là do mơ màng à?”




“Đúng đúng đúng.” Tôi ra sức gật đầu. “Đấy là do tôi mơ màng, không phải cố ý trêu chọc.”




“À. Vốn tôi cứ tưởng anh là người hay cợt nhả.”




“Không không không.” Tôi bắt đầu kích động. “Tôi không phải.”




“Vậy là được rồi.” Cô mỉm cười. “Sau này nhớ cẩn thận, đừng mơ màng nữa.”




“Được được được.”




Tính cách tôi là khi nói chuyện, lúc muốn nhấn mạnh điều gì sẽ lặp lại một chữ ba lần.




“Tóc anh xoăn tự nhiên à?”




Khi chúng tôi đang cùng nhau trở lại bàn làm việc, cô đột nhiên hỏi.




“Cái này…” Tôi lấy tay ép mái tóc đang cong tớn xuống. “Tướng ngủ của tôi không tốt, sau khi rời giường cũng quên không chải đầu, vừa nãy lại gãi tóc vài lần, thế nên…”




Hèn gì tôi thấy toàn thân như sắp bay lên, hóa ra tóc tôi đã giang hai cánh ra như chim.




“Thì ra là thế.” Cô ngồi xuống, dùng ngón tay chỉ: “Bàn làm việc của anh ở bên kia.”




“Ừm.”




Tôi bối rối đến mức chẳng biết làm sao, vừa hay mái tóc giống như chim, vì vậy quay lại bàn làm việc nhanh như bay.




Tuy hôm nay bị tổng giám đốc mắng nhưng lại vì vậy được cô Tào chủ động bắt chuyện, tính lại thì về mặt cảm xúc vẫn có lời, hơn nữa còn lời không ít.




“Sau này nhớ cẩn thận, đừng mơ màng nữa.”




Cô Tào nói câu này thật dễ nghe, tôi không ngừng lặp lại trong đầu, tự nghe thêm vài lần.




Tôi cũng tính toán chắc lúc tan tầm có thể cùng xuống thang máy với cô ấy.




Tốt nhất là thang máy đột nhiên xảy ra sự cố, nhốt chúng tôi lại ở trong, chắc cô ấy sẽ sợ hãi tới phát khóc.




“Muốn khóc cứ khóc trong lòng anh” đây là bài hát của Dũ Trừng Khánh, cũng là những lời tôi sẽ nói với cô ấy.




Nhúc lúc sắp hết giờ làm, tôi đột nhiên nhớ ra, không biết mái tóc mình đã chịu rũ xuống chưa?




Nhanh chóng chạy vào toa lét chỉnh lý dung nhanh, lúc ra ngoài cô ấy đã xuống lầu.




Tôi đành đổi sang hát bài “Quay lại quá khó khăn” của Trương Học Hữu.




Ra khỏi công ty, vừa đi vừa nghĩ tới chuyện về Diệc Thứ và Kha Tuyết.




Tiếp theo giữa bọn họ sẽ xảy ra chuyện gì?




Nếu Kha Tuyết cứ nhìn ra ngoài cửa sổ, Diệc Thứ làm sao làm quen được với cô ấy đây?




Tiếp cận à? Không thể nào.




Diệc Thứ là người học khoa học, chắc chắn cậu ta phải biết phân tử hidro cháy cùng phân tử oxi tạo thành nước, chứ không phải phân từ hidro chủ động chạy tới nói với phân tử oxi: “Bọn mình kết hợp đi.”




Thế nên, phải làm sao để phân tử hidro cháy đây?




Đang lúc tổn hao tâm trí suy nghĩ, lại như nghe thấy bên phải vang lên tiếng gõ “cốc cốc” nho nhỏ.




Quay đầu lại, cô gái học nghệ thuật đang dùng ngón tay gõ nhẹ lên cửa sổ.




Cô nhìn tôi mỉm cười, tôi chỉ vào mũi mình, cô gật đầu.




Tôi dùng tay phải đẩy cửa quán ra, chân trái vừa đưa vào lại đột nhiên nhớ ra, hôm nay mình không định uống cà phê.




Vì vậy bước chân ngưng bặt lại.




“Hi, người học khoa học.” Cô chỉ vào vị trí đối diện nói: “Mời ngồi ở đây.”




Tôi nhìn cô, lại nhìn chủ quán, cảm thấy chủ quán chẳng khác nào diều hâu đang chờ chuột rời hang.




Còn tôi chính là con chuột đang thò đầu ra khỏi hang thăm dò.




Quên đi, uống cốc cà phê cũng có sao.




Khi hai chân tôi bước vào quán, chủ quán cũng lập tức bay tới.




Tôi ngồi xuống đối diện cô, gọi một cốc cà phê với chủ quán, sau đó hỏi cô ấy: “Có chuyện gì à?”




“Tôi muốn kể cho anh một chuyện.” Giọng điệu của cô rất vui vẻ, ánh mắt trong trẻo như nước.




Theo lý thuyết cô thường dùng đôi mắt để quan sát mọi thứ, ánh mắt đúng ra phải rất sắc bén.




Nhưng ánh mắt cô lại mềm mại như làn nước, cứ như khi một cơn gió nhẹ thổi qua, từng gợn sóng sẽ nổi lên.




“Chuyện gì vậy?”




“Linh cảm vẽ tranh mấy hôm nay của tôi như măng mọc sau cơn mưa vậy.”




“Vậy thì tốt.”




“Anh biết không?” Đôi mắt cô như lấp lóe ánh sáng. “Anh chính là cơn mưa đó.”




Nói xong, cô mỉm cười, ngay nụ cười cũng có vẻ hiền lành dịu dàng, khiến tôi nhớ cái chăm tơ tằm mà mình rút thăm sổ số trúng được trong bữa tiệc cuối năm ngoái.




Tính cách tôi là nếu có cô gái nào khen ngay trực diện, tôi sẽ thấy bối rối.




Giờ chắc hẳn không chỉ bối rối, tôi đoán khuôn mặt mình chắc đã đỏ bừng rồi, không nói nổi một câu.




Còn cảm giác tê ngứa do xấu hổ cũng nhanh chóng lan khắp tứ chi.




“Tôi thật sự rất cám ơn anh.”




“Được được được.” Tôi nhanh chóng chuyển chủ đề, tránh cho cô ấy nói tiếp. “Không cần khách khí.”




“Tôi nên cám ơn anh thế nào đây?”




“Cô chia tôi một nửa chỗ măng là được.”




“Được rồi. Từ giờ trở đi, mỗi bức tranh tôi vẽ anh đều được xem.”




“Ừm. Vậy cám ơn.”




“Đừng khách khí.”




Tôi thật sự không quen việc đôi mắt cô không nhìn ra ngoài cửa sổ mà nhìn chăm chăm vào tôi.




Tôi lại bắt đầu gãi gãi đầu, mái tóc vừa chải xong giờ chắc lại trông như xoăn tự nhiên rồi.




May là chủ quan bưng cà phê tới, tôi uống một ngụm, bình tĩnh hơn không ít.




“Tôi có thể nhờ anh một chút được không?”




“Được chứ.”




“Giờ anh có thể làm model cho tôi được không?”




“Model?” Tôi há hốc miệng.




Trong ấn tượng của tôi model là những cô gái không mặc quần áo, thường thì hơi beo béo.




Hơn nữa hình như lúc vừa ăn no xong bị gọi đi làm model, kết quả là bụng căng tròn lên.




Sao cô ấy lại bảo một chàng trai trẻ tuổi còn chưa ăn cơm đi làm model?




“Có thể, có thể, có điều…” Tôi ấp a ấp úng: “Có điều tôi muốn mặc quần áo.”




“Anh yên tâm.” Cô mỉm cười: “Tôi không định vẽ tranh khỏa thân đâu mà.”




“Vậy thì tốt.” Tôi thở phào một hơi.




Dùng hai tay chải chải mái tóc, tôi quay đầu soi vào cửa sổ xem bản thân trông có tự nhiên không.




“Tôi muốn hỏi anh một chuyện.”




“Hỏi một chuyện?” Tuy thấy hơi khó hiểu nhưng tôi vẫn trả lời: “Được.”




“Anh vẫn là trai tân à?”




Câu hỏi này khiến tôi ngạc nhiên không ít, sau kinh ngạc là cảm giác cực kỳ bối rối, tôi vô thức lui lại phía sau.




Dán sát vào lưng ghế.




Thù mới và hận cũ đồng thời bốc lên, tôi xấu hổ tới mức muốn bay ra ngoài vũ trụ.




“Cái này…” Răng tôi như đang run lên lẩy bẩy. “Cô…”




“Tôi biết rồi.”




Cô mở tập vẽ giấy vẽ ra, cầm bút lên, cúi đầu xuống bắt đầu vẽ tranh.




Tôi nghĩ thầm trai tân thì có liên quan gì tới model? Chẳng lẽ model là trai tân?




Lại thấy cô ấy cũng chẳng hề quan sát mình, chỉ cúi đầu vẽ tranh, trong lòng càng buồn bực.




Hơn nữa cô còn bảo mình đã biết, biết cái gì cơ?




Đang định bưng cốc cà phê lên miệng, cô ấy lại đột nhiên ngẩng đầu lên nhìn tôi một cái, hại tôi thiếu chút nữa làm rơi cốc.




Đủ lắm rồi.




“Vẽ xong rồi.”




Cô mỉm cười, bưng cốc cà phê lên, uống một ngụm.




Tôi chờ cảm giác bối rối từ từ tan đi rồi mới cúi xuống ngắm bức vẽ.




Trên bức họa chỉ vẽ một người, tay chân giang rộng, ánh mắt như đang trợn tròn, miệng cũng há hốc ra.




Đặc biệt nhất là lông tóc toàn thân người trong hình đều dựng đứng lên, ngay cả lông mi cũng không ngoại lệ.




Cứ như bị cắm châm khắp người.




Từ khuôn mặt người tới tận mép tờ giấy còn vẽ rất nhiều đường thẳng.




“Đây là tôi à?” Tôi hỏi.




“Ừ.” Cô gật đầu đấp: “Có điều bức vẽ này có tên là ‘bối rối’.”




“Bối rối?”




“Đúng vậy.” Cà phê của cô hết rồi, vì vậy lại vươn ngón trỏ tay phải ra, chỉ thẳng về phía quầy bar.”




“Tôi cảm thấy trên người anh có vẻ bối rối, vì thế muốn vẽ thử.”




“Vậy cô hỏi câu kia làm gì?”




“Vậy mới khiến anh càng bối rối, hơn nữa tôi muốn xác định lại dáng vẻ anh lúc bối rối.” Cô mỉm cười vui vẻ, ngón tay vẽ vẽ. “Lúc xấu hổ anh trông cứ như lông tóc toàn thân đều dựng đứng, rất buồn cười.”




“Vậy à?” Tôi chỉ vào mấy đường thẳng: “Đây là cái gì?”




“Cái này thì…” Cô mỉm cười: “Cái này là bắt chước anh, tạo căm giác như sắp bay lên.”




Tôi lại cúi xuống quan sát bức tranh, người trong hình mắt trợn tròn, miệng há hốc, trông thật thú vị.




“Sao lần này mặt của tôi không phải hình vuông nữa?”




“Vì tôi bắt đầu cảm thấy anh có một chút smooth, không phải thẳng thắn cứng rắn nữa.”




“Smooth?” Tôi sờ sờ lên mặt: “Thật à?”




“Cái này không liên quan gì tới hình dạng.” Cô chỉ vào bức tranh, vẽ vòng một vòng theo đường nét của khuôn mặt. “Khi anh thoải mái biểu lộ cảm giác của bản thân, những đường nét của anh sẽ rất smooth.”




“Ừm.” Tuy chẳng hiểu gì nhưng tôi vẫn lên tiếng trả lời.




“Lần sau có thể vẽ tôi trông đẹp hơn một chút được không? Lần này trông cứ như khỉ ấy.”




“Được rồi, tôi sẽ cố gắng.” Cô mỉm cười: “Tôi sẽ vẽ anh đẹp hơn khỉ một trăm lần.”




“Đẹp hơn khỉ một trăm lần thì vẫn là khỉ.”




“Nói cũng phải.” Cô lại mỉm cười: “Lần sau sẽ khiến anh khôi phục hình người.”




“Có điều lần sau không được hỏi những chuyện kỳ cục nữa đâu đấy.”




“Được.” Cô ngừng lại một chút: “Nhưng chỉ khi hỏi những chuyện như thế này mới khiến anh cảm thấy bối rối được.”




“Vì sao?”




Vừa hay, chủ quán bưng cốc cà phê vừa pha tới, đặt trước mặt cô.




Cô ngẩng đầu lên hỏi ông chủ: “Anh có còn là trai tân không?”




“Ừ, tôi vẫn còn.” Chủ quán sắc mặt chẳng chút thay đổi, cúi đầu dọn cốc cà phê cô ấy vừa uống xong.




“Đã làm phiền anh rồi.” Cô nói.




“Đâu có.” Chủ quán thu dọn cốc đĩa xong lại nói tiếp: “Có điều trong thế kỷ 21 này, muốn tìm trai tân bằng tuổi tôi chẳng khác nào lên Himalaya tìm người tuyết.”




Khi sắp đi khỏi, chủ quán lại quay sang nói với tôi. “Cậu nói xem đúng không? Cậu người tuyết.”




“Tôi…”




Tính cách tôi là nếu bị người đối diện đoán trúng chuyện không muốn thừa nhận, sẽ nói không nên lời.




“Anh hiểu rồi chứ.” Sau khi chủ quán bước vào quầy bar, cô nói: “Câu hỏi này nếu hỏi người khác, người ta chưa chắc đã cảm thấy bối rối.”




“Nhưng mà…”




“Tôi chỉ muốn vẽ cảm giác bối rối thôi, mong anh đừng để ý.”




“Tôi sẽ không để ý đâu.” Tôi hơi ngượng ngùng đáp: “Nhưng hỏi câu này thì hơi…”




“Không đuợc hay lắm đúng không.” Cô mỉm cười: “Cà phê của anh hôm nay, tôi mời.”




Tính cách tôi là nếu có con gái mời, sẽ cảm thấy như chưa từng xảy ra chuyện gì.




Tôi cúi đầu nhìn bức vẽ, lại như cảm thấy tê ngứa.




Ánh mắt cô ấy thật giống dây ăng ten hay rada, vân vân… có thể bắt được những những xung động rất nhỏ trong không trung, sau đó dễ dàng nắm được cảm giác vô hình vô chất.




Có điều ánh mắt cô vẫn luôn giữ vẻ mềm mại, có thể thấy được sóng nước xôn xao trong đó.




Nước?”




Đúng vậy, ánh mắt cô ấy chắc hẳn có một loại năng lượng nào đó, mà thứ năng lượng này có thể đốt cháy phân tử hidro, khiến chúng phản ứng cùng phân tử oxi tạo thành nước.




Cuối cùng tôi cũng biết mình nên viết tiếp câu chuyện Diệc Thứ và Kha Tuyết như thế nào.


Chương 4: Ra vẻ




Cũng là người học khoa học, khi thấy ánh trăng, cậu ta sẽ nghĩ tới hiện tượng thủy triều do mặt trăng tạo thành chứ không phải tình yêu tròn khuyết của thời niên thiếu.




Cậu ta đã quen với việc cố gắng làm cho quá trình suy nghĩ suy luận thật logic, cố tránh dùng cảm giác để phán đoán.




Vì vậy cảm giác của cậu ta luôn được bao phủ bởi mộc chiếc áo khoác lý tính, một khi bỏ tấm áo khoác đó ra, những cảm giác đó sẽ hiện ra lồ lộ trước đôi mắt nhạy bén của Kha Tuyết.




Cho nên đối với người dựa vào cảm giác để vẽ tranh như Kha Tuyết, Diệc Thứ là model tốt nhất.




Thế nhưng, sao Diệc Thứ phải cởi bỏ chiếc áo khoác lý tính?




Ừm, vì cậu ta định viết tiểu thuyết.




Vậy vì sao cậu ta lại định viết tiểu thuyết?




Có thể có rất nhiều lý do, ví dụ như thu hút các cô gái, không hiểu sao lại được người ta bảo có thiên phú, muốn kiếm thêm ít tiền, vân vân.




Rốt cuộc lý do nào thì hợp lý hơn?




Không khéo Diệc Thứ cũng giống tôi, đi viết tiểu thuyết vì ba loại lý do như vậy.




Sau khi chỉnh sửa lại đoạn đối thoại giữa Diệc Thứ và Kha Tuyết một chút, tôi quyết định tạm thời ngừng công việc.




Bước ra khỏi phòng đi lấy cốc nước, lại thấy Đại Đông đang xem ti vi trong phòng khách.




“Này.” Đại Đông gọi tôi lại, chỉ vào ti vi hỏi: “Câu slogan này ra sao?”




Tôi nhìn sang ti vi, biết đó là slogan quảng cáo cà phê Biedermeier —— “Uống Biedermeier rồi, bạn sẽ khó lòng uống loại cà phê khác.”




“Ừm…” Tôi uống một ngụm nước. “Cũng hơi là quai quái.”




“Quai quái ở đâu? Tớ thấy câu slogan này không tồi mà.”




“Câu này có thể khiến người ta hiểu thành sau khi uống cà phê Biedermeier, thấy quá khó uống, từ đó về sau tuyệt vọng với cà phê, vì vậy rất khó uống loại cà phê khác.”




“Có mà cách nghĩ của cậu quá kỳ quái ấy.” Đại Đông nói.




“Câu này rõ ràng có thiếu sót mà, cũng như một số người sau khi thất tình rất khó nói lại chuyện tình yêu, đó là bởi vết thương do tình cảm quá sâu đậm, khiến người ta khó nói tới chuyện tình yêu tiếp theo được.”




“Câu slogan đó đâu phải ý này, ý nó là ‘tằng kinh thương hải nan vi thủy’.”




(DG: Câu thơ của Nguyên Chẩn


Nguyên gốc:


Tằng kinh thương hải nan vi thủy,


Trừ khước Vu Sơn bất thị vân.




(Đã qua bể thẳm khôn còn nước,


Ngoài chốn non Vu chẳng có mây)


Chẩn ví vợ mình như nước bể thẳm, mây non Vu, đã chung sống với nhau rồi thì trong thiên hạ khó có được người đàn bà nào có thể thay thế.)




“Tớ lại thấy ý nó là: một lần bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng.”




“Người tiêu thụ bình thường chẳng ai nghĩ như cậu đâu.”




“Nhất định sẽ có người học khoa học giống tớ, khi chân lý và slogan quảng cáo nảy sinh xung đột, luôn đứng ở bên phía chân lý.”




“Tớ không muốn cãi nhau với cậu nữa. Gần đây mới nhận một hợp đồng quảng cáo cà phê, cậu rảnh thì nghĩ giúp tớ đi.”




“Được rồi. Nếu tớ nghĩ ra cậu phải giảm cho tớ vài ngày tiền nhà nhé. Dạo này tớ nghèo quá.”




Tôi ngồi xuống, đặt chén trà lên chiếc bàn phía trước ghế sô pha.




“Đúng rồi, cậu viết tiểu thuyết tới đâu rồi?” Đại Đông hỏi.




“Cậu muốn xem không?”




“Ừ.” Đại Đông gật đầu.




Tôi về phòng in phần tiểu thuyết đã viết ra, đếm đi đếm lại cũng chỉ được khoảng ba mươi lăm trang, không khéo bị Đại Đông cười cho.




Vì vậy bèn tăng kích cỡ chữ và khoảng cách giữa các dòng rồi lại in lại, biến nó thành khoảng năm mươi trang.




Tính cách tôi là nếu muốn khiến người khác cảm thấy mình rất lợi hại, sẽ cố ra vẻ.




Bước ra khỏi phòng, đưa cho Đại Đông. Cậu ta chỉ nhìn một cái đã hỏi:




“Diệc Thứ và Kha Tuyết? Cái tên thật kỳ cục.”




“Đấy là tớ cố ý.”




Tính cách tôi là nếu không muốn người khác biết mình không giỏi đặt tên, cũng sẽ ra vẻ.




“Sao không đặt là: kẻ si tình và mỹ nữ?”




“Cậu đừng lừa tớ, đó là tên của phim A.”




“Hóa ra cậu cũng xem rồi.” Đại Đông cười ha hả.




“Đúng vậy, đấy là bộ phim rất nổi tiếng trong seri kẻ si tình trên tàu điện.” Tôi cũng cười vài tiếng.




Đột nhiên cảm thấy không đúng, vì vậy ngưng cười, nói: “Này! Đừng lôi tên tiểu thuyết của tớ ra đùa, mau đọc đi.”




“Đừng gấp.” Đại Đông không nói gì nữa, tập trung đọc.




Theo tiếng “loẹt xoẹt” khi lật trang giấy của Đại Đông, trái tim tôi cũng co rút từng cơn.




Đại Đông đọc rất nhanh, chẳng mấy chốc đã xem hết, sau đó đặt tập bản thảo lên bàn.




“Thế nào?”




Tôi rất căng thẳng, giống như lúc gọi điện thoại hỏi bạn bè đang đi xem danh sách xem mình có đỗ không.




“Ừm… Trong văn của cậu xuất hiện rất nhiều ‘bởi vì” và ‘thế nên’.”




Đại Đông cười nói: “Chắc là do trước đây cậu viết nhiều báo cáo nghiên cứu quá.”




“Cái này thì tớ chịu. Bởi vì có nhiều ‘bởi vì’ thế nên chúng ta không thể không ‘thế nên’.”




“Nhưng cung đâu thể chuyện gì cũng dùng bởi vì thế nên được.”




“Nhưng tớ vẫn cảm thấy câu văn phải thật rõ ràng logic, có nguyên nhân mới có kết quả chứ.”




“Viết tiểu thuyết thì đầu óc phải mềm mại một chút, không cần cố giải thích quá nhiều thứ. Nếu trong tiểu thuyết mọi nguyên nhân kết quả lớn nhỏ gì đều phải giải thích thật rõ ràng, độc giả sẽ cho rằng mình đang đọc kinh Phật.”




“Không được.” Tôi lắc đầu. “Tớ là người học khoa học, khi chân lý và viết tiểu thuyết nảy sinh xung đột, tớ luôn đứng về phía chân lý.”




“Cậu đang cãi cùn rồi.”




Không phải tôi đang cãi cùn, chỉ là cố ra vẻ thôi.




“Bởi vì” tôi còn chưa thông thạo lắm về cách sử dụng câu chữ, “thế nên” trong tiểu thuyết mới xuất hiện quá nhiều bởi vì thế nên.




“Bởi vì” không muốn để Đại Đông nghĩ rằng mình không đủ năng lực, “thế nên” tôi sẽ không thẳng thắn thừa nhận điểm này.




Cái này có thể là “bởi vì” hồi bé tôi không được dạy dỗ tốt, “thế nên” mới ra vẻ trong mọi chuyện.




Tính cách tôi là nếu phát hiện tính cách mình có khiếm khuyết, đều sẽ cho rằng đó là vấn đề từ hồi bé.




“Còn nữa, một số so sánh viết của cậu cũng thật quai quái.” Đại Đông cầm bản thảo lên, lật nhanh sang vài tờ: “Cảm giác tựa như thấy cô gái mặc bikini giữa bãi biển mùa đông.”




“Là sao?”




“Bãi biển mùa đông rất lạnh, nếu có cô gái mặc bikini tam giác, cậu không thấy quai quái à?”




“Cái này có gì mà kêu quai quái?” Tôi lại ra vẻ. “Đang trên bãi biển mùa đông lạnh lẽo, tâm tình lại suy sụp, đột nhiên một cô gái mặc bikini đi tới, cậu không cảm thấy tinh thần phấn chấn hơn à?”




“Hả?” Vẻ mặt Đại Đông đầu tiên là kinh ngạc, sau đó mỉm cười: “He he, cậu nói cũng không sai.”




“He he.” Tôi rất đắc ý.




“Tới giờ thì không tệ lắm.” Đại Đông nói: “Nhất là nhân vật chủ quán cà phê rất sinh động.”




‘Thật chứ?” Tôi rất cao hứng. “Vậy để tớ tả anh ta nhiều thêm.”




“Đừng quên mất trục chính của bộ tiểu thuyết, các bộ phận chi nhanh phải khống chế thật tốt, đừng để cho nhân vật phụ lấn át nhân vật chính.”




“Tớ sẽ chú ý.”




“Cứ như vậy đã.” Đại Đông vươn vai duỗi eo: “Tớ về phòng làm cho kịp tiến độ đây.”




“Tớ cũng về phòng viết tiếp đây.”




Khi hai người đi ngang qua nhau sau ghế sô pha để veef phòng. Đại Đông quay đầu lại bảo:




“Cậu còn phải đi làm, cứ ngồi viết thế không mệt à?”




“Không sao đâu, tớ là chuyên gia trời sinh mà.”




“Đừng ra vẻ nữa. Ngày mai với ngày kia được nghỉ, cậu nghỉ ngơi hai ngày đã, đừng có nóng ruột.”




“Toàn thân tớ đầy tràn sức lực, không cần nghỉ ngơi đâu.”




Tính cách tôi là nếu người khác bảo mình ra vẻ, tôi sẽ càng ra vẻ.




Thật ra viết tiểu thuyết thế này rất tổn hao tâm sức, dễ thấy mệt mỏi.




Vốn định dùng hai ngày nghỉ để xem phim hay gọi bạn bè ra ngoài chơi.




Nhưng đã trót nói vậy trước mặt Đại Đông nên đành phải đóng cửa sáng tác tiếp.




Ngoại trừ lúc ăn cơm có ra ngoài, thời gian còn lại đều đợi trong phòng.




Cho dù ra ngoài cũng chỉ tới cửa hàng tiện lợi mua đồ ăn nhanh được hâm nóng mang về ăn.




Mỗi khi thấy không chống đỡ nổi nữa muốn trốn ra ngoài chơi, lại thấy Đại Đông đang làm nhanh bản thảo trong phòng, tôi đành bỏ qua suy nghĩ đó, đành trở lại trước máy tính.




Trong diễn biến của tiểu thuyết Diệc Thứ và Kha Tuyết, tôi cũng để Diệc Thứ là người hay ra vẻ.




Bởi thế Diệc Thứ tuy không có đủ lý do để viết tiểu thuyết nhưng lại có lực lượng khiến anh ta không thể không viết.




Về phần nhân vật chủ quán cà phê, mỗi khi tả về anh ta tôi luôn liên tưởng tới cao thủ võ công.




Thậm chí còn lỡ tay viết thành: anh ta đứng trong quầy bar dùng nội lực đun cà phê, ép hương cà phê lan tỏa ra xung quanh.




Sau phát hiện ra, lập tức xóa đi, dẫu sao cũng là tiểu thuyết tình yêu, tự nhiên lại xuất hiện tình tiết võ hiệp, quá kỳ cục.




Cũng như chúng ta không cách nào tưởng tượng nổi trong tiểu thuyết kiếm hiệp, khi anh hùng hào kiệt khắp nơi đang tranh đoạt chức võ lâm minh chủ thì đột nhiên có người ngoài hành tinh tới quấy rối.




Cảm giac này này hoàn toàn khác “cô gái mặc bikini giữa bãi biển mùa đông” , cô gái mặc bikini có thể khiến độc giả tinh thần phấn chấn, người ngoài hành tinh thì làm độc giả phát điên.




Tôi cũng phát hiện lúc mình tập trung viết tiểu thuyết khác hẳn với lúc mình tập trung trong giờ làm.




Khi đi làm, suy nghĩ như tìm kho báu trong bản đồ, có đầu mối, có những tuyến đường, có cả công cụ.




Bạn chỉ việc tính toán theo công thức, suy luận, phán đoán rồi tìm ra đáp án hợp lý hoặc chính xác nhất.




Đáp án thường chỉ bị giấu kín chứ không phải không tồn tại.




Suy nghĩ có thể lạc đường hay không tìm được phương hướng, nhưng cuối cùng vẫn là trên đường đi tới.




Nhưng suy nghĩ khi viết tiểu thuyết lại không có bản đồ kho báu, thậm chí còn chẳng có kho báu.




Nói cách khác, đáp án không phải là bị giấu kín, mà là vốn không tồn tại.




Vì vậy suy nghĩ rất lâm vào trạng thái thiền, hoàn toàn không chịu khống chế.




Một giây trước còn trong sa mạc tìm ốc đảo, ngay giây sau có thể đã thành chui vào biển rộng trốn cá mập.




Vất vả lắm mới thu lại tâm trí chuẩn bị rời sa mạc hay biển rộng thì suy nghĩ lại như bị trói chân, cho rằng một khi nhảy ra sẽ lại bị một ngoại lực khó hiểu nào đó kéo về.




Trong lúc suy nghĩ đang trôi nổi, tôi thường nhớ lại những quãng thời gian trong ký ức.




Trong đầu đôi khi hiện lên những tình tiết trong các bộ phim từng xem, có khi như nghe thấy tiếng nhạc quen thuộc, có lúc lại như khi đi dạo ven biển cùng mối tình đầu ở quê hương, ngửi thấy mùi biển thoang thoảng trong không khí.




Tôi không cách nào nhận ra nổi, đây là khung cảng trong ký ức được tôi đưa vào trong tiểu thuyết, hay là tiểu thuyết mang tôi trở lại trong ký ức, khiến tôi sống lại một lần nữa trong cuốn tiểu thuyết này?




Hai ngày đó tôi cũng định ra quán cà phê đó ngồi, uống một cốc cà phê để thay đổi tâm tình.




Nhưng thứ nhất là lười ra ngoài; thứ hai là thấy nên tiết kiệm tiền thì hơn, thế nên mới không đi.




May mà còn những lý do sinh hoạt trong cuộc sống hiện thật nhắc tôi đây là cuộc sống đơn giản thực tế chứ không phải sống trong thế giới tiểu thuyết do bản thân mình tạo nên.




Thứ hai tới, tôi lại đi làm, cách suy nghĩ cũng thay đổi.




Tối hôm qua viết tới tận ba giờ sáng, lúc ra khỏi giường ngáp ngắn ngáp dài, bước đi như đang đánh Túy Quyền.




Nhân lúc rảnh rỗi ngồi trong xe điện ngầm, nhắm mắt lại nghỉ ngơi.




Lúc mở mắt ra, dường như thấy được thứ gì đó trong ánh mắt trống không của nhiều người.




Bọn họ tuy vẫn là hộp nhưng không phải là những chiếc hộp kín mít, tôi dường như ngửi thấy mùi bên trong.




Bước vào cửa công ty lại vừa hay tiếp xúc với ánh mắt của cô Tào.




“Sớm vậy.” Cô nói.




Tôi lại không nói nên lời, dẫu sao cũng đã lâu rồi cô ấy không bắt chuyện với tôi.




“Nghỉ ngơi hai ngày, chắc anh cũng ra ngoài vui chơi một chút nhỉ.”




“Tôi…”




“Anh giỏi thật, hôm nào cũng xuất hiện vào đúng tám giờ.”




“Cái này…”




Tính cách tôi là nếu có cô gái xinh đẹp nào chủ động bắt chuyện, sẽ nói không nên lời.




Trên đường tới bàn làm việc, tôi cảm thấy như đang say rượu.




“Chào buổi sáng.” Một cô gái trong công ty bắt chuyện với tôi.




“Chào buổi sáng. Thời tiết hôm nay thật đẹp.” Tôi nói.




“Nghỉ ngơi hai ngày, chắc anh cũng ra ngoài vui chơi một chút nhỉ.”




“Đùa gì thế? Làm gì có thời thời gian để đi chơi, hơn nữa cũng đâu có tiền ra ngoài chơi. Nên nói là: Lay ta gió nhẹ làm chi được, Bóng người trăng sáng vẫn soi thôi.”


(DG: Nguyên gốc: Thanh phong tuy tế nan xuy ngã, minh nguyệt hà thường bất chiếu nhân




Hai câu này trên lấy chữ Thanh, dưới lấy chữ Minh đứng đầu ý nói hoài vọng nhà Minh, bất phục nhà Thanh. Trong bối cảnh này lại có ý lực bất tòng tâm.)




“Anh giỏi thật, hôm nào cũng xuất hiện vào đúng tám giờ.”




“Đi làm đúng giờ là chân lý, thấy lương công ty bèo bọt mà định lười biếng là chuyện thường tình của con người. Tôi là người học khoa học, khi chân lý và nhân tình nảy sinh mâu thuẫn, luôn đứng về phía chân lý.”




Tính cách tôi là nếu có cô gái không xinh đẹp nào chủ động bắt chuyện với tôi, sẽ bắt đầu kể lể dài dòng.




Ngồi vào vị trí, mở máy tính. Nhân lúc rảnh khi máy tính đang khởi động, xoa xoa huyệt đạo quanh đôi mắt, chuẩn bị xốc lại tinh thần và điều chỉnh cảm xúc làm việc




Nhìn những thứ trong máy tính, cảm thấy thật xa lạ, chẳng khác nào chuyện từng thấy từ tám trăm năm trước.




Có lẽ vì hai hôm trước tôi mải du ngoạn trong thế giới giả tưởng của mình, còn bây giờ lại trở về thế giới hiện thực.




Điện thoại đột nhiên vang lên khiến tôi giật nảy mình.




“Cậu qua đây.” Giọng tổng giám đốc vang lên trong điện thoại.




“Vâng.” Tôi đáp.




Tâm tình tôi hơi thấp thỏm, vì chuyện lần trước đến hội trường thành phố tham gia hội nghị thay ông ấy.




Liệu có phải ông ấy vì chuyện này mà bị đặt biệt danh đao phủ môi trường hay sát thủ sinh thái, nên tìm tôi tính sổ không?




“Cậu xem tập hồ sơ này xem, xem có nhận được không?” Tổng giám đốc đưa một tập hồ sơ mời thầu cho tôi.




“Vâng.” Tôi thầm than nguy hiểm quá, sau đó mở tập hồ sơ, lật qua phần nội dung và yêu cầu trong các hạng mục công việc. “Hạng mục công việc thứ tư rất khó làm, còn cái thứ sau chúng ta không làm được.”




“Thật không?” Tổng giám đốc suy tư.




Ngoài cửa vang lên tiếng gõ nho nhỏ, cô Tào bước vào.




“Đây là bản fax vừa nhận được.” Cô ấy gật đầu với tôi rồi đặt bản fax lên bàn.




“Ừ.” Tổng giám đốc ngẩng đầu lên nhìn cô ấy rồi lại chuyển mắt về tập hồ sơ mời thầu. “Cái này…”




Cô Tào đang chuẩn bị ra ngoài nghe vậy cho rằng tổng giám đốc còn định căn dặn điều gì, bèn ngừng chân.




“Chúng ta thật sự không nhận hồ sơ này được?” Tổng giám đốc nhìn tôi.




“Chưa chắc.” Liếc sang cô Tào một cái, tôi nói.




Tính cách tôi là nếu bên cạnh có cô gái xinh đẹp không chủ động nói chuyện với mình, sẽ bắt đầu ra vẻ.




“Hả?” Tổng giám đốc hỏi lại với vẻ khó hiểu: “Chẳng phải cậu bảo hạng mục công việc thứ tư rất khó làm hay sao?”




“Đúng là rất khó.” Tôi trả lời với sắc mặt nghiêm túc: “Nhưng tôi chắc chắn sẽ cố hết sức.”




“Còn hạng mục công việc thứ sáu không phải không làm được à?”




“Đúng là không làm được.” Tôi nói rất dõng dạc: “Bởi vì dẫu sao việc cũng do người.”




“Tốt lắm.” Tổng giám đốc cười. “Cậu đúng là tuổi trẻ tài cao, rất có triển vọng.”




Nói thêm chút nữa đi.




Cô Tào cũng mỉm cười, bảo tôi: “Cố gắng lên.”




Tôi cảm thấy nhiệt huyết sôi trào.




Cô Tào đi rồi, tổng giám đốc nói: “Vậy chuyện này tôi giao cho cậu.”




“Giao… giao cho em?” Máu trong người tôi lập tức đóng băng.




“Đúng vậy. Cậu đã tự tin như thế đương nhiên phải giao cho cậu phụ trách rồi.”




“Cái này…” Tôi lúng túng nói: “Lòng tin với bốc đồng là hai chuyện khác nhau.”




“Cái gì?”




“Vừa rồi em bốc đồng quá.” Tôi nhỏ giọng trả lời: “Hồ sơ này chúng ta không thể làm được.”




“Cậu nói cái gì?” Giọng giám đốc bắt đầu to dần, bắt đầu giống một con chim đang kích động.




“Thanh niên trẻ tuổi dễ nổi cơn bốc đồng, cái này chắc sếp cũng hiểu mà.”




“Tôi không hiểu!” Giám đốc vỗ cánh đứng bật dậy, quăng tập hồ sơ ra trước mặt tôi. “Tóm lại trong vòng một tuần cậu phải viết xong đề xuất thực hiện cho tôi.”




Lớn chuyện rồi.




Trên đường về bàn làm việc tôi không ngừng đấm vào đầu mình, thầm nghĩ đúng là hồng nhan họa thủy.




Tính cách tôi là nếu vì chuyện ra vẻ mà tạo thành bi kịch, sẽ cảm thấy đây là do người khác hại mình.




Lúc đi qua máy photocopy, đang, cô Tào đang sao chép tài liệu nói với tôi: “Giám đốc Chu giao hồ sơ cho anh rồi?”




“Đúng vậy.”




“Anh thật lợi hại.”




“Đâu có.” Tôi mỉm cười.




Tính cách tôi là nếu người khen tôi lợi hại là mỹ nữ, tôi sẽ mỉm cười đáp lại.




Trở lại chỗ ngồi, lấy tập hồ sơ mời thầu ra, mới xem qua vài tờ đầu đã phải thở dài.




Mình ra vẻ làm gì cơ chứ? Đã không làm được lại cứ thích thể hiện làm gì.




Cầm bút lên, viết trong hồ sơ: ngu ngốc, đáng đời, bị phạt đúng tội, tự làm tự chịu…




Mắng tới cạn cả từ xong bèn lẳng lặng nhìn chằm chằm vào các hạng mục công tác trong tập hồ sơ, bắt đầu đờ người ra.




“Ồ.” Cô Lý bước qua cạnh bàn tôi. “Tập hồ sơ này rất khó làm đấy.”




“Ừ.” Tôi gật đầu.




“Có điều chắc cậu vẫn sẽ làm được thôi.”




“Đương nhiên rồi, không thành vấn đề.”




Nhìn cô Lý, trong lòng tôi lại buồn phiền.




Tính cách tôi là nếu ngay cả trước mặt cô gái không xinh đep cũng ra vẻ, sẽ cảm thấy buồn phiền.




“Cùng ăn trưa nhé.” Cô Lý bảo: “Tiểu Lương với Lễ Yên cũng định đi.”




Vốn lúc nghe thấy “Tiểu Lương” tôi hơi nhíu mày, nhưng sau khi nghe thấy tên cô Tào, tôi lập tức đứng dậy nói: “Được.”




Khó khăn lắm mới có dịp đi ăn cùng cô Tào, tôi nhất định phải nắm chắc cơ hội, biểu hiện bản thân.




Ra khỏi tòa nhà, Tiểu Lương đề nghị đi ăn rau hữu cơ gì đó, tôi bảo: “Sao lại định ăn chay?”




“Ăn chay tốt mà.” Tiểu Lương đáp: “Hơn nữa rau hữu cơ không bị ô nhiễm, không bị phun thuốc.”




“Loài khỉ yêu sạch sẽ, sống trong rừng chắc chắn sẽ rất khổ cực.” Tôi nói.




Ba người bọn họ cùng dừng bước, nhìn tôi.




“Là sao?” Tiểu Lương hỏi.




“Con khỉ leo trẻo cả ngày trong rừng rậm, rất dễ dính bẩn. Nếu con khỉ đó lại thích sạch sẽ vậy chẳng phải sẽ rất đau khổ à?” Tôi nói: “Khỉ quen ở bẩn với thích bẩn mới hạnh phúc được.”




“Cái này thì liên quan gì tới rau hữu cơ?” Cô Lý hỏi.




“Giờ hầu hết các loại rau đều bị phun thuốc, hơn nữa trong thực vật cũng có thành phần hóa học. Nếu cô không chịu ăn thức ăn có chứa chất hóa học, không những không có sức đề kháng hơn nữa còn rất khó tìm thức ăn.”




“Hóa ra là thế.” Tiểu Lương bảo tôi: “Thế nên anh không phải con khỉ thích sạch sẽ.”




“Đương nhiên rồi.” Tôi đáp. “Tôi dơ bẩn quen rồi, đang chuẩn bị bước lên mức thích ở bẩn.”




“Thế nhưng tôi là con khỉ thích thạch sẽ.” Cô Tào nói. “Hơn nữa tôi luôn ăn chay.”




Đến phiên tôi dừng chân, toàn thân như đông cứng.




“Bọn tôi đi ăn chay, đi cùng hay không tùy anh, không ép đâu.” Tiểu Lương cười nói, ánh mắt giảo hoạt.




Chết tiệt, tôi lại bị chơi rồi.




Sao tôi lại mơ màng đến thế cơ chứ? Ngay cả chuyện cơ bản nhất là cô Tào thích ăn chay mà cũng không biết.




Đáng ghét, da đầu lại tê cứng vì bối rối rồi.




Có điều vậy vừa khéo, có thể cứng đầu theo đuôi được.




Bước vào cửa hàng có tấm biển quảng cáo không phun thuốc, chúng tôi tìm chỗ tự ngồi xuống.




Tôi và cô Lý ngồi một bên, Tiểu Lương với cô Tào ngồi đối diện.




“Lễ Yên.” Tiểu Lương cầm bát của cô ấy lên. “Để em xới cơm cho chị nhé.”




“Cám ơn.” Cô Tào mỉm cười.




Đáng ghét, không ngờ lại bị giành trước, hơn nữa Lễ Yên là để con nhóc nhà mi gọi à?




Đang lúc hối hận không thôi, cô Lý cầm bát đưa tới trước mặt tôi.




“Sao thế?” Tôi quay sang hỏi cô ấy.”




“Xới cơm giúp tôi.” Cô Lý bảo: “Ngay cả chút lễ phép cơ bản nhất cũng biết.”




“Bát nhỏ thế đủ cho cô ăn không? Có cần tôi gọi người đổi cái bát khác lớn hơn không?” Tôi hỏi.




“Cậu muốn chết à!” Cô Lý cười vỗ lên vai tôi một cái.




Từng món thức ăn được bưng lên, nhưng tôi cảm thấy hương vị các món chẳng khác nhau nhiều lắm, vì vậy ăn cũng chẳng thấy ngon.




Gắp một cọng gì đó dài dài lên, rớt hai lần liên tiếp, bèn bỏ luôn đũa xuống, lấy tay cầm lên ăn.




“Đúng là con khỉ không ưa sạch sẽ.” Tiểu Lương cười nói: “Sao lại dùng tay?”




“Dùng tay thì liên quan gì tới không ưa sạch sẽ?” Tôi hỏi. “Những món ăn này trước khi nấu nướng rồi bưng lên không biết đã bị người trong nhà bếp dùng tay chạm vào bao nhiêu lần rồi nữa, cô cũng biết mà.”




“Cái này khác chứ.”




“Khác ở chỗ nào? Cô cứ khăng khăng không chịu hiểu. Người Ấn Độ đã sớm nhận ra điểm này cho nên mới dùng tay ăn cơm. Chính vì họ giác ngộ sớm như vậy nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới xuất hiện ở Ấn Độ.”




Tôi nói xong, ba người bọn họ lại ngây người một lúc.




“Cứ dùng đũa thì hơn.” Một lát sau, cô Tào bảo tôi.




“Đúng vậy!” Tiểu Lương lập tức tiếp lời. “Ấn Độ có Thích Ca Mâu Nhi, chúng ta có Khổng Tử cơ mà! Chẳng lẽ Khổng Tử thua Thích Ca Mâu Ni à? Huống chi chiếc đũa là tinh hoa nước nhà!”




Nói linh ta linh tinh. Có điều tôi vẫn nghe lời cô Tào, lại cầm đũa lên.




Nói lên cũng thật khiến người ta nản chí, tôi hay mơ màng, dễ bối rối, thích ra vẻ, nhưng lại không mặt dày được như Tiểu Lương.




Tính cách tôi là nếu lúc ăn cơm thấy khó chịu, sẽ cúi đầu hùng hục ăn, nghe không nói một lời.




“Nghe nói giám đốc Chu giao cho anh một vụ rất khó?” Tiểu Lương hỏi tôi.




“Khó hay không là do người mà.” Tôi nhìn cô ta, trong lòng bắt đầu phòng bị. “Cũng như chó khó mà khống chế được sói, nhưng cọp lại dễ dàng làm được.”




“Vậy à, thế thì chúc mừng anh.”




“Chúc mừng? Có gì đáng để chúc mừng à?” Tôi nói: “Có phải em định từ chức không?”




Cô Lý ho khan một tiếng như bị mắc nghẹn, nhìn tôi như cười mà chẳng phải cười.




“Tuần trước giám đốc Chu có bảo…” Tiểu Lương nói tiếp. “Ai nhận loại hồ sơ này sẽ có thêm tiền thưởng.”




“Thế thì…”




“Thế nên bữa ăn hôm nay…” Tiểu Lương không nói hết lời, chỉ cười gian xảo.




“Thì sao?”




“Không sao.” Tiểu Lương nhún vai. “Dẫu sao kiếm tiền cũng chẳng dễ dàng gì.”




“Hôm nay để tôi mời.” Tôi nói.




Tính cách tôi là cho dù biết đối phương đang dùng phép kích tướng, tôi vẫn ra vẻ.




“Thế này thì ngại quá.” Tiểu Lương lại miệng thơn thớt bụng một bồ dao găm .




“Mọi người cùng là đồng nghiệp, coi như thay cô chi tiền bữa chia tay.




“Vậy anh phải thất vọng rồi.” Tiểu Lương cười ha hả: “Tôi còn ở lại công ty lâu lắm đấy.”




“Cô cứ đợi đấy, giám đốc chắc gì đã giữ…”




Nói chưa hết câu, cô Lý đã kéo tay áo tôi lại, ý bảo tôi đừng nói nữa.




Tính toán tiền nong xong, trên người tôi chì còn hơn một trăm đồng.




Trên đường về công ty, càng nghĩ càng khó chịu, lúc qua đường thậm chí còn định vượt đèn đỏ.




Trở lại bàn làm việc, thấy hồ sơ mời thầu, hai chân mềm nhũn ra, ngồi phịch xuống ghế.




Một lát sau, nghĩ thầm phải tỉnh táo lại, phải hóa đau thương thành lực lượng.




Vì vậy bỏ cả buổi chiều ngồi trong công ty tìm tư liệu, viết đề xuất thực hiện.




Vươn người vặn lưng, đang định thở nỗi phiền muộn trong ngực ra thì nghe cô Tào nói:




“Đã sắp năm giờ rồi, sao anh còn không về?”




Tôi giật mình, đứng bật dậy, ngẩng đầu lên nhìn cô ấy.




“Tôi tới để nói mình phải về đây.” Cô ấy mỉm cười: “Với cả, cám ơn anh đã mời cơm.”




“Đừng… đừng khách sáo.” Tôi vẫn trả lời ấp a ấp úng.




“Vậy mai gặp lại nhé.” Cô vẫy vẫy tay. “Bye bye.”




Ngay cả động tác vẫy tay của tôi cũng hơi cứng nhắc, cứ như tay phải đắp thành thạch cao.




Hơn nữa hai chữ bye bye cũng vì căng thẳng quá mà chẳng rời được khỏi mồm.




Một lúc sau, cô Lý đi tới hỏi: “Năm giờ rồi đấy, sao anh còn chưa về?”




“Đây là ngày đầu tiên cô quen tôi à? Chẳng lẽ cô không biết tôi luôn nỗ lực không ngừng, hết mình vì công việc à?”




“Tôi tới để nói mình phải về đây. Với cả, cám ơn anh đã mời cơm.”




“Sao lại khách khí thế? Một chút cơm thôi mà, đừng để trong lòng, hiểu chưa?”




“Vậy mai gặp lại nhé. Bye bye.”




“Bye bye.” Tôi ra sức vẫy tay: “Lúc rảnh nhớ qua chơi nhé!”




Làm thêm một chút để kết thúc công việc, sau đó thu dọn hồ sơ mời thầu, cho vào trong cặp tài liệu, chuẩn bị ra về.




Lúc ra cao ốc của công ty đã năm giờ rưỡi.




Đi tới cách quán cà phê mười mét, lại dừng bước.




Hôm nay có nên vào uống cà phê không?




Tôi nghĩ chắc là không.




Tay phải giơ cao cặp tài liệu lên che khuất mặt, bước chân chậm rãi, cúi đầu tiếp tục đi.




Tuy không muốn uống cà phê nhưng lại rất muốn biết cô gái học nghệ thuật kia có ở đó không?




Vì thế ánh mắt tôi len lén liếc xuống dưới.




Khi tôi liếc thấy một bờ eo thẳng tắp, không khỏi ngừng bước.




Từ từ di chuyển cặp tài liệu, theo đó thấy được bộ ngực, vai, cổ, nửa trái khuôn mặt…




Đúng rồi, là cô gái học nghệ thuật kia.




Cô ấy đang cúi đầu vẽ tranh.




Tôi nghỉ chân nửa phút, quyết định kiềm chế ý muốn xem xem cô vẽ thứ gì, tiếp tục bước về phía trước.




Mới đi được vài bước lại va phải một người.




“Xin lỗi.” Tôi nói.




Ngẩng đầu lên nhìn, không ngờ lại là chủ quán cà phê.




“Sao lại không vào?” Chủ quán hỏi.




“Hôm nay tôi có việc.” Tôi hơi ngại, vội vàng bỏ cặp tài liệu đang giơ cao xuống.




Nhưng đột nhiên nghĩ lại, sao tôi lại phải thấy ngại chứ? Mình có thiếu tiền người ta đâu.




“Vào đi.”




“Xin lỗi, hôm nay tôi có việc thật.”




“Nếu là vì chuyện lần trước, vậy tôi xin lỗi.”




“Lần trước có chuyện gì?”




“Chuyện tôi bảo cậu là trai tân ấy.”




“Này.”




“Thật ra tôi đã nói sai.”




“Không sao, biết sai là được rồi.”




“Thực ra không chàng trai nào là trai tân cả, có người trao đêm đầu tiên cho tay trái, có người lại trao cho tay phải.”




“Này.”




“Vào đi.”




“No.”




“Sao lại nói tiếng Anh?”




“Tôi nghĩ anh không hiểu tiếng Trung.”




Tôi và chủ quán cà phê đứng ngay trước cửa quán, như hai đại cao thủ võ lâm giằng co trước trận đấu.




Cao thủ thường không dễ xuất chiêu, chúng tôi đều chờ đối phương ra tay trước.




“Tôi hiểu rồi.” Một lát sau, rốt cuộc anh ta cũng ra tay.




“Anh hiểu gì?” Tôi dùng thế thủ, cẩn thận tiếp chiêu.




“Trên người cậu chắc chắn không có tiền.” Anh ta bay lên không trung xuất cước.




“Tôi có tiền!” Tôi lại ra vẻ, chiêu thức đã loạn.




“Nếu không thì cậu là người nhỏ mọn.” Anh ta lại đổi sang tấn công hạ bàn.




“Tôi rất phóng khoáng đấy!” Tôi không kịp thu chiêu, chân đã lảo đảo.




“Vậy sao không dám vào?” Chủ quán biến quyền thành chưởng, khí tụ đan điền, công thẳng tới tử huyệt trước ngực tôi.




“Ai bảo tôi không dám.” Tôi chỉ thấy trước ngực dâng lên cảm giác buồn bực, bật ngay khỏi miệng. “Tôi vào đây!”




“Vậy đa tạ.” Anh ta chắp tay hành lễ.




“…”




Sau khi anh ta vào trong quán rồi tôi vẫn ngây ngẩn ở đó, điều hòa lại nội tức.




Cách đó một khung cửa sổ, cô gái học nghệ thuật đang cười ha hả ngoắc tay với tôi.




Tôi đẩy cửa quán ra, đi thẳng tới chỗ đối diện cô ấy, ngồi xuống.




“Hai hôm trước sao anh không tới?” Cô ấy hỏi.




“Vì không phải đi làm nên tôi lười ra ngoài.”




“Ừm.” Cô ấy lại hỏi: “Anh làm việc ở gần đây?”




“Ừ, đi bộ không đến mười phút.” Tôi nhìn bức vẽ trước mặt cô, hỏi: “Vừa nãy cô vẽ gì vậy?”




Cô vội vàng rút bản vẽ lại: “Hai hôm nay vẽ không được đẹp, không thể để người khác xem được.”




Tôi thấy cô ấy hơi ngại nên chỉ mỉm cười, không hỏi tiếp nữa.




Chủ quán đưa cốc nước tới, tôi cũng tiện đó gọi một cốc cà phê.




“Cô tới đây hàng ngày làm gì?”




“Khung cảnh nơi đây rất đẹp.”




“Khung cảnh?” Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. “Trước trạm xe điện ngầm thì có khung cảnh gì?”




“Rất nhiều người qua lại, tôi có thể trải nghiệm cuộc sống ở đây.”




“Cuộc sống?” Tôi hỏi lại với vẻ khó hiểu. “Ở nhà cũng có thể trải nghiệm cuộc sống cơ mà.”




“Cái đó không giống.” Cô ấy mỉm cười: “Nếu nghệ thuật gia ngồi cả ngày ở nhà rất có khả năng sẽ chỉ sống trong thế giới nghệ thuật hư cấu của bản thân, có thể một ngày nào đó sẽ phát điên.”




“Thật không?” Tôi lại nhìn ra ngoài cửa sổ: “Nhưng ngồi đây chỉ thấy được người thôi mà.”




“Người là tác phẩm nghệ thuật phức tạp nhất mà ông trời sáng tạo ra đấy.” Cô ấy mỉm cười lè lưỡi nói. “Tuy có rất nhiều thiếu sót.”




“Đúng rồi, cuộc sống của anh sao?”




“Ừm.” Tôi suy nghĩ một lát. “Cuộc sống của tôi rất đơn giản, chỉ có làm việc và nghỉ ngơi thôi.”




“Lúc nghỉ anh làm gì?”




“Tôi viết tiểu thuyết.”




Lời vừa nói xong, tôi lại thấy ngạc nhiên.




Vì ngoại trừ Đại Đông, đây là lần đầu tiên tôi kể với người ngoài mình viết tiểu thuyết.




“Ừm. Vậy cũng hay.”




Cô gật đầu, nâng cốc cà phê lên, uống một ngụm.




“Hình như cô không ngạc nhiên thì phải.”




“Sao tôi lại phải ngạc nhiên?” Đôi môi cô rời cốc cà phê, nhìn tôi với vẻ hiếu kỳ.




“Tôi là người học khoa học mà lại đi viết tiểu thuyết, không lạ sao?”




“Nếu người học pháp luật đều có thể làm tổng thống…” Cô đặt cốc cà phê xuống, mỉm cười. “Vậy sao người học khoa học không thể viết tiểu thuyết được?”




“Nói hay lắm.” Tôi giơ ngón tay cái lên.




Xem ra lý do viết tiểu thuyết luôn làm khó tôi thật ra có đáp án rất đơn giản.




Cô lại chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ, một lát sau mới như đột nhiên nhớ ra điều gì, quay đầu sang nói: “Xin lỗi.” Cô lè lưỡi. “Tôi cứ hay quen thế.”




“Không sao. Dù gì thì bên ngoài cũng nhiều anh chàng đẹp trai mà.”




“Ha ha, tôi đâu có nhìn mấy chàng đẹp trai.” Cô vươn ngón trỏ ra chỉ về phía đối diện bên đường. “Anh nhìn kìa, xe tôi luôn đậu ở đó.”




Theo hướng ngón tay cô chỉ, tôi thấy chiếc xe màu đỏ mà mình đã từng gặp.




“Chỗ đó đâu cho đỗ xe.”




“Tôi biết là không được đỗ ở đó.” Cô mỉm cuời thần bí. “Thế nên lúc thường tôi hay nhìn ra ngoài cửa sổ, để ý xem có cảnh sát xuất hiện không.”




“Hóa ra lần trước cô vội vàng chạy ra là vì thấy cảnh sát.” Tôi đột nhiên hiểu ra.




“Ừ.” Cô ấy lại mỉm cười. “Tôi vừa quan sát mọi người lại vừa để ý cảnh sát, như vậy trong lúc đang chìm đằm trong thế giới nghệ thuật mỹ lệ vẫn không quên trong cuộc sống hiện thực vẫn còn hóa đơn tiền phạt tàn khốc.”




Chủ quán bưng cốc cà phê tới đặt trước mặt tôi, cũng liếc nhìn tôi một cái.




Tôi cúi đầu xuống nhìn, lớp bọt màu trắng nổi bên trên lớp cà phê, tạo thành một hình vẽ ngón tay.




Thật kỳ lạ, nhìn trái phải một hồi, quả thực rất giống ngón tay.




Chủ quán giơ bàn tay ra, giơ ngón giữa ra cốc cà phê như đang so ngón tay giữa với bức hình trong cốc.




“Trông giống lắm.” Nói xong, anh ta lập tức bỏ đi.




Đáng ghét, không ngờ tên này lại dùng kem vẽ thành hình ngón giữa.




“Cà phê do chủ quán pha ngon đấy chứ?” Cô ấy hỏi.




“Ừ. Chỉ có điều người lại hơi quai quái.”




“Thật không?” Cô ấy chỉ cười chứ không nhận xét gì. “Có điều anh ấy không thu tiền của tôi.”




“Thật à?” Tôi ngạc nhiên.




“Tôi dùng những bức tranh vẽ ở đây để đổi lấy cà phê.”




“Vậy à?” Tôi lấy bức vẽ vạn tiễn xuyên tâm từ trong cặp tài liệu ra, mỉm cười hỏi cô ấy: “Không biết bức tranh này của tôi đổi được mấy cốc cà phê?”




Chủ quán đột nhiên xuất hiện bên cạnh, mở hộp đường bên cạnh bàn ra, múc đường cho vào cốc cà phê của tôi.




“Chỉ đổi được mấy viên đường.” Chủ quán nói.




Đang lúc tôi định phản đối, chủ quán lại quay sao bảo cô ấy: “Cà phê của cô hết rồi.”




“Hả.” Cô bật thốt lên. “Tiếc quá, tôi còn định uống thêm một cốc.”




“Vậy cô nên bắt đầu vẽ luôn đi.”




“Cô ấy không trả tiền được à?” Tôi hỏi một câu xen vào.




“Không được.” Chủ quán đáp: “Cô ấy không được dùng tiền để uống cà phê, chỉ có thể dùng tranh.”




“Đâu ra cái lý đó.”




“Nếu anh muốn thì trả tiền giúp cho cô ấy cũng được, có điều anh đâu phải người hào phóng.”




“Ai bảo tôi không phải?” Tôi lại ra vẻ. “Tôi sẽ trả thay cô ấy!”




“Cám ơn.” Cô ấy nhìn tôi, mỉm cười.




Ánh mắt này thật quen thuộc, đường như mỗi lần định vẽ thứ gì cô ấy lại dùng ánh mắt như vậy.




Chẳng lẽ cô ấy lại nhìn ra điều gì ở tôi? Có phải nhận ra tôi là người hay ra vẻ không.




Đột nhiên, tôi thầm giật mình, trên người chỉ còn có một trăm đồng, không đủ để trả tiền uống cà phê cho hai người.




“Cô đợi chút.” Tôi đứng dậy. “Tôi ra ngoài một lát.”




Đang chuẩn bị kéo cửa quán vào để đi ra thì giọng chủ quán vang lên từ phía sau: “Cậu chỉ có bốn phút.”




“Cái gì?” Tôi quay lại.




“Từ lúc xay đến lúc pha xong cà phê hết bốn phút. Nếu trong cậu không về trước khi pha xong tôi sẽ tự uống hết cốc cà phê này.”




“Anh đang đùa cái trò gì thế.”




“Bắt đầu.” Chủ quán quay người lại xay hạt cà phê.




Tôi lao ra khỏi quán.




Dừng lại trước vằn đèn đỏ, còn mười hai giây nữa đèn xanh mới sáng.




Đèn xanh rốt cuộc cũng sáng.




Tôi lao nhanh về phía trước, xông thẳng tới con đường đối diện, lao qua một cái thùng rác, lại chạy thêm bảy tám bước.




Rồi lướt qua chiếc xe màu đỏ của cô ấy, chui vào một cao ốc. Chạy qua trước năm cửa hàng, đi tới chỗ máy rút tiền tự động.




Thở hổn hển một hơi, móc ví da ra, rút thẻ ATM, bỏ vào trong máy, nhập mã, nhận hai ngàn đồng.




Chờ máy rút tiền tự động đếm xong, cầm tiền lên, nhận lại thẻ ATM, cho lại vào trong ví da.




Rồi lại nhanh chóng chạy lại theo hướng ngược với hồi nãy.




“Bao lâu rồi.” Đẩy cửa quán ra, tôi vừa thở hồng hộc vừa hỏi.




“Ba phút bốn mươi sáu giây.” Chủ quán đáp.




Tôi thở phào một hơi, trở lại vị trí, ngồi xuống.




“Anh cũng đỗ xe sai nơi quy định à?” Cô mỉm cười, lấy một tờ giấy ăn trên bàn ra đưa cho tôi.




“Tôi…” Tôi nói không nên lời, nhận lấy tờ giấy, bắt đầu lau mồ hôi.




“Tôi bắt đầu vẽ đây.” Nói xong, cô cầm bút lên, mở tập giấy ra.




Động tác lau mồ hôi của tôi ngưng bặt.




Đột nhiên bầu không khí ngập tràn cảm giác yên tĩnh, thậm chí tôi không dám thở mạnh.




Ánh mắt vốn đang chăm chú nhìn cô cũng từ từ rụt lại, chuyển ra ngoài cửa sổ, sợ làm phiền cô ấy.




Liếc mắt thấy chủ quán khẽ đặt cốc cà phê lên bàn nên nhanh chóng quay đầu lại, giơ ngón tay lên môi ra hiệu “suỵt”.




Không ngờ chủ quán cũng ra hiệu như tôi.




Lúc anh ta quay người đi về quầy bar, bước chân nhẹ nhàng trầm ổn, xem ra khinh công cũng không tồi.




“Vẽ xong rồi.” Cô nâng cốc cà phê lên, uống một ngụm, sắc mặt chuyển dần từ vẻ kinh ngạc sang đắc ý.




“Lúc Quan Vũ vừa rời Mao Lư, rượu còn ấm đã chém xong Hoa Hùng, tôi vẽ xong cốc cà phê vẫn còn nóng.”




“Cái này là đoạn miêu tả trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhưng thật ra là cha của Tôn Quyền —— Tôn Kiên giết Hoa Hùng.”




“Thế à.” Cô mở to hai mắt, chớp chớp vài lần. “Vậy có làm giảm sự lợi hại của tôi xuống không?”




“Không đâu.” Tôi mỉm cười. “Cô vẫn rất lợi hại.”




“Cám ơn.” Cô mỉm cười vui vẻ, xoay ngược bức tranh, đẩy nhẹ tới trước mặt tôi.




Tôi thấy một chiếc thuyền, bên cạnh thuyền có một chú cà heo đang lè lưỡi ra, có vẻ như đang dốc hết sức để bơi.




“Sao cá heo lại phải lè lưỡi.”




“Vì quá mệt.”




“Mệt?”




“Cá voi thích chơi trò bơi vòng quanh thuyền nhưng lại gặp phải một con thuyền rất lớn hoặc một con thuyền chạy rất nhanh, như vậy nếu cá voi vẫn kiên quyết bơi vòng quanh thuyền không phải sẽ rất mệt à?”




“Thế thì chủ đề của bức họa này là gì?”




“Ra vẻ.”




Quả nhiên, lại bị cô ấy nhìn thấu rồi.




“Bức tranh này có thể đổi được chín cốc.” Chủ quán đột nhiên xuất hiện cạnh chúng tôi.




“Vậy tám cốc nhé.” Cô nói.




“Hả?” Chủ quán nhướn mày, có vẻ rất ngạc nhiên, không ngờ cô ấy lại không mặc cả.




“Vì chỉ có thể là số chẵn.” Cô mỉm cười chỉ vào tôi rồi nói: “Vậy tôi mới chia đôi với chú cá heo thích ra vẻ này được chứ.”




Chủ quán nhìn chúng tôi rồi nói: “Được.”




“Người học khoa học…” Cô thu dọn đồ đạc. “Tôi phải đi đây.”




“Ừ.”




“Sau đừng ra vẻ nữa đó, cứ thế sẽ mệt lắm đấy.” Cô thu dọn xong xuôi bèn đứng dậy.




“Được.”




“Vậy ngày mai…” Cô kéo dài âm cuối. “…gặp lại sau nhé?”




“Cái này…”




“Anh quên chuyện người học khoa học phải có khí phách à?”




“Được.” Tôi vỗ ngực. “Mai gặp lại.”




“Anh lại ra vẻ rồi.” Cô vẫy vẫy tay nói. “Bye bye.”




Lúc cô kéo cửa đi ra, tiếng chuông cửa leng keng nghe thật vui tai, hoàn toàn không chút chói tai thường ngày.




Cô ấy vừa đi khỏi, tôi lập tức đứng dậy ra quầy bar tính tiền.




“Sau cậu nhớ đến đây thường xuyên nhé.” Chủ quán nói.




“Vì sao?”




“Có cậu ở đây cô ấy mới vẽ tốt được.”




“Thật không?” Tôi suy nghĩ một lát. “Anh giảm giá cho tôi một chút, tôi sẽ thường xuyên tới.”




“Được.” Anh ta trả lời ngay, không cần nghĩ ngợi gì.




“Thật hay giả thế?” Tôi hỏi lại với vẻ khó hiểu.




“Nếu cậu có thể khiến cô ấy vui vẻ, tôi tình nguyện pha cà phê cho cậu cả đời.”




Sau khi nói xong, chủ quán bèn quay người rửa cốc chén.




Lúc tôi mở cửa quán, tiếng chuông cửa vang lên lại chất chứa sự hoang mang.


Chương 5: Theo đuổi (1)



Mấy ngày liền, cái đầu tôi như chìm trong nước sôi lửa bỏng.




Ban ngày thì dùng những câu văn dễ hiểu chính xác để viết nội dung đề xuất thực hiện.




Đến tối lại dùng những câu chữ mềm mại viết “Diệc Thứ và Kha Tuyết”.




“Ngày mùa đông khi cô quay người đi khỏi, bầu không khí bỗng lạnh lẽo lạ thường, dường như bóng lưng nàng đã mang theo mọi hơi ấm. Còn tôi, giọt nước mắt không biết trào ra từ lúc nào cũng nhanh chóng đóng băng trong lòng.”




Đây là những câu văn chỉ tới tối tôi mới viết ra được.


Nếu lúc ban ngày tôi sẽ không lấy việc người yêu bỏ đi làm lý do cho chuyện mùa đông lạnh lẽo hơn lúc bình thường, tôi sẽ chỉ suy luận thành hiện tượng LaNina khiến mùa đông lạnh hơn.




Còn thời gian tôi ngồi trong quán cà phê cũng vừa khéo là giai đoạn thay đổi giữa ngày và đêm.




Mấy hôm nay cô gái học nghệ thuật đều đến sớm hơn, nếu thấy tôi cô ấy sẽ ngoắc tay gọi, nếu không thấy, tôi cũng sẽ chủ động ngồi xuống vị trí đối diện với cô ấy.




Nếu cô ấy đang nhìn ra ngoài cửa sổ hoặc cúi đầu vẽ tranh, tôi lại lấy đề xuất thực hiện từ trong cặp tài liệu ra, tiếp tục làm việc.




Thi thoảng chúng tôi lại trò chuyện với nhau vài câu, đề tài thường xoay quanh thế giới nghệ thuật của cô ấy.




Nói cũng lạ, một khi nói chuyện với cô ấy, suy nghĩ thường hay chuyển sang trạng thái “Diệc Thứ và Kha Tuyết.”




Sau khi về nhà, tôi lại tự nhốt mình trong phòng, ngồi trước máy tính.




Trước tiên là rũ bỏ cảm giác nặng nề do lúc ban ngày phải sử dụng nhiều câu chữ logic, chuẩn bị viết tiểu thuyết.




Hành động này cũng như võ sĩ từ chiến trường trở về cởi áo giáp trên người, bắt đầu mài mực vẽ tranh.




Nếu mệt mỏi thì vươn vai vươn eo hoặc nhìn vào vách tường, đờ người ra.




Căn phòng của tôi trang trí theo phong cách đạo gia, dùng thuyết vô vi làm nguyên tắc, vì vậy trên tường không có bất cứ thứ gì.




Trừ khi muốn uống nước, nếu không tôi sẽ khôi rời máy tính.




Đứng dậy ra khỏi phòng, thấy Đại Đông và Tiểu Tây đang ngồi trong phòng khách xem ti vi.




Đại Đông mặt mày rầu rĩ, gương mặt Tiểu Tây lại như vừa đọc được tin về tai nạn hàng không trên báo.




Bước chân tôi nhẹ nhàng chậm rãi, đến gần cái tủ lạnh




“Này.” Lúc tôi đang cầm cốc cà phê đi về phòng, Đại Đông gọi tôi lại: “Ngồi xuống đây xem ti vi.”




“Tớ phải về phòng viết tiểu thuyết.” Tôi không ngừng chân.




“Giờ không cần viết tiểu thuyết, ra xem tivi đi.” Đại Đông nhìn tôi nói.




“Vì sao, anh lại muốn gây trở ngại, cho ý chí tự do, của người khác thế?” Tiểu Tây nhìn Đại Đông nói.




“…” Tôi nhìn Đại Đông và Tiểu Tây, không biết nên nói với ai.




“Đâu có, anh chỉ…” Đại Đông xoa xoa hai tay, nói lúng ta lúng túng. “Chỉ khuyên cậu ấy đừng làm việc quá mệt mỏi, chuyện viết tiểu thuyết cứ từ từ, thi thoảng ra xem tivi nghỉ ngơi đôi chút.”




“Chẳng phải cậu luôn bảo tớ phải…”




Đang lúc tôi nói chuyện lại thấy Đại Đông lắc đầu với tôi, đồng thời vươn ngón trỏ tay phải lên.




Ý cậu ấy chắc là có thể giảm tiền thuê nhà một ngày ?




“Phải chăm sóc thân thể cho tốt à? Thế nên tớ quyết định nghe theo lời cậu, nghỉ ngơi xem tivi một chút.”




Phản ứng của tôi cũng không tệ lắm, lời nói như chiếc xe thắng gấp lại rồi đột nhiên rẽ phải.




Tôi ngồi giữa Đại Đông và Tiểu Tây, quay đầu sang nhỏ giọng hỏi Đại Đông: “Một ngày hả?”




Đại Đông gật đầu.




Tôi rất hài lòng, lại quay sang hỏi Tiểu Tây: “Sao em không tới đây hàng ngày.”




“Anh hoan nghênh, chưa chắc người khác đã hoan nghênh!” Tiểu Tây có vẻ rất oán hận.




“Nói bậy!” Đại Đông hét lớn. “Anh rất hoan nghênh em tới.”




“Giương buồm đi, là rời đất liền, chứ không phải hoan nghênh bãi cát.” Không ngờ Tiểu Tây đáp lại một câu thật thâm sâu.




“Anh…” Đại Đông đỏ bừng mặt, không nói thành lời.




“Thế thì lãng phí quá.” Tôi bật thốt.




Đại Đông và Tiểu Tây cùng quay đầu sang nhìn tôi với vẻ khó hiểu.




Cứ thế này đương nhiên lãng phí rồi, vì bọn họ có tranh chấp thế nào đi chăng nữa thì hôm nay tôi cũng chỉ cắt được tiền thuê nhà trong hôm nay.




Tốt nhất là hôm nào Tiểu Tây cũng tới, sau đó ngày nào cũng xảy ra một vụ cãi nhau nho nhỏ, như vậy tôi sẽ không phải nộp tiền thuê nhà nữa.




Có điều, đương nhiên tôi không thể kể nguyên do này ra cho họ được.




“Bộ phim Hàn này nội dung ra sao?” Tôi chỉ vào tivi.




Tính cách tôi là nếu nói nhanh quá làm lỡ lời, sẽ chuyển sự chú ý của mọi người đi.




“Nhân vật nam chính là người đã có vợ, nhân vật nữ chính yêu anh ta…” Đại Đông vừa chỉ vào tivi vừa nói. “Còn nhân vật nam phụ này yêu nhân vật nữ chính, giờ anh ta đang định ngăn cản nhân vật nữ chính chạy đi tìm nhân vật nam chính.”




Đại Đông kể rất chi tiết, nhưng tôi chỉ thuận miệng hỏi chứ không cảm thấy hứng thú gì.




“Chẳng lẽ em không có chút tự tôn nào sao?” Nhân vật nam phụ trong tivi giữ tay nhân vật nữ chính lại, vừa thở hổn hển vừa hỏi.




“Không, tự tôn là thứ duy nhất mà em có.” Nhân vật nữ chính quay đầu lại, thần sắc kiên quyết. “Thế nên thứ duy nhất mà em có thể vứt bỏ vì anh ấy cũng chỉ có tự tôn.”




“Ừ, câu này không tồi.” Đại Đông quay đầu sang bảo tôi. “Cậu phải học tập.”




“Hả.” Tôi đáp.




“Cảm xúc của em cũng như nhân vật nữ chính vậy.” Tiểu Tây đột nhiên mở miệng.




“Đừng nói linh tinh nữa.” Đại Đông nói.




“Người giương buồm đi đương nhiên không nghe thấy tiếng khóc của bãi cát rồi.” Tiểu Tây lại nói một câu thật thâm ảo.




Khuôn mặt Đại Đông lại bắt đầu đỏ lên, khuôn mặt Tiểu Tây vẫn như đọc được tin về tai nạn hàng không trên báo.




Còn tôi thì như vừa chui vào một phòng vệ sinh cực thối, không dám hít thở mạnh.




Xem ra tiền thuê nhà ngày hôm nay cũng chẳng dễ kiếm.




Có điều đã nhận tiền của người ta rồi giúp họ giải quyết tai uơng là chân lý, giả chết lúc gặp cảnh khó xử là chuyện thường tình của con người.




Tôi là người học khoa học, khi chân lý và nhân tình nảy sinh xung đột, luôn đứng về phía chân lý.




Vì vậy tôi giơ ngón tay lên “bụp” một tiếng, bật lon cà phê trong tay lên.




Ánh mắt Đại Đông và Tiểu Tây cùng bị tiếng vang đột ngột này thu hút.




“A…” Tôi uống một ngụm rồi nói: “Không muốn điều gì, chỉ muốn uống cà phê!” Rồi quay sang hỏi Đại Đông. “Chẳng phải cậu bảo tớ nghĩ một đoạn quảng cáo cà phê à? Câu slogan này ra sao?”




“Cà phê có phải thức uống thể thao hay thức uống chức năng đâu, sao lại dùng chữ ‘a’ để biểu đạt cảm giác vui sướng được. Phải tìm một cách diễn đạt cảm giác thật thanh nhã, như sau khi uống cà phê thế giới sẽ hòa bình ấy.”




“Vậy anh nghe câu slogan này xem…” Tiểu Tây xen vào, Đại Đông hiếu kỳ nhìn sang phía cô ấy. “Người giương buồm đi hỡi, xin đừng quên, mùi cà phê trên bờ cát.”




Đại Đông, xin lỗi, chẳng những không giúp được cậu, lại còn khiến Tiểu Tây nói thêm một câu thâm ảo.




Không khí căng thẳng bao trùm trong phòng khách tới tận khi tập phim Hàn kia chiếu xong.




“Em phải về đây.” Tiểu Tây nói.




Đúng là tiếng trời, tôi thở phào một hơi.




“Em phải về à?” Đại Đông đứng dậy. “Để anh tiễn em.”




“Không cần.” Tiểu Tây đi thẳng ra cửa, mở cửa, quay đầu lại nói:




“Người giương buồm đi rồi, việc gì phải quan tâm, bãi cát có vỏ sò bồi bạn hay không.”




Tiểu Tây vừa đóng cửa, Đại Đông lập tức quay sang bảo tôi. “Này! Vỏ sò, mau đi theo đi.”




“Vỏ sò?”




“Tớ là người giương buồm đi, đương nhiên cậu chỉ có thể là vỏ sò rồi.” Đại Đông xua xua tay, thúc giục: “Còn không mau đi đi.”




Tôi nhanh chóng đứng dậy, chạy ra cửa, đuổi kịp Tiểu Tây ở thang máy.




Tiểu Tây thấy tôi, hơi ngạc nhiên nhưng không nói gì, chỉ mỉm cười.




Thang máy lên đến nơi, tôi bước vào theo Tiểu Tây, hai chúng tôi vẫn không nói một lời.




Dọc đường, tôi luôn đi sau Tiểu Tây khoảng một bước, lặng lẽ bước theo cô ấy.




“Nghe Đại Đông bảo.” Tiểu Tây đột nhiên dừng bước, quay đầu lại nói. “Anh đang viết tiểu thuyết?”




“Ừ.” Tôi bước thêm một bước, đứng sóng vai cạnh cô ấy.




“Có thích không?” Tiểu Tây lại tiếp tục đi.




“Thích cái gì?” Tôi cũng đi tiếp, giữ tốc độ bằng cô ấy.




“Viết tiểu thuyết ấy.”




“Hả?” Tôi dừng bước. “Cái này anh chưa bao giờ nghĩ tới.”




Tiểu Tây mỉm cười, cũng dừng lại chờ, tôi chạy tới cạnh cô ấy.




“Đại Đông rất thích đấy.” Tiểu Tây nói.




Tôi không trả lời, bắt đầu nghĩ xem rốt cuộc mình có thích viết tiểu thuyết không.




“Không, tự tôn là thứ duy nhất mà em có. Thế nên thứ duy nhất mà em có thể vứt bỏ vì anh ấy cũng chỉ có tự tôn.”




Tiểu Tây lặp lại câu nói của bộ phim Hàn vừa chiếu trên tivi khiến tôi ngạc nhiên một lúc.




“Em thường rất hâm mộ, nhân vật trong ti vi, có thể sống, chỉ vì, một loại lý do đơn giản.”




Tiểu Tây ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đêm. “Không như trong hiện thực, lý do sống, luôn rất phức tạp.”




“Lý do sống trong hiện thực có lẽ lại càng đơn giản, hoàn toàn không có lý do, chỉ cần sống mà thôi.” Tôi mỉm cười. “Hoặc lý do sống, chỉ vì không muốn chết.”




“Hả?” Tiểu Tây cũng mỉm cười. “Cách nghĩ thật kỳ lạ.”




“Em hy vọng, có thể sống một cuộc sống, đơn giản và ổn định.”




“Ừ.” Tôi gật đầu.




“Cách sống của Đại Đông, khiến em cảm thấy, không được ổn định.”




Tiểu Tây bước chậm lại, từng bước chăn gằn lên nền đất, như người say rượu đang ra sức giữ thăng bằng.




“Em như giẫm trên boong tàu, tuy vẫn là mặt đất, nhưng lúc nào cũng cảm thấy, nhấp nhô theo từng nhịp sóng.”




Tuy tôi không hiểu cảm giác của Tiểu Tây song vẫn có thể tưởng tượng được.




“Đến đây thôi.” Tiểu Tây mỉm cười. “Để em tự đi tàu điện ngầm về. Bye bye.”




“Được.” Tôi nhìn xung quanh, đã đến cửa ga tàu điện ngầm. “Bye bye.”




Tiểu Tây bước vào ga tàu, quay đầu lại nói: “Liệu có thể, cho em, sống trong tiểu thuyết không?”




Tôi ngạc nhiên một hồi, không biết nên trả lời ra sao.




“Không sao.” Tiểu Tây mỉm cười, vẫy vẫy tay rồi đi khỏi.




Trên đường trở về, tôi tiếp tục suy nghĩ về việc mình có thích viết tiểu thuyết hay không.




Mở cửa, còn chưa ngồi xuống, Đại Đông đã hỏi: “Cô ấy ra sao rồi?”




“Vẫn tốt.” Tôi ngồi xuống. “Sao cậu lại khiến cô ấy mất hứng thế?”




“Vừa nãy tớ với cô ấy cùng xem ti vi, thấy quảng cáo một bộ trang điểm dưỡng trắng da làm đẹp, cô ấy bảo muốn mua. Tớ bảo mua làm gì? Xem thêm vài bộ phim kinh dị mặt sẽ trắng ngay.”




“Hả! Câu này phải được mười điểm đấy!” Tôi cười ha hả.




“Tớ chỉ đùa thôi, không ngờ cô ấy lại bắt đầu mất hứng.”




“Cậu không hợp để đùa. Chó với khỉ đùa thì vui, nhưng nếu rùa đen mà đùa, vậy sẽ rất lạnh.”




“Nói bậy.” Đại Đông trừng mắt lườm tôi một cái. “Chỉ cần cô ấy không cao hứng một lần thôi, tiếp đó cho dù bọn tớ nói sang chuyện gì, cô ấy cũng vẫn quay đề tài về chuyện tớ phải tìm một công việc ổn định.”




“Ừ. Tiểu Tây chắc đã luyện Như Lai Thần Chưởng tới thức thứ mười tám – Vạn Phật Triều Tông.” Tôi cười đáp.




“Sau đó thì sao?”




“Sau đó bọn tớ càng nói chuyện càng căng thẳng, cuối cùng cô ấy giận.”




“Tiểu Tây mong cậu ổn định một chút.” Tôi nhớ tới lời nói vừa rồi của Tiểu Tây.




“Cái đó tớ biết.” Đại Đông có vẻ rất bất đắc dĩ. “Cô ấy là giáo viên tiểu học, ngày nào cũng ngủ từ mười giờ, sáng sớm chưa tới sáu giờ đã ra khỏi giường. Còn tớ lại quen sống về đêm rồi, thói quen sống và làm việc khác nhau quá xa.”




“Lúc bỏ công ty quảng cáo cô ấy cũng rất phản đối. Mấy năm gần đây luôn muốn tớ tìm một công việc ổn định, thế nhưng…” Đại Đông thở dài. “Tớ thật sự rất thích viết lách.”




“Vì sao lại thích.”




“Thích thì cần gì có lý do!” Đại Đông có vẻ kích động.




“Ừ.”




Cũng như tôi không thể hiểu Tiểu Tây, giờ cũng không hiểu được cảm giác của Đại Đông, song có thể tưởng tượng được.




Trở lại trước máy tính, đầu óc còn đang tiêu hóa câu nói của Đại Đông và Tiểu Tây vừa rồi.




“Liệu có thể, cho em, sống trong tiểu thuyết không?”




Đột nhiên nhớ tới câu nói của Tiểu Tây, tôi lại chìm vào trầm tư.




Tiểu Tây và Đại Đông quen nhau từ hồi học sinh, có tình cảm với nhau đã lâu.




Tiểu Tây là một cô gái rất truyền thống, nếu muốn hình dung thì có lẽ là cô gái sẽ giúp chồng dạy con.




Theo lời Đại Đông, Tiểu Tây trước đây rất ngưỡng một tài năng sáng tác của cậu ta, vậy vì sao giờ Tiểu Tây lại không yên lòng vì Đại Đông thích sáng tác kia chứ?




“Này, có muốn ra ngoài uống gì đó không?”




Đại Đông gõ cửa, hỏi vọng vào phòng tôi.




Tôi nhìn đồng hồ, đã hơn mười hai giờ rồi, mai còn phải đi làm.




“Nhưng giờ khuya rồi mà.” Tôi nói.




“Nhưng tớ muốn mời cậu đi uống.” Đại Đông lại nói.




“Thế sao không nói sớm.” Tôi lập tức đứng dậy, mở cửa phòng.




Tính cách tôi là, nếu người khác mời mình, sẽ cảm thấy thời gian không phải vấn đề.




Chúng tôi tới một quán Pub, thường thì giờ này cũng chỉ còn những chỗ như vậy còn mở cửa.




Mọi pub đều không khác nhau lắm, lúc nào cũng là ánh sáng âm u, âm nhạc ầm ĩ, khói thuốc mênh mang phủ quanh một đống tàn thuốc lá.




Có điều chắc là thiết bị âm thanh của quán pub này không được tốt cho lắm, thế nên mở nhạc cũng không lớn lắm.




Hơn nữa âm nhạc nghe có vẻ rất lười biếng, cứ như nghệ sĩ ghi âm khi đang mặc áo ngủ.




Chúng tôi ngồi chưa được bao lâu, mới nói được vài câu, Đại Đông bèn vẫy vẫy tay về phía cửa.




Tôi quay người lại nhìn, một nam một nữ đi về phía bàn chúng tôi rồi ngồi xuống.




Nam ngồi đối diện tôi, nữ ngồi bên cạnh tôi. Đại Đông giới thiệu với tôi hai người này là bạn biên kịch của cậu ta.




“Tiến độ hôm nay ra sao?” Đại Đông hỏi bọn họ.




“Sáng nay lúc đi nhà xí, tớ đã biết ngay vận may hôm nay rất tốt, chắc chắn mạch bút sẽ rất trôi chảy.”




Nam mở miệng trả lời, sắc mặt có vẻ âm u, như cười mà chẳng phải cười.




Nữ không trả lời, chỉ lấy từ trong túi da một gói thuốc lá rồi mở nắp cầm một điếu lên.




“Vì sao?” Đại Đông hỏi.




“Vì tớ làm được một phát ‘tứ quý’.” Nam nói xong bèn cười he he.




“Sao anh không nói luôn mình làm được ‘sảnh đồng hoa’ luôn đi.”




Nữ không cho là đúng, cầm điếu thuốc lên, châm lửa, lạnh lùng nói.




Nghe họ nói chuyện xong tôi không khỏi quan sát hai người.




Vóc người nam vừa mập vừa lùn, lại thêm cái cổ ngắn, cằm với vai gần như nằm trên một đường thẳng.




Mái tóc trên đầu anh ta rất dày nhưng đa số tóc không dài theo hướng lên trên mà sang hai bên trái phải.




Trông giống như một cái bọc tròn tròn bao lấy hai bên tai.




Đôi mắt vừa to vừa tròn, mũi chim ưng cong cong, môi mỏng, bên trên lất phất vài sợi râu.




Khi nói chuyện khuôn mặt lung thay theo thói quen, thi thoảng hàm răng lại bám chặt lấy môi dưới, phát ra lâm thanh xuy xuy.




Trông hơi giống con cú mèo.




Nữ đeo một chiếc kính gọng đen, mắt kính cực kỳ nhỏ, nhưng so sánh với con mắt của cô ta thì cũng đủ lớn rồi.




Khuôn mặt dài và gài, hai bên má lác đác vài điểm đỏ đánh dấu vị trí mụn trứng cá đã từng lưu trú.




Mái tóc rất dài nhưng không hề được chải chuốt, buông xõa xuống hai vai.




Lúc ngồi có vẻ thấy ghế không thoải mái, luôn không yên phận, lúc lắc phần eo, điều chỉnh tư thế ngồi.




Có vẻ khá quái dị là cô ta luôn ngửa đầu lên trên nhả khói, nhả xong còn lè cả lưỡi ra.




Khiến tôi có cảm giác như rắn hổ mang.




“Jane, cô viết đến đâu rồi?” Đại Đông hỏi cô rắn hổ mang.




“Đừng gọi tôi là Jane.” Cô rắn hổ mang lại phả một luồng khói ra. “Tôi đổi tên rồi.”




“Sao lại đổi tên?” Cậu cú mèo hỏi.




“Jane đọc như ‘tiện’ ấy, thế nên tôi đổi sang một cái tên khác có khí thế hơn, Katherine.”




“Katherine thì liên quan gì tới khí thế?” Cậu cú mèo có vẻ hiếu kỳ, khuôn mặt lại lúc lắc sang hai bên.




“Katherine bỏ phần âm giữa đi, đọc nghe như ‘King’ rất phù hợp với phong cách vương giả của tôi.”




“Thật không?” Cậu cú mèo vẫn lung lay khuôn mặt.




“Loại học vấn về danh tính này đâu phải để cho loại người có cái đầu như cậu hiểu.” Cô rắn nhìn sang cậu ta.




“Học vấn về danh tính chỉ hữu hiệu với tiếng Trung thôi chứ, tiếng Anh cũng có học vấn danh tính à?”




Cuối cùng tôi không nhịn được, hỏi một câu.




Cả cậu cú và cô rắn cùng quay sang nhìn tôi, ánh mắt hai người đều cực kỳ sắc bén.




Tôi cảm thấy mình như con mồi chung của hai người này – chuột.




“Phép đoán mệnh của Trung Quốc bác đại tinh thâm, đương nhiên người phương Tây cũng có thể áp dụng.” Cô rắn trả lời tôi.




“Thế à?” Cậu cú cắn môi dưới, lại phát ra tiếng xuy xuy.




“Ví dụ như nễu xem tướng, mũi to tròn là tượng trưng cho sự giàu có. Người Hy Lạp mũi vừa nhọn lại vừa thẳng, thế nên Hy Lạp mới là quốc gia nghèo nhất châu Âu.” Cô rắn nói xong còn liếc sang nhìn tôi một cái.




Cô rắn đặt tay trái ngang trước rốn, khuỷu tay phai tựa vào lưng tay trái, hai tay tạo thành một góc 90 độ. Cầm điếu thuốc bằng tay phải, ngón tay cong thành một đường vòng cung.




Tuy đây gần như là tư thế tiêu chuẩn của mọi phụ nữ khi hút thuốc, nhưng này tôi lại thấy không khác gì Xà Quyền trong võ thuật Trung Quốc.




Còn cậu cú, năm ngón tay phải cong cong nhanh nhẹn chộp lấy khoai tây chiên trên bàn, hệt như Ưng Trảo công.




“Cô lại nói linh tinh rồi.” Cậu cú ăn vài cọng khoai chiên xong, lúc lắc đầu nói.




Cô rắn nhướn mày, cậu cú trợn tròn hai mắt, rắn cú giằng co nhau hết sức căng thẳng.




Đại Đông ho nhẹ hai tiếng, nói: “Trở lại chuyện chính đi, mình bàn kịch bản nào.”




Cậu cú với cô rắn nghe thấy hai chữ kịch bản xong, ánh mắt lập tức sáng nên, cùng thu lại Ưng Trảo và Xà Quyền.




“Tôi vẫn thấy cái tên ‘Hoang địa hữu tình thiên’ không được hay cho lắm.” Cô rắn nói.




“Tôi lại thấy không tệ.” Cậu cú đáp.




“Đất hoang thì có gì hay? Đáng lẽ phải gọi là đất tuyết mới đúng.” Cô rắn nói.




“Nguyện nghe cao kiến.” Cậu cú đáp.




“Vậy cậu nghe cho rõ đây.” Cô rắn trừng mắt lườm cậu cú: “Tình yêu phải nảy sinh trong mùa rá rét, vậy mới khiến nó càng chân thành và ấm áp được. Đất hoang thì có gì? Bụi bặm bay lung tung khắp nơi, chỉ khiến người ta không mở mắt ra nổi thôi, đã không mở mắt nổi thì làm sao nhìn thấy tình yêu?”




“Nhưng chẳng phải rất nhiều tình yêu diễn ra đều do đôi mắt bị che mờ sao?” Tôi lại không nhịn được hỏi.




Cậu cú và cô rắn lại đồng thời liếc sang nhìn tôi, tôi lập tức ngậm chặt miệng lại.




“Đất hoang tượng trưng cho một vùng hoang vu, cũng giống như sa mạc vậy. Nhưng một đóa hoa lại đột nhiên nở rộ vì tình yêu ngay giữa sa mạc, ý tưởng này không hay à?” Cậu cú lúc lắc đầu nói.




“Ý tưởng.” Lại tới cô rắn lúc lắc eo, điều chỉnh tư thế ngồi. “Tôi chỉ thưởng tượng được hai người yêu nhau ba ngày trong sa mạc không uống nước, cuối cùng sẽ vì một cốc nước mà ra tay với nhau.”




“Vậy đất tuyết thì có gì hay?” Tốc độ lắc đầu của cậu cú nhanh dần.




“Hai người yêu nhau bị phủ trong tuyết, tới chết họ vẫn ôm nhau, sưởi ấm cho nhau.”




Cô rắn nâng hai tay tạo góc 90 độ lên, có vẻ căng thẳng.




“Ý tưởng sa mạc hoang vu mới nảy sinh ái tình mạnh mẽ hay hơn.”




Cậu cú tay phải lại hóa thành ưng trảo, cất tiếng xuýt xuýt nghe thật sắc nhọn.




“Cảm giác lạnh lẽo nơi đất tuyết mới tạo thành những đoạn đối thoại tình yêu kinh điển được!”




Cô rắn nhanh chóng ngửa đầu nhả khói rồi lẽ lưỡi ra hai lần, nhiều hơn lúc bình thường một lần.”




“Đối thoại?” Cậu cú ngừng lắc đầu, có vẻ khó hiểu.




“Không sai!” Cô rắn ưỡn thẳng lưng. “Chỉ những đoạn đối thoại kinh điển mới thực sự là tiêu điểm trong những câu chuyện tình yêu.”




“Trong khung cảnh sa mạc cũng có thể có những đoạn đối thoại kinh điển được.”




“‘Anh yêu em như tuyết bay khắp trời’ với ‘anh yêu em như bão cát cuồn cuộn’, câu nào nghe lãng mạn hơn?”




“Nhưng bão cát cuồn cuộn thể hiện cảm xúc mạnh mẽ hơn!” Cậu cú cũng bật dậy, lớn tiếng phản đối.




“Cảm xúc mạnh mẽ?” Cô rắn hừ một tiếng. “Vậy sao không gọi thẳng là ‘Hoang địa hữu gian tình’ hay ‘Hoang địa hữu tình phu’.”




“Ha ha.” Nghe thấy cái tên ‘Hoang địa hữu tình phu’ tôi không nhịn nổi, bật cười.




Sau khi cười hai tiếng, lại đột nhiên cảm thấy không đúng, nhanh chóng cầm cốc nước lên, ra vẻ rất vội vã.




“Được rồi, dừng đề tài này ở đây.” Đại Đông nói. “Tôi sẽ nghĩ lại tên kịch bản.”




Đại Đông vẫn trầm tĩnh ổn định như chú rùa, không chút ảnh hưởng bởi trận đấu giữa rắn và cú.




“Jane, à không, Katherine.” Đại Đông mỉm cười. “Thảo luận kịch bản của cô trước đây.”




“Tiến độ của tôi cũng vẫn như lần trước thôi, chỉ thăng thêm phần đối thoại giữa các nhân vật thôi.”




Cô rắn lấy ba tập bản thảo từ trong túi da ra, một tập cầm lại trên tay, một tập đưa cho Đại Đông.




Một phần khác phi sang phía cậu cú, cậu cú giơ tay phải ra, bắt ngay giữa không trung.




“Này.” Cô rắn quay đầu sang bảo tôi. “Sướng cậu nhé, sang chỗ tôi cùng xem nào.”




“Sướng? Tôi lại thấy thật đắt giá.”




“Hả?” Cô rắn có vẻ không hiểu.




“Không sao.” Tôi sợ câu nói vừa rồi khiến cái miệng rắn chú ý, nhanh chóng tới gần, xem tập bản thảo trên tay cô ấy.




Vì vậy ba người bọn họ bắt đầu thảo luận bối cảnh cùng những đoạn đối thoại của các nhân vật mà cô rắn viết.




Câu chuyện và nhân vật mà cô rắn viết đều rất đơn giản, bối cảnh cũng không nhiều lại có rất nhiều đoạn đối thoại.




Câu chuyện của cô ta diễn ra trong một mùa đông lạnh lẽo, thế nên khung cảnh gần như không lúc nào thiếu tuyết.




Trong thế giới màu trắng ấy xuất hiện một cậu con trai luôn mặc áo khoác màu xanh và một cô gái luôn mặc áo khoác màu đỏ.




Mở đầu câu chuyện đã xuất hiện một câu nói:




“Người cô độc nhất là người mà không ai nghĩ rằng người đó cô độc.”




“Câu này cũng bình thường thôi.” Cậu cú nói.




“Cậu biết gì mà nói.” Cô rắn lập tức cãi lại.




Ý kiến của cậu cú thường rất nhiều, tuy cô rắn luôn đáp lại một cách mỉa mai, nhưng vẫn ghi chép lại đôi chút.




Còn nhân vật trong câu chuyện của cậu cú có vẻ phức tạp hơn nhiều, nhân vật chính là một nam ba nữ.




Bối cảnh xoay quanh quá trình phát triển của nhân vật nam chính, thời gian kéo dài tới hơn mười năm.




“Một nam ba nữ?” Cô rắn hừ một tiếng. “Nhân vật nam này quá hư hỏng.”




“Như vậy mâu thuẫn giữa các nhân vật mới lớn.” Cậu cú đáp.




“Lần lữa tới hơn mười năm đúng là dài dòng lôi thôi.” Cô rắn vẫn không cho là đúng.




“Đây gọi là kết cấu khổng lồ!” Cậu cú lại cao giọng trả lời!




Trong lúc này tôi luôn phải sắm vai người nghe, rất ít khi mở miệng.




Bọn họ thảo luận rất chăm chú, thi thoảng lại có tranh chấp, nhưng thường thì trông giống cãi nhau hơn.




Mai còn phải đi làm nên tôi liên tục nhìn đồng hồ.




Tôi nghi không khéo lúc này chỉ có tôi quan tâm rằng còn một thứ có tên “thời gian” vẫn đang tồn tại.




Một lúc sau Đại Đông để ý thấy động tác của tôi vì vậy cũng nhìn đồng hồ rồi nói.




“Hôm nay đến đây thôi. Hôm khác đến nhà tôi thảo luận tiếp.”




Rốt cuộc tôi cũng có thể ngáp thoải mái đc rồi.




Ra khỏi quán pub, không khí hơi lạnh khiến tôi hắt hơi một cái.




Cô rắn tới gần tôi bảo: “Thời tiết chuyển lạnh, nhớ mặc thêm áo, cẩn thận cảm lạnh.”




Tôi giật mình, lại hơi xấu hổ, khuôn mặt nóng bừng lên, đáp: “Cám ơn.”




“Sao nào?” Cô rắn lại nói: “Cậu có cảm động không?”




“Ừ.” Tuy tôi gật đầu nhưng thật ra lại thấy bối rối khi cô ấy hỏi vậy.




“Như tôi vừa mới nói đó, đây là nguyên nhân câu chuyện tình yêu nên diễn ra trong bối cảnh mùa đông lạnh lẽo. Chỉ một đoạn đối thoại đơn giản như vậy thôi cũng rất dễ khiến người ta cảm động.” Cô rắn nhếch mép cười nói: “Nếu tôi bảo thời tiết nóng hơn rồi đấy, mặc bớt áo đi, cẩn thận kẻo cảm nắng. Chắc cậu chỉ muốn gạt tôi sang một bên.”




Cô rắn nói xong bèn cười ha hả, lộ ra hai hàm răng nhấp nhô không đồng đều.




Cậu cú với cô rắn đi rồi, tôi và Đại Đông gọi một chiếc taxi về nhà.




“Hai người bọn họ cũng đâu có tệ nhỉ?” Lúc trên xe Đại Đông hỏi tôi.




“Người thì cũng tốt, có điều hơi quai quái.” Tôi nói.




“Quai quái?”




“Ừ, nam thì như cú mèo, nữ thì như rắn hổ mang.”




“Đúng như cậu nói, tớ cũng cảm thấy giống thế.” Đại Đông cười ha hả.




“Bọn họ có hay cãi nhau không?”




“Ừ. Bọn họ đều khá cố chấp, nhưng có khi lại có tác dụng bổ trợ cho nhau.”




“Cố chấp.”




“Bọn họ đều rất thích biên kịch; cả sở thích, công việc và cuộc sống đều là biên kịch, cho nên không khỏi cố chấp một chút.”




“Vậy à?”




Đại Đông còn chưa trả lời, xe đã đến dưới khu chung cư.




Sau khi vào nhà, Đại Đông ngồi thẳng lên ghế sô pha, thở hổn hển rồi nói.




“Cuộc sống của tớ với họ rất đơn giản, hơn nữa thường sống để viết lách. Tuy cũng từng thử một cuộc sống khác đi, có điều làm vậy cũng chỉ để trải nghiệm thứ gì đó mới lạ để có thể viết lách. Dần dà sẽ tạo thành tính cố chấp. Chỉ có cậu mới có thể tập trung vào cuộc sống.”




“Tập trung?” Tôi cũng ngồi xuống ghế sô pha.




“Cuộc sống của cậu vốn không phải suy nghĩ xem nên viết gì, nên đương nhiên tập trung được.”




“Thế nhưng giờ tớ cũng đang viết mà.”




“Cậu chỉ là lấy tư liệu từ cuộc sống, chứ không phải sống vì viết lách.”




Đại Đông nói những lời thâm ảo này khiến tôi cúi đầu trầm tư một lúc.




“Đi ngủ đi, mai cậu còn phải đi làm đấy.” Đại Đông nói.




“Ừ.” Tôi gật đầu, đi vào cửa phòng.




Sau khi về phòng bèn nằm thẳng lên giường.




Khi tôi nhắm mắt lại, mơ hồ thấy vài ánh mắt trong bóng đêm.




Đó là ánh mắt của Tiểu Tây, còn cả ánh mắt của cậu cú và cô rắn.




Trong đôi mắt họ đều toát lên một vẻ ham muốn, như đang theo đuổi một thứ gì đó.




Thứ Tiểu Tây muốn theo đuổi chắc là sự ổn định, vậy cậu cú với cô rắn thì sao?




Cảm giác thành tựu, thỏa mãn sở thích?




Vậy tôi thì sao?




Tính cách tôi là, nếu có việc không nghĩ ra đáp án, sẽ thấy buồn ngủ.




Thế nên tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.




Khi tỉnh lại, mất tới mười giây mới nhận ra mình đang ở Đài Loan.




Lại mất thêm nửa phút nữa mới nhận ra mình sắp phải đi làm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro