Ham doi tau san bay Anh quoc trong WW2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay riêng

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu William Beardmore tại Glasgow

Đặt lườn: 1914

Hạ thủy: 2 tháng 12 năm 1917

Hoạt động: 19 tháng 9 năm 1918

Bị mất: Bị bán ngày 5 tháng 12 năm 1946, và bị tháo dỡ năm 1947

Ngừng hoạt động: tháng 12 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 14.450 tấn (tiêu chuẩn); 15.775 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 172,5 m (566 ft) thân tàu;

143 m (470 ft) sàn đáp

Mạn thuyền: 20,7 m (68 ft) thân tàu;

25,9 m (85 ft) sàn đáp

Tầm nước: 6,4 m (21 ft)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước Parsons

12 × nồi hơi; 4 trục

công suất 20.000 mã lực (14,9 MW)

Tốc độ: 38 km/h (20,75 knot)

Tầm xa: 8.090 km ở tốc độ 30 km/h

(4.370 hải lý ở tốc độ 16 knot)

Quân số: 401 (bao gồm đội bay)

Vũ khí: 4 × pháo phòng không 102 mm (4 inch) (1 x 4);

4 × súng máy;

4 × súng Lewis

Vỏ giáp:

Máy bay: cho đến 18 - 20 máy bay

HMS Argus là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh được đưa ra hoạt động từ năm 1918. Nó là kiểu mẫu đầu tiên trên thế giới về tàu sân bay có một sàn đáp phẳng kéo dài suốt chiều dài của thân tàu, tiêu chuẩn của các tàu sân bay hiện đại cho phép máy bay cánh cố định cất cánh và hạ cánh một cách bình thường. Vào giai đoạn kết thúc của Chiến tranh Thế giới thứ hai, Argus đã trở nên quá nhỏ, củ kỹ và lạc hậu, nên được cho ngừng hoạt động động vào năm 1944. Nó được thủy thủ đoàn đặt cho tên lóng là "Ditty Box" do có hình dạng gần giống đồ đựng vật dụng của thủy thủ.

Thiết kế và chế tạo

Argus được đặt lườn vào năm 1914 bởi xưởng đóng tàu William Beardmore and Company tại Glasgow như tàu chở hành khách Ý Conte Rosso. Tuy nhiên, do tình hình chiến tranh, nó được Hải quân Hoàng gia Anh mua lại trước khi hạ thủy, và được cải biến thành một tàu sân bay. Argus được chế tạo ngay từ đầu với một sàn đáp phẳng kéo dài suốt chiều dài của thân tàu, cho phép máy bay thông thường có thể cất cánh và hạ cánh. Trước đó, chiếc tàu sân bay HMS Furious được chế tạo với các sàn đáp hạ cánh và cất cánh riêng biệt ở phía sau và phía trước cấu trúc thượng tầng của con tàu.

Lịch sử hoạt động

Argus được cho hạ thủy vào ngày 2 tháng 12 năm 1917 và được đưa ra hoạt động vào ngày 6 tháng 9 năm 1918, ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc. Do có kích thước nhỏ, với trọng lượng rẽ nước chỉ có khoảng 14.000 tấn và tốc độ tương đối chậm, nó chỉ được sử dụng một cách giới hạn trong các vai trò tác chiến. Thay vào đó, chiếc tàu chiến được sử dụng chủ yếu trong vai trò phát triển các kỹ thuật tác chiến trên tàu sân bay và huấn luyện các phi công trong việc hoạt động trên tàu sân bay ngoài biển khơi. Vào cuối những năm 1920, bị vượt qua bởi những con tàu mới lớn và hiện đại hơn nhiều, nó được rút khỏi các đơn vị tác chiến tiền phương và sử dụng thuần túy như một tàu sân bay huấn luyện.Vào lúc khởi đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai, Argus ban đầu được sử dụng trong vai trò huấn luyện, nhưng sau khi Hải quân Hoàng gia chịu tổn thất đáng kể về tàu sân bay vào những năm 1939-1941; trong đó HMS Courageous, Glorious và Ark Royal bị đánh chìm và chiếc Illustrious bị hư hại nặng; Argus được cho gọi trở lại vào các đơn vị tác chiến. Điều thú vị là với hầm chứa máy bay cao và rộng rãi, Argus là chiếc tàu sân bay Anh duy nhất trong Thế Chiến II có thể cho hoạt động máy bay mà không cần xếp cánh.[1]Trong những năm 1941 - 1942, một trong những nhiệm vụ đầu tiên của nó là vận chuyển máy bay đến Malta, Gibraltar và Takoradi (trên đường đến Ai Cập). Máy bay được chở đến cách điểm đến trong tầm bay của chúng, rồi được cho cất cánh để bay nốt quãng đường còn lại.Sau đó Argus được phân về Lực lượng H bố trí tại khu vực Tây Địa Trung Hải, và nó nằm trong lực lượng hộ tống nhằm hỗ trợ trên không cho Chiến dịch Harpoon, đưa một đoàn tàu vận tải chuyên chở hàng tiếp liệu đang rất cần cho đảo Malta. Cũng trong năm 1942, chiếc tàu sân bay tham gia hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên Bắc Phi; và sang năm 1943, nó được cho quay về vai trò huấn luyện, trước khi được đưa về lực lượng dự bị vào năm 1944.Nó bị bán để tháo dỡ vào năm 1946.

Đặt hàng: 1934

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Ark Royal

Xưởng đóng tàu: Cammell Laird and Company, Ltd.

Đặt lườn: 16 tháng 9 năm 1935

Hạ thủy: 13 tháng 4 năm 1937

Đỡ đầu: Bà Samuel Hoare

Hoạt động: 16 tháng 12 năm 1938

Bị mất: Bị chìm ngày 14 tháng 11 năm 1941 sau khi trúng ngư lôi ngày 13 tháng 11 năm 1941

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 22.000 tấn (tiêu chuẩn); 27.720 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 219,9 m (721 ft 6 in) mực nước

243,8 m (800 ft) chung

Mạn thuyền: 28,9 m (94 ft 10 in)

Tầm nước: 8,5 m (27 ft 10 in)

Lực đẩy: 3 × turbine hơi nước Parsons

6 × nồi hơi Admiralty

3 × trục

công suất 102.000 mã lực (76 MW)

Tốc độ: 55,6 km/h (30 knot) (thiết kế)

57,4 km/h (31 knot) (thực tế)

Tầm xa: 14.000 km ở tốc độ 37 km/h

(7.600 hải lý ở tốc độ 20 knot)

Quân số: 1.580

Vũ khí: 16 × pháo 114 mm (4,5 inch) (8 × 2)

32 × pháo 2 pounder (1,5 inch) (4 × 8)

32 × súng máy 0,50 calibre (12,7 mm) (8 × 4)

Vỏ giáp: đai giáp 114 mm (4,5 inch)

sàn tàu bên trên động cơ và hầm đạn 89 mm (3,5 inch)

Máy bay: 72 (thiết kế); 50 - 60 (thực tế)

1939: 26 × Fairey Swordfish,

24 × Blackburn Skua

1941: 36 × Fairey Swordfish,

18 × Fairey Fulmar

HMS Ark Royal (91) là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh đã từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đây là loại tàu sân bay kiểu cũ có sàn cất/hạ cánh trực thông; khác với loại tàu sân bay hiện đại có khu vực phía sau của sàn cất/hạ cánh tạo góc 8o so với so với khu vực phía trước sàn cất/hạ cánh.Được đặt hàng vào năm 1934 theo những giới hạn trong khuôn khổ của Hiệp ước Hải quân Washington, Ark Royal được chế tạo bởi hãng đóng tàu Cammell Laird and Company, Ltd. tại Birkenhead. Thiết kế của nó khác biệt nhiều so với những chiếc tàu sân bay Anh trước đó. Ark Royal là chiếc tàu sân bay đầu tiên có cấu trúc sàn chứa máy bay và sàn đáp là một thành phần của thân tàu, chứ không phải là một phần dựng thêm hay thuộc cấu trúc thượng tầng. Được thiết kế để chở nhiều máy bay, nó có hai sàn chứa máy bay; và được đưa vào hoạt động trong một giai đoạn mà không lực hải quân được sử dụng rộng rãi. Một số chiến thuật hoạt động của tàu sân bay đã được phát triển và hoàn thiện bên trên chiếc Ark Royal.Được hoàn tất vào tháng 11 năm 1938, Ark Royal đã hoạt động trong một số trận chiến quan trọng trong giai đoạn mở màn của Chiến tranh Thế giới thứ hai, trong đó có việc đánh chìm chiếc U-boat đầu tiên trong chiến tranh, tham gia các hoạt động ngoài khơi Na Uy, truy đuổi và đánh chìm chiếc thiết giáp hạm Bismarck, và tham gia các đoàn tàu vận tải tăng viện cho đảo Malta. Ark Royal sống sót khi trải qua nhiều cuộc đụng độ và nhiều dịp suýt bị đánh chìm, và người Đức tuyên bố nhầm đã đánh chìm được nó trong nhiều dịp khác nhau, nên nó có được danh tiếng như là một "con tàu may mắn". Nhưng cuối cùng, nó cũng bị trúng ngư lôi vào ngày 13 tháng 11 năm 1941 phóng từ tàu ngầm Đức U-81 và bị chìm một ngày sau đó.Việc Ark Royal bị đánh chìm là đề tài của nhiều cuộc điều tra; những người thẩm vấn đã nôn nóng muốn biết vì sao chiếc tàu sân bay bị mất, cho dù đã có những nỗ lực để cứu con tàu và kéo nó về căn cứ hải quân tại Gibraltar. Họ đã tìm thấy nhiều khiếm khuyết trong thiết kế vốn đã dẫn đến sự thiệt hại, và đã được khắc phục trong những chiếc tàu sân bay Anh sau này. Cho dù được ghi nhận chính thức là nó bị chìm cách Gibraltar 41 km (22 hải lý), xác tàu đắm của Ark Royal được tái phát hiện vào tháng 12 năm 2002 cách Gibraltar khoảng 56 km (30 hải lý).

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Vào năm 1923, Bộ Hải quân Anh chuẩn bị một chương trình phát triển dài hạn 10 năm trong đó bao gồm một tàu sân bay và 300 máy bay trang bị cho Không lực hạm đội,[1] tuy nhiên, sự suy thoái về kinh tế tiếp theo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất khiến buộc phải trì hoãn chương trình này. Đến năm 1930, Sir Arthur Johns, người đảm trách bộ phận chế tạo của hải quân, bắt đầu nâng cấp các kế hoạch tàu sân bay này với những kỹ thuật vừa mới được phát triển.[1] Mục đích của ông là gia tăng số lượng máy bay mang theo bằng cách rút ngắn quãng đường cất cánh và hạ cánh nhờ áp dụng móc hãm và máy phóng bằng hơi nước nén. Bằng cách này, có thể tiết kiệm chỗ trên sàn tàu dành để chứa và chuẩn bị máy bay.[1][2] Cùng với việc dùng đến hai tầng hầm làm sàn chứa máy bay, điều này đã cho phép Ark Royal có thể chở theo đến 72 máy bay, cho dù sau đó sự phát triển các kiểu máy bay chiến đấu ngày càng lớn và nặng hơn, nên trong hoạt động thực tế chiếc tàu sân bay chỉ mang 50 đến 60 chiếc.[3] Sàn chứa máy bay được đặt bên trong thân tàu, và được hưởng lợi ích bảo vệ của đai giáp dày 114 mm (4,5 inch).[2] Ba thang nâng được sử dụng để chuyển máy bay từ các sàn chứa lên sàn phóng-đáp.[2]Một đặc điểm khác là chiều dài và độ cao của sàn đáp. Với chiều dài toàn bộ lên đến 244 m (800 ft), sàn đáp dài hơn thân tàu 36 m (118 ft), khi kích thước của thân tàu bị khống chế bởi chiều dài của các ụ tàu mà Hải quân Hoàng gia đang có tại Gibraltar và Malta.[2] Vì sàn chứa máy bay được bố trí bên trong thân tàu, sàn đáp nhô lên ở độ cao 20 m (66 ft) so với mực nước.Các hiệp ước hải quân Washington và London, vốn đặt ra các giới hạn về tải trọng tàu chiến thuộc các cường quốc hải quân trên thế giới, sẽ hết hiệu lực vào cuối năm 1936.[a] Với nguy cơ xảy ra một cuộc chạy đua vũ trang hải quân giữa các nước Anh, Nhật và Ý, Chính phủ Anh theo đuổi sự thỏa thuận về một hiệp ước London thứ hai, bao gồm việc giới hạn trọng lượng rẽ nước tối đa của tàu sân bay ở mức 22.000 tấn.[4] Ark Royal phải được chế tạo trong giới hạn được tiên liệu trước này. Để duy trì trọng lượng nhẹ, lớp vỏ giáp chỉ được sử dụng giới hạn cho đai giáp, các phòng động cơ và hầm đạn; kỹ thuật hàn được sử dụng thay thế cho việc ghép nối bằng đinh tán trên 65% thân tàu giúp giảm bớt trọng lượng thêm 500 tấn.[4] Việc trang bị một sàn đáp bọc thép là không khả thi, vì trọng lượng của chúng sẽ khiến cho Ark Royal vượt quá giới hạn cho phép, trong khi lại làm giảm tầm xa hoạt động và sự ổn định.[4]Con tàu được trang bị sáu nồi hơi, vận hành ba turbine hộp số Parsons, dẫn động ba trục nối liền với ba chân vịt bằng đồng đường kính 4,9 m (16 ft), dự định đạt đến tốc độ tối đa 55,6 km/h (30 knot).[5][6] Tốc độ đối với chiếc tàu sân bay đóng vai trò quan trọng, bởi vì cùng với máy phóng và dây hãm, Ark Royal phải quay ra hướng gió để phóng hay thu hồi máy bay. Nhằm tránh nguy cơ va chạm với các tàu chiến khác do phải thường xuyên thay đổi hướng đi phù hợp với các hoạt động không lực, Ark Royal phải tách ra khỏi các tàu hộ tống đi cùng, rồi lại bắt kịp chúng sau khi hoàn tất. Hơn nữa, chiếc tàu sân bay không được trang bị vũ khí để đối đầu cùng tàu chiến khác, nên tốc độ là cách để tự bảo vệ khỏi các tàu chiến đối phương.[1]

Chế tạo

Tình hình thế giới diễn biến ngày càng xấu đi vào năm 1933, mà tiêu biểu là việc Đức tái vũ trang và sự bành trướng của Nhật Bản và Ý, đã khiến Anh Quốc phải công bố khoảng kinh phí dành cho việc chế tạo chiếc tàu sân bay trong dự thảo ngân sách năm 1934.[7] Kế hoạch được chấp thuận vào tháng 11 năm 1934, và được chọn thầu vào tháng 2 năm 1935 dành cho hãng Cammell Laird and Company, Ltd., vốn đã tính toán chi phí của thân tàu là 1.496.250 Bảng Anh và phần động cơ chính vào khoảng 500.000 Bảng.[5][8] Tổng chi phí cho con tàu được ước lượng khoảng trên 3 triệu Bảng, khiến cho Ark Royal trở thành chiếc tàu chiến đắt nhất mà Hải quân Anh từng đặt hàng.[9] Việc chế tạo được bắt đầu khi Ark Royal được đặt lườn vào ngày 16 tháng 9 năm 1935.[10]Ark Royal trải qua gần hai năm trong xưởng đóng tàu trước khi được hạ thủy vào ngày 13 tháng 4 năm 1937, được đỡ đầu bởi Bà Maud Hoare, phu nhân Sir Samuel Hoare, Bộ trưởng Hải quân. Chai champagne đập vào thân chiếc Ark Royal theo truyền thống khi hạ thủy đã không vỡ cho đến lần thứ tư.[11] Chiếc tàu sân bay sau đó còn trải qua một năm để trang bị trước khi giao quyền chỉ huy cho vị thuyền trưởng đầu tiên, Arthur John Power, vào ngày 16 tháng 11 năm 1938, và được đưa ra hoạt động vào ngày 16 tháng 12 năm 1938.[10] Cho dù ban đầu được dự định để hoạt động tại Viễn Đông, những sự kiện diễn ra tại Châu Âu trong thời gian chiếc tàu sân bay được chế tạo, bao gồm việc Ý tấn công Abyssinia vào năm 1935 và cuộc Nội chiến Tây Ban Nha năm 1936, đã khiến cho Bộ Hải quân giữ Ark Royal lại để bố trí hoạt động cùng Hạm đội Nhà và Hạm đội Địa Trung Hải.[12] Sau khi được biên chế đầy đủ nhân sự vào cuối năm 1938, Ark Royal tiến hành chạy thử máy, và đạt được tốc độ tối đa cao hơn lý thuyết thiết kế, đến 57,4 km/h (31 knot).[13]

Vũ khí và máy bay phối thuộc

Vũ khí trang bị cho Ark Royal được thiết kế theo nguyên tắc phòng không, khi máy bay đối phương được cho là mối đe dọa chính, trong khi tàu nổi và tàu ngầm có thể vượt qua hoặc đối phó bởi các tàu hộ tống.[14][15] Vũ khí tự vệ chính của nó là mười sáu khẩu pháo phòng không bắn nhanh 4,5 inch bố trí trên tám tháp súng đôi, bốn chiếc mỗi bên thân tàu.[2] Thiết kế nguyên thủy đặt những tháp súng này thấp bên dưới thân, nhưng sau đó bố trí lại ngay bên dưới sàn đáp, giúp gia tăng góc bắn của những tháp pháo.[2] Bốn tháp súng QF 2 Pounder (1,5 inch) tám nòng được bố trí trên sàn đáp, phía trước và phía sau đảo cấu trúc thượng tầng; cùng tám khẩu súng máy cỡ nòng 12,7 mm, bốn nòng được đặt trên các bệ phía trước và phía sau sàn đáp.[16]Trong suốt thời gian hai năm hoạt động ngắn ngủi của Ark Royal, mười sáu phi đội Không lực Hạm đội Anh từng được bố trí hoạt động trên chiếc tàu sân bay này; trung bình có năm phi đội hoạt động đồng thời. Vào giai đoạn mới đưa vào hoạt động, hầu hết các phi đội bố trí trên Ark Royal đều được trang bị kiểu máy bay Blackburn Skua, sử dụng như máy bay tiêm kích và máy bay ném bom bổ nhào, hoặc kiểu Fairey Swordfish dùng trong trinh sát và phóng ngư lôi. Từ tháng 4 năm 1940, các phi đội trang bị Skua được nâng cấp lên kiểu Fairey Fulmar; và giống như những chiếc tiền nhiệm, được sử dụng như máy bay tiêm kích và máy bay ném bom bổ nhào. Thỉnh thoảng, chiếc tàu sân bay được trang bị kiểu máy bay tiêm kích-ném bom Blackburn Roc (từ tháng 4 năm 1939 đến tháng 10 năm 1940) và máy bay ném bom-ngư lôi Fairey Albacore (trong tháng 10 năm 1941); được sử dụng để tăng cường số lượng máy bay của phi đội.[17] Vào tháng 6 năm 1940, Ark Royal nhận lên tàu Phi đội Không lực Hạm đội 701, một phi đội huấn luyện sử dụng những chiếc thủy phi cơ trinh sát Supermarine Walrus.

Lịch sử hoạt động

Nhiệm vụ tìm diệt tàu ngầm

Sự kiện Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào ngày 3 tháng 9 năm 1939 đã được báo trước bằng việc hạm đội tàu ngầm U-boat của Đức chiếm lấy các vị trí ngoài khơi bờ biển nước Anh, nơi chúng có thể đánh chặn các tàu bè Anh.[18] Trong vòng vài giờ sau khi chiến tranh nổ ra, chiếc tàu chở hành khách SS Athenia bị tàu ngầm Đức U-30 tấn công bằng ngư lôi,[18] trở thành nạn nhân đầu tiên trong số 65.000 tấn tàu bè bị U-boat đánh chìm chỉ trong tuần lễ đầu tiên của cuộc chiến.[19] Ark Royal được bố trí cùng Hạm đội Nhà tại các cửa ngỏ hướng Tây Bắc trong thành phần của một "Đội tìm-diệt tàu ngầm", bao gồm một hải đội các tàu khu trục cùng các tàu chiến chống tàu ngầm khác được tập trung chung quanh một tàu sân bay; có thể là HMS Courageous, HMS Hermes hoặc Ark Royal. Việc sử dụng máy bay xuất phát từ tàu sân bay giúp mở rộng khu vực tìm kiếm những chiếc U-boat, nhưng cũng khiến các tàu sân bay trở thành những mục tiêu hấp dẫn.[19]Ngày 14 tháng 9, Ark Royal nhận được cuộc gọi cầu cứu từ chiếc tàu SS Fanad Head đang ở cách (200 hải lý), và đang bị tàu ngầm U-30 săn đuổi.[20] Ark Royal tung máy bay của nó ra để trợ giúp cho chiếc tàu buôn,[20] nhưng lại bị tàu ngầm U-39 phát hiện, và phóng hai quả ngư lôi nhắm vào chiếc tàu sân bay.[21] Các quan sát viên trên tàu phát hiện ra các đợt sóng ngư lôi đang đến gần, và Ark Royal bẻ lái hướng thẳng vào các quả ngư lôi nhằm giảm tiết diện, khiến chúng bị trượt và nổ vô hại phía đuôi tàu.[19] Ba chiếc tàu khu trục hộ tống đã dùng thủy lựu đạn tấn công U-39, buộc nó phải trồi lên mặt nước.[21] Thủy thủ đoàn Đức đã bỏ tàu trước khi U-39 bị đánh chìm, trở thành chiếc U-boat đầu tiên bị mất trong Thế chiến thứ hai.[21] Trong lúc đó, máy bay của Ark Royal đã đến được chỗ của Fanad Head, lúc này đã bị quân Đức chiếm giữ và điều khiển.[20] Những chiếc Skua đã tấn công U-30 bất thành, hai máy bay bị rơi do chính sức ép của những quả bom do chúng phóng ra, mà không gây được thiệt hại gì cho chiếc tàu ngầm Đức.[20] Chiếc U-boat thoát đi sau khi vớt nhóm chiếm giữ con tàu cùng hai phi công bị bắn rơi trở thành tù binh (cả hai trinh sát viên máy bay đều thiệt mạng), và phóng ngư lôi vào chiếc Fanad Head.[20]Sau khi kết thúc trận chiến, Ark Royal quay về căn cứ tại Loch Ewe, nơi nó cùng thủy thủ đoàn được đích thân Thủ tướng Winston Churchill đến thăm viếng. Việc đánh chìm chiếc tàu ngầm U-39 là một sự khích lệ tinh thần rất quan trọng; tuy nhiên, việc tấn công bất thành nhắm vào Ark Royal, rồi được tiếp nối bằng cuộc tấn công đánh chìm chiếc HMS Courageous vào ngày 17 tháng 9, chứng tỏ cho Bộ Hải quân thấy nguy cơ quá lớn khi sử dụng những chiếc tàu sân bay theo cách này, nên sau đó các đội tìm-diệt tập trung quanh các tàu sân bay bị giải tán.[19]

Một lần suýt đắm

Ngày 25 tháng 9 năm 1939, Ark Royal giúp cứu hộ chiếc tàu ngầm HMS Spearfish, vốn bị tàu chiến Đức gây hư hại tại bãi đá ngầm Horn gần Kattegat.[22] Trong khi quay về cảng cùng với Spearfish và các thiết giáp hạm HMS Nelson và HMS Rodney vào ngày 26 tháng 9, những chiếc tàu chiến bị ba chiếc thủy phi cơ Dornier Do 18 của Không quân Đức phát hiện.[5] Ark Royal đã tung ra ba máy bay Blackburn Skua để tiêu diệt chúng; và một chiếc Dornier bị bắn rơi như là chiến công không chiến đầu tiên của người Anh trong cuộc chiến.[23]Vị chỉ huy không lực của Ark Royal, ý thức rằng những chiếc Dornier còn sống sót sẽ báo cáo vị trí của những tàu chiến Anh, nên đã ra lệnh cho cố định toàn bộ máy bay và các khẩu đội phòng không sẵn sàng chiến đấu.[24] Bốn chiếc máy bay ném bom Ju 88 xuất hiện không lâu sau đó;[25] ba chiếc bị đánh đuổi bởi hỏa lực phòng không, nhưng chiếc thứ tư cũng xoay sở phóng một quả bom 1.000 kg (2.200 lb) nhắm vào chiếc tàu sân bay. Ark Royal bẻ lái gắt sang mạn phải, tránh được quả bom nổ tung trên mặt biển cách mạn tàu 30 m (100 ft), tung một cột nước khổng lồ bao phủ con tàu. Viên phi công Đức đã không thể thấy được trái bom của mình có trúng đích hay không, và một máy bay trinh sát Đức sau đó trông thấy hai chiếc thiết giáp hạm, nhưng không nhìn thấy Ark Royal. Dựa trên những tin tức này, người Đức đã công bố nhầm lẫn là đã đánh chìm được Ark Royal.[26] Để chứng minh sự sai lầm của bộ máy tuyên truyền Đức Quốc Xã trước khi ch́úng có ảnh hưởng tiêu cực đến những đồng minh của Anh, Winston Churchill đích thân liên lạc với Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt đoan chắc là chiếc tàu sân bay không bị hư hại, và cho mời Tùy viên Quân sự Mỹ đến thăm chiếc Ark Royal tại cảng.[26] Tùy viên Quân sự Anh tại Rome cũng nhận được chỉ thị phải trấn an Thủ tướng Ý Benito Mussolini là con tàu vẫn còn hoạt động.[26]

Săn đuổi chiếc Graf Spee

Vào tháng 10 năm 1939, Ark Royal được bố trí đến Freetown và hoạt động ngoài khơi bờ biển Châu Phi để truy tìm chiếc thiết giáp hạm bỏ túi Đức Graf Spee đang tiến hành kiểu chiến tranh cướp tàu buôn. Chiếc tàu sân bay được bố trí vào Lực lượng K, và lên đường cùng với chiếc tàu tuần dương thiết giáp HMS Renown đến khu vực Nam Đại Tây Dương.[5] Ngày 9 tháng 10, máy bay của Ark Royal đã nhìn thấy chiếc tàu chở dầu Đức Altmark, đang có nhiệm vụ tiếp nhiên liệu cho Graf Spee. Chiếc tàu chở dầu được ngụy trang như là chiếc tàu Mỹ Delmar, và đã đánh lừa được hạm đội Anh đi ngang qua nó mà không phát hiện.[27] Ngày 5 tháng 11, Ark Royal chiếm được chiếc tàu buôn Đức SS Uhenfels vốn đang dự tính quay trở về nước nhà; sau đó bị người Anh tịch thu và sử dụng như một tàu chuyên chở[28] dưới tên gọi Empire Ability.[29] Nhiều tàu buôn trung lập được máy bay của nó phát hiện và trinh sát, và hai lần đã khiến thủy thủ đoàn của chúng tưởng rằng bị tấn công và đã bỏ tàu.[30] Một thông điệp giải thích được bỏ vào một cái bao ném xuống các thủy thủ Na Uy đã giúp họ bình tâm quay trở lại tàu; nhưng nỗ lực thứ hai bị thất bại khi cái bao ném xuống một tàu buôn Bỉ lọt vào ống khói tàu.[30]Vào lúc này, Graf Spee đang tiến vào cảng trung lập Montevideo thuộc Uruguay để sửa chữa các hư hỏng gây ra bởi trận chiến River Plate. Nhiều tàu tuần dương Anh tiếp tục dõi theo con tàu chiến Đức, và tiếp tục tuần tra ở lối ra vào cảng trong khi báo cáo vị trí của Graf Spee cho hạm đội. Ark Royal và Renown được cho tách khỏi lực lượng chính để tham gia nhóm này, nhưng chúng còn cách xa đến 36 giờ chạy tàu. Khi đó, Tùy viên Hải quân Anh đã thực hiện một kế hoạch nghi binh khiến người Đức tin rằng hai chiếc tàu chiến chủ lực đã đến nơi. Họ đặt một đơn hàng tiếp nhiên liệu cho chiếc Ark Royal sẽ thực hiện tại Buenos Aires, cách Montevideo 225 km (140 dặm) về phía Tây; tin tức này bị lộ ra (có chủ định) cho báo chí và đến được Tòa đại sứ Đức tại Montevideo, và cuối cùng là đến Thuyền trưởng của chiếc Graf Spee, Hans Langsdorff.[31] Tin tức này đã góp phần vào quyết định tự đánh đắm con tàu của Langsdorff ngay lối ra vào cảng Montevideo.[31]

Quay trở lại hạm đội

Sau khi Graf Spee đã chìm, Ark Royal ở lại Đại Tây Dương một thời gian ngắn trước khi hộ tống chiếc HMS Exeter bị hư hại quay trở về cảng Devonport, và chúng đến nơi vào tháng 2 năm 1940.[5] Sau đó, Ark Royal đến Portsmouth để nhận thêm nhân sự và tiếp liệu trước khi đến Scapa Flow. Khi đến nơi, nó chuyển những chiếc máy bay Blackburn Skua của nó cho Căn cứ Không lực Hatston để tăng cường phòng thủ cho cảng chủ lực này.[32] Sau đó Ark Royal được phân về Hạm đội Địa Trung Hải để tập trận. Nó rời Scapa Flow ngày 31 tháng 3 hướng đến Alexandria cùng với chiếc tàu sân bay HMS Glorious.[5] Hai chiếc tàu sân bay đi đến khu vực Đông Địa Trung Hải vào ngày 8 tháng 4, nhưng các cuộc tập trận bị hủy bỏ một ngày sau đó, và những con tàu chiến quay trở về Gibraltar chờ đợi mệnh lệnh mới.[32]Lực lượng quân Đức tấn công Na Uy trong Chiến dịch Weserübung vào ngày 7 tháng 4 đã chiếm được một số khu vực dọc bờ biển. Các nỗ lực của Hải quân Hoàng gia nhằm hỗ trợ các đơn vị Anh trên bờ bị thất bại, các cuộc không kích đối phương đã áp đảo các tàu chiến, đánh chìm chiếc HMS Gurkha và suýt đánh chìm chiếc HMS Suffolk. Nhận thức rằng các tàu chiến Anh cần có được sự che chở trên không, nhưng bờ biển Na Uy ở ngoài tầm hoạt động của những chiếc máy bay đặt căn cứ trên đất liền tận Anh Quốc, Bộ Hải quân đã cho triệu hồi hai chiếc tàu sân bay Ark Royal và Glorious từ khu vực Địa Trung hải vào ngày 16 tháng 4.[32]

Chiến dịch Na Uy

Ark Royal và Glorious về đến Scapa Flow ngày 23 tháng 4 năm 1940, và lập tức được bố trí tham gia Chiến dịch DX; di chuyển sang Na Uy cùng các tàu tuần dương Curlew và Berwick dưới sự hộ tống của các tàu khu trục Hyperion, Hereward, Hasty, Fearless, Fury và Juno; đây là lần đầu tiên Hải quân Hoàng gia bố trí các tàu sân bay với nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ trên không bảo vệ các tàu chiến.[5] Những con tàu chiến đi đến vị trí chiến đấu ngoài khơi bờ biển Na Uy vào ngày 25 tháng 4, trong khi Ark Royal ở lại vị trí cách bờ 220 km (120 hải lý) nhằm giảm thiểu nguy cơ bị không kích. Máy bay của nó thực hiện các phi vụ tuần tra chống tàu ngầm, hỗ trợ các tàu chiến khác cũng như tấn công các mục tiêu tàu bè và trên đất liền.[5][33] Ark Royal quay về Scapa Flow vào ngày 27 tháng 4 để tiếp nhiên liệu và bổ sung máy bay bị mất hay hư hại trong chiến đấu, rồi lại hối hả quay lại chiến trường cùng với chiếc thiết giáp hạm HMS Valiant theo hộ tống.[5] Trên đường quay lại, Ark Royal bị các máy bay Đức Junkers Ju 88 và Heinkel He 111 đặt căn cứ tại Na Uy tấn công, nhưng không bị thiệt hại, và trở lại vị trí chiến đấu vào ngày 29 tháng 4.[34]Đến lúc này, Bộ chỉ huy tối cao Anh nhận ra rằng họ không thể kháng cự sức tấn công của quân Đức ở miền Nam Na Uy. Việc triệt thoái lực lượng Đồng Minh khỏi Molde và Åndalsnes được bắt đầu, khi được Ark Royal yểm trợ trên không từ ngày 30 tháng 4. Vào ngày 1 tháng 5, quân Đức tìm cách đánh chìm con tàu khi tung ra nhiều đợt không kích liên tục suốt ngày. Máy bay tiêm kích của Ark Royal và hàng rào hỏa lực phòng không dày đặc đã chặn đứng được đối phương, và mặc dù nhiều quả bom đã được thả, không có quả nào trúng đích.[34] Việc triệt thoái hoàn tất vào ngày 3 tháng 5, và chiếc tàu sân bay quay trở về Scapa Flow để tiếp nhiên liệu và tiếp đạn trước khi quay lại Na Uy. Trong thời gia cập cảng, Thuyền trưởng Arthur Power được đề bạt một chức vụ cao hơn tại Bộ Hải quân, và ông được thay thế bởi Đại tá Cedric Holland.[35] Khi quay trở lại Na Uy, Ark Royal tiếp tục hỗ trợ trên không cho các hoạt động tác chiến chung quanh Narvik, bao gồm việc đổ bộ lực lượng Pháp tại đây vào ngày 13 tháng 5.[36] Sang ngày 18 tháng 5, nó được sự tiếp sức bởi các tàu sân bay Glorious và Furious.[5]Cho dù có những nỗ lực như vậy, tình hình vào cuối tháng 5 cho thấy lực lượng Pháp hoàn toàn vô vọng,[36] và chiến dịch Alphabet phải được thực hiện để triệt thoái lực lượng Đồng Minh khỏi Narvik. Ark Royal và Glorious, được các tàu khu trục Highlander, Diana, Acasta, Ardent và Acheron hộ tống, đã khởi hành từ Scapa Flow vào ngày 1 tháng 6 để yểm trợ cho cuộc rút lui được thực hiện vào ngày hôm sau. Ark Royal thực hiện các phi vụ tuần tra và ném bom từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 6 trước khi được bố trí đến Narvik vào ngày 7 tháng 6. Thảm họa xảy ra vào ngày hôm sau, khi Glorious cùng hai chiếc Acasta và Ardent theo hộ tống được tách ra để quay về Anh. Chúng bị các tàu chiến-tuần dương Đức Scharnhorst và Gneisenau tấn công và đánh chìm. Máy bay của Ark Royal được tung ra để truy lùng, nhưng không tìm thấy hai chiếc tàu chiến Đức, khi chúng đã rút lui về Trondheim.[37]Đoàn tàu vận tải triệt thoái cuối cùng rời Narvik vào ngày 9 tháng 6. Trước khi các tàu Anh có thể rút lui, một cuộc không kích vào Trondheim đã phát hiện ra chiếc Scharnhorst. Ark Royal tung những máy bay Skua của nó ra thực hiện một cuộc không khích lúc nữa đêm ngày 13 tháng 6.[38] Cuộc tấn công lại là một thảm họa khác: các tàu khu trục hộ tống Antelope và Electra bị va chạm trong khi Ark Royal đang phóng máy bay lên trong thời tiết đầy sương mù, khiến chúng phải quay về Anh để sửa chữa; tám trong số mười lăm chiếc Skua tấn công bị bắn rơi, trong khi Scharnhorst thoát được mà không bị thiệt hại.[39] Ark Royal quay về Scapa Flow ngày hôm sau, rồi được bố trí sang Hạm đội Địa Trung Hải.[40]

Bố trí tại Địa Trung Hải

Ark Royal rời Scapa Flow cùng với chiếc tàu tuần dương thiết giáp HMS Hood và ba tàu khu trục hộ tống, đi đến Gibraltar ngày 23 tháng 6 năm 1940. Tại đây nó gia nhập Lực lượng H dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Sir James Somerville. Sau khi Pháp thua trận, nảy sinh ra mối lo ngại về lực lượng Hạm đội Pháp tại Mers-el-Kébir sẽ lọt vào quyền kiểm soát của phe Trục và làm đảo lộn mối tương quan lực lượng hải quân trong khu vực Địa Trung Hải, ảnh hưởng đến toàn bộ chiếc cuộc.[41] Thuyền trưởng của Ark Royal, Đại tá Cedric Holland, nguyên là Tùy viên Hải quân Anh tại Paris, được cử đi thương lượng về việc đầu hàng hoặc tự đánh chìm hạm đội Pháp,[42] trong khi Lực lượng H được bố trí ngay lối ra vào cảng. Khi các Đô đốc Pháp từ chối các điều kiện thương lượng, tàu chiến Anh đã nổ súng vào hạm đội Pháp. Trong trận tấn công Mers-el-Kébir diễn ra sau đó, máy bay của Ark Royal đã trinh sát và thông báo vị trí của các tàu chiến Pháp cho hạm đội Anh.[43] Thiết giáp hạm Pháp Strasbourg thoát ra được, cho dù bị các máy bay Swordfish của Ark Royal tấn công.[44] Hai ngày sau đó, máy bay của nó Ark Royal vô hiệu hóa chiếc thiết giáp hạm Dunkerque, vốn đã bị mắc cạn sau cuộc tấn công ban đầu.[45]Sau khi giảm thiểu khả năng thách thức của lực lượng Pháp tại Địa Trung Hải, Lực lượng H chuẩn bị để tấn công các mục tiêu Ý, và đã khởi hành từ Gibraltar vào ngày 8 tháng 7.[46] Tuy nhiên, trên đường đi, lực lượng bị máy bay ném bom Ý tấn công chỉ sau khi xuất phát được 8 giờ; và cho dù lực lượng H không bị hư hại gì, Đô đốc Somerville vẫn ra lệnh hủy bỏ cuộc không kích và cho hạm đội quay trở về Gibraltar.[47] Trong tháng 7, Malta, một đảo thuộc địa của Anh trong vùng Địa Trung Hải bị Không quân Ý tấn công, và Lực lượng H được lệnh chuyển giao số máy bay tiêm kích Hawker Hurricane để tăng cường việc phòng không cho hòn đảo này. Lực lượng H được bố trí từ ngày 31 tháng 7 đến ngày 4 tháng 8, khi chiếc tàu sân bay HMS Argus được sử dụng trong việc chuyển giao máy bay, còn Ark Royal hỗ trợ từ trên không cho toàn hạm đội.[46] Vào ngày 2 tháng 8, Ark Royal tung một đợt không kích thành công xuống căn cứ của Ý tại Cagliari.[48]Lực lượng H ở lại Gibraltar cho đến ngày 30 tháng 9, khi chúng hộ tống lực lượng tăng cường cho hạm đội của Đô đốc Andrew Cunningham đến Alexandria.[49] Trên đường đi, các cuộc tấn công phân tán được chuẩn bị nhắm vào các căn cứ không quân của Ý tại Elmas và Cagliari, nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của đối phương khỏi lực lượng tăng viện và cả một đoàn tàu vận tải đang trên đường đi đến Malta. Các cuộc không kích được thực hiện thành công vào ngày 1 tháng 10, và hạm đội đi đến Alexandria một cách an toàn do không bị Không quân Ý chú ý đến.[50] Từ Alexandria, Ark Royal được tách ra và gửi đến khu vực Tây Phi để hỗ trợ cho các cố gắng của Anh nhằm thuyết phục các thuộc địa của Pháp theo phe chính phủ Vichy chuyển sang Pháp Tự Do. Trong quá trình thương lượng, nhiều đội bay của phe Pháp Tự Do đã cất cánh từ Ark Royal, nhưng họ đều bị bắt giữ tại Dakar. Công việc thương lượng thất bại, và máy bay ném bom của Ark Royal được tung ra để ném bom các căn cứ quân sự trong một nỗ lực bị thất bại của người Anh nhằm có thể chiếm Dakar bằng vũ lực.[51] Sau sự kiện này, được hộ tống bởi những chiếc HMS Fortune, HMS Forester và HMS Greyhound, Ark Royal quay về Anh Quốc để được tái trang bị, và vào ụ tàu tại Liverpool vào ngày 8 tháng 10.[52] Công việc bảo trì kéo dài cho đến ngày 3 tháng 11, bao gồm việc sửa chữa máy móc và trang bị một rào chắn mới cho sàn đáp.Sau khi hoàn tất việc tái trang bị, Ark Royal, được các tàu Barham, Berwick và Glasgow tháp tùng, lên đường đi Gibraltar, và đến nơi vào ngày 6 tháng 11.[53] Chúng được bố trí cùng phần còn lại của Lực lượng H vào nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải lực lượng tăng viện từ Gibraltar đến Alexandria và Malta, thực hiện nhiều chuyến đi trước khi được bố trí tham gia chiến dịch Collar vào ngày 25 tháng 11, một trong tổng số 35 đoàn tàu vận tải đến Malta được thực hiện từ năm 1940 đến năm 1942. Một lực lượng hạm đội Ý do các thiết giáp hạm Giulio Cesare và Vittorio Veneto dẫn đầu được tung ra để đánh chặn đoàn tàu vận tải.[54] Hạm đội Ý bị một máy bay trinh sát của Ark Royal phát hiện, và chiếc tàu sân bay đã tung những chiếc máy bay phóng ngư lôi Swordfish của nó ra tấn công, trong khi các tàu chiến chủ lực của Lực lượng H cũng quay mũi tiến về phía đối phương.[55] Trong trận chiến mũi Spartivento diễn ra sau đó, tàu khu trục Ý Lanciere bị hư hại, nhưng không rõ là do ngư lôi của những chiếc máy bay ném bom hay do hải pháo của các tàu chiến Anh. Người Anh lầm tưởng Lanciere là một tàu tuần dương, trong khi các chỉ huy Ý lại nhận được báo cáo sai lầm là tàu tuần dương Bolzano bị đánh trúng.[56] Các cuộc không kích của Anh cũng không thể đánh trúng thêm tàu chiến Ý nào khác, cũng như không thể đánh chìm chiếc tàu khu trục đã bị hư hại nặng; trong khi cuộc không kích trả đủa bởi Không quân Ý đã xem Ark Royal là một mục tiêu lý tưởng, nhưng không có quả bom nào ném trúng đích.[56] Trận đánh không mang lại một kết quả rõ ràng, cho dù đoàn tàu vận tải Anh đi đến được điểm đến mà không bị thiệt hại.Ngày 14 tháng 12, Ark Royal và Lực lượng H được tái bố trí từ Gibraltar sang đại Tây Dương để truy tìm các tàu chiến đối phương tham gia chiến tranh cướp tàu buôn tại khu vực quần đảo Azores. Ark Royal quay trở về Địa Trung Hải vào ngày 20 tháng 12, và tham gia hộ tống chiếc thiết giáp hạm HMS Malaya cùng các tàu buôn từ Malta cho đến ngày 27 tháng 12.[57] Sau đó Lực lượng H tham gia Chiến dịch Excess, một kế hoạch đưa các đoàn tàu vận tải vượt Địa Trung Hải đến tăng cường cho Lực lượng Sa mạc Tây đang ra sức đẩy lùi lực lượng trên bộ của Ý từ Ai Cập về phía Libya. Trong tháng tiếp theo sau, tình thế của Anh Quốc tại Địa Trung Hải tiếp tục xấu đi, đặc biệt là do sự can dự của Không quân Đức và sự kiện suýt mất chiếc tàu sân bay HMS Illustrious.[58] Hạm đội Địa Trung Hải đang chịu áp lực bởi lực lượng của phe Trục tại khu vực Đông Địa Trung Hải, trong khi quân cảng quan trọng Gibraltar của Anh có thể bị mất nếu như Tây Ban Nha chuyển sang liên minh với Đức thay vì đứng ngoài vòng chiến. Để giảm nhẹ áp lực cho Hạm đội Địa Trung Hải, đồng thời cũng để phô trương sức mạnh của Anh Quốc trước Tây Ban Nha, Bộ Hải quân và Đô đốc Cunningham vạch kế hoạch sử dụng những chiếc máy bay ném bom Swordfish của Ark Royal không kích vào các mục tiêu của Ý, được hỗ trợ bằng việc nả pháo của các tàu chiến hạng nặng. Cuộc ném bom đầu tiên được thực hiện vào ngày 2 tháng 1 năm 1941 nhắm vào đập Tirso tại Sardinia đã không thành công,[59] nhưng những chiếc máy bay ném bom Swordfish của Ark Royal đã may mắn hơn vào ngày 6 tháng 1 khi chúng ném bom thành phố cảng Genoa. Máy bay của chiếc tàu sân bay cũng bảo vệ cho các thiết giáp hạm HMS Renown và HMS Malaya khi chúng nả pháo vào cảng này. Ngày 9 tháng 1, Ark Royal tung máy bay của nó ra ném bom một cơ sở lọc dầu tại La Spezia, và rải mìn xuống hải cảng. Cả hai chiến dịch này đều thành công.[60]

Truy lùng Scharnhorst và Gneisenau

Đầu tháng 2 năm 1941, các tàu tuần dương thiết giáp Scharnhorst và Gneisenau đã hướng ra Đại Tây Dương thực hiện kiểu chiến tranh cướp tàu buôn theo lệnh của Đô đốc Erich Raeder. Chúng có nhiệm vụ phá hoại các tuyến đường hàng hải Đồng Minh và thu hút các tàu chiến chủ lực từ các khu vực khác. Vào ngày 8 tháng 3, Lực lượng H và Ark Royal được lệnh tiến ra quần đảo Canary để truy lùng những tên "cướp biển" hiện đại, và để bảo vệ các đoàn tàu vận tải đang từ Hoa Kỳ vượt Đại Tây Dương.[61] Ark Royal sử dụng máy bay của nó để truy tìm những chiếc tàu bị đối phương chiếm giữ và đang trên đường đi về Đức. Ba chiếc tàu như vậy bị phát hiện vào ngày 19 tháng 3: hai chiếc buộc phải tự đánh đắm, trong khi chiếc thứ ba, SS Polykarp, được tái chiếm.[62]Chiều tối ngày 21 tháng 3, một chiếc Fairey Fulmar xuất phát từ Ark Royal tình cờ gặp được Scharnhorst và Gneisenau ngoài biển khơi. Do thiết bị liên lạc vô tuyến bị hỏng, đội bay chỉ có thể quay trở về Ark Royal trước khi có thể báo cáo tin tức, lúc mà các tàu chiến Đức đã thoát đi dưới sự che chở của sương mù.[63] Ngày hôm sau, Ark Royal tiếp nối các cuộc tuần tra trên không nhằm hy vọng tìm ra đối thủ. Trong ngày hôm đó, hỏng hóc xảy ra cho máy phóng máy bay đã làm mất một chiếc Fairey Swordfish, hất tung chiếc máy bay xuống biển ngay trước mũi con tàu. Không thể dừng lại, Ark Royal cưỡi lên trên chiếc Swordfish và ngay ở bên trên nó khi những quả mìn sâu mà chiếc máy bay mang theo phát nổ dưới nước ngay bên dưới con tàu.[64] Chiếc tàu sân bay bị buộc phải quay trở về Gibraltar vào ngày 24 tháng 3 để sửa chữa; trong khi Scharnhorst và Gneisenau tránh khỏi sự truy đuổi và quay về Brest thuộc Pháp an toàn.[65]

Các đoàn tàu vận tải đến Malta và Chiến dịch Tiger

Ark Royal trải qua tháng 4 năm 1941 xen kẻ các nhiệm vụ hộ tống vận tải và chuyển giao máy bay đến Malta, cũng như quay qua Đại Tây Dương săn tìm những tàu cướp biển đối phương. Đến tháng 5 năm 1941, Quân đoàn Phi Châu (Afrika Korps) của Erwin Rommel đang tiến quân qua Bắc Phi về hướng kênh đào Suez, đẩy lùi Lực lượng Sa mạc Tây. Với nguy cơ lực lượng Anh bị thua trận và các vị trí chiến lược bị mất, Bộ chỉ huy Tối cao Anh buộc phải liều tổ chức một đoàn tàu vận tải tăng cường vượt Địa Trung Hải đến Alexandria. Đoàn tàu vận tải bao gồm năm tàu vận tải lớn, được hộ tống bởi Ark Royal, các thiết giáp hạm HMS Renown và HMS Queen Elizabeth, các tàu tuần dương HMS Sheffield, HMS Naiad, HMS Fiji và HMS Gloucester cùng các tàu khu trục của Chi hạm đội Khu trục 5.[66] Trước khi Ark Royal khởi hành, Thuyền trưởng Holland được cho nghĩ dưỡng do chịu áp lực và sức khỏe kém, và trách nhiệm chỉ huy tàu được trao cho Đại tá Loben Maund.[67] Đoàn tàu vận tải rời Gibraltar ngày 6 tháng 5, nhanh chóng bị máy bay trinh sát Ý phát hiện. Đoàn tàu vận tải, với tốc độ di chuyển khá chậm chỉ có 26 km/h (14 knot), và được hộ tống bởi nhiều tàu chiến chủ lực, trở thành một mục tiêu đầy sức cám dỗ, nên nhiều máy bay Đức và Ý được huy động vào cuộc tấn công nó.[68]Đoàn tàu vận tải Anh bị không kích vào ngày 8 tháng 5, trước tiên là bởi Không quân Ý và nối tiếp bởi Không quân Đức. Suốt ngày hôm sau, mười hai chiếc Fairey Fulmar của Ark Royal (số tối đa có thể có được) đã đánh lui được trên năm mươi máy bay đối phương, dưới sự trợ giúp của việc định vị mục tiêu từ hệ thống radar trên chiếc HMS Sheffield, và hỏa lực phòng không từ các tàu hộ tống.[69][70] Trong các đợt tấn công đầu tiên, một chiếc Fulmar bị mất, làm thiệt mạng Đại úy Rupert Tillard và Trung úy Mark Somerville, cháu của Đô đốc Somerville; một chiếc khác cũng bị tiêu diệt nhưng cứu được đội bay, trong khi nhiều chiếc khác bị hư hại.[71] Sau đó, chỉ còn có bảy chiếc để đương đầu với lực lượng chủ lực của Không quân Đức với 34 máy bay, và một đợt tấn công cuối cùng ngay trước khi trời tối được đẩy lui chỉ với hai máy bay và hỏa lực phòng không của những chiếc tàu chiến.[71] Lực lượng đoàn tàu vận tải không bị tổn thất đánh kể: tất cả đều do trúng phải thủy lôi, khi chiếc Empire Song bị đánh chìm và chiếc New Zealand Star bị hư hại nhưng đi đến được cảng đích.[72]Ark Royal chịu đựng một đợt không kích khác vào ngày 12 tháng 5 trên đường quay về Gibraltar. Sau đó, nó còn cùng chiếc tàu sân bay HMS Furious chuyển giao những chiếc máy bay tiêm kích Hawker Hurricane để hỗ trợ cho việc phòng thủ Malta.[73]

Săn đuổi chiếc Bismarck

Ngày 18 tháng 5 năm 1941, thiết giáp hạm Đức Bismarck cùng tàu tuần dương Prinz Eugen bắt đầu Chiến dịch Rheinübung khi tiến ra Đại Tây Dương đánh phá các tuyến đường hàng hải Đồng Minh. Sau khi đánh chìm tàu tuần dương thiết giáp HMS Hood và làm hư hại thiết giáp hạm HMS Prince of Wales trong trận chiến eo biển Đan mạch, Bismarck thoát khỏi những tàu chiến truy đuổi và hướng về phía bờ biển Pháp hướng ra Đại Tây Dương.[74] Ark Royal, Renown và Sheffield, được hộ tống bởi HMS Faulknor, HMS Foresight, HMS Forester, HMS Fortune, HMS Foxhound và HMS Fury, được cho tách ra và điều đến Đại Tây Dương vào ngày 23 tháng 5 để truy tìm chiếc tàu chiến đối phương.[75] Đến ngày 26 tháng 5, một chiếc Fairey Swordfish của Ark Royal tìm thấy Bismarck và bắt đầu dõi theo nó, trong khi Hạm đội Nhà được huy động vào việc truy đuổi.[76]Vào lúc phát hiện đối phương, các tàu chiến Anh còn cách mục tiêu đến 240 km (140 dặm) và không thể nào bắt kịp Bismarck trước khi chiếc thiết giáp hạm Đức đến được Saint-Nazaire. Mười lăm chiếc máy bay ném bom Swordfish trang bị ngư lôi được tung ra với hy vọng trì hoãn được nó. Tàu tuần dương Anh HMS Sheffield cũng đang theo dõi Bismarck, và đang ở vị trí giữa Ark Royal và Bismarck. Những chiếc máy bay ném bom đã nhận diện nhầm chiếc tàu tuần dương Anh là mục tiêu của chúng và phóng ngư lôi ra. May mắn là những quả ngư lôi được trang bị các kíp nổ từ tính kém tin cậy, khiến đa số chúng phát nổ khi chạm mặt nước, trong khi Sheffield tránh được số còn lại.[77] Sau khi nhận ra sai lầm của mình, một trong các phi công đã gửi lời xin lỗi đến vị thuyền trưởng của Sheffield.Khi quay lại tàu sân bay, những chiếc Swordfish giờ đây được trang bị ngư lôi có kíp nổ tiếp xúc, rồi lại xuất phát lúc 19 giờ 15 phút cho một đợt tấn công thứ hai. Chúng tìm ra và tấn công Bismarck ngay trước khi trời lặn, và đánh trúng đích ba quả ngư lôi: hai quả trúng phòng máy phía trước, trong khi quả thứ ba trúng phòng lái mạn trái phía đuôi và làm kẹt bánh lái ở một góc 15° sang mạn trái.[78] Bismarck bị buộc phải di chuyển theo hình tròn cho đến khi bánh lái hỏng được vô hiệu hóa, khiến con tàu hầu như không còn bẻ lái được và hướng thẳng đến các tàu chiến Anh đang bắt kịp. Chiếc thiết giáp hạm Đức bị hư hại nặng trong cuộc tấn công đêm 26 rạng sáng ngày 27 tháng 5, và bị chìm vào lúc 10 giờ 39 phút ngày 27 tháng 5.

Hộ tống các đoàn tàu vận tải đến Malta

Ark Royal cùng các tàu chiến của Lực lượng H quay trở lại Gibraltar vào ngày 29 tháng 5. Cho dù có sự khích lệ tinh thần quan trọng bên phe Đồng Minh do việc đánh chìm thiết giáp hạm Bismarck, tình hình tại Mặt trận Địa Trung Hải tiếp tục bất lợi cho họ. Hy Lạp và đảo Crete rơi vào tay phe Trục, trong khi Quân đoàn Phi Châu chuẩn bị tung ra đòn tấn công cuối cùng vào Ai Cập. Malta tiếp tục là một cứ điểm phòng thủ quan trọng trên Địa Trung Hải, nhưng phải chịu rất nhiều áp lực ngày càng gia tăng do các cuộc không kích của Ý và Đức, và không thể nào được tiếp liệu kể từ khi Crete thất thủ.[79]Ark Royal bị buộc phải tung ra hoạt động, chuyển giao máy bay đến Malta vào nhiều chuyến đi trong suốt tháng 6 và tháng 7, và hộ tống các đoàn tàu vận tải trong các chiến dịch Substance vào tháng 7 và Halberd vào tháng 9. Cho dù phải chịu đựng một số thiệt hại, các đoàn tàu vận tải đã thành công trong việc tiếp liệu giúp Malta duy trì sức kháng cự.[80] Sự tiếp tục hiện diện của lực lượng Đồng Minh tại Malta là một vấn đề đáng kể đối với Rommel tại Châu Phi, người đã bị tổn thất đến một phần ba hàng tiếp liệu vận chuyển từ Ý đến do các cuộc tấn công bằng tàu ngầm và máy bay ném bom đặt căn cứ tại Malta.[81] Cuối cùng, Adolf Hitler quyết định gửi đến Địa Trung Hải một chi hạm đội tàu ngầm U-boat để tấn công tàu bè Đồng Minh tại đây, bất chấp lời khuyên của Đô đốc Erich Raeder.[81]

Chuyến hải trình cuối cùng và bị đánh chìm

Vào ngày 10 tháng 11 năm 1941, Ark Royal vận chuyển thêm máy bay đến Malta trước khi quay trở về Gibraltar. Đô đốc Somerville đã nhận được cảnh báo về hoạt động của những chiếc U-boat ngoài khơi bờ biển Tây Ban Nha, và đã lưu ý Lực lượng H cần cảnh giác.[82] Cùng có mặt tại vùng biển này là chiếc tàu ngầm Đức U-81 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Friedrich Guggenberger, vốn cũng nhận được tin tức về việc Lực lượng H đang trên đường quay trở về Gibraltar.[81] Vào ngày 13 tháng 11, lúc 15 giờ 40 phút, người điều khiển sonar trên tàu khu trục HMS Legion phát hiện tiếng động lạ không rõ nguồn gốc, nhưng đoán là tiếng chân vịt quay của một tàu khu trục khác gần đó. Một phút sau, Ark Royal trúng phải một quả ngư lôi phía giữa tàu,[83] giữa các bồn chứa nhiên liệu và kho chứa bom, ngay bên dưới cầu tàu chỉ huy.[84] Vụ nổ làm rung chuyển toàn bộ chiếc Ark Royal, hất tung những chiếc máy bay ném bom-ngư lôi lên không, làm thiệt mạng một thủy thủ,[84] tạo ra một lổ thủng dài 40 m (130 ft) và rộng 9 m (30 ft) bên mạn phải thân tàu, gây ngập nước phòng nồi hơi bên mạn phải, bảng điều khiển liên lạc nội bộ, các bồn chứa nhiên liệu và trên 32 m (106 ft) đáy thân tàu. Bộ truyền động bên mạn phải bị hỏng, khiến phân nữa phía sau con tàu bị mất điện, trong khi việc liên lạc nội bộ bị ảnh hưởng nặng khắp con tàu.Ngay sau khi con tàu bị trúng ngư lôi, Đại tá Maund muốn ra lệnh cho tất cả các động cơ phải ngừng hoạt động, nhưng ông buộc phải gửi một thủy thủ chạy đến phòng máy truyền đạt mệnh lệnh khi khám phá ra rằng mọi đường dây liên lạc nội bộ đều bị gián đoạn.[85] Lổ hổng trên thân tàu bị xé rộng ra do sự tiếp tục di chuyển của con tàu; và cho đến khi Ark Royal có thể ngừng lại, con tàu đã bị ngập nước đáng kể và bị nghiêng 18° sang mạn phải chỉ trong vòng 20 phút. [85] Cân nhắc về độ nghiêng của con tàu, cũng như nhớ đến số phận của những chiếc tàu sân bay khác, bao gồm HMS Courageous và HMS Glorious, vốn bị chìm nhanh chóng với tổn thất rất lớn về nhân mạng, Maund ra mệnh lệnh bỏ tàu. Thủy thủ đoàn bắt đầu tập trung lên sàn đáp để xác định xem ai sẽ ở lại trên con tàu để cứu nó, trong khi tàu khu trục HMS Legion tiến đến gần bên cạnh để vớt những người còn lại. Hậu quả là, công việc kiểm soát hư hỏng toàn diện không được tiến hành cho đến 49 phút sau khi bị tấn công. Việc ngập nước bị tràn lan không thể kiểm soát, càng trầm trọng hơn do các vách ngăn bên dưới hầm tàu không được đóng kín khi có lệnh di tản khỏi các hầm bên dưới.[86]Việc ngập nước tràn lan đến các phòng động cơ chính, vốn bắt đầu ngập nước từ bên dưới, và việc mất điện tràn lan khắp con tàu khi các ống hút gió của nồi hơi ngập nước; Ark Royal không có các máy phát điện chạy bằng diesel dự phòng.[87] Khoảng nữa giờ sau vụ nổ, chiếc tàu sân bay dường như ổn định. Đô đốc Somerville, với ý định cứu lấy chiếc Ark Royal, ra lệnh cho các đội kiểm soát hư hỏng quay trở lại con tàu trước khi ra lệnh cho thiết giáp hạm HMS Malaya đi đến Gibraltar tổ chức các hoạt động cứu hộ. Các đội kiểm soát hư hỏng đã có thể khởi động lại một nồi hơi, cung cấp điện cho các bơm nước dưới đáy tàu. Chiếc tàu khu trục HMS Laforey cặp bên cạnh để cung cấp điện năng và các bơm phụ trợ, trong khi những máy bay Swordfish cất cánh từ Gibraltar giúp hỗ trợ cho việc tuần tra chống tàu.[88] Chiếc tàu kéo Thames cũng từ Gibraltar đến tại chỗ lúc 20 giờ 00 và nối một dây kéo vào Ark Royal, chuẩn bị lai dắt nó quay trở về Gibraltar. Nhưng việc ngập nước bên dưới lại bắt đầu làm cho độ nghiêng của con tàu gia tăng nhanh chóng. Nước lại ngập đến ngăn nồi hơi, buộc phải tắt nồi hơi vừa mới phục hồi lại được.Độ nghiêng của con tàu đạt đến 20° giữa 02 giờ 05 phút và 02 giờ 30 phút ngày 14 tháng 11 năm 1941, và khi lệnh bỏ tàu được phát ra một lần nữa lúc 04 giờ 00, độ nghiêng đạt đến 27°.[89] Số người còn lại trong thủy thủ đoàn của Ark Royal được chuyển sang Legion lúc 04 giờ 30 phút; và ngoại trừ thủy thủ duy nhất thiệt mạng ngay trong vụ nổ, không có thương vong nào khác. Tổng số 1.487 sĩ quan và thủy thủ của nó được chở đến Gibraltar.[90] Độ nghiêng của con tàu đạt đến 45° trước khi Ark Royal lật úp và chìm lúc 06 giờ 19 phút ngày 14 tháng 11.[91] Những người tận mắt chứng kiến đã báo cáo con tàu bị nghiêng đến 90°, và ở tư thế đó trong ba phút trước khi lật úp hẵn. Ark Royal bị vỡ làm đôi, phần đuôi chìm trước trong vòng vài phút, rồi được tiếp nối bởi phần mũi.[92]

Điều tra

Sau khi chiếc tàu sân bay bị chìm, một Ủy ban Điều tra được thành lập để tìm hiểu về tổn thất này. Dựa trên những khám phá của Ủy ban, Thuyền trưởng Maund bị đưa ra xét xử tại tòa án quân sự vào tháng 2 năm 1942. Ông bị kết án là có tội trong hai điểm: Không duy trì hoạt động của các đội kiểm soát hư hỏng trên tàu sau khi đưa ra lệnh di tản chung, và không đảm bảo sự sẵn sàng chiến đấu của con tàu để đối phó với những mối hiểm họa tiềm tàng.[93] Ủy ban cũng làm dịu bớt những phê phán của mình khi thừa nhận đã đặt ra những tiêu chuẩn đòi hỏi cao đối với Maund, và ghi nhận ông đã hành động khi ưu tiên quan tâm đến sự an toàn của thủy thủ đoàn dưới quyền.[93]Ủy ban Bucknill, vốn được thành lập để điều tra về sự tổn thất của các tàu chiến chủ lực, cũng có bản báo cáo riêng của mình. Báo cáo cho rằng sự thiếu sót một hệ thống phát điện dự phòng là một sai sót thiết kế nghiêm trọng, góp phần vào việc tổn thất: Ark Royal phải dựa vào điện năng trong hầu hết các hoạt động của nó, và một khi các nồi hơi và máy phát điện chạy bằng hơi nước bị hỏng, việc mất điện sẽ khiến công việc kiểm soát hư hỏng trở nên khó khăn. Ủy ban đã đề nghị cải tiến việc thiết kế các vách ngăn và cửa hút gió các nồi hơi để giảm thiểu nguy cơ ngập nước tràn lan đến các phòng nồi hơi và phòng động cơ. Những thiếu sót trong thiết kế được lập tức sửa đổi trên các lớp tàu sân bay Illustrious và Implacable đang được chế tạo vào lúc đó.[94][95]Ủy ban Điều tra kết thúc bản báo cáo của mình với kết luận là Ark Royal bị chìm tại vị trí 41 km (22 hải lý) về phía Đông Europa Point, điểm cực Nam của Gibraltar. Điều này được tin tưởng và chấp nhận rộng rãi trong hơn 60 năm.[96]

Tái khám phá

Vị trí chính xác của chiếc tàu đắm hoàn toàn không được biết rõ cho đến giữa tháng 12 năm 2002, khi nó được khám phá bởi một đoàn quay phim BBC tại vị trí cách Gibraltar 56 km (30 hải lý).[97] Nhóm này đang làm việc cho một bộ phim tài liệu về khảo cổ hàng hải liên quan đến các trận đánh chính yếu của Hải quân Hoàng gia Anh.[97] Xác tàu đắm của Ark Royal bị tách làm hai phần: một phần mũi tàu dài 20 m (66 ft) bị rời ra khỏi phần còn lại của thân tàu; trong khi một loạt mảnh vụn, bao gồm những gì còn lại của ống khói và đảo cấu trúc thượng tầng, những phần của thân tàu bị rời ra khi chiếc tàu sân bay chìm, cùng những máy bay bên trong sàn chứa, nằm rãi rác tại khu vực giữa hai phần thân tàu. Việc phân tích cho thấy mạn trái của con tàu đã chạm đáy biển trước tiên.[98]Xác tàu đắm được tìm thấy xa hơn về phía Đông so với vị trí từng được nêu lên sau khi nó bị chìm. Thoạt tiên, các nhà nghiên cứu cho là xác tàu đắm bị dòng hải lưu chảy ngang qua eo biển Gibraltar cuốn nó vào Địa Trung Hải, khiến con tàu bị trôi dạt dưới nước về phía Đông trước khi chìm đến đáy biển.[99] Tuy nhiên, sự hiện diện của các mảnh vỡ ngay bên cạnh xác tàu đắm, kể cả một chiếc máy bay ném bom Swordfish bị cuốn khỏi sàn đáp trước khi con tàu lật úp chứng minh rằng giả thuyết này là sai; vì các mảnh vỡ sẽ bị cuốn đi đến một vùng rộng hơn rất nhiều. Dòng hải lưu có ảnh hưởng nhất định đến việc di chuyển của nó về hướng Gibraltar, cho dù nó đã được lai dắt đi trong nhiều giờ.[100] Việc nghiên cứu xác tàu đắm cũng cho thấy việc khởi động lại động cơ trên con tàu nhằm cung cấp điện năng đã gia tăng áp lực lên thân tàu, góp phần vào việc ngập nước. Khi điện năng đã bị mất, hoàn toàn không thể ngăn được việc con tàu chìm - một số phận được định trước do khiếm khuyết trong thiết kế hơn là do những hành động của vị chỉ huy con tàu.[100]

Ghi chú

Hiệp ước Hải quân Washington ký kết vào tháng 2 năm 1922 đặt ra giới hạn tổng tải trọng 135.000 tấn cho các tàu sân bay Anh, trong đó không có chiếc nào vượt quá 32.000 tấn và chỉ có hai chiếc được phép lớn hơn 27.000 tấn.[94] Hiệp ước Hải quân London ký kết vào tháng 4 năm 1930 không cho phép các bên tham gia được đóng mới tàu chiến chủ lực, hay cải biến tàu chiến hiện có thành tàu sân bay cho đến năm 1937.[101

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay riêng

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Armstrong Whitworth

Đặt lườn: 20 tháng 2 năm 1913

Hạ thủy: 8 tháng 6 năm 1918

Hoạt động: 26 tháng 2 năm 1924

Bị mất: Bị tàu ngầm U-73 đánh chìm ngày 11 tháng 8 năm 1942

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 21.630 tấn (tiêu chuẩn); 26.000 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 203,5 m (667 ft 6 in)

Mạn thuyền: 28,7 m (94 ft) mực nước

Tầm nước: 7,5 m (24 ft 8 in)

Lực đẩy: 4 × turbine Brown-Curtis

32 × nồi hơi

4 trục

công suất 50.000 mã lực (37,3 MW)

Tốc độ: 41,7 km/h (22,5 knot)

Tầm xa: 7.400 km ở tốc độ 33 km/h

(4.000 hải lý ở tốc độ 18 knot)

Quân số: 950

Vũ khí: 9 × pháo 152 mm (6 inch)

12 × pháo phòng không 20 mm Oerlikons

4 × pháo 2 Pounder

Vỏ giáp:

Máy bay: 21 Hawker Sea Hurricane

HMS Eagle là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó được đặt lườn trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra như là chiếc thiết giáp hạm Almirante Cochrane dành cho Chile. Đến năm 1917, Anh Quốc mua lại con tàu để cải biến nó thành một tàu sân bay có sàn đáp suốt chiều dài con tàu, và được đưa ra hoạt động vào năm 1924.Eagle tiếp tục phục vụ vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, hoạt động chủ yếu tại Chiến trường Địa Trung Hải, nơi nó tham gia hộ tống nhiều đoàn tàu vận tải đến tăng viện cho đảo Malta, cũng như chuyển giao máy bay chiến đấu đến Malta nhằm tăng cường việc phòng không tại đây. Eagle bị trúng ngư lôi từ chiếc tàu ngầm U-boat Đức U-73 vào ngày 11 tháng 8 năm 1942, đang khi tham gia hộ tống một đoàn tàu vận tải khác đến Malta trong Chiến dịch Pedestal.

Thiết kế và chế tạo

Năm 1911, Hải quân Chile đặt mua hai thiết giáp hạm thuộc thế hệ Siêu-Dreadnought có lượng rẽ nước 28.000 tấn mỗi chiếc, được trang bị mười khẩu pháo 356 mm (14 inch) và mười sáu khẩu 152 mm (6 inch), được đặt tên lần lượt là Almirante Latorre (Đô đốc Latorre) và Almirante Cochrane (Đô đốc Cochrane).[1][2] Almirante Latorre được đặt lườn vào tháng 11 năm 1911, và Almirante Cochrane được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Armstrong tại Newcastle-on-Tyne vào ngày 20 tháng 2 năm 1913.[3] Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, việc chế tạo chúng bị ngưng lại; và vì Almirante Latorre hầu như đã hoàn tất, nó được Hải quân Hoàng gia Anh mua lại và đưa vào hoạt động như một thiết giáp hạm dưới tên gọi HMS Canada vào năm 1915.[2] Việc chế tạo chiếc Almirante Cochrane chưa tiến triển bao nhiêu, và không có công việc nào được tiến hành cho đến năm 1917, khi người Anh quyết định hoàn tất nó như một tàu sân bay. Nó được mua lại của Chile với giá 1,3 triệu Bảng Anh, được cải biến thành tàu sân bay HMS Eagle. Nó là chiếc tàu chiến thứ 14 của Hải quân Anh mang cái tên này.Bản thiết kế lại ban đầu dự định sử dụng nó như một căn cứ hoạt động dành cho thủy phi cơ. Sau các thử nghiệm với những chiếc tàu khác, nó được đổi thành một tàu sân bay hạm đội có sàn đáp kéo dài suốt ciều dài con tàu và một đảo cấu trúc thượng tầng. Chiếc tàu sân bay được cho hạ thủy vào ngày 8 tháng 6 năm 1918,[4] nhưng sự trì hoãn đã khiến cho Eagle không kịp hoàn tất trước khi chấm dứt xung đột. Công việc tiếp tục hoàn thiện nó bị kéo dài sau khi chiến tranh kết thúc, và bị tạm ngưng vào tháng 10 năm 1919 do Chile muốn mua lại con tàu và cải biến nó ngược lại thành thiết giáp hạm. Nhu cầu của Hải quân Hoàng gia cần tiến hành các thử nghiệm trên một tàu sân bay có đảo cấu trúc thượng tầng đã khiến cho việc chế tạo Eagle được tái tục vào tháng 11,[3] được tiến hành chạy thử máy ngoài biển và các thử nghiệm bay đầu tiên vào tháng 2 năm 1920. Sau đó nó được gửi đến căn cứ Devonport để hoàn tất, khi các lò đốt động cơ của nó được thay đổi từ kiểu đốt hỗn hợp than-dầu sang đốt toàn bộ bằng dầu, trang bị một đảo cấu trúc thượng tầng dài hơn và một đai giáp chống ngư lôi.[3] Cuối cùng Eagle được đưa ra hoạt động vào ngày 26 tháng 2 năm 1924.[5]

Lịch sử hoạt động

Giữa hai cuộc thế chiến

Là chiếc tàu sân bay cỡ lớn đầu tiên có sàn đáp dọc suốt chiều dài con tàu gia nhập Hải quân Hoàng gia, Eagle được gửi đến Địa Trung Hải để phục vụ trong Hạm đội Địa Trung Hải từ năm 1924 đến năm 1931, khi nó quay trở về Anh Quốc cho một đợt cải biến lớn, được trang bị các nồi hơi mới, dây hãm để giúp hạ cánh máy bay, và cải tiến hệ thống hỏa lực phòng không.[5][6]Sau khi được cải biến, vào năm 1933 Eagle được gửi sang Viễn Đông, nơi nó phục vụ cho đến hết năm 1934. Máy bay của nó tham gia các hoạt động chống lại các tàu cướp biển và căn cứ của chúng trước khi được cho quay trở về Địa Trung Hải vào năm 1935. Nó lại được gửi đến Viễn Đông vào năm 1937, và ở lại đây cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra.[5]

Giai đoạn mở đầu Thế Chiến II

Vào tháng 9 năm 1939, Eagle đặt căn cứ tại Singapore với một lực lượng không quân phối thuộc bao gồm hai phi đội 813 và 823 với tổng cộng 18 máy bay ném bom-ngư lôi Fairey Swordfish.[5] Hoạt động tác chiến đầu tiên của nó trong cuộc chiến là tham gia việc truy tầm chiếc thiết giáp hạm bỏ túi Đức Graf Spee. Chiếc tàu sân bay bước vào năm 1940 lúc đang hoạt động tại Ấn Độ Dương, nhưng vào ngày 14 tháng 3, một quả bom trên tàu bị tai nạn phát nổ trong khi đang được gắn kíp, khiến mười ba người thiệt mạng.[7] Sau khi được sửa chữa, vào tháng 5 nó gia nhập lực lượng cùng các tàu chiến Malaya, Ramillies, Royal Sovereign và Warspite để hoạt động tại khu vực Đông Địa Trung Hải gần Alexandria.Vào đầu tháng 7, Hạm đội Địa Trung Hải, bao gồm Eagle, tiến hành các hoạt động nhằm bảo vệ cho các đoàn tàu vận tải đi và về Malta. Ngày 9 tháng 7, nó nằm trong thành phần tham gia vụ đối đầu không hiệu quả với Hạm đội Ý tại Calabria, đôi khi còn được gọi là Trận Punta Stilo. Vào ngày 10 tháng 7, những chiếc máy bay Swordfish của Eagle đã tấn công cảng Augusta tại Sicily, phóng ngư lôi vào chiếc tàu khu trục Leone Pancaldo.[8] Giữa những chuyến hải trình của Eagle, những chiếc máy bay Swordfish của nó hoạt động từ căn cứ trên đất liền đã tấn công Tobruk, một cuộc tấn công tương tự vào ngày 5 tháng 7 đã đánh chìm tàu khu trục Ý Zeffiro và một tàu buôn,[9] và một cuộc tấn công tương tự được thực hiện hai tuần sau đó, ngày 20 tháng 7, đã đánh chìm thêm hai tàu khu trục nữa.[10]Vào ngày 22 tháng 8, máy bay của nó tấn công và đánh chìm chiếc tàu ngầm Ý Iride và chiếc tàu quân nhu Monte Gargano trong vịnh Bomba.[10] Sang tháng 9 nó tham gia cùng chiếc tàu sân bay HMS Illustrious trong Chiến dịch Hats, và hỗ trợ cho một cuộc tấn công nhắm vào Maritza thuộc Rhodes.Vào giữa tháng 10, chiếc tàu sân bay là thành phần bảo vệ cho đoàn tàu vận tải MB-6 đến tăng viện cho Malta, và bị hư hại do những cú tấn công suýt trúng đích. Máy bay của nó hoạt động từ tàu sân bay Illustrious khi tấn công Taranto trong Chiến dịch Judgement vào ngày 11 tháng 11, trong khi chiếc Eagle ở lại Alexandria để sửa chữa. Vào ngày 26 tháng 11, máy bay của nó tấn công Tripoli, làm hư hại một tàu chở hàng.[10]Vào tháng 3 năm 1941, nó được cho chuyển đến Freetown. Máy bay của nó, cất cánh từ cảng Sudan, đã tấn công các tàu bè Ý tại Massawa trên đường đi. Đến Freetown vào đầu tháng 5, Eagle thực hiện các chuyến bay tuần tra tại khu vực Nam Đại Tây Dương, truy lùng các tàu cướp-tàu-buôn Đức và những tàu tiếp liệu cho chúng. Đến tháng 10 năm 1941, nó quay về Anh để tái trang bị tại xưởng tàu Cammell Laird, Birkenhead, công việc này kéo dài cho đến tận tháng 1 năm 1942.[10]Nó lại gia nhập Hạm đội Địa Trung Hải vào đầu năm 1942. Vào tháng 2 năm 1942, nó thực hiện vận chuyển máy bay đến Malta, một hoạt động được lặp lại vào tháng 5 và thêm hai lần nữa vào tháng 6. Từ ngày 12 tháng 6 đến ngày 16 tháng 6, Eagle còn hỗ trợ trên không cho đoàn tàu vận tải trong chiến dịch Harpoon.

Trận Malta

HMS Eagle đóng một vai trò then chốt trong Trận Malta[11]. Cùng với chiếc tàu sân bay Mỹ Wasp, nó tham gia vào việc tiếp liệu mang tính thiết yếu cho lực lượng phòng ngự trên hòn đảo đang bị tiêu hao, chủ yếu là tăng cường những chiếc máy bay tiêm kích Hurricane Mark II, đọ sức với lực lượng tiêm kích và ném bom của Không quân Ý và Không quân Đức có số lượng lớn hơn nhiều, ở cách 145 km (90 dặm) về phía Bắc trên đảo Sicily.Sự thành công của các tàu tuần dương trong Lực lượng K, cùng với các tàu ngầm thuộc Chi hạm đội 10, và một lực lượng bổ sung đặc biệt của Wellingtons và Beauforts tại Malta đã buộc Hitler phải ra lệnh huy động 65 chiếc tàu ngầm U-boat từ khu vực Bắc Đại Tây Dương sang chiến trường Địa Trung Hải.[12] Ngoài ra, toàn bộ Tập đoàn Không quân dã chiến II, do Kesselring chỉ huy, một trong số ba tập đoàn không quân đã tiến hành bao vây Moscow, cũng được điều động từ Mặt trận phía Đông sang Sicily.[13] Sự kiện đánh chìm toàn bộ đoàn tàu vận tải Duisburg, gồm tổng cộng bảy tàu vận tải, bởi Lực lượng K vào ngày 8 tháng 11 năm 1941 đã thúc đẩy Hitler đi đến quyết định tai hại này.[14]"Quyết định được đưa ra bởi Hitler và Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Đế chế Đức tại Berlin để chuyển Tập đoàn Không quân dã chiến II sang Sicily và một số lớn tàu ngầm U-boat sang Địa Trung Hải có tầm quan trọng về tâm lý cũng như phương tiện vật chất sâu sắc. Trong lần này, Hitler đã phản ứng lại một thắng lợi của Đồng Minh; ông ta tiến hành một cuộc phản công. Đây là lần đầu tiên kể từ khi tấn công Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, ông ta đã phải nhảy theo điệu nhạc của Đồng Minh. Một ánh sáng le lói đã xuất hiện ở cuối con đường hầm dài và đen tối."[13]Cái mà người Đức và người Ý không được biết, bộ máy mật mã Enigma (C38) từ lâu đã bị giải mã bởi hệ thống Ultra của Đồng Minh. Được thông báo trước những chi tiết chính xác về vị trí, thời gian khởi hành và đích đến của những đoàn tàu vận tải của khối Trục, phe Đồng Minh đã có thể gây ra tổn thất tối đa cho chúng mà vẫn giữ kín được nguồn gốc của những tin tức tình báo này ngoài những suy đoán của đối phương. Vì vậy, lực lượng của Rommel bị ngăn chặn khỏi các nguồn tiếp liệu tối cần để duy trì sức tấn công của Chiến dịch Bắc Phi. Bí mật về nguồn tin tình báo này, tại Malta chỉ có Gort và Cunningham nắm được.Hai đợt nỗ lực đầu tiên được thực hiện nhằm tăng cường cho mạng lưới phòng không tại Malta bằng những máy bay tiêm kích có tính năng cao, gồm những nhóm nhỏ máy bay Spitfire thuộc Phi đội 249 cất cánh từ HMS Eagle trong các ngày 7 và 31 tháng 3 năm 1942.[15]Nỗ lực thứ ba có sự tham gia của chiếc tàu sân bay Mỹ USS Wasp, vốn đã khởi hành rời cảng Glasgow đi đến Algiers vào ngày 15 tháng 4, và sang ngày 20 đã đến được khu vực phụ cận trong tầm bay đến Malta. Sáng sớm ngày hôm đó, 47 chiếc Spitfire Mark V trang bị thêm các thùng nhiên liệu phụ đặc biệt đã cất cánh từ chiếc tàu sân bay, và sau vài giờ bay đã đến được Malta đang khi hòn đảo này đang phải chịu đựng một đợt không kích, khiến một số chiếc bị phá hủy. Đến ngày 23 tháng 4, tất cả đều bị tiêu diệt hoặc không thể sửa chữa được, do bị tấn công bởi 300 phi vụ của những chiếc Ju 87, Ju 88 và Me 109 được tung ra từ ngày 20 đến ngày 23 tháng 4. Các sân bay Takali (Ta' Qali), Hal Far và Luqa chịu đựng trên 500 tấn bom trong thời gian đó.[16]Thủ tướng Winston Churchill, nhận thức rằng Malta có thể thất thủ nếu không có một biện pháp can thiệp nào khác, đã nhận gánh nặng vào tay mình."Đích thân Churchill gọi điện cho Tổng thống Hoa Kỳ F.D. Roosevelt, một lần nữa yêu cầu hỏi mượn chiếc tàu sân bay Wasp. Với sự đồng ý ngay lập tức của Tổng thống, các công việc sắp xếp được thực hiện để Wasp cùng khởi hành với chiếc tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh HMS Eagle hướng về phía Malta với tổng cộng 64 máy bay được xếp trong hầm tàu và chất đầy trên sàn đáp."[17]Lần này, để tránh bị bắt gặp bất ngờ trên sân bay, những chiếc máy bay vừa đến nơi lập tức được tiếp đạn và tiếp nhiên liệu, rồi được cho cất cánh trong vòng vài phút để đối đầu trên không cùng những máy bay đối phương.[18]Phe Đồng Minh giành lại được ưu thế trên không bên trên hòn đảo vào ngày 10 tháng 5 năm 1942, sau đợt tăng viện thứ tư, đối đầu cùng lực lượng máy bay đối phương ngoài mặt trận với số lượng khoảng 600 máy bay. Điều này đã góp phần vào quyết định tạm ngừng, rồi sau đó là hủy bỏ hẵn, Chiến dịch Herkules, kế hoạch của phe Trục nhằm xâm chiếm đảo Malta. Một phần nhờ vào sự chi viện của Eagle, hòn đảo giờ đây không còn phải chịu đựng những quả bom cháy vốn đã phá hủy thủ phủ cổ xưa và hải cảng trên đảo thành đống gạch vụn. Tuy nhiên cho đến lúc này, khả năng tấn công của Malta hầu như bị vô hiệu hóa, khi chỉ đánh trúng một lần duy nhất, có thể là trúng chiếc tàu hàng Reginaldo Giuliani, tải trọng 5.000 tấn bởi một đơn vị của Wellington vào ngày 5 tháng 6.[19] Các tàu tuần dương của Lực lượng K và tàu ngầm của Chi hạm đội 10 giờ đây phải rút lui về vùng biển an toàn hơn tại khu vực Trung Đông, nhưng với tình hình lương thực và tiếp liệu trở nên căng thẳng, việc tiếp tế trở nên cần thiết để giúp hòn đảo kiên cường không bị chiếm đóng.[20]Vào tháng 6 năm 1942, Eagle hỗ trợ trên không cho một đoàn tàu vận tải nữa dưới tên gọi chiến dịch Harpoon, một trong hai đoàn tàu vận tải (chuyến kia có tên gọi Chiến dịch Vigorous) được thực hiện đồng thời hướng về phía Malta nhưng từ hai hướng đối nghịch. Ý tưởng của kế hoạch nhằm phân tán lực lượng Hải quân Ý xem ra khá hay, nhưng chính lực lượng của Không quân Đức đã ngăn cản đoàn tàu vận tải Vigorous đến được Malta. Những con tàu hộ tống cho chúng đã tiêu phí gần hết số đạn phòng không trong khi chúng chỉ đi được nữa đường từ Alexandria đến Malta, và bị buộc phải quay mũi rút lui, cho dù theo tin tức giải mã được bởi Ultra, hạm đội Ý đã rút lui về Taranto. Những con tàu tham gia Chiến dịch Harpoon cũng phải chịu đựng những trận không kích ác liệt, và cho dù những máy bay Hurricane trên chiếc Eagle đã ngăn chặn được nhiều cuộc tấn công, bắn rơi chín máy bay đối phương và có thể đã tiêu diệt thêm hai chiếc nữa,[21] đoàn tàu vận tải vẫn phải chịu đựng sự tấn công từ các hạm tàu nổi sau khi lực lượng hộ tống (kể cả chiếc Eagle) rút lui. Chỉ có hai chiếc tàu chở hàng, Troilus và Orari, trong tổng số sáu chiếc rời cảng Gibraltar đến được Malta; tổng cộng chúng chở theo 25.000 tấn hàng tiếp liệu, cho phép hòn đảo tiếp tục chiến đấu thêm hai tháng nữa.[22]Ngày 5 tháng 6 năm 1942, điều kiện cuối cùng trong số hai điều kiện tiên quyết cho phép sự quay trở lại của những chiếc tàu ngầm thuộc Chi hạm đội 10 giờ đây được đáp ứng. Với các nguồn tiếp liệu dồi dào, Hải quân Hoàng gia có thể đảm bảo các tuyến đường biển dẫn đến cảng Grand tương đối sạch mìn. Điều kiện thứ nhất về việc chiếm lại được ưu thế trên không đã được đáp ứng trước đó vào ngày 10 tháng 5.[23] Tuy nhiên, việc giải tỏa hoàn toàn áp lực đối với Malta chỉ đạt được vào ngày 15 tháng 8, sau khi hoàn thành Chiến dịch Pedestal.Eagle là một trong số ba tàu sân bay được giao nhiệm vụ hộ tống cho Chiến dịch Pedestal, hai chiếc kia là Victorious và Indomitable. Vào sáng sớm ngày 11 tháng 8, một ngày sau khi đoàn tàu vận tải đi vào Địa Trung Hải, Eagle bị bắn trúng bốn quả ngư lôi từ chiếc tàu ngầm Đức U-73 do Helmut Rosenbaum chỉ huy, và bị chìm cách phía Nam mũi Salina 130 km (70 hải lý) ở tọa độ 38°3′0″N 3°1′12.00″ETọa độ: 38°3′0″N 3°1′12.00″E, chỉ trong vòng bốn phút sau khi bị bắn trúng. Có tổng cộng 160 sĩ quan và thủy thủ, hầu hết là bên dưới các phòng máy, bị mất theo con tàu cùng với 16 chiếc Sea Hurricane.[21]Eagle trở thành một trong hai chiếc tàu sân bay bị mất trong việc phòng thủ đảo Malta, chiếc tàu sân bay kia là HMS Ark Royal. Bản thân chiếc tàu ngầm U-73 bị các tàu nổi đánh chìm vào ngày 16 tháng 12 năm 1943.[24]Tính đến cuối tháng 10 năm 1942, Malta nhận được tổng cộng 367 chiếc máy bay Spitfire, hầu hết được vận chuyển bởi Wasp và Eagle.[25] Chiếc dịch Pedestal, mà đặc biệt là việc chất dỡ hàng hóa tiếp liệu tối cần thiết khỏi chiếc SS Ohio đang mắc cạn trong cảng Grand, là một biểu tượng mạnh mẻ của nền độc lập tại Malta.

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Illustrious

Xưởng đóng tàu: Harland & Wolff, Belfast, Bắc Ireland

Đặt lườn: 17 tháng 6 năm 1937

Hạ thủy: 17 tháng 8 năm 1939

Hoạt động: 24 tháng 11 năm 1940

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ năm 1956

Ngừng hoạt động: 1947

Xóa đăng bạ: 1953

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 28.661 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 226,7 m (743 ft 9 in)

Mạn thuyền: 28,9 m (95 ft)

Tầm nước: 8,5 m (28 ft) đầy tải

Lực đẩy: 3 × turbine hơi nước Pearsons

6 × nồi hơi Admiralty,

3 × trục

công suất 110.000 mã lực (82 MW)

Tốc độ: 56 km/h (30,5 knot)

Tầm xa: 20.000 km ở tốc độ 26 km/h

(11.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 1.200

Vũ khí: 8 × pháo QF 113 mm (4.5 inch) Mk III

48 × pháo QF 2 pounder

Vỏ giáp:

Máy bay: 1940: 36 Fulmar/Swordfish

1943: Martlet, Seafire và Albacore

1945: 54 Corsair/Avenger

HMS Formidable (67) là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh thuộc lớp Illustrious. Nó từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại các chiến trường Địa Trung Hải, Bắc Đại Tây Dương và Viễn Đông; và sau chiến tranh nó bị tháo dỡ vào năm 1956.

Thiết kế và chế tạo

Formidable được chế tạo tại xưởng đóng tàu của hãng Harland & Wolff tại Belfast, Bắc Ireland. Nó được đặt lườn vào ngày 17 tháng 6 năm 1937; và vào ngày 17 tháng 8 năm 1939 nó đã "tự hạ thủy" nữa giờ trước giờ quy định. Chiếc tàu sân bay được đưa ra hoạt động vào ngày 24 tháng 11 năm 1940.

Lịch sử hoạt động

Địa Trung Hải và Bắc Đại Tây Dương

Formidable tham gia Trận chiến mũi Matapan từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 3 năm 1941.[1] Vào ngày 26 tháng 5 năm 1941, chiếc tàu sân bay bị hư hại nặng khi tham gia vận chuyển máy bay đến đảo Malta tăng cường cho hòn đảo đang bị vây hãm, bị đánh trúng hai quả bom 1000 kg buộc nó phải ngừng hoạt động trong sáu tháng.[1] Sau khi được sửa chữa tại Xưởng hải quân Norfolk ở Hoa Kỳ, Formidable được tái trang bị bằng các kiểu máy bay tiêm kích Mỹ Vought Corsair[2] và F4F Martlet.[3]Năm 1942, chiếc tàu sân bay băng ngang Thái Bình Dương và hoạt động một thời gian ngắn tại Ấn Độ Dương trước khi quay lại Địa Trung Hải vào tháng 10. Sau đó, Formidable hỗ trợ trên không cho Chiến dịch Bắc Phi[3] và Chiến dịch Ý (1943), bao gồm cuộc đổ bộ lên Sicily (Chiến dịch Husky)[4]; trước khi được chuyển đến khu vực Bắc Đại Tây Dương tham gia hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến biển Bắc Cực.[5] Ngày 17 tháng 11 năm 1943, máy bay của HMS Formidable đã tấn công và đánh chìm được chiếc tàu ngầm U-Boat U-331 (chiếc U-Boat đã đánh chìm HMS Barham).[3]Ngày 17 tháng 7 năm 1944, những chiếc Swordfish cất cánh từ Formidable đã tham gia Chiến dịch Mascot, cuộc tấn công nhắm vào chiếc thiết giáp hạm Đức Tirpitz tại Na Uy.[6] Chiếc tàu sân bay còn tham gia các cuộc tấn công khác nhắm vào chiếc Tirpitz trong tháng 8, như là một phần của Chiến dịch Goodwood.[5]

Viễn Đông

Sang năm 1945, Formidable đã tham gia chiến đấu chống lại lực lượng Nhật Bản trong thành phần Hải đội Tàu sân bay 1 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc, và đã phải chịu đựng những cuộc tấn công cảm tử kamikaze trong khi hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lên Okinawa.[7][2] Vào ngày 4 tháng 5 lúc khoảng sau 11 giờ 30 phút, một máy bay Nhật bổ nhào từ một độ cao lớn nhắm vào Formidable. Cho dù đã bị hỏa lực pháo phòng không bắn trúng ở cự ly gần, chiếc máy bay cảm tử đâm bổ xuống sàn đáp, làm vỡ một lổ hổng lớn kích thước 3 × 0,6 m (10 × 2 ft) trên sàn đáp bọc thép. Một mảnh thép lớn xuyên thủng sàn chứa máy bay và phòng nồi hơi trung tâm, làm vỡ một ống dẫn hơi nước, và xuyên đến một thùng chứa nhiên liệu, gây một đám cháy dữ dội tại hầm chứa máy bay. Tám thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng cùng 47 người khác bị thương. Dù sao, lớp sàn đáp được bảo vệ bằng vỏ giáp thép dày 76 mm (3 inch) trên chiếc Formidable đã ngăn ngừa những hư hỏng khác nghiêm trọng hơn gây ra bởi các cuộc tấn công kiểu này.[8] Một chiếc Corsair và mười chiếc Grumman Avenger bị phá hủy. Tuy nhiên, đám cháy dần dần được kiểm soát, và lổ hổng trên sàn đáp được sửa chữa bằng những tấm thép và bê tông. Đến 17 giờ 00, những chiếc Corsair lại có thể hạ cánh trên chiếc Formidable. Một cuộc tấn công Kamikaze khác cũng đã đánh trúng sàn đáp chiếc Formidable vào ngày 9 tháng 5 năm 1945, nhưng mức độ thiệt hại không thể nào so được với cuộc tấn công bốn ngày trước đó.[9]

Sau chiến tranh

Sau chiến tranh, sự tích lũy các hư hại trong chiến đấu trên khắp các chiến trường, đặc biệt là hư hại do trúng bom tại Địa Trung Hải, khiến cho chiếc tàu sân bay vĩnh viễn bị thương tật; và một ủy ban điều tra của Hải quân Hoàng gia đã kết luận rằng việc sửa chữa nó không kinh tế. Formidable được đưa về lực lượng dự bị vào năm 1947, và 'Old Formy' không bao giờ được đưa ra hoạt động nữa. Nó được bán vào năm 1953 và được tháo dỡ từ tháng 11 năm 1956.[1]

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Glorious có cải tiến

Xưởng đóng tàu: Armstrong Whitworth, Wallsend

Đặt lườn: 8 tháng 6 năm 1915

Hạ thủy: 15 tháng 8 năm 1916

Hoạt động: 26 tháng 6 năm 1917

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 15 tháng 3 năm 1948

Ngừng hoạt động: 1944.

Xóa đăng bạ:

Các đặc tính chung

(tàu chiến-tuần dương)

Lượng rẽ nước: 22.000 tấn

Chiều dài: 239,7 m (786 ft 6 in)

Mạn thuyền: 26,8 m (88 ft)

Tầm nước: 6,4 m (21 ft)

Lực đẩy: 18 × nồi hơi Yarrow, áp suất 1.620 kPa (235 psi)

4 × turbine hơi nước Brown-Curtis

4 trục

công suất 91.195 mã lực (67 MW)

Quân số: 880

Vũ khí: 2 × pháo 457 mm (18 in)

11 × pháo 140 mm (5,5 inch)

2 × pháo phòng không 76 mm (3 inch)

4 x pháo 47 mm

2 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch) ngầm dưới mực nước

Vỏ giáp: Đai giáp & vách ngăn: 50-75 mm (2-3 inch)

Sàn tàu: tối đa 75 mm (3 inch)

Tháp súng: 100-178 mm (4-7 inch)

Tháp pháo: tối đa 228 mm (9 inch)

Tháp chỉ huy 254 mm (10 inch)

Các đặc tính chung

(tàu sân bay)

Lượng rẽ nước: 19.513 tấn (tiêu chuẩn);

22.890 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 228,6 m (750 ft) (mực nước);

239,6 m (786 ft) (chung)

Mạn thuyền: 26,8 m (88 ft)

Tầm nước: 7,6 m (25 ft)

Lực đẩy: 18 × nồi hơi Yarrow, áp suất 1.620 kPa (235 psi)

4 × turbine hơi nước Brown-Curtis

4 trục

công suất 91.195 mã lực (67 MW)

Tốc độ: 58,3 km/h (31,5 knot)

Tầm xa: 11.100 km ở tốc độ 37 km/h

(6.000 hải lý ở tốc độ 20 knot)

Quân số: 1.218

Vũ khí: 12 × pháo 102 mm (4 inch) (6 × 2)

48 × pháo QF 2 pounder (40 mm) (6 × 8)

22 × pháo 20 mm (22 × 1)

Vỏ giáp: đai giáp 76 mm (3 inch)

sàn tàu 50 mm (2 inch)

Máy bay: 22-40

HMS Furious là một tàu tuần dương hạng nhẹ lớn thuộc lớp Glorious cải tiến (một dạng phát triển cực đoan của tàu chiến-tuần dương) của Hải quân Hoàng gia Anh được cải biến thành một tàu sân bay hạng nhẹ. Nó từng tham gia hoạt động trong cả Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất lẫn thứ hai trước khi được đưa về lực lượng dự bị vào năm 1944 và tháo dỡ vào năm 1948.

Thiết kế và chế tạo

HMS Furious thuộc vào lớp "tàu tuần dương lớn hạng nhẹ", trong đó còn có những chiếc HMS Courageous và HMS Glorious, là những đứa con tinh thần của Đô đốc John Fisher, và được thiết kế như những "tàu diệt tàu tuần dương hạng nhẹ". Thoạt tiên chúng được dự định để hỗ trợ các chiến dịch gần bờ biển nước Đức tại vùng nước nông của biển Baltic trong Thế Chiến I, mà cuối cùng không bao giờ thực hiện. Thiết kế ban đầu của nó là một tàu tuần dương có lớp vỏ giáp khá yếu, nhưng lại trang bị hai khẩu pháo lớn với cỡ nòng lên đến 457 mm (18 inch), một phía trước và một phía sau; với dự tính có một tàu chiến hỏa lực rất mạnh hoạt động chung với các tàu chiến nhỏ hơn tại các eo biển hẹp của vùng biển Baltic. Tuy nhiên, trong khi được chế tạo, người ta nhận ra là nó sẽ hữu ích hơn trong một vai trò hoàn toàn khác hẵn. Chỉ có một trong hai tháp pháo chính được lắp đặt, tháp pháo phía trước được cho tháo dỡ trước khi hạ thủy, và thay thế bằng một sàn đáp dài 49 m (160 ft) dành cho máy bay cất cánh, với một sàn chứa máy bay bên dưới. Khẩu pháo 457 mm (18 inch) phía đuôi được giữ lại và được thử nghiệm vào tháng 7 năm 1917. Kết quả thử nghiệm cho thấy cấu trúc nhẹ của thân tàu không thể chịu đựng được sức giật của khẩu pháo có cỡ nòng quá lớn, vì vậy người ta quyết định sẽ tháo nốt tháp pháo còn lại.

Lịch sử hoạt động

Thử nghiệm đáp máy bay

Ngày 2 tháng 8 năm 1917, trong khi tiến hành các thử nghiệm, Thiếu tá phi công Không quân Hoàng gia Anh Edwin H. Dunning đã cho hạ cánh một chiếc máy bay Sopwith Pup, được tin là mang số hiệu N6453, thành công lên trên chiếc Furious, trở thành người đầu tiên cho hạ cánh một máy bay trên một tàu đang di chuyển. Sang ngày 7 tháng 8, ông thực hiện một lần hạ cánh thành công nữa; tuy nhiên, trong cố gắng lần thứ ba trên chiếc Pup N6452, ông nỗ lực để thực hiện một cú đáp hoàn hảo hơn, nhưng không may là động cơ bố trí hình tròn bị tắc nghẽn và chiếc máy bay bị rơi bên mạn phải con tàu làm ông thiệt mạng. Sự bố trí các sàn đáp không thỏa đáng; để hạ cánh, máy bay phải cơ động vòng qua cấu trúc thượng tầng của con tàu.[1]

Thế Chiến I

Chiếc tàu chiến quay trở lại ụ tàu vào năm 1917 để tháo dỡ tháp súng phía sau đuôi, thay thế bằng một sàn đáp nữa dài 91 m (300 ft) để hạ cánh và một sàn chứa máy bay thứ hai, khiến cho nó có cả sàn đáp và sàn phóng máy bay. Hai thang nâng phục vụ cho sàn chứa máy bay cũng được lắp đặt.Sau khi được đưa vào hoạt động ngày 15 tháng 3 năm 1918, Furious cùng những máy bay phối thuộc cho nó đã hoạt động trong một số trận chiến quan trọng trong Chiấn tranh Thế giới thứ nhất, đáng kể là trận Không kích Tondern vào tháng 7 năm 1918 khi những chiếc Sopwith Camel của nó tấn công nhà ga chứa Zeppelin tại Tondern.

Việc cải tạo

Sau khi chiến tranh kết thúc, Furious được đưa về lực lượng dự bị, và chờ đợi số phận được các nhà chiến lược hải quân Anh quyết định. Khi Hiệp ước Hải quân Washington được ký vào năm 1922, khiến tổng tải trọng các tàu chiến bị dư ra, và nhờ những kinh nghiệm có được từ các tàu chở máy bay khác, Furious được đưa vào ụ tàu để tháo dỡ toàn bộ cấu trúc thượng tầng, trang bị cho nó một sàn đáp chính dọc suốt chiều dài con tàu, và một sàn phóng máy bay ngắn hơn ở bên dưới hướng về phía mũi. Furious tái hoạt động với sàn đáp máy bay mới vào tháng 9 năm 1925.[2]Việc tháo dỡ cấu trúc thượng tầng nặng nề trước đây đã loại trừ được vấn đề tiếp diễn về nhiễu loạn không khí suốt sàn đáp phía sau, và đã tạo ra một hình mẫu cho các tàu sân bay khác được chế tạo trong những năm 1920. Do không có bất kỳ một cấu trúc thượng tầng nào như những chiếc tàu sân bay khác sau này, Furious được điều khiển từ một cầu tàu dẫn đường đặt bên mạn phải phía trước sàn đáp, trong khi việc điều khiển không lưu được thực hiện từ một vị trí lân cận bên mạn trái. Chiếc tàu chiến được sử dụng rộng rãi trong những năm 1920 và 1930 như một nền tảng để phát triển kỹ thuật và chiến thuật sử dụng tàu sân bay cũng như máy bay xuất phát từ tàu sân bay trong Hải quân Hoàng gia. Trong thập niên 1930, nó được tái cấu trúc một lần nữa, khi sàn phóng máy bay bên dưới được cải tạo thành một sàn hỏa lực với nhiều khẩu đội pháo phòng không, và được bổ sung một đảo cấu trúc thượng tầng nhỏ. Với cấu hình cuối cùng như thế mà chiếc tàu sân bay đã phục vụ trong Thế Chiến II.

Thế Chiến II và sau đó

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Furious được bố trí hoạt động cùng Hạm đội Nhà, thoạt tiên là săn đuổi các tàu ngầm U-boat của Đức tại Đại Tây Dương, và vào cuối tháng 7 năm 1941, nó tham gia cuộc không kích bất hạnh xuống Kirkenes và Petsamo trong vùng biển Bắc Cực. Chiếc tàu sân bay tham gia chuyên chở kim loại quý đến Canada, rồi trãi qua một đợt tái trang bị tại Hoa Kỳ từ tháng 10 năm 1941 đến tháng 4 năm 1942. Đến tháng 10 năm 1942, Furious tham gia Chiến dịch Pedestal, vận chuyển máy bay tăng viện đến Malta. Sau khi được tái trang bị một lần nữa tại Mỹ, Furious tham gia Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ quân đội Đồng Minh lên Bắc Phi, vào tháng 11 năm 1942. Sang năm 1943, chiếc tàu sân bay thực hiện các cuộc không kích vào các tàu bè Đức, cũng như tấn công chiếc thiết giáp hạm Tirpitz tại Altafjord, Na Uy. Tuy nhiên, khi chiến tranh tiếp diễn, sự cũ kỹ và những giới hạn của chiếc tàu sân bay ngày càng rõ ràng, và nó được thay thế bằng những tàu chiến hiện đại hơn. Furious được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 9 năm 1944, và sau khi chiến tranh kết thúc, nó bị bán để tháo dỡ vào năm 1948. Công việc tháo dỡ được bắt đầu vào ngày 15 tháng 3 năm 1948 tại Troon.

Đặt hàng: 13 tháng 1 năm 1937

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Illustrious

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Vickers-Armstrongs

Đặt lườn: 27 tháng 4 năm 1937

Hạ thủy: 5 tháng 4 năm 1939

Đỡ đầu:

Hoạt động: 25 tháng 5 năm 1940

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ

Ngừng hoạt động: 1954

Xóa đăng bạ: 3 tháng 11 năm 1956

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 23.000 tấn (tiêu chuẩn); 28.661 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 226,7 m (743 ft 9 in)

Mạn thuyền: 28,9 m (95 ft)

Tầm nước: 8,5 m (28 ft) đầy tải

Lực đẩy: 3 × turbine hơi nước Parsons

6 × nồi hơi Admiralty,

3 × trục

công suất 110.000 mã lực (82 MW)

Tốc độ: 56 km/h (30,5 knot)

Tầm xa: 20.000 km ở tốc độ 26 km/h

(11.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 1.900 (thời chiến)

1.300 (thời bình)

Vũ khí: 1940: 16 × pháo QF 114 mm (4,5 inch) (8 × 2)

48 x pháo QF 2 pounder (6 × 8)

1945: 16 × pháo QF 114 mm (4,5 inch) (8 × 2)

40 × pháo QF 2 pounder (5 × 8)

3 × pháo Bofors 40 mm (3 x 1)

38 × pháo Oerlikon 20 mm (19 x 2)

Vỏ giáp:

Máy bay: 1940: 15 Fulmar và 18 Swordfish

1945: 36 Corsair và 21 Avenger

HMS Illustrious (87) là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc tàu chiến thứ tư của Anh Quốc mang cái tên này, và là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu sân bay mang tên nó vốn bao gồm những chiếc Victorious, Formidable và Indomitable. Nó từng hoạt động tại nhiều chiến trường khác nhau trong Thế Chiến II: Địa Trung Hải, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Sau khi chiến tranh kết thúc, nó phục vụ trong vai trò huấn luyện cho đến khi được cho ngừng hoạt động vào cuối năm 1954, và được bán để tháo dỡ vào ngày 3 tháng 11 năm 1956.

Thiết kế và chế tạo

Illustrious được chế tạo tại xưởng đóng tàu của hãng Vickers-Armstrongs tại Barrow-in-Furness, được hạ thủy vào năm 1939, và được đưa ra hoạt động vào ngày 16 tháng 4 năm 1940. Chiếc tàu sân bay mới có trọng lượng rẽ nước 28.000 tấn và có khả năng mang đến 52 máy bay, một số lượng bị giảm đáng kể so với những tàu sân bay đương thời do nó được trang bị sàn đáp bọc thép. Nó được thủy thủ đoàn đặt cho tên lóng là Lusty.

Lịch sử hoạt động

Illustrious gia nhập hạm đội vào tháng 8 năm 1940. Nhiệm sở đầu tiên của nó là tại Địa Trung Hải, nơi nó được sử dụng trong vai trò hộ tống các đoàn tàu vận tải, tấn công tàu bè đối phương, và không kích các vị trí mục tiêu tại Bắc Phi. Vào ngày 31 tháng 8, nó được sử dụng trong cuộc tấn công các sân bay tại Maritza. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1940, nó trở thành chiếc tàu sân bay đầu tiên trong lịch sử đã tung ra một cuộc tấn công lớn vào hạm đội đối phương, khi đã tấn công vào hạm đội Ý trú đóng tại cảng Taranto. Hai mươi mốt máy bay thuộc các phi đội 813, 815, 819 và 824 xuất phát từ Illustrious đã tấn công hạm đội Ý vào ban đêm. Người Ý hoàn toàn bị bất ngờ và không phòng bị, khiến một thiết giáp hạm bị đánh chìm và hai chiếc khác bị hư hại nặng.Vào ngày 10 tháng 1 năm 1941, trong khi đang hộ tống một đoàn tàu vận tải ở về phía Đông đảo Sicily, Illustrious bị tấn công bởi những máy bay ném bom bổ nhào Savoia-Marchetti SM.79 và Ju-87 "Stuka" của phe Trục, bị đánh trúng tám quả bom gây ra những hư hại đáng kể. Trong khi đang ở lại Malta để sửa chữa, nó lại bị trúng bom một lần nữa, gây ngập nước phòng động động cơ và bị nghiêng sang một bên. Công việc sửa chữa tại chỗ đã khắc phục được độ nghiêng của con tàu, nhưng nó được sơn ngụy trang sao cho xem như vẫn còn bị nghiêng một phần hầu có thể tránh được những đợt ném bom kế tiếp.[1] Vào ngày 23 tháng 1, nó khởi hành đi Alexandria, Ai Cập để được sửa chữa tạm thời, đến nơi vào giữa trưa ngày 25 tháng 1, và sau đó đi đến Virginia để được sửa chữa triệt để tại một nơi an toàn hơn là Xưởng hải quân Norfolk. Một trục chân vịt đã phải được cắt bỏ và vận tốc tối đa của con tàu bị giảm còn 42,6 km/h (23 knot).Illustrious quay trở lại hoạt động vào tháng 5 năm 1942, và lập tức được bố trí đến Ấn Độ Dương; nơi nó cùng chiếc tàu chị em Indomitable tham gia Chiến dịch Ironclad, hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên Diego Suarez thuộc đảo Madagascar vẫn còn do phe chính phủ Vichy kiểm soát. Vào năm 1943, chiếc tàu sân bay quay trở lại Địa Trung Hải, tham gia hoạt động cùng Lực lượng H đặt căn cứ tại lãnh thổ Gibraltar thuộc Anh. Nó đã giúp hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên Sicily vào tháng 9 năm 1943.Vào năm 1944, Illustrious gia nhập Hạm đội Viễn Đông, nơi nó tham gia các cuộc không kích xuống các hòn đảo Indonesia: Sabang vào ngày 22 tháng 7 năm 1944 và Palembang vào các ngày 24 và 29 tháng 1 năm 1945. Sau đó, chiếc tàu sân bay đi đến Fremantle, Australia, để nghỉ ngơi và tiếp liệu. Sau đó nó khởi hành cùng với phần còn lại của Hạm đội Thái Bình Dương vào ngày 4 tháng 3 đến đảo Manus, rồi lại từ đây lên đường vào ngày 19 tháng 3 đi đến Ulithi. Trong thành phần của Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc, được đặt tên Lực lượng đặc nhiệm 57 bởi Đô đốc Nimitz, Illustrious hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Okinawa cùng các tàu sân bay HMS Indomitable, HMS Indefatigable và HMS Victorious. Trong khi hoạt động tại Thái Bình Dương, nó đã hai lần bị máy bay tấn công cảm tử kamikaze đâm trúng, nhưng nhờ cấu trúc vững chắc của kiểu sàn đáp bọc thép, đã có thể chịu đựng được cú va chạm mà không gây hư hại nặng và vẫn có thể tiếp tục thường trực ở vị trí chiến đấu. Tuy nhiên, một cú tấn công kamikaze khác suýt trúng vào ngày 6 tháng 4 đã gây ra những hư hỏng về cấu trúc thân tàu nghiêm trọng bên dưới mực nước; và sau các hoạt động tác chiến tại Đài Loan, nó được chiếc tàu sân bay chị em HMS Formidable thay phiên vào ngày 14 tháng 4 và khởi hành đi Philippines để khảo sát các hư hỏng. Những hư hại trong chiến đấu đã tỏ ra nghiêm trọng hơn dự đoán và chiếc tàu chiến bị buộc phải quay về Sydney và sau cùng là Rosyth để sửa chữa và tái trang bị. Công việc này chỉ hoàn tất vào tháng 6 năm 1946, khi chiến tranh đã kết thúc.[2]Sau chiến tranh, Illustrious được giao các vai trò huấn luyện và thử nghiệm, với vận tốc tối đa bị giới hạn còn 41 km/h (22 knot) do những hư hại tích lũy trong chiến đấu. Nó được tái trang bị và hiện đại hóa từ tháng 1 đến tháng 8 năm 1948, được cho ngừng hoạt động vào cuối năm 1954, được bán vào ngày 3 tháng 1 năm 1956, và cuối cùng nó được tháo dỡ tại Faslane sau một cuộc đời phục vụ thành công. Những chiếc tàu chị em với nó Formidable và Indomitable cũng bị tháo dỡ trong những năm 1950; và Victorious, chiếc cuối cùng trong lớp, bị tháo dỡ vào năm 1969.

Đặt hàng: 6 tháng 7 năm 1937

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Illustrious

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Vickers-Armstrong, Barrow-in-Furness

Đặt lườn: 10 tháng 11 năm 1937

Hạ thủy: 26 tháng 3 năm 1940

Hoạt động: 10 tháng 10 năm 1941

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ năm 1955

Ngừng hoạt động: 1953

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 23.000 tấn (tiêu chuẩn);

29.730 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 230 m (754 ft)

Mạn thuyền: 29,2 m (95 ft 6 in)

Tầm nước: 8,8 m (29 ft)

Lực đẩy: 3 × turbine hơi nước Pearson

6 × nồi hơi

3 × trục

công suất 111.000 mã lực (83 MW)

Tốc độ: 56,5 km/h (30,5 knot)

Tầm xa: 20.000 km ở tốc độ 26 km/h

(11.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 1.392; sau này 2.100

Vũ khí: 16 × pháo phòng không 113 mm (4,5 inch)

48 × pháo phòng không 2 pounder

10 × pháo phòng không 20 mm

Vỏ giáp:

Máy bay: 1943: 55 Seafire/Albacore

1945: 45 Hellcat/Avenger

HMS Indomitable (92) là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh thuộc lớp Illustrious cải tiến. Nó từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại các chiến trường Ấn Độ Dương, Địa Trung Hải và Viễn Đông; và sau chiến tranh nó bị tháo dỡ vào năm 1955.

Thiết kế và chế tạo

Lớp tàu sân bay Illustrious được chấp thuận trong Chương trình Hải quân 1937. Thoạt đầu, Indomitable được thiết kế theo cấu hình nguyên thủy của lớp, nhưng sau đó nhanh chóng được cải biến để có thể mang theo được số lượng máy bay nhiều hơn so với những chiếc tàu chị em với nó. Nó được đặt lườn bởi hãng Vickers-Armstrong tại xưởng tàu ở Barrow-in-Furness vào ngày 10 tháng 11 năm 1937, khi nguy cơ chiến tranh đang tiến đến gần. Nó được hạ thủy vào ngày 26 tháng 3 năm 1940 và được đưa ra hoạt động vào tháng 10 năm sau.

Lịch sử hoạt động

Ấn Độ Dương

Chiếc tàu sân bay lên đường đi quần đảo West Indies vào tháng 11 năm 1941 trong chuyến hải hành đầu tiên. Tại đây, Indomitable mắc cạn vào một bãi san hô ngầm ở gần Jamaica, cho dù nó được đưa trở lại hoạt động không lâu sau đó. Người ta cho rằng sự chậm trễ ngắn ngủi này đã gây hại đáng kể cho kế hoạch của Hải quân Anh tại Singapore; vì đã có dự định cho Indomitable tham gia cùng thiết giáp hạm HMS Prince of Wales và tàu tuần dương hạng nặng HMS Repulse tại cảng Singapore trong thành phần của một lực lượng răn đe, Lực lượng Cam, chống lại sự xâm lấn của Nhật Bản tại Viễn Đông. Tuy nhiên, căn cứ vào dữ kiện chiếc tàu sân bay còn ở lại khu vực Jamaica vào ngày 3 tháng 11 năm 1941 khi bị mắc cạn, rất khó cho chiếc Indomitable có thể đến được Singapore kịp lúc để có thể yểm trợ trên không cho hạm đội. Để điều đó có thể đạt được, cần phải ra lệnh cho chiếc tàu sân bay khởi hành đi Singapore sớm hơn trước ngày 3 tháng 11. Trong sự kiện này, hai chiếc tàu chiến chủ lực, vốn được đặt tên là Lực lượng Z, đã không thể có được sự yểm trợ trên không thích đáng, và đã bị máy bay Nhật cất cánh từ Sài Gòn đánh chìm khi lực lượng Nhật Bản đổ bộ lên Malaya vào tháng 12 năm 1941.Vào tháng 1 năm 1942, Indomitable gia nhập Hạm đội Viễn Đông đặt căn cứ tại Ceylon (ngày nay là Sri Lanka), và cũng trong tháng này nó tham gia vận chuyển 48 máy bay Hawker Hurricane của Không quân Hoàng gia Anh đến Singapore ngang qua Java. Sự tăng viện này tỏ ra quá trễ, khi các tư lệnh lực lượng Anh tại Singapore đã đầu hàng lực lượng Nhật Bản một tháng sau đó. Sau khi các thuộc địa khác của Anh tại Viễn Đông, Hong Kong và Miến Điện, cùng bị thất thủ, Indomitable được tái bố trí vào một Hạm đội Viễn Đông mới dưới sự chỉ huy của Đô đốc Sir James Somerville. Indomitable cùng với chiếc tàu chị em với nó Formidable là những tàu sân bay hiện đại duy nhất của hạm đội, là một tài sản quý báu của lực lượng Đồng Minh tại Viễn Đông; chiếc tàu sân bay duy nhất còn lại Hermes đã hoàn toàn lạc hậu.Vào tháng 4 năm 1942, Đô đốc Somerville dự định đánh chặn lực lượng tàu sân bay Nhật Bản đang đột kích vào Ấn Độ Dương, tuy nhiên những tin tức tình báo không đầy đủ đã khiến ông hủy bỏ cuộc mai phục chỉ vài giờ trước khi lực lượng Nhật Bản đến nơi. Trong vài ngày tiếp theo sau, Indomitable nằm trong thành phần một lực lượng dự tính sẽ đánh chặn hạm đội Nhật vào ban đêm, khi những chiếc máy bay ném ngư lôi Anh, mặc dù chậm, nhưng được trang bị radar, sẽ có cơ hội tốt nhất để đột kích thành công. Cho dù đã bỏ ra nhiều ngày tìm kiếm nhưng không thể có được một hoạt động đáng kể, cuối cùng Somerville cho rút lui các tàu sân bay nhanh của ông về Bombay. Kết quả là Hermes, chiếc tàu khu trục Australia HMAS Vampire, tàu hộ tống nhỏ HMS Hollyhock cùng hai tàu tuần dương hạng nặng Cornwall và Dorsetshire đã bị đánh chìm do những hoạt động không kích của quân Nhật, cũng như một loạt các tàu buôn khác.Vào tháng 5 năm 1942, người Anh tung ra chiến dịch Ironclad, cuộc chiếm đóng đảo Madagascar, một thuộc địa của Pháp đang do phe chính phủ Vichy kiểm soát. Chiến dịch này được thực hiện là do có mối lo ngại rằng quân Nhật sẽ chiếm đóng Madagascar và sử dụng nơi đây như một căn cứ tàu ngầm để tấn công các con đường vận chuyển của Đồng Minh tại Ấn Độ Dương.Indomitable, tàu chị em với nó Illustrious cùng nhiều tàu chiến khác được tập trung về Durban, Nam Phi chuẩn bị cho cuộc chiếm đó. Cuộc tấn công được bắt đầu vào ngày 5 tháng 5 tại vịnh Courrier, chỉ về phía Tây của mục tiêu thực sự. Những chiếc máy bay Sea Hurricane lần đầu tiên thực hiện các hoạt động tác chiến trong chiến đấu, và trong vai trò hộ tống, đã tiêu diệt được ba chiếc máy bay tiêm kích Morane-Saulnier M.S.406 của phe Vichy trên mặt đất. Ngày hôm sau, lính hải quân tung ra cuộc tấn công vào chính thị trấn, và sau cuộc đối đầu căng thẳng kéo dài gần hai ngày đã chiếm được thị trấn chiến lược này.

Địa Trung Hải

Vào tháng 7 năm 1942, Indomitable quay trở về Anh Quốc, rồi được nhanh chóng đưa ra mặt trận, tham gia Chiến dịch Pedestal hộ tống đoàn tàu vận tải lớn nhất từng đi đến Malta để tiếp viện cho hòn đảo đang bị bao vây này. Đoàn tàu vận tải bao gồm 14 tàu chở hàng và một lực lượng tàu chiến hộ tống lớn nhất từ trước đến nay: Cairo, Charybdis, Eagle, Indomitable, Victorious, Kenya, Manchester, Nelson, Nigeria, Phoebe, Rodney, Sirius cùng 32 tàu khu trục. Một trong những mục tiêu là nhằm cho chiếc tàu sân bay Furious có thể chuyển được những chiếc máy bay tiêm kích Supermarine Spitfire hạ cánh xuống Malta để tăng cường lực lượng phòng không cho hòn đảo; việc này đã được thực hiện thành công vào ngày 11 tháng 8 năm, và Furious an toàn quay trở về Gibraltar.Trong chiến dịch này, Indomitable bị đánh trúng hai quả bom cùng ba quả khác ném suýt trúng, trong đó một quả bom 500 kg đã xuyên qua lớp vỏ giáp của sàn đáp gây hư hại đáng kể, buộc nó phải rút lui để sửa chữa. Chiếc tàu sân bay đi sang Hoa Kỳ, nơi công việc sửa chữa được hoàn tất vào tháng 2 năm 1943, và nó lập tức quay trở về khu vực Địa Trung Hải. Nó lại bị một máy bay ném bom Junkers Ju 88 phóng trúng một quả ngư lôi vào ngày 15 tháng 6 trong khi đang hỗ trợ cho việc tập trung lực lượng chuẩn bị cho việc đổ bộ lên Sicily (Chiến dịch Husky), buộc nó lại phải đi đến Mỹ một lần nữa để sửa chữa. Công việc này chỉ kết thúc vào tháng 2 năm 1944.

Viễn Đông

Indomitable quay trở lại Hạm đội Viễn Đông vào đầu năm 1944. Nó cùng chiếc tàu chị em Victorious tung ra các cuộc không kích nhắm vào Sumatra trong tháng 8 và tháng 9, và kế tiếp là xuống quần đảo Nicobar. Sau đó Indomitable hợp cùng Illustrious không kích xuống Medan, Indonesia và một đợt nữa xuống Sumatra vào ngày 20 tháng 12.Đầu năm 1945, Indomitable gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương. Vào ngày 4 tháng 1, nó cùng chiếc tàu chị em Victorious và một tàu sân bay hạm đội khác là chiếc Indefatigable tấn công Medan. Các hoạt động sau đó bao gồm việc không kích xuống Palembang và một lần nữa vào Sumatra cùng trong tháng 1 năm đó.Ngày 4 tháng 5, chiếc tàu sân bị một máy bay tấn công cảm tử Kamikaze đánh trúng, nhưng lớp vỏ giáp của sàn đáp đã giúp cho nó tránh bị hư hại nặng. Sang tháng 8, khi chiến tranh kết thúc, Indomitable tham gia vào việc tái chiếm đóng Hong Kong. Máy bay của nó đã thực hiện những phi vụ tác chiến cuối cùng của cuộc chiến trong các ngày 31 tháng 8 và 1 tháng 9 chống lại các xuồng cảm tử Nhật Bản tấn công vào hạm đội Anh.

Sau chiến tranh

Indomitable quay trở về Anh Quốc vào tháng 11 năm 1945. Đến năm 1947, nó được đưa về lực lượng dự bị; rồi sau đó trải qua một đợt nâng cấp và tái trang bị kéo dài ba năm, từ năm 1947 đến năm 1950. Trong quá trình tái trang bị, người ta nhận ra là các lò hơi của nó có tuổi thọ chỉ được 10 năm, nên ngăn chứa động cơ phải tháo rời ra và chế tạo lại để thay thế các nồi hơi. Sau khi hoàn tất việc tái trang bị, Indomitable được đưa ra hoạt động thường trực cùng Hạm đội Nhà tại khu vực có thời tiết mát hơn nhiều so với thời chiến tranh. Ngày 3 tháng 2, chiếc tàu sân bay bị hư hại đáng kể sau một vụ nổ và cháy trong hầm tàu, những hư hỏng này được bịt kín bằng bê-tông mà không bao giờ được sửa chữa. Nó tham gia cuộc duyệt binh nhân lễ Đăng quang của Nữ hoàng Elizabeth II, rồi sau đó được sử dụng trong thử nghiệm áp dụng hệ thống đèn hướng dẫn hạ cánh thay cho việc ra hiệu bằng tay. Cuối cùng nó cũng được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 10 năm 1953; rồi được bán để tháo dỡ vào năm 1955.

Đặt hàng: 13 tháng 1 năm 1937

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Illustrious

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Vickers-Armstrong

Đặt lườn: 4 tháng 5 năm 1937

Hạ thủy: 14 tháng 9 năm 1939

Chi phí: 4,05 triệu Bảng Anh

Hoạt động: 14 tháng 5 năm 1941

Bị mất: Bị tháo dỡ năm 1969

Ngừng hoạt động: 13 tháng 3 năm 1968

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: Đầy tải: 29.500 tấn (ban đầu);

35.500 tấn (sau cải tạo)

Chiều dài: Mực nước: 205 m (673 ft) (ban đầu);

230 m (753 ft) (sau cải tạo)

Chung: 238 m (781 ft)

Mạn thuyền: 29 m (95 ft) (ban đầu);

31,4 m (103 ft) (sau cải tạo)

Tầm nước: 8,5 m (28 ft) (ban đầu);

9 m (31 ft) (sau cải tạo)

Lực đẩy: 3 × turbine hộp số Parsons

6 × nồi hơi Admiralty,

3 × trục

công suất 111.000 mã lực (83 MW)

Tốc độ: 56,5 km/h (30,5 knot)

Tầm xa: 20.000 km ở tốc độ 26 km/h

(11.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 2.200

Vũ khí: 16 × pháo 114 mm (4,5 inch) (8 × 2)

48 × pháo 2 pounder (6 × 8)

21 × pháo phòng không 40 mm (2 × 4, 2 × 2, 9 × 1)

45 × pháo phòng không 20 mm (45 × 1)

Vỏ giáp: sàn đáp: 75 mm (3 inch) 3"

sàn chứa máy bay: 50 mm (2 inch)

đai giáp hông: 100 mm (4 inch)

mặt bên kho máy bay: 100 mm (4 inch)

Máy bay: 1941:

36 Fulmar/Albacore

1945:

54 Corsair/Avenger

HMS Victorious (R38) là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các hoạt động của nó trong những năm 1941 và 1942 bao gồm các chiến dịch nổi tiếng chống lại chiếc thiết giáp hạm Đức Bismarck, hộ tống nhiều đoàn tàu vận tải đến biển Bắc Cực và Chiến dịch Pedestal tăng viện cho đảo Malta; và trong năm 1943 từng được cho Hải quân Mỹ mượn trong một thời gian ngắn, phục vụ tại Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương dưới tên gọi USS Robin. HMS Victorious đã nhiều lần tham gia các cuộc tấn công chiếc thiết giáp hạm Đức Tirpitz. Việc loại trừ được mối nguy cơ từ phía Hải quân Đức Quốc Xã đã cho phép bố trí nó đến Hạm đội Viễn Đông tại Colombo, và sau đó là Thái Bình Dương trong những hoạt động cuối cùng của cuộc chiến tranh chống lại Đế quốc Nhật Bản.Sau chiến tranh, quãng đời phục vụ còn lại của nó xen kẽ những đợt được đưa về lực lượng dự bị và một đợt nâng cấp rộng rãi trong những năm 1950. Việc cắt giảm đáng kể lực lượng Hải quân Anh vào cuối những năm 1960 đã đặt dấu chấm hết cho lần phục vụ cuối cùng và chiếc tàu sân bay bị tháo dỡ vào năm 1969.

Thiết kế và chế tạo

HMS Victorious là chiếc thứ hai trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp Illustrious được đặt hàng trong Chương trình Hải quân 1936. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hảng Vickers-Armstrong tại Newcastle-Upon-Tyne vào năm 1937 và được hạ thủy hai năm sau đó. Tuy nhiên việc đưa nó ra hoạt động bị chậm trễ, vì những công việc cuối cùng để hoàn tất nó bị kéo dài cho đến năm 1941, do nhu cầu tăng vọt của những chiếc tàu hộ tống để tham gia Trận chiến Đại Tây Dương.

Lịch sử hoạt động

Truy đuổi Bismarck

Vào năm 1941, chỉ hai tuần sau khi được đưa vào hoạt động, nó thực hiện hoạt động tác chiến đầu tiên khi tham gia cuộc truy đuổi chiếc thiết giáp hạm Đức Bismarck tại Bắc Đại Tây Dương. Thoạt tiên được dự định nằm trong thành phần của lực lượng hộ tống cho đoàn tàu vận tải WS-8B đi đến Trung Đông, Victorious hầu như khó có thể góp phần vào việc truy đuổi chiếc Bismarck khi chỉ có một phần tư số máy bay theo biên chế được chất lên tàu. Di chuyển cùng thiết giáp hạm HMS King George V, tàu chiến-tuần dương Repulse và 4 tàu tuần dương hạng nhẹ, Victorious được vội vã bố trí để hỗ trợ việc săn đuổi chiếc tàu chiến Đức.[1]Vào ngày 24 tháng 5 năm 1941, Victorious tung ra chín máy bay ném bom-ngư lôi cánh kép Fairey Swordfish và hai máy bay tiêm kích Fulmar. Những chiếc Swordfish, dưới sự chỉ huy của Eugene Esmonde vốn có biệt danh là "Stringbag" vốn cũng là tên lóng của kiểu máy bay Swordfish, cất cánh trong hoàn cảnh thời tiết xấu và đối mặt cùng hỏa lực phòng không dày đặc bắn lên từ chiếc Bismarck. Kết quả chỉ có một quả ngư lôi duy nhất đánh trúng kém hiệu quả vào đai giáp của chiếc thiết giáp hạm. [1] Không có chiếc máy bay nào bị bắn rơi trong trận đánh, nhưng những chiếc Fulmar bị cạn nhiên liệu trên đường quay trở về và phải đáp xuống biển, trong khi hệ thống vô tuyến dẫn đường của con tàu lại bị hỏng. Sau đó Victorious không còn tung ra cuộc tấn công nào khác trong cuộc săn đuổi; và máy bay của một tàu sân bay Anh khác, chiếc Ark Royal, đã góp công vào việc đánh chìm thiết giáp hạm Bismarck ba ngày sau đó. Sau trận đánh, Esmonde được tặng thưởng Huân chương Phục vụ Dũng cảm (DSO) do các hoạt động của mình.

Các đoàn tàu vận tải và các hoạt động khác tại biển Bắc Cực

Vào đầu tháng 6 năm 1941, trong khi đang tham gia hộ tống đoàn tàu vận tải chở quân WS-8X, một chiếc Swordfish thuộc Phi đội Không lực Hải quân 825 trên chiếc Victorious đã phát hiện ra chiếc tàu tiếp liệu Đức Gonzenheim ở phía Bắc quần đảo Azores. Gonzenheim đã dự định hoạt động hỗ trợ tiếp liệu cho chiếc Bismarck, nhưng sau đó con tàu bị thủy thủ đoàn tự đánh đắm sau khi bị các tàu chiến Anh bao vây.[2] Vào ngày 5 tháng 6, nó được phân đến Gibraltar, và cùng với chiếc tàu sân bay HMS Ark Royal và một lực lượng hộ tống, thực hiện nhiệm vụ vận chuyển máy bay Hawker Hurricane đến Malta nhằm giúp giảm nhẹ bớt áp lực của cuộc bao vây hòn đảo này như một phần của Chiến dịch Tracer. Victorious quay trở về căn cứ hải quân tại Scapa Flow cùng với các tù binh bắt được là thủy thủ đoàn của chiếc Gonzenheim.[1]Vào cuối tháng 7 năm 1941, tại khu vực biển Bắc Cực, nó hộ tống chiếc HMS Adventure đi đến cảng Murmansk thuộc Liên Xô với một lô hàng mìn, và vào ngày 31 tháng 7 tham gia cuộc Không kích Kirkenes và Petsamo, nơi nó bị thiệt hại mất mười ba máy bay[1].Vào cuối tháng 8, Victorious bảo vệ cho chuyến đầu tiên của một loạt các đoàn tàu vận tải đi đến Arkhangelsk như một phần của Chiến dịch Dervish cùng một lực lượng các tàu tuần dương và tàu khu trục, rồi sau đó hộ tống cho lượt quay về trong chuyến đi của chiếc tàu sân bay HMS Argus chuyển giao máy bay tiêm kích Hurricane đến Murmansk trong Chiến dịch Strength. Vào đầu tháng 9, chiếc tàu sân bay tung ra những đợt không kích khác nhắm vào Tromsø (hai lần), Vestfjord cùng tàu bè ngoài khơi Bodø.[1]Những tin tức tình báo thu lượm được qua việcgiải mã hệ thống Enigma cho thấy ý định đột kích vào Đại Tây Dương vào tháng 10 năm 1941 bởi chiếc thiết giáp hạm bỏ túi Đức Scheer cùng thiết giáp hạm Tirpitz; nên Victorious được bố trí hoạt động cùng Hạm đội Nhà để đánh chặn chúng; bao gồm một cuộc tuần tra tại eo biển Đan Mạch cùng với các thiết giáp hạm HMS King George V, USS Idaho và USS Mississippi cùng các tàu tuần dương USS Wichita and Tuscaloosa. Công việc này được tiếp diễn cho đến giữa tháng 11 khi Adolf Hitler hủy bỏ chiến dịch. Cần lưu ý là hoạt động phối hợp Anh-Mỹ này diễn ra trước khi có tình trạng chiến tranh chính thức giữa Hoa Kỳ v̀a Đức Quốc Xã. Victorious tiếp tục hoạt động cùng Hạm đội Nhà cho đến tháng 3 năm 1942.[1]Illustrious quay trở lại nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến biển Bắc Cực trong tháng 3 và tháng 4 năm 1942 cùng với một lực lượng hạm đội mạnh mẻ, và đã bảo vệ các đoàn tàu PQ12, QP8, PQ13, QP9, PQ14 và QP10. Xen kẻ giữa các hoạt động này, nó còn thực hiện một dự định tấn công không thành nhắm vào thiết giáp hạm Tirpitz, bị thiệt hại hai máy bay. Từ cuối tháng 4 đến tháng 6, lực lượng hỗn hợp Anh-Mỹ (còn bao gồm USS Washington, Tuscaloosa và Wichita) hỗ trợ các đoàn tàu vận tải PQ16, QP12, PQ17 và QP13, rồi sau đó Victorious quay trở về Scapa Flow.[1]

Các đoàn tàu vận tải đến Bắc Cực tạm thời bị trì hoãn sau thiệt hại nặng nề phải chịu đựng trong chuyến đi của đoàn tàu PQ17. Hai mươi ba tàu trong tổng số 36 chiếc đã bị đánh chìm sau khi đoàn tàu bị một lực lượng tàu nổi Đức tấn công, bao gồm Đô đốc Hipper, Lützow, Đô đốc Scheer và Tirpitz.

Chiến dịch Pedestal

Việc tạm ngưng các đoàn tàu vận tải đi đến Bắc Cực cho phép Victorious tham gia vào "cơ hội cuối cùng" tiếp tế cho đảo Malta - Chiến dịch Pedestal. Đoàn tàu vận tải WS21S hướng đến Malta khởi hành rời Anh Quốc vào ngày 3 tháng 8 năm 1942, được hộ tống bởi Victorious cùng thiết giáp hạm HMS Nelson và các tàu tuần dương Nigeria, Kenya và Manchester. Những cuộc tập trận (Chiến dịch Berserk) được thực hiện cùng các tàu sân bay HMS Indomitable, Furious, Eagle và Argus nhằm cải thiện các kỹ thuật hoạt động.[1]Chiến dịch Pedestal được bắt đầu vào ngày 10 tháng 8 năm 1942, bao gồm một loạt các tàu chiến trong nhiều nhóm hoạt động phối hợp: hai thiết giáp hạm, bốn tàu sân bay, bảu tàu tuần dương và 32 tàu khu trục. Một số tàu sân bay chuyên chở máy bay đến tăng cường cho việc phòng thủ Malta và 14 tàu vận tải chuyên chở hàng tiếp liệu đến hòn đảo đang bị bao vây. Ngày 12 tháng 8 năm 1942, Victorious bị hư hại nhẹ do một cuộc tấn công bởi máy bay ném bom Ý[1]. Tàu sân bay Eagle kém may mắn hơn; bị trúng ngư lôi bởi một tàu ngầm U-boat Đức trên đường quay trở về Gibraltar và bị đánh chìm. Nhưng cuối cùng, Pedestal là một chiến dịch thành công, khi các hàng tiếp liệu, trong đó có xăng dầu đang rất thiếu hụt, và máy bay Supermarine Spitfire được tăng viện cho phép Malta có thể đứng vững được, với cái giá thiệt hại là chín tàu buôn, một tàu sân bay, hai tàu tuần dương và một tàu khu trục bị đánh chìm.Trong tháng 9 năm 1942, Victorious trải qua một đợt đại tu và tái trang bị, khi nó được trang bị thêm một phòng dẫn đường máy bay. Sau các chuyến đi thử máy, chiếc tàu sân bay lại sẵn sàng để tham gia cuộc đổ bộ lên Bắc Phi.[1]

Chiến dịch Torch

Vào tháng 11 năm 1942, Victorious tham gia Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ lớn của lực lượng Đồng Minh lên Bắc Phi, vốn bao gồm 196 tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh và 105 chiếc của Hải quân Hoa Kỳ. Có khoảng 107.000 binh lính Đồng Minh được cho đổ bộ. Là một thành công quân sự, Chiến dịch Torch là bước khởi đầu của các cuộc tấn công sau này lên Sicily, Ý và Pháp. Victorious đã hỗ trợ trên không cho cuộc đổ bộ, rồi sau đó thực hiện không kích xuống Algiers và Fort Duree. Bốn chiếc máy bay tiêm kích Martlet (Wildcat) của nó đã hạ cánh xuống sân bay Blida tiếp nhận sự đầu hàng tại đây.[1]Nó khởi hành quay về Scapa Flow vào ngày 18 tháng 11; và đang khi trên đường đi, những chiếc Fairey Albacore của nó thuộc Phi đội Không lực Hải quân 817 đã tấn công bằng mìn sâu vào chiếc tàu ngầm Đức U-517 tại vùng biển ngoài khơi mũi Finisterre. Cấu trúc của chiếc tàu ngầm bị hư hỏng nặng và nó phải tự đánh chìm, trong khi những người sống sót được chiếc HMS Opportune cứu vớt.[1]

USS Robin

Vào cuối tháng 12 năm 1942, Victorious được tạm thời cho Hải quân Hoa Kỳ mượn để bổ sung sự thiếu hụt tàu sân bay sẵn sàng hoạt động. Trong giai đoạn này, chiếc tàu sân bay không đổi tên mà chỉ được đặt tên mã là USS Robin trong mục đích thông tin liên lạc, tên được đặt dựa theo nhân vật "Robin Hood". Sau một đợt tái trang bị tại xưởng hải quân Norfork ở Hoa Kỳ vào tháng 1 năm 1943, Victorious đi băng qua kênh đào Panama để hoạt động cùng lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương.[1]Victorious đi đến Trân Châu Cảng vào tháng 3 năm 1943, và được trang bị để có thể hoạt động cùng các kiểu máy bay Mỹ Wildcat và Avenger cùng việc bổ sung thêm các vũ khí tự vệ tầm gần. Nó sẵn sàng để đưa ra hoạt động vào tháng 5, và khởi hành cùng với tàu sân bay USS Saratoga đi đến khu vực Tây Nam Thái Bình Dương. Vai trò của nó cùng với Đội Đặc nhiệm 36.3 là hỗ trợ các chiến dịch đổ bộ của quân Mỹ và bảo vệ chống lại các cuộc tấn công của tàu chiến Nhật. Hai chiếc tàu sân bay có các đội bay hỗn hợp Anh-Mỹ, và công việc yểm trợ trên không do Victorious đảm trách trong khi Saratoga tiến hành các cuộc tấn công[3]. Đến tháng 8 năm 1943, Victorious và Saratoga hỗ trợ trên không cho lực lượng Đồng Minh trong cuộc đổ bộ bộ lên New Georgia (Chiến dịch Cartwheel). Sang tháng 9 năm 1943, Victorious quay trở về Scapa Flow, đi đến căn cứ hải quân tại đây vào giữa tháng 10.[1]

Tấn công chiếc Tirpitz

Từ tháng 12 năm 1943 đến tháng 3 năm 1944, Illustrious trải qua một đợt nâng cấp tại Liverpool, nơi nó được trang bị một hệ thống radar kiểu mới[1]. Đến cuối tháng 3, Victorious cùng với Anson và Duke of York hình thành nên Lực lượng 1 với nhiệm vụ hộ tống đoàn tàu vận tải JW58. Ngày 2 tháng 4 năm 1944, Lực lượng 1 được cho sáp nhập cùng Lực lượng 2, gồm các tàu sân bay HMS Emperor, Fencer, Furious, Pursuer và Searcher cùng nhiều tàu tuần dương và tàu khu trục, để tung ra cuộc tấn công mang tên Chiến dịch Tungsten nhắm vào chiếc thiết giáp hạm Đức Tirpitz tại Altafjord, Na Uy. Cuộc tấn công bao gồm hai đợt máy bay Fairey Barracuda, đã đánh trúng chiếc thiết giáp hạm Đức 14 lần cũng như bắn phá càn quét cấu trúc thượng tầng của nó. Cho dù các quả bom làm ngập và gây hư hại nặng cho cấu trúc thượng tầng, đại giáp của con tàu đã không bị ảnh hưởng. Dù sao, cuộc tấn công đã loại chiếc Tirpitz khỏi vòng chiến đấu trong một thời gian [4][5]. Trong hoạt động này, Victorious trở thành chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Hoàng gia Anh đưa ra sử dụng những chiếc máy bay tiêm kích F4U Corsair trong chiến đấu. Lực lượng đặc nhiệm quay trở về Scapa Flow ba ngày sau đó.Trong tháng 4 và tháng 5, Victorious dự định tung ra ba đợt tấn công khác nhắm vào chiếc Tirpitz (các chiến dịch Planet, Brawn và Tiger Claw) nhưng chúng bị hủy bỏ do thời tiết xấu và được thay thế bằng các đợt không kích tàu bè đối phương. Vào ngày 30 tháng 5, một cuộc tấn công bằng ngư lôi cảm âm được chiếc tàu ngầm Đức U-957 thực hiện không thành công, và Victorious thực hiện thêm nhiều cuộc tấn công tàu bè khác ngoài khơi Na Uy trong Chiến dịch Lombard.[1]

Hạm đội Viễn Đông

Vào tháng 6 năm 1944, Victorious cùng với tàu sân bay HMS Indomitable rời vùng biển Anh Quốc để gia nhập Hạm đội Viễn Đông đặt căn cứ tại Colombo, Ceylon (ngày nay là Sri Lanka), và nó đến nơi vào ngày 5 tháng 7. Hạm đội Viễn Đông, sau một thời gian im hơi lặng tiếng, tự giới hạn hoạt động trong các nhiệm vụ bảo vệ tàu buôn, giờ đây được tăng cường đáng kể bởi các tàu chiến đến từ Đại Tây Dương và Địa Trung Hải, bắt đầu chuẩn bị cho hoạt động tấn công vào lực lượng Nhật Bản.[6]Sau một giai đoạn chuẩn bị ngắn, Victorious tham gia một loạt các cuộc không kích vào các căn cứ Nhật Bản. Bắt đầu bằng chiến dịch Crimson vào ngày 25 tháng 7, nó cùng với tàu sân bay HMS Illustrious tiến hành không kích các sân bay gần Sabang, Sumatra. Vào cuối tháng 8, nó hỗ trợ trên không cho các tàu chiến của Hạm đội Viễn Đông tiến hành các chiến dịch tìm kiếm-giải cứu trên biển cho các máy bay Lục quân Mỹ trong các cuộc không kích nhắm vào Sumatra trong Chiến dịch Boomerang. Ngày 29 tháng 8, cùng với các tàu sân bay HMS Illustrious và Indomitable và được hộ tống bởi HMS Howe, Victorious tiến hành không kích xuống Padang, Indaroeng và Emmahaven (Chiến dịch Banquet). Sau một giai đoạn nghỉ ngơi ngắn, ngày 18 tháng 9, Victorious và Indomitable tấn công các nhà ga đường sắt tại Sigli, Sumatra; rồi tiếp nối bằng nhiệm vụ trinh sát-hình ảnh trên quần đảo Nicobar (chiến dịch Light). Chính trong hoạt động này đã xảy ra sự kiện bắn nhầm vào tàu ngầm HMS Spirit, nhưng may mắn là đã không có tổn thất về nhân mạng.[1]Vào cuối tháng 9, Victorious lưu lại một thời gian ngắn tại Bombay để sửa chữa hệ thống bánh lái, một vấn đề bắt đầu nảy sinh từ sau Chiến dịch Light. Nó lại gia nhập Hạm đội Viễn Đông vào ngày 6 tháng 10. Chiến dịch tiếp theo sau mang tên Millet là hoạt động cuối cùng của chiếc tàu sân bay cùng Hạm đội Viễn Đông. Ngày 17 tháng 10, cùng với chiếc HMS Indomitable và được chiếc HMS Renown hộ tống, nó tung ra các đợt tấn công xuống quần đảo Nicobar và cảng Nancowry. Sự chống trả của máy bay đối phương đã làm mất bốn máy bay và gây hư hại cho năm chiếc khác. Đầu tháng 11, Victorious lại phải quay về Bombay để sửa chữa bánh lái một lần nữa; những vấn đề phát sinh trong chiến dịch Millet.[1]

Hạm đội Thái Bình Dương

Hạm đội Thái Bình Dương được hình thành tại Trincomalee vào ngày 22 tháng 11 năm 1944 từ các đơn vị của Hạm đội Viễn Đông, và Victorious được chuyển sang hạm đội mới. Từ tháng 11 năm 1944 đến tháng 1 năm 1945, đơn vị mới này vẫn ở lại vùng biển Ấn Độ Dương, tiến hành huấn luyện và rút tỉa những kinh nghiệm cần thiết cho sự phối hợp hoạt động cùng hải quân Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Victorious còn phải trải qua sửa chữa tại Bombay cho đến tháng 1 năm 1945, nên đã bỏ lỡ cơ hội tham gia không kích các cơ sở lọc dầu tại Pangkalan Brandan trong Chiến dịch Robson.[1]Vào đầu tháng 1 năm 1945, chiếc tàu sân bay sẵn sàng tham gia Chiến dịch Lentil, cùng với các tàu sân bay HMS Indomitable và Implacable lặp lại cuộc không kích vào các nhà máy lọc dầu tại Pangkalan Brandan. Nó còn tiếp tục các cuộc không kích vào các cơ sở dầu mỏ và hải cảng Nhật Bản tại Sumatra vào ngày 16 tháng 1. Đến cuối tháng 1, Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc cuối cùng cũng rời Ceylon lên đường hướng đến căn cứ mới tại Sydney. Chuyến đi bị ngắt quãng bởi một loạt các cuộc không kích thực hiện vào ngày 24 tháng 1 nhắm vào Pladjoe và Manna tại Tây Nam Sumatra (Chiến dịch Meridian 1) mà chỉ gặp phải sự kháng cự yếu ớt của máy bay Nhật; rồi được tiếp nối bằng cuộc không kích không thành vào ngày 29 tháng 1 vào các cơ sở lọc dầu tại Soengi-Gerong (Chiến dịch Meridian 2). Lần này, quân Nhật tìm cách không kích vào hạm đội Anh, nhưng đều bị đẩy lui. Tổng số máy bay bị mất trên tất cả các tàu sân bay là 16 máy bay bị mất trong chiến đấu, và thêm 25 chiếc khác bị mất do rơi xuống biển hay do hạ cánh. Chín phi công thuộc Không lực Hạm đội bị quân Nhật bắt được và đều bị giết vào tháng 4 năm 1945.[7]Vào đầu tháng 2 năm 1945, Victorious gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 113 tại Sydney nhằm chuẩn bị để hoạt động cùng Đệ Ngũ hạm đội Hoa Kỳ. Đến cuối tháng, Lực lượng Đặc nhiệm 113 rời Sydney di chuyển đến căn cứ tiền phương tại đảo Manus, về phía Bắc New Guinea, rồi tiếp tục gia nhập Hạm đội 5 tại Ulithi vào ngày 25 tháng 3 trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 57, hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Okinawa. Nhiệm vụ được giao cho lực lượng Anh là vô hiệu hóa các sân bay tại Sakishima Gunto. Từ cuối tháng 3 đến ngày 25 tháng 5, các tàu sân bay Anh Victorious, Illustrious (sau này được thay thế bởi chiếc Formidable), Indefatigable và Indomitable hình thành nên Hải đội Tàu sân bay 1 dưới quyền chỉ huy của Philip Vian, và chúng đã tham gia không kích các sân bay trên quần đảo Sakishima (Chiến dịch Iceberg I và Iceberg II) và tại Đài Loan (Chiến dịch Iceberg Oolong).[1][8]Các t̀au sân bay Anh bị máy bay tấn công cảm tử kamikaze tấn công, và Victorious bị đánh trúng vào các ngày 4 và 9 tháng 5 cùng một lần suýt trúng vào ngày 1 tháng 4, nhưng lớp sàn đáp được bọc thép đã chịu đựng được cú va chạm. Chiếc tàu sân bay vẫn ở lại vị trí chiến đấu và đưa trở lại hoạt động chỉ vài giờ sau đó, bất chấp những hư hại gây ra cho thang nâng máy bay và ống dẫn hơi nước trên cấu trúc thượng tầng của nó. Ba người đã thiệt mạng cùng 19 người khác trong thủy thủ đoàn bị thương.[1]Cuối tháng 5 năm 1945, Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc rút lui về Sydney và Manus để được tái trang bị, và trong trường hợp của Victorious, Formidable và Indefatigable, được sửa chữa các hư hỏng trong chiến đấu. Hạm đội Anh lại gặp gỡ Đệ Tam hạm đội Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 7, và đã sáp nhập một cách hiệu quả vào trong cấu trúc của lực lượng Mỹ như một phần của Lực lượng Đặc nhiệm 38, nhằm mục đích áp chế sự kháng cự ngay trên các hòn đảo chính quốc Nhật Bản.[9]Trong nữa sau của tháng 7, máy bay của Victorious tham gia một loạt các cuộc tấn công vào tàu bè, phương tiện vận chuyển và sân bay Nhật trên đảo Honshu và chung quanh vùng biển nội địa Nhật Bản. Đáng chú ý là trong một cuộc tấn công vào tháng 7, máy bay của Phi đội Không lực Hải quân 849 của Victorious đã tìm thấy chiếc tàu sân bay hộ tống Nhật Bản Kaiyo tại vịnh Beppu, Kyūshū và tấn công nó, gây hư hại nghiêm trọng và loại nó khỏi vòng chiến cho đến khi chiến tranh kết thúc.[10] Đây là một sự kiện khá hiếm hoi, vì máy bay Anh Quốc không được giao các nhiệm vụ tác chiến tại các căn cứ chủ lực của hải quân Nhật Bản. Người Mỹ, vì những lý do chính trị, đã giữ lại những mục tiêu này cho chính họ.[11][12]Hai quả bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima và Nagasaki vào các ngày 6 và 9 tháng 8 tương ứng đã thúc đẩy việc Nhật Bản chấp nhận đầu hàng không điều kiện vào ngày 15 tháng 8. Vào lúc đầu hàng, kết cuộc của chiến tranh hầu như đã rõ ràng và Victorious vào ngày 12 tháng 8 cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 37 đã quay về Manus rồi đi đến Sydney. Việc cho rút lui có vẽ quá sớm này thực ra là trì hoãn một chuyến đi dự định thực hiện vào ngày 10 tháng 8, chuẩn bị cho tấn công vào các đảo chính quốc Nhật Bản (chiến dịch Olympic). Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc đã đồng ý ở lại hoạt động thêm một ngày, nhưng không thể trì hoãn thêm nữa do sự cạn kiệt nhiên liệu đã đến mức báo động.[13] Thêm vào đó, những hỏng hóc về bánh lái xảy ra cho Victorious tại Ấn Độ Dương vào cuối năm 1944 được tin là vẫn ảnh hưởng đến hoạt động của chiếc tàu sân bay.[1]Ngày 31 tháng 8, thủy thủ đoàn của chiếc Victorious đã tham gia cuộc Duyệt binh Chiến thắng tại Sydney.[1]

Sau chiến tranh

Victorious rời Australia vào tháng 9 năm 1945, về đến Anh Quốc vào ngày 27 tháng 10 và sau đó thực hiện ba chuyến đi nhằm hồi hương các cựu quân nhân và gia đình đã phục vụ tại Australia và Viễn Đông. Vào mùa Đông năm 1946- 1947, những thử nghiệm trên sàn đáp đầu tiên của kiểu máy bay Hawker Sea Fury (Mark 10), phiên bản dành cho hải quân, đã được thực hiện trên Victorious, dẫn đến việc chấp thuận cho hoạt động của chúng trên tàu sân vào đầu năm 1947.[14]Chiếc tàu sân bay được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 10 năm 1947, và sau đó gia nhập Hải đội Huấn luyện của Hạm đội Nhà Anh Quốc vào năm 1948.[1] Con tàu được tái cấu trúc rộng rãi và hiện đại hóa tại Portsmouth từ năm 1950 đến năm 1957. Công việc này kéo dài trên tám năm do thiết kế thường xuyên bị thay đổi cho phù hợp với những kỹ thuật mới được áp dụng. Thân tàu được mở rộng, sâu hơn và dài hơn; động cơ được thay thế bằng kiểu nồi hơi Foster-Wheeler; chiều cao của sàn chứa máy bay được nâng cao; kiểu pháo mới 76 mm (3 inch) được trang bị; và một sàn đáp chéo góc được bổ sung. Hệ thống radar của nó cũng được thay đổi đáng kể để bao gồm các thiết bị mới nhất.[3]Victorious được cho tái hoạt động cùng Hạm đội Nhà vào ngày 14 tháng 1 năm 1958, rồi sau đó được cho chuyển sang Hạm đội Viễn Đông, và tiếp tục phục vụ cho đến năm 1967. Victorious từng tham gia Chiến dịch Vantage hỗ trợ cho Kuwait vào năm 1961, và vào năm 1964 đã thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho Malaysia, một quốc gia vừa mới độc lập, chống lại sự xâm chiếm lãnh thổ của nước láng giềng Indonesia.[15]

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro