goctamhon

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bài học cuộc sống   Không thể bắt người khác yêu mến mình, tất cả những điều có thể làm là cố gắng trở thành một người đáng được yêu mến ... 

Trước khi muốn tha thứ cho người khác, phải tập tha thứ cho chính bản thân mình ... 

Phải luôn cẩn trọng vì những lỗi lầm tôi gây ra trong một khoảnh khắc, có thể làm ta hối hận cả một đời ....

5 phút trong Cuộc sống   Trong công viên, một người phụ nữ ngồi gần một người đàn ông trên băng ghế gần sân chơi cho trẻ em. 

“Đó là con trai tôi”, người phụ nữ vừa nói vừa chỉ tay về phía cậu bé mặc áo len đỏ đang chơi cầu trượt. 

“Nó trông rất khoẻ mạnh” người đàn ông đáp lời. 

“Còn con trai của tôi là đứa mặc áo len màu xanh ấy”. 

Nói rồi, ông ta nhìn đồng hồ và nói với theo cậu con trai: “Về thôi, Todd”, cậu bé tên Todd quay nhìn bố nài nỉ: “5 phút nũa thôi mà bố, chỉ 5 phút nữa thôi”. 

Người đàn ông khẽ gật đầu và cậu bé lại tiếp tục chạy nhảy với vẻ rất sung sướng. 

5 phút trôi qua, người cha đứng dậy và nói: “Sao? Bây giờ chúng ta về được chưa con?”. Todd lại nài nỉ một lần nữa: “Bố, 5 phút nữa, chỉ 5 phút nữa thôi!”. 

Người đàn ông lại mỉm cười và nói: “Được rồi!”. 

Người phụ nữ thấy vậy bèn thốt lên: “Ông thật là một người cha kiên nhẫn”. 

Người đàn ông cười và chậm rãi nói: “Con trai cả Tommy của tôi bị một kẻ lái xe say rượu đụng chết năm ngoái trong khi nó đang chạy xe đạp gần đây. Tôi chưa bao giờ dành nhiều thời gian cho Tommy và bây giờ tôi có thể đánh đổi bất cứ thứ gì để có thể ở bên nó dù chỉ 5 phút. Tôi nguyện rằng sẽ không bao giờ lặp lại lỗi lầm đó với Todd. Todd nghĩ nó có 5 phút để chơi đùa. Nhưng sự thật là tôi đã có thêm 5 phút nữa để nhìn nó chơi đùa” 4 Từ Cho Cuộc Sống  

Một cậu bé tám tuổi lại gần một người đàn ông đứng tuổi và ngước mắt hỏi: 

-Cháu biết chú là người rất thông thái. Cháu muốn biết bí mật của cuộc sống là gì? Chú nói cho cháu biết đi?

Người đàn ông cúi xuống bên đứa trẻ và đáp: 

-Chú đã nghĩ rất lâu trong suốt cuộc đời mình. Và bí mật của cuộc sống tổng kết trong 4 từ: 

“Từ thứ nhất là “suy nghĩ”. Hãy suy nghĩ về những giá trị mà cháu muốn cuộc sống của cháu có. 

Từ thứ hai là “tin tưởng”. Hãy tin tưởng vào bản thân mình dựa trên những việc cháu làm vì giá trị cháu muốn có. 

Từ thứ ba là “mơ ước”. Hãy mơ ước về những điều có thể đến, dựa vào niềm tin vào bản thân và những giá trị mình muốn có. 

Từ cuối cùng là “can đảm”. Hãy can đảm để biến ước mơ thành hiện thực, dựa trên những niềm tin vào bản thân và những giá trị của chính mình”. 

Và đó là những điều mà Walt Disney lừng danh nói với cậu bé : suy nghĩ, tin tưởng, mơ ước và can đảm.

Đại bàng và Gà   Ngày xưa, có một ngọn núi lớn, bên sườn núi có một tổ chim đại bàng. Trong tổ có bốn quả trứng lớn. Một trận động đất xảy ra làm rung chuyển ngọn núi, một quả trứng đại bàng lăn xuống và rơi vào một trại gà dưới chân núi. Một con gà mái tình nguyện ấp quả trứng lớn ấy.

Một ngày kia, trứng nở ra một chú đại bàng con xinh đẹp, nhưng buồn thay chú chim nhỏ được nuôi lớn như một con gà. Chẳng bao lâu sau, đại bàng cũng tin nó chỉ là một con gà không hơn không kém. Đại bàng yêu gia đình và ngôi nhà đang sống, nhưng tâm hồn nó vẫn khao khát một điều gì đó cao xa hơn. Cho đến một ngày, trong khi đang chơi đùa trong sân, đại bàng nhìn lên trời và thấy những chú chim đại bàng đang sải cánh bay cao giữa bầu trời.

"Ồ - đại bàng kêu lên - Ước gì tôi có thể bay như những con chim đó".

Bầy gà cười ầm lên: "Anh không thể bay với những con chim đó được. Anh là một con gà và gà không biết bay cao".

Đại bàng tiếp tục ngước nhìn gia đình thật sự của nó, mơ ước có thể bay cao cùng họ. Mỗi lần đại bàng nói ra mơ ước của mình, bầy gà lại bảo nó điều không thể xảy ra. Đó là điều đại bàng cuối cùng đã tin là thật. Rồi đại bàng không mơ ước nữa và tiếp tục sống như một con gà. Cuối cùng, sau một thời gian dài sống làm gà, đại bàng chết.

Trong cuộc sống cũng vậy: Nếu bạn tin rằng bạn là một người tầm thường, bạn sẽ sống một cuộc sống tầm thường vô vị, đúng như những gì mình đã tin. Vậy thì, nếu bạn đã từng mơ ước trở thành đại bàng, bạn hãy đeo đuổi ước mơ đó... và đừng sống như một con gà! 3 người thầy vĩ đại   Khi Hasan, một nhà hiền triết Hồi giáo sắp qua đời, có người hỏi ông: “Thưa Hasan, ai là thầy của ngài?” 

Hasan đáp: “Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian của ta còn rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta. 

Người đầu tiên là một tên trộm. Có một lần ta đi lạc trong sa mạc, khi ta tìm đến được một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả. Nhưng cuối cùng ta cũng tìm thấy một người, ông ta đang khoét vách một căn nhà trong làng. Ta hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời: “Khuya khoắt thế này thật khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với tên trộm”. 

Người đàn ông ấy thật tuyệt vời. Ta đã nán lại đấy hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm ông ta lại bảo: “Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!” Mỗi khi ông ta trở về ta đều hỏi: “Có trộm được gì không?” và ông ta đều đáp: “Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ.” Ta chưa bao giờ thầy ông ta trong tình trạng tuyệt vọng, ông ta luôn hạnh phúc. 

Có lần ta đã suy ngẫm và suy ngẫm trong nhiều năm ròng để rồi không ngộ ra được một chân lý nào. Ta đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, tuyệt vọng đến nỗi ta nghĩ mình phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa này. Ngay sau đấy ta chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hàng đêm vẫn quả quyết: “Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ!” 

Người thầy thứ hai là một con chó. Khi ta ra bờ sông uống nước, có một con chó xuất hiện. Nó cũng khát nước. Nhưng khi nhìn xuống dòng sông, nó thấy cái bóng của mình nhưng lại tưởng là một con chó khác. Hoảng sợ, nó tru lên và bỏ chạy. Nhưng rồi khát quá nó bèn quay trở lại. Cuối cùng, mặc nỗi sợ hãi trong lòng, nó nhảy xuống sông và cái bóng biến mất.

Ta hiểu đây là một thông điệp đã được gởi đến cho ta: con người phải biết chiến thắng nỗi sợ hãi trong lòng bằng hành động. 

Người thầy cuối cùng là một đứa bé. Ta đến một thành phố nọ và thấy một đứa bé trên tay cầm một cây nến đã thắp sáng để đặt trong đền thờ. 

Ta hỏi đứa bé: “Con tự thắp sáng cây nến này phải không?” Đứa bé đáp: “Thưa phải.” Đoạn ta hỏi: “Lúc nãy nến chưa thắp sáng, nhưng chỉ một thoáng sau đã cháy sáng. Vậy con có biết ánh sáng từ đâu đến không?” 

Đứa bé cười to, thổi phụt ngọn nến và nói: “Ngài thấy ánh sáng đã biến mất, vậy ngài bảo ánh sáng đã đi đâu?” 

Cái tôi ngạo nghễ của ta hoàn toàn sụp đổ, pho kiến thức kim cổ của ta cũng sụp đổ theo. Lúc ấy ta nghiệm ra sự dốt nát của bản thân. Và từ đó ta vất đi tất cả những tự hào về kiến thức của mình. 

Đúng là có thể nói ta không có một ai là thầy, nhưng điều này không có nghĩa ta không phải là một học trò. Ta xem vạn vật là thầy. Tinh thần học hỏi của ta luôn rộng mở hơn tất cả các người. Ta học hỏi từ tất cả mọi vật, từ cành cây ngọn cỏ đến đám mây trên trời kia. Ta không có một người thầy vì ta có hàng triệu triệu người thầy mà ta đã học được mỗi khi có thể. Điều thiết yếu trong cuộc sống là luôn làm một học trò. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là có khả năng học hỏi, luôn sẵn sàng học để biết chấp nhận ý nghĩa của vạn vật. Người thầy là người thông qua đó ta bắt đầu học cách học hỏi. Xin thầy hãy dạy cho con tôi   (Trích thư tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai ông theo học)

  1. Con tôi sẽ phải học tất cả những điều này, rằng không phải tất cả mọi người đều công bằng, tất cả mọi người đều chân thật. Nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết cứ mỗi một kẻ vô lại ta gặp trên đường phố thì ở đâu đó sẽ có một con người chính trực; cứ mỗi một chính trị gia ích kỷ, ta sẽ có một nhà lãnh đạo tận tâm. Bài học này sẽ mất nhiều thời gian, tôi biết; nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết rằng một đồng đôla kiếm được do công sức lao động của mình bỏ ra còn quý giá hơn nhiều so với năm đôla nhặt được trên hè phố… 2. Xin thầy dạy cho cháu biết cách chấp nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến thắng. Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kỵ. Xin dạy cháu biết được bí quyết của niềm vui chiến thắng thầm lặng. Dạy cho cháu biết được rằng những kẻ hay bắt nạt người khác nhất lại là những kẻ dễ bị đánh bại nhất… 3.Xin hãy giúp cháu nhìn thấy thế giới kỳ diệu của sách… nhưng cũng cho cháu có đủ thời gian để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc sống: đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn trong ánh nắng và những bông hoa nở ngát bên đồi xanh.Xin giúp cháu có niềm tin vào ý kiến riêng của bản thân, dù tất cả mọi người xung quanh đều cho rằng ý kiến đó hoàn toàn sai lầm… 4. Xin hãy dạy cho cháu biết cách đối xử dịu dàng với những người hòa nhã và cứng rắn với những kẻ thô bạo. Xin tạo cho cháu sức mạnh để không chạy theo đám đông khi tất cả mọi người đều chỉ biết chạy theo thời thế. 5. Xin hãy dạy cho cháu biết phải lắng nghe tất cả mọi người những cũng xin thầy dạy cho cháu biết cần phải sàng lọc những gì nghe được qua một tấm lưới chân lý để cháu chỉ đón nhận những gì tốt đẹp… 6. Xin hãy dạy cho cháu biết cách mỉm cười khi buồn bã, xin hãy dạy cháy biết rằng không có sự xấu hổ trong những giọt nước mắt. 7.Xin hãy dạy cho cháu biết chế giễu những kẻ yểm thế và cẩn trọng trước sự ngọt ngào đầy cạm bẫy. 8.Xin hãy dạy cho cháu rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ cho người ra giá cao nhất, nhưng không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim và tâm hồn mình… 9.Xin hãy dạy cho cháu ngoảnh tải làm ngơ trước một đám đông đang gào thét… và đứng thẳng người bảo vệ những gì cháu cho là đúng… 10. Xin hãy đối xử dịu dàng với cháu nhưng đừng vuốt ve nuông chiều cháu bởi vì chỉ có sự thử thách của lửa mới tôi luyện nên được những thanh sắt cứng rắn. 11.Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cháu phải luôn có niềm tin tuyệt tối vào bản thân, bởi vì khi đó cháu sẽ luôn có niềm tin tuyệt đối vào nhận loại. 12.Đây quả là một yêu cầu quá lớn, tôi biết, thưa thầy. Nhưng xin thầy cố gắng hết sức mình, nếu được vậy, con trai tôi quả thật là một cậu bé hạnh phúc và may mắn Bức tranh gia tài   Có một người đàn ông yêu thích mỹ thuật. Ông ta say mê đến mức gần như sống vì niềm say mê của mình. Sưu tập tranh là mục tiêu cả đời của ông. Ông làm việc rất chăm chỉ để dành tiền tiết kiệm nhằm mua thêm các tác phẩm hội họa cho bộ sưu tập của mình. Ông mua rất nhiều tác phẩm của các họa sĩ nổi tiếng.

Người đàn ông này đã góa vợ. Ông chỉ có một người con trai. Ông đã truyền lại cho con mình niềm say mê sưu tầm đó. Ông rất tự hào về con trai của mình khi anh ta cũng trở thành một nhà sưu tầm nổi tiếng như ông.

Một thời gian sau, đất nước bỗng có chiến tranh. Người con trai, cũng như mọi thanh niên khác, lên đường tòng quân. Và sau một thời gian thì câu chuyện xảy ra...

Một hôm, người cha nhận được một lá thư thông báo rằng người con đã mất tích khi đang làm nhiệm vụ. Người cha đau khổ đến tột cùng. Thật là khủng khiếp khi người cha không thể biết được điều gì đang xảy ra với con mình.

Vài tuần sau ông nhận được một lá thư nữa. Lá thư này báo với ông rằng con ông đã hy sinh khi làm nhiệm vụ. Ông gần như chết đi một nửa người. Thật khó khăn khi đọc tiếp lá thư đó, nhưng ông vẫn cố. Trong thư, người ta báo rằng con ông đã rút lui đến nơi an toàn. Nhưng thấy trên bãi chiến trường vẫn còn những đồng đội bị thương, con ông đã quay lại và đưa về từng thương binh một. Cho đến khi đưa người cuối cùng về gần đến khu vực an toàn thì con ông đã trúng đạn và hy sinh.

Một tháng sau, đến ngày Noel, ông không muốn ra khỏi nhà. Ông không thể hình dung được một Noel mà thiếu con trai mình bên cạnh. Ông đang ở trong nhà thì có tiếng chuông gọi cửa. Đứng trước cửa nhà là một chàng trai tay cầm một bọc lớn.

Chàng trai nói "Thưa bác, bác không biết cháu, nhưng cháu là người mà con bác đã cứu trước khi hy sinh. Cháu không giàu có, nên cháu không biết đem đến cái gì để đền đáp cho điều mà con bác đã làm cho cháu. Cháu được anh ấy kể lại rằng bác thích sưu tầm tranh, bởi vậy dù cháu không phải là một họa sĩ, cháu cũng vẽ một bức chân dung con trai bác để tặng cho bác. Cháu mong bác nhận cho cháu."

Người cha đem bức tranh vào nhà, mở ra. Tháo bức tranh giá trị nhất vẫn treo trên lò sưởi xuống, ông thay vào đó là bức chân dung người con. Nước mắt lưng tròng, ông nói với chàng trai: "Đây là bức tranh giá trị nhất mà ta có được. Nó có giá trị hơn tất cả các tranh mà ta có trong căn nhà này."

Chàng trai ở lại với người cha qua Noel đó rồi hai người chia tay. Sau vài năm, người cha bị bệnh nặng. Tin tức về việc ông qua đời lan truyền đi rất xa. Mọi người đều muốn tham gia vào cuộc bán đấu giá những tác phẩm nghệ thuật mà ông đã sưu tầm được qua thời gian. Cuối cùng thì buổi bán đấu giá cũng được công bố vào ngày Noel năm đó. Các nhà sưu tầm và những nhà đại diện cho các viện bảo tàng đều háo hức muốn mua các tác phẩm nổi tiếng. Tòa nhà bán đấu giá chật ních người. Người điều khiển đứng lên và nói "Tôi xin cám ơn mọi người đã đến đông đủ như vậy. Bức tranh đầu tiên sẽ là bức chân dung này..."

Có người la lên: "Đó chỉ là chân dung đứa con trai ông cụ thôi! Sao chúng ta không bỏ qua nó, và bắt đầu bằng những bức có giá trị thật sự?"

Người điều khiển nói: "Chúng ta sẽ bắt đầu bằng bức này trước!"

Người điều khiển bắt đầu "Ai sẽ mua với giá $100?"

Không ai trả lời nên ông ta lại tiếp "Ai sẽ mua với giá $50?"

Cũng không có ai trả lời nên ông ta lại hỏi "Có ai mua với giá $40?"

Cũng không ai muốn mua. Người điều khiển lại hỏi "Không ai muốn trả giá cho bức tranh này sao?" Một người đàn ông già đứng lên "Anh có thể bán với giá $10 được không? Anh thấy đấy, $10 là tất cả những gì tôi có. Tôi là hàng xóm của ông cụ và tôi biết thằng bé đó. Tôi đã thấy thằng bé lớn lên và tôi thật sự yêu quý nó. Tôi rất muốn có bức tranh đó. Vậy anh có đồng ý không?"

Người điều khiển nói "$10 lần thứ nhất, lần thứ nhì, bán!"

Tiếng ồn ào vui mừng nổi lên và mọi người nói với nhau: "Chúng ta có thể bắt đầu thật sự được rồi!".

Người điều khiển nói: "Xin cảm ơn mọi người đã đến. Thật là vinh hạnh khi có mặt những vị khách quý ở đây. Buổi đấu giá của chúng ta sẽ dừng tại đây!"

Đám đông nổi giận: "Anh nói là hết đấu giá? Anh vẫn chưa đấu giá toàn bộ các tác phẩm nổi tiếng kia mà?". Người điều khiển nói: "Tôi xin lỗi nhưng buổi bán đấu giá đã chấm dứt. Mọi người hãy xem chúc thư của ông cụ đây, NGƯỜI NÀO LẤY BỨC CHÂN DUNG CON TÔI SẼ ĐƯỢC TẤT CẢ CÁC BỨC TRANH CÒN LẠI! Và đó là lời cuối cùng!” Đường hầm xuyên qua trái đất  

Hai anh em cậu bé kia có lần quyết định đào một cái hố sâu phía sau nhà. Khi hai cậu bé đang đào, vài đứa trẻ khác đến xem và hỏi họ đang làm gì. Cậu bé đào hố hào hứng trả lời rằng anh em cậu muốn đào một đường hầm xuyên qua trái đất.

Mấy đứa trẻ cười phá lên, chế giễu anh em cậu. Thế nhưng hai cậu bé vẫn tiếp tục đào. Một lúc sau, một cậu nhảy từ cái hố đang đào lên mặt đất, tay cầm một cái chai cũ kỹ đầy nhện, sâu bọ, côn trùng đáng sợ và tay kia giơ cao một túi chứa các viên đá xinh xắn đang lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời. Cậu chỉ cho những đứa trẻ kia xem những viên đá tuyệt đẹp ấy và tự hào nói: "Ngay cả khi không đào được đường hầm xuyên trái đất, thì ít nhất bọn mình cũng có thể tìm được những viên đá đẹp như thế, và mình cũng đã có dịp khuất phục lũ côn trùng gớm ghiếc này!

Không phải mục tiêu nào cũng hoàn thành trọn vẹn.

Không phải công việc nào cũng đều kết thúc thành công.

Không phải nỗ lực nào cũng được đền đáp xứng đáng.

Không phải mối quan hệ nào cũng giữ được bền lâu.

Không phải tình yêu nào rồi cũng là vĩnh cửu.

Không phải ước mơ nào cũng trở thành hiện thực.

Nhưng nếu bạn luôn lo sợ và không dám bắt đầu, bạn sẽ không bao giờ có cơ hội đặt chân lên con đường đến thành công, bạn sẽ không bao giờ. Chuyện con vịt  

Mùa hè, mẹ gửi Andrew về quê chơi với bà ngoại. Được cậu Billy cho một cái giàn thun, Andrew khoái lắm. Nhưng nhớ lời cậu dặn, nó chỉ dám tập bắn ở trong rừng cây phía sau nhà. Andrew lang thang suốt buổi sáng ở trong rừng, nhưng nó chẳng bắn được chút gì cả. Buồn rầu, Andrew thất thểu về nhà ăn trưa. Vào tới sân, thấy bầy vịt của bà ngoại đang rượt nhau kêu quàn quạc trong sân. Andrew cúi xuống nhặt một hòn sỏi và bắn đại một phát. Chẳng may, viên sỏi trúng ngay giữa đầu một con vịt, nó lăn đùng ra giữa sân, giãy đành đạch mấy cái rồi nằm ngay đơ. Andrew hoảng hốt nhìn quanh: không có ai cả. Nó vội nhặt con vịt và nhét vào trong đống củi. Yên trí với bí mật của mình, Andrew ngồi vào bàn ăn trưa, mà không biết rằng đã có ít nhất một cặp mắt nhìn thấy chuyện xảy ra với con vịt.

Sau bữa ăn trưa, bà ngoại vừa cất đồ ăn dư vào chạn vừa dặn Sally, chị họ của Andrew, con gái chú Billy:

- Bữa nay tới lượt con rửa chén đó.

- Nhưng Andrew nó hứa làm thay con rồi. - Sally vội đáp và nhìn Andrew bằng ánh mắt khiến nó đang đỏ mặt toan cự cãi bỗng đâm ra chột dạ.

- Thật không Andrew? - Bà ngoại hỏi, không quay đầu lại.

- Con à?

Andrew vừa mở mồm thì Sally hích một cái đau điếng vào sườn nó và khẽ thì thầm qua kẽ răng:

- Con vịt. Nhớ không?

- Con nhận lời chị ấy rồi. - Andrew đáp bằng giọng hậm hực.

Ngủ trưa dậy, ông ngoại rủ Andrew và Sally đi câu, nhưng bà ngoại bảo:

- Sally, cháu ở nhà giúp bà nấu nồi xúp cho bữa tối.

- Nhưng Andrew thích ở nhà nấu xúp hơn là đi câu đấy chứ! Bà hỏi nó xem có đúng như vậy không?

Sally trả lời bằng giọng mát mẻ. Andrew toan cãi thì Sally tằng hắng mất tiếng. Nó đành nghẹn ngào trả lời:

- Cháu sẽ ở nhà giúp bà.

Cứ thế, suốt ngày hôm đó, Andrew luôn bị Sally dằn vặt bởi chuyện con vịt.

Tối đến, mệt mỏi, Andrew nằm lăn trên chiếc đi-văng trong phòng khách và ngủ thiếp đi. Lúc nó thức dậy, ai đó đã tắt đèn và phủ trên người nó một tấm chăn. Andrew nằm im, đầu nó nhớ lại chuyện trong ngày. Nhiều lúc nó muốn nói thật với bà ngoại về chuyện con vịt, nhưng nó lại sợ bà ngoại sẽ mách mẹ nó, rồi thì sang năm mẹ nó sẽ không cho nó về chơi với ông bà nữa thì sao? Còn Sally thì quá quắt quá, không biết bao giờ nó mới thoát khỏi bàn tay quái ác của Sally? Biết làm sao đây? Nó chỉ muốn chết quách cho rồi. Andrew thổn thức.

Chợt một bàn tay to mềm của bà ngoại đặt lên vai nó, giọng êm ái của bà ngoại thì thầm:

- Nói đi con. Có điều gì con cứ nói ra cho nhẹ nhõm trong lòng.

- Con vịt... Cháu... Con vịt... - Andrew lắp bắp.

Bà ngoại im lặng. Hít một hơi dài, Andrew nói một mạch:

- Cháu lỡ tay bắn chết một con vịt rồi bà ạ!

- À, ra chuyện con vịt. Lúc đầu thấy thái độ của cháu với Sally bà hơi ngạc nhiên, nhưng bà đã hiểu cả khi lùa bầy vịt vào chuồng và thấy thiếu một con. Nhưng bà muốn chờ cháu tự nói ra. Câu chuyện ngày hôm nay là một bài học cho cháu đó: Che giấu tội lỗi của mình, cháu sẽ không bao giờ có được sự thanh thản và cháu sẽ trở thành sự nô lệ của cái xấu. Dấu chấm trên tờ giấy trắng  

.

Tại buổi diễn thuyết hàng trăm người, diễn giả bắt đầu buổi nói chuyện bằng một bài tập nhỏ. Ông đưa ra một tờ giấy trắng trên đó có một dấu chấm đen vào đặt câu hỏi với hội trường:

“Các bạn nhìn thấy gì?”

Một người giơ tay phát biểu: “Tôi thấy một điểm đen”;

một người khác: “Đó là một vết mực đen”;

lại có ý kiến hài hước cho rằng: “Là một nốt ruồi”. . . Hầu hết mọi người trong khán phòng đều gật gù đồng ý với những ý kiến đó, họ đều chỉ thấy mỗi điểm đen.

Diễn giả để hội trường lắng xuống, nhìn khắp lượt hội trường, giơ tờ giấy lên bằng hai tay, giật mạnh và hỏi “các bạn không còn thấy gì nữa sao?”. Bấy giờ mọi người mới ồ lên: “Tờ giấy trắng và một chấm đen”.

Người diễn giả mỉm cười và nói: “Cảm ơn những câu trả lời của các bạn, dấu chấm đen này đúng là rất nổi bật trên tờ giấy trắng, tôi đã làm ví dụ này với rất nhiều người và cũng nhận được câu trả lời tương tự. Phần lớn chúng ta chỉ nhìn thấy vết đen, vết bẩn, nhìn thấy cái xấu, cái sai của người khác mà lờ đi những khoảng trắng, những cái tốt đẹp của người ta. Cũng dễ hiểu thôi vì đó là tâm lý chung của con người, theo học thuyết của Abraham Maslow về nhu cầu tự nhiên của con người được chia thành các thang bậc khác nhau, phản ánh mức độ cơ bản đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Và bậc 2 của thang Maslow là nhu cầu về an toàn, thế nên con người luôn luôn nhìn thấy điểm đen, cái xấu, nguy cơ . . ., để đạt được mức an toàn tối thiểu về tính mạng và tài sản”.

Nói đến đây, ông đưa mắt nhìn quanh khán phòng và đến đâu cũng bắt gặp những gương mặt đồng tình ủng hộ.

Ông nói tiếp: “Cũng giống như chúng ta đối xử với mọi người xung quanh, nếu bạn chỉ nhìn thấy cái xấu, cái sai, thì bạn chính là người phải chịu dằn vặt đau khổ, trong bạn luôn thấy hoài nghi lo lắng về mọi thứ diễn ra quanh mình. Thử nghĩ, một ngày bạn ăn vật chất 3 bữa, là những thứ ngon, bổ, sạch, còn “ăn” tinh thần thì cả ngày, thế mà bấy lâu nay chúng ta cho nhau ăn những gì? Có phải cũng ngon và bổ như ăn vật chất. “Bới lông tìm vết hay Đãi cái tìm vàng” là lựa chọn của bạn, tìm điều tốt đẹp của người khác bạn sẽ thấy sự tốt đẹp, tìm cái xấu, cái sai để bỏ đi những mối quan hệ chính là bạn đang tự hủy đi cơ hội của mình.”

Ông dừng lại và đặt câu hỏi với hội trường: “Làm thế nào để sử dụng tờ giấy này một cách hữu ích?” Có vài lời phát biểu: “Vẽ lên đó một bông hoa; gập đôi tờ giấy thế là chúng ta có 2 tờ giấy trắng; . . .” Diễn giả gật đầu và mỉm cười: “Vâng. Cảm ơn các bạn. Thật đơn giản khi chúng ta thay đổi tư duy, thay đổi quan niệm của mình về những thứ xung quanh. Con người ai cũng có mặt tốt, mặt xấu, có đôi khi mắc lỗi lầm, nhưng chỉ vì cái xấu, vì những lỗi lầm mà đánh giá sai về nhau thì quả là đáng tiếc. Bởi có thể lỗi lầm đó chỉ nhỏ xíu như một chấm đen chiếm 1/99 tờ giấy trắng, mà chúng ta bỏ đi một tờ giấy đẹp, có nên chăng?”

Diễn giả kết thúc buổi nói chuyện của mình trong tràng pháo tay không ngớt, họ nắm tay nhau, trao cho nhau nụ cười và những cái nhìn trìu mến thể hiện tình nhân ái.

Và bạn có để ý thấy rằng bên trên cùng bài viết này có một dấu chấm đen không?

Nguồn gốc viên sỏi  

Hãy nghe một viên sỏi kể về nguồn gốc của mình: “Tôi vốn là một tảng đá khổng lồ trên núi cao, trải qua bao năm tháng dài đăng đẳng bị mặt trời nung đốt, người tôi đầy vết nứt. Tôi vỡ ra và lăn xuống núi, mưa bão và nước lũ cuốn tôi vào sông suối.

Do liên tục bị va đập, lăn lộn, tôi bị thương đầy mình. Nhưng rồi chính những dòng nước lại làm lành những vết thương của tôi. Và tôi trở thành một hòn sỏi láng mịn như bây giờ”.

Bạn nghĩ gì khi nghe câu chuyện trên? Cảm thấy lý thú với chuyến đi của hòn sỏi hay xúc động trước ánh mắt lạc quan của nó đối với cuộc đời đầy biến động? Đã bao giờ bạn thấy được rằng chính những chông gai mới tạo nên những hình hài đẹp và ấn tượng, dù là hình hài được tạo bởi chính những vết thương và sự đớn đau?

Có thể là bạn, có thể là tôi, cuộc sống chẳng bao giờ chỉ mang đến nỗi đau, cũng chẳng bao giờ chỉ mang đến niềm hạnh phúc. Vượt qua được gian khổ, vượt qua những cuộc thử thách, vượt qua được những nỗi đau là bạn đã tự làm hoàn thiện chân dung mình.

Cuộc sống là vô vàn những điều biến động. Vì vậy, cho dù trong khó khăn hay trong hạnh phúc, cũng mong bạn luôn nhớ cuộc hành trình của hòn sỏi để sống tự tin hơn, để mang những yêu thương xoa dịu và làm lành những vết thương. Sự va đập của cuộc sống chẳng có gì đáng sợ đâu bạn ạ!

Sự hoàn hảo của Chúa   Tại Brooklyn, New York có ngôi trường Chush là nơi chuyên dành phục vụ những trẻ em thiểu năng trí tuệ. Sau một thời gian ở đây, ngoài những trẻ tham gia toàn bộ khóa học của trường thì số khác có thể chuyển sang tiếp tục học tại các trường bình thường khác.

Trong một bữa tối gây quỹ do trường Chush tổ chức, người cha một học sinh đang theo học tại đây đã có những lời phát biểu mà bất cứ ai tham dự hôm đó đều không thể quên được.

Sau khi hết lời ca ngợi ngôi trường cùng đội ngũ giáo viên tận tụy, người cha nói lớn: “Đâu là sự hoàn thiện với Shaya, con trai tôi? Chúa tạo ra mọi thứ đều hoàn hảo, nhưng sao con trai tôi không thể hiểu được những điều mà mọi đứa trẻ khác đều có thể. Sao con trai tôi lại không thể nhớ được chính xác mọi điều như các đứa trẻ bình thường khác. Vậy thì sự hoàn hảo của Chúa là ở đâu?”

Tất cả đám đông đều xúc động trước câu hỏi của người cha, họ đau đớn và sững sờ bởi nỗi thống khổ cũng như lời chất vấn đầy nhức nhối của ông. “Tôi tin rằng,” người cha tiếp tục, “khi Chúa tạo ra một đứa trẻ trong thế giới, sự hoàn thiện cho đứa trẻ mà Người mong mỏi chính là cách thức những người khác đối xử với đứa trẻ ấy”.

Sau đó, ông liền kể cho mọi người nghe câu chuyện về con trai mình:

Một buổi chiều nọ, Shaya cùng bố đi bộ qua khu công viên, lúc đó một vài đứa trẻ Shaya quen đang chơi bóng chày. Shaya hỏi, “Bố có nghĩ là chúng sẽ cho con chơi cùng không hả bố?” Bố Shaya hiểu rằng, con trai mình không thực sự khỏe mạnh và có lẽ tất thảy lũ trẻ đang chơi đó đều không muốn cho nó vào đội của chúng. Nhưng ông cũng biết, nếu được cho phép chơi cùng, Shaya của ông sẽ rất hạnh phúc.

Thế là ông tới gần một trong số những cậu bé trên sân và xin cho Shaya được chơi cùng chúng. Cậu bé liếc nhìn xung quanh tham khảo ý kiến của các bạn chơi khác trong đội. Không có ý kiến phản đối, cậu bèn tự quyết định và nói: “Hiện tại, chúng mình đang thua sáu run (điểm trong bóng chày) và trận đấu đang ở lượt thứ tám. Tớ cho là Shaya có thể tham gia cùng đội mình và chúng mình sẽ thử thách cậu ấy ở lượt đánh thứ chín tới”.

Bố của Shaya đã rất phấn khởi khi nhìn cậu con trai há rộng miệng cười hết cỡ. Lũ trẻ bảo Shaya đeo găng tay vào và ra sân đảm nhiệm vị trí giữa sân.

Cho tới cuối lượt thứ tám thì đội của Shaya cũng ghi thêm được một số run nữa nhưng vẫn thua tới ba run. Và khi gần kết thúc lượt thứ chín, đội của Shaya tiếp tục ghi điểm và lúc này hai thành viên của đội tấn công đã bị loại, chỉ cần loại một người nữa thì đội của cậu sẽ giành chiến thắng. Theo dự kiến thì lúc này Shaya sẽ được tham gia trò chơi.

Nhưng liệu đội bóng có để Shaya chơi vào thời điểm quyết định này không, liệu họ có sợ sẽ vuột khỏi tay cơ hội chiến thắng đã gần kề?

Thật bất ngờ, Shaya đã được chọn là người đánh bóng. Gần như ai cũng hiểu điều đó là không thể vì Shaya thậm chí còn không biết cầm gậy chứ nói gì tới chuyện đánh bóng. Thế nhưng, khi Shaya bước tới đĩa nhà (khu vực đánh bóng) người ném bóng phía đối phương đã bước thêm lên vài bước để tung bóng nhẹ nhàng giúp Shaya ít nhất có thể chạm tới được. Dẫu thế thì khi cú giao bóng đầu tiên bay tới, Shaya vung gậy vẫn rất vụng về và đã đánh trượt bóng. Lần giao bóng tiếp theo, một cậu bé cùng đội tiến tới cạnh Shaya và cùng em nắm gậy, hướng về phía đối phương ném bóng chờ đợi.

Cậu bé giao bóng một lần nữa lại tiến thêm vài bước và ném bóng nhẹ nhàng về phía Shaya. Thế là Shaya với người đồng đội cùng vung gậy lên và đánh vào quả bóng đang từ phía người ném chầm chậm bay tới. Liền sau đó, người ném bắt được bóng và hoàn toàn có thể dễ dàng ném về phía căn cứ thứ nhất. Nhưng nếu làm như thế thì Shaya sẽ bị loại và trận bóng sẽ kết thúc. Thế là cậu bé ném bóng giữ lấy quả bóng vừa bắt và ném bổng vòng cung lên phía sân bên phải, rất xa vị trí của người đồng đội đang đứng ở căn cứ thứ nhất.

Mọi người bắt đầu thét lớn cổ vũ, “Shaya, hãy chạy tới căn cứ thứ nhất. Chạy đi!”. Thế là chưa từng chạy một lần trong đời nhưng lần này Shaya vụt lao tới căn cứ thứ nhất, mắt mở to thoáng chút lo sợ. Khi cậu chạy tới được căn cứ thứ nhất thì người chặn bóng bên phải đã bắt được bóng. Bình thường ra, cầu thủ chặn bóng sẽ ném bóng cho người chốt giữ căn cứ thứ hai và người này sẽ cố chạm được vào người Shaya để loại cậu. Nhưng cậu bé chặn bóng hiểu ngay ý đồ của người ném, thế là cậu liền ném bóng lên cao, vượt qua đầu của người đang chốt giữ căn cứ thứ ba.

Lúc này mọi người lại hô to, “Chạy tới căn cứ thứ hai đi Shaya, chạy đi.” Thế là Shaya lại dốc sức chạy tới căn cứ thứ hai trong khi những người chạy trước cậu đã quây tròn phấn khích quanh các căn cứ hướng về phía đĩa nhà. Lúc Shaya chạy tới được căn cứ thứ hai rồi, một cậu bé đội bạn chặn Shaya lại, lái Shaya theo hướng về căn cứ thứ ba và la lên, “Chạy mau về căn cứ thứ ba.”

Khi Shaya đã chạy tới căn cứ cuối cùng, tất cả các cậu bé của cả hai đội đều chạy sau Shaya và la lớn: “Shaya, chạy về đĩa nhà đi!” Thế là Shaya chạy về đĩa nhà, bước lên đĩa nhà và cả 18 cậu bé liền công kênh Shaya trên vai, biến cậu thành một anh hùng như thể cậu vừa đánh một cú quyết định thắng lợi cho đội nhà.

“Và ngày hôm đó tôi nghĩ rằng,” người cha kết thúc câu chuyện khi nước mắt đã lăn dài trên khuôn mặt, “18 cậu bé kia đã đạt tới cái ngưỡng hoàn hảo mà Chúa dành cho các em”.

Bài học về lòng trung thực   Ngày nọ, ông lão ăn xin gõ cửa một lâu đài tráng lệ. Người quản gia mở cửa và hỏi: “Ngài cần gì?”. Người ăn xin trả lời: “Vì tình yêu của Chúa, xin hãy bố thí cho kẻ nghèo này”. “Tôi phải hỏi ý kiến bà chủ đã” - người quản gia trả lời.

Người quản gia mang chuyện lên hỏi chủ nhà, một quý bà keo kiệt. Bà ta nói:

“Jeremiah, hãy cho ông lão tội nghiệp một ổ bánh mì. Một thôi nhé. Và nếu có thể, đưa bánh ngày hôm qua ấy”.

Jeremiah từ lâu đã thầm yêu bà chủ, và để bà vui lòng, ông lấy một ổ bánh mì cũ, cứng như đá đưa cho lão ăn xin.

“Bánh mì của ông đây, ông lão tội nghiệp” - người quản gia không gọi ông lão ăn xin bằng “ngài” một cách trịnh trọng nữa.

“Chúa phù hộ cho ngài” - ông lão ăn xin trả lời.

Người quản gia đóng cánh cửa đồ sộ bằng gỗ sồi lại, ông lão ăn xin ra đi với ổ bánh mỳ kẹp dưới cánh tay. Ông trở về chốn quen thuộc nơi trú ngụ cả ngày lẫn đêm, ngồi xuống dưới tán cây và bắt đầu ăn ổ bánh vừa xin được.

Đột nhiên, răng ông cắn phải vật gì đó rất cứng. Ông lão hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra chiếc nhẫn vàng nạm kim cương mặt ngọc trai.

“Mình thật may mắn!”, ông lão nghĩ thầm. “Mình bán chiếc nhẫn này đi và sẽ có đủ tiền trong một thời gian dài”. Thế nhưng, lòng trung thực của ông lão ngay lập tức ngăn ý định đó lại: “Không, ta sẽ tìm chủ nhân của chiếc nhẫn và trả nó lại cho họ”.

Bên trong chiếc nhẫn có khắc hai chữ J. X. Ông lão ăn xin không hề ngần ngại nhưng cũng chẳng thông minh tẹo nào, đi thẳng đến cửa hàng và tìm hỏi cuốn niên giám điện thoại. Cả thị trấn chỉ có mỗi một gia đình có tên bắt đầu bằng chữ X: Gia đình Xofaina.

Quá vui mừng vì có cơ hội thể hiện lòng trung thực, ông lão vội đi đến nhà Xofaina. Ông lão rất bất ngờ vì đó chính là gia đình đã cho ông ổ bánh mỳ. Jeremiah mở cửa và hỏi ông lão tội nghiệp cần gì.

“Tôi tìm thấy chiếc nhẫn vàng bên trong ổ bánh mì ngài đã tốt bụng cho tôi lúc nãy” - ông lão trả lời.

Jeremiah cầm chiếc nhẫn lên hỏi ý kiến bà chủ. Bà vui mừng khôn xiết: “May quá, tìm được chiếc nhẫn bị mất tuần trước rồi. Ra ta đã làm rơi nó lúc đang nhào bột làm bánh. J.X. là viết tắt tên của ta, Josermina Xofaina”.

Sau một hồi suy ngẫm, bà chủ nhà nói: “Hãy cho ông lão tội nghiệp đó bất kỳ cái gì ông ấy muốn, miễn là đừng đắt quá”.

Ông quản gia quay xuống hỏi ông lão: “Vì hành động cao đẹp của mình, ông muốn nhận được phần thưởng gì?”.

“Tôi cần một ổ bánh mì vì tôi đang rất đói” - ông lão ăn xin nói.

Và thế là một lần nữa, theo đúng lời bà chủ, người quản gia đưa cho ông lão ăn xin một ổ bánh mì cũ, cứng như đá, không quên nói: “Chúa phù hộ cho ông!”.

Ông lão ăn xin trở về chốn quen thuộc để thưởng thức bánh mì. Đột nhiên, răng ông lại cắn phải vật gì cưng cứng, lại một chiếc nhẫn vàng khác nạm kim cương có mặt ngọc trai. Ông lão nhận ra hai chữ viết tắt quen thuộc J.X.

Một lần nữa ông lão quay trở lại ngôi nhà của gia đình Xofaina để trả nhẫn và nhận ổ bánh mì thứ ba, trong đó ông tìm thấy chiếc nhẫn thứ ba, ông đem trả và nhận tiếp ổ bánh mì thứ tư, trong đó…

Kể từ ngày may mắn tìm thấy nhẫn vàng trong bánh mỳ cho đến ngày xui xẻo rời bỏ thế giới này, ông lão ăn xin đã sống rất vui vẻ và hạnh phúc, không phải lo lắng về vấn đề tiền bạc để mua thức ăn.

Việc duy nhất ông phải làm mỗi ngày là đem trả chiếc nhẫn vàng tìm thấy trong ổ bánh mì…

Xinh đẹp vì bị tan vỡ   Một du khách bước vào cung điện hoàng gia ở Tehran – Iran thì bị mê hoặc bởi khung cảnh của cánh cổng vào rất hùng vĩ và lộng lẫy với lớp thủy tinh óng ánh rực rỡ . Các trần hình mái vòm và những cây cột đường bệ dường như được bao bọc bởi kim cương sáng lấp lánh trong ánh sáng mặt trời. Thật ra chúng là hàng ngàn những mảnh kiếng nhỏ. Những cạnh sắc của hàng nghìn mảnh thủy tinh phát ra màu sắc của cầu vồng.

Khi những kiến trúc sư lập kế hoạch xây dựng cung điện , họ đã đặt hàng rất nhiều tấm kiếng từ một công ty ở Paris để bao bọc những bức tường từ cổng vào. Tuy nhiên khi những miếng kiếng được đưa đến thì những người thợ xây phát hiện ra rằng tất cả chúng đã bị vỡ trên đường chuyển tới. Có hàng ngàn miếng kiếng vỡ vụn. Khi những người thợ chuẩn bị đem vứt bỏ tất cả những mảnh vụn thì một kiến trúc sư đầy sáng tạo đã thấy được những tiềm năng trong những mảnh kiếng vụn và gợi ý rằng có lẽ chúng sẽ trở nên xinh đẹp hơn bởi vì chúng đã tan vỡ. Ông ra lệnh cho những người thợ hãy đập vụn những mảnh kiếng còn nguyên , đoạn ông gắn tất cả những mảnh vụn đó lên trên bức tường của hoàng cung. Giờ đây mỗi khi mặt trời mọc lên cao thì chúng chiếu sáng lấp lánh như hàng nghìn viên kim cương rực rỡ.

“Bạn có thể tưởng tượng những người thợ đã thất vọng như thế nào khi họ mở những kiện hàng vỡ vụn ra chăng? Có lẽ bạn cũng đã từng thất vọng tương tự như vậy. Có bao giờ bạn đã ở trong hoàn cảnh mà tất cả những kế hoạch , những ước mơ của bạn giờ đây đã tan thành mây khói ? Đó là những lúc chúng ta dễ nản chí , dễ gục ngã. Nhưng chúng ta có thể có thể vượt lên trên nghịch cảnh. Chúng ta có thể biến những “mảnh vụn” đó thành những tuyệt tác xinh đẹp hơn!  

Đừng tưởng mình ghê ghớm   Booth Tarkington là nhà văn và nhà soạn kịch nổi tiếng của nước Mỹ thế kỷ 20. Hai cuốn tiểu thuyết “The Magnificent Ambersons” và “Alice Adams” của ông từng được tặng giải thưởng Pulitzer. Trong thời kỳ tên tuổi Booth Tarkington còn nổi đình nổi đám trên văn đàn Mỹ, ông thường hay kể một câu chuyện như sau.

"Chuyện xảy ra trong một triển lãm các tác phẩm nghệ thuật do Hội Chữ thập đỏ Mỹ tổ chức. Hôm ấy tôi tới với tư cách khách mời đặc biệt. Khi đang đứng trong gian trưng bày, bỗng tôi thấy có hai cô gái chừng 17-18 tuổi tiến lại trước mặt mình và chân thành xin tôi chữ ký.

- Rất xin lỗi là tôi không mang theo bút máy, liệu tôi có thể dùng bút chì để ký tên được không, thưa hai cô?

Thật ra trong bụng tôi thừa biết hai cô gái sẽ không từ chối việc tôi ký tên bằng bút chì, nhưng tôi chỉ muốn tỏ ra mình có phong thái đại gia - tuy là một nhà văn nổi tiếng mà vẫn khiêm tốn với các bạn đọc bình dân.

- Dĩ nhiên là được ạ!

Quả nhiên hai cô vé vui vẻ đồng ý. Nhìn thấy nét mặt hân hoan phấn khởi của họ, dĩ nhiên tôi rất khoan khoái, tự hào.

Một cô gái lấy ra từ ví cuốn sổ bìa cứng gáy mạ vàng rất xinh đẹp đưa cho tôi. Tôi rút bút chì, lịch lãm đề tặng mấy câu khích lệ họ rồi ký tên mình.

Sau khi nhìn thấy chữ ký của tôi, cô gái bỗng nhíu hai hàng lông mày chăm chú nhìn kỹ tôi rồi hỏi:

- Thế ra ông không phải là Robert Sherwood ạ?”.

- Ồ, không phải! - Tôi vô cùng tự phụ trả lời - Tôi là Booth Tarkington, tác giả cuốn Alice Adams, hai lần đoạt giải Pulitzer.

Cô gái liền quay đầu lại phía bạn mình rồi nhún vai bảo:

- Mary, cho tớ mượn cái tẩy của cậu một tí.

Giây phút ấy, tất cả mọi niềm kiêu hãnh, tự phụ của tôi lập tức tan như bong bóng xà phòng. Từ đó trở đi, tôi luôn tự nhắc nhở bản thân: Cho dù mình có tài giỏi đến đâu đi nữa thì cũng chớ bao giờ tưởng rằng mình ghê gớm lắm."

Người Mỹ dạy bài học "Cô bé Lọ Lem" như thế đấy!   Giờ học văn bắt đầu. Hôm nay thầy giảng bài Chuyện Cô bé Lọ Lem.

Trước tiên thầy gọi một học sinh lên kể chuyện Cô bé Lọ lem. Em học sinh kể xong, thầy cảm ơn rồi bắt đầu hỏi.

Thầy: Các em thích và không thích nhân vật nào trong câu chuyện vừa rồi?

Học sinh (HS): Em thích Cô bé Lọ Lem Cinderella ạ, và cả Hoàng tử nữa nhưng không thích bà mẹ kế và chị con riêng bà ấy. Cinderella tốt bụng, đáng yêu, lại xinh đẹp. Bà mẹ kế và cô chị kia đối xử tồi với Cinderella.

Thầy: Nếu vào đúng 12 giờ đêm mà Cinderella chưa kịp nhảy lên cỗ xe quả bí thì sẽ xảy ra chuyện gì?

HS: Thì Cinderella sẽ trở lại có hình dạng lọ lem bẩn thỉu như ban đầu, lại mặc bộ quần áo cũ rách rưới tồi tàn. Eo ôi, trông kinh lắm.

Thầy: Bởi vậy, các em nhất thiết phải là những người đúng giờ, nếu không thì sẽ tự gây rắc rối cho mình. Ngoài ra, các em tự nhìn lại mình mà xem, em nào cũng mặc quần áo đẹp cả. Hãy nhớ rằng chớ bao giờ ăn mặc luộm thuộm mà xuất hiện trước mặt người khác. Các em gái nghe đây: các em lại càng phải chú ý chuyện này hơn. Sau này khi lớn lên, mỗi lần hẹn gặp bạn trai mà em lại mặc luộm thuộm thì người ta có thể ngất lịm đấy (Thầy làm bộ ngất lịm, cả lớp cười ồ). Bây giờ thầy hỏi một câu khác. Nếu em là bà mẹ kế kia thì em có tìm cách ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử hay không? Các em phải trả lời hoàn toàn thật lòng đấy.

HS: (im lặng, lát sau có em giơ tay xin nói) Nếu là bà mẹ kế ấy, em cũng sẽ ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội.

Thầy: Vì sao thế?

HS: Vì... vì em yêu con gái mình hơn, em muốn con mình trở thành hoàng hậu.

Thầy: Đúng. Vì thế chúng ta thường cho rằng các bà mẹ kế dường như đều chẳng phải là người tốt. Thật ra họ chỉ không tốt với người khác thôi, chứ lại rất tốt với con mình. Các em hiểu chưa? Họ không phải là người xấu đâu, chỉ có điều họ chưa thể yêu con người khác như con mình mà thôi.

Bây giờ thầy hỏi một câu khác: Bà mẹ kế không cho Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử, thậm chí khóa cửa nhốt cô bé trong nhà. Thế tại sao Cinderella vẫn có thể đi được và lại trở thành cô gái xinh đẹp nhất trong vũ hội?

HS: Vì có cô tiên giúp ạ. Cô cho Cinderella mặc quần áo đẹp, lại còn biến quả bí thành cỗ xe ngựa, biến chó và chuột thành người hầu của Cinderella.

Thầy: Đúng, các em nói rất đúng. Các em thử nghĩ xem, nếu không có cô tiên đến giúp thì Cinderella không thể đi dự vũ hội được, phải không?

HS: Đúng ạ.

Thầy: Nếu chó và chuột không giúp thì cuối cùng Cinderella có thể về nhà được không?

HS: Không ạ.

Thầy: Chỉ có cô tiên giúp thôi thì chưa đủ. Cho nên các em cần chú ý: Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta đều cần có sự giúp đỡ của bạn bè. Bạn của ta không nhất định là tiên là bụt, nhưng ta vẫn cần đến họ. Thầy mong các em có càng nhiều bạn càng tốt. Bây giờ, đề nghị các em thử nghĩ xem, nếu vì mẹ kế không muốn cho mình đi dự vũ hội mà Cinderella bỏ qua cơ hội ấy thì cô bé có thể trở thành vợ của hoàng tử được không?

HS: Không ạ! Nếu bỏ qua cơ hội ấy thì Cinderella sẽ không gặp hoàng tử, không được hoàng tử biết và yêu.

Thầy: Đúng quá rồi! Nếu Cinderella không muốn đi dự vũ hội thì cho dù bà mẹ kế không ngăn cản đi nữa, thậm chí bà ấy còn ủng hộ Cinderella đi nữa, rốt cuộc cô bé cũng chẳng được lợi gì cả. Thế ai đã quyết định Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử?

HS: Chính là Cinderella ạ.

Thầy: Cho nên các em ạ, dù Cinderella không còn mẹ đẻ để được yêu thương, dù bà mẹ kế không yêu cô bé, những điều ấy cũng chẳng thể làm cho Cinderella biết tự thương yêu chính mình. Chính vì biết tự yêu lấy mình nên cô bé mới có thể tự đi tìm cái mình muốn giành được. Giả thử có em nào cảm thấy mình chẳng được ai yêu thương cả, hoặc lại có bà mẹ kế không yêu con chồng như trường hợp của Cinderella, thì các em sẽ làm thế nào?

HS: Phải biết yêu chính mình ạ.

Thầy: Đúng lắm! Chẳng ai có thể ngăn cản các em yêu chính bản thân mình. Nếu cảm thấy người khác không yêu mình thì em càng phải tự yêu mình gấp bội. Nếu người khác không tạo cơ hội cho em thì em cần tự tạo ra thật nhiều cơ hội. Nếu biết thực sự yêu bản thân thì các em sẽ tự tìm được cho mình mọi thứ em muốn có. Ngoài Cinderella ra, chẳng ai có thể ngăn trở cô bé đi dự vũ hội của hoàng tử, chẳng ai có thể ngăn cản cô bé trở thành hoàng hậu, đúng không?

HS: Đúng ạ, đúng ạ!

Thầy: Bây giờ đến vấn đề cuối cùng. Câu chuyện này có chỗ nào chưa hợp lý không?

HS: (im lặng một lát) Sau 12 giờ đêm, mọi thứ đều trở lại nguyên dạng như cũ, thế nhưng đôi giày thủy tinh của Cinderella lại không trở về chỗ cũ.

Thầy: Trời ơi! Các em thật giỏi quá! Các em thấy chưa, ngay cả nhà văn vĩ đại (nhà văn Pháp Charles Perrault, tác giả truyện Cô Bé Lọ Lem - chú thích của người dịch) mà cũng có lúc sai sót đấy chứ. Cho nên sai chẳng có gì đáng sợ cả. Thầy có thể cam đoan là nếu sau này có ai trong số các em muốn trở thành nhà văn thì nhất định em đó sẽ có tác phẩm hay hơn tác giả của câu chuyện Cô bé Lọ lem! Các em có tin như thế không?

Tất cả học sinh hồ hởi vỗ tay reo hò.

Cánh cửa không bao giờ khoa

Ở nước Schotland, tại tỉnh Glasgow, có một cô gái trẻ, như số ít các thanh thiếu niên ngày nay thường làm: chán sống chung trong một gia đình nề nếp. Cô gái chán lối sống khuôn phép của gia đình và bảo:

- Con không muốn tin ông trời của ba mẹ. Con mặc kệ. Con đi đây!

Thế là cô bỏ nhà ra đi, quyết định lấy thế giới bao la làm nhà của mình. Tuy nhiên chẳng bao lâu thì cô bị ruồng bỏ và vì không tìm ra việc làm, cô phải làm gái đứng đường, đem thân xác hình hài mình ra làm thứ để mua bán đổi chác. Năm tháng cứ thế trôi qua, cha cô qua đời, mẹ cô già đi, và cô con gái ấy càng ngày càng sa đọa trong lối sống của mình.

Không còn chút liên lạc nào giữa hai mẹ con trong những năm tháng ấy. Bà mẹ nghe đồn về lối sống của con gái mình, bà đã đi tìm con trong khắp thành phố. Bà đến từng nhóm cứu trợ với lời thỉnh cầu đơn giản:

- Làm ơn cho tôi chưng ở đây tấm hình này.

Đó là tấm hình của một bà mẹ tóc đã muối tiêu, mỉm cười với hàng chữ: " Mẹ vẫn yêu con... Hãy về nhà đi con".

Vài tháng lại trôi qua, vẫn không có gì xảy ra. Rồi một ngày nọ cô gái đến một toán cứu trợ nhận bữa ăn cứu đói. Cô chẳng buồn chú ý đến những lời giáo huấn, mắt lơ đễnh nhìn những thông báo. Chợt cô thấy tấm hình và tự hỏi: " Có phải mẹ mình không nhỉ?"

Cô không còn lòng dạ nào chờ cho hết buổi lễ. Cô đứng lên, ra xem kỹ bức ảnh. Đúng rồi, đúng là mẹ cô và cả những lời bà viết nữa:" Mẹ vẫn yêu con... Hãy về nhà đi con!". Đứng trước tấm hình cô bật khóc.

Lúc đó trời đã tối nhưng bức hình đã làm cô gái xúc động đến mức cô quyết định phải đi bộ về nhà. Về đến nhà trời đã sáng. Cô sợ hãi khép nép không biết sẽ phải nói ra sao. Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khóa. Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà. Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô gái trẻ chạy vội đến buồng ngủ của bà và thấy bà vẫn còn đang ngủ yên. Cô lay đánh thức mẹ mình dậy và thưa:

- Mẹ ơi! Con đây! Con đã về nhà rồi!

Bà mẹ không tin vào đôi mắt mình. Bà lau nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau. Cô con gái nói với mẹ:

- Mẹ à, con lo quá. Cửa mở không khóa nên con tưởng nhà có trộm.

Bà mẹ dịu dàng trả lời:

- Không phải vậy đâu con à. Từ ngày con bỏ đi, cửa nhà mình chưa hề khóa.

2 ngàn sửa xe   Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba rồi ba đích thân lên đưa cho tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba ...

Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi: "Có dư đồng nào không con?".

Tôi đáp: "Còn dư bốn ngàn ba ạ".

Ba nói tiếp: "Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa".

Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro