HAI câu5:bằng cơ sở lý luận và thực tiễn , hãy chứng minh ......

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

HAI câu5:bằng cơ sở lý luận và thực tiễn , hãy chứng minh việt nam quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu của lịch sử

1.1.1. Lí luận về hình thái KTXH của C.Mác 
  
 Trong lý luận về hình thái kinh tế xã hội của C. Mác cho thấy sự biến đổi của 
các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. 
Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản( XHTB) để tìm ra quy luật vận 
động của nó - C. Mác và Ăngghen đều cho rằng: Phương thức sản xuất TBCN 
có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới - xã hội 
cộng sản chủ nghĩa. 
- C.Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: Sự tiến bộ lịch sử của chế độ tư bản, vai trò cực 
kỳ to lớn của nó trong việc phát triển sức sản xuất và xã hội hóa lao động. Đồng 
thời cũng chỉ ra những giới hạn tạm thời về mặt lịch sử của chế độ đó: " Sự tập 
trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà chúng không 
còn thích hợp với cái vỏ TBCN của chúng nữa. Cái vỏ đó vỡ tung ra. Giờ tận số 
của chế độ TBCN đã điểm. Những kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt". 
- Đồng thời C. Mac và Ăngghen cũng dự báo trên những nét lớn về những đặc 
trưng cơ bản của xã hội mới đó là:  
+ Có lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao. 
+ Chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột 
người bị thủ tiêu. 
+ Sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. 
+ Nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn 
xã hội. 
+ Sự phân phối sản phẩm bình đẳng. 
+ Sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân 
tay bị xóa bỏ... 
Nhưng để xây dựng xã hội mới với những đặc trưng trên cần phải trải qua hai 
giai đoạn: giai đoạn thấp ( giai đoạn đầu) và giai đoạn cao ( giai đoạn sau). Sau 
này Lênin gọi giai đoạn đầu là CNXH, giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản. 
 
1.1.2. Lí luận của Lê - Nin 
Vận dụng học thuyết của C.Mác vào công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô 
trước đây, Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH với nội dung 
như sau 
Thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan, bất cứ quốc gia nào đi lên 
CNXH đều phải trải qua, kể cả các nước có nền kinh tế rất phát triển. 
Như vậy Lênin đã khẳng định rằng thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách 
quan không chỉ các nước có nền kinh tế lạc hậu mà kể cả các nước có nền kinh 
tế phát triển (tức được hiểu rằng những nước đã kinh qua chế độ TBCN) và 
Lênin coi đó là một việc phải làm mà bất cứ quốc gia nào cũng phải trải qua. 
- Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách sâu sắc triệt để toàn diện từ 

xã hội cũ thành xã hội mới - xã hội XHCN. Nó diễn ra từ khi giai cấp vô sản 
giành được chính quyền bắt tay vào công cuộc xây dựng xã hôi mới và kết thúc 
khi xây dựng thành công những cơ sở của CNXH về các mặt: lực lượng sản 
xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế, kiến trúc thượng tầng. 
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ được qui định bởi đặc điểm ra đời, phát triển 
cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh tế xã hội của CNXH. 
 
1.1.3. Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ qúa độ là
 sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và tương ứng với nó có nhiều giai cấp, 
tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp 
trong xa hội đã thay đổi một cách sâu sắc. 
- Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần về khách quan và lâu dài có lợi 
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. 
- Thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh" ai thắng ai" giữa CNXH và 
CNTB quyết liệt quanh co, khúc khuỷu phức tạp. 
 
1.1.4. Khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN: 
- Dự báo của C.Mác 
  Phân tích tính chất và đặc điểm của CNTB trong thời kỳ tự do cạnh tranh Mác 
và Ăngghen đã rút ra kết luận: cách mạng cộng sản chủ nghĩa không thể xảy ra ở 
riêng một nước TBCN mà sẽ đồng loạt xảy ra trong tất cả các nước tư bản văn 
minh. Những dự báo trên là xuất phát từ điều kiện của CNTB đang ở thời kỳ tự 
do cạnh tranh, thời kỳ mà CNTB tương đối ổn định, các mâu thuẫn giữa các 
nước tư bản chưa đến mức gay gắt quyết liệt. 
- Luận điểm của Lênin 
 Phát triển học thuyết của C. Mác trong thời kỳ mới, thời kỳ đế quốc chủ nghĩa 
Lênin đã xây dựng lý luận về chủ nghĩa đế quốc và đã phát hiện ra quy luật phát 
triển không đều về kinh tế và chính trị của CNTB và người đã rút ra kết luận 
quan trọng về khả năng thắng lợi của CNXH trước tiên ở một số nước hoặc ở 
một nước riêng lẻ, chứ không thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả các nước. 
- Khi CNXH thắng lợi ở một nước thì nhân loại bắt đầu bước vào một thòi đại 
mới - thời đại qua độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Trong điều kiện đo 
các nước lạc hậu có thể qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, nhưng phải các 
điều kiện bên trong và bên ngoài. 
+ Điều kiện bên trong: Có ĐCS lãnh đạo và giành chính quyền và sử dụng chính 
quyền nhà nước công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết để xây 
dựng CNXH. 
+ Điều kiện bên ngoài: Có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến 
đã giành thắng lợi trong cách mạng vô sản. (CMVS) 
Tuy các nướclạc hậu có khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN 
nhưng không phải là quá độ trực tiếp mà phải qua con đường gián tiếp với một 
loạt những bước quá độ thích hợp thông qua chính sách "kinh tế mới"  

2.Thực tiễn của Việt Nam 
Sau khi cuộc kháng chiến của chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc 
thắng lợi,tháng 7-1954 hòa bình đã được lập lại ở miền Bắc,còn miền Nam vẫn 
tạm thời phải sống dưới ách thống trij của Mỹ-Ngụy.Lúc này,miền Bắc đã đã 
bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,với những đặc điểm sau đây: 
-Là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,chủ yếu dựa trên sản xuất nhỏ cá thể 
,cơ sở  kinh tế của chủ nghĩa tư bản để lại hết sức kém cỏi và non yếu.Công 
nghiệp nhỏ bé,mới phôi thai.Nông nghiệp và thủ công nghiệp có tính chất phân 
tán,chiếm bộ phận lớn trong nền kinh tế quốc dân .Hơn nữa ,miền Bắc lại bị tàn 
phá nặng nề của 15 năm chiến tranh. 
-Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong hoàn cảnh đất 
nước ta bị chia cắt làm hai miền .Đế quốc Mỹ đã biến miền Nam thành thuộc địa 
và căn cứ phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chuẩn bị 
gây chiến tranh xâm lược. 
- Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong khi chủ nghĩa xã hội đã trở thành một 
hệ thống thế giới 

Sau khi giải phóng miền Nam 1975, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn 

mới, cả nước thống nhất đi lên CNXH. Hội nghị Trung ương lần thứ 24 (khoá 

III, ngày 20-9-1975) đã xác định phương hướng tiến lên của cách mạng cả nước. 

Trên  cơ  sở  phân  tích  đặc  điểm  mới  của  tình  hình  đất  nước,  Hội  nghị  đã  thừa 

nhận  sự tồn  tại  của các thành phần kinh tế ở  mỗi  miền.  Miền  Bắc  có 3 thành 

phần kinh tế:  quốc  doanh, tập  thể và cá  thể.  Ở  miền  Nam,  Nghị quyết nêu rõ 

trong một giai đoạn nhất định, còn  tồn tại các thành phần kinh tế: kinh tế quốc 

doanh XHCN, kinh tế tập thể XHCN, kinh tế công tư hợp doanh nửa XHCN, 

kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư doanh.  Đây là lần đầu tiên trong văn bản Nghị 

quyết của Đảng ghi rõ việc thừa nhận của nền kinh tế nhiều thành phần  trong 

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhưng trong thực tế chúng ta đã 

không nhất quán thực hiện theo tư tưởng đó. Trong quá trình hình thành và xác 

lập đường lối cách mạng XHCN được nêu lên trong Nghị quyết Đại hội đại biểu 

toàn  quốc lần thứ  IV  (12-1976);  Đảng  ta không  nghiên  cứu phát triển  sâu  sắc 

thêm về chính sách kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Tư tưởng trên đây đã 

dẫn tới các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, lần thứ V và các Chỉ 

thị, Nghị quyết sau đó đều nhấn mạnh cải tạo XHCN theo hướng xoá bỏ nhanh 

chóng các quan hệ sản xuất cũ. Đến cuối những năm 70, nền kinh tế nước ta đã 

bộc lộ rõ sự yếu kém về mọi mặt, mất cân đối nghiêm trọng. Trước tình hình ấy 

Đảng  và  Nhà  nước ta  đã  nhiều  lần  tập trung nghiên  cứu để tìm  cách  tháo  gỡ, 

nhiều  giải  pháp  đã  được  đưa  ra  nhưng  đều  không  đem  lại  kết  quả  như  mong 

muốn. Sở dĩ như vậy là do điểm xuất phát của những giải pháp này vẫn dựa trên 

những quan niệm lạc hậu, xơ cứng về CNXH, về sản xuất lớn XHCN, về cải tạo, 

xây dựng và sử dụng các thành phần kinh tế. Có thể nói việc cải tạo XHCN lúc 

đó chủ yếu là xoá sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập thể và toàn 

dân đã gây ra sự lãng phí to lớn lực lượng sản xuất của xã hội.  

     Trước bối cảnh ấy, nhiều cơ sở đã chủ động tìm kiếm những giải pháp tháo 

gỡ khó khăn, thoát ra khỏi khủng hoảng của nền kinh tế, tạo điều kiện cho sản 

xuất phát triển. Đã xuất hiện 'khoán chui' trong nông nghiệp và 'phá rào' trong 

công nghiệp. Từ thực tế đó đã làm nảy sinh nhiều tư tưởng, nhận thức trái ngược 

nhau. Nhưng đó cũng chính là sự khởi đầu, khai thông từng bước đổi mới nhận 

thức và chính sách của Đảng  về nền  kinh tế nhiều thành phần  trong thời kỳ 

quá độ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cho đến lúc này, xét về đại thể, tư duy cũ về 

kinh tế vẫn tồn tại, nền kinh tế nước ta vẫn nằm trong khủng hoảng. Nhưng từ 

thực tiễn đã hé  mở  những khả năng mang tính hiện thực có thể ngăn chặn sự 

xuống dốc của nền kinh tế và đem lại một sinh lực phát triển mới. 

      Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3.1982) đã chỉ ra những khó 

khăn và yếu kém của đất nước và nhấn mạnh khó khăn đó là do khuyết điểm và 

sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ Trung ương đến cơ sở về lãnh 

đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Căn cứ hiện trạng các thành phần kinh tế 

của đất nước, Đại hội khẳng định trong một thời gian nhất định, ở miền Nam 

còn 5 thành phần kinh tế là: quốc doanh, tập thể, công tư  hợp doanh, cá thể và t-

ư bản tư doanh. 

Đây là sự chuyển đổi trong nhận thức về đường lối và chính sách kinh tế của 

Đảng ta:  chủ trương sử dụng một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong chặng 

đường đầu tiên của thời kỳ quá độ để tận dụng mọi năng lực sản xuất sẵn có.Tuy 

vậy do vẫn còn hạn chế bởi tư duy cũ về CNXH và còn chịu ảnh hưởng mạnh 

mẽ  của những quan điểm  mang nặng  tính  chủ  quan duy  ý  chí nên  những giải 

pháp  mà  Đại  hội  đề ra  vẫn  chưa thực  sự sát  với  thực tiễn  và với  yêu  cầu của 

cuộc sống. Đại hội đã không đặt vấn đề chú trọng, sử dụng, liên kết phát triển 

các thành phần kinh tế nhằm phát triển lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó mà tăng 

cường thành phần kinh tế XHCN và cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân với 

hình thức, bước đi phù hợp. Trái lại, Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh nguy cơ: 

trên một số trận địa XHCN, những yếu tố tư bản chủ nghĩa và phi XHCN xâm 

lấn . Do đó, Đại hội đặt ra mục tiêu trong kế hoạch 5 năm (1981 - 1985):Hoàn 

thành công cuộc cải tạo XHCN ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan 

hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất XHCN trong cả nước . 

Sau Đại hội V(3.1982), trước thực trạng kinh tế - xã hội  của đất nước, Đảng ta 

đã nhìn nhận, xem xét lại tư duy kinh tế trên những vấn đề chủ yếu và đặc biệt là 

vấn  đề  thừa  nhận  hay  không  thừa  nhận  chính  sách  kinh  tế  nhiều  thành  phần 

trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.  

     Nhìn chung thời kỳ 1975-1985 là thời kỳ sử dụng mô hình kinh tế cũ mà đặc 

trưng là: cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các thành phần kinh tế phi XHCN 

sớm bị xoá bỏ ở mức cao và mở rộng trong phạm vi cả nước.Những nhược điểm 

và khuyết điểm của mô hình đó đã trở thành sức cản lớn đối với sự phát triển 

kinh tế - xã hội, dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Song, cũng 

chính từ thực tiễn khó khăn tưởng chừng khó vượt qua đó mà Đảng đã phát huy 

cao độ ý chí quyết tâm, tinh thần độc lập suy nghĩ tìm tòi sáng tạo để đề ra các 

giải pháp hữu hiệu. 

   Đại  hội  đại  biểu  toàn  quốc  lần  thứ  VI  (12.1986)  là  một  trong  các  mốc  quan 

trọng đánh dấu sự đổi mới căn bản trong nhận thức của Đảng ta về mô hình kinh 

tế mới: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại hội lần thứ VI đã phân tích 

sâu sắc những sai lầm khuyết điểm, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến những biểu 

hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay những thành phần kinh tế phi XHCN ,chúng ta 

'đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi 

xã hội chủ nghĩa .Về vai trò vai trò của các thành phần kinh tế  ' Trong nhận 

thức cũng như trong hành  động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế 

nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài 

10 

     Đảng chủ trương đổi mới toàn diện và sâu sắc để đi tới chủ nghĩa xã hội một 

cách vững chắc.Trọng tâm là đổi mới kinh tế, mà trước hết là đổi mới tư duy 

kinh tế. Điều quan trọng là phải nhận thức tính toán lại hình  thức bước đi của 

quá trình cải tạo chủ nghĩa , làm sao để phát huy sức mạnh của các thành phần 

kinh tế trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh và thực hiện mục tiêu đi 

lên chủ nghĩa xã hội . Từ tổng kết sâu sắc thực tiễn quá trình cải tạo xã hội chủ 

nghĩa đối với các thành phần kinh tế , Đai hội VI khẳng định: 'Muốn phát triển 

mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đi đôi với việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu 

đầu tư theo ngành và theo vùng, phải xác định đúng cơ cấu thành phần kinh tế

Đảng ta cho rằng, chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế 

cho phép các hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp trong 

từng khâu của quá trình sản xuất và lu thông phát triển, nhằm khai thác mọi khả 

năng của các thành phần kinh tế , trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ 

đạo. Giải  pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm 

của Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là 

một đặc trng của thời kỳ quá độ. Đại hội VI xác định các thành phần đó là: 

  Kinh tế XHCN bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ 

phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó. 

Các thành phần kinh tế khác (thực chất là phi XHCN) gồm: 

Kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những ngời buôn 

bán và kinh doanh dịch vụ cá thể). 

Kinh tế tư bản tư nhân. 

Kinh  tế  tư  bản  Nhà  nước  dưới  nhiều  hình  thức  mà  cao  nhất  là  công  tư  hợp 

doanh.  

Kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở 

Tây Nguyên và các vùng núi cao khác. 

 Đến  Hội  nghị  lần  thứ  6  Ban  chấp  hành  Trung  ương  khoá  VI  (1989),  Đảng  ta 

chủ trương phát triển đan xen nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết các hình thức sở 

hữu, kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo. Hội nghị đã khẳng định: chính sách 

11 

cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, là 

vấn đề có tính quy luật để đi từ sản xuất nhỏ lên CNXH, là thể hiện tinh thần 

dân chủ về kinh tế, bảo đảm cho người dân được tự do làm ăn theo pháp luật. 

Song, thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần theo tinh thần của Nghị quyết Đại 

hội lần thứ VI không có nghĩa là thừa nhận các thành phần kinh tế đó có vị trí 

ngang  nhau,  có  tác  dụng  như  nhau  và  không  có  sự  biến  đổi  chuyển  hoá.  Cần 

thấy  rõ  rằng  các  thành  phần  kinh  tế  này  phải  hợp  với  nhau  thành  một  cơ  cấu 

thống nhất trong nền kinh tế quốc dân và tất cả chỉ được phát triển theo một quỹ 

đạo:  con  đường  XHCN.  Đảng  chủ  trương  sử  dụng  các  thành  phần  kinh  tế  để 

phát triển sản xuất, nhưng phải có chính sách và pháp luật, dựa vào sức mạnh 

của kinh tế XHCN để kiểm soát và chi phối các thành phần kinh tế theo phương 

châm 'sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn' . 

Thái độ đối với các thành phần kinh tế, Đảng ta luôn chủ trương 'các thành phần 

kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, được khuyến khích phát triển vì  mục tiêu 

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh'. 

  Có thể khẳng định, tiếp thu những quan điểm của Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 

về  phát  triển  nền  kinh  tế  nhiều  thành  phần  trong  thời  kỳ  quá  độ  lên  CNXH, 

Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sự phát triển tất yếu của kinh tế nhiều thành 

phần,  đồng  thời  kiên  trì  thực  hiện  đường  lối  phát  triển  nền  kinh  tế  thị  trường 

nhiều thành phần định hướng XHCN. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác 

Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, phản ánh đúng thực trạng vận động 

của nền kinh tế Việt Nam. 

   Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6.1991) của Đảng ta đã khẳng định đ-

ường lối đổi mới đúng đắn do Đại hội VI (12.1986) đề ra và nhấn mạnh cần thiết 

phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Cương lĩnh xây 

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH thông qua tại Đại hội đại biểu 

toàn quốc lần thứ VII (1991) nêu rõ nền kinh tế nước ta có 5 thành phần. Đó là: 

Kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo. 

Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. 

12 

Kinh tế cá thể có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đờng làm ăn hợp 

tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. 

Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh 

do pháp luật quy định. 

Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức.  

    Đại hội VIII (6.1996) của Đảng  đã xác định nền kinh tế nước ta có 5 thành 

phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước, 

kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. 

  Quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tiếp tục được Đảng ta khẳng 

định và phát triển trong Đai hội IX của Đảng: ' Thực hiện nhất quán chính sách 

phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo 

pháp luật đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã 

hội chủ nghĩa , cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh'  

 Theo đó, nền kinh tế ở nước ta bao gồm 6 thành phần , trật tự sắp xếp các thành 

phần cũng có sự thay đổi , đó là: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể ( thay cho 

kinh tế hợp tác trước đây) với nhiều hình thức đa dạng , trong đó nòng cốt là 

kinh tế hợp tác xã ; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản 

nhà nước , kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài  

   Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  X diễn ra trong thời điểm có ý nghĩa cực kỳ 

quan trọng. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo  đã 

trải  qua  20  năm  .  Nhìn  lại  20  năm  đổi  mới,  Đại  hội  đã  kiểm  điểm  ,  đánh  giá 

khách quan toàn diện những thành tựu và yếu kém; đồng thời rút ra những bài 

học kinh nghiệm,  trên  cơ sở   đó  , tiếp  tục  phát triển và hoàn thiện đường  lối, 

quan điểm , định ra phuơng hướng mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong 

thời gian tới. Về chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đại hội X tiếp tục khẳng 

định trên cơ sở ba chế độ sở hữu( toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều 

hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân( 

cá thể ,tiểu chủ, tư bản tư nhân) , kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư 

nước ngoài . Đại hội  nhấn mạnh :' các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp 

13 

luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng 

xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài hợp tác và 

cạnh tranh lành mạnh 

 
1.1.5. Thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử 
 
         Vận dụng lý luận của Lênin vào hoàn cảnh của Việt Nam Đảng ta đã xác 
định: thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây 
dựng CNXH dù điểm xuất phát ở trình độ cao hay thấp - vì vậy thời kỳ quá độ 
lên CNXH ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử, bởi vì: 
- Một là: Phát triển theo con đường XHCN là phù hợp với quy luật khách quan 
của lịch sử: Loài người đã phát triển qua 5 hình thái kinh tế xã hội, sự biến đổi 
đó là một quá trình lịch sử tự nhiên, đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải 
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 
- Hai là: Phát triển theo con đường CNXH không chỉ phù hợp với xu thế của 
thời đại mà còn phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam  

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro