Hà Nội

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Các cụ xưa có câu:

" Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An"

Đó là mở đầu câu ca dao cổ ca ngợi bản sắc của người Hà Nội.

Tràng An thường được dùng trong các áng vǎn chương chỉ về Hà Nội. Thực ra đây là tên của một đô thị nổi tiếng của Trung Quốc, nơi nhiều triều đại từ nhà Hán đến nhà Tuỳ, Đường đóng đô, kéo dài hơn 1000 nǎm. Ví Hà Nội như Tràng An, người ta muốn nhấn mạnh đến tính chất phồn hoa của một kinh đô, đồng thời cũng là ca ngợi tính thanh lịch của người ở đây.

Lịch ở đây có nghĩa là trải (từng trải, trải qua, lịch duyệt, lịch sự hay lịch lãm...). Câu ca dao cổ khẳng định cái nét của người Hà Nội xưa và ngày nay vẫn còn được giữ gìn trân trọng.

Tính cách thanh lịch của người Hà Nội thể hiện ở cách ứng xử vǎn hoá mà cụ thể ở trong cách nói nǎng, ǎn mặc, giao tiếp...

Tiếng nói Hà Nội trước hết là ở chỗ phát âm đúng, từ ngữ chuẩn xác, có thể làm mẫu mực cho cả nước. Người Hà Nội còn biết sử dụng tiếng nói lưu loát, nhã nhặn, lịch sự. ấy là vì ngoài tiếng nói của địa phương mình, người Hà Nội còn biết tiếp thu có sàng lọc tiếng nói của mọi miền đất nước, giữ lại những gì tinh tú nhất. Lời nói của người Hà Nội thường ý nhị, tôn trọng người đối thoại. Họ không ưa nói cách nói cộc lốc, thô lỗ.

Người Hà Nội rất sành ǎn uống, họ đã nâng việc nấu nướng, ǎn uống lên thành nghệ thuật, nghệ thuật ẩm thực. Món ǎn Hà Nội ngon từ cách chế biến, từ chút gia vị, nước chấm cho đến cách bày biện thế nào cho đẹp mắt, gợi cảm mà không phàm tục và khi ǎn cảm thấy thích thú. Chính vì vậy mà các món quà Hà Nội trở nên nổi tiếng, chỉ riêng Hà Nội mới có. Chẳng thế mà đã có hai nhà vǎn tên tuổi dành cả cuốn sách để viết về đề tài này. Đó là nhà vǎn Thạch Lam với cuốn "Quà Hà Nội" viết trước nǎm 1945 và nhà vǎn Vũ Bằng với cuốn "Miếng ngon Hà Nội" viết sau nǎm 1954.

Người Hà Nội ǎn uống có ý tứ; khi ǎn uống thường mời chào nhau, nhường người khác gắp trước, tiếp cho khách miếng ngon. Những hiện tượng ǎn tục, uống phàm, xô bồ ầm ĩ, xa lạ với phong cách ở đây.

Trong trang phục, người Hà Nội ưa chuộng sự gọn gàng, tề chỉnh và trang nhã. Mặc đẹp nhưng kín đáo, không cầu kỳ loè loẹt, không phô trương lố lǎng: Họ bảo vệ phong cách dân tộc trong trang phục. Chiếc áo dài của phụ nữ Hà Nội là một ví dụ. Sau nhiều nǎm vắng bóng do hoàn cảnh chiến tranh và khó khǎn về kinh tế, ngày nay chiếc áo dài ấy lại trở lại với hai tà áo thướt tha, với cái cổ áo cao duyên dáng mà kín đáo.

Ngày nay ta thấy trên đường phố Hà Nội nhiều cô gái mặc váy và quần áo theo kiểu châu Âu cũng rất đẹp, hiện đại mà duyên dáng. Điều đó chứng tỏ người Hà Nội không bảo thủ. Họ biết tiếp thu cách ǎn mặc hợp thời trang, phù hợp cuộc sống sôi động hôm nay, nhưng từ những bộ trang phục ấy cũng toát lên một sự chọn lựa đầy ý nhị. Còn khi sử dụng những màu rực rỡ, họ thường biết cách phối hợp chúng để bộ quần áo vẫn còn giữ được phong cách nền nã, lịch sự.

Không chỉ thanh lịch trong ngôn ngữ, ǎn mặc, tính chất thanh lịch ấy còn được thể hiện trong làm ǎn, cách giao tiếp. Đó là vì Hà Nội đã có một quá trình lịch sử lâu dài, là nơi hội tụ nhân tài, vật lực của bốn phương. Hà Nội tiếp thu mọi tài hoa và chắt lọc, phát triển thành lề thói Hà Nội, câu ngạn ngữ "khéo tay hay nghề, đất lề kẻ chợ" là để ca ngợi cung cách làm ǎn của Hà Nội.

Ngày hôm nay, Hà Nội cũng như trên cả nước đang mở rộng của đón bè bạn từ khắp các nơi trên thế giới viếng thǎm, làm ǎn. Hà Nội đổi mới từng ngày từng giờ, Nhiều dự án đầu tư, nhiều công trình mới xây dựng, Hà Nội cùng cả nước tiến vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng bản sắc Hà Nội từ ngàn xưa vẫn còn giữ mãi. Với sức sống dẻo dai, với lòng yêu cái đẹp đã được hun đúc từ nhiều đời, người Hà Nội hôm nay đã và đang đẩy lùi những gì không phải là của mình. Từng người, từng gia đình vẫn giữ "nếp nhà" cứ như thế người Hà Nội muôn đời thanh lịch.

Đôi nét về Hà Nội

Hà nội ngày nay nằm trên cùng đất bồi tụ của ngã ba sông Hồng, sông Đuống, là vùng trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, bởi vậy sự hình thành vùng đất Hà Nội cùng gắn liền với sự kiện tạo vùng châu thổ sông Hồng, vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Hà Nội cổ 4000 năm trước từ thời vua Hùng dựng nước, là một vùng đất cổ của một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Căn cứ vào các tài liệu sử học và văn hoá dân gian thì đất Phong Châu là nơi vua Hùng đóng đô.

Kinh đô nước Âu Lạc là Phong Khê nay là Cổ Loa - huyện Đông Anh, trải qua bao năm tháng, bao mùa lũ phù sa bồi đắp dần dần hồ đồng bằng đã trở thành đồng bằng. Vào thời ấy khu vực Cổ Loa là bãi bồi, bậc thềm của bờ sông Hồng, sông Ngũ Huyện,..Cổ Loa vừa là thung lũng, vừa là đê ngăn lũ cho kinh kỳ. Trong tình hình địa lý thời bấy giờ không đâu sánh kịp Cổ Loa về địa thế thuận lợi cho một kinh kỳ.

Từ thời khởi thuỷ Hà Nội cổ chỉ mới là một làng quê cổ nằm ven sông Tô Lịch. Làng quê này có cái tên huyền thoại Long Đỗ vào thời Hùng Vương, An Dương Vương. Đến thế kỷ thứ năm khu làng gốc của đất Hà Nội cổ đã phát triển thành một huyện, một quận tên là Tống Bình vào thời nhà Tuỳ. Đến năm Giáp Tý (544) Lý Nam Đế, sau khi đánh đuổi thứ sử nhà Lương, lên ngôi vua đổi tên nước thành Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diêm Hạ Mỗ (huyện Đan Phượng ngày nay) và dựng thành luỹ bằng tre gỗ ở cửa sông Tô Lịch thông ra sông Nhĩ Hà là đất phường Giang Khẩu hay Hà Khẩu (nay là phố Chợ Gạo - Hoàn Kiếm).

Sang thế kỷ thứ VII Tống Bình trở thành trung tâm của nhà Tuỳ thống trị cả đồng bằng Bắc Bộ. Năm 621 nhà Đường thay nhà Tuỳ bắt đầu xây dựnga thành luỹ ở Tống Bình và năm 679 đặt ở đấy trụ sở của "An nam đo hộ phủ". Đến thế kỷ thứ X, Tống Bình là thành luỹ chính của bộ máy đô hộ phủ phương Bắc, Trương Bá Nghi xây La Thành, Trương Chu đến Cao biền đắp rộng ra lấy bờ sông Tô làm hào tự nhiên. Hà Nội cổ từ đó mang tên Đại La thay cho Tống Bình.

Sau 1000 năm ngoại thuộc, Ngô Quyền giành lại độc lập và trở về kinh đô ở Cổ Loa xưa. Đất nước chưa hoàn toàn thống nhất nên phải đóng đô ở Hoa Lư, một vị trí khuất, địa thế hiểm trở không có khả năng phát triển thành nơi đô hội. Đến triều đại độc lập thứ 3, Lý Công Uẩn đã hạ "chiếu thiên đô" năm 1010, lời chiếu nói rõ lợi của việc thiên đô là "cốt để mưu việc lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì rời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh". Năm 1010 Lý Công Uẩn rời kinh đô từ Hoa Lư ra Đại La và đổi tên là Thăng Long. Tục truyền khi thuyền ngự từ sông nước Hoa Lư cập bến Đại La, bỗng có Rồng vàng hiện lên trên sông rồi bay vút lên trời, vua Lý Thái Tổ cho đó là điềm lành nên nhân hình ảnh đó mà đặt tên cho kinh đô mới là Thăng Long có nghĩa là rồng bay lên.

Từ năm 1010 - 1225 thời kỳ kiến thiết đất nước trên qui mô lớn và Thăng Long xây dựng xứng đang là quôc đô của một nước hùng cường mở đầu một thời kỳ văn hoá rực rỡ, văn hoá Thăng Long.

Năm Mậu Thân 1428, nhà Lê lên ngôi vẫn lấy Thăng Long - Đông Đô là quốc đô nhưng đổi thành Đông Kinh (1430).

Triều Mạc ngắn ngủi vẫn lấy Đông Kinh làm quốc đô, thời ấy lái buôn phương tây bắt đầu đến, tên Đông Kinh họ phiên âm ra tiếng La tinh là "Tonquin". Còn trong dân gian thì "Kẻ Chợ" là tên gọi phổ biến cho đô thị Thăng Long - Đông kinh bấy giờ.

Qua các thời kỳ Lý, Trần, Lê kinh thành Thăng Long - Đông đô của nước Đại Việt đã trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Nền văn hoá Thăng Long tiêu biểu cho cả kỷ nguyên văn minh Đại Việt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15. Thăng Long vừa qui tụ, vừa tập trung tinh hoa văn hoá cả nước, vừa toả sáng văn hoá ra cả nước. Sau hàng nghìn năm bị đế chế Bắc đô hộ, hơn 100 năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. nhân dân Việt Nam mới giành được độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Thành phố rồng bay đã vươn lên mạnh mẽ trong công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá. Kể từ ngày giải phóng Thủ đô (10-10-1954) đến nay Hà Nội đã trải qua hơn 40 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành dưới sẹ lãnh đạo của Đảng. Ngày ấy đã cắm một mốc son sáng ngời, mở ra một thời kỳ mới cho Hà Nội trên con đường đổi mới và phát triển. Hà Nội đã hoà nhập cùng đát nước, hoà nhập với khu vực và quốc tế để bước vào một thời đại mới, hứa hẹn những thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Hà Nội hôm nay là "chàng trai mười bảy" vươn vai Thánh Gióng trên thế tựa Rồng bay với hàng nghìn nhà máy, xí nghiệp lớn nhỏ thuộc mọi ngành nghề khác nhau. Thủ đô Hà Nội đang bước vào thời kỳ phát triển và đổi mới. Mọi hoạt động xã hội đều chuyển theo cái trục kinh tế. Tuy nhiên Hà Nội ngày nay còn là hiện thân của ngàn năm văn hiến, của bản sắc văn hoá, là biểu tượng, là tinh hoa của đất nước.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#education