hai đứa trẻ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

              Đi ngược với dòng văn học hiện thực lột tả cuộc sống con người một cách trần trụi Thạch Lam chính là tác giả tiêu biểu cho dòng văn học lãng mạng với những tác phẩm thấm đẫm chất trữ tình song cũng len lỏi một chút gì đó nhẹ nhàng của hiện thực. Tiêu biểu là tác phẩm " hai đứa trẻ". một truyện ngắn cảm động có những điểm gần gũi với cuộc đời thơ ấu của tác giả trong những năm ở phố huyện Cẩm Giang. Nổi bật trong tác phẩm chính là cái hình bóng người chị tên Liên đã để lại trong lòng độc giả nhiều xúc cảm không thôi.

              Bức tranh phố huyện trong tác phẩm hiện lên trải dài trong khoảng thời gian từ chập tối đến tận giữa đêm, trong đó người ta vẫn ấn tượng nhất vẫn là cái cách mà Thạch Lam miêu tả về phố huyện lúc chiều tàn nơi tỉnh lẻ, lãng mạn, nên thơ và mang trong mình một nỗi buồn man mác. Trong bức tranh tàn tạ của kiếp người nơi phố huyện, tác giả đã chọn Liên là nhân vật làm nhân vật chính. Một cô bé còn trong tuổi đáng lẽ phải vô ưu vô lo nhưng có lẽ vì sống trong nghèo khổ và công việc mưu sinh từ tấm bé, thành thử ra ở chị luôn có sự trưởng thành trước tuổi và đặc biệt là một tâm hồn nhạy cảm, yêu thương con người vô cùng ấn tượng. Sự nhạy cảm tinh tế của Liên đã hiện lên từ những dòng đầu của tác phẩm với cái hình ảnh "đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị" cái cách chị nhìn nhận về cảnh chiều tàn nơi phố huyện khiến chị trở nên khác biệt. Bởi lẽ rằng với một đứa bé 9 10 tuổi, thì nỗi buồn, nỗi ảm đạm của quê hương có lẽ là một cái gì đó mơ hồ lắm, thậm chí có khi còn chẳng nhận ra được, nhưng Liên thì khác chị suy tư và thấm thía cái nỗi buồn của thiên nhiên, để nó thấm đẫm vào tâm hồn mình, để lại trong tâm hồn non nớt của chi những nỗi niềm suy tư man mác. Sự tinh tế, nhạy cảm của Liên còn thể hiện ở cảm nhận của chị về cái mùi riêng của đất quê hương "một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đó là mùi riêng của đất, của quê hương này". Đó rõ ràng không phải là một mùi gì thơm tho dễ chịu gì cho cam, mà lại là một cái mùi ngai ngái, âm ẩm xộc thẳng vào mũi khiến người ta khó chịu, bức bối. Nhưng đối với Liên, thì đó lại là mùi đặc trưng của của quê hương, mà chị cảm thấy thân thiết, yêu thương và gắn bó vô cùng. Không chỉ tinh tế ở cảm nhận và sự tinh tế nhạy cảm của Liên còn thể hiện trong cái cách chị quan tâm và yêu thương người khác. Liên động lòng thương những mảnh đời cơ cực, đó chính là hình ảnh của "những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại lang thang trên mặt đất nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay những gì còn sót lại của mấy người bán hàng". Hình ảnh đó như xoáy sâu vào lòng trắc ẩn của cô bé tám tuổi giàu lòng nhân ái. Liên thấy thương những đứa trẻ nghèo nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng nó. Hay là sự thương cảm cho mẹ con chị Tí với cuộc sống mưu sinh vất vả ngày mò cua bắt ốc, đêm lại bán hàng Đêm lại bán hàng rong, với số khách lưa thưa, ít ỏi, sống cuộc đời lay lắt, ảm đạm. Rồi hình ảnh bà cụ Thi điên, nghiện rượu với tràng cười ghê rợn ám ảnh, khiến người ta dễ liên tưởng đến cuộc đời đầy sóng gió đau thương của người phụ nữ khốn khổ này, có lẽ bà là người hiếm hoi có thể bật lên nụ cười trong cuộc sống cùng cực bất hạnh ấy, nhưng nụ cưới đó lại là cái gì đó điên loạn, bất cần đến e dè đáng sợ. 

         Bức tranh thiên nhiên được ở đầu bằng tiếng trống thu không "từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều", chậm rãi, kéo dài, uể oải, như nhấn sâu vào lòng người, bên cạnh đó là những tiếng "tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng", tiếng "muỗi bắt đầu vo ve" và cả tiếng chõng tre kêu cót két. Như vậy có thể thấy rằng buổi chiều nơi phố huyện là sự hiện diện của những kiểu âm thanh thưa thớt, chậm rãi, rời rạc, mang đến cảm tưởng về một nơi phố huyện vừa nhỏ bé, ảm đạm, lại còn nghèo khó, tối tăm, và nặng u buồn, mệt mỏi. Ta sẽ lại càng thấy rõ cảnh ngày tàn thông qua những gam màu mà Thạch Lam đã tinh tế đưa vào "Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn", đó là thứ màu đỏ, màu hồng rực rỡ. Những tưởng sẽ đem đến một cái gì đó tươi vui, thế nhưng trong Hai đứa trẻ, nó lại là những dấu hiệu rõ rệt của ngày tàn, là sự bừng lên rực rỡ của ánh mặt trời cuối cùng trong ngày, là cái ánh sáng duy nhất còn sót lại trước khi màn đêm buông xuống. Hình ảnh hoàng hôn ấy tuy đẹp, tuy lãng mạn như một bức tranh của người nghệ sĩ đa tài nhưng lại nhuốm những màu buồn man mác về sự kết thúc, để vào hồn người sự tiếc nuối xa xăm. Và người ta có lẽ càng ấn tượng hơn với đường nét ngày tàn mà Thạch Lam đã vẽ ra đó là "dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời". Một hình ảnh khiến độc giả nhận thức rõ rệt được cái giây phút chuyển giao giữa ngày và đêm khi mà trên cái nền trời xanh thẳm còn hơi sang sáng bởi ánh mặt trời chưa tắt hẳn lại in trên đó bóng lũy tre già sắc nét, tựa như một bức tranh thủy mặc ảm đạm, yên ắng vô cùng. Qua góc nhìn của hai đứa trẻ ấy vậy mà thiên nhiên lại mang một góc nhìn vắng lặng đến buồn thảm. Đủ thấy cái nghèo khó lam lũ đã bào mòn đôi mắt tâm hồn ngây thơ của những  cảnh đời bất hạnh, nghèo khốn đến mức độ nào.  

               Trong cảm nhận của Liên, bóng tối thật ghê ghớm "Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa". Bóng tối là hiện thân của sự tù túng ngột ngạt, bế tắc không lối thoát. Đó là bóng tối của sự đói nghèo, lam lũ. Là hình ảnh đất nước ta trước năm 1945 đầy nước mắt:

Cha ông ta từng đấm nát bàn tay trước cánh cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng mà đời im ỉm khóa
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi

Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập để miêu tả bóng tối và ánh sáng. Nếu như bóng tối nuốt chửng tất cả phố huyện vào trong cái dạ dày tối thui của nó thì ánh sáng xuất hiện với tần số thấp. Đó chỉ là "hột sáng", "khe ánh sáng", "đốm sáng", "vệt sáng"... tất cả đều hiện lên thật bé nhỏ tội nghiệp " mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối". Và cùng với ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó là những phận người với cuộc sống bấp bênh, trôi nổi và lụi tàn, le lói như ngọn đèn trước gió. Liên thương hết thảy những con người nơi phố huyện nhỏ bé này. Giữa cái bóng đêm mịt mùng, người ta thấy hiện lên những kiếp người tàn, hình ảnh vợ chồng bác Xẩm với tiếng đàn bầu bần bật, thiểu não, đứa con nhỏ bò cả ra đất nghịch những rác rưởi bẩn thỉu, thấy mà xót xa. Mẹ con chị Tí chán chường phẩy ruồi bên gánh hàng nước, ế ẩm và ảm đạm. Gánh phở bác Siêu nghi ngút khói, nhưng cũng ế khác, bởi đó là thứ quà sang, không hề hợp với nơi phố thị nghèo nàn. Còn chị em Liên từ sáng đến tối muộn mãi chôn chân trên cái chõng tre mục nát, không được sống một cuộc đời vui chơi thoải mái như bao đứa trẻ khác mà đã sớm phải tất bật mưu sinh vì mấy đồng tiền lẻ khi bán được bánh xà phòng, cút rượu bé tí,...Cuộc sống phố huyện là như vậy. Đơn điệu, tẻ nhạt. Đêm nào cũng như đêm nào, cứ lặp đi lặp lại:

Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện

         Nhưng có một điều thú vị rằng trong cái không gian tăm tối, bi ai ấy chí ít người ta vẫn còn thấy được sự hiện diện của ánh sáng trong tâm hồn con người khi "chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ", đó là mong ước là hy vọng về một cuộc đời tươi sáng tốt đẹp hơn, là ước mơ thoát ra khỏi cái ảnh bế tắc, tối tăm dẫu rằng nó còn rất mơ hồ và xa xăm.

          Điều gì có thể làm chị em Liên quên đi được thực tại này ? May ra chỉ có vũ trụ là cơ hội cuối cùng để ru hai chị em vào những miền cổ tích. Cảnh hai chị em ngẩng mặt lên trời tìm con vịt theo sau ông thần nông cho thấy: tâm hồn hai đứa trẻ thật hồn nhiên, vô tư trong sáng và rất đỗi trẻ con. Nhưng buồn thay, bầu trời đầy sao trên kia cũng không thể nào cứu vớt được hai sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp ấy. Bởi "vũ trụ bao la và thăm thẳm như chứa đầy bí mật và xa lạ với hai đứa trẻ". Để rồi cuối cùng chính chúng lại quay về với quang cảnh phố chung quanh mà đặc biệt là ngọn đèn con của chị Tý. Và cứ thế trong đêm tối những con người tội nghiệp ngồi chờ đợi một điều gì đó cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.

Sau bức tranh phố huyện ở hai thời điểm chiều tàn và đêm tối thì sự xuất hiện của đoàn tàu đêm đã đem đến cho phố huyện một viễn ảnh khác hẳn, là điểm nhấn thể hiện những giá trị tư tưởng mà Thạch Lam muốn truyền tải. Có lẽ người ta thấy ấn tượng với cái cảnh những con người nơi phố huyện cố nén mệt mỏi để trông mong chuyến tàu đêm, chuyến tàu mỗi ngày đều có một lần. Thế nhưng có ai biết rằng chuyến tàu ấy vô cùng có ý nghĩa với những con người nơi đây bởi "con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua", mang một cái gì đó khác lắm, có lẽ là ánh sáng, sự phấn khởi, là tượng trưng cho niềm hy vọng le lói trong trái tim mỗi con người. Thế nên khi có những dấu hiệu đầu tiền của đoàn tàu bác Siêu đã nhanh nhạy reo lên một cách sung sướng: "Kìa đèn ghi đã ra kia rồi" để thức tỉnh mọi người, đoàn tàu xuất hiện phía xa xa với hình ảnh "một làn khói trắng bừng sáng lên từ đằng xa". Chị em Liên đều đứng dậy khỏi chõng để kịp chiêm ngưỡng dáng vẻ của con tàu, với niềm háo hức và say mê khôn cùng, mà đối với An nó như một món đồ chơi, còn đối với Liên thì đoàn tàu đã mang về cho chị những ký ức xa xăm tươi đẹp khi còn ở thủ đô. Đoàn tàu xuất hiện với những âm thanh vang dội, mạnh mẽ "tiếng dồn dập, rít mạnh vào ghi", "tiếng hành khách ồn ào khe khẽ", "tiếng còi rít lên và tàu rầm rộ đi tới" khác hẳn với những âm thanh yếu ớt, chậm rãi và thiểu não nơi phố huyện. Thứ ánh sáng mà đoàn tàu mang tới cũng khác hẳn "toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường... đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng" đối lập hoàn toàn với thứ ánh sáng từ mù từng hột, từng vệt, nhạt nhòa nơi phố huyện. Thêm vào đó nhưng chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát của con tàu cũng đem đến một không khí khác hẳn, rộn ràng náo nhiệt "tàu rầm rộ đi tới", "đoàn xe vụt qua" làm lu mờ đi cái chuyển động khe khẽ, từ từ, rời rạc của nơi tỉnh lẻ tối tăm, bế tắc. Đoàn tàu ấy từ Hà Nội về, nó đã mang đến cho Liên những cảm xúc khó tả, bởi đoàn tàu là biểu trưng của sự sung túc giàu có, làm chị nhớ về những ngày mình còn ở Hà Nội, thầy còn nhiều tiền, được hưởng cuộc sống ấm êm, được nếm những thức quà ngon, được thỏa sức vui chơi, là thế giới mà Liên và cả những con người nơi đây đều khát khao mơ tưởng. Sự mong mỏi của chị em Liên với đoàn tàu quả thật đã làm người đọc xúc động mãnh liệt. Mới bảy, tám tuổi mà mẹ bắt trông coi cửa hàng tạp hóa đã là việc làm quá sức lại còn bắt thức cho tới khuya để chờ bán hàng thì quả là tội nghiệp. Nhưng Liên và An thức tới khi đoàn tàu đi qua phố huyện không phải là nghe lời mẹ mà là chúng đang hành động theo tiếng gọi của con tàu. "Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!". Đó là câu nói của An khi mí mắt đã sụp xuống trong cơn buồn ngủ rồi mà vẫn còn dặn với chị. Câu nói bình thường thế mà sao mới nghe qua đã thấy xót thương. Nó chứa đựng trong đó là tất cả niềm khát khao và hi vọng được nhìn thấy đoàn tàu – hoạt động cuối cùng của đêm khuya. An đi vào giấc ngủ, Liên ngồi im lặng, đầu óc chị bỗng dưng cũng yên tĩnh lạ thường. Yên lặng đến nỗi có thể nghe được "hoa bàng rụng xuống vai Liên từng đợt một, có những cảm giác mơ hồ không hiểu". Dường như nhà văn muốn cho nhân vật của mình được nghỉ ngơi sau một ngày dài mỏi mệt. Thế rồi thoáng trong tiếng gió xa xôi là tiếng đoàn tàu vụt đến. Rồi tiếng reo thảng thốt, mừng rỡ của bác Siêu "Đèn ghi đã ra kia rồi!". Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Đó là lúc mà Liên vội vã đánh thức em " dậy đi An, tàu đến rồi!". Lời giục dã gấp rút, hối thúc như thể nếu An không dậy thì sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy đoàn tàu nữa. Thạch Lam không dùng từ ngữ nào để miêu tả sự háo hức của hai chị em mà cái háo hức ấy vẫn cứ hiện lên thật sống động và giàu chất nhân văn.

            Hai chị em đứng chờ đoàn tàu từ đằng xa. Chúng có dịp chiêm ngưỡng cái kẻ đã làm chúng đợi chờ ấy bằng cách đứng gần hơn nữa. Và rồi "tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua". Đây là phút giây hạnh phúc nhất là lúc mà Liên và An dường như quên hết thảy những nỗi buồn hiện tại, quên cả những đói nghèo lam lũ, ê chề đang bao vây cuộc đời họ. Trong lòng họ giờ đây chỉ có đoàn tàu. Đoàn tàu mang thứ ánh sáng mạnh mẽ, khác thường ngang qua phố huyện "các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường... những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng". Đó là ánh sáng của sự sang trọng, văn minh, thứ ánh sáng khác xa với những ánh sáng yếu ớt, nhỏ bé nơi phố huyện. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng rạch ngang qua bầu trời phố huyện rồi mất hút vào đêm tối nhưng cái ánh sáng của nó là ước mơ và khát vọng của biết bao nhiêu số phận con người bé nhỏ đang mong ngóng. Đoàn tàu mang một thế giới khác đi qua, chính là khát vọng muốn được đổi đời của họ. Họ gửi theo chuyến tàu cả tâm hồn của mình, họ muốn được đến với những chân trời mới, nơi đó có ánh sáng của văn minh của no đủ. Nơi đó sẽ không còn cảnh đói nghèo lam lũ, không có cảnh đơn điệu và buồn tẻ mà ăm ắp niềm vui. Họ xứng đáng được nhận một cuộc sống như thế, tại sao không? Nhưng ước mơ chỉ là ước mơ. Tất cả lại quay về với quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn con chị Tý. Chấm hết cho một đêm đợi chờ trong khát vọng và kết thúc bằng nỗi buồn rưng rưng nước mắt.

               Liên và An đứng lặng người trong bóng tối dù chuyến tàu đã "đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre". Sự nuối tiếc của họ dường như đã phơi bày tất cả một cuộc sống nghèo nàn, bế tắc. Nhất là khi họ tự nhận thức rằng " Tàu đêm nay không đông và dường như kém sáng hơn ". Nghĩa là đoàn tàu cũng chỉ xoa dịu một chút nỗi đau trong tâm hồn hai đứa trẻ chứ không thể nào phá vỡ bức tường thành mang tên "nỗi buồn" của chúng. Và Liên lặng người đi trong suy tưởng, đằng sau ánh sáng của đoàn tàu và tiếng động cơ gầm vang đó là một thế giới rất riêng tư. Đó chính là nỗi nhớ về Hà Nội nơi có ánh sáng của những ngọn đèn, nơi vui vẻ và huyên náo. Nơi đó là vùng sáng trong tâm tưởng và cũng là vầng sáng trong ký ức tuổi thơ. Nơi mà ngày xưa chị em Liên được đi chơi bờ Hồ, được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ký ức tươi đẹp thế nhưng giờ họ lại bị cầm tù giữa biết bao nhiêu là buồn bã. Chính đoàn tàu đã mang lại cho Liên liều thuốc an thần và khơi dậy trong tiềm thức biết bao điều tươi đẹp. Cuộc sống ấy thực sự khác xa với cuộc sống ở nơi này nhiều lắm nhưng biết làm sao được khi ký ức không thể trở về. " Một quá khứ huy hoàng. Một hiện tại mong manh. Một tương lai mù mịt". Đáng buồn thay!

            Cuối cùng Liên cũng đi vào giấc ngủ, một giấc ngủ chập chờn hình ảnh ngọn đèn con của chị Tý . Một giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối. Đó chính là một sự ám ảnh về cuộc sống bế tắc, tù đọng không lối thoát mà biết đến bao giờ chị em Liên mới có thể đổi thay.

           Có thế mới thấy được rằng, đọc văn Thạch Lam mới đầu tác giả chỉ viết khơi khơi, kể về những điều quá đỗi vụn vặt, nhỏ bé và tầm thường, thế nhưng đến khi đọc đến những dòng chữ cuối cùng ta mới thấm thía được cái dụng ý của nhà văn. Cái đẹp len lỏi khắp hang cùng ngõ tận, mà điều ông làm chính là khai thác nó để cho mọi người cùng được chiêm ngưỡng, nó lại giống như việc ông vẽ ra vẻ đẹp của cảnh ngày tàn, phác họa tâm hồn tinh tế và nhạy cảm của Liên và đi kèm theo đó là những giá trị nhân sinh vô cùng sâu sắc, để mọi độc giả đều phải suy ngẫm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hfujbg