Ham doi tau san bay Hoa Ky trong WW2 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Essex

Xưởng đóng tàu: Bethlehem Steel Co tại Quincy, Massachusetts

Đặt lườn: 26 tháng 1 năm 1943

Hạ thủy: 24 tháng 1 năm 1944

Đỡ đầu: Theodore Douglas Robinson

Hoạt động: 15 tháng 4 năm 1944

15 tháng 2 năm 1954

15 tháng 11 năm 1956

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 1 tháng 9 năm 1976

Xếp lại lớp: Tàu sân bay tấn công (CVA): 1 tháng 10 năm 1952

Tàu sân bay (CV): 30 tháng 6 năm 1975

Ngừng hoạt động: 9 tháng 5 năm 1947

13 tháng 4 năm 1956

30 tháng 1 năm 1976

Xóa đăng bạ: 31 tháng 1 năm 1976

Tặng thưởng: 4 Ngôi sao Chiến đấu

Đơn vị Tuyên dương Hải quân

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 27.100 tấn (tiêu chuẩn); 36.380 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 271 m (888 ft)

Mạn thuyền: 28 m (93 ft) mực nước; 45 m (147 ft 6 in) chung

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 5 in) tiêu chuẩn; 10,4 m (34 ft 2 in) đầy tải

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước Westinghouse

8 nồi hơi, áp suất 3.900 kPa (565 psi) ở nhiệt độ 450 °C (850 °F)

4 trục

công suất 150.000 mã lực (110 MW)

Tốc độ: 61 km/h (33 knot)

Tầm xa: 37.000 km ở tốc độ 28 km/h

(20.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 3.448

Vũ khí: 4 × pháo nòng kép 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

4 × pháo nòng đơn 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

8 × pháo bốn nòng 40 mm cỡ nòng 56

46 × pháo nòng đơn 20 mm cỡ nòng 78

Vỏ giáp: đai giáp 60 đến 100 mm (2,5 đến 4 inch)

sàn đáp và sàn bảo vệ 40 mm (1,5 inch)

vách ngăn 100 mm (4 inch)

40 mm (1,5 inch) bên cạnh và trên nóc tháp chỉ huy

60 mm (2,5 inch) bên trên bánh lái

Máy bay: 90-100 máy bay

1 × thang nâng cạnh sàn đáp

2 × thang nâng giữa

USS Hancock (CV/CVA-19) là một trong số 24 chiếc tàu sân bay thuộc lớp Essex được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này nằm tôn vinh John Hancock, Chủ tịch của Quốc hội Đại lục thứ hai và là Thống đốc đầu tiên của tiểu bang Massachusetts. Hancock được đưa vào hoạt động từ tháng 4 năm 1944 và đã phục vụ trong nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương, được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến đấu. Được cho ngừng hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, nó được cho hiện đại hóa và tái hoạt động vào đầu những năm 1950 như một tàu sân bay tấn công (CVA). Trong lượt hoạt động thứ hai này, nó phục vụ thuần túy tại Thái Bình Dương, đóng một vai trò nổi bật trong Chiến tranh Việt Nam trong đó nó được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân. Hancock là tàu sân bay Mỹ đầu tiên được trang bị máy phóng hơi nước.Nó được cho ngừng hoạt động vào đầu năm 1976, và được bán để tháo dỡ vào cuối năm đó.

Thiết kế và chế tạo

Hancock là một trong số những chiếc Essex "thân dài" mà một số tác giả tách thành lớp Ticonderoga riêng biệt. Con tàu được đặt lườn dưới tên gọi Ticonderoga vào ngày 26 tháng 1 năm 1943 bởi hãng Bethlehem Steel Co tại Quincy, Massachusetts. Nó được đặt tên lại là Hancock vào ngày 1 tháng 5 năm 1943 để cám ơn sự hỗ trợ của Công ty bảo hiểm nhân thọ John Hancock đã phát hành một đợt trái phiếu đặc biệt huy động vốn cho con tàu mang tên nó (xưởng tàu được đặt tại tiểu bang nhà của công ty). Trái phiếu do công ty phát hành huy động được đủ tiền không những cho việc chế tạo con tàu mà còn trang trãi chi phí hoạt động của nó trong năm đầu tiên.[1] Hancock được hạ thủy vào ngày 24 tháng 1 năm 1944, được đỡ đầu bởi Bà Theodore Douglas Robinson, và được đưa vào hoạt động ngày 15 tháng 4 năm 1944 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Đại tá Hải quân Fred C. Dickey.

Lịch sử hoạt động

Thế Chiến II

Sau khi được trang bị tại Xưởng hải quân Boston và chạy thử máy tại vùng biển ngoài khơi Trinidad và Venezuela, Hancock quay về Boston ngày 9 tháng 7 năm 1944 để thực hiện các sửa đổi. Nó rời Boston ngày 31 tháng 7 lên đường đi Trân Châu Cảng nganh qua kênh đào Panama và San Diego, và từ đây khởi hành ngày 24 tháng 9 gia nhập lực lượng Đệ Tam Hạm đội của Đô đốc W. F. Halsey tại Ulithi vào ngày 5 tháng 10. Nó được bố trí vào Đội đặc nhiệm tàu sân bay 38.2 của Chuẩn đô đốc Gerald Bogan.Hancock lên đường chiều hôm sau đi đến một điểm hẹn cách 600 km (375 dặm) về phía Tây quần đảo Mariana, nơi các đơn vị thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 38 của Phó Đô đốc Marc Mitscher được tập trung nhằm chuẩn bị cho đợt không kích các căn cứ không quân và hải quân Nhật trên quần đảo Ryūkyū, Đài Loan và Philippine. Nhờ vậy, sức mạnh không lực đối phương đã bị tê liệt trong cuộc tấn công của Tướng MacArthur lên đảo Leyte. Tại quần đảo Ryukyu vào ngày 10 tháng 10 năm 1944, các phi công của Hancock đã cất cánh để tiêu diệt các sân bay và tàu bè tại Okinawa. Họ đã tiêu diệt bảy máy bay đối phương trên mặt đất và giúp đỡ vào việc đánh chìm một tàu tiếp liệu tàu ngầm, 12 tàu phóng ngư lôi, 2 tàu ngầm bỏ túi, 4 tàu chở hàng và một số xuồng nhỏ. Mục tiêu tiếp theo là các sân bay tại Đài Loan, nơi mà vào ngày 12 tháng 10, các phi công của Hancock đã bắn rơi sáu máy bay đối phương và tiêu diệt thêm chín chiếc khác trên mặt đất. Họ còn khẳng định đã chắc chắn đánh chìm một tàu hàng, có thể đã đánh chìm ba chiếc cùng gây hư hại cho nhiều chiếc khác.Trong khi chống cự lại các cuộc không kích của đối phương vào buổi chiều tối hôm đó, xạ thủ trên chiếc Hancock được ghi nhận đã bắn rơi một máy bay Nhật và đánh đuổi vô số máy bay khác trong suốt bảy giờ trực chiến không ngừng nghĩ. Sáng hôm sau, máy bay của nó tiếp tục các cuộc tấn công, phá hủy các kho đạn, nhà chứa máy bay, trại lính và các nhà máy công nghiệp trên bờ cũng như làm hư hại một tàu vận tải đối phương. Khi máy bay Nhật một lần nữa tấn công lực lượng Mỹ trong đêm thứ hai ngoài khơi Đài Loan, hỏa lực phòng không của Hancock đã bắn rơi được thêm một máy bay đối phương cách con tàu khoảng 450 m (500 yard). Sang ngày thứ ba, máy bay của nó tiếp tục đánh phá các sân bay và tàu bè đối phương trước khi rút lui về phía Đông Nam cùng với lực lượng đặc nhiệm. Khi các tàu chiến Mỹ rút lui, một lực lượng lớn máy bay Nhật đã tung ra đợt tấn công cuối cùng. Một quả bom được ném xuống chếch phía mũi chiếc Hancock bên mạn trái vài giây trước khi chiếc máy bay bị hỏa lực phòng không của tàu sân bay bắn trúng và rơi xuống biển. Một quả bom khác đã xuyên qua bệ một khẩu đội pháo nhưng phát nổ vô hại trên mặt nước. Những kẻ tấn công còn sống sót quay đầu bỏ chạy, và lực lượng đặc nhiệm sau đó không còn bị cản trở trên đường hướng về Philippines hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Leyte.

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Essex

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Newport News

Đặt lườn: 3 tháng 8 năm 1942

Hạ thủy: 30 tháng 8 năm 1943

Đỡ đầu:

Hoạt động: 29 tháng 11 năm 1943

20 tháng 3 năm 1951

11 tháng 9 năm 1953

Xếp lại lớp: Tàu sân bay tấn công (CVA): 1 tháng 10 năm 1952

Tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS): năm 1958

Ngừng hoạt động: 15 tháng 1 năm 1947

12 tháng 5 năm 1951

26 tháng 6 năm 1970

Tình trạng: Tàu bảo tàng tại Alameda, California

Xóa đăng bạ: 25 tháng 7 năm 1989

Tặng thưởng:

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 27.100 tấn (tiêu chuẩn); 36.380 tấn (đầy tải)

Sau cải biến SCB-27A:

28.200 tấn (tiêu chuẩn); 40.600 tấn (đầy tải)

Sau cải biến SCB-125:

30.800 tấn (tiêu chuẩn); 41.200 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 250 m (820 ft) mực nước; 266 m (872 feet) chung

Sau cải biến SCB-27A:

250 m (819 ft 1 in) mực nước; 274 m chung (898 ft 1 in)

Sau cải biến SCB-125:

251 m (824 ft 6 in) mực nước; 270 m (890 ft) chung

Mạn thuyền: 28 m (93 ft) mực nước; 45 m (147 ft 6 in) chung

Sau cải biến SCB-27A:

30,9 m (101 ft 5 in) mực nước; 46,3 m (151 ft 11 in) chung

Sau cải biến SCB-125:

31 m (101 ft) mực nước; 60 m (196 ft) chung

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 5 in) tiêu chuẩn; 10,4 m (34 ft 2 in) đầy tải

Sau cải biến SCB-27A:

9,0 m (29 ft 8 in)

Sau cải biến SCB-125:

9,2 m (30 ft 1 in)

Lực đẩy: 4 × Turbine hơi nước Westinghouse

8 nồi hơi, áp suất 3.900 kPa (565 psi) ở nhiệt độ 450 °C (850 °F)

4 trục

công suất 150.000 mã lực (110 MW)

Tốc độ: 61 km/h (33 knot)

Tầm xa: 37.000 km ở tốc độ 28 km/h

(20.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 2.600

Vũ khí: 4 × pháo nòng kép 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

4 × pháo nòng đơn 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

8 × pháo bốn nòng 40 mm cỡ nòng 56

46 × pháo nòng đơn 20 mm cỡ nòng 78

Sau cải biến SCB-27A:

8 × pháo nòng đơn 130 mm (5 in) cỡ nòng 38

14 × pháo nòng kép 76 mm (3 in) cỡ nòng 50

Sau cải biến SCB-125:

7 × pháo nòng đơn 130 mm (5 in) cỡ nòng 38

4 × pháo nòng kép 76 mm (3 in) cỡ nòng 50

Vỏ giáp: đai giáp 60 đến 100 mm (2,5 đến 4 inch)

sàn đáp và sàn bảo vệ 40 mm (1,5 inch)

vách ngăn 100 mm (4 inch)

40 mm (1,5 inch) bên cạnh và trên nóc tháp chỉ huy

60 mm (2,5 inch) bên trên bánh lái

Sau cải biến SCB-27A:

Đai giáp được thay thế bằng vỏ bọc với 27 kg (60 lb) thép tôi

Máy bay: 90-100 máy bay

1 × thang nâng cạnh sàn đáp

2 × thang nâng giữa

Sau cải biến SCB-27A:

50 máy bay (CVS) / 70 máy bay (CVA)

2 × máy phóng thủy lực H8 được bổ sung

USS Hornet (CV/CVA/CVS-12) là một trong số 24 tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp Essex. Được chế tạo vào tháng 8 năm 1942; ban đầu nó được đặt tên là USS Kearsarge, nhưng sau đó nó được đổi tên nhằm tôn vinh chiếc USS Hornet (CV-8) đã bị mất vào tháng 10 năm 1942. Do đó nó trở thành chiếc tàu chiến thứ tám của Hải quân Mỹ mang cái tên này.Hornet được đưa vào hoạt động từ tháng 11 năm 1943, và sau ba tháng huấn luyện đã gia nhập lực lượng Hạm đội Hoa Kỳ trong cuộc chiến tại Thái Bình Dương. Nó đóng một vai trò quan trọng trong các chiến dịch của Thế Chiến II, và cũng tham gia chiến dịch Magic Carpet (chiếc thảm thần) đưa quân đội quay về Mỹ. Trong những năm sau đó, nó từng phục vụ trong Chiến tranh Việt Nam, và cũng tham gia vào chương trình Apollo, vớt các nhà phi hành vũ trụ khi họ quay trở về sau khi đặt chân lên mặt trăng.Hornet cuối cùng được cho ngừng hoạt động vào năm 1970. Nó sau đó được công nhận là một Di tích Lịch sử Quốc gia, và vào năm 1998 nó được mở ra cho công chúng như một bảo tàng nổi tại Căn cứ Không lực Hải quân Alameda trước đây ở Alameda, California.

Thiết kế và chế tạo

Hợp đồng chế tạo chiếc Kearsarge được trao cho Xưởng đóng tàu Newport News vào ngày 9 tháng 9 năm 1940, và lườn của nó bắt đầu được đặt vào ngày 3 tháng 8 năm 1942. Chiếc tàu sân bay Hornet bị đánh c hìm trong trận Santa Cruz vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, nên thân của chiếc CV-12 được đặt lại tên là Hornet (cái tên Kearsarge vẫn còn đóng trên biển của thân tàu). Nó được hạ thủy vào ngày 30 tháng 8 năm 1943, được đỡ đầu bởi bà Annie Knox (phu nhân của Bộ trưởng Hải quân Frank Knox) và được đưa vào sử dụng ngày 29 tháng 11 năm 1943. Vị chỉ huy đầu tiên của con tàu là Thuyền trưởng (sau này là Phó Đô Đốc) Miles R. Browning.

Lịch sử hoạt động

Thế Chiến II: 1944 - 1947

Chiếc Hornet tiến hành chạy thử máy huấn luyện ngoài khơi Bermuda trước khi rời Norfolk ngày 14 tháng 2 năm 1944 để tham gia Lực lượng Đặc nhiệm tàu sân bay nhanh vào ngày 20 tháng 3 tại đảo san hô Majuro trong quần đảo Marshall. Sau khi cung ứng việc hỗ trợ trên không bảo vệ cho cuộc chiếm đóng các bãi biển ở New Guinea, nó thực hiện các cuộc không kích quy mô lớn nhắm vào các căn cứ của quân Nhật trên quần đảo Caroline và chuẩn bị hỗ trợ cho cuộc tấn công đổ bộ nhằm chiếm đóng quần đảo Marianas.Vào ngày 11 tháng 6 năm 1944, Hornet tung ra các cuộc không kích nhắm vào Tinian và Saipan. Trong ngày hôm sau nó tiến hành các cuộc ném bom lớn trên các đảo Guam và Rota. Trong các ngày 15 và 16 tháng 6, nó tấn công các sân bay đối phương trên các đảo Iwo Jima và Chichi Jima nhằm ngăn ngừa các cuộc không kích vào lực lượng Đồng Minh đang chiếm đóng Saipan trong quần đảo Marianas. Trưa ngày 18 tháng 6 năm 1944, Hornet hợp cùng Lực lượng Đặc nhiệm tàu sân bay nhanh để đánh chặn Hạm đội Cơ động Nhật Bản đang di chuyển qua biển Philippine để hướng đến Saipan. Trận chiến biển Philippine mở đầu vào ngày 19 tháng 6 năm 1944 khi Hornet tung ra các đợt không kích nhằm tiêu diệt càng nhiều càng tốt các máy bay đặt căn cứ trên mặt đất trước khi các máy bay trên tàu sân bay đến được chiến trường.Lực lượng đối phương tiếp cận các tàu sân bay Mỹ với bốn đợt tấn công lớn, đầy các phi công trẻ tuổi nhưng hoàn toàn thiếu kinh nghiệm. Các máy bay tiêm kích từ Hornet và các tàu sân bay khác, vốn gồm các phi công cựu binh đã hoàn thiện kỹ năng của họ đến mức hoàn hảo, đã phá vỡ và đập tan mọi cuộc tấn công trước khi máy bay Nhật có thể đến được Lực lượng Đặc nhiệm. Hầu như mọi chiếc máy bay Nhật Bản đều bị bắn rơi trong các cuộc không chiến vĩ đại diễn ra trong ngày 19 tháng 6 năm 1944, đã trở nên nổi tiếng dưới tên gọi "The Marianas Turkey Shoot" (Cuộc săn vịt trời Marianas hay Trận bắn gà Marianas). Khi Hạm đội Cơ động Nhật Bản rút lui vào ngày 20 tháng 6, các tàu sân bay Mỹ đã tung ra cuộc không kích tầm xa đánh chìm được tàu sân bay Hiyō và làm hư hỏng nặng hai tàu chở dầu đến mức phải bỏ tàu và đánh đắm. Báo cáo của Đô đốc Ozawa trong ngày 20 tháng 6 năm 1944 cho thấy lực lượng không quân của ông còn lại chỉ có 35 máy bay có khả năng hoạt động trong tổng số 430 chiếc ông có được lúc bắt đầu trận chiến biển Philippine.Hornet đặt căn cứ tại Eniwetok trong quần đảo Marshall đã tấn công các cứ điểm đối phương trãi dài từ Guam đến quần đảo Bonin, sau đó tập trung vào Palaus, trong suốt khu vực biển Philippine, và đếncác căn cứ đối phương tại Okinawa và Đài Loan. Máy bay của nó đã hỗ trợ trực tiếp cho lực lượng đổ bộ lên đảo Leyte ngày 20 tháng 10 năm 1944. Trong quá trình Hải chiến vịnh Leyte, nó tung ra các cuộc tấn công và gây thiệt hại cho lực lượng chính của Hạm đội Nhật Bản trong trận Samar, truy kích hạm đội đối phương đang rút lui qua biển Sibuyan về hướng Borneo.Trong những tháng sau đó, Hornet tấn công các tàu bè và sân bay đối phương trong suốt Philippines, kể cả một đợt không kích tiêu diệt trọn một đoàn tàu vận tải Nhật trong vịnh Ormoc. Vào ngày 30 tháng 12 năm 1944 nó rời Ulithi trong khu vực quần đảo Caroline để tấn công vào Đài Loan, Đông Dương và quần đảo Pescadore. Trên đường quay về Ulithi, máy bay của Hornet đã tiến hành trinh sát bằng hình ảnh Okinawa trong ngày 22 tháng 1 năm 1945 nhằm giúp cho việc vạch kế hoạch tấn công lên "hòn đảo cuối cùng bước đến Nhật Bản".Hornet lại rời khỏi Ulithi ngày 10 tháng 2 để tung ra một cuộc không kích toàn diện vào Tokyo, sau đó nó hỗ trợ cho cuộc tấn công đổ bộ lên Iwo Jima trong các ngày 19 và 20 tháng 2 năm 1945.Các cuộc không kích được tiếp tục thực hiện lặp lại tại các tổ hợp công nghiệp Tokyo, và Okinawa cũng bị ném bom dữ dội. Vào ngày 1 tháng 4 năm 1945, máy bay của Hornet trực tiếp hỗ trợ cho các cuộc tấn công đổ bộ lên Okinawa. Vào ngày 6 tháng 4, máy bay của nó đã tấn công và đánh chìm chiếc thiết giáp hạm khổng lồ Nhật Bản Yamato và lực lượng đặc nhiệm của nó khi chúng đến gần Okinawa. Trong hai tháng tiếp theo sau, Hornet chuyển đổi giữa nhiệm vụ hỗ trợ trên không cho lực lượng mặt đất tại Okinawa và các cuộc không kích nhằm phá hủy khả năng công nghiệp của Nhật Bản. Nó gặp phải một cơn bão to vào ngày 4 đến ngày 5 tháng 6 năm 1945 làm bong đi khoảng 8 m (25 ft) sàn đáp phía trước.Trong 16 tháng liên tục, nó đã hoạ̀t động tại tuyến đầu của Mặt trận Thái Bình Dương, đôi khi chỉ cách các hòn đảo chính quốc Nhật Bản không quá (40 dặm). Bị tấn công từ trên không 59 lần, nó không hề bị đánh trúng lần nào. Máy bay của nó đã phá hủy được 1.410 máy bay Nhật; chỉ có chiếc tàu sân bay Essex vượt qua được thành tích kỷ lục này. Mười phi công của nó đã đạt được danh hiệu "Ách trong vòng một ngày"; và 30 trong số 42 phi công của Phi đội VF-2 Hellcat là "Ách". Trong vòng một ngày, máy bay của nó đã bắn rơi được 72 máy bay đối phương; và trong vòng một tháng đã bắn rơi 255 máy bay. Hornet đã hỗ trợ gần như tất cả các cuộc đổ bộ tại Mặt trận Thái Bình Dương sau tháng 3 năm 1944. Máy bay của nó cũng đã phá hủy hoặc làm hư hại 1.269.710 tấn tàu bè đối phương, và đã đánh trúng những phát chí mạng đầu tiên giúp đánh chìm chiếc thiết giáp hạm Yamato.Hornet được tặng thưởng bảy ngôi sao chiến đấu vì thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và là một trong chín tàu sân bay được trao tặng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống.Sau cơn bão, Hornet quay về Philippines rồi tiếp tục đi về San Francisco, đến nơi ngày 7 tháng 7 năm 1945. Việc đại tu hoàn tất vào ngày 13 tháng 9 năm 1945 khi nó lên đường tham gia vào chiến dịch Magic Carpet đưa quân nhân Hoa Kỳ trú đóng tại Marianas và quần đảo Hawaii quay về nhà. Nó về đến San Francisco ngày 9 tháng 2 năm 1946; tại đây nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 15 tháng 1 năm 1947, gia nhập Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương.

Căng thẳng thời bình: 1951 - 1959

Hornet được cho tái hoạt động vào ngày 20 tháng 3 năm 1951, khi nó rời San Francisco lên đường đến Xưởng Hải quân New York vào ngày 12 tháng 5 năm 1951 để thực hiện các cải biến thành một tàu sân bay tấn công. Vào ngày 11 tháng 9 năm 1953, nó đi vào hoạt động như tàu sân bay tấn công mang số hiệu CVA-12. Con tàu tiến hành huấn luyện trong vùng biển Caribbe trước khi khởi hành từ Norfolk ngày 11 tháng 5 năm 1954 thực hiện chuyến đi quanh trái đất kéo dài 8 tháng.Sau các hoạt động tại Địa Trung Hải và Ấn Đô Dương, Hornet gia nhập lực lượng cơ động của Hạm đội 7 tại khu vực biển Nam Trung Quốc để tìm kiếm những người còn sống sót trên một máy bay hành khách của hãng Cathay Pacific bị máy bay Cộng sản Trung Quốc bắn rơi gần đảo Hải Nam. Ngày 25 tháng 7, máy bay của Hornet yểm trợ cho máy bay từ tàu sân bay Philippine Sea khi họ bắn rơi hai chiếc máy bay tiêm kích Trung Quốc đang tìm cách tấn công. Khi các căng thẳng đã dịu bớt, nó quay về San Francisco ngày 12 tháng 12 năm 1954, tiến hành huấn luyện ngoài khơi San Diego, rồi lại khởi hành ngày 4 tháng 5 năm 1955 để gia nhập lực lượng của Hạm đội 7 tại Viễn Đông.Hornet giúp yểm trợ cho cuộc di cư của người Việt từ miền Bắc do phía Cộng sản kiểm soát vào Nam Việt Nam, sau đó tiến hành các hoạt động huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trãi dài từ Nhật Bản đến Okinawa, Đài Loan và Philippines cùng Đệ Thất Hạm Đội. Nó quay về San Diego ngày 10 tháng 12 năm 1955 và vào Xưởng hải quân Puget Sound một tháng sau đó để được bảo trì và thực hiện các cải biến bao gồm một mũi tàu chống bão và một sàn đáp chéo góc, cho phép đồng thời phóng và thu hồi máy bay.Sau khi được đại tu và cải biến, Hornet hoạt động dọc theo bờ biển ngoài khơi California. Nó rời San Diego ngày 21 tháng 1 năm 1957 để tăng cường sức mạnh cho Đệ Thất Hạm Đội cho đến khi nó rời vùng Viễn Đông đầy sôi động vào ngày 25 tháng 7 năm 1957.Tiếp theo một hành trình tương tự kéo dài từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 2 tháng 7 năm 1958, chiếc tàu sân bay được đổi số hiệu thành CVS-12, một tàu sân bay chống tàu ngầm. Vào tháng tháng 8, nó lại vào Xưởng hải quân Puget Sound để được cải biến các thiết bị cho vai trò mới. Ngày 3 tháng 4 năm 1959, nó khởi hành từ Long Beach để gia nhập Đệ Thất Hạm Đội trong thực hành chiến thuật chống tàu ngầm, hoạt động trong vùng biển Nhật Bản, Okinawa và Philippines. Nó quay trở về nhà vào tháng 10 để thực hành huấn luyện dọc theo bờ biển phía Tây nước Mỹ.

Chiến tranh Việt Nam và các chuyến bay vũ trụ: 1960 - 1970

Trong những năm sau đó, Hornet thường được bố trí đến Đệ Thất Hạm Đội để hoạt động ngoài khơi bờ biển Nam Việt Nam kéo dài đến Nhật Bản, Philippines và Okinawa; và nó cũng góp phần quan trọng trong Chương trình Apollo, như là tàu sân bay thu hồi cho các chuyến bay có và không có người lái.Ngày 25 tháng 8 năm 1966, nó là tàu thu hồi cho chuyến bay AS-202, chuyến bay không người lái thứ hai thử nghiệm module Chỉ huy và Dịch vụ Apollo. Con tàu vũ trụ được phóng đi ba-phần-tư quỹ đạo vòng quanh trái đất trong 93 phút trước khi đáp xuống gần đảo Wake. Module chỉ huy này hiện nay đang được trưng bày trên tàu bảo tàng Hornet.[1][2][3]Hornet quay về Long Beach ngày 8 tháng 9 năm 1966, nhưng sau đó quay trở lại vùng Viễn Đông ngày 27 tháng 3 năm 1967. Nó đến Nhật Bản đúng một tháng sau đó, và rời Sasebo ngày 19 tháng 5 để đi đến khu vực chiến sự. Nó hoạt động ở vùng biển ngoài khơi Việt Nam suốt phần còn lại của mùa Xuân và gần hết mùa Hè năm 1967.Hornet đóng góp phần đáng kể nhất của nó Chương trình Apollo khi nó tham gia vớt các nhà du hành vũ trụ sau chuyến đặt chân đầu tiên lên mặt trăng, chuyến bay Apollo 11, vào ngày 24 tháng 7 năm 1969.[4] Tổng thống Richard Nixon đã có mặt trên chiếc tàu sân bay để chào mừng các phi hành gia quay trở về mặt đất, nơi họ sống cách ly trên chiếc Hornet trước khi được chuyển về Phòng thí nghiệm Tiếp nhận Mặt trăng tại Houston.[5] Những bước chân đầu tiên trên mặt đất của những người đã đặt chân lên mặt trăng Neil Armstrong và Buzz Aldrin, cùng phi công module chỉ huy Michael Collins, được đánh dấu trên sàn của sàn chứa máy bay, như là một phần của triển lãm chương trình Apollo trên tàu bảo tàng Hornet.Hornet một lần nữa phục vụ cho chương trình thám hiểm vũ trụ khi tham gia thu hồi tàu Apollo 12 vào ngày 24 tháng 11 năm 1969. Những phi hành gia đặt chân lên Mặt Trăng Charles Conrad, Jr. và Alan L. Bean cùng phi công module chỉ huy Richard F. Gordon, Jr. được vớt lên từ địa điểm hạ cánh gần đảo Samoa.[

Đặt hàng: 30 tháng 3 năm 1939

Lớp tàu: lớp tàu sân bay Yorktown

Xưởng đóng tàu: Newport News Shipbuilding Company

Đặt lườn: 25 tháng 9 năm 1939

Hạ thủy: 14 tháng 12 năm 1940

Đỡ đầu: Annie Reid Knox

Hoạt động: 20 tháng 10 năm 1941

Bị mất: Bị đánh chìm ngày 27 tháng 10 năm 1942 trong Trận chiến quần đảo Santa Cruz

Xóa đăng bạ: 13 tháng 1 năm 1943

Tặng thưởng: Huy chương Phục vụ Phòng thủ Hoa Kỳ

Huy chương Chiến dịch Châu Âu-Bắc Phi-Trung Đông (1 sao)

Huy chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương (1 sao)

Huy chương Chiến thắng Thế Chiến II

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 26.507 tấn (thiết kế tiêu chuẩn);

29.114 tấn (đầy tải)

Chiều dài: Thiết kế: 235 m (770 ft) (mực nước)

251 m (824 ft 9 in) (chung)

Từ tháng 2 năm 1942: 252 m (827 ft 5 in) (chung)

Mạn thuyền: 25,4 m (83 ft 3 in) (mực nước)

34,7 m (114 ft) (chung)

Tầm nước: 7,6 m (24 ft 4 in) (thiết kế)

8,5 m (28 ft) (đầy tải)

Lực đẩy: 4 × Turbine hơi nước Parsons

9 nồi hơi Babcock & Wilcox , 4 trục,

120.000 mã lực (90 MW)

Tốc độ: 60 km/h (32,5 knot) (thiết kế); 62,7 km/h (33,84 knot) (thử nghiệm)

Tầm xa: 23.150 km ở tốc độ 28 km/h

(12.500 nm ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 2.919 sĩ quan và thủy thủ (thời chiến)

Vũ khí: 8 × pháo 127 mm (5 inch) cỡ nòng .38

5 pháo tự động bốn nòng 28 mm (1.1 in) cỡ nòng .75

32 × pháo phòng không 20mm Oerlikons (tháng 7 năm 1942).

Vỏ giáp: đai giáp 2,5-4 inch

sàn bảo vệ 60 lb

vách ngăn 4 inch

4 inch bên cạnh và 2 inch trên nóc tháp chỉ huy

vỏ 4 inch bên hông bánh lái

Vũ khí điện tử: radar RCA CXAM-1[1]

Máy bay: Thiết kế:

90 máy bay

3 × thang nâng

2 × máy phóng thủy lực trên sàn đáp

1 × máy phóng thủy lực trên sàn chứa

USS Hornet (CV-8) là chiếc tàu chiến thứ bảy trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ mang tên USS Hornet và là một tàu sân bay thuộc lớp Yorktown hoạt động trong Thế Chiến II. Nó đã tham gia trận không kích Doolittle nổi tiếng, tham gia vào trận Midway và các hoạt động tại vùng biển Solomons trước khi bị hư hại nặng và chìm trong trận chiến quần đảo Santa Cruz.

Lịch sử hoạt động

Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 12 năm 1940 bởi Newport News Shipbuilding tại Newport News, Virginia, được đỡ đầu bởi Annie Reid Knox, phu nhân của Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ Frank M. Knox, và được đưa vào hoạt động tại Norfolk vào ngày 20 tháng 10 năm 1941 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Marc A. Mitscher.Trong giai đoạn không dễ dàng trước trận tấn công Trân Châu Cảng, Hornet được huấn luyện ngoài khơi Norfolk. Vũ khí phòng thủ của nó được nâng cấp trong đợt bảo trì trong xưởng vào tháng 1 năm 1942, thay thế mọi súng máy cỡ nòng .50 bằng 30 khẩu pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Một gợi ý của nhiệm vụ trong tương lai xảy ra vào ngày 2 tháng 2 năm 1942 khi chiếc Hornet rời khỏi Norfolk cùng hai chiếc máy bay ném bom tầm trung B-25 Mitchell của Không lực Mỹ trên sàn đáp. Khi ở ngoài khơi, những chiếc máy bay ném bom đã cất cánh trong sự bất ngờ và ngạc nhiên của thủy thủ đoàn chiếc Hornet. Họ đã không biết gì về ý nghĩa của thử nghiệm này, khi chiếc Hornet quay về Norfolk và chuẩn bị để xuất phát đi chiến đấu, và vào ngày 4 tháng 3 nó khởi hành đi sang Bờ Tây ngang qua kênh đào Panama.

Trận không kích Doolittle

Hornet đến Alameda, California ngày 20 tháng 3 năm 1942. Với những máy bay của chính nó trong sàn chứa, nó xếp 16 máy bay ném bom B-25 của Không lực Mỹ lên sàn đáp. Dưới sự chỉ huy của Đại tá Jimmy Doolittle, 70 sĩ quan và 64 thành viên đội bay trình diện trên tàu. Cùng với các tàu hộ tống, Hornet rời Alameda ngày 2 tháng 4 bằng một mệnh lệnh tuyệt đối bí mật. Trưa hôm đó, thuyền trưởng Marc Mitscher thông báo cho thủy thủ đoàn của ông mục đích của chuyến đi: một cuộc ném bom xuống chính quốc Nhật Bản.Mười một ngày sau đó, Hornet gặp gỡ chiếc Enterprise ngoài khơi Midway, và Lực lượng Đặc nhiệm TF 16 hướng về phía Nhật Bản. Trong khi chiếc Enterprise bố trí việc tuần tra chiến đấu trên không, Hornet có nhiệm vụ tiến sâu vào vùng biển của đối phương. Theo phương án được vạch ra ban đầu, lực lượng đặc nhiệm dự định tiến đến phạm vi cách bờ biển nước Nhật 724 km (450 dặm); tuy nhiên, vào buổi sáng ngày 18 tháng 4 một tàu tuần tiểu Nhật, chiếc Nitto Maru số 23, nhìn thấy lực lượng đặc nhiệm Mỹ. Chiếc tàu tuần dương Nashville đã đánh chìm chiếc tàu tuần tiểu Nhật. Giữa các mối lo ngại rằng quân Nhật đã biết đến sự hiện diện của họ, Doolittle và các đội bay của ông bị buộc phải cất cánh sớm từ khoảng cách 966 km (600 dặm) thay vì 724 km (450 dặm) như theo kế hoạch. Do quyết định này, không có chiếc nào trong tổng số 16 máy bay đến được các sân bay hạ cánh tại Trung Quốc. Sau chiến tranh, người ta mới biết được rằng chiếc tàu tuần tiểu Nhật đã bị đánh chìm trước khi liên lạc được với chính quốc Nhật Bản.Khi chiếc Hornet chuyển hướng và chuẩn bị phóng những chiếc máy bay ném bom vốn đã sẵn sàng để cất cánh từ ngày hôm trước, một cơn gió mạnh có vận tốc trên 70 km/h (46 mph, 40 knot) đánh tung mặt biển thành những ngọn sóng cao 9 m (30 ft); biển động rất mạnh làm chiếc tàu sân bay bị nhồi lắc mạnh mẻ, nước biển đánh tràn lên cả boong tàu và làm ướt sũng các thành viên trên sàn đáp. Chiếc máy bay dẫn đầu, được chỉ huy bởi Đại tá Doolittle, chỉ có khoảng đường băng dài 142 m (467 ft) để cất cánh, trong khi chiếc B-25 cuối cùng để ló phần đuôi kép của nó ra phía sau đuôi tàu. Doolittle, canh thời gian theo sự nhấp nhô của con tàu theo đợt sóng, đã cho chiếc máy bay chậm chạp chạy dọc theo đường băng, lượn vòng quanh Hornet sau khi cất cánh, và hướng về phía chính quốc Nhật Bản. Đến 09 giờ 20 phút, tất cả 16 máy bay đều cất cánh, khởi đầu trận không kích đầu tiên của Hoa Kỳ nhắm vào Nhật Bản.Hornet mang các máy bay của chính nó lên sàn đáp trong khi Lực lượng Đặc nhiệm TF 16 di chuyển hết vận tốc hướng về Trân Châu Cảng. Các tin tức truyền thanh thu được, cả bằng tiếng Nhật và tiếng Anh, được xác nhận lúc 14 giờ 46 phút về sự thành công của cuộc không kích. Đúng một tuần sau khi phóng những chiếc B-25, Hornet về đến Trân Châu Cảng. Nhiệm vụ của chiếc Hornet đã được giữ bí mật trong vòng một năm; khi Tổng thống Roosevelt chỉ liên hệ điểm xuất phát của những chiếc máy bay ném bom như là "Shangri-La"[2]. Nhiều năm sau, Hải quân Mỹ đã đặt cái tên này cho một chiếc tàu sân bay.Hornet rời Trân Châu Cảng ngày 30 tháng 4 để hỗ trợ Yorktown và Lexington trong trận chiến biển Coral, nhưng trận chiến đã kết thúc trước khi chiếc tàu sân bay đến được chiến trận. Nó quay về Hawaii ngày 26 tháng 5, và lại khởi hành hai ngày sau đó nhằm đẩy lui một đòn tấn công được dự đoán của Nhật nhắm vào Midway.

Trận Midway, tháng 6 năm 1942

Các máy bay Nhật cất cánh từ tàu sân bay đã hướng về phía đảo Midway vào sáng sớm ngày 4 tháng 6 năm 1942. Hornet, Yorktown và Enterprise đã tung ra những máy bay của nó trong khi các tàu sân bay Nhật đưa những máy bay của chúng xuống sàn chứa chuẩn bị cho một cuộc tấn công thứ hai nhắm vào đảo Midway. Những chiếc máy bay ném bom bổ nhào của chiếc Hornet đã không thể tìm ra các mục tiêu của chúng, nhưng 15 máy bay phóng ngư lôi thuộc Phi đội Phóng ngư lôi 8 (VT-8) đã tìm ra đối phương và tung ra cuộc tấn công. Chúng bị đối đầu bởi lực lượng máy bay tiêm kích đối phương áp đảo ở khoảng cách 13 km (8 dặm) và bị bắn hạ từng chiếc một. Thiếu úy Hải quân George H. Gay là người duy nhất sống sót trong số 30 thành viên đội bay.Trong số 41 chiếc máy bay phóng ngư lôi được tung ra bởi ba tàu sân bay Mỹ, chỉ có sáu chiếc quay trở về. Nhưng sự hy sinh của chúng đã lôi kéo máy bay tiêm kích đối phương tách xa những chiếc máy bay ném bom bổ nhào của Enterprise và Yorktown; những chiếc này đã đánh chìm ba tàu sân bay Nhật Bản với sự giúp đỡ gián tiếp nhưng mang tính quyết định của chiếc tàu ngầm Nautilus. Chiếc tàu sân bay thứ tư của Nhật, Hiryū, bị đánh trúng vào cuối buổi chiều ngày 4 tháng 6 và bị chìm vào những giờ đầu tiên sáng ngày hôm sau. Yorktown bị mất do sự phối hợp tấn công từ trên không và bởi tàu ngầm.Những chiếc máy bay của Hornet (lần này được sự giúp sức của chiếc tàu ngầm Tambor) đã tấn công hạm đội Nhật Bản đang bỏ chạy vào ngày 6 tháng 6 năm 1942, và giúp đánh chìm chiếc tàu tuần dương Mikuma, làm hư hại một tàu khu trục, và để lại chiếc tàu tuần dương Mogami bốc cháy và hư hỏng nặng; cũng như đánh trúng các tàu chiến khác. Cuộc tấn công của Hornet nhắm vào Mogami đã kết thúc một trong những trận chiến mang tính quyết định trong lịch sử. Midway được bảo vệ như là một căn cứ quan trọng cho các chiến dịch nhắm vào Tây Thái Bình Dương. Tầm quan trọng lớn nhất là đã phá hỏng lực lượng tàu sân bay của Hải quân Nhật, một đòn chí mạng mà họ không bao giờ có thể hồi phục hoàn toàn. Hơn nữa, bốn chiếc tàu sân bay hạm đội đã mang xuống đáy biển cùng với chúng khoảng 250 máy bay và các phi công được huấn luyện tốt nhất và nhiều kinh nghiệm nhất trên các tàu sân bay. Chiến thắng Midway được công nhận rộng rãi là bước ngoặc trong chiến cuộc tại Thái Bình Dương.

Chiến dịch Solomons, tháng 8 - tháng 10, 1942

Sau trận Midway, Hornet được trang bị một bộ radar CXAM mới gắn trên đỉnh cột anten ba chân, và bộ radar SC được chuyển sang cột anten chính, một cụm pháo phòng không bốn nòng 28 mm (1,1 inch) được thêm phía mũi tàu, số súng 20 mm được bổ sung từ 30 lên 32 khẩu, máy phóng trên sàn chứa của nó được tháo bỏ, và nó tiến hành huấn luyện ngoài khơi Trân Châu Cảng. Nó khởi hành ngày 17 tháng 8 năm 1942 để bảo vệ các vùng biển dẫn đến Guadalcanal tại quần đảo Solomons đang bị giành giật quyết liệt. Sự kiện chiếc Enterprise bị hư hại bởi bom ngày 24 tháng 8, chiếc Saratoga bị hư hại bởi ngư lôi ngày 31 tháng 8 và việc mất chiếc Wasp ngày 15 tháng 9 khiến lực lượng tàu sân bay Mỹ tại Nam Thái Bình Dương chỉ còn một chiếc duy nhất: Hornet. Nó đảm trách gánh nặng hỗ trợ trên không tại khu vực Solomons cho đến tận ngày 24 tháng 10 năm 1942 khi nó sáp nhập cùng chiếc Enterprise ở phía Tây Bắc đảo New Hebrides để cùng đánh chặn một lực lượng tàu sân bay và tàu chiến Nhật Bản đang hướng đến Guadalcanal.Trận chiến quần đảo Santa Cruz diễn ra ngày 26 tháng 10 năm 1942 mà không có sự tiếp chiến trực tiếp giữa các tàu nổi của các lực lượng đối địch. Sáng hôm đó, máy bay của chiếc Enterprise đã ném bom chiếc tàu sân bay Zuihō, trong khi máy bay của chiếc Hornet đã gây hư hỏng nặng cho tàu sân bay Shōkaku và tàu tuần dương Chikuma. Hai tàu tuần dương Nhật khác cũng bị máy bay của chiếc Hornet tấn công. Trong khi đó, Hornet bị tấn công phối hợp bởi máy bay ném bom bổ nhào và máy bay ném ngư lôi. Trong vòng 15 phút, Hornet hứng chịu ba quả bom từ những chiếc máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A "Val", hai quả ngư lôi từ những chiếc máy bay ném ngư lôi Nakajima B5N "Kate", và thêm một chiếc "Val" khác rơi xuống trúng sàn đáp.Chuẩn Đô đốc Murray ra lệnh cho chiếc tàu tuần dương Northampton kéo chiếc Hornet bị hỏng. Vì quân Nhật đang bận bịu với việc tấn công chiếc Enterrprise, chúng để mặc cho chiếc Northampton kéo đi với vận tốc khoảng 9 km/h (5 knot). Tuy nhiên vào cuối ngày chiếc Hornet, trong khi được kéo đi, lại bị tấn công lần nữa bằng một đợt máy bay ném ngư lôi. Một chiếc Kate đã đánh trúng thêm một quả ngư lôi nữa, và lệnh bỏ tàu được đưa ra. Thuyền trưởng Charles P. Mason là người cuối cùng ở lại trên tàu đã leo qua mạn tàu xuống biển, và những người còn sống sót nhanh chóng được các tàu khu trục vớt lên.Lực lượng Mỹ sau đó cố gắng đánh chìm chiếc Hornet bị bỏ lại, vốn ngoan cường chịu đựng chín trái thủy lôi và hơn 400 phát đạn 127 mm (5 in) từ các tàu khu trục Mustin và Anderson. Mustin và Anderson rời khỏi địa điểm khi lực lượng hải quân Nhật xuất hiện trong khu vực đó. Các tàu khu trục Nhật đã kết liễu chiếc Hornet bằng bốn quả ngư lôi 610 mm (24 in). Lúc 01 giờ 35 phút ngày 27 tháng 10, chiếc tàu sân bay dũng cảm cuối cùng chìm xuống đáy biển. Nó được đưa ra khỏi đăng bạ Hải quân ngày 13 tháng 1 năm 1943, nhưng tên của nó được tiếp tục đặt cho một tàu sân bay mới.Hornet nhận được bốn ngôi sao chiến đấu vì những thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Phi đội Phóng ngư lôi 8 (VT-8) của nó được tặng thưởng Đơn vị Tuyên dương Tổng thống "vì những hoạt động anh hùng phi thường và phục vụ nổi bật vượt quá nghĩa vụ đòi hỏi" trong trận Midway.

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Essex

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Newport News

Đặt lườn: 1 tháng 12 năm 1941

Hạ thủy: 26 tháng 4 năm 1943

Đỡ đầu: Lou Henry Hoover

Hoạt động: 16 tháng 8 năm 1943

9 tháng 2 năm 1952

Xếp lại lớp: Tàu sân bay tấn công (CVA): 1 tháng 10 năm 1952

Tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS): 31 tháng 3 năm 1962

Ngừng hoạt động: 22 tháng 3 năm 1947

15 tháng 3 năm 1974

Hiện trạng: Tàu bảo tàng ở New York.

Xóa đăng bạ: 23 tháng 2 năm năm 1982

Tặng thưởng:

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 27.100 tấn (tiêu chuẩn); 36.380 tấn (đầy tải)

Sau cải biến SCB-27A:

28.200 tấn (tiêu chuẩn); 40.600 tấn (đầy tải)

Sau cải biến SCB-125:

30.800 tấn (tiêu chuẩn); 41.200 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 250 m (820 ft) mực nước; 266 m (872 feet) chung

Sau cải biến SCB-27A:

250 m (819 ft 1 in) mực nước; 274 m chung (898 ft 1 in)

Sau cải biến SCB-125:

251 m (824 ft 6 in) mực nước; 270 m (890 ft) chung

Mạn thuyền: 28 m (93 ft) mực nước; 45 m (147 ft 6 in) chung

Sau cải biến SCB-27A:

30,9 m (101 ft 5 in) mực nước; 46,3 m (151 ft 11 in) chung

Sau cải biến SCB-125:

31 m (101 ft) mực nước; 60 m (196 ft) chung

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 5 in) tiêu chuẩn; 10,4 m (34 ft 2 in) đầy tải

Sau cải biến SCB-27A:

9,0 m (29 ft 8 in)

Sau cải biến SCB-125:

9,2 m (30 ft 1 in)

Lực đẩy: 4 × Turbine hơi nước Westinghouse

8 nồi hơi, áp suất 3.900 kPa (565 psi) ở nhiệt độ 450 °C (850 °F)

4 trục

công suất 150.000 mã lực (110 MW)

Tốc độ: 61 km/h (33 knot)

Tầm xa: 37.000 km ở tốc độ 28 km/h

(20.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 2.600

Vũ khí: 4 × pháo nòng kép 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

4 × pháo nòng đơn 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

8 × pháo bốn nòng 40 mm cỡ nòng 56

46 × pháo nòng đơn 20 mm cỡ nòng 78

Sau cải biến SCB-27A:

8 × pháo nòng đơn 130 mm (5 in) cỡ nòng 38

14 × pháo nòng kép 76 mm (3 in) cỡ nòng 50

Sau cải biến SCB-125:

7 × pháo nòng đơn 130 mm (5 in) cỡ nòng 38

4 × pháo nòng kép 76 mm (3 in) cỡ nòng 50

Vỏ giáp: đai giáp 60 đến 100 mm (2,5 đến 4 inch)

sàn đáp và sàn bảo vệ 40 mm (1,5 inch)

vách ngăn 100 mm (4 inch)

40 mm (1,5 inch) bên cạnh và trên nóc tháp chỉ huy

60 mm (2,5 inch) bên trên bánh lái

Sau cải biến SCB-27A:

Đai giáp được thay thế bằng vỏ bọc với 27 kg (60 lb) thép tôi

Máy bay: 90-100 máy bay

1 × thang nâng cạnh sàn đáp

2 × thang nâng giữa

Sau cải biến SCB-27A:

50 máy bay (CVS) / 70 máy bay (CVA)

2 × máy phóng thủy lực H8 được bổ sung

USS Intrepid (CV/CVA/CVS-11) là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp Essex được chế tạo trong Thế Chiến II cho Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang cái tên này. Được đưa vào sử dụng từ tháng 8 năm 1943, Intrepid tham gia nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương, đáng kể nhất là Trận chiến vịnh Leyte. Được cho ngừng hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, nó được tái hoạt động và được hiện đại hóa vào đầu những năm 1950 như một tàu sân bay tấn công (CVA), và rồi sau đó như là một tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS). Trong lần hoạt động thứ hai, nó phục vụ chủ yếu tại Đại Tây Dương, nhưng cũng từng tham gia chiến tranh Việt Nam. Các hoạt động đáng chú ý nhất của nó là chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hoa Kỳ phóng máy bay bằng một máy phóng hơi nước, và là chiếc tàu sân bay thu hồi chính cho một chuyến bay vũ trụ Mercury và một chuyến bay Gemini. Do vai trò nổi bật của nó trong chiến đấu, nó được đặt cho tên lóng là "the Fighting I", trong khi vận rủi thường gặp và thời gian dài trải qua trong ụ tàu để sửa chữa khiến cho nó còn được gọi là "the Evil I", "the Dry I" hay "the USS Decrepid".Được cho ngừng phục vụ vào năm 1974, đến năm 1982 Intrepid trở thành nền tảng cho Bảo tàng Hải quân-Không quân-Không gian Intrepid tại thành phố New York.

Thiết kế và chế tạo

Chiếc USS Intrepid được hạ thủy vào ngày 26 tháng 4 năm 1943 bởi xưởng đóng tàu Newport News, Newport News, Virginia, và là chiếc thứ năm của lớp tàu sân bay Essex được hạ thủy. Nó được đỡ đầu bởi Bà Lou Henry Hoover, phu nhân của Phó Đô đốc John H. Hoover. Vào ngày 16 tháng 8 năm 1943, nó được đưa vào hoạt động với vị chỉ huy đầu tiên là Thuyền trưởng Thomas L. Sprague; và nó khởi hành chuyến đi đầu tiên hướng đến vùng biển Caribbe để thử máy và huấn luyện.

Lịch sử hoạt động

Thế Chiến II

Intrepid là một trong những tàu chiến hải quân Mỹ có thành tích phục vụ xuất sắc nhất, hoạt động tại Mặt trận Thái Bình Dương bao gồm các trận quần đảo Marshall, Truk, vịnh Leyte và Okinawa. Vào cuối chiến tranh, Intrepid đang ở Enewetak và sau đó cung cấp việc hỗ trợ trên không cho lực lượng chiếm đóng cũng như cung ứng tiếp liệu cho đến khi quay trở về California.

Quần đảo Marshalls, 1944

Ngày 3 tháng 12 năm 1943, Intrepid bắt đầu khởi hành từ Căn cứ Hải quân Norfolk hướng đến San Francisco, rồi sau đó tiếp tục hướng đến Hawaii. Nó đi đến Trân Châu Cảng ngày 10 tháng 1 và bắt đầu chuẩn bị cho cuộc tấn công lên quần đảo Marshall, mục tiêu tiếp theo của chiến dịch "nhảy cóc" của Hải quân tại Thái Bình Dương. Ngày 16 tháng 1, nó rời Trân Châu Cảng cùng các tàu sân bay Cabot và Essex.Từ ngày 29 tháng 1 đến ngày 2 tháng 2 năm 1944, nó không kích vào các hòn đảo phía góc Đông Bắc của đảo san hô Kwajalein cho đến khi mọi sự kháng cự bị dập tắt. Cho đến ngày 31 tháng 1, nó đã tiêu diệt được tất cả 83 máy bay Nhật đặt căn cứ tại Roi-Namur. Các cuộc đổ bộ đầu tiên được thực hiện trên các đảo nhỏ lân cận. Sáng hôm đó, máy bay của Intrepid đã bắn phá đảo Ennuebing cho đến tận 10 trước khi lực lượng Thủy quân Lục chiến đầu tiên đổ bộ lên các bãi biển. Nữa giờ sau, phe Đồng Minh kiểm soát được hòn đảo này, vốn có vị trí chiến lược bảo vệ sườn Tây Nam của đảo Roi và kiểm soát lối vào phía Bắc của vũng biển Kwajalein, cho phép Thủy quân Lục chiến thiết lập trận địa pháo binh nhằm yểm trợ cho cuộc tấn công lên Roi.Đến ngày 2 tháng 2 năm 1944, nhiệm vụ chiếm đóng quần đảo Marshall của nó được hoàn tất, và Intrepid lên đường hướng đến Truk, một căn cứ vững chắc của quân Nhật ở phía trung tâm của quần đảo Micronesia. Đến lúc rạng đông ngày 17 tháng 2, ba đội tàu sân bay đã đến được mục tiêu mà không bị phát hiện. Trong các ngày 17 và 18 tháng 2, dưới các đợt tấn công liên tục, ba đội tàu sân bay đã đánh chìm được hai tàu khu trục cùng 200.000 tấn tàu bè trong chiến dịch Hailstone. Trận tấn công của các tàu sân bay đã chứng tỏ sự mong manh của Truk, và do đó làm suy giảm đáng kể sự hữu ích của nó như là một căn cứ cho lực lượng Nhật Bản.Đêm 17 tháng 2 năm 1944, một ngư lôi phóng từ máy bay đã đánh trúng mạn phải chiếc Intrepid 4,5 m (15 ft) bên dưới mực nước, làm ngập nhiều ngăn và ảnh hưởng đến bánh lái. Bằng cách cho các động cơ bên mạn trái hoạt động hết công suất và cho ngưng hoặc chỉ chạy một phần ba công suất các động cơ bên mạn phải, Thuyền trưởng Sprague giữ được con tàu đi đúng hướng. Thủy thủ đoàn cho di chuyển máy bay trên các sàn ra phía trước nhằm giúp kiểm soát được con tàu.[1]Vào ngày 9 tháng 2, các cơn gió mạnh đã đẩy con tàu trệch khỏi hướng đi đã vạch khiến mũi tàu hướng về phía Tokyo. Thuyền trưởng Sprague sau đó thú nhận: "Vào lúc đó tôi hoàn toàn không có chút hứng thú nào phải đi về hướng đó." Khi ấy, thủy thủ đoàn đã làm một tấm vải buồm từ các vật liệu gỗ, lưới và vải bạt để giúp hỗ trợ lực đẩy cho con tàu, cho phép chiếc Intrepid duy trì đúng hướng của hành trình. Đến ngày 24 tháng 2 năm 1944, Intrepid về đến Trân Châu Cảng; và sau khi được sửa chữa tạm thời, ngày 6 tháng 3, Intrepid lên đường hướng về phía Bờ Tây Hoa Kỳ, và đến ngày 22 tháng 3 nó đến Hunter's Point, California.

Palaus và Philippines

Vào tháng 6 năm 1944, sau khi được sửa chữa, nó lên đường quay trở lại chiến trường, và trong vòng hai tháng tiếp theo nó hoạt động ngoài khơi Trân Châu Cảng trước khi khởi hành hướng đến quần đảo Marshall. Trong các ngày 6 và 7 tháng 9 năm 1944, máy bay của Intrepid tấn công các vị trí của quân Nhật trên quần đảo Palau, tập trung vào các sân bay và các trận địa pháo binh ở Peleliu.Vào ngày 8 tháng 9, lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh của nó di chuyển theo hướng Tây đi đến phía Nam Philippines. Trong các ngày 9 và 10 tháng 9, nó tấn công các sân bay trên đảo Mindanao. Từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 9, nó không kích các căn cứ trong khu vực biển Visayan. Nó quay về Palaus ngày 17 tháng 9 để hỗ trợ lực lượng Thủy quân Lục chiến vượt qua các sự kháng cự của quân Nhật cố thủ trong các hang động trên sườn đồi và trong đầm lầy ngập nước trên đảo Peleliu. Sau khi sự đề kháng của quân Nhật tại đây được dập tắt hoàn toàn, Intrepid quay trở lại Philippine nhằm dọn đường cho việc giải phóng hòn đảo này. Nó thực hiện việc không kích trên suốt quần đảo Philippines, và cũng tung ra các cuộc tấn công lên Okinawa và Đài Loan nhằm vô hiệu hóa các mối đe dọa của không lực Nhật Bản xuống đảo Leyte.Ngày 20 tháng 10 năm 1944, máy bay của Intrepid bắt đầu thực hiện các phi vụ hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Leyte. Trong khi đó, Hải quân Nhật với nỗ lực liều lĩnh nhằm cố giữ Philippines, đã quy tụ lực lượng đến vịnh Leyte từ ba hướng khác nhau.Trong quá trình của Hải chiến vịnh Leyte diễn ra tiếp theo đó, sáng ngày 24 tháng 10, một máy bay của Intrepid phát hiện ra kỳ hạm của Đô đốc Takeo Kurita, chiếc thiết giáp hạm Yamato. Hai giờ sau đó, máy bay từ Intrepid và Cabot dũng cảm vượt qua lưới lửa phòng không dày đặc để tấn công lực lượng chính của hạm đội Nhật Bản. Trong trận đánh kéo dài suốt ngày đến tận chiều tối, hết đợt này đến đợt khác, máy bay từ các tàu sân bay Mỹ đã liên tục tấn công, đánh chìm chiếc thiết giáp hạm vĩ đại Musashi cùng các khẩu pháo 460 mm (18,1 inch) của nó; gây hư hại cho chiếc thiết giáp hạm chị em với nó Yamato cùng những thiết giáp hạm Musashi Nagato và Haruna, cũng như chiếc tàu tuần dương hạng nặng Myōkō, buộc chiếc Myōkō phải rút lui.Đêm đó, Đệ Tam hạm đội của Đô đốc William Halsey chuyển hướng lên phía Bắc truy đuổi lực lượng phía Bắc của Hạm đội Nhật được phát hiện thấy ở mũi Đông Bắc của đảo Luzon. Lúc rạng sáng, máy bay được cho cất cánh để tấn công các con tàu Nhật lúc này ngoài khơi mũi Engaño. Một trong những máy bay của Intrepid đã ném trúng một quả bom lên chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Zuihō. Sau đó các máy bay ném bom Mỹ đã đánh chìm chiếc tàu sân bay chị em với nó Chitose, và một máy bay xuất phát từ Intrepid hoặc San Jacinto đã đánh trúng một ngư lôi vào chiếc tàu sân bay Zuikaku làm nó bị mất hệ thống liên lạc và bánh lái bị kẹt. Tàu khu trục Ayitsuki bị đánh chìm và ít nhất chín trong tổng số mười lăm máy bay của Đô đốc Ozawa bị bắn rơi. Cuộc tấn công diễn ra suốt ngày hôm đó, và sau năm đợt tấn công khác, phía Nhật đã mất bốn tàu sân bay và một tàu khu trục.Trong lúc đó, lực lượng chính của Hạm đội Nhật Bản vốn vẫn còn khá mạnh mẽ, sau khi vượt qua eo biển San Bernardino, hướng về phía Nam dọc theo bờ biển đảo Samar, nơi bãi đổ bộ trong vịnh được bảo vệ bởi một lực lượng nhỏ gồm sáu tàu sân bay hộ tống, ba tàu khu trục và bốn tàu khu trục hộ tống. Trận chiến đã nổ ra cho đến khi các lực lượng tăng viện đến nơi buộc Hạm đội Nhật Bản phải rút lui.Trong khi máy bay của Intrepid tấn công vào Clark Field trong ngày 30 tháng 10, một chiếc máy bay kamikaze cháy bùng đã đâm trúng một trong các khẩu đội pháo bên mạn trái làm thiệt mạng 10 người và bị thương 6 người. Công việc kiểm soát hư hỏng được thực hiện khéo léo đã giúp cho con tàu có thể tiếp tục thực hiện các hoạt động không quân.Sau đó, máy bay của Intrepid vẫn tiếp tục đánh phá các sân bay và tàu bè tại Philippines. Ngày 25 tháng 11 lúc ngay sau giữa trưa, một lực lượng máy bay Nhật đông đảo đã tiến hành phản công vào các tàu sân bay. Trong vòng năm phút, hai chiếc máy bay kamikaze đâm trúng chiếc tàu sân bay, giết chết 6 sĩ quan và 5 thủy thủ. Tuy nhiên một báo cáo khác của Liên đội Không quân 18 cho biết: có 60 người chết, 15 người mất tích và khoảng 100 người bị thương. Intrepid không bị mất động lực và không bị tách khỏi đội hình của Đội đặc nhiệm tàu sân bay; trong vòng không đầy hai giờ, các đám cháy đã được dập tắt hoàn toàn.[2] Ngày 26 tháng 11, Intrepid khởi hành hướng về San Francisco, và nó đến nơi ngày 20 tháng 12 để được sửa chữa các hư hỏng trong chiến đấu.

Okinawa và chính quốc Nhật Bản

Sau khi được sửa chữa, vào tháng 2 năm 1945 nó lên đường quay lại chiến trường. Đến Ulithi ngày 13 tháng 3, nó tiếp tục hành trình vào ngày 14 tháng 3 năm 1945 hướng về phía Đông.Vào ngày 18 tháng 3, nó tung ra các cuộc không kích dữ dội vào các sân bay trên đảo Kyūshū. Buổi sáng hôm đó, một chiếc máy bay G4M "Betty" hai động cơ Nhật Bản xuyên qua được màn hỏa lực phòng thủ hướng về phía chiếc Intrepid và nổ tung khi chỉ còn cách con tàu 15 m (50 ft). Một đám mưa xăng cháy và mãnh vở máy bay gây ra các đám cháy trên sàn chứa máy bay, nhưng các đội kiểm soát hư hỏng đã nhanh chóng dập tắt.Máy bay của Intrepid tham gia vào cuộc tấn công bộ phận còn sót lại của hạm đội Nhật Bản đang thả neo tại Kure, gây hư hỏng cho 18 tàu chiến đối phương kể cả chiếc siêu thiết giáp hạm Yamato và tàu sân bay Amagi. Sau đó các chiếc tàu sân bay hướng về phía Okinawa khi mà ngày được ấn định cho cuộc đổ bộ mang nhiều tham vọng nhất tại Thái Bình Dương sắp đến gần.Trong các ngày 26 và 27 tháng 3, máy bay của nó tấn công Ryūkyū nhằm vô hiệu hóa các công trình phòng thủ của đối phương. Ngày 1 tháng 4 năm 1945, cuộc tấn công lên Okinawa bắt đầu, và máy bay của nó đã thực hiện các cuộc tấn công lên các mục tiêu trên đảo này cũng như vô hiệu hóa các sân bay trong phạm vi hòn đảo. Ngày 16 tháng 4, trong quá trình một đợt không kích, một máy bay Nhật Bản đã bổ nhào tự sát lên sàn đáp của chiếc Intrepid, làm hỏng động cơ và một phần thân tàu, làm thiệt mạng tám người và bị thương 21 người khác. Trong vòng chưa đầy một giờ, đám cháy xăng được dập tắt, và chỉ ba giờ sau con tàu sân bay đã có thể tiếp nối các hoạt động không lực khi máy bay đã tiếp tục hạ cánh trên tàu sân bay.Ngày 17 tháng 4, Intrepid khởi hành quay trở về lục địa Hoa Kỳ, đi ngang qua Ulithi và Trân Châu Cảng. Ngày 19 tháng 5, nó về đến San Francisco để sửa chữa. Sau khi công việc sửa chữa hoàn tất, con tàu sân bay rời San Francisco ngày 29 tháng 6. Trên đường ra chiến trường, nó đi ngang đảo Wake ngày 6 tháng 8 và tung ra đợt không kích nhắm vào lực lượng Nhật Bản cố thủ tại đây.Ngày 7 tháng 8, Intrepid đi đến Eniwetok. Trong khi đang ở lại hòn đảo san hô này, ngày 15 tháng 8 nó nhận được lệnh "ngừng mọi hoạt động tấn công" do Nhật Bản đã chấp nhận đầu hàng. Đến ngày 21 tháng 8, chiếc tàu sân bay kỳ cựu tham gia hỗ trợ việc chiếm đóng Nhật Bản. Đến ngày 2 tháng 12 nó rời Yokosuka, và đến ngày 15 tháng 12 năm 1945 nó về đến San Pedro, California.

Tạm ngừng hoạt động sau Thế Chiến II

Ngày 4 tháng 2 năm 1946, Intrepid được chuyển đến vịnh San Francisco, đến ngày 15 tháng 8 nó được chuyển sang tình trạng "hoạt động trong lực lượng dự bị". Ngày 22 tháng 3 năm 1947, con tàu sân bay được cho ngừng hoạt động và gia nhập Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương.Đến ngày 9 tháng 2 năm 1952, tàu sân bay Intrepid được đưa trở lại hoạt động tại San Francisco. Đến ngày 12 tháng 3 năm 1952, nó khởi hành đi Norfolk, và đến ngày 9 tháng 4, nó được đưa vào xưởng hải quân Norfolk để được cải tiến thành một tàu sân bay tấn công hiện đại.Ngày 1 tháng 10 năm 1952, nó được xếp lại lớp thành tàu sân bay tấn công số hiệu CVA-11. Đến ngày 18 tháng 6 năm 1954, nó được đưa ra hoạt động trở lại. Vào ngày 13 tháng 10 năm 1954, Intrepid trở thành tàu sân bay Mỹ đầu tiên phóng máy bay bằng máy phóng hơi nước. Đến ngày 15 tháng 10 năm 1954, nó được đưa ra hoạt động thường trực như một đơn vị của Hạm đội Hoa Kỳ tại Đại Tây Dương.

1955 - 1961

Đầu năm 1955, nó được cho chạy thử máy ngoài khơi vịnh Guantánamo. Ngày 28 tháng 5 năm 1955, Intrepid rời Mayport, Florida để được bố trí đến hoạt động tại Địa Trung Hải đợt thứ nhất trong số hai đợt, như một đơn vị của Đệ Lục hạm đội Hoa Kỳ. Vào ngày 5 tháng 9 năm 1956, nó quay về Norfolk sau chuyến đi thứ hai, và đến ngày 29 tháng 9, nó bắt đầu một giai đoạn cải tạo hiện đại hóa kéo dài bảy tháng tại xưởng hải quân New York, được tiếp nối bằng một đợt huấn luyện ôn tập ngoài khơi vịnh Guantánamo.Vào tháng 9 năm 1957, với một sàn đáp chéo góc được gia cố và hệ thống hạ cánh gương, Intrepid rời Hoa Kỳ tham gia chiến dịch Strikeback, cuộc tập trận hải quân lớn nhất trong lịch sử vào thời bình tính cho đến thời điểm đó. Tháng 12 năm 1957, nó hoạt động ngoài khơi Norfolk trong chiến dịch Crosswind, một cuộc thử nghiệm ảnh hưởng của gió trong hoạt động của tàu sân bay. Intrepid đã chứng minh được rằng tàu sân bay có thể thực hiện các hoạt động hàng không mà không cần xoay ra hướng gió, thậm chí có thể phóng máy bay khi đang có gió xuôi.Trong những năm 1958 - 1961, Intrepid luân phiên hoạt động tại khu vực Địa Trung Hải cùng cáchoạt động dọc bờ biển Đại Tây Dương phía Đông Hoa Kỳ cùng các cuộc tập trận tại vùng biển Caribbe.

1962 - 1965

Ngày 8 tháng 12 năm 1961, Intrepid được xếp lớp lại thành một tàu sân bay chống tàu ngầm mang số hiệu CVS-11. Vì vậy, ngày 10 tháng 3 năm 1962, nó vào xưởng Hải quân Norfolk để được đại tu và tái trang bị cho vai trò tác chiến chống tàu ngầm mới. Đến ngày 2 tháng 4 năm 1962, nó rời xưởng mang theo máy bay của Liên đội Chống tàu ngầm 56.Sau các đợt huấn luyện, Intrepid được chọn làm tàu chính trong chiến dịch thu hồi phi hành gia Scott Carpenter và tàu vũ trụ của chương trình Mercury. Trưa ngày 24 tháng 5 năm 1962, Carpenter trong tàu vụ trụ Aurora 7 đáp xuống biển cách Intrepid nhiều trăm dặm. Sau đó ông ta được phát hiện bởi máy bay trinh sát đặt căn cứ từ đất liền, và hai máy bay lên thẳng của Intrepid mang theo các quan chức NASA, chuyên gia y tế, người nhái Hải quân và các nhiếp ảnh gia đã xuất phát để cứu hộ. Hơn một giờ sau đó, một máy bay lên thẳng đã vớt nhà du hành vũ trụ để quay về tàu sân bay và đưa ông về Hoa Kỳ an toàn.Mùa Hè năm 1962, nó tiến hành huấn luyện học viên mới; và sang mùa Thu nó được đại tu tại Norfolk. Đến ngày 23 tháng 1 năm 1963, chiếc tàu sân bay rời Hampton Roads để tập trận tại vùng biển Caribbe; nhưng đến cuối tháng 2 năm 1963, nó ngừng các hoạt động thường lệ để tham gia vào cuộc truy đuổi chiếc tàu buôn Venezuela Anzoátegui, khi mà phó thuyền trưởng thứ hai đã dẫn đầu một nhóm khủng bố ủng hộ Castro nổi loạn chiếm giữ con tàu. Những tên cướp biển cộng sản đã đầu hàng tại Rio de Janeiro. Đến ngày 23 tháng 3 năm 1963, chiếc tàu sân bay quay trở về Norfolk.Trong một năm tiếp theo sau đó, Intrepid hoạt động dọc theo bờ biển Đại Tây Dương trãi dài từ Nova Scotia đến vùng biển Caribbe để hoàn thiện các kỹ năng chống tàu ngầm. Ngày 11 tháng 6 năm 1964, nó rời Norfolk mang theo các họ viên mới đi đến Địa Trung Hải để huấn luyện ngoài biển các chiến thuật tìm và diệt tàu ngầm cùng Đệ Lục Hạm Đội.Trong thời gian hoạt động tại vùng Địa Trung Hải, Intrepid tham gia việc giám sát một lực lượng đặc nhiệm Xô Viết. Trên đường quay về nhà, thủy thủ đoàn nhận được tin báo họ được tặng thưởng Battle Efficiency "E" do các hoạt động chống tàu ngầm của năm trước. Vào mùa Thu năm 1964, Intrepid hoạt động dọc Bờ Đông Hoa Kỳ. Đến đầu tháng 9 năm 1964, nó tiếp đón người đứng đầu 22 nước thuộc khối NATO trong chuyến thăm viếng các căn cứ quân sự Hoa Kỳ.Trong các ngày 18 và 19 tháng 10 năm 1964, nó ở tại Yorktown tham gia lễ hội đánh dấu việc Charles Cornwallis đầu hàng 183 năm trước đó. Đại sứ Pháp tham dự buổi lễ đã trao tặng 12 khẩu pháo đúc từ Bastille, bản sao của những khẩu đã được Lafayette mang sang Mỹ. Để trao đổi, phiá Mỹ đã tặng cho nước Pháp 12 chiếc máy bay tiêm kích mới F-8 Crusader.Trong đêm 21 tháng 11 năm 1964, trong một đợt hoạt động ngắn ngoài khơi North Carolina, công tác cứu hộ nhanh chóng và hiệu quả đã cứu sống một thành viên bị rơi xuống nước trong khi đang lái một xe kéo máy bay.Đầu năm 1965, Intrepid bắt đầu chuẩn bị cho một nhiệm vụ quan trọng trong chuyến bay Gemini có người lái đầu tiên của NASA, chuyến bay Gemini 3. Ngày 23 tháng 3 năm 1965, Trung tá John Young và Thiếu tá Gus Grissom trên tàu vũ trụ Molly Brown đã đáp xuống cách Intrepid 90 km (50 hải lý) sau ba vòng quay quanh trái đất và lần đầu tiên trong lịch sử quay về trái đất bằng phương thức điều khiển. Một máy bay trực thăng hải quân đã vớt các phi hành gia từ tàu vũ trụ đưa về Intrepid để được kiểm tra sức khỏe và phỏng vấn. Sau đó Intrepid cũng vớt Molly Brown và đưa tàu vũ trụ cùng các nhà du hành về mũi Kennedy.Sau khi hoàn tất nhiệm vụ, Intrepid đi đến Xưởng hải quân Brooklyn vào tháng 4 năm 1965 để thực hiện đợt đại tu lớn nhằm đưa nó về tình trạng sẵn sàng chiến đấu ở mức cao nhất. Xưởng tàu này đã được cho đóng cửa và số công nhân ở đây được chuyển sang làm việc tại Xưởng hải quân Philadelphia. Công bằng mà nói, vì những lý do chính trị, Thượng nghị sĩ Robert Kennedy đã gây ảnh hưởng đến việc gửi chiếc Intrepid đến Brooklyn để đại tu thay vì đến cảng nhà tại Norfolk. Điều này đã gây ra những vấn đề chuyển chỗ trầm trọng cho gia đình của thủy thủ đoàn sau những chuyến đi biển kéo dài. Dù sao công nhân của xưởng tàu được hưởng lợi do được trả lương phụ trội do làm việc cách xa Philadelphia và phải sống tại Brooklyn. Đây là công việc Phục hồi và Hiện đại hóa Hạm đội (FRAM) cuối cùng được Xưởng hải quân New York ở Brooklyn, New York thực hiện trước khi đóng cửa sau hơn một thế kỷ rưỡi phục vụ cho đất nước.Vào tháng 9 năm 1965, khi công việc được hoàn tất khoảng 75%, Intrepid đi dọc theo East River đến thả neo tại Bayonne, New Jersey, để hoàn tất công việc đại tu trị giá nhiều triệu Đô-la. Sau khi chạy thử và hoàn tất việc trang bị, nó rời Norfolk lên đường đến Guantánamo trong chuyến đi chạy thử máy.

1966 - 1974

Giữa năm 1966, Intrepid hoạt động cùng Hạm đội Thái Bình Dương ngoài khơi Việt Nam. Trong một chiến dịch, chín chiếc A-4 Skyhawk và sáu chiếc A-1 Skyraider chất đầy bom và rocket đã được phóng trong vòng 7 phút, chỉ với khoảng cách 28 giây giữa hai lần phóng. Vài ngày sau, những chiếc máy bay của nó được phóng với khoảng cách rút xuống còn 26 giây. Sau 7 tháng phục vụ cùng Đệ Thất Hạm Đội ngoài khơi Việt Nam, Intrepid quay về Norfolk. Sĩ quan chỉ huy của nó, Thuyền trưởng John W. Fair, được tặng thưởng huân chương Legion of Merit do các hoạt động chiến đấu tại Đông Nam Á.Trong thời gian hoạt động tại Việt nam, vào ngày 9 tháng 10 năm 1966, Trung úy William T. Patton thuộc phi đội VA-176 của tàu Intrepid đã lái một chiếc máy bay động cơ cánh quạt A-1 Skyraider bắn rơi được một chiếc MiG-17. Đây là lần đầu tiên và duy nhất trong suốt lịch sử của chiến tranh Việt Nam, một máy bay phản lực của đối phương đã bị bắn rơi bởi một chiếc máy bay cánh quạt. Vì thành tích trên, Trung úy Patton đã được tặng thưởng Ngôi sao bạc vào ngày 8 tháng 6 năm 1967.Vào tháng 6 năm 1967, Intrepid quay trở lại vùng biển Tây Thái Bình Dương ngang qua kênh đào Suez chỉ ngay trước khi nó bị đóng lại do Trận chiến sáu ngày giữa Ai Cập và Israel nổ ra. Nó tiếp tục một đợt phục vụ cùng Đê Thất Hạm Đội. Năm 1968 nó nhận được phần thưởng Marjorie Sterrett Battleship Fund Award do thành tích phục vụ tại Hạm đội Đại Tây Dương.Năm 1969, Intrepid chuyển cảng nhà về Quonset Point, Rhode Island, thay thế cho chiếc tàu sân bay Yorktown trong vai trò Kỳ hạm của Tư lệnh Đội Tàu sân bay 16. Mùa Thu năm 1969, Thuyền trưởng Horus E. Moore để cho con tàu bị mắc cạn, nhưng nó thoát được hai giờ sau đó. Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1971, Intrepid tham gia các cuộc tập trận của khối NATO, và đã ghé thăm các cảng trong vùng Bắc Đại Tây Dương và Địa Trung Hải bao gồm: Lisbon, Plymouth, Kiel, Naples, Cannes, Barcelona, Hamburg, Copenhagen, Greenock, Rosyth, Portsmouth và Bergen. Trong chuyến du hành này, các hoạt động dò tìm tàu ngầm đã được tiến hành trong vùng biển Baltic và tại rìa biển Barents bên trên Vòng Cực, dưới sự quan sát cẩn thận của các lực lượng không quân và hải quân Xô Viết. Sau đó nó quay về cảng nhà để được tái trang bị rồi thực hiện chuyến hải hành cuối cùng đến khu vực Địa Trung Hải, ghé qua các cảng Barcelona và Malaga ở Tây Ban Nha; Lisbon thuộc Bồ Đào Nha; Nice thuộc Pháp; Naples thuộc Ý; Palma ở Majorca và Piraeus thuộc Hy Lạp.Ngày 15 tháng 3 năm 1974, Intrepid được cho ngừng hoạt động lần cuối cùng.

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Essex

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu New York

Đặt lườn: 1 tháng 3 năm 1944

Hạ thủy: 5 tháng 5 năm 1945

Đỡ đầu: Aubrey W. Fitch

Hoạt động: 2 tháng 3 năm 1946

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ tháng 2 năm 1974

Xếp lại lớp: Tàu sân bay tấn công (CVA): 15 tháng 2 năm 1952

Tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS): năm 1957

Ngừng hoạt động: 13 tháng 2 năm 1970

Xóa đăng bạ: tháng 5 năm 1973

Tặng thưởng: 2 Ngôi sao Chiến đấu (Chiến tranh Triều Tiên)

5 Ngôi sao Chiến đấu (Chiến tranh Việt Nam)

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 27.100 tấn (tiêu chuẩn); 36.380 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 271 m (888 ft)

Mạn thuyền: 28 m (93 ft) mực nước; 45 m (147 ft 6 in) chung

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 5 in) tiêu chuẩn; 10,4 m (34 ft 2 in) đầy tải

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước Westinghouse

8 nồi hơi, áp suất 3.900 kPa (565 psi) ở nhiệt độ 450 °C (850 °F)

4 trục

công suất 150.000 mã lực (110 MW)

Tốc độ: 61 km/h (33 knot)

Tầm xa: 37.000 km ở tốc độ 28 km/h

(20.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 3.448

Vũ khí: 4 × pháo nòng kép 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

4 × pháo nòng đơn 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

8 × pháo bốn nòng 40 mm cỡ nòng 56

46 × pháo nòng đơn 20 mm cỡ nòng 78

Vỏ giáp: đai giáp 60 đến 100 mm (2,5 đến 4 inch)

sàn đáp và sàn bảo vệ 40 mm (1,5 inch)

vách ngăn 100 mm (4 inch)

40 mm (1,5 inch) bên cạnh và trên nóc tháp chỉ huy

60 mm (2,5 inch) bên trên bánh lái

Máy bay: 90-100 máy bay

1 × thang nâng cạnh sàn đáp

2 × thang nâng giữa

USS Kearsarge (CV/CVA/CVS-33) là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp Essex của Hải quân Hoa Kỳ được hoàn tất trong hoặc ngay sau Thế Chiến II. Đây là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ mang cái tên này, được đặt theo tên một chiếc tàu xà-lúp trong cuộc Nội chiến Mỹ. Kearsarge được đưa ra hoạt động vào tháng 3 năm 1946, được hiện đại hóa vào đầu những năm 1950 thành một tàu sân bay tấn công (CVA), và đã tham gia hoạt động trong Chiến tranh Triều Tiên, nơi nó được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến đấu. Vào cuối những năm 1950, nó lại được cải biến thành một tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS). Kearsarge là tàu thu hồi chính cho hai chuyến bay cuối cùng của chương trình thám hiểm không gian có người lái Mercury trong những năm 1962 - 1963. Chiếc tàu sân bay hoàn tất cuộc đời phục vụ của nó trong chiến tranh Việt Nam, nơi nó được tặng thưởng thêm năm Ngôi sao Chiến đấu.Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1970; và được bán để tháo dỡ vào năm 1974.

Thiết kế và chế tạo

Kearsarge là một trong số những chiếc Essex "thân dài" mà một số tác giả tách thành lớp Ticonderoga. Nó được đặt lườn vào ngày 1 tháng 3 năm 1944 tại Xưởng hải quân New York; được hạ thủy vào ngày 5 tháng 5 năm 1945, được đỡ đầu bởi Bà Aubrey W. Fitch, và được đưa vào hoạt động ngày 2 tháng 3 năm 1946, dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Francis J. McKenna.

Lịch sử hoạt động

Kearsarge đi đến cảng nhà của nó tại Norfolk, Virginia vào ngày 21 tháng 4 năm 1946, và trong suốt năm tiếp theo sau, nó tiến hành hoạt động huấn luyện dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ và tại vùng biển Caribbe. Nó rời Norfolk ngày 7 tháng 6 năm 1947 thực hiện chuyến đi huấn luyện học viên mới đến Anh Quốc.Sau khi quay trở về Hoa Kỳ vào tháng 8 năm 1947, chiếc tàu sân bay thực hành cơ động trong 10 tháng trước khi khởi hành rời Hampton Roads ngày 1 tháng 6 năm 1948 để tham gia phục vụ cùng Hạm đội 6. Trong lượt phục vụ tại Địa Trung Hải, các đơn vị của hạm đội này được đặt trong tình trạng báo động để duy trì hòa bình tại Trung Đông. Kearsarge quay trở về Quonset Point, Rhode Island vào ngày 2 tháng 10, và tiếp tụfc hoạt động dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và tại khu vực Caribbe cho đến ngày 27 tháng 1 năm 1950, khi nó khởi hành đi sang bờ Tây Hoa Kỳ. Chiếc tàu sân bay về đến xưởng hải quân Puget Sound vào ngày 23 tháng 2, và được cho tạm ngưng hoạt động tại đây vào ngày 16 tháng 6 năm 1950 để được đại tu và hiện đại hóa theo chương trình SCB-27A cho phép nó đưa ra hoạt động máy bay phản lực kiểu mới.Trong giai đoạn này, Kearsarge được sử dụng trong cảnh quay của bộ phim "The Caine Mutiny". Chuyến viếng thăm kết thúc của Đô đốc 'Bull Halsey' được quay trên USS Kearsarge (CV 33), vào lúc này đang được ngưng hoạt động để hiện đại hóa.

Chiến tranh Triều Tiên

Kearsarge được cho hoạt động trở lại vào ngày 15 tháng 2 năm 1952 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Louis B. French. Sau chuyến đi thử máy, chiếc tàu sân bay rời San Diego ngày 11 tháng 8 tiến hành các hoạt động huấn luyện bay khẩn trương tại vùng biển Hawaii. Sau khi đạt được tình trạng sẵn sàng chiến đấu, nó khởi hành đi Viễn Đông để tham gia các hoạt động tác chiến trong Chiến tranh Triều Tiên. Đi đến Yokosuka ngày 8 tháng 9, Kearsarge gia nhập nhóm các tàu sân bay nhanh thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 77 ngoài khơi bờ biển Triều Tiên sáu ngày sau. Trong vòng năm tháng tiếp theo sau, máy bay của nó đã thực hiện gần 6.000 phi vụ chiến đấu chống lại lực lượng cộng sản tại Bắc Triều Tiên, gây thiệt hại đáng kể cho các vị trí của đối phương. Nó hoàn tất lượt phục vụ vào cuối tháng 2 năm 1953, và quay về cảng nhà tại San Diego vào ngày 17 tháng 3. Trong khi hoạt động tại Triều Tiên, con tàu được xếp lại lớp thành một tàu sân bay tấn công mang ký hiệu CVA-33.

Viễn Đông

Kearsarge lại lên đường đi đến Viễn Đông vào ngày 1 tháng 7 năm 1953 và hoạt động cùng lực lượng tàu sân bay nhanh của Đệ Thất hạm đội trong việc thi hành việc ngừng bắn đầy khó khăn tại Triều Tiên. Chiếc "Mighty Kay" (sau ba lần va chạm cùng các con tàu khác trong một thời gian ngắn, bao gồm chiếc tàu khách Oriana, Kearsarge còn được đặt tên lóng là "Rammin Rankin's Krashbarge" và "The Mighty Kay-RUNCH") còn tiếp tục tuần tra canh phòng tại eo biển Đài Loan nhằm ngăn ngừa Trung Cộng tấn công Trung Hoa dân quốc tại Đài Loan. Kearsarge quay về San Diego vào ngày 18 tháng 1 năm 1954 tiếp tục các hoạt động huấn luyện thường xuyên ngoài khơi bờ biển California. Rời San Diego vào ngày 7 tháng 10, chiếc tàu sân bay thực hiện lượt bố trí hoạt động thứ ba tại Viễn Đông. Trong khi hoạt động cùng Đệ Thất hạm đội, nó đã trực chiến để hỗ trợ lực lượng Trung Hoa dân quốc triệt thoái khỏi đảo Tachen. Từ ngày 6 đến ngày 13 tháng 2 năm 1955, Kearsarge hỗ trợ các đơn vị khác của hạm đội trong việc triệt thoái thành công 18.000 thường dân và 20.000 nhân viên quân sự khỏi các hòn đảo. Chuyến đi của nó kết thúc tại San Diego vào ngày 12 tháng 5, và trong ba năm tiếp theo sau, chiếc tàu sân bay tiếp tục thực hiện các hoạt động thường xuyên ngoài khơi bờ biển California cũng như được bố trí hằng năm đến Viễn Đông.Trong những năm 1956-1957, Kearsarge được hiện đại hóa theo chương trình SCB-125, chủ yếu là tích hợp một mũi tàu kín chống bão và một sàn đáp chéo góc. Vào mùa Hè năm 1958, Kearsarge được trang bị như một tàu sân bay chống tàu ngầm và được xếp lại lớp thành CVS-33. Sau khi tiến hành các hoạt động huấn luyện khẩn trương cho vai trò mới, chiếc tàu sân bay lên đường ngày 5 tháng 9 năm 1959 để hoạt động cùng Đệ Thất hạm đội tại Viễn Đông. Vào đầu lượt phục vụ này, Nhật Bản phải chịu đựng một cơn bão khốc liệt, và Kearsarge đã đóng một vai trò quan trọng trong việc cứu giúp các nạn nhân. Máy bay của nó đã chuyển các nhóm y tế và cứu trợ, trong khi thủy thủ đoàn và các đội bay quyên góp quần áo và tiền bạc cho các nạn nhân. Sau khi tham gia các đợt tập trận trong khối SEATO và của Hạm đội 7, nó rời Yokosuka vào ngày 3 tháng 3 năm 1960 quay trở về nhà. Ba ngày sau, trong một vùng biển bão tố cách đảo Wake 1.930 km (1.200 dặm), bốn thủy thủ Nga được cứu thoát sau 49 ngày bị trôi dạt trên biển trên chiếc xuồng đổ bộ hỏng máy của họ. Họ được quay trở về đất nước sau khi Kearsarge về đến Alameda, California ngày 15 tháng 3; và chiếc tàu sân bay nhận được những lời cám ơn từ Chính phủ Liên Xô do hành động cao đẹp này.Một năm hoạt động huấn luyện được tiếp nối bởi một đợt bố trí mới từ San Diego được bắt đầu vào ngày 3 tháng 3 năm 1961. Chiếc tàu sân bay chống tàu ngầm di chuyển đến vùng biển Đông Nam Á khi lực lượng Cộng sản tăng cường các hoạt động của họ nhằm lật đổ chính quyền tại Lào. Việc biểu dương lực lượng của Hạm đội 7 đã góp phần làm lắng dịu sự căng thẳng đó. Sau sáu tháng hoạt động tại Viễn Đông, Kearsarge quay về Puget Sound vào ngày 1 tháng 11 tiếp tục thực hiện giai đoạn hai của việc hiện đại hóa.

Kế hoạch Mercury

Sau khi hoàn tất việc sửa chữa và huấn luyện, Kearsarge rời Long Beach, California vào ngày 1 tháng 8 năm 1962 để hoạt động như tàu thu hồi trong một chuyến bay của Kế hoạch Mercury: tàu vũ trụ Sigma 7 đã thực hiện chuyến bay quanh quỹ đạo trái đất cùng phi hành gia Walter Schirra, và đã hạ cánh xuống Thái Bình Dương. Vào ngày 3 tháng 10, chiếc tàu sân bay bước vào kỷ nguyên vũ trụ khi thu hồi Schirra cùng con tàu của ông và đưa về Honolulu trước khi bay trở về Mỹ.Kearsarge trở lại các nhiệm vụ tập trận và huấn luyện trong sáu tháng trước khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 29 tháng 4 năm 1963 để một lần nữa tham gia vào chương trình thám hiểm vũ trụ. Chiếc tàu sân bay lặp lại sứ mạng của mình khi vớt nhà du hành vũ trụ Gordon Cooper vào ngày 16 tháng 5 năm 1963 sau chuyến bay 22 vòng quanh quỹ đạo trái đất trên tàu vũ trụ "Faith 7."

Chiến tranh Việt Nam

Sau khi đưa nhà phi hành vũ trụ quay trở về Trân Châu Cảng, Kearsarge lại khởi hành vào ngày 4 tháng 6 thực hiện chuyến đi thứ tám đến Viễn Đông. Hoạt động cùng với Hạm đội 7 bao gồm việc canh phòng tại một khu vực đầy dẫy những sự bất trắc tại Đông Nam Á. Sau đó Kearsarge quay về Long Beach vào ngày 3 tháng 12 và thực hành huấn luyện ngoài khơi California.Ngày 19 tháng 6 năm 1964, chiếc tàu sân bay chống tàu ngầm được bố trí lượt phục vụ thứ chín tại Viễn Đông. Đi đến Yokosuka vào ngày 30 tháng 7, Kearsarge được phái đến biển Nam Trung Quốc tiếp theo sau sự kiện vịnh Bắc Bộ, mà phía Mỹ cho là tàu phóng lôi Bắc Việt Nam đã tấn công các tàu khu trục Mỹ trong vịnh Bắc Bộ. Trong khi máy bay của Hải quân Mỹ phá hủy các kho dầu và phương tiện tiếp liệu tại Bắc Việt Nam, Kearsarge đã hỗ trợ bảo vệ chống tàu ngầm cho lực lượng Hạm đội 7. Chiếc tàu sân bay quay về Long Beach vào ngày 16 tháng 12.Sau một đợt đại tu kéo dài đến hết nữa đầu năm 1965, Kearsarge hoạt động tại khu vực bờ Tây Hoa Kỳ cho đến khi khởi hành đi Viễn Đông vào ngày 9 tháng 6 năm 1966. Ghé qua Hawaii và Nhật Bản, nó đi đến "Yankee Station" vào ngày 8 tháng 8 và hoạt động ngoài khơi Việt Nam cho đến ngày 24 tháng 10. Ngày hôm sau nó khởi hành hướng đến khu vực Kuala Lumpur rồi thả neo tại eo biển Malacca vào ngày 30 tháng 10. Nó từ vịnh Subic quay trở lại "Yankee Station" vào ngày 5 tháng 11 và hoạt động tại đây cho đến ngày 23 tháng 11. Ngày hôm sau, chiếc tàu sân bay quay trở về nhà ngang qua Hong Kong và Nhật Bản, đi đến San Diego vào ngày 20 tháng 12. Kearsarge hoạt động tại khu vực bờ Tây Hoa Kỳ cho đến khi khởi hành rời San Diego vào ngày 18 tháng 8 năm 1967 và đến Trân Châu Cảng 10 ngày sau đó chuẩn bị cho các hoạt động tiếp theo sau.Trở nên dư thừa do việc cắt giảm hạm đội vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, Kearsarge được cho ngừng hoạt động vào ngày 13 tháng 2 năm 1970. Sau ba nằm nằm trong lực lượng dự bị, nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào tháng 5 năm 1973 và được bán để tháo dỡ vào tháng 2 năm 1974.

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Essex

Xưởng đóng tàu: Bethlehem Steel Co tại Quincy, Massachusette

Đặt lườn: 15 tháng 7 năm 141

Hạ thủy: 23 tháng 9 năm 1942

Đỡ đầu: Theodore Douglas Robinson

Hoạt động: 17 tháng 2 năm 1943

Xếp lại lớp: Tàu sân bay tấn công (CVA): 1 tháng 10 năm 1952

Tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS): 1 tháng 10 năm 1962

Tàu sân bay huấn luyện (CVT): 1 tháng 1 năm 1969

Ngừng hoạt động: 8 tháng 11 năm 1991

Xóa đăng bạ:

Tình trạng: Tàu bảo tàng tại Corpus Christi, Texas

Tặng thưởng: 11 Ngôi sao Chiến đấu

Đơn vị Tuyên dương Tổng thống

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 27.100 tấn (tiêu chuẩn); 36.380 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 266 m (872 ft) chung

Mạn thuyền: 28 m (93 ft) mực nước

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 5 in) tiêu chuẩn

Lực đẩy: 4 × Turbine hơi nước Westinghouse

8 nồi hơi, áp suất 3.900 kPa (565 psi) ở nhiệt độ 450 °C (850 °F)

4 trục

công suất 150.000 mã lực (110 MW)

Tốc độ: 61 km/h (33 knot)

Tầm xa: 28.000 km ở tốc độ 28 km/h

(15.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Vũ khí: 4 × pháo nòng kép 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

Vỏ giáp: đai giáp 60 đến 100 mm (2,5 đến 4 inch)

sàn đáp và sàn bảo vệ 40 mm (1,5 inch)

Máy bay: 110 máy bay

USS Lexington (CV/CVA/CVS/CVT/AVT-16), tên lóng "The Blue Ghost", là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp Essex được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II. Nó là chiếc tàu chiến thứ năm của Hải quân Mỹ mang cái tên này nhằm tôn vinh trận chiến Lexington trong cuộc chiến tranh Dành Độc lập. Ban đầu được đặt tên là Cabot, nó được đổi tên trong khi được chế tạo để tưởng niệm chiếc Lexington (CV-2), bị mất trong trận chiến biển Coral Sea vào tháng 5 năm 1942. [1]

Lexington được đưa vào hoạt động từ tháng 2 năm 1943 và đã phục vụ trong nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương, được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống và 11 Ngôi sao Chiến đấu. Giống như nhiều chiếc tàu chị em, Lexington được cho ngừng hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, nhưng được cho hiện đại hóa và tái hoạt động vào đầu những năm 1950, được xếp lại lớp thành một tàu sân bay tấn công (CVA), rồi thành một tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS). Trong lượt hoạt động thứ hai này, nó hoạt động trên cả khu vực Đại Tây Dương/Địa Trung Hải lẫn Thái Bình Dương, nhưng trãi qua hầu hết thời gian gần 30 năm tại bờ Đông Hoa Kỳ trong nhiệm vụ huấn luyện như một tàu sân bay huấn luyện (CVT).Lexington được cho ngừng hoạt động vào năm 1991, là chiếc tàu ở lại phục vụ lâu hơn mọi con tàu khác trong lớp Essex, và được trao tặng như một tàu bảo tàng tại Corpus Christi, Texas. Lexington được công nhận là một Di tích Lịch sử Quốc gia vào năm 2003.

Thiết kế và chế tạo

Con tàu được đặt lườn dưới tên gọi Cabot vào ngày 15 tháng 7 năm 1941 bởi hãng Bethlehem Steel Co tại Quincy, Massachusetts, được đổi tên thành Lexington vào ngày 16 tháng 6 năm 1942, và được hạ thủy vào ngày 23 tháng 9 năm 1942, được đỡ đầu bởi bà Theodore Douglas Robinson. Lexington được đưa vào hoạt động ngày 17 tháng 2 năm 1943 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Felix Stump.

Lịch sử hoạt động

Thế Chiến II

Sau khi chạy thử máy tại vùng biển Caribbe và hiệu chỉnh trong xưởng tàu ở Boston, Lexington khởi hành đi sang Thái Bình Dương ngang qua kênh đào Panama, và đến Trân Châu Cảng vào ngày 9 tháng 8 năm 1943. Nó tung ra các cuộc không kích nhắm vào Tarawa vào cuối tháng 9 và đảo Wake vào tháng 10, rồi quay về Trân Châu Cảng nhằm chuẩn bị cho Chiến dịch quần đảo Gilbert. Từ ngày 19 đến ngày 24 tháng 11 nó thực hiện các phi vụ trinh sát và chiến đấu tại Marshalls, hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Gilbert. Phi công của nó đã bắn rơi 29 máy bay đối phương từ ngày 23 đến ngày 24 tháng 11 năm 1943.Lexington lên đường thực hiện cuộc không kích lên đảo Kwajalein vào ngày 4 tháng 12 năm 1943. Đợt không kích buổi sáng đã đánh chìm một tàu hàng, gây hư hại hai tàu tuần dương đồng thời bắn rơi được 30 máy bay đối phương. Các xạ thủ trên tàu cũng bắn rơi hai máy bay ném ngư lôi đối phương đến tấn công vào giữa ngày. Tuy nhiên họ nhận được chỉ thị không được nổ súng vào ban đêm, vì vị Đô đốc chỉ huy lúc đó cho rằng việc nổ súng sẽ làm lộ vị trí của họ (ông bị cách chức sau đó). Lúc 19 giờ 20 phút đêm hôm đó, một cuộc không kích lớn diễn ra trong khi lực lượng đặc nhiệm đang trên đường đi ngoài khơi Kwajalein. Lúc 23 giờ 22 phút, pháo sáng thả dù từ máy bay Nhật soi rõ chiếc tàu sân bay, và 10 phút sau nó bị một ngư lôi đánh trúng bên mạn phải, phá hỏng bánh lái và làm chín người thiệt mạng. Bị ngập 1,5 m (5 ft) về phía đuôi, chiếc tàu sân bay bắt đầu xoay vòng bên mạn trái giữa đám khói tuôn ra đen kịt từ các bồn chứa phía sau đuôi bị vỡ. Để giữ được độ kín nước, các toán kiểm soát hư hỏng được lệnh khóa chặt các ngăn bị bị hư hại bằng cách hàn các tấm thép lớn và dày ở những nơi cần thiết. Một bộ bánh lái tạm thời hoạt động bằng tay được nhanh chóng đặt ra, và Lexington phải rút lui về Trân Châu Cảng ngày 9 tháng 12 để được sửa chữa khẩn cấp. Nó quay về Bremerton, Washington vào ngày 22 tháng 12 để được sửa chữa toàn diện. Sai lầm trong việc nhận định về nổ súng vào ban đêm không bao giờ bị lặp lại, khi các xạ thủ được chỉ thị phải nổ súng đánh trả khi bị tấn công vào bất kỳ lúc nào. Các khẩu pháo phòng không 40 mm "Quads" (bốn nòng) từ lúc đó trở nên rất hiệu quả; trong khi "Blue Ghost" (bóng ma xanh), tên lóng của Lexington,[2] được phát thanh viên Bông Hồng Tokyo của Nhật Bản, cho là đã bị đánh chìm dưới làn nước xanh đại dương, điều mà cô ta sẽ còn lặp đi lặp lại nhiều lần sau đó.

1944

Công việc sửa chữa hoàn tất vào ngày 20 tháng 2 năm 1944, và Lexington lên đường, đi ngang qua Alameda, California, và Trân Châu Cảng để đến Majuro, nơi Chuẩn Đô đốc Marc Mitscher, tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm 58 chọn chiếc tàu sân bay làm soái hạm vào ngày 8 tháng 3 năm 1944. Sau một đợt tấn công tập dợt xuống Mille, Lực lượng Đặc nhiệm 58 tập trung tấn công các trung tâm đề kháng chủ yếu ở ngoại vi Đế quốc Nhật Bản, hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của Lục quân lên Hollandia (hiện nay là Jayapura) vào ngày 13 tháng 4, và đột kích vào căn cứ Truk vốn được xem là bất khả xâm phạm vào ngày 28 tháng 4. Cho dù bị phản công ác liệt, Lexington vẫn an toàn vô sự trong khi máy bay của nó đã bắn rơi được 17 máy bay đối phương; nhưng bộ máy tuyên truyền của Nhật Bản lần thứ hai tuyên bố nó đã bị đánh chìm.Một đợt tấn công bất ngờ xuống Saipan vào ngày 11 tháng 6 đã hầu như vô hiệu hóa toàn bộ sức kháng cự về không quân trên hòn đảo này, vốn được tiếp tục trong 5 ngày tiếp theo sau. Vào ngày 16 tháng 6, Lexington đánh trả một đợt tấn công ác liệt bởi máy bay ném ngư lôi Nhật Bản đặt căn cứ tại Guam, một lần nữa thoát ra mà không bị hư hại, nhưng bị "đánh chìm" lần thứ ba theo thông báo tuyên truyền của Nhật Bản. Trong cuộc phản công của Nhật Bản nhắm vào Chiến dịch Marianas sinh ra Trận chiến biển Philippine trong các ngày 19 và 20 tháng 6, Lexington đóng một vai trò chủ yếu trong chiến thắng to lớn của Lực lượng Đặc nhiệm TF 58 trong "cuộc bắn gà ở Marianas". Với hơn 300 máy bay đối phương bị phá hủy trong ngày thứ nhất, rồi một tàu sân bay, một tàu chở dầu và một tàu khu trục bị đánh chìm trong ngày thứ hai, các phi công Hải quân Mỹ trong thực tế đã loại bỏ không lực của Hải quân Nhật ra khỏi cuộc chiến; vì mất theo những máy bay này là những phi công ưu tú được huấn luyện kỹ và có kinh nghiệm mà Nhật Bản không thể nào bù đắp được.Sử dụng Eniwetok làm căn cứ, Lexington thực hiện các cuộc không kích đến Guam, Palaus và Bonins trong tháng 8. Nó đi đến Carolinas ngày 7 tháng 9 thực hiện đợt không kích kéo dài ba ngày xuống Yap và Ulithi, rồi tiếp tục tấn công vào Mindanao, Visayas, khu vực Manila và những tàu bè dọc theo bờ biển phía Tây đảo Luzon nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên đảo Leyte. Sau đó Lực lượng Đặc nhiệm tấn công vào Okinawa ngày 10 tháng 10 rồi nhắm vào Đài Loan hai ngày sau đó để phá hủy các căn cứ mà từ đó có thể tung ra sự phản công lại chiến dịch đổ bộ lên Philippines. Một lần nữa nó lại bình an sau khi trải qua các cuộc đối đầu không chiến tại Đài Loan sau các đợt không kích.Giờ đây hỗ trợ cho việc đổ bộ lên đảo Leyte, máy bay của Lexington ghi được những chiến công quan trọng trong trận chiến vịnh Leyte, một chiến thắng đỉnh cao của Hoa Kỳ trước Đế quốc Nhật Bản. Trong khi chiếc tàu sân bay chịu đựng sự tấn công liên tục của đối phương trong trận chiến mà chiếc tàu sân bay Princeton bị đánh chìm, máy bay của nó góp công vào việc đánh chìm chiếc thiết giáp hạm Musashi và đánh trúng ba tàu tuần dương trong ngày 24 tháng 10. Ngày hôm sau, họ đã đánh chìm tàu sân bay Zuikaku, và hợp cùng với máy bay của tàu sân bay Essex đánh chìm chiếc Chitose, rồi sau đó họ còn giúp vào việc đánh chìm chiếc Zuihō. Khi truy đuổi tàn quân Nhật đang rút lui, máy bay của nó còn đánh chìm tàu tuần dương Nachi bằng bốn quả ngư lôi vào ngày 5 tháng 11 ngoài khơi Luzon.Cuối ngày hôm đó, Lexington nếm mùi tấn công cảm tử kamikaze khi một máy bay Nhật đang bốc cháy đâm xuống sàn tàu gần đảo cấu trúc thượng tầng, phá hủy gần hết tháp chỉ huy và khiến các đám cháy bộc phát khắp nơi. Trong vòng 20 phút, các đám cháy chính đã có thể kiểm soát được, và nó lại có thể tiếp tục các hoạt động không quân, trong khi các xạ thủ trên tàu bắn rơi được một máy bay có thể là kamikaze đang nhào đến chiếc tàu sân bay Ticonderoga. Vào ngày 9 tháng 11, Lexington về đến Ulithi để được sửa chữa các hư hỏng trong chiến đấu, trong khi một lần nữa Tokyo lại loan tin nó đã bị đánh chìm dưới đại dương xanh thẳm. Các thiệt hại được đánh giá là nhẹ cho dù có những hư hỏng đối với đảo cấu trúc thượng tầng.

1945

Được chọn là soái hạm của Đội đặc nhiệm 58.2 vào ngày 11 tháng 12, Lexington không kích các sân bay tại Luzon và Đài Loan trong 9 ngày đầu tiên của tháng 1 năm 1945, không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào của đối phương. Sau đó lực lượng đặc nhiệm tiến vào biển Nam Trung Quốc để tấn công tàu bè đối phương và các căn cứ không quân. Các cuộc tấn công được tung ra nhắm vào Saipan, vịnh Cam Ranh thuộc Đông Dương, Hong Kong, quần đảo Pescadore và Đài Loan. Máy bay của lực lượng đặc nhiệm đã đánh chìm bốn tàu buôn và bốn tàu hộ tống thuộc một đoàn tàu vận tải, và ít nhất 12 tàu thuộc một đoàn tàu khác tại vịnh Cam Ranh vào ngày 12 tháng 1. Rời biểm Nam Trung Quốc vào giữa tháng 1, Lexington di chuyển lên phía Bắc để tiếp tục không kích Đài Loan một lần nữa vào ngày 21 tháng 1 và Okinawa vào ngày 22 tháng 1.Sau khi được tiếp liệu tại Ulithi, Đội đặc nhiệm 58.2 khởi hành vào ngày 10 tháng 2 để tấn công các sân bay quanh khu vực Tokyo vào ngày 16 tháng 2 [3], và vào ngày 17 tháng 2 để vô hiệu hóa sự kháng cự trong cuộc đổ bộ lên Iwo Jima vào ngày 19 tháng 2. Lexington thực hiện các phi vụ hỗ trợ gần mặt đất cho lực lượng tấn công từ ngày 19 đến ngày 22 tháng 2, sau đó lên đường thực hiện các cuộc không kích khác lên các đảo chính quốc Nhật Bản và xuống Nansei Shoto trước khi quay về để đại tu tại xưởng hải quân Puget Sound.Lexington trở lại khu vực chiến trường vào ngày 22 tháng 5, đi ngang qua Alameda và Trân Châu Cảng để đi đến vịnh San Pedro, Leyte, nơi nó gia nhập lực lượng đặc nhiệm của Chuẩn Đô đốc Thomas L. Sprague thực hiện lượt không kích cuối cùng xuống các hòn đảo chính quốc Nhật Bản từ tháng 7 đến ngày 15 tháng 8. Trong giai đoạn này, máy bay của nó tung ra các cuộc không kích vào các sân bay tại Honshū và Hokkaidō, các căn cứ hải quân Yokosuka và Kure để tiêu diệt những gì còn sót lại của hạm đội Nhật bản. Nó cũng thực hiện các phi vụ ném bom xuống các mục tiêu công nghiệp tại khu vực Tokyo. Phi vụ không kích cuối cùng của nó đã được lệnh cắt bỏ bom và quay trở về Lexington sau khi nghe được tin Nhật Bản chấp nhận đầu hàng.Sau khi các hoạt động thù địch kết thúc, Lexington tiếp tục thực hiện các phi vụ tuần tra cảnh giác bên trên Nhật Bản, và thả đồ tiếp liệu cho các trại tập trung tù binh chiến tranh trên đảo Honshū. Nó hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Nhật Bản, cho đến khi rời vịnh Tokyo vào ngày 3 tháng 12 cùng với các cựu quân nhân hồi hương trên tàu, vận chuyển họ về San Francisco, và đến nơi vào ngày 16 tháng 12.

Sau chiến tranh

Sau các hoạt động thường xuyên dọc theo bờ Tây Hoa Kỳ, Lexington được cho ngừng hoạt động tại Bremerton, Washington vào ngày 23 tháng 4 năm 1947 và gia nhập Hạm đội Dự bị tại đây. Được xếp lại lớp thành một tàu sân bay tấn công ký hiệu CVA-16 vào ngày 1 tháng 10 năm 1952, nó bắt đầu được cải biến và hiện đại hóa trong xưởng hải quân Puget Sound vào ngày 1 tháng 9 năm 1953, được trang bị sàn đáp chéo góc kiểu mới.Lexington được cho tái hoạt động vào ngày 15 tháng 8 năm 1955 dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân A. S. Heyward, Jr.. Được bố trí cảng nhà là San Diego, nó bắt đầu hoạt động tại vùng biển ngoài khơi California cho đến tháng 5 năm 1956, rồi được bố trí một lượt phục vụ kéo dài sáu tháng cùng Hạm đội 7. Chiếc tàu sân bay đặt căn cứ tại Yokosuka để hoạt động huấn luyện, tập trận , tiến hành các nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu ngoài khơi bờ biển Trung Quốc, và thăm viếng các cảng chính tại Viễn Đông trước khi quay về San Diego vào ngày 20 tháng 12. Sau đó nó tiến hành huấn luyện cùng Liên đội Không lực 12, vốn được bố trí hoạt động cùng với nó trong lượt phục vụ tiếp theo tại Hạm đội 7. Đi đến cảng Yokosuka vào ngày 1 tháng 6 năm 1957, Lexington đón lên tàu Chuẩn Đô đốc H. D. Riley, Tư lệnh Hải đội Tàu sân bay 1, và trở thành soái hạm của đơn vị này cho đến khi quay trở về San Diego ngày 17 tháng 10.Sau một đợt đại tu tại Bremerton, công việc huấn luyện ôn tập của nó bị ngắt quãng khi xảy ra vụ khủng hoảng Lebanon. Vào ngày 14 tháng 7 năm 1958, nó nhận lên tàu Liên đội Không lực 21 tại San Francisco rồi lên đường tăng cường cho Hạm đội 7 ngoài khơi Đài Loan, đi đến vị trí tác chiến vào ngày 7 tháng 8. Sau khi hoàn tất một lượt hoặt động gìn giữ hoà bình của Hải quân Hoa Kỳ thành công, Lexington quay về San Diego ngày 19 tháng 12. Trở thành tàu sân bay đầu tiên mà máy bay được trang bị tên lửa không-đối-đất kiểu mới AGM-12 Bullpup điều khiển từ xa, Lexington rời San Francisco ngày 26 tháng 4 năm 1959 cho một lượt phục vụ nữa cùng Hạm đội 7. Nó được đặt trong tình trạng báo động khi xảy ra cuộc khủng hoảng tại Lào vào cuối tháng 8 và tháng 9, sau đó tiến hành tập trận cùng lực lượng Anh Quốc trước khi rời Yokosuka ngày 16 tháng 11 quay về San Diego, đến nơi ngày 2 tháng 12 năm 1959. Trong những tháng đầu năm 1960 nó được đại tu tại xưởng hải quân Puget Sound.Đợt bố trí tiếp theo của Lexington tại Viễn Đông bắt đầu vào cuối năm 1960 và kéo dài sang năm 1961 do sự căng thẳng gia tăng tại Lào. Quay lại các hoạt động thường xuyên dọc theo bờ Tây Hoa Kỳ, chiếc tàu sân bay nhận được lệnh vào tháng 1 năm 1962 chuẩn bị thay thế cho chiếc tàu sân bay Antietam trong vai trò tàu sân bay huấn luyện tại vịnh Mexico, và nó được xếp lại lớp với ký hiệu mới CVS-16 vào ngày 1 tháng 10 năm 1962. Tuy nhiên, do vụ Khủng hoảng tên lửa Cuba, Lexington quay lại vai trò một tàu sân bay tấn công, và mãi đến ngày 29 tháng 12 năm 1962 nó mới thay phiên cho chiếc Antietam tại Pensacola, Florida.Cho đến năm 1969, Lexington hoạt động tại khu vực ngoài khơi cảng nhà mới của nó là Pensacola, cũng như tại Corpus Christi và New Orleans, chuẩn nhận các học viên phi công và duy trì trình độ huấn luyện cao cho cả lực lượng thường trực chiến đấu lẫn lực lượng phi công dự bị. Công việc của nó càng trở nên có ý nghĩa khi nó chuẩn bị nhân sự cần thiết cho hoạt động của Hải quân và Thủy quân Lục chiến tại Việt Nam, nơi không lực hải quân đóng một vai trò chủ lực. Lexington đánh dấu lần hạ cánh thứ 200.000 trên tàu vào ngày 17 tháng 10 năm 1967, và được xếp lại lớp là một tàu sân bay huấn luyện ký hiệu CVT-16 vào ngày 1 tháng 1 năm 1969.Nó tiếp tục hoạt động như một tàu sân bay huấn luyện trong 22 năm tiếp theo sau, cho đến khi được cho ngừng hoạt động vào ngày 8 tháng 11 năm 1991. Nó là chiếc tàu sân bay cuối cùng trong lớp Essex hoạt động và là chiếc tàu sân bay với sàn đáp bằng gỗ cuối cùng phục vụ cho Hải quân Mỹ. Vào ngày 15 tháng 6 năm 1992, con tàu được trao tặng như một bảo tàng và hiện nay đang hoạt động như là Bảo tàng USS Lexington Museum tại tọa độ Tọa độ: 27°48′54″N 97°23′17″W, địa chỉ 2914 North Shoreline Blvd, Corpus Christi, Texas. Một rạp chiếu bóng MEGAtheater (tương tự như IMAX) được bổ sung thêm tại vị trí thang nâng phía trước. Lexington được công nhận là một Địa điểm Lịch sử Quốc gia vào năm 2003. Con tàu được duy trì bảo quản trong tình trạng tốt, và các khu vực bị giới hạn trước đây được dần dần mở ra cho công chúng tham quan trong những năm gần đây. Khu vực được mở gần đây nhất là phòng máy phóng.Các khẩu pháo thời Đệ Nhị thế chiến cũng được phục hồi một phần, sử dụng các khẩu pháo tháo ra từ những con tàu cũ bị tháo dỡ. Đáng kể trong số chúng là hai tháp pháo nòng đôi 127 mm (5 inch)/38 DP được giữ lại trong quá trình tháo dỡ chiếc tàu tuần dương hạng nặng USS Newport News. Chúng được bố trí lại tại các vị trí lân cận nơi mà các tháp pháo như vậy từng hiện hữu, như một phần của chương trình phục hồi con tàu về trạng thái nguyên thủy hồi Thế Chiến II.

Lớp tàu: lớp tàu sân bay Lexington

Đặt hàng: 1916 (như một tàu chiến-tuần dương)

1922 (như một tàu sân bay)

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Fore River

Đặt lườn: 8 tháng 1 năm 1921

Hạ thủy: 3 tháng 10 năm 1925

Hoạt động: 14 tháng 12 năm 1927

Phân lại hạng: 1 tháng 7 năm 1922 (tàu chiến-tuần dương thành tàu sân bay)

Bị mất: Bị máy bay Nhật đánh trúng trong trận chiến biển Coral ngày 8 tháng 5 năm 1942; đánh đắm sau khi bỏ tàu.

Xóa đăng bạ: 24 tháng 6 năm 1942

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 38.746 tấn (thiết kế)

50.000 tấn (sau khi tái cấu trúc)

Chiều dài: 271 m (888 ft)

Mạn thuyền: 32 m (106 ft)

Tầm nước: 7,4 m (24 ft 3 in)

Lực đẩy: Turbine hơi nước, 16 nồi hơi với áp lực 300 psi, 4 trục,

công suất thiết kế 180.000 mã lực

công suất thực tế 209.710 mã lực

Tốc độ: 33,25 knot (61,6 km/h) (thiết kế)

34,82 knot (64,5 km/h) (thực tế)

Tầm xa: 19.000 km ở tốc độ 19 km/h

(10.000 hải lý ở tốc độ 10 knot)

Quân số: 2.122

Vũ khí điện tử: Radar CXAM-1[1]

Vũ khí: 4 × pháo 55 nòng kép 8 inch (200 mm); 12 × pháo nòng đơn 5 inch (130 mm)

Vỏ giáp: Đai vỏ giáp 130-180 mm (5-7 inch)

Vỏ giáp sàn tàu thứ ba 51 mm (2 inch)

Vỏ giáp sàn đáp từ 76 mm (3 inch) đến 110 mm (4,5 inch) trên bánh lái

Máy bay: 91 (sau khi tái cấu trúc)

Chiếc USS Lexington (CV-2), có tên lóng là "Gray Lady" hoặc "Lady Lex", là một trong những tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Tên nó được dùng để đặt cho lớp tàu sân bay Lexington, cho dù chiếc tàu em của nó là chiếc USS Saratoga (CV-3) được đưa vào hoạt động sớm hơn nó một tháng. Lexington là một trong những tàu sân bay chủ lực của Mỹ trong giai đoạn đầu của Thế Chiến II tại Mặt trận Thái Bình Dương, và đã bị máy bay Nhật đánh chìm trong Trận chiến biển Coral.

Cấu trúc

Chiếc Lexington là chiếc tàu chiến thứ tư trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được mang tên USS Lexington, tên đặt theo trận Lexington diễn ra tại Lexington, Massachusetts trong cuộc chiến dành độc lập Mỹ năm 1775. Nó và chiếc tàu em của nó Saratoga, ban đầu được đặt hàng vào năm 1916 như là các tàu chiến-tuần dương, có trọng lượng rẽ nước 35.300 tấn với bảy nồi hơi và ống khói bố trí trên hai sàn. Sau Thế Chiến I, và với những bài học kinh nghiệm từ cuộc chiến này, đã có những cải tổ lớn được đưa ra vào năm 1919. Được đặt tên là CC-1 và CC-3, chúng được đặt lườn như những chiếc tàu chiến-tuần dương vào ngày 8 tháng 1 năm 1921 bởi xưởng đóng tàu Fore River tại Quincy, Massachusetts.Tiếp theo sau Hiệp ước Hải quân Washington, cả hai được đặt lại tên và cải tạo để hoàn tất như là tàu sân bay vào ngày 1 tháng 7 năm 1922. Để được như vậy, trọng lượng rẽ nước phải giảm bớt 8.500 tấn, chủ yếu đạt được nhờ việc loại bỏ tám khẩu pháo 405 mm (16 in) trên bốn tháp súng đôi (bao gồm cả bệ súng, vỏ giáp...). Đai giáp chính được giữ lại, và vỏ giáp sàn tàu được tăng cường. Những đường nét chung của thân tàu được giữ lại, và hệ thống bảo vệ đặc biệt phần dưới nước cũng được gắn liền. Sàn đáp dài 244m (880 ft) và rộng 25,9-27,4 m (85-90 ft), cao 18,3 m (60 ft) so với mực nước. Tầm nước chính là 7,4 m (24 ft 2 in). Chiếc Lexington và Saratoga được trang bị động cơ turbine điện với 16 nồi hơi Yarrow cung cấp động lực cho bốn turbine General Electric quay các máy phát điện để vận hành bốn động cơ chính chậm hơn. Động cơ của chiếc Lexington đã từng cung cấp điện cho thành phố Tacoma, Washington trong 30 ngày khi bị thiếu điện vào mùa Đông năm 1929/1930.Thủy thủ đoàn của chiếc tàu gồm 169 sĩ quan và 1730 thủy thủ bao gầm các đội bay. Nó được trang bị tám pháo 55 203 mm (8 in), 12 pháo phòng không 25 127 mm (5 in),[2] và bốn khẩu 57 mm (2.24 in). Hai chiếc này là những chiếc tàu cuối cùng được trang bị máy phóng nằm ngang như là thiết kế ngay từ ban đầu. Máy phóng có hành trình di chuyển dài 47,2 m (155 ft) và đủ mạnh để phóng kiểu máy bay nặng nhất của hải quân vào thời đó trong quãng đường 18,3 m (60 ft). Vào lúc chế tạo, cả hai chiếc tàu đều có những cần trục để phóng và thu hồi những chiếc thủy phi cơ, một tính năng bị tháo bỏ trong chiến tranh và được thay bằng các khẩu pháo phòng không bổ sung. Chiếc tàu được thiết kế để chở được tối đa 120 máy bay các loại bao gồm máy bay tiêm kích, tuần tiểu và ném bom. Mỗi chiếc tàu trị giá 45 triệu Đôla Mỹ kể cả máy bay.Chiếc Lexington được hạ thủy ngày 3 tháng 10 năm 1925, được đỡ đầu bởi Bà Theodore Douglas Robinson (phu nhân của Trợ lý Bộ trưởng Hải Quân), và được đưa vào hoạt động ngày 14 tháng 12 năm 1927 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Albert W. Marshall.

Lịch sử hoạt động

1928-1941

Sau khi được trang bị và chạy thử, Lexington gia nhập Hạm đội Tàu chiến tại San Pedro, California vào ngày 7 tháng 4 năm 1928. Đặt căn cứ tại đây, nó hoạt động tại vùng bờ tây trong các nhiệm vụ huấn luyện bay, diễn tập chiến thuật và các cuộc tập trận. Hằng năm nó tham gia vào các cuộc tập trận cơ động hạm đội ở Hawaii, trong vùng biển Caribe, ngoài khơi Vùng kênh đào Panama, và tại Đông Thái Bình Dương. Trong các chuyến đi thử, chiếc Lexington đạt được vận tốc trung bình 30,7 knot (hải lý mỗi giờ), và duy trì được vận tốc 34,5 knot trong một giờ.Thuyền trưởng của chiếc tàu trong những năm 1930 và 1931 là Ernest King, người mà sau đó sẽ là Trưởng phòng Hành quân Hải quân trong Thế chiến II.Năm 1931, Robert A. Heinlein, sau này là nhà văn viết truyện khoa học viễn tưởng, làm việc cho hệ thống radio liên lạc, lúc đó còn trong thời kỳ mới mẻ, với các máy bay của tàu.[3] Lexington là một trong số 14 tàu chiến đầu tiên được trang bị radar kiểu sơ khai RCA CXAM-1.[1]

Thế Chiến II

1941

Vào mùa Thu năm 1941 nó di chuyển cùng lực lượng tàu phối hợp đến vùng biển Hawaii để thực tập chiến thuật.Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, chiếc Lexington đang ở ngoài khơi cùng Lực lượng đặc nhiệm TF 12 vận chuyển các máy bay của Thủy quân Lục chiến từ Trân Châu Cảng đến tăng cường cho Midway, khi nhận được những tin tức về việc Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng. Nó lập tức tung ra các máy bay trinh sát để truy tìm hạm đội Nhật, và sau đó hướng về phía Nam để gặp gỡ lực lượng đặc nhiệm của tàu tuần dương Indianapolis và tàu sân bay Enterprise để tiến hành những cuộc tìm kiếm ở hướng Tây Nam đảo Oahu cho đến khi quay lại Trân Châu Cảng vào ngày 13 tháng 12.Lexington khởi hành ngày hôm sau để không kích lực lượng Nhật Bản tại Jaluit nhằm giải tỏa áp lực cho đảo Wake; nhưng các mệnh lệnh này bị hủy bỏ vào ngày 20 tháng 12, và nó chuyển hướng đến hỗ trợ cho lực lượng tàu Saratoga trong việc tăng cường cho đảo Wake. Khi đảo Wake thất thủ ngày 23 tháng 12, lực lượng của cả hai tàu sân bay được gọi quay trở về Trân Châu Cảng, và đến nơi ngày 27 tháng 12.

1942

Lexington tiến hành những cuộc tuần tra nhằm ngăn chặn các cuộc đột kích của đối phương trong vùng tam giác Oahu - Johnston - Palmyra cho đến ngày 11 tháng 1 năm 1942, khi nó rời khỏi Trân Châu Cảng như là kỳ hạm của Phó Đô đốc Wilson Brown chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm TF 11. Vào ngày 16 tháng 2, lực lượng này hướng đến để tấn công vào Rabaul, New Britain, được hoạch định vào ngày 21 tháng 2; và trong khi tiếp cận vào ngày hôm trước, Lexington bị tấn công bởi hai đợt máy bay đối phương, mỗi đợt gồm chín chiếc. Lực lượng tuần tra chiến đấu trên không và pháo phòng không của bản thân chiếc tàu sân bay đã bắn rơi 17 chiếc. Trong chiến dịch này, Trung úy Edward O'Hare đã được tặng thưởng Huân chương Danh dự vì đã bắn rơi năm máy bay địch trong một phi vụ duy nhất.Việc tuần tra tấn công tại vùng biển Coral (biển San hô) được tiếp tục cho đến ngày 6 tháng 3, khi nó gặp gỡ Lực lượng Đặc nhiệm TF 17 của tàu sân bay Yorktown và tung ra một cuộc tấn công bất ngờ đầy thành công ngang qua dãy núi Owen Stanley ở New Guinea để gây tổn thất nặng nề cho các tàu bè và căn cứ tại Salamaua và Lae vào ngày 10 tháng 3. Sau đó nó quay về Trân Châu Cảng, và đến nơi ngày 26 tháng 3.Lực lượng đặc nhiệm của chiếc Lexington rời khỏi Trân Châu Cảng vào ngày 15 tháng 4. Nó đã trải qua một cuộc sửa chữa ngắn, trong đó các tháp pháo 8 inch được tháo bỏ và thay bằng các khẩu pháo phòng không 1,1 inch bốn nòng. Nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 17 vào ngày 1 tháng 5. Do việc khám phá ra hạm đội Nhật đang được tập trung đe dọa vùng biển Coral, chiếc Lexington và chiếc Yorktown đã di chuyển về hướng này để tìm lực lượng đối phương đang hỗ trợ cho một kế hoạch đổ quân. Việc bành trướng về phía Nam của quân Nhật phải được ngăn chặn, nếu không việc liên lạc bằng đường biển với Australia và New Zealand sẽ bị cắt đứt, và các lãnh thổ này sẽ bị mối đe dọa chiếm đóng. Trận chiến biển Coral là kết quả của các hoạt động trên của cả hai bên.

Trận chiến biển Coral

Ngày 7 tháng 5 năm 1942, các máy bay trinh sát báo các đã trông thấy lực lượng tàu sân bay đặc nhiệm của đối phương. Các phi đội của chiếc Lexington đã đánh chìm chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Shōhō của Nhật. Cùng ngày hôm ấy sau đó, 12 máy bay ném bom và 15 máy bay phóng ngư lôi từ các tàu sân bay hạng nặng Shōkaku và Zuikaku, vốn còn chưa phát hiện được, đã bị đánh chặn bởi các máy bay tiêm kích phòng thủ của những chiếc Lexington và Yorktown, và đã bắn rơi chín máy bay đối phương.Sáng ngày 8 tháng 5, một máy bay của Lexington đã tìm thấy đội tàu Shōkaku; một cuộc tấn công được các tàu sân bay Mỹ tung ra ngay lập tức, và chiếc tàu sân bay Nhật bị hư hại nặng. Tuy nhiên, lúc 11 giờ, các máy bay đối phương đã thâm nhập qua được hàng máy bay tiêm kích phòng thủ, và 20 phút sau chiếc Lexington trúng phải một ngư lôi bên mạn trái. Vài giây sau, một ngư lôi thứ hai đánh trúng mạn trái ngay phía trước cầu tàu. Cùng lúc đó, nó trúng phải ba trái bom từ các máy bay ném bom bổ nhào đối phương, khiến nó bị nghiêng 7 độ về mạn trái và phát sinh nhiều đám cháy. Đến 13 giờ, các nhóm cứu nạn đã kiểm soát được các đám cháy và giữ được chiếc tàu thăng bằng, và nó có thể di chuyển được với vận tốc 25 knot (46,3 km/h; 28,8 mph) và đã sẵn sàng để thu hồi các phi đội của nó. Bổng bất ngờ chiếc Lexington bị rung chuyển bởi một vụ nổ lớn gây ra bởi cháy hơi xăng bên dưới, và các đám cháy lại không thể kiểm soát được. Đến 15 giờ 58, thuyền trưởng Frederick Carl Sherman, do lo ngại cho sự an toàn của thủy thủ đoàn làm việc bên dưới, đã ra lệnh chấm dứt mọi hoạt động cứu nạn và mọi người phải tập trung lên sàn đáp. Lúc 17 giờ 01 phút, ông ra lệnh "bỏ tàu" và việc di tản được tuần tự tiến hành. Thủy thủ đoàn di chuyển ra hai bên nhảy vào nước biển ấm được các tàu tuần dương và tàu khu trục kế bên vớt gần như ngay lập tức. Đô đốc Aubrey Wray Fitch và bộ tham mưu của ông chuyển sang chiếc tàu tuần dương Minneapolis; Thuyền trưởng Sherman và sĩ quan cao cấp của ông, Trung tá Morton T. Seligman, sau khi kiểm tra là mọi người đều được an toàn, là những người cuối cùng rời tàu.Chiếc Lexington bị bùng cháy, ngọn lửa bốc cao hàng trăm mét. Để tránh bị đối phương bắt được, chiếc tàu khu trục Phelps tiến đến gần ở khoảng cách 1.370 m (1.500 yd) và bắn hai trái ngư lôi vào sườn của nó; với một tiếng nổ lớn cuối cùng, chiếc Lexington bị chìm lúc 19 giờ 56 phút tại tọa độ 15°20′S 155°30′E.

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Essex

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu New York

Đặt lườn: 21 tháng 2 năm 1944

Hạ thủy: 23 tháng 8 năm 1945

Đỡ đầu: James M. Mead

Hoạt động: 11 tháng 4 năm 1946

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ năm 1970

Xếp lại lớp: Tàu sân bay tấn công (CVA): 1 tháng 10 năm 1952

Tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS): 8 tháng 8 năm 1953

Tàu vận chuyển máy bay (AVT): 15 tháng 5 năm 1959

Ngừng hoạt động: 15 tháng 5 năm 1959

Xóa đăng bạ:

Tặng thưởng: 2 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 27.100 tấn (tiêu chuẩn); 36.380 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 271 m (888 ft)

Mạn thuyền: 28 m (93 ft) mực nước; 45 m (147 ft 6 in) chung

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 5 in) tiêu chuẩn; 10,4 m (34 ft 2 in) đầy tải

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước Westinghouse

8 nồi hơi, áp suất 3.900 kPa (565 psi) ở nhiệt độ 450 °C (850 °F)

4 trục

công suất 150.000 mã lực (110 MW)

Tốc độ: 61 km/h (33 knot)

Tầm xa: 37.000 km ở tốc độ 28 km/h

(20.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 3.448

Vũ khí: 4 × pháo nòng kép 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

4 × pháo nòng đơn 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

8 × pháo bốn nòng 40 mm cỡ nòng 56

46 × pháo nòng đơn 20 mm cỡ nòng 78

Vỏ giáp: đai giáp 60 đến 100 mm (2,5 đến 4 inch)

sàn đáp và sàn bảo vệ 40 mm (1,5 inch)

vách ngăn 100 mm (4 inch)

40 mm (1,5 inch) bên cạnh và trên nóc tháp chỉ huy

60 mm (2,5 inch) bên trên bánh lái

Máy bay: 90-100 máy bay

1 × thang nâng cạnh sàn đáp

2 × thang nâng giữa

USS Leyte (CV/CVA/CVS-32, AVT-10) là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp Essex của Hải quân Hoa Kỳ được hoàn tất trong hoặc ngay sau Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ mang cái tên này. Leyte được đưa ra hoạt động vào tháng 4 năm 1946, quá trễ để có thể phục vụ trong Thế Chiến II. Nó trải qua hầu hết thời gian phục vụ tại vùng biển Đại Tây Dương, Caribbe và Địa Trung Hải, nhưng cũng từng tham gia hoạt động trong Chiến tranh Triều Tiên, nơi nó được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến đấu. Nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay tấn công (CVA) vào đầu những năm 1950, sau đó thành một tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS), và cuối cùng (sau khi ngừng hoạt động) thành một tàu vận chuyển máy bay (AVT).Không giống như đa số các tàu chị em với nó, Leyte không được hiện đại hóa đáng kể, và do đó trong suốt cuộc đời phục vụ vẫn giữ lại dáng vẻ bề ngoài cổ điển của lớp tàu Essex thời Đệ Nhị thế chiến. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1959 Và được bán để tháo dỡ vào năm 1970.

Thiết kế và chế tạo

Leyte là một trong số những chiếc Essex "thân dài" mà một số tác giả tách thành lớp Ticonderoga. Nó được đặt lườn như chiếc Crown Point vào ngày 21 tháng 2 năm 1944 bởi hãng Newport News Shipbuilding tại Newport News, Virginia; và được đổi tên thành Leyte vào ngày 8 tháng 5 năm 1945 để ghi nhớ chiến thắng của Mỹ trong Trận chiến vịnh Leyte. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 8 năm 1945, được đỡ đầu bởi Bà James M. Mead, và được đưa vào hoạt động ngày 11 tháng 4 năm 1946, dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Henry F. MacComsey.

Lịch sử hoạt động

Leyte hợp cùng chiếc thiết giáp hạm Wisconsin thực hiện một chuyến đi hữu nghị dọc theo bờ biển phía Tây lục địa Nam Mỹ vào mùa Hè năm 1946 trước khi quay trở về vùng biển Caribbe vào ngày 18 tháng 11 tiếp tục các hoạt động chạy thử máy. Vào năm 1948, chiếc tàu sân bay lần đầu tiên được nhận một phân đội máy bay trực thăng đa dụng HO3S-1, và tham gia một cuộc tập trận hạm đội mang tên Chiến dịch Frigid tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Trong những năm trước cuộc Chiến tranh Triều Tiên, Leyte còn tham gia nhiều cuộc tập trận hạm đội khác tại Đại Tây Dương và vùng biển Caribbe, huấn luyện các sĩ quan hải quân dự bị, và trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 1947 đến tháng 8 năm 1950 đã được bố trí hoạt động bốn lượt tại khu vực Địa Trung Hải. Lượt hoạt động cuối cùng tại đây còn bao gồm một đợt biểu dương sức mạnh không lực tại Beirut, Lebanon vào ngày 13 tháng 8 hỗ trợ các nước tại Trung Đông chống lại sức ép của phía Cộng sản. Leyte quay trở về Norfolk vào ngày 24 tháng 8, và sau hai tuần lễ chuẩn bị, lại lên đường vào ngày 6 tháng 9 để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 77 tại Viễn Đông hỗ trợ cho lực lượng Liên Hiệp Quốc tại Triều Tiên.Leyte đi đến cảng Sasebo, Nagasaki, Nhật Bản vào ngày 8 tháng 10 năm 1950 và thực hiện những chuẩn bị cuối cùng cho các hoạt động tác chiến. Từ ngày 9 tháng 10 năm 1950 đến ngày 19 tháng 1 năm 1951, chiếc tàu sân bay và máy bay của nó đã trải qua 92 ngày trên biển, thực hiện 3.933 phi vụ chống lại lực lượng Bắc Triều Tiên. Phi công của nó đã tích lũy hơn 11.000 giờ bay, gây nhiều thiệt hại cho các vị trí đối phương, các phương tiện tiếp liệu, vận chuyển và liên lạc. Trong số các phi đội hoạt động trên Leyte có cả Phi đội VFA-32 Swordsmen sử dụng những chiếc F4U Corsair. Trong đội ngũ phi công của phi đội này có cả phi công hải quân da màu đâu tiên của Hoa Kỳ, Thiếu úy Jesse LeRoy Brown, người đã bị tử trận trong chiến đấu vào ngày 4 tháng 12 năm 1950. Leyte quay trở về Norfolk ngày 25 tháng 2 năm 1951 để được đại tu.Sau khi các đợt huấn luyện tập trận tại vùng biển Caribbe kết thúc vào ngày 21 tháng 8 năm 1951, Leyte khởi hành cho một lượt bố trí hoạt động mới cùng Đệ Lục hạm đội vào ngày 3 tháng 9. Nó quay về Norfolk ngày 21 tháng 12 để hoạt động ngoài khơi Hampton Roads, rồi lại khởi hành đi Địa Trung Hải vào ngày 29 tháng 8 năm 1952. Được xếp lại lớp thành một tàu sân bay tấn công mang ký hiệu CVA-32 vào ngày 1 tháng 10, nó quay trở về Boston vào ngày 16 tháng 2 năm 1953 để chuẩn bị ngừng hoạt động. Tuy nhiên, vào ngày 8 tháng 8, nó được giữ lại trong thành phần hạm đội thường trực khi được xếp lại lớp một lần nữa thành một tàu sân bay chống tàu ngầm với ký hiệu CVS-32, và bắt đầu được cải biến và hiện đại hóa nhằm đảm trách vai trò chống tàu ngầm.Lúc 15 giờ 15 phút ngày 16 tháng 10 năm 1953, trong khi còn đang được cải biến thành một tàu sân bay chống tàu ngầm, một tiếng nổ lớn đã xảy ra trên chiếc Leyte trong phòng máy phóng bên mạn trái. Trong vòng vài phút, xe cứu hỏa của căn cứ hải quân và của thành phố đã có mặt. Đám cháy được dập tắt lúc 19:57. sau những nỗ lực chữa cháy khó khăn và dũng cảm. Do hậu quả của vụ nổ và đám cháy, đã có 37 người thiệt mạng và 28 người khác bị thương.Việ̣c cải biến hoàn tất vào ngày 4 tháng 1 năm 1954, và Leyte khởi hành từ Boston hướng đến Quonset Point, Rhode Island; trở thành soái hạm của Hải đội Tàu sân bay 18. Nó đặt căn cứ tại đây trog vòng năm năm tiếp theo sau, tiến hành các chiến dịch thực tập chiến thuật chống tàu ngầm dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ và tại vùng biển Caribbe.Leyte rời Quonset Point vào tháng 1 năm 1959 đi đến xưởng hải quân New York, nơi nó được sửa chữa chuẩn bị cho việc ngừng hoạt động. Nó được xếp lại lớp thành một tàu vận chuyển máy bay mang ký hiệu AVT-10 và được cho ngừng hoạt động cùng một lúc trong ngày 15 tháng 5 năm 1959, và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương thuộc nhóm Philadelphia, nơi nó bị bỏ xó cho đến khi được bán để tháo dỡ vào tháng 9 năm 1970.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro