GSNT+NTK3+DTTQ+DTCT

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

“Được rồi, chỉ mong thuyền đến đầu cầu tự nhiên trót lọt.” Việc đã đến nước này, Hoàng Nhan Phi Ưng cũng chỉ có thể an ủi chính mình như vậy. 

Tên đã bắn đi thì không quay đầu lại, chiến lược của hải quân Lam Vũ tại biển Gia Lặc Tân đã triển khai đến giai đoạn gấp rút rồi, cho dù phải trả một cái giá khá đắt, thì cũng phải làm. Hải tặc Ca Âu chẳng những tăng mạnh lực lượng ở biển Gia Lặc Tân, hơn nữa bắt đầu dự trù bộ đội lục quân chuẩn bị tiến quân vào Y Lệ Nạp, điều này đối với quân Lam Vũ mà nói, tuyệt đối là không thể tiếp nhận.

Trong sự lo lắng của Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàng Nhan Phi Ưng, hạm đội khổng lồ tiếp tục chậm rãi tiến vào hướng bắc, hai giờ sau, hạm đội đã tới ven bờ Đảo Kim Quy, bọn họ mừng rỡ phát hiện, sóng biển nơi này quả thực thấp hơn so với bên ngoài một ít, nhưng vẫn cao tầm một thước hai, vẫn không thích hợp cho đội hải quân lục chiến đội đổ bộ. Nhưng căn cứ dự báo khí tượng, sóng biển còn có thể tiếp tục lặng xuống, chỉ cần hai ba giờ tới, là có thể giảm xuống đến phạm vị mà đội hải quân lục chiến có thể tiếp nhận.

Đặc Lan Khắc Tư thở phào một hơi, quyết định sau khi chiến dịch chấm dứt, sẽ tặng cho ngành khí tượng một tấm huân chương hạng nhất, thưởng cho cống hiến xuất sắc của bọn họ. Hắn cùng Hoàng Nhan Phi Ưng bàn bạc sơ qua xong xuôi. Hoàng Nhan Phi Ưng trở về tới chiến hạm vận chuyển của mình, tự mình chỉ huy công việc đưa đội hải quân lục chiến đội lên thuyền. Đặc Y Khắc Tư giơ cao ống dòm, bình tĩnh đánh giá Đảo Kim Quy đang ở không xa phía trước. Từ bên trong ống dòm, Đảo Kim Quy chính là một hòn đảo nhỏ trụi lủi, không có bất cứ thực vật gì, hình thù của nó giống như là một con rùa đang cúi đầu, đầu rùa hướng về phương nam. Mà lưng và đuôi rùa đều ở phương bắc.

Khí hậu và hoàn cảnh trên Đảo Kim Quy đều phi thường khắc nghiệt, trên thực tế, tại biển Gia Lặc Tân, ngoại trừ quần đảo Đại Mã Cốc ra, sẽ không có bất kỳ hòn đảo nhỏ nào có khí hậu và hoàn cảnh thích hợp cho con người sinh tồn, những đảo nhỏ này luôn luôn làm người khác phải e dè ngưng bước, cho dù thương thuyền qua lại cũng không nguyện ý ghé vào nơi đó. Đảo Kim Quy nghe nói lúc có mặt trời. Ban ngày nhiệt độ cao nhất có thể vượt qua năm mươi độ C, ban đêm lúc không có mặt trời, khí hậu lại có thể tụt xuống chỉ có mười độ, mỗi ngày đều có gió biển thổi kịch liệt, hơn nữa gió biển có chứa lực ăn mòn mãnh liệt, một thanh cương đao đặt ở bên ngoài, trong vòng thời gian nửa tháng có thể bị rỉ sét ăn mòn tơi tả.

Song, vị trí quyết định của Đảo Kim Quy đương nhiên là chỗ mà những nhà quân sự nhất định phải tranh giành, nó vững vàng ngăn chặn cửa ra của biển Linh Đình, bất cứ thế lực lớn nào đến từ phương nam. Muốn tiến vào biển Gia Lặc Tân, đều phải tóm được Đảo Kim Quy, làm nơi tiếp tế tiếp viện cho hạm đội hải quân đồng thời là điểm xuất phát. hạm đội Hải quân Lam Vũ cũng như vậy, hải quân Lam Vũ muốn hoàn toàn khống chế biển Gia Lặc Tân, thì phải chiếm được toàn bộ Đảo Kim Quy cùng đảo Hỏa Điểu, mà Đảo Kim Quy, lại là điểm quan trong nhất trong số những điểm quan trọng. 

Đặc Lan Khắc Tư nhìn đồng hồ tay một chút, phát ra tín hiệu chuẩn bị tiến công.

Ầm ầm đùng.....

Hạm đội Trát Lan Đinh bắt đầu đợt pháo kích đầu tiên. Ba mươi chiến hạm Long Nha thong thả từ bên trong hạm đội vận chuyển thoát ra ngoài, bao vây vòng quanh Đảo Kim Quy mà sắp thành đội hình hình quạt, pháo hỏa mãnh liệt từ từ bao trùm bề mặt Đảo Kim Quy. Mục tiêu phi thường rõ ràng, pháo thủ của hải quân Lam Vũ có nhắm mắt lại cũng có thể bắn trúng mục tiêu, những mảnh đá sắc lẹm bị hỏa pháo bùng nổ bay tứ tung tạo thành một màn tro bụi màu trắng thật lớn, rất nhanh đã nhấn chìm toàn bộ phía nam của Đảo Kim Quy vào một màn khói bụi mù mịt, thoạt nhìn cứ như cả hòn đảo nhỏ đang bốc cháy lên, khói bụi nghi ngút.

Đại bộ phận chiến hạm Long Nha của hạm đội Đặc Lan Khắc Tư cũng tham dự vào trận pháo kích. Bao gồm kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, lúc đạn pháo phóng ra, chiến hạm Long Nha đều phải sinh ra một cơn chấn động kịch liệt, trong thứ dư chấn có quy luật này, Đặc Lan Khắc Tư ngược lại còn cảm giác được lòng mình rất nhanh đã yên tâm trở lại. Trải qua quan sát tỉ mỉ. Hắn phát hiện sóng biển phụ cận quả thực đang từ từ hạ thấp, theo từng phút trôi qua.

Hẳn là có thể giảm thấp đến mức độ đội hải quân lục chiến đổ bộ có thể tiếp nhận.

“Hiệu quả thế nào?” Vừa nhìn thấy viên quan chỉ huy pháo binh đi qua trước mặt mình, Đặc Lan Khắc Tư trầm thấp hỏi.

Từ khi viên quan chỉ huy xuất sắc nhất dưới tay hắn là Tái Nhĩ Đái bị Phất Lai Triệt dùng tâm kế tỉ mỉ xếp đặt âm mưu dụ dỗ sang bên phe hắn mất, Đặc Lan Khắc Tư không thể không một lần nữa tỉ mỉ bồi dưỡng một viên quan chỉ huy pháo binh mới, nhưng viên quan chỉ huy pháo binh mới này, không biết tại sao, luôn làm cho Đặc Lan Khắc Tư cảm giác được trình độ của hắn không đạt được yêu cầu của mình, có lẽ, cậu thanh niên tên là Dực Tường này còn cần thêm nhiều va chạm thực tế.

“Đủ phá hủy.” Quả nhiên, quan chỉ huy hỏa pháo Dực Tường đưa cho hắn một câu trả lời rất không đủ tin tưởng.

Những kiến trúc công sự phòng ngự trên đảo Kim Quy hết sức kiên cố và chắc chắn, bởi vì nơi này vốn là một hòn đảo bằng đá rất lớn, từ lúc đầu khi Đường Lãng suất lĩnh hải quân đế quốc Đường Xuyên cướp đoạt nơi này, từ đó trở đi công việc xây dựng công sự phòng ngự nơi này không hề dừng lại, sau khi hải quân Lam Vũ quật khởi, hải tặc Ca Âu cũng tốn hao thật lớn khí lực đến tu sửa công sự phòng ngự trên Đảo Kim Quy, điều này đối với hải tặc Ca Âu thường hay hoành hành bá đạo mà nói, cũng là hành động vĩ đại trước nay chưa có.

Căn cứ vào tư liệu ngành tình báo cung cấp, cộng với hải quân Lam Vũ tự mình quan sát, Đảo Kim Quy có vô số địa phương đều đã bị đào rỗng, bọn hải tặc Ca Âu đều đang ẩn núp ở phía dưới tầng nham thạch khổng lồ, căn bản không hề sợ hãi đại pháo của hải quân Lam Vũ. Dưới đạn pháo bắn trúng liên tục không ngừng, uy thế pháo kích quân Lam Vũ thoạt nhìn hết sức mạnh mẽ, có cảm giác đất rung núi chuyển, nhưng, pháo kích rốt cục có thể gây tổn hại bao nhiêu đến Đảo Kim Quy, viên quan chỉ huy hỏa pháo tuổi còn trẻ, ít kinh nghiệm không thể ước lượng được, Đặc Lan Khắc Tư cùng Trát Lan Đinh trong lòng tự nhiên cũng không thể ước tính, không thể làm gì khác hơn là đi từng bước xem từng bước.

Pháo kích giằng co suốt một giờ rưỡi, cơ bản bao trùm toàn bộ bán đảo phía nam Đảo Kim Quy. Căn cứ địa hình Đảo Kim Quy, bến tàu và đường ra vào Đảo Kim Quy chủ yếu đều ở nam bộ, hải quân lục chiến Lam Vũ cướp đoạt được phía nam đảo, cũng cơ bản xem như đã khống chế hòn đảo. Chứng kiến pháo hỏa hải quân mãnh liệt như thế, rất nhiều chiến sĩ hải quân lục chiến đều trở nên hưng phấn la hét om xòm, trong mắt bọn họ, dưới pháo hỏa hải quân mãnh liệt như thế, cho sù hải tặc Ca Âu không bị tử vong toàn bộ. Đại khái cũng bị pháo hỏa gây chấn động hôn mê hoàn toàn.

Ba giờ hai mươi phút chiều, bên khí tượng đã phát ra tin tức mà mọi người đang chờ mong, sóng biển đã hạ thấp đến độ cao 0,5 mét, hoàn toàn phù hợp yêu cầu đổ bộ, Đặc Lan Khắc Tư lập tức không cần nghĩ ngợi phát ra tín hiệu hải quân lục chiến bắt đầu đổ bộ. Liên tục bắn ba phát pháo sáng làm tín hiệu bắn bầu trời đang khói bụi mù mịt, phát ra ánh sáng đỏ tươi rực rỡ.

Những tiếng pháo hiệu dồn dập theo ánh sáng chói lọi lóe lên không ngừng vang lên,

các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ lục tục đu theo dây hai bên mạn tàu vận chuyển chậm rãi tuột xuống trên thuyền chuyên chở quân đổ bộ. Mặc dù mức sóng biển bình quân chỉ có 0,5 mét. Nhưng ngẫu nhiên, vẫn có một vài cơn sóng lớn không đoán trước được ập tới, khiến những chiếc thuyền đổ bộ yếu ớt này dập dềnh mạnh chỉ chực lật úp, các chiến sĩ đổ bộ đang ngồi trên khoang thuyền đều bị xóc nảy sắc mặt tái nhợt, có vài người bắt đầu cúi đầu cầu trời khấn phật tai qua nạn khỏi.

Đột nhiên đúng lúc này, có một chiếc thuyền đổ bộ cuối cùng chống cự không được sóng biển mãnh liệt đánh mạnh vào, va chạm kịch liệt cùng thân tàu vận chuyển. Ngay lập tức lật úp, hơn mười chiến sĩ hải quân lục chiến trên thuyền toàn bộ rơi đều bị rơi xuống nước, may là thuyền đổ bộ chưa hoàn toàn chìm nghỉm, cho nên bọn họ đều vội vàng bám lấy thân thuyền trèo lên, nhưng vẫn có bốn chiến sĩ bởi vì lưng đeo trang bị không có kịp thời giải khai, sau khi chìm xuống không còn trở lên được nữa.

Chiến đấu chưa bắt đầu, đã xuất hiện thương vong, một bộ phận chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đều có chút mất tinh thần, các sĩ quan đang không ngừng chỉ huy những chiến sĩ này leo xuống thuyền đổ bộ, đồng thời không ngừng động viên, khích lệ tinh thần bọn họ. Hoàng Nhan Phi Ưng tự mình xuất hiện ở chỗ xảy ra chuyện không may, khích lệ quan binh chung quanh, các chiến sĩ mới hồi phục lại tinh thần một chút.

Ba giờ năm mươi hai phút chiều, nhóm số một thuộc hải quân lục chiến Lam Vũ chuẩn bị đổ bộ, bọn họ chính là tiểu đoàn số một do A Ba Đốn suất lĩnh. Bọn họ chất lên tổng cộng ba mươi sáu con thuyền đổ bộ, mỗi thuyền đổ bộ đại khái chở được chừng hai mươi người, chậm rãi hướng về bến tàu Đảo Kim Quy. các chiến sĩ Hải quân lục chiến Lam Vũ đeo áo phao, ánh mắt đều hết sức căng thẳng. sóng biển nơi này gây cho bọn họ phiền toái rất nghiêm trọng, rất nhiều người thấy an hem chiến sĩ rơi xuống nước chìm nghỉm, tâm tình đều có phần sa sút, hơn nữa sự xóc nảy của thuyền đổ bộ quả thực gây cho bọn họ cực kì nguy hiểm, chỉ cần chút sơ sót không cẩn thận, bọn họ cũng sẽ nhận lấy vận mệnh xấu số như vậy.

Sắc mặt Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàng Nhan Phi Ưng cũng đanh lại, vô cùng căng thẳng, lo lắng mãi không thôi.

Sau khi thuyền đổ bộ đã rời khỏi phạm vi hạm đội. đang cách ven bờ đảo Kim Quy còn chưa đầy một trăm thước, trong khoảng cách một trăm thước này, bởi vì sóng biển đập vô những mỏm đá ngầm ở những vách đá ven bờ, cho nên cực kỳ hỗn loạn và dữ dội, chỗ cặp bờ nước chảy vô cùng rối loạn. Có một vài con thuyền đổ bộ bị hải lưu xô vào không không ngừng quay mòng mòng quanh một chỗ, mặc dù các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đều liều mạng lái thuyền theo đúng hướng. Nhưng thuyền đổ bộ vẫn thủy chung không nhích thêm được chút nào.

Rất nhiều chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ rốt cuộc phát hiện, hằng ngày bọn họ chịu huấn luyện tàn khốc nhưng vẫn không hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu mà điều kiện ác liệt ở biển Gia Lặc Tân đòi hỏi, dòng chảy ngầm trong lòng hải dương nơi đây, sóng biển nơi này, đều so với tình huống xấu nhất mà bọn hắn có thể tưởng tượng còn muốn kinh khủng hơn một trăm lần, đối mặt với thứ nước biển sâu thăm thẳm đen thui không nhìn thấy đáy này, đối với những ai mà tâm lý hơi yếu một chút là khó có thể chịu đựng nổi, có bộ phận chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ thậm chí còn căng thẳng đến mức lén lút nhắm hai mắt lại lầm rầm cầu nguyện.

Chiếc thuyền đổ bộ đầu tiên rốt cuộc cũng đã cập bờ, nhưng đây không phải do được điều khiển chủ động tiến vào, mà là do sóng biển đẩy bọn họ dạt lên, trong sự va chạm kịch liệt, toàn bộ chiến sĩ hải quân lục chiến trên khoang thuyền đổ bộ đều rơi cả xuống nước, may là các chiến sĩ này tựa hồ đã sớm chuẩn bị phòng khi rơi xuống nước, cho nên động tác đều phi thường nhanh nhẹn, cơ hồ là không cần nghĩ ngợi bèn vứt hết tất cả vật tư không phải đạn dược trên người, rất nhanh ngoi lên nước biển đen ngòm lạnh như băng.

Đặc Lan Khắc Tư căng thẳng giơ ống dòm lên nhìn bọn họ, rất nhanh đã phát hiện ra đó chính là thành viên hải quân lục chiến đội đột kích bạo hùng do Lâm Từ Luật suất lĩnh Trong toàn bộ biên chế chiến đấu của trung đoàn số bốn hải quân lục chiến Lam Vũ, số chiến sĩ có kinh nghiệm đổ bộ, cũng chỉ có năm mươi nhân viên Lâm Từ Luật dưới tay hắn, các chiến sĩ còn lại đều chỉ mới tiếp nhận qua huấn luyện đổ bộ, lần đổ bộ này chính là cuộc chiến xương máu của bọn hắn, xuất hiện chuyện ngoài ý muốn là khó tránh khỏi.

Quả nhiên, theo sau lại có vài chiếc thuyền đổ bộ bởi vì cùng nguyên nhân cũng bị đánh dạt lên bờ biển, thuyền đổ bộ bị lật úp, các chiến sĩ hải quân lục chiến trên khoang thuyền cũng rơi toàn bộ xuống nước, nhưng bọn họ không có tố chất cùng phản ứng tốt như đội đột kích Bạo Hùng, đại khái có một phần ba chiến sĩ sau khi chìm xuống đã không còn nổi lên nữa. Chứng kiến liên tiếp có thuyền đổ bộ bị lật úp vào trong mặt nước biển lạnh như băng, đội thuyền quân Lam Vũ còn lại vội vàng triển khai công việc cứu viện. Kết quả làm chậm lại tiến trình đổ bộ, Đặc Lan Khắc Tư muốn hạ lệnh bọn họ bỏ mặc những người đã bị rơi xuống nước, nhanh chóng đi tới, nhưng cuối cùng vẫn do dự không hạ lệnh.

Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàng Nhan Phi Ưng đều để hết tâm trí vào mắt vào miệng, nếu lúc này hải tặc Ca Âu đột nhiên phát động phản kích, thì một tiểu đoàn của A Ba Đốn đều phải trở thành vật hi sinh, bọn họ hiện tại đang trong thời điểm tay chân luống cuống. nếu phải hứng chịu bất cứ dạng công kích nào thì cũng đều là đòn trí mạng. Song, làm bọn hắn thở phào nhẹ nhõm một hơi chính là, hải tặc Ca Âu không xuất hiện.

Rốt cuộc, đội hải quân lục chiến Lam Vũ đã thành công cập được vào bờ Đảo Kim Quy, lên bờ đầu tiên chính là các chiến sĩ đội đột kích Bạo Hùng thuộc trung đoàn hải quân lục chiến Lam Vũ số bốn, nhưng không phải đội ngũ của Lâm Từ Luật, mà là đội ngũ của Du Tiên Phong. Bọn Du Tiên Phon chứng kiến thuyền đổ bộ của Lâm Từ Luật bị lật úp. Bọn họ đều đã rút được kinh nghiệm, bèn tung móc câu móc vào những hòn đá xa xa trên bờ, khi thuyền đổ bộ của bọn hắn cặp bờ thành công, bọn họ bèn dựa vào lực kéo của móc câu, đồng tâm hiệp lực giữ thăng bằng cho thuyền đổ bộ, tiếp theo đó, bọn họ từ khoang thuyền đổ bộ thuận lợi đặt chân lên bờ biển Đảo Kim Quy thành công.

Đảo Kim Quy im ắng lạ thường, dường như không có bất cứ sự tồn tại nào của hải tặc Ca Âu. Bọn Du Tiên Phong liên tục đi tới ước chừng một ngàn thước, vẫn không phát hiện bóng dáng hải tặc Ca Âu, vì vậy Du Tiên Phong tự mình ở lại quan sát động tĩnh. Để cho những chiến sĩ còn lại quay trở lại hỗ trợ cho các chiến sĩ hải quân lục chiến khác đổ bộ bình an, có bọn họ trên bờ hiệp trợ, các thuyền đổ bộ phía sau vững vàng hơn nhiều.

Du Tiên Phong một thân một mình tay kè kè súng tự động, cẩn trọng từng chút một quan sát hết thảy chung quanh, gió nhẹ thổi qua, dẫn theo hơi nước biển lạnh lẽo, nhưng hết thảy đều an tĩnh như vậy, đừng nói là hải tặc Ca Âu.

Chính là ngay cả vật thể sống còn không có. Song, các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ bao gồm Du Tiên Phong ở bên trong đều rất rõ, trên đảo Kim Quy, có ít nhất ba nghìn hải tặc Ca Âu vô cùng hung ác, nhưng mà, bọn chúng rốt cục đang lẩn trốn ở nơi nào rồi chứ?

Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàng Nhan Phi Ưng cũng rất nhanh phát hiện sự kỳ lạ trên đảo Kim quy, nhưng bọn họ tạm thời không có tâm tư truy cứu bọn hải tặc Ca Âu rốt cục là chui rúc ở xó xỉnh nào rồi. Bọn họ hiện tại muốn làm nhất, chính là nhanh chóng đưa nhân viên cùng vật tư của đội hải quân lục chiến nhiều đến mức có thể đưa đến trên đảo. nhân viên hải quân lục chiến trên bờ biển càng ngày càng nhiều, thuyền đổ bộ bị lật úp đã không xảy ra nữa, bộ phận súng cùng bách kích pháo cũng đã bình an chuyển dời đến trên đảo, Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàng Nhan Phi Ưng bấy giờ mới âm thầm thở phào một hơi.

Lúc này bọn họ. Mới có tâm tư lo lắng, bọn hải tặc ca âu đều ẩn giấu đi đâu rồi chứ?

Nửa giờ sau. A Ba Đốn xuất hiện trên bờ biển, chỉ huy thay bọn Du Tiên Phong, bọn Lâm Từ Luật cũng khắp người ướt sũng chạy hộc tốc đến bên Du Tiên Phong. Lâm Từ Luật bí mật làm một cử chỉ đánh nhau, Du Tiên Phong bèn dẫn theo các tay súng Vũ Văn Nghiệt cùng Triệu Chi Vũ luân phiên che chở tiến lên, bọn họ rón rén đi tới chỗ trũng nhất trên đảo, toàn bộ thủ lưu đạn đều đã rút chốt, chuẩn bị một khi bắt gặp hải tặc Ca Âu tấn công, lập tức sẽ cho bọn hắn một cơn mưa lưu đạn mãnh liệt nhất. 

Song, vẫn không có bóng dáng hải tặc Ca Âu, cả hòn đảo đều im ắng, tựa hồ hoàn toàn không có dấu hiệu của sự sống. bọn Du Tiên Phong dựa theo kế hoạch tác chiến từ trước, lén lút tiến đến hướng vị trí bến tàu, trên đảo Kim Quy, chỉ có một bến tàu duy nhất, ngay con mắt bên phải của hòn đảo hình con rùa rụt đầu này.

Chỗ ưu điểm nhất của bến tàu này chính là cảng nước sâu, chiến liệt hạm loại lớn nhất là ngũ đài sơn vẫn có thể neo đậu tại đây, mặc dù một lúc chỉ có thể đủ neo đậu sáu chiến hạm khổng lồ, nhưng đối với Đảo Kim Quy mà nói, đã là một điểm tuyệt vời lắm rồi.

Vị trí bến tàu của Đảo Kim Quy, luôn luôn là vị trí phòng thủ trọng điểm nhất của kẻ nào chiếm giữ hòn đảo, trước kia hải quân đế quốc Đường Xuyên là như thế, hiện tại hải tặc Ca Âu cũng là như thế, đều xây dựng đại lượng công sự phòng ngự, bố trí đại lượng binh lực tinh nhuệ ở chung quanh bến tàu. Du Tiên Phong đơn giản nhìn lướt qua, đã phát hiện vị trí bến tàu đã bị một bức tường đá chắc chắn bao vây hoàn toàn phong tỏa, căn bản không thể vượt qua. Chỗ khác trên đảo Kim Quy đều không có, khắp nơi đều chỉ có đá tảng rải rác, xem ra đã bị hải tặc Ca Âu lợi dụng nguyên vẹn.

Quý Nhạn Bình lén lút nhô đầu ra, muốn quan sát động tĩnh sau bức tường đá, đột nhiên đúng lúc này nghe được thình thịch một tiếng, lập tức nhanh nhẹn ngã xuống né, hắn là chiến binh thân kinh bách chiến, đương nhiên biết loại thanh âm trầm thấp này có ý nghĩa gì. Quả nhiên, một trận mưa tên mãnh liệt bay vèo vèo sượt qua đỉnh đầu của hắn, bắn vọt tới bãi cát sau lưng bọn họ không tới hai mươi thước, mũi tên và hơn phân nửa cán tên đều ngập sâu vào nền cát, chỉ có phần lông vũ ở đuôi mũi tên là vẫn lộ ở bên ngoài, thì có thể tưởng tượng lực phóng mạnh mẽ đến mức nào.

“Cung tên! Cung tên khổng lồ!” Du Tiên Phong bình tĩnh thét lên, phất tay để cho bọn họ tản ra khẩn cấp.

Quả nhiên, hàng loạt mũi tên liên tục bay đến. biến bãi cát xung quanh bọn Du Tiên Phong lởm chởm tên nhọn chẳng khác nào một con nhím đang xù lông, nhưng bọn Du Tiên Phong ẩn núp sau lớp đá hoa cương cứng rắn, tránh né hữu hiệu lực sát thương từ cung tên. Cung khổng lồ phóng ra tên có lực xoáy mặc dù rất mạnh, nhưng vẫn không cách nào xuyên thấu đá hoa cương gây thương tổn cho kẻ thù, liên tục bắn sáu bảy đợt tên, cung thủ của hải tặc Ca Âu tựa hồ cũng hiểu được hiệu quả không tốt, vì vậy đình chỉ bắn. 

Quý Nhạn Bình nhanh chóng cuộn tròn người lăn đến vị trí bên cạnh, ẩn núp ở giữa hai khối đá hoa cương, liếc thấy tay cung đang thập trò trên tường đá, hắn nhanh nhẹn giơ ống hỏa tiễn lên, nhanh chóng nhắm vào mục tiêu, sau đó quyết đoán bóp cò, một luồng hỏa tiễn từ nòng súng trên vai hắn địa phun ra. Đạn hỏa tiễn gào thét vọt đi.

Ầm ầm đùng......

Cây cung khổng lồ trên bức tường thành tức thì bị nát bấy, đồng thời truyền đến tiếng người kêu thảm thiết, loáng thoáng có thi thể hải tặc Ca Âu bị bùng nổ rớt xuống từ phía trên vách đá, nhưng, đạn hỏa tiễn cũng không tạo thành tổn thương lớn đối với vách đá vững chắc, cũng không phát hiện các vị trí bắn cung khác, lại không phát hiện thêm nhiều hải tặc Ca Âu, bọn họ đại khái đều trốn toàn bộ sau vách đá.

Phát hiện bóng dáng hải tặc Ca Âu, các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đội đều trở nên cẩn thận. lúc hành động đều trở nên vô cùng linh hoạt cùng cẩn thận, cũng không dám thoải mái nhô đầu ra nữa.

A Ba Đốn nhanh như sóc dẫn theo các chiến sĩ hải quân lục chiến còn lại tới vị trí của đội đột kích Bạo Hùng, cùng Lâm Từ Luật thấp giọng bàn bạc.

Lâm Từ Luật cần bọn họ dùng bách kích pháo che chở, mới có thể đưa thuốc nổ đến chân bức tường đá thành công. A Ba Đốn lén lút giơ ống dòm lên, nhưng vẫn không phát hiện bóng dáng hải tặc Ca Âu, nhưng bọn họ cũng không có tâm lý khinh suất, lập tức mang bách kích pháo lại. Hải quân lục chiến Lam Vũ lúc vận chuyển bách kích pháo lên bờ, tốn hao không ít công phu. Nhưng nó rất nhanh đã phát huy tác dụng hữu hiệu.

Đùng Đùng Đùng......

A Ba Đốn thử hạ lệnh bắn vài phát pháo, nhưng không có hiệu quả rõ ràng mấy, đối với thứ vách đá quá sức chắc chắn này không thể nào tạo được mức công phá cao nhưng dù sao nó cũng hoàn thành được mục tiêu áp chế hải tặc Ca Âu, trong lúc duy trì không ngừng nã pháo liên tục vào vách đá, hải tặc Ca Âu thủy chung không dám lộ diện, vì vậy Vũ Văn Nghiệt đã thành công trong việc đem thuốc nổ đến chân vách đá.

Ầm ầm đùng......

Một trận nổ đinh tai nhức óc vang lên. Vách đá vững chắc cuối cùng bị phá hủy thành một lỗ hổng thật lớn, trong khói lửa tràn ngập, trong nháy mắt lộ ra bóng dáng đông đúc của hải tặc Ca Âu, vốn là bọn chúng đều ẩn núp sau vách đá. Hỏa lực mạnh nhẹ của đội hải quân lục chiến Lam Vũ đồng loạt khai hỏa, ngay lập tức bắn cho bọn chúng văng tán loạn. Nhưng mà, hải tặc Ca Âu dù sao cũng là loại kẻ thù rất hung hãn. Cho dù bị hỏa lực mãnh liệt của hải quân lục chiến Lam Vũ bao trùm lấy vẫn có kẻ chuẩn xác phi mạnh trường mâu, làm cho hai tay súng phe hải quân lục chiến Lam Vũ phải bỏ mạng ngay tại chỗ.

“Mẹ kiếp!” A Ba Đốn hung tợn nguyền rủa, hạ lệnh bách kích pháo tiếp tục phóng ra, hầu hết các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ cũng ùa lên, tất cả hỏa lực đều hướng về hải tặc Ca Âu hoàn toàn triển khai, mưa bom bão đạn dày đặc hoàn toàn bao trùm lấy vị trí lỗ hổng bị pháo bắn trúng. Ngay sát bên lỗ hổng, Vũ Văn Nghiệt thể hiện đầy đủ hình tượng một người anh hùng xuất sắc, tay hắn thảy lưu đạn liên hồi vào bọn hải tặc Ca Âu, bùng lên hàng loạt ánh chớp chói lòa.

Du Tiên Phong rất nhanh dẫn theo các chiến sĩ khống chế lỗ hổng, sau đó tỏa ra hai bên triển khai chiến đấu, hải tặc Ca Âu uy phong hùng mạnh rốt cuộc bị hoàn toàn đè bẹp, có rất nhiều hải tặc Ca Âu bắt đầu vứt bỏ hết thảy vũ khí trong tay, sau đó cuống cuồng chạy trốn, không thèm để ý gì nữa, bọn chúng đối với địa hình nơi này đã quá quen thuộc, mặc dù hải quân lục chiến Lam Vũ bắn rát sau lưng, ráo riết đuổi theo bọn chúng, nhưng phần lớn hải tặc Ca Âu chạy trốn thành công.

“Bỏ đi, tạm thời đừng đuổi theo.” A Ba Đốn ngăn bọn Du Tiên Phong đang định chạy theo truy kích.

Mới vừa rồi bị hạm pháo hải quân Lam Vũ oanh tạc đại quy mô, địa hình trên đảo Kim Quy trở nên rất phức tạp, rất nhiều chỗ đều biến thành đống đổ nát, những đống đổ nát mà hải tặc Ca Âu đã ẩn núp bên trong này, có thể dễ dàng gây cho hải quân lục chiến Lam Vũ thương vong nghiêm trọng. trường mâu của hải tặc Ca Âu quả thực rất lợi hại, số người thương vong mới vừa rồi đã là minh chứng rất rõ ràng.

A Ba Đốn thông qua radio báo cáo tình hình cho Hoàng Nhan Phi Ưng và Đặc Lan Khắc Tư, Đặc Lan Khắc Tư lệnh cho bọn họ khống chế toàn bộ bến tàu. 

“Tiến lên.” Lâm Từ Luật vỗ vai Du Tiên Phong.

Du Tiên Phong dẫn đầu bưng súng tự động, đi dọc theo chỗ trũng phát động công kích, kết quả thỉnh thoảng lại hứng chịu sự phản công bằng cung tên cùng trường mâu, lác đác có mấy tên hải tặc Ca Âu xuất hiện, thì ra, bọn chúng bị pháo hỏa của hạm pháo hải quân Lam Vũ gây chấn động còn chưa hoàn toàn khôi phục lại, khi bọn hắn khôi phục lại, các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đã tới trước mặt bọn chúng rồi.

A Ba Đốn chỉ huy thuộc hạ lấy tiểu đội làm đơn vị, từ điểm đổ bộ hướng bốn phía triển khai công kích hình cánh, bọn họ che chở cho nhau, càn quét từng đống đổ nát, đối với đống đổ nát nào mà nghi ngờ có hải tặc Ca Âu ẩn núp, bọn họ đều ném lựu đạn mở đường, phương pháp này rất có hiệu quả, mặc dù tiêu hao rất nhiều lựu đạn tay, nhưng những hải tặc Ca Âu ẩn núp trong ngóc ngách bí mật nào cũng không còn cơ hội đánh lén nữa.

Tại vị trí bến tàu, bọn Lâm Từ Luật phải hứng chịu sự phản kích quyết liệt nhất, ở nơi đó đại khái có hơn năm trăm hải tặc Ca Âu đang tụm lại. để thuận lợi sử dụng bến tàu để tháo dỡ nhân viên vật tư, cho nên, hạm pháo hải quân Lam Vũ lúc oanh kích đại quy mô, cũng không có oanh kích vị trí bến tàu, cho nên đão tạo cơ hội cho những tên hải tặc Ca Âu sống sót. Tuy nhiên, nơi này cũng không có địa hình địa thế hiểm yếu gì, bởi vậy lúc hải quân lục chiến Lam Vũ đả kích, hải tặc Ca Âu không thể làm gì khác hơn là từ từ lùi bước đến vị trí kho hàng bến tàu.

Đùng Đùng Đùng......

Bách kích pháo đạn không ngừng nã đùng đùng vào khu vực kho hàng, đuổi cho bọn hải tặc Ca Âu bên trong phải trốn chui chốn nhủi hết góc này sang góc khác, được bách kích pháo che chở, bọn Lâm Từ Luật thành công nhảy vào khu vực ven bến tàu, nhanh chóng khống chế tất cả nơi cập bến tại bến tàu. Bọn họ phát hiện ở trên nơi cập bến của bến tàu có rất nhiều tảng đá lớn, thoạt nhìn giống như chuẩn bị dùng để bịt kín bến tàu, song Đảo Kim Quy cũng chỉ có một cửa ra vào như vậy, nếu bị bế tắc, chính bản thân bọn hải tặc Ca Âu cũng chỉ có cách chờ chết, cho nên bọn chúng cũng không dám hạ quyết tâm.

Đột nhiên đúng lúc này, Du Tiên Phong nghe được Vũ Văn Nghiệt thấp giọng mắng:“Mẹ nó!”

Du Tiên Phong quay phắt lại nhìn, chứng kiến Vũ Văn Nghiệt kêu thảm một tiếng rồi ngã xuống đất, trên đùi có một cây một trường mâu dài một thước vô cùng sắc bén xuyên thủng, máu tươi cuồn cuộn túa ra. Hải tặc Ca Âu không có vũ khí hiện đại, nhưng là bọn họ đã sử dụng trường mâu cùng búa vô cùng nhuẫn nhuyễn đến mức chuyên nghiệp, lần này đến phiên Vũ Văn Nghiệt trúng chiêu. Du Tiên Phong vừa định đưa tay kéo hắn đứng lên, đột nhiên nghe được bên người một tiếng súng vang, ngẩng đầu vừa nhìn, chỉ nhìn thấy Vũ Văn Nghiệt nhỏm người, tay bóp cò súng, vừa vặn bắn đúng trán một tên hải tặc Ca Âu đang chuẩn bị phóng trường mâu.

Quý Nhạn Bình nhanh tay lôi Vũ Văn Nghiệt đi, Triệu Chi Vũ cũng nhanh tay lẹ mắt, liên tục ném mạnh vào bên trong bốn quả thủ lưu đạn, một trận nổ mãnh liệt vang lên, bên trong không còn tiếng động, nhưng Triệu Chi Vũ vẫn cẩn thận, không lập tức xông vô ngay, đợi hai phút đồng hồ trôi qua, lại ném một quả lựu đạn vô trong, sau khi nổ bùng lên, mới chậm rãi giơ súng Mễ Kỳ Nhĩ lên vọt vào.

Du Tiên Phong ngồi xuống băng bó vết thương cho Vũ Văn Nghiệt, đồng thời lắng tai nghe ngóng tiếng súng đứt quãng truyền đến từ bên trong kho hàng, hơn mười phút đồng hồ trôi qua, Triệu Chi Vũ từ bên trong đi ra, ý bảo toàn bộ kẻ địch bên trong đã bị tiêu diệt sạch, Quý Nhạn Bình tò mò đi vào nhìn bên trong một chút, chứng kiến bên trong ngổn ngang hơn trăm thi thể hải tặc Ca Âu.

Trải qua hai giờ quần qua quần lại, A Ba Đốn đã thành công khống chế khu vực đổ bộ, Lâm Từ Luật cũng đã khống chế xong vị trí bến tàu, thuyền vận chuyển của quân Lam Vũ trực tiếp tiến vào bến tàu. Cứ từng đợt rồi lại từng đợt thuyền từ từ cập vào bến tàu, hoàng loạt đại đội hải quân lục chiến Lam Vũ trực tiếp từ thuyền vận chuyển lên Đảo Kim Quy, sau đó dưới sự chỉ huy tạm thời của A Ba Đốn từ từ tản đi bốn phía. 

Sáu giờ chiều, Hoàng Nhan Phi Ưng cũng dẫn bộ chỉ huy chuyển lên trên thuyền, thống nhất chỉ huy đội hải quân lục chiến trên đảo, điều này có ý nghĩa, đội hải quân lục chiến Lam Vũ đổ bộ cơ bản thành công, cuộc chiến đấu kế tiếp mặc dù có thể vẫn rất khổ cực, nhưng có thể chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. hải tặc Ca Âu còn sót lại vẫn tiếp tục ngoan cố chống cự, tiếng súng lác đác không ngừng truyền đến, nhưng bọn họ chỉ còn vận mệnh tiêu diệt.

Đến lúc đêm xuống, Đặc Lan Khắc Tư cũng đi lên Đảo Kim Quy, tham gia nghi thức kéo cờ quân Lam Vũ cùng tang lễ cho các tướng sĩ đã hy sinh, ba mươi bốn chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ hy sinh đều được cử hành tang lễ đơn giản mà long trọng, bọn họ dùng tính mạng cùng xương máu của bọn họ, mở ra cánh cửa cho hải quân Lam Vũ thông ra biển Gia Lặc Tân. Trong nghi lễ kéo cờ, Đặc Lan Khắc Tư tự hào tuyên bố:“Từ nay về sau, nơi này chính là địa bàn của chúng ta!”

Mặt trời từ từ lặn, trời chiều cũng dần tàn, cả đảo Kim Quy đỏ rực lên như màu máu đến chói cả mắt.

Đảo Kim Quy vào ban đêm quả nhiên lạnh kinh khủng, sau khi mặt trời đã lặn, toàn bộ vùng biển ngoài khơi xung quanh Đảo Kim Quy đều chìm vào bóng đêm mịt mùng ghê sợ, nhiệt độ dường như chỉ trong nháy mắt đã hạ thấp đến hai mươi độ, ngay cả gió biển thổi đến đều rít lên từng chặp thê lương như những cơn gió âm u thổi từ địa ngục. những chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ khác thì không nói, còn Lâm Từ Luật cùng các chiến sĩ đã bị rơi xuống biển một lần lúc đổ bộ, cảm thấy vô cùng thấm thía cái lạnh này, bộ quân phục rằn ri của bọn họ đều đang ướt sũng, cho nên nhiệt độ lại càng hạ thấp, hơn nữa gió biển cứ thổi từng cơn, lúc nào cũng có cảm giác lạnh đến thấu xương, không thể chịu đựng được.

Bọn Lâm Từ Luật bất chấp tất cả, chả thèm kiêng cữ gì hết, cứ cởi phăng quân phục rằn ri, sau đó lột quần áo từ trên những thi thể hải tặc Ca Âu, mặc bên trong, sau đó mặc lại quân phục rằn ri bên ngoài, có một vài bộ quần áo hải tặc Ca Âu còn bốc lên mùi máu tươi nồng nặc, nhưng bọn họ cũng chẳng để ý nhiều đến vậy, đáng tiếc quân Lam Vũ trong lúc chiến đấu nghiêm cấm đem theo rượu, nếu không Lâm Từ Luật thật đúng là muốn tợp lấy ngụm rượu để cảm nhận được cái nóng thiêu đốt cổ họng, xua đi cơn lạnh giá.

Đống lửa rất nhanh đã được nhóm lên, khu vực xung quanh địa điểm đổ bộ cùng bến tàu đều có rất nhiều đống lửa bập bùng, các chiến sĩ hải quân lục chiến tạm thời còn chưa có nhiệm vụ chiến đấu đều tụ tập quây quần bên đống lửa, một bên tranh thủ thời gian nghỉ ngơi, một bên nhấm nháp sự ấm áp tỏa ra từ ánh lửa, nhưng phần lớn các chiến sĩ hải quân lục chiến đội phải phụ trách giúp vận chuyển vật tư, mệt đến toát hết mồ hôi, còn có một bộ phận các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ phải phụ trách nhiệm vụ trực ban, bọn họ ngồi xổm trong chiến hào sát mặt nước lạnh như băng, chỉ có thể dựa vào ý chí thép cùng tố chất cơ thể khỏe mạnh để chống chọi lại cái lạnh khắc nghiệt khó có thể chịu được này.

Đội hải quân lục chiến Lam Vũ đổ bộ thành công tại Đảo Kim Quy, sau khi màn đêm bao phủ, không tiếp tục phát động tiến công, mà ra sức củng cố trận địa hiện có. Hoàn Nhan Phi Ưng hoạch định phạm vi phòng thủ của các tiểu đoàn, sau đó các tiểu đoàn lại hoạch định phạm vi phòng thủ của các đại đội, rồi các đại đội lại hoạch định phạm vi phòng thủ của các trung đội. nương theo bóng tối bao trùm thời gian dài. Hải tặc Ca Âu có lẽ sẽ phát động tiến công vào ban đêm, trong hoàn cảnh không đủ ánh sáng, các đội quân phải nghiêm khắc dựa theo khu vực phòng thủ, nếu không sẽ hứng chịu sát thương từ hỏa lực của phe mình.

Các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đang đóng ở mép trận địa tuyến đầu, đều quỳ xổm trên chiến hào, ngón tay kè kè đặt trên cò súng, nhìn không chớp mắt phía trước. sau khi đã hành công đổ bộ lên Đảo Kim Quy, vẫn không chạm trán với quân hải tặc Ca Âu, cũng không có nghĩa là nhiệm vụ đổ bộ lần này đã kết thúc trọn vẹn, trái lại. Hải tặc Ca Âu cố ý co cụm chủ lực, nghĩa là cuộc chiến đấu gian khổ hơn còn đang chờ đợi ở phía trước. Bọn họ hy vọng đêm tối nhanh hết, nhưng đêm trên Đảo Kim Quy dường như lại còn dài dằng dặc hơn ban ngày nhiều.

Ở ngoài khơi, chiến hạm Long Nha của hai quân Lam Vũ đều đang cảnh giác tuần tra, bởi vì không có đèn. Cho nên Đặc Lan Khắc Tư điều động mấy chiếc thuyền vận chuyển đã hoàn toàn tháo dỡ nhân viên cùng vật tư tạm thời thành phao cứu hộ phát tín hiệu, bọn họ đều treo ở đầu thuyền cùng đuôi thuyền rất nhiều đèn bão, sau đó neo một chỗ cố định.

Chiến hạm hải quân Long Nha còn lại cứ dựa theo ánh đèn của những cái phao nổi này là biết được phương hướng để phán đoán vị trí của chính mình. Ngọn đèn le lói yếu ớt nhưng cũng đủ mang đến một chút ánh sáng hiếm hoi giữa màn đêm đen kịt ngoài khơi xa, khiến cho các chiến sĩ hải quân lục chiến trên đảo Kim quy bất cứ lúc nào ngẫu nhiên quay đầu lại, cũng có thể chứng kiến một loạt chiến hạm hải quân đang phòng thủ sau lưng bọn họ. Trong lòng cũng cảm giác yên tâm hơn rất nhiều.

Bởi vì đoán được các đội quân Lam Vũ trên đảo Kim quy có thể hứng lấy sự phản kích từ

Hải tặc Ca Âu vào bất kỳ lúc nào, cho nên, mỗi một khoảng thời gian, đều có ít nhất sáu chiến hạm Long Nha của Lam Vũ hải quân nhắm ngay về hướng Đảo Kim Quy, đạn pháo cũng nhồi sẵn vào nòng, bất kỳ lúc nào cũng có thể phóng ra, khi cần kíp. Bất cứ lúc nào cũng có thể trợ giúp pháo hỏa mãnh liệt nhất để hỗ trợ cho hải quân lục chiến Lam Vũ trên đảo Kim quy. Vũ khí mạnh nhất của hải quân lục chiến Lam Vũ có được chính là bách kích pháo có nòng sáu mươi ly, lúc đối mặt với kẻ địch tiến công hung mãnh, vẫn có chút lực bất tòng tâm.

Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàn Nhan Phi Ưng cũng không hề ngủ, hai người thường xuyên trao đổi ý kiến, sau đó chọn lựa thông tin trọng yếu báo cáo cho Dương Túc Phong.

Ở Kim Xuyên đạo xa xôi kia, Dương Túc Phong cũng không chợp mắt, thức trắng đêm cùng đợi tin tức liên quan tình hình chiến đấu trên Đảo Kim Quy, còn có mấy viên tham mưu là Khắc Lao Tắc Duy Tư …. cũng không ngủ. Từ tình hình ban ngày cho thấy. hải quân bắc hải Lam Vũ lần này chạm trán đội thuyền bắc hải hình tam giác có tốc độ nhanh hẳn là một phần của hải tặc râu đỏ, bởi vì bọn họ mặc dù phi thường dũng cảm và hung hãn, nhưng cũng không chú ý nhiều lắm đến chiến thuật, quân Lam Vũ rất khoái loại đối thủ như vậy.

Nhưng, hải tặc râu đỏ sở dĩ không cần có âm mưu quỷ kế cùng chiến lược chiến thuật cũng có thể đủ vững vàng nắm chặt vị trí lão đại, chứng tỏ hoàn toàn dựa trên thực lực siêu cường của bọn chúng, thủ lĩnh hải tặc râu đỏ là La Đế Áo Phỉ có được số chiến hạm hải tặc, nếu như bao gồm chiến hạm loại nhỏ có tải trọng chỉ chừng một trăm tấn, thì đã có số lượng vượt quá một ngàn chiến thuyền, cho dù là chiến liệt hạm khổng lồ, cũng có đến gần hai mươi chiến thuyền. Đối mặt với sự công kích đến từ quân Lam Vũ, La Đế Áo Phỉ khó có khả năng ngồi trơ mắt nhìn Đảo Kim Quy đánh mất mà mặc kệ, hắn tất nhiên sẽ áp dụng biện pháp phản kích mãnh liệt nhất.

Nhưng mà, Dương Túc Phong không cách nào phán đoán được, La Đế Áo Phỉ sẽ vận dụng thủ đoạn trả thù gì, cho nên, tất cả toàn thể quan binh quân Lam Vũ tham gia chiến dịch Đảo Kim Quy, toàn bộ mọi người phải đợi trời sáng, không được có chút chậm trễ, càng thêm không thể sơ xuất lơ là.

Đặc Lan Khắc Tưi suốt đêm nhìn chăm chú theo dõi xem có bất kỳ động tĩnh của hải tặc Ca Âu không, hơn nữa còn căn cứ tình hình, linh hoạt bố trí, dự tính phương hướng thủ lĩnh La Đế Áo Phỉ của hải tặc râu đỏ có thể xuất hiện, còn Hoàn Nhan Phi Ưng, thì tự mình tới bến tàu phụ trách chỉ huy nhân viên cùng tháo gỡ vật tư. Bởi vì bến tàu Đảo Kim Quy chỉ có sáu chỗ cập bến, cùng lúc chỉ có thể đủ bỏ neo sáu chiến thuyền, cho nên việc tháo dỡ vật tư nhất định phải tuân theo trình tự nhất định, một khi hỗn loạn mà nói thì sẽ mang đến phiền toái rất lớn. Vũ khí đạn dược là ưu tiên nhất, lương thực là tiếp theo, vật tư còn lại cũng có thể tháo dỡ cuối cùng, nhưng trên thực tế áp dụng thường gặp phải hỗn loạn.

Mới vừa rồi đã có một chiến thuyền vận chuyển chủ động nhích lại gần, hết thảy công việc chuẩn bị tháo dỡ đã sắp xếp xong, nhưng trong lúc vô ý phát hiện mặt trên chuyên chở lại chính là lều vải quân dụng…và một số vật tư không cần thiết khác, vì vậy không thể làm gì khác hơn là gọi nó tạm thời rời đi, lãng phí mất một giờ đồng hồ. Vốn là trên cột buồm thuyền vận chuyển cũng có cờ xí rõ ràng phân loại vật tư, nhưng trong bóng tối, sĩ quan hậu cần phụ trách tháo dỡ vật tư nhìn không rõ lắm, mà viên thuyền trưởng thuyền này lại tích cực quá đáng, chủ động đi trước, Hoàn Nhan Phi Ưng không thể làm gì khác hơn là bất đắc dĩ cười vỗ vỗ vai gã thuyền trưởng đó, cảm ơn sự cố gắng của hắn, đồng thời ra lệnh hắn cút qua một bên bằng tốc độ nhanh nhất.

Từ lúc Hoàn Nhan Phi Ưng tự mình chỉ huy, việc tháo gỡ vật tư cuối cùng không còn xuất hiện sai lầm nào lớn nữa, nhưng những sai sót lặt vặt như pháo đạn cùng đạn súng không cùng kích cỡ đặt cạnh nhau… vẫn còn xuất hiện rất nhiều, Hoàn Nhan Phi Ưng cũng không có cách nào giải quyết rốt ráo. Những vấn đề nhỏ này phải cần thời gian và kinh nghiệm, trung đoàn hải quân lục chiến Lam Vũ số bốn vẫn khiếm khuyết rất nhiều kinh nghiệm, dù sao đạn dược tới bờ rồi, thì nhất định có tác dụng hợp lý. 

Đêm đã về khuya, toàn bộ các ngành quân Lam Vũ vẫn như cũ đang giành giật từng giây để tháo dỡ vật tư, cho dù đã tới canh ba, trên bến tàu khắp nơi vẫn đều là nhân viên hải quân lục chiến đang cần cù tới lui. Trong vòng sáu giờ trôi qua, hải quân lục chiến Lam Vũ ước chừng có hai ngàn ba trăm nhân viên tác chiến đã thành công lên được đảo Kim Quy, đồng thời tháo dỡ xuống cả ngàn tấn vật tư, các loại vật tư tác chiến chất đống như núi chung quanh bến tàu. Pháo đạn lăn lóc đầy đất, xem đích làm cho người ta nhìn thấy mà giật mình.

Lấy bến tàu làm trung tâm, hải quân lục chiến Lam Vũ hợp thành hệ thống phòng vệ hình rẻ quạt, trong tuyến phòng vệ này, khoảng cách xa bến tàu nhất có đến bảy km. Mà khoảng cách bến tàu gần nhất, không đầy ba km. vật tư tháo dỡ xuống, rất nhanh đều được chuyển vào trong chiến hào phía trong phạm vi phòng vệ. Bởi vì Đảo Kim Quy toàn là đá. Cực kỳ cứng rắn, căn bản không cách nào sử dụng cuốc xẻng công binh xây dựng công sự, cho nên các chiến sĩ hải quân lục chiến đều là dùng thuốc nổ để phá nổ những hòn đá. Sau đó chất đá vụn thành đống, trở thành chiến hào tạm thời, những chiến hào này đương nhiên không cách nào kháng cự lại uy lực pháo đạn nổ mạnh, nhưng cũng may là hải tặc Ca Âu không có đại pháo, tạm thời cũng không vấn đề gì.

Ở vị trí phòng vệ khó khăn nhất, chính là đội đột kích Bạo Hùng của hải quân lục chiến Lam Vũ, vị trí bọn họ so với bến tàu là thuộc hướng bắc. Cũng là nơi cách xa bến tàu nhất. Từ sau khi chiếm lĩnh bến tàu, bọn họ đuổi theo ánh sáng hoàn toàn biến mất trước mắt, rất nhanh tiến hành tìm tòi công kích, giằng co đại khái ba bốn giờ tìm tòi tiến công, bọn họ đánh chết hơn hai mươi hải tặc Ca Âu ở rải rác. Đồng thời mở rộng phạm vi phòng hộ của hải quân lục chiến Lam Vũ tới vị trí bảy km.

Biên giới phòng thủ nơi đội đột kích Bạo Hùng đang chiếm đóng, cũng không có loại chiến hào bình thường. Chỉ có đá vụn vun thành đống làm công sự che chắn, bởi vì đất chật người đông, cho nên đá vụn cũng không phải đủ lắm, giữa những viên đá, vẫn có một chút khe hở, lo lắng có lẽ hải tặc Ca Âu sẽ từ khe hở này đột phá, cho nên bọn họ ở những khe hở này chôn thiết địa lôi cùng thuốc nổ. phía trước ại bọn họ, là vùng đất đá tương đối bằng phẳng, nhưng có vào tảng đá cực lớn nằm lộn xộn rất không có quy tắc, cũng không biết rốt cục là từ nơi nào lăn đến, có vẻ phi thường đột ngột, trong bóng đêm thậm chí có chút cảm giác làm cho người ta nhìn thấy phải ghê rợn.

Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong hai người thay phiên nhau trực ban, lúc này vừa đến phiên trực của Lâm Từ Luật, Du Tiên Phong nghỉ ngơi, nhưng Du Tiên Phong thủy chung không ngủ được, cứ thi thoảng lại buột miệng nói chuyện dăm ba câu với Lâm Từ Luật. Từ sau chuyến đi Y Lệ Nạp, đột kích đội bạo hùng không tham gia trận chiến đấu thực sự nào, cho nên đối mặt lần chiến đấu này, tâm tình của mọi người đều hưng phấn mà cực kỳ căng thẳng, hải tặc Ca Âu tuyệt đối không phải là loại kẻ địch dễ đối phó, bọn họ tựa hồ trời sinh ra đã sống trên mặt biển, đối với biển rộng cực kỳ quen thuộc, mà Vũ Văn Nghiệt lại bị thương, dường như lại làm cho nhiệm vụ lần này thêm một chút nguy hiểm, cho nên bọn họ cảm giác được càng thêm kích thích, muốn ngừng cũng không được, đương nhiên càng không có tâm trạng để ngủ.

Đối với chuyện cả ngày không có phát hiện lực lượng chủ lực của hải tặc Ca Âu, Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong đều cảm giác được phi thường nghi hoặc, không biết hải tặc Ca Âu rốt cục đang âm mưu gì. Đối với hải quân lục chiến Lam Vũ đội mà nói, đổ bộ là khâu mấu chốt nhất, chỉ cần thành công đặt chận lên đến đảo, như vậy trong bước chiến đấu kế tiếp, vô luận địch nhân mạnh mẽ cỡ nào, cuối cùng đều không thể chạy thoát khỏi vận mệnh bị tiêu diệt, hiện tại hải tặc Ca Âu chủ động buông tha cho trận đầu, chẳng lẽ còn muốn ở trên mặt trận trên đất liền tuyên chiến với hải quân lục chiến Lam Vũ?

“Nếu như bọn chúng là bọn ngốc, thì bọn chúng sẽ bị đại pháo của hải quân oanh tạc cho tơi tả.” Cuối cùng, Du Tiên Phong rút ra kết luận như vậy.

“Ta không cho rằng hải tặc Ca Âu là bọn ngốc, nếu không lúc đầu hạm đội bắc hải của đế quốc cũng không thua bi thảm như vậy, hơn nữa, đại khái cũng không có kẻ nào cảm giác được La Đế Áo Phỉ là kẻ ngốc, bất luận là ta nghe người ta nói hắn là một gã thiểu năng.” Lâm Tiên Phong cẩn thận nói, thần sắc có chút u ám.

Vốn là trong quân Lam Vũ có rất nhiều người, không có cảm tình gì đặc biệt đối với đế quốc Đường Xuyên, nhưng từ khi biết được Dương Túc Phong chính là con cháu cảu Đường Lãng, không khỏi có chút cảm giác xót xa ái ngại, nhớ ngày đó, Đường Lãng một tay xây dựng gia nghiệp, hùng mạnh ra sao, ai ngờ trong thời gian ba mươi năm ngắn ngủi đã bị tiêu tan toàn bộ, quả thực làm cho người khác phải đau lòng, mà hung thủ chủ yếu làm cho hạm đội bắc hải của đế quốc Đường Xuyên bị diệt vong, không còn nghi ngờ gì nữa đó chính là thủ lĩnh La Đế Áo Phỉ của hải tặc râu đỏ. 

Du Tiên Phong không còn lời gì để nói, cũng tìm không được đề tài, nhưng lại cũng không muốn ngủ. Hắn ngửa mặt gối đầu lên tảng đá lạnh như băng. Mở to hai mắt nhìn bầu trời đêm mênh mang, hắn đột nhiên phát hiện, nếu như dùng hết sức mở to hai mắt, vẫn có thể ngẫu nhiên nhìn thấy một hai ngôi sao le lói, chỉ có điều ánh sáng của chúng nó yếu ớt quá, chẳng hề có chút ảnh hưởng cải thiện gì với màn đêm bít bùng như mực này.

Đêm tối phi thường an tĩnh, nhưng luôn luôn làm cho người ta cảm giác được tựa hồ sẽ có chuyện gì đó sẽ phát sinh. Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong đều có chung cảm giác như vậy, nếu như muốn nói căn cứ vào thông tin gì để có phán đoán như vậy, thì bọn họ đều không thể giả thích, nhưng trong lòng bọn họ. quả thực là có cảm giác buổi tối nhất định sẽ có chuyện phát sinh, cho nên bọn họ đều nhắc nhở các chiến sĩ khác đề cao cảnh giác, sẵn sàng trận địa đón quân địch.

Biển Gia Lặc Tân vĩnh viễn không có trăng sáng, trời đất chỉ có một màu đen u tối, nhưng cũng không phải hoàn toàn đen kịt. Bởi vì vẫn có ánh sáng yếu ớt từ trên thuyền vận chuyển đóng vai trò như đèn hải đăng tạm thời. Nếu như thích ứng với cuộc sống không ánh sáng nơi đây thì ở trong loại bóng tối này vẫn có thể nhìn thấy một ít đồ vật này nọ, tỉ như xa xa có thể nhìn thấy bóng dáng thấp thoáng của một vài hòn đá lớn. Thậm chí có thể nhìn thấy cái bóng nhàn nhạt của hòn đá đang đổ bóng xuống bên cạnh, về phần tại sao lại có bóng mờ mờ đó, bọn họ cũng không giải thích được.

Đột nhiên. Một tiếng động rất nhỏ làm Du Tiên Phong bừng tỉnh, vốn là lúc hắn ngủ, lỗ tai hắn vừa vặn dán xuống mặt đất, thanh âm kia mặc dù vô cùng yếu ớt, nhưng vẫn làm kinh động hắn. Phát hiện cử chỉ của Du Tiên Phong, Lâm Từ Luật biết ngay có chuyện, bèn chăm chú lắng nghe. Quả nhiên nghe thấy tiếng bước chân phi thường yếu ớt, nói chính xác thì, đó không phải tiếng bước chân, mà là tiếng cát sỏi lạo xạo do bị nén xuống nên tụ lại một chỗ cọ xát nhau mà thành, tựa hồ có người rón rén từng bước chầm chậm đi tới trên mặt cát. Cước bộ rất nhẹ, nhưng mặt cát rất xốp không cách nào chịu được sức nặng của hắn. trong lúc cát cọ xát với nhau, phát ra tiếng động phi thường yếu ớt này.

“Xuỵt!” Du Tiên Phong làm một động tác ra hiệu chớ có lên tiếng, nhắc nhở Lâm Từ Luật không nên có hành động mạnh gây ồn, để tránh kinh động hải tặc Ca Âu. Mặc dù còn chưa thấy bóng dáng hải tặc Ca Âu, nhưng bọn họ đều suy đoán khẳng định là hải tặc Ca Âu đang lén lút phát động tập kích, giữa hải quân lục chiến Lam Vũ cùng hải tặc Ca Âu, chỉ có một bên có thể tồn tại ở đảo Kim Quy, đây là điều không hề nghi ngờ gì nữa.

Lâm Từ Luật gật đầu, lấy tay ra hiệu để nhắc nhở các chiến sĩ chung quan, các chiến sĩ hải quân lục chiến này cũng không dám nhắm mắt lại ngủ, thần kinh căng thẳng như dây đàn, nhắc nhở lẫn nhau, rất nhanh đã toàn bộ bước vào trạng thái chiến đấu. Quý Nhạn Bình cùng Triệu Chi Vũ đều là sĩ quan, lén lút bước tới các đống đá, kiểm tra hỏa lực chủ yếu, bảo đảm súng có thể phát huy uy lực lớn nhất, đồng thời kiểm tra ngòi nổ của địa lôi có sử dụng tốt được hay không.

Vài phút đồng hồ sau, trong ánh sáng phi thường yếu ớt, phía trước trận địa phòng ngự của hải quân lục chiến Lam Vũ, xuất hiện rất nhiều hải tặc Ca Âu, bọn họ đều mặc khố đỏ, không đi giầy, khom lưng, xách trường mâu hoặc búa, cẩn trọng giẫm lên mặt cát tiến lại đây. Lúc bọn họ đặt chân xuống, động tác đều phi thường rón rén sợ làm kinh động đến quân Lam Vũ. Rất hiển nhiên, nhóm hải tặc Ca Âu này muốn đánh lén hải quân lục chiến Lam Vũ, nhưng bọn chúng không biết, hiện tại bọn chúng, đã hoàn toàn bị vô số nòng súng đen ngòm đang nhắm ngay thân mình. Ở vị trí trung tâm giữa nhóm hải tặc Ca Âu, có một tên hải tặc vóc người đặc biệt cao lớn, cao đến hơn hai thước, vóc người vạm vỡ quả thực gần như gấp đôi thân hình của Du Tiên Phong, trong thứ ánh sáng le lói yếu ớt, tựa hồ vẫn có thể nhìn thấy rõ khuôn mặt dữ tợn của hắn, còn có cây búa đang ánh lên ánh thép xanh rợn người trong tay của hắn, xung quanh lưỡi búa này còn được cẩn những thứ lấp lánh như kim cương đá quý hay đại loại thế, trong đêm đen mơ hồ lóe lên ánh sáng lấp lánh. Trong tổ chức của hải tặc Ca Âu, gã hải tặc to con uy mãnh dường như luôn có thể có chức vị tương đối cao, trong cách dàn quân của bọn hải tặc Ca Âu trong đợt tiến công này cho thấy, hắn hiển nhiên cũng là người chỉ huy trong đó.

Du Tiên Phong nâng súng ngang ngực, len lén nhắm ngay tên hải tặc Ca Âu to con này, lẳng lặng chờ đợi Lâm Từ Luật ra lệnh, đối với mục tiêu khổng lồ như vậy, muốn bắn trúng thật sự rất dễ dàng. Lâm Từ Luật tỉnh táo đợi đám hải tặc Ca Âu kia tiến vào tầm bắn trong vòng sáu mươi thước, mới quả quyết hạ lệnh bắn.

Pằng!

Du Tiên Phong không chút do dự giành lấy phát đạn đầu tiên, vừa bóp cò súng, đạn đã gào thét phóng đi, găm ngay giữa trán gã hải tặc to con kia một lỗ thủng, máu từ lỗ đạn bắn vọt ra tung tóe như một đóa hoa tuyết màu máu rực rỡ giữa bóng đêm, gã hải tặc Ca Âu có thân thể cường tráng nhất ấy có chút chấn động, y choáng váng ngửa mặt lên trời rồi ngã xuống, nhưng dù sao thân thể của hắn vẫn rất lớn rất giữ thăng bằng, mặc dù đã chết ngay tại chỗ, nhưng vẫn chưa có ầm ầm ngã chổng vó xuống đất. Ở trong thời gian một giây đồng hồ ngắn ngủi, còn có sáu viên đạn khác lần lượt găm vào trán và lồng ngực hắn, bắn tung tóe thành một chuỗi hoa máu. Rất hiển nhiên, trừ Du Tiên Phong ra, còn có ít nhất sáu chiến sĩ hải quân lục chiến ngắm bắn hắn.

Tên thủ lĩnh hải tặc bị bắn trúng vào chỗ hiểm nên ngay lập tức gục xuống tại chỗ, thi thể hắn đập xuống nền cát làm bụi văng tung tóe, bọn hải tặc Ca Âu còn lại phát giác hành tung của mình đã bị đội hải quân lục chiến Lam Vũ phát hiện, lập tức tiến đến nhanh hơn, trong bóng đêm bọn chúng phát ra từng đợt hò hét làm người khác phải sợ hãi, sau đó vọt nhanh tới, các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ dốc toàn lực ứng phó để tiến hành đánh trả, mưa bom bão đạn dày đặc đã hoàn toàn ngăn chặn bước tiến của chúng. bọn hải tặc Ca âu ngã xuống từng lớp như ngả rạ.

Tiếng súng nhanh chóng làm bừng tỉnh các chiến sĩ ở các đơn vị hải quân lục chiến Lam Vũ khác, bọn họ rất nhanh phát hiện bên này đang chiến đấu kịch liệt, dưới sự điều động của A Ba Đốn, có hơn một trăm chiến sĩ hải quân lục chiến sung sức lập tức chạy tới tăng viện cho đội đột kích Bạo Hùng. hỏa lực của đội đột kích Bạo Hùng vốn đã phi thường hung mãnh, giờ lại có quân lính sung sức hỗ trợ. Hỏa lực càng thêm mãnh liệt, lập tức đánh cho hải tặc Ca Âu phải tè ra quần, kêu thảm thiết không thôi.

Sau hơn mười giây đồng hồ. bách kích pháo của đội hải quân lục chiến Lam Vũ cũng tham gia cuộc chiến, đạn pháo nã liên hồi vào giữa bọn hải tặc Ca Âu còn sót lại, nổ bùng lên thành những quầng sáng chói mắt. đạn của bách kích pháo nổ mạnh.

Chẳng những tiêu diệt rất nhiều hải tặc Ca Âu, mà quan trọng hơn là khi phát nổ nó phát ra ánh sáng như mặt trời, có thể giúp thấy rõ tình hình của bọn hải tặc Ca Âu đang lén lút tiến công, giúp cho bọn Lâm Từ Luật có thể quan sát càng thêm rõ ràng. Quân Lam Vũ còn chưa phát minh được pháo sáng hoặc súng tầm nhiệt, khi bắn trong bóng đêm hoàn toàn dựa theo cảm giác của bản thân xạ thủ, đương nhiên có xác xuất bắn trật mục tiêu rất cao, khi có ánh sáng từ bách kích. Là có thể đủ để nhanh chóng điều chỉnh thành tầm bắn chính xác.

Dường như lúc Du Tiên Phong bắn phát đầu tiên, đội đột kích Bạo Hùng cũng đồng loạt nổ súng, bọn hải tặc Ca Âu đang hùng hổ xông lên phía trước này, giống như bị va phải bọn quỷ hút máu vô hình, đều đột nhiên có những động tác kì quái. Sau đó lẳng lặng ngã xuống. Bởi vì súng bạo phong vũ bắn ra tốc độ thật sự quá nhanh, nhiều hải tặc Ca Âu đều bị trúng đạn khắp mình. Trong khoảng cách như vậy, uy lực của đạn quá mạnh, chẳng những trực tiếp cướp đi tính mạng bọn họ, thậm chí xé toạc thân thể của bọn họ, nhiều hải tặc Ca Âu bị trúng đạn vào đầu. Đều vỡ đầu óc bay tung tóe, nhìn vô cùng kinh khủng, nhưng bóng đêm đen kịt đã góp phần che giấu hết thảy.

Số hải tặc Ca Âu tiến tới đều rơi rụng hàng loạt, rất nhanh đã đánh mất hai phần ba binh lực, số hải tặc Ca Âu còn lại cứ ngẩn tò te, tựa hồ không biết là nên tiếp tục tiến lên hay là lui về phía sau, nhưng theo tiếng rống của một tên thủ lĩnh, bọn hải tặc Ca Âu này không lui lại, mà tiếp tục ương ngạnh lao về phía trước, như thể tiếng gầm của tên thủ lĩnh hải tặc đã vẽ nên một tương lai tươi sáng cho bọn chúng tiếp tục nỗ lực. 

Du Tiên Phong giương súng Mitch lên, muốn bắn một phát giết chết tên thủ lĩnh hải tặc kia, nhưng động tác của hắn hơi chậm, nòng súng của hắn vừa mới chuyển dời đến giữa trán tên thủ lĩnh hải tặc kia, thì đã phát giác ngay giữa trán hắn đã thủng một lỗ, máu tươi văng ra tung tóe, sau đó không kịp rên một tiếng đã ngã quỵ xuống mặt đất, bọn hải tặc Ca Âu sau lưng hắn không kịp dừng bước, theo quán tính đạp một phát giẫm bẹp hắn vào trong mặt đất.

Tiếc nuối buông ngón tay đang đặt nơi cò súng ra, Du Tiên Phong lạnh lùng quan sát bọn hải tặc Ca Âu còn sót lại, xem có còn mục tiêu có giá trị nào nữa hay không, kết quả hắn rất nhanh đã hoàn toàn thất vọng. số hải tặc Ca Âu đến đây tập kích, ước chừng có sáu bảy trăm tên, dưới hỏa lực mãnh liệt của hải quân lục chiến Lam Vũ không tới một phút đồng hồ đã chết hết một phần ba, tiếp theo lại có tiếp một phần ba ngã xuống dưới uy lực của hỏa pháo, hiện tại còn sót lại không tới một trăm người, hơn nữa, số hải tặc Ca Âu còn sót lại không tới một trăm tên cũng bị hàng rào thép gai của hải quân lục chiến Lam Vũ dựng lên tạm thời ngăn cản toàn bộ, bọn họ chen chúc bên ngoài hàng rào, không có cách nào xuyên qua hàng rào để tiến hành công kích, hoài công vô ích trở thành bia ngắm bắn tự do cho các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ.

Quả nhiên, đối mặt với hải tặc Ca Âu đang bị hàng rào thép gai ngăn trở, hải quân lục chiến Lam Vũ nắm bắt cơ hội tốt, các loại vũ khí đều nhằm thẳng về hướng đó mà nã đạn, bách kích không ngừng phóng ra, súng cũng rà từng đợt liên hồi kỳ trận, không tới hai mươi giây đồng hồ, phía trước hàng rào, không còn thấy bóng sáng hải tặc Ca Âu nữa, vô số thi thể hải tặc Ca Âu mắc vào hàng rào tòng teng, trong tiếng súng ác liệt vẫn có thể nghe được rõ ràng tiếng máu chảy tong tong từ trên người bọn chúng đang rỏ xuống.

Song, trong khi giao chiến kịch liệt, ngẫu nhiên cũng có trường mâu từ bên hải tặc Ca Âu phóng vào trận địa phòng ngự của đội hải quân lục chiến Lam Vũ bởi vì hàng rào thép gai cách phòng ngự trận địa của quân Lam Vũ không đầy ba mươi thước, vừa vặn vây bọc trong phạm vi trường mâu của hải tặc Ca Âu có thể tiếp nhận, đối với loại vũ khí nặng từ trên trời giáng xuống này, các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ cũng không có biện pháp tốt để đối phó, trừ phi cương khôi có thể ngăn cản trường mâu, nếu không nhất định là không chết cũng trọng thương nguy hiểm đến tính mệnh, không lâu sau có mấy chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ bị thương hoặc hy sinh vì nguyên nhân đó.

Vũ Văn Nghiệt bởi vì bị tiêu thương đâm trúng, nên được gấp rút đưa vào bệnh viện dã chiến, căn cứ vào lời thầy thuốc nói, hắn cần ít nhất thời gian nửa năm mới có thể hoàn toàn cử động bình thường trở lại, còn về phần còn có thể đảm đương khối lượng công việc nặng nề của bộ đội đặc chủng đội lục chiến như vậy hay không, thì vẫn còn chưa biết, bởi vậy có thể tưởng tượng mức lợi hại của loại trường mâu nhanh không chớp mắt này. Loại trường mâu tiêu thương này thoạt nhìn rất không thu hút, nhưng khi được nắm giữ trong tay hải tặc Ca Âu, lại thật sự có thể uy hiếp tính mạng con người. mặc dù Đặc Lan Khắc Tư cùng phụ thân khi còn sống không hợp nhau mấy, nhưng đôi lúc ngẫu nhiên cũng nghe phụ thân nói qua sự lợi hại của trường mâu hải tặc Ca Âu, liên tục nhắc nhở các chiến sĩ phải chú ý, nhưng trong lúc kịch chiến, bản lĩnh phóng trường mâu thuần thục của hải tặc Ca Âu vẫn gây ra thương vong nhất định của quân Lam Vũ.

Trong lúc tiến công hải tặc Ca Âu, không ngừng phát ra tiếng kêu kì quái, tiếng kêu của bọn chúng phi thường quái dị, tựa hồ không phải tiếng kêu của con người, nhưng bọn họ thoạt nhìn lại rõ ràng là hình dáng con người, tối thiểu thì bên ngoài cũng chẳng khác nhau mấy so với loài người, quả thực làm cho Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong trong lòng đều hồ nghi mãi không thôi, nhưng với trí lực của bọn họ, hoàn toàn không thể giải thích được.

Trong truyền thuyết xa xưa kể lại, hải tặc Ca Âu đến từ đại lục Ai La Phật xa xôi, nhưng bọn họ cũng không phải là bộ tộc nguyên thủy sinh sống trên đại lục Ai La Phật, mà là sinh sống ở trên biển gần đại lục Ai La Phật, mà trên đại lục Ai La Phật đều là những người man rợ còn chưa hoàn toàn tiến hóa, nghe nói năng lực bọn họ nếu so với hải tặc Ca Âu càng thêm cường hãn, nhưng trình độ văn minh của bọn họ lại vô cùng lạc hậu, bọn họ thậm chí không có chữ viết của chính mình, chỉ có thứ ngôn ngữ riêng mà người ngoài không cách nào giải thích được.

Bách kích pháo không ngừng gào thét rơi vào hàng ngũ hải tặc Ca Âu, phát ra tiếng vang vô cùng kịch liệt, nhưng vẫn không cách nào hoàn toàn át đi tiếng hú chẳng khác nào tiếng hú dã thú của hải tặc Ca Âu, loại tiếng hú này khi rống lên một tiếng, nghe vừa bi thảm vừa chói tai, tựa hồ có thể gây chấn động thần kinh con người. Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong đều không tự kìm hãm được sinh ra sự hoài nghi như nhau: Rốt cục hải tặc Ca Âu có phải là người hay không?

Nhìn bọn hải tặc Ca Âu đã bị đánh cho tơi bời hoa lá, Du Tiên Phong tò mò hỏi:“Ngươi có hiểu bọn chúng đang gầm rú cái gì không?”

Triệu Chi Vũ vắt óc suy nghĩ một chút, nghiêm trang nói:“Cho chúng ta năm trăm kim tệ một người để mua một con đường sống......”

Quý Nhạn Bình chẳng muốn động đầu óc, không nhịn được nói:“Lát nữa chúng ta đi tới bắt lấy hai tên hỏi vài câu chẳng phải sẽ biết hay sao?”

Du Tiên Phong gật đầu khen chí phải:“Có lý, ta đi bắt......”

Lời còn chưa dứt, thì hắn đã trợn tròn mắt, thì ra, bọn họ có muốn bắt cũng không còn kịp nữa, toàn bộ hải tặc Ca Âu đã bị tiêu diệt. gã hải tặc Ca Âu cuối cùng đã bị Lâm Từ Luật bắn một phát chết tươi.

Lâm Từ Luật lui lại phía sau một đống đá, âm thầm không một tiếng động bóp cò súng, chẳng khác nào đang tập bắn súng trong trường bắn, nhìn thấy kết quả mười một phát súng bắn chết chín tên hải tặc Ca Âu cảm thấy vô cùng chán nản, hắn cho rằng mình còn có thể bắn tốt hơn thế nữa. Trận chiến lúc nửa đêm không phải quá sức kịch liệt. số hải tặc Ca Âu tham dự tiến công cũng không nhiều, nhưng, bọn chúng đến. đã rung lên một hồi chuông cảnh báo cho đội hải quân lục chiến Lam Vũ, đại bộ phận quan quân hải quân lục chiến Lam Vũ, tựa hồ đều cảm giác được sau nửa đêm. Hải tặc Ca Âu có thể sẽ có hành động quyết liệt hơn hơn nữa. Đặc Y Khắc Tư cùng Hoàn Nhan Phi Ưng cũng cảm giác được như vậy, không có nguyên nhân gì đặc biệt, mà chỉ thuần túy là một loại trực giác, trực giác cảm giác được hải tặc Ca Âu khó có khả năng chịu khoanh tay chờ chết ở trên đảo, bọn chúng khẳng định còn muốn hành động liều lĩnh gì đó.

Du Tiên Phong một thân một mình rón rén bước đến đống thi thể hải tặc Ca Âu đang ngổn ngang, nghiên cứu vấn đề vĩ đại mà hắn đang thắc mắc, rốt cục hải tặc Ca Âu có phải là người hay không, nhưng không có bất cứ thu hoạch gì. Không hề nghi ngờ gì nữa, hải tặc Ca Âu quả thực là người, cho dù hắn không cách nào giải thích thứ ngôn ngữ kỳ quặc của bọn họ. dưới sự thất vọng tràn trề, hắn tiện tay xách luôn cây búa khổng lồ mang về, bởi vì những viên kim cương khảm trên bề mặt quá thu hút. Tuy nhiên, đối mặt với cây búa nồng nặc sát khí lạnh người này. Bọn Triệu Chi Vũ lén lút nuốt nước miếng, bọn họ không dám tưởng tượng, nếu như chính mình bị cây búa này chém trúng thì sẽ có hậu quả gì, có lẽ sẽ lập tức đứt ra làm đôi.

Cả đội hải quân lục chiến Lam Vũ nơi tiền tuyến đều trở nên vô cùng khẩn trương, vũ khí đạn dược vừa mới tháo dỡ trên bến tàu, đã được Hoàn Nhan Phi Ưng hạ lệnh chuyển ngay đến tiền tuyến với tốc độ nhanh nhất, số đạn dược này bao gồm đạn súng và thủ lưu đạn, còn có thêm địa lôi dùng để phá đường và thuốc nổ. Hoàn Nhan Phi Ưng tự mình cùng mấy người trung đoàn trưởng, đại đội trưởng bàn bạc với nhau, chuẩn bị tốt cho trận chiến đêm nay, tất cả chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ, đều được thông báo những điểm cần chú ý khi chiến đấu ban đêm, điều quan trọng nhất chính là, dù bất cứ lúc nào, bất cứ chuyện gì xảy ra cũng không được phép rời khỏi trận địa của mình, nếu không sẽ bị đồng chí ngộ thương hoặc thậm chí bắn chết.

Dường như cảm nhận được không khí căng thẳng, tự bản thân của Hoàn Nhan Phi Ưng cũng tự mình đi tới tiền tuyến, cực kỳ lưu ý đến động tĩnh của hải tặc Ca Âu. Để phòng ngừa hải tặc Ca Âu đánh lén không ai hay biết, Hoàn Nhan Phi Ưng phân công một đơn vị thính tai chuyên môn nghe ngóng động tĩnh, áp lỗ tai xuống mặt đất, biết trước hải tặc Ca Âu đến, đây là biện pháp rất ngốc nghếch, nhưng cũng là biện pháp rất có hiệu quả.

Mặt trăng vừa mới lén lút nhô đầu ra, nhưng rất nhanh đã rụt trở về, bầu trời vẫn đen như mực, khắp nơi đều là một màu đen u tối, chỉ có một vầng sáng nhạt nhòa, tựa hồ những ai đã quen với bóng đêm cũng có thể nhìn loáng thoáng thấy vật thể xa xa. Rải rác xung quanh có mấy hòn đá khổng lồ, trong bóng đêm trở nên vô cùng dữ tợn, thoạt nhìn chẳng khác nào mấy pho tượng la hán trong chùa, do những ngọn đèn từ ngoài khơi lay động không ngừng kéo theo ánh sáng chập chờn, cho nên bóng của mấy hòn đá cũng là chập chờn, thoạt nhìn cứ như đang cử động vô cùng sống động.

Rất nhiều chiến sĩ hải quân lục chiến sau khi đã trải qua một thời gian dài lênh đênh trên biển, đều vô cùng mệt mỏi, nhưng lúc này vẫn không dám có chút lơ là, có một vài người buồn ngủ quá chỉ muốn đánh một giấc, đều lấy mũi đao lén lút đâm vào đầu ngón tay tay của mình, để cái đau xóa tan cơn buồn ngủ, thậm chí có người còn cố ý lấy mũi đao rạch mấy nhát trên mặt mình, Quý Nhạn Bình chính là như thế, máu tươi theo mũi đao chậm rãi rỏ xuống, cứ từng giọt từng giọt tí tách vào trong lớp đá sỏi khô cằn, người bên ngoài nhìn thấy mà giật bắn mình, nhưng bản thân hắn lại chẳng hề cau mày chút nào.

Quả nhiên, đến rạng sáng đúng bốn giờ, hải tặc Ca Âu lại phát động cuộc đánh lén đại quy mô. Khi tiếng súng bắt đầu vang lên, Du Tiên Phong vừa mới bừng tỉnh sau giấc ngủ say, mở mắt vừa nhìn, đột nhiên phát giác, trước mắt mình, cơ hồ toàn bộ đều là bóng dáng hải tặc Ca Âu trùng trùng điệp điệp. Thậm chí mắt thường cũng có thể nhìn rõ những mũi trường mâu đen xì nhọn hoắt đang lao đến hướng mình như vũ bão, không cần nghĩ ngợi, hắn liên tục bóp cò như một phản xạ vô điều kiện.

Bọn hải tặc Ca Âu vẫn như lần trước cứ chân không, lặng lẽ mà ào đến, hơn nữa toàn bộ đều thay đổi trang bị một loạt trường mâu dài chừng một thước, chỉ có một số rất ít thủ lĩnh hải tặc là trong tay cầm búa nặng, hiển nhiên có khả năng gây sát thương cho đội hải quân lục chiến Lam Vũ trong khoảng cách ngắn. Du Tiên Phong hai mắt mờ mờ, nhìn không rõ khuôn mặt bọn họ, nhưng có thể rõ ràng cảm giác được sát khí nồng nặc lạnh như băng của bọn chúng.

Hai phát súng tín hiệu bắn ra vào không trung kêu rít lên, tỏa ra thứ ánh sáng chói lòa. Khắp nơi rực sáng lên như ban ngày. Bọn hải tặc Ca Âu tựa hồ cũng bị thứ ánh sáng rực rỡ trên đỉnh đầu thu hút, có vài tên không nhịn được ngẩng đầu lên ngó thử, nhưng phần đông trong số bọn chúng vẫn tiếp tục lao đầu về phía trước duy trì tư thế chiến đấu. Bọn chúng nhất loạt giơ cao trường mâu, thân mình nghiêng về phía sau lấy đà, sau đó ra sức phóng về phía trước, trường mâu mang theo tiếng thét của thần chết. Xẹt qua bầu trời đêm, nhưng do bọn chúng còn cách quá xa, nên phần lớn trường mâu đều rơi vào phía trước trận địa của đội hải quân lục chiến Lam Vũ.

Các chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ đang ở trong trận địa sẵn sàng nghênh đón quân địch, lúc này mói nhanh chóng bắt tay vào phát động hỏa lực. lúc khoảng cách đã thu hẹp còn một trăm thước, Hoàn Nhan Phi Ưng bèn ra lệnh khai hỏa, bởi vì nếu như tiến vào khoảng cách một trăm thước. tiêu thương của hải tặc Ca Âu cùng trường mâu sẽ gây thương tổn rất lớn cho quân Lam Vũ. Dưới hàng loạt hỏa lực của hải quân lục chiến Lam Vũ ập đến, số hải tặc Ca Âu dẫn đầu nhất thời hoàn toàn bị át chế, máu tươi đã thấm ướt hoàn toàn mặt đất đang khô cằn.

Súng và bách kích pháo của đội hải quân lục chiến Lam Vũ đều khạc đạn như điên loạn, trong đêm đen khắp nơi đều là ánh lửa từ nòng súng phun ra không ngừng, tiếng pháo đạn đã dày đặc đến mức hoàn toàn không có cách nào xác định phóng ra từ phương hướng, chỉ còn cảm thấy mơ hồ dường như đã đan xen thành một loạt. Truyện "Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Du Tiên Phong cảm giác được chính mình hình như đang lạc vào một sân khấu tuồng náo nhiệt nhất, khắp nơi đều là tiếng thanh la, não bẹt tùng xèng liên hồi kỳ trận . Hoàn toàn không có cách nào khống chế được thính giác của chính mình, cuối cùng thậm chí còn mơ hồ mất đi khả năng thính giác, màng tai đều chỉ còn một tiếng ong ong hỗn loạn.

Một đoàn hải tặc Ca Âu đông như kiến cỏ đang ùn ùn lao tới, lập tức bị hỏa lực dày đặc bao trùm toàn bộ, rất nhiều người kêu lên thảm thiết rồi ngã xuống. Sau đó bị giẫm đạp tới chết. Bất luận hải tặc Ca Âu có phải là người hay không, cũng không nói về ý chí của bọn họ kiên cường đến cỡ nào. Mà khi bọn chúng bị đạn bắn trúng, bọn họ vẫn theo bản năng phát ra tiếng kêu thảm thiết, tiếng kêu rú của bọn chúng, cũng vô cùng quái dị, chẳng khác nào tiếng con cá voi chẳng may bị mắc cạn trên bờ cát, bất lực rống lên những tiếng kêu kiêu hãnh mà ngập tràn chua xót.

Một bộ phận hải tặc Ca Âu phóng trường mâu thành công, trường mâu vẽ thành một đường vòng cung hoàn hảo, sau đó lũ lượt hạ xuống do đã bay hết trớn, phần lớn trường mâu cùng tiêu thương đều rơi vào phía trước trận địa phòng ngự của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, nhưng, cũng có một số tiêu thương cùng trường mâu rơi đúng vào trận địa của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, ngẫu nhiên làm cho một vài chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ bị thương hoặc hy sinh, đối với thứ vũ khí sắc bén và nặng nề này, quân Lam Vũ chỉ có thể khẩn cầu ông trời phù hộ độ trì tai qua nạn khỏi mà thôi.

Đối mặt với bọn hải tặc Ca Âu đông đen như kiến cỏ như vậy, Hoàn Nhan Phi Ưng thông qua vô tuyến điện báo kêu gọi hạm đội hải quân cũng tham gia chiến đấu, trước đó, hắn đã bàn bạc cùng Đặc Lan Khắc Tư cũng như Trát Lan Đinh, lúc cần thiết, phải cho chiến hạm Long Nha của hải quân trực tiếp dùng hỏa lực trợ giúp. Hiện tại, chính là lúc thỉnh cầu hạm pháo hải quân phát huy uy lực. Đặc Y Khắc Tư cùng Trát Lan Đinh nghe thấy tiếng súng đì đùng trên đảo, nên đã chuẩn bị tinh thần, nhận được thỉnh cầu từ Hoàn Nhan Phi Ưng, lập tức hạ lệnh khai pháo. 

Đùng đùng đùng......

chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ khạc ra từng đợt đạn pháo như phẫn nộ, pháo đạn xẹt qua bầu trời đen kịt, trực tiếp rơi vào vị trí đã dự tính trước, vị trí này, vừa vặn là vị trí của phân nửa số hải tặc Ca Âu đang đi sau, bọn hải tặc Ca Âu này đang ùn ùn lao tới, dưới hạm pháo oanh kích, đều tan tành xác pháo, trong từng quầng sáng lóa lên chói chang, hàng loạt thi thể người và trường mâu bị nổ thành từng mảnh vụn, bốn phía đều tan tành tro bụi, mấy tảng đá lớn nằm la liệt kia, cũng bị pháo đạn mãnh liệt nổ cho vỡ vụn ra, càng làm gia tăng lực sát thương.

Pháo đạn nổ mạnh tạo ra quầng sáng đỏ tực cả chiến trường, cũng giúp cho các chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ nơi tiền tuyến càng nhìn rõ mục tiêu đã được chỉ thị, bọn họ chỉ cần nã súng về phía quầng sáng chói lòa đó, là đã có thể thành công chế ngự thế tiến công mãnh liệt của hải tặc Ca Âu. Trong bóng đêm, song phương đều không thể thấy rõ mặt đối phương, nhưng không hề nghi ngờ gì nữa, đây chính là một trận chiến tàn khốc một mất một còn, ngươi chết ta sống và ngược lại, song phương tựa hồ cũng có thể cảm nhận được trống ngực đang đập thình thịch cũng như tiếng nghiến răng kèn kẹn đầy căm hận của đối phương.

không thể nghi ngờ gì nữa hạm pháo của hải quân Lam Vũ nếu so với bách kích pháo của hải quân lục chiến thì còn có uy lực lớn hơn nhiều, mỗi một phát pháo đạn hạ xuống, đều làm cho vài tên thậm chí là mười mấy tên hải tặc Ca Âu phải bị tan xương nát thịt, hơn nữa bởi vì sóng biển va đập gây ảnh hưởng, nên hạm pháo hải quân Lam Vũ bắn ra không được chuẩn xác trăm phần trăm, cho nên, hoàn toàn không có quy luật nào cả, cho dù hải tặc Ca Âu hải tặc vốn nổi danh cơ trí, muốn sử dụng trí thông minh của chính mình để tránh né pháo đạn của hải quân Lam Vũ . Cũng hoàn toàn vô ích, bất luận bọn họ ẩn núp ở đâu, đều có pháo bắn bất ngờ rơi xuống. 

Ầm ầm đùng......

Trong thời gian vài phút đồng hồ ngắn ngủn, mức độ tổn thất mà hạm pháo hải quân Lam Vũ đã gây nên cho hải tặc Ca Âu đã vượt xa so với tổn thất mà đội hải quân lục chiến Lam Vũ gây cho hải tặc Ca Âu, phân nửa đội ngũ hải tặc Ca Âu ở phía sau hoàn toàn bị chặt đứt, còn bộ phận phía trước, lại phải hứng chịu sự chống đỡ liều mạng của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, vì vậy bọn họ tiến thối lưỡng nan, không biết làm sao. số hải tặc Ca Âu may mắn còn sống, theo bản năng cứ cố sống cố chết lao về phía trước. Lại bị hàng rào thép gai của đội hải quân lục chiến Lam Vũ ngăn trở, lần lượt ngã xuống trước hàng rào.

Hàng rào kẽm gai này, cuối cùng bị thi thể của hải tặc Ca Âu đè lên làm sụp xuống hoàn toàn, số hải tặc Ca Âu phía sau tàn nhẫn đạp lên đống xương thịt bầy nhầy của đồng đảng, tiếp tục hướng về phía đội hải quân lục chiến Lam Vũ mà phát động công kích. Nhưng quân số bên bọn họ, rõ ràng đã đã sụt giảm đi rất nhiều, cũng không cách nào tạo nên uy hiếp đối với đội hải quân lục chiến Lam Vũ nữa. Một đám đông rất nhanh đã biến mất.

“Bọn họ phát động tiến công có lẽ là tập kích mang tính tự sát chăng?” Triệu Chi Vũ lẩm bẩm như thể đang thắc mắc với ai. Trong cách nhìn của hắn, hải tặc Ca Âu công kích đương nhiên là phi thường mạnh mẽ và anh dũng, nhưng tựa hồ không có hiệu quả gì mấy. Bọn họ sử dụng trường mâu mặc dù mạnh mẽ, nhưng đối mặt với mưa bom bão đạn của quân Lam Vũ, cũng chỉ có cách trơ mình chịu bắn, có lẽ đây là tính cách của hải tặc râu đỏ, bọn họ cho dù chết, cũng muốn chết cho oanh oanh liệt liệt.

Đáng tiếc, không có người trả lời hắn. Bởi vì chưa người nào nguyện ý tự hỏi vấn đề này.

Hải tặc Ca Âu ở đằng xa cũng bị hạm pháo hải quân Lam Vũ đánh cho tơi bời hoa lá, kết cục toàn quân bị diệt đang sờ sờ trước mắt, thì đúng vào lúc này, từ phía sau lưng đội hải quân lục chiến Lam Vũ truyền đến tiếng cảnh báo bén nhọn mà dồn dập. Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong nhìn lại, chỉ nhìn thấy ở ngoài khơi đột nhiên xuất hiện rất đông chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu. Trong lúc nhất thời không cách nào đếm được số lượng chính xác, nhưng ít nhất cũng có hai đến ba trăm chiến hạm. Tại trong bóng tối đen kịt che chắn. số chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này xuất hiện, có vẻ hết sức mờ ám, giống như là từ dưới địa ngục thình lình xuất hiện vậy.

Điều khiến cho Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong cảm thấy vô cùng lo lắng chính là, ở này giữa số chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao đang ùn ùn đi tới, cư nhiên còn có ba chiến liệt hạm kiên cố khổng lồ, tải trọng ít nhất phải vượt qua hai ngàn năm trăm tấn, cho dù tại tầm nhìn rất thấp ngoài khơi xa, cũng có thể nhìn thấy rõ ràng hình dáng của khổng lồ của chúng nó. Theo hiểu biết của bọn họ đối với hải tặc Ca Âu, có ba chiến liệt hạm khổng lồ như vậy xuất hiện, khẳng định là có thủ lĩnh hải tặc tự mình xuất trận, có lẽ, là lão đại La Đế Áo Phỉ hải tặc râu đỏ tự mình ra tay.

Chiến hạm Long Nha hải quân Lam Vũ p hụ trách tuần tra ngoài khơi rất nhanh đã phát hiện số chiến hạm hải tặc Ca Âu thình lình xuất hiện này, lập tức triển khai phản kích, trong tiếng pháo ù ù, một bộ phận chiến hạm Long Nha bắt đầu điều chỉnh hàng ngũ, chuẩn bị nghênh kích chiến hạm hải tặc Ca Âu, mà những con tàu vận chuyển, thì dựa theo kế hoạch trước, đều gia tăng tốc độ hướng về phía bờ biển đảo Kim Quy cập bờ, thoát khỏi sự quấy nhiễu từ chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu.

“Mẹ kiếp!” qua ống dòm nhìn thấy tình trạng ngoài biển, A Ba Đốn không nhịn được buột miệng chửi thề một câu.

Đã không có hỏa pháo từ hải quân Lam Vũ bao phủ, số hải tặc Ca Âu này nhất định sẽ càng thêm khó gặm, hải tặc Ca Âu ở trên đất bằng cùng bọn ở trên mặt biển, phối hợp với nhau, quả thực là một liều thuốc kích thích tinh thần mạnh mẽ, càng thêm kích thích tinh thần chiến đấu của bọn chúng, mà hải quân Lam Vũ, bởi vì muốn bảo vệ số lượng thuyền vận chuyển khá đông, cho nên cũng không có năng lực tiếp tục trợ giúp cuộc chiến đang diễn ra trên đảo, đội hải quân lục chiến Lam Vũ lần này chỉ còn biết hoàn toàn dựa vào khả năng của chính mình mà thôi.

Quả nhiên, đối mặt với đông đảo chiến hạm hải tặc Ca Âu xuất hiện, hạm đội hải quân Lam Vũ không thể không điều động phần lớn chiến hạm Long Nha tiến hành nghênh chiến, Đặc Lan Khắc Tư rất nhanh điều chỉnh bố trí, chủ lực của hạm đội Phất Lai Triệt cùng hạm đội Trát Lan Đinh đều tham dự hải chiến, không còn chiến hạm Long Nha nào có thể rảnh rang để lấy hỏa pháo hỗ trợ cho đội hải quân lục chiến Lam Vũ trên đảo Kim quy. 

Ngay lúc đó, những tên hải tặc Ca Âu bị hỏa pháo hải quân Lam Vũ ngăn chặn, nhất thời trở nên tích cực lạ lùng, một lần nữa bọn chúng lại phát ra tiếng thét làm người khác không cách nào giải thích được, giẫm đạp lên hàng loạt thi thể đồng đội đang chất đống, tiếp tục hướng tới trận địa đội hải quân lục chiến Lam Vũ phát động công kích, trong bóng đêm, bọn họ mỗi người đều xăm mình vằn vện tựa hồ phát sáng lên dữ tợn.

Pằng pằng pằng......

Đội hải quân lục chiến Lam Vũ phản kích đương nhiên sẽ không yếu thế, nòng súng của các khẩu súng bạo phong vũ đều nóng đến đỏ rực lên, có tay súng xé toạc vội quần áo từ thi thể hải tặc Ca Âu bên cạnh quấn lấy hai tay của mình thật chặt rồi trực tiếp nắm lấy nòng súng đang đỏ lên vặn ra lắp nòng mới vào, có người thì tháo mũ cối móc nước biển lên. Trực tiếp đổ ào nước lên nóng súng đang đỏ rực lên bỏng giẫy, hơi nước lập tức bốc lên cuồn cuộn không ngừng, sau đó nòng súng lại tiếp tục bắt đầu khai hỏa.

Lần đổ bộ này đội hải quân lục chiến Lam Vũ, đã tổng hợp kinh nghiệm nhiều lần đổ bộ trước kia, cho nên ở phương diện sắp đặt vật tư cùng chuyển tích lũy rất nhiều kinh nghiệm, đội hải quân lục chiến Lam Vũ tạm thời không thiếu đạn dược, nên đã không còn hỏa pháo hải quân che chở, bọn họ chỉ cố ra sức đem toàn bộ số đạn dược trút lên hải tặc Ca Âu. Không thông cảm, không thương xót, thậm chí không có...chút xíu u buồn. Đây là một cuộc chiến chính thức một mất một còn, ngay cả Du Tiên Phong cũng cảm giác được môi của mình bị xót, thì ra là do vô thức đã cắn chặt môi đến bật máu.

Bọn hải tặc Ca Âu đang hò hét lao tới, dưới hỏa lực mãnh liệt của quân Lam Vũ đều bị dính đạn, chết như ngả rạ. Bọn chúng mặc dù dũng mãnh hơn người, nhưng bọn họ dù sao cũng chỉ là người trần mắt thịt không phải sắt thép, đối mặt với đạn bắn đến với tốc độ cao. Khó có khả năng không bị trúng thương, đạn bắn thủng đầu bọn chúng, bắn thủng ngực bọn chúng. Bọn chúng chỉ còn biết bất lực ngã xuống. Song, vẫn có một số hiếm hoi hải tặc Ca Âu dựa vào sức mạnh của bản thân và cũng nhờ gặp may nên xuyên qua được màn hỏa lực dày đặc của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, xông vô được chiến hào của đội hải quân lục chiến Lam Vũ.

Một nhát búa của hải tặc Ca Âu vừa chém xuống, tức thì có một chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ bị chém bay mất đầu, máu tươi bắn ra tung tóe, nhưng gã hải tặc Ca Âu kia cũng bị một chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đâm một nhát chí mạng xuyên qua ngực. Bởi vì chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ kia lấy hết sức bình sinh, nên cơ hồ ngay cả nòng súng cũng muốn xuyên thủng ngực tên hải tặc Ca Âu, nhưng y vẫn lo lắng, thuận tay rút ra lưỡi lê của lính dù, một đao cắt đứt động mạch chủ nơi yết hầu của tên hải tặc Ca Âu. Máu tươi càng phun ra mãnh liệt, gã hải tặc Ca Âu kia nhất thời ngã xuống không một tiếng động.

Trong một khoảng thời gian ngắn như vậy. trong chiến hào của đội hải quân lục chiến Lam Vũ chợt trở nên hỗn loạn một chút, Lâm Từ Luật còn chưa kịp nghiên cứu hải tặc Ca Âu rốt cục có bản lãnh đến đâu mà có thể đột nhập trận địa phe mình, thì đã đột nhiên cảm giác trước mắt tối sầm, tựa hồ có một tên khốn nào đã lọt vào chiến hào của mình, bởi vì ánh sáng quá yếu ớt, chỉ có nòng súng lóe lên chút ánh sáng, cho nên Lâm Từ Luật không nhìn rõ kẻ kia là ai, nhưng theo bản năng ngay lập tức rút ra lưỡi lê.

Quả nhiên, chỉ trong nháy mắt, hắn nhìn thấy lưỡi búa trong tay kẻ đó lóe lên ánh thép xanh rợn người, không cần nghĩ ngợi, hắn đã đâm ngay một nhát, tức thì trong cùng thời gian, cũng có một thanh lưỡi lê lính dù đâm tới, rõ ràng là Quý Nhạn Bình, hai nhát cùng đâm tới, khiến cho bóng đen kia chết ngay không kịp ngáp, Quý Nhạn Bình lao đến nhìn thử, quả nhiên là một tên hải tặc Ca Âu lọt vào trà trộn, cũng không biết hắn làm sao có thể chui rúc vào chỗ này, may là hai người phản ứng nhanh, bằng không chờ hắn vung búa ra, sợ rằng mọi người xung quanh sẽ xuất hiện thương vong.

Lác đác, trong chiến hào tiền tuyến của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, đều có một vài tên hải tặc Ca Âu dựa vào ưu thế quen thuộc địa hình, trà trộn vào chiến hào đội hải quân lục chiến Lam Vũ, mặc dù bọn chúng rất nhanh chóng bị giết chết, nhưng không ít thì nhiều cũng gây ra một ít thương vong, càng thêm nghiêm trọng hơn là, bọn họ lẻn vào gây tên sự đề phòng thái quá giữa các chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ, kết quả xuất hiện hai chuyện hiểu lầm, có bốn chiến sĩ hải quân lục chiến bất hạnh ngã xuống dưới súng của đồng đội bắn nhầm.

Dù sao, trung đoàn số bốn hải quân lục chiến Lam Vũ, mặc dù đã thành lập từ lâu, nhưng lần chiến đấu này lại là trận chiến mở đầu của bọn họ, cho dù lúc huấn luyện hằng ngày có cố gắng đến đâu, nhưng khi tới thời điểm chiến đấu chính thức, vẫn xuất hiệnkhông ít sai lầm không đáng có, đây là một cái giá mà bộ đội phải chi ra để tiến bộ, cũng là dấu hiệu cho một đội quân đi đến trưởng thành, các chiến sĩ phải dùng máu tươi của mình để làm sáng quân kỳ. 

Đối mặt với ưu thế tuyệt đối về hỏa lực của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, hải tặc Ca Âu không chiếm được ưu thế nhiều lắm, đến lúc gần rạng sáng, tiếng súng từ từ lắng xuống, ở phía trước chiến địa đội hải quân lục chiến Lam Vũ, ngổn ngang thi thể hải tặc Ca Âu, bởi vì ánh sáng quá yếu ớt, cho nên nhìn không thấy tới thi thể đích bên trong hay không còn có che giấu đích người sống sót, vì vậy bách kích pháo của đội hải quân lục chiến Lam Vũ vẫn tiếp tục oanh kích vào số thi thể nằm trên mặt đất này, để bức số hải tặc Ca Âu may mắn còn sống phải lộ diện.

“Ngươi cảm thấy gần hết rồi đúng không?” Du Tiên Phong cẩn trọng hỏi. Căn cứ vào phán đoán mới vừa rồi của hắn, số hải tặc Ca Âu tham dự trận tiến công mang tính tự sát này hẳn là suýt soát một ngàn năm trăm người, toàn bộ đều bị đội hải quân lục chiến Lam Vũ tiêu diệt. Dựa vào tư liệu của ngành tình báo ngành cung cấp, hải tặc Ca Âu đóng trên đảo Kim Quy đại khái chỉ có ba nghìn người,theo thống kê trước sau công lại, hẳn là bị tiêu diệt gần hết rồi.

“Không biết nữa. Không biết bọn chúng có phải là bọn hải tặc râu đỏ hay không.” Lâm Từ Luật ngần ngừ lắc đầu. Từ con số mà suy xét, hải tặc Ca Âu bị tiêu diệt khá nhiều rồi, nhưng xem hải tặc Ca Âu mới vừa rồi liều mạng húc đầu vô chỗ chết, tựa hồ như có lực lượng vô cùng vô tận, cho nên, bọn chúng còn có binh lực ẩn giấu nữa hay không, hay là có biến cố khác, quả thực Lâm Từ Luật không dám có kết luận nhanh như vậy.

Trong cấu trúc đội ngũ của hải tặc Ca Âu, thực lực của hải tặc râu đỏ là cường đại nhất, bởi vì bọn họ có thực lực cường đại, cho nên bọn họ bình thường sẽ không áp dụng thủ đoạn phức tạp nhiều công đoạn bất ngờ, giống như trận công kích mới vừa rồi, mặc dù biết rõ hiệu quả có thể không phải rất lý tưởng, nhưng là những hải tặc này vẫn không hề sợ hãi phát khởi công kích, y chang tác phong của hải tặc râu đỏ. 

“Bất luận như thế nào cũng phải chịu đựng hết tối hôm nay.” A Ba Đốn đang đứng cách đó không xa lắm đang nhắc nhở thuộc hạ của mình.

Vừa mới trải qua đòn tấn công hung mãnh của bọn hải tặc Ca Âu thọc sâu vào trận đại, các chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ đều đã dốc hết mười phần tinh lực, giơ nòng súng đen ngòm hướng mặt đất chung quanh, toàn bộ tinh thần chăm chú phòng ngừa hải tặc Ca Âu lần nữa phát động công kích như vừa nãy, nhưng, bọn họ dù sao cũng mệt mỏi quá rồi, có một vài chiến sĩ không chịu nổi ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.

Lúc này, pháo chiến còn đang diễn ra kịch liệt ngoài khơi, tiếng pháo bắn ra từ hạm đội hải quân Lam Vũ dồn dập không ngừng, tiếng súng bạo phong vũ cũng duy trì liên tục, thỉnh thoảng lại nhìn thấy có chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu bị bắn trúng nên bốc cháy, chiếu sáng rực một vùng biển khơi. Hải chiến trong bóng tối, vô cùng kịch liệt, nhưng từ góc độ những người đứng xem, lại không hấp dẫn mấy, bởi vì không cách nào phân biệt rõ ràng vị trí chiến hạm, chỉ có thể nhìn thấy ánh lửa cháy rừng rực cũng như vầng sáng sau khi pháo nổ mà thôi.

Lúc mặt trời chiếu sáng biển Gia Lặc Tân, đảo Kim Quy yên tĩnh lạ thường, có rất nhiều các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đều lén lút thở phào một hơi, để lại vài nhân viên phụ trách cảnh giới, các chiến sĩ còn lại thì dựa lưng vào chiến hào ngủ thiếp đi, trong lúc đó cuộc chiến đấu ngoài khơi lại tới hồi kịch liệt nhất.

Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong thông qua ống dòm nhìn thấy, phát hiện có gần ba trăm chiến hạm của hải tặc Ca Âu cùng hơn năm mươi chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ đang hỗn chiến cùng một chỗ, bởi vì hải quân Lam Vũ còn cần phải hộ hàng cho rất nhiều thuyền vận chuyển, cho nên số chiến hạm Long Nha chính thức tự do tham chiến ước chừng chỉ có ba mươi chiếc, song phương chiến đấu vô cùng kịch liệt.

Tự mình chỉ huy hải tặc Ca Âu nghênh đón đòn tập kích của hải quân Lam Vũ chính là lão đại La Đế Áo Phỉ của hải tặc râu đỏ.

La Đế Áo Phỉ cũng không biết hải quân Lam Vũ đang tấn công đảo Kim Quy, hắn chỉ ngẫu nhiên chạm trán mà thôi, mặc dù hắn thông qua rất nhiều manh mối nên biết được Dương Túc Phong muốn tấn công đảo Kim Quy, cũng có thể dựa vào những hành động của quân Lam Vũ để phán đoán khả năng quân Lam Vũ tấn công Kim Quy đảo, nhưng hắn cũng không biết cụ thể ngày nào. Từ sau khi hải quân Lam Vũ chiếm biển Linh Đình, đối với cửa ra vào biển Linh Đình phong tỏa vô cùng chu đáo, đội thuyền của hải tặc Ca Âu căn bản không thể qua lại, về sau lại có hạm đội Đức Tư Phỉ Đế Na của hải quân Lam Vũ tới biển Linh Đình, càng thêm củng cố loại phong tỏa chắc chắn như tường đồng vách sắt này, khiến cho hải tặc Ca Âu căn bản không cách nào biết được hướng đi của hải quân Lam Vũ bên trong biển Linh Đình.

Để đạt được mục đích không tiếc phải trả bất kỳ giá nào, ngành tình báo quân Lam Vũ, nhất là ngành phản gián điệp, chuyên môn tiến hành càn quét tàn khốc đối với tất cả mạng lưới tình báo của hải tặc Ca Âu, Phong Chi Xã phái cánh tay phải đắc lực của mình là Lâm Vũ suất lĩnh một nhóm bộ đội Hắc ngục minh phong có trình độ cao, trường kì đóng quân tại cảng Thước Luân, chuyên môn tiến hành tấn công nhân viên tình báo của hải tặc Ca Âu, trải qua không ngừng cố gắng, cơ bản đã quét sạch tất cả tai mắt của hải tặc Ca Âu.

Đương lúc đảo Kim Quy bị quân Lam Vũ công kích, hải tặc Ca Âu cũng không thể kịp thời thông báo tin tức về cho La Đế Áo Phỉ, bọn họ không có vô tuyến điện đài, liên lạc ngoài khơi phi thường khó khăn. lần này La Đế Áo Phỉ đột nhiên xuất hiện ở đây, chỉ là tuần tra hằng ngày như thường lệ. Bởi vì hắn không cách nào xác định được ngày hải quân Lam Vũ tiến công, cho nên hắn hạ lệnh tăng mạnh mật độ tuần tra chung quanh đảo Kim Quy, thậm chí tự mình tham dự tuần tra.

Hắn rất may mắn, trong lúc tuần tra đã phát hiện hạm đội hải quân Lam Vũ.

Biển Gia Lặc Tân vào ban ngày cũng xám xịt một màu, thoạt nhìn vô cùng u ám thê lương. La Đế Áo Phỉ đứng sừng sững trên mũi tàu chiến liệt hạm, ánh mắt nghiêm túc nhìn chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ chung quanh. Hắn là một hải tặc có thân hình phi thường cao lớn, cơ thể phát triển dị thường, kiếp sống lênh đênh trên biển hàng năm trời làm cho tướng mạo hắn thoạt nhìn giống như là một con cá mập hung ác, hai con mắt cơ hồ híp lại, trên mặt và trên cánh tay của hắn toàn bộ đều là sẹo, trên lồng ngực rộng có xăm hình đầu lâu, hơn nữa còn có đến chín cái đầu lâu, trên miệng mỗi một cái đầu lâu đều có bộ râu màu đỏ ngắn ngủn, những đầu lâu có râu màu đỏ này. Chính là ký hiệu độc nhất vô nhị của La Đế Áo Phỉ hắn.

Hải tặc râu đỏ!

Nhìn xuyên qua thấu kính viễn vọng, La Đế Áo Phỉ phát hiện hình dáng của Đặc Lan Khắc Tư, thân hình của Đặc Lan Khắc Tư so với hắn, quả thực hoàn toàn nhỏ hơn một cỡ. Đặc Lan Khắc Tư kì thật là một thanh niên rất hay ngại ngùng, con mắt rất nhỏ, vẻ mặt có điểm thẹn thùng. Hắn bình thường rất ít nói chuyện. Cho dù trên chiến trường cũng không bộc lộ tình cảm nhiều lắm, đối với việc hải tặc Ca Âu đến, hắn tựa hồ hoàn toàn không có vẻ mặt gì đặc biệt, hình như trong ánh mắt căn bổn không hề nhìn thấy hình ảnh đáng sợ của hải tặc râu đỏ.

Đặc Lan Khắc Tư thông qua ống dòm, cũng phát hiện hình dáng của La Đế Áo Phỉ, những đầu lâu có bộ râu màu đỏ trên ngực La Đế Áo Phỉ không hề nghi ngờ gì nữa đã biểu lộ thân phận của hắn, bọn chúng quả nhiên chính là thế lực mạnh mẽ hung tợn nhất của hải tặc Ca Âu. Song Đặc Lan Khắc Tư ngược lại có vẻ càng thêm bình tĩnh, trong lực lượng hải tặc Ca Âu, thực lực của hải tặc râu đỏ không thể nghi ngờ chính là cường đại nhất. Nhưng cũng cao ngạo nhất, từ trước tới này đã thành cố hữu, bọn chúng ngoại trừ thói quen dùng cách đánh lấy mạnh đè yếu, lấy nhanh thắng chậm ra, cơ hồ không có chiến thuật gì khác. Hải quân Lam Vũ thích nhất chính là đối thủ như vậy, cứng đối cứng nhào vô xáp lá cà. Đặc Lan Khắc Tư chưa bao giờ lo lắng.

La Đế Áo Phỉ hung hăng trừng mắt nhìn Đặc Lan Khắc Tư, loại ánh mắt dữ tợn hung hãn này như thể muốn ăn tươi nuốt sống Đặc Lan Khắc Tư. Còn Đặc Lan Khắc Tư cũng lạnh lùng đánh giá La Đế Áo Phỉ, đang tỉ mỉ tính kế làm cách nào để có thể làm cho đối phương bị một vố nhớ đời. Hải quân Lam Vũ cùng hải tặc Ca Âu nhất định không thể cùng tồn tại trên thế giới này, do vậy hai bên gặp nhau nhất định phải choảng nhau một trận kịch liệt một mất một còn mới thôi. 

Đặc Lan Khắc Tư cẩn thận quan sát chiến hạm hải tặc Ca Âu, phát hiện ngoại trừ năm chiến hạm khổng lồ ra, còn có ước chừng ba trăm sáu mươi chiến hạm loại nhỏ, có một vài chiến hạm nhỏ có tải trọng thậm chí không đầy một trăm tấn, đại bộ phận đều là loại chiến thuyền bắc hải tam giác phàm tốc độ nhanh vốn quen thuộc, loại này chỉ có đội thuyền hải tặc Ca Âu mới có, ngoài khơi sắp hàng dày đặc, cứ như một đàn kiến đông đúc, nhưng không người nào dám coi khinh loại chiến hạm nhỏ như con kiến này, bởi vì mũi thuyền của chúng nó đều bịt sắt, hơn nữa còn có cạnh phi thường sắc bén. Những chiến thuyền bắc hải tam giác phàm này di chuyển rất linh hoạt, tốc độ rất nhanh, một khi bị bọn chúng húc vào, cho dù dựa vào sự chắc chắn của chiến hạm Long Nha, cũng không có cách chống cự, có lẽ bị đụng xuyên một hai cái thì không sao, nhưng nếu bị đụng nhiều hơn mấy lần, chỉ sợ cũng phải đắm tàu.

Song, đại bộ phận quan binh hải quân Lam Vũ đều tập trung lực chú ý nơi năm chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu. Đối với sự linh hoạt cao của chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, hạm pháo của hải quân Lam Vũ không cách nào gây ra thương tổn quá lớn đối với chúng nó, muốn bắn chúng nó trăm phát trăm trúng, quả thật là chuyện khó có khả năng. Nhưng thật ra năm chiến liệt hạm khổng lồ này thực sự là mục tiêu phi thường công kích lý tưởng, tốc độ cùng sự cồng kềnh của chúng nó, đều là cơ hội rất tốt để giúp cho những tay pháo thủ hải quân Lam Vũ đã tỉ mỉ khổ luyện được có dịp thể hiện hết mình.

Đặc Lan Khắc Tư đặc biệt chú ý tới hiện tượng này, nên nhắc nhở các vị hạm trưởng phải chú ý những chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này đánh lén, không nên chỉ dồn ánh mắt chú ý hết lên hoàn toàn đích đưa lên chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu. Nếu bàn về số lượng của chiến liệt hạm khổng lồ, thì lúc đầu hạm đội bắc hải của hải quân đế quốc Đường Xuyên rõ ràng còn đông hơn rất nhiều, trong thời kì cường thịnh nhất, từng có đến hơn hai mươi chiến liệt hạm khổng lồ , nhưng số chiến liệt hạm hùng hậu này cuối cùng cũng đều bị hoàn toàn tiêu diệt, mà kẻ tiêu diệt chúng nó, chính là những chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao đang đông đen trước mắt này, do lúc đầu, hải quân đế quốc Đường Xuyên đối với những chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này chẳng thèm mảy may chú ý, kết quả vì vậy mà nếm mùi cay đắng.

Mặt biển Gia Lặc Tân sóng gió cuồn cuộn, hải tặc Ca Âu có thể phát huy đầy đủ ưu thế chạy nhanh cũng như dễ dàng điều khiển của chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, chia hàng ngũ tiến vào cùng đánh, áp dụng chiến thuật bầy sói, lần liệt dìm từng chiếc chiến liệt hạm của hạm đội bắc hải của hải quân Đường Xuyên vào dưới đáy biển sâu, phương pháp tác chiến cơ bản nhất của bọn họ. Chính là xáp lá cà cùng đánh, tốc độ cùng tính linh hoạt của bọn nó có thể làm cho hải quân Đường Xuyên khó lòng phòng bị, cuối cùng bị thất bại thảm hại.

Quả nhiên, theo lệnh của La Đế Áo Phỉ quát ra một tiếng, bọn hải tặc ca Âu rất nhanh đã áp dụng chiến thuật bầy sói tự do công kích.

Những chiếc chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này chen nhau lao tới, không ngừng biến ảo hướng đi cũng như hàng ngũ sắp xếp, làm cho tất thảy hỏa pháo của hải quân Lam Vũ đều bắn hụt. hải tặc Ca Âu đã hoành hành Gia Lặc Tân hải hơn mười năm, tựa hồ đã hoàn toàn nắm chắc từng centimet biển ở nơi này, bọn chúng điều khiển chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, có thể lợi dụng hoàn toàn chuyển động của sóng biển, không ngừng giữ sức, đi với tốc độ nhanh hơn tốc độ vốn có, chỉ trong nháy mắt, tốc độ của bọn chúng thoạt nhìn quả thực chẳng khác nào đang bay trên sóng.

Ầm ầm đùng......

Chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ đương nhiên sẽ không khách khí. Đều khai pháo, đạn pháo rơi vào chính giữa những này chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, rồi phát nổ mạnh xuất hiện hàng loạt cột nước bắn tung tóe, nhưng cũng không có được hiệu quả rõ ràng, bởi vì này hải tặc Ca Âu thật sự rất linh động, có thể linh hoạt né tránh pháo đạn công kích. Tuy nhiên. trong lúc ngẫu nhiên, vẫn có một số đạn lạc ở cự ly gần phát huy tác dụng, có một số chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao bởi vì không chịu nổi sức ép của đạn nổ ở cự ly gần, những mảnh đạn nhỏ xé rách vải buồm, hoặc găm trúng hải tặc trên thuyền, không thể không tạm thời hạ thấp tốc độ.

Trên khuôn mặt dữ tợn của La Đế Áo Phỉ hiện ra một tia cười khẩy đầy vẻ khinh miệt, hắn xiết chặt nắm đấm phát ra những tiếng khớp xương kêu lên răng rắc răng rắc vô cùng ghê sợ. tất cả những người đã từng quen với việc sinh sống trên biển, hai tay đều có sức mạnh hơn người thường, La Đế Áo Phỉ đương nhiên cũng không phải là ngoại lệ. Hắn hận không thể ngay lập tức tiến sát đến kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư. Sau đó dùng chính nắm tay của mình đập bể sọ của Đặc Lan Khắc Tư.

Hắn đối với loại chiến thuật này của mình có đầy đủ tự tin, đây là chiến thuật mà hải tặc Ca Âu trong quá trình vật lộn sinh tồn mấy trăm năm năm qua trên sóng gió hải dương mới đúc kết ra được, bất luận đối phương có mạnh đến cỡ nào, đều không tài nào chống đỡ được sự tấn công lần lượt thay nhau của hải tặc Ca Âu, bọn chúng chính là một đám sói hung tàn. Con hổ bị ngắm làm mục tiêu có lẽ cũng mạnh mẽ như thế, nhưng mà. Cho dù con hổ đó có mạnh mẽ dữ tợn đến đâu thì cũng chỉ có thể chống chọi với ba bốn con sói là cùng, đương lúc nó bắt đầu thấm mệt, chính là thời khắc thắng lợi đã đến của bầy sói. Trận chiến trước mắt chính là như thế, hơn nữa, hải quân Lam Vũ cũng tuyệt đối không phải là hổ, cho nên, hắn tin rằng, thắng lợi của hải tặc Ca Âu hoàn toàn nắm chắc trong tay không chạy đi đâu được.

Đặc Lan Khắc Tư trầm tĩnh ra lệnh cho các vị hạm trưởng phe mình chuẩn bị cho một trận chiến đấu kéo dài, yêu cầu bọn họ kiểm soát tiến độ phân bố binh lực để chiến đấu cùng hải tặc Ca Âu cho chu toàn, không nên thoáng cái đã đem toàn bộ con át chủ bài trong tay mình tung ra hết sạch. Sở trường của hải tặc Ca Âu chính là xáp lá cà chiến đấu, bởi vì vật lộn không những có thể thủ thắng, mà còn có thể chiếm chiến hạm của kẻ thù làm chiến lợi phẩm, đồng thời có thể gây nên tâm lý áp chế cực lớn cho kẻ thù, cho nên, vật lộn luôn luôn là sở thích của La Đế Áo Phỉ, mà hải quân Lam Vũ, cũng muốn lấy điểm này để đập tan lòng kiêu ngạo của hải tặc Ca Âu. 

Theo như cách nói của Dương Túc Phong, thì việc hải quân Lam Vũ phải thủ thắng là điều cố nhiên trọng yếu, nhưng điều quan trọng hơn chính là phải làm sao để hạ thấp sự kiêu ngạo cùng niềm tin của hải tặc Ca Âu xuống. Chỉ có hoàn toàn đập vỡ lòng tự tin của hải tặc Ca Âu, thì hải quân Lam Vũ mới có thể đi đến thắng lợi lớn hơn, mà việc tấn công đập tan lòng tự tin của hải tặc Ca Âu chính là biện pháp tốt nhất, chính là trong lúc vật lộn kịch liệt phải chiến thắng được hải tặc Ca Âu.

La Đế Áo Phỉ cũng không biết rằng, nhằm vào đặc điểm tác chiến này của hải tặc Ca Âu, hạm đội bắc hải của hải quân Lam Vũ cũng đã khổ công nghiên cứu rất công phu. Hạm đội bắc hải của hải quân Lam Vũ suốt hơn hai năm trời đằng đẵng không hề tham gia bất kỳ cuộc hải chiến có quy mô lớn nào, các chiến sĩ cứ ngày đêm luyện tập gian khổ, chiến đấu xáp lá cà trong hải chiến và xáp lá cà trên đất liền hoàn toàn không giống nhau, tuyệt đối không phải chỉ trong một thời gian ngắn huấn luyện là đã có thể đủ hình thành nên một lực chiến đấu nhất định, đám thủy thủ cần phải có thời gian để nắm vững kỹ thuật, cần thời gian để rèn luyện dũng khí cho mình.

Dương Túc Phong cho bọn họ đầy đủ thời gian.

Đặc Lan Khắc Tư phát ra tín hiệu nghênh chiến, pháo tín hiệu bắn vọt vào không trung mù mịt. Bắn ra muôn vàn tia sáng rực rõ thu hút sự chú ý của La Đế Áo Phỉ, mặc dù hắn không rõ đây là cái quái gì, nhưng hắn hoàn toàn cảm nhận được niềm tin cũng như ý chí kiên cường của đối phương, còn có ý chí bất khuất hòa cùng dũng khí, La Đế Áo Phỉ bị kích thích tột độ, lòng háo thắng bùng phát, hạ lệnh kéo cờ chiến của mình lên.

Cho dù là lúc đối mặt với hạm đội bắc hải của đế quốc Đường Xuyên phát động trấn chiến mãnh liệt nhất, La Đế Áo Phỉ cũng không hề kéo cơ chiến của mình lên, bởi vì hắn cảm giác được chuyện này là không cần thiết, nhưng bây giờ không giống lúc đó, hắn phải cổ vũ dũng khí của bọn hải tặc Ca Âu một lần nữa, nếu không, rất có thể hải tặc Ca Âu sẽ phải nếm mùi thất bại. Đây là một loại trực giác rất kì quái, La Đế Áo Phỉ cũng không biết tại sao mình lại cảm giác được hải tặc Ca Âu có khả năng chiến bại, nhưng quả thực trong lòng hắn bấy giờ đang nghĩ như thế. Quả nhiên, đương lúc La Đế Áo Phỉ kéo cờ chiến lên, tinh thần cùng ý chí chiến đấu của hải tặc Ca Âu đều đạt tới cực điểm.

Đặc Lan Khắc Tư cũng không yếu thế chút nào. Hạ lệnh thổi kèn hiệu lên thật to, hắn tự tay kéo cờ hiệu của mình lên cao cho nó tung bay trên đỉnh của cột buồm cao nhất, lá cờ chiến to màu lam in hình sư tử bay phần phật ánh lên màu xanh lấp lánh, nổi bật trên nền trời xám xịt vô cùng rực rỡ khiến người ta không thể không chú ý. Dưới tiếng kèn thôi thúc hùng hồn, các tướng sĩ hải quân Lam Vũ đều không tự kìm hãm được ngước nhìn lên. Chứng kiến cờ chiến hải quân tung bay, còn có thân hình của Đặc Lan Khắc Tư đứng sừng sững vững vàng, tinh thần cùng ý chí chiến đấu của bọn họ cũng bốc lên ngùn ngụt lên đến đỉnh điểm.

Đùng đùng đùng.....

Ngoài khơi xa tiếng pháo ù ù, khói lửa tràn ngập.

Năm chiếc chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu, mỗi chiến thuyền đều trang bị hơn trăm khẩu đại pháo, lúc bọn chúng phóng ra, nòng pháo thường sinh ra khói đặc cuồn cuộn, mà chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ, mặc dù đại pháo rất ít, nhưng lúc pháo đạn phóng ra. Cũng sinh ra khói trắng mù mịt như thế, đương lúc hạm pháo hai bên oanh kích nhau kịch liệt, khói đặc cuồn cuộn mù mịt rất nhanh đã bao phủ cả hải dương, dồn dập hạ thấp tầm nhìn khiến cho hải chiến càng thêm kịch liệt, càng thêm kinh tâm động phách, đương nhiên cũng càng thêm hỗn loạn.

các chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ về cơ bản đã kết thúc chiến đấu trên đảo. Đều xoay người lại theo dõi trận kịch chiến đang diễn ra ngoài khơi. Bọn Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong, đều đứng ở những mỏn đá cao, thông qua ống dòm theo dõi sát sao trận chiến ngoài khơi, bọn họ cố gắng thông qua kính viễn vọng có thể nhìn thấy bóng dáng kỳ hạm của La Đế Áo Phỉ cùng kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, nhưng khói lửa ngoài khơi quá mãnh liệt, bọn họ cũng chỉ có thể ngẫu nhiên chứng kiến bóng dáng của chúng nó thoáng qua như tia chớp.

Hoàn Nhan Phi Ưng hạ lệnh cho đại đội lưu đạn pháo làm tốt công tác chuẩn bị hỗ trợ chiến đấu, đại đội lưu đạn pháo nòng có đường kính 75 ly của đội hải quân lục chiến, đến lúc rạng sáng mới được tháo dỡ xuống, nhưng đã không kịp tham gia phản kích cuộc tiến công mang tính tự sát tập thể của hải tặc Ca Âu. Hiện tại vừa vặn dùng để trợ giúp hải quân phản công hải tặc Ca Âu, chỉ tiếc là, tầm nhìn ngoài khơi quá thấp, lưu đạn pháo không cách nào hữu hiệu ngắm đúng mục tiêu, cho nên pháo đạn chậm chạp chưa bắn ra.

Các chiến hạm cỡ nhỏ của hải tặc Ca Âu hết sức linh hoạt. Nhất là loại chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao bọn chúng hầu như không kiêng nể gì

Cứ bu như đỉa đói xung quanh chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ. Mặc dù thường xuyên có tiếng pháo nổ xé gió bay đến, nhưng số chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao bị trúng mục tiêu lại rất hiếm hoi, bọn hải tặc Ca Câu bu đen đỏ trên thuyền, thậm chí còn đứng ngạo nghễ trên tuốt luốt cột buồm cao vút, hò hét quát nạt hải quân Lam Vũ, kiêu ngạo vô cùng.

Nhưng phần lớn chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ cũng không để ý tới bọn họ, mà dồn mục tiêu theo dõi vào chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu. Từ lúc hải chiến vừa mới bộc phát, năm chiếc chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu đã trở thành mục tiêu truy sát của chiến hạm Long Nha hải quân Lam Vũ, bọn Trầm Văn Hạo cùng Phương Hận Thiểu tăng tốc quyết liệt giành lấy vị trí có lợi nhất, nhắm ngay mấy chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu không ngừng nã đạn, pháo đạn rơi vào chung quanh chiến liệt hạm, bắn lên những cột nước khổng lồ tung tóe.

Chiến liệt hạm của hải tặc Ca Âu cũng liều mạng khai hỏa bắn trả, pháo hỏa rõ ràng còn hung mãnh hơn rất nhiều, lúc tề bắn thoạt nhìn giống như là một đàn sư tử đang tức giận. chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ, mỗi bên sườn tàu chỉ có bốn khẩu đại pháo, mà mấy chiếc chiến liệt hạm này của hải tặc Ca Âu, mỗi bên sườn tàu đã có sáu mươi khẩu đại pháo, số lượng đại pháo nếu so với chiến hạm Long của quân Lam Vũ còn nhiều hơn mười lần, không chỉ có như thế, để triển khai uy lực vô cùng của chiến liệt hạm khổng lồ, mà những chiếc chiến liệt hạm này còn khai pháo cả hai bên, tiếng pháo bắn ra quả thực làm cho cả biển Gia Lặc Tân đều sôi lên sùng sục.

Song, chính thức gây nên lực sát thương g không phải chiến liệt hạm của hải tặc Ca Âu, mà là chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ. chiến liệt hạm của hải tặc Ca Âu, mặc dù bề ngoài thoạt nhìn phi thường uy vũ, không thể xâm phạm, nhưng pháo đạn chúng nó phóng ra, cũng không tạo thành ảnh hưởng gì lớn đối với chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ, bởi vì phần lớn pháo đạn đều ở nửa đường đã rơi xuống ngoài khơi, ngược lại còn nổ nhầm vào chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của phe mình. Mà pháo đạn của chiến hạm Long Nha hải quân Lam Vũ phóng ra, mặc dù số lượng không nhiều lắm, nhưng toàn bộ đều rơi vào vùng phụ cận chiến liệt hạm của hải tặc Ca Âu, cho dù không có trực tiếp trúng mục tiêu, duy trì liên tục đạn nổ gần cũng đã làm cho hải tặc Ca Âu cảm thấy vô cùng sợ hãi. 

Không tự chủ được, kỳ hạm song phương cũng bắt đầu lần lượt đấu tay đôi một chọi một, La Đế Áo Phỉ hạ lệnh xoay mũi kỳ hạm của mình nhìn chằm chằm vào kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, muốn tìm cơ hội đâm cho một phát chí mạng, nhưng rất đáng tiếc, kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư cũng phi thường giảo hoạt, chuyên môn hướng về phía đội thuyền dày đặc mà xuyên qua, một bên chạy, một bên không ngừng khai pháo, rất nhiều pháo đạn rơi vào các chiến hạm bắc hại buồm tam giác tốc độ cao đang đuổi theo ráo riết , trực tiếp nhấn chìm chúng nó vào đáy biển sâu.

Ầm ầm đùng......

Kỳ hạm của La Đế Áo Phỉ rốt cuộc cũng có cơ hội đến gần kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, La Đế Áo Phỉ không chút do dự hạ lệnh khai pháo, một trận nổ vang đinh tai nhức óc trôi qua, tất cả đạn pháo bắn ra đồng loạt đều rơi vào mặt nước cách kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư không đầy hai trăm thước, bắn tung tóe vô số bọt nước trắng xóa. Kỳ hạm của La Đế Áo Phỉ rất nhanh lại xoay tàu lại phơi ra mạn thuyền bên trái, làm cho đại pháo ở sườn tàu còn lại tiếp tục tề bắn quét ra một trận mưa đạn pháo, kết quả đều nổ ầm ầm cách Đặc Lan Khắc Tư phía trước không tới một trăm năm mươi thước, uy thế vô cùng khiếp sợ.

Sắc mặt của Đặc Lan Khắc Tư có chút lo lắng căng thẳng, vốn dĩ là, pháo đạn của kỳ hạm La Đế Áo Phỉ phóng ra, cư nhiên không phải cố hết sức ngắm bắn chính xác, mà uy lực phá hủy của đạn tương đối lớn, hơn nữa tầm bắn cũng tương đương xa, đạt tới một ngàn sáu trăm thước. Vốn căn cứ vào sự phỏng chừng của hải quân Lam Vũ, đại pháo của hải tặc Ca Âu có tầm bắn xa nhất cũng chỉ một ngàn hai trăm thước là cùng, bởi vì chiến liệt hạm cấp Vô Úy mới nhất của nước Mã Toa, còn có chiến liệt hạm cấp ngũ thai sơn của hải quân Đường Xuyên, đại pháo có tầm bắn xa nhất cũng chỉ là một ngàn hai trăm thước, đằng này hải tặc Ca Âu là người man rợ, về phương diện kỹ thuật không phải phát triển lắm, khó có khả năng vượt qua những loại chiến liệt hạm kia, song, trước mắt sự thật cho thấy, đại pháo của hải tặc Ca Âu rõ ràng tiến bộ hơn.

Ầm ầm đùng......

Kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư cũng không chút do dự khai pháo bắn trả, bọn họ bỏ qua những chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu bên cạnh, mà dồn mục tiêu vào kỳ hạm La Đế Áo Phỉ. Mặc dù pháo của chiến hạm Long Nha hải quân Lam Vũ không nhiều nhưng có tầm bắn xa, uy lực lớn, liên tục mấy phát pháo đạn bắn ra, đều nổ mạnh ở sát rạt kỳ hạm La Đế Áo Phỉ, bọt nước bắn tung tóe khởi thậm chí còn văng trúng người La Đế Áo Phỉ, đồng thời, những mảnh vỡ của những trái pháo nổ gần đã găm thủng mạn tàu của chiếc chiến liệt hạm này tạo nên rất nhiều lỗ nhỏ, nước biển ùa vô như thác lũ, kỳ hạm của La Đế Áo Phỉ không tự chủ được phải hạ thấp tốc độ, kéo giãn khoảng cách với kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư. Nếu như lúc này, kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư còn có cơ hội nhắm bắn mà khai pháo tiếp tục, thì hơn phân nửa là sẽ có cơ hội bắn chìm kỳ hạm của La Đế Áo Phỉ, nhưng, rất đông chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu cũng đang rình mò theo dõi kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, chỉ nháy mắt sau khi hỏa pháo của kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư kỳ bắn xong, là bọn chúng đều nhất loạt nương theo sóng biển xông vào vùng cấm, trực tiếp uy hiếp đến sự an toàn của kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư.

Trong môt khoảng thời gian không đầy ba phút, bên cạnh kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, đã có hơn mười chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu tới lui tuần tra, đang tìm cơ hội tiếp cận kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, mũi tàu của bọn họ quá nguy hiểm làm cho hạm trưởng kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư không thể ngưng hỏa pháo được một giây phút nào, song, sóng biển quá dữ dội gây xóc nảy, khiến cho sác xuất trúng mục tiêu của hạm pháo hải quân Lam Vũ bị hạ thấp đi rất nhiều, các phương tiện tiên tiến như kính ngắm tầm xa đều trở thành vô dụng, các pháo thủ chỉ có thể dựa vào kinh nghiệm bản thân mà bắn.

Đột nhiên đúng lúc này, chiếc chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao không sợ gì hết cứ thế xáp vào bên kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, hơn nữa còn bắt đầu tung móc câu, móc chặt lấy lan can boong tàu của kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, dựa vào sức kéo của móc câu để lôi chiếc chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này nhích tới nhanh hơn.

Đùng đùng đùng......

Trong tầm bắn gần như vậy, có hai chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao bị pháo đạn bắn hết cỡ làm cho nát bấy, bọn chúng vỡ tan thành từng mảnh nhỏ, cột buồm đứt gãy thành từng khúc, gây cho hai chiếc chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao đang ở bên cạnh rắc rối to, bọn chúng tựa như chuỗi hồ lô chen chúc nhau trôi tới, theo sau lại là một loạt đạn pháo ào tới, chúng nó kéo nhau chìm nghỉm xuống đáy biển, những tên hải tặc Ca Âu trên số chiến hạm xui xẻo này, đều rơi vào trong nước biển lạnh như băng, sau đó lại bị chiến hạm bị đắm gây nên xoáy nước hình phễu lôi tuột toàn bộ vào đáy biển sâu.

Chiến hạm bị chìm của hải tặc Ca Âu còn có dây trói cột chặt vào kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, làm cho kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư bị nghiêng hẳn sang một bên rất nghiêm trọng, may là thủy thủ hải quân Lam Vũ đã rất nhanh dùng búa chém đứt dây trói, kỳ hạm mới khôi phục lại thăng bằng. Kỳ hạm đang nghiêng đột nhiên thăng bằng lại, tạo nên một luồng sóng thật lớn, sóng biển dữ dội trực tiếp làm cho một chiến hạm hải tặc Ca Âu bị lật úp tức thì.

Pằng pằng pằng......

Từng loạt đạn dày đặc như mưa bão từ kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư không ngừng đích gào thét bắn ra, trút từng loạt luồng hỏa lực về phía ngoài khơi, này tụ tập vô số chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, đang quay mắt về phía mưa đạn điên cuồng, muốn xé đạn vọt qua, nhưng lại không dám, nhưng nếu không vọt đến, thì lại không cách nào chạm đến Kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư . Trên chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu, cũng không có lắp đặt bất cứ loại đại pháo nào, bọn chúng chỉ có tiêu thương cùng binh lính hai thứ công phu nhuần nhuyễn nhất mà thôi.

Bởi vì đã sớm nghiên cứu đặc điểm rất nhanh rất linh hoạt của chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu

, cho nên mỗi một chiến hạm Long Nha của hạm đội bắc hải Lam Vũ, đều lắp đặt vô số súng bạo phong vũ để bù đắp cho hạm pháo còn thiếu. những khẩu súng bạo phong vũ này đều trang bị băng đạn thật dài, cho dù không ngừng điên cuồng quét bắn, cũng có thể đủ chống đỡ thời gian tương đối lớn, trong lúc súng bạo phong bắn quét, không ngừng có đám thủy thủ hải quân Lam Vũ từ khoang thuyền chạy đến vị trí súng bạo phong vũ thay đạn.

Rốt cuộc, có vài chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao hải tặc Ca Âu không để ý mon men lại gần , kết quả dưới loạt đạn quét của súng bạo phong vũ, chúng nó bị bắn cho tan tác, đánh cho tơi bời hoa lá, chìm ngay tại trận, hải tặc Ca Âu đứng trên thuyền nhìn thấy đạn hướng về phía mình như mưa bão, đều nhảy vào nước biển lạnh như băng, nhưng đạn vẫn đuổi theo bọn họ đến tận mặt nước, cướp đi tính mạng của bọn họ.

Mấy chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao liên tục tới gần đều bị súng bạo phong vũ bắn cho nát bấy

, nhưng vẫn có càng nhiều chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu cuồn cuộn đi lên, cứ như một cơn lũ cuồn cuộn không ngừng, Đặc Lan Khắc Tư kéo cờ đã kích thích bọn chúng đến tột độ, La Đế Áo Phỉ hạ lệnh bất luận phải trả cái giá đắt cỡ nào, cũng phải bóp nát kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư.

Đột nhiên đúng lúc này. một chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao hải tặc Ca Âu đột phá vòng vây hung hăng đánh lên kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, cơ hồ khiến Đặc Lan Khắc Tư bị chấn động ngã lăn tại boong tàu, mũi tàu sắc bén đâm sâu vào mạn thuyền bên trái của kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư. Khiến cho hai chiến thuyền dính chặt vào một chỗ. Bọn hải tặc Ca Âu trên chiến thuyền bắc hải tam giác phàm tốc độ cao, đồng loạt muốn trèo lên kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư , kết quả bị quân Lam Vũ dùng súng bạo phong vũ quét bắn, cả thuyền lẫn người đều chìm vào biển rộng, nhưng mũi tàu nhọn hoắt vẫn găm chặt vào mạn thuyền trái của kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, nước biển từ lỗ hổng không ngừng chảy vào.

chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao hải tặc Ca Âu còn lại cảm giác được có thể chớp lấy cơ hội, nên đều hý hửng đổ xô lại đây. Kết quả bị hỏa pháo của kỳ hạm Đặc Y Khắc Tư bắn cho tan tành, vì vậy bắt đầu do dự chững lại. kỳ hạm của Đặc Y Khắc Tư, ngược lại có vẻ càng thêm dũng mãnh. Càng thêm lẫm liệt không thể xâm phạm, hạm pháo bắn với tốc độ đạt tới trước nay chưa từng có.

Phương Hận Thiểu chỉ huy chiến hạm số hiệu 703 phát hiện kỳ hạm Đặc Y Khắc Tư đã bị hải tặc Ca Âu tập trung công kích, lập tức nhích lại gần, chung quanh hắn cũng có ba bốn chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao hải tặc Ca Âu vây quanh, kết quả bị hắn hung hăng hất văng đi, trong đó có một chiến thuyền thông tin tải trọng nhẹ của hải tặc Ca Âu. Tải trọng đại khái chỉ có chừng sáu mươi tấn, bị chiến hạm Long Nha của hắn húc cho vỡ làm đôi ngay tại chỗ, chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu bên cạnh, cũng bị hắn trên thuyền dùng súng bạo phong vũ hung mãnh bắn cho chạy loạn trên sóng biển mãnh liệt. 

Đùng đùng đùng......

Phương Hận Thiểu quả thực chính là loại người chỉ cần tiêu diệt kẻ thù thì bất chấp hậu quả, kể cả trả giá đắt đến đâu, hắn đo đạc mục tiêu cách kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư kỳ chừng một trăm thước về phía trước. rồi liên tục nã một loạt pháo, mấy chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu mới vừa vọt qua từ nơi đó, đang hý hửng nhìn thấy kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư ngay trước mắt. bỗng đột nhiên hứng chịu đòn tấn công từ phía sau, hai chiến thuyền ngay lập tức bị lật úp, những chiếc còn lại cũng cực kì hoảng sợ, vội vàng quay đầu lại đối phó với Phương Hận Thiểu. 

Pháo đạn nổ mạnh làm bọt nước bắn tung tóe khởi văng cả lên trên boong tàu kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, lúc này Đặc Lan Khắc Tư mới chú ý tới sự có mặt của Phương Hận Thiểu, nghĩ đến loạt pháo vừa rồi nổ với cự ly gần trong gang tấc như thế, Đặc Lan Khắc Tư vẫn còn tim đập chân run, nếu như hạm pháo của Phương Hận Thiểu bị sóng biển quật trúng nên bắn lệch đi một mét thôi, thì đạn pháo đã có thể trực tiếp rơi vào trên kỳ hạm của mình, gã tiểu tử này, quả thực đang liều mạng mà.

Không kịp cảm tạ hay đúng hơn là trách cứ Phương Hận Thiểu, chiến hạm Long Nha số hiệu 703 của Phương Hận Thiểu đã lâm vào kịch chiến, để đánh lạc hướng bọn chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao đang vây khốn kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, hắn chủ động cùng hải tặc Ca Âu triển khai vật lộn, chung quanh có sáu chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu quay sang bao vây chiến hạm Long Nha của hắn, bốn phương tám hướng đều có hải tặc Ca Âu liều mạng bu theo. Phương Hận Thiểu cũng không yếu thế, tự mình điều khiển súng bắn nát bấy chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, đám thủy thủ dưới tay hắn vác súng Mitch cùng khẩu pạc-hoọc, đổ ra bốn phía boong tàu cùng hải tặc Ca Âu triển khai chém giết đẫm máu , cách mấy trăm thước, Đặc Lan Khắc Tư cũng có thể đủ nhìn thấy máu chảy trên boong tàu chẳng khác nào thác nước đang đổ xuống biển.

Đột nhiên đúng lúc này, lại có một chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao hải tặc Ca Âu phóng mãnh liệt về phía chiến hạm Long Nha của Phương Hận Thiểu, nhưng Phong Hận Thiểu nhanh trí, lập tức hạ lệnh chuyển hướng, hơn nữa còn lấy mũi thuyền quay ngang chém gãy cột buồm của mấy chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao đang sừng sững phía trước, kết quả là hai chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này va chạm mãnh liệt vào nhau, ngay lập tức hoàn toàn nát bấy, chậm rãi chìm xuống nước.

Va chạm kịch liệt cũng làm cho chiến hạm Long Nha của Phương Hận Thiểu chấn động, cột buồm phát ra tiếng kêu rắc rắc, dường như muốn nứt gãy, đồng thời thân thuyền cũng dồn dập nghiêng sang bên trái, bọn hải tặc Ca Âu đang lợi dụng cơ hội leo lên, bị chấn động kịch liệt đều rời tay, liên tiếp rơi vào nước biển lạnh như băng. hải tặc Ca Âu cùng quân Lam Vũ thủy thủ đang chém giết nhau trên boong tàu, cũng toàn bộ rối loạn, tiếng súng không ngừng, cũng không biết hậu quả thế nào.

Đặc Lan Khắc Tư đang định nhắc nhở Phương Hận Thiểu phải cẩn thận, đột nhiên đúng lúc này, bên tai truyền đến một trận nổ đinh tai nhức óc, chẳng khác nào long trời lở đất, vội vàng quay đầu nhìn, thì ra là có một chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu cuối cùng không thể trốn tránh được sự truy đuổi ráo riết của hải quân Lam Vũ, bị chiến hạm Long Nha số hiệu 702 của Trầm Văn Hạo chỉ huy bắn trúng trực tiếp vào kho đạn dược khố, cho nên phát ra tiếng nổ mạnh như thế.

Ánh lửa chói mắt cơ hồ muốn nhuộm đỏ cả một vùng trời ngoài khơi, một quả cầu lửa khổng lồ trong nháy mắt đã bùng lên, biến bảy tám chiến thuyền chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao chung quanh cũng toàn bộ vỡ nát, theo ngọn lửa từ từ bị dập tắt, mà chiếc chiến liệt hạm khổng lồ này cũng từ từ chìm xuống mặt nước tối đen. Vài phút đồng hồ sau, chiếc chiến liệt hạm khổng lồ đã hoàn toàn chìm nghỉm, để lại trên mặt biển là hàng loạt vật tư trôi lềnh phềnh cũng hàng hà sa số hải tặc bơi lóp ngóp rồi cũng từ từ chìm nghỉm, không thể kháng cự .

Tam phu nhân nghe thế tức giận nói: "Mạnh Thiên Sở, ta nhất mực coi ngươi là người, không ngờ ngươi lại làm chuyện hèn hạ như vậy." 

Mạnh Thiên Sở không nổi nóng, chỉ đáp: "Xét xem nhị phu nhân nhà cô, nghĩ lại xem bà ta trước kia đối với cô thế nào, còn cô hiện giờ sao lại người ta té giếng ném thêm đá xuống luôn vậy? Ta nghĩ làm người hèn hạ chẳng phải chỉ mình Mạnh Thiên Sở ta không thôi đâu."

Tam phu nhân nghe thế, gay gắt hỏi: "Ngươi định nói cái gì? Ta không hề giết hai đứa bé đó, cũng không muốn giết nhị phu nhân."

Mạnh Thiên Sở cười lớn một tiếng, hỏi lại: "CÔ nói không có giết là không giết hay sao? Thư Khang vừa rồi chẳng phải còn nói làm cho Miêu gia loạn lên là điều mà cô hằng hi vọng hay sao?"

Tam phu nhân đáp: "Ta chỉ muốn thấy nhà chúng loạn, chứ không đại biểu ta giết người."

Mạnh Thiên Sở bảo: "Cô vừa tiến vào Miêu gia đã hết lòng nghiên cứu y thuật, đặc biệt là làm cách nào hạ độc, chẳng phải là vì chờ một ngày nào đó có dịp sử dụng hay sao? Cô nói cô không giết hai hài tử đó, còn cô tự bản thân năm năm nay nhất mực không có con. Cô vào nhà họ Miêu sớm hơn cả Tuyết nhi, chẳng lẽ cô không có cảm thấy nguy cơ hay sao? Cô lại không quản nhà cửa, lại không được sủng ái, cũng không có địa vị nguyên phối của đại phu nhân, chẳng lẽ cô thật sự thản nhiên sống và chịu vậy hay sao?"

Tam phu nhân cười lạnh đáp: "Ngươi phân tích rất đúng, án chiếu theo lẽ thường, điều ngươi nói đều không có vấn đề gì đáng tranh cãi, do đó ngươi cho rằng ta muốn mượn tay nhị phu nhân trước hết giết chết hai đứa trẻ, sau đó đổ cho nhị phu nhân giết, sau đó ta hạ độc vào bà ta, để bà ta vĩnh viễn ngậm miệng, như vậy ai cũng sẽ cho rằng nhị phu nhân sẽ sợ tội mà chết, có phải vậy hay không?"

Mạnh Thiên Sở hỏi ngược lại: "Chẳng lẽ không phải vậy?"

Tam phu nhân nhìn Mạnh Thiên Sở, nét mặt lộ vẻ coi thường, lúc này Thư Khang lên tiếng: "Các người cho rằng Tiểu Tiểu giết hai đứa trẻ hay sao? Làm sao có thể được chứ? Hai đứa trẻ đó quả thật không phải Tiểu Tiểu giết, ta có thể làm chứng."

Mạnh Thiên Sở nhìn bộ dạng nóng vội của Thư Khang, cười lạnh hỏi: "Ngươi có thể bảo chứng? Ngươi đi nói với Miêu Triết đi..."

Tam phu nhân ngắt lời Mạnh Thiên Sở: "Ta đã nói là ta không giết hai đứa bé đó, còn chuyện nhị phu nhân trúng độc cũng không phải do ta hạ. Ngươi không tin thì tùy ngươi, ngươi muốn đem chúng ta giao cho Miêu Triết cũng tùy tiện."

Mạnh Thiên Sở nhìn dáng vẻ bất cần của ả, biết là ả quả thật chẳng màng gì nữa, cho nên đứng dậy nói với Chu Hạo: "Cho gọi bọn Vương Dịch vào đi, xem bọn chúng quả thật không muốn nói gì thật không."

CHu Hạo vừa định đi ra cửa, Thư Khang đột nhiên nói: "Các người sao không hỏi vì sao Tiểu Tiểu lại hi vọng Miêu gia loạn lên vậy? Nàng ấy chỉ đứng đó xem trò vui, nàng ấy quả thật chẳng làm gì cả. Các người nếu như giao ta cho Miêu Triết ta cũng chẳng màng gì, nhưng mà mọi kế hoạch của Tiểu Tiểu từ trước đến giờ đều hỏng hết."

Mạnh Thiên Sở đáp: "Ta có hỏi cô ta cũng không nói."

Tam phu nhân nhìn Thư Khang, nói: "Thôi vậy, bọn họ muốn làm gì thì cứ để cho làm đi, nếu như nói mọi chuyện đều do muội gánh vác, thì kế hoạch có ra sao cũng không quan hệ."

Mạnh Thiên Sở gọi Chu Hạo, lần nữa bước đến cạnh tam phu nhân, bảo: "Nếu như kế hoạch của cô chỉ là cá nhân chứ không phải toàn bộ, thì cô làm như vậy sẽ khiến rất nhiều người vô tội bị hại vì cô. Tuy ta không biết kế hoạch của cô là gì, nhưng ta tin rằng nó khiến nhà họ Miêu bất hòa, tốt nhất là loạn hẳn lên, đúng không? Ai đắc tội cô mà khiến cô có lòng dạ và hành vi như thế? Ta không hiểu, nhưng hài tử là vô tội, nhị phu nhân xem ra cũng không có tội, nhưng mà họ đều chết cả rồi. Có phải là cô làm hay không thì ta không biết, nếu như là phải, thì ta không còn lời gì để nói. Nếu như là không phải, cô hà tất phải giống như nhị phu nhân thế thân cho hung thủ như vậy? Có đáng hay không?" 

Tam phu nhân không lên tiếng, Thư Khang ở bên cạnh gấp lên, bảo: "Tiểu Tiểu, không phải là nàng làm, nàng hà tất phải thụ khổ cho người như vậy? Nàng đã đáp ứng ta rồi, để ta chờ nàng nhiều lắm là sáu năm, đến bây giờ đã năm năm rồi, không phải là ta không muốn chờ nữa, mà là ta không muốn chờ ra kết quả là nàng là kẻ giết chồng giết con rồi khiến chúng ta bị đánh chết tươi. Như vậy không những không trả được thù, mà ta và nàng đều phải chết dưới tay chúng, có đáng như vậy hay không?"

Mạnh Thiên Sở thấy Thư Khang nói thế, hơi có chút bất ngờ, thầm nghĩ bản thân hắn vốn cho rằng đây chỉ là chuyện thường ngày của nữ nhân trong gia tộc, không ngờ lại có liên quan đến chuyện huyết hải thâm cừu.

Mạnh Thiên Sở vừa định lên tiếng, tam phu nhân thấy Thư Khang nói như vậy đã thở dài một tiếng, ngồi thẳng dậy nhìn Mạnh Thiên Sở nói: "Ta trước đây đã nói rồi, án theo lẽ thường, ngươi phân tích như vậy là hoàn toàn thành lập, nhưng đáng tiếc là ta đến nhà Miêu Triết không phải là tranh sủng ái, mà là để báo thù."

Đến lúc này thì Vương Dịch tiến vào nhà, thấy bọn họ còn nói chuyện, liền bước đến cạnh Mạnh Thiên Sở thưa: "Vừa rồi huynh đệ đi dò thám đã về, nói là trong nhà đó đang đi tìm tam phu nhân, bọn họ đã đi dò la đại khái ba khắc rồi."

Tam phu nhân nghe thế lập tức gấp lên, hiện giờ dù sao thì ả ta cũng là chủ của một nhà, tự tiện li khai với thời gian dài như vậy tự nhiên khiến người ta nhanh chóng phát hiện ra có điều không ổn.

Mạnh Thiên Sở nhìn nhìn tam phu nhân, ngẫm nghĩ một chút, nói: "Thả cô về nhà cũng được, nhưng cô cần phải cho ta biết một chuyện."

Tam phu nhân không ngờ Mạnh Thiên Sở còn có thể thả mình về, liền vội nói: "Ngươi cứ nói đi, những gì ta biết tự nhiên sẽ không giấu."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Giết hai đứa bé đó và hạ độc nhị phu nhân không phải là một người làm?"

Tam phu nhân không ngờ Mạnh Thiên Sở lại hỏi điều này, nên hỏi ngược lại: "Người bằng vào cái gì mà nhận định rằng ta nhất định biết hung thủ giết người là ai?"

Mạnh Thiên Sở đáp: 'Cô có thể không nói, nhưng ta biết là cô sẽ cho ta biết."

Tam phu nhân hỏi: "Vì sao?"

Mạnh Thiên Sở trả lời: "Kỳ thật cô không nói ta cũng sẽ đi tra, chỉ là cô biết ta thả cô về, dĩ nhiên tin rằng hung thủ không phải là cô, hơn nữa còn có thể ẩn giấu giúp cô chuyện báo thù, cô cảm thấy ta tin cô như vậy, chẳng lẽ cô không thể tin ta một lần được hay sao?"

Tam phu nhân nói: "Ta xác thật không biết hung thủ là ai, ta nói đây là lời thật, hay là vầy, ta hiện giờ thật không có thời gian nói cho ngươi biết, hay là ngày sau ta sẽ nói, ngươi muốn biết gì ta cũng đáp hết, được không?"

Mạnh Thiên Sở đáp: "Muốn ta tin cô không phải là không thể, nhưng cô cần phải cho ta một lí do."

Tam phu nhân cười nói: "Kỳ thật ngươi đã tin ta rồi, cần gì lí do nào nữa? Huống chi Thư Khang và ta đã bị ngươi nắm đằng thóp, ngươi nhận thấy là ta còn cần phải cấp cho ngươi một lí do nào khác hay sao?"

Mạnh Thiên Sở nhìn nữ nhân tinh minh trước mắt, lòng không khỏi cảm khái, nhớ lại lời Miêu Nhu nói, liền bảo: "Vậy cô đi đi, nhưng mà trước khi đi, ta có một chuyện cần cầu cô."

Tam phu nhân đứng dậy, bước ra cửa, vừa đi vừa nói: "Ta biết ngài cần ta làm gì, ta sẽ tận lực."

Mạnh Thiên Sở gật đầu, bảo: "Không phải là tận lực, mà là nhất định."

Tam phu nhân không nói gì nữa, đi thẳng ra cửa. CHu Hạo nhìn bóng tam phu nhân đi xa, nói: "Ả ở ngoài lâu như vậy, không biết sẽ trả lời Miêu Triết thế nào."

Mạnh Thiên Sở tủm tỉm cười, đáp: "Một nữ nhân thông minh như vậy rất thích hợp tranh chỗ nước sâu đó, có chuyện gì còn làm khó được cô ta chứ."

Hắn chuyển thân, nhìn Thư Khang còn đứng ngẩn ra ở đó, bước đến vỗ vai y, hỏi: "Lo cho cô ta hay sao?"

Thư Khang lúc này mới tỉnh thần trở lại, nhìn Mạnh Thiên Sở, đáp: "Từ trước đến giờ chỉ có nàng ấy quan tâm tôi, tôi còn chưa bao giờ lo lắng cho nàng ấy."

Mạnh Thiên Sở nghe Thư Khang nói thế, gật gù tin ngay, hỏi tiếp: "Vậy ngươi đang nghĩ gì?"

Thư Khang đáp: "Nghĩ vì sao ngài đột nhiên lại tha cho chúng tôi."

Mạnh Thiên Sở bảo: "Tuy ta không biết người là do ai giết, chúng ta cũng không thể bằng cảm giác mà làm việc, nhưng trước khi ta còn chưa tìm ra chứng cứ ai là kẻ giết người, ta thật sự không có lý do bắt cô ta."

Thư Khang nhìn lại Mạnh Thiên Sở, nói: "Ngài thật là thông minh, như vậy chúng tôi đã nợ ngài một mối nhân tình."

Mạnh Thiên Sở bảo: "Chúng ta không ai nợ ai cả."

Thư Khang đáp: "Không, là chúng tôi nợ ngài. Nếu như ngài đem chúng tôi giao cho Miêu Triết, tôi biết tính cách của Tiểu Tiểu, nàng ấy thà chết cũng không nói nửa lời, như vậy ngày này năm sau đại khái là ngày kỵ của chúng tôi rồi."

Mạnh Thiên Sở nhìn vẻ mặt bi thương của Thư Khang như vậy, bảo: "Về chuyện báo thù ta không hỏi ngươi, ta chờ cô ta cho ta biết, nhưng có một điểm ta không rõ, là ngươi rõ ràng biết cô ta là tam phu nhân có danh có thật của Miêu Triết, tại sao lại có thể nhẫn chịu người yêu thương của mình nép thân vào nam nhân khác cơ chứ?"

Thư Khang thống khổ lắc đầu, đáp: "Chúng tôi lớn lên từ nhỏ, quan hệ gia đình tuy không coi là thế giao, nhưng cũng rất tốt. Chúng tôi nhất mực cho rằng chờ đến lúc chúng tôi lớn, tất sẽ nên duyên tần tấn. Lúc đó chúng tôi cùng đọc sách, cũng viết chữ, Tiểu Tiểu thông minh hơn tôi nhiều, lúc đó cha tôi nói, nếu nàng ấy là nam nhân ắt sẽ có ngày thi trúng trạng nguyên. Nhưng sau này, nhà nàng ấy xảy ra biến cố, cha nàng ấy bị người ta hại chết, mẹ vì thương tâm quá độ mà treo cổ tự vẫn. Ngày ấy nàng mười ba tuổi mà đã không còn mẹ cha, cha tôi đưa nàng ấy về nhà, nhưng cá tính nàng ấy quá háo cường, nhất mực muốn báo thù." Mạnh Thiên Sở hỏi: "Ý tứ của ngươi là người nào đó của Miêu Gia đã hại cha cô ta?"

Thư Khang gật gật đầu, đáp: "Sau đó, nàng ấy nhất mực đến các nơi thăm dò xem xét, cha tôi cũng trợ giúp, cho nên mới biết chính là Miêu Triết đã hại cha nàng ta."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Vậy Miêu Triết vì sao lại hại cha cô ta vậy? Ta nhớ lần trước ngươi nói cho ta biết là ngươi không phải người vùng này, vậy thì tam phu nhân xem ra cũng không phải. Xa cách nhau như vậy, vì sao Miêu Triết lại hại cha cô ta chứ?"

Thư Khang đáp: "Cha của Tiểu Tiểu nhất mực làm người hầu ở nhà Miêu Triết, làm suốt gần hai mươi năm. Sau đó nghe nói nhân vì nhà của Miêu Triết xảy ra chuyện gì đó, cho nên đã đuổi rất nhiều người đi. Nhân vì cha của Tiểu Tiểu làm ở đó lâu năm, cho nên họ đã không đuổi ông ta. Lúc đó cha của Tiểu Tiểu còn nhờ người mang thư về nói là rất may ông ấy còn làm việc, nếu không không có tiền cung cấp cho gia đình nữa."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Có biết vì sao Miêu Triết lại giết cha của Tiểu Tiểu không?"

Thư Khang trả lời: "Cái đó thì tôi không rõ lắm. Tiểu Tiểu cũng không biết rõ, cho nên khi biết là Miêu Triết giết cha, nàng ấy quyết lòng tiếp cận Miêu Triết, thiết kế báo thù. Sau đó, vì phải tiếp cận Miêu Triết, chúng tôi đến Nhân Hòa huyện, tôi thụ nghiệp vào làm thầy ở trường tư thục, nhân vì ở tư thục không chấp nhận nữ dạy học, cho nên nàng ấy ở trường làm tạp dịch, chờ đợi cơ hội."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Chẳng lẽ ngươi không khuyên qua cô ta sao?"

Thư Khang cười khổ một tiếng, nói: "Ai cũng không thể khuyên nàng ấy được. Nàng ấy hận sâu như vậy, thù lớn như vậy, chẳng lẽ người bên cạnh khuyên một câu là có thể bỏ qua được sao? Nếu là thế, nữ tử như thế tôi cũng không đem lòng yêu được."

Mạnh Thiên Sở hiểu được tâm tình của Thư Khanh, nói: "Chỉ có điều cô ta làm vậry quá nguy hiểm, công phu của Miêu Triết giỏi như vậy, đại phu nhân của y cũng không phải tay vừa, cô ta là nữ tử yếu ớt như vậy làm sao có thể báo thù được?"

Thư Khang đáp: "Do đó mới nói, nàng ấy hi vọng cái nhà này dẫn đến kết quả cuối cùng là tứ phân ngũ liệt, nhà không thành nhà. Nàng ấy cũng nói cho tôi biết, vì tôi nàng ấy sẽ không giết Miêu Triết, nhân vì giết người thường mạng, nàng ấy nếu chết rồi tôi dĩ nhiên là không sống nỗi, cho nên, tôi tin là nàng ấy không giết người, và nàng ấy cũng không có bản lĩnh giết người như vậy."

Mạnh Thiên Sở tiếp lời: "Nếu nói như vậy, toàn bộ kế hoạch của các ngươi để thực thi phương án làm cho nhà Miêu Triết tứ phân ngũ liệt là gì?"

Thư Khang cười an ủi, đáp: "Tiểu Tiểu đã thực thi kế hoạch rồi, ngài chẳng lẽ không nhận thấy hay sao?"

Mạnh Thiên Sở chấn động trong lòng, hỏi: "Mượn đao giết người?"

Thư Khang hỏi lại: "Tôi có nói qua sao? Tôi dường như không có."

Mạnh Thiên Sở đột nhiên đứng dậy xông ra cửa, Chu Hạo và Vương Dịch vội vã theo sau, Mạnh Thiên SỞ vừa đi vừa nói với Vương Dịch: "Tìm người canh giữ cái vườn này cho ta, không cho người trong đó ra ngoài, người ngoài cũng không cho phép vào trong."

Phía sau lưng Mạnh Thiên SỞ truyền lại tiếng cười lớn điên cuồng của Thư Khang, dường như giải tỏa mọi cơn ức hận trong lòng vậy...

Mạnh Thiên Sở và CHu Hạo đến cổng nhà Miêu gia thì trời đã canh hai. Cửa lớn đóng kín, hai người nhảy xuống xe, Chu Hạo vừa định gõ cửa, Mạnh Thiên Sở đã kéo Chu Hạo lại, khẽ bảo: "Lúc này muốn vào chúng ta không có lý do, ngược lại dễ dàng dẫn đến sự hoài nghi. Như vầy đi, ta đưa xe ngựa đến cách một khoảng chơ đợi, ngươi vào thám thính tình huống các phòng một chút đi."

Chu Hạo nghe vậy gật đầu, chuyển thân lên xe thay y phục dạ hành, che mặt, chờ Mạnh Thiên Sở đưa xe ngựa đi ra xa mới phóng người trèo thoăn thoắt lên phòng, tiêu biến trong hắc ám.

Mạnh Thiên Sở ở trên xe chờ một lúc lâu thì Chu Hạo quay về. CHờ Chu Hạo lên xe, Mạnh Thiên Sở hỏi: "Sao đi lâu quá vậy, bị phát hiện hay sao?"

CHu Hạo lột mạng che mặt ra, nói: "Vừa đi vừa nói."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, khẽ quất roi lên lưng ngựa, xe ngựa bắt đầu di chuyển.

Chu Hạo nói: "Quả nhiên bị phát hiện rồi."

Mạnh Thiên Sở cả kinh, hỏi: "Ai phát hiện ngươi chứ, ngươi làm sao thoát thân?"

Chu Hạo đáp: "Là đại phu nhân phát hiện. Tôi ngay từ lúc đầu đã phát hiện công phu của nữ nhân đó không dưới Miêu Triết. Quả nhiên, ả phát hiện tôi ở trên đỉnh phòng, liền từ trong phòng bước ra, lắc người cái đã lên đỉnh phòng, chỉ có điều tôi không có lòng quá chiêu với ả, nên nhanh chóng phi thân qua đỉnh một phòng khác."

Mạnh Thiên Sở biết công phu Chu Hạo không ai có thể hơn, nếu nói về khinh công cũng không có ai truy đuổi được lão đầu ốm o này.

Mạnh Thiên Sở nói: "Vậy ả không nhận ra ngươi là tốt rồi."

Chu Hạo nói: "Nhận thì tự nhiên không nhận ra rồi, chỉ là tôi vừa rồi ở trên phòng ả phát hiện một điều rất kỳ quái. Sau khi ả phóng xuống, tôi đã lén quay lại phòng ả xem xét, mang về cho ngài món này đây." Nói xong giao cho Mạnh Thiên Sở một vật.

Mạnh Thiên Sở tiếp lấy xem, thì ra là một bình thuốc, hỏi: "Bình thuốc này ta thấy rồi, là một bình rất phổ thông mà. Nhị phu nhân Giai Âm trong nhà cũng có nhiều bình thuốc như vầy ở trong phòng."

Chu Hạo nói: "Điều đó thì tôi biết, chỉ có điều ngài hãy xem kỹ, tôi nếu như không tận mắt nhìn thấy, tôi tự nhiên sẽ không để ý cái bình thuốc nhỏ nhà nào cũng có này."

Mạnh Thiên Sở lại xem xét bình thuốc trở lại, nhưng không nhận ra huyền cơ gì, trả lại bình vào tay CHu Hạo, nói: "Chuyện chăm chút thế này ta thường không giỏi lắm."

Chu Hạo nói: "Không phải là ngài không chăm chút, mà là người thường ắt sẽ không phát hiện trong bình thuốc này có vấn đề gì." Nói xong, y lật ngược bình thuốc lại, dưới bình thuốc có một điểm nhỏ bằng hạt gạo, Chu Hạo đưa cho Mạnh Thiên Sở xem, sau đó dùng móng tay án lên đó một cái, xoay chuyển bình thuốc. Không ngờ là cái bình nhỏ như vậy lại hở ra, bên trong có hai ngăn, ngăn trong có sáu hoàn thuốc, dưới đáy còn hai hoàn nữa, màu sắc đều giống nhau: màu đen.

Mạnh Thiên Sở lập tức hiếu kỳ, cầm lấy nhìn kỹ. Thường những bình thuốc nhỏ thế này chỉ bỏ được 10 hoàn thuốc, nếu hoàn thuốc hơi lớn một chút chỉ được vài viên mà thôi. Từ thiết kế của bình thuốc này mà xét, hai loại dược hoàn này có tác dụng có vẻ không giống nhau, nếu không người ta không phí tận tâm cơ làm hai tầng như vậy, hơn nữa lại ở trong một cái bình nho nhỏ thế này.

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Ngươi làm sao mà biết được vậy?"

Chu Hạo nói: "Tôi lúc nhìn thấy cái này thì bị đại phu nhân phát hiện. Nhân vì tôi ở đỉnh phòng, cự li hơi xa, bà ta từ ngoài vào xong liền đóng cửa lại, tìm từ trong đám bình thuốc ra cái bình này. Trước đó tôi không chú ý, nhân vì người ta làm nghề thuốc, trong nhà bình loại này ắt là nhiều lắm. Nhưng mà, sau đó tôi phát hiện bên ngoài đột nhiên có người gọi đại phu nhân, nói là lão gia bảo bà ta mau đem thuốc tới phòng tứ phu nhân. Bà ta liền lấy thuốc từ một bình khác sau đó xoay bỏ hai hoàn vào đáy của bình này. Có lẽ lúc đó tôi quan sát đến nhập thần, ngói dưới chân phát ra tiếng động nên ả mới phát hiện, bỏ bình xuống bàn truy đuổi theo tôi." 

Mạnh Thiên Sở nói: "Vậy ngươi mang cái bình thuốc này đi rồi, bị ả phát hiện không còn nữa thì sao? Coi chừng đánh cỏ động rắn đó."

Chu Hạo cười đáp: "Cái này thiếu gia yên tâm, tôi vào phòng xong phát hiện trong đám bình thuốc đó đều cùng một dạng như vầy, cho nên lấy cái này đi, sau đó để lên bàn cái bình khác giống y như vậy."

Mạnh Thiên Sở vỗ vai CHu Hạo: "Ngươi thật là có ý, chỉ hi vọng bà ta không phát hiện ra."

CHu Hạo nói: "Ngoài ra còn phát hiện một sự tình khác."

Mạnh Thiên SỞ ra hiệu cho y nói tiếp. Chu Hạo nói: "Trước đó tôi đến phòng tam phu nhân trước, đại khái là ả về nhà xong nói dối rất giỏi, xong an nhiên vô sự về phòng tính toán sổ sách. Miêu Giác ngủ trong phòng của ả. Sau đó Miêu lão gia đến phòng, nói với ả là tối này muốn đến phòng ả ngủ. Ả trước đó nói Miêu Giác đang có mặt, không tiện, nhưng Miêu Triết có vẻ không cam tâm, bảo nha hoàn mang Miêu Giác đi ngủ. Tam phu nhân chỉ đành đáp ứng, sau đó Miêu Triết đến phòng tứ phu nhân, nói là tứ phu nhân không khỏe, tam phu nhân không hề theo, chờ Miêu Triết đi rồi liền đóng của lại, sau đó kéo rương ra lấy một vật, tôi không nhìn rõ là vật gì thì ả đã nuốt vào trong bụng."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, cảm thấy sự tình càng lúc càng mơ hồ. Xe ngựa bất tri bất giác đến cửa nhà hắn, Chu Hạo nói: "Hay là ngài về hỏi thử nhị phu nhân, đưa thuốc này cho phu nhân xem, có thể là phu nhân có thể giúp được ngài."

Mạnh Thiên Sở gật gật đầu, thầm nghĩ ông không nói ta cũng sẽ đi hỏi Giai Âm thôi.

Mạnh Thiên Sở đến phòng của Tả Giai Âm, nghe nàng ta đang cùng nói chuyện với Hạ Phượng Nghi, liền gõ cửa. Thật nhanh sau đó, Hạ Phượng Nghi bước ra, Giai Âm nằm trên giường. Hạ Phượng Nghi thấy là Mạnh Thiên Sở, liền nói: "Thiếu gia về rồi."

Trong phòng rất ấm, giữa phòng có lò sưởi, thếlửa đang thịnh, bên cạnh lò có hai củ khoai lang vừa nướng chín bốc mùi thật thơm.

Mạnh Thiên Sở thấy Tả Giai Âm nằm trên giường, vội bước tới hỏi: "Nàng sao vậy? Có phải mệt không?"

Tả Giai Âm lắc đầu cười đáp: "Không có sao, làm gì mà không khỏe hoài vậy chứ?"

Mạnh Thiên Sở thở phào một tiếng, ra hiệu cho Hạ Phượng Nghi đến ngồi cạnh mình, sau đó hỏi: "Vậy trễ như vậy rồi hai nàng sao còn chưa nghỉ?"

Trước đó Mạnh Thiên Sở vốn nghĩ là trời đã khuya, người trong nhà ắt đều đã ngủ, không ngờ phòng của Tả Giai Âm còn đèn, cho nên đến xem xét. Hạ Phượng Nghi nói: "Thiếp và Giai Âm mấy ngày nay nhất mực như vậy, khó ngủ nên tụ lại nói chuyện giải khuây."

Mạnh Thiên SỞ nghĩ vậy cũng hay, khó có gia đình nào quan hệ dung hiệp như vậy, bản thân không cần phí tâm nghĩ chuyện trong nhà nữa.

Tả Giai Âm hỏi: "Đói rồi chưa?"

Mạnh Thiên Sở nghe Tả Giai Âm hỏi như vậy chợt ngửi lại hương vị mê người của khoai lang nướng, liền bước đến bên bếp lò, vừa định giơ tay ra lấy thì bị Hạ Phượng Nghi ngăn lại.

Hạ Phượng Nghi cười đánh tay của Mạnh Thiên Sở ra, nói: "Làm bộ dạng như chàng vậy e rằng khoai chưa ăn được mà đã phỏng tay rồi. Nóng như vậy còn đi cầm, chàng tưởng tay chàng là sắt hay sao?"

Mạnh Thiên Sở cười hà hà, đứng xem Hạ Phượng Nghi dùng kềm gắp hai củ khoai lang ra. Nàng bảo: "CHờ một chút để nguội đã, thiếp bóc vỏ xong rồi ăn."

Mạnh Thiên Sở giả vờ đói lắm vậy, nhìn chằm chằm Hạ Phượng Nghi: "Người ta đói thật rồi, hay là nàng để ta ăn sống nàng luôn vậy."

Hạ Phượng Nghi thấy Mạnh Thiên Sở lại bắt đầu giở trò, má ửng hồng, dù sao thì cũng có Tả Giai Âm ở đó, nên chỉ kiều mị nhìn Mạnh Thiên Sở, bảo: "Chỉ có chàng là không đứng đắng, nếu không phải Giai Âm nhắc, chàng làm gì biết đói hay là không."

Mạnh Thiên Sở vờ cười khà khà mấy tiếng, Tả Giai Âm đã vội bảo: "Khuya như vậy rồi, e rằng yên ắng đến chuột ngáy cũng còn nghe tiếng, chàng cười to như vậy mọi người thức giấc hết."

Mạnh Thiên Sở thấy Tả Giai Âm nhắc vậy, đành nín miệng ngay, hỏi: "Nghe nói người có thai hay mệt lắm, đã khuya vậy còn không ngủ, nàng chẳng mệt sao?" Mạnh Thiên Sở vốn định đem chuyện lúc nãy nói cho Tả Giai Âm nghe, nhờ nàng cho ý kiến, nhưng lại sợ nàng mệt, cho nên mới hỏi vậy.

Tả Giai Âm đáp: "Thiếp có gì mà mệt chứ? Trong nhà chuyện gì lớn cũng có Phượng Nghi tỷ tỷ, chuyện nhỏ thì có Phi Yến cực khổ, thiếp là người hạnh phúc nhất, suốt ngày ngoại trừ ăn và ngủ, làm gì có chuyện cực chứ, chàng có phải là có chuyện muốn hỏi không?"

Mạnh Thiên Sở cười đáp: "Cái gì cũng không qua được mắt nàng, chỉ là ta sợ nàng và Phượng Nghi mệt rồi đó thôi. Nàng cũng biết chuyện ta nói ra lời thường không có ngắn đâu."

Hạ Phượng Nghi bảo: "Thiếp biết chàng đại khái muốn nói gì rồi, xem ra hai củ khoai lang này tự nhiên không lót được lòng chàng, hai người nói đi, thiếp đi làm cho hai người vài món ăn." Nói xong nàng đứng dậy đẩy cửa định bước ra ngoài. 

Mạnh Thiên Sở liền kéo Hạ Phượng Nghi lại, nói: "Nàng cứ như vậy, khuya như vậy rồi nàng hà tất tự thân đi làm cái gì chứ? Trước đó trong nhà không có nha hoàn và người hầu, nàng đi thì còn hiểu được, hiện giờ nàng tự đi, vậy ta tìm số người hầu đó về làm cái gì?"

Hạ Phượng Nghi biết Mạnh Thiên Sở thương xót mình, đáp: "Lúc này không gọi chúng làm gì. Bọn họ cũng mệt cả ngày rồi, thiếp xuống bếp xem thử coi, nếu không có gì ăn được, thiếp gọi họ dậy làm gì đó cũng không muộn."

Mạnh Thiên Sở thấy Hạ Phượng Nghi chỉ mặc cái áo mỏng, liền đứng dậy lấy áo bông khoác lên người nàng, nói: "Mặc y phục có kỹ vào, nếu không có gì ăn thì không phải làm nữa, ta biết nàng sẽ không gọi chúng dậy đâu, nàng cũng không được tự làm, hai củ khoai lang này đủ chúng ta ăn rồi."

Hạ Phượng Nghi mặc y phục kín vào, gật đầu cười bước ra ngoài. 

Mạnh Thiên Sở quay trở lại, ngồi cạnh Tả Giai Âm. Tả Giai Âm bảo: "Nếu lạnh chân thì lên giường, như vậy sẽ ấm hơn."

Mạnh Thiên Sở nghe có lý, vội cởi giày trèo lên giường, ngồi dựa song song với Tả Giai Âm, xong lấy bình thuốc ra đưa cho nàng xem. Tả Giai Âm không tiếp lấy, chỉ nhìn nhìn, hỏi: "Sao hả? Đây là manh mối chàng mới phát hiện hay sao?"

Mạnh Thiên Sở quan sát biểu tình của Tả Giai Âm, biết là nàng không phát hiện huyền cơ gì trong này, cho nên làm ra vẻ thần bí nói: "Khà khà, cuối cùng rồi cũng có điều khiến Giai Âm của ta không biết."

Tả Giai Âm hỏi: "Bình thuốc như vầy rất bình thường a, cần thiếp biết cái gì chứ?"

Mạnh Thiên SỞ thấy cuối cùng Tả Giai Âm không biết thật, vô cùng đắc ý, liền quay ngược bình lại mở ra cho nàng xem. Tả Giai Âm nói: "Không cần làm mẫu cho thiếp nữa, thứ đó ngay từ nhỏ thiếp đã biết chơi rồi."

Mạnh Thiên Sở vô cùng cả kinh, hỏi: "Nàng biết rồi?"

Tả Giai Âm cười, chỉ vào một hàng bình thuốc ở tủ đối diện, nói: "Ở đây thiếp còn có nhiều món hay hơn nhiều, có muốn xem không?"

Mạnh Thiên SỞ nghe thế, vội bước đến trước hàng bình thuốc mà Tả Giai Âm chỉ, lấy xuống mấy bình, sau đó nhảy vội lên giường bày ra, bảo: "Còn có trò gì vui, cho ta xem thử."

Tả Giai Âm quan sát các bình, tùy tiện lấy một cái, nói: "Xem cái này chàng biết làm trò không?"

Mạnh Thiên Sở tiếp lấy cái bình thuốc, xem xét một hồi, kéo kéo vặn vặn, xoay qua xoay lại nhưng bình thuốc vẫn y nguyên không động. Hắn cười trả lại bình thuốc cho Tả Giai Âm. Tả Giai Âm tiếp lấy, chỉ kéo nhẹ cái dây màu hồng trên nắm, cái bình bật ra.

Mạnh Thiên Sở thấy vậy khoái chí, bảo: "Nàng còn có gì ta chưa biết nữa, ta ngày ngày ở với nàng, trong phòng nàng có nhiều món lạ thế này mà ta đều không biết."

Tả Giai Âm cười đáp: "Có những thứ đặt trước mặt chàng, khi chàng không cần hay chàng không chú ý, chàng tự nhiên không phát hiện có vật đó hay vật đó ảo diệu và có cách dùng như thế. Giống như hai củ khoai lang này, bình thường đều là do chúng thiếp bóc sẵn đưa tận miệng cho chàng ăn, nếu để chàng tự lấy, ắt chàng sẽ không biết làm sao để khỏi bỏng tay rồi, những chuyện khác đều y như vậy hết."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, dù hắn không thật sự tệ như vậy, nhưng cũng hiểu đạo lý bên trong, nên nói: "Chỉ có bình thuốc thôi mà, sao lại làm ra nhiều trò như vậy để làm gì?"

Tả Giai Âm xem ra ngồi mệt rồi, Mạnh Thiên Sở liền lấy cái gối lót thêm cho nàng dựa, nàng điều chỉnh tư thế một chút cho thoải mái hơn, đáp: "Từ trước có người phiền bản thân uống nhiều loại thuốc khác nhau một lần mang nhiều bình không tiện, nên nghĩ ra cách giống như bình thuốc chàng vừa cho thiếp xem vậy, phân ra làm hai ngăn mang được một lúc hai thứ, đúng không?"

Mạnh Thiên Sở thấy Tả Giai Âm không cần sờ cũng biết bình thuốc có hai ngăn, bội phục vô cùng, vội gật đầu.

Tả Giai Âm nói tiếp: "Sau đó có người cũng dùng loại bình thuốc như vậy đi hại người."

Mạnh Thiên Sở bắt được ý, hỏi: "Làm sao hại người?"

Tả Giai Âm lấy ví dụ: "Tỷ như một bệnh nhân nhất mực dùng loại thuốc này, y sẽ không hoài nghi trong bình còn có loại thuốc khác. Nếu như có người khác làm trò với bình thuốc, khi đưa thuốc cho người đó uống không lấy thuốc ở hộc trên mà lấy ở hộc dưới, nên dù người đó ngay trước mắt bệnh nhân lấy thuốc ra, người uống thuốc chưa chắc đã nhìn ra kẻ ấy đã làm trò gì." 

Mạnh Thiên Sở nghe thế, liền nhớ lại lời Chu Hạo kể, liền tự hỏi đại phu nhân đem hoàn thuốc này đặt dưới đáy bình cho ai uống đây? Án chiếu theo lời CHu Hạo, thì là cho tứ phu nhân uống, như vậy chẳng lẽ hung thủ là đại phu nhân? Nghĩ đến đây, đầu óc Mạnh Thiên Sở liền đem mọi sự tình phát sinh gần đây xoát xét lại hết một lượt, càng lúc càng cảm thấy đại phu nhân rất có khả năng là hung thủ. Một, bà ta có công phu, có thể dễ dàng treo hai đứa bé lên xà nhà. Hai, cái gọi là có quỷ đại khái là do bà ta giả ra. Khinh công của bà ta giỏi, chờ người ở ngoài phát hiện xông vào phòng thì bà ta hoàn toàn có thời gian rời khỏi hiện trường, do đó cửa sổ của phòng vì sao mà mở ra chính là đáp án. Ba, bà ta và nhị phu nhân đồng thời có mang, con bà ta chết, nhị phu nhân lại liên tục sinh cho Miêu gia hai đứa, bà ta tự nhiên tâm lý bất bình, sau khi giết xong hai đứa bé rồi đi đỗ tội cho nhị phu nhân, sau đó hạ độc nhị phu nhân, để nhị phu nhân chết đi, nhổ mất cái đinh trong mắt, trong nhà không còn ai ngại mắt nữa, vì tam phu nhân nhất mực không có con, chẳng uy hiếp bà ta gì được. Tứ phu nhân thì lại khác, tuy con của tứ phu nhân chết, nhưng tứ phu nhân còn trẻ, còn có thể sinh nở, cho nên bà ta ắt phải trừ mối họa hoạn này.

Nghĩ đến đây, Mạnh Thiên Sở như vén mây mù tìm được ánh sáng ban mai, cảm thấy thần trí sảng khoái, tâm tư như quẳng khối đá to.

Tả Giai Âm thấy Mạnh Thiên Sở ngẩn ra suy nghĩ xong rồi cười thở phào một hơi dài như thế, liền hỏi: "Nghĩ thông rồi?"

Mạnh Thiên Sở gật đầu đáp: "Ta nghĩ là vậy."

Tả Giai Âm hỏi: "Vậy tốt. Vậy chàng nghĩ ra đối phó làm sao chưa?"

Tả Giai Âm hỏi câu này nhắc tỉnh Mạnh Thiên Sở. Đúng a, đây chỉ là suy đoán của hắn, chưa có chứng cứ, hắn làm sao định tội được đại phu nhân chứ?

Nghĩ đến đây, Mạnh Thiên Sở nói với Tả Giai Âm: "Nàng biết dược lí, nàng xem dùm ta dược hoàn trong bình này thế nào, rốt cuộc là trị bệnh gì, hai loại có gì khác nhau."

Tả Giai Âm tiếp lấy bình thuốc vừa rồi, thành thạo lấy thuốc từ trong bình ra đưa lên mũi ngửi, sao đó nhờ Mạnh Thiên Sở đưa đèn sát vào tử tế quan sát, dùng móng tay vít ra một chút, nhờ hắn lấy cái chung lại, bỏ thuốc vào hòa với chút nước. Chẳng mấy chốc thuốc tan ra, Tả Giai Âm lại ngửi thử, phát hiện ra điều gì đó, gật gù. Mạnh Thiên Sở vội hỏi: "Có biết là thuốc gì không?"

Tả Giai Âm mỉm cười gật đầu, nói: "Nếu thiếp không có mang, tự nếm thử còn nhanh hơn phương pháp này nhiều."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Lá gan của nàng lớn thật, nếu là độc dược thì sao?"

Tả Giai Âm đáp: "Thiếp năm tuổi đã bắt đầu học thảo dược, có độc hay không đối với thiếp chỉ cần ngửi qua là biết. Nếu mà không trực tiếp thử, một lượng nhỏ như vậy không có vấn đề gì."

Mạnh Thiên Sở nói: "Vậy nàng còn chưa cho ta biết thuốc này rốt cuộc là gì."

Đến lúc này Hạ Phượng Nghi bưng một mâm vào, nói: "Còn đang nói à, ăn cái này trước, trời sắp sáng rồi."

Chờ Hạ Phượng Nghi đến gần, Mạnh Thiên Sở thò đầu ra xem, thấy có cháo và bánh, liền trách: "Ta biết là nàng đi làm mà, trời lạnh vậy coi chừng bệnh đó, nếu bệnh rồi sao đây."

Hạ Phượng Nghi đặt mâm lên ghế cạnh giường, sau đó đi đóng cửa lại, xong trở lại giường đưa chén cháo cho Tả Giai Âm, sau đó trao chén còn lại cho Mạnh Thiên Sở, bảo: "Trong chén của Giai Âm tỷ có bỏ chút a giao (1 loại thuốc tàu) đấy."

Tả Giai Âm tiếp lấy bát, nói: "Tỷ tỷ, chúng mình xuống giường ăn đi, làm gì có chuyện tỷ tỷ bưng cơm nước tới tận giường cho muội muội ăn chứ." Nói xong định xuống giường, Hạ Phượng Nghi đã án giữ Tả Giai Âm lại, bảo: "Không được dậy, trên giường ấm hơn, muội lúc lạnh lúc nóng không tốt cho thai nhi đâu."

Mạnh Thiên Sở bảo: "Nàng cũng lên giường đi, chúng ta đang bàn chuyện, nàng cũng đề xuất chủ ý giúp ta." Nói xong hắn giơ tay kéo Hạ Phượng Nghi lên giường.

Hạ Phượng Nghi cười: "Chàng càng lúc càng không đứng đắng, làm gì có chuyện ba người cùng ngủ chung giường chứ, trời sắp sáng rồi, nếu để người dưới nhìn thấy nói ra thì mất mặt chết được."

Mạnh Thiên Sở tỉnh rụi: "Đều là phu nhân của ta, có gì đáng tức cười chứ. Mau mau, lên đây, nàng mà không lên ta không ăn đồ của nàng nấu đâu."

Tả Giai Âm cũng nói: "Tỷ tỷ đừng để tâm, xem ra người dưới dậy thì chúng ta cũng dậy rồi, hơn nữa, bọn chúng làm sao biết chúng ta ngủ chung giường chứ? Cửa đóng, đèn tắt, ai biết chứ a?"

Hạ Phượng Nghi thấy Tả Giai Âm nói thế, đang do dự thì Mạnh Thiên Sở đưa chén cho Tả Giai Âm, choàng tay ra kéo nàng. Hạ Phượng Nghi thấy vậy, biết Mạnh Thiên Sở không đùa, sợ lúc co kéo trúng Tả Giai Âm, đành nói: "Được, để thiếp lên, chàng đừng kéo vậy, thiếp còn cởi giày nữa."

Hạ Phượng Nghi lên giường ngồi dựa đối diện với Tả Giai Âm và Mạnh Thiên Sở, bảo: "Mau ăn đi, nguội không ngon đâu."

Mạnh Thiên Sở loáng cái đã ăn xong, đặt chén lên bàn nhỏ cạnh đầu giường, rồi không giục Tả Giai Âm, chờ nàng ăn xong mới nói: "Nàng còn chưa cho ta biết thuốc đó là gì."

Tả Giai Âm đưa chung thuốc hòa tan cho Hạ Phượng Nghi, bảo nàng ngửi, Hạ Phượng Nghi nói: "Dường như là thuốc bổ thông thường."

Tả Giai Âm cười gật đầu. Mạnh Thiên Sở không hiểu, hỏi: "Nếu như là thuốc bổ thì ắt không phải độc dược, vậy vì sao lại đặc biệt để ở ngăn khác?"

Tả Giai Âm không hồi đáp, đổ 1 viên thuốc ở ngăn trên ra ngửi ngửi, đáp: "Vấn đề hiện giờ đã ra rồi."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Vấn đề gì?"

Tả Giai Âm đáp: "Không phải mọi loại thuốc bổ đều có thể dùng, còn phải đối chứng rồi mới hạ dược."

Mạnh Thiên Sở gấp lên, nói: "Nàng trực tiếp nói cho ta biết đi, hai loại thuốc này nếu dùng chung sẽ có tác dụng gì?"

Tả Giai Âm nói: "Tính chàng cứ nóng vội không hà, thiếp tự nhiên phải nói cho chàng biết chứ. Thuốc xem xét trước là thuốc bổ. Thiếp vì sao xem xét thuốc ở đáy bình trước, thường là vì một khi biết thuốc ở đáy xong ắt sẽ biết thuốc để ở ngăn trên là gì liền."

Mạnh Thiên Sở gật đầu nói: "Ta không gấp, nàng từ từ nói kỹ đi."

Tả Giai Âm nói tiếp: "Thiếp nói rồi, không phải bất kỳ ai cũng có thể uống bất kỳ thuốc bổ gì, người có thân thể hư nhược thường không thể uống nhiều loại thuốc bổ. Hai loại thuốc này chỉ nhìn không sẽ không thấy nó có hại cho thân thể gì, một loại là thuốc trị cảm mạo thông thường, một loại là thuốc bổ. Nhưng hai thứ dùng chung với nhau, thì nếu người uống nếu thân thể bình thường quá yếu đuối sẽ không khỏe lên mà còn bị bệnh nặng hơn."

Mạnh Thiên Sở nghe Tả Giai Âm nói vậy, đột nhiên nhớ lại ngày nhị phu nhân phát phong, Miêu Triết khi nhìn tứ phu nhân nói sao nàng càng uống thuốc càng mệt. Nghĩ đến đây, hắn không khỏi lo cho tính mệnh của tứ phu nhân vừa mất hai đứa con đó.

Hắn hỏi: "Loại thuốc thế này không thể uống dài lâu được đúng không, nếu uống lâu e rằng sẽ ảnh hưởng đến tính mạng?"

Tả Giai Âm đáp: "Vậy phải coi người hạ dược có thật muốn lấy mạng người uống thuốc hay không."

Mạnh Thiên Sở cả kinh, hỏi: "Lời này là sao?"

Tả Giai Âm đáp: "Thuốc có ba phần độc, là thuốc phần nhiều đều có tác dụng rất khác nhau tùy liều lượng và cách dùng, bào chết. Dùng khéo thì là thuốc, dùng không khéo, dù chỉ thêm một giọt, cũng biến thành độc."

Mạnh Thiên Sở nói: "Ý của nàng là cùng là thuốc nhưng nếu chỉ sai lệch một ít về phân lượng, thì thuốc đó có khả năng biến thành độc dược đúng không?"

Tả Giai Âm gật đầu khẳng định: "Đúng vậy."

Mạnh Thiên Sở lập tức xuất hạn mồ hôi, nói: 'Vậy tứ phu nhân e rằng gặp nạn rồi."

Tả Giai Âm vào ngày nhị phu nhân chết đã nhìn thấy tứ phu nhân xinh đẹp đó, nghe nàng ta nói chuyện với nhị phu nhân, cảm thấy nàng ta không phải là người máu lạnh vô tình, nên có ấn tượng khá tốt, giờ nghe Mạnh Thiên Sở nói vậy, nên hỏi: "Là ai muốn hại tứ phu nhân phải không?"

Mạnh Thiên Sở gật đầu. Hạ Phượng Nghi nói: "Vậy chàng phải nghĩ cách ngăn cản mới được."

Mạnh Thiên Sở đáp: "Ta cũng muốn như vậy lắm, nhưng làm sao mới có thể ngăn cản đây?"

Tả Giai Âm nói: "Nếu như có người nhắc nàng ta, và không để cho người hại nàng ta biết là được rồi."

Mạnh Thiên Sở nghĩ lại tứ phu nhân ngày thường ở Miêu gia hung hăng quen rồi, trong nhà dường như không có quan hệ tốt với ai cả, hiện giờ lại có người muốn hảm hại, nói cho ai biết cũng không an toàn, và nếu như để cho người phục thuốc cho nàng ta biết thì tình cảnh của nàng ta càng nguy hiểm hơn.

Mạnh Thiên Sở nói: "Hãy để ta nghĩ thử coi, hi vọng điều này tạm thời còn chưa ảnh hưởng tới tính mạng của nàng ta."

Tả Giai Âm nói: "CHàng đừng quá khẩn trương, từ liều lượng trước mắt mà xét thì người hạ dược không hi vọng nàng ta khỏi hẳn, cũng không muốn nàng ta chết, chỉ là nếu dùng thuốc này trong thời gian dài, người sẽ không có tinh thần gì, thường ngủ mê đi." 

Mạnh Thiên Sở nghe vậy nghĩ biện pháp dù sao cũng sẽ có, chỉ cần không ảnh hưởng tới tính mệnh tứ phu nhân là được.

Mạnh Thiên Sở nghĩ đến chuyện CHu Hạo trước đó nhìn thấy chuyện trong phòng tam phu nhân, liền kể lại cho Tả Giai Âm và Hạ Phượng Nghi nghe. Hạ Phượng Nghi cười pha trò: "Tam phu nhân này xem ra là không muốn hầu hạ lão gia, cho nên mới uống thuốc."

Tả Giai Âm nói: "Tỷ tỷ nói phải lắm, chàng chẳng phải nói tam phu nhân thích một người khác chứ không phải là Miêu Triết hay sao? Hơn nữa chàng cũng nói là Miêu Triết đã khám tam phu nhân, nói thân thể nàng ta như thường, vì sao lại không thể có mang chứ? Chàng thử nghĩ xem sao."

Mạnh Thiên Sở được hai nàng nhắc, ngẩn người: "Ý hai nàng là tam phu nhân nhất mực giữ không cho mình có thai, vấn đề không phải là nàng ta không thể có, mà là không muốn có với Miêu Triết?"

Tả Giai Âm và Hạ Phượng Nghi cũng gật đầu.

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Có loại thuốc đó nữa sao?"

Mạnh Thiên Sở thầm nghĩ: bản thân trước giờ không hề nghe nói là cổ đại có loại thuốc cao cấp thế này, không ngờ lại có loại thuốc tránh thai như thời hiện đại nữa. 

Tả Giai Âm nói: "Kỳ thật thiếp chỉ nghe sư phụ nói qua, đều là phương thuốc dân gian, hơn nữa lại không tốt cho thân thể, chỉ có những cô nương ở thanh lâu mới dùng."

Hạ Phượng Nghi nói: "Thiếp cũng nghe nói vậy, nhưng chưa hề thấy qua bao giờ."

Mạnh Thiên Sở nghĩ: bất quản có phải hay không, chí ít cũng có khả năng này, nếu có cơ hội lấy thuốc từ phòng tam phu nhân ra đưa cho Tả Giai Âm xem, thế nào cũng rõ ngay thôi.

Ngoài cửa sổ trời đã mông lung sáng, Mạnh Thiên Sở thấy Hạ Phượng Nghi và Tả Giai Âm đều có vẻ mệt, liền nói: "Ta mệt rồi, chúng ta cùng ngủ một giấc đi rồi hay." Nói xong, hắn kéo Hạ Phượng Nghi và Tả Giai Âm cùng nằm xuống, một tay ôm một nàng, ba người nhanh chóng chìm vào cơn mộng.

Khi hắn tỉnh dậy, Tả Giai Âm và Hạ Phượng Nghi đều không còn trên giường. Hắn gọi một tiếng, cửa lập tức mở ra, là Phi Yến, trên tay cầm một quả cầu tuyết, mặt đỏ hồng rất dễ thương.

Mạnh Thiên Sở thấy thế biết nàng đang chơi đắp người tuyết hoặc là đang cùng người hầu chơi ném tuyết, nên hỏi: "Bên ngoài lại đổ tuyết rồi?"

Phi Yến vui vẻ đáp: "Chàng không biết là tuyết lớn lắm đâu! Chàng mau dậy đi, chúng ta cùng chơi."

Mạnh Thiên Sở nhìn điệu bộ giống như đứa bé của Phi Yến, mỉm cười gọi nàng lại, nhưng Phi Yến lại đỏ mặt không chịu, Mạnh Thiên Sở không hiểu, hỏi: "Sao vậy?"

Phi Yến cười đáp: "Chàng không biết thẹn, hôm qua một mình ôm một lúc hai người ngủ còn chưa thỏa mãn, hiện giờ còn gọi thiếp, để người dưới nhìn thấy thiếp còn gặp mặt ai nữa."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, nghĩ ắt là sáng nay người dưới nhìn thấy đại phu nhân và nhị phu nhân từ phòng đi ra rồi, liền cười nói: "Đêm nay nàng cũng tới luôn, nằm ngủ chen chúc như vậy ấm lắm!"

Phi Yến nghe thế mặt càng hồng hơn so với lúc mới tiến vào cửa, dùng quả cầu tuyết trong tay ném vào Mạnh Thiên Sở. Mạnh Thiên Sở thoắt cái đi chân không nhảy xuống giường bắt Phi Yến, Phi Yến vội đầu hàng, nói: "Đừng có điên, đại phu nhân và nhị phu nhân đang ở đại sảnh tiếp khách kìa, nếu để khách nghe thấy được thì sẽ cười chàng cho coi." 

Mạnh Thiên Sở lúc này mới ngừng tay, Phi Yến vội đem y phục và giày dép tới hầu hạ hắn mặc vào.

Mạnh Thiên Sở vừa mặc y phục vừa hỏi: "Là ai mà tới sớm vậy?"

Phi Yến đáp: "Không sớm nữa, sắp đến giờ cơm trưa rồi, nghe Giai Âm tỷ tỷ nói là tam phu nhân của Miêu gia."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, vội để cho Phi Yến nhúng nước lau mặt cho. Hắn biết tam phu nhân ắt là đến tìm bản thân hắn.

Xong xuôi, hắn vội rảo bước đến đại sảnh, quả nhiên thấy Hạ Phượng Nghi và Tả Giai Âm đang ngồi tiếp chuyện tam phu nhân.

Ba nữ nhân thấy Mạnh Thiên Sở tiến vào, vội đứng dậy. Mạnh Thiên Sở nhìn tam phu nhân, thấy thần tình của nàng ta còn khá tốt, biết là Chu Hạo suy đoán không sai, ắt là vượt qua cửa ải rồi. Hắn ra hiệu cho ba người ngồi xuống, xong bước đến ghế của mình.

Hạ Phượng Nghi nói: "Vừa định cho người đi gọi chàng thì chàng đã đến rồi, tam phu nhân chờ chàng lâu rồi đó."

Mạnh Thiên Sở biết tam phu nhân đến tìm mình, nên nói: "Thật ngại quá, gần đây thường không có thời gian ngủ cho đủ, không ngờ ngủ một giấc dài như vậy, để tam phu nhân chờ lâu thật là không phải."

Tam phu nhân cười cười, nói: "Tôi cũng không có chuyện gì, chỉ là đến thăm Giai Âm muội muội thôi. Lần trước không may là trong nhà có chuyện, cho nên không có dịp nói chuyện với muội muội đôi điều."

Tả Giai Âm nói: "Tam phu nhân thật là khách khí quá, đã đến rồi còn mang theo nhiều thuốc quý như vậy nữa, nói là cho thiếp bồi bổ thân thể."

Mạnh Thiên Sở lúc này mới nhìn thấy trên bàn bên cạnh tam phu nhân quả nhiên có rất nhiều lễ phẩm, nên nói: "Tam phu nhân, lần trước ta nói rồi, phu nhân không cần phải khách khí như vậy."

Tam phu nhân đáp: 'Đây cũng là ý tứ của đại phu nhân và lão gia, bảo tôi đến đây một chuyến, nếu như đã mang đến tận nhà, ngài tự nhiên không được chối từ tôi mới phải."

Mạnh Thiên Sở nghe thế chỉ còn biết cảm tạ. Hắn thấy tam phu nhân còn có điều muốn nói, nghĩ ắt là ả thấy bên mình có hai người vợ, nói ra không tiện, liền đưa mắt nhìn nhìn Tả Giai Âm và Hạ Phượng Nghi, hai người hiểu ý không hẹn mà cùng đứng lên, Hạ Phượng Nghi nói: "Thiếp và nhị phu nhân còn có chuyện, không ngồi đây bồi khách nữa." Nói xong dẫn Tả Giai Âm rời khỏi đại sảnh.

Mạnh Thiên Sở thấy hai người đi rồi, liền bước đến ngồi cạnh ghế của tam phu nhân, tam phu nhân lập tức không thoải mái hẳn lên. Hắn nói: "Ta biết cô đến tìm ta, tự nhiên là có chuyện muốn nói với ta rồi."

Tam phu nhân ngẫm nghĩ một chút, nói: "Tôi muốn đến cảm tạ ngài."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Cảm tạ ta cái gì?"

Tam phu nhân đáp: "Thế tôi bảo thủ bí mật."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Chuyện của cô hôm qua Thư Khang nói đại khái với ta rồi, nhưng mà cô có biết Miêu Triết vì sao lại hại cha cô không?"

Tam phu nhân thấy Mạnh Thiên Sở đề cập đến cha, mắt liền đỏ hồng lên, nói: "Trước đó thì tôi không biết, chỉ muốn đến nhà họ làm một nha hoàn gì đó, chỉ cần ở cạnh Miêu Triết là tôi có cơ hội báo cừu. Sau đó y có lần cùng đến trường của Miêu Giác, nhìn trúng tôi, cho nên hỏi cưới tôi. Lúc đó tôi rất do dự, không vì gì khác mà chính là vì Thư Khang. Chàng ấy đã vì tôi mà bỏ đi rất nhiều thứ, hiện giờ nếu tôi đi làm vợ tên khốn đó, chàng ấy nhất định đau lòng lắm. Không ngờ là Thư Khang suy nghĩ vài ngày, cuối cùng cũng đồng ý. Chàng ấy biết tôi nhất định muốn báo thù, đó là tâm nguyện cả đời của tôi." 

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Sau đó thì sao?"

Tam phu nhân đáp: 'Sau đó thì tôi lấy Miêu Triết, nỗ lực tạo mối quan hệ tốt với đại phu nhân và nhị phu nhân, tôi biết chỉ có từ miệng họ tôi mới lần ra nguy nhân khi xưa vì sao cha tôi chết. Quả nhiên, có một lần tôi nói chuyện với nhị phu nhân, bà ấy cho tôi biết một chuyện, đó là chuyện đại phu nhân sinh quái thai. Chuyện này Miêu Triết không nói cho tôi biết, đại phu nhân tự nhiên cũng không nói, vì đó là sự sỉ nhục của ả. Thông qua chuyện này, tôi biết thì ra cha tôi đã đem chuyện này nói cho người khác, Miêu Triết tức giận không chịu được, liền giả vờ đuổi cha tôi đi, sau đó cho người hạ độc vào lương khô của cha tôi, cho nên cha tôi chưa rời khỏi Nhân Hòa huyện đã chết rồi."

Mạnh Thiên Sở biết tam phu nhân khi kể chuyện này sẽ khơi dậy vết thương lòng, nên chuyển đề tài câu chuyện, hỏi: "Vậy chuyện của Miêu Giác có hi vọng gì không?"

Tam phu nhân đáp: "Tôi hôm nay đến đây chủ yếu thương lượng với ngài chuyện này. Tối hôm qua tôi có tìm nói với Miêu Triết, y đáp là đại phu nhân nói rồi, nhị phu nhân đã chết, đại phu nhân muốn Miêu Giác trực tiếp nhận đại phu nhân làm mẹ, cho nên không cho Miêu Giác đi đâu nữa."

Mạnh Thiên SỞ nghe thế cả kinh, xem ra đại phu nhân không vừa lòng với tình trạng hiện tại. Hắn biết nếu là đưa Miêu Giác đi hoặc giết nó, sẽ không ngăn được chuyện Miêu Triết đi tìm nữ nhân khác. Hiện giờ thân thể tứ phu nhân không cho phép sinh nỡ, tam phu nhân được cho là không thể sinh dục, cho nên dùng biện pháp giữ Miêu Giác lại không cho Miêu gia tuyệt hậu vừa giữ cho Miêu Triết không tìm nữ nhân khác sinh thêm con.

Mạnh Thiên Sở nói: "Ý tưởng này Miêu Giác và Miêu Nhu đã biết chưa?"

Tam phu nhân lắc đầu, đáp: "Còn chưa biết."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Cô có biện pháp nào không?" Hắn biết tam phu nhân có thể sánh với Tả Giai Âm nhà mình, đều là nữ tử thông tuệ.

Tam phu nhân đáp: "Nếu muốn để cho Miêu Giác đi, e rằng chỉ có một người có thể làm được."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Là ai?"

Tam phu nhân trả lời: "Chính là cha chồng của Miêu Nhu."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, chợt nhớ lại Miêu Triết đối xử rất cung kính cả nễ đối với con rễ. Hắn hỏi: "Cha chồng của Miêu Nhu là thần thánh phương nào?"

Tam phu nhân đáp: "Là Đồng tri của Hành châu phủ trước đây, tên Nhạc Tiêu."

Mạnh Thiên Sở nghe thế cả kinh không ít, không ngờ người bình thường nói chuyện không nhiều, gặp ai cũng lễ mạo, dáng vóc mập mạp như vậy lại là công tử của Hành châu phủ đồng tri. Hèn gì Miêu Triết nễ mặt y như vậy. Như vậy xem ra, nếu như muốn Miêu Giác rời khỏi long đàm hổ huyệt đó, chỉ có con người này mới ra mặt được. Mạnh Thiên Sở nói: "Ta biết tam phu nhân có cách rồi."

Tam phu nhân chỉ mỉm cười. Mạnh Thiên Sở phát hiện nụ cười này rất khác với những nụ cười thường thấy trước đó, là loại nụ cười chân thành hơn nhiều. Tam phu nhân nói: "Tôi nhớ lại những lời ngài nói với tôi hôm qua, tôi đã nghĩ kỹ, tôi cảm thấy thù hận cá nhân có lớn cách mấy, thì những người bên cạnh cũng là vô tội. Chí ít nhị phu nhân lúc còn sống đối với tôi rất tốt, phần lớn y thuật của tôi là từ tỷ ấy mà học ra. Trước đó tôi nhận thấy phàm là người bên cạnh y, ai chết cũng chẳng liên can gì đến tôi. Nhưng bây giờ nghĩ lại, tôi nếu như nhớ mối thù người ta mang lại cho tôi, thì tôi cũng phải nhớ sự tốt đẹp mà họ đối xử với tôi. CHo nên, tôi hi vọng Miêu Giác có thể rời khỏi căn nhà đầy tội ác đó, nó là một đứa bé rất thông minh."

Mạnh Thiên Sở nghe tam phu nhân nói vậy, nhìn biểu tình nàng ta không phải diễn kịch, liền cảm thấy cao hứng hơn ít nhiều. Hắn hỏi: "Vậy chuyện của Miêu Giác cô cảm thấy chúng ta nên làm gì cho phải?"

Tam phu nhân đáp: "Ngài đi tìm Miêu Nhu nói, chuyện này tôi không tiện ra mặt."

Mạnh Thiên Sở gật đầu, nghĩ tới tình trạng thân thể của tứ phu nhân, liền hỏi: "Thân thể tứ phu nhân thế nào?"

Tam phu nhân nhìn Mạnh Thiên Sở, không hiểu hỏi: "Ngài định nói gì?"

Mạnh Thiên Sở hỏi lại: "Cô cảm thấy ta hỏi vậy có hàm nghĩa gì?"

Mạnh Thiên Sở nói xong, lại ngầm dò xét ánh mắt của tam phu nhân, thầm nghĩ nói chuyện với nữ nhân thông minh có cái hay mà cũng có cái dở. Hay chính là bản thân không cần phí sức nói gì nhiều, chỉ cần ánh mắt cũng đã đủ. Dở cái là khi bản thân nghĩ gì, căn bản không thể giấu nữ nhân đó, chỉ cần thoáng qua ánh mắt là nữ nhân đó đã nắm bắt ý nghĩ của hắn rồi.

Tam phu nhân lạnh lùng cười, hỏi: "Dạ hành nhân tối qua là ngài phải không?"

Mạnh Thiên Sở không trả lời, tam phu nhân tiếp: "Lúc đó đại phu nhân đến phòng tôi nói với lão gia chuyện này, tôi đã đoán một chút rồi. Vừa rồi ngài hỏi đến sức khỏe tứ phu nhân, càng xác định thêm mấy phần."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Vì sao?"

Tam phu nhân đáp: "Đại phu nhân và tôi cùng đến phòng nàng ta, bà ta nói bình thuốc trên bàn dường như có ai đó dời đi, bà ta e rằng dạ hành nhân đó lén lấy thuốc đi. Tôi hỏi là thuốc gì, bà ta không trả lời, thần sắc có vẻ hoảng hốt."

Mạnh Thiên Sở thầm nghĩ bản thân trước đó lo là Chu Hạo mang bình thuốc đi sẽ làm cho đại phu nhân hoài nghi, không ngờ bà ta cẩn thận đã phát hiện điều không ổn. Hắn hỏi: 'Vậy cô vì sao lại liên hệ tình trạng thân thể của tứ phu nhân với chuyện mất thuốc đêm hôm qua?"

Quân Chiến Thiên, Quân Vô Ý chăm chú nhìn lên, bốn mắt đăm đăm, hai người đều là đại tướng, từng cầm binh trăm vạn, máu tanh gì cũng đều thấy, không gì là chưa trải qua nhưng hôm nay chính mắt trông thấy người chết kiểu này, hơn nữa người này còn là loại cao thủ đỉnh phong chỉ tồn tại như thần tiên trong truyền thuyết lục địa. Lại nghĩ đến việc Hoàng Thái Dương bị chết theo lời thề của hắn, hai người không tự chủ được cảm giác lạnh lẽo bao phủ cả người…

Chẳng lẽ trong nơi u minh tối tăm kia thật sự có cái gọi là “ý trời”, thật sự có người đang giám sát tất cả sao?

Đạo trời công bằng sao?

Cơ mặt nơi khóe mắt của Ưng Bác Không bỗng run run, giật mình nói:

- Chết rồi sao?

Hai mắt của Xà Vương Thiên Tầm ngơ ngẩn nhìn xuống mặt đất, nhìn thi thể bị chém thành hai đoạn, giống như ngủ mê nói mớ, nói:

- Đã thành dạng này rồi chẳng lẽ còn có thể sống sao?

Ưng Bác Không rùng mình một cái, ôm lấy bả vai, lẩm bẩm nói:

- Nhưng con mẹ nó, chết kiểu này cũng thật quá... Ngươi nói xem, năm đó hắn phát thệ gì đó khác không được sao, sao lại phải phát ra lời thề độc như vậy? Thật là, con mẹ nó, tự làm khó bản thân mà, nếu chỉ phát thệ bị chết nhanh chóng thì đâu đến nỗi phải chết không toàn thây như bây giờ? 

Xà Vương lại nhìn nhìn cỗ thi thể kia một lần nữa, rốt cục nhịn không được nôn thành tiếng, che miệng nhanh như chớp bỏ đi, thân pháp so với lúc đánh nhau còn muốn nhanh hơn vài phần, cái kia thật sự quá tởm mà.

Ánh mắt Quân Chiến Thiên phức tạp, đứng một hồi rốt cuộc nói:

- Bảo hạ nhân quét dọn một chút, nhanh chóng mang đi chốn cất. Người cũng đã chết, ân oán tiêu tan. Dù sao cũng là cao thủ một đời, ngàn vạn lần không được làm qua loa. Trời cũng không còn sớm nữa. Tất cả mọi người nhanh nghỉ ngơi đi. 

Nói xong, lão gia tử cùng Quân Vô Ý hai người lặng lẽ xoay người đi.

Công lực của hai người vừa mới tăng lên không lâu, vốn còn nghĩ với thực lực mình hiện giờ khó mà gặp địch thủ, ít nhất cũng có tư cách là cường giả đương thời. Nhưng tối này, thấy một trận chiến này, tự bản thân cảm nhận công lực vẫn hoàn toàn chưa đủ, không giúp được gì, hai cha con Quân lão gia tử không khỏi có chút mất mát.

Về phần hai người Xà Vương Thiên Tầm cùng Mai Tuyết Yên, Quân Mạc Tà cũng không chủ động giới thiệu để mình gặp mặt, như vậy cả hai đều là nhân vật thần bí. Quân lão gia tử tự nhiên hiểu rõ đạo lý, dứt khoát không hỏi. Một mạch đi thẳng về phòng ngủ.

Mai Tuyết Yên đứng cách đó không xa, một thân áo trắng tung bay, thở dài nói: 

- Đáng tiếc, một vị Chí Tôn cao thủ không chết trên chiến trường ác liệt mà lại bị chết ở nơi này, nhân tình quả thật là thật bi ai.

Quân Mạc Tà cười hắc hắc nói:

- Quả thực là nhân tình bi ai. Cường giả Chí Tôn như vậy cũng không có đạo đức gì cả. Mai cô nương cũng đừng mong chờ người khác đều giống ngươi, giống như thánh nhân, lo lắng cho thiên hạ, nghĩ cho đại cuộc… Hắc hắc hắc, nếu là dựa vào những kẻ như vậy để bảo hộ đại lục thì lão tử thà rằng rút kiếm tự vẫn còn hơn.

Mai Tuyết Yên nhìn hắn một cái, than nhẹ một tiếng, nói:

- Thế nhưng cứ như vậy, đối với thực lực của đại lục dù sao cũng mất đi một cao thủ mạnh mẽ. Trong trận chiến này, mỗi nhân tố dù nhỏ bé cũng sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ đại lục. Mà thực lực ở mức cường giả như vậy, toàn bộ đại lục cũng không có mấy người. Ngày sau, nếu bởi vì vậy mà bị dị tộc xâm nhập, như vậy toàn bộ đại lục, thậm chí là cả thiên hạ, có thể sẽ…

Quân Mạc Tà chớp mắt, cười lạnh một tiếng nói:

- Thiên hạ hưng vong, không liên quan đến ta. Không cần nói với ta đạo lý sáo rỗng này. Ngay cả khi bị di tộc xâm lấn thì sao? Bất quá thì đến lúc đó cá chết rách lưới thôi. Chẳng lẽ dị tộc toàn bộ đều đạt tới trình độ trên Chí Tôn cường giả sao? Nếu quả thật bị xâm lấn, lão tử giết không được những kẻ mạnh nhất thì chẳng lẻ không giết được những kẻ yếu hơn hay sao? Đều là một đám đáng chết, con mẹ nó cái đồ hỗn đản.

- Sao ngươi có thể nói như vậy?

Mai Tuyết Yên có chút căm giận nói.

- Thành bại của trận chiến này ảnh hưởng đến vạn năm. Nếu quả thật là bị ngoại tộc xâm lấn, toàn bộ đại lục sẽ sa vào trầm luân cũng không chừng. Ngươi thân là người đại lục sao lại không có nửa điểm lương tâm, trách nhiệm vậy?

- Lương tâm trách nhiệm? Ta dĩ nhiên là có. Nhưng ở chỗ này ta phải nói với ngươi một câu, ngàn vạn lần không cần vì cái gì gọi là “Đoạt Thiên chi chiến” chết tiệt đó mà quên đi cách đối nhân xử thế cơ bản nhất. Nhường bước sẽ chỉ làm cho đối thủ của ngươi từng bước ép sát, ngươi có thể để ý tới toàn cục nhưng người khác thì không hẳn thế. Việc phân tranh là vẫn tồn tại. Tựa như lúc này đây, ta không giết hắn, hắn sau khi trở về thì Mộng Huyễn Huyết Hải và Thiên Phạt sâm lâm nhất định trở thành kẻ thù một mất một còn. Đến lúc đó một hồi phong ba còn lớn hơn, cao thủ chết càng nhiều hơn nữa!

Quân Mạc Tà lạnh lùng nhìn nàng:

- Mai cô nương, ta trịnh trọng nói cho ngươi biết. Đến lúc thất bại thì dù có thần tiên đến chăng nữa, toàn bộ đại lúc cũng sẽ thất bại, nếu không phải tới lúc, dù phái Ngân Huyền đi cũng có thể đại thắng “Đoạt Thiên chi chiến”. Ta chưa bao giờ sợ hãi địch nhân cường đại, nhưng vạn phần sợ hãi sự ngu xuẩn như heo của những kẻ bên mình. Hơn nữa, thế sự vô thường, ai có thể nói trước được? Nói không chừng khi nào Thiên Trụ sơn sụp đổ thì đám người dị tộc chết tiệt cũng nằm dưới mặt đất hết rồi. Hãy nghĩ tới việc này, sẽ không phải buồn lo vô cớ nữa. Ngươi nếu có nhiều thời gian rỗi vậy, không bằng chính mình từ từ suy nghĩ một chút, tìm một lang quân đẹp trai tuấn tú tâm đầu ý hợp rồi gả đi cho rồi. Đây chính là chuyện quan trọng chung thân đại sự đó. 

Quân đại thiếu vỗ ngực một cái, tiếp:

- Ví như ta đây, kỳ thật ngươi cũng biết rõ, bổn công tử phong lưu tiêu sái, tài mạo song toàn, ngọc thụ lâm phong, hiệp cốt nhu tràng, kiếm đảm cầm tâm, tài hoa tột bức, kỳ tài ngút trời, có thể nói là xứng đôi vừa lứa với Mai cô nương nhất, hơn nữa đêm qua ngươi đột nhiên thị uy, phi lễ với ta, ngươi phải chịu trách nhiệm đó nha. Nếu không bổn công tử sẽ khóc và thắt cổ tự vẫn cho ngươi xem.  Mai Tuyết Yên thoáng đỏ bừng cả khuôn mặt, tay chỉ vào hắn, sao lại có kẻ vô sĩ như vậy, cả người run rẩy nói không ra lời, hơn nửa ngày mới rốt cuộc thốt ra được một câu:

- Ngươi … ngươi … ngươi sao lại có thể vô sỉ như vậy hả?

Mai Tuyết Yên cả đời tung hoành thiên hạ, thậm chí có thể nói hiếm có điều gì nàng không biết, không hiểu rõ. Bất kể nói với nàng điều gì, Mai Tuyết Yên đều có kiến giải của mình, thậm chí còn có thể phản bác khiến người khác không nói được gì nhưng chỉ riêng chuyện tình yêu nam nữ, chuyển cưới gả thì nàng lại rất xấu hổ, không nói ra lời.

Đương nhiên, cái này cũng chỉ đúng với Quân Mạc Tà Quân đại thiếu gia mà thôi. Nếu là người khác nói với nàng những lời như vậy, phỏng chừng sớm đã bị nàng đập thành bánh thịt rồi.

- Gì? Không có răng? Sao có thể được?

Quân Mạc Tà nhe răng nói, khoe hai hàng răng trắng tinh đều đặn, khi ở dưới ánh trăng chợt sáng lóe lên, cười hắc hắc.

- Bổn thiếu gia miệng đầy răng chắc khỏe, khi còn bé không ăn đường, càng không có thói quen xấu, mỗi ngày đánh răng hai ba lần, ngay cả chút sâu răng cũng không có, làm sao có thể nói không có răng được chứ? Mai cô nương, ngươi hôm qua hôn ta chẳng lẽ còn không biết ta có răng hay không? Đúng rồi, ta nghe nói chỉ có nhân tài phi lễ người khác mới có thể vô sỉ a, cô nương sao lại có thể nói ta vô sỉ nhỉ? Nói như vậy thì còn đâu là mặt mũi của ta nữa? Bổn thiếu gia quả thật là bị hại thảm thương mà. 

- Kỳ thật ngươi phải chịu trách nhiệm với ta đó nha. Mai cô nương, ngươi cũng đừng qua lo lắng, dù sao ngươi cũng đã lỡ làm rồi. Hôn, ngươi cũng đã hôn; sờ, người cũng đã sỡ rồi, nhìn thì người cũng đã nhìn rồi. Tuy rằng bất đắc dĩ nhưng ta cũng cam chịu số phận.

- Ai bảo ta luôn là người thuần thiết chứ.

Dùng thái độ vô cùng hung hăng, càn quấy nói ra, Quân thiếu gia nho nhã lễ độ một tiếng nói chúc ngủ ngon, sau đó dương dương tự đắc hát lên một khúc, rồi thản nhiên trở về phòng ngủ. Bỏ lại phía sau Mai Tuyết Yên đại cô nương trừng mắt nhìn lưng hắn, hai hàm răng cắn chặt kêu lên ken két.

Thật không thể tưởng tượng được, người này trình độ vô sỉ lại còn vượt quá dự liệu của mình, lời cuối cùng liên đem ta thành kẻ vô sỉ. Trời ơi đất hỡi, ta tức chết mất thôi.

Lão thiên , mang cho ta một tên cao thủ giống như Hoàng Thái Dương mau, cho ta phát tiết một chút tức giận đi a.

Có thể là ông trời không nghe hoặc cao thủ như Hoàng Thái Dương quá ít nên nguyện vọng của Mai đại mỹ nhân dĩ nhiên là không đạt được.

Bất quá, Mai Tuyết Yên cũng biết, lời Quân Mạc Tà mới nói vừa rồi tuy rằng có chút bỡn cợt nhưng thực ra nghiêm túc nhắc nhở mình một việc đó là triệu lần không cần phải xem Đoạt Thiên chi chiến quá mức nghiêm trọng. Hết thảy đều vì Đoạt Thiên chi chiến chuẩn bị thì chính là tự trói buộc mình. Quả là nhược điểm lớn a.

Thậm chí, Tam Đại Thánh Địa nếu cần đều có thể lợi dụng những lời nói này với mình, cũng chưa chắc là không thể. Quân Mạc Tà dùng cách thức hỗn trướng này nói ra, chắc là sợ chính mình chịu không nổi. Mặc dù có chút thô tục nhưng dụng ý cũng đủ uyển chuyển.

Sự việc xảy ra ngày hôm nay, chính mình hẳn phải tự xuống tay giết chết Hoàng Thái Dương.

Nghĩ đi nghĩ lại, tức giận trên mặt Mai Tuyến Yên chậm rãi biến mất, hơi hơi nở nụ cười, nguyên lai người này đối với chính mình cũng là dụng tâm khổ tướng a.

oOo

Ngày thứ hai cũng tới, mặt trời vẫn như ngày thường lên xuống đều đặn.

Thế giới này là như thế, mặc kệ ngày hôm qua đã chết người nào, hoặc chết bao nhiêu người. Ngày kế tiếp vẫn thời gian như vậy vẫn sáng tối như nhau.

Hoàng Thái Dương một đêm không về, làm cho mọi người ở Mộng Huyễn Huyết Hải đều hoảng hốt.

Cả nhà Hoàng gia càng như kiến bò trên chảo nóng.

Mặc dù khoảng cách giữa hai nơi dĩ nhiên không ngắn nhưng với công lực của Hoàng Thái Dương đi qua đi lại cũng có thể chỉ dùng một canh giờ, thế nhưng một đêm đã trôi qua, mặc kệ là chuyện gì cũng là quá đủ thời gian.

Nhưng Hoàng Thái Dương chính là một đêm chưa về.

Hắn trước khi đi còn tin tưởng chắc chắn trăm lần, nói qua

- Chỉ là một bọn tôm tép nhãi nhép, bổn tọa một tay là có thể thu phục toàn bộ, cần gì phải đi nhiều người như vậy? Lão phu trước khi trời sáng sẽ trở về. Các ngươi chuẩn bị rượu mừng công đi.

Lão cũng kịch liệt phản đối những người trong Mộng Huyễn Huyết Hải yêu cầu đi cùng.

Hoàng gia chính vì vậy suốt đêm chuẩn bị rượu và thức ăn ngon, ngóng trông lão tổ tổng chiến thắng trở về, sau đó đánh chén no say. Mừng công cho lão tổ tong. Nhưng thời gian chớp mắt trôi qua, mắt thấy phía đông tỏa sáng, mọi người rốt cục cũng không giữ được bình tĩnh nữa.

Khi mặt trời lên cao, mọi người lúc này đã hoàn toàn tuyệt vọng.

Cơ hồ trong lòng mỗi người đều nặng trịch như bị một khối chì đè ép. Dù sao đêm qua động tĩnh bên kia cũng không phải nhỏ, nhất là Hoàng Thái Dương cùng hai đại Chí Tôn, một kích kia, thật có thể nói là trời rung đất chuyển. Hoàng gia bên này có thể nghe rõ ràng. Thậm chí cảm giác được vài chấn động của mặt đất ngay dưới bàn chân. 

Rõ ràng là Hoàng Thái Dương ở bên kia gặp phải địch thủ cực kì mạnh mẽ.

Mà Hoàng Thái Dương đến bây giờ vẫn chưa về, hết thảy đều nghĩ tới chuyện tệ hại nhất.

Mộng Huyễn Huyết Hải định đưa bốn vị Chí Tôn đi tiếp viện nhưng lại bị thiếu tông chủ Hô Diên Tiếu cực lực ngăn trở. Hô Diên Tiếu viện lí do rất đơn giản: “Ở trong mắt chúng ta công lực của Hoàng lão chính là cao tuyệt. Nếu hắn có thể giải quyết sự tình trở về, chúng ta không đi. Nếu hắn không thể thể giải quyết, thậm chí gặp đối thủ ngay cả chạy trốn cũng không được, thì ngay cả chúng ta toàn bộ đi tới cũng chỉ sợ không thấm vào đâu, chỉ thêm thương vong mà thôi.”

Cho nên mọi người tiếp tục kiên nhẫn đợi đi! Lý do Hô Duyên Khiếu đưa ra không có kẽ hở, hơn nữa sự thật chính là như thế.

Cho nên mọi người dù có sốt ruột nhưng cũng không dám tiếp tục có bất kỳ hành động thiếu suy nghĩ nào.

Hơn nữa, Hô Duyên Khiếu trong lòng còn có tính toán: “Nếu là Hoàng lão tự mình xuất thủ cũng không thể giải quyết chuyện này, như vậy chứng tỏ một điều Quân gia thực lực quả nhiên đã đạt tới một mức độ khó thể lay động. Hơn nữa trong tay đối phương nắm Diệp Cốt đan, đây là đan dược cấp bách đối với Mộng Huyễn Huyết Hải lúc này, ngoài ra còn có vị cao thủ thâm sâu không lường được. Nên có thể không đối địch hoặc biến địch thành bạn là tốt nhất. Trước mắt cứ xem như không có gì xảy ra, cứ tham dự đại hội đấu giá, đem Diệp Cốt đan thu vào trong tay rồi nói sau. Chuyện sau này thì để sau hẵng tính, trước mắt vẫn phải lấy đại cuộc làm trọng.”

Huống chi, nếu Hoàng lão quả thực thảm tử, chỉ bằng mình cùng mấy người còn lại bên cạnh thì làm sao có thể là đối thủ của đối phương? Không bằng giả vờ câm điếc, làm bộ như không biết gì. Và lại chuyện báo thù cũng không phải là chuyện mình có thể làm chủ.

Lại nói, lão đầu này dọc đường đi cứ cậy già lên mặt, vênh mặt hất hàm sai sai khiến khiến, ngay cà mình là Thiếu tông chủ hắn cũng không thèm để trong mắt. Thật là đáng chết mà. Mẹ kiếp, hắn là cái gì chứ. Khi còn ở Mộng Huyễn Huyết Hải, đối mặt với các cao thủ khác, ngươi dám như vậy sao? Quả thực tưởng mình là một đại nhân vật sao?

Cho nên trong lòng vị Thiếu tông chủ của Mộng Huyễn Huyết Hải thậm chí có chút vui sướng khi kẻ khác gặp họa. Dĩ nhiên loại cảm xúc này không thể nào biểu lộ ra trên mặt rồi.

Bọn họ lần này đi ra ngoài, lại bị sự tình của Hoàng gia gây chậm trễ nhiều lần. Chuyện như vậy đã sớm làm cho Thiếu tông chủ rất bất mãn. Chỉ là một cái Hoàng gia nho nhỏ cũng đáng được Mộng Huyễn Huyết Hải nể trọng vài phần sao? Thế nhưng Hoàng lão vì chuyện của gia tộc lão nên đã không để ý tới chánh sự của Mộng Huyễn Huyết Hải. Cái này thật khó mà chịu được.

Cho dù là con cháu chính thống của ngươi thì sao chứ? Chẳng lẽ còn có thể so với sự tình trọng yếu của Mộng Huyễn Huyết Hải sao?

Thật là không để ý đến đại cuộc, tầm nhìn hạn hẹp!

Nếu lần này bởi vì Hoàng gia mà làm hỏng việc thì không những Hoàng lão chết không có gì đáng tiếc mà thậm chí chính mình sau khi trở về cũng phải chịu trách nhiệm.

Như vậy có thể thấy, khi Thiếu tông chủ đại nhân nhìn thấy người Hoàng gia, ánh mắt đều có chút ý tứ không tốt.

Sau đó, Thiếu tông chủ đại nhân liền nói một câu: 

- Lần này đấu giá không thể thất bại. Mà vật đấu giá cũng là linh dược cực kì trân quý, tất nhiên đấu giá cần đến số lượng hoàng kim khổng lồ. Hoàng gia chủ, không biết quý gia chủ có thể xuất ra bao nhiêu hoàng kim? Theo ta thấy, vẫn là đem tất cả của cải bán lấy thành tiền mặt, rồi đổi thành hoàng kim đi. Vạn nhất nếu là hoàng kim không đủ, chẳng phải là hỏng đại sự sao? Riêng Huyết Hải cũng có thể miễn cưỡng cho qua nhưng nếu vì vậy mà ảnh hưởng tới kết quả của cuộc đại chiến kia chính là ảnh hưởng đến tương lai của cả thiên hạ, ảnh hưởng đến tương lai của muôn dân. Phần trách nhiệm này tin rằng Hoàng gia chắc là đảm đương không nổi?

Hoàng gia gia chủ Hoàng Quân nghe xong lời này cái mũi thiếu chút nữa méo xệch. nhất thời bị líu lưỡi, nỗi chua xót tràn ngập toàn thân, không nói nên lời.

Lúc trước khi lão tổ tông của gia đình ta ở đây, ngươi sao không nói lời này? Hiện giờ lão tổ tông cũng chỉ mới ra ngoài một thời gian, ngoài một chút nghi ngờ, căn bản là vẫn chưa xác định được có xảy ra chuyện chết người hay không. Thế nhưng tên Thiếu tông chủ nhà ngươi liền lập tức trở mặt.

Lúc trước cho rằng có thể mạnh mẽ đoạt bảo. Không nói tới chuyện đấu giá, bây giờ thấy thế lực người ta quá mạnh, không nắm chắc có thể đoạt được, liền bảo chúng ta bán của cải của gia tộc, lấy tiền mặt gom thành hoàng kim cho các ngươi? Các ngươi cần đấu giá cái gì đó là chuyện của Mộng Huyễn Huyết Hải các ngươi, tiền của Hoàng gia chúng ta có quan hệ sao? Chúng ta chỉ là gia tộc nhỏ, sản nghiệp nhỏ, làm sao có thể phụ gánh chịu nổi chi phí cho Mộng Huyễn Huyết Hải các ngươi. Cho dù la chúng ta can tâm ra sức vì Mộng Huyễn Huyết Hải các ngươi nhưng cùng muôn dân thiên hạ thì có quan hệ gì? Các ngươi tưởng mình là chúa cứu thế sao?

Hơn nữa tính toán kiểu gì mà khi mua không được liền muốn Hoàng gia chúng ta nhận trách nhiệm tương lai của muôn dân thiên hạ. Chúng ta nếu có được tư cách quản chuyện muôn dân thiên hạ thì sao lại rơi vào hoàn cảnh hôm nay, nói năng phải xem sắc mặt của các ngươi?

Hắn ha hả nửa ngày, rốt cuộc cũng không dám trực tiếp, cự tuyệt ngập ngừng nói:

- Xin hỏi Thiếu tông chủ, tam đại thế gia nhìn nhận việc này như thế nào?

- Liên quan gì tới tam đại thế gia? Hoàng gia chủ nói lời này thật là kỳ quái.

Hô Duyên Khiếu cười tao nhã nói:

- Vì cái gọi là người nào làm người đó chịu. Chuyện từ đầu tới giờ cũng đều chuyện của Hoàng gia các ngươi. Trong chuyện lần này, chúng ta cũng chỉ là bằng hữu mà thôi, như thế nào lại có thể dễ dàng phát biểu ý kiến. Ở lập trường bằng hữu mà nói vốn bổn thiếu tông chủ tự nghĩ đã làm đầy đủ nghĩa vụ rồi. Thậm chí lúc trước Hoàng lão phá vỡ qui củ tham gia phân tranh thế tục, Bổn tông chủ cũng chưa từng ngăn cản, đơn giản nghĩ rằng Hoàng lão chính là xuất thân từ Hoàng gia, vì gia tộc ra sức cũng là theo lẽ thường phải làm, nhưng những người khác thì không được như vậy.

- Hoàng gia chủ, bất kỳ một gia tộc nào quật khởi, thủy chung vẫn cần phải dựa vào thực lực của chính mình

- Cho nên chúng ta phá lệ cho ngươi lần này, tiếp theo phải làm như thế nào? Đối với sự tình bên trong, Hoàng gia chủ cần tự mình quyết định. Mộng Huyễn Huyết Hải chúng ta đối với việc này thật sự không tiện tham dự. Chúng ta cùng quý trang thật sự không hề có quan hệ trong chuyện này. Mới vừa rồi, khẳng khái cần gia chủ kiếm hoàng kim chính là vì đại lục lê dân trăm họ, cũng không phải vì gia tộc Huyết Hải. Gia chủ ngài có phải đang hiểu lầm gì không? Dĩ nhiên nếu Hoàng gia chủ đủ năng lực xuất ra thần uy đem tam đại thế gia cùng lúc tiêu diệt vậy thì gia tộc sẽ hiển hách từ đây, ngạo thị võ lâm, xưng bá giang hồ tạo thành truyền kỳ muôn thuở.

Hoàng Quân triệt để đờ người ra.

Thì ra là muốn gia tộc mình xuất tiền nhưng không thèm để ý tới sự sống chết của gia tộc mình. Đây là kiểu lý luận gì chứ? Đây là lý luận của Tam Đại Thánh Địa các người sao? Cái gì gọi là ngạo thị võ lầm, xưng bá giang hồ? Hoàng Quân căn bản không nghĩ tới, trong lòng hắn hiện giờ chỉ có hai chữ: xong rồi.

Nhất cử giải quyết ba đại thế gia, dễ như vậy sao? Nhìn khắp thế gian này, có thể giải quyết ba đại thế gia thì có mấy người có đủ thực lức? Cũng chính là Tam Đại Thánh Địa. Miễn cưỡng là Phong Tuyết Ngân Thành. Trước mắt chính là Quân gia thực lực sâu không lường được, không phải ngay cả Mộng Huyễn Huyết Hải Thiếu tông chủ cũng phải khiếp sợ sao?

Về phần Hoàng gia chúng ta, đừng nói là ba nhà, chỉ là một nửa trong một nhà thôi, chúng ta cũng không dám trêu vào.

Các ngươi ở chỗ này giật dây bảo chúng ta cùng tam đại thế gia không chết không thôi, lời nói hùng hồn như vậy cũng nói ra được. Lúc này thế cục không chết không thôi đã tạo thành rồi, khắp thiên hạ đều đang chờ xem kịch vui nhưng khi đại sự xảy ra, các ngươi liền lập tức phủi tay mặc kệ.

Đây không phải thuần túy là hại người sao?

Cho dù là hãm hại cũng không đến mức độ như vậy. Hãm hại tới bực này cũng thật quá kinh khủng mà. Các ngươi khơi khơi nói một câu liền làm cho Hoàng gia chúng ta vạn kiếp bất phục.

Chẳng những hại chúng ta chết mà còn muốn chúng ta đem toàn bộ của cải bán thành tiền mặt đổi lấy hoàng kim, mang cho các ngươi đem đấu giá, lại còn liên quan đến tương lai của lê dân bá tánh trong thiên hạ. Ta nhổ vào. Cho dù là cường đạo cũng không ác như vậy, nhưng xem cách nói của vị Thiếu tông chủ này, nếu không thuận theo yêu cầu của hắn thì tai họa diệt tộc liền giáng xuống đầu.

Hoàng Quân thậm chí không chút nghi ngờ vị Thiếu tông chủ này đang hướng mình nói chuyện ôn hòa nếu nghe mình cự tuyệt thì có thể lập tức giơ vung đao giết người. Người ta chính là vì muôn dân thiên hạ mà suy nghĩ, một nhân vật vĩ đại. Diệt một gia tộc của mình mà thành toàn cho toàn dân thiên hạ thì đúng là nhân gian chính đạo a.

Sau đó còn có thể lấy lòng Quân gia để bọn họ bán nhiều hơn mấy viên Diệp Cốt đan cho Mộng Huyễn Huyết Hải. Nghĩ đến đây nên Hoàng Quân không dám nói thẳng ra.

Cái này thật sự rất giống lũ đảo quốc  ở phía sau xúi giục khiến Hoa Hạ cùng các nước khác khai chiến, đợi đến khi hùng sư hoàn toàn tỉnh ngủ triển khai phản kích sắc bén nhất, mà bản thân mình sau khi hoàn toàn chiến bại lại tiếp tục đi tìm kiếm hậu thuẫn khác trợ giúp, nhưng không ngờ hậu thuẫn này lại buông tay mặc kệ. Người ta là thủ hộ giả của hòa bình trên thế giới này, chẳng nhẽ lại đi giúp một tên khiên sự giả  như ngươi sao? Đây chính là bi kịch của Hoàng Quân a! Trong lúc nhất thời Hoàng gia gia chủ lâm vào cảnh kêu trời trời không biết, kêu đất đất chẳng hay. Khóc không ra nước mắt. Hoàn toàn tuyệt vọng.

Thậm chí còn có ý nghĩa cầm đao mổ bụng, tự vẫn.

oOo

Bên này, Quân Mạc Tà vừa mới ngủ được một chút liền bị đánh thức. Hơn nữa người đánh thức mình chính là tam thúc Quân Vô Ý, tự xông vào xốc mền ra. Quân Mạc Tà, nhìn thấy cái đùi trắng bóc của mình có chút dở khóc dở cười. May mắn là chính mình đã sửa đổi thói quen ngủ mà không mặc quần áo. Nếu không liền bị một nam nhân khác nhìn thấy hết.

- Tam thúc. Người nói ta phài nói thế nào mới được đây. Lần trước là lão gia, lần này là người. Nếu một ngày ta có vợ, ngài cũng như vậy, ào ào xông vào tốc mền? Chẳng lẽ nam nhân Quân gia chúng ta thích tốc mền của nam nhân khác sao? Bị nghiện à?

- Bớt lắm mồm, mau đứng lên theo ta ra ngoài. Có chuyện quan trọng.

Quân Vô Ý đỏ mặt, hung hăng đánh một phát lên mông cháu trai hắn. Quân đại thiếu bị ngược đãi kêu một “Ngao” một tiếng, lập tức ôm mông nhảy dựng lên, “sưu” một tiếng bằng tốc độ cực nhanh mặc quần áo vào, vẫn mang vẻ mặt buồn ngủ mơ màng theo đuôi Quân tam gia đi ra.

Khi đến tiểu viện của Quân Vô Ý, Quân Mạc Tà thấy hai người trước mặt liền chấn động. Cơn buồn ngủ nháy mắt biến mất hoàn toàn, hoàn toàn bất ngờ. Điều này sao có thể xảy ra được?

- Các ngươi, các ngươi sao lại đến nơi này? Sao lại thành ra cái dạng như vậy.

Quân Mạc Tà nhìn chăm chú hai người trước mặt, một nam một nữ, cẩn thận phân biệt một hồi lâu mới xác định, hai người này đúng là Mộ Tuyết Đồng và Hàn Yên Mộng. Bất quá trên người hai người đều đầy rẫy vết thương chằng chịt, vẻ mặt phong trần mệt nhoài, áo quần rách rưới, trang phục trên người so với tên khất cái còn thê thảm hơn nhiều. Cái này so với ấn tượng trong lòng Quân Mạc Tà về vị Mộ Tuyết Đồng phong thần tuấn tú, nho nhã cùng với một người luôn rực sáng với nụ cười thanh tú như Hàn Yên Mộng chính là một trời một vực.

Tại sao lại như vậy?

- Chẳng lẽ Phong Tuyết Ngân Thành bị người ta giết chết rồi?

Quân Mạc Tà có chút hả hê trên sự đau khổ của kẻ khác.

- Không đến mức như vậy nhưng cũng không khác gì mấy

Mộ Tuyết Đồng hừ một tiếng, ánh mắt lộ rõ hận ý. Đột nhiên ngẩng đầu nhìn thấy Quân Mạc Tà

- Lúc này đây, chúng ta đến là hy vọng có thể cùng Quân gia toàn diện liên thủ, diệt trừ hoàn toàn Tiêu gia. Không biết ý của Quân tam công tử như thế nào?

Mộ Tuyết Đồng biết Quân gia trước mắt mấu chốt chính là vị tam thiếu gia Quân Mạc Tà này, cho nên hắn đối mặt với Quân Mạc Tà trực tiếp nói thẳng.

- Liên thủ? Diệt trừ Tiêu gia? Đề nghị rất thú vị?

Quân Mạc Tà ánh mắt chợt lóe lên, sờ cằm trầm ngâm đột nhiên cười lạnh một tiếng

- Nếu cái ta lựa chọn là ngồi nhìn trai cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi, xem Hàn gia cùng Tiêu gia liều mạng một sống một chết, chúng ta chẳng phải chiếm được tiện nghi sao? Như thế mới có lợi đúng không?

- Đại vương đây là..., chẳng lẽ đại vương uống rượu say quá đà, nên mới nghĩ tới nơi này, rồi lại liên tiếp đi nhầm đường? 

Nhâm Nhược Tích khẽ mấp máy đôi môi, bỗng cảm thấy có chút tức cười, nhưng lại cảm giác rằng lý do đó thật vô lý, cho dù Khánh Kỵ say xỉn đến mức không nhận ra đường, hoặc là nhớ sai cung điện mà bọn họ sống, chỉ cần hắn không nói sai tên, thái giám sẽ không dẫn sai đường bao giờ cả, thế nhưng hắn đã đi nhầm tẩm cung thật, nên cũng đành chỉ biết đâm lao theo lao, làm sao mà quay đầu trở ra được nữa đây?

Nhâm Nhược Tích đang kinh ngạc đứng đó, bỗng nhiên nghe ngoài cửa có giọng nói oang oang cất lên:

- Đại vương giá đáo!

Đám thị nữ, thái giám trong ngoài cung đồng loạt quỳ sụp xuống, Khánh Kỵ đứng ở cửa cung cất giọng nói lanh lảnh rõ ràng:

- Miễn lễ, bình thân, hôm nay là ngày đại hỷ của quả nhân, các ngươi ai cũng sẽ có thưởng, ngày mai hậu cung tổng quản sẽ phát tiền thưởng, các ngươi mau lui xuống hết đi.

Nhâm Nhược Tích nghe thấy hắn nói vậy, khuôn mặt bỗng nhiên đỏ bừng lên, trọng nội tâm dâng lên một chút xấu hổ khó diễn tả. Bước chân của Khánh Kỵ đập bên tai, Nhâm Nhược Tích tuy là người mới, cũng biết khom người hành lễ, nâng nhẹ guốc gỗ, đầu cũng không dám ngẩng lên nhẹ nhàng bái tạ:

- Thần thiếp Nhược Tích, bái kiến đại vương.

- Ái phi bình thân.

Khánh Kỵ bước lại gần, đưa một tay ra đỡ nàng đứng dậy.

Nhâm Nhược Tích đứng dậy, đưa mắt thoáng qua nhom Khánh Kỵ, bất ngờ phát hiện ra đằng sau lưng Khánh Kỵ còn có hai người nữa, không khỏi giật mình, kêu lên thất thanh:

- Diêu Quang, Tiểu Man!

Hai cô gái cứng rắn hôm nay làm tân nương, cũng cảm thấy có chút ngượng ngịu, dịu dàng thỏ thẻ khác hẳn ngày thường, khẽ khàng đáp lại:

- Nhược Tích tỉ tỉ.

- Tại sao hai người...

Nhâm Nhược Tích muốn nói gì nhưng lại thôi, không biết nên nói thế nào cho phải.

Khánh Kỵ cười nói:

- Ba người các nàng đều là ái phi của quả nhân, hôm nay là đêm tân hôn đầu tiên của chúng ta, quả nhân không thể bên trọng bên khinh, vò rượu này bốn người chúng ta hãy cùng nhau thưởng thức.

Hắn háo hức nhìn ngắm ba mỹ nhân sắc nước hương trời đang đứng cạnh mình, nới lỏng hai tay hai bên là những chiếc eo nhỏ nhắn của Diêu Quang và Tiểu Man, đi về phía chiếc bàn đầy ắp thịt rượu thức ăn sơn hào hải vị, rồi nói:

- Hôm nay là một ngày đại lễ quan trọng, cho nên quả nhân sắp xếp như vậy là để tránh cho các nàng nảy sinh những hiềm khích bộc phát trong lòng. Từ nay về sau chúng ta sẽ đều là người một nhà cả, quả nhân mong rằng ba vị ái phi sẽ yêu thương đùm bọc, kính trọng khoan dung lẫn nhau, giúp phu quân dạy con, giữ vững nề nếp, thi hành bổn phận của mình cho tốt, không phụ lại tâm ý quả nhân.

Ba cô gái đều là những nữ nhân cực kỳ thông minh. Câu nói đó của Khánh Kỵ có ý nghĩa thị uy cảnh báo một cách khôn khéo. Trong đêm tân hôn đã nhắc nhở ba nàng tân nương trước một câu, tuy rằng câu nói đó không được lọt tai cho lắm, nhưng cũng khiến cho bọn họ thầm cảnh tỉnh. Khi nghe thấy Khánh Kỵ nói đến đoạn "giúp chồng dạy con", trong lòng ba người như mở cờ trong bụng. Ngay cả một cô bé mới chớm biết yêu như Tiểu Man cũng dấy lên trong lòng một thứ cảm giác khác thường. Trong phút giây ngắn ngủi nào đó, họ đã cảm nhận được từ trong đáy lòng mình. Bắt đầu từ đêm nay, bọn họ sẽ là thê tử của người ta, không còn là những cô nương ngỗ ngược nghịch ngợm như trước nữa rồi.

Mọi người đều quen biết nhau cũng có cái hay của nó. Khánh Kỵ không hề nói đến chuyện vương vị trước mặt các nàng, ba cô gái xưa nay cũng có thời gian sống chung cùng nhau. Uống xong hớp rượu cẩn đầu tiên, Khánh Kỵ lại tiếp tục mời rượu từng nàng một, rồi còn kể một số câu chuyện thú vị, khiến cho không khí nhanh chóng trở nên ấm áp. Nếu trong tâm khảm đang thấp thỏm lo lắng vì thân phận tân nương, khiến cho trong lòng ba nàng ít nhiều nảy sinh rụt rè này kia, thì không khí nhất định sẽ còn vui vẻ, thoải mái hơn rất nhiều.

Khánh Kỵ trông thấy ba nàng cười cười nói nói với nhau rất vui vẻ, cũng cảm thấy thầm vui mừng trong lòng, nói:

- Ước nguyện duy nhất của cả đời Khánh Kỵ chính là quan hệ giữa ta với các nàng, giữa các nàng với nhau ngày nào cũng hòa thuận đầm ấm, tương thân tương ái, không đố kị xích mích nhau giống như ngày hôm nay.

Ba cô nàng đưa mắt nhìn nhau, nũng nịu hướng ánh mắt về phía hắn nói:

- Lời căn dặn của phu quân ngày hôm nay, nỗi khổ tâm của chàng bọn thiếp đều ghi lòng tạc dạ, phu quân xin cứ yên tâm, tỉ muội bọn thiếp nhất định sẽ hết lòng hầu hạ phu quân, thân mật hòa thuận với nhau như răng với môi, không còn ngăn cách gì hết.

- Tốt lắm! Vậy thì đêm nay bốn người chúng ta hãy thân mật không còn ngăn cách nhé.

Khánh Kỵ hí hửng, hắn đưa mắt nhìn qua vai của Nhược Tích, liếc nhìn về phía chiếc giường lớn đã được buông xuống sẵn đằng kia, cười nói:

- Đêm nay là một thời khắc vô cùng quan trọng, quả nhân tá túc ở phòng của ai thì cũng đều khiến cho hai tiểu mỹ nhân còn lại phải tủi thân cô quạnh. Hũ rượu cẩn cũng đã uống hết, vậy đêm nay chúng ta cùng nhau ân ái trong phòng này, tận hưởng cảm giác bay bổng đê mê cùng với nhau thì quả là tuyệt vời. Hắc hắc, ba ái thiếp, trời đã tối rồi, có phải đã đến lúc chúng ta buông màn cởi áo rồi không nhỉ?

- Cái gì? 

Ba cô nàng bị một phen hoảng hồn, hoang mang đưa mắt nhìn nhau, ai nấy mặt mũi đỏ ửng như quả gấc chín.

Vào thời đó chuyện chăn gối không cấm kỵ nhiều như đời sau, vương hầu văn võ bá quan có rất nhiều tì thiếp, phần lớn đều coi là những chuyện rất bình thường, ba người tuy chưa tận mắt chứng kiến chuyện đó, nhưng bọn họ đều xuất thân từ những gia đình danh giá, chuyện phong lưu tình ái của các bậc trưởng bối huynh trưởng đều đã từng được nghe qua, chỉ là không ngờ được rằng ngày hôm nay chuyện đó lại rơi xuống đầu mình.

Ba người bọn họ đều là vương phi, thân phận tôn quý, trong lòng khó tránh khỏi chút rụt rè nhút nhát. Quan trọng nhất là, trong số ba người bọn họ ngoại trừ Nhâm Nhược Tích vụng trộm hoan lạc với Khánh Kỵ một đêm, còn hai cô gái kia thì đều chưa từng biết đến chuyện hoàng hoa khuê nữ của nam nữ (chuyện mà ai cũng đều biết, trừ trẻ con, hizzzz), bỗng nhiên muốn ân ái với bọn họ trong cùng một chiếc giường, hầu hạ phu quân khiến cho ba nàng không khỏi rối bời tâm tư, thái độ có vẻ không tự nhiên cho lắm.

Sau đôi chút ngỡ ngàng xấu hổ ban đầu, Tiểu Man là người đầu tiên khôi phục được tính cách ương ngạnh của mình, mặt đỏ tía tai nạt nộ:

- Thật quá hoang đường, sao chuyện như vậy mà chàng cũng nghĩ ra được.

Khánh Kỵ cười nói:

- Không những nghĩ ra được, mà phu quân của các nàng còn làm được nữa cơ. Đã ở trong khuê phòng cẩn mật, còn ngại gì ai nữa đây, việc gì mà phải xấu hổ nhỉ, kẻ nào dám chỉ trích này nọ trẫm lập tức thiến hắn luôn, để hắn sau này nhìn được nhưng không "xơi" được.

- Đại vương thật là... say mất rồi, đêm nay ở trong phòng của Nhược Tích tỉ tỉ là được rồi, thần thiếp xin được cáo lui trước.

Diêu Quang mặt đỏ như gấc đưa mắt ra hiệu cho Tiểu Man, đứng dậy toan đi ra khỏi điện.

Nhược Tích lúng túng, vội vàng đứng dậy nói:

- Hai muội muội, đại vương say rượu cần phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, để Nhược Tích đi cùng hai người.

Khánh Kỵ vươn người đứng dậy, một tay đưa ra nắm chặt lấy chiếc eo nhỏ nhắn của Nhược Tích, rồi bế thốc nàng lên, lê bước đi về phía giường, kéo rèm lên, rồi đặt nàng nằm trên giường, nhẹ nhàng nói với Diêu Quang, Tiểu Man:

- Lời của phu quân mà các nàng dám không nghe? Hôm nay quả nhân muốn động phòng với cả ba nàng, nếu ai không nghe lời, thì suốt ba tháng sau quả nhân sẽ không thèm bước vào tẩm cung của người đó nữa.

- Hứ! 

Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man cười khinh khỉnh "Ai thèm!", Diêu Quang nhăn mũi trêu chọc.

- Chàng dám! 

Tiểu Man chống nạnh đứng đó, trợn mắt lườm nguýt.

Sau đó, cả hai cô nương đều đỏ mặt, rồi chậm rãi từng bước một tiến tới bên giường, nhìn Khánh Kỵ đang ngồi kia cười giảo hoạt như một con hồ ly già tinh quái, khiến cho miệng các nàng đều ngứa ngáy, chỉ muốn ngoạm..., hừ, ai bảo người ta giờ đã là nam nhân của mình chứ...

Tắm gội, súc miệng, cởi đồ, bỏ trang sức, ba cô gái ngượng ngập đi trở lại giường, Khánh Kỵ đã rửa mặt tắm táp từ trước lúc này không mảnh vải trên mình, lộ ra lồng ngực cường tráng, chỉ còn mặc độc một chiếc khố nhỏ, đang nằm trên giường mỉm cười nhìn các mỹ nhân.

Chỉ vài tháng nữa Nhược Tích sẽ tròn đôi mươi, dưới con mắt của Khánh Kỵ đúng là độ tuổi chín muồi hấp dẫn của phụ nữ, còn trong mắt của người thời đó thì nàng đã phí hoài mất bốn năm tuổi xuân, đã coi như trở thành cô nương "già" rồi.

Nàng khoác trên mình một bộ nhuyễn bào màu hồng phớt có thêu hình trúc mai trước ngực, mái tóc nhung huyền mềm mại, chỉ được cố định bởi một sợi dây đai mỏng manh màu vàng. Sau khi tắm giặt, phấn son đã được gột tẩy sạch sẽ, chỉ còn khuôn mặt mộc mạc quyến rũ mê hồn còn đó, da thịt trắng sữa nõn nà, mịn màng thơm tho như băng thanh ngọc khiết, toàn thân tỏa ra một mùi hương dịu nhẹ mê tơi say đắm đàn ông khắp thế gian.

Diêu Quang vừa bước qua tuổi mười tám, nhưng thân hình trông còn phổng phao hơn cả Nhâm Nhược Tích, mặc một chiếc áo màu hoa sen, bên eo thắt một dây đai gắn hạt xoàn, tuy thế nhưng mỗi khi nàng cử động tay chân, cặp đùi thon dài thẳng tắp cùng bộ ngực mây mẩy đầy đặn ngổng lên cao ngất của nàng lại như nửa ẩn nửa hiện lấp ló trong chiếc áo bào, những đường cong chết người khơi gợi những dục cảm bình dị trong mỗi con người, không khỏi khiến người ta như mơ màng trong cõi đê mê.

Quý Tôn Tiểu Man tuổi mới mười sáu, mặc một chiếc đoản bào trắng tinh khiết, bên dưới lộ ra đôi chân nhỏ nhắn xinh xắn, tóc cột thành hình đuôi ngựa, trên trán còn buộc một dải khăn thêu hoa, trông hơi giống cách ăn mặc của nữ bộc, nhưng rất đáng yêu và gợi cảm.

Nàng nửa tiến nửa lùi đứng chơ vơ một chỗ, thần sắc định cố giả vẻ hung hãn dữ dằn, nhưng lại vẫn kèm theo chút thần vận xinh đẹp tinh nghịch, trên khuôn mặt vẫn còn non nớt, núng na núng nính má hồng dần xuất hiện một vòng tròn đỏ ửng, thật khiến người ta khó lòng tưởng tượng ra được một mỹ nhân khuôn mặt trứng sữa thuần khiết kia vào lúc ái ân ấn ai với người khác sẽ có vẻ mặt thế nào???

- Nào, ba ái thê, để phu quân ôm các nàng một cái nào.

Khánh Kỵ nhận ra được sự căng thẳng trên khuôn mặt mỗi người, cố tình nằm rũ rượi trên giường giang rộng hai tay, giả vờ như đang lơ tơ mơ. Đời người có diễm phúc như vậy, quả thật một người đàn ông còn mong ước gì hơn nữa. Cặp lông mi của Khánh Kỵ tựa hồ đều dựng đứng lên. Ba nàng đều là phu nhân của Khánh Kỵ, cách hầu hạ của bọn họ không giống như những cô nương Tiểu Nhã, Tiểu Trúc lục nữ, hắn mong rằng đêm nay không chỉ có hắn ngây ngất trong cơn hoan lạc, mà cả ba ái thê của mình cũng có thể tận hưởng được hương vị ngọt ngào của tình ái, điều này đối với những cô nương còn bỡ ngỡ chưa quen thì rất khó nói ra, cho nên Khánh Kỵ cố tình ra vẻ như không có gì, nhưng thực ra trong lòng cũng có đôi chút lo lắng.

Trông thấy bộ mặt háo hức phấn chấn của hắn, cả ba cô nương đều xấu hổ đằng hắng mấy tiếng, đứng bên thành giường đưa mắt lúng túng nhìn nhau, bối rối không dám ngẩng đầu nhìn, trong lòng vừa ngượng vừa sợ. Vừa như mong đợi, lại vừa như muốn trốn tránh, chẳng ai chịu tiến lên trước thêm một bước nữa cả.

Khánh Kỵ bỗng nhiên với tay ra nắm chặt lấy đôi chân bóng bảy của Nhâm Nhược Tích, Nhâm Nhược Tích ối lên một tiếng bất ngờ, rồi bị Khánh Kỵ kéo xuống giường, sau đó nằm ép dưới cơ thể của hắn. Khánh Kỵ một tay ôm chặt lấy thân thể mềm mại của nàng, xoay người đè lên trên người nàng, rồi hôn từng đợt liên hồi lên đôi môi đỏ thắm.

- Ơ... Nhâm Nhược Tích vừa định kêu lên chống cự, liền bị Khánh Kỵ bao chặt lấy lưỡi, cơ thể của nàng bỗng chốc mềm nhũn, đôi mắt tròn to cũng theo đó chìm vào mơ màng, rồi từ từ khép hờ, nhưng đôi bàn tay vẫn đang cố chống cự lại những cử chỉ không kiềm chế được của Khánh Kỵ trước bộ ngực săn chắc của nàng, nghĩ tới việc bên cạnh mình còn đang có hai cô nương làm khán giả, khuôn mặt đỏ gay giống như đang bốc cháy bừng bừng.

Diêu Quang và Tiểu Man là hai nha đầu xưa nay vốn rất ngổ ngáo lúc này ngây ngốc khiếp đảm đứng cạnh giường, trố mắt nhìn Nhâm Nhược Tích đang bị Khánh Kỵ đè lên trên khua tay loạn xạ khắp cơ thể, rồi lại nơm nớp lo sợ cho bản thân mình khi mà tình trường vẫn còn non nớt.

- Tích Nhi, nam nữ ân ái vốn là chuyện vui thú nhất trong đời người, bốn người chúng ta lúc này đã là phu thê, cơ thể hoàn toàn thuộc về nhau, suốt đời suốt kiếp bên cạnh nhau, có gì đâu mà phải xấu hổ chứ? Nào, thả lỏng một chút, hai ta đã từng trải qua một lần hợp thể, hãy để cho hai muội muội của nàng học hỏi một chút thế nào gọi là "thủy nhũ giao dung, âm dương điều hòa..."

- Cái gì? Nhược Tích đã cùng hắn làm chuyện đó...

Diêu Quang và Tiểu Man nghe được câu nói đó, đôi mắt lập tức trợn trừng lên, sự "đồng cảm" với Nhâm Nhược Tích bỗng chốc tan biến sạch trơn không còn dấu vết gì sất, mùi vị của sự chua chát sôi sùng sục trong lòng.

Nhược Tích bị Khánh Kỵ nói trắng ra chuyện của hai người, coi như đã bị hắn lột bỏ lớp bảo vệ cuối cùng, nàng xấu hổ ức nghẹn lên một tiếng, bừng hai tay lên che mặt, giữa những ngón tay lộ ra khuôn mặt đỏ ửng theo từng cơn.

Bộ nhuyễn bào đã được trút bỏ, ngọc trâm cài trên đầu được đặt xuống thành giường, Nhược Tích bắt đầu thở dốc, cặp song nhũ nõn nà mây mẩy cao vổng căng cứng, khẽ nhô lên hai "hạt" anh đào đỏ ửng, Khánh Kỵ không hề khách sáo chà đạp lên đôi môi trơn bóng mềm mại, đôi bàn tay vuốt ve mơn trớn không thôi bộ ngực và cặp kiều đồn tròn trịa của nàng.

Nhược Tích rên rỉ từng đợt hổn hển, toàn thân bóng nhẫy, cuộc ân ái với Khánh Kỵ khiến cho nàng hồi tưởng lại những hồi ức khó quên lúc trước với hắn, rõ ràng biết rằng Diêu Quang và Tiểu Man đang ở cạnh bên, nàng cũng định tỏ vẻ e thẹn trước mặt hai người, nhưng bàn tay của Khánh Kỵ cứ ve vuốt mãi khiến nàng khó giữ mình, chỉ còn biết chui vào trong bờ ngực của Khánh Kỵ, khiến cho thân hình kiều diễm của nàng khẽ ngọ nguậy giống như thân hình con bạch xà, để mặc cho hắn thỏa sức nhấm nháp, tùy ý ve vãn.

Diêu Quang đứng ở cạnh đó, vừa ngượng vừa sợ nhìn cảnh xuân sắc trên giường, chỉ thấy đâu đó ươn ướt ngứa ngáy, cuối cùng hai chân mềm nhũn, ngồi xuống giường thở dốc, Nhâm Nhược Tích đang nằm trước mặt tóc tai rũ rượi, làn môi đỏ mọng bóng gợn, đôi mắt tuyệt diệu như làn nước thu, vẻ mặt nũng nịu khiến cho người ta phải khó chịu, tiếng rên nhỏ nhẹ từng đợt đều đặn của nàng lại càng khiến người ngồi cạnh càng thêm bứt rứt khó chịu.

Đột nhiên, Nhược Tích vung tay ra bắt lấy bàn tay trắng nõn nà của Diêu Quang, giống như thể người chết đuối vớ được cọc, cứ nắm lấy thật chặt chẳng chịu buông ra, từ trên cơ thể của Nhâm Nhược Tích có thể cảm nhận được sự run rẩy tê dại, đôi bàn tay run rẩy cũng tác động đến Diêu Quang, khiến cho đôi chân của nàng không tự chủ được mà cũng bủn rủn theo...

Thời gian cứ trôi qua dần đều, ngọn nến cháy leo lắt, Thúc Tôn Diêu Quang đứng nhìn cảnh thân mật nãy giờ cơ thể hầu như đã tê liệt, khi Khánh Kỵ kéo nàng vào trong giường, nàng chỉ còn biết bất lực mặc sức cho Khánh Kỵ làm gì thì làm. Ở kế bên là Nhâm Nhược Tích đang thở gấp từng đợt. Thân hình viên mãn đầy đặn của nàng khẽ ngổng lên khỏi giường, đôi chân dài thon thả đã được Khánh Kỵ kẹp ở hai bên eo, chiếc giường lại khẽ lắc lư...

Cơ thể đã đầy đặn và thành thục như Thúc Tôn Diêu Quang, ở trong đêm tân hôn mới cảm nhận được sự tuyệt vời cực đỉnh mà trò chơi hoan lạc nam nữ mang lại, chắc chỉ còn mỗi Quý Tôn Tiểu Man, đêm nay đối với nàng mà nói sẽ là một đêm khó quên khi mà sẽ có rất nhiều cảm giác mới mẻ kích thích cứ bày ra trước mặt nàng như vậy. Thân thể còn chưa trưởng thành hết của nàng, nhất thời không thể nào bộc lộ ra hết những bản năng dục vọng trong con người mình.

Do cơ thể nàng vẫn chưa phát triển nở nang cho lắm, nên kỳ thực Khánh Kỵ rất muốn đợi đến khi nàng trưởng thành hơn một chút. Khi nào có thể hoàn toàn hòa hợp và dung nạp tốt với cơ thể của mình thì hay hơn. Nhưng đa phần những thiếu nữ sống trong thời đại này đều là tảo hôn, trong thời đại này, ở vào tuổi của Tiểu Man đã được coi là không còn nhỏ nữa rồi! Nếu hắn cố tìm cho được những lý do nào đó rất khó chấp nhận trong thời đại này để hòa hoãn với nàng thì chỉ khiến cho tiểu cô nương kia sinh lòng oán thán mà thôi.

Với tính khí của nàng, việc bỏ nhà đi đã là chuyện quá đỗi bình thường, nếu như giờ lại có cảm giác bị chồng thờ ơ lạnh nhạt, một khi cơn tức bốc lên sẽ lại giở trò "bỏ chồng mà đi". Khánh Kỵ không thể nào gánh vác nổi, điều duy nhất hắn có thể làm là cố hết mình ra vẻ ôn nhu, tránh cho cơ thể của nàng chịu những tổn thương đau đớn, tránh cho nàng bị dính dáng vào chuyện chửa đẻ quá sớm.

Quý Tôn Tiểu Man bẽn lẽn đứng bên cạnh, mặc dù trước khi đến Ngô, nàng đã được các bà bà dạy cho vài cách ứng phó trong đêm tân hôn, nhưng sự xấu hổ theo bản năng đã khiến cho nàng từ đầu đến giờ chỉ biết nhắm chặt mắt lại không dám xem, nhưng những âm thanh rên rỉ vẫn đang lọt đều đặn vào trong tai nàng, khiến cho khuôn mặt nàng đỏ ửng.

Hai chân của nàng run rẩy như người bị ốm, trong lòng trống rỗng chẳng biết làm sao, từ nhỏ đã thiếu thốn tình thương yêu từ mẹ, khi phải đối mặt với chuyện đại sự đầu tiên trong đời, thì nàng liền căng thẳng đến nỗi tay chân lạnh băng. Nàng muốn trốn tránh, nhưng đôi chân từ sớm đã mềm nhũn không thể động đậy thêm chút nào nữa. Đến nỗi ngay cả khi bị kéo lên giường lúc nào mà nàng cũng không hề hay biết.

Khi nàng đã bắt đầu hơi tỉnh táo, thì phát hiện ra mình đang nằm sấp trên giường, hàm răng cắn chặt vào gối, phía trên nàng là một cơ thể săn chắc vạm vỡ đang ôn nhu mà chậm rãi "tiến hành" công việc. Cho dù động tác của hắn hết sức chăm chút cẩn thận, nhưng Quý Tôn Tiểu Man vẫn cảm thấy không thoải mái cho lắm. Nàng biết rằng vào lúc này thì nên phải là một người vợ "giúp đỡ tận tình" cho chồng, hầu hạ chồng hết sức, thế nhưng tất cả những phương pháp mà các bà bà trong phủ dạy cho lúc này nàng đều quên bẵng không còn chút vết tích nào hết.

Nàng chỉ có thể buông thõng cặp cổ trắng ngần, cặp eo nhỏ nhắn, khẽ khàng cong cong lên cặp tuyết đồn, bặm môi mím lợi chịu đựng. Một loại khoái cảm đến từ trong tâm khảm chứ không phải trên xác thịt tràn ngập trong cơ thể nàng. Trong cuộc yêu, nàng đã cảm nhận được mình và phu quân đã hợp lại làm một, nàng đã dường như gạt bỏ đi tất cả những mối lo ngại của mình, vĩnh viễn, vĩnh viễn...

Đêm khuya, dịch quán sứ tiết.

Di Hạ rón rén bước ra khỏi phòng, khẽ khàng đi nhỏ nhẹ tránh xa khỏi phòng phó sứ và mấy phòng thuộc sứ bên cạnh, sau đó rảo bước đi ra cánh cổng đằng sau viện lạc. Thân tín của hắn đã giong sẵn ngựa chờ hắn ở đó, Di Hạ lên xe, thầm thì vài câu với thuộc hạ, rồi buông rèm ra đi vào trong xe. Võ sĩ đánh xe nhẹ nhàng vung roi, xe ngựa chạy chậm rãi, lọc cọc bước đi trong bóng đêm.

Ngô Quái lâu, một đại tửu lâu của Viên Tố mới mở tại Cô Tô, chuyên phục vụ khách uống rượu và nghỉ trọ. Hiện tại Viên Tố là thống lĩnh thị vệ vương cung, bình thường không quản lý nơi này, có điều hắn đã đưa một số chưởng quỹ đem từ Lỗ quốc đến nơi này, có những thuộc hạ như vậy, Ngô Quái lâu do thế mà luôn được chỉnh đốn ngay ngắn. Những món ngon rượu ngon thì không nơi nào trong thành so sánh được với nơi này, cho nên phàm là những thương gia, những võ sĩ sĩ tử từ các nước đến nương náu ở Ngô quốc nếu như túi tiền kha khá là hầu như đều tìm đến nơi này.

Trước cánh cửa rộng rãi khoáng đạt của cửu lâu treo hai hàng đèn lồng đỏ, trắng đêm không tắt. Xe ngựa của Di Hạ đi thẳng vào trong, vòng vào trong khách quán phía sau, rồi dừng lại trước một căn nhà nhỏ.

Căn nhà này đã được một đại thương nhân Tống quốc bao trọn, vị đại thương nhân này phóng tay rất khoáng đạt, nghe nói chủ nhân họ Tử, là một quý tộc ở Tống quốc. Cảnh sắc xung quanh khá đẹp, có viện lạc nằm độc lập, vừa yên tĩnh lại an toàn, đương nhiên tiền thuê mỗi tháng cũng không rẻ. Xe ngựa dừng lại trước cửa, hai viên võ sĩ tùy tùng lập tức đứng hai bên cửa, Di Hạ xuống xe, nhìn ngắm xung quanh, ánh trăng như làn nước trong xanh, gió đêm thoang thoảng đâu đây, những chiếc lá đong đưa rơi lả tả, cảnh vật im ắng lạ thường.

Hắn rảo bước đi tới, kéo nhẹ thanh đấm cửa bằng đồng, một lúc sau, bên trong phát ra một âm thanh già cỗi:

- Ai đấy?

Di Hạ lại kéo cửa thêm mấy nhịp nữa, rồi mới nói giọng điềm tĩnh nhỏ nhẹ đáp lại:

- Là ta, Di đại phu đây.

Bên trong sáng bừng lên một ngọn lửa, cánh cửa cót két mở ra, hai bóng người đen đen đứng đó, một người thấp giọng nói:

- Di đại phu, xin mời vào, công tử biết tối nay ngài sẽ đến, nên đã chờ từ lâu. Không có ai để ý tới ngài chứ?

Di Hạ nói:

- Không có, ta cứ lo ngay ngáy đêm nay ở quán dịch có đội võ sĩ đi tuần tra, nhưng thật may trong thành Cô Tô này tương đối yên bình, ban đêm chỉ để mấy võ sĩ đứng canh ở cổng lớn. Ta đi ra từ cổng sau, trên đường đều rất chăm chú nghe ngóng động tĩnh, và không thấy có ai theo dõi hết.

- Vậy thì tốt rồi, đại phu mau vào trong đi.

Di Hạ gật đầu, rảo bước đi vào bên trong, ngọn đèn trên lầu lúc này đã sáng, qua cánh cửa sổ, lờ mờ có bóng một người đang đứng. 

Di Hạ bước vào trong phòng, khắp mặt sàn lầu một đều được trải thảm, mấy võ sĩ để kiếm dưới gối ngồi đó. Di Hạ không dám nhìn lâu, vội vàng đi lên lầu hai. Trên lầu hai có một thị tỳ búi tóc dung mạo xinh đẹp đang cầm đuốc đứng soi đằng xa, khi trông thấy hắn tới, chẳng nói gì khẽ cười nhìn hắn, hành lễ nhẹ nhàng với hắn, rồi cầm đuốc đi trước dẫn đường, đi đến chỗ đèn sáng trưng thì dừng bước, nhẹ nhàng gõ cửa, giọng nhỏ nhẹ nói:

- Công tử...

- Vào đi, ta đã rời khỏi giường rồi.

- Dạ.

Thị nữ kia kéo tấm bình phong, Di Hạ nhanh chóng bước vào bên trong, trông thấy một người đằng sau tấm bình phong đang đi về phía sau thư án, rồi từ từ yên vị, Di Hạ bước vào trong phòng, chỉnh lại tư thế rồi kính cẩn hành lễ:

- Di Hạ bái kiến Tử Nam công tử.

- Ngồi đi, không cần câu lễ.

Người ngồi sau án mặc một chiếc áo xanh, mái tóc dài bỏ ra sau lưng, trên trán buộc một chiếc khăn màu tím, hắn giơ tay lên, hai ngón tay trắng trẻo vân vê một cái que trúc, thắp đèn sáng lên, rồi mới ngẩng mắt lên thoáng nhìn về phía Di Hạ, hàng lông mày đen rậm giương lên, hỏi:

- Tình hình thế nào?

Người này hàm én mày ngài, con ngươi linh động, khóe môi hơi nhếch lên. Di Hạ đứng trước mặt đã là một nam tử tuấn tú ngàn người có một, nhưng nếu so sánh với vị công tử này, bất luận là bàn về tướng mạo hay thần thái thì đều kém hơn một bậc. Vị công tử đang đứng trước mặt Di Hạ còn anh tuấn khí khái hơn hắn nhiều, vẻ yêu kiều giống nữ giới lại toát ra vài phần hào khí nam nhi.

Vị Tử Nam công tử kia chỉ thoáng nhìn một cái, Di Hạ vừa ngồi xuống lại đứng phắt dậy đáp lời.

Nếu Khánh Kỵ gặp phải hắn, nhất định sẽ rất kinh ngạc cho coi. Vị Tử Nam công tử này là đầu man chi nữ của Tống Cảnh, thê của Vệ Linh Công Cơ Nguyên, chính là Vệ quốc quân phu nhân Nam Tử.

Di Hạ nói:

- Hôm nay là ngày đại vui của Ngô vương, thần chỉ bắt chuyện với hắn trên điện trong chốc lát.

Cặp môi kiều diễm của Nam Tử khẽ mấp máy, khóe miệng hơi nhếch:

- Hắn nhìn thấy một vị sứ giả Vệ quốc như ngài, lẽ nào lại không hề đề cập tới chuyện ở Bành Thành?

- Hắn có nhắc đến, Ngô vương chỉ nói loạn quân Triển Chích xâm chiếm Bành Thành, do địa thế nơi này hiểm yếu, đã bị Ngô quân tiễu trừ, chiếm lấy Bành Thành. Hắn còn nói... cường đạo xâm nhập tứ phía, tiêu diệt không dễ, nếu như Tống quốc có thể điều một đạo binh mã kết hợp tác chiến, vậy thì sẽ dễ dàng hơn nhiều.

- Làm gì có chuyện đó!

Nam Tử đập mạnh tay xuống bàn, lông mày khẽ chau lên:

- Hắn thản nhiên coi Bành Thành của ta như đồ trong túi vậy, thế cả việc lúc nào trao trả lại hắn cũng không nói sao?

Di Hạ lúng túng đáp:

- Phu nhân...

Nam Tử khẽ trừng mắt, Di Hạ vội luống cuống sửa lời nói:

- Công tử, thần là người nước Vệ, Ngô vương Khánh Kỵ cho dù chịu trao trả lại thành trì, thì... thì cũng không nói với thần đâu.

Cặp đồng tử thâm thúy lạnh lùng của Nam Tử đưa mắt nhìn hắn, chỉ thấy Di Hạ cúi đầu xuống, đằng hắng nói:

- Đã biết là quan hệ giữa ngươi với hắn rất tốt, đương nhiên là đã được hắn đùm bọc chiếu cố, giờ đây lại còn tìm cớ thoái thác thông đồng với tên cường đạo trời đánh không chết đó.

Di Hạ vội nói:

- Thần không dám, trong yến tiệc thần chỉ ngồi nói chuyện suốt với đám quan viên Ngô quốc, bọn họ hình như đang có ý đồ với Đông Di, không có ý nào nhằm vào Tống quốc cả.

Nam Tử bực tức nhìn hắn:

- Hắn không có mưu mô gì với Tống quốc? Lẽ nào Bành Thành không phải là lãnh địa của Tống quốc chúng ta?

Di Hạ cứng họng không biết nói sao, Nam Tử tự nói với mình:

- Có đám người Ngô quốc trấn thủ đằng đó, đám thổ phỉ Triển Chích khó lòng nào xâm nhập được vào Tống quốc, tạm thời có thể coi là một chuyện tốt, chỉ e ngại một điều là đến thời hạn trả lại thành trì, hắn lại tiếc rẻ không nỡ buông xuôi mảnh đất béo bở này... Về tình thế Tấn quốc và hai nước Vệ Tống, Khánh Kỵ và đám đại thần có nhắc đến không?

Di Hạ nhìn nàng, lí nhí nói:

- Người Ngô... hình như đang bận bịu với liên minh Tần quốc, Lỗ quốc, còn cả việc cày bừa lên thửa vụ mùa mới, trong yến tiệc, chuyện đối ngoại được nhắc đến nhiều nhất là nói về Đông Di, thỉnh thoảng mới nói đến Sở quốc, Việt quốc, còn về cục diện Vệ Tống thì không nhắc tới chút nào cả.

Nam Tử lại nổi cơn thịnh nộ, tiếp tục đập thư án thật mạnh:

- Cái tên bất nhân bất nghĩa đó, khênh vợ đẹp lên giường hú hí, từ lâu đã không còn vương vấn gì tới hai nước Vệ Tống chúng ta rồi. Nếu không có chúng ta góp sức khống chế Tấn quốc tiến xuống phía Nam, khiến Tề Tấn không thể tác hợp đổ quân xuống phía Nam, thì làm sao hắn có thể ung dung chiếm được vương vị Ngô quốc chứ? Hắn...

Nam Tử tức giận thở hồng hộc, quét mắt nhìn Di Hạ, rồi nói:

- Sáng mai, ngươi lấy danh nghĩa bạn cũ hẹn gặp hắn ở Ngô Quái lâu dự tiệc.

- Điều này... Chỉ e là... Thần cho rằng...

Nam Tử khuôn mặt thanh khiết như sương mai, lạnh lùng nghiêng mắt lườm hắn, quát lên:

- Sao nào?

Di Hạ lắp bắp nói:

- Ngày đại hỷ của Ngô vương, toàn triều đình được nghỉ ba ngày, ngày mai mời hắn xuất cung, chỉ e... chỉ e không được hợp lý...

- Hai nước Vệ Tống chúng ta đang nguy cấp vô cùng, trong khi hắn lại ung dung hưởng khoái lạc... 

Nam Tử khẽ chau mày, rồi suy nghĩ gì đó, nói:

- Được rồi, Ngô vương đình triều ba ngày, cả nước chúc tụng, các quan đại thần chắc cũng nghỉ ngơi ở phủ đệ, trong ba ngày này ngươi hãy đến uống rượu hàn huyên với các vị đại thần Ngô quốc, tìm cách moi móc thông tin, có tin tức gì lập tức bẩm báo ta ngay. Ba ngày sau ngươi hãy... ngươi hãy hẹn với cái tên khốn nạn đó cho ta...

Nói đến đây, Nam Tử lại cảm thấy tức nghẹn lời, oán giận nói:

- Đường đường một đấng nam nhi, những chuyện đồng ý với ta lại chưa làm được việc gì hết, giờ hai nước Vệ Tống chúng ta đang trên bờ vực thẳm, thì hắn lại đang hoan lạc nữ sắc.

Di Hạ kinh ngạc trừng to mắt, không biết Khánh Kỵ đã đồng ý với quân phu nhân chuyện gì, nghe phong phanh quân phu nhân còn trẻ, ở Tống quốc có vô số công tử tài sắc song toàn tới quỳ dưới váy, đến Vệ quốc lại có chút mập mờ với Công Tử Triều, không lẽ... từ lúc nào mà nàng đã câu kết với Khánh Kỵ công tử rồi?

Nam Tử ngước mắt lên, trông thấy thần sắc lạ lùng của Di Hạ, đã biết ngay hắn đang có ý nghĩ xấu xa gì trong đầu, nếu không phải hiện tại đang cần dùng tới hắn thì Nam Tử đã đá bay cái tên chỉ được cái mặt mốc kia bay xuống lầu, nàng nghiến nghiến răng, lạnh lùng nói:

- Trong buổi triều yến, người Ngô nhắc đến bất cứ chuyện gì, đặc biệt là có liên quan tới Đông Di thì đều bẩm báo hết cho quả nhân. Chỉ có người đã từng trải qua cuộc sống thường dân, mới biết được một vị quân vương cao cao tại thượng phải chịu bao nhiêu trói buộc, giờ đây gặp lại bạn cũ, được gỡ bỏ thân phận hiện tại, nhẹ nhàng thoải mái suốt một ngày, đối với Khánh Kỵ mà nói cũng là một ước mơ tha thiết. Vì vậy khi vừa nhận được lời mời của Di Hạ, Khánh Kỵ lập tức vui vẻ nhận lời, định bụng cải trang đi ra ngoài gặp gỡ.

Thế nhưng hiện tại Ngô quốc là quốc gia coi trọng lực lượng cảnh vệ quốc vương nhất. Cho dù người thiết yến là Vệ quốc đại phu kiêm hạ sứ hôn lễ (sứ giả đến chúc mừng hôn lễ), hoàng cung Ngô quốc vẫn giống như lâm phải đại địch, khiến cho Ngô Quái cư hôm nay đông chật như nêm cối.

Cũng may đây là tài sản riêng của thống lĩnh thị vệ Ngô vương Viên Tố, để không làm cụt hứng Khánh Kỵ, sau khi đã phân loại tất cả khách mời kỹ càng, Viên Tố liền điều động binh mã ngăn cách sự liên hệ giữa cửu lâu và nhà trọ phía sau hậu viện, tạo lập nên một cục diện ngoại bất xuất nội bất nhập, bên trong Ngô Quái cư sẽ không còn bị quấy rầy ảnh hưởng bởi những ánh gươm sáng loáng nữa.

Bạn cũ gặp nhau, vui mừng tíu tít, rượu được ba tuần, Di Hạ ngắm nhìn đám vũ kỹ đang múa may uyển chuyển trước mặt, bỗng nhiên cười nói với Khánh Kỵ:

- Đại vương nhận lời tới dự tiệc, quả thật là phúc lớn của thần. Nhưng tại hạ chỉ có đám đào hát bình thường này thôi, Di Hạ khoản đãi đại vương không chu toàn, cảm thấy thật hổ thẹn.

Khánh Kỵ nghe thấy vậy thì bật cười, sáu cô gái đang múa chính là Tiểu Nhã Tiểu Trúc lục nữ, các nàng đều yêu thích cuộc sống tự do bay nhảy, khi tới thành Cô Tô đã có không ít công khanh đại thần coi trọng tài sắc của các nàng, muốn đưa các nàng vào trong phủ hầu hạ. Nhưng ngay cả hoàng cung họ cũng không muốn vào, thì làm sao có thể mong muốn trở thành thị thiếp của đại phu nào được. Do họ đã từng cứu sống Khánh Kỵ, nên Khánh Kỵ rất chiếu cố cho họ, giờ đây họ đều là những vũ nữ trụ cột trong Ngô Quái Cư.

Lục nữ đưa tay lả lướt, mặt hoa da phấn, trước giờ đều nhận được sự hưởng ứng của khách nhân, đây là lần đầu tiên Khánh Kỵ nghe thấy có người bảo họ chỉ là những đào gái tầm thường. Điều này thì chỉ có Di Tử Hạ mặt thanh mày tú, mắt én mày ngài như thiếu nữ kia mới dám thốt ra mà thôi. Khánh Kỵ khoát tay cười nói:

- Tử Hạ việc gì phải câu nệ như vậy, những nữ tử kia đều rất xinh đẹp yêu kiều, các nàng ca múa trợ hứng đã là quá tuyệt rồi.

- Xinh đẹp yêu kiều? 

Di Tử Hạ nghe vậy thì lắc đầu lia lịa:

- Nếu trong con mắt của người thường thì vẻ đẹp của chúng còn có thể chấp nhận được, nhưng đại vương là vua một nước, được tiếp xúc với không ít tuyệt thế giai nhân, bọn chúng làm sao xứng với bốn chữ xinh đẹp yêu kiều cơ chứ?

Hắn đảo mắt nhìn quanh, hạ thấp giọng xuống, thần sắc ám muội nói:

- Không giấu gì đại vương, ngoại thần có dẫn tới một nữ tử, đoan trang trời sinh, kiều diễm mê hồn không gì sánh được, nếu đại vương gặp nữ tử đó, rồi lại so sánh với sáu con đào hát kia thì mới biết là khác nhau một trời một vực.

Khánh Kỵ mỉm cười, Di Tử Hạ hóa ra là muốn tặng mỹ nhân cho mình, Tử Hạ khen cô ta như vậy, vậy chắc mẩm nhan sắc của nàng phải là một tuyệt thế nhân gian rồi. Nhưng tình cảm của Khánh Kỵ với ba ái thê đang nồng đượm, không hề muốn dẫn một mỹ nhân chưa từng gặp mặt hồi cung trở về, nghĩ tới đó thì vội khoát tay cười nói:

- Ha ha, tâm ý của Tử Hạ quả nhân ghi nhận, mỹ nhân đó Tử Hạ cứ giữ lại mà dùng.

Di Hạ nghe thấy vậy thì vội cuống quít khoát tay:

- Không dùng được, nữ tử kia như tiên giáng trần, Tử Hạ chỉ là một tên phàm phu tục tử, không xứng với cả một đầu ngón chân của nàng. Đại vương nói vậy chẳng khác nào hại thần cả. Tửu hứng của đại vương đã bốc lên cao, tản bộ một chút để giải rượu cũng hay. Sao không tiện thể đi gặp mỹ nhân đó luôn đi.

Khánh Kỵ chau mày tò mò:

- Tử Hạ không ngớt khen ngợi ả, chẳng lẽ ả đúng là tuyệt thế giai nhân sao?

Tử Hạ thấy vẻ mặt hiếu kỳ của Khánh Kỵ thì như mở cờ trong bụng, nói:

- Đúng vậy, đúng vậy, đại vương ngại gì mà không đi gặp một lần cho biết chứ nhỉ?

“Điều này... Di Hạ đã từng gặp Quý Tôn Tiểu Man, nhưng chưa bao giờ khen nàng lấy nửa câu. Giờ đây lại không ngớt tán tụng người kia, vậy không biết đó là một nữ tử nhan sắc kiều diễm đến đâu đây?” 

Khánh Kỵ nghĩ tới đây, lại càng thêm tò mò, liền cười xuề xòa nói:

- Được rồi, gọi nàng lên đây, để quả nhân xem nào.

- Đại vương... 

Di Hạ ngập ngừng nói nhỏ:

- Không giấu gì đại vương, thân phận của nàng rất đặc biệt, không thể tùy ý lộ diện cho người khác xem mặt.

- Ồ?

Khánh Kỵ lóe lên ánh nhìn kỳ dị trong mắt, cười hắc hắc nói:

- Được rồi, Di Hạ đã nói vậy, đã làm cho ta tò mò lắm rồi đấy, hahaha...

Hắn đập tay ba cái, ồm ồm nói:

- Đoàn ca múa dừng ở đây thôi, quả nhân đi ra hậu viện giải rượu.

Dứt lời lảo đảo đứng dậy, Viên Tố vội bật dậy, đi lại gần đỡ lấy hắn, luống cuống nói:

- Đại vương, hậu viện là quán trọ, thuộc hạ chưa kiểm tra kỹ khách...

Khánh Kỵ khẽ khoát tay áo, Viên Tố hiểu ý, lập tức không nói thêm gì nữa. Khánh Kỵ quay đầu lại, cười híp mắt nói với Di Hạ:

- Đi, Tử Hạ, chúng ta đi... hậu viện giải rượu...

Di Hạ dù sao cũng thiếu sự tôi luyện chốn quan trường, lòng dạ thật thà, nghe vậy thì mừng vui ra mặt, nhảy cẫng lên nói:

- Đại vương, mời.

- Ừ!

Khánh Kỵ từ tốn đáp lời, Viên Tố đã không còn trông thấy Thừa Ảnh kiếm trên đai lưng của Khánh Kỵ nữa. Khánh Kỵ võ công cao cường, cũng không dẫn theo nhiều thị vệ, để cho Di Hạ đi trước dẫn đường, phía sau hắn chỉ dẫn theo Viên Tố và ba người nữa, chậm rãi rảo bước đi về phía hậu viện.

Đi qua đám quân bảo vệ vòng ngoài, bước vào trong quán trọ, đi men theo hàng hoa tỏa hương thơm ngát, chẳng bao lâu đã nhìn thấy một viện lạc độc lập, trước cửa trồng một cây đào lớn, tán cây phủ kín phía trên nóc cổng căn viện lạc, khiến ở đó rực rỡ một màu hồng như ánh bình minh.

Khánh Kỵ thốt lên nói:

- Thanh tịnh tao nhã, nơi này đúng là một nơi lý tưởng.

Di Hạ cười nói:

- Giai nhân bên trong, người đẹp cảnh đẹp.

- Hahahaha..., nói hay lắm!

Khánh Kỵ còn chưa dứt tiếng cười, đã bước lên trên, cao giọng nói to:

- Quả nhân ở đây, mỹ nhân đâu rồi?

Năm ngón tay của hắn xòe rộng, đẩy mạnh cánh cửa kêu "xầm" một tiếng mở tung ra, Viên Tố phía sau căng mắt cảnh giác, thân thể thấp bé dường như to lớn thêm vài phân, tay cầm sẵn bội kiếm, giống như hổ dữ rình mồi.

Hai cánh cửa mở toang, cảnh tượng trước mặt là vô số phục binh đã tuốt kiếm khỏi vỏ, dây cung giương sẵn đang chờ sẵn, ở dưới gốc đào hoa có một quý nhân mặc trường bào trắng đang đứng.

Khánh Kỵ sững sờ, đang định bước vào trong thì khựng lại, chỉ trông thấy quý nhân kia mỉm cười với hắn giữa đám hoa rụng lả tả, gò má hồng hào, giọng nói thánh thót:

- Khánh Kỵ đại vương, thiếp thân chờ ngài ở đây đã lâu, tại sao đại vương lại sợ hãi như gặp bầy hổ báo mà không dám tiến lên thế kia?

……..

Trên lầu, cửa sổ khẽ mở, chim hót trên cành.

Trong lầu, Khánh Kỵ cùng ngồi xuống với Nam Tử.

Nam Tử trầm mặc nói:

- Là thế này, giờ đây đại vương đã được đăng cơ vương vị như ước nguyện năm nào, nhưng hai nước Vệ Tống chúng ta vẫn chưa được yên bình. Từ khi tên súc sinh Công Tử Triều đầu quân cho Triệu Giản Tử, do hắn đã nắm rõ địa hình địa thế, binh lực và cách bố trí quân đội của Vệ, nên đã dẫn đại quân Tấn quốc đánh vào trong lãnh thổ Vệ quốc rồi, từng bước áp sát, bức bách quân ta phải liên tiếp bại lui.

Nói đến đây, Nam Tử rơm rớm khóc, rồi sau đó hai giọt nước mắt như pha lê rơi xuống:

- Đại vương, chuyện ngày trước người đồng ý với Nam Tử, đại vương chưa làm được việc nào hết. Nỗi khổ nhục trong lòng Nam Tử biết giãi bày cùng ai đây?

Khánh Kỵ đằng hắng một tiếng, nói:

- Quân phu nhân, Khánh Kỵ gợi ý giúp nàng cách diệt trừ Công Tử Triều, chẳng ngờ đâu hắn lại quá cảnh giác. Hiên Viên Hành, Công Tử Bạt lại là những bậc quân tử chính trực, không tìm được lý do thỏa đáng, không đành hạ thủ với hắn, nên mới khiến hắn bỏ đi. Nhưng đó không phải là sai lầm của Khánh Kỵ. Lúc đó, quân phu nhân đã không dung hòa được với Vệ hầu, Khánh Kỵ nghĩ ra kế sách liên binh phạt Tấn. Cố nhiên giữ lại một chút lòng tư, thế nhưng cũng vì vậy mà tăng cường phân lượng của phu nhân tại hai nước Vệ Tống, tại sao lại nói là Khánh Kỵ không làm việc gì cho phu nhân chứ.

Nam Tử buồn bã nói:

- Công Tử Triều vốn là thần tử bỏ đi của Tống quốc, là chủ trương của Nam Tử mới giữ hắn lại được Vệ quốc, giờ đây vì hắn mà tổn thất của liên quân Vệ Tống quá to lớn, Nam Tử trở thành tội nhân của hai nước Vệ Tống, không chỉ Vệ hầu và các thần tử Vệ quốc lạnh nhạt với Nam Tử, mà ngay cả phụ thân của ta cũng không vui.

Tuy nói rằng Vệ Tống xuất binh là để tự bảo vệ mình, nhưng đại vương có thể thuận lợi đánh bật về Ngô quốc, ngồi lên ngai vàng, làm sao lại không có ít nhiều công lao của Vệ Tống trong đó, không có tâm sức của Nam Tử trong đó? Nam Tử chỉ là một nữ tử yếu đuối, giờ đã không được Vệ Tống dung nạp, hoàn cảnh vô cùng khó khăn, vạn bất đắc dĩ mới phải vác mặt tới đây cầu viện đại vương.

- Điều này...

Khánh Kỵ khẽ nhíu mày, khó xử nói:

- Phu nhân, Khánh Kỵ rất muốn giúp phu nhân, nhưng Ngô quốc nằm ở vùng phía Đông Nam, liệu có thể giúp hai nước Vệ Tống xa xôi được không? Phu nhân sao không định nghĩ rằng... muốn Khánh Kỵ làm một cuộc viễn chinh đi đương đầu với Tấn đấy chứ?

- Kẻ đàn ông ích kỷ, người ta còn chưa đặt yêu cầu, thì ngươi đã rào trước chắn sau rồi!

Nam Tử nửa hờn giận nửa u oán trừng mắt nhìn hắn, Khánh Kỵ bình thường không bao giờ động chút lòng thương nào đối với loại đàn bà này, nhưng nhìn khuôn mặt đáng thương của nàng, trong lòng hắn cũng hơi rung động. Thu vội lại nỗi dao động trong lòng, hắn cười trầm ngâm nói:

- Phu nhân, không phải là Khánh Kỵ không chịu tương trợ, thực ra... chuyện động binh đao, liên quan tới căn cơ một nước, lê dân bách tính, cho quân viễn chinh, thực sự là chúng tôi lực bất tòng tâm.

- Ta nói mượn binh của Ngô lúc nào thế?

Khánh Kỵ nhẹ nhàng xả hơi, cười nói:

- Không phải mượn binh thì được, vậy không biết phu nhân có gì dặn dò? Nói thực lòng, Vệ quốc nằm ngoài tầm với của Ngô quốc, Khánh Kỵ ngu dốt, nếu phu nhân không chỉ bảo từng bước một, Khánh Kỵ quả thật không nghĩ ra cách gì để gây tác động tới chiến cục hiện tại giữa hai nước Vệ Tấn cả.

Nam Tử nói:

- Ngô quốc xa xôi, đương nhiên không giúp được Vệ quốc, nhưng Tần quốc thì được. Tần và Tấn gần sát nhau, hơn nữa vì Tấn quốc cản ở đó, Tần mới không thể lấn xuống trung nguyên, hai nước vốn có mâu thuẫn không thể hòa giải, nếu Tần chịu xuất binh tương trợ, Tấn quốc chắc chắn sẽ không dám lỗ mãng với Vệ.

Nhưng trong mắt người Trung Nguyên, người Tần chỉ là dân tộc man di, chư hầu Trung Nguyên tự cao tự đại, luôn hổ thẹn vì kết giao với người Tần, xưa nay đều qua lại không bình đẳng với Tần, hai bên không có giao tình gì, để thuyết phục bọn họ xuất binh thì hai nước Vệ Tống không làm nổi. Nhưng Ngô quốc thì khác, Ngô và Tần đã kết quan hệ thông gia với nhau, một Đông một Tây kết thành liên minh, hỗ trợ lẫn nhau, kẹp Sở quốc mà chiếm lĩnh phương Nam. Nếu đại vương đi thuyết phục Tần quốc, để họ thọc binh đánh sau lưng Tấn, Tấn quốc gặp nạn, không thể trụ lại Vệ Tống lâu dài, ắt phải cho quân trở về, chúng ta sẽ nhân lúc đó cầu hòa với chúng.

- Muốn Tần xuất binh?

Khánh Kỵ ngỡ ngàng, trầm ngâm chốc lát, rồi lắc đầu nhè nhẹ nói:

- Khó lắm, Tần quốc mặc dù binh hùng tướng mạnh, nhưng vẫn chưa đủ sức để đánh bại Tấn, trước đây Tần xuất binh phạt Tấn, một là vì có quan hệ thông gia với Sở, hai là vì một khi Tấn chiếm được Sở sẽ gây bất lợi cho Tần không nhỏ, giờ đây vô duyên vô cớ muốn Tần quốc xuất binh, làm sao Tần quân đồng ý được?

- Đại vương, sao có thể nói Tần quốc xuất binh tương trợ, lại không có lợi cho họ được? Nếu hai nước Vệ Tống bị Tấn chiếm đoạt, thế lực Tấn quốc sẽ mạnh mẽ thế nào? Hiện tại người Tần đương nhiên chưa đủ lực Đông tiến Trung Nguyên, nhưng một khi Tấn thành công, họ sẽ thành một quốc gia lớn mạnh sừng sững trước mặt Tần, lúc đó họ mãi mãi sẽ không còn cơ hội tiến vào Trung Nguyên nửa bước, nhìn về lâu dài lẽ nào lại không biết bảo vệ Vệ Tống ư?

- Còn nữa, nếu người Tần chịu xuất binh, chỉ cần dùng một đạo quân đánh hậu phương của Tấn, khiến đầu đuôi rối loạn, buộc phải nghị hòa. Tần tuy không diệt nổi Tấn, Tấn cũng chẳng làm gì nổi Tần. Sau khi công thành Tần chỉ cần lui binh về Quan Trung, dựa vào thế núi cao hào sâu hiểm trở, Tấn quốc cũng chẳng thể gây khó dễ cho họ. Còn hai nước Vệ Tống chúng tôi, sẽ đền đáp công ơn đó bằng một cái giá khiến cho Tần quân phải mỉm cười, nhất cử lưỡng tiện, tội gì không làm?

- Giá gì nào?

- Vàng bạc châu báu của hai nước Vệ Tống. Thế nào? Hai nước Vệ Tống núi cao sông rộng, quốc bảo nhiều vô số, đừng nói là người Tần phải trồ lên khâm phục, mà ngay cả chư hầu Trung Nguyên cũng phải ngước mắt nhìn, Tần quốc chỉ cần xuất binh ra oai là đã có thể có được ngọc ngà châu báu, điều kiện này nếu như là minh hữu Ngô quốc của Tần quốc ra mặt nói thay, liệu bọn họ có cự tuyệt được không?

Nam Tử nói xong, đôi mắt rưng rưng nhìn Khánh Kỵ, sắc mặt Khánh Kỵ âm tình bất định, tính toãn tỉ mỉ, rồi khe khẽ gật đầu nói:

- Điều này... có lẽ được. Có điều... Nếu Khánh Kỵ giúp Vệ Tống thoát khỏi khốn cảnh, Vệ Quốc cũng có thể giúp Khánh Kỵ giải quyết một vấn đề hóc búa không?

Nam Tử khẽ giật mình, hỏi:

- Vệ Tống giờ đây ốc còn không mang nổi mình ốc, có thể giúp được gì cho đại vương đây?

Khánh Kỵ cười nhạt, nói:

- Dã tâm của Tấn quốc là tiến xuống phía Nam, Tề quốc chẳng phải rất thèm khát Đông Di? Một khi thế lực người Tề trải rộng tới cửa Bắc sông Trường Giang, lúc đó Ngô quốc sẽ thành miếng thịt béo bở cho Tề, vì vậy người Ngô buộc không thể để cho Tề xuôi xuống Nam.

Bành Thành phía Đông gần biển lớn, Tây nối Trung Nguyên, Bắc dựa Lỗ quốc, Nam ngăn Giang Hoài, địa hình hiểm trở, đồi núi bao quanh, có sông ngòi biển lớn, đối với Ngô mà nói quả thực là mảnh đất hiểm địa chiến lược khắc chế Tề xuôi Nam. Khánh Kỵ giúp phu nhân thuyết phục Tần quốc xuất binh, Tống quốc phải cắt lại mảnh đất Bành Thành cho Ngô quốc. Món giao dịch này, phu nhân có thể đứng ra làm chủ được không?

- Ngươi thật vô sỉ, nhân lúc người ta gặp nguy nan để kiếm chác!

Nam Tử giận dữ đại nộ, lông mày dựng lên, vung tay tát vào mặt Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ đưa tay ra bắt được tay nàng, mỉm cười nói:

- Phu nhân, mua bán không thành thì vẫn còn nhân nghĩa, việc gì phải động chân động tay thế? Mảnh đất Bành Thành cũng chẳng có ích gì nhiều cho Tống quốc, với Ngô quốc thì lại là cửa ngõ ngăn không cho Tề xuôi xuống Nam. Có người Ngô thủ tại đó, chẳng phải cũng là một chuyện tốt cho Tống sao? Sao nàng không nghĩ rằng Ngô quốc có thể vấn đỉnh Trung Nguyên chứ?

Nam Tử đôi mắt rực lửa trừng trừng nhìn Khánh Kỵ, rồi sau đó đột nhiên dịu lại, u uất thở dài, thấp giọng nói:

- Khánh Kỵ ơi là Khánh Kỵ, bất luận là ngươi cầu viện ta, hay ta cầu viện ngươi, tại sao ngươi... ngươi cứ phải chiếm đoạt một chút tiện nghi của ta mới thỏa chí, cứ khiến cho ta phải... vừa hận... vừa yêu ngươi chứ...

- Cái gì?

Khánh Kỵ ngây người ra, như thể bị rắn cắn trúng tay, sững sờ bỏ tay nàng ra. Nhưng Nam Tử giống như một con rắn xồ tới theo đà thu tay của Khánh Kỵ, úp mặt vào cổ hắn, thân thể mềm mại nằm gọn trong lòng hắn, buồn bã nói:

- Nếu như cha ta có một nửa hùng tâm tráng chí của ngươi, thì đâu đến nông nỗi một người thiếu phụ nền nếp phải ra mặt, tủi hổ cầu xin Ngô quốc.

Khánh Kỵ định mở miệng, cặp môi dưới liền bị bàn tay của Nam Tử chặn lại, nàng ngẩng mặt lên, hấp háy đôi mi cong vút, nhìn Khánh Kỵ ôn nhu nói:

- Chàng ấy..., đúng là một đại nam tử đáng hận, một đại anh hùng đáng yêu, Nam Tử chỉ hận... khi xưa không biết chàng sớm hơn...

Ngữ khí của nàng tựa như mộng ảo, trong mắt hiện lên vẻ ngây thơ chân chất. Khánh Kỵ chỉ thấy nàng nói nhỏ nhẹ, bộ ngực căng đầy mềm mại ép vào lồng ngực mình, đem lại một cảm giác ngọt ngào nhẹ nhàng thẩm thấu tim gan, xộc vào mặt là một mùi hương thơm nhè nhẹ, dìu dịu vương vấn, khiến cho người ta phải mê đắm. Bất giác hắn không dám mở miệng, vì sợ nếu mở miệng sẽ làm vẩn đục dung nhan kiều diễm không gì sánh được kia.

Nam Tử nói xong, đột nhiên tươi cười, cằm dưới khẽ nâng lên, đôi mắt nhắm nghiền, cặp môi hồng từ từ áp sát lại hắn, Khánh Kỵ hơi ngập ngừng, trong mùi hương say lòng người, hai cặp môi đã gắn chặt vào nhau làm một thể kết dính.

‘Mùi hương thơm nồng ôm ấp cả cõi lòng’, người đàn ông nghĩ ra câu nói này trước kia lúc đó nhất định đang ôm ấp một mỹ nhân yêu kiều, mới có thể có cảm hứng mà nói được câu nói như vậy. Cặp kiều khu của Nam Tử mềm mềm không thấy xương, vòng eo nhỏ tẹo, nhưng khi ôm ấp vẫn có cảm giác rất đẫy đà, đầu ngón tay nhẹ nhàng chạm vào da thịt, liền nẩy ra khiến cho người ta phải điêu đứng đê mê, huống hồ còn cả thêm thân hình quyến rũ đang e ấp trong lòng hắn.

Khánh Kỵ bị nàng khiêu khích hôn mớm mấy cái, đột nhiên từ thủ thành công, một tay nắm lấy vòng eo của nàng, một tay ghì chặt đầu nàng, đẩy lưỡi của mình vào bên trong cái miệng nhỏ nhắn của nàng, mút máp đầu lưỡi của nàng.

Một cuộc "đọ lưỡi" kịch liệt mà triền miên, Nam Tử bị Khánh Kỵ hôn tới tấp, xuân sắc đầy mặt, khuôn mặt ửng hồng, đôi mắt nàng e lệ nhắm lại, mũi phập phồng đưa đẩy, đôi bàn tay thanh mảnh ôm trọn lấy cổ Khánh Kỵ, thân thể đung đưa cọ sát khiến người ta phải thích thú, Khánh Kỵ bỗng nhiên ngẩng đầu lên, vẻ mặt khảng khái nói:

- Phu nhân dung mạo khuynh thành, Khánh Kỵ thật sự không tiếc bất cứ giá nào, chỉ mong được hợp thể làm một với phu nhân. Thế nhưng... ài... ta vẫn muốn có cả Bách Thành cơ.

Nam Tử mơ màng núp trong lòng hắn, đôi mắt gườm gườm, tròn mắt nhìn hắn rất lâu, đột nhiên nàng bật cười, lùi về phía sau hai bước, vừa cúi đầu chỉn trang mái tóc, vừa thấp giọng nói:

- Chàng là đồ oan gia, khiến cho nhân gia chẳng biết phải sao nữa, chàng..., hừ! Chàng muốn Bành Thành, nhưng Bành Thành là lãnh địa của Tống quốc, Nam Tử không quyết định được, vẫn phải bẩm báo cho cha ta mới được.

- Được, vậy chúng ta cùng đợi tin tức từ lệnh tôn, chỉ cần Tống quốc cắt nhượng Bành Thành, dù thế nào, Khánh Kỵ cũng sẽ giúp hai nước Vệ Tống thoát khỏi vòng vây của người Tấn.

- Được, ta lập tức sai người đi báo lại điều kiện của chàng cho phụ thân biết.

Nam Tử vẫn chưa hết e thẹn, khuôn mặt vẫn hơi ửng đỏ. Nhưng khi nói đến chuyện công, thần sắc cử chỉ lại trang trọng ưu nhã trở lại, hai cảm giác khác nhau đồng thời tồn tại trên mặt nàng, khiến cho nam nhân sẽ tưởng rằng đang có một loại dục vọng chinh phục vô cùng mạnh mẽ.

- Nhất ngôn cửu đỉnh!

Khánh Kỵ nói xong dài mặt ra cười, nói nhẹ nhàng:

- Trời vẫn còn sớm, nếu nàng không ngại, chúng ta tiếp tục nhé?(Ặc)

Khuôn mặt Nam Tử lại đỏ ửng như lòng đỏ trứng gà, nàng ngoảnh mặt đi, hừ lạnh nói:

- Bản phu nhân không có tâm trạng.

Khánh Kỵ nhìn bộ dạng dễ thương của nàng, liền chìa vẻ mặt cợt nhả ra nói:

- Hắc hắc, vậy đợi khi nào nàng có tâm trạng lại tiếp tục, chỉ cần phu nhân hắng một tiếng, Khánh Kỵ sẽ bỏ hết mọi công việc, cưỡi ngựa thẳng tới đây cúc cung phục vụ, chết mới buông tay.

Hai tay Nam Tử đưa lên vuốt tóc, lộ ra đôi cánh tay trắng ngần, nàng vuốt tóc, trừng mắt nhìn Khánh Kỵ, giọng nói hờn dỗi:

- Hứ! Vậy ngươi cứ đợi dài cổ đi nhá, thời gian đằng đẵng, con người già cội rồi cũng có ngày đó thôi..

Khánh Kỵ vuốt cằm chỉnh tề nói:

- Chỉ cần phu nhân lúc đó cũng xinh đẹp như bây giờ, quả nhân không chê nàng già.

- Ngươi...

Nam Tử lại sấn sổ lườm hắn, chẳng biết phải làm sao đành thở dài nói:

- Vừa nãy ta nói sai rồi, ngươi là một đại nam tử, nhưng không phải là một đại anh hùng. Mà là một kẻ...

- Mà là một kẻ thế nào?

- Mà là một kẻ dê xồm!

- Haha, ấy thế mà phu nhân lại chịu ngả vào lòng tên dê xồm như ta đấy. Người thì đẹp, nhưng còn đôi mắt, thì lại non kém lắm.

Nam Tử nghe vậy thì sững sờ, u buồn nói:

- Ánh mắt của Nam Tử... vốn dĩ rất non nớt, nếu không trước đó tại sao lại thích...

- Ầy!

Nàng đột nhiên thở dài, rủ đôi mắt xuống, từ tốn nói:

- Đại vương, Nam Tử chỉ là một nữ nhi, chuyện quốc sự giành thiên hạ không phải sở trường, người ta bây giờ đang cùng đường rồi, chỉ còn biết dựa dẫm vào ngươi, chỉ mong chàng lần này... đừng lừa ta.

- Phu nhân yên tâm, lúc nãy ta đã cân nhắc rồi, chỉ cần Tống quốc chịu giao Bành Thành, Khánh Kỵ nắm chắc bảy phần thuyết phục Tần quốc xuất binh.

Nam Tử nghe vậy định mở miệng nói, nhưng Khánh Kỵ đã cướp lời:

- Phu nhân, Ngô vừa kết minh với Tần, chuyện binh gia đại sự, Khánh Kỵ nắm chắc bảy phần, đã là hiếm có lắm rồi. Nếu như ta nói là có mười phần, vậy mới là lừa nàng.

Nam Tử muốn nói lại thôi, chuyển giọng:

- Được, nhưng nếu ngươi không thuyết phục được Tần xuất binh, thì chuyện cắt nhượng Bành Thành cũng đừng hy vọng nữa.

- Đương nhiên rồi, ta thề với trời xanh.

- Hừ, lời thề của lũ đàn ông các người là cái thứ không đáng tin nhất trên đời này, nhưng người ta... giờ đây cũng chỉ còn biết tin ngươi thôi... Chỉ mong ngươi đừng lường gạt một nữ tử đáng thương khốn cùng như ta, nếu không... người ta chỉ còn con đường chết mà thôi.

Lúc Khánh Kỵ đi ra khỏi căn tiểu lâu, thì Viên Tố lúc này mới thở phào một hơi nhẹ nhõm. Khánh Kỵ mở cửa viện lạc nhìn thấy nữ tử kia, lập tức bảo hắn ở ngoài không được vào trong. Tuy Viên Tố biết bên trong có duyên cớ nào đó, Khánh Kỵ cũng chưa chắc sẽ gặp nguy hiểm, nhưng tâm trạng vẫn bồn chồn lo lắng không yên, đến giờ phút này mới coi như đã yên lòng.

Di Hạ nãy giờ được hắn giám sát chặt chẽ nhanh chân chạy lại nghênh đón, xấu hổ vái chào:

- Đại vương, không phải là Di Hạ cố tình lường gạt bạn cũ, quả thực là lệnh của quân phu nhân, Di Hạ không dám không tuân theo.

Khánh Kỵ cười nói:

- Không sao, quả nhân hiểu chỗ khó của ngươi, và cũng không hề trách ngươi. Tửu hứng đã cạn, quả nhân hồi cung đây.

Di Hạ bẽn lẽn đi theo sau Khánh Kỵ tới tửu lâu, rồi lại long trọng tống tiễn hắn ra về, Khánh Kỵ lên xe, vừa rời khỏi Lỗ Quái cư, liền gõ gõ thành xe, dặn dò :

- Viên Công, lập tức lệnh cho thuộc hạ tấn cung kiến giá, quả nhân có chuyện cần căn dặn.

- Rõ!

Viên Tố vội vàng gọi một kẻ thân tín lại căn dặn mấy câu, viên lính kia lập tức lên ngựa cưỡi về hướng ngược lại.

Khánh Kỵ buông màn kiệu, khẽ tựa ra sau ghế, khẽ sờ lên môi, hồi tưởng lại hương vị đê mê của cặp môi đỏ mọng của Nam Tử, bỗng mỉm cười nói:

- Nha đầu này làm ra vẻ mặt đáng thương như vậy, chỉ để khích cho ta làm thuyết khách cho ả? Vì một thuyết khách mà phải trả giá bằng một tòa thành, khó tránh khỏi việc mất mát quá nhiều, nàng rốt cuộc... đang mưu tính chuyện gì đây?

Cắt nhượng thành trì không phải chỉ có mình Nam Tử là có thể quyết định được, nàng muốn đem tin thỏa hiệp đạt được với Khánh Kỵ mang về Tống quốc, rồi để cho phụ thân là Tống quốc quốc quân định đoạt. Nam Tử viết lại tỉ mỉ những chuyện đã trải qua và quan điểm phân tích của mình, cho đến ngày thứ hai mới cử tâm phúc mang về Tống quốc, trước đó tai mắt của Ngô quốc đã phụng lệnh tăng cường trinh sát khu vực Vệ Tống và Tấn quốc.

Khánh Kỵ tận dụng mạng lưới thương nghiệp của Thành Bích làm cơ sở xây dựng mạng lưới tình báo vừa rộng khắp vừa hữu hiệu của mình, trong đó vừa có sự cơ động qua lại, gặng hỏi thăm dò của hành thương, vừa móc nối được với những người dân, sĩ tử địa phương, trong khi đó vào thời này thương nhân có thể độc lập trao đổi những sản phẩm của nước mình với nước khác, làm giàu có và phong phú thêm cho nền kinh tế, là một nhân vật không thể thiếu trong các nước, không những nhận được sự hoan nghênh từ các nước, mà hạng người mà đám thương nhân này tiếp xúc đều là giới quan chức quý tộc, không những có thể được giúp che dấu thân phận, mà cũng có thể thông qua các cửa ngõ để thu thập thông tin tình báo dễ dàng, thậm chí có thể làm thay đổi tình hình ngoại giao và chính trị ở các nước. Lực lượng binh sĩ không giáo mác này rất được Khánh Kỵ coi trọng, dưới sự chủ trì của hắn, dùng quốc lực chèo chống, khiến cho lực lượng này ngày càng hùng mạnh.

Rất nhanh chóng, thông tin tình báo được báo về liên tục, trong đó có động tĩnh quân sự của Vệ Tống và Tấn, có một số hoạt động trong mảng chính trị, những đại quan thế khanh nào quan hệ thân thiết với nhau, thậm chí vị đại phu nào gần đây tổ chức mấy buổi yến tiệc, muôn hình muôn kiểu, không có gì là thừa hết.

Thuộc hạ của Khánh Kỵ sẽ chỉnh lý tập hợp các thông tin đó, rồi trình báo cho Khánh Kỵ, tình hình ba nước Vệ Tống Tấn dần dần được hiện ra và hoàn thiện trước mắt hắn, khiến cho hắn có một sự thông thạo và am hiểu nhất định đối với tình hình trong nước của những nước trên.

Liên quân Vệ Tống đúng như Nam Tử nói, luôn thất thế khi đối đầu với Tấn quân, nhất là sau khi cuộc chiến chớp nhoáng giữa Tần Sở và Tấn quốc kết thúc, Tấn quốc đã tăng cường thế tấn công đối với Vệ Tống. Công Tử Triều phát giác ra âm mưu trừ khử mình của Nam Tử, hoảng sợ thất thần, may nhờ có tướng lĩnh thống quân Tống quốc Hiên Viên Hành và Vệ quốc thống quân Công Tôn Bạt không nghe theo sự chỉ bảo của Nam Tử, hai người đều là những bậc quân tử công minh chính trực, không muốn vội vàng giết chết Công Tử Triều, dẫn tới thị phi của chúng tướng. Muốn tìm cơ hội thuận lợi hơn nữa để danh chính ngôn thuận trừ khử Công Tử Triều.

Công Tử Triều vì vậy mà có được cơ hội lấy hơi, bí mật phái thân tín đi thương lượng với Tấn, sau khi được Triệu Giản Tử chấp thuận, từ quân tiền quay giáo phản kích, đầu nhập sang Tấn quốc. Rồi dẫn quân Tấn đi chinh phạt Vệ Tống, thậm chí một hơi đánh đến cố đô Triều Ca của Vệ quốc, gần sát với đô thành Đế Khâu hiện tại, khiến cho bọn người Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố cũng đã chuẩn bị sẵn chỉ chờ quân Tấn tới là đầu hàng thôi.

Trong tình thế cam go như vậy, cuộc đấu tranh giữa hai phe phái thế lực ở Vệ quốc lại trở nên kịch liệt hơn. Bắc Cung Hỉ yêu cầu Tề Báo hạ đài, truy vấn tội để thất thế về mặt chiến sự của Công Tôn Bạt, đả kích kịch liệt những thế lực thân vua, một lần nữa lại tiến cử sử dụng lại Tề Báo. Tề Báo với hắn vốn cùng một Đảng, hai kẻ cùng được cùng mất, dùng hắn đương nhiên là sẽ yên tâm hơn dùng kẻ khác.

Hơn nữa sau khi Tề Báo bị tước bỏ chức vị, uy vọng năm xưa giảm xuống rất nhiều, rất nhiều bạn cũ trong triều đều thay đổi lập trường, đi theo Bắc Cung Hỉ, bây giờ hắn lại được Bắc Cung Hỉ sử dụng lần nữa, tuy nặng về quyền bính, nhưng cũng không thể uy hiếp được quyền lực của Bắc Cung Hỉ.

Phe Bắc Cung Hỉ cơ cấu lại tổ chức đồng thời tiến hành phân phối nên khí thế hừng hực, công bằng mà nói, phe của chúng cũng chỉ là muốn nắm giữ nhiều quyền lực hơn mà thôi, làm thế khanh Vệ quốc, lợi ích gia tộc của chúng gắn chặt với lợi ích của quốc gia, bất luận là chủ quan hay khách quan thì chúng đều tuyệt đối không muốn gây tổn hại tới Vệ quốc, vì vậy vừa khi nắm giữ được quyền lực, đã dốc hết tâm huyết nhằm bảo vệ vận mệnh của Vệ quốc.

Do suốt mấy trăm năm nay Vệ quốc luôn được Tề thị và Bắc Cung thị chia nhau quyền hành, cũng chỉ mới hai mươi năm nay bị bào huynh của Vệ hầu Công Mạnh Trập cướp đoạt quyền vị của hắn, rất nhanh chóng nắm giữ toàn bộ quân đội trong tay, về đối nội cố nhiên xác lập địa vị bất bại của chúng trên chốn quan trường, đồng thời phát huy sức chiến đấu tích cực hơn trong cuộc chiến với Tấn. Bởi vậy tuy Tấn tấn công rất mạnh, nhưng đều bị liên quân Vệ Tống phản kháng mạnh mẽ, khiến thế tấn công không được như mong muốn, không đến tình cảnh nguy hiểm như Nam Tử đã kể.

Nhưng những điều đó đều là những việc xảy ra trong thời gian gần đây, theo như bình thường, nước Ngô nằm ở vùng Đông Hải xa xôi, lại đang bận bịu với Sở, Việt, Đông Di, giờ đây nếu muốn hiểu tường tận tình hình thì không thể chỉ bỏ công sức ngày một ngày hai. Nam Tử không thể ngờ rằng Ngô quốc lại có mạng lưới tình báo rộng lớn như vậy, chỉ trong thời gian ngắn ngủi đã có thể nắm rõ tình hình chiến sự ba nước này. Nam Tử tính sai chính là ở chỗ này. Nhưng đó cũng không được coi là một sai lầm. Trước đó, ở các nước trong thiên hạ không hề có một quốc gia nào coi trọng tới công tác tình báo, vậy mà Ngô thậm chí còn lập ra hẳn một tổ tình báo chuyên biệt. Nam Tử dựa theo tình hình bên ngoài của các nước để suy đoán sự nắm bắt thông tin của Ngô quốc với chiến tranh vùng Tây Bắc. Thế nhưng trớ trêu thay, Khánh Kỵ lại đều biết rất chính xác những thông tin chiến trận.

Những thông tin tình báo thám tử đưa về, ngoại trừ những động thái quân sự khó có thể che dấu, những thông tin về mặt chính trị rất có hạn. Những thứ họ nắm được chỉ là những động tĩnh của các nhân vật cấp cao, nhà nào tổ chức đại yến tiệc gì, nhà nào đi lại với nhà nào, nhà nào cử sứ xuất ngoại...

Những thông tin đó cần Khánh Kỵ phải phân tích kỹ càng, từ những manh mối nhỏ đó để chắp nối lại tạo nên một bối cảnh cụ thể rồi từ đó có thể đoán định xem những bước đi tiếp theo của đối phương là như thế nào.

Trên đại điện nghị sự chất đầy những đống văn kiện tài liệu tình báo khác nhau của các nước, Khánh Kỵ, Tôn Vũ, Văn Chủng, Yểm Dư, Anh Đào chụm đầu vào đống giấy tờ văn kiện dò tìm thông tin. Thỉnh thoảng lại trao đổi với nhau đôi ba câu phân tích, có khi còn đưa ra mấy câu nói đùa giảm bớt căng thẳng. Quân thần tình cảm hòa thuận, vui vẻ, không câu nệ lễ tiết rườm rà.

Văn Chủng đang xem một tập thẻ tre trên tay, trầm ngâm nói:

- Đại vương, người tên Nam Tử Vệ quốc quân phu nhân này quả thật là rất tài ba, cứ xem cách ả đi tới đi lui giữa các nước Vệ Tống, rồi lén lút tiếp xúc với khá nhiều đại thần công khanh đại phu, hành tung vô cùng bí mật. Đám Bắc Cung Hỉ, Tề Báo, Chử Sư Phố sau khi nắm giữ đại quyền thế lực bắt đầu suy yếu theo Vệ hầu, bọn chúng đều đi về phe của Nam Tử, từ những dữ liệu phân tích được, Vệ hầu trên thực tế đã đang bị giam lỏng trong cung, quân lệnh bị bó buộc. Hiện tại Nam Tử mới là người nắm giữ vị trí quân chủ Vệ quốc. 

Khánh Kỵ gật gù nói:

- Ừ, người đàn bà này luôn rất xảo trá đa đoan, Vệ hầu hoang dâm vô đạo, bỏ bê chính sự, đám người Bắc Cung Hỉ muốn nắm đại quyền Vệ hầu lâu dài, nhưng không có đủ thực lực để thay thế hẳn. Chỉ còn biết đưa ra một kẻ phụ thuộc vào chúng, đồng thời có thể danh chính ngôn thuận lãnh đạo nhân dân Vệ quốc. Đương nhiên người đó phù hợp với Nam Tử, hai bên cùng có lợi.

Ha ha, tức cười thật, vậy mà ả vẫn còn cố làm ra vẻ giả vờ giả vịt đáng thương để lừa gạt quả nhân. Vệ hầu với ả bằng mặt không bằng lòng, đôi bên đấu đá nhau đã lâu, nếu như ả thua kém Vệ hầu và Tống công thì làm sao có thể lấy thân phận tôn quý quân phu nhân một nước bí mật rời Vệ tới Ngô được. Làm sao có thể thao túng và sai khiến được cả kẻ thân tín của Vệ hầu như Di Hạ đây?

Anh Đào cười nói:

- Đại vương mắt sáng như gương, đương nhiên không để cho ả che mắt, nhưng nếu đổi là kẻ khác, trông thấy vẻ mặt yêu kiều mỹ lệ, yếu đuối mỏng manh đó thì chắc chắn đã phải lộ ý thương hoa tiếc ngọc, làm sao còn có tâm tư để nghi ngờ ả có dụng ý khác chứ?

Khánh Kỵ cười mỉm, đang định chọc ghẹo vài câu, bỗng nhiên nội tâm đổi ý:

- Chỉ e Anh Đào nói trúng rồi đó, nếu không phải là ta từng nghe điển tích nổi tiếng trong lịch sử về việc Khổng Khâu gặp Nam Tử, Nam Tử tác phong dâm loạn, nhưng lại đẹp say lòng người, bên trong còn rất nhiều bộ mặt khác nữa, những tài liệu về ả được tích trữ suốt mấy nghìn năm, khi gặp ả ta cũng cố gắng hết sức để kiên định ý chí, suýt nữa thôi đã chỉ vì những giọt nước mắt yếu mềm của ả làm cho cảm động, chưa chắc đã nghĩ được như thế này đâu.

Văn Chủng nghiêm trang nói:

- Việc ả có ý khuếch trương khốn cảnh của mình hay không không quan trọng, có khi chỉ là tranh thủ kích đại vương mấy câu để ngài tỏ ý thương hoa tiếc ngọc mà hào phóng giúp không cho ả cũng nên. Điều quan trọng là, mục đích của ả liệu có phải chỉ là muốn để Tần đi chặn hậu phương của Tấn, rồi khiến Tấn phải chấp nhận lui binh đình chiến. Nếu như chỉ có một lý do như vậy, thì e rằng người Tống chưa chắc đã chịu cắt nhượng thành trì cho ta.

Tôn Vũ vuốt chòm râu nói:

- Nhưng đại vương khi đưa ra yêu cầu cắt nhượng thành trì, Nam Tử thậm chí còn không thèm phản bác lấy một câu, còn đồng ý ngay lập tức sẽ đưa chuyện này nói cho Tống công, cho thấy trong lòng ả đã thầm chấp nhận chuyện này, hơn nữa hình như đó còn là mục đích ả muốn đạt tới, thành trì mất là một cái giá xứng đáng.

Khánh Kỵ xoa xoa mũi, thầm nghĩ: “Binh thánh lần này đã đoán sai rồi, tuy Nam Tử không từ chối thẳng thừng, nhưng cũng đã có ý dùng mỹ nhân kế để ta phải rút bỏ điều kiện đó. Chỉ có điều... tuy rằng một mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành khiến người ta động lòng thật, nhưng bảo lấy một thành trì như vậy để đổi chác thì quả nhân tiếc lắm.”

- Hừ..., Nam Tử..., kẻ này phong tình muôn vẻ, quốc sắc thiên hương, vẻ đẹp không cần phải bàn cãi, nhưng đôi mắt xanh biếc, thân hình thanh mảnh đó quả thực không giống như một dâm phụ lả lơi. Vệ hầu rất phóng khoáng, chỉ bảo nàng không can thiệp vào chuyện của mình, nếu như Nam Tử dâm loạn trong hậu cung thì hắn cũng nhắm mắt làm ngơ, chỉ cần ả hây hẩy ngón tay mời gọi thôi, thì đã có không biết bao nhiêu công khanh đại phu nam nhi trai tráng, tuấn tú khôi ngô phải xin quỳ dưới váy nàng rồi, thế nhưng theo như thông tin tình báo mà chúng ta có được, thì ả không hề giống vậy, tính đến nay, ả cũng chỉ mới yêu có mình Công Tử Triều mà thôi, nếu không phải là nghĩa nặng tình thâm, thì nay cũng không đến nỗi hận hắn thấu xương như vậy. Khi ả ở trong Ngô Quái cư e ấp trong lòng ta, chỉ là muốn đạt được mục đích của mình mà thôi, quả thật hư hư thực thực khiến quả nhân không biết đâu mà lần cả.

Nghĩ tới đây, hắn lại bất giác nhớ lại hương vị ngọt ngào trên đầu môi căng mọng ấm ấp của nàng cùng hương thơm thoang thoảng trên da thịt, đến giờ dường như vẫn còn chút cảm giác trên đầu ngón tay. Khánh Kỵ gạt đống văn kiện ra, cúi đầu nhìn xuống mặt bàn trơn láng sáng bóng, lấy bàn thay kính, khẽ chau mày soi trước "gương", nở một nụ cười sáng lạn tươi tỉnh.

- À, ta hiểu rồi!

Công tử Yểm Dư hét lên, Khánh Kỵ giật bắn mình, cùi chỏ huých sang một bên, khiến cho ngọn núi nhỏ bằng giấy tờ kia đổ ầm lả tả.

Tôn Vũ, Văn Chủng, Anh Đào từ trong những đống giấy tờ ngóc đầu lên, nghểnh cổ nhìn hắn, cùng đồng thanh nói:

- Đại tư đồ phát hiện ra chuyện gì sao?

Yểm Dư hưng phấn nói:

- Nam Tử gần đây rất hay tiếp xúc với đám đại phu ở Vệ quốc trung thành với ả, hơn nữa còn nhiều lần tiếp kiến Hiên Viên Hành, còn mấy lần đi tới Tống quốc, trước kia khi ả quay về Tống, nhiều lần ở trong cung thành không xuất cung một bước, lần này thì sao nào? Theo thông tin tình báo, ả không những nhiều lần xuất cung, còn lấy danh nghĩa là trưởng công chúa Tống quốc, Vệ quốc quân phu nhân thiết yến khoản đãi công khanh Tống quốc. Theo danh sách khách mời thì những kẻ được mời đều là công khanh thế tộc có máu mặt ở Tống quốc...

Tôn Vũ chen ngang nói tiếp:

- Vậy thì sao nào?

Yểm Dư hít một hơi dài, trịnh trọng nói:

- Nam Tử, Nam Tử đang rất nóng lòng muốn Tấn lui binh đình chiến, là bởi... ả đang rất nôn nóng muốn được động thủ.

Mấy người Khánh Kỵ đưa mắt nhìn nhau, một hồi sau, Khánh Kỵ mới lập lờ nói:

- Đại tư đồ, ngươi nói Nam Tử muốn động thủ..., ách, ả muốn động thủ với ai chứ?

Yểm Dư nhún vai, tự tin nói:

- Nam Tử có tham vọng rất lớn, lại rất giỏi quyền mưu, ắt hẳn là nghe nói tới chuyện Đông Di Thiền Nhi muốn kiến quốc xưng vương, vậy nên cũng muốn hùa theo, hợp binh Vệ Tống tự lập làm nữ vương.

Đám người Khánh Kỵ bị Yểm Dư công tử khai sáng đạo lý như vậy vô cùng sửng sốt bất ngờ, ai nấy đều trợn mắt há mồm, một hồi lâu không thể lên tiếng.

Yểm Dư thấy vậy thì giải thích thêm:

- Nam Tử hiện nay trên thực tế đã nắm thực quyền tại Vệ, còn ở Tống, Tống quân không có đại chí, thế tử nhỏ tuổi, Nam Tử quyền to thế lớn, với thủ đoạn của ả, muốn có được sự ủng hộ của công khanh, đặc biệt là lấy việc hợp nhất Vệ Tống làm mồi nhử, chắc chắn sẽ khiến cho đại để công khanh đại thần Tống quốc phải thần phục. Hơn nữa, Hiên Viên Hành hiện tại đang lãnh binh tác chiến tại Vệ quốc, để chống Tống, Tống đã điều động gần như toàn bộ binh lính, tất cả nằm trong tay của Hiên Viên Hành. Nam Tử có thể dùng quan to lộc hậu, thậm chí... nói không chừng là cả thân xác của mình. Chỉ cần Hiên Viên Hành về phe ả, chỉ cần Tấn lui binh, lập tức sẽ đem quân về, việc lấy Tống quốc chẳng phải đã dễ như trở bàn tay? Nguồn gốc hai nước Vệ Tống đại vương và chư vị đại phu đều biết rõ, muốn liên hợp làm một nước thống nhất quá ư dễ dàng.

Yểm Dư là hậu nhân của họ Cơ, nên những lời này có chút mơ hồ khó hiểu, có điều những người ngồi đó đều rất hiểu ý hắn. Tuy rằng người Chu sau khi có được thiên hạ, luôn đổ nhiều công lực hạ thấp Thương triều, thế nhưng những người đứng đây đều là những văn sĩ học thức uyên thâm, đương nhiên biết được chân tướng bên trong.

Năm đó khi Đế Tân(Trụ Vương) kế vị, Thương triều đã có dấu hiệu tàn lụi, nhưng Đế Tân có thể được coi là vị minh chủ sáng suốt. Văn chính võ công khác hẳn người thường, hắn dốc hết khả năng ra sức phát triển công thương, khiến cho Thương vương triều lại lần nữa hưng thịnh trở lại. Đó là sự thực không phải tranh cãi, đến cả Á thánh Mạnh Tử cũng còn phải khen ngợi hắn không tiếc lời.

Lúc đó kẻ địch lớn nhất của Thương triều chính là Đông Di, Đông Di thường xuyên xâm lấn đất Thương, giết người cướp của, gây nên nỗi khiếp sợ trong dân chúng. Thương triều nhiều lần thảo phạt nhưng đều không thể diệt trừ triệt để được Đông Di. Sau khi Đế Tân kế vị, mong muốn ổn định và hoà bình lâu dài, đã dốc sức đóng đúc những binh khí bằng đồng đen, đích thân dẫn quân đi chinh phạt Đông Di, đánh đến tận vùng ven Đông Hải, bắt được rất nhiều người Đông Di làm nô, chinh phục rất nhiều bộ lạc ở Đông Di.

Nhưng vào lúc này Tây Kỳ Vũ vương Cơ Phát lại liên hợp đám chư hầu ăn ở hai lòng nhân lúc nội bộ triều Thương không có người cai quản, bất ngờ tạo phản, Đế Tân đang thống lĩnh đại quân bên ngoài, chỉ còn biết đi khinh xa quay về Triều Ca, vội vàng tổ chức những đám tù binh ngoại tộc đang làm nô lệ bảo vệ đô thành.

Khi hai quân giao chiến, những nô lệ Đông Di kia không chịu bán mạng cho người, kết cục đào ngũ rất nhiều. Quân Thương kiên trì cố trụ trong vài ngày, đáng tiếc Đế Tân tự phụ, không thèm thiết lập phòng thủ ở quốc đô. Đô thành Triều Ca không có tường thành, chỉ có một chiến hào nhỏ, những tinh binh ít ỏi không thể chống chọi nổi sự bao vây tấn công của Chu, cuối cùng quân Chu đánh vào Triều Ca, Đế Tân anh hùng không còn đường thoát, bất đắc dĩ tự sát tại Lộc Đài, triều Thương từ đó diệt vong.

Nhưng sau khi Đế Tân chết, người Thương cũng không chịu khuất phục người Chu, khởi nghĩa nổ ra liên tục, Chu công tự mình dẫn đại quân bình định đám phản loạn, cuối cùng dời đô đến vùng Tống quốc hiện nay, lập Ân Đế hậu Thương làm quốc quân, để làm yên lòng dân. Còn người dân tầm thường, cùng đám gia nô vẫn phải lưu lại vùng đất cũ, lấy Triều Ca làm quốc đô, phong một công tử dòng giống tông thất họ Cơ lên làm vua. Chung quanh đồng thời lập nên ba nước chư hầu, dùng để giám sát.

Đến đây, mới coi như đã hoàn toàn dẹp bỏ được cái loạn người Ân, nhưng Vệ quốc quốc quân là hậu duệ Tông Chu, con dân bách tính đều là hậu nhân của nhà Thương, để mong cho giang sơn vững vàng, do vậy nên Vệ quốc quốc quân luôn đi lại rất gần với Tống quốc, hơn nữa còn kết thông gia để ràng buộc nhau, tránh một bên có ý định trở mặt. Con dân hai nước vốn cùng một nòi giống, cùng chung tổ tông, cho nên nhân dân hai nước gần gũi hơn nhiều những nước khác.

Người Tống vốn là cố chủ người Vệ, nếu như lấy Vệ Tống hợp liên để kích động dân chúng Vệ quốc, thì sẽ rất dễ có được sự ủng hộ của dân chúng. Hơn nữa Hiên Viên Hành đang nắm giữ quân chủ lực của Tống đóng quân tại Vệ quốc, nếu như có thể khiến hắn quy thuận, thì sẽ rất dễ dàng cướp đoạt lấy chính quyền Tống quốc, hơn nữa một khi gạt bỏ Vệ hầu, những mâu thuẫn nhỏ nhoi vấp phải sẽ hầu như không có.

Không thể không nói, tuy ý kiến của Yểm Dư có chút viển vông, nhưng căn cứ lập luận lại rất đầy đủ, hơn nữa dựa theo thế lực hiện tại của Nam Tử, muốn làm được điều này cũng rất có khả năng. Nhưng Khánh Kỵ luôn cảm thấy có chút hoang đường, Nam Tử không phải là Võ Tắc Thiên, nàng có năng lực chấp chính, nhưng không có dã tâm cầm quyền, nếu nói Nam Tử dùng trăm phương ngàn kế chỉ để hợp nhất Vệ Tống, tự lập làm nữ vương, thật sự khó bề tưởng tượng, nhất là hai nước Vệ Tống không thể so với thị tộc bộ lạc Đông Di, trở lực lớn nhất đến từ quan niệm của người dân, lập một nữ vương trong một nơi chịu nhiều ảnh hưởng của văn minh Tông Chu hun đúc ở Trung Nguyên, một khi Nam Tử làm như vậy thật, chỉ e rằng các nước chư hầu xung quanh sẽ liên kết lại mà tấn công.

Yểm Dư trông thấy vẻ mặt biến dạng của Khánh Kỵ và Tôn Vũ, không khỏi có chút ái ngại nói:

- Không lẽ đại vương và các vị đại phu thấy ý kiến của ta là hàm hồ bâng quơ ư?

Khánh Kỵ nín cười nói:

- Haizzz, đại tư đồ cả nghĩ rồi, nói đúng ra thì lời của đại tư đồ đều có căn cứ rõ ràng, khả năng đó cũng không phải là không có, quả nhân chỉ cảm thấy, Nam Tử không phải không có điều kiện đó, mà chỉ là ả không có tâm địa đó, có lẽ quả nhân đã nhìn nhầm, nhưng quả nhân vẫn cảm thấy... Cường thế của ả chỉ là bảo vệ chính ả mà thôi. Hợp nhất Vệ Tống thậm chí tự lập vương vị không phải là chí hướng của ả. Chúng ta phải làm rõ mục đích thật sự của ả, để tránh việc bị giẫm vào vũng bùn, nên vẫn cần phải nhiều chứng cứ xác thực hơn nữa. Cách nghĩ này của đại tư đồ cứ tạm để đấy, chúng ta tiếp tục lục tìm chứng cứ, để xem còn có khả năng nào khác nữa không.

Khánh Kỵ nói xong, sắc mặt của Yểm Dư mới dễ thở hơn một chút, mọi người lại bắt đầu vùi đầu vào những đống tài liệu la liệt.

Khánh Kỵ lục xem một hồi, tư duy vẫn bị cách nghĩ của Yểm Dư làm quẫn trí, nhất thời không thể thoát ra được, những hành vi của Nam Tử, những cuộc tiếp xúc với các triều thần cỡ bự hai nước, càng lúc càng khiến Khánh Kỵ nghĩ rằng chỉ có cách giải thích của Yểm Dư mới có thể gỡ rối được. Thế nhưng vấn đề ở chỗ, rất nhiều động tĩnh của ả, tai mắt của Khánh Kỵ có thể nghe ngóng được, thì không có lý gì Vệ hầu và Tống công lại không biết cả. Cho dù Vệ hầu đã bị ả khống chế, ả cũng không nghĩ rằng Vệ hầu có thể làm được việc gì cả, thế nhưng nàng sớm được gả sang Vệ, trước khi xuất gia còn là một thiếu nữ đài các, không thể nào một sớm một chiều đã có thể nắm được thế lực của Tống quốc, nếu như Tống công không chấp nhận, liệu còn có thể trắng trợn như vậy được không?

Từ hai nước Vệ Tống không thể tìm ra tư liệu hữu ích khác có thể phân tích được mục đích của Nam Tử, Khánh Kỵ liền hướng tư duy về Tấn quốc. Nói về nước mạnh nhất trong các chư hầu thiên hạ là Tấn quốc kia, nguồn gốc của nó mang nhiều sắc thái truyền kỳ nhất. Trước kia Vũ Vương đoạt thiên hạ không lâu đã qua đời, con trai Thành Vương lên kế vị, Thành Vương lúc đó tuổi còn nhỏ, có một lần chơi đùa trong cung với chúng đệ, thuận tay ngắt một cành ngô đồng rồi tạo dáng thành hình ngọc khuê( một dụng cụ bằng ngọc dùng trong nghi lễ của vua chúa thời xưa)tặng cho một người em tên là Ngu, rồi nói giỡn chơi:

- Ta dùng cái này để phong cho đệ.

Bên cạnh thiên tử còn có sử quan tùy tùng, vị sử quan này liền ghi chép lại chuyện đó, rồi hỏi ngày để sắc phong chức vụ. Thành Vương hoảng hồn, luống cuống giải thích rằng hắn chỉ giỡn chơi với em của mình mà thôi, thế nhưng sử quan cho rằng "quân không nói chơi", Thành Vương đành phải nghe theo, phong vùng đất Sơn Tây(tỉnh Sơn Tây bên Trung Quốc, không phải Việt Nam nha) ngày nay cho Ngu.

Cơ Ngu sau khi có được nước, trong vòng hai trăm năm, đã dần chiếm đoạt các quốc gia nhỏ xung quanh như Hoắc, Cảnh, Ngụy, Bắc Quắc, Ngu... còn có cả Nhung, Địch như Xích Lộ thị, Xích Địch Giáp thị, Lưu Hu, Đạc Thần, Phì Đẳng. Tổng cộng thôn tính hơn hai mươi quốc gia đồng tính hoặc dị tính khác nhau, đất đai rộng lớn gấp trước mấy chục lần. Sau này Tấn quốc được Chu Tương Vương ban cho đám Ôn, Nguyên, Tán Mao phần Nam thái hành sơn, phần Bắc Hoàng Hà, do vậy lãnh thổ phía Nam lại được mở rộng thêm vượt quá thái hành sơn, vươn tới bờ Bắc của Hoàng Hà. Giờ đây đã trở thành đại quốc chư hầu siêu cấp của chín châu trong Hoa Hạ, hơn nữa còn trú ngụ ở mảnh đất Trung Nguyên màu mỡ.

Đến thời của vị quân vương đời thứ 22 của Tấn quốc là Tấn Văn Công Trọng Nhĩ, trở thành một trong năm bá chủ xuân thu. Năm vị hiền sĩ dưới trướng Tấn Văn Công: Triệu Suy, Hồ Yển, Tiên Chẩn, Cổ Đà, Ngụy Vũ Tử đều được hắn phong thưởng phong ấp đồn điền. Về sau, trong năm người Triệu Suy, Hồ Yển, Tiên Chẩn, Cổ Đà, Ngụy Vũ Tử, trừ Cổ thị ra, bốn nhà còn lại đều trở thành những thế tộc mạnh mẽ, lại cộng thêm bảy nhà Tư thị, Khước thị, Loan thị, Phạm thị, Tuân(Trung Hành) thị, Chí thị, Hàn thị, Tấn quốc tổng cộng có mười một nhà cùng chia nhau giữ đại quyền Tấn quốc, không ngừng đấu đá gằm gè nhau, đến nay chỉ còn lại Phạm thị, Trung Hành thị, Chí thị, Triệu thị, Ngụy thị, Hàn thị, hiện tại chỉ có lực lượng của ba nhà Chí thị, Phạm thị, Trung Hành thị là lớn nhất...

- Phạm, Trung Hành, Chí, Triệu, Ngụy, Hàn..., Triệu, Ngụy..., Triệu, Ngụy, Hàn!

Khánh Kỵ nghĩ câu được câu chăng, bỗng nhiên nhớ tới ba nước Triệu, Ngụy, Hàn nằm trong thất hùng thời chiến quốc, không khỏi bất giác ngồi thẳng lưng, tâm trạng hỗn loạn:

- Ba nhà Triệu Ngụy Hàn phân Tấn từ lúc nào? Còn nhớ vạch kẻ xác định trong lịch sử thời xuân thu chiến quốc của các sử gia có chỉ rõ việc lấy thời gian ba nước Triệu, Ngụy, Hàn chia Tấn làm cột mốc, giờ đã sắp đến lúc rồi!

Lẩm bẩm tới đây, Khánh Kỵ bỗng nhớ tới một văn kiện lúc nãy có nói tới việc Nam Tử thiết yến mời hai đại tướng quân nắm giữ binh chủ lực hai nước là Hiên Viên Hành, Bắc Cung Hỉ, một thủ hạ của hắn vừa hay ở đó kinh doanh hải sản, buổi cung yến đã mua rất nhiều sơn hào hải vị từ chỗ hắn, lúc đó hắn áp giải đoàn xe vào cung giao hàng, mới biết đến những nhân vật được mời đến, trong danh sách hình như hắn có đọc được một đoạn miêu tả nào đó. 

Khánh Kỵ lập tức lại lục lọi một hồi trong đống thẻ tre, mở lại tập tin tình báo kia ra xem xét, quả nhiên trong đó có nói tới một câu: "Hai người mặc cẩm bào sóng vai đi qua, một người nói giọng Tấn quay sang người kia bảo: Bắc Cung đại phu, Hiên Viên tướng quân đã đến chưa? 

- Chính là hắn rồi, một người Tấn có thể sánh vai đi cùng với Bắc Cung Hỉ, thân phận không thể tầm thường được! Huống hồ Vệ Tống đang giao chiến với Tấn, tại sao lại còn mời người Tấn đến dự tiệc? Chẳng lẽ Nam Tử không muốn hợp nhất, mà muốn chia tách, rút củi đáy nồi, diệt trừ vĩnh viễn cái họa Tấn quốc? Trong đó không chừng còn có cả điều kiện muốn người Tấn phải giao nộp thủ cấp Công Tử Triều nữa.

Khánh Kỵ vỗ mạnh xuống thư án, mọi người đang chăm chú tra cứu tư liệu đều giật mình, ngẩng đầu lên xem rõ sự tình, không biết Khánh Kỵ đại vương định phát biểu cao kiến gì đây.

Bỗng nghe thấy Khánh Kỵ hớt hơ hớt hải nói:

- Chư vị ái khanh, mau tìm thông tin tình báo về động tĩnh của lục khanh Tấn quốc, mang tất ra đây để quả nhân tham chiếu.

Mọi người tra sát lại lần nữa thông tin theo yêu cầu của Khánh Kỵ, lật lại tất cả những thông tin có liên quan tới Tấn quốc, sắp xếp lại theo trình tự thời gian, sau đó đọc từ đầu đến cuối, những con người có khứu giác chính trị cực kỳ mẫn cảm kia quả nhiên nhìn ra được những điều khác thường.

Sau vụ mùa năm ngoái, Phạm thị, Trung Hành thị kết thông gia, trưởng tử(con trưởng) gia chủ Phạm thị lấy ấu nữ của Trung Hành thị.

Đông chí, con trưởng Phạm thị xuất sứ đi Tiên Ngu(Trung Sơn quốc), lại lấy tiếp thứ nữ của Tiên Ngu quốc làm thiếp.

Hai tháng trước, cũng tức là đầu năm nay, Trunh Hành thị xuất sứ Tề quốc, sau đó chưa tới mười ngày, chính đàn Tề quốc lại biến động dữ dội, phe của Yến Anh bỗng chiếm thế thượng phong, Tề quân đang ủng hộ Điền Khất Nam chinh thay đổi thái độ, cưỡng chế ra lệnh cho Điền Khất thu binh, ngưng chiến nghị hòa với Lỗ quốc.

Đồng thời, các tộc Ly Nhung, Xích Địch do vụ mùa thất bát, đầu xuân hết lương thực, phát binh quẫy nhiễu Tấn quốc, Tấn quốc lục khanh chia nhau ra cự địch.

Sau này, gia chủ ba nhà Triệu, Ngụy, Hàn diện kiến nhau tại Hàm Đan, bàn bạc kế sách đánh Vệ.

Trước đó không lâu, gia chủ Chí thị mời quốc quân đến Khúc Ốc săn thú ngắm cảnh xuân sắc.

Phạm thị, Trung Hành thị đang định phái sứ đi triều cống Chu thiên tử lâu năm không qua lại...

Nhìn những tình hình này, Tôn Vũ nhíu mày nói:

- Lục khanh Tấn quốc động tĩnh nhiều như vậy chắc chắn đang âm mưu gì đó.

Anh Đào nói theo:

- Những hành động này rất đáng nghi ngờ, hơn nữa trong thời gian này cũng là khoảng thời gian mà Nam Tử hoạt động nhiều nhất ở hai nước Vệ Tống, thế nhưng giữa hai bên hoàn toàn không có bất kỳ mối liên hệ nào.

Với trí tuệ của Tôn Vũ, Văn Chủng cũng không thể nào nhận ra được ý nghĩa của những động thái đó, chỉ là cảm giác bản năng rằng Tấn quốc đang có một cơn bão chính trị vô cùng lớn. hơn nữa trong con mắt một kẻ đã biết trước việc ba nhà thế gia phân chia Tấn quốc như Khánh Kỵ, thì không có ý nghĩa nào khác cả.

Các hoạt động liên tục giữa đại thế tộc ba nước khiến cho Khánh Kỵ càng có thêm cơ sở cho phán đoán của mình:

“Bất kỳ giữa một nhà nào hay thậm chí mấy nhà với Nam Tử chắc chắn phải có một hiệp định bí mật nào đó được xác lập, hơn nữa còn rất có khả năng là chia cắt Tấn quốc. Trên lịch sử, thời gian xảy ra những sự kiện đó còn chưa đến, nhưng do có sự có mặt của hắn, đã thay đổi cục diện phát triển thiên hạ, thúc đẩy mau hơn tiến trình lịch sử, tuy nói rằng hiện tại kẻ tham dự vào chuyện này là Nam Tử, nhưng cái hiệu ứng đô mi nô này chính là xuất phát từ ả.

Nếu ba nhà phân Tấn xảy ra, thậm chí còn trở thành sáu nhà phân Tấn, vậy thì sẽ phải làm sao đây?”

Nghĩ tới đây, trên mặt Khánh Kỵ bất giác không giấu được nụ cười thú vị:

“Một nhà phân thành ba nhà, vậy mà ba nhà này còn có thể được liệt vào danh sách thất hùng thời chiến quốc! Thực lực khủng khiếp của Tấn quốc quả thật khó bề tưởng tượng nổi. Thế nhưng một nhà chia thành sáu nhà thì sao đây? Tấn quốc là cột chống trời của Trung Nguyên, quốc gia có thực lực hùng mạnh nhất này một khi phân thành sáu nước, thế cục của cả Trung Nguyên thậm chí là cả thiên hạ sẽ nảy sinh những thay đổi vĩ đại không thể đoán định trước, thế nhưng có một điều chắc chắn, điều đó sẽ có lợi cho một quốc gia chí tại thiên hạ như Ngô quốc.

Thế nhưng một việc có lợi rất lớn cho Ngô quốc như vậy, tại sao Nam Tử lại phải giấu diếm, thậm chí dâng hiến cả cơ thể mình, rồi còn chấp nhận cắt nhượng thành trì cho Ngô quốc, nhưng cũng không chịu nói thẳng với Khánh Kỵ, kéo hắn vào làm minh hữu nhỉ?”

Khánh Kỵ dựa vào ý nghĩ đó để phát triển ra, trong lòng đã rút ra được đôi chút kết luận.

Chuyện này hiển nhiên không phải chỉ dựa vào năng lực của Nam Tử mà làm được, ả thậm chí còn không phải là chủ mưu, mà là hùa theo mà thôi, đều là vì lợi ích của mỗi bên, bị đám công khanh đại phu Tấn quốc muốn tự lập quốc kia lợi dụng mà thôi, ả đương nhiên không thể đem chủ trương mang tính sống còn của mấy nhà đại thế gia kia ra mà bô bô với hắn được.

Hơn nữa, chuyện này không hoàn toàn là chuyện nội bộ của Tấn quốc lục khanh, e rằng các bộ tộc Tiên Ngu quốc, Ly Nhung, Xích Địch cũng tham gia vào, mấy nhà đại thế gia không có chuyện ngẫu nhiên cùng chí hướng với nhau, phế quân tự lập như vậy được, trong lục khanh đương nhiên có kẻ đang trù tính việc này, cũng cố nhiên có kẻ bị che mắt, kẻ bị che mắt đó chắc chắn cũng là đối tượng để bọn chúng loại trừ.

Chuyện này, Tề quốc rất có khả năng cũng tham gia vào, có được sự ủng hộ của Tề, thì đám khanh đại phu ẩn chứa dã tâm kia của Tấn quốc mới dám nắm thế chủ động trong chuyện này. Còn với Tề quốc, Sở đang ngày càng suy yếu, không phục hồi lại được uy phong nước lớn. Ngô quốc tuy chỉ là mặt trời mới lên, nhưng quốc lực còn lâu mới so sánh được. Tần quốc trấn thủ quan trung, hiện tại không đủ thực lực nên cũng không có dã tâm Đông tiến Trung Nguyên, một khi Tấn quốc đổ vỡ, vậy thì lúc đó Tề sẽ chính là thiên hạ bá chủ. Chả trách quốc quân Tề quốc lại bỗng dưng thay đổi thái độ, cưỡng chế Điền Khất phải rút binh về nước. Cần phải biết lạc đà sắp chết vẫn to hơn ngựa, thực lực của Tấn quốc quả thực không thể coi thường, nếu muốn tham dự vào âm mưu chia Tấn của đám thế gia, nước Tề hùng mạnh cũng cần phải chuẩn bị kỹ càng, bọn chúng đương nhiên không thể cứ dây dưa đánh nhau với những nước lân cận như Đông Di và Lỗ quốc được, để phải rơi vào cảnh ba mặt đối địch.

Nếu như có Tề quốc tham dự thêm, Nam Tử càng không thể nào nói rõ sự tình cho hắn biết. Vì một khi Tấn đổ, Tề nghiễm nhiên trở thành bá chủ thiên hạ, Ngô quốc chí tại Đông Di, có mâu thuẫn không thể dung hòa được với Tề, theo tính toán của Nam Tử, Khánh Kỵ quyết không thể giương mắt nhìn Tề quốc trở thành thiên hạ đệ nhất quốc.

Nhưng chúng không thể không cần tới Khánh Kỵ, vì Tần xưa nay không qua lại với các nước Trung Nguyên, nói đúng hơn là các nước Trung Nguyên không chịu quan hệ bình đẳng với Tần, khiến đôi bên chưa từng có cuộc tiếp xúc nào hết. Đến nay nước có thể thuyết phục Tần xuất binh chỉ có thể là nước trong khối liên minh với Tần là Sở hoặc Ngô. Sở là nước minh chủ phương Nam, luôn coi các nước Trung Nguyên là địch, hai bên đối địch đã lâu, rất khó lòng nào chịu tin tưởng mà hợp tác với nhau, bởi vậy vị Ngô vương đã từng được các nước Trung Nguyên kia giúp đỡ đương nhiên trở thành đối tượng hợp tác thích hợp nhất.

Nghĩ tới đây, Khánh Kỵ âm thầm hắt ra một hơi dài, Tần là cường quốc gần Tấn nhất, là lực lượng Tấn quốc e ngại nhất. Chỉ có Tần chịu xuất binh, mới có thể khiến Tấn điều động trọng binh phòng thủ, để cho đám tâm địa đen tối kia đem quân đội của đám tộc khanh đối đầu với chúng đi chống đỡ quân Tần, tạo điều kiện cho chúng phát động chính biến, đợi đến khi lộ ra chân tướng, thì bọn chúng đã hoàn thành xong công việc chia cắt Tấn quốc rồi.

Nếu như muốn biết trong lục khanh Tấn quốc kẻ nào mới là con mồi, chỉ cần xem đến lúc đó Tấn quốc sẽ phái binh mã của ai đi bảo vệ là biết liền. Tần quốc là nước bị lợi dụng, nhưng một khi để Tần biết rõ chân tướng, rất khó cam đoan rằng Tần sẽ không nổi lòng tham, tương kế tựu kế, từ đánh nghi binh thành tấn công thật sự, thừa cơ đánh chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn của Tấn quốc, lấn tràn xuống Trung Nguyên, đến lúc đó, mất đi một nước Tấn quốc, nhưng lại có thêm một nước Tần hùng mạnh, đương nhiên không phải là điều các nước ở Trung Nguyên mong muốn. Từ đó cho thấy, cho dù không có nguyên nhân Tề quốc bên trong, Nam Tử cũng không thể đem chân tướng tiết lộ với một vị quân chủ một nước nằm trong khối đồng minh với Tần quốc.

Nghĩ thông suốt được chuyện này, Khánh Kỵ không giấu nổi niềm hể hả trong lòng, tự nhiên có kẻ dâng lên một chiếc gối đầu êm ái, cục diện Tây Bắc thay đổi thế nào thì nhất thời cũng chả ảnh hưởng gì tới hắn. Thế nhưng đối với kẻ nuôi dã tâm thôn tính cả thiên hạ như Khánh Kỵ, khó chinh phục nhất chính là Trung Nguyên, chỉ cần Trung Nguyên đại loạn, trở thành một đống hỗn loạn thân ai nấy lo, hắn có lòng tin vào việc biến nước mình thành quốc gia hùng mạnh nhất trước khi tiến tới việc thôn tính ba cường quốc vây quanh Trung Nguyên là Tần, Sở, Tề, đặt nền móng đầu tiên cho việc nhất thống thiên hạ.

Đám đại thần đang xì xào bàn luận trông thấy đại vương trầm ngâm không nói gì, liền ngừng nói đưa mắt nhìn hắn trong chốc lát. Khánh Kỵ thoát khỏi cơn trầm tư, thấy đám người vẫn đang nhìn mình, liền mỉm cười nói:

- Quả nhân đã có chút manh mối nho nhỏ rút ra được từ chuyện này, chư vị ái khanh công vụ bận rộn, chi bằng tạm thời gác lại việc này đi lo liệu việc chính vụ, đó mới là căn bản của Ngô quốc, bất kể thiên hạ có biến đổi thế nào, chỉ cần Ngô quốc ta đủ lớn mạnh, mặc nó thiên biến vạn hóa, ta đều có thể bình chân như vại được.

- Chúng thần tuân chỉ!

Đám người Tôn Vũ thấy hắn đã có tính toán, cũng không hỏi nhiều, lục tục ra về. Khánh Kỵ lập tức gọi thám báo tới dặn dò:

- Tập trung nhân lực lại, thăm dò cho ta ba chuyện: Một, quân đội Tề quốc có động tĩnh gì lạ; Hai, lục khanh Tấn quốc đang làm gì; Ba, bố trí quân đội Vệ Tống, càng chi tiết càng tốt.

Bảy ngày sau, Di Hạ lại vào cung mời Khánh Kỵ, Khánh Kỵ biết rằng Nam Tử đã nhận được hồi báo của Tống quốc, lập tức vui vẻ nhận lời.

Vẫn là gian nhà đó, lúc trước vẫn còn hoa đòa rụng lả tả, giờ đây đã rụng sạch trụi, mở cửa sổ ra, một bông hoa đào hiện ra trước mắt, chắn giữa thân ảnh hai người.

- Đại vương, cha ta đã đồng ý cắt nhượng Bành Thành cho Ngô quốc, đây là quốc thư, nhưng cha ta có điều kiện là sau khi Tần quốc đồng ý xuất binh, thì việc cắt nhượng thành trì mới có hiệu lực.

- Đương nhiên phải vậy, chỉ không biết phu nhân muốn Tần quân lúc nào khởi binh? Nếu thời gian quá cấp bách, Khánh Kỵ không dám khẳng định có thể thuyết phục được Tần quân.

Nam Tử cười thản nhiên:

- Nam Tử biết rõ đây không phải chuyện dễ dàng, sao lại dám làm khó đại vương được. Chỉ là hai nước Vệ Tống đang lâm nguy, thời gian càng kéo dài, thì càng bất lợi cho Vệ Tống. Ý của Nam Tử mong đại vương mau chóng hành động, Nam Tử sẽ phái tín sứ đi cùng với người của đại vương. Một khi nhận được thông tin chính xác, lập tức hồi báo về ta, liên quân Vệ Tống sẽ phối hợp tác chiến, bức bách quân Tấn phải nghị hòa.

- Tốt lắm, nếu vậy mong phu nhân mau chóng mang quý quốc bảo khí tới.

Nam Tử giật mình, Khánh Kỵ cười nói:

- Nếu chỉ với lý do là giải vây cho Vệ Tống, phu nhân cho rằng Tần quốc sẽ chịu xuất binh sao? Quả nhân đương nhiên phải tìm một lý do khác, vật báu đó cũng cần phải mang danh nghĩa của Ngô quốc mà mang tới. Tóm lại, chỉ cần người Tần chịu xuất binh là đã coi như hoàn thành khế ước của hai ta, lẽ nào phu nhân không tin Khánh Kỵ, lo quả nhân nuốt không bảo khí của hai nước Vệ Tống các người sao?

Nam Tử hơi chút do dự, giãn mặt đôi chút cười nói:

- Đại vương cứ nói đùa, đại vương là anh hùng đương thế, Ngô quốc bá chủ, làm sao có thể làm chuyện của phường ăn cướp được. Không giấu đại vương, để tranh thủ thời gian, hai nước Vệ Tống đã sớm vận chuyển bảo vật tới đây, bí mật đem tới bên bờ Trường Giang, chỉ đợi khi đại vương nhận lời, sẽ ngược dòng mang tới Tần quốc, bây giờ...

- Vậy cũng không được, phải đợi tín sứ của quả nhân tới tiếp nhận rồi tiếp tục lên đường Tây tiến.

Nam Tử suy nghĩ một hồi, liền nói dứt khoát:

- Được, cứ thế đi.

Nàng nhấc bình lên, rót cho Khánh Kỵ một chén rượu, cung kính cầm chén hai tay nói với Khánh Kỵ:

- Nam Tử thay mặt cho bách tính Vệ Tống kính đại vương một chén, chúc đại vương mã đão thành công, cứu nguy cho hai nước Vệ Tống.

Khánh Kỵ mỉm cười, đón lấy chén rượu uống cạn.

Nam Tử niềm nở rót tiếp ly nữa, trên mặt ẩn hiện tình ý, khẽ buồn vô cớ thở dài:

- Nay đại vương đã chấp thuận, sứ mệnh của Nam Tử coi như đã xong, cũng phải trở về Vệ quốc rồi, lần từ biệt này, núi cao sông dài, không biết khi nào mới có thể gặp lại được. Chén này, Nam Tử kính đại vương, nguyện mong Khánh Kỵ đại vương phúc thọ an khang, tiền đồ sáng lạn.

Khánh Kỵ thấy nàng làm ra vẻ lưu luyến không rời, biết rằng nàng đang định dùng sắc mê hoặc, không khỏi cười thầm trong bụng, hắn đỡ lấy chén rượu, mỉm cười nói:

- Khoảng cách lớn nhất trên đời này không phải là khoảng cách giữa những con đường, mà là khoảng cách giữa những trái tim, hai con tim khác biệt lại có thể đồng sàng, vui vẻ bên nhau, làm nên giấc mộng diệu kỳ. Nếu như hai trái tim luôn bên nhau, luôn hướng về nhau, thì dù ở nơi núi cao sông dài xa cách vạn dặm, bọn họ cũng cảm thấy gần sát như trong gang tấc, không biết phu nhân nghĩ thế nào?

Ánh mắt Nam Tử hiện lên một sắc thái bí ẩn:

- Nam Tử với đại vương hiện đang ngồi đây, gần ngay trước mặt, không biết hai con tim của chúng ta xa cách là bao?

- Phu nhân muốn khoảng cách đó là bao nhiêu nào?

Vì trong chuyện này Nam Tử hoàn toàn là lợi dụng Khánh Kỵ, nên Khánh Kỵ rất cảnh giác với ả, thấy ả như vậy, biết ả lại định trò cũ diễn lại, nên làm ra vẻ chân tình đồng cảm để trêu ghẹo ả, hạ thấp giọng, cơ thể hơi nghiêng về phía trước hỏi.

Nam Tử dường như có chút sợ sệt, cơ thể hơi ngả về phía sau trốn tránh, đôi mắt long lanh rủ xuống, khuôn mặt thanh bạch hiện lên một vệt đỏ ửng:

- Nếu như... Nam Tử hi vọng trái tim mình có thể giữ được khoảng cách với đại vương như hiện giờ, cùng chung nhịp đập với nhau, không biết đại vương... đại vương nghĩ thế nào?

Ả nói câu sau cùng, giọng nói run run, khuôn mặt ửng đỏ, đôi môi nhợt nhạt vì căng thẳng, mi mắt chớp chớp liên tục, con ngươi đến cả dũng khí để đưa lên cũng không có.

"Ặc, Nam Tử phu nhân không phải đóng kịch, thật sự là đáng tiếc." Khánh Kỵ thầm tán thưởng một tiếng, ngoài miệng nói ra:

- Trái tim của quả nhân, có thể được dính sát vào con tim của phu nhân không?

- Tại sao lại không chứ?

Nam Tử khẽ e thẹn, từ từ ngước mắt lên.

Khánh Kỵ muốn nói gì lại thôi, đổi giọng nói:

- Ha ha, Ngô và Vệ Tống hiện tại vẫn còn là quan hệ giao dịch thông thường, Vệ Tống có lời nhờ Ngô, Ngô quốc muốn lại một thành trì, có lẽ... Đợi một ngày nào đó, chúng ta sẽ không còn là quan hệ lợi dụng nhau nữa, để có thể thật sự tin tưởng nhau. Đến lúc đó, Khánh Kỵ chỉ mong ước có được một tuyệt thế giai nhân giống như phu nhân làm hồng nhan tri kỷ.

Ánh mắt của Nam Tử bối rối trong đôi lát, bỗng nhiên trở nên sáng rõ lại, lời nói này của Khánh Kỵ đã thức tỉnh nàng, nàng bỗng ý thức được lập trường mà hai bên đang đứng, căn bản là không hợp để nói chuyện tình cảm nam nữ. Nàng nhẹ nhàng hít vào một hơi, trầm lắng nói:

- Lần từ biệt này, núi cao sông dài, muốn gặp mặt cũng khó như lên trời, ài, đại vương nói phải, là Nam Tử đã vọng tưởng rồi.

Khánh Kỵ rõ ràng không định trêu chọc nàng, nhưng trông khuôn mặt phiền muộn quyến luyến của nàng, cùng ánh mắt rưng rưng, rồi bỗng nhiên khuôn mặt trở nên trắng bợt như tuyết, không biết thế nào, đành phải thốt lên:

- Phu nhân việc gì phải phiền muộn như vậy, Ngô quốc có được Bành Thành, từ đây trở thành láng giềng của Tống, nếu muốn gặp phu nhân, thì sẽ có nhiều cơ hội để gặp. Tuy không thể sớm chiều gần nhau, nhưng nếu tình cảm đôi bên trường tồn, vậy thì lo gì thời gian dài ngắn chứ?

"Tình cảm đôi bên trường tồn, vậy thì lo gì thời gian dài ngắn..."

Nam Tử lẩm nhẩm lại câu nói, con ngươi đang ủ rũ bỗng trở nên linh động, run giọng hỏi:

- Đại vương thật sự... thật sự nghĩ vậy ư?

Khánh Kỵ châm chọc nàng:

- Chẳng phải phu nhân đang đợi câu nói này của Khánh Kỵ sao? Nàng là người tự cho mình cái tài đùa bỡn nam nhân, sao giờ đây lại thiếu tự tin đến vậy?

Nhưng khi nhìn vào đôi mắt cô hồn đầy mộng ảo, long lanh chất chứa ý thơ kia, trong lòng hắn bỗng trở nên mềm yếu, ma xui quỷ khiến thế nào đáp:

- Chỉ mong đôi ta chung một trái tim, một sự đồng cảm mà thôi.

Nam Tử mấp máy đôi môi, hai hàng nước mắt nóng hổi bỗng nhiên rơi xuống trong nỗi mừng vui.

Khi Khánh Kỵ "bị" nàng giang hai tay ôm chặt, bỗng có một cảm giác bức bối ngột ngạt, trong lòng hắn đang là một mỹ nhân nước mắt ròng ròng, yêu kiềm xinh đẹp. Khánh Kỵ giang rộng đôi tay, buông thõng tay áo, đứng như trời chồng, đôi mắt đơ dại, cái miệng há hốc nghĩ lại: "Vấn đề ở đâu thế nhỉ? Điều này... xảy ra thế nào vậy? “Đại vương, có sứ giả vào triều, mời đại vương hồi cung.”

Bên ngoài, đột nhiên có tiếng nói lanh lảnh vang lên, Nam Tử giật mình thức dậy, vội tránh khỏi cái ôm của Khánh Kỵ, sụt sùi nước mắt, nói vẻ e thẹn: “Nam Tử có hơi mất lễ nghi, xin đại vương đừng chê cười.”

“Không sao, vậy… quả nhân về cung nhé.”

Khánh Kỵ do dự một lát, từ từ đứng dậy, Nam Tử cũng đứng dậy im lặng bước theo sau lưng hắn.

Khánh Kỵ sải bước chậm rãi đến trước cửa, một tay vịn vào thành cửa, suy ngẫm giây lát, quay đầu lại hỏi: “Phu nhân định…khi nào thì quay về?”

Nam Tử từ trước vẫn say đắm nhìn theo bóng lưng Khánh Kỵ, Khánh Kỵ đột nhiên quay đầu, nàng vội cúi đầu xuống nhưng vẫn không tránh kịp ánh mắt đưa tới, tất cả bị Khánh Kỵ nhìn rõ cả.

“Thiếp…rời khỏi đã lâu, quả thực không yên tâm chút nào, giờ phải…lập tức về nước thôi. Lần này đến đây, vốn chỉ là chuyến đi bí mật, đại vương cứ lo quốc gia đại sự, không cần… không cần đưa tiễn.”

Khánh Kỵ nhìn trưng trưng vào Nam Tử, gật đầu nhè nhẹ: “Được, vậy quả nhân không tiễn nữa. Ta sẽ dặn dò Thái Nghĩa chuẩn bị cho chu đáo, hộ tống đội xe đoàn sứ giả Vệ quốc nhanh chóng trở về.”

“Hư…” Nam Tử rên nhè nhẹ, đột nhiên ngẩng mặt lên hỏi: “Đại vương, vừa rồi những lời trao đổi giữa chúng ta, có được coi như một lời hứa hẹn của đại vương với Nam Tử không?”

Đôi mắt đen láy nhìn không chớp mắt vào Khánh Kỵ, ẩn hiện vẻ gì đó lo lắng nôn nao.

Khánh Kỵ ừ hử một cái, mỉm cười: “Nam Tử sắc nước hương trời, đẹp như hoa như ngọc, được phu nhân để mắt, đối với bất kì một nam nhân nào đều là niềm vinh hạnh lớn nhất đời người, Khánh Kỵ đâu dám ngoại lệ? Nhưng ta đã nói, chỉ nguyện lòng ấy như lòng ta, nếu nàng đối với ta chân thành dựa vào tình yêu, Khánh Kỵ tuyệt đối không phụ lòng phu nhân.”

Nam Tử im lặng cúi đầu, đột nhiên lao người tới nhón chân lên, đặt môi hôn nhẹ Khánh Kỵ một cái.

Hơi thở thơm tho như hoa lan làm si mê lòng người, Khánh Kỵ nhắm nghiền mắt tận hưởng cảm giác đê mê của nụ hôn, không biết trải qua bao lâu, hai chiếc môi mềm mới chịu lưu luyến tách ra, Nam Tử mang theo một cảm giác tiếc nuối, rầu rĩ nói khẽ: “Khánh Kỵ đại vương, hẹn ngày gặp lại.”

“Hẹn ngày gặp lại.” Khánh Kỵ vẫy vẫy tay, sải bước đi ra ngoài.

Khi bóng lưng Khánh Kỵ đi khÚc, Nam Tử lộ vẻ hụt hẫng, chiếc cổ dài từ từ cụp xuống, lẩm bẩm nói một mình: “Đừng suy nghĩ lung tung nữa, một nam nhân kiêu ngạo tự phụ sao lại có thể tha thứ khi bị lừa dối và lợi dụng chứ?”

Nam Tử cười chua chát, xoa nhè nhẹ lên làn da bóng loáng mịn màng của mình, ưu sầu tự nhủ: “Nam Tử ơi, nếu… ngươi không sinh ra trong gia đình công hầu quân thất, không phải bị nhiều thứ níu kéo, lúc đó…tốt làm sao…”

Khánh Kỵ đi ra ngoài, lại dừng bước quay đầu lại nhìn về tòa lầu dưới bóng hoa đào. Trong tim hắn, lúc này đã ít đi cảm giác giễu cợt và chơi khăm Nam Tử, thay vào đó là một tình cảm thương mến, vừa rồi Nam Tử kể lể thân thế, bộc lộ chân tình khóc lóc một trận, Khánh Kỵ tin rằng trong đó chiếm đến tám phần là sự thật.

Nghĩ kĩ lại, thật ra Nam Tử rất giống Nhâm Nhược Tích và Thành Bích, hơn nữa tuy nàng ta bề ngoài cao cao tại thượng, nhưng vì thế mà không tự quyết định số phận được, so với hai nữ nhân kia càng bất hạnh hơn. Nữ nhân thời này so với nữ nhân sau đời Hán trở đi một ngàn mấy năm sau độc lập hơn nhiều, nên họ cũng có trách nhiệm và trí tuệ hơn, có hơi giống với nữ nhân thời hiện đại bây giờ mà không giống với nữ nhân sống trong một ngàn mấy năm ở giữa, chỉ biết hoàn toàn phụ thuộc vào nam nhân.

Loại nữ nhân từ nhỏ không phải lo cho cuộc sống như Tiểu Man, Diêu Quang thì kém hơn chút, còn nữ nhân từ nhỏ phải lăn lộn gánh lấy trách nhiệm sinh kế và suy vong của gia tộc như Nhược Tích và Thành Bích, từ trong máu thịt đã tồn tại tính độc lập và tinh thần trách nhiệm, nếu họ đứng vào vị trí nhạy cảm như Nam Tử, tin chắc thái độ xử sự của họ cũng như Nam Tử mà thôi.

Nghĩ đến đây, Khánh Kỵ tiêu tan vài phần ý nghĩ thù địch với Nam Tử, lại phát sinh thêm vài phân thương hại. Hắn không biết Nam Tử đối với hắn có tình ý sâu nặng bao nhiêu, bây giờ cũng không muốn biết. Cùng rơi vào cảnh thân bất do kỉ, không chỉ có Nam Tử, mà Khánh Kỵ cũng vậy, hắn và Nam Tử đều đang gánh vác trách nhiệm nặng nề, đều đại diện cho lợi ích của rất nhiều người, ai mà biết được quan hệ giữa hai người sau này phát triển đến nước nào, dù cho từ quan hệ nam nữ thăng hoa đến tình yêu cao cả, hay đơn thuần chỉ là nam nhân theo đuổi nữ sắc, Khánh Kỵ biết rõ hơn ai hết, đó không phải tất cả trong cuộc sống, càng không phải thứ đáng theo đuổi cao nhất trong cuộc sống. Hắn phải vì bản thân, vì người thân, bằng hữu, thuộc hạ chịu trách nhiệm. Khánh Kỵ sau khi về đến hoàng cung, không thấy quan viên nào của hành nhân ti ở đó, kinh ngạc gọi Viên Tố ra hỏi: “Viên công, ngươi không phải nói có sứ giả nước ngoài đến thăm sao, người đâu?”

“Ơ…” Viên Tố tỏ vẻ khó xử, hắn vuốt mũi mấy cái, vén vạt áo bào lên quỳ mọp xuống thỉnh tội: “Xin đại vương tha tội, là Man phu nhân truyền khẩu dụ, mời đại vương hồi cung, vi thần không dám làm trái ý Man phu nhân, buộc phải…, thần có tội, thần có tội.”

Khánh Kỵ khóc cười không được, hỏi: “Tiểu Man tìm quả nhân gấp như vậy là có chuyện gì?”

Viên Tố láo liên đáp: “Cái này ấy mà…vi thần không biết.”

Khánh Kỵ ngao ngán lắc đầu: “Thôi vậy, quả nhân vào hậu cung xem thử, ngươi lui xuống trước đi.”

“Dạ, dạ, thần có tội, thần cáo lui.” Viên Tố như trút bỏ được gánh nặng, vội hấp tấp đứng lên, chạy như luồng khói rời khỏi.

Khánh Kỵ sải bước đi vào phía hậu cung, đợi khi hắn bước vào tẩm thất của Tiểu Man, hỏi qua đám cung nữ phụ trách hầu hạ, bèn đi vòng qua cung điện, đến một mái đình phía sau hồ nước. Lúc này đã vào tháng ba, tiết trời vùng Giang Nam có chút oi bức như tháng tư tháng năm rồi, trong đình đang phủ tấm chiếu tre thượng hạng từ Việt quốc tiến cống, ba cô nương Diêu Quang, Nhược Tích, Tiểu Man đang mặc áo tơ mỏng dính, để chân trần người nằm người ngồi, đang tủm tỉm nói cười với nhau.

Phu thê mới thành thân, chuyện giường chiếu khó tránh nhiều hơn ngày thường, ba cô nương trải qua vài trận mây mưa, từ trong ra ngoài tỏ ra uể oải, đưa tay múa chân đều toát ra mấy phần quyến rũ.

Khánh Kỵ nhìn thấy, trong lòng mừng rơn, dang rộng hai tay nói: “Ba vị mỹ nhân của ta, quả nhân đến đây.”

Khánh Kỵ bước vào trong đình, không thấy ba cô nương xinh đẹp đứng dậy nghênh tiếp, đã không ai bước tới cởi giầy cho hắn, cũng không ai đứng dậy cởi mũ, hoàn toàn không giống cảnh tượng háo hức chạy ra đón của ba mỹ nhân này khi hắn bước vào tẩm cung của họ.

Nhược Tích uể oải nằm tựa mình lên cái gối, hai ngón tay ngọc ngà kẹp lấy một quả nho, mở to cái miệng chúm chím xinh xinh, nhè nhẹ đưa vào trong miệng, nuốt ực một cái, xong chìa môi ra ngoài phun hột ra, phun chính xác vào một cái chén sành đặt trên tấm chiếu.

Diêu Quang nằm gác lên đùi của Nhược Tích, liếc mắt nguýt Khánh Kỵ một cái, sau đó lông mày khẽ nhướn lên, làm ra hành động khiêu khích hắn. Còn Tiểu Man ngồi ngoài cùng, vén lấy hai ống quần, thò đôi chân trắng nõn xuống dòng nước hồ mát dịu khua nhẹ, tay cầm thức ăn tung xuống cho lũ cá ăn, một lũ cá to béo bơi xung quanh chân nàng, làm Tiểu Man nhột nhạt thụt chân lại, hàng mi cong vút chớp chớp, cũng không quay lại nhìn hắn.

“Ơ? Quả nhân có gì đắc tội với ba vị mỹ nhân, sao đều làm ra bộ dạng này cho ta xem rồi?”

Khánh Kỵ cười hí hí đá bay đôi ủng, tự mình bước lên tấm chiếu, ngồi xuống bên cạnh Diêu Quang, đặt tay vuốt ve bắp đùi thon thả của nàng.

“Hứ! Đừng đụng vào thiếp.” Diêu Quang ngúng nguẩy đánh vào tay hắn, xoay nhẹ tấm lưng tránh ra hướng khác.

Khánh Kỵ nhìn dáo dác, nhìn thấy vải áo trước ngực Nhược Tích hở ra để lộ khe ngực trắng nõn quyến rũ, bèn cười hí hí thò tay qua đó vuốt một cái trên bờ ngực đầy đặn của nàng, nói: “Nhược Tích của ta hiền thục dịu dàng, nào, nói cho phu quân biết, các nàng rốt cuộc vì chuyện gì giận dỗi thế?”

“Đáng ghét, mau đi rửa tay cho sạch sẽ, bằng không không cho chàng đụng vào thiếp.”

Nhược Tích hậm hức, lôi từ tay áo ra chiếc khăn tơ tằm, lau chùi mấy nhát mạnh vào ngực, chà đến nỗi làn da nõn nà đỏ chót cả lên.

“Không phải chứ? Tay quả nhân đâu có dơ đâu nào.”

“Hứ!” Quý Tôn Tiểu Man giơ chân đá tung bọt nước trắng xóa, lũ cá hoảng sợ bơi tứ tung: “Dơ hay không ai mà biết? Người ta đột nhiên bắt chàng quay về, không làm hỏng việc tốt của chàng chứ?”

Khánh Kỵ ngớ người, nhớ lại hình ảnh Nam Tử ngả vào lòng hắn khóc lóc kể lể, trong lòng có hơi bối rối: “Mấy nha đầu này, không phải đã biết chuyện của Nam Tử chứ?”

Nghĩ đến đây Khánh Kỵ cảm thấy sầu não, hắn không để bụng chuyện Quý Tôn Tiểu Man sai Viên Tố lừa hắn hồi cung, nhưng hắn không chấp nhận thần tử của hắn đem hoạt động của chủ nhân tiết lộ ra ngoài, cho dù người kia tuyệt nhiên không làm hại hắn, còn là thê tử thân yêu của hắn.

“Là Viên Tố nói cho nàng biết à?” Sắc mặt Khánh Kỵ trầm hẳn xuống.

“Còn cần Viên công nói ra sao? Trong cung ngoài cung ai mà không biết?” Quý Tôn Tiểu Man phụng phịu nhấc chân lên khỏi mặt nước, ngồi bó gối trên tấm chiếu, đôi chân búp măng hồng hồng của Tiểu Man nhìn khá dễ thương.

Mỹ nhân làm dáng, ẻo lả quyến rũ, được ánh nắng phản chiếu lung linh, khuôn mặt khi mờ khi tỏ, tăng thêm vài phần xinh xắn, nhưng Khánh Kỵ đang tức tối, cũng không tỏ ra mềm mỏng nữa, lạnh lùng quát: “Trong cung ngoài cung ai cũng biết ư? Há! Thật là nực cười, từ lúc nào nhất cử nhất động của quả nhân đều bị người khác biết được thế hả?”

Nhược Tích thấy hắn nổi giận, không dám tiếp tục chọc giận hắn, bèn ngồi dậy ấm ức nói: “Đại vương, thần thiếp có câu này muốn hỏi đại vương.”

“Nàng nói đi.”

“Đại vương, có phải chúng thần thiếp…hầu hạ đại vương có chỗ không được chu đáo khiến đại vương không vừa lòng?”

Khánh Kỵ ngây mặt ra, hoài nghi nhìn ba mỹ nhân, ngạc nhiên hỏi: “Nhược Tích sao lại hỏi vậy? Quả nhân có được ba vị hiền thê như các nàng, là niềm hân hạnh cho quả nhân. Quả nhân đối với các nàng thương yêu o bế, chẳng lẽ các nàng không cảm nhận được ư?”

Nhâm Nhược Tích cúi đầu xuống, nắm lấy tà áo, vò lấy vò để nói: “Ba người thần thiếp đương nhiên biết tình cảm của đại vương, chỉ là… chỉ là…”

Khánh Kỵ nhướn mày, hỏi dồn: “Chỉ là cái gì, nàng cứ nói ra, ấp a ấp úng là thế nào?”

Diêu Quang đột nhiên lên tiếng xen vào: “Tỉ không chịu nói, để muội nói!”

Diêu Quang trừng to đôi mắt, quay sang Khánh Kỵ: “Đại vương ở tại Vệ quốc hơn một năm, từ lúc nào cũng học thói hư tật xấu của bọn nam nhân thối tha Vệ quốc rồi? Tên Di Hạ… Di Hạ…, tên nam nhân đó rốt cuộc có gì hay chứ? Lại khiến đại vương mê muội ba lần bảy lượt đi gặp hắn, hai nam nhân với nhau lại làm chuyện… chuyện kia đó, người ta nghĩ tới là thấy muốn nôn ọe cả ra.”

Diêu Quang tuy to gan lớn mật, nhưng nói ra những lời đáng xấu hổ này xong e thẹn đỏ ửng cả hai má.

Khánh Kỵ nghệch mặt ra, trừng mắt nhìn ba mỹ nhân hồi lâu, đột nhiên mở miệng cười khanh khách như điên: “Ha ha ha ha…, ta thấy mấy nàng hôm nay cứ khác lạ so với ngày thường, thì ra các nàng là vì chuyện đó, ha ha ha…”

“Chàng còn cười, chàng còn cười được à…” Tiểu Man tức tối giậm chân đùng đùng: “Hai nước Ngô và Lỗ ít nam nhân đồng tính, đại vương đường đường là nam tử hán, bị một tên nam nhân mê đến điên đảo đầu óc, không sợ bị dân chúng chê cười sao? Chàng nếu không vừa ý ba tỉ muội thiếp hầu hạ, với thân phận đại vương một nước của chàng, muốn chiêu nạp mỹ nhân thế nào vào cung mà chẳng được? Chúng ta… chúng ta dù cho có thêm mấy tỉ muội hầu hạ chàng, cũng tốt hơn… tốt hơn tranh giành phu quân với một tên nam nhân.”

Tiểu Man đối với chuyện nam nữ không còn ngu ngơ như thuở trước nữa, nói ra chuyện này cũng thấy ngại ngùng, nhưng nhìn vẻ mặt hậm hực của nàng, đủ hiểu tuy cảm thấy nói ra chuyện này không hay ho gì, nhưng lại không thể chấp nhận việc phu quân của mình thích sủng ái một tên nam nhân.

Khánh Kỵ cười đến nỗi đau cả bụng, vỗ đùi cái đét: “Ba nàng đó, ha ha ha…, theo ý quả nhân, các nàng không việc gì làm thì đi chèo thuyền, câu cá, du sơn ngoạn thủy hay săn bắn giải khuây, hoặc đi thăm viếng dân chúng để hiểu nỗi khổ của dân cũng được, quả nhân đâu có nhốt các nàng lại đâu, hà cớ gì không việc gì làm thì suy nghĩ lung tung, quả nhân thích nam nhân bao giờ chứ? Quả thật có nam nhân làm cho quả nhân động lòng, trừ khi hắn có đôi chân dài thon thả của Diêu Quang, chiếc eo bé bỏng mềm mại của Nhược Tích, vẻ tinh nghịch đáng yêu của Tiểu Man, nhưng nam nhân như thế thì trên thế gian chưa từng xuất hiện nhỉ?”

Nhược Tích và Diêu Quang nhìn vào nhau, Nhược Tích vội hỏi: “Đại vương đi gặp Di Hạ, có thật là không… không làm gì… với hắn…”

Khánh Kỵ quả quyết: “Đương nhiên là không rồi.”

Nhược Tích thở phào nhẹ nhõm, e thẹn nói: “Thần thiếp nghe nói mỗi khi đại vương đi dự yến tiệc cùng Di Hạ, đều đơn độc đi cùng hắn đến một căn phòng phía sau quán trọ, ít thì hơn một canh giờ, nhiều thì suốt mấy canh giờ, các thị vệ cận thân đều bị đuổi hết ra ngoài, nghĩ đến tên Di Hạ này vốn là man đồng của Vệ hầu, nên mới hiểu lầm… hiểu lầm…”

Diêu Quang lại không chịu dễ dàng tin vào lời giải thích của Khánh Kỵ, vẫn cứ nhìn trưng trưng: “Nếu đại vương không có chuyện mờ ám với tên Di Hạ, vì lí do gì không bày yến tiệc ở bên ngoài sảnh, lại chạy đến phía sau quán trọ lén lút gặp mặt, hai nam nhân với nhau, có chuyện tâm tư gì mà cần bày tỏ cùng nhau nào?”

Khánh Kỵ cười khanh khách: “Các nàng đoán sai hết cả rồi. Quả nhân tuy cùng hắn bước vào quán trọ, nhưng người quả nhân gặp không phải là hắn, mà là gặp một đại mỹ nhân xét dung mạo thân hình đều không hề thua kém các nàng.”

Tiểu Man vừa mới nói chấp nhận cho Khánh Kỵ tuyển chọn thêm một số mỹ nhân vào cung lập tức trợn mắt lên, chất vấn hắn liên tục: “Cái gì mà mỹ nhân? Họ tên là gì? Người ở đâu? Đại vương vừa mới nạp ba hoàng phi còn chưa được một tháng, trong lòng còn không thấy mãn nguyện ư?”

Khánh Kỵ biết ngay tình hình không ổn, vừa rồi ba mỹ nhân tưởng hắn đi lén lút với nam nhân, trong lòng khó tránh khỏi ấm ức phiền muộn, bây giờ nghe nói hắn đi gặp mặt nữ nhân, lại còn là một đại mỹ nhân nữa, trong lòng lại nổi cơn ghen. Khánh Kỵ vội ứng biến, làm ra vẻ mặt tội nghiệp: “Quả nhân chỉ đùa giỡn một chút với các nàng thôi mà, quả nhân có bản lĩnh lớn đến đâu đi chăng nữa, cũng không dễ dàng gì kiếm được mỹ nhân xinh xắn hơn các nàng về đây chứ? Không giấu gì các nàng, quả nhân và Di Hạ đang bàn luận một đại sự, quả nhân muốn giúp Vệ quốc một việc lớn, đổi lại Vệ quốc sẽ cắt Bành thành để đáp tạ, việc hệ trọng cơ mật, tất nhiên phải cẩn thận hành sự.”

Ba người Tiểu Man nghe xong, mối nghi ngờ tiêu tan, Nhược Tích vội tạ lỗi với Khánh Kỵ: “Đại vương, là tỉ muội Nhược Tích trách lầm đại vương, đêm nay hay là cho phép Nhược Tích cùng hai vị muội muội Diêu Quang, Tiểu Man bày yến tiệc tạ lỗi với đại vương vậy.”

Nhược Tích nói xong cúi đầu e ấp, Diêu Quang và Tiểu Man kế bên cũng đỏ chót cả mặt, nhưng hai người không ai lên tiếng phản đối. Từ khi đêm tân hôn ba cô gái bị Khánh Kỵ cưỡng ép cùng qua đêm với nhau, một tối phong lưu xong, Diêu Quang và Tiểu Man đều đã hiểu chuyện, từ đó không chịu đồng ý cho Khánh Kỵ làm chuyện hoang đường bốn người ngủ chung giường nữa, Khánh Kỵ năn nỉ mấy nàng nhiều lần cũng không được, làm hắn mỗi khi nổi hứng lên phải đi tuần đêm, chạy hết cung này đến cung khác. Giờ đây thấy Khánh Kỵ bận tâm việc nước, ba người lại không giúp sức được phần nào, ngược lại còn suy nghĩ lung tung, ba mỹ nhân thấy có lỗi với Khánh Kỵ nên e ấp chủ động đưa ra đề nghị này.

Khánh Kỵ nhìn thấy ba mỹ nhân e lệ kiều diễm trước mặt, không khỏi hứng khởi lên lập tức, nhưng nghĩ đến việc Tần quốc xuất binh không nên chậm trễ, nhưng lại không chịu bỏ qua dịp may hiếm có, hắn đưa tay ra kéo một cái, Nhược Tích ây da một tiếng ngả vào lòng hắn, Khánh Kỵ cúi xuống rúc đầu vào khe ngực mê hồn của nàng ta, hít lấy hít để mùi thơm thoảng thoảng tiết ra, hôn lên bầu ngực tròn trịa như trái đào của nàng, vẻ đê mê không nỡ rời xa, cười nham nhở: “Đó là ba vị mỹ nhân đề nghị với quả nhân đó nha, hí hí, nhưng… yến tiệc tạ lỗi này tạm thời phải gác lại, quả nhân đêm nay không thể ở trong cung, một lát nữa quả nhân phải rời khỏi Cô Tô thành, đích thân đi Nhâm gia bảo một chuyến.”

Nhâm Nhược Tích ngớ người, ngạc nhiên hỏi: “Đại vương đi… đi Nhâm gia bảo để làm gì?”

Khánh Kỵ nói: “Tất nhiên là đi gặp em gái nàng rồi, chính là Nhâm thị gia chủ hiện giờ Nhâm Băng Nguyệt nhị tiểu thư đó.”

Nhâm Nhược Tích, Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man cùng lộ vẻ mặt quái lạ, Khánh Kỵ lạnh toát cả sống lưng: “Không phải chứ? Các nàng lại nghi ngờ quả nhân có ý với Băng Nguyệt đó à?”

Thúc Tôn Diêu Quang phụng phịu: “Khi xưa bao vây tấn công Cô Tô thành, thiếp đã nhận ra rồi, hứ! Chàng nhìn nhị tiểu thư Nhâm gia ánh mắt khác với người khác, nếu không phải là sớm có ý đồ với người ta, nàng ấy gào thét chửi bới chàng, mạo phạm quân uy, sao không thấy chàng nổi giận, còn cười tủm tỉm có vẻ khoái trí lắm.”

Quý Tôn Tiểu Man hùa theo: “Đúng vậy đúng vậy, thiếp cũng từng nghe người hầu của Nhâm gia to nhỏ với nhau, Hứ! Hai tỉ muội Nhâm gia, chàng muốn đưa hết vào cung đó mà.”

Nhâm Nhược Tích không nói tiếng nào, trong lòng nghĩ thầm: “Đại vương quả nhiên động lòng với muội muội? Băng Nguyệt sau khi biết được đại vương từng nhìn thấy cơ thể của muội ấy, hình như cũng nảy sinh tình cảm với đại vương, tên nha đầu này trước giờ luôn ngang bướng, đột nhiên trở nên tỉ mỉ quan tâm biết người khác, mình còn nhất thời không đoán ra nguyên nhân, nhưng… muội ấy không thù ghét đại vương là được, nếu muội ấy quả thật được đưa vào trong cung, lúc đó…”

Khánh Kỵ không còn kiên nhẫn trừng mắt với ba mỹ nhân: “Thôi nha! Quả nhân muốn trút giận đây, từ khi đăng cơ ngôi vị Ngô vương, quả nhân ra sức trị nước, mỗi ngày đều bôn ba bận rộn, chỉ muốn làm một quân vương hiền đức, một chúa công sáng suốt, nỗi khổ của quả nhân có ai thấu hiểu? Chỉ có ba nàng, không phải suy nghĩ lung tung ta đi dan díu với nam nhân, thì là có ý đồ với người này người kia, ta còn tưởng các nàng là người hiểu ta nhất trên đời này, ba nàng ai cũng là hồng nhan tri kỉ của ta, ai mà ngờ… thật là tức chết quả nhân đi thôi.”

Nhược Tích nghe vậy có hơi hối hận, sợ lại hiểu lầm Khánh Kỵ, vội hỏi: “Vậy đại vương đi gặp Băng Nguyệt là vì chuyện gì?”

Khánh Kỵ quét mắt một lượt hết ba mỹ nhân, mới hậm hực trả lời: “Đương nhiên là vì chuẩn bị cho quốc quân Tần quốc một lễ vật lớn rồi.”

Ba cô gái đồng thanh kêu lên: “Ồ…”

“Các nàng hiểu ra rồi chứ?”

Nhược Tích thần sắc thiểu não: “Hiểu rồi!”

Diêu Quang hứ một tiếng: “Cũng là vì một nữ nhân!”

Tiểu Man ngún nguẩy: “Vì một nữ nhân của Tần quốc!”

Khánh Kỵ tức anh ách không nói nên lời…

Khánh Kỵ không cho rằng các hồng nhan tri kỉ của hắn ai cũng chuyên quyền như vị nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Hoa Võ Tắc Thiên, nhưng cho dù hắn có mang tư tưởng tiến bộ thời hiện đại thế nào đi chăng nữa, hắn vẫn cứ nghĩ là hậu cung tốt nhất là không can dự vào việc triều chính. Các phi tần ai cũng có gia tộc của mình, tương lai sẽ có con cái của riêng mình, cho dù rộng lượng hiểu biết cỡ nào, họ đều không thể không vì tình cảm riêng tư mà thiên vị cho thân nhân. Thuần khiết như ngọc trai, không mang chút vết ố, hôn nhân và tình yêu như thế chỉxuất hiện trong truyện cổ tích mà thôi, còn trong hiện thực cuộc sống, ai mà không bị các mối quan hệ xung quanh ảnh hưởng chứ?

Nếu bây giờ cho các nàng can dự quá nhiều vào việc triều chính, vậy dựa vào thân phận được sủng ái của các nàng, chắc chắn tạo được sức ảnh hưởng nhất định vào chính sự, tiếp đến là lôi kéo một số đại thần vì lợi ích riêng vào phe của mỗi nàng, sau này còn có khả năng xảy ra nhiều chuyện không vui khác. Vì vậy chi tiết về việc khuyên bảo Tần quốc xuất binh, Khánh Kỵ không hề tiết lộ với ba hồng nhan tri kỉ này nửa câu.

Công chúa Quý Doanh của Tần quốc xuất giá, Ngô quốc đã bỏ ra một số của cải lớn làm sính lễ, giờ Quý Doanh đang trên đường tới Ngô, ngay cả nàng ta trắng đen thế nào, mập ốm ra sao còn chưa biết, hơn nữa con gái lấy chồng xa như thau nước đổ ra ngoài, thân phận công chúa giờ đã chuyển sang đóng dấu ấn đại diện cho Khánh Kỵ, có chạy cũng không chạy đi đâu được rồi, Khánh Kỵ vào lúc này không có lí do gì lại khua chiêng đánh trống đem một mớ lễ vật tặng cho Tần quốc nữa. Chính vì thế ba cô nương nửa tin nửa ngờ lời giải thích của Khánh Kỵ.

Diêu Quang và Tiểu Man còn dễ nói, nếu Khánh Kỵ quả thật muốn tặng lễ vật cho Tần quốc, trong lòng hai nàng tuy có chút ganh tị khi Khánh Kỵ xem trọng Quý Doanh, nhưng thân phận cao quý của Quý Doanh là không thể chối cãi, họ cũng không còn gì để nói. Còn nếu tên háo sắc Khánh Kỵ này có ý đồ với Nhâm Băng Nguyệt, họ cũng không hề nghĩ tới hậu cung chỉ thuộc về ba tỉ muội, chắc sẽ còn nhiều mỹ nhân khác nữa vào chiếm mất địa vị của họ. Tính ra thì Nhâm Băng Nguyệt cũng là một cô nương tính tình thẳng thắn, hòa đồng với họ, nhưng Khánh Kỵ nhanh chóng có ý đồ với cô nương khác như vậy, trong lòng họ đương nhiên không cảm thấy vui chút nào.

Nhâm Nhược Tích lại nghĩ sâu xa hơn, nàng luôn suy nghĩ nếu như đại vương quả thật nạp Băng Nguyệt làm phi tần đưa vào cung, thực ra cũng không phải không tốt. Nữ nhân sớm muộn cũng phải lấy chồng, có phu quân của mình, Khánh Kỵ đương nhiên được nàng đánh giá tốt hơn hết thảy các nam nhân khác, hơn nữa nếu muội muội vào cung, địa vị của hai tỉ muội sẽ vững vàng hơn, sau này nếu hai người hạ sinh vương tử cho Khánh Kỵ, con của hai người cùng là vương tử nhưng xét về quan hệ máu mủ sẽ thân thiết hơn các vương tử khác, như thế cũng tốt hơn cho con của nàng, có lúc nàng lại nghĩ đến cảnh hai tỉ muội cùng hầu hạ một phu quân, cảm thấy xấu hổ e thẹn.

Nhâm Nhược Tích mấy lần muốn nhấc bút lên, định thừa lúc Khánh Kỵ chưa đến Nhâm gia bảo, dặn dò kĩ lưỡng muội muội vài lời, nhưng suy đi tính lại, không thể viết thư được, sự tình này đúng là không biết bắt đầu nói từ đâu, cuối cùng ném bút đi, than thở: “Nói không chừng là mình suy nghĩ lung tung thôi, có thể đại vương không hề có ý gì với Băng Nguyệt, hoặc là Băng Nguyệt không hề muốn vào cung, với tính khí của đại vương, chàng không dựa vào quyền thế cưỡng ép một nữ nhi vào cung hầu hạ đâu, thôi thì tất cả cứ cho ông trời sắp đặt vậy.”

Khánh Kỵ mặc kệ ba mỹ nhân của hắn nghĩ thế nào cũng được, có câu đường dài biết sức ngựa, tháng ngày thấy nhân tâm, phu phụ mới cưới, nhạy cảm với từng hành động của phu quân cũng là điều dễ hiểu, từ từ các nàng ấy sẽ thích nghi thôi, từ từ rồi cũng hiểu cái gì nên hỏi, các gì không nên hỏi, cái gì nên xen vào, cái gì không nên xen vào. Nói tóm lại là phải có một quá trình dạy dỗ, không nhất thiết phải sớm báo cáo chiều trình diện, phơi bày ra tất cả cho ba nàng thấy.

Thật ra ba cô gái suy nghĩ lung tung cũng có lí do, lí do chủ yếu nhất là Khánh Kỵ không cần thiết phải đích thân lo chuyện này, với địa vị đại vương của hắn, nếu muốn tuyển chọn binh khí làm lễ vật, cứ việc ra lệnh cho Nhâm gia bảo vận chuyển vũ khí vào Cô Tô thành là được, nhưng Khánh Kỵ lại đích thân tới đó, Nhâm Băng Nguyệt lại là một tiểu mỹ nhân yêu kiều quyến rũ, các nàng không suy nghĩ lung tung, không lo lắng Khánh Kỵ háo sắc làm bậy mới lạ.

Khánh Kỵ đích thân tới Nhâm gia bảo, lại có suy tính riêng của hắn. Mấy hôm trước người của Nhâm gia bảo vào thành bẩm báo, theo như nhắc nhở của đại vương, giờ đã luyện ra mẻ sắt chất lượng tốt hơn trước, Khánh Kỵ biết rõ vũ khí có tiến bộ, ảnh hưởng đến đại nghiệp của hắn đến mức nào.

Khi xưa Xi Vưu có thể tung hoành thiên hạ, Diêm, Hoàng nhị đế liên kết Thái Hạo, Thiếu Hạo bốn lộ binh mã mà còn đánh nhau vất vả với hắn, đến khi Xi Vưu tử trận, trong truyền thuyết còn miêu tả hắn là con quái vật ba đầu sáu tay, phong làm chiến thần, nhắc đến là biến sắc. Chỉ vì khi đó bộ lạc Xi Vưu đã biết sử dụng vũ khí đồng xanh, còn bộ lạc Diêm Hoàng chỉ sử dụng vũ khí gậy gộc đá tảng, nên sức chiến đấu chênh lệch rõ rệt, nếu họ không phải chiếm ưu thế về quân số, dân tộc Trung Hoa sau này có còn được xưng là Diêm Hoàng tử tôn hay không còn chưa biết được.

Đồ sắt so với đồ đồng, lại là một tiến bộ vượt bậc, trong thời đại giáp chiến bằng binh khí, chất lượng tốt xấu của vũ khí trong một chừng mực lớn quyết định sức chiến đấu mạnh yếu của đôi bên, chứ không phải hoàn toàn dựa vào huấn luyện quân đội. Dân số Ngô quốc có tăng nhanh cỡ nào, muốn đạt đến ngang bằng với các nước Tấn Tề Sở còn cần một khoảng thời gian dài, mà chất lượng vũ khí ưu việt hơn so với các quốc gia khác có thể bù đắp vào nhược điểm về quân số của quân Ngô.

Khánh Kỵ lần này đến Nhâm gia bảo không có thông báo trước, hắn có hơi ăn không tiêu cái kiểu khoa trương đón tiếp của Nhâm gia bảo, nên khi hắn đến dưới thành Nhâm gia bảo, trưởng lão trong thành mới nhận được tin, vội vàng cung kính ra đón tiếp.

“Được rồi, các vị trưởng lão bình thân. Quả nhân lần này bỏ lại hành trang đến Nhâm gia bảo, chính là không muốn các ngươi quá phô trương. Các vị lão nhân gia tuổi cao sức yếu, mời đứng dậy cả đi, không cần câu nệ lễ tiết quá làm gì. À phải, Nhâm nhị cô nương đâu?”

Một vị trưởng lão tóc bạc phơ vội bước lên bẩm tấu: “Hồi bẩm đại vương, gia chủ đang ở hậu sơn giám sát việc rèn luyện binh khí, tiểu nhân nghe báo đại vương giá lâm, vội chạy ra nghênh đón còn chưa kịp thông báo cho gia chủ biết, thật là thất lễ, tiểu nhân cho người đi…”

Khánh Kỵ hớn hở ngắt lời: “Không cần đâu, không cần đâu, muội ấy đang bận thì không cần ra đây đâu, quả nhân tới hậu sơn xem thử. À… các vị trưởng lão, quả nhân xưa nay không thích nhiều người theo sau, các vị đều đã tuổi cao, đi lại không tiện, thôi thì không cần đi theo quả nhân, phái một người nào đó dẫn đường là được.”

“Dạ dạ, tiểu nhân tuân lệnh đại vương.”

Trưởng lão kia vội vẫy tay gọi một gia nhân chạy đến, dặn dò dẫn đường cho Khánh Kỵ đến hậu sơn gặp Nhâm Băng Nguyệt. 

“Sao đại vương lại một mình đến gặp nhị cô nương, ngay cả đại cô nương cũng không dẫn theo?”

Một trưởng lão râu bạc bước tới trước mặt, nhón gót lên dò xét Khánh Kỵ đang định bước nhanh về phía hậu sơn.

“Nói cũng phải, còn không cần chúng ta đi theo, chẳng lẽ đại vương…?”

“Ừ, các gia nhân cũng đồn đoán cả lên, xem ra chuyện này là thật…” đại trưởng lão vuốt râu gật gù, tươi cười hớn hở: “Nhâm gia ta nếu có được hai vị hoàng phi, vậy còn công khanh thế tộc nào ở Ngô quốc bằng với Nhâm gia ta nữa? A ha ha ha…”

“Đại ca, đại ca, huynh đừng cười nữa, nhị cô nương suốt ngày ở với cả đám nam nhân tại công trường, đại vương mà nhìn thấy thì…”

Vị trưởng lão râu bạc đang cười toe toét chợt ngưng bặt, vẻ lo lắng hiện ra trên khuôn mặt: “Ây da, ta đúng là già quá đâm ra hồ đồ, mau, mau phái người chạy đường tắt đến báo với nhị cô nương thay đổi y phục, trang điểm sửa soạn một chút…”

Một tên gia nhân nhận lệnh vội vã chạy theo lối tắt vòng ra hậu sơn.

Trong một sơn động phía hậu sơn tiếng leng keng vang ra, phía trên nóc hai cột khói đen bốc cao, trong tiếng động hỗn tạp ồn ào, một gia nhân xông vào kéo Nhâm Băng Nguyệt ra khỏi sơn động. Khói hun đầy mặt, Băng Nguyệt đang hớn hở ra mặt, khen lấy khen để: “Hi, tên Khánh Kỵ này đúng là có chút tài cán, dùng đầu đá đen này tinh luyện nước sắt làm ra sản phẩm chất lượng tốt hơn trước nhiều lần, ha ha ha…”

“Nhị cô nương, đại vương tới Nhâm gia bảo rồi, đại bá bảo gia chủ nhanh quay về chỉnh trang sửa soạn…”

“Khánh Kỵ tới đây à? Vậy tỉ tỉ của ta đâu?”

“Ơ…không thấy có đại tiểu thư đi cùng.”

Nhâm Băng Nguyệt chống tay ngang hông, trừng mắt nghi hoặc: “Vậy hắn chạy đến đây làm chi? Bộ rảnh quá không việc gì làm à?”

Tên gia nhân chạy đến báo tin mình đầy mồ hôi, giậm chân liên hồi giục giã: “Nhị cô nương ơi, người ta là đại vương mà, muốn đi đâu thì đi cần báo cáo với chúng ta nguyên nhân lí do chứ?”

Nhâm Băng Nguyệt gật đầu: “Nói cũng phải, nhưng lúc này đang là thời khắc quan trọng của việc rèn luyện binh khí. Ta không muốn rời khỏi đây, ngươi đi báo với các trưởng lão bày yến tiệc tiếp đãi đại vương chu đáo, cho các cô ca kĩ múa hát góp vui cho hắn, ta lo xong việc sẽ đến gặp mặt.”

“Nhị cô nương, nhị cô nương à.” Người kia kéo vội tay áo của Nhâm Băng Nguyệt, nói gấp gáp: “Không được đâu, đại vương đang đi đến đây đó.”

Nhâm Băng Nguyệt trợn mắt nhìn tên gia nhân, rồi lại đưa tay sờ lên trán của hắn, hậm hực nói: “Tứ ca à, bộ não của ngươi có vấn đề hay sao? Nếu hắn đang đi đến đây, còn bảo ta đi thay y phục trang điểm để làm gì. Quả thật là nhảm nhí, thôi được rồi, ngươi cứ đứng chờ ngoài này, khi nào hắn tới thì gọi ta, ta đi vào lo việc tiếp…”

“Không được đâu nhị cô nương, đại bá có dặn…” Tên Tứ ca đó kéo lấy tay áo Nhâm Băng Nguyệt không chịu buông, đúng lúc này xe ngựa của Khánh Kỵ đã chạy băng băng tới sơn động, chỗ này hắn cũng từng tới qua, biết là Nhâm Băng Nguyệt đang ở đây, hắn nôn nóng bỏ lại tên gia nhân dẫn đường, chạy nhanh đến trước.

“Nhâm Băng Nguyệt cô nương đang ở đâu?” Khánh Kỵ nhìn thấy có hai bóng người xa xa, bèn cất cao giọng hỏi.

Khánh Kỵ đang mặc thường phục, Nhâm Băng Nguyệt bị ánh nắng chói vào mắt chưa nhìn rõ được tướng mạo của hắn, liền hung hăng quát lên: “Tên khốn nhà ngươi là đệ tử thuộc phòng nào, không biết lớn nhỏ gì cả! Tên của bổn cô nương mà ngươi dám gọi thẳng vậy hả?” 

Khánh Kỵ giật mình, vội tiến tới vài bước nhìn kĩ lại, thấy người trước mặt ăn mặc như một nam nhân, chiếc áo vải thô không khác gì các tạp dịch kia, đầu tóc rối tung, mặt đen sì sì, chỉ có đôi mắt đang chớp chớp, nhìn mắt mũi tai miệng của hắn cũng tao nhã, hình như là…

Khánh Kỵ kinh ngạc kêu lên: “Nhâm Băng Nguyệt!”

“Hừ, to gan, ngươi còn dám gọi nữa! Tên tiểu tử không biết phép tắc nhà ngươi, ngứa ngấy mình mẩy có đúng vậy không hả?” Nhâm Băng Nguyệt gằn giọng dọa nạt, tiến tới một bước, đưa mặt sát vào người đối diện, chợt giật nảy mình kinh hãi: “Đại vương!”

Tên gia nhân kia vội qùy xuống hành lễ, Khánh Kỵ ngơ ngác nhìn bộ dạng của Nhâm Băng Nguyệt, hoàn toàn không giống với hình ảnh cô nương mỹ miều trong kí ức của hắn: “Muội…muội sao mà ăn mặc thế này?”

“Ăn mặc thế này thì sao?” Nhâm Băng Nguyệt ngạc nhiên giơ tay lên nhìn hồi lâu, sau đó phân trần: “Tỉ tỉ nói muốn làm một gia chủ hợp tiêu chuẩn phải tận lực góp sức, hiểu rõ việc nhà như lòng bàn tay, như thế người ta mới không lừa gạt mình được, nên muội mới đến giám sát quá trình tinh luyện binh khí, mình phải hiểu rõ cách làm mới được đúng không nào? Không ăn mặc thế này chẳng lẽ mặc áo lụa tơ tằm vào công trường à?”

Nhâm Băng Nguyệt giải thích một hồi, bản thân cũng cảm thấy tức cười, nhịn không được bật cười hô hố.

Khánh Kỵ thấy hơi tức cười, nhưng lại thấy an tâm: “Ờ, thật là đáng khen, Nhâm nhị tiểu thư trước đây ngay cả bình dầu nghiêng đổ cũng không chịu đưa tay đỡ lấy nay đã hiểu chuyện, khôn lớn rồi nhỉ, hô hô…, nhưng nữ nhân vẫn cứ là nữ nhân, sao muội nói năng trở nên hung dữ quá vậy?”

Nhâm Băng Nguyệt dáo dác nhìn xung quanh, lại gần Khánh Kỵ nhón gót lên ghé tai hắn nói nhỏ: “Suỵt, đừng la to, muội giả bộ thế đấy, tỉ tỉ nói những người làm công nhà muội toàn là bọn nam nhân vạm vỡ thô lỗ, mấy tên đó khó dạy bảo lắm, chúng hung dữ thì muội phải hung dữ hơn chúng, chúng làm tới thì muội độc ác luôn, như vậy mới khống chế chúng được. Hi hi, muội làm ra bộ dạng dữ tợn, đúng là chúng tỏ ra nghe lời, còn ngoan ngoãn hơn lúc tỉ tỉ còn ở đây.”

Nói đến thành tích, Nhâm Băng Nguyệt vênh mặt đắc ý, ra vẻ ta đây tài giỏi.

Khánh Kỵ thấy tức cười nói: “Nhưng…khi xưa tỉ tỉ của muội làm gia chủ đâu có giống như muội bây giờ?”

Nhâm Băng Nguyệt bướng bỉnh lắc đầu: “Muội có cách riêng của muội, đương nhiên khác với tỉ tỉ rồi. À phải, đại vương, sao tỉ tỉ không cùng đến đây với ngài, muội hơi nhớ tỉ ấy.”

“Hô hô, nếu nhớ tỉ tỉ thì muội hãy đến Cô Tô gặp nàng ấy, lần này quả nhân không tiện đưa nàng ấy đi theo.”

“Sao mà không tiện?” Nhâm Băng Nguyệt xoay tròn đôi mắt, nhảy nhót xung quanh: “Hay là tỉ tỉ sắp sinh rồi?”

“Nha đầu này!” Khánh Kỵ khóc cười không được lườm Băng Nguyệt một cái: “Vừa mới khen muội thông minh nay lại trở về ngờ nghệch rồi à, mới đại hôn có hơn một tháng sao mà sinh được?”

“Ây da!” Nhâm Băng Nguyệt tự gõ vào đầu mình, lại tủm tỉm bí hiểm nói: “Đừng có gạt muội, tuy tỉ tỉ mới vào cung chưa lâu, nhưng mà…he he…người ta đâu có ngốc, tưởng muội không nhìn thấy à? Hứ…”

Khánh Kỵ xấu hổ trong lòng, nhủ thầm: “Nha đầu này có ý là…, Nhược Tích không phải nói cả chuyện đó cho muội muội nghe chứ?”

Hắn làm ra vẻ nổi giận: “Nha đầu, muội không phải ngốc, mà là ranh ma, được rồi chứ? Thôi không nói chuyện này nữa, quả nhân nghe nói Nhâm gia bảo đã luyện được mẻ sắt hảo hạng, lần này đến đây xem thử coi sao. Muội đừng để quả nhân thất vọng, mau đem binh khí đã rèn xong lại đây cho quả nhân xem qua.”

Nói đến binh khí, Nhâm Băng Nguyệt hưng phấn cả lên, quả nhiên quên béng hết chuyện tào lao vừa nãy: “Đại vương, chúng thần nghe theo cách luyện sắt mà đại vương chỉ bảo, đúng là chất lượng binh khí được nâng cao rõ rệt, nhưng hãy còn chút giòn, đánh kiếm vào nhau thử thì so với trước số lần va chạm tăng lên bốn phần, nhưng đến sau cùng cũng khó tránh gãy tan, chúng thần không ngừng thử lại, thêm vào các loại vật liệu, xây thêm lò rèn, tăng cường độ che kín, nâng nhiệt độ lên, rốt cuộc tìm được loại đầu đá đen đại vương đã nói đến…”

Khánh Kỵ nôn nóng muốn biết, vội hỏi dồn: “Kết quả thế nào?”

Nhâm Băng Nguyệt lè lưỡi: “Vẫn chưa được.”

Khánh Kỵ tức tối, đưa tay định cốc đầu cô nương, Nhâm Băng Nguyệt nhảy phốc sang một bên, cười hi hi nói: “Nhưng sư thúc của muội lại nghĩ ra một cách, đồng dẻo mà không bền, sắt cứng nhưng không dai, sư thúc thử trộn đồng và sắt theo tỉ lệ với nhau tiến hành rèn thử, hy vọng hai loại kim loại này bổ sung khiếm khuyết cho nhau…”

Khánh Kỵ nghe thấy có chút hy vọng, lại hỏi dồn: “Lần này thì sao?”

“Hi hi, thành công rồi!”

Khánh Kỵ mừng rơn: “Thật đó à?”

“Đương nhiên là thật.” Nhâm Băng Nguyệt ngạo nghễ vênh mặt, sau đó lại xìu xuống: “Nhưng chất lượng kiếm rèn ra không được ổn định lắm, lúc tốt lúc không tốt, chúng thần bèn không ngừng thí nghiệm, trước sau tổng cộng đã rèn ra hơn ba ngàn thanh kiếm, số kiếm này có sắc bóng hơn kiếm thường rất nhiều, nhưng khó tránh khỏi vẫn còn tì vết, sư thúc từ hơn ba ngàn thanh kiếm này đúc kết ra một số kinh nghiệm, hôm nay đang rèn thử tiếp, lần này rèn thử mười thanh đồng thiết kiếm, nếu thành công, vậy có thể chứng minh cách của chúng ta là đúng, đến lúc đó…”

Vừa nói đến đây, trong động vang lên tiếng tung hô háo hức như sóng lớn xô bờ, sau đó một bóng người gầy gò lủi thủi từ trong sơn động bước ra, trên tay cầm thanh kiếm dài độ ba thước, đang hoan hỉ kêu to: “Nhị tiểu thư, thành công rồi, nhị tiểu thư, thành công rồi, mười thanh kiếm đều rèn thành công hết.”

“Cái gì?” Nhâm Băng Nguyệt thoáng chốc ngạc nhiên rồi hùa theo tiếng reo hò phấn khích, bỏ mặc Khánh Kỵ chạy về phía người kia, hỏi han vài câu, ôm chầm lấy nhau, vừa cười vừa nhún nhảy.

Khánh Kỵ nhìn vào người này, cùng là ăn mặc áo bào ngắn vải thô, mặt mũi bị khói hun đen nhẻm, lại toát ra vẻ tinh nghịch, hình như là thị nữ cận thân Thanh Vũ của Nhâm Băng Nguyệt.

“Băng Nguyệt, lần này…thành công rồi có đúng không?”

Đợi khi cơn phấn kích của hai người qua đi, Khánh Kỵ mới chế ngự niềm vui sướng dâng lên trong lòng, bước lại gần hỏi chuyện.

“Đúng vậy, mời đại vương xem, đây chính là thanh kiếm sắc bén mới rèn xong, mười thanh kiếm chất lượng giống nhau, cuối cùng chúng ta đã tìm ra cách giữ ổn định chất lượng mẻ sắt rồi, ha ha ha…”

Có lẽ là đóng vai nam nhân lâu rồi, Nhâm Băng Nguyệt không còn biết giữ ý tứ nữ nhi nữa, cười khanh khách một hồi, đưa tay đón lấy thanh kiếm từ Thanh Vũ, dâng lên cho Khánh Kỵ xem qua.

Thanh kiếm tuy hãy còn thô kệch, chưa được mài dũa đánh bóng, chưa có đầu nhọn, chuôi kiếm cũng chưa có, sau khi rèn xong để tiện cho việc thử kiếm nên chỉ dùng vải bố quấn lấy một đầu để cầm. Khánh Kỵ đưa kiếm lên xem xét tỉ mỉ, thân kiếm tuy chưa qua mài giũa còn hơi thô, có vài chỗ nhẵn nhụi, dùng tay sờ lên có cảm giác ran rát, ánh kiếm vừa giống màu đồng vừa như màu sắt, ẩn hiện lấp lánh sắc lạnh của kim loại, vì màu đồng âm u, hơn nữa kiếm chưa được mài, không nhìn ra độ sắc bén và độ cứng của nó.

Khánh Kỵ cầm kiếm trên tay, múa vài đường qua lại, quét một vòng thu kiếm lại, sau đó đưa tay tháo Thừa Ảnh kiếm dưới thắt lưng ra, mỉm cười với Nhâm Băng Nguyệt: “Nào, cầm lấy!”

Hắn ném cả thanh kiếm qua đó, Nhâm Băng Nguyệt đưa tay bắt lấy, đưa gần nhìn thấy hàng chữ khắc trên chuôi kiếm, kinh ngạc kêu lên: “Thừa Ảnh bảo kiếm!”

“Đúng vậy, chính là Thừa Ảnh kiếm.” Khánh Kỵ xoay xoay vai, múa nhè nhẹ thanh kiếm mới rèn trên tay, phát ra giọng âm u: “Nào, muội dùng Thừa Ảnh kiếm, vận hết sức chém ta một kiếm nào.”

“Cái gì?”

Nhâm Băng Nguyệt biến sắc, vội lắc đầu nguầy nguậy: “Không được không được, Thừa Ảnh kiếm là thần khí nổi danh trong thiên hạ, sắc bén vô cùng, thanh kiếm muội rèn có tốt đến đâu cũng khó mà so sánh với thần khí này, ngộ nhỡ đả thương đại vương, lúc đó có chặt Băng Nguyệt ra làm trăm mảnh cũng không đền hết tội, Không làm đâu, không làm đâu, muội đâu có ngu.”

“Kêu muội làm thì cứ làm đi, quả nhân sợ muội chân yếu tay mềm nên mới đưa muội cầm Thừa Ảnh kiếm, quả nhân cầm kiếm này để đỡ. Yên tâm đi, nếu kiếm có gãy, quả nhân tự biết né tránh, dựa vào sức và thân thủ của muội không làm ta thọ thương được đâu. Nào, nghe lời đi, dùng hết sức chém vào ta.”

“Nhưng…muội…” Nhâm Băng Nguyệt khó xử, chỉ biết đứng đó lắc đầu.

Khánh Kỵ trừng mắt nghiêm nghị: “Nhâm nhị tiểu thư không sợ trời không sợ đất sao giờ trở nên nhát gan rồi? Yên tâm đi, quả nhân đứng né sang một bên, sẽ kịp tránh ra mà, nào, chém đi!”

“Thế thì…, thôi được!” Nhâm Băng Nguyệt cắn chặt răng, dồn hết tất cả lòng can đảm, từ từ giơ kiếm lên.

Thanh Vũ và hai tên gia nhân đứng kế bên nín thở theo dõi, Viên Tố đưa tay nắm chặt chuôi kiếm, chỉ cần tình hình không hay, lập tức xuất kiếm chống đỡ cho Khánh Kỵ.

“Hây ya!” Nhâm Băng Nguyệt khẽ hét lên, ưỡn lưng vận sức, hai tay giơ thẳng thanh kiếm lên cao, chém xuống một nhát mạnh.

“Keng” vang lên lảnh lót, hai kiếm va nhau, Khánh Kỵ vẫn đứng vững, thu kiếm lại trước ngực đưa ngón tay vuốt nhẹ, sau đó giơ kiếm lên lần nữa, gằn giọng: “Tốt lắm, chém một nhát nữa nào.”

Nhâm Băng Nguyệt khom lưng giữ chặt kiếm, hai mắt mở to, thấy thanh kiếm của Khánh Kỵ không suy suyển gì, thế mới yên tâm thở phào, không những to gan hơn mà còn vui mừng ra mặt, vừa nãy nàng không dám dùng hết sức, chỉ sử dụng bảy phần sức lực thôi, lần này tự nhiên muốn thử tiếp coi sao: “Đại vương cẩn thận, muội chém đây, Hây!”

Nhâm Băng Nguyệt lui lại mấy bước tạo thế, như chú mèo con đang chuẩn bị vồ mồi, đột nhiên nhảy lên không trung, vung kiếm sáng loáng, chém một nhát mạnh xuống, chỉ nghe “Choang” một tiếng vang lên khô khốc, Nhâm Băng Nguyệt tiếp đất lảo đảo, sau khi đứng vững mới đưa mắt nhìn Khánh Kỵ, nửa thanh kiếm gãy rơi keng xuống dưới đất.

Trong khoảnh khắc, tất cả mọi người đều nghệch mặt ra, người nào người nấy đứng trưng trưng như pho tượng gỗ, Nhâm Băng Nguyệt đang cầm thanh Thừa Ảnh kiếm bị gãy, không dám tin vào mắt mình, thất thanh tự nhủ: “Sao lại có thể…sao mà như vậy được…, nó…nó là Thừa Ảnh thần kiếm mà!”

Khánh Kỵ cũng cảm thấy bất ngờ, giơ thanh kiếm trên tay lên, ngửa mặt cười to, tiếng cười của hắn văng vẳng vang vọng trong khe núi: “Ha ha ha…, kiếm tốt, kiếm tốt, quả nhiên là kiếm tốt, ha ha ha…”

Hắn thấy Nhâm Băng Nguyệt đang đứng trơ ra đó, vội thu kiếm bước lại gần, vỗ vào nàng ta một cái, mỉm cười nói: “Này, có phải rèn ra được thanh kiếm tốt, vui quá khờ mất luôn rồi?”

Nhậm Băng Nguyệt nghi ngờ nhảy cẫng lên: “Không thể nào, tuyệt đối không thể nào, đại vương dùng kiếm gì đó gạt muội? Đây không phải là Thừa Ảnh kiếm đúng không? Sao muội có thể rèn ra kiếm chém gãy Thừa Ảnh kiếm được, điều đó là không thể nào…”

“Có gì mà không thể?” Khánh Kỵ đang vui, cười tủm tỉm nói: “Đừng cho là những thứ cổ xưa được truyền tụng là tốt nhất, mà cho dù có tốt nhất cũng là lúc bấy giờ, lưu truyền đến nay thì người ta chỉ còn nhớ truyền thuyết về nó, lại quên đi năm tháng trôi qua, Thừa Ảnh kiếm chém đinh chặt sắt, điều đó không sai, nhưng nó chém đinh chặt sắt không phải kim loại của hôm nay, kim loại mấy trăm năm trước tinh luyện ra sao có thể so sánh với hôm nay chứ? Chúng ta rèn ra binh khí tốt hơn người xưa là chuyện bình thường, nếu ngược lại không bằng người xưa, há chẳng phải trở thành trò cười à?”

Người trong động vẫn chưa trấn tỉnh sau cơn mê, danh tiếng của Thừa Ảnh kiếm quá lớn, tuy nói nó tồn tại đã lâu, nhưng trong quan niệm của họ một thanh bảo kiếm được truyền tụng lâu đời bỗng chốc biến thành đống sắt vụn, họ đương nhiên chưa thể chấp nhận.

Khánh Kỵ lại cảm thấy thỏa mãn, hí hửng nói tiếp: “Quả nhân từng nghe kể một câu truyện, có một hiệp khách, từ bé đã khổ luyện võ nghệ, luyện được một thân võ nghệ cao cường vạn người khó địch, hắn còn thiếu một thanh bảo kiếm, thế là đi khắp chân trời góc biển tìm thần binh lợi khí. Trải qua rất nhiều năm, cuối cùng hắn cũng tìm được một thanh kiếm quý được xưng tụng ngàn đời, sau đó hắn cầm kiếm đi khiêu chiến với người khác, kết quả bị đâm một nhát, kiếm gãy, còn hắn chết tươi.

Hừ, nếu hắn tay không quyết đấu, với võ nghệ đó không dễ bỏ mạng, tên ngốc đó chính là chết vì quá tin tưởng vào danh tiếng xưng tụng của người xưa, không biết rằng vạn vật trên thế gian đều không ngừng phát triển, cái trước đây không mạnh bằng cái bây giờ, cái bây giờ sẽ kém hơn cái sau này, sao lại có món gì từ thời thượng cổ lại tốt hơn bây giờ chứ? Chỉ là lòng người cứ tin là thế mà thôi, chính vì tin thế nên không dám so sánh, còn đem ra so sánh thử thì như thế đó… Ha ha ha…”

Nhâm Băng Nguyệt ngây ngô một hồi, cũng đang đứng đó lẩm bẩm: “Hay quá, mình lại làm ra được binh khí tốt hơn cả Thừa Ảnh kiếm. Phụ thân, tỉ tỉ, đại vương, vì rèn ra kiếm tốt, muội đã rèn hơn ba ngàn thanh kiếm, ngài không thể vì có thanh kiếm này rồi, bỏ hết ba ngàn mấy cây kia đó, tốn bao nhiêu là tiền, hiện giờ các nước ngưng chiến, lại không bán ra được…”

“Nha đầu ham tiền này, ha ha, yên tâm đi, có người mới đưa tới cho quả nhân cả một thuyền kì trân dị bảo, ta dùng một phần ba đổi lấy ba ngàn thanh kiếm kia, nhưng Nhâm gia bảo phải phụ trách chuyển chúng đến bến tàu, quả nhân muốn dùng làm lễ vật tặng người khác.”

“Được, được mà…” Nhâm Băng Nguyệt làm ra thanh kiếm tuyệt thế, ba ngàn thanh kiếm kia lại bán ra được, gật đầu lia lịa như gà con mổ thóc.

Đúng lúc này, các thợ rèn trong động ùa cả ra, vừa thấy Nhâm Băng Nguyệt, vội dừng bước tung hô: “Nhị cô nương, chúng ta thành công rồi, chúng ta thành công rồi…”

Một gia tướng kế bên thấy hình như đám thợ không để ý có Khánh Kỵ ở đó, vội ho một tiếng, cất giọng lảnh lót: “Đừng kêu gào nữa, trước mặt đại vương không được vô lễ.”

Đám thợ rèn ai nấy thất kinh hồn vía, vội quỳ xuống dập đầu: “Tiểu dân tham kiến đại vương.”

Khánh Kỵ giờ này quá đỗi vui mừng, đâu trách cứ mấy chuyện nhỏ nhặt này, bèn xua tay: “Miễn lễ miễn lễ, bình thân, đứng dậy cả đi.”

Nhâm Băng Nguyệt bước tới đỡ một người trong đám thợ đang quỳ, tươi cười hớn hở giới thiệu với Khánh Kỵ: “Đại vương, vị này chính là tiểu sư thúc của muội, cùng phụ thân và sư bá Âu Dã Tử của muội bái một vị sư phụ học thuật rèn binh khí.”

“Hử?” Khánh Kỵ vội bước đến xem mặt vị tiểu sư thúc, người này mới ngoài ba mươi, nước da ngâm đen, thân hình vạm vỡ, khuôn mặt nở nụ cười sâu hoắm, trên mặt trên cổ toàn là vết sẹo do lúc rèn sắt bị tia lửa bắn phải, có hơi rợn người. Khánh Kỵ không câu nệ đưa tay nắm lấy bàn tay chai sừng của hắn, mở lời khen ngợi: “Ngươi rèn ra loại kiếm tốt thế này, lập được công lao lớn cho Ngô quốc ta, ngươi tên gì vậy?”

Nhâm Băng Nguyệt nói xen vào: “Vị tiểu sư thúc của muội tên là Can Tương.”

“Can Tương ư?”

Đến lượt Khánh Kỵ ngạc nhiên kêu lên: “Can Tương! Vậy Mạc Tà đâu?”

“Ơ, sao ngài biết tên sư thẩm của muội?” Nhâm Băng Nguyệt vui mừng nhún nhảy tưng tưng, lại kéo một người bước ra: “Vị này chính là tiểu sư thẩm của muội Mạc Tà nè.”

Hai phu phụ Can Tương, Mạc Tà là nhân vật có tiếng tăm trong nghề rèn binh khí, nhưng cơ hội tiếp xúc với quan phủ không nhiều, đâu dám mơ được gặp Ngô vương Khánh Kỵ. Hai người run lẩy bẩy bước tới bái lạy Khánh Kỵ, cứ quỳ mọp dập đầu liên tục, trong một lúc không biết nói gì mới phải.

Khánh Kỵ đang vui, bèn lấy lí do có công lao rèn kiếm, gia phong Can Tương làm hạ đại phu, nhận chức ti quan dưới quyền đại tư không, khiến Can Tương vốn bộc trực nhân hậu nhất thời kinh hãi há hốc miệng.

Khánh Kỵ mỉm cười: “Quả nhân xưa nay luôn trọng người tài, với trường hợp của ngươi, có công lao lớn sáng tạo binh khí lợi hại cho Ngô quốc ta nên mới được gia phong chức quan, không phải quả nhân cố tình thiên vị đâu, ái khanh không cần chối từ. Gia nghiệp của Nhâm gia là chế tạo binh khí, có mối quan hệ mật thiết với phát triển của Ngô quốc, đầu năm nay triều đình đã bỏ tiền liên doanh cùng Nhâm gia. Có triều đình chống đỡ, Nhâm gia cứ an tâm tiến hành sáng tạo và rèn ra binh khí tốt. Ngươi sau khi nhận chức quan, vẫn ở lại Nhâm gia, vừa là thợ rèn thuộc Nhâm gia, vừa là quan viên của triều đình, hy vọng ngươi không ngừng cải tiến, rèn ra vũ khí lợi hại hơn nữa.”

Can Tương từ một thợ rèn bình thường, nhảy vọt lên trở thành đại phu thân phận cao quý, làm quan trong triều đình, trong một lúc vừa mừng vừa lo, cứ như đang lơ lửng ngoài chín tầng mây, chỉ biết đứng đó cười ngây ngây dại dại, Mạc Tà thê tử của hắn kế bên kéo nhẹ vạt áo nhắc nhở hắn, Can Tương giật mình vội quỳ xuống khấu đầu tạ ân.

Tin Can Tương được gia phong chức quan lập tức được truyền tụng trên dưới Nhâm gia bảo, các thợ rèn tài năng ngày thường không hề thua kém Can Tương về thân phận, địa vị, thậm chí còn được hắn xưng là lão sư phụ, bây giờ gặp hắn phải cung kính gọi một tiếng đại phu, tất nhiên trong lòng có hơi không phục, đều ngấm ngầm tự nhủ mình phải cố gắng ra sức tạo ra bước phát triển mới trong lĩnh vực rèn binh khí.

Điều này vừa đúng ngay ý muốn của Khánh Kỵ, đạo lí nói một ngàn lần, không bằng một hành động cụ thể bày ra. Một thợ rèn có phát minh sáng tạo độc đáo thì được làm quan, việc này ở những nơi khác là không thể tưởng tượng, những người có tài năng thật sự, đặc biệt là những ai có bản lĩnh cao nhưng thân phận thấp hèn chắc chắn sẽ nghe tin tìm đến, điều đó có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển tiến bộ vượt bậc của Ngô quốc.

Hiện nay các nước trong thiên hạ khó phát triển tiếp, trong một chừng mực lớn là do chế độ cũ sản sinh ra sức cản, các công khanh quý tộc nắm giữ triều chính, phong tỏa đường tiến cử của nhân tài. Ví dụ như Tề và Lỗ, bao nhiêu năm qua đều là thượng khanh thế khanh nắm quyền triều chính, cả triều thần văn võ đều xuất thân dòng dõi quý tộc, tuy hiện nay vẫn được xem là cường quốc, nhưng Tề quốc đang bắt đầu lụn bại, Lỗ quốc thì chìm xuồng từ lâu, đó là một lí do quyết định sự hưng suy của đất nước là vậy.

Lễ vật hai nước Vệ Tống dùng hối lộ Tần quốc, chẳng qua chỉ là châu báu mỹ nữ, như thế không đủ đánh động Tần quốc, hơn nữa hiện giờ Khánh Kỵ không muốn để quốc quân Tần quốc ôm mỹ nhân uống rượu xem ca vũ, vùi đầu hưởng lạc, rút vào Quan Trung sống qua ngày, Tần quốc hiện nay không yếu cũng không mạnh rất có lợi cho phát triển của Ngô quốc, nhằm nâng cao sức chiến đấu của quân Tần, hắn muốn lấy một phần châu báu của Vệ quốc thu mua binh khí từ Nhâm gia đem tặng Tần quốc, một là có thể cổ vũ Nhâm gia tiếp tục sản xuất, bỏ vốn vào xong lấy ra sau;

Hai là ba ngàn thanh kiếm hảo hạng, đủ để trang bị cho cả một đội quân, giúp quân Tần nâng cao sức chiến đấu khi giao chiến với quân Tấn. Điều quan trọng nhất là, sau khi quân Tần chứng thực sự lợi hại của món binh khí này trên chiến trường, liên minh của Tần và cả kẻ địch đều sẽ biết số binh khí này xuất xứ từ Ngô quốc. Lúc đó nói về thực lực của Ngô, các nước chư hầu trung nguyên sẽ không dám xem thường.

Đồng thời, sẽ có rất nhiều quốc gia thông qua đường lối khác nhau chạy đến Ngô quốc thu mua binh khí, Ngô dùng Tần quảng cáo giùm binh khí trên chiến trường, sau đó làm ăn buôn bán binh khí với chư hầu thiên hạ, thông qua buôn bán binh khí đổ dầu vào lửa cho các nước chư hầu xung đột, từ đó xúc tiến phát triển sự ảnh hưởng của Ngô lên các nước khác.

Ngược lại thu nhập kếch sù ổn định từ việc buôn bán binh khí sẽ đảm bảo duy trì cho thế phát triển kinh tế Ngô quốc, cùng lúc với kiếm chác lợi nhuận từ chiến tranh, địch yếu ta mạnh, một hành động đem lại nhiều lợi ích. Tất nhiên, kĩ thuật rèn kiếm ưu việt nhất, Ngô quốc sẽ giữ bí mật không truyền ra ngoài, trừ khi họ lại nắm giữ vũ khí tân tiến hoặc lợi hại hơn, lúc đó mới bán tháo đống vũ khí cũ thay bằng cái mới.

Chiếc thuyền lớn chở đầy binh khí Nhâm gia lướt băng băng trên sông đi về phía Tần quốc, sau khi đụng mặt với thuyền chở châu báu của Vệ quốc giữa đường, Khánh Kỵ sẽ lấy ra một phần lễ vật ngang giá của hai nước Vệ Tống giao cho Nhâm gia. Trong chuyến mua bán này, hắn không muốn chiếm lợi từ hai nước Vệ Tống, chỉ cần Tấn quốc chia rẽ đem lại cơ hội phát triển cho hắn là quá đủ rồi, hơn nữa… người nhờ cậy hắn lại là Nam Tử, hắn không muốn ức hiếp Nam Tử, nếu muốn… cũng không nên ức hiếp kiểu này.

Lần này, sứ giả được cử sang Tần là Văn Chủng, một sứ giả khéo tài ăn nói chính là cốt lỏi quyết định thành bại của sự việc, Úc Bình Nhiên và Phạm Lãi còn chưa trở về, nhân tài mà có thể khiến Khánh Kỵ yên tâm cử đi thay mặt hắn ngoại giao với các nước chư hầu, không là Văn Chủng thì còn ai khác? Sau khi Văn Chủng khởi hành, Khánh Kỵ có tiến hành điều chỉnh nhân sự trong triều đôi chút, sau khi Thiếu Chánh Mão vào cung bàn luận với Khánh Kỵ mấy lần, trình bày kiến giải về chính trị của hắn xong, Ngô vương vui mừng chính thức phong Thiếu Chánh Mão làm đại tư khấu, Xích Trung bị bãi miễn chức vụ thượng khanh, để bù đắp an ủi, gia phong hắn làm thượng tướng quân, trở thành vị thượng tướng quân thứ ba của Ngô quốc.

Xích Trung vốn thích dẫn binh, hơn nữa Khánh Kỵ chịu giao binh quyền cho hắn, rõ ràng là dẹp bỏ nghi kị khi xưa vì hắn dao động, Xích Trung mừng còn chưa kịp, không hề có chút không vui. Đại tư không Ngô quốc vẫn là Chúc Dung, nhưng Chúc Dung tự biết mình bị đào thải khỏi trung tâm quyền lực, thôi thì mặc kệ cứ buông xuôi ở tại Việt quốc là thái thượng hoàng, chốc chốc lại ra lệnh với Việt quân Doãn Thường cho oai, sau đó tận hưởng cảm giác được mỹ nhân Việt quốc hầu hạ, tiêu diêu tự tại, cũng không thèm về nước. Khánh Kỵ chỉ muốn hắn đừng kè kè kế bên chướng tai gai mắt, nên ủy phái Giới Khanh tiếp quản công việc của Chúc Dung ở Ngô quốc.

Thiếu Chánh Mão nô tài tùy giá Lỗ quốc được phong Đại tư khấu, một thợ rèn Nhâm gia bảo được ban chức quan đại phu, hai tin này đẩy danh tiếng trọng người tài của Khánh Kỵ lên tận mây xanh, những người tự cho là có tài năng nhưng không được trọng dụng, không thể thăng quan tiến chức của các nước chư hầu ùn ùn kéo đến Ngô quốc, nhiều hơn cả cá chép bơi sông. Dưới trướng Khánh Kỵ người tài tề tụ, văn võ đầy đủ, ai nấy đều tài năng xuất chúng, ban lệnh xuống thực thi nghiêm chỉnh nhanh chóng, mùa xuân năm đó biến thành mùa xuân của Ngô quốc, Ngô quốc từ từ bước vào kỉ nguyên phồn vinh, thế nước thăng hoa như diều gặp gió…

Bức Dương thành, quân đội của Triển Chích vừa mới ổn định xong, hắn lê tấm thân mệt mỏi đi thị sát khắp doanh trại. Triển Chích về đến đại doanh, cùng các tướng bàn bạc hành động bước tiếp theo phải làm thế nào, các tướng lĩnh của hắn không ai có tầm nhìn toàn cục, ai nấy huyên thuyên ồn ào đưa ra ý kiến, nhưng đều là nên trốn vào ngọn núi này con sông kia, hoặc là lui về nơi hẻo lánh nào đấy, nhìn toan tính của bọn chúng hình như vẫn muốn bám víu lấy cái nghề đạo tặc cướp bóc. Màn đêm buông xuống, Triển Chích bị bọn người này làm cho bực bội, chỉ còn cách ra lệnh tạm ngưng bàn bạc, ai nấy về lều nghỉ ngơi sau này hẵng tính tiếp.

Trọng Lương Hoài và các tướng vừa ra khỏi đại doanh, thừa lúc không ai để ý bèn quẹo vào túp lều của Công Sơn Bất Nữu. Công Sơn Bất Nữu mới đặt chân vào lều, Trọng Lương Hoài bám theo sau lách vào.

“Bất Nữu, Triển Chích sắp hết thời rồi, chúng ta phải sớm giữ thân. Điều kiện của Ngô vương Khánh Kỵ đưa ra, huynh suy nghĩ đến đâu rồi?”

Nhận được thư hồi âm của Ngô vương Khánh Kỵ, Công Sơn Bất Nữu do dự không quyết, vẫn chưa dám đưa ra quyết định. Sau đó, Triển Chích đưa quân tấn công Hư Khấu, khổ chiến một trận với Dương Hổ, vì quân Lỗ không ngừng tăng binh lực, xem ra sắp tạo thành thế bao vây, hắn bị ép lui quân chuyển sang đánh Chúc Khâu, lại đụng độ liên quân của nữ vương Đông Di Doanh Thiền Nhi và đại tướng Ngô quốc Lương Hổ Tử, phen này thua còn thê thảm hơn, chỉ biết thu thập tàn quân trốn về Thường Ấp.

Thường Ấp nằm tại vùng hồ Vi sơn hiện nay, nơi đây có núi có sông, rừng núi hiểm trở, Triển Chích có phát triển cơ sở tại đây, vốn định quay về sào huyệt dưỡng thương, ai ngờ Xích Trung trấn giữ Bành thành mới được phong làm thượng tướng quân, khí thế ngút trời, đang định đánh một trận đẹp mắt lập công trước mặt Khánh Kỵ, Triển Chích trốn vào Vi sơn vừa hợp ý của hắn.

Bành thành hiểm yếu, tiến xuống dưới khống chế hai con sông Hoài Thủy, Tứ Thủy, tiến lên trên là tấn công Lỗ, Tề, phía Đông giáp với Đông Di, là trận địa chiến lược quan trọng. Vi sơn cách Bành thành khá gần, Khánh Kỵ và Tống quốc đạt được thỏa thuận ngầm, bớt đi một mối lo sau lưng, Xích Trung chỉ giữ lại một phần ba binh mã thủ thành, đích thân dẫn đại quân tiến đánh Thường Ấp, chặn ngay trước mặt đại quân của Triển Chích, giáng cho hắn một cú đau điếng. Quân của Triển Chích đang mất hết sĩ khí chiến đấu, lại trốn chạy đường dài mệt mỏi, đâu phải là đối thủ của cánh quân Ngô hung dữ này, trải qua một trận đại chiến, buộc phải lui về cố thủ Bức Dương thành.

Giờ đây đường đi Thường Ấp bị chặn, phía Bắc là đại quân của Dương Hổ, hướng Đông có binh mã của Lương Hổ Tử và Doanh Thiền Nhi, chạy sang phía Nam thì ngày càng gần Ngô quốc, phạm vi hoạt động bị thu hẹp, tình hình bi đát này khiến Công Sơn Bất Nữu, Lương Trọng Hoài vốn đã dao động nay càng nổi lòng phản loạn.

“Bất Nữu, Ngô vương Khánh Kỵ gần đây mới phong Thiếu Chánh Mão làm đại tư khấu, phong một thợ rèn Nhâm gia làm đại phu, chiêu hiền đãi sĩ, không phân biệt xuất thân, ta nghĩ tâm ý chiêu nạp chúng ta của hắn là thật đó. Chúng ta nếu muốn về phe Khánh Kỵ, phải lập một công lớn mới được, đây là cơ hội cuối cùng rồi, đợi tới khi lâm vào đường cùng, lúc đó chúng ta có đổi ý, e hắn cũng không chịu tiếp nhận.”

Công Sơn Bất Nữu tối sầm mặt, suy ngẫm hồi lâu, mới cất giọng chậm rãi: “Trọng huynh, ta hiểu rồi, giờ cũng chỉ còn con đường này cho chúng ta đi, huynh mau chóng liên lạc với tín sứ Ngô quốc, cứ nói là… chúng ta chuẩn bị hành động theo yêu cầu của Ngô vương.”

Trọng Lương Hoài vừa nãy hối thúc, bây giờ nghe Công Sơn Bất Nữu đồng ý, lại đanh mặt lại, vì so với Công Sơn Bất Nữu, Trọng Lương Hoài thuộc phái lí luận, Công Sơn Bất Nữu là phái hành động, khi đến thời khắc quyết định sống còn, hắn lại không bằng một Công Sơn Bất Nữu xưa nay luôn ít nói dám quả quyết định đoạt.

Hắn vội hỏi dồn: “Bất Nữu, nếu theo như điều kiện Ngô quốc đưa ra, việc đầu tiên là diệt trừ Triển Chích, cánh quân này mới chịu nghe theo lệnh chúng ta, nhưng tên Triển Chích đâu dễ đối phó, huynh có kế sách vẹn toàn nào không?”

Công Sơn Bất Nữu cắn chặt răng, cười lạnh lùng phán: “Trọng huynh, thiên hạ đào đâu ra kế sách vẹn toàn, cho dù làm việc gì cũng ít nhiều phải mạo hiểm.”

Trọng Lương Hoài nuốt nước bọt cái ực, nói: “Nhưng Triển Chích làm đại đạo nhiều năm, bản lĩnh của hắn không phải tầm thường, binh mã của hắn tuy bại trận mà không tan rã, toàn nhờ vào một mình hắn duy trì, người này trí tuệ võ công đều không đơn giản, đại quân lại do hắn kiểm soát, muốn diệt trừ hắn cũng phải có một kế hoạch hành động khả dĩ thành công mới được chứ.”

Công Sơn Bất Nữu cười hi hí, ánh mắt toát ra vẻ nham hiểm: “Việc này còn cần kế hoạch gì ở đây? Ta thuyết phục Triển Chích đi đánh một thành trì nào đó, trong lúc hai quân hỗn chiến, bắn tên lén vào lưng hắn, đủ cho hắn toi mạng rồi.”

Trọng Lương Hoài ngớ người, bất an nói: “Vậy… có được không? Cứ… đơn giản thế à?”

Công Sơn Bất Nữu nheo mắt, bình thản nói: “Ai cầm mười vạn quân mà chống cả thiên hạ? Chính là Tề Hoàn Công Khương Tiểu Bạch, bá chủ thiên hạ, cuối cùng chết đói trong cung. Triển Chích chỉ là một đạo tặc, chết thì chết chứ có cách chết nào đặc biệt nữa à?”

“Ta chỉ cảm thấy… nên cẩn thận hành sự, ngộ nhỡ xảy ra điều chi sơ sÚc…”

“Không có ngộ nhỡ đâu, hoặc là Triển Chích chết, dùng cái đầu trên cổ hắn đổi lấy đường sống và vinh hoa phú quý của hai ta, nếu như Triển Chích không chết, hứ! Chúng ta chết sớm một ngày và chết trễ một ngày có gì khác biệt đâu nào?”

Đại quân Triển Chích thừa lúc đêm tối tấn công Hướng thành, định mở ra con đường máu chuồn về Thương Sơn. Hướng thành đã được binh mã của Lương Hổ Tử tiếp quản, hai bên giao chiến ác liệt tận nửa đêm, Triển Chích tiến quân không được, không khỏi nôn nóng bất an, hắn bực bội đi qua đi lại trong lều, quay qua chửi Cổ Quân Hải: “Đúng là một lũ vô dụng, công phá một thành trì nhỏ nhoi chỉ có hai ngàn lính trấn thủ cũng không xong.”

Cổ Quân Hải khắp người be bét máu hậm hực giải thích: “Đại ca, không phải các huynh đệ không cố sức, chỉ là quân thủ thành quá lợi hại, bây giờ đêm tối nhìn còn không rõ, nhưng tiểu đệ cảm thấy hình như trong thành không chỉ có hai ngàn quân trấn thủ đâu, bằng không dưới sức tấn công mãnh liệt của các huynh đệ, không lí nào vẫn thủ vững như bàn thạch, không hề có dấu hiệu bại trận.”

Trọng Lương Hoài và Công Sơn Bất Nữu nháy mắt ra hiệu với nhau, đứng yên lặng không nói tiếng nào.

“Ngụy biện!” Triển Chích điên tiết quát lên: “Quân do thám của ta đã thám thính kĩ lắm rồi, các bộ lạc Đông Di có ý tạo phản, đại quân của Lương Hổ Tử đều đóng gần Dư Khâu hỗ trợ Doanh Thiền Nhi trấn áp các bộ lạc Đông Di, hắn sao lại sắp xếp cho đại quân trấn thủ chỗ này hả?”

“Đại ca, hay là… hay là… đợi khi trời sáng nhìn cho rõ, thám thính tình hình trong thành xong mới quyết định, thế nào?”

“Nhảm nhí! Khó khăn lắm ta mới thoát khỏi đại quân của Xích Trung, đợi đến trời sáng binh mã của hắn đuổi theo đến nơi, lúc đó mới tấn công thành chẳng phải khó khăn hơn sao?”

Triển Chích nhìn thấy bộ dạng toàn thân đầy máu của Cổ Quân Hải, cơn giận hơi chút nguôi ngoai: “Thôi vậy, ta phải đích thân ra tiền tuyến chỉ huy chiến đấu, đêm nay thề phải hạ được Hướng thành, mở ra con đường về Thương Sơn.”

“Đại ca, khoan đã!” Công Sơn Bất Nữu kêu lên, bước tới kích động nói: “Đại ca, dẫn quân về Thương Sơn là chủ ý của tiểu đệ, giờ hướng đi bị chặn, nên cho tiểu đệ phụ trách chỉ huy công thành chứ.”

Triển Chích thấy Công Sơn Bất Nữu chủ động xin ra trận, cảm thấy có hơi bất ngờ. Công Sơn Bất Nữu quả thật là một viên hổ tướng, trong số các tướng lĩnh dưới trướng hắn, kẻ thiện chiến tuy nhiều, nhưng có mưu có dũng thì chỉ có mỗi một Công Sơn Bất Nữu, nhưng hắn lại không phải thuộc hạ thân tín, cứ giữ khư khư lấy binh lực của mình, không cho Triển Chích xen vào, mỗi dịp chiến sự nổ ra, vì muốn giữ gìn thực lực, Công Sơn Bất Nữu luôn mang lòng riêng, vì thế trận chiến quan trọng Triển Chích không dám dùng binh mã của hắn, sợ làm hỏng việc lớn, chỉ phái binh mã thuộc quyền mình ra ứng chiến.

Nay thấy Công Sơn Bất Nữu chủ động, Triển Chích cảm thấy được an ủi phần nào. Ai mà không có lòng riêng? Vào lúc khó khăn hắn lại lấy đại cục làm trọng, thế là quá đủ.

Triển Chích vỗ mạnh vào vai Công Sơn Bất Nữu, hào khí ngút trời nói: “Tốt, huynh đệ chúng ta kề vai chiến đấu, thề hạ Hướng thành, mở đường lui về Thương Sơn.”

Hắn quay qua Cổ Quân Hải ra lệnh: “Rút người của đệ về, đệ trấn giữ trung quân, ta và Bất Nữu huynh đệ đích thân ra trận, kề vai chiến đấu!”

Trọng Lương Hoài ngập ngừng bước lên: “Triển đại ca, đệ… có cần cùng ra trận với huynh?”

Triển Chích nhìn bộ dạng rụt rè nhát chết của hắn, trong lòng thấy ghét, nhưng vẫn cố tỏ ra thân thiện: “Không cần đâu, có ta và Bất Nữu huynh đệ là đủ, đệ cứ cùng Quân Hải trấn thủ ở đây.”

“Ờ, ờ.” Trọng Lương Hoài như trút bỏ được gánh nặng, vội đáp ứng lui xuống, Triển Chích cố kiềm nén cơn giận, cùng Công Sơn Bất Nữu kề vai ra ngoài. Bên ngoài đánh lên hồi chiêng rút quân, quân công thành lui xuống như thủy triều, binh mã của Công Sơn Bất Nữu bắt đầu tập hợp…

“Khụ…, Cổ huynh, huynh nói chúng ta có đánh hạ Hướng thành được không?”

Cổ Quân Hải nhổ một bãi nước bọt ra đất, hậm hực nói: “Trong thành tuyệt đối không chỉ có hai ngàn binh mã, tuy nói là đêm tối không nhìn rõ, nhưng đánh trận bấy lâu, ta cảm nhận được điều đó. Không sao, giờ có hai hổ tướng là đại ca và Công Sơn Bất Nữu ra trận, ta tin chắc sẽ hạ được thành này thôi.”

“Ờ, cho dù hạ được thì thế nào? Về đến Thương Sơn, vẫn còn phải chịu cảnh trước sau bị địch đánh.”

Cổ Quân Hải liếc xéo hắn một cái, gầm gừ: “Nếu có Bành thành, chúng ta chưa đến nỗi bị động như bây giờ, ai bảo huynh để mất Bành thành? Không ra nỗi này mới là lạ.”

Trọng Lương Hoài phân bua: “Sự lợi hại của quân Ngô huynh cũng thấy rõ, không phải là ta không muốn thủ, quả là không thủ được. Ta thật không hiểu, Triển đại ca sao cứ phải dây dưa ở Lỗ và Đông Di, để rơi vào cảnh bị bao vây thế này?”

“Huynh có cao kiến gì?”

“Cao kiến thì không dám, theo ý ta, chúng ta chỉ nên hoạt động tại một nơi, hoặc là Lỗ quốc, hoặc là Đông Di, vậy chúng ta phải hứng chịu công kích ít đi rất nhiều.”

“Nói nhảm.” Cổ Quân Hải nổi đóa: “Đại ca là hậu nhân của công thất Lỗ quốc, tổ tiên đại ca và tổ tiên của đương kim Lỗ quân cùng là quốc chủ Lỗ quốc, hiểu chưa? Đại ca lập chí tại Lỗ, huynh ấy muốn diệt trừ Tam hoàn, đoạt ngôi vị Lỗ quân, ngồi lên ngôi báu chí tôn vô thượng, đưa Lỗ quốc xưng bá thiên hạ… Hùng tâm tráng chí của đại ca, có nói huynh nghe cũng chưa chắc hiểu.”

“Cổ Huynh à, những chuyện này nói thì dễ, làm thì khó khăn vô cùng, nhất là sau khi Tề quốc lui quân, tình cảnh của chúng ta ngày càng khốn khó. Giờ lòng tạo phản của Triển đại ca đã lộ, không còn chốn dung thân tại Lỗ đâu, cho dù là Lỗ quân hay Tam hoàn đều muốn diệt trừ đại ca. Còn Đông Di giờ đang bạo động, tuy có Ngô quốc tiếp tay hậu thuẫn, nhưng họ bị các bộ lạc Đông Di quấy phá, chúng ta chi bằng đến Đông Di phát triển, tin chắc có đất dụng võ.”

Cổ Quân Hải trừng mắt: “Đến Đông Di để làm gì?”

Trọng Lương Hoài cười hí hí: “Đông Di cương thổ rộng lớn, lại không có quốc gia, chỉ là các bộ lạc ở rải rác, với lực lượng của chúng ta, tuy không phải là đối thủ khi các bộ lạc liên thủ, nhưng đơn đả độc đấu với bất kì bộ lạc nào, chúng cũng không đánh lại ta. Hà tất nhất định phải đi tranh ngôi vị Lỗ quân chứ? Nếu chúng ta chiếm cứ một vùng lãnh thổ của Đông Di, tự lập quốc xưng vương, há chẳng tốt hơn à?”

Cổ Quân Hải có hơi động lòng, nhưng suy ngẫm giây lát lại lắc đầu: “Ta thấy đại ca không chỉ vì kiến tạo bá nghiệp của riêng mình đâu. Đại ca với tôn nghiêm của một công tử lại từ bỏ vinh hoa phú quý, chấp nhận gánh lấy cái danh đạo tặc, chính là muốn gầy dựng lại giang sơn Lỗ quốc, nếu theo chủ ý của huynh, đại ca sẽ không đồng ý đâu.”

Trọng Lương Hoài hướng nhìn về phía xa xa, nơi đó là chiến trường đang chém giết vang trời, đêm đen như mực, chỉ ẩn hiện đốm lửa chớp tắt, Trọng Lương Hoài vuốt râu thở dài, tự nói với mình: “Đúng vậy, Triển đại ca sẽ không đồng ý, nhưng cứ tiếp tục đi theo con đường Triển đại ca đã chọn, trong lòng ta không thấy chút ánh sáng hy vọng nào cả.”

Cổ Quân Hải nhăn mày, có ý trách cứ hắn, nhưng nghĩ đến tình cảnh hiện tại, câu nói sắp bật ra lại được nuốt trở lại.

Đúng lúc này, ngoài kia im bặt, sau đó lại ồn ào cả lên, còn huyên náo hơn cả tiếng chém giết vừa nãy, Cổ Quân Hải phấn chấn tinh thần, buộc miệng nói: “Chẳng lẽ Hướng thành đã bị công phá?”

Trọng Lương Hoài thần sắc lập tức trở nên hồi hộp, hai người chạy vội ra ngoài, dõi mắt về phía chiến trường, một lúc sau một người toàn thân đầy máu, tay cầm thanh kiếm gãy, lảo đảo chạy đến trước lều, thở hổn hển thông báo: “Đại… đại sự không hay rồi, Triển đại ca trúng tên tử trận!”

Cổ Quân Hải nghe tin thất kinh hồn vía, giơ chân đá văng tên đại hán báo tin, sải bước chạy vội ra ngoài. Trọng Lương Hoài lộ vẻ mừng rỡ thoáng qua, sao đó lập tức thay bằng khuôn mặt đau buồn lẽo đẽo chạy theo sau. Các tướng Mạc Phong, Lưu Dục, Diệp Vũ, Tằng Biện vừa rút về lều nghỉ ngơi cũng gầm rú lên chạy ra.

Các thị vệ giơ cao đuốc lửa rọi sáng cả một vùng trời, phía trước một tốp người ngựa đang chạy về. Vừa thấy họ, đám người kia dừng bước, trong đó một người cất tiếng bi thảm: “Cổ nhị ca, các vị huynh đệ, Triển đại ca… đại ca…”

Mọi người định thần nhìn kĩ, chính là Công Sơn Bất Nữu đang cõng theo Triển Chích dưới hộ tống của thân binh đang lục đục rút về.

“Đại ca sao rồi?” Cổ Quân Hải lao tới như một mũi tên, hai tay vịn lấy đôi vai Triển Chích, lo lắng hét lớn.

Công Sơn Bất Nữu chỉ biết chảy nước mắt, khóc không ra tiếng nói: “Đại ca… đại ca không cẩn thận bị tên bắn trúng, e là… e là lành ít dữ nhiều.”

Dứt lời quỳ một chân xuống đất, đặt tấm thân của Triển Chích đang cõng trên lưng xuống.

Mọi người giơ đuốc lên soi sáng, ai nấy toát mồ hôi hột, chỉ thấy Triển Chích hai mắt trừng trừng, tròng mắt như lòi cả ra ngoài, một mũi tên cắm từ sau ót của hắn xuyên qua phía cổ họng, đầu mũi tên rỉ máu long tong, đó phải là chỉ có dữ không có lành mới đúng, mọi người ngơ ngác đứng chết trưng cả ra, bốn bề tiếng chém giết vang trời, bọn người quay quanh thân xác Triển Chích lại im lặng đến đáng sợ.

Một lúc lâu sau, Cổ Quân Hải ôm lấy cái xác lạnh lẽo của Triển Chích, đột nhiên quay sang Công Sơn Bất Nữu lớn tiếng gào thét: “Sao đại ca lại bị trúng tên? Đại ca sao lại bị trúng tên đằng sau ót?”

Công Sơn Bất Nữu đau thương trả lời: “Quân thủ thành được trang bị đầy đủ cung nỏ, lại là nỏ Sở vừa bắn xa vừa bắn mạnh, trong đêm tối khó quan sát xung quanh, đúng là không thể tránh né. Đại ca thấy thành trì này nhất thời khó hạ, quay đầu lại bảo ta dẫn quân tấn công giả vào hai cánh, phân tán binh lực quân địch, ai ngờ… ai ngờ chính vào lúc đó, một mũi tên bay tới trúng ngay vào sau ót đại ca…”

Diệp Vũ hấp tấp nói: “Đại ca mà chết, lòng quân tất loạn, đợi truy binh của Xích Trung mà đến, chúng ta toi đời cả lũ, chúng ta phải mau mau rút quân, trốn khỏi chỗ này đã hẵng tính.”

“Không được làm vậy!” Trọng Lương Hoài bước tới hét to.

Trọng Lương Hoài vốn không giỏi đánh trận, lại vừa để mất Bành thành, đám cường tặc này xưa nay không nể nang hắn. Tằng Biện liếc xéo hắn, nói vẻ khinh miệt: “Thế nào? Giờ đại ca không còn, đến lượt tên họ Trọng nhà ngươi muốn lên làm chủ đúng không?”

“Tằng huynh đệ sao lại nói lời khó nghe thế?”

Trọng Lương Hoài làm ra vẻ sốt sắng, khẳng khái phân tích: “Tin Triển đại ca tử trận vẫn chưa lan truyền ra ngoài, quân thủ thành còn chưa được biết, vì thế quân ta mới trụ vững được đến giờ, nếu ta vội vã bỏ chạy, tin tức chắc chắn bị lộ ra, đến lúc đó quân thủ thành tấn công chúng ta, ba quân tướng sĩ của ta mất hết ý chí chiến đấu, trong đêm tối lại khó chỉ huy, ba quân hỗn loạn cả lên chuốc lấy thảm bại là cái chắc, đến lúc đó mọi người chỉ còn cách rã nhóm, mạnh ai nấy dẫn người của mình làm lại nghề cũ cướp của giết người vậy.”

Diệp Vũ, Tằng Biện đều chỉ bọn thất phu chỉ biết dùng vũ lực, binh thư chiến lược chưa từng được xem qua, nghe Trọng Lương Hoài lải nhải đạo lí, bực bội lườm hắn một cái, nói: “Chẳng lẽ bắt chúng ta liều chết tiếp tục tấn công thành?”

Trọng Lương Hoài vênh mặt: “Rút lui là phải rút lui rồi, nhưng không được hoảng loạn cả lên, chúng ta nên giữ vững trận thế, làm ra vẻ dựng trại cho binh sĩ nghỉ ngơi, tạo hiện tượng giả cho quân thủ thành nhìn thấy, đồng thời các doanh trại không được tiết lộ tin Triển đại ca tử trận ra ngoài, sau đó đại quân lần lượt rút từng chút một, thừa lúc đêm tối rời khỏi nơi đây, tìm nơi nào đó xây dựng lại căn cứ, sau đó mới lo tang lễ cho Triển đại ca, bàn tính kế hoạch tương lai. Cổ nhị ca, huynh coi tính thế này có ổn không? Bây giờ Triển đại ca đã không còn, huynh chính là thủ lĩnh của cả bọn, vào thời khác quan trọng này, huynh hãy đứng lên nói câu gì đi chứ.”

Công Sơn Bất Nữu vội hùa theo: “Đúng đó, Cổ nhị ca, Triển đại ca đã mất, đại quân không do huynh gánh vác còn ai đảm nhận được nữa? Vì tiền đồ của cả vạn huynh đệ chúng ta, nhị ca không nên từ chối, nên đứng ra chủ trì đại cục thôi.”

Cổ Quân Hải không hề nghĩ rằng kẻ ủng hộ mình lại là Trọng Lương Hoài và Công Sơn Bất Nữu, nhìn thấy hai người thần sắc hoang mang buồn bã, chút nghi ngờ trong lòng nay tan biến hết.

Hắn cúi đầu suy ngẫm giây lát, cảm thấy hai người có lí, đại quân của Triển Chích đều được tập hợp từ các hảo hán lục lâm cường đạo, ai nấy có địa bàn riêng, có thủ lĩnh riêng, nếu hấp tấp đem tin Triển Chích tử trận thông báo với toàn quân, chắc chắn có người thừa lúc đêm tối bỏ trốn về sơn lâm, ba quân không cần đánh cũng tan rã, một khi quân thủ thành nhận ra sơ hở, phái quân ra thành truy kích, các huynh đệ đêm nay buộc phải chôn thân chốn này.

Nghĩ đến tình cảnh đó, Cổ Quân Hải không còn do dự, ngẩng đầu lên dõng dạc: “Công Sơn huynh, Trọng huynh nói có lí lắm. Lưu Dục, đệ và Công Sơn huynh vẫn ra tiền tuyến làm bộ tấn công. Công Sơn huynh…”

Công Sơn Bất Nữu nắm chặt tay, hai mắt trừng trừng, lớn tiếng nói: “Nhị ca yên tâm, kẻ địch trước mắt, hai huynh đệ chúng ta cùng đi trên một chiếc thuyền, phải cùng nhau vượt khó. Cứ để Công Sơn Bất Nữu đoạn hậu, mời nhị ca ngồi trấn giữ trung quân, chủ trì đại cục.”

“Được!”

Cổ Quân Hải lên chức thủ lĩnh, Công Sơn Bất Nữu xoay lưng quay về tiền tuyến chiến đấu. Lưu Dục thấy vậy cũng tự về triệu tập binh mã của hắn, di chuyển đến dưới thành làm bộ tiếp tục tấn công.

Cổ Quân Hải nói tiếp: “Thương Sơn không quay về được rồi, Diệp Vũ, Mạc Phong, mời hai vị huynh đệ tự dẫn theo bộ hạ của mình rút quân về phía Tây Nam, rút đến ven sông Mạc Hà, hạ trại tại Kê Quán lĩnh, tạm thời làm nơi nghỉ ngơi chỉnh đốn lại đại quân.”

Diệp Vũ, Mạc Phong đều biết tình hình khẩn cấp, cộng thêm Cổ Quân Hải xưa nay đứng vị trí thứ hai trong quân Triển Chích, lúc này đều âm thầm chấp nhận vị trí thủ lĩnh của hắn, vội nhận lệnh lui ra chuẩn bị.

Cổ Quân Hải nói: “Trọng huynh, Tằng Biện…”

Trọng Lương Hoài nói xen vào: “Nhị ca yên tâm, ta và Tằng huynh đệ sẽ hỗ trợ nhị ca thu xếp ổn thỏa trung quân, lương thảo, tài sản và thương binh chất lên xe rút trước, sau đó mới theo nhị ca nhổ trại rút quân.”

Cổ Quân Hải cảm thấy được an ủi phần nào: “Vất vả cho hai vị huynh đệ rồi.”

Trọng Lương Hoài và Tằng Biện đưa mắt nhìn xác Triển Chích giây lát, thở dài ngao ngán, quay người bỏ đi lo việc rút lui.

Bốn bề sáng rực đuốc lửa, các thị vệ cúi đầu ủ rũ, đứng yên lặng thành một vòng tròn. Cổ Quân Hải run lẩy bẩy đưa tay ra, mất lần định nhổ lấy mũi tên cắm vào họng Triển Chích, nhưng nhìn thấy ánh mắt hung tợn trừng trừng của hắn lại không nỡ xuống tay. Sau cùng Cổ Quân Hải cũng đưa tay nắm lấy cán tên dùng sức bẻ mạnh, tên gãy làm hai khúc, hắn nhắm mắt nhổ tên ra, cắn chặt răng đứng dậy, ném mũi tên máu me xuống đất.

“Đại ca!” Cổ Quân Hải khóc lóc thảm thiết, từng giọt nước mắt to như hạt đậu rơi lã chã xuống mặt Triển Chích, ôm lấy cái xác kêu gào hồi lâu, nghe thấy phía sau lưng đại quân bắt đầu chuyển động, nhổ trại rút quân, hắn mới cố nén đau thương, bế xác Triển Chích lên, đứng thẳng người từng bước từng bước đi về phía quân doanh.

Tàn quân của Triển Chích thua chạy về hướng Kê Quán lĩnh, đóng tại đó nghỉ ngơi dưỡng sức, chỉnh đốn ba quân, các đầu lĩnh sắp xếp lại thứ tự ngôi thứ, cùng các huynh đệ bàn bạc kế hoạch hành động sắp tới.

Công Sơn Bất Nữu trí dũng song toàn, dù là thực lực hay uy danh, trong đại quân Triển Chích chỉ kém có mỗi Cổ Quân Hải, thêm vào trước và sau khi Triển Chích trúng tên tử trận, biểu hiện của hắn rất đáng khen ngợi, thể hiện rõ lòng trung và cách hành xử hợp lí, Cổ Quân Hải ngồi vào ghế thủ lĩnh đứng đầu, Công Sơn Bất Nữu đương nhiên làm nhị đương gia, bọn Lưu Dục, Diệp Vũ thì căn cứ theo binh lực nhiều ít mà chúng mang đến sắp xếp theo thứ tự ngôi thứ.

Trọng Lương Hoài bại trận từ Bành thành trở về, tàn binh bại tướng bên mình không còn nhiều, thực lực cũng chưa đủ, nhưng người này giỏi ứng biến, lại ranh ma mưu lược, so với đám cường tặc này đúng là hơn về phần trí tuệ, hơn nữa hắn là người tham gia ủng hộ lập Cổ Quân Hải lên làm thủ lĩnh, làm sao sắp xếp cho hắn làm Cổ Quân Hải đau đầu, suy đi tính lại, bèn ủy nhiệm cho hắn chức Chủ phiên, chủ phiên tương đương với quân sư, tham mưu trưởng mà người đời sau thường gọi, thế là Trọng Lương Hoài thoáng cái hóa thân thành quân sư quạt mo cho đám quân cường đạo ô hợp này.

Tên quân sư quạt mo từ khi lên chức lập tức hiến kế cho Cổ Quân Hải: Triển Chích đã chết, với thân phận và binh lực của họ mà nói, muốn mưu đoạt giang sơn Lỗ quốc là không thể nào, lại mất đi lí do chính đáng từ Triển Chích, chi bằng từ bỏ địa bàn hoạt động giữa hai nước Lỗ, Tống, tập trung đánh vào Đông Di, lợi dụng tình hình Đông Di không có quốc gia, không có thành trì, nội bộ đang hỗn loạn, giành lấy một mảnh giang sơn ở đấy, tiến có thể lập quốc xưng vương, lui có thể chiếm núi cố thủ.

Cổ Quân Hải nghe hắn phân tích lợi hại, thấy rất có lí, thế là cho ba quân nghỉ ngơi vài ngày, bỏ hết cơ nghiệp tại hai nước Lỗ, Tống, xua quân đánh về phía lãnh thổ các bộ lạc Đông Di. 

Chung Ly cốc ở Đông Di, là một khu vực cực kì hiểm yếu, địa thế có hơi giống với sào huyệt Tang Hà lĩnh tại Lỗ quốc của Triển Chích, sau khi đến đây, Cổ Quân Hải cảm thấy hài lòng, bèn hạ lệnh lấy nơi đây làm căn cứ, muốn xây dựng Chung Ly cốc thành sơn trại hiểm yếu tiến có thể công lui có thể thủ như Tang Hà lĩnh.

Từ khi đại quân rút về phía lãnh thổ Đông Di, quân đội Lỗ quốc không tiện truy kích, quân của Xích Trung vì có trọng trách trấn giữ cứ điểm quan trọng Bành thành, cũng không thể rời khỏi quá lâu đành rút quân về, còn phía Lương Hổ Tử đóng tại Dư Khâu đang chống đỡ cho Doanh Thiền Nhi, hợp sức trấn áp các bộ lạc Đông Di, nên Cổ Quân Hải dọc đường ít bị chặn đánh, cho hắn có cơ hội tái lập đại quân.

Binh mã của Triển Chích ngày xưa cứ ba ngày một trận đánh lớn, hai ngày một trận đánh nhỏ, suốt ngày phải mệt mỏi chiến đấu, nay suốt đoạn đường hành quân đến dựng trại ở Chung Ly cốc, chưa hề có cuộc đụng độ nào đáng kể, có một số bộ lạc Đông Di nhỏ gặp phải đại quân của Cổ Quân Hải, không phải trốn chạy ra xa thì là bị đánh cho tan tác, tổn thất của Cổ Quân Hải là quá ít, dọc đường lại tiện tay cướp bóc không ít lương thực tiếp tế đại quân và nhiều thiếu nữ xinh xắn của các bộ lạc Đông Di cho các huynh đệ giải sầu.

Cổ Quân Hải vốn háo sắc, trước đây còn phải lén lút vì có Triển Chích, giờ thì cho dù hoang dâm thâu đêm suốt sáng cũng không ai dám lên tiếng, cuối cùng hắn cũng biết được cái tốt khi làm đại ca, Cổ Quân Hải cho rằng đó đều nhờ vào ý kiến hay của Trọng Lương Hoài nên hài lòng lắm, không chỉ có hắn, các tướng lĩnh xưa nay luôn coi thường Trọng Lương Hoài đều thay đổi cách nhìn, cảm thấy con người này ra trận chém giết thì không được, nhưng bày kế tham mưu thì khá hay.

Đợi sau khi đến Chung Ly cốc, Cổ Quân Hải bắt tay vào xây dựng sơn trại, đám cường đạo này chỉ giỏi phá hoại, không giỏi xây dựng, những việc này giao cho Trọng Lương Hoài xuất thân từ gia thần Quý thị là phù hợp hơn ai hết, dù là phân phát lương thực của cải hay là sắp xếp nhân lực xây thành dựng trại, hắn đều làm tốt đâu ra đấy, ai nấy càng thán phục hắn hơn, về phần Cổ Quân Hải thì xem trọng hắn hơn nữa.

Chiều tối hôm đó, Trọng Lương Hoài lo xong công việc, lê tấm thân mệt mỏi đến nơi ở của Công Sơn Bất Nữu. Công Sơn Bất Nữu ở trong một căn nhà đơn sơ làm bằng gỗ thông, nơi ở chẳng khác gì với các binh sĩ bình thường, chỉ là nằm biệt lập tại một khu vực rộng, căn nhà cũng to hơn một chút.

Sàn nhà gỗ thông có trải mấy tấm lông thú, Công Sơn Bất Nữu đang ngồi đơn độc một mình trên tấm lông thú uống rượu, kế bên hắn là một thiếu nữ Đông Di xinh xắn mặc áo mỏng váy ngắn để lộ cặp đùi trắng nõn đang cẩn thận đứng hầu, cô gái thấy Trọng Lương Hoài bước vào, quay sang mỉm cười lấy lòng hắn.

Cô thiếu nữ Đông Di này là do Trọng Lương Hoài vì muốn thu phục nhân tâm, chọn ra từ số chiến lợi phẩm hắn ưng ý nhất đem tặng cho Công Sơn Bất Nữu. Công Sơn Bất Nữu xưa nay không đam mê nữ sắc, tuy đôi lúc vì nhu cầu cũng ngủ chung giường với cô gái Đông Di, nhưng ngày thường cứ sai bảo nàng như một tì nữ hầu hạ. Thấy Trọng Lương Hoài đến tìm, Công Sơn Bất Nữu biết ngay là chắc có tin gì đó, hắn không lên tiếng nâng chén sành lên, ngửa cổ uống một hơi cạn chén rượu, sau đó đưa tay quệt miệng một cái, gằn giọng: “Ra ngoài, ta chưa dặn dò không được vào đây.”

“Dạ!” Cô thiếu nữ Đông Di vội vã bước khỏi căn phòng, tiện tay đóng cửa phòng lại giùm hai người.

“Bất Nữu, ta và Lương tướng quân liên lạc nhau rồi, đây là thư của tướng quân.”

Trọng Lương Hoài lấy một mảnh vải từ tay áo ra đưa cho Công Sơn Bất Nữu. Công Sơn Bất Nữu đón lấy mở ra xem, lập tức nhăn mặt: “Cái này là cái gì vậy?”

Trọng Lương Hoài chế giễu: “Huynh không biết chữ à? Sao lại hỏi ta?”

Công Sơn Bất Nữu lườm hắn một cái, nói: “Nhảm nhí, chữ ta đương nhiên biết, nhưng… trên thư chỉ viết một số tên bộ lạc, thế là có ý gì, định đánh đố ta à?”

Trọng Lương Hoài vỗ trán một cái, cười òa lên: “Xin lỗi xin lỗi, là ta quên giải thích, vì muốn bảo mật an toàn, ta đã cắt bỏ số chữ phía dưới đem đốt rồi. Hí hí, làm vậy người khác có nhìn thấy cũng không biết đây là cái gì.”

“Cổ Quân Hải này ngay cả mấy chữ khó một chút cũng không biết đọc, đừng nói là đám sơn tặc này, ngươi làm vậy đúng là dở hơi.”

“Ơ, cẩn thận vẫn tốt hơn.”

Trên mảnh vải chỉ ghi hai hàng chữ nhỏ chi chít, trên đó có tám bộ lạc lớn nhất Đông Di là Doanh, Phong, Thành, Dương, Giới, Lợi, Tiết, Quách, ngoài ra còn nhiều tên bộ lạc nhỏ lẻ khác nữa, trừ tên bộ lạc ra không còn gì cả.

Trọng Lương Hoài ngồi xuống, nhích lại gần Công Sơn Bất Nữu, chỉ vào mảnh vải nói: “Huynh nhìn cho rõ, các bộ lạc viết bằng chữ đen bên này là không cho phép chúng ta đánh, còn mấy bộ lạc chữ đỏ bên này… hí hí, cứ đánh cho dữ vào, càng đánh mạnh công lao càng lớn.”

Công Sơn Bất Nữu nheo mắt nhìn một hồi, cười hí hí gật gù khoái trá: “Hèn gì Ngô vương chịu thu nạp chúng ta, tám bộ lạc lớn Đông Di, chịu đứng về phía Ngô vương chỉ có Doanh Thiền Nhi và ba bộ lạc, còn phản đối phụ thuộc vào Ngô quốc lại có đến năm.”

“Thế nên chúng ta mới có cơ hội phong quan ban tước, hưởng vinh hoa phú quý.”

Trọng Lương Hoài liếm môi, tươi cười hớn hở: “Nghe nói có tin từ hoàng cung Ngô quốc, trong cung đang cho xây một tòa Lăng Yên Các, tòa Lăng Yên Các này bất kể thân phận xuất thân, chỉ cần là đại thần có công mở mang bờ cõi là được ghi danh vào đó, còn được vẽ tranh tạc tượng, lưu danh sau này cho con cháu ngàn đời sau kính bái. Dù là tôn thất hoàng tộc của Ngô quốc, hàng năm cũng phải đến đấy đốt hương hành lễ. Bất Nữu, huynh và ta chỉ là con chó giữ nhà của Quý thị, nói trắng ra chỉ là một nô lệ, ngay cả dân thôn quê còn có thân phận cao quý hơn chúng ta. Nếu như Ngô quốc có được lãnh thổ Đông Di cần góp sức của chúng ta, đến lúc đó đúng là dịp may hiếm có, chúng ta có thể ngẩng cao đầu, làm rạng rỡ tổ tông, con cháu sau này cũng được vinh quang…”

Công Sơn Bất Nữu nghe xong háo hức không kém, hắn đưa cả vò rượu lên uống cạn, quay sang Trọng Lương Hoài cố làm ra vẻ bình thản: “Dưới trướng Ngô vương người tài một đống, trong Lăng Yên Các chưa chắc có tên của chúng ta đâu, làm một chức đại phu hay tướng quân gì đó là đủ mãn nguyện rồi. Thôi, những chuyện này để sau này hẵng tính, hiện giờ ngươi định làm thế nào hoàn thành nhiệm vụ Lương tướng quân giao phó?”

“Hí hí, muốn Cổ Quân Hải xuất binh thì quá đơn giản, dù cho hắn muốn lập quốc xưng vương, hay chỉ là muốn cố thủ tại đây làm sơn tặc, cuối cùng cũng không thể không chui đầu ra Chung Ly cốc đúng không nào? Cả vạn huynh đệ phải có cơm ăn áo mặc, có nữ nhân giải trí, có cái nào mà không cần đi cướp lấy? Khoan nói đến việc số châu báu cướp được hắn không chịu đem ra bán, dù hắn chịu bán cũng không tìm được người mua, nơi này không trù phú như Lỗ quốc, ngoài việc cướp bóc, hắn còn biết làm sao?

Chỉ là trên danh sách các bộ lạc ghi ở đây phân ra rõ ràng, nhưng vùng đất chúng cư trú lại không phân chia rõ, có bộ lạc không được đánh, có bộ lạc buộc phải đánh, nếu chúng ta đi vòng qua một bộ lạc ở gần mà đánh bộ lạc ở xa, người Đông Di và Cổ Quân Hải đâu có ngốc, chẳng lẽ lại không nghi ngờ? Nên ta mới đến đây tìm huynh bàn bạc.”

Hắn nói một hơi xong thấy khát nước, bèn vớ tay tóm lấy vò rượu tự đổ cho mình một chén, tu ừng ực mấy ngụm, lau miệng nói tiếp: “Huynh bây giờ là nhị đương gia, bày binh bố trận, điều binh khiển tướng không thể thiếu huynh. Chúng ta bàn bạc tính toán kĩ lưỡng, làm thế nào tiến đánh các bộ lạc chống đối Lương tướng quân, làm thế nào bảo toàn các bộ lạc thần phục Ngô quốc, kế sách ổn thỏa rồi ta mới hiến kế cho Cổ Quân Hải, cho hắn gánh lấy chức danh Đệ nhất đại đạo Đông Di.”

Công Sơn Bất Nữu cười hi hí, vuốt râu nói: “Lão Trọng nhà ngươi chỉ giỏi khua môi múa mép, Công Sơn Bất Nữu này phải còng lưng ra thực hiện, phải bảo toàn một số bộ lạc, vậy có những nơi buộc ta phải đích thân dẫn quân đi đánh rồi. Ngươi và người của Lương tướng quân phải kịp thời giữ liên lạc, những nơi ta dẫn quân đi qua cần bảo toàn thì thông báo cho họ trước để họ tránh đi.”

Hắn đổ ít rượu vào chén, chấm đầu ngon tay vào rượu, vẽ lên trên mặt bàn: “Vị trí các bộ lạc Đông Di, mấy ngày này ta cũng tìm hiểu rõ rồi, ở xa không nói tới, chúng ta xem trước mấy bộ lạc ở gần Chung Ly cốc, nên ra tay với ai trước…”

Lúc này, trong hoàng cung Sở vương thành Dĩnh Đô, Ngô quốc đại phu Úc Bình Nhiên và Sở thái hậu Mạnh Doanh cũng đã bàn luận khá lâu. Trên đại điện lấy tấm màn nhung ngăn cách, Úc Bình Nhiên không nhìn rõ bên trong, cũng không biết mặt mũi của vị thái hậu từng say đắm Sở vương, khiến cha chiếm con dâu, gây ra bao nhiêu họa lớn sau này là như thế nào, lúc này chỉ giao tiếp với tiếng nói sau bức màn nhung.

“Hoàng thái hậu, ngoại thần đã nói hết lời, xin phép cáo từ.”

“Ý của Úc đại phu ta đã hiểu rồi, sự việc trọng đại, bổn thái hậu cần bàn bạc kĩ lưỡng với đại vương mới quyết định được. Đại phu tạm thời hãy về dịch quán nghỉ ngơi, muội tử Quý Doanh, ta đã nhiều năm không gặp, giờ đây may mắn có dịp đến Sở, ta muốn giữ muội ấy ở lại trong cung mấy ngày, hàn huyên tâm sự tình tỉ muội, thế nào?”

“Dạ! Tất cả nghe theo sắp xếp của hoàng thái hậu, ngoại thần cáo từ.” Úc Bình Nhiên đứng dậy, hành lễ xong định lui ra.

Chỉ nghe trong màn nhung có tiếng nói khẽ phát ra: “Úc đại phu…”

“Có ngoại thần!”

“Thế Phạm Lãi…, thôi vậy, ngươi lui xuống đi.”

Úc Bình Nhiên lui ra ngoài đại điện, cung nữ hai bên vén màn nhung lên, chỉ thấy trong kia hai mỹ nhân đang kề vai ngồi đó, hai người nắm chặt tay nhau, một người sắc đẹp thẹn thùng như đóa mẫu đơn đang nở rộ, ẩn hiện trong vẻ quý phái là một nét ưu sầu không sao che giấu, người kia xem ra tuổi tác nhỏ hơn rất nhiều, lông mi cong vút, ánh mắt mê hoặc như hồ ly, mũi cao môi đỏ, nhan sắc không hề thua kém, lại lan tỏa thêm sức sống mãnh liệt của tuổi thanh xuân, như một đóa hoa chớm nở dưới ánh nắng mặt trời.  “Hí!” Quý Doanh nhảy phốc lên, Mạnh Doanh né người sang một bên, thân của nàng rơi xuống vừa đúng vào khoảng trống, tấm thân mềm mại nảy lên mấy cái, tà áo lụa mỏng tan phất lên, để lộ bắp đùi thon thả, nàng mới tắm xong, làn da hồng hào hãy còn lấm tấm nước.

Sở thái hậu Mạnh Doanh tay chống cằm nhìn chăm chăm vào em gái suy tư, chốc chốc lại thở dài.

Trong cung điện hơi ấm lan tỏa, Quý Doanh không đắp mền, nàng xoay người nằm sấp, hai chân khua liên hồi, quay qua Mạnh Doanh hỏi: “Tỉ tỉ, tỉ thở dài lo lắng gì thế?”

“Ài! Nhìn muội kìa, giống hệt năm xưa… Lúc ấy muội hãy còn là con bé thò lò mũi xanh, suốt ngày cứ bám lấy tỉ, buổi tối tắm xong là chạy đến tẩm cung của tỉ nhún nhảy trên giường như vừa nãy vậy. Chớp mắt đã qua bao nhiêu năm rồi, tỉ tỉ nhìn thấy muội nhún nhảy như vừa nãy, nhớ lại kí ức năm xưa, quay về thời mà tỉ tỉ còn chưa gả sang đây, bao nhiêu kỉ niệm hiện lên trước mắt. Tỉ tỉ già rồi, thời gian không chừa một ai, sao lại không thở dài chứ?”

“Sao tỉ lại già chứ?” Quý Doanh cười khanh khách, đưa tay cù lét Mạnh Doanh. Mạnh Doanh nhột nhạt né qua một bên, bị tay em gái xé một mảng áo ngay ngực, đôi ngực căng tròn hiện ra, đầy đặn trắng trẻo, vẫn tỏa hương sắc như ngày nào.

“Woa! To… to quá…” Quý Doanh trợn tròn mắt: “Tỉ tỉ còn xinh đẹp hơn gấp mười lần năm xưa, nếu tỉ thế này còn nói là già, vậy nữ nhân trong thiên hạ đều thành bà lão mất rồi.”

Mạnh Doanh đỏ mặt đưa tay xoa xoa ngực, than thở: “Thân thể của tỉ tỉ cho dù chưa già, nhưng trái tim… đã già mất rồi.”

“Tỉ…” Nụ cười trân khuôn mặt Quý Doanh tan biến, nàng dang rộng đôi tay ngà ngọc ôm lấy tỉ tỉ, dịu dàng hỏi thăm: “Bao nhiêu năm qua tỉ có sống tốt không?”

“Tốt hay không cũng phải qua ngày tháng. Hay dở gì cũng có hoàng nhi, tỉ tỉ còn mục đích sống, nếu không thì… Ài.”

“Tỉ tỉ, thật là vất vả cho tỉ quá.” Quý Doanh ôm chặt tỉ tỉ: “Người Tần chúng ta ai cũng tức giận, rõ ràng là tỉ tỉ được gả cho thái tử Kiện, lại biến thành gả cho một lão già, hoàng huynh cũng thật là vô dụng, chuyện này mà nhẫn nhịn không nói tiếng nào, làm hại tỉ tỉ… Trước khi muội đến đây còn mắng cho huynh ấy một trận ra trò đấy.”

“Cũng không thể trách hoàng huynh, nếu chỉ là hai hộ thường dân thành hôn, huynh ấy có thể dẫn theo huynh đệ trong gia tộc đến đòi công bằng, cứu tỉ tỉ về. Nhưng… muội và ta sinh ra trong hoàng tộc, đấy đâu còn là chuyện hôn nhân thông thường của nhi nữ nữa? Giống như xuất thân của chúng ta, số phận đã định sẵn được hưởng vinh hoa phú quý các nữ nhân khác không được hưởng, đồng thời đổi lại chúng ta phải hy sinh vì gia tộc và đất nước, gả cho ai, đối với Tần quốc, điều đó không quan trọng, quan trọng là nam nhân này phải có lợi cho Tần. Khi tỉ tỉ phát hiện Sở vương muốn chiếm đoạt tỉ, nếu lúc đó tỉ lấy cái chết ra cự tuyệt, hắn chưa chắc dám động vào tỉ, tỉ muốn về Tần quốc cũng không khó. Nhưng làm như vậy mối liên minh Tần Sở chắc chắn bị phá vỡ, Tần quốc ta nằm tận phía Tây, xưa nay luôn bị Tấn quốc hùng mạnh ức hiếp, nếu không liên kết với Sở, Tần quốc đâu thể tồn tại? Thế nên… cho dù trong lòng không ưng, tỉ tỉ vẫn phải nhắm mắt ở lại Sở quốc, tỉ không thể chỉ nghĩ riêng cho hạnh phúc của mình, hơn nữa có quay về Tần, tỉ lại bị hoàng huynh sắp đặt hôn sự thôi, ai mà biết phu quân tiếp theo sẽ là ai? Có lẽ còn tệ hơn cả Sở vương thì sao, hắn tuy già, nhưng chí ít… hắn yêu thương tỉ thật lòng…”

“Tỉ tỉ…”

“Quý Doanh, muội đừng trách hoàng huynh nữa. Muội muốn huynh ấy phải làm sao cho phải? Vì tỉ mà khai chiến với Sở ư? Nếu Tần và Sở đại chiến với nhau, trong lúc lưỡng bại câu thương, Tấn quốc sẽ thừa cơ xâm chiếm, hoàng huynh… cũng chỉ là nhẫn nhục chịu đựng thôi.”

Mạnh Doanh thở dài, vỗ nhè nhẹ vào mông em gái. Mông của Quý Doanh bắp thịt đàn hồi, cứ như quả lê chín mọng, lại không thiếu sức sống của thiếu nữ. Mạnh Doanh mỉm cười: “Xem muội kìa, mấy năm nay chắc cũng nghịch ngợm như hồi nhỏ đúng không? Cưỡi ngựa bắn cung, trèo cây leo núi chắc muội không thể thiếu, mông muội chắc nịch thế này, nếu tỉ mà là nam nhân cũng chết mê vì muội mất. Mạng của muội tốt, tuy cùng là kết thân nhưng muội được gả cho Ngô vương Khánh Kỵ, sau này làm hoàng hậu quản lí hậu cung, thờ chồng dạy con, không được nghịch ngợm như hồi còn bé đâu đấy.”

“Khánh Kỵ?”

Quý Doanh nghe nói đến Ngô vương liền cảm thấy ấm ức: “Tên Ngô vương đó hả, muội nghe nói hắn chạy nhanh hơn tuấn mã, sức mạnh có thể quật ngã bò tót. Trời ạ, đó mà là con người à? Muội có thể tưởng tượng dung mạo của hắn rồi, hắn chắc là giống như một con đại tinh tinh, khắp mình lông lá, nói chuyện thì ồm ồm như trâu…”

Mạnh Doanh cười khanh khách, vội đưa tay che miệng giữ ý tứ, hai mắt long lanh: “Muội tử ngốc của ta, nói nhảm nhí gì thế, đường đường là đại vương Ngô quốc, sao lại giống đại tinh tinh được chứ? Muội đó, nói phu quân của mình như thế, truyền ra ngoài làm trò cười cho người ta mất.”

Nàng định thần nghĩ ngợi, nói: “Tỉ từng nghe hoàng nhi nói qua, Khánh Kỵ đó cao lớn khôi ngô, là một đại anh hùng anh tuấn mà. Hoàng nhi bao lớn nào? Nó đâu thể nói dối gạt tỉ.”

Mạnh Doanh vuốt mái tóc óng mượt, nói tiếp: “Ngô vương còn trẻ tuổi, tướng mạo, võ nghệ đều xuất chúng, từ cách trị nước sau khi hắn lên ngôi, có thể thấy đó là một vị quân vương tài giỏi, tương lai nói không chừng sẽ trở thành bá chủ thiên hạ, đến lúc đó hai nước Sở Tần đều phải nể nang hắn, muội muội à, muội được gả cho phu quân tốt thế này còn gì mà không vừa ý nữa chứ?”

“Muội không tin, hoàng huynh chỉ toan tính coi ai có lợi cho Tần quốc, đâu cần biết tỉ muội chúng ta phải gả cho thứ nam nhân nào đâu, hoàng nhi của tỉ còn nhỏ, lời nói không đáng tin lắm, có thể trong mắt nó đại tinh tinh mới là anh tuấn khôi ngô thì sao.”

Quý Doanh nắm chặt nắm đấm, nghiến răng keng kéc: “Tỉ tỉ vì lo cho đại cuộc hy sinh bản thân, muội không học theo tỉ đâu, hoàng huynh cứ ép buộc muội gả cho Ngô vương Khánh Kỵ gì đó, huynh ấy tưởng muội sẽ khÚc phục? Muội không cho huynh ấy toại nguyện đâu, đợi sau khi tới Ngô quốc, xem muội trừng trị tên Khánh Kỵ đó như thế nào.”

“Con bé ngốc này, nói nhảm gì đó, muội tuyệt đối không được làm vậy, dù muội có bằng lòng hay không, Ngô vương là phu quân tương lai của muội, muội làm hắn giận, sau này dù hắn đối xử với muội thế nào cũng không ai giúp được muội, kể cả hoàng huynh đi chăng nữa.”

“Muội không cần huynh ấy giúp.” Quý Doanh bướng bỉnh: “Muội cứ làm cho con đại tinh tinh tức điên lên, tốt nhất là chọc cho hắn tức chết luôn, không chết thì cũng cho hắn xích mích với hoàng huynh, chẳng phải hoàng huynh mong muốn liên minh với Ngô quốc sao, muội phải phá cho họ trở mặt thù địch với nhau.”

“Muội…” Mạnh Doanh vịn lấy vai em gái, nghiêm nghị: “Muội muội, cho dù không phải vì Tần quốc, chỉ vì hạnh phúc đời muội, muội cũng tuyệt đối không được chọc giận phu quân của muội. Muội nhớ lấy, cuộc đời này muội đã được an bài làm thê tử của hắn, còn cuộc đời hắn lại không chỉ có một mình muội, nếu muội tiếp tục ngang bướng, nghĩa là muội đã tự tay chôn sống hạnh phúc cả đời mình.”

Trong kí ức của Quý Doanh, tỉ tỉ luôn thân thiết yêu chiều nàng, đây là lần đầu tiên Mạnh Doanh nghiêm nghị với nàng, xem ra tỉ ấy đang nói ra những lời tận đáy lòng, Quý Doanh nhõng nhẽo: “Tỉ tỉ à…”

“Nghe lời tỉ nói, dù là vì Tần quốc hay vì hạnh phúc của muội cũng được, muội cũng không được làm bừa theo ý mình, muội sắp phải rời xa quê hương và thân nhân, sống một mình cô độc tại Ngô quốc, nơi lạ lẫm đó từ nay chính là nhà của muội, dân tộc lạ lẫm đó là con dân của muội, tên Khánh Kỵ đó là phu quân ở bên muội suốt đời này, muội có tưởng tượng nổi dân chúng nơi đó mãi mãi xem muội là người ngoài sẽ thế nào không? Muội chịu đựng nổi tên Khánh Kỵ đó xem muội như người vô hình, bỏ mặc muội được không?”

Quý Doanh ngơ ngác, nàng là một cô gái hoạt bát ngây thơ, không biết suy tính sâu xa, nàng chưa từng nghĩ đến ý nghĩa trọng đại của việc thành thân, nếu quả thật bắt nàng sống những ngày tháng như tỉ tỉ vừa nói, chẳng cần bao lâu sau nàng sẽ bị điên mất, thôi thì bắt nàng chết đi còn tốt hơn.

Mạnh Doanh xoa tay nhè nhẹ lên mặt Quý Doanh, trắng nõn mịn màng, hai tai có chút lông tơ mềm mại, Mạnh Doanh lại lướt tay đến trước ngực em gái, tà áo được cởi tung, bờ ngực vút cao như trái lê chính mọng, Mạnh Doanh tiếp tục vòng tay xuống chiếc eo thon, cuối cùng dừng lại trên bắp đùi săn chắc của em gái, cảm thán: “Quý Doanh muội xem, muội có thân thể và dung mạo làm nam nhân chết mê chết mệt, lại được gả cho một phu quân tài năng, muội phải biết quý trọng cơ hội này, không phải nữ nhân nào cũng được may mắn như muội đâu, đừng vì bướng bỉnh phá hỏng hết thảy mọi thứ.”

Quý Doanh nhìn trưng trưng vào tỉ tỉ, nàng vốn đã nghĩ ra nhiều chiêu phá hoại, định tới Ngô quốc làm ầm lên khuấy đảo một phen, cho tên Khánh Kỵ gì đó mất mặt cho hả dạ, nhưng trong lúc này nàng mới phát hiện nàng không còn là trẻ con nữa, nàng sẽ không gánh vác nổi hậu quả do tính ngang bướng của nàng gây ra.

Tấm màn lại được hạ xuống, ánh nến được các cung nữ thổi tắt, chỉ chừa lại bốn cây nến ở bốn góc đại điện, tỏa ra ánh sáng heo hắt.

Khắp đại điện trở nên yên tĩnh, Quý Doanh mở to mắt không hề cảm thấy mệt mỏi, nàng nhìn vào trần nhà, hồi lâu sau bỗng cất tiếng hỏi: “Tỉ tỉ, lấy chồng là thế nào vậy?”

Mạnh Doanh đang nhắm mắt mỉm cười nhỏ nhẹ: “Sau này sẽ có một nam nhân yêu thương muội, kiểu yêu thương đó không giống với phụ thân, cũng không giống với huynh trưởng, chỉ có giữa nam nhân và nữ nhân mới có thể yêu thương kiểu đó. Muội và hắn sẽ giống như bây giờ cùng nằm trên một chiếc giường, muội và hắn sẽ có hài nhi của riêng mình, muội sẽ cảm nhận được từ một con bé chưa hiểu chuyện từ từ trở thành một nữ nhân thật sự, muội cũng sẽ mãn nguyện nhìn thấy giọt máu của muội từ từ lớn lên…

Số phận an bài muội phải lấy một vương hầu, các công khanh quý tộc phần lớn không phải là phu quân tốt, một khi lấy phải người xấu thì chỉ còn cách than thân trách phận, giống như tỉ tỉ, giống như Nam Tử của Vệ quốc, dù cho muội có xinh đẹp như hoa, kiêu kì ngạo mạn, nhưng cuối cùng… cũng bạc bẽo trước số phận mà thôi. Không phải cô công chúa nào cũng may mắn như muội đâu, đại đa số nữ nhân sinh ra trong hoàng thất đều không quyết định số phận của mình được, nếu muội gặp được một phu quân tốt, đó là phúc của muội tu mấy kiếp mới có được, có cơ hội phải nắm chặt lấy, tỉ tỉ là người từng trải, không gạt muội đâu. Muội hãy trân trọng cuộc hôn nhân này.”

Quý Doanh đơ mặt ra nói: “Là… phải vậy à? Nhưng con đại tinh tinh kia… muội còn chưa từng gặp, ngay cả một câu nói cũng chưa từng nói với hắn, thì phải cùng ở trong một căn phòng, ngủ chung một chiếc giường…”

Nàng kéo mền che kín đầu, ư hừ rít lên: “Ui trời, nghĩ đến là muội sợ rồi, muội không ngủ được đâu.” 

Mạnh Doanh mở to mắt, liếc xéo em gái: “Nhảm nhí, muội mà còn ngủ được thì đúng là mất cảm giác rồi đó, thôi đừng nghĩ ngợi nhiều nữa, đợi khi nào muội quen rồi thì sẽ ngủ được.”

Nàng ngưỡng mình lên, tay chống dưới cằm, hào hứng kể: “Khánh Kỵ hồi còn lưu vong ở Lỗ quốc, chỉ là một công tử thất thế, hai cô gái Quý thị, Thúc thị cũng bị hắn mê cho say đắm, luôn bám lấy hắn không chịu rời xa, hắn có vẻ gì giống con đại tinh tinh nào? Muội cho rằng hai cô gái nhà Quý thị, Thúc thị đều là đứa bé con năm sáu tuổi thích xem xiếc à? Tỉ tỉ tuy chưa từng gặp qua Khánh Kỵ, nhưng biết chắc hắn tuyệt đối xứng với muội muội.

Quý Doanh, phu quân của muội hùng tâm tráng chí, từ khi hắn xưng vương, từng hành động đều khiến người trong thiên hạ lác mắt, chỉ trong mấy tháng, Sở quốc của tỉ đã có bao nhiêu hiền tài bỏ đi Ngô giúp sức hắn rồi đấy. Phạm Lãi, Văn Chủng đều là đại thần của Sở, từ khi hoàng nhi trở về kinh đô, hai vị này vài lần tiến gián, nghe có lí lẽ lắm, tỉ luôn muốn trọng dụng họ, tiếc là quân quyền bị Phí Vô Cực độc chiếm, cứ ép cho họ phải bỏ sang Ngô quốc, mỗi khi nghĩ lại tỉ còn thấy đáng tiếc. Hôm nay tỉ còn định hỏi thăm về hai người Phạm Lãi, Văn Chủng từ Úc đại phu. Nhưng… là Sở quốc có lỗi với họ, tỉ tỉ còn mặt mũi nào mở miệng được?

Hôm nay Úc Bình Nhiên vào cung gặp tỉ, nghe cách nói chuyện rõ ràng là hiểu tình hình triều chính của Sở quốc như lòng bàn tay, đó chắc chắn là vị phó sứ nghênh đón tân nương Phạm Lãi vẫn chưa lộ diện đã nói cho hắn biết rồi.”

Nàng nằm gối đầu lên bắp tay, suy tư: “Phí Vô Cực chuyên quyền ai mà không biết? Nhưng ai mà dám nói lung tung ở Sở quốc? Các nước hễ phái sứ giả đến, cho dù biết rõ cũng chỉ nói vài câu khách sáo trước mặt tỉ, nào là Sở quốc có Vô Cực hiền tài trung trực, đất nước chắc chắn phục hưng gì gì đó. Úc đại phu lại nói thẳng không né tránh… Hừ!”

“Phí Vô Cực?” Quý Doanh bò ngay dậy, nói: “Đúng rồi, người này lúc muội ở Tần cũng từng nghe qua, đều nói người này ham tài háo sắc, hôn dung vô năng, dối trên lừa dưới, chuyên quyền triều cương. Bây giờ tỉ tỉ là hoàng thái hậu, sao không trị tội của hắn?”

Mạnh Doanh cười khổ: “Tỉ tỉ lấy gì mà trị tội hắn đây? Khắp triều đình đều là người của hắn, quân đội toàn là tướng lĩnh của hắn, tỉ mà không nhẫn nhục chịu đựng, hắn dám giết cả tỉ và hoàng nhi, sau đó lập một vị tôn thất hoàng tộc nào đó lên ngôi Sở vương, lúc đó ai dám làm gì hắn? Không phải tỉ tỉ không muốn diệt trừ hắn, mà chỉ là lực bất tòng tâm.”

Quý Doanh xoay xoay tròng mắt, vỗ ngực nói: “Tỉ tỉ, để muội giúp tỉ.”

“Muội? Muội có thể làm gì?”

Quý Doanh hí hửng: “Muội không làm được gì, nhưng con đại tinh tinh đó thì được chứ? Muội bắt hắn giúp tỉ là được thôi!”

“Hắn à? Vị phu quân tốt của muội ấy, sao mà chịu làm ăn lỗ vốn, sứ thần của hắn đến vạch rõ với ta chuyện Phí Vô Cực chuyên quyền lộng hành, xem ra Ngô vương có ý muốn ta mở miệng xin giúp đỡ, tỉ mà xin giúp, hắn chắc đưa ra điều kiện kèm theo, nhưng hoàng nhi ngày càng khôn lớn, tỉ tỉ không thể không lo lắng sắp xếp cho hoàng nhi tiếp quản chính sự, đợi tỉ suy nghĩ cho kĩ, xem Ngô quốc muốn đưa ra điều kiện gì rồi tính tiếp…”

“Cái gì? Hắn giúp tỉ tỉ còn muốn đưa ra điều kiện à? Tỉ tỉ cứ yên tâm, muội đến Ngô bắt con đại tinh tinh xuất binh giúp tỉ diệt trừ gian thần.”

Sở thái hậu cười khanh khách: “Muội à? Muội dựa vào gì bắt hắn nghe lời muội.”

Quý Doanh ưỡn ngực ra, đỏ mặt nói nhỏ: “Không phải tỉ vừa nói muội có thân thể và dung mạo làm chết mê chết mệt nam nhân sao?”

Sở thái hậu nhìn trưng trưng vào em gái hồi lâu, thở dài ngao ngán, cười khổ: “Lúc tỉ tỉ mới gặp muội, đúng là có nghĩ đến, nhưng giờ nghĩ kĩ lại, quốc gia đại sự hay là để tỉ và Úc đại phu bàn bạc vậy. Nữ nhân chỉ dựa vào nhan sắc là không đủ đâu, muốn phu quân nghe lời còn phải có tâm cơ và thủ đoạn nữa.”

Quý Doanh phụng phịu không phục: “Muội có tâm cơ và thủ đoạn mà.”

Sở thái hậu ngáp dài, dịu dàng nói: “Tiểu muội à, tâm cơ của muội… so với một con tinh tinh cái thì hơn được một chút đó.”

Hoàng cung Cô Tô. Khánh Kỵ và quần thần đang bàn luận quân cơ đại sự. Anh Đào khải tấu: “Đại vương, Công Sơn Bất Nữu, Trọng Lương Hoài y kế hành sự, lấy danh nghĩa của Cổ Quân Hải đánh vào các bộ lạc phản đối Đông Di lập quốc và phụ thuộc Ngô quốc ta, Lương Hổ Tử tướng quân cố gắng tạo thuận lợi nhất cho họ hành động, Công Sơn Bất Nữu ra tay thành công liên tục, các bộ lạc kia tổn thất nghiêm trọng, có một số bộ lạc nhỏ vì muốn tự bảo vệ, đã dời đến gần khu vực Dư Khâu, chấp nhận sự bảo vệ của Doanh Thiền Nhi nữ vương và Lương Hổ Tử tướng quân. Nữ vương Doanh Thiền Nhi ngày càng tạo lập uy danh, nhưng tình hình trước mắt số trưởng lão bộ lạc phản đối lập quốc và phụ thuộc Ngô quốc ta vẫn còn nhiều, xem ra vẫn phải bảo Công Sơn Bất Nữu tấn công mạnh hơn, để các bộ lạc này hoàn toàn mất đi sức mạnh vũ trang, lúc đó tiến hành lập quốc là cách làm ổn thỏa nhất.”

Khánh Kỵ lắc đầu: “Đêm dài lắm mộng, quả nhân không thể đợi quá lâu, Tề quốc hiện đang tập trung sức chú ý vào biến loạn sắp xảy ra ở Tấn, nhất thời không muốn gây sự ở Đông Di, một khi Tấn quốc xong chuyện, Tề lại nhảy vào Đông Di, hơn nữa lúc đó họ không còn e ngại gì, nên lúc này thu nạp Đông Di là tốt nhất, chúng ta không thể bỏ qua cơ hội này, báo với Doanh nữ vương và Lương tướng quân, vẫn theo thời gian đã ấn định lập quốc vào đầu tháng sáu, sau đó thảo bức quốc thư, chấp nhận phụ thuộc Ngô quốc.”

Anh Đào do dự nói: “Nhưng… các trưởng lão bộ lạc không muốn giao quyền lực ra vẫn còn rất nhiều, đám trưởng lão này bị thúc ép quá vẫn còn chút sức lực phản kháng, chứ không chịu buông xuôi đâu ạ. Thần lo rằng… Doanh nữ vương là phận nữ nhi, các thế lực trung thành với nữ vương lại không chiếm ưu thế tuyệt đối, nếu mà gấp gáp lập quốc, cho dù các trưởng lão vì áp lực buộc phải chấp nhận, sau này vẫn để lại mối nguy tiềm ẩn.”

Khánh Kỵ ngẩng đầu cười tự tin: “Anh Đào lo lắng cũng đúng, nhưng ngươi quên mất một điều, hiện giờ Lương Hổ Tử đang huấn luyện một đạo quân trực thuộc Doanh Thiền Nhi, trong đó một nửa chiến sĩ thuộc hai bộ tộc Phong, Doanh, nửa kia là chiến sĩ lang sói Ngô quốc ta, đạo quân này một khi luyện thành, các bộ lạc Đông Di không ai là đối thủ cả, hơn nữa lúc đó chúng bị Công Sơn Bất Nữu đánh phá đã suy giảm lực lượng nhiều rồi.”

Anh Đào hớn hở: “Ý đại vương là… chẳng lẽ sau này còn phải kêu Doanh nữ vương sử dụng vũ lực với các bộ lạc chống đối Đông Di.”

“Không sai!” Khánh Kỵ đanh mặt, nghiêm túc phán: “Chỉ dựa vào sức mạnh bên ngoài trấn áp, cho dù Doanh Thiền Nhi thành công lên ngôi, uy danh cũng không đủ lớn, các bộ lạc chắc chắn mưu phản, đến khi đó phải giải quyết nhiều vần đề càng điên đầu hơn, chi bằng trước khi lập quốc đem các vấn đề này xử lí hết. Phàm là thế lực chính trị mới ra đời, buộc phải có người hy sinh, dùng vũ khí và máu thịt gầy dựng cơ sở mới đủ kiên cố, nếu không chém giết Doanh Thiền Nhi sao mà tạo uy danh? Mấy tên tôm tép không biết điều đó phải giao cho nàng ta tự tay xử lí mới được.”

“Dạ, thần hiểu rồi ạ. Về bố trí binh lực, thần sẽ làm tốt tất cả công tác chuẩn bị.”

Khánh Kỵ lại quay sang Tôn Vũ hỏi: “Phía Việt quốc có động tĩnh gì không?”

Tôn Vũ chắp tay trả lời: “Chúc Dung đại phu giám quốc ở Việt, ngài ấy đưa tin về, thế lực Ngô quốc ta ngày càng mạnh, các tài năng sĩ tử khắp nơi đều đến phục mệnh, Việt vương DoãnThường sợ hãi giờ càng tỏ ra thần phục, ta có gì cần là đáp ứng ngay lập tức.”

Khánh Kỵ cười ha hả: “Hô hô, xem ra người Việt phục dịch cho Chúc Dung hoàng thúc hài lòng lắm đây. DoãnThường, Câu Tiễn nhẫn nhịn khá nhỉ, ngoài dự đoán của quả nhân.”

Tôn Vũ nói: “Đại vương, theo ý thần thì DoãnThường muốn cho người Ngô ta ức hiếp, từ đó dấy lên lòng căm ghét của dân chúng, lòng dạ nham hiểm, không thể không phòng.”

Khánh Kỵ hô hố khoái trá: “Được cái này, mất cái kia, người Việt càng hận thù Ngô quốc ta, đối với phụ tử nhà hắn càng thất vọng, lợi hại trong đó nếu biết cách tận dụng, những việc không tốt có khi biến thành có lợi cho chúng ta, cứ mặc cho Chúc Dung hoàng thúc hà hiếp chúng tiếp, ta muốn coi chúng nhẫn nhịn được đến bao giờ.”

“E là chúng không nhịn được bao lâu nữa đâu.” Ánh mắt Tôn Vũ lộ vẻ hài lòng: “Phạm đại phu đưa tin từ Sở về, nghi có người Việt bí mật tiếp xuất với Phí Vô Cực.”

Khánh Kỵ mỉm cười: “Việc này xem ra không giả, người Việt đã sắp không nhịn được rồi.”

Hắn suy tư giây lát, nói: “Nếu người Việt mà hành động, e là Chúc Dung hoàng thúc là kẻ bị hại trước tiên, truyền chỉ lệnh cho Chúc Dung hoàng thúc lập tức về nước, xung quanh hoàng thúc chắc đã bố trí đầy gian tế người Việt, không được nói rõ lí do. Yểm Dư hoàng thúc, việc này…”

“Thần hiểu, việc này cứ giao cho thần lo liệu.” Yểm Dư nghe Khánh Kỵ nói ra những lời này vừa cảm động vừa kinh hoàng, Chúc Dung là hoàng đệ ruột thịt của hắn, trước đây từng nhăm nhe vương vị, Khánh Kỵ sau khi quay về từ từ bài xích Chúc Dung khỏi trung tâm quyền lực, Chúc Dung cũng tự hiểu nên trốn sang Việt quốc sống những ngày tháng xa hoa, chắc cũng có ý lánh nạn. Bây giờ Khánh Kỵ cảm thấy người Việt lăm le hành động, lập tức nghĩ đến an nguy của vị hoàng thúc từng gây bất lợi cho mình, điều này khiến Yểm Dư thấy bất ngờ cảm động.

Cùng xuất thân hoàng thất, tranh quyền đoạt lợi là chuyện thường thấy, nhưng Khánh Kỵ trước đây thà không dùng Công Sơn Bất Nữu, Trọng Lương Hoài chứ không chịu qua cầu rút ván, nay lại bảo vệ cho Chúc Dung từng bất trung. Điều này Tôn Vũ, Anh Đào và các đại thần trong triều đều nhìn thấy cả, lòng khâm phục và trung thành với Khánh Kỵ vì thế nặng thêm mấy phần.

Khánh Kỵ nhắm mắt lại, châm rãi nói: “Các vị ái khanh, ngày trước thả Việt thái tử Câu Tiễn về nước. Quả nhân và Trường Khanh, Thiếu Bá, Tử Cầm từng bàn định một kế sách. Kế này thả dây dài câu cá lớn, mạo hiểm giành thắng lợi, có thể nói là một mũi tên bắn chết hai con nhạn. Nhưng thực hiện thì liên quan sâu rộng nhiều mối quan hệ, không những cần bằng hữu liên minh tương trợ, mà cần cả kẻ địch của chúng ta phối hợp. Bây giờ thời cơ xem ra đang lúc chín mùi, cũng nên nói ra cho các ái khanh biết. Trường Khanh…”

“Có thần.”

“Kế hoạch này, ngài nói ra cho các vị đại thần nghe vậy.” 

Tôn Vũ đứng thẳng người lên, sải bước đi về trung tâm đại điện, đứng chống hông oai vệ, cất giọng lanh lảnh: “Các vị đại phu, Tôn Vũ và hai vị đại phu Phạm Lãi, Văn Chủng từng cùng đại vương bàn luận thiên hạ đại sự, tất cả đều nhất chí cho rằng việc xưng bá thiên hạ không thể ngày một ngày hai mà làm được, Ngô quốc ta nên kết giao với bằng hữu ở xa, tấn công tiêu diệt kẻ địch gần bên, trong nước chăm lo cho quốc kế dân sinh, ngoài nước tăng cường sức mạnh quân sự, quan sát cục diện thay đổi trong thiên hạ, ẩn mình chờ đợi cơ hội vùn lên hành động.

Bây giờ Ngô quốc ta thu nạp di dân, khai hoang đất trống, phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thảo, cổ xúy dạy học, đề bạt sĩ tử, chọn người tài không câu nệ xuất thân, đất nước ngày một đi lên, chỉ trong thời gian ngắn thanh thế đã sắp vượt qua Sở quốc, tin chắc không bao lâu nữa, đệ nhất đại quốc phương Nam sẽ thuộc về Ngô quốc ta.”

Khắp đại điện huyên náo cả lên, các đại thần xì xầm bàn bạc, ai nấy đều lộ vẻ phấn kích, sự phát triển vượt bậc của Ngô quốc ai ai đều thấy, họ là đại thần Ngô quốc, đương nhiên cảm nhận được sự thay đổi của xã tắc, giờ đây không ai nghi ngờ nữa, nếu cứ tiếp tục đi theo con đường này, vậy ba năm sau, mười năm sau, Ngô quốc sẽ phát triển lớn mạnh cỡ nào.

Khánh Kỵ nhìn một lượt quần thần trên đại điện, lúc này các đại thần có mặt đều là trọng thần cốt cán của Ngô quốc, nhưng phần lớn họ đều còn rất trẻ, tuổi tác bình quân không quá ba mươi hai, người nào người nấy tràn trề ý chí phấn đấu và muốn góp sức cống hiến thể hiện bản lĩnh.

Tiếng nói lanh lảnh cất cao của Tôn Vũ vang vọng khắp đại điện: “Nhưng số điều kiện hạn chế sự phát triển của Ngô quốc ta cũng không ít, Ngô quốc nằm ngay góc Đông Nam, sau lưng có Việt quốc, bên trái là Sở quốc, bên phải là biển cả… Đại bàng muốn tung cánh bay cao, khổ nỗi bị dây nhợ vướng víu, nếu muốn xưng bá thiên hạ, Ngô quốc ta buộc phải trừ đi mối họa sau lưng, mở rộng bờ cõi, mới có thể củng cố cơ sở, nhất triển hùng đồ.

Sở quốc dù cho về mặt cương thổ, dân số, kinh tế hay về mặt binh lực, hiện nay Ngô quốc ta đều không thể sánh bằng, hơn nữa một khi Sở quốc sụp đổ, Ngô quốc ta phải ra sức chống chọi sức ép từ Tề, Tấn phương Bắc, điều đó không có lợi cho Ngô quốc phát triển, vì thế nên từ từ tính tới.

Còn Việt quốc nằm sát sau lưng chúng ta, hai phụ tử Doãn Thường mang nặng dã tâm, không chịu an phận, là mối đe dọa lớn cho Ngô quốc ta, Ngô muốn xưng bá thiên hạ, cần dẹp yên Việt quốc trước đã, Việt quốc muốn mạnh lên cũng phải diệt Ngô, thế mới nổi lên từ phía Đông Nam được, hai nước Ngô Việt không thể cùng tồn tại.

Cho nên, Tôn Vũ cùng hai vị đại phu Phạm Lãi, Văn Chủng cùng bàn luận, căn cứ theo tình hình thiên hạ hiện nay, hiến kế với đại vương là: Lấy Đông Di trước, mở rộng lãnh thổ; tiếp đến diệt Việt, trừ mối hậu họa; sau đó đánh Sở, chiếm vùng đất Tiềm, Lục, dựa vào độ hiểm trở của Trường Giang, tiến có thể mưu đồ trung nguyên, lui có thể dựa vào địa thế hiểm trở cố thủ, tạo ra một khu vực hoàn chỉnh, kiên cố phía Đông Nam. Hiện nay nhờ hồng phúc của đại vương, Đông Di sắp rơi vào tay, việc diệt Việt đánh Sở, cũng là lúc phải tính đến rồi.”

Quần thần nghe thế, tức thì im bặt kinh hãi. Tuy rằng hiện nay Ngô quốc trong một thời gian ngắn đã mạnh lên rất nhiều, nhưng vẫn còn rất nhiều chính sách cần ít nhất một hoặc hai năm thời gian nữa mới phát huy hiệu quả, sức mạnh của Ngô quốc cũng không thể trong một lúc tích tụ lại được, với sĩ khí, binh lực của Ngô quốc hiện nay, nếu muốn đánh Việt quốc thì còn có thể làm được, nhưng nói đến giao chiến với Sở, e rằng tất cả nỗ lực gầy dựng cơ ngơi của Khánh Kỵ từ lúc đăng cơ có nguy cơ tan thành mây khói, có thể phải kéo dài thêm ba bốn năm mới hồi phục nguyên khí. Việt quốc bị Ngô chèn ép khó phát triển mạnh lên, nếu muốn lấy Việt đợi thêm hai năm cũng không thành vấn đề, lúc này cùng lúc khai chiến với cả Việt và Sở tuyệt đối không phải là hành động khôn ngoan.

Thiếu tư mã Bình Bố lập tức đứng dậy khải tấu: “Đại vương, thứ cho thần nói thẳng, Ngô quốc vừa mới ổn định, bá tánh cần nghỉ ngơi dưỡng sức, lúc này mà phát động chiến tranh không phải là hành động khôn ngoan, đại bàng trước khi vồ mồi phải kiểm tra lông cánh, nếu Ngô quốc ta nghỉ dưỡng cho tốt, chỉ cần ba đến năm năm, tình hình sẽ khác xa, khi đó đánh ai mà chẳng được.”

Khánh Kỵ mỉm cười: “Thiếu tư mã lòng trung thành đáng khen ngợi, nhưng… Tôn tướng quốc còn chưa nói hết, thiếu tư mã bình tĩnh lại đã, cứ nghe tướng quốc nói cho hết lời rồi đưa ý kiến sau.”

“Dạ!” Bình Bố chỉ còn cách chắp tay lui xuống, quay về phía sau bàn ngồi xuống.

Tôn Vũ khẽ mỉm cười đắc ý, tiếp tục nói ra kế hoạch của mình.

Thì ra hôm đó bọn họ và Khánh Kỵ cùng bàn luận quốc sách Ngô quốc, quyết định nắm bắt thời cơ, trước tiên lấy vùng đấy Đông Di, sau đó thu mình ẩn náu, tiến hành nghỉ ngơi dưỡng sức, cố gắng gia tăng sản xuất phát triển nội chính, tăng cường thực lực, sau đó tiến hành tiêu diệt Việt quốc. Khi đưa Câu Tiễn về nước, về kế sách đối xử với Việt, quân thần họ lại bàn bạc kĩ lưỡng lần nữa. Trong chuyện này liên quan đến mưu lược phát triển lâu dài của Ngô quốc, quân thần bốn người hoạch định rõ ràng chi tiết từng giai đoạn hành động cụ thể trong đại kế diệt Việt. Phạm Lãi và Văn Chủng trong hội nghị quyết sách này thể hiện rõ tài năng hợp tung liên hoàn, khéo léo sử dụng mưu lược thủ đoạn về chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự… vạch ra một kế hoạch diệt Việt nuốt Sở hoàn hảo dâng lên cho Khánh Kỵ.

Trong kế hoạch đề ra, bước thứ nhất chính là thả Câu Tiễn về nước, về mặt đạo nghĩa Ngô quốc nhận được tiếng thơm, đồng thời lợi dụng việc Việt quốc thừa nhận là nước phụ thuộc của Ngô, cố gắng chèn ép kiếm chác lợi lộc từ Việt quốc, xúc tiến cho Việt bất mãn tạo phản, đến lúc đó xuất binh phạt Việt có danh nghĩa chính đáng, giảm thiểu tối đa sức cản về chính trị và quân sự từ các nước chư hầu khác.

Bước thứ hai của kế hoạch, chính là lợi dụng tình hình cục diện Sở quốc hiện nay và số quý tộc người Sở bị Cơ Quang bắt về giam giữ ở Ngô, phân hóa Sở quốc, làm cho Sở phân chia thành hai phe, một phe là bảo vệ quân quyền do hoàng thái hậu đứng đầu, phe kia là tập đoàn vây cánh lộng quyền của Phí Vô Cực. Tiến hành kết thân với Tần quốc, gián tiếp để Ngô có quan hệ với Sở thái hậu, đứng sau bợ đỡ cho thế lực của Sở thái hậu mạnh lên, gia tăng mâu thuẫn nội bộ Sở quốc.

Bước thứ ba, chính là phá cho Việt quốc không nhẫn nhịn tiếp được nữa, lúc Việt có ý đồ nổi dậy, bèn chủ động gây sự tạo ra mâu thuẫn với Phí Vô Cực bên Sở, để Việt quốc cảm thấy có thời cơ để tận dụng, xúc tiến cho chúng liên minh với Phí Vô Cực dấy binh phạt Ngô.

Bước thứ tư, làm ra vẻ trong nội bộ Ngô quốc rối ren, tạo cơ hội cho chúng tiến sâu vào lãnh thổ Ngô quốc, tiêu diệt chủ lực của chúng ngay tại Ngô. Về phía Sở, trong lúc Phí Vô Cực xua quân đánh Ngô, phe của Sở thái hậu sẽ phát động chính biến, lật đổ Phí Vô Cực đưa tiểu Sở vương lên nắm quyền triều chính, dẹp trừ phe cánh của Phí Vô Cực, đoạt lại thực quyền quân sự chính trị, làm vậy lòng quân của Phí Vô Cực đang ở bên ngoài lập tức hỗn loạn, khó uy hiếp Ngô quốc tiếp được.

Bước thứ năm, Ngô quốc lấy thân phận nước bị đánh tiến hành phản kích, giơ cao ngọn cờ chính nghĩa tiêu diệt triệt để Việt quốc, còn lúc đó đem Việt quốc biến thành nước phụ thuộc hoàn toàn cả ngoại giao, quân sự vào Ngô, hay theo kế hoạch của Khánh Kỵ chia ra thành từng huyện để cai trị, phải xem tình hình cụ thể mới quyết định.

Bước thứ sáu, xem tình hình thiên hạ lúc bấy giờ ra sao, hoặc tha cho Phí Vô Cực chạy về nước, để Sở quốc nội chiến liên miên suy yếu đi, hoặc giúp Sở thái hậu tiêu diệt luôn đạo quân của Phí Vô Cực, tất nhiên phải kèm theo điều kiện, đó là Sở quốc sẽ cắt vùng lãnh thổ phía đông Tiềm Sơn cho Ngô quốc.

Các đại thần nghe xong, khắp đại điện im phăng phắc, kế hoạch diệt Việt này kéo dài khá lâu, lôi kéo theo nhiều chư hầu tham gia, các yếu tố nội chính, ngoại giao, quân sự, dân sự đều liên can trong đó, thực là tính sai một ly đi một dặm khiến ai nấy thán phục. Trong thời kì Xuân Thu, dù cho là một trận chiến diễn ra cấp bách, cũng ít khi kéo theo nhiều yếu tố quyết định đến vậy vào đó, kế hoạch chi tiết tận dụng nhiều phương tiện như thế, hơn nữa lại là kế hoạch hành động lâu dài, liên tục mà gắn kết, lại có thể tùy theo tình hình trong và ngoài nước thay đổi ra sao tiến hành điều chỉnh cho phù hợp, đáng nể cho mấy người Tôn Vũ, Phạm Lãi, Văn Chủng nghĩ ra kế hoạch hoàn hảo này.

Khi quyết định kế hoạch này, xây dựng nội bộ, kết thân với Tần, qua lại với Sở thái hậu dự kiến cần dùng thời gian là ba năm, chủ yếu là vì nghĩ đến trường hợp thực lực Ngô quốc không đủ mạnh, cần có thời gian hồi phục nguyên khí, phát triển lớn mạnh hơn đã, còn về phía Sở trước khi kết thân với Tần, thuyết phục Sở thái hậu, hậu thuẫn xây dựng thế lực cho Sở thái hậu đủ mạnh chống chọi với Phí Vô Cực, buộc phải không gây hấn với hắn, hơn nữa lo lắng Ngô quốc mạnh lên nhanh chóng khiến các chư hầu trung nguyên lo lắng, sẽ tiến hành can thiệp khi Ngô xua quân phạt Việt, hoặc giúp đỡ cho Việt chống Ngô, vì thế mấy năm đầu phải tỏ ra yếu đuối che mắt thiên hạ, cố gắng giao hảo với tất cả chư hầu. Cả kế hoạch ấn định thời gian hoàn thành kéo dài đến tám năm.

Nhưng bây giờ tình hình thay đổi, vì việc kết thân với Tần đã hoàn thành thuận lợi, Sở thái hậu thông qua Úc Bình Nhiên, đã tỏ ý nhận giúp đỡ từ Khánh Kỵ, đồng ý yêu cầu cắt vùng lãnh thổ phía Đông từ Tiềm Sơn cho Ngô. Sở vương giờ như con bù nhìn, theo tháng năm Sở vương ngày một trưởng thành, ngày phải đích thân nắm quyền càng gần, nếu Phí Vô Cực không chịu buông tay, tính mạng của Sở vương có nguy cơ bị đe dọa, về phía Sở thái hậu, chờ đợi thêm một ngày trong lo sợ chi bằng chấp nhận trả giá dẹp trừ mối họa Phí Vô Cực. 

Phía đông Tiềm Sơn thuộc lãnh thổ của Sở quốc, điều đó không sai, tuy nhiên đó không phải là lãnh thổ Sở quốc trực tiếp cai quản, mà chỉ là vài nước phụ thuộc nhỏ bé, lãnh thổ Sở quốc quá rộng lớn, sức khống chế tại khu vực này có giới hạn, nếu cắt mấy nước bé này cho Ngô, đổi lại an toàn cho tiểu Sở vương và Sở thái hậu, hơn nữa còn giành lại quyền lực trong tay, Sở thái hậu đương nhiên cảm thấy vụ trao đổi này đáng để tiến hành.

Điều kiện tiên quyết cho kế hoạch đều phát sinh hết, đó chính là lí do Khánh Kỵ muốn sớm phát động phạt Việt, ngoài ra còn một lí do quyết định, đó là ở phía Tây Bắc xa xôi kia, Tấn quốc không có vẻ gì liên quan đến Ngô quốc nằm tận duyên hải Đông Nam sắp xảy ra nội loạn.

Theo kế hoạch đề ra, trước khi mấy điều kiện tiên quyết kia xảy ra, phải tìm cách thuyết phục Lỗ quốc, cùng Lỗ hợp binh thảo phạt Tề, từ đó đưa quân ra Bắc, dụ Phí Vô Cực và Việt quốc xâm lược Ngô. Sau đó quân Lỗ và quân Đông Di ở lại cầm cự với quân Tề, đại quân của Ngô bí mật rút về, khóa cửa tiêu diệt quân Việt.

Đồng thời Sở thái hậu phát động chính biến tại Dĩnh Đô, chặn đường rút lui của Phí Vô Cực, quân Sở nghe tin trong nước có loạn, lòng quân chắc chắn hỗn loạn, Phí Vô Cực cũng đâu còn tâm trí đánh nhau với Ngô, sẽ lập tức rút quân về Sở hòng giành lại quyền lực, khi đó quân Ngô chỉ phải đối phó với mỗi quân Việt, quân Việt đánh lén thì còn được, chứ giao chiến trực diện đâu phải là đối thủ của quân Ngô, chỉ cần tiêu diệt quân chủ lực của chúng, tiếp đó tiến đánh Việt quốc chỉ còn chiếc vỏ trống rỗng dễ như trở bàn tay.

Trong đó khó nhất là thuyết phục cho bằng được Lỗ quốc xuất binh, cùng Ngô diễn tuồng hay cho Việt và Phí Vô Cực xem, thế thì phải xem mấy năm tới công tác ngoại giao làm tốt đến đâu quyết định, bây giờ đột nhiên Tấn quốc xảy ra một cơn đại chấn bạo loạn, đúng là cơ hội trời cho, tất cả khó khăn thuyết phục Lỗ lập tức được giải quyết hết.

Do bạo loạn ở Tấn có Tống quốc tham dự vào, Nam Tử tìm đến Khánh Kỵ, mời hắn du thuyết Tần quốc xuất binh hỗ trợ, Tống Ngô đã hình thành nên mối quan hệ hợp tác bí mật, nếu đã vậy, mục tiêu tấn công giả của Ngô sẽ biến từ Tề thành Tống, cứ tìm lí do gì đó khai chiến với Tống, nếu hai nước phối hợp diễn một vở tuồng hay, khi đó không cần phí sức thuyết phục Lỗ quốc nữa, cũng không cần lo lắng phải dọn dẹp mớ bòng bong nếu đánh Tề, hợp đồng diễn kịch với Tống thì muốn chiến là chiến, muốn lui là lui, tính cơ động của đại quân phát huy được tối đa nữa là đằng khác.

Đồng thời, bạo loạn ở Tấn quốc xảy ra, Ngô phát động chiến tranh diệt Việt, khi đó sức cản về chính trị và quân sự đến từ các nước chư hầu là nhỏ nhất, Tấn quốc các cứ lãnh thổ phì nhiêu rộng lớn ở trung nguyên, một khi Tấn tan rã, các thế lực khác lập tức nhảy vào xâu xé nó, Việt quốc so với Tấn, dù là vị trí địa lí, lãnh thổ đều quá bé nhỏ, không hề có ảnh hưởng quan trọng nào với các nước trung nguyên, vì thế Khánh Kỵ diệt Việt trong lúc Tấn quốc bạo loạn, chư hầu thiên hạ có ai rảnh mà đi lo cho cái nước Việt bé nhỏ nằm tuốt phía góc Đông Nam sát biển kia.

Đương nhiên, chi tiết hành động còn nhiều điều cần hoàn thiện, nhưng với tài năng của Tôn Vũ, Phạm Lãi, Văn Chủng, lúc nào cũng có khả năng tuân theo thời thế thay đổi bổ sung cho phù hợp, chuyện Tấn quốc bạo loạn là cơ hội ngàn năm có một, bỏ qua sẽ không có lần hai, Khánh Kỵ sao dễ dàng không tận dụng chứ?

Khắp đại điện đều là trọng thần tâm phúc của Khánh Kỵ, muốn tiến hành kế hoạch quan trọng này, cần các trọng thần đồng tâm hiệp lực, vì thế Tôn Vũ không hề giấu giếm nữa, cứ phân tích rõ ràng cho mọi người nghe, các đại thần nghe xong phân tích toàn bộ chi tiết kế hoạch hành động của Tôn Vũ, mới sáng mắt ra, tiếng nói phản đối như Bình Bố vừa nãy cũng không còn vang lên.

Khánh Kỵ nói: “Hôm nay triệu tập các ái khanh nghị sự, một là nói rõ kế hoạch cho các khanh biết, cho mọi người chuẩn bị phối hợp hành động, tạo lập công lao cho nước nhà. Hai là quả nhân quyết định tiến hành bước thứ ba của kế hoạch diệt Việt: Chủ động gây hấn tạo mâu thuẫn với Phí Vô Cực của Sở, cho Việt quốc thừa cơ liên minh với Phí Vô Cực. Các vị ái khanh có kế hay gì, có thể giúp ta gây hấn với Phí Vô Cực mà không làm người khác nghi ngờ không?”

Khánh Kỵ dứt lời, quần thần ai nấy đăm chiêu suy nghĩ.

Hồi lâu, Thái Nghĩa ngập ngừng nói: “Đại vương, sao chúng ta không khơi lại chuyện cũ tranh chấp cây tang, cho một thôn phụ tranh chấp với người Sở, từ đó dấy lên chiến sự?”

Hai năm trước hai nước Ngô Sở từng xảy ra chuyện thôn phụ tranh chấp một cây tang, ai nấy đều cho là của mình, thế là hai nhà đánh nhau to, tiếp đó hàng xóm láng giềng toàn thể ra tay, sau cùng quan viên hai nước dẫn quân đến xung đột, thế là dấy lên một cuộc chiến kéo dài suốt mấy năm, Công tử Quang chính là lợi dụng trận chiến này dùng kế điệu hổ li sơn, phái Yểm Dư, Chúc Dung và Khánh Kỵ đưa quân đánh Sở, hắn thích sát Ngô vương Cơ Liêu đoạt lấy vương vị.

Tôn Vũ lắc đầu nói: “Phí Vô Cực chỉ lo cho lợi ích cá nhân, đâu để tâm quốc kế dân sinh, đừng nói là có một cây tang, cho dù ta chiếm cả một khu vườn, Phí Vô Cực cũng mặc kệ, hắn không quan tâm chuyện tranh chấp nhỏ nhoi của đám dân đen đâu.”

Bình Bố vỗ đùi cái đét: “Thế thì ta làm tới luôn, trực tiếp phát binh phạt Sở, ép hắn chống trả.”

Văn võ bá quan xung quanh nhìn trưng trưng vào hắn, Bình Bố đỏ mặt biết mình nói sai, xấu hổ ấp úng: “Thế này… có gì không đúng à?”

Hắn là thiếu tư mã, là thuộc hạ của Anh Đào, Anh Đào không muốn thuộc hạ của mình lộ ra mặt yếu kém, vội giải thích: “Bình tướng quân, kế này không ổn, làm vậy là chúng ta đánh Sở chứ không phải dụ quân Sở đến đánh chúng ta, quân Sở vẫn đóng trong nước, không thể điệu hổ li sơn, thế lực của Sở thái hậu nhỏ lẻ làm sao phát động chính biến? Hơn nữa, Việt quốc cũng không lí do gì liên minh được với Sở, để bị chúng ta dụ vào trong rọ tiêu diệt.”

“À!” Bình Bố tự vỗ vào đầu, hậm hực: “Thì ra còn phải tính toán đủ thứ chuyện, thật là rắc rối, hay là mọi người nghĩ kế đi, mạc tướng chỉ dẫn quân hành động theo chỉ thị thôi.”

Bốn bề phát ra tiếng cười chế giễu, đại phu Điền Kỳ Anh suy ngẫm giây lát, mở miệng góp ý: “Đại vương, theo ý của thần, nếu muốn gây hấn với Phí Vô Cực, chưa chắc phải gây sự với hắn tại Sở, chi bằng chúng ta đi thảo phạt Trần quốc.”

Khánh Kỵ ngớ người, ngạc nhiên hỏi: “Phạt Trần?”

“Đúng vậy!” Điền Kỳ Anh lấy hết can đảm nói tiếp: “Vi thần cho rằng, Trần quốc là nước phụ thuộc Sở, Sở có trách nhiệm bảo vệ cho Trần, nếu Ngô quốc ta thảo phạt Trần mà Phí Vô Cực khoanh tay đứng nhìn, vậy các nước phụ thuộc lớn nhỏ khác của Sở sẽ không còn tin tưởng, vì thế Phí Vô Cực buộc phải can thiệp vào. Hơn nữa, thái tể Trần quốc chính là tiểu đệ của Phí Vô Cực, dù muốn dù không hắn cũng phải nhảy vào cứu, chỉ cần ta đánh với Trần vài trận, Phí Vô Cực xuất binh ta lại gây cho hắn ít thiệt hại, lúc đó sợ gì hắn không oán hận ta, Việt quốc thừa cơ xen vào thuyết phục liên minh với hắn, mưu đồ tiến đánh Ngô quốc ta chứ?”

Đôi mắt Tôn Vũ sáng rực, lên tiếng khen ngợi: “Điền đại phu nói có lí lắm, đánh Trần quốc còn có một cái lợi, Ngô quốc ta muốn tiến về trung nguyên phía Bắc, không thể lúc nào cũng nương nhờ vào các nước liên minh Tống Vệ và Lỗ mượn đường được, sau này lực lượng của ta một khi lớn mạnh, bắt buộc phải tìm riêng cho mình một con đường tiến vào trung nguyên, mà Trần quốc nằm ngay con đường huyết mạch tiến lên Tây Bắc, nếu chiếm của chúng mấy thành trì, hoặc tốt hơn là chiếm Trần luôn, sau này có ích rất nhiều cho đại nghiệp của Ngô quốc ta. Một Trần quốc nhỏ bé bị tiêu diệt, ngoài Sở quốc ra, còn chư hầu nào quan tâm xen vào đâu chứ?”

Khánh Kỵ suy tư giây lát, xòe hai tay ra nói: “Nhưng… lí do đâu? Quả nhân đâu thể vô duyên vô cớ xua quân đánh người ta, ngang nhiên xâm chiếm Trần quốc được? Dù sao… cũng phải có một danh nghĩa để tiện xuất binh chứ.”

“Cái này…” Quần thần lập tức túm tụm bàn tán.

“Đại vương!” Thái Nghĩa ngập ngừng nói: “Thần… có một lí do có thể phạt Trần.”

“Mau nói.”

“Lí do chính là bất kính với thượng quốc, coi thường thiên uy của Ngô vương.”

“Sao lại nói thế?”

“Đại vương nạp phi, Trần quốc không đến triều cống dâng tặng lễ vật, sau khi nạp phi cũng không thấy Trần quốc phái sứ giả đến chúc mừng, đó là hành động coi thường Ngô quốc, Tần quốc, Lỗ quốc. Ngô xua quân thảo phạt Trần, còn được người Tần và người Lỗ hài lòng nữa ấy chứ.”

Khánh Kỵ nhìn trưng trưng vào hắn hồi lâu, than thở: “Quả nhân nạp phi, Trần quốc đúng là không mang lễ vật đến mừng, nhưng thám tử đã đưa tin về, lần này quả nhân kết thân với Tần quốc, nạp Tần nữ làm hoàng hậu, Trần đã phái sứ giả, hiện đang trên đường tới đây.”

“Khụ!” Tôn Vũ che miệng ho lên một tiếng, nháy mắt với Anh Đào.

Anh Đào hiểu ý, cũng ho nhẹ một tiếng, quay qua ra hiệu cho Bình Bố. Bình Bố lộ vẻ khó xử, quay sang muốn tìm quan lại dưới quyền hắn, nhưng phát hiện ra các quan viên chức vụ thấp lúc này không được vào đại điện nghị bàn chính sự, chỉ còn cách gãi đầu gãi tai bước lên bảo đảm: “Khụ khụ…, e là tin tức của đại vương có khi cũng không được chuẩn xác lắm. Thần dám khẳng định, ngày sắc lập hoàng hậu của đại vương… sứ giả Trần quốc… nhất định sẽ không xuất hiện đâu ạ.”

Tôn Vũ vỗ tay cái bốp, hét lớn: “Hay lắm, đại vương, nếu đã vậy chúng ta cứ việc xua quân thảo phạt Trần quốc thôi!”  Đội xe của công chúa Tần quốc Quý Doanh đã đến Cô Tô thành, vì Quý Doanh có thân phận là hoàng hậu Ngô quốc, phải hành lễ như Ngô vương, vì thế tướng quốc Tôn Vũ dẫn theo bá quan văn võ trong triều ra thành tiếp giá, Khánh Kỵ cũng phá lệ dẫn theo sứ giả các nước đứng ngoài cửa cung nghênh đón.

Công chúa Tần Quý Doanh được đón vào hoàng cung Ngô quốc, theo tục lệ thì lại là một hôn lễ xa hoa náo nhiệt, lần này sứ giả các nước đến đông đủ hơn, lễ vật chúc mừng cũng long trọng hơn trước.

Khánh Kỵ được lễ quan tháp tùng, thực hiện đầy đủ mọi nghi thức tân hôn, bài yến tiệc thết đãi quần thần và sứ giả các nước, ban chiếu đại xá thiên hạ, tặng lễ vật hậu hĩ cho sứ đưa tân nương đến Ngô quốc, bận bịu đến tận trời tối, khắp hoàng cung ồn ào náo nhiệt mới yên tĩnh trở lại.

Phi tần trong cung và tất cả thái giám, cung nữ trên dưới theo lễ nghi đều phải đến bái kiến tân hoàng hậu, nhưng số lễ nghi này phải đợi sau đêm tân hôn của đại vương và hoàng hậu, sáng sớm ngày mai mới tiến hành, lúc này Quý Doanh tuy được dẫn vào Loan Phượng cung, nhưng vẫn chưa chính thức tiếp quản hậu cung, chưa được gặp mặt ba phi tần Nhược Tích, Diêu Quang, Tiểu Man.

Loan Phượng cung là tẩm cung của Ngô vương và hoàng hậu, Khánh Kỵ lên ngôi, vị trí hoàng hậu bỏ trống, trước giờ chưa có ai vào ở. Loan Phượng cung là chủ điện của hậu cung, chiếm diện tích lớn nhất, ngoài cung điện chính, còn có hai khu phiến điện trái phải, đi về trước là ngự hoa viên, có đường lớn thông giữa nội cung và ngoại cung, xung quanh còn có hoa lá cỏ cây, hồ nước non bộ, cầu nhỏ bắc ngang, cây sâm cổ thụ, nguy nga tráng lệ, phía ngoài cổng cung còn có hai tòa tháp canh, làm bức bình phong phòng ngự cuối cùng khi hậu cung bị tấn công từ bên ngoài.

Khánh Kỵ bước vào đại điện chính, mười tám cánh cửa lớn đang mở to, vừa bước vào cửa là một chiếc cầu đá bằng phẳng, dưới cầu có tiếng nước chảy róc rách, nước suối long lanh mát rượi, cơn gió thoảng qua, khắp đại điện lập tức mang hơi thở mùa xuân.

Khánh Kỵ uống khá nhiều rượu, sắc mặt đỏ chót, bị gió mát thổi vào, thần trí tỉnh táo lại đôi chút. Hắn đứng tại chiếc cầu đá cho tươi tỉnh thêm, rồi mới phất tay áo tiếp tục bước tới.

Bốn tên thái giám sau lưng khúm núm hành lễ xong lui ra, Khánh Kỵ áo bào phất phơ bước qua chiếc cầu, đạp chân lên sàn nhà trải thảm nhung, bốn mỹ nhân mặc sắc phục Tần quốc lảng vảng trước mặt, quỳ xuống ngay chân hắn, giọng nói õng ẹo: “Nô tì tham kiến đại vương.”

Bốn tiểu mỹ nhân này chính là nô tì theo Quý Doanh xuất giá đến Ngô, trong các nước chư hầu, Tần quốc mang họ Doanh, không có chư hầu nào cùng họ để kết thân, các cô nương xuất thân quý tộc ở Tần lại không ai bằng lòng đi theo đến Ngô quốc xa xôi, dù sao người Tần thô lỗ, xưa nay không xem trọng lễ nghi của trung nguyên, quốc quân Tần quốc bèn nghĩ ra một cách, tuyển chọn bốn cô tì nữ tuyệt sắc đi theo tùy giá cùng Quý Doanh.

Bốn tì nữ lúc vào cung mới vội vàng nhìn qua Khánh Kỵ, bây giờ mới là lần đầu quan sát kĩ, nên họ một mặt cung kính hành lễ, mặt khác đôi mắt cứ láo liên liếc nhìn Khánh Kỵ, bốn thiếu nữ đều cùng lúc vui mừng ra mặt. Điều hiển nhiên là dung mạo của Khánh Kỵ đã qua ải của bốn tì nữ theo hầu Quý Doanh.

Các tì nữ tùy giá như bốn người họ, tương lai có thể trở thành tì thiếp của Ngô vương, nếu được đại vương sủng ái, nói không chừng còn được phong làm phu nhân, đến lúc đó đúng là chim sẻ bay lên cành cao thành phượng hoàng, phu quân của công chúa, sau này có thể là phu quân của họ nữa, bốn tì nữ đương nhiên nhìn kĩ Khánh Kỵ rồi. Chỉ thấy Khánh Kỵ trẻ tuổi anh tuấn, thân hình rắn chắc, oai phong lẫm liệt, trái tim của bốn tì nữ đập thình thịch loạn nhịp, đỏ mặt nhìn vào Khánh Kỵ, ân cần dẫn đường đưa Khánh Kỵ vào tẩm cung.

Đại hôn lần này của Khánh Kỵ không giống như lúc thành hôn với Diêu Quang, Nhược Tích, Tiểu Man. Khi lấy ba nàng, trong lòng Khánh Kỵ chỉ cảm thấy thỏa mãn và vui mừng, còn với cô công chúa Quý Doanh này, hắn lại mang tính hiếu kỳ nhiều hơn. Người xưa lấy vợ, phần lớn chưa từng gặp mặt trước lúc đại hôn, hai người giống như đặt cược vào hạnh phúc cả cuộc đời mình vậy. Trong đêm động phòng hoa chúc, lúc vén tấm vải che đầu ra, hai nam nữ xa lạ nhau bỗng chốc trở thành phu phụ thân thiết nhất, phải cùng chung sống với nhau suốt đời, nên lần đầu hai người ngủ chung một chiếc giường, đối với cả hai, ngoài cái tên và ngày giờ ra đời ra, tất cả những điều xa lạ vẫn chờ đợi ở phía trước.

Khánh Kỵ chưa từng nghĩ đến có ngày mình cũng thể nghiệm kiểu hôn nhân lạ lùng này. Hôn nhân kiểu này đúng là không khác gì đánh cược, vì tỉ tỉ Mạnh Doanh của nàng ấy có tiếng thơm tuyệt sắc giai nhân, hắn mang lòng hiếu kỳ nôn nóng muốn coi hoàng hậu của mình ra sao, vẻ nôn nao của hắn thậm chí còn mãnh liệt hơn cả lúc kết hôn với ba cô nương Diêu Quang, Nhược Tích, Tiểu Man. Khi được bốn tì nữ dẫn vào tận tẩm cung, trái tim Khánh Kỵ đập thình thịch liên hồi, hột xí ngầu trong đầu cứ khua lên không chịu ngừng, mở lớn? Hay là mở nhỏ đây?

“Đại vương…”

“Không cần hầu hạ, lui ra.” Khánh Kỵ xua tay, bốn tì nữ nhìn nhau cười ẩn ý, cùng cúi người chào: “Mời đại vương, hoàng hậu sớm nghỉ ngơi, nô tì xin phép cáo lui.”

Bốn tì nữ bước ra ngoài. Khánh Kỵ nhìn vào mỹ nhân đang ngồi trên giường, định thần lại sải bước đi về phía đó.

Mỹ nhân này dù là dung mạo hay khí chất đều không hề thua kém ba phi tần kia, tuy nhiên có lẽ còn lạ lẫm, thêm vào trang phục hoàng hậu long trọng khoác lên trên người nàng, cảm giác hồi hộp khi đứng trước nhan sắc, giống với lần đầu hắn gặp Thành Bích phu nhân. Điều khác biệt là Thành Bích phu nhân nhu mì như một làn nước mát, khiến ai nhảy vào rồi thì không thể dứt ra, còn Quý Doanh, nàng giống một ngọn lửa rạo rực, chói lọi thu hút, kiều diễm khoa trương.

Trong lúc Khánh Kỵ đưa mắt quan sát nàng, nàng cũng nhìn trưng trưng vào Khánh Kỵ, đôi mắt to tròn đen láy thậm chí càng mở càng to, khuôn mặt búp sen xứng với tấm vải đỏ chót khoác trên vai, Khánh Kỵ có cảm giác nữ nhân xinh đẹp mới mười bảy tuổi này giống một con ngựa lông bờm đỏ, đầy vẻ đẹp mạnh mẽ.

Quý Doanh ngu ngơ nhìn vào phu quân của nàng, đến khi Khánh Kỵ bước đến bên nàng, nàng mới chợt bừng tỉnh, vội vã đứng bật dậy, khiêm tốn hành lễ: “Thần thiếp Quý Doanh, tham kiến đại vương!”

“Hoàng hậu bình thân, miễn lễ.” Khánh Kỵ đưa tay đỡ lấy nàng, hai mắt sáng rực, cô nương này đứng dậy mới cảm thấy nàng ta có đôi chân rất dài, dù cho đang mặc y phục hoàng hậu kín mít không lộ thân hình ra được, nhưng Khánh Kỵ cũng mơ hồ cảm nhận được thân thể tuyệt mỹ của nàng ta.

Quý Doanh đang mặc bộ đồ thành hôn đỏ chót, trên đó đeo lỉnh kỉnh nào là ngọc bội, hồng lam bảo thạch, kim châu, lấp lánh chói lòa, nhưng khá xứng với dung mạo thoát tục của nàng, không hề có chút phàm tục, vẻ đẹp thoát tục của nàng lại không xâm phạm vẻ cao quý vốn có từ khí chất toát ra.

Khánh Kỵ mỉm cười hài lòng, hắn bỗng cho rằng tiểu hoàng hậu này cho dù không vì mục đích chính trị, cũng là một chọn lựa tốt khiến hắn mãn nguyện.

Quý Doanh hiếu kỳ nhìn vào phu quân của nàng, trên môi chàng có ria mép oai vệ, không giống với ria mép cong lên của người Tần, mắt to, trán rộng, đầu tóc rậm rạp, mũi cao, nhìn có vẻ… có vẻ khá khôi ngô nhỉ, khác xa con đại tinh tinh toàn thân lông lá, sức mạnh kinh người mà nàng hay tưởng tượng.

“Hoàng hậu đợi lâu chưa? Nào, để quả nhân cởi tấm áo này ra cho nàng, ta cùng uống rượu giao bôi.”

Thấy mỹ nhân quyến rũ này nhìn trưng trưng vào mình, Khánh Kỵ đột nhiên nổi ý định thương hoa tiếc ngọc, đối với tiểu mỹ nhân lạ lẫm này, thê tử sau này của hắn, hoàng hậu cùng sống chung suốt đời, sinh lòng thương mến thân thiết: “Nàng mới có mười sáu mười bảy tuổi, nếu mà đổi lại là thời đại mình đang sống, hãy còn là một học sinh trung học còn nương cậy vào bố mẹ, khổ thân cho nàng vì lợi ích của hai nước Tần Ngô, một thân một mình gả đến Ngô quốc xa xôi ngàn dặm, đoan chắc hiện giờ trong lòng nàng đang lo lắng bất an, mình đừng làm nàng sợ thêm.” 

Khánh Kỵ cởi đi tấm áo hôn lễ rộng rãi khoác bên ngoài cho Quý Doanh, bên trong hiện ra lớp áo xanh thêu hoa văn phụng hoàng bằng chỉ màu vàng kim, chiếc eo thon quấn cái đai bằng ngọc, thể hiện vẻ quý phái hoàng thất. Không ngoài dự đoán của Khánh Kỵ, từ đai lưng trở xuống là đôi chân thon dài của nàng.

“Rượu giao bôi?” Quý Doanh nheo mắt nhìn thức ăn rượu thịt bày đầy bàn, đưa lưỡi liếm láp đôi môi một cách thèm thuồng, nuốt ực nước bọt xuống cổ họng, có trời mới biết, nàng đi đường vất vả từ sáng, đến Cô Tô lập tức cử hành hôn lễ, bao nhiêu nghi lễ phải tiến hành làm cho nàng đến giờ vẫn chưa ăn uống gì, nàng sợ tân nương mà trong lúc hành lễ lại chạy xộc vào tìm chỗ đi ngoài thì mất mặt lắm. Kể từ đêm đó nghe xong dạy bảo của tỉ tỉ, nàng quyết tâm sửa đổi làm một thê tử ngoan hiền đáng yêu, có tâm cơ, biết chiều chuộng để phu quân nghe lời nàng, nên từ khi hôn lễ diễn ra luôn tỏ ra khá dịu dàng, nhưng lúc này nàng đói cồn cào đến hoa cả mắt.

“Hoàng hậu mời ngồi!”

Khánh Kỵ rót cho nàng một ly rượu, trong lòng cũng hơi lo lo, tuy cô nương này khá dễ thương, nhưng dù sao cũng không quen nhau từ trước như Nhược Tích, Diêu Quang, lại không biết tính cách phẩm chất của nàng thế nào, làm cho phu quân như hắn trong đêm động phòng hoa trúc mà cứ phải lễ độ như đang tiếp khách vậy. Giờ mới hiểu tại sao người xưa có câu “Tương kính như tân”, cặp phu thê xa lạ thế này chỉ còn cách giữ thái độ tương kính như tân chứ biết làm gì hơn.

Khánh Kỵ giơ ly lên cụng nhẹ với Quý Doanh, hắn chú ý khóe môi nàng khẽ nhích lên một chút, hình như nàng đang mỉm cười, dáng dấp ấy khá dễ thương, sau đó nàng đưa tay áo lên che miệng, giơ ly kề môi uống cạn.

“Hí, cười không nhe răng, uống rượu che mặt, đúng là một tiểu nữ nhi hiền thục, xem ra quốc quân nhà Tần có cách dạy muội muội hiệu quả đấy.”

Khánh Kỵ ngấm ngầm khen ngợi, nâng ly uống một hớp, đợi khi hắn đặt ly xuống, đưa mắt nhìn vào chiếc ly ngọc Quý Doanh mới để xuống bàn, hắn không khỏi giật mình, chiếc ly đó sạch bong, không hề chừa lại một giọt rượu nào cả.

Khánh Kỵ thấy vị hoàng hậu trẻ con này rất thú vị, mỉm cười nói: “Hoàng hậu à, rượu giao bôi chỉ là một nghi thức thôi, không cần thiết phải uống cạn đâu. Hô hô, rượu có cay không, nào nào, ăn một chút thức ăn nào.”

“Mời đại vương dùng trước.” Quý Doanh cười dịu dàng đáp lại, nụ cười làm người khác say đắm. Khánh Kỵ cảm thấy rất vui, hắn cầm lấy đôi đũa ngà voi, gấp vài miếng dưa bỏ vào miệng, nhai vội mấy cái nuốt cái ực, ho lên vài tiếng: “Khụ… khụ…”

Hắn đang định nói chúng ta cởi áo đi nghỉ thôi, vừa nhìn thấy bộ dạng của Quý Doanh lập tức hết hồn, chỉ thấy nàng ta cầm đũa lên, cô công chúa bé nhỏ dịu dàng biến đâu mất, nàng gắp lấy một chiếc tay gấu béo ngậy, chiếc tay gấu to bè thoáng chốc lọt thỏm vào đôi môi chúm chím như anh đào của nàng, miệng nàng không ngừng nhai ngấu nghiến, nàng đưa đũa gắp tiếp một miếng thịt to.

“Ơ?” Nghe thấy Khánh Kỵ nói câu gì đó, Quý Doanh ngưng đũa ngay trên không, nàng chớp chớp mắt, đôi mắt như đặt ra một câu hỏi cho Khánh Kỵ.

“À… không có gì, thức ăn… khụ khụ, nguội rồi đúng không?”

“Còn ăn được!” Quý Doanh ngửa cổ nuốt cái ực miếng tay gấu, sau đó quay sang Khánh Kỵ cười tinh nghịch, để lộ hàng răng trắng đều tăm tắp, Khánh Kỵ còn chưa nhìn rõ hàm răng của nàng, miếng thịt béo ngậy lập tức được nhét vào, đôi môi chúm chím của nàng còn chảy long tong vài giọt dầu mỡ.

Khánh Kỵ trợn tròn đôi mắt, chỉ thấy Quý Doanh ăn càng lúc càng hăng say, cứ như kế bên không có ai đứng đó. Đến sau cùng, nàng còn tóm rất chiếc bình rượu làm bằng bạc, đổ ra ly uống ực cái cạn sạch, như cá kình hút nước vậy. Sức ăn sức uống của nàng làm Khánh Kỵ le lưỡi khiếp sợ.

Người Giang Nam ăn uống cầu kì, thức ăn thích làm ra nhiều món ngon vật lạ, nhưng mỗi món chỉ để một đĩa nhỏ, số lượng không nhiều, còn người Tần ở tuốt phía Tây, xưa nay thích uống rượu bát lớn, ăn thịt miếng to, dù là ngự thiện trong dòng dõi hoàng tộc cũng không xóa đi phong tục lỗ mãng, Quý Doanh từ nhỏ đã quen cách ăn uống vồn vã như vậy, thân là công chúa một nước, cách ăn uống còn không bằng một nam tử vùng Giang Nam nho nhã.

Thêm vào đó Quý Doanh mới tròn mười bảy tuổi, vẫn đang trong độ tuổi dậy thì, người Tần thích tập luyện võ nghệ, quanh năm giao chiến chống người Tây Dung, nam nữ đều giỏi võ, tính khí hào sảng, cách ăn uống thô lỗ… thôi thì không nhắc tới làm gì.

Cao lương mỹ vị bày khắp một bàn đã bị Quý Doanh ngấu nghiến gần hết, bình rượu cũng sạch bong, Khánh Kỵ nhìn trưng trưng vào nàng dốc ngược bình rượu, đổ giọt rượu cuối cùng vào ly, sau đó thở dài vẻ tiếc nuối, giơ ly lên nốc cạn. Khi nàng đặt ly xuống, đôi mắt long lanh xoay tròn có vẻ sắp say, hai má hồng hào dễ thương ửng đỏ như cánh hoa đào.

Thấy Khánh Kỵ nhìn trưng trưng vào mình, Quý Doanh đã ngà ngà say chợt nhớ ra nàng phải làm một thê tử ngoan hiền dễ thương, có tâm cơ, có thủ đoạn, thờ chồng dạy con, nàng mỉm cười e thẹn nhìn Khánh Kỵ, nụ cười đó khiến Khánh Kỵ quên đi cách ăn uống khó coi của nàng, chỉ cảm thấy nữ nhi đến từ Tây vực này tính tình ngay thẳng, rất là đáng yêu, cái khuyết điểm kia… thật ra cũng chính là ưu điểm khó bắt gặp ở nữ nhân khác.

Hồi sau… Quý Doanh mở to đôi mắt, vênh mặt hất hàm lên, nói to: “Kể từ hôm nay, đại vương đã là phu quân của người ta rồi có đúng không?”

“Ừ!” Khánh Kỵ nôn nao nhìn vào nàng ta, trong lòng rạo rực muốn biết tiếp theo sẽ có chuyện gì xảy ra.

“Hư!” Quý Doanh buông đũa xuống, hay tay chống xuống đầu gối, khuôn mặt búp sen cố tỏ ra nghiêm nghị, nói với Khánh Kỵ: “Thế… người ta muốn phu quân của mình giúp cho một việc, có phải được hay không?”

Khánh Kỵ hồi hộp hơn nữa, cười giả lả: “Ờ…, nói ra nghe thử, giúp việc gì thế.”

Quý Doanh ưỡn thân lên phía trước, bàn tay tạo thành cây đao chém vào không khí, hạ nhẹ giọng nói xuống: “Giúp tỉ tỉ của thiếp, diệt trừ Phí Vô Cực.”

Khánh Kỵ lớ ngớ hiểu ra, nhủ thầm: “Mạnh Doanh làm hoàng hậu Sở quốc mười mấy năm, lại phải nhẫn nhục chịu đựng dưới thời Nang Ngõa và Phí Vô Cực lần lượt lộng quyền nắm giữ triều chính, nay quả nhiên khác xa với nữ nhân chốn thâm cung khác, hành sự cẩn trọng lão luyện, bí mật thỏa thuận giữa Ngô và Sở, ngay cả muội tử cũng không hề tiết lộ nửa lời.”

“Này, chàng có đáp ứng yêu cầu này không?” Quý Doanh kéo nhẹ tay áo Khánh Kỵ, giọng nói có phần nhõng nhẽo, xem ra nàng tuy hào sảng, nhưng tửu lượng không cao cho lắm, lúc này đã say đến nỗi lảo đảo đứng không vững: “Người ta vốn không muốn bị gả đến Ngô quốc, nhưng hoàng huynh cứ ép hôn. Thiếp… thiếp định vào Cô Tô thành sẽ cho chàng biết tay, quậy tưng lên một trận, sau đó cũng nhịn được, xem con người chàng cũng vừa mắt đấy, thôi thì sớm muộn cũng lấy chồng, lấy ai cũng phải lấy, bổn công chúa cam chịu số phận vậy, nhưng… nhưng mà… chàng phải giúp tỉ tỉ của thiếp mới được…”

Khánh Kỵ đanh mặt, nghiêm nghị nói với Quý Doanh: “Hoàng hậu chắc vẫn chưa biết rõ quy củ của Ngô quốc ta, vậy đêm nay quả nhân sẽ nói cho nàng nghe, nữ nhân, không được can thiệp triều chính!”

Quý Doanh nghe xong tức giận lên: “Đó là đạo lí trời đánh thánh đâm gì đấy, dưới gầm trời sao lại có thứ đạo lí phi lí này?”

Khánh Kỵ không biết nên cười hay nên giận, thấy nàng ta đúng là đã say, bèn dịu dàng nói: “Quả nhân lấy phải công chúa Tần quốc hay thuyết khách Sở quốc đây nhỉ? Hôm nay là đêm tân hôn động phòng hoa trúc của đôi ta, hoàng hậu đừng nhắc đến những chuyện này nữa!”

“Không được, đại vương… chàng phải nhận lời thiếp, hôm nay mới động phòng hoa trúc, bằng không…”

“Bằng không thì sao nào?”

Quý Doanh xắn tay áo lên, để lộ bắp tay trắng nõn, hung dữ gườm Khánh Kỵ, hét lên: “Có tin là thiếp đánh cho chàng chịu đồng ý mới thôi không?”  Khánh Kỵ hai tay chống hông, quan sát cô thiếu nữ mỹ miều hung tợn đến Tây Tần này, trong lòng vừa tức tối vừa thấy thú vị. Vị công chúa Quý Doanh này trước khi uống rượu vào là một con thỏ trắng ngoan ngoãn, hiện giờ lại hóa thân thành con ngựa hoang dã khó thuần phục, trong đêm động phòng hoa trúc này, xem ra sẽ náo nhiệt lắm đây.

Thật ra Quý Doanh nổi nóng cũng có lí do của nàng, nếu Khánh Kỵ nói với nàng rằng hiện nay Phí Vô Cực có thế lực lớn mạnh, hắn thân là Ngô vương, nghĩ cho xã tắc dân chúng Ngô quốc, không thể khinh xuất đem Ngô quốc dây vào việc tranh chấp nội bộ của Sở, Quý Doanh từ nhỏ sinh trưởng trong hoàng tộc, chưa chắc không biết lí lẽ hiểu cho cách nói công tư phân minh của Khánh Kỵ.

Nhưng Khánh Kỵ lại ném ra lí do nữ nhân không được can dự triều chính, từ đầu đã cự tuyệt xem xét vấn đề với Quý Doanh, nàng xem thái độ này là khinh miệt, là bỏ mặc, không xem nàng có tí trọng lượng nào ở đây, chả trách vị công chúa điện hạ này nổi giận lôi đình.

Vào thời Xuân Thu, nữ nhân tuy lui ra khỏi vũ đài chính trị, không được xem như có thể gánh vác trọng trách nước nhà giao phó, nhưng trong rất nhiều trường hợp nữ nhân lại phát huy tác dụng và có sức ảnh hưởng lớn, chính khách không bài xích nữ nhân đến mức nghiêm trọng như hậu thế, trong nhiều quốc gia, quân phu nhân, hoàng hậu, hoàng thái hậu can thiệp triều chính là một chuyện rất bình thường.

Năm xưa Vệ quốc từng bị kẻ địch xâm chiếm, khi đó có một công chúa Vệ quốc đã được gả đi xa vội quay về, dùng danh nghĩa công chúa triệu tập nghĩa quân, đánh đuổi quân địch, xây dựng lại Vệ quốc. Hiện nay Vệ phu nhân Nam Tử có sức ảnh hưởng ở cả Vệ, Tống, ngoài thủ đoạn của nàng ra, còn là các đại thần không phản đối nữ nhân chấp chính, vì thế sức cản từ triều đình cực nhỏ cũng là một lí do quan trọng.

Nước Tần nằm tận phía Tây biên thùy, phong tục văn hóa phóng khoáng hơn cả trung nguyên, nữ nhân Tần quốc có địa vị cao hơn nhiều so với nữ nhân trung nguyên, Tần quốc thậm chí còn có cả đội nữ binh trong biên chế quân đội nữa.

Theo như sử sách ghi chép, khi bước vào giai đoạn lịch sử chiến quốc, Tần quốc từng xuất hiện một vị Tuyên thái hậu, nàng không những can dự triều chính, hơn nữa ngôn từ mạnh mẽ, tác phong ác liệt, ngay cả nữ tổng thống, nữ thủ tướng của các nước phương Tây vào thế kỉ hai mươi mốt cũng phải cúi đầu bái phục.

Khi Sở quốc tiến đánh Hàn quốc, Hàn buộc phải cầu cứu Tần xuất binh giải vây, Tần quốc không thèm để ý, sứ giả Hàn quốc giống con chó ăn vạ bám riết Tần quốc không chịu về, ngày nào cũng lên cung điện Tần quốc lải nhải một mớ đạo lí môi hở răng lạnh gì đấy, làm cho Tần vương bó tay không biết làm thế nào, lại không tiện làm dữ ném sứ giả đi.

Vị Tuyên thái hậu nghe người hầu báo lại, bèn hùng hổ chạy vào đại điện chống lưng cho hoàng nhi, hành động này rõ ràng là can dự triều chính rồi. Biện luận hùng hồn của nàng ta trên đại điện, càng trước sau không một ai sánh bằng, ngay cả nữ trung hào kiệt Võ Tắc Thiên sau này cũng cúi đầu né sang bên.

Vị Tần thái hậu đó trước mặt bá quan văn võ trong triều nói với sứ giả Hàn quốc: “Thiếp sự Tiên vương dã, Tiên vương dĩ kì khư gia thiếp chi thân, thiếp khốn bất bì dã; tận chí kì thân thiếp chi thượng, di thiếp phạt trọng dã, hà dã? Dĩ kì thiếu hữu lợi yên. Kim tả Hàn, binh bất chúng, lương bất đa, tắc bất túc dĩ cứu Hàn. Phù cứu Hàn chi nguy, nhật phế thiên kim, độc bất khả sử thiếp thiết hữu lợi yên.”

Những lời này giải thích ra là thế này: Ngày xưa lúc ta hầu hạ tiên vương, khi ngài đặt một chân lên người ta, ta cảm thấy rất nặng, nhưng sau này ngài đè cả người lên ta, ta lại cảm thấy không hề nặng, ngươi có biết tại sao không? Vì ta cảm thấy sung sướng! Bây giờ bắt Tần quốc ta giúp Hàn giải vây, đưa ít quân đi thì không làm được gì, đưa nhiều quân thì hao phí nhiều tiền của, đổi lại ta nhận lợi ích gì chứ? Đã không có lợi ai mà xuất binh?

Kết quả là vị sứ giả Hàn quốc khéo tài ăn nói bị Tần thái hậu nói cho cứng họng, lủi thủi quay về. Khi đó đã bước vào giai đoạn chiến quốc, nữ nhân càng rời xa chính trường hơn so với thời Xuân Thu, Tần thái hậu dám ngang nhiên bước lên đại điện thay thế Tần vương phán quyết quốc gia đại sự, mà còn không hề e ngại đem chuyện phòng the của mình ra làm ví dụ, không cần nói cũng hiểu vào thời Xuân Thu quyền lực của các nữ nhân quý tộc lớn cỡ nào.

Hiện nay Quý Doanh đã là hoàng hậu Ngô quốc, quốc gia đại sự đương nhiên vẫn do Khánh Kỵ quyết định, nhưng nàng chí ít cũng có quyền được luận bàn góp ý kiến, nhưng nay Khánh Kỵ phán một câu “Nữ nhân không được can dự triều chính” từ chối bàn với nàng việc cứu Sở, Quý Doanh cho rằng Khánh Kỵ đang xem nhẹ tồn tại của nàng, nói không chừng hắn còn định thừa lúc nàng mới gả qua đây ra oai với nàng, xâm chiếm quyền lực làm hoàng hậu của nàng. Vốn đã không vừa ý với cuộc hôn nhân mang nặng tính chính trị này, chỉ là được tỉ tỉ mềm mỏng khuyên nhủ trong thâm cung một lần nên hồi tâm chuyển ý, Quý Doanh nay lập tức nổi điên trở lại.

Về phần Khánh Kỵ, tuy biết hoàng hậu say rượu, trong lòng vẫn cảm thấy không vui, các mỹ nhân bên cạnh hắn, dù là Nhược Tích, Diêu Quang, Tiểu Man, ai nấy vừa có nhan sắc, lại có trí tuệ, còn dịu dàng hiền thục, không kiêu ngạo ỷ thế làm bừa, càng không dám ngoa ngoắt trước mặt Khánh Kỵ.

So sánh với họ thì công chúa Tần quốc này có hơi hung dữ, nhưng nàng là hoàng hậu, một khi trở mặt với nàng ta, vậy quốc gia đại sự, ngoại giao liên minh, đại nghiệp phạt Việt đều có nguy cơ tan thành mây khói, nghĩ thế nên Khánh Kỵ cố kiềm chế, gằn giọng: “Hoàng hậu, nàng say rồi, mau nghỉ sớm thôi, nếu không…”

“Nếu không thì sao nào?”

“Nếu không… quả nhân nổi nóng rồi đấy.”

“Sợ ngươi à?” Quý Doanh cười lạnh lùng, giơ nắm đấm đánh thẳng vào mặt Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ điên tiết, gồng người lên gào thét: “Thật là không biết phép tắc gì cả!” Hắn phất tay áo, hung tợn quét về phía nắm tay của Quý Doanh.

“Hứ!” ai ngờ Quý Doanh tuy say rượu, đánh nhau lại không thua kém, nhác thấy Khánh Kỵ lao tới, Quý Doanh cúi người né tránh, xoẹt một cái húc đầu vào ngực hắn, hai tay giữ chặt đôi vai, hét to: “Ngã này!”

Khánh Kỵ khinh địch mất cảnh giác, chỉ cảm thấy gót chân nhói đau, lập tức bị húc ngã về phía sau, “Đùng” một tiếng ngã mạnh ra tấm thảm.

Khánh Kỵ hấp tấp bò dậy, hậm hực rít lên: “Con nha đầu này, ngươi…”

Quý Doanh như một con khỉ lanh lẹ lao tới nhảy phốc vào người Khánh Kỵ, hắn lại bị ngã lăn ra đất, Quý Doanh lật hắn lại, ngồi vào chân sau của hắn, hai tay giữ chặt vai Khánh Kỵ.

“Đây… vậy là thế nào?”

Cả thân người Khánh Kỵ bị kéo căng như dây cung, thở hổn hển ngạc nhiên hỏi. Hắn không hề biết vị tiểu hoàng hậu của hắn lại tinh thông kĩ thuật đấu vật của dân tộc Tây Dung.

Bên ngoài cửa điện, bốn tì nữ tùy giá của Tần quốc nghe trong tẩm cung vọng ra tiếng động lớn, ai nấy hoảng hốt giật mình.

Một tì nữ lè lưỡi e thẹn cất tiếng: “Đại vương cũng thật là… thật là quá dũng mãnh nhỉ, công chúa điện hạ chẳng qua chỉ là một cô nương mới lớn, sao mà chịu cho thấu?”

“Cần cô quan tâm à, đâu nghe tiếng công chúa điện hạ kêu toáng lên đâu.” Một tì nữ khác liếc xéo nàng, đỏ mặt thỏ thẻ: “Ta nghe nói lần đầu tiên có chút đau, nhưng công chúa điện hạ từ nhỏ đã tập võ, cơ thể cường tráng, nghĩ chắc công chúa chịu được.”

Tì nữ thứ ba lớ ngớ góp ý kiến: “Nhưng… nhưng ta nghe nói phu thê hợp hoan không giống như vậy mà, sao mà nghe giống như đang đánh nhau to vậy.”

Tì nữ thứ tư hứ một tiếng, nói: “Đừng không biết lại làm ra vẻ biết nữa, nên làm thế nào chẳng lẽ đại vương không biết?”

Nàng hai má ửng đỏ, cúi đầu bấu víu vạt áo, xấu hổ nói nhỏ: “Người ta chỉ sợ… sợ đại vương cơ thể cường tráng, một mình công chúa điện hạ không chịu đựng nổi, nếu mà… nhỡ đại vương lệnh cho chúng ta cùng vào hầu hạ… ây da, người ta không nói nữa, xấu hổ chết đi được.”

“Hứ, mơ đó à, hôm nay là ngày đại hỉ của đại vương và công chúa, đêm nay đâu đến lượt cô vào hầu hạ đại vương, sao vậy? Hân Nhi động lòng rồi à?”

Hân Nhi đỏ mặt lườm bạn mình một cái, ngúng nguẩy: “Đừng trêu người khác, đại vương khôi ngô tuấn tú thế này, cô nhìn vào ngài cũng đê mê chứ bộ.”

Thời đại Xuân Thu phong tục cởi mở, Tần quốc càng phóng khoáng hơn, các nữ nhân thân thiết hay túm tụm bàn chuyện nam nhân, đề tài nội dung không hề thua kém con gái thời hiện đại.

“Hí hí, Hảo Nhi đương nhiên đê mê rồi, lúc bên ngoài cung ta nghe cô ấy nói, Ngô vương cao lớn vạm vỡ, tướng mạo anh tuấn, lần này tùy giá đến Ngô đúng là không uổng kiếp này.”

Cô tì nữ tên Hảo Nhi bị các bạn trêu chọc đỏ cả mặt, bèn đưa tay cù lét họ: “Các con này ranh ma nhỉ, lấy bổn cô nương ra trêu chọc, các cô không thích đại vương sao đứng hết ở đây chờ đợi? Đại vương và công chúa đã đi nghỉ, còn cần chúng ta hầu hạ sao chứ? Đổi lại lúc khác là các cô chuồn cả đi ngủ rồi.”

Hân Nhi bị cù lét đang cười khanh khách, vội lên tiếng xin tha: “Thôi, thôi, tha cho ta, đừng cù ta nữa, nhột quá, người ta thừa nhận, Ngô vương khiến nữ nhân động lòng, như vậy được rồi chứ?”

Nàng chỉnh tranh lại y phục, đôi mắt long lanh mở to e ấp: “Thân hình của đại vương đúng là… ít thấy trong số nam nhân, so với võ sĩ Tần quốc… không hề thua kém, đúng là vạm vỡ… rắn chắc…” 

Hảo Nhi ghé tai thở hổn hển nói nhỏ: “Đại vương là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc mà, cơ thể đại vương rất rắn chắc, chỗ nào cũng rắn chắc hết cả, cô vui không nào?”

“Ây da, đáng ghét!” Hân Nhi xấu hổ đưa tay cù lét bạn mình, bốn tỉ muội đùa vui nhau bên ngoài, chợt nghe tiếng thét lên trong tẩm cung, bốn người cùng dừng phắt lại, ngớ mặt nhìn nhau, Hân Nhi ngập ngừng nói: “Công chúa điện hạ kêu lên như vậy, chắc là… chắc là đã… đã bị… bị…, đúng không vậy?”

Ba tì nữ kia cùng gật gù: “Ư, ư…” sau đó lại trợn tròn mắt, đồng thanh ngạc nhiên kêu lên: “Thế… tiếng động hồi nãy, rốt cuộc đang giở trò gì nhỉ?”

Trong tẩm cung, Khánh Kỵ và công chúa Quý Doanh đang giao chiến ác liệt, thở hổn hển quấn lấy nhau, trừng mắt lườm đối phương. Khánh Kỵ chưa từng đánh giáp lá cà kiểu này cả, Quý Doanh có vô phép nhưng dù sao cũng là một tiểu cô nương xinh xắn, hắn là một nam tử hán, sao dám nặng tay với nàng, nên Khánh Kỵ chưa hề ra tay, chỉ ra sức chống đỡ quyền cước của Quý Doanh, định dựa vào sức mạnh trời sinh đè nàng xuống, ai ngờ cô nương này lại giỏi về kĩ thuật vật lộn lấy yếu thắng mạnh, Khánh Kỵ không biết kĩ thuật đô vật, lại không được ra tay mạnh bạo, vì thế xuất chiêu khó khăn, hồi lâu sau mới miễn cưỡng dựa vào sức khỏe đè được Quý Doanh xuống.

Lúc này, mũ nón của Khánh Kỵ đã không biết bay đi đâu, vương bào bị xé rách một mảng to, cổ áo sau lưng toét ra, lộ cơ bắp rắn chắc màu đồng ra, Quý Doang công chúa bị đè bên dưới vẫn còn cố chống cự như con lươn, đang ra sức thoát ra khỏi sự khống chế của hắn.

Lễ phục hoàng hậu hoa mỹ của vị tân nương bướng bĩnh này cũng bị xé ra, để lộ làn da trắng mịn nơi ngực, bầu ngực căng tròn lồ lộ, nàng chỉ mới mười bảy tuổi nhưng ngực đã phát triển to tròn như Thành Bích, nữ nhi Tây Tần quả nhiên khác xa nữ nhi vùng sông nước Giang Nam, chỉ dựa vào đôi chân thon dài là đủ cho nàng vượt xa một đám nữ nhân rồi, chiếc áo trong cũng bị cuộn lên, eo thon bị Khánh Kỵ ấn vào, rốn nhỏ lồ lộ ra.

Quý Doanh như muốn phun lửa, gào lên: “Tên khốn! Ngươi dám đối xử với ta như vậy, còn không buông tay là ta gọi người tới đó.”

Khánh Kỵ điên tiết cười khẩy: “Đúng là một con nha đầu điêu ngoa không biết trời cao đất dày, nàng cho rằng đây vẫn còn là hoàng cung Tần quốc hả? Đây là hoàng cung của quả nhân, nàng có kêu gào khản giọng coi có ai dám đến cứu nàng không! Gọi đi, giỏi thì cứ gọi!”

“Thả ta ra!”

“Tại sao phải thả nàng ra?” Khánh Kỵ trêu chọc: “Hôm nay là đêm động phòng hoa trúc của quả nhân, quả nhân muốn chiếm hữu hoàng hậu của mình, chuyện bình thường mà!”

Khánh Kỵ thú tính nổi dậy cúi rạp người xuống, Quý Doanh lúc này mới thấy sợ hãi giãy giụa: “Thả ta ra, mau thả ta ra đi!” Nàng đấm thùn thụt vào ngực Khánh Kỵ, nức nở bật khóc: “Thả ta ra, ta không cho ngươi ức hiếp đâu, ta… ứ…”

Chưa đợi nàng nói xong, chiếc miệng chúm chím đã bị Khánh Kỵ chụp lấy, nụ hôn đầu đời suốt mười bảy năm thế là bị Khánh Kỵ tước đi, Quý Doanh trừng mắt giận dữ, miệng mở to, thế là chiếc lưỡi của Khánh Kỵ thừa cơ lọt sâu vào miệng nàng, chạm vào đầu lưỡi của nàng…

Quý Doanh đơ người ra, hồi lâu sau mới trấn tỉnh lại: “Hắn… hắn đưa lưỡi vào miệng mình rồi… ọe… buồn nôn quá!”

Quý Doanh dồn sức rụt lưỡi vào trong, sau đó hàm răng đều tăm tắp cắn phập mạnh xuống.

Ai ngờ trong khoảnh khắc khi nàng rụt đầu lưỡi lại Khánh Kỵ đã sớm cảnh giác, răng của Quý Doanh cắn cái “cạch”, nhưng không trúng gì cả.

“Hứ! Ác thiệt đấy, muốn cắn gãy lưỡi phu quân của nàng hả?” Khánh Kỵ lạnh lùng gầm gừ: “Đừng giở cái kiểu hống hách của công chúa nhà Tần ra trước mặt quả nhân, càng đừng tưởng nàng xinh đẹp thoát tục là muốn làm gì thì làm trước mặt ta! Quả nhân hết hứng chạm vào con điên không biết điều này rồi, nàng cần phải làm rõ một việc: ở đây là Ngô quốc, nơi đây là hoàng cung của ta, quả nhân là Ngô vương, là phu quân của nàng, mãi mãi không có chuyện nàng ra oai trước mặt ta, con ranh này, đừng tưởng mê hoặc được quả nhân mà lầm!”

Khánh Kỵ hơi cong lưng, nhảy phốc cái đứng bật dậy.

Chỉ nghe tiếng “Rẹt” lanh lảnh, vừa nãy hai người vật nhau, ngọc bội của Khánh Kỵ mắc vào áo yếm của Quý Doanh, lúc này hắn nhảy mạnh một cái đứng dậy, lập tức xé một đường dài ngay áo yếm che ngực nàng, bầu ngực được phóng thích lồ lộ ra dưới ánh nến. Quý Doanh xấu hổ hét to lên một tiếng, giơ tay che lấy ngực mình.

Khánh Kỵ chả thèm đưa mắt nhìn nữa, hắn gừ một tiếng, đi đến bên giường nằm xuống, lạnh lùng phán: “Nếu như nàng muốn qua ngày tháng như thế này, vậy nàng đạt được mục đích rồi đó, đêm nay quả nhân cứ ngủ ở đây, còn nàng muốn đi đâu thì đi, kể từ ngày mai, tòa Loan Phượng cung này thuộc về nàng, quả nhân sẽ không bước vào đây nữa.”

Khánh Kỵ nói hùng hồn chắc nịch có vẻ quyết tâm lắm, Quý Doanh nghe xong cảm thấy hơi sợ hãi, nhưng nỗi sợ lại lập tức bị cơn giận che lấp, nàng tức giận run lên bần bật, trong lòng ấm ức, chỉ nghĩ: “Hắn lại đối xử như thế với mình, hắn dám đối xử như thế với mình…”

Vị công chúa Tần quốc này xuất thân hoàng tộc, tính tình ngang ngạnh, từ nhỏ quen được chiều chuộng trong hoàng cung nhà Tần, xưa nay chưa có ai dám nghịch ý nàng ta như đêm nay, Khánh Kỵ lạnh nhạt coi thường nàng đương nhiên cứa một vết sâu trong tim nàng.

“Ta hận ngươi, ta hận ngươi, hận ngươi suốt đời!” Quý Doanh ngấm ngầm thề trong lòng, móng tay bấu chặt vào lòng bàn tay, nước mắt giàn giụa chảy khắp khuôn mặt nàng tự bao giờ…

Trời sáng.

“Công chúa? Công chúa? À… hoàng hậu…”

“Hở?” Quý Doanh đang phủ phục dưới đất bị tiếng gọi kêu dậy, nàng hấp tấp bò dậy, nhìn về phía giường, trên giường trống lơ trống lốc, Khánh Kỵ đã không biết đi đâu. Quý Doanh thở phào nhẹ nhỏm, đồng thời trong lòng dâng lên một cảm giác trống trải, nàng sống mười bảy năm rồi vẫn chưa trải qua cảm giác ấy.

“Hoàng hậu nương nương, đã đến lúc tắm rửa trang điểm rồi ạ.”

Bốn tì nữ đứng ngay bậc cửa không dám bước vào, hơi thở cũng không dám thở mạnh, chỉ cất giọng nhè nhẹ gọi nàng. Họ không phải đui mù, nhìn thấy tẩm cung loạn xạ lên thế này là đoán ra đêm qua đại vương và hoàng hậu đã xảy ra chuyện không vui, mặc dù trong lòng họ không hiểu tại sao mà đại vương và hoàng hậu xứng đôi vừa lứa lại thành ra nông nỗi này, nhưng vào thời khắc căng thẳng ai cũng không dám lên tiếng hỏi thăm.

Quý Doanh đưa tay lên lau mặt, mặt nàng vẫn còn đầy nước mắt.

“Hoàng hậu…” Thấy Quý Doanh không nổi nóng, Hảo Nhi nháy mắt với các tỉ muội, bước tới đỡ Quý Doanh đứng dậy, nhỏ nhẹ khuyên nhủ: “Hoàng hậu nương nương, hôm nay phải tháp tùng đại vương tiễn sứ giả Tần quốc về nước, còn phải tiếp kiến các phi tần và người hầu trong cung vào triều bái, hoàng hậu phải tắm rửa trang điểm rồi ạ.”

“Hoàng hậu…”, trái tim nhỏ bé của Quý Doanh nhói lên, dù nàng có đồng ý hay không, hoặc là chưa hề chuẩn bị, kể từ giây phút này nàng đã là hoàng hậu của Khánh Kỵ. Hoàng hậu… điều đó có ý nghĩa gì, trên đất nước xa lạ này, với thân phận xa lạ này, Quý Doanh cảm thấy cô đơn lẻ loi.

Nàng được dìu ngồi vào bàn trang điểm, trên bàn có treo chiếc gương đồng, trong gương là khuôn mặt trắng bệch tiều tụy của nàng.

Bốn tì nữ vội vàng tỉ mỉ cẩn thận trang điểm cho nàng. Rửa mặt, chải tóc, đeo trang sức, tô lông mi, vẽ môi, thay áo…, trên khuôn mặt búp sen, hàng mi cong vút lên, môi cũng được bôi đỏ, phấn hồng chấm lên gò má, trong gương phản chiếu một mỹ nhân quyến rũ.

“Đây chính là mình ư, trang phục hoàn toàn khác với thiếu nữ hôm nào, nữ nhân trong gương nhìn rất đẹp nhưng cũng rất lạ lẫm, đó là cách trang điểm của một thiếu phụ.”

“Muội muội, cho dù không vì Tần quốc, chỉ vì hạnh phúc cuộc đời muội, muội cũng tuyệt đối không được chọc giận phu quân của muội, muội nhớ lấy, cả đời này muội đã an bài là thê tử của người ta, còn cả đời hắn lại không chỉ có một nữ nhân là muội, nếu muội cứ làm bừa, muội sẽ tự tay chôn sống hạnh phúc đời mình đó!

Từ nay về sau, muội phải rời xa quê hương, rời xa thân nhân, một mình sinh sống tại Ngô quốc, nơi xa lạ đó từ nay là quốc gia của muội, dân Ngô xa lạ chính là con dân của muội, còn tên Khánh Kỵ xa lạ chính là phu quân kề cận bên muội suốt đời, muội có tưởng tượng nổi nơi xa lạ đó, người dân xa lạ nơi ấy mãi mãi không xem muội là người nhà sẽ thế nào không? Muội có chịu đựng được phu quân của muội bỏ mặc muội coi muội như vô hình không?”

Những lời của Mạnh Doanh văng vẳng bên tai, Quý Doanh mở to mắt nhìn vào bóng hình mình trong gương, hồi tưởng đêm qua: “Đêm qua, mình đã làm gì nhỉ?”

Hồi tưởng lại tất cả, Quý Doanh liền hối hận không thôi: “Trời ơi, đêm tân hôn mà mình… sao có thể làm càn thế chứ? Khi đó không chịu gả cho hắn thì lúc đến Cô Tô cứ quậy tưng lên một trận, giờ đã đồng ý lấy hắn, sao mà… sao mà lại ra tay đánh nhau với phu quân được chứ?”

“Phu quân”, hai tiếng phu quân lóe lên, khiến nàng cảm nhận một cảm giác lạ lùng, nàng nhận thức được cảnh ngộ nàng sắp đối mặt: “Bây giờ… mình phải làm sao đây?”

“…Một khi lấy lầm người, thì chỉ còn biết chấp nhận số phận, như tỉ tỉ, như Nam Tử của Vệ quốc, dù muội có xinh đẹp như hoa, cao ngạo kiêu kì, đến cuối cùng thì thế nào chứ? Không phải cô công chúa nào cũng được may mắn, đại đa số nữ nhi xuất thân hoàng tộc đều không tự quyết định tương lai hạnh phúc của mình được. Quý Doanh, muội phải biết trân trọng, muội có dung mạo và thân thể khiến nam nhân chết mê chết mệt, lại được gả cho một lang quân tốt, không phải mỗi cô gái đều may mắn như muội đâu, đừng để tính ngang bướng của muội phá hỏng đi hết thảy mọi thứ.”

Những lời tỉ tỉ loáng thoáng hiện lên trong đầu, Quý Doanh như nuốt phải chén đắng, nếu thời gian có thể quay lại, nếu nàng được trở về thời điểm đêm qua, dù cho có uất hận Khánh Kỵ cao ngạo và thô lỗ đến đâu, nàng cũng tuyệt đối không làm chuyện khờ dại này: Đêm tân hôn mà cùng phu quân vật lộn, còn quật ngã chàng đau điếng nữa, đổi lại là nam nhân khác cũng không ai tha thứ cho nàng, hơn nữa đó còn là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, đương kim Ngô vương anh dũng. 

“Hoàng hậu…”

Hân Nhi gọi lên cách xưng hô đáng ghét nhất của Quý Doanh, đưa gương đồng lại gần nàng ta.

Quý Doanh ngây dại nhìn vào gương, thời khắc động phòng hoa trúc là thời khắc tuyệt vời mỗi một thiếu nữ đều trông mong trải qua, nhưng tất cả những gì tốt đẹp đã bị nàng phá hỏng, đây vốn là nguyện vọng khi lúc đầu nàng bị thúc ép lên xe đến Ngô, nhưng khi nó xảy ra rồi, nàng lại không hề cảm thấy vui mừng, trong lòng giờ đây chỉ là một khoảng trống mông lung.

Quý Doanh cầm chiếc lược ngà bẻ mạnh, “Rắc” vang lên, chiếc lược bị gãy làm đôi, bốn tì nữ sợ hãi quỳ cả xuống, Quý Doanh chỉ lắc đầu nguầy nguậy, nhìn vào gương đồng, nở nụ cười chua chát…

“Hoàng hậu nương nương, sứ giả Tần quốc đã đứng đợi bên ngoài đại điện, đại vương hối thúc hoàng hậu nương nương mau qua đó.” Ngoài cửa có một thái giám chạy vội đến ẻo lả thông báo.

“Đại vương… bảo ta đi?”

Quý Doanh giật nảy mình, cành cây khô héo trong nàng như được vảy cho vài giọt nước, trái tim hoảng loạn yên tâm lại một chút, nàng định thần, nói: “Biết rồi, bổn hậu sẽ qua đó liền đây.”

Nàng lại nhìn kĩ mình trong gương một lần nữa, xác định rõ không còn vết tích gì mới thướt tha đứng dậy, sải bước đi ra ngoài, bốn tì nữ lo lắng nhìn vào nhau, vội lẽo đẽo theo sau, ra khỏi Loan Phượng cung.

Sứ giả nhà Tần đang ngồi theo trật tự quân thần trên đại điện, Khánh Kỵ và hắn nói cười vui vẻ, nét mặt tươi tắn như không có gì xảy ra.

Hậu điện phát ra tiếng leng keng, một cơn gió mang hương thơm thoang thoảng lướt qua, Quý Doanh và bốn tì nữ bước vào đại điện, sứ giả Tần quốc vội đứng dậy bước lên tham kiến: “Ngoại thần Nhưỡng Tứ Ly, bái kiến Ngô hoàng hậu.”

“Ngoại thần…, hơ! Trong mắt người Tần, Quý Doanh ta đã là người Ngô rồi.” Quý Doanh trong lòng chua chát, xua tay nói: “Nhưỡng Tứ đại phu miễn lễ, bình thân, mời ngài ngồi.”

Nàng đưa mắt liếc nhìn Khánh Kỵ, không còn cách nào khác buộc phải gắng gượng bước tới hành lễ: “Tiểu đồng bái kiến đại vương.”

“Ha ha, hoàng hậu mau mau miễn lễ, mời ngồi, mời ngồi.” Khánh Kỵ cười giả lả, ánh mắt không hề nhìn vào nàng, Quý Doanh ngồi vào bên cạnh hắn.

Sứ giả Nhưỡng Tứ Ly chắp tay lên tiếng: “Quốc quân Tần quốc của thần rất thương yêu hoàng muội Quý Doanh công chúa, công chúa điện hạ được gả đến Ngô quốc, Nhưỡng Tứ Ly phụng lệnh tháp tùng, nay sứ mệnh đã hoàn thành, ngoại thần xin phép cáo từ về nước, trước lúc ra đi đến thỉnh an đại vương, hoàng hậu, cung chúc đại vương và hoàng hậu ân ái hòa thuận, tương kính như tân, sớm sanh hoàng tử, nối dõi Ngô quốc.”

Khánh Kỵ tươi cười hớn hở: “Nhưỡng Tứ đại phu, lần này về nước thay mặt quả nhân hỏi thăm Tần quân, hai nước Tần Ngô kết thân giao hảo, tương trợ lẫn nhau, kẻ địch phương Bắc không dám dòm ngó, quả nhân nguyện mối giao hảo hai nước Tần Ngô được duy trì muôn đời. Quý Doanh công chúa xinh xắn hiền thục, có nàng làm phối ngẫu, quả nhân được mối lương duyên này, không khỏi vui mừng…”

Quý Doanh nghe hắn đang khen mình, xấu hổ đỏ cả mặt, ngồi im phăng phắc, trong lòng nôn nao, đợi khi Khánh Kỵ nói qua đoạn khen ngợi khách sáo này, nàng mới bình tĩnh trở lại. 

Đợi sau khi Nhưỡng Tứ Ly nhận quốc thư Khánh Kỵ gửi cho quốc quân Tần quốc cáo từ rời khỏi, trên đại điện chỉ còn hai phu thê, khung cảnh trở nên im phăng phắc. Quý Doanh rụt rè nhìn vào Khánh Kỵ, nói nhỏ: “Đại vương…”

Khánh Kỵ phất tay áo đứng dậy, thản nhiên: “Hôm nay không nổi điên, hay lắm, các phi tần hậu cung lát nữa sẽ đến Loan Phượng cung thỉnh an với hoàng hậu, hoàng hậu cũng nên quay về hàn huyên với các tỉ muội, quả nhân rất bận, còn nhiều quốc gia đại sự phải giải quyết, cáo từ.” Dứt lời quay ngoắt bỏ đi.

“Đại… đại… đại vương…”

Quý Doanh gọi với theo, cắn răng ấm ức, trái tim bé bỏng của nàng đau nhói, hai hàng nước mắt lăn dài trên khuôn mặt, từng giọt từng giọt rơi lã chã xuống ngực áo, nàng nheo mắt dõi theo bóng lưng Khánh Kỵ từ từ đi khuất, đôi môi anh đào đã bị cắn bật chảy máu…

“Nước Tần đã đồng ý xuất binh phạt Tấn rồi à? Thời gian quyết định vào lúc nào?” Khánh Kỵ vui mừng hớn hở hỏi chuyện Văn Chủng vừa từ Tần quốc quay về.

“Dạ phải, thời gian đã định vào tháng năm ác nhật.”

“Tháng năm ác nhật ư?” Thời đại tiên Tần, người ta cho rằng tháng năm là Độc nguyệt, ngày năm là Ác nhật, tương truyền vào ngày đó gian tà đương đạo, ngũ độc cùng chui ra, nên mới gọi đoan ngọ ngày năm tháng năm là ác nhật. Khánh Kỵ ngớ ra, lập tức cười hô hố: “Còn nhớ lúc quả nhân tại Lỗ, cũng vào ngày đoan ngọ nhận được sự giúp đỡ của Tam hoàn, xây dựng đội phục binh tại Phi Hồ cốc Phí thành Lỗ quốc, sau này đóng vai trò quyết định trong đại nghiệp phạt Ngô phục quốc. Không ngờ hôm nay người Tần lại chọn đúng ngày đoan ngọ khởi binh, ha ha, đấy là ngày cát tường của quả nhân đó.”

Hắn suy tư giây lát, nói: “Nếu nước Tần đã đồng ý, mau phái người thông báo cho Vệ phu nhân Nam Tử biết tin, tin rằng kẻ muốn nổi loạn trong số lục khanh Tấn quốc, ngày phát động chính là Độc nguyệt Ác nhật, sau khi Tần quốc xuất binh.”

“Dạ! Vi thần lập tức phái người liên lạc với người Vệ.”

“Hừ, còn chuyện chúng ta thảo phạt Trần quốc nên làm tới, hiện giờ chúng ta liên tiếp hạ ba thành trì rồi, Phí Vô Cực phái sứ giả chất vấn, nhưng lại không hề xuất binh can thiệp, cứ tiếp tục đánh mạnh vào, đánh cho Trần quốc không chống cự nổi, ép Sở xuất binh cứu viện.”

“Tuân lệnh!” Anh Đào tự tin báo cáo: “Bình Bố tướng quân đánh ba trận đại thắng cả ba, đang tiếp tục tiến quân đánh mạnh, mạc tướng đã chuẩn bị kĩ lưỡng, một khi Phí Vô Cực xuất binh, lập tức dẫn đại quân giáng cho hắn một đòn chí tử.”

“Ờ, lúc cần thiết ngươi có thể cầm theo hổ phù của quả nhân, điều đại quân của Xích Trung đang trấn giữ Bành thành trợ chiến, trận chiến với Phí Vô Cực, chỉ được thắng, không được thua.”

Anh Đào vênh mặt, hào khí ngút trời: “Xin đại vương cứ yên tâm, Anh Đào chỉ cần một cánh quân là đủ.”

“Anh Đào, kiêu binh tất bại, không nên khinh địch.”

Anh Đào cười tự tin: “Đại vương dạy phải lắm, nhưng… hiện giờ có Sở thái hậu của Sở lén đưa tin nội bộ quân Sở cho ta, nhất cử nhất động của Phí Vô Cực thần đều biết rõ như lòng bàn tay, với lợi thế này mà Anh Đào không đánh bại được hắn thì đâu còn mặt mũi nào giữ chức Đại tư mã Ngô quốc? Nên sớm nhường chức cho người hiền tài khác đi thôi.”

Khánh Kỵ trừng mắt nhìn hắn, gằn giọng: “Bên Tấn quốc mà bạo loạn, cơ hội của chúng ta sẽ đến, trước khi tấn công liên quân Sở Việt phía nam, ta phải giải quyết xong Đông Di cái đã, bên đó sự tình phức tạp, không phải chỉ dựa vào vũ lực là giải quyết ổn thỏa. Vừa phải dùng binh, vừa phải đấu trí, phải vừa cương vừa nhu kết hợp mới xong. Lập quốc, bình loạn, khó khăn trùng trùng, quả nhân lo lắng cho nơi này quá! Ài, quả nhân muốn đích thân tới Dư Khâu của Đông Di chủ trì đại cuộc.”

“Tuyệt đối không thể được!” Khánh Kỵ vừa nảy ý định đi Đông Di, các đại thần Yểm Dư, Tôn Vũ, Anh Đào, Phạm Lãi, Văn Chủng đều vội lên tiếng ngăn cản: “Đại vương là vua của một nước, nếu không là trận chiến quan hệ vận mệnh quốc gia không thể đích thân ra trận, còn không thuộc chuyện liên minh chư hầu, kết giao ngoại bang không được rời khỏi Ngô quốc. Chiến loạn ở Đông Di chưa được giải quyết triệt để, với thân phận tôn quý của đại vương, liên can vận mệnh quốc gia, sao có thể đích thân đến đó? Nếu đại vương không yên tâm công việc bên Đông Di, thần nguyện xin phép đi thay, hỗ trợ Lương Hổ Tử tướng quân cùng bàn kế lớn.”

Khánh Kỵ thấy quần thần phản ứng quyết liệt, chỉ biết cười trừ từ bỏ ý định. Hắn muốn đích thân đi Đông Di, cũng có đôi chút là vì không yên tâm, còn mặt khác nhiều hơn, chính là muốn gặp mặt Thành Bích đang vất vả đánh giang sơn cho hắn bên ngoài, nếu hắn không tiện đi thì phái tướng lĩnh khác đi làm gì nữa? Với tài dũng mãnh của Lương Hổ Tử, trí tuệ của Thành Bích, họ không lo nổi chuyện ở Đông Di nữa thì có phái thêm một người đến đó cũng không giúp ích được gì.

Khánh Kỵ hứa hẹn với quần thần sẽ không nảy ý định đi Đông Di nữa, quần thần thế mới không lải nhải khuyên bảo. Khánh Kỵ đang định truyền lệnh bãi triều, đột nhiên nhớ ra một chuyện, dặn dò: “À, cũng đến lúc rồi, đem đám quyền quý Sở quốc cuối cùng chúng ta còn giữ ở hậu sơn Cô Tô long trọng tiễn về nước đi, phải cho chúng ít thời gian tranh quyền đoạt lợi tại Sở, vào thời khắc quyết định sẽ hất đổ Phí Vô Cực.”

Quần thần nghe xong cười to, Tôn Vũ hí hửng tuân lệnh, Khánh Kỵ thế mới truyền lệnh bãi triều, đi về phía hậu cung. Muốn vào hậu cung phải đi qua Loan Phượng cung, sau đó mới rẽ sang các cung điện khác. Khi đi ngang Loan Phượng cung, Khánh Kỵ ngước nhìn tấm biển trang hoàng lộng lẫy óng ánh sắc vàng cho hôn sự hôm qua, thở dài ngao ngán, xoay người đi theo đường nhỏ hướng về cung điện của hoàng phi Nhược Tích.

Đã một tháng trôi qua, Khánh Kỵ quyết tâm không thèm gặp Quý Doanh, hắn biết rõ nàng đã biết hối lỗi, nhưng cứ làm bộ không để ý, kể từ đêm tân hôn, hắn không bước vào Loan Phượng cung nữa, cũng chưa hề gặp mặt hoàng hậu Quý Doanh thêm lần nào, Loan Phượng cung náo nhiệt hôm nào nay trở nên vắng vẻ hiu quạnh.

Khánh Kỵ lòng như sắt đá, rắp tâm cho Quý Doanh làm góa phụ suốt đời. Nhưng vị hoàng hậu này tuy tính tình hơi ngang bướng, đêm tân hôn say rượu chọc giận phu quân, Khánh Kỵ cứ ngỡ Quý Doanh ngoài nhan sắc ra là cái đầu trống rỗng, hắn đâu biết các cô gái bên cạnh hắn chả có ai là bình hoa xinh xắn chỉ để cắm hoa, cô nương nhà Tần này một khi bình tĩnh lại, đầu óc gian manh hơn cáo già, với tính cách của nàng, sao lại chấp nhận ngồi yên than thân trách phận không hành động chứ?  Trong Loan Phượng cung, dưới bóng cây đặt một chiếc bình, trong bình cắm vài mũi tên, dưới đất cũng vương vãi đầy tên. Kế bên, hoàng hậu Quý Doanh và hoàng phi Tiểu Man đang đá cầu với nhau, hai người đều mặc võ phục kiểu mới do Khánh Kỵ thiết kế lúc ở Phí thành, chiếc quần làm bằng vải bố xuất xứ từ Lỗ, áo bó sát người, dưới chân mang một đôi hài da hươu.

Võ phục trắng áp sát vào thân hình, ủng có dây cột, lưng có đai buộc, hai người khuôn mặt ngọc ngà, mắt mũi như hoa, một người nhỏ nhắn xinh xinh, một người cao ráo thon thả, đều là ẻo lả mỹ miều, ai nấy có dáng vẻ thu hút riêng, dưới ánh nắng soi rọi, khó phân cao thấp.

Đá cầu bắt nguồn từ đâu không ai biết được, nhưng lại phát dương quang đại ở nước Tề vốn thích mới mẻ và hưởng thụ. Người Tề bất kể nam nữ, đều không rời khỏi rái cầu, suốt ngày đá cầu giải trí, người Lỗ sống gần Tề quốc, vì Tề quốc phú cường, phong cách của người Tề được người Lỗ bắt chước theo, nên môn đá cầu cũng nhanh chóng du nhập vào Lỗ, Quý Tôn Tiểu Man tinh thông kĩ thuật đá cầu.

Diêu Quang và Nhược Tích đều lớn tuổi hơn Tiểu Man một chút, tính tình trầm mặc hơn nàng, ngày thường chỉ thích gảy đàn thổi sáo, câu cá vẽ tranh, chơi những trò chơi mang hơi hướng nho nhã, còn Tiểu Man tính tình hoạt bát, thích nghịch ngợm phá phách, luôn cảm thấy những trò chơi kia quá nhàm chán, nên tuy tình cảm với hai tỉ muội kia khá tốt, nhưng ít khi chịu chơi chung với nhau.

Thế là từ khi bái kiến hoàng hậu xong, quen biết với Quý Doanh, hai người tuổi tác tương đương, đều tính tình hướng ngoại, hoạt bát thích chạy nhảy, hai thiếu nữ này nhanh chóng trở nên thân thiết. Quý Tôn Tiểu Man ngày nào cũng chạy đến chơi chung với Quý Doanh, ít ra cũng giải khuây bớt phần nào mỗi cô đơn trống trải giùm hoàng hậu.

“Hứ! Không đá nữa, không đá nữa!”

Quý Tôn Tiểu Man đạp lên trái cầu, lấy khăn tay ra lau mồ hôi trên trán, thở hổn hển nói: “Môn đá cầu này là người ta dạy tỉ, tỉ mới học không bao lâu mà đã đá tốt hơn người ta rồi, mất hứng quá à.”

Quý Doanh đưa chân dài tiếp đất, chống eo làm dáng, trái cầu nhét đầy vải vụn xoay tròn quanh thân nàng, không hề rơi xuống đất, chân nàng quá dài, móc, đá, câu, hất, động tác mềm mại uyển chuyển tuyệt đẹp.

Quý Doanh dùng mũi bàn chân đón lấy quả cầu, nói với Tiểu Man: “Khi xưa tỉ học môn đô vật với nữ nô người Tây Dung, không biết phải học bao lâu mới học thành, nhưng chỉ dạy cho muội có mấy ngày, bây giờ so tài với muội đã bị muội vật ngã rồi, tỉ mới tức đây nè.”

Quý Tôn Tiểu Man thế mới khoái trá cười hi hí, làm mặt tinh nghịch, vênh mặt giải thích: “Cái này thì tỉ không hiểu rồi, dù thế nào đi nữa thì tỉ là công chúa nước Tần, cơ hội ra tay đánh nhau là quá ít, còn Quý Tôn Tiểu Man này đánh nhau từ nhỏ đến lớn, môn công phu vật qua vật lại này, tỉ sao so sánh bằng muội được? Đi nào, chúng ta qua mái đình bên kia nghỉ ngơi chút. Này, Hân Nhi, mau đi đổ hai chén nước xí muội cho hoàng hậu và bổn phi.”

Hân Nhi tuân lệnh lui xuống, Tiểu Man và Quý Doanh vào trong đình ngồi xuống nghỉ mệt, Hảo Nhi dâng lên khăn ướt, hai người rửa mặt xong, Hân Nhi bưng hai bát nước xí muội đến, Tiểu Man đón lấy, vừa mới uống một ngụm đã nhổ ra, quay sang Hân Nhi trách mắng: “Này, con nha đầu này lười biếng quá, sao không bỏ vài miếng đá vào, chén nước xí muội nóng hôi hổi này sao mà uống?”

Hân Nhi ấm ức nhìn vào Tiểu Man, nhỏ nhẹ: “Man hoàng phi, không phải là nô tì lười biếng, mà là… quả thực là…”

“Hân Nhi!” Quý Doanh ngăn Hân Nhi tiếp tục phân trần, quay sang cười giả lả với Tiểu Man: “Tiểu Man nếu cảm thấy nóng, chúng ta chi bằng cùng đi tắm nhé, nước suối xanh mát, tắm xong là khỏe khoắn ngay ấy mà.”

Tiểu Man ngạc nhiên nhìn vào Quý Doanh, hỏi: “Hoàng hậu sao lại ngăn cản Hân Nhi nói ra, đã xảy ra chuyện gì?”

“Không có…”

Quý Doanh còn chưa nói dứt câu, Hân Nhi vội nói xen vào: “Nội phủ tư nói trong kho băng lượng tồn không còn nhiều nữa, chỉ được cung cấp cho đại vương giải nhiệt, thế nên ngưng cung cấp cho hậu cung rồi, chẳng lẽ Man hoàng phi còn chưa biết?”

Tiểu Man trừng mắt tức tối: “Ai nói là đã ngưng cung cấp cho hậu cung, ta…”

Nàng liếc sang Quý Doanh, trong lòng nhói lên, đã hiểu ra chút gì, lập tức ngưng bặt tiếng, sắc mặt Quý Doanh cũng thoáng buồn rười rượi, vẻ tội nghiệp đó khiến Tiểu Man thấy động lòng thương hại, khí khái nghĩa hiệp của nàng chợt nổi lên.

“Thôi, thôi, chén nước này nóng thế sao mà uống được, đem bỏ đi, lấy rượu ngon đang ngâm nước giếng lại đây, hoàng hậu này, Tiểu Man biết làm vài món ngon, toàn là những món tỉ chưa từng thấy qua đâu, hay là để Tiểu Man trổ tài nấu nướng, cùng hoàng hậu uống cho thỏa thích.”

Người trong cung giờ ai cũng biết Khánh Kỵ bỏ mặc hoàng hậu, từ đêm tân hôn trở đi đã không còn đặt chân bước vào Loan Phượng cung, Tiểu Man cũng cảm thấy kì lạ, nhưng hỏi Khánh Kỵ thì không được tin gì xác thực, Quý Doanh càng khỏi bàn, hỏi đến là lắc đầu nhè nhẹ và thở dài thiểu não, hỏi nữa thì nàng sụt sùi rơi nước mắt, làm cho Tiểu Man và Diêu Quang, Nhược Tích đều thấy khó xử, từ đó cứ trước mặt hoàng hậu là không hề nhắc tới chuyện này nữa.

Vừa nghe nói uống rượu, Quý Doanh nói: “Được, Hân Nhi, đi lấy rượu ra đây cho Man hoàng phi dùng.” Nàng lại quay sang Tiểu Man có ý xin lỗi: “Tiểu Man này, tỉ đã thề từ nay không đụng đến nửa giọt rượu, không cùng uống với muội được, hay là lấy nước thay rượu, cùng uống hầu muội.”

“Sao lại thế?” Tiểu Man kinh ngạc: “Muội nghe Hảo Nhi nói, hoàng hậu rất thích uống rượu, hơn nữa tửu lượng cũng khá, sao lại vô duyên vô cớ cai rượi rồi?”

Nàng ngập ngừng giây lát, cuối cùng cũng không chịu được, hỏi: “Hoàng hậu…, tỉ và đại vương rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

Quý Doanh cúi gầm mặt, sầu não nói: “Đều là lỗi của tỉ…, Man hoàng phi đừng hỏi nữa.” Nàng thở dài ngao ngán, cười miễn cưỡng lái sang chuyện khác: “Nào, chúng ta vào trong điện ngồi, cùng nhau đối ẩm vậy.”

Tiểu Man là một cô nương không biết kiềm chế, Quý Doanh càng im lặng không nói ra, Tiểu Man càng muốn tìm hiểu sự tình. Uống rượu một mình đúng là không thú vị gì, hồi lâu mới đợi được đến giờ dùng cơm, Tiểu Man lập tức cáo từ, rời khỏi Loan Phượng cung.

“Đại vương đã về cung chưa?” Tiểu Man vừa đi khỏi Loan Phượng cung, bèn hỏi ngay một tì nữ đang đi ngang qua.

Tì nữ kia vội cung kính hành lễ: “Hồi Man hoàng phi, đại vương đã về hậu cung.”

“Giờ đại vương đang ở đâu?”

“Đang trong cung của Nhược Tích hoàng phi ạ.”

Tiểu Man không nói thêm câu nào, dẫn theo cả đám nô tì của mình hướng về phía tẩm cung của Nhược Tích bước nhanh.

Trong cung Nhược Tích, Khánh Kỵ ngồi trên tấm chiếu trải dưới đất, kế bên chân đặt một cái chậu sành, trong chậu chứa đầy băng đá trong suốt, từng luồng hơi lạnh bốc lên, khắp phòng mát mẻ.

Trên bàn nhỏ đặt vài đĩa thức ăn, Khánh Kỵ đang cùng Nhược Tích tán gẫu, chốc chốc lại uống một ngụm rượu, đang say sưa vui vẻ hưởng lạc.

“Đại vương bỏ mặc một tân nương đó không đi hưởng dụng, lại suốt ngày trú trong cung của thần thiếp, nếu hoàng hậu có dung mạo xấu xí còn dễ hiểu, nhưng hoàng hậu rõ ràng xinh đẹp tuyệt trần, nhu mì kiều diễm, hơn nữa tính cách của hoàng hậu lại thẳng thắn đáng yêu, thần thiếp mỗi ngày đến thỉnh an hoàng hậu điện hạ, cùng hoàng hậu nói chuyện rất hợp, không giấu gì đại vương, hoàng hậu từ Tần quốc xa xôi đến đây, thiếp cùng Diêu Quang, Tiểu Man ba tỉ muội cứ lo lắng không yên, sợ gặp phải người không dễ đối phó, nhưng con người Quý Doanh ngây thơ trong trắng, không có tâm cơ, người ta nhìn thấy còn thích nữa là, sao đại vương lại…”

Khánh Kỵ khẽ chau mày: “Nhược Tích, là Quý Doanh bảo nàng làm thuyết khách đó à?”

“Đương nhiên là không, nếu hoàng hậu chịu mở miệng là tốt rồi, nhưng tiếc là dù có hỏi thăm thế nào, nàng ấy chỉ biết lắc đầu thở dài, hỏi thêm thì nước mắt giàn giụa, làm cho người khác không hiểu gì cả.” Nhược Tích xoay xoay tròng mắt, cười tủm tỉm dụ khị: “Đại vương à, hay là nói cho thần thiếp nghe đi, hoàng hậu điện hạ đã làm gì chọc giận đại vương rồi? Hay là… hay là trong đêm động phòng hoa trúc, không biết cách hầu hạ cho đại vương vui?”

Khánh Kỵ tức tối không tiện nói ra, liền làm ra vẻ giận: “Quả nhân muốn được yên tĩnh, nàng lại lải nhải bên tai ta, nữ nhân các nàng thiệt là…, cái tính tò mò đó, đúng là nữ nhân nào cũng vậy cả…” 

Đúng lúc này, Quý Tôn Tiểu Man lướt như một cơn gió chạy vào: “Đại vương, Hí! Thì ra chàng đúng là ở đây.”

Khánh Kỵ liền giãn chân mày ra, vui vẻ nói: “Bộ trang phục quả nhân thiết kế đẹp đấy nhỉ? Tiểu Man mặc vào giống y như một mỹ nhân bé bỏng, hí hí, làm quả nhân rạo rực quá nè.”

Hắn vừa nói vừa nheo mắt liếc nhìn cặp mông đầy đặn của Tiểu Man dưới lớp vải áo bó sát. Khánh Kỵ đã mấy lần muốn chiếm dụng từ phía sau của Tiểu Man rồi, nhưng cố gắng mấy lần, Tiểu Man trong lúc đê mê vẫn cảm thấy sợ hãi, lần nào cũng đau đớn xin tha, Khánh Kỵ sợ nàng còn nhỏ tuổi chịu không nổi, nên mỗi lần sắp thành công lại buộc phải cố gắng kiềm chế dừng lại.

Nhưng lúc này Tiểu Man đã hiểu nhiều về chuyện phòng the rồi, nhìn thấy Khánh Kỵ đang cười gian xảo là biết ngay hắn đang nghĩ gì, nàng xấu hổ nguýt hắn: “Hứ! Thích à? Thích thì đi Vệ quốc tìm tên Di Hạ ấy, người ta là Ngô hoàng phi, chứ không phải man đồng đâu đấy.”

Nhược Tích cũng liếc nhìn thấy ánh mắt dâm tà của Khánh Kỵ, lập tức đỏ mặt, ừ hử: “Đại vương xấu quá, giữa ban ngày thế này mà nổi lòng ham muốn rồi.”

“Ơ, chẳng lẽ hai người…” Quý Tôn Tiểu Man kinh ngạc trước phản ứng của Nhược Tích, trong lòng nổi lên nỗi hoài nghi, có hơi chua chát nghĩ thầm: “Chẳng lẽ hai người họ đã làm tư thế kia rồi? Phải rồi, chả trách đại vương đến cung của Nhược Tích tỉ nhiều hơn đến cung của mình, hứ! Mình còn tưởng hắn thương mình, thì ra là đã có người cho hắn thỏa mãn cách kia…”

Tiểu Man suy nghĩ lung tung, thật ra nàng đã nghĩ oan cho Khánh Kỵ, vì Khánh Kỵ nghĩ Tiểu Man còn nhỏ nên mới không hay ngủ lại ở cung của nàng, còn trong lúc vui vẻ với nàng cũng cố gắng kiềm chế, làm ăn nhẹ nhàng, còn làm vài biện pháp phòng hờ nàng mang thai quá sớm. Nhưng khổ tâm của hắn Tiểu Man đâu chịu hiểu? Bây giờ nàng đang ghen tuông, thật ra Tiểu Man vẫn còn mang tính trẻ con, chỉ nghĩ là Khánh Kỵ làm chuyện kia với người khác thì cũng phải làm với nàng thế mới công bằng, trên thực tế nha đầu mười sáu tuổi như nàng không có nhiều ham muốn xuất hiện, dù cho Khánh Kỵ ôm nàng ngủ suốt đêm không có làm gì cả, nàng cũng đã cảm thấy mãn nguyện rồi.

Nhược Tích nghe Tiểu Man chất vấn, đỏ mặt e thẹn, vội lái sang chuyện khác: “Tiểu Man ở trong cung buồn quá nên đến chổ tỉ đúng không? Nào, lại đây cùng ngồi nào, uống với đại vương vài ly rượu.”

Nhược Tích nói sang chuyện khác, Tiểu Man liền nhớ ra mục đích chính của mình khi đến đây, hứ một tiếng rõ to: “Muội không uống được, bên này thì ân ái, bên kia thì lạnh lẽo, người ta không nhìn không đặng đâu.”

Nhược Tích ngờ ngợ hỏi: “Tiểu Man… nói gì thế? Sao tỉ tỉ nghe không hiểu?”

Tiểu Man nổi giận đùng đùng đến ngồi bên Nhược Tích, trừng mắt nhìn Khánh Kỵ: “Đại vương, người ta muốn hỏi, hoàng hậu vừa mới được gả đến Ngô quốc, có gì đắc tội với chàng đâu, sao chàng lại đối xử với tỉ ấy như thế?”

Khánh Kỵ liếc xéo Tiểu Man, rít lên: “Nha đầu Quý Doanh thủ đoạn khá lắm, lại có cách khiến mấy nàng ra mặt nói tốt cho nàng ta.”

Nhược Tích thở dài, lên tiếng: “Nếu Tiểu Man muội muội đã nhắc đến, đại vương cũng đừng trách thần thiếp nhiều chuyện, dù sao Quý Doanh cũng là hoàng hậu, làm chủ hậu cung Ngô quốc, đại vương đối xử lạnh nhạt với người ta, ngôi vị hoàng hậu cũng không thay đổi, nếu tỉ muội trong cung hòa thuận chung sống, đại vương mới có thể yên tâm trị vì quốc gia. Đại vương lạnh nhạt với hoàng hậu, hoàng hậu không trách tội lên đầu chúng thần thiếp, người ngoài cũng nói chúng thần thiếp mê hoặc đại vương, làm đại vương ruồng bỏ chính thất. Ngày dài tháng rộng, hoàng hậu chắc chắn sinh lòng ganh ghét, đến lúc đó hậu cung xáo xào, đại vương có đau đầu không chứ? Nói ra thì hoàng hậu vừa đến Ngô quốc, chắc cũng không phạm phải tội lỗi lớn gì đến nỗi không được tha thứ. Đại vương là vua của một nước, tấm lòng khoan dung độ lượng rộng rãi, sao lại chấp nhặt so đo với một nữ nhân nhỏ nhoi?”

Khánh Kỵ hít một hơi dài, nghiêm nghị nói: “Quân vương vô gia sự, gia sự cũng chính là quốc sự, đó đâu phải là chuyện nhỏ nhặt. Nếu nàng ấy ngang bướng một chút thì quả nhân hãy còn nhẫn nhịn được, nhưng… hậu cung không được can dự chính sự, đó là một trong những điều luật quả nhân ban hành khi mới phục quốc, sao có thể dễ dàng sửa đổi? Quý Doanh vừa tới Ngô quốc, bèn buộc quả nhân cứu viện tỉ tỉ Sở thái hậu của nàng ấy, quả nhân không ưng thuận, nàng ta mượn cớ say rượu động thủ với quả nhân, sao quả nhân không tức giận lên được? Đại sự thiên hạ còn không lo hết, quả nhân đâu rảnh rang đi cãi cọ dạy dỗ chuyện đạo lí xử thế với nàng ta hả?”

“Đại vương không ưng thuận à?” Nhược Tích ngạc nhiên hỏi: “Không phải đại vương và Sở thái hậu đã bí mật thỏa thuận nhau rồi ư?”

Khánh Kỵ ừ hử: “Có là có, nhưng đó là việc quả nhân nghị bàn với đại thần văn võ trong triều, quyết định liên minh với người Sở, chứ không phải vì Quý Doanh nhờ cậy mới xuất binh trợ giúp.”

Nhược Tích thở phào nhẹ nhỏm, mỉm cười: “Thì ra là vì chuyện này, đại vương cũng quá cố chấp, thật ra đại vương nên xuôi theo dòng chảy, cứ nói với hoàng hậu là vì nàng ấy nên mới liên minh với Sở, như thế vì giải quyết xong quốc sự, vừa an lòng hoàng hậu, một công đôi việc, ai nấy đều vui vẻ.”

Khánh Kỵ đanh mặt: “Vậy khổ tâm của quả nhân là uổng phí à? Nên nhớ quả nhân không phải vì không giúp Sở mà từ chối hoàng hậu, mà là dù giúp hay không, lệnh chỉ được do quả nhân đưa ra, có liên minh với Sở hay không phải tính đến lợi ích của Ngô cùng các triều thần bàn bạc quyết định, không thể nói là chiều ý hậu cung. Lần này không được, lần sau cũng không, hậu cung không được can dự triều chính, bắt buộc phải từ thời quả nhân chấp hành nghiêm túc, mãi mãi không được phế bỏ luật lệ này.”

Tiểu Man thấy hắn nói năng dữ tợn, thấy ấm ức cho phái nữ nhi: “Hậu cung tham gia chính sự cũng là điều bình thường, Sở thái hậu bí mật thỏa thuận với chàng chẳng phải cũng là nữ nhân sao?”

Khánh Kỵ cười mỉa: “Nàng ta là Sở thái hậu, không phải Ngô thái hậu, nữ nhân trong hoàng cung Ngô quốc, tất cả đều không được can dự vào chính sự.”

Tiểu Man liếc xéo hắn, tức tối: “Thế nào? Chàng sợ nữ nhân không làm được việc, làm hỏng đại sự của chàng hay là sợ nữ nhân chúng ta chiếm đoạt quyền lực của chàng?”

Khánh Kỵ thấy không khí căng thẳng, vội tỏ ý xoa dịu, mỉm cười nói: “Quả nhân không phải là Tống Chiêu Công, tin rằng Tiểu Man của ta cũng không phải là Tương phu nhân, nhưng nghĩ cho giang sơn xã tắc, nghĩ cho con cháu đời sau, quả nhân buộc phải làm nghiêm từ bây giờ.”

Câu chuyện về Tống Chiêu Công và Tương phu nhân Khánh Kỵ vừa nói xảy ra tại Tống quốc hơn một trăm năm trước, phu nhân của Tống Tương Công là muội muội Chu thiên tử. Tống Tương Công chết đi, con trai Tống Thành Công kế vị, mười bảy năm sau bệnh chết, đến lượt cháu đích tôn Tống Chiêu Công lên ngôi, trong suốt quá trình đó, Tương phu nhân nắm hết quyền lực triều chính, con cháu hoàng tộc Tống quốc chỉ như bù nhìn mà thôi.

Huynh đệ Công Tử Bào của Tống Chiêu Công là mỹ nam tử có tiếng, Tương phu nhân phải lòng chàng trai đáng tuổi con cháu mình, thế là đối xử tốt với hắn, sau cùng giết luôn Tống Chiêu Công sắc lập hắn làm quốc quân, hai người danh chính ngôn thuận đến với nhau, vì chuyện này bá chủ thiên hạ Tấn quốc lúc bấy giờ có cớ dấy binh thảo phạt, nói là chủ trì công đạo cho Tống Chiêu Công bị hại chết oan uổng.

Tiểu Man nghe Khánh Kỵ so sánh như vậy, nheo nheo mũi ngún nguẩy, cố ý chọc tức: “Ai nói người ta không phải là Tương phu nhân? Hí hí, đợi khi chàng già cả yếu sức, người ta chán chàng rồi, lúc đó thấy thích mỹ nam tử nào đó, người ta sẽ học theo Tương phu nhân.”

Nói đến câu sau, chính Tiểu Man cũng không nhịn được cười, bật cười khanh khách.

Khánh Kỵ dang rộng tay tóm lấy eo thon của Tiểu Man, nhấc bổng nàng ta lên một cách nhẹ nhàng, đặt lên đùi đánh cái đét vào mông, trừng trị cái tội nói nhăng nói cuội xong mới giải thích: “Phàm là sáng lập đại nghiệp, giang sơn đều do một người gầy dựng, cả triều văn võ đều là người trung thành với mình, hơn nữa phần lớn giỏi giang tinh tế, tất nhiên không để đại quyền dễ dàng rơi vào tay người khác. Nhưng cho dù triều đại nào quốc gia nào đi chăng nữa, quân vương khai quốc chỉ là một đời

Còn con cháu của quân vương đó thì sao? Từ nhỏ sinh trưởng trong hoàng cung, lớn lên dưới sự bảo bọc của phi tần, không biết chuyện bên ngoài thiên hạ, sau này có nắm quyền cũng chưa chắc giỏi, nếu thái giám phi tần muốn can dự chính sự, điều đó khá dễ dàng làm được. Hơn nữa phi tần có được ra khỏi cung không? Có lên đại điện nghe triều thần phân tích tình hình thiên hạ không? Không thể, họ chỉ suốt ngày ru rú trong cung, vậy họ chỉ trọng dụng thân tín họ tin tưởng, thông qua thân tín nắm giữ quyền lực.

Đám hoàng thân quốc thích này một khi nắm giữ đại quyền trong tay, lại lợi dụng thân phận cách ly quân vương với các đại thần chính trực, dã tâm từ từ nảy nỡ, đến lúc đó phải làm thế nào?”

Nhược Tích khi xưa từng dạy dỗ muội muội quản lí gia nô, nghe Khánh Kỵ giải thích đạo lí lập tức hiểu ra, còn Quý Tôn Tiểu Man hãy còn chưa phục: “Thái giám đâu có tư cách chấp chính? Còn nói đến phi tần, trong thiên hạ hiện nay phi tần các nước can dự chính sự cũng nhiều, đâu thấy có bao nhiêu người biến thành tai họa đâu.”

Khánh Kỵ nói: “Đó là vì thiên hạ hiện nay các nước chư hầu các cứ một nơi, ngày nào cũng chinh chiến thảo phạt lẫn nhau, quốc quân không thể không đích thân lên triều nghị sự với các đại thần, nên đại quyền khó rơi vào tay thân thích của hậu cung, nếu giang sơn thống nhất rồi thì sao nào?” 

Khánh Kỵ đương nhiên biết rõ trong lịch sử có không ít bài học, đời Tần có Triệu Cao, đưa các thái giám lên lộng quyền, Tần diệt vong vào đời Hán, sáu vị thái hậu lần lượt lên chấp chính làm cho triều đình lụn bại. Có thể các phi tần không có ý làm hại quốc gia, nhưng số thân tín họ tin dùng phần lớn lại lộng hành, đưa đất nước đến bờ vực suy vong. Lịch sử đã có nhiều bài học xương máu, Khánh Kỵ không sớm phòng hờ mới lạ.

Khánh Kỵ nói: “Hiện nay kẻ chiếm quyền là các thế tộc công khanh quyền cao chức trọng lấn át cả chủ nhân. Lấy Tấn quốc làm ví dụ, năm trong số sáu khanh có tổ tiên là thần tử trung thành dưới trướng Tấn Văn Công, nhưng trải qua mấy đời, thế lực gia tộc dần dần lớn mạnh, con cháu đời sau đã không còn trung thành như trước, dã tâm ngày càng lớn, mối họa này cũng bắt nguồn từ cách cai trị phân phong chia đất, sau này quả nhân có mở rộng bờ cõi, chỉ thiết lập huyện phủ cai trị, ủy nhiệm quan lại chứ không chia thành phong ấp, cách cai trị này diệt trừ mối họa đe dọa từ công khanh thế tộc, nhưng còn thái giám hậu cung nữa. Quả nhân giữ nghiêm luật lệ hậu cung không được tham chính là nghĩ sâu xa cho mai này, các nàng tưởng quả nhân chỉ vì nổi nóng với một Quý Doanh đó hả?”

Tiểu Man nghe vậy từ từ bình tĩnh lại, chớp chớp mắt đen láy nhìn chăm chăm vào Khánh Kỵ. Khánh Kỵ hôn nhẹ vào môi nàng, âu yếm nói: “Các nàng thử nghĩ xem, sẽ có một ngày các nàng có con của mình, những đứa con sẽ từ từ khôn lớn, trong số họ sẽ có một người trở thành Ngô vương, sau đó nó sẽ nạp hậu tuyển phi, nhưng từ nhỏ nó sinh trưởng trong cung, đâu biết được lòng người hung hiểm? Nếu nó mặc cho phi tần can dự chính sự, sẽ có kết cục thế nào? Nói không chừng máu mủ ruột thịt của các nàng sẽ giống như Tống Chiêu Công chết một cách oan ức cũng nên.”

Nhược Tích và Tiểu Man nghe xong Khánh Kỵ phân tích, thấy đúng là có khả năng đó xảy ra, hai người lạnh toát sống lưng.

Khánh Kỵ nói tiếp: “Thiên hạ hưng vong tự có quy luật của nó, quả nhân làm vậy cũng không thể làm cho giang sơn vững vàng suốt ngàn đời, nhưng ít ra giải pháp này ổn định quốc gia được thêm một thời gian dài, để quân vương hậu thế của Ngô quốc ta ít đi một mối lo từ việc hậu cung lộng quyền. Các nàng đều là những cô gái ngây thơ trong trắng, ta vốn không muốn nói những chuyện tranh quyền đoạt lợi máu me cho các nàng nghe, nhưng các nàng đã là phi tần của Khánh Kỵ này, cũng nên hiểu rõ có khả năng này xảy ra.”

Nhược Tích do dự một hồi, cúi đầu nhẹ giọng: “Đại vương dạy phải lắm.”

Nhược Tích sau khi làm hoàng phi, vốn định đợi tình hình Ngô quốc ổn định thêm sẽ mở lời xin phong chức quan cho người nhà của nàng, nhưng những lời hồi nãy của Khánh Kỵ như cảnh tỉnh, cái câu “Họa từ phúc mà ra, trong phúc có họa.” tuy thời Xuân Thu chưa ai từng nghe, nhưng Nhâm Nhược Tích giờ này cũng đã loáng thoáng hiểu rõ tâm ý của Khánh Kỵ.

Tiểu Man nhỏ nhẹ cầu xin: “Đại vương à, dù đúng như chàng nói, thì cho Quý Doanh nếm chút vị đắng là đủ rồi? Chàng còn muốn hành hạ người ta đến khi nào nữa? Không giấu gì chàng, người ta bây giờ cũng không muốn đến Loan Phượng cung nữa, mỗi lần nhìn thấy tỉ ấy là người ta khó chịu giùm tỉ ấy đó.”

Khánh Kỵ nghiêm nghị: “Làm sai thì phải chịu phạt, quả nhân chẳng qua là cả tháng nay không đi gặp nàng ta thôi mà, có gì to tát lắm đâu.”

“Nhưng… nhưng tỉ ấy dù sao cũng mang thân phận tôn quý của công chúa nhà Tần, đại vương lạnh nhạt như vậy, đã đủ khiến tỉ ấy khó chịu rồi, sao còn… sao còn ra lệnh giảm cung ứng cho Loan Phượng cung, làm tỉ ấy mất mặt trước đám nô tì chứ?”

Khánh Kỵ nghệch mặt ra, ngạc nhiên hỏi: “Quả nhân chỉ muốn cho hoàng hậu một bài học, để nàng ta sau này bớt thói hung hăng, quả nhân đâu có ra lệnh giảm cung ứng cho Loan Phượng cung đâu.”

“Hở?” Tiểu Man ngồi bật dậy, kể lể: “Không phải là đại vương ra lệnh giảm cung ứng cho Loan Phượng cung à? Hiện nay Loan Phượng cung được cấp rất ít nến thắp sáng, vừa vào ban đêm đã tối mù tối mịt. Tiểu Man là người phương Bắc sợ nóng, trong cung băng đá tản nhiệt không thiếu, nhưng… nhưng khi thiếp đến cung hoàng hậu, ngay cả uống một chén nước xí muội cũng không có băng đá bỏ vào, nói là… nói là băng đá không đủ dùng, chỉ cung cấp cho một mình đạp vương.”

Khánh Kỵ điên tiết đập bàn cái rầm, trừng mắt giận dữ, gầm lên: “Chắc là đám thái giám trong cung làm bừa, thấy quả nhân lạnh nhạt với hoàng hậu nên có ý khinh thường hiếp đáp nàng. Hứ! Quả nhân đâu có nói sai, những tên tiểu nhân này chỉ biết xuôi theo thời thế, thật là vô sỉ, thấy hoàng hậu thất sủng chúng đã giả truyền ý chỉ, nếu quả nhân không sớm đưa ra luật lệ nghiêm khắc, chắc có một ngày ngay cả quân vương cũng bị chúng tiểu nhân này sắp đặt mất.”

Nhược Tích ngước nhìn Khánh Kỵ, hỏi: “Đại vương định làm thế nào?”

Khánh Kỵ đứng dậy, đi qua đi lại một hồi, quay sang Tiểu Man nói: “Tiểu Man, nàng có giao tình với Quý Doanh, việc này giao cho nàng đi lo liệu, ngày mai nàng đến Loan Phượng cung lần nữa, gọi bọn thái giám ra dạy dỗ chúng một trận, đuổi chúng đi ra sau núi Cô Tô phụ trách rửa quần áo, nấu cơm cho quân sĩ, không cho phép chúng quay lại hoàng cung nữa.”

Nhược Tích bĩu môi: “Sao đại vương không đích thân tới Loan Phượng cung làm chủ cho hoàng hậu? Như vậy hiềm khích phu thê sẽ được hóa giải, tin rằng trải qua chuyện này, hoàng hậu sau này không dám tự ý can dự vào quốc sự nữa, sẽ dịu dàng ân cần hầu hạ đại vương.”

Khánh Kỵ nhớ đến thân hình quyến rũ của Quý Doang cũng thấy thèm thuồng, nhưng hắn đột nhiên nghĩ tới đêm đó từng nói cứng từ nay không đặt chân bước vào Loan Phượng cung nửa bước, lời nói ra của một quân vương sao có thể dễ dàng thu lại? Do dự một hồi, Khánh Kỵ lắc đầu, tìm ra một lí do chống chế: “Chuyện nhỏ nhặt trị tội bọn thái giám mà cũng cần quả nhân lo à? Quý Doanh là hoàng hậu Ngô quốc ta, quả nhân muốn dạy cho nàng ấy biết chuyện gì không nên làm, chuyện gì thuộc phạm vi quyền lực của nàng ấy, chuyện hậu cung là chức trách của hoàng hậu, quả nhân xen vào làm chi?”

Tiểu Man nhận được ý chỉ, hí hửng nói: “Đâu cần đợi đến ngày mai, giờ hãy còn sớm, thiếp lập tức đi Loan Phượng cung, báo cho Quý Doanh biết chuyện cắt giảm cung ứng không phải mệnh lệnh của phu quân, cho tỉ ấy khỏi phải chịu thiệt thòi, nhìn thấy dáng vẻ ấy người ta thương hại không chịu được.”

Dứt lời Tiểu Man nhún nhảy chạy ào đi như con chim én.

Khánh Kỵ gọi với theo, Tiểu Man đã đi xa, hắn quay đầu lại, chỉ thấy Nhâm Nhược Tích đang suy tư nhìn chăm chăm vào hắn, đôi mắt ấy như xoáy sâu vào tim hắn, nhìn thấu tâm sự của hắn, Khánh Kỵ thấy bối rối, họ khụ khụ vài tiếng, nói: “Quả nhân… có hơi say rồi, đến lúc nên đi đây.”

Nhâm Nhược Tích bật cười chế giễu, hỏi: “Đại vương nếu đã đến cung của thần thiếp, tại sao đêm nay không ngủ tại đây nào?”

Khánh Kỵ hứ một tiếng, giả đò: “Cùng các nàng huyên thuyên nãy giờ, quả nhân mệt rồi, đêm nay… quả nhân sẽ nghỉ tại cung của Diêu Quang.”

“Dạ, thần thiếp cung tiễn đại vương.”

Nhược Tích phất áo cúi người hành lễ, Khánh Kỵ ho khụ khụ lấp liếm xấu hổ, sải bước đi ra, đi hướng về tẩm cung của Diêu Quang.

Nhược Tích từ từ ngẩng đầu lên, đôi mắt long lanh xoay tròn, lẩm bẩm: “Dám trong đêm tân hôn ra tay vật nhau với phu quân, con cọp cái này đâu dễ bị ức hiếp, nhưng khi bị bọn thái giám cố tình cắt giảm cung ứng, nàng ấy lại nhẫn nhục chịu đựng, đại vương quả nhiên động lòng thương hoa tiếc ngọc. Dùng cương không được, lập tức chuyển qua lấy nhu chế cương, con hồ ly này không giống với vẻ ngoài không biết xài thủ đoạn đâu. Hừm… chỉ là không biết nàng ấy định dùng chiêu gì dẫn dụ phu quân đang tức tối quay lại Loan Phượng cung, tiếp tục đêm động phòng hoa trúc còn bỏ dỡ đây? Hí hí, chờ xem đã…” 

Quý Tôn Tiểu Man một mặt chạy đi gặp Quý Doanh, mặt khác phái người đi gọi các quan viên phục trách chức vụ trong cung đền Loan Phượng cung đợi lệnh. Trước khi hoàng hậu vào cung, các quan viên phụ trách chức vụ trong cung chia ra do ba người Nhược Tích, Diêu Quang, Tiểu Man quản lí. Theo quy tắc, hoàng hậu đã lập, mọi việc trong cung phải giao lại cho hoàng hậu quản lí, do đó ba phi tần vì tránh bị hiềm nghi, từ ngày Quý Doanh vào cung làm hoàng hậu, ngày hôm sau đi bái kiến đã đem hết chức phận giao lại cho nàng ấy.

Nhưng Quý Doanh vừa vào cung đã xung đột gay gắt với Khánh Kỵ, từ đó giống như bị đày vào lãnh cung không thèm đến thăm, các quan viên thái giám đối với nàng ta có phần trễ nải xem thường. Quý Doanh không có đại vương chống lưng, hết cách trừng trị đám nô tài này, các thái giám trong cung vốn cấu kết với nhau, bề mặt thì vâng lệnh sau lưng cố ý gây khó dễ, nàng bị Khánh Kỵ đối xử lạnh nhạt đã đủ mất mặt lắm rồi, chẳng lẽ còn làm dữ lên đến từng nơi giám sát công việc của bọn thái giám?

Đêm đó nàng uống say rượu lỗ mảng đắc tội Khánh Kỵ, tỉnh dậy trong lòng đã cảm thấy vô cùng hối hận, nhưng nàng làm Khánh Kỵ điên tiết, phải tạ lỗi với phu quân thế nào khiến chàng hồi tâm chuyển ý, một tân nương tử chưa từng có kinh nghiệm như nàng lại không biết làm sao xuống nước? Nàng tự tin vào nhan sắc của mình, theo như tình hình đêm đó, Khánh Kỵ có phần mê hoặc bởi nhan sắc của nàng, hắn chỉ ghét thái độ ngang tàng bướng bĩnh của nàng mà thôi, giờ đây nàng không giúp được tỉ tỉ, còn đẩy mình vào cảnh tuyệt vọng, mỗi khi nhớ tới những lời răn đe của tỉ tỉ, trong tim nhói đau, hối hận cũng quá muộn màng.

Thật ra Quý Doanh sinh trưởng trong chốn thâm cung, các phi tần hậu cung ai ai cũng biết cách chiều chồng, Quý Doanh nghe nhiều thấy nhiều, sao mà không nhận ra đạo lí lấy nhu chế cương, cơm sôi bớt lửa chứ? Chẳng qua nàng là công chúa danh giá, ngay cả quốc quân Tần quốc cũng nhường nàng ba phần, tập cho nàng cái tính ngang ngược kiêu ngạo từ nhỏ, thêm vào đêm đó uống say, nên mới không sợ trời không sợ đất làm bừa. Nay được dạy cho một bài học, trong lúc đau lòng muốn sửa chữa sai lầm, chỉ còn cách chọn con đường vòng để đi thôi, hảo hán cũng có lúc mềm lòng, chỉ cần đại vương tỏ lòng thương hoa tiếc ngọc với nàng, sợ gì lúc đó chàng không yêu chiều bỏ qua chuyện cũ?

Với tính khí cao ngạo của nàng, buộc phải nhẫn nại chịu sự hà hiếp khinh miệt của đám nô tài đê hèn, giờ đây coi như đợi được giây phút trời quang mây tạnh, le lói một tia hy vọng.

Quý Tôn Tiểu Man gọi hết tất cả quan viên trong cung ra, trước mặt mọi người chỉ rõ tội giả truyền thánh chỉ của bọn thái giám phụ trách cung cấp băng đá, ngược đãi hoàng hậu, sau đó truyền đạt ý chỉ của đại vương, mời hoàng hậu xử trí bọn chúng.

Quý Doanh không làm theo ý kiến đề xuất của Khánh Kỵ là đánh cho bọn thái giám một trận sau đó đuổi đi làm nô dịch. Khánh Kỵ đã không chịu ra mặt, cũng không giao cho Tiểu Man xử lí hộ, mà giao quyền xử lí cho Quý Doanh, chính là muốn thông qua đó nói với nàng: Việc không cần nàng lo đừng mó tay vào, việc thuộc phạm vi trách nhiệm của nàng thì tự gánh lấy.

“Được! Nếu đã vậy, ta sẽ căn cứ theo quy tắc trong hậu cung để xử lí.”

Trong đầu Khánh Kỵ đang tồn tại cùng lúc kí ức của hai người Khánh Kỵ và Tịch Bân, hơn nữa tính tình chịu ảnh hưởng to lớn từ nhân vật Tịch Bân thời hậu thế, quan niệm về nhân quyền khá tiến bộ, nên tuy hắn đang trong lúc tức giận, nói đến xử phạt cũng chịu ảnh hưởng vô thức theo tư tưởng thời hiện đại, với hắn việc đánh đòn đuổi đi làm nô dịch đã là hình phạt nặng lắm rồi, mà không biết trong quy tắc cung đình thời đó, cách xử trí của hắn mới là nương tay, làm sai quy tắc.

Quý Doanh tuy muốn làm lành với Khánh Kỵ, nhưng nàng tính cách quật cường, dù là thời khắc này cũng không muốn làm khác đi, chỉ biết ngoan ngoãn làm con sâu nghe lời. Khinh thường hoàng hậu tội cực nặng, thử nghĩ vào thời đại dân thường đắc tội với quý tộc thì quý tộc có giết chết cũng không phải mang tội, một tên thái giám nô tì nào đó dám coi thường hoàng hậu đâu có chuyện đánh vài gậy là dễ dàng cho qua?

Quý Doanh từ khi vào hoàng cung, vì bị Khánh Kỵ đối xử lạnh nhạt không có cơ hội thể hiện mình, trong mắt đám thái giám cung tì đó chỉ là hình ảnh một hoàng hậu cô độc lẻ loi, không có chủ ý, tính tình nhu nhược, ai ngờ lúc này hoàng hậu bỗng bộc phát ra tính cách thật của nàng.

Nếu đã có chỉ ý của đại vương, Quý Doanh bèn làm đúng trách nhiệm của hoàng hậu, chỉ trích xong tội trạng của tên thái giám phụ trách cung cấp băng đá, sai người đem hắn ra đánh cho đến chết, sau đó gọi hết các quan viên phụ trách trang sức, áo lông, lễ phục, đưa tin, thêu thùa, giày guốc, xe ngựa, ngự thiện, điêu khắc… đến trước mặt nghe giáo huấn. Quý Doanh đanh mặt, gằn giọng kể rõ chi li từng chút sai sót ở đâu, sổ sách không rõ ràng nơi nào, ai có hiện tượng lạm dụng vật phẩm hoàng thất… Nàng chỉ ra rõ ràng đâu ra đó.

Đám thái giám kinh hãi, không ngờ tiểu hoàng hậu nhìn hiền lành dễ ức hiếp lại xử sự quả quyết nghiêm minh, hơn nữa còn sớm dò hỏi biết hết chúng gian dối như thế nào, khả năng quản lí hậu cung không thua kém với Nhược Tích hoàng phi, hơn nữa thủ đoạn còn có phần độc ác hơn, nghe tiếng kêu gào đau đớn của tên thái giám phụ trách cung cấp băng đá không ngừng vọng đến, người nào người nấy run lẩy bẩy, lạnh toát cả sống lưng, mặt mày trắng bệch. Quý Doanh hoàng hậu lần này ra oai lập uy, các thái giám cung tì nghe trách phạt xong sợ sệt ra khỏi Loan Phượng cung, đi xa rồi tim còn đập thình thịch muốn rớt ra ngoài.

Quý Doanh truyền lệnh xử phạt, Quý Tôn Tiểu Man không tiện lên tiếng ngăn cản, đến khi tất cả nô tài lui xuống, Tiểu Man mới lo lắng lên tiếng: “Hoàng hậu, ý của đại vương chỉ là đánh cho tên thái giám một trận, sau đó đuổi đi làm nô dịch, bây giờ tỉ lại làm trái ý chỉ đại vương, có sợ… sợ đại vương không vui? Muội thấy hình như… hình như đại vương đã sắp nguôi giận với tỉ rồi.”

“Tiểu Man muội tử.”

Quý Doanh nắm lấy tay Tiều Man, hai mắt đỏ ngầu, sụt sùi kể: “Quý Doanh đường xa vạn dặm gả đến Ngô quốc, không người thân kề bên, trong lúc chịu ức hiếp của bọn nô tài, chỉ có Tiểu Man muội tử là người đối xử tốt với Quý Doanh. Tiểu Man muội muội tuy còn nhỏ hơn Quý Doanh một tuổi, nhưng cách đối nhân xử thế tỉ không bằng muội, hơn nữa quan tâm chiếu cố, trượng nghĩa giúp đỡ Quý Doanh, suốt đời này Quý Doanh không dám quên ơn.

Quý Doanh chỉ là phận nhi nữ, nếu đã rời xa quê hương đến Ngô quốc làm hoàng hậu, suốt đời này đừng mong có cơ hội trở về, sao mà không hy vọng có thể cùng phu quân của mình ân ái cả đời chứ? Quý Doanh từng lỗ mảng làm sai đắc tội với đại vương, sao mà không mong đại vương có thể hồi tâm chuyển ý chứ? Muội muội nhất định đã nói tốt giùm Quý Doanh trước mặt đại vương, muội không nói ra nhưng tỉ cũng đoán được mà.”

Nói đến đây, nàng thở dài ngao ngán: “Hôm nay đại vương bảo muội đến truyền đạt ý chỉ, chủ trì công đạo cho tỉ tỉ, tỉ đã biết đại vương có ý tha thứ, nhưng cho dù… cho dù…”

Quý Doanh cắn chặt răng, khóc lóc: “Cho dù đại vương lại giận tỉ, suốt đời này không thèm gặp mặt tỉ, tỉ cũng không thể vì muốn đại vương vừa ý mà chuyện gì cũng làm khác quy tắc được.”

Nàng lau nước mắt, gượng cười nói tiếp: “Lúc ở Tần quốc, huynh trưởng từng nói tỉ là con ngựa hoang khó thuần phục, sau này không biết vị công tử nhà nào chịu cực rước phải tỉ. Nay lấy phải một dũng sĩ có sức mạnh quật ngã bò tót, con ngựa hoang trong tỉ muốn lồng lên cũng không được rồi. Chàng đã là phu quân của tỉ, muốn tỉ chiều theo nghe theo có gì là khó? Nhưng Quý Doanh là Quý Doanh, những gì tỉ làm sai tỉ sẽ nhận lỗi, những gì tỉ cảm thấy đúng thì tỉ vẫn sẽ làm.”

Quý Tôn Tiểu Man nhìn chăm chăm vào hoàng hậu hồi lâu, nắm lấy bàn tay nàng tâm sự: “Tiểu Man cứ nghĩ mình đã là ngang bướng lắm rồi, không ngờ tính cách của nữ nhi Tây Tần lại mạnh mẽ như thế. Ây! Mong rằng đại vương nhận ra điểm tốt của tỉ, đừng nổi giận vô cớ nữa là tốt.”

Đêm hôm đó, Khánh Kỵ trong tẩm cung của Diêu Quang nghe tin hoàng hậu Quý Doanh ra oai lập uy, ra lệnh đánh chết tên thái giám, chỉ trích tội trạng của các quan viên phụ trách sự vụ trong cung. Diêu Quang ngồi trên giường mặc áo tơ mỏng tang, để hơ hớ bầu ngực căng tròn, cầm lược chải nhè nhẹ suối tóc óng mượt, nghiêng đầu liếc nhìn sắc mặt Khánh Kỵ, dò hỏi: “Hoàng hậu… lại không làm theo ý của đại vương, nhưng… hoàng hậu chỉ là xử lí theo quy tắc trong cung, vốn cũng không có gì sai trái, đại vương không để bụng chứ nhỉ.”

Khánh Kỵ nằm trên giường, một tay kê dưới đầu làm gối, tay kia vỗ nhẹ lên đùi Diêu Quang, cúi mặt suy tư không nói tiếng nào.

Diêu Quang lại nói: “Một gia đình quý tộc, nếu gia chủ dung túng thì đám nô tài cũng ỷ thế hiếp đáp, nói gì đến một hoàng cung rộng lớn, bao nhiêu nô tì thái giám, quy tắc không nghiêm, chủ tớ tôn ti trật tự không phân chia rõ ràng, sau này chắc chắn nảy sinh nhiều chuyện rắc rối, thậm chí… những chuyện đáng xấu hổ không thể nói một khi xảy ra, lúc đó phải làm sao giải quyết? Cách xử phạt của đại vương đúng là hơi nhẹ, truyền ra ngoài người ta còn tưởng đại vương có ý dung túng thái giám ức hiếp hoàng hậu, nên hắn mới dễ dàng thoát tội. Hoàng hậu làm vậy, cũng tốt cho danh tiếng của đại vương. Ây! Nói ra ấy mà, với tình cảnh bây giờ của hoàng hậu, còn dám… người ta… người ta quả thật khâm phục đó.”

Diêu Quang mỉm cười dịu dàng: “Khó trách Quý Doanh làm được hoàng hậu, Diêu Quang bây giờ mới cảm thấy người như thế mới xứng đáng làm hoàng hậu.”

Khánh Kỵ bật cười, đột nhiên hỏi bâng quơ: “Hoàng thất nhà Tần… vốn bắt nguồn từ Đông Di à?”

“Đúng vậy.” Diêu Quang đặt chiếc lược ngà voi xuống, hất mái tóc ra sau lưng, cài lên cây trâm ngọc, nằm xuống bên cạnh Khánh Kỵ, nép sát ngực hắn.

Diêu Quang đưa tay Khánh Kỵ đặt lên eo nàng, sau đó bò lên ngồi vào tấm ngực trần rắn chắc của hắn, dịu dàng nói: “Đông Di Thiếu Hạo thị được Nghiêu đế ban cho họ Doanh, sau đó họ Doanh sinh sôi nảy nở, sản sinh ra mười bốn quốc gia khác như Lý, Triệu, Hoàng, Từ, Lương, Tần… Nhưng bây giờ người mang họ Doanh không còn nhiều, ngoài bộ lạc Đông Di của Doanh Thiền Nhi ra, còn lại chính là Doanh thị ở Tây Tần. Tây Tần vốn xuất thân từ Đông Di, người Tần giỏi cưỡi ngựa bắn cung, một bộ phận người trong họ tộc di cư sang phía Tây tìm thảo nguyên du mục, được Chu Hiếu Vương phong cho Tần Xuyên, đến sau này Doanh thị có công hộ tống Chu Bình Vương, nên được sắc phong chư hầu lập quốc.”

Khánh Kỵ thở dài, lẩm bẩm: “Chả trách…”

Diêu Quang chớp mắt, hỏi dồn: “Chả trách cái gì?”

“Chả trách nàng ấy lại…, Ây! Thì ra quê hương xưa kia của nàng ấy là tỉnh Sơn Đông…”

“Hở? Ấy… đừng…”

Diêu Quang còn chưa kịp hỏi tiếp, Khánh Kỵ đã xoay người lại đè nàng xuống dưới, Diêu Quang cười khanh khách, hai tay chặn trước ngực hắn, đôi chân thon dài của nàng kẹp lấy lưng hắn, đôi mắt mở to say đắm nhìn vào phu quân, tạm thời gác lại những nghi vấn trong lòng, cảm giác đê mê ập đến, nàng đang phiêu diêu ngoài chín tầng mây… Trong lúc Khánh Kỵ tiến hàng chiến tranh lạnh dạy dỗ hoàng hậu trong hậu cung hoàng cung Ngô quốc, cuộc chiến đòi lại tôn nghiêm của hắn tiến đánh Trần quốc đang diễn ra quyết liệt. Bình Bố dẫn đại quân công phá vào thành trì của Trần, thế như chẻ tre, lúc này đã tiến đánh đến tận dưới chân thành kinh đô Uyển Khâu của Trần quốc.

Uyển Khâu có tường thành hình vuông, dài chín dặm mười ba trượng, thành cao hai trượng bốn thước, có bốn cánh cổng, mỗi cổng có ba lớp cửa, bao bọc xung quanh còn có tường thành làm bằng đất thấp chừng hơn một trượng dùng ngăn nước lũ, quân Trần vốn phòng ngự bên ngoài, nhưng quân Ngô tấn công mạnh mẽ, quân đội Trần quốc xét về binh lực lẫn sức chiến đấu đều thua xa đối phương, buộc phải rút vào bên trong cố thủ, quân Ngô đã chiếm đóng thành công bức tường ngoài.

Với tường thành có độ cao chỉ hơn hai trượng của thành Uyển Khâu, muốn phòng ngự trước vũ khí công thành lợi hại của quân Ngô chẳng khác nào đang nằm mơ giữa ban ngày, quân Ngô cũng chẳng cần xuất quân, chỉ cần lắp đặt máy bắn đá bắn phá một hồi là san bằng cả Uyển Khâu, cũng may quân Ngô tiến đến sát thành đã ngưng tiếp tục tấn công, sai người đưa thư vào thành, kêu gọi Trần quốc đầu hàng. Hiện giờ khắp thành Uyển Khâu nháo nhào sợ sệt, quốc quân nhà Trần hoảng hốt triệu tập quần thần lên cung điện chật hẹp nghị sự, đối mặt với đại quân Ngô quốc hung hăng đang vây hãm nhất thời không tìm ra đối sách.

Quân chủ Trần quốc là Trần Ngô, là cháu của Trần Ái Công, nói ra thì Trần quốc này kể cũng tội nghiệp, đất nước nhỏ bé này xưa nay luôn tự biết thân biết phận không dám đắc tội với ai, nhưng lại thường bị người khác ức hiếp, năm xưa Sở Linh Vương dấy binh tấn công Trần quốc, diệt Trần xong đưa con trai Hùng Khí Trạch lên làm quân chủ Trần quốc, Hùng Khí Trạch làm năm năm quốc quân Trần quốc, Sở Linh Vương băng hà, Hùng Khí Trạch về nước kế vị, chính là Sở Bình Vương sau này bị Ngũ Tử Tư quất roi đánh xác.

Sở Bình Vương lên ngôi Sở vương, vì muốn hàn gắn quan hệ với các nước xung quanh, bèn khôi phục Trần quốc, đưa cháu của Trần Ái Công là Trần Ngô lên làm quốc quân, Trần Ngô trị vì mới mười mấy năm, nay quân Ngô lại đánh tới, nước lớn chỉ tìm cớ tiêu diệt nước bé, Trần quốc chỉ có vài thành trì, binh lực vài ngàn thì sao mà chống cự nổi?

Trần Ngô sầu não cất tiếng: “Các vị ái khanh, đại quân của Ngô đã đánh đến tận kinh đô, người Ngô phái sứ giả lệnh cho quả nhân đầu hàng, không biết các vị ái khanh có sách lược cứu quốc nào không?”

Trần quốc quá bé nhỏ, khắp triều đình không có bao nhiêu đại thần, ngay cả lục khanh cũng không đủ, tư đồ đại phu tóc bạc phơ là thúc phụ Trần Minh, Trần Minh rơi lệ nói: “Quốc quân, Trần quốc nhỏ bé của ta vốn sống sót dưới hơi thở của nước lớn, nước lớn giơ tay múa chân là đủ diệt Trần quốc ta, nay quân Ngô xua quân tiến đánh, chỉ cần hạ lệnh là lập tức san bằng Uyển Khâu, chúng ta còn biết làm gì hơn? Bình Bố đã nói chỉ cần quốc quân chịu dâng thư đầu hàng quy thuận Ngô quốc, sẽ phong quốc quân làm hầu tước, thưởng cho bổng lộc, phủ đệ, Ngô quốc còn một ngày, tông thất hậu duệ họ Trần không đứt mạch, quốc quân… hay là đầu hàng đi vậy.”

“Tuyệt đối không được!” Thái tể Phí Vô Bệnh gầm lên, hắn chính là đệ đệ của Phí Vô Cực. Sở vương khôi phục Trần quốc nhưng vì muốn khống chế nên phái đệ đệ của Phí Vô Cực tới đây làm thái tể, tuy Trần Ngô mới là quốc quân nhà Trần, nhưng Phí Vô Bệnh có huynh trưởng chống lưng ở Sở, hắn mới là người nắm quyền sau lưng thật sự tại Trần, ngay cả Trần Ngô cũng chỉ là bù nhìn làm theo ý hắn, nghe hắn lên tiếng phản đối, Trần Ngô sợ sệt không dám tỏ thái độ.

Trần Minh lườm Phí Vô Bệnh, lạnh lùng nói: “Thái Tể đại nhân, hiện giờ quân Ngô đánh tận đến kinh đô, ngài có cách gì giải quyết quốc nạn?”

Phí Vô Bệnh tự tin trả lời: “Bổn đại phu đã phái người đi Sở cầu viện, đại quân Sở quốc mà đến, quân Ngô lập tức bị đánh lui, có gì mà phải lo lắng?”

Trần Minh cười mỉa: “Thái tể đại nhân, quân Sở mà ngài nói hiện đang ở đâu nào? Quân Ngô dưới sự chỉ huy của Hạp Lư, từng với năm vạn đại quân đánh tận Dĩnh Đô, buộc Sở vương phải trốn vào núi sâu. Hạp Lư tài giỏi như thế còn bại trận dưới tay Khánh Kỵ. Khánh Kỵ là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, từ khi kế thừa vương vị, trị vì sáng suốt, Ngô quốc ngày càng lớn mạnh, nay lại liên minh với Tần, sắp trở thành bá chủ Đông Nam, Còn Sở? Bại tướng của bại tướng Khánh Kỵ, dám đưa quân cứu viện chúng ta à? Có cứu được không?”

Phí Vô Bệnh trừng mắt giận dữ, ánh mắt hung tợn quét khắp đại điện, rít lên: “Lão già chết tiệt này, việc ở Trần quốc từ khi nào đến lượt ngươi làm chủ hả? Ngô quân vừa đến là ngươi ăn phải gan hùm à, chẳng lẽ lão già ngươi sớm đã tư thông với người Ngô, nếu không Trần quốc ta sao lại thua chóng vánh thế này?”

“Ngươi…” Trần Minh chỉ vào hắn, tức tối đến nỗi run bần bật: “Tên thất phu nhà ngươi, ở Trần quốc ta dối trên lừa dưới, diễu võ giương oai, làm cho Trần quốc dân bất liêu sinh, bá tánh đói khổ, ngay cả nơi ở của quốc quân còn tàn tạ, nhà ngươi lại ăn ngon mặc sướng, xà xẻo của cải dân Trần ta làm của riêng. Sau lưng ngươi có đại gian thần Phí Vô Cực của Sở chống lưng, vì an nguy của Trần quốc, lão phu nhịn ngươi. Nhưng hôm nay… hôm nay…, họ Trần ta đừng nói đến giang sơn xã tắc, ngay cả huyết mạch còn khó giữ, quân Ngô một khi công phá vào thành sẽ đuổi cùng giết tận, lão phu vào lúc này không thể giả câm giả điếc được nữa…”

“Tư đồ đại nhân…” Trần Ngô tuy là quốc quân nhưng không hề có chút uy nghi, sợ Phí Vô Bệnh làm bừa nên bước lên ngăn cản, kéo lấy thúc phụ nói: “Tư đồ đại nhân đừng nói tiếp nữa.” Hắn sợ thúc phụ chọc giận Phí Vô Bệnh, nếu tên gian thần điên lên hại người thì quốc quân như hắn cũng không biết phải làm gì.

“Thả ta ra!” Trần Minh giựt tay ra, râu tóc phất phơ, đôi mắt đỏ rực: “Quốc quân, nếu làm một quốc quân không có thực quyền, suốt ngày bị tên tiểu nhân này hà hiếp, chi bằng ta đầu hàng Ngô quốc, lão phu tuy già hoa cả mắt, nhưng trái tim này vẫn còn sáng lắm, ta thấy người tài tề tụ dưới trướng Ngô vương, sau này chắc làm nên nghiệp lớn, đầu hàng Ngô quốc làm một công hầu, vẫn hơn núp ở Uyển Khâu thành này bị kẻ tiểu nhân sắp đặt.”

“To gan!” Phí Vô Bệnh chưa từng bị người khác nói nặng như vậy, vừa tức vừa hận, hắn gào lên: “Sở quốc khôi phục được Trần quốc thì cũng diệt được Trần quốc, các ngươi chán sống rồi phải không? Đợi khi đại quân Sở quốc của ta mà đến…”

“Đợi quân Sở đến, lúc đó Uyển Khâu đã tan tành, huyết mạch họ Trần từ nay tuyệt diệt rồi.”

Trần Minh hét còn to hơn hắn, nước miếng phun phì phì vào mặt hắn: “Lão phu sống đã bảy mươi sáu năm rồi, thế là quá đủ, ta chết không sao, nhưng ta không thể nhìn trưng trưng bỏ mặc con cháu họ Trần ta chôn sống theo hai huynh đệ gian thần nhà ngươi! Người đâu, người đâu, bắt tên tiểu nhân này cho ta!”

Phí Vô Bệnh cười khẩy: “Thị vệ trong cung đều là tâm phúc của ta, ai nghe lệnh của lão thất phu nhà ngươi chứ?”

Không ngờ Trần Minh vừa hét lớn, bên ngoài lập tức có bốn người xông vào, ba người là gia tướng của Trần Minh, người còn lại là con cháu dòng dõi họ Trần, bốn người đã được Trần Minh dặn dò trước, xông vào không nói tiếng nào vật Phí Vô Bệnh xuống đất.

“Ngươi to gan lắm.” Phí Vô Bệnh giãy giụa, trừng mắt nhìn Trần Minh: “Người đâu, bắt lão già này cho ta!”

Võ sĩ trên điện đều là người của Phí Vô Bệnh, chúng chỉ bất ngờ chưa kịp phòng bị nên mới bị mấy gia tướng của Trần Minh hành động trót lọt, lúc này nghe lệnh chủ nhân, chúng lập tức rút binh khí bao vây Trần Minh.

“Giết hắn!”

Trần Minh hét to, một gia tướng của hắn rút kiếm ra đâm thẳng vào tim Phí Vô Bệnh.

“Ngươi… ngươi… ngươi dám… hự…” Phí Vô Bệnh bị đâm một nhát chí mạng, toàn thân co giật một hồi, đôi mắt vẫn nhìn trừng trừng giận dữ, không lâu sau tắt thở.

Trần Ngô thấy thế đứng trơ ra, các võ sĩ thân tín của Phí Vô Bệnh thấy chủ nhân đã chết, trong một lúc cũng đứng yên không biết nên làm gì.

Trần Minh bước tới rút thanh kiếm cắm ngay ngực của Phí Vô Bệnh ra, máu tươi bắn phọt ra nhuộm đỏ cả áo hắn, Trần Minh đứng thẳng người, trừng mắt nhìn đám võ sĩ, hét to nghiêm nghị: “Các ngươi ăn gạo của Trần quốc, mặc áo của Trần quốc, tại sao không trung thành với quốc quân họ Trần? Nay đại quân của Ngô đang đóng ngoài thành, chỉ cần họ tấn công vào thành, già trẻ lớn bé nhà các ngươi có giữ được không? Quốc quân đã quyết định dâng thư đầu hàng, các ngươi muốn theo quốc quân hay là theo tên Phí Vô Bệnh đã chết này?”

Các võ sĩ ngơ ngác nhìn nhau, trong một lúc khó quyết định, hồi lâu sau một tên võ sĩ đột nhiên buông tay, thanh thanh đồng kích cầm trên tay rơi keng xuống đất, các võ sĩ khác lập tức làm theo, ai nấy ném bỏ hết binh khí.

Trần Minh quay sang Trần Ngô, vái lạy: “Quốc quân, giờ ta chỉ còn cách đầu hàng, mới bảo toàn huyết mạch họ Trần được. Hy thành phía Đông Uyển Khâu của ta, chính là nơi thờ thánh nhân Phục Nghi thị và Thần Nông thị, người Ngô kính nể không đến tấn công, Thái Hạo lăng ở thành Tây, quân Ngô cũng không đi xâm phạm, đây là đội quân nhân nghĩa. Phân tách lâu thì nên hợp lại, đó là đạo trời, Trần quốc của ta chỉ là thuận theo ý trời, Ngô vương Khánh Kỵ xưa nay giữ chữ tín, tin rằng ngài không nuốt lời, hôm nay nộp thành đầu hàng, ngài chắc đối xử tốt với họ tộc Trần thị của ta.”

Trần Ngô cúi đầu ngờ nghệch hồi lâu, thở dài ngao ngán: “Thôi vậy, Trần Ngô ơi là Trần Ngô, ngôi vị của ta được ông trời sắp đặt phải hàng Ngô rồi. Thúc phụ…, thúc phụ thay quả nhân ra thành xin đầu hàng vậy.”  Phí Vô Cực ở Sở liên tiếp nhận được tin báo khẩn từ đệ đệ, lúc đầu cũng không muốn xuất binh, chỉ phái tâm phúc Yển Tương Sư đi sứ sang Ngô, định thông qua ngoại giao ép Ngô lui binh, không ngờ Úc Bình Nhiên phụ trách tiếp đón sứ giả Sở quốc miệng lưỡi lươn lẹo, hôm nay thì nói quân Ngô sắp rút quân, mai lại to tiếng bảo sĩ khả sát bất khả nhục, Ngô vương chịu nhục sao mà nhịn được? Làm cho Yển Tương Sư không biết người Ngô rốt cuộc đang nghĩ gì.

Đợi khi Ngô quốc bao vây thành Uyển Khâu, Yển Tương Sư mới vội quay về nước. Phí Vô Cực điên tiết, liền phái Yển Tương Sư dẫn ba vạn đại quân đến Trần cứu viện, ai ngờ quân Ngô như biết trước đường đi nước bước của quân Sở, họ vừa bước vào lãnh thổ Trần quốc, đại tư mã Anh Đào đích thân dẫn một vạn năm ngàn quân kéo đến mai phục, thả tiền quân đi qua, tập kích từ phía sau đánh cho Yển Tương Sư tan tác, còn bị bắn trúng một mũi tên vào mông, mũi tên có tẩm độc dược của người Đông Di, sau khi độc phát khắp người phù nề, làm cho Yển Tương Sư nhìn giống một con heo mập.

Hắn khó khăn lắm mới trốn được vào doanh trại, sau khi tỉnh lại nghe thám tử báo tin quốc quân Trần quốc đã giết chết Phí Vô Bệnh, dẫn theo quan viên mở cửa thành, nạp quốc ấn đầu hàng người Ngô rồi.

Yển Tương Sư chửi bới điên cuồng, chửi đến khi không còn nước bọt, hắn quyết định dẫn đám tàn binh bại tướng rút lui về nước. Phí Vô Cực nghe tin đệ đệ chết thảm, Trần quốc hàng Ngô, tức giận đấm ngực đùng đùng, hắn đứng trên tường thành Dĩnh Đô chỉ tay về hướng Trần quốc chửi một trận cho đã, xong lại quay sang hướng Ngô quốc chửi tiếp, nhưng nghĩ đến phải giao chiến với quân đội lang sói của Ngô, hắn lại thấy e dè.

Phí Vô Cực đang do dự có nên xuất binh đánh Ngô hay không, có thám tử chạy đến báo tin, vì Ngô quốc chiếm Bành thành của Tống, hai bên xảy ra xung đột, Tống quốc đã tăng quân tại biên giới, hình như muốn đánh trả quân Ngô. Phí Vô Cực thấy có cơ hội, đang định phái sứ giả sang Tống bàn chuyện cùng xuất quân giáp chiến quân Ngô cả hai mặt Nam, Bắc. Lại nghe thân tín bẩm báo có đại phu Việt quốc Duệ Dong đem theo mấy xe châu báu mỹ nữ vừa vào Dĩnh Đô xin gặp hắn.

Việt quốc đại phu Duệ Dong lần này đi sứ sang Sở, mang theo lễ vật cống nạp nhiều hơn gấp bội so với Cao Như đại phu lần trước. Việt quốc nằm sát ngay phía dưới Ngô quốc, nếu người Việt có thể liên minh thành công với người Sở, vậy cơ hội giành phần thắng của Phí Vô Cực và cả Việt quốc đều mạnh lên rất nhiều.

Người Việt bị Ngô quốc chèn ép quá đáng, đòi cống nạp cũng không hề ít, Chúc Dung lúc ở Việt quốc càng giống như là thái thượng hoàng, hay quát nạt sai bảo Việt vương DoãnThường, khiến Doãn Thường tức tối bề ngoài thì ra vẻ phục tùng răm rắp, sau lưng tức giận đùng đùng, khi xưa Câu Tiễn lấy lí do phụ vương lâm trọng bệnh, kẻ làm con phải trọn chữ hiếu hầu hạ bề bên, lần này thì Việt vương đúng là bị chọc cho phát bệnh. Hai nước Sở và Việt đều có thù oán sâu nặng với Ngô quốc, đương nhiên dễ dàng tâm đầu ý hợp nhau.

Phí Vô Cực và người Việt bí mật kí kết hiệp ước liên minh cùng tấn công Ngô quốc, lại đem tin tức Ngô quốc và Tống quốc kết oán nói ra. Duệ Dong vốn là người mưu mẹo, vừa nghe Phí Vô Cực nói Tống và Ngô vì vấn đề Bành thành xảy ra xung đột, hắn mừng rơn trong lòng, cảm thấy thời cơ đã đến, vội kiến nghị với Phí Vô Cực, lôi kéo Tống quốc gia nhập làm đồng minh của họ, bảo quân Tống chủ động tấn công quân Ngô, thu hút binh lực của Ngô lên phía Bắc, sau đó liên quân Sở Việt đánh úp vào Ngô từ sau lưng, cho dù không diệt được Ngô quốc, cũng có thể bẻ gãy uy danh của Khánh Kỵ, báo thù chuốc hận.

Phí Vô Cực đã sớm có ý định kéo Tống quốc vào cuộc, chỉ là không nghĩ đến mưu kế thâm độc như Duệ Dong, nghe hắn trình bày, cảm thấy quá tuyệt. Khánh Kỵ hiện nay đã liên tiếp thả ba đợt quyền quý cũ của Sở về nước, số quyền quý này đều là thượng khanh chức cao quyền trọng, một tay che trời vào thời Nang Ngõa còn đang lộng quyền, ai nấy xét về quyền thế, về tư cách đều không hề thua kém Phí Vô Cực.

Giờ đây hắn thay thế vị trí của Nang Ngõa, giữ chức Lệnh doãn của Sở quốc, ngay cả Sở vương và Sở thái hậu cũng khiếp sợ dưới quyền lực của hắn, thế lực hơn cả Nang Ngõa năm xưa, nhưng đám cựu thần này chưa từng lãnh giáo qua sự lợi hại của hắn, khi xưa chẳng qua chỉ là đồng vai vế, nay họ qua Ngô làm khách hơn một năm, trở về nước mới phát hiện quyền thế chức quan của mình bị người khác thay thế hết, thử nghĩ họ sao mà chịu buông tay?

Trong đám người này có không ít gia chủ thế tộc, khi bị bắt qua Ngô người kế vị là con cháu của họ, bây giờ gia chủ cũ quay về, đám con cháu dù muốn dù không cũng phải giao trả quyền lực, có trường hợp cá biệt không chịu giao trả, trong gia tộc thế là xảy ra mâu thuẫn nội bộ, ngấm ngầm đấu đá nhau không lúc nào yên.

Những chuyện cỏn con này lúc đầu vẫn chưa làm phiền đến Phí Vô Cực, nhưng số quyền thần nhờ bợ đỡ hắn mới được giữ chức thì khác, chúng dựa vào Phí Vô Cực nên mới nắm giữ được quyền lực, nay có đám người cũ chạy về tranh giành, chúng đâu chịu dễ dàng giao trả những thứ đang có trong tay ra, hơn nữa chúng đều thuộc phe của mình, Phí Vô Cực cũng không muốn thay thế chúng đưa đám quyền quý cũ lên mà chưa biết chắc có chịu nghe lời hắn hay không.

Mấy lão già này đúng là hay sinh sự, suốt ngày liên lạc tụ tập gây hấn với nhau trong thành Dĩnh Đô, chốc chốc lại tìm đến phủ Phí Vô Cực kể lể thở than, làm cho hắn đã bực bội càng bực bội thêm, gần đây Phí Vô Cực đã hết chịu nổi, hắn dọn ra khỏi Dĩnh Đô, lấy cớ đi trốn nóng dọn đến Điếu Ngư Các tại Chử cung.

Đám quyền thần mới được thả về đâu chịu buông xuôi, Phí Vô Cực vừa đi khỏi, chúng bèn chạy đến tìm thái hậu và Sở vương van nài, còn tìm cớ này cớ kia chửi mắng Phí Vô Cực cho hả giận, đám người này kể ra cũng có gốc gác, uy danh cũng không nhỏ, nhất thời Phí Vô Cực không dám manh động ra tay hãm hại, lúc này đây hắn đang buồn phiền, đau đầu không nghĩ ra cách phân chia quyền lực, giải quyết cho êm chuyện.

Nếu quả thật phạt Ngô thành công, thì hắn coi như giải quyết xong chuyện này. Khi phạt Ngô thắng lợi, hắn vì trả được mối thù Hạp Lư công phá đô thành Dĩnh Đô Sở quốc, danh vọng chắc chắn lên cao, đến lúc đó mấy lão già quyền quý này sẽ không dám có ý kiến trước mặt hắn nữa. Hơn nữa một khi giành thắng lợi trong cuộc chiến đánh Ngô, các đại phu phe cánh của hắn ai nấy đều có công lớn, họ có thể danh chính ngôn thuận giữ chức quan, còn đám quyền thần thất thế cũ đâu còn mặt mũi nào mà chạy ra đòi hỏi.

Nghĩ đến lợi ích này, Phí Vô Cực vội bảo Duệ Dong về Việt quốc trước liên lạc với Việt vương Doãn Thường, bàn bạc chi tiết kế hoạch liên minh phạt Ngô, một mặt hắn phái tâm phúc phi ngựa đến Tống quốc thăm dò ý định của người Tống, nếu quả thật Tống và Ngô xảy ra xung đột, bèn liên lạc luôn người Tống, dù kế điệu hổ ly sơn, cùng nhau tiêu diệt Ngô quốc.

Phí Vô Cực đang gấp rút tiến hành kế hoạch nham hiểm, bên kia chuyện lập quốc của Doanh Thiền Nhi cũng đang định ngày hoàn thành. Khánh Kỵ và Vệ phu nhân Nam Tử liên lạc, thông qua Nam Tử bắn tiếng với quốc quân Tống quốc, ngỏ ý Tống quốc cùng phối hợp diễn tuồng với hắn, quân đội hai bên cố ý xung đột, từ đó không ngừng tăng quân tại biên giới Ngô Tống, tạo ra hiện tượng giả là hai nước sắp xảy ra đại chiến.

Hai nước Vệ Tống được Khánh Kỵ giúp đỡ, thuyết phục Tần quốc xuất binh, kẻ địch uy hiếp lớn nhất của họ là Tấn quốc giờ đã tan rã, vì đền ơn đáp nghĩa, yêu cầu nhỏ nhoi phối hợp diễn màn kịch này đương nhiên không có lí do gì phải chối từ.

Mục đích thật sự của Khánh Kỵ trong hành động này chính là Đông Di và Sở, Việt. Đây là kế một mũi tên bắn chết hai con nhạn, tăng quân trú đóng Bành thành, đóng gần vùng đất Đông Di, ngộ nhỡ Doanh Thiền Nhi đăng cơ gặp trở ngại, có thể phát động đại quân dùng vũ lực trấn áp. Nếu Đông Di thuận lợi lọt vào tay hắn, lúc đó sẽ cho “Cuộc chiến tranh biên giới Ngô, Tống” leo thang, dụ liên quân Sở Việt tấn công vào đại bản doanh Ngô quốc. 

Mồng một tháng năm, còn bốn ngày nữa là Độc nguyệt Ác nhật, vào đúng Đoan Ngọ, truyền thuyết nói đây là ngày gian tà tứ xuất. Khánh Kỵ leo lên lầu cao, dõi mắt về hướng Tây Bắc, nghĩ đến cảnh tượng Tần quốc xuất binh, lục khanh phân chia Tấn quốc, trái tim hắn khua thình thịch liên hồi, máu nóng dâng trào, chỉ tiếc là vào thời đại đó không có phóng viên chiến trường, cũng không có truyền hình trực tiếp, đợi tin tức bên kia truyền đến tai hắn, nhanh nhất cũng phải mất gần một tháng.

Khánh Kỵ sau khi lên ngôi Ngô vương, phần lớn thời gian phải ở trong cung, không phải nghị bàn quốc gia đại sự với quần thần, thì là đến hậu cung hưởng lạc với các mỹ nhân, những ngày tháng an nhàn này nghe có vẻ hay, nhưng ngày nào cũng ăn thịt cá tôm cua cũng sẽ có lúc thấy ngán, sống hơn một năm an nhàn, Khánh Kỵ lúc này có hơi hoài niệm những ngày tháng hắn đích thân dẫn quân ra sa trường chém giết.

Nhưng hắn cũng hiểu rõ với thân phận bây giờ không cho phép hắn đích thân ra sa trường nữa rồi, trái tim háo hức một hồi, cuối cùng hắn cũng nghĩ ra một lí do hợp lí ra khỏi hoàng cung: đi tuần thị Hàn Ấp.

Quốc vương một nước đi lại trên lãnh thổ của mình, nghĩ chắc không ai dám phản đối nữa chứ? Hàn Ấp chính là nơi giáp ranh gần nhất với thế lực phương Bắc của Ngô quốc, là cứ điểm quân sự quan trọng về phòng thủ. Đại vương đi tuần thị cứ điểm quân sự, lí do quá chính đáng, thêm vào đó hiện nay đang diễn màn kịch căng thẳng leo thang với Tống quốc, chiến tranh sắp nổ ra mà đại vương tuy không đích thân ra trận, nhưng xuất hiện tại quân doanh cổ vũ binh sĩ, hành động này cũng góp phần thuyết phục hai nước Sở, Việt tin Ngô xung đột với Tống là thật, nghĩ chắc với tính gian xảo của Phí Vô Cực và Câu Tiễn cũng không nghi ngờ đây là một cái bẫy giăng sẵn dụ họ rơi vào.

Ngoài ra, một khi Đông Di lập quốc thành công, quốc gia mới thành lập, Doanh Thiền Nhi không thể lập tức rời khỏi Đông Di đến Cô Tô gặp hắn, lúc đó hắn có thể hội ngộ với nữ vương Đông Di tại Hàn Ấp, dùng thân phận quốc quân hai nước kí kết hiệp ước liên minh, xác lập quan hệ giao hảo.

Khánh Kỵ hí hửng đem ý định này nói với các đại thần Tôn Vũ, Yểm Dư, quả nhiên bọn họ không tìm được lí do gì ngăn cản Khánh Kỵ khởi hành, sau cùng các triều thần quyết định, điều thượng tướng quân Kinh Lâm từ Vũ Nguyên quay về bố phòng Cô Tô thành, do tướng quốc Tôn Vũ chủ trì triều chính, vì Khánh Kỵ chưa có con, nên giao cho hoàng hậu và ba vị hoàng phi cùng nhau giám quốc.

Xa giá đang đứng đợi ngoài cung, năm mươi cỗ chiến xa, ba ngàn giáp binh vây kín mít lấy ngự giá của Khánh Kỵ, đứng xa xa chỉ nhìn thấy chiếc dù che nắng màu vàng cắm trên xe, trước và sau còn có hai ngàn tinh binh hộ tống, lúc khởi hành sẽ chia nhau cách trung quân của Khánh Kỵ ba dặm đường để tiếp ứng khi cần thiết.

Khánh Kỵ ngồi bệ vệ trên chiếc xe vua được che chắn cẩn thận, ngón tay gõ tanh tách vào thành xe, tiết trời nóng nực, giang nam lại ẩm ướt, trời nóng chui vào xe cứ như đang ngồi trong lò hấp bánh bao, Khánh Kỵ quen với việc ngồi trong cung có băng đá tản nhiệt đặt xung quanh, nay đột nhiên đi đường dưới ánh nắng chói chang quả là có hơi không quen.

Hắn nhìn vào hàng binh sĩ đang đứng dưới ánh nắng, mồ hôi lăn dài từ trán xuống tới lưng, áo giáp trên người bị ánh mặt trời chiếu vào lóe mắt, nhưng các binh sĩ vẫn nghiêm nghị đứng yên không hề động đậy, cứ giữ tư thế này đứng rất lâu.

“Ây! Khi xưa ta cũng từng nếm qua cảnh cơ cực này, bây giờ làm đại vương sống những ngày tháng an nhàn, ngồi trong xe mà còn thấy vất vả, đúng là nghèo đổi sang giàu thì dễ chấp nhận, đang xa hoa mà bắt cơ cực thì khó chịu nổi.”

Khánh Kỵ cảm khái nghĩ ngợi, quay đầu nhìn về phía cổng hoàng cung, khẽ chau mày, nha đầu Tiểu Man đang làm gì ấy nhỉ, quả nhân sắp phải dẫn quân đi thị sát biên cương, thế mà nàng ta chưa đến đưa tiễn nữa.

Vừa nãy hoàng hậu Quý Doanh dẫn theo phi tần chốn hậu cung đến tiễn biệt đại vương ở Loan Phượng cung. Khánh Kỵ và Quý Doanh từ đêm đó chưa từng gặp mặt riêng với nhau, càng không nói với nhau câu nào, hiện giờ hai người giống như trẻ con phụng phịu, muốn làm lành lại thấy ngại. Khánh Kỵ nhìn thấy Quý Doanh đã không còn cảm giác chán ghét như trước, ngược lại thấy vị hoàng hậu này rất thú vị.

Hắn tin Quý Doanh bây giờ cũng không ghét cay ghét đắng hắn nữa, đồng thời đang đợi hắn hồi tâm chuyển ý, hai người ánh mắt chạm nhau, từ đôi mắt ấy lờ mờ đọc được ý nghĩ của đối phương, hai người từ một đôi nam nữ chưa từng quen biết, vì mục đích chính trị kết làm phu thê, lại động thủ trong đêm tân hôn, nay bắt đầu tiến tới giai đoạn hòa nhập.

Khánh Kỵ trước lúc lên đường, các phi tần đại thần đều có mặt đưa tiễn, trước đám đông hắn không tiện nói ra câu gì, Quý Doanh theo lễ nghi cung đình cung chúc đại vương xuất hành thuận lợi, long thể khỏe mạnh xong, dâng lên ba ly rượu, rồi ngoan ngoãn lui xuống. Khánh Kỵ đang định xuất phát, Quý Tôn Tiểu Man xưa nay không ra dáng hoàng phi cao quý bỗng chạy đến bên tai hắn nói nhỏ: “Đại vương, xin đợi giây lát bên ngoài cung, có món đồ thú vị này tặng cho chàng.”

“Món đồ gì vậy?”

“Hí hí, mau làm xong rồi, đợi khi nào chàng thấy thì sẽ biết thôi.”

Tiểu Man tinh nghịch lui xuống, nhìn thấy hai người thân mật như thế, ánh mắt Quý Doanh không khỏi ngưỡng mộ, nhưng khi Khánh Kỵ đưa mắt về phía nàng, đôi mắt ấy lập tức trở lại vẻ bình thản, không còn gợn sóng lăn tăn, tình cảm dạt dào.

Lúc này đã mất khá nhiều thời gian, còn chưa đợi được món quà thú vị của Tiểu Man, Khánh Kỵ có hơi mất kiên nhẫn, đang gõ tay tanh tách lên thành xe, không ngừng ngóng đầu về phía cổng hoàng cung chờ đợi, bỗng thấy hai tên thái giám tùy thân Thân Sinh, Thư Khắc mỗi người cầm theo một cái giỏ tre chạy như bay lao đến.

“Đại… đại vương…, quà… đưa… đưa tới rồi.” Thư Khắc đưa tay áo lên lau mồ hôi lấm tấm trên trán, thở hổn hển gọi với theo.

“Hử? Là món gì vậy, trình lên đây cho quả nhân xem thử.”

“Dạ, dạ!” Thân Sinh vội bước lên phía trước, mở nắp đậy ra, hai tay dâng giỏ tre lên.

Khánh Kỵ nhìn vào, lập tức cảm thấy kinh ngạc, trong giỏ là vài món ăn nhắm nháp thơm ngon nhìn vào là nhỏ dãi.

“Đây là…”

“Đây đều là hoàng hậu tự tay làm đó ạ, hoàng hậu nương nương nói đại vương đi xa dọc đường vất vả, việc ăn uống trên đường lại không tiện, bây giờ đang vào giữa trưa, mới có ý làm ra vài món ăn, mời đại vương thưởng thức trên đường đi.”

“Ồ… là hoàng hậu làm đó hả?”

“Dạ phải, hoàng hậu nương nương còn nói, đây là hầu lương, thức ăn dùng thạch tử đun nóng làm ra, thơm giòn ngon miệng, lại để được lâu.”

“Hầu lương, đây chẳng phải là món ăn Thạch tử mô sau này đó à?” Khánh Kỵ bẻ một miếng nhỏ bỏ vào miệng, càng nhai càng thơm, Khánh Kỵ mỉm cười khoái trá: “Không ngờ con ngựa hoang này còn biết chuyện bếp núc nhỉ, tài nấu nướng cũng khá đấy.”

Thạch tử mô chính là món ăn đặc sắc trong lịch sử chế biến của Trung Quốc, thời Xuân Thu gọi nó là “Hầu lương”, đến đời Đường đổi tên thành bánh “Thạch ngao”, thời đó thường làm cống phẩm đưa vào cung cho hoàng thượng phi tần hưởng dụng, là một món lương khô ngon miệng lại thích hợp mang theo khi phải đi xa, hơn nữa món này dễ tiêu hóa, ngay cả người bệnh, sản phụ cũng thích hợp dùng làm thức ăn.

“Đại vương, còn đây là Phấn từ, dùng gạo nếp và bánh đậu hấp ra thành chiếc bánh, hoàng hậu nương nương nói đây là món ăn đặc sản Tần Xuyên, đặc biệt làm riêng cho đại vương dùng thử ạ.”

Khánh Kỵ nhìn vào, quả nhiên là món ăn được Quý Doanh bỏ tâm tư chọn lựa, món này lưu truyền đến mấy ngàn năm sau, được người hiện đại gọi là “Tắng cao”, chỉ là sau này người ta thêm vào ít táo đỏ.

Khánh Kỵ cảm thấy hài lòng, mỉm cười mãn nguyện: “Nha đầu này, cách tạ lỗi với ta cũng thú vị nhỉ, lại nghĩ ra cách tự tay làm vài món ăn lấy lòng phu quân, ha ha, ăn những món này vào bụng rồi, sau này gặp mặt nàng ta đâu làm mặt lạnh được nữa.”

Thư Khắc cũng dâng chiếc giỏ của mình lên: “Vì đại vương đi xa, hoàng hậu đích thân tuyển chọn vài món ăn dâng lên, giỏ này là “Ngư chỉ”, cũng là món hoàng hậu nương nương vừa mới làm xong.”

Giỏ thức ăn của Thư Khắc, Khánh Kỵ nhìn vào cảm thấy quen thuộc, đây rõ ràng chính là su shi của Nhật, khi đó gọi là “Ngư chỉ”, vào đời Hán gọi là “Ngư sạ”, vì món này dễ mang theo khi đi đường nên thích hợp làm thức ăn khi phải đi xa. Vào đời Đường, văn hóa Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản, người Nhật học được cách làm món ăn này, đến đời Minh món này biến mất tại Trung Quốc, trở thành món ăn truyền thống của Nhật, lí do tại sau cũng không ai biết chính xác.

Khánh Kỵ thấy Quý Doanh quan tâm tới hắn, trong lòng mừng rơn, nghĩ thầm: Nha đầu Quý Doanh này tính tình không tệ, chỉ là quen được chiều chuộng nên hơi ngang tàng, nếu lần này không được dạy dỗ, e là sau này cưỡi lên đầu lên cổ mình, phu thê sớm muộn cũng đồng sàng dị mộng, xung đột gay gắt.

Phí Vô Cực thì chắc chắn phải đánh rồi, nhưng không thể để một nữ nhi quyết định, hơn nữa lập trường can dự chính sự của nàng là quá nguy hiểm, hắn không thể dễ dãi cho qua chuyện, buộc phải làm nghiêm để răn đe, nếu không làm căng sợ sau này hậu cung lộng quyền dung túng cho thân thích nắm giữ triều chính, nguy hại đến giang sơn xã tắc Ngô quốc, lúc đó công sức phục quốc của hắn coi như đổ sông đổ biển, nhưng giờ đây tin rằng thiếu nữ Quý Doanh dù tính cách mạnh mẽ, trải qua bài học quý báu này, tương lai sắp tới chắc không dám làm bừa trước mặt hắn nữa.

Tôn Vũ dẫn theo quần thần vái lạy chúc mừng: “Hoàng hậu hiền thục, là phúc của đại vương.”

“Ờ, ờ!” Khánh Kỵ cố nhịn cười, gật gù: “Về nói lại với hoàng hậu, cứ nói… những món ăn này…, à… rất hợp với khẩu vị của quả nhân, ha ha ha…!”  “Đại vương nói… thức ăn này… rất hợp khẩu vị của ngài à?”

“Ừm.”

Quý Doanh và Quý Tôn Tiểu Man nhìn nhau, Tiểu Man cười khanh khách, trên chọc: “Thế nào, thích rồi chứ?”

Hai tiểu thái giám Thân Sinh và Thư Khắc không biết câu nói của Khánh Kỵ có ẩn ý khác, chỉ đứng đó cười hùa theo.

“Các ngươi lui xuống đi!” Tiểu Man xua tay cho hai tên thái giám lui ra, sau đó nắm lấy tay Quý Doanh, cười hi hí nói: “Thế nào, chủ ý của Nhược Tích tỉ tỉ hay đấy chứ? Nam nhân ấy hả, đều là thuộc họ lừa, chỉ chịu mềm mỏng không chịu cứng rắn đâu, tỉ biết dỗ ngọt là nghe theo răm rắp liền à.”

“Nhưng đại vương đi về phương Bắc mất rồi.”

“Chán quá, muội chỉ ví dụ thế thôi mà.”

Quý Doanh tay chống cằm, âu sầu nói: “Ờ, tỉ cũng biết muội chỉ lấy ví dụ, nhưng con lừa đó lại là phu quân của chúng ta, đây là nhà của tỉ, không dỗ ngọt chàng thì còn biết phải làm sao? Nhưng… làm vậy là xong à? Tỉ… tỉ cũng không rõ mình sau khi uống say đã làm gì nữa, hình như… còn vật ngã đại vương…”

Quý Tôn Tiểu Man nhíu mày lo lắng: “Vậy thì rắc rối to, nam nhân mà bị nữ nhân vật ngã, nhất định cảm thấy mất mặt.”

Nàng xoay tròn đôi mắt, đột nhiên lại cảm thấy hí hửng: “Tỉ vật ngã được đại vương thật à? Chính là dùng kĩ thuật đã từng dạy muội?”

Quý Doanh làm ra vẻ tội nghiệp gật đầu: “Ờ, hình như cũng vật khá mạnh.”

Tiểu Man khoái trá kêu lên: “Ha ha, muội biết điểm yếu của chàng rồi, thì ra chàng kém tài vật lộn. Hí, hồi trước dám bắt muội trên thuyền, còn đánh mông muội, lần này muội cho biết tay.”

Nhìn dáng vẻ bí hiểm của Tiểu Man, là biết nàng định mai mốt làm gì Khánh Kỵ rồi. Quý Doanh liếc xéo Tiểu Man một cái, lại nhìn vào bốn tì nữ tùy giá đang nhăn nhó đấm tay đấm chân đứng kế bên, nguýt dài: “Đừng giả bộ nữa, mới bảo các ngươi làm có chút việc, mà ai nấy đều mệt đến nông nỗi này à?”

Hân Nhi kể khổ: “Hoàng hậu à, bắt chúng nô tì phải làm xong trong thời gian ngắn thế này, mệt chết đi được.”

“Thôi được rồi, đừng kêu ca nữa, đều là ta ngày thường ít sai bảo các ngươi, mau đi chuẩn bị thêm một phần vật liệu cho ta.”

“Á! Đại vương đã đi rồi mà, còn làm cho ai ăn?”

“Bổn hoàng hậu phải học làm, nếu không học cho biết, đợi tên phu quân kia về phát hiện không phải ta làm, lại xụ mặt ra giận ta à? Mau đi chuẩn bị, mau lên.”

Bốn tì nữ kêu trời không thấu, nhưng hoàng hậu hạnh phúc thì họ mới được hạnh phúc, hơn nữa nếu hoàng hậu không lôi kéo được trái tim đại vương, bốn người họ cả đời cũng phải cùng hoàng hậu ở góa, sự việc liên quan đến hạnh phúc chung thân, nên chỉ còn biết phấn chấn tinh thần, lại đi chuẩn bị vật liệu nấu mấy món ăn cho hoàng hậu học làm.

Quý Doanh thở dài: “Người ta chưa từng chịu cực thế này, vì chàng mà phải đổi tính, thế mà chàng…”

Quý Tôn Tiểu Man và Quý Doanh đã trở thành bạn tốt, trước mặt Tiểu Man nàng cũng không giấu giếm tâm sự. Tiểu Man an ủi: “Thôi, chàng đó hả, ngoài miệng thì cứng cỏi, nhưng thực ra trong lòng rất tốt.”

Quý Doanh uất ức thở dài cái nữa: “Tiểu Man muội muội, muội không biết đó thôi, chàng… đã từng nói, suốt đời này không bước chân vào Loan Phượng cung nửa bước.”

“Hơ…, xem ra tỉ làm chàng nổi giận thật rồi. Nhưng không sao, chỉ bảo là không bước vào Loan Phượng cung nửa bước, còn bước hai bước ba bước, mười bước một trăm bước, như thế là không vi phạm lời thề rồi đúng không nào?”

Quý Doanh há hốc miệng: “Úi! Vậy cũng được à?”

“Có gì mà không được, hai phu thê mà, gây gổ một chút có sao đâu.”

“Nhưng… chàng đường đường là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, lại là đương kim đại vương, nhất ngôn cửu đỉnh, sao có thể nuốt lời? Đã nói ra thì… phải làm cho bằng được.”

“Hứ!” Tiểu Man vênh mũi, ngún nguẩy nói: “Tỉ đừng bị chàng lừa mà lầm to, chàng nói chuyện không bao giờ giữ lời đâu.”

“Sao lại nói vậy?”

“Hắn còn nói không đụng vào… của người ta, Á!”

“Hở?” Quý Doanh nghe không hiểu, Tiểu Man xấu hổ che mặt, khuôn mặt bé xinh bỗng trở nên đỏ chót như một miếng vải đỏ.

“Tiểu Man, muội nói gì vậy?”

“À, Ờ…, ờ… muội chợt nhớ ra nến trong phòng muội còn chưa thổi tắt, muội… muội đi về đây.”

Tiểu Man lủi nhanh như con cáo, mặc kệ Quý Doanh gọi với theo, nàng ùa chạy ra cửa biến mất.

Quý Doanh ngạc nhiên nhìn theo bóng lưng Tiểu Man, sau đó sụ mặt lại, hai tay chống cằm, lại bắt đầu nghĩ đến tình cảnh sầu não của mình.

Quen nhau trễ nhất, về mặt tình cảm nàng và Khánh Kỵ không được sâu nặng, nhưng dù cho Quý Doanh ngang tàng, nữ nhi ai mà không toan tính cho hạnh phúc tương lai của mình? Nàng đã đồng ý làm hoàng hậu Ngô quốc, đã là thê tử của Ngô vương, số phận an bài nàng phải sống ở đây suốt đời rồi, với thân phận của mình nàng nhận thức rõ ràng hơn ai hết.

Khánh Kỵ là phu quân kề cận bên nàng cả đời, sao nàng không lo lắng cảm giác của hắn đối với nàng chứ? Trong cuộc hôn nhân này tuy có yếu tố sắp đặt sẵn, nhưng Khánh Kỵ cũng hội đủ điều kiện khiến nữ nhân động lòng, đó chính là lí do quan trọng nàng khiến từ từ trở nên mềm mỏng, nhưng… tên oan gia đó có chịu hồi tâm chuyển ý không nhỉ?

“Mình cứ đối xử tốt với chàng, tên khốn đó nhất định đắc ý vênh mặt lên trời rồi. Hứ! Không dỗ ngọt một chút, làm sao kéo được dây cương buộc chặt con ngựa hoang? Mẹ mình từng nói, chuyện nam nữ phu thê, ai thắng ai thua không giống với kẻ yếu người mạnh chém giết nhau trên chiến trường, chỉ cần nắm được trái tim đối phương, hí hí…”

Quý Doanh càng nghĩ càng khoái trí, tay chống cằm cười tủm tỉm một mình tự khi nào.

“Hoàng hậu, mọi thứ đã chuẩn bị xong rồi ạ…”

“Ta tới liền, ta tới liền…” Quý Doanh nhảy cẫng lên, xắn tay áo để lộ bắp tay trắng nõn hối hả chạy đi…

Hoàng Hà cuồn cuộn, như một nhát kiếm sén bén cắt đôi cao nguyên hoàng thổ, ngăn cách biên giới hai nước Tần, Tấn, mở ra một khe hẹp dài hơn bảy trăm dặm, phong cảnh đẹp như trong tranh, bọt sóng tung tóe đánh từng đợt vào vách đá hiểm trở, tiếng sóng như cả ngàn con trâu cùng gầm rú. Nơi đây chính là Hàn Nguyên.

Đại quân Tần quốc đã tụ tập ngay đây, đại tướng quân Công Tôn Vũ làm chủ soái, phó tướng phiên tướng đông đảo, ba vạn tinh binh, năm trăm cỗ chiến xa, ngựa hí vang trời, lăm le tấn công sang bên kia.

Tin tức được truyền đến Giáng thành ở Tấn quốc, lục khanh tề tụ cùng quốc vương bàn cách đối phó động thái của quân Tần, tin khẩn từ biên giới không ngừng được báo lên triều đình đại điện.

Trung Hành Thị bước ra khải tấu: “Tấn quốc ta nam chinh, bị Tần quốc ngăn cản, nay Tần chưa ngưng chiến được nửa năm lại dấy binh Hàn Nguyên, dòm ngó nước ta, đề phòng bất trắc, Tấn quốc ta nên xuất binh chiến đấu với chúng.”

Phạm thị vội nói: “Thần cho rằng Tần xuất binh là vì thừa lúc Tấn quốc ta xung đột với Vệ Tống, ý đồ gây bất lợi, thần thấy hai nước Vệ Tống không có gì đáng ngại, duy chỉ có Tần là đại địch của ta, ta nên ngưng chiến với Vệ Tống, ép chúng cắt đất cầu hòa thế là được, sau đó tập trung binh lực tiêu diệt Tần, cho Tần từ nay không dám dòm ngó lãnh thổ Tấn quốc của ta nữa.”

Triệu Tử Giản lập tức phản đối: “Làm vậy không ổn, hai nước Vệ Tống tuy không là cường địch, nhưng chiếm được Vệ Tống, cả trung nguyên coi như phần lớn nằm trong tay ta, Tần quốc sẽ là bá chủ thiên hạ. Nay quân ta đã chiếm hơn một nửa lãnh thổ Vệ quốc, chỉ cần đánh thêm một năm vài tháng muốn diệt luôn Vệ quốc cũng không khó, đến lúc đó Tống quốc đưa tay là lấy được thôi, miếng ngon ăn đến tận miệng sao lại nhả ra? Tần vương xưa nay không hề có chí lớn, lần này xuất binh chẳng qua muốn thừa cơ ăn cướp kiếm chút lợi lộc thôi, theo ý thần chỉ cần phái một cánh quân đi nghênh chiến là quân Tần không dám manh động, Tấn quốc ta nên đặt mục tiêu chiếm Vệ lên hàng đầu.”

Triệu Giản Tử đang là trọng thần số một Tấn quốc, Phạm Thị, Trung Hành Thị không dám phản đối, Tấn hầu nghe xong nhất thời do dự chưa quyết định, thấy tam khanh ý kiến trái ngược, bèn nhìn sang Tri Thị, muốn nghe ý kiến của hắn.

Tri Thị cười nhạt, khải tấu: “Thần đồng ý với Triệu đại phu, người Tần không đủ sức đe dọa chúng ta, lần này xuất binh không có gì đáng lo ngại, nhưng người Tần chiếm vị trí hiểm yếu, ta cũng không nên khinh địch, ta cứ đưa quân day dưa với Tần, vẫn đặt nhiệm vụ đánh Vệ lên hàng đầu, chỉ cần diệt được Vệ Tống, chiếm trọn trung nguyên, lúc đó đối phó với Tần còn chưa muộn. Không quá ba năm, vùng lãnh thổ trung nguyên rộng lớn đều thuộc về Tấn quốc ta.”

Triệu Giản Tử nghe vậy cảm thấy bất ngờ, hắn và Tri Thị xưa nay bất hòa, tuy chức quan cao hơn nhưng thế lực không bằng Tri Thị, thế mà giờ đây liên quan đến lợi ích hành động quân sự Tri Thị lại bỏ qua chuyện riêng đứng về phía hắn, hắn có hơi cảm động, Ngụy Thị và Hàn Thị thế lực hơi yếu, không dám phát biểu ý kiến riêng, thấy Triệu Giản Tử và Tri Thị thống nhất với nhau, cả hai cùng bước lên tán thành.

Tấn hầu thế mới an tâm, gật gù phán: “Không sai, Tần vương xưa nay không có chí lớn, cứ trấn thủ Quan Trung không biết bành trướng, lần này vì cứu Sở thành công, lại mới kết thân với Ngô nên mới hứng lên thảo phạt quả nhân, muốn giải vây cho Vệ Tống, đến lúc đó Tần liên minh với chư hầu phương Nam, lại có Vệ Tống giúp sức, sẽ lăm le ngôi bá chủ thiên hạ. Hứ, quả nhân đâu cho chúng dễ dàng toại nguyện, bây giờ phải tiêu diệt Vệ đã, nhưng… đại quân của quả nhân còn đang chiến đấu ở Vệ, nên phái cánh quân nào đi ngăn cản quân Tần tiến công đây?”

Tấn hầu quay đầu lại nói: “À, Phạm ái khanh…”

Phạm Thị vội bước lên thoái thác: “Bẩm quốc quân, quân đội của thần đang cùng binh mã của Trung Hành Thị chia quân hai ngả, chế ngự các bộ lạc Ly Nhung, Xích Địch, nếu điều đi đối phó quân Tần, e là các bộ lạc này thừa cơ làm loạn.”

Tấn hầu không còn cách nào khác, lại quay sang Tri Thị: “Tri ái khanh…”

Tri Thị khẳng khái nói: “Đây vốn là bổn phận của thần, chỉ là…”

Hắn khẽ nhíu mày đăm chiêu, ra vẻ lo lắng: “Binh mã của thần lúc nam chinh đại chiến với liên quân Tần Sở, tổn thất nghiêm trọng, nay cần phải nghỉ ngơi chỉnh đốn, nếu gấp rút điều động e về mặt thời gian không kịp.”

“Thế thì…” Tấn hầu nhìn sang Hàn Thị và Ngụy Thị, có ý phái họ xuất chinh, nhưng binh lực của gia tộc Hàn, Ngụy không mạnh, phái họ xuất chinh lại sợ không phải đối thủ của quân Tần.

Tấn hầu cảm thấy khó giải quyết, âu sầu nói: “Chẳng lẽ… phải rút bớt binh mã từ Vệ về sao?”

Triệu Giản Tử có lòng chinh chiến thiên hạ, kiến công lập nghiệp, giờ đây binh lực tác chiến ở Vệ đã có phần phân tán, nếu lại rút bớt quân về, e cục diện chiến sự thay đổi theo chiều bất lợi, thấy các thế lực kia ai nấy tìm cớ từ chối, hắn là người ủng hộ tiếp tục đánh Vệ, chỉ còn cách gánh lấy trách nhiệm vậy, bèn bước lên khải tấu: “Thần còn một cánh quân ở Giáng thành, ngoài ra còn một đội quân trấn thủ ở Tấn Dương, quân Tần lần này tiến công mạnh mẽ, thần sẽ điều hai cánh quân này đi ứng chiến, xin hai vị đại phu Ngụy Thị, Hàn Thị điều thêm hai vạn quân của mình đến trợ giúp, cùng đánh lui quân Tần.”

“Được thế thì tốt quá, Hàn ái khanh, Ngụy ái khanh có gì dị nghị không?”

Hàn, Ngụy nhìn nhau, thấy không còn lí do gì để từ chối, cùng lên tiếng: “Thần… tuân chỉ.”

Vệ hầu thở phào nhẹ nhõm: “Cứ quyết định vậy đi, các vị ái khanh mau đi chuẩn bị, ba ngày sau xuất binh đến Hàn Nguyên chống địch.”

Các đại thần vái lạy hành lễ lui ra, khắp đại điện trong một lúc trở lại cảnh đìu hiu trống trơ.

Đêm đó, trước khi cổng thành đóng lại, vài chiếc xe ngựa thương buôn rời khỏi Giáng thành, chia nhau đi về các hướng Tiên Ngu, Ly Nhung, Xích Địch, Vệ quốc. Chúng chỉ truyền đi một câu lệnh: “Hành động vào ngày Đoan Ngọ.”  Đỉnh, vốn là vật dụng để nấu nướng, nhưng từ thời Hạ Vũ lấy vàng đúc cửu đỉnh đặt dưới Kinh Sơn tượng trưng cho cửu châu, đỉnh từ một vật dụng thông thường bỗng hóa thân thành biểu tượng quốc gia. Quốc gia diệt vong thì đỉnh bị dời đi, triều Hạ suy vong, triều Thương lên nắm quyền, cửu đỉnh được đưa về kinh đô nhà Thương tại Bạc Kinh, Thương tàn Chu lên, cửu đỉnh lại được dời đến kinh đô nhà Chu là Hạo Kinh. Trải qua mấy triều đại, đều gọi lập nên vương triều mới là “Định đỉnh”.

“Ác nhật định đỉnh”, câu nói này không cần giải thích nhiều: kế hoạch không thay đổi, cứ theo ngày tháng đã định, lập nghiệp kiến quốc.

Các thôn làng và thị trấn cư ngụ của người Đông Di, bên ngoài chỉ dùng gỗ đá thô sơ xây dựng bức tường thấp phòng chống thú rừng, nay Doanh Thiền Nhi ra sức cải tạo, xây nên một thành trì cao hai trượng trải dài hơn chín dặm.

“Đồng đã đun chảy, chuẩn bị đổ khuôn.”

Có người đứng trên một gò đất cao hét to, công nhân tứ phía lập tức bận rộn làm việc.

Doanh Thiền Nhi và các tộc trưởng bộ lạc Phong, Hành, Thỉ đứng trên tòa lầu nhỏ cao hai tầng làm bằng gỗ, hồi hợp bước tới nắm lấy lan can, dõi mắt nhìn theo, bảo đỉnh lập quốc của Đông Di sắp bắt đầu được đúc đây.

Vào thời đại này, trong lúc lập quốc mà cán cờ bị gãy, lễ đài bị sập, hay đúc đỉnh thất bại đều bị xem là niềm gở, đủ làm cho lòng dân dao động, còn với một nhà nước Đông Di mới thành lập, các thế lực chưa đạt thỏa thuận thống nhất thì cả kế hoạch càng dễ sôi hỏng bỏng không, Thành Bích sao có thể không quan tâm theo sát, nàng cảm thấy cổ họng khô khốc, có vẻ như nàng đang đứng cạnh lò lửa hừng hực đằng kia.

Binh lính xung quanh tất cả đều là thuộc hạ thân tín của nữ vương, chúng là võ sĩ thuộc hai bộ lạc lớn nhất Doanh, Phong, còn các thợ đúc đỉnh, từ thợ chế khuôn, đun vàng, tát nước làm nguội đến mài giũa đều là thợ lành nghề được nữ vương bỏ nhiều tiền ra tìm về, tất nhiên đó là nói cho người ngoài nghe, thực tế thì đám người này đều là thợ đúc ưu tú đáng tin cậy nhất của Nhâm gia do Nhâm Băng Nguyệt phái đến.

Lúc này đang giữa trưa nắng gắt, lò nung bốc lên luồng khói đen ngùn ngụt, xung quanh không một cơn gió, càng làm không khí oi bức lạ thường, cảm giác bất an ức chế lòng người.

Những tên đại hán cởi trần đang ra sức làm việc xung quanh lò lửa, thêm củi, thổi hơi, bên kia một đám người khác hò hét kéo cái khuôn mới đúc xong còn nóng hừng hực ra.

Trên đất là những khúc cây làm bánh lăn, cái khuôn to bè nặng trịch lăn trên những thanh gỗ di chuyển từ từ đến bên lò nung, các lực sĩ cẩn thận canh chỉnh lại cho khớp lỗ thông để đổ đồng vào.

Cái khuôn này được làm bằng đất nung, trên có khắc hoa văn tinh tế, bên trong cũng có họa tiết, khi cho dung dịch đồng bị nung chảy vào đợi khô cứng đập vỡ khuôn là đỉnh được đúc thành công. Quá trình làm ra cái khuôn này từ chọn đất sét, phơi khô, hòa tan, tách tạp chất, pha trộn, nặn khuôn… tất cả mất hơn một tháng, biểu tượng của một quốc gia, tượng trưng cho quyền lực Đông Di, các thợ đúc dù không biết ý nghĩa chính trị thật sự cũng cảm thấy vinh hạnh được tham dự vào công việc đúc đỉnh nên ra sức làm tốt nhất.

Các thợ đúc hét gọi đám đệ tử học nghề tránh ra, đích thân bước đến bên chiếc khuôn giám sát việc đổ đồng vào, dòng dung dịch đồng nóng chảy từ từ được chảy vào khuôn, nước đồng đỏ rực tia lửa tung tóe, khuôn phải đủ chắc chắn, bằng không khi cho dung dịch đồng nóng chảy vào sẽ nứt toạc ra, lúc đó công việc đúc đỉnh coi như thất bại.

Thành Bích hồi hộp theo dõi từ xa, hai tay nắm chặt, nín thở chờ đợi, nàng đang mặc y phục Đông Di nhưng vẫn rất xinh đẹp, nhan sắc kiều diễm của nàng nhìn vào chắc tưởng chỉ lớn hơn Huyền Điểu có hai tuổi, hai mắt chớp chớp e thẹn, các trưởng lão trong bộ lạc đều là những hán tử vạm vỡ, trong thời khắc đúc đỉnh quan trọng này, hình như số lần họ nhìn vào nàng còn hơn cả nhìn vào chiếc đỉnh.

Rất lâu sau, Huyền Điểu vui mừng hét toáng lên, níu lấy cánh tay phụ thân của nàng nhảy nhót liên hồi: “Thành công rồi, thành công rồi!”

Cùng lúc đó, đám thợ cũng hoan hỉ hò reo mừng rỡ, Thành Bích thở phào nhẹ nhõm, khuôn mặt diễm lệ nở một nụ cười say đắm, ngửa mặt lên trời nói: “Trời cao phù hộ cho Đông Di.”

Các vị trưởng lão đứng xung quanh không biết trong lòng thất vọng hay mãn nguyện, nhưng đều lên tiếng hùa theo reo hò.

Tiếp theo đó dung dịch đồng nguội lạnh nhanh chóng, bọn lực sĩ dùng búa đập vỡ lớp đất nung, một đỉnh đồng đồ sộ hiện ra trước mặt mọi người, các thợ đúc lại mau chóng chuẩn bị đồ nghề chạy đến cắt, giũa tạo dáng cho chiếc đỉnh, ai nấy ra sức làm ra chiếc đỉnh đồng trấn quốc Đông Di hoành tráng có một không hai này.

“Các vị trưởng lão, xin mời cùng Doanh Thiền Nhi đến gần xem bảo đỉnh của Đông Di quốc ta.”

Thành Bích nói xong, sải bước điệu đàng bước xuống lầu, các vị trưởng lão lật đật bám theo gót chân nàng, Huyền Điểu đeo dính lấy phụ thân, không đi mà nhảy nhót từng bước, khi bước xuống bậc thang, nàng chê phụ thân đi chậm bèn bỏ tay ra đuổi theo đến bên Doanh Thiền Nhi.

Trong số các trưởng lão bộ lạc này có người không có dã tâm, thật lòng quy thuận dưới trướng Doanh Thiền Nhi, nhưng cũng có một số không phục, ỷ vào thế lực bộ lạc hùng mạnh, không chịu tôn nữ vương liên kết các bộ lạc chống Tề lên làm chủ, nhưng gần đây họ bị Cổ Quân Hải dẫn quân đánh cho tan tác, giết người cướp của, tổn thất nghiêm trọng, đối mặt với hai bộ lạc lớn nhất Doanh thị, Phong thị ủng hộ Doanh Thiền Nhi, nay lại xây dựng xong Dư Khâu thành quy mô vững chắc, Cổ Quân Hải e sợ không dám phái quân đến đánh, thực lực của nữ vương đã vượt xa bọn họ, dù trong lòng không phục nhưng chỉ còn cách ngậm đắng nuốt cay, tạm thời đồng ý liên kết các bộ lạc thành lập nhà nước Đông Di.

Trấn quốc bảo đỉnh còn chưa được đánh bóng, bề ngoài có hơi thô kệch, nhưng khí thế hoành tránh, nhìn vào nổi vẻ uy nghi. Bảo đỉnh khai quốc này cao bảy thước, ba chân trụ vững, thân đỉnh phình ra, đuôi tròn, hoa văn họa tiết là thần thú trừ tà cưỡi trên đám mây.

Đông Di được Ngô quốc hậu thuẫn lập quốc, sách lược khai quốc có ghi rõ ràng con cháu Đông Di sau này phải quy thuận Ngô quốc, làm nước phụ thuộc của Ngô, nên nữ vương hạ lệnh khắc luôn họa tiết quốc kì của Ngô lên bảo đỉnh, các bộ lạc Đông Di phản đối lập quốc nhìn vào đương nhiên cho rằng Doanh Thiền Nhi vì muốn được Ngô quốc ủng hộ nên có ý lấy lòng Ngô quốc.

Thành Bích đi qua đi lại quanh chiếc đỉnh chưa mài giũa đánh bóng, không ngớt khen lấy khen để, cho dù số người Đông Di phản đối lập quốc, lúc này nhìn vào chiếc đỉnh hoành tráng này, trong lòng cũng nảy sinh kính phục.

Đứng trước bảo đỉnh, xem xét tỉ mỉ hồi lâu, Thành Bích mỉm cười nói: “Bảo đỉnh đúc thành, hợp với ý trời, chúng ta sẽ theo như thời gian đã định tiến hàng đại điển lập quốc. Đan Ô!”

“Có tiểu nhân!”

Võ sĩ Đông Di oai phong lẫm liệt, lưng đeo vò tên vội bước lên trước, hai mắt vừa chạm phải tia nhìn quyến rũ của Thành Bích, khuôn mặt anh tuấn của hắn đỏ ửng lên, hắn quỳ một chân xuống đất, phủ phục cung kính lên tiếng: “Đan Ô… xin nghe theo lời dạy của nữ vương bệ hạ!”

Nhan sắc của Thành Bích đã đạt đến cảnh giới mê hoặc điều khiển lớn hơn cả dùng vũ lực, các bộ lạc Đông Di đã có biết bao tráng sĩ thầm ngưỡng mộ vị nữ vương xinh đẹp này, tuy gần đây trong bộ lạc có nổi lên lời đồn nữ vương không còn nguyên vẹn, nàng đã từng hiến thân cho nam nhân, hơn nữa còn sinh hạ một đứa con, nhưng điều đó không ảnh hưởng cơn mê nàng gây ra cho các thanh niên võ sĩ bị nhan sắc của nàng điều khiển.

Chỉ dựa vào nhan sắc tuyệt trần của mình, Doanh Thiền Nhi đã đủ sức ra lệnh cho nhiều dũng sĩ chết vì nàng, hơn nữa các bộ lạc Đông Di còn giữ nếp sống từ thời thượng cổ, nam nhân không mấy quan tâm trước kia thê tử của mình từng ăn nằm với ai, hoàn toàn khác xa với lễ giáo cực đoan coi trọng trinh tiết của các nước chư hầu trung nguyên.

Chỉ là xưa nay vị nữ vương Doanh Thiền Nhi này luôn kiêu kỳ, lại thân phận cao quý, nên ai cũng không dám ngỏ lòng với nàng, ngay cả thần tiễn thủ có tiếng trong bộ lạc Đông Di như Đan Ô này, tuy yêu say đắm nữ vương, nhưng một chút lòng can đảm thổ lộ cũng không có, Đan Ô chỉ xem Doanh Thiền Nhi như thần tiên trên trời, vừa kính vừa sợ, hễ bước gần nàng là trái tim đập thình thịch muốn rớt ra ngoài.

Thành Bích lúc này đang mặc chiếc váy ngắn của Đông Di, để lộ cặp chân thon dài, Đan Ô quỳ xuống phủ phục nhìn lên, dường như nhìn thấy chút ánh sáng le loi nơi thâm sơn cùng cốc, e thẹn không dám nhìn lâu vội cúi đầu xuống, chiếc giày cỏ mềm mại của Thành Bích lộ ra mười ngón chân trắng lung linh như thủy tinh, bàn chân nhỏ nhắn đập vào mắt Đan Ô, hắn cảm thấy chỉ cần ban cho ân huệ được hôn lên đôi chân đó thôi, cũng là niềm hạnh phúc lớn lao tu mấy kiếp mới có.

Thành Bích khi còn ở Khúc Phụ nước Lỗ, đã có không biết bao nhiêu công khanh đại phu nhìn quen mỹ nhân điên đảo vì nàng, chàng trai này đang nghĩ gì sao nàng không biết chứ? Thành Bích cười nhẹ nhàng, làm bộ không để ý tới hành động ngu ngơ vừa rồi của Đan Ô, nói: “Lần trước ngươi đi sứ sang Ngô rất tốt, ta cảm thấy rất vui, lần này phiền ngươi đi thêm một chuyến…”

Huyền Điểu nghe vậy lập tức nhảy xen vào: “Nữ vương thiên vị, sao chỉ khen hắn không khen muội, muội mới là chánh sứ mà, nữ vương lại muốn phái hắn đi Ngô quốc à? Vậy muội cũng phải đi.”

Thành Bích mỉm cười: “Lần này không phải đi Ngô, mà là đi Tần, muội cũng muốn đi sao?”

Huyền Điểu le lưỡi cười trừ: “Xa vậy à, thôi muội không đi đâu, nếu đi Tần thì bỏ qua ngày lễ đăng cơ của nữ vương mất.” 

Thành Bích đưa tay vào ngực lôi ra một bức thư được niêm phong giao cho Đan Ô, Đan Ô đón lấy bằng hai tay, một mùi thơm phảng phất xộc vào mũi ngất ngây, giọng nói của Thành Bích cắt đứt mạch suy nghĩ lung tung của hắn: “Ngươi lập tức khởi hành đi đến Tần quốc, dâng lá thư này lên cho Tần vương.”

“Tuân lệnh!” Đan Ô dập đầu cái mạnh cho trấn tỉnh: “Tiểu nhân nhất định hoàn thành sứ mệnh của nữ vương bệ hạ giao phó.”

Thành Bích toan bước đi khỏi, chỉ thấy phía trước một đội quân áo giáp chỉnh tề đi đến, người dẫn đầu bước đi oai vệ, thân hình rắn chắc như con sư tử, chỉ là một tay áo phất phơ trong gió, đó là tướng quân độc thủ Lương Hổ Tử.

Thành Bích dừng bước, Lương Hổ Tử bước đến trước mặt, hí hửng nói: “Bổn tướng nghe nói nữ vương bệ hạ đúc đỉnh thành công, xem ra việc Đông Di lập quốc hợp với ý trời, đó là niềm lành, Lương Hổ Tử vội đến chúc mừng.”

“Cám ơn Lương tường quân đã nói tốt.” Thành Bích tươi cười hớn hở, tiếp lời: “Đúc đỉnh thành công, các bộ lạc Đông Di ta ai nấy đều vui mừng, Thiền Nhi đang định sai người đi mời Lương tướng quân, cùng các trưởng lão Đông Di ta uống mừng cho thỏa thích. Tướng quân đến hay lắm, ta cùng nhập tiệc nào.”

“Ha ha, cung kính không bằng tuân mệnh, mời nữ vương.”

“Mời Lương tướng quân!”

Hai người khiêm nhường một câu, Thành Bích bước đi lên trước. Trong đám đông, có mấy vị tộc trưởng không phục nhìn thấy hết ánh mắt lời nói của hai người, họ lén nháy mắt ra hiệu với nhau.

Đêm xuống. Trong nơi ở của tộc trưởng bộ lạc Thành thị Thành Trí Ngọ, Dương thị, Giới thị, Tiết thị, Quách thị lục đục kéo đến họp mặt.

“Ha ha ha, nào nào, Dương huynh, Giới huynh, hai người đến muộn đó nha, mau vào đây, chúng ta trước giờ cứ ở trong bộ lạc của mình khó có dịp tề tụ, hôm nay đến xem bảo đỉnh nên tương ngộ, ha ha, đêm nay phải uống cho đã, mau vào đây nào…”

Thành Trí Ngọ vội bước ra cửa đón tiếp, ôm nhau thân thiết với Dương thị, Giới thị, vai kề vai đi vào trong phòng, vừa bước vào trong, Thành Trí Ngọ lập tức dẹp mất nụ cười trên khuôn mặt, nháy mắt ra hiệu với hai người kia, dẫn đường bước vào bên trong.

Dương thị và Giới thị đưa mắt nhìn nhau một cái, hơi chút do dự nối gót theo sau, Giới thị lo lắng nhíu chặt mày, chốc chốc lại lắc đầu thở dài.

Vào đến bên trong là một gian phòng hẹp, đã có hai người ngồi sẵn ở đó, trên bàn bày la liệt rượu thịt, hai người kia mang nặng tâm sự, đôi đũa nằm chõng trơ, hiển nhiên là họ chưa từng đụng đến.

Thấy ba người bước vào, hai người kia đứng dậy hành lễ, Dương thị và Giới thị vội đáp lại, tằng hắng nói: “Tiết huynh, Quách huynh, mời ngồi mời ngồi, huynh đệ đến hơi trễ một chút.”

Năm người ngồi theo thứ tự lớn nhỏ, Thành Trí Ngọ quét mắt khắp một lượt, chống gối mở lời: “Chư vị, hôm nay mời các huynh đệ tới đây, tin chắc mọi người đã biết ý của ta, ta muốn cùng mọi người bàn bạc tiền đồ của các bộ lạc chúng ta, không biết các huynh đệ có ý kiến gì không?”

Thành Trí Ngọ hơn năm mươi tuổi, thân hình rắn chắc, khuôn mặt vuông vức, da ngăm đen, là tộc trưởng của bộ lạc lớn thứ ba Đông Di, dưới trướng có mấy vạn người, nhất cử nhất động của hắn đều ra vẻ uy nghi của thủ lĩnh.

Giới thị nhìn xung quanh, thần sắc ủ rũ nói: “Còn ý kiến gì nữa? Doanh Thiền Nhi giờ có binh mã hùng mạnh, lại sắp lập quốc, còn chúng ta thì bị bọn cường tặc Cổ Quân Hải đánh cho trọng thương nguyên khí, đâu còn sức mà chống chọi với nàng ta.”

“Hứ!” Thành Trí Ngọ cười nhạt: “Sao Giới huynh lại cam lòng cho một nữ nhân cưỡi lên đầu lên cổ thế? Đường đường nam nhi, phải đè lên đám nữ nhân không cho chúng xoay người lại mới phải chứ.”

Giới thị xua tay phân bua: “Vốn dĩ chúng ta còn thực lực chống đối, nhưng bây giờ thì… còn gì phải bàn nữa?”

Thành Trí Ngọ cười ha hả, hỏi ngược lại: “Bây giờ thì đã sao? Các vị, chúng ta đều là tộc trưởng các cứ một phương, tiêu diêu tự tại, một khi thành lập Đông Di quốc, Doanh Thiền Nhi xưng vương rồi thì chúng ta sẽ ra sao? Chúng ta chỉ được phong chức công hầu đại thần gì đó, vậy là phải cúi đầu xưng thần với người khác à? Đạo lí thà làm vua nước nhỏ không làm tôi nước lớn, các vị không cần ta nói nhiều chứ?

Hơn nữa mấy trăm năm sau thì sẽ thế nào? Hoàng thất nối ngôi theo máu mủ ruột thịt, Doanh thị đời đời có người xưng vương, còn con cháu chúng ta chưa chắc đời đời được làm đại thần. Còn như chúng ta hiện nay, con cháu mãi mãi là tộc trưởng của bộ lạc. Không nói đâu xa, Lỗ quốc ngay kế bên nè, tên Khổng Khâu Khổng Trọng Ni đó, là cháu mười đời của Tống Tương Công, tổ tiên là quân vương một nước, còn là bá chủ thiên hạ nữa, đến đời hắn thì sao? Vừa mới làm được mấy ngày đại tư khấu đã bị điều đi đào sông vét rãnh, năm họ tộc chúng ta đời đời kiếp kiếp là bộ lạc lớn của Đông Di, một khi sát nhập lại lập quốc, mười đời sau e là con cháu của chúng ta cũng suy tàn giống Khổng Khâu rồi.”

Tộc trưởng Quách thị nhăn mày: “Chúng ta đều đã gật đầu đồng ý lập quốc Đông Di rồi, nay chẳng lẽ lại tráo trở? Hôm nay huynh cũng thấy đó, bảo đỉnh được đúc thành công, ý trời đã vậy, chúng ta còn biết làm gì hơn?”

“Ha ha!” Thành Trí Ngọ cười rú lên, vênh mặt: “Bảo đỉnh được đúc thành công, chưa chắc là Doanh Thiền Nhi có thể lên ngôi nữ vương, các huynh nên nhớ sáu mươi mấy bộ lạc lớn nhỏ Đông Di còn lại, số không chấp nhận chuyện lập quốc vẫn còn rất nhiều, chỉ là bộ lạc của họ nhỏ bé, không dám lên tiếng phản đối mà thôi, chỉ cần có người đứng ra triệu tập, những ai hưởng ứng tin chắc không hề ít.”

Tộc trưởng Tiết thị lên tiếng: “Thành huynh, với thực lực hiện nay của chúng ta, cho dù có người hưởng ứng e cũng không đủ sức đấu với Doanh Thiền Nhi rồi.”

Thành Trí Ngọ cười to: “Vậy thì chưa chắc, nội bộ Đông Di ta vẫn còn gần một nửa bộ lạc phản đối lập quốc, còn bên ngoài thì sao? Doanh Thiền Nhi này khi xưa chúng ta đã quá xem thường ả, cứ tưởng đưa một con bù nhìn lên liên kết các bộ lạc chống Tề, ai ngờ lại nuôi ong tay áo, nhưng con nữ nhân này dù thủ đoạn cao siêu nhưng vẫn còn non nớt, nay ả muốn lập quốc đi lấy lòng Ngô quốc làm hậu thuẫn, dùng điều khoản quy thuận Ngô quốc để đổi lấy sự giúp đỡ từ Ngô.

Nhưng ả mới lập quốc được thuận lợi đôi chút lại có ý nhảy qua bợ đỡ Tần quốc, ả sai sứ đi Tần có bàn qua với chúng ta, vì ả cũng mang họ Doanh, nên sai sứ đi Tần nhận họ hàng thân thích với Tần vương, muốn kết làm huynh muội, mục đích đương nhiên là muốn sau khi trở thành nữ vương sẽ từ từ thoát khỏi sự khống chế của người Ngô, làm chủ nhân thực sự của Đông Di rồi.

Tin rằng Tần vương sẽ dễ dàng chấp nhận đứa em gái tự tìm đến này, nhưng Tần nằm xa tuốt bên phía Tây, tuy Tần có liên minh với Ngô, Ngô không dám làm khó Doanh Thiền Nhi, nhưng cũng tuyệt đối không để mất miếng thịt béo bở Đông Di đâu, Doanh Thiền Nhi chưa ngồi vững trên ngôi báu mà đã muốn loại bỏ Ngô quốc, đúng là vì cái nhỏ mất cái lớn đây. Nhưng… ta vẫn có phần khâm phục ả nữ nhân này, một nữ nhân mà có dã tâm như thế, khó trách nam nhân chúng ta không sánh bằng ả được.

Ả nữ nhân này vì cái lợi trước mắt làm lu mờ đầu óc, đưa ra quyết định không sáng suốt này, chắc chắn sẽ khiến Ngô quốc phật lòng, hôm nay các huynh đều nhìn thấy rồi đấy, tên Ngô tướng Lương Hổ Tử biết chuyện ả phái sứ giả đi Tần, vẻ mặt khó coi đến mức nào, có thể hiểu là địa vị nữ vương của ả trong mắt người Ngô là thế nào rồi, người Ngô có để yên cho ả thoát khỏi sự khống chế của họ không? Một khi Ngô quốc biết ả đi bợ đỡ Tần quốc, sao không đoán ra ý đồ thật của ả chứ? Đến lúc đó liên minh giữa ả và Ngô quốc sẽ xuất hiện vết nứt.”

Giới thị lắc đầu nói: “Thành huynh, đó là chuyện sau này, còn trước mắt Lương Hổ Tử vẫn dốc toàn lực ủng hộ ả ta, nhằm giúp Đông Di mau chóng lập quốc phụ thuộc Ngô, chúng ta vẫn không có cơ hội để hành động.”

“Ai nói… không có cơ hội?”

Tộc trưởng Tiết thị vội hỏi: “Thành huynh, huynh nói có cơ hội, rốt cuộc là có ý gì?”

Thành Trí Ngọ cười hi hí nham hiểm, đanh mặt lại, nghiêm nghị nói: “Các vị, cơ hội mà ta nói đến, bao gồm nhiều mặt, nội bộ thì…, tất nhiên đến từ các bộ lạc Đông Di chúng ta, số bộ lạc không bằng lòng lập quốc còn hơn một nửa, một khi có cơ hội là họ sẽ tập hợp lại phản đối. Còn bên ngoài thì…, nguyên nhân đến từ bên ngoài này đủ để chống lại uy hiếp từ liên quân của Doanh Thiền Nhi và Lương Hổ Tử.”

Tộc trưởng Giới thị hồi hợp nhổm người lên phía trước, hỏi dồn: “Thành huynh, rốt cuộc là gì mới được?” Những người khác đều nín thở chờ câu trả lời, chăm chú nhìn cả vào mặt Thành Trí Ngọ.

Thành Trí Ngọ ra vẻ thần bí không nói trắng ra, chỉ mỉm cười bí hiểm, nói tiếp: “Trước tiên, Ngô quốc chiếm mất Bành thành của Tống quốc, vì thế kết oán với Tống, không lâu nữa hai nước sẽ xảy ra chiến loạn. Một khi chiến sự nổ ra, quân đội của Ngô sẽ được điều đi đối phó với Tống, sao còn rảnh mà lo chuyện ở Đông Di?”

Giới thị thắc mắc: “Nhưng Tống quốc hiện nay đang phối hợp với Vệ quốc chống trả Tấn quốc, có thể điều bao nhiêu quân chiến đấu với Ngô đây? Cho dù Lương Hổ Tử rút bớt quân đi đánh Tống, tin rằng chiến sự cũng không kéo dài lâu, hắn kéo quân quay lại, chúng ta biết chạy đi đâu?”

“Ha ha, e là hắn đi rồi không thể quay lại.”

“Sao lại nói thế?”

Thành Trí Ngọ cười nham hiểm, nâng ly rượu lên uống một ngụm, nhắm mắt lại hít hà thưởng thức, sau đó mở to mắt ra buông lời khen ngợi: “Rượu này thơm ngon hảo hạng, đúng là danh bất hư truyền, các vị, sao còn không nâng ly thưởng thức rượu ngon đi, đây là… Bạch mâu tửu chuyên dùng của hoàng thất Việt quốc đấy!”  Tiết thị cười chua chát: “Thành huynh, đã đến nước này rồi còn có tâm trạng nào mà uống rượu…”

Giới thị ánh mắt sáng lên, nói: “Bạch mâu tửu chuyên dùng cho hoàng thất Việt quốc? Huynh… sao huynh lại có được rượu này, chẳng lẽ…”

Câu này thốt ra, ai nấy biến sắc, họ đều là tộc trưởng các bộ lạc, đương nhiên thông minh hơn những thổ dân bình thường khác, tất cả cùng quay sang nhìn vào Thành Trí Ngọ.

Thành Trí Ngọ mỉm cười không trả lời, lái sang chuyện khác: “Các vị, ta có một tin tốt lành liên quan đến Cổ Quân Hải ở Chung Ly cốc, các vị muốn nghe không?”

Nhắc đến Cổ Quân Hải, mấy người nghiến răng giận dữ, chỉ vì tên Cổ Quân Hải dẫn quân cướp bóc, bộ lạc của họ mới bị suy tổn thực lực, họ hận muốn nhai xương lóc gân hắn, ai nấy mắt đỏ ngầu điên tiết lên.

Dương thị hậm hực nói: “Cổ Quân Hải? Tên ác tặc đó còn có tin tốt lành gì chứ? Nếu là tin tốt, trừ khi tên Cổ Quân Hải đã bị trời tru đất diệt.”

Thành Trí Ngọ cười hô hố: “Cũng gần như vậy, Cổ Quân Hải tuy chưa chết, nhưng… cũng không còn bao lâu đâu.”

Lại là một tin chấn động, mấy người kia nhao nhao hỏi dồn: “Thành huynh, huynh biết được tin gì vậy, mau nói ra cho mọi người nghe đi.”

Thành Trí Ngọ cười khoái trá: “Tên Cổ Quân Hải lập doanh trại ở Chung Ly cốc, hành động độc đoán, làm càn hơn cả đại đạo Triển Chích trước kia. Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài leo lên ngồi trên đầu chúng, bắt chúng bán mạng cho hắn, hai người này đã có lòng phản nghịch, đang bàn tính việc ám sát Cổ Quân Hải.”

Dương thị hồi hợp nói: “Sao lại thế? Chuyện cơ mật thế này mà tiết lộ ra ngoài là bị họa sát thân, sao bọn chúng lại sơ ý để lộ cho huynh biết?”

Thành Trí Ngọ hí hửng: “Không phải là ta đi dò la biết được, mà là chúng chủ động tìm đến ta.”

“Chủ động tiết lộ với huynh à?” Mọi người há hốc miệng kinh ngạc.

“Đúng vậy!” Thành Trí Ngọ ung dung nói tiếp: “Thế lực của Cổ Quân Hải mạnh hơn Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài, nếu giết chết Cổ Quân Hải, thực lực hai người suy giảm, họ vốn là gia nô của Tam hoàn, một khi yếu thế khó có chỗ dung thân trong thiên hạ rộng lớn, duy chỉ có nhờ bộ lạc Đông Di ta chưa chấp, họ mới có mảnh đất dung thân.

Cổ Quân Hải từng bắt đi không ít người của chúng ta, thông qua những người này Công Sơn Bất Nữu biết chúng ta phản đối việc lập quốc, nên nhớ Đông Di lập quốc xong là phụ thuộc Ngô quốc, mà Ngô vương Khánh Kỵ thân thiết với Lỗ, hai vị hoàng phi lại là con gái trong tông thất Tam hoàn, với quan hệ mật thiết này, nữ vương Doanh Thiền Nhi lập quốc thành công, họ sẽ mất luôn chốn dung thân, thế là họ tìm đến ta…”

Hắn ngừng lại giây lát, trịnh trọng tiếp lời: “Chỉ cần chúng ta cắt một mảnh đất cho họ các cứ, họ sẽ hai tay dâng thủ cấp của đại đạo Cổ Quân Hải lên, đồng thời giúp chúng ta phá hoại việc lập quốc, các huynh thấy thế nào?”

Mấy tộc trưởng đều hận thấu xương Cổ Quân Hải, nói đúng ra thì Công Sơn Bất Nữu cũng là hung thủ giúp sức cho chủ mưu, nhưng oan có đầu nợ có chủ, dù sao Cổ Quân Hải là kẻ chỉ huy, nên tất cả mũi dùi đều chĩa hết vào hắn. Hơn nữa đám cường tặc này thế lực hùng mạnh, quân Lỗ thảo phạt mạnh thế mà chúng còn chạy thoát được sang Đông Di, nếu có thể nhờ cậy Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài diệt trừ mối họa này, cắt một mảnh đất không thành vấn đề, dù sao lãnh thổ Đông Di rộng lớn, có nhiều đất hoang còn chưa khai phá, nhưng mà…

Ai nấy trầm ngâm suy tư, cuối cùng tộc trưởng Quách thị nói ra mối lo chung của mọi người: “Thành huynh, chấp nhận điều kiện của Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài không có gì to tát, chỉ cần giết được Cổ Quân Hải là đáng giá rồi. Nhưng cho dù thêm vào binh mã của họ giúp sức, chúng ta cũng chỉ ngang bằng với hai bộ lạc lớn Doanh, Phong, không chống lại quân Ngô được đâu.”

Thành Trí Ngọ cười hi hí: “Thế thì phải nói đến viện binh khác rồi, nhưng sự việc trọng đại, các vị tại đây phải cắt máu ăn thề, ta mới nói ra cho mọi người biết.”

Các tộc trưởng răm rắp làm theo, thời đó ai nấy đều mê tín tin có quỷ thần báo ứng nên thề thốt ít ai dám đem ra làm chuyện đùa. Thành Trí Ngọ thế mới yên tâm, hạ giọng nói nhỏ: “Ta nói cho mọi người biết, Tống quốc đương nhiên không duy trì chiến sự được lâu, nhưng hai nước Sở, Việt đang nuôi ý định thảo phạt Ngô quốc, diệt trừ mối họa lớn này.

Nếu Ngô đưa quân phạt Tống, hậu phương chắc chắn bỏ trống, liên quân Sở Việt thừa cơ xua quân đánh Cô Tô thành, thử nghĩ xem, liên quân Sở Việt mạnh cỡ nào, dù không diệt được Ngô thì Ngô vương Khánh Kỵ cũng buộc phải rút hết quân về cố thủ, làm gì còn sức mà lo chuyện ở Đông Di, hí hí, bây giờ các vị có lại niềm tin đứng dậy chống lại ả nữ nhân kia chưa?”

Trên mặt đất thảo nguyên mênh mông của Đông Di, mấy võ sĩ vạm vỡ phi ngựa như bay phóng đi, không ai biết họ đến từ đâu, đang chạy đi đâu.

Mấy ngày sau, trên dòng sông Trường Giang cuồn cuộn, một chiếc thuyền con lướt nhanh vào lãnh thổ Ngô quốc, một võ sĩ trung niên đứng trên mũi thuyền, chính là một trong số võ sĩ đêm đó. Tên võ sĩ chạy đến Hàn Ấp, hắn nhanh chóng được đón vào doanh trại của Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nhận được tin tình báo mới nhất từ Đông Di, cười ha hả khoái trá: “Mọi thứ đều diễn tiến tốt đẹp! Thái đại phu, ông mau lên đường đến Bành thành, truyền ý chỉ của quả nhân cho Xích Trung tướng quân, diễn một màn kịch hay với Tống quốc.”

“Thần tuân chỉ!” Thái Nghĩa đã chuẩn bị sẵn sàng, tinh thần phấn chấn, lập tức chấp tay nhận lệnh.

“Ngọ Đông Chí, ngươi lập tức đến Chung Ly cốc, bảo họ y kế hành sự.”

“Tuân lệnh!”

Ngọ Đông Chí xoay lưng lui ra, hắn vốn là thủ hạ của Triển Chích, nay được Khánh Kỵ chiêu nạp, thân phận công khai của hắn là một thương buôn, có quan hệ buôn bán tang vật giùm đám cường đạo ở Chung Ly cốc nên có thể tự do ra vào sào huyệt của chúng.

Khánh Kỵ lấy từ trong tay áo ra một đạo hổ phù, gọi một tên tín sứ gầy gò lại gần dặn dò: “Ngươi lẻn vào Dư Khâu, đợi sau khi Doanh Thiền Nhi xưng vương ba ngày, giao hổ phù này cho Lương Hổ Tử tướng quân, hắn tự biết phải hành động thế nào.”

Tên tín sứ đưa hai tay đón lấy hổ phù, cung kính vái lạy, lặng lẽ lui ra.

“Úc đại phu…”

“Có thần!”

Khánh Kỵ mỉm cười nói: “Quả nhân gọi ông từ Cô Tô qua đây, có một việc quan trọng giao cho ông.”

Úc Bình Nhiên cảm thấy vinh hạnh nói: “Đại vương xin cứ ra lệnh.”

“Quả nhân muốn ông đi sứ sang Lỗ, xin Lỗ quốc giúp cho một chuyện.”

Khánh Kỵ nói tiếp: “Lỗ quân Cơ Tống có hiềm khích với quả nhân, người này chắc gây trở ngại công việc của ta, nhưng từ khi Khổng Khâu mất thế, thế lực Cơ Tống yếu đi không còn chống lại được Tam hoàn nữa, ông hãy bắt tay từ Tam hoàn, bắt buộc phải hoàn thành việc lớn này.”

“Dạ, không biết đại vương cần thần làm việc gì?”

Khánh Kỵ toát lên vẻ tự tin: “Mượn thuyền!”

Sau khi Úc Bình Nhiên rời khỏi, Anh Đào không chịu được tò mò hỏi: “Đại vương, doanh trại thủy quân tại Nam Vũ thành của ta có chiến hạm nhiều vô số, chiến thuyền của Ngô quốc nay được xem là thiên hạ đệ nhất, sao còn đi mượn thuyền của Lỗ quốc?”

Anh Đào dẫn quân phục kích Yển Tương Sư tại Trần quốc giành thắng lợi, trên đường về được Khánh Kỵ phái người gọi đến Hàn Ấp. Khánh Kỵ trầm ngâm giải thích: “Câu Tiễn hành sự thận trọng, quả nhân không tin hắn không rải nhiều tai mắt ở Ngô quốc ta, khi xưa quả nhân và Cơ Quang đại chiến, hắn có thể thừa cơ đánh cướp, còn tránh được vô số tai mắt của ta. Hừ! quả nhân tin chắc hắn đã sớm cài người vào theo dõi động tĩnh quân ta, vì thế chiến dịch này ta không được dùng chiến thuyền ở Nam Vũ thành, bằng không e đánh rắn động cỏ mất.”

Anh Đào hiểu ra, khâm phục nói: “Đại vương anh minh, nếu đại vương không nói ra, thần… chắc nghĩ không ra.”

Khánh Kỵ cười ha hả: “Cái này ấy hả, quả nhân không dám tranh công, người nhắc nhở quả nhân chính là một công tử xuất thân danh giá ở Việt quốc đến nương nhờ quả nhân.”

Khánh Kỵ thở phì phì, mỉm cười: “Thời tiết oi bức, lại không có chiến sự, thôi không mặc giáp nữa, quả nhân thay thường phục vào đến bên sông thả câu đây.”

Hắn vươn vai than thở: “Từ Phí thành Lỗ quốc quay về Vệ quốc cho đến nay, quả nhân chưa có dịp nào nghỉ ngơi thỏa thích, mong rằng sau này sẽ không bận bịu như thế này nữa thì tốt quá.”

Anh Đào cười trừ: “Đại vương là vua của một nước, gánh vác trọng trách quốc gia, muốn qua những ngày tháng tiêu diêu tự tại đương nhiên không dễ.”

Trên sông Trường Giang, dòng nước cuồn cuộn chảy mạnh, bọt nước trắng xóa xô bờ. Dưới một gốc cây ven sông, có hai bóng người đang ngồi trên phiến đá, hai chân đưa xuống dòng nước, tay cầm một cần câu tre dài.

Trên sông thỉnh thoảng có thuyền đánh cá đi ngang, các ngư dân đội mũ rơm nhìn thấy hai nam nhân đang ngồi câu cá bên bờ, nhưng không ai biết trong hai người mặc thường phục kia, một người là đại tướng quân nắm giữ binh quyền Ngô quốc, còn người kia chính là đệ nhất anh hùng trong thiên hạ, Ngô vương Khánh Kỵ.

“Nắng gắt thế này, ngồi ngay bóng râm dưới gốc cây to còn cảm thấy nóng nực.”

“Hô hô, đương nhiên rồi, độc nguyệt ác nhật…, ngày mai là vào Đoan Ngọ rồi.”

Khánh Kỵ đứng bật dậy, dõi mắt ra xa, nhìn vào dòng sông cuồn cuộn trôi trước mặt, Anh Đào cũng bật dậy đứng sau lưng Khánh Kỵ.

Gió thổi vù vù tung bay tóc Khánh Kỵ, hắn trầm tư hồi lâu, đột nhiên cười to tiếng, nói: “Anh Đào, còn nhớ lần đầu gặp mặt, quả nhân đã nói gì với ngươi không?”

Anh Đào ngớ người ra trong tích tắc, liền sau đó dõng dạc trả lời: “Cùng đại vương quan sát thiên hạ đại thế!”

Khánh Kỵ hùng hồn lặp lại: “Đúng vậy, cùng quả nhân quan sát thiên hạ đại thế.”

Khánh Kỵ nheo mắt vào dãy núi xanh trùng trùng điệp điệp đằng xa xa, tràn đầy tự tin phán: “Có kẻ manh động, có người chờ thời, có sụp đổ, có nổi dậy, có hưng thịnh ắt có suy vong. Cứ chờ xem, thiên hạ này sắp bước vào giai đoạn rối ren rồi đây… Ha ha ha!” 

“Được rồi, chỉ mong thuyền đến đầu cầu tự nhiên trót lọt.” Việc đã đến nước này, Hoàng Nhan Phi Ưng cũng chỉ có thể an ủi chính mình như vậy. 

Tên đã bắn đi thì không quay đầu lại, chiến lược của hải quân Lam Vũ tại biển Gia Lặc Tân đã triển khai đến giai đoạn gấp rút rồi, cho dù phải trả một cái giá khá đắt, thì cũng phải làm. Hải tặc Ca Âu chẳng những tăng mạnh lực lượng ở biển Gia Lặc Tân, hơn nữa bắt đầu dự trù bộ đội lục quân chuẩn bị tiến quân vào Y Lệ Nạp, điều này đối với quân Lam Vũ mà nói, tuyệt đối là không thể tiếp nhận.

Trong sự lo lắng của Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàng Nhan Phi Ưng, hạm đội khổng lồ tiếp tục chậm rãi tiến vào hướng bắc, hai giờ sau, hạm đội đã tới ven bờ Đảo Kim Quy, bọn họ mừng rỡ phát hiện, sóng biển nơi này quả thực thấp hơn so với bên ngoài một ít, nhưng vẫn cao tầm một thước hai, vẫn không thích hợp cho đội hải quân lục chiến đội đổ bộ. Nhưng căn cứ dự báo khí tượng, sóng biển còn có thể tiếp tục lặng xuống, chỉ cần hai ba giờ tới, là có thể giảm xuống đến phạm vị mà đội hải quân lục chiến có thể tiếp nhận.

Đặc Lan Khắc Tư thở phào một hơi, quyết định sau khi chiến dịch chấm dứt, sẽ tặng cho ngành khí tượng một tấm huân chương hạng nhất, thưởng cho cống hiến xuất sắc của bọn họ. Hắn cùng Hoàng Nhan Phi Ưng bàn bạc sơ qua xong xuôi. Hoàng Nhan Phi Ưng trở về tới chiến hạm vận chuyển của mình, tự mình chỉ huy công việc đưa đội hải quân lục chiến đội lên thuyền. Đặc Y Khắc Tư giơ cao ống dòm, bình tĩnh đánh giá Đảo Kim Quy đang ở không xa phía trước. Từ bên trong ống dòm, Đảo Kim Quy chính là một hòn đảo nhỏ trụi lủi, không có bất cứ thực vật gì, hình thù của nó giống như là một con rùa đang cúi đầu, đầu rùa hướng về phương nam. Mà lưng và đuôi rùa đều ở phương bắc.

Khí hậu và hoàn cảnh trên Đảo Kim Quy đều phi thường khắc nghiệt, trên thực tế, tại biển Gia Lặc Tân, ngoại trừ quần đảo Đại Mã Cốc ra, sẽ không có bất kỳ hòn đảo nhỏ nào có khí hậu và hoàn cảnh thích hợp cho con người sinh tồn, những đảo nhỏ này luôn luôn làm người khác phải e dè ngưng bước, cho dù thương thuyền qua lại cũng không nguyện ý ghé vào nơi đó. Đảo Kim Quy nghe nói lúc có mặt trời. Ban ngày nhiệt độ cao nhất có thể vượt qua năm mươi độ C, ban đêm lúc không có mặt trời, khí hậu lại có thể tụt xuống chỉ có mười độ, mỗi ngày đều có gió biển thổi kịch liệt, hơn nữa gió biển có chứa lực ăn mòn mãnh liệt, một thanh cương đao đặt ở bên ngoài, trong vòng thời gian nửa tháng có thể bị rỉ sét ăn mòn tơi tả.

Song, vị trí quyết định của Đảo Kim Quy đương nhiên là chỗ mà những nhà quân sự nhất định phải tranh giành, nó vững vàng ngăn chặn cửa ra của biển Linh Đình, bất cứ thế lực lớn nào đến từ phương nam. Muốn tiến vào biển Gia Lặc Tân, đều phải tóm được Đảo Kim Quy, làm nơi tiếp tế tiếp viện cho hạm đội hải quân đồng thời là điểm xuất phát. hạm đội Hải quân Lam Vũ cũng như vậy, hải quân Lam Vũ muốn hoàn toàn khống chế biển Gia Lặc Tân, thì phải chiếm được toàn bộ Đảo Kim Quy cùng đảo Hỏa Điểu, mà Đảo Kim Quy, lại là điểm quan trong nhất trong số những điểm quan trọng. 

Đặc Lan Khắc Tư nhìn đồng hồ tay một chút, phát ra tín hiệu chuẩn bị tiến công.

Ầm ầm đùng.....

Hạm đội Trát Lan Đinh bắt đầu đợt pháo kích đầu tiên. Ba mươi chiến hạm Long Nha thong thả từ bên trong hạm đội vận chuyển thoát ra ngoài, bao vây vòng quanh Đảo Kim Quy mà sắp thành đội hình hình quạt, pháo hỏa mãnh liệt từ từ bao trùm bề mặt Đảo Kim Quy. Mục tiêu phi thường rõ ràng, pháo thủ của hải quân Lam Vũ có nhắm mắt lại cũng có thể bắn trúng mục tiêu, những mảnh đá sắc lẹm bị hỏa pháo bùng nổ bay tứ tung tạo thành một màn tro bụi màu trắng thật lớn, rất nhanh đã nhấn chìm toàn bộ phía nam của Đảo Kim Quy vào một màn khói bụi mù mịt, thoạt nhìn cứ như cả hòn đảo nhỏ đang bốc cháy lên, khói bụi nghi ngút.

Đại bộ phận chiến hạm Long Nha của hạm đội Đặc Lan Khắc Tư cũng tham dự vào trận pháo kích. Bao gồm kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, lúc đạn pháo phóng ra, chiến hạm Long Nha đều phải sinh ra một cơn chấn động kịch liệt, trong thứ dư chấn có quy luật này, Đặc Lan Khắc Tư ngược lại còn cảm giác được lòng mình rất nhanh đã yên tâm trở lại. Trải qua quan sát tỉ mỉ. Hắn phát hiện sóng biển phụ cận quả thực đang từ từ hạ thấp, theo từng phút trôi qua.

Hẳn là có thể giảm thấp đến mức độ đội hải quân lục chiến đổ bộ có thể tiếp nhận.

“Hiệu quả thế nào?” Vừa nhìn thấy viên quan chỉ huy pháo binh đi qua trước mặt mình, Đặc Lan Khắc Tư trầm thấp hỏi.

Từ khi viên quan chỉ huy xuất sắc nhất dưới tay hắn là Tái Nhĩ Đái bị Phất Lai Triệt dùng tâm kế tỉ mỉ xếp đặt âm mưu dụ dỗ sang bên phe hắn mất, Đặc Lan Khắc Tư không thể không một lần nữa tỉ mỉ bồi dưỡng một viên quan chỉ huy pháo binh mới, nhưng viên quan chỉ huy pháo binh mới này, không biết tại sao, luôn làm cho Đặc Lan Khắc Tư cảm giác được trình độ của hắn không đạt được yêu cầu của mình, có lẽ, cậu thanh niên tên là Dực Tường này còn cần thêm nhiều va chạm thực tế.

“Đủ phá hủy.” Quả nhiên, quan chỉ huy hỏa pháo Dực Tường đưa cho hắn một câu trả lời rất không đủ tin tưởng.

Những kiến trúc công sự phòng ngự trên đảo Kim Quy hết sức kiên cố và chắc chắn, bởi vì nơi này vốn là một hòn đảo bằng đá rất lớn, từ lúc đầu khi Đường Lãng suất lĩnh hải quân đế quốc Đường Xuyên cướp đoạt nơi này, từ đó trở đi công việc xây dựng công sự phòng ngự nơi này không hề dừng lại, sau khi hải quân Lam Vũ quật khởi, hải tặc Ca Âu cũng tốn hao thật lớn khí lực đến tu sửa công sự phòng ngự trên Đảo Kim Quy, điều này đối với hải tặc Ca Âu thường hay hoành hành bá đạo mà nói, cũng là hành động vĩ đại trước nay chưa có.

Căn cứ vào tư liệu ngành tình báo cung cấp, cộng với hải quân Lam Vũ tự mình quan sát, Đảo Kim Quy có vô số địa phương đều đã bị đào rỗng, bọn hải tặc Ca Âu đều đang ẩn núp ở phía dưới tầng nham thạch khổng lồ, căn bản không hề sợ hãi đại pháo của hải quân Lam Vũ. Dưới đạn pháo bắn trúng liên tục không ngừng, uy thế pháo kích quân Lam Vũ thoạt nhìn hết sức mạnh mẽ, có cảm giác đất rung núi chuyển, nhưng, pháo kích rốt cục có thể gây tổn hại bao nhiêu đến Đảo Kim Quy, viên quan chỉ huy hỏa pháo tuổi còn trẻ, ít kinh nghiệm không thể ước lượng được, Đặc Lan Khắc Tư cùng Trát Lan Đinh trong lòng tự nhiên cũng không thể ước tính, không thể làm gì khác hơn là đi từng bước xem từng bước.

Pháo kích giằng co suốt một giờ rưỡi, cơ bản bao trùm toàn bộ bán đảo phía nam Đảo Kim Quy. Căn cứ địa hình Đảo Kim Quy, bến tàu và đường ra vào Đảo Kim Quy chủ yếu đều ở nam bộ, hải quân lục chiến Lam Vũ cướp đoạt được phía nam đảo, cũng cơ bản xem như đã khống chế hòn đảo. Chứng kiến pháo hỏa hải quân mãnh liệt như thế, rất nhiều chiến sĩ hải quân lục chiến đều trở nên hưng phấn la hét om xòm, trong mắt bọn họ, dưới pháo hỏa hải quân mãnh liệt như thế, cho sù hải tặc Ca Âu không bị tử vong toàn bộ. Đại khái cũng bị pháo hỏa gây chấn động hôn mê hoàn toàn.

Ba giờ hai mươi phút chiều, bên khí tượng đã phát ra tin tức mà mọi người đang chờ mong, sóng biển đã hạ thấp đến độ cao 0,5 mét, hoàn toàn phù hợp yêu cầu đổ bộ, Đặc Lan Khắc Tư lập tức không cần nghĩ ngợi phát ra tín hiệu hải quân lục chiến bắt đầu đổ bộ. Liên tục bắn ba phát pháo sáng làm tín hiệu bắn bầu trời đang khói bụi mù mịt, phát ra ánh sáng đỏ tươi rực rỡ.

Những tiếng pháo hiệu dồn dập theo ánh sáng chói lọi lóe lên không ngừng vang lên,

các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ lục tục đu theo dây hai bên mạn tàu vận chuyển chậm rãi tuột xuống trên thuyền chuyên chở quân đổ bộ. Mặc dù mức sóng biển bình quân chỉ có 0,5 mét. Nhưng ngẫu nhiên, vẫn có một vài cơn sóng lớn không đoán trước được ập tới, khiến những chiếc thuyền đổ bộ yếu ớt này dập dềnh mạnh chỉ chực lật úp, các chiến sĩ đổ bộ đang ngồi trên khoang thuyền đều bị xóc nảy sắc mặt tái nhợt, có vài người bắt đầu cúi đầu cầu trời khấn phật tai qua nạn khỏi.

Đột nhiên đúng lúc này, có một chiếc thuyền đổ bộ cuối cùng chống cự không được sóng biển mãnh liệt đánh mạnh vào, va chạm kịch liệt cùng thân tàu vận chuyển. Ngay lập tức lật úp, hơn mười chiến sĩ hải quân lục chiến trên thuyền toàn bộ rơi đều bị rơi xuống nước, may là thuyền đổ bộ chưa hoàn toàn chìm nghỉm, cho nên bọn họ đều vội vàng bám lấy thân thuyền trèo lên, nhưng vẫn có bốn chiến sĩ bởi vì lưng đeo trang bị không có kịp thời giải khai, sau khi chìm xuống không còn trở lên được nữa.

Chiến đấu chưa bắt đầu, đã xuất hiện thương vong, một bộ phận chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đều có chút mất tinh thần, các sĩ quan đang không ngừng chỉ huy những chiến sĩ này leo xuống thuyền đổ bộ, đồng thời không ngừng động viên, khích lệ tinh thần bọn họ. Hoàng Nhan Phi Ưng tự mình xuất hiện ở chỗ xảy ra chuyện không may, khích lệ quan binh chung quanh, các chiến sĩ mới hồi phục lại tinh thần một chút.

Ba giờ năm mươi hai phút chiều, nhóm số một thuộc hải quân lục chiến Lam Vũ chuẩn bị đổ bộ, bọn họ chính là tiểu đoàn số một do A Ba Đốn suất lĩnh. Bọn họ chất lên tổng cộng ba mươi sáu con thuyền đổ bộ, mỗi thuyền đổ bộ đại khái chở được chừng hai mươi người, chậm rãi hướng về bến tàu Đảo Kim Quy. các chiến sĩ Hải quân lục chiến Lam Vũ đeo áo phao, ánh mắt đều hết sức căng thẳng. sóng biển nơi này gây cho bọn họ phiền toái rất nghiêm trọng, rất nhiều người thấy an hem chiến sĩ rơi xuống nước chìm nghỉm, tâm tình đều có phần sa sút, hơn nữa sự xóc nảy của thuyền đổ bộ quả thực gây cho bọn họ cực kì nguy hiểm, chỉ cần chút sơ sót không cẩn thận, bọn họ cũng sẽ nhận lấy vận mệnh xấu số như vậy.

Sắc mặt Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàng Nhan Phi Ưng cũng đanh lại, vô cùng căng thẳng, lo lắng mãi không thôi.

Sau khi thuyền đổ bộ đã rời khỏi phạm vi hạm đội. đang cách ven bờ đảo Kim Quy còn chưa đầy một trăm thước, trong khoảng cách một trăm thước này, bởi vì sóng biển đập vô những mỏm đá ngầm ở những vách đá ven bờ, cho nên cực kỳ hỗn loạn và dữ dội, chỗ cặp bờ nước chảy vô cùng rối loạn. Có một vài con thuyền đổ bộ bị hải lưu xô vào không không ngừng quay mòng mòng quanh một chỗ, mặc dù các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đều liều mạng lái thuyền theo đúng hướng. Nhưng thuyền đổ bộ vẫn thủy chung không nhích thêm được chút nào.

Rất nhiều chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ rốt cuộc phát hiện, hằng ngày bọn họ chịu huấn luyện tàn khốc nhưng vẫn không hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu mà điều kiện ác liệt ở biển Gia Lặc Tân đòi hỏi, dòng chảy ngầm trong lòng hải dương nơi đây, sóng biển nơi này, đều so với tình huống xấu nhất mà bọn hắn có thể tưởng tượng còn muốn kinh khủng hơn một trăm lần, đối mặt với thứ nước biển sâu thăm thẳm đen thui không nhìn thấy đáy này, đối với những ai mà tâm lý hơi yếu một chút là khó có thể chịu đựng nổi, có bộ phận chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ thậm chí còn căng thẳng đến mức lén lút nhắm hai mắt lại lầm rầm cầu nguyện.

Chiếc thuyền đổ bộ đầu tiên rốt cuộc cũng đã cập bờ, nhưng đây không phải do được điều khiển chủ động tiến vào, mà là do sóng biển đẩy bọn họ dạt lên, trong sự va chạm kịch liệt, toàn bộ chiến sĩ hải quân lục chiến trên khoang thuyền đổ bộ đều rơi cả xuống nước, may là các chiến sĩ này tựa hồ đã sớm chuẩn bị phòng khi rơi xuống nước, cho nên động tác đều phi thường nhanh nhẹn, cơ hồ là không cần nghĩ ngợi bèn vứt hết tất cả vật tư không phải đạn dược trên người, rất nhanh ngoi lên nước biển đen ngòm lạnh như băng.

Đặc Lan Khắc Tư căng thẳng giơ ống dòm lên nhìn bọn họ, rất nhanh đã phát hiện ra đó chính là thành viên hải quân lục chiến đội đột kích bạo hùng do Lâm Từ Luật suất lĩnh Trong toàn bộ biên chế chiến đấu của trung đoàn số bốn hải quân lục chiến Lam Vũ, số chiến sĩ có kinh nghiệm đổ bộ, cũng chỉ có năm mươi nhân viên Lâm Từ Luật dưới tay hắn, các chiến sĩ còn lại đều chỉ mới tiếp nhận qua huấn luyện đổ bộ, lần đổ bộ này chính là cuộc chiến xương máu của bọn hắn, xuất hiện chuyện ngoài ý muốn là khó tránh khỏi.

Quả nhiên, theo sau lại có vài chiếc thuyền đổ bộ bởi vì cùng nguyên nhân cũng bị đánh dạt lên bờ biển, thuyền đổ bộ bị lật úp, các chiến sĩ hải quân lục chiến trên khoang thuyền cũng rơi toàn bộ xuống nước, nhưng bọn họ không có tố chất cùng phản ứng tốt như đội đột kích Bạo Hùng, đại khái có một phần ba chiến sĩ sau khi chìm xuống đã không còn nổi lên nữa. Chứng kiến liên tiếp có thuyền đổ bộ bị lật úp vào trong mặt nước biển lạnh như băng, đội thuyền quân Lam Vũ còn lại vội vàng triển khai công việc cứu viện. Kết quả làm chậm lại tiến trình đổ bộ, Đặc Lan Khắc Tư muốn hạ lệnh bọn họ bỏ mặc những người đã bị rơi xuống nước, nhanh chóng đi tới, nhưng cuối cùng vẫn do dự không hạ lệnh.

Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàng Nhan Phi Ưng đều để hết tâm trí vào mắt vào miệng, nếu lúc này hải tặc Ca Âu đột nhiên phát động phản kích, thì một tiểu đoàn của A Ba Đốn đều phải trở thành vật hi sinh, bọn họ hiện tại đang trong thời điểm tay chân luống cuống. nếu phải hứng chịu bất cứ dạng công kích nào thì cũng đều là đòn trí mạng. Song, làm bọn hắn thở phào nhẹ nhõm một hơi chính là, hải tặc Ca Âu không xuất hiện.

Rốt cuộc, đội hải quân lục chiến Lam Vũ đã thành công cập được vào bờ Đảo Kim Quy, lên bờ đầu tiên chính là các chiến sĩ đội đột kích Bạo Hùng thuộc trung đoàn hải quân lục chiến Lam Vũ số bốn, nhưng không phải đội ngũ của Lâm Từ Luật, mà là đội ngũ của Du Tiên Phong. Bọn Du Tiên Phon chứng kiến thuyền đổ bộ của Lâm Từ Luật bị lật úp. Bọn họ đều đã rút được kinh nghiệm, bèn tung móc câu móc vào những hòn đá xa xa trên bờ, khi thuyền đổ bộ của bọn hắn cặp bờ thành công, bọn họ bèn dựa vào lực kéo của móc câu, đồng tâm hiệp lực giữ thăng bằng cho thuyền đổ bộ, tiếp theo đó, bọn họ từ khoang thuyền đổ bộ thuận lợi đặt chân lên bờ biển Đảo Kim Quy thành công.

Đảo Kim Quy im ắng lạ thường, dường như không có bất cứ sự tồn tại nào của hải tặc Ca Âu. Bọn Du Tiên Phong liên tục đi tới ước chừng một ngàn thước, vẫn không phát hiện bóng dáng hải tặc Ca Âu, vì vậy Du Tiên Phong tự mình ở lại quan sát động tĩnh. Để cho những chiến sĩ còn lại quay trở lại hỗ trợ cho các chiến sĩ hải quân lục chiến khác đổ bộ bình an, có bọn họ trên bờ hiệp trợ, các thuyền đổ bộ phía sau vững vàng hơn nhiều.

Du Tiên Phong một thân một mình tay kè kè súng tự động, cẩn trọng từng chút một quan sát hết thảy chung quanh, gió nhẹ thổi qua, dẫn theo hơi nước biển lạnh lẽo, nhưng hết thảy đều an tĩnh như vậy, đừng nói là hải tặc Ca Âu.

Chính là ngay cả vật thể sống còn không có. Song, các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ bao gồm Du Tiên Phong ở bên trong đều rất rõ, trên đảo Kim Quy, có ít nhất ba nghìn hải tặc Ca Âu vô cùng hung ác, nhưng mà, bọn chúng rốt cục đang lẩn trốn ở nơi nào rồi chứ?

Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàng Nhan Phi Ưng cũng rất nhanh phát hiện sự kỳ lạ trên đảo Kim quy, nhưng bọn họ tạm thời không có tâm tư truy cứu bọn hải tặc Ca Âu rốt cục là chui rúc ở xó xỉnh nào rồi. Bọn họ hiện tại muốn làm nhất, chính là nhanh chóng đưa nhân viên cùng vật tư của đội hải quân lục chiến nhiều đến mức có thể đưa đến trên đảo. nhân viên hải quân lục chiến trên bờ biển càng ngày càng nhiều, thuyền đổ bộ bị lật úp đã không xảy ra nữa, bộ phận súng cùng bách kích pháo cũng đã bình an chuyển dời đến trên đảo, Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàng Nhan Phi Ưng bấy giờ mới âm thầm thở phào một hơi.

Lúc này bọn họ. Mới có tâm tư lo lắng, bọn hải tặc ca âu đều ẩn giấu đi đâu rồi chứ?

Nửa giờ sau. A Ba Đốn xuất hiện trên bờ biển, chỉ huy thay bọn Du Tiên Phong, bọn Lâm Từ Luật cũng khắp người ướt sũng chạy hộc tốc đến bên Du Tiên Phong. Lâm Từ Luật bí mật làm một cử chỉ đánh nhau, Du Tiên Phong bèn dẫn theo các tay súng Vũ Văn Nghiệt cùng Triệu Chi Vũ luân phiên che chở tiến lên, bọn họ rón rén đi tới chỗ trũng nhất trên đảo, toàn bộ thủ lưu đạn đều đã rút chốt, chuẩn bị một khi bắt gặp hải tặc Ca Âu tấn công, lập tức sẽ cho bọn hắn một cơn mưa lưu đạn mãnh liệt nhất. 

Song, vẫn không có bóng dáng hải tặc Ca Âu, cả hòn đảo đều im ắng, tựa hồ hoàn toàn không có dấu hiệu của sự sống. bọn Du Tiên Phong dựa theo kế hoạch tác chiến từ trước, lén lút tiến đến hướng vị trí bến tàu, trên đảo Kim Quy, chỉ có một bến tàu duy nhất, ngay con mắt bên phải của hòn đảo hình con rùa rụt đầu này.

Chỗ ưu điểm nhất của bến tàu này chính là cảng nước sâu, chiến liệt hạm loại lớn nhất là ngũ đài sơn vẫn có thể neo đậu tại đây, mặc dù một lúc chỉ có thể đủ neo đậu sáu chiến hạm khổng lồ, nhưng đối với Đảo Kim Quy mà nói, đã là một điểm tuyệt vời lắm rồi.

Vị trí bến tàu của Đảo Kim Quy, luôn luôn là vị trí phòng thủ trọng điểm nhất của kẻ nào chiếm giữ hòn đảo, trước kia hải quân đế quốc Đường Xuyên là như thế, hiện tại hải tặc Ca Âu cũng là như thế, đều xây dựng đại lượng công sự phòng ngự, bố trí đại lượng binh lực tinh nhuệ ở chung quanh bến tàu. Du Tiên Phong đơn giản nhìn lướt qua, đã phát hiện vị trí bến tàu đã bị một bức tường đá chắc chắn bao vây hoàn toàn phong tỏa, căn bản không thể vượt qua. Chỗ khác trên đảo Kim Quy đều không có, khắp nơi đều chỉ có đá tảng rải rác, xem ra đã bị hải tặc Ca Âu lợi dụng nguyên vẹn.

Quý Nhạn Bình lén lút nhô đầu ra, muốn quan sát động tĩnh sau bức tường đá, đột nhiên đúng lúc này nghe được thình thịch một tiếng, lập tức nhanh nhẹn ngã xuống né, hắn là chiến binh thân kinh bách chiến, đương nhiên biết loại thanh âm trầm thấp này có ý nghĩa gì. Quả nhiên, một trận mưa tên mãnh liệt bay vèo vèo sượt qua đỉnh đầu của hắn, bắn vọt tới bãi cát sau lưng bọn họ không tới hai mươi thước, mũi tên và hơn phân nửa cán tên đều ngập sâu vào nền cát, chỉ có phần lông vũ ở đuôi mũi tên là vẫn lộ ở bên ngoài, thì có thể tưởng tượng lực phóng mạnh mẽ đến mức nào.

“Cung tên! Cung tên khổng lồ!” Du Tiên Phong bình tĩnh thét lên, phất tay để cho bọn họ tản ra khẩn cấp.

Quả nhiên, hàng loạt mũi tên liên tục bay đến. biến bãi cát xung quanh bọn Du Tiên Phong lởm chởm tên nhọn chẳng khác nào một con nhím đang xù lông, nhưng bọn Du Tiên Phong ẩn núp sau lớp đá hoa cương cứng rắn, tránh né hữu hiệu lực sát thương từ cung tên. Cung khổng lồ phóng ra tên có lực xoáy mặc dù rất mạnh, nhưng vẫn không cách nào xuyên thấu đá hoa cương gây thương tổn cho kẻ thù, liên tục bắn sáu bảy đợt tên, cung thủ của hải tặc Ca Âu tựa hồ cũng hiểu được hiệu quả không tốt, vì vậy đình chỉ bắn. 

Quý Nhạn Bình nhanh chóng cuộn tròn người lăn đến vị trí bên cạnh, ẩn núp ở giữa hai khối đá hoa cương, liếc thấy tay cung đang thập trò trên tường đá, hắn nhanh nhẹn giơ ống hỏa tiễn lên, nhanh chóng nhắm vào mục tiêu, sau đó quyết đoán bóp cò, một luồng hỏa tiễn từ nòng súng trên vai hắn địa phun ra. Đạn hỏa tiễn gào thét vọt đi.

Ầm ầm đùng......

Cây cung khổng lồ trên bức tường thành tức thì bị nát bấy, đồng thời truyền đến tiếng người kêu thảm thiết, loáng thoáng có thi thể hải tặc Ca Âu bị bùng nổ rớt xuống từ phía trên vách đá, nhưng, đạn hỏa tiễn cũng không tạo thành tổn thương lớn đối với vách đá vững chắc, cũng không phát hiện các vị trí bắn cung khác, lại không phát hiện thêm nhiều hải tặc Ca Âu, bọn họ đại khái đều trốn toàn bộ sau vách đá.

Phát hiện bóng dáng hải tặc Ca Âu, các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đội đều trở nên cẩn thận. lúc hành động đều trở nên vô cùng linh hoạt cùng cẩn thận, cũng không dám thoải mái nhô đầu ra nữa.

A Ba Đốn nhanh như sóc dẫn theo các chiến sĩ hải quân lục chiến còn lại tới vị trí của đội đột kích Bạo Hùng, cùng Lâm Từ Luật thấp giọng bàn bạc.

Lâm Từ Luật cần bọn họ dùng bách kích pháo che chở, mới có thể đưa thuốc nổ đến chân bức tường đá thành công. A Ba Đốn lén lút giơ ống dòm lên, nhưng vẫn không phát hiện bóng dáng hải tặc Ca Âu, nhưng bọn họ cũng không có tâm lý khinh suất, lập tức mang bách kích pháo lại. Hải quân lục chiến Lam Vũ lúc vận chuyển bách kích pháo lên bờ, tốn hao không ít công phu. Nhưng nó rất nhanh đã phát huy tác dụng hữu hiệu.

Đùng Đùng Đùng......

A Ba Đốn thử hạ lệnh bắn vài phát pháo, nhưng không có hiệu quả rõ ràng mấy, đối với thứ vách đá quá sức chắc chắn này không thể nào tạo được mức công phá cao nhưng dù sao nó cũng hoàn thành được mục tiêu áp chế hải tặc Ca Âu, trong lúc duy trì không ngừng nã pháo liên tục vào vách đá, hải tặc Ca Âu thủy chung không dám lộ diện, vì vậy Vũ Văn Nghiệt đã thành công trong việc đem thuốc nổ đến chân vách đá.

Ầm ầm đùng......

Một trận nổ đinh tai nhức óc vang lên. Vách đá vững chắc cuối cùng bị phá hủy thành một lỗ hổng thật lớn, trong khói lửa tràn ngập, trong nháy mắt lộ ra bóng dáng đông đúc của hải tặc Ca Âu, vốn là bọn chúng đều ẩn núp sau vách đá. Hỏa lực mạnh nhẹ của đội hải quân lục chiến Lam Vũ đồng loạt khai hỏa, ngay lập tức bắn cho bọn chúng văng tán loạn. Nhưng mà, hải tặc Ca Âu dù sao cũng là loại kẻ thù rất hung hãn. Cho dù bị hỏa lực mãnh liệt của hải quân lục chiến Lam Vũ bao trùm lấy vẫn có kẻ chuẩn xác phi mạnh trường mâu, làm cho hai tay súng phe hải quân lục chiến Lam Vũ phải bỏ mạng ngay tại chỗ.

“Mẹ kiếp!” A Ba Đốn hung tợn nguyền rủa, hạ lệnh bách kích pháo tiếp tục phóng ra, hầu hết các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ cũng ùa lên, tất cả hỏa lực đều hướng về hải tặc Ca Âu hoàn toàn triển khai, mưa bom bão đạn dày đặc hoàn toàn bao trùm lấy vị trí lỗ hổng bị pháo bắn trúng. Ngay sát bên lỗ hổng, Vũ Văn Nghiệt thể hiện đầy đủ hình tượng một người anh hùng xuất sắc, tay hắn thảy lưu đạn liên hồi vào bọn hải tặc Ca Âu, bùng lên hàng loạt ánh chớp chói lòa.

Du Tiên Phong rất nhanh dẫn theo các chiến sĩ khống chế lỗ hổng, sau đó tỏa ra hai bên triển khai chiến đấu, hải tặc Ca Âu uy phong hùng mạnh rốt cuộc bị hoàn toàn đè bẹp, có rất nhiều hải tặc Ca Âu bắt đầu vứt bỏ hết thảy vũ khí trong tay, sau đó cuống cuồng chạy trốn, không thèm để ý gì nữa, bọn chúng đối với địa hình nơi này đã quá quen thuộc, mặc dù hải quân lục chiến Lam Vũ bắn rát sau lưng, ráo riết đuổi theo bọn chúng, nhưng phần lớn hải tặc Ca Âu chạy trốn thành công.

“Bỏ đi, tạm thời đừng đuổi theo.” A Ba Đốn ngăn bọn Du Tiên Phong đang định chạy theo truy kích.

Mới vừa rồi bị hạm pháo hải quân Lam Vũ oanh tạc đại quy mô, địa hình trên đảo Kim Quy trở nên rất phức tạp, rất nhiều chỗ đều biến thành đống đổ nát, những đống đổ nát mà hải tặc Ca Âu đã ẩn núp bên trong này, có thể dễ dàng gây cho hải quân lục chiến Lam Vũ thương vong nghiêm trọng. trường mâu của hải tặc Ca Âu quả thực rất lợi hại, số người thương vong mới vừa rồi đã là minh chứng rất rõ ràng.

A Ba Đốn thông qua radio báo cáo tình hình cho Hoàng Nhan Phi Ưng và Đặc Lan Khắc Tư, Đặc Lan Khắc Tư lệnh cho bọn họ khống chế toàn bộ bến tàu. 

“Tiến lên.” Lâm Từ Luật vỗ vai Du Tiên Phong.

Du Tiên Phong dẫn đầu bưng súng tự động, đi dọc theo chỗ trũng phát động công kích, kết quả thỉnh thoảng lại hứng chịu sự phản công bằng cung tên cùng trường mâu, lác đác có mấy tên hải tặc Ca Âu xuất hiện, thì ra, bọn chúng bị pháo hỏa của hạm pháo hải quân Lam Vũ gây chấn động còn chưa hoàn toàn khôi phục lại, khi bọn hắn khôi phục lại, các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đã tới trước mặt bọn chúng rồi.

A Ba Đốn chỉ huy thuộc hạ lấy tiểu đội làm đơn vị, từ điểm đổ bộ hướng bốn phía triển khai công kích hình cánh, bọn họ che chở cho nhau, càn quét từng đống đổ nát, đối với đống đổ nát nào mà nghi ngờ có hải tặc Ca Âu ẩn núp, bọn họ đều ném lựu đạn mở đường, phương pháp này rất có hiệu quả, mặc dù tiêu hao rất nhiều lựu đạn tay, nhưng những hải tặc Ca Âu ẩn núp trong ngóc ngách bí mật nào cũng không còn cơ hội đánh lén nữa.

Tại vị trí bến tàu, bọn Lâm Từ Luật phải hứng chịu sự phản kích quyết liệt nhất, ở nơi đó đại khái có hơn năm trăm hải tặc Ca Âu đang tụm lại. để thuận lợi sử dụng bến tàu để tháo dỡ nhân viên vật tư, cho nên, hạm pháo hải quân Lam Vũ lúc oanh kích đại quy mô, cũng không có oanh kích vị trí bến tàu, cho nên đão tạo cơ hội cho những tên hải tặc Ca Âu sống sót. Tuy nhiên, nơi này cũng không có địa hình địa thế hiểm yếu gì, bởi vậy lúc hải quân lục chiến Lam Vũ đả kích, hải tặc Ca Âu không thể làm gì khác hơn là từ từ lùi bước đến vị trí kho hàng bến tàu.

Đùng Đùng Đùng......

Bách kích pháo đạn không ngừng nã đùng đùng vào khu vực kho hàng, đuổi cho bọn hải tặc Ca Âu bên trong phải trốn chui chốn nhủi hết góc này sang góc khác, được bách kích pháo che chở, bọn Lâm Từ Luật thành công nhảy vào khu vực ven bến tàu, nhanh chóng khống chế tất cả nơi cập bến tại bến tàu. Bọn họ phát hiện ở trên nơi cập bến của bến tàu có rất nhiều tảng đá lớn, thoạt nhìn giống như chuẩn bị dùng để bịt kín bến tàu, song Đảo Kim Quy cũng chỉ có một cửa ra vào như vậy, nếu bị bế tắc, chính bản thân bọn hải tặc Ca Âu cũng chỉ có cách chờ chết, cho nên bọn chúng cũng không dám hạ quyết tâm.

Đột nhiên đúng lúc này, Du Tiên Phong nghe được Vũ Văn Nghiệt thấp giọng mắng:“Mẹ nó!”

Du Tiên Phong quay phắt lại nhìn, chứng kiến Vũ Văn Nghiệt kêu thảm một tiếng rồi ngã xuống đất, trên đùi có một cây một trường mâu dài một thước vô cùng sắc bén xuyên thủng, máu tươi cuồn cuộn túa ra. Hải tặc Ca Âu không có vũ khí hiện đại, nhưng là bọn họ đã sử dụng trường mâu cùng búa vô cùng nhuẫn nhuyễn đến mức chuyên nghiệp, lần này đến phiên Vũ Văn Nghiệt trúng chiêu. Du Tiên Phong vừa định đưa tay kéo hắn đứng lên, đột nhiên nghe được bên người một tiếng súng vang, ngẩng đầu vừa nhìn, chỉ nhìn thấy Vũ Văn Nghiệt nhỏm người, tay bóp cò súng, vừa vặn bắn đúng trán một tên hải tặc Ca Âu đang chuẩn bị phóng trường mâu.

Quý Nhạn Bình nhanh tay lôi Vũ Văn Nghiệt đi, Triệu Chi Vũ cũng nhanh tay lẹ mắt, liên tục ném mạnh vào bên trong bốn quả thủ lưu đạn, một trận nổ mãnh liệt vang lên, bên trong không còn tiếng động, nhưng Triệu Chi Vũ vẫn cẩn thận, không lập tức xông vô ngay, đợi hai phút đồng hồ trôi qua, lại ném một quả lựu đạn vô trong, sau khi nổ bùng lên, mới chậm rãi giơ súng Mễ Kỳ Nhĩ lên vọt vào.

Du Tiên Phong ngồi xuống băng bó vết thương cho Vũ Văn Nghiệt, đồng thời lắng tai nghe ngóng tiếng súng đứt quãng truyền đến từ bên trong kho hàng, hơn mười phút đồng hồ trôi qua, Triệu Chi Vũ từ bên trong đi ra, ý bảo toàn bộ kẻ địch bên trong đã bị tiêu diệt sạch, Quý Nhạn Bình tò mò đi vào nhìn bên trong một chút, chứng kiến bên trong ngổn ngang hơn trăm thi thể hải tặc Ca Âu.

Trải qua hai giờ quần qua quần lại, A Ba Đốn đã thành công khống chế khu vực đổ bộ, Lâm Từ Luật cũng đã khống chế xong vị trí bến tàu, thuyền vận chuyển của quân Lam Vũ trực tiếp tiến vào bến tàu. Cứ từng đợt rồi lại từng đợt thuyền từ từ cập vào bến tàu, hoàng loạt đại đội hải quân lục chiến Lam Vũ trực tiếp từ thuyền vận chuyển lên Đảo Kim Quy, sau đó dưới sự chỉ huy tạm thời của A Ba Đốn từ từ tản đi bốn phía. 

Sáu giờ chiều, Hoàng Nhan Phi Ưng cũng dẫn bộ chỉ huy chuyển lên trên thuyền, thống nhất chỉ huy đội hải quân lục chiến trên đảo, điều này có ý nghĩa, đội hải quân lục chiến Lam Vũ đổ bộ cơ bản thành công, cuộc chiến đấu kế tiếp mặc dù có thể vẫn rất khổ cực, nhưng có thể chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. hải tặc Ca Âu còn sót lại vẫn tiếp tục ngoan cố chống cự, tiếng súng lác đác không ngừng truyền đến, nhưng bọn họ chỉ còn vận mệnh tiêu diệt.

Đến lúc đêm xuống, Đặc Lan Khắc Tư cũng đi lên Đảo Kim Quy, tham gia nghi thức kéo cờ quân Lam Vũ cùng tang lễ cho các tướng sĩ đã hy sinh, ba mươi bốn chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ hy sinh đều được cử hành tang lễ đơn giản mà long trọng, bọn họ dùng tính mạng cùng xương máu của bọn họ, mở ra cánh cửa cho hải quân Lam Vũ thông ra biển Gia Lặc Tân. Trong nghi lễ kéo cờ, Đặc Lan Khắc Tư tự hào tuyên bố:“Từ nay về sau, nơi này chính là địa bàn của chúng ta!”

Mặt trời từ từ lặn, trời chiều cũng dần tàn, cả đảo Kim Quy đỏ rực lên như màu máu đến chói cả mắt.

Đảo Kim Quy vào ban đêm quả nhiên lạnh kinh khủng, sau khi mặt trời đã lặn, toàn bộ vùng biển ngoài khơi xung quanh Đảo Kim Quy đều chìm vào bóng đêm mịt mùng ghê sợ, nhiệt độ dường như chỉ trong nháy mắt đã hạ thấp đến hai mươi độ, ngay cả gió biển thổi đến đều rít lên từng chặp thê lương như những cơn gió âm u thổi từ địa ngục. những chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ khác thì không nói, còn Lâm Từ Luật cùng các chiến sĩ đã bị rơi xuống biển một lần lúc đổ bộ, cảm thấy vô cùng thấm thía cái lạnh này, bộ quân phục rằn ri của bọn họ đều đang ướt sũng, cho nên nhiệt độ lại càng hạ thấp, hơn nữa gió biển cứ thổi từng cơn, lúc nào cũng có cảm giác lạnh đến thấu xương, không thể chịu đựng được.

Bọn Lâm Từ Luật bất chấp tất cả, chả thèm kiêng cữ gì hết, cứ cởi phăng quân phục rằn ri, sau đó lột quần áo từ trên những thi thể hải tặc Ca Âu, mặc bên trong, sau đó mặc lại quân phục rằn ri bên ngoài, có một vài bộ quần áo hải tặc Ca Âu còn bốc lên mùi máu tươi nồng nặc, nhưng bọn họ cũng chẳng để ý nhiều đến vậy, đáng tiếc quân Lam Vũ trong lúc chiến đấu nghiêm cấm đem theo rượu, nếu không Lâm Từ Luật thật đúng là muốn tợp lấy ngụm rượu để cảm nhận được cái nóng thiêu đốt cổ họng, xua đi cơn lạnh giá.

Đống lửa rất nhanh đã được nhóm lên, khu vực xung quanh địa điểm đổ bộ cùng bến tàu đều có rất nhiều đống lửa bập bùng, các chiến sĩ hải quân lục chiến tạm thời còn chưa có nhiệm vụ chiến đấu đều tụ tập quây quần bên đống lửa, một bên tranh thủ thời gian nghỉ ngơi, một bên nhấm nháp sự ấm áp tỏa ra từ ánh lửa, nhưng phần lớn các chiến sĩ hải quân lục chiến đội phải phụ trách giúp vận chuyển vật tư, mệt đến toát hết mồ hôi, còn có một bộ phận các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ phải phụ trách nhiệm vụ trực ban, bọn họ ngồi xổm trong chiến hào sát mặt nước lạnh như băng, chỉ có thể dựa vào ý chí thép cùng tố chất cơ thể khỏe mạnh để chống chọi lại cái lạnh khắc nghiệt khó có thể chịu được này.

Đội hải quân lục chiến Lam Vũ đổ bộ thành công tại Đảo Kim Quy, sau khi màn đêm bao phủ, không tiếp tục phát động tiến công, mà ra sức củng cố trận địa hiện có. Hoàn Nhan Phi Ưng hoạch định phạm vi phòng thủ của các tiểu đoàn, sau đó các tiểu đoàn lại hoạch định phạm vi phòng thủ của các đại đội, rồi các đại đội lại hoạch định phạm vi phòng thủ của các trung đội. nương theo bóng tối bao trùm thời gian dài. Hải tặc Ca Âu có lẽ sẽ phát động tiến công vào ban đêm, trong hoàn cảnh không đủ ánh sáng, các đội quân phải nghiêm khắc dựa theo khu vực phòng thủ, nếu không sẽ hứng chịu sát thương từ hỏa lực của phe mình.

Các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đang đóng ở mép trận địa tuyến đầu, đều quỳ xổm trên chiến hào, ngón tay kè kè đặt trên cò súng, nhìn không chớp mắt phía trước. sau khi đã hành công đổ bộ lên Đảo Kim Quy, vẫn không chạm trán với quân hải tặc Ca Âu, cũng không có nghĩa là nhiệm vụ đổ bộ lần này đã kết thúc trọn vẹn, trái lại. Hải tặc Ca Âu cố ý co cụm chủ lực, nghĩa là cuộc chiến đấu gian khổ hơn còn đang chờ đợi ở phía trước. Bọn họ hy vọng đêm tối nhanh hết, nhưng đêm trên Đảo Kim Quy dường như lại còn dài dằng dặc hơn ban ngày nhiều.

Ở ngoài khơi, chiến hạm Long Nha của hai quân Lam Vũ đều đang cảnh giác tuần tra, bởi vì không có đèn. Cho nên Đặc Lan Khắc Tư điều động mấy chiếc thuyền vận chuyển đã hoàn toàn tháo dỡ nhân viên cùng vật tư tạm thời thành phao cứu hộ phát tín hiệu, bọn họ đều treo ở đầu thuyền cùng đuôi thuyền rất nhiều đèn bão, sau đó neo một chỗ cố định.

Chiến hạm hải quân Long Nha còn lại cứ dựa theo ánh đèn của những cái phao nổi này là biết được phương hướng để phán đoán vị trí của chính mình. Ngọn đèn le lói yếu ớt nhưng cũng đủ mang đến một chút ánh sáng hiếm hoi giữa màn đêm đen kịt ngoài khơi xa, khiến cho các chiến sĩ hải quân lục chiến trên đảo Kim quy bất cứ lúc nào ngẫu nhiên quay đầu lại, cũng có thể chứng kiến một loạt chiến hạm hải quân đang phòng thủ sau lưng bọn họ. Trong lòng cũng cảm giác yên tâm hơn rất nhiều.

Bởi vì đoán được các đội quân Lam Vũ trên đảo Kim quy có thể hứng lấy sự phản kích từ

Hải tặc Ca Âu vào bất kỳ lúc nào, cho nên, mỗi một khoảng thời gian, đều có ít nhất sáu chiến hạm Long Nha của Lam Vũ hải quân nhắm ngay về hướng Đảo Kim Quy, đạn pháo cũng nhồi sẵn vào nòng, bất kỳ lúc nào cũng có thể phóng ra, khi cần kíp. Bất cứ lúc nào cũng có thể trợ giúp pháo hỏa mãnh liệt nhất để hỗ trợ cho hải quân lục chiến Lam Vũ trên đảo Kim quy. Vũ khí mạnh nhất của hải quân lục chiến Lam Vũ có được chính là bách kích pháo có nòng sáu mươi ly, lúc đối mặt với kẻ địch tiến công hung mãnh, vẫn có chút lực bất tòng tâm.

Đặc Lan Khắc Tư cùng Hoàn Nhan Phi Ưng cũng không hề ngủ, hai người thường xuyên trao đổi ý kiến, sau đó chọn lựa thông tin trọng yếu báo cáo cho Dương Túc Phong.

Ở Kim Xuyên đạo xa xôi kia, Dương Túc Phong cũng không chợp mắt, thức trắng đêm cùng đợi tin tức liên quan tình hình chiến đấu trên Đảo Kim Quy, còn có mấy viên tham mưu là Khắc Lao Tắc Duy Tư …. cũng không ngủ. Từ tình hình ban ngày cho thấy. hải quân bắc hải Lam Vũ lần này chạm trán đội thuyền bắc hải hình tam giác có tốc độ nhanh hẳn là một phần của hải tặc râu đỏ, bởi vì bọn họ mặc dù phi thường dũng cảm và hung hãn, nhưng cũng không chú ý nhiều lắm đến chiến thuật, quân Lam Vũ rất khoái loại đối thủ như vậy.

Nhưng, hải tặc râu đỏ sở dĩ không cần có âm mưu quỷ kế cùng chiến lược chiến thuật cũng có thể đủ vững vàng nắm chặt vị trí lão đại, chứng tỏ hoàn toàn dựa trên thực lực siêu cường của bọn chúng, thủ lĩnh hải tặc râu đỏ là La Đế Áo Phỉ có được số chiến hạm hải tặc, nếu như bao gồm chiến hạm loại nhỏ có tải trọng chỉ chừng một trăm tấn, thì đã có số lượng vượt quá một ngàn chiến thuyền, cho dù là chiến liệt hạm khổng lồ, cũng có đến gần hai mươi chiến thuyền. Đối mặt với sự công kích đến từ quân Lam Vũ, La Đế Áo Phỉ khó có khả năng ngồi trơ mắt nhìn Đảo Kim Quy đánh mất mà mặc kệ, hắn tất nhiên sẽ áp dụng biện pháp phản kích mãnh liệt nhất.

Nhưng mà, Dương Túc Phong không cách nào phán đoán được, La Đế Áo Phỉ sẽ vận dụng thủ đoạn trả thù gì, cho nên, tất cả toàn thể quan binh quân Lam Vũ tham gia chiến dịch Đảo Kim Quy, toàn bộ mọi người phải đợi trời sáng, không được có chút chậm trễ, càng thêm không thể sơ xuất lơ là.

Đặc Lan Khắc Tưi suốt đêm nhìn chăm chú theo dõi xem có bất kỳ động tĩnh của hải tặc Ca Âu không, hơn nữa còn căn cứ tình hình, linh hoạt bố trí, dự tính phương hướng thủ lĩnh La Đế Áo Phỉ của hải tặc râu đỏ có thể xuất hiện, còn Hoàn Nhan Phi Ưng, thì tự mình tới bến tàu phụ trách chỉ huy nhân viên cùng tháo gỡ vật tư. Bởi vì bến tàu Đảo Kim Quy chỉ có sáu chỗ cập bến, cùng lúc chỉ có thể đủ bỏ neo sáu chiến thuyền, cho nên việc tháo dỡ vật tư nhất định phải tuân theo trình tự nhất định, một khi hỗn loạn mà nói thì sẽ mang đến phiền toái rất lớn. Vũ khí đạn dược là ưu tiên nhất, lương thực là tiếp theo, vật tư còn lại cũng có thể tháo dỡ cuối cùng, nhưng trên thực tế áp dụng thường gặp phải hỗn loạn.

Mới vừa rồi đã có một chiến thuyền vận chuyển chủ động nhích lại gần, hết thảy công việc chuẩn bị tháo dỡ đã sắp xếp xong, nhưng trong lúc vô ý phát hiện mặt trên chuyên chở lại chính là lều vải quân dụng…và một số vật tư không cần thiết khác, vì vậy không thể làm gì khác hơn là gọi nó tạm thời rời đi, lãng phí mất một giờ đồng hồ. Vốn là trên cột buồm thuyền vận chuyển cũng có cờ xí rõ ràng phân loại vật tư, nhưng trong bóng tối, sĩ quan hậu cần phụ trách tháo dỡ vật tư nhìn không rõ lắm, mà viên thuyền trưởng thuyền này lại tích cực quá đáng, chủ động đi trước, Hoàn Nhan Phi Ưng không thể làm gì khác hơn là bất đắc dĩ cười vỗ vỗ vai gã thuyền trưởng đó, cảm ơn sự cố gắng của hắn, đồng thời ra lệnh hắn cút qua một bên bằng tốc độ nhanh nhất.

Từ lúc Hoàn Nhan Phi Ưng tự mình chỉ huy, việc tháo gỡ vật tư cuối cùng không còn xuất hiện sai lầm nào lớn nữa, nhưng những sai sót lặt vặt như pháo đạn cùng đạn súng không cùng kích cỡ đặt cạnh nhau… vẫn còn xuất hiện rất nhiều, Hoàn Nhan Phi Ưng cũng không có cách nào giải quyết rốt ráo. Những vấn đề nhỏ này phải cần thời gian và kinh nghiệm, trung đoàn hải quân lục chiến Lam Vũ số bốn vẫn khiếm khuyết rất nhiều kinh nghiệm, dù sao đạn dược tới bờ rồi, thì nhất định có tác dụng hợp lý. 

Đêm đã về khuya, toàn bộ các ngành quân Lam Vũ vẫn như cũ đang giành giật từng giây để tháo dỡ vật tư, cho dù đã tới canh ba, trên bến tàu khắp nơi vẫn đều là nhân viên hải quân lục chiến đang cần cù tới lui. Trong vòng sáu giờ trôi qua, hải quân lục chiến Lam Vũ ước chừng có hai ngàn ba trăm nhân viên tác chiến đã thành công lên được đảo Kim Quy, đồng thời tháo dỡ xuống cả ngàn tấn vật tư, các loại vật tư tác chiến chất đống như núi chung quanh bến tàu. Pháo đạn lăn lóc đầy đất, xem đích làm cho người ta nhìn thấy mà giật mình.

Lấy bến tàu làm trung tâm, hải quân lục chiến Lam Vũ hợp thành hệ thống phòng vệ hình rẻ quạt, trong tuyến phòng vệ này, khoảng cách xa bến tàu nhất có đến bảy km. Mà khoảng cách bến tàu gần nhất, không đầy ba km. vật tư tháo dỡ xuống, rất nhanh đều được chuyển vào trong chiến hào phía trong phạm vi phòng vệ. Bởi vì Đảo Kim Quy toàn là đá. Cực kỳ cứng rắn, căn bản không cách nào sử dụng cuốc xẻng công binh xây dựng công sự, cho nên các chiến sĩ hải quân lục chiến đều là dùng thuốc nổ để phá nổ những hòn đá. Sau đó chất đá vụn thành đống, trở thành chiến hào tạm thời, những chiến hào này đương nhiên không cách nào kháng cự lại uy lực pháo đạn nổ mạnh, nhưng cũng may là hải tặc Ca Âu không có đại pháo, tạm thời cũng không vấn đề gì.

Ở vị trí phòng vệ khó khăn nhất, chính là đội đột kích Bạo Hùng của hải quân lục chiến Lam Vũ, vị trí bọn họ so với bến tàu là thuộc hướng bắc. Cũng là nơi cách xa bến tàu nhất. Từ sau khi chiếm lĩnh bến tàu, bọn họ đuổi theo ánh sáng hoàn toàn biến mất trước mắt, rất nhanh tiến hành tìm tòi công kích, giằng co đại khái ba bốn giờ tìm tòi tiến công, bọn họ đánh chết hơn hai mươi hải tặc Ca Âu ở rải rác. Đồng thời mở rộng phạm vi phòng hộ của hải quân lục chiến Lam Vũ tới vị trí bảy km.

Biên giới phòng thủ nơi đội đột kích Bạo Hùng đang chiếm đóng, cũng không có loại chiến hào bình thường. Chỉ có đá vụn vun thành đống làm công sự che chắn, bởi vì đất chật người đông, cho nên đá vụn cũng không phải đủ lắm, giữa những viên đá, vẫn có một chút khe hở, lo lắng có lẽ hải tặc Ca Âu sẽ từ khe hở này đột phá, cho nên bọn họ ở những khe hở này chôn thiết địa lôi cùng thuốc nổ. phía trước ại bọn họ, là vùng đất đá tương đối bằng phẳng, nhưng có vào tảng đá cực lớn nằm lộn xộn rất không có quy tắc, cũng không biết rốt cục là từ nơi nào lăn đến, có vẻ phi thường đột ngột, trong bóng đêm thậm chí có chút cảm giác làm cho người ta nhìn thấy phải ghê rợn.

Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong hai người thay phiên nhau trực ban, lúc này vừa đến phiên trực của Lâm Từ Luật, Du Tiên Phong nghỉ ngơi, nhưng Du Tiên Phong thủy chung không ngủ được, cứ thi thoảng lại buột miệng nói chuyện dăm ba câu với Lâm Từ Luật. Từ sau chuyến đi Y Lệ Nạp, đột kích đội bạo hùng không tham gia trận chiến đấu thực sự nào, cho nên đối mặt lần chiến đấu này, tâm tình của mọi người đều hưng phấn mà cực kỳ căng thẳng, hải tặc Ca Âu tuyệt đối không phải là loại kẻ địch dễ đối phó, bọn họ tựa hồ trời sinh ra đã sống trên mặt biển, đối với biển rộng cực kỳ quen thuộc, mà Vũ Văn Nghiệt lại bị thương, dường như lại làm cho nhiệm vụ lần này thêm một chút nguy hiểm, cho nên bọn họ cảm giác được càng thêm kích thích, muốn ngừng cũng không được, đương nhiên càng không có tâm trạng để ngủ.

Đối với chuyện cả ngày không có phát hiện lực lượng chủ lực của hải tặc Ca Âu, Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong đều cảm giác được phi thường nghi hoặc, không biết hải tặc Ca Âu rốt cục đang âm mưu gì. Đối với hải quân lục chiến Lam Vũ đội mà nói, đổ bộ là khâu mấu chốt nhất, chỉ cần thành công đặt chận lên đến đảo, như vậy trong bước chiến đấu kế tiếp, vô luận địch nhân mạnh mẽ cỡ nào, cuối cùng đều không thể chạy thoát khỏi vận mệnh bị tiêu diệt, hiện tại hải tặc Ca Âu chủ động buông tha cho trận đầu, chẳng lẽ còn muốn ở trên mặt trận trên đất liền tuyên chiến với hải quân lục chiến Lam Vũ?

“Nếu như bọn chúng là bọn ngốc, thì bọn chúng sẽ bị đại pháo của hải quân oanh tạc cho tơi tả.” Cuối cùng, Du Tiên Phong rút ra kết luận như vậy.

“Ta không cho rằng hải tặc Ca Âu là bọn ngốc, nếu không lúc đầu hạm đội bắc hải của đế quốc cũng không thua bi thảm như vậy, hơn nữa, đại khái cũng không có kẻ nào cảm giác được La Đế Áo Phỉ là kẻ ngốc, bất luận là ta nghe người ta nói hắn là một gã thiểu năng.” Lâm Tiên Phong cẩn thận nói, thần sắc có chút u ám.

Vốn là trong quân Lam Vũ có rất nhiều người, không có cảm tình gì đặc biệt đối với đế quốc Đường Xuyên, nhưng từ khi biết được Dương Túc Phong chính là con cháu cảu Đường Lãng, không khỏi có chút cảm giác xót xa ái ngại, nhớ ngày đó, Đường Lãng một tay xây dựng gia nghiệp, hùng mạnh ra sao, ai ngờ trong thời gian ba mươi năm ngắn ngủi đã bị tiêu tan toàn bộ, quả thực làm cho người khác phải đau lòng, mà hung thủ chủ yếu làm cho hạm đội bắc hải của đế quốc Đường Xuyên bị diệt vong, không còn nghi ngờ gì nữa đó chính là thủ lĩnh La Đế Áo Phỉ của hải tặc râu đỏ. 

Du Tiên Phong không còn lời gì để nói, cũng tìm không được đề tài, nhưng lại cũng không muốn ngủ. Hắn ngửa mặt gối đầu lên tảng đá lạnh như băng. Mở to hai mắt nhìn bầu trời đêm mênh mang, hắn đột nhiên phát hiện, nếu như dùng hết sức mở to hai mắt, vẫn có thể ngẫu nhiên nhìn thấy một hai ngôi sao le lói, chỉ có điều ánh sáng của chúng nó yếu ớt quá, chẳng hề có chút ảnh hưởng cải thiện gì với màn đêm bít bùng như mực này.

Đêm tối phi thường an tĩnh, nhưng luôn luôn làm cho người ta cảm giác được tựa hồ sẽ có chuyện gì đó sẽ phát sinh. Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong đều có chung cảm giác như vậy, nếu như muốn nói căn cứ vào thông tin gì để có phán đoán như vậy, thì bọn họ đều không thể giả thích, nhưng trong lòng bọn họ. quả thực là có cảm giác buổi tối nhất định sẽ có chuyện phát sinh, cho nên bọn họ đều nhắc nhở các chiến sĩ khác đề cao cảnh giác, sẵn sàng trận địa đón quân địch.

Biển Gia Lặc Tân vĩnh viễn không có trăng sáng, trời đất chỉ có một màu đen u tối, nhưng cũng không phải hoàn toàn đen kịt. Bởi vì vẫn có ánh sáng yếu ớt từ trên thuyền vận chuyển đóng vai trò như đèn hải đăng tạm thời. Nếu như thích ứng với cuộc sống không ánh sáng nơi đây thì ở trong loại bóng tối này vẫn có thể nhìn thấy một ít đồ vật này nọ, tỉ như xa xa có thể nhìn thấy bóng dáng thấp thoáng của một vài hòn đá lớn. Thậm chí có thể nhìn thấy cái bóng nhàn nhạt của hòn đá đang đổ bóng xuống bên cạnh, về phần tại sao lại có bóng mờ mờ đó, bọn họ cũng không giải thích được.

Đột nhiên. Một tiếng động rất nhỏ làm Du Tiên Phong bừng tỉnh, vốn là lúc hắn ngủ, lỗ tai hắn vừa vặn dán xuống mặt đất, thanh âm kia mặc dù vô cùng yếu ớt, nhưng vẫn làm kinh động hắn. Phát hiện cử chỉ của Du Tiên Phong, Lâm Từ Luật biết ngay có chuyện, bèn chăm chú lắng nghe. Quả nhiên nghe thấy tiếng bước chân phi thường yếu ớt, nói chính xác thì, đó không phải tiếng bước chân, mà là tiếng cát sỏi lạo xạo do bị nén xuống nên tụ lại một chỗ cọ xát nhau mà thành, tựa hồ có người rón rén từng bước chầm chậm đi tới trên mặt cát. Cước bộ rất nhẹ, nhưng mặt cát rất xốp không cách nào chịu được sức nặng của hắn. trong lúc cát cọ xát với nhau, phát ra tiếng động phi thường yếu ớt này.

“Xuỵt!” Du Tiên Phong làm một động tác ra hiệu chớ có lên tiếng, nhắc nhở Lâm Từ Luật không nên có hành động mạnh gây ồn, để tránh kinh động hải tặc Ca Âu. Mặc dù còn chưa thấy bóng dáng hải tặc Ca Âu, nhưng bọn họ đều suy đoán khẳng định là hải tặc Ca Âu đang lén lút phát động tập kích, giữa hải quân lục chiến Lam Vũ cùng hải tặc Ca Âu, chỉ có một bên có thể tồn tại ở đảo Kim Quy, đây là điều không hề nghi ngờ gì nữa.

Lâm Từ Luật gật đầu, lấy tay ra hiệu để nhắc nhở các chiến sĩ chung quan, các chiến sĩ hải quân lục chiến này cũng không dám nhắm mắt lại ngủ, thần kinh căng thẳng như dây đàn, nhắc nhở lẫn nhau, rất nhanh đã toàn bộ bước vào trạng thái chiến đấu. Quý Nhạn Bình cùng Triệu Chi Vũ đều là sĩ quan, lén lút bước tới các đống đá, kiểm tra hỏa lực chủ yếu, bảo đảm súng có thể phát huy uy lực lớn nhất, đồng thời kiểm tra ngòi nổ của địa lôi có sử dụng tốt được hay không.

Vài phút đồng hồ sau, trong ánh sáng phi thường yếu ớt, phía trước trận địa phòng ngự của hải quân lục chiến Lam Vũ, xuất hiện rất nhiều hải tặc Ca Âu, bọn họ đều mặc khố đỏ, không đi giầy, khom lưng, xách trường mâu hoặc búa, cẩn trọng giẫm lên mặt cát tiến lại đây. Lúc bọn họ đặt chân xuống, động tác đều phi thường rón rén sợ làm kinh động đến quân Lam Vũ. Rất hiển nhiên, nhóm hải tặc Ca Âu này muốn đánh lén hải quân lục chiến Lam Vũ, nhưng bọn chúng không biết, hiện tại bọn chúng, đã hoàn toàn bị vô số nòng súng đen ngòm đang nhắm ngay thân mình. Ở vị trí trung tâm giữa nhóm hải tặc Ca Âu, có một tên hải tặc vóc người đặc biệt cao lớn, cao đến hơn hai thước, vóc người vạm vỡ quả thực gần như gấp đôi thân hình của Du Tiên Phong, trong thứ ánh sáng le lói yếu ớt, tựa hồ vẫn có thể nhìn thấy rõ khuôn mặt dữ tợn của hắn, còn có cây búa đang ánh lên ánh thép xanh rợn người trong tay của hắn, xung quanh lưỡi búa này còn được cẩn những thứ lấp lánh như kim cương đá quý hay đại loại thế, trong đêm đen mơ hồ lóe lên ánh sáng lấp lánh. Trong tổ chức của hải tặc Ca Âu, gã hải tặc to con uy mãnh dường như luôn có thể có chức vị tương đối cao, trong cách dàn quân của bọn hải tặc Ca Âu trong đợt tiến công này cho thấy, hắn hiển nhiên cũng là người chỉ huy trong đó.

Du Tiên Phong nâng súng ngang ngực, len lén nhắm ngay tên hải tặc Ca Âu to con này, lẳng lặng chờ đợi Lâm Từ Luật ra lệnh, đối với mục tiêu khổng lồ như vậy, muốn bắn trúng thật sự rất dễ dàng. Lâm Từ Luật tỉnh táo đợi đám hải tặc Ca Âu kia tiến vào tầm bắn trong vòng sáu mươi thước, mới quả quyết hạ lệnh bắn.

Pằng!

Du Tiên Phong không chút do dự giành lấy phát đạn đầu tiên, vừa bóp cò súng, đạn đã gào thét phóng đi, găm ngay giữa trán gã hải tặc to con kia một lỗ thủng, máu từ lỗ đạn bắn vọt ra tung tóe như một đóa hoa tuyết màu máu rực rỡ giữa bóng đêm, gã hải tặc Ca Âu có thân thể cường tráng nhất ấy có chút chấn động, y choáng váng ngửa mặt lên trời rồi ngã xuống, nhưng dù sao thân thể của hắn vẫn rất lớn rất giữ thăng bằng, mặc dù đã chết ngay tại chỗ, nhưng vẫn chưa có ầm ầm ngã chổng vó xuống đất. Ở trong thời gian một giây đồng hồ ngắn ngủi, còn có sáu viên đạn khác lần lượt găm vào trán và lồng ngực hắn, bắn tung tóe thành một chuỗi hoa máu. Rất hiển nhiên, trừ Du Tiên Phong ra, còn có ít nhất sáu chiến sĩ hải quân lục chiến ngắm bắn hắn.

Tên thủ lĩnh hải tặc bị bắn trúng vào chỗ hiểm nên ngay lập tức gục xuống tại chỗ, thi thể hắn đập xuống nền cát làm bụi văng tung tóe, bọn hải tặc Ca Âu còn lại phát giác hành tung của mình đã bị đội hải quân lục chiến Lam Vũ phát hiện, lập tức tiến đến nhanh hơn, trong bóng đêm bọn chúng phát ra từng đợt hò hét làm người khác phải sợ hãi, sau đó vọt nhanh tới, các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ dốc toàn lực ứng phó để tiến hành đánh trả, mưa bom bão đạn dày đặc đã hoàn toàn ngăn chặn bước tiến của chúng. bọn hải tặc Ca âu ngã xuống từng lớp như ngả rạ.

Tiếng súng nhanh chóng làm bừng tỉnh các chiến sĩ ở các đơn vị hải quân lục chiến Lam Vũ khác, bọn họ rất nhanh phát hiện bên này đang chiến đấu kịch liệt, dưới sự điều động của A Ba Đốn, có hơn một trăm chiến sĩ hải quân lục chiến sung sức lập tức chạy tới tăng viện cho đội đột kích Bạo Hùng. hỏa lực của đội đột kích Bạo Hùng vốn đã phi thường hung mãnh, giờ lại có quân lính sung sức hỗ trợ. Hỏa lực càng thêm mãnh liệt, lập tức đánh cho hải tặc Ca Âu phải tè ra quần, kêu thảm thiết không thôi.

Sau hơn mười giây đồng hồ. bách kích pháo của đội hải quân lục chiến Lam Vũ cũng tham gia cuộc chiến, đạn pháo nã liên hồi vào giữa bọn hải tặc Ca Âu còn sót lại, nổ bùng lên thành những quầng sáng chói mắt. đạn của bách kích pháo nổ mạnh.

Chẳng những tiêu diệt rất nhiều hải tặc Ca Âu, mà quan trọng hơn là khi phát nổ nó phát ra ánh sáng như mặt trời, có thể giúp thấy rõ tình hình của bọn hải tặc Ca Âu đang lén lút tiến công, giúp cho bọn Lâm Từ Luật có thể quan sát càng thêm rõ ràng. Quân Lam Vũ còn chưa phát minh được pháo sáng hoặc súng tầm nhiệt, khi bắn trong bóng đêm hoàn toàn dựa theo cảm giác của bản thân xạ thủ, đương nhiên có xác xuất bắn trật mục tiêu rất cao, khi có ánh sáng từ bách kích. Là có thể đủ để nhanh chóng điều chỉnh thành tầm bắn chính xác.

Dường như lúc Du Tiên Phong bắn phát đầu tiên, đội đột kích Bạo Hùng cũng đồng loạt nổ súng, bọn hải tặc Ca Âu đang hùng hổ xông lên phía trước này, giống như bị va phải bọn quỷ hút máu vô hình, đều đột nhiên có những động tác kì quái. Sau đó lẳng lặng ngã xuống. Bởi vì súng bạo phong vũ bắn ra tốc độ thật sự quá nhanh, nhiều hải tặc Ca Âu đều bị trúng đạn khắp mình. Trong khoảng cách như vậy, uy lực của đạn quá mạnh, chẳng những trực tiếp cướp đi tính mạng bọn họ, thậm chí xé toạc thân thể của bọn họ, nhiều hải tặc Ca Âu bị trúng đạn vào đầu. Đều vỡ đầu óc bay tung tóe, nhìn vô cùng kinh khủng, nhưng bóng đêm đen kịt đã góp phần che giấu hết thảy.

Số hải tặc Ca Âu tiến tới đều rơi rụng hàng loạt, rất nhanh đã đánh mất hai phần ba binh lực, số hải tặc Ca Âu còn lại cứ ngẩn tò te, tựa hồ không biết là nên tiếp tục tiến lên hay là lui về phía sau, nhưng theo tiếng rống của một tên thủ lĩnh, bọn hải tặc Ca Âu này không lui lại, mà tiếp tục ương ngạnh lao về phía trước, như thể tiếng gầm của tên thủ lĩnh hải tặc đã vẽ nên một tương lai tươi sáng cho bọn chúng tiếp tục nỗ lực. 

Du Tiên Phong giương súng Mitch lên, muốn bắn một phát giết chết tên thủ lĩnh hải tặc kia, nhưng động tác của hắn hơi chậm, nòng súng của hắn vừa mới chuyển dời đến giữa trán tên thủ lĩnh hải tặc kia, thì đã phát giác ngay giữa trán hắn đã thủng một lỗ, máu tươi văng ra tung tóe, sau đó không kịp rên một tiếng đã ngã quỵ xuống mặt đất, bọn hải tặc Ca Âu sau lưng hắn không kịp dừng bước, theo quán tính đạp một phát giẫm bẹp hắn vào trong mặt đất.

Tiếc nuối buông ngón tay đang đặt nơi cò súng ra, Du Tiên Phong lạnh lùng quan sát bọn hải tặc Ca Âu còn sót lại, xem có còn mục tiêu có giá trị nào nữa hay không, kết quả hắn rất nhanh đã hoàn toàn thất vọng. số hải tặc Ca Âu đến đây tập kích, ước chừng có sáu bảy trăm tên, dưới hỏa lực mãnh liệt của hải quân lục chiến Lam Vũ không tới một phút đồng hồ đã chết hết một phần ba, tiếp theo lại có tiếp một phần ba ngã xuống dưới uy lực của hỏa pháo, hiện tại còn sót lại không tới một trăm người, hơn nữa, số hải tặc Ca Âu còn sót lại không tới một trăm tên cũng bị hàng rào thép gai của hải quân lục chiến Lam Vũ dựng lên tạm thời ngăn cản toàn bộ, bọn họ chen chúc bên ngoài hàng rào, không có cách nào xuyên qua hàng rào để tiến hành công kích, hoài công vô ích trở thành bia ngắm bắn tự do cho các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ.

Quả nhiên, đối mặt với hải tặc Ca Âu đang bị hàng rào thép gai ngăn trở, hải quân lục chiến Lam Vũ nắm bắt cơ hội tốt, các loại vũ khí đều nhằm thẳng về hướng đó mà nã đạn, bách kích không ngừng phóng ra, súng cũng rà từng đợt liên hồi kỳ trận, không tới hai mươi giây đồng hồ, phía trước hàng rào, không còn thấy bóng sáng hải tặc Ca Âu nữa, vô số thi thể hải tặc Ca Âu mắc vào hàng rào tòng teng, trong tiếng súng ác liệt vẫn có thể nghe được rõ ràng tiếng máu chảy tong tong từ trên người bọn chúng đang rỏ xuống.

Song, trong khi giao chiến kịch liệt, ngẫu nhiên cũng có trường mâu từ bên hải tặc Ca Âu phóng vào trận địa phòng ngự của đội hải quân lục chiến Lam Vũ bởi vì hàng rào thép gai cách phòng ngự trận địa của quân Lam Vũ không đầy ba mươi thước, vừa vặn vây bọc trong phạm vi trường mâu của hải tặc Ca Âu có thể tiếp nhận, đối với loại vũ khí nặng từ trên trời giáng xuống này, các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ cũng không có biện pháp tốt để đối phó, trừ phi cương khôi có thể ngăn cản trường mâu, nếu không nhất định là không chết cũng trọng thương nguy hiểm đến tính mệnh, không lâu sau có mấy chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ bị thương hoặc hy sinh vì nguyên nhân đó.

Vũ Văn Nghiệt bởi vì bị tiêu thương đâm trúng, nên được gấp rút đưa vào bệnh viện dã chiến, căn cứ vào lời thầy thuốc nói, hắn cần ít nhất thời gian nửa năm mới có thể hoàn toàn cử động bình thường trở lại, còn về phần còn có thể đảm đương khối lượng công việc nặng nề của bộ đội đặc chủng đội lục chiến như vậy hay không, thì vẫn còn chưa biết, bởi vậy có thể tưởng tượng mức lợi hại của loại trường mâu nhanh không chớp mắt này. Loại trường mâu tiêu thương này thoạt nhìn rất không thu hút, nhưng khi được nắm giữ trong tay hải tặc Ca Âu, lại thật sự có thể uy hiếp tính mạng con người. mặc dù Đặc Lan Khắc Tư cùng phụ thân khi còn sống không hợp nhau mấy, nhưng đôi lúc ngẫu nhiên cũng nghe phụ thân nói qua sự lợi hại của trường mâu hải tặc Ca Âu, liên tục nhắc nhở các chiến sĩ phải chú ý, nhưng trong lúc kịch chiến, bản lĩnh phóng trường mâu thuần thục của hải tặc Ca Âu vẫn gây ra thương vong nhất định của quân Lam Vũ.

Trong lúc tiến công hải tặc Ca Âu, không ngừng phát ra tiếng kêu kì quái, tiếng kêu của bọn chúng phi thường quái dị, tựa hồ không phải tiếng kêu của con người, nhưng bọn họ thoạt nhìn lại rõ ràng là hình dáng con người, tối thiểu thì bên ngoài cũng chẳng khác nhau mấy so với loài người, quả thực làm cho Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong trong lòng đều hồ nghi mãi không thôi, nhưng với trí lực của bọn họ, hoàn toàn không thể giải thích được.

Trong truyền thuyết xa xưa kể lại, hải tặc Ca Âu đến từ đại lục Ai La Phật xa xôi, nhưng bọn họ cũng không phải là bộ tộc nguyên thủy sinh sống trên đại lục Ai La Phật, mà là sinh sống ở trên biển gần đại lục Ai La Phật, mà trên đại lục Ai La Phật đều là những người man rợ còn chưa hoàn toàn tiến hóa, nghe nói năng lực bọn họ nếu so với hải tặc Ca Âu càng thêm cường hãn, nhưng trình độ văn minh của bọn họ lại vô cùng lạc hậu, bọn họ thậm chí không có chữ viết của chính mình, chỉ có thứ ngôn ngữ riêng mà người ngoài không cách nào giải thích được.

Bách kích pháo không ngừng gào thét rơi vào hàng ngũ hải tặc Ca Âu, phát ra tiếng vang vô cùng kịch liệt, nhưng vẫn không cách nào hoàn toàn át đi tiếng hú chẳng khác nào tiếng hú dã thú của hải tặc Ca Âu, loại tiếng hú này khi rống lên một tiếng, nghe vừa bi thảm vừa chói tai, tựa hồ có thể gây chấn động thần kinh con người. Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong đều không tự kìm hãm được sinh ra sự hoài nghi như nhau: Rốt cục hải tặc Ca Âu có phải là người hay không?

Nhìn bọn hải tặc Ca Âu đã bị đánh cho tơi bời hoa lá, Du Tiên Phong tò mò hỏi:“Ngươi có hiểu bọn chúng đang gầm rú cái gì không?”

Triệu Chi Vũ vắt óc suy nghĩ một chút, nghiêm trang nói:“Cho chúng ta năm trăm kim tệ một người để mua một con đường sống......”

Quý Nhạn Bình chẳng muốn động đầu óc, không nhịn được nói:“Lát nữa chúng ta đi tới bắt lấy hai tên hỏi vài câu chẳng phải sẽ biết hay sao?”

Du Tiên Phong gật đầu khen chí phải:“Có lý, ta đi bắt......”

Lời còn chưa dứt, thì hắn đã trợn tròn mắt, thì ra, bọn họ có muốn bắt cũng không còn kịp nữa, toàn bộ hải tặc Ca Âu đã bị tiêu diệt. gã hải tặc Ca Âu cuối cùng đã bị Lâm Từ Luật bắn một phát chết tươi.

Lâm Từ Luật lui lại phía sau một đống đá, âm thầm không một tiếng động bóp cò súng, chẳng khác nào đang tập bắn súng trong trường bắn, nhìn thấy kết quả mười một phát súng bắn chết chín tên hải tặc Ca Âu cảm thấy vô cùng chán nản, hắn cho rằng mình còn có thể bắn tốt hơn thế nữa. Trận chiến lúc nửa đêm không phải quá sức kịch liệt. số hải tặc Ca Âu tham dự tiến công cũng không nhiều, nhưng, bọn chúng đến. đã rung lên một hồi chuông cảnh báo cho đội hải quân lục chiến Lam Vũ, đại bộ phận quan quân hải quân lục chiến Lam Vũ, tựa hồ đều cảm giác được sau nửa đêm. Hải tặc Ca Âu có thể sẽ có hành động quyết liệt hơn hơn nữa. Đặc Y Khắc Tư cùng Hoàn Nhan Phi Ưng cũng cảm giác được như vậy, không có nguyên nhân gì đặc biệt, mà chỉ thuần túy là một loại trực giác, trực giác cảm giác được hải tặc Ca Âu khó có khả năng chịu khoanh tay chờ chết ở trên đảo, bọn chúng khẳng định còn muốn hành động liều lĩnh gì đó.

Du Tiên Phong một thân một mình rón rén bước đến đống thi thể hải tặc Ca Âu đang ngổn ngang, nghiên cứu vấn đề vĩ đại mà hắn đang thắc mắc, rốt cục hải tặc Ca Âu có phải là người hay không, nhưng không có bất cứ thu hoạch gì. Không hề nghi ngờ gì nữa, hải tặc Ca Âu quả thực là người, cho dù hắn không cách nào giải thích thứ ngôn ngữ kỳ quặc của bọn họ. dưới sự thất vọng tràn trề, hắn tiện tay xách luôn cây búa khổng lồ mang về, bởi vì những viên kim cương khảm trên bề mặt quá thu hút. Tuy nhiên, đối mặt với cây búa nồng nặc sát khí lạnh người này. Bọn Triệu Chi Vũ lén lút nuốt nước miếng, bọn họ không dám tưởng tượng, nếu như chính mình bị cây búa này chém trúng thì sẽ có hậu quả gì, có lẽ sẽ lập tức đứt ra làm đôi.

Cả đội hải quân lục chiến Lam Vũ nơi tiền tuyến đều trở nên vô cùng khẩn trương, vũ khí đạn dược vừa mới tháo dỡ trên bến tàu, đã được Hoàn Nhan Phi Ưng hạ lệnh chuyển ngay đến tiền tuyến với tốc độ nhanh nhất, số đạn dược này bao gồm đạn súng và thủ lưu đạn, còn có thêm địa lôi dùng để phá đường và thuốc nổ. Hoàn Nhan Phi Ưng tự mình cùng mấy người trung đoàn trưởng, đại đội trưởng bàn bạc với nhau, chuẩn bị tốt cho trận chiến đêm nay, tất cả chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ, đều được thông báo những điểm cần chú ý khi chiến đấu ban đêm, điều quan trọng nhất chính là, dù bất cứ lúc nào, bất cứ chuyện gì xảy ra cũng không được phép rời khỏi trận địa của mình, nếu không sẽ bị đồng chí ngộ thương hoặc thậm chí bắn chết.

Dường như cảm nhận được không khí căng thẳng, tự bản thân của Hoàn Nhan Phi Ưng cũng tự mình đi tới tiền tuyến, cực kỳ lưu ý đến động tĩnh của hải tặc Ca Âu. Để phòng ngừa hải tặc Ca Âu đánh lén không ai hay biết, Hoàn Nhan Phi Ưng phân công một đơn vị thính tai chuyên môn nghe ngóng động tĩnh, áp lỗ tai xuống mặt đất, biết trước hải tặc Ca Âu đến, đây là biện pháp rất ngốc nghếch, nhưng cũng là biện pháp rất có hiệu quả.

Mặt trăng vừa mới lén lút nhô đầu ra, nhưng rất nhanh đã rụt trở về, bầu trời vẫn đen như mực, khắp nơi đều là một màu đen u tối, chỉ có một vầng sáng nhạt nhòa, tựa hồ những ai đã quen với bóng đêm cũng có thể nhìn loáng thoáng thấy vật thể xa xa. Rải rác xung quanh có mấy hòn đá khổng lồ, trong bóng đêm trở nên vô cùng dữ tợn, thoạt nhìn chẳng khác nào mấy pho tượng la hán trong chùa, do những ngọn đèn từ ngoài khơi lay động không ngừng kéo theo ánh sáng chập chờn, cho nên bóng của mấy hòn đá cũng là chập chờn, thoạt nhìn cứ như đang cử động vô cùng sống động.

Rất nhiều chiến sĩ hải quân lục chiến sau khi đã trải qua một thời gian dài lênh đênh trên biển, đều vô cùng mệt mỏi, nhưng lúc này vẫn không dám có chút lơ là, có một vài người buồn ngủ quá chỉ muốn đánh một giấc, đều lấy mũi đao lén lút đâm vào đầu ngón tay tay của mình, để cái đau xóa tan cơn buồn ngủ, thậm chí có người còn cố ý lấy mũi đao rạch mấy nhát trên mặt mình, Quý Nhạn Bình chính là như thế, máu tươi theo mũi đao chậm rãi rỏ xuống, cứ từng giọt từng giọt tí tách vào trong lớp đá sỏi khô cằn, người bên ngoài nhìn thấy mà giật bắn mình, nhưng bản thân hắn lại chẳng hề cau mày chút nào.

Quả nhiên, đến rạng sáng đúng bốn giờ, hải tặc Ca Âu lại phát động cuộc đánh lén đại quy mô. Khi tiếng súng bắt đầu vang lên, Du Tiên Phong vừa mới bừng tỉnh sau giấc ngủ say, mở mắt vừa nhìn, đột nhiên phát giác, trước mắt mình, cơ hồ toàn bộ đều là bóng dáng hải tặc Ca Âu trùng trùng điệp điệp. Thậm chí mắt thường cũng có thể nhìn rõ những mũi trường mâu đen xì nhọn hoắt đang lao đến hướng mình như vũ bão, không cần nghĩ ngợi, hắn liên tục bóp cò như một phản xạ vô điều kiện.

Bọn hải tặc Ca Âu vẫn như lần trước cứ chân không, lặng lẽ mà ào đến, hơn nữa toàn bộ đều thay đổi trang bị một loạt trường mâu dài chừng một thước, chỉ có một số rất ít thủ lĩnh hải tặc là trong tay cầm búa nặng, hiển nhiên có khả năng gây sát thương cho đội hải quân lục chiến Lam Vũ trong khoảng cách ngắn. Du Tiên Phong hai mắt mờ mờ, nhìn không rõ khuôn mặt bọn họ, nhưng có thể rõ ràng cảm giác được sát khí nồng nặc lạnh như băng của bọn chúng.

Hai phát súng tín hiệu bắn ra vào không trung kêu rít lên, tỏa ra thứ ánh sáng chói lòa. Khắp nơi rực sáng lên như ban ngày. Bọn hải tặc Ca Âu tựa hồ cũng bị thứ ánh sáng rực rỡ trên đỉnh đầu thu hút, có vài tên không nhịn được ngẩng đầu lên ngó thử, nhưng phần đông trong số bọn chúng vẫn tiếp tục lao đầu về phía trước duy trì tư thế chiến đấu. Bọn chúng nhất loạt giơ cao trường mâu, thân mình nghiêng về phía sau lấy đà, sau đó ra sức phóng về phía trước, trường mâu mang theo tiếng thét của thần chết. Xẹt qua bầu trời đêm, nhưng do bọn chúng còn cách quá xa, nên phần lớn trường mâu đều rơi vào phía trước trận địa của đội hải quân lục chiến Lam Vũ.

Các chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ đang ở trong trận địa sẵn sàng nghênh đón quân địch, lúc này mói nhanh chóng bắt tay vào phát động hỏa lực. lúc khoảng cách đã thu hẹp còn một trăm thước, Hoàn Nhan Phi Ưng bèn ra lệnh khai hỏa, bởi vì nếu như tiến vào khoảng cách một trăm thước. tiêu thương của hải tặc Ca Âu cùng trường mâu sẽ gây thương tổn rất lớn cho quân Lam Vũ. Dưới hàng loạt hỏa lực của hải quân lục chiến Lam Vũ ập đến, số hải tặc Ca Âu dẫn đầu nhất thời hoàn toàn bị át chế, máu tươi đã thấm ướt hoàn toàn mặt đất đang khô cằn.

Súng và bách kích pháo của đội hải quân lục chiến Lam Vũ đều khạc đạn như điên loạn, trong đêm đen khắp nơi đều là ánh lửa từ nòng súng phun ra không ngừng, tiếng pháo đạn đã dày đặc đến mức hoàn toàn không có cách nào xác định phóng ra từ phương hướng, chỉ còn cảm thấy mơ hồ dường như đã đan xen thành một loạt. Truyện "Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Du Tiên Phong cảm giác được chính mình hình như đang lạc vào một sân khấu tuồng náo nhiệt nhất, khắp nơi đều là tiếng thanh la, não bẹt tùng xèng liên hồi kỳ trận . Hoàn toàn không có cách nào khống chế được thính giác của chính mình, cuối cùng thậm chí còn mơ hồ mất đi khả năng thính giác, màng tai đều chỉ còn một tiếng ong ong hỗn loạn.

Một đoàn hải tặc Ca Âu đông như kiến cỏ đang ùn ùn lao tới, lập tức bị hỏa lực dày đặc bao trùm toàn bộ, rất nhiều người kêu lên thảm thiết rồi ngã xuống. Sau đó bị giẫm đạp tới chết. Bất luận hải tặc Ca Âu có phải là người hay không, cũng không nói về ý chí của bọn họ kiên cường đến cỡ nào. Mà khi bọn chúng bị đạn bắn trúng, bọn họ vẫn theo bản năng phát ra tiếng kêu thảm thiết, tiếng kêu rú của bọn chúng, cũng vô cùng quái dị, chẳng khác nào tiếng con cá voi chẳng may bị mắc cạn trên bờ cát, bất lực rống lên những tiếng kêu kiêu hãnh mà ngập tràn chua xót.

Một bộ phận hải tặc Ca Âu phóng trường mâu thành công, trường mâu vẽ thành một đường vòng cung hoàn hảo, sau đó lũ lượt hạ xuống do đã bay hết trớn, phần lớn trường mâu cùng tiêu thương đều rơi vào phía trước trận địa phòng ngự của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, nhưng, cũng có một số tiêu thương cùng trường mâu rơi đúng vào trận địa của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, ngẫu nhiên làm cho một vài chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ bị thương hoặc hy sinh, đối với thứ vũ khí sắc bén và nặng nề này, quân Lam Vũ chỉ có thể khẩn cầu ông trời phù hộ độ trì tai qua nạn khỏi mà thôi.

Đối mặt với bọn hải tặc Ca Âu đông đen như kiến cỏ như vậy, Hoàn Nhan Phi Ưng thông qua vô tuyến điện báo kêu gọi hạm đội hải quân cũng tham gia chiến đấu, trước đó, hắn đã bàn bạc cùng Đặc Lan Khắc Tư cũng như Trát Lan Đinh, lúc cần thiết, phải cho chiến hạm Long Nha của hải quân trực tiếp dùng hỏa lực trợ giúp. Hiện tại, chính là lúc thỉnh cầu hạm pháo hải quân phát huy uy lực. Đặc Y Khắc Tư cùng Trát Lan Đinh nghe thấy tiếng súng đì đùng trên đảo, nên đã chuẩn bị tinh thần, nhận được thỉnh cầu từ Hoàn Nhan Phi Ưng, lập tức hạ lệnh khai pháo. 

Đùng đùng đùng......

chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ khạc ra từng đợt đạn pháo như phẫn nộ, pháo đạn xẹt qua bầu trời đen kịt, trực tiếp rơi vào vị trí đã dự tính trước, vị trí này, vừa vặn là vị trí của phân nửa số hải tặc Ca Âu đang đi sau, bọn hải tặc Ca Âu này đang ùn ùn lao tới, dưới hạm pháo oanh kích, đều tan tành xác pháo, trong từng quầng sáng lóa lên chói chang, hàng loạt thi thể người và trường mâu bị nổ thành từng mảnh vụn, bốn phía đều tan tành tro bụi, mấy tảng đá lớn nằm la liệt kia, cũng bị pháo đạn mãnh liệt nổ cho vỡ vụn ra, càng làm gia tăng lực sát thương.

Pháo đạn nổ mạnh tạo ra quầng sáng đỏ tực cả chiến trường, cũng giúp cho các chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ nơi tiền tuyến càng nhìn rõ mục tiêu đã được chỉ thị, bọn họ chỉ cần nã súng về phía quầng sáng chói lòa đó, là đã có thể thành công chế ngự thế tiến công mãnh liệt của hải tặc Ca Âu. Trong bóng đêm, song phương đều không thể thấy rõ mặt đối phương, nhưng không hề nghi ngờ gì nữa, đây chính là một trận chiến tàn khốc một mất một còn, ngươi chết ta sống và ngược lại, song phương tựa hồ cũng có thể cảm nhận được trống ngực đang đập thình thịch cũng như tiếng nghiến răng kèn kẹn đầy căm hận của đối phương.

không thể nghi ngờ gì nữa hạm pháo của hải quân Lam Vũ nếu so với bách kích pháo của hải quân lục chiến thì còn có uy lực lớn hơn nhiều, mỗi một phát pháo đạn hạ xuống, đều làm cho vài tên thậm chí là mười mấy tên hải tặc Ca Âu phải bị tan xương nát thịt, hơn nữa bởi vì sóng biển va đập gây ảnh hưởng, nên hạm pháo hải quân Lam Vũ bắn ra không được chuẩn xác trăm phần trăm, cho nên, hoàn toàn không có quy luật nào cả, cho dù hải tặc Ca Âu hải tặc vốn nổi danh cơ trí, muốn sử dụng trí thông minh của chính mình để tránh né pháo đạn của hải quân Lam Vũ . Cũng hoàn toàn vô ích, bất luận bọn họ ẩn núp ở đâu, đều có pháo bắn bất ngờ rơi xuống. 

Ầm ầm đùng......

Trong thời gian vài phút đồng hồ ngắn ngủn, mức độ tổn thất mà hạm pháo hải quân Lam Vũ đã gây nên cho hải tặc Ca Âu đã vượt xa so với tổn thất mà đội hải quân lục chiến Lam Vũ gây cho hải tặc Ca Âu, phân nửa đội ngũ hải tặc Ca Âu ở phía sau hoàn toàn bị chặt đứt, còn bộ phận phía trước, lại phải hứng chịu sự chống đỡ liều mạng của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, vì vậy bọn họ tiến thối lưỡng nan, không biết làm sao. số hải tặc Ca Âu may mắn còn sống, theo bản năng cứ cố sống cố chết lao về phía trước. Lại bị hàng rào thép gai của đội hải quân lục chiến Lam Vũ ngăn trở, lần lượt ngã xuống trước hàng rào.

Hàng rào kẽm gai này, cuối cùng bị thi thể của hải tặc Ca Âu đè lên làm sụp xuống hoàn toàn, số hải tặc Ca Âu phía sau tàn nhẫn đạp lên đống xương thịt bầy nhầy của đồng đảng, tiếp tục hướng về phía đội hải quân lục chiến Lam Vũ mà phát động công kích. Nhưng quân số bên bọn họ, rõ ràng đã đã sụt giảm đi rất nhiều, cũng không cách nào tạo nên uy hiếp đối với đội hải quân lục chiến Lam Vũ nữa. Một đám đông rất nhanh đã biến mất.

“Bọn họ phát động tiến công có lẽ là tập kích mang tính tự sát chăng?” Triệu Chi Vũ lẩm bẩm như thể đang thắc mắc với ai. Trong cách nhìn của hắn, hải tặc Ca Âu công kích đương nhiên là phi thường mạnh mẽ và anh dũng, nhưng tựa hồ không có hiệu quả gì mấy. Bọn họ sử dụng trường mâu mặc dù mạnh mẽ, nhưng đối mặt với mưa bom bão đạn của quân Lam Vũ, cũng chỉ có cách trơ mình chịu bắn, có lẽ đây là tính cách của hải tặc râu đỏ, bọn họ cho dù chết, cũng muốn chết cho oanh oanh liệt liệt.

Đáng tiếc, không có người trả lời hắn. Bởi vì chưa người nào nguyện ý tự hỏi vấn đề này.

Hải tặc Ca Âu ở đằng xa cũng bị hạm pháo hải quân Lam Vũ đánh cho tơi bời hoa lá, kết cục toàn quân bị diệt đang sờ sờ trước mắt, thì đúng vào lúc này, từ phía sau lưng đội hải quân lục chiến Lam Vũ truyền đến tiếng cảnh báo bén nhọn mà dồn dập. Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong nhìn lại, chỉ nhìn thấy ở ngoài khơi đột nhiên xuất hiện rất đông chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu. Trong lúc nhất thời không cách nào đếm được số lượng chính xác, nhưng ít nhất cũng có hai đến ba trăm chiến hạm. Tại trong bóng tối đen kịt che chắn. số chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này xuất hiện, có vẻ hết sức mờ ám, giống như là từ dưới địa ngục thình lình xuất hiện vậy.

Điều khiến cho Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong cảm thấy vô cùng lo lắng chính là, ở này giữa số chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao đang ùn ùn đi tới, cư nhiên còn có ba chiến liệt hạm kiên cố khổng lồ, tải trọng ít nhất phải vượt qua hai ngàn năm trăm tấn, cho dù tại tầm nhìn rất thấp ngoài khơi xa, cũng có thể nhìn thấy rõ ràng hình dáng của khổng lồ của chúng nó. Theo hiểu biết của bọn họ đối với hải tặc Ca Âu, có ba chiến liệt hạm khổng lồ như vậy xuất hiện, khẳng định là có thủ lĩnh hải tặc tự mình xuất trận, có lẽ, là lão đại La Đế Áo Phỉ hải tặc râu đỏ tự mình ra tay.

Chiến hạm Long Nha hải quân Lam Vũ p hụ trách tuần tra ngoài khơi rất nhanh đã phát hiện số chiến hạm hải tặc Ca Âu thình lình xuất hiện này, lập tức triển khai phản kích, trong tiếng pháo ù ù, một bộ phận chiến hạm Long Nha bắt đầu điều chỉnh hàng ngũ, chuẩn bị nghênh kích chiến hạm hải tặc Ca Âu, mà những con tàu vận chuyển, thì dựa theo kế hoạch trước, đều gia tăng tốc độ hướng về phía bờ biển đảo Kim Quy cập bờ, thoát khỏi sự quấy nhiễu từ chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu.

“Mẹ kiếp!” qua ống dòm nhìn thấy tình trạng ngoài biển, A Ba Đốn không nhịn được buột miệng chửi thề một câu.

Đã không có hỏa pháo từ hải quân Lam Vũ bao phủ, số hải tặc Ca Âu này nhất định sẽ càng thêm khó gặm, hải tặc Ca Âu ở trên đất bằng cùng bọn ở trên mặt biển, phối hợp với nhau, quả thực là một liều thuốc kích thích tinh thần mạnh mẽ, càng thêm kích thích tinh thần chiến đấu của bọn chúng, mà hải quân Lam Vũ, bởi vì muốn bảo vệ số lượng thuyền vận chuyển khá đông, cho nên cũng không có năng lực tiếp tục trợ giúp cuộc chiến đang diễn ra trên đảo, đội hải quân lục chiến Lam Vũ lần này chỉ còn biết hoàn toàn dựa vào khả năng của chính mình mà thôi.

Quả nhiên, đối mặt với đông đảo chiến hạm hải tặc Ca Âu xuất hiện, hạm đội hải quân Lam Vũ không thể không điều động phần lớn chiến hạm Long Nha tiến hành nghênh chiến, Đặc Lan Khắc Tư rất nhanh điều chỉnh bố trí, chủ lực của hạm đội Phất Lai Triệt cùng hạm đội Trát Lan Đinh đều tham dự hải chiến, không còn chiến hạm Long Nha nào có thể rảnh rang để lấy hỏa pháo hỗ trợ cho đội hải quân lục chiến Lam Vũ trên đảo Kim quy. 

Ngay lúc đó, những tên hải tặc Ca Âu bị hỏa pháo hải quân Lam Vũ ngăn chặn, nhất thời trở nên tích cực lạ lùng, một lần nữa bọn chúng lại phát ra tiếng thét làm người khác không cách nào giải thích được, giẫm đạp lên hàng loạt thi thể đồng đội đang chất đống, tiếp tục hướng tới trận địa đội hải quân lục chiến Lam Vũ phát động công kích, trong bóng đêm, bọn họ mỗi người đều xăm mình vằn vện tựa hồ phát sáng lên dữ tợn.

Pằng pằng pằng......

Đội hải quân lục chiến Lam Vũ phản kích đương nhiên sẽ không yếu thế, nòng súng của các khẩu súng bạo phong vũ đều nóng đến đỏ rực lên, có tay súng xé toạc vội quần áo từ thi thể hải tặc Ca Âu bên cạnh quấn lấy hai tay của mình thật chặt rồi trực tiếp nắm lấy nòng súng đang đỏ lên vặn ra lắp nòng mới vào, có người thì tháo mũ cối móc nước biển lên. Trực tiếp đổ ào nước lên nóng súng đang đỏ rực lên bỏng giẫy, hơi nước lập tức bốc lên cuồn cuộn không ngừng, sau đó nòng súng lại tiếp tục bắt đầu khai hỏa.

Lần đổ bộ này đội hải quân lục chiến Lam Vũ, đã tổng hợp kinh nghiệm nhiều lần đổ bộ trước kia, cho nên ở phương diện sắp đặt vật tư cùng chuyển tích lũy rất nhiều kinh nghiệm, đội hải quân lục chiến Lam Vũ tạm thời không thiếu đạn dược, nên đã không còn hỏa pháo hải quân che chở, bọn họ chỉ cố ra sức đem toàn bộ số đạn dược trút lên hải tặc Ca Âu. Không thông cảm, không thương xót, thậm chí không có...chút xíu u buồn. Đây là một cuộc chiến chính thức một mất một còn, ngay cả Du Tiên Phong cũng cảm giác được môi của mình bị xót, thì ra là do vô thức đã cắn chặt môi đến bật máu.

Bọn hải tặc Ca Âu đang hò hét lao tới, dưới hỏa lực mãnh liệt của quân Lam Vũ đều bị dính đạn, chết như ngả rạ. Bọn chúng mặc dù dũng mãnh hơn người, nhưng bọn họ dù sao cũng chỉ là người trần mắt thịt không phải sắt thép, đối mặt với đạn bắn đến với tốc độ cao. Khó có khả năng không bị trúng thương, đạn bắn thủng đầu bọn chúng, bắn thủng ngực bọn chúng. Bọn chúng chỉ còn biết bất lực ngã xuống. Song, vẫn có một số hiếm hoi hải tặc Ca Âu dựa vào sức mạnh của bản thân và cũng nhờ gặp may nên xuyên qua được màn hỏa lực dày đặc của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, xông vô được chiến hào của đội hải quân lục chiến Lam Vũ.

Một nhát búa của hải tặc Ca Âu vừa chém xuống, tức thì có một chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ bị chém bay mất đầu, máu tươi bắn ra tung tóe, nhưng gã hải tặc Ca Âu kia cũng bị một chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đâm một nhát chí mạng xuyên qua ngực. Bởi vì chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ kia lấy hết sức bình sinh, nên cơ hồ ngay cả nòng súng cũng muốn xuyên thủng ngực tên hải tặc Ca Âu, nhưng y vẫn lo lắng, thuận tay rút ra lưỡi lê của lính dù, một đao cắt đứt động mạch chủ nơi yết hầu của tên hải tặc Ca Âu. Máu tươi càng phun ra mãnh liệt, gã hải tặc Ca Âu kia nhất thời ngã xuống không một tiếng động.

Trong một khoảng thời gian ngắn như vậy. trong chiến hào của đội hải quân lục chiến Lam Vũ chợt trở nên hỗn loạn một chút, Lâm Từ Luật còn chưa kịp nghiên cứu hải tặc Ca Âu rốt cục có bản lãnh đến đâu mà có thể đột nhập trận địa phe mình, thì đã đột nhiên cảm giác trước mắt tối sầm, tựa hồ có một tên khốn nào đã lọt vào chiến hào của mình, bởi vì ánh sáng quá yếu ớt, chỉ có nòng súng lóe lên chút ánh sáng, cho nên Lâm Từ Luật không nhìn rõ kẻ kia là ai, nhưng theo bản năng ngay lập tức rút ra lưỡi lê.

Quả nhiên, chỉ trong nháy mắt, hắn nhìn thấy lưỡi búa trong tay kẻ đó lóe lên ánh thép xanh rợn người, không cần nghĩ ngợi, hắn đã đâm ngay một nhát, tức thì trong cùng thời gian, cũng có một thanh lưỡi lê lính dù đâm tới, rõ ràng là Quý Nhạn Bình, hai nhát cùng đâm tới, khiến cho bóng đen kia chết ngay không kịp ngáp, Quý Nhạn Bình lao đến nhìn thử, quả nhiên là một tên hải tặc Ca Âu lọt vào trà trộn, cũng không biết hắn làm sao có thể chui rúc vào chỗ này, may là hai người phản ứng nhanh, bằng không chờ hắn vung búa ra, sợ rằng mọi người xung quanh sẽ xuất hiện thương vong.

Lác đác, trong chiến hào tiền tuyến của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, đều có một vài tên hải tặc Ca Âu dựa vào ưu thế quen thuộc địa hình, trà trộn vào chiến hào đội hải quân lục chiến Lam Vũ, mặc dù bọn chúng rất nhanh chóng bị giết chết, nhưng không ít thì nhiều cũng gây ra một ít thương vong, càng thêm nghiêm trọng hơn là, bọn họ lẻn vào gây tên sự đề phòng thái quá giữa các chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ, kết quả xuất hiện hai chuyện hiểu lầm, có bốn chiến sĩ hải quân lục chiến bất hạnh ngã xuống dưới súng của đồng đội bắn nhầm.

Dù sao, trung đoàn số bốn hải quân lục chiến Lam Vũ, mặc dù đã thành lập từ lâu, nhưng lần chiến đấu này lại là trận chiến mở đầu của bọn họ, cho dù lúc huấn luyện hằng ngày có cố gắng đến đâu, nhưng khi tới thời điểm chiến đấu chính thức, vẫn xuất hiệnkhông ít sai lầm không đáng có, đây là một cái giá mà bộ đội phải chi ra để tiến bộ, cũng là dấu hiệu cho một đội quân đi đến trưởng thành, các chiến sĩ phải dùng máu tươi của mình để làm sáng quân kỳ. 

Đối mặt với ưu thế tuyệt đối về hỏa lực của đội hải quân lục chiến Lam Vũ, hải tặc Ca Âu không chiếm được ưu thế nhiều lắm, đến lúc gần rạng sáng, tiếng súng từ từ lắng xuống, ở phía trước chiến địa đội hải quân lục chiến Lam Vũ, ngổn ngang thi thể hải tặc Ca Âu, bởi vì ánh sáng quá yếu ớt, cho nên nhìn không thấy tới thi thể đích bên trong hay không còn có che giấu đích người sống sót, vì vậy bách kích pháo của đội hải quân lục chiến Lam Vũ vẫn tiếp tục oanh kích vào số thi thể nằm trên mặt đất này, để bức số hải tặc Ca Âu may mắn còn sống phải lộ diện.

“Ngươi cảm thấy gần hết rồi đúng không?” Du Tiên Phong cẩn trọng hỏi. Căn cứ vào phán đoán mới vừa rồi của hắn, số hải tặc Ca Âu tham dự trận tiến công mang tính tự sát này hẳn là suýt soát một ngàn năm trăm người, toàn bộ đều bị đội hải quân lục chiến Lam Vũ tiêu diệt. Dựa vào tư liệu của ngành tình báo ngành cung cấp, hải tặc Ca Âu đóng trên đảo Kim Quy đại khái chỉ có ba nghìn người,theo thống kê trước sau công lại, hẳn là bị tiêu diệt gần hết rồi.

“Không biết nữa. Không biết bọn chúng có phải là bọn hải tặc râu đỏ hay không.” Lâm Từ Luật ngần ngừ lắc đầu. Từ con số mà suy xét, hải tặc Ca Âu bị tiêu diệt khá nhiều rồi, nhưng xem hải tặc Ca Âu mới vừa rồi liều mạng húc đầu vô chỗ chết, tựa hồ như có lực lượng vô cùng vô tận, cho nên, bọn chúng còn có binh lực ẩn giấu nữa hay không, hay là có biến cố khác, quả thực Lâm Từ Luật không dám có kết luận nhanh như vậy.

Trong cấu trúc đội ngũ của hải tặc Ca Âu, thực lực của hải tặc râu đỏ là cường đại nhất, bởi vì bọn họ có thực lực cường đại, cho nên bọn họ bình thường sẽ không áp dụng thủ đoạn phức tạp nhiều công đoạn bất ngờ, giống như trận công kích mới vừa rồi, mặc dù biết rõ hiệu quả có thể không phải rất lý tưởng, nhưng là những hải tặc này vẫn không hề sợ hãi phát khởi công kích, y chang tác phong của hải tặc râu đỏ. 

“Bất luận như thế nào cũng phải chịu đựng hết tối hôm nay.” A Ba Đốn đang đứng cách đó không xa lắm đang nhắc nhở thuộc hạ của mình.

Vừa mới trải qua đòn tấn công hung mãnh của bọn hải tặc Ca Âu thọc sâu vào trận đại, các chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ đều đã dốc hết mười phần tinh lực, giơ nòng súng đen ngòm hướng mặt đất chung quanh, toàn bộ tinh thần chăm chú phòng ngừa hải tặc Ca Âu lần nữa phát động công kích như vừa nãy, nhưng, bọn họ dù sao cũng mệt mỏi quá rồi, có một vài chiến sĩ không chịu nổi ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.

Lúc này, pháo chiến còn đang diễn ra kịch liệt ngoài khơi, tiếng pháo bắn ra từ hạm đội hải quân Lam Vũ dồn dập không ngừng, tiếng súng bạo phong vũ cũng duy trì liên tục, thỉnh thoảng lại nhìn thấy có chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu bị bắn trúng nên bốc cháy, chiếu sáng rực một vùng biển khơi. Hải chiến trong bóng tối, vô cùng kịch liệt, nhưng từ góc độ những người đứng xem, lại không hấp dẫn mấy, bởi vì không cách nào phân biệt rõ ràng vị trí chiến hạm, chỉ có thể nhìn thấy ánh lửa cháy rừng rực cũng như vầng sáng sau khi pháo nổ mà thôi.

Lúc mặt trời chiếu sáng biển Gia Lặc Tân, đảo Kim Quy yên tĩnh lạ thường, có rất nhiều các chiến sĩ hải quân lục chiến Lam Vũ đều lén lút thở phào một hơi, để lại vài nhân viên phụ trách cảnh giới, các chiến sĩ còn lại thì dựa lưng vào chiến hào ngủ thiếp đi, trong lúc đó cuộc chiến đấu ngoài khơi lại tới hồi kịch liệt nhất.

Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong thông qua ống dòm nhìn thấy, phát hiện có gần ba trăm chiến hạm của hải tặc Ca Âu cùng hơn năm mươi chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ đang hỗn chiến cùng một chỗ, bởi vì hải quân Lam Vũ còn cần phải hộ hàng cho rất nhiều thuyền vận chuyển, cho nên số chiến hạm Long Nha chính thức tự do tham chiến ước chừng chỉ có ba mươi chiếc, song phương chiến đấu vô cùng kịch liệt.

Tự mình chỉ huy hải tặc Ca Âu nghênh đón đòn tập kích của hải quân Lam Vũ chính là lão đại La Đế Áo Phỉ của hải tặc râu đỏ.

La Đế Áo Phỉ cũng không biết hải quân Lam Vũ đang tấn công đảo Kim Quy, hắn chỉ ngẫu nhiên chạm trán mà thôi, mặc dù hắn thông qua rất nhiều manh mối nên biết được Dương Túc Phong muốn tấn công đảo Kim Quy, cũng có thể dựa vào những hành động của quân Lam Vũ để phán đoán khả năng quân Lam Vũ tấn công Kim Quy đảo, nhưng hắn cũng không biết cụ thể ngày nào. Từ sau khi hải quân Lam Vũ chiếm biển Linh Đình, đối với cửa ra vào biển Linh Đình phong tỏa vô cùng chu đáo, đội thuyền của hải tặc Ca Âu căn bản không thể qua lại, về sau lại có hạm đội Đức Tư Phỉ Đế Na của hải quân Lam Vũ tới biển Linh Đình, càng thêm củng cố loại phong tỏa chắc chắn như tường đồng vách sắt này, khiến cho hải tặc Ca Âu căn bản không cách nào biết được hướng đi của hải quân Lam Vũ bên trong biển Linh Đình.

Để đạt được mục đích không tiếc phải trả bất kỳ giá nào, ngành tình báo quân Lam Vũ, nhất là ngành phản gián điệp, chuyên môn tiến hành càn quét tàn khốc đối với tất cả mạng lưới tình báo của hải tặc Ca Âu, Phong Chi Xã phái cánh tay phải đắc lực của mình là Lâm Vũ suất lĩnh một nhóm bộ đội Hắc ngục minh phong có trình độ cao, trường kì đóng quân tại cảng Thước Luân, chuyên môn tiến hành tấn công nhân viên tình báo của hải tặc Ca Âu, trải qua không ngừng cố gắng, cơ bản đã quét sạch tất cả tai mắt của hải tặc Ca Âu.

Đương lúc đảo Kim Quy bị quân Lam Vũ công kích, hải tặc Ca Âu cũng không thể kịp thời thông báo tin tức về cho La Đế Áo Phỉ, bọn họ không có vô tuyến điện đài, liên lạc ngoài khơi phi thường khó khăn. lần này La Đế Áo Phỉ đột nhiên xuất hiện ở đây, chỉ là tuần tra hằng ngày như thường lệ. Bởi vì hắn không cách nào xác định được ngày hải quân Lam Vũ tiến công, cho nên hắn hạ lệnh tăng mạnh mật độ tuần tra chung quanh đảo Kim Quy, thậm chí tự mình tham dự tuần tra.

Hắn rất may mắn, trong lúc tuần tra đã phát hiện hạm đội hải quân Lam Vũ.

Biển Gia Lặc Tân vào ban ngày cũng xám xịt một màu, thoạt nhìn vô cùng u ám thê lương. La Đế Áo Phỉ đứng sừng sững trên mũi tàu chiến liệt hạm, ánh mắt nghiêm túc nhìn chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ chung quanh. Hắn là một hải tặc có thân hình phi thường cao lớn, cơ thể phát triển dị thường, kiếp sống lênh đênh trên biển hàng năm trời làm cho tướng mạo hắn thoạt nhìn giống như là một con cá mập hung ác, hai con mắt cơ hồ híp lại, trên mặt và trên cánh tay của hắn toàn bộ đều là sẹo, trên lồng ngực rộng có xăm hình đầu lâu, hơn nữa còn có đến chín cái đầu lâu, trên miệng mỗi một cái đầu lâu đều có bộ râu màu đỏ ngắn ngủn, những đầu lâu có râu màu đỏ này. Chính là ký hiệu độc nhất vô nhị của La Đế Áo Phỉ hắn.

Hải tặc râu đỏ!

Nhìn xuyên qua thấu kính viễn vọng, La Đế Áo Phỉ phát hiện hình dáng của Đặc Lan Khắc Tư, thân hình của Đặc Lan Khắc Tư so với hắn, quả thực hoàn toàn nhỏ hơn một cỡ. Đặc Lan Khắc Tư kì thật là một thanh niên rất hay ngại ngùng, con mắt rất nhỏ, vẻ mặt có điểm thẹn thùng. Hắn bình thường rất ít nói chuyện. Cho dù trên chiến trường cũng không bộc lộ tình cảm nhiều lắm, đối với việc hải tặc Ca Âu đến, hắn tựa hồ hoàn toàn không có vẻ mặt gì đặc biệt, hình như trong ánh mắt căn bổn không hề nhìn thấy hình ảnh đáng sợ của hải tặc râu đỏ.

Đặc Lan Khắc Tư thông qua ống dòm, cũng phát hiện hình dáng của La Đế Áo Phỉ, những đầu lâu có bộ râu màu đỏ trên ngực La Đế Áo Phỉ không hề nghi ngờ gì nữa đã biểu lộ thân phận của hắn, bọn chúng quả nhiên chính là thế lực mạnh mẽ hung tợn nhất của hải tặc Ca Âu. Song Đặc Lan Khắc Tư ngược lại có vẻ càng thêm bình tĩnh, trong lực lượng hải tặc Ca Âu, thực lực của hải tặc râu đỏ không thể nghi ngờ chính là cường đại nhất. Nhưng cũng cao ngạo nhất, từ trước tới này đã thành cố hữu, bọn chúng ngoại trừ thói quen dùng cách đánh lấy mạnh đè yếu, lấy nhanh thắng chậm ra, cơ hồ không có chiến thuật gì khác. Hải quân Lam Vũ thích nhất chính là đối thủ như vậy, cứng đối cứng nhào vô xáp lá cà. Đặc Lan Khắc Tư chưa bao giờ lo lắng.

La Đế Áo Phỉ hung hăng trừng mắt nhìn Đặc Lan Khắc Tư, loại ánh mắt dữ tợn hung hãn này như thể muốn ăn tươi nuốt sống Đặc Lan Khắc Tư. Còn Đặc Lan Khắc Tư cũng lạnh lùng đánh giá La Đế Áo Phỉ, đang tỉ mỉ tính kế làm cách nào để có thể làm cho đối phương bị một vố nhớ đời. Hải quân Lam Vũ cùng hải tặc Ca Âu nhất định không thể cùng tồn tại trên thế giới này, do vậy hai bên gặp nhau nhất định phải choảng nhau một trận kịch liệt một mất một còn mới thôi. 

Đặc Lan Khắc Tư cẩn thận quan sát chiến hạm hải tặc Ca Âu, phát hiện ngoại trừ năm chiến hạm khổng lồ ra, còn có ước chừng ba trăm sáu mươi chiến hạm loại nhỏ, có một vài chiến hạm nhỏ có tải trọng thậm chí không đầy một trăm tấn, đại bộ phận đều là loại chiến thuyền bắc hải tam giác phàm tốc độ nhanh vốn quen thuộc, loại này chỉ có đội thuyền hải tặc Ca Âu mới có, ngoài khơi sắp hàng dày đặc, cứ như một đàn kiến đông đúc, nhưng không người nào dám coi khinh loại chiến hạm nhỏ như con kiến này, bởi vì mũi thuyền của chúng nó đều bịt sắt, hơn nữa còn có cạnh phi thường sắc bén. Những chiến thuyền bắc hải tam giác phàm này di chuyển rất linh hoạt, tốc độ rất nhanh, một khi bị bọn chúng húc vào, cho dù dựa vào sự chắc chắn của chiến hạm Long Nha, cũng không có cách chống cự, có lẽ bị đụng xuyên một hai cái thì không sao, nhưng nếu bị đụng nhiều hơn mấy lần, chỉ sợ cũng phải đắm tàu.

Song, đại bộ phận quan binh hải quân Lam Vũ đều tập trung lực chú ý nơi năm chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu. Đối với sự linh hoạt cao của chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, hạm pháo của hải quân Lam Vũ không cách nào gây ra thương tổn quá lớn đối với chúng nó, muốn bắn chúng nó trăm phát trăm trúng, quả thật là chuyện khó có khả năng. Nhưng thật ra năm chiến liệt hạm khổng lồ này thực sự là mục tiêu phi thường công kích lý tưởng, tốc độ cùng sự cồng kềnh của chúng nó, đều là cơ hội rất tốt để giúp cho những tay pháo thủ hải quân Lam Vũ đã tỉ mỉ khổ luyện được có dịp thể hiện hết mình.

Đặc Lan Khắc Tư đặc biệt chú ý tới hiện tượng này, nên nhắc nhở các vị hạm trưởng phải chú ý những chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này đánh lén, không nên chỉ dồn ánh mắt chú ý hết lên hoàn toàn đích đưa lên chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu. Nếu bàn về số lượng của chiến liệt hạm khổng lồ, thì lúc đầu hạm đội bắc hải của hải quân đế quốc Đường Xuyên rõ ràng còn đông hơn rất nhiều, trong thời kì cường thịnh nhất, từng có đến hơn hai mươi chiến liệt hạm khổng lồ , nhưng số chiến liệt hạm hùng hậu này cuối cùng cũng đều bị hoàn toàn tiêu diệt, mà kẻ tiêu diệt chúng nó, chính là những chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao đang đông đen trước mắt này, do lúc đầu, hải quân đế quốc Đường Xuyên đối với những chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này chẳng thèm mảy may chú ý, kết quả vì vậy mà nếm mùi cay đắng.

Mặt biển Gia Lặc Tân sóng gió cuồn cuộn, hải tặc Ca Âu có thể phát huy đầy đủ ưu thế chạy nhanh cũng như dễ dàng điều khiển của chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, chia hàng ngũ tiến vào cùng đánh, áp dụng chiến thuật bầy sói, lần liệt dìm từng chiếc chiến liệt hạm của hạm đội bắc hải của hải quân Đường Xuyên vào dưới đáy biển sâu, phương pháp tác chiến cơ bản nhất của bọn họ. Chính là xáp lá cà cùng đánh, tốc độ cùng tính linh hoạt của bọn nó có thể làm cho hải quân Đường Xuyên khó lòng phòng bị, cuối cùng bị thất bại thảm hại.

Quả nhiên, theo lệnh của La Đế Áo Phỉ quát ra một tiếng, bọn hải tặc ca Âu rất nhanh đã áp dụng chiến thuật bầy sói tự do công kích.

Những chiếc chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này chen nhau lao tới, không ngừng biến ảo hướng đi cũng như hàng ngũ sắp xếp, làm cho tất thảy hỏa pháo của hải quân Lam Vũ đều bắn hụt. hải tặc Ca Âu đã hoành hành Gia Lặc Tân hải hơn mười năm, tựa hồ đã hoàn toàn nắm chắc từng centimet biển ở nơi này, bọn chúng điều khiển chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, có thể lợi dụng hoàn toàn chuyển động của sóng biển, không ngừng giữ sức, đi với tốc độ nhanh hơn tốc độ vốn có, chỉ trong nháy mắt, tốc độ của bọn chúng thoạt nhìn quả thực chẳng khác nào đang bay trên sóng.

Ầm ầm đùng......

Chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ đương nhiên sẽ không khách khí. Đều khai pháo, đạn pháo rơi vào chính giữa những này chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, rồi phát nổ mạnh xuất hiện hàng loạt cột nước bắn tung tóe, nhưng cũng không có được hiệu quả rõ ràng, bởi vì này hải tặc Ca Âu thật sự rất linh động, có thể linh hoạt né tránh pháo đạn công kích. Tuy nhiên. trong lúc ngẫu nhiên, vẫn có một số đạn lạc ở cự ly gần phát huy tác dụng, có một số chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao bởi vì không chịu nổi sức ép của đạn nổ ở cự ly gần, những mảnh đạn nhỏ xé rách vải buồm, hoặc găm trúng hải tặc trên thuyền, không thể không tạm thời hạ thấp tốc độ.

Trên khuôn mặt dữ tợn của La Đế Áo Phỉ hiện ra một tia cười khẩy đầy vẻ khinh miệt, hắn xiết chặt nắm đấm phát ra những tiếng khớp xương kêu lên răng rắc răng rắc vô cùng ghê sợ. tất cả những người đã từng quen với việc sinh sống trên biển, hai tay đều có sức mạnh hơn người thường, La Đế Áo Phỉ đương nhiên cũng không phải là ngoại lệ. Hắn hận không thể ngay lập tức tiến sát đến kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư. Sau đó dùng chính nắm tay của mình đập bể sọ của Đặc Lan Khắc Tư.

Hắn đối với loại chiến thuật này của mình có đầy đủ tự tin, đây là chiến thuật mà hải tặc Ca Âu trong quá trình vật lộn sinh tồn mấy trăm năm năm qua trên sóng gió hải dương mới đúc kết ra được, bất luận đối phương có mạnh đến cỡ nào, đều không tài nào chống đỡ được sự tấn công lần lượt thay nhau của hải tặc Ca Âu, bọn chúng chính là một đám sói hung tàn. Con hổ bị ngắm làm mục tiêu có lẽ cũng mạnh mẽ như thế, nhưng mà. Cho dù con hổ đó có mạnh mẽ dữ tợn đến đâu thì cũng chỉ có thể chống chọi với ba bốn con sói là cùng, đương lúc nó bắt đầu thấm mệt, chính là thời khắc thắng lợi đã đến của bầy sói. Trận chiến trước mắt chính là như thế, hơn nữa, hải quân Lam Vũ cũng tuyệt đối không phải là hổ, cho nên, hắn tin rằng, thắng lợi của hải tặc Ca Âu hoàn toàn nắm chắc trong tay không chạy đi đâu được.

Đặc Lan Khắc Tư trầm tĩnh ra lệnh cho các vị hạm trưởng phe mình chuẩn bị cho một trận chiến đấu kéo dài, yêu cầu bọn họ kiểm soát tiến độ phân bố binh lực để chiến đấu cùng hải tặc Ca Âu cho chu toàn, không nên thoáng cái đã đem toàn bộ con át chủ bài trong tay mình tung ra hết sạch. Sở trường của hải tặc Ca Âu chính là xáp lá cà chiến đấu, bởi vì vật lộn không những có thể thủ thắng, mà còn có thể chiếm chiến hạm của kẻ thù làm chiến lợi phẩm, đồng thời có thể gây nên tâm lý áp chế cực lớn cho kẻ thù, cho nên, vật lộn luôn luôn là sở thích của La Đế Áo Phỉ, mà hải quân Lam Vũ, cũng muốn lấy điểm này để đập tan lòng kiêu ngạo của hải tặc Ca Âu. 

Theo như cách nói của Dương Túc Phong, thì việc hải quân Lam Vũ phải thủ thắng là điều cố nhiên trọng yếu, nhưng điều quan trọng hơn chính là phải làm sao để hạ thấp sự kiêu ngạo cùng niềm tin của hải tặc Ca Âu xuống. Chỉ có hoàn toàn đập vỡ lòng tự tin của hải tặc Ca Âu, thì hải quân Lam Vũ mới có thể đi đến thắng lợi lớn hơn, mà việc tấn công đập tan lòng tự tin của hải tặc Ca Âu chính là biện pháp tốt nhất, chính là trong lúc vật lộn kịch liệt phải chiến thắng được hải tặc Ca Âu.

La Đế Áo Phỉ cũng không biết rằng, nhằm vào đặc điểm tác chiến này của hải tặc Ca Âu, hạm đội bắc hải của hải quân Lam Vũ cũng đã khổ công nghiên cứu rất công phu. Hạm đội bắc hải của hải quân Lam Vũ suốt hơn hai năm trời đằng đẵng không hề tham gia bất kỳ cuộc hải chiến có quy mô lớn nào, các chiến sĩ cứ ngày đêm luyện tập gian khổ, chiến đấu xáp lá cà trong hải chiến và xáp lá cà trên đất liền hoàn toàn không giống nhau, tuyệt đối không phải chỉ trong một thời gian ngắn huấn luyện là đã có thể đủ hình thành nên một lực chiến đấu nhất định, đám thủy thủ cần phải có thời gian để nắm vững kỹ thuật, cần thời gian để rèn luyện dũng khí cho mình.

Dương Túc Phong cho bọn họ đầy đủ thời gian.

Đặc Lan Khắc Tư phát ra tín hiệu nghênh chiến, pháo tín hiệu bắn vọt vào không trung mù mịt. Bắn ra muôn vàn tia sáng rực rõ thu hút sự chú ý của La Đế Áo Phỉ, mặc dù hắn không rõ đây là cái quái gì, nhưng hắn hoàn toàn cảm nhận được niềm tin cũng như ý chí kiên cường của đối phương, còn có ý chí bất khuất hòa cùng dũng khí, La Đế Áo Phỉ bị kích thích tột độ, lòng háo thắng bùng phát, hạ lệnh kéo cờ chiến của mình lên.

Cho dù là lúc đối mặt với hạm đội bắc hải của đế quốc Đường Xuyên phát động trấn chiến mãnh liệt nhất, La Đế Áo Phỉ cũng không hề kéo cơ chiến của mình lên, bởi vì hắn cảm giác được chuyện này là không cần thiết, nhưng bây giờ không giống lúc đó, hắn phải cổ vũ dũng khí của bọn hải tặc Ca Âu một lần nữa, nếu không, rất có thể hải tặc Ca Âu sẽ phải nếm mùi thất bại. Đây là một loại trực giác rất kì quái, La Đế Áo Phỉ cũng không biết tại sao mình lại cảm giác được hải tặc Ca Âu có khả năng chiến bại, nhưng quả thực trong lòng hắn bấy giờ đang nghĩ như thế. Quả nhiên, đương lúc La Đế Áo Phỉ kéo cờ chiến lên, tinh thần cùng ý chí chiến đấu của hải tặc Ca Âu đều đạt tới cực điểm.

Đặc Lan Khắc Tư cũng không yếu thế chút nào. Hạ lệnh thổi kèn hiệu lên thật to, hắn tự tay kéo cờ hiệu của mình lên cao cho nó tung bay trên đỉnh của cột buồm cao nhất, lá cờ chiến to màu lam in hình sư tử bay phần phật ánh lên màu xanh lấp lánh, nổi bật trên nền trời xám xịt vô cùng rực rỡ khiến người ta không thể không chú ý. Dưới tiếng kèn thôi thúc hùng hồn, các tướng sĩ hải quân Lam Vũ đều không tự kìm hãm được ngước nhìn lên. Chứng kiến cờ chiến hải quân tung bay, còn có thân hình của Đặc Lan Khắc Tư đứng sừng sững vững vàng, tinh thần cùng ý chí chiến đấu của bọn họ cũng bốc lên ngùn ngụt lên đến đỉnh điểm.

Đùng đùng đùng.....

Ngoài khơi xa tiếng pháo ù ù, khói lửa tràn ngập.

Năm chiếc chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu, mỗi chiến thuyền đều trang bị hơn trăm khẩu đại pháo, lúc bọn chúng phóng ra, nòng pháo thường sinh ra khói đặc cuồn cuộn, mà chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ, mặc dù đại pháo rất ít, nhưng lúc pháo đạn phóng ra. Cũng sinh ra khói trắng mù mịt như thế, đương lúc hạm pháo hai bên oanh kích nhau kịch liệt, khói đặc cuồn cuộn mù mịt rất nhanh đã bao phủ cả hải dương, dồn dập hạ thấp tầm nhìn khiến cho hải chiến càng thêm kịch liệt, càng thêm kinh tâm động phách, đương nhiên cũng càng thêm hỗn loạn.

các chiến sĩ đội hải quân lục chiến Lam Vũ về cơ bản đã kết thúc chiến đấu trên đảo. Đều xoay người lại theo dõi trận kịch chiến đang diễn ra ngoài khơi. Bọn Lâm Từ Luật cùng Du Tiên Phong, đều đứng ở những mỏn đá cao, thông qua ống dòm theo dõi sát sao trận chiến ngoài khơi, bọn họ cố gắng thông qua kính viễn vọng có thể nhìn thấy bóng dáng kỳ hạm của La Đế Áo Phỉ cùng kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, nhưng khói lửa ngoài khơi quá mãnh liệt, bọn họ cũng chỉ có thể ngẫu nhiên chứng kiến bóng dáng của chúng nó thoáng qua như tia chớp.

Hoàn Nhan Phi Ưng hạ lệnh cho đại đội lưu đạn pháo làm tốt công tác chuẩn bị hỗ trợ chiến đấu, đại đội lưu đạn pháo nòng có đường kính 75 ly của đội hải quân lục chiến, đến lúc rạng sáng mới được tháo dỡ xuống, nhưng đã không kịp tham gia phản kích cuộc tiến công mang tính tự sát tập thể của hải tặc Ca Âu. Hiện tại vừa vặn dùng để trợ giúp hải quân phản công hải tặc Ca Âu, chỉ tiếc là, tầm nhìn ngoài khơi quá thấp, lưu đạn pháo không cách nào hữu hiệu ngắm đúng mục tiêu, cho nên pháo đạn chậm chạp chưa bắn ra.

Các chiến hạm cỡ nhỏ của hải tặc Ca Âu hết sức linh hoạt. Nhất là loại chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao bọn chúng hầu như không kiêng nể gì

Cứ bu như đỉa đói xung quanh chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ. Mặc dù thường xuyên có tiếng pháo nổ xé gió bay đến, nhưng số chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao bị trúng mục tiêu lại rất hiếm hoi, bọn hải tặc Ca Câu bu đen đỏ trên thuyền, thậm chí còn đứng ngạo nghễ trên tuốt luốt cột buồm cao vút, hò hét quát nạt hải quân Lam Vũ, kiêu ngạo vô cùng.

Nhưng phần lớn chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ cũng không để ý tới bọn họ, mà dồn mục tiêu theo dõi vào chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu. Từ lúc hải chiến vừa mới bộc phát, năm chiếc chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu đã trở thành mục tiêu truy sát của chiến hạm Long Nha hải quân Lam Vũ, bọn Trầm Văn Hạo cùng Phương Hận Thiểu tăng tốc quyết liệt giành lấy vị trí có lợi nhất, nhắm ngay mấy chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu không ngừng nã đạn, pháo đạn rơi vào chung quanh chiến liệt hạm, bắn lên những cột nước khổng lồ tung tóe.

Chiến liệt hạm của hải tặc Ca Âu cũng liều mạng khai hỏa bắn trả, pháo hỏa rõ ràng còn hung mãnh hơn rất nhiều, lúc tề bắn thoạt nhìn giống như là một đàn sư tử đang tức giận. chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ, mỗi bên sườn tàu chỉ có bốn khẩu đại pháo, mà mấy chiếc chiến liệt hạm này của hải tặc Ca Âu, mỗi bên sườn tàu đã có sáu mươi khẩu đại pháo, số lượng đại pháo nếu so với chiến hạm Long của quân Lam Vũ còn nhiều hơn mười lần, không chỉ có như thế, để triển khai uy lực vô cùng của chiến liệt hạm khổng lồ, mà những chiếc chiến liệt hạm này còn khai pháo cả hai bên, tiếng pháo bắn ra quả thực làm cho cả biển Gia Lặc Tân đều sôi lên sùng sục.

Song, chính thức gây nên lực sát thương g không phải chiến liệt hạm của hải tặc Ca Âu, mà là chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ. chiến liệt hạm của hải tặc Ca Âu, mặc dù bề ngoài thoạt nhìn phi thường uy vũ, không thể xâm phạm, nhưng pháo đạn chúng nó phóng ra, cũng không tạo thành ảnh hưởng gì lớn đối với chiến hạm Long Nha của hải quân Lam Vũ, bởi vì phần lớn pháo đạn đều ở nửa đường đã rơi xuống ngoài khơi, ngược lại còn nổ nhầm vào chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của phe mình. Mà pháo đạn của chiến hạm Long Nha hải quân Lam Vũ phóng ra, mặc dù số lượng không nhiều lắm, nhưng toàn bộ đều rơi vào vùng phụ cận chiến liệt hạm của hải tặc Ca Âu, cho dù không có trực tiếp trúng mục tiêu, duy trì liên tục đạn nổ gần cũng đã làm cho hải tặc Ca Âu cảm thấy vô cùng sợ hãi. 

Không tự chủ được, kỳ hạm song phương cũng bắt đầu lần lượt đấu tay đôi một chọi một, La Đế Áo Phỉ hạ lệnh xoay mũi kỳ hạm của mình nhìn chằm chằm vào kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, muốn tìm cơ hội đâm cho một phát chí mạng, nhưng rất đáng tiếc, kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư cũng phi thường giảo hoạt, chuyên môn hướng về phía đội thuyền dày đặc mà xuyên qua, một bên chạy, một bên không ngừng khai pháo, rất nhiều pháo đạn rơi vào các chiến hạm bắc hại buồm tam giác tốc độ cao đang đuổi theo ráo riết , trực tiếp nhấn chìm chúng nó vào đáy biển sâu.

Ầm ầm đùng......

Kỳ hạm của La Đế Áo Phỉ rốt cuộc cũng có cơ hội đến gần kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, La Đế Áo Phỉ không chút do dự hạ lệnh khai pháo, một trận nổ vang đinh tai nhức óc trôi qua, tất cả đạn pháo bắn ra đồng loạt đều rơi vào mặt nước cách kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư không đầy hai trăm thước, bắn tung tóe vô số bọt nước trắng xóa. Kỳ hạm của La Đế Áo Phỉ rất nhanh lại xoay tàu lại phơi ra mạn thuyền bên trái, làm cho đại pháo ở sườn tàu còn lại tiếp tục tề bắn quét ra một trận mưa đạn pháo, kết quả đều nổ ầm ầm cách Đặc Lan Khắc Tư phía trước không tới một trăm năm mươi thước, uy thế vô cùng khiếp sợ.

Sắc mặt của Đặc Lan Khắc Tư có chút lo lắng căng thẳng, vốn dĩ là, pháo đạn của kỳ hạm La Đế Áo Phỉ phóng ra, cư nhiên không phải cố hết sức ngắm bắn chính xác, mà uy lực phá hủy của đạn tương đối lớn, hơn nữa tầm bắn cũng tương đương xa, đạt tới một ngàn sáu trăm thước. Vốn căn cứ vào sự phỏng chừng của hải quân Lam Vũ, đại pháo của hải tặc Ca Âu có tầm bắn xa nhất cũng chỉ một ngàn hai trăm thước là cùng, bởi vì chiến liệt hạm cấp Vô Úy mới nhất của nước Mã Toa, còn có chiến liệt hạm cấp ngũ thai sơn của hải quân Đường Xuyên, đại pháo có tầm bắn xa nhất cũng chỉ là một ngàn hai trăm thước, đằng này hải tặc Ca Âu là người man rợ, về phương diện kỹ thuật không phải phát triển lắm, khó có khả năng vượt qua những loại chiến liệt hạm kia, song, trước mắt sự thật cho thấy, đại pháo của hải tặc Ca Âu rõ ràng tiến bộ hơn.

Ầm ầm đùng......

Kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư cũng không chút do dự khai pháo bắn trả, bọn họ bỏ qua những chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu bên cạnh, mà dồn mục tiêu vào kỳ hạm La Đế Áo Phỉ. Mặc dù pháo của chiến hạm Long Nha hải quân Lam Vũ không nhiều nhưng có tầm bắn xa, uy lực lớn, liên tục mấy phát pháo đạn bắn ra, đều nổ mạnh ở sát rạt kỳ hạm La Đế Áo Phỉ, bọt nước bắn tung tóe khởi thậm chí còn văng trúng người La Đế Áo Phỉ, đồng thời, những mảnh vỡ của những trái pháo nổ gần đã găm thủng mạn tàu của chiếc chiến liệt hạm này tạo nên rất nhiều lỗ nhỏ, nước biển ùa vô như thác lũ, kỳ hạm của La Đế Áo Phỉ không tự chủ được phải hạ thấp tốc độ, kéo giãn khoảng cách với kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư.Nếu như lúc này, kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư còn có cơ hội nhắm bắn mà khai pháo tiếp tục, thì hơn phân nửa là sẽ có cơ hội bắn chìm kỳ hạm của La Đế Áo Phỉ, nhưng, rất đông chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu cũng đang rình mò theo dõi kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, chỉ nháy mắt sau khi hỏa pháo của kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư kỳ bắn xong, là bọn chúng đều nhất loạt nương theo sóng biển xông vào vùng cấm, trực tiếp uy hiếp đến sự an toàn của kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư.

Trong môt khoảng thời gian không đầy ba phút, bên cạnh kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, đã có hơn mười chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu tới lui tuần tra, đang tìm cơ hội tiếp cận kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, mũi tàu của bọn họ quá nguy hiểm làm cho hạm trưởng kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư không thể ngưng hỏa pháo được một giây phút nào, song, sóng biển quá dữ dội gây xóc nảy, khiến cho sác xuất trúng mục tiêu của hạm pháo hải quân Lam Vũ bị hạ thấp đi rất nhiều, các phương tiện tiên tiến như kính ngắm tầm xa đều trở thành vô dụng, các pháo thủ chỉ có thể dựa vào kinh nghiệm bản thân mà bắn.

Đột nhiên đúng lúc này, chiếc chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao không sợ gì hết cứ thế xáp vào bên kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, hơn nữa còn bắt đầu tung móc câu, móc chặt lấy lan can boong tàu của kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, dựa vào sức kéo của móc câu để lôi chiếc chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này nhích tới nhanh hơn.

Đùng đùng đùng......

Trong tầm bắn gần như vậy, có hai chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao bị pháo đạn bắn hết cỡ làm cho nát bấy, bọn chúng vỡ tan thành từng mảnh nhỏ, cột buồm đứt gãy thành từng khúc, gây cho hai chiếc chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao đang ở bên cạnh rắc rối to, bọn chúng tựa như chuỗi hồ lô chen chúc nhau trôi tới, theo sau lại là một loạt đạn pháo ào tới, chúng nó kéo nhau chìm nghỉm xuống đáy biển, những tên hải tặc Ca Âu trên số chiến hạm xui xẻo này, đều rơi vào trong nước biển lạnh như băng, sau đó lại bị chiến hạm bị đắm gây nên xoáy nước hình phễu lôi tuột toàn bộ vào đáy biển sâu.

Chiến hạm bị chìm của hải tặc Ca Âu còn có dây trói cột chặt vào kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, làm cho kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư bị nghiêng hẳn sang một bên rất nghiêm trọng, may là thủy thủ hải quân Lam Vũ đã rất nhanh dùng búa chém đứt dây trói, kỳ hạm mới khôi phục lại thăng bằng. Kỳ hạm đang nghiêng đột nhiên thăng bằng lại, tạo nên một luồng sóng thật lớn, sóng biển dữ dội trực tiếp làm cho một chiến hạm hải tặc Ca Âu bị lật úp tức thì.

Pằng pằng pằng......

Từng loạt đạn dày đặc như mưa bão từ kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư không ngừng đích gào thét bắn ra, trút từng loạt luồng hỏa lực về phía ngoài khơi, này tụ tập vô số chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, đang quay mắt về phía mưa đạn điên cuồng, muốn xé đạn vọt qua, nhưng lại không dám, nhưng nếu không vọt đến, thì lại không cách nào chạm đến Kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư . Trên chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu, cũng không có lắp đặt bất cứ loại đại pháo nào, bọn chúng chỉ có tiêu thương cùng binh lính hai thứ công phu nhuần nhuyễn nhất mà thôi.

Bởi vì đã sớm nghiên cứu đặc điểm rất nhanh rất linh hoạt của chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu

, cho nên mỗi một chiến hạm Long Nha của hạm đội bắc hải Lam Vũ, đều lắp đặt vô số súng bạo phong vũ để bù đắp cho hạm pháo còn thiếu. những khẩu súng bạo phong vũ này đều trang bị băng đạn thật dài, cho dù không ngừng điên cuồng quét bắn, cũng có thể đủ chống đỡ thời gian tương đối lớn, trong lúc súng bạo phong bắn quét, không ngừng có đám thủy thủ hải quân Lam Vũ từ khoang thuyền chạy đến vị trí súng bạo phong vũ thay đạn.

Rốt cuộc, có vài chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao hải tặc Ca Âu không để ý mon men lại gần , kết quả dưới loạt đạn quét của súng bạo phong vũ, chúng nó bị bắn cho tan tác, đánh cho tơi bời hoa lá, chìm ngay tại trận, hải tặc Ca Âu đứng trên thuyền nhìn thấy đạn hướng về phía mình như mưa bão, đều nhảy vào nước biển lạnh như băng, nhưng đạn vẫn đuổi theo bọn họ đến tận mặt nước, cướp đi tính mạng của bọn họ.

Mấy chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao liên tục tới gần đều bị súng bạo phong vũ bắn cho nát bấy

, nhưng vẫn có càng nhiều chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu cuồn cuộn đi lên, cứ như một cơn lũ cuồn cuộn không ngừng, Đặc Lan Khắc Tư kéo cờ đã kích thích bọn chúng đến tột độ, La Đế Áo Phỉ hạ lệnh bất luận phải trả cái giá đắt cỡ nào, cũng phải bóp nát kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư.

Đột nhiên đúng lúc này. một chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao hải tặc Ca Âu đột phá vòng vây hung hăng đánh lên kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, cơ hồ khiến Đặc Lan Khắc Tư bị chấn động ngã lăn tại boong tàu, mũi tàu sắc bén đâm sâu vào mạn thuyền bên trái của kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư. Khiến cho hai chiến thuyền dính chặt vào một chỗ. Bọn hải tặc Ca Âu trên chiến thuyền bắc hải tam giác phàm tốc độ cao, đồng loạt muốn trèo lên kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư , kết quả bị quân Lam Vũ dùng súng bạo phong vũ quét bắn, cả thuyền lẫn người đều chìm vào biển rộng, nhưng mũi tàu nhọn hoắt vẫn găm chặt vào mạn thuyền trái của kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, nước biển từ lỗ hổng không ngừng chảy vào.

chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao hải tặc Ca Âu còn lại cảm giác được có thể chớp lấy cơ hội, nên đều hý hửng đổ xô lại đây. Kết quả bị hỏa pháo của kỳ hạm Đặc Y Khắc Tư bắn cho tan tành, vì vậy bắt đầu do dự chững lại. kỳ hạm của Đặc Y Khắc Tư, ngược lại có vẻ càng thêm dũng mãnh. Càng thêm lẫm liệt không thể xâm phạm, hạm pháo bắn với tốc độ đạt tới trước nay chưa từng có.

Phương Hận Thiểu chỉ huy chiến hạm số hiệu 703 phát hiện kỳ hạm Đặc Y Khắc Tư đã bị hải tặc Ca Âu tập trung công kích, lập tức nhích lại gần, chung quanh hắn cũng có ba bốn chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao hải tặc Ca Âu vây quanh, kết quả bị hắn hung hăng hất văng đi, trong đó có một chiến thuyền thông tin tải trọng nhẹ của hải tặc Ca Âu. Tải trọng đại khái chỉ có chừng sáu mươi tấn, bị chiến hạm Long Nha của hắn húc cho vỡ làm đôi ngay tại chỗ, chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu bên cạnh, cũng bị hắn trên thuyền dùng súng bạo phong vũ hung mãnh bắn cho chạy loạn trên sóng biển mãnh liệt. 

Đùng đùng đùng......

Phương Hận Thiểu quả thực chính là loại người chỉ cần tiêu diệt kẻ thù thì bất chấp hậu quả, kể cả trả giá đắt đến đâu, hắn đo đạc mục tiêu cách kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư kỳ chừng một trăm thước về phía trước. rồi liên tục nã một loạt pháo, mấy chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu mới vừa vọt qua từ nơi đó, đang hý hửng nhìn thấy kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư ngay trước mắt. bỗng đột nhiên hứng chịu đòn tấn công từ phía sau, hai chiến thuyền ngay lập tức bị lật úp, những chiếc còn lại cũng cực kì hoảng sợ, vội vàng quay đầu lại đối phó với Phương Hận Thiểu. 

Pháo đạn nổ mạnh làm bọt nước bắn tung tóe khởi văng cả lên trên boong tàu kỳ hạm của Đặc Lan Khắc Tư, lúc này Đặc Lan Khắc Tư mới chú ý tới sự có mặt của Phương Hận Thiểu, nghĩ đến loạt pháo vừa rồi nổ với cự ly gần trong gang tấc như thế, Đặc Lan Khắc Tư vẫn còn tim đập chân run, nếu như hạm pháo của Phương Hận Thiểu bị sóng biển quật trúng nên bắn lệch đi một mét thôi, thì đạn pháo đã có thể trực tiếp rơi vào trên kỳ hạm của mình, gã tiểu tử này, quả thực đang liều mạng mà.

Không kịp cảm tạ hay đúng hơn là trách cứ Phương Hận Thiểu, chiến hạm Long Nha số hiệu 703 của Phương Hận Thiểu đã lâm vào kịch chiến, để đánh lạc hướng bọn chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao đang vây khốn kỳ hạm Đặc Lan Khắc Tư, hắn chủ động cùng hải tặc Ca Âu triển khai vật lộn, chung quanh có sáu chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao của hải tặc Ca Âu quay sang bao vây chiến hạm Long Nha của hắn, bốn phương tám hướng đều có hải tặc Ca Âu liều mạng bu theo. Phương Hận Thiểu cũng không yếu thế, tự mình điều khiển súng bắn nát bấy chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao, đám thủy thủ dưới tay hắn vác súng Mitch cùng khẩu pạc-hoọc, đổ ra bốn phía boong tàu cùng hải tặc Ca Âu triển khai chém giết đẫm máu , cách mấy trăm thước, Đặc Lan Khắc Tư cũng có thể đủ nhìn thấy máu chảy trên boong tàu chẳng khác nào thác nước đang đổ xuống biển.

Đột nhiên đúng lúc này, lại có một chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao hải tặc Ca Âu phóng mãnh liệt về phía chiến hạm Long Nha của Phương Hận Thiểu, nhưng Phong Hận Thiểu nhanh trí, lập tức hạ lệnh chuyển hướng, hơn nữa còn lấy mũi thuyền quay ngang chém gãy cột buồm của mấy chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao đang sừng sững phía trước, kết quả là hai chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao này va chạm mãnh liệt vào nhau, ngay lập tức hoàn toàn nát bấy, chậm rãi chìm xuống nước.

Va chạm kịch liệt cũng làm cho chiến hạm Long Nha của Phương Hận Thiểu chấn động, cột buồm phát ra tiếng kêu rắc rắc, dường như muốn nứt gãy, đồng thời thân thuyền cũng dồn dập nghiêng sang bên trái, bọn hải tặc Ca Âu đang lợi dụng cơ hội leo lên, bị chấn động kịch liệt đều rời tay, liên tiếp rơi vào nước biển lạnh như băng. hải tặc Ca Âu cùng quân Lam Vũ thủy thủ đang chém giết nhau trên boong tàu, cũng toàn bộ rối loạn, tiếng súng không ngừng, cũng không biết hậu quả thế nào.

Đặc Lan Khắc Tư đang định nhắc nhở Phương Hận Thiểu phải cẩn thận, đột nhiên đúng lúc này, bên tai truyền đến một trận nổ đinh tai nhức óc, chẳng khác nào long trời lở đất, vội vàng quay đầu nhìn, thì ra là có một chiến liệt hạm khổng lồ của hải tặc Ca Âu cuối cùng không thể trốn tránh được sự truy đuổi ráo riết của hải quân Lam Vũ, bị chiến hạm Long Nha số hiệu 702 của Trầm Văn Hạo chỉ huy bắn trúng trực tiếp vào kho đạn dược khố, cho nên phát ra tiếng nổ mạnh như thế.

Ánh lửa chói mắt cơ hồ muốn nhuộm đỏ cả một vùng trời ngoài khơi, một quả cầu lửa khổng lồ trong nháy mắt đã bùng lên, biến bảy tám chiến thuyền chiến hạm bắc hải buồm tam giác tốc độ cao chung quanh cũng toàn bộ vỡ nát, theo ngọn lửa từ từ bị dập tắt, mà chiếc chiến liệt hạm khổng lồ này cũng từ từ chìm xuống mặt nước tối đen. Vài phút đồng hồ sau, chiếc chiến liệt hạm khổng lồ đã hoàn toàn chìm nghỉm, để lại trên mặt biển là hàng loạt vật tư trôi lềnh phềnh cũng hàng hà sa số hải tặc bơi lóp ngóp rồi cũng từ từ chìm nghỉm, không thể kháng cự . 

Tam phu nhân nghe thế tức giận nói: "Mạnh Thiên Sở, ta nhất mực coi ngươi là người, không ngờ ngươi lại làm chuyện hèn hạ như vậy." 

Mạnh Thiên Sở không nổi nóng, chỉ đáp: "Xét xem nhị phu nhân nhà cô, nghĩ lại xem bà ta trước kia đối với cô thế nào, còn cô hiện giờ sao lại người ta té giếng ném thêm đá xuống luôn vậy? Ta nghĩ làm người hèn hạ chẳng phải chỉ mình Mạnh Thiên Sở ta không thôi đâu."

Tam phu nhân nghe thế, gay gắt hỏi: "Ngươi định nói cái gì? Ta không hề giết hai đứa bé đó, cũng không muốn giết nhị phu nhân."

Mạnh Thiên Sở cười lớn một tiếng, hỏi lại: "CÔ nói không có giết là không giết hay sao? Thư Khang vừa rồi chẳng phải còn nói làm cho Miêu gia loạn lên là điều mà cô hằng hi vọng hay sao?"

Tam phu nhân đáp: "Ta chỉ muốn thấy nhà chúng loạn, chứ không đại biểu ta giết người."

Mạnh Thiên Sở bảo: "Cô vừa tiến vào Miêu gia đã hết lòng nghiên cứu y thuật, đặc biệt là làm cách nào hạ độc, chẳng phải là vì chờ một ngày nào đó có dịp sử dụng hay sao? Cô nói cô không giết hai hài tử đó, còn cô tự bản thân năm năm nay nhất mực không có con. Cô vào nhà họ Miêu sớm hơn cả Tuyết nhi, chẳng lẽ cô không có cảm thấy nguy cơ hay sao? Cô lại không quản nhà cửa, lại không được sủng ái, cũng không có địa vị nguyên phối của đại phu nhân, chẳng lẽ cô thật sự thản nhiên sống và chịu vậy hay sao?"

Tam phu nhân cười lạnh đáp: "Ngươi phân tích rất đúng, án chiếu theo lẽ thường, điều ngươi nói đều không có vấn đề gì đáng tranh cãi, do đó ngươi cho rằng ta muốn mượn tay nhị phu nhân trước hết giết chết hai đứa trẻ, sau đó đổ cho nhị phu nhân giết, sau đó ta hạ độc vào bà ta, để bà ta vĩnh viễn ngậm miệng, như vậy ai cũng sẽ cho rằng nhị phu nhân sẽ sợ tội mà chết, có phải vậy hay không?"

Mạnh Thiên Sở hỏi ngược lại: "Chẳng lẽ không phải vậy?"

Tam phu nhân nhìn Mạnh Thiên Sở, nét mặt lộ vẻ coi thường, lúc này Thư Khang lên tiếng: "Các người cho rằng Tiểu Tiểu giết hai đứa trẻ hay sao? Làm sao có thể được chứ? Hai đứa trẻ đó quả thật không phải Tiểu Tiểu giết, ta có thể làm chứng."

Mạnh Thiên Sở nhìn bộ dạng nóng vội của Thư Khang, cười lạnh hỏi: "Ngươi có thể bảo chứng? Ngươi đi nói với Miêu Triết đi..."

Tam phu nhân ngắt lời Mạnh Thiên Sở: "Ta đã nói là ta không giết hai đứa bé đó, còn chuyện nhị phu nhân trúng độc cũng không phải do ta hạ. Ngươi không tin thì tùy ngươi, ngươi muốn đem chúng ta giao cho Miêu Triết cũng tùy tiện."

Mạnh Thiên Sở nhìn dáng vẻ bất cần của ả, biết là ả quả thật chẳng màng gì nữa, cho nên đứng dậy nói với Chu Hạo: "Cho gọi bọn Vương Dịch vào đi, xem bọn chúng quả thật không muốn nói gì thật không."

CHu Hạo vừa định đi ra cửa, Thư Khang đột nhiên nói: "Các người sao không hỏi vì sao Tiểu Tiểu lại hi vọng Miêu gia loạn lên vậy? Nàng ấy chỉ đứng đó xem trò vui, nàng ấy quả thật chẳng làm gì cả. Các người nếu như giao ta cho Miêu Triết ta cũng chẳng màng gì, nhưng mà mọi kế hoạch của Tiểu Tiểu từ trước đến giờ đều hỏng hết."

Mạnh Thiên Sở đáp: "Ta có hỏi cô ta cũng không nói."

Tam phu nhân nhìn Thư Khang, nói: "Thôi vậy, bọn họ muốn làm gì thì cứ để cho làm đi, nếu như nói mọi chuyện đều do muội gánh vác, thì kế hoạch có ra sao cũng không quan hệ."

Mạnh Thiên Sở gọi Chu Hạo, lần nữa bước đến cạnh tam phu nhân, bảo: "Nếu như kế hoạch của cô chỉ là cá nhân chứ không phải toàn bộ, thì cô làm như vậy sẽ khiến rất nhiều người vô tội bị hại vì cô. Tuy ta không biết kế hoạch của cô là gì, nhưng ta tin rằng nó khiến nhà họ Miêu bất hòa, tốt nhất là loạn hẳn lên, đúng không? Ai đắc tội cô mà khiến cô có lòng dạ và hành vi như thế? Ta không hiểu, nhưng hài tử là vô tội, nhị phu nhân xem ra cũng không có tội, nhưng mà họ đều chết cả rồi. Có phải là cô làm hay không thì ta không biết, nếu như là phải, thì ta không còn lời gì để nói. Nếu như là không phải, cô hà tất phải giống như nhị phu nhân thế thân cho hung thủ như vậy? Có đáng hay không?" 

Tam phu nhân không lên tiếng, Thư Khang ở bên cạnh gấp lên, bảo: "Tiểu Tiểu, không phải là nàng làm, nàng hà tất phải thụ khổ cho người như vậy? Nàng đã đáp ứng ta rồi, để ta chờ nàng nhiều lắm là sáu năm, đến bây giờ đã năm năm rồi, không phải là ta không muốn chờ nữa, mà là ta không muốn chờ ra kết quả là nàng là kẻ giết chồng giết con rồi khiến chúng ta bị đánh chết tươi. Như vậy không những không trả được thù, mà ta và nàng đều phải chết dưới tay chúng, có đáng như vậy hay không?"

Mạnh Thiên Sở thấy Thư Khang nói thế, hơi có chút bất ngờ, thầm nghĩ bản thân hắn vốn cho rằng đây chỉ là chuyện thường ngày của nữ nhân trong gia tộc, không ngờ lại có liên quan đến chuyện huyết hải thâm cừu.

Mạnh Thiên Sở vừa định lên tiếng, tam phu nhân thấy Thư Khang nói như vậy đã thở dài một tiếng, ngồi thẳng dậy nhìn Mạnh Thiên Sở nói: "Ta trước đây đã nói rồi, án theo lẽ thường, ngươi phân tích như vậy là hoàn toàn thành lập, nhưng đáng tiếc là ta đến nhà Miêu Triết không phải là tranh sủng ái, mà là để báo thù."

Đến lúc này thì Vương Dịch tiến vào nhà, thấy bọn họ còn nói chuyện, liền bước đến cạnh Mạnh Thiên Sở thưa: "Vừa rồi huynh đệ đi dò thám đã về, nói là trong nhà đó đang đi tìm tam phu nhân, bọn họ đã đi dò la đại khái ba khắc rồi."

Tam phu nhân nghe thế lập tức gấp lên, hiện giờ dù sao thì ả ta cũng là chủ của một nhà, tự tiện li khai với thời gian dài như vậy tự nhiên khiến người ta nhanh chóng phát hiện ra có điều không ổn.

Mạnh Thiên Sở nhìn nhìn tam phu nhân, ngẫm nghĩ một chút, nói: "Thả cô về nhà cũng được, nhưng cô cần phải cho ta biết một chuyện."

Tam phu nhân không ngờ Mạnh Thiên Sở còn có thể thả mình về, liền vội nói: "Ngươi cứ nói đi, những gì ta biết tự nhiên sẽ không giấu."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Giết hai đứa bé đó và hạ độc nhị phu nhân không phải là một người làm?"

Tam phu nhân không ngờ Mạnh Thiên Sở lại hỏi điều này, nên hỏi ngược lại: "Người bằng vào cái gì mà nhận định rằng ta nhất định biết hung thủ giết người là ai?"

Mạnh Thiên Sở đáp: 'Cô có thể không nói, nhưng ta biết là cô sẽ cho ta biết."

Tam phu nhân hỏi: "Vì sao?"

Mạnh Thiên Sở trả lời: "Kỳ thật cô không nói ta cũng sẽ đi tra, chỉ là cô biết ta thả cô về, dĩ nhiên tin rằng hung thủ không phải là cô, hơn nữa còn có thể ẩn giấu giúp cô chuyện báo thù, cô cảm thấy ta tin cô như vậy, chẳng lẽ cô không thể tin ta một lần được hay sao?"

Tam phu nhân nói: "Ta xác thật không biết hung thủ là ai, ta nói đây là lời thật, hay là vầy, ta hiện giờ thật không có thời gian nói cho ngươi biết, hay là ngày sau ta sẽ nói, ngươi muốn biết gì ta cũng đáp hết, được không?"

Mạnh Thiên Sở đáp: "Muốn ta tin cô không phải là không thể, nhưng cô cần phải cho ta một lí do."

Tam phu nhân cười nói: "Kỳ thật ngươi đã tin ta rồi, cần gì lí do nào nữa? Huống chi Thư Khang và ta đã bị ngươi nắm đằng thóp, ngươi nhận thấy là ta còn cần phải cấp cho ngươi một lí do nào khác hay sao?"

Mạnh Thiên Sở nhìn nữ nhân tinh minh trước mắt, lòng không khỏi cảm khái, nhớ lại lời Miêu Nhu nói, liền bảo: "Vậy cô đi đi, nhưng mà trước khi đi, ta có một chuyện cần cầu cô."

Tam phu nhân đứng dậy, bước ra cửa, vừa đi vừa nói: "Ta biết ngài cần ta làm gì, ta sẽ tận lực."

Mạnh Thiên Sở gật đầu, bảo: "Không phải là tận lực, mà là nhất định."

Tam phu nhân không nói gì nữa, đi thẳng ra cửa. CHu Hạo nhìn bóng tam phu nhân đi xa, nói: "Ả ở ngoài lâu như vậy, không biết sẽ trả lời Miêu Triết thế nào."

Mạnh Thiên Sở tủm tỉm cười, đáp: "Một nữ nhân thông minh như vậy rất thích hợp tranh chỗ nước sâu đó, có chuyện gì còn làm khó được cô ta chứ."

Hắn chuyển thân, nhìn Thư Khang còn đứng ngẩn ra ở đó, bước đến vỗ vai y, hỏi: "Lo cho cô ta hay sao?"

Thư Khang lúc này mới tỉnh thần trở lại, nhìn Mạnh Thiên Sở, đáp: "Từ trước đến giờ chỉ có nàng ấy quan tâm tôi, tôi còn chưa bao giờ lo lắng cho nàng ấy."

Mạnh Thiên Sở nghe Thư Khang nói thế, gật gù tin ngay, hỏi tiếp: "Vậy ngươi đang nghĩ gì?"

Thư Khang đáp: "Nghĩ vì sao ngài đột nhiên lại tha cho chúng tôi."

Mạnh Thiên Sở bảo: "Tuy ta không biết người là do ai giết, chúng ta cũng không thể bằng cảm giác mà làm việc, nhưng trước khi ta còn chưa tìm ra chứng cứ ai là kẻ giết người, ta thật sự không có lý do bắt cô ta."

Thư Khang nhìn lại Mạnh Thiên Sở, nói: "Ngài thật là thông minh, như vậy chúng tôi đã nợ ngài một mối nhân tình."

Mạnh Thiên Sở bảo: "Chúng ta không ai nợ ai cả."

Thư Khang đáp: "Không, là chúng tôi nợ ngài. Nếu như ngài đem chúng tôi giao cho Miêu Triết, tôi biết tính cách của Tiểu Tiểu, nàng ấy thà chết cũng không nói nửa lời, như vậy ngày này năm sau đại khái là ngày kỵ của chúng tôi rồi."

Mạnh Thiên Sở nhìn vẻ mặt bi thương của Thư Khang như vậy, bảo: "Về chuyện báo thù ta không hỏi ngươi, ta chờ cô ta cho ta biết, nhưng có một điểm ta không rõ, là ngươi rõ ràng biết cô ta là tam phu nhân có danh có thật của Miêu Triết, tại sao lại có thể nhẫn chịu người yêu thương của mình nép thân vào nam nhân khác cơ chứ?"

Thư Khang thống khổ lắc đầu, đáp: "Chúng tôi lớn lên từ nhỏ, quan hệ gia đình tuy không coi là thế giao, nhưng cũng rất tốt. Chúng tôi nhất mực cho rằng chờ đến lúc chúng tôi lớn, tất sẽ nên duyên tần tấn. Lúc đó chúng tôi cùng đọc sách, cũng viết chữ, Tiểu Tiểu thông minh hơn tôi nhiều, lúc đó cha tôi nói, nếu nàng ấy là nam nhân ắt sẽ có ngày thi trúng trạng nguyên. Nhưng sau này, nhà nàng ấy xảy ra biến cố, cha nàng ấy bị người ta hại chết, mẹ vì thương tâm quá độ mà treo cổ tự vẫn. Ngày ấy nàng mười ba tuổi mà đã không còn mẹ cha, cha tôi đưa nàng ấy về nhà, nhưng cá tính nàng ấy quá háo cường, nhất mực muốn báo thù." Mạnh Thiên Sở hỏi: "Ý tứ của ngươi là người nào đó của Miêu Gia đã hại cha cô ta?"

Thư Khang gật gật đầu, đáp: "Sau đó, nàng ấy nhất mực đến các nơi thăm dò xem xét, cha tôi cũng trợ giúp, cho nên mới biết chính là Miêu Triết đã hại cha nàng ta."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Vậy Miêu Triết vì sao lại hại cha cô ta vậy? Ta nhớ lần trước ngươi nói cho ta biết là ngươi không phải người vùng này, vậy thì tam phu nhân xem ra cũng không phải. Xa cách nhau như vậy, vì sao Miêu Triết lại hại cha cô ta chứ?"

Thư Khang đáp: "Cha của Tiểu Tiểu nhất mực làm người hầu ở nhà Miêu Triết, làm suốt gần hai mươi năm. Sau đó nghe nói nhân vì nhà của Miêu Triết xảy ra chuyện gì đó, cho nên đã đuổi rất nhiều người đi. Nhân vì cha của Tiểu Tiểu làm ở đó lâu năm, cho nên họ đã không đuổi ông ta. Lúc đó cha của Tiểu Tiểu còn nhờ người mang thư về nói là rất may ông ấy còn làm việc, nếu không không có tiền cung cấp cho gia đình nữa."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Có biết vì sao Miêu Triết lại giết cha của Tiểu Tiểu không?"

Thư Khang trả lời: "Cái đó thì tôi không rõ lắm. Tiểu Tiểu cũng không biết rõ, cho nên khi biết là Miêu Triết giết cha, nàng ấy quyết lòng tiếp cận Miêu Triết, thiết kế báo thù. Sau đó, vì phải tiếp cận Miêu Triết, chúng tôi đến Nhân Hòa huyện, tôi thụ nghiệp vào làm thầy ở trường tư thục, nhân vì ở tư thục không chấp nhận nữ dạy học, cho nên nàng ấy ở trường làm tạp dịch, chờ đợi cơ hội."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Chẳng lẽ ngươi không khuyên qua cô ta sao?"

Thư Khang cười khổ một tiếng, nói: "Ai cũng không thể khuyên nàng ấy được. Nàng ấy hận sâu như vậy, thù lớn như vậy, chẳng lẽ người bên cạnh khuyên một câu là có thể bỏ qua được sao? Nếu là thế, nữ tử như thế tôi cũng không đem lòng yêu được."

Mạnh Thiên Sở hiểu được tâm tình của Thư Khanh, nói: "Chỉ có điều cô ta làm vậry quá nguy hiểm, công phu của Miêu Triết giỏi như vậy, đại phu nhân của y cũng không phải tay vừa, cô ta là nữ tử yếu ớt như vậy làm sao có thể báo thù được?"

Thư Khang đáp: "Do đó mới nói, nàng ấy hi vọng cái nhà này dẫn đến kết quả cuối cùng là tứ phân ngũ liệt, nhà không thành nhà. Nàng ấy cũng nói cho tôi biết, vì tôi nàng ấy sẽ không giết Miêu Triết, nhân vì giết người thường mạng, nàng ấy nếu chết rồi tôi dĩ nhiên là không sống nỗi, cho nên, tôi tin là nàng ấy không giết người, và nàng ấy cũng không có bản lĩnh giết người như vậy."

Mạnh Thiên Sở tiếp lời: "Nếu nói như vậy, toàn bộ kế hoạch của các ngươi để thực thi phương án làm cho nhà Miêu Triết tứ phân ngũ liệt là gì?"

Thư Khang cười an ủi, đáp: "Tiểu Tiểu đã thực thi kế hoạch rồi, ngài chẳng lẽ không nhận thấy hay sao?"

Mạnh Thiên Sở chấn động trong lòng, hỏi: "Mượn đao giết người?"

Thư Khang hỏi lại: "Tôi có nói qua sao? Tôi dường như không có."

Mạnh Thiên Sở đột nhiên đứng dậy xông ra cửa, Chu Hạo và Vương Dịch vội vã theo sau, Mạnh Thiên SỞ vừa đi vừa nói với Vương Dịch: "Tìm người canh giữ cái vườn này cho ta, không cho người trong đó ra ngoài, người ngoài cũng không cho phép vào trong."

Phía sau lưng Mạnh Thiên SỞ truyền lại tiếng cười lớn điên cuồng của Thư Khang, dường như giải tỏa mọi cơn ức hận trong lòng vậy...

Mạnh Thiên Sở và CHu Hạo đến cổng nhà Miêu gia thì trời đã canh hai. Cửa lớn đóng kín, hai người nhảy xuống xe, Chu Hạo vừa định gõ cửa, Mạnh Thiên Sở đã kéo Chu Hạo lại, khẽ bảo: "Lúc này muốn vào chúng ta không có lý do, ngược lại dễ dàng dẫn đến sự hoài nghi. Như vầy đi, ta đưa xe ngựa đến cách một khoảng chơ đợi, ngươi vào thám thính tình huống các phòng một chút đi."

Chu Hạo nghe vậy gật đầu, chuyển thân lên xe thay y phục dạ hành, che mặt, chờ Mạnh Thiên Sở đưa xe ngựa đi ra xa mới phóng người trèo thoăn thoắt lên phòng, tiêu biến trong hắc ám.

Mạnh Thiên Sở ở trên xe chờ một lúc lâu thì Chu Hạo quay về. CHờ Chu Hạo lên xe, Mạnh Thiên Sở hỏi: "Sao đi lâu quá vậy, bị phát hiện hay sao?"

CHu Hạo lột mạng che mặt ra, nói: "Vừa đi vừa nói."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, khẽ quất roi lên lưng ngựa, xe ngựa bắt đầu di chuyển.

Chu Hạo nói: "Quả nhiên bị phát hiện rồi."

Mạnh Thiên Sở cả kinh, hỏi: "Ai phát hiện ngươi chứ, ngươi làm sao thoát thân?"

Chu Hạo đáp: "Là đại phu nhân phát hiện. Tôi ngay từ lúc đầu đã phát hiện công phu của nữ nhân đó không dưới Miêu Triết. Quả nhiên, ả phát hiện tôi ở trên đỉnh phòng, liền từ trong phòng bước ra, lắc người cái đã lên đỉnh phòng, chỉ có điều tôi không có lòng quá chiêu với ả, nên nhanh chóng phi thân qua đỉnh một phòng khác."

Mạnh Thiên Sở biết công phu Chu Hạo không ai có thể hơn, nếu nói về khinh công cũng không có ai truy đuổi được lão đầu ốm o này.

Mạnh Thiên Sở nói: "Vậy ả không nhận ra ngươi là tốt rồi."

Chu Hạo nói: "Nhận thì tự nhiên không nhận ra rồi, chỉ là tôi vừa rồi ở trên phòng ả phát hiện một điều rất kỳ quái. Sau khi ả phóng xuống, tôi đã lén quay lại phòng ả xem xét, mang về cho ngài món này đây." Nói xong giao cho Mạnh Thiên Sở một vật.

Mạnh Thiên Sở tiếp lấy xem, thì ra là một bình thuốc, hỏi: "Bình thuốc này ta thấy rồi, là một bình rất phổ thông mà. Nhị phu nhân Giai Âm trong nhà cũng có nhiều bình thuốc như vầy ở trong phòng."

Chu Hạo nói: "Điều đó thì tôi biết, chỉ có điều ngài hãy xem kỹ, tôi nếu như không tận mắt nhìn thấy, tôi tự nhiên sẽ không để ý cái bình thuốc nhỏ nhà nào cũng có này."

Mạnh Thiên Sở lại xem xét bình thuốc trở lại, nhưng không nhận ra huyền cơ gì, trả lại bình vào tay CHu Hạo, nói: "Chuyện chăm chút thế này ta thường không giỏi lắm."

Chu Hạo nói: "Không phải là ngài không chăm chút, mà là người thường ắt sẽ không phát hiện trong bình thuốc này có vấn đề gì." Nói xong, y lật ngược bình thuốc lại, dưới bình thuốc có một điểm nhỏ bằng hạt gạo, Chu Hạo đưa cho Mạnh Thiên Sở xem, sau đó dùng móng tay án lên đó một cái, xoay chuyển bình thuốc. Không ngờ là cái bình nhỏ như vậy lại hở ra, bên trong có hai ngăn, ngăn trong có sáu hoàn thuốc, dưới đáy còn hai hoàn nữa, màu sắc đều giống nhau: màu đen.

Mạnh Thiên Sở lập tức hiếu kỳ, cầm lấy nhìn kỹ. Thường những bình thuốc nhỏ thế này chỉ bỏ được 10 hoàn thuốc, nếu hoàn thuốc hơi lớn một chút chỉ được vài viên mà thôi. Từ thiết kế của bình thuốc này mà xét, hai loại dược hoàn này có tác dụng có vẻ không giống nhau, nếu không người ta không phí tận tâm cơ làm hai tầng như vậy, hơn nữa lại ở trong một cái bình nho nhỏ thế này.

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Ngươi làm sao mà biết được vậy?"

Chu Hạo nói: "Tôi lúc nhìn thấy cái này thì bị đại phu nhân phát hiện. Nhân vì tôi ở đỉnh phòng, cự li hơi xa, bà ta từ ngoài vào xong liền đóng cửa lại, tìm từ trong đám bình thuốc ra cái bình này. Trước đó tôi không chú ý, nhân vì người ta làm nghề thuốc, trong nhà bình loại này ắt là nhiều lắm. Nhưng mà, sau đó tôi phát hiện bên ngoài đột nhiên có người gọi đại phu nhân, nói là lão gia bảo bà ta mau đem thuốc tới phòng tứ phu nhân. Bà ta liền lấy thuốc từ một bình khác sau đó xoay bỏ hai hoàn vào đáy của bình này. Có lẽ lúc đó tôi quan sát đến nhập thần, ngói dưới chân phát ra tiếng động nên ả mới phát hiện, bỏ bình xuống bàn truy đuổi theo tôi." 

Mạnh Thiên Sở nói: "Vậy ngươi mang cái bình thuốc này đi rồi, bị ả phát hiện không còn nữa thì sao? Coi chừng đánh cỏ động rắn đó."

Chu Hạo cười đáp: "Cái này thiếu gia yên tâm, tôi vào phòng xong phát hiện trong đám bình thuốc đó đều cùng một dạng như vầy, cho nên lấy cái này đi, sau đó để lên bàn cái bình khác giống y như vậy."

Mạnh Thiên Sở vỗ vai CHu Hạo: "Ngươi thật là có ý, chỉ hi vọng bà ta không phát hiện ra."

CHu Hạo nói: "Ngoài ra còn phát hiện một sự tình khác."

Mạnh Thiên SỞ ra hiệu cho y nói tiếp. Chu Hạo nói: "Trước đó tôi đến phòng tam phu nhân trước, đại khái là ả về nhà xong nói dối rất giỏi, xong an nhiên vô sự về phòng tính toán sổ sách. Miêu Giác ngủ trong phòng của ả. Sau đó Miêu lão gia đến phòng, nói với ả là tối này muốn đến phòng ả ngủ. Ả trước đó nói Miêu Giác đang có mặt, không tiện, nhưng Miêu Triết có vẻ không cam tâm, bảo nha hoàn mang Miêu Giác đi ngủ. Tam phu nhân chỉ đành đáp ứng, sau đó Miêu Triết đến phòng tứ phu nhân, nói là tứ phu nhân không khỏe, tam phu nhân không hề theo, chờ Miêu Triết đi rồi liền đóng của lại, sau đó kéo rương ra lấy một vật, tôi không nhìn rõ là vật gì thì ả đã nuốt vào trong bụng."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, cảm thấy sự tình càng lúc càng mơ hồ. Xe ngựa bất tri bất giác đến cửa nhà hắn, Chu Hạo nói: "Hay là ngài về hỏi thử nhị phu nhân, đưa thuốc này cho phu nhân xem, có thể là phu nhân có thể giúp được ngài."

Mạnh Thiên Sở gật gật đầu, thầm nghĩ ông không nói ta cũng sẽ đi hỏi Giai Âm thôi.

Mạnh Thiên Sở đến phòng của Tả Giai Âm, nghe nàng ta đang cùng nói chuyện với Hạ Phượng Nghi, liền gõ cửa. Thật nhanh sau đó, Hạ Phượng Nghi bước ra, Giai Âm nằm trên giường. Hạ Phượng Nghi thấy là Mạnh Thiên Sở, liền nói: "Thiếu gia về rồi."

Trong phòng rất ấm, giữa phòng có lò sưởi, thếlửa đang thịnh, bên cạnh lò có hai củ khoai lang vừa nướng chín bốc mùi thật thơm.

Mạnh Thiên Sở thấy Tả Giai Âm nằm trên giường, vội bước tới hỏi: "Nàng sao vậy? Có phải mệt không?"

Tả Giai Âm lắc đầu cười đáp: "Không có sao, làm gì mà không khỏe hoài vậy chứ?"

Mạnh Thiên Sở thở phào một tiếng, ra hiệu cho Hạ Phượng Nghi đến ngồi cạnh mình, sau đó hỏi: "Vậy trễ như vậy rồi hai nàng sao còn chưa nghỉ?"

Trước đó Mạnh Thiên Sở vốn nghĩ là trời đã khuya, người trong nhà ắt đều đã ngủ, không ngờ phòng của Tả Giai Âm còn đèn, cho nên đến xem xét. Hạ Phượng Nghi nói: "Thiếp và Giai Âm mấy ngày nay nhất mực như vậy, khó ngủ nên tụ lại nói chuyện giải khuây."

Mạnh Thiên SỞ nghĩ vậy cũng hay, khó có gia đình nào quan hệ dung hiệp như vậy, bản thân không cần phí tâm nghĩ chuyện trong nhà nữa.

Tả Giai Âm hỏi: "Đói rồi chưa?"

Mạnh Thiên Sở nghe Tả Giai Âm hỏi như vậy chợt ngửi lại hương vị mê người của khoai lang nướng, liền bước đến bên bếp lò, vừa định giơ tay ra lấy thì bị Hạ Phượng Nghi ngăn lại.

Hạ Phượng Nghi cười đánh tay của Mạnh Thiên Sở ra, nói: "Làm bộ dạng như chàng vậy e rằng khoai chưa ăn được mà đã phỏng tay rồi. Nóng như vậy còn đi cầm, chàng tưởng tay chàng là sắt hay sao?"

Mạnh Thiên Sở cười hà hà, đứng xem Hạ Phượng Nghi dùng kềm gắp hai củ khoai lang ra. Nàng bảo: "CHờ một chút để nguội đã, thiếp bóc vỏ xong rồi ăn."

Mạnh Thiên Sở giả vờ đói lắm vậy, nhìn chằm chằm Hạ Phượng Nghi: "Người ta đói thật rồi, hay là nàng để ta ăn sống nàng luôn vậy."

Hạ Phượng Nghi thấy Mạnh Thiên Sở lại bắt đầu giở trò, má ửng hồng, dù sao thì cũng có Tả Giai Âm ở đó, nên chỉ kiều mị nhìn Mạnh Thiên Sở, bảo: "Chỉ có chàng là không đứng đắng, nếu không phải Giai Âm nhắc, chàng làm gì biết đói hay là không."

Mạnh Thiên Sở vờ cười khà khà mấy tiếng, Tả Giai Âm đã vội bảo: "Khuya như vậy rồi, e rằng yên ắng đến chuột ngáy cũng còn nghe tiếng, chàng cười to như vậy mọi người thức giấc hết."

Mạnh Thiên Sở thấy Tả Giai Âm nhắc vậy, đành nín miệng ngay, hỏi: "Nghe nói người có thai hay mệt lắm, đã khuya vậy còn không ngủ, nàng chẳng mệt sao?" Mạnh Thiên Sở vốn định đem chuyện lúc nãy nói cho Tả Giai Âm nghe, nhờ nàng cho ý kiến, nhưng lại sợ nàng mệt, cho nên mới hỏi vậy.

Tả Giai Âm đáp: "Thiếp có gì mà mệt chứ? Trong nhà chuyện gì lớn cũng có Phượng Nghi tỷ tỷ, chuyện nhỏ thì có Phi Yến cực khổ, thiếp là người hạnh phúc nhất, suốt ngày ngoại trừ ăn và ngủ, làm gì có chuyện cực chứ, chàng có phải là có chuyện muốn hỏi không?"

Mạnh Thiên Sở cười đáp: "Cái gì cũng không qua được mắt nàng, chỉ là ta sợ nàng và Phượng Nghi mệt rồi đó thôi. Nàng cũng biết chuyện ta nói ra lời thường không có ngắn đâu."

Hạ Phượng Nghi bảo: "Thiếp biết chàng đại khái muốn nói gì rồi, xem ra hai củ khoai lang này tự nhiên không lót được lòng chàng, hai người nói đi, thiếp đi làm cho hai người vài món ăn." Nói xong nàng đứng dậy đẩy cửa định bước ra ngoài. 

Mạnh Thiên Sở liền kéo Hạ Phượng Nghi lại, nói: "Nàng cứ như vậy, khuya như vậy rồi nàng hà tất tự thân đi làm cái gì chứ? Trước đó trong nhà không có nha hoàn và người hầu, nàng đi thì còn hiểu được, hiện giờ nàng tự đi, vậy ta tìm số người hầu đó về làm cái gì?"

Hạ Phượng Nghi biết Mạnh Thiên Sở thương xót mình, đáp: "Lúc này không gọi chúng làm gì. Bọn họ cũng mệt cả ngày rồi, thiếp xuống bếp xem thử coi, nếu không có gì ăn được, thiếp gọi họ dậy làm gì đó cũng không muộn."

Mạnh Thiên Sở thấy Hạ Phượng Nghi chỉ mặc cái áo mỏng, liền đứng dậy lấy áo bông khoác lên người nàng, nói: "Mặc y phục có kỹ vào, nếu không có gì ăn thì không phải làm nữa, ta biết nàng sẽ không gọi chúng dậy đâu, nàng cũng không được tự làm, hai củ khoai lang này đủ chúng ta ăn rồi."

Hạ Phượng Nghi mặc y phục kín vào, gật đầu cười bước ra ngoài. 

Mạnh Thiên Sở quay trở lại, ngồi cạnh Tả Giai Âm. Tả Giai Âm bảo: "Nếu lạnh chân thì lên giường, như vậy sẽ ấm hơn."

Mạnh Thiên Sở nghe có lý, vội cởi giày trèo lên giường, ngồi dựa song song với Tả Giai Âm, xong lấy bình thuốc ra đưa cho nàng xem. Tả Giai Âm không tiếp lấy, chỉ nhìn nhìn, hỏi: "Sao hả? Đây là manh mối chàng mới phát hiện hay sao?"

Mạnh Thiên Sở quan sát biểu tình của Tả Giai Âm, biết là nàng không phát hiện huyền cơ gì trong này, cho nên làm ra vẻ thần bí nói: "Khà khà, cuối cùng rồi cũng có điều khiến Giai Âm của ta không biết."

Tả Giai Âm hỏi: "Bình thuốc như vầy rất bình thường a, cần thiếp biết cái gì chứ?"

Mạnh Thiên SỞ thấy cuối cùng Tả Giai Âm không biết thật, vô cùng đắc ý, liền quay ngược bình lại mở ra cho nàng xem. Tả Giai Âm nói: "Không cần làm mẫu cho thiếp nữa, thứ đó ngay từ nhỏ thiếp đã biết chơi rồi."

Mạnh Thiên Sở vô cùng cả kinh, hỏi: "Nàng biết rồi?"

Tả Giai Âm cười, chỉ vào một hàng bình thuốc ở tủ đối diện, nói: "Ở đây thiếp còn có nhiều món hay hơn nhiều, có muốn xem không?"

Mạnh Thiên SỞ nghe thế, vội bước đến trước hàng bình thuốc mà Tả Giai Âm chỉ, lấy xuống mấy bình, sau đó nhảy vội lên giường bày ra, bảo: "Còn có trò gì vui, cho ta xem thử."

Tả Giai Âm quan sát các bình, tùy tiện lấy một cái, nói: "Xem cái này chàng biết làm trò không?"

Mạnh Thiên Sở tiếp lấy cái bình thuốc, xem xét một hồi, kéo kéo vặn vặn, xoay qua xoay lại nhưng bình thuốc vẫn y nguyên không động. Hắn cười trả lại bình thuốc cho Tả Giai Âm. Tả Giai Âm tiếp lấy, chỉ kéo nhẹ cái dây màu hồng trên nắm, cái bình bật ra.

Mạnh Thiên Sở thấy vậy khoái chí, bảo: "Nàng còn có gì ta chưa biết nữa, ta ngày ngày ở với nàng, trong phòng nàng có nhiều món lạ thế này mà ta đều không biết."

Tả Giai Âm cười đáp: "Có những thứ đặt trước mặt chàng, khi chàng không cần hay chàng không chú ý, chàng tự nhiên không phát hiện có vật đó hay vật đó ảo diệu và có cách dùng như thế. Giống như hai củ khoai lang này, bình thường đều là do chúng thiếp bóc sẵn đưa tận miệng cho chàng ăn, nếu để chàng tự lấy, ắt chàng sẽ không biết làm sao để khỏi bỏng tay rồi, những chuyện khác đều y như vậy hết."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, dù hắn không thật sự tệ như vậy, nhưng cũng hiểu đạo lý bên trong, nên nói: "Chỉ có bình thuốc thôi mà, sao lại làm ra nhiều trò như vậy để làm gì?"

Tả Giai Âm xem ra ngồi mệt rồi, Mạnh Thiên Sở liền lấy cái gối lót thêm cho nàng dựa, nàng điều chỉnh tư thế một chút cho thoải mái hơn, đáp: "Từ trước có người phiền bản thân uống nhiều loại thuốc khác nhau một lần mang nhiều bình không tiện, nên nghĩ ra cách giống như bình thuốc chàng vừa cho thiếp xem vậy, phân ra làm hai ngăn mang được một lúc hai thứ, đúng không?"

Mạnh Thiên Sở thấy Tả Giai Âm không cần sờ cũng biết bình thuốc có hai ngăn, bội phục vô cùng, vội gật đầu.

Tả Giai Âm nói tiếp: "Sau đó có người cũng dùng loại bình thuốc như vậy đi hại người."

Mạnh Thiên Sở bắt được ý, hỏi: "Làm sao hại người?"

Tả Giai Âm lấy ví dụ: "Tỷ như một bệnh nhân nhất mực dùng loại thuốc này, y sẽ không hoài nghi trong bình còn có loại thuốc khác. Nếu như có người khác làm trò với bình thuốc, khi đưa thuốc cho người đó uống không lấy thuốc ở hộc trên mà lấy ở hộc dưới, nên dù người đó ngay trước mắt bệnh nhân lấy thuốc ra, người uống thuốc chưa chắc đã nhìn ra kẻ ấy đã làm trò gì." 

Mạnh Thiên Sở nghe thế, liền nhớ lại lời Chu Hạo kể, liền tự hỏi đại phu nhân đem hoàn thuốc này đặt dưới đáy bình cho ai uống đây? Án chiếu theo lời CHu Hạo, thì là cho tứ phu nhân uống, như vậy chẳng lẽ hung thủ là đại phu nhân? Nghĩ đến đây, đầu óc Mạnh Thiên Sở liền đem mọi sự tình phát sinh gần đây xoát xét lại hết một lượt, càng lúc càng cảm thấy đại phu nhân rất có khả năng là hung thủ. Một, bà ta có công phu, có thể dễ dàng treo hai đứa bé lên xà nhà. Hai, cái gọi là có quỷ đại khái là do bà ta giả ra. Khinh công của bà ta giỏi, chờ người ở ngoài phát hiện xông vào phòng thì bà ta hoàn toàn có thời gian rời khỏi hiện trường, do đó cửa sổ của phòng vì sao mà mở ra chính là đáp án. Ba, bà ta và nhị phu nhân đồng thời có mang, con bà ta chết, nhị phu nhân lại liên tục sinh cho Miêu gia hai đứa, bà ta tự nhiên tâm lý bất bình, sau khi giết xong hai đứa bé rồi đi đỗ tội cho nhị phu nhân, sau đó hạ độc nhị phu nhân, để nhị phu nhân chết đi, nhổ mất cái đinh trong mắt, trong nhà không còn ai ngại mắt nữa, vì tam phu nhân nhất mực không có con, chẳng uy hiếp bà ta gì được. Tứ phu nhân thì lại khác, tuy con của tứ phu nhân chết, nhưng tứ phu nhân còn trẻ, còn có thể sinh nở, cho nên bà ta ắt phải trừ mối họa hoạn này.

Nghĩ đến đây, Mạnh Thiên Sở như vén mây mù tìm được ánh sáng ban mai, cảm thấy thần trí sảng khoái, tâm tư như quẳng khối đá to.

Tả Giai Âm thấy Mạnh Thiên Sở ngẩn ra suy nghĩ xong rồi cười thở phào một hơi dài như thế, liền hỏi: "Nghĩ thông rồi?"

Mạnh Thiên Sở gật đầu đáp: "Ta nghĩ là vậy."

Tả Giai Âm hỏi: "Vậy tốt. Vậy chàng nghĩ ra đối phó làm sao chưa?"

Tả Giai Âm hỏi câu này nhắc tỉnh Mạnh Thiên Sở. Đúng a, đây chỉ là suy đoán của hắn, chưa có chứng cứ, hắn làm sao định tội được đại phu nhân chứ?

Nghĩ đến đây, Mạnh Thiên Sở nói với Tả Giai Âm: "Nàng biết dược lí, nàng xem dùm ta dược hoàn trong bình này thế nào, rốt cuộc là trị bệnh gì, hai loại có gì khác nhau."

Tả Giai Âm tiếp lấy bình thuốc vừa rồi, thành thạo lấy thuốc từ trong bình ra đưa lên mũi ngửi, sao đó nhờ Mạnh Thiên Sở đưa đèn sát vào tử tế quan sát, dùng móng tay vít ra một chút, nhờ hắn lấy cái chung lại, bỏ thuốc vào hòa với chút nước. Chẳng mấy chốc thuốc tan ra, Tả Giai Âm lại ngửi thử, phát hiện ra điều gì đó, gật gù. Mạnh Thiên Sở vội hỏi: "Có biết là thuốc gì không?"

Tả Giai Âm mỉm cười gật đầu, nói: "Nếu thiếp không có mang, tự nếm thử còn nhanh hơn phương pháp này nhiều."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Lá gan của nàng lớn thật, nếu là độc dược thì sao?"

Tả Giai Âm đáp: "Thiếp năm tuổi đã bắt đầu học thảo dược, có độc hay không đối với thiếp chỉ cần ngửi qua là biết. Nếu mà không trực tiếp thử, một lượng nhỏ như vậy không có vấn đề gì."

Mạnh Thiên Sở nói: "Vậy nàng còn chưa cho ta biết thuốc này rốt cuộc là gì."

Đến lúc này Hạ Phượng Nghi bưng một mâm vào, nói: "Còn đang nói à, ăn cái này trước, trời sắp sáng rồi."

Chờ Hạ Phượng Nghi đến gần, Mạnh Thiên Sở thò đầu ra xem, thấy có cháo và bánh, liền trách: "Ta biết là nàng đi làm mà, trời lạnh vậy coi chừng bệnh đó, nếu bệnh rồi sao đây."

Hạ Phượng Nghi đặt mâm lên ghế cạnh giường, sau đó đi đóng cửa lại, xong trở lại giường đưa chén cháo cho Tả Giai Âm, sau đó trao chén còn lại cho Mạnh Thiên Sở, bảo: "Trong chén của Giai Âm tỷ có bỏ chút a giao (1 loại thuốc tàu) đấy."

Tả Giai Âm tiếp lấy bát, nói: "Tỷ tỷ, chúng mình xuống giường ăn đi, làm gì có chuyện tỷ tỷ bưng cơm nước tới tận giường cho muội muội ăn chứ." Nói xong định xuống giường, Hạ Phượng Nghi đã án giữ Tả Giai Âm lại, bảo: "Không được dậy, trên giường ấm hơn, muội lúc lạnh lúc nóng không tốt cho thai nhi đâu."

Mạnh Thiên Sở bảo: "Nàng cũng lên giường đi, chúng ta đang bàn chuyện, nàng cũng đề xuất chủ ý giúp ta." Nói xong hắn giơ tay kéo Hạ Phượng Nghi lên giường.

Hạ Phượng Nghi cười: "Chàng càng lúc càng không đứng đắng, làm gì có chuyện ba người cùng ngủ chung giường chứ, trời sắp sáng rồi, nếu để người dưới nhìn thấy nói ra thì mất mặt chết được."

Mạnh Thiên Sở tỉnh rụi: "Đều là phu nhân của ta, có gì đáng tức cười chứ. Mau mau, lên đây, nàng mà không lên ta không ăn đồ của nàng nấu đâu."

Tả Giai Âm cũng nói: "Tỷ tỷ đừng để tâm, xem ra người dưới dậy thì chúng ta cũng dậy rồi, hơn nữa, bọn chúng làm sao biết chúng ta ngủ chung giường chứ? Cửa đóng, đèn tắt, ai biết chứ a?"

Hạ Phượng Nghi thấy Tả Giai Âm nói thế, đang do dự thì Mạnh Thiên Sở đưa chén cho Tả Giai Âm, choàng tay ra kéo nàng. Hạ Phượng Nghi thấy vậy, biết Mạnh Thiên Sở không đùa, sợ lúc co kéo trúng Tả Giai Âm, đành nói: "Được, để thiếp lên, chàng đừng kéo vậy, thiếp còn cởi giày nữa."

Hạ Phượng Nghi lên giường ngồi dựa đối diện với Tả Giai Âm và Mạnh Thiên Sở, bảo: "Mau ăn đi, nguội không ngon đâu."

Mạnh Thiên Sở loáng cái đã ăn xong, đặt chén lên bàn nhỏ cạnh đầu giường, rồi không giục Tả Giai Âm, chờ nàng ăn xong mới nói: "Nàng còn chưa cho ta biết thuốc đó là gì."

Tả Giai Âm đưa chung thuốc hòa tan cho Hạ Phượng Nghi, bảo nàng ngửi, Hạ Phượng Nghi nói: "Dường như là thuốc bổ thông thường."

Tả Giai Âm cười gật đầu. Mạnh Thiên Sở không hiểu, hỏi: "Nếu như là thuốc bổ thì ắt không phải độc dược, vậy vì sao lại đặc biệt để ở ngăn khác?"

Tả Giai Âm không hồi đáp, đổ 1 viên thuốc ở ngăn trên ra ngửi ngửi, đáp: "Vấn đề hiện giờ đã ra rồi."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Vấn đề gì?"

Tả Giai Âm đáp: "Không phải mọi loại thuốc bổ đều có thể dùng, còn phải đối chứng rồi mới hạ dược."

Mạnh Thiên Sở gấp lên, nói: "Nàng trực tiếp nói cho ta biết đi, hai loại thuốc này nếu dùng chung sẽ có tác dụng gì?"

Tả Giai Âm nói: "Tính chàng cứ nóng vội không hà, thiếp tự nhiên phải nói cho chàng biết chứ. Thuốc xem xét trước là thuốc bổ. Thiếp vì sao xem xét thuốc ở đáy bình trước, thường là vì một khi biết thuốc ở đáy xong ắt sẽ biết thuốc để ở ngăn trên là gì liền."

Mạnh Thiên Sở gật đầu nói: "Ta không gấp, nàng từ từ nói kỹ đi."

Tả Giai Âm nói tiếp: "Thiếp nói rồi, không phải bất kỳ ai cũng có thể uống bất kỳ thuốc bổ gì, người có thân thể hư nhược thường không thể uống nhiều loại thuốc bổ. Hai loại thuốc này chỉ nhìn không sẽ không thấy nó có hại cho thân thể gì, một loại là thuốc trị cảm mạo thông thường, một loại là thuốc bổ. Nhưng hai thứ dùng chung với nhau, thì nếu người uống nếu thân thể bình thường quá yếu đuối sẽ không khỏe lên mà còn bị bệnh nặng hơn."

Mạnh Thiên Sở nghe Tả Giai Âm nói vậy, đột nhiên nhớ lại ngày nhị phu nhân phát phong, Miêu Triết khi nhìn tứ phu nhân nói sao nàng càng uống thuốc càng mệt. Nghĩ đến đây, hắn không khỏi lo cho tính mệnh của tứ phu nhân vừa mất hai đứa con đó.

Hắn hỏi: "Loại thuốc thế này không thể uống dài lâu được đúng không, nếu uống lâu e rằng sẽ ảnh hưởng đến tính mạng?"

Tả Giai Âm đáp: "Vậy phải coi người hạ dược có thật muốn lấy mạng người uống thuốc hay không."

Mạnh Thiên Sở cả kinh, hỏi: "Lời này là sao?"

Tả Giai Âm đáp: "Thuốc có ba phần độc, là thuốc phần nhiều đều có tác dụng rất khác nhau tùy liều lượng và cách dùng, bào chết. Dùng khéo thì là thuốc, dùng không khéo, dù chỉ thêm một giọt, cũng biến thành độc."

Mạnh Thiên Sở nói: "Ý của nàng là cùng là thuốc nhưng nếu chỉ sai lệch một ít về phân lượng, thì thuốc đó có khả năng biến thành độc dược đúng không?"

Tả Giai Âm gật đầu khẳng định: "Đúng vậy."

Mạnh Thiên Sở lập tức xuất hạn mồ hôi, nói: 'Vậy tứ phu nhân e rằng gặp nạn rồi."

Tả Giai Âm vào ngày nhị phu nhân chết đã nhìn thấy tứ phu nhân xinh đẹp đó, nghe nàng ta nói chuyện với nhị phu nhân, cảm thấy nàng ta không phải là người máu lạnh vô tình, nên có ấn tượng khá tốt, giờ nghe Mạnh Thiên Sở nói vậy, nên hỏi: "Là ai muốn hại tứ phu nhân phải không?"

Mạnh Thiên Sở gật đầu. Hạ Phượng Nghi nói: "Vậy chàng phải nghĩ cách ngăn cản mới được."

Mạnh Thiên Sở đáp: "Ta cũng muốn như vậy lắm, nhưng làm sao mới có thể ngăn cản đây?"

Tả Giai Âm nói: "Nếu như có người nhắc nàng ta, và không để cho người hại nàng ta biết là được rồi."

Mạnh Thiên Sở nghĩ lại tứ phu nhân ngày thường ở Miêu gia hung hăng quen rồi, trong nhà dường như không có quan hệ tốt với ai cả, hiện giờ lại có người muốn hảm hại, nói cho ai biết cũng không an toàn, và nếu như để cho người phục thuốc cho nàng ta biết thì tình cảnh của nàng ta càng nguy hiểm hơn.

Mạnh Thiên Sở nói: "Hãy để ta nghĩ thử coi, hi vọng điều này tạm thời còn chưa ảnh hưởng tới tính mạng của nàng ta."

Tả Giai Âm nói: "CHàng đừng quá khẩn trương, từ liều lượng trước mắt mà xét thì người hạ dược không hi vọng nàng ta khỏi hẳn, cũng không muốn nàng ta chết, chỉ là nếu dùng thuốc này trong thời gian dài, người sẽ không có tinh thần gì, thường ngủ mê đi." 

Mạnh Thiên Sở nghe vậy nghĩ biện pháp dù sao cũng sẽ có, chỉ cần không ảnh hưởng tới tính mệnh tứ phu nhân là được.

Mạnh Thiên Sở nghĩ đến chuyện CHu Hạo trước đó nhìn thấy chuyện trong phòng tam phu nhân, liền kể lại cho Tả Giai Âm và Hạ Phượng Nghi nghe. Hạ Phượng Nghi cười pha trò: "Tam phu nhân này xem ra là không muốn hầu hạ lão gia, cho nên mới uống thuốc."

Tả Giai Âm nói: "Tỷ tỷ nói phải lắm, chàng chẳng phải nói tam phu nhân thích một người khác chứ không phải là Miêu Triết hay sao? Hơn nữa chàng cũng nói là Miêu Triết đã khám tam phu nhân, nói thân thể nàng ta như thường, vì sao lại không thể có mang chứ? Chàng thử nghĩ xem sao."

Mạnh Thiên Sở được hai nàng nhắc, ngẩn người: "Ý hai nàng là tam phu nhân nhất mực giữ không cho mình có thai, vấn đề không phải là nàng ta không thể có, mà là không muốn có với Miêu Triết?"

Tả Giai Âm và Hạ Phượng Nghi cũng gật đầu.

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Có loại thuốc đó nữa sao?"

Mạnh Thiên Sở thầm nghĩ: bản thân trước giờ không hề nghe nói là cổ đại có loại thuốc cao cấp thế này, không ngờ lại có loại thuốc tránh thai như thời hiện đại nữa. 

Tả Giai Âm nói: "Kỳ thật thiếp chỉ nghe sư phụ nói qua, đều là phương thuốc dân gian, hơn nữa lại không tốt cho thân thể, chỉ có những cô nương ở thanh lâu mới dùng."

Hạ Phượng Nghi nói: "Thiếp cũng nghe nói vậy, nhưng chưa hề thấy qua bao giờ."

Mạnh Thiên Sở nghĩ: bất quản có phải hay không, chí ít cũng có khả năng này, nếu có cơ hội lấy thuốc từ phòng tam phu nhân ra đưa cho Tả Giai Âm xem, thế nào cũng rõ ngay thôi.

Ngoài cửa sổ trời đã mông lung sáng, Mạnh Thiên Sở thấy Hạ Phượng Nghi và Tả Giai Âm đều có vẻ mệt, liền nói: "Ta mệt rồi, chúng ta cùng ngủ một giấc đi rồi hay." Nói xong, hắn kéo Hạ Phượng Nghi và Tả Giai Âm cùng nằm xuống, một tay ôm một nàng, ba người nhanh chóng chìm vào cơn mộng.

Khi hắn tỉnh dậy, Tả Giai Âm và Hạ Phượng Nghi đều không còn trên giường. Hắn gọi một tiếng, cửa lập tức mở ra, là Phi Yến, trên tay cầm một quả cầu tuyết, mặt đỏ hồng rất dễ thương.

Mạnh Thiên Sở thấy thế biết nàng đang chơi đắp người tuyết hoặc là đang cùng người hầu chơi ném tuyết, nên hỏi: "Bên ngoài lại đổ tuyết rồi?"

Phi Yến vui vẻ đáp: "Chàng không biết là tuyết lớn lắm đâu! Chàng mau dậy đi, chúng ta cùng chơi."

Mạnh Thiên Sở nhìn điệu bộ giống như đứa bé của Phi Yến, mỉm cười gọi nàng lại, nhưng Phi Yến lại đỏ mặt không chịu, Mạnh Thiên Sở không hiểu, hỏi: "Sao vậy?"

Phi Yến cười đáp: "Chàng không biết thẹn, hôm qua một mình ôm một lúc hai người ngủ còn chưa thỏa mãn, hiện giờ còn gọi thiếp, để người dưới nhìn thấy thiếp còn gặp mặt ai nữa."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, nghĩ ắt là sáng nay người dưới nhìn thấy đại phu nhân và nhị phu nhân từ phòng đi ra rồi, liền cười nói: "Đêm nay nàng cũng tới luôn, nằm ngủ chen chúc như vậy ấm lắm!"

Phi Yến nghe thế mặt càng hồng hơn so với lúc mới tiến vào cửa, dùng quả cầu tuyết trong tay ném vào Mạnh Thiên Sở. Mạnh Thiên Sở thoắt cái đi chân không nhảy xuống giường bắt Phi Yến, Phi Yến vội đầu hàng, nói: "Đừng có điên, đại phu nhân và nhị phu nhân đang ở đại sảnh tiếp khách kìa, nếu để khách nghe thấy được thì sẽ cười chàng cho coi." 

Mạnh Thiên Sở lúc này mới ngừng tay, Phi Yến vội đem y phục và giày dép tới hầu hạ hắn mặc vào.

Mạnh Thiên Sở vừa mặc y phục vừa hỏi: "Là ai mà tới sớm vậy?"

Phi Yến đáp: "Không sớm nữa, sắp đến giờ cơm trưa rồi, nghe Giai Âm tỷ tỷ nói là tam phu nhân của Miêu gia."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, vội để cho Phi Yến nhúng nước lau mặt cho. Hắn biết tam phu nhân ắt là đến tìm bản thân hắn.

Xong xuôi, hắn vội rảo bước đến đại sảnh, quả nhiên thấy Hạ Phượng Nghi và Tả Giai Âm đang ngồi tiếp chuyện tam phu nhân.

Ba nữ nhân thấy Mạnh Thiên Sở tiến vào, vội đứng dậy. Mạnh Thiên Sở nhìn tam phu nhân, thấy thần tình của nàng ta còn khá tốt, biết là Chu Hạo suy đoán không sai, ắt là vượt qua cửa ải rồi. Hắn ra hiệu cho ba người ngồi xuống, xong bước đến ghế của mình.

Hạ Phượng Nghi nói: "Vừa định cho người đi gọi chàng thì chàng đã đến rồi, tam phu nhân chờ chàng lâu rồi đó."

Mạnh Thiên Sở biết tam phu nhân đến tìm mình, nên nói: "Thật ngại quá, gần đây thường không có thời gian ngủ cho đủ, không ngờ ngủ một giấc dài như vậy, để tam phu nhân chờ lâu thật là không phải."

Tam phu nhân cười cười, nói: "Tôi cũng không có chuyện gì, chỉ là đến thăm Giai Âm muội muội thôi. Lần trước không may là trong nhà có chuyện, cho nên không có dịp nói chuyện với muội muội đôi điều."

Tả Giai Âm nói: "Tam phu nhân thật là khách khí quá, đã đến rồi còn mang theo nhiều thuốc quý như vậy nữa, nói là cho thiếp bồi bổ thân thể."

Mạnh Thiên Sở lúc này mới nhìn thấy trên bàn bên cạnh tam phu nhân quả nhiên có rất nhiều lễ phẩm, nên nói: "Tam phu nhân, lần trước ta nói rồi, phu nhân không cần phải khách khí như vậy."

Tam phu nhân đáp: 'Đây cũng là ý tứ của đại phu nhân và lão gia, bảo tôi đến đây một chuyến, nếu như đã mang đến tận nhà, ngài tự nhiên không được chối từ tôi mới phải."

Mạnh Thiên Sở nghe thế chỉ còn biết cảm tạ. Hắn thấy tam phu nhân còn có điều muốn nói, nghĩ ắt là ả thấy bên mình có hai người vợ, nói ra không tiện, liền đưa mắt nhìn nhìn Tả Giai Âm và Hạ Phượng Nghi, hai người hiểu ý không hẹn mà cùng đứng lên, Hạ Phượng Nghi nói: "Thiếp và nhị phu nhân còn có chuyện, không ngồi đây bồi khách nữa." Nói xong dẫn Tả Giai Âm rời khỏi đại sảnh.

Mạnh Thiên Sở thấy hai người đi rồi, liền bước đến ngồi cạnh ghế của tam phu nhân, tam phu nhân lập tức không thoải mái hẳn lên. Hắn nói: "Ta biết cô đến tìm ta, tự nhiên là có chuyện muốn nói với ta rồi."

Tam phu nhân ngẫm nghĩ một chút, nói: "Tôi muốn đến cảm tạ ngài."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Cảm tạ ta cái gì?"

Tam phu nhân đáp: "Thế tôi bảo thủ bí mật."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Chuyện của cô hôm qua Thư Khang nói đại khái với ta rồi, nhưng mà cô có biết Miêu Triết vì sao lại hại cha cô không?"

Tam phu nhân thấy Mạnh Thiên Sở đề cập đến cha, mắt liền đỏ hồng lên, nói: "Trước đó thì tôi không biết, chỉ muốn đến nhà họ làm một nha hoàn gì đó, chỉ cần ở cạnh Miêu Triết là tôi có cơ hội báo cừu. Sau đó y có lần cùng đến trường của Miêu Giác, nhìn trúng tôi, cho nên hỏi cưới tôi. Lúc đó tôi rất do dự, không vì gì khác mà chính là vì Thư Khang. Chàng ấy đã vì tôi mà bỏ đi rất nhiều thứ, hiện giờ nếu tôi đi làm vợ tên khốn đó, chàng ấy nhất định đau lòng lắm. Không ngờ là Thư Khang suy nghĩ vài ngày, cuối cùng cũng đồng ý. Chàng ấy biết tôi nhất định muốn báo thù, đó là tâm nguyện cả đời của tôi." 

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Sau đó thì sao?"

Tam phu nhân đáp: 'Sau đó thì tôi lấy Miêu Triết, nỗ lực tạo mối quan hệ tốt với đại phu nhân và nhị phu nhân, tôi biết chỉ có từ miệng họ tôi mới lần ra nguy nhân khi xưa vì sao cha tôi chết. Quả nhiên, có một lần tôi nói chuyện với nhị phu nhân, bà ấy cho tôi biết một chuyện, đó là chuyện đại phu nhân sinh quái thai. Chuyện này Miêu Triết không nói cho tôi biết, đại phu nhân tự nhiên cũng không nói, vì đó là sự sỉ nhục của ả. Thông qua chuyện này, tôi biết thì ra cha tôi đã đem chuyện này nói cho người khác, Miêu Triết tức giận không chịu được, liền giả vờ đuổi cha tôi đi, sau đó cho người hạ độc vào lương khô của cha tôi, cho nên cha tôi chưa rời khỏi Nhân Hòa huyện đã chết rồi."

Mạnh Thiên Sở biết tam phu nhân khi kể chuyện này sẽ khơi dậy vết thương lòng, nên chuyển đề tài câu chuyện, hỏi: "Vậy chuyện của Miêu Giác có hi vọng gì không?"

Tam phu nhân đáp: "Tôi hôm nay đến đây chủ yếu thương lượng với ngài chuyện này. Tối hôm qua tôi có tìm nói với Miêu Triết, y đáp là đại phu nhân nói rồi, nhị phu nhân đã chết, đại phu nhân muốn Miêu Giác trực tiếp nhận đại phu nhân làm mẹ, cho nên không cho Miêu Giác đi đâu nữa."

Mạnh Thiên SỞ nghe thế cả kinh, xem ra đại phu nhân không vừa lòng với tình trạng hiện tại. Hắn biết nếu là đưa Miêu Giác đi hoặc giết nó, sẽ không ngăn được chuyện Miêu Triết đi tìm nữ nhân khác. Hiện giờ thân thể tứ phu nhân không cho phép sinh nỡ, tam phu nhân được cho là không thể sinh dục, cho nên dùng biện pháp giữ Miêu Giác lại không cho Miêu gia tuyệt hậu vừa giữ cho Miêu Triết không tìm nữ nhân khác sinh thêm con.

Mạnh Thiên Sở nói: "Ý tưởng này Miêu Giác và Miêu Nhu đã biết chưa?"

Tam phu nhân lắc đầu, đáp: "Còn chưa biết."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Cô có biện pháp nào không?" Hắn biết tam phu nhân có thể sánh với Tả Giai Âm nhà mình, đều là nữ tử thông tuệ.

Tam phu nhân đáp: "Nếu muốn để cho Miêu Giác đi, e rằng chỉ có một người có thể làm được."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Là ai?"

Tam phu nhân trả lời: "Chính là cha chồng của Miêu Nhu."

Mạnh Thiên Sở nghe thế, chợt nhớ lại Miêu Triết đối xử rất cung kính cả nễ đối với con rễ. Hắn hỏi: "Cha chồng của Miêu Nhu là thần thánh phương nào?"

Tam phu nhân đáp: "Là Đồng tri của Hành châu phủ trước đây, tên Nhạc Tiêu."

Mạnh Thiên Sở nghe thế cả kinh không ít, không ngờ người bình thường nói chuyện không nhiều, gặp ai cũng lễ mạo, dáng vóc mập mạp như vậy lại là công tử của Hành châu phủ đồng tri. Hèn gì Miêu Triết nễ mặt y như vậy. Như vậy xem ra, nếu như muốn Miêu Giác rời khỏi long đàm hổ huyệt đó, chỉ có con người này mới ra mặt được. Mạnh Thiên Sở nói: "Ta biết tam phu nhân có cách rồi."

Tam phu nhân chỉ mỉm cười. Mạnh Thiên Sở phát hiện nụ cười này rất khác với những nụ cười thường thấy trước đó, là loại nụ cười chân thành hơn nhiều. Tam phu nhân nói: "Tôi nhớ lại những lời ngài nói với tôi hôm qua, tôi đã nghĩ kỹ, tôi cảm thấy thù hận cá nhân có lớn cách mấy, thì những người bên cạnh cũng là vô tội. Chí ít nhị phu nhân lúc còn sống đối với tôi rất tốt, phần lớn y thuật của tôi là từ tỷ ấy mà học ra. Trước đó tôi nhận thấy phàm là người bên cạnh y, ai chết cũng chẳng liên can gì đến tôi. Nhưng bây giờ nghĩ lại, tôi nếu như nhớ mối thù người ta mang lại cho tôi, thì tôi cũng phải nhớ sự tốt đẹp mà họ đối xử với tôi. CHo nên, tôi hi vọng Miêu Giác có thể rời khỏi căn nhà đầy tội ác đó, nó là một đứa bé rất thông minh."

Mạnh Thiên Sở nghe tam phu nhân nói vậy, nhìn biểu tình nàng ta không phải diễn kịch, liền cảm thấy cao hứng hơn ít nhiều. Hắn hỏi: "Vậy chuyện của Miêu Giác cô cảm thấy chúng ta nên làm gì cho phải?"

Tam phu nhân đáp: "Ngài đi tìm Miêu Nhu nói, chuyện này tôi không tiện ra mặt."

Mạnh Thiên Sở gật đầu, nghĩ tới tình trạng thân thể của tứ phu nhân, liền hỏi: "Thân thể tứ phu nhân thế nào?"

Tam phu nhân nhìn Mạnh Thiên Sở, không hiểu hỏi: "Ngài định nói gì?"

Mạnh Thiên Sở hỏi lại: "Cô cảm thấy ta hỏi vậy có hàm nghĩa gì?"

Mạnh Thiên Sở nói xong, lại ngầm dò xét ánh mắt của tam phu nhân, thầm nghĩ nói chuyện với nữ nhân thông minh có cái hay mà cũng có cái dở. Hay chính là bản thân không cần phí sức nói gì nhiều, chỉ cần ánh mắt cũng đã đủ. Dở cái là khi bản thân nghĩ gì, căn bản không thể giấu nữ nhân đó, chỉ cần thoáng qua ánh mắt là nữ nhân đó đã nắm bắt ý nghĩ của hắn rồi.

Tam phu nhân lạnh lùng cười, hỏi: "Dạ hành nhân tối qua là ngài phải không?"

Mạnh Thiên Sở không trả lời, tam phu nhân tiếp: "Lúc đó đại phu nhân đến phòng tôi nói với lão gia chuyện này, tôi đã đoán một chút rồi. Vừa rồi ngài hỏi đến sức khỏe tứ phu nhân, càng xác định thêm mấy phần."

Mạnh Thiên Sở hỏi: "Vì sao?"

Tam phu nhân đáp: "Đại phu nhân và tôi cùng đến phòng nàng ta, bà ta nói bình thuốc trên bàn dường như có ai đó dời đi, bà ta e rằng dạ hành nhân đó lén lấy thuốc đi. Tôi hỏi là thuốc gì, bà ta không trả lời, thần sắc có vẻ hoảng hốt."

Mạnh Thiên Sở thầm nghĩ bản thân trước đó lo là Chu Hạo mang bình thuốc đi sẽ làm cho đại phu nhân hoài nghi, không ngờ bà ta cẩn thận đã phát hiện điều không ổn. Hắn hỏi: 'Vậy cô vì sao lại liên hệ tình trạng thân thể của tứ phu nhân với chuyện mất thuốc đêm hôm qua?"

Quân Chiến Thiên, Quân Vô Ý chăm chú nhìn lên, bốn mắt đăm đăm, hai người đều là đại tướng, từng cầm binh trăm vạn, máu tanh gì cũng đều thấy, không gì là chưa trải qua nhưng hôm nay chính mắt trông thấy người chết kiểu này, hơn nữa người này còn là loại cao thủ đỉnh phong chỉ tồn tại như thần tiên trong truyền thuyết lục địa. Lại nghĩ đến việc Hoàng Thái Dương bị chết theo lời thề của hắn, hai người không tự chủ được cảm giác lạnh lẽo bao phủ cả người…

Chẳng lẽ trong nơi u minh tối tăm kia thật sự có cái gọi là “ý trời”, thật sự có người đang giám sát tất cả sao?

Đạo trời công bằng sao?

Cơ mặt nơi khóe mắt của Ưng Bác Không bỗng run run, giật mình nói:

- Chết rồi sao?

Hai mắt của Xà Vương Thiên Tầm ngơ ngẩn nhìn xuống mặt đất, nhìn thi thể bị chém thành hai đoạn, giống như ngủ mê nói mớ, nói:

- Đã thành dạng này rồi chẳng lẽ còn có thể sống sao?

Ưng Bác Không rùng mình một cái, ôm lấy bả vai, lẩm bẩm nói:

- Nhưng con mẹ nó, chết kiểu này cũng thật quá... Ngươi nói xem, năm đó hắn phát thệ gì đó khác không được sao, sao lại phải phát ra lời thề độc như vậy? Thật là, con mẹ nó, tự làm khó bản thân mà, nếu chỉ phát thệ bị chết nhanh chóng thì đâu đến nỗi phải chết không toàn thây như bây giờ? 

Xà Vương lại nhìn nhìn cỗ thi thể kia một lần nữa, rốt cục nhịn không được nôn thành tiếng, che miệng nhanh như chớp bỏ đi, thân pháp so với lúc đánh nhau còn muốn nhanh hơn vài phần, cái kia thật sự quá tởm mà.

Ánh mắt Quân Chiến Thiên phức tạp, đứng một hồi rốt cuộc nói:

- Bảo hạ nhân quét dọn một chút, nhanh chóng mang đi chốn cất. Người cũng đã chết, ân oán tiêu tan. Dù sao cũng là cao thủ một đời, ngàn vạn lần không được làm qua loa. Trời cũng không còn sớm nữa. Tất cả mọi người nhanh nghỉ ngơi đi. 

Nói xong, lão gia tử cùng Quân Vô Ý hai người lặng lẽ xoay người đi.

Công lực của hai người vừa mới tăng lên không lâu, vốn còn nghĩ với thực lực mình hiện giờ khó mà gặp địch thủ, ít nhất cũng có tư cách là cường giả đương thời. Nhưng tối này, thấy một trận chiến này, tự bản thân cảm nhận công lực vẫn hoàn toàn chưa đủ, không giúp được gì, hai cha con Quân lão gia tử không khỏi có chút mất mát.

Về phần hai người Xà Vương Thiên Tầm cùng Mai Tuyết Yên, Quân Mạc Tà cũng không chủ động giới thiệu để mình gặp mặt, như vậy cả hai đều là nhân vật thần bí. Quân lão gia tử tự nhiên hiểu rõ đạo lý, dứt khoát không hỏi. Một mạch đi thẳng về phòng ngủ.

Mai Tuyết Yên đứng cách đó không xa, một thân áo trắng tung bay, thở dài nói: 

- Đáng tiếc, một vị Chí Tôn cao thủ không chết trên chiến trường ác liệt mà lại bị chết ở nơi này, nhân tình quả thật là thật bi ai.

Quân Mạc Tà cười hắc hắc nói:

- Quả thực là nhân tình bi ai. Cường giả Chí Tôn như vậy cũng không có đạo đức gì cả. Mai cô nương cũng đừng mong chờ người khác đều giống ngươi, giống như thánh nhân, lo lắng cho thiên hạ, nghĩ cho đại cuộc… Hắc hắc hắc, nếu là dựa vào những kẻ như vậy để bảo hộ đại lục thì lão tử thà rằng rút kiếm tự vẫn còn hơn.

Mai Tuyết Yên nhìn hắn một cái, than nhẹ một tiếng, nói:

- Thế nhưng cứ như vậy, đối với thực lực của đại lục dù sao cũng mất đi một cao thủ mạnh mẽ. Trong trận chiến này, mỗi nhân tố dù nhỏ bé cũng sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ đại lục. Mà thực lực ở mức cường giả như vậy, toàn bộ đại lục cũng không có mấy người. Ngày sau, nếu bởi vì vậy mà bị dị tộc xâm nhập, như vậy toàn bộ đại lục, thậm chí là cả thiên hạ, có thể sẽ…

Quân Mạc Tà chớp mắt, cười lạnh một tiếng nói:

- Thiên hạ hưng vong, không liên quan đến ta. Không cần nói với ta đạo lý sáo rỗng này. Ngay cả khi bị di tộc xâm lấn thì sao? Bất quá thì đến lúc đó cá chết rách lưới thôi. Chẳng lẽ dị tộc toàn bộ đều đạt tới trình độ trên Chí Tôn cường giả sao? Nếu quả thật bị xâm lấn, lão tử giết không được những kẻ mạnh nhất thì chẳng lẻ không giết được những kẻ yếu hơn hay sao? Đều là một đám đáng chết, con mẹ nó cái đồ hỗn đản.

- Sao ngươi có thể nói như vậy?

Mai Tuyết Yên có chút căm giận nói.

- Thành bại của trận chiến này ảnh hưởng đến vạn năm. Nếu quả thật là bị ngoại tộc xâm lấn, toàn bộ đại lục sẽ sa vào trầm luân cũng không chừng. Ngươi thân là người đại lục sao lại không có nửa điểm lương tâm, trách nhiệm vậy?

- Lương tâm trách nhiệm? Ta dĩ nhiên là có. Nhưng ở chỗ này ta phải nói với ngươi một câu, ngàn vạn lần không cần vì cái gì gọi là “Đoạt Thiên chi chiến” chết tiệt đó mà quên đi cách đối nhân xử thế cơ bản nhất. Nhường bước sẽ chỉ làm cho đối thủ của ngươi từng bước ép sát, ngươi có thể để ý tới toàn cục nhưng người khác thì không hẳn thế. Việc phân tranh là vẫn tồn tại. Tựa như lúc này đây, ta không giết hắn, hắn sau khi trở về thì Mộng Huyễn Huyết Hải và Thiên Phạt sâm lâm nhất định trở thành kẻ thù một mất một còn. Đến lúc đó một hồi phong ba còn lớn hơn, cao thủ chết càng nhiều hơn nữa!

Quân Mạc Tà lạnh lùng nhìn nàng:

- Mai cô nương, ta trịnh trọng nói cho ngươi biết. Đến lúc thất bại thì dù có thần tiên đến chăng nữa, toàn bộ đại lúc cũng sẽ thất bại, nếu không phải tới lúc, dù phái Ngân Huyền đi cũng có thể đại thắng “Đoạt Thiên chi chiến”. Ta chưa bao giờ sợ hãi địch nhân cường đại, nhưng vạn phần sợ hãi sự ngu xuẩn như heo của những kẻ bên mình. Hơn nữa, thế sự vô thường, ai có thể nói trước được? Nói không chừng khi nào Thiên Trụ sơn sụp đổ thì đám người dị tộc chết tiệt cũng nằm dưới mặt đất hết rồi. Hãy nghĩ tới việc này, sẽ không phải buồn lo vô cớ nữa. Ngươi nếu có nhiều thời gian rỗi vậy, không bằng chính mình từ từ suy nghĩ một chút, tìm một lang quân đẹp trai tuấn tú tâm đầu ý hợp rồi gả đi cho rồi. Đây chính là chuyện quan trọng chung thân đại sự đó. 

Quân đại thiếu vỗ ngực một cái, tiếp:

- Ví như ta đây, kỳ thật ngươi cũng biết rõ, bổn công tử phong lưu tiêu sái, tài mạo song toàn, ngọc thụ lâm phong, hiệp cốt nhu tràng, kiếm đảm cầm tâm, tài hoa tột bức, kỳ tài ngút trời, có thể nói là xứng đôi vừa lứa với Mai cô nương nhất, hơn nữa đêm qua ngươi đột nhiên thị uy, phi lễ với ta, ngươi phải chịu trách nhiệm đó nha. Nếu không bổn công tử sẽ khóc và thắt cổ tự vẫn cho ngươi xem.  Mai Tuyết Yên thoáng đỏ bừng cả khuôn mặt, tay chỉ vào hắn, sao lại có kẻ vô sĩ như vậy, cả người run rẩy nói không ra lời, hơn nửa ngày mới rốt cuộc thốt ra được một câu:

- Ngươi … ngươi … ngươi sao lại có thể vô sỉ như vậy hả?

Mai Tuyết Yên cả đời tung hoành thiên hạ, thậm chí có thể nói hiếm có điều gì nàng không biết, không hiểu rõ. Bất kể nói với nàng điều gì, Mai Tuyết Yên đều có kiến giải của mình, thậm chí còn có thể phản bác khiến người khác không nói được gì nhưng chỉ riêng chuyện tình yêu nam nữ, chuyển cưới gả thì nàng lại rất xấu hổ, không nói ra lời.

Đương nhiên, cái này cũng chỉ đúng với Quân Mạc Tà Quân đại thiếu gia mà thôi. Nếu là người khác nói với nàng những lời như vậy, phỏng chừng sớm đã bị nàng đập thành bánh thịt rồi.

- Gì? Không có răng? Sao có thể được?

Quân Mạc Tà nhe răng nói, khoe hai hàng răng trắng tinh đều đặn, khi ở dưới ánh trăng chợt sáng lóe lên, cười hắc hắc.

- Bổn thiếu gia miệng đầy răng chắc khỏe, khi còn bé không ăn đường, càng không có thói quen xấu, mỗi ngày đánh răng hai ba lần, ngay cả chút sâu răng cũng không có, làm sao có thể nói không có răng được chứ? Mai cô nương, ngươi hôm qua hôn ta chẳng lẽ còn không biết ta có răng hay không? Đúng rồi, ta nghe nói chỉ có nhân tài phi lễ người khác mới có thể vô sỉ a, cô nương sao lại có thể nói ta vô sỉ nhỉ? Nói như vậy thì còn đâu là mặt mũi của ta nữa? Bổn thiếu gia quả thật là bị hại thảm thương mà. 

- Kỳ thật ngươi phải chịu trách nhiệm với ta đó nha. Mai cô nương, ngươi cũng đừng qua lo lắng, dù sao ngươi cũng đã lỡ làm rồi. Hôn, ngươi cũng đã hôn; sờ, người cũng đã sỡ rồi, nhìn thì người cũng đã nhìn rồi. Tuy rằng bất đắc dĩ nhưng ta cũng cam chịu số phận.

- Ai bảo ta luôn là người thuần thiết chứ.

Dùng thái độ vô cùng hung hăng, càn quấy nói ra, Quân thiếu gia nho nhã lễ độ một tiếng nói chúc ngủ ngon, sau đó dương dương tự đắc hát lên một khúc, rồi thản nhiên trở về phòng ngủ. Bỏ lại phía sau Mai Tuyết Yên đại cô nương trừng mắt nhìn lưng hắn, hai hàm răng cắn chặt kêu lên ken két.

Thật không thể tưởng tượng được, người này trình độ vô sỉ lại còn vượt quá dự liệu của mình, lời cuối cùng liên đem ta thành kẻ vô sỉ. Trời ơi đất hỡi, ta tức chết mất thôi.

Lão thiên , mang cho ta một tên cao thủ giống như Hoàng Thái Dương mau, cho ta phát tiết một chút tức giận đi a.

Có thể là ông trời không nghe hoặc cao thủ như Hoàng Thái Dương quá ít nên nguyện vọng của Mai đại mỹ nhân dĩ nhiên là không đạt được.

Bất quá, Mai Tuyết Yên cũng biết, lời Quân Mạc Tà mới nói vừa rồi tuy rằng có chút bỡn cợt nhưng thực ra nghiêm túc nhắc nhở mình một việc đó là triệu lần không cần phải xem Đoạt Thiên chi chiến quá mức nghiêm trọng. Hết thảy đều vì Đoạt Thiên chi chiến chuẩn bị thì chính là tự trói buộc mình. Quả là nhược điểm lớn a.

Thậm chí, Tam Đại Thánh Địa nếu cần đều có thể lợi dụng những lời nói này với mình, cũng chưa chắc là không thể. Quân Mạc Tà dùng cách thức hỗn trướng này nói ra, chắc là sợ chính mình chịu không nổi. Mặc dù có chút thô tục nhưng dụng ý cũng đủ uyển chuyển.

Sự việc xảy ra ngày hôm nay, chính mình hẳn phải tự xuống tay giết chết Hoàng Thái Dương.

Nghĩ đi nghĩ lại, tức giận trên mặt Mai Tuyến Yên chậm rãi biến mất, hơi hơi nở nụ cười, nguyên lai người này đối với chính mình cũng là dụng tâm khổ tướng a.

oOo 

Ngày thứ hai cũng tới, mặt trời vẫn như ngày thường lên xuống đều đặn.

Thế giới này là như thế, mặc kệ ngày hôm qua đã chết người nào, hoặc chết bao nhiêu người. Ngày kế tiếp vẫn thời gian như vậy vẫn sáng tối như nhau.

Hoàng Thái Dương một đêm không về, làm cho mọi người ở Mộng Huyễn Huyết Hải đều hoảng hốt.

Cả nhà Hoàng gia càng như kiến bò trên chảo nóng.

Mặc dù khoảng cách giữa hai nơi dĩ nhiên không ngắn nhưng với công lực của Hoàng Thái Dương đi qua đi lại cũng có thể chỉ dùng một canh giờ, thế nhưng một đêm đã trôi qua, mặc kệ là chuyện gì cũng là quá đủ thời gian.

Nhưng Hoàng Thái Dương chính là một đêm chưa về.

Hắn trước khi đi còn tin tưởng chắc chắn trăm lần, nói qua

- Chỉ là một bọn tôm tép nhãi nhép, bổn tọa một tay là có thể thu phục toàn bộ, cần gì phải đi nhiều người như vậy? Lão phu trước khi trời sáng sẽ trở về. Các ngươi chuẩn bị rượu mừng công đi.

Lão cũng kịch liệt phản đối những người trong Mộng Huyễn Huyết Hải yêu cầu đi cùng.

Hoàng gia chính vì vậy suốt đêm chuẩn bị rượu và thức ăn ngon, ngóng trông lão tổ tổng chiến thắng trở về, sau đó đánh chén no say. Mừng công cho lão tổ tong. Nhưng thời gian chớp mắt trôi qua, mắt thấy phía đông tỏa sáng, mọi người rốt cục cũng không giữ được bình tĩnh nữa.

Khi mặt trời lên cao, mọi người lúc này đã hoàn toàn tuyệt vọng.

Cơ hồ trong lòng mỗi người đều nặng trịch như bị một khối chì đè ép. Dù sao đêm qua động tĩnh bên kia cũng không phải nhỏ, nhất là Hoàng Thái Dương cùng hai đại Chí Tôn, một kích kia, thật có thể nói là trời rung đất chuyển. Hoàng gia bên này có thể nghe rõ ràng. Thậm chí cảm giác được vài chấn động của mặt đất ngay dưới bàn chân. 

Rõ ràng là Hoàng Thái Dương ở bên kia gặp phải địch thủ cực kì mạnh mẽ.

Mà Hoàng Thái Dương đến bây giờ vẫn chưa về, hết thảy đều nghĩ tới chuyện tệ hại nhất.

Mộng Huyễn Huyết Hải định đưa bốn vị Chí Tôn đi tiếp viện nhưng lại bị thiếu tông chủ Hô Diên Tiếu cực lực ngăn trở. Hô Diên Tiếu viện lí do rất đơn giản: “Ở trong mắt chúng ta công lực của Hoàng lão chính là cao tuyệt. Nếu hắn có thể giải quyết sự tình trở về, chúng ta không đi. Nếu hắn không thể thể giải quyết, thậm chí gặp đối thủ ngay cả chạy trốn cũng không được, thì ngay cả chúng ta toàn bộ đi tới cũng chỉ sợ không thấm vào đâu, chỉ thêm thương vong mà thôi.”

Cho nên mọi người tiếp tục kiên nhẫn đợi đi! Lý do Hô Duyên Khiếu đưa ra không có kẽ hở, hơn nữa sự thật chính là như thế.

Cho nên mọi người dù có sốt ruột nhưng cũng không dám tiếp tục có bất kỳ hành động thiếu suy nghĩ nào.

Hơn nữa, Hô Duyên Khiếu trong lòng còn có tính toán: “Nếu là Hoàng lão tự mình xuất thủ cũng không thể giải quyết chuyện này, như vậy chứng tỏ một điều Quân gia thực lực quả nhiên đã đạt tới một mức độ khó thể lay động. Hơn nữa trong tay đối phương nắm Diệp Cốt đan, đây là đan dược cấp bách đối với Mộng Huyễn Huyết Hải lúc này, ngoài ra còn có vị cao thủ thâm sâu không lường được. Nên có thể không đối địch hoặc biến địch thành bạn là tốt nhất. Trước mắt cứ xem như không có gì xảy ra, cứ tham dự đại hội đấu giá, đem Diệp Cốt đan thu vào trong tay rồi nói sau. Chuyện sau này thì để sau hẵng tính, trước mắt vẫn phải lấy đại cuộc làm trọng.”

Huống chi, nếu Hoàng lão quả thực thảm tử, chỉ bằng mình cùng mấy người còn lại bên cạnh thì làm sao có thể là đối thủ của đối phương? Không bằng giả vờ câm điếc, làm bộ như không biết gì. Và lại chuyện báo thù cũng không phải là chuyện mình có thể làm chủ.

Lại nói, lão đầu này dọc đường đi cứ cậy già lên mặt, vênh mặt hất hàm sai sai khiến khiến, ngay cà mình là Thiếu tông chủ hắn cũng không thèm để trong mắt. Thật là đáng chết mà. Mẹ kiếp, hắn là cái gì chứ. Khi còn ở Mộng Huyễn Huyết Hải, đối mặt với các cao thủ khác, ngươi dám như vậy sao? Quả thực tưởng mình là một đại nhân vật sao?

Cho nên trong lòng vị Thiếu tông chủ của Mộng Huyễn Huyết Hải thậm chí có chút vui sướng khi kẻ khác gặp họa. Dĩ nhiên loại cảm xúc này không thể nào biểu lộ ra trên mặt rồi.

Bọn họ lần này đi ra ngoài, lại bị sự tình của Hoàng gia gây chậm trễ nhiều lần. Chuyện như vậy đã sớm làm cho Thiếu tông chủ rất bất mãn. Chỉ là một cái Hoàng gia nho nhỏ cũng đáng được Mộng Huyễn Huyết Hải nể trọng vài phần sao? Thế nhưng Hoàng lão vì chuyện của gia tộc lão nên đã không để ý tới chánh sự của Mộng Huyễn Huyết Hải. Cái này thật khó mà chịu được.

Cho dù là con cháu chính thống của ngươi thì sao chứ? Chẳng lẽ còn có thể so với sự tình trọng yếu của Mộng Huyễn Huyết Hải sao?

Thật là không để ý đến đại cuộc, tầm nhìn hạn hẹp!

Nếu lần này bởi vì Hoàng gia mà làm hỏng việc thì không những Hoàng lão chết không có gì đáng tiếc mà thậm chí chính mình sau khi trở về cũng phải chịu trách nhiệm.

Như vậy có thể thấy, khi Thiếu tông chủ đại nhân nhìn thấy người Hoàng gia, ánh mắt đều có chút ý tứ không tốt.

Sau đó, Thiếu tông chủ đại nhân liền nói một câu: 

- Lần này đấu giá không thể thất bại. Mà vật đấu giá cũng là linh dược cực kì trân quý, tất nhiên đấu giá cần đến số lượng hoàng kim khổng lồ. Hoàng gia chủ, không biết quý gia chủ có thể xuất ra bao nhiêu hoàng kim? Theo ta thấy, vẫn là đem tất cả của cải bán lấy thành tiền mặt, rồi đổi thành hoàng kim đi. Vạn nhất nếu là hoàng kim không đủ, chẳng phải là hỏng đại sự sao? Riêng Huyết Hải cũng có thể miễn cưỡng cho qua nhưng nếu vì vậy mà ảnh hưởng tới kết quả của cuộc đại chiến kia chính là ảnh hưởng đến tương lai của cả thiên hạ, ảnh hưởng đến tương lai của muôn dân. Phần trách nhiệm này tin rằng Hoàng gia chắc là đảm đương không nổi?

Hoàng gia gia chủ Hoàng Quân nghe xong lời này cái mũi thiếu chút nữa méo xệch. nhất thời bị líu lưỡi, nỗi chua xót tràn ngập toàn thân, không nói nên lời.

Lúc trước khi lão tổ tông của gia đình ta ở đây, ngươi sao không nói lời này? Hiện giờ lão tổ tông cũng chỉ mới ra ngoài một thời gian, ngoài một chút nghi ngờ, căn bản là vẫn chưa xác định được có xảy ra chuyện chết người hay không. Thế nhưng tên Thiếu tông chủ nhà ngươi liền lập tức trở mặt.

Lúc trước cho rằng có thể mạnh mẽ đoạt bảo. Không nói tới chuyện đấu giá, bây giờ thấy thế lực người ta quá mạnh, không nắm chắc có thể đoạt được, liền bảo chúng ta bán của cải của gia tộc, lấy tiền mặt gom thành hoàng kim cho các ngươi? Các ngươi cần đấu giá cái gì đó là chuyện của Mộng Huyễn Huyết Hải các ngươi, tiền của Hoàng gia chúng ta có quan hệ sao? Chúng ta chỉ là gia tộc nhỏ, sản nghiệp nhỏ, làm sao có thể phụ gánh chịu nổi chi phí cho Mộng Huyễn Huyết Hải các ngươi. Cho dù la chúng ta can tâm ra sức vì Mộng Huyễn Huyết Hải các ngươi nhưng cùng muôn dân thiên hạ thì có quan hệ gì? Các ngươi tưởng mình là chúa cứu thế sao?

Hơn nữa tính toán kiểu gì mà khi mua không được liền muốn Hoàng gia chúng ta nhận trách nhiệm tương lai của muôn dân thiên hạ. Chúng ta nếu có được tư cách quản chuyện muôn dân thiên hạ thì sao lại rơi vào hoàn cảnh hôm nay, nói năng phải xem sắc mặt của các ngươi?

Hắn ha hả nửa ngày, rốt cuộc cũng không dám trực tiếp, cự tuyệt ngập ngừng nói:

- Xin hỏi Thiếu tông chủ, tam đại thế gia nhìn nhận việc này như thế nào?

- Liên quan gì tới tam đại thế gia? Hoàng gia chủ nói lời này thật là kỳ quái.

Hô Duyên Khiếu cười tao nhã nói:

- Vì cái gọi là người nào làm người đó chịu. Chuyện từ đầu tới giờ cũng đều chuyện của Hoàng gia các ngươi. Trong chuyện lần này, chúng ta cũng chỉ là bằng hữu mà thôi, như thế nào lại có thể dễ dàng phát biểu ý kiến. Ở lập trường bằng hữu mà nói vốn bổn thiếu tông chủ tự nghĩ đã làm đầy đủ nghĩa vụ rồi. Thậm chí lúc trước Hoàng lão phá vỡ qui củ tham gia phân tranh thế tục, Bổn tông chủ cũng chưa từng ngăn cản, đơn giản nghĩ rằng Hoàng lão chính là xuất thân từ Hoàng gia, vì gia tộc ra sức cũng là theo lẽ thường phải làm, nhưng những người khác thì không được như vậy.

- Hoàng gia chủ, bất kỳ một gia tộc nào quật khởi, thủy chung vẫn cần phải dựa vào thực lực của chính mình

- Cho nên chúng ta phá lệ cho ngươi lần này, tiếp theo phải làm như thế nào? Đối với sự tình bên trong, Hoàng gia chủ cần tự mình quyết định. Mộng Huyễn Huyết Hải chúng ta đối với việc này thật sự không tiện tham dự. Chúng ta cùng quý trang thật sự không hề có quan hệ trong chuyện này. Mới vừa rồi, khẳng khái cần gia chủ kiếm hoàng kim chính là vì đại lục lê dân trăm họ, cũng không phải vì gia tộc Huyết Hải. Gia chủ ngài có phải đang hiểu lầm gì không? Dĩ nhiên nếu Hoàng gia chủ đủ năng lực xuất ra thần uy đem tam đại thế gia cùng lúc tiêu diệt vậy thì gia tộc sẽ hiển hách từ đây, ngạo thị võ lâm, xưng bá giang hồ tạo thành truyền kỳ muôn thuở.

Hoàng Quân triệt để đờ người ra.

Thì ra là muốn gia tộc mình xuất tiền nhưng không thèm để ý tới sự sống chết của gia tộc mình. Đây là kiểu lý luận gì chứ? Đây là lý luận của Tam Đại Thánh Địa các người sao? Cái gì gọi là ngạo thị võ lầm, xưng bá giang hồ? Hoàng Quân căn bản không nghĩ tới, trong lòng hắn hiện giờ chỉ có hai chữ: xong rồi.

Nhất cử giải quyết ba đại thế gia, dễ như vậy sao? Nhìn khắp thế gian này, có thể giải quyết ba đại thế gia thì có mấy người có đủ thực lức? Cũng chính là Tam Đại Thánh Địa. Miễn cưỡng là Phong Tuyết Ngân Thành. Trước mắt chính là Quân gia thực lực sâu không lường được, không phải ngay cả Mộng Huyễn Huyết Hải Thiếu tông chủ cũng phải khiếp sợ sao?

Về phần Hoàng gia chúng ta, đừng nói là ba nhà, chỉ là một nửa trong một nhà thôi, chúng ta cũng không dám trêu vào.

Các ngươi ở chỗ này giật dây bảo chúng ta cùng tam đại thế gia không chết không thôi, lời nói hùng hồn như vậy cũng nói ra được. Lúc này thế cục không chết không thôi đã tạo thành rồi, khắp thiên hạ đều đang chờ xem kịch vui nhưng khi đại sự xảy ra, các ngươi liền lập tức phủi tay mặc kệ.

Đây không phải thuần túy là hại người sao?

Cho dù là hãm hại cũng không đến mức độ như vậy. Hãm hại tới bực này cũng thật quá kinh khủng mà. Các ngươi khơi khơi nói một câu liền làm cho Hoàng gia chúng ta vạn kiếp bất phục.

Chẳng những hại chúng ta chết mà còn muốn chúng ta đem toàn bộ của cải bán thành tiền mặt đổi lấy hoàng kim, mang cho các ngươi đem đấu giá, lại còn liên quan đến tương lai của lê dân bá tánh trong thiên hạ. Ta nhổ vào. Cho dù là cường đạo cũng không ác như vậy, nhưng xem cách nói của vị Thiếu tông chủ này, nếu không thuận theo yêu cầu của hắn thì tai họa diệt tộc liền giáng xuống đầu.

Hoàng Quân thậm chí không chút nghi ngờ vị Thiếu tông chủ này đang hướng mình nói chuyện ôn hòa nếu nghe mình cự tuyệt thì có thể lập tức giơ vung đao giết người. Người ta chính là vì muôn dân thiên hạ mà suy nghĩ, một nhân vật vĩ đại. Diệt một gia tộc của mình mà thành toàn cho toàn dân thiên hạ thì đúng là nhân gian chính đạo a.

Sau đó còn có thể lấy lòng Quân gia để bọn họ bán nhiều hơn mấy viên Diệp Cốt đan cho Mộng Huyễn Huyết Hải. Nghĩ đến đây nên Hoàng Quân không dám nói thẳng ra.

Cái này thật sự rất giống lũ đảo quốc  ở phía sau xúi giục khiến Hoa Hạ cùng các nước khác khai chiến, đợi đến khi hùng sư hoàn toàn tỉnh ngủ triển khai phản kích sắc bén nhất, mà bản thân mình sau khi hoàn toàn chiến bại lại tiếp tục đi tìm kiếm hậu thuẫn khác trợ giúp, nhưng không ngờ hậu thuẫn này lại buông tay mặc kệ. Người ta là thủ hộ giả của hòa bình trên thế giới này, chẳng nhẽ lại đi giúp một tên khiên sự giả  như ngươi sao? Đây chính là bi kịch của Hoàng Quân a! Trong lúc nhất thời Hoàng gia gia chủ lâm vào cảnh kêu trời trời không biết, kêu đất đất chẳng hay. Khóc không ra nước mắt. Hoàn toàn tuyệt vọng.

Thậm chí còn có ý nghĩa cầm đao mổ bụng, tự vẫn.

oOo 

Bên này, Quân Mạc Tà vừa mới ngủ được một chút liền bị đánh thức. Hơn nữa người đánh thức mình chính là tam thúc Quân Vô Ý, tự xông vào xốc mền ra. Quân Mạc Tà, nhìn thấy cái đùi trắng bóc của mình có chút dở khóc dở cười. May mắn là chính mình đã sửa đổi thói quen ngủ mà không mặc quần áo. Nếu không liền bị một nam nhân khác nhìn thấy hết.

- Tam thúc. Người nói ta phài nói thế nào mới được đây. Lần trước là lão gia, lần này là người. Nếu một ngày ta có vợ, ngài cũng như vậy, ào ào xông vào tốc mền? Chẳng lẽ nam nhân Quân gia chúng ta thích tốc mền của nam nhân khác sao? Bị nghiện à?

- Bớt lắm mồm, mau đứng lên theo ta ra ngoài. Có chuyện quan trọng.

Quân Vô Ý đỏ mặt, hung hăng đánh một phát lên mông cháu trai hắn. Quân đại thiếu bị ngược đãi kêu một “Ngao” một tiếng, lập tức ôm mông nhảy dựng lên, “sưu” một tiếng bằng tốc độ cực nhanh mặc quần áo vào, vẫn mang vẻ mặt buồn ngủ mơ màng theo đuôi Quân tam gia đi ra.

Khi đến tiểu viện của Quân Vô Ý, Quân Mạc Tà thấy hai người trước mặt liền chấn động. Cơn buồn ngủ nháy mắt biến mất hoàn toàn, hoàn toàn bất ngờ. Điều này sao có thể xảy ra được?

- Các ngươi, các ngươi sao lại đến nơi này? Sao lại thành ra cái dạng như vậy.

Quân Mạc Tà nhìn chăm chú hai người trước mặt, một nam một nữ, cẩn thận phân biệt một hồi lâu mới xác định, hai người này đúng là Mộ Tuyết Đồng và Hàn Yên Mộng. Bất quá trên người hai người đều đầy rẫy vết thương chằng chịt, vẻ mặt phong trần mệt nhoài, áo quần rách rưới, trang phục trên người so với tên khất cái còn thê thảm hơn nhiều. Cái này so với ấn tượng trong lòng Quân Mạc Tà về vị Mộ Tuyết Đồng phong thần tuấn tú, nho nhã cùng với một người luôn rực sáng với nụ cười thanh tú như Hàn Yên Mộng chính là một trời một vực.

Tại sao lại như vậy?

- Chẳng lẽ Phong Tuyết Ngân Thành bị người ta giết chết rồi?

Quân Mạc Tà có chút hả hê trên sự đau khổ của kẻ khác.

- Không đến mức như vậy nhưng cũng không khác gì mấy

Mộ Tuyết Đồng hừ một tiếng, ánh mắt lộ rõ hận ý. Đột nhiên ngẩng đầu nhìn thấy Quân Mạc Tà

- Lúc này đây, chúng ta đến là hy vọng có thể cùng Quân gia toàn diện liên thủ, diệt trừ hoàn toàn Tiêu gia. Không biết ý của Quân tam công tử như thế nào?

Mộ Tuyết Đồng biết Quân gia trước mắt mấu chốt chính là vị tam thiếu gia Quân Mạc Tà này, cho nên hắn đối mặt với Quân Mạc Tà trực tiếp nói thẳng.

- Liên thủ? Diệt trừ Tiêu gia? Đề nghị rất thú vị?

Quân Mạc Tà ánh mắt chợt lóe lên, sờ cằm trầm ngâm đột nhiên cười lạnh một tiếng

- Nếu cái ta lựa chọn là ngồi nhìn trai cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi, xem Hàn gia cùng Tiêu gia liều mạng một sống một chết, chúng ta chẳng phải chiếm được tiện nghi sao? Như thế mới có lợi đúng không? 

- Đại vương đây là..., chẳng lẽ đại vương uống rượu say quá đà, nên mới nghĩ tới nơi này, rồi lại liên tiếp đi nhầm đường? 

Nhâm Nhược Tích khẽ mấp máy đôi môi, bỗng cảm thấy có chút tức cười, nhưng lại cảm giác rằng lý do đó thật vô lý, cho dù Khánh Kỵ say xỉn đến mức không nhận ra đường, hoặc là nhớ sai cung điện mà bọn họ sống, chỉ cần hắn không nói sai tên, thái giám sẽ không dẫn sai đường bao giờ cả, thế nhưng hắn đã đi nhầm tẩm cung thật, nên cũng đành chỉ biết đâm lao theo lao, làm sao mà quay đầu trở ra được nữa đây?

Nhâm Nhược Tích đang kinh ngạc đứng đó, bỗng nhiên nghe ngoài cửa có giọng nói oang oang cất lên:

- Đại vương giá đáo!

Đám thị nữ, thái giám trong ngoài cung đồng loạt quỳ sụp xuống, Khánh Kỵ đứng ở cửa cung cất giọng nói lanh lảnh rõ ràng:

- Miễn lễ, bình thân, hôm nay là ngày đại hỷ của quả nhân, các ngươi ai cũng sẽ có thưởng, ngày mai hậu cung tổng quản sẽ phát tiền thưởng, các ngươi mau lui xuống hết đi.

Nhâm Nhược Tích nghe thấy hắn nói vậy, khuôn mặt bỗng nhiên đỏ bừng lên, trọng nội tâm dâng lên một chút xấu hổ khó diễn tả. Bước chân của Khánh Kỵ đập bên tai, Nhâm Nhược Tích tuy là người mới, cũng biết khom người hành lễ, nâng nhẹ guốc gỗ, đầu cũng không dám ngẩng lên nhẹ nhàng bái tạ:

- Thần thiếp Nhược Tích, bái kiến đại vương.

- Ái phi bình thân.

Khánh Kỵ bước lại gần, đưa một tay ra đỡ nàng đứng dậy.

Nhâm Nhược Tích đứng dậy, đưa mắt thoáng qua nhom Khánh Kỵ, bất ngờ phát hiện ra đằng sau lưng Khánh Kỵ còn có hai người nữa, không khỏi giật mình, kêu lên thất thanh:

- Diêu Quang, Tiểu Man!

Hai cô gái cứng rắn hôm nay làm tân nương, cũng cảm thấy có chút ngượng ngịu, dịu dàng thỏ thẻ khác hẳn ngày thường, khẽ khàng đáp lại:

- Nhược Tích tỉ tỉ.

- Tại sao hai người...

Nhâm Nhược Tích muốn nói gì nhưng lại thôi, không biết nên nói thế nào cho phải.

Khánh Kỵ cười nói:

- Ba người các nàng đều là ái phi của quả nhân, hôm nay là đêm tân hôn đầu tiên của chúng ta, quả nhân không thể bên trọng bên khinh, vò rượu này bốn người chúng ta hãy cùng nhau thưởng thức.

Hắn háo hức nhìn ngắm ba mỹ nhân sắc nước hương trời đang đứng cạnh mình, nới lỏng hai tay hai bên là những chiếc eo nhỏ nhắn của Diêu Quang và Tiểu Man, đi về phía chiếc bàn đầy ắp thịt rượu thức ăn sơn hào hải vị, rồi nói:

- Hôm nay là một ngày đại lễ quan trọng, cho nên quả nhân sắp xếp như vậy là để tránh cho các nàng nảy sinh những hiềm khích bộc phát trong lòng. Từ nay về sau chúng ta sẽ đều là người một nhà cả, quả nhân mong rằng ba vị ái phi sẽ yêu thương đùm bọc, kính trọng khoan dung lẫn nhau, giúp phu quân dạy con, giữ vững nề nếp, thi hành bổn phận của mình cho tốt, không phụ lại tâm ý quả nhân.

Ba cô gái đều là những nữ nhân cực kỳ thông minh. Câu nói đó của Khánh Kỵ có ý nghĩa thị uy cảnh báo một cách khôn khéo. Trong đêm tân hôn đã nhắc nhở ba nàng tân nương trước một câu, tuy rằng câu nói đó không được lọt tai cho lắm, nhưng cũng khiến cho bọn họ thầm cảnh tỉnh. Khi nghe thấy Khánh Kỵ nói đến đoạn "giúp chồng dạy con", trong lòng ba người như mở cờ trong bụng. Ngay cả một cô bé mới chớm biết yêu như Tiểu Man cũng dấy lên trong lòng một thứ cảm giác khác thường. Trong phút giây ngắn ngủi nào đó, họ đã cảm nhận được từ trong đáy lòng mình. Bắt đầu từ đêm nay, bọn họ sẽ là thê tử của người ta, không còn là những cô nương ngỗ ngược nghịch ngợm như trước nữa rồi.

Mọi người đều quen biết nhau cũng có cái hay của nó. Khánh Kỵ không hề nói đến chuyện vương vị trước mặt các nàng, ba cô gái xưa nay cũng có thời gian sống chung cùng nhau. Uống xong hớp rượu cẩn đầu tiên, Khánh Kỵ lại tiếp tục mời rượu từng nàng một, rồi còn kể một số câu chuyện thú vị, khiến cho không khí nhanh chóng trở nên ấm áp. Nếu trong tâm khảm đang thấp thỏm lo lắng vì thân phận tân nương, khiến cho trong lòng ba nàng ít nhiều nảy sinh rụt rè này kia, thì không khí nhất định sẽ còn vui vẻ, thoải mái hơn rất nhiều.

Khánh Kỵ trông thấy ba nàng cười cười nói nói với nhau rất vui vẻ, cũng cảm thấy thầm vui mừng trong lòng, nói:

- Ước nguyện duy nhất của cả đời Khánh Kỵ chính là quan hệ giữa ta với các nàng, giữa các nàng với nhau ngày nào cũng hòa thuận đầm ấm, tương thân tương ái, không đố kị xích mích nhau giống như ngày hôm nay.

Ba cô nàng đưa mắt nhìn nhau, nũng nịu hướng ánh mắt về phía hắn nói:

- Lời căn dặn của phu quân ngày hôm nay, nỗi khổ tâm của chàng bọn thiếp đều ghi lòng tạc dạ, phu quân xin cứ yên tâm, tỉ muội bọn thiếp nhất định sẽ hết lòng hầu hạ phu quân, thân mật hòa thuận với nhau như răng với môi, không còn ngăn cách gì hết.

- Tốt lắm! Vậy thì đêm nay bốn người chúng ta hãy thân mật không còn ngăn cách nhé.

Khánh Kỵ hí hửng, hắn đưa mắt nhìn qua vai của Nhược Tích, liếc nhìn về phía chiếc giường lớn đã được buông xuống sẵn đằng kia, cười nói:

- Đêm nay là một thời khắc vô cùng quan trọng, quả nhân tá túc ở phòng của ai thì cũng đều khiến cho hai tiểu mỹ nhân còn lại phải tủi thân cô quạnh. Hũ rượu cẩn cũng đã uống hết, vậy đêm nay chúng ta cùng nhau ân ái trong phòng này, tận hưởng cảm giác bay bổng đê mê cùng với nhau thì quả là tuyệt vời. Hắc hắc, ba ái thiếp, trời đã tối rồi, có phải đã đến lúc chúng ta buông màn cởi áo rồi không nhỉ?

- Cái gì? 

Ba cô nàng bị một phen hoảng hồn, hoang mang đưa mắt nhìn nhau, ai nấy mặt mũi đỏ ửng như quả gấc chín.

Vào thời đó chuyện chăn gối không cấm kỵ nhiều như đời sau, vương hầu văn võ bá quan có rất nhiều tì thiếp, phần lớn đều coi là những chuyện rất bình thường, ba người tuy chưa tận mắt chứng kiến chuyện đó, nhưng bọn họ đều xuất thân từ những gia đình danh giá, chuyện phong lưu tình ái của các bậc trưởng bối huynh trưởng đều đã từng được nghe qua, chỉ là không ngờ được rằng ngày hôm nay chuyện đó lại rơi xuống đầu mình.

Ba người bọn họ đều là vương phi, thân phận tôn quý, trong lòng khó tránh khỏi chút rụt rè nhút nhát. Quan trọng nhất là, trong số ba người bọn họ ngoại trừ Nhâm Nhược Tích vụng trộm hoan lạc với Khánh Kỵ một đêm, còn hai cô gái kia thì đều chưa từng biết đến chuyện hoàng hoa khuê nữ của nam nữ (chuyện mà ai cũng đều biết, trừ trẻ con, hizzzz), bỗng nhiên muốn ân ái với bọn họ trong cùng một chiếc giường, hầu hạ phu quân khiến cho ba nàng không khỏi rối bời tâm tư, thái độ có vẻ không tự nhiên cho lắm.

Sau đôi chút ngỡ ngàng xấu hổ ban đầu, Tiểu Man là người đầu tiên khôi phục được tính cách ương ngạnh của mình, mặt đỏ tía tai nạt nộ:

- Thật quá hoang đường, sao chuyện như vậy mà chàng cũng nghĩ ra được.

Khánh Kỵ cười nói:

- Không những nghĩ ra được, mà phu quân của các nàng còn làm được nữa cơ. Đã ở trong khuê phòng cẩn mật, còn ngại gì ai nữa đây, việc gì mà phải xấu hổ nhỉ, kẻ nào dám chỉ trích này nọ trẫm lập tức thiến hắn luôn, để hắn sau này nhìn được nhưng không "xơi" được.

- Đại vương thật là... say mất rồi, đêm nay ở trong phòng của Nhược Tích tỉ tỉ là được rồi, thần thiếp xin được cáo lui trước.

Diêu Quang mặt đỏ như gấc đưa mắt ra hiệu cho Tiểu Man, đứng dậy toan đi ra khỏi điện.

Nhược Tích lúng túng, vội vàng đứng dậy nói:

- Hai muội muội, đại vương say rượu cần phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, để Nhược Tích đi cùng hai người.

Khánh Kỵ vươn người đứng dậy, một tay đưa ra nắm chặt lấy chiếc eo nhỏ nhắn của Nhược Tích, rồi bế thốc nàng lên, lê bước đi về phía giường, kéo rèm lên, rồi đặt nàng nằm trên giường, nhẹ nhàng nói với Diêu Quang, Tiểu Man:

- Lời của phu quân mà các nàng dám không nghe? Hôm nay quả nhân muốn động phòng với cả ba nàng, nếu ai không nghe lời, thì suốt ba tháng sau quả nhân sẽ không thèm bước vào tẩm cung của người đó nữa.

- Hứ! 

Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man cười khinh khỉnh "Ai thèm!", Diêu Quang nhăn mũi trêu chọc.

- Chàng dám! 

Tiểu Man chống nạnh đứng đó, trợn mắt lườm nguýt.

Sau đó, cả hai cô nương đều đỏ mặt, rồi chậm rãi từng bước một tiến tới bên giường, nhìn Khánh Kỵ đang ngồi kia cười giảo hoạt như một con hồ ly già tinh quái, khiến cho miệng các nàng đều ngứa ngáy, chỉ muốn ngoạm..., hừ, ai bảo người ta giờ đã là nam nhân của mình chứ...

Tắm gội, súc miệng, cởi đồ, bỏ trang sức, ba cô gái ngượng ngập đi trở lại giường, Khánh Kỵ đã rửa mặt tắm táp từ trước lúc này không mảnh vải trên mình, lộ ra lồng ngực cường tráng, chỉ còn mặc độc một chiếc khố nhỏ, đang nằm trên giường mỉm cười nhìn các mỹ nhân.

Chỉ vài tháng nữa Nhược Tích sẽ tròn đôi mươi, dưới con mắt của Khánh Kỵ đúng là độ tuổi chín muồi hấp dẫn của phụ nữ, còn trong mắt của người thời đó thì nàng đã phí hoài mất bốn năm tuổi xuân, đã coi như trở thành cô nương "già" rồi.

Nàng khoác trên mình một bộ nhuyễn bào màu hồng phớt có thêu hình trúc mai trước ngực, mái tóc nhung huyền mềm mại, chỉ được cố định bởi một sợi dây đai mỏng manh màu vàng. Sau khi tắm giặt, phấn son đã được gột tẩy sạch sẽ, chỉ còn khuôn mặt mộc mạc quyến rũ mê hồn còn đó, da thịt trắng sữa nõn nà, mịn màng thơm tho như băng thanh ngọc khiết, toàn thân tỏa ra một mùi hương dịu nhẹ mê tơi say đắm đàn ông khắp thế gian.

Diêu Quang vừa bước qua tuổi mười tám, nhưng thân hình trông còn phổng phao hơn cả Nhâm Nhược Tích, mặc một chiếc áo màu hoa sen, bên eo thắt một dây đai gắn hạt xoàn, tuy thế nhưng mỗi khi nàng cử động tay chân, cặp đùi thon dài thẳng tắp cùng bộ ngực mây mẩy đầy đặn ngổng lên cao ngất của nàng lại như nửa ẩn nửa hiện lấp ló trong chiếc áo bào, những đường cong chết người khơi gợi những dục cảm bình dị trong mỗi con người, không khỏi khiến người ta như mơ màng trong cõi đê mê.

Quý Tôn Tiểu Man tuổi mới mười sáu, mặc một chiếc đoản bào trắng tinh khiết, bên dưới lộ ra đôi chân nhỏ nhắn xinh xắn, tóc cột thành hình đuôi ngựa, trên trán còn buộc một dải khăn thêu hoa, trông hơi giống cách ăn mặc của nữ bộc, nhưng rất đáng yêu và gợi cảm.

Nàng nửa tiến nửa lùi đứng chơ vơ một chỗ, thần sắc định cố giả vẻ hung hãn dữ dằn, nhưng lại vẫn kèm theo chút thần vận xinh đẹp tinh nghịch, trên khuôn mặt vẫn còn non nớt, núng na núng nính má hồng dần xuất hiện một vòng tròn đỏ ửng, thật khiến người ta khó lòng tưởng tượng ra được một mỹ nhân khuôn mặt trứng sữa thuần khiết kia vào lúc ái ân ấn ai với người khác sẽ có vẻ mặt thế nào???

- Nào, ba ái thê, để phu quân ôm các nàng một cái nào.

Khánh Kỵ nhận ra được sự căng thẳng trên khuôn mặt mỗi người, cố tình nằm rũ rượi trên giường giang rộng hai tay, giả vờ như đang lơ tơ mơ. Đời người có diễm phúc như vậy, quả thật một người đàn ông còn mong ước gì hơn nữa. Cặp lông mi của Khánh Kỵ tựa hồ đều dựng đứng lên. Ba nàng đều là phu nhân của Khánh Kỵ, cách hầu hạ của bọn họ không giống như những cô nương Tiểu Nhã, Tiểu Trúc lục nữ, hắn mong rằng đêm nay không chỉ có hắn ngây ngất trong cơn hoan lạc, mà cả ba ái thê của mình cũng có thể tận hưởng được hương vị ngọt ngào của tình ái, điều này đối với những cô nương còn bỡ ngỡ chưa quen thì rất khó nói ra, cho nên Khánh Kỵ cố tình ra vẻ như không có gì, nhưng thực ra trong lòng cũng có đôi chút lo lắng.

Trông thấy bộ mặt háo hức phấn chấn của hắn, cả ba cô nương đều xấu hổ đằng hắng mấy tiếng, đứng bên thành giường đưa mắt lúng túng nhìn nhau, bối rối không dám ngẩng đầu nhìn, trong lòng vừa ngượng vừa sợ. Vừa như mong đợi, lại vừa như muốn trốn tránh, chẳng ai chịu tiến lên trước thêm một bước nữa cả.

Khánh Kỵ bỗng nhiên với tay ra nắm chặt lấy đôi chân bóng bảy của Nhâm Nhược Tích, Nhâm Nhược Tích ối lên một tiếng bất ngờ, rồi bị Khánh Kỵ kéo xuống giường, sau đó nằm ép dưới cơ thể của hắn. Khánh Kỵ một tay ôm chặt lấy thân thể mềm mại của nàng, xoay người đè lên trên người nàng, rồi hôn từng đợt liên hồi lên đôi môi đỏ thắm.

- Ơ... Nhâm Nhược Tích vừa định kêu lên chống cự, liền bị Khánh Kỵ bao chặt lấy lưỡi, cơ thể của nàng bỗng chốc mềm nhũn, đôi mắt tròn to cũng theo đó chìm vào mơ màng, rồi từ từ khép hờ, nhưng đôi bàn tay vẫn đang cố chống cự lại những cử chỉ không kiềm chế được của Khánh Kỵ trước bộ ngực săn chắc của nàng, nghĩ tới việc bên cạnh mình còn đang có hai cô nương làm khán giả, khuôn mặt đỏ gay giống như đang bốc cháy bừng bừng.

Diêu Quang và Tiểu Man là hai nha đầu xưa nay vốn rất ngổ ngáo lúc này ngây ngốc khiếp đảm đứng cạnh giường, trố mắt nhìn Nhâm Nhược Tích đang bị Khánh Kỵ đè lên trên khua tay loạn xạ khắp cơ thể, rồi lại nơm nớp lo sợ cho bản thân mình khi mà tình trường vẫn còn non nớt.

- Tích Nhi, nam nữ ân ái vốn là chuyện vui thú nhất trong đời người, bốn người chúng ta lúc này đã là phu thê, cơ thể hoàn toàn thuộc về nhau, suốt đời suốt kiếp bên cạnh nhau, có gì đâu mà phải xấu hổ chứ? Nào, thả lỏng một chút, hai ta đã từng trải qua một lần hợp thể, hãy để cho hai muội muội của nàng học hỏi một chút thế nào gọi là "thủy nhũ giao dung, âm dương điều hòa..."

- Cái gì? Nhược Tích đã cùng hắn làm chuyện đó...

Diêu Quang và Tiểu Man nghe được câu nói đó, đôi mắt lập tức trợn trừng lên, sự "đồng cảm" với Nhâm Nhược Tích bỗng chốc tan biến sạch trơn không còn dấu vết gì sất, mùi vị của sự chua chát sôi sùng sục trong lòng.

Nhược Tích bị Khánh Kỵ nói trắng ra chuyện của hai người, coi như đã bị hắn lột bỏ lớp bảo vệ cuối cùng, nàng xấu hổ ức nghẹn lên một tiếng, bừng hai tay lên che mặt, giữa những ngón tay lộ ra khuôn mặt đỏ ửng theo từng cơn.

Bộ nhuyễn bào đã được trút bỏ, ngọc trâm cài trên đầu được đặt xuống thành giường, Nhược Tích bắt đầu thở dốc, cặp song nhũ nõn nà mây mẩy cao vổng căng cứng, khẽ nhô lên hai "hạt" anh đào đỏ ửng, Khánh Kỵ không hề khách sáo chà đạp lên đôi môi trơn bóng mềm mại, đôi bàn tay vuốt ve mơn trớn không thôi bộ ngực và cặp kiều đồn tròn trịa của nàng.

Nhược Tích rên rỉ từng đợt hổn hển, toàn thân bóng nhẫy, cuộc ân ái với Khánh Kỵ khiến cho nàng hồi tưởng lại những hồi ức khó quên lúc trước với hắn, rõ ràng biết rằng Diêu Quang và Tiểu Man đang ở cạnh bên, nàng cũng định tỏ vẻ e thẹn trước mặt hai người, nhưng bàn tay của Khánh Kỵ cứ ve vuốt mãi khiến nàng khó giữ mình, chỉ còn biết chui vào trong bờ ngực của Khánh Kỵ, khiến cho thân hình kiều diễm của nàng khẽ ngọ nguậy giống như thân hình con bạch xà, để mặc cho hắn thỏa sức nhấm nháp, tùy ý ve vãn.

Diêu Quang đứng ở cạnh đó, vừa ngượng vừa sợ nhìn cảnh xuân sắc trên giường, chỉ thấy đâu đó ươn ướt ngứa ngáy, cuối cùng hai chân mềm nhũn, ngồi xuống giường thở dốc, Nhâm Nhược Tích đang nằm trước mặt tóc tai rũ rượi, làn môi đỏ mọng bóng gợn, đôi mắt tuyệt diệu như làn nước thu, vẻ mặt nũng nịu khiến cho người ta phải khó chịu, tiếng rên nhỏ nhẹ từng đợt đều đặn của nàng lại càng khiến người ngồi cạnh càng thêm bứt rứt khó chịu.

Đột nhiên, Nhược Tích vung tay ra bắt lấy bàn tay trắng nõn nà của Diêu Quang, giống như thể người chết đuối vớ được cọc, cứ nắm lấy thật chặt chẳng chịu buông ra, từ trên cơ thể của Nhâm Nhược Tích có thể cảm nhận được sự run rẩy tê dại, đôi bàn tay run rẩy cũng tác động đến Diêu Quang, khiến cho đôi chân của nàng không tự chủ được mà cũng bủn rủn theo...

Thời gian cứ trôi qua dần đều, ngọn nến cháy leo lắt, Thúc Tôn Diêu Quang đứng nhìn cảnh thân mật nãy giờ cơ thể hầu như đã tê liệt, khi Khánh Kỵ kéo nàng vào trong giường, nàng chỉ còn biết bất lực mặc sức cho Khánh Kỵ làm gì thì làm. Ở kế bên là Nhâm Nhược Tích đang thở gấp từng đợt. Thân hình viên mãn đầy đặn của nàng khẽ ngổng lên khỏi giường, đôi chân dài thon thả đã được Khánh Kỵ kẹp ở hai bên eo, chiếc giường lại khẽ lắc lư...

Cơ thể đã đầy đặn và thành thục như Thúc Tôn Diêu Quang, ở trong đêm tân hôn mới cảm nhận được sự tuyệt vời cực đỉnh mà trò chơi hoan lạc nam nữ mang lại, chắc chỉ còn mỗi Quý Tôn Tiểu Man, đêm nay đối với nàng mà nói sẽ là một đêm khó quên khi mà sẽ có rất nhiều cảm giác mới mẻ kích thích cứ bày ra trước mặt nàng như vậy. Thân thể còn chưa trưởng thành hết của nàng, nhất thời không thể nào bộc lộ ra hết những bản năng dục vọng trong con người mình.

Do cơ thể nàng vẫn chưa phát triển nở nang cho lắm, nên kỳ thực Khánh Kỵ rất muốn đợi đến khi nàng trưởng thành hơn một chút. Khi nào có thể hoàn toàn hòa hợp và dung nạp tốt với cơ thể của mình thì hay hơn. Nhưng đa phần những thiếu nữ sống trong thời đại này đều là tảo hôn, trong thời đại này, ở vào tuổi của Tiểu Man đã được coi là không còn nhỏ nữa rồi! Nếu hắn cố tìm cho được những lý do nào đó rất khó chấp nhận trong thời đại này để hòa hoãn với nàng thì chỉ khiến cho tiểu cô nương kia sinh lòng oán thán mà thôi.

Với tính khí của nàng, việc bỏ nhà đi đã là chuyện quá đỗi bình thường, nếu như giờ lại có cảm giác bị chồng thờ ơ lạnh nhạt, một khi cơn tức bốc lên sẽ lại giở trò "bỏ chồng mà đi". Khánh Kỵ không thể nào gánh vác nổi, điều duy nhất hắn có thể làm là cố hết mình ra vẻ ôn nhu, tránh cho cơ thể của nàng chịu những tổn thương đau đớn, tránh cho nàng bị dính dáng vào chuyện chửa đẻ quá sớm.

Quý Tôn Tiểu Man bẽn lẽn đứng bên cạnh, mặc dù trước khi đến Ngô, nàng đã được các bà bà dạy cho vài cách ứng phó trong đêm tân hôn, nhưng sự xấu hổ theo bản năng đã khiến cho nàng từ đầu đến giờ chỉ biết nhắm chặt mắt lại không dám xem, nhưng những âm thanh rên rỉ vẫn đang lọt đều đặn vào trong tai nàng, khiến cho khuôn mặt nàng đỏ ửng.

Hai chân của nàng run rẩy như người bị ốm, trong lòng trống rỗng chẳng biết làm sao, từ nhỏ đã thiếu thốn tình thương yêu từ mẹ, khi phải đối mặt với chuyện đại sự đầu tiên trong đời, thì nàng liền căng thẳng đến nỗi tay chân lạnh băng. Nàng muốn trốn tránh, nhưng đôi chân từ sớm đã mềm nhũn không thể động đậy thêm chút nào nữa. Đến nỗi ngay cả khi bị kéo lên giường lúc nào mà nàng cũng không hề hay biết.

Khi nàng đã bắt đầu hơi tỉnh táo, thì phát hiện ra mình đang nằm sấp trên giường, hàm răng cắn chặt vào gối, phía trên nàng là một cơ thể săn chắc vạm vỡ đang ôn nhu mà chậm rãi "tiến hành" công việc. Cho dù động tác của hắn hết sức chăm chút cẩn thận, nhưng Quý Tôn Tiểu Man vẫn cảm thấy không thoải mái cho lắm. Nàng biết rằng vào lúc này thì nên phải là một người vợ "giúp đỡ tận tình" cho chồng, hầu hạ chồng hết sức, thế nhưng tất cả những phương pháp mà các bà bà trong phủ dạy cho lúc này nàng đều quên bẵng không còn chút vết tích nào hết.

Nàng chỉ có thể buông thõng cặp cổ trắng ngần, cặp eo nhỏ nhắn, khẽ khàng cong cong lên cặp tuyết đồn, bặm môi mím lợi chịu đựng. Một loại khoái cảm đến từ trong tâm khảm chứ không phải trên xác thịt tràn ngập trong cơ thể nàng. Trong cuộc yêu, nàng đã cảm nhận được mình và phu quân đã hợp lại làm một, nàng đã dường như gạt bỏ đi tất cả những mối lo ngại của mình, vĩnh viễn, vĩnh viễn...

Đêm khuya, dịch quán sứ tiết.

Di Hạ rón rén bước ra khỏi phòng, khẽ khàng đi nhỏ nhẹ tránh xa khỏi phòng phó sứ và mấy phòng thuộc sứ bên cạnh, sau đó rảo bước đi ra cánh cổng đằng sau viện lạc. Thân tín của hắn đã giong sẵn ngựa chờ hắn ở đó, Di Hạ lên xe, thầm thì vài câu với thuộc hạ, rồi buông rèm ra đi vào trong xe. Võ sĩ đánh xe nhẹ nhàng vung roi, xe ngựa chạy chậm rãi, lọc cọc bước đi trong bóng đêm.

Ngô Quái lâu, một đại tửu lâu của Viên Tố mới mở tại Cô Tô, chuyên phục vụ khách uống rượu và nghỉ trọ. Hiện tại Viên Tố là thống lĩnh thị vệ vương cung, bình thường không quản lý nơi này, có điều hắn đã đưa một số chưởng quỹ đem từ Lỗ quốc đến nơi này, có những thuộc hạ như vậy, Ngô Quái lâu do thế mà luôn được chỉnh đốn ngay ngắn. Những món ngon rượu ngon thì không nơi nào trong thành so sánh được với nơi này, cho nên phàm là những thương gia, những võ sĩ sĩ tử từ các nước đến nương náu ở Ngô quốc nếu như túi tiền kha khá là hầu như đều tìm đến nơi này.

Trước cánh cửa rộng rãi khoáng đạt của cửu lâu treo hai hàng đèn lồng đỏ, trắng đêm không tắt. Xe ngựa của Di Hạ đi thẳng vào trong, vòng vào trong khách quán phía sau, rồi dừng lại trước một căn nhà nhỏ.

Căn nhà này đã được một đại thương nhân Tống quốc bao trọn, vị đại thương nhân này phóng tay rất khoáng đạt, nghe nói chủ nhân họ Tử, là một quý tộc ở Tống quốc. Cảnh sắc xung quanh khá đẹp, có viện lạc nằm độc lập, vừa yên tĩnh lại an toàn, đương nhiên tiền thuê mỗi tháng cũng không rẻ. Xe ngựa dừng lại trước cửa, hai viên võ sĩ tùy tùng lập tức đứng hai bên cửa, Di Hạ xuống xe, nhìn ngắm xung quanh, ánh trăng như làn nước trong xanh, gió đêm thoang thoảng đâu đây, những chiếc lá đong đưa rơi lả tả, cảnh vật im ắng lạ thường.

Hắn rảo bước đi tới, kéo nhẹ thanh đấm cửa bằng đồng, một lúc sau, bên trong phát ra một âm thanh già cỗi:

- Ai đấy?

Di Hạ lại kéo cửa thêm mấy nhịp nữa, rồi mới nói giọng điềm tĩnh nhỏ nhẹ đáp lại:

- Là ta, Di đại phu đây.

Bên trong sáng bừng lên một ngọn lửa, cánh cửa cót két mở ra, hai bóng người đen đen đứng đó, một người thấp giọng nói:

- Di đại phu, xin mời vào, công tử biết tối nay ngài sẽ đến, nên đã chờ từ lâu. Không có ai để ý tới ngài chứ?

Di Hạ nói:

- Không có, ta cứ lo ngay ngáy đêm nay ở quán dịch có đội võ sĩ đi tuần tra, nhưng thật may trong thành Cô Tô này tương đối yên bình, ban đêm chỉ để mấy võ sĩ đứng canh ở cổng lớn. Ta đi ra từ cổng sau, trên đường đều rất chăm chú nghe ngóng động tĩnh, và không thấy có ai theo dõi hết.

- Vậy thì tốt rồi, đại phu mau vào trong đi.

Di Hạ gật đầu, rảo bước đi vào bên trong, ngọn đèn trên lầu lúc này đã sáng, qua cánh cửa sổ, lờ mờ có bóng một người đang đứng. 

Di Hạ bước vào trong phòng, khắp mặt sàn lầu một đều được trải thảm, mấy võ sĩ để kiếm dưới gối ngồi đó. Di Hạ không dám nhìn lâu, vội vàng đi lên lầu hai. Trên lầu hai có một thị tỳ búi tóc dung mạo xinh đẹp đang cầm đuốc đứng soi đằng xa, khi trông thấy hắn tới, chẳng nói gì khẽ cười nhìn hắn, hành lễ nhẹ nhàng với hắn, rồi cầm đuốc đi trước dẫn đường, đi đến chỗ đèn sáng trưng thì dừng bước, nhẹ nhàng gõ cửa, giọng nhỏ nhẹ nói:

- Công tử...

- Vào đi, ta đã rời khỏi giường rồi.

- Dạ.

Thị nữ kia kéo tấm bình phong, Di Hạ nhanh chóng bước vào bên trong, trông thấy một người đằng sau tấm bình phong đang đi về phía sau thư án, rồi từ từ yên vị, Di Hạ bước vào trong phòng, chỉnh lại tư thế rồi kính cẩn hành lễ:

- Di Hạ bái kiến Tử Nam công tử.

- Ngồi đi, không cần câu lễ.

Người ngồi sau án mặc một chiếc áo xanh, mái tóc dài bỏ ra sau lưng, trên trán buộc một chiếc khăn màu tím, hắn giơ tay lên, hai ngón tay trắng trẻo vân vê một cái que trúc, thắp đèn sáng lên, rồi mới ngẩng mắt lên thoáng nhìn về phía Di Hạ, hàng lông mày đen rậm giương lên, hỏi:

- Tình hình thế nào?

Người này hàm én mày ngài, con ngươi linh động, khóe môi hơi nhếch lên. Di Hạ đứng trước mặt đã là một nam tử tuấn tú ngàn người có một, nhưng nếu so sánh với vị công tử này, bất luận là bàn về tướng mạo hay thần thái thì đều kém hơn một bậc. Vị công tử đang đứng trước mặt Di Hạ còn anh tuấn khí khái hơn hắn nhiều, vẻ yêu kiều giống nữ giới lại toát ra vài phần hào khí nam nhi.

Vị Tử Nam công tử kia chỉ thoáng nhìn một cái, Di Hạ vừa ngồi xuống lại đứng phắt dậy đáp lời.

Nếu Khánh Kỵ gặp phải hắn, nhất định sẽ rất kinh ngạc cho coi. Vị Tử Nam công tử này là đầu man chi nữ của Tống Cảnh, thê của Vệ Linh Công Cơ Nguyên, chính là Vệ quốc quân phu nhân Nam Tử.

Di Hạ nói:

- Hôm nay là ngày đại vui của Ngô vương, thần chỉ bắt chuyện với hắn trên điện trong chốc lát.

Cặp môi kiều diễm của Nam Tử khẽ mấp máy, khóe miệng hơi nhếch:

- Hắn nhìn thấy một vị sứ giả Vệ quốc như ngài, lẽ nào lại không hề đề cập tới chuyện ở Bành Thành?

- Hắn có nhắc đến, Ngô vương chỉ nói loạn quân Triển Chích xâm chiếm Bành Thành, do địa thế nơi này hiểm yếu, đã bị Ngô quân tiễu trừ, chiếm lấy Bành Thành. Hắn còn nói... cường đạo xâm nhập tứ phía, tiêu diệt không dễ, nếu như Tống quốc có thể điều một đạo binh mã kết hợp tác chiến, vậy thì sẽ dễ dàng hơn nhiều.

- Làm gì có chuyện đó!

Nam Tử đập mạnh tay xuống bàn, lông mày khẽ chau lên:

- Hắn thản nhiên coi Bành Thành của ta như đồ trong túi vậy, thế cả việc lúc nào trao trả lại hắn cũng không nói sao?

Di Hạ lúng túng đáp:

- Phu nhân...

Nam Tử khẽ trừng mắt, Di Hạ vội luống cuống sửa lời nói:

- Công tử, thần là người nước Vệ, Ngô vương Khánh Kỵ cho dù chịu trao trả lại thành trì, thì... thì cũng không nói với thần đâu.

Cặp đồng tử thâm thúy lạnh lùng của Nam Tử đưa mắt nhìn hắn, chỉ thấy Di Hạ cúi đầu xuống, đằng hắng nói:

- Đã biết là quan hệ giữa ngươi với hắn rất tốt, đương nhiên là đã được hắn đùm bọc chiếu cố, giờ đây lại còn tìm cớ thoái thác thông đồng với tên cường đạo trời đánh không chết đó.

Di Hạ vội nói:

- Thần không dám, trong yến tiệc thần chỉ ngồi nói chuyện suốt với đám quan viên Ngô quốc, bọn họ hình như đang có ý đồ với Đông Di, không có ý nào nhằm vào Tống quốc cả.

Nam Tử bực tức nhìn hắn:

- Hắn không có mưu mô gì với Tống quốc? Lẽ nào Bành Thành không phải là lãnh địa của Tống quốc chúng ta?

Di Hạ cứng họng không biết nói sao, Nam Tử tự nói với mình:

- Có đám người Ngô quốc trấn thủ đằng đó, đám thổ phỉ Triển Chích khó lòng nào xâm nhập được vào Tống quốc, tạm thời có thể coi là một chuyện tốt, chỉ e ngại một điều là đến thời hạn trả lại thành trì, hắn lại tiếc rẻ không nỡ buông xuôi mảnh đất béo bở này... Về tình thế Tấn quốc và hai nước Vệ Tống, Khánh Kỵ và đám đại thần có nhắc đến không?

Di Hạ nhìn nàng, lí nhí nói:

- Người Ngô... hình như đang bận bịu với liên minh Tần quốc, Lỗ quốc, còn cả việc cày bừa lên thửa vụ mùa mới, trong yến tiệc, chuyện đối ngoại được nhắc đến nhiều nhất là nói về Đông Di, thỉnh thoảng mới nói đến Sở quốc, Việt quốc, còn về cục diện Vệ Tống thì không nhắc tới chút nào cả.

Nam Tử lại nổi cơn thịnh nộ, tiếp tục đập thư án thật mạnh:

- Cái tên bất nhân bất nghĩa đó, khênh vợ đẹp lên giường hú hí, từ lâu đã không còn vương vấn gì tới hai nước Vệ Tống chúng ta rồi. Nếu không có chúng ta góp sức khống chế Tấn quốc tiến xuống phía Nam, khiến Tề Tấn không thể tác hợp đổ quân xuống phía Nam, thì làm sao hắn có thể ung dung chiếm được vương vị Ngô quốc chứ? Hắn...

Nam Tử tức giận thở hồng hộc, quét mắt nhìn Di Hạ, rồi nói:

- Sáng mai, ngươi lấy danh nghĩa bạn cũ hẹn gặp hắn ở Ngô Quái lâu dự tiệc.

- Điều này... Chỉ e là... Thần cho rằng...

Nam Tử khuôn mặt thanh khiết như sương mai, lạnh lùng nghiêng mắt lườm hắn, quát lên:

- Sao nào?

Di Hạ lắp bắp nói:

- Ngày đại hỷ của Ngô vương, toàn triều đình được nghỉ ba ngày, ngày mai mời hắn xuất cung, chỉ e... chỉ e không được hợp lý...

- Hai nước Vệ Tống chúng ta đang nguy cấp vô cùng, trong khi hắn lại ung dung hưởng khoái lạc... 

Nam Tử khẽ chau mày, rồi suy nghĩ gì đó, nói:

- Được rồi, Ngô vương đình triều ba ngày, cả nước chúc tụng, các quan đại thần chắc cũng nghỉ ngơi ở phủ đệ, trong ba ngày này ngươi hãy đến uống rượu hàn huyên với các vị đại thần Ngô quốc, tìm cách moi móc thông tin, có tin tức gì lập tức bẩm báo ta ngay. Ba ngày sau ngươi hãy... ngươi hãy hẹn với cái tên khốn nạn đó cho ta...

Nói đến đây, Nam Tử lại cảm thấy tức nghẹn lời, oán giận nói:

- Đường đường một đấng nam nhi, những chuyện đồng ý với ta lại chưa làm được việc gì hết, giờ hai nước Vệ Tống chúng ta đang trên bờ vực thẳm, thì hắn lại đang hoan lạc nữ sắc.

Di Hạ kinh ngạc trừng to mắt, không biết Khánh Kỵ đã đồng ý với quân phu nhân chuyện gì, nghe phong phanh quân phu nhân còn trẻ, ở Tống quốc có vô số công tử tài sắc song toàn tới quỳ dưới váy, đến Vệ quốc lại có chút mập mờ với Công Tử Triều, không lẽ... từ lúc nào mà nàng đã câu kết với Khánh Kỵ công tử rồi?

Nam Tử ngước mắt lên, trông thấy thần sắc lạ lùng của Di Hạ, đã biết ngay hắn đang có ý nghĩ xấu xa gì trong đầu, nếu không phải hiện tại đang cần dùng tới hắn thì Nam Tử đã đá bay cái tên chỉ được cái mặt mốc kia bay xuống lầu, nàng nghiến nghiến răng, lạnh lùng nói:

- Trong buổi triều yến, người Ngô nhắc đến bất cứ chuyện gì, đặc biệt là có liên quan tới Đông Di thì đều bẩm báo hết cho quả nhân. Chỉ có người đã từng trải qua cuộc sống thường dân, mới biết được một vị quân vương cao cao tại thượng phải chịu bao nhiêu trói buộc, giờ đây gặp lại bạn cũ, được gỡ bỏ thân phận hiện tại, nhẹ nhàng thoải mái suốt một ngày, đối với Khánh Kỵ mà nói cũng là một ước mơ tha thiết. Vì vậy khi vừa nhận được lời mời của Di Hạ, Khánh Kỵ lập tức vui vẻ nhận lời, định bụng cải trang đi ra ngoài gặp gỡ.

Thế nhưng hiện tại Ngô quốc là quốc gia coi trọng lực lượng cảnh vệ quốc vương nhất. Cho dù người thiết yến là Vệ quốc đại phu kiêm hạ sứ hôn lễ (sứ giả đến chúc mừng hôn lễ), hoàng cung Ngô quốc vẫn giống như lâm phải đại địch, khiến cho Ngô Quái cư hôm nay đông chật như nêm cối.

Cũng may đây là tài sản riêng của thống lĩnh thị vệ Ngô vương Viên Tố, để không làm cụt hứng Khánh Kỵ, sau khi đã phân loại tất cả khách mời kỹ càng, Viên Tố liền điều động binh mã ngăn cách sự liên hệ giữa cửu lâu và nhà trọ phía sau hậu viện, tạo lập nên một cục diện ngoại bất xuất nội bất nhập, bên trong Ngô Quái cư sẽ không còn bị quấy rầy ảnh hưởng bởi những ánh gươm sáng loáng nữa.

Bạn cũ gặp nhau, vui mừng tíu tít, rượu được ba tuần, Di Hạ ngắm nhìn đám vũ kỹ đang múa may uyển chuyển trước mặt, bỗng nhiên cười nói với Khánh Kỵ:

- Đại vương nhận lời tới dự tiệc, quả thật là phúc lớn của thần. Nhưng tại hạ chỉ có đám đào hát bình thường này thôi, Di Hạ khoản đãi đại vương không chu toàn, cảm thấy thật hổ thẹn.

Khánh Kỵ nghe thấy vậy thì bật cười, sáu cô gái đang múa chính là Tiểu Nhã Tiểu Trúc lục nữ, các nàng đều yêu thích cuộc sống tự do bay nhảy, khi tới thành Cô Tô đã có không ít công khanh đại thần coi trọng tài sắc của các nàng, muốn đưa các nàng vào trong phủ hầu hạ. Nhưng ngay cả hoàng cung họ cũng không muốn vào, thì làm sao có thể mong muốn trở thành thị thiếp của đại phu nào được. Do họ đã từng cứu sống Khánh Kỵ, nên Khánh Kỵ rất chiếu cố cho họ, giờ đây họ đều là những vũ nữ trụ cột trong Ngô Quái Cư.

Lục nữ đưa tay lả lướt, mặt hoa da phấn, trước giờ đều nhận được sự hưởng ứng của khách nhân, đây là lần đầu tiên Khánh Kỵ nghe thấy có người bảo họ chỉ là những đào gái tầm thường. Điều này thì chỉ có Di Tử Hạ mặt thanh mày tú, mắt én mày ngài như thiếu nữ kia mới dám thốt ra mà thôi. Khánh Kỵ khoát tay cười nói:

- Tử Hạ việc gì phải câu nệ như vậy, những nữ tử kia đều rất xinh đẹp yêu kiều, các nàng ca múa trợ hứng đã là quá tuyệt rồi.

- Xinh đẹp yêu kiều? 

Di Tử Hạ nghe vậy thì lắc đầu lia lịa:

- Nếu trong con mắt của người thường thì vẻ đẹp của chúng còn có thể chấp nhận được, nhưng đại vương là vua một nước, được tiếp xúc với không ít tuyệt thế giai nhân, bọn chúng làm sao xứng với bốn chữ xinh đẹp yêu kiều cơ chứ?

Hắn đảo mắt nhìn quanh, hạ thấp giọng xuống, thần sắc ám muội nói:

- Không giấu gì đại vương, ngoại thần có dẫn tới một nữ tử, đoan trang trời sinh, kiều diễm mê hồn không gì sánh được, nếu đại vương gặp nữ tử đó, rồi lại so sánh với sáu con đào hát kia thì mới biết là khác nhau một trời một vực.

Khánh Kỵ mỉm cười, Di Tử Hạ hóa ra là muốn tặng mỹ nhân cho mình, Tử Hạ khen cô ta như vậy, vậy chắc mẩm nhan sắc của nàng phải là một tuyệt thế nhân gian rồi. Nhưng tình cảm của Khánh Kỵ với ba ái thê đang nồng đượm, không hề muốn dẫn một mỹ nhân chưa từng gặp mặt hồi cung trở về, nghĩ tới đó thì vội khoát tay cười nói:

- Ha ha, tâm ý của Tử Hạ quả nhân ghi nhận, mỹ nhân đó Tử Hạ cứ giữ lại mà dùng.

Di Hạ nghe thấy vậy thì vội cuống quít khoát tay:

- Không dùng được, nữ tử kia như tiên giáng trần, Tử Hạ chỉ là một tên phàm phu tục tử, không xứng với cả một đầu ngón chân của nàng. Đại vương nói vậy chẳng khác nào hại thần cả. Tửu hứng của đại vương đã bốc lên cao, tản bộ một chút để giải rượu cũng hay. Sao không tiện thể đi gặp mỹ nhân đó luôn đi.

Khánh Kỵ chau mày tò mò:

- Tử Hạ không ngớt khen ngợi ả, chẳng lẽ ả đúng là tuyệt thế giai nhân sao?

Tử Hạ thấy vẻ mặt hiếu kỳ của Khánh Kỵ thì như mở cờ trong bụng, nói:

- Đúng vậy, đúng vậy, đại vương ngại gì mà không đi gặp một lần cho biết chứ nhỉ?

“Điều này... Di Hạ đã từng gặp Quý Tôn Tiểu Man, nhưng chưa bao giờ khen nàng lấy nửa câu. Giờ đây lại không ngớt tán tụng người kia, vậy không biết đó là một nữ tử nhan sắc kiều diễm đến đâu đây?” 

Khánh Kỵ nghĩ tới đây, lại càng thêm tò mò, liền cười xuề xòa nói:

- Được rồi, gọi nàng lên đây, để quả nhân xem nào.

- Đại vương... 

Di Hạ ngập ngừng nói nhỏ:

- Không giấu gì đại vương, thân phận của nàng rất đặc biệt, không thể tùy ý lộ diện cho người khác xem mặt.

- Ồ?

Khánh Kỵ lóe lên ánh nhìn kỳ dị trong mắt, cười hắc hắc nói:

- Được rồi, Di Hạ đã nói vậy, đã làm cho ta tò mò lắm rồi đấy, hahaha...

Hắn đập tay ba cái, ồm ồm nói:

- Đoàn ca múa dừng ở đây thôi, quả nhân đi ra hậu viện giải rượu.

Dứt lời lảo đảo đứng dậy, Viên Tố vội bật dậy, đi lại gần đỡ lấy hắn, luống cuống nói:

- Đại vương, hậu viện là quán trọ, thuộc hạ chưa kiểm tra kỹ khách...

Khánh Kỵ khẽ khoát tay áo, Viên Tố hiểu ý, lập tức không nói thêm gì nữa. Khánh Kỵ quay đầu lại, cười híp mắt nói với Di Hạ:

- Đi, Tử Hạ, chúng ta đi... hậu viện giải rượu...

Di Hạ dù sao cũng thiếu sự tôi luyện chốn quan trường, lòng dạ thật thà, nghe vậy thì mừng vui ra mặt, nhảy cẫng lên nói:

- Đại vương, mời.

- Ừ!

Khánh Kỵ từ tốn đáp lời, Viên Tố đã không còn trông thấy Thừa Ảnh kiếm trên đai lưng của Khánh Kỵ nữa. Khánh Kỵ võ công cao cường, cũng không dẫn theo nhiều thị vệ, để cho Di Hạ đi trước dẫn đường, phía sau hắn chỉ dẫn theo Viên Tố và ba người nữa, chậm rãi rảo bước đi về phía hậu viện.

Đi qua đám quân bảo vệ vòng ngoài, bước vào trong quán trọ, đi men theo hàng hoa tỏa hương thơm ngát, chẳng bao lâu đã nhìn thấy một viện lạc độc lập, trước cửa trồng một cây đào lớn, tán cây phủ kín phía trên nóc cổng căn viện lạc, khiến ở đó rực rỡ một màu hồng như ánh bình minh.

Khánh Kỵ thốt lên nói:

- Thanh tịnh tao nhã, nơi này đúng là một nơi lý tưởng.

Di Hạ cười nói:

- Giai nhân bên trong, người đẹp cảnh đẹp.

- Hahahaha..., nói hay lắm!

Khánh Kỵ còn chưa dứt tiếng cười, đã bước lên trên, cao giọng nói to:

- Quả nhân ở đây, mỹ nhân đâu rồi?

Năm ngón tay của hắn xòe rộng, đẩy mạnh cánh cửa kêu "xầm" một tiếng mở tung ra, Viên Tố phía sau căng mắt cảnh giác, thân thể thấp bé dường như to lớn thêm vài phân, tay cầm sẵn bội kiếm, giống như hổ dữ rình mồi.

Hai cánh cửa mở toang, cảnh tượng trước mặt là vô số phục binh đã tuốt kiếm khỏi vỏ, dây cung giương sẵn đang chờ sẵn, ở dưới gốc đào hoa có một quý nhân mặc trường bào trắng đang đứng.

Khánh Kỵ sững sờ, đang định bước vào trong thì khựng lại, chỉ trông thấy quý nhân kia mỉm cười với hắn giữa đám hoa rụng lả tả, gò má hồng hào, giọng nói thánh thót:

- Khánh Kỵ đại vương, thiếp thân chờ ngài ở đây đã lâu, tại sao đại vương lại sợ hãi như gặp bầy hổ báo mà không dám tiến lên thế kia?

……..

Trên lầu, cửa sổ khẽ mở, chim hót trên cành.

Trong lầu, Khánh Kỵ cùng ngồi xuống với Nam Tử.

Nam Tử trầm mặc nói:

- Là thế này, giờ đây đại vương đã được đăng cơ vương vị như ước nguyện năm nào, nhưng hai nước Vệ Tống chúng ta vẫn chưa được yên bình. Từ khi tên súc sinh Công Tử Triều đầu quân cho Triệu Giản Tử, do hắn đã nắm rõ địa hình địa thế, binh lực và cách bố trí quân đội của Vệ, nên đã dẫn đại quân Tấn quốc đánh vào trong lãnh thổ Vệ quốc rồi, từng bước áp sát, bức bách quân ta phải liên tiếp bại lui.

Nói đến đây, Nam Tử rơm rớm khóc, rồi sau đó hai giọt nước mắt như pha lê rơi xuống:

- Đại vương, chuyện ngày trước người đồng ý với Nam Tử, đại vương chưa làm được việc nào hết. Nỗi khổ nhục trong lòng Nam Tử biết giãi bày cùng ai đây?

Khánh Kỵ đằng hắng một tiếng, nói:

- Quân phu nhân, Khánh Kỵ gợi ý giúp nàng cách diệt trừ Công Tử Triều, chẳng ngờ đâu hắn lại quá cảnh giác. Hiên Viên Hành, Công Tử Bạt lại là những bậc quân tử chính trực, không tìm được lý do thỏa đáng, không đành hạ thủ với hắn, nên mới khiến hắn bỏ đi. Nhưng đó không phải là sai lầm của Khánh Kỵ. Lúc đó, quân phu nhân đã không dung hòa được với Vệ hầu, Khánh Kỵ nghĩ ra kế sách liên binh phạt Tấn. Cố nhiên giữ lại một chút lòng tư, thế nhưng cũng vì vậy mà tăng cường phân lượng của phu nhân tại hai nước Vệ Tống, tại sao lại nói là Khánh Kỵ không làm việc gì cho phu nhân chứ.

Nam Tử buồn bã nói:

- Công Tử Triều vốn là thần tử bỏ đi của Tống quốc, là chủ trương của Nam Tử mới giữ hắn lại được Vệ quốc, giờ đây vì hắn mà tổn thất của liên quân Vệ Tống quá to lớn, Nam Tử trở thành tội nhân của hai nước Vệ Tống, không chỉ Vệ hầu và các thần tử Vệ quốc lạnh nhạt với Nam Tử, mà ngay cả phụ thân của ta cũng không vui.

Tuy nói rằng Vệ Tống xuất binh là để tự bảo vệ mình, nhưng đại vương có thể thuận lợi đánh bật về Ngô quốc, ngồi lên ngai vàng, làm sao lại không có ít nhiều công lao của Vệ Tống trong đó, không có tâm sức của Nam Tử trong đó? Nam Tử chỉ là một nữ tử yếu đuối, giờ đã không được Vệ Tống dung nạp, hoàn cảnh vô cùng khó khăn, vạn bất đắc dĩ mới phải vác mặt tới đây cầu viện đại vương.

- Điều này...

Khánh Kỵ khẽ nhíu mày, khó xử nói:

- Phu nhân, Khánh Kỵ rất muốn giúp phu nhân, nhưng Ngô quốc nằm ở vùng phía Đông Nam, liệu có thể giúp hai nước Vệ Tống xa xôi được không? Phu nhân sao không định nghĩ rằng... muốn Khánh Kỵ làm một cuộc viễn chinh đi đương đầu với Tấn đấy chứ?

- Kẻ đàn ông ích kỷ, người ta còn chưa đặt yêu cầu, thì ngươi đã rào trước chắn sau rồi!

Nam Tử nửa hờn giận nửa u oán trừng mắt nhìn hắn, Khánh Kỵ bình thường không bao giờ động chút lòng thương nào đối với loại đàn bà này, nhưng nhìn khuôn mặt đáng thương của nàng, trong lòng hắn cũng hơi rung động. Thu vội lại nỗi dao động trong lòng, hắn cười trầm ngâm nói:

- Phu nhân, không phải là Khánh Kỵ không chịu tương trợ, thực ra... chuyện động binh đao, liên quan tới căn cơ một nước, lê dân bách tính, cho quân viễn chinh, thực sự là chúng tôi lực bất tòng tâm.

- Ta nói mượn binh của Ngô lúc nào thế?

Khánh Kỵ nhẹ nhàng xả hơi, cười nói:

- Không phải mượn binh thì được, vậy không biết phu nhân có gì dặn dò? Nói thực lòng, Vệ quốc nằm ngoài tầm với của Ngô quốc, Khánh Kỵ ngu dốt, nếu phu nhân không chỉ bảo từng bước một, Khánh Kỵ quả thật không nghĩ ra cách gì để gây tác động tới chiến cục hiện tại giữa hai nước Vệ Tấn cả.

Nam Tử nói:

- Ngô quốc xa xôi, đương nhiên không giúp được Vệ quốc, nhưng Tần quốc thì được. Tần và Tấn gần sát nhau, hơn nữa vì Tấn quốc cản ở đó, Tần mới không thể lấn xuống trung nguyên, hai nước vốn có mâu thuẫn không thể hòa giải, nếu Tần chịu xuất binh tương trợ, Tấn quốc chắc chắn sẽ không dám lỗ mãng với Vệ.

Nhưng trong mắt người Trung Nguyên, người Tần chỉ là dân tộc man di, chư hầu Trung Nguyên tự cao tự đại, luôn hổ thẹn vì kết giao với người Tần, xưa nay đều qua lại không bình đẳng với Tần, hai bên không có giao tình gì, để thuyết phục bọn họ xuất binh thì hai nước Vệ Tống không làm nổi. Nhưng Ngô quốc thì khác, Ngô và Tần đã kết quan hệ thông gia với nhau, một Đông một Tây kết thành liên minh, hỗ trợ lẫn nhau, kẹp Sở quốc mà chiếm lĩnh phương Nam. Nếu đại vương đi thuyết phục Tần quốc, để họ thọc binh đánh sau lưng Tấn, Tấn quốc gặp nạn, không thể trụ lại Vệ Tống lâu dài, ắt phải cho quân trở về, chúng ta sẽ nhân lúc đó cầu hòa với chúng.

- Muốn Tần xuất binh?

Khánh Kỵ ngỡ ngàng, trầm ngâm chốc lát, rồi lắc đầu nhè nhẹ nói:

- Khó lắm, Tần quốc mặc dù binh hùng tướng mạnh, nhưng vẫn chưa đủ sức để đánh bại Tấn, trước đây Tần xuất binh phạt Tấn, một là vì có quan hệ thông gia với Sở, hai là vì một khi Tấn chiếm được Sở sẽ gây bất lợi cho Tần không nhỏ, giờ đây vô duyên vô cớ muốn Tần quốc xuất binh, làm sao Tần quân đồng ý được?

- Đại vương, sao có thể nói Tần quốc xuất binh tương trợ, lại không có lợi cho họ được? Nếu hai nước Vệ Tống bị Tấn chiếm đoạt, thế lực Tấn quốc sẽ mạnh mẽ thế nào? Hiện tại người Tần đương nhiên chưa đủ lực Đông tiến Trung Nguyên, nhưng một khi Tấn thành công, họ sẽ thành một quốc gia lớn mạnh sừng sững trước mặt Tần, lúc đó họ mãi mãi sẽ không còn cơ hội tiến vào Trung Nguyên nửa bước, nhìn về lâu dài lẽ nào lại không biết bảo vệ Vệ Tống ư?

- Còn nữa, nếu người Tần chịu xuất binh, chỉ cần dùng một đạo quân đánh hậu phương của Tấn, khiến đầu đuôi rối loạn, buộc phải nghị hòa. Tần tuy không diệt nổi Tấn, Tấn cũng chẳng làm gì nổi Tần. Sau khi công thành Tần chỉ cần lui binh về Quan Trung, dựa vào thế núi cao hào sâu hiểm trở, Tấn quốc cũng chẳng thể gây khó dễ cho họ. Còn hai nước Vệ Tống chúng tôi, sẽ đền đáp công ơn đó bằng một cái giá khiến cho Tần quân phải mỉm cười, nhất cử lưỡng tiện, tội gì không làm?

- Giá gì nào?

- Vàng bạc châu báu của hai nước Vệ Tống. Thế nào? Hai nước Vệ Tống núi cao sông rộng, quốc bảo nhiều vô số, đừng nói là người Tần phải trồ lên khâm phục, mà ngay cả chư hầu Trung Nguyên cũng phải ngước mắt nhìn, Tần quốc chỉ cần xuất binh ra oai là đã có thể có được ngọc ngà châu báu, điều kiện này nếu như là minh hữu Ngô quốc của Tần quốc ra mặt nói thay, liệu bọn họ có cự tuyệt được không?

Nam Tử nói xong, đôi mắt rưng rưng nhìn Khánh Kỵ, sắc mặt Khánh Kỵ âm tình bất định, tính toãn tỉ mỉ, rồi khe khẽ gật đầu nói:

- Điều này... có lẽ được. Có điều... Nếu Khánh Kỵ giúp Vệ Tống thoát khỏi khốn cảnh, Vệ Quốc cũng có thể giúp Khánh Kỵ giải quyết một vấn đề hóc búa không?

Nam Tử khẽ giật mình, hỏi:

- Vệ Tống giờ đây ốc còn không mang nổi mình ốc, có thể giúp được gì cho đại vương đây?

Khánh Kỵ cười nhạt, nói:

- Dã tâm của Tấn quốc là tiến xuống phía Nam, Tề quốc chẳng phải rất thèm khát Đông Di? Một khi thế lực người Tề trải rộng tới cửa Bắc sông Trường Giang, lúc đó Ngô quốc sẽ thành miếng thịt béo bở cho Tề, vì vậy người Ngô buộc không thể để cho Tề xuôi xuống Nam.

Bành Thành phía Đông gần biển lớn, Tây nối Trung Nguyên, Bắc dựa Lỗ quốc, Nam ngăn Giang Hoài, địa hình hiểm trở, đồi núi bao quanh, có sông ngòi biển lớn, đối với Ngô mà nói quả thực là mảnh đất hiểm địa chiến lược khắc chế Tề xuôi Nam. Khánh Kỵ giúp phu nhân thuyết phục Tần quốc xuất binh, Tống quốc phải cắt lại mảnh đất Bành Thành cho Ngô quốc. Món giao dịch này, phu nhân có thể đứng ra làm chủ được không?

- Ngươi thật vô sỉ, nhân lúc người ta gặp nguy nan để kiếm chác!

Nam Tử giận dữ đại nộ, lông mày dựng lên, vung tay tát vào mặt Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ đưa tay ra bắt được tay nàng, mỉm cười nói:

- Phu nhân, mua bán không thành thì vẫn còn nhân nghĩa, việc gì phải động chân động tay thế? Mảnh đất Bành Thành cũng chẳng có ích gì nhiều cho Tống quốc, với Ngô quốc thì lại là cửa ngõ ngăn không cho Tề xuôi xuống Nam. Có người Ngô thủ tại đó, chẳng phải cũng là một chuyện tốt cho Tống sao? Sao nàng không nghĩ rằng Ngô quốc có thể vấn đỉnh Trung Nguyên chứ?

Nam Tử đôi mắt rực lửa trừng trừng nhìn Khánh Kỵ, rồi sau đó đột nhiên dịu lại, u uất thở dài, thấp giọng nói:

- Khánh Kỵ ơi là Khánh Kỵ, bất luận là ngươi cầu viện ta, hay ta cầu viện ngươi, tại sao ngươi... ngươi cứ phải chiếm đoạt một chút tiện nghi của ta mới thỏa chí, cứ khiến cho ta phải... vừa hận... vừa yêu ngươi chứ...

- Cái gì?

Khánh Kỵ ngây người ra, như thể bị rắn cắn trúng tay, sững sờ bỏ tay nàng ra. Nhưng Nam Tử giống như một con rắn xồ tới theo đà thu tay của Khánh Kỵ, úp mặt vào cổ hắn, thân thể mềm mại nằm gọn trong lòng hắn, buồn bã nói:

- Nếu như cha ta có một nửa hùng tâm tráng chí của ngươi, thì đâu đến nông nỗi một người thiếu phụ nền nếp phải ra mặt, tủi hổ cầu xin Ngô quốc.

Khánh Kỵ định mở miệng, cặp môi dưới liền bị bàn tay của Nam Tử chặn lại, nàng ngẩng mặt lên, hấp háy đôi mi cong vút, nhìn Khánh Kỵ ôn nhu nói:

- Chàng ấy..., đúng là một đại nam tử đáng hận, một đại anh hùng đáng yêu, Nam Tử chỉ hận... khi xưa không biết chàng sớm hơn...

Ngữ khí của nàng tựa như mộng ảo, trong mắt hiện lên vẻ ngây thơ chân chất. Khánh Kỵ chỉ thấy nàng nói nhỏ nhẹ, bộ ngực căng đầy mềm mại ép vào lồng ngực mình, đem lại một cảm giác ngọt ngào nhẹ nhàng thẩm thấu tim gan, xộc vào mặt là một mùi hương thơm nhè nhẹ, dìu dịu vương vấn, khiến cho người ta phải mê đắm. Bất giác hắn không dám mở miệng, vì sợ nếu mở miệng sẽ làm vẩn đục dung nhan kiều diễm không gì sánh được kia.

Nam Tử nói xong, đột nhiên tươi cười, cằm dưới khẽ nâng lên, đôi mắt nhắm nghiền, cặp môi hồng từ từ áp sát lại hắn, Khánh Kỵ hơi ngập ngừng, trong mùi hương say lòng người, hai cặp môi đã gắn chặt vào nhau làm một thể kết dính.

‘Mùi hương thơm nồng ôm ấp cả cõi lòng’, người đàn ông nghĩ ra câu nói này trước kia lúc đó nhất định đang ôm ấp một mỹ nhân yêu kiều, mới có thể có cảm hứng mà nói được câu nói như vậy. Cặp kiều khu của Nam Tử mềm mềm không thấy xương, vòng eo nhỏ tẹo, nhưng khi ôm ấp vẫn có cảm giác rất đẫy đà, đầu ngón tay nhẹ nhàng chạm vào da thịt, liền nẩy ra khiến cho người ta phải điêu đứng đê mê, huống hồ còn cả thêm thân hình quyến rũ đang e ấp trong lòng hắn.

Khánh Kỵ bị nàng khiêu khích hôn mớm mấy cái, đột nhiên từ thủ thành công, một tay nắm lấy vòng eo của nàng, một tay ghì chặt đầu nàng, đẩy lưỡi của mình vào bên trong cái miệng nhỏ nhắn của nàng, mút máp đầu lưỡi của nàng.

Một cuộc "đọ lưỡi" kịch liệt mà triền miên, Nam Tử bị Khánh Kỵ hôn tới tấp, xuân sắc đầy mặt, khuôn mặt ửng hồng, đôi mắt nàng e lệ nhắm lại, mũi phập phồng đưa đẩy, đôi bàn tay thanh mảnh ôm trọn lấy cổ Khánh Kỵ, thân thể đung đưa cọ sát khiến người ta phải thích thú, Khánh Kỵ bỗng nhiên ngẩng đầu lên, vẻ mặt khảng khái nói:

- Phu nhân dung mạo khuynh thành, Khánh Kỵ thật sự không tiếc bất cứ giá nào, chỉ mong được hợp thể làm một với phu nhân. Thế nhưng... ài... ta vẫn muốn có cả Bách Thành cơ.

Nam Tử mơ màng núp trong lòng hắn, đôi mắt gườm gườm, tròn mắt nhìn hắn rất lâu, đột nhiên nàng bật cười, lùi về phía sau hai bước, vừa cúi đầu chỉn trang mái tóc, vừa thấp giọng nói:

- Chàng là đồ oan gia, khiến cho nhân gia chẳng biết phải sao nữa, chàng..., hừ! Chàng muốn Bành Thành, nhưng Bành Thành là lãnh địa của Tống quốc, Nam Tử không quyết định được, vẫn phải bẩm báo cho cha ta mới được.

- Được, vậy chúng ta cùng đợi tin tức từ lệnh tôn, chỉ cần Tống quốc cắt nhượng Bành Thành, dù thế nào, Khánh Kỵ cũng sẽ giúp hai nước Vệ Tống thoát khỏi vòng vây của người Tấn.

- Được, ta lập tức sai người đi báo lại điều kiện của chàng cho phụ thân biết.

Nam Tử vẫn chưa hết e thẹn, khuôn mặt vẫn hơi ửng đỏ. Nhưng khi nói đến chuyện công, thần sắc cử chỉ lại trang trọng ưu nhã trở lại, hai cảm giác khác nhau đồng thời tồn tại trên mặt nàng, khiến cho nam nhân sẽ tưởng rằng đang có một loại dục vọng chinh phục vô cùng mạnh mẽ.

- Nhất ngôn cửu đỉnh!

Khánh Kỵ nói xong dài mặt ra cười, nói nhẹ nhàng:

- Trời vẫn còn sớm, nếu nàng không ngại, chúng ta tiếp tục nhé?(Ặc)

Khuôn mặt Nam Tử lại đỏ ửng như lòng đỏ trứng gà, nàng ngoảnh mặt đi, hừ lạnh nói:

- Bản phu nhân không có tâm trạng.

Khánh Kỵ nhìn bộ dạng dễ thương của nàng, liền chìa vẻ mặt cợt nhả ra nói:

- Hắc hắc, vậy đợi khi nào nàng có tâm trạng lại tiếp tục, chỉ cần phu nhân hắng một tiếng, Khánh Kỵ sẽ bỏ hết mọi công việc, cưỡi ngựa thẳng tới đây cúc cung phục vụ, chết mới buông tay.

Hai tay Nam Tử đưa lên vuốt tóc, lộ ra đôi cánh tay trắng ngần, nàng vuốt tóc, trừng mắt nhìn Khánh Kỵ, giọng nói hờn dỗi:

- Hứ! Vậy ngươi cứ đợi dài cổ đi nhá, thời gian đằng đẵng, con người già cội rồi cũng có ngày đó thôi..

Khánh Kỵ vuốt cằm chỉnh tề nói:

- Chỉ cần phu nhân lúc đó cũng xinh đẹp như bây giờ, quả nhân không chê nàng già.

- Ngươi...

Nam Tử lại sấn sổ lườm hắn, chẳng biết phải làm sao đành thở dài nói:

- Vừa nãy ta nói sai rồi, ngươi là một đại nam tử, nhưng không phải là một đại anh hùng. Mà là một kẻ...

- Mà là một kẻ thế nào?

- Mà là một kẻ dê xồm!

- Haha, ấy thế mà phu nhân lại chịu ngả vào lòng tên dê xồm như ta đấy. Người thì đẹp, nhưng còn đôi mắt, thì lại non kém lắm.

Nam Tử nghe vậy thì sững sờ, u buồn nói:

- Ánh mắt của Nam Tử... vốn dĩ rất non nớt, nếu không trước đó tại sao lại thích...

- Ầy!

Nàng đột nhiên thở dài, rủ đôi mắt xuống, từ tốn nói:

- Đại vương, Nam Tử chỉ là một nữ nhi, chuyện quốc sự giành thiên hạ không phải sở trường, người ta bây giờ đang cùng đường rồi, chỉ còn biết dựa dẫm vào ngươi, chỉ mong chàng lần này... đừng lừa ta.

- Phu nhân yên tâm, lúc nãy ta đã cân nhắc rồi, chỉ cần Tống quốc chịu giao Bành Thành, Khánh Kỵ nắm chắc bảy phần thuyết phục Tần quốc xuất binh.

Nam Tử nghe vậy định mở miệng nói, nhưng Khánh Kỵ đã cướp lời:

- Phu nhân, Ngô vừa kết minh với Tần, chuyện binh gia đại sự, Khánh Kỵ nắm chắc bảy phần, đã là hiếm có lắm rồi. Nếu như ta nói là có mười phần, vậy mới là lừa nàng.

Nam Tử muốn nói lại thôi, chuyển giọng:

- Được, nhưng nếu ngươi không thuyết phục được Tần xuất binh, thì chuyện cắt nhượng Bành Thành cũng đừng hy vọng nữa.

- Đương nhiên rồi, ta thề với trời xanh.

- Hừ, lời thề của lũ đàn ông các người là cái thứ không đáng tin nhất trên đời này, nhưng người ta... giờ đây cũng chỉ còn biết tin ngươi thôi... Chỉ mong ngươi đừng lường gạt một nữ tử đáng thương khốn cùng như ta, nếu không... người ta chỉ còn con đường chết mà thôi.

Lúc Khánh Kỵ đi ra khỏi căn tiểu lâu, thì Viên Tố lúc này mới thở phào một hơi nhẹ nhõm. Khánh Kỵ mở cửa viện lạc nhìn thấy nữ tử kia, lập tức bảo hắn ở ngoài không được vào trong. Tuy Viên Tố biết bên trong có duyên cớ nào đó, Khánh Kỵ cũng chưa chắc sẽ gặp nguy hiểm, nhưng tâm trạng vẫn bồn chồn lo lắng không yên, đến giờ phút này mới coi như đã yên lòng.

Di Hạ nãy giờ được hắn giám sát chặt chẽ nhanh chân chạy lại nghênh đón, xấu hổ vái chào:

- Đại vương, không phải là Di Hạ cố tình lường gạt bạn cũ, quả thực là lệnh của quân phu nhân, Di Hạ không dám không tuân theo.

Khánh Kỵ cười nói:

- Không sao, quả nhân hiểu chỗ khó của ngươi, và cũng không hề trách ngươi. Tửu hứng đã cạn, quả nhân hồi cung đây.

Di Hạ bẽn lẽn đi theo sau Khánh Kỵ tới tửu lâu, rồi lại long trọng tống tiễn hắn ra về, Khánh Kỵ lên xe, vừa rời khỏi Lỗ Quái cư, liền gõ gõ thành xe, dặn dò :

- Viên Công, lập tức lệnh cho thuộc hạ tấn cung kiến giá, quả nhân có chuyện cần căn dặn.

- Rõ!

Viên Tố vội vàng gọi một kẻ thân tín lại căn dặn mấy câu, viên lính kia lập tức lên ngựa cưỡi về hướng ngược lại.

Khánh Kỵ buông màn kiệu, khẽ tựa ra sau ghế, khẽ sờ lên môi, hồi tưởng lại hương vị đê mê của cặp môi đỏ mọng của Nam Tử, bỗng mỉm cười nói:

- Nha đầu này làm ra vẻ mặt đáng thương như vậy, chỉ để khích cho ta làm thuyết khách cho ả? Vì một thuyết khách mà phải trả giá bằng một tòa thành, khó tránh khỏi việc mất mát quá nhiều, nàng rốt cuộc... đang mưu tính chuyện gì đây?

Cắt nhượng thành trì không phải chỉ có mình Nam Tử là có thể quyết định được, nàng muốn đem tin thỏa hiệp đạt được với Khánh Kỵ mang về Tống quốc, rồi để cho phụ thân là Tống quốc quốc quân định đoạt. Nam Tử viết lại tỉ mỉ những chuyện đã trải qua và quan điểm phân tích của mình, cho đến ngày thứ hai mới cử tâm phúc mang về Tống quốc, trước đó tai mắt của Ngô quốc đã phụng lệnh tăng cường trinh sát khu vực Vệ Tống và Tấn quốc.

Khánh Kỵ tận dụng mạng lưới thương nghiệp của Thành Bích làm cơ sở xây dựng mạng lưới tình báo vừa rộng khắp vừa hữu hiệu của mình, trong đó vừa có sự cơ động qua lại, gặng hỏi thăm dò của hành thương, vừa móc nối được với những người dân, sĩ tử địa phương, trong khi đó vào thời này thương nhân có thể độc lập trao đổi những sản phẩm của nước mình với nước khác, làm giàu có và phong phú thêm cho nền kinh tế, là một nhân vật không thể thiếu trong các nước, không những nhận được sự hoan nghênh từ các nước, mà hạng người mà đám thương nhân này tiếp xúc đều là giới quan chức quý tộc, không những có thể được giúp che dấu thân phận, mà cũng có thể thông qua các cửa ngõ để thu thập thông tin tình báo dễ dàng, thậm chí có thể làm thay đổi tình hình ngoại giao và chính trị ở các nước. Lực lượng binh sĩ không giáo mác này rất được Khánh Kỵ coi trọng, dưới sự chủ trì của hắn, dùng quốc lực chèo chống, khiến cho lực lượng này ngày càng hùng mạnh.

Rất nhanh chóng, thông tin tình báo được báo về liên tục, trong đó có động tĩnh quân sự của Vệ Tống và Tấn, có một số hoạt động trong mảng chính trị, những đại quan thế khanh nào quan hệ thân thiết với nhau, thậm chí vị đại phu nào gần đây tổ chức mấy buổi yến tiệc, muôn hình muôn kiểu, không có gì là thừa hết.

Thuộc hạ của Khánh Kỵ sẽ chỉnh lý tập hợp các thông tin đó, rồi trình báo cho Khánh Kỵ, tình hình ba nước Vệ Tống Tấn dần dần được hiện ra và hoàn thiện trước mắt hắn, khiến cho hắn có một sự thông thạo và am hiểu nhất định đối với tình hình trong nước của những nước trên.

Liên quân Vệ Tống đúng như Nam Tử nói, luôn thất thế khi đối đầu với Tấn quân, nhất là sau khi cuộc chiến chớp nhoáng giữa Tần Sở và Tấn quốc kết thúc, Tấn quốc đã tăng cường thế tấn công đối với Vệ Tống. Công Tử Triều phát giác ra âm mưu trừ khử mình của Nam Tử, hoảng sợ thất thần, may nhờ có tướng lĩnh thống quân Tống quốc Hiên Viên Hành và Vệ quốc thống quân Công Tôn Bạt không nghe theo sự chỉ bảo của Nam Tử, hai người đều là những bậc quân tử công minh chính trực, không muốn vội vàng giết chết Công Tử Triều, dẫn tới thị phi của chúng tướng. Muốn tìm cơ hội thuận lợi hơn nữa để danh chính ngôn thuận trừ khử Công Tử Triều.

Công Tử Triều vì vậy mà có được cơ hội lấy hơi, bí mật phái thân tín đi thương lượng với Tấn, sau khi được Triệu Giản Tử chấp thuận, từ quân tiền quay giáo phản kích, đầu nhập sang Tấn quốc. Rồi dẫn quân Tấn đi chinh phạt Vệ Tống, thậm chí một hơi đánh đến cố đô Triều Ca của Vệ quốc, gần sát với đô thành Đế Khâu hiện tại, khiến cho bọn người Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố cũng đã chuẩn bị sẵn chỉ chờ quân Tấn tới là đầu hàng thôi.

Trong tình thế cam go như vậy, cuộc đấu tranh giữa hai phe phái thế lực ở Vệ quốc lại trở nên kịch liệt hơn. Bắc Cung Hỉ yêu cầu Tề Báo hạ đài, truy vấn tội để thất thế về mặt chiến sự của Công Tôn Bạt, đả kích kịch liệt những thế lực thân vua, một lần nữa lại tiến cử sử dụng lại Tề Báo. Tề Báo với hắn vốn cùng một Đảng, hai kẻ cùng được cùng mất, dùng hắn đương nhiên là sẽ yên tâm hơn dùng kẻ khác.

Hơn nữa sau khi Tề Báo bị tước bỏ chức vị, uy vọng năm xưa giảm xuống rất nhiều, rất nhiều bạn cũ trong triều đều thay đổi lập trường, đi theo Bắc Cung Hỉ, bây giờ hắn lại được Bắc Cung Hỉ sử dụng lần nữa, tuy nặng về quyền bính, nhưng cũng không thể uy hiếp được quyền lực của Bắc Cung Hỉ.

Phe Bắc Cung Hỉ cơ cấu lại tổ chức đồng thời tiến hành phân phối nên khí thế hừng hực, công bằng mà nói, phe của chúng cũng chỉ là muốn nắm giữ nhiều quyền lực hơn mà thôi, làm thế khanh Vệ quốc, lợi ích gia tộc của chúng gắn chặt với lợi ích của quốc gia, bất luận là chủ quan hay khách quan thì chúng đều tuyệt đối không muốn gây tổn hại tới Vệ quốc, vì vậy vừa khi nắm giữ được quyền lực, đã dốc hết tâm huyết nhằm bảo vệ vận mệnh của Vệ quốc.

Do suốt mấy trăm năm nay Vệ quốc luôn được Tề thị và Bắc Cung thị chia nhau quyền hành, cũng chỉ mới hai mươi năm nay bị bào huynh của Vệ hầu Công Mạnh Trập cướp đoạt quyền vị của hắn, rất nhanh chóng nắm giữ toàn bộ quân đội trong tay, về đối nội cố nhiên xác lập địa vị bất bại của chúng trên chốn quan trường, đồng thời phát huy sức chiến đấu tích cực hơn trong cuộc chiến với Tấn. Bởi vậy tuy Tấn tấn công rất mạnh, nhưng đều bị liên quân Vệ Tống phản kháng mạnh mẽ, khiến thế tấn công không được như mong muốn, không đến tình cảnh nguy hiểm như Nam Tử đã kể.

Nhưng những điều đó đều là những việc xảy ra trong thời gian gần đây, theo như bình thường, nước Ngô nằm ở vùng Đông Hải xa xôi, lại đang bận bịu với Sở, Việt, Đông Di, giờ đây nếu muốn hiểu tường tận tình hình thì không thể chỉ bỏ công sức ngày một ngày hai. Nam Tử không thể ngờ rằng Ngô quốc lại có mạng lưới tình báo rộng lớn như vậy, chỉ trong thời gian ngắn ngủi đã có thể nắm rõ tình hình chiến sự ba nước này. Nam Tử tính sai chính là ở chỗ này. Nhưng đó cũng không được coi là một sai lầm. Trước đó, ở các nước trong thiên hạ không hề có một quốc gia nào coi trọng tới công tác tình báo, vậy mà Ngô thậm chí còn lập ra hẳn một tổ tình báo chuyên biệt. Nam Tử dựa theo tình hình bên ngoài của các nước để suy đoán sự nắm bắt thông tin của Ngô quốc với chiến tranh vùng Tây Bắc. Thế nhưng trớ trêu thay, Khánh Kỵ lại đều biết rất chính xác những thông tin chiến trận.

Những thông tin tình báo thám tử đưa về, ngoại trừ những động thái quân sự khó có thể che dấu, những thông tin về mặt chính trị rất có hạn. Những thứ họ nắm được chỉ là những động tĩnh của các nhân vật cấp cao, nhà nào tổ chức đại yến tiệc gì, nhà nào đi lại với nhà nào, nhà nào cử sứ xuất ngoại...

Những thông tin đó cần Khánh Kỵ phải phân tích kỹ càng, từ những manh mối nhỏ đó để chắp nối lại tạo nên một bối cảnh cụ thể rồi từ đó có thể đoán định xem những bước đi tiếp theo của đối phương là như thế nào.

Trên đại điện nghị sự chất đầy những đống văn kiện tài liệu tình báo khác nhau của các nước, Khánh Kỵ, Tôn Vũ, Văn Chủng, Yểm Dư, Anh Đào chụm đầu vào đống giấy tờ văn kiện dò tìm thông tin. Thỉnh thoảng lại trao đổi với nhau đôi ba câu phân tích, có khi còn đưa ra mấy câu nói đùa giảm bớt căng thẳng. Quân thần tình cảm hòa thuận, vui vẻ, không câu nệ lễ tiết rườm rà.

Văn Chủng đang xem một tập thẻ tre trên tay, trầm ngâm nói:

- Đại vương, người tên Nam Tử Vệ quốc quân phu nhân này quả thật là rất tài ba, cứ xem cách ả đi tới đi lui giữa các nước Vệ Tống, rồi lén lút tiếp xúc với khá nhiều đại thần công khanh đại phu, hành tung vô cùng bí mật. Đám Bắc Cung Hỉ, Tề Báo, Chử Sư Phố sau khi nắm giữ đại quyền thế lực bắt đầu suy yếu theo Vệ hầu, bọn chúng đều đi về phe của Nam Tử, từ những dữ liệu phân tích được, Vệ hầu trên thực tế đã đang bị giam lỏng trong cung, quân lệnh bị bó buộc. Hiện tại Nam Tử mới là người nắm giữ vị trí quân chủ Vệ quốc. 

Khánh Kỵ gật gù nói:

- Ừ, người đàn bà này luôn rất xảo trá đa đoan, Vệ hầu hoang dâm vô đạo, bỏ bê chính sự, đám người Bắc Cung Hỉ muốn nắm đại quyền Vệ hầu lâu dài, nhưng không có đủ thực lực để thay thế hẳn. Chỉ còn biết đưa ra một kẻ phụ thuộc vào chúng, đồng thời có thể danh chính ngôn thuận lãnh đạo nhân dân Vệ quốc. Đương nhiên người đó phù hợp với Nam Tử, hai bên cùng có lợi.

Ha ha, tức cười thật, vậy mà ả vẫn còn cố làm ra vẻ giả vờ giả vịt đáng thương để lừa gạt quả nhân. Vệ hầu với ả bằng mặt không bằng lòng, đôi bên đấu đá nhau đã lâu, nếu như ả thua kém Vệ hầu và Tống công thì làm sao có thể lấy thân phận tôn quý quân phu nhân một nước bí mật rời Vệ tới Ngô được. Làm sao có thể thao túng và sai khiến được cả kẻ thân tín của Vệ hầu như Di Hạ đây?

Anh Đào cười nói:

- Đại vương mắt sáng như gương, đương nhiên không để cho ả che mắt, nhưng nếu đổi là kẻ khác, trông thấy vẻ mặt yêu kiều mỹ lệ, yếu đuối mỏng manh đó thì chắc chắn đã phải lộ ý thương hoa tiếc ngọc, làm sao còn có tâm tư để nghi ngờ ả có dụng ý khác chứ?

Khánh Kỵ cười mỉm, đang định chọc ghẹo vài câu, bỗng nhiên nội tâm đổi ý:

- Chỉ e Anh Đào nói trúng rồi đó, nếu không phải là ta từng nghe điển tích nổi tiếng trong lịch sử về việc Khổng Khâu gặp Nam Tử, Nam Tử tác phong dâm loạn, nhưng lại đẹp say lòng người, bên trong còn rất nhiều bộ mặt khác nữa, những tài liệu về ả được tích trữ suốt mấy nghìn năm, khi gặp ả ta cũng cố gắng hết sức để kiên định ý chí, suýt nữa thôi đã chỉ vì những giọt nước mắt yếu mềm của ả làm cho cảm động, chưa chắc đã nghĩ được như thế này đâu.

Văn Chủng nghiêm trang nói:

- Việc ả có ý khuếch trương khốn cảnh của mình hay không không quan trọng, có khi chỉ là tranh thủ kích đại vương mấy câu để ngài tỏ ý thương hoa tiếc ngọc mà hào phóng giúp không cho ả cũng nên. Điều quan trọng là, mục đích của ả liệu có phải chỉ là muốn để Tần đi chặn hậu phương của Tấn, rồi khiến Tấn phải chấp nhận lui binh đình chiến. Nếu như chỉ có một lý do như vậy, thì e rằng người Tống chưa chắc đã chịu cắt nhượng thành trì cho ta.

Tôn Vũ vuốt chòm râu nói:

- Nhưng đại vương khi đưa ra yêu cầu cắt nhượng thành trì, Nam Tử thậm chí còn không thèm phản bác lấy một câu, còn đồng ý ngay lập tức sẽ đưa chuyện này nói cho Tống công, cho thấy trong lòng ả đã thầm chấp nhận chuyện này, hơn nữa hình như đó còn là mục đích ả muốn đạt tới, thành trì mất là một cái giá xứng đáng.

Khánh Kỵ xoa xoa mũi, thầm nghĩ: “Binh thánh lần này đã đoán sai rồi, tuy Nam Tử không từ chối thẳng thừng, nhưng cũng đã có ý dùng mỹ nhân kế để ta phải rút bỏ điều kiện đó. Chỉ có điều... tuy rằng một mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành khiến người ta động lòng thật, nhưng bảo lấy một thành trì như vậy để đổi chác thì quả nhân tiếc lắm.”

- Hừ..., Nam Tử..., kẻ này phong tình muôn vẻ, quốc sắc thiên hương, vẻ đẹp không cần phải bàn cãi, nhưng đôi mắt xanh biếc, thân hình thanh mảnh đó quả thực không giống như một dâm phụ lả lơi. Vệ hầu rất phóng khoáng, chỉ bảo nàng không can thiệp vào chuyện của mình, nếu như Nam Tử dâm loạn trong hậu cung thì hắn cũng nhắm mắt làm ngơ, chỉ cần ả hây hẩy ngón tay mời gọi thôi, thì đã có không biết bao nhiêu công khanh đại phu nam nhi trai tráng, tuấn tú khôi ngô phải xin quỳ dưới váy nàng rồi, thế nhưng theo như thông tin tình báo mà chúng ta có được, thì ả không hề giống vậy, tính đến nay, ả cũng chỉ mới yêu có mình Công Tử Triều mà thôi, nếu không phải là nghĩa nặng tình thâm, thì nay cũng không đến nỗi hận hắn thấu xương như vậy. Khi ả ở trong Ngô Quái cư e ấp trong lòng ta, chỉ là muốn đạt được mục đích của mình mà thôi, quả thật hư hư thực thực khiến quả nhân không biết đâu mà lần cả.

Nghĩ tới đây, hắn lại bất giác nhớ lại hương vị ngọt ngào trên đầu môi căng mọng ấm ấp của nàng cùng hương thơm thoang thoảng trên da thịt, đến giờ dường như vẫn còn chút cảm giác trên đầu ngón tay. Khánh Kỵ gạt đống văn kiện ra, cúi đầu nhìn xuống mặt bàn trơn láng sáng bóng, lấy bàn thay kính, khẽ chau mày soi trước "gương", nở một nụ cười sáng lạn tươi tỉnh.

- À, ta hiểu rồi!

Công tử Yểm Dư hét lên, Khánh Kỵ giật bắn mình, cùi chỏ huých sang một bên, khiến cho ngọn núi nhỏ bằng giấy tờ kia đổ ầm lả tả.

Tôn Vũ, Văn Chủng, Anh Đào từ trong những đống giấy tờ ngóc đầu lên, nghểnh cổ nhìn hắn, cùng đồng thanh nói:

- Đại tư đồ phát hiện ra chuyện gì sao?

Yểm Dư hưng phấn nói:

- Nam Tử gần đây rất hay tiếp xúc với đám đại phu ở Vệ quốc trung thành với ả, hơn nữa còn nhiều lần tiếp kiến Hiên Viên Hành, còn mấy lần đi tới Tống quốc, trước kia khi ả quay về Tống, nhiều lần ở trong cung thành không xuất cung một bước, lần này thì sao nào? Theo thông tin tình báo, ả không những nhiều lần xuất cung, còn lấy danh nghĩa là trưởng công chúa Tống quốc, Vệ quốc quân phu nhân thiết yến khoản đãi công khanh Tống quốc. Theo danh sách khách mời thì những kẻ được mời đều là công khanh thế tộc có máu mặt ở Tống quốc...

Tôn Vũ chen ngang nói tiếp:

- Vậy thì sao nào?

Yểm Dư hít một hơi dài, trịnh trọng nói:

- Nam Tử, Nam Tử đang rất nóng lòng muốn Tấn lui binh đình chiến, là bởi... ả đang rất nôn nóng muốn được động thủ.

Mấy người Khánh Kỵ đưa mắt nhìn nhau, một hồi sau, Khánh Kỵ mới lập lờ nói:

- Đại tư đồ, ngươi nói Nam Tử muốn động thủ..., ách, ả muốn động thủ với ai chứ?

Yểm Dư nhún vai, tự tin nói:

- Nam Tử có tham vọng rất lớn, lại rất giỏi quyền mưu, ắt hẳn là nghe nói tới chuyện Đông Di Thiền Nhi muốn kiến quốc xưng vương, vậy nên cũng muốn hùa theo, hợp binh Vệ Tống tự lập làm nữ vương.

Đám người Khánh Kỵ bị Yểm Dư công tử khai sáng đạo lý như vậy vô cùng sửng sốt bất ngờ, ai nấy đều trợn mắt há mồm, một hồi lâu không thể lên tiếng.

Yểm Dư thấy vậy thì giải thích thêm:

- Nam Tử hiện nay trên thực tế đã nắm thực quyền tại Vệ, còn ở Tống, Tống quân không có đại chí, thế tử nhỏ tuổi, Nam Tử quyền to thế lớn, với thủ đoạn của ả, muốn có được sự ủng hộ của công khanh, đặc biệt là lấy việc hợp nhất Vệ Tống làm mồi nhử, chắc chắn sẽ khiến cho đại để công khanh đại thần Tống quốc phải thần phục. Hơn nữa, Hiên Viên Hành hiện tại đang lãnh binh tác chiến tại Vệ quốc, để chống Tống, Tống đã điều động gần như toàn bộ binh lính, tất cả nằm trong tay của Hiên Viên Hành. Nam Tử có thể dùng quan to lộc hậu, thậm chí... nói không chừng là cả thân xác của mình. Chỉ cần Hiên Viên Hành về phe ả, chỉ cần Tấn lui binh, lập tức sẽ đem quân về, việc lấy Tống quốc chẳng phải đã dễ như trở bàn tay? Nguồn gốc hai nước Vệ Tống đại vương và chư vị đại phu đều biết rõ, muốn liên hợp làm một nước thống nhất quá ư dễ dàng.

Yểm Dư là hậu nhân của họ Cơ, nên những lời này có chút mơ hồ khó hiểu, có điều những người ngồi đó đều rất hiểu ý hắn. Tuy rằng người Chu sau khi có được thiên hạ, luôn đổ nhiều công lực hạ thấp Thương triều, thế nhưng những người đứng đây đều là những văn sĩ học thức uyên thâm, đương nhiên biết được chân tướng bên trong.

Năm đó khi Đế Tân(Trụ Vương) kế vị, Thương triều đã có dấu hiệu tàn lụi, nhưng Đế Tân có thể được coi là vị minh chủ sáng suốt. Văn chính võ công khác hẳn người thường, hắn dốc hết khả năng ra sức phát triển công thương, khiến cho Thương vương triều lại lần nữa hưng thịnh trở lại. Đó là sự thực không phải tranh cãi, đến cả Á thánh Mạnh Tử cũng còn phải khen ngợi hắn không tiếc lời.

Lúc đó kẻ địch lớn nhất của Thương triều chính là Đông Di, Đông Di thường xuyên xâm lấn đất Thương, giết người cướp của, gây nên nỗi khiếp sợ trong dân chúng. Thương triều nhiều lần thảo phạt nhưng đều không thể diệt trừ triệt để được Đông Di. Sau khi Đế Tân kế vị, mong muốn ổn định và hoà bình lâu dài, đã dốc sức đóng đúc những binh khí bằng đồng đen, đích thân dẫn quân đi chinh phạt Đông Di, đánh đến tận vùng ven Đông Hải, bắt được rất nhiều người Đông Di làm nô, chinh phục rất nhiều bộ lạc ở Đông Di.

Nhưng vào lúc này Tây Kỳ Vũ vương Cơ Phát lại liên hợp đám chư hầu ăn ở hai lòng nhân lúc nội bộ triều Thương không có người cai quản, bất ngờ tạo phản, Đế Tân đang thống lĩnh đại quân bên ngoài, chỉ còn biết đi khinh xa quay về Triều Ca, vội vàng tổ chức những đám tù binh ngoại tộc đang làm nô lệ bảo vệ đô thành.

Khi hai quân giao chiến, những nô lệ Đông Di kia không chịu bán mạng cho người, kết cục đào ngũ rất nhiều. Quân Thương kiên trì cố trụ trong vài ngày, đáng tiếc Đế Tân tự phụ, không thèm thiết lập phòng thủ ở quốc đô. Đô thành Triều Ca không có tường thành, chỉ có một chiến hào nhỏ, những tinh binh ít ỏi không thể chống chọi nổi sự bao vây tấn công của Chu, cuối cùng quân Chu đánh vào Triều Ca, Đế Tân anh hùng không còn đường thoát, bất đắc dĩ tự sát tại Lộc Đài, triều Thương từ đó diệt vong.

Nhưng sau khi Đế Tân chết, người Thương cũng không chịu khuất phục người Chu, khởi nghĩa nổ ra liên tục, Chu công tự mình dẫn đại quân bình định đám phản loạn, cuối cùng dời đô đến vùng Tống quốc hiện nay, lập Ân Đế hậu Thương làm quốc quân, để làm yên lòng dân. Còn người dân tầm thường, cùng đám gia nô vẫn phải lưu lại vùng đất cũ, lấy Triều Ca làm quốc đô, phong một công tử dòng giống tông thất họ Cơ lên làm vua. Chung quanh đồng thời lập nên ba nước chư hầu, dùng để giám sát.

Đến đây, mới coi như đã hoàn toàn dẹp bỏ được cái loạn người Ân, nhưng Vệ quốc quốc quân là hậu duệ Tông Chu, con dân bách tính đều là hậu nhân của nhà Thương, để mong cho giang sơn vững vàng, do vậy nên Vệ quốc quốc quân luôn đi lại rất gần với Tống quốc, hơn nữa còn kết thông gia để ràng buộc nhau, tránh một bên có ý định trở mặt. Con dân hai nước vốn cùng một nòi giống, cùng chung tổ tông, cho nên nhân dân hai nước gần gũi hơn nhiều những nước khác.

Người Tống vốn là cố chủ người Vệ, nếu như lấy Vệ Tống hợp liên để kích động dân chúng Vệ quốc, thì sẽ rất dễ có được sự ủng hộ của dân chúng. Hơn nữa Hiên Viên Hành đang nắm giữ quân chủ lực của Tống đóng quân tại Vệ quốc, nếu như có thể khiến hắn quy thuận, thì sẽ rất dễ dàng cướp đoạt lấy chính quyền Tống quốc, hơn nữa một khi gạt bỏ Vệ hầu, những mâu thuẫn nhỏ nhoi vấp phải sẽ hầu như không có.

Không thể không nói, tuy ý kiến của Yểm Dư có chút viển vông, nhưng căn cứ lập luận lại rất đầy đủ, hơn nữa dựa theo thế lực hiện tại của Nam Tử, muốn làm được điều này cũng rất có khả năng. Nhưng Khánh Kỵ luôn cảm thấy có chút hoang đường, Nam Tử không phải là Võ Tắc Thiên, nàng có năng lực chấp chính, nhưng không có dã tâm cầm quyền, nếu nói Nam Tử dùng trăm phương ngàn kế chỉ để hợp nhất Vệ Tống, tự lập làm nữ vương, thật sự khó bề tưởng tượng, nhất là hai nước Vệ Tống không thể so với thị tộc bộ lạc Đông Di, trở lực lớn nhất đến từ quan niệm của người dân, lập một nữ vương trong một nơi chịu nhiều ảnh hưởng của văn minh Tông Chu hun đúc ở Trung Nguyên, một khi Nam Tử làm như vậy thật, chỉ e rằng các nước chư hầu xung quanh sẽ liên kết lại mà tấn công.

Yểm Dư trông thấy vẻ mặt biến dạng của Khánh Kỵ và Tôn Vũ, không khỏi có chút ái ngại nói:

- Không lẽ đại vương và các vị đại phu thấy ý kiến của ta là hàm hồ bâng quơ ư?

Khánh Kỵ nín cười nói:

- Haizzz, đại tư đồ cả nghĩ rồi, nói đúng ra thì lời của đại tư đồ đều có căn cứ rõ ràng, khả năng đó cũng không phải là không có, quả nhân chỉ cảm thấy, Nam Tử không phải không có điều kiện đó, mà chỉ là ả không có tâm địa đó, có lẽ quả nhân đã nhìn nhầm, nhưng quả nhân vẫn cảm thấy... Cường thế của ả chỉ là bảo vệ chính ả mà thôi. Hợp nhất Vệ Tống thậm chí tự lập vương vị không phải là chí hướng của ả. Chúng ta phải làm rõ mục đích thật sự của ả, để tránh việc bị giẫm vào vũng bùn, nên vẫn cần phải nhiều chứng cứ xác thực hơn nữa. Cách nghĩ này của đại tư đồ cứ tạm để đấy, chúng ta tiếp tục lục tìm chứng cứ, để xem còn có khả năng nào khác nữa không.

Khánh Kỵ nói xong, sắc mặt của Yểm Dư mới dễ thở hơn một chút, mọi người lại bắt đầu vùi đầu vào những đống tài liệu la liệt.

Khánh Kỵ lục xem một hồi, tư duy vẫn bị cách nghĩ của Yểm Dư làm quẫn trí, nhất thời không thể thoát ra được, những hành vi của Nam Tử, những cuộc tiếp xúc với các triều thần cỡ bự hai nước, càng lúc càng khiến Khánh Kỵ nghĩ rằng chỉ có cách giải thích của Yểm Dư mới có thể gỡ rối được. Thế nhưng vấn đề ở chỗ, rất nhiều động tĩnh của ả, tai mắt của Khánh Kỵ có thể nghe ngóng được, thì không có lý gì Vệ hầu và Tống công lại không biết cả. Cho dù Vệ hầu đã bị ả khống chế, ả cũng không nghĩ rằng Vệ hầu có thể làm được việc gì cả, thế nhưng nàng sớm được gả sang Vệ, trước khi xuất gia còn là một thiếu nữ đài các, không thể nào một sớm một chiều đã có thể nắm được thế lực của Tống quốc, nếu như Tống công không chấp nhận, liệu còn có thể trắng trợn như vậy được không?

Từ hai nước Vệ Tống không thể tìm ra tư liệu hữu ích khác có thể phân tích được mục đích của Nam Tử, Khánh Kỵ liền hướng tư duy về Tấn quốc. Nói về nước mạnh nhất trong các chư hầu thiên hạ là Tấn quốc kia, nguồn gốc của nó mang nhiều sắc thái truyền kỳ nhất. Trước kia Vũ Vương đoạt thiên hạ không lâu đã qua đời, con trai Thành Vương lên kế vị, Thành Vương lúc đó tuổi còn nhỏ, có một lần chơi đùa trong cung với chúng đệ, thuận tay ngắt một cành ngô đồng rồi tạo dáng thành hình ngọc khuê( một dụng cụ bằng ngọc dùng trong nghi lễ của vua chúa thời xưa)tặng cho một người em tên là Ngu, rồi nói giỡn chơi:

- Ta dùng cái này để phong cho đệ.

Bên cạnh thiên tử còn có sử quan tùy tùng, vị sử quan này liền ghi chép lại chuyện đó, rồi hỏi ngày để sắc phong chức vụ. Thành Vương hoảng hồn, luống cuống giải thích rằng hắn chỉ giỡn chơi với em của mình mà thôi, thế nhưng sử quan cho rằng "quân không nói chơi", Thành Vương đành phải nghe theo, phong vùng đất Sơn Tây(tỉnh Sơn Tây bên Trung Quốc, không phải Việt Nam nha) ngày nay cho Ngu.

Cơ Ngu sau khi có được nước, trong vòng hai trăm năm, đã dần chiếm đoạt các quốc gia nhỏ xung quanh như Hoắc, Cảnh, Ngụy, Bắc Quắc, Ngu... còn có cả Nhung, Địch như Xích Lộ thị, Xích Địch Giáp thị, Lưu Hu, Đạc Thần, Phì Đẳng. Tổng cộng thôn tính hơn hai mươi quốc gia đồng tính hoặc dị tính khác nhau, đất đai rộng lớn gấp trước mấy chục lần. Sau này Tấn quốc được Chu Tương Vương ban cho đám Ôn, Nguyên, Tán Mao phần Nam thái hành sơn, phần Bắc Hoàng Hà, do vậy lãnh thổ phía Nam lại được mở rộng thêm vượt quá thái hành sơn, vươn tới bờ Bắc của Hoàng Hà. Giờ đây đã trở thành đại quốc chư hầu siêu cấp của chín châu trong Hoa Hạ, hơn nữa còn trú ngụ ở mảnh đất Trung Nguyên màu mỡ.

Đến thời của vị quân vương đời thứ 22 của Tấn quốc là Tấn Văn Công Trọng Nhĩ, trở thành một trong năm bá chủ xuân thu. Năm vị hiền sĩ dưới trướng Tấn Văn Công: Triệu Suy, Hồ Yển, Tiên Chẩn, Cổ Đà, Ngụy Vũ Tử đều được hắn phong thưởng phong ấp đồn điền. Về sau, trong năm người Triệu Suy, Hồ Yển, Tiên Chẩn, Cổ Đà, Ngụy Vũ Tử, trừ Cổ thị ra, bốn nhà còn lại đều trở thành những thế tộc mạnh mẽ, lại cộng thêm bảy nhà Tư thị, Khước thị, Loan thị, Phạm thị, Tuân(Trung Hành) thị, Chí thị, Hàn thị, Tấn quốc tổng cộng có mười một nhà cùng chia nhau giữ đại quyền Tấn quốc, không ngừng đấu đá gằm gè nhau, đến nay chỉ còn lại Phạm thị, Trung Hành thị, Chí thị, Triệu thị, Ngụy thị, Hàn thị, hiện tại chỉ có lực lượng của ba nhà Chí thị, Phạm thị, Trung Hành thị là lớn nhất...

- Phạm, Trung Hành, Chí, Triệu, Ngụy, Hàn..., Triệu, Ngụy..., Triệu, Ngụy, Hàn!

Khánh Kỵ nghĩ câu được câu chăng, bỗng nhiên nhớ tới ba nước Triệu, Ngụy, Hàn nằm trong thất hùng thời chiến quốc, không khỏi bất giác ngồi thẳng lưng, tâm trạng hỗn loạn:

- Ba nhà Triệu Ngụy Hàn phân Tấn từ lúc nào? Còn nhớ vạch kẻ xác định trong lịch sử thời xuân thu chiến quốc của các sử gia có chỉ rõ việc lấy thời gian ba nước Triệu, Ngụy, Hàn chia Tấn làm cột mốc, giờ đã sắp đến lúc rồi!

Lẩm bẩm tới đây, Khánh Kỵ bỗng nhớ tới một văn kiện lúc nãy có nói tới việc Nam Tử thiết yến mời hai đại tướng quân nắm giữ binh chủ lực hai nước là Hiên Viên Hành, Bắc Cung Hỉ, một thủ hạ của hắn vừa hay ở đó kinh doanh hải sản, buổi cung yến đã mua rất nhiều sơn hào hải vị từ chỗ hắn, lúc đó hắn áp giải đoàn xe vào cung giao hàng, mới biết đến những nhân vật được mời đến, trong danh sách hình như hắn có đọc được một đoạn miêu tả nào đó. 

Khánh Kỵ lập tức lại lục lọi một hồi trong đống thẻ tre, mở lại tập tin tình báo kia ra xem xét, quả nhiên trong đó có nói tới một câu: "Hai người mặc cẩm bào sóng vai đi qua, một người nói giọng Tấn quay sang người kia bảo: Bắc Cung đại phu, Hiên Viên tướng quân đã đến chưa? 

- Chính là hắn rồi, một người Tấn có thể sánh vai đi cùng với Bắc Cung Hỉ, thân phận không thể tầm thường được! Huống hồ Vệ Tống đang giao chiến với Tấn, tại sao lại còn mời người Tấn đến dự tiệc? Chẳng lẽ Nam Tử không muốn hợp nhất, mà muốn chia tách, rút củi đáy nồi, diệt trừ vĩnh viễn cái họa Tấn quốc? Trong đó không chừng còn có cả điều kiện muốn người Tấn phải giao nộp thủ cấp Công Tử Triều nữa.

Khánh Kỵ vỗ mạnh xuống thư án, mọi người đang chăm chú tra cứu tư liệu đều giật mình, ngẩng đầu lên xem rõ sự tình, không biết Khánh Kỵ đại vương định phát biểu cao kiến gì đây.

Bỗng nghe thấy Khánh Kỵ hớt hơ hớt hải nói:

- Chư vị ái khanh, mau tìm thông tin tình báo về động tĩnh của lục khanh Tấn quốc, mang tất ra đây để quả nhân tham chiếu.

Mọi người tra sát lại lần nữa thông tin theo yêu cầu của Khánh Kỵ, lật lại tất cả những thông tin có liên quan tới Tấn quốc, sắp xếp lại theo trình tự thời gian, sau đó đọc từ đầu đến cuối, những con người có khứu giác chính trị cực kỳ mẫn cảm kia quả nhiên nhìn ra được những điều khác thường.

Sau vụ mùa năm ngoái, Phạm thị, Trung Hành thị kết thông gia, trưởng tử(con trưởng) gia chủ Phạm thị lấy ấu nữ của Trung Hành thị.

Đông chí, con trưởng Phạm thị xuất sứ đi Tiên Ngu(Trung Sơn quốc), lại lấy tiếp thứ nữ của Tiên Ngu quốc làm thiếp.

Hai tháng trước, cũng tức là đầu năm nay, Trunh Hành thị xuất sứ Tề quốc, sau đó chưa tới mười ngày, chính đàn Tề quốc lại biến động dữ dội, phe của Yến Anh bỗng chiếm thế thượng phong, Tề quân đang ủng hộ Điền Khất Nam chinh thay đổi thái độ, cưỡng chế ra lệnh cho Điền Khất thu binh, ngưng chiến nghị hòa với Lỗ quốc.

Đồng thời, các tộc Ly Nhung, Xích Địch do vụ mùa thất bát, đầu xuân hết lương thực, phát binh quẫy nhiễu Tấn quốc, Tấn quốc lục khanh chia nhau ra cự địch.

Sau này, gia chủ ba nhà Triệu, Ngụy, Hàn diện kiến nhau tại Hàm Đan, bàn bạc kế sách đánh Vệ.

Trước đó không lâu, gia chủ Chí thị mời quốc quân đến Khúc Ốc săn thú ngắm cảnh xuân sắc.

Phạm thị, Trung Hành thị đang định phái sứ đi triều cống Chu thiên tử lâu năm không qua lại...

Nhìn những tình hình này, Tôn Vũ nhíu mày nói:

- Lục khanh Tấn quốc động tĩnh nhiều như vậy chắc chắn đang âm mưu gì đó.

Anh Đào nói theo:

- Những hành động này rất đáng nghi ngờ, hơn nữa trong thời gian này cũng là khoảng thời gian mà Nam Tử hoạt động nhiều nhất ở hai nước Vệ Tống, thế nhưng giữa hai bên hoàn toàn không có bất kỳ mối liên hệ nào.

Với trí tuệ của Tôn Vũ, Văn Chủng cũng không thể nào nhận ra được ý nghĩa của những động thái đó, chỉ là cảm giác bản năng rằng Tấn quốc đang có một cơn bão chính trị vô cùng lớn. hơn nữa trong con mắt một kẻ đã biết trước việc ba nhà thế gia phân chia Tấn quốc như Khánh Kỵ, thì không có ý nghĩa nào khác cả.

Các hoạt động liên tục giữa đại thế tộc ba nước khiến cho Khánh Kỵ càng có thêm cơ sở cho phán đoán của mình:

“Bất kỳ giữa một nhà nào hay thậm chí mấy nhà với Nam Tử chắc chắn phải có một hiệp định bí mật nào đó được xác lập, hơn nữa còn rất có khả năng là chia cắt Tấn quốc. Trên lịch sử, thời gian xảy ra những sự kiện đó còn chưa đến, nhưng do có sự có mặt của hắn, đã thay đổi cục diện phát triển thiên hạ, thúc đẩy mau hơn tiến trình lịch sử, tuy nói rằng hiện tại kẻ tham dự vào chuyện này là Nam Tử, nhưng cái hiệu ứng đô mi nô này chính là xuất phát từ ả.

Nếu ba nhà phân Tấn xảy ra, thậm chí còn trở thành sáu nhà phân Tấn, vậy thì sẽ phải làm sao đây?”

Nghĩ tới đây, trên mặt Khánh Kỵ bất giác không giấu được nụ cười thú vị:

“Một nhà phân thành ba nhà, vậy mà ba nhà này còn có thể được liệt vào danh sách thất hùng thời chiến quốc! Thực lực khủng khiếp của Tấn quốc quả thật khó bề tưởng tượng nổi. Thế nhưng một nhà chia thành sáu nhà thì sao đây? Tấn quốc là cột chống trời của Trung Nguyên, quốc gia có thực lực hùng mạnh nhất này một khi phân thành sáu nước, thế cục của cả Trung Nguyên thậm chí là cả thiên hạ sẽ nảy sinh những thay đổi vĩ đại không thể đoán định trước, thế nhưng có một điều chắc chắn, điều đó sẽ có lợi cho một quốc gia chí tại thiên hạ như Ngô quốc.

Thế nhưng một việc có lợi rất lớn cho Ngô quốc như vậy, tại sao Nam Tử lại phải giấu diếm, thậm chí dâng hiến cả cơ thể mình, rồi còn chấp nhận cắt nhượng thành trì cho Ngô quốc, nhưng cũng không chịu nói thẳng với Khánh Kỵ, kéo hắn vào làm minh hữu nhỉ?”

Khánh Kỵ dựa vào ý nghĩ đó để phát triển ra, trong lòng đã rút ra được đôi chút kết luận.

Chuyện này hiển nhiên không phải chỉ dựa vào năng lực của Nam Tử mà làm được, ả thậm chí còn không phải là chủ mưu, mà là hùa theo mà thôi, đều là vì lợi ích của mỗi bên, bị đám công khanh đại phu Tấn quốc muốn tự lập quốc kia lợi dụng mà thôi, ả đương nhiên không thể đem chủ trương mang tính sống còn của mấy nhà đại thế gia kia ra mà bô bô với hắn được.

Hơn nữa, chuyện này không hoàn toàn là chuyện nội bộ của Tấn quốc lục khanh, e rằng các bộ tộc Tiên Ngu quốc, Ly Nhung, Xích Địch cũng tham gia vào, mấy nhà đại thế gia không có chuyện ngẫu nhiên cùng chí hướng với nhau, phế quân tự lập như vậy được, trong lục khanh đương nhiên có kẻ đang trù tính việc này, cũng cố nhiên có kẻ bị che mắt, kẻ bị che mắt đó chắc chắn cũng là đối tượng để bọn chúng loại trừ.

Chuyện này, Tề quốc rất có khả năng cũng tham gia vào, có được sự ủng hộ của Tề, thì đám khanh đại phu ẩn chứa dã tâm kia của Tấn quốc mới dám nắm thế chủ động trong chuyện này. Còn với Tề quốc, Sở đang ngày càng suy yếu, không phục hồi lại được uy phong nước lớn. Ngô quốc tuy chỉ là mặt trời mới lên, nhưng quốc lực còn lâu mới so sánh được. Tần quốc trấn thủ quan trung, hiện tại không đủ thực lực nên cũng không có dã tâm Đông tiến Trung Nguyên, một khi Tấn quốc đổ vỡ, vậy thì lúc đó Tề sẽ chính là thiên hạ bá chủ. Chả trách quốc quân Tề quốc lại bỗng dưng thay đổi thái độ, cưỡng chế Điền Khất phải rút binh về nước. Cần phải biết lạc đà sắp chết vẫn to hơn ngựa, thực lực của Tấn quốc quả thực không thể coi thường, nếu muốn tham dự vào âm mưu chia Tấn của đám thế gia, nước Tề hùng mạnh cũng cần phải chuẩn bị kỹ càng, bọn chúng đương nhiên không thể cứ dây dưa đánh nhau với những nước lân cận như Đông Di và Lỗ quốc được, để phải rơi vào cảnh ba mặt đối địch.

Nếu như có Tề quốc tham dự thêm, Nam Tử càng không thể nào nói rõ sự tình cho hắn biết. Vì một khi Tấn đổ, Tề nghiễm nhiên trở thành bá chủ thiên hạ, Ngô quốc chí tại Đông Di, có mâu thuẫn không thể dung hòa được với Tề, theo tính toán của Nam Tử, Khánh Kỵ quyết không thể giương mắt nhìn Tề quốc trở thành thiên hạ đệ nhất quốc.

Nhưng chúng không thể không cần tới Khánh Kỵ, vì Tần xưa nay không qua lại với các nước Trung Nguyên, nói đúng hơn là các nước Trung Nguyên không chịu quan hệ bình đẳng với Tần, khiến đôi bên chưa từng có cuộc tiếp xúc nào hết. Đến nay nước có thể thuyết phục Tần xuất binh chỉ có thể là nước trong khối liên minh với Tần là Sở hoặc Ngô. Sở là nước minh chủ phương Nam, luôn coi các nước Trung Nguyên là địch, hai bên đối địch đã lâu, rất khó lòng nào chịu tin tưởng mà hợp tác với nhau, bởi vậy vị Ngô vương đã từng được các nước Trung Nguyên kia giúp đỡ đương nhiên trở thành đối tượng hợp tác thích hợp nhất.

Nghĩ tới đây, Khánh Kỵ âm thầm hắt ra một hơi dài, Tần là cường quốc gần Tấn nhất, là lực lượng Tấn quốc e ngại nhất. Chỉ có Tần chịu xuất binh, mới có thể khiến Tấn điều động trọng binh phòng thủ, để cho đám tâm địa đen tối kia đem quân đội của đám tộc khanh đối đầu với chúng đi chống đỡ quân Tần, tạo điều kiện cho chúng phát động chính biến, đợi đến khi lộ ra chân tướng, thì bọn chúng đã hoàn thành xong công việc chia cắt Tấn quốc rồi.

Nếu như muốn biết trong lục khanh Tấn quốc kẻ nào mới là con mồi, chỉ cần xem đến lúc đó Tấn quốc sẽ phái binh mã của ai đi bảo vệ là biết liền. Tần quốc là nước bị lợi dụng, nhưng một khi để Tần biết rõ chân tướng, rất khó cam đoan rằng Tần sẽ không nổi lòng tham, tương kế tựu kế, từ đánh nghi binh thành tấn công thật sự, thừa cơ đánh chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn của Tấn quốc, lấn tràn xuống Trung Nguyên, đến lúc đó, mất đi một nước Tấn quốc, nhưng lại có thêm một nước Tần hùng mạnh, đương nhiên không phải là điều các nước ở Trung Nguyên mong muốn. Từ đó cho thấy, cho dù không có nguyên nhân Tề quốc bên trong, Nam Tử cũng không thể đem chân tướng tiết lộ với một vị quân chủ một nước nằm trong khối đồng minh với Tần quốc.

Nghĩ thông suốt được chuyện này, Khánh Kỵ không giấu nổi niềm hể hả trong lòng, tự nhiên có kẻ dâng lên một chiếc gối đầu êm ái, cục diện Tây Bắc thay đổi thế nào thì nhất thời cũng chả ảnh hưởng gì tới hắn. Thế nhưng đối với kẻ nuôi dã tâm thôn tính cả thiên hạ như Khánh Kỵ, khó chinh phục nhất chính là Trung Nguyên, chỉ cần Trung Nguyên đại loạn, trở thành một đống hỗn loạn thân ai nấy lo, hắn có lòng tin vào việc biến nước mình thành quốc gia hùng mạnh nhất trước khi tiến tới việc thôn tính ba cường quốc vây quanh Trung Nguyên là Tần, Sở, Tề, đặt nền móng đầu tiên cho việc nhất thống thiên hạ.

Đám đại thần đang xì xào bàn luận trông thấy đại vương trầm ngâm không nói gì, liền ngừng nói đưa mắt nhìn hắn trong chốc lát. Khánh Kỵ thoát khỏi cơn trầm tư, thấy đám người vẫn đang nhìn mình, liền mỉm cười nói:

- Quả nhân đã có chút manh mối nho nhỏ rút ra được từ chuyện này, chư vị ái khanh công vụ bận rộn, chi bằng tạm thời gác lại việc này đi lo liệu việc chính vụ, đó mới là căn bản của Ngô quốc, bất kể thiên hạ có biến đổi thế nào, chỉ cần Ngô quốc ta đủ lớn mạnh, mặc nó thiên biến vạn hóa, ta đều có thể bình chân như vại được.

- Chúng thần tuân chỉ!

Đám người Tôn Vũ thấy hắn đã có tính toán, cũng không hỏi nhiều, lục tục ra về. Khánh Kỵ lập tức gọi thám báo tới dặn dò:

- Tập trung nhân lực lại, thăm dò cho ta ba chuyện: Một, quân đội Tề quốc có động tĩnh gì lạ; Hai, lục khanh Tấn quốc đang làm gì; Ba, bố trí quân đội Vệ Tống, càng chi tiết càng tốt.

Bảy ngày sau, Di Hạ lại vào cung mời Khánh Kỵ, Khánh Kỵ biết rằng Nam Tử đã nhận được hồi báo của Tống quốc, lập tức vui vẻ nhận lời.

Vẫn là gian nhà đó, lúc trước vẫn còn hoa đòa rụng lả tả, giờ đây đã rụng sạch trụi, mở cửa sổ ra, một bông hoa đào hiện ra trước mắt, chắn giữa thân ảnh hai người.

- Đại vương, cha ta đã đồng ý cắt nhượng Bành Thành cho Ngô quốc, đây là quốc thư, nhưng cha ta có điều kiện là sau khi Tần quốc đồng ý xuất binh, thì việc cắt nhượng thành trì mới có hiệu lực.

- Đương nhiên phải vậy, chỉ không biết phu nhân muốn Tần quân lúc nào khởi binh? Nếu thời gian quá cấp bách, Khánh Kỵ không dám khẳng định có thể thuyết phục được Tần quân.

Nam Tử cười thản nhiên:

- Nam Tử biết rõ đây không phải chuyện dễ dàng, sao lại dám làm khó đại vương được. Chỉ là hai nước Vệ Tống đang lâm nguy, thời gian càng kéo dài, thì càng bất lợi cho Vệ Tống. Ý của Nam Tử mong đại vương mau chóng hành động, Nam Tử sẽ phái tín sứ đi cùng với người của đại vương. Một khi nhận được thông tin chính xác, lập tức hồi báo về ta, liên quân Vệ Tống sẽ phối hợp tác chiến, bức bách quân Tấn phải nghị hòa.

- Tốt lắm, nếu vậy mong phu nhân mau chóng mang quý quốc bảo khí tới.

Nam Tử giật mình, Khánh Kỵ cười nói:

- Nếu chỉ với lý do là giải vây cho Vệ Tống, phu nhân cho rằng Tần quốc sẽ chịu xuất binh sao? Quả nhân đương nhiên phải tìm một lý do khác, vật báu đó cũng cần phải mang danh nghĩa của Ngô quốc mà mang tới. Tóm lại, chỉ cần người Tần chịu xuất binh là đã coi như hoàn thành khế ước của hai ta, lẽ nào phu nhân không tin Khánh Kỵ, lo quả nhân nuốt không bảo khí của hai nước Vệ Tống các người sao?

Nam Tử hơi chút do dự, giãn mặt đôi chút cười nói:

- Đại vương cứ nói đùa, đại vương là anh hùng đương thế, Ngô quốc bá chủ, làm sao có thể làm chuyện của phường ăn cướp được. Không giấu đại vương, để tranh thủ thời gian, hai nước Vệ Tống đã sớm vận chuyển bảo vật tới đây, bí mật đem tới bên bờ Trường Giang, chỉ đợi khi đại vương nhận lời, sẽ ngược dòng mang tới Tần quốc, bây giờ...

- Vậy cũng không được, phải đợi tín sứ của quả nhân tới tiếp nhận rồi tiếp tục lên đường Tây tiến.

Nam Tử suy nghĩ một hồi, liền nói dứt khoát:

- Được, cứ thế đi.

Nàng nhấc bình lên, rót cho Khánh Kỵ một chén rượu, cung kính cầm chén hai tay nói với Khánh Kỵ:

- Nam Tử thay mặt cho bách tính Vệ Tống kính đại vương một chén, chúc đại vương mã đão thành công, cứu nguy cho hai nước Vệ Tống.

Khánh Kỵ mỉm cười, đón lấy chén rượu uống cạn.

Nam Tử niềm nở rót tiếp ly nữa, trên mặt ẩn hiện tình ý, khẽ buồn vô cớ thở dài:

- Nay đại vương đã chấp thuận, sứ mệnh của Nam Tử coi như đã xong, cũng phải trở về Vệ quốc rồi, lần từ biệt này, núi cao sông dài, không biết khi nào mới có thể gặp lại được. Chén này, Nam Tử kính đại vương, nguyện mong Khánh Kỵ đại vương phúc thọ an khang, tiền đồ sáng lạn.

Khánh Kỵ thấy nàng làm ra vẻ lưu luyến không rời, biết rằng nàng đang định dùng sắc mê hoặc, không khỏi cười thầm trong bụng, hắn đỡ lấy chén rượu, mỉm cười nói:

- Khoảng cách lớn nhất trên đời này không phải là khoảng cách giữa những con đường, mà là khoảng cách giữa những trái tim, hai con tim khác biệt lại có thể đồng sàng, vui vẻ bên nhau, làm nên giấc mộng diệu kỳ. Nếu như hai trái tim luôn bên nhau, luôn hướng về nhau, thì dù ở nơi núi cao sông dài xa cách vạn dặm, bọn họ cũng cảm thấy gần sát như trong gang tấc, không biết phu nhân nghĩ thế nào?

Ánh mắt Nam Tử hiện lên một sắc thái bí ẩn:

- Nam Tử với đại vương hiện đang ngồi đây, gần ngay trước mặt, không biết hai con tim của chúng ta xa cách là bao?

- Phu nhân muốn khoảng cách đó là bao nhiêu nào?

Vì trong chuyện này Nam Tử hoàn toàn là lợi dụng Khánh Kỵ, nên Khánh Kỵ rất cảnh giác với ả, thấy ả như vậy, biết ả lại định trò cũ diễn lại, nên làm ra vẻ chân tình đồng cảm để trêu ghẹo ả, hạ thấp giọng, cơ thể hơi nghiêng về phía trước hỏi.

Nam Tử dường như có chút sợ sệt, cơ thể hơi ngả về phía sau trốn tránh, đôi mắt long lanh rủ xuống, khuôn mặt thanh bạch hiện lên một vệt đỏ ửng:

- Nếu như... Nam Tử hi vọng trái tim mình có thể giữ được khoảng cách với đại vương như hiện giờ, cùng chung nhịp đập với nhau, không biết đại vương... đại vương nghĩ thế nào?

Ả nói câu sau cùng, giọng nói run run, khuôn mặt ửng đỏ, đôi môi nhợt nhạt vì căng thẳng, mi mắt chớp chớp liên tục, con ngươi đến cả dũng khí để đưa lên cũng không có.

"Ặc, Nam Tử phu nhân không phải đóng kịch, thật sự là đáng tiếc." Khánh Kỵ thầm tán thưởng một tiếng, ngoài miệng nói ra:

- Trái tim của quả nhân, có thể được dính sát vào con tim của phu nhân không?

- Tại sao lại không chứ?

Nam Tử khẽ e thẹn, từ từ ngước mắt lên.

Khánh Kỵ muốn nói gì lại thôi, đổi giọng nói:

- Ha ha, Ngô và Vệ Tống hiện tại vẫn còn là quan hệ giao dịch thông thường, Vệ Tống có lời nhờ Ngô, Ngô quốc muốn lại một thành trì, có lẽ... Đợi một ngày nào đó, chúng ta sẽ không còn là quan hệ lợi dụng nhau nữa, để có thể thật sự tin tưởng nhau. Đến lúc đó, Khánh Kỵ chỉ mong ước có được một tuyệt thế giai nhân giống như phu nhân làm hồng nhan tri kỷ.

Ánh mắt của Nam Tử bối rối trong đôi lát, bỗng nhiên trở nên sáng rõ lại, lời nói này của Khánh Kỵ đã thức tỉnh nàng, nàng bỗng ý thức được lập trường mà hai bên đang đứng, căn bản là không hợp để nói chuyện tình cảm nam nữ. Nàng nhẹ nhàng hít vào một hơi, trầm lắng nói:

- Lần từ biệt này, núi cao sông dài, muốn gặp mặt cũng khó như lên trời, ài, đại vương nói phải, là Nam Tử đã vọng tưởng rồi.

Khánh Kỵ rõ ràng không định trêu chọc nàng, nhưng trông khuôn mặt phiền muộn quyến luyến của nàng, cùng ánh mắt rưng rưng, rồi bỗng nhiên khuôn mặt trở nên trắng bợt như tuyết, không biết thế nào, đành phải thốt lên:

- Phu nhân việc gì phải phiền muộn như vậy, Ngô quốc có được Bành Thành, từ đây trở thành láng giềng của Tống, nếu muốn gặp phu nhân, thì sẽ có nhiều cơ hội để gặp. Tuy không thể sớm chiều gần nhau, nhưng nếu tình cảm đôi bên trường tồn, vậy thì lo gì thời gian dài ngắn chứ?

"Tình cảm đôi bên trường tồn, vậy thì lo gì thời gian dài ngắn..."

Nam Tử lẩm nhẩm lại câu nói, con ngươi đang ủ rũ bỗng trở nên linh động, run giọng hỏi:

- Đại vương thật sự... thật sự nghĩ vậy ư?

Khánh Kỵ châm chọc nàng:

- Chẳng phải phu nhân đang đợi câu nói này của Khánh Kỵ sao? Nàng là người tự cho mình cái tài đùa bỡn nam nhân, sao giờ đây lại thiếu tự tin đến vậy?

Nhưng khi nhìn vào đôi mắt cô hồn đầy mộng ảo, long lanh chất chứa ý thơ kia, trong lòng hắn bỗng trở nên mềm yếu, ma xui quỷ khiến thế nào đáp:

- Chỉ mong đôi ta chung một trái tim, một sự đồng cảm mà thôi.

Nam Tử mấp máy đôi môi, hai hàng nước mắt nóng hổi bỗng nhiên rơi xuống trong nỗi mừng vui.

Khi Khánh Kỵ "bị" nàng giang hai tay ôm chặt, bỗng có một cảm giác bức bối ngột ngạt, trong lòng hắn đang là một mỹ nhân nước mắt ròng ròng, yêu kiềm xinh đẹp. Khánh Kỵ giang rộng đôi tay, buông thõng tay áo, đứng như trời chồng, đôi mắt đơ dại, cái miệng há hốc nghĩ lại: "Vấn đề ở đâu thế nhỉ? Điều này... xảy ra thế nào vậy? “Đại vương, có sứ giả vào triều, mời đại vương hồi cung.”

Bên ngoài, đột nhiên có tiếng nói lanh lảnh vang lên, Nam Tử giật mình thức dậy, vội tránh khỏi cái ôm của Khánh Kỵ, sụt sùi nước mắt, nói vẻ e thẹn: “Nam Tử có hơi mất lễ nghi, xin đại vương đừng chê cười.”

“Không sao, vậy… quả nhân về cung nhé.”

Khánh Kỵ do dự một lát, từ từ đứng dậy, Nam Tử cũng đứng dậy im lặng bước theo sau lưng hắn.

Khánh Kỵ sải bước chậm rãi đến trước cửa, một tay vịn vào thành cửa, suy ngẫm giây lát, quay đầu lại hỏi: “Phu nhân định…khi nào thì quay về?”

Nam Tử từ trước vẫn say đắm nhìn theo bóng lưng Khánh Kỵ, Khánh Kỵ đột nhiên quay đầu, nàng vội cúi đầu xuống nhưng vẫn không tránh kịp ánh mắt đưa tới, tất cả bị Khánh Kỵ nhìn rõ cả.

“Thiếp…rời khỏi đã lâu, quả thực không yên tâm chút nào, giờ phải…lập tức về nước thôi. Lần này đến đây, vốn chỉ là chuyến đi bí mật, đại vương cứ lo quốc gia đại sự, không cần… không cần đưa tiễn.”

Khánh Kỵ nhìn trưng trưng vào Nam Tử, gật đầu nhè nhẹ: “Được, vậy quả nhân không tiễn nữa. Ta sẽ dặn dò Thái Nghĩa chuẩn bị cho chu đáo, hộ tống đội xe đoàn sứ giả Vệ quốc nhanh chóng trở về.”

“Hư…” Nam Tử rên nhè nhẹ, đột nhiên ngẩng mặt lên hỏi: “Đại vương, vừa rồi những lời trao đổi giữa chúng ta, có được coi như một lời hứa hẹn của đại vương với Nam Tử không?”

Đôi mắt đen láy nhìn không chớp mắt vào Khánh Kỵ, ẩn hiện vẻ gì đó lo lắng nôn nao.

Khánh Kỵ ừ hử một cái, mỉm cười: “Nam Tử sắc nước hương trời, đẹp như hoa như ngọc, được phu nhân để mắt, đối với bất kì một nam nhân nào đều là niềm vinh hạnh lớn nhất đời người, Khánh Kỵ đâu dám ngoại lệ? Nhưng ta đã nói, chỉ nguyện lòng ấy như lòng ta, nếu nàng đối với ta chân thành dựa vào tình yêu, Khánh Kỵ tuyệt đối không phụ lòng phu nhân.”

Nam Tử im lặng cúi đầu, đột nhiên lao người tới nhón chân lên, đặt môi hôn nhẹ Khánh Kỵ một cái.

Hơi thở thơm tho như hoa lan làm si mê lòng người, Khánh Kỵ nhắm nghiền mắt tận hưởng cảm giác đê mê của nụ hôn, không biết trải qua bao lâu, hai chiếc môi mềm mới chịu lưu luyến tách ra, Nam Tử mang theo một cảm giác tiếc nuối, rầu rĩ nói khẽ: “Khánh Kỵ đại vương, hẹn ngày gặp lại.”

“Hẹn ngày gặp lại.” Khánh Kỵ vẫy vẫy tay, sải bước đi ra ngoài.

Khi bóng lưng Khánh Kỵ đi khÚc, Nam Tử lộ vẻ hụt hẫng, chiếc cổ dài từ từ cụp xuống, lẩm bẩm nói một mình: “Đừng suy nghĩ lung tung nữa, một nam nhân kiêu ngạo tự phụ sao lại có thể tha thứ khi bị lừa dối và lợi dụng chứ?”

Nam Tử cười chua chát, xoa nhè nhẹ lên làn da bóng loáng mịn màng của mình, ưu sầu tự nhủ: “Nam Tử ơi, nếu… ngươi không sinh ra trong gia đình công hầu quân thất, không phải bị nhiều thứ níu kéo, lúc đó…tốt làm sao…”

Khánh Kỵ đi ra ngoài, lại dừng bước quay đầu lại nhìn về tòa lầu dưới bóng hoa đào. Trong tim hắn, lúc này đã ít đi cảm giác giễu cợt và chơi khăm Nam Tử, thay vào đó là một tình cảm thương mến, vừa rồi Nam Tử kể lể thân thế, bộc lộ chân tình khóc lóc một trận, Khánh Kỵ tin rằng trong đó chiếm đến tám phần là sự thật.

Nghĩ kĩ lại, thật ra Nam Tử rất giống Nhâm Nhược Tích và Thành Bích, hơn nữa tuy nàng ta bề ngoài cao cao tại thượng, nhưng vì thế mà không tự quyết định số phận được, so với hai nữ nhân kia càng bất hạnh hơn. Nữ nhân thời này so với nữ nhân sau đời Hán trở đi một ngàn mấy năm sau độc lập hơn nhiều, nên họ cũng có trách nhiệm và trí tuệ hơn, có hơi giống với nữ nhân thời hiện đại bây giờ mà không giống với nữ nhân sống trong một ngàn mấy năm ở giữa, chỉ biết hoàn toàn phụ thuộc vào nam nhân.

Loại nữ nhân từ nhỏ không phải lo cho cuộc sống như Tiểu Man, Diêu Quang thì kém hơn chút, còn nữ nhân từ nhỏ phải lăn lộn gánh lấy trách nhiệm sinh kế và suy vong của gia tộc như Nhược Tích và Thành Bích, từ trong máu thịt đã tồn tại tính độc lập và tinh thần trách nhiệm, nếu họ đứng vào vị trí nhạy cảm như Nam Tử, tin chắc thái độ xử sự của họ cũng như Nam Tử mà thôi.

Nghĩ đến đây, Khánh Kỵ tiêu tan vài phần ý nghĩ thù địch với Nam Tử, lại phát sinh thêm vài phân thương hại. Hắn không biết Nam Tử đối với hắn có tình ý sâu nặng bao nhiêu, bây giờ cũng không muốn biết. Cùng rơi vào cảnh thân bất do kỉ, không chỉ có Nam Tử, mà Khánh Kỵ cũng vậy, hắn và Nam Tử đều đang gánh vác trách nhiệm nặng nề, đều đại diện cho lợi ích của rất nhiều người, ai mà biết được quan hệ giữa hai người sau này phát triển đến nước nào, dù cho từ quan hệ nam nữ thăng hoa đến tình yêu cao cả, hay đơn thuần chỉ là nam nhân theo đuổi nữ sắc, Khánh Kỵ biết rõ hơn ai hết, đó không phải tất cả trong cuộc sống, càng không phải thứ đáng theo đuổi cao nhất trong cuộc sống. Hắn phải vì bản thân, vì người thân, bằng hữu, thuộc hạ chịu trách nhiệm. Khánh Kỵ sau khi về đến hoàng cung, không thấy quan viên nào của hành nhân ti ở đó, kinh ngạc gọi Viên Tố ra hỏi: “Viên công, ngươi không phải nói có sứ giả nước ngoài đến thăm sao, người đâu?”

“Ơ…” Viên Tố tỏ vẻ khó xử, hắn vuốt mũi mấy cái, vén vạt áo bào lên quỳ mọp xuống thỉnh tội: “Xin đại vương tha tội, là Man phu nhân truyền khẩu dụ, mời đại vương hồi cung, vi thần không dám làm trái ý Man phu nhân, buộc phải…, thần có tội, thần có tội.”

Khánh Kỵ khóc cười không được, hỏi: “Tiểu Man tìm quả nhân gấp như vậy là có chuyện gì?”

Viên Tố láo liên đáp: “Cái này ấy mà…vi thần không biết.”

Khánh Kỵ ngao ngán lắc đầu: “Thôi vậy, quả nhân vào hậu cung xem thử, ngươi lui xuống trước đi.”

“Dạ, dạ, thần có tội, thần cáo lui.” Viên Tố như trút bỏ được gánh nặng, vội hấp tấp đứng lên, chạy như luồng khói rời khỏi.

Khánh Kỵ sải bước đi vào phía hậu cung, đợi khi hắn bước vào tẩm thất của Tiểu Man, hỏi qua đám cung nữ phụ trách hầu hạ, bèn đi vòng qua cung điện, đến một mái đình phía sau hồ nước. Lúc này đã vào tháng ba, tiết trời vùng Giang Nam có chút oi bức như tháng tư tháng năm rồi, trong đình đang phủ tấm chiếu tre thượng hạng từ Việt quốc tiến cống, ba cô nương Diêu Quang, Nhược Tích, Tiểu Man đang mặc áo tơ mỏng dính, để chân trần người nằm người ngồi, đang tủm tỉm nói cười với nhau.

Phu thê mới thành thân, chuyện giường chiếu khó tránh nhiều hơn ngày thường, ba cô nương trải qua vài trận mây mưa, từ trong ra ngoài tỏ ra uể oải, đưa tay múa chân đều toát ra mấy phần quyến rũ.

Khánh Kỵ nhìn thấy, trong lòng mừng rơn, dang rộng hai tay nói: “Ba vị mỹ nhân của ta, quả nhân đến đây.”

Khánh Kỵ bước vào trong đình, không thấy ba cô nương xinh đẹp đứng dậy nghênh tiếp, đã không ai bước tới cởi giầy cho hắn, cũng không ai đứng dậy cởi mũ, hoàn toàn không giống cảnh tượng háo hức chạy ra đón của ba mỹ nhân này khi hắn bước vào tẩm cung của họ.

Nhược Tích uể oải nằm tựa mình lên cái gối, hai ngón tay ngọc ngà kẹp lấy một quả nho, mở to cái miệng chúm chím xinh xinh, nhè nhẹ đưa vào trong miệng, nuốt ực một cái, xong chìa môi ra ngoài phun hột ra, phun chính xác vào một cái chén sành đặt trên tấm chiếu.

Diêu Quang nằm gác lên đùi của Nhược Tích, liếc mắt nguýt Khánh Kỵ một cái, sau đó lông mày khẽ nhướn lên, làm ra hành động khiêu khích hắn. Còn Tiểu Man ngồi ngoài cùng, vén lấy hai ống quần, thò đôi chân trắng nõn xuống dòng nước hồ mát dịu khua nhẹ, tay cầm thức ăn tung xuống cho lũ cá ăn, một lũ cá to béo bơi xung quanh chân nàng, làm Tiểu Man nhột nhạt thụt chân lại, hàng mi cong vút chớp chớp, cũng không quay lại nhìn hắn.

“Ơ? Quả nhân có gì đắc tội với ba vị mỹ nhân, sao đều làm ra bộ dạng này cho ta xem rồi?”

Khánh Kỵ cười hí hí đá bay đôi ủng, tự mình bước lên tấm chiếu, ngồi xuống bên cạnh Diêu Quang, đặt tay vuốt ve bắp đùi thon thả của nàng.

“Hứ! Đừng đụng vào thiếp.” Diêu Quang ngúng nguẩy đánh vào tay hắn, xoay nhẹ tấm lưng tránh ra hướng khác.

Khánh Kỵ nhìn dáo dác, nhìn thấy vải áo trước ngực Nhược Tích hở ra để lộ khe ngực trắng nõn quyến rũ, bèn cười hí hí thò tay qua đó vuốt một cái trên bờ ngực đầy đặn của nàng, nói: “Nhược Tích của ta hiền thục dịu dàng, nào, nói cho phu quân biết, các nàng rốt cuộc vì chuyện gì giận dỗi thế?”

“Đáng ghét, mau đi rửa tay cho sạch sẽ, bằng không không cho chàng đụng vào thiếp.”

Nhược Tích hậm hức, lôi từ tay áo ra chiếc khăn tơ tằm, lau chùi mấy nhát mạnh vào ngực, chà đến nỗi làn da nõn nà đỏ chót cả lên.

“Không phải chứ? Tay quả nhân đâu có dơ đâu nào.”

“Hứ!” Quý Tôn Tiểu Man giơ chân đá tung bọt nước trắng xóa, lũ cá hoảng sợ bơi tứ tung: “Dơ hay không ai mà biết? Người ta đột nhiên bắt chàng quay về, không làm hỏng việc tốt của chàng chứ?”

Khánh Kỵ ngớ người, nhớ lại hình ảnh Nam Tử ngả vào lòng hắn khóc lóc kể lể, trong lòng có hơi bối rối: “Mấy nha đầu này, không phải đã biết chuyện của Nam Tử chứ?”

Nghĩ đến đây Khánh Kỵ cảm thấy sầu não, hắn không để bụng chuyện Quý Tôn Tiểu Man sai Viên Tố lừa hắn hồi cung, nhưng hắn không chấp nhận thần tử của hắn đem hoạt động của chủ nhân tiết lộ ra ngoài, cho dù người kia tuyệt nhiên không làm hại hắn, còn là thê tử thân yêu của hắn.

“Là Viên Tố nói cho nàng biết à?” Sắc mặt Khánh Kỵ trầm hẳn xuống.

“Còn cần Viên công nói ra sao? Trong cung ngoài cung ai mà không biết?” Quý Tôn Tiểu Man phụng phịu nhấc chân lên khỏi mặt nước, ngồi bó gối trên tấm chiếu, đôi chân búp măng hồng hồng của Tiểu Man nhìn khá dễ thương.

Mỹ nhân làm dáng, ẻo lả quyến rũ, được ánh nắng phản chiếu lung linh, khuôn mặt khi mờ khi tỏ, tăng thêm vài phần xinh xắn, nhưng Khánh Kỵ đang tức tối, cũng không tỏ ra mềm mỏng nữa, lạnh lùng quát: “Trong cung ngoài cung ai cũng biết ư? Há! Thật là nực cười, từ lúc nào nhất cử nhất động của quả nhân đều bị người khác biết được thế hả?”

Nhược Tích thấy hắn nổi giận, không dám tiếp tục chọc giận hắn, bèn ngồi dậy ấm ức nói: “Đại vương, thần thiếp có câu này muốn hỏi đại vương.”

“Nàng nói đi.”

“Đại vương, có phải chúng thần thiếp…hầu hạ đại vương có chỗ không được chu đáo khiến đại vương không vừa lòng?”

Khánh Kỵ ngây mặt ra, hoài nghi nhìn ba mỹ nhân, ngạc nhiên hỏi: “Nhược Tích sao lại hỏi vậy? Quả nhân có được ba vị hiền thê như các nàng, là niềm hân hạnh cho quả nhân. Quả nhân đối với các nàng thương yêu o bế, chẳng lẽ các nàng không cảm nhận được ư?”

Nhâm Nhược Tích cúi đầu xuống, nắm lấy tà áo, vò lấy vò để nói: “Ba người thần thiếp đương nhiên biết tình cảm của đại vương, chỉ là… chỉ là…”

Khánh Kỵ nhướn mày, hỏi dồn: “Chỉ là cái gì, nàng cứ nói ra, ấp a ấp úng là thế nào?”

Diêu Quang đột nhiên lên tiếng xen vào: “Tỉ không chịu nói, để muội nói!”

Diêu Quang trừng to đôi mắt, quay sang Khánh Kỵ: “Đại vương ở tại Vệ quốc hơn một năm, từ lúc nào cũng học thói hư tật xấu của bọn nam nhân thối tha Vệ quốc rồi? Tên Di Hạ… Di Hạ…, tên nam nhân đó rốt cuộc có gì hay chứ? Lại khiến đại vương mê muội ba lần bảy lượt đi gặp hắn, hai nam nhân với nhau lại làm chuyện… chuyện kia đó, người ta nghĩ tới là thấy muốn nôn ọe cả ra.”

Diêu Quang tuy to gan lớn mật, nhưng nói ra những lời đáng xấu hổ này xong e thẹn đỏ ửng cả hai má.

Khánh Kỵ nghệch mặt ra, trừng mắt nhìn ba mỹ nhân hồi lâu, đột nhiên mở miệng cười khanh khách như điên: “Ha ha ha ha…, ta thấy mấy nàng hôm nay cứ khác lạ so với ngày thường, thì ra các nàng là vì chuyện đó, ha ha ha…”

“Chàng còn cười, chàng còn cười được à…” Tiểu Man tức tối giậm chân đùng đùng: “Hai nước Ngô và Lỗ ít nam nhân đồng tính, đại vương đường đường là nam tử hán, bị một tên nam nhân mê đến điên đảo đầu óc, không sợ bị dân chúng chê cười sao? Chàng nếu không vừa ý ba tỉ muội thiếp hầu hạ, với thân phận đại vương một nước của chàng, muốn chiêu nạp mỹ nhân thế nào vào cung mà chẳng được? Chúng ta… chúng ta dù cho có thêm mấy tỉ muội hầu hạ chàng, cũng tốt hơn… tốt hơn tranh giành phu quân với một tên nam nhân.”

Tiểu Man đối với chuyện nam nữ không còn ngu ngơ như thuở trước nữa, nói ra chuyện này cũng thấy ngại ngùng, nhưng nhìn vẻ mặt hậm hực của nàng, đủ hiểu tuy cảm thấy nói ra chuyện này không hay ho gì, nhưng lại không thể chấp nhận việc phu quân của mình thích sủng ái một tên nam nhân.

Khánh Kỵ cười đến nỗi đau cả bụng, vỗ đùi cái đét: “Ba nàng đó, ha ha ha…, theo ý quả nhân, các nàng không việc gì làm thì đi chèo thuyền, câu cá, du sơn ngoạn thủy hay săn bắn giải khuây, hoặc đi thăm viếng dân chúng để hiểu nỗi khổ của dân cũng được, quả nhân đâu có nhốt các nàng lại đâu, hà cớ gì không việc gì làm thì suy nghĩ lung tung, quả nhân thích nam nhân bao giờ chứ? Quả thật có nam nhân làm cho quả nhân động lòng, trừ khi hắn có đôi chân dài thon thả của Diêu Quang, chiếc eo bé bỏng mềm mại của Nhược Tích, vẻ tinh nghịch đáng yêu của Tiểu Man, nhưng nam nhân như thế thì trên thế gian chưa từng xuất hiện nhỉ?”

Nhược Tích và Diêu Quang nhìn vào nhau, Nhược Tích vội hỏi: “Đại vương đi gặp Di Hạ, có thật là không… không làm gì… với hắn…”

Khánh Kỵ quả quyết: “Đương nhiên là không rồi.”

Nhược Tích thở phào nhẹ nhõm, e thẹn nói: “Thần thiếp nghe nói mỗi khi đại vương đi dự yến tiệc cùng Di Hạ, đều đơn độc đi cùng hắn đến một căn phòng phía sau quán trọ, ít thì hơn một canh giờ, nhiều thì suốt mấy canh giờ, các thị vệ cận thân đều bị đuổi hết ra ngoài, nghĩ đến tên Di Hạ này vốn là man đồng của Vệ hầu, nên mới hiểu lầm… hiểu lầm…”

Diêu Quang lại không chịu dễ dàng tin vào lời giải thích của Khánh Kỵ, vẫn cứ nhìn trưng trưng: “Nếu đại vương không có chuyện mờ ám với tên Di Hạ, vì lí do gì không bày yến tiệc ở bên ngoài sảnh, lại chạy đến phía sau quán trọ lén lút gặp mặt, hai nam nhân với nhau, có chuyện tâm tư gì mà cần bày tỏ cùng nhau nào?”

Khánh Kỵ cười khanh khách: “Các nàng đoán sai hết cả rồi. Quả nhân tuy cùng hắn bước vào quán trọ, nhưng người quả nhân gặp không phải là hắn, mà là gặp một đại mỹ nhân xét dung mạo thân hình đều không hề thua kém các nàng.”

Tiểu Man vừa mới nói chấp nhận cho Khánh Kỵ tuyển chọn thêm một số mỹ nhân vào cung lập tức trợn mắt lên, chất vấn hắn liên tục: “Cái gì mà mỹ nhân? Họ tên là gì? Người ở đâu? Đại vương vừa mới nạp ba hoàng phi còn chưa được một tháng, trong lòng còn không thấy mãn nguyện ư?”

Khánh Kỵ biết ngay tình hình không ổn, vừa rồi ba mỹ nhân tưởng hắn đi lén lút với nam nhân, trong lòng khó tránh khỏi ấm ức phiền muộn, bây giờ nghe nói hắn đi gặp mặt nữ nhân, lại còn là một đại mỹ nhân nữa, trong lòng lại nổi cơn ghen. Khánh Kỵ vội ứng biến, làm ra vẻ mặt tội nghiệp: “Quả nhân chỉ đùa giỡn một chút với các nàng thôi mà, quả nhân có bản lĩnh lớn đến đâu đi chăng nữa, cũng không dễ dàng gì kiếm được mỹ nhân xinh xắn hơn các nàng về đây chứ? Không giấu gì các nàng, quả nhân và Di Hạ đang bàn luận một đại sự, quả nhân muốn giúp Vệ quốc một việc lớn, đổi lại Vệ quốc sẽ cắt Bành thành để đáp tạ, việc hệ trọng cơ mật, tất nhiên phải cẩn thận hành sự.”

Ba người Tiểu Man nghe xong, mối nghi ngờ tiêu tan, Nhược Tích vội tạ lỗi với Khánh Kỵ: “Đại vương, là tỉ muội Nhược Tích trách lầm đại vương, đêm nay hay là cho phép Nhược Tích cùng hai vị muội muội Diêu Quang, Tiểu Man bày yến tiệc tạ lỗi với đại vương vậy.”

Nhược Tích nói xong cúi đầu e ấp, Diêu Quang và Tiểu Man kế bên cũng đỏ chót cả mặt, nhưng hai người không ai lên tiếng phản đối. Từ khi đêm tân hôn ba cô gái bị Khánh Kỵ cưỡng ép cùng qua đêm với nhau, một tối phong lưu xong, Diêu Quang và Tiểu Man đều đã hiểu chuyện, từ đó không chịu đồng ý cho Khánh Kỵ làm chuyện hoang đường bốn người ngủ chung giường nữa, Khánh Kỵ năn nỉ mấy nàng nhiều lần cũng không được, làm hắn mỗi khi nổi hứng lên phải đi tuần đêm, chạy hết cung này đến cung khác. Giờ đây thấy Khánh Kỵ bận tâm việc nước, ba người lại không giúp sức được phần nào, ngược lại còn suy nghĩ lung tung, ba mỹ nhân thấy có lỗi với Khánh Kỵ nên e ấp chủ động đưa ra đề nghị này.

Khánh Kỵ nhìn thấy ba mỹ nhân e lệ kiều diễm trước mặt, không khỏi hứng khởi lên lập tức, nhưng nghĩ đến việc Tần quốc xuất binh không nên chậm trễ, nhưng lại không chịu bỏ qua dịp may hiếm có, hắn đưa tay ra kéo một cái, Nhược Tích ây da một tiếng ngả vào lòng hắn, Khánh Kỵ cúi xuống rúc đầu vào khe ngực mê hồn của nàng ta, hít lấy hít để mùi thơm thoảng thoảng tiết ra, hôn lên bầu ngực tròn trịa như trái đào của nàng, vẻ đê mê không nỡ rời xa, cười nham nhở: “Đó là ba vị mỹ nhân đề nghị với quả nhân đó nha, hí hí, nhưng… yến tiệc tạ lỗi này tạm thời phải gác lại, quả nhân đêm nay không thể ở trong cung, một lát nữa quả nhân phải rời khỏi Cô Tô thành, đích thân đi Nhâm gia bảo một chuyến.”

Nhâm Nhược Tích ngớ người, ngạc nhiên hỏi: “Đại vương đi… đi Nhâm gia bảo để làm gì?”

Khánh Kỵ nói: “Tất nhiên là đi gặp em gái nàng rồi, chính là Nhâm thị gia chủ hiện giờ Nhâm Băng Nguyệt nhị tiểu thư đó.”

Nhâm Nhược Tích, Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man cùng lộ vẻ mặt quái lạ, Khánh Kỵ lạnh toát cả sống lưng: “Không phải chứ? Các nàng lại nghi ngờ quả nhân có ý với Băng Nguyệt đó à?”

Thúc Tôn Diêu Quang phụng phịu: “Khi xưa bao vây tấn công Cô Tô thành, thiếp đã nhận ra rồi, hứ! Chàng nhìn nhị tiểu thư Nhâm gia ánh mắt khác với người khác, nếu không phải là sớm có ý đồ với người ta, nàng ấy gào thét chửi bới chàng, mạo phạm quân uy, sao không thấy chàng nổi giận, còn cười tủm tỉm có vẻ khoái trí lắm.”

Quý Tôn Tiểu Man hùa theo: “Đúng vậy đúng vậy, thiếp cũng từng nghe người hầu của Nhâm gia to nhỏ với nhau, Hứ! Hai tỉ muội Nhâm gia, chàng muốn đưa hết vào cung đó mà.”

Nhâm Nhược Tích không nói tiếng nào, trong lòng nghĩ thầm: “Đại vương quả nhiên động lòng với muội muội? Băng Nguyệt sau khi biết được đại vương từng nhìn thấy cơ thể của muội ấy, hình như cũng nảy sinh tình cảm với đại vương, tên nha đầu này trước giờ luôn ngang bướng, đột nhiên trở nên tỉ mỉ quan tâm biết người khác, mình còn nhất thời không đoán ra nguyên nhân, nhưng… muội ấy không thù ghét đại vương là được, nếu muội ấy quả thật được đưa vào trong cung, lúc đó…”

Khánh Kỵ không còn kiên nhẫn trừng mắt với ba mỹ nhân: “Thôi nha! Quả nhân muốn trút giận đây, từ khi đăng cơ ngôi vị Ngô vương, quả nhân ra sức trị nước, mỗi ngày đều bôn ba bận rộn, chỉ muốn làm một quân vương hiền đức, một chúa công sáng suốt, nỗi khổ của quả nhân có ai thấu hiểu? Chỉ có ba nàng, không phải suy nghĩ lung tung ta đi dan díu với nam nhân, thì là có ý đồ với người này người kia, ta còn tưởng các nàng là người hiểu ta nhất trên đời này, ba nàng ai cũng là hồng nhan tri kỉ của ta, ai mà ngờ… thật là tức chết quả nhân đi thôi.”

Nhược Tích nghe vậy có hơi hối hận, sợ lại hiểu lầm Khánh Kỵ, vội hỏi: “Vậy đại vương đi gặp Băng Nguyệt là vì chuyện gì?”

Khánh Kỵ quét mắt một lượt hết ba mỹ nhân, mới hậm hực trả lời: “Đương nhiên là vì chuẩn bị cho quốc quân Tần quốc một lễ vật lớn rồi.”

Ba cô gái đồng thanh kêu lên: “Ồ…”

“Các nàng hiểu ra rồi chứ?”

Nhược Tích thần sắc thiểu não: “Hiểu rồi!”

Diêu Quang hứ một tiếng: “Cũng là vì một nữ nhân!”

Tiểu Man ngún nguẩy: “Vì một nữ nhân của Tần quốc!”

Khánh Kỵ tức anh ách không nói nên lời…

Khánh Kỵ không cho rằng các hồng nhan tri kỉ của hắn ai cũng chuyên quyền như vị nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Hoa Võ Tắc Thiên, nhưng cho dù hắn có mang tư tưởng tiến bộ thời hiện đại thế nào đi chăng nữa, hắn vẫn cứ nghĩ là hậu cung tốt nhất là không can dự vào việc triều chính. Các phi tần ai cũng có gia tộc của mình, tương lai sẽ có con cái của riêng mình, cho dù rộng lượng hiểu biết cỡ nào, họ đều không thể không vì tình cảm riêng tư mà thiên vị cho thân nhân. Thuần khiết như ngọc trai, không mang chút vết ố, hôn nhân và tình yêu như thế chỉxuất hiện trong truyện cổ tích mà thôi, còn trong hiện thực cuộc sống, ai mà không bị các mối quan hệ xung quanh ảnh hưởng chứ?

Nếu bây giờ cho các nàng can dự quá nhiều vào việc triều chính, vậy dựa vào thân phận được sủng ái của các nàng, chắc chắn tạo được sức ảnh hưởng nhất định vào chính sự, tiếp đến là lôi kéo một số đại thần vì lợi ích riêng vào phe của mỗi nàng, sau này còn có khả năng xảy ra nhiều chuyện không vui khác. Vì vậy chi tiết về việc khuyên bảo Tần quốc xuất binh, Khánh Kỵ không hề tiết lộ với ba hồng nhan tri kỉ này nửa câu.

Công chúa Quý Doanh của Tần quốc xuất giá, Ngô quốc đã bỏ ra một số của cải lớn làm sính lễ, giờ Quý Doanh đang trên đường tới Ngô, ngay cả nàng ta trắng đen thế nào, mập ốm ra sao còn chưa biết, hơn nữa con gái lấy chồng xa như thau nước đổ ra ngoài, thân phận công chúa giờ đã chuyển sang đóng dấu ấn đại diện cho Khánh Kỵ, có chạy cũng không chạy đi đâu được rồi, Khánh Kỵ vào lúc này không có lí do gì lại khua chiêng đánh trống đem một mớ lễ vật tặng cho Tần quốc nữa. Chính vì thế ba cô nương nửa tin nửa ngờ lời giải thích của Khánh Kỵ.

Diêu Quang và Tiểu Man còn dễ nói, nếu Khánh Kỵ quả thật muốn tặng lễ vật cho Tần quốc, trong lòng hai nàng tuy có chút ganh tị khi Khánh Kỵ xem trọng Quý Doanh, nhưng thân phận cao quý của Quý Doanh là không thể chối cãi, họ cũng không còn gì để nói. Còn nếu tên háo sắc Khánh Kỵ này có ý đồ với Nhâm Băng Nguyệt, họ cũng không hề nghĩ tới hậu cung chỉ thuộc về ba tỉ muội, chắc sẽ còn nhiều mỹ nhân khác nữa vào chiếm mất địa vị của họ. Tính ra thì Nhâm Băng Nguyệt cũng là một cô nương tính tình thẳng thắn, hòa đồng với họ, nhưng Khánh Kỵ nhanh chóng có ý đồ với cô nương khác như vậy, trong lòng họ đương nhiên không cảm thấy vui chút nào.

Nhâm Nhược Tích lại nghĩ sâu xa hơn, nàng luôn suy nghĩ nếu như đại vương quả thật nạp Băng Nguyệt làm phi tần đưa vào cung, thực ra cũng không phải không tốt. Nữ nhân sớm muộn cũng phải lấy chồng, có phu quân của mình, Khánh Kỵ đương nhiên được nàng đánh giá tốt hơn hết thảy các nam nhân khác, hơn nữa nếu muội muội vào cung, địa vị của hai tỉ muội sẽ vững vàng hơn, sau này nếu hai người hạ sinh vương tử cho Khánh Kỵ, con của hai người cùng là vương tử nhưng xét về quan hệ máu mủ sẽ thân thiết hơn các vương tử khác, như thế cũng tốt hơn cho con của nàng, có lúc nàng lại nghĩ đến cảnh hai tỉ muội cùng hầu hạ một phu quân, cảm thấy xấu hổ e thẹn.

Nhâm Nhược Tích mấy lần muốn nhấc bút lên, định thừa lúc Khánh Kỵ chưa đến Nhâm gia bảo, dặn dò kĩ lưỡng muội muội vài lời, nhưng suy đi tính lại, không thể viết thư được, sự tình này đúng là không biết bắt đầu nói từ đâu, cuối cùng ném bút đi, than thở: “Nói không chừng là mình suy nghĩ lung tung thôi, có thể đại vương không hề có ý gì với Băng Nguyệt, hoặc là Băng Nguyệt không hề muốn vào cung, với tính khí của đại vương, chàng không dựa vào quyền thế cưỡng ép một nữ nhi vào cung hầu hạ đâu, thôi thì tất cả cứ cho ông trời sắp đặt vậy.”

Khánh Kỵ mặc kệ ba mỹ nhân của hắn nghĩ thế nào cũng được, có câu đường dài biết sức ngựa, tháng ngày thấy nhân tâm, phu phụ mới cưới, nhạy cảm với từng hành động của phu quân cũng là điều dễ hiểu, từ từ các nàng ấy sẽ thích nghi thôi, từ từ rồi cũng hiểu cái gì nên hỏi, các gì không nên hỏi, cái gì nên xen vào, cái gì không nên xen vào. Nói tóm lại là phải có một quá trình dạy dỗ, không nhất thiết phải sớm báo cáo chiều trình diện, phơi bày ra tất cả cho ba nàng thấy.

Thật ra ba cô gái suy nghĩ lung tung cũng có lí do, lí do chủ yếu nhất là Khánh Kỵ không cần thiết phải đích thân lo chuyện này, với địa vị đại vương của hắn, nếu muốn tuyển chọn binh khí làm lễ vật, cứ việc ra lệnh cho Nhâm gia bảo vận chuyển vũ khí vào Cô Tô thành là được, nhưng Khánh Kỵ lại đích thân tới đó, Nhâm Băng Nguyệt lại là một tiểu mỹ nhân yêu kiều quyến rũ, các nàng không suy nghĩ lung tung, không lo lắng Khánh Kỵ háo sắc làm bậy mới lạ.

Khánh Kỵ đích thân tới Nhâm gia bảo, lại có suy tính riêng của hắn. Mấy hôm trước người của Nhâm gia bảo vào thành bẩm báo, theo như nhắc nhở của đại vương, giờ đã luyện ra mẻ sắt chất lượng tốt hơn trước, Khánh Kỵ biết rõ vũ khí có tiến bộ, ảnh hưởng đến đại nghiệp của hắn đến mức nào.

Khi xưa Xi Vưu có thể tung hoành thiên hạ, Diêm, Hoàng nhị đế liên kết Thái Hạo, Thiếu Hạo bốn lộ binh mã mà còn đánh nhau vất vả với hắn, đến khi Xi Vưu tử trận, trong truyền thuyết còn miêu tả hắn là con quái vật ba đầu sáu tay, phong làm chiến thần, nhắc đến là biến sắc. Chỉ vì khi đó bộ lạc Xi Vưu đã biết sử dụng vũ khí đồng xanh, còn bộ lạc Diêm Hoàng chỉ sử dụng vũ khí gậy gộc đá tảng, nên sức chiến đấu chênh lệch rõ rệt, nếu họ không phải chiếm ưu thế về quân số, dân tộc Trung Hoa sau này có còn được xưng là Diêm Hoàng tử tôn hay không còn chưa biết được.

Đồ sắt so với đồ đồng, lại là một tiến bộ vượt bậc, trong thời đại giáp chiến bằng binh khí, chất lượng tốt xấu của vũ khí trong một chừng mực lớn quyết định sức chiến đấu mạnh yếu của đôi bên, chứ không phải hoàn toàn dựa vào huấn luyện quân đội. Dân số Ngô quốc có tăng nhanh cỡ nào, muốn đạt đến ngang bằng với các nước Tấn Tề Sở còn cần một khoảng thời gian dài, mà chất lượng vũ khí ưu việt hơn so với các quốc gia khác có thể bù đắp vào nhược điểm về quân số của quân Ngô.

Khánh Kỵ lần này đến Nhâm gia bảo không có thông báo trước, hắn có hơi ăn không tiêu cái kiểu khoa trương đón tiếp của Nhâm gia bảo, nên khi hắn đến dưới thành Nhâm gia bảo, trưởng lão trong thành mới nhận được tin, vội vàng cung kính ra đón tiếp.

“Được rồi, các vị trưởng lão bình thân. Quả nhân lần này bỏ lại hành trang đến Nhâm gia bảo, chính là không muốn các ngươi quá phô trương. Các vị lão nhân gia tuổi cao sức yếu, mời đứng dậy cả đi, không cần câu nệ lễ tiết quá làm gì. À phải, Nhâm nhị cô nương đâu?”

Một vị trưởng lão tóc bạc phơ vội bước lên bẩm tấu: “Hồi bẩm đại vương, gia chủ đang ở hậu sơn giám sát việc rèn luyện binh khí, tiểu nhân nghe báo đại vương giá lâm, vội chạy ra nghênh đón còn chưa kịp thông báo cho gia chủ biết, thật là thất lễ, tiểu nhân cho người đi…”

Khánh Kỵ hớn hở ngắt lời: “Không cần đâu, không cần đâu, muội ấy đang bận thì không cần ra đây đâu, quả nhân tới hậu sơn xem thử. À… các vị trưởng lão, quả nhân xưa nay không thích nhiều người theo sau, các vị đều đã tuổi cao, đi lại không tiện, thôi thì không cần đi theo quả nhân, phái một người nào đó dẫn đường là được.”

“Dạ dạ, tiểu nhân tuân lệnh đại vương.”

Trưởng lão kia vội vẫy tay gọi một gia nhân chạy đến, dặn dò dẫn đường cho Khánh Kỵ đến hậu sơn gặp Nhâm Băng Nguyệt. 

“Sao đại vương lại một mình đến gặp nhị cô nương, ngay cả đại cô nương cũng không dẫn theo?”

Một trưởng lão râu bạc bước tới trước mặt, nhón gót lên dò xét Khánh Kỵ đang định bước nhanh về phía hậu sơn.

“Nói cũng phải, còn không cần chúng ta đi theo, chẳng lẽ đại vương…?”

“Ừ, các gia nhân cũng đồn đoán cả lên, xem ra chuyện này là thật…” đại trưởng lão vuốt râu gật gù, tươi cười hớn hở: “Nhâm gia ta nếu có được hai vị hoàng phi, vậy còn công khanh thế tộc nào ở Ngô quốc bằng với Nhâm gia ta nữa? A ha ha ha…”

“Đại ca, đại ca, huynh đừng cười nữa, nhị cô nương suốt ngày ở với cả đám nam nhân tại công trường, đại vương mà nhìn thấy thì…”

Vị trưởng lão râu bạc đang cười toe toét chợt ngưng bặt, vẻ lo lắng hiện ra trên khuôn mặt: “Ây da, ta đúng là già quá đâm ra hồ đồ, mau, mau phái người chạy đường tắt đến báo với nhị cô nương thay đổi y phục, trang điểm sửa soạn một chút…”

Một tên gia nhân nhận lệnh vội vã chạy theo lối tắt vòng ra hậu sơn.

Trong một sơn động phía hậu sơn tiếng leng keng vang ra, phía trên nóc hai cột khói đen bốc cao, trong tiếng động hỗn tạp ồn ào, một gia nhân xông vào kéo Nhâm Băng Nguyệt ra khỏi sơn động. Khói hun đầy mặt, Băng Nguyệt đang hớn hở ra mặt, khen lấy khen để: “Hi, tên Khánh Kỵ này đúng là có chút tài cán, dùng đầu đá đen này tinh luyện nước sắt làm ra sản phẩm chất lượng tốt hơn trước nhiều lần, ha ha ha…”

“Nhị cô nương, đại vương tới Nhâm gia bảo rồi, đại bá bảo gia chủ nhanh quay về chỉnh trang sửa soạn…”

“Khánh Kỵ tới đây à? Vậy tỉ tỉ của ta đâu?”

“Ơ…không thấy có đại tiểu thư đi cùng.”

Nhâm Băng Nguyệt chống tay ngang hông, trừng mắt nghi hoặc: “Vậy hắn chạy đến đây làm chi? Bộ rảnh quá không việc gì làm à?”

Tên gia nhân chạy đến báo tin mình đầy mồ hôi, giậm chân liên hồi giục giã: “Nhị cô nương ơi, người ta là đại vương mà, muốn đi đâu thì đi cần báo cáo với chúng ta nguyên nhân lí do chứ?”

Nhâm Băng Nguyệt gật đầu: “Nói cũng phải, nhưng lúc này đang là thời khắc quan trọng của việc rèn luyện binh khí. Ta không muốn rời khỏi đây, ngươi đi báo với các trưởng lão bày yến tiệc tiếp đãi đại vương chu đáo, cho các cô ca kĩ múa hát góp vui cho hắn, ta lo xong việc sẽ đến gặp mặt.”

“Nhị cô nương, nhị cô nương à.” Người kia kéo vội tay áo của Nhâm Băng Nguyệt, nói gấp gáp: “Không được đâu, đại vương đang đi đến đây đó.”

Nhâm Băng Nguyệt trợn mắt nhìn tên gia nhân, rồi lại đưa tay sờ lên trán của hắn, hậm hực nói: “Tứ ca à, bộ não của ngươi có vấn đề hay sao? Nếu hắn đang đi đến đây, còn bảo ta đi thay y phục trang điểm để làm gì. Quả thật là nhảm nhí, thôi được rồi, ngươi cứ đứng chờ ngoài này, khi nào hắn tới thì gọi ta, ta đi vào lo việc tiếp…”

“Không được đâu nhị cô nương, đại bá có dặn…” Tên Tứ ca đó kéo lấy tay áo Nhâm Băng Nguyệt không chịu buông, đúng lúc này xe ngựa của Khánh Kỵ đã chạy băng băng tới sơn động, chỗ này hắn cũng từng tới qua, biết là Nhâm Băng Nguyệt đang ở đây, hắn nôn nóng bỏ lại tên gia nhân dẫn đường, chạy nhanh đến trước.

“Nhâm Băng Nguyệt cô nương đang ở đâu?” Khánh Kỵ nhìn thấy có hai bóng người xa xa, bèn cất cao giọng hỏi.

Khánh Kỵ đang mặc thường phục, Nhâm Băng Nguyệt bị ánh nắng chói vào mắt chưa nhìn rõ được tướng mạo của hắn, liền hung hăng quát lên: “Tên khốn nhà ngươi là đệ tử thuộc phòng nào, không biết lớn nhỏ gì cả! Tên của bổn cô nương mà ngươi dám gọi thẳng vậy hả?” 

Khánh Kỵ giật mình, vội tiến tới vài bước nhìn kĩ lại, thấy người trước mặt ăn mặc như một nam nhân, chiếc áo vải thô không khác gì các tạp dịch kia, đầu tóc rối tung, mặt đen sì sì, chỉ có đôi mắt đang chớp chớp, nhìn mắt mũi tai miệng của hắn cũng tao nhã, hình như là…

Khánh Kỵ kinh ngạc kêu lên: “Nhâm Băng Nguyệt!”

“Hừ, to gan, ngươi còn dám gọi nữa! Tên tiểu tử không biết phép tắc nhà ngươi, ngứa ngấy mình mẩy có đúng vậy không hả?” Nhâm Băng Nguyệt gằn giọng dọa nạt, tiến tới một bước, đưa mặt sát vào người đối diện, chợt giật nảy mình kinh hãi: “Đại vương!”

Tên gia nhân kia vội qùy xuống hành lễ, Khánh Kỵ ngơ ngác nhìn bộ dạng của Nhâm Băng Nguyệt, hoàn toàn không giống với hình ảnh cô nương mỹ miều trong kí ức của hắn: “Muội…muội sao mà ăn mặc thế này?”

“Ăn mặc thế này thì sao?” Nhâm Băng Nguyệt ngạc nhiên giơ tay lên nhìn hồi lâu, sau đó phân trần: “Tỉ tỉ nói muốn làm một gia chủ hợp tiêu chuẩn phải tận lực góp sức, hiểu rõ việc nhà như lòng bàn tay, như thế người ta mới không lừa gạt mình được, nên muội mới đến giám sát quá trình tinh luyện binh khí, mình phải hiểu rõ cách làm mới được đúng không nào? Không ăn mặc thế này chẳng lẽ mặc áo lụa tơ tằm vào công trường à?”

Nhâm Băng Nguyệt giải thích một hồi, bản thân cũng cảm thấy tức cười, nhịn không được bật cười hô hố.

Khánh Kỵ thấy hơi tức cười, nhưng lại thấy an tâm: “Ờ, thật là đáng khen, Nhâm nhị tiểu thư trước đây ngay cả bình dầu nghiêng đổ cũng không chịu đưa tay đỡ lấy nay đã hiểu chuyện, khôn lớn rồi nhỉ, hô hô…, nhưng nữ nhân vẫn cứ là nữ nhân, sao muội nói năng trở nên hung dữ quá vậy?”

Nhâm Băng Nguyệt dáo dác nhìn xung quanh, lại gần Khánh Kỵ nhón gót lên ghé tai hắn nói nhỏ: “Suỵt, đừng la to, muội giả bộ thế đấy, tỉ tỉ nói những người làm công nhà muội toàn là bọn nam nhân vạm vỡ thô lỗ, mấy tên đó khó dạy bảo lắm, chúng hung dữ thì muội phải hung dữ hơn chúng, chúng làm tới thì muội độc ác luôn, như vậy mới khống chế chúng được. Hi hi, muội làm ra bộ dạng dữ tợn, đúng là chúng tỏ ra nghe lời, còn ngoan ngoãn hơn lúc tỉ tỉ còn ở đây.”

Nói đến thành tích, Nhâm Băng Nguyệt vênh mặt đắc ý, ra vẻ ta đây tài giỏi.

Khánh Kỵ thấy tức cười nói: “Nhưng…khi xưa tỉ tỉ của muội làm gia chủ đâu có giống như muội bây giờ?”

Nhâm Băng Nguyệt bướng bỉnh lắc đầu: “Muội có cách riêng của muội, đương nhiên khác với tỉ tỉ rồi. À phải, đại vương, sao tỉ tỉ không cùng đến đây với ngài, muội hơi nhớ tỉ ấy.”

“Hô hô, nếu nhớ tỉ tỉ thì muội hãy đến Cô Tô gặp nàng ấy, lần này quả nhân không tiện đưa nàng ấy đi theo.”

“Sao mà không tiện?” Nhâm Băng Nguyệt xoay tròn đôi mắt, nhảy nhót xung quanh: “Hay là tỉ tỉ sắp sinh rồi?”

“Nha đầu này!” Khánh Kỵ khóc cười không được lườm Băng Nguyệt một cái: “Vừa mới khen muội thông minh nay lại trở về ngờ nghệch rồi à, mới đại hôn có hơn một tháng sao mà sinh được?”

“Ây da!” Nhâm Băng Nguyệt tự gõ vào đầu mình, lại tủm tỉm bí hiểm nói: “Đừng có gạt muội, tuy tỉ tỉ mới vào cung chưa lâu, nhưng mà…he he…người ta đâu có ngốc, tưởng muội không nhìn thấy à? Hứ…”

Khánh Kỵ xấu hổ trong lòng, nhủ thầm: “Nha đầu này có ý là…, Nhược Tích không phải nói cả chuyện đó cho muội muội nghe chứ?”

Hắn làm ra vẻ nổi giận: “Nha đầu, muội không phải ngốc, mà là ranh ma, được rồi chứ? Thôi không nói chuyện này nữa, quả nhân nghe nói Nhâm gia bảo đã luyện được mẻ sắt hảo hạng, lần này đến đây xem thử coi sao. Muội đừng để quả nhân thất vọng, mau đem binh khí đã rèn xong lại đây cho quả nhân xem qua.”

Nói đến binh khí, Nhâm Băng Nguyệt hưng phấn cả lên, quả nhiên quên béng hết chuyện tào lao vừa nãy: “Đại vương, chúng thần nghe theo cách luyện sắt mà đại vương chỉ bảo, đúng là chất lượng binh khí được nâng cao rõ rệt, nhưng hãy còn chút giòn, đánh kiếm vào nhau thử thì so với trước số lần va chạm tăng lên bốn phần, nhưng đến sau cùng cũng khó tránh gãy tan, chúng thần không ngừng thử lại, thêm vào các loại vật liệu, xây thêm lò rèn, tăng cường độ che kín, nâng nhiệt độ lên, rốt cuộc tìm được loại đầu đá đen đại vương đã nói đến…”

Khánh Kỵ nôn nóng muốn biết, vội hỏi dồn: “Kết quả thế nào?”

Nhâm Băng Nguyệt lè lưỡi: “Vẫn chưa được.”

Khánh Kỵ tức tối, đưa tay định cốc đầu cô nương, Nhâm Băng Nguyệt nhảy phốc sang một bên, cười hi hi nói: “Nhưng sư thúc của muội lại nghĩ ra một cách, đồng dẻo mà không bền, sắt cứng nhưng không dai, sư thúc thử trộn đồng và sắt theo tỉ lệ với nhau tiến hành rèn thử, hy vọng hai loại kim loại này bổ sung khiếm khuyết cho nhau…”

Khánh Kỵ nghe thấy có chút hy vọng, lại hỏi dồn: “Lần này thì sao?”

“Hi hi, thành công rồi!”

Khánh Kỵ mừng rơn: “Thật đó à?”

“Đương nhiên là thật.” Nhâm Băng Nguyệt ngạo nghễ vênh mặt, sau đó lại xìu xuống: “Nhưng chất lượng kiếm rèn ra không được ổn định lắm, lúc tốt lúc không tốt, chúng thần bèn không ngừng thí nghiệm, trước sau tổng cộng đã rèn ra hơn ba ngàn thanh kiếm, số kiếm này có sắc bóng hơn kiếm thường rất nhiều, nhưng khó tránh khỏi vẫn còn tì vết, sư thúc từ hơn ba ngàn thanh kiếm này đúc kết ra một số kinh nghiệm, hôm nay đang rèn thử tiếp, lần này rèn thử mười thanh đồng thiết kiếm, nếu thành công, vậy có thể chứng minh cách của chúng ta là đúng, đến lúc đó…”

Vừa nói đến đây, trong động vang lên tiếng tung hô háo hức như sóng lớn xô bờ, sau đó một bóng người gầy gò lủi thủi từ trong sơn động bước ra, trên tay cầm thanh kiếm dài độ ba thước, đang hoan hỉ kêu to: “Nhị tiểu thư, thành công rồi, nhị tiểu thư, thành công rồi, mười thanh kiếm đều rèn thành công hết.”

“Cái gì?” Nhâm Băng Nguyệt thoáng chốc ngạc nhiên rồi hùa theo tiếng reo hò phấn khích, bỏ mặc Khánh Kỵ chạy về phía người kia, hỏi han vài câu, ôm chầm lấy nhau, vừa cười vừa nhún nhảy.

Khánh Kỵ nhìn vào người này, cùng là ăn mặc áo bào ngắn vải thô, mặt mũi bị khói hun đen nhẻm, lại toát ra vẻ tinh nghịch, hình như là thị nữ cận thân Thanh Vũ của Nhâm Băng Nguyệt.

“Băng Nguyệt, lần này…thành công rồi có đúng không?”

Đợi khi cơn phấn kích của hai người qua đi, Khánh Kỵ mới chế ngự niềm vui sướng dâng lên trong lòng, bước lại gần hỏi chuyện.

“Đúng vậy, mời đại vương xem, đây chính là thanh kiếm sắc bén mới rèn xong, mười thanh kiếm chất lượng giống nhau, cuối cùng chúng ta đã tìm ra cách giữ ổn định chất lượng mẻ sắt rồi, ha ha ha…”

Có lẽ là đóng vai nam nhân lâu rồi, Nhâm Băng Nguyệt không còn biết giữ ý tứ nữ nhi nữa, cười khanh khách một hồi, đưa tay đón lấy thanh kiếm từ Thanh Vũ, dâng lên cho Khánh Kỵ xem qua.

Thanh kiếm tuy hãy còn thô kệch, chưa được mài dũa đánh bóng, chưa có đầu nhọn, chuôi kiếm cũng chưa có, sau khi rèn xong để tiện cho việc thử kiếm nên chỉ dùng vải bố quấn lấy một đầu để cầm. Khánh Kỵ đưa kiếm lên xem xét tỉ mỉ, thân kiếm tuy chưa qua mài giũa còn hơi thô, có vài chỗ nhẵn nhụi, dùng tay sờ lên có cảm giác ran rát, ánh kiếm vừa giống màu đồng vừa như màu sắt, ẩn hiện lấp lánh sắc lạnh của kim loại, vì màu đồng âm u, hơn nữa kiếm chưa được mài, không nhìn ra độ sắc bén và độ cứng của nó.

Khánh Kỵ cầm kiếm trên tay, múa vài đường qua lại, quét một vòng thu kiếm lại, sau đó đưa tay tháo Thừa Ảnh kiếm dưới thắt lưng ra, mỉm cười với Nhâm Băng Nguyệt: “Nào, cầm lấy!”

Hắn ném cả thanh kiếm qua đó, Nhâm Băng Nguyệt đưa tay bắt lấy, đưa gần nhìn thấy hàng chữ khắc trên chuôi kiếm, kinh ngạc kêu lên: “Thừa Ảnh bảo kiếm!”

“Đúng vậy, chính là Thừa Ảnh kiếm.” Khánh Kỵ xoay xoay vai, múa nhè nhẹ thanh kiếm mới rèn trên tay, phát ra giọng âm u: “Nào, muội dùng Thừa Ảnh kiếm, vận hết sức chém ta một kiếm nào.”

“Cái gì?”

Nhâm Băng Nguyệt biến sắc, vội lắc đầu nguầy nguậy: “Không được không được, Thừa Ảnh kiếm là thần khí nổi danh trong thiên hạ, sắc bén vô cùng, thanh kiếm muội rèn có tốt đến đâu cũng khó mà so sánh với thần khí này, ngộ nhỡ đả thương đại vương, lúc đó có chặt Băng Nguyệt ra làm trăm mảnh cũng không đền hết tội, Không làm đâu, không làm đâu, muội đâu có ngu.”

“Kêu muội làm thì cứ làm đi, quả nhân sợ muội chân yếu tay mềm nên mới đưa muội cầm Thừa Ảnh kiếm, quả nhân cầm kiếm này để đỡ. Yên tâm đi, nếu kiếm có gãy, quả nhân tự biết né tránh, dựa vào sức và thân thủ của muội không làm ta thọ thương được đâu. Nào, nghe lời đi, dùng hết sức chém vào ta.”

“Nhưng…muội…” Nhâm Băng Nguyệt khó xử, chỉ biết đứng đó lắc đầu.

Khánh Kỵ trừng mắt nghiêm nghị: “Nhâm nhị tiểu thư không sợ trời không sợ đất sao giờ trở nên nhát gan rồi? Yên tâm đi, quả nhân đứng né sang một bên, sẽ kịp tránh ra mà, nào, chém đi!”

“Thế thì…, thôi được!” Nhâm Băng Nguyệt cắn chặt răng, dồn hết tất cả lòng can đảm, từ từ giơ kiếm lên.

Thanh Vũ và hai tên gia nhân đứng kế bên nín thở theo dõi, Viên Tố đưa tay nắm chặt chuôi kiếm, chỉ cần tình hình không hay, lập tức xuất kiếm chống đỡ cho Khánh Kỵ.

“Hây ya!” Nhâm Băng Nguyệt khẽ hét lên, ưỡn lưng vận sức, hai tay giơ thẳng thanh kiếm lên cao, chém xuống một nhát mạnh.

“Keng” vang lên lảnh lót, hai kiếm va nhau, Khánh Kỵ vẫn đứng vững, thu kiếm lại trước ngực đưa ngón tay vuốt nhẹ, sau đó giơ kiếm lên lần nữa, gằn giọng: “Tốt lắm, chém một nhát nữa nào.”

Nhâm Băng Nguyệt khom lưng giữ chặt kiếm, hai mắt mở to, thấy thanh kiếm của Khánh Kỵ không suy suyển gì, thế mới yên tâm thở phào, không những to gan hơn mà còn vui mừng ra mặt, vừa nãy nàng không dám dùng hết sức, chỉ sử dụng bảy phần sức lực thôi, lần này tự nhiên muốn thử tiếp coi sao: “Đại vương cẩn thận, muội chém đây, Hây!”

Nhâm Băng Nguyệt lui lại mấy bước tạo thế, như chú mèo con đang chuẩn bị vồ mồi, đột nhiên nhảy lên không trung, vung kiếm sáng loáng, chém một nhát mạnh xuống, chỉ nghe “Choang” một tiếng vang lên khô khốc, Nhâm Băng Nguyệt tiếp đất lảo đảo, sau khi đứng vững mới đưa mắt nhìn Khánh Kỵ, nửa thanh kiếm gãy rơi keng xuống dưới đất.

Trong khoảnh khắc, tất cả mọi người đều nghệch mặt ra, người nào người nấy đứng trưng trưng như pho tượng gỗ, Nhâm Băng Nguyệt đang cầm thanh Thừa Ảnh kiếm bị gãy, không dám tin vào mắt mình, thất thanh tự nhủ: “Sao lại có thể…sao mà như vậy được…, nó…nó là Thừa Ảnh thần kiếm mà!”

Khánh Kỵ cũng cảm thấy bất ngờ, giơ thanh kiếm trên tay lên, ngửa mặt cười to, tiếng cười của hắn văng vẳng vang vọng trong khe núi: “Ha ha ha…, kiếm tốt, kiếm tốt, quả nhiên là kiếm tốt, ha ha ha…”

Hắn thấy Nhâm Băng Nguyệt đang đứng trơ ra đó, vội thu kiếm bước lại gần, vỗ vào nàng ta một cái, mỉm cười nói: “Này, có phải rèn ra được thanh kiếm tốt, vui quá khờ mất luôn rồi?”

Nhậm Băng Nguyệt nghi ngờ nhảy cẫng lên: “Không thể nào, tuyệt đối không thể nào, đại vương dùng kiếm gì đó gạt muội? Đây không phải là Thừa Ảnh kiếm đúng không? Sao muội có thể rèn ra kiếm chém gãy Thừa Ảnh kiếm được, điều đó là không thể nào…”

“Có gì mà không thể?” Khánh Kỵ đang vui, cười tủm tỉm nói: “Đừng cho là những thứ cổ xưa được truyền tụng là tốt nhất, mà cho dù có tốt nhất cũng là lúc bấy giờ, lưu truyền đến nay thì người ta chỉ còn nhớ truyền thuyết về nó, lại quên đi năm tháng trôi qua, Thừa Ảnh kiếm chém đinh chặt sắt, điều đó không sai, nhưng nó chém đinh chặt sắt không phải kim loại của hôm nay, kim loại mấy trăm năm trước tinh luyện ra sao có thể so sánh với hôm nay chứ? Chúng ta rèn ra binh khí tốt hơn người xưa là chuyện bình thường, nếu ngược lại không bằng người xưa, há chẳng phải trở thành trò cười à?”

Người trong động vẫn chưa trấn tỉnh sau cơn mê, danh tiếng của Thừa Ảnh kiếm quá lớn, tuy nói nó tồn tại đã lâu, nhưng trong quan niệm của họ một thanh bảo kiếm được truyền tụng lâu đời bỗng chốc biến thành đống sắt vụn, họ đương nhiên chưa thể chấp nhận.

Khánh Kỵ lại cảm thấy thỏa mãn, hí hửng nói tiếp: “Quả nhân từng nghe kể một câu truyện, có một hiệp khách, từ bé đã khổ luyện võ nghệ, luyện được một thân võ nghệ cao cường vạn người khó địch, hắn còn thiếu một thanh bảo kiếm, thế là đi khắp chân trời góc biển tìm thần binh lợi khí. Trải qua rất nhiều năm, cuối cùng hắn cũng tìm được một thanh kiếm quý được xưng tụng ngàn đời, sau đó hắn cầm kiếm đi khiêu chiến với người khác, kết quả bị đâm một nhát, kiếm gãy, còn hắn chết tươi.

Hừ, nếu hắn tay không quyết đấu, với võ nghệ đó không dễ bỏ mạng, tên ngốc đó chính là chết vì quá tin tưởng vào danh tiếng xưng tụng của người xưa, không biết rằng vạn vật trên thế gian đều không ngừng phát triển, cái trước đây không mạnh bằng cái bây giờ, cái bây giờ sẽ kém hơn cái sau này, sao lại có món gì từ thời thượng cổ lại tốt hơn bây giờ chứ? Chỉ là lòng người cứ tin là thế mà thôi, chính vì tin thế nên không dám so sánh, còn đem ra so sánh thử thì như thế đó… Ha ha ha…”

Nhâm Băng Nguyệt ngây ngô một hồi, cũng đang đứng đó lẩm bẩm: “Hay quá, mình lại làm ra được binh khí tốt hơn cả Thừa Ảnh kiếm. Phụ thân, tỉ tỉ, đại vương, vì rèn ra kiếm tốt, muội đã rèn hơn ba ngàn thanh kiếm, ngài không thể vì có thanh kiếm này rồi, bỏ hết ba ngàn mấy cây kia đó, tốn bao nhiêu là tiền, hiện giờ các nước ngưng chiến, lại không bán ra được…”

“Nha đầu ham tiền này, ha ha, yên tâm đi, có người mới đưa tới cho quả nhân cả một thuyền kì trân dị bảo, ta dùng một phần ba đổi lấy ba ngàn thanh kiếm kia, nhưng Nhâm gia bảo phải phụ trách chuyển chúng đến bến tàu, quả nhân muốn dùng làm lễ vật tặng người khác.”

“Được, được mà…” Nhâm Băng Nguyệt làm ra thanh kiếm tuyệt thế, ba ngàn thanh kiếm kia lại bán ra được, gật đầu lia lịa như gà con mổ thóc.

Đúng lúc này, các thợ rèn trong động ùa cả ra, vừa thấy Nhâm Băng Nguyệt, vội dừng bước tung hô: “Nhị cô nương, chúng ta thành công rồi, chúng ta thành công rồi…”

Một gia tướng kế bên thấy hình như đám thợ không để ý có Khánh Kỵ ở đó, vội ho một tiếng, cất giọng lảnh lót: “Đừng kêu gào nữa, trước mặt đại vương không được vô lễ.”

Đám thợ rèn ai nấy thất kinh hồn vía, vội quỳ xuống dập đầu: “Tiểu dân tham kiến đại vương.”

Khánh Kỵ giờ này quá đỗi vui mừng, đâu trách cứ mấy chuyện nhỏ nhặt này, bèn xua tay: “Miễn lễ miễn lễ, bình thân, đứng dậy cả đi.”

Nhâm Băng Nguyệt bước tới đỡ một người trong đám thợ đang quỳ, tươi cười hớn hở giới thiệu với Khánh Kỵ: “Đại vương, vị này chính là tiểu sư thúc của muội, cùng phụ thân và sư bá Âu Dã Tử của muội bái một vị sư phụ học thuật rèn binh khí.”

“Hử?” Khánh Kỵ vội bước đến xem mặt vị tiểu sư thúc, người này mới ngoài ba mươi, nước da ngâm đen, thân hình vạm vỡ, khuôn mặt nở nụ cười sâu hoắm, trên mặt trên cổ toàn là vết sẹo do lúc rèn sắt bị tia lửa bắn phải, có hơi rợn người. Khánh Kỵ không câu nệ đưa tay nắm lấy bàn tay chai sừng của hắn, mở lời khen ngợi: “Ngươi rèn ra loại kiếm tốt thế này, lập được công lao lớn cho Ngô quốc ta, ngươi tên gì vậy?”

Nhâm Băng Nguyệt nói xen vào: “Vị tiểu sư thúc của muội tên là Can Tương.”

“Can Tương ư?”

Đến lượt Khánh Kỵ ngạc nhiên kêu lên: “Can Tương! Vậy Mạc Tà đâu?”

“Ơ, sao ngài biết tên sư thẩm của muội?” Nhâm Băng Nguyệt vui mừng nhún nhảy tưng tưng, lại kéo một người bước ra: “Vị này chính là tiểu sư thẩm của muội Mạc Tà nè.”

Hai phu phụ Can Tương, Mạc Tà là nhân vật có tiếng tăm trong nghề rèn binh khí, nhưng cơ hội tiếp xúc với quan phủ không nhiều, đâu dám mơ được gặp Ngô vương Khánh Kỵ. Hai người run lẩy bẩy bước tới bái lạy Khánh Kỵ, cứ quỳ mọp dập đầu liên tục, trong một lúc không biết nói gì mới phải.

Khánh Kỵ đang vui, bèn lấy lí do có công lao rèn kiếm, gia phong Can Tương làm hạ đại phu, nhận chức ti quan dưới quyền đại tư không, khiến Can Tương vốn bộc trực nhân hậu nhất thời kinh hãi há hốc miệng.

Khánh Kỵ mỉm cười: “Quả nhân xưa nay luôn trọng người tài, với trường hợp của ngươi, có công lao lớn sáng tạo binh khí lợi hại cho Ngô quốc ta nên mới được gia phong chức quan, không phải quả nhân cố tình thiên vị đâu, ái khanh không cần chối từ. Gia nghiệp của Nhâm gia là chế tạo binh khí, có mối quan hệ mật thiết với phát triển của Ngô quốc, đầu năm nay triều đình đã bỏ tiền liên doanh cùng Nhâm gia. Có triều đình chống đỡ, Nhâm gia cứ an tâm tiến hành sáng tạo và rèn ra binh khí tốt. Ngươi sau khi nhận chức quan, vẫn ở lại Nhâm gia, vừa là thợ rèn thuộc Nhâm gia, vừa là quan viên của triều đình, hy vọng ngươi không ngừng cải tiến, rèn ra vũ khí lợi hại hơn nữa.”

Can Tương từ một thợ rèn bình thường, nhảy vọt lên trở thành đại phu thân phận cao quý, làm quan trong triều đình, trong một lúc vừa mừng vừa lo, cứ như đang lơ lửng ngoài chín tầng mây, chỉ biết đứng đó cười ngây ngây dại dại, Mạc Tà thê tử của hắn kế bên kéo nhẹ vạt áo nhắc nhở hắn, Can Tương giật mình vội quỳ xuống khấu đầu tạ ân.

Tin Can Tương được gia phong chức quan lập tức được truyền tụng trên dưới Nhâm gia bảo, các thợ rèn tài năng ngày thường không hề thua kém Can Tương về thân phận, địa vị, thậm chí còn được hắn xưng là lão sư phụ, bây giờ gặp hắn phải cung kính gọi một tiếng đại phu, tất nhiên trong lòng có hơi không phục, đều ngấm ngầm tự nhủ mình phải cố gắng ra sức tạo ra bước phát triển mới trong lĩnh vực rèn binh khí.

Điều này vừa đúng ngay ý muốn của Khánh Kỵ, đạo lí nói một ngàn lần, không bằng một hành động cụ thể bày ra. Một thợ rèn có phát minh sáng tạo độc đáo thì được làm quan, việc này ở những nơi khác là không thể tưởng tượng, những người có tài năng thật sự, đặc biệt là những ai có bản lĩnh cao nhưng thân phận thấp hèn chắc chắn sẽ nghe tin tìm đến, điều đó có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển tiến bộ vượt bậc của Ngô quốc.

Hiện nay các nước trong thiên hạ khó phát triển tiếp, trong một chừng mực lớn là do chế độ cũ sản sinh ra sức cản, các công khanh quý tộc nắm giữ triều chính, phong tỏa đường tiến cử của nhân tài. Ví dụ như Tề và Lỗ, bao nhiêu năm qua đều là thượng khanh thế khanh nắm quyền triều chính, cả triều thần văn võ đều xuất thân dòng dõi quý tộc, tuy hiện nay vẫn được xem là cường quốc, nhưng Tề quốc đang bắt đầu lụn bại, Lỗ quốc thì chìm xuồng từ lâu, đó là một lí do quyết định sự hưng suy của đất nước là vậy.

Lễ vật hai nước Vệ Tống dùng hối lộ Tần quốc, chẳng qua chỉ là châu báu mỹ nữ, như thế không đủ đánh động Tần quốc, hơn nữa hiện giờ Khánh Kỵ không muốn để quốc quân Tần quốc ôm mỹ nhân uống rượu xem ca vũ, vùi đầu hưởng lạc, rút vào Quan Trung sống qua ngày, Tần quốc hiện nay không yếu cũng không mạnh rất có lợi cho phát triển của Ngô quốc, nhằm nâng cao sức chiến đấu của quân Tần, hắn muốn lấy một phần châu báu của Vệ quốc thu mua binh khí từ Nhâm gia đem tặng Tần quốc, một là có thể cổ vũ Nhâm gia tiếp tục sản xuất, bỏ vốn vào xong lấy ra sau;

Hai là ba ngàn thanh kiếm hảo hạng, đủ để trang bị cho cả một đội quân, giúp quân Tần nâng cao sức chiến đấu khi giao chiến với quân Tấn. Điều quan trọng nhất là, sau khi quân Tần chứng thực sự lợi hại của món binh khí này trên chiến trường, liên minh của Tần và cả kẻ địch đều sẽ biết số binh khí này xuất xứ từ Ngô quốc. Lúc đó nói về thực lực của Ngô, các nước chư hầu trung nguyên sẽ không dám xem thường.

Đồng thời, sẽ có rất nhiều quốc gia thông qua đường lối khác nhau chạy đến Ngô quốc thu mua binh khí, Ngô dùng Tần quảng cáo giùm binh khí trên chiến trường, sau đó làm ăn buôn bán binh khí với chư hầu thiên hạ, thông qua buôn bán binh khí đổ dầu vào lửa cho các nước chư hầu xung đột, từ đó xúc tiến phát triển sự ảnh hưởng của Ngô lên các nước khác.

Ngược lại thu nhập kếch sù ổn định từ việc buôn bán binh khí sẽ đảm bảo duy trì cho thế phát triển kinh tế Ngô quốc, cùng lúc với kiếm chác lợi nhuận từ chiến tranh, địch yếu ta mạnh, một hành động đem lại nhiều lợi ích. Tất nhiên, kĩ thuật rèn kiếm ưu việt nhất, Ngô quốc sẽ giữ bí mật không truyền ra ngoài, trừ khi họ lại nắm giữ vũ khí tân tiến hoặc lợi hại hơn, lúc đó mới bán tháo đống vũ khí cũ thay bằng cái mới.

Chiếc thuyền lớn chở đầy binh khí Nhâm gia lướt băng băng trên sông đi về phía Tần quốc, sau khi đụng mặt với thuyền chở châu báu của Vệ quốc giữa đường, Khánh Kỵ sẽ lấy ra một phần lễ vật ngang giá của hai nước Vệ Tống giao cho Nhâm gia. Trong chuyến mua bán này, hắn không muốn chiếm lợi từ hai nước Vệ Tống, chỉ cần Tấn quốc chia rẽ đem lại cơ hội phát triển cho hắn là quá đủ rồi, hơn nữa… người nhờ cậy hắn lại là Nam Tử, hắn không muốn ức hiếp Nam Tử, nếu muốn… cũng không nên ức hiếp kiểu này.

Lần này, sứ giả được cử sang Tần là Văn Chủng, một sứ giả khéo tài ăn nói chính là cốt lỏi quyết định thành bại của sự việc, Úc Bình Nhiên và Phạm Lãi còn chưa trở về, nhân tài mà có thể khiến Khánh Kỵ yên tâm cử đi thay mặt hắn ngoại giao với các nước chư hầu, không là Văn Chủng thì còn ai khác? Sau khi Văn Chủng khởi hành, Khánh Kỵ có tiến hành điều chỉnh nhân sự trong triều đôi chút, sau khi Thiếu Chánh Mão vào cung bàn luận với Khánh Kỵ mấy lần, trình bày kiến giải về chính trị của hắn xong, Ngô vương vui mừng chính thức phong Thiếu Chánh Mão làm đại tư khấu, Xích Trung bị bãi miễn chức vụ thượng khanh, để bù đắp an ủi, gia phong hắn làm thượng tướng quân, trở thành vị thượng tướng quân thứ ba của Ngô quốc.

Xích Trung vốn thích dẫn binh, hơn nữa Khánh Kỵ chịu giao binh quyền cho hắn, rõ ràng là dẹp bỏ nghi kị khi xưa vì hắn dao động, Xích Trung mừng còn chưa kịp, không hề có chút không vui. Đại tư không Ngô quốc vẫn là Chúc Dung, nhưng Chúc Dung tự biết mình bị đào thải khỏi trung tâm quyền lực, thôi thì mặc kệ cứ buông xuôi ở tại Việt quốc là thái thượng hoàng, chốc chốc lại ra lệnh với Việt quân Doãn Thường cho oai, sau đó tận hưởng cảm giác được mỹ nhân Việt quốc hầu hạ, tiêu diêu tự tại, cũng không thèm về nước. Khánh Kỵ chỉ muốn hắn đừng kè kè kế bên chướng tai gai mắt, nên ủy phái Giới Khanh tiếp quản công việc của Chúc Dung ở Ngô quốc.

Thiếu Chánh Mão nô tài tùy giá Lỗ quốc được phong Đại tư khấu, một thợ rèn Nhâm gia bảo được ban chức quan đại phu, hai tin này đẩy danh tiếng trọng người tài của Khánh Kỵ lên tận mây xanh, những người tự cho là có tài năng nhưng không được trọng dụng, không thể thăng quan tiến chức của các nước chư hầu ùn ùn kéo đến Ngô quốc, nhiều hơn cả cá chép bơi sông. Dưới trướng Khánh Kỵ người tài tề tụ, văn võ đầy đủ, ai nấy đều tài năng xuất chúng, ban lệnh xuống thực thi nghiêm chỉnh nhanh chóng, mùa xuân năm đó biến thành mùa xuân của Ngô quốc, Ngô quốc từ từ bước vào kỉ nguyên phồn vinh, thế nước thăng hoa như diều gặp gió…

Bức Dương thành, quân đội của Triển Chích vừa mới ổn định xong, hắn lê tấm thân mệt mỏi đi thị sát khắp doanh trại. Triển Chích về đến đại doanh, cùng các tướng bàn bạc hành động bước tiếp theo phải làm thế nào, các tướng lĩnh của hắn không ai có tầm nhìn toàn cục, ai nấy huyên thuyên ồn ào đưa ra ý kiến, nhưng đều là nên trốn vào ngọn núi này con sông kia, hoặc là lui về nơi hẻo lánh nào đấy, nhìn toan tính của bọn chúng hình như vẫn muốn bám víu lấy cái nghề đạo tặc cướp bóc. Màn đêm buông xuống, Triển Chích bị bọn người này làm cho bực bội, chỉ còn cách ra lệnh tạm ngưng bàn bạc, ai nấy về lều nghỉ ngơi sau này hẵng tính tiếp.

Trọng Lương Hoài và các tướng vừa ra khỏi đại doanh, thừa lúc không ai để ý bèn quẹo vào túp lều của Công Sơn Bất Nữu. Công Sơn Bất Nữu mới đặt chân vào lều, Trọng Lương Hoài bám theo sau lách vào.

“Bất Nữu, Triển Chích sắp hết thời rồi, chúng ta phải sớm giữ thân. Điều kiện của Ngô vương Khánh Kỵ đưa ra, huynh suy nghĩ đến đâu rồi?”

Nhận được thư hồi âm của Ngô vương Khánh Kỵ, Công Sơn Bất Nữu do dự không quyết, vẫn chưa dám đưa ra quyết định. Sau đó, Triển Chích đưa quân tấn công Hư Khấu, khổ chiến một trận với Dương Hổ, vì quân Lỗ không ngừng tăng binh lực, xem ra sắp tạo thành thế bao vây, hắn bị ép lui quân chuyển sang đánh Chúc Khâu, lại đụng độ liên quân của nữ vương Đông Di Doanh Thiền Nhi và đại tướng Ngô quốc Lương Hổ Tử, phen này thua còn thê thảm hơn, chỉ biết thu thập tàn quân trốn về Thường Ấp.

Thường Ấp nằm tại vùng hồ Vi sơn hiện nay, nơi đây có núi có sông, rừng núi hiểm trở, Triển Chích có phát triển cơ sở tại đây, vốn định quay về sào huyệt dưỡng thương, ai ngờ Xích Trung trấn giữ Bành thành mới được phong làm thượng tướng quân, khí thế ngút trời, đang định đánh một trận đẹp mắt lập công trước mặt Khánh Kỵ, Triển Chích trốn vào Vi sơn vừa hợp ý của hắn.

Bành thành hiểm yếu, tiến xuống dưới khống chế hai con sông Hoài Thủy, Tứ Thủy, tiến lên trên là tấn công Lỗ, Tề, phía Đông giáp với Đông Di, là trận địa chiến lược quan trọng. Vi sơn cách Bành thành khá gần, Khánh Kỵ và Tống quốc đạt được thỏa thuận ngầm, bớt đi một mối lo sau lưng, Xích Trung chỉ giữ lại một phần ba binh mã thủ thành, đích thân dẫn đại quân tiến đánh Thường Ấp, chặn ngay trước mặt đại quân của Triển Chích, giáng cho hắn một cú đau điếng. Quân của Triển Chích đang mất hết sĩ khí chiến đấu, lại trốn chạy đường dài mệt mỏi, đâu phải là đối thủ của cánh quân Ngô hung dữ này, trải qua một trận đại chiến, buộc phải lui về cố thủ Bức Dương thành.

Giờ đây đường đi Thường Ấp bị chặn, phía Bắc là đại quân của Dương Hổ, hướng Đông có binh mã của Lương Hổ Tử và Doanh Thiền Nhi, chạy sang phía Nam thì ngày càng gần Ngô quốc, phạm vi hoạt động bị thu hẹp, tình hình bi đát này khiến Công Sơn Bất Nữu, Lương Trọng Hoài vốn đã dao động nay càng nổi lòng phản loạn.

“Bất Nữu, Ngô vương Khánh Kỵ gần đây mới phong Thiếu Chánh Mão làm đại tư khấu, phong một thợ rèn Nhâm gia làm đại phu, chiêu hiền đãi sĩ, không phân biệt xuất thân, ta nghĩ tâm ý chiêu nạp chúng ta của hắn là thật đó. Chúng ta nếu muốn về phe Khánh Kỵ, phải lập một công lớn mới được, đây là cơ hội cuối cùng rồi, đợi tới khi lâm vào đường cùng, lúc đó chúng ta có đổi ý, e hắn cũng không chịu tiếp nhận.”

Công Sơn Bất Nữu tối sầm mặt, suy ngẫm hồi lâu, mới cất giọng chậm rãi: “Trọng huynh, ta hiểu rồi, giờ cũng chỉ còn con đường này cho chúng ta đi, huynh mau chóng liên lạc với tín sứ Ngô quốc, cứ nói là… chúng ta chuẩn bị hành động theo yêu cầu của Ngô vương.”

Trọng Lương Hoài vừa nãy hối thúc, bây giờ nghe Công Sơn Bất Nữu đồng ý, lại đanh mặt lại, vì so với Công Sơn Bất Nữu, Trọng Lương Hoài thuộc phái lí luận, Công Sơn Bất Nữu là phái hành động, khi đến thời khắc quyết định sống còn, hắn lại không bằng một Công Sơn Bất Nữu xưa nay luôn ít nói dám quả quyết định đoạt.

Hắn vội hỏi dồn: “Bất Nữu, nếu theo như điều kiện Ngô quốc đưa ra, việc đầu tiên là diệt trừ Triển Chích, cánh quân này mới chịu nghe theo lệnh chúng ta, nhưng tên Triển Chích đâu dễ đối phó, huynh có kế sách vẹn toàn nào không?”

Công Sơn Bất Nữu cắn chặt răng, cười lạnh lùng phán: “Trọng huynh, thiên hạ đào đâu ra kế sách vẹn toàn, cho dù làm việc gì cũng ít nhiều phải mạo hiểm.”

Trọng Lương Hoài nuốt nước bọt cái ực, nói: “Nhưng Triển Chích làm đại đạo nhiều năm, bản lĩnh của hắn không phải tầm thường, binh mã của hắn tuy bại trận mà không tan rã, toàn nhờ vào một mình hắn duy trì, người này trí tuệ võ công đều không đơn giản, đại quân lại do hắn kiểm soát, muốn diệt trừ hắn cũng phải có một kế hoạch hành động khả dĩ thành công mới được chứ.”

Công Sơn Bất Nữu cười hi hí, ánh mắt toát ra vẻ nham hiểm: “Việc này còn cần kế hoạch gì ở đây? Ta thuyết phục Triển Chích đi đánh một thành trì nào đó, trong lúc hai quân hỗn chiến, bắn tên lén vào lưng hắn, đủ cho hắn toi mạng rồi.”

Trọng Lương Hoài ngớ người, bất an nói: “Vậy… có được không? Cứ… đơn giản thế à?”

Công Sơn Bất Nữu nheo mắt, bình thản nói: “Ai cầm mười vạn quân mà chống cả thiên hạ? Chính là Tề Hoàn Công Khương Tiểu Bạch, bá chủ thiên hạ, cuối cùng chết đói trong cung. Triển Chích chỉ là một đạo tặc, chết thì chết chứ có cách chết nào đặc biệt nữa à?”

“Ta chỉ cảm thấy… nên cẩn thận hành sự, ngộ nhỡ xảy ra điều chi sơ sÚc…”

“Không có ngộ nhỡ đâu, hoặc là Triển Chích chết, dùng cái đầu trên cổ hắn đổi lấy đường sống và vinh hoa phú quý của hai ta, nếu như Triển Chích không chết, hứ! Chúng ta chết sớm một ngày và chết trễ một ngày có gì khác biệt đâu nào?”

Đại quân Triển Chích thừa lúc đêm tối tấn công Hướng thành, định mở ra con đường máu chuồn về Thương Sơn. Hướng thành đã được binh mã của Lương Hổ Tử tiếp quản, hai bên giao chiến ác liệt tận nửa đêm, Triển Chích tiến quân không được, không khỏi nôn nóng bất an, hắn bực bội đi qua đi lại trong lều, quay qua chửi Cổ Quân Hải: “Đúng là một lũ vô dụng, công phá một thành trì nhỏ nhoi chỉ có hai ngàn lính trấn thủ cũng không xong.”

Cổ Quân Hải khắp người be bét máu hậm hực giải thích: “Đại ca, không phải các huynh đệ không cố sức, chỉ là quân thủ thành quá lợi hại, bây giờ đêm tối nhìn còn không rõ, nhưng tiểu đệ cảm thấy hình như trong thành không chỉ có hai ngàn quân trấn thủ đâu, bằng không dưới sức tấn công mãnh liệt của các huynh đệ, không lí nào vẫn thủ vững như bàn thạch, không hề có dấu hiệu bại trận.”

Trọng Lương Hoài và Công Sơn Bất Nữu nháy mắt ra hiệu với nhau, đứng yên lặng không nói tiếng nào.

“Ngụy biện!” Triển Chích điên tiết quát lên: “Quân do thám của ta đã thám thính kĩ lắm rồi, các bộ lạc Đông Di có ý tạo phản, đại quân của Lương Hổ Tử đều đóng gần Dư Khâu hỗ trợ Doanh Thiền Nhi trấn áp các bộ lạc Đông Di, hắn sao lại sắp xếp cho đại quân trấn thủ chỗ này hả?”

“Đại ca, hay là… hay là… đợi khi trời sáng nhìn cho rõ, thám thính tình hình trong thành xong mới quyết định, thế nào?”

“Nhảm nhí! Khó khăn lắm ta mới thoát khỏi đại quân của Xích Trung, đợi đến trời sáng binh mã của hắn đuổi theo đến nơi, lúc đó mới tấn công thành chẳng phải khó khăn hơn sao?”

Triển Chích nhìn thấy bộ dạng toàn thân đầy máu của Cổ Quân Hải, cơn giận hơi chút nguôi ngoai: “Thôi vậy, ta phải đích thân ra tiền tuyến chỉ huy chiến đấu, đêm nay thề phải hạ được Hướng thành, mở ra con đường về Thương Sơn.”

“Đại ca, khoan đã!” Công Sơn Bất Nữu kêu lên, bước tới kích động nói: “Đại ca, dẫn quân về Thương Sơn là chủ ý của tiểu đệ, giờ hướng đi bị chặn, nên cho tiểu đệ phụ trách chỉ huy công thành chứ.”

Triển Chích thấy Công Sơn Bất Nữu chủ động xin ra trận, cảm thấy có hơi bất ngờ. Công Sơn Bất Nữu quả thật là một viên hổ tướng, trong số các tướng lĩnh dưới trướng hắn, kẻ thiện chiến tuy nhiều, nhưng có mưu có dũng thì chỉ có mỗi một Công Sơn Bất Nữu, nhưng hắn lại không phải thuộc hạ thân tín, cứ giữ khư khư lấy binh lực của mình, không cho Triển Chích xen vào, mỗi dịp chiến sự nổ ra, vì muốn giữ gìn thực lực, Công Sơn Bất Nữu luôn mang lòng riêng, vì thế trận chiến quan trọng Triển Chích không dám dùng binh mã của hắn, sợ làm hỏng việc lớn, chỉ phái binh mã thuộc quyền mình ra ứng chiến.

Nay thấy Công Sơn Bất Nữu chủ động, Triển Chích cảm thấy được an ủi phần nào. Ai mà không có lòng riêng? Vào lúc khó khăn hắn lại lấy đại cục làm trọng, thế là quá đủ.

Triển Chích vỗ mạnh vào vai Công Sơn Bất Nữu, hào khí ngút trời nói: “Tốt, huynh đệ chúng ta kề vai chiến đấu, thề hạ Hướng thành, mở đường lui về Thương Sơn.”

Hắn quay qua Cổ Quân Hải ra lệnh: “Rút người của đệ về, đệ trấn giữ trung quân, ta và Bất Nữu huynh đệ đích thân ra trận, kề vai chiến đấu!”

Trọng Lương Hoài ngập ngừng bước lên: “Triển đại ca, đệ… có cần cùng ra trận với huynh?”

Triển Chích nhìn bộ dạng rụt rè nhát chết của hắn, trong lòng thấy ghét, nhưng vẫn cố tỏ ra thân thiện: “Không cần đâu, có ta và Bất Nữu huynh đệ là đủ, đệ cứ cùng Quân Hải trấn thủ ở đây.”

“Ờ, ờ.” Trọng Lương Hoài như trút bỏ được gánh nặng, vội đáp ứng lui xuống, Triển Chích cố kiềm nén cơn giận, cùng Công Sơn Bất Nữu kề vai ra ngoài. Bên ngoài đánh lên hồi chiêng rút quân, quân công thành lui xuống như thủy triều, binh mã của Công Sơn Bất Nữu bắt đầu tập hợp…

“Khụ…, Cổ huynh, huynh nói chúng ta có đánh hạ Hướng thành được không?”

Cổ Quân Hải nhổ một bãi nước bọt ra đất, hậm hực nói: “Trong thành tuyệt đối không chỉ có hai ngàn binh mã, tuy nói là đêm tối không nhìn rõ, nhưng đánh trận bấy lâu, ta cảm nhận được điều đó. Không sao, giờ có hai hổ tướng là đại ca và Công Sơn Bất Nữu ra trận, ta tin chắc sẽ hạ được thành này thôi.”

“Ờ, cho dù hạ được thì thế nào? Về đến Thương Sơn, vẫn còn phải chịu cảnh trước sau bị địch đánh.”

Cổ Quân Hải liếc xéo hắn một cái, gầm gừ: “Nếu có Bành thành, chúng ta chưa đến nỗi bị động như bây giờ, ai bảo huynh để mất Bành thành? Không ra nỗi này mới là lạ.”

Trọng Lương Hoài phân bua: “Sự lợi hại của quân Ngô huynh cũng thấy rõ, không phải là ta không muốn thủ, quả là không thủ được. Ta thật không hiểu, Triển đại ca sao cứ phải dây dưa ở Lỗ và Đông Di, để rơi vào cảnh bị bao vây thế này?”

“Huynh có cao kiến gì?”

“Cao kiến thì không dám, theo ý ta, chúng ta chỉ nên hoạt động tại một nơi, hoặc là Lỗ quốc, hoặc là Đông Di, vậy chúng ta phải hứng chịu công kích ít đi rất nhiều.”

“Nói nhảm.” Cổ Quân Hải nổi đóa: “Đại ca là hậu nhân của công thất Lỗ quốc, tổ tiên đại ca và tổ tiên của đương kim Lỗ quân cùng là quốc chủ Lỗ quốc, hiểu chưa? Đại ca lập chí tại Lỗ, huynh ấy muốn diệt trừ Tam hoàn, đoạt ngôi vị Lỗ quân, ngồi lên ngôi báu chí tôn vô thượng, đưa Lỗ quốc xưng bá thiên hạ… Hùng tâm tráng chí của đại ca, có nói huynh nghe cũng chưa chắc hiểu.”

“Cổ Huynh à, những chuyện này nói thì dễ, làm thì khó khăn vô cùng, nhất là sau khi Tề quốc lui quân, tình cảnh của chúng ta ngày càng khốn khó. Giờ lòng tạo phản của Triển đại ca đã lộ, không còn chốn dung thân tại Lỗ đâu, cho dù là Lỗ quân hay Tam hoàn đều muốn diệt trừ đại ca. Còn Đông Di giờ đang bạo động, tuy có Ngô quốc tiếp tay hậu thuẫn, nhưng họ bị các bộ lạc Đông Di quấy phá, chúng ta chi bằng đến Đông Di phát triển, tin chắc có đất dụng võ.”

Cổ Quân Hải trừng mắt: “Đến Đông Di để làm gì?”

Trọng Lương Hoài cười hí hí: “Đông Di cương thổ rộng lớn, lại không có quốc gia, chỉ là các bộ lạc ở rải rác, với lực lượng của chúng ta, tuy không phải là đối thủ khi các bộ lạc liên thủ, nhưng đơn đả độc đấu với bất kì bộ lạc nào, chúng cũng không đánh lại ta. Hà tất nhất định phải đi tranh ngôi vị Lỗ quân chứ? Nếu chúng ta chiếm cứ một vùng lãnh thổ của Đông Di, tự lập quốc xưng vương, há chẳng tốt hơn à?”

Cổ Quân Hải có hơi động lòng, nhưng suy ngẫm giây lát lại lắc đầu: “Ta thấy đại ca không chỉ vì kiến tạo bá nghiệp của riêng mình đâu. Đại ca với tôn nghiêm của một công tử lại từ bỏ vinh hoa phú quý, chấp nhận gánh lấy cái danh đạo tặc, chính là muốn gầy dựng lại giang sơn Lỗ quốc, nếu theo chủ ý của huynh, đại ca sẽ không đồng ý đâu.”

Trọng Lương Hoài hướng nhìn về phía xa xa, nơi đó là chiến trường đang chém giết vang trời, đêm đen như mực, chỉ ẩn hiện đốm lửa chớp tắt, Trọng Lương Hoài vuốt râu thở dài, tự nói với mình: “Đúng vậy, Triển đại ca sẽ không đồng ý, nhưng cứ tiếp tục đi theo con đường Triển đại ca đã chọn, trong lòng ta không thấy chút ánh sáng hy vọng nào cả.”

Cổ Quân Hải nhăn mày, có ý trách cứ hắn, nhưng nghĩ đến tình cảnh hiện tại, câu nói sắp bật ra lại được nuốt trở lại.

Đúng lúc này, ngoài kia im bặt, sau đó lại ồn ào cả lên, còn huyên náo hơn cả tiếng chém giết vừa nãy, Cổ Quân Hải phấn chấn tinh thần, buộc miệng nói: “Chẳng lẽ Hướng thành đã bị công phá?”

Trọng Lương Hoài thần sắc lập tức trở nên hồi hộp, hai người chạy vội ra ngoài, dõi mắt về phía chiến trường, một lúc sau một người toàn thân đầy máu, tay cầm thanh kiếm gãy, lảo đảo chạy đến trước lều, thở hổn hển thông báo: “Đại… đại sự không hay rồi, Triển đại ca trúng tên tử trận!”

Cổ Quân Hải nghe tin thất kinh hồn vía, giơ chân đá văng tên đại hán báo tin, sải bước chạy vội ra ngoài. Trọng Lương Hoài lộ vẻ mừng rỡ thoáng qua, sao đó lập tức thay bằng khuôn mặt đau buồn lẽo đẽo chạy theo sau. Các tướng Mạc Phong, Lưu Dục, Diệp Vũ, Tằng Biện vừa rút về lều nghỉ ngơi cũng gầm rú lên chạy ra.

Các thị vệ giơ cao đuốc lửa rọi sáng cả một vùng trời, phía trước một tốp người ngựa đang chạy về. Vừa thấy họ, đám người kia dừng bước, trong đó một người cất tiếng bi thảm: “Cổ nhị ca, các vị huynh đệ, Triển đại ca… đại ca…”

Mọi người định thần nhìn kĩ, chính là Công Sơn Bất Nữu đang cõng theo Triển Chích dưới hộ tống của thân binh đang lục đục rút về.

“Đại ca sao rồi?” Cổ Quân Hải lao tới như một mũi tên, hai tay vịn lấy đôi vai Triển Chích, lo lắng hét lớn.

Công Sơn Bất Nữu chỉ biết chảy nước mắt, khóc không ra tiếng nói: “Đại ca… đại ca không cẩn thận bị tên bắn trúng, e là… e là lành ít dữ nhiều.”

Dứt lời quỳ một chân xuống đất, đặt tấm thân của Triển Chích đang cõng trên lưng xuống.

Mọi người giơ đuốc lên soi sáng, ai nấy toát mồ hôi hột, chỉ thấy Triển Chích hai mắt trừng trừng, tròng mắt như lòi cả ra ngoài, một mũi tên cắm từ sau ót của hắn xuyên qua phía cổ họng, đầu mũi tên rỉ máu long tong, đó phải là chỉ có dữ không có lành mới đúng, mọi người ngơ ngác đứng chết trưng cả ra, bốn bề tiếng chém giết vang trời, bọn người quay quanh thân xác Triển Chích lại im lặng đến đáng sợ.

Một lúc lâu sau, Cổ Quân Hải ôm lấy cái xác lạnh lẽo của Triển Chích, đột nhiên quay sang Công Sơn Bất Nữu lớn tiếng gào thét: “Sao đại ca lại bị trúng tên? Đại ca sao lại bị trúng tên đằng sau ót?”

Công Sơn Bất Nữu đau thương trả lời: “Quân thủ thành được trang bị đầy đủ cung nỏ, lại là nỏ Sở vừa bắn xa vừa bắn mạnh, trong đêm tối khó quan sát xung quanh, đúng là không thể tránh né. Đại ca thấy thành trì này nhất thời khó hạ, quay đầu lại bảo ta dẫn quân tấn công giả vào hai cánh, phân tán binh lực quân địch, ai ngờ… ai ngờ chính vào lúc đó, một mũi tên bay tới trúng ngay vào sau ót đại ca…”

Diệp Vũ hấp tấp nói: “Đại ca mà chết, lòng quân tất loạn, đợi truy binh của Xích Trung mà đến, chúng ta toi đời cả lũ, chúng ta phải mau mau rút quân, trốn khỏi chỗ này đã hẵng tính.”

“Không được làm vậy!” Trọng Lương Hoài bước tới hét to.

Trọng Lương Hoài vốn không giỏi đánh trận, lại vừa để mất Bành thành, đám cường tặc này xưa nay không nể nang hắn. Tằng Biện liếc xéo hắn, nói vẻ khinh miệt: “Thế nào? Giờ đại ca không còn, đến lượt tên họ Trọng nhà ngươi muốn lên làm chủ đúng không?”

“Tằng huynh đệ sao lại nói lời khó nghe thế?”

Trọng Lương Hoài làm ra vẻ sốt sắng, khẳng khái phân tích: “Tin Triển đại ca tử trận vẫn chưa lan truyền ra ngoài, quân thủ thành còn chưa được biết, vì thế quân ta mới trụ vững được đến giờ, nếu ta vội vã bỏ chạy, tin tức chắc chắn bị lộ ra, đến lúc đó quân thủ thành tấn công chúng ta, ba quân tướng sĩ của ta mất hết ý chí chiến đấu, trong đêm tối lại khó chỉ huy, ba quân hỗn loạn cả lên chuốc lấy thảm bại là cái chắc, đến lúc đó mọi người chỉ còn cách rã nhóm, mạnh ai nấy dẫn người của mình làm lại nghề cũ cướp của giết người vậy.”

Diệp Vũ, Tằng Biện đều chỉ bọn thất phu chỉ biết dùng vũ lực, binh thư chiến lược chưa từng được xem qua, nghe Trọng Lương Hoài lải nhải đạo lí, bực bội lườm hắn một cái, nói: “Chẳng lẽ bắt chúng ta liều chết tiếp tục tấn công thành?”

Trọng Lương Hoài vênh mặt: “Rút lui là phải rút lui rồi, nhưng không được hoảng loạn cả lên, chúng ta nên giữ vững trận thế, làm ra vẻ dựng trại cho binh sĩ nghỉ ngơi, tạo hiện tượng giả cho quân thủ thành nhìn thấy, đồng thời các doanh trại không được tiết lộ tin Triển đại ca tử trận ra ngoài, sau đó đại quân lần lượt rút từng chút một, thừa lúc đêm tối rời khỏi nơi đây, tìm nơi nào đó xây dựng lại căn cứ, sau đó mới lo tang lễ cho Triển đại ca, bàn tính kế hoạch tương lai. Cổ nhị ca, huynh coi tính thế này có ổn không? Bây giờ Triển đại ca đã không còn, huynh chính là thủ lĩnh của cả bọn, vào thời khác quan trọng này, huynh hãy đứng lên nói câu gì đi chứ.”

Công Sơn Bất Nữu vội hùa theo: “Đúng đó, Cổ nhị ca, Triển đại ca đã mất, đại quân không do huynh gánh vác còn ai đảm nhận được nữa? Vì tiền đồ của cả vạn huynh đệ chúng ta, nhị ca không nên từ chối, nên đứng ra chủ trì đại cục thôi.”

Cổ Quân Hải không hề nghĩ rằng kẻ ủng hộ mình lại là Trọng Lương Hoài và Công Sơn Bất Nữu, nhìn thấy hai người thần sắc hoang mang buồn bã, chút nghi ngờ trong lòng nay tan biến hết.

Hắn cúi đầu suy ngẫm giây lát, cảm thấy hai người có lí, đại quân của Triển Chích đều được tập hợp từ các hảo hán lục lâm cường đạo, ai nấy có địa bàn riêng, có thủ lĩnh riêng, nếu hấp tấp đem tin Triển Chích tử trận thông báo với toàn quân, chắc chắn có người thừa lúc đêm tối bỏ trốn về sơn lâm, ba quân không cần đánh cũng tan rã, một khi quân thủ thành nhận ra sơ hở, phái quân ra thành truy kích, các huynh đệ đêm nay buộc phải chôn thân chốn này.

Nghĩ đến tình cảnh đó, Cổ Quân Hải không còn do dự, ngẩng đầu lên dõng dạc: “Công Sơn huynh, Trọng huynh nói có lí lắm. Lưu Dục, đệ và Công Sơn huynh vẫn ra tiền tuyến làm bộ tấn công. Công Sơn huynh…”

Công Sơn Bất Nữu nắm chặt tay, hai mắt trừng trừng, lớn tiếng nói: “Nhị ca yên tâm, kẻ địch trước mắt, hai huynh đệ chúng ta cùng đi trên một chiếc thuyền, phải cùng nhau vượt khó. Cứ để Công Sơn Bất Nữu đoạn hậu, mời nhị ca ngồi trấn giữ trung quân, chủ trì đại cục.”

“Được!”

Cổ Quân Hải lên chức thủ lĩnh, Công Sơn Bất Nữu xoay lưng quay về tiền tuyến chiến đấu. Lưu Dục thấy vậy cũng tự về triệu tập binh mã của hắn, di chuyển đến dưới thành làm bộ tiếp tục tấn công.

Cổ Quân Hải nói tiếp: “Thương Sơn không quay về được rồi, Diệp Vũ, Mạc Phong, mời hai vị huynh đệ tự dẫn theo bộ hạ của mình rút quân về phía Tây Nam, rút đến ven sông Mạc Hà, hạ trại tại Kê Quán lĩnh, tạm thời làm nơi nghỉ ngơi chỉnh đốn lại đại quân.”

Diệp Vũ, Mạc Phong đều biết tình hình khẩn cấp, cộng thêm Cổ Quân Hải xưa nay đứng vị trí thứ hai trong quân Triển Chích, lúc này đều âm thầm chấp nhận vị trí thủ lĩnh của hắn, vội nhận lệnh lui ra chuẩn bị.

Cổ Quân Hải nói: “Trọng huynh, Tằng Biện…”

Trọng Lương Hoài nói xen vào: “Nhị ca yên tâm, ta và Tằng huynh đệ sẽ hỗ trợ nhị ca thu xếp ổn thỏa trung quân, lương thảo, tài sản và thương binh chất lên xe rút trước, sau đó mới theo nhị ca nhổ trại rút quân.”

Cổ Quân Hải cảm thấy được an ủi phần nào: “Vất vả cho hai vị huynh đệ rồi.”

Trọng Lương Hoài và Tằng Biện đưa mắt nhìn xác Triển Chích giây lát, thở dài ngao ngán, quay người bỏ đi lo việc rút lui.

Bốn bề sáng rực đuốc lửa, các thị vệ cúi đầu ủ rũ, đứng yên lặng thành một vòng tròn. Cổ Quân Hải run lẩy bẩy đưa tay ra, mất lần định nhổ lấy mũi tên cắm vào họng Triển Chích, nhưng nhìn thấy ánh mắt hung tợn trừng trừng của hắn lại không nỡ xuống tay. Sau cùng Cổ Quân Hải cũng đưa tay nắm lấy cán tên dùng sức bẻ mạnh, tên gãy làm hai khúc, hắn nhắm mắt nhổ tên ra, cắn chặt răng đứng dậy, ném mũi tên máu me xuống đất.

“Đại ca!” Cổ Quân Hải khóc lóc thảm thiết, từng giọt nước mắt to như hạt đậu rơi lã chã xuống mặt Triển Chích, ôm lấy cái xác kêu gào hồi lâu, nghe thấy phía sau lưng đại quân bắt đầu chuyển động, nhổ trại rút quân, hắn mới cố nén đau thương, bế xác Triển Chích lên, đứng thẳng người từng bước từng bước đi về phía quân doanh.

Tàn quân của Triển Chích thua chạy về hướng Kê Quán lĩnh, đóng tại đó nghỉ ngơi dưỡng sức, chỉnh đốn ba quân, các đầu lĩnh sắp xếp lại thứ tự ngôi thứ, cùng các huynh đệ bàn bạc kế hoạch hành động sắp tới.

Công Sơn Bất Nữu trí dũng song toàn, dù là thực lực hay uy danh, trong đại quân Triển Chích chỉ kém có mỗi Cổ Quân Hải, thêm vào trước và sau khi Triển Chích trúng tên tử trận, biểu hiện của hắn rất đáng khen ngợi, thể hiện rõ lòng trung và cách hành xử hợp lí, Cổ Quân Hải ngồi vào ghế thủ lĩnh đứng đầu, Công Sơn Bất Nữu đương nhiên làm nhị đương gia, bọn Lưu Dục, Diệp Vũ thì căn cứ theo binh lực nhiều ít mà chúng mang đến sắp xếp theo thứ tự ngôi thứ.

Trọng Lương Hoài bại trận từ Bành thành trở về, tàn binh bại tướng bên mình không còn nhiều, thực lực cũng chưa đủ, nhưng người này giỏi ứng biến, lại ranh ma mưu lược, so với đám cường tặc này đúng là hơn về phần trí tuệ, hơn nữa hắn là người tham gia ủng hộ lập Cổ Quân Hải lên làm thủ lĩnh, làm sao sắp xếp cho hắn làm Cổ Quân Hải đau đầu, suy đi tính lại, bèn ủy nhiệm cho hắn chức Chủ phiên, chủ phiên tương đương với quân sư, tham mưu trưởng mà người đời sau thường gọi, thế là Trọng Lương Hoài thoáng cái hóa thân thành quân sư quạt mo cho đám quân cường đạo ô hợp này.

Tên quân sư quạt mo từ khi lên chức lập tức hiến kế cho Cổ Quân Hải: Triển Chích đã chết, với thân phận và binh lực của họ mà nói, muốn mưu đoạt giang sơn Lỗ quốc là không thể nào, lại mất đi lí do chính đáng từ Triển Chích, chi bằng từ bỏ địa bàn hoạt động giữa hai nước Lỗ, Tống, tập trung đánh vào Đông Di, lợi dụng tình hình Đông Di không có quốc gia, không có thành trì, nội bộ đang hỗn loạn, giành lấy một mảnh giang sơn ở đấy, tiến có thể lập quốc xưng vương, lui có thể chiếm núi cố thủ.

Cổ Quân Hải nghe hắn phân tích lợi hại, thấy rất có lí, thế là cho ba quân nghỉ ngơi vài ngày, bỏ hết cơ nghiệp tại hai nước Lỗ, Tống, xua quân đánh về phía lãnh thổ các bộ lạc Đông Di. 

Chung Ly cốc ở Đông Di, là một khu vực cực kì hiểm yếu, địa thế có hơi giống với sào huyệt Tang Hà lĩnh tại Lỗ quốc của Triển Chích, sau khi đến đây, Cổ Quân Hải cảm thấy hài lòng, bèn hạ lệnh lấy nơi đây làm căn cứ, muốn xây dựng Chung Ly cốc thành sơn trại hiểm yếu tiến có thể công lui có thể thủ như Tang Hà lĩnh.

Từ khi đại quân rút về phía lãnh thổ Đông Di, quân đội Lỗ quốc không tiện truy kích, quân của Xích Trung vì có trọng trách trấn giữ cứ điểm quan trọng Bành thành, cũng không thể rời khỏi quá lâu đành rút quân về, còn phía Lương Hổ Tử đóng tại Dư Khâu đang chống đỡ cho Doanh Thiền Nhi, hợp sức trấn áp các bộ lạc Đông Di, nên Cổ Quân Hải dọc đường ít bị chặn đánh, cho hắn có cơ hội tái lập đại quân.

Binh mã của Triển Chích ngày xưa cứ ba ngày một trận đánh lớn, hai ngày một trận đánh nhỏ, suốt ngày phải mệt mỏi chiến đấu, nay suốt đoạn đường hành quân đến dựng trại ở Chung Ly cốc, chưa hề có cuộc đụng độ nào đáng kể, có một số bộ lạc Đông Di nhỏ gặp phải đại quân của Cổ Quân Hải, không phải trốn chạy ra xa thì là bị đánh cho tan tác, tổn thất của Cổ Quân Hải là quá ít, dọc đường lại tiện tay cướp bóc không ít lương thực tiếp tế đại quân và nhiều thiếu nữ xinh xắn của các bộ lạc Đông Di cho các huynh đệ giải sầu.

Cổ Quân Hải vốn háo sắc, trước đây còn phải lén lút vì có Triển Chích, giờ thì cho dù hoang dâm thâu đêm suốt sáng cũng không ai dám lên tiếng, cuối cùng hắn cũng biết được cái tốt khi làm đại ca, Cổ Quân Hải cho rằng đó đều nhờ vào ý kiến hay của Trọng Lương Hoài nên hài lòng lắm, không chỉ có hắn, các tướng lĩnh xưa nay luôn coi thường Trọng Lương Hoài đều thay đổi cách nhìn, cảm thấy con người này ra trận chém giết thì không được, nhưng bày kế tham mưu thì khá hay.

Đợi sau khi đến Chung Ly cốc, Cổ Quân Hải bắt tay vào xây dựng sơn trại, đám cường đạo này chỉ giỏi phá hoại, không giỏi xây dựng, những việc này giao cho Trọng Lương Hoài xuất thân từ gia thần Quý thị là phù hợp hơn ai hết, dù là phân phát lương thực của cải hay là sắp xếp nhân lực xây thành dựng trại, hắn đều làm tốt đâu ra đấy, ai nấy càng thán phục hắn hơn, về phần Cổ Quân Hải thì xem trọng hắn hơn nữa.

Chiều tối hôm đó, Trọng Lương Hoài lo xong công việc, lê tấm thân mệt mỏi đến nơi ở của Công Sơn Bất Nữu. Công Sơn Bất Nữu ở trong một căn nhà đơn sơ làm bằng gỗ thông, nơi ở chẳng khác gì với các binh sĩ bình thường, chỉ là nằm biệt lập tại một khu vực rộng, căn nhà cũng to hơn một chút.

Sàn nhà gỗ thông có trải mấy tấm lông thú, Công Sơn Bất Nữu đang ngồi đơn độc một mình trên tấm lông thú uống rượu, kế bên hắn là một thiếu nữ Đông Di xinh xắn mặc áo mỏng váy ngắn để lộ cặp đùi trắng nõn đang cẩn thận đứng hầu, cô gái thấy Trọng Lương Hoài bước vào, quay sang mỉm cười lấy lòng hắn.

Cô thiếu nữ Đông Di này là do Trọng Lương Hoài vì muốn thu phục nhân tâm, chọn ra từ số chiến lợi phẩm hắn ưng ý nhất đem tặng cho Công Sơn Bất Nữu. Công Sơn Bất Nữu xưa nay không đam mê nữ sắc, tuy đôi lúc vì nhu cầu cũng ngủ chung giường với cô gái Đông Di, nhưng ngày thường cứ sai bảo nàng như một tì nữ hầu hạ. Thấy Trọng Lương Hoài đến tìm, Công Sơn Bất Nữu biết ngay là chắc có tin gì đó, hắn không lên tiếng nâng chén sành lên, ngửa cổ uống một hơi cạn chén rượu, sau đó đưa tay quệt miệng một cái, gằn giọng: “Ra ngoài, ta chưa dặn dò không được vào đây.”

“Dạ!” Cô thiếu nữ Đông Di vội vã bước khỏi căn phòng, tiện tay đóng cửa phòng lại giùm hai người.

“Bất Nữu, ta và Lương tướng quân liên lạc nhau rồi, đây là thư của tướng quân.”

Trọng Lương Hoài lấy một mảnh vải từ tay áo ra đưa cho Công Sơn Bất Nữu. Công Sơn Bất Nữu đón lấy mở ra xem, lập tức nhăn mặt: “Cái này là cái gì vậy?”

Trọng Lương Hoài chế giễu: “Huynh không biết chữ à? Sao lại hỏi ta?”

Công Sơn Bất Nữu lườm hắn một cái, nói: “Nhảm nhí, chữ ta đương nhiên biết, nhưng… trên thư chỉ viết một số tên bộ lạc, thế là có ý gì, định đánh đố ta à?”

Trọng Lương Hoài vỗ trán một cái, cười òa lên: “Xin lỗi xin lỗi, là ta quên giải thích, vì muốn bảo mật an toàn, ta đã cắt bỏ số chữ phía dưới đem đốt rồi. Hí hí, làm vậy người khác có nhìn thấy cũng không biết đây là cái gì.”

“Cổ Quân Hải này ngay cả mấy chữ khó một chút cũng không biết đọc, đừng nói là đám sơn tặc này, ngươi làm vậy đúng là dở hơi.”

“Ơ, cẩn thận vẫn tốt hơn.”

Trên mảnh vải chỉ ghi hai hàng chữ nhỏ chi chít, trên đó có tám bộ lạc lớn nhất Đông Di là Doanh, Phong, Thành, Dương, Giới, Lợi, Tiết, Quách, ngoài ra còn nhiều tên bộ lạc nhỏ lẻ khác nữa, trừ tên bộ lạc ra không còn gì cả.

Trọng Lương Hoài ngồi xuống, nhích lại gần Công Sơn Bất Nữu, chỉ vào mảnh vải nói: “Huynh nhìn cho rõ, các bộ lạc viết bằng chữ đen bên này là không cho phép chúng ta đánh, còn mấy bộ lạc chữ đỏ bên này… hí hí, cứ đánh cho dữ vào, càng đánh mạnh công lao càng lớn.”

Công Sơn Bất Nữu nheo mắt nhìn một hồi, cười hí hí gật gù khoái trá: “Hèn gì Ngô vương chịu thu nạp chúng ta, tám bộ lạc lớn Đông Di, chịu đứng về phía Ngô vương chỉ có Doanh Thiền Nhi và ba bộ lạc, còn phản đối phụ thuộc vào Ngô quốc lại có đến năm.”

“Thế nên chúng ta mới có cơ hội phong quan ban tước, hưởng vinh hoa phú quý.”

Trọng Lương Hoài liếm môi, tươi cười hớn hở: “Nghe nói có tin từ hoàng cung Ngô quốc, trong cung đang cho xây một tòa Lăng Yên Các, tòa Lăng Yên Các này bất kể thân phận xuất thân, chỉ cần là đại thần có công mở mang bờ cõi là được ghi danh vào đó, còn được vẽ tranh tạc tượng, lưu danh sau này cho con cháu ngàn đời sau kính bái. Dù là tôn thất hoàng tộc của Ngô quốc, hàng năm cũng phải đến đấy đốt hương hành lễ. Bất Nữu, huynh và ta chỉ là con chó giữ nhà của Quý thị, nói trắng ra chỉ là một nô lệ, ngay cả dân thôn quê còn có thân phận cao quý hơn chúng ta. Nếu như Ngô quốc có được lãnh thổ Đông Di cần góp sức của chúng ta, đến lúc đó đúng là dịp may hiếm có, chúng ta có thể ngẩng cao đầu, làm rạng rỡ tổ tông, con cháu sau này cũng được vinh quang…”

Công Sơn Bất Nữu nghe xong háo hức không kém, hắn đưa cả vò rượu lên uống cạn, quay sang Trọng Lương Hoài cố làm ra vẻ bình thản: “Dưới trướng Ngô vương người tài một đống, trong Lăng Yên Các chưa chắc có tên của chúng ta đâu, làm một chức đại phu hay tướng quân gì đó là đủ mãn nguyện rồi. Thôi, những chuyện này để sau này hẵng tính, hiện giờ ngươi định làm thế nào hoàn thành nhiệm vụ Lương tướng quân giao phó?”

“Hí hí, muốn Cổ Quân Hải xuất binh thì quá đơn giản, dù cho hắn muốn lập quốc xưng vương, hay chỉ là muốn cố thủ tại đây làm sơn tặc, cuối cùng cũng không thể không chui đầu ra Chung Ly cốc đúng không nào? Cả vạn huynh đệ phải có cơm ăn áo mặc, có nữ nhân giải trí, có cái nào mà không cần đi cướp lấy? Khoan nói đến việc số châu báu cướp được hắn không chịu đem ra bán, dù hắn chịu bán cũng không tìm được người mua, nơi này không trù phú như Lỗ quốc, ngoài việc cướp bóc, hắn còn biết làm sao?

Chỉ là trên danh sách các bộ lạc ghi ở đây phân ra rõ ràng, nhưng vùng đất chúng cư trú lại không phân chia rõ, có bộ lạc không được đánh, có bộ lạc buộc phải đánh, nếu chúng ta đi vòng qua một bộ lạc ở gần mà đánh bộ lạc ở xa, người Đông Di và Cổ Quân Hải đâu có ngốc, chẳng lẽ lại không nghi ngờ? Nên ta mới đến đây tìm huynh bàn bạc.”

Hắn nói một hơi xong thấy khát nước, bèn vớ tay tóm lấy vò rượu tự đổ cho mình một chén, tu ừng ực mấy ngụm, lau miệng nói tiếp: “Huynh bây giờ là nhị đương gia, bày binh bố trận, điều binh khiển tướng không thể thiếu huynh. Chúng ta bàn bạc tính toán kĩ lưỡng, làm thế nào tiến đánh các bộ lạc chống đối Lương tướng quân, làm thế nào bảo toàn các bộ lạc thần phục Ngô quốc, kế sách ổn thỏa rồi ta mới hiến kế cho Cổ Quân Hải, cho hắn gánh lấy chức danh Đệ nhất đại đạo Đông Di.”

Công Sơn Bất Nữu cười hi hí, vuốt râu nói: “Lão Trọng nhà ngươi chỉ giỏi khua môi múa mép, Công Sơn Bất Nữu này phải còng lưng ra thực hiện, phải bảo toàn một số bộ lạc, vậy có những nơi buộc ta phải đích thân dẫn quân đi đánh rồi. Ngươi và người của Lương tướng quân phải kịp thời giữ liên lạc, những nơi ta dẫn quân đi qua cần bảo toàn thì thông báo cho họ trước để họ tránh đi.”

Hắn đổ ít rượu vào chén, chấm đầu ngon tay vào rượu, vẽ lên trên mặt bàn: “Vị trí các bộ lạc Đông Di, mấy ngày này ta cũng tìm hiểu rõ rồi, ở xa không nói tới, chúng ta xem trước mấy bộ lạc ở gần Chung Ly cốc, nên ra tay với ai trước…”

Lúc này, trong hoàng cung Sở vương thành Dĩnh Đô, Ngô quốc đại phu Úc Bình Nhiên và Sở thái hậu Mạnh Doanh cũng đã bàn luận khá lâu. Trên đại điện lấy tấm màn nhung ngăn cách, Úc Bình Nhiên không nhìn rõ bên trong, cũng không biết mặt mũi của vị thái hậu từng say đắm Sở vương, khiến cha chiếm con dâu, gây ra bao nhiêu họa lớn sau này là như thế nào, lúc này chỉ giao tiếp với tiếng nói sau bức màn nhung.

“Hoàng thái hậu, ngoại thần đã nói hết lời, xin phép cáo từ.”

“Ý của Úc đại phu ta đã hiểu rồi, sự việc trọng đại, bổn thái hậu cần bàn bạc kĩ lưỡng với đại vương mới quyết định được. Đại phu tạm thời hãy về dịch quán nghỉ ngơi, muội tử Quý Doanh, ta đã nhiều năm không gặp, giờ đây may mắn có dịp đến Sở, ta muốn giữ muội ấy ở lại trong cung mấy ngày, hàn huyên tâm sự tình tỉ muội, thế nào?”

“Dạ! Tất cả nghe theo sắp xếp của hoàng thái hậu, ngoại thần cáo từ.” Úc Bình Nhiên đứng dậy, hành lễ xong định lui ra.

Chỉ nghe trong màn nhung có tiếng nói khẽ phát ra: “Úc đại phu…”

“Có ngoại thần!”

“Thế Phạm Lãi…, thôi vậy, ngươi lui xuống đi.”

Úc Bình Nhiên lui ra ngoài đại điện, cung nữ hai bên vén màn nhung lên, chỉ thấy trong kia hai mỹ nhân đang kề vai ngồi đó, hai người nắm chặt tay nhau, một người sắc đẹp thẹn thùng như đóa mẫu đơn đang nở rộ, ẩn hiện trong vẻ quý phái là một nét ưu sầu không sao che giấu, người kia xem ra tuổi tác nhỏ hơn rất nhiều, lông mi cong vút, ánh mắt mê hoặc như hồ ly, mũi cao môi đỏ, nhan sắc không hề thua kém, lại lan tỏa thêm sức sống mãnh liệt của tuổi thanh xuân, như một đóa hoa chớm nở dưới ánh nắng mặt trời.  “Hí!” Quý Doanh nhảy phốc lên, Mạnh Doanh né người sang một bên, thân của nàng rơi xuống vừa đúng vào khoảng trống, tấm thân mềm mại nảy lên mấy cái, tà áo lụa mỏng tan phất lên, để lộ bắp đùi thon thả, nàng mới tắm xong, làn da hồng hào hãy còn lấm tấm nước.

Sở thái hậu Mạnh Doanh tay chống cằm nhìn chăm chăm vào em gái suy tư, chốc chốc lại thở dài.

Trong cung điện hơi ấm lan tỏa, Quý Doanh không đắp mền, nàng xoay người nằm sấp, hai chân khua liên hồi, quay qua Mạnh Doanh hỏi: “Tỉ tỉ, tỉ thở dài lo lắng gì thế?”

“Ài! Nhìn muội kìa, giống hệt năm xưa… Lúc ấy muội hãy còn là con bé thò lò mũi xanh, suốt ngày cứ bám lấy tỉ, buổi tối tắm xong là chạy đến tẩm cung của tỉ nhún nhảy trên giường như vừa nãy vậy. Chớp mắt đã qua bao nhiêu năm rồi, tỉ tỉ nhìn thấy muội nhún nhảy như vừa nãy, nhớ lại kí ức năm xưa, quay về thời mà tỉ tỉ còn chưa gả sang đây, bao nhiêu kỉ niệm hiện lên trước mắt. Tỉ tỉ già rồi, thời gian không chừa một ai, sao lại không thở dài chứ?”

“Sao tỉ lại già chứ?” Quý Doanh cười khanh khách, đưa tay cù lét Mạnh Doanh. Mạnh Doanh nhột nhạt né qua một bên, bị tay em gái xé một mảng áo ngay ngực, đôi ngực căng tròn hiện ra, đầy đặn trắng trẻo, vẫn tỏa hương sắc như ngày nào.

“Woa! To… to quá…” Quý Doanh trợn tròn mắt: “Tỉ tỉ còn xinh đẹp hơn gấp mười lần năm xưa, nếu tỉ thế này còn nói là già, vậy nữ nhân trong thiên hạ đều thành bà lão mất rồi.”

Mạnh Doanh đỏ mặt đưa tay xoa xoa ngực, than thở: “Thân thể của tỉ tỉ cho dù chưa già, nhưng trái tim… đã già mất rồi.”

“Tỉ…” Nụ cười trân khuôn mặt Quý Doanh tan biến, nàng dang rộng đôi tay ngà ngọc ôm lấy tỉ tỉ, dịu dàng hỏi thăm: “Bao nhiêu năm qua tỉ có sống tốt không?”

“Tốt hay không cũng phải qua ngày tháng. Hay dở gì cũng có hoàng nhi, tỉ tỉ còn mục đích sống, nếu không thì… Ài.”

“Tỉ tỉ, thật là vất vả cho tỉ quá.” Quý Doanh ôm chặt tỉ tỉ: “Người Tần chúng ta ai cũng tức giận, rõ ràng là tỉ tỉ được gả cho thái tử Kiện, lại biến thành gả cho một lão già, hoàng huynh cũng thật là vô dụng, chuyện này mà nhẫn nhịn không nói tiếng nào, làm hại tỉ tỉ… Trước khi muội đến đây còn mắng cho huynh ấy một trận ra trò đấy.”

“Cũng không thể trách hoàng huynh, nếu chỉ là hai hộ thường dân thành hôn, huynh ấy có thể dẫn theo huynh đệ trong gia tộc đến đòi công bằng, cứu tỉ tỉ về. Nhưng… muội và ta sinh ra trong hoàng tộc, đấy đâu còn là chuyện hôn nhân thông thường của nhi nữ nữa? Giống như xuất thân của chúng ta, số phận đã định sẵn được hưởng vinh hoa phú quý các nữ nhân khác không được hưởng, đồng thời đổi lại chúng ta phải hy sinh vì gia tộc và đất nước, gả cho ai, đối với Tần quốc, điều đó không quan trọng, quan trọng là nam nhân này phải có lợi cho Tần. Khi tỉ tỉ phát hiện Sở vương muốn chiếm đoạt tỉ, nếu lúc đó tỉ lấy cái chết ra cự tuyệt, hắn chưa chắc dám động vào tỉ, tỉ muốn về Tần quốc cũng không khó. Nhưng làm như vậy mối liên minh Tần Sở chắc chắn bị phá vỡ, Tần quốc ta nằm tận phía Tây, xưa nay luôn bị Tấn quốc hùng mạnh ức hiếp, nếu không liên kết với Sở, Tần quốc đâu thể tồn tại? Thế nên… cho dù trong lòng không ưng, tỉ tỉ vẫn phải nhắm mắt ở lại Sở quốc, tỉ không thể chỉ nghĩ riêng cho hạnh phúc của mình, hơn nữa có quay về Tần, tỉ lại bị hoàng huynh sắp đặt hôn sự thôi, ai mà biết phu quân tiếp theo sẽ là ai? Có lẽ còn tệ hơn cả Sở vương thì sao, hắn tuy già, nhưng chí ít… hắn yêu thương tỉ thật lòng…”

“Tỉ tỉ…”

“Quý Doanh, muội đừng trách hoàng huynh nữa. Muội muốn huynh ấy phải làm sao cho phải? Vì tỉ mà khai chiến với Sở ư? Nếu Tần và Sở đại chiến với nhau, trong lúc lưỡng bại câu thương, Tấn quốc sẽ thừa cơ xâm chiếm, hoàng huynh… cũng chỉ là nhẫn nhục chịu đựng thôi.”

Mạnh Doanh thở dài, vỗ nhè nhẹ vào mông em gái. Mông của Quý Doanh bắp thịt đàn hồi, cứ như quả lê chín mọng, lại không thiếu sức sống của thiếu nữ. Mạnh Doanh mỉm cười: “Xem muội kìa, mấy năm nay chắc cũng nghịch ngợm như hồi nhỏ đúng không? Cưỡi ngựa bắn cung, trèo cây leo núi chắc muội không thể thiếu, mông muội chắc nịch thế này, nếu tỉ mà là nam nhân cũng chết mê vì muội mất. Mạng của muội tốt, tuy cùng là kết thân nhưng muội được gả cho Ngô vương Khánh Kỵ, sau này làm hoàng hậu quản lí hậu cung, thờ chồng dạy con, không được nghịch ngợm như hồi còn bé đâu đấy.”

“Khánh Kỵ?”

Quý Doanh nghe nói đến Ngô vương liền cảm thấy ấm ức: “Tên Ngô vương đó hả, muội nghe nói hắn chạy nhanh hơn tuấn mã, sức mạnh có thể quật ngã bò tót. Trời ạ, đó mà là con người à? Muội có thể tưởng tượng dung mạo của hắn rồi, hắn chắc là giống như một con đại tinh tinh, khắp mình lông lá, nói chuyện thì ồm ồm như trâu…”

Mạnh Doanh cười khanh khách, vội đưa tay che miệng giữ ý tứ, hai mắt long lanh: “Muội tử ngốc của ta, nói nhảm nhí gì thế, đường đường là đại vương Ngô quốc, sao lại giống đại tinh tinh được chứ? Muội đó, nói phu quân của mình như thế, truyền ra ngoài làm trò cười cho người ta mất.”

Nàng định thần nghĩ ngợi, nói: “Tỉ từng nghe hoàng nhi nói qua, Khánh Kỵ đó cao lớn khôi ngô, là một đại anh hùng anh tuấn mà. Hoàng nhi bao lớn nào? Nó đâu thể nói dối gạt tỉ.”

Mạnh Doanh vuốt mái tóc óng mượt, nói tiếp: “Ngô vương còn trẻ tuổi, tướng mạo, võ nghệ đều xuất chúng, từ cách trị nước sau khi hắn lên ngôi, có thể thấy đó là một vị quân vương tài giỏi, tương lai nói không chừng sẽ trở thành bá chủ thiên hạ, đến lúc đó hai nước Sở Tần đều phải nể nang hắn, muội muội à, muội được gả cho phu quân tốt thế này còn gì mà không vừa ý nữa chứ?”

“Muội không tin, hoàng huynh chỉ toan tính coi ai có lợi cho Tần quốc, đâu cần biết tỉ muội chúng ta phải gả cho thứ nam nhân nào đâu, hoàng nhi của tỉ còn nhỏ, lời nói không đáng tin lắm, có thể trong mắt nó đại tinh tinh mới là anh tuấn khôi ngô thì sao.”

Quý Doanh nắm chặt nắm đấm, nghiến răng keng kéc: “Tỉ tỉ vì lo cho đại cuộc hy sinh bản thân, muội không học theo tỉ đâu, hoàng huynh cứ ép buộc muội gả cho Ngô vương Khánh Kỵ gì đó, huynh ấy tưởng muội sẽ khÚc phục? Muội không cho huynh ấy toại nguyện đâu, đợi sau khi tới Ngô quốc, xem muội trừng trị tên Khánh Kỵ đó như thế nào.”

“Con bé ngốc này, nói nhảm gì đó, muội tuyệt đối không được làm vậy, dù muội có bằng lòng hay không, Ngô vương là phu quân tương lai của muội, muội làm hắn giận, sau này dù hắn đối xử với muội thế nào cũng không ai giúp được muội, kể cả hoàng huynh đi chăng nữa.”

“Muội không cần huynh ấy giúp.” Quý Doanh bướng bỉnh: “Muội cứ làm cho con đại tinh tinh tức điên lên, tốt nhất là chọc cho hắn tức chết luôn, không chết thì cũng cho hắn xích mích với hoàng huynh, chẳng phải hoàng huynh mong muốn liên minh với Ngô quốc sao, muội phải phá cho họ trở mặt thù địch với nhau.”

“Muội…” Mạnh Doanh vịn lấy vai em gái, nghiêm nghị: “Muội muội, cho dù không phải vì Tần quốc, chỉ vì hạnh phúc đời muội, muội cũng tuyệt đối không được chọc giận phu quân của muội. Muội nhớ lấy, cuộc đời này muội đã được an bài làm thê tử của hắn, còn cuộc đời hắn lại không chỉ có một mình muội, nếu muội tiếp tục ngang bướng, nghĩa là muội đã tự tay chôn sống hạnh phúc cả đời mình.”

Trong kí ức của Quý Doanh, tỉ tỉ luôn thân thiết yêu chiều nàng, đây là lần đầu tiên Mạnh Doanh nghiêm nghị với nàng, xem ra tỉ ấy đang nói ra những lời tận đáy lòng, Quý Doanh nhõng nhẽo: “Tỉ tỉ à…”

“Nghe lời tỉ nói, dù là vì Tần quốc hay vì hạnh phúc của muội cũng được, muội cũng không được làm bừa theo ý mình, muội sắp phải rời xa quê hương và thân nhân, sống một mình cô độc tại Ngô quốc, nơi lạ lẫm đó từ nay chính là nhà của muội, dân tộc lạ lẫm đó là con dân của muội, tên Khánh Kỵ đó là phu quân ở bên muội suốt đời này, muội có tưởng tượng nổi dân chúng nơi đó mãi mãi xem muội là người ngoài sẽ thế nào không? Muội chịu đựng nổi tên Khánh Kỵ đó xem muội như người vô hình, bỏ mặc muội được không?”

Quý Doanh ngơ ngác, nàng là một cô gái hoạt bát ngây thơ, không biết suy tính sâu xa, nàng chưa từng nghĩ đến ý nghĩa trọng đại của việc thành thân, nếu quả thật bắt nàng sống những ngày tháng như tỉ tỉ vừa nói, chẳng cần bao lâu sau nàng sẽ bị điên mất, thôi thì bắt nàng chết đi còn tốt hơn.

Mạnh Doanh xoa tay nhè nhẹ lên mặt Quý Doanh, trắng nõn mịn màng, hai tai có chút lông tơ mềm mại, Mạnh Doanh lại lướt tay đến trước ngực em gái, tà áo được cởi tung, bờ ngực vút cao như trái lê chính mọng, Mạnh Doanh tiếp tục vòng tay xuống chiếc eo thon, cuối cùng dừng lại trên bắp đùi săn chắc của em gái, cảm thán: “Quý Doanh muội xem, muội có thân thể và dung mạo làm nam nhân chết mê chết mệt, lại được gả cho một phu quân tài năng, muội phải biết quý trọng cơ hội này, không phải nữ nhân nào cũng được may mắn như muội đâu, đừng vì bướng bỉnh phá hỏng hết thảy mọi thứ.”

Quý Doanh nhìn trưng trưng vào tỉ tỉ, nàng vốn đã nghĩ ra nhiều chiêu phá hoại, định tới Ngô quốc làm ầm lên khuấy đảo một phen, cho tên Khánh Kỵ gì đó mất mặt cho hả dạ, nhưng trong lúc này nàng mới phát hiện nàng không còn là trẻ con nữa, nàng sẽ không gánh vác nổi hậu quả do tính ngang bướng của nàng gây ra.

Tấm màn lại được hạ xuống, ánh nến được các cung nữ thổi tắt, chỉ chừa lại bốn cây nến ở bốn góc đại điện, tỏa ra ánh sáng heo hắt.

Khắp đại điện trở nên yên tĩnh, Quý Doanh mở to mắt không hề cảm thấy mệt mỏi, nàng nhìn vào trần nhà, hồi lâu sau bỗng cất tiếng hỏi: “Tỉ tỉ, lấy chồng là thế nào vậy?”

Mạnh Doanh đang nhắm mắt mỉm cười nhỏ nhẹ: “Sau này sẽ có một nam nhân yêu thương muội, kiểu yêu thương đó không giống với phụ thân, cũng không giống với huynh trưởng, chỉ có giữa nam nhân và nữ nhân mới có thể yêu thương kiểu đó. Muội và hắn sẽ giống như bây giờ cùng nằm trên một chiếc giường, muội và hắn sẽ có hài nhi của riêng mình, muội sẽ cảm nhận được từ một con bé chưa hiểu chuyện từ từ trở thành một nữ nhân thật sự, muội cũng sẽ mãn nguyện nhìn thấy giọt máu của muội từ từ lớn lên…

Số phận an bài muội phải lấy một vương hầu, các công khanh quý tộc phần lớn không phải là phu quân tốt, một khi lấy phải người xấu thì chỉ còn cách than thân trách phận, giống như tỉ tỉ, giống như Nam Tử của Vệ quốc, dù cho muội có xinh đẹp như hoa, kiêu kì ngạo mạn, nhưng cuối cùng… cũng bạc bẽo trước số phận mà thôi. Không phải cô công chúa nào cũng may mắn như muội đâu, đại đa số nữ nhân sinh ra trong hoàng thất đều không quyết định số phận của mình được, nếu muội gặp được một phu quân tốt, đó là phúc của muội tu mấy kiếp mới có được, có cơ hội phải nắm chặt lấy, tỉ tỉ là người từng trải, không gạt muội đâu. Muội hãy trân trọng cuộc hôn nhân này.”

Quý Doanh đơ mặt ra nói: “Là… phải vậy à? Nhưng con đại tinh tinh kia… muội còn chưa từng gặp, ngay cả một câu nói cũng chưa từng nói với hắn, thì phải cùng ở trong một căn phòng, ngủ chung một chiếc giường…”

Nàng kéo mền che kín đầu, ư hừ rít lên: “Ui trời, nghĩ đến là muội sợ rồi, muội không ngủ được đâu.” 

Mạnh Doanh mở to mắt, liếc xéo em gái: “Nhảm nhí, muội mà còn ngủ được thì đúng là mất cảm giác rồi đó, thôi đừng nghĩ ngợi nhiều nữa, đợi khi nào muội quen rồi thì sẽ ngủ được.”

Nàng ngưỡng mình lên, tay chống dưới cằm, hào hứng kể: “Khánh Kỵ hồi còn lưu vong ở Lỗ quốc, chỉ là một công tử thất thế, hai cô gái Quý thị, Thúc thị cũng bị hắn mê cho say đắm, luôn bám lấy hắn không chịu rời xa, hắn có vẻ gì giống con đại tinh tinh nào? Muội cho rằng hai cô gái nhà Quý thị, Thúc thị đều là đứa bé con năm sáu tuổi thích xem xiếc à? Tỉ tỉ tuy chưa từng gặp qua Khánh Kỵ, nhưng biết chắc hắn tuyệt đối xứng với muội muội.

Quý Doanh, phu quân của muội hùng tâm tráng chí, từ khi hắn xưng vương, từng hành động đều khiến người trong thiên hạ lác mắt, chỉ trong mấy tháng, Sở quốc của tỉ đã có bao nhiêu hiền tài bỏ đi Ngô giúp sức hắn rồi đấy. Phạm Lãi, Văn Chủng đều là đại thần của Sở, từ khi hoàng nhi trở về kinh đô, hai vị này vài lần tiến gián, nghe có lí lẽ lắm, tỉ luôn muốn trọng dụng họ, tiếc là quân quyền bị Phí Vô Cực độc chiếm, cứ ép cho họ phải bỏ sang Ngô quốc, mỗi khi nghĩ lại tỉ còn thấy đáng tiếc. Hôm nay tỉ còn định hỏi thăm về hai người Phạm Lãi, Văn Chủng từ Úc đại phu. Nhưng… là Sở quốc có lỗi với họ, tỉ tỉ còn mặt mũi nào mở miệng được?

Hôm nay Úc Bình Nhiên vào cung gặp tỉ, nghe cách nói chuyện rõ ràng là hiểu tình hình triều chính của Sở quốc như lòng bàn tay, đó chắc chắn là vị phó sứ nghênh đón tân nương Phạm Lãi vẫn chưa lộ diện đã nói cho hắn biết rồi.”

Nàng nằm gối đầu lên bắp tay, suy tư: “Phí Vô Cực chuyên quyền ai mà không biết? Nhưng ai mà dám nói lung tung ở Sở quốc? Các nước hễ phái sứ giả đến, cho dù biết rõ cũng chỉ nói vài câu khách sáo trước mặt tỉ, nào là Sở quốc có Vô Cực hiền tài trung trực, đất nước chắc chắn phục hưng gì gì đó. Úc đại phu lại nói thẳng không né tránh… Hừ!”

“Phí Vô Cực?” Quý Doanh bò ngay dậy, nói: “Đúng rồi, người này lúc muội ở Tần cũng từng nghe qua, đều nói người này ham tài háo sắc, hôn dung vô năng, dối trên lừa dưới, chuyên quyền triều cương. Bây giờ tỉ tỉ là hoàng thái hậu, sao không trị tội của hắn?”

Mạnh Doanh cười khổ: “Tỉ tỉ lấy gì mà trị tội hắn đây? Khắp triều đình đều là người của hắn, quân đội toàn là tướng lĩnh của hắn, tỉ mà không nhẫn nhục chịu đựng, hắn dám giết cả tỉ và hoàng nhi, sau đó lập một vị tôn thất hoàng tộc nào đó lên ngôi Sở vương, lúc đó ai dám làm gì hắn? Không phải tỉ tỉ không muốn diệt trừ hắn, mà chỉ là lực bất tòng tâm.”

Quý Doanh xoay xoay tròng mắt, vỗ ngực nói: “Tỉ tỉ, để muội giúp tỉ.”

“Muội? Muội có thể làm gì?”

Quý Doanh hí hửng: “Muội không làm được gì, nhưng con đại tinh tinh đó thì được chứ? Muội bắt hắn giúp tỉ là được thôi!”

“Hắn à? Vị phu quân tốt của muội ấy, sao mà chịu làm ăn lỗ vốn, sứ thần của hắn đến vạch rõ với ta chuyện Phí Vô Cực chuyên quyền lộng hành, xem ra Ngô vương có ý muốn ta mở miệng xin giúp đỡ, tỉ mà xin giúp, hắn chắc đưa ra điều kiện kèm theo, nhưng hoàng nhi ngày càng khôn lớn, tỉ tỉ không thể không lo lắng sắp xếp cho hoàng nhi tiếp quản chính sự, đợi tỉ suy nghĩ cho kĩ, xem Ngô quốc muốn đưa ra điều kiện gì rồi tính tiếp…”

“Cái gì? Hắn giúp tỉ tỉ còn muốn đưa ra điều kiện à? Tỉ tỉ cứ yên tâm, muội đến Ngô bắt con đại tinh tinh xuất binh giúp tỉ diệt trừ gian thần.”

Sở thái hậu cười khanh khách: “Muội à? Muội dựa vào gì bắt hắn nghe lời muội.”

Quý Doanh ưỡn ngực ra, đỏ mặt nói nhỏ: “Không phải tỉ vừa nói muội có thân thể và dung mạo làm chết mê chết mệt nam nhân sao?”

Sở thái hậu nhìn trưng trưng vào em gái hồi lâu, thở dài ngao ngán, cười khổ: “Lúc tỉ tỉ mới gặp muội, đúng là có nghĩ đến, nhưng giờ nghĩ kĩ lại, quốc gia đại sự hay là để tỉ và Úc đại phu bàn bạc vậy. Nữ nhân chỉ dựa vào nhan sắc là không đủ đâu, muốn phu quân nghe lời còn phải có tâm cơ và thủ đoạn nữa.”

Quý Doanh phụng phịu không phục: “Muội có tâm cơ và thủ đoạn mà.”

Sở thái hậu ngáp dài, dịu dàng nói: “Tiểu muội à, tâm cơ của muội… so với một con tinh tinh cái thì hơn được một chút đó.”

Hoàng cung Cô Tô. Khánh Kỵ và quần thần đang bàn luận quân cơ đại sự. Anh Đào khải tấu: “Đại vương, Công Sơn Bất Nữu, Trọng Lương Hoài y kế hành sự, lấy danh nghĩa của Cổ Quân Hải đánh vào các bộ lạc phản đối Đông Di lập quốc và phụ thuộc Ngô quốc ta, Lương Hổ Tử tướng quân cố gắng tạo thuận lợi nhất cho họ hành động, Công Sơn Bất Nữu ra tay thành công liên tục, các bộ lạc kia tổn thất nghiêm trọng, có một số bộ lạc nhỏ vì muốn tự bảo vệ, đã dời đến gần khu vực Dư Khâu, chấp nhận sự bảo vệ của Doanh Thiền Nhi nữ vương và Lương Hổ Tử tướng quân. Nữ vương Doanh Thiền Nhi ngày càng tạo lập uy danh, nhưng tình hình trước mắt số trưởng lão bộ lạc phản đối lập quốc và phụ thuộc Ngô quốc ta vẫn còn nhiều, xem ra vẫn phải bảo Công Sơn Bất Nữu tấn công mạnh hơn, để các bộ lạc này hoàn toàn mất đi sức mạnh vũ trang, lúc đó tiến hành lập quốc là cách làm ổn thỏa nhất.”

Khánh Kỵ lắc đầu: “Đêm dài lắm mộng, quả nhân không thể đợi quá lâu, Tề quốc hiện đang tập trung sức chú ý vào biến loạn sắp xảy ra ở Tấn, nhất thời không muốn gây sự ở Đông Di, một khi Tấn quốc xong chuyện, Tề lại nhảy vào Đông Di, hơn nữa lúc đó họ không còn e ngại gì, nên lúc này thu nạp Đông Di là tốt nhất, chúng ta không thể bỏ qua cơ hội này, báo với Doanh nữ vương và Lương tướng quân, vẫn theo thời gian đã ấn định lập quốc vào đầu tháng sáu, sau đó thảo bức quốc thư, chấp nhận phụ thuộc Ngô quốc.”

Anh Đào do dự nói: “Nhưng… các trưởng lão bộ lạc không muốn giao quyền lực ra vẫn còn rất nhiều, đám trưởng lão này bị thúc ép quá vẫn còn chút sức lực phản kháng, chứ không chịu buông xuôi đâu ạ. Thần lo rằng… Doanh nữ vương là phận nữ nhi, các thế lực trung thành với nữ vương lại không chiếm ưu thế tuyệt đối, nếu mà gấp gáp lập quốc, cho dù các trưởng lão vì áp lực buộc phải chấp nhận, sau này vẫn để lại mối nguy tiềm ẩn.”

Khánh Kỵ ngẩng đầu cười tự tin: “Anh Đào lo lắng cũng đúng, nhưng ngươi quên mất một điều, hiện giờ Lương Hổ Tử đang huấn luyện một đạo quân trực thuộc Doanh Thiền Nhi, trong đó một nửa chiến sĩ thuộc hai bộ tộc Phong, Doanh, nửa kia là chiến sĩ lang sói Ngô quốc ta, đạo quân này một khi luyện thành, các bộ lạc Đông Di không ai là đối thủ cả, hơn nữa lúc đó chúng bị Công Sơn Bất Nữu đánh phá đã suy giảm lực lượng nhiều rồi.”

Anh Đào hớn hở: “Ý đại vương là… chẳng lẽ sau này còn phải kêu Doanh nữ vương sử dụng vũ lực với các bộ lạc chống đối Đông Di.”

“Không sai!” Khánh Kỵ đanh mặt, nghiêm túc phán: “Chỉ dựa vào sức mạnh bên ngoài trấn áp, cho dù Doanh Thiền Nhi thành công lên ngôi, uy danh cũng không đủ lớn, các bộ lạc chắc chắn mưu phản, đến khi đó phải giải quyết nhiều vần đề càng điên đầu hơn, chi bằng trước khi lập quốc đem các vấn đề này xử lí hết. Phàm là thế lực chính trị mới ra đời, buộc phải có người hy sinh, dùng vũ khí và máu thịt gầy dựng cơ sở mới đủ kiên cố, nếu không chém giết Doanh Thiền Nhi sao mà tạo uy danh? Mấy tên tôm tép không biết điều đó phải giao cho nàng ta tự tay xử lí mới được.”

“Dạ, thần hiểu rồi ạ. Về bố trí binh lực, thần sẽ làm tốt tất cả công tác chuẩn bị.”

Khánh Kỵ lại quay sang Tôn Vũ hỏi: “Phía Việt quốc có động tĩnh gì không?”

Tôn Vũ chắp tay trả lời: “Chúc Dung đại phu giám quốc ở Việt, ngài ấy đưa tin về, thế lực Ngô quốc ta ngày càng mạnh, các tài năng sĩ tử khắp nơi đều đến phục mệnh, Việt vương DoãnThường sợ hãi giờ càng tỏ ra thần phục, ta có gì cần là đáp ứng ngay lập tức.”

Khánh Kỵ cười ha hả: “Hô hô, xem ra người Việt phục dịch cho Chúc Dung hoàng thúc hài lòng lắm đây. DoãnThường, Câu Tiễn nhẫn nhịn khá nhỉ, ngoài dự đoán của quả nhân.”

Tôn Vũ nói: “Đại vương, theo ý thần thì DoãnThường muốn cho người Ngô ta ức hiếp, từ đó dấy lên lòng căm ghét của dân chúng, lòng dạ nham hiểm, không thể không phòng.”

Khánh Kỵ hô hố khoái trá: “Được cái này, mất cái kia, người Việt càng hận thù Ngô quốc ta, đối với phụ tử nhà hắn càng thất vọng, lợi hại trong đó nếu biết cách tận dụng, những việc không tốt có khi biến thành có lợi cho chúng ta, cứ mặc cho Chúc Dung hoàng thúc hà hiếp chúng tiếp, ta muốn coi chúng nhẫn nhịn được đến bao giờ.”

“E là chúng không nhịn được bao lâu nữa đâu.” Ánh mắt Tôn Vũ lộ vẻ hài lòng: “Phạm đại phu đưa tin từ Sở về, nghi có người Việt bí mật tiếp xuất với Phí Vô Cực.”

Khánh Kỵ mỉm cười: “Việc này xem ra không giả, người Việt đã sắp không nhịn được rồi.”

Hắn suy tư giây lát, nói: “Nếu người Việt mà hành động, e là Chúc Dung hoàng thúc là kẻ bị hại trước tiên, truyền chỉ lệnh cho Chúc Dung hoàng thúc lập tức về nước, xung quanh hoàng thúc chắc đã bố trí đầy gian tế người Việt, không được nói rõ lí do. Yểm Dư hoàng thúc, việc này…”

“Thần hiểu, việc này cứ giao cho thần lo liệu.” Yểm Dư nghe Khánh Kỵ nói ra những lời này vừa cảm động vừa kinh hoàng, Chúc Dung là hoàng đệ ruột thịt của hắn, trước đây từng nhăm nhe vương vị, Khánh Kỵ sau khi quay về từ từ bài xích Chúc Dung khỏi trung tâm quyền lực, Chúc Dung cũng tự hiểu nên trốn sang Việt quốc sống những ngày tháng xa hoa, chắc cũng có ý lánh nạn. Bây giờ Khánh Kỵ cảm thấy người Việt lăm le hành động, lập tức nghĩ đến an nguy của vị hoàng thúc từng gây bất lợi cho mình, điều này khiến Yểm Dư thấy bất ngờ cảm động.

Cùng xuất thân hoàng thất, tranh quyền đoạt lợi là chuyện thường thấy, nhưng Khánh Kỵ trước đây thà không dùng Công Sơn Bất Nữu, Trọng Lương Hoài chứ không chịu qua cầu rút ván, nay lại bảo vệ cho Chúc Dung từng bất trung. Điều này Tôn Vũ, Anh Đào và các đại thần trong triều đều nhìn thấy cả, lòng khâm phục và trung thành với Khánh Kỵ vì thế nặng thêm mấy phần.

Khánh Kỵ nhắm mắt lại, châm rãi nói: “Các vị ái khanh, ngày trước thả Việt thái tử Câu Tiễn về nước. Quả nhân và Trường Khanh, Thiếu Bá, Tử Cầm từng bàn định một kế sách. Kế này thả dây dài câu cá lớn, mạo hiểm giành thắng lợi, có thể nói là một mũi tên bắn chết hai con nhạn. Nhưng thực hiện thì liên quan sâu rộng nhiều mối quan hệ, không những cần bằng hữu liên minh tương trợ, mà cần cả kẻ địch của chúng ta phối hợp. Bây giờ thời cơ xem ra đang lúc chín mùi, cũng nên nói ra cho các ái khanh biết. Trường Khanh…”

“Có thần.”

“Kế hoạch này, ngài nói ra cho các vị đại thần nghe vậy.” 

Tôn Vũ đứng thẳng người lên, sải bước đi về trung tâm đại điện, đứng chống hông oai vệ, cất giọng lanh lảnh: “Các vị đại phu, Tôn Vũ và hai vị đại phu Phạm Lãi, Văn Chủng từng cùng đại vương bàn luận thiên hạ đại sự, tất cả đều nhất chí cho rằng việc xưng bá thiên hạ không thể ngày một ngày hai mà làm được, Ngô quốc ta nên kết giao với bằng hữu ở xa, tấn công tiêu diệt kẻ địch gần bên, trong nước chăm lo cho quốc kế dân sinh, ngoài nước tăng cường sức mạnh quân sự, quan sát cục diện thay đổi trong thiên hạ, ẩn mình chờ đợi cơ hội vùn lên hành động.

Bây giờ Ngô quốc ta thu nạp di dân, khai hoang đất trống, phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thảo, cổ xúy dạy học, đề bạt sĩ tử, chọn người tài không câu nệ xuất thân, đất nước ngày một đi lên, chỉ trong thời gian ngắn thanh thế đã sắp vượt qua Sở quốc, tin chắc không bao lâu nữa, đệ nhất đại quốc phương Nam sẽ thuộc về Ngô quốc ta.”

Khắp đại điện huyên náo cả lên, các đại thần xì xầm bàn bạc, ai nấy đều lộ vẻ phấn kích, sự phát triển vượt bậc của Ngô quốc ai ai đều thấy, họ là đại thần Ngô quốc, đương nhiên cảm nhận được sự thay đổi của xã tắc, giờ đây không ai nghi ngờ nữa, nếu cứ tiếp tục đi theo con đường này, vậy ba năm sau, mười năm sau, Ngô quốc sẽ phát triển lớn mạnh cỡ nào.

Khánh Kỵ nhìn một lượt quần thần trên đại điện, lúc này các đại thần có mặt đều là trọng thần cốt cán của Ngô quốc, nhưng phần lớn họ đều còn rất trẻ, tuổi tác bình quân không quá ba mươi hai, người nào người nấy tràn trề ý chí phấn đấu và muốn góp sức cống hiến thể hiện bản lĩnh.

Tiếng nói lanh lảnh cất cao của Tôn Vũ vang vọng khắp đại điện: “Nhưng số điều kiện hạn chế sự phát triển của Ngô quốc ta cũng không ít, Ngô quốc nằm ngay góc Đông Nam, sau lưng có Việt quốc, bên trái là Sở quốc, bên phải là biển cả… Đại bàng muốn tung cánh bay cao, khổ nỗi bị dây nhợ vướng víu, nếu muốn xưng bá thiên hạ, Ngô quốc ta buộc phải trừ đi mối họa sau lưng, mở rộng bờ cõi, mới có thể củng cố cơ sở, nhất triển hùng đồ.

Sở quốc dù cho về mặt cương thổ, dân số, kinh tế hay về mặt binh lực, hiện nay Ngô quốc ta đều không thể sánh bằng, hơn nữa một khi Sở quốc sụp đổ, Ngô quốc ta phải ra sức chống chọi sức ép từ Tề, Tấn phương Bắc, điều đó không có lợi cho Ngô quốc phát triển, vì thế nên từ từ tính tới.

Còn Việt quốc nằm sát sau lưng chúng ta, hai phụ tử Doãn Thường mang nặng dã tâm, không chịu an phận, là mối đe dọa lớn cho Ngô quốc ta, Ngô muốn xưng bá thiên hạ, cần dẹp yên Việt quốc trước đã, Việt quốc muốn mạnh lên cũng phải diệt Ngô, thế mới nổi lên từ phía Đông Nam được, hai nước Ngô Việt không thể cùng tồn tại.

Cho nên, Tôn Vũ cùng hai vị đại phu Phạm Lãi, Văn Chủng cùng bàn luận, căn cứ theo tình hình thiên hạ hiện nay, hiến kế với đại vương là: Lấy Đông Di trước, mở rộng lãnh thổ; tiếp đến diệt Việt, trừ mối hậu họa; sau đó đánh Sở, chiếm vùng đất Tiềm, Lục, dựa vào độ hiểm trở của Trường Giang, tiến có thể mưu đồ trung nguyên, lui có thể dựa vào địa thế hiểm trở cố thủ, tạo ra một khu vực hoàn chỉnh, kiên cố phía Đông Nam. Hiện nay nhờ hồng phúc của đại vương, Đông Di sắp rơi vào tay, việc diệt Việt đánh Sở, cũng là lúc phải tính đến rồi.”

Quần thần nghe thế, tức thì im bặt kinh hãi. Tuy rằng hiện nay Ngô quốc trong một thời gian ngắn đã mạnh lên rất nhiều, nhưng vẫn còn rất nhiều chính sách cần ít nhất một hoặc hai năm thời gian nữa mới phát huy hiệu quả, sức mạnh của Ngô quốc cũng không thể trong một lúc tích tụ lại được, với sĩ khí, binh lực của Ngô quốc hiện nay, nếu muốn đánh Việt quốc thì còn có thể làm được, nhưng nói đến giao chiến với Sở, e rằng tất cả nỗ lực gầy dựng cơ ngơi của Khánh Kỵ từ lúc đăng cơ có nguy cơ tan thành mây khói, có thể phải kéo dài thêm ba bốn năm mới hồi phục nguyên khí. Việt quốc bị Ngô chèn ép khó phát triển mạnh lên, nếu muốn lấy Việt đợi thêm hai năm cũng không thành vấn đề, lúc này cùng lúc khai chiến với cả Việt và Sở tuyệt đối không phải là hành động khôn ngoan.

Thiếu tư mã Bình Bố lập tức đứng dậy khải tấu: “Đại vương, thứ cho thần nói thẳng, Ngô quốc vừa mới ổn định, bá tánh cần nghỉ ngơi dưỡng sức, lúc này mà phát động chiến tranh không phải là hành động khôn ngoan, đại bàng trước khi vồ mồi phải kiểm tra lông cánh, nếu Ngô quốc ta nghỉ dưỡng cho tốt, chỉ cần ba đến năm năm, tình hình sẽ khác xa, khi đó đánh ai mà chẳng được.”

Khánh Kỵ mỉm cười: “Thiếu tư mã lòng trung thành đáng khen ngợi, nhưng… Tôn tướng quốc còn chưa nói hết, thiếu tư mã bình tĩnh lại đã, cứ nghe tướng quốc nói cho hết lời rồi đưa ý kiến sau.”

“Dạ!” Bình Bố chỉ còn cách chắp tay lui xuống, quay về phía sau bàn ngồi xuống.

Tôn Vũ khẽ mỉm cười đắc ý, tiếp tục nói ra kế hoạch của mình.

Thì ra hôm đó bọn họ và Khánh Kỵ cùng bàn luận quốc sách Ngô quốc, quyết định nắm bắt thời cơ, trước tiên lấy vùng đấy Đông Di, sau đó thu mình ẩn náu, tiến hành nghỉ ngơi dưỡng sức, cố gắng gia tăng sản xuất phát triển nội chính, tăng cường thực lực, sau đó tiến hành tiêu diệt Việt quốc. Khi đưa Câu Tiễn về nước, về kế sách đối xử với Việt, quân thần họ lại bàn bạc kĩ lưỡng lần nữa. Trong chuyện này liên quan đến mưu lược phát triển lâu dài của Ngô quốc, quân thần bốn người hoạch định rõ ràng chi tiết từng giai đoạn hành động cụ thể trong đại kế diệt Việt. Phạm Lãi và Văn Chủng trong hội nghị quyết sách này thể hiện rõ tài năng hợp tung liên hoàn, khéo léo sử dụng mưu lược thủ đoạn về chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự… vạch ra một kế hoạch diệt Việt nuốt Sở hoàn hảo dâng lên cho Khánh Kỵ.

Trong kế hoạch đề ra, bước thứ nhất chính là thả Câu Tiễn về nước, về mặt đạo nghĩa Ngô quốc nhận được tiếng thơm, đồng thời lợi dụng việc Việt quốc thừa nhận là nước phụ thuộc của Ngô, cố gắng chèn ép kiếm chác lợi lộc từ Việt quốc, xúc tiến cho Việt bất mãn tạo phản, đến lúc đó xuất binh phạt Việt có danh nghĩa chính đáng, giảm thiểu tối đa sức cản về chính trị và quân sự từ các nước chư hầu khác.

Bước thứ hai của kế hoạch, chính là lợi dụng tình hình cục diện Sở quốc hiện nay và số quý tộc người Sở bị Cơ Quang bắt về giam giữ ở Ngô, phân hóa Sở quốc, làm cho Sở phân chia thành hai phe, một phe là bảo vệ quân quyền do hoàng thái hậu đứng đầu, phe kia là tập đoàn vây cánh lộng quyền của Phí Vô Cực. Tiến hành kết thân với Tần quốc, gián tiếp để Ngô có quan hệ với Sở thái hậu, đứng sau bợ đỡ cho thế lực của Sở thái hậu mạnh lên, gia tăng mâu thuẫn nội bộ Sở quốc.

Bước thứ ba, chính là phá cho Việt quốc không nhẫn nhịn tiếp được nữa, lúc Việt có ý đồ nổi dậy, bèn chủ động gây sự tạo ra mâu thuẫn với Phí Vô Cực bên Sở, để Việt quốc cảm thấy có thời cơ để tận dụng, xúc tiến cho chúng liên minh với Phí Vô Cực dấy binh phạt Ngô.

Bước thứ tư, làm ra vẻ trong nội bộ Ngô quốc rối ren, tạo cơ hội cho chúng tiến sâu vào lãnh thổ Ngô quốc, tiêu diệt chủ lực của chúng ngay tại Ngô. Về phía Sở, trong lúc Phí Vô Cực xua quân đánh Ngô, phe của Sở thái hậu sẽ phát động chính biến, lật đổ Phí Vô Cực đưa tiểu Sở vương lên nắm quyền triều chính, dẹp trừ phe cánh của Phí Vô Cực, đoạt lại thực quyền quân sự chính trị, làm vậy lòng quân của Phí Vô Cực đang ở bên ngoài lập tức hỗn loạn, khó uy hiếp Ngô quốc tiếp được.

Bước thứ năm, Ngô quốc lấy thân phận nước bị đánh tiến hành phản kích, giơ cao ngọn cờ chính nghĩa tiêu diệt triệt để Việt quốc, còn lúc đó đem Việt quốc biến thành nước phụ thuộc hoàn toàn cả ngoại giao, quân sự vào Ngô, hay theo kế hoạch của Khánh Kỵ chia ra thành từng huyện để cai trị, phải xem tình hình cụ thể mới quyết định.

Bước thứ sáu, xem tình hình thiên hạ lúc bấy giờ ra sao, hoặc tha cho Phí Vô Cực chạy về nước, để Sở quốc nội chiến liên miên suy yếu đi, hoặc giúp Sở thái hậu tiêu diệt luôn đạo quân của Phí Vô Cực, tất nhiên phải kèm theo điều kiện, đó là Sở quốc sẽ cắt vùng lãnh thổ phía đông Tiềm Sơn cho Ngô quốc.

Các đại thần nghe xong, khắp đại điện im phăng phắc, kế hoạch diệt Việt này kéo dài khá lâu, lôi kéo theo nhiều chư hầu tham gia, các yếu tố nội chính, ngoại giao, quân sự, dân sự đều liên can trong đó, thực là tính sai một ly đi một dặm khiến ai nấy thán phục. Trong thời kì Xuân Thu, dù cho là một trận chiến diễn ra cấp bách, cũng ít khi kéo theo nhiều yếu tố quyết định đến vậy vào đó, kế hoạch chi tiết tận dụng nhiều phương tiện như thế, hơn nữa lại là kế hoạch hành động lâu dài, liên tục mà gắn kết, lại có thể tùy theo tình hình trong và ngoài nước thay đổi ra sao tiến hành điều chỉnh cho phù hợp, đáng nể cho mấy người Tôn Vũ, Phạm Lãi, Văn Chủng nghĩ ra kế hoạch hoàn hảo này.

Khi quyết định kế hoạch này, xây dựng nội bộ, kết thân với Tần, qua lại với Sở thái hậu dự kiến cần dùng thời gian là ba năm, chủ yếu là vì nghĩ đến trường hợp thực lực Ngô quốc không đủ mạnh, cần có thời gian hồi phục nguyên khí, phát triển lớn mạnh hơn đã, còn về phía Sở trước khi kết thân với Tần, thuyết phục Sở thái hậu, hậu thuẫn xây dựng thế lực cho Sở thái hậu đủ mạnh chống chọi với Phí Vô Cực, buộc phải không gây hấn với hắn, hơn nữa lo lắng Ngô quốc mạnh lên nhanh chóng khiến các chư hầu trung nguyên lo lắng, sẽ tiến hành can thiệp khi Ngô xua quân phạt Việt, hoặc giúp đỡ cho Việt chống Ngô, vì thế mấy năm đầu phải tỏ ra yếu đuối che mắt thiên hạ, cố gắng giao hảo với tất cả chư hầu. Cả kế hoạch ấn định thời gian hoàn thành kéo dài đến tám năm.

Nhưng bây giờ tình hình thay đổi, vì việc kết thân với Tần đã hoàn thành thuận lợi, Sở thái hậu thông qua Úc Bình Nhiên, đã tỏ ý nhận giúp đỡ từ Khánh Kỵ, đồng ý yêu cầu cắt vùng lãnh thổ phía Đông từ Tiềm Sơn cho Ngô. Sở vương giờ như con bù nhìn, theo tháng năm Sở vương ngày một trưởng thành, ngày phải đích thân nắm quyền càng gần, nếu Phí Vô Cực không chịu buông tay, tính mạng của Sở vương có nguy cơ bị đe dọa, về phía Sở thái hậu, chờ đợi thêm một ngày trong lo sợ chi bằng chấp nhận trả giá dẹp trừ mối họa Phí Vô Cực. 

Phía đông Tiềm Sơn thuộc lãnh thổ của Sở quốc, điều đó không sai, tuy nhiên đó không phải là lãnh thổ Sở quốc trực tiếp cai quản, mà chỉ là vài nước phụ thuộc nhỏ bé, lãnh thổ Sở quốc quá rộng lớn, sức khống chế tại khu vực này có giới hạn, nếu cắt mấy nước bé này cho Ngô, đổi lại an toàn cho tiểu Sở vương và Sở thái hậu, hơn nữa còn giành lại quyền lực trong tay, Sở thái hậu đương nhiên cảm thấy vụ trao đổi này đáng để tiến hành.

Điều kiện tiên quyết cho kế hoạch đều phát sinh hết, đó chính là lí do Khánh Kỵ muốn sớm phát động phạt Việt, ngoài ra còn một lí do quyết định, đó là ở phía Tây Bắc xa xôi kia, Tấn quốc không có vẻ gì liên quan đến Ngô quốc nằm tận duyên hải Đông Nam sắp xảy ra nội loạn.

Theo kế hoạch đề ra, trước khi mấy điều kiện tiên quyết kia xảy ra, phải tìm cách thuyết phục Lỗ quốc, cùng Lỗ hợp binh thảo phạt Tề, từ đó đưa quân ra Bắc, dụ Phí Vô Cực và Việt quốc xâm lược Ngô. Sau đó quân Lỗ và quân Đông Di ở lại cầm cự với quân Tề, đại quân của Ngô bí mật rút về, khóa cửa tiêu diệt quân Việt.

Đồng thời Sở thái hậu phát động chính biến tại Dĩnh Đô, chặn đường rút lui của Phí Vô Cực, quân Sở nghe tin trong nước có loạn, lòng quân chắc chắn hỗn loạn, Phí Vô Cực cũng đâu còn tâm trí đánh nhau với Ngô, sẽ lập tức rút quân về Sở hòng giành lại quyền lực, khi đó quân Ngô chỉ phải đối phó với mỗi quân Việt, quân Việt đánh lén thì còn được, chứ giao chiến trực diện đâu phải là đối thủ của quân Ngô, chỉ cần tiêu diệt quân chủ lực của chúng, tiếp đó tiến đánh Việt quốc chỉ còn chiếc vỏ trống rỗng dễ như trở bàn tay.

Trong đó khó nhất là thuyết phục cho bằng được Lỗ quốc xuất binh, cùng Ngô diễn tuồng hay cho Việt và Phí Vô Cực xem, thế thì phải xem mấy năm tới công tác ngoại giao làm tốt đến đâu quyết định, bây giờ đột nhiên Tấn quốc xảy ra một cơn đại chấn bạo loạn, đúng là cơ hội trời cho, tất cả khó khăn thuyết phục Lỗ lập tức được giải quyết hết.

Do bạo loạn ở Tấn có Tống quốc tham dự vào, Nam Tử tìm đến Khánh Kỵ, mời hắn du thuyết Tần quốc xuất binh hỗ trợ, Tống Ngô đã hình thành nên mối quan hệ hợp tác bí mật, nếu đã vậy, mục tiêu tấn công giả của Ngô sẽ biến từ Tề thành Tống, cứ tìm lí do gì đó khai chiến với Tống, nếu hai nước phối hợp diễn một vở tuồng hay, khi đó không cần phí sức thuyết phục Lỗ quốc nữa, cũng không cần lo lắng phải dọn dẹp mớ bòng bong nếu đánh Tề, hợp đồng diễn kịch với Tống thì muốn chiến là chiến, muốn lui là lui, tính cơ động của đại quân phát huy được tối đa nữa là đằng khác.

Đồng thời, bạo loạn ở Tấn quốc xảy ra, Ngô phát động chiến tranh diệt Việt, khi đó sức cản về chính trị và quân sự đến từ các nước chư hầu là nhỏ nhất, Tấn quốc các cứ lãnh thổ phì nhiêu rộng lớn ở trung nguyên, một khi Tấn tan rã, các thế lực khác lập tức nhảy vào xâu xé nó, Việt quốc so với Tấn, dù là vị trí địa lí, lãnh thổ đều quá bé nhỏ, không hề có ảnh hưởng quan trọng nào với các nước trung nguyên, vì thế Khánh Kỵ diệt Việt trong lúc Tấn quốc bạo loạn, chư hầu thiên hạ có ai rảnh mà đi lo cho cái nước Việt bé nhỏ nằm tuốt phía góc Đông Nam sát biển kia.

Đương nhiên, chi tiết hành động còn nhiều điều cần hoàn thiện, nhưng với tài năng của Tôn Vũ, Phạm Lãi, Văn Chủng, lúc nào cũng có khả năng tuân theo thời thế thay đổi bổ sung cho phù hợp, chuyện Tấn quốc bạo loạn là cơ hội ngàn năm có một, bỏ qua sẽ không có lần hai, Khánh Kỵ sao dễ dàng không tận dụng chứ?

Khắp đại điện đều là trọng thần tâm phúc của Khánh Kỵ, muốn tiến hành kế hoạch quan trọng này, cần các trọng thần đồng tâm hiệp lực, vì thế Tôn Vũ không hề giấu giếm nữa, cứ phân tích rõ ràng cho mọi người nghe, các đại thần nghe xong phân tích toàn bộ chi tiết kế hoạch hành động của Tôn Vũ, mới sáng mắt ra, tiếng nói phản đối như Bình Bố vừa nãy cũng không còn vang lên.

Khánh Kỵ nói: “Hôm nay triệu tập các ái khanh nghị sự, một là nói rõ kế hoạch cho các khanh biết, cho mọi người chuẩn bị phối hợp hành động, tạo lập công lao cho nước nhà. Hai là quả nhân quyết định tiến hành bước thứ ba của kế hoạch diệt Việt: Chủ động gây hấn tạo mâu thuẫn với Phí Vô Cực của Sở, cho Việt quốc thừa cơ liên minh với Phí Vô Cực. Các vị ái khanh có kế hay gì, có thể giúp ta gây hấn với Phí Vô Cực mà không làm người khác nghi ngờ không?”

Khánh Kỵ dứt lời, quần thần ai nấy đăm chiêu suy nghĩ.

Hồi lâu, Thái Nghĩa ngập ngừng nói: “Đại vương, sao chúng ta không khơi lại chuyện cũ tranh chấp cây tang, cho một thôn phụ tranh chấp với người Sở, từ đó dấy lên chiến sự?”

Hai năm trước hai nước Ngô Sở từng xảy ra chuyện thôn phụ tranh chấp một cây tang, ai nấy đều cho là của mình, thế là hai nhà đánh nhau to, tiếp đó hàng xóm láng giềng toàn thể ra tay, sau cùng quan viên hai nước dẫn quân đến xung đột, thế là dấy lên một cuộc chiến kéo dài suốt mấy năm, Công tử Quang chính là lợi dụng trận chiến này dùng kế điệu hổ li sơn, phái Yểm Dư, Chúc Dung và Khánh Kỵ đưa quân đánh Sở, hắn thích sát Ngô vương Cơ Liêu đoạt lấy vương vị.

Tôn Vũ lắc đầu nói: “Phí Vô Cực chỉ lo cho lợi ích cá nhân, đâu để tâm quốc kế dân sinh, đừng nói là có một cây tang, cho dù ta chiếm cả một khu vườn, Phí Vô Cực cũng mặc kệ, hắn không quan tâm chuyện tranh chấp nhỏ nhoi của đám dân đen đâu.”

Bình Bố vỗ đùi cái đét: “Thế thì ta làm tới luôn, trực tiếp phát binh phạt Sở, ép hắn chống trả.”

Văn võ bá quan xung quanh nhìn trưng trưng vào hắn, Bình Bố đỏ mặt biết mình nói sai, xấu hổ ấp úng: “Thế này… có gì không đúng à?”

Hắn là thiếu tư mã, là thuộc hạ của Anh Đào, Anh Đào không muốn thuộc hạ của mình lộ ra mặt yếu kém, vội giải thích: “Bình tướng quân, kế này không ổn, làm vậy là chúng ta đánh Sở chứ không phải dụ quân Sở đến đánh chúng ta, quân Sở vẫn đóng trong nước, không thể điệu hổ li sơn, thế lực của Sở thái hậu nhỏ lẻ làm sao phát động chính biến? Hơn nữa, Việt quốc cũng không lí do gì liên minh được với Sở, để bị chúng ta dụ vào trong rọ tiêu diệt.”

“À!” Bình Bố tự vỗ vào đầu, hậm hực: “Thì ra còn phải tính toán đủ thứ chuyện, thật là rắc rối, hay là mọi người nghĩ kế đi, mạc tướng chỉ dẫn quân hành động theo chỉ thị thôi.”

Bốn bề phát ra tiếng cười chế giễu, đại phu Điền Kỳ Anh suy ngẫm giây lát, mở miệng góp ý: “Đại vương, theo ý của thần, nếu muốn gây hấn với Phí Vô Cực, chưa chắc phải gây sự với hắn tại Sở, chi bằng chúng ta đi thảo phạt Trần quốc.”

Khánh Kỵ ngớ người, ngạc nhiên hỏi: “Phạt Trần?”

“Đúng vậy!” Điền Kỳ Anh lấy hết can đảm nói tiếp: “Vi thần cho rằng, Trần quốc là nước phụ thuộc Sở, Sở có trách nhiệm bảo vệ cho Trần, nếu Ngô quốc ta thảo phạt Trần mà Phí Vô Cực khoanh tay đứng nhìn, vậy các nước phụ thuộc lớn nhỏ khác của Sở sẽ không còn tin tưởng, vì thế Phí Vô Cực buộc phải can thiệp vào. Hơn nữa, thái tể Trần quốc chính là tiểu đệ của Phí Vô Cực, dù muốn dù không hắn cũng phải nhảy vào cứu, chỉ cần ta đánh với Trần vài trận, Phí Vô Cực xuất binh ta lại gây cho hắn ít thiệt hại, lúc đó sợ gì hắn không oán hận ta, Việt quốc thừa cơ xen vào thuyết phục liên minh với hắn, mưu đồ tiến đánh Ngô quốc ta chứ?”

Đôi mắt Tôn Vũ sáng rực, lên tiếng khen ngợi: “Điền đại phu nói có lí lắm, đánh Trần quốc còn có một cái lợi, Ngô quốc ta muốn tiến về trung nguyên phía Bắc, không thể lúc nào cũng nương nhờ vào các nước liên minh Tống Vệ và Lỗ mượn đường được, sau này lực lượng của ta một khi lớn mạnh, bắt buộc phải tìm riêng cho mình một con đường tiến vào trung nguyên, mà Trần quốc nằm ngay con đường huyết mạch tiến lên Tây Bắc, nếu chiếm của chúng mấy thành trì, hoặc tốt hơn là chiếm Trần luôn, sau này có ích rất nhiều cho đại nghiệp của Ngô quốc ta. Một Trần quốc nhỏ bé bị tiêu diệt, ngoài Sở quốc ra, còn chư hầu nào quan tâm xen vào đâu chứ?”

Khánh Kỵ suy tư giây lát, xòe hai tay ra nói: “Nhưng… lí do đâu? Quả nhân đâu thể vô duyên vô cớ xua quân đánh người ta, ngang nhiên xâm chiếm Trần quốc được? Dù sao… cũng phải có một danh nghĩa để tiện xuất binh chứ.”

“Cái này…” Quần thần lập tức túm tụm bàn tán.

“Đại vương!” Thái Nghĩa ngập ngừng nói: “Thần… có một lí do có thể phạt Trần.”

“Mau nói.”

“Lí do chính là bất kính với thượng quốc, coi thường thiên uy của Ngô vương.”

“Sao lại nói thế?”

“Đại vương nạp phi, Trần quốc không đến triều cống dâng tặng lễ vật, sau khi nạp phi cũng không thấy Trần quốc phái sứ giả đến chúc mừng, đó là hành động coi thường Ngô quốc, Tần quốc, Lỗ quốc. Ngô xua quân thảo phạt Trần, còn được người Tần và người Lỗ hài lòng nữa ấy chứ.”

Khánh Kỵ nhìn trưng trưng vào hắn hồi lâu, than thở: “Quả nhân nạp phi, Trần quốc đúng là không mang lễ vật đến mừng, nhưng thám tử đã đưa tin về, lần này quả nhân kết thân với Tần quốc, nạp Tần nữ làm hoàng hậu, Trần đã phái sứ giả, hiện đang trên đường tới đây.”

“Khụ!” Tôn Vũ che miệng ho lên một tiếng, nháy mắt với Anh Đào.

Anh Đào hiểu ý, cũng ho nhẹ một tiếng, quay qua ra hiệu cho Bình Bố. Bình Bố lộ vẻ khó xử, quay sang muốn tìm quan lại dưới quyền hắn, nhưng phát hiện ra các quan viên chức vụ thấp lúc này không được vào đại điện nghị bàn chính sự, chỉ còn cách gãi đầu gãi tai bước lên bảo đảm: “Khụ khụ…, e là tin tức của đại vương có khi cũng không được chuẩn xác lắm. Thần dám khẳng định, ngày sắc lập hoàng hậu của đại vương… sứ giả Trần quốc… nhất định sẽ không xuất hiện đâu ạ.”

Tôn Vũ vỗ tay cái bốp, hét lớn: “Hay lắm, đại vương, nếu đã vậy chúng ta cứ việc xua quân thảo phạt Trần quốc thôi!”  Đội xe của công chúa Tần quốc Quý Doanh đã đến Cô Tô thành, vì Quý Doanh có thân phận là hoàng hậu Ngô quốc, phải hành lễ như Ngô vương, vì thế tướng quốc Tôn Vũ dẫn theo bá quan văn võ trong triều ra thành tiếp giá, Khánh Kỵ cũng phá lệ dẫn theo sứ giả các nước đứng ngoài cửa cung nghênh đón.

Công chúa Tần Quý Doanh được đón vào hoàng cung Ngô quốc, theo tục lệ thì lại là một hôn lễ xa hoa náo nhiệt, lần này sứ giả các nước đến đông đủ hơn, lễ vật chúc mừng cũng long trọng hơn trước.

Khánh Kỵ được lễ quan tháp tùng, thực hiện đầy đủ mọi nghi thức tân hôn, bài yến tiệc thết đãi quần thần và sứ giả các nước, ban chiếu đại xá thiên hạ, tặng lễ vật hậu hĩ cho sứ đưa tân nương đến Ngô quốc, bận bịu đến tận trời tối, khắp hoàng cung ồn ào náo nhiệt mới yên tĩnh trở lại.

Phi tần trong cung và tất cả thái giám, cung nữ trên dưới theo lễ nghi đều phải đến bái kiến tân hoàng hậu, nhưng số lễ nghi này phải đợi sau đêm tân hôn của đại vương và hoàng hậu, sáng sớm ngày mai mới tiến hành, lúc này Quý Doanh tuy được dẫn vào Loan Phượng cung, nhưng vẫn chưa chính thức tiếp quản hậu cung, chưa được gặp mặt ba phi tần Nhược Tích, Diêu Quang, Tiểu Man.

Loan Phượng cung là tẩm cung của Ngô vương và hoàng hậu, Khánh Kỵ lên ngôi, vị trí hoàng hậu bỏ trống, trước giờ chưa có ai vào ở. Loan Phượng cung là chủ điện của hậu cung, chiếm diện tích lớn nhất, ngoài cung điện chính, còn có hai khu phiến điện trái phải, đi về trước là ngự hoa viên, có đường lớn thông giữa nội cung và ngoại cung, xung quanh còn có hoa lá cỏ cây, hồ nước non bộ, cầu nhỏ bắc ngang, cây sâm cổ thụ, nguy nga tráng lệ, phía ngoài cổng cung còn có hai tòa tháp canh, làm bức bình phong phòng ngự cuối cùng khi hậu cung bị tấn công từ bên ngoài.

Khánh Kỵ bước vào đại điện chính, mười tám cánh cửa lớn đang mở to, vừa bước vào cửa là một chiếc cầu đá bằng phẳng, dưới cầu có tiếng nước chảy róc rách, nước suối long lanh mát rượi, cơn gió thoảng qua, khắp đại điện lập tức mang hơi thở mùa xuân.

Khánh Kỵ uống khá nhiều rượu, sắc mặt đỏ chót, bị gió mát thổi vào, thần trí tỉnh táo lại đôi chút. Hắn đứng tại chiếc cầu đá cho tươi tỉnh thêm, rồi mới phất tay áo tiếp tục bước tới.

Bốn tên thái giám sau lưng khúm núm hành lễ xong lui ra, Khánh Kỵ áo bào phất phơ bước qua chiếc cầu, đạp chân lên sàn nhà trải thảm nhung, bốn mỹ nhân mặc sắc phục Tần quốc lảng vảng trước mặt, quỳ xuống ngay chân hắn, giọng nói õng ẹo: “Nô tì tham kiến đại vương.”

Bốn tiểu mỹ nhân này chính là nô tì theo Quý Doanh xuất giá đến Ngô, trong các nước chư hầu, Tần quốc mang họ Doanh, không có chư hầu nào cùng họ để kết thân, các cô nương xuất thân quý tộc ở Tần lại không ai bằng lòng đi theo đến Ngô quốc xa xôi, dù sao người Tần thô lỗ, xưa nay không xem trọng lễ nghi của trung nguyên, quốc quân Tần quốc bèn nghĩ ra một cách, tuyển chọn bốn cô tì nữ tuyệt sắc đi theo tùy giá cùng Quý Doanh.

Bốn tì nữ lúc vào cung mới vội vàng nhìn qua Khánh Kỵ, bây giờ mới là lần đầu quan sát kĩ, nên họ một mặt cung kính hành lễ, mặt khác đôi mắt cứ láo liên liếc nhìn Khánh Kỵ, bốn thiếu nữ đều cùng lúc vui mừng ra mặt. Điều hiển nhiên là dung mạo của Khánh Kỵ đã qua ải của bốn tì nữ theo hầu Quý Doanh.

Các tì nữ tùy giá như bốn người họ, tương lai có thể trở thành tì thiếp của Ngô vương, nếu được đại vương sủng ái, nói không chừng còn được phong làm phu nhân, đến lúc đó đúng là chim sẻ bay lên cành cao thành phượng hoàng, phu quân của công chúa, sau này có thể là phu quân của họ nữa, bốn tì nữ đương nhiên nhìn kĩ Khánh Kỵ rồi. Chỉ thấy Khánh Kỵ trẻ tuổi anh tuấn, thân hình rắn chắc, oai phong lẫm liệt, trái tim của bốn tì nữ đập thình thịch loạn nhịp, đỏ mặt nhìn vào Khánh Kỵ, ân cần dẫn đường đưa Khánh Kỵ vào tẩm cung.

Đại hôn lần này của Khánh Kỵ không giống như lúc thành hôn với Diêu Quang, Nhược Tích, Tiểu Man. Khi lấy ba nàng, trong lòng Khánh Kỵ chỉ cảm thấy thỏa mãn và vui mừng, còn với cô công chúa Quý Doanh này, hắn lại mang tính hiếu kỳ nhiều hơn. Người xưa lấy vợ, phần lớn chưa từng gặp mặt trước lúc đại hôn, hai người giống như đặt cược vào hạnh phúc cả cuộc đời mình vậy. Trong đêm động phòng hoa chúc, lúc vén tấm vải che đầu ra, hai nam nữ xa lạ nhau bỗng chốc trở thành phu phụ thân thiết nhất, phải cùng chung sống với nhau suốt đời, nên lần đầu hai người ngủ chung một chiếc giường, đối với cả hai, ngoài cái tên và ngày giờ ra đời ra, tất cả những điều xa lạ vẫn chờ đợi ở phía trước.

Khánh Kỵ chưa từng nghĩ đến có ngày mình cũng thể nghiệm kiểu hôn nhân lạ lùng này. Hôn nhân kiểu này đúng là không khác gì đánh cược, vì tỉ tỉ Mạnh Doanh của nàng ấy có tiếng thơm tuyệt sắc giai nhân, hắn mang lòng hiếu kỳ nôn nóng muốn coi hoàng hậu của mình ra sao, vẻ nôn nao của hắn thậm chí còn mãnh liệt hơn cả lúc kết hôn với ba cô nương Diêu Quang, Nhược Tích, Tiểu Man. Khi được bốn tì nữ dẫn vào tận tẩm cung, trái tim Khánh Kỵ đập thình thịch liên hồi, hột xí ngầu trong đầu cứ khua lên không chịu ngừng, mở lớn? Hay là mở nhỏ đây?

“Đại vương…”

“Không cần hầu hạ, lui ra.” Khánh Kỵ xua tay, bốn tì nữ nhìn nhau cười ẩn ý, cùng cúi người chào: “Mời đại vương, hoàng hậu sớm nghỉ ngơi, nô tì xin phép cáo lui.”

Bốn tì nữ bước ra ngoài. Khánh Kỵ nhìn vào mỹ nhân đang ngồi trên giường, định thần lại sải bước đi về phía đó.

Mỹ nhân này dù là dung mạo hay khí chất đều không hề thua kém ba phi tần kia, tuy nhiên có lẽ còn lạ lẫm, thêm vào trang phục hoàng hậu long trọng khoác lên trên người nàng, cảm giác hồi hộp khi đứng trước nhan sắc, giống với lần đầu hắn gặp Thành Bích phu nhân. Điều khác biệt là Thành Bích phu nhân nhu mì như một làn nước mát, khiến ai nhảy vào rồi thì không thể dứt ra, còn Quý Doanh, nàng giống một ngọn lửa rạo rực, chói lọi thu hút, kiều diễm khoa trương.

Trong lúc Khánh Kỵ đưa mắt quan sát nàng, nàng cũng nhìn trưng trưng vào Khánh Kỵ, đôi mắt to tròn đen láy thậm chí càng mở càng to, khuôn mặt búp sen xứng với tấm vải đỏ chót khoác trên vai, Khánh Kỵ có cảm giác nữ nhân xinh đẹp mới mười bảy tuổi này giống một con ngựa lông bờm đỏ, đầy vẻ đẹp mạnh mẽ.

Quý Doanh ngu ngơ nhìn vào phu quân của nàng, đến khi Khánh Kỵ bước đến bên nàng, nàng mới chợt bừng tỉnh, vội vã đứng bật dậy, khiêm tốn hành lễ: “Thần thiếp Quý Doanh, tham kiến đại vương!”

“Hoàng hậu bình thân, miễn lễ.” Khánh Kỵ đưa tay đỡ lấy nàng, hai mắt sáng rực, cô nương này đứng dậy mới cảm thấy nàng ta có đôi chân rất dài, dù cho đang mặc y phục hoàng hậu kín mít không lộ thân hình ra được, nhưng Khánh Kỵ cũng mơ hồ cảm nhận được thân thể tuyệt mỹ của nàng ta.

Quý Doanh đang mặc bộ đồ thành hôn đỏ chót, trên đó đeo lỉnh kỉnh nào là ngọc bội, hồng lam bảo thạch, kim châu, lấp lánh chói lòa, nhưng khá xứng với dung mạo thoát tục của nàng, không hề có chút phàm tục, vẻ đẹp thoát tục của nàng lại không xâm phạm vẻ cao quý vốn có từ khí chất toát ra.

Khánh Kỵ mỉm cười hài lòng, hắn bỗng cho rằng tiểu hoàng hậu này cho dù không vì mục đích chính trị, cũng là một chọn lựa tốt khiến hắn mãn nguyện.

Quý Doanh hiếu kỳ nhìn vào phu quân của nàng, trên môi chàng có ria mép oai vệ, không giống với ria mép cong lên của người Tần, mắt to, trán rộng, đầu tóc rậm rạp, mũi cao, nhìn có vẻ… có vẻ khá khôi ngô nhỉ, khác xa con đại tinh tinh toàn thân lông lá, sức mạnh kinh người mà nàng hay tưởng tượng.

“Hoàng hậu đợi lâu chưa? Nào, để quả nhân cởi tấm áo này ra cho nàng, ta cùng uống rượu giao bôi.”

Thấy mỹ nhân quyến rũ này nhìn trưng trưng vào mình, Khánh Kỵ đột nhiên nổi ý định thương hoa tiếc ngọc, đối với tiểu mỹ nhân lạ lẫm này, thê tử sau này của hắn, hoàng hậu cùng sống chung suốt đời, sinh lòng thương mến thân thiết: “Nàng mới có mười sáu mười bảy tuổi, nếu mà đổi lại là thời đại mình đang sống, hãy còn là một học sinh trung học còn nương cậy vào bố mẹ, khổ thân cho nàng vì lợi ích của hai nước Tần Ngô, một thân một mình gả đến Ngô quốc xa xôi ngàn dặm, đoan chắc hiện giờ trong lòng nàng đang lo lắng bất an, mình đừng làm nàng sợ thêm.” 

Khánh Kỵ cởi đi tấm áo hôn lễ rộng rãi khoác bên ngoài cho Quý Doanh, bên trong hiện ra lớp áo xanh thêu hoa văn phụng hoàng bằng chỉ màu vàng kim, chiếc eo thon quấn cái đai bằng ngọc, thể hiện vẻ quý phái hoàng thất. Không ngoài dự đoán của Khánh Kỵ, từ đai lưng trở xuống là đôi chân thon dài của nàng.

“Rượu giao bôi?” Quý Doanh nheo mắt nhìn thức ăn rượu thịt bày đầy bàn, đưa lưỡi liếm láp đôi môi một cách thèm thuồng, nuốt ực nước bọt xuống cổ họng, có trời mới biết, nàng đi đường vất vả từ sáng, đến Cô Tô lập tức cử hành hôn lễ, bao nhiêu nghi lễ phải tiến hành làm cho nàng đến giờ vẫn chưa ăn uống gì, nàng sợ tân nương mà trong lúc hành lễ lại chạy xộc vào tìm chỗ đi ngoài thì mất mặt lắm. Kể từ đêm đó nghe xong dạy bảo của tỉ tỉ, nàng quyết tâm sửa đổi làm một thê tử ngoan hiền đáng yêu, có tâm cơ, biết chiều chuộng để phu quân nghe lời nàng, nên từ khi hôn lễ diễn ra luôn tỏ ra khá dịu dàng, nhưng lúc này nàng đói cồn cào đến hoa cả mắt.

“Hoàng hậu mời ngồi!”

Khánh Kỵ rót cho nàng một ly rượu, trong lòng cũng hơi lo lo, tuy cô nương này khá dễ thương, nhưng dù sao cũng không quen nhau từ trước như Nhược Tích, Diêu Quang, lại không biết tính cách phẩm chất của nàng thế nào, làm cho phu quân như hắn trong đêm động phòng hoa trúc mà cứ phải lễ độ như đang tiếp khách vậy. Giờ mới hiểu tại sao người xưa có câu “Tương kính như tân”, cặp phu thê xa lạ thế này chỉ còn cách giữ thái độ tương kính như tân chứ biết làm gì hơn.

Khánh Kỵ giơ ly lên cụng nhẹ với Quý Doanh, hắn chú ý khóe môi nàng khẽ nhích lên một chút, hình như nàng đang mỉm cười, dáng dấp ấy khá dễ thương, sau đó nàng đưa tay áo lên che miệng, giơ ly kề môi uống cạn.

“Hí, cười không nhe răng, uống rượu che mặt, đúng là một tiểu nữ nhi hiền thục, xem ra quốc quân nhà Tần có cách dạy muội muội hiệu quả đấy.”

Khánh Kỵ ngấm ngầm khen ngợi, nâng ly uống một hớp, đợi khi hắn đặt ly xuống, đưa mắt nhìn vào chiếc ly ngọc Quý Doanh mới để xuống bàn, hắn không khỏi giật mình, chiếc ly đó sạch bong, không hề chừa lại một giọt rượu nào cả.

Khánh Kỵ thấy vị hoàng hậu trẻ con này rất thú vị, mỉm cười nói: “Hoàng hậu à, rượu giao bôi chỉ là một nghi thức thôi, không cần thiết phải uống cạn đâu. Hô hô, rượu có cay không, nào nào, ăn một chút thức ăn nào.”

“Mời đại vương dùng trước.” Quý Doanh cười dịu dàng đáp lại, nụ cười làm người khác say đắm. Khánh Kỵ cảm thấy rất vui, hắn cầm lấy đôi đũa ngà voi, gấp vài miếng dưa bỏ vào miệng, nhai vội mấy cái nuốt cái ực, ho lên vài tiếng: “Khụ… khụ…”

Hắn đang định nói chúng ta cởi áo đi nghỉ thôi, vừa nhìn thấy bộ dạng của Quý Doanh lập tức hết hồn, chỉ thấy nàng ta cầm đũa lên, cô công chúa bé nhỏ dịu dàng biến đâu mất, nàng gắp lấy một chiếc tay gấu béo ngậy, chiếc tay gấu to bè thoáng chốc lọt thỏm vào đôi môi chúm chím như anh đào của nàng, miệng nàng không ngừng nhai ngấu nghiến, nàng đưa đũa gắp tiếp một miếng thịt to.

“Ơ?” Nghe thấy Khánh Kỵ nói câu gì đó, Quý Doanh ngưng đũa ngay trên không, nàng chớp chớp mắt, đôi mắt như đặt ra một câu hỏi cho Khánh Kỵ.

“À… không có gì, thức ăn… khụ khụ, nguội rồi đúng không?”

“Còn ăn được!” Quý Doanh ngửa cổ nuốt cái ực miếng tay gấu, sau đó quay sang Khánh Kỵ cười tinh nghịch, để lộ hàng răng trắng đều tăm tắp, Khánh Kỵ còn chưa nhìn rõ hàm răng của nàng, miếng thịt béo ngậy lập tức được nhét vào, đôi môi chúm chím của nàng còn chảy long tong vài giọt dầu mỡ.

Khánh Kỵ trợn tròn đôi mắt, chỉ thấy Quý Doanh ăn càng lúc càng hăng say, cứ như kế bên không có ai đứng đó. Đến sau cùng, nàng còn tóm rất chiếc bình rượu làm bằng bạc, đổ ra ly uống ực cái cạn sạch, như cá kình hút nước vậy. Sức ăn sức uống của nàng làm Khánh Kỵ le lưỡi khiếp sợ.

Người Giang Nam ăn uống cầu kì, thức ăn thích làm ra nhiều món ngon vật lạ, nhưng mỗi món chỉ để một đĩa nhỏ, số lượng không nhiều, còn người Tần ở tuốt phía Tây, xưa nay thích uống rượu bát lớn, ăn thịt miếng to, dù là ngự thiện trong dòng dõi hoàng tộc cũng không xóa đi phong tục lỗ mãng, Quý Doanh từ nhỏ đã quen cách ăn uống vồn vã như vậy, thân là công chúa một nước, cách ăn uống còn không bằng một nam tử vùng Giang Nam nho nhã.

Thêm vào đó Quý Doanh mới tròn mười bảy tuổi, vẫn đang trong độ tuổi dậy thì, người Tần thích tập luyện võ nghệ, quanh năm giao chiến chống người Tây Dung, nam nữ đều giỏi võ, tính khí hào sảng, cách ăn uống thô lỗ… thôi thì không nhắc tới làm gì.

Cao lương mỹ vị bày khắp một bàn đã bị Quý Doanh ngấu nghiến gần hết, bình rượu cũng sạch bong, Khánh Kỵ nhìn trưng trưng vào nàng dốc ngược bình rượu, đổ giọt rượu cuối cùng vào ly, sau đó thở dài vẻ tiếc nuối, giơ ly lên nốc cạn. Khi nàng đặt ly xuống, đôi mắt long lanh xoay tròn có vẻ sắp say, hai má hồng hào dễ thương ửng đỏ như cánh hoa đào.

Thấy Khánh Kỵ nhìn trưng trưng vào mình, Quý Doanh đã ngà ngà say chợt nhớ ra nàng phải làm một thê tử ngoan hiền dễ thương, có tâm cơ, có thủ đoạn, thờ chồng dạy con, nàng mỉm cười e thẹn nhìn Khánh Kỵ, nụ cười đó khiến Khánh Kỵ quên đi cách ăn uống khó coi của nàng, chỉ cảm thấy nữ nhi đến từ Tây vực này tính tình ngay thẳng, rất là đáng yêu, cái khuyết điểm kia… thật ra cũng chính là ưu điểm khó bắt gặp ở nữ nhân khác.

Hồi sau… Quý Doanh mở to đôi mắt, vênh mặt hất hàm lên, nói to: “Kể từ hôm nay, đại vương đã là phu quân của người ta rồi có đúng không?”

“Ừ!” Khánh Kỵ nôn nao nhìn vào nàng ta, trong lòng rạo rực muốn biết tiếp theo sẽ có chuyện gì xảy ra.

“Hư!” Quý Doanh buông đũa xuống, hay tay chống xuống đầu gối, khuôn mặt búp sen cố tỏ ra nghiêm nghị, nói với Khánh Kỵ: “Thế… người ta muốn phu quân của mình giúp cho một việc, có phải được hay không?”

Khánh Kỵ hồi hộp hơn nữa, cười giả lả: “Ờ…, nói ra nghe thử, giúp việc gì thế.”

Quý Doanh ưỡn thân lên phía trước, bàn tay tạo thành cây đao chém vào không khí, hạ nhẹ giọng nói xuống: “Giúp tỉ tỉ của thiếp, diệt trừ Phí Vô Cực.”

Khánh Kỵ lớ ngớ hiểu ra, nhủ thầm: “Mạnh Doanh làm hoàng hậu Sở quốc mười mấy năm, lại phải nhẫn nhục chịu đựng dưới thời Nang Ngõa và Phí Vô Cực lần lượt lộng quyền nắm giữ triều chính, nay quả nhiên khác xa với nữ nhân chốn thâm cung khác, hành sự cẩn trọng lão luyện, bí mật thỏa thuận giữa Ngô và Sở, ngay cả muội tử cũng không hề tiết lộ nửa lời.”

“Này, chàng có đáp ứng yêu cầu này không?” Quý Doanh kéo nhẹ tay áo Khánh Kỵ, giọng nói có phần nhõng nhẽo, xem ra nàng tuy hào sảng, nhưng tửu lượng không cao cho lắm, lúc này đã say đến nỗi lảo đảo đứng không vững: “Người ta vốn không muốn bị gả đến Ngô quốc, nhưng hoàng huynh cứ ép hôn. Thiếp… thiếp định vào Cô Tô thành sẽ cho chàng biết tay, quậy tưng lên một trận, sau đó cũng nhịn được, xem con người chàng cũng vừa mắt đấy, thôi thì sớm muộn cũng lấy chồng, lấy ai cũng phải lấy, bổn công chúa cam chịu số phận vậy, nhưng… nhưng mà… chàng phải giúp tỉ tỉ của thiếp mới được…”

Khánh Kỵ đanh mặt, nghiêm nghị nói với Quý Doanh: “Hoàng hậu chắc vẫn chưa biết rõ quy củ của Ngô quốc ta, vậy đêm nay quả nhân sẽ nói cho nàng nghe, nữ nhân, không được can thiệp triều chính!”

Quý Doanh nghe xong tức giận lên: “Đó là đạo lí trời đánh thánh đâm gì đấy, dưới gầm trời sao lại có thứ đạo lí phi lí này?”

Khánh Kỵ không biết nên cười hay nên giận, thấy nàng ta đúng là đã say, bèn dịu dàng nói: “Quả nhân lấy phải công chúa Tần quốc hay thuyết khách Sở quốc đây nhỉ? Hôm nay là đêm tân hôn động phòng hoa trúc của đôi ta, hoàng hậu đừng nhắc đến những chuyện này nữa!”

“Không được, đại vương… chàng phải nhận lời thiếp, hôm nay mới động phòng hoa trúc, bằng không…”

“Bằng không thì sao nào?”

Quý Doanh xắn tay áo lên, để lộ bắp tay trắng nõn, hung dữ gườm Khánh Kỵ, hét lên: “Có tin là thiếp đánh cho chàng chịu đồng ý mới thôi không?”  Khánh Kỵ hai tay chống hông, quan sát cô thiếu nữ mỹ miều hung tợn đến Tây Tần này, trong lòng vừa tức tối vừa thấy thú vị. Vị công chúa Quý Doanh này trước khi uống rượu vào là một con thỏ trắng ngoan ngoãn, hiện giờ lại hóa thân thành con ngựa hoang dã khó thuần phục, trong đêm động phòng hoa trúc này, xem ra sẽ náo nhiệt lắm đây.

Thật ra Quý Doanh nổi nóng cũng có lí do của nàng, nếu Khánh Kỵ nói với nàng rằng hiện nay Phí Vô Cực có thế lực lớn mạnh, hắn thân là Ngô vương, nghĩ cho xã tắc dân chúng Ngô quốc, không thể khinh xuất đem Ngô quốc dây vào việc tranh chấp nội bộ của Sở, Quý Doanh từ nhỏ sinh trưởng trong hoàng tộc, chưa chắc không biết lí lẽ hiểu cho cách nói công tư phân minh của Khánh Kỵ.

Nhưng Khánh Kỵ lại ném ra lí do nữ nhân không được can dự triều chính, từ đầu đã cự tuyệt xem xét vấn đề với Quý Doanh, nàng xem thái độ này là khinh miệt, là bỏ mặc, không xem nàng có tí trọng lượng nào ở đây, chả trách vị công chúa điện hạ này nổi giận lôi đình.

Vào thời Xuân Thu, nữ nhân tuy lui ra khỏi vũ đài chính trị, không được xem như có thể gánh vác trọng trách nước nhà giao phó, nhưng trong rất nhiều trường hợp nữ nhân lại phát huy tác dụng và có sức ảnh hưởng lớn, chính khách không bài xích nữ nhân đến mức nghiêm trọng như hậu thế, trong nhiều quốc gia, quân phu nhân, hoàng hậu, hoàng thái hậu can thiệp triều chính là một chuyện rất bình thường.

Năm xưa Vệ quốc từng bị kẻ địch xâm chiếm, khi đó có một công chúa Vệ quốc đã được gả đi xa vội quay về, dùng danh nghĩa công chúa triệu tập nghĩa quân, đánh đuổi quân địch, xây dựng lại Vệ quốc. Hiện nay Vệ phu nhân Nam Tử có sức ảnh hưởng ở cả Vệ, Tống, ngoài thủ đoạn của nàng ra, còn là các đại thần không phản đối nữ nhân chấp chính, vì thế sức cản từ triều đình cực nhỏ cũng là một lí do quan trọng.

Nước Tần nằm tận phía Tây biên thùy, phong tục văn hóa phóng khoáng hơn cả trung nguyên, nữ nhân Tần quốc có địa vị cao hơn nhiều so với nữ nhân trung nguyên, Tần quốc thậm chí còn có cả đội nữ binh trong biên chế quân đội nữa.

Theo như sử sách ghi chép, khi bước vào giai đoạn lịch sử chiến quốc, Tần quốc từng xuất hiện một vị Tuyên thái hậu, nàng không những can dự triều chính, hơn nữa ngôn từ mạnh mẽ, tác phong ác liệt, ngay cả nữ tổng thống, nữ thủ tướng của các nước phương Tây vào thế kỉ hai mươi mốt cũng phải cúi đầu bái phục.

Khi Sở quốc tiến đánh Hàn quốc, Hàn buộc phải cầu cứu Tần xuất binh giải vây, Tần quốc không thèm để ý, sứ giả Hàn quốc giống con chó ăn vạ bám riết Tần quốc không chịu về, ngày nào cũng lên cung điện Tần quốc lải nhải một mớ đạo lí môi hở răng lạnh gì đấy, làm cho Tần vương bó tay không biết làm thế nào, lại không tiện làm dữ ném sứ giả đi.

Vị Tuyên thái hậu nghe người hầu báo lại, bèn hùng hổ chạy vào đại điện chống lưng cho hoàng nhi, hành động này rõ ràng là can dự triều chính rồi. Biện luận hùng hồn của nàng ta trên đại điện, càng trước sau không một ai sánh bằng, ngay cả nữ trung hào kiệt Võ Tắc Thiên sau này cũng cúi đầu né sang bên.

Vị Tần thái hậu đó trước mặt bá quan văn võ trong triều nói với sứ giả Hàn quốc: “Thiếp sự Tiên vương dã, Tiên vương dĩ kì khư gia thiếp chi thân, thiếp khốn bất bì dã; tận chí kì thân thiếp chi thượng, di thiếp phạt trọng dã, hà dã? Dĩ kì thiếu hữu lợi yên. Kim tả Hàn, binh bất chúng, lương bất đa, tắc bất túc dĩ cứu Hàn. Phù cứu Hàn chi nguy, nhật phế thiên kim, độc bất khả sử thiếp thiết hữu lợi yên.”

Những lời này giải thích ra là thế này: Ngày xưa lúc ta hầu hạ tiên vương, khi ngài đặt một chân lên người ta, ta cảm thấy rất nặng, nhưng sau này ngài đè cả người lên ta, ta lại cảm thấy không hề nặng, ngươi có biết tại sao không? Vì ta cảm thấy sung sướng! Bây giờ bắt Tần quốc ta giúp Hàn giải vây, đưa ít quân đi thì không làm được gì, đưa nhiều quân thì hao phí nhiều tiền của, đổi lại ta nhận lợi ích gì chứ? Đã không có lợi ai mà xuất binh?

Kết quả là vị sứ giả Hàn quốc khéo tài ăn nói bị Tần thái hậu nói cho cứng họng, lủi thủi quay về. Khi đó đã bước vào giai đoạn chiến quốc, nữ nhân càng rời xa chính trường hơn so với thời Xuân Thu, Tần thái hậu dám ngang nhiên bước lên đại điện thay thế Tần vương phán quyết quốc gia đại sự, mà còn không hề e ngại đem chuyện phòng the của mình ra làm ví dụ, không cần nói cũng hiểu vào thời Xuân Thu quyền lực của các nữ nhân quý tộc lớn cỡ nào.

Hiện nay Quý Doanh đã là hoàng hậu Ngô quốc, quốc gia đại sự đương nhiên vẫn do Khánh Kỵ quyết định, nhưng nàng chí ít cũng có quyền được luận bàn góp ý kiến, nhưng nay Khánh Kỵ phán một câu “Nữ nhân không được can dự triều chính” từ chối bàn với nàng việc cứu Sở, Quý Doanh cho rằng Khánh Kỵ đang xem nhẹ tồn tại của nàng, nói không chừng hắn còn định thừa lúc nàng mới gả qua đây ra oai với nàng, xâm chiếm quyền lực làm hoàng hậu của nàng. Vốn đã không vừa ý với cuộc hôn nhân mang nặng tính chính trị này, chỉ là được tỉ tỉ mềm mỏng khuyên nhủ trong thâm cung một lần nên hồi tâm chuyển ý, Quý Doanh nay lập tức nổi điên trở lại.

Về phần Khánh Kỵ, tuy biết hoàng hậu say rượu, trong lòng vẫn cảm thấy không vui, các mỹ nhân bên cạnh hắn, dù là Nhược Tích, Diêu Quang, Tiểu Man, ai nấy vừa có nhan sắc, lại có trí tuệ, còn dịu dàng hiền thục, không kiêu ngạo ỷ thế làm bừa, càng không dám ngoa ngoắt trước mặt Khánh Kỵ.

So sánh với họ thì công chúa Tần quốc này có hơi hung dữ, nhưng nàng là hoàng hậu, một khi trở mặt với nàng ta, vậy quốc gia đại sự, ngoại giao liên minh, đại nghiệp phạt Việt đều có nguy cơ tan thành mây khói, nghĩ thế nên Khánh Kỵ cố kiềm chế, gằn giọng: “Hoàng hậu, nàng say rồi, mau nghỉ sớm thôi, nếu không…”

“Nếu không thì sao nào?”

“Nếu không… quả nhân nổi nóng rồi đấy.”

“Sợ ngươi à?” Quý Doanh cười lạnh lùng, giơ nắm đấm đánh thẳng vào mặt Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ điên tiết, gồng người lên gào thét: “Thật là không biết phép tắc gì cả!” Hắn phất tay áo, hung tợn quét về phía nắm tay của Quý Doanh.

“Hứ!” ai ngờ Quý Doanh tuy say rượu, đánh nhau lại không thua kém, nhác thấy Khánh Kỵ lao tới, Quý Doanh cúi người né tránh, xoẹt một cái húc đầu vào ngực hắn, hai tay giữ chặt đôi vai, hét to: “Ngã này!”

Khánh Kỵ khinh địch mất cảnh giác, chỉ cảm thấy gót chân nhói đau, lập tức bị húc ngã về phía sau, “Đùng” một tiếng ngã mạnh ra tấm thảm.

Khánh Kỵ hấp tấp bò dậy, hậm hực rít lên: “Con nha đầu này, ngươi…”

Quý Doanh như một con khỉ lanh lẹ lao tới nhảy phốc vào người Khánh Kỵ, hắn lại bị ngã lăn ra đất, Quý Doanh lật hắn lại, ngồi vào chân sau của hắn, hai tay giữ chặt vai Khánh Kỵ.

“Đây… vậy là thế nào?”

Cả thân người Khánh Kỵ bị kéo căng như dây cung, thở hổn hển ngạc nhiên hỏi. Hắn không hề biết vị tiểu hoàng hậu của hắn lại tinh thông kĩ thuật đấu vật của dân tộc Tây Dung.

Bên ngoài cửa điện, bốn tì nữ tùy giá của Tần quốc nghe trong tẩm cung vọng ra tiếng động lớn, ai nấy hoảng hốt giật mình.

Một tì nữ lè lưỡi e thẹn cất tiếng: “Đại vương cũng thật là… thật là quá dũng mãnh nhỉ, công chúa điện hạ chẳng qua chỉ là một cô nương mới lớn, sao mà chịu cho thấu?”

“Cần cô quan tâm à, đâu nghe tiếng công chúa điện hạ kêu toáng lên đâu.” Một tì nữ khác liếc xéo nàng, đỏ mặt thỏ thẻ: “Ta nghe nói lần đầu tiên có chút đau, nhưng công chúa điện hạ từ nhỏ đã tập võ, cơ thể cường tráng, nghĩ chắc công chúa chịu được.”

Tì nữ thứ ba lớ ngớ góp ý kiến: “Nhưng… nhưng ta nghe nói phu thê hợp hoan không giống như vậy mà, sao mà nghe giống như đang đánh nhau to vậy.”

Tì nữ thứ tư hứ một tiếng, nói: “Đừng không biết lại làm ra vẻ biết nữa, nên làm thế nào chẳng lẽ đại vương không biết?”

Nàng hai má ửng đỏ, cúi đầu bấu víu vạt áo, xấu hổ nói nhỏ: “Người ta chỉ sợ… sợ đại vương cơ thể cường tráng, một mình công chúa điện hạ không chịu đựng nổi, nếu mà… nhỡ đại vương lệnh cho chúng ta cùng vào hầu hạ… ây da, người ta không nói nữa, xấu hổ chết đi được.”

“Hứ, mơ đó à, hôm nay là ngày đại hỉ của đại vương và công chúa, đêm nay đâu đến lượt cô vào hầu hạ đại vương, sao vậy? Hân Nhi động lòng rồi à?”

Hân Nhi đỏ mặt lườm bạn mình một cái, ngúng nguẩy: “Đừng trêu người khác, đại vương khôi ngô tuấn tú thế này, cô nhìn vào ngài cũng đê mê chứ bộ.”

Thời đại Xuân Thu phong tục cởi mở, Tần quốc càng phóng khoáng hơn, các nữ nhân thân thiết hay túm tụm bàn chuyện nam nhân, đề tài nội dung không hề thua kém con gái thời hiện đại.

“Hí hí, Hảo Nhi đương nhiên đê mê rồi, lúc bên ngoài cung ta nghe cô ấy nói, Ngô vương cao lớn vạm vỡ, tướng mạo anh tuấn, lần này tùy giá đến Ngô đúng là không uổng kiếp này.”

Cô tì nữ tên Hảo Nhi bị các bạn trêu chọc đỏ cả mặt, bèn đưa tay cù lét họ: “Các con này ranh ma nhỉ, lấy bổn cô nương ra trêu chọc, các cô không thích đại vương sao đứng hết ở đây chờ đợi? Đại vương và công chúa đã đi nghỉ, còn cần chúng ta hầu hạ sao chứ? Đổi lại lúc khác là các cô chuồn cả đi ngủ rồi.”

Hân Nhi bị cù lét đang cười khanh khách, vội lên tiếng xin tha: “Thôi, thôi, tha cho ta, đừng cù ta nữa, nhột quá, người ta thừa nhận, Ngô vương khiến nữ nhân động lòng, như vậy được rồi chứ?”

Nàng chỉnh tranh lại y phục, đôi mắt long lanh mở to e ấp: “Thân hình của đại vương đúng là… ít thấy trong số nam nhân, so với võ sĩ Tần quốc… không hề thua kém, đúng là vạm vỡ… rắn chắc…” 

Hảo Nhi ghé tai thở hổn hển nói nhỏ: “Đại vương là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc mà, cơ thể đại vương rất rắn chắc, chỗ nào cũng rắn chắc hết cả, cô vui không nào?”

“Ây da, đáng ghét!” Hân Nhi xấu hổ đưa tay cù lét bạn mình, bốn tỉ muội đùa vui nhau bên ngoài, chợt nghe tiếng thét lên trong tẩm cung, bốn người cùng dừng phắt lại, ngớ mặt nhìn nhau, Hân Nhi ngập ngừng nói: “Công chúa điện hạ kêu lên như vậy, chắc là… chắc là đã… đã bị… bị…, đúng không vậy?”

Ba tì nữ kia cùng gật gù: “Ư, ư…” sau đó lại trợn tròn mắt, đồng thanh ngạc nhiên kêu lên: “Thế… tiếng động hồi nãy, rốt cuộc đang giở trò gì nhỉ?”

Trong tẩm cung, Khánh Kỵ và công chúa Quý Doanh đang giao chiến ác liệt, thở hổn hển quấn lấy nhau, trừng mắt lườm đối phương. Khánh Kỵ chưa từng đánh giáp lá cà kiểu này cả, Quý Doanh có vô phép nhưng dù sao cũng là một tiểu cô nương xinh xắn, hắn là một nam tử hán, sao dám nặng tay với nàng, nên Khánh Kỵ chưa hề ra tay, chỉ ra sức chống đỡ quyền cước của Quý Doanh, định dựa vào sức mạnh trời sinh đè nàng xuống, ai ngờ cô nương này lại giỏi về kĩ thuật vật lộn lấy yếu thắng mạnh, Khánh Kỵ không biết kĩ thuật đô vật, lại không được ra tay mạnh bạo, vì thế xuất chiêu khó khăn, hồi lâu sau mới miễn cưỡng dựa vào sức khỏe đè được Quý Doanh xuống.

Lúc này, mũ nón của Khánh Kỵ đã không biết bay đi đâu, vương bào bị xé rách một mảng to, cổ áo sau lưng toét ra, lộ cơ bắp rắn chắc màu đồng ra, Quý Doang công chúa bị đè bên dưới vẫn còn cố chống cự như con lươn, đang ra sức thoát ra khỏi sự khống chế của hắn.

Lễ phục hoàng hậu hoa mỹ của vị tân nương bướng bĩnh này cũng bị xé ra, để lộ làn da trắng mịn nơi ngực, bầu ngực căng tròn lồ lộ, nàng chỉ mới mười bảy tuổi nhưng ngực đã phát triển to tròn như Thành Bích, nữ nhi Tây Tần quả nhiên khác xa nữ nhi vùng sông nước Giang Nam, chỉ dựa vào đôi chân thon dài là đủ cho nàng vượt xa một đám nữ nhân rồi, chiếc áo trong cũng bị cuộn lên, eo thon bị Khánh Kỵ ấn vào, rốn nhỏ lồ lộ ra.

Quý Doanh như muốn phun lửa, gào lên: “Tên khốn! Ngươi dám đối xử với ta như vậy, còn không buông tay là ta gọi người tới đó.”

Khánh Kỵ điên tiết cười khẩy: “Đúng là một con nha đầu điêu ngoa không biết trời cao đất dày, nàng cho rằng đây vẫn còn là hoàng cung Tần quốc hả? Đây là hoàng cung của quả nhân, nàng có kêu gào khản giọng coi có ai dám đến cứu nàng không! Gọi đi, giỏi thì cứ gọi!”

“Thả ta ra!”

“Tại sao phải thả nàng ra?” Khánh Kỵ trêu chọc: “Hôm nay là đêm động phòng hoa trúc của quả nhân, quả nhân muốn chiếm hữu hoàng hậu của mình, chuyện bình thường mà!”

Khánh Kỵ thú tính nổi dậy cúi rạp người xuống, Quý Doanh lúc này mới thấy sợ hãi giãy giụa: “Thả ta ra, mau thả ta ra đi!” Nàng đấm thùn thụt vào ngực Khánh Kỵ, nức nở bật khóc: “Thả ta ra, ta không cho ngươi ức hiếp đâu, ta… ứ…”

Chưa đợi nàng nói xong, chiếc miệng chúm chím đã bị Khánh Kỵ chụp lấy, nụ hôn đầu đời suốt mười bảy năm thế là bị Khánh Kỵ tước đi, Quý Doanh trừng mắt giận dữ, miệng mở to, thế là chiếc lưỡi của Khánh Kỵ thừa cơ lọt sâu vào miệng nàng, chạm vào đầu lưỡi của nàng…

Quý Doanh đơ người ra, hồi lâu sau mới trấn tỉnh lại: “Hắn… hắn đưa lưỡi vào miệng mình rồi… ọe… buồn nôn quá!”

Quý Doanh dồn sức rụt lưỡi vào trong, sau đó hàm răng đều tăm tắp cắn phập mạnh xuống.

Ai ngờ trong khoảnh khắc khi nàng rụt đầu lưỡi lại Khánh Kỵ đã sớm cảnh giác, răng của Quý Doanh cắn cái “cạch”, nhưng không trúng gì cả.

“Hứ! Ác thiệt đấy, muốn cắn gãy lưỡi phu quân của nàng hả?” Khánh Kỵ lạnh lùng gầm gừ: “Đừng giở cái kiểu hống hách của công chúa nhà Tần ra trước mặt quả nhân, càng đừng tưởng nàng xinh đẹp thoát tục là muốn làm gì thì làm trước mặt ta! Quả nhân hết hứng chạm vào con điên không biết điều này rồi, nàng cần phải làm rõ một việc: ở đây là Ngô quốc, nơi đây là hoàng cung của ta, quả nhân là Ngô vương, là phu quân của nàng, mãi mãi không có chuyện nàng ra oai trước mặt ta, con ranh này, đừng tưởng mê hoặc được quả nhân mà lầm!”

Khánh Kỵ hơi cong lưng, nhảy phốc cái đứng bật dậy.

Chỉ nghe tiếng “Rẹt” lanh lảnh, vừa nãy hai người vật nhau, ngọc bội của Khánh Kỵ mắc vào áo yếm của Quý Doanh, lúc này hắn nhảy mạnh một cái đứng dậy, lập tức xé một đường dài ngay áo yếm che ngực nàng, bầu ngực được phóng thích lồ lộ ra dưới ánh nến. Quý Doanh xấu hổ hét to lên một tiếng, giơ tay che lấy ngực mình.

Khánh Kỵ chả thèm đưa mắt nhìn nữa, hắn gừ một tiếng, đi đến bên giường nằm xuống, lạnh lùng phán: “Nếu như nàng muốn qua ngày tháng như thế này, vậy nàng đạt được mục đích rồi đó, đêm nay quả nhân cứ ngủ ở đây, còn nàng muốn đi đâu thì đi, kể từ ngày mai, tòa Loan Phượng cung này thuộc về nàng, quả nhân sẽ không bước vào đây nữa.”

Khánh Kỵ nói hùng hồn chắc nịch có vẻ quyết tâm lắm, Quý Doanh nghe xong cảm thấy hơi sợ hãi, nhưng nỗi sợ lại lập tức bị cơn giận che lấp, nàng tức giận run lên bần bật, trong lòng ấm ức, chỉ nghĩ: “Hắn lại đối xử như thế với mình, hắn dám đối xử như thế với mình…”

Vị công chúa Tần quốc này xuất thân hoàng tộc, tính tình ngang ngạnh, từ nhỏ quen được chiều chuộng trong hoàng cung nhà Tần, xưa nay chưa có ai dám nghịch ý nàng ta như đêm nay, Khánh Kỵ lạnh nhạt coi thường nàng đương nhiên cứa một vết sâu trong tim nàng.

“Ta hận ngươi, ta hận ngươi, hận ngươi suốt đời!” Quý Doanh ngấm ngầm thề trong lòng, móng tay bấu chặt vào lòng bàn tay, nước mắt giàn giụa chảy khắp khuôn mặt nàng tự bao giờ…

Trời sáng.

“Công chúa? Công chúa? À… hoàng hậu…”

“Hở?” Quý Doanh đang phủ phục dưới đất bị tiếng gọi kêu dậy, nàng hấp tấp bò dậy, nhìn về phía giường, trên giường trống lơ trống lốc, Khánh Kỵ đã không biết đi đâu. Quý Doanh thở phào nhẹ nhỏm, đồng thời trong lòng dâng lên một cảm giác trống trải, nàng sống mười bảy năm rồi vẫn chưa trải qua cảm giác ấy.

“Hoàng hậu nương nương, đã đến lúc tắm rửa trang điểm rồi ạ.”

Bốn tì nữ đứng ngay bậc cửa không dám bước vào, hơi thở cũng không dám thở mạnh, chỉ cất giọng nhè nhẹ gọi nàng. Họ không phải đui mù, nhìn thấy tẩm cung loạn xạ lên thế này là đoán ra đêm qua đại vương và hoàng hậu đã xảy ra chuyện không vui, mặc dù trong lòng họ không hiểu tại sao mà đại vương và hoàng hậu xứng đôi vừa lứa lại thành ra nông nỗi này, nhưng vào thời khắc căng thẳng ai cũng không dám lên tiếng hỏi thăm.

Quý Doanh đưa tay lên lau mặt, mặt nàng vẫn còn đầy nước mắt.

“Hoàng hậu…” Thấy Quý Doanh không nổi nóng, Hảo Nhi nháy mắt với các tỉ muội, bước tới đỡ Quý Doanh đứng dậy, nhỏ nhẹ khuyên nhủ: “Hoàng hậu nương nương, hôm nay phải tháp tùng đại vương tiễn sứ giả Tần quốc về nước, còn phải tiếp kiến các phi tần và người hầu trong cung vào triều bái, hoàng hậu phải tắm rửa trang điểm rồi ạ.”

“Hoàng hậu…”, trái tim nhỏ bé của Quý Doanh nhói lên, dù nàng có đồng ý hay không, hoặc là chưa hề chuẩn bị, kể từ giây phút này nàng đã là hoàng hậu của Khánh Kỵ. Hoàng hậu… điều đó có ý nghĩa gì, trên đất nước xa lạ này, với thân phận xa lạ này, Quý Doanh cảm thấy cô đơn lẻ loi.

Nàng được dìu ngồi vào bàn trang điểm, trên bàn có treo chiếc gương đồng, trong gương là khuôn mặt trắng bệch tiều tụy của nàng.

Bốn tì nữ vội vàng tỉ mỉ cẩn thận trang điểm cho nàng. Rửa mặt, chải tóc, đeo trang sức, tô lông mi, vẽ môi, thay áo…, trên khuôn mặt búp sen, hàng mi cong vút lên, môi cũng được bôi đỏ, phấn hồng chấm lên gò má, trong gương phản chiếu một mỹ nhân quyến rũ.

“Đây chính là mình ư, trang phục hoàn toàn khác với thiếu nữ hôm nào, nữ nhân trong gương nhìn rất đẹp nhưng cũng rất lạ lẫm, đó là cách trang điểm của một thiếu phụ.”

“Muội muội, cho dù không vì Tần quốc, chỉ vì hạnh phúc cuộc đời muội, muội cũng tuyệt đối không được chọc giận phu quân của muội, muội nhớ lấy, cả đời này muội đã an bài là thê tử của người ta, còn cả đời hắn lại không chỉ có một nữ nhân là muội, nếu muội cứ làm bừa, muội sẽ tự tay chôn sống hạnh phúc đời mình đó!

Từ nay về sau, muội phải rời xa quê hương, rời xa thân nhân, một mình sinh sống tại Ngô quốc, nơi xa lạ đó từ nay là quốc gia của muội, dân Ngô xa lạ chính là con dân của muội, còn tên Khánh Kỵ xa lạ chính là phu quân kề cận bên muội suốt đời, muội có tưởng tượng nổi nơi xa lạ đó, người dân xa lạ nơi ấy mãi mãi không xem muội là người nhà sẽ thế nào không? Muội có chịu đựng được phu quân của muội bỏ mặc muội coi muội như vô hình không?”

Những lời của Mạnh Doanh văng vẳng bên tai, Quý Doanh mở to mắt nhìn vào bóng hình mình trong gương, hồi tưởng đêm qua: “Đêm qua, mình đã làm gì nhỉ?”

Hồi tưởng lại tất cả, Quý Doanh liền hối hận không thôi: “Trời ơi, đêm tân hôn mà mình… sao có thể làm càn thế chứ? Khi đó không chịu gả cho hắn thì lúc đến Cô Tô cứ quậy tưng lên một trận, giờ đã đồng ý lấy hắn, sao mà… sao mà lại ra tay đánh nhau với phu quân được chứ?”

“Phu quân”, hai tiếng phu quân lóe lên, khiến nàng cảm nhận một cảm giác lạ lùng, nàng nhận thức được cảnh ngộ nàng sắp đối mặt: “Bây giờ… mình phải làm sao đây?”

“…Một khi lấy lầm người, thì chỉ còn biết chấp nhận số phận, như tỉ tỉ, như Nam Tử của Vệ quốc, dù muội có xinh đẹp như hoa, cao ngạo kiêu kì, đến cuối cùng thì thế nào chứ? Không phải cô công chúa nào cũng được may mắn, đại đa số nữ nhi xuất thân hoàng tộc đều không tự quyết định tương lai hạnh phúc của mình được. Quý Doanh, muội phải biết trân trọng, muội có dung mạo và thân thể khiến nam nhân chết mê chết mệt, lại được gả cho một lang quân tốt, không phải mỗi cô gái đều may mắn như muội đâu, đừng để tính ngang bướng của muội phá hỏng đi hết thảy mọi thứ.”

Những lời tỉ tỉ loáng thoáng hiện lên trong đầu, Quý Doanh như nuốt phải chén đắng, nếu thời gian có thể quay lại, nếu nàng được trở về thời điểm đêm qua, dù cho có uất hận Khánh Kỵ cao ngạo và thô lỗ đến đâu, nàng cũng tuyệt đối không làm chuyện khờ dại này: Đêm tân hôn mà cùng phu quân vật lộn, còn quật ngã chàng đau điếng nữa, đổi lại là nam nhân khác cũng không ai tha thứ cho nàng, hơn nữa đó còn là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, đương kim Ngô vương anh dũng. 

“Hoàng hậu…”

Hân Nhi gọi lên cách xưng hô đáng ghét nhất của Quý Doanh, đưa gương đồng lại gần nàng ta.

Quý Doanh ngây dại nhìn vào gương, thời khắc động phòng hoa trúc là thời khắc tuyệt vời mỗi một thiếu nữ đều trông mong trải qua, nhưng tất cả những gì tốt đẹp đã bị nàng phá hỏng, đây vốn là nguyện vọng khi lúc đầu nàng bị thúc ép lên xe đến Ngô, nhưng khi nó xảy ra rồi, nàng lại không hề cảm thấy vui mừng, trong lòng giờ đây chỉ là một khoảng trống mông lung.

Quý Doanh cầm chiếc lược ngà bẻ mạnh, “Rắc” vang lên, chiếc lược bị gãy làm đôi, bốn tì nữ sợ hãi quỳ cả xuống, Quý Doanh chỉ lắc đầu nguầy nguậy, nhìn vào gương đồng, nở nụ cười chua chát…

“Hoàng hậu nương nương, sứ giả Tần quốc đã đứng đợi bên ngoài đại điện, đại vương hối thúc hoàng hậu nương nương mau qua đó.” Ngoài cửa có một thái giám chạy vội đến ẻo lả thông báo.

“Đại vương… bảo ta đi?”

Quý Doanh giật nảy mình, cành cây khô héo trong nàng như được vảy cho vài giọt nước, trái tim hoảng loạn yên tâm lại một chút, nàng định thần, nói: “Biết rồi, bổn hậu sẽ qua đó liền đây.”

Nàng lại nhìn kĩ mình trong gương một lần nữa, xác định rõ không còn vết tích gì mới thướt tha đứng dậy, sải bước đi ra ngoài, bốn tì nữ lo lắng nhìn vào nhau, vội lẽo đẽo theo sau, ra khỏi Loan Phượng cung.

Sứ giả nhà Tần đang ngồi theo trật tự quân thần trên đại điện, Khánh Kỵ và hắn nói cười vui vẻ, nét mặt tươi tắn như không có gì xảy ra.

Hậu điện phát ra tiếng leng keng, một cơn gió mang hương thơm thoang thoảng lướt qua, Quý Doanh và bốn tì nữ bước vào đại điện, sứ giả Tần quốc vội đứng dậy bước lên tham kiến: “Ngoại thần Nhưỡng Tứ Ly, bái kiến Ngô hoàng hậu.”

“Ngoại thần…, hơ! Trong mắt người Tần, Quý Doanh ta đã là người Ngô rồi.” Quý Doanh trong lòng chua chát, xua tay nói: “Nhưỡng Tứ đại phu miễn lễ, bình thân, mời ngài ngồi.”

Nàng đưa mắt liếc nhìn Khánh Kỵ, không còn cách nào khác buộc phải gắng gượng bước tới hành lễ: “Tiểu đồng bái kiến đại vương.”

“Ha ha, hoàng hậu mau mau miễn lễ, mời ngồi, mời ngồi.” Khánh Kỵ cười giả lả, ánh mắt không hề nhìn vào nàng, Quý Doanh ngồi vào bên cạnh hắn.

Sứ giả Nhưỡng Tứ Ly chắp tay lên tiếng: “Quốc quân Tần quốc của thần rất thương yêu hoàng muội Quý Doanh công chúa, công chúa điện hạ được gả đến Ngô quốc, Nhưỡng Tứ Ly phụng lệnh tháp tùng, nay sứ mệnh đã hoàn thành, ngoại thần xin phép cáo từ về nước, trước lúc ra đi đến thỉnh an đại vương, hoàng hậu, cung chúc đại vương và hoàng hậu ân ái hòa thuận, tương kính như tân, sớm sanh hoàng tử, nối dõi Ngô quốc.”

Khánh Kỵ tươi cười hớn hở: “Nhưỡng Tứ đại phu, lần này về nước thay mặt quả nhân hỏi thăm Tần quân, hai nước Tần Ngô kết thân giao hảo, tương trợ lẫn nhau, kẻ địch phương Bắc không dám dòm ngó, quả nhân nguyện mối giao hảo hai nước Tần Ngô được duy trì muôn đời. Quý Doanh công chúa xinh xắn hiền thục, có nàng làm phối ngẫu, quả nhân được mối lương duyên này, không khỏi vui mừng…”

Quý Doanh nghe hắn đang khen mình, xấu hổ đỏ cả mặt, ngồi im phăng phắc, trong lòng nôn nao, đợi khi Khánh Kỵ nói qua đoạn khen ngợi khách sáo này, nàng mới bình tĩnh trở lại. 

Đợi sau khi Nhưỡng Tứ Ly nhận quốc thư Khánh Kỵ gửi cho quốc quân Tần quốc cáo từ rời khỏi, trên đại điện chỉ còn hai phu thê, khung cảnh trở nên im phăng phắc. Quý Doanh rụt rè nhìn vào Khánh Kỵ, nói nhỏ: “Đại vương…”

Khánh Kỵ phất tay áo đứng dậy, thản nhiên: “Hôm nay không nổi điên, hay lắm, các phi tần hậu cung lát nữa sẽ đến Loan Phượng cung thỉnh an với hoàng hậu, hoàng hậu cũng nên quay về hàn huyên với các tỉ muội, quả nhân rất bận, còn nhiều quốc gia đại sự phải giải quyết, cáo từ.” Dứt lời quay ngoắt bỏ đi.

“Đại… đại… đại vương…”

Quý Doanh gọi với theo, cắn răng ấm ức, trái tim bé bỏng của nàng đau nhói, hai hàng nước mắt lăn dài trên khuôn mặt, từng giọt từng giọt rơi lã chã xuống ngực áo, nàng nheo mắt dõi theo bóng lưng Khánh Kỵ từ từ đi khuất, đôi môi anh đào đã bị cắn bật chảy máu…

“Nước Tần đã đồng ý xuất binh phạt Tấn rồi à? Thời gian quyết định vào lúc nào?” Khánh Kỵ vui mừng hớn hở hỏi chuyện Văn Chủng vừa từ Tần quốc quay về.

“Dạ phải, thời gian đã định vào tháng năm ác nhật.”

“Tháng năm ác nhật ư?” Thời đại tiên Tần, người ta cho rằng tháng năm là Độc nguyệt, ngày năm là Ác nhật, tương truyền vào ngày đó gian tà đương đạo, ngũ độc cùng chui ra, nên mới gọi đoan ngọ ngày năm tháng năm là ác nhật. Khánh Kỵ ngớ ra, lập tức cười hô hố: “Còn nhớ lúc quả nhân tại Lỗ, cũng vào ngày đoan ngọ nhận được sự giúp đỡ của Tam hoàn, xây dựng đội phục binh tại Phi Hồ cốc Phí thành Lỗ quốc, sau này đóng vai trò quyết định trong đại nghiệp phạt Ngô phục quốc. Không ngờ hôm nay người Tần lại chọn đúng ngày đoan ngọ khởi binh, ha ha, đấy là ngày cát tường của quả nhân đó.”

Hắn suy tư giây lát, nói: “Nếu nước Tần đã đồng ý, mau phái người thông báo cho Vệ phu nhân Nam Tử biết tin, tin rằng kẻ muốn nổi loạn trong số lục khanh Tấn quốc, ngày phát động chính là Độc nguyệt Ác nhật, sau khi Tần quốc xuất binh.”

“Dạ! Vi thần lập tức phái người liên lạc với người Vệ.”

“Hừ, còn chuyện chúng ta thảo phạt Trần quốc nên làm tới, hiện giờ chúng ta liên tiếp hạ ba thành trì rồi, Phí Vô Cực phái sứ giả chất vấn, nhưng lại không hề xuất binh can thiệp, cứ tiếp tục đánh mạnh vào, đánh cho Trần quốc không chống cự nổi, ép Sở xuất binh cứu viện.”

“Tuân lệnh!” Anh Đào tự tin báo cáo: “Bình Bố tướng quân đánh ba trận đại thắng cả ba, đang tiếp tục tiến quân đánh mạnh, mạc tướng đã chuẩn bị kĩ lưỡng, một khi Phí Vô Cực xuất binh, lập tức dẫn đại quân giáng cho hắn một đòn chí tử.”

“Ờ, lúc cần thiết ngươi có thể cầm theo hổ phù của quả nhân, điều đại quân của Xích Trung đang trấn giữ Bành thành trợ chiến, trận chiến với Phí Vô Cực, chỉ được thắng, không được thua.”

Anh Đào vênh mặt, hào khí ngút trời: “Xin đại vương cứ yên tâm, Anh Đào chỉ cần một cánh quân là đủ.”

“Anh Đào, kiêu binh tất bại, không nên khinh địch.”

Anh Đào cười tự tin: “Đại vương dạy phải lắm, nhưng… hiện giờ có Sở thái hậu của Sở lén đưa tin nội bộ quân Sở cho ta, nhất cử nhất động của Phí Vô Cực thần đều biết rõ như lòng bàn tay, với lợi thế này mà Anh Đào không đánh bại được hắn thì đâu còn mặt mũi nào giữ chức Đại tư mã Ngô quốc? Nên sớm nhường chức cho người hiền tài khác đi thôi.”

Khánh Kỵ trừng mắt nhìn hắn, gằn giọng: “Bên Tấn quốc mà bạo loạn, cơ hội của chúng ta sẽ đến, trước khi tấn công liên quân Sở Việt phía nam, ta phải giải quyết xong Đông Di cái đã, bên đó sự tình phức tạp, không phải chỉ dựa vào vũ lực là giải quyết ổn thỏa. Vừa phải dùng binh, vừa phải đấu trí, phải vừa cương vừa nhu kết hợp mới xong. Lập quốc, bình loạn, khó khăn trùng trùng, quả nhân lo lắng cho nơi này quá! Ài, quả nhân muốn đích thân tới Dư Khâu của Đông Di chủ trì đại cuộc.”

“Tuyệt đối không thể được!” Khánh Kỵ vừa nảy ý định đi Đông Di, các đại thần Yểm Dư, Tôn Vũ, Anh Đào, Phạm Lãi, Văn Chủng đều vội lên tiếng ngăn cản: “Đại vương là vua của một nước, nếu không là trận chiến quan hệ vận mệnh quốc gia không thể đích thân ra trận, còn không thuộc chuyện liên minh chư hầu, kết giao ngoại bang không được rời khỏi Ngô quốc. Chiến loạn ở Đông Di chưa được giải quyết triệt để, với thân phận tôn quý của đại vương, liên can vận mệnh quốc gia, sao có thể đích thân đến đó? Nếu đại vương không yên tâm công việc bên Đông Di, thần nguyện xin phép đi thay, hỗ trợ Lương Hổ Tử tướng quân cùng bàn kế lớn.”

Khánh Kỵ thấy quần thần phản ứng quyết liệt, chỉ biết cười trừ từ bỏ ý định. Hắn muốn đích thân đi Đông Di, cũng có đôi chút là vì không yên tâm, còn mặt khác nhiều hơn, chính là muốn gặp mặt Thành Bích đang vất vả đánh giang sơn cho hắn bên ngoài, nếu hắn không tiện đi thì phái tướng lĩnh khác đi làm gì nữa? Với tài dũng mãnh của Lương Hổ Tử, trí tuệ của Thành Bích, họ không lo nổi chuyện ở Đông Di nữa thì có phái thêm một người đến đó cũng không giúp ích được gì.

Khánh Kỵ hứa hẹn với quần thần sẽ không nảy ý định đi Đông Di nữa, quần thần thế mới không lải nhải khuyên bảo. Khánh Kỵ đang định truyền lệnh bãi triều, đột nhiên nhớ ra một chuyện, dặn dò: “À, cũng đến lúc rồi, đem đám quyền quý Sở quốc cuối cùng chúng ta còn giữ ở hậu sơn Cô Tô long trọng tiễn về nước đi, phải cho chúng ít thời gian tranh quyền đoạt lợi tại Sở, vào thời khắc quyết định sẽ hất đổ Phí Vô Cực.”

Quần thần nghe xong cười to, Tôn Vũ hí hửng tuân lệnh, Khánh Kỵ thế mới truyền lệnh bãi triều, đi về phía hậu cung. Muốn vào hậu cung phải đi qua Loan Phượng cung, sau đó mới rẽ sang các cung điện khác. Khi đi ngang Loan Phượng cung, Khánh Kỵ ngước nhìn tấm biển trang hoàng lộng lẫy óng ánh sắc vàng cho hôn sự hôm qua, thở dài ngao ngán, xoay người đi theo đường nhỏ hướng về cung điện của hoàng phi Nhược Tích.

Đã một tháng trôi qua, Khánh Kỵ quyết tâm không thèm gặp Quý Doanh, hắn biết rõ nàng đã biết hối lỗi, nhưng cứ làm bộ không để ý, kể từ đêm tân hôn, hắn không bước vào Loan Phượng cung nữa, cũng chưa hề gặp mặt hoàng hậu Quý Doanh thêm lần nào, Loan Phượng cung náo nhiệt hôm nào nay trở nên vắng vẻ hiu quạnh.

Khánh Kỵ lòng như sắt đá, rắp tâm cho Quý Doanh làm góa phụ suốt đời. Nhưng vị hoàng hậu này tuy tính tình hơi ngang bướng, đêm tân hôn say rượu chọc giận phu quân, Khánh Kỵ cứ ngỡ Quý Doanh ngoài nhan sắc ra là cái đầu trống rỗng, hắn đâu biết các cô gái bên cạnh hắn chả có ai là bình hoa xinh xắn chỉ để cắm hoa, cô nương nhà Tần này một khi bình tĩnh lại, đầu óc gian manh hơn cáo già, với tính cách của nàng, sao lại chấp nhận ngồi yên than thân trách phận không hành động chứ?  Trong Loan Phượng cung, dưới bóng cây đặt một chiếc bình, trong bình cắm vài mũi tên, dưới đất cũng vương vãi đầy tên. Kế bên, hoàng hậu Quý Doanh và hoàng phi Tiểu Man đang đá cầu với nhau, hai người đều mặc võ phục kiểu mới do Khánh Kỵ thiết kế lúc ở Phí thành, chiếc quần làm bằng vải bố xuất xứ từ Lỗ, áo bó sát người, dưới chân mang một đôi hài da hươu.

Võ phục trắng áp sát vào thân hình, ủng có dây cột, lưng có đai buộc, hai người khuôn mặt ngọc ngà, mắt mũi như hoa, một người nhỏ nhắn xinh xinh, một người cao ráo thon thả, đều là ẻo lả mỹ miều, ai nấy có dáng vẻ thu hút riêng, dưới ánh nắng soi rọi, khó phân cao thấp.

Đá cầu bắt nguồn từ đâu không ai biết được, nhưng lại phát dương quang đại ở nước Tề vốn thích mới mẻ và hưởng thụ. Người Tề bất kể nam nữ, đều không rời khỏi rái cầu, suốt ngày đá cầu giải trí, người Lỗ sống gần Tề quốc, vì Tề quốc phú cường, phong cách của người Tề được người Lỗ bắt chước theo, nên môn đá cầu cũng nhanh chóng du nhập vào Lỗ, Quý Tôn Tiểu Man tinh thông kĩ thuật đá cầu.

Diêu Quang và Nhược Tích đều lớn tuổi hơn Tiểu Man một chút, tính tình trầm mặc hơn nàng, ngày thường chỉ thích gảy đàn thổi sáo, câu cá vẽ tranh, chơi những trò chơi mang hơi hướng nho nhã, còn Tiểu Man tính tình hoạt bát, thích nghịch ngợm phá phách, luôn cảm thấy những trò chơi kia quá nhàm chán, nên tuy tình cảm với hai tỉ muội kia khá tốt, nhưng ít khi chịu chơi chung với nhau.

Thế là từ khi bái kiến hoàng hậu xong, quen biết với Quý Doanh, hai người tuổi tác tương đương, đều tính tình hướng ngoại, hoạt bát thích chạy nhảy, hai thiếu nữ này nhanh chóng trở nên thân thiết. Quý Tôn Tiểu Man ngày nào cũng chạy đến chơi chung với Quý Doanh, ít ra cũng giải khuây bớt phần nào mỗi cô đơn trống trải giùm hoàng hậu.

“Hứ! Không đá nữa, không đá nữa!”

Quý Tôn Tiểu Man đạp lên trái cầu, lấy khăn tay ra lau mồ hôi trên trán, thở hổn hển nói: “Môn đá cầu này là người ta dạy tỉ, tỉ mới học không bao lâu mà đã đá tốt hơn người ta rồi, mất hứng quá à.”

Quý Doanh đưa chân dài tiếp đất, chống eo làm dáng, trái cầu nhét đầy vải vụn xoay tròn quanh thân nàng, không hề rơi xuống đất, chân nàng quá dài, móc, đá, câu, hất, động tác mềm mại uyển chuyển tuyệt đẹp.

Quý Doanh dùng mũi bàn chân đón lấy quả cầu, nói với Tiểu Man: “Khi xưa tỉ học môn đô vật với nữ nô người Tây Dung, không biết phải học bao lâu mới học thành, nhưng chỉ dạy cho muội có mấy ngày, bây giờ so tài với muội đã bị muội vật ngã rồi, tỉ mới tức đây nè.”

Quý Tôn Tiểu Man thế mới khoái trá cười hi hí, làm mặt tinh nghịch, vênh mặt giải thích: “Cái này thì tỉ không hiểu rồi, dù thế nào đi nữa thì tỉ là công chúa nước Tần, cơ hội ra tay đánh nhau là quá ít, còn Quý Tôn Tiểu Man này đánh nhau từ nhỏ đến lớn, môn công phu vật qua vật lại này, tỉ sao so sánh bằng muội được? Đi nào, chúng ta qua mái đình bên kia nghỉ ngơi chút. Này, Hân Nhi, mau đi đổ hai chén nước xí muội cho hoàng hậu và bổn phi.”

Hân Nhi tuân lệnh lui xuống, Tiểu Man và Quý Doanh vào trong đình ngồi xuống nghỉ mệt, Hảo Nhi dâng lên khăn ướt, hai người rửa mặt xong, Hân Nhi bưng hai bát nước xí muội đến, Tiểu Man đón lấy, vừa mới uống một ngụm đã nhổ ra, quay sang Hân Nhi trách mắng: “Này, con nha đầu này lười biếng quá, sao không bỏ vài miếng đá vào, chén nước xí muội nóng hôi hổi này sao mà uống?”

Hân Nhi ấm ức nhìn vào Tiểu Man, nhỏ nhẹ: “Man hoàng phi, không phải là nô tì lười biếng, mà là… quả thực là…”

“Hân Nhi!” Quý Doanh ngăn Hân Nhi tiếp tục phân trần, quay sang cười giả lả với Tiểu Man: “Tiểu Man nếu cảm thấy nóng, chúng ta chi bằng cùng đi tắm nhé, nước suối xanh mát, tắm xong là khỏe khoắn ngay ấy mà.”

Tiểu Man ngạc nhiên nhìn vào Quý Doanh, hỏi: “Hoàng hậu sao lại ngăn cản Hân Nhi nói ra, đã xảy ra chuyện gì?”

“Không có…”

Quý Doanh còn chưa nói dứt câu, Hân Nhi vội nói xen vào: “Nội phủ tư nói trong kho băng lượng tồn không còn nhiều nữa, chỉ được cung cấp cho đại vương giải nhiệt, thế nên ngưng cung cấp cho hậu cung rồi, chẳng lẽ Man hoàng phi còn chưa biết?”

Tiểu Man trừng mắt tức tối: “Ai nói là đã ngưng cung cấp cho hậu cung, ta…”

Nàng liếc sang Quý Doanh, trong lòng nhói lên, đã hiểu ra chút gì, lập tức ngưng bặt tiếng, sắc mặt Quý Doanh cũng thoáng buồn rười rượi, vẻ tội nghiệp đó khiến Tiểu Man thấy động lòng thương hại, khí khái nghĩa hiệp của nàng chợt nổi lên.

“Thôi, thôi, chén nước này nóng thế sao mà uống được, đem bỏ đi, lấy rượu ngon đang ngâm nước giếng lại đây, hoàng hậu này, Tiểu Man biết làm vài món ngon, toàn là những món tỉ chưa từng thấy qua đâu, hay là để Tiểu Man trổ tài nấu nướng, cùng hoàng hậu uống cho thỏa thích.”

Người trong cung giờ ai cũng biết Khánh Kỵ bỏ mặc hoàng hậu, từ đêm tân hôn trở đi đã không còn đặt chân bước vào Loan Phượng cung, Tiểu Man cũng cảm thấy kì lạ, nhưng hỏi Khánh Kỵ thì không được tin gì xác thực, Quý Doanh càng khỏi bàn, hỏi đến là lắc đầu nhè nhẹ và thở dài thiểu não, hỏi nữa thì nàng sụt sùi rơi nước mắt, làm cho Tiểu Man và Diêu Quang, Nhược Tích đều thấy khó xử, từ đó cứ trước mặt hoàng hậu là không hề nhắc tới chuyện này nữa.

Vừa nghe nói uống rượu, Quý Doanh nói: “Được, Hân Nhi, đi lấy rượu ra đây cho Man hoàng phi dùng.” Nàng lại quay sang Tiểu Man có ý xin lỗi: “Tiểu Man này, tỉ đã thề từ nay không đụng đến nửa giọt rượu, không cùng uống với muội được, hay là lấy nước thay rượu, cùng uống hầu muội.”

“Sao lại thế?” Tiểu Man kinh ngạc: “Muội nghe Hảo Nhi nói, hoàng hậu rất thích uống rượu, hơn nữa tửu lượng cũng khá, sao lại vô duyên vô cớ cai rượi rồi?”

Nàng ngập ngừng giây lát, cuối cùng cũng không chịu được, hỏi: “Hoàng hậu…, tỉ và đại vương rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

Quý Doanh cúi gầm mặt, sầu não nói: “Đều là lỗi của tỉ…, Man hoàng phi đừng hỏi nữa.” Nàng thở dài ngao ngán, cười miễn cưỡng lái sang chuyện khác: “Nào, chúng ta vào trong điện ngồi, cùng nhau đối ẩm vậy.”

Tiểu Man là một cô nương không biết kiềm chế, Quý Doanh càng im lặng không nói ra, Tiểu Man càng muốn tìm hiểu sự tình. Uống rượu một mình đúng là không thú vị gì, hồi lâu mới đợi được đến giờ dùng cơm, Tiểu Man lập tức cáo từ, rời khỏi Loan Phượng cung.

“Đại vương đã về cung chưa?” Tiểu Man vừa đi khỏi Loan Phượng cung, bèn hỏi ngay một tì nữ đang đi ngang qua.

Tì nữ kia vội cung kính hành lễ: “Hồi Man hoàng phi, đại vương đã về hậu cung.”

“Giờ đại vương đang ở đâu?”

“Đang trong cung của Nhược Tích hoàng phi ạ.”

Tiểu Man không nói thêm câu nào, dẫn theo cả đám nô tì của mình hướng về phía tẩm cung của Nhược Tích bước nhanh.

Trong cung Nhược Tích, Khánh Kỵ ngồi trên tấm chiếu trải dưới đất, kế bên chân đặt một cái chậu sành, trong chậu chứa đầy băng đá trong suốt, từng luồng hơi lạnh bốc lên, khắp phòng mát mẻ.

Trên bàn nhỏ đặt vài đĩa thức ăn, Khánh Kỵ đang cùng Nhược Tích tán gẫu, chốc chốc lại uống một ngụm rượu, đang say sưa vui vẻ hưởng lạc.

“Đại vương bỏ mặc một tân nương đó không đi hưởng dụng, lại suốt ngày trú trong cung của thần thiếp, nếu hoàng hậu có dung mạo xấu xí còn dễ hiểu, nhưng hoàng hậu rõ ràng xinh đẹp tuyệt trần, nhu mì kiều diễm, hơn nữa tính cách của hoàng hậu lại thẳng thắn đáng yêu, thần thiếp mỗi ngày đến thỉnh an hoàng hậu điện hạ, cùng hoàng hậu nói chuyện rất hợp, không giấu gì đại vương, hoàng hậu từ Tần quốc xa xôi đến đây, thiếp cùng Diêu Quang, Tiểu Man ba tỉ muội cứ lo lắng không yên, sợ gặp phải người không dễ đối phó, nhưng con người Quý Doanh ngây thơ trong trắng, không có tâm cơ, người ta nhìn thấy còn thích nữa là, sao đại vương lại…”

Khánh Kỵ khẽ chau mày: “Nhược Tích, là Quý Doanh bảo nàng làm thuyết khách đó à?”

“Đương nhiên là không, nếu hoàng hậu chịu mở miệng là tốt rồi, nhưng tiếc là dù có hỏi thăm thế nào, nàng ấy chỉ biết lắc đầu thở dài, hỏi thêm thì nước mắt giàn giụa, làm cho người khác không hiểu gì cả.” Nhược Tích xoay xoay tròng mắt, cười tủm tỉm dụ khị: “Đại vương à, hay là nói cho thần thiếp nghe đi, hoàng hậu điện hạ đã làm gì chọc giận đại vương rồi? Hay là… hay là trong đêm động phòng hoa trúc, không biết cách hầu hạ cho đại vương vui?”

Khánh Kỵ tức tối không tiện nói ra, liền làm ra vẻ giận: “Quả nhân muốn được yên tĩnh, nàng lại lải nhải bên tai ta, nữ nhân các nàng thiệt là…, cái tính tò mò đó, đúng là nữ nhân nào cũng vậy cả…” 

Đúng lúc này, Quý Tôn Tiểu Man lướt như một cơn gió chạy vào: “Đại vương, Hí! Thì ra chàng đúng là ở đây.”

Khánh Kỵ liền giãn chân mày ra, vui vẻ nói: “Bộ trang phục quả nhân thiết kế đẹp đấy nhỉ? Tiểu Man mặc vào giống y như một mỹ nhân bé bỏng, hí hí, làm quả nhân rạo rực quá nè.”

Hắn vừa nói vừa nheo mắt liếc nhìn cặp mông đầy đặn của Tiểu Man dưới lớp vải áo bó sát. Khánh Kỵ đã mấy lần muốn chiếm dụng từ phía sau của Tiểu Man rồi, nhưng cố gắng mấy lần, Tiểu Man trong lúc đê mê vẫn cảm thấy sợ hãi, lần nào cũng đau đớn xin tha, Khánh Kỵ sợ nàng còn nhỏ tuổi chịu không nổi, nên mỗi lần sắp thành công lại buộc phải cố gắng kiềm chế dừng lại.

Nhưng lúc này Tiểu Man đã hiểu nhiều về chuyện phòng the rồi, nhìn thấy Khánh Kỵ đang cười gian xảo là biết ngay hắn đang nghĩ gì, nàng xấu hổ nguýt hắn: “Hứ! Thích à? Thích thì đi Vệ quốc tìm tên Di Hạ ấy, người ta là Ngô hoàng phi, chứ không phải man đồng đâu đấy.”

Nhược Tích cũng liếc nhìn thấy ánh mắt dâm tà của Khánh Kỵ, lập tức đỏ mặt, ừ hử: “Đại vương xấu quá, giữa ban ngày thế này mà nổi lòng ham muốn rồi.”

“Ơ, chẳng lẽ hai người…” Quý Tôn Tiểu Man kinh ngạc trước phản ứng của Nhược Tích, trong lòng nổi lên nỗi hoài nghi, có hơi chua chát nghĩ thầm: “Chẳng lẽ hai người họ đã làm tư thế kia rồi? Phải rồi, chả trách đại vương đến cung của Nhược Tích tỉ nhiều hơn đến cung của mình, hứ! Mình còn tưởng hắn thương mình, thì ra là đã có người cho hắn thỏa mãn cách kia…”

Tiểu Man suy nghĩ lung tung, thật ra nàng đã nghĩ oan cho Khánh Kỵ, vì Khánh Kỵ nghĩ Tiểu Man còn nhỏ nên mới không hay ngủ lại ở cung của nàng, còn trong lúc vui vẻ với nàng cũng cố gắng kiềm chế, làm ăn nhẹ nhàng, còn làm vài biện pháp phòng hờ nàng mang thai quá sớm. Nhưng khổ tâm của hắn Tiểu Man đâu chịu hiểu? Bây giờ nàng đang ghen tuông, thật ra Tiểu Man vẫn còn mang tính trẻ con, chỉ nghĩ là Khánh Kỵ làm chuyện kia với người khác thì cũng phải làm với nàng thế mới công bằng, trên thực tế nha đầu mười sáu tuổi như nàng không có nhiều ham muốn xuất hiện, dù cho Khánh Kỵ ôm nàng ngủ suốt đêm không có làm gì cả, nàng cũng đã cảm thấy mãn nguyện rồi.

Nhược Tích nghe Tiểu Man chất vấn, đỏ mặt e thẹn, vội lái sang chuyện khác: “Tiểu Man ở trong cung buồn quá nên đến chổ tỉ đúng không? Nào, lại đây cùng ngồi nào, uống với đại vương vài ly rượu.”

Nhược Tích nói sang chuyện khác, Tiểu Man liền nhớ ra mục đích chính của mình khi đến đây, hứ một tiếng rõ to: “Muội không uống được, bên này thì ân ái, bên kia thì lạnh lẽo, người ta không nhìn không đặng đâu.”

Nhược Tích ngờ ngợ hỏi: “Tiểu Man… nói gì thế? Sao tỉ tỉ nghe không hiểu?”

Tiểu Man nổi giận đùng đùng đến ngồi bên Nhược Tích, trừng mắt nhìn Khánh Kỵ: “Đại vương, người ta muốn hỏi, hoàng hậu vừa mới được gả đến Ngô quốc, có gì đắc tội với chàng đâu, sao chàng lại đối xử với tỉ ấy như thế?”

Khánh Kỵ liếc xéo Tiểu Man, rít lên: “Nha đầu Quý Doanh thủ đoạn khá lắm, lại có cách khiến mấy nàng ra mặt nói tốt cho nàng ta.”

Nhược Tích thở dài, lên tiếng: “Nếu Tiểu Man muội muội đã nhắc đến, đại vương cũng đừng trách thần thiếp nhiều chuyện, dù sao Quý Doanh cũng là hoàng hậu, làm chủ hậu cung Ngô quốc, đại vương đối xử lạnh nhạt với người ta, ngôi vị hoàng hậu cũng không thay đổi, nếu tỉ muội trong cung hòa thuận chung sống, đại vương mới có thể yên tâm trị vì quốc gia. Đại vương lạnh nhạt với hoàng hậu, hoàng hậu không trách tội lên đầu chúng thần thiếp, người ngoài cũng nói chúng thần thiếp mê hoặc đại vương, làm đại vương ruồng bỏ chính thất. Ngày dài tháng rộng, hoàng hậu chắc chắn sinh lòng ganh ghét, đến lúc đó hậu cung xáo xào, đại vương có đau đầu không chứ? Nói ra thì hoàng hậu vừa đến Ngô quốc, chắc cũng không phạm phải tội lỗi lớn gì đến nỗi không được tha thứ. Đại vương là vua của một nước, tấm lòng khoan dung độ lượng rộng rãi, sao lại chấp nhặt so đo với một nữ nhân nhỏ nhoi?”

Khánh Kỵ hít một hơi dài, nghiêm nghị nói: “Quân vương vô gia sự, gia sự cũng chính là quốc sự, đó đâu phải là chuyện nhỏ nhặt. Nếu nàng ấy ngang bướng một chút thì quả nhân hãy còn nhẫn nhịn được, nhưng… hậu cung không được can dự chính sự, đó là một trong những điều luật quả nhân ban hành khi mới phục quốc, sao có thể dễ dàng sửa đổi? Quý Doanh vừa tới Ngô quốc, bèn buộc quả nhân cứu viện tỉ tỉ Sở thái hậu của nàng ấy, quả nhân không ưng thuận, nàng ta mượn cớ say rượu động thủ với quả nhân, sao quả nhân không tức giận lên được? Đại sự thiên hạ còn không lo hết, quả nhân đâu rảnh rang đi cãi cọ dạy dỗ chuyện đạo lí xử thế với nàng ta hả?”

“Đại vương không ưng thuận à?” Nhược Tích ngạc nhiên hỏi: “Không phải đại vương và Sở thái hậu đã bí mật thỏa thuận nhau rồi ư?”

Khánh Kỵ ừ hử: “Có là có, nhưng đó là việc quả nhân nghị bàn với đại thần văn võ trong triều, quyết định liên minh với người Sở, chứ không phải vì Quý Doanh nhờ cậy mới xuất binh trợ giúp.”

Nhược Tích thở phào nhẹ nhỏm, mỉm cười: “Thì ra là vì chuyện này, đại vương cũng quá cố chấp, thật ra đại vương nên xuôi theo dòng chảy, cứ nói với hoàng hậu là vì nàng ấy nên mới liên minh với Sở, như thế vì giải quyết xong quốc sự, vừa an lòng hoàng hậu, một công đôi việc, ai nấy đều vui vẻ.”

Khánh Kỵ đanh mặt: “Vậy khổ tâm của quả nhân là uổng phí à? Nên nhớ quả nhân không phải vì không giúp Sở mà từ chối hoàng hậu, mà là dù giúp hay không, lệnh chỉ được do quả nhân đưa ra, có liên minh với Sở hay không phải tính đến lợi ích của Ngô cùng các triều thần bàn bạc quyết định, không thể nói là chiều ý hậu cung. Lần này không được, lần sau cũng không, hậu cung không được can dự triều chính, bắt buộc phải từ thời quả nhân chấp hành nghiêm túc, mãi mãi không được phế bỏ luật lệ này.”

Tiểu Man thấy hắn nói năng dữ tợn, thấy ấm ức cho phái nữ nhi: “Hậu cung tham gia chính sự cũng là điều bình thường, Sở thái hậu bí mật thỏa thuận với chàng chẳng phải cũng là nữ nhân sao?”

Khánh Kỵ cười mỉa: “Nàng ta là Sở thái hậu, không phải Ngô thái hậu, nữ nhân trong hoàng cung Ngô quốc, tất cả đều không được can dự vào chính sự.”

Tiểu Man liếc xéo hắn, tức tối: “Thế nào? Chàng sợ nữ nhân không làm được việc, làm hỏng đại sự của chàng hay là sợ nữ nhân chúng ta chiếm đoạt quyền lực của chàng?”

Khánh Kỵ thấy không khí căng thẳng, vội tỏ ý xoa dịu, mỉm cười nói: “Quả nhân không phải là Tống Chiêu Công, tin rằng Tiểu Man của ta cũng không phải là Tương phu nhân, nhưng nghĩ cho giang sơn xã tắc, nghĩ cho con cháu đời sau, quả nhân buộc phải làm nghiêm từ bây giờ.”

Câu chuyện về Tống Chiêu Công và Tương phu nhân Khánh Kỵ vừa nói xảy ra tại Tống quốc hơn một trăm năm trước, phu nhân của Tống Tương Công là muội muội Chu thiên tử. Tống Tương Công chết đi, con trai Tống Thành Công kế vị, mười bảy năm sau bệnh chết, đến lượt cháu đích tôn Tống Chiêu Công lên ngôi, trong suốt quá trình đó, Tương phu nhân nắm hết quyền lực triều chính, con cháu hoàng tộc Tống quốc chỉ như bù nhìn mà thôi.

Huynh đệ Công Tử Bào của Tống Chiêu Công là mỹ nam tử có tiếng, Tương phu nhân phải lòng chàng trai đáng tuổi con cháu mình, thế là đối xử tốt với hắn, sau cùng giết luôn Tống Chiêu Công sắc lập hắn làm quốc quân, hai người danh chính ngôn thuận đến với nhau, vì chuyện này bá chủ thiên hạ Tấn quốc lúc bấy giờ có cớ dấy binh thảo phạt, nói là chủ trì công đạo cho Tống Chiêu Công bị hại chết oan uổng.

Tiểu Man nghe Khánh Kỵ so sánh như vậy, nheo nheo mũi ngún nguẩy, cố ý chọc tức: “Ai nói người ta không phải là Tương phu nhân? Hí hí, đợi khi chàng già cả yếu sức, người ta chán chàng rồi, lúc đó thấy thích mỹ nam tử nào đó, người ta sẽ học theo Tương phu nhân.”

Nói đến câu sau, chính Tiểu Man cũng không nhịn được cười, bật cười khanh khách.

Khánh Kỵ dang rộng tay tóm lấy eo thon của Tiểu Man, nhấc bổng nàng ta lên một cách nhẹ nhàng, đặt lên đùi đánh cái đét vào mông, trừng trị cái tội nói nhăng nói cuội xong mới giải thích: “Phàm là sáng lập đại nghiệp, giang sơn đều do một người gầy dựng, cả triều văn võ đều là người trung thành với mình, hơn nữa phần lớn giỏi giang tinh tế, tất nhiên không để đại quyền dễ dàng rơi vào tay người khác. Nhưng cho dù triều đại nào quốc gia nào đi chăng nữa, quân vương khai quốc chỉ là một đời

Còn con cháu của quân vương đó thì sao? Từ nhỏ sinh trưởng trong hoàng cung, lớn lên dưới sự bảo bọc của phi tần, không biết chuyện bên ngoài thiên hạ, sau này có nắm quyền cũng chưa chắc giỏi, nếu thái giám phi tần muốn can dự chính sự, điều đó khá dễ dàng làm được. Hơn nữa phi tần có được ra khỏi cung không? Có lên đại điện nghe triều thần phân tích tình hình thiên hạ không? Không thể, họ chỉ suốt ngày ru rú trong cung, vậy họ chỉ trọng dụng thân tín họ tin tưởng, thông qua thân tín nắm giữ quyền lực.

Đám hoàng thân quốc thích này một khi nắm giữ đại quyền trong tay, lại lợi dụng thân phận cách ly quân vương với các đại thần chính trực, dã tâm từ từ nảy nỡ, đến lúc đó phải làm thế nào?”

Nhược Tích khi xưa từng dạy dỗ muội muội quản lí gia nô, nghe Khánh Kỵ giải thích đạo lí lập tức hiểu ra, còn Quý Tôn Tiểu Man hãy còn chưa phục: “Thái giám đâu có tư cách chấp chính? Còn nói đến phi tần, trong thiên hạ hiện nay phi tần các nước can dự chính sự cũng nhiều, đâu thấy có bao nhiêu người biến thành tai họa đâu.”

Khánh Kỵ nói: “Đó là vì thiên hạ hiện nay các nước chư hầu các cứ một nơi, ngày nào cũng chinh chiến thảo phạt lẫn nhau, quốc quân không thể không đích thân lên triều nghị sự với các đại thần, nên đại quyền khó rơi vào tay thân thích của hậu cung, nếu giang sơn thống nhất rồi thì sao nào?” 

Khánh Kỵ đương nhiên biết rõ trong lịch sử có không ít bài học, đời Tần có Triệu Cao, đưa các thái giám lên lộng quyền, Tần diệt vong vào đời Hán, sáu vị thái hậu lần lượt lên chấp chính làm cho triều đình lụn bại. Có thể các phi tần không có ý làm hại quốc gia, nhưng số thân tín họ tin dùng phần lớn lại lộng hành, đưa đất nước đến bờ vực suy vong. Lịch sử đã có nhiều bài học xương máu, Khánh Kỵ không sớm phòng hờ mới lạ.

Khánh Kỵ nói: “Hiện nay kẻ chiếm quyền là các thế tộc công khanh quyền cao chức trọng lấn át cả chủ nhân. Lấy Tấn quốc làm ví dụ, năm trong số sáu khanh có tổ tiên là thần tử trung thành dưới trướng Tấn Văn Công, nhưng trải qua mấy đời, thế lực gia tộc dần dần lớn mạnh, con cháu đời sau đã không còn trung thành như trước, dã tâm ngày càng lớn, mối họa này cũng bắt nguồn từ cách cai trị phân phong chia đất, sau này quả nhân có mở rộng bờ cõi, chỉ thiết lập huyện phủ cai trị, ủy nhiệm quan lại chứ không chia thành phong ấp, cách cai trị này diệt trừ mối họa đe dọa từ công khanh thế tộc, nhưng còn thái giám hậu cung nữa. Quả nhân giữ nghiêm luật lệ hậu cung không được tham chính là nghĩ sâu xa cho mai này, các nàng tưởng quả nhân chỉ vì nổi nóng với một Quý Doanh đó hả?”

Tiểu Man nghe vậy từ từ bình tĩnh lại, chớp chớp mắt đen láy nhìn chăm chăm vào Khánh Kỵ. Khánh Kỵ hôn nhẹ vào môi nàng, âu yếm nói: “Các nàng thử nghĩ xem, sẽ có một ngày các nàng có con của mình, những đứa con sẽ từ từ khôn lớn, trong số họ sẽ có một người trở thành Ngô vương, sau đó nó sẽ nạp hậu tuyển phi, nhưng từ nhỏ nó sinh trưởng trong cung, đâu biết được lòng người hung hiểm? Nếu nó mặc cho phi tần can dự chính sự, sẽ có kết cục thế nào? Nói không chừng máu mủ ruột thịt của các nàng sẽ giống như Tống Chiêu Công chết một cách oan ức cũng nên.”

Nhược Tích và Tiểu Man nghe xong Khánh Kỵ phân tích, thấy đúng là có khả năng đó xảy ra, hai người lạnh toát sống lưng.

Khánh Kỵ nói tiếp: “Thiên hạ hưng vong tự có quy luật của nó, quả nhân làm vậy cũng không thể làm cho giang sơn vững vàng suốt ngàn đời, nhưng ít ra giải pháp này ổn định quốc gia được thêm một thời gian dài, để quân vương hậu thế của Ngô quốc ta ít đi một mối lo từ việc hậu cung lộng quyền. Các nàng đều là những cô gái ngây thơ trong trắng, ta vốn không muốn nói những chuyện tranh quyền đoạt lợi máu me cho các nàng nghe, nhưng các nàng đã là phi tần của Khánh Kỵ này, cũng nên hiểu rõ có khả năng này xảy ra.”

Nhược Tích do dự một hồi, cúi đầu nhẹ giọng: “Đại vương dạy phải lắm.”

Nhược Tích sau khi làm hoàng phi, vốn định đợi tình hình Ngô quốc ổn định thêm sẽ mở lời xin phong chức quan cho người nhà của nàng, nhưng những lời hồi nãy của Khánh Kỵ như cảnh tỉnh, cái câu “Họa từ phúc mà ra, trong phúc có họa.” tuy thời Xuân Thu chưa ai từng nghe, nhưng Nhâm Nhược Tích giờ này cũng đã loáng thoáng hiểu rõ tâm ý của Khánh Kỵ.

Tiểu Man nhỏ nhẹ cầu xin: “Đại vương à, dù đúng như chàng nói, thì cho Quý Doanh nếm chút vị đắng là đủ rồi? Chàng còn muốn hành hạ người ta đến khi nào nữa? Không giấu gì chàng, người ta bây giờ cũng không muốn đến Loan Phượng cung nữa, mỗi lần nhìn thấy tỉ ấy là người ta khó chịu giùm tỉ ấy đó.”

Khánh Kỵ nghiêm nghị: “Làm sai thì phải chịu phạt, quả nhân chẳng qua là cả tháng nay không đi gặp nàng ta thôi mà, có gì to tát lắm đâu.”

“Nhưng… nhưng tỉ ấy dù sao cũng mang thân phận tôn quý của công chúa nhà Tần, đại vương lạnh nhạt như vậy, đã đủ khiến tỉ ấy khó chịu rồi, sao còn… sao còn ra lệnh giảm cung ứng cho Loan Phượng cung, làm tỉ ấy mất mặt trước đám nô tì chứ?”

Khánh Kỵ nghệch mặt ra, ngạc nhiên hỏi: “Quả nhân chỉ muốn cho hoàng hậu một bài học, để nàng ta sau này bớt thói hung hăng, quả nhân đâu có ra lệnh giảm cung ứng cho Loan Phượng cung đâu.”

“Hở?” Tiểu Man ngồi bật dậy, kể lể: “Không phải là đại vương ra lệnh giảm cung ứng cho Loan Phượng cung à? Hiện nay Loan Phượng cung được cấp rất ít nến thắp sáng, vừa vào ban đêm đã tối mù tối mịt. Tiểu Man là người phương Bắc sợ nóng, trong cung băng đá tản nhiệt không thiếu, nhưng… nhưng khi thiếp đến cung hoàng hậu, ngay cả uống một chén nước xí muội cũng không có băng đá bỏ vào, nói là… nói là băng đá không đủ dùng, chỉ cung cấp cho một mình đạp vương.”

Khánh Kỵ điên tiết đập bàn cái rầm, trừng mắt giận dữ, gầm lên: “Chắc là đám thái giám trong cung làm bừa, thấy quả nhân lạnh nhạt với hoàng hậu nên có ý khinh thường hiếp đáp nàng. Hứ! Quả nhân đâu có nói sai, những tên tiểu nhân này chỉ biết xuôi theo thời thế, thật là vô sỉ, thấy hoàng hậu thất sủng chúng đã giả truyền ý chỉ, nếu quả nhân không sớm đưa ra luật lệ nghiêm khắc, chắc có một ngày ngay cả quân vương cũng bị chúng tiểu nhân này sắp đặt mất.”

Nhược Tích ngước nhìn Khánh Kỵ, hỏi: “Đại vương định làm thế nào?”

Khánh Kỵ đứng dậy, đi qua đi lại một hồi, quay sang Tiểu Man nói: “Tiểu Man, nàng có giao tình với Quý Doanh, việc này giao cho nàng đi lo liệu, ngày mai nàng đến Loan Phượng cung lần nữa, gọi bọn thái giám ra dạy dỗ chúng một trận, đuổi chúng đi ra sau núi Cô Tô phụ trách rửa quần áo, nấu cơm cho quân sĩ, không cho phép chúng quay lại hoàng cung nữa.”

Nhược Tích bĩu môi: “Sao đại vương không đích thân tới Loan Phượng cung làm chủ cho hoàng hậu? Như vậy hiềm khích phu thê sẽ được hóa giải, tin rằng trải qua chuyện này, hoàng hậu sau này không dám tự ý can dự vào quốc sự nữa, sẽ dịu dàng ân cần hầu hạ đại vương.”

Khánh Kỵ nhớ đến thân hình quyến rũ của Quý Doang cũng thấy thèm thuồng, nhưng hắn đột nhiên nghĩ tới đêm đó từng nói cứng từ nay không đặt chân bước vào Loan Phượng cung nửa bước, lời nói ra của một quân vương sao có thể dễ dàng thu lại? Do dự một hồi, Khánh Kỵ lắc đầu, tìm ra một lí do chống chế: “Chuyện nhỏ nhặt trị tội bọn thái giám mà cũng cần quả nhân lo à? Quý Doanh là hoàng hậu Ngô quốc ta, quả nhân muốn dạy cho nàng ấy biết chuyện gì không nên làm, chuyện gì thuộc phạm vi quyền lực của nàng ấy, chuyện hậu cung là chức trách của hoàng hậu, quả nhân xen vào làm chi?”

Tiểu Man nhận được ý chỉ, hí hửng nói: “Đâu cần đợi đến ngày mai, giờ hãy còn sớm, thiếp lập tức đi Loan Phượng cung, báo cho Quý Doanh biết chuyện cắt giảm cung ứng không phải mệnh lệnh của phu quân, cho tỉ ấy khỏi phải chịu thiệt thòi, nhìn thấy dáng vẻ ấy người ta thương hại không chịu được.”

Dứt lời Tiểu Man nhún nhảy chạy ào đi như con chim én.

Khánh Kỵ gọi với theo, Tiểu Man đã đi xa, hắn quay đầu lại, chỉ thấy Nhâm Nhược Tích đang suy tư nhìn chăm chăm vào hắn, đôi mắt ấy như xoáy sâu vào tim hắn, nhìn thấu tâm sự của hắn, Khánh Kỵ thấy bối rối, họ khụ khụ vài tiếng, nói: “Quả nhân… có hơi say rồi, đến lúc nên đi đây.”

Nhâm Nhược Tích bật cười chế giễu, hỏi: “Đại vương nếu đã đến cung của thần thiếp, tại sao đêm nay không ngủ tại đây nào?”

Khánh Kỵ hứ một tiếng, giả đò: “Cùng các nàng huyên thuyên nãy giờ, quả nhân mệt rồi, đêm nay… quả nhân sẽ nghỉ tại cung của Diêu Quang.”

“Dạ, thần thiếp cung tiễn đại vương.”

Nhược Tích phất áo cúi người hành lễ, Khánh Kỵ ho khụ khụ lấp liếm xấu hổ, sải bước đi ra, đi hướng về tẩm cung của Diêu Quang.

Nhược Tích từ từ ngẩng đầu lên, đôi mắt long lanh xoay tròn, lẩm bẩm: “Dám trong đêm tân hôn ra tay vật nhau với phu quân, con cọp cái này đâu dễ bị ức hiếp, nhưng khi bị bọn thái giám cố tình cắt giảm cung ứng, nàng ấy lại nhẫn nhục chịu đựng, đại vương quả nhiên động lòng thương hoa tiếc ngọc. Dùng cương không được, lập tức chuyển qua lấy nhu chế cương, con hồ ly này không giống với vẻ ngoài không biết xài thủ đoạn đâu. Hừm… chỉ là không biết nàng ấy định dùng chiêu gì dẫn dụ phu quân đang tức tối quay lại Loan Phượng cung, tiếp tục đêm động phòng hoa trúc còn bỏ dỡ đây? Hí hí, chờ xem đã…” 

Quý Tôn Tiểu Man một mặt chạy đi gặp Quý Doanh, mặt khác phái người đi gọi các quan viên phục trách chức vụ trong cung đền Loan Phượng cung đợi lệnh. Trước khi hoàng hậu vào cung, các quan viên phụ trách chức vụ trong cung chia ra do ba người Nhược Tích, Diêu Quang, Tiểu Man quản lí. Theo quy tắc, hoàng hậu đã lập, mọi việc trong cung phải giao lại cho hoàng hậu quản lí, do đó ba phi tần vì tránh bị hiềm nghi, từ ngày Quý Doanh vào cung làm hoàng hậu, ngày hôm sau đi bái kiến đã đem hết chức phận giao lại cho nàng ấy.

Nhưng Quý Doanh vừa vào cung đã xung đột gay gắt với Khánh Kỵ, từ đó giống như bị đày vào lãnh cung không thèm đến thăm, các quan viên thái giám đối với nàng ta có phần trễ nải xem thường. Quý Doanh không có đại vương chống lưng, hết cách trừng trị đám nô tài này, các thái giám trong cung vốn cấu kết với nhau, bề mặt thì vâng lệnh sau lưng cố ý gây khó dễ, nàng bị Khánh Kỵ đối xử lạnh nhạt đã đủ mất mặt lắm rồi, chẳng lẽ còn làm dữ lên đến từng nơi giám sát công việc của bọn thái giám?

Đêm đó nàng uống say rượu lỗ mảng đắc tội Khánh Kỵ, tỉnh dậy trong lòng đã cảm thấy vô cùng hối hận, nhưng nàng làm Khánh Kỵ điên tiết, phải tạ lỗi với phu quân thế nào khiến chàng hồi tâm chuyển ý, một tân nương tử chưa từng có kinh nghiệm như nàng lại không biết làm sao xuống nước? Nàng tự tin vào nhan sắc của mình, theo như tình hình đêm đó, Khánh Kỵ có phần mê hoặc bởi nhan sắc của nàng, hắn chỉ ghét thái độ ngang tàng bướng bĩnh của nàng mà thôi, giờ đây nàng không giúp được tỉ tỉ, còn đẩy mình vào cảnh tuyệt vọng, mỗi khi nhớ tới những lời răn đe của tỉ tỉ, trong tim nhói đau, hối hận cũng quá muộn màng.

Thật ra Quý Doanh sinh trưởng trong chốn thâm cung, các phi tần hậu cung ai ai cũng biết cách chiều chồng, Quý Doanh nghe nhiều thấy nhiều, sao mà không nhận ra đạo lí lấy nhu chế cương, cơm sôi bớt lửa chứ? Chẳng qua nàng là công chúa danh giá, ngay cả quốc quân Tần quốc cũng nhường nàng ba phần, tập cho nàng cái tính ngang ngược kiêu ngạo từ nhỏ, thêm vào đêm đó uống say, nên mới không sợ trời không sợ đất làm bừa. Nay được dạy cho một bài học, trong lúc đau lòng muốn sửa chữa sai lầm, chỉ còn cách chọn con đường vòng để đi thôi, hảo hán cũng có lúc mềm lòng, chỉ cần đại vương tỏ lòng thương hoa tiếc ngọc với nàng, sợ gì lúc đó chàng không yêu chiều bỏ qua chuyện cũ?

Với tính khí cao ngạo của nàng, buộc phải nhẫn nại chịu sự hà hiếp khinh miệt của đám nô tài đê hèn, giờ đây coi như đợi được giây phút trời quang mây tạnh, le lói một tia hy vọng.

Quý Tôn Tiểu Man gọi hết tất cả quan viên trong cung ra, trước mặt mọi người chỉ rõ tội giả truyền thánh chỉ của bọn thái giám phụ trách cung cấp băng đá, ngược đãi hoàng hậu, sau đó truyền đạt ý chỉ của đại vương, mời hoàng hậu xử trí bọn chúng.

Quý Doanh không làm theo ý kiến đề xuất của Khánh Kỵ là đánh cho bọn thái giám một trận sau đó đuổi đi làm nô dịch. Khánh Kỵ đã không chịu ra mặt, cũng không giao cho Tiểu Man xử lí hộ, mà giao quyền xử lí cho Quý Doanh, chính là muốn thông qua đó nói với nàng: Việc không cần nàng lo đừng mó tay vào, việc thuộc phạm vi trách nhiệm của nàng thì tự gánh lấy.

“Được! Nếu đã vậy, ta sẽ căn cứ theo quy tắc trong hậu cung để xử lí.”

Trong đầu Khánh Kỵ đang tồn tại cùng lúc kí ức của hai người Khánh Kỵ và Tịch Bân, hơn nữa tính tình chịu ảnh hưởng to lớn từ nhân vật Tịch Bân thời hậu thế, quan niệm về nhân quyền khá tiến bộ, nên tuy hắn đang trong lúc tức giận, nói đến xử phạt cũng chịu ảnh hưởng vô thức theo tư tưởng thời hiện đại, với hắn việc đánh đòn đuổi đi làm nô dịch đã là hình phạt nặng lắm rồi, mà không biết trong quy tắc cung đình thời đó, cách xử trí của hắn mới là nương tay, làm sai quy tắc.

Quý Doanh tuy muốn làm lành với Khánh Kỵ, nhưng nàng tính cách quật cường, dù là thời khắc này cũng không muốn làm khác đi, chỉ biết ngoan ngoãn làm con sâu nghe lời. Khinh thường hoàng hậu tội cực nặng, thử nghĩ vào thời đại dân thường đắc tội với quý tộc thì quý tộc có giết chết cũng không phải mang tội, một tên thái giám nô tì nào đó dám coi thường hoàng hậu đâu có chuyện đánh vài gậy là dễ dàng cho qua?

Quý Doanh từ khi vào hoàng cung, vì bị Khánh Kỵ đối xử lạnh nhạt không có cơ hội thể hiện mình, trong mắt đám thái giám cung tì đó chỉ là hình ảnh một hoàng hậu cô độc lẻ loi, không có chủ ý, tính tình nhu nhược, ai ngờ lúc này hoàng hậu bỗng bộc phát ra tính cách thật của nàng.

Nếu đã có chỉ ý của đại vương, Quý Doanh bèn làm đúng trách nhiệm của hoàng hậu, chỉ trích xong tội trạng của tên thái giám phụ trách cung cấp băng đá, sai người đem hắn ra đánh cho đến chết, sau đó gọi hết các quan viên phụ trách trang sức, áo lông, lễ phục, đưa tin, thêu thùa, giày guốc, xe ngựa, ngự thiện, điêu khắc… đến trước mặt nghe giáo huấn. Quý Doanh đanh mặt, gằn giọng kể rõ chi li từng chút sai sót ở đâu, sổ sách không rõ ràng nơi nào, ai có hiện tượng lạm dụng vật phẩm hoàng thất… Nàng chỉ ra rõ ràng đâu ra đó.

Đám thái giám kinh hãi, không ngờ tiểu hoàng hậu nhìn hiền lành dễ ức hiếp lại xử sự quả quyết nghiêm minh, hơn nữa còn sớm dò hỏi biết hết chúng gian dối như thế nào, khả năng quản lí hậu cung không thua kém với Nhược Tích hoàng phi, hơn nữa thủ đoạn còn có phần độc ác hơn, nghe tiếng kêu gào đau đớn của tên thái giám phụ trách cung cấp băng đá không ngừng vọng đến, người nào người nấy run lẩy bẩy, lạnh toát cả sống lưng, mặt mày trắng bệch. Quý Doanh hoàng hậu lần này ra oai lập uy, các thái giám cung tì nghe trách phạt xong sợ sệt ra khỏi Loan Phượng cung, đi xa rồi tim còn đập thình thịch muốn rớt ra ngoài.

Quý Doanh truyền lệnh xử phạt, Quý Tôn Tiểu Man không tiện lên tiếng ngăn cản, đến khi tất cả nô tài lui xuống, Tiểu Man mới lo lắng lên tiếng: “Hoàng hậu, ý của đại vương chỉ là đánh cho tên thái giám một trận, sau đó đuổi đi làm nô dịch, bây giờ tỉ lại làm trái ý chỉ đại vương, có sợ… sợ đại vương không vui? Muội thấy hình như… hình như đại vương đã sắp nguôi giận với tỉ rồi.”

“Tiểu Man muội tử.”

Quý Doanh nắm lấy tay Tiều Man, hai mắt đỏ ngầu, sụt sùi kể: “Quý Doanh đường xa vạn dặm gả đến Ngô quốc, không người thân kề bên, trong lúc chịu ức hiếp của bọn nô tài, chỉ có Tiểu Man muội tử là người đối xử tốt với Quý Doanh. Tiểu Man muội muội tuy còn nhỏ hơn Quý Doanh một tuổi, nhưng cách đối nhân xử thế tỉ không bằng muội, hơn nữa quan tâm chiếu cố, trượng nghĩa giúp đỡ Quý Doanh, suốt đời này Quý Doanh không dám quên ơn.

Quý Doanh chỉ là phận nhi nữ, nếu đã rời xa quê hương đến Ngô quốc làm hoàng hậu, suốt đời này đừng mong có cơ hội trở về, sao mà không hy vọng có thể cùng phu quân của mình ân ái cả đời chứ? Quý Doanh từng lỗ mảng làm sai đắc tội với đại vương, sao mà không mong đại vương có thể hồi tâm chuyển ý chứ? Muội muội nhất định đã nói tốt giùm Quý Doanh trước mặt đại vương, muội không nói ra nhưng tỉ cũng đoán được mà.”

Nói đến đây, nàng thở dài ngao ngán: “Hôm nay đại vương bảo muội đến truyền đạt ý chỉ, chủ trì công đạo cho tỉ tỉ, tỉ đã biết đại vương có ý tha thứ, nhưng cho dù… cho dù…”

Quý Doanh cắn chặt răng, khóc lóc: “Cho dù đại vương lại giận tỉ, suốt đời này không thèm gặp mặt tỉ, tỉ cũng không thể vì muốn đại vương vừa ý mà chuyện gì cũng làm khác quy tắc được.”

Nàng lau nước mắt, gượng cười nói tiếp: “Lúc ở Tần quốc, huynh trưởng từng nói tỉ là con ngựa hoang khó thuần phục, sau này không biết vị công tử nhà nào chịu cực rước phải tỉ. Nay lấy phải một dũng sĩ có sức mạnh quật ngã bò tót, con ngựa hoang trong tỉ muốn lồng lên cũng không được rồi. Chàng đã là phu quân của tỉ, muốn tỉ chiều theo nghe theo có gì là khó? Nhưng Quý Doanh là Quý Doanh, những gì tỉ làm sai tỉ sẽ nhận lỗi, những gì tỉ cảm thấy đúng thì tỉ vẫn sẽ làm.”

Quý Tôn Tiểu Man nhìn chăm chăm vào hoàng hậu hồi lâu, nắm lấy bàn tay nàng tâm sự: “Tiểu Man cứ nghĩ mình đã là ngang bướng lắm rồi, không ngờ tính cách của nữ nhi Tây Tần lại mạnh mẽ như thế. Ây! Mong rằng đại vương nhận ra điểm tốt của tỉ, đừng nổi giận vô cớ nữa là tốt.”

Đêm hôm đó, Khánh Kỵ trong tẩm cung của Diêu Quang nghe tin hoàng hậu Quý Doanh ra oai lập uy, ra lệnh đánh chết tên thái giám, chỉ trích tội trạng của các quan viên phụ trách sự vụ trong cung. Diêu Quang ngồi trên giường mặc áo tơ mỏng tang, để hơ hớ bầu ngực căng tròn, cầm lược chải nhè nhẹ suối tóc óng mượt, nghiêng đầu liếc nhìn sắc mặt Khánh Kỵ, dò hỏi: “Hoàng hậu… lại không làm theo ý của đại vương, nhưng… hoàng hậu chỉ là xử lí theo quy tắc trong cung, vốn cũng không có gì sai trái, đại vương không để bụng chứ nhỉ.”

Khánh Kỵ nằm trên giường, một tay kê dưới đầu làm gối, tay kia vỗ nhẹ lên đùi Diêu Quang, cúi mặt suy tư không nói tiếng nào.

Diêu Quang lại nói: “Một gia đình quý tộc, nếu gia chủ dung túng thì đám nô tài cũng ỷ thế hiếp đáp, nói gì đến một hoàng cung rộng lớn, bao nhiêu nô tì thái giám, quy tắc không nghiêm, chủ tớ tôn ti trật tự không phân chia rõ ràng, sau này chắc chắn nảy sinh nhiều chuyện rắc rối, thậm chí… những chuyện đáng xấu hổ không thể nói một khi xảy ra, lúc đó phải làm sao giải quyết? Cách xử phạt của đại vương đúng là hơi nhẹ, truyền ra ngoài người ta còn tưởng đại vương có ý dung túng thái giám ức hiếp hoàng hậu, nên hắn mới dễ dàng thoát tội. Hoàng hậu làm vậy, cũng tốt cho danh tiếng của đại vương. Ây! Nói ra ấy mà, với tình cảnh bây giờ của hoàng hậu, còn dám… người ta… người ta quả thật khâm phục đó.”

Diêu Quang mỉm cười dịu dàng: “Khó trách Quý Doanh làm được hoàng hậu, Diêu Quang bây giờ mới cảm thấy người như thế mới xứng đáng làm hoàng hậu.”

Khánh Kỵ bật cười, đột nhiên hỏi bâng quơ: “Hoàng thất nhà Tần… vốn bắt nguồn từ Đông Di à?”

“Đúng vậy.” Diêu Quang đặt chiếc lược ngà voi xuống, hất mái tóc ra sau lưng, cài lên cây trâm ngọc, nằm xuống bên cạnh Khánh Kỵ, nép sát ngực hắn.

Diêu Quang đưa tay Khánh Kỵ đặt lên eo nàng, sau đó bò lên ngồi vào tấm ngực trần rắn chắc của hắn, dịu dàng nói: “Đông Di Thiếu Hạo thị được Nghiêu đế ban cho họ Doanh, sau đó họ Doanh sinh sôi nảy nở, sản sinh ra mười bốn quốc gia khác như Lý, Triệu, Hoàng, Từ, Lương, Tần… Nhưng bây giờ người mang họ Doanh không còn nhiều, ngoài bộ lạc Đông Di của Doanh Thiền Nhi ra, còn lại chính là Doanh thị ở Tây Tần. Tây Tần vốn xuất thân từ Đông Di, người Tần giỏi cưỡi ngựa bắn cung, một bộ phận người trong họ tộc di cư sang phía Tây tìm thảo nguyên du mục, được Chu Hiếu Vương phong cho Tần Xuyên, đến sau này Doanh thị có công hộ tống Chu Bình Vương, nên được sắc phong chư hầu lập quốc.”

Khánh Kỵ thở dài, lẩm bẩm: “Chả trách…”

Diêu Quang chớp mắt, hỏi dồn: “Chả trách cái gì?”

“Chả trách nàng ấy lại…, Ây! Thì ra quê hương xưa kia của nàng ấy là tỉnh Sơn Đông…”

“Hở? Ấy… đừng…”

Diêu Quang còn chưa kịp hỏi tiếp, Khánh Kỵ đã xoay người lại đè nàng xuống dưới, Diêu Quang cười khanh khách, hai tay chặn trước ngực hắn, đôi chân thon dài của nàng kẹp lấy lưng hắn, đôi mắt mở to say đắm nhìn vào phu quân, tạm thời gác lại những nghi vấn trong lòng, cảm giác đê mê ập đến, nàng đang phiêu diêu ngoài chín tầng mây… Trong lúc Khánh Kỵ tiến hàng chiến tranh lạnh dạy dỗ hoàng hậu trong hậu cung hoàng cung Ngô quốc, cuộc chiến đòi lại tôn nghiêm của hắn tiến đánh Trần quốc đang diễn ra quyết liệt. Bình Bố dẫn đại quân công phá vào thành trì của Trần, thế như chẻ tre, lúc này đã tiến đánh đến tận dưới chân thành kinh đô Uyển Khâu của Trần quốc.

Uyển Khâu có tường thành hình vuông, dài chín dặm mười ba trượng, thành cao hai trượng bốn thước, có bốn cánh cổng, mỗi cổng có ba lớp cửa, bao bọc xung quanh còn có tường thành làm bằng đất thấp chừng hơn một trượng dùng ngăn nước lũ, quân Trần vốn phòng ngự bên ngoài, nhưng quân Ngô tấn công mạnh mẽ, quân đội Trần quốc xét về binh lực lẫn sức chiến đấu đều thua xa đối phương, buộc phải rút vào bên trong cố thủ, quân Ngô đã chiếm đóng thành công bức tường ngoài.

Với tường thành có độ cao chỉ hơn hai trượng của thành Uyển Khâu, muốn phòng ngự trước vũ khí công thành lợi hại của quân Ngô chẳng khác nào đang nằm mơ giữa ban ngày, quân Ngô cũng chẳng cần xuất quân, chỉ cần lắp đặt máy bắn đá bắn phá một hồi là san bằng cả Uyển Khâu, cũng may quân Ngô tiến đến sát thành đã ngưng tiếp tục tấn công, sai người đưa thư vào thành, kêu gọi Trần quốc đầu hàng. Hiện giờ khắp thành Uyển Khâu nháo nhào sợ sệt, quốc quân nhà Trần hoảng hốt triệu tập quần thần lên cung điện chật hẹp nghị sự, đối mặt với đại quân Ngô quốc hung hăng đang vây hãm nhất thời không tìm ra đối sách.

Quân chủ Trần quốc là Trần Ngô, là cháu của Trần Ái Công, nói ra thì Trần quốc này kể cũng tội nghiệp, đất nước nhỏ bé này xưa nay luôn tự biết thân biết phận không dám đắc tội với ai, nhưng lại thường bị người khác ức hiếp, năm xưa Sở Linh Vương dấy binh tấn công Trần quốc, diệt Trần xong đưa con trai Hùng Khí Trạch lên làm quân chủ Trần quốc, Hùng Khí Trạch làm năm năm quốc quân Trần quốc, Sở Linh Vương băng hà, Hùng Khí Trạch về nước kế vị, chính là Sở Bình Vương sau này bị Ngũ Tử Tư quất roi đánh xác.

Sở Bình Vương lên ngôi Sở vương, vì muốn hàn gắn quan hệ với các nước xung quanh, bèn khôi phục Trần quốc, đưa cháu của Trần Ái Công là Trần Ngô lên làm quốc quân, Trần Ngô trị vì mới mười mấy năm, nay quân Ngô lại đánh tới, nước lớn chỉ tìm cớ tiêu diệt nước bé, Trần quốc chỉ có vài thành trì, binh lực vài ngàn thì sao mà chống cự nổi?

Trần Ngô sầu não cất tiếng: “Các vị ái khanh, đại quân của Ngô đã đánh đến tận kinh đô, người Ngô phái sứ giả lệnh cho quả nhân đầu hàng, không biết các vị ái khanh có sách lược cứu quốc nào không?”

Trần quốc quá bé nhỏ, khắp triều đình không có bao nhiêu đại thần, ngay cả lục khanh cũng không đủ, tư đồ đại phu tóc bạc phơ là thúc phụ Trần Minh, Trần Minh rơi lệ nói: “Quốc quân, Trần quốc nhỏ bé của ta vốn sống sót dưới hơi thở của nước lớn, nước lớn giơ tay múa chân là đủ diệt Trần quốc ta, nay quân Ngô xua quân tiến đánh, chỉ cần hạ lệnh là lập tức san bằng Uyển Khâu, chúng ta còn biết làm gì hơn? Bình Bố đã nói chỉ cần quốc quân chịu dâng thư đầu hàng quy thuận Ngô quốc, sẽ phong quốc quân làm hầu tước, thưởng cho bổng lộc, phủ đệ, Ngô quốc còn một ngày, tông thất hậu duệ họ Trần không đứt mạch, quốc quân… hay là đầu hàng đi vậy.”

“Tuyệt đối không được!” Thái tể Phí Vô Bệnh gầm lên, hắn chính là đệ đệ của Phí Vô Cực. Sở vương khôi phục Trần quốc nhưng vì muốn khống chế nên phái đệ đệ của Phí Vô Cực tới đây làm thái tể, tuy Trần Ngô mới là quốc quân nhà Trần, nhưng Phí Vô Bệnh có huynh trưởng chống lưng ở Sở, hắn mới là người nắm quyền sau lưng thật sự tại Trần, ngay cả Trần Ngô cũng chỉ là bù nhìn làm theo ý hắn, nghe hắn lên tiếng phản đối, Trần Ngô sợ sệt không dám tỏ thái độ.

Trần Minh lườm Phí Vô Bệnh, lạnh lùng nói: “Thái Tể đại nhân, hiện giờ quân Ngô đánh tận đến kinh đô, ngài có cách gì giải quyết quốc nạn?”

Phí Vô Bệnh tự tin trả lời: “Bổn đại phu đã phái người đi Sở cầu viện, đại quân Sở quốc mà đến, quân Ngô lập tức bị đánh lui, có gì mà phải lo lắng?”

Trần Minh cười mỉa: “Thái tể đại nhân, quân Sở mà ngài nói hiện đang ở đâu nào? Quân Ngô dưới sự chỉ huy của Hạp Lư, từng với năm vạn đại quân đánh tận Dĩnh Đô, buộc Sở vương phải trốn vào núi sâu. Hạp Lư tài giỏi như thế còn bại trận dưới tay Khánh Kỵ. Khánh Kỵ là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, từ khi kế thừa vương vị, trị vì sáng suốt, Ngô quốc ngày càng lớn mạnh, nay lại liên minh với Tần, sắp trở thành bá chủ Đông Nam, Còn Sở? Bại tướng của bại tướng Khánh Kỵ, dám đưa quân cứu viện chúng ta à? Có cứu được không?”

Phí Vô Bệnh trừng mắt giận dữ, ánh mắt hung tợn quét khắp đại điện, rít lên: “Lão già chết tiệt này, việc ở Trần quốc từ khi nào đến lượt ngươi làm chủ hả? Ngô quân vừa đến là ngươi ăn phải gan hùm à, chẳng lẽ lão già ngươi sớm đã tư thông với người Ngô, nếu không Trần quốc ta sao lại thua chóng vánh thế này?”

“Ngươi…” Trần Minh chỉ vào hắn, tức tối đến nỗi run bần bật: “Tên thất phu nhà ngươi, ở Trần quốc ta dối trên lừa dưới, diễu võ giương oai, làm cho Trần quốc dân bất liêu sinh, bá tánh đói khổ, ngay cả nơi ở của quốc quân còn tàn tạ, nhà ngươi lại ăn ngon mặc sướng, xà xẻo của cải dân Trần ta làm của riêng. Sau lưng ngươi có đại gian thần Phí Vô Cực của Sở chống lưng, vì an nguy của Trần quốc, lão phu nhịn ngươi. Nhưng hôm nay… hôm nay…, họ Trần ta đừng nói đến giang sơn xã tắc, ngay cả huyết mạch còn khó giữ, quân Ngô một khi công phá vào thành sẽ đuổi cùng giết tận, lão phu vào lúc này không thể giả câm giả điếc được nữa…”

“Tư đồ đại nhân…” Trần Ngô tuy là quốc quân nhưng không hề có chút uy nghi, sợ Phí Vô Bệnh làm bừa nên bước lên ngăn cản, kéo lấy thúc phụ nói: “Tư đồ đại nhân đừng nói tiếp nữa.” Hắn sợ thúc phụ chọc giận Phí Vô Bệnh, nếu tên gian thần điên lên hại người thì quốc quân như hắn cũng không biết phải làm gì.

“Thả ta ra!” Trần Minh giựt tay ra, râu tóc phất phơ, đôi mắt đỏ rực: “Quốc quân, nếu làm một quốc quân không có thực quyền, suốt ngày bị tên tiểu nhân này hà hiếp, chi bằng ta đầu hàng Ngô quốc, lão phu tuy già hoa cả mắt, nhưng trái tim này vẫn còn sáng lắm, ta thấy người tài tề tụ dưới trướng Ngô vương, sau này chắc làm nên nghiệp lớn, đầu hàng Ngô quốc làm một công hầu, vẫn hơn núp ở Uyển Khâu thành này bị kẻ tiểu nhân sắp đặt.”

“To gan!” Phí Vô Bệnh chưa từng bị người khác nói nặng như vậy, vừa tức vừa hận, hắn gào lên: “Sở quốc khôi phục được Trần quốc thì cũng diệt được Trần quốc, các ngươi chán sống rồi phải không? Đợi khi đại quân Sở quốc của ta mà đến…”

“Đợi quân Sở đến, lúc đó Uyển Khâu đã tan tành, huyết mạch họ Trần từ nay tuyệt diệt rồi.”

Trần Minh hét còn to hơn hắn, nước miếng phun phì phì vào mặt hắn: “Lão phu sống đã bảy mươi sáu năm rồi, thế là quá đủ, ta chết không sao, nhưng ta không thể nhìn trưng trưng bỏ mặc con cháu họ Trần ta chôn sống theo hai huynh đệ gian thần nhà ngươi! Người đâu, người đâu, bắt tên tiểu nhân này cho ta!”

Phí Vô Bệnh cười khẩy: “Thị vệ trong cung đều là tâm phúc của ta, ai nghe lệnh của lão thất phu nhà ngươi chứ?”

Không ngờ Trần Minh vừa hét lớn, bên ngoài lập tức có bốn người xông vào, ba người là gia tướng của Trần Minh, người còn lại là con cháu dòng dõi họ Trần, bốn người đã được Trần Minh dặn dò trước, xông vào không nói tiếng nào vật Phí Vô Bệnh xuống đất.

“Ngươi to gan lắm.” Phí Vô Bệnh giãy giụa, trừng mắt nhìn Trần Minh: “Người đâu, bắt lão già này cho ta!”

Võ sĩ trên điện đều là người của Phí Vô Bệnh, chúng chỉ bất ngờ chưa kịp phòng bị nên mới bị mấy gia tướng của Trần Minh hành động trót lọt, lúc này nghe lệnh chủ nhân, chúng lập tức rút binh khí bao vây Trần Minh.

“Giết hắn!”

Trần Minh hét to, một gia tướng của hắn rút kiếm ra đâm thẳng vào tim Phí Vô Bệnh.

“Ngươi… ngươi… ngươi dám… hự…” Phí Vô Bệnh bị đâm một nhát chí mạng, toàn thân co giật một hồi, đôi mắt vẫn nhìn trừng trừng giận dữ, không lâu sau tắt thở.

Trần Ngô thấy thế đứng trơ ra, các võ sĩ thân tín của Phí Vô Bệnh thấy chủ nhân đã chết, trong một lúc cũng đứng yên không biết nên làm gì.

Trần Minh bước tới rút thanh kiếm cắm ngay ngực của Phí Vô Bệnh ra, máu tươi bắn phọt ra nhuộm đỏ cả áo hắn, Trần Minh đứng thẳng người, trừng mắt nhìn đám võ sĩ, hét to nghiêm nghị: “Các ngươi ăn gạo của Trần quốc, mặc áo của Trần quốc, tại sao không trung thành với quốc quân họ Trần? Nay đại quân của Ngô đang đóng ngoài thành, chỉ cần họ tấn công vào thành, già trẻ lớn bé nhà các ngươi có giữ được không? Quốc quân đã quyết định dâng thư đầu hàng, các ngươi muốn theo quốc quân hay là theo tên Phí Vô Bệnh đã chết này?”

Các võ sĩ ngơ ngác nhìn nhau, trong một lúc khó quyết định, hồi lâu sau một tên võ sĩ đột nhiên buông tay, thanh thanh đồng kích cầm trên tay rơi keng xuống đất, các võ sĩ khác lập tức làm theo, ai nấy ném bỏ hết binh khí.

Trần Minh quay sang Trần Ngô, vái lạy: “Quốc quân, giờ ta chỉ còn cách đầu hàng, mới bảo toàn huyết mạch họ Trần được. Hy thành phía Đông Uyển Khâu của ta, chính là nơi thờ thánh nhân Phục Nghi thị và Thần Nông thị, người Ngô kính nể không đến tấn công, Thái Hạo lăng ở thành Tây, quân Ngô cũng không đi xâm phạm, đây là đội quân nhân nghĩa. Phân tách lâu thì nên hợp lại, đó là đạo trời, Trần quốc của ta chỉ là thuận theo ý trời, Ngô vương Khánh Kỵ xưa nay giữ chữ tín, tin rằng ngài không nuốt lời, hôm nay nộp thành đầu hàng, ngài chắc đối xử tốt với họ tộc Trần thị của ta.”

Trần Ngô cúi đầu ngờ nghệch hồi lâu, thở dài ngao ngán: “Thôi vậy, Trần Ngô ơi là Trần Ngô, ngôi vị của ta được ông trời sắp đặt phải hàng Ngô rồi. Thúc phụ…, thúc phụ thay quả nhân ra thành xin đầu hàng vậy.”  Phí Vô Cực ở Sở liên tiếp nhận được tin báo khẩn từ đệ đệ, lúc đầu cũng không muốn xuất binh, chỉ phái tâm phúc Yển Tương Sư đi sứ sang Ngô, định thông qua ngoại giao ép Ngô lui binh, không ngờ Úc Bình Nhiên phụ trách tiếp đón sứ giả Sở quốc miệng lưỡi lươn lẹo, hôm nay thì nói quân Ngô sắp rút quân, mai lại to tiếng bảo sĩ khả sát bất khả nhục, Ngô vương chịu nhục sao mà nhịn được? Làm cho Yển Tương Sư không biết người Ngô rốt cuộc đang nghĩ gì.

Đợi khi Ngô quốc bao vây thành Uyển Khâu, Yển Tương Sư mới vội quay về nước. Phí Vô Cực điên tiết, liền phái Yển Tương Sư dẫn ba vạn đại quân đến Trần cứu viện, ai ngờ quân Ngô như biết trước đường đi nước bước của quân Sở, họ vừa bước vào lãnh thổ Trần quốc, đại tư mã Anh Đào đích thân dẫn một vạn năm ngàn quân kéo đến mai phục, thả tiền quân đi qua, tập kích từ phía sau đánh cho Yển Tương Sư tan tác, còn bị bắn trúng một mũi tên vào mông, mũi tên có tẩm độc dược của người Đông Di, sau khi độc phát khắp người phù nề, làm cho Yển Tương Sư nhìn giống một con heo mập.

Hắn khó khăn lắm mới trốn được vào doanh trại, sau khi tỉnh lại nghe thám tử báo tin quốc quân Trần quốc đã giết chết Phí Vô Bệnh, dẫn theo quan viên mở cửa thành, nạp quốc ấn đầu hàng người Ngô rồi.

Yển Tương Sư chửi bới điên cuồng, chửi đến khi không còn nước bọt, hắn quyết định dẫn đám tàn binh bại tướng rút lui về nước. Phí Vô Cực nghe tin đệ đệ chết thảm, Trần quốc hàng Ngô, tức giận đấm ngực đùng đùng, hắn đứng trên tường thành Dĩnh Đô chỉ tay về hướng Trần quốc chửi một trận cho đã, xong lại quay sang hướng Ngô quốc chửi tiếp, nhưng nghĩ đến phải giao chiến với quân đội lang sói của Ngô, hắn lại thấy e dè.

Phí Vô Cực đang do dự có nên xuất binh đánh Ngô hay không, có thám tử chạy đến báo tin, vì Ngô quốc chiếm Bành thành của Tống, hai bên xảy ra xung đột, Tống quốc đã tăng quân tại biên giới, hình như muốn đánh trả quân Ngô. Phí Vô Cực thấy có cơ hội, đang định phái sứ giả sang Tống bàn chuyện cùng xuất quân giáp chiến quân Ngô cả hai mặt Nam, Bắc. Lại nghe thân tín bẩm báo có đại phu Việt quốc Duệ Dong đem theo mấy xe châu báu mỹ nữ vừa vào Dĩnh Đô xin gặp hắn.

Việt quốc đại phu Duệ Dong lần này đi sứ sang Sở, mang theo lễ vật cống nạp nhiều hơn gấp bội so với Cao Như đại phu lần trước. Việt quốc nằm sát ngay phía dưới Ngô quốc, nếu người Việt có thể liên minh thành công với người Sở, vậy cơ hội giành phần thắng của Phí Vô Cực và cả Việt quốc đều mạnh lên rất nhiều.

Người Việt bị Ngô quốc chèn ép quá đáng, đòi cống nạp cũng không hề ít, Chúc Dung lúc ở Việt quốc càng giống như là thái thượng hoàng, hay quát nạt sai bảo Việt vương DoãnThường, khiến Doãn Thường tức tối bề ngoài thì ra vẻ phục tùng răm rắp, sau lưng tức giận đùng đùng, khi xưa Câu Tiễn lấy lí do phụ vương lâm trọng bệnh, kẻ làm con phải trọn chữ hiếu hầu hạ bề bên, lần này thì Việt vương đúng là bị chọc cho phát bệnh. Hai nước Sở và Việt đều có thù oán sâu nặng với Ngô quốc, đương nhiên dễ dàng tâm đầu ý hợp nhau.

Phí Vô Cực và người Việt bí mật kí kết hiệp ước liên minh cùng tấn công Ngô quốc, lại đem tin tức Ngô quốc và Tống quốc kết oán nói ra. Duệ Dong vốn là người mưu mẹo, vừa nghe Phí Vô Cực nói Tống và Ngô vì vấn đề Bành thành xảy ra xung đột, hắn mừng rơn trong lòng, cảm thấy thời cơ đã đến, vội kiến nghị với Phí Vô Cực, lôi kéo Tống quốc gia nhập làm đồng minh của họ, bảo quân Tống chủ động tấn công quân Ngô, thu hút binh lực của Ngô lên phía Bắc, sau đó liên quân Sở Việt đánh úp vào Ngô từ sau lưng, cho dù không diệt được Ngô quốc, cũng có thể bẻ gãy uy danh của Khánh Kỵ, báo thù chuốc hận.

Phí Vô Cực đã sớm có ý định kéo Tống quốc vào cuộc, chỉ là không nghĩ đến mưu kế thâm độc như Duệ Dong, nghe hắn trình bày, cảm thấy quá tuyệt. Khánh Kỵ hiện nay đã liên tiếp thả ba đợt quyền quý cũ của Sở về nước, số quyền quý này đều là thượng khanh chức cao quyền trọng, một tay che trời vào thời Nang Ngõa còn đang lộng quyền, ai nấy xét về quyền thế, về tư cách đều không hề thua kém Phí Vô Cực.

Giờ đây hắn thay thế vị trí của Nang Ngõa, giữ chức Lệnh doãn của Sở quốc, ngay cả Sở vương và Sở thái hậu cũng khiếp sợ dưới quyền lực của hắn, thế lực hơn cả Nang Ngõa năm xưa, nhưng đám cựu thần này chưa từng lãnh giáo qua sự lợi hại của hắn, khi xưa chẳng qua chỉ là đồng vai vế, nay họ qua Ngô làm khách hơn một năm, trở về nước mới phát hiện quyền thế chức quan của mình bị người khác thay thế hết, thử nghĩ họ sao mà chịu buông tay?

Trong đám người này có không ít gia chủ thế tộc, khi bị bắt qua Ngô người kế vị là con cháu của họ, bây giờ gia chủ cũ quay về, đám con cháu dù muốn dù không cũng phải giao trả quyền lực, có trường hợp cá biệt không chịu giao trả, trong gia tộc thế là xảy ra mâu thuẫn nội bộ, ngấm ngầm đấu đá nhau không lúc nào yên.

Những chuyện cỏn con này lúc đầu vẫn chưa làm phiền đến Phí Vô Cực, nhưng số quyền thần nhờ bợ đỡ hắn mới được giữ chức thì khác, chúng dựa vào Phí Vô Cực nên mới nắm giữ được quyền lực, nay có đám người cũ chạy về tranh giành, chúng đâu chịu dễ dàng giao trả những thứ đang có trong tay ra, hơn nữa chúng đều thuộc phe của mình, Phí Vô Cực cũng không muốn thay thế chúng đưa đám quyền quý cũ lên mà chưa biết chắc có chịu nghe lời hắn hay không.

Mấy lão già này đúng là hay sinh sự, suốt ngày liên lạc tụ tập gây hấn với nhau trong thành Dĩnh Đô, chốc chốc lại tìm đến phủ Phí Vô Cực kể lể thở than, làm cho hắn đã bực bội càng bực bội thêm, gần đây Phí Vô Cực đã hết chịu nổi, hắn dọn ra khỏi Dĩnh Đô, lấy cớ đi trốn nóng dọn đến Điếu Ngư Các tại Chử cung.

Đám quyền thần mới được thả về đâu chịu buông xuôi, Phí Vô Cực vừa đi khỏi, chúng bèn chạy đến tìm thái hậu và Sở vương van nài, còn tìm cớ này cớ kia chửi mắng Phí Vô Cực cho hả giận, đám người này kể ra cũng có gốc gác, uy danh cũng không nhỏ, nhất thời Phí Vô Cực không dám manh động ra tay hãm hại, lúc này đây hắn đang buồn phiền, đau đầu không nghĩ ra cách phân chia quyền lực, giải quyết cho êm chuyện.

Nếu quả thật phạt Ngô thành công, thì hắn coi như giải quyết xong chuyện này. Khi phạt Ngô thắng lợi, hắn vì trả được mối thù Hạp Lư công phá đô thành Dĩnh Đô Sở quốc, danh vọng chắc chắn lên cao, đến lúc đó mấy lão già quyền quý này sẽ không dám có ý kiến trước mặt hắn nữa. Hơn nữa một khi giành thắng lợi trong cuộc chiến đánh Ngô, các đại phu phe cánh của hắn ai nấy đều có công lớn, họ có thể danh chính ngôn thuận giữ chức quan, còn đám quyền thần thất thế cũ đâu còn mặt mũi nào mà chạy ra đòi hỏi.

Nghĩ đến lợi ích này, Phí Vô Cực vội bảo Duệ Dong về Việt quốc trước liên lạc với Việt vương Doãn Thường, bàn bạc chi tiết kế hoạch liên minh phạt Ngô, một mặt hắn phái tâm phúc phi ngựa đến Tống quốc thăm dò ý định của người Tống, nếu quả thật Tống và Ngô xảy ra xung đột, bèn liên lạc luôn người Tống, dù kế điệu hổ ly sơn, cùng nhau tiêu diệt Ngô quốc.

Phí Vô Cực đang gấp rút tiến hành kế hoạch nham hiểm, bên kia chuyện lập quốc của Doanh Thiền Nhi cũng đang định ngày hoàn thành. Khánh Kỵ và Vệ phu nhân Nam Tử liên lạc, thông qua Nam Tử bắn tiếng với quốc quân Tống quốc, ngỏ ý Tống quốc cùng phối hợp diễn tuồng với hắn, quân đội hai bên cố ý xung đột, từ đó không ngừng tăng quân tại biên giới Ngô Tống, tạo ra hiện tượng giả là hai nước sắp xảy ra đại chiến.

Hai nước Vệ Tống được Khánh Kỵ giúp đỡ, thuyết phục Tần quốc xuất binh, kẻ địch uy hiếp lớn nhất của họ là Tấn quốc giờ đã tan rã, vì đền ơn đáp nghĩa, yêu cầu nhỏ nhoi phối hợp diễn màn kịch này đương nhiên không có lí do gì phải chối từ.

Mục đích thật sự của Khánh Kỵ trong hành động này chính là Đông Di và Sở, Việt. Đây là kế một mũi tên bắn chết hai con nhạn, tăng quân trú đóng Bành thành, đóng gần vùng đất Đông Di, ngộ nhỡ Doanh Thiền Nhi đăng cơ gặp trở ngại, có thể phát động đại quân dùng vũ lực trấn áp. Nếu Đông Di thuận lợi lọt vào tay hắn, lúc đó sẽ cho “Cuộc chiến tranh biên giới Ngô, Tống” leo thang, dụ liên quân Sở Việt tấn công vào đại bản doanh Ngô quốc. 

Mồng một tháng năm, còn bốn ngày nữa là Độc nguyệt Ác nhật, vào đúng Đoan Ngọ, truyền thuyết nói đây là ngày gian tà tứ xuất. Khánh Kỵ leo lên lầu cao, dõi mắt về hướng Tây Bắc, nghĩ đến cảnh tượng Tần quốc xuất binh, lục khanh phân chia Tấn quốc, trái tim hắn khua thình thịch liên hồi, máu nóng dâng trào, chỉ tiếc là vào thời đại đó không có phóng viên chiến trường, cũng không có truyền hình trực tiếp, đợi tin tức bên kia truyền đến tai hắn, nhanh nhất cũng phải mất gần một tháng.

Khánh Kỵ sau khi lên ngôi Ngô vương, phần lớn thời gian phải ở trong cung, không phải nghị bàn quốc gia đại sự với quần thần, thì là đến hậu cung hưởng lạc với các mỹ nhân, những ngày tháng an nhàn này nghe có vẻ hay, nhưng ngày nào cũng ăn thịt cá tôm cua cũng sẽ có lúc thấy ngán, sống hơn một năm an nhàn, Khánh Kỵ lúc này có hơi hoài niệm những ngày tháng hắn đích thân dẫn quân ra sa trường chém giết.

Nhưng hắn cũng hiểu rõ với thân phận bây giờ không cho phép hắn đích thân ra sa trường nữa rồi, trái tim háo hức một hồi, cuối cùng hắn cũng nghĩ ra một lí do hợp lí ra khỏi hoàng cung: đi tuần thị Hàn Ấp.

Quốc vương một nước đi lại trên lãnh thổ của mình, nghĩ chắc không ai dám phản đối nữa chứ? Hàn Ấp chính là nơi giáp ranh gần nhất với thế lực phương Bắc của Ngô quốc, là cứ điểm quân sự quan trọng về phòng thủ. Đại vương đi tuần thị cứ điểm quân sự, lí do quá chính đáng, thêm vào đó hiện nay đang diễn màn kịch căng thẳng leo thang với Tống quốc, chiến tranh sắp nổ ra mà đại vương tuy không đích thân ra trận, nhưng xuất hiện tại quân doanh cổ vũ binh sĩ, hành động này cũng góp phần thuyết phục hai nước Sở, Việt tin Ngô xung đột với Tống là thật, nghĩ chắc với tính gian xảo của Phí Vô Cực và Câu Tiễn cũng không nghi ngờ đây là một cái bẫy giăng sẵn dụ họ rơi vào.

Ngoài ra, một khi Đông Di lập quốc thành công, quốc gia mới thành lập, Doanh Thiền Nhi không thể lập tức rời khỏi Đông Di đến Cô Tô gặp hắn, lúc đó hắn có thể hội ngộ với nữ vương Đông Di tại Hàn Ấp, dùng thân phận quốc quân hai nước kí kết hiệp ước liên minh, xác lập quan hệ giao hảo.

Khánh Kỵ hí hửng đem ý định này nói với các đại thần Tôn Vũ, Yểm Dư, quả nhiên bọn họ không tìm được lí do gì ngăn cản Khánh Kỵ khởi hành, sau cùng các triều thần quyết định, điều thượng tướng quân Kinh Lâm từ Vũ Nguyên quay về bố phòng Cô Tô thành, do tướng quốc Tôn Vũ chủ trì triều chính, vì Khánh Kỵ chưa có con, nên giao cho hoàng hậu và ba vị hoàng phi cùng nhau giám quốc.

Xa giá đang đứng đợi ngoài cung, năm mươi cỗ chiến xa, ba ngàn giáp binh vây kín mít lấy ngự giá của Khánh Kỵ, đứng xa xa chỉ nhìn thấy chiếc dù che nắng màu vàng cắm trên xe, trước và sau còn có hai ngàn tinh binh hộ tống, lúc khởi hành sẽ chia nhau cách trung quân của Khánh Kỵ ba dặm đường để tiếp ứng khi cần thiết.

Khánh Kỵ ngồi bệ vệ trên chiếc xe vua được che chắn cẩn thận, ngón tay gõ tanh tách vào thành xe, tiết trời nóng nực, giang nam lại ẩm ướt, trời nóng chui vào xe cứ như đang ngồi trong lò hấp bánh bao, Khánh Kỵ quen với việc ngồi trong cung có băng đá tản nhiệt đặt xung quanh, nay đột nhiên đi đường dưới ánh nắng chói chang quả là có hơi không quen.

Hắn nhìn vào hàng binh sĩ đang đứng dưới ánh nắng, mồ hôi lăn dài từ trán xuống tới lưng, áo giáp trên người bị ánh mặt trời chiếu vào lóe mắt, nhưng các binh sĩ vẫn nghiêm nghị đứng yên không hề động đậy, cứ giữ tư thế này đứng rất lâu.

“Ây! Khi xưa ta cũng từng nếm qua cảnh cơ cực này, bây giờ làm đại vương sống những ngày tháng an nhàn, ngồi trong xe mà còn thấy vất vả, đúng là nghèo đổi sang giàu thì dễ chấp nhận, đang xa hoa mà bắt cơ cực thì khó chịu nổi.”

Khánh Kỵ cảm khái nghĩ ngợi, quay đầu nhìn về phía cổng hoàng cung, khẽ chau mày, nha đầu Tiểu Man đang làm gì ấy nhỉ, quả nhân sắp phải dẫn quân đi thị sát biên cương, thế mà nàng ta chưa đến đưa tiễn nữa.

Vừa nãy hoàng hậu Quý Doanh dẫn theo phi tần chốn hậu cung đến tiễn biệt đại vương ở Loan Phượng cung. Khánh Kỵ và Quý Doanh từ đêm đó chưa từng gặp mặt riêng với nhau, càng không nói với nhau câu nào, hiện giờ hai người giống như trẻ con phụng phịu, muốn làm lành lại thấy ngại. Khánh Kỵ nhìn thấy Quý Doanh đã không còn cảm giác chán ghét như trước, ngược lại thấy vị hoàng hậu này rất thú vị.

Hắn tin Quý Doanh bây giờ cũng không ghét cay ghét đắng hắn nữa, đồng thời đang đợi hắn hồi tâm chuyển ý, hai người ánh mắt chạm nhau, từ đôi mắt ấy lờ mờ đọc được ý nghĩ của đối phương, hai người từ một đôi nam nữ chưa từng quen biết, vì mục đích chính trị kết làm phu thê, lại động thủ trong đêm tân hôn, nay bắt đầu tiến tới giai đoạn hòa nhập.

Khánh Kỵ trước lúc lên đường, các phi tần đại thần đều có mặt đưa tiễn, trước đám đông hắn không tiện nói ra câu gì, Quý Doanh theo lễ nghi cung đình cung chúc đại vương xuất hành thuận lợi, long thể khỏe mạnh xong, dâng lên ba ly rượu, rồi ngoan ngoãn lui xuống. Khánh Kỵ đang định xuất phát, Quý Tôn Tiểu Man xưa nay không ra dáng hoàng phi cao quý bỗng chạy đến bên tai hắn nói nhỏ: “Đại vương, xin đợi giây lát bên ngoài cung, có món đồ thú vị này tặng cho chàng.”

“Món đồ gì vậy?”

“Hí hí, mau làm xong rồi, đợi khi nào chàng thấy thì sẽ biết thôi.”

Tiểu Man tinh nghịch lui xuống, nhìn thấy hai người thân mật như thế, ánh mắt Quý Doanh không khỏi ngưỡng mộ, nhưng khi Khánh Kỵ đưa mắt về phía nàng, đôi mắt ấy lập tức trở lại vẻ bình thản, không còn gợn sóng lăn tăn, tình cảm dạt dào.

Lúc này đã mất khá nhiều thời gian, còn chưa đợi được món quà thú vị của Tiểu Man, Khánh Kỵ có hơi mất kiên nhẫn, đang gõ tay tanh tách lên thành xe, không ngừng ngóng đầu về phía cổng hoàng cung chờ đợi, bỗng thấy hai tên thái giám tùy thân Thân Sinh, Thư Khắc mỗi người cầm theo một cái giỏ tre chạy như bay lao đến.

“Đại… đại vương…, quà… đưa… đưa tới rồi.” Thư Khắc đưa tay áo lên lau mồ hôi lấm tấm trên trán, thở hổn hển gọi với theo.

“Hử? Là món gì vậy, trình lên đây cho quả nhân xem thử.”

“Dạ, dạ!” Thân Sinh vội bước lên phía trước, mở nắp đậy ra, hai tay dâng giỏ tre lên.

Khánh Kỵ nhìn vào, lập tức cảm thấy kinh ngạc, trong giỏ là vài món ăn nhắm nháp thơm ngon nhìn vào là nhỏ dãi.

“Đây là…”

“Đây đều là hoàng hậu tự tay làm đó ạ, hoàng hậu nương nương nói đại vương đi xa dọc đường vất vả, việc ăn uống trên đường lại không tiện, bây giờ đang vào giữa trưa, mới có ý làm ra vài món ăn, mời đại vương thưởng thức trên đường đi.”

“Ồ… là hoàng hậu làm đó hả?”

“Dạ phải, hoàng hậu nương nương còn nói, đây là hầu lương, thức ăn dùng thạch tử đun nóng làm ra, thơm giòn ngon miệng, lại để được lâu.”

“Hầu lương, đây chẳng phải là món ăn Thạch tử mô sau này đó à?” Khánh Kỵ bẻ một miếng nhỏ bỏ vào miệng, càng nhai càng thơm, Khánh Kỵ mỉm cười khoái trá: “Không ngờ con ngựa hoang này còn biết chuyện bếp núc nhỉ, tài nấu nướng cũng khá đấy.”

Thạch tử mô chính là món ăn đặc sắc trong lịch sử chế biến của Trung Quốc, thời Xuân Thu gọi nó là “Hầu lương”, đến đời Đường đổi tên thành bánh “Thạch ngao”, thời đó thường làm cống phẩm đưa vào cung cho hoàng thượng phi tần hưởng dụng, là một món lương khô ngon miệng lại thích hợp mang theo khi phải đi xa, hơn nữa món này dễ tiêu hóa, ngay cả người bệnh, sản phụ cũng thích hợp dùng làm thức ăn.

“Đại vương, còn đây là Phấn từ, dùng gạo nếp và bánh đậu hấp ra thành chiếc bánh, hoàng hậu nương nương nói đây là món ăn đặc sản Tần Xuyên, đặc biệt làm riêng cho đại vương dùng thử ạ.”

Khánh Kỵ nhìn vào, quả nhiên là món ăn được Quý Doanh bỏ tâm tư chọn lựa, món này lưu truyền đến mấy ngàn năm sau, được người hiện đại gọi là “Tắng cao”, chỉ là sau này người ta thêm vào ít táo đỏ.

Khánh Kỵ cảm thấy hài lòng, mỉm cười mãn nguyện: “Nha đầu này, cách tạ lỗi với ta cũng thú vị nhỉ, lại nghĩ ra cách tự tay làm vài món ăn lấy lòng phu quân, ha ha, ăn những món này vào bụng rồi, sau này gặp mặt nàng ta đâu làm mặt lạnh được nữa.”

Thư Khắc cũng dâng chiếc giỏ của mình lên: “Vì đại vương đi xa, hoàng hậu đích thân tuyển chọn vài món ăn dâng lên, giỏ này là “Ngư chỉ”, cũng là món hoàng hậu nương nương vừa mới làm xong.”

Giỏ thức ăn của Thư Khắc, Khánh Kỵ nhìn vào cảm thấy quen thuộc, đây rõ ràng chính là su shi của Nhật, khi đó gọi là “Ngư chỉ”, vào đời Hán gọi là “Ngư sạ”, vì món này dễ mang theo khi đi đường nên thích hợp làm thức ăn khi phải đi xa. Vào đời Đường, văn hóa Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản, người Nhật học được cách làm món ăn này, đến đời Minh món này biến mất tại Trung Quốc, trở thành món ăn truyền thống của Nhật, lí do tại sau cũng không ai biết chính xác.

Khánh Kỵ thấy Quý Doanh quan tâm tới hắn, trong lòng mừng rơn, nghĩ thầm: Nha đầu Quý Doanh này tính tình không tệ, chỉ là quen được chiều chuộng nên hơi ngang tàng, nếu lần này không được dạy dỗ, e là sau này cưỡi lên đầu lên cổ mình, phu thê sớm muộn cũng đồng sàng dị mộng, xung đột gay gắt.

Phí Vô Cực thì chắc chắn phải đánh rồi, nhưng không thể để một nữ nhi quyết định, hơn nữa lập trường can dự chính sự của nàng là quá nguy hiểm, hắn không thể dễ dãi cho qua chuyện, buộc phải làm nghiêm để răn đe, nếu không làm căng sợ sau này hậu cung lộng quyền dung túng cho thân thích nắm giữ triều chính, nguy hại đến giang sơn xã tắc Ngô quốc, lúc đó công sức phục quốc của hắn coi như đổ sông đổ biển, nhưng giờ đây tin rằng thiếu nữ Quý Doanh dù tính cách mạnh mẽ, trải qua bài học quý báu này, tương lai sắp tới chắc không dám làm bừa trước mặt hắn nữa.

Tôn Vũ dẫn theo quần thần vái lạy chúc mừng: “Hoàng hậu hiền thục, là phúc của đại vương.”

“Ờ, ờ!” Khánh Kỵ cố nhịn cười, gật gù: “Về nói lại với hoàng hậu, cứ nói… những món ăn này…, à… rất hợp với khẩu vị của quả nhân, ha ha ha…!”  “Đại vương nói… thức ăn này… rất hợp khẩu vị của ngài à?”

“Ừm.”

Quý Doanh và Quý Tôn Tiểu Man nhìn nhau, Tiểu Man cười khanh khách, trên chọc: “Thế nào, thích rồi chứ?”

Hai tiểu thái giám Thân Sinh và Thư Khắc không biết câu nói của Khánh Kỵ có ẩn ý khác, chỉ đứng đó cười hùa theo.

“Các ngươi lui xuống đi!” Tiểu Man xua tay cho hai tên thái giám lui ra, sau đó nắm lấy tay Quý Doanh, cười hi hí nói: “Thế nào, chủ ý của Nhược Tích tỉ tỉ hay đấy chứ? Nam nhân ấy hả, đều là thuộc họ lừa, chỉ chịu mềm mỏng không chịu cứng rắn đâu, tỉ biết dỗ ngọt là nghe theo răm rắp liền à.”

“Nhưng đại vương đi về phương Bắc mất rồi.”

“Chán quá, muội chỉ ví dụ thế thôi mà.”

Quý Doanh tay chống cằm, âu sầu nói: “Ờ, tỉ cũng biết muội chỉ lấy ví dụ, nhưng con lừa đó lại là phu quân của chúng ta, đây là nhà của tỉ, không dỗ ngọt chàng thì còn biết phải làm sao? Nhưng… làm vậy là xong à? Tỉ… tỉ cũng không rõ mình sau khi uống say đã làm gì nữa, hình như… còn vật ngã đại vương…”

Quý Tôn Tiểu Man nhíu mày lo lắng: “Vậy thì rắc rối to, nam nhân mà bị nữ nhân vật ngã, nhất định cảm thấy mất mặt.”

Nàng xoay tròn đôi mắt, đột nhiên lại cảm thấy hí hửng: “Tỉ vật ngã được đại vương thật à? Chính là dùng kĩ thuật đã từng dạy muội?”

Quý Doanh làm ra vẻ tội nghiệp gật đầu: “Ờ, hình như cũng vật khá mạnh.”

Tiểu Man khoái trá kêu lên: “Ha ha, muội biết điểm yếu của chàng rồi, thì ra chàng kém tài vật lộn. Hí, hồi trước dám bắt muội trên thuyền, còn đánh mông muội, lần này muội cho biết tay.”

Nhìn dáng vẻ bí hiểm của Tiểu Man, là biết nàng định mai mốt làm gì Khánh Kỵ rồi. Quý Doanh liếc xéo Tiểu Man một cái, lại nhìn vào bốn tì nữ tùy giá đang nhăn nhó đấm tay đấm chân đứng kế bên, nguýt dài: “Đừng giả bộ nữa, mới bảo các ngươi làm có chút việc, mà ai nấy đều mệt đến nông nỗi này à?”

Hân Nhi kể khổ: “Hoàng hậu à, bắt chúng nô tì phải làm xong trong thời gian ngắn thế này, mệt chết đi được.”

“Thôi được rồi, đừng kêu ca nữa, đều là ta ngày thường ít sai bảo các ngươi, mau đi chuẩn bị thêm một phần vật liệu cho ta.”

“Á! Đại vương đã đi rồi mà, còn làm cho ai ăn?”

“Bổn hoàng hậu phải học làm, nếu không học cho biết, đợi tên phu quân kia về phát hiện không phải ta làm, lại xụ mặt ra giận ta à? Mau đi chuẩn bị, mau lên.”

Bốn tì nữ kêu trời không thấu, nhưng hoàng hậu hạnh phúc thì họ mới được hạnh phúc, hơn nữa nếu hoàng hậu không lôi kéo được trái tim đại vương, bốn người họ cả đời cũng phải cùng hoàng hậu ở góa, sự việc liên quan đến hạnh phúc chung thân, nên chỉ còn biết phấn chấn tinh thần, lại đi chuẩn bị vật liệu nấu mấy món ăn cho hoàng hậu học làm.

Quý Doanh thở dài: “Người ta chưa từng chịu cực thế này, vì chàng mà phải đổi tính, thế mà chàng…”

Quý Tôn Tiểu Man và Quý Doanh đã trở thành bạn tốt, trước mặt Tiểu Man nàng cũng không giấu giếm tâm sự. Tiểu Man an ủi: “Thôi, chàng đó hả, ngoài miệng thì cứng cỏi, nhưng thực ra trong lòng rất tốt.”

Quý Doanh uất ức thở dài cái nữa: “Tiểu Man muội muội, muội không biết đó thôi, chàng… đã từng nói, suốt đời này không bước chân vào Loan Phượng cung nửa bước.”

“Hơ…, xem ra tỉ làm chàng nổi giận thật rồi. Nhưng không sao, chỉ bảo là không bước vào Loan Phượng cung nửa bước, còn bước hai bước ba bước, mười bước một trăm bước, như thế là không vi phạm lời thề rồi đúng không nào?”

Quý Doanh há hốc miệng: “Úi! Vậy cũng được à?”

“Có gì mà không được, hai phu thê mà, gây gổ một chút có sao đâu.”

“Nhưng… chàng đường đường là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, lại là đương kim đại vương, nhất ngôn cửu đỉnh, sao có thể nuốt lời? Đã nói ra thì… phải làm cho bằng được.”

“Hứ!” Tiểu Man vênh mũi, ngún nguẩy nói: “Tỉ đừng bị chàng lừa mà lầm to, chàng nói chuyện không bao giờ giữ lời đâu.”

“Sao lại nói vậy?”

“Hắn còn nói không đụng vào… của người ta, Á!”

“Hở?” Quý Doanh nghe không hiểu, Tiểu Man xấu hổ che mặt, khuôn mặt bé xinh bỗng trở nên đỏ chót như một miếng vải đỏ.

“Tiểu Man, muội nói gì vậy?”

“À, Ờ…, ờ… muội chợt nhớ ra nến trong phòng muội còn chưa thổi tắt, muội… muội đi về đây.”

Tiểu Man lủi nhanh như con cáo, mặc kệ Quý Doanh gọi với theo, nàng ùa chạy ra cửa biến mất.

Quý Doanh ngạc nhiên nhìn theo bóng lưng Tiểu Man, sau đó sụ mặt lại, hai tay chống cằm, lại bắt đầu nghĩ đến tình cảnh sầu não của mình.

Quen nhau trễ nhất, về mặt tình cảm nàng và Khánh Kỵ không được sâu nặng, nhưng dù cho Quý Doanh ngang tàng, nữ nhi ai mà không toan tính cho hạnh phúc tương lai của mình? Nàng đã đồng ý làm hoàng hậu Ngô quốc, đã là thê tử của Ngô vương, số phận an bài nàng phải sống ở đây suốt đời rồi, với thân phận của mình nàng nhận thức rõ ràng hơn ai hết.

Khánh Kỵ là phu quân kề cận bên nàng cả đời, sao nàng không lo lắng cảm giác của hắn đối với nàng chứ? Trong cuộc hôn nhân này tuy có yếu tố sắp đặt sẵn, nhưng Khánh Kỵ cũng hội đủ điều kiện khiến nữ nhân động lòng, đó chính là lí do quan trọng nàng khiến từ từ trở nên mềm mỏng, nhưng… tên oan gia đó có chịu hồi tâm chuyển ý không nhỉ?

“Mình cứ đối xử tốt với chàng, tên khốn đó nhất định đắc ý vênh mặt lên trời rồi. Hứ! Không dỗ ngọt một chút, làm sao kéo được dây cương buộc chặt con ngựa hoang? Mẹ mình từng nói, chuyện nam nữ phu thê, ai thắng ai thua không giống với kẻ yếu người mạnh chém giết nhau trên chiến trường, chỉ cần nắm được trái tim đối phương, hí hí…”

Quý Doanh càng nghĩ càng khoái trí, tay chống cằm cười tủm tỉm một mình tự khi nào.

“Hoàng hậu, mọi thứ đã chuẩn bị xong rồi ạ…”

“Ta tới liền, ta tới liền…” Quý Doanh nhảy cẫng lên, xắn tay áo để lộ bắp tay trắng nõn hối hả chạy đi…

Hoàng Hà cuồn cuộn, như một nhát kiếm sén bén cắt đôi cao nguyên hoàng thổ, ngăn cách biên giới hai nước Tần, Tấn, mở ra một khe hẹp dài hơn bảy trăm dặm, phong cảnh đẹp như trong tranh, bọt sóng tung tóe đánh từng đợt vào vách đá hiểm trở, tiếng sóng như cả ngàn con trâu cùng gầm rú. Nơi đây chính là Hàn Nguyên.

Đại quân Tần quốc đã tụ tập ngay đây, đại tướng quân Công Tôn Vũ làm chủ soái, phó tướng phiên tướng đông đảo, ba vạn tinh binh, năm trăm cỗ chiến xa, ngựa hí vang trời, lăm le tấn công sang bên kia.

Tin tức được truyền đến Giáng thành ở Tấn quốc, lục khanh tề tụ cùng quốc vương bàn cách đối phó động thái của quân Tần, tin khẩn từ biên giới không ngừng được báo lên triều đình đại điện.

Trung Hành Thị bước ra khải tấu: “Tấn quốc ta nam chinh, bị Tần quốc ngăn cản, nay Tần chưa ngưng chiến được nửa năm lại dấy binh Hàn Nguyên, dòm ngó nước ta, đề phòng bất trắc, Tấn quốc ta nên xuất binh chiến đấu với chúng.”

Phạm thị vội nói: “Thần cho rằng Tần xuất binh là vì thừa lúc Tấn quốc ta xung đột với Vệ Tống, ý đồ gây bất lợi, thần thấy hai nước Vệ Tống không có gì đáng ngại, duy chỉ có Tần là đại địch của ta, ta nên ngưng chiến với Vệ Tống, ép chúng cắt đất cầu hòa thế là được, sau đó tập trung binh lực tiêu diệt Tần, cho Tần từ nay không dám dòm ngó lãnh thổ Tấn quốc của ta nữa.”

Triệu Tử Giản lập tức phản đối: “Làm vậy không ổn, hai nước Vệ Tống tuy không là cường địch, nhưng chiếm được Vệ Tống, cả trung nguyên coi như phần lớn nằm trong tay ta, Tần quốc sẽ là bá chủ thiên hạ. Nay quân ta đã chiếm hơn một nửa lãnh thổ Vệ quốc, chỉ cần đánh thêm một năm vài tháng muốn diệt luôn Vệ quốc cũng không khó, đến lúc đó Tống quốc đưa tay là lấy được thôi, miếng ngon ăn đến tận miệng sao lại nhả ra? Tần vương xưa nay không hề có chí lớn, lần này xuất binh chẳng qua muốn thừa cơ ăn cướp kiếm chút lợi lộc thôi, theo ý thần chỉ cần phái một cánh quân đi nghênh chiến là quân Tần không dám manh động, Tấn quốc ta nên đặt mục tiêu chiếm Vệ lên hàng đầu.”

Triệu Giản Tử đang là trọng thần số một Tấn quốc, Phạm Thị, Trung Hành Thị không dám phản đối, Tấn hầu nghe xong nhất thời do dự chưa quyết định, thấy tam khanh ý kiến trái ngược, bèn nhìn sang Tri Thị, muốn nghe ý kiến của hắn.

Tri Thị cười nhạt, khải tấu: “Thần đồng ý với Triệu đại phu, người Tần không đủ sức đe dọa chúng ta, lần này xuất binh không có gì đáng lo ngại, nhưng người Tần chiếm vị trí hiểm yếu, ta cũng không nên khinh địch, ta cứ đưa quân day dưa với Tần, vẫn đặt nhiệm vụ đánh Vệ lên hàng đầu, chỉ cần diệt được Vệ Tống, chiếm trọn trung nguyên, lúc đó đối phó với Tần còn chưa muộn. Không quá ba năm, vùng lãnh thổ trung nguyên rộng lớn đều thuộc về Tấn quốc ta.”

Triệu Giản Tử nghe vậy cảm thấy bất ngờ, hắn và Tri Thị xưa nay bất hòa, tuy chức quan cao hơn nhưng thế lực không bằng Tri Thị, thế mà giờ đây liên quan đến lợi ích hành động quân sự Tri Thị lại bỏ qua chuyện riêng đứng về phía hắn, hắn có hơi cảm động, Ngụy Thị và Hàn Thị thế lực hơi yếu, không dám phát biểu ý kiến riêng, thấy Triệu Giản Tử và Tri Thị thống nhất với nhau, cả hai cùng bước lên tán thành.

Tấn hầu thế mới an tâm, gật gù phán: “Không sai, Tần vương xưa nay không có chí lớn, cứ trấn thủ Quan Trung không biết bành trướng, lần này vì cứu Sở thành công, lại mới kết thân với Ngô nên mới hứng lên thảo phạt quả nhân, muốn giải vây cho Vệ Tống, đến lúc đó Tần liên minh với chư hầu phương Nam, lại có Vệ Tống giúp sức, sẽ lăm le ngôi bá chủ thiên hạ. Hứ, quả nhân đâu cho chúng dễ dàng toại nguyện, bây giờ phải tiêu diệt Vệ đã, nhưng… đại quân của quả nhân còn đang chiến đấu ở Vệ, nên phái cánh quân nào đi ngăn cản quân Tần tiến công đây?”

Tấn hầu quay đầu lại nói: “À, Phạm ái khanh…”

Phạm Thị vội bước lên thoái thác: “Bẩm quốc quân, quân đội của thần đang cùng binh mã của Trung Hành Thị chia quân hai ngả, chế ngự các bộ lạc Ly Nhung, Xích Địch, nếu điều đi đối phó quân Tần, e là các bộ lạc này thừa cơ làm loạn.”

Tấn hầu không còn cách nào khác, lại quay sang Tri Thị: “Tri ái khanh…”

Tri Thị khẳng khái nói: “Đây vốn là bổn phận của thần, chỉ là…”

Hắn khẽ nhíu mày đăm chiêu, ra vẻ lo lắng: “Binh mã của thần lúc nam chinh đại chiến với liên quân Tần Sở, tổn thất nghiêm trọng, nay cần phải nghỉ ngơi chỉnh đốn, nếu gấp rút điều động e về mặt thời gian không kịp.”

“Thế thì…” Tấn hầu nhìn sang Hàn Thị và Ngụy Thị, có ý phái họ xuất chinh, nhưng binh lực của gia tộc Hàn, Ngụy không mạnh, phái họ xuất chinh lại sợ không phải đối thủ của quân Tần.

Tấn hầu cảm thấy khó giải quyết, âu sầu nói: “Chẳng lẽ… phải rút bớt binh mã từ Vệ về sao?”

Triệu Giản Tử có lòng chinh chiến thiên hạ, kiến công lập nghiệp, giờ đây binh lực tác chiến ở Vệ đã có phần phân tán, nếu lại rút bớt quân về, e cục diện chiến sự thay đổi theo chiều bất lợi, thấy các thế lực kia ai nấy tìm cớ từ chối, hắn là người ủng hộ tiếp tục đánh Vệ, chỉ còn cách gánh lấy trách nhiệm vậy, bèn bước lên khải tấu: “Thần còn một cánh quân ở Giáng thành, ngoài ra còn một đội quân trấn thủ ở Tấn Dương, quân Tần lần này tiến công mạnh mẽ, thần sẽ điều hai cánh quân này đi ứng chiến, xin hai vị đại phu Ngụy Thị, Hàn Thị điều thêm hai vạn quân của mình đến trợ giúp, cùng đánh lui quân Tần.”

“Được thế thì tốt quá, Hàn ái khanh, Ngụy ái khanh có gì dị nghị không?”

Hàn, Ngụy nhìn nhau, thấy không còn lí do gì để từ chối, cùng lên tiếng: “Thần… tuân chỉ.”

Vệ hầu thở phào nhẹ nhõm: “Cứ quyết định vậy đi, các vị ái khanh mau đi chuẩn bị, ba ngày sau xuất binh đến Hàn Nguyên chống địch.”

Các đại thần vái lạy hành lễ lui ra, khắp đại điện trong một lúc trở lại cảnh đìu hiu trống trơ.

Đêm đó, trước khi cổng thành đóng lại, vài chiếc xe ngựa thương buôn rời khỏi Giáng thành, chia nhau đi về các hướng Tiên Ngu, Ly Nhung, Xích Địch, Vệ quốc. Chúng chỉ truyền đi một câu lệnh: “Hành động vào ngày Đoan Ngọ.”  Đỉnh, vốn là vật dụng để nấu nướng, nhưng từ thời Hạ Vũ lấy vàng đúc cửu đỉnh đặt dưới Kinh Sơn tượng trưng cho cửu châu, đỉnh từ một vật dụng thông thường bỗng hóa thân thành biểu tượng quốc gia. Quốc gia diệt vong thì đỉnh bị dời đi, triều Hạ suy vong, triều Thương lên nắm quyền, cửu đỉnh được đưa về kinh đô nhà Thương tại Bạc Kinh, Thương tàn Chu lên, cửu đỉnh lại được dời đến kinh đô nhà Chu là Hạo Kinh. Trải qua mấy triều đại, đều gọi lập nên vương triều mới là “Định đỉnh”.

“Ác nhật định đỉnh”, câu nói này không cần giải thích nhiều: kế hoạch không thay đổi, cứ theo ngày tháng đã định, lập nghiệp kiến quốc.

Các thôn làng và thị trấn cư ngụ của người Đông Di, bên ngoài chỉ dùng gỗ đá thô sơ xây dựng bức tường thấp phòng chống thú rừng, nay Doanh Thiền Nhi ra sức cải tạo, xây nên một thành trì cao hai trượng trải dài hơn chín dặm.

“Đồng đã đun chảy, chuẩn bị đổ khuôn.”

Có người đứng trên một gò đất cao hét to, công nhân tứ phía lập tức bận rộn làm việc.

Doanh Thiền Nhi và các tộc trưởng bộ lạc Phong, Hành, Thỉ đứng trên tòa lầu nhỏ cao hai tầng làm bằng gỗ, hồi hợp bước tới nắm lấy lan can, dõi mắt nhìn theo, bảo đỉnh lập quốc của Đông Di sắp bắt đầu được đúc đây.

Vào thời đại này, trong lúc lập quốc mà cán cờ bị gãy, lễ đài bị sập, hay đúc đỉnh thất bại đều bị xem là niềm gở, đủ làm cho lòng dân dao động, còn với một nhà nước Đông Di mới thành lập, các thế lực chưa đạt thỏa thuận thống nhất thì cả kế hoạch càng dễ sôi hỏng bỏng không, Thành Bích sao có thể không quan tâm theo sát, nàng cảm thấy cổ họng khô khốc, có vẻ như nàng đang đứng cạnh lò lửa hừng hực đằng kia.

Binh lính xung quanh tất cả đều là thuộc hạ thân tín của nữ vương, chúng là võ sĩ thuộc hai bộ lạc lớn nhất Doanh, Phong, còn các thợ đúc đỉnh, từ thợ chế khuôn, đun vàng, tát nước làm nguội đến mài giũa đều là thợ lành nghề được nữ vương bỏ nhiều tiền ra tìm về, tất nhiên đó là nói cho người ngoài nghe, thực tế thì đám người này đều là thợ đúc ưu tú đáng tin cậy nhất của Nhâm gia do Nhâm Băng Nguyệt phái đến.

Lúc này đang giữa trưa nắng gắt, lò nung bốc lên luồng khói đen ngùn ngụt, xung quanh không một cơn gió, càng làm không khí oi bức lạ thường, cảm giác bất an ức chế lòng người.

Những tên đại hán cởi trần đang ra sức làm việc xung quanh lò lửa, thêm củi, thổi hơi, bên kia một đám người khác hò hét kéo cái khuôn mới đúc xong còn nóng hừng hực ra.

Trên đất là những khúc cây làm bánh lăn, cái khuôn to bè nặng trịch lăn trên những thanh gỗ di chuyển từ từ đến bên lò nung, các lực sĩ cẩn thận canh chỉnh lại cho khớp lỗ thông để đổ đồng vào.

Cái khuôn này được làm bằng đất nung, trên có khắc hoa văn tinh tế, bên trong cũng có họa tiết, khi cho dung dịch đồng bị nung chảy vào đợi khô cứng đập vỡ khuôn là đỉnh được đúc thành công. Quá trình làm ra cái khuôn này từ chọn đất sét, phơi khô, hòa tan, tách tạp chất, pha trộn, nặn khuôn… tất cả mất hơn một tháng, biểu tượng của một quốc gia, tượng trưng cho quyền lực Đông Di, các thợ đúc dù không biết ý nghĩa chính trị thật sự cũng cảm thấy vinh hạnh được tham dự vào công việc đúc đỉnh nên ra sức làm tốt nhất.

Các thợ đúc hét gọi đám đệ tử học nghề tránh ra, đích thân bước đến bên chiếc khuôn giám sát việc đổ đồng vào, dòng dung dịch đồng nóng chảy từ từ được chảy vào khuôn, nước đồng đỏ rực tia lửa tung tóe, khuôn phải đủ chắc chắn, bằng không khi cho dung dịch đồng nóng chảy vào sẽ nứt toạc ra, lúc đó công việc đúc đỉnh coi như thất bại.

Thành Bích hồi hộp theo dõi từ xa, hai tay nắm chặt, nín thở chờ đợi, nàng đang mặc y phục Đông Di nhưng vẫn rất xinh đẹp, nhan sắc kiều diễm của nàng nhìn vào chắc tưởng chỉ lớn hơn Huyền Điểu có hai tuổi, hai mắt chớp chớp e thẹn, các trưởng lão trong bộ lạc đều là những hán tử vạm vỡ, trong thời khắc đúc đỉnh quan trọng này, hình như số lần họ nhìn vào nàng còn hơn cả nhìn vào chiếc đỉnh.

Rất lâu sau, Huyền Điểu vui mừng hét toáng lên, níu lấy cánh tay phụ thân của nàng nhảy nhót liên hồi: “Thành công rồi, thành công rồi!”

Cùng lúc đó, đám thợ cũng hoan hỉ hò reo mừng rỡ, Thành Bích thở phào nhẹ nhõm, khuôn mặt diễm lệ nở một nụ cười say đắm, ngửa mặt lên trời nói: “Trời cao phù hộ cho Đông Di.”

Các vị trưởng lão đứng xung quanh không biết trong lòng thất vọng hay mãn nguyện, nhưng đều lên tiếng hùa theo reo hò.

Tiếp theo đó dung dịch đồng nguội lạnh nhanh chóng, bọn lực sĩ dùng búa đập vỡ lớp đất nung, một đỉnh đồng đồ sộ hiện ra trước mặt mọi người, các thợ đúc lại mau chóng chuẩn bị đồ nghề chạy đến cắt, giũa tạo dáng cho chiếc đỉnh, ai nấy ra sức làm ra chiếc đỉnh đồng trấn quốc Đông Di hoành tráng có một không hai này.

“Các vị trưởng lão, xin mời cùng Doanh Thiền Nhi đến gần xem bảo đỉnh của Đông Di quốc ta.”

Thành Bích nói xong, sải bước điệu đàng bước xuống lầu, các vị trưởng lão lật đật bám theo gót chân nàng, Huyền Điểu đeo dính lấy phụ thân, không đi mà nhảy nhót từng bước, khi bước xuống bậc thang, nàng chê phụ thân đi chậm bèn bỏ tay ra đuổi theo đến bên Doanh Thiền Nhi.

Trong số các trưởng lão bộ lạc này có người không có dã tâm, thật lòng quy thuận dưới trướng Doanh Thiền Nhi, nhưng cũng có một số không phục, ỷ vào thế lực bộ lạc hùng mạnh, không chịu tôn nữ vương liên kết các bộ lạc chống Tề lên làm chủ, nhưng gần đây họ bị Cổ Quân Hải dẫn quân đánh cho tan tác, giết người cướp của, tổn thất nghiêm trọng, đối mặt với hai bộ lạc lớn nhất Doanh thị, Phong thị ủng hộ Doanh Thiền Nhi, nay lại xây dựng xong Dư Khâu thành quy mô vững chắc, Cổ Quân Hải e sợ không dám phái quân đến đánh, thực lực của nữ vương đã vượt xa bọn họ, dù trong lòng không phục nhưng chỉ còn cách ngậm đắng nuốt cay, tạm thời đồng ý liên kết các bộ lạc thành lập nhà nước Đông Di.

Trấn quốc bảo đỉnh còn chưa được đánh bóng, bề ngoài có hơi thô kệch, nhưng khí thế hoành tránh, nhìn vào nổi vẻ uy nghi. Bảo đỉnh khai quốc này cao bảy thước, ba chân trụ vững, thân đỉnh phình ra, đuôi tròn, hoa văn họa tiết là thần thú trừ tà cưỡi trên đám mây.

Đông Di được Ngô quốc hậu thuẫn lập quốc, sách lược khai quốc có ghi rõ ràng con cháu Đông Di sau này phải quy thuận Ngô quốc, làm nước phụ thuộc của Ngô, nên nữ vương hạ lệnh khắc luôn họa tiết quốc kì của Ngô lên bảo đỉnh, các bộ lạc Đông Di phản đối lập quốc nhìn vào đương nhiên cho rằng Doanh Thiền Nhi vì muốn được Ngô quốc ủng hộ nên có ý lấy lòng Ngô quốc.

Thành Bích đi qua đi lại quanh chiếc đỉnh chưa mài giũa đánh bóng, không ngớt khen lấy khen để, cho dù số người Đông Di phản đối lập quốc, lúc này nhìn vào chiếc đỉnh hoành tráng này, trong lòng cũng nảy sinh kính phục.

Đứng trước bảo đỉnh, xem xét tỉ mỉ hồi lâu, Thành Bích mỉm cười nói: “Bảo đỉnh đúc thành, hợp với ý trời, chúng ta sẽ theo như thời gian đã định tiến hàng đại điển lập quốc. Đan Ô!”

“Có tiểu nhân!”

Võ sĩ Đông Di oai phong lẫm liệt, lưng đeo vò tên vội bước lên trước, hai mắt vừa chạm phải tia nhìn quyến rũ của Thành Bích, khuôn mặt anh tuấn của hắn đỏ ửng lên, hắn quỳ một chân xuống đất, phủ phục cung kính lên tiếng: “Đan Ô… xin nghe theo lời dạy của nữ vương bệ hạ!”

Nhan sắc của Thành Bích đã đạt đến cảnh giới mê hoặc điều khiển lớn hơn cả dùng vũ lực, các bộ lạc Đông Di đã có biết bao tráng sĩ thầm ngưỡng mộ vị nữ vương xinh đẹp này, tuy gần đây trong bộ lạc có nổi lên lời đồn nữ vương không còn nguyên vẹn, nàng đã từng hiến thân cho nam nhân, hơn nữa còn sinh hạ một đứa con, nhưng điều đó không ảnh hưởng cơn mê nàng gây ra cho các thanh niên võ sĩ bị nhan sắc của nàng điều khiển.

Chỉ dựa vào nhan sắc tuyệt trần của mình, Doanh Thiền Nhi đã đủ sức ra lệnh cho nhiều dũng sĩ chết vì nàng, hơn nữa các bộ lạc Đông Di còn giữ nếp sống từ thời thượng cổ, nam nhân không mấy quan tâm trước kia thê tử của mình từng ăn nằm với ai, hoàn toàn khác xa với lễ giáo cực đoan coi trọng trinh tiết của các nước chư hầu trung nguyên.

Chỉ là xưa nay vị nữ vương Doanh Thiền Nhi này luôn kiêu kỳ, lại thân phận cao quý, nên ai cũng không dám ngỏ lòng với nàng, ngay cả thần tiễn thủ có tiếng trong bộ lạc Đông Di như Đan Ô này, tuy yêu say đắm nữ vương, nhưng một chút lòng can đảm thổ lộ cũng không có, Đan Ô chỉ xem Doanh Thiền Nhi như thần tiên trên trời, vừa kính vừa sợ, hễ bước gần nàng là trái tim đập thình thịch muốn rớt ra ngoài.

Thành Bích lúc này đang mặc chiếc váy ngắn của Đông Di, để lộ cặp chân thon dài, Đan Ô quỳ xuống phủ phục nhìn lên, dường như nhìn thấy chút ánh sáng le loi nơi thâm sơn cùng cốc, e thẹn không dám nhìn lâu vội cúi đầu xuống, chiếc giày cỏ mềm mại của Thành Bích lộ ra mười ngón chân trắng lung linh như thủy tinh, bàn chân nhỏ nhắn đập vào mắt Đan Ô, hắn cảm thấy chỉ cần ban cho ân huệ được hôn lên đôi chân đó thôi, cũng là niềm hạnh phúc lớn lao tu mấy kiếp mới có.

Thành Bích khi còn ở Khúc Phụ nước Lỗ, đã có không biết bao nhiêu công khanh đại phu nhìn quen mỹ nhân điên đảo vì nàng, chàng trai này đang nghĩ gì sao nàng không biết chứ? Thành Bích cười nhẹ nhàng, làm bộ không để ý tới hành động ngu ngơ vừa rồi của Đan Ô, nói: “Lần trước ngươi đi sứ sang Ngô rất tốt, ta cảm thấy rất vui, lần này phiền ngươi đi thêm một chuyến…”

Huyền Điểu nghe vậy lập tức nhảy xen vào: “Nữ vương thiên vị, sao chỉ khen hắn không khen muội, muội mới là chánh sứ mà, nữ vương lại muốn phái hắn đi Ngô quốc à? Vậy muội cũng phải đi.”

Thành Bích mỉm cười: “Lần này không phải đi Ngô, mà là đi Tần, muội cũng muốn đi sao?”

Huyền Điểu le lưỡi cười trừ: “Xa vậy à, thôi muội không đi đâu, nếu đi Tần thì bỏ qua ngày lễ đăng cơ của nữ vương mất.” 

Thành Bích đưa tay vào ngực lôi ra một bức thư được niêm phong giao cho Đan Ô, Đan Ô đón lấy bằng hai tay, một mùi thơm phảng phất xộc vào mũi ngất ngây, giọng nói của Thành Bích cắt đứt mạch suy nghĩ lung tung của hắn: “Ngươi lập tức khởi hành đi đến Tần quốc, dâng lá thư này lên cho Tần vương.”

“Tuân lệnh!” Đan Ô dập đầu cái mạnh cho trấn tỉnh: “Tiểu nhân nhất định hoàn thành sứ mệnh của nữ vương bệ hạ giao phó.”

Thành Bích toan bước đi khỏi, chỉ thấy phía trước một đội quân áo giáp chỉnh tề đi đến, người dẫn đầu bước đi oai vệ, thân hình rắn chắc như con sư tử, chỉ là một tay áo phất phơ trong gió, đó là tướng quân độc thủ Lương Hổ Tử.

Thành Bích dừng bước, Lương Hổ Tử bước đến trước mặt, hí hửng nói: “Bổn tướng nghe nói nữ vương bệ hạ đúc đỉnh thành công, xem ra việc Đông Di lập quốc hợp với ý trời, đó là niềm lành, Lương Hổ Tử vội đến chúc mừng.”

“Cám ơn Lương tường quân đã nói tốt.” Thành Bích tươi cười hớn hở, tiếp lời: “Đúc đỉnh thành công, các bộ lạc Đông Di ta ai nấy đều vui mừng, Thiền Nhi đang định sai người đi mời Lương tướng quân, cùng các trưởng lão Đông Di ta uống mừng cho thỏa thích. Tướng quân đến hay lắm, ta cùng nhập tiệc nào.”

“Ha ha, cung kính không bằng tuân mệnh, mời nữ vương.”

“Mời Lương tướng quân!”

Hai người khiêm nhường một câu, Thành Bích bước đi lên trước. Trong đám đông, có mấy vị tộc trưởng không phục nhìn thấy hết ánh mắt lời nói của hai người, họ lén nháy mắt ra hiệu với nhau.

Đêm xuống. Trong nơi ở của tộc trưởng bộ lạc Thành thị Thành Trí Ngọ, Dương thị, Giới thị, Tiết thị, Quách thị lục đục kéo đến họp mặt.

“Ha ha ha, nào nào, Dương huynh, Giới huynh, hai người đến muộn đó nha, mau vào đây, chúng ta trước giờ cứ ở trong bộ lạc của mình khó có dịp tề tụ, hôm nay đến xem bảo đỉnh nên tương ngộ, ha ha, đêm nay phải uống cho đã, mau vào đây nào…”

Thành Trí Ngọ vội bước ra cửa đón tiếp, ôm nhau thân thiết với Dương thị, Giới thị, vai kề vai đi vào trong phòng, vừa bước vào trong, Thành Trí Ngọ lập tức dẹp mất nụ cười trên khuôn mặt, nháy mắt ra hiệu với hai người kia, dẫn đường bước vào bên trong.

Dương thị và Giới thị đưa mắt nhìn nhau một cái, hơi chút do dự nối gót theo sau, Giới thị lo lắng nhíu chặt mày, chốc chốc lại lắc đầu thở dài.

Vào đến bên trong là một gian phòng hẹp, đã có hai người ngồi sẵn ở đó, trên bàn bày la liệt rượu thịt, hai người kia mang nặng tâm sự, đôi đũa nằm chõng trơ, hiển nhiên là họ chưa từng đụng đến.

Thấy ba người bước vào, hai người kia đứng dậy hành lễ, Dương thị và Giới thị vội đáp lại, tằng hắng nói: “Tiết huynh, Quách huynh, mời ngồi mời ngồi, huynh đệ đến hơi trễ một chút.”

Năm người ngồi theo thứ tự lớn nhỏ, Thành Trí Ngọ quét mắt khắp một lượt, chống gối mở lời: “Chư vị, hôm nay mời các huynh đệ tới đây, tin chắc mọi người đã biết ý của ta, ta muốn cùng mọi người bàn bạc tiền đồ của các bộ lạc chúng ta, không biết các huynh đệ có ý kiến gì không?”

Thành Trí Ngọ hơn năm mươi tuổi, thân hình rắn chắc, khuôn mặt vuông vức, da ngăm đen, là tộc trưởng của bộ lạc lớn thứ ba Đông Di, dưới trướng có mấy vạn người, nhất cử nhất động của hắn đều ra vẻ uy nghi của thủ lĩnh.

Giới thị nhìn xung quanh, thần sắc ủ rũ nói: “Còn ý kiến gì nữa? Doanh Thiền Nhi giờ có binh mã hùng mạnh, lại sắp lập quốc, còn chúng ta thì bị bọn cường tặc Cổ Quân Hải đánh cho trọng thương nguyên khí, đâu còn sức mà chống chọi với nàng ta.”

“Hứ!” Thành Trí Ngọ cười nhạt: “Sao Giới huynh lại cam lòng cho một nữ nhân cưỡi lên đầu lên cổ thế? Đường đường nam nhi, phải đè lên đám nữ nhân không cho chúng xoay người lại mới phải chứ.”

Giới thị xua tay phân bua: “Vốn dĩ chúng ta còn thực lực chống đối, nhưng bây giờ thì… còn gì phải bàn nữa?”

Thành Trí Ngọ cười ha hả, hỏi ngược lại: “Bây giờ thì đã sao? Các vị, chúng ta đều là tộc trưởng các cứ một phương, tiêu diêu tự tại, một khi thành lập Đông Di quốc, Doanh Thiền Nhi xưng vương rồi thì chúng ta sẽ ra sao? Chúng ta chỉ được phong chức công hầu đại thần gì đó, vậy là phải cúi đầu xưng thần với người khác à? Đạo lí thà làm vua nước nhỏ không làm tôi nước lớn, các vị không cần ta nói nhiều chứ?

Hơn nữa mấy trăm năm sau thì sẽ thế nào? Hoàng thất nối ngôi theo máu mủ ruột thịt, Doanh thị đời đời có người xưng vương, còn con cháu chúng ta chưa chắc đời đời được làm đại thần. Còn như chúng ta hiện nay, con cháu mãi mãi là tộc trưởng của bộ lạc. Không nói đâu xa, Lỗ quốc ngay kế bên nè, tên Khổng Khâu Khổng Trọng Ni đó, là cháu mười đời của Tống Tương Công, tổ tiên là quân vương một nước, còn là bá chủ thiên hạ nữa, đến đời hắn thì sao? Vừa mới làm được mấy ngày đại tư khấu đã bị điều đi đào sông vét rãnh, năm họ tộc chúng ta đời đời kiếp kiếp là bộ lạc lớn của Đông Di, một khi sát nhập lại lập quốc, mười đời sau e là con cháu của chúng ta cũng suy tàn giống Khổng Khâu rồi.”

Tộc trưởng Quách thị nhăn mày: “Chúng ta đều đã gật đầu đồng ý lập quốc Đông Di rồi, nay chẳng lẽ lại tráo trở? Hôm nay huynh cũng thấy đó, bảo đỉnh được đúc thành công, ý trời đã vậy, chúng ta còn biết làm gì hơn?”

“Ha ha!” Thành Trí Ngọ cười rú lên, vênh mặt: “Bảo đỉnh được đúc thành công, chưa chắc là Doanh Thiền Nhi có thể lên ngôi nữ vương, các huynh nên nhớ sáu mươi mấy bộ lạc lớn nhỏ Đông Di còn lại, số không chấp nhận chuyện lập quốc vẫn còn rất nhiều, chỉ là bộ lạc của họ nhỏ bé, không dám lên tiếng phản đối mà thôi, chỉ cần có người đứng ra triệu tập, những ai hưởng ứng tin chắc không hề ít.”

Tộc trưởng Tiết thị lên tiếng: “Thành huynh, với thực lực hiện nay của chúng ta, cho dù có người hưởng ứng e cũng không đủ sức đấu với Doanh Thiền Nhi rồi.”

Thành Trí Ngọ cười to: “Vậy thì chưa chắc, nội bộ Đông Di ta vẫn còn gần một nửa bộ lạc phản đối lập quốc, còn bên ngoài thì sao? Doanh Thiền Nhi này khi xưa chúng ta đã quá xem thường ả, cứ tưởng đưa một con bù nhìn lên liên kết các bộ lạc chống Tề, ai ngờ lại nuôi ong tay áo, nhưng con nữ nhân này dù thủ đoạn cao siêu nhưng vẫn còn non nớt, nay ả muốn lập quốc đi lấy lòng Ngô quốc làm hậu thuẫn, dùng điều khoản quy thuận Ngô quốc để đổi lấy sự giúp đỡ từ Ngô.

Nhưng ả mới lập quốc được thuận lợi đôi chút lại có ý nhảy qua bợ đỡ Tần quốc, ả sai sứ đi Tần có bàn qua với chúng ta, vì ả cũng mang họ Doanh, nên sai sứ đi Tần nhận họ hàng thân thích với Tần vương, muốn kết làm huynh muội, mục đích đương nhiên là muốn sau khi trở thành nữ vương sẽ từ từ thoát khỏi sự khống chế của người Ngô, làm chủ nhân thực sự của Đông Di rồi.

Tin rằng Tần vương sẽ dễ dàng chấp nhận đứa em gái tự tìm đến này, nhưng Tần nằm xa tuốt bên phía Tây, tuy Tần có liên minh với Ngô, Ngô không dám làm khó Doanh Thiền Nhi, nhưng cũng tuyệt đối không để mất miếng thịt béo bở Đông Di đâu, Doanh Thiền Nhi chưa ngồi vững trên ngôi báu mà đã muốn loại bỏ Ngô quốc, đúng là vì cái nhỏ mất cái lớn đây. Nhưng… ta vẫn có phần khâm phục ả nữ nhân này, một nữ nhân mà có dã tâm như thế, khó trách nam nhân chúng ta không sánh bằng ả được.

Ả nữ nhân này vì cái lợi trước mắt làm lu mờ đầu óc, đưa ra quyết định không sáng suốt này, chắc chắn sẽ khiến Ngô quốc phật lòng, hôm nay các huynh đều nhìn thấy rồi đấy, tên Ngô tướng Lương Hổ Tử biết chuyện ả phái sứ giả đi Tần, vẻ mặt khó coi đến mức nào, có thể hiểu là địa vị nữ vương của ả trong mắt người Ngô là thế nào rồi, người Ngô có để yên cho ả thoát khỏi sự khống chế của họ không? Một khi Ngô quốc biết ả đi bợ đỡ Tần quốc, sao không đoán ra ý đồ thật của ả chứ? Đến lúc đó liên minh giữa ả và Ngô quốc sẽ xuất hiện vết nứt.”

Giới thị lắc đầu nói: “Thành huynh, đó là chuyện sau này, còn trước mắt Lương Hổ Tử vẫn dốc toàn lực ủng hộ ả ta, nhằm giúp Đông Di mau chóng lập quốc phụ thuộc Ngô, chúng ta vẫn không có cơ hội để hành động.”

“Ai nói… không có cơ hội?”

Tộc trưởng Tiết thị vội hỏi: “Thành huynh, huynh nói có cơ hội, rốt cuộc là có ý gì?”

Thành Trí Ngọ cười hi hí nham hiểm, đanh mặt lại, nghiêm nghị nói: “Các vị, cơ hội mà ta nói đến, bao gồm nhiều mặt, nội bộ thì…, tất nhiên đến từ các bộ lạc Đông Di chúng ta, số bộ lạc không bằng lòng lập quốc còn hơn một nửa, một khi có cơ hội là họ sẽ tập hợp lại phản đối. Còn bên ngoài thì…, nguyên nhân đến từ bên ngoài này đủ để chống lại uy hiếp từ liên quân của Doanh Thiền Nhi và Lương Hổ Tử.”

Tộc trưởng Giới thị hồi hợp nhổm người lên phía trước, hỏi dồn: “Thành huynh, rốt cuộc là gì mới được?” Những người khác đều nín thở chờ câu trả lời, chăm chú nhìn cả vào mặt Thành Trí Ngọ.

Thành Trí Ngọ ra vẻ thần bí không nói trắng ra, chỉ mỉm cười bí hiểm, nói tiếp: “Trước tiên, Ngô quốc chiếm mất Bành thành của Tống quốc, vì thế kết oán với Tống, không lâu nữa hai nước sẽ xảy ra chiến loạn. Một khi chiến sự nổ ra, quân đội của Ngô sẽ được điều đi đối phó với Tống, sao còn rảnh mà lo chuyện ở Đông Di?”

Giới thị thắc mắc: “Nhưng Tống quốc hiện nay đang phối hợp với Vệ quốc chống trả Tấn quốc, có thể điều bao nhiêu quân chiến đấu với Ngô đây? Cho dù Lương Hổ Tử rút bớt quân đi đánh Tống, tin rằng chiến sự cũng không kéo dài lâu, hắn kéo quân quay lại, chúng ta biết chạy đi đâu?”

“Ha ha, e là hắn đi rồi không thể quay lại.”

“Sao lại nói thế?”

Thành Trí Ngọ cười nham hiểm, nâng ly rượu lên uống một ngụm, nhắm mắt lại hít hà thưởng thức, sau đó mở to mắt ra buông lời khen ngợi: “Rượu này thơm ngon hảo hạng, đúng là danh bất hư truyền, các vị, sao còn không nâng ly thưởng thức rượu ngon đi, đây là… Bạch mâu tửu chuyên dùng của hoàng thất Việt quốc đấy!”  Tiết thị cười chua chát: “Thành huynh, đã đến nước này rồi còn có tâm trạng nào mà uống rượu…”

Giới thị ánh mắt sáng lên, nói: “Bạch mâu tửu chuyên dùng cho hoàng thất Việt quốc? Huynh… sao huynh lại có được rượu này, chẳng lẽ…”

Câu này thốt ra, ai nấy biến sắc, họ đều là tộc trưởng các bộ lạc, đương nhiên thông minh hơn những thổ dân bình thường khác, tất cả cùng quay sang nhìn vào Thành Trí Ngọ.

Thành Trí Ngọ mỉm cười không trả lời, lái sang chuyện khác: “Các vị, ta có một tin tốt lành liên quan đến Cổ Quân Hải ở Chung Ly cốc, các vị muốn nghe không?”

Nhắc đến Cổ Quân Hải, mấy người nghiến răng giận dữ, chỉ vì tên Cổ Quân Hải dẫn quân cướp bóc, bộ lạc của họ mới bị suy tổn thực lực, họ hận muốn nhai xương lóc gân hắn, ai nấy mắt đỏ ngầu điên tiết lên.

Dương thị hậm hực nói: “Cổ Quân Hải? Tên ác tặc đó còn có tin tốt lành gì chứ? Nếu là tin tốt, trừ khi tên Cổ Quân Hải đã bị trời tru đất diệt.”

Thành Trí Ngọ cười hô hố: “Cũng gần như vậy, Cổ Quân Hải tuy chưa chết, nhưng… cũng không còn bao lâu đâu.”

Lại là một tin chấn động, mấy người kia nhao nhao hỏi dồn: “Thành huynh, huynh biết được tin gì vậy, mau nói ra cho mọi người nghe đi.”

Thành Trí Ngọ cười khoái trá: “Tên Cổ Quân Hải lập doanh trại ở Chung Ly cốc, hành động độc đoán, làm càn hơn cả đại đạo Triển Chích trước kia. Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài leo lên ngồi trên đầu chúng, bắt chúng bán mạng cho hắn, hai người này đã có lòng phản nghịch, đang bàn tính việc ám sát Cổ Quân Hải.”

Dương thị hồi hợp nói: “Sao lại thế? Chuyện cơ mật thế này mà tiết lộ ra ngoài là bị họa sát thân, sao bọn chúng lại sơ ý để lộ cho huynh biết?”

Thành Trí Ngọ hí hửng: “Không phải là ta đi dò la biết được, mà là chúng chủ động tìm đến ta.”

“Chủ động tiết lộ với huynh à?” Mọi người há hốc miệng kinh ngạc.

“Đúng vậy!” Thành Trí Ngọ ung dung nói tiếp: “Thế lực của Cổ Quân Hải mạnh hơn Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài, nếu giết chết Cổ Quân Hải, thực lực hai người suy giảm, họ vốn là gia nô của Tam hoàn, một khi yếu thế khó có chỗ dung thân trong thiên hạ rộng lớn, duy chỉ có nhờ bộ lạc Đông Di ta chưa chấp, họ mới có mảnh đất dung thân.

Cổ Quân Hải từng bắt đi không ít người của chúng ta, thông qua những người này Công Sơn Bất Nữu biết chúng ta phản đối việc lập quốc, nên nhớ Đông Di lập quốc xong là phụ thuộc Ngô quốc, mà Ngô vương Khánh Kỵ thân thiết với Lỗ, hai vị hoàng phi lại là con gái trong tông thất Tam hoàn, với quan hệ mật thiết này, nữ vương Doanh Thiền Nhi lập quốc thành công, họ sẽ mất luôn chốn dung thân, thế là họ tìm đến ta…”

Hắn ngừng lại giây lát, trịnh trọng tiếp lời: “Chỉ cần chúng ta cắt một mảnh đất cho họ các cứ, họ sẽ hai tay dâng thủ cấp của đại đạo Cổ Quân Hải lên, đồng thời giúp chúng ta phá hoại việc lập quốc, các huynh thấy thế nào?”

Mấy tộc trưởng đều hận thấu xương Cổ Quân Hải, nói đúng ra thì Công Sơn Bất Nữu cũng là hung thủ giúp sức cho chủ mưu, nhưng oan có đầu nợ có chủ, dù sao Cổ Quân Hải là kẻ chỉ huy, nên tất cả mũi dùi đều chĩa hết vào hắn. Hơn nữa đám cường tặc này thế lực hùng mạnh, quân Lỗ thảo phạt mạnh thế mà chúng còn chạy thoát được sang Đông Di, nếu có thể nhờ cậy Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài diệt trừ mối họa này, cắt một mảnh đất không thành vấn đề, dù sao lãnh thổ Đông Di rộng lớn, có nhiều đất hoang còn chưa khai phá, nhưng mà…

Ai nấy trầm ngâm suy tư, cuối cùng tộc trưởng Quách thị nói ra mối lo chung của mọi người: “Thành huynh, chấp nhận điều kiện của Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài không có gì to tát, chỉ cần giết được Cổ Quân Hải là đáng giá rồi. Nhưng cho dù thêm vào binh mã của họ giúp sức, chúng ta cũng chỉ ngang bằng với hai bộ lạc lớn Doanh, Phong, không chống lại quân Ngô được đâu.”

Thành Trí Ngọ cười hi hí: “Thế thì phải nói đến viện binh khác rồi, nhưng sự việc trọng đại, các vị tại đây phải cắt máu ăn thề, ta mới nói ra cho mọi người biết.”

Các tộc trưởng răm rắp làm theo, thời đó ai nấy đều mê tín tin có quỷ thần báo ứng nên thề thốt ít ai dám đem ra làm chuyện đùa. Thành Trí Ngọ thế mới yên tâm, hạ giọng nói nhỏ: “Ta nói cho mọi người biết, Tống quốc đương nhiên không duy trì chiến sự được lâu, nhưng hai nước Sở, Việt đang nuôi ý định thảo phạt Ngô quốc, diệt trừ mối họa lớn này.

Nếu Ngô đưa quân phạt Tống, hậu phương chắc chắn bỏ trống, liên quân Sở Việt thừa cơ xua quân đánh Cô Tô thành, thử nghĩ xem, liên quân Sở Việt mạnh cỡ nào, dù không diệt được Ngô thì Ngô vương Khánh Kỵ cũng buộc phải rút hết quân về cố thủ, làm gì còn sức mà lo chuyện ở Đông Di, hí hí, bây giờ các vị có lại niềm tin đứng dậy chống lại ả nữ nhân kia chưa?”

Trên mặt đất thảo nguyên mênh mông của Đông Di, mấy võ sĩ vạm vỡ phi ngựa như bay phóng đi, không ai biết họ đến từ đâu, đang chạy đi đâu.

Mấy ngày sau, trên dòng sông Trường Giang cuồn cuộn, một chiếc thuyền con lướt nhanh vào lãnh thổ Ngô quốc, một võ sĩ trung niên đứng trên mũi thuyền, chính là một trong số võ sĩ đêm đó. Tên võ sĩ chạy đến Hàn Ấp, hắn nhanh chóng được đón vào doanh trại của Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nhận được tin tình báo mới nhất từ Đông Di, cười ha hả khoái trá: “Mọi thứ đều diễn tiến tốt đẹp! Thái đại phu, ông mau lên đường đến Bành thành, truyền ý chỉ của quả nhân cho Xích Trung tướng quân, diễn một màn kịch hay với Tống quốc.”

“Thần tuân chỉ!” Thái Nghĩa đã chuẩn bị sẵn sàng, tinh thần phấn chấn, lập tức chấp tay nhận lệnh.

“Ngọ Đông Chí, ngươi lập tức đến Chung Ly cốc, bảo họ y kế hành sự.”

“Tuân lệnh!”

Ngọ Đông Chí xoay lưng lui ra, hắn vốn là thủ hạ của Triển Chích, nay được Khánh Kỵ chiêu nạp, thân phận công khai của hắn là một thương buôn, có quan hệ buôn bán tang vật giùm đám cường đạo ở Chung Ly cốc nên có thể tự do ra vào sào huyệt của chúng.

Khánh Kỵ lấy từ trong tay áo ra một đạo hổ phù, gọi một tên tín sứ gầy gò lại gần dặn dò: “Ngươi lẻn vào Dư Khâu, đợi sau khi Doanh Thiền Nhi xưng vương ba ngày, giao hổ phù này cho Lương Hổ Tử tướng quân, hắn tự biết phải hành động thế nào.”

Tên tín sứ đưa hai tay đón lấy hổ phù, cung kính vái lạy, lặng lẽ lui ra.

“Úc đại phu…”

“Có thần!”

Khánh Kỵ mỉm cười nói: “Quả nhân gọi ông từ Cô Tô qua đây, có một việc quan trọng giao cho ông.”

Úc Bình Nhiên cảm thấy vinh hạnh nói: “Đại vương xin cứ ra lệnh.”

“Quả nhân muốn ông đi sứ sang Lỗ, xin Lỗ quốc giúp cho một chuyện.”

Khánh Kỵ nói tiếp: “Lỗ quân Cơ Tống có hiềm khích với quả nhân, người này chắc gây trở ngại công việc của ta, nhưng từ khi Khổng Khâu mất thế, thế lực Cơ Tống yếu đi không còn chống lại được Tam hoàn nữa, ông hãy bắt tay từ Tam hoàn, bắt buộc phải hoàn thành việc lớn này.”

“Dạ, không biết đại vương cần thần làm việc gì?”

Khánh Kỵ toát lên vẻ tự tin: “Mượn thuyền!”

Sau khi Úc Bình Nhiên rời khỏi, Anh Đào không chịu được tò mò hỏi: “Đại vương, doanh trại thủy quân tại Nam Vũ thành của ta có chiến hạm nhiều vô số, chiến thuyền của Ngô quốc nay được xem là thiên hạ đệ nhất, sao còn đi mượn thuyền của Lỗ quốc?”

Anh Đào dẫn quân phục kích Yển Tương Sư tại Trần quốc giành thắng lợi, trên đường về được Khánh Kỵ phái người gọi đến Hàn Ấp. Khánh Kỵ trầm ngâm giải thích: “Câu Tiễn hành sự thận trọng, quả nhân không tin hắn không rải nhiều tai mắt ở Ngô quốc ta, khi xưa quả nhân và Cơ Quang đại chiến, hắn có thể thừa cơ đánh cướp, còn tránh được vô số tai mắt của ta. Hừ! quả nhân tin chắc hắn đã sớm cài người vào theo dõi động tĩnh quân ta, vì thế chiến dịch này ta không được dùng chiến thuyền ở Nam Vũ thành, bằng không e đánh rắn động cỏ mất.”

Anh Đào hiểu ra, khâm phục nói: “Đại vương anh minh, nếu đại vương không nói ra, thần… chắc nghĩ không ra.”

Khánh Kỵ cười ha hả: “Cái này ấy hả, quả nhân không dám tranh công, người nhắc nhở quả nhân chính là một công tử xuất thân danh giá ở Việt quốc đến nương nhờ quả nhân.”

Khánh Kỵ thở phì phì, mỉm cười: “Thời tiết oi bức, lại không có chiến sự, thôi không mặc giáp nữa, quả nhân thay thường phục vào đến bên sông thả câu đây.”

Hắn vươn vai than thở: “Từ Phí thành Lỗ quốc quay về Vệ quốc cho đến nay, quả nhân chưa có dịp nào nghỉ ngơi thỏa thích, mong rằng sau này sẽ không bận bịu như thế này nữa thì tốt quá.”

Anh Đào cười trừ: “Đại vương là vua của một nước, gánh vác trọng trách quốc gia, muốn qua những ngày tháng tiêu diêu tự tại đương nhiên không dễ.”

Trên sông Trường Giang, dòng nước cuồn cuộn chảy mạnh, bọt nước trắng xóa xô bờ. Dưới một gốc cây ven sông, có hai bóng người đang ngồi trên phiến đá, hai chân đưa xuống dòng nước, tay cầm một cần câu tre dài.

Trên sông thỉnh thoảng có thuyền đánh cá đi ngang, các ngư dân đội mũ rơm nhìn thấy hai nam nhân đang ngồi câu cá bên bờ, nhưng không ai biết trong hai người mặc thường phục kia, một người là đại tướng quân nắm giữ binh quyền Ngô quốc, còn người kia chính là đệ nhất anh hùng trong thiên hạ, Ngô vương Khánh Kỵ.

“Nắng gắt thế này, ngồi ngay bóng râm dưới gốc cây to còn cảm thấy nóng nực.”

“Hô hô, đương nhiên rồi, độc nguyệt ác nhật…, ngày mai là vào Đoan Ngọ rồi.”

Khánh Kỵ đứng bật dậy, dõi mắt ra xa, nhìn vào dòng sông cuồn cuộn trôi trước mặt, Anh Đào cũng bật dậy đứng sau lưng Khánh Kỵ.

Gió thổi vù vù tung bay tóc Khánh Kỵ, hắn trầm tư hồi lâu, đột nhiên cười to tiếng, nói: “Anh Đào, còn nhớ lần đầu gặp mặt, quả nhân đã nói gì với ngươi không?”

Anh Đào ngớ người ra trong tích tắc, liền sau đó dõng dạc trả lời: “Cùng đại vương quan sát thiên hạ đại thế!”

Khánh Kỵ hùng hồn lặp lại: “Đúng vậy, cùng quả nhân quan sát thiên hạ đại thế.”

Khánh Kỵ nheo mắt vào dãy núi xanh trùng trùng điệp điệp đằng xa xa, tràn đầy tự tin phán: “Có kẻ manh động, có người chờ thời, có sụp đổ, có nổi dậy, có hưng thịnh ắt có suy vong. Cứ chờ xem, thiên hạ này sắp bước vào giai đoạn rối ren rồi đây… Ha ha ha!” 

Giáng thành, màn đêm bao phủ.

Một tiếng thét cất lên, phủ đệ Tri thị đuốc lửa sáng rực như ban ngày.

Cánh cổng lớn bật mở, dòng người cầm đuốc ùa ra như thác nước ào ạt xông về hướng phủ Triệu Giản Tử, cùng lúc đó phía xa xa cũng có hai dòng người tương tự như thế nổi lên trong hai góc khác nhau trong thành, nhưng tất cả đều nhắm hướng phủ Triệu Giản Tử ùa tới.

“Bắt giữ tên đầu sỏ trước.” Từng dòng người hét to.

Cửa đông Giáng thành, tướng quân Triệu Trường Cung đang cùng mấy tên thuộc hạ đang nhấm nháp uống rượu, ngáp lên ngáp xuống, nghe tiếng ồn ào lập tức bật dậy, mấy tên thân binh đang ra sức lay cho hắn tỉnh ngủ, hắn nổi giận chưa kịp lên tiếng chửi câu nào, tên thân binh đã hốt hoảng bẩm báo: “Tướng quân, tướng quân, trong thành xảy ra biến cố, ngài mau đến đây xem.”

“Cái gì?”

Triệu Trường Cung kinh hãi chưa kịp mặc lại áo giáp hấp tấp chạy đi, hắn leo lên tường thành dõi mắt trông theo, chỉ thấy có ba dòng người ào ạt tiến về phía phủ đệ Triệu thị, hắn tỉnh rượu hẳn.

Đêm hôm khuya khoắt, nhiều người tiến đến Triệu gia để làm gì?

Vừa nghĩ đến đó, Triệu Trường Cung biến sắc, hét lớn: “Không hay rồi, có người định hãm hại Triệu đại phu, mau, mau đánh trống lên, gọi tất cả binh sĩ đến phủ Triệu đại phu tiếp ứng.”

“Tướng quân, đã xảy ra chuyện gì?”

Hai vị tướng quân mặc áo giáp chạy lên tường thành, Triệu Trường Cung nhìn thấy mừng rơn, hai người chính là Mạnh, Khúc nhị tướng đêm nay vừa uống rượu cùng hắn. Triệu Trường Cung hét lớn: “Mạnh tướng quân, Khúc tướng quân, hai vị đến đúng lúc lắm, trong thành có người định gây bất lợi cho Triệu Giản Tử đại phu, mau theo bổn tướng tập hợp binh sĩ đi cứu viện.”

“Cái gì, có chuyện này sao? Ai mà to gan thế?”

Hai vị tướng quân giật mình kinh ngạc, xẹt cái lại gần hắn, làm ra vẻ hốt hoảng, Triệu Trường Cung quay lại chỉ tay nói: “Các vị xem, đám người cầm đuốc kia đang xông… Á!”

Triệu Trường Cung chưa nói hết câu đã rú lên đau đớn, hai tướng quân Mạnh, Khúc nhảy phốc ra xa, trên tay hãy còn cầm thanh kiếm dính máu, cười mỉa nhìn vào hắn.

Triệu Trường Cung bị đâm lén sau lưng, máu tuôn như suối, tức tối lườm hai vị tướng quân hắn coi như huynh đệ tốt, rít lên: “Ngươi… các ngươi… dám…”

Hắn loạng choạng đứng không vững nữa, bước lui vài bước, toàn thân co giật mấy cái, gục đầu xuống tắt thở.

Đám binh lính trên tường thành cầm trường mâu vây lấy hai tướng, do Triệu Trường Cung đã chết, hai người này có chức vị cao nhất tại đây, nhưng do họ mới giết chết chủ tướng nên chỉ bao vây, không ai dám nhảy lên chém giết, ai nấy ngơ ngác nhìn nhau không biết phải làm gì.

Đang lúc dằng co, Khúc tướng quân hét lớn: “Triệu Giản Tử cấu kết Ngụy thị, Hàn thị ý đồ mưu phản, nay phụng mệnh Tấn hầu, Tri thị, Phạm thị, Trung Hành thị diệt gian trừ bạo cho nước nhà, các ngươi chịu hạ vũ khí đầu hàng thì còn là binh sĩ của Tấn quốc, còn dám chống cự tội như phản nghịch.”

Nghe Mạnh , Khúc nhị tướng nói thế, các binh sĩ đã tin đến tám phần, ý định chống trả đã tiêu tan một nửa, chính vào lúc này, bên dưới vọng lên tiếng ồn ào, thì ra thân tín của hai tướng đã tự ý mở cổng thành, đại quân của Tri thị lấy cớ đang cần nghỉ ngơi chỉnh đốn đã bí mật được điều động đến đây, nay ùa cả vào thành.

Mạnh tướng quân cười ha hả đắc ý: “Đại quân diệt trừ phản tặc đã đến, các ngươi định bán mạng cho Triệu thị sắp diệt tộc đó à?”

Các binh sĩ không còn ý chống trả, cùng ném vũ khí xuống đất đầu hàng, thành trì lập tức rơi vào tay Tri thị.

Các vệ binh trong hoàng cung cũng đã phát hiện trong thành có bạo loạn, tướng quân Hàn Tại Ý leo lên lầu cao, thấy phủ đệ của Triệu thị bị bao vây tấn công, sau đó phủ đệ Triệu thị, Hàn thị cháy lên, hắn biết sự tình không hay rồi, một mặt ra lệnh cho vệ binh tăng cường canh giữ cổng hoàng cung, mặt khác chạy vội đến xin gặp Tấn hầu Cơ Khí Trạch.

Tấn hầu nghe báo trong thành xảy ra binh biến, phủ đệ Triệu thị bị tấn công, toàn thân run rẩy.

Hàn Tại Ý vội bẩm báo: “Quốc quân, Triệu Giản Tử đại phu là trụ cột Tấn quốc ta, một khi Triệu thị bị diệt vong, e là họ sẽ quay sang đối phó với quốc quân, theo ý thần ta nên phái vệ binh trong cung đi cứu Triệu Giản Tử đại nhân, thừa lúc đêm tối yểm trợ đại nhân bỏ trốn, hoặc đón đại nhân vào hoàng cung cố thủ. Chỉ cần chúng ta thủ được hai ba ngày, đợi các cánh quân khác kéo đến cứu viện, hơn nữa chúng ta còn hai đạo đại quân ở Vệ quốc và Hàn Nguyên, mặc kệ là ai tạo phản cũng chắc chắn chuốc lấy thất bại.”

“Cái gì? Phái vệ binh trong cung đi cứu Triệu phủ?”

Tấn hầu nghe xong lắc đầu nguầy nguậy: “Không được, không được, nhỡ quân phiến loạn xông vào cung gây hại tới quả nhân thì sao? Hơn nữa… hơn nữa chúng chỉ tấn công Triệu phủ mà không đánh hoàng cung, chưa chắc… chưa chắc có ý gây bất lợi cho quả nhân, nếu giờ quả nhân phái binh đi cứu Triệu thị, một khi làm chúng tức giận lên đến lúc đó thì khó nói lắm.”

Hàn Tại Ý giậm chân đùng đùng: “Quốc quân à, Triệu đại phu là bậc trung lương, có Triệu đại phu ở đây nước nhà mới yên ổn, nếu mất Triệu đại phu quyền lực của ngài cũng bị suy yếu, hơn nữa quốc quân là chủ nhân một nước, bọn thần tử chưa được lệnh của người dám tự ý bao vây phủ đệ đại thần trong triều, quốc quân mà đóng cửa làm như không biết, mặc cho chúng làm bừa, một khi Triệu thị bị tiêu diệt, danh tiếng của ngài cũng trôi theo dòng nước.”

“Câm miệng!” Tấn hầu nổi giận: “Trong thành đang hỗn loạn, ngươi là tướng quân bảo vệ hoàng cung mà cứ khuyên quả nhân điều vệ binh đi là sao? Lui xuống mau, ngươi chỉ giữ vững hoàng cung là được.”

Hắn nuốt nước bọt tự trấn an, nhìn vào phủ đệ Triệu thị đang cháy hừng hực đằng xa, lẩm bẩm: “Đợi đến trời sáng, đợi đến trời sáng sẽ ổn thôi…”

Hàn Tại Ý ngao ngán chỉ còn cách quay lại tường thành hoàng cung theo dõi trận binh biến, chỉ thấy phủ đệ Hàn thị của hắn cũng đang cháy to, hắn không kiềm nén được nữa, hét lớn: “Mở cổng ra!”

Thuộc hạ của hắn vội can ngăn: “Tướng quân, không được đâu, bên ngoài chắc chắn có quân mai phục, chúng ta phải giữ hoàng cung, việc đó mới quan trọng.”

Hàn Tại Ý cắn chặt răng không nói thêm lời nào, rút kiếm ra đâm tới, tên thuộc hạ không kịp trở tay bị đâm xuyên ngực rú lên đau đớn ngã gục ra đất, Hàn Tại Ý hai mắt đỏ ngầu, hét lớn: “Triệu, Ngụy, Hàn tam khanh bị phiến quân vây đánh, quốc quân vô dụng, bổn tướng quân sẽ xuất cung cứu viện, các vị huynh đệ có ai chịu đi theo bổn tướng nào?”

Các vệ binh im lặng không dám quyết định, Hàn Tại Ý nói xong, có một số thuộc hạ thân tín của hắn bước ra dõng dạc nói: “Tướng quân, tiểu nhân nguyện đi theo tướng quân.”

“Tốt!” Hàn Tại Ý ra lệnh: “Trong màn đêm khó phân biệt quân địch quân ta, ai theo bổn tướng đều trần cánh tay trái, lần này nếu cứu được Triệu Giản Tử đại nhân lập được công lớn, ai nấy đều được ban thưởng, đi nào.”

Hàn Tại Ý dẫn theo năm sáu trăm người xông ra khỏi hoàng cung đi cứu viện, sau khi hắn đi khỏi, những vệ binh không chịu đi theo hắn lại đóng chặt cánh cổng hoàng cung.

Hàn Tại Ý dẫn theo mấy trăm thuộc hạ thân tín không về Hàn gia mà tiến nhanh về phía phủ đệ Triệu thị, hắn biết rõ lực lượng hai nhà Hàn, Ngụy yếu nên có người tạo phản chắc chắn nhắm vào Triệu thị, nên phủ đệ Hàn, Ngụy chỉ là mục tiêu đánh giả, mục đích chỉ là ngăn không cho hai nhà cứu viện Triệu thị, hắn cứu được Triệu thị là giải vây luôn hai nhà kia.

Nhưng Hàn Tại Ý chưa xông đến trước cửa phủ đệ Triệu thị đã đụng độ với một đội quân, chính là đại quân của Tri thị mới tiến vào thành, hai bên hỗn chiến một hồi, Hàn Tại Ý bị mất sáu bảy chục huynh đệ, hắn thấy kẻ địch quá đông, còn phủ đệ Triệu thị đã cháy to không cách gì cứu được nữa, Hàn Tại Ý biết đại sự đã định, e mình cũng bỏ mạnh tại đây, cắn chặt răng gào to: “Rút!”

Hàn Tại Ý là người quyết đoán, vừa rồi hắn ở trong hoàng cung còn chưa biết rõ tình hình, cứ tưởng trong lục khanh có người dẫn theo gia tướng tạo phản, nay gặp phải quân đội chính quy, hắn biết đối phương đã sớm có sự chuẩn bị, bí mật điều quân vào thành, nếu đã vậy hai nhà Hàn, Ngụy cũng xem như không cứu được, còn dằng co níu kéo thì mấy trăm người của hắn sẽ tiêu tùng theo, do đó Hàn Tại Ý không do dự nữa, cũng không tiến về Hàn phủ coi tình hình thế nào, hắn dẫn theo năm trăm mấy dũng sĩ còn lại giết ra cửa Bắc.

Lúc này trong thành hỗn loạn, người của Tri thị, Phạm thị, Trung Hành thị chỉ lo tiêu diệt người trong phủ đệ Triệu Ngụy Hàn, không ai rảnh đi ngăn cản Hàn Tại Ý, nên hắn thuận lợi xông được ra ngoài thành.

Đứng bên ngoài thành quay đầu nhìn lại, chỉ thấy trong thành lửa cháy đỏ rực, tiếng chém giết vang trời, Hàn Tại Ý thở dài, gọi mấy huynh đệ tâm phúc đến bên dặn dò vài câu, năm trăm tráng sĩ chia làm ba tốp biến vào màn đêm.

Lục khanh của Tấn quốc đều có đất riêng, người trong họ tộc không tập trung toàn bộ trong kinh đô, nay tuy phủ đệ trong kinh thành bị tiêu diệt, nhưng ba nhà Triệu Ngụy Hàn vẫn còn đất còn quân của mình, Tri thị chỉ đánh úp bất ngờ diệt được ba nhà ở kinh thành, nhưng không đủ binh lực chia ra diệt cả ba nhà ở những nơi khác, nghĩ vậy nên Hàn Tại Ý phái mấy huynh đệ từng vào sinh ra tử chia nhau ra đi báo tin khắp nơi, còn mình thì dẫn theo số người còn lại quay về vùng đất thế lực của Hàn thị. 

Tấn quốc xảy ra binh biến, chỉ trong vòng mấy ngày tin tức lan truyền nhanh chóng, chiến loạn lan rộng.

Tri thị liên kết với Phạm thị, Trung Hành thị, thừa lúc đại quân của Triệu, Ngụy, Hàn đang chinh chiến ở Hàn Nguyên và Vệ quốc, bắt đầu điên cuồng xâm lấn ba nhà. Bộ tộc Tiên Ngu cũng xuất quân hỗ trợ Phạm thị, Trung Hành thị. Xích Địch phương Bắc và các bộ lạc man di phía Nam lợi dụng tình hình Tấn quốc hỗn loạn xua quân đánh vào, giết người cướp bóc, khói lửa lan xa ngàn dặm.

Ba nhà Triệu Ngụy Hàn giữ lại quá ít quân trong nước không đủ sức chống trả liên quân Tri thị, Phạm thị, Trung Hành thị, dưới sự chỉ huy của Hàn Tại Ý, hai nhà Hàn thị, Ngụy thị chạy vào Trung Đô cố thủ, đồng thời phối hợp với người của Triệu thị ở Hàm Đan, dựa vào hai thành trì hiểm yếu này chống trả ba nhà kia.

Đại quân đang chiến đấu với quân Tần ở Hàn Nguyên nghe tin trong nước xảy ra binh biến liền rút quân về ngay trong đêm, chạy về tiếp ứng Trung Đô, Hàm Đan.

Quân Tần thấy quân Tấn tự nhiên đang đánh nhau rút chạy, vì không biết rõ thực hư, sợ lọt bẫy mai phục nên không dám xua quân truy đuổi, chủ soái Công Tôn Vũ phái người về nước báo tin, mặt khác tung thám mã đi dò la động tĩnh của người Tấn, vì thời đó đưa tin khó khăn nên quân Tần bỏ qua cơ hội thừa cơ xâm chiếm, đại quân của ba nhà Triệu Ngụy Hàn ở Hàn Nguyên vẫn bảo toàn được thực lực.

Nhưng đại quân đang chinh chiến ở Vệ quốc thì không may mắn như vậy, vì chủ lực của cánh quân này trung thành với Tấn hầu, chủ soái là người xuất thân từ hoàng thất Cơ Thúc Hiến, ba nhà Tri thị, Phạm thị, Trung Hành thị bằng mọi giá không để cánh quân này toàn vẹn rút về nước.

Thống soái Cơ Thúc Hiến đang dẫn quân chinh chiến ở Vệ sau khi nghe tin bạo loạn trong nước, lập tức rút về, khi rút quân đương nhiên cũng tạo nghi binh che mắt quân địch, nhưng liên quân Vệ Tống được Tri thị thông báo tin tức trước, thấy quân Tấn rút quân là biết nội bộ Tấn quốc xảy ra binh biến.

Hiên Viên Hành dẫn liên quân Vệ Tống truy kích quyết liệt, quân Tấn không còn tinh thần chiến đấu, tử thương vô số, máu chảy thành sông, liên quân Vệ Tống không những đoạt về lãnh thổ vừa bị xâm chiếm, ngay cả vùng đất bị Tấn nuốt gọn lâu năm nay cũng được giải phóng, được đưa trở lại bản đồ Vệ quốc.

Quân Tấn bị liên quân Vệ Tống truy kích đánh cho chưa kịp thở, khó khăn lắm mới về tới Tấn, vừa bước vào lãnh thổ Tấn quốc, đại quân của Tri thị lại nhảy ra đón đầu, không còn cách nào khác, các tướng sĩ vừa mới mệt mỏi quay về lại dốc kiệt sức ra huyết chiến một trận với đại quân Tri thị.

Cơ Thúc Hiến bày trận nghênh chiến, chủ lực cánh phải là quân của Triệu thị, còn chỉ huy cánh trái là Công Tử Triều. Từ khi chạy sang nhờ cậy Tấn quốc, Công Tử Triều tài năng xuất chúng, lại khéo ăn nói nên được Tấn hầu thưởng thức, thêm vào đó hắn dẫn quân đánh Vệ lập nhiều công lao, nay đã được thăng chức chủ tướng quân cánh tả.

Tên bắn như mưa, rừng gươm sáng loáng, tiếng thét vang trời, máu chảy thành sông. Công Tử Triều cầm trường mâu chạy vào trung tâm trận địa, không ngừng hét to chỉ huy binh sĩ bày đội hình chiến đấu, nhưng đại quân Tri thị tấn công như vũ bão, quân lính của hắn càng đánh càng ít.

“Công tử, chúng ta sắp chống cự không nổi rồi!” Một viên tướng chạy vội đến bẩm báo, cắn răng nhổ mũi tên cắm trên tay ra, thở hổn hển nói: “Công tử, chúng ta thủ không nổi rồi, công tử mau rời khỏi chỗ nguy hiểm này đi.”

Công Tử Triều đứng chết lặng, ngửa mặt lên trời cười to, thở dài: “Thiên hạ rộng lớn, ta còn có thể đi đâu?”

Viên tướng đó vốn là thân tín của Công Tử Triều lúc từ Tống quốc chạy sang Vệ, hắn vội khuyên can: “Nay Tấn hầu đã bị giam lỏng, Tấn quốc hỗn loạn chia năm xẻ bảy, chúng ta giờ chiến đấu cho ai đây? Hay là công tử đi Tề đi, công tử tài năng lỗi lạc, chắc qua Tề sẽ được trọng dụng.”

Công Tử Triều dõi mắt về phía trận địa, ba cánh quân mới rút về, bao gồm cả tả quân của hắn đang bị bao vây đánh cho tan tác, chắc không lâu nữa sẽ bị đại quân Tri thị nuốt gọn.

Công Tử Triều đứng chết lặng không nói câu nào, thần sắc thểu não, dáng vẻ thảm hại.

“Hừ!” Viên đại tướng đưa mâu gạt bay một mũi tên bắn vào Công Tử Triều, hối hả giục: “Công tử, lúc này không chạy, khi đại quân Tri thị xiết chặt vòng vây, đến lúc đó muốn chạy cũng không kịp nữa đâu.”

Công Tử Triều nghiến răng, đột nhiên kiên quyết lên: “Không, không được chạy!”

Viên tướng đang định khuyên nhủ tiếp, chỉ thấy Công Tử Triều quay lại nhìn hắn, ánh mắt hừng hực, nghiêm nghị ra lệnh: “Đưa lá cờ của ta treo ngược lên.”

Viên tướng ngớ người, thất thanh nói: “Công tử muốn… ?”

Công Tử Triều rít lên chỉ một tiếng: “Hàng!”

Viên tướng há hốc miệng kinh ngạc, đứng đơ ra đó, Công Tử Triều lườm hắn, gằn giọng: “Còn không đi mau!”

“Dạ, tuân lệnh!” Người kia bừng tỉnh, vội vã quay lưng chạy đi.

Soái kì của Công Tử Triều được treo ngược, khắp trận địa lập tức ồn ào cả lên, đại quân Tri thị ngưng chiến đấu, binh sĩ quay đầu tìm chủ tướng coi chỉ thị thế nào, còn quân của Công Tử Triều thấy chủ soái đầu hàng, đều lui cả xuống.

Phía xa xa, Tri thị đang đứng trên một cỗ chiến xa quan sát tình hình chiến sự, thấy cánh tả bên kia giương cờ đầu hàng, hắn ngờ ngợ kinh ngạc, liền sau đó mỉm cười nhẹ nhõm.

“Người đâu, phái người đi nói với Công Tử Triều hạ vũ khí đầu hàng, ở yên đó đợi lệnh, còn quân chủ lực vòng qua Công Tử Triều tấn công thẳng vào đại doanh của Cơ Thúc Hiến.”

“Tuân lệnh!” Tên lính truyền tin vội chạy đi. Phía quân Công Tử Triều lại vang lên trống trận, Tri thị hồi hộp nhỏm người trông theo, chỉ thấy Công Tử Triều không hề buông vũ khí mà tập hợp binh sĩ xung trận, lần này hướng tấn công lại nhằm vào đại bản doanh của quân Tấn do Cơ Thúc Hiến chỉ huy.

Phía trận địa Tri thị, Tri Tuần Lịch thấy tình hình ngày trố mắt ra ngơ ngác, hồi sau hạ giọng nói khẽ: “Tên Công Tử Triều này, không chế ngự hắn được, hắn như con rắn độc lúc nào cũng có thể cắn trả một miếng, nay hắn lại như con chó phản bội chủ đi cắn ngược lại quân Tấn, tiếc là… hắn hết cơ hội rồi, ha ha ha…”

Mặt trời xuống núi, trong ánh chiều tà, khắp chiến trường xác nằm la liệt, máu tươi nhuộm đỏ cả mặt đất. Một chiếc xe tù đứng hiu quạnh dưới bóng hoàng hôn, trong xe là một người mặc áo bào trắng, đầu tóc bù xù.

Công Tử Triều bị trói chặt bằng gân trâu trong chiếc xe tù, bị bỏ dưới ánh nắng phơi hết nửa ngày trời, lúc này hai mắt lờ đờ, bờ môi nứt nẻ, hắn không hề cựa quậy, các sợi gân trâu thít chặt vào da thịt hắn ứa máu, hai tay hai chân hắn đã tê dại, nếu không bị trói chặt chắc giờ này hắn đã gục xuống rồi.

Hắn dõi mắt nhìn xác chết la liệt tứ phía, trong đó có xác quân địch, nhưng phần lớn là binh lính của hắn, số binh lính bị hắn bán đứng, và cả số binh lính cùng hắn bị người khác bán đứng.

Hắn không ngờ lần này hắn lại sai lầm khi đặt cược, hắn quay lại tấn công vào trung quân của Cơ Thúc Hiến, chém đầu chủ tướng dâng lên Tri Tuần Lịch, công lao ấy lớn cỡ nào, thế mà Tri thị cho người bắt giữ hắn khi hắn đem theo thủ cấp Cơ Thúc Hiến đến đầu hàng.

Tri thị thu nhận hết quân của hắn, mắng hắn tráo trở lật lọng, lúc trước phản Tống qua Vệ, phản Vệ qua Tấn, nay lại phản Tấn giúp Tri thị, bất trung bất nghĩa, không biết liêm sỉ. Thật nực cười, nếu Tri thị biết liêm sỉ sao lại phản bội Tấn hầu dấy binh làm loạn chứ?

Hắn càng không hiểu tại sao Tri Tuần Lịch bắt giữ hắn lại không giết, còn rút quân đi, bỏ lại chiếc tù ở đây, chẳng lẽ muốn mặc cho hắn chết đói chết khát ngay tại chốn hoang vu này?

Gió thoảng qua một mùi tanh hôi của máu, Công Tử Triều ớn lạnh, nếu sau khi chết đi ở đây có bao nhiêu hồn ma bị hắn phản bội đến tính sổ thì sao đây? Còn số thuộc hạ thân tín theo hắn đầu hàng bị bỏ mạng nữa, họ sẽ đối xử với hắn thế nào?

Phía sau lưng phát ra tiếng động lào xào, phía xa hình như có tiếng vó ngựa vọng đến, có phải là con đường hoàng tuyền đang mở ra chào đón hắn? Có phải các oan hồn đến đòi mạng? Công Tử Triều hoảng loạn muốn xoay đầu lại nhưng mấy sợi gân trâu thít chặt vào cổ làm hắn không thể nhúc nhích.

Công Tử Triều sợ sệt hét to: “Là ai? Ra đây, mau ra đây cho ta! Ta không sợ đâu, ta không sợ, Công Tử Triều ta là dòng dõi công thất, ta là đại tướng quân, ta giết người vô số, đám tiểu quỷ các ngươi đừng hòng dọa nạt ta!”

“Thế… con quỷ này có làm huynh sợ không?”

Công Tử Triều giật mình, toàn thân cứng đơ, tiếng bước chân càng lúc càng gần, từ phía sau của hắn một đoàn người đi đến, Công Tử Triều không để ý đến nữa, hắn nhìn trưng trưng vào người vừa phát ra tiếng nói lúc này đã đứng trước mặt hắn.

Công Tử Triều toàn thân run rẩy, trong tích tắc hắn đã hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng hình như lại không hiểu tại sao nó lại xảy ra, chỉ kêu lên một tiếng âm u: “Nam Tử…”

Đứng nhìn bộ dạng thảm hại của Công Tử Triều hồi lâu, Nam Tử đột nhiên mỉm cười, nói giọng thân mật: “Tử Triều đó à, huynh đó, người ta còn tưởng suốt đời này không gặp được huynh nữa rồi.”

Công Tử Triều lóe lên một ý nghĩ, lập tức ra vẻ đau khổ nói: “Nam Tử, huynh lại cho rằng huynh chắc chắn sẽ được gặp lại muội. Huynh hận, hận ông trời không cho đôi ta đến được bên nhau, hận Vệ hầu chiếm lấy muội lại bỏ rơi muội. Huynh chấp nhận gánh lấy tội danh phản bội muốn mượn sức của quân Tấn đánh chiếm Vệ quốc, chỉ vì… chỉ vì huynh muốn đường đường chính chính đứng trước mặt muội, muốn được đường đường chính chính ôm muội vào lòng, tiếc là… giờ đây có nói gì cũng đã quá muộn, tất cả lòng khổ tâm của huynh…”

Hắn cố tình ngước mặt lên cho Nam Tử nhìn thấy cái cổ ứa máu của hắn, than thở: “Tiếc là huynh khổ tâm toan tính âm mưu, bây giờ có nói gì muội cũng sẽ không tin đâu. Muội giết chết huynh đi, chỉ cần… chỉ cần muội cảm thấy làm vậy muội sẽ được vui lòng, huynh bằng lòng chịu chết.”

Nam Tử mở to đôi mắt đen láy nhìn chăm chú vào Công Tử Triều hồi lâu, cười dịu dàng nói: “Tử Triều à… huynh đúng là một tên ngốc, sao huynh lại phí công sức mưu toan như thế…”

Công Tử Triều tưởng hắn đã lừa được Nam Tử, trong lòng khấp khởi vui mừng, sắc mặt lập tức cố nặn thêm mấy phần đau khổ, thổn thức: “Đúng đó, huynh… huynh chỉ là một tên ngốc si tình, huynh chỉ nghĩ ra được cách ngu ngốc này để còn chiếm lấy muội…”

Giọng nói của Nam Tử càng lúc càng dịu dàng, nhưng lúc này là mang vẻ chế giễu khinh miệt: “Huynh đó, đến lúc này rồi mà còn nói ngon nói ngọt muốn gạt muội, huynh tưởng người trong thiên hạ đều là kẻ ngốc hết đó à?”

Công Tử Triều nghệch mặt ra, Nam Tử cười khoái chí: “Huynh yêu muội sâu nặng đến thế ư? Huynh nói ra những lời này trước mặt bao nhiêu tướng sĩ Vệ quốc, huynh không sợ ngày tháng sau này của muội trước mặt Vệ hầu sẽ khó sống à? Tử Triều, con người huynh trước giờ chỉ biết tính toán cho riêng mình, bây giờ vẫn không chịu thay đổi, tại sao một người thông minh như muội, cho đến giây phút này mới nhìn rõ bộ mặt thật của huynh chứ?”

Công Tử Triều sợ xanh mặt, ngơ ngác một hồi mới hét to tiếng: “Huynh… huynh đương nhiên biết hiện nay Vệ hầu đã thành bù nhìn điều khiển trong tay muội, đại quyền hai nước Vệ Tống đều lọt cả vào tay muội.”

Nam Tử khẽ gật đầu, giọng nói vẫn dịu dàng mềm mỏng, nhưng đó là nhát dao sắc nhọn: “Đúng rồi đó, nếu huynh đã biết sao không đến tìm gặp muội, tại sao không nghĩ cách lấy lòng muội để muội tin tình cảm của huynh, mà lại dẫn quân Tấn đến tấn công Vệ quốc, đoạt thành trì của muội, huynh muốn đẩy muội vào chỗ chết đúng không?”

“Huynh… huynh…” Công Tử Triều không còn tìm được lí do gì để biện hộ, ấp úng một hồi không biết nói gì để che lấp tội ác của hắn.

“Tử Triều, huynh còn nhớ không? Lúc giúp huynh lấy trộm hổ phù muội đã nói gì với huynh?”

“Nói gì? … Muội nói gì á?” Công Tử Triều đang đờ đẫn, hoàn toàn mất đi trí khôn ngày thường, hắn ngơ ngơ ngác ngác như đứa trẻ.

Nam Tử nhếch mép cười nhạt, đôi mắt sắc lạnh bắn ra một tia sát khí: “Muội từng nói… nếu sau này huynh phụ bạc muội, muội sẽ chính tay giết chết huynh!”

Công Tử Triều thay đổi sắc mặt, giọng run lẩy bẩy: “Nam Tử, muội… muội nhẫn tâm như thế sao?”

“Huynh nhìn xem!”

Nam Tử chỉ vào vò tên đeo sau lưng nàng cho Công Tử Triều thấy: “Huynh nhìn cho rõ, trong này chỉ có một mũi tên duy nhất.”

Nam Tử cười khanh khách, tiếng cười vang cao vang xa như tiếng tru của chó sói, khuôn mặt xinh đẹp của nàng lúc này toát ra yêu khí ngùn ngụt.

“Mũi tên này chính là huynh đưa thân thể của người ta ra đỡ lấy trước Vệ hầu đó, người ta quý nó như vàng ngọc, lúc nào cũng mang theo bên mình.”

Công Tử Triều ngu ngơ không hiểu: “Mang theo bên mình? Để làm gì?”

Nam Tử không trả lời, nàng sải bước đi ra xa, tấm thân thướt tha, mùi hương phảng phất làm say đắm lòng người. Sau lưng nàng, bỏ lại một chiếc xe tù hiu quạnh, xa hơn nữa là từng tốp binh sĩ, gươm giáo sáng choang đổ bóng xuống mặt đất, ánh chiều tà buồn hiu hắt trải dài trăm dặm…

Ai nấy đứng yên lặng cả ở đó, nhìn theo bóng dáng một Nam Tử nhỏ nhắn nhu mì, vẽ nên một bức tranh huyền ảo mang một vẻ đẹp tuyệt vọng, gieo vào lòng người không phải là tia sáng hy vọng, mà là cố chấp, là chìm đắm trong đớn đau.

Công Tử Triều dõi theo Nam Tử, kí ức hiện về, những ngày tháng kỉ niệm tươi đẹp, từng cảnh từng cảnh lướt qua mắt hắn…

Nam Tử dừng lại, nàng cúi người xuống, khi đứng thẳng lên, một cây cung đã nằm trong tay, nàng đưa tay ra sau lấy mũi tên kia ra, giương cung lắp tên, dây cung được kéo căng hết cỡ, đôi mắt nàng đã ngấn lệ.

“Tử Triều!”

Nam Tử hét to, dây cung được buông ra, mũi tên lao đi xé gió, máu của Tử Triều bắn ra, hòa cùng dòng nước mắt của Nam Tử, tan biến vào cõi hư vô…

Binh loạn ở Tấn quốc càng lúc càng phức tạp leo thang, làm cho trung nguyên lòng người hoang mang, Trịnh quốc kẹp giữa Tấn và Sở e sợ Sở quốc thừa cơ xua quân Bắc tiến đánh Tấn, tiện thể diệt luôn mình, lại sợ loạn quân của Tấn xuôi xuống Nam làm hại bá tánh nước Trịnh, bèn tập trung binh lực bố phòng biên giới nam bắc, nơm nớp lo sợ bị họa lây.

Tần quốc sau khi dò thám kĩ, biết tin Tấn quốc nội loạn, tức tối vì bỏ qua cơ hội tốt để phạt Tấn, nhưng trước mắt Tấn quốc nội chiến chưa chấm dứt, Tần không chịu từ bỏ miếng thịt béo bở này, đại quân đóng tại Hàn Nguyên đang chuẩn bị nhảy vào tham chiến kiếm chác lợi ích.

Chính vào lúc này, Tề quốc sớm bố trí đại quân ở biên giới phía Bắc của Tấn mới đứng ra can thiệp.

Thượng khanh Điền Khất của Tề được Tri thị Tấn quốc nhờ cậy, dẫn bảy vạn đại quân tiến vào lãnh thổ của Tấn, đóng tại Cái Dư thành, dùng danh nghĩa Tề quốc mời lục khanh Tấn quốc cùng Tiên Ngu quốc, Vệ quốc, Tống quốc tiến hành họp mặt, giải quyết chiến loạn ở Tấn.

Do Tề đứng ra can thiệp, lục khanh Tấn quốc và các phe tham chiến bên ngoài như Tiên Ngu, Vệ, Tống tạm thời ngưng việc binh đao, cùng cử người họp bàn cách giải quyết tại Cái Dư thành dưới sự chủ trì của Tề.

Triệu Ngọ là gia chủ của Triệu thị ở Hàm Đan, xưa nay luôn bất hòa với Triệu Giản Tử cùng họ tộc, khi Triệu Giản Tử còn nắm quyền lớn luôn chèn ép hắn, nên mối thù Triệu Giản Tư chôn thân trong biển lửa hắn chả quan tâm, cũng không có ý định trả thù, bây giờ hắn chỉ muốn bảo toàn gia tộc Triệu thị, bảo vệ địa vị và quyền lợi của hắn là được.

Do thê tử của Triệu Ngọ là em gái của Trung Hành Dần, gia chủ Trung Hành thị, coi như cũng có quan hệ thân thích, Triệu Ngọ cho phu nhân về nhà ngoại thuyết phục huynh trưởng nghị hòa với hắn, Hàn Tại Ý rất bất mãn về việc này, nhưng thế lực của hắn yếu nhất, lúc này không thể trở mặt với đồng minh Triệu thị nên chỉ còn cách nuốt trôi cơn giận.

Trung Hành Dần biết rõ với thực lực của hắn, nếu cộng thêm Phạm thị và có luôn Tiên Ngu giúp sức cũng không đối chọi với Tri thị được, nay hắn với Tri thị tuy là liên minh, nhưng sau này một khi xảy ra xung đột quyền lực, khó tránh lại phải đại chiến một trận, giữ lại lực lượng tàn dư của ba nhà Triệu Ngụy Hàn có lợi áp chế Tri thị, vì thế hắn ưng thuận hòa giải, hắn sợ mình hắn không đủ sức ảnh hưởng Tri thị nên tìm thêm gia chủ Phạm thị Phạm Cát Xạ, sau khi nói rõ mối lo với nhau, Phạm Cát Xạ cũng tỏ ý ủng hộ hòa giải.

Lúc này các bộ lạc man di Lệ Nhung, Xích Địch đánh vào Tấn quốc cướp bóc giết người dã man, ngày càng táo tợn khó khống chế được nữa, thậm chí đe dọa đến lợi ích của Tri thị, Phạm thị, Trung Hành thị, hơn nữa đại quân của ba nhà Triệu Ngụy Hàn phái đi Hàn Nguyên giao chiến với quân Tần đã được rút về, Hàn thị Nguỵ thị ở Trung Đô và Triệu thị ở Hàm Đan thực lực tăng lên đáng kể, nếu dồn chúng vào chân tường chúng chưa chắc không còn sức chống trả, so sánh hai mặt lợi hại, Tri thị cuối cùng cũng chịu thuận theo lòng người chấp nhận hòa giải.

Thế là hôm qua còn đánh nhau một mất một còn, hôm nay bỗng chốc trở thành bằng hữu thân thiết, cùng ngồi xuống bàn việc phân chia Tấn quốc. Cả bọn khép cho Tấn hầu Cơ Khí Trạch mười trọng tội làm hại quốc gia, đáng bị trừng phạt, giáng Tấn hầu xuống chức Nam tước, chỉ phong cho ba ngôi làng nhỏ nhoi. Các thế lực căn cứ theo lãnh thổ chiếm đóng hiện nay để tách ra lập quốc riêng, Tấn quốc bị chia làm năm quốc gia, đó là Tuân quốc, Phạm quốc, Trung Hành quốc, Triệu quốc, Hàn quốc, trong đó Hàn thị và Ngụy thị liên kết chỉ lập ra một Hàn quốc.

Vệ quốc được quyền tiếp quản lãnh thổ trước đây bị Tấn xâm chiếm. Tiên Ngu chiếm được cả một vùng đất màu mỡ rộng cả trăm dặm sát nhập vào lãnh thổ. Tề quốc làm thuyết khách triều kiến Chu thiên tử, xin Chu thiên tử hạ chiếu phong hầu cho năm quốc gia tồn tại hợp pháp lí. Cuộc bạo loạn kết thúc tốt đẹp, ai nấy đều nhận được phần lợi ích xứng đáng.

Trong cuộc binh biến lần này, Tề quốc tuy không chiếm đóng được lãnh thổ của Tấn, nhưng do Tề đứng ra chủ trì đại cuộc giải quyết khủng hoảng, Tấn quốc nay chia năm xẻ bảy, trung nguyên đệ nhất cường quốc giờ đã không còn, Sở quốc phương Nam từ khi bị Ngô đánh vào Dĩnh Đô còn chưa hồi phục nguyên khí, giờ đây trong thiên hạ ngôi vị bá chủ chỉ còn thuộc về Tề quốc mà thôi.

Năm quốc gia mới thành lập đền ơn Tề quốc, trong cuộc họp các nước chư hầu nhất chí tỏ ra ủng hộ tiến cử Tề quốc lên ngôi bá chủ thiên hạ. Trải qua hơn một trăm năm, Tề quốc cuối cùng lại được hưởng những ngày tháng vinh quang như thời Tề Hoàn Công, trở thành thủ lĩnh của các nước chư hầu.

Tần quốc nhận được tin Tề ra mặt dàn xếp lục khanh ngưng chiến, triệu tập hội nghị Cái Dư thành, biết cơ hội tốt nhất khuếch trương lãnh thổ đã trôi qua, Tần vương trước kia lập quốc chỉ là một tên hầu nuôi ngựa bên cạnh Chu thiên tử, sau vì có công hộ giá nên được phong chức chư hầu, hơn nữa xuất thân Đông Di nên bị các chư hầu trung nguyên coi là man di dị tộc, hội họp gì đó đều không mời Tần tham dự, lúc này xuất binh thảo phạt chẳng khác nào kêu năm nước mới thành lập cùng liên minh lại chống Tần, thế là Tần đành bỏ cuộc, ấm ức rút đại quân đóng tại Hàn Nguyên về nước.

Đại hội tại Cái Dư thành diễn ra sau Đoan Ngọ tháng năm hơn một tháng, trận chiến phía Tây Bắc dính dáng tới Tiên Ngu, Tần, Vệ, Tề, Tấn vừa dẹp yên, một ngọn lửa chiến tranh lớn hơn có sự tham gia của Tống, Lỗ, Ngô, Sở, Việt, lấy việc Đông Di lập quốc làm mồi lửa, lại sắp được thổi bùng lên dữ dội ở góc Đông Nam xa xôi hẻo lánh… 

Trong lúc biến loạn ở Tấn quốc làm cả trung nguyên rung chuyển, ở tận lưu vực Hoài Thủy, Tứ Thủy phía Đông xa xôi, Đông Di tiến hành đại điển lập quốc long trọng, Dư Khâu thành ngày nào nay trở thành kinh đô, đúc bảo đỉnh, tế Thiếu Hạo, sáu mươi bốn bộc lạc lớn nhỏ cùng tề tụ tham gia khai quốc đại điển, tám họ tộc đứng đầu đương nhiên không thể vắng mặt.

Vì Tần quốc và Sở quốc có dây mơ rễ má thời xa xưa với Đông Di nên nể mặt phái sứ giả đến chúc mừng, trong đó Tần quốc là long trọng nhất, vì trước đó Tần vương tiếp kiến sứ giả Đông Di Đan Ô, còn nhận lời thừa nhận nữ vương Doanh Thiền Nhi làm tộc muội, thậm chí còn long trọng viết cả tên nàng vào tộc phả.

Hành động này thiết lập mối quan hệ thân thiết giữa Tây Tần và Đông Di hơn cả cách kết thân bằng cách gả công chúa, cũng như Chu Công tách hậu nhân của nhà Thương thành hai nước Vệ, Tống, nhưng không tách được tình cảm sâu nặng giữa hai dân tộc cùng máu mủ. Đông Di và Tần cùng là hậu duệ của Thiếu Hạo, cùng mang họ Doanh, trong thời đại coi trọng quan hệ gia tộc, các nước chư hầu trong thiên hạ có tám phần mang họ Cơ, duy chỉ có Đông Di và Tây Tần cùng dòng họ, Tần quốc đương nhiên tỏ thái độ ủng hộ nhiệt tình việc Đông Di lập quốc.

Tần quốc ủng hộ và chấp nhận, không chỉ nâng cao thanh thế của Thành Bích, còn xác nhận chắc nịch thân phận của nàng, trước đó gần ngày lập quốc, có không ít lời ra tiếng vào nghi ngờ nàng không phải là hậu nhân của Thiếu Hạo, giờ đây Tần vương nhận Doanh Thiền Nhi làm tộc muội, ghi tên vào tộc phả, lời đồn tự động tan biến, dân chúng Đông Di vốn đôn hậu không còn nghi ngờ thân thế của Doanh Thiền Nhi đã đành, ngay cả các tộc trưởng phản đối lập quốc cũng không còn cớ để vịn vào tiến hành phản đối nàng lập quốc.

Điểm này đám người Thành Trí Ngọ không ngờ tới, họ cứ tưởng Doanh Thiền Nhi kết giao vơi Tần sẽ phá vỡ mối liên minh với Ngô, không hề nghĩ tới dụng ý thật sự của Doanh Thiền Nhi chỉ là muốn danh chính ngôn thuận lên ngôi, thân phận được thừa nhận.

Còn phía Ngô, đến giờ không thấy có gì bất mãn với việc Đông Di lập quốc, Ngô quốc cử sang đội ngũ sứ giả đông đúc long trọng, lấy cớ đề phòng có kẻ phá hoại và đám cường tặc ở Chung Ly cốc làm loạn, Lương Hổ Tử tướng quân dẫn quân phụ trách toàn bộ an ninh thành Dư Khâu, đảm bảo không ai dám mạo hiểm đối đầu với đại quân Ngô quốc đến quấy rối.

Sau khi Doanh Thiền Nhi đăng cơ, lập tức phong quan ban tước cho mọi người, tất cả tộc trưởng lớn nhỏ của Đông Di đều được căn cứ chức vụ lớn nhỏ hiện tại phong quan. Đám người Thành Trí Ngọ đương nhiên không để tâm, họ xưa nay phản đối lập quốc, gần đây vì bị suy tổn thực lực phải gật đầu đồng ý, nhưng vẫn ngấm ngầm chỉ đạo số ít bộ lạc nhỏ phụ thuộc mình gây xung đột với quân Ngô và hai bộ lạc lớn Doanh thị, Phong thị.

Những việc này Doanh Thiền Nhi đương nhiên biết rõ, nhưng nàng đang cần tạo lập uy tín, thái độ mềm mỏng của nàng khiến đám người Thành Trí Ngọ càng làm tới, chúng cho rằng Doanh Thiền Nhi chẳng qua chỉ là một nữ nhân, nàng chỉ biết giở chút thủ đoạn thu phục nhân tâm, còn việc lớn chắc không làm nên trò trống gì.

Doanh Thiền Nhi vừa lập quốc được năm ngày, Đại tư không Thành Trí Ngọ cuối cùng cũng nhận được tin hắn mong chờ lâu nay: Tống quốc tuyên chiến với Ngô. Theo như tin tức truyền về, liên quân Vệ Tống thừa lúc Tấn quốc nội loạn phản kích thành công, thu hồi lãnh thổ bị mất của Vệ, khí thế quân Tống đang lên, bèn lên tiếng đòi lại Bành thành với Ngô, Ngô vương Khánh Kỵ từ chối, Tống quốc xuất binh tập kích trong đêm, phái quân theo đường cống rảnh lẻn vào trong thành mở toang cổng, Xích Trung đại bại mất Bành thành, Khánh Kỵ điên tiết lệnh cho Anh Đào dẫn đại quân đóng tại Hàn Ấp đợi lệnh, còn phái người mang hổ phù đến Đông Di đưa cho Lương Hổ Tử bảo hắn điều quân đi trợ chiến, thề quyết đoạt lại Bành thành.

Lương Hổ Tử sau khi nhận lệnh không dám trễ nải, lập tức tập hợp đại quân cáo từ với nữ vương Doanh Thiền Nhi, ngày đêm lên đường đến Bành thành. Lương Hổ Tử vừa đi khỏi, tâm phúc của Thành Trí Ngọ lập tức rời khỏi Dư Khâu thành, chạy đến liên lạc Chung Ly cốc.

Khánh Kỵ từ khi dẫn quân thảo phạt Hạp Lư cho đến phục quốc, đánh trận nào thắng trận đó, sau khi đăng cơ lại đưa ra nhiều chính sách thiết thực, Ngô quốc ngày một lớn mạnh, nhưng năm nay không biết có phải là năm xui xẻo không? Chuyện không may liên tiếp xảy ra.

Tống quốc xua binh tấn công, thượng tướng quân mới lên chức Xích Trung sơ suất để mất Bành thành, Lương Hổ Tử vừa được điều đi trợ chiến, Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài ở Chung Ly cốc giết chết Cổ Quân Hải, sau đó dẫn quân đánh chiếm Dư Khâu thành.

Không biết có phải là có người tiếp ứng, quốc gia mới thành lập này chưa kịp phòng bị, đám cường đạo của Công Sơn Bất Nữu dễ dàng đánh vào thành, nữ vương Doanh Thiền Nhi được các thuộc hạ trung thành bảo vệ trốn khỏi Dư Khâu, đang tạm lui về trấn thủ tại vùng núi hiểm yếu của bộ lạc Doanh thị.

Thành Trí Ngọ lấy lí do Doanh Thiền Nhi xưng vương mới chín ngày đã để mất kinh đô, phản lại lời thề chấp nhận cho nàng làm quốc vương, sau đó thỏa thuận với Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài cắt đất cầu hòa, cùng đám đại đạo này xua quân tấn công bộ lạc Doanh thị.

Doanh Thiền Nhi trước giờ luôn tỏ ra yếu đuối lập tức ra chiếu chỉ hạ lệnh dẹp yên phản tặc. Lúc này đám người Thành Trí Ngọ mới biết trúng kế của ả nữ nhân này, lúc trước tuy họ không ủng hộ Doanh Thiền Nhi, nhưng xách động người trong bộ lạc xung đột nhau có thể giải thích là vì lợi ích bộ lạc, nay họ đã chịu đồng ý lập quốc chấp nhận chức quan Doanh Thiền Nhi phong tặng, đột nhiên dấy quân kiểu này chắc chắn gánh lấy tội danh phản loạn, Doanh Thiền Nhi có xua quân bình loạn, thậm chí mượn quân từ Ngô quốc, tất cả đều có danh nghĩa hợp tình hợp lí rõ ràng.

Đến bước đường này, đám người Thành Trí Ngọ hối hận thì đã muộn, cũng may còn một điều an ủi là quân Ngô đang bận chinh chiến với Tống, chắc không có binh lực giúp đỡ ả nữ nhân này.

Khánh Kỵ vừa gầy dựng uy danh tột đỉnh, nay gặp hết thất bại này đến thất bại khác, tức giận điên người. Nếu không đoạt lại Bành thành, Đông Di vừa được hắn ủng hộ lập quốc đã không giữ nổi, Ngô vương Khánh Kỵ chắc trở thành trò cười cho thiên hạ, vì lợi ích cá nhân hay đất nước, Khánh Kỵ cũng phải gắng đánh đến cùng, nhằm bảo vệ uy danh bá chủ Đông Nam của hắn, thế là Khánh Kỵ ra lệnh đại quân của Anh Đào lên đường, trong nước gấp rút tiếp tế lương thảo tiến lên Bắc phạt.

Việt thái tử Câu Tiễn nhận được tin tình báo từ Ngô quốc truyền về cười to khoái trí, lập tức đi gặp Việt vương Doãn Thường. Việt vương Doãn Thường đang dùng cơm sáng, nghe tin vui mừng ăn thêm vài chén cơm, chứng đau đầu bị Chúc Dung chọc tức sinh bệnh cũng khỏi hẳn.

Việt vương Doãn Thường đã sớm chịu hết nổi bị Ngô quốc hà hiếp, nếu không phải Câu Tiễn khuyên can, hắn đã mấy lần ra lệnh xua quân đánh Ngô rồi, dù sao Việt đánh Ngô cũng không phải lần đầu, thua trận thì cống nạp vàng bạc châu báu và mỹ nhân cầu hòa thôi. Người Ngô mấy trăm năm qua có diệt được Việt quốc đâu mà sợ? Hơn nữa bên cạnh Ngô quốc còn có nước Sở hùng mạnh lăm le dòm ngó, người Ngô đâu dám dốc toàn lực đáng Việt, kết quả cuối cùng lúc nào cũng là chấp nhận cầu hòa.

Thế nên trước giờ Doãn Thường luôn không e dè việc phạt Ngô, nhưng hắn xưa nay luôn tin vào tài trí của thái tử Câu Tiễn, nên mới nhẫn nhịn đến bây giờ, nay Câu Tiễn tán thành xuất binh, Doãn Thường mừng rơn, liền phái đại phu Duệ Dong đi sứ sang Sở bí mật liên lạc với Phí Vô Cực, chuẩn bị liên minh xua quân phạt Ngô.

Câu Tiễn vì thận trọng nên còn phái đại tư đồ Hạo Tiến đến quốc khố lấy ra gấm vóc năm vạn cuộn, mật ong chín ngàn hủ, da cáo năm trăm tấm và vô số lễ vật quý đi sứ sang Ngô đem dâng tặng Ngô quốc. Lấy danh nghĩa là nghe nói Ngô quốc chuẩn bị Bắc phạt, Việt quốc thân làm nước phụ thuộc đến tỏ chút lành thành, làm ra vẻ thần phục cho Ngô mất cảnh giác, đồng thời thừa cơ thám thính thực hư bố trí binh lực trong Ngô thế nào? Khánh Kỵ có ngự giá thân chinh hay không?

Hạo Tiến đi sứ sang Ngô, bí mật liên hệ với tai mắt rải đầy ở Ngô, lợi dụng thân phận sứ giả đến cống nạp lễ vật thu thập tình báo đưa về cho Câu Tiễn.

Lúc này, Úc Bình Nhiên theo lệnh Khánh Kỵ đã đến Lỗ quốc, trước là bái kiến Lỗ quân Cơ Tống, sau đó tìm đến xin gặp nhạc phục Thúc Tôn Ngọc của Khánh Kỵ, nhà Thúc Tôn xưa nay nắm quyền ngoại giao ở Lỗ, làm sứ giả đi gặp hắn là chuyện bình thường, hơn nữa hắn còn là nhạc phụ của Ngô vương, lấy lí do nào cũng ổn thỏa cả.

Thúc Tôn Ngọc nghe Úc Bình Nhiên trình bày xong việc mượn thuyền, nghĩ đến Khánh Kỵ là con rể của mình, thế lực của nó mạnh lên thì cũng có lợi cho hắn, địa vị của hắn ở Lỗ càng thêm vững chắc, thế là gật đầu đồng ý, còn tìm cách gọi Quý Tôn Ý Như qua nhà bàn bạc nữa.

Quý Tôn Ý Như có giúp Ngô hay không đều không thành vấn đề, hắn chỉ lo một điều, đó là Cơ Tống còn tức tối việc bị Quý Tôn Tiểu Man từ hôn, nay Tiểu Man trở thành hoàng phi của Khánh Kỵ, vì thế làm sao vừa giúp được Khánh Kỵ, vừa không đắc tội Cơ Tống, hắn cần thời gian để suy nghĩ.

Cứ thế cù cưa thêm mười mấy ngày, họ vẫn chưa tìm ra cách vẹn cả đôi đường, lúc này tin Tề quốc ra mặt bình loạn ở Tấn quốc đã truyền về Khúc Phụ, Quý Tôn Ý Như tuy không tài giỏi nhưng cũng hiểu ra Tấn quốc sụp đổ, không lâu nữa Tề sẽ lên ngôi bá chủ, Lỗ quốc nằm ngay dưới Tề sẽ trở thành miếng mồi ngon bị cắn trước tiên, chỉ còn cách giúp Ngô đưa quân Bắc tiến dẹp loạn ở Đông Di, có thêm quân Ngô hỗ trợ chống Tề dù sao cũng tốt hơn, có như thế quyền lực lợi ích của hắn ở Lỗ mới không mất đi.

Vì vậy Quý Tôn Ý Như không do dự nữa, lập tức đồng ý yêu cầu mượn thuyền của Úc Bình Nhiên, hai nhà Thúc Tôn thị và Quý Tôn thị đã đồng ý, Mạnh Tôn thị đương nhiên cũng dễ dàng thuyết phục, liền sau đó Tam hoàn cùng tỏ thái độ cứng rắn ép quốc quân Cơ Tống đóng ấn chấp nhận cho Ngô mượn thuyền.

Khổng Khâu đang phụ trách việc thủy lợi nghe tin dâng sớ can ngăn, hắn cho rằng tuy Tề hùng mạnh nhưng không có ý tiêu diệt Lỗ mà chỉ muốn áp chế Lỗ, còn Ngô vương Khánh Kỵ hùng tâm tráng chí, nếu giúp đỡ Ngô vương, sau này Ngô quốc chắc thành mối họa tiềm ẩn. Nay Lỗ và Ngô là liên minh, nếu không muốn đắc tội với Ngô có thể đưa quân đi Đông Di lấy danh nghĩa giúp Ngô dẹp loạn, làm vậy vừa có ơn với Ngô, vừa không trực tiếp tiếp xúc với quân Ngô, đồng thời lại nâng cao uy danh nhân nghĩa của Lỗ quân.

Ai ngờ tấu sớ của Khổng Khâu như đá trôi vào biển, dâng lên xong là bặt vô âm tín, Khổng Khâu không nản lòng dâng liền mười mấy tấu sớ, cuối cùng hắn cũng nhận được hồi âm, nhưng là một chỉ ý lạnh lùng của Cơ Tống: “Khổng Khâu trị thủy bất lực, phụ kỳ vọng của quả nhân, nay bãi miễn chức Đại tư khấu, từ đi nhiệm vụ trị thủy, giáng xuống làm đại phu.”

Khổng Khâu xem xong ý chỉ của Cơ Tống, trong lòng nhói đau, tấm thẻ tre rơi bộp xuống đất, đứng im chết lặng, trong phút chốc dường như già đi mất mười tuổi… 

Khánh Kỵ tự mình dẫn đại quân Bắc phạt. Hai viên thượng tướng Lương Hổ Tử và Xích Trung đang giằng co tại Bành Thành với đám đại quân Tống quốc vừa thắng trận từ Tây Bắc trở về. Đại quân Tống quốc đang hừng hực nhuệ khí sau chiến thắng, lại đổi Hiên Viên Hành làm đại tướng quân, quân tâm sĩ khí tăng lên gấp bội. Còn Khánh Kỵ và Anh Đào phục kích đại quân Yển Tương Sư ở Dư Khâu, dẹp loạn Đông Di, điều này nằm ngoài dự đoán của bọn Trí Ngọ. Bọn chúng cho rằng, Khánh Kỵ sẽ đánh Tống trước, như vậy chỉ đợi Sở Việt công Ngô, bọn chúng sẽ tránh được mối nguy lớn nhất, từ đó tiếp tục tồn tại từ việc Ngô quốc chiến loạn, ai ngờ rằng Ngô quốc Khánh Kỵ dường như do sự phản bội của chúng mà cảm thấy mất mặt, bỗng nhiên lại không màng tới thế cuộc căng thẳng ở Bành Thành, dẫn binh hành quân tới Đông Di.

Cũng may địa vực Đông Di rộng lớn, sông núi nước non chỗ nào cũng có thể ẩn náu. Hơn nữa những người Đông Di vẫn chưa hình thành thói quen nông canh đến thời này vẫn chỉ biết dựa vào săn bắn, lưới cá để sinh sống, hầu như không có ai là không đủ công cụ sản xuất khi phải di chuyển liên tục cả. Cho nên Thành Trí Ngọ gấp gáp liên lạc với đám loạn đảng phản bội, chuẩn bị xé nhỏ lực lượng ra, chia nhau trốn vào vùng đầm lầy thung lũng, tạm thời lánh khỏi cơn đại nộ của Ngô vương Khánh Kỵ.

Nếu như thật sự để cho bọn chúng bỏ chạy, Khánh Kỵ dù có tăng thêm mười vạn đại quân, muốn tiêu diệt tận gốc sạch sẽ bọn chúng cũng là một điều không thể giải quyết trong thời gian ngắn được. Nhưng điều không ai ngờ được là, loạn Đông Di dựa vào ai cũng không thể chiếm được, sau khi Ngô quốc Khánh Kỵ xuất binh lại giải quyết vô cùng gọn lẹ.

Thành Trí Ngọ đã quá dựa vào sự giúp đỡ của Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài, hai tên đạo tặc nghe nói Ngô vương Khánh Kỵ đích thân chinh phạt Đông Di, không khỏi hồn bay phách lạc. Doanh Thiền Nhi được thể mượn thời xâm nhập, không biết dùng thủ đoạn gì đã thuyết phục được hai tên đạo tặc đó đầu nhập Đông Di. Thừa dịp Thành Trí Ngọ triệu tập bầy đảng thương nghị, đem thủ lĩnh phản loạn một mẻ hốt gọn, toàn bộ giải đi đến chỗ Doanh Thiền Nhi tranh công nhận thưởng, phản loạn ở trong nội bộ Đông Di bỗng nhiên được giải quyết mà không đổ một giọt máu nào hết.

Những bộ tộc thủ lĩnh này ngày nay những chức vụ đều là do Doanh Thiền Nhi phong cho, Doanh Thiền Nhi lấy danh phận là nữ vương Đông Di xử phạt hạ thần phản loạn, bỏ qua cho tội danh tộc lớn chèn ép tộc nhỏ, tránh khỏi khả năng các bộ tộc nổi lên lòng thù hận, khi dân chúng Đông Di chưa biết quyết định xử phạt thế nào đối với đám thủ lĩnh phản loạn bắt được, bỗng nhiên lại đưa ra thủ đoạn động trời này. Đem toàn bộ thủ lĩnh loạn đảng bốn hai người chém đầu thị chúng toàn bộ, những tiểu thủ lĩnh thì bị giam giữ, cách bỏ chức quan, vị trí lãnh tụ bộ tộc của họ cũng theo đó mà bị bãi bỏ.

Ngay sau đó Doanh Thiền Nhi liền trở lại Vu Dư Thành, rồi xây bốn tòa vệ thành ở đây. Dùng vũ lực bức ép những bộ tộc mất đi thủ lĩnh dồn hết vào trong Vu Dư Thành sống chung đụng với bộ lạc Phong, Doanh, nằm dưới sự quản sát của mình. Cưỡng bức bọn họ phải tạo ra sự hòa hợp giữa các bộ lạc. Do bọn họ đều là tộc nhân của Đông Di, chỉ là địa điểm sinh sống khác nhau, lại thêm thủ lĩnh đã mất, nên trở lực cũng ít đi khác thường.

Công Sơn Bất Nữu, Trọng Lương Hoài trước phản Quý Thị, sau phản Cổ Quân Hải, rồi phản tiếp Thành Trí Ngọ, mỗi lần làm phản đều khiến cho chủ cũ chịu phải những tổn thất không gì bù đắp nổi thậm chí là mất đi tính mạng toàn gia đình, danh tiếng của họ cũng bị xóa nhòa hoàn toàn trong khắp thiên hạ, từ đó không có ai dám lôi kéo, thu nạp bọn chúng cả.

Thật ra bọn chúng ngoại trừ việc thay đổi thân phận nô lệ, phản bội lại chủ cũ Quý Tôn Ý Như, tiền đồ trước mặt vô cùng tối tăm. Rồi còn chuyện mật ước với Ngô quốc, phản bội lại Triển Chích nữa. Mấy lần phản bội khác đã không còn là phản bội thực sự nữa, mà là âm thầm phục vụ hai mang cho Ngô quốc rồi. Ngoại trừ một số nhân vật cấp cao ở Ngô quốc rất hạn chế biết được chuyện này, không tiết lộ nửa lời ra bên ngoài, những lần phản bội mà người ngoài thường được biết đến thực chất đều là đang thực hiện kế hoạch của Khánh Kỵ.

Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài biết rằng điều đó chưa chắc không phải do Khánh Kỵ sắp đặt, nhằm triệt để đoạn tuyệt đường lui của chúng. Nhưng việc đã đến nước này thì không thể nói gì hơn, cũng may lần gia nhập cho Ngô quốc lần này của chúng là xuất phát từ đáy lòng, cũng không còn lo từ nay về sau không còn đường lui khác, chỉ cần tạm thời tiếp nhận bổ nhiệm của nữ vương Đông Di Doanh Thiền Nhi, chờ cơ hội danh chính ngôn thuận quy phục Ngô quốc.

Những biến cố đó nhanh chóng lọt vào tai đám nội gián Đông Di truyền tới hai nước Sở Việt, lúc này hai nước Sở Việt đã định sẵn ngày, chuẩn bị đồng thời xuất binh phạt Ngô, một khi biết được biến cố, bọn chúng sợ Khánh Kỵ lại về Bành Thành, đánh bại Tống quân, dẹp loạn mối họa phương Bắc, lúc đó sẽ mất đi cơ hội tốt nhất tập kích Ngô quốc, cho nên lập tức đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị, không chờ đến khi lương thảo được tích trữ đầy đủ, lập tức phát binh tấn công Đông Ngô sớm trước mười ngày.

Lúc này Khánh Kỵ phát binh dẹp loạn Đông Di, vừa mới đưa binh đến nửa đường, cách Vu Dư Thành còn có mấy trăm dặm, liền nghe tin nữ vương Đông Di đã bình định loạn đảng, lập tức chuyển hướng về Bành Thành. Sở Việt không hề sắp đặt nội gián ở Đông Di, một nước du canh du cư, các bộ lạc sống tản mác trên vùng lãnh thổ rộng lớn, chỉ vì muốn nghe ngóng tin tức của Khánh Kỵ, tạm thời phái một toán người giả làm hành thương đi do thám khắp nơi trong Vu Dư Thành.

Bọn chúng đương nhiên không biết, Khánh Kỵ gióng trống khua chiêng tới Bành Thành chỉ với rất ít binh mã, Anh Đào dẫn quân chủ lực tiếp tục tiến về phía trước, đồng thời còn đi tránh đường lớn, vòng qua Vu Dư Thành, đi thẳng tới Lỗ quốc. Cùng lúc đó, Lương Hổ Tử dẫn đại quân xuất phát từ Bành Thành, ngày ẩn đêm đi, mượn đường Lỗ quốc tới bờ Đông Hải...

Việc Lỗ quốc cho mượn đường, mượn thuyền, dưới sự vừa đấm vừa xoa của Tam Hoàn cuối cùng đã được Lỗ quân Cơ Tống đồng ý. Kỳ thật trong nội tâm Cơ Tống hiểu rõ, cho dù hắn không đồng ý, Tam Hoàn cũng dám chuyên quyền độc đoán trước những việc quốc gia đại sự như vậy. Sở dĩ hỏi ý kiến của hắn chỉ là muốn xem hắn có phải là một con rối biết điều hay không mà thôi.

Có lẽ đám gia chủ Tam Hoàn thế gia cũng không ý thức tới, nhưng bọn chúng vô ý thức đưa ra sự do thám như vậy. "Lễ băng nhạc khôi" trong thời kỳ cuối Xuân Thu, chuyện chư hầu kẹp thiên tử, khanh đại phu kẹp chư hầu đã nhìn nhàm mắt, nhưng sự việc soán ngôi đoạt vị thì chưa hề xảy ra, biến cố ở lục khanh Tấn quốc, ngũ khanh cùng lúc lập quốc, Tấn hầu bị đày xuống Tấn Nam... , phá vỡ triệt để quan niệm đã ăn sâu vào lòng mỗi người dân mấy trăm năm qua về việc cha truyền con nối, một khi gông cùm được tháo gỡ, dã tâm của con người sẽ được phát sinh, Tam Hoàn xưa nay vẫn luôn muốn soán vương trị quốc, đến khi người dân bách tính ở Lỗ quốc chỉ biết tới có Tam Hoàn, không biết quốc quân là gì, căn cơ của chúng còn thâm sâu hơn cả lục khanh, bọn chúng làm gì mà không có dã tâm đăng cơ chễm trệ ngai vàng chứ?

Dựa vào tâm mà nói, sau khi Cơ Tống đăng cơ, đã từng có hùng tâm tráng chí, đã từng có khát vọng to lớn xa xôi, nhưng sau khi hắn đăng cơ, giống như là dây vào vũng bùn lớn, quân lệnh không lọt nổi ra ngoài cung, chỗ nào cũng bị Tam Hoàn khống chế, đã không còn có ý muốn tranh đoạt lại quyền lực đã mất. Cơ Tống giờ đây say sưa suốt ngày, đêm đêm ca hát, đã không còn tráng khí trong lòng.

Những bản tấu chương được gửi lên liên tục của Khổng Khâu chìa ra trước mặt hắn chỉ khiến hắn trong cơn say nửa tỉnh nửa mê, một con người đã chết đi ý chí lớn lao nhớ lại ngày xưa một thời oai hùng oanh liệt, ý chí hoài bão lớn lao của mình. Càng nghĩ tới những chuyện xa xưa lại càng khiến hắn thêm đau khổ. Hắn chỉ muốn quên đi tất cả, từ nay về sau làm một quốc quân ngoan ngoãn dâm dật hưởng thụ, nghe lời Tam Hoàn mà thôi, làm sao mà chịu nổi được những tấu thư khuyên nhủ tra tấn tai mắt của hắn?

Vì vậy trong cơn ảo não hắn bỗng trở nên căm giận Khổng Khâu, trong lúc Khổng Khâu đang khổ sở khuyên can thức tỉnh hắn, chỉ một ý chỉ hắn đã triệt để cắt đứt những tiếng ồn ào của Khổng Khâu.

Một kẻ thất bại bất tài chỉ biết giận cá chém thớt trút oán hận và căm hờn xuống đầu kẻ khác, ý chỉ của hắn phải được một cái gật đầu của Tam Hoàn thì mới thực thi được, có lẽ... duy chỉ có lần này, cũng chỉ có việc bãi miễn thân tín của mình, thì mới không cần đến sự cho phép của Tam Hoàn.

Nghĩ đến đây, Cơ Tống ngửa mặt lên trời cười to giống như một con sói trong lồng tru tréo. Đến đêm, hắn lại say túy lúy lần nữa, nửa đêm giật mình tỉnh giấc, hắn ngước nhìn những ngọn nến trên vách đã sắp tắt, những bình rượu đổ trên bàn, vuốt ve bờ ngực của mỹ nhân, đôi mắt mông lung ngà ngà men rượu nghĩ: thực ra cứ thế này cũng tốt, việc gì phải khổ tâm lo liệu quốc sự chứ, đời người ngắn ngủi giống như ngọn nến kia, cứ tận hưởng cho hết lạc thú đi đã...

Khi tin Ngô quân mượn đường Lỗ quốc, đang chuẩn bị tới bờ Đông Hải truyền đến tai Cơ Tống, Cơ Tống đang mặc một bộ quần áo hào nhoáng, mũ mão chỉnh tề, đang tản bộ thong thả đi về Phi Vân đài bên ngoài cung môn. đằng sau lưng là cung điện tráng lệ, ánh nắng chói lọi chiếu lên trên người hắn, kim tuyến trên bào phục sáng lấp lánh. Nhìn như vậy thì hắn cũng khác nào một vị quân chủ cao cao tại thượng đâu cơ chứ.

Lúc này Cơ Tống đang muốn đi tới Xã Đàn và Tắc Đàn, lát nữa còn muốn đi tới miếu đền thờ cúng, bởi vì hôm nay là ngày lễ trọng đại nhân dịp kỷ niệm hắn đăng cơ ba năm, cải nguyên hai năm, ngày này ba năm trước, hắn đã ở nơi này, khoác trên mình y phục quân vương, trở thành quân chủ Lỗ quốc.

Nghe được tin Khánh Kỵ đã mượn đường nước mình đi tới Đông Di từ lời nói nhỏ của bọn thái giám thân cận, Cơ Tống ngẩng mặt lên, híp mắt nhìn lên bầu trời sáng rọi, dường như trở về với ba năm trước, quay trở về Phí thành, trở về những con ngõ nhỏ của tòa thành trống rỗng đó...

Trước mắt lờ mờ hiện ra thân ảnh yêu kiều của Tiểu Man, còn có cả Khánh Kỵ ăn mặc kiểu gia nhân nhà hào tộc quyền thế. Lúc đó hắn vẫn còn là một công tử khoác áo bào trắng, còn Khánh Kỵ, thân phận bên ngoài là gia nô Quý Thị...

Cơ Tống mở to đôi mắt, có lẽ vì ánh dương chiếu thẳng vào mắt, khóe mắt của hắn rơm rớm nước mắt. Hắn quay đầu nhìn lên Phi Vân đài, Lỗ quốc quần thần được Tam Hoàn dẫn đầu, đang cung kính đứng đợi ở đằng kia, trang phục lộng lẫy, chắp tay kính cẩn đợi sự có mặt của hắn.

Bởi vì trong mắt có lệ, nhìn về phía trên, những hình ảnh của đám đại thần trên đó đều bị biến dạng, những chiếc mũ quan đội đầu của họ bị xiêu vẹo thành những hình thù kỳ quái, Cơ Tống bỗng nhiên bật nở nụ cười, dùng âm điệu rụt rè mà uy nghiêm nói:

- Một chút việc nhỏ, cần chi tấu bẩm. Khởi giá, văn võ toàn triều, đi theo quả nhân tới Xã Đàn, thờ tế thổ thần!

Mặt trời ngả về phía Tây, thoắt cái đã hoàng hôn.

Khổng Khâu đã chuẩn bị tư trang đâu vào đấy, một cỗ xe bò, vài tên đệ tử, yên lặng đứng bên thành xe chờ đợi.

Khổng Khâu đứng một mình dưới hành lang, nhìn bóng tịch dương phía chân trời, toàn bộ cơ thể dần dần được phủ lên một lớp sắc hồng cô tịch.

Tử Cống rón rén đi tới bên cạnh hắn, chần chừ đôi chút rồi khẽ nói:

- Khổng sư, chúng ta... phải về rồi...

Khổng Khâu khẽ nhíu mày, thở dài một tiếng nói:

- Bị quân thượng ruồng bỏ, kỳ thực không phải chủ ý của người, Khổng Khâu làm sao có thể xuôi tay ra đi được. Chúng ta... chúng ta đợi thêm lát nữa đi.

Tử Lộ xưa nay tính tình thẳng thắn, nghe như vậy lại nhịn không nổi bất nhẫn nói:

- Khổng sư, chúng ta còn đợi gì nữa? Chẳng lẽ đợi vài đấu bổng lộc của cái đám đại phu đó sao? Khổng sư là thầy của quốc quân, khi quốc quân đăng cơ, Khổng sư nhận lễ quan, một tay sắp xếp tất cả. Giờ đây là đại lễ quốc quân đăng cơ ba năm, cải nguyên hai năm, thế mà lại không mời Khổng sư tham gia cùng, trong lòng nào còn có Khổng sư nữa?

Đám đệ tử nghe thấy những câu nói hùng hồn của Tử Lộ, đều nhìn dồn về phía đó. 

Khổng Khâu nhất thời đỏ mặt, một lúc sau mới nghẹn giọng nói ra một tiếng:

- Khoan... đợi thêm chút nữa, lễ tế bái của quốc quân giờ đã xong, đang phân phát thịt tế cho các đại phu. Nếu như có phần của ta, như vậy cho thấy trong lòng quốc quân còn có một góc cho ta, ta sẽ không phải bỏ đi nữa.

Tử Lộ thấy thầy mình nói vậy, vẫn cảm thấy không yên lòng, cũng không dám nói nhiều, đành phải phất tay áo lui xuống.

Sắc trời... càng lúc càng tối dần...

Bờ sông Tứ Thủy, một mảnh trời mênh mang, ánh trăng đã bắt đầu hơi ló ra chút ít.

Xe của Khổng Khâu dừng lại bên bờ sông, đám đệ tử đốn chặt cây cối cỏ dại xung quanh, chuẩn bị dựng lều trại.

Khổng Khâu một mình một người lẻ loi ung dung đi tới bờ sông Tứ Thủy.

Phần thịt cúng đáng nhẽ được chia cho ông đã không được đưa tới phủ, Khổng Khâu rốt cục cũng tuyệt vọng thật rồi, dẫn đám đệ tử lặng lẽ rời khỏi Khúc Phụ.

Đứng bên bờ sông Tứ Thủy, nội tâm Khổng Khâu bị che khuất bởi một làn khói mù mịt, giờ đã rời khỏi Ngô quốc, sau này biết tới nơi nao? Nơi đâu mới có thể phát triển được hoài bão của mình đây?

Tề quốc, đã từng đi qua. Nhưng Tề tướng quốc Yến Anh có lập trường chính trị không hoàn toàn nhất đồng với ông, tuy đã là bạn hữu lâu năm của nhau, nhưng không hề đón nhận những cách nhìn nhận về chính trị của ông. Kết quả thất bại quay về. Tấn quốc, đã bị chia tách, ngũ khanh tự lập nước riêng, dã tâm bừng bừng mong muốn chiếm được địa bàn rộng lớn hơn nữa, tuyệt không dung nạp đạo nước của ông. Sở quốc quân chủ còn nhỏ, gian thần hoành hành...

Trong thời đại rối ren đầy biến động này, ông sẽ càng không có đất dụng võ. Chu vương triều văn minh lễ nghĩa từ trên đỉnh huy hoàng đang trên đà lao xuống vực sâu, "Lễ", "Lạc" trị đã sụp đổ ầm ầm, càng ngày càng có nhiều người không an phận thủ thường, không tuân theo tôn ti bổn phận, đâu đâu cũng đầy rẫy bọn loạn thần tặc tử. Muốn chấn hưng đất nước, làm nên cái phúc muôn đời đâu phải là điều dễ dàng.

Tư tưởng đắm chìm trong thời đại Chu công huyền diệu tươi đẹp, Khổng Khâu hòa vào dòng suy tư thật lâu, rồi mãi sau mới bị một cơn gió thoảng qua bừng tỉnh. Tất cả đều đã chỉ là quá khứ một đi không trở lại rồi. Thế giới này sẽ không bao giờ quay về lại trật tự như ông mong muốn. Cúi đầu nhìn những con nước bì bập đôi bên bờ, tiếng thở dài của Khổng Khâu giống như một cơn gió chiều thê lương ảo não.

- Thệ giả như tư phu! Bất xá trú dạ...(ví von với việc dòng nước trôi đi sẽ không còn quay lại được nữa, mặc cho thời gian cứ quay từng vòng nghiệt ngã)

Bành Thành

Trăng sáng như gương, nước sông ì ầm, hòn đá ngẩn ngơ.

Màn đêm vẫn mang theo vài phần nóng nực của tiết trời hè, nhưng dù sao thì cũng đã bước sang thu, những cơn gió mát lành khẽ thổi. Bên tai là tiếng suối nước chảy róc rách. Mặt trăng trông như đĩa bạc lấp ló dưới bầu trời, đưa ánh chiếu bàng bạc như thủy ngân phủ khắp mọi nơi. Cảnh khuya mỹ lệ như tranh vẽ vốn đã đủ khiến cho ủ rũ trong mình hoàn toàn tiêu tán, huống hồ bên cạnh còn có cả một tuyệt thế giai nhân nữa.

Sợi tóc mềm mại đung đưa trước những làn gió nghịch ngợm ve vuốt, một cặp mắt long lanh kiều diễm như những vì sao đêm đầy huyền ảo. Nhưng chỗ khiến lòng người ta phải xốn xang với nàng không phải là khuôn mặt kia, mà là phong vận nhu thuận ẩn hiện trong sự cương nghị, phong thái cao ngạo khẽ chứa một chút mê người của nàng.

Làn gió lay động mái tóc dài cùng xiêm y mỏng manh của nàng, dường như muốn theo gió bay vào nguyệt cung. Những tia sáng trên bầu trời lấp lánh như tiên tử, tiên tử trên đá uyển chuyển hàm xúc giống như ánh nắng mặt trời, thế nào là phong nguyệt? Đây chính là cái gọi là phong nguyệt đó...

- Tấn quốc trước kia là một quốc gia, quan hệ giữa các nơi móc chéo không ngừng, nay Tấn quốc chia năm, rất nhiều con dân muốn được di cư, ranh giới quốc gia cũng không được phân chia rõ ràng, muốn giải quyết những tranh chấp đó, không phải chuyện một sớm một chiều. Đợi khi vấn đề được giải quyết xong, bọn chúng chắc chắn sẽ phối hợp sát phạt, mưu cầu những lợi ích to lớn hơn, cho nên... sau này Vệ quốc sẽ không có những uy hiếp to lớn như xưa nữa. Vệ quốc có thể tồn tại được đến ngày nay trước một nước Tấn hùng cường như vậy, thì cũng có thể tiếp tục chống chọi thêm nữa, hơn nữa tình cảnh còn dễ thở hơn xưa nhiều, chúc mừng ngài.

Nam Tử nhìn đắm đuối Khánh Kỵ, nàng không mặc bào phục chính thức, mà mặc một bộ áo đen tuyền theo ý thích, những sợi tơ áo được gạt sang một bên, để lộ ra cặp đùi trắng nõn săn chắc của nàng, dưới ánh trăng chiếu vào còn bóng bẩy đôi chút.

- Ngài... - Nam Tử cắn cắn môi, khẽ khàng đáp:

- Mục đích thật sự của việc thỉnh cầu đại vương mượn Tần binh, chắc hẳn ngài đã biết rồi, ngài... ngài không trách thiếp sao?

- Tại sao phải trách nàng chứ? Tấn quốc xa mãi tận Tây Bắc loạn hay không thì chẳng can hệ gì tới Ngô quốc ta cả, tuy nàng không nói cho ta mục đích thực sự, nhưng cũng chẳng hề hại tới ta, phải không nào? Ta có nhỏ nhen như thế không?

Khánh Kỵ cười sang sảng, Nam Tử nghiêng đầu, giống một con chim nhỏ đưa mắt nhìn hắn, nàng không hề vén búi tóc, trước mặt Khánh Kỵ, vị nữ nhân ăn mặc phóng khoáng giống như một tiểu thê tử đang hầu hạ cạnh phu quân vậy, chứ không phải là một công chúa nước khác, một quân phu nhân nước khác.

Làn tóc đen nhánh xõa rối đưa hương trên đôi vai thon gầy, khuôn mặt của nàng trắng nõn, đôi mắt đen láy cũng như được phát sáng. Sự có mặt của nàng dường như khiến cho ánh trăng trên trời cũng phải tiêu tán đi vài phần thanh sắc, vẻ đẹp siêu phàm thoát tục kia đã không còn giống như nhan sắc bình thường ở nơi phàm trần thế tục.

Rất lâu sau đó, nàng cất tiếng bẽn lẽn hỏi:

- Thật à?

- Thật!

Khánh Kỵ nghiêm túc nói:

- Lục khanh diệt Tấn, nước Tấn hùng mạnh bị diệt vong, toàn Trung Nguyên rơi vào cảnh hỗn loạn, Tần quốc đỡ được cường địch cản đường, chắc gì đã chịu an phận phát triển bó hẹp ở Quan Trung, Tề quốc rục rịch mưu đồ thiên hạ bá chủ, Nhung Địch man di phương Bắc cũng không để vuột mất thời cơ tốt, thuận thế mà xâm nhập vào Trung Nguyên. Các quốc gia tầm trung sẽ phải tổ chức lại lực lượng, một mặt là để tăng cường sức phòng thủ, một mặt là để hợp tung liên hoành chống lại cường địch. Sự sụp đổ của Tấn quốc khiến cho thiên hạ trở thành "đại tranh chi thế", khắp nơi bao trùm khí huyết tranh đấu, đây là cơ hội hiếm có suốt sáu trăm năm qua tông Chu thiên hạ, kể cả ta đã sớm biết được mục đích thực sự của nàng thì cũng nhất định toàn tâm toàn lực ủng hộ nàng.

- Đại vương chí tại thiên hạ ư?

Khánh Kỵ mỉm cười:

- Chí hướng nam nhi, đã là vua một nước, tại sao lại không mong nguyện bá chủ chứ?

Nam Tử khẽ thở dài:

- Tề Hoàn, Tấn Văn, Tần Mục, Sở Trang, và cả tổ tiên Tống quốc Tương Công đều đã trước sau xưng bá trước chư hầu, đại vương có chí như vậy, khó trách việc Bắc chiếm Hoài Tứ, Tây tiến Hán Giang. Chí hướng đại vương cao xa, chúc đại vương sớm có ngày hoàn thành hoài bão của mình.

Nói đến đây, nàng như trút được gánh nặng nhẹ nhàng thở hắt ra ngoài, nói trong suy tư:

- Thiếp... khi thiếp rời khỏi Cô Tô thành, còn đang lo vì lợi dụng ngài, để đại vương ghét thiếp hận thiếp, cả đời này không còn cơ hội gặp lại đại vương nữa.

Nàng ngẩng mặt lên, nhìn lên ánh trăng tròn vành vạnh, cất tiếng lảnh lót:

- Lúc đó... thiếp đã không còn ôm bất cứ hy vọng nào nữa, chỉ muốn làm cho xong tất cả những gì thiếp mong muốn. Khi giết chết Tử Triều, trong lòng thiếp dường như cũng đã héo hon chết đi rồi. Thiếp thật không thể nghĩ rằng... đại vương chấp nhận gặp thiếp. Khi trông thấy tín sứ của đại vương, thoạt đầu thiếp mừng đến chết đi được, sau đó lại nghĩ rằng có kẻ nào đang gạt mình, nhưng vẫn không kiềm được lòng mình phi ngựa thẳng tới đây.

Khánh Kỵ cười nói:

- Nếu ta muốn lừa gạt nàng thật, thì ta sẽ dụ nàng tới đây rồi sau đó giết nàng trút căm phẫn thì sao?

Nam Tử quay đầu sang một bên, đắm đuối nhìn Khánh Kỵ, gò má nhợt nhạt dần dần trở lại hồng hào, dưới ánh trăng tuy không nhìn rõ đôi má ửng hồng say lòng người, nhưng thần vận của nàng trong chốc lát đã biến đổi. Thoáng cái từ một tiên tử với vẻ đẹp thoát tục trở thành một mỹ nhân buồn vui lẫn lộn, hoạt sắc sinh hương.

- Điều đó thì sao nào, khi tín sứ của đại vương tới, đã coi như cứu sống thiếp một lần rồi, dẫu rằng chỉ sống được thêm vài ngày, thì thiếp cũng đã coi như sống lại rồi. Cho nên, khi thiếp đến vốn đã không thiết việc đại vương đối xử thế nào với mình, chỉ cần thiếp đến được đây... đã toại nguyện rồi.

Nàng nhìn Khánh Kỵ thật lâu, thổ lộ tiếng lòng mình, cặp mắt đen nhánh cứ hấp háy liên tục, long lanh như giọt sương mai giữa ngày xuân. Còn sự bộc bạch tâm tình kia giống như những ngọn gió xuân mềm mại dịu êm phe phẩy qua làn nước hồ phẳng lặng, cuối cùng khiến những giọt sương run rẩy rụng rơi, rớt xuống trên khuôn mặt đầy thanh khiết ngọc ngà của nàng.

Hơi thở của Khánh Kỵ dường như đã ngừng lại, hắn thực sự chỉ muốn ôm chặt lấy nữ tử suốt đời mưu cầu quyền lực, nhưng dù sao cũng chỉ là một người con gái yếu đuối theo đuổi tình yêu chân chính kia vào lòng thật chặt mà thôi. Thế nhưng... vẫn chưa tới lúc, hắn lưỡng lự, thật sự chưa muốn nói chuyện yêu đương lăng nhăng vào lúc này, còn muốn làm sáng tỏ thêm một số điều khúc mắc đã.

Hắn kìm nén lại tình cảm của mình, nhẹ nhàng quay mặt đi, nói:

- Màn kịch này còn cần Tống quốc phối hợp cùng, cho đến khi... tin tức liên quân Sở Việt đánh tới Cô Tô thành truyền tới, sau đó liên quân Ngô Tống lập tức giải quyết tranh chấp, ký kết đồng minh.

Trong ánh mắt Nam Tử hiện lên đôi chút thất vọng, nàng thuận theo ý Khánh Kỵ thay đổi chủ đề:

- Đại vương... đã chuẩn bị xong chưa? Đại quân bên ngoài, liên quân Sở Việt tiến đánh Cô Tô, liệu có thực sự tấn công vào thành không?

- Ha ha, trong thời gian ngắn chúng không làm nổi đâu. Ta đã đánh Cô Tô thành suốt mấy tháng, nó kiên cố thế nào, dễ thủ khó công ra sao, ta đều rõ rành rành cả. Vả lại, hiện trong thành còn có thêm cả quân lính của Kinh Lâm, có đám đại thần Tôn Vũ, Phạm Lãi, Văn Chủng cạnh bên, nếu ta đoán không sai, liên quân Sở Việt chưa chắc đã không chịu bất chấp hy sinh tấn công mạnh mẽ Cô Tô thành. Rất có khả năng, chúng lợi dụng sau khi ta nghe được tin thành bị bao vây, dù biết rõ đó là gian kế nhưng cũng không còn lựa chọn nào khác, buộc phải cắn răng quay về cứu trợ, chúng dùng Cô Tô thành làm mồi nhử, để nuốt chửng lấy con cá lớn như ta.

- Ừm..

Nam Tử khẽ xoa cằm:

- Trừ phi chúng sớm biết được kế sách của đại vương, nếu không chắc chắn sẽ chẳng nghĩ rằng ngài lại giở chiêu cũ, phái đại quân từ ngoài biển tiếp tục vòng qua sau lưng chúng, công chiếm Việt quốc đô thành Hội Kê. Nếu như vậy, thì việc chúng dụ ngài đến cứu viện, sẽ gậy ông đập lưng ông, đảo ngược lại là ngài dụ chúng bắt buộc phải về cứu viện. Chỉ có điều... bọn chúng tấn công Ngô quốc, chắc chắn Ngô quốc sẽ không tránh khỏi nhiều tổn thất.

- Đúng vậy.

Khánh Kỵ bùi ngùi thở dài, ngửa mặt nhìn trời nói:

- Trên trời trăng tròn vành vạnh, nhân gian nguyệt quá bán, thế sự làm gì có chuyện hết thảy đều thập toàn thập mỹ chứ? Chỉ cần... chỉ cần trả cái giá nhỏ nhất, đạt được lợi ích to lớn trường tồn nhất, vậy thì hy sinh cần thiết đương nhiên là cấp thiết và xứng đáng rồi.

Trên mặt Nam Tử lộ ra nụ cười ngọt ngào:

- Nhưng lần này có lẽ đại vương chỉ phải nhàn nhã quá mức thôi. Ngài là dũng sĩ số một Ngô quốc, lĩnh binh đánh trận bao giờ cũng đi tiên phong, lần này lại nghỉ ngơi tự tại chờ tin tại nơi này, rất nhiều chiến công oanh liệt không thể được hoàn thành trong tay đại vương nữa rồi.

Khánh Kỵ mỉm cười nói:

- Không tại vị không dám nghĩ chuyện chính trị. Giờ ta đã là đại vương, thì cần làm chuyện một đại vương nên làm. Bày mưu nghĩ kế, quyết thắng nghìn dặm, mới là chức trách của ta. Mọi việc chỉ cần phát triển theo dự định của ta là được, tuy rằng những ánh hào quang trong mắt người đời chỉ hướng về những diễn viên (chỉ đám tướng tá) kia, nhưng nhân vật chính thực sự của màn ảnh lại chính là người đạo diễn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro