Hà Thần

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1: Đội vớt xác năm sông

Thành Thiên Tân, chín khúc sông, đôi cầu nổi, ba đường lớn;

Ngoài cửa Nam gọi Hải Quang Tự, phía cửa Bắc kêu Bắc Đại quan;

Cửa nam có quân đồn trú, lầu gác, pháo đài ở trung tâm.

Ba lỗ châu mai, bốn khẩu pháo, tàu điện biển vàng ra quan hải.

Bài vè này đại ý nói về phong cảnh trước đây của thành Thiên Tân. Thời Dân quốc ngày đó, phía Nam có bến Thượng Hải, Bắc có thành Thiên Tân, chính là hai nơi phồn hoa nhất. Chuyện kể về Hà thần phần lớn đều xảy ra ở Thiên Tân. Trước tiên, như mọi người đều đã biết, tôi không dám đảm bảo tất cả mọi chuyện đều là sự thật, dù sao sự việc xảy ra cũng đã lâu, những gì nghe được cũng chỉ là thuật lại, tôi kể mọi người nghe, tin thì tin mà không tin cũng không sao, không cần truy cứu.

Những người lớn tuổi mỗi khi nhắc tới Thiên Tân thì thường xuyên dùng ba chữ “Thiên Tân vệ”, vậy vệ trong Thiên Tân vệ là nói về cái gì? Yến vương thời Minh đánh ra Bắc, bên người Minh Thành tổ Chu Lệ có Thiên Tân thiết vệ, cũng giống như Cẩm Y vệ thời đó, đều là một đơn vị quân đội đồn trú tại địa phương, hoàng đế Đại Minh dẫn theo con em từ quê nhà An Huy tới đóng tại Thiên Tân, phụ trách bảo vệ kinh đô, vậy nên nơi này liền gọi là Thiên Tân vệ. Đến những năm cuối thời nhà Thanh, Thiên Tân đã trở thành đất “thuê” của chín nước, thành thị phồn vinh chưa từng có, tụ tập đủ hạng người, rồng rắn lẫn lộn, những chuyện hiếm lạ kỳ quái cũng kéo đến ùn ùn.

Thiên Tân có Bắc dựa Yến sơn, Đông giáp Bột Hải, trên có hồ Bạch Dương, dưới là vịnh Bột, là điểm giao của muôn khúc sông, thực tế chủ yếu chỉ có năm con sông chính, hằng năm đều có không ít người chết đuối. Trước khi nhà Thanh hoàn toàn sụp đổ từng thành lập một đội chuyên mò xác, đặc biệt chịu trách nhiệm vớt những xác chết trôi sông. Sau này tới thời Dân quốc, đội vớt xác này nhập vào chung với cảnh sát, gọi riêng là “Đội cảnh sát trên năm sông”.

Trong xã hội thời xưa, cục cảnh sát ngang ngửa với cửa nha môn, ban đầu đội mò xác này không thuộc về cảnh sát sông mà có hơi hướng tự phát do nhân dân tổ chức, mỗi người đều là kiện tướng bơi lội. Chính vì xác chết trôi sông thường rữa nát bốc mùi, gây ô nhiễm tới nước sông, nhìn vào cũng rất ghê rợn, nên dân chúng trong thành có tiền thì bỏ tiền, không có tiền thì góp sức, mời những người thông thuộc thủy tính vớt xác trôi sông lên. Thế nhưng muốn đảm đương công việc như này, chỉ dựa vào mỗi chuyện thông thuộc thủy tính thôi thì chưa đủ, còn cần phải vô cùng gan dạ, biết được cách trấn tà.

Mỗi năm trên khắp các con sông có hơn trăm người chết đuối, chủ yếu là do thiếu cẩn thận nhảy xuống sông bơi lội mà chết đuối, lại thêm trầm mình tự vẫn, còn có cả những xác chết không rõ lai lịch từ thượng nguồn trôi đến, tục gọi là “chết trôi sông”. Lại còn có nhiều tên hung thủ chịu khó bê xác nạn nhân rồi ném xuống sông hủy thi diệt tích, người chết oan như vậy nhiều không đếm xuể, khó tránh khỏi có chuyện ma quái xảy ra. Bất kể hiện tại nhìn nhận những chuyện như vậy thế nào, người xưa đối với chuyện quỷ thần đều vô cùng mê tín, phàm là xác chết trôi vớt từ dưới sông lên thường đều đem đến nghĩa trang chôn cất. Mà trách nhiệm trông xác ban đêm cho đến khi đem ra nghĩa địa mai táng, từ đầu tới cuối đều dồn hết về cho đội mò xác. Những người này ngoại trừ thông thuộc thủy tính và to gan lớn mật ra, còn có một số biện pháp riêng có thể khu quỷ trừ tà, bằng không thì chẳng còn ai làm được điều như vậy.

Dĩ nhiên những chuyện như thế đều là những lời mê tín mà thôi. Từ thời Dân quốc tới nay, đội mò xác đã trở thành “Đội cảnh sát trên sông Ngũ Hà”, nhưng mà dân chúng vẫn quen gọi họ là đội mò xác, cũng có khi là đội tuần sông, cho đến sau ngày giải phóng mới sửa thành Công an đường thủy. Quyển sách này của chúng ta nói về ‘Hà thần’, là để chỉ một người, người này họ Quách tên Đắc Hữu, là con thứ trong nhà. Quách nhị gia thủy tính giỏi giang hiếm thấy, mặt sông mùa đông đóng băng cứng ngắc, chỉ cần đục băng ra cũng có thể lặn xuống dưới được. Ông ta chỉ là một viên chức nhỏ của đội cảnh sát năm sông, cả ngày tiếp xúc với xác trôi sông, trong mấy chục năm đã phá vô số vụ kỳ án mà chỉ nghe qua thôi cũng khiến người ta rợn cả người, cũng đã cứu mạng rất nhiều người sẩy chân rơi xuống nước, bình sinh kinh nghiệm vô cùng phong phú, lại mang trên mình sắc thái truyền kỳ. Người Thiên Tân thích đặt tước hiệu cho người khác, đọc qua rất dễ nhớ, dễ ghi, cũng rất thuận tai. Người thời ấy khi nhắc tới Quách sư phụ thì đều gán thêm chữ ‘Hà thần’, dĩ nhiên là khác hẳn với mấy vị thần linh hay Long vương ở Thủy cung.

Chuyện về ‘Hà thần’ chỉ là chuyện xưa mà lớp người già hay thuật lại. ‘Thủy quái dưới cầu’ chẳng qua cũng chỉ là một phần đặc sắc ở trong đó, nội dung hết sức ly kỳ, tình tiết tầng tầng lớp lớp, nghe qua rất dễ khiến người ta há hốc miệng, so với Bình thư còn đã nghiền hơn. Chuyện ngoài lề chỉ nói đến đây, trước tiên bắt đầu từ câu chuyện ‘Thủy quái dưới cầu

Chương 2: Thuỷ quái dưới cầu

Lại nói về trước Giải phóng, vào một mùa xuân năm Dân quốc, thầy cả dẫn dắt đội mò xác gặp sự cố bỏ mình, Quách sư phụ là người sinh ra và lớn lên tại bản địa, quen thuộc con người, càng quen thuộc thổ nhưỡng, vậy nên phải gánh hết trách nhiệm to lớn của đội mò xác lên vai. Lúc ấy cả đội gom lại cũng không được mấy người, toàn bộ đều phải cậy nhờ vào công việc không có chút thơm tho này mà kiếm miếng cơm ăn. Mọi người còn chưa được tính là cảnh sát chính thức, so với các loại công việc mang tính chất thời vụ bấy giờ thì cũng chẳng khác là bao, mỗi tháng kiếm không được mấy đồng, tiền thu vào thậm chí còn không bằng mấy tên chân thối chuyên tuần tra trên phố, vậy nên bình thường đều phải tìm việc khác kiếm thêm thu nhập để chu cấp cho gia đình. Mà câu chuyện ‘Thủy quái dưới cầu’ của chúng ta xảy ra vào mùa hè năm sau nữa.

Sự việc xảy ra ở ngay đập cầu phụ cận. Đập cầu ngày xưa là nhằm nói đến một loại đập nước ở gần ngã ba sông, bên cạnh đập là một cây cầu lớn bắc qua, được xây vào những năm cuối thời nhà Thanh, có thể cho người và xe qua lại. Trên thực tế thì đập là đập, mà cầu thì chính là cầu, đập nước lớn và cầu lớn là hai cái khác nhau, chẳng qua lại nằm rất sát, cho nên mọi người vẫn quen miệng gộp chung lại thành ‘đập cầu’.

Khi đó thời tiết nóng nực cứ như trong lò lửa, đập cầu trên sông cả ngày ngựa xe như nước, người đến người đi, làm ăn mua bán vô cùng tấp nập. Thành Thiên Tân đích thị là một cái tụ bảo bồn, nuôi người nghèo nhưng cũng dưỡng người giàu, mà người giàu càng nhiều thì trộm cắp càng nhiều hơn. Thời bấy giờ thường thường gộp chung ăn trộm và đạo tặc lại làm một, trong xã hội cũ không hề phân biệt rạch ròi hai thứ này với nhau. Trộm tức là nói tới loại hành động chuyên móc túi người qua đường, thuận tay lấy một vài thứ trong cửa hàng mà không trả tiền cũng là trộm, mà đạo tặc thì còn chia ra thành nhiều loại phức tạp hơn. Có loại phi tặc lợi hại chẳng khác chi khỉ vượn, trèo tường vượt nóc dễ như bỡn, đột nhập trăm nhà viếng thăm ngàn căn hộ, bẻ cửa cạy khóa đánh cắp tài vật. Lại còn có thứ thổ tặc chuyên nhập địa mà đào mồ tróc mả, kiếm lời trên thân người chết. Một loại khác chính là thủy tặc, chỉ nghe qua là đủ biết không thể nào rời khỏi nước.

Phía Tây có một tên thủy tặc, người không tên họ, chỉ có một cái nhũ danh gọi là Ngư Tứ nhi, kẻ này không phải là một đạo tặc giỏi giang gì cho lắm, theo như chuyện thành Thiên Tân kể lại mà nói thì còn không bằng một bãi phân chim. Thế nhưng cũng có câu: ‘Phân chim mà thành tinh, lão ưng cũng phải tức chết’, Ngư Tứ nhi chính là như vậy, bản lãnh không lớn nhưng lòng tham không nhỏ, hắn không có tài nghệ nào, chỉ biết dệt ‘lưới tuyệt hậu’.

Trước tiên ta hãy nói qua một chút xem lưới tuyệt hậu là thứ gì?

Thông thường khi đánh bắt cá trên sông, người ta đều phải giăng ra một tấm lưới, lưới đánh bắt có vòng trúc làm chài, quăng xuống sông một lát sau đó kéo lên vậy là có thể vớt được tôm cá dưới sông. Đôi khi có thể bắt được cá, nhưng cũng có khi không có gì, kéo lên chỉ toàn là bùn sình rong rêu rác rưởi dưới đáy cũng là chuyện bình thường. Còn thứ lưới tuyệt hậu mà Ngư Tứ nhi tạo ra, sông rộng bao nhiêu thì lưới rộng bấy nhiêu, ngăn ở giữa sông xong lại dùng cây trúc đóng cọc, lưới cá quấn quanh gậy trúc đến mấy tầng, dùng lưới tạo thành một cái mê cung vây tứ phía, chỉ chừa lại một lỗ hổng ở bên ngoài. Cá từ thượng lưu bơi xuống, đến trước lưới thì bị cản lại nên chỉ còn cách bơi vào trong lỗ hổng được tạo sẵn kia, nhưng bơi vào trong thì lại bị tầng tầng lớp lớp lưới cứ như là mê hồn trận bao vây chặt chẽ, làm cách nào cũng không thoát ra được, hơn nữa mắt lưới này rất nhỏ, cá nhỏ đến đâu cũng chui không lọt, vì vậy mới có tên gọi là “lưới tuyệt hậu”. Chiêu này thực sự rất độc, cá dưới sông con này nối tiếp con kia, không đến thì thôi, hễ cứ bơi lại đây thì sẽ bị cái lưới tuyệt hậu này bắt lại.

Ngư Tứ nhi mỗi đêm lén lút đặt lưới, trời còn chưa sáng liền thu lưới lại, sáng sớm bày hàng ra bán, rao cá buổi đêm vừa đánh được, đủ loại cá tôm lớn nhỏ có hết, bỏ cả vào trong một cái thùng gỗ. Nhà nước cấm không cho dùng lưới tuyệt hậu để đánh bắt cá, trên sông thường xuyên có thuyền qua lại, vướng phải lưới thì rất dễ gặp chuyện không may, Ngư Tứ nhi cũng sợ bị người ta bắt được nên thường xuyên chuyển chỗ lưới cá. Vào một đêm mây mờ trăng khuất, hắn đợi tối trời liền đến dưới đập cầu đặt lưới, xong xuôi đâu đó thì cũng đã là nửa đêm, liền một mình ngồi cạnh cầu hút thuốc lá.

Lúc này có một người kéo xe, mới vừa đưa khách xong nên quay xe trở lại, vừa khéo cũng đi ngang qua cầu. Người kéo xe này biết Ngư Tứ nhi, hai người là láng giềng lâu năm nên cũng có lòng nói với hắn: “Dưới đập cầu nước sâu, ban đêm thường xuyên có người nhìn thấy thủy quái dưới chân cầu, hai mắt của nó cứ như là hai ngọn đèn trên đường vậy. Nghe nói mấy năm trước có một cô gái trầm mình xuống sông, tới nay còn chưa tìm thấy xác, ngày thường mọi người cũng không dám bơi ngang qua khúc này, ông cẩn thận một chút.”

Ngư Tứ nhi phun nước bọt: “Mẹ ngươi, chớ có hù ông Tứ này, Tứ gia đây lưới cá nhiều năm như vậy, còn chưa từng thấy cái sông này có cái giống gì khác lạ, nếu đánh trúng cái xác con gái gì đó thật, Tứ gia cũng ôm luôn về làm vợ trong nhà, ít ra cũng có thể “vui vẻ” một chút chứ sao.”

Người kéo xe kia mượn chuyện tiến tới xin Ngư Tứ nhi một điếu thuốc, hai người ở trên cầu, anh một câu tôi một câu, chuyện trò qua lại.

Ngư Tứ nhi hỏi: “Hôm nay ông làm cái khỉ gió gì mà trễ như vậy mới về? Không sợ vợ ông ở nhà “ăn vụng” hay sao?”

Trên mặt người kéo xe lộ ra vẻ đắc ý: “Hôm nay kéo tốt, được khá nhiều tiền, tuy nhiên đường cũng hơi xa nên lúc này mới xong việc.”

Ngư Tứ nhi không tin: “Lấy cái gì mà ra nhiều tiền? Cái xe kéo rách nát của ông mà cũng làm ra tiền được sao?”

Người kéo xe mắng lại: “Tiên sư thằng trâu bò, cứ làm như ông kiếm được nhiều tiền lắm vậy, lo mà đánh cá của ông đi.”

Nói chuyện một hồi, Ngư Tứ nhi cũng cảm thấy muốn về nhà chợp mắt, quá nửa đêm lại tới đây thu lưới. Nhưng lúc này lại nghe mặt sông có động, hệt như có người đang lắc lư mấy cây trúc chống lưới vậy. Hai người liền nghi hoặc, đứng dậy nhìn về phía dưới cầu. Mặt sông dưới cầu tối đen một mảng y như mực, chỉ có thể nhìn thấy mấy cây trúc cắm dưới sông không ngừng đung đưa, Ngư Tứ nhi mừng quýnh, đúng là tóm được cá lớn rồi, chỉ vùng vẫy thôi mà cũng khiến cả lưới phải rung chuyển, giống này nhất định không thể nhỏ.

Những năm đầu của thời Dân quốc từng có người bắt được một con ba ba lớn hơn cả cái cối xay ở ngay ngã ba sông, Ngư Tứ nhi thầm nghĩ: “Có thể là ba ba lớn dưới sông, nghe nói trên đầu ba ba có mụn thịt, đem giã lấy nước rồi dùng để rửa mắt sẽ khiến mắt sáng ra, người mù dùng nó liền có thể nhìn thấy đường. Đã đến lúc Tứ gia đổi đời, ngày hôm nay phát tài con mẹ nó rồi!”

Nghĩ tới đây, hắn vội vàng kêu người kéo xe đến phụ một tay. Hai người ở trên cầu kéo lưới, lúc này trời đã tối mịt, kéo hết lưới cá lên trên cầu lớn rồi mà vẫn không thấy rõ trong đó đang bọc lấy cái gì, chỉ biết thứ đó to kềnh một cục, nhìn hình dáng thì không phải cá lớn mà cũng chẳng là ba ba gì sất, lại dường như có cả tay lẫn chân, bốc lên một mùi hôi thối nồng nặc như cá chết, không thể nào ngửi nổi.

Người kéo xe gan bé, đến lúc này cũng có chút sợ, nói với Ngư Tứ nhi: “Anh Tứ, anh làm gì thì cứ làm đi nha, vợ em còn đang ở nhà đợi cửa chờ em về, trời không còn sớm, em xin phép đi trước một bước…”

Miệng thì nói, người đã quay đầu muốn bỏ chạy.

Ngư Tứ nhi tặc đảm bao thiên, vung tay tóm lấy người kéo xe, lại thấy trước tay xe kéo có treo một chiếc đèn bão, hắn thuận tay vơ luôn rồi nói: “Đi là đi đâu? Mượn cái đèn bão của ông, tôi phải nhìn một cái xem thử vớt trúng cái gì dưới sông mới được.”

Người kéo xe vốn không muốn cho mượn nhưng lại không nhanh tay bằng Ngư Tứ nhi, thế là chẳng còn cách nào khác bèn phải đi cùng hắn. Hai người mò tới gần, dùng đèn bão soi lên tấm lưới cuốn lấy thứ kia, nhưng ngặt nỗi lưới cá bọc quá kín, không mở ra thì căn bản chẳng thể thấy gì bên trong được. Ngư Tứ nhi cũng không dám mở lưới ra hết, chỉ vạch ra một chút rồi nhìn vào, vừa thấy, hắn liền sợ hãi kêu lên thất thanh: “Ối cha mẹ ơi, là xác một đứa trẻ!”

Ngư Tứ nhi giăng lưới tuyệt hậu ở ngã ba sông, đêm hôm khuya khoắt đánh lên được xác của một đứa bé. Đứa bé này không lớn, cả người đen thui, thoạt nhìn giống y chang một con khỉ lông dài. Nhưng người kéo xe kia thì sợ hãi không ngớt, đây còn không phải là khỉ nước dưới sông Hải Hà hay sao?

Nghe nói dưới Hải Hà có khỉ nước, giống quái vật này khi trưởng thành mang hình hài như một đứa trẻ, cả người toàn là lông, sau mông còn có một cái đuôi, thi thoảng lại lên bờ, rất sợ ánh sáng và những thứ phát sáng, khi ở trong nước thì rất khỏe, nắm được cổ chân người liền lôi đi không hề lơi tay, khiến nhiều người giỏi bơi lội cũng phải chết đuối.

Đọc đến đây chớ nói không có lửa thì làm sao có khói. Tôi là tôi vẫn không tin, vẫn cảm thấy Hải Hà không thể nào có khỉ nước được. Nếu quả như có cái giống này thật, vậy thì lịch sử sinh vật ắt phải viết lại rồi. Tôi còn nghe người thầy làm cảnh sát đường thủy của mình thuật lại một chút, mới biết được chuyện này không phải là bịa ra cho có, Hải Hà quả thật có khỉ, nhưng không hề giống trong tin đồn một chút nào. Lại nói tới câu cửa miệng: “Không có lửa thì làm sao có khói”, suy xét lại từ đầu, căn nguyên rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì?

Cũng phải nói tới trước thời Giải phóng, quả thực có người phát hiện được một thi thể quái vật ở Hải Hà. Cái thi thể ấy mang hình dáng tương tự như một đứa trẻ, có tay có chân, toàn thân mọc đầy lông mao, phía sau mông có một cái đuôi dài, nhìn vào biết ngay chính là một con khỉ. Ai ai cũng rõ, dưới sông chẳng thể nào có khỉ được, dân chúng nghe nhầm đồn bậy, đều gọi quái vật kia là khỉ nước, còn bảo là do trẻ nít chết đuối dưới sông biến thành. Một đồn mười, mười đồn một trăm, câu chuyện về khỉ nước càng lúc càng trở nên quái dị, thậm chí còn có tờ báo đăng lên một tấm ảnh chụp, đúng là khiến cho người ta không muốn tin cũng không xong.

Thực tế cái thi thể vớt lên được ở Hải Hà kia là khỉ quả không sai. Nhưng nó vẻn vẹn chỉ là một con khỉ hết sức bình thường mà thôi, chứ chả phải là cái giống khỉ nước phải gió gì cả. Trước đó có một gánh xiếc lưu động biểu diễn dọc đường nơi đây, có dắt theo mấy con khỉ diễn trò kiếm ăn, nhưng một con trong số ấy không biết ăn nhầm cái gì mà đi đời nhà ma rồi. Đoàn trưởng gánh xiếc bấy giờ mới bảo đem xác nó ra bãi tha ma cho chó ăn, tất nhiên là không ai dựng mộ bia cho một con khỉ đã chết được, mà vị nghệ nhân được sai đi vứt xác khỉ kia cũng thật là thất đức, vì muốn nhẹ việc mà ném thẳng xác con khỉ xuống sông. Hai ngày sau, xác con khỉ dưới sông Hải Hà được vớt lên, những người chứng kiến không khỏi ngạc nhiên quá độ, chẳng hiểu rốt cuộc cái giống này trôi từ đâu tới, mà cũng chính vì thế nên mới phát sinh ra vô số lời đồn đãi. Sau này cho dù nhà nước giải thích ra sao thì ra, trình độ dân trí còn kém, người người vẫn cứ tin rằng dưới sông Hải Hà có khỉ nước ẩn hiện.

Người kéo xe vừa nhắc, Ngư Tứ nhi cũng liền nhớ ngay tới tin đồn về khỉ nước, hai thằng sợ tới mức ngay cả đèn bão cũng quăng, giữa đêm khuya mịt mờ mà chạy thẳng một đường về nhà. Chạy được nửa đường thì đụng phải đội cảnh sát đi tuần đêm, còn bị nghi là trộm cắp nên bắt mất. Nếu không phải hạng người làm chuyện xấu lúc nửa đêm, vậy tối mờ tối mịt thế này rồi còn chạy đi đâu? Cảnh sát tuần tra trước tiên lôi hai tên này ra đánh một trận, sau lại ép hỏi cả hai gây án ở chỗ nào? Ngư Tứ nhi kêu cha gọi mẹ, mở mồm xin tha rối rít, lại đem chuyện mình giăng lưới ở ngã ba sông đánh trúng khỉ nước thuật lại một lần, người kéo xe có thể làm chứng.

Cảnh sát hỏi qua tình huống xong, liền lôi hai người trở lại cầu làm rõ, khi ấy thì trời cũng đã tờ mờ sáng rồi. Nhờ trời sáng nên mới nhìn ra được thứ nằm trong lưới cá, đúng không phải khỉ nước, mà quả thực chính là xác của một đứa bé, chẳng qua trên người nó dính không ít rong rêu bùn lầy. Ngư Tứ nhi mới đầu không có nhìn nhầm, tất cả chỉ tại tên kéo xe ở bên cạnh gào to mới khiến cho đầu óc hắn mụ mị, vả lại lúc đêm đen không nhìn thấy rõ, liền lầm tưởng rằng vớt phải quái vật khỉ nước thật, suýt chút nữa thì gan mật cũng bị dọa đến nát bét.

Đợi đến hừng sáng, mọi người mới thấy rõ đứa trẻ chết sình này, đoán chừng là do bị rong rêu dưới đáy sông quấn chặt nên mới không nổi lên được. Thi thể đã lâu nên chuyển sang màu xanh như rong tảo, mặt mũi khó lòng phân biệt, vẻn vẹn chỉ có mỗi hình dáng là còn nhìn ra được đôi chút, trên dưới bốc lên mùi hôi tanh khó ngửi, cũng không hiểu vì sao còn chưa rữa nát. Cảnh sát nhận định không phải do Ngư Tứ nhi và người kéo xe sát hại nên chỉ lấy khẩu cung qua loa, lập hồ sơ vụ án, hạch thêm ít tiền, thấy không còn xơ múi được gì mới thả hai người đi. Xác chết trôi trên sông Hải Hà quá nhiều, vô số người chết trôi mà không có ai tới nhận thân, trong đó có không ít xác trẻ em, phần bị sinh non, phần thì do cha mẹ nó sinh ra nhưng nuôi không được. Những chuyện như thế từ bấy tới giờ vẫn là dân bất lực, quan không màng truy xét, phía dưới không người nào báo án, bên trên càng mừng rỡ mà giả vờ hồ đồ. Tử thi là vớt lên từ dưới sông nên cứ theo như luật cũ, giao hết cho đội tuần sông xử lý. Chính quyền phái người đến tìm Quách sư phụ ở đội tuần sông, bảo ông ta quấn chiếu cho thi thể đứa nhỏ, cột dây hai đầu rồi mang ra nghĩa trang lo liệu. Thế nhưng việc vừa tới tay liền nóng hổi, chính vì xảy ra quái sự rồi! 

Theo như phong tục địa phương thì chết đuối không được nhập đất, chết vì nước thuộc về dạng chết yểu chứ không phải chết già nên nhất định phải hỏa thiêu thành tro, gom hết vào trong lọ rồi mới có thể hạ táng. Mà cũng không được hỏa táng liền ngay, theo như quy củ thì phải đặt ở nghĩa trang mấy ngày, lỡ như có người nhà đến báo án nhận xác thì còn có đường mà xác minh thân phận của người đã chết. Chẳng qua mùa hè khí trời oi ả khiến tử thi càng bốc mùi nồng nặc, không ai chịu nổi, thế là thứ quy tắc này liền trở nên vô dụng.

Nghĩa trang cũng tương tự như nhà tang lễ bây giờ, nghĩa trang mà đội tuần sông sử dụng gọi là nghĩa trang miếu Hà Long, chỗ này ở ngoài cửa Tây, vị trí tương đối vắng vẻ. Trong miếu có một bức tượng Long Vương gia nặn bằng đất, khoác áo vảy kim tuyến, thân người đầu rồng, dân gian vẫn hay gọi là ông Long Ngũ, là Quảng Tế Long Vương chuyên cai quản sông nước Trường Giang và Hoàng Hà. Quảng Tế Long Vương xếp hạng thứ năm trong các Long Vương, chính vì thế người ta mới xưng là ông Long Ngũ. Tại quải Nguyệt Phong trên Bàn Sơn ở huyện Kế có ngôi Vân Tráo tự, chính là chủ miếu của Quảng Tế Long Vương do hoàng đế sắc phong, nhang khói cực thịnh, truyền thuyết vô số. Long Vương là vị thần phù hộ cho dân gian mưa thuận gió hòa, mà ngôi miếu Long vương ngoài cửa Tây này còn có một câu chuyện về Hạn bạt vẫn được lưu truyền trong dân gian.

Quách sư phụ từng nghe thầy mình kể lại, ngay từ mấy trăm năm trước, thời còn chưa có thành Thiên Tân, nơi đây đã từng xảy ra một trận đại hạn hiếm thấy. Nông dân kiếm cơm từ đất, sợ là sợ trời già không ban mưa, năm đó hạn hán khó lường, chín chín tám mươi mốt ngày không có một giọt mưa buông xuống, đất đai cũng nứt nẻ ra rồi, hoa màu khô héo, hạn đến mức cây cối bốc ra khói, sỏi đá phun ra lửa. Các thôn trang xung quanh sầu lo hết cách, không thể làm gì khác hơn là mời thầy phong thủy về xem. Thầy phong thủy chỉ cần nghe nói, không cần đến tận nơi quan sát mà cũng biết ngay là do cương thi trong một ngôi mộ biến thành Hạn Bạt, vừa mới chạy tới thực địa quan sát, nhìn xuống liền không khỏi sợ hãi, nơi này yêu khí quá nặng, quả nhiên trước nay chưa từng thấy qua, có thể không đơn giản chỉ là Hạn Bạt như vậy, cương thi đã biến thành thi ma, không một ai hàng phục được nữa rồi!

Thôn dân vì tìm đường sống, đành phải dựng lên một ngôi miếu tế bái Hạn ma đại tiên, còn chuẩn bị cả đồng nam đồng nữ để tế sống. Đồng nam đồng nữ là do rút thăm mà ra, con nhà ai bốc trúng thì xem như là xui xẻo. Trong thôn có một bà lão quanh năm ăn chay niệm Phật, cháu gái bà bất hạnh bị chọn làm vật tế sống, bà lão tuy không đành do cháu còn quá nhỏ, nhưng cũng không thể nào tránh khỏi, vì vậy một mình ở trong phòng bái Phật cầu thần, khóc đến mù cả mắt. Đến đêm, bỗng nhiên lại mơ thấy một người tự xưng là ông Ngũ tìm tới tận cửa nhà, khuyên bọn họ không nên dùng đồng nam đồng nữ tế bái Hạn ma đại tiên, ngày mai sẽ có một trận giông tố sấm sét, đó cũng chính là lúc ông ta tới bắt thi ma. Nhưng vẫn biết một tay vỗ khó nên kêu, vậy nên có hai chuyện muốn cậy nhờ. Thứ nhất là mượn tiếng chiêng tiếng trống của mọi người mà tăng phần uy thế, thứ hai là, không thể giết Hạn ma kia được…, bởi vì máu trên người con thi ma này có thể truyền dịch bệnh, một khi giết thi ma sẽ khiến người và vật trong vòng trăm dặm không đường sống sót, chỉ có thể dùng dây thừng ở giếng nước đầu thôn nhằm trói gô nó lại. Sợi dây thừng kia vắt qua ròng rọc kéo gàu múc nước, không biết đã dùng bao nhiêu năm, bao nhiêu đời rồi mà chẳng hề sứt mẻ tí nào, đã thế lại còn tinh tươm hệt như mới, có thể thấy đây chẳng phải vật phàm. Việc họ cần làm là phải tháo dây thừng ra trước, để ông Ngũ cầm dây trói thi ma. Nói xong, người tự xưng là ông Ngũ liền biến mất, không còn thấy tăm hơi.

Bà lão tỉnh giấc, đem chuyện này kể lại cho thôn dân, mọi người bán tín bán nghi, chần chừ luôn mãi, cuối cùng cũng quyết định làm theo lời bà lão nói. Vừa mới qua ngày hôm sau, một tiếng sấm nổ rền rĩ bỗng đột ngột vang lên mà không có một chút dấu hiệu báo trước nào, phòng ốc chấn động, rung lên bần bật, kế đó là cuồng phong gào thét, mưa to tầm tã. Những thôn dân gan to mật lớn thò đầu nhìn lén ra bên ngoài, thấy một con rồng trắng dài hơn chục trượng đang ẩn hiện bên trong tầng mây đen phủ kín cả bầu trời, thân rồng quấn lấy một con quái vật đầu sừng, toàn thân mọc kín một tầng lông đỏ, ngay cả cặp mắt cũng đỏ lòe lòe hệt như hai ngọn đèn lồng. Thôn dân vội vàng khua chiêng gõ trống reo hò trợ uy, đất trời xám xịt, phải qua hơn một canh giờ sau, Hạn ma đại tiên mới bị dây thừng trói chặt, lại bị một tia sét đánh văng thẳng vào cái giếng khô đầu thôn. Nhưng sau đó đất trời rung chuyển, giếng cạn sụp xuống, bị lấp bằng, bọn họ đến giờ mới nhận ra ông Ngũ không phải người thường mà chính là Quảng Tế Long Vương gia hiển linh! Kể từ đó lập miếu Long Vương ngay trên miệng giếng sập, thay nhau thắp nhang cúng bái, hương hỏa không dứt.

Miếu Hà Long có nguồn gốc từ đây, thuộc về loại truyền thuyết lưu truyền trong dân gian, đến thời Dân quốc thì hương khói liền tắt, tượng ông Long Ngũ tuy vẫn còn tồn tại nhưng những kiến trúc liên quan đều mất sạch, chỉ còn một gian điện thờ lớn là sót lại, chung quanh mọc lên vô số nhà dân. Tới năm 1923, nơi đây trở thành nghĩa trang, đội tuần sông vớt được xác chết trôi thì phần lớn đều đem tới để, thầy dạy của Quách sư phụ có biết chút ít đạo thuật nên thường xuyên thay người nhà nạn nhân lo việc tang lễ, còn biết xem mồ soi mả, các loại âm trạch dương trạch, ngoài ra cũng là một tay làm đồ vàng mã vô cùng giỏi. Bình thường thầy trò hai người đều ở lại ngôi miếu nát, gian điện trước ngăn ra thành hai phòng nhỏ làm cửa hàng vàng mã, hậu điện xem như nghĩa trang, sau khi thầy cả già rồi qua đời thì nơi đây cũng chỉ còn lại một mình Quách nhị gia. Thu nhập từ việc vớt xác và trông coi thi thể người chết không được nhiều cho lắm, cho nên ngoại trừ những lúc đến đội tuần sông làm việc vặt, ông ta đều trở lại nghĩa trang miếu Hà Long làm vàng mã, tay nghề của Quách sư phụ vô cùng tốt, người giấy ngựa giấy do ông ta làm ra trông cứ như là thật vậy.

Ngày đó ở ngã ba cửa sông vớt được thi hài một đứa bé, Quách sư phụ vẫn làm như thường lệ, đem thi hài mang về nghĩa trang, khi tối trời thì liền xảy ra chuyện.

Câu chuyện mà chúng ta đang kể đến, không thể nói cho chính xác là vào ngày nào tháng nào năm nào nữa rồi, đại khái chỉ biết là vào khoảng hai mươi tám tháng sáu âm lịch. Dân gian thường nói hai mươi tám tháng sáu âm lịch, lão Lý cụt đuôi về nhà khóc giỗ mẹ. Tương truyền trước kia có một người đàn bà họ Lý sinh ra một con rắn đen nhỏ, sau đó đóng cửa cắt mất đuôi rắn. Mà con rắn đen này vốn là rồng đen dưới sông Hắc Long đầu thai, cũng chính là lão Lý cụt đuôi mà mọi người vẫn nhắc, sau khi người đàn bà này mất thì rồng đen cũng đi biệt tăm, mỗi năm đến ngày hai mươi tám tháng sáu âm lịch, lão Lý cụt đuôi mới về khóc thăm mộ mẹ một lần. Mấy bữa trước đúng là mưa dầm không ngớt, nhưng hôm đó không mưa mà sắc trời chỉ âm u nặng trĩu, sau khi về tới nghĩa trang thì cũng đã đến lúc lên đèn.

Vài ngày nay nghĩa trang không có người chết, Quách sư phụ dùng xe đẩy xác đứa bé vào phòng trong, gian phòng này cũng chính là nửa phần sau của đại điện thuộc miếu Hà Long thuở ấy. Thi thể được đặt lên giường đá, chiếu manh không mở ra mà trước tiên thắp đèn rồi đốt thêm hai nén nhang ở cạnh đầu. Theo thuyết pháp mê tín dị đoan, quỷ đói ngửi mùi nhang có thể đỡ xót ruột, cho người chết nén nhang cũng tức là cho hồn dùng bữa, ông ta thương cho đứa trẻ chết yểu, lúc thắp nhang còn cố ý đốt thêm một nén.

Bận bịu lo chuyện người chết xong thì cũng tới lúc người sống dùng cơm rồi. Mọi người vẫn gọi Quách sư phụ là Quách Nhị gia, người ở thành Thiên Tân đặc biệt coi trọng hai chữ Nhị gia, gặp ai không quen biết thì vẫn cứ gọi là Nhị gia hoặc Nhị ca, còn những người vốn quen biết thì dựa vào ngôi thứ trong nhà mà xưng hô cho tương xứng, từ anh cả Nhị gia, kế đến là Tam gia, Tứ gia rồi sau nữa.

Quách sư phụ không phải Nhị gia mà chỉ là con thứ trong nhà, anh cả nhà ông ta đang ở trong phòng này đây. Nói như vậy có thể khiến cho người ta cảm thấy sợ, như trên đã nói Quách sư phụ chỉ ở nghĩa trang có một mình, vậy từ đâu bỗng lòi ra thêm một người anh? Còn sống hay là đã chết?

Thực ra anh cả của Quách sư phụ chỉ là một con búp bê đất sét nhỏ xíu. Cái gọi là búp bê anh cả này, theo như phong tục của xã hội cũ, vợ chồng sau khi kết hôn một thời gian đã lâu mà vẫn chưa có con thì có thể đến miếu Mẹ tổ cầu tự. Trên bàn thờ Thiên Hậu nương nương có rất nhiều búp bê con nít, toàn bộ đều đã được nung kỹ, tướng mạo không giống nhau, có lanh lợi hoạt bát, có ngây thơ đáng yêu, vợ chồng cầu con đưa đủ tiền nhang đèn, chọn xong búp bê rồi thì buộc dây đỏ lên trên mang về nhà nuôi như con của mình. Sau này nếu như có thể sinh con, vậy búp bê con nít sẽ làm con cả, đứa mới sinh thì là con thứ, phải gọi búp bê là anh. Rồi thì cách vài năm phải tắm rửa cho búp bê con nít một lần, sau đó còn phải mời nghệ nhân về thay quần áo cho nó, dung mạo cũng phải thay đổi dần cho hợp tuổi tác, thậm chí còn phải cưới vợ cho anh cả búp bê, tức là rước thêm một em búp bê con nít thuộc nữ giới vào nhà, đặt cùng một chỗ, ghép thành một cặp. Tại vì con cái trong nhà có hai đứa, nếu như anh cả còn chưa cưới, em thứ lại thành thân trước thì không hợp với quy củ cho lắm.

Như thời buổi ngày nay không mấy ai tin, nhưng đặt vào xã hội ngày đó thì lại có rất nhiều, mặt khác, cũng vì năm này nối tháng nọ, anh cả búp bê do thường xuyên tiếp xúc với khói lửa nhân gian nên khó tránh khỏi làm dấy lên một số chuyện lâm ly kỳ quái. Lớp người già khi đó vẫn thích kể về những chuyện đại loại như con búp bê anh cả mà tôi nuôi ở nhà đấy, nửa đêm nó bật sống dậy ăn vụng cơm …

Quách sư phụ cũng có một vị đại ca búp bê như thế, cha mẹ ở nhà mất sớm, từ nhỏ đã xem người anh búp bê này như anh ruột, mỗi lần về nhà đều chào anh em mới về, khi ăn cơm cũng không quên đặt cho anh hai một đôi đũa, ban ngày gặp chuyện gì không thoải mái hoặc khó xử, không phân biệt chuyện tốt hay là xấu, cứ về nhà lại tỉ tê cùng với anh mình. Hôm nay cũng như thường lệ, cơm nước với anh trai búp bê xong thì sắc trời đã tối mịt, trời đêm oi bức không mưa, ông ta dọn bát đũa xong thì quay người nhìn lại, đột nhiên phát hiện ông anh búp bê ở trên bàn đã biến mất.

Quách sư phụ lúc ấy tuổi trẻ gan lớn, bản tính nhân nghĩa chính trực, trời sinh một bầu nhiệt huyết, không làm việc trái với lương tâm nên không sợ quỷ tìm đến cửa, nếu không thì sao lại dám một mình trông coi nghĩa trang? Lại nói bữa này đúng là gặp quái sự, anh trai búp bê được đặt trên bàn cơm, dùng xong cơm nước thì thu dọn bát đũa, vừa tính quay qua loay hoay với mấy món vàng mã tiếp, ấy thế mà ngoắt cái trên bàn đã trống không. Tuy ngày nào Quách sư phụ cũng nói chuyện với anh cả búp bê, nhưng chẳng qua cũng chỉ để giải khuây mà thôi, không lẽ chỉ có thế mà búp bê con nít này cũng thành tinh được sao?

Ông ta nghĩ đi nghĩ lại, anh trai búp bê đúng là vẫn được để ở trên bàn, không thể cứ nói mất là mất liền được. Nhìn ra thì cửa phòng vẫn đóng kín, dẫu mọc cánh cũng chẳng thể nào bay ra ngoài, vậy nên mới bắt đầu lần mò tìm khắp phòng. Nhưng lật tung các thứ mà mãi chả thấy bóng dáng đâu, không ngờ trong lúc vô tình ngẩng đầu lên, bỗng phát giác búp bê con nít đang nằm sấp trên nóc tủ, mặt hướng xuống dưới, không nhúc nhích.

Quách sư phụ thầm bực trong lòng, trước giờ chưa từng xảy ra chuyện kỳ quái như này, dù cho búp bê có thành tinh tác quái thật, nhưng khi không trèo lên nóc tủ thì làm được cái cóc khô gì? Ông ta tự trấn an bản thân, cho rằng không phải nhớ lầm thì cũng là do hoa mắt, nhưng tuy ngoài mặt nói vậy, còn trong lòng thì chột dạ, ắt hẳn là phải có duyên cớ chi đây.

Nhất thời nghĩ mãi không ra, lại đặt anh trai búp bê lên chỗ cao nhất trong phòng, không thèm động chạm gì nữa rồi tự nhủ: “Anh muốn làm gì trên đó thì làm.” Xong thắp đèn, ra ngoài dò xét chung quanh nghĩa trang. Khí trời vừa bí vừa nóng, mùi xác thối trong nghĩa trang về đêm càng lúc càng nặng, nặng đến mức bịt mũi rồi vẫn không chịu nổi.

Ông ta lại nghĩ đến chuyện không thể đợi đến sáng, khí trời quá oi, nên thiêu hủy thi hài đứa bé này ngay trong đêm. Thế nhưng tử thi được quấn chiếu vẫn ướt nhẹp, nước chảy ròng ròng, có muốn đốt cũng chẳng tài nào cháy. Nghĩa trang có “Luyện nhân hạp”, tức là một hộp đồng có hình người, trước đây là đồ trong miếu, đưa tử thi vào hộp rồi bắt đầu thiêu, tuy rằng không thể hoàn toàn đốt ra tro, nhưng chỉ cần hóa thành than là có thể cho vào bình đựng tro cốt được rồi. Chẳng qua cái thứ ấy không thể nào thiêu xác ướt, cho nên phải đốt một chậu than, hong khô thi thể trước cái đã. Quách sư phụ chuẩn bị chậu than xong xuôi, mới vừa quẹt lên một que diêm, từ ngoài cửa bỗng thổi tới một cơn gió lạnh, que diêm trong tay liền phụt tắt, lại quẹt thêm que nữa, nhưng làm sao cũng chẳng cháy.

Diêm một que nối tiếp một que, nhưng không que nào cháy nổi, hình như cái hộp diêm này đã bị ẩm mất rồi, trên tay thì ôi thôi nhóp nhép toàn là nước, ngoài trời âm u không mưa, ấy thế mà lại cảm thấy ẩm thấp lạ kỳ, trên vách tường xuất hiện từng vệt từng mảng thấm, đưa mắt hướng lên trên, dường như cả bức tường cũng có thể trào nước ra bất cứ lúc nào. Ngay sau đó, âm phong bỗng nổi lên tứ phía, luồng gió không thổi về một hướng nhất định mà một chốc thổi về tây, một hồi thổi về nam, cứ như là đang lượn vòng xung quanh nghĩa trang miếu Hà Long vậy.

Quách sư phụ sởn hết cả tóc gáy, da gà trên người nổi lên từng đợt, cái lạnh như ngấm từ trong ngấm ra, chuyện nhóm lò than cũng không màng nghĩ đến, thầm nhủ: “Không lẽ gặp ma rồi?”

Thầy cả năm đó có để lại một bức tranh Quan đế, chính là bức “Quan công đọc kinh Xuân thu”, vẽ Quan công đầu đội mũ khôi màu tía, mình khoác chiến bào, một tay cầm kinh Xuân thu, một tay vuốt năm chòm râu dài, mắt ánh thần quang, đúng thực là uy phong lẫm liệt. Mà bên cạnh Quan công còn thắp một ngọn nến, trái phải hai bên là Quan Bình đang cầm đại ấn và Chu Thương nâng Thanh Long Yểm Nguyệt đao đứng hầu, sau lưng Quan công còn có con ngựa Xích Thố, bốn vó sinh phong, nóng lòng chờ bôn tẩu. Bức họa sống động y như thật, lột tả Quan công này vẫn được treo trong nghĩa trang, đối diện với cửa lớn ra vào. Nghe nói Quan công có thể trấn trạch trừ tà, miếu Hà Long được tu sửa thành nghĩa trang đã lâu, nhưng vẫn chưa từng phát sinh ra chuyện ma quỷ quấy phá bao giờ.

Quách sư phụ ngẩng đầu thấy bức tranh Quan công vẫn còn treo chỉn chu giữa phòng, nghĩ bụng: “Đúng lý mà nói, mình chưa từng làm ra chuyện gì trái với lương tâm, cô hồn dã quỷ không nên tìm tới mình mới phải. Hơn nữa còn có tranh Quan công treo trên tường để trừ tà, dù có là ma quỷ cũng chẳng dám tiến vào đây. Thấy sự lạ mà không lấy làm lạ, sự lạ đến đâu cũng chào thua!” Có mê tín hay không thì để sau hẵng nói, chỉ biết ý nghĩ này vừa xuất hiện trong đầu, ý chí liền trở nên kiên định ít nhiều, cũng không dám nghĩ ngợi gì nữa mà ngồi xuống dưới ánh đèn làm người nộm, vừa hát một hai câu dân ca để khỏa lấp.

Từ lúc lên đèn cho tới canh năm trời sáng, ngồi trong nghĩa trang miếu Hà Long một đêm, nghe được gà gáy ở phương xa rồi, tảng đá lớn trong lòng Quách sư phụ mới được gỡ xuống. Lại nhìn vết nước thấm ước chừng phải cao hơn đầu người vẫn còn in rõ trên tường, chăn đệm trong nhà toàn bộ đều ướt nhẹp, cả bức tranh trên tường cũng mờ nhòe hẳn đi, đúng là tiếc thay cho một bức họa Quan công này.

Đến giờ ông ta mới chợt hiểu ra, anh trai búp bê trốn trên nóc tủ là bởi vì sợ bị ướt, nhưng mà trời không mưa không dột, làm sao trong nhà lại ướt hết trơn như vậy? Chẳng lẽ đêm qua có ma da dưới sông tìm tới cửa, muốn vào trong phòng nhưng do sợ tranh Quan công nên không dám? Mà vấn đề là ma ở đâu ra?

Đầu óc Quách sư phụ xoay chuyển mau lẹ, ngồi trong phòng bắt đầu suy ngẫm về chuyện này, nhưng càng nghĩ càng thấy không hợp lý, cảm thấy quá nửa là có liên quan tới cái xác của đứa bé kia. Trời sáng rồi cũng không màng cơm nước mà vội vã ra ngoài, vào thành tìm mấy người của đội tuần sông đến hỗ trợ lặn xuống chân cầu lớn ở ngã ba sông. Ông ta cho rằng dưới sông còn có thứ gì đó, nói ra chẳng có ai tin, nhưng người trong đội mò xác toàn bộ đều nghe theo lời Quách sư phụ. Mấy người chia ra vịn vào một cây sào dài mà lặn xuống dưới sông dò tìm, lần mò một thước rồi lại một thước sâu, nếu dưới đáy sông có vật gì lạ, chỉ cần dùng tay cảm nhận là cũng có thể biết được. Từ lúc trời vừa rạng sáng cho đến giữa trưa, phát hiện ra thêm xác của một cô gái ở dưới đáy, nhưng bất kể là ai cũng không vớt lên được, người chết cứ như là mọc rễ dưới sông luôn rồi vậy.

Hiện tại đã là ban ngày, xung quanh đầy rẫy những người rãnh rỗi tò mò tới xem náo nhiệt, dân chúng vừa thấy vớt được xác cô gái dưới đáy sông lên liền tranh nhau sang vây xem, người một câu tôi một lời, bàn tán xôn xao. Trước kia thường xuyên vớt được xác dưới sông Hải Hà, nhưng xác nam vẫn chiếm phần lớn, vì đa phần đều là người đi bơi bị chết đuối, mà đàn bà con gái thì rất ít khi xuống sông bơi lội. Trong xã hội cũ, phụ nữ bơi sông thì thật đúng là chả ra cái thể thống gì, chính vì thế xác chết nữ dưới sông Hải Hà mới không nhiều lắm. Nhưng không nhiều không có nghĩa là không hề có, một khi dưới sông có xác chết nữ nhân thì thường thường là do giết người vứt xác hoặc là nhảy sông tự vẫn. Những chuyện như vậy lan truyền đặc biệt nhanh, chả mấy chốc mà người ta đã bu lại chật kín cả bên bờ, người có vóc dáng nhỏ bé ở phía sau nhìn không thấy thì gấp đến độ cố nhón nhảy thật cao, thậm chí lại còn có kẻ leo lên cả nóc nhà để quan sát. Các cô cậu thành Thiên Tân ngày đó thích nhất là ra đường gặp chỗ náo nhiệt, dù trong nhà có việc gấp đến đâu thì cũng phải xem cho đã rồi mới thèm về nhà.

Đội tuần sông có mấy người xuống nước, trên cầu còn có người dùng dây thừng cột móc thả xuống kéo, tốn sức hơn nửa ngày, cuối cùng mới có thể khiến xác chết nữ này nổi lên trên mặt nước. Tất cả mọi người, trong đó có cả Quách sư phụ đều cảm thấy kỳ quái, vì sao thi thể dưới sông lại nặng đến như thế?

Đội tuần sông vớt thi hài của cô gái này lên rồi cẩn thận quan sát một lượt, khắp thi thể bị rong rêu mọc dài bao phủ, bóc mãi không ra, toàn bộ như dính liền làm một với cái xác. Một màu xanh thẫm của rong rêu phủ kín một thân da thịt cứng như sắt ở bên dưới, tử thi khô cứng, mặt mũi khó lòng phân biệt, chỉ biết nhìn qua cực kỳ đáng sợ. Càng ghê rợn hơn là, người con gái này còn bị trói gô, dây chão gân bò thắt nút chết, lại do ngâm nước quá lâu nên càng xiết chặt, có muốn cắt cũng cắt không xong, trên lưng cô ta còn cột theo một khối sắt lớn có hình thù quái dị nên mới chìm sâu ở dưới đáy không thể nổi lên trên. Đội tuần sông buộc phải khiêng cả khối sắt lên cùng.

Đám người vây xem tận mắt chứng kiến quá trình vớt xác, phàm là người thấy được bộ dáng của cô gái này, không ai là không sợ. Hình dáng kia căn bản nhìn không giống như người chết, mà quả thực là một quái vật toàn thân phủ lông xanh, chuyện này lại càng rền vang, nhà nhà thắp hương dán bùa cầu an. Những hộ buôn bán giàu có hay làm việc thiện trong thành đều góp tiền mời sư tăng về lập đàn tụng kinh ngay ở đầu cầu. Theo những lời mê tín ngày trước, oan hồn chết đuối thường muốn tìm người thế thân. Ví dụ như có một người chết đuối bỏ mình, hồn chết oan thường bất tán, không đến được Âm phủ nên trở thành ma da, bị vây khốn ngay tại chỗ chết đuối. Ban ngày bị ánh nắng mặt trời chiếu vào, ma da dưới đáy sông có muốn nhúc nhích cũng không được, trời mưa thì cảm giác như vạn tiễn xuyên thân, gió nổi lên thì như bị dao găm cắt thịt, tình cảnh cực kỳ thê thảm. Hễ có ai tới sát mép sông, ma da sẽ lôi tuột người đó xuống, cho dù người bị ma da kéo có biết bơi thì cũng bị tóm chặt cổ chân mà lôi thẳng, giãy dụa cũng không thoát mà ngộp nước đến chết. Ma da làm như vậy là để tìm người thế chỗ, khi đó nó mới có thể đi đầu thai, để lại kẻ mới chết ở lại đáy sông chịu tội thay.

Quan niệm mê tín dị đoan trong xã hội ngày trước ăn vào lòng người rất sâu, cho rằng ma da mỗi năm đều tìm người thế thân nên thường đem chuyện người chết đuối dưới sông mà quy hết vào lý do ấy cả, vậy nên mới nói chỗ nào có người chết đuối là chỗ đó có ma da, nhưng xác trôi sông thì khác. Bởi vì không biết người chết trôi là chết ở chỗ nào, cho nên mới phải mời sư tăng về niệm chú vãng sinh, siêu độ cho linh hồn này, nếu không mai sau dưới chân cầu sẽ còn có người phải toi mạng. Mãi cho tới sau Giải phóng thì những tục lệ như thế mới không còn nữa.

Quách sư phụ thân là cảnh sát sông Ngũ Hà, thấy tình hình ngày đó thì trong lòng liền biết ngay là hung án giết người, hơn nữa còn là vụ một lần hai mạng. Hai mẹ con nhà kia bị giết hại, dìm xác xuống đáy sâu đã từ mấy năm trước, mãi đến khi có thủy tặc giăng lưới tuyệt hậu mới vô tình vớt được thi thể của đứa trẻ. Nửa đêm hôm qua cả phòng đẫm nước, nói không chừng là do ma da tìm tới cửa đòi con. Chẳng qua loại sự việc do thứ âm hồn bất tán này gây ra không có gì có thể làm chứng, cũng không biết có phải là do sư thầy niệm chú vãng sinh siêu độ cho vong hồn có tác dụng hay không, dù sao ngã ba cửa sông cũng không còn thấy ma quỷ xuất hiện. Hai xác chết một lớn một nhỏ này cấp trên cũng không màng giải quyết, trở thành một vụ án treo.

Vào những năm trước Giải phóng, tại mấy con sông ở thành Thiên Tân, cộng thêm cả những cống rãnh chứa nước bẩn chảy xuôi, mỗi năm phải có hai, ba trăm người chết đuối là ít. Đại đa số người chết là do ngộp nước, mười phần chỉ có một là hung án giết người, mà trong số các vụ án này, có thể phá giải được lại không quá một phần ba. Thực ra mà nói, tỷ lệ như vậy cũng không tính là quá thấp.

Vụ án dìm xác xuống ngã ba cửa sông làm toàn thành chấn động, người nào có thể giải được vụ này nhất định sẽ thăng quan phát tài. Nhưng những kẻ có kinh nghiệm đều biết đây là một hung án không cách nào phá được, chủ yếu đều là do hai thi thể nằm dưới sông không ít năm, tuy thân thể không rữa nát, cũng không bị cá rỉa thịt, nhưng xác dưới đáy sông thì đã biến thành cương thi. Theo lý thì không thể nào giải thích nổi, nhưng theo như thuyết pháp mê tín dị đoan thì có lẽ là do người chết quá oan, hơn nữa quần áo, giầy dép của người chết cũng đã bị bùn nước ngâm mục nát hết cả rồi, nhìn không ra xuất xứ thân phận, với lại cũng chẳng có ai tới nhận thân. Trong những năm tháng chiến tranh loạn lạc này, mạng người như cỏ rác, người sống còn chưa kể hết, án mạng chưa phá giải được lại càng nhiều như sao trên trời, chính vì thế quan trên cũng chẳng thèm ngó ngàng gì cả, cứ chuẩn án xong rồi để đó.

Cảnh sát sông thường không tham gia phá án, cũng không cần phải suy nghĩ nhiều, nhưng vụ án treo này với Quách sư phụ mà nói thì cũng chẳng khác chi khối sắt cột trên xác hai mẹ con kia, luôn đè nặng ở trong lòng, trước sau không thể nào bỏ xuống được. Ông ta âm thầm không nói với một ai một lời mà tự mình tới dưới cầu đốt giấy tiền vàng bạc, sau này rốt cuộc cũng phá được án, dẫn tới một đoạn “thôn Ác Cẩu truy nã Liên Hóa Thanh”. Đến khi ấy còn có chuyện còn quái lạ hơn, các bạn cứ ghi nhớ chuyện này trước đã, rồi sau này chúng ta lại bàn tiếp.

Trước tiên hãy nói về lúc phát hiện xác cô gái ở ngã ba cửa sông, đám đông vây quanh nghe ngóng đều nói Quách sư phụ thực như thần, làm sao có thể biết trước dưới sông còn có xác cô gái này được? Dĩ nhiên là phải có bản lĩnh quan phong vọng khí rồi, quả nhiên là Hà thần nha! Thầy cả đời nhà Thanh đảm đương đội tuần sông vẫn được bàn dân bách tính tặng cho cái tước hiệu là “Hà thần”, mọi người dựa vào đó mà rỉ tai nhau, cũng xưng Quách sư phụ là “Hà thần” như vậy. Quần chúng mỗi lần nhắc đến là lại hô “Hà thần Quách Đắc Hữu”, từ miệng nhân dân sang tới truyền thanh báo chí, cái tên này được lan truyền vô cùng mau lẹ.

Quách sư phụ nghe người ta gọi mình là Hà thần, ngay lập tức toàn thân toát mồ hôi lạnh, nhớ tới những lời thầy cả lúc trước vẫn luôn miệng dặn dò: “Mai này nếu có ai gọi anh là Hà thần thì anh chớ có nên nhận, bằng không nhất định gặp phải họa chết người!”

Song vì sao không thể gọi là Hà thần thì thầy cả lại không hề nhắc tới, ông ta nhớ đến câu nói ấy, liền lần lượt bảo lại với những người thân quen, cũng không dám xưng thành như thế.

Về phần búp bê con nít thì vẫn giữ lại trong nhà như trước. Năm 1949, sau Giải phóng, cả nước bắt tay vào bài trừ mê tín dị đoan, kết quả phần lớn những thứ này đều bị tiêu hủy. Anh cả búp bê của Quách sư phụ khi ấy vô duyên vô cớ bỗng biến đi đâu mất, lần này mất đi rồi liền không thể nào tìm lại được, chẳng qua Quách sư phụ cũng không hề lo lắng chút nào. Ông ta cho rằng vị anh trai búp bê nhà mình đúng là có linh tính, đã trốn ra ngoài tị nạn mất rồi!

Chương 3: Gương trận ở phần mộ Ngụy gia

Trước năm xảy ra vụ án xác chết ở ngã ba sông đã từng có một trận lũ lụt, theo kinh nghiệm dân gian thì năm ngoái ngập úng năm nay dễ gặp hạn hán kéo dài, cũng vì thế mà trước hè năm nay khí trời khô hạn, ít mưa, người xuống sông bơi lội cũng nhiều hơn năm ngoái đến mấy lần, liên tiếp xảy ra mấy vụ chết đuối, cơ hồ đều là những đứa trẻ choai choai mới lớn không biết nông sâu, tuy nói đường xuống suối vàng không phân biệt già trẻ, nhưng khi chứng kiến cũng khiến người ta phải đau lòng.

Từ khi vớt được xác người đàn bà bị dìm dưới đáy sông, cả thành đều biết, người xuống sông Hải Hà bơi lội thoáng cái cũng vắng hơn rất nhiều.

Vụ án dìm xác xảy ra vào khoảng ngày hai mươi tám tháng sáu âm lịch, là dịp lão Lý cụt đuôi về khóc thăm mộ mẹ, sau đó hơn nửa tháng, Hải Hà lại chết đuối thêm hai người, cả hai đều là người nơi khác mới đến nên không biết chuyện. Lẽ ra người chết đuối dưới sông ít đi thì đội tuần sông phải vui lên mới đúng, thế nhưng cũng vì vậy mà thu nhập liền giảm một khoản đáng kể. Ngày trước, lúc mò xác đều được các nhà từ thiện tặng mấy phân tiền, không có việc làm thì dĩ nhiên cái khoản ấy cũng sẽ không có.

Quách sư phụ sống một thân một mình, trong nhà chỉ có một người anh trai búp bê không ăn không uống, ngoài ra cũng chả có bà con thân thích gì, nhưng ông ta thường xuyên giúp đỡ anh em bạn bè, hàng xóm láng giềng những lúc khó khăn cơ nhỡ, vậy nên trong tay trước giờ chẳng dư ra được mấy đồng, mới đó mà đã thấy hũ gạo trong nhà cạn tới đáy rồi. Cuộc sống càng lúc càng trở nên khó khăn, phải đi kiếm việc làm thêm, giúp người ta lo việc tang lễ, làm thêm hình nộm, vàng mã, kiếm mấy đồng mà sống tạm.

Ông có một đàn em trong đội tuần sông, họ Đinh, gọi là Đinh Mão, tên nhóc này giỏi giang, thông minh lanh lợi, hơn nữa còn có thể thu xếp chuyện làm thêm ở bên ngoài. Một ngày nọ, hai người nhận được một mối lớn, Lâu gia trang ở thành Nam có một vị lão thái gia mới qua đời. Là thân hào địa phương, người ta nhà cao gia nghiệp lớn, muốn cử hành một cái tang lễ thật to thật hoành tráng, thế nên trước tiên mới phải mời thợ dán giấy giỏi nhất thành về. Có lẽ các bạn đều muốn hỏi, thợ dán giấy là thợ làm cái gì?

Nói trắng ra thì chính là làm vàng mã, dựa theo kiến trúc phòng ốc trong nhà mà gấp, dán ra một ngôi nhà bằng giấy, tính ra thì đây cũng là một loại tay nghề, là thứ việc mà người ta không thể tự làm, cũng không thể không nhờ tới thợ dán giấy cho được. Trong lúc gấp giấy còn cần phải niệm thêm mấy câu đại loại như: “Gia đình bình an, tài vận ghé nhà…” Cầu an mà, muốn làm ăn như vậy thì còn phải có hình nộm, vàng mã, nhà cửa bằng giấy, phàm là cái thứ gì đốt cho người chết lúc tang lễ, chỉ cần chủ nhà hô một tiếng, thợ dán giấy đều phải gấp được.

Thầy cả đội tuần sông cũng là tay thạo việc nên hai người Quách sư phụ và Đinh Mão cũng học được không ít bản lĩnh, tay nghề không tệ, buổi tối thì ngồi làm hàng mã, ban ngày lại thành chân chạy việc cho người ta.

Khi phúng điếu, linh đường được bày ra ở giữa phòng, đám con hiền cháu thảo quỳ gối trông linh cữu, bằng hữu thân thích của người quá cố tới thăm viếng không ngớt, nườm nượp cứ như đèn kéo quân. Mà những nhà khá giả ngày trước đối với việc tang luôn rất coi trọng, hai bên cửa ra vào dựng hai cái cổng tò vò thật cao, trên có hoành phi, một bên đề “Thê phong”, bên kia đối lại là “Lãnh nguyệt”, trước cửa còn dựng thêm một cái cổng lớn hơn nữa, trên đề ba chữ "Có đại sự". Rồi nào là cơ man các thứ như người giấy ngựa giấy, còn cả một hàng dài các nhạc công chuyên chơi nhạc hiếu, người về chịu tang người sang phúng viếng đông không kể xiết, thế nên mới có hai người phụ trách đón tiếp chạy việc gọi là "Tín mã". Như hai người bọn Đắc Hữu làm xong các thứ đồ hàng mã, còn phải đi lo chân "Tín mã" cho người ta.

Vậy “Tín mã” là gì?

Hiện tại nói đến tín mã, chắc không còn có mấy ai biết được nữa rồi.

Năm xưa khi những phong tục như vậy còn đang thịnh hành, những nhà giàu xa hoa đều ở trong những tòa đại viện, kín cổng cao tường lại rộng thênh thang, mà theo như quy củ ngày ấy, lúc phúng điếu thì phải sắp xếp hai chân chạy việc, để cho hai gã này đứng canh cổng, một cổng trong một cổng ngoài, trên người khoác áo xanh cổ tròn, hông đeo đai lưng màu đỏ, mặc quần đỏ vải điều, chân mang ủng mỏng để đi lại cho mau lẹ, trên thân còn quấn thêm một cây roi mãng tiên, một người đầu đội mũ đỏ, một người mũ đen. Khi có khách vào cổng lớn, người mang mũ đỏ dẫn đường hô to, giơ tay nhấc chân phải hệt như đang biểu diễn trên sân khấu, dắt khách vào cổng trong. Đến đó thì người đội mũ đen thế chỗ, đưa khách tới bục cúng bái, sau cùng nghi trượng mới chỉ dẫn cho vị này hành lễ dập đầu với bài vị.

Hai chân chạy việc một đội mũ đỏ, một mũ đen này còn được gọi là “Tín mã”.

Thực ra thì lúc cử hành tang lễ có tín mã hay không cũng không sao, nhưng càng là người có tiền thì càng muốn phô trương, không an bài tín mã thì liền cảm thấy như thiếu đi mấy phần khí phái sang trọng, trước không cần phải nói, đến khi có chuyện lại tìm không ra người thích hợp, phải để cho hai tên thợ dán giấy này đi làm.

Mà quả thực là không còn ai thích hợp hơn hai vị ấy nữa rồi, phép tắc không cần phải học, mọi thứ đều thông suốt, tư thế lại càng chuẩn hơn, hai người ra dáng ra vẻ, hò la dẫn đường, bận rộn suốt cả buổi, trừ mấy phân tiền thưởng xứng đáng được nhận, mỗi ngày còn được ăn một bữa lỡ thật ngon, bốn đĩa tám bát thì không cần phải nói, còn có thể nhân tiện uống thêm mấy hơi rượu Thiêu đao tử. Quách sư phụ và Đinh Mão nhận việc xong chẳng khác nào như đang được hưởng thụ mỹ cảm còn sướng hơn là thăng thiên. 

Thuở trước, nhà giàu thành Thiên Tân người ta cử hành tang lễ rất chú trọng việc đưa tang, trước đó tất nhiên là phải phúng điếu tiễn người đã khuất, rồi còn có vô số thứ phong tục mê tín khác nữa, mà khi đưa tang thì phải khiêng quan tài để cho người chết được dạo qua bốn cổng thành lần cuối. Trong tiếng khóc than từ sớm tinh mơ, đám phu khuân hòm nâng chiếc quan tài lớn rời khỏi nhà, đây còn được gọi là dời linh cữu, đi đằng trước là người cầm phướn dẫn đường, còn có cả nhạc công, sư tăng hòa thượng niệm kinh, đám con hiền cháu hiếu mặc đồ tang theo ở đằng sau, đoàn người lũ lượt kéo nhau đi lòng vòng một đoạn đường rất dài, sau cùng mới đưa quan tài hạ huyệt nhập thổ. Trong toàn bộ quá trình đưa tang rồi hạ táng, nhất định phải có hai người đi theo rải tiền âm phủ. Xin đừng nghĩ chuyện rải tiền là đơn giản, đây cũng là một phen công phu chứ chẳng chơi, lề luật trong đó không hề ít, người không quen ắt hẳn không thể nào làm nổi.

Án theo lệ cũ, trước khi chuyển linh cữu, quan tài ra khỏi nhà thì phải tung giấy tiền vàng bạc âm phủ một lần, chính là để xua đuổi đám ma cỏ ở bên ngoài, đại loại như các thứ cô hồn dã quỷ, cho ít tiền để đuổi chúng đi thật xa, không bám theo đoàn người. Trên đường đi đưa tang, cứ ngã tư đường, qua sông, rẽ ngoặt, qua cầu, thì nhất nhất đều phải tung tiền âm phủ, đây là phí lót đường, để cho các thứ ma quỷ không quấn lấy mà lạc lối. Người tung giấy tiền vàng bạc nắm lấy một mớ rồi tung lên, trước tiên là phải tung lên thật cao, vung tay là phải hiện ra một đường vòng cung tuyệt đẹp, tung lên nhiều mà không tỏa, đến khi rớt xuống thì mới xòe ra lả tả hệt như “thiên nữ tán hoa”, tán nhưng không loạn. Hơn nữa, đám người vây quanh xem náo nhiệt đều phải lớn tiếng khen hay, như thế mới gọi là thành công.

Quách sư phụ và Đinh Mão thường xuyên lo việc tang lễ, những việc trong đám tang hôm ấy vào tay bọn họ đều xuôi chèo mát mái cả, lại còn giúp thêm luôn chuyện rải tiền. Trước sau là ba ngày bận rộn, nào là dán giấy phết hồ làm vàng mã, nào là chạy chân “tín mã”, tung giấy tiền vàng bạc, tổng cộng được ba phần tiền công, hơn nữa còn được khoản đãi thêm, đây cũng chính là chỗ tốt khi lo việc tang lễ cho người giàu, suốt cả năm e rằng cũng chỉ được dăm ba bận như vậy mà thôi. Theo chân đám đưa tang đến nghĩa địa, hạ quan xong lại trở về thành, xế chiều hôm đó còn kết thúc bằng đại tiệc. Phong tục này đến bây giờ cho vẫn còn tồn tại, bất kể là ma chay hay hôn lễ, xong xuôi đều phải mở tiệc rượu. Ngày cuối cùng luôn cực kỳ thịnh soạn, theo như tập tục truyền thống thì phải có đủ tám bát.

Đến xế chiều chủ nhà liền mở tiệc, quả đúng là tiệc tám bát thịnh soạn nhất, tám bát lớn đựng tám món ăn, dĩ nhiên tùy theo đẳng cấp giàu nghèo mà có sự khác biệt, nhưng nhất định đều phải có tám món còn nóng hổi. Mà tám món ăn do nhà này bày ra cũng coi như là hàng đầu ở thành Thiên Tân rồi, bốn xào bốn hấp, gà vịt thịt cá, hải sâm sò khô tôm hùm, từng bát từng bát bày ra tràn cung mây, bàn tiệc san sát, tha hồ mà ăn.

Những nhạc công, phu khuân hòm, sư tăng, đạo sĩ cùng với quản gia tôi tớ trong nhà lo việc tang sự, tất cả ngồi trong rạp lớn trước cửa mà ăn uống no say. Quách sư phụ và Đinh Mão ngày thường chỉ là quan chức nhỏ ở đội tuần sông, có miếng ăn thì cũng chẳng phải thứ gì hảo hạng, ngày qua ngày cũng chỉ quanh đi quẩn lại ở mấy cái bánh ngô và rau cải trắng mà thôi. Nhưng người ở thành Thiên Tân thì vô cùng sành ăn, ở thành Thiên Tân còn có câu: “Đi cắm đồ để ăn hải sản, cũng không tính là quá tay”. Cái gọi là hải sản, ở thành Thiên Tân chính là để chỉ ba loại: Cua biển, tôm he, cá hoàng hoa. Trước nay quanh năm suốt tháng cũng chỉ có từ dạo tiết Thanh Minh cho đến kỳ Lập Hạ thì ngoài chợ mới có hải sản, mỗi năm chỉ một dịp ấy là mới có để mà ăn, nếu bỏ lỡ thì phải đợi tới năm sau mới có lại rồi, vậy nên dù có nghèo tới đâu, đến dịp đồ biển rộ hàng, dù có phải cởi hết quần áo trên người mang ra tiệm cầm đồ thì cũng phải mua bằng được hai cân hải sản về ăn cho đỡ thèm, người như vậy mới tính là đang sống ở thành Thiên Tân.

Hai người bọn họ thi thoảng giúp người ta lo chuyện tang lễ, cũng nắm lấy cơ hội này mà ăn chùa uống chực, tuy lâu lâu được bữa đỡ miệng nhưng dẫu sao cũng vẫn cảm thấy nhạt mồm. Mà Đinh Mão đúng thật là tuổi nhỏ không có triển vọng, vừa thấy miếng ăn ngon liền không nhịn được mà uống nhiều hơn mấy ly, mắt hoa tai nóng rồi thì miệng mồm cũng không tài nào khép lại được, cũng không quản có quen biết hay là không, cứ rớ phải người là bắt đầu mở mồm như bắn súng liên thanh, đầu lưỡi cứ như thụt mất một khúc, cậu chàng quay sang nói với vị hòa thượng mập ngồi ngay bên cạnh: “Hai ta đúng là người một nhà, không ngoài lý do nào khác, mà là vì quan hệ của chúng ta vô cùng đặc biệt, cháu của vợ tôi chính là em họ của thầy, mà em họ của thầy phải gọi vợ tôi bằng bác!”

Hòa thượng béo cũng uống không ít, lại bị Đinh Mão quay mòng mòng, nhìn không ra cái tên tung tiền âm phủ này là ai, ngạc nhiên hỏi lại: “A di đà Phật, xét cho cùng thì thí chủ có quan hệ thế nào với bần tăng? 

Đinh Mão cười nói: “Tôi chính là cha của thầy chứ là ai nữa.”

Hòa thượng béo cả giận: “Ông già thất đức chết tiệt nhà ta đã xanh cỏ từ lâu rồi, thằng nhóc mày là cái thá gì?”

Quách sư phụ đã uống khá nhiều, nhưng cũng may là đầu óc vẫn còn hơi tỉnh táo, nghe Đinh Mão ở đó nói sảng trên đầu người xuất gia thì vội vàng khuyên can, tránh gây ra chuyện xấu hổ mất mặt.

Hòa thượng béo này vốn tên là Lý Đại Lăng, còn có một cái pháp hiệu dễ gọi là Viên Thông, thời nay mà nhắc đến cái tên hiệu như vậy, người biết thì còn hiểu đó là pháp hiệu, kẻ không biết thì cứ ngỡ là đang nói đến “chuyển phát nhanh”*, mà gã ta cũng không phải là đèn cạn dầu, không thuộc dạng hòa thượng “rượu thịt” lai lịch không rõ trà trộn vào trong miếu. Thành Thiên Tân mang dáng vẻ phồn vinh, cũng nuôi không ít kẻ rảnh rỗi hành nghề bất chính, đều là loại ham ăn biếng làm, lúc bấy giờ nhà cửa không có, một mảnh đất cắm dùi cũng không, gia sản hết thảy chỉ có độc bộ quần áo trên người. Dạng người như vậy dù nghèo đến cỡ nào thì nghèo, bộ đồ vía đó chí ít cũng phải ra hình ra dáng tinh tươm, mặc vào ra ngoài đi dạo thì gọi là quần áo đi chơi, từ trên xuống dưới, toàn bộ đều nhờ vào thứ quần là áo lượt mà lừa thiên hạ, nhà cháy cũng không cần lo, chỉ khi nào bị nước bẩn bắn vào làm dơ quần áo trên người thì mới đau như đứt từng khúc ruột. Tỷ như Lý Đại Lăng này, có được một bộ áo cà sa, cạo một cái đầu trọc bóng lưỡng, chấm trên đó thêm mấy vết nhang, gặp phải việc ma chay đưa đám thì giả danh hòa thượng đi tụng kinh cho người ta, kiếm được mấy đồng cũng thuận tiện ăn chùa uống đậu.

Lý Đại Lăng uống đến đỏ mặt tía tai, còn đang định phân cao thấp với Đinh Mão thì lại thấy người bên cạnh khuyên can nhìn có vẻ quen mắt, liền nói: “Ối chà, đây không phải Hà thần Quách Nhị gia đó sao?” Rồi vội vàng đứng dậy, ôm quyền hành lễ.

Quách sư phụ thầm nghĩ tên này rốt cuộc là hòa thượng kiểu gì? Mặc áo sư mà phàm ăn, lại còn ôm quyền thi lễ, hẳn chính là dạng trà trộn vào trong cái tang lễ này rồi, tức thì chào lại, cũng thuận miệng hàn huyên thêm mấy câu với hòa thượng béo Lý Đại Lăng.

Mọi người xung quanh vừa nghe ra là Quách sư phụ ở đội tuần sông, liền rối rít xúm lại mời rượu, đây gọi là “người có tên, cây có bóng”. Mấy ngày trước ở ngã ba sông mò lên được một thi thể phụ nữ, trên người mọc đầy rong rêu xanh thẫm, bị trói chặt vào một khối sắt, dìm dưới đáy sông không biết đã bao nhiêu năm, chuyện này lan truyền xôn xao khắp thành, cả đàn bà con nít cũng biết, người có mặt ở đây không ai là không nói Quách sư phụ thật có bản lĩnh, không hổ là “Hà thần” phù hộ cho bản xứ bình an.

Quách sư phụ thường ngày giao tiếp tốt, lời nói ra dí dỏm hài hước, liền cuốn đến một đám người vây quanh nghe ông kể chuyện. Tuy nhiên ông cũng sợ nhất là hai chữ “Hà thần” mà người khác đặt cho mình, nghe xong thì liên tục khoát tay, không dám nhận danh xưng như vậy. Nhìn lại sắc trời không còn sớm, ăn uống cũng no nê, nên được khao thì cũng đã khao rồi, liền xã giao mấy câu với người cùng bàn, xong kéo Đinh Mão đứng dậy cáo từ. Từ Lâu gia trang đi về phía thành Tây, nơi cả hai đang ở không gần, hai người chuếnh choáng hơi men lần mò trên đường đêm, tối lửa tắt đèn thế nào mà lại đi nhầm hướng, không hề hay biết mà bước lạc vào trong một khu nhà rộng lớn. Chỗ này là khu nhà họ Ngụy, hay còn gọi là phần mộ của nhà họ Ngụy, là nơi quái gở nhất ở thành Nam.

Từ khi nhà Thanh sụp đổ tới nay, nội thành được mở rộng trên quy mô lớn, hai bên đường lộ phần lớn đều được trồng trụ giăng đèn điện, khu ổ chuột cho dù không được thắp sáng hiện đại như vậy, nhưng vẫn có thể nhìn thấy đường. Từng cụm, từng khu nhà bị đường sá và ngõ hẻm chia ngang xẻ dọc, cắt ra thành mảng nhỏ. Ngoại trừ số ít những căn nhà cổ trong thành nằm ở hướng Bắc mà quay mặt về Nam, nhà dân và đường xá thành Thiên Tân chả còn chỗ nào phân biệt Đông Tây Nam Bắc rạch ròi như thế cả, đường cái và ngõ hẻm nằm xiên vẹo, người không biết đường mà đi vào liền cứ như thể lạc vào giữa mê cung.

Người khác xứ tới Bắc Kinh hỏi đường, muốn đi đến đâu, đi như thế nào, người Bắc Kinh chỉ đường cũng rất dễ, từ Bắc xuống Nam, người hỏi đường chỉ nghe qua là nhớ, điều này cũng liên quan tới bố cục của thành Bắc Kinh. Thành có bốn mặt tường bao, chín cổng lớn, kiến trúc bên trong đều là từ hướng Bắc quay mặt về Nam, ngoại lệ không nhiều. Nhưng thành Thiên Tân thì khác, anh muốn hỏi đường sao, đừng mơ người Thiên Tân người ta chỉ cho anh rạch ròi Đông Tây Nam Bắc, chả có mấy người phân biệt cho rõ ràng được đâu. Đường nào thì cũng phải ra ngoài thành, đường về Nam ra Bắc cũng phải đi ra ngoài thành, đường sá chạy dọc một đường thẳng tắp, ví dụ như nói đến một cung đường nào đó, tùy theo địa danh mà xem xét, đều nhất định phải có một tuyến thẳng từ Nam chí Bắc. Nhưng phương hướng ở thành Thiên Tân thì lại loạn tùng phèo, đường sá trong thành rối rắm còn hơn xa mạng nhện, tất cả đều là do sông ngòi chằng chịt cùng với các nước phân chia tô giới. Những năm Dân quốc, thành Nam còn chưa có nhiều nhà cao tầng, đèn đường cũng hiếm, cũng may là còn không có ngõ cụt, bất kể anh có muốn đi tới đâu, chỉ cần không lạc mất phương hướng thì sẽ không bị lạc đường.

Quách sư phụ và Đinh Mão bữa nay uống rượu, uống từ xế chiều cho đến tận tối đen mới về nhà, chân nặng như đeo chì, bước ba bước loạn cứ như một, nửa đường đành phải dừng lại chờ tỉnh rượu. Đợi đến khi tỉnh rượu rồi mới phát hiện ra mình đang ngồi ở ven đường lớn, đường sá tối om om, ngoại trừ hai người ra thì chẳng còn ai khác, chung quanh nhà cửa vô số, phòng ốc cao thấp đan xen, bên đường cũng có một cây cột điện, cơ mà đèn đóm đều tắt ngúm. Thoạt nhìn thì vẫn còn ở trong thành, nhưng bốn bề lại tĩnh lặng như tờ, nhà cửa trống không, loáng thoáng có thể ngửi thấy mùi hôi thối của xác chết bốc ra từ đâu đó.

Một khu nhà lớn như vậy mà toàn bộ đều bị ngắt điện, trong nhà ngoài đường tối thui, chỉ có mỗi ánh trăng mông lung từ trên trời chiếu xuống. Dưới ánh trăng mờ mịt, phòng ốc, cây cối và cột điện hiện lên từng đường nét đen ngòm, thậm chí cả tiếng côn trùng râm ran cũng không có, chỉ ngửi được một mùi hôi thối không biết từ nơi nào đưa lại, nghe cứ như là mùi xác thối. Thế nhưng nơi này là ở trong thành, lại còn đang giữa quãng nóng nhất của mùa hè, người dân chung quanh đây lý nào lại để người chết trong nhà đến mức thối um lên như vậy được?

Hai người khó khăn lắm mới có thể tỉnh táo lại, cẩn thận quan sát cung đường cùng với phòng óc xung quanh, đều cảm thấy vô cùng quen thuộc, vừa nhìn thấy cột mốc ven đường liền nhớ ra, chỗ này chính là khu nhà họ Ngụy. Dân gian có câu: “Ma đưa lối quỷ dẫn đường”, hai anh em trong lòng thầm nghĩ chẳng biết là do ma quỷ nào dẫn dắt, kết quả lại chạy tới cái khu nhà họ Ngụy này đây.

Khu nhà họ Ngụy ngày nay là một khu dân cư rộng lớn ở ngoài cửa Nam, ở giữa ngoại thành và nội thành, trước đó khoảng hai, ba mươi năm, nơi đây còn được gọi là Ngụy gia lâu hoặc phần mộ nhà họ Ngụy, vốn là một cái nghĩa trang lớn. Những năm đó nghĩa trang rất nhiều, cũng không có gì là lạ, người chết trong thành thì đem ra ngoài thành hạ táng, người chết trong thôn thì đưa ra ngoài thôn chôn cất, bởi vậy ông bà mới có câu: “Chỗ nào có đất chẳng chôn người”, quanh chỗ người sống ở lúc nào mà chẳng có người chết. Mới đầu thì chôn một vòng quanh thành, nghĩa địa mai táng người chết Đông một cái, Tây một cái, chỗ nào cũng có, rồi vào những năm thời nhà Thanh, việc vận chuyển muối bằng đường thủy vô cùng phát đạt, diện tích thành Thiên Tân cũng không ngừng cơi nới thêm, mọc lên vô số nhà cửa, mà những chỗ ấy trước kia hầu hết toàn là nghĩa địa.

Nói đến khu nhà họ Ngụy là nói đến Ngụy gia lâu, hồi trước là phần mộ của nhà họ Ngụy, sau khi biến thành khu dân cư, mọi người đều kiêng không dám nhắc đến hai chữ “phần mộ” nữa. Lại nói ở đâu thì ở, ở ngay phần mộ nhà họ Ngụy thì làm gì mà không có ma cho được? Vậy nên đổi tên thành “Ngụy gia lâu”, trên thực tế thì chẳng có cái “lâu” cái lầu nào cả, cực chẳng đã mới phải đổi lại thành khu nhà họ Ngụy. Mà những người có tuổi một chút ở dạo ấy, mỗi lần nghe nhắc đến phần mộ nhà họ Ngụy, thứ nghĩ đến trước tiên thường là “Ma treo cổ”.

Lại nói tới chuyện ma treo cổ ở phần mộ nhà họ Ngụy, chuyện này cũng không phải là quá đỗi xa xưa, vào những năm cuối thời nhà Thanh, thành Thiên Tân có một gia đình họ Ngụy, người nhà ấy sống bằng nghề bán bánh hấp, gia cảnh tầm tầm bậc trung, trong nhà có ba anh em, người anh lớn mệnh yểu, đã mất đi từ bé, chỉ còn lại người anh hai và em út chia đều gia sản trong nhà. Người anh hai kế thừa tổ nghiệp, thường vẫn gánh hàng rao bánh hấp dọc đường. Bánh hấp chính là bánh bao hấp, các loại làm từ bột mì, bột gạo, thuở ấy cũng được gọi là bánh hấp. Còn người em út tâm cao chí lớn, không muốn tiếp tục theo nghiệp bán bánh hấp của nhà nên mới đến tiệm vàng học việc, cùng làm đồ trang sức với chủ tiệm. Thợ mộc thợ xây học nghề ba năm là xong, nhưng làm đồ trang sức thì ít nhất cũng phải học mất sáu năm, sau đó còn phải làm không công ba năm cho chủ tiệm, vào thời ấy học việc không phải đóng học phí, khi nào học thành nghề thì ở lại làm công ba năm, xem như là báo đáp ơn thầy.

Người em út học nghề mười năm, khi học xong thì các cách làm ăn buôn bán cũng đầy một bụng, dựa vào tay nghề mình học được mà tự thân mở một cửa hiệu bán đồ trang sức nho nhỏ, cũng nhờ hàng thật giá thật, thành tín đáng tin cậy, kỹ thuật vốn đã tốt lại còn ngày một tốt hơn, dần dà chuyện làm ăn mua bán càng lớn, tiền kiếm được cũng càng nhiều, mấy năm sau liền mở rộng thành tiệm vàng chuyên về đồ trang sức.

Người anh hai làm ăn buôn bán cũng không tệ, cưới được một cô vợ vô cùng hiền lành, hai vợ chồng tự ăn nên làm ra, đi sớm về khuya cực khổ dành dụm được một ít vốn liếng, trước tiên thuê một căn nhà trên đường gần cổng thành, sau đó mở tiệm buôn bán. Ngoại trừ bánh bao hấp gia truyền ra thì còn có các loại mì phở điểm tâm, mặt tiền cửa hàng cũng tăng lên sau trước ba gian, việc làm ăn đúng là bận bịu muốn chết, vì thế mới thuê một người giúp việc, để tay giúp việc này làm tiểu nhị lo chuyện bán hàng ở trước, còn anh hai thì làm bếp ở phía sau. Cửa hàng liền kề với tiệm vàng, trang sức của người em nên cũng dễ bề chiếu cố cho nhau, theo thời gian, cuộc sống cũng ngày một trở nên tốt đẹp.

Ai mà ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, đến năm Canh tý, quân đội tám nước liên hợp phá tan cửa ngõ Đại Cô* tiến thẳng vào thành Bắc Kinh, thành Thiên Tân đứng mũi chịu sào gặp nạn, loạn binh cướp bóc khắp nơi trên đường, các cửa hàng lớn đều bị cướp sạch. Tiệm vàng, trang sức của người em cũng bị loạn binh vơ vét không còn một mảnh, phía trước cửa hàng cũng bị đốt thành một đống tan hoang, sập tiệm kể từ đó, không tài nào gầy dựng lại được. Hai vợ chồng người em nhất thời quẫn trí, cùng nhau thắt cổ trong phòng, nói trắng ra là hai vợ chồng nhà này không có một cái chết yên lành, chính là ma treo cổ.

Lúc ấy tiệm điểm tâm của người anh hai cũng bị loạn binh cướp bóc, nhưng cũng còn may là chỉ có các thứ thực phẩm điểm tâm nên hao tổn không lớn, vay mượn chắp vá lung tung khắp nơi, cuối cùng cũng gom lại được một số vốn để mà tu sửa lại gian ngoài cửa tiệm, vẫn còn có thể tiếp tục làm ăn. Đến sau này ăn nên làm ra, có tiền mua nhà mua đất, có thân phận nên cũng không thể nào gọi là anh hai được nữa rồi, mà phải xưng là Nhị gia. Ngụy Nhị gia sau khi giàu có vẫn thường xuyên nhớ đến hai vợ chồng đứa em đã thắt cổ tự vẫn, chết quá oan khuất của mình.

Thân là anh em huynh đệ trong nhà, cũng chả khác chi là thịt gân bó vào xương, vẫn có câu “huynh đệ như tay chân, thê tử như y phục”, quần áo mất rồi thì còn có thể mua lại, nhưng tay chân đứt lìa rồi dẫu có muốn cũng mọc chẳng ra. Người sống cả đời, ở bên cạnh không thể không có người thân, cha mẹ chỉ có thể đi cùng anh hết nửa đời trước, vợ con nhiều lắm cũng chỉ theo hết nửa đời sau, chỉ có anh em ruột thịt mới cùng nhau đi đến suốt cuộc đời, vì thế mới gọi là tình như thủ túc.

Ngụy Nhị gia tưởng nhớ huynh đệ của mình, kìm không được mà rơi lệ, trước sau nhiều lần mời cao tăng đến niệm kinh siêu độ vong hồn, còn ra ngoài thành mua một miếng đất có phong thủy tốt về làm nghĩa địa, đem quan quách hai vợ chồng người em cùng với tổ tiên trưởng bối nhà họ Ngụy dời hết cả vào trong mảnh đất này, an táng lại lần nữa.

Nghĩa trang là nền móng của cả dòng tộc, trước phải có gốc rễ thâm sâu thì mới mong con cháu ngày sau hưởng đầy phúc lộc, Ngụy Nhị gia mua miếng đất nghĩa địa này tất nhiên là hy vọng cửa nhà bình an, làm ăn thịnh vượng. Năm đó, nghĩa trang của các gia đình giàu có đều mang tính chất thuộc về sở hữu tư nhân, cho nên miếng đất này mới gọi là phần mộ nhà họ Ngụy, trước mộ phần có nhà thờ tổ, gọi là Từ đường Ngụy gia. Trong khu mộ tùng bách chen nhau, cổ thụ cao ngất, sương khói lượn lờ quanh năm suốt tháng, thi thoảng lại mơ hồ truyền ra thanh âm như rắn động cáo kêu. Khu đất từ Đông sang Tây rộng gần hai dặm, từ Bắc xuống nam dài khoảng ba dặm, là một khu đất lớn, cây cối vô cùng rậm rạp. Vùng rìa Tây Nam có địa thế rất thấp, nối liền một mảnh với vùng trũng phía Nam, giống như một cái đầm lầy mênh mông rộng lớn nhìn không thấy điểm cuối, mà trước đó Ngụy Nhị gia có tìm đến Trương Bán Tiên, là một thầy phong thủy chuyên xem các loại âm trạch dương trạch, Trương Bán Tiên nhìn trúng miếng đất nghĩa địa này, cho rằng phong thủy vô cùng tốt, nào biết sự cổ quái nơi đây còn nhiều hơn.

Phạm vi mấy dặm nơi phần mộ nhà họ Ngụy mọc đầy cổ thụ, tùng xanh bách rủ, trong rừng có không ít hồ ly ẩn náu, sói vàng, nhím gai, chồn hoang chó dại chen chúc, ma quái ẩn hiện, thế mà theo như lời của tên giả thần giả quỷ chuyên lường gạt như Trương Bán Tiên thì tất cả đều là do sự dồi dào linh khí của mảnh đất này mà thành, nếu quả như phong thủy nơi này không tốt thì làm gì có những thứ ấy được? Kết quả là chuyện làm ăn của Ngụy Nhị gia truyền tới đời con thì lại chọc trúng một viên quan lớn, phải bồi thường đến tán gia bại sản, sau lại gặp một hồi dịch bệnh tai ương, cuối cùng nhà tan cửa nát mà tuyệt hậu, phần mộ nhà họ Ngụy kể từ đó liền bị bỏ hoang, biến thành phần mộ vô chủ. Sau đến thời Dân quốc, theo sự mở rộng diện tích của nội thành mà phần mộ nhà họ Ngụy cũng mọc lên vô số mái nhà, địa danh cũng đổi thành Ngụy gia lâu, qua thêm ít năm đổi lại thành khu nhà họ Ngụy, tùng bách rêu phong ngày trước cùng với mộ phần mộ bia cũng không còn, chẳng qua mọi người vẫn quen gọi chỗ này là phần mộ nhà họ Ngụy.

Quách sư phụ và Đinh Mão nhận ra chốn đây chính là khu nhà họ Ngụy, cũng nghe kể hồi đó có chôn ma treo cổ, lại không thể nói rõ là quen thuộc biết bao nhiêu, vì trước kia chỉ mới ghé qua được có mấy lần. Lại đoán chỉ có thể là do uống say nên lỡ bước, không hề hay biết mà sa chân vào chỗ này, nơi đây phần lớn chỉ là chúng bình dân, đường sá ngõ hẹp thì giăng giăng như mạng nhện, trận lũ đầu năm ngoái cũng vùi lấp mất một khoảng lớn nhà cửa chỗ này rồi, bấy giờ trừ vài căn làm chốn nương thân cho mấy tên ăn mày cùng những người đi nhặt rác, số còn lại đều là phòng ốc ẩm dột nghiêm trọng, mặc dù cũng coi như là ở trong thành, nhưng toàn bộ đều bị ngắt điện cắt nước, mãi chưa đập bỏ.

Quách sư phụ không dám để cho người ta gọi ông ta là Hà thần, không gọi thì còn tốt, vừa mới gọi là Hà thần một phát liền xui xẻo, lúc đầu thầy cả nói quả không sai, ông ta không thể nào không tin vào chuyện này được. Người phải cõng theo tên mà sống, đến uống nước cũng bị dắt răng. Khu nhà họ Ngụy và nhà của hai người bọn họ nằm ở hai hướng trái ngược, đêm hôm khuya khoắt làm thế quái nào đi lạc qua cái chỗ này được?

Quách sư phụ chỉ muốn về nhà thật nhanh, liền cùng Đinh Mão nhắm chuẩn hướng rồi theo đường cái mà đi tới, vẫn cứ cho rằng qua khỏi đoạn đường thuộc khu nhà họ Ngụy là tốt rồi, nào ngờ đường ngang lối tắt ở cái xó này cứ như là quấn cả vào nhau, đông cụt một đường, tây cùng một hẻm, đi tới đi lui rốt cuộc lại vòng một vòng thật lớn rồi quay về chỗ cũ, hai anh em giờ chẳng khác chi quỷ Tây dương xem kinh kịch - đầu váng mắt hoa.

Đinh Mão nói: “Anh, khu nhà họ Ngụy đúng là ma quái, hai ta đi lâu như vậy, đáng lý là phải ra tới ngoài đường lộ rồi mới đúng, thế mà chẳng hiểu sao còn chưa thoát khỏi chỗ này, không lẽ bị oan hồn quấn lấy chân rồi sao?”

Quách sư phụ nói: “Thằng em, đêm hôm khuya khoắt, chớ có nên nói bậy. Đừng nhìn mấy cái nhà này trơ tuênh huếch ra như vậy, trước kia không phải là vẫn có người ở đó sao, đào đâu ra ma?”

Đinh Mão nói: “Sao lại nói bậy, phần mộ nhà họ Ngụy chôn hai con ma treo cổ, chuyện này có phải do em tự bịa ra đâu, trong thành ngoài thành chả ai là không biết.”

Quách sư phụ lại bảo: “Phần mộ nhà họ Ngụy chôn hai con ma treo cổ từ thời còn là nước Đại Thanh kia kìa, bây giờ là cái thời nào rồi? Nếu cứ chỗ nào có mả thì phải có ma, vậy chắc cũng chẳng còn đất nào cho người sống ở. Huống hồ chi người sợ ma ba phần thì ma quỷ cũng phải khiếp lại người bảy phần, hai anh em ta lại là người đàng hoàng, cả đời này cũng chưa từng làm chuyện đâm sau lưng kẻ khác bao giờ, đừng nói là phần mộ nhà họ Ngụy có ma, dù có ma thì nó cũng phải trốn chẳng dám ra gặp hai đứa mình!”

Đinh Mão kiếm cơm ở đội mò xác nên cũng chẳng sợ những thứ không sạch sẽ bao giờ, hắn nói: “Đại ca, em nói mà anh lại không tin, nếu như khu nhà Ngụy gia không có ma, vậy mấy cái thứ trên nóc nhà kia là cái gì?”

Trời hè nóng nực, ban đêm lại càng oi bức, dù có nằm im bất động thì toàn thân cũng phải đổ mồ hôi, mà Quách sư phụ khi nghe xong câu ấy thì cảm thấy sau lưng lạnh toát, lại càng khó hiểu trong lòng, quay sang hỏi: “Thằng em, hơn nửa đêm mà còn nói mấy cái này, mày không thấy sợ hay sao? Trên nóc nhà là mái ngói chứ còn có thể là cái gì được nữa?”

Đinh Mão nói: “Không tin thì anh cứ tự ngẩng đầu lên mà nhìn một cái!”

Quách sư phụ nghe Đinh Mão nói trên nóc nhà có thứ gì đó, ông ta liền ngẩng đầu lên xem. Trên nóc nhà chẳng có ma quỷ gì cả, nhưng dưới ánh trăng soi, có thể loáng thoáng nhìn thấy được mấy tấm kính treo trên mái, mà những căn hộ kế bên cũng có, cũng không phải chỉ một hai nhà không thôi, hễ mười hộ ở đây thì đến tám, chín là treo gương trên nóc. Sau khi các hộ gia đình rời đi hết, những tấm kính này cũng không được tháo xuống mà vẫn cứ treo hoài trên mái nhà như vậy, người dân nơi đây có lý nào lại ăn no rỗi việc đến nỗi không dưng lại vô duyên vô cớ bày ra một loạt kính trận trên nhà mình?

Đinh Mão nói: “Ông anh nhìn thấy chưa? Làm gì có ai lại treo kính lên nóc nhà mình ở như vậy? Ngụy gia lâu hồi trước là mảnh đất chôn người chết, mồ mả hỗn loạn, không có ma mới là chuyện lạ đó. Sớm biết vậy hồi sáng lúc đi đưa tang xong giữ lại chút vàng mã còn thừa trên người thì tốt rồi, nghe nói một khi có người nào đó bị ma quấn chân, chỉ cần ném ra hai nắm giấy tiền vàng bạc để đuổi chúng đi là có thể bình an vô sự.”

Quách sư phụ từng chứng kiến hai nhà nọ ở trong thành xảy ra tranh chấp, suýt chút nữa thì gây ra cả án mạng, mà nguyên nhân dẫn đến việc đó là do có một nhà treo kính trên nóc, nói là do cửa nẻo nhà đối diện xây không tốt, hiên nhà cùng với mái nghiêng thẳng về phía cửa chính nhà họ, hủy luôn cả phong thủy của ngôi nhà, thế nên phải treo kính trên mái để chặn cho tà khí của nhà bên kia quay ngược trở lại, mà cũng chính vì thế nên hai nhà mới gây gổ đánh nhau không ít. Nhưng khu nhà họ Ngụy là một khu dân cư đông đúc, không ngờ nhà nào nhà nấy lại treo kính trên nóc mới quái gở, loại chuyện kỳ quái này đúng là chưa từng thấy qua, thậm chí cũng chưa nghe bao giờ.

Ông ta lại phát hiện những tấm kính này đều được dùng dây thép cột chặt vào mái, nhiều năm không lau rửa nên trên mặt vương đầy tro bụi, kính cũng không phải bằng đồng mà là loại hết sức bình thường, có lành có vỡ. Dựa theo tình trạng này mà nói, cho dù không dùng để trấn ma trừ tà thì cũng là một loại bố cục phong thủy nào đó.

Quách sư phụ quay sang nói với Đinh Mão: “Kính trận chẳng qua cũng để trừ tà hoặc là trợ thế cho phong thủy, bố trí như vậy không nhất định là do đề phòng ma quỷ. Huống chi sau trận lũ năm ngoái thì khu nhà Ngụy gia mới không còn ai ở, trước nay cũng chưa từng nghe chỗ này có chuyện gì bất thường, tao thấy anh em mình tốt nhất đừng nên nghi thần nghi quỷ, đoán mò gì nữa, nếu không thì sau này làm sao còn kiếm cơm ở đội mò xác được cơ chứ?”

Đinh Mão cho rằng Quách sư phụ nói như vậy cũng có lý, kính trận trên mái nhà khu họ Ngụy có lẽ cũng chỉ là một loại phong thủy nào đó mà thôi. Nhưng tình huống lúc này còn có chỗ quái dị, không rõ ràng. Lúc vừa mới đặt chân vào Ngụy gia lâu này đã nghe thấy có mùi xác thối, lý nào là do trộm cướp giết người đoạt mạng, vứt xác trong cái khu không người ở này, lại thêm khí trời oi bức nên đã rữa nát bốc mùi rồi chăng? Người đi qua nơi đây lúc nửa đêm rồi bị lạc đường, không thể nào đi ra ngoài được, nhất định là do oan hồn cản trở.

Quách sư phụ suy nghĩ một chốc, nói: “Mắt thấy mới tin là thật, trước tiên cứ đi qua nhìn xem rồi hãy nói.”

Hai người đúng là gan to mật lớn, lần theo mùi hôi thối mà dò tìm, đã lại thấy bên đường có thứ gì đó trăng trắng một khối ngã dựa dưới chân tường, càng tiến lại gần càng cảm thấy không thể nào ngửi nổi, đến gần hơn nữa mới phát hiện thứ này lại còn có thể nhúc nhích được.

Trong khu dân cư này không có đèn đường, hai người nhìn không ra thứ ở ven đường là cái gì cả, chỉ ngửi được độc một mùi xác thối, ở xa nhìn lại thì đúng là một cục trắng nhởn, đến gần lại phát hiện dường như hãy còn cử động. Muốn tiến lại gần hơn thì không thể không đưa tay bịt mũi, mùi hôi thối bốc lên quá nồng, bước tới thêm hai bước, chỉ cần đưa tay ra là có thể chạm được, cúi xuống nhìn cho rõ thì mới thấy đây chính là một cái xác đã rữa nát và nhung nhúc dòi.

Cả hai vừa nhìn liền cảm thấy thật là buồn nôn, vì trời nóng cho nên dòi bọ đã bò lúc nhúc đầy tấm thân của cái xác này rồi. Hai người đều không nhịn được mà muốn ói, nhưng lại vội vàng lấy tay bịt miệng, bởi vì không nỡ buông tha cho bữa tiệc tám bát, bốn xào bốn hấp, quanh năm suốt tháng cũng không ăn được đôi ba lần, phun ra thì thật là quá đáng tiếc, liền gồng mình mà nuốt ngược trở lại.

Mùi thối ngửi thấy trước đó là bốc ra từ cái xác rữa nát ở ven đường này. Chẳng qua đây không phải xác người chết mà là thi thể của một loài động vật nào đó, nhìn đường nét lớn nhỏ ở bên ngoài thì có thể chính là chó hoang, ước chừng đã thối rữa cũng phải được mấy ngày, ngoài ra thì cũng chẳng có gì đáng để ý, nhưng ở cách đó không xa lại còn có cả hai con mèo đã chết.

Người chết ở ven đường được gọi là “đảo ngọa”*, cũng chính là chết đường chết chợ, nếu như ở trong thành, bất kể là có người nhận hay không, tóm lại đều có người giàu lòng tốt bụng giúp đỡ đưa xác đi chôn, nếu như không ai thèm động tới thì cũng có nhà nước phái người đến lo liệu, kể cả các loại động vật, chó mèo… chết ở ven đường cũng có người thu dọn. Nhưng phần mộ nhà họ Ngụy này chỉ là một khu phòng đổ nhà nát, chẳng biết khi nào thì đập bỏ, không ai sống, chó mèo phơi xác ngoài đường cũng chẳng có ma nào thèm đoái hoài tới, thế nên thối rữa bốc mùi như vậy cũng không có gì là lạ.

Quách sư phụ và Đinh Mão thấy qua là hiểu rõ ràng chuyện gì đang xảy ra rồi, cũng không thèm để ý tới nữa. Lúc này tầng mây trên trời tản đi hết, ánh trăng sáng ngời soi tỏ phòng ốc cùng ngõ hẻm, vừa nhìn là thấy chỉ cần đi thẳng về phía trước, rẽ thêm lần nữa là có thể ra khỏi khu nhà họ Ngụy. Thật không hiểu làm sao khi nãy vòng vèo lâu như vậy mà vẫn không ra khỏi chỗ này được?

Hai người nghĩ đại khái có lẽ là do uống quá chén, hơi rượu còn chưa tan nên đầu óc vẫn cứ mơ mơ hồ hồ, lại thêm mây mù che khuất cả vầng trăng, ven đường thì không có đèn, khó tránh khỏi bị lạc, lúc này tốt nhất là nên thừa dịp trăng sáng mà chạy cho lẹ. Hai anh em vừa nghĩ vậy liền rảo bước đi ngay. Nhưng càng đi, Quách sư phụ càng có cảm giác giống như có thứ gì bám riết theo sau, một mạch cùng đi với cả hai về phía trước, quay đầu nhìn lại thì chả thấy cái quái gì cả, thầm nghĩ: “Hôm nay mình làm sao thế nhỉ, cứ nghi thần nghi quỷ mãi là thế nào?”

Đầu óc Quách sư phụ quay mòng mòng, bất tri bất giác đã chạy tới giao lộ, đi tới đây xem như là đã ra khỏi khu nhà họ Ngụy, nhưng vẫn cứ cảm giác như có thứ gì bám mãi phía sau, lạnh hết cả gáy. Bấy giờ cúi nhìn ánh trăng hắt xuống mặt đất, lại thấy ngoại trừ hai cái bóng của ông ta và Đinh Mão ra, phía sau còn có một bóng đen rất nhỏ, Đinh Mão cũng nhìn thấy được, hai người lấy làm kinh hãi, vội quay đầu ngoảnh lại phía sau, chỉ thấy một thứ nhỏ hơn chó to hơn mèo, đuôi dài lông xù “vèo” một tiếng, thình lình từ sau lưng Quách sư phụ nhảy vọt lên, men theo chân tường mà bỏ chạy nhanh như chớp, thoáng cái đã mất dạng.

Hai người ngây ra tại chỗ, cứ vậy mà trợn mắt há mồm, căn bản không rõ đến tột cùng là chuyện gì xảy ra. Sau bọn họ lại tìm mấy người đặc biệt am hiểu những chuyện như thế này, đem chuyện lạc đường lúc nửa đêm ở khu nhà họ Ngụy, thấy chó mèo chết dọc đường, trên nóc nhà dàn trải kính trận, làm sao đến, đi thế nào, kể rõ mọi chi tiết từ đầu đến đuôi, thì lại nghe người ta bảo khu nhà họ Ngụy trước kia chính là nơi chồn cáo tác yêu tác quái. Năm ấy khi nghĩa địa trở thành khu dân cư cũng không được yên lành, dân cư sống ở đây không hề an ổn, sau nhờ thầy địa lý chỉ điểm, các hộ mới treo kính trên nóc nhà, kính này không phải treo bừa treo bậy, mà mở thành trận pháp đàng hoàng. Những thứ có linh tính lạc vào khu nhà này thường thường sẽ lạc mất phương hướng mà không làm sao thoát ra được, cuối cùng chết ở bên trong, chính vì vậy mà khu nhà họ Ngụy thường xuyên thấy có chó mèo chết lạc. Năm ngoái xảy ra trận lũ cũng có không ít người chết đuối, nghe nói chính là do bày ra kính trận hiểm ác này mà gặp báo ứng.

Sau khi nước lũ rút hết, khu nhà họ Ngụy chỉ còn là một mảng lớn toàn phòng không nhà trống, bình thường bất kể là ngày hay đêm, ai đi ngang qua cũng không gặp phải chuyện, có thể là do Quách sư phụ dạo này bị người ta gọi là “Hà thần” quá nhiều, vậy nên vận rủi cũng đến liên tiếp không ngừng. Người sống gặp lúc dương khí đang thịnh thì cô hồn dã quỷ chẳng dám đến gần, nhưng đến khi vận khí suy giảm, trên ấn đường nhất định chuyển thành màu đen, dương khí cũng vì thế mà suy yếu. Lúc ấy có thể là do một con ly miêu hoặc là hồ ly gì đó thấy dương khí trên người Quách sư phụ và Đinh Mão yếu ớt, liền dùng thuật che mắt để mê hoặc hai người, bám theo sau để trốn ra khỏi khu nhà họ Ngụy. Hay cũng còn có một khả năng khác, thứ ấy bị vây ở khu nhà họ Ngụy không ra được chính là do số kiếp của nó đã tận, núp bên người Hà thần Quách sư phụ mới có thể qua khỏi một kiếp này.

Đến cùng là có chuyện như vậy hay không cũng khó nói, Quách sư phụ ngày đó nghĩ mãi không ra, chuyện qua rồi thì cũng quên đi luôn. Mãi cho đến sau Giải phóng, tầm những năm sáu mươi rồi, có một đêm, tan việc xong ông ta mới cưỡi trên một chiếc xe đạp cà tàng đi về nhà. Khi ấy đã vào tiết lập thu, gió thổi xào xạc, khí trời lành lạnh cũng giống như là đêm nọ, cũng là vào buổi đêm hôm khuya khoắt, đường sá vắng tanh không hề thấy bóng người qua lại.

Cùng ngày hôm ấy ông ta đi vớt xác chết trôi ở sông Hải Hà, bận rộn cả ngày, chút nước gạo cũng chưa có để mà dính răng, đói đến mức bụng cũng dính cả vào lưng rồi, lòng chỉ nghĩ tới chạy vội về nhà lấp bụng bằng bát cơm nóng hổi. Khi đạp đến một đoạn đường dọc theo bờ sông, đột nhiên con xe đạp cà tàng đạp mãi mà không đi, cứ như thể có thứ gì ở phía sau lôi xe ông ta lại, không cho tiến thêm về phía trước.

Quách sư phụ không còn cách nào khác là dừng xe, quay đầu lại nhìn, chỉ thấy ở sau xe có thứ gì đó lông xù chạy vụt đi, chớp mắt đã không còn thấy đâu nữa, cũng không biết là ly miêu ở đâu ra, nhìn có vẻ cũng giống, đường về lại tối đen, nhìn không rõ đến tột cùng là thứ gì.

Lúc này từ đằng sau có một thanh niên cũng đi xe đạp, mặc bộ đồ bảo hộ lao động trong công xưởng, sau xe còn kẹp theo một cái cặp lồng, trông có vẻ là công nhân đi làm ca đêm. Người công nhân trẻ tuổi này đạp xe phóng nhanh, lạng qua bên người Quách sư phụ chỉ để lại một cơn gió, trực tiếp phi thẳng về trước.

Quách sư phụ thầm nhủ trong lòng: “Nhóc con hôi lông, định đi đầu thai hay sao mà phóng bạt mạng như vậy nha?” Ông ta xem lại chiếc xe cà tàng của mình không bị gì cả, đạp lại liền chạy mới leo lên xe tiếp tục đi tới, chợt nghe đằng trước “rầm” một tiếng, giương mắt lên nhìn liền sợ hết cả hồn.

Thì ra là công nhân trẻ tuổi kia phóng xe nhanh quá, lại tự mình lao thẳng xuống sông. Bờ kè bên sông cao nửa thước, tên này phi quá nhanh, đâm luôn vào kè rồi bắn tung cả người, văng thẳng xuống sông, đầu cắm sâu vào tận đáy bùn.

Mạng người quan trọng, há phải chuyện thường? Quách sư phụ không dám chậm trễ, ngay cả quần áo cũng không kịp cởi, quăng cả xe rồi nhảy xuống sông lạnh, liều mạng cứu người công nhân trẻ tuổi này lên bờ. Tai mũi họng anh chàng này ngập tràn bùn sình, sắc mặt xanh mét, lôi lên tới bờ thì đã không còn hơi thở, e rằng chỉ chậm thêm nữa phút nữa thôi là khỏi cứu. Quả thật là mạng lớn mới gặp được Quách sư phụ, đổi là người khác gặp phải tình huống thế này, cho dù có muốn cứu cũng không kịp.

Quách sư phụ đưa người công nhân trẻ tuổi tới bệnh viện, sau khi tình huống ổn định rồi mới hỏi anh ta đã xảy ra chuyện gì, đường rộng đến thế, vì sao cứ nhất định phải phóng thẳng xuống sông? Có phải là làm ca đêm quá mệt, vừa đạp xe vừa ngủ gật? Thật quá nguy hiểm.

Công nhân trẻ tuổi nói đạp đến đó thì căn bản không thấy sông ngòi gì cả, khi ấy anh ta thấy rõ trước mặt là đường, chả hiểu vì sao cưỡi xe đạp tới thì lại rớt xuống sông như vậy.

Bác sĩ y tá trong bệnh viện nghe thế liền cho là thằng nhóc này sợ quá nên hóa hồ đồ, đèn đường sáng trưng, không phải bị quáng gà thì làm sao có thể nhìn sông thành đường cho được?

Ai mà ngờ qua thêm vài ngày, lại có một công nhân làm ca đêm đạp xe rơi xuống sông, lần này không có ai nhìn thấy, đến hừng sáng mới phát hiện trên mặt sông có hai cái chân thò lên, một chân mang giày, một chân không, không hề nhúc nhích. Đợi đến khi vớt được từ dưới sông lên, người này đã hết cứu.

Có một số chuyện khi ấy không ai dám nói, nhưng trong lòng mọi người đều hiểu rõ, không chừng là chỗ này có ma da cần người thế chỗ, dụ người ta phi thẳng xuống lòng sông. Đêm đó nếu không phải xe đạp của Quách sư phụ đột nhiên không đạp được, người rơi xuống sông chết đuối chính là ông ta. Dù cho bản lĩnh của ông ta lớn đến đâu, thủy tính có tốt hơn đi chăng nữa, một khi đầu đã cắm thẳng vào bùn thì đừng mong mà sống. Mặt khác, lúc xe của Quách sư phụ không đạp được, dường như thoáng thấy một bóng đen chạy mất, có lẽ là con vật nhỏ năm đó ông ta cứu được ở phần mộ nhà họ Ngụy vừa quay lại báo ơn

ng nhập để đọc nhé các bạn :)

[SHOWTOGROUPS=2]Mồm thì nói là đi tróc nã Hà yêu Liên Hóa Thanh nhưng cũng chẳng biết tìm thế nào. Ngô lão hiển lại 'tuổi đi nhanh hơn hoàng thổ', căn bản cũng chẳng làm được gì, chính quyền cũng không có ai chịu đi điều tra án cũ đã qua nhiều năm như vậy. Hiện giờ Quách sư phụ và Đinh Mão chỉ biết tự tìm biện pháp.

Lý Đại Lăng muốn đi theo hỗ trợ. Hắn là kẻ không có lợi đừng hòng đi theo, nghe Ngô lão hiển nói về kỳ ngộ ở vườn rau từ đường Lý công, biết rõ vụ án xác chết ở ngã ba sông và đại tiểu thư nhà họ Thạch mất tích cùng một thời gian, tám chín phần mười là cùng một người, không bắt được Liên Hóa Thanh thì án này không thể giải quyết ngay được. Vì Thạch lão gia đã đồng ý có thưởng nên hắn cũng phải liều mạng, chứ nếu không cũng chẳng được cắc nào.

Quách sư phụ nghĩ thầm, mặc dù Lý Đại Lăng là một tên cầu bất cầu bơ, nhưng hắn lại có thể trà trộn trên đường, chui vào ổ chuột, chỗ nào cũng có thể vào, không có hắn điều tra thì cũng không thể nào biết hết được. Qua cái lỗ tai ấy, dù có là gió thổi cỏ lay thì hắn cũng biết. Có thêm sự trợ giúp của hắn thì cũng không tồi vì thế nên Quách sư phụ đồng ý, bắt đầu đi điều tra. Vạn sự khởi đầu nan, chỉ cần tìm được một chút manh mối là sẽ có thể lần ra Liên Hóa Thanh, rồi có khi lại có thể bắt được. Nhưng án cũ đã qua nhiều năm, đâu có dễ phá, đúng là như mò kim đáy bể.

Hỏi tới hỏi lui, cuối cùng biết được Liên Hóa Thanh sinh ra tại Trần đường trang, cách thành cũng không xa. Quách sư phụ và Đinh Mão ngày nào không tìm ra, sống không yên. Hai người tới Trần đường trang tìm kiếm manh mối. Trần đường trang chính là nơi thờ cha con Thác Tháp Thiên Vương Lý Tịnh trong truyền thuyết trấn thủ Trần Đường Quan. Thời xưa, Quan Hạ là vùng biển, về sau biển cạn, biến thành Trần đường trang, thời trước giải phóng còn có miếu Trấn Hải và miếu Na Tra. Quách sư phụ và Đinh Mão tới vùng phụ cận hỏi thăm, khi nhắc tới Liên Hóa Thanh, thật sự có không ít người biết. Nhà của Liên Hóa Thanh vốn là nhà phú hộ ở địa phương nhưng cả nhà đã sớm chết sạch.

Nhưng cả nhà họ Liên chết thế nào, vì sao Liên Hóa Thanh lại trở thành đồ đệ của con sái hầu kia cùng hướng đi phía sau thì cả Trần đường trang cũng chẳng có mấy người biết. Mà cho dù có biết thì cũng chỉ là tin đồn, không thể nào coi là chắc chắn được. Sau một ngày lân la, hai người vẫn không thu được kết quả gì, tới lúc xế chiều định về thì đột nhiên trời u đất ám, sau đó nổi cơn mưa giông.

Vài ngày trước, trời luôn oi bức không giọt mưa, hạn tới mức nhất định là sẽ úng, dưới đất là thời binh hoang mã loạn, ông trời già cũng chẳng thể nào hòa nhã được. Hai người vừa mệt vừa đói lại nhìn thấy trời mưa như trút nước, mà cũng đã tối nên đành phải tới một ngôi miếu thổ địa trong vùng tránh mưa. Có khi mưa hết cả đêm, nên phải trú ít nhất là tới sáng rồi mới có thể tính tiếp. Chỗ trú là một tòa miếu thổ địa tan hoang đã lâu, mạng nhện phủ đè lên bụi, gió lạnh từ tám phương ùa vào như không tường, ở trong còn có một người ăn xin. Cùng cảnh trong miếu, tối lửa tắt đèn, hơn nữa người ăn xin này tóc tai bù xù, mặt còn đen hơn cả Táo quân, căn bản không nhìn ra cái gì.

Người ăn xin thấy có hai người vào miếu thổ địa thì vội vàng bưng cái bát lên cầu khẩn: "Xin nhị vị thương xót, xin ngài thương xót, cho ta xin cái ăn. . ." Quách sư phụ và Đinh Mão cả ngày quên ăn, trong người có cất mấy cái bánh nướng làm lương khô, thấy người ăn xin này cũng đáng thương nên đưa ngay cho hắn một cái bánh nướng. Gã ăn xin nhận lấy cái bánh rồi rúc vào góc tường ăn như hổ đói.

Đinh Mão nói: "Anh à, đừng để đám bọ chó trên người gã kia lây sang, tốt nhất là tránh xa hắn một chút." Nhưng cái miếu thổ địa đổ nát tứ bề, diện tích cũng không lớn, còn có chỗ dột nên hai người đành phải vơ đám cỏ khô trên đất lại rồi ngồi ở góc tường, vừa gặm bánh cho đỡ đói vừa kể lại những tin tức đã nghe được trong ngày ở Trần đường trang.

Gã xin ăn kia cũng lắm miệng, nghe hai người nhắc tới Liên Hóa Thanh thì vội nói: "Nhị vị muốn hỏi chuyện liên quan tới Hà yêu Liên Hóa Thanh à? Không dối gạt hai vị, ta cũng biết không ít, hai vị thưởng thêm cho ta mấy cái bánh nướng, ta sẽ nói toàn bộ cho hai người biết."

Quách sư phụ và Đinh Mão nghĩ đơn giản là người ăn xin này muốn thêm bánh nướng, vừa nói 'chúng ta cả ngày chưa ăn cái gì, chỉ dắt theo có vài cái bánh nướng này, vừa rồi cho ngươi một cái là anh em ta phải nhịn đi một ít, giờ cũng chỉ có thể cho ngươi thêm một cái', nói xong ném cho người ăn xin kia một cái bánh nướng nữa. Gã cảm tạ rối rít rồi nói: "Có không ít người biết Hà yêu Liên Hóa Thanh ở Trần đường trang, nhưng biết rõ thì chỉ có vài người. Ta chính là một trong số đó. Bởi vì năm xưa ta đã từng ăn cơm cùng với Liên Hóa Thanh, nếu hai vị không chê tiểu nhân lắm mồm thì xin nghe tiểu nhân kể lại. . ."

Vào ban đêm, cơn mưa như khắc khoải trút xuống, người ăn xin ở trong miếu kể lại cho Quách sư phụ và Đinh Mão về lai lịch xuất thân của Liên Hóa Thanh. Liên Hóa Thanh lấy họ của mẹ. Năm xưa, Trần đường trang có gia đình lớn họ Liên, gia cảnh giàu có, trong nhà có hai con trai, một con gái. Con gái tên Thu Nương đã tới tuổi lấy chồng, gả cho một nhà trong làng. Nhà đó cũng khá giàu có. Thời trước, người ta thường rất chú trọng tới tập tục hôn nhân, ví dụ như sau ba ngày bái đường thành thân, vợ chồng cố gắng nói thật ít, nói nhiều là giảm thọ, ngày thứ tư, tân nương có thể trở về nhà mẹ đẻ, ngày này là ngày hồi môn nhưng phải trở về chứ không được ở lại. Ngày thứ tư về nhà gọi là hồi tứ, ngày thứ sáu về nhà gọi là hồi lục. Hồi tứ, hai vợ chồng phải gặp lại mặt nhau trong ngày, tới lúc trời tối không được ở lại nhà mẹ đẻ tới lúc thắp đèn, vì nhìn thấy đèn là sẽ chết tha hương, là điềm xấu.

Khi đó, những gia đình lớn đều rất coi trọng tập tục hôn nhân này. Muốn thành thân thì trước tiên phải được sự đồng ý của cha mẹ, cho người tới mai mối hẳn hoi. Trước hôn lễ, đôi bên nam nữ đều không biết nhau, như kiểu bán trâu qua núi, toàn bộ đều là mai mối hai bên mà ra. Tới nhà gái thì nói nhà trai tốt đẹp ra sao, trong nhà có bao nhiêu tiền, đến nhà trai thì nói gái hiền lành, xinh đẹp nhường nào. Sau khi trưởng bối ở đôi bên đồng ý thì vẫn còn chưa thể đính hôn ngay mà vẫn còn bước kế tiếp.

Trước kia, chuyển thiếp chính là phát danh thiếp, mai mối hôn nhân cũng gần như là trao đổi danh thiếp, có điều trên danh thiếp kia ngoại trừ danh tính còn có cả ngày sinh tháng đẻ, hai nhà tự mời thầy tới xem tuổi, hồi đó cũng không phải xem sao chiếu mệnh, chủ yếu là xem tuổi con gì, giống trâu hay đầu ngựa gì không, có xung khắc gì không, tuổi có hợp nhau không, ví dụ như bạch mã khắc thanh ngưu, thiên long khắc địa thỏ, sinh ban ngày lại ở cùng với sinh ban đêm, giống xà lại ở cùng ổ với chuột, giống rồng ở cùng giống hổ chỉ có đánh nhau ác liệt, hổ ở cùng với dê cũng không ổn, khi đó lại thành dê vào miệng cọp. Những điều đó là phạm kỵ húy. Nhìn vào tuổi rồi lại soi xuống ngày sinh, thầy bói căn cứ vào ngày tháng để nhìn ra mệnh gì. Mệnh chia ra ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. Phải qua một đại đội tiết mục, nếu hoàn toàn không có vấn đề gì thì mới có thể đính hôn.

Việc hôn nhân đã được quyết, đôi bên sẽ cố gắng tìm ra ngày lành, hai nhà mang sính lễ tới cưới. Nếu như nhà có tiền thì riêng hai việc này là đã bày cỗ to mời khách khứa, bạn bè tới, tiện thể khoe tiền tài quyền thế nhà mình, thu quà tặng về. Ngày thành thân phải là ngày song song, ví dụ như mùng 6 tháng 6 hoặc mùng 8 tháng 8, nói chung là ngày càng may mắn càng tốt. Trước đó tam mai lục chứng (ba bên mai mối, sáu bên làm chứng) đều phải được mời về. Khi đó, giấy hôn thú gọi là thiếp Long Phượng, ở trên có ghi đủ tam mai lục chứng, chứng minh việc hôn nhân là hợp pháp. Liên gia Trần Đường Trang có tiền nên những tập tục kia không miễn cái nào. Hôn sự được làm cực lớn, trước ngày thành thân một ngày đã có một cái kiệu không đặt ở cửa nhà trai, vừa là để khoe của, vừa là để trừ tà, hoá giải toàn bộ tà khí, sau này không lo rước họa vào nhà.

Kiệu hoa được quy cách gồm tám người khiêng, chiêng trống gánh hát đi theo, đoàn ngựa thồ mở đường, cờ quạt treo khắp nơi, dọc đường từ nhà gái tới nhà trai được bày bố đủ cờ phấp phới, chiêng trống động trời. Sau khi diễn tập xong một lần, tới giờ sẽ mang kiệu tới trước cửa, ở cửa đã sớm treo đèn lồng sáng như ban ngày, sau đó bố trí đồng tử chuyển kiệu trừ tà. Tám đồng tử đội mũ thái tử, mặc áo đỏ thẫm, tay cầm đèn lục giác đi quanh kiệu hoa năm vòng xuôi, bốn vòng ngược, một vòng không được thiếu. Nghe nói, do mắt của đồng tử sáng nên có gì không sạch sẽ trong kiệu sẽ làm cho chúng phải khóc ngay.

Sau khi xong nghi thức đồng tử dẫn kiệu, kiệu hoa sẽ rời cửa nhà trai, tới thẳng nhà gái, những người đi theo gọi là hỉ nương, toàn bộ đều là phụ nữ, trong đó có cả mẹ, bà, dưới có con cháu, một người không được thiếu, như thế mới tính là toàn vẹn, mới mang lại may mắn. Theo tập tục cũ, đầu tiên phụ nữ bên nhà kia sẽ ra mở cửa nghênh đón, hơn nữa còn đặt một cái ghế trên giường, trên ghế là cô dâu giả, trên ghế có đặt một cái bình lớn cắm cái chổi bên trong. Trước kia, nhà nào cũng có một cái bình lớn và dài hình ống, từ trên xuống dưới không có vai. Đặt trong bình là một cái chổi lông gà, trên đặt mũ phượng, quấn quanh bằng khăn quàng, dưới mặt ghế là một đôi giầy long phượng thêu bằng tay.

Sau giải phóng, những tập tục hôn nhân mê tín kia đều bị giải trừ. Giờ nhắc lại chuyện này lại thấy nực cười. Ghế đặt trên giường, trên ghế lại có cái bình được cắm chổi đội mũ phượng quàng khăn như đúng là cô dâu đang ngồi đấy thật quái. Thế nhưng trước đúng là có loại tập tục này, mà còn có giảng giải hẳn hoi, bình cắm chổi đồng âm với bình đồng âm tức là bình an, chổi lông gà đồng âm với như ý cát tường, thật ra cũng chỉ vì cố gắng làm thế nào cho cảm thấy là tốt nhất mà thôi. Chủ yếu là đồng tử dẫn kiệu, lúc đó trời đã tối, sau khi đi vài vòng quanh ghế, nếu trong phòng có quỷ, đám nhỏ này sẽ bị doạ khóc. Cho nên trước ngày thành thân một ngày, kiêng nhất là đám nhỏ vào nhà khóc.

Trẻ nhỏ khóc chưa chắc là do nhìn thấy gì doạ người. Ai mà chẳng biết lũ nhỏ cười khóc bất thường, việc này sao có thể ép chúng được. Nhưng nó lại làm người khác cảm thấy bực bội, vì thế người lớn nghĩ đủ trăm phương ngàn kế trông chừng.

Vào ngày đưa kiệu, khi kiệu vừa tới Liên gia, chưa kịp nhấc chân gì thì chợt có một trận gió to thổi tới cát bay đá chạy. Cả hai nhà lúc đó cũng coi thường nghĩ là không có gì, mà cùng ngày cũng không mang đồng tử vào nhà.

Ngày hôm sau là ngày đẹp để cưới hỏi, cô dâu lên kiệu hoa. Trên đường tới nhà trai không hề thiếu bất kỳ tập tục hôn nhân nào. Người ngày trước mê tín, rất tin vào những tập tục này, e sợ rước vào nhà sao rủi. Cũng không biết số kiếp thế nào, Thu nương Liên gia đi lấy chồng, ngày hôm trước kiệu không có đồng tử, tới ngày thành thân, ngay khi chuẩn bị bước qua chậu than vào nhà thì xảy ra chuyện. Bước qua chậu than là tập tục phổ biến, ví như những quả phụ tái giá, việc đầu tiên phải làm là vấn tóc bước qua chậu than. Đây là do người ta sợ hồn chồng cũ bám theo vào nhà. Ngoài ra, những ai đi viếng đám ma hay thăm mộ về nhà cũng phải bước qua chậu than, cũng là do sợ cô hồn dã quỷ theo về nhà. Vào hôm Thu nương Liên gia thành thân, ở cửa nhà cũng đặt một chậu than, trong chậu có chút than cháy hồng tượng trưng, ngụ ý là sau này sẽ là những ngày đầm ấm. Nhưng không biết tại sao, cuối cùng tân nương tử lại không bước qua nổi chậu than.

Ngày qua cửa của Liên Thu nương, ở cửa có chậu than, nhưng bước mãi không qua. Mà lúc đó, trời cũng đã tối tới mức phải thắp đèn, điều này khác hẳn những nơi khác. Ở nơi khác, phần lớn cưới vợ vào ban ngày. Trong khi đó, ở đây thì bình thường rước vợ tới cửa là trời tối phải thắp đèn, ở trước cửa nhà treo đèn rực rỡ. Trong đó có rất nhiều người mê tín nói, do buổi sáng chuẩn bị, tân nương tử ngồi lên cái ghế được đám đồng tử đi qua. Nhưng mọi người đừng quên, trước ngày cưới một hôm, Liên gia không có cho đám đồng tử đi qua kiệu.

Nghe nói sáng sớm hôm đó, Thu nương theo tập tục cũ ngồi lên cái ghế, chải đầu sơ, bởi vì con gái trước đi lấy chồng đều phải chải đầu sơ, sau khi lấy chồng sẽ búi tóc lại, quấn ra đằng sau, thoa son đánh phấn, tỉa mày, rửa mặt chải đầu đầy đủ, sau đó đeo toàn bộ trang sức lên, đầu đội mũ phượng, trùm khăn đỏ, mặc quần lụa xanh, tân nương mặc hỉ phục màu hồng pha xanh là dựa theo câu: ‘Hồng quan nhân, lục nương tử’, lại lấy khăn quàng trùm kín lại không thể để người trông thấy quần lụa xanh. Sau khi làm xong hết những việc này, tân nương còn phải khóc một trận, tỏ vẻ luyến tiếc khi rời cha mẹ gả cho người ta. Tới lúc lên kiệu thì cũng là lúc trời tối thắp đèn.

Khuê nữ nhà đại gia gả đi mang theo đủ các thứ, đặc biệt còn có cả người đi theo ra cửa, người ôm tráp, vác hòm trang sức, ôm gà, ôm chậu, ôm bình, tóm lại là đủ các loại của hồi môn. Tới cả kiệu hoa mà Thu nương lên cũng là kiệu tám người khiêng, trong ngoài có kiệu lớn lồng kiệu nhỏ, giữa là kiệu tâm, đại kiệu chưa vào sân, kiệu nhỏ chưa vào phòng.

Nhà chồng bên kia cũng chuẩn bị từ sáng sớm. Chú rể được một người khác giúp rửa mặt, chải đầu, mặc quần áo. Chú rể thân mặc long bào đỏ thẫm, trên có thêu 'Hải Thuỷ Giang Nhai', trước ngực có hình hoa hồng, chân đi triêu ngoa, đầu đội mũ mềm hai cánh. Cách ăn mặc của trạng nguyên khi xưa thế nào thì chú rể mặc y hệt, bởi thành thân là ngày đại sự trong đời, thời xưa hay gọi là tiểu đăng khoa. Trong đám cưới ngoài lạy trời lạy đất để hoà hợp đôi bên, còn phải cúng bái ba vị Phúc, Lộc, Thọ cùng với tượng Nguyệt Lão. Trên bàn cúng có đặt một đôi nến màu đỏ tượng trưng cho chữ Hỉ, ở giữa đặt lư hương, phía sau đặt cái đấu, trong đấu chứa đầy cao lương đỏ. Toàn bộ ba thứ đó ở trên cùng với cái bình cắm chổi tạo thành một chỉnh thể được coi là trấn trạch bảo vệ bình an.

Khi kiệu tới cửa, người nhà chồng không được ra ngoài đón, mà ngược lại còn phải đóng cửa chính lại. Đó là một trong những tập tục lằng nhằng của xã hội cũ. Chính vì có quá nhiều quy củ thành ra không có mấy nhà làm đủ được. Theo tình hình gia cảnh khác nhau mà các gia đình khác cũng sẽ điều chỉnh. Theo tập tục xưa, cửa nhà sẽ được đóng chặt, người ở bên ngoài gọi bà bà ra mở cửa, câu nói này coi như sửa lời thừa nhận mình là người nhà chồng, lúc đó bà bà sẽ ra mở cửa. Bà bà ra mở cửa nhưng phải đi ngay vào nhà, vì trước khi thành thân, không được nhìn mặt tân nương. Sau đó, chú rể đi ra, cầm cung lên bắn ba mũi tên vào kiệu, lấy ý 'Tam tiễn cập đệ', và tránh tà ma. Tới lúc dưới đất trải nỉ đỏ đủ thì cô dâu mới rời kiệu, mọi người đi theo sau tới trước chậu than. Nói chung toàn bộ quá trình có thể gói gọn lại là ra mở cửa, chú rể giương cung bắn ba mũi tên vào kiệu hoa nhưng không mũi nào trúng.

Việc này cũng không thể trách chú rể được, bởi ngày đó đã chẳng còn ai thèm học bắn tên nữa rồi, tới cung còn kéo không lên thì bắn nỗi gì. Bắn tên cũng chỉ là làm ra vẻ cho có, bởi vì bắn tên, bước qua chậu than khi vào cửa được coi là có thể chắn tà khí ngoài cửa. Nhưng hôm đó, tân nương tử tới trước chậu than thì bước mãi không qua. Đây có thể coi là điềm xấu nên toàn bộ người bên cạnh vội tới giậm chân, thúc dục nương tử: "Cô chủ mau bước qua đi!" Đằng sau vừa thúc vừa đẩy làm cho cuối cùng cô dâu giẫm chân thẳng vào chậu than, làm lửa bắn tung toé ra.

Cô dâu cũng ngạc nhiên với việc mình vừa làm, cảm giác thấy chân mình như có người túm lấy, kéo khăn lên nhìn thì toàn bộ những người đón dâu phải choáng váng. Dưới khăn là một đứa nhỏ thanh tú, một hàng mi dài, đôi mắt song đồng đang ôm chân Thu nương, chẳng trách tại sao không bước qua nổi. Đứa nhỏ kia cũng không hề nói gì, cũng chẳng nói là từ đâu tới.

Nhà chồng cũng mặc kệ. Đầu tiên, việc dẫm đổ chậu than khi xuất giá chính là mang tà khí tiến trạch, huống hồ lại còn đứa nhỏ không rõ lai lịch kia. Cả nhà chồng đều cho rằng Thu nương tư thông sinh ra dã chủng kia, nhất quyết không cho vào nhà. Cuối cùng việc hôn nhân phải hoãn lại. Không còn cách nào, kiệu hoa lại trở về điểm xuất phát.

Gia chủ nhà họ Liên nghe xong chuyện kia cũng tức giận, thoạt nhìn là việc mười mươi rồi, Thu nương là cô nương chưa chồng, bên người đột nhiên lại mọc ra đứa bé, dĩ nhiên là phải có tư tình với người ta, mang thai mới đẻ ra. Loại chuyện này không phải là chưa từng có trong các gia đình lớn, đây là bất hạnh của cả gia đình, bôi nhọ tổ tông, từ nay về sau ra cửa không ngóc đầu lên nổi, người ngoài cứ thế nói xấu sau lưng, chủ nhà chỉ còn nước tức đến hộc máu. Thu nương cũng là cô gái tính tình cứng rắn, trong lúc nhất thời quá xấu hổ và giận dữ không chịu nổi, đâm đầu tự tử ngay vào bàn gỗ cúc lê trong nhà trước mặt bố mẹ anh em.

Cha mẹ Thu nương thương đứa con gái chết thảm, hối hận không ngăn nó lại. Đứa nhỏ kia thì không ai rõ là tự dưng chạy tới hay là do Thu nương sinh ra, nhưng Liên gia cảm thấy là cốt nhục nhà mình, không muốn đuổi đi nên nuôi nấng coi như con trong nhà, đặt tên là Liên Hoá Thanh, cấm không cho người khác nhắc tới chuyện này, nhưng vẫn không ngăn được người ngoài đồn đại. Bởi đứa nhỏ này biết bơi từ bé nên có rất nhiều người cho rằng năm xưa Thu nương rời nhà đi thăm người thân, lên thuyền qua sông Vĩnh Định thì bị lật, toàn bộ người trên thuyền đều chết cả, chỉ có duy nhất Thu nương thoát hiểm, về nhà thì mang bầu, nhất định là Hà yêu đầu thai, bởi ngày xưa có câu 'gặp đại nạn không chết nhất định có chuyện'. Còn về việc có phải Hà yêu đầu thai không thì cũng chỉ là một câu chuyện vẫn còn để ngỏ.

Trước kia, con gái thường hay mặc áo rộng, Liên gia nhà cao cửa rộng, bụng to cũng chỉ ở trong nhà nên người ngoài chẳng ai biết được, tới hai tháng cuối thoái thác thân thể không khoẻ, ở lỳ trong phòng thì đẻ con cũng chẳng ai hay, sau đó Thu nương đưa con nhờ người khác nuôi, tới ngày thành thân, đứa nhỏ mới chạy tới ôm chân không cho Thu nương qua cửa, làm Thu nương phải tự sát tại nhà. Xem ra Hà yêu này đúng là loại ma quỷ.

Dù sao đó cũng chỉ là lời đồn đại, việc xấu trong nhà Liên gia cũng không tiện nói ra bên ngoài, không bao giờ đề cập tới việc này với người. Nhưng càng cố giấu thì lời đồn bên ngoài lại càng nhiều. Qua mười năm sau, hai lão nhân đứng đầu Liên gia lần lượt qua đời, hai huynh đệ trong nhà tranh đoạt gia sản, nhân cơ hội đuổi thẳng Liên Hoá Thanh ra khỏi nhà. Hai anh em kia cơ bản là không muốn chia của cho đứa nhỏ kia, mà cũng không muốn nuôi không nó, tốt nhất là để mặc chết đói ngoài đường, hoặc tốt nhất là cho lang sói xé xác, thế là gọn. Từ đó về sau, Liên Hoá Thanh lưu lạc đầu đường, ngày ngày nương thân ở ngôi miếu nát, dựa vào nghề ăn mày mà sống qua ngày. Sau đó, vào một đêm tối trời, Liên gia cháy, gió đẩy thế lửa, lửa giúp uy gió. Trận hoả hoạn biến toàn bộ nhà cửa Liên gia thành mảnh đất khô. Già trẻ trai gái Liên gia chết tổng cộng bảy mươi người, không một ai trốn thoát. Nghe nói tối đó có người thấy một đứa nhỏ ăn mày lén lén lút lút khoá chặt cửa sau lại.

Lai lịch của Liên Hoá Thanh thật quá khó phân biệt. Ai cũng có ngày sinh tháng đẻ, nhưng hắn lại không có. Người ở Trần đường trang đều sợ hắn mang xui xẻo tới, thành ra ai cũng xa lánh. Thường ngày hắn cũng chỉ kiếm cơm trong thành, tới đêm trở về, trộm cắp lặt vặt đều làm. Có một đêm, gặp hai đứa ăn mày khác trong miếu thổ địa, tuổi gần xấp xỉ, cũng đều tầm mười tuổi, Liên Hoá Thanh thấy hai đứa là lập tức nổi lên dã tâm.

Liên Hóa Thanh nói với hai đứa ăn mày: "Nhị vị, chúng ta đều là người bơ vơ không nhà không cửa, chi bằng học theo 'kết nghĩa vườn đào', ba anh em chúng ta kết nghĩa, ở với nhau có thể giúp đỡ lẫn nhau được."

Hai đứa nhỏ ăn mày vừa nghe thì vui mừng nói: "Thật tốt quá, đang lo không có người thân."

Lúc đó, ba người kết bái, không có tiền mua hương nên dúm đất làm lư, cắm vài nhánh cỏ như hương, dập đầu trước thổ địa, kết bái huynh đệ.

Liên Hóa Thanh lớn hơn hai đứa kia một hai tuổi nên trở thành đại ca. Y nói với hai đứa nhỏ: "Sau này chúng ta là huynh đệ có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Người xưa đã có câu: "Có cha theo cha, chết cha theo anh. Hai người các ngươi không cha không mẹ, từ nay về sau nên nghe lời đại ca ta."

Hai đứa nhỏ ăn mày lập tức đồng ý: "Đại ca nói rất đúng. Từ này về sau, huynh chính là đại ca. Chúng ta đều phải nghe theo lời đại ca."

Từ ngày đó, Liên Hóa Thanh không còn đi ăn xin bên ngoài nữa, cả ngày ngủ trong ngôi miếu nát, để hai đứa nhỏ kia ra ngoài phố xin ăn, mặc kệ sống chết ra sao, mỗi bữa hắn đều ăn trước. Hai đứa nhỏ ăn mày kia nghĩ, dù thế nào hắn cũng là đại ca, có được cái gì cũng phải cho đại ca ăn trước, nhưng dù sao không thể ngày nào cũng thế được. Mặc dù trong lòng có chút bất mãn nhưng ngoài miệng thì cũng không dám nói ra.

Vào một năm khi hoa màu mất mùa, chết đói không ít người, muốn xin ăn cũng không biết đi xin ở đâu. Hai đứa nhỏ kia phải nằm chờ chết đói trong ngôi miếu nát. Liên Hóa Thanh chỉ lo cho bản thân mò ra ngoài kiếm cái ăn, cũng không biết từ đâu, hắn kiếm được một ít cơm trắng, ở trên còn cả chút đồ ăn, trong thức ăn có nguyên cả tảng thịt. Đồ ăn cũng không nhiều, một người thì no nhưng ăn hai ba người thì thiếu. Khi đó, hắn đem cái hũ về đặt trên đống lửa trong miếu.

Hai đứa nhỏ ăn mày ngửi thấy mùi thịt, vội vàng đứng lên nói: "Vẫn là huynh trưởng có bản lĩnh, vừa ra ngoài đã kiếm ngay được cái ăn. Chúng ta có phần cơm này thì không lo chết đói nữa rồi." Liên Hóa Thanh lập tức nói: "Các huynh đệ, đây là ta phải đánh liều mạng đi ăn trộm đồ ăn trong hiệu ở thành, không ngờ lại có người nhìn thấy, vì thế đã ăn không ít gậy. Các ngươi ngủ ngon trong miếu, không biết xấu hổ hay sao mà còn ăn cả phần cơm ta phải đánh đổi cả mạng đi lấy về này?"

Hai đứa nhỏ ăn mày nói: "Sao đại ca lại nói lời ấy. Hôm nay hai đứa ta đói quá không lết nổi nữa chứ bình thường không phải chúng ta lấy cơm về cho ngươi ăn sao?"

Liên Hóa Thanh nói: "Bây giờ khác trước. Vào những lúc mất mùa lớn thế này, mạng người còn không bằng chó. Với phần cơm này, ta có thể sống qua được, nhưng nếu chia cho hai đứa ngươi thì ta lại chẳng thể sống nổi. Hai người các ngươi cũng đừng trách huynh ta bạc tình quả nghĩa, muốn trách thì trách số mệnh mình đen đủi. Huynh ta ăn được chỗ này, giữ được mạng sẽ không quên hai người anh em các ngươi. Từ nay về sau, nếu ta phát tài, tam tiết nhị cung sẽ lấy rượu ngon cơm trắng tế tự các ngươi. Hai người các ngươi cứ an tâm mà chết đi."

Ở Trần đường trang còn truyền lưu một chuyện khác. Kể về lúc Liên Hóa Thành còn ở Liên gia, từng có một vị thầy bói đi qua Trần đường trang. Liên lão gia tìm thầy bói kia về, mời thầy xem tướng số cho đứa nhỏ Liên Hóa Thanh. Thầy bói kia vừa nhìn Liên Hóa Thanh, thấy đứa nhỏ mày ngang trên mặt, mắt có hai đồng tử thì chỉ nói là kẻ đoản mệnh, còn lại thì sống chết cũng không dám nói ra, thà dẹp biển cũng nhất quyết không nói tướng số của đứa nhỏ kia. Người ở Trần đường trang đoán rằng, thầy bói kia nhìn ra đứa nhỏ là Hà yêu đầu thai, vì vậy không dám nói ra.

Không uổng công mọi người khen chê, đừng nhìn bộ dạng không tệ của Liên Hóa Thanh, tâm địa của hắn thật sự ác độc. Hắn không những không cho hai huynh đệ kết bái của mình ăn mà còn nói, hai người các ngươi cố sống lay lắt cũng chỉ thêm giày vò, chi bằng chết đi cho thoải mái. Lúc nói những lời này, mí mắt y không hề nháy chút nào, chỉ chăm chăm lo cái hũ trên đống lửa, chẳng khác gì vừa làm việc nhà vừa nói chuyện. Điều này nói lên rằng, y căn bản không coi hai huynh đệ ra gì cả, như thể y coi đây là hai con chó hoang sắp chết đói. Ngày trước nói cái gì là đồng sinh cộng tử, đơn giản chỉ là để bắt hai đứa nhỏ kia đi ăn xin hộ.

Hai đứa nhỏ ăn mày thấm lạnh, thầm mắng: "Hay cho tên Liên Hóa Thanh ngươi. Hai chúng ta mắt mù mới nhận ngươi làm đại ca. Chẳng trách mọi người đều nói ngươi là Hà yêu đầu thai. Dám làm như thế với hai huynh đệ đã từng dập đầu kết nghĩa với ngươi, quả thật là quỷ sống khoác da người."

Liên Hóa Thanh nhìn thấy hai đứa nhỏ kia đang nhìn chằm chằm vào hũ đồ ăn, nói không cho là bọn chúng sẽ liều, dù sao hai đấm khó đánh bốn tay, huống chi lúc người tức giận liều mạng, nếu đánh nhau thật thì e là khó giải quyết, nên y nói: "Hai vị huynh đệ, vừa rồi huynh ta cũng chỉ là nói đùa thôi. Chúng ta đều đã dập đầu kết nghĩa, chẳng lẽ đại ca ta lại không biết xấu hổ để các ngươi ngồi nhìn ta ăn một mình sao?"

Hai đứa nhỏ ăn mày nghe thấy thì hơi bất ngờ, vội lau nước mắt nói: "Đại ca là người nhân nghĩa, huynh đệ ta đã hiểu lầm ngươi." Liên Hóa Thanh nói: "Nhân nghĩa thì vẫn là nhân nghĩa. Đồ ăn này chỉ có một phần, một người ăn có thể giữ mạng, nhưng chia cho ba người thì phải chết cả ba. Không bằng tự nói số khổ, xem ai khổ nhất, đáng thương nhất thì phần cơm này sẽ thuộc về người đó."

Hai đứa nhỏ ăn mày nói: "Được, cái này gọi là theo số mệnh, ngươi là đại ca nên nói trước đi."

Liên Hóa Thanh nghĩ thầm: "Hai cái đứa vắt mũi chưa sạch có thể nói lại được ta sao? Ta nói vài câu là các ngươi câm họng, sau đó ăn cơm. Hai ngươi cứ thế mà chờ chết đói đi."

Năm đó, ăn xin toàn phải kể khổ ra như kiểu vừa niệm vừa hát, đánh vào tâm lý người nghe, làm người ta phải cho ăn. Việc này không thể làm khó được Liên Hóa Thanh, chỉ nghe y nói vài câu: "Nhà ở miếu nát, cỏ làm đệm chăn, đầu gối khối gạch, người mặc áo rách, ba năm không mặn, nay mới thấy thịt." Nói dứt lời, hắn lập tức vươn tay ra với đồ ăn.

Một đứa nhỏ ăn mày lập tức ngăn lại nói: "Đại ca từ từ đã. Ngươi nói chưa gọi là khổ, ngươi nghe huynh đệ ta một chút xem sao. Ta không nơi dung thân, cỏ nát làm đệm, đầu gối nửa viên gạch, ngày ngày rách tới da, thỉnh thoảng uống nước lạnh, nay mới thấy cơm." Tính ra thì đứa nhỏ này đúng là kể khổ hơn Liên Hóa Thanh. Lần đầu thấy cơm nên nói xong định với tay ra lấy đồ ăn ngay.

Đứa nhỏ ăn mày còn lại đỡ: "Đại ca, nhị ca kể vẫn chưa coi là khổ. Nghe ta chút xem sao. Ta không chỗ dừng chân, đầu gối cùi chỏ, quanh năm cởi chuồng, trời làm chăn, đói từ lúc sinh. chỉ chờ phần cơm này. Nhất định là hai anh không thể nào khổ bằng ta được, xin lỗi huynh đệ, ta ăn . . ."

Cái hũ đặt trên lửa đã lâu, đồ ăn nóng bốc hương nghi ngút. Đứa nhỏ ăn mày kia đói tới mức tái xanh cả mặt, đang định với tới ăn thì tên ăn mày trước không đồng ý nói: "Tam đệ nói hươu nói vượn, từ lúc sinh ra đã đói thì sao còn sống tới bây giờ được?" Người kia lập tức nói: "Nhị ca uống nước lạnh mười mấy năm thì sao có thể sống được đến bây giờ đây? Vì sao ta không thể đói từ lúc mới sinh?"

Trong lúc hai đứa nhỏ kia đang tranh luận không ngớt, Liên Hóa Thanh vô thanh vô tức cầm một viên gạch lớn, thu vào trong tay, nhè thẳng vào gáy hai đứa kia, một cú quật ngã một đứa. Hai đứa nhỏ ăn mày đáng thương còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì đã phơi thây tại chỗ. Liên Hóa Thanh chửi chó chết rồi ném viên gạch trong tay đi, dọn sạch hai xác chết, sau đó lấy cái hũ trên đống lửa ra, thổi sạch khí nóng, ném đồ ăn nóng hổi vào miệng. Chợt, y nghe thấy một tiếng bùi ngùi: "Thật ác độc. Vì tranh một miếng cơm thừa mà ngươi dám ra tay hại chết anh em kết nghĩa với mình, không sợ gặp báo ứng sao?"

Liên Hóa Thanh ngẩng phắt đầu lên, thấy ngoài cửa có một cái đầu của một lão già, trên mặt có một vết sẹo dài, chỉ nhìn thoáng qua mà lòng đã phát lạnh, đằng sau còn có một con mã hầu lớn, xem qua bộ dạng thì có vẻ đây là một con sái hầu chuyên đi biểu diễn. Liên Hóa Thanh cũng không nén nổi giật mình, nhưng vẫn làm ra vẻ trấn tĩnh: "Hai bọn chúng là lũ chuột nhắt xin ăn, đấu tranh nội bộ. Vì tranh ăn nên mới bỏ mình, làm gì có liên quan tới ta?" Con sái hầu như vớ được của, cười lạnh hai tiếng ha hả, nói: "Được đấy, dám trợn mắt nói lời bịa đặt." Liên Hóa Thanh nói: "Ngươi là một con sái hầu, việc gì phải quản ta. Ở chỗ chết đói này thì cần quái gì trong sạch, đúng là ta gạt ngươi đấy, có sao không?" Sái hầu nói: "Ta không định lừa ngươi mà muốn mời ngươi đi tìm một vật dưới sông."

Hóa ra con sái hầu này sống trên núi hoang, vô tình nhặt được một quyển kỳ thư tà ma. Bàng môn tà đạo này cũng không có pháp môn trường sinh bất tử xuất thần gì, chỉ có tà pháp chiêu hồn xác chết. trong đó cũng có không ít trận pháp âm dương. Con sái hầu này chỉ là loại biểu diễn kỹ nghệ nay đây mai đó, trình độ văn hóa có hạn, mà cũng không có dã tâm gì lớn, chỉ tính tới nước kiếm tiền tài, sau khi biết phong thủy ở Thiên Tân Vệ, bảo vật trấn sông ở ngã ba sông, có thể nuôi thi ở dưới đáy sông. Nếu đem người sống dìm chết giữa mắt sông, sau khi chết oán khí sẽ không tiêu tan, để thêm vài năm tới nạn lụt, hạn hán, xác chết sẽ mọc đầy rêu, giống y hệt cương thi lông rậm, ai thấy đều khiếp vía, chỉ có mình con sái hầu này biết là chuyện gì. Tới lúc đó, nó chỉ cần xưng là cao nhân có dị thuật, thi triển thần thông hàng thi quái, kêu gọi xây miếu tạo tháp trấn sống để bình an thì liệu từ quan to hiển quý cho tới người buôn bán nhỏ. . .;liệu có ai không quyên tiền không?

Từ đó nó có thể một phát lên trời, có điều con sái hầu này không biết bơi, muốn kiếm một tên cướp sông để làm đồ đệ, lại nghe tới Hà yêu Liên Hóa Thanh từ lúc đẻ ra đã giỏi bơi lội nên nó lập tức chạy thẳng tới tìm. Tới nơi thì đúng lúc Liên Hóa Thanh đang tranh ăn với hai đứa ăn xin, đứng sau lấy gạch giết chết hai người, xong rồi không thèm để ý cứ thế ăn cơm. Con sái hầu thấy đứa nhỏ này quá lợi hại, có thể giết huynh đệ kết nghĩa thì nhất định cũng có thể giết sư phụ, nhưng trước mắt lại cần đứa nhỏ này nên đành phải dùng lời ngon tiếng ngọt, hứa hẹn với Liên Hóa Thanh: "Nếu ngươi nguyện ý làm đồ đệ ta, sau này sẽ có ăn có uống, sư phụ còn có thể truyền pháp thông thiên. Từ này về sau sống yên phận thì không ai dám bắt nạt ngươi." Liên Hóa Thanh đã đường cùng, nghe xong con sái hầu già nói một phen thì không khỏi động tâm, ngay lập tức bái sư, đào hố sau miếu chôn hai cái xác, sau đó theo con sái hầu vào thành. Về sau, con sái hầu gây tội ác chồng chất bị trời phạt, chết dưới giếng cạn ở vườn rau Lý công từ. Liên Hóa Thanh may mắn chạy thoát, nhưng do có án trong người nên cũng không dám lộ diện trong thành.

Quách sư phụ và Đinh Mão hỏi chuyện lúc ban ngày ở Trần đường trang đều không thể tường tận được bằng câu chuyện của lão ăn mày. Cho dù có vẽ ra thì cũng không thể tường tận tới vậy được. Hai người thầm nghĩ, nhất định là tên ăn mày này năm xưa từng xin cơm cùng với Liên Hóa Thanh nên mới biết rõ tới vậy, có điều theo những gì hắn nói thì hai đứa nhỏ ăn mày ở miếu thổ địa năm xưa đã sớm bị Liên Hóa Thanh ra tay dùng gạch đánh chết. Lúc này, hai người sực tỉnh: "Chẳng lẽ ma quỷ trong miếu thổ địa kể oan khuất?"

Quách sư phụ nghĩ tới đây, trong lòng nhất thời kinh ngạc, mở miệng hỏi lão ăn mày: "Làm sao ngươi biết rõ ràng tới vậy? Rốt cuộc ngươi là ai?" Lời nói vừa ra tới miệng thì bỗng nhiên cảm thấy lạnh toát cả ngươi, ông ta và Đinh Mão giật mình như vừa tỉnh mộng, nghe được tiếng gà gáy văng vẳng từ xa xa, dụi dụi mắt thì thấy mưa gió ngoài trời đã ngưng, trời đã hửng sáng. Không ngờ ngủ lúc nào không hay mà đã qua một đêm. Hai người đứng dậy nhìn về chỗ lão ăn mày ngồi ở góc tường. Nếu ở đó có người thì chỉ có thể là cái tượng thổ địa nghiêng sát vào góc tường.

Không biết là ma quỷ năm xưa kể oan tình, hay là thổ địa hiển linh, hay cũng có thể là người ăn mày kể chuyện thật. Trời đã sáng mà hai người vẫn vừa sợ vừa nghi. Mấy câu cuối không nghe rõ nên chỉ còn nước dựng bức tượng thổ địa lên, gạt cỏ với bùn đất ra, cúi đầu như lạy vài cái.

Đinh Mão nói với Quách sư phụ: "Nửa đêm qua, lão ăn mày có nói, Liên Hóa Thanh từng chôn thi ở dưới cây sau miếu thổ địa, không biết là có thật hay không." Hai người đứng dậy ra sau miếu xem thì thấy đúng là có một gốc cây khô đã nghiêng ngả, qua mưa gió nên mối mọt gần hết. Hai người tới thôn mượn công cụ, đào dưới gốc cây một trận thì không lâu dưới bùn đất hiện ra một cái hộp sắt, bên trong hộp sắt có hai bộ xương khô.

Hộp sắt là hộp hương thường dùng trong miếu thổ địa ngày trước, bởi dân gian thường cho rằng vật làm bằng sắt có thể trừ tà trấn quỷ. Liên Hóa Thanh lo sợ oan hồn của hai đứa ăn mày níu chân, cho nên bỏ hai xác chết vào hộp sắt, năm đó do vội đi nên cũng không chôn sâu cho lắm. Hai người Quách sư phụ nghiến răng nghiến lợi trước hành động của Liên Hóa Thanh, đứng trước tượng thổ địa thề: "Trời có mắt, bất kể Liên Hóa Thanh trốn ở đâu, dù có liều hai cái mạng này chúng ta cũng không quan tâm, nhất định phải bắt hắn ra trước công lý."

Sau này hai bộ xương khô được đưa tới nghĩa trang, lập hồ sơ án đầy đủ, có điều khi đó thời thế đang loạn, cục cảnh sát phá đại án, trọng án không hết, vừa nhìn thấy hai đứa ăn mày chết mười mấy năm rồi thì cũng không tìm hiểu nhiều, sau khi lập án cũng không hỏi gì nhiều. Nhưng nhóm người Quách sư phụ thì vẫn quyết tâm bắt Hà yêu Liên Hóa Thanh, hỏi thăm tung tích y ở khắp nơi, nhờ vả toàn bộ bạn bè, ngoại trừ đội cảnh sát năm sông, tới cả Hỏa Thần Miếu và Sơn Đông Câu Tử Bang cũng đi theo hỗ trợ. Hơn nữa Lý Đại Lăng lại quen biết với đám du côn vô lại chuyên buôn bán vặt, nên mạng lưới giăng khắp nơi, trong ngoài thành đều có cơ sở. Bởi vậy mới nói muốn phá án trước tiên phải quen thuộc địa bàn, phàm nơi nào có gió thổi cỏ lay là phải biết. Cứ gây sức ép như vậy, chẳng lẽ lại không tìm được dấu vết nào để lại sao?

Nhưng cũng một phần là do khí số Liên Hóa Thanh đã tận, quỷ thần cũng không dung. Ngày đó xảy ra một chuyện ngẫu nhiên làm đội tuần sông phát hiện ra 'con rết đầu vàng', dẫn tới cảnh 'Âm dương hà gặp nạn, chó dữ thôn bắt yêu."[/SHOWTOGROUPS]

hương 5: Gặp gỡ bất ngờ của Ngô lão hiển ở vườn rau

Các bạn đăng nhập để đọc nhé :)

Cả đời Hà thần Quách Đắc Hữu sợ nhất người khác nói cái biệt hiệu này. Chỉ làm một chân lang bạt ở đội tuần sông, sống nhờ nghề khuân vác để kiếm chén cơm thì lấy cái đức cái tài gì mà tự xưng là 'Hà thần'?

Mới đầu không nghĩ tới, nhưng về sau suy nghĩ cẩn thận. Từ xưa phàm là thần, thánh thì đều được phân theo đức hạnh, tài năng. Ít nhất cũng phải có bản lĩnh thật sự ở một khía cạnh nào đó thì mới có thể được coi là người tài. Thánh hiền không chỉ có bản lĩnh mà còn phải tài đức vẹn toàn. Nói trắng ra là có thể giúp quân vương trị quốc - an bang - bình thiên hạ. Còn thánh nhân thì phải là người toàn vẹn, siêu phàm tuyệt luân thì mới có thể thành thánh. Văn thánh Khổng Tử, Võ thánh Quan Vũ mà cũng chỉ mới tới mức gần là Thần. Một tên ăn ngũ cốc, nuốt tạp lương mà lại xưng là Hà thần thì đúng là tổn không biết bao nhiêu thọ, gãy mất bao nhiêu phúc đây?

Đinh Mão thường khuyên Quách sư phụ: "Sư ca nghĩ ngợi nhiều quá. Đơn giản chỉ là cái tên hiệu thôi mà. Không nói đâu xa, trong những hảo hán ở Thủy Hử cũng có tới dăm ba vị xưng Thần mà có việc gì đâu?"

Quách sư phụ nói: "Ai bảo không có việc gì? Một trăm lẻ tám tướng ở Thủy Hử về sau có mấy người có kết cục tốt? Mà người ta là Thiên Cương Địa Sát giáng trần, sau khi chết lại về làm Tinh Quân. Ta là một tên vớt xác ở đội tuần sông, e là do tổ tiên không tích đức nên mới phải làm nghề này. Nếu ngươi muốn ông anh này sống thêm vài năm thì đừng nói hai chữ Hà thần này với ta nữa."

Ngoài miệng thì Quách sư phụ nói vậy nhưng tính tình thì vẫn không đổi. Không gặp thì thôi, nếu thấy việc bất bình là ắt phải ra tay. Từ hồi phát hiện ra cái xác dưới ngã ba sông tới nay, ai cũng gọi là 'Hà thần'. Mà từ đó ông ta cũng bắt đầu vơ phải số con rệp. Sau vụ cương thi nhà ga Lão Long Đầu, do nhớ tới phần tiền mà Thạch tài chủ hứa nên Lý Đại Lăng liên tục thúc giục Quách sư phụ để hỏi về manh mối vụ xác chết ở ngã ba sông. Mà trong lòng Quách sư phụ cũng chưa từng bỏ qua chuyện này. Ông ta dẫn Lý Đại Lăng và Đinh Mão tới nhà kho đội tuần sông xem khối sắt. Sau khi bóc gỉ bên ngoài ra thì phát hiện ra trên khối sắt có vài chữ cổ. Ba người xem đi xem lại nhưng một chữ cũng không rõ. Ngoài ra cái khối sắt này cũng có hình thù quái dị, nhìn như đầu vượn thân thú. Do ở dưới đáy sông lâu ngày, gỉ bám kín cả nên nhìn không rõ là hình gì.

Quách sư phụ nghĩ đây là một món đồ cổ dùng để trấn sông, hẳn là có người nào đó sẽ nhìn ra. Hiện giờ tốt nhất là tới tìm ông cụ bán thuốc để hỏi xem sao.

Mọi người hay gọi ông cụ bán thuốc đó là Ngô lão hiển, tính về vai vế thì Quách sư phụ phải gọi ông ta một tiếng sư thúc. Ông cụ đi đứng không còn tốt nên phải chống gậy, nhà ở quầy hàng gần miếu hoàng thành phía Tây Bắc thành, sống bằng nghề bán dược đường.

Trước tiên phải nhắc tới dược đường là cái gì? Dược đường là loại thuốc mà có thể ăn trực tiếp luôn vào. Đó là một loại đồ ăn vặt ở xã hội cũ. Hiện giờ có rất ít người bán thứ này. Cái gọi là dược đường bình thường chính là nấu đường cát cùng với một vài loại dược liệu như sa nhân, đậu khấu, bạc hà, tiên khương. . .sau đó cắt thành miếng nhỏ, bỏ vào trong chai treo ngoài phố bán. Ai muốn mấy miếng thì lấy thanh trúc gắp ra cho vào túi đưa cho người ta.

Mà người bán dược đường phải một tay làm khá nhiều việc. Ai cũng vậy thôi, làm việc gì cũng phải có vài bản lĩnh. Người bán dược đường phải giỏi thu hút khách hàng. Không có khả năng này thì bán dược đường chỉ có húp gió Tây Bắc không hơn. Năm xưa có mấy vị sư phụ bán dược đường có thể nói là cực đỉnh. Một vị tên là Lý 'biên mã', bình thường sẽ diễn xiếc xe dạp, sau đó hô hào bán hàng với nội dung dễ nghe, vài câu hát, bài vè điển cố. Mở đầu thường là vài câu nói không bờ bến giới thiệu này nọ, sau đó là màn biểu diễn xe đạp. Đừng nhìn ông ta có cái bụng lớn hơn bao cỏ mà nhầm, mọi động tác đều hết sức gọn gàng. Những trò như Trương Phi biên mã, Kim Kê độc lập, tám bước đuổi cóc, đăng lý tàng thân thì khỏi phải nói, lại còn có cả nhào lộn trên xe dùng để thu hút chú ý của người qua đường. Tới lúc người đã tụ tập đông thì ông ta mới bắt đầu vừa rao vừa bán với giọng nói khoan khoái như mùa hè ăn dưa hấu. Mấy câu rao kiểu như: "Hương đào mật đào đây, quả hồng quả nho đây, quả quất quả trám, thanh đờm trừ hỏa. Cam, cam đường, củ từ, quả táo và cả chuối tiêu, hạnh nhân, trà cao, anh đào, dứa yên, thai lê, ô mai quả hồng, bạc hà đường lạnh. Ai ăn có ngay đây."

Lý biên mã là một vị, còn một vị khác là Vương đại cáp đi khắp hang cùng ngõ hẻm bán dược đường với bộ áo liền quần như nhân vật nổi tiếng, đầu đội mũ dạ cũ, thân mặc âu phục, dưới chân là một đôi giày da hở mõm, trên sống mũi là một gọng kính óng vàng, dây buộc qua màng tai, tiếng rao vang khắp chốn, buôn bán ở mọi nơi. Chưa ai thấy ông ta cười bao giờ. Trên xe có cái lồng sắt chứa hai con sóc nhỏ có thể làm động tác theo hiệu lệnh của người chỉ huy. Bất kể đi tới đâu, phía sau Vương đại cáp luôn là một đám lít nhít ồn ào náo nhiệt, chúc lão bán được dược đường.

Tiếp sau phải kể tới Ngô lão hiển. Mặc dù đi đứng không dễ, ngày ngày phải ngồi ở trước miếu thành hoàng góc Tây Bắc thành. Chỉ với một cái chảo sắt nấu dược đường, một cái bàn dài bày đủ các loại thảo dược điều chế dược đường, ông ta điều chế ngay tại nơi. Vừa nấu thuốc vừa giảng giải công hiệu của từng loại dược đường. Thường thường mỗi cuộc nói chuyện đều là thao thao bất tuyệt, không bờ không bến. Ông ta còn nói năm xưa vị đại tổng đốc Lê Nguyên Hồng cực kỳ thích ăn dược đường của lão, mỗi tháng phải mua tới mấy chục quan tiền. Nếu không thì ông ta kể 'Tam Hiệp Kiếm'. Nhân vật trong bộ truyện này là ba hiệp khách, ba kiếm khách, hợp vào xưng là Tam Hiệp Kiếm. Truyện kể vào thời Khang Hy, Hiệp Thắng Anh dẫn đầu anh hùng nghĩa sĩ trong tiêu cục mười ba tỉnh ngoài bờ Nam Kinh, tróc nã lục lâm đạo tặc ở từng vùng núi đồi, hải đảo động quật. Bộ truyện này vừa được kể xong là cả đám náo nhiệt lên. Ngô lão hiển không chân nhưng lại biết đủ thứ, việc trên giang hồ nắm như lòng bàn tay. Cho nên sắm vai tuồng đấu võ là hợp nhất, vừa kể chuyện vừa hoa tay múa chân, cực kỳ có sức lôi cuốn. Mỗi khi kể tới lúc mọi người náo nhiệt là lão lại dừng lại, bắt đầu rao hàng dược đường. Đám người nghe nhiều phát nghiện, đợi không nổi hạ hồi phân giải nên lập tức nhao nhao bỏ tiền ra mua. Tới lúc dược đường đã bán được kha khá thì lão mới bắt đầu kể tiếp. Quách sư phụ muốn thăm dò manh mối về nữ thi lông xanh. Mà tìm người hỏi là một vấn đề, nghĩ tới nghĩ lui. Nếu như nói cả Thiên Tân có một người biết thì người này chính là Ngô lão hiển.

Cùng ngày, Quách sư phụ dẫn theo hai huynh đệ, vẽ mô phỏng lại hình vẽ trên cục sắt, mang tới miếu thành hoàng ở góc Tây Bắc, mời Ngô lão hiển xem xem có nhận ra là vật gì không. Lý Đại Lăng rất khó hiểu. Ngô lão hiển chỉ là một người bán dược đường thì sao có thể biết được loại chuyện thế này? Quách sư phụ nói: "Sư thúc ta phá án còn chưa lấy danh hiệu đâu. Ngươi cứ gặp mặt rồi biết." Ba người tìm được Ngô lão hiển. Quách sư phụ gọi sư thúc, hôm nay thúc cũng đừng buôn bán gì, ta tìm một chỗ uống hai lượng. Huynh đệ chúng ta có một số việc muốn thỉnh giáo thúc.

Ngô lão hiển nói: "Cảm tình này ta xin nhận, sư thúc ta cũng không phải loại tham rượu đâu." Nói dứt lời, ông lão nhờ Đinh Mão thu giúp chảo sắt vào rồi tìm một quán ăn ở gần đó. Lúc này không phải giờ ăn nên trong quán không có ai, bốn người ngồi ở góc tường. Bồi bàn đem tới một bếp lò, bưng lên một nồi lẩu, dạ dày, đậu phụ, thịt, cải thìa bày trên bàn, mở ra hai bình rượu lạnh. Trời càng nóng càng phải ăn thịt xuyến, ăn xong cả người đẫm mồ hôi, mát mẻ như vừa tắm xong. Năm nay thịt đầu dê không phải ngon cho lắm. Nhưng không phải tiệc nên cũng ăn uống đại khái mà thôi. Mà đám người Quách sư phụ cũng không có nhiều tiền nên bình thường cũng chỉ tới những quán nhỏ bán rượu thịt thế này mà thôi.

Quách sư phụ nói với Ngô lão hiển: "Sư thúc còn chưa biết. Tên hòa thượng béo ở chợ Nam này là Lý Đại Lăng, có thể coi hắn là huynh đệ với ta và Đinh Mão."

Lý Đại Lăng nhanh chóng nâng một chén rượu lên với Ngô lão hiển, nói: "Quách gia, Đinh gia à hai vị ca ca của ta. Ta cùng đi với họ nên gọi ngài một tiếng sư thúc. Về sau ngài có việc gì cần đến, cứ gọi ta một tiếng."

Đinh Mão nói: "Lý Đại Lăng ngươi đừng có lấp liếm, lấy miệng đối phó. Tí nữa cơm nước xong xuôi, ngươi ra mà trả tiền rồi muốn nói gì thì nói."

Ngô lão hiển nói: "Được rồi, chú cháu ta còn gặp nhau. Vào vấn đề đi, ta vừa thấy các ngươi đến là biết chuyện gì rồi. Có phải việc liên quan tới vụ án xác chết ở ngã ba sông không?"

Lý Đại Lăng nói: "Ôi dời, hóa ra sư thúc đã biết trước rồi. Ngoài bán dược đường lại còn có thể xem bói. Chẳng trách nhị ca muốn tới thỉnh giáo ngài."

Ngô lão hiển cười gượng hai tiếng nói: "Hang cùng ngõ hẻm đều biết tới vụ án ngã ba sông. Ta mỗi ngày đều bày quầy bán dược đường thì lại không biết sao?"

Đinh Mão giơ ngón cái lên, nói: "Sư thúc vẫn rất minh mẫn."

Ngô lão hiển khoát tay: "Không đâu, chân đã què, người cũng già, thân thể ngày sau không bằng ngày trước, e là chẳng sống được bao lâu nữa. Trở lại chuyện chính, đừng nói tào lao nữa, có phải các ngươi tới vì chuyện vụ án xác chết ở ngã ba sông không?"

Quách sư phụ kể lại toàn bộ mọi việc cho Ngô lão hiển một lượt, mời Ngô lão hiển xem chữ viết trên cục sắt.

Đôi mắt của Ngô lão hiển dựng thẳng lên, sau một lúc lâu mới hồi phục tinh thần, nói cho ba người: "Tảng sắt kia là một con hổ sắt. Trên mặt tảng sắt kia hẳn là đúc chữ: Thiết năng trị thủy, giao long viễn tàng, duy kim khắc mộc, vĩnh trấn thử bang. Hải Hà thường xuyên có nạn lụt. Tương truyền giao long sợ sắt nên quan phủ đúc chín trâu, hai hổ, một gà bằng sắt làm vật trấn sông, có cái chôn dưới đất, có cái thả ở mắt sông giữa dòng. Con hổ sắt này là một trong số đó."

Đinh Mão nói: "Vậy thì cũng rắc rối. Nếu tảng sắt kia là vật trấn sông, mà chúng ta lại lấy nó lên từ đáy sông thì sẽ gây họa chăng?"

Lý Đại Lăng ngạc nhiên nói: "Vậy cái xác nữ ở ngã ba sông kia là yêu quái dưới sông sao?"

Quách sư phụ thấy sắc mặt của Ngô lão hiển không ổn như thể nhớ lại chuyện gì đó nên ra hiệu cho hai huynh đệ kia không nói gì nữa, mời sư thúc nói ra xem là do nguyên nhân nào mà ra như vậy.

Sau hai chén rượu, Ngô lão hiển kể lại một câu chuyện kinh tâm động phách cho ba người. Dưới ngã ba sông kia vốn không có xác nữ kia, mà hẳn là chỉ có con hổ sắt này. Mà việc chín trâu, hai hổ, một gà cũng là truyền thuyết từ thời ông còn trẻ. Khi đó là năm Gia Tĩnh thời nhà Thanh. Năm đó quan phủ tiêu diệt đạo Ma Cổ làm cho kỳ thư về yêu pháp tà thuật lưu lạc khắp dân gian, hại chết không ít người. Vụ án xác chết ở ngã ba sông rất có thể có quan hệ với việc này.

Lại nói tiếp, đây là chuyện hơn chục năm trước. Khi đó chân của Ngô lão hiển còn chưa què. Trước kia ông ta làm người áp tải có luyện qua võ, cuối thời nhà Thanh thì trở thành bổ đầu ở cửa công, tới thời dân quốc thì bổ khoái được đổi tên thành đội Thái Phỏng, Thái là theo dõi, truy kích, Phỏng là tìm hiểu tin tức, đội đó tương đương với đội cảnh sát điều tra mặc thường phục, chuyên việc lùng bắt tội phạm, trộm cắp. Có hôm vào nửa đêm, ông truy một vụ án, gặp một yêu quái ở vườn rau.

Ngô lão hiển tới ngay lúc yêu quái đi vắng. Vườn rau nằm ngay mặt sau từ đường Lý công. Ở Thiên Tân có kiến trúc cổ tên là từ đường Lý công hơn xa cả Vương phủ. Đó là từ đường của Lý đốc sư quân phiệt Bắc dương Lý Thuần Lý, chiếm diện tích gần trăm mẫu, khí thế to lớn, cổ hương cổ sắc. Tới tận ngày nay, phần lớn vẫn được bảo tồn như cũ. Cả khuôn viên đều nhìn từ hướng Bắc sang Nam, ở ngoài cửa có cột đá sư tử, bàn thờ đá, ngựa đá, người đá. Bước qua cổng chính là vườn hoa rồi tới đạo quán, sau đó là tiền, trung, hậu điện. Đủ loại đồ vật tương xứng được đặt trên điện thờ. Ba tòa đại điện nguy nga đồ sộ, từ trong ra ngoài rường cột đều được chạm trổ, xanh vàng rực rỡ. Bên trong phủ còn có phù điêu hình ngọc long đoạt châu trên sân, bốn phía hành lang uốn lượn nối nhau tạo nên nét khí phái vương cung nội viện. Sau giải phóng, từ đường Lý công chuyển thành cung văn hóa công nhân, sau đó thành chợ sách cũ. Mấy năm gần đây không còn được mở cửa miễn phí nữa mà muốn vào phải có vé, đi theo đoàn. Ở từ đường Lý công đúng là có một điều quái gở. Không để ý tới thì thôi, nhưng nếu nói ra thì đúng là kỳ quái thật.

Quái chính là ở chỗ bố cục của từ đường Lý công quay ngược với bình thường. Ở các phủ đệ nhà khác thì vườn hoa đều ở phía sau cùng, tới cả hoàng cung nơi hoàng đế ở cũng vậy. Chỉ riêng có từ đường Lý công là ở ngoài cửa. Vườn hoa ngay cửa vào nên vừa vào cửa là phải bước qua vườn hoa rồi mới có thể tới chỗ khác. Trên đời này không có nhà thứ hai nào làm như vậy. Từ đó tạo ra phong thủy không tốt, cho nên Lý đốc quân Lý Thuần Lý bị đột tử chết không thể nói là không có quan hệ với tòa phủ đệ này.

Những năm đầu dân quốc, dân gian truyền lưu hai câu: "Phía nam nghèo một tỉnh, nước Bắc giàu hai nhà." Quân phiệt Lý Thuần chính là một trong hai nhà nước Bắc đó. Khi hắn còn sống, qua nhiều năm đốc quân nên tài sản giàu lên nhiều. Tục ngữ có nói: tiền nhiều cháy thân. Nhiều tiền mà không biết tiêu thế nào nên hắn cảm thấy khó chịu. Trong lúc ý nghĩ xẹt qua, hắn nhớ tới tổ tông nhà mình nên quyết định rầm rộ xây dựng từ đường, dùng mấy chục vạn bạc trắng mua cả tòa Trang vương phủ ở Bắc Kinh xuống. Sau khi hủy nguyên dạng thì đem về Thiên Tân. Vật liệu, gỗ ngói lưu ly đều là loại tốt nhất. Dựa theo bố cục của vương phủ xây dựng từ đường Lý gia. Khi trước cũng có người có tiền tới mua lại toàn vương phủ, nhưng rồi mua xong dùng không được, hủy không xong. Mà trước đó vài năm đã có người đồn rằng ở đây có chôn tiền vàng hơn trăm năm qua. Ai mà chẳng đỏ mắt, ai mà không muốn mình giàu. Cho nên dù vương phủ không bị phá hủy thì cũng bị một phen đào tung bới loạn lên.

Vì xây dựng từ đường, Lý đốc quân đã phải bỏ ra rất nhiều tiền, mời cả tiên sinh tới xem phong thủy, bố cục. Dĩ nhiên vườn hoa ở phía sau, nhưng vừa đắp tường đá được một nửa thì xảy ra chuyện. Có người bàn tán sau lưng nói từ đường Lý gia làm như cung điện, vị đốc quân này có phải có dã tâm lớn quá không? Lúc đó, Lý đốc quân mới chú ý tới quy cách xây dựng trong nhà. Đúng là có đủ từ ba tòa tiền, trung, hậu điện, xung quanh có bốn gian nhà, phía sau có vườn hoa, thật sự là quá giống hoàng cung. Nhưng không hủy được, nếu không lại thành mất trắng tiền sao? Có người xui hắn chuyển vườn hoa ra đằng trước, như vậy sẽ chả có kẻ nào nghi ngờ gì nữa. Lý đốc quân đành phải làm theo mà quên mất rằng như thế sẽ làm cho địa thế của từ đường Lý công quay ngược lại, chạm vào điều đại kỵ trong phong thủy.

Sau khi từ đường xây xong không lâu, hắn bị một tên dưới quyền bắn chết, hưởng thọ bốn mươi sáu tuổi. Chân tướng có nhiều cách nói, tới nay chưa xác định là nguyên do gì. Nghe nói Lý đốc quân bất hạnh không có con nối dõi, nạp nhiều thê thiếp vào nhà, tới nằm mơ cũng muốn đẻ con trai. Một cô vợ bé trong đám thê thiếp tranh thủ tình cảm, rồi ngầm mua một tên lính hộ vệ, sau đó vụng trộm ngủ với y, muốn nhờ cách này mà có thai, sau đó giả mạo đó là con của Lý đốc quân, mẹ nhờ hơi con, theo đó mà ả ta cũng được quan tâm hơn. Không ngờ vào một đêm, cô vợ bé này đang hẹn hò với tên lính hộ vệ thì Lý đốc quân đột nhiên từ ngoài về, gặp phải gian tình. Tên lính hộ vệ hoảng hốt, vội vàng giết chết Lý đốc quân. Để giấu chuyện này, bên ngoài chỉ biết là đột tử chết. Nhưng nếu đã chết như thế thì cũng ứng với điềm xấu mà bố cục phong thủy đảo chiều gây ra. Thế cho nên sau đó mới gặp phải tai họa.

Sau khi nhà Lý suy bại, từ đường Lý công cũng trở nên hoang phế. Tiếng gõ mõ cũng không còn. Ở phía sau từ đường vốn là một vườn rau lớn, có vài loại rau trồng ở đó nhưng rồi cũng theo nhà Lý mà hoang phế. Mọi người đều truyền nhau rằng ở đây phong thủy không tốt. Giữa thu đã có gió lạnh, cây cối khô héo như hạt cát, thỉnh thoảng lại còn có cả tiếng cóc, dế kêu. Cho nên người ở xung quanh dù có là ban ngày cũng không dám tới đây.

Lúc đó trong ngoài thành có vụ bắt cóc trẻ con, thất lạc là không thể nào tìm được. Ngay từ đầu đã có lời đồn rằng có một tên què đi bắt cóc. Người người trong đội Thái Phỏng rình bắt ở khắp nơi, điều tra từng góc ở trong thành, nên từ đó yên ổn được một hồi, nhưng bên ngoài thành lại bắt đầu có trẻ bị bắt cóc. Nông dân nghèo khó lại trở thành đối tượng để kẻ bắt cóc để ý tới. Trải qua nhiều lần tra hỏi, dần dần lộ ra thông tin là ở những nơi bị mất trẻ, thôn dân đều thấy một người đàn bà không rõ lai lịch. Người đàn bà này dùng vải xanh trùm đầu nên không nhìn rõ mặt, mặc ở trên người là áo khoác dài có tay. Theo đó, cả đội Thái Phỏng chia ra để tìm người này. Tuy lực lượng không đủ nhưng để giải quyết với một người đàn bà bắt cóc trẻ con thì một hai người cũng đã đủ rồi. Ngô lão hiển cũng khinh thường. Có hôm ông ta một thân một mình tới nằm vùng ở một thôn trang.

Ban ngày, phần lớn người đều ra đồng làm việc. Cuối thu không khí thoải mái, đồng ruộng lại tràn ngập cao lương to chắc, người vác cao lương như kiểu đội lên cho mình một cái mũ đỏ chót. Ở nông thôn có câu: ba tháng mùa xuân không vội bằng một tháng mùa thu. Thời gian thu hoa màu chính là lúc mà nhà nông bận rộn nhất. Thường ngày xong việc cái là họ về nhà ngủ hết, mà ở nông thôn thì thường ngủ sớm, trăng vừa lên là ngừng việc, về nhà ăn cơm, tới lúc trời tối đen là đi ngủ. Thứ nhất là làm việc cả ngày đã mệt mỏi, thứ hai là tiết kiệm dầu thắp sáng.

Nhưng hôm đó tình hình lại khác thường. Mấy nhà địa chủ trong thôn mời tới một gánh hát, bày bàn đầu thôn ca diễn. Bởi khi đó đất đai đều thuộc về nhà chủ, mà việc nhà nông lại vốn bận không thể làm hết, nhất định phải mướn người làm thời vụ, cho ăn cho uống trả tiền. Việc nhà nông cực kỳ vất vả, lại cần nhiều sức nên sau khi hết việc bận là mấy nhà giàu có thường thường bỏ tiền ra thuê gánh hát về, coi như là khao thưởng cho người giúp việc. Người dân trong thôn cũng được nhờ, người quanh thôn đều chạy tới xem. Diễn chủ yếu là tạp kỹ, nam trung niên hát văn thì dân lại không thích vì chủ yếu là không hiểu. Già trẻ trai gái đều thích xem kịch võ, bởi vì có náo nhiệt, vừa thấy là đã thích. Hôm đó diễn là vở 'Chung Quỳ gả em gái'.

Đừng nhìn vào nông thôn mà coi thường gánh hát. Sở trường của họ chính là thể loại này. Trang phục đạo cụ cũng không hề đơn giản. Cả người lẫn ngựa tới hơn hai mươi vị, cờ quạt, chiêng trống, ô dù, kiệu cưới đều đủ cả. Chung Quỳ mặt đỏ râu son, em gái xinh đẹp, tiểu quỷ đi đưa cũng đủ hình thù kỳ quái, cả gánh diễn cực kỳ náo nhiệt. Diễn từ xế chiều tới lúc đèn treo cao, cuộc vui kéo dài tận đêm khuya, ngủ cũng đã muộn. Ngô lão hiển cả ngày không tra ra manh mối gì, xế chiều lại hòa vào đám thôn dân xem diễn kịch. Ở nông thôn không có người gõ mõ trực cầm canh, tới lúc tan cuộc thì ước chừng cũng phải tầm giữa canh hai canh ba. Cả vầng trăng treo cao trên trời, trong thôn hoàn toàn yên tĩnh.

Ngô lão hiển xem cuộc vui tới quên thời gian. Tới lúc cuộc diễn tàn thì mới nhận ra là đã tới canh hai, lúc đó không còn cách nào về thành nên chỉ còn nước tá túc nhờ một đêm, ngày hôm sau lại bị tiêu chảy nên về muộn mất nửa ngày, tới chiều vội vàng về thành theo hướng cửa Nam. Người trên phố dần dần đông đúc, bên đường có hàng quán nghi ngút khói, ven đường có người ra vào, xe qua xe lại. Lúc đó không còn sớm, mặt trời cũng sắp xuống núi, cả ngày không tìm ra cái gì, lão đi qua đi lại, cảm thấy trong bụng không có gì. Bụng cũng không còn gì nên khỏi phải lo là ăn uống ra sao, móc trong túi ra mấy đồng đi mua vài cái bánh hấp. Sở dĩ gọi là bánh hấp vì bánh có nhân đậu bọc bột, sau đó đặt lên bếp hấp chán, bán ở ven đường. Ngô lão hiển mua vài cái ăn chống đói, trả tiền xong là đi về phía nhà. Nhưng vừa mới cắn một cái thì ông ta thấy trên phố có một người đàn bà, thân mặc áo vải bố, áo dài có ống tay, trên đầu đội khăn, cả tấm vải che kín mặt, dây buộc ở cổ. Ở xã hội cũ thì kiểu ăn mặc này cũng không kỳ lạ lắm. Người đàn bà kia cúi đầu không nhìn thấy mặt, bước đi cực kỳ vội vã, chỉ gọi là gặp thoáng qua với Ngô lão hiển.

Cặp mắt kia của Ngô lão hiển cũng không phải là treo để đó, vừa nhìn thấy dáng vẻ người đàn bà này có chút giống với kẻ bắt cóc kia thì đã hơi ngớ ra. Sau khoảng giây lát ngây người, người đàn bà kia đã đi qua. Ông ta cũng chỉ nhìn theo bóng lưng chứ không chạy tới bắt người đàn bà kia, vì dù sao thì ông cũng là người đứng đầu đội Thái Phỏng, nếu ngộ nhỡ có sai sót là sẽ bị quy cho tội trêu chọc phụ nữ, mà bị người khác chửi thì 'Miệng đầy hàng răng cãi không hết, cả người lại có mỗi miệng kêu', có nhảy xuống Hoàng Hà cũng không sạch.

Cách đối nhân xử thế của ông ta luôn cẩn thận chín chắn, chuyện không nắm chắc không bao giờ làm, ở lại đắn đo không bằng cứ đi theo người đàn bà kia về, âm thầm đi theo xem người đàn bà kia đi đâu rồi quyết, sau đó phát hiện ra người đàn bà kia đi vào thành rồi tiến vào một ngõ nhỏ không người.

Lúc này sắc trời đã dần tối, mặt trời đã lặn về phía Tây, Ngô lão hiển càng thêm nghi hoặc khi thấy người đàn bà kia quẹo trái rẽ phải tới gần vườn rau từ đường Lý công. Nơi đó vốn là nơi không người ở, một người đàn bà tới chỗ vườn rau hoang phế lúc trời tối để làm cái gì? Ngô lão hiển thầm nói đúng là thần xui quỷ khiến thế nào, nếu không xem cuộc vui tới quên đường về rồi lại bị tiêu chảy thì đúng là không thể nào gặp được người này. Bất kể người đàn bà kia có phải mụ bắt cóc không thì mình cũng phải chặn lại hỏi xem sao.

Ngô lão hiển nghĩ vậy thì liền bước nhanh lên theo người đàn bà kia, đang định nói một tiếng cho đối phương dừng lại, vì chỉ cần quay mặt sang là có thể biết mặt mũi người kia ra sao ngay, ai ngờ người đàn bà kia đi phía trước, cách có năm ba bước mà đột nhiên đã không thấy đâu.

Ngô lão hiển thầm rùng mình, chợt thấy ở phía sau có luồng gió lạnh, cả người vội quay phắt lại thì thấy người đàn bà kia đã đứng ở phía sau từ lúc nào. Cho dù có ánh trăng thì vẻ mặt dưới cái khăn che của người đàn bà kia vẫn tối đen như thể không có, chỉ có thể nhìn ra hai con mắt tỏa ra hai đường sáng hung ác, đồng thời hai bàn tay lông lá chìa ra bóp chặt vào cổ Ngô lão hiển.

Ngô lão hiển lắp bắp kinh hãi nhìn đôi bàn tay thô dài, móng vuốt sắc bén. Lúc trước đôi bàn tay trong ống tay áo nên còn không nhận ra, nhưng khi vừa mới vươn ra ngoài thì đúng là không phải tay người.

Ngày đó, Ngô lão hiển rất kiệm lời, nói không nhiều nhưng kỹ năng thì đâu ra đó, được truyền thụ cho Thông Bội quyền nên công phu cao thâm, luôn vô thanh vô tức làm việc lớn, sau khi theo dõi một mạch người đàn bà kia tới vườn rau thì phát hiện ra người đàn bà kia là một vật sống chưa bao giờ thấy qua, mà cũng không hề biết là quái vật gì.

Đôi bàn tay của người đàn bà kia như hai gọng kìm sắt, đột nhiên túm lấy cổ Ngô lão hiển, bóp chặt vào bên trong, đồng thời miệng phát ra âm thanh như con cú.

Ngô lão hiển chấn động nhưng gặp nguy không loạn, đôi bàn chân ra chiêu liên hoàn Uyên Ương thối, đạp thẳng vào mặt người đàn bà kia, đồng thời bản thân cũng mượn lực nhảy ra sau vài bước.

Người đàn bà mặc áo dài, trùm đầu không đợi Ngô lão hiển đứng vững, mang theo một trận quái phong bổ nhào tới. Dưới ánh trăng giữa vườn rau hoang, thân hình kia quỷ dị như làn khói đen.

Ngô lão hiển nhìn ra đối phương định đưa mình vào chỗ chết, hạ thủ bất dung tình. Ông ta nhẹ nhàng rút cái điếu ra, đầu điếu là một cục đồng cực kỳ nặng, bình thường để hút thuốc, tới lúc nguy cấp có thể dùng làm vũ khí phòng thân. Lúc này, ông ta quay tròn nó, hung hăng quật tới.

Cả người lẫn vuốt của con quái vật kia lao tới, đúng vừa vặn khi cái ống điếu đánh ra, sau một tiếng 'Gào' thảm, nó phải vội vàng rụt tay lại.

Ống điếu của Ngô lão hiển cũng không dừng lại, mặc kệ xanh đỏ đen trắng ba bảy hai mốt gì, cứ thế đập tới.

Con quái vật kia thấy tình thế không ổn, quay người định bỏ trốn, nhưng chỉ trong thoáng chốc xoay người, đỉnh đầu nó đã bị Ngô lão hiển đập túi bụi vào, máu tươi bắn tung tóe, cả người đi lảo đảo, nghiêng trái nghiêng phải, định liều mạng chạy trốn. Nhưng Ngô lão hiển sao có thể để con quái vật này thoát, ông đuổi sát theo phía sau.

Vườn rau phía sau từ đường Lý công vốn xưa kia có trồng đủ loại hoa quả, về sau nước đổi dòng, vườn rau trở nên hoang phế, bờ ruộng mọc đầy cỏ dại. Dưới đêm trăng, khói mù phủ đầy cỏ, trước mặt là một cảnh tượng tiêu điều thê lương.

Tuy Ngô lão hiển vẫn có đề phòng nhưng lúc đó cũng không nhịn nổi, phải toát hết cả mồ hôi lạnh khi nhìn vào cái vẻ mặt đầy máu me dưới ánh trăng của con quái vật. Cái mắt, cái mũi kia khá là giống người, nhưng bộ mặt thì quá dài, vừa giống lừa vừa giống ngựa, miệng thì đầy răng nanh trắng hếu.

Con quái này bị đuổi tới đường cùng, giang hay tay đầy lông ra quay lại đánh. Nhờ ánh trăng, Ngô lão hiển nhìn ra đây đúng là một con mã hầu đã đứng thẳng lên như người. Mã hầu là tên gọi mà người trong dân gian dùng để dọa trẻ nhỏ, bình thường nói rằng nếu không ăn là sẽ bị mã hầu bắt ăn thịt. Trên thực tế, đây là một giống linh trưởng gần giống khỉ, hoặc là vượn núi nhưng mặt thì dài gấp rưỡi, trong dòng giống khỉ vượn cũng là loài hiếm thấy.

Ngô lão hiển vạn lần không ngờ con mã hầu này đã thông nhân tính, có thể mặc y phục, buộc tóc vấn khăn, giả dạng thành người đàn bà đi đường, trong lòng lão vừa sợ vừa ngạc nhiên. Nhưng chỉ sau chút ngây người, con mã hầu kia đã bổ nhào tới trước mặt, Ngô lão hiển tránh không kịp, người bị chọc mấy lỗ, da tróc thịt bong máu tươi đầm đìa, ống điếu rơi trên mặt đất, trong lúc nguy cấp vẫn còn kịp lấy tay xé một tảng thịt trên người con yêu hầu kia, nhưng không ngờ ở ngay phía sau có cái giếng cạn, Ngô lão hiển dậm chân vào chỗ trống không, lập tức ngã ra sau.

Sau khi vườn rau trở nên hoang phế, miệng giếng kia bị cỏ dại che khuất, Ngô lão hiển chỉ chú ý tới con yêu hầu kia, không hề để ý tới cái giếng cạn trong vườn này, mà con yêu hầu lao thẳng tới trốn ở chỗ gần giếng cạn này đúng là cố ý để đẩy Ngô lão hiển ngã xuống đó.

Ngô lão hiển ngã xuống giếng cạn, hai tay không hề nới ra, con yêu hầu kia cũng không giãy ra được. Đôi bên ngươi níu lấy ta, ta víu chặt ngươi, cùng nhau rơi xuống đáy giếng, gặp phải tình cảnh sống chết trước mắt, Ngô lão hiển không thể không liều mạng đánh canh bạc này, bao nhiêu năm khổ công canh năm đi luyện giờ phút này cũng phát huy tác dụng, giữa không trung cả người quay một cái làm con yêu hầu kia bị nằm xuống phía dưới. Ngay khi người vừa xoay lên thì chạm đất, một tiếng bộp vang vọng, tiếng xương cốt vỡ vụn, máu thịt bay tứ tung.

Giếng đã cạn nhiều năm, đá bóng loáng, một giọt nước cũng không có, con mã hầu cắm mặt xuống đất, hộp sọ cắm thẳng vào ngực. Ngô lão hiển nằm trên thi thể con mã hầu, may mắn nhặt lại được cái mạng, nhưng xương đùi vỡ vụn, đau tới hôn mê bất tỉnh, tới lúc tỉnh lại thì trước mặt tối mù, không hề thấy tí ánh sáng nào, may là trên người có bao diêm. Sau khi có chút ánh sáng thì phát hiện ra ngoài xác chết của con yêu hầu ra, còn có xác một cụ già. Vừa rồi cái đầu của ông cụ này đã cắm thẳng vào ngực con yêu hầu, não tương chảy đầy đất.

Ở dưới giếng cạn còn có không ít hài cốt trẻ nhỏ, đoán chừng toàn bộ vụ án bắt cóc trong ngoài thành đều do con yêu hầu này gây nên. Ngô lão hiển tìm ra một quyển sách cổ rách rưới trên người ông cụ kia. Đáy giếng tối như hũ nút nên ông ta cũng không nhìn ra cái gì, thuận tay nhét vào trong ngực, sau đó nén cơn đau dưới chân, hai tay cố gắng bò lên miệng giếng tìm người giúp đỡ. Sau khi bò lên, mở quyển sách ra xem thì phát hiện ở trong có ghi lại yêu pháp tà thuật vô cùng cổ quái, ở bìa không có chữ, chỉ vẽ một đóa sen trắng. Ngô lão hiển biết năm xưa Bạch Liên giáo khởi binh tạo phản, quan phủ truy nã người biết yêu thuật tà pháp khắp nơi. Khi đó ở đây có một đám tà ma ngoại đạo, mượn danh nghĩa thiên thư để lại một cuốn ghi lại yêu thuật kỳ thư. Sau khi đám tà ma bị quan phủ diệt, kỳ thư lưu lại ở dân gian, về sau bị gã nghệ nhân giang hồ nhặt được. Gã này vốn chỉ chuyên lừa gạt buôn bán, trộm mộ, trong tay có một con sái hầu chuyên đi bắt trẻ nhỏ khắp nơi, về sau bán cho người ngoài. Những đứa nhỏ không bán được, hoặc là thu làm đồ đệ, hoặc là cho chết khô trong giếng, sau đó tuy án được phá nhưng chân của Ngô lão hiển cũng bị phế, từ đó về sau không làm cách nào ăn cơm cửa công được nữa, về mở cửa hàng dược đường ở miếu Hoàng Thành góc Tây thành. Lúc đó, vụ án trẻ bị bắt cóc coi như được phá.

Quách sư phụ biết Ngô lão hiển làm đầu mục, sau lại đứng đầu đội thái phỏng, đời này phá qua vô số đại án, nhưng tới tận giờ mới biết, hoá ra gặp phải con yêu hầu ở vườn rau Lý công từ nên hai cái chân của sư thúc mới bị phế mất.

Lý Đại Lăng nghe tới tâm phục khẩu phục, liên tục rót rượu cho Ngô lão hiển: "Sư thúc, về sau cuốn kỳ thư ghi lại tà mà kia rơi vào tay ai vậy?"

Đinh Mão nói: "Yêu thuật tà pháp đó lưu lại sẽ thành tai hoạ, lúc đó chắc chắn là sư thúc đốt sạch."

Ngô lão hiển nói: "Đúng là nên đốt, nhưng nếu lúc đó đốt rồi thì ta cũng chẳng phải kể lại cho các ngươi."

Năm đó, Ngô lão hiển trừ yêu ở vườn rau xong, bò lên từ cái giếng cạn, chân đau tới mức trán đổ mồ hôi lạnh. Lý công từ bị bỏ hoang tới cô liêu, gọi tới nửa ngày cũng không có ai tới giúp. Ông ta nhớ ra có quyển sách lấy được từ xác chết dưới giếng, dưới ánh trăng móc ra xem, vừa mở ra thì thấy toàn là bàng môn tà đạo. Ông cố gắng không nhìn nữa, lo sợ nhìn xong đi vào đường ma thì không còn kiềm chế nổi bản thân nữa.

Lúc đó thấy cỏ trên tường động đậy, Ngô lão hiển chăm chú nhìn theo, chỉ thấy dưới ánh trăng có một tên thiếu niên bộ dáng ăn mày độ mười sáu mười bảy tuổi đang leo qua tường Lý công từ, thò đầu nhìn xung quanh vườn rau. Đứa nhỏ này hơn phân nửa là không nhà để về, tới đến trèo qua tường vào ngủ ở Lý công từ, thấy động tĩnh mới thò đầu ra xem.

Ngô lão hiển nói với đứa nhỏ: "Ngươi đừng sợ, ta là quan sai của đội thái phỏng, vừa rồi ta bị rơi xuống cái giếng cạn này, hai chân đã gãy. Ngươi mau tìm người giúp ta với."

Đứa nhỏ kia nhảy từ trên tường xuống, cẩn thận tới gần Ngô lão hiển. Từ ánh trăng mờ mờ, Ngô lão hiển nhìn ra vẻ mặt mi thanh mục tú của đứa nhỏ kia, nhưng từ vẻ thanh tú đó lại toát ra cái gì đó rất gian tà. Hơn nữa vẻ mặt có hơi khác thường, trên trán chỉ có một hàng mi hợp lại từ hai hàng, mắt có hai đồng tử. Người bình thường một mắt có một con ngươi, nhưng đứa nhỏ này một mắt có hai con ngươi, hai mắt là bốn con ngươi. Cả ngàn người cũng không có nổi một người như vậy, theo tướng số nói thì người thế này nhất định có kỳ vận, nhưng cũng có thể là đoản vật tướng tiểu quỷ.

Ngô lão hiển thấy đứa nhỏ này có vẻ mặt tà khí, nhớ tới kỳ thư kia còn ở trong tay, ông lăn người trên đất không đứng dậy, theo bản năng nằm đè lên quyển kỳ thư đó.

Việc này làm đứa nhỏ kia chú ý tới, hai con ngươi quay tít một vòng, nói: "Vị sư phụ già có bảo vật gì mà phải giấu không cho ta nhìn vậy?"

Ngô lão hiển nói: "Nào có cái gì, chỉ là một cuốn sách rách nát. Ngươi mau tới con đường trước Lý công từ gọi người tới giúp ta với, ta sẽ cảm tạ ngươi thật tốt."

Đứa nhỏ ăn mày kia nói: "Khụ, ta còn tưởng là cái gì, hoá ra cuốn sách nát, thấy ông bị thương không nhẹ, tốt nhất là nên vào góc vườn ngồi đỡ bị rắn cắn. Trước tiên ta đỡ ông rồi đi tìm người sau."

Ngô lão hiển nghĩ thầm mình đúng là quá đa tâm, đây chỉ là đứa nhỏ ăn mày không nhà để về, e là tới chữ còn không biết, vậy thì làm sao phải e ngại với quyển sách này.

Lúc này, đứa nhỏ lau qua cái tay bẩn lên người, xoay người làm bộ đỡ lão dậy. Đột nhiên nó đã một cước vào cái chân gãy của Ngô lão hiển. Ngô lão hiển bị trọng thương, lại không phòng bị, bị đứa nhỏ kia đá trúng chân bị thương, đau tới mắt tối sầm, phát giác quyển sách trong người bị đối phương cướp mất, thầm nhủ: "Thôi rồi, cả ngày đánh nhạn lại bị nhạn mổ vào mắt."

Đôi chân của Ngô lão hiển bị gãy, bước đi không nổi, lại bị đá một cước vào chân gãy, đau tới muốn ngất, nhưng dù sao ông ta cũng là tay già đời trong ông môn, cả đời đã bắt vô số cường đạo, kinh nghiệm phong phú, luôn có hậu thủ đề phòng. Ngay khi vừa thấy tên nhỏ ăn mày kia lao đi đã hơn ba bước, lão lập tức rung tay, nhào cả người tới. Đây là một bộ pháp bắt trộm được quan sai truyền lại từ thời tiền Thanh, lập tức đối phương bị té ngã, cũng do đối phương tuổi còn nhỏ nên lão cũng hạ thủ lưu tình, không ghìm chặt cổ đối phương xuống. Nhưng chỉ cần lão không buông tay thì đứa nhỏ kia có mọc cánh cũng không thoát được.

Không ngờ đứa nhỏ ăn mày kia ngã xuống mà không hề kêu lên một tiếng, bỗng nhiên có một vật vo tròn bay tới, ngay khi cả người Ngô lão hiển đổ ập xuống, đứa nhỏ la toáng lên: "Có rắn!" Ngô lão hiển vội vàng đưa hai tay ra đỡ, trong lúc hoảng hốt tưởng đúng là rắn thật, tới lúc ngã nhào trên đất thì mới nhìn ra là cái quần của đối phương cuộn lại. Cứ vậy, chỉ trong nháy mắt phân vân, đứa nhỏ ăn mày kia đã sớm cao chạy xa bay.

Về sau đội thái phỏng điều tra phát hiện ra con sái hầu dưới giếng cạn kia có vài đồ đệ khác. Sau khi lùng bắt được vài tên, thẩm tra rồi tóm tắt lại, toàn bộ đều bị đập chết. Từ lời khai của mấy tên kia, con sái hầu tìm được kỳ thư trong miếu hoang, dựa theo đạo tà ma nuôi thi, tìm tới nơi có tảng sắt trấn sông vớt lên, sau đó buộc một cô gái mang bầu ném xuống. Nghe nói xác chết bị dìm có thể hút địa khí, đợi sau này nơi đây gặp nạn như hạn hán lũ lụt, con sái hầu sẽ tự xưng là cao nhân đắc đạo, làm trò vớt thi thể dưới xông lên, dùng pháp thuật mê tín để thu tiền. Còn về việc sái hầu đã hại chết bao nhiêu người, xác chết cô gái kia bị dìm ở đâu thì mấy tên đồ đệ bị quan phủ bắt đều không biết.

Tới tận lúc đội tuần sông ngũ hà phát hiện ra vụ án xác chết ngã ba sông, đầu đường cuối ngõ đều kể lại, Ngô lão hiển bán dược đường trên phố vừa nghe thấy là đã ngờ rằng có quan hệ với con sái hầu năm xưa. Hôm nay, lão vừa gặp mặt ba anh em Quách sư phụ là lập tức nói ra. Có thể kết luận chắc chắn rằng, đứa nhỏ ăn mày cướp được kỳ thư ở vườn rau Lý công từ năm xưa chính là đồ đệ của con sái hầu, tên là Liên Hóa Thanh. Chỗ dìm xác chỉ có con sư phụ là con sái hầu và đồ đệ Liên Hóa Thanh biết.

Năm đó, quan phủ phái người lùng bắt liên tục trong vài tháng, nhưng không hề tìm ra tung tích Liên Hóa Thanh, mà cũng không biết hắn đã trốn đi đâu, án tới nay chưa được giải. Ngô lão hiển lại què chân nên đổi nghề sang bán dược đường. Mấy huynh đệ trong đội thái phỏng của lão đều vẫn cố lùng bắt Liên Hóa Thanh, nhưng bất kỳ người nào tra ra manh mỗi là đều bị chết rất khó hiểu. Đảo mắt đã nhiều năm trôi qua, Ngô lão hiển đã nghĩ mang chuyện đó ôm vào quan tài, không ngờ hôm nay do uống nhiều rượu quá, cuối cùng lại nói ra hết.

Ngô lão hiển biết, không nói ra thì thôi, một khi nói ra là hai anh em Quách sư phụ và Đinh Mão sẽ đi tìm Liên Hóa Thanh bằng được, khuyên bảo cũng không được, chỉ còn nước dặn dò: "Nhất định Liên Hóa Thanh đã đổi tên thay họ, trốn ở trong thành. Tên này vốn rất mưu trí, hiện giờ e là đã cực kỳ khủng khiếp, mạnh hơn sư phụ sái hầu của nó không biết bao nhiêu lần. Sau này, nếu gặp được Liên Hóa Thanh, nhất định các ngươi không được coi thường."

Đinh Mão cảm thấy khó hiểu, vội hỏi: "Sư thúc, nếu đổi ta là Liên Hóa Thanh trong vụ án này, vốn đã có được kỳ thư thì ta nhất định sẽ cao chạy xa bay không bao giờ trở lại. Tại sao ông vẫn nhận định là hắn còn ở quanh đây?"

Ngô lão hiển trả lời: "Quanh đây chỉ có Thiên Tân Vệ là vùng trù phú, xung quanh có tổng cộng mười hai bảo vật trấn sông, địa khí cực thịnh. Nếu rời đi, những bàng môn tà đạo kia sẽ không thể nào thi triển được. Thứ hai là tới nơi không quen biết, hắn sẽ rất dễ bị lộ hành tung, không giống như nơi này, từ Bắc tới Nam đều đông đúc. Ta thấy, Liên Hóa Thanh là kẻ cực kỳ giảo hoạt, chắc chắn y càng trốn ở nơi sầm uất thì càng khó tìm."

Quách sư phụ và Đinh Mão nghe xong cũng thầm hạ quyết tâm: "Nếu Liên Hóa Thanh trốn ở Thiên Tân Vệ, cho dù có đào sâu ba thước, chúng ta cũng phải moi hắn lên." Cả hai lại thêm câu cửa miệng: "Chó tốt canh ba nhà, hảo hán giữ ba thôn". Chỉ vì ý nghĩ này mà về sau mới có "Chó dữ bắt yêu thôn." Nói sớm việc này nhưng chưa chắc người biết đã hiểu, vốn việc rất ly kỳ, vì cái gì mà gọi Liên Hóa Thanh là Hà yêu? Rốt cục có phải là hắn không? Xem tiếp mọi người sẽ hiểu.

Chương 7: Quan tài dưới ao sen

[SHOWTOGROUPS=2]

Câu chuyện diễn ra ở hai nơi.

Một ngày tên béo Lý Đại Lăng đi tới dự một buổi tang lễ, nhà người ta có tiền nên phát tang khá to. Hắn giả mạo tăng nhân đi tới niệm kinh siêu độ, kiếm chút cơm ăn với tiền thưởng, trước lúc về, mượn lúc nhà tang gia bối rối, trộm cái bình dế, định đem về nuôi dế bên trong, nhưng khi vừa nhìn thấy đáy bình thì đôi mắt lập tức sáng quắc lên.

Dưới đáy bình có chữ Tam Hà Lưu, nhưng thứ làm Lý Đại Lăng thấy sướng nhất chính là niên đại cực kỳ đáng để ý. Chiếc bình này được sản xuất vào những năm cuối triều Thanh, mà nhắc tới thời đó là nhắc tới trò thi đấu dế mèn. Trò này trở thành phong trào trong đám con cháu vương công quý tộc. Nhớ năm xưa, quân bát kỳ Mãn Thanh tiến vào quan trung, tung hoành thiên hạ. Lúc mới khai quốc, người Nữ Chân vẫn còn sinh hoạt trong rừng sâu núi thẳm. Trong rừng lại nhiều dã thú ít người ở nên người Nữ Chân chủ yếu sống bằng nghề đánh cá và săn bắt. Theo sử sách ghi lại, người như rồng, ngựa như hổ, leo trèo như vượn, xuống nước như rái cá, giỏi bắn tên, dũng mãnh tuyệt luân. Tộc người dũng mãnh đó đánh thẳng vào quan nội, đứng đầu thiên hạ, sau đó đánh Đông dẹp Bắc mở mang bờ cõi. Nhưng tới thời kỳ Thanh mạt, đám con cháu bát kỳ lại vứt đi hết bản lĩnh của ông cha, tới con thỏ cũng không bắn nổi, cả ngày chỉ lo sống phóng túng, cứ thế làm cho triều Thanh suy sụp. Trong những thú tiêu khiển xa xỉ thì đấu dế là hạng nhất, từ một con dế có thể kiếm được vạn lượng. Mà côn trùng thì phải có bình nuôi, không có bình tốt sẽ bị người khác chê cười. Bình lại được có thể truyền đời về sau nên càng ngày càng đáng giá. Ba chữ Tam Hà Lưu là tên hiệu của một vị sư phụ họ Lưu có tay nghề cao siêu. Bình dế của ông ta rất được người hai vùng Kinh Tân săn tìm. Tới thời sau dân quốc, toàn bộ đều trở thành những vật báu quý giá.

Thật ra, bình thật không hề có chữ Tam Hà Lưu, có chữ này thì nhất định chỉ là loại phỏng chế, sợ người khác không biết nên mới ghi vào. Lý Đại Lăng không biết việc này, lại ngỡ là vớ được bảo vật, đem đi tìm người mua, gặp một đám người, trước không ít con mắt, hắn bị người ta cười chế giễu một trận, hoá ra cái bình có chữ lại không đáng giá. Do quá tức giận, Lý Đại Lăng ném thẳng cái bình qua đường, mảnh vụn bắn thẳng vào trán người đi đường, máu chảy be bét. Vị kia lại là người không dễ động vào, phải bồi thường thì mới bỏ qua. Tiền mấy ngày đi niệm kinh, tiền túi đều phải móc hết ra. Hắn tìm Quách sư phụ để mượn tiền thì lại đúng lúc Quách sư phụ và Đinh Mão đang đi truy xét tung tích Liên Hoá Thanh. Không còn tiền, lại không vay được đâu, cuối cùng ba người chẳng còn cách nào phải đi làm giúp việc vài ngày để giải quyết nhu cầu ăn ở trước mắt.

Giúp việc vài ngày nói trắng ra chính là làm công ngắn hạn. Ở kênh đào phía Bắc có một đám người tụ tập, phần lớn là thợ nề, nhà ai cần ngươi giúp đều tới nơi này để mướn về, cuối ngày trả tiền công. Cùng ngày, ao sen ở vườn hoa Lý Thiện Nhân đã bị ứ đọng, cần mướn bảy tám người nạo vét, không quan trọng tay nghề gì không, chỉ cần tay khoẻ chịu khổ, không sợ bẩn thỉu là được, tiền công tính theo ngày, một ngày là một quan tiền, nuôi ăn hai bữa. Những lão thợ nề ỷ vào có tay nghề, lại ngại thời tiết oi bức nên không thèm làm việc khuân vác thế này. Ba người kia đang thiếu tiền, thấy việc là nhảy vào, huống hồ tiền công cũng không ít. Nếu so sánh với việc vác bao hàng ở nhà ga Lão Long Đầu thì tiền công như nhau, nhưng việc khiêng bao hàng kia phải mệt muốn chết, tính ra việc nạo vét bùn đất ở ao sen vườn hoa Lý Thiện Nhân vẫn còn nhẹ nhõm hơn nhiều. Ba ngươi vui sướng, tưởng vớ được miếng ăn nên lập tức đi làm luôn trong ngày. Không ngờ, nạo vét ao sen lại tìm thấy một quan tài.

Vườn hoa Lý Thiện Nhân được xây dựng vào những năm cuối triều Thanh, lúc chiến tranh nha phiến xảy ra, do một người buôn muối họ Lý bỏ tiền, mệnh danh là 'Vĩnh viên'. Buôn muối ở triều Thanh luôn có tiền nên vườn hoa xây dựng ra cũng cực kỳ xa hoa, bố cục mô phỏng theo vườn hoa ở Tô Châu

Chương 7: Quan tài dưới ao sen (phần cuối) 

Khoảng cuối thời Dân quốc đã gần như trở thành một công viên mở cửa tự do rồi, sau giải phóng chính thức đổi tên thành Công viên Nhân Dân. Tên công viên ở cổng chính do chính tay Mao Chủ Tịch viết. Bên trong công viên có một cái hồ rất lớn, hoa sen phủ kín mặt nước, xung quanh xây hòn non bộ bảo tháp để trang trí, đình đài lầu các cây cối sum suê. Vào giữa hè, hàng đêm hoa sen nở rộ khắp mặt nước, gió mát mẻ. Dưới đêm trăng, ếch đua nhau kêu vang, phong cảnh say lòng người. Nơi đây đã biến thành một nơi hóng mát tránh nóng tuyệt vời. Nghe nói, kể từ sau khi vườn hoa Lý Thiện Nhân xây dựng xong, con đường tài lộc trong nhà không thuận lợi, người ta đã từng mời thầy phong thủy đến xem. Thầy phong thủy nói vườn hoa này có thế hại chủ, bởi vì hồ nước có hình dạng giống như tuấn mã, tuấn mã phá tài. Muốn thay đổi phong thuỷ thì phải sửa lại hai chỗ. Một là bên cạnh hồ nước phải trồng nhiều loại cây, cây cối rậm rạp sẽ ngăn kín đường chạy của ngựa. Hai là mở rộng diện tích vùng hồ nước ở chỗ đùi ngựa. Lý gia y theo lời của thầy phong thủy, trồng thêm vô số cây cối trong vườn hoa, mở rộng mặt nước ao sen. Hơn nữa, họ còn dựng lên một tòa Tàng kinh các đóng vai trò trấn vật trong vườn hoa. Sau này, qua mấy đời chủ nhân, vườn hoa đã biến thành một công viên tự do ra vào, diện tích không lớn lắm, từ nam đến bắc dài ba dặm, từ đông sang tây rộng hai dặm. Cảnh vật trong công viên khá đẹp, đặc biệt là cảnh hoa sen nở rộ vào mùa hạ. Tuy nhiên, ngay sát bờ của cái ao hoa sen này lại có những chỗ liên tục sinh ra bùn trầm tích, bởi vậy mà hoa sen vô duyên vô cớ héo rũ.

Công viên đành phải mướn người đến hót sạch chỗ bùn đó, Quách sư phụ và hai người anh em của ông ta cũng có mặt trong đội quân này. Tổng cộng mướn về bảy kẻ làm mướn công nhật, mỗi người được phát một cái xẻng. Đầu tiên họ nhổ sạch sẽ những cây hoa sen đã chết héo, sau đó đào chỗ bùn tù đọng lên, xúc lên xe cút kít mang đi đổ. Phần tiền công này quả thực không dễ kiếm, trời thì nắng dữ dội, lớp bùn thì tanh tưởi. Khi đào bùn trong ánh nắng chói chang vào giữa những ngày nóng nhất trong năm, toàn thân hôi rình mồ hôi quện lẫn với mùi bùn thối. Cũng còn may là tiền công không quá thấp, một ngày được cấp hai bữa cơm, thừa mứa bánh bao và cháo đậu xanh. Đào đến trưa ngày hôm sau, ao sen đã biến thành một cái hủng, dưới đáy hủng lộ ra một ít gạch cổ vỡ vụn. Sau khi hốt hết đám bùn thối lẫn lộn gạch vụn đi, bên dưới hiện ra một cái nắp quan tài đen thui. Đám người làm công nhật đã đào được một ngôi mộ cổ dưới đáy ao, tin tức lan truyền ra, kéo không ít người hiếu kỳ đến xem. Cái ao đầy bùn thối, những người này chỉ có thể đứng nhìn từ xa. Quách sư phụ phát hiện ra, không riêng gì con người bu quanh ao sen xem náo nhiệt, mà còn có một số con vật rất kỳ quái kéo đến.

Cả một đám người bu quanh xem rướn cổ trợn mắt, toàn bộ nhìn chằm chằm vào cái quan tài đã hé nắp trong bùn thối dưới ao sen, không một ai để ý tới còn có những động vật khác theo chân bọn họ cùng đến xem. Nhưng Quách sư phụ lại có thể nhìn một cái là phát hiện ra ngay, trong lòng hết sức bất an.

Giữa ban ngày ban mặt, không ai cảm thấy sợ hãi cả. Có người nói nếu đào ra mộ cổ như thế này thì phải báo quan. Quản lý vườn hoa không biết làm thế nào, cảm thấy nếu dưới ao sen có mộ cổ, có lẽ nên di dời nó đi, nếu không sau này còn ai dám đến vườn hoa Lý Thiện Nhân chơi nữa. Nhưng dù có nói thế nào thì trước tiên cũng phải móc quan tài lên xem thế nào đã. Đám làm mướn công nhật vô cùng hưng phấn, ầm ĩ bàn tán bảo rằng, bên trong chiếc quan tài được đào ra từ trong lớp bùn tù đọng này chắc công ta có đồ vật giá trị, ai lấy được sẽ là của người đó. Lúc này, Lý Đại Lăng và Đinh Mão rất muốn tranh thủ chiếm lấy công việc đào móc này, nếu moi ra đồ tốt thì có khả năng sẽ được chia phần.

Quách sư phụ nói: "Tôi thấy thế này có vẻ không hay lắm, tiếp theo có khả năng sẽ xảy ra chuyện gì đó, chúng ta đừng tham gia đào. Không tin các ngươi cứ nhìn vào ao sen một cái, xem kia là con vật gì?"

Hóa ra không biết từ lúc nào, quanh ao sen đã có hơn mười con ếch toàn thân xanh biếc kéo đến. Hơn nữa, từ trong ao sen vẫn còn có những con ếch xanh khác liên tục nhảy ra rồi tập trung lại một chỗ. Bầy ếch xanh đó càng lúc tụ tập lại càng nhiều. Toàn bộ đám ếch đó đều hướng về một nơi, đồng loạt nhắm thẳng vào chiếc quan tài trong vũng bùn. Bầy ếch im hơi lặng tiếng tỏ ra cực kỳ giận dữ. Diện tích mặt nước trong công viên Lý Thiện Nhân không nhỏ, có đủ loại hoa sen, có ếch xanh là điều rất bình thường. Khi đào ra một chiếc quan tài dưới đáy vũng bùn, mọi người hiếu kỳ kéo đến xem thì không có gì đáng nói, nhưng một bầy ếch xanh đông đảo tập trung ở gần đó thì có lẽ đã là việc khác thường rồi. Bầy ếch canh chừng giống như gặp thù địch. Không biết đào ra được cái quan tài này là cát hay là hung.

Ba

Quách sư phụ cảm thấy có chuyện khác thường, bảo Lý Đại Lăng và Đinh Mão đừng có tham gia đào cùng với mấy kẻ làm mướn công nhật. Còn bốn gã làm công nhật kia thì lại cho rằng, có những loài động vật bé nhỏ như ếch tồn tại là điều quá đỗi bình thường, không có gì đáng bận tâm. Ao sen của vườn hoa Lý Thiện Nhân lớn như vậy, không có ếch xanh mới là lạ. Giữa ban ngày đào được quan tài thì cần gì phải sợ xác chết, bây giờ không tranh thủ ra tay, đợi lát nữa trong quan tài có thứ gì tốt thì cũng chỉ còn cách đứng nhìn mà thèm. Bốn người cùng nảy sinh lòng tham, không một ai khuyên nổi. Những kẻ bu lại xem náo nhiệt ở xung quanh cũng nhấp nhổm than thở, hận không thể mau chóng moi quan tài lên xem bên trong đến cùng là có cái gì.

Từ xưa tới nay, lợi lộc luôn làm người ta nảy sinh lòng tham. Bốn gã làm mướn công nhật cả đời mình chưa từng vắt kiệt sức như lần này. Cả bốn người bọn họ dùng cánh tay trần đào móc bùn tù đọng. Tiết trời nóng bức, mặt trời mùa hè chói chang chiếu thẳng vào đỉnh đầu, mồ hôi rơi như mưa cũng chẳng làm ai khó chịu, chỉ tập trung men theo hình dáng quan tài mà đào bới. Bốn người này đầu óc ngu si tứ chi phát triển, chỉ biết cậy mạnh. Đào cả một buổi, cái quan tài mới lộ ra được một nửa. Huyệt của cái mộ cổ dưới đáy ao sen hôi thối rất chật hẹp. Bên trên đắp thành mộ, phía dưới dùng gạch đá xây thành huyệt. Qua kết cấu có thể phán đoán là cái huyệt này được xây vào đầu thời nhà Thanh. Tới nay đã được gần hai trăm năm, có thể coi như là mồ mả tổ tiên rồi. Có lẽ là vào lúc xây dựng hoa viên Lý Thiện Nhân ở chỗ này, mộ phần bị lấp bằng. Phần rìa của ngôi mộ bị lớp bùn tù đọng của ao sen bao quanh. Quanh năm bị lớp bùn này ăn mòn, gạch của ngôi mộ đã đổ sụp xuống, quan tài ngâm trong nước cũng đã trở nên mục nát. Chiếc quan tài này được chôn theo kiểu đông cao tây thấp, theo phương vị đầu gối về đông chân xuôi về tây. Tuy nhiên, hoa văn màu vàng kim của thành quan tài vẫn chưa mờ hết, sau khi lau bùn đi vẫn có thể nhìn thấy đó là một hình vẽ bướm vờn trong gió theo lối thủy vân. Bên ngoài quan tài được trang trí theo lối thủy vân đã chứng tỏ mộ phần này là của phụ nữ.

Lý Đại Lăng nói: "Nhiều ếch xanh như vậy, liệu có phải là đám thiêu thân muốn ăn lớp sơn hoa văn màu vàng kim bên ngoài chiếc quan tài hay không?" Quách sư phụ trả lời: "Đừng có nói vớ vẩn! Lớp sơn màu bên ngoài quan tài làm sao có thể ăn được?" Đinh Mão nói: "Hình vẽ bên ngoài quan tài hoàn toàn không phải là bươm bướm, mà là hồ điệp." Ba người xúm đầu lại, ngươi một lời ta một câu khẽ thảo luận. Lúc này, từ trong đám người xem náo nhiệt có một vị Tiểu Trương Bán Tiên bước ra, đã đọc qua mấy bản kinh Âm Dương, thông thạo xem thời tiết mưa nắng. Nhà y cha truyền con nối xem phong thuỷ. Xưa kia, ông nội của y được tôn xưng là Trương Bán Tiên, đến y đã là thầy phong thủy đời thứ sáu. Tuổi tác người này không lớn lắm, ngoài hai mươi nhưng chưa đến ba mươi. Hôm nay, nghe người ta kháo đào được mộ cổ trong công viên Lý Thiện Nhân, nên y cố tình tới xem náo nhiệt. Sau khi nhận ra những người trong đội tuần sông, y mới bảo với Quách sư phụ và Đinh Mão: "Hình vẽ bên ngoài chiếc quan tài này không phải là bươm bướm cũng không phải là hồ điệp, mà nửa giống điệp nửa giống bướm, nói chung là pha trộn giữa hai loài vật này. Con vật này được gọi là Thanh phù. Nghe nói, ở phương nam có loại trùng biết bay này. Thời cổ, người ta coi Thanh phù là biểu tượng cho tiền tài, cứ vẽ hình nó lên là sẽ phát tài. Có khả năng khi còn sống, người phụ nữ trong quan tài này là người phương nam. Còn hình vẽ thanh phù theo lối thủy vân bên ngoài quan tài mang hàm nghĩa lưu lại tiền tài cho đời sau."

Quách sư phụ nói: "Thì ra là thế, thanh phù thì đúng là tôi đã được nghe nói tới. Loại trùng biết bay này được chia làm tử mẫu, mẫu không rời tử, tử không rời mẫu. Dùng máu của mẫu trùng và tử trùng bôi vào hai đồng tiền khác nhau, khi mua thứ gì trả cho người ta bằng tử tiền. Đến lúc nửa đêm, tử tiền chắc công ta sẽ bay trở về bên cạnh mẫu tiền. Cho nên tử mẫu tiền dùng mãi không bao giờ hết." Lý Đại Lăng hưng phấn nói: "Còn có chuyện tốt như thế này cơ à? Tôi sẽ đi bắt vài con thanh phù, sau đó lấy máu chúng bôi vào tiền, sau này không bao giờ còn phải phát rầu vì thiếu tiền nữa." Quách sư phụ nói: "Chẳng biết đây là cách làm của cái thằng ham tiền đến phát điên nào nghĩ ra, làm sao mà có thể dùng được?" Ông ta quay sang hỏi Trương Bán Tiên: "Tiểu Trương tiên sinh, thầy thử nói coi, tại sao khi đào chiếc quan tài này trong vũng bùn ra, lại có nhiều ếch xanh kéo đến như vậy? Chẳng lẽ chúng đã coi hình vẽ màu con bướm bên ngoài quan tài trở thành miếng mồi hay sao?" Trương Bán Tiên lắc đầu nói: "Tôi nghĩ không phải như vậy, ếch xanh làm sao mà nhận biết nổi hình vẽ bên ngoài quan tài là thanh phù hay là bươm bướm chứ."

Trong lúc bọn họ nói chuyện, bốn gã làm công nhật đã đào đến mức năm mặt ván quan tài lộ thiên. Thế nào được gọi năm mặt ván lộ thiên? Nắp quan tài là một mặt, hai tấm gỗ dài hai tấm gỗ ngắn xung quanh là bốn mặt còn lại. Như vậy năm mặt ván đều đã lộ ra rồi, chỉ còn đáy quan tài là vẫn còn ngập dưới bùn. Đám ếch xanh nhảy ra từ trong nước ao sen đã tập trung lại thành một bầy mấy chục con. Toàn bộ tất cả những người đứng xem đã bắt đầu sởn cả da đầu. Đã bắt đầu có người cầm đá ném chúng. Bầy ếch bị đuổi tản ra, không lâu sau lại tập trung lại như trước, bày trận giống như được chỉ huy, chỉnh tề ngồi chồm hỗm trên mặt đất. Cả một đám trợn mắt phồng mang, mang đầy vẻ giận dữ, không nhúc nhích nhìn thẳng vào chiếc quan tài dưới đáy hủng, thái độ giống như lâm trận. Đến lúc này, tất cả những người vây quanh xem đều có cảm thấy có điềm gở, hảo tâm khuyên bảo mấy gã làm công nhật đừng tiếp tục đào nữa, chẳng biết chừng trong cái quan tài đó có vật gì không may.

Bốn

Bốn gã làm công nhật chính là người thấy hơi tiền nổi máu tham, đã đến nước này có nói cái gì cũng nghe không lọt tai. Đến khi thấy bùn đã được đào tương đối, họ cầm xẻng nạy nắp quan tài ra. Cái nắp quan tài rất dày, những người này lại chẳng biết đường nhổ những cái đinh dài trên nắp quan ra trước, liên tục cạy vài cái mà vẫn không ra. Nhưng đáy quan tài bị lớp bùn trầm tích làm cho mục nát, đã tạo thành một lổ thủng lớn, chỉ có điều lớp bùn đã che khuất nên không nhìn thấy. Bốn gã đàn ông đầu óc ngu si tứ chi phát triển này dùng sức nạy nắp quan tài, làm cho chân hoa sen gãy rời ra. Bốn tấm ván hai dài hai ngắn, người chết được đặt ở bên trong mô phỏng theo hình tượng đỉnh đầu mây lành chân đạp hoa sen*. Tấm ván dưới chân người chết có hình vẽ hoa sen bằng sơn vàng, phía trên đỉnh đầu là hình vẽ mây lành. Bốn gã làm công nhật dùng sức quá mạnh, tấm ván vẽ hoa sen của quan tài đã bị thủng sẵn, lúc ấy lại rơi ra một miếng to, làm lộ ra hai bàn chân tam thốn kim liên** đeo giày thêu. Thời xưa, phụ nữ nhân phải có bàn chân nhỏ, thon gọn. Nhưng, mặc dù đã đeo giầy thêu bằng gấm, đôi chân người chết vẫn khiến cho người xem có cảm giác không cân đối, chối mắt không sao tả xiết. Đám đông đứng xem xung quanh kiễng chân nhìn chằm chặp vào đôi chân của xác người phụ nữ trong quan tài, trong một khoảnh khắc lặng ngắt như tờ.

*Hình ảnh thường thấy trong các tranh vẽ các vị phật.

** Thời nhà Thanh có tục bó chân, nếu dài ba tấc thì được gọi là 'tam thốn kim liên', là tiêu chuẩn đẹp nhất của bàn chân phụ nữ.

Giày thêu bên trong quan tài lộ ra ngoài, khi gặp phải bùn lập tức biến chất biến thành màu đen. Nhưng những sợi tơ vàng và trân châu khảm trên đôi giày vẫn lấp lánh chói mắt dưới ánh nắng, phản chiếu thẳng vào mắt một gã làm công nhật. Gã đâu còn bận tâm đến những ánh mắt đang nhìn trừng trừng của mọi người, thò tay ra túm lấy hai chiếc giày thêu khảm châu báu. Nhưng ngay khi chạm vào đó, gã cảm thấy hai bàn chân nhỏ bé của xác ngườii phụ nữ trong quan cử động.

Công viên Lý Thiện Nhân thuê người làm công nhật dọn dẹp bùn tù đọng trong ao sen, không ngờ lại đào được một chiếc quan tài đã chôn từ hai trăm năm trước. Một gã trong số những kẻ làm công nhật ỷ vào ban ngày, bạo gan vươn tay ra, nhưng khi vừa mới chạm tới chiếc giày thêu như búp măng, hai cái chân của xác chết phụ nữ trong quan tài bỗng nhiên cử động. Gã sợ tới mức rụt phắt tay về, ngã ngồi xuống vũng bùn quắp người lại không đứng lên nổi. Ba kẻ làm công nhật khác là đồng hương của gã, cùng nhau đi kiếm việc làm, hấp tấp chạy tới nâng gã dậy. Nhưng họ đã dùng đủ mọi cách mà gã vẫn không thể đứng dậy được. Gã này đã bị sợ đến mức tê liệt ngay tại chỗ.

Trước đây có người đùa dại, đêm tối đóng giả quỷ dọa người khác, khiến kẻ đó sợ tới mức ngồi phệt xuống đất cả buổi không đứng dậy nổi. Nếu nói theo cách mê tín, đó là trường hợp bị thất hồn lạc phách vì đột ngột kinh sợ. Sau khi hồn phách quay trở lại nhưng vẫn không về đúng vị trí ban đầu. Có đôi khi chỉ kéo dài vài ngày là người đó có thể khôi phục, nhưng cũng có đôi khi tê liệt cả đời không thể nào chữa khỏi. Gã làm công nhật này quả thật là sợ tới mức chân tay mềm nhũn ngồi ngây ra đó, hai chân đã mất hết cảm giác, cạy miệng không nói được một câu. Ba kẻ đồng hương nhấc gã ra khỏi vũng bùn, giao cho mấy người Quách sư phụ trông nom. Bọn họ muốn tiếp tục xuống dưới lấy chiếc giày thêu của xác người phụ nữ trong quan tài.

Những người hiếu kỳ đứng xem đều đứng ngoài rìa cái hủng. Bên bờ ao sen, bùn được móc lên để thanh tẩy ứ đọng chất thành một đống lớn, bên dưới toàn bộ đều là lớp trầm tích tanh tưởi, không một ai có ý định sán lại gần. Có người tinh mắt, nhìn thấy hai bàn chân nhỏ bé dưới đáy quan tài hình như đột ngột cử động, lên tiếng khuyên bảo ba gã làm công nhật đừng có lại gần, không may bị xác chết vồ. Ba người kia đâu có chịu nghe, người quản lý công viên Lý Thiện Nhân có mặt ở đó cũng không ngăn nổi bọn họ. Nếu đổi lại là lúc nửa đêm, đúng là bọn họ không dám lại gần, nhưng giờ là ban ngày trời quang mây tạnh thì có gì phải sợ?

Từ xưa tới nay, nghèo luôn đi đôi với khó. Nghèo có thể làm con người khốn khó, nghèo thì sẽ mất ý chí, không có tiền sẽ bị trói chân trói tay. Ngoài đường của ngon vật lạ gì cũng có, nhưng không có tiền thì chỉ có thể đứng ngắm, đến nửa đêm mới nằm mơ được hưởng thụ một phen, mở mắt ra lại trở về với thực tại làm phu khuân vác gặm bánh ngô. Sống ở đâu cũng cần phải có tiền, không có tiền là lâm vào túng quẫn khốn khó. Những gã làm công nhật nghèo mạt rệp này đâu có nhìn ngó gì đến xác chết phụ nữ trong quan tài, trong mắt chỉ có đôi chân đeo giày thêu kim tuyến bên rìa nạm vàng đang lộ ra ngoài. Bên trên đôi giày được khảm mấy hạt trân châu nhỏ như hạt gạo, phần gấm của nó và cái quần đã biến chất thành màu đen, chỉ còn những sợi kim tuyến và trân châu trên giày là còn đáng giá mấy đồng tiền. Ánh mắt ba gã làm công nhật rực cháy ngọn lửa tham lam. Nhưng khi đến gần chiếc quan tài, bọn họ rõ ràng không kìm nén được nỗi sợ hãi, nhưng vẫn không tông tag được sự tham lam, từng bước một tiến lại gần, run rẩy đi tới tóm lấy cặp giày thêu trên đôi bàn chân của xác người phụ nữ.

Lúc này, Quách sư phụ đang đứng cạnh vũng bùn đỡ cái gã đã sợ mất vía, nghe thấy người này không ngừng lẩm bẩm trong miệng cái gì đó. Hai người Quách sư phụ và Đinh Mão lờ mờ nghe thấy hình như gã nói cái xác chết phụ nữ kia sẽ cử động. Hai người tương đối kinh ngạc. Dù đã ở trong đội tuần sông vớt xác người chết đuối nhiều năm như vậy, nhưng họ lại chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy người chết cử động giữa ban ngày. Vài ngày trước, mặc dù ở kho hàng nhà ga Lão Long Đầu xảy ra tình trạng cương thi vồ người, nhưng nghe người ta nói, đó là chuyện không bằng không cớ, thật sự khó có thể phân biệt là giả hay thật. Mặc dù đích xác là chuyện lạ, nhưng lại chỉ xảy ra vào thời điểm nửa đêm. Người chết giống như đèn tắt, người phụ nữ trong quan tài dưới ao sen đã chết hơn hai trăm năm, huống hồ ban ngày là lúc dương khí mạnh nhất, nếu bảo xác chết này cử động giữa ban ngày ban mặt thì kiểu gì họ cũng không thể nào tin được. Nhưng sự việc ngày hôm nay lại rất khác thường. Cứ nhìn những con ếch xanh biếc giống như được nhuộm bằng thuốc vây quanh quan tài giống như gặp phải thù địch như vậy, là đủ biết tất yếu có điều kỳ quái.

Năm

Trong lúc Quách sư phụ thất thần chốc lát, ba gã làm công nhật đã vươn tay chạm vào giày. Đột nhiên, trong quan tài vang lên một loạt tiếng động lục cục kỳ dị, khiến cho ba gã thanh niên đó sợ tới mức mặt mũi trắng bệch. Tại sao quan tài chôn dưới lớp bùn tù đọng của ao sen lại có thể phát ra tiếng động? Chẳng lẽ xác chết phụ nữ này thật sự cử động? Đừng có nghĩ nông dân không đọc sách, nửa chữ cũng không biết mà lầm, những câu truyện truyền miệng về yêu ma quỷ quái gì mà họ chẳng được nghe. Vừa rồi ánh mắt chỉ tập trung nhìn chằm chằm vào đôi giày thêu khảm châu báu, lúc này họ mới liên tưởng tới những quỷ quái yêu ma trong nghĩa địa của thôn làng, nghĩ ra đủ mọi việc đáng kinh ngạc khiến người ta giật mình có khả năng xảy ra.

Ba người cho rằng xác chết phụ nữ trong quan tài sắp chui ra ngoài, lập tức bắp chân co rút, hối hận vì đã nảy sinh lòng tham, muốn quay đầu chạy trốn. Nhưng hai cái chân lại nặng như chì không thể nhấc lên nổi. Lúc này, mọi người đều nhìn thấy từ trong quan tài hoa sen phụt ra một luồng khói vàng, cùng với đó là âm thanh lục cục quái dị. Toàn bộ những người đứng bên rìa vũng bùn xem náo nhiệt cứng đờ người ra. Đứng cách rất xa vẫn có thể ngửi thấy mùi xác chết khăm khẳm, hai mắt cay đến chảy cả nước mắt. Ba gã làm công nhật đứng ngay gần bên dưới hủng, vừa mới tiếp xúc với luồng khói màu vàng này đã lập tức ngã lăn đùng ra giống như ba cây cột gỗ.

Trước đó Quách sư phụ đã thực sự cảm giác có điều không hay. Khi nhìn thấy ba gã làm công nhật hít phải khói vàng trong quan tài rồi ngã gục, một lát sau luồng khói vàng lại rút vào trong quan tài, ông ta vội vàng bịt kín miệng mũi, lôi kéo Đinh Mão và Lý Đại Lăng tranh thủ cứu người. Mỗi người kéo một gã. Đến khi kéo ba gã như kéo chó chết đến bên rìa cái hủng, nhìn lại thì đã thấy ba kẻ này đều đã nhắm chặt hai mắt, sắc mặt tái nhợt, giống như đã bị ngạt thở bởi mùi xác chết, kéo dài thêm một lúc nữa là không thể cứu được. Đến lúc này, toàn bộ những người vây quanh xem đều kinh ngạc, vội vàng nhéo sau lưng vê trước ngực để cứu ba gã làm công nhật.

Cùng lúc đó, những con ếch xanh đã nhảy từ ao sen vào trong vũng bùn đột nhiên hướng thẳng về cái quan tài đồng loạt phùng lớp da dưới cằm mà kêu ồm ộp. Lỗ thủng dưới đáy quan tài lại tiếp tục phát ra tiếng lục cục quái dị. Ngay sau đó, bên dưới chân quan tài hoa sen có hai con động vật quái dị giống nhau như lột cùng thò đầu ra. Lớp da bên ngoài nổi lên những cục xù xì như mụn cơm, đích xác là hai con cóc quỷ to đến mức kì quái. Hai con này là một cặp một trống một mái, trên lưng có hoa văn ngũ sắc đẹp rực rỡ. Chúng há cái miệng rộng hoác phát ra vài tiếng ồm ộp, trong bụng lục cục rung động, cùng nhau nhả ra một luồng khói vàng mù mịt.

Đến giờ mọi người mới ngớ ra, phần gạch của cái mộ dưới ao sen đã sụp xuống, quan tài ngâm trong bùn nhão đã mục nát từ lâu. Con cóc quỷ chui vào trong quan tài thông qua lỗ thủng, biến ngôi mộ cổ thành sào huyệt của mình. Cóc quỷ rất thích sống chui rúc dưới lớp bùn âm u ẩm ướt của huyệt mộ. Màu sắc của hoa văn trên người càng sặc sỡ thì càng độc. Hai con cóc này có vẻ không chịu nổi bầy ếch đánh trống reo hò, bị ép chui ra khỏi quan tài phun sương màu vàng. Bầy ếch xanh cũng không dám tới quá gần. Song phương giống như đã rơi vào thế phải đối đầu, đứng nguyên một chỗ giằng co một lúc lâu. Luồng sương màu vàng do hai con cóc quỷ phun ra dần nhạt đi, hoa văn rực rỡ lộng lẫy trên lưng chúng cũng nhạt hẳn đi.

Đúng lúc này, từ trong ao sen có một con ếch xanh to gấp hai những con còn lại nhảy ra. Nó ngồi chồm hổm trên mặt đất, to xấp xỉ bằng bàn tay của một người lớn xòe rộng ra, nghiễm nhiên có khí thế vương giả. Nó xòe hai chân trước ra để đọ khí thế cùng với hai con cóc quỷ. Khí thế của song phương ngang nhau khó phân cao thấp. Đám người vây quanh xem đua nhau nhặt đá lên, nhè vào hai con cóc quỷ mà ném. Hai con cóc quỷ dường như đã phun sạch khói độc, bất đắc dĩ chạy trối chết. Vừa mới chạy đến rìa vũng bùn, chúng đã bị người ta quơ lấy xẻng đập nát bét thành hai đống thịt bầy nhầy. Có người lập tức than thở đáng tiếc. Trên lưng cóc có lớp sụn, khi chúng còn sống gỡ lớp sụn, rồi moi hết ngũ tạng lục phủ ra. Sau khi phơi khô dưới nắng mặt trời, sụn cóc và da cóc đều là những thứ rất giá trị, có thể dùng làm thuốc. Khi quay sang nhìn những con ếch xanh, đã thấy chúng nối đuôi nhau nhảy trở về ao sen. Chỉ trong khoảnh khắc, mặt nước đã lặng xuống, không còn thấy bóng dáng của chúng. Sau này, có người lập một cái miếu bên cạnh Tàng kinh các của công viên Lý Thiện Nhân thờ phụng thần ếch xanh. Tuy nhiên, quy mô không lớn, cũng chẳng có mấy ai hương khói, sau giải phóng đã bị dỡ bỏ. Sau khi đổi tên thành Công viên nhân dân, cái ao đã trải qua một lần dọn dẹp kỹ lưỡng, nhưng dù có sửa sang thế nào thì cuối cùng vẫn không thể làm cho hoa sen mọc nhiều như trước.

Sáu

Lại nói tiếp, không biết là ai đã báo quan, sau khi người cơ quan nhà nước đến, mấy người Quách sư phụ nhận tiền xong lập tức chấm dứt công việc. Kế tiếp, đám người xem náo nhiệt cũng lũ lượt rời khỏi công viên. Sau đó, nghe nói chiếc quan tài đó đã bị di dời đi chỗ khác. Dân tình đồn ầm lên, Thần sông Quách Đắc Hữu lại cứu được mấy mạng người ở ao sen. Đó chỉ là chuyện nghe hơi nồi chõ. Giờ nói đến chuyện chính, lúc ấy nhận được tiền công, sau khi đi ra khỏi cổng, ba anh em bàn nhau trước tiên tới nhà tắm tắm một cái, kỳ cọ sạch sẽ bùn thối bám trên mình. Khi ra khỏi cổng chính công viên Lý Thiện Nhân, ba người vừa vặn gặp Trương Bán Tiên đi cùng đường. Bốn người đi đến ngã tư thì gặp một cái xe đẩy con bán nước Hà Lan.

Nước Hà Lan thật ra là loại nước có ga đầu tiên, dùng bột bạc hà và đường mía pha với nước đun sôi để nguội, có người còn thêm bột sô-đa, là loại đồ uống mát lạnh cực kỳ dễ làm. Tôi cũng không biết có phải là do người Hà Lan phát minh ra đầu tiên hay không, dù sao khi nó đến tay tôi thì đồ uống này đã trở thành phổ biến rồi, đã được gọi là nước Hà Lan. Cuối đời nhà Thanh, Thiên Tân vệ đã bắt đầu có bán. Đến cuối thời Dân quốc, người ta đã bán đủ loại nước có ga đủ tiêu chuẩn, trong nước nước ngoài đều sản xuất, nhưng dân chúng lại không thích uống. Họ vẫn quen uống loại nước Hà Lan do mình tự chế. Nhưng uống loại nước này dễ bị tiêu chảy. Trước kia, có dạo còn có người chết vì uống loại nước này. Ưu điểm của nó là giá rất rẻ, còn rẻ hơn một cốc trà đá. Nước có ga đựng trong chậu sứ in hình hoa sen, dùng đá ướp lạnh, nhìn là thấy hấp dẫn. Vào những ngày nóng nực nhất mùa hè uống một chén, mát lạnh đã khát, thanh họng giải nóng, đó cũng là một loại hưởng thụ. Mọi người đầu trần hứng nắng ở ao hoa sen của công viên Lý Thiện Nhân quá nửa ngày trời, phơi nắng đã đến mức chảy mỡ, nóng bức không chịu nổi. Quách sư phụ mời Trương Bán Tiên và hai người anh em của mình đứng ngay bên lề đường uống hai chén nước Hà Lan, vừa uống vừa cùng thảo luận với Trương Bán Tiên về trận chiến giữa bầy ếch và cóc tại ao sen. Quách sư phụ nói: "Công viên Lý Thiện Nhân này tôi đã vào chơi không biết bao nhiêu lần, nhưng quả thật không ngờ dưới đáy ao sen lại có quan tài."

Trương Bán Tiên tiếp lời: "Nơi này có quan tài cũng không phải là chuyện kỳ quái gì cả. Theo tri thức mà người của thế hệ ông nội tôi để lại, ông cụ nhà tôi đã sớm nhận thấy địa thế của công viên Lý Thiện Nhân không tầm thường."

Đinh Mão cười nói: "Bán Tiên xuất thân từ thế gia phong thủy, chúng tôi bàn luận những chuyện như thế này trước mặt Bán Tiên có khác nào là múa rìu qua mắt thánh, có phần coi thường người khác."

Lý Đại Lăng không tin Tiểu Trương Bán Tiên, lên tiếng: "Cái gì mà coi thường người khác. Theo tôi thấy, Trương Bán Tiên là bán vải quên mang theo kéo. Quan tài dưới ao sen của công viên Lý Thiện Nhân đã biến thành ổ cóc trú ngụ rồi, thế mà còn được coi là bảo địa phong thuỷ hay sao?"

Tiểu Trương Bán Tiên nói: "Thực sự không phải là nói khoác, những gì tôi nói đều có căn cứ."

Lý Đại Lăng nói: "Ồ, còn có căn cứ...? Vậy thầy nên giảng giải tường tận cho chúng tôi, đến cùng có căn cứ gì vậy?"

Như thế nào gọi "Có căn cứ" ? Nói trắng ra, đây chỉ là cách nói khi người ta muốn thuyết phục người khác. Nói là có căn có cứ, thực ra chỉ là dẫn ra những gì đã được viết trong sách, luận một vài đoạn điển cố. Nếu như ngươi có thể tìm ra dẫn chứng, vậy thì được gọi là "có căn cứ", nói chuyện mà không có căn cứ chỉ là lời nói tầm phào.

Tiểu Trương Bán Tiên nói: "Không tin có phải không? Ông tổ đời thứ ba của Trương gia tôi có thể xem phong thuỷ cắt âm dương. Danh không phải mua, tiếng không phải chuộc, nếu như không có vài phần bản lĩnh thực sự, tôi sao dám nói ra những lời đao to búa lớn trước mặt mấy người anh em các vị đây? Nói cho mọi người biết, con sông hai bên công viên Lý Thiện Nhân có nhiều nhánh, tự nhiên hình thành thế giống như con trùng trăm chân. Đầu tròn thân dài đuôi nhỏ, dựa theo sách vở, đó là hình một con Kim Vĩ Ngô Công. Hai cái huyệt một ở đầu một ở đuôi, người được chôn ở trong hai cái huyệt đó không phú cũng quý. Nhưng âm khí của hai cái huyệt này rất nặng, dễ thu hút yêu ma đến trú ngụ trong phần mộ. Lúc trước, khi đào bùn mở hòm quan tài ở đó đã xảy ra chuyện gì, chẳng phải mấy người đã tận mắt nhìn thấy hay sao?"

Bất thình lình nghe thấy câu này, Quách sư phụ quả thật giống như nghe thấy sét đánh giữa trời quang, phụt sạch ngụm nước Hà Lan vừa mới uống vào trong miệng vào mặt Trương Bán Tiên, vội vàng hỏi: "Thầy vừa mới nói cái huyệt dưới ao sen công viên Lý Thiện Nhân . . . là huyệt gì?"

Tiểu Trương Bán Tiên cho rằng Quách sư phụ vừa rồi chưa kịp nghe rõ, cho nên không có phản ứng gì quá khích. Y lau mặt rồi lập lại những lời vừa nói, phần mộ ở công viên Lý Thiện Nhân là " huyệt Kim Vĩ Ngô Công" .

Bảy

Trước đó không lâu, Quách sư phụ và Đinh Mão đến Trần Đường Trang hỏi thăm tung tích của Liên Hóa Thanh. Giữa đêm mưa trời tối đen như mực, ông ta nằm ngủ trên mặt đất trong miếu, bỗng đâu gặp phải một giấc mộng kỳ lạ, văng vẳng nghe thấy tiếng nói Liên Hóa Thanh đang ở trong đầu Kim Ngô Công. Bấy giờ ông ta chỉ giật mình hoảng hốt, cho rằng mình nghe lầm. Làm gì có con rết nào lớn như vậy, lớn đến mức một người sống sờ sờ có thể dung thân trong đầu của nó cho được? Bây giờ nghe Tiểu Trương Bán Tiên nói ra ông ta mới biết được, địa thế của Kim vĩ ngô công trong phong thủy âm dương có hình thù như vậy. Nếu như lời nói này không sai, cái huyệt Kim Vĩ Ngô Công là có thật. Xem ra việc truy bắt yêu sông Liên Hoa Thanh, rất có thể sẽ tìm ra manh mối ở ngay vùng đất có hình thù Kim Vĩ Ngô Công này.

Giữa đường cái không phải là chỗ nói chuyện, Quách sư phụ nói: "Bình thường, chúng ta lúc nào cũng tất tả vội vàng, thật khó mà gặp được nhau. Đã gặp thì có không biết bao nhiêu chuyện muốn nói, không bằng để ba anh em chúng ta làm chủ, mời Tiểu Trương tiên sinh đi nhà tắm ngâm bồn uống trà, tận dụng cơ hội này để trao đổi kỹ càng với nhau." Trương Bán Tiên vui như mở hội, nhưng vẫn còn cố nói: "Đầu năm nay cuộc sống rất khó khăn, làm sao có thể vô duyên vô cớ không biết xấu hổ bắt anh em phải tốn kém vài lần. . ." Y gượng gạo khách khí vài câu rồi mới đồng ý mà như mở cờ trong bụng.

Phía nam thành phố thời đó có một nhà tắm tên là Thiên Hưng Trì, là loại nhà tắm công cộng phổ biến của thời đại đó, nằm ở ngoài mặt đường, cao hai tầng. Ở cửa ra vào có treo một tấm biển cổ có niên đại từ trước đời nhà Thanh. Tầng một là hồ tắm hơi nước mù mịt, tầng hai được bố trí thành từng phòng tắm riêng theo kiểu cổ. Nếu như khách tắm ở hồ tắm chung còn chưa đủ thoải mái thì có thể đưa ra yêu cầu riêng, nhà tắm sẽ phục vụ đủ các loại dịch vụ từ giác hơi, cắt móng chân cho đến đấm bóp lưng. Giá tiền lại rất rẻ, ngươi muốn bỏ tiền ra thuê một gian phòng tắm độc lập cũng được. Có không ít người tiêu có vài hào là có thể ngâm mình ở đây cả ngày, tắm rửa xong đánh cờ đánh bài nói chuyện phiếm. Bởi vậy, có thể nói nhà tắm công cộng không chỉ là nơi tắm rửa, mà còn là một nơi xã giao đặc thù. Tất cả những người khách đến đây ngâm mình trong hồ tắm chung với chỉ cùng một mục đích. Thân phận lẫn lộn, mục đích vào nhà tắm công cộng là tắm rửa, nhưng đến khi quần áo đặc trưng cho thân phận đã được cởi bỏ sạch sẽ, nếu như muốn bàn chuyện riêng tư, đến nhà tắm công cộng đại chúng là thích hợp hơn cả.

Quách sư phụ dẫn theo mấy người Đinh Mão đi vào Thiên Hưng Trì. Đầu tiên, họ đứng dưới vòi hoa sen xả hết bùn đất bám khắp người, sau đó đi ngâm mình trong hồ nước nóng tới mức mặt mày đỏ rực, toàn thân thư thái. Lên trên tầng hai, bắt lấy khăn nóng do phục vụ viên ném qua, lau khô thân thể, quấn khăn tắm tìm một cái giường gỗ ở trong góc khẽ dựa vào, thật sự là toàn thân thả lỏng. Hôm nay thực sự mệt mỏi, mông lung rơi vào mộng đẹp, tỉnh lại không biết mình đang ở chỗ nào. Ngủ dậy lại được nhân viên chạy bàn phục vụ một ấm cao mạt nóng. Nói một cách dễ hiểu, cao mạt chính là bột lá trà cao cấp. Nếu không đủ tiền uống trà quý thì chỉ có thể uống vụn của trà ngon được bán đầy trên phố. Sau khi đổ nước sôi vào, một mùi hương trà đặc biệt tỏa ra ngào ngạt. Bên trong nhà tắm còn có bán các loại đồ ăn vặt như lê tươi, củ cải tươi, quả ô liu tươi, hạt sen thanh nóng tiêu hoả ngon miệng. Quách sư phụ còn muốn gọi thêm vài đĩa củ cải trắng Sa Oa*** và một bao thuốc lá Tam Pháo Đài đắt tiền, nhiệt tình mời Trương Bán Tiên uống trà hút thuốc ăn củ cải trắng.

***Còn được gọi là củ cải xanh Thiên Tân Vệ, người ta thường gọi nó là 'tái áp lê'

Trương Bán Tiên nói: "Vô công bất thụ lộc, hôm nay tại sao quý vị lại vừa mời tôi ngâm bồn tắm lại vừa mời tôi uống trà, có phải là có việc cần nhờ vả hay không? Xin nói trước một câu, muốn vay tiền thì tôi thực sự không có. Hai năm qua kinh tế khó khăn, cái chén cơm kiếm được nhờ xem phong thuỷ âm dương càng ngày càng không khó kiếm rồi. Không sợ mấy vị anh em chê cười, hơn nửa năm này tôi chưa từng bước chân vào hàng quán. Bữa nào cũng ở nhà cố mà trệu trạo nuốt đồ ăn, ngay cả mì thập cẩm cũng không dám ăn."

Quách sư phụ nói: "Xin thầy đừng quá đa nghi, cứ an tâm ở lại đây nghỉ ngơi. Chúng tôi chỉ là lưu manh nghèo kiết xác, có ai mà chẳng biết. Nếu muốn mượn tiền chúng ta cũng không tìm tới thầy."

Vừa nghe thấy nói không phải mượn tiền, Trương Bán Tiên lập tức yên tâm, rung đùi đắc ý nói: "Người xưa nói rất hay, chim chết vì mồi người chết vì tiền. Thời bây giờ, người trên không có đạo đức, kẻ dưới làm loạn, khiến cho một nhân vật như Trương mỗ có tài nhưng không gặp thời. Nhưng hỡi ôi, người có tài nhưng không gặp thời đâu chỉ có riêng một mình Trương mỗ?"

Lý Đại Lăng nói: "Thầy đừng nói văn vẻ có được hay không. Tất cả mấy người chúng tôi đều là kẻ thô lỗ, nghe câu này mà không hiểu đầu đuôi ra sao. Ý thầy muốn nói là cái gì?"

Trương Bán Tiên đáp lại: "Tôi muốn nói thế này, ba anh em các vị và tôi cũng giống nhau cả thôi, cùng khốn khó đến cùng cực, nghèo vẫn hoàn nghèo, nhưng tất cả đều là người người có bản lĩnh. Quách gia và Đinh gia thì tôi không nói đến nữa, chúng ta đã quen biết nhau bao nhiêu năm rồi còn gì. Giờ mạn phép mượn Lý Đại Lăng Lý gia cậu để phát biểu cảm tưởng ban đầu khi gặp nhau ngày hôm nay của tôi. Tôi vừa nhìn đã cảm thấy Lý gia cậu là một tráng sĩ hiệp can nghĩa đảm, là bạn bè đáng giá ngàn vàng, không đua tranh với đời, gặp Văn vương khiêm cung hữu lễ, gặp Kiệt Trụ can qua không cúi đầu. Cậu chính là một hảo hán bụng dạ thẳng tông ta, trong mắt không vương một hạt bụi."

Lý Đại Lăng nhếch miệng cười nói: "Đúng là chỉ có Bán Tiên thầy tinh mắt. Thầy có biết những kẻ ở ngoài kia đánh giá tôi thế nào không? Bọn chúng không hề nói tôi hiệp nghĩa nhân hậu, mà cái đám tạp nham đó lại dám nói tôi không bằng một nắm rác trong xó nhà-- thật con mẹ nó không ra thể thống gì."

Quách sư phụ bảo Lý Đại Lăng: "Được rồi người anh em, cậu đừng than vãn nữa, mau chóng tiếp tục cắt củ cải trắng cho Bán Tiên, gọi phục vụ đổi cái ấm cao mạt thành trà thơm."

Lý Đại Lăng cắt củ cải trắng, châm trà đưa cho Trương Bán Tiên: "Bán Tiên thầy dùng đi, chờ tôi gọi phục vụ pha một ấm trà thơm lớn. Củ cải trắng ăn với trà nóng, thầy lang giận đến lăn quay."

Trương Bán Tiên nói: "Được rồi, cao mạt đổi thành trà thơm sao? Quách gia ngài tìm tôi nhất định là có chuyện gì đó. Nếu ngài không nói ra cho rõ ràng, tôi thực sự không dám tiếp tục ăn củ cải trắng uống trà của ngài nữa."

Quách sư phụ nói: "Thôi được, tôi không vòng vo với thầy nữa. Ba anh em chúng tôi mời thầy đi tắm rửa uống trà, đơn giản chỉ vì muốn nhờ thầy giảng giải cho biết huyệt Kim Vĩ Ngô Công là như thế nào?"

Trương Bán Tiên tỏ vẻ khó xử trả lời: "Thế này. . . thế này. . . , không phải vừa mới rồi tôi đã nói một lần cho các vị nghe rồi hay sao. Nếu bắt tôi phải nói thêm có lẽ không tiện cho lắm. Tổ tông đã lập ra quy định, thứ này chỉ truyền nam không truyền nữ, chỉ truyền nội không truyền ngoại. Toàn thể gia tộc chúng tôi đều nhờ vào thứ này để kiếm cơm đó."

Quách sư phụ nói những quy định đó chúng tôi đều hiểu cả, thầy cứ yên tâm chúng tôi không hề có ý định đoạt chén cơm của thầy, chỉ vì muốn đuổi bắt sông yêu Liên Hóa Thanh mà thôi. Ông ta lập tức kể hết ra toàn bộ đầu đuôi nguyên nhân, rồi năn nỉ Trương Bán Tiên nhất thiết phải chỉ điểm một vài đầu mối.

Trương Bán Tiên nói: "Quách gia, ngài hỏi tôi coi như là đã coi trọng tôi rồi. Nếu tôi còn tiếp tục dấu giếm ngài thì có vẻ bản thân đã quá không biết điều rồi. Bây giờ, tôi sẽ dứt khoát nói cho rõ ngọn ngành. Biết nói như thế nào đây, Kim Đầu Ngô Công và Kim Vĩ Ngô Công thực ra chỉ là hai cách gọi của cùng một địa thế, là đầu và đuôi của cùng một con rết. Sau đây tôi sẽ nói hết những gì huyền bí bên trong cho các vị biết."

Tám

Sau đó, Trương Bán Tiên khoa chân múa tay giảng giải. Y nói địa thế của Thiên Tân vệ bắc cao nam thấp, phía nam có một vùng đất trũng rộng lớn giống như một cái Tụ bảo bồn (chậu đựng châu báu). Bởi vậy mà nam giàu bắc nghèo. Rất nhiều năm trước, có một con sông lớn chảy vào cái hồ ở phía nam. Sau khi cạn nước, cái hồ đó biến thành vùng đất trũng này, còn dòng chảy ngày trước biến thành kênh rạch. Từ thời Thanh mạt đến nay, nội thành không ngừng được xây dựng mở rộng về phía nam ngoại ô, rất nhiều phòng ốc được xây lên, đường phố được trồng cột điện. Những tuyến kênh rạch trải rộng hơn mười dặm hầu như đã bị lấp bằng. Nhưng theo sách phong thuỷ, dù đã bị lấp bằng nhưng tuyến kênh rạch này vẫn giữ nguyên được hình thái ban đầu. Theo phong thuỷ, hình thái đó được gọi là thế Kim Vĩ Ngô Công, giống như một con rết khổng lồ đang lắc đầu vẫy đuôi muốn bò vào bên trong Tụ bảo bồn. Đầu nó chứa kim, có thể phù trợ tiền tài, đuôi nó treo kim, có thể câu tiền tài. Đuôi con rết này nằm tại ao sen của công viên Lý Thiện Nhân. Còn về phần đầu Kim Vĩ Ngô Công không nằm ở đây mà lại ở một nơi khác, nơi đó chính là nghĩa trang nhà họ Ngụy tại phía nam thành phố. Năm xưa, ông nội của Trương Bán Tiên là lão Bán Tiên đã giúp Nhị gia của Ngụy gia chọn một khu nghĩa địa. Khu nghĩa địa đó chính là "huyệt Kim Đầu Ngô Công" .

Trăm ngàn năm trước, vùng trũng phía nam là một cái hồ tự nhiên, đất đai màu mỡ, cho nên cây cối nơi đó tươi tốt, tương phản hoàn toàn với vùng lân cận hoang vu đất bị nhiễm mặn. Mặc dù thế Kim Đầu Ngô Công này rất hoàn hảo, nhưng vẫn có một điểm nhỏ khiến cho người ta sai lầm. Ai mà ngờ được, con rết này lại bị một tấm bia đá đồ sộ trấn áp. Toàn bộ phong thủy của Kim Vĩ Ngô Công đã bị tấm bia đá này đoạn tuyệt, huyệt cát tường biến huyệt hung, nhưng mãi về sau này người ta mới phát hiện ra điều đó.

Đầu thế kỷ mười chín, nhân khẩu nhanh chóng gia tăng, nghĩa địa nhà họ Ngụy dần dần biến thành một khu nhà ngói dành cho người sống của chính gia tộc mình. Khu đất đó không bao giờ yên ổn, đường đi lối lại đan xen như mắc cửi, địa thế phong thuỷ thì không thể nào còn tốt được nữa rồi. Thường xuyên có các loài động vật như sói vàng chồn dữ mèo rừng chó đất qua lại, người sống ở nơi đó không bao giờ an bình. Chính vì vậy, nhà nào cũng treo trên nóc một tấm gương trừ tà. Ở vùng đất đó, thỉnh thoảng lại có thể bắt gặp xác chết của mèo, chó và cáo. Chưa cần nói đến lúc con sông gặp lũ, chỉ cần trời mưa to thì những căn phòng lợp ngói của Ngụy gia đã chìm một nửa dưới nước. Đến nay, một nửa số phòng ốc đã bị hủy hoại, đại đa số đều là những căn nhà nguy hiểm bị bỏ hoang, chỉ chờ phá đi để xây lại. Nhưng thời buổi bây giờ đang là thời kỳ bấp bênh, ai còn lòng nào mà nghĩ đến việc phá hủy những căn phòng xiêu vẹo ở nghĩa địa của nhà họ Ngụy đây?

Xuôi theo hướng nam của nghĩa địa nhà họ Ngụy là vùng ngoại ô phía nam, càng cách xa thì càng hoang vu, đi theo hướng bắc đi là đường vào nội thành. Tấm bia đá khổng lồ nói trên nằm ở phía tây bắc của nghĩa trang nhà họ Ngụy, con vật dưới bệ đá của tấm bia là con bị hí (một loại động vật trong thần thoại, giống rùa. Xưa các bệ đá thường khắc hình con này). Dân chúng gọi tấm bia đá này là bia Đà Long Trấn Hà. Thực tế có phải như vậy hay không thì không thể nào biết được, dù sao cũng chỉ là lời đồn đại. Tấm bia đá đó rất đồ sộ, mấy người đứng chồng lên nhau cũng không thể với tới đỉnh, dù đứng cách rất xa vẫn có thể nhìn thấy nó, là loại vật cổ dùng để ngăn chặn sát khí bảo vệ thành trì khi xưa. Không biết bao nhiêu năm trôi qua, mỗi khi sửa đường lợp nhà người ta đều muốn di dời nó đi nhưng không bao giờ làm được. Đầu con Kim Vĩ Ngô Công này hướng về phía nam còn đuôi hướng bắc, trong tư thế đang bò vào trong Tụ bảo bồn, nhưng lại bị tấm bia đá này găm chặt lại. Chỉ cần tấm bia đá này còn, cổ con rết sẽ bị tấm bia đá chẹn lại không nhúc nhích được. Cho nên, huyệt Kim Đầu Ngô Công đích xác nằm ở ngay gần tấm bia đá.

Ba người mắt tròn mắt dẹt lắng nghe, không tin nổi những gì Trương Bán Tiên đã nói. Ba người nằm mơ cũng không thể tưởng được, Liên Hóa Thanh lại trốn ở trong nghĩa trang nhà họ Ngụy. Nếu đã biết địa điểm thì lúc nào cũng có thể tới đó bắt người. Đừng lầm tưởng là chưa từng nhìn thấy mặt của Liên Hoa Thanh thì không nhận ra y, nét đặc thù trên mặt kẻ này không lẫn vào đâu được, hai mắt bốn con ngươi, cứ tìm người có dấu hiệu đặc thù này thì không thể nào nhầm lẫn.

Chỉ cần hai vụ án dấu xác trong hộp sắt ở Trần Đường Trang và dìm xác ở ngã ba sông là đã đủ xử bắn Liên Hóa Thanh vài lần. Nhưng đội cảnh sát đường thủy Ngũ Hà không thể vô cớ bắt người, huống hồ bắt kẻ thông dâm phải có cả đôi, bắt trộm phải có tang vật. Nếu muốn kết tội Liên Hóa Thanh đến cùng gây ra bao nhiêu vụ án mạng, lấy đâu ra chứng cứ xác thực, thì phải bắt được y thẩm vấn lấy khẩu cung mới tính toán cụ thể được. Ngoài ra, Quách sư phụ còn nghĩ tới một việc, cái tên Liên Hóa Thanh đó không trốn đi đâu mà lại cứ nhè vào vùng lân cận tấm bia đá của nghĩa trang nhà họ Ngụy mà trốn, trong khi bản thân nơi đó vốn dĩ đã ma quái, từ đó có thể thấy được kẻ này nhất định có âm mưu đen tối. Cứ tới đó xem xét kỹ càng, dù có không bắt được người, nhưng chỉ cần có thể tìm được một vài manh mối liên quan cũng tốt chán.

Trương Bán Tiên nói tiếp: "Ba vị muốn đi nghĩa trang nhà họ Ngụy gia bắt yêu, vốn là hành động thay trời hành đạo vì dân trừ hại. Lẽ ra tôi không nên ngăn cản, nhưng tôi vẫn không thể không nói một câu khó nghe. Hiện giờ, địa thế huyệt Kim Đầu Ngô Công đã biến thành huyệt hung theo đúng nghĩa của nó. Những năm vừa qua, tấm bia đá khổng lồ này đã lây nhiễm không ít sát khí. Đến giờ này, địa thế đó quả thực đã biến thành một con rết tinh đang ngoác miệng ra, chỉ chực chờ ăn sống nuốt tươi con người, đến một người ăn tươi một người, đến hai người nuốt sống cả đôi. Hiện giờ, tôi thấy ấn đường Quách gia đã biến thành màu đen báo hiệu điềm xấu. Bởi thế, không đi thì không nói làm gì, nhưng nếu đi thì khẳng định là chết chắc. Tôi tuyệt đối không phải ăn nói bừa bãi, những lời này thực sự là có căn cứ."

Ba anh em không tin, cho rằng Trương Bán Tiên lại đang cố tình làm ra vẻ thần bí. Những ông thầy xem phong thuỷ, tướng số như y cứ mở mồm ra là nói chuyện giật gân, nếu không như vậy thì làm sao thu được tiền của thiên hạ. Họ bèn bảo y không cần tốn thêm nước bọt nữa. Sau khi mọi việc thành công, phần thưởng của ông chủ Thạch nhất định sẽ có phần của y, công đầu trong vụ đuổi bắt yêu sông Liên Hóa Thanh là của Trương Bán Tiên nhà thầy. Đến lúc đó, chúng tôi sẽ bày tiệc cảm ơn thầy, chí ít ra cũng sẽ phải có bốn món ăn mặn nguội, sáu món xào nóng, tám bát canh lớn, ngoài ra còn thêm một nồi lẩu. 

Trương Bán Tiên nói: "Mấy người anh em coi tôi là loại người gì thế. Không phải tôi đang hù dọa ba người, nếu Quách gia tới bia trấn sông ở nghĩa trang nhà họ Ngụy thì tôi dám khẳng định là chắc công ta sẽ phải chết. Ba ngày sau, nếu ngài vẫn còn sống không chết, Trương Bán Tiên tôi cả nửa đời sau sẽ không bao giờ ăn đến chén cơm phong thủy âm dương này nữa. Các vị, tôi đã nói đến nước này rồi, mọi người vẫn còn không đi không được hay sao?"

Ba anh em bọn họ nghe ra Trương Bán Tiên thực sự là có ý tốt, nhưng vẫn cảm thấy cách nói của y chẳng qua chỉ là quan trọng hóa vấn đề. Chết sống có số, đâu phải do con người định đoạt? Trương Bán Tiên đành chịu. Đừng thấy bình thường Quách gia rất dễ nói chuyện mà lầm, tính tình ông ta thực ra rất cố chấp, những người tuổi trâu đều như vậy cả. Công việc mà mình muốn làm, không một ai có thể khuyên bảo ông ta dừng lại được. Huống chi còn có một Lý Đại Lăng không an phận suốt ngày lải nhải bên tai. Lý Đại Lăng thuộc loại người cứng đầu háo danh. Trong đầu lúc nào cũng chỉ muốn phá vụ án dìm xác ngã ba sông để tranh công nhận phần thưởng, căn bản không bao giờ chịu nghe ai khuyên can. Những gì cần nói Trương Bán Tiên đã nói cả rồi, thừa biết muốn ngăn cũng không ngăn được, dứt khoát không nói thêm gì nữa, thầm nghĩ: "Nói hay không là do ta, đi không là do Quách Đắc Hữu nhà ngươi, muốn chết hay là muốn sống, tự ngươi tính toán mà làm."

Mấy người Quách sư phụ hạ quyết tâm, phải đi nghĩa trang nhà họ Ngụy đuổi bắt yêu sông Liên Hóa Thanh. Nhưng họ thừa biết nghĩa trang nhà họ Ngụy ma quái đến phát sợ. Trong cùng một ngày, ban ngày thì đào được cổ mộ dưới ao sen công viên Lý Thiện Nhân, buổi chiều khi ra khỏi nhà tắm thì sắc trời đã tối, họ không dám đi thẳng tới nghĩa trang nhà họ Ngụy, bèn từ biệt Trương Bán Tiên. Đến sáng ngày hôm sau dậy thật sớm, trời mới vừa tờ mờ sáng, ba người đã tập hợp ở ngoài cửa Nam rồi khởi hành đi tới chỗ bia trấn sông ở nghĩa trang nhà họ Ngụy.

Có người hỏi, những gì Trương Bán Tiên đã nói thực ra có đúng hay không? Ngài hỏi rất hay, tôi xin trả lời ngài rằng, địa thế của huyệt Kim Đầu Ngô Công trong nghĩa trang nhà họ Ngụy đã thay đổi, con rết tiền tài bò vào Tụ bảo bồn trước kia đã chết, biến thành một con rết khác đang ngoác miệng ra chực ăn thịt người. Quách sư phụ đang gặp điềm xấu, lại đâm đầu vào hang ổ của nó, lần đi nghĩa trang nhà họ Ngụy này thật sự là đi chịu chết.

Ngài cứ tiếp tục theo dõi rồi sẽ biết, lời nói của Trương Bán Tiên thực sự là chuẩn xác. Nhưng câu chuyện về Thần sông vẫn luôn được lưu truyền tới tận thập niên năm mươi sáu mươi sau giải phóng. Nếu Quách sư phụ chết vào thời điểm này thì làm gì còn chuyện gì mà kể nữa? Bởi vậy đó là một cái nút thắt. Trong thuyết thư, nút thắt chính là yếu tố tạo ra kịch tính. Cái nút thắt của tôi chính xác là được đặt ở ngay chỗ này, hồi sau sẽ phân giải.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro