Ham doi khu truc ham Nhat trong WW2 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đặt hàng:1917

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Mitsubishi-Nagasaki

Đặt lườn: 7 tháng 1 năm 1918

Hạ thủy:7 tháng 1 năm 1919

Hoạt động: 6 tháng 3 năm 1920

Bị mất:Bị đánh chìm như một đê chắn sóng tại cảng Onahama, tỉnh Fukushima năm 1948

Xóa đăng bạ:15 tháng 9 năm 1945

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung.Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in).Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:148

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm,20 × mìn sâu

Sawakaze (tiếng Nhật: 澤風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương. Sawakaze hầu như chỉ đảm trách vai trò tuần tra, huấn luyện và tàu mục tiêu trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi Nhật Bản đầu hàng. Cuối cùng nó bị đánh chìm như một hàng rào đê chắn sóng tại lối ra vào cảng Onahama, tỉnh Fukushima vào năm 1948.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung. Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo.Sawakaze, chiếc thứ hai của lớp tàu này, được chế tạo tại xưởng đóng tàu Mitsubishi tại Nagasaki. Nó được đặt lườn vào ngày 7 tháng 1 năm 1918; được hạ thủy vào ngày 7 tháng 1 năm 1919; và được đưa ra hoạt động vào ngày 6 tháng 3 năm 1920.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Sawakaze được tập hợp cùng với các con tàu chị em Minekaze, Okikaze và Yakaze tại Quân khu Hải quân Sasebo để hình thành nên Hải đội Khu trục 2 trực thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Trong những năm 1930-1932, Hải đội Khu trục 2 được chuyển sang Không Hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong thành phần hộ tống cho tàu sân bay Akagi, để trợ giúp vào việc tìm kiếm và giải cứu những máy bay lâm nạn.Vào lúc xảy ra Sự kiện Thượng Hải năm 1932, Sawakaze tham gia tuần tra dọc theo sông Dương Tử tại Trung Quốc. Từ năm 1935 đến tháng 12 năm 1938, Sawakaze được phân về Căn cứ Không lực Hải quân Tateyama như một tàu tìm kiếm và cứu nạn, và được dự định để cho nghỉ hưu vào cuối năm 1938; tuy nhiên cùng với việc cuộc Chiến tranh Trung-Nhật ngày càng leo thang, nó được giữ lại trong thành phần chiến đấu thường trực, và được phân về Quân khu Hải quân Yokosuka. Nó tiếp tục đặt căn cứ tại Tateyama cho đến tháng 3 năm 1942.Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Sawakaze vẫn còn đặt căn cứ tại Tateyama. Nó được điều về Yokosuka từ tháng 3 năm 1942 và được phân công tuần tra chống tàu ngầm tại lối ra vào vịnh Tokyo trong suốt gần hết thời gian chiến tranh, chỉ thỉnh thoảng hộ tống các đoàn tàu vận tải dọc theo bờ biển Nhật Bản đến Muroran thuộc Hokkaidō hay Kobe.[4] Từ tháng 12 năm 1944, nó được rút khỏi nhiệm vụ chiến đấu thường trực và đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện cho Trường Chiến tranh Chống tàu ngầm Yokosuka. Trong đợt tái trang bị sau cùng vào tháng 2 năm 1945, Sawakaze được bổ sung radar Kiểu 22, bốn pháo phòng không 25 mm Kiểu 96, một bệ phóng rocket 15 cm chín nòng và 36 mìn sâu. Mọi ống phóng ngư lôi và ba tháp pháo chính phía trước đều được tháo bỏ.Từ tháng 5 năm 1945, Sawakaze phục vụ như một tàu mục tiêu cho việc huấn luyện những chuyến bay tấn công tự sát của một đơn vị kamikaze: Không đoàn Không quân Tokko 1. Sawakaze đang ở tại Yokosuka vào lúc Nhật Bản đầu hàng. Nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 9 năm 1945. Cuối cùng nó bị đánh chìm như một hàng rào đê chắn sóng tại lối ra vào cảng Onahama thuộc tỉnh Fukushima vào năm 1948.

Đặt hàng:1918

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Maizuru

Đặt lườn:5 tháng 9 năm 1919

Hạ thủy:31 tháng 3 năm 1920

Hoạt động: 15 tháng 11 năm 1920

Xếp lại lớp: Chuyển thành Tàu tuần tra số 1, tháng 4 năm 1940

Bị mất:Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm gần Kavieng, New Ireland, ngày 12 tháng 1 năm 1943

Xóa đăng bạ:10 tháng 2 năm 1943

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chungMạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tàu tuần tra: 2 × nồi hơi; công suất 19.250 mã lực (14,3 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tàu tuần tra: 37 km/h (20 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:148

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)2 × súng máy 7,7 mm,20 × mìn sâu,

Tàu tuần tra: 2 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber,12 × pháo phòng không 25 mm Kiểu 96,18 × mìn sâu

Shimakaze (tiếng Nhật: 島風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương, Shimakaze được xếp lại lớp như một tàu tuần tra vào năm 1940, và chỉ đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống cho đến khi bị tàu ngầm Mỹ USS Guardfish đánh chìm gần Kavieng, New Ireland vào ngày 12 tháng 1 năm 1943.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo. Shimakaze, chiếc thứ tư của lớp tàu này, được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 5 tháng 9 năm 1919; được hạ thủy vào ngày 31 tháng 3 năm 1920; và được đưa ra hoạt động vào ngày 15 tháng 11 năm 1920. Không nên nhầm lẫn nó với tàu khu trục thử nghiệm Shimakaze vào những năm 1940. Trong khi chạy thử máy vào lúc được đưa vào hoạt động, Shimakaze được ghi nhận đã đạt đến tốc độ tối đa 75,37 km/h (40,698 knot), đặt một kỷ lục mới cho các tàu khu trục Nhật Bản vào thời đó.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Shimakaze được phân về Quân khu Hải quân Yokosuka để hình thành nên Hải đội Khu trục 3 trực thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Vào ngày 11 tháng 10 năm 1928, tại eo biển Uraga, trong một cuộc cơ động huấn luyện ban đêm, Shimakaze đã va chạm với tàu khu trục Yūkaze làm hư hại đáng kể bên mạn trái, và buộc phải sửa chữa rộng rãi.Trong trận Thượng Hải ngày 25 tháng 9 năm 1937, trong khi tham gia các hoạt động chiến đấu trên sông Hoàng Phố, Shimakaze trúng phải hỏa lực của các đơn vị Quân đội Cách mạng Quốc gia của Quốc Dân Đảng, làm bị thương Tư lệnh Hải đội Khu trục 3, Thiếu tá Hải quân Hoàng tử Fushimi Hiroyoshi. Trong những năm 1938-1939, Shimakaze được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển Bắc và Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Đến tháng 12 năm 1938, Hải đội Khu trục 3 được giải thể và Shimakaze được đưa về lực lượng dự bị.

Như là Tàu tuần tra số 1

Vào tháng 4 năm 1940, sau khi được cải biến rộng rãi, Shimakaze quay trở lại hoạt động thường trực như một tàu tuần tra, và được đặt lại tên là Tàu tuần tra số 1 (tiếng Nhật: 第一哨戒艇, Dai-ichi Shokaitei). Các sự cải biến bao gồm giảm bớt số nồi hơi xuống còn hai khiến tốc độ tối đa của nó chỉ còn 37 km/h (20 knot); số lượng hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3 giảm từ bốn còn hai khẩu, và mọi ống phóng ngư lôi được tháo dỡ. Thay vào đó, nó được bổ sung bốn khẩu đội phòng không 25 mm Kiểu 96 ba nòng cùng 18 mìn sâu. Phía đuôi tàu có thể chở theo hai xuồng đổ bộ Toku Daihatsu, có khả năng cho đổ bộ 250 thủy quân lục chiến.Sau khi Chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra, Tàu tuần tra số 1 được phân công nhiệm vụ tuần tra và hộ tống các đoàn tàu vận tải tại khu vực Philippines, Đông Ấn thuộc Hà Lan và quần đảo Solomon. Vào ngày 12 tháng 1 năm 1943, trong khi đang hộ tống tàu chở dầu hạm đội Akebono tại quần đảo Bismarck, nó bị trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm Mỹ USS Guardfish và bị chìm gần Kavieng thuộc đảo New Ireland ở tọa độ 02°51′S 149°43′ETọa độ: 02°51′S 149°43′E.Tàu tuần tra số 1 được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 10 tháng 2 năm 1943.

Đặt hàng:1918

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Maizuru

Đặt lườn:15 tháng 5 năm 1920

Hạ thủy:22 tháng 10 năm 1920

Hoạt động: 29 tháng 7 năm 1921

Bị mất:Bị đánh chìm làm đê chắn sóng tại cảng Onahama, tỉnh Fukushima năm 1948

Xóa đăng bạ:5 tháng 10 năm 1945

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.215 tấn (tiêu chuẩn);1.345 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chungMạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước: 2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:154

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)2 × súng máy 7,7 mm,16 × mìn sâu

Shiokaze (tiếng Nhật: 汐風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương. Shiokaze tham gia một số trận đánh nhỏ trước khi quay về đảm trách vai trò tuần tra, vận tải và hộ tống cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Nó bị đánh chìm làm đê chắn sóng tại cảng Onahama, tỉnh Fukushima vào năm 1948

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo. Shiokaze, chiếc thứ tám của lớp tàu này, được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 15 tháng 5 năm 1920; được hạ thủy vào ngày 22 tháng 10 năm 1920; và được đưa ra hoạt động vào ngày 29 tháng 7 năm 1921.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Shiokaze được điều về Quân khu Hải quân Yokosuka thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Trong những năm 1938-1939, Shiokaze được phân công tuần tra tại khu vực phía Nam Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật.Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Shiokaze đang trong thành phần Hải đội Khu trục 3 thuộc Không hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản, đặt căn cứ tại Palau trong lực lượng hộ tống cho tàu sân bay Ryūjō tiến hành tấn công chiếm đóng Philippines.Từ đầu tháng 1 năm 1942, Shiokaze đặt căn cứ tại vịnh Cam Ranh tại Đông Dương hỗ trợ cho các cuộc tấn công chiếm đóng Sarawak, Palembang và Java. Vào ngày 2 tháng 3 năm 1942, nó hỗ trợ cho tàu khu trục Matsukaze trong việc đánh chìm tàu quét mìn Hà Lan Endeh; và đến cuối tháng 3 tham gia cùng với chiếc Ryūjō trong việc chiếm đóng quần đảo Andaman và cuộc không kích Ấn Độ Dương. Vào ngày 10 tháng 4 năm 1942, Shiokaze được phân về Hạm đội 5 Hải quân Đế quốc Nhật Bản và tham gia cuộc chiếm đóng quần đảo Aleut. Nó lại được điều quay trở về Hạm đội Khu vực Tây Nam vào tháng 8, hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Nhật Bản và Đài Loan. Sau khi được sửa chữa vào đầu năm 1943, Shiokaze làm nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Nhật Bản, Manila, Singapore và Palau, tiếp tục vai trò này cho đến cuối tháng 1 năm 1945. Nó bị hư hại nhẹ vào ngày 31 tháng 1 năm 1945 khi bị tấn công ở phía Nam Đài Loan trong khi tìm cách triệt thoái các đội bay khỏi Aparri trên đảo Luzon, và quay về Xưởng hải quân Kure để sửa chữa. Tuy nhiên, việc sửa chữa không bao giờ hoàn tất và Shiokaze vẫn còn ở trong ụ tàu tại Kure vào lúc Nhật Bản đầu hàng.Sau chiến tranh, nó được sử dụng để hồi hương binh lính Nhật còn trú đóng ở nước ngoài Ngày 5 tháng 10 năm 1945 Shiokaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân.Nó sau đó bị đánh chìm làm đê chắn sóng tại cảng Onahama, tỉnh Fukushima vào năm 1948.

Đặt hàng: 1918

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Maizuru

Đặt lườn:18 tháng 8 năm 1920

Hạ thủy:31 tháng 3 năm 1921

Hoạt động: 5 tháng 12 năm 1921

Bị mất:Bị đánh chìm tại Truk, ngày 18 tháng 2 năm 1944

Xóa đăng bạ:31 tháng 3 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung.Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:154

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm,16 × mìn sâu,

Tachikaze (tiếng Nhật: 太刀風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương, Tachikaze chỉ đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống cho đến khi bị đánh chìm tại Truk, ngày 18 tháng 2 năm 1944.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo. Tachikaze, chiếc thứ mười một của lớp tàu này, được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 18 tháng 8 năm 1920; được hạ thủy vào ngày 31 tháng 3 năm 1921; và được đưa ra hoạt động vào ngày 5 tháng 12 năm 1921.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Tachikaze được điều về Quân khu Hải quân Yokosuka thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tại đây, nó cùng với các tàu khu trục chị em Hakaze, Akikaze và Hokaze được tập trung để hình thành nên Đội Khu Trục 4 thuộc Hải đội Ngư lôi 1 (第1水雷戦隊). Trong những năm 1938-1939, hải đội này được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển miền Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Tachikaze còn hoạt động như đơn vị biệt phái hỗ trợ cho cuộc Chiếm đóng Đông Dương thuộc Pháp vào năm 1940.Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, Tachikaze đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống các đoàn tàu vận tải.Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Tachikaze đang được phân về Hải đội Khu Trục 34 trực thuộc Không Hạm đội 11 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, đặt căn cứ tại Takao, hỗ trợ việc tìm kiếm cứu hộ trên biển cho chiến dịch chiếm đóng Philippines, cũng như hộ tống các đoàn tàu vận tải đến Davao và Balikpapan tại Đông Ấn thuộc Hà Lan.Từ ngày 27 tháng 2 đến cuối tháng 3 năm 1942, Tachikaze đặt căn cứ tại Staring-baai, hộ tống các tàu bè giữa Sulawesi và Singapore. Nó đã hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng quần đảo Andaman trong tháng 4, rồi quay trở về xưởng hải quân Maizuru để sửa chữa vào cuối tháng. Từ tháng 6 cho đến cuối năm 1942, Tachikaze đặt căn cứ ngoài khơi đảo san hô Jaluit hoặc Rabaul, hộ tống các tàu vận tải trong khu vực quần đảo Marshall và quần đảo Solomon. Nó bị hư hại nặng trong một cuộc không kích vào ngày 27 tháng 12 tại Rabaul, trong đó Thuyền trưởng của nó, Thiếu tá Hải quân Yasumi Hirasata thiệt mạng. Vào đầu năm 1943, sau khi được chiếc Yamabiko Maru sửa chữa khẩn cấp, Tachikaze quay trở về Maizuru, nơi công việc sửa chữa nó hoàn tất vào ngày 10 tháng 3. Tachikaze quay trở lại Rabaul tiếp nối nhiệm vụ tuần tra. Nó bị hư hại nhẹ trong một cuộc không kích lên Wewak vào ngày 15 tháng 4; nên bị buộc phải quay trở về Maizuru một lần nữa vào tháng 5 để sửa chữa, và ở lại đây cho đến tháng 9. Từ tháng 10 cho đến cuối năm, Tachikaze đặt căn cứ ngoài khơi Truk, thực hiện các chuyến tuần tra trải rộng từ Palau cho đến Rabaul. Vào ngày 4 tháng 2 năm 1944, Tachikaze bị mắc cạn tại đảo san hô Kuop trong vũng biển Truk trong khi quay trở về Rabaul, và bị mắc lại tại đây bất chất những nỗ lực nhằm giải cứu nó. Trong chiến dịch Hailstone mà Đồng Minh thực hiện trong các ngày năm 17-18 tháng 2, Tachikaze phải chịu đựng những đợt bắn phá nặng nề trước khi một quả ngư lôi đánh trúng phòng động cơ, khiến con tàu bị chìm với đuôi chìm trước ở tọa độ 07°03′N 151°56′ETọa độ: 07°03′N 151°56′E. Tachikaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 31 tháng 3 năm 1944.

Đặt hàng: 1917

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Mitsubishi-Nagasaki

Đặt lườn:15 tháng 8 năm 1918

Hạ thủy:20 tháng 4 năm 1920

Hoạt động: 19 tháng 7 năm 1920

Xếp lại lớp: 20 tháng 7 năm 1942 (như một tàu mục tiêu)

Ngừng hoạt động:15 tháng 8 năm 1945

Bị mất:Bị đánh chìm như một đê chắn sóng tại cảng Nagaura, Yokosuka, năm 1948

Xóa đăng bạ:31 tháng 3 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung.Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tàu mục tiêu: 2 × nồi hơi,công suất 11.261 mã lực (8,4 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tàu mục tiêu: 44 km/h (24 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Tàu mục tiêu: 4.130 km (2.230 hải lý)

Quân số:148

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm,20 × mìn sâu,

Tàu mục tiêu: 8 × mìn sâu,4 × pháo phòng không 25 mm Kiểu 96

Yakaze (tiếng Nhật: 矢風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương. Yakaze chỉ được sử dụng trong vai trò tàu mục tiêu và tàu bảo vệ cho đến khi chiến tranh kết thúc. Nó bị đánh chìm như một đê chắn sóng tại cảng Nagaura, Yokosuka vào năm 1948.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo. Yakaze, chiếc thứ sáu của lớp tàu này, được chế tạo tại xưởng đóng tàu Mitsubishi tại Nagasaki. Nó được đặt lườn vào ngày 15 tháng 8 năm 1918; được hạ thủy vào ngày 20 tháng 4 năm 1920; và được đưa ra hoạt động vào ngày 19 tháng 7 năm 1920.[3]

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Yakaze được điều về Quân khu Hải quân Kure thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Vào năm 1931, Yakaze được tập hợp cùng với các con tàu chị em Minekaze, Okikaze và Sawakaze tại Quân khu Hải quân Sasebo để hình thành nên Hải đội Khu trục 2 trực thuộc Hạm đội 2. Trong những năm 1930-1932, Hải đội Khu trục 2 được chuyển sang Không Hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong thành phần hộ tống cho các tàu sân bay Akagi và Hōshō để trợ giúp vào việc tìm kiếm và giải cứu những máy bay lâm nạn. Vào lúc xảy ra Sự kiện Thượng Hải năm 1932, Yakaze tham gia tuần tra dọc theo sông Dương Tử tại Trung Quốc.Không lâu sau khi Chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra, Yakaze được rút khỏi hoạt động chiến đấu thường trực và được tháo bỏ hầu hết vũ khí tại Xưởng hải quân Kure để cải biến thành một tàu mục tiêu. Chiếc thiết giáp hạm kỳ cựu Settsu vốn được sử dụng trong vai trò này, vốn chậm chạp và đã hết tuổi đời phục vụ. Nó được thay thế để phục vụ như một mục tiêu thực tập tấn công bằng ngư lôi và không kích tại Yokosuka từ ngày 20 tháng 5 năm 1942. Yakaze được chính thức rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân như một tàu khu trục kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1942.Mặc dù Yakaze có ưu thế rõ rệt về tốc độ so với Settsu, nó không thể nào bì kịp chiếc thiết giáp hạm về phương diện vỏ giáp, và chỉ chịu đựng được một cú đánh trúng trực tiếp bằng bom thực hành nặng có 0,45 kg (1 lb).Hải quân Nhật cân nhắc lại kế hoạch sử dụng Yakaze như là tàu mục tiêu, và đưa nó trở lại hoạt động thường trực như một tàu tuần tra vào ngày 6 tháng 3 năm 1943. Nó được sử dụng như một tàu bảo vệ tại cảng Yokosuka cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc.Vào lúc Nhật Bản đầu hàng, Yakaze mắc cạn tại đáy cảng Yokosuka do bị hư hỏng và ngập nước. Sau chiến tranh, nó bị đánh chìm như một đê chắn sóng tại cảng Nagaura, Yokosuka vào năm 1948.

Đặt hàng: 1918

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze

Xưởng đóng tàu:Mitsubishi-Nagasaki

Đặt lườn:14 tháng 12 năm 1920

Hạ thủy:28 tháng 5 năm 1921

Hoạt động: 24 tháng 8 năm 1921

Bị mất:Bị Hải quân Hoàng gia Anh chiếm như chiến lợi phẩm năm 1947, bị tháo dỡ sau đó

Xóa đăng bạ:5 tháng 10 năm 1945

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung.Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:148

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm,20 × mìn sâu

Yūkaze (tiếng Nhật: 夕風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương. Yūkaze chỉ được sử dụng như là tàu hộ tống cho nó cho đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai, trước khi được giao cho Hải quân Hoàng gia Anh như một chiến lợi phẩm tại Singapore, và bị tháo dỡ.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.Được trang bị động cơ mạnh mẻ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo. Yūkaze, chiếc thứ mười của lớp tàu này, được chế tạo tại xưởng đóng tàu Mitsubishi tại Nagasaki. Nó được đặt lườn vào ngày 14 tháng 12 năm 1920; được hạ thủy vào ngày 28 tháng 5 năm 1921; và được đưa ra hoạt động vào ngày 24 tháng 8 năm 1921.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Yūkaze được phân về Quân khu Hải quân Yokosuka để hình thành nên Hải đội Khu trục 3 trực thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Vào ngày 11 tháng 10 năm 1928 tại eo biển Uraga, trong một buổi huấn luyện cơ động ban đêm, Yūkaze va chạm với tàu khu trục chị em Shimakaze, khiến hư hại đáng kể và phải được sửa chữa rộng rãi. Trong những năm 1938-1939, Nadakaze được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển miền Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật.Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Yūkaze nằm trong thành phần Hải đội Tàu sân bay 3 thuộc Hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản đặt căn cứ tại Quân khu Hải quân Kure như là lực lượng hộ tống cho chiếc tàu sân bay kỳ cựu Hōshō. Nó đã cùng với chiếc tàu sân bay tham gia trận Midway. Sau đó, Hōshō được sử dụng vào việchuấn luyện phi công hải quân, ở lại vùng biển Nội địa trong thành phần Hạm đội 3 Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và Yūkaze tiếp tục phục vụ như là tàu hộ tống cho nó cho đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai.[5] Yūkaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 5 tháng 10 năm 1945.[3] Nó được sử dụng trong việc hồi hương binh lính Nhật trú đóng tại nước ngoài từ tháng 10 năm 1945 cho đến tháng 8 năm 1947, khi nó được giao cho Hải quân Hoàng gia Anh như một chiến lợi phẩm tại Singapore, nơi nó bị tháo dỡ.

Đặt hàng: 1918

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze cải tiến

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Maizuru

Đặt lườn:7 tháng 11 năm 1921

Hạ thủy:24 tháng 6 năm 1922

Hoạt động: 11 tháng 11 năm 1922

Xếp lại lớp: Cải biến thành tàu chở ngư lôi cảm tử kaiten, 1 tháng 2 năm 1945

Bị mất:Bị Trung Hoa Dân Quốc chiếm như chiến lợi phẩm

Xóa đăng bạ:5 tháng 10 năm 1945

Mang cờ:Hải quân Trung Hoa Dân Quốc

Tên:ROCS Shen Yang

Sở hữu:3 tháng 10 năm 1947

Bị mất:Bị tháo dỡ năm 1960

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung.Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:148

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3, × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)2 × súng máy 7,7 mm,16 × mìn sâu

Namikaze (tiếng Nhật: 波風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ hai trong lớp phụ Nokaze bao gồm ba chiếc được cải tiến dựa trên lớp Minekaze. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương, Namikaze hầu như chỉ đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống cho đến khi được cải biến thành tàu chở ngư lôi cảm tử kaiten vào tháng 2 năm 1945. Nó sống sót qua cuộc chiến tranh, được trao cho Trung Hoa Dân Quốc như một chiến lợi phẩm vào năm 1947 và hoạt động cho Hải quân Trung Hoa Dân Quốc dưới tên gọi Shen Yang cho đến khi bị tháo dỡ vào năm 1960.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917 với chín chiếc, và năm tài chính 1918 với thêm sáu chiếc bổ sung. Tuy nhiên, ba chiếc cuối cùng trong năm tài chính 1918 được chế tạo với một thiết kế cải tiến có kiểu dáng bên ngoài khác biệt đến mức nhiều tác giả xếp chúng thành một lớp phụ riêng biệt. Namikaze, chiếc thứ hai trong lớp phụ Nokaze, được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 7 tháng 11 năm 1921; được hạ thủy vào ngày 24 tháng 6 năm 1922; và được đưa ra hoạt động vào ngày 11 tháng 11 năm 1922.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Namikaze được điều về Quân khu Hải quân Yokosuka, nơi nó cùng với các tàu khu trục chị em Nokaze, Numakaze và Kamikaze (soái hạm) được tập trung để hình thành nên Hải đội Khu trục 1 (第一駆逐艦). Trong những năm 1938-1939, hải đội này được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển Bắc và Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Namikaze đặt căn cứ tại Quân khu Bảo vệ Ōminato về phía Bắc Nhật Bản, đảm trách nhiệm vụ tuần tra vùng biển ngoài khơi đảo Hokkaidō và quần đảo Kurile.Trong khi diễn ra trận Midway vào tháng 5 năm 1942, Namikaze được phân về lực lượng dự trữ dành cho Chiến dịch quần đảo Aleut, nhưng đã không rời khỏi vùng biển nội địa Nhật Bản. Sau đó nó quay lại công tác tuần tra ngoài khơi Ōminato cho đến tháng 7 năm 1943, nơi mà khu vực tuần tra được mở rộng bao gồm hầu hết đảo Honshū về phía Nam đến tận vịnh Ise. Vào tháng 7, nó tạm thời được điều về Hạm đội 5 Hải quân Đế quốc Nhật Bản hỗ trợ cho việc triệt thoái lực lượng Nhật Bản khỏi Kiska, nhưng chỉ ở trong lực lượng dự bị. Nó bị hư hại nhẹ trong một vụ va chạm với tàu tuần tra duyên hải Manei Maru số 7 ở lối vào cảng Otaru, Hokkaidō vào ngày 6 tháng 11 năm 1943. Namikaze tiếp tục đặt căn cứ tại Ōminato đảm trách tuần tra và hộ tống vận tải tại vùng biển phía Bắc cho đến tháng 12 năm 1943. Vào ngày 1 tháng 12 năm 1943, Namikaze được điều đến Moji để hộ tống một đoàn tàu vận tải đi đến Đông Dương thuộc Pháp. Nó quay trở lại Ōminato tiếp tục vai trò tuần tra tại Hokkaidō và Kurile từ tháng 3 năm 1944. Vào ngày 21 tháng 8 năm 1944, Namikaze trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Mỹ USS Seal (SS-183) ở phía Bắc Iturup, làm hư hại nặng phần đuôi tàu, và phải được tàu khu trục Kamikaze kéo về Otaru để sửa chữa khẩn cấp.[7] Sau đó nó được gửi đến Xưởng hải quân Maizuru để được cải biến thành một tàu chở ngư lôi cảm tử có người lái kaiten.Công việc cải biến bao gồm việctháo dỡ ba trong số bốn tháp pháo chính cùng toàn bộ ống phóng ngư lôi. Nồi hơi thứ nhất cũng được tháo bỏ, giảm công suất động lực còn 25.000 mã lực(18,6 MW) và tốc độ tối đa còn 54,6 km/h (29,5 knot). Nó được bổ sung sáu khẩu pháo phòng không 25 mm Kiểu 96 và tám súng máy 13 mm phòng không. Đuôi tàu được cải biến với một sàn tàu dốc, và nó có thể mang theo từ hai đến bốn ngư lôi kaiten.Sau khi hoàn tất việc tái trang bị vào ngày 1 tháng 2 năm 1945, Namikaze được điều về Hạm đội Liên Hợp, nhưng không có ghi nhận nào về việc Namikaze từng phóng ngư lôi kaiten trong chiến đấu. Từ ngày 16 tháng 6 năm 1945, Namikaze đặt căn cứ tại Ube trong vùng biển Nội địa, hoạt động chủ yếu như một tàu quét mìn tìm kiếm số thủy lôi do máy bay B-29 Superfortress thả xuống. Nó có mặt tại Căn cứ Hải quân Kure vào lúc Nhật Bản đầu hàng.Namikaze được chính thức rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 5 tháng 10 năm 1945. Tuy nhiên, sau khi giải giới, nó được sử dụng vào việc hồi hương binh lính Nhật Bản còn đang trú đóng ở nước ngoài, và đảm trách vai trò này từ ngày 1 tháng 12 năm 1945 cho đến năm 1947.

Phục vụ cùng Trung Hoa Dân Quốc

Vào ngày 3 tháng 10 năm 1947, Namikaze được chuyển cho Trung Hoa Dân Quốc như một chiến lợi phẩm và được đặt lại lên là Shen Yang. Shen Yang đặt căn cứ tại Thanh Đảo từ năm 1947 chho đến khi hải cảng tại thành phố này rơi vào tay lực lượng công sản trong cuộc Nội chiến Trung Quốc. Nó tiếp tục được Hải quân Trung Hoa Dân Quốc sử dụng từ các căn cứ tại Đài Loan cho đế khi bị tháo dỡ vào năm 1960.

Đặt hàng: 1918

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze cải tiến

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Maizuru

Đặt lườn:16 tháng 4 năm 1921

Hạ thủy:1 tháng 10 năm 1921

Hoạt động: 31 tháng 3 năm 1922

Bị mất:Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm phía Bắc Nha Trang thuộc Đông Dương, ngày 20 tháng 2 năm 1945

Xóa đăng bạ:10 tháng 4 năm 1945

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,102,6 m (336 ft 7 in) chung.Mn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parson,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:148

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm,16 × mìn sâu,

Nokaze (tiếng Nhật: 野風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu của lớp phụ Nokaze bao gồm ba chiếc được cải tiến dựa trên lớp Minekaze. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương, Nokaze hầu như chỉ đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống cho đến khi bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm ở phía Bắc Nha Trang thuộc Đông Dương vào ngày 20 tháng 2 năm 1945.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917 với chín chiếc, và năm tài chính 1918 với thêm sáu chiếc bổ sung. Tuy nhiên, ba chiếc cuối cùng trong năm tài chính 1918 được chế tạo với một thiết kế cải tiến có kiểu dáng bên ngoài khác biệt đến mức nhiều tác giả xếp chúng thành một lớp phụ riêng biệt. Nokaze được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 16 tháng 4 năm 1921; được hạ thủy vào ngày 1 tháng 10 năm 1921; và được đưa ra hoạt động vào ngày 31 tháng 3 năm 1922.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Nokaze được điều về Quân khu Hải quân Yokosuka, nơi nó cùng với các tàu khu trục chị em Namikaze, Numakaze và Kamikaze (soái hạm) được tập trung để hình thành nên Hải đội Khu trục 1 (第一駆逐艦). Trong những năm 1938-1939, hải đội này được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển Bắc và Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật.Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Nokaze đặt căn cứ tại Quân khu Bảo vệ Ōminato về phía Bắc Nhật Bản, đảm trách nhiệm vụ tuần tra vùng biển ngoài khơi đảo Hokkaidō và quần đảo Kurile.Trong khi diễn ra trận Midway vào tháng 5 năm 1942, Nokaze được phân về lực lượng dự trữ dành cho Chiến dịch quần đảo Aleut, nhưng đã không rời khỏi vùng biển nội địa Nhật Bản. Sau đó nó quay lại công tác tuần tra ngoài khơi Ōminato cho đến tháng 7 năm 1943, nơi mà khu vực tuần tra được mở rộng bao gồm hầu hết đảo Honshū về phía Nam đến tận vịnh Ise. Vào tháng 7, nó tạm thời được điều về Hạm đội 5 Hải quân Đế quốc Nhật Bản hỗ trợ cho việc triệt thoái lực lượng Nhật Bản khỏi Kiska. Sau đó Nokaze tiếp tục đặt căn cứ tại Ōminato đảm trách tuần tra và hộ tống vận tải tại vùng biển phía Bắc cho đến tháng 1 năm 1945.Vào tháng 1 năm 1945, Nokaze được điều về Hạm đội Liên Hợp, khởi hành vào ngày 26 tháng 1 từ Moji cùng với đoàn tàu vận tải HI-91 hướng đến Singapore.Tuy nhiên, Nokaze được lệnh đi đến Quân khu Bảo vệ Mako, nơi nó gia nhập lực lượng khu trục hộ tống cho các thiết giáp hạm Ise và Hyūga. Tuy nhiên, đến ngày 15 tháng 2, sự thay đổi trong kế hoạch khiến cho Nokaze được lệnh đi đến Singapore.Ngày 20 tháng 2 năm 1945, Nokaze trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Mỹ USS Pargo ở về phía Bắc Nha Trang tại Đông Dương, trong biển Nam Trung Quốc, ở tọa độ 12°48′N 109°38′ETọa độ: 12°48′N 109°38′E. Chiếc tàu khu trục bị nổ tung và chìm với tổn thất nhân mạng lên đến 209 người. Kamikaze vớt được 21 người sống sót, trong đó có Thuyền trưởng, Thiếu tá Hải quân Tarō Ebihara. Nokaze là chiếc cuối cùng trong số 39 tàu khu trục Nhật trở thành nạn nhân của tàu ngầm Hải quân Hoa Kỳ trong cuộc chiến này.Nokaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 10 tháng 4 năm 1945

Đặt hàng: 1918

Lớp tàu:Lớp tàu khu trục Minekaze cải tiến

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Maizuru

Đặt lườn:10 tháng 8 năm 1921

Hạ thủy:25 tháng 2 năm 1922

Hoạt động: 24 tháng 7 năm 1922

Bị mất:Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm tại Okinawa, ngày 18 tháng 12 năm 1943

Xóa đăng bạ:5 tháng 2 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước:1.345 tấn (tiêu chuẩn);1.650 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước,02,6 m (336 ft 7 in) chung.Mạn thuyền:9 m (29 ft 6 in)Tầm nước:2,9 m (9 ft 6 in)

Lực đẩy:Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons,4 × nồi hơi đốt dầu,2 × trục,công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)

Tốc độ:72 km/h (39 knot)

Tầm xa:6.700 km ở tốc độ 26 km/h(3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số:148

Vũ khí:4 × hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch),2 × súng máy 7,7 mm,16 × mìn sâu

Numakaze (tiếng Nhật: 沼風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ ba cũng là chiếc cuối cùng của lớp phụ Nokaze bao gồm ba chiếc được cải tiến dựa trên lớp Minekaze. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương, Numakaze hầu như chỉ đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống cho đến khi bị tàu ngầm Mỹ Grayback đánh chìm tại Okinawa vào ngày 18 tháng 12 năm 1943.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917 với chín chiếc, và năm tài chính 1918 với thêm sáu chiếc bổ sung. Tuy nhiên, ba chiếc cuối cùng trong năm tài chính 1918 được chế tạo với một thiết kế cải tiến có kiểu dáng bên ngoài khác biệt đến mức nhiều tác giả xếp chúng thành một lớp phụ riêng biệt. Numakaze, chiếc thứ ba trong lớp phụ Nokaze, được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 10 tháng 8 năm 1921; được hạ thủy vào ngày 25 tháng 2 năm 1922; và được đưa ra hoạt động vào ngày 24 tháng 7 năm 1922.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, Numakaze được điều về Quân khu Hải quân Yokosuka, nơi nó cùng với các tàu khu trục chị em Nokaze, Namikaze và Kamikaze (soái hạm) được tập trung để hình thành nên Hải đội Khu trục 1 (第一駆逐艦). Trong những năm 1938-1939, hải đội này được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển Bắc và Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Numakaze đặt căn cứ tại Quân khu Bảo vệ Ōminato về phía Bắc Nhật Bản, đảm trách nhiệm vụ tuần tra vùng biển ngoài khơi đảo Hokkaidō và quần đảo Kurile.Trong khi diễn ra trận Midway vào tháng 5 năm 1942, Namikaze được phân về lực lượng dự trữ dành cho Chiến dịch quần đảo Aleut, nhưng đã không rời khỏi vùng biển nội địa Nhật Bản. Sau đó nó quay lại công tác tuần tra ngoài khơi Ōminato cho đến tháng 7 năm 1943, nơi mà khu vực tuần tra được mở rộng bao gồm hầu hết đảo Honshū về phía Nam đến tận vịnh Ise. Vào tháng 7, nó tạm thời được điều về Hạm đội 5 Hải quân Đế quốc Nhật Bản hỗ trợ cho việc triệt thoái lực lượng Nhật Bản khỏi Kiska.Nó bị hư hại trong một vụ va chạm với tàu khu trục Shirakumo. Numakaze tiếp tục đặt căn cứ tại Ōminato đảm trách tuần tra và hộ tống vận tải tại vùng biển phía Bắc cho đến tháng 12 năm 1943.Vào tháng 12 năm 1943, Numakaze được điều về Hạm đội Liên Hợp, khởi hành vào ngày 5 tháng 12 từ Moji như một đơn vị của Hải đội Hộ tống Tàu nổi 1 bảo vệ một đoàn tàu vận tải đi đến Đài Loan. Tuy nhiên, vào ngày 18 tháng 12 năm 1943, Numakaze trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Mỹ USS Grayback (SS-208) về phía Đông Đông Bắc Naha, Okinawa ở tọa độ 26°29′N 128°26′ETọa độ: 26°29′N 128°26′E.Chiếc tàu khu trục bị chìm với tổn thất toàn bộ thủy thủ đoàn, trong số đó có cả Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Watanabe Yasumasa, kiêm nhiệm Tư lệnh Hải đội Khu trục 1. Numakaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 5 tháng 2 năm 1944.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro