Chương 4.1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


 Anh ta đến, chắc hẳn, vào khoảng hai tuần sau tôi. Chỉ mới khoảng hai tuần, vậy mà từng giờ ở Briar trôi qua thật quá chậm chạp. Mỗi ngày luôn tĩnh lặng như nhau, cứ đều đều, lê thê, đến nỗi thời gian tôi cảm nhận được phải là gấp đôi như thế.

Nhưng dẫu sao, cũng là đủ lâu để tôi tìm ra tất cả các lề thói khác thường của căn nhà. Đủ lâu để tôi quen với những người giúp việc khác, và họ quen với tôi. Trong một thời gian, tôi không hiểu tại sao họ chẳng quan tâm đến mình. Tôi xuống bếp, hỏi thăm bất kỳ ai mình gặp ở đó, "Cô khoẻ không, Margaret?" "Khoẻ chứ, Charles?" (đó là thằng bé mài dao) "Bà khoẻ không, bà Cakebread?" (đó là người đầu bếp, và đó là tên thật của bà, không phải đùa, chẳng ai cười về việc đó cả) Charles nhìn tôi như thể thẳng bé quá sợ đến không nói nổi, còn bà Cakebread trả lời theo kiểu khinh khỉnh, "Ồ, tôi dám chắc mình rất khoẻ, cảm ơn."

Tôi ngỡ họ bực khi tôi ở gần, rằng tôi gợi họ nhớ đến tất cả sự hào nhoáng của London mà ở cái chốn tĩnh lặng khác người đó, họ sẽ không bao giờ được trông thấy. Rồi một ngày bà Stiles kéo tôi sang bên. Bà nói, "Tôi hy vọng cô không phiền, cô Smith, nếu tôi nói vài lời chứ? Tôi không biết được ở căn nhà trước cô được quản lý như thế nào" Bà bắt đầu mọi điều bằng câu đó khi nói chuyện với tôi. "Tôi không nói về vấn đề cô cư xử thế nào ở London nhưng ở Briar này chúng tôi để tâm nhiều đến địa vị trong nhà."

Hoá ra bà Cakebread đã cho rằng mình bị xúc phạm, vì tôi nói lời chào buổi sáng với cô phụ bếp trước khi nói với bà. Charles ngỡ tôi muốn trêu nó, khi chào đến cả nó. Toàn là những việc lặt vặt, tới mức một con mèo cũng sẽ cười lăn. Thế nhưng đó lại là chuyện sống chết đối với họ – tôi nghĩ, nó cũng sẽ là chuyện sống chết với bạn, nếu bạn phải nhìn tới tương lai bốn mươi năm làm công việc bưng khay, nướng bánh. Dù sao, tôi thấy là, nếu muốn hoà đồng với họ, thì phải thận trọng. Tôi cho Charles một chút sô cô la đã mang theo từ Borough mà chưa hề ăn. Cho Margaret một mẩu xà phòng tẩm hương. Còn bà Cakebread, là một cặp tất đen mà Gentleman đã nói Phil lấy cho tôi từ cái nhà kho mờ ám.

Tôi nói rằng mình hy vọng đã không gây ra cảm giác khó chịu. Nếu gặp Charles ở cầu thang vào buổi sáng, tôi nhìn đi chỗ khác. Sau đó, tất cả họ đối xử với tôi tốt hơn nhiều.

Đúng là người hầu. Miệng nói, "Tất cả vì chủ nhân của tôi," nhưng thật ra ý là, "Tất cả vì bản thân tôi." Tôi không thể chịu được cái sự hai mặt đó. Ở Briar, tất cả họ đều có những mánh lới kiểu này hoặc kiểu khác, nhưng toàn về việc vụng trộm thó các thứ vặt vãnh đến nỗi sẽ khiến một tay trộm đích thực phải đỏ mặt. Chẳng hạn, giữ lại mỡ từ nước thịt của ngài Lilly để lẳng lặng bán cho thằng bé bán thịt – bà Cakebread làm vậy. Hoặc bứt các nút ngọc trai khỏi áo lót của Maud, giữ lấy chúng, bảo rằng chúng bị mất – tác giả là Margaret. Sau ba ngày quan sát, tôi nắm tẩy được họ hết. Nói cho cùng, có khi tôi là con gái thật của bà Sucksby không chừng. Giờ đến ông Way: ông ta có một cái vết trên mũi, ở Borough chúng tôi gọi nó là nụ-gin. Bạn nghĩ ông ta làm thế nào để có nó ở một nơi thế này? Ông ta có chìa khoá đến hầm rượu của ngài Lilly, xâu trên một sợi dây. Bạn sẽ không bao giờ thấy một cái chìa nào sáng đến vậy! Và rồi, khi chúng tôi đã dùng bữa xong tại buồng của bà Stiles, ông ấy sẽ vờ đi gom khay – tôi thấy mà, khi ông ta nghĩ không có ai nhìn, là liền trút bia từ đáy của tất cả các ly vào một tách lớn, nốc sạch.

Tôi thấy chứ  nhưng, tất nhiên chỉ giữ điều đó cho riêng mình. Tôi không ở đây để gây rắc rối. Nếu ông ta có nốc đến chết lăn quay ra, thì cũng chẳng can hệ gì đến tôi cả. Dù sao, hầu hết thời gian, tôi ở cạnh Maud. Tôi cũng quen với cô ấy. Cô ấy có kiểu cách cầu kỳ tỉ mỉ riêng. Nhưng chiều theo thì cũng chẳng mất gì. Tôi bắt đầu có một niềm vui thích khi được giữ váy áo của cô ấy, lược, cùng các thứ hộp. Tôi đã quen việc mặc áo cho mấy đứa trẻ. Dần dà tôi cũng quen với việc mặc áo cho cô ấy.

"Nâng tay lên, thưa cô," tôi sẽ nói vậy. "Nâng chân lên ạ. Bước vào đây. Nào, ở đây."

"Cảm ơn, Sue," cô ấy luôn luôn nói khẽ. Đôi khi cô ấy nhắm mắt. "Cô biết tôi mới rõ làm sao," cô ấy nói. "Tôi nghĩ cô biết tất cả các chuyển động tay chân của tôi."

Dần dần, thì tôi biết thật. Tôi biết tất cả những gì cô ấy thích hoặc ghét. Tôi biết cô ấy sẽ ăn thức ăn nào, thứ gì sẽ bị chừa lại. Chẳng hạn, khi đầu bếp cứ cho mang trứng đến, tôi đi gặp và bảo bà ấy gửi súp thay vào đó.

"Súp loãng," tôi nói. "Loãng hết mức có thể. Được chứ?" Bà ấy nhăn nhó. "Bà Stiles sẽ không thích đâu."

"Bà Stiles không việc gì phải ăn món đó," tôi trả lời. "Bà Stiles cũng không phải hầu gái của cô Maud. Mà là tôi."

Thế là bà ấy cho mang súp đến thật. Maud ăn hết sạch. "Sao cô lại cười?" Cô ấy băn khoăn hỏi, khi đã ăn xong. Tôi nói mình không cười. Cô ấy đặt muỗng xuống. Rồi cau mày, như lúc trước, vì đôi găng. Chúng bị súp bắn lên.

"Chỉ là nước thôi," tôi nói khi thấy nét mặt cô ấy. "Không sao đâu." Cô ấy cắn môi. Ngồi thêm một phút với đôi tay đặt trên đùi, liếc trộm những ngón tay,càng lúc càng có vẻ bồn chồn hơn. Cuối cùng, cô ấy nói:

"Tôi nghĩ nước cũng chứa một ít chất béo..."

Vậy thì, tôi thà đi vào phòng cô ấy lấy một cặp găng sạch còn hơn là ngồi nhìn cô ấy bồn chồn. "Để tôi làm cho," tôi tháo các nút ở cổ tay cô ấy. Mặc dù ban đầu cô ấy không để tôi chạm vào tay trần, về sau – vì tôi nói mình sẽ nhẹ nhàng nên cô ấy cho phép. Khi móng tay cô ấy dài, tôi sẽ cắt bằng một cặp kéo bạc mà cô ấy có, hình dạng giống một chú chim đang bay. Móng tay cô ấy mềm, hoàn toàn sạch sẽ, mọc rất nhanh, hệt móng của em bé. Khi tôi cắt, cô ấy khá nao núng. Da tay cô ấy rất mịn nhưng giống như phần còn lại trên cơ thể, nó mịn đến bất thường, tôi chưa bao giờ trông thấy mà lại không nghĩ tới những thứ thô ráp, sắc, có thể làm tổn thương hoặc để dấu trên làn da đó. Tôi vui khi thấy cô ấy đeo găng trở vào. Chỗ móng vụn đã bị cắt thì tôi gom ra khỏi tà váy, ném vào lửa. Cô ấy sẽ đứng nhìn chúng chuyển sang màu đen. Cô ấy cũng làm vậy với chỗ tóc tôi lấy ra từ bàn chải, lược; cau mày khi chúng ngọ nguậy trên than như sâu, rồi loé lên, biến thành tro. Đôi khi tôi đứng nhìn cùng cô ấy.

Ở Briar, bạn thấy những thứ như: khói bay lên, mây trôi qua bầu trời. Mỗi ngày chúng tôi lại đi bộ ra sông, để xem nước lên hay xuống. "Vào mùa thu, nước ngập lên," Maud nói, "và tất cả cây bấc đều bị chìm. Tôi không quan tâm chuyện đó. Vài đêm, sương trắng từ mặt nước lan lên, gần đến cả tường nhà của bác tôi..." Cô ấy run rẩy. Cô ấy luôn nói của bác tôi, chứ không phải của tôi. Nền đất khá giòn, và khi nó vỡ ra dưới gót giày chúng tôi, cô ấy nói: "Cỏ sao mà dễ gãy quá! Tôi nghĩ con sông sẽ đóng băng. Tôi nghĩ nó đang đóng băng rồi. Cô có thấy nó vùng vẫy không? Nó muốn chảy, nhưng cái lạnh sẽ làm nó đứng yên. Cô thấy không, Sue? Đây này, ở giữa mấy cây bấc ấy?"

Cô ấy chăm chú nhìn, cau mày. Tôi nhìn những biến đổi trên gương mặt cô ấy. Và tôi nói – giống như đã nói về món súp: "Chỉ là nước thôi, thưa cô."

"Chỉ là nước thôi?"

"Nước màu nâu."

Cô ấy chớp mắt.

"Cô lạnh rồi," tôi bèn nói. "Trở về thôi, về nhà. Chúng ta ra ngoài lâu quá rồi." Tôi choàng cánh tay cô ấy qua tay mình. Tôi làm thế mà chẳng nghĩ ngợi gì. Cánh tay cô ấy cứ cứng đơ. Nhưng rồi ngày hôm sau – hay có lẽ là hôm sau nữa – cô ấy lại khoác lấy tay tôi, không còn cứng đơ nữa. Sau đó nữa, thì tôi nghĩ chúng tôi khoác tay nhau một cách tự nhiên... Tôi không biết. Chỉ về sau tôi mới tự hỏi về việc đó, và cố gắng nhìn lại. Nhưng vào lúc đó tôi chỉ có thể thấy từng có khoảng thời gian chúng tôi bước đi riêng rẽ, rồi khoảng thời gian chúng tôi đi cùng nhau.

Nói cho cùng, dù được gọi là quý cô, cô ấy vẫn chỉ là một cô gái. Một cô gái chưa bao giờ được biết đến sự vui vẻ. Một ngày, khi đang dọn sạch ngăn kéo của cô ấy, tôi tìm thấy một cỗ bài. Cô ấy nói cô ấy nghĩ chúng hẳn thuộc về mẹ. Cô ấy biết tên bốn chất: cơ, rô, chuồn, bích, nhưng chỉ có vậy, cô ấy gọi quân Bồi là Kỵ sĩ! Vậy là tôi dạy cô ấy một hai trò chơi nhẹ nhàng ở Borough: All-fours, và Put. Ban đầu, chúng tôi chơi với các que diêm và đóm. Rồi trong một ngăn kéo khác, chúng tôi tìm thấy một hộp phỉnh, làm từ vỏ trai, có hình cá, kim cương, trăng lưỡi liềm. Sau đó, chúng tôi chơi với những thứ này. Vỏ trai tạo cảm giác rất mịn và mát rượi trên tay – tay tôi ấy mà, vì Maud thì tất nhiên vẫn đeo găng. Và khi đặt một lá bài xuống, cô ấy đặt xuống thật gọn gàng, các mép, góc khớp với lá bên dưới. Sau một thời gian, tôi cũng bắt đầu làm như vậy.

Trong khi chơi, chúng tôi nói chuyện. Cô ấy thích nghe tôi nói về London. "Cóthật là nó rất lớn không?" Cô ấy hỏi. "Có rạp hát? Và cả thứ mà họ gọi là cửa hiệu thời trang?"

"Có cả nhà hàng. Đủ thứ loại xà phòng. Và công viên nữa, thưa cô."

"Công viên, như công viên của bác tôi à?"

"Hơi giống," tôi nói. "Nhưng tất nhiên là có đầy người. Bài của cô thấp hay cao, thưa cô?"

"Cao." Cô ấy đặt một quân bài xuống. "Cô nói là có nhiều người?"

"Của tôi còn cao hơn. Này. Ba con cá, cô chỉ có hai."

"Cô chơi giỏi quá! Cô nói, có nhiều người?"

"Tất nhiên. Nhưng tối lắm. Cô đào cỗ bài không?"

"Tối à? Cô chắc không? Tôi ngỡ người ta nói là London sáng lắm. Có những chiếc đèn lớn được thắp bằng, chắc hẳn là, bằng ga?"

"Đèn to lắm, kim cương cũng vậy!" Tôi nói. "Ở trong rạp hát và các hội trường. Cô có thể khiêu vũ ở đó, thưa cô, suốt cả đêm."

"Khiêu vũ à, Sue?"

"Khiêu vũ, thưa cô." Khuôn mặt cô ấy đã biến đổi. Tôi đặt các quân bài xuống. "Cô hẳn là thích khiêu vũ?"

"Tôi" Cô ấy đỏ mặt, ánh mắt cúi gằm. "Tôi chưa bao giờ được dạy khiêu vũ. Cô có nghĩ," cô ấy ngước nhìn, "ở London tôi sẽ là một quý cô. Vậy," cô ấyvội nói thêm. "Nếu tôi có cơ hội được đến đó. Cô có nghĩ tôi sẽ là một quý cô ở London không, khi không biết khiêu vũ?"

Cô ấy đưa tay qua môi, khá lo âu. Tôi nói, "Tôi nghĩ là được. Nhưng cô không muốn học sao? Cô có thể tìm được một vũ sư."

"Thật à?" Cô ấy có vẻ nghi ngờ, rồi lắc đầu. "Tôi cũng không chắc..."

Tôi đoán điều cô ấy đang nghĩ. Cô ấy đang nghĩ đến Gentleman, điều anh ta sẽ nói khi phát hiện cô ấy không biết khiêu vũ. Cô ấy đang nghĩ, trong tất cả các cô gái anh ta gặp ở London, ai cũng biết khiêu vũ.

Tôi nhìn cô ấy băn khoăn trong một hai phút. Rồi, "Cô xem này," tôi đứng dậy. "Dễ thôi, xem này"

Tôi cho cô ấy thấy vài bước, rồi vài điệu. Rồi tôi bắt cô ấy đứng dậy, cùng thử với tôi. Cô ấy đứng như khúc gỗ trong tay tôi, nhìn chằm chằm, theo kiểu sợ sệt, xuống chân. Đôi giày đi trong nhà của cô ấy vướng vào tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ. Vậy nên tôi kéo tấm thảm đi, thế là cô ấy di chuyển dễ dàng hơn. Tôi chỉ cho cô ấy một điệu jig, rồi polka. Tôi nói, "Đó. Giờ thì chúng ta đang bay, đúng không?" Cô ấy nắm chặt váy tôi đến mức tôi nghĩ nó sắp rách tới nơi. "Thế này," tôi nói. "Nào,thế này. Hãy nhớ tôi là một quý ông. Tất nhiên, sẽ tốt hơn nhiều nếu nhảy với một quý ông thực"

Rồi cô ấy lại loạng choạng, chúng tôi bay vụt khỏi nhau, ngã xuống hai chiếc ghế. Cô ấy để tay ở hai bên, hơi thở hổn hển. Cô ấy chưa bao giờ đỏ mặt đến như vậy. Má cô ấy ướt đẫm. Váy phồng ra hệt một cô bé Hà Lan trên bản in.

Bắt được ánh mắt tôi, cô ấy mỉm cười, dù trông vẫn có vẻ hoảng sợ.

"Tôi sẽ khiêu vũ," cô ấy nói, "ở London. Phải không, Sue?"

"Phải rồi," tôi nói. Và vào thời khắc ấy, tôi thật sự tin như vậy. Tôi bắt cô ấy đứng lên, khiêu vũ một lần nữa. Chỉ về sau, khi chúng tôi đã ngưng lại, cô ấy đã lạnh, đứng trước ngọn lửa để để sưởi ấm hai tay, tôi mới nhớ ra rằng, hiển nhiên, cô ấy sẽ chẳng bao giờ được như vậy.

Bởi vì, dù đã biết số phận cô ấy – biết rất rõ, tôi đang giúp thực hiện nó mà! Có lẽ tôi biết theo kiểu bạn biết được số phận của một nhân vật trong truyện hoặc một vở kịch. Thế giới của cô ấy thật kỳ quặc, rất tĩnh lặng, khép kín, khiến cho thế giới thực sự – thế giới thông thường, nơi tôi ngồi uống một ly rượu pha trứng cho bữa khuya, trong lúc bà Sucksby và John Vroom cười ha hả khi nghĩ đến việc tôi sẽ làm gì với phần Gentleman chia cho trong số tài sản đánh cắp được, nó khiến cho thế giới có vẻ khó khăn khôn cùng, nhưng lại rất viển vông, sự khó khăn chẳng có ý nghĩa gì cả. Ban đầu tôi tự nói với mình, "Khi Gentleman đến, mình sẽ làm việc đó," hoặc, "Chừng nào anh ta đưa cô ta vào được nhà thương điên, mình sẽ làm việc đó." Nhưng phải nói rằng khi nhìn cô ấy – đơn giản, ngoan ngoãn, thì ý nghĩ đó tan biến mất. Tôi sẽ lại chải tóc cho cô ấy, hoặc chỉnh cho thẳng khăn thắt lưng trên váy của cô ấy. Chẳng phải là tôi nuối tiếc – không nuối tiếc mấy đâu, không phải vào lúc đó.Chỉ là tôi nghĩ chúng tôi bị để cạnh nhau quá nhiều giờ cùng lúc. Dễ chịu hơn đáng kể khi đối xử tốt với cô ấy mà không phải nghĩ quá nhiều đến việc sắp xảy ra với cô ấy, thay vì cứ day dứt về điều đó và cảm thấy tệ hại.

Tất nhiên, với cô ấy thì khác. Cô ấy đang nhìn về phía trước. Cô ấy thích nói, nhưng lại thường yên lặng hơn, và suy nghĩ. Những lúc đó, tôi thấy nét mặt cô ấy thay đổi. Ban đêm tôi nằm cạnh cô ấy, cảm nhận những xoay chuyển, xoay chuyển trong suy nghĩ của cô ấy – cảm nhận cô ấy ấm dần, có lẽ là đỏ mặt trong bóng tối. Khi đó tôi biết cô ấy đang nghĩ đến Gentleman, nghĩ ngợi anh chàng sẽ đến như thế nào, tự thắc mắc anh ta có đang nghĩ tới cô không. Tôi có thể nói với cô ấy rằng anh ta có nghĩ đến cô. Nhưng cô ấy chẳng bao giờ nói về anh ta, chẳng bao giờ nói đến tên anh ta. Chỉ một hai lần, cô ấy hỏi thăm người dì già của tôi – người y tá cũ của anh ta. Giá như cô ấy không làm vậy, vì khi nói về người dì, tôi nghĩ đến bà Sucksby, điều đó khiến tôi nhớ nhà.



Và rồi một buổi sáng, chúng tôi được tin anh ta đang quay lại. Đó là một buổi sáng thông thường, ngoại trừ việc Maud đã thức dậy, xoa mặt, rồi rụt người. Có lẽ đó là điều người ta gọi là điềm báo. Nhưng phải về sau tôi mới nghĩ vậy. Bấy giờ, tôi thấy cô ấy miết lên má, bèn hỏi, "Có việc gì vậy?"

Cô ấy ngọ nguậy lưỡi. "Hình như là một cái răng của tôi," cô ấy nói, "có mép sắc, nó châm vào nứu."

"Để tôi xem," tôi nói.

Tôi dẫn cô ấy đến cửa sổ, cô ấy đứng đó, khuôn mặt giữa hai tay tôi, để tôi sờ vào nứu. Tôi tìm thấy chiếc răng sắc gần như liền lập tức.

"Chà, nó còn sắc hơn" Tôi nói.

"Hơn cả nanh rắn phải không, Sue?" Cô ấy xen vào.

"Hơn cả một cây kim, tôi định nói như vậy, thưa cô," tôi trả lời. Tôi đến chỗ hộp đồ khâu của cô ấy, lấy ra một cái đê. Một cái đê bằng bạc, cùng bộ với cặp kéo hình chú chim đang bay.

Maud sờ quai hàm. "Cô có biết người nào từng bị rắn cắn chưa, Sue?" Cô ấy hỏi tôi.

Có thể nói gì đây? Tâm trí cô ấy nghĩ vẩn vơ đến cả những việc đó. Chắc đó là cuộc sống vùng quê. Tôi trả lời không. Cô ấy nhìn tôi, lại mở miệng ra. Tôi tròng cái đê lên ngón tay, miết vào chiếc răng sắc đến khi chỗ nhọn bị mòn đi. Tôi đã trông thấy bà Sucksby làm vậy nhiều lần, với bọn trẻ. Tất nhiên, bọn trẻ thì hay ngọ nguậy liên hồi. Maud đứng rất yên, đôi môi hồng mở ra, mặt ngửa về sau, đôi mắt ban đầu nhắm lại, sau đó mở ra và nhìn chăm chăm vào tôi, má ửng hồng. Họng cô ấy nâng lên, hạ xuống khi cô ấy nuốt nước bọt. Tay tôi trở nên ướt, vì hơi ẩm trong hơi thở của cô ấy. Tôi miết, rồi cảm giác bằng ngón cái.Cô ấy lại nuốt khan. Hàng mi chớp chớp, và cô ấy bắt gặp ánh mắt tôi.

Và, ngay lúc đó, có một tiếng gõ nơi cửa. Cả hai chúng tôi giật mình. Tôi bước vội. Đó là một trong số các cô hầu bàn. Cô ta có một lá thư đặt trên khay. "Gửi cho cô Maud," cô ta nói, kèm theo một cái nhún người. Tôi nhìn nét chữ, biết ngay tức khắc đó phải là chữ của Gentleman. Tim tôi chùng xuống. Hẳn Maud cũng vậy.

"Đem nó lại đây, được không?" Cô ấy nói. Và thêm: "Cô đưa tôi cái khăn soan,được chứ?" Màu hồng trên gương mặt cô ấy đã biến mất, dù má vẫn còn đỏ ở chỗ tôi đã ấn vào. Khi đặt chiếc khăn qua vai cô ấy, tôi cảm giác được cô ấy đang run rẩy.

Tôi quan sát cô ấy, nhưng làm ra vẻ ngược lại, trong lúc di chuyển tới lui trong phòng, nhặt mấy quyển sách, đệm ngồi, cất cái đê đi, đóng chiếc hộp. Tôi thấy cô ấy lật lá thư, lóng ngóng – tất nhiên, cô ấy không thể xé giấy với đôi găng đang đeo. Thế là cô ấy liếc trộm tôi, hạ tay xuống, và – vẫn còn run, tuy làm ra vẻ thờ ơ, tỏ ý nó chẳng là gì đối với cô ấy, nhưng lại cho thấy nó là tất cả – cô ấy mở nút một bên găng, đặt ngón tay lên chỗ niêm phong, rút lá thư khỏi phong bì, cầm trên bàn tay trần và đọc.

Rồi cô ấy buông hơi thở thành tiếng thở dài rõ to. Tôi cầm một chiếc đệm ngồi lên, đập vào nó để giũ bụi.

"Tin tốt, phải không thưa cô?" Tôi hỏi, vì nghĩ mình nên làm như vậy.

Cô ấy do dự, rồi nói: "Rất tốt," cô ấy trả lời, "đối với bác tôi, tôi cho là vậy. Thư của ngài Rivers, từ London, cô nghĩ sao?" Cô ấy mỉm cười. "Anh ta sẽ trở lại Briar, vào ngày mai!"



Nụ cười ở yên trên môi cô ấy suốt ngày, như được vẽ lên vậy. Vào buổi trưa, khi trở về từ chỗ bác, cô ấy không ngồi khâu hoặc đi dạo, thậm chí cũng không chơi bài, chỉ đi tới đi lui trong phòng, đôi khi đứng trước gương, vuốt chân mày, chạm vào đôi môi đầy đặn – gần như chẳng hề thấy hay nói gì với tôi.

Nhưng tôi vẫn lấy bộ bài ra, tự chơi một mình. Tôi nghĩ đến khi Gentleman đặt những quân Già, Đầm xuống trong căn bếp ở phố Lant trong lúc kể với chúng tôi toàn bộ kế hoạch. Rồi tôi nghĩ đến Dainty. Mẹ của con nhỏ này – cuối cùng bị chết đuối – biết bói toán bằng một bộ bài. Tôi đã trông thấy bà làm việc đó, nhiều lần.

Tôi nhìn Maud – đang đứng mơ màng nơi chiếc gương, và nói:

"Cô có muốn biết tương lai không, thưa cô? Cô có biết là có thể đọc được tương lai từ những lá bài rút ra không?"

Điều đó khiến cô ấy quay lại, thôi nhìn vào chính gương mặt mình, để nhìn tôi. Sau một lúc, cô ấy nói, "Tôi tưởng chỉ các phụ nữ gipsy mới biết làm việc đó."

"À, nhưng cô đừng nói với Margaret hay bà Stiles nhé," tôi nói. "Bà ngoại của tôi, cô biết không, là một công chúa người gipsy."

Nói cho cùng, thì theo như tôi biết, bà ngoại tôi cũng có thể là một công chúa của người gipsy. Tôi sắp các quân bài lại, đưa cho cô ấy. Ngần ngừ, rồi cô ấy cũng đến ngồi cạnh tôi, trải phẳng chiếc váy, hỏi, "Tôi phải làm gì?"

Tôi nói cô ấy phải ngồi nhắm mắt trong một phút, nghĩ đến đối tượng mình yêu quý nhất. Cô ấy làm theo. Rồi tôi nói cô ấy phải cầm những quân bài, giữ chúng,đặt xuống bảy lá đầu tiên, đặt sấp – tôi nhớ mẹ của Dainty làm như vậy, có thể là chín quân bài cũng nên. Mà thôi, Maud đặt bảy quân xuống.

Tôi nhìn vào mắt cô ấy, "Nào, cô có thực sự muốn biết tương lai của mình không?"

Cô ấy đáp, "Sue, cô đang làm tôi sợ!"

Tôi lại nói, "Cô có thực sự muốn biết không? Những gì các quân bài chỉ bảo, thì cô phải tuân theo. Sẽ rất không may nếu cô nhờ các quân bài chỉ cho một con đường, rồi lại chọn con đường khác. Cô có hứa sẽ gắn với tương lai được tìm thấy ở đây không?"

"Có," cô ấy lặng lẽ trả lời.

"Tốt," tôi nói. "Đây là cuộc đời cô, đang nằm hết trước mắt chúng ta. Chúng ta hãy xem phần đầu tiên trước. Những lá này cho thấy quá khứ của cô."

Tôi lật hai quân bài đầu tiên. Đầm cơ, tiếp theo là Ba bích. Tất nhiên tôi nhớ được là vì, trong lúc cô ấy ngồi nhắm chặt hai mắt, tôi đã sắp sẵn bộ bài. Tôi nghĩ ai trong trường hợp này cũng sẽ làm vậy thôi.

Tôi săm soi chúng rồi nói, "Hmm. Đây là những quân bài khá buồn. Nhìn này, đây là một quý cô xinh đẹp tốt bụng. Còn đây, sự chia ly, và khởi đầu của một xung đột."

Cô ấy nhìn chằm chằm, đưa tay lên yết hầu. "Tiếp đi." Gương mặt cô ấy lúc này đã trắng nhợt.

"Giờ chúng ta xem," tôi nói, "đến ba quân bài tiếp theo. Chúng cho thấy hiện tại của cô."

Tôi lật các quân bài thật điệu nghệ.

"Già rô," tôi nói. "Một quý ông lớn tuổi nghiêm nghị. Quân năm bích: một cái miệng khô nẻ. Kỵ sĩ bích"

Tôi nhẩn nha. Cô ấy nghiêng về phía tôi.

"Quân đó thì sao?" Cô ấy hỏi. "Quân Kỵ sĩ ấy?"

Tôi nói đó là một chàng trai trên lưng ngựa, có trái tim lương thiện. Cô ấy nhìn tôi với vẻ kinh ngạc, tin tưởng vô cùng, đến mức tôi gần như cảm thấy tội lỗi. Giọng cô ấy trầm xuống, "Giờ tôi sợ rồi đây! Đừng mở những quân bài tiếp theo!"

Tôi bèn đáp, "Thưa cô, tôi phải làm vậy. Nếu không thì mọi vận may sẽ rời bỏ cô. Xem này. Những quân này cho thấy tương lai."

Tôi lật quân đầu tiên. Sáu bích.

"Một chuyến đi!" Tôi nói. "Một hành trình với ngài Lilly chăng? Cũng có thể, là cuộc hành trình của trái tim..."

Cô ấy không trả lời, chỉ ngồi nhìn không chớp mắt vào các quân bài tôi đã lật lên, rồi nói: "Cho tôi xem lá cuối cùng đi," bằng giọng thì thào. Tôi lật lên. Cô ấy thấy quân bài trước.

"Đầm rô," chân mày cô ấy bất chợt nhíu lại. "Cô ta là ai?"

Tôi không biết. Tôi dự tính chỗ này là quân hai cơ mới đúng, quân bài của tình yêu. Nhưng chắc tôi đã làm rối bộ bài mất rồi.

"Quân Đầm rô," cuối cùng tôi đành nói. "Tôi nghĩ đó là một tài sản lớn."

"Tài sản lớn?" Cô ấy nghiêng người ra xa tôi, nhìn quanh, về phía tấm thảm sờn màu và các bức tường gỗ sồi đen. Tôi gom các lá bài, xáo lên. Cô ấy phủi váy, đứng dậy. "Tôi không tin," cô ấy nói, "rằng bà ngoại của cô thực sự là một người gipsy. Khuôn mặt cô quá trắng trẻo. Tôi không tin. Tôi cũng không thích những lời đoán của cô. Đó chỉ là một trò chơi cho những người hầu thôi."

Cô ấy bước đi xa khỏi tôi, lại đứng phía trước gương. Dù tôi nghĩ cô ấy sẽ quay lại nói điều gì đó dễ nghe hơn, nhưng không. Khi bước đi, cô ấy dịch chuyển một chiếc ghế. Vào lúc đó, tôi trông thấy quân hai cơ. Nó đã rơi xuống sàn – cô ấy đã đặt giày đi trong nhà lên trên, làm hằn nơi các hình vẽ.

Vết hằn khá sâu. Suốt nhiều tuần sau lần đó, tôi luôn luôn nhận ra quân bài này trong các trò chơi cùng cô ấy.



Tuy nhiên, buổi trưa hôm đó cô ấy bắt tôi cất bộ bài đi, nói rằng trông thấy chúng khiến cô ấy khó chịu. Tối đó, cô ấy bồn chồn suốt. Cô ấy vào giường, nhưng nhờ tôi rót cho một cốc nước nhỏ. Trong lúc đứng cởi trang phục, tôitrông thấy cô ấy cầm lên một cái chai, nhỏ ba giọt từ đó vào cốc. Đó là thuốc ngủ. Lần đầu tiên tôi thấy cô ấy dùng đến. Nó khiến cô ấy ngáp. Nhưng khi tôithức giấc vào sáng hôm sau, thì cô ấy đã dậy rồi, đang nằm đó với một lọn tóc nằm ngang miệng, nhìn đăm đăm lên trần chiếc giường.

"Chải tóc cho tôi thật kỹ," cô ấy nói khi đứng để tôi vận trang phục. "Chải thật kỹ, làm nó sáng bóng lên. Ôi, má của tôi trắng nhợt thế này! Véo nó đi,Sue!" Cô ấy đặt những ngón tay tôi lên mặt, rồi ấn chúng vào, "Véo má tôi đi, có làm chúng bầm cũng đừng ngại. Tôi thà để má mình bị bầm tím còn hơn là trắng nhợt thế này!"

Đôi mắt cô ấy bị thâm, có lẽ vì những giọt thuốc ngủ. Chân mày nhàu nhĩ. Tôi cảm thấy phiền khi nghe cô ấy nói về các vết bầm, bèn nói,

"Hãy đứng yên, không thì tôi chẳng thể mặc áo cho cô được nữa đấy. Thế, tốt hơn rồi. Nào, giờ cô muốn mặc chiếc đầm nào?"

"Cái màu xám?"

"Cái màu xám nhìn yếu ớt quá. Cái màu xanh dương đi..."

Màu xanh làm nổi bật màu tóc nhạt của cô ấy. Cô ấy đứng trước chiếc gương, nhìn tôi cài chặt nút. Tôi càng cài đến các nút lên cao, gương mặt cô ấy càng giãn ra. Rồi cô ấy nhìn tôi. Nhìn chiếc đầm vải nâu, và nói,

"Váy của cô thường quá, Sue à, phải không? Tôi nghĩ cô nên thay đi."

Tôi đáp, "Thay sao? Đây là cái duy nhất mà tôi có."

"Cái duy nhất? Chao ôi. Tôi đã chán ngấy chiếc váy này rồi. Cô thường mặc gì khi hầu hạ cô Alice, cô gái tốt bụng ấy? Cô ta không bao giờ cho cô những chiếc váy cô ta dùng rồi sao?"

Tôi cảm thấy và nghĩ rằng mình đúng khi cảm thấy như vậy rằng Gentleman đã làm tôi thất vọng một chút khi gửi tôi đến Briar chỉ với duy nhất một chiếc đầm. Tôi nói,

"Chà, thưa cô, sự thật là cô Alice tốt bụng chẳng khác một thiên thần, nhưng cũng rất chi li. Cô ấy giữ váy áo của tôi lại, để đem đến Ấn Độ cho cô hầu gái ở đó."

Maud chớp đôi mắt thâm, tỏ vẻ cảm thông. Cô ấy nói,

"Đó là cách các quý cô đối xử với hầu gái ở London à?"

"Chỉ những người chi li thôi, thưa cô," tôi trả lời.

Thế là cô ấy nói, "À, tôi thì chẳng có gì để chi li tính toán, đây này. Cô phải và sẽ có một chiếc đầm khác, để mặc vào buổi sáng. Và có lẽ là một chiếc khác nữa, để cô thay vào khi à, như là khi có khách chẳng hạn?"

Cô ấy giấu mặt phía sau cánh cửa tủ, nói tiếp, "Xem nào, tôi tin là chúng ta mặc cùng cỡ. Nhìn này, đây là hai hay ba chiếc váy, tôi chưa bao giờ mặc chúng, và không nên bỏ phí. Có thể thấy là cô thích váy dài. Bác tôi không ưa thấy tôi mặc váy dài, ông tin rằng váy dài không tốt.Nhưng tất nhiên ông ấy sẽ không bận tâm về cô. Cô chỉ cần hạ lai váy một chút ở đây. Cô có thể làm vậy chứ, phải không?"

Chà, tôi hẳn nhiên là quen với việc gỡ mối khâu. Tôi thậm chí có thể khâu tươm tất một vết thương nếu cần. Tôi nói, "Cảm ơn, thưa cô." Cô ấy giơ một chiếc đầm ra trước mặt tôi. Một món đồ kỳ khôi bằng nhung màu cam, có diềm, phần tà khá rộng. Trông như thể nó đã bị một cơn gió mạnh thổi ập các mảnh vào nhau trong cửa hiệu trang phục quý bà. Cô ấy quan sát vẻ mặt tôi, rồi nói,

"Ôi, mặc thử đi nào, Susan! Này, tôi sẽ giúp cô." Cô ấy đến gần, bắt đầu cởi áo váy cho tôi. "Thấy không, tôi cũng làm được, gần như thạo bằng cô luôn ấy. Giờ tôi là hầu gái của cô, cô là cô chủ!"

Cô ấy bật cười, hơi lo lắng, trong suốt lúc làm việc. "Đây, nhìn vào gương đi,"cuối cùng cô ấy nói. "Có khi chúng ta là chị em đấy!"

Cô ấy đã kéo chiếc váy cũ của tôi khỏi người, mặc chiếc đầm kỳ khôi màu cam vào người tôi, bắt tôi đứng trước tấm gương trong lúc cô ấy làm việc với các móc cài. "Hít vào," cô ấy nói. "Hít mạnh vào! Chiếc váy đầm thít chặt đấy, nhưng sẽ tạo cho cô vóc dáng của một quý cô."

Tất nhiên là cô ấy có eo thon hơn, và cũng cao hơn tôi một inch. Tóc tôi sẫm hơn. Chúng tôi trông không giống chị em, cả hai chỉ trông như quỷ dạ xoa. Chiếc váy để lộ hết cả mắt cá chân tôi. Nếu lúc này mà bị một cậu trai ở Borough trông thấy, chắc tôi sẽ lăn quay ra chết mất.

Nhưng chẳng có cậu trai Borough nào ở đó để trông thấy tôi. Cũng chẳng có cô gái Borough nào. Thứ vải nhung rất tốt. Tôi đứng bứt bứt chỗ diềm trên váy,trong lúc Maud chạy lại hộp nữ trang của mình để lấy một chiếc ghim cài, gắn vào ngực tôi, nghiêng đầu nhìn xem nó trông thế nào. Vừa lúc đó, có tiếng gõ cửa phòng khách,

"Margaret đấy," khuôn mặt cô ấy có màu hồng khá rõ. Cô ấy gọi, "Vào phòng phục sức đây này, Margaret!"

Margaret vào, nhún người chào, nhìn thẳng vào tôi. Cô ta nói,

"Tôi vừa đến dọn khay, thưa c– Ôi! Cô Smith! Chẳng phải là cô sao? Tôi bảo đảm, mình không tài nào phân biệt nổi cô với cô chủ!"

Cô ấy đỏ mặt, còn Maud đang đứng trong bóng tối của rèm che giường, trông như một cô bé, đưa tay lên trước miệng. Cô ấy cười run cả lên, đôi mắt thâm dường sáng hẳn.

"Giả sử," cô ấy nói khi Margaret đã rời khỏi, "giả sử ngài Rivers cũng như Margaret, bị nhầm cô là tôi thì sao nhỉ? Lúc đó chúng ta nên làm gì?"

Cô ấy lại cười và run. Tôi nhìn vào gương, mỉm cười. Chẳng phải bị nhầm với một quý cô là việc khá ấn tượng sao? Đó là điều mẹ tôi sẽ muốn.

Nói gì thì sau rốt tôi vẫn sẽ được phần tất cả váy áo, trang sức của cô ấy mà. Tôi chỉ đang bắt đầu làm việc đó hơi sớm thôi. Tôi giữ chiếc váy đầm màu cam, và trong thời gian cô ấy ở chỗ bác, thì tôi ngồi hạ lai váy, nới phần eo. Tôi không định làm mình bị thương để có một cái eo mười sáu inch.



"Chà, chúng ta trông không đẹp sao chứ?" Maud nói khi tôi đến đón cô ấy. Đứng nhìn tôi một lượt, rồi cô ấy phủi váy của mình. "Nhưng có bụi này," cô ấy kêu lên, "từ những chiếc kệ của bác tôi! Ôi chà! Đám sách đó, khủng khiếp quá đi!"

Cô ấy thiếu điều ứa nước mắt nữa mà thôi, vặn vẹo hai tay.

Tôi lấy chỗ bụi đi, ước giá như mình có thể nói cô ấy đang bồn chồn chẳng vì cái gì cả. Cô ấy mặc bao bố cũng được. Có khuôn mặt như dân khuân than cũng được. Miễn là trong nhà băng có mười lăm ngàn bảng cộp tên Cô Maud Lilly, thì Gentleman vẫn sẽ muốn cô ấy.

Thật kinh khủng khi ở cạnh cô ấy, biết những điều tôi biết, mà vẫn vờ vịt chẳng biết gì. Với một cô nào khác, thì chắc sẽ hài lắm. Tôi sẽ nói, "Cô khó ở à, thưa cô? Tôi mang cho cô thứ gì nhé? Tôi mang cho cô chiếc gương nhỏ để soi mặt nhé?" Cô ấy sẽ trả lời, "Khó ở hả? Tôi chỉ cảm thấy khá lạnh thôi, phải đi bộ cho ấm người." Và, "Gương à, Sue? Sao tôi lại cần gương chứ?"

"Tôi nghĩ dạo này cô nhìn gương mặt mình nhiều hơn mọi khi, thưa cô."

"Gương mặt của tôi! Tại sao tôi lại có hứng thú với việc đó chứ?"

"Tôi không biết, thưa cô, tôi chắc chắn đấy."

Tôi biết chuyến tàu lửa của anh ta tới Marlow lúc bốn giờ. William Inker đã được phái đi đón, giống như từng làm với tôi. Lúc ba giờ, Maud nói cô ấy sẽ ngồi ở cửa sổ để khâu, chỗ đó nhiều ánh sáng. Tất nhiên, lúc đó thì nó gần như khá tối, nhưng tôi không nói gì. Có một chiếc ghế lót đệm cạnh khung cửa luôn rung lạch cạch, nơi lạnh nhất trong phòng, nhưng cô ấy ngồi suốt một tiếng rưỡi, khăn soan quàng quanh người, run rẩy, nheo mắt trước các mối khâu, ngấm ngầm ném những cái liếc trộm rất nhỏ về phía con đường dẫn vào nhà.

Tôi nghĩ, nếu đó không phải tình yêu, thì chẳng khác nào nói tôi là người Hà Lan. Còn nếu đó đúng là tình yêu, thì những kẻ tình nhân chẳng khác bồ câu hay ngỗng. Thật đáng mừng rằng tôi không ở trong số họ.

Cuối cùng, cô ấy đặt một tay lên nơi tim, bật ra một tiếng kêu ngạt thở. Cô ấy thấy ánh sáng đang đến gần, ánh sáng trên cỗ xe hai bánh của William Inker. Điều đó khiến cô ấy đứng dậy, rời khỏi cửa sổ đến đứng cạnh ngọn lửa, hai tay ấn chặt vào nhau. Rồi có tiếng ngựa trên nền đất sỏi. Tôi hỏi, "Có phải ngài Rivers không, thưa cô?" Cô ấy trả lời, "Ngài Rivers? Đã trễ vậy rồi sao? Chà, cũng có thể lắm. Bác tôi sẽ rất mừng đây!"

Bác cô ấy thấy anh ta trước. Cô ấy nói, "Có thể bác sẽ cho gọi tôi, để đến chào ngài Rivers. Váy của tôi có hợp không? Có thật không nên mặc chiếc màu xám không?"

Nhưng ngài Lilly không cho gọi cô ấy. Chúng tôi nghe tiếng nói chuyện, tiếng đóng cửa trong những căn phòng bên dưới, nhưng phải một giờ sau mới có cô hầu bàn đến, để báo tin rằng ngài Rivers đã tới.

"Ngài Rivers đã được sắp xếp chu đáo chứ, trong căn phòng cũ của anh ta?" Maud hỏi.

"Rồi, thưa cô."

"Sau chuyến đi thì chắc ngài Rivers khá mệt rồi, phải không?"

Ngài Rivers gửi lời rằng mình tương đối mệt, trông chờ được gặp cô Lilly cùng bác vào bữa tối. Trước lúc đó, anh ta không muốn làm phiền cô Lilly.

"Tôi hiểu rồi," cô ấy trả lời khi nghe báo lại. Rồi cắn môi, "Hãy nói với ngài Rivers rằng tôi không thấy phiền hà gì nếu ngài ấy đến thăm, tại phòng khách của tôi, trước giờ dùng bữa tối..."

Cô ấy cứ thế nói trong một phút rưỡi, lắp bắp, mặt đỏ lên. Cuối cùng, cô hầu bàn nhận xong lời nhắn, rời đi. Cô ta đi một tiếng rưỡi. Khi quay lại, cô ta có Gentleman đi cùng.

Anh ta bước vào phòng, ban đầu không hề nhìn đến tôi. Mắt anh ta chỉ trông thấy mỗi Maud. Anh ta nói, "Cô Lilly, cô thật tốt vì tiếp nhận tôi ở nơi đây, tôi vẫn còn lấm bụi đường, luộm thuộm nữa. Cô lúc nào cũng tốt bụng như thế!"

Giọng anh ta dịu dàng. Còn về việc lấm bẩn thì trên người anh ta không có một cái vết nào. Tôi đoán anh ta đã ghé nhanh qua phòng mình thay áo khoác. Tóc anh ta bóng mượt. Một chiếc nhẫn nhỏ khiêm tốn đeo nơi ngón út, ngoài ra thì tay anh ta trơn tru, sạch sẽ.

Anh ta hoàn toàn mang dáng vẻ của nhân vật mình cần sắm vai – một quý ông đẹp trai, lương thiện. Khi cuối cùng anh ta quay sang tôi, tôi nhận thấy mình nhún người chào.    

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro