Ham doi tau san bay Hoa Ky trong WW2 5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Essex

Xưởng đóng tàu: Newport News, Virginia

Đặt lườn: 1 tháng 12 năm 1941

Hạ thủy: 21 tháng 1 năm 1943

Đỡ đầu: Eleanor Roosevelt

Hoạt động: 15 tháng 4 năm 1943

2 tháng 1 năm 1953

Xếp lại lớp: Tàu sân bay tấn công (CVA): 1 tháng 10 năm 1952

Tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS): 1 tháng 9 năm 1957

Ngừng hoạt động: 9 tháng 1 năm 1947

27 tháng 6 năm 1970.

Xóa đăng bạ: 1 tháng 6 năm 1973

Tình trạng: Tàu bảo tàng tại Patriot's Point Charleston, South Carolina

Tặng thưởng: Đơn vị Tuyên dương Tổng thống

16 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 27.100 tấn (tiêu chuẩn); 36.380 tấn (đầy tải)

Sau cải biến SCB-27A:

28,200 tấn (tiêu chuẩn); 40,600 tấn (đầy tải)

Sau cải biến SCB-125:

30,800 tấn (tiêu chuẩn); 41,200 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 250 m (820 ft) mực nước; 266 m (872 feet) chung

Sau cải biến SCB-27A:

250 m (819 ft 1 in) mực nước; 274 m chung (898 ft 1 in)

Sau cải biến SCB-125:

251 m (824 ft 6 in) mực nước; 270 m (890 ft) chung

Mạn thuyền: 28 m (93 ft) mực nước; 45 m (147 ft 6 in) chung

Sau cải biến SCB-27A:

30,9 m (101 ft 5 in) mực nước; 46,3 m (151 ft 11 in) chung

Sau cải biến SCB-125:

31 m (101 ft) mực nước; 60 m (196 ft) chung

Tầm nước: 8,7 m (28 ft 5 in) tiêu chuẩn; 10,4 m (34 ft 2 in) đầy tải

Sau cải biến SCB-27A:

9,0 m (29 ft 8 in)

Sau cải biến SCB-125:

9,2 m (30 ft 1 in)

Lực đẩy: 4 × Turbine hơi nước Westinghouse

8 nồi hơi, áp suất 3.900 kPa (565 psi) ở nhiệt độ 450 °C (850 °F)

4 trục

công suất 150.000 mã lực (110 MW)

Tốc độ: 61 km/h (33 knot)

Tầm xa: 37.000 km ở tốc độ 28 km/h

(20.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 2.600

Vũ khí: 4 × pháo nòng kép 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

4 × pháo nòng đơn 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38

8 × pháo bốn nòng 40 mm cỡ nòng 56

46 × pháo nòng đơn 20 mm cỡ nòng 78

Sau cải biến SCB-27A:

8 × pháo nòng đơn 130 mm (5 in) cỡ nòng 38

14 × pháo nòng kép 76 mm (3 in) cỡ nòng 50

Sau cải biến SCB-125:

7 × pháo nòng đơn 130 mm (5 in) cỡ nòng 38

4 × pháo nòng kép 76 mm (3 in) cỡ nòng 50

Vỏ giáp: đai giáp 60 đến 100 mm (2,5 đến 4 inch)

sàn đáp và sàn bảo vệ 40 mm (1,5 inch)

vách ngăn 100 mm (4 inch)

40 mm (1,5 inch) bên cạnh và trên nóc tháp chỉ huy

60 mm (2,5 inch) bên trên bánh lái

Sau cải biến SCB-27A:

Đai giáp được thay thế bằng vỏ bọc với 27 kg (60 lb) thép tôi

Máy bay: 90-100 máy bay

1 × thang nâng cạnh sàn đáp

2 × thang nâng giữa

Sau cải biến SCB-27A:

50 máy bay (CVS) / 70 máy bay (CVA)

2 × máy phóng thủy lực H8 được bổ sung

USS Yorktown (CV/CVA/CVS-10) là một trong số 24 chiếc tàu sân bay thuộc lớp Essex được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II. Nó được đặt tên theo trận Yorktown xảy ra năm 1781 trong Chiến tranh dành độc lập Hoa Kỳ, và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang cái tên này. Ban đầu được đặt tên là Bon Homme Richard, nó được đổi tên thành Yorktown trong khi đang được chế tạo để tưởng niệm chiếc USS Yorktown (CV-5), bị mất trong trận Midway vào tháng 6 năm 1942. Yorktown được đưa vào hoạt động vào tháng 4 năm 1943, tham gia vào nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương, được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống và 11 ngôi sao chiến đấu.Được rút khỏi hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, nó được hiện đại hóa và được vào hoạt động trở lại vào đầu những năm 1950 như một tàu sân bay tấn công (CVA), và sau đó như là một tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS). Nó được đưa ra hoạt động trở lại quá trễ để có thể tham gia Chiến tranh Triều Tiên, nhưng nó đã phục vụ nhiều năm tại Thái Bình Dương, kể cả các hoạt động trong Chiến tranh Việt Nam, trong đó nó được tặng thưởng thêm năm ngôi sao chiến đấu nữa. Sau đó nó còn được sử dụng để quay các cảnh trong bộ phim Tora! Tora! Tora! tái hiện cuộc tấn công Trân Châu Cảng của Nhật Bản, và như là tàu sân bay thu hồi của chuyến bay vũ trụ Apollo 8.Yorktown được rút khỏi phục vụ lần cuối cùng vào năm 1970 và vào năm 1975 trở thành một chiếc tàu bảo tàng tại Patriot's Point, Mount Pleasant, South Carolina. Nó được công nhận là một Di tích Lịch sử Quốc gia.

Cấu trúc và chế tạo

Yorktown được đặt lườn vào ngày 1 tháng 12 năm 1941 bởi hãng Newport News Shipbuilding tại xưởng đóng tàu Newport News, Virginia. Ban đầu được đặt tên là Bon Homme Richard, nó được đổi tên thành Yorktown vào ngày 26 tháng 9 năm 1942, và được hạ thủy vào ngày21 tháng 1 năm 1943, dưới sự đỡ đầu của bà Eleanor Roosevelt (phu nhân Tổng thống Hoa Kỳ). Chiếc Yorktown được đưa vào hoạt động ngày 15 tháng 4 năm 1943 dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Joseph J. Clark.

Lịch sử hoạt động trong Thế Chiến II

Năm 1943

Yorktown ở lại khu vực Căn cứ Hải quân Norfolk cho đến ngày 21 tháng 5 năm 1943, khi nó tiến hành huấn luyện chạy thử trong khu vực Trinidad. Nó quay về Norfolk vào ngày 17 tháng 6 để tiến hành hiệu chỉnh sau khi chạy thử. Nó hoàn tất việc sửa chữa vào ngày 1 tháng 7 Và bắt đầu các hoạt động không quân ngoài khơi Norfolk cho đến tận ngày 6 tháng 7, khi nó rời vịnh Chesapeake lên đường đi Thái Bình Dương. Nó đi ngang kênh đào Panama vào ngày 11 tháng 7 và rời khỏi Balboa, Panama ngày 12 tháng 7. Chiếc tàu chiến đến được Trân Châu Cảng vào ngày 24 tháng 7 và khởi sự một tháng huấn luyện tại quần đảo Hawaii. Vào ngày 22 tháng 8, nó rời Trân Châu Cảng, khởi sự chuyến đi tác chiến đầu tiên. Lực lượng Đặc nhiệm TF 15 của nó đến được điểm xuất phát cách đảo Marcus 206 km (128 dặm) vào sáng sớm ngày 31 tháng 8. Nó dành trọn ngày hôm đó tung ra các đợt máy bay tiêm kích và máy bay ném bom tấn công đảo Marcus trước khi quay về Hawaii chiều tối hôm đó. Chiếc tàu sân bay trở về Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 9 và ở lại đó hai ngày.Vào ngày 9 tháng 9, nó lại ra khơi hướng về phía bờ Tây Hoa Kỳ. Nó đến San Francisco vào ngày 13 tháng 9, chất đầy máy bay và tiếp liệu, rồi lại ra khơi vào ngày 15 tháng 9. Bốn ngày sau, chiếc tàu sân bay trở lại Trân Châu Cảng. Chiếc Yorktown trở ra biển vào ngày 29 tháng 9 để tiến hành huấn luyện chiến thuật. Vào sáng sớm ngày 5 tháng 10, nó bắt đầu thực hiện đợt không kích kéo dài hai ngày nhắm vào các vị trí của quân Nhật trên đảo Wake. Sau khi rút lui vể phía Đông qua ban đêm, nó lại tiếp tục không kích vào sáng sớm ngày 6 tháng 10 và kéo dài gần suốt cả ngày. Chiều tối hôm đó, nhóm đặc nhiệm rút về đảo Hawaii. Yorktown về đến Oahu vào ngày 11 tháng 10, và trong vòng một tháng tiếp theo sau, nó tiến hành huấn luyện không lực ngoài khơi Trân Châu Cảng.Vào ngày 10 tháng 11, Yorktown rời Trân Châu Cảng cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 50, lực lượng tàu sân bay nhanh của Hạm đội Thái Bình Dương, để tham gia chiến dịch quan trọng đầu tiên của nó trong chiến tranh, chiến dịch chiếm đóng quần đảo Gilbert. Vào ngày 19 tháng 11, nó đến điểm xuất phát gần Jaluit và Mili, và vào lúc sáng sớm ngày hôm đó, tung ra đợt đầu tiên của một loạt không kích nhằm trấn áp hoả lực đối phương trong suốt cuộc đổ bộ lên các đảo Tarawa, Abemama, và Makin. Ngày hôm sau, các đợt không kích được nhắm vào sân bay tại Jaluit; một số máy bay của nó còn hỗ trợ lực lượng trên bộ giành lại Makin từ tay quân Nhật. Vào ngày 22 tháng 11, lực lượng không quân của nó một lần nữa tập trung đanh phá các căn cứ và máy bay tại Mili. Trước khi quay về Trân Châu Cảng, chiếc tàu sân bay không kích vào các căn cứ đối phương khi đi ngang qua các đảo san hô Wotje và Kwajalein vào ngày 4 tháng 12. Nó về đến Trân Châu Cảng vào ngày 9 tháng 12 và bắt đầu một tháng tiến hành huấn luyện bay trong khu vực quần đảo Hawaii.

1944

Vào ngày 16 tháng 1 năm 1944, chiếc tàu sân bay rời Trân Châu Cảng một lần nữa để hỗ trợ cho một chiến dịch đổ bộ, chiến dịch Flintlock nhắm vào quần đảo Marshall. Nhóm Đặc nhiệm 58.1 của nó đến điểm xuất phát vào sáng sớm ngày 29 tháng 1, và các tàu sân bay của nhóm: Yorktown, Lexington và Cowpens bắt đầu tung ra các đợt không kích vào khoảng 05 giờ 20 phút nhắm vào sân bay Taroa trên đảo san hô Maloelap. Trong suốt ngày hôm đó, máy bay của nó tấn công Maloelap nhằm chẩn bị trong các cuộc tấn công lên Majuro và Kwajalein được dự định vào ngày 31 tháng 1. Vào ngày 30 tháng 1, Yorktown và các tàu sân bay chuyển mục tiêu sang Kwajalein nhằm vô hiệu hóa các mục tiêu. Khi các lực lượng bắt đầu đổ bộ lên đảo vào ngày 31 tháng 1, máy bay của chiếc Yorktown tiếp tục không kích lên Kwajalein nhằm hỗ trợ cho lực lượng tấn công lên đảo san hô này. Nhiệm vụ tương tự choáng mất thời gian của lực lượng không quân trên chiếc Yorktown suốt ba ngày đầu của tháng 2 năm 1944. Tuy nhiên, đến ngày 4 tháng 2, Nhóm Đặc nhiệm rút lui về vị trí bỏ neo an toàn ở đảo san hô Majuro.Trong bốn tháng tiếp theo sau đó, Yorktown tham gia một loạt các trận không kích trãi dài từ Mariana ở phía Bắc đến tận New Guinea ở phía Nam. Sau tám ngày ở lại Majuro, nó lên đường cùng với Đội Đặc nhiệm của nó vào ngày 12 tháng 2 để thực hiện không kích vào lực lượng chính đối phương đang thả neo tại đảo san hô Truk. Các cuộc không kích rất thành công này được thực hiện trong các ngày 16 và 17 tháng 2. Sang ngày 18 tháng 2, chiếc tàu sân bay lên đường đi đến quân đảo Marianas, và đến ngày 22 tháng 2 thực hiện không kích lên các sân bay và căn cứ của quân Nhật trên đảo Saipan. Cùng ngày hôm đó, nó càn quét các mục tiêu đối phương khi đang trên đường quay trở về Majuro. Con tàu sân bay về đến vũng biển Majuro vào ngày 26 tháng 2 và ở lại đó cho đến ngày 8 tháng 3, khi nó lại khởi hành, gặp gỡ phần còn lại của Lực lượng Đặc nhiệm TF 58, rồi hướng đến Espiritu Santo trong quần đảo New Hebrides. Nó đi đến mục tiêu vào ngày 13 tháng 3 và ở lại đó 10 ngày trước khi lên đường tiếp tục một loạt các cuộc không kích vào tuyến phòng thủ phía giữa của quân Nhật. Vào các ngày 30 và 31 tháng 3, nó tung ra các đợt không kích vào các căn cứ Nhật Bản trên quần đảo Palau; và vào ngày 1 tháng 4, máy bay của nó tập trung vào đảo Woleai. Năm ngày sau, nó quay về căn cứ của nó ở Majuro và ở lại đó một tuần lễ để nghỉ ngơi và tiếp liệu.Vào ngày 13 tháng 4, Yorktown lại trở ra biển. Tuy nhiên trong dịp này, nó thực hiện một hành trình dọc bờ biển phía Bắc của New Guinea. Vào ngày 21 tháng 4, nó bắt đầu tung ra các cuộc không kích để hỗ trợ cho cuộc tấn công của Tướng Douglas MacArthur lên khu vực Hollandia (hiện nay là Jayapura). Trong ngày hôm đó, phi công của nó đã tấn công các căn cứ trong khu vực Wakde-Sarmi phía Bắc New Guinea. Trong các ngày 22 và 23 tháng 4, họ chuyển hướng sang các khu vực đổ bộ tại chính Hollandia và bắt đầu trực tiếp hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ. Sau các cuộc tấn công đó, nó rút lui khỏi bờ biển New Guinea để tiến hành một đợt không kích khác lên Truk trong các ngày 29 và 30 tháng 4. Chiếc tàu sân bay quay về đến Majuro vào ngày 4 tháng 5; và hai ngày sau đó nó lại lên đường hướng về Oahu. Nó về đến Trân Châu Cảng ngày 11 tháng 5, và trong 18 ngày sau đó, nó tiến hành các hoạt động huấn luyện tại khu vực quần đảo Hawaii. Đến ngày 29 tháng 5, nó lên đường hướng đến khu vực Trung Thái Bình Dương. Yorktown một lần nữa vào vũng biển Majuro vào ngày 3 tháng 6 và bắt đầu chuẩn bị cho đợt đổ bộ chính yếu sắp đến, đợt tấn công lên quần đảo Marianas.Vào ngày 6 tháng 6, Yorktown rời Majuro cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 58 bắt đầu hành trình đi đến quần đảo Mariana. Sau năm ngày di chuyển, chiếc tàu sân bay đến được điểm xuất phát và bắt đầu tung ra các đợt máy bay tấn công nhằm vô hiệu hóa sự đề kháng của các mục tiêu, chuẩn bị cho việc chiếm đóng Saipan. Các đội bay của chiếc Yorktown tập trung chủ yếu vào các sân bay tại Guam. Những cuộc không kích kéo dài đến tận ngày 13 tháng 6, khi Yorktown cùng hai tàu khác thuộc Lực lượng Đặc nhiệm TF 58 di chuyển lên phía Bắc để tấn công các mục tiêu trên quần đảo Bonin. Kết quả của chuyến đi này là một cuộc không kích kéo dài suốt ngày 16 tháng 6 trước khi hai đội đặc nhiệm lên đường quay trở lại Mariana để tham gia trận chiến biển Philippine. Lực lượng Đặc nhiệm 58 tập họp trở lại vào ngày 18 tháng 6 và bắt đầu chờ đợi một thời gian ngắn khi lực lượng của hạm đội Nhật Bản cùng máy bay của nó đang đến gần.Sáng ngày 19 tháng 6, máy bay của Yorktown bắt đầu tấn công các căn cứ không lực của Nhật Bản trên đảo Guam nhằm cố gắng tiêu diệt số máy bay đặt căn cứ tại đây. Cuộc đối đầu với các máy bay đặt căn cứ tại Guam tiếp tục cho đến giữa buổi sáng. Tuy nhiên vào khoảng 10 giờ 17 phút, nó nhận được các tín hiệu đầu tiên của đợt tấn công xuất phát từ tàu sân bay, khi một bóng máy bay lớn xuất hiện trên màn hình radar của nó. Vào lúc này, nó bắt đầu gởi một phần lực lượng đến tấn công vào Guam trong khi một lực lượng khác được tung ra để đánh chặn cuộc tấn công đang đến gần từ phía Tây. Trong suốt trận đánh, máy bay của Yorktown tiếp tục cuộc bắn phá các sân bay tại Guam và đánh chặn các đợt tấn công của máy bay đối phương. Trong ngày đầu tiên của trận chiến biển Philippine, máy bay của Yorktown đã phá hủy được 37 máy bay đối phương và ném 21 tấn bom xuống các sân bay trên đảo Guam.Sáng ngày 20 tháng 6, Yorktown cùng với Lực lượng đặc nhiệm TF 58 di chuyển về hướng Tây trong khi các máy bay trinh sát dò tìm hạm đội đối phương đang bỏ chạy. Tin tức về đối thủ có được vào khoảng 15 giờ 40 phút khi một phi công của chiếc Hornet phát hiện ra các đơn vị của Hạm đội Liên Hợp đang rút lui. Yorktown tung ra một lực lượng tấn công gồm 40 máy bay từ 16 giờ 23 đến 16 giờ 43 phút. Máy bay của nó tìm thấy lực lượng của Đô đốc Ozawa vào khoảng 18 giờ 40 và bắt đầu một đợt tấn công kéo dài 20 phút, trong đó họ đã truy đuổi chiếc tàu sân bay Zuikaku và gây được một số thiệt hại; nhưng đã không thể đánh chìm được nó. Họ cũng tấn công nhiều tàu chiến khác của lực lượng Nhật, cho dù không xác nhận được đã đánh đắm chiếc tàu nào hay không. Vào ngày 21 tháng 6, chiếc tàu sân bay tham gia vào cuộc đuổi bắt đối phương vô vọng được thực hiện bởi Lực lượng Đặc nhiệm TF 58, nhưng buộc phải bỏ cuộc vào lúc chiều tối khi máy bay trinh sát không tìm thấy lực lượng Nhật Bản. Yorktown quay trở lại khu vực Marianas và tiếp tục không kích lên đảo Pagan vào các ngày 22 và 23 tháng 6. Sang ngày 24 tháng 6, nó lại tung ra một đợt không kích vào Iwo Jima. Đến ngày 25 tháng 6, nó khởi hành đi Eniwetok và đến nơi hai ngày sau đó. Vào ngày 30 tháng 6 chiếc tàu sân bay quay trở về Mariana và Bonin. Nó tiếp tục các hoạt động tác chiến vào ngày 3 và 4 tháng 7 với một loạt các đợt không kích xuống Iwo Jima và Chichi Jima. Vào ngày 6 tháng 7, chiếc tàu chiến túng ra các đợt không kích tại Marianas tiếp tục trong vòng 17 ngày tiếp theo sau. Đến ngày 23 tháng 7, nó di chuyển hướng về phía Tây để lại tung ra một loạt các đợt không kích vào Yap, Ulithi và Palau. Nó thực hiện các hoạt động này cho đến ngày 25 tháng 7, rồi sau đó quay trở về Marianas ngày 29 tháng 7.Vào ngày 31 tháng 7, nó rời quần đảo Mariana để đi ngang Eniwetok và Trân Châu Cảng để quay về lục địa Hoa Kỳ. Yorktown về đến xưởng Hải quân Puget Sound vào ngày 17 tháng 8 và bắt đầu đợt đại tu kéo dài hai tháng. Nó hoàn tất các công việc sửa chữa vào ngày 6 tháng 10 và rời Puget Sound vào ngày 9 tháng 10. Nó dừng tại Căn cứ Không lực Hải quân Alameda từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 10 để chất lên máy bay và tiếp liệu rồi khởi hành quay trở lại khu vực Tây Thái Bình Dương. Sau khi dừng lại Trân Châu Cảng từ ngày 18 đến ngày 24 tháng 10, Yorktown tiếp tục đi đến Eniwetok vào ngày 31 tháng 10. Nó rời vũng biển san hô ngày 1 tháng 11 và đi đến Ulithi ngày 3 tháng 11. Tại đây, nó được phối thuộc vào Đội Đặc nhiệm TG 38.4. Đội Đặc nhiệm rời Ulithi vào ngày Lực lượng Đặc nhiệm ngày 6 tháng 11.Vào ngày 7 tháng 11, chiếc tàu sân bay được chuyển sang Đội Đặc nhiệm TG 38.1, và trong vòng hai tuần tiếp theo sau nó tung ra các đợt không kích lên các mục tiêu ở Philippines nhằm hỗ trợ cho việc chiếm đóng Leyte. Tách khỏi Lực lượng đặc nhiệm vào ngày 23 tháng 11, Yorktown quay về Ulithi ngày 24 tháng 11 và ở lại đó cho đến tận ngày 10 tháng 12, khi nó lại ra khơi và tái gia nhập Lực lượng đặc nhiệm TF 38. Nó hợp cùng các tàu sân bay khác vào ngày 13 tháng 12 và bắt đầu tung ra các đợt không kích lên các mục tiêu trên đảo Luzon nhằm chuẩn bị cho đợt đổ bộ lchiếm đóng được dự kiến vào tuần thứ hai của tháng 1 năm 1945. Vào ngày 17 tháng 12, Lực lượng Đặc nhiệm bắt đầu một đợt nghỉ ngơi khỏi các đợt tấn công lên Luzon. Trong đợt nghỉ ngơi này, Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 lại di chuyển ngay vào tâm một cơn cuồng phong vào tháng 12 năm 1944. Cơn bão này đã nhấn chìm ba chiếc tàu khu trục Spence, Hull và Monaghan. Yorktown đã tham gia vào một số công việc tìm kiếm cứu nạn những người còn sống sót trên ba chiếc tàu chiến này. Chiếc tàu sân bay quay về Ulithi ngày 24 tháng 12.

1945

Yorktown được tiếp nhiên liệu và tiếp liệu tại Ulithi cho đến ngày 30 tháng 12 năm 1944, khi nó lại trở ra biển và gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 để tấn công các mục tiêu trên đảo Đài Loan và tại Philippines chuẩn bị cho cuộc đổ bộ Lingayen. Những chiếc tàu sân bay bắt đầu với việc tấn công các sân bay trên đảo Đài Loan vào ngày 3 tháng 1 năm 1945 và tiếp tục với nhiều mục tiêu khác nhau trong tuần lễ tiếp theo sau. Vào ngày 10 tháng 1, Yorktown cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 tiến vào biển Nam Trung Hoa ngang qua eo biển Bashi để bắt đầu một loạt các đợt không kích lên vành đai phòng thủ bên trong của Nhật Bản. Vào ngày 12 tháng 1, máy bay của nó đã bay đến Sài Gòn và Đà Nẵng thuộc Đông Dương với hy vọng tìm thấy các đơn vị chủ yếu của hạm đội Nhật Bản. Cho dù không tìm thấy mục tiêu chính, máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 cũng đánh trúng được 44 tàu bè đối phương, trong đó có 15 tàu chiến. Vào ngày 15 tháng 1, các cuộc không kích được thực hiện xuống Đài Loan và Quảng Đông thuộc Trung Quốc. Ngày hôm sau, máy bay của nó lại tấn công một lần nữa vào Quảng Đông và Hong Kong. Vào ngày 20 tháng 1, nó rời biển Nam Trung Hoa cùng với Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 ngang qua eo biển Balintang. Nó tham gia một đợt không kích lên Đài Loan vào ngày 21 tháng 1 và một đợt khác lên Okinawa vào ngày 22 tháng 1 trước khi rời khu vực quay trở về Ulithi. Sáng ngày 26 tháng 1, nó cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 về đến vũng biển Ulithi.Yorktown ở lại Ulithi để được cung cấp tiếp liệu và vũ khí cũng như thực hiện các bảo trì cần thiết cho đến tận ngày 10 tháng 2. Khi đó, nó khởi hành cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 58, khi Đệ Tam hạm đội trở thành Đệ Ngũ hạm đội khi Đô đốc Spruance thay thế Đô đốc Halsey làm tự lệnh, và thực hiện một loạt các cuộc không kích xuống Nhật Bản và sau đó hỗ trợ cuộc tấn công chiếm đóng đảo Iwo Jima. Sáng ngày 16 tháng 2, chiếc tàu sân bay bắt đầu tung ra các cuộc không kích xuống khu vựcTokyo trên đảo Honshū. Vào ngày 17 tháng 2, nó lại tiếp tục các đợt không kích trước khi lên đường hướng đến Bonins. Máy bay của nó ném bom và bắn phá các căn cứ trên đảo Chichi Jima vào ngày 18 tháng 2. Cuộc đổ bộ lên đảo Iwo Jima diễn tiến vào ngày 19 tháng 2, và máy bay của Yorktown bắt đầu hỗ trợ các hoạt động tác chiến trên hòn đảo vào ngày 20 tháng 2. Các hoạt động này được tiếp nối cho đến ngày 23 tháng 2 khi Yorktown rời khu vực Bonins để tiếp nối các cuộc không kích lên chính quốc Nhật Bản. Nó đến được điểm xuất phát vào ngày 25 tháng 2 và tung ra hai cuộc không kích ném bom và bắn phá các sân bay ở ngoại vi Tokyo. Vào ngày 26 tháng 2, máy bay của Yorktown thực hiện một đợt càn quét qua các căn cứ trên đảo Kyūshū trước khi Đội Đặc nhiệm TG 58.4 bắt đầu rút lui về Ulithi. Yorktown buông neo tại Ulithi vào ngày 1 tháng 3.Chiếc tàu sân bay ở lại đảo san hô trong vòng hai tuần. Đến ngày 14 tháng 3, chiếc tàu sân bay khởi hành quay trở lại chiến trường để tiếp tục các cuộc không kích vào Nhật Bản và bắt đầu các hoạt động chuẩn bị cho chiến dịch Okinawa được dự định bắt đầu vào ngày 1 tháng 4. Vào ngày 18 tháng 3, nó đi đến khu vực hoạt động ngoài khơi Nhật Bản và bắt đầu tung ra các đợt tấn công vào các sân bay trên các đảo Kyūshū, Honshū và Shikoku.Đội đặc nhiệm hứng chịu một đợt tấn công cảm tử Kamikaze hầu như ngay khi cuộc không kích bắt đầu. Vào khoảng 08 giờ 00, một máy bay ném bom hai động cơ, có thể là một chiếc P1Y Frances, tấn công từ bên mạn trái. Chiếc tàu sân bay khai hỏa gần như lập tức và bắn cháy mục tiêu, nhưng chiếc máy bay bốc cháy ngùn ngụt vẫn tiếp tục lao vượt qua mũi chiếc Yorktown và cắm xuống nước bên mạn phải. Chỉ bảy phút sau đó, một chiếc Frances khác nỗ lực tấn công nhưng cũng bị bắn hạ và rơi xuống nước do hỏa lực kết hợp của đội hình các tàu hộ tống. Không có đợt tấn công nào khác cho đến trưa hôm đó, và trong thời gian đó Yorktown tiếp tục các hoạt động không kích. Vào lúc xế trưa, ba chiếc máy bay ném bom bổ nhào D4Y Judy tấn công chiếc tàu sân bay, trong đó hai chiếc máy bay đầu tiên bị bắn rơi. Tuy nhiên chiếc máy bay thứ ba đã thành công trong việc phóng một quả bom xuống cầu tàu, quả bom xuyên qua sàn đáp và phát nổ gần mũi tàu, làm thủng hai lổ lớn và giết chết năm người cùng làm bị thương thêm 26 người khác. Tuy vậy, Yorktown vẫn tiếp tục duy trì được hoạt động, và các khẩu pháp phòng không đã bắn hạ được kẻ tấn công. Nó vẫn tiếp tục các hoạt động không quân tại ba hòn đảo cực nam của quần đảo Nhật Bản, và sau đó nó rút lui để được tiếp nhiên liệu vào ngày 20 tháng 3.Ngày 21 tháng 3, nó hướng đến Okinawa, nơi nó bắt đầu thực hiện các cuộc tấn công áp chế vào ngày 23 tháng 3. Các cuộc tấn công này được tiếp nối cho đến ngày 28 tháng 3 khi nó khởi sự quay lại vùng biển ngoài khơi vùng biển Nhật Bản để tấn công tiếp nối vào các đảo chính quốc Nhật. Vào ngày 29 tháng 3, nó tiến hành hai đợt tấn công và một phi vụ trinh sát hình ảnh bên trên Kyūshū. Trưa hôm đó vào lúc 14 giờ 10 phút, một chiếc Judy thực hiện một cú bổ nhào tự sát vào chiếc Yorktown. Các khẩu pháo phòng không đã bắn trúng được nhiều phát, làm cho chiếc máy bay bay trượt qua con tàu và rơi xuống biển ở khoảng 20 m (60 ft) bên mạn trái tàu.Vào ngày 30 tháng 3, Yorktown cùng các tàu sân bay khác trong Đội Đặc nhiệm bắt đầu chỉ tập trung vào Okinawa và các đảo nhỏ chung quanh. Trong hai ngày, chúng tấn công áp chế hòn đảo. Vào ngày 1 tháng 4, lực lượng tấn công bắt đầu các hoạt động xâm chiếm hòn đảo, và trong vòng gần sáu tuần tàu sân bay Yorktown tung máy bay của nó đến hỗ trợ trên không trực tiếp cho lực lượng tác chiến trên đảo. Mỗi ba ngày một lần, nó rút lui về phía Đông để được tiếp nhiên liệu và tái trang bị vũ khí và tiếp liệu. Lần ngoại lệ duy nhất là vào ngày 7 tháng 4 khi nó phát hiện một lực lượng đặc nhiệm hải quân Nhật Bản được xây dựng chung quanh chiếc thiết giáp hạm Yamato thường lẫn trốn đang đi về phía Nam trong chuyến hải hành tấn công liều lĩnh cuối cùng. Yorktown và các tàu sân bay khác nhanh chóng tung ra các đợt tấn công nhắm vào mục tiêu đáng giá này. Máy bay của Liên đội Không quân 9 đánh trúng được nhiều quả ngư lôi vào chiếc Yamato trước khi nó bị nổ tung và chìm. Có ít nhất ba quả bom 250 kg (500 lb) đã đánh trúng chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Yahagi khiến nó cũng bị đánh chìm. Phi công của nó cũng bắn phá các tàu khu trục hộ tống và ít nhất đã bắn cháy một chiếc. Sau khi kết thúc các hoạt động trên, Yorktown và máy bay của nó quay lại tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ trên không cho lực lượng tại Okinawa. Vào ngày 11 tháng 4, nó chịu đựng một đợt tấn công từ trên không khi một máy bay một động cơ đã lao vào nó. Các pháo thủ phòng không của chiếc Yorktown đã bắn hạ được đối thủ. Các cuộc tấn công rời rạc tiếp tục cho đến tận ngày 11 tháng 5 khi nó rời khỏi khu vực Ryūkyūs, nhưng Yorktown không phải chịu đựng thiệt hại nào khác trong khi ghi thêm được một chiến công bắn hạ thêm một máy bay đối phương nữa bằng pháo phòng không. Vào ngày 11 tháng 5, Đội Đặc nhiệm TG 58.4 được cho tách ra hướng về phía Ulithi để được bảo trì, tiếp liệu và nghỉ ngơi.Yorktown đi vào vũng biển san hô ở Ulithi ngày 14 tháng 5 năm và ở lại đó cho đến ngày 24 tháng 5 khi nó khởi hành cùng Đội đặc nhiệm TG 58.4 đi đến gia nhập các lực lượng ngoài khơi Okinawa. Vào ngày 28 tháng 5 năm, Đội đặc nhiệm TG 58.4 trở thành TG 38.4 khi Đô đốc Halsey thay thế cho Đô đốc Spruance và Đệ Ngũ Hạm đội lại trở thành Đệ Tam Hạm đội. Cùng ngày hôm đó, chiếc tàu sân bay tiếp tục các hoạt động hỗ trợ trên không tại Okinawa kéo dài cho đến tận đầu tháng 6 khi nó tách ra cùng Lực lượng đặc nhiệm TF 38 để tiếp tục không kích lên các đảo chính quốc Nhật Bản. Ngày 3 tháng 6, máy bay của nó thực hiện bốn đợt càn quét các sân bay. Ngày hôm sau, nó quay về Okinawa yểm trợ trên không trong suốt một ngày trước khi rời đi để tránh một cơn bão. Trong các ngày 6 và 7 tháng 6, nó tiếp tục không kích Okinawa. Nó lại tung máy bay đến các sân bay trên đảo Kyūshū, và từ ngày 9 tháng 6 thực hiện một cuộc không kích kéo dài hai ngày vào Minami Daito Shima. Sau đó Yorktown cùng Đội Đặc nhiệm TG 38.4 rút lui về phía Leyte. Nó đến vịnh San Pedro tại Leyte vào ngày 13 tháng 6 để được bảo trì, tiếp liệu và nghỉ ngơi.Chiếc tàu chiến ở lại Leyte cho đến ngày 1 tháng 7 khi nó cùng Đội Đặc nhiệm TG 38.4 lên đường gia nhập cùng các tàu sân bay khác trong chiến dịch không kích cuối cùng nhắm vào các hòn đảo chính quốc Nhật Bản. Đến ngày 10 tháng 7, nó ở ngoài khơi vùng biển nội địa Nhật Bản và tung các trận không kích vào khu vực Tokyo trên đảo Honshū. Sau khi được tiếp nhiên liệu trong các ngày 11 và 12 tháng 6, nó tiếp nối các cuộc không kích xuống Nhật Bản, lần này là nhằm vào phần cực Nam của hòn đảo Hokkaidō phía Bắc Nhật Bản. Các cuộc không kích này kéo dài từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 6. Một đợt tiếp nhiên liệu, cùng với thời tiết không thích hợp, khiến nó ngừng các hoạt động tấn công đến ngày 18 tháng 6, và nó quay lại tấn công vào khu vực Tokyo. Từ ngày 19 đến ngày 22 tháng 6, nó rút lui để được tiếp liệu và nghỉ ngơi; rồi đến ngày 24 tháng 6 lại tiếp tục các hoạt động không kích vào Nhật Bản. Trong hai ngày, máy bay của nó đã tàn phá các cơ sở chung quanh căn cứ hải quân Kure. Một đợt nghỉ ngơi và tiếp nhiên liệu diễn ra trong ngày 26 tháng 6, rồi trong các ngày 27 và 28 tháng 6 năm, máy bay của nó lại hoạt động trên vùng trời Kure. Trong các ngày 29 và 30 tháng 6, nó chuyển mục tiêu sang khu vực Tokyo trước khi được nghỉ ngơi và tiếp nhiên liệu. Một trận bão khác khiến nó phải tạm ngưng mọi hoạt động cho đến tuần lễ đầu tiên của tháng 8. Vào các ngày 8 và 9 tháng 8, chiếc tàu sân bay tung máy bay của nó ra tấn công vào phía Bắc đảo Honshū và phía Nam đảo Hokkaido. Ngày 10 tháng 8, nó tấn công vào Tokyo. Trong các ngày 11 và 12 tháng 8, nó rút lui để tiếp nhiên liệu và tránh một cơn bão; ngày 13 tháng 8, máy bay của nó tấn công Tokyo lần cuối cùng. Ngày 14 tháng 8, nó lại nghỉ ngơi để các tàu khu trục hộ tống được tiếp nhiên liệu; và vào ngày 15 tháng 8, Nhật Bản chấp nhận đầu hàng nên mọi kế hoạch không kích trong ngày được hủy bỏ.Từ ngày 16 đến ngày 23 tháng 8, Yorktown cùng các tàu sân bay khác của Lực lượng đặc nhiệm TF 58 di chuyển quanh các vùng biển phía Đông Nhật Bản chờ chỉ thị mới trong khi việc thương lượng hòa bình đang được tiếp tục. Sau đó nó được lệnh hướng đến vùng biển phía Đông đảo Honshū nơi máy bay của nó sẽ yểm trợ trên không cho lực lượng chiến đóng nước Nhật. Nó bắt đầu thực hiện việc yểm trợ trên không từ ngày 25 tháng 8 kéo dài đến tận giữa tháng 9. Sau khi văn kiện đầu hàng được chính thức ký kết trên thiết giáp hạm Missouri ngày 2 tháng 9, chiếc tàu sân bay làm nhiệm vụ thả dù tiếp liệu xuống cho tù binh chiến tranh Đồng Minh vẫn còn đang sống trong các trại tù binh. Vào ngày 16 tháng 9, Yorktown tiến vào vịnh Tokyo cùng Đội Đặc nhiệm TG 38.1. Nó ở lại đó để bảo trì và cho thủy thủ đoàn nghỉ ngơi đến cuối tháng. Ngày 1 tháng 10, chiếc tàu sân bay rời vịnh Tokyo đi đến Okinawa. Nó đến vịnh Buckner ngày 4 tháng 10, nhận hành khách lên tàu rồi lên đường vào ngày 6 tháng 10 quay trở về Hoa Kỳ.

Hoạt động sau Thế Chiến II

1945 - 1952

Sau chuyến đi không dừng nghỉ, Yorktown về đến vịnh San Francisco vào ngày 20 tháng 10, neo đậu tại Căn cứ Không lực Hải quân Alameda và bắt đầu tiễn hành khách lên bờ. Nó ở lại đó đến ngày 31 tháng 10 trước khi chuyển đến Xưởng hải quân Hunters Point để thực hiện các sửa chữa nhỏ. Ngày 2 tháng 11, trong khi còn đang trong xưởng, nó nhận được lệnh của Hạm đội Thái Bình Dương tham gia chiến dịch Magic Carpet đưa quân nhân Hoa Kỳ quay về nước. Cùng ngày hôm đó, nó rời vịnh San Francisco hướng đến Guam trong một nhiệm vụ như thế. Nó đến cảng Apra vào ngày 15 tháng 11 để khởi hành hai ngày sau đó cùng một lượt các hành khách; để về đến San Francisco vào ngày 30 tháng 11. Đến ngày 8 tháng 12 con tàu sân bay lại hướng đến Viễn Đông. Lộ trình ban đầu dự định đến Samar tại Philippines, nhưng nó chuyển hướng dọc đường để đi đến Manila vào ngày 26 tháng 12 và rời nơi này ngày 29 tháng 12. Nó về đến San Francisco ngày 13 tháng 1 năm 1946. Cuối tháng đó, nó di chuyển lên hướng Bắc đến Bremerton, Washington, nơi nó được đưa về làm lực lượng dự bị vào ngày 21 tháng 6. Nó được duy trì trong tình trạng như vậy cho đến cuối năm. Vào ngày 9 tháng 1 năm 1947, Yorktown được cho ngừng hoạt động và được cho neo đậu cùng Đội Bremerton của Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương.

1953 - 1955

Yorktown ở lại trong lực lượng dự bị được gần năm năm. Vào tháng 6 năm 1952, nó nhận được lệnh cho tái hoạt động, và công việc chuẩn bị được tiến hành tại Puget Sound. Vào ngày 15 tháng 12 năm 1952, nó được đưa ra hoạt động trong lực lượng dự bị tại Bremerton. Công việc cải tạo được tiến hành kéo dài đến đầu năm 1953 và nó tiến hành việc chạy thử máy sau cải tạo vào tháng 1 năm đó. Vào ngày 20 tháng 2 năm 1953, Yorktown được đưa ra hoạt động thường trực như một tàu sân bay tấn công (CVA) dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng William M. Nation. Chiếc tàu sân bay tiến hành các hoạt động thường xuyên dọc bờ Tây Hoa Kỳ trong gần suốt mùa Hè năm 1953. Vào ngày 3 tháng 8, nó rời San Francisco hướng đến Viễn Đông. Nó đến Trân Châu Cảng và ở lại đó đến ngày 27 tháng 8, khi nó lại lên đường tiếp tục hành trình về phía Tây. Vào ngày 5 tháng 9, chiếc tàu sân bay đi đến Yokosuka, Nhật Bản. Nó lại ra khơi vào ngày 11 tháng 8 để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 77 đang hoạt động trong biển Nhật Bản. Chiến tranh Triều Tiên đã kết thúc hai tháng trước đó, nên chiếc tàu sân bay chỉ tiến hành các hoạt động huấn luyện thay vì chiến đấu. Nó hoạt động cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 77 cho đến ngày 18 tháng 2 năm 1954, khi nó rời Yokosuka lên đường trở về nhà. Trên đường về nó ghé qua Trân Châu Cảng rồi thả neo tại Alameda một lần nữa vào ngày 3 tháng 3. Sau một đợt sửa chữa ngắn tại Xưởng Hải quân Hunters Point, Yorktown được cho ra khơi làm bối cảnh để quay bộ phim tài liệu ngắn Jet Carrier, một phim từng được đề cử Giải thưởng Điện ảnh Viện hàn lâm Hoa Kỳ (giải Oscar). Nó lại tiến hành các hoạt động thường xuyên dọc bờ Tây cho đến ngày 1 tháng 7, khi nó nhận được lệnh chuyển đến hoạt động tại khu vực Viễn Đông. Nó dừng lại Trân Châu Cảng từ ngày 8 đến ngày 28 tháng 7 trước khi tiếp tục hành trình đến Manila, và nó đến nơi ngày 4 tháng 8.Yorktown hoạt động tại khu vực ngoài khơi căn cứ vịnh Subic gần Manila, tiến hành các cuộc tập trận của Hạm đội 7 trong suốt thời gian được bố trí đến đây. Thỉnh thoảng, nó cũng phá vỡ lịch trình trên trong các chuyến ghé thăm cảng Yokosuka; và vào các ngày nghỉ trong dịp lễ Giáng Sinh, nó ghé qua Hong Kong. Vào tháng 1 năm 1955, nó được lệnh đến giúp đỡ cho cuộc triệt thoái của lực lượng Trung Hoa Dân Quốc khỏi quần đảo Tachen gần lục địa do phía cộng sản kiểm soát. Yorktown vào cảng Yokosuka vào ngày 16 tháng 2 năm 1955, rồi lại khởi hành vào ngày 18 tháng 2 để quay về nhà. Sau khi ghé qua đêm tại Trân Châu Cảng đêm 23 rạng sáng ngày 24 tháng 2, nó tiếp tục cuộc hành trình về hướng Đông và về đến Alameda vào ngày 28 tháng 2. Vào ngày 21 tháng 3 năm 1955, nó được tạm thời cho ngưng hoạt động và đưa về Xưởng Hải quân Puget Sound nơi nó được cải tiến và hiện đại hóa, đáng kể nhất là một sàn đáp chéo góc để tăng cường khả năng phóng máy bay phản lực. Nó hoàn tất các công việc cải tạo vào mùa Thu năm đó, và vào ngày 14 tháng 10, được đưa trở lại hoạt động thường trực.

1955 - 1957

Chiếc tàu sân bay quay trở lại các hoạt động thường xuyên dọc theo bờ Tây Hoa Kỳ sau khi được đưa vào hoạt động trở lại cho đoến giữa tháng 3 năm 1956. Vào ngày 19 tháng 3, nó rời vịnh San Francisco thực hiện chuyến bố trí thứ ba đến Hạm đội 7 kể từ khi hoạt động trở lại năm 1953. Yorktown dừng lại Trân Châu Cảng từ ngày 24 tháng 3 đến ngày 9 tháng 4 rồi tiếp tục chuyến hành trình. Nó đi đến cảng Yokosuka vào ngày 18 tháng 4 và khởi hành ngày 29 tháng 4. Con tàu chiến hoạt động cùng Hạm đội 7 trong 5 tháng tiếp theon sau đó. Trong thời gian đó, nó hoạt động trong vùng Biển Nhật Bản, biển Đông Trung Quốc, và biển Nam Trung Quốc. Nó đã ghé qua các cảng Sasebo, Manila, vịnh Subic và vịnh Buckner ở Okinawa. Vào ngày 7 tháng 9, chiếc tàu sân bay rời cảng Yokosuka hướng mũi về phía Đông. Sau một chuyến hải hành không dừng nghỉ, nó về đến Alameda vào ngày 13 tháng 9. Nó tiếp tục các hoạt đông dọc theo bờ Tây Hoa Kỳ trong khoảng hai tháng. Đến ngày 13 tháng 11, nó thực hiện một chuyến đi vòng đến Trân Châu Cảng rồi quay về Alameda vào ngày 11 tháng 12. Yorktown tiếp tục các hoạt động thường xuyên ngoài khơi Alameda cho đến tháng 3 năm 1957. Vào ngày 9 tháng 3, nó rời Alameda thực hiện một đợt nghĩa vụ hoạt động khác tại vùnh Viễn Đông. Nó dừng lại Oahu và Guam trên đường đi, và đến cảng Yokosuka ngày 19 tháng 4. Nó ra khơi tham gia các hoạt động của Lực lượng Đặc nhiệm TF 77 vào ngày 25 tháng 4 và nó phục vụ cùng đơn vị này trong ba tháng tiếp theo sau đó. Vào ngày 13 tháng 8, con tàu rời cảng Yokosuka, dừng một chặng ngắn tại Trân Châu Cảng và về đến Alameda ngày 25 tháng 8.

1957 - 1960

Vào ngày 1 tháng 9 năm 1957, cảng nhà của nó được thay đổi từ Alameda về Long Beach, California, và nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay chống tàu ngầm (ASW) với số hiệu mới CVS-10. Vào ngày 23 tháng 9, nó rời Alameda để bốn ngày sau vào Xưởng Hải quân Puget Sound để đạ̣i tu và cải biến cho phù hợp với vai trò chống tàu ngầm. Công việc đó kéo dài cho đến tận đầu tháng 2 năm 1958. Nó rời kho đạn hải quân ở Bangor, Washington ngày 7 tháng 2 và về đến Long Beach năm ngày sau. Trong vòng tám tháng tiếp theo sau, Yorktown tiến hành các hoạt động thường xuyên dọc theo bờ Tây Hoa Kỳ. Vào ngày 1 tháng 11, nó rời San Diego quay lại hoạt động tại khu vực Tây Thái Bình Dương. Sau một chặng dừng tại Trân Châu Cảng từ ngày 8 đến ngày 17 tháng 11, Yorktown tiếp tục hành trình tiến về phía Tây, và đi đến cảng Yokosuka ngày 25 tháng 11. Trong đợt hoạt động này, chiếc tàu sân bay đã ba lần được tưởng thưởng do các hoạt động xuất sắc. Lần thứ nhất là vào các ngày 31 tháng 12 năm 1958 và 1 tháng 1 năm 1959, khi nó tham gia một đợt phô diễn sức mạnh quân sự Hoa Kỳ nhằm đáp trả việc những người Cộng sản Trung Quốc nả đạn pháo xuống các hòn đảo Kim Môn và Mã Tổ do lực lượng Trung Hoa Dân Quốc trấn giữ. Trong tháng 1 năm 1959, nó còn tham gia lực lượng phản ứng ngoài khơi Việt Nam trong thời gian biến loạn do các lực lượng du kích cộng sản gây ra tại miền Nam nước này. Trong tháng đó nó được tặng thưởng do các hoạt động tại eo biển Đài Loan. Thời gian còn lại của đợt bố trí này bao gồm một lần đến vùng biển ngoài khơi Việt Nam vào cuối tháng 3 và một vòng huấn luyện thường xuyên và viếng thăm các cảng. Nó kết thúc đợt hoạt động tại San Diego ngày 21 tháng 5. Sau đó chiếc tàu sân bay quay lại các hoạt động thường lệ dọc Bờ Tây Hoa Kỳ cho đến hết năm 1959.Vào tháng 1 năm 1960, Yorktown quay lại khu vực Viễn Đông thông qua Trân Châu Cảng. Trong đợt bố trí này, nó được tặng thưởng thêm các ngôi sao chiến đấu do nhiều lần hoạt động tại vùng biển Việt Nam từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1960. Nó quay về Bờ Tây Hoa Kỳ vào cuối mùa Hè, và đến cuối tháng 9 bắt đầu một đợt đại tu kéo dài bốn tháng tại Xưởng hải quân Puget Sound.

1961 - 1964

Yorktown rời xưởng tàu vào tháng 1 năm 1961 và về đến Long Beach ngày 27 tháng 1. Nó tiến hành một đợt huấn luyện rồi sau đó hoạt động thường trực dọc theo bờ Tây Hoa Kỳ cho đến tháng 7. Ngày 29 tháng 7, chiếc tàu sân bay rời Long Beach hướng đến Viễn Đông một lần nữa. Nó dừng lại khá lâu tại quần đảo Hawaii trong tháng 8 và chỉ đi đến Yokosuka vào ngày 4 tháng 9. Đợt hoạt động này tại Viễn Đông bao gồm các cuộc thực tập phòng không và chống tàu ngầm cùng viếng thăm các cảng. Nó kết thúc đợt hoạt động tại Long Beach vào ngày 2 tháng 3 năm 1962. Các hoạt động thường xuyên được thực hiện dọc theo bờ Tây Hoa Kỳ chiếm trọn mùa Hè và kéo dài sang mùa Thu năm 1962. Vào ngày 26 tháng 10, nó rời Long Beach hướng sang Viễn Đông. Trong đợt hoạt động này, nó là soái hạm của Đội tàu sân bay 19. Nó tham gia nhiều cuộc thực tập phòng không và chống tàu ngầm, kể cả cuộc tập trận chống tàu ngầm Chiến dịch Sea Serpent của khối SEATO. Đợt bố trí này kết thúc vào ngày 6 tháng 6 năm 1963, khi chiếc tàu sân bay khởi hành quay về Long Beach.Yorktown quay trở lại cảng nhà vào ngày 18 tháng 6 và tiến hành các hoạt động thường lệ suốt phần còn lại của năm cũng như gần trọn năm 1964. Tuy nhiên, vào ngày 22 tháng 10, nó lại hướng mũi về phía Tây cho một đợt bố trí cùng Hạm đội 7. Một số hoạt động tại vùng biển quần đảo Hawaii đã trì hoãn thời gian đến Nhật Bản cho đến tận ngày 3 tháng 12 năm 1964.

1965 - 1968

Trong những năm 1964 và 1965, sự bố trí hoạt động đã khiến Yorktown can dự trực tiếp lần đầu tiên vào cuộc chiến tại Việt Nam. Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1965, nó thực hiện một loạt các nhiệm vụ đặc biệt trong vùng biển Nam Trung Quốc gần Việt Nam, chủ yếu là phục vụ chống tàu ngầm cho lực lượng tàu sân bay nhanh đang thực hiện các phi vụ không kích các mục tiêu tại Việt Nam, yểm trợ cho sự can dự ngày càng sâu hơn của Mỹ vào cuộc chiến tranh tại đất nước này. Nó kết thúc đợt phục vụ tại Viễn Đông vào ngày 7 tháng 5, khi nó rời Yokosuka quay trở về Hoa Kỳ. Nó về đến Long Beach ngày 17 tháng 5 năm 1965.Trong phần còn lại của cuộc đời phục vụ, người ta nhận ra sự can dự của Yorktown trong các hoạt động tác chiến tại Việt Nam. Sau bảy tháng hoạt động thường xuyên ngoài khơiLong Beach, nó lên đường đi đến khu vực Tây Thái Bình Dương một lần nữa vào ngày 5 tháng 1 năm 1966. Nó đi đến Yokosuka ngày 17 tháng 2 và gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 77 tại Trạm Yankee cuối tháng đó. Trong năm tháng tiếp theo sau, chiếc tàu sân bay đã thực hiện ba đợt phục vụ kéo dài tại Trạm Yankee hỗ trợ các hoạt động chống tàu ngầm cùng tìm kiếm và giải cứu cho những tàu sân bay khác của Lực lượng đặc nhiệm TF 77. Nó cũng tham gia nhiều cuộc thực tập chống tàu ngầm, kể cả cuộc tập trận chủ yếu của khối SEATO mang tên Chiến dịch Sea Imp. Chiếc tàu chiến thực hiện đợt phục vụ cuối cùng tại Trạm Yankee vào đầu tháng 7, và sau một chặng dừng tại Yokosuka, nó quay về nhà vào ngày 15 tháng 7. Nó đưa lên bờ tại San Diego liên đội không quân phối thuộc vào ngày 27 tháng 7 và quay trở về Long Beach cùng ngày hôm đó. Nó tiếp tục các công việc hoạt động thường xuyên bao gồm thực tập chuẩn nhận tàu sân bay và chống tàu ngầm trong suốt thời gian còn lại của năm và trong hai tháng đầu năm 1967.Ngày 24 tháng 2 năm 1967, Yorktown đi vào xưởng hải quân Long Beach cho một đợt đại tu kéo dài 7 tháng. Nó hoàn tất các công việc sửa chữa vào đầu tháng 10, và sau một đợt huấn luyện ôn tập, nó tiếp tục các hạt động thường xuyên ngoài khơi bờ Tây nước Mỹ trong gần suốt thời gian còn lại của năm 1967. Vào ngày 28 tháng 12, nó rời Long Beach lên đường thực hiện lượt bố trí nghĩa vụ cuối cùng tại khu vực tây Thái Bình Dương. Sau một chặng dừng tại Trân Châu Cảng, nó đi đến Viễn Đông cuối tháng 1 năm 1968; nhưng thay vì ghé vào một cảng Nhật Bản, Yorktown hướng trực tiếp đến vùng biển Nhật Bản để hỗ trợ chống tầu ngầm và tìm kiếm giải cứu cho lực lượng khẩn cấp được tập trung sau sự kiện Bắc Triều Tiên bắt giữ chiếc tàu Mỹ Pueblo (AGER-2). Nó thực hiện nhiệm vụ được giao trong vòng 30 ngày cho đến khi được miễn nhiệm vào ngày 1 tháng 3 và hướng đến vịnh Subic tại Philippines. Trong thời gian còn lại của đợt bố trí này, chiếc tàu sân bay phục vụ ba lượt cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 77 tại Trạm Yankee, trong đó nó thực hiện vai trò chống tàu ngầm và hỗ trợ tìm kiến giải cứu cho các phi vụ không kích vào các mục tiêu tại Việt Nam. Nó kết thúc lượt phục vụ cuối cùng tại Việt Nam vào ngày 16 tháng 6 và hướng đến Sasebo, nơi nó dừng chân từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 6 trước khi quay trở về Hoa Kỳ.

1968 - 1975

Yorktown trở về Long Beach ngày 5 tháng 7 năm 1968 và vào Xưởng hải quân Long Beach để thực hiện đợt sửa chữa kéo dài gần ba tháng. Nó hoàn tất công việc sửa chữa vào ngày 30 tháng 9 và quay lại các hoạt động thường xuyên. Vào cuối tháng 11 và đầu tháng 12 năm 1968, nó phục vụ làm bối cảnh cho việc quay cuốn phim Tora! Tora! Tora! tái dựng lại sự kiện Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng. Vào tháng 12 năm 1968, nó là một trong các tàu thu hồi chính cho chuyến bay Apollo 8. Hai nhiệm vụ trên được thực hiện tại vùng biển ngoài khơi Trân Châu Cảng. Nó rời Trân Châu Cảng ngày 2 tháng 1 năm 1969, và sau một chặng dừng hai tuần tại Long Beach, tiếp tục chuyến đi để gia nhập Hạm đội Đại Tây Dương. Đi vòng quanh Nam Mỹ, chiếc tàu sân bay đi đến cảng nhà mới của mình là Norfolk, Virginia vào ngày 28 tháng 2. Nó thực hiện các hoạt động thường xuyên ngoài khơi bờ Đông Hoa Kỳ và tại West Indies cho đến cuối mùa Hè. Ngày 2 tháng 9, Yorktown rời Norfolk thực hiện chuyến đi đến Châu Âu và tham gia vào cuộc tập trận hạm đội lớn Chiến dịch Peacekeeper. Trong cuộc tập trận này, nó hỗ trợ hoạt động chống tàu ngầm (ASW) và tìm kiếm giải cứu (SAR) cho lực lượng đặc nhiệm.Cuộc tập trận kết thúc vào ngày 23 tháng 9, và Yorktown bắt đầu thực hiện một loạt các chuyến viếng thăm các cảng tại Bắc Âu. Sau khi ghé qua Brest, Pháp và Rotterdam tại Hà Lan, Yorktown ra khơi thực hiện các cuộc thực hành tìm và diệt tàu ngầm từ ngày 18 tháng 10 đến ngày 11 tháng 11. Sau đó tó tiếp tục chương trình viếng thăm các cảng vào ngày 11 tháng 11 khi ghé thăm Kiel, Đức. Sau đó, nó còn dừng tại Copenhagen, Đan Mạch và Portsmouth, Anh Quốc trước khi lên đường quay trở về nhà vào ngày 1 tháng 12. Nó về đến Norfolk ngày 11 tháng 12 để bước vào kỳ nghỉ lễ.Trong nữa đầu năm 1970, Yorktown hoạt động ngoài khơi Norfolk và bắt đầu chuẩn bị để ngừng hoạt động. Vào ngày 27 tháng 6 năm 1970, Yorktown chính thức ngừng hoạt động tại Philadelphia, Pennsylvania, và được cho thả neo cùng Đội Philadelphia của Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương. Nó ở lại đó gần ba năm trước khi tên nó được loại bỏ khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1973. Đến năm 1974, Hải quân đồng ý trao tặng chiếc Yorktown cho Patriot's Point Development Authority, Charleston, South Carolina. Nó được kéo từ Bayonne, New Jersey đến Charleston trong tháng 6 năm 1975. Nó chính thức được chỉ định thành một đài kỷ niệm nhân dịp 200 năm thành lập Hải quân Hoa Kỳ, ngày 13 tháng 10 năm 1975.Yorktown (CV-10) nhận được 11 ngôi sao chiến đấu và danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống trong Thế Chiến II; và thêm năm ngôi sao chiến đấu nữa khi phục vụ tại Việt Nam.

Lớp tàu: lớp tàu sân bay Yorktown

Xưởng đóng tàu: Newport News Shipbuilding

Đặt hàng: 3 tháng 8 năm 1933

Đặt lườn: 21 tháng 5 năm 1934

Hạ thủy: 4 tháng 4 năm 1936

Hoạt động: 30 tháng 9 năm 1937

Bị mất: Bị máy bay Nhật đánh hỏng trong trận Midway, chìm ngày 7 tháng 6 năm 1942 sau khi bị tàu ngầm Nhật đánh trúng.

Xóa đăng bạ: 2 tháng 10 năm 1942

Phần thưởng: Huy chương Phục vụ Phòng thủ Hoa Kỳ

Huy chương Chiến dịch Hoa Kỳ / Huy chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương (3 sao) / Huy chương Chiến thắng Thế Chiến II

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 19.800 tấn (tiêu chuẩn)

25.500 tấn (chất đầy tải)

Chiều dài: 234,7 m (770 ft) (mực ngấn nước)

251,4 m (824 ft 9 in) (chung)

Mạn thuyền: 25,4 m (83 ft 3 in) (mực ngấn nước)

33,4 m (109 ft 6 in) (chung)

Tầm nước: 7,9 m (26 ft)

Lực đẩy: 9 × nồi hơi Babcock & Wilcox

4 × turbine hơi nước Parsons, 4 trục

công suất 120.000 mã lực (89 MW)

Tốc độ: 32,5 knot (60,2 km/h)

Tầm xa: 12500 hải lý ở tốc độ 15 knot (23.150 km ở tốc độ 27,8 km/h)

Quân số: 2.217 sĩ quan và thủy thủ (1941)

Vũ khí điện tử: radar RCA CXAM[1]

Vũ khí: 8 × pháo 38 5 inch

4 × súng máy 75 bốn nòng 1,1 inch

24 × súng máy 0.50 inch

24 x pháo Oerlikon 20 mm (được bổ sung vào đầu năm 1942).

Vỏ giáp: đai giáp 2,5-4 inch

sàn bảo vệ 60 lb

vách ngăn 4 inch

4 inch bên cạnh và 2 inch trên nóc tháp chỉ huy

vỏ 4 inch bên hông bánh lái

Máy bay: 90 máy bay, 3 × thang nâng

2 × máy phóng thủy lực trên sàn đáp

1 × máy phóng thủy lực trên sàn chứa

Chiếc USS Yorktown (CV-5), là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ. Tên nó được dùng để đặt cho Lớp tàu sân bay Yorktown, và là một trong những tàu sân bay chủ lực của Mỹ trong giai đoạn đầu của Thế Chiến II tại Mặt trận Thái Bình Dương, và đã bị máy bay Nhật đánh chìm ngày 7 tháng 6 năm 1942 trong trận Midway.

Mô tả

Yorktown được đặt lườn vào ngày 21 tháng 5 năm 1934 tại xưởng đóng tàu Northrop Grumman ở Newport News, Virginia; được hạ thủy vào ngày 4 tháng 4 năm 1936; được đỡ đầu bởi Eleanor Roosevelt; và được đưa vào hoạt động tại căn cứ hải quân Norfolk, Virginia vào ngày 30 tháng 9 năm 1937 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Ernest D. McWhorter.Sau khi được trang bị, chiếc tàu sân bay tiến hành huấn luyện tại Hampton Roads, Virginia và tại các khu vực thực hành ngoài khơi Virginia cho đến tháng 1 năm 1938, thực hiện đạt chuẩn tàu sân bay cho các phi đội mới được bố trí.

Các vai trò ban đầu

Yorktown khởi hành hướng về biển Caribbe vào ngày 8 tháng 1 năm 1938 và đến Culebra, Puerto Rico, vào ngày 13 tháng 1. Trong tháng tiếp theo, chiếc tàu sân bay tiến hành chạy thử ngang qua Charlotte Amalie, Saint Thomas, quần đảo Virgin; Gonaïves, Haiti; vịnh Guantánamo, Cuba, và Cristóbal thuộc khu vực kênh đào Panama. Rời vịnh Colon, Cristobal ngày 1 tháng 3, Yorktown hướng về Hampton Roads, đến nơi ngày 6 tháng 3, và chuyển về xưởng hải quân Norfolk ngày hôm sau để được hiệu chỉnh sau chạy thử.Sau khi được sửa chữa suốt đầu mùa Thu năm 1938, Yorktown được chuyển đến Norfolk vào ngày 17 tháng 10, và không lâu sau hướng đến các khu vực thực hành để tiến hành huấn luyện.Cho đến năm 1939 Yorktown hoạt động ngoài khơi bờ biển phía Tây, trãi dài từ vịnh Chesapeake đến vịnh Guantanamo. Là kỳ hạm của Đội tàu sân bay 2, nó tham gia cuộc tập trận giả đầu tiên của nó - Vấn đề Hạm đội XX - cùng với chiếc tàu sân bay chị em Enterprise vào tháng 2 năm 1939. Kịch bản của cuộc tập trận yêu cầu hạm đội kiểm soát các tuyến đường hàng hải trong vùng biển Caribbe chống lại sự xâm lấn của một thế lực từ Châu Âu trong khi vẫn duy trì sức mạnh hải quân cần thiết để bảo vệ các quyền lợi sống còn của Mỹ ở Thái Bình Dương. Cuộc cơ động được chứng kiến một phần bởi Tổng thống Franklin Delano Roosevelt có mặt trên chiếc tàu tuần dương hạng nặng Houston.Việc đánh giá các hoạt động cho thấy hoạt động của các tàu sân bay - một phần của kịch bản cho các cuộc tập trận hằng năm kể từ khi đưa chiếc tàu sân bay Langley tham gia các cuộc tập trận giả vào năm 1925 - đạt đến một đỉnh cao hiệu quả mới. Cho dù những chiếc Yorktown và Enterprise, những "lính mới" của hạm đội, còn kém kinh nghiệm, cả hai chiếc tàu sân bay đã góp phần đáng kể vào thành công của cuộc tập trận. Các nhà kế hoạch đã nghiên cứu việc sử dụng các tàu sân bay và các phi đội phối thuộc vào các nhiệm vụ hộ tống tàu vận tải, phòng thủ chống tàu ngầm và nhiều biện pháp khác nhau tấn công các tàu nổi và các cơ sở trên bờ. Tóm lại, họ đã làm việc để phát triển chiến thuật sẽ được sử dụng một khi chiến tranh thực sự diễn ra.

Hạm đội Thái Bình Dương

Sau cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XX, Yorktown quay lại Hampton Roads một thời gian ngắn trước khi khởi hành hướng sang Thái Bình Dương vào ngày 20 tháng 4 năm 1939. Đi ngang kênh đào Panama một tuần sau đó, Yorktown tham gia các hoạt động thường xuyên cùng Hạm đội Thái Bình Dương. Hoạt động ngoài khơi San Diego, California cho đến năm 1940, chiếc tàu sân bay tham gia cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XXI vào tháng 4 năm đó. Yorktown là một trong sáu tàu chiến đầu tiên được trang bị loại radar RCA CXAM trong năm 1940.[1]Vấn đề Hạm đội XXI, một cuộc tập trận chia làm hai phần, bao gồm một số hoạt động tiêu biểu cho một cuộc chiến tranh trong tương lai tại Thái Bình Dương. Phần thứ nhất của cuộc tập trận dành cho việc huấn luyện lập kế hoạch và ước lượng; việc che chắn bảo vệ và trinh sát; việc phối hợp cùng các đơn vị chiến đấu; và trong việc sử dụng hạm đội và bố trí chuẩn. Phần thứ hai bao gồm việc huấn luyện bảo vệ đoàn tàu vận tải, việc chiếm giữ các căn cứ tiền phương, và cuối cùng là trận giao chiến quyết định giữa hai hạm đội đối địch. Là cuộc tập trận cuối cùng thuộc loại này trước chiến tranh, Vấn đề Hạm đội XXI cũng bao gồm hai cuộc thực hành (tương đối nhỏ vào thời đó) nơi mà các hoạt động không lực đóng một vai trò then chốt. Bài tập Hạm đội liên hợp Không lực 114A đã đoán trước được nhu cầu cần phối hợp các kế hoạch phòng thủ của Lục quân và Hải quân để bảo vệ quần đảo Hawaii; và Bài tập Hạm đội 114 chứng minh rằng có thể sử dụng những chiếc máy bay để theo dõi từ độ cao các lực lượng trên mặt biển, một vai trò đáng kể dành cho máy bay sẽ được vận dụng tối đa trong cuộc chiến tranh sắp tới.Với việc giữ lại Hạm đội tại vùng biển Hawaii sau khi kết thúc cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XXI, Yorktown hoạt động trên vùng biển Thái Bình Dương ngoài khơi bờ tây nước Mỹ và tại vùng biển Hawaii cho đến mùa Xuân năm sau, khi lực lượng tàu ngầm U-boat của Đức thành công trong việc săn đuổi các tàu bè Anh Quốc tại Đại Tây Dương đòi hỏi phải dịch chuyển một phần lực lượng hải quân Hoa Kỳ. Do đó, để củng cố Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ, Hải quân đã chuyển một lực lượng đáng kể từ Thái Bình Dương bao gồm chiếc Yorktown, Hải đội Thiết giáp hạm 3 (gồm những thiết giáp hạm thuộc lớp New Mexico), ba tàu tuần dương hạng nhẹ, và 12 tàu khu trục phối thuộc.

Tuần tra Trung lập

Yorktown rời Trân Châu Cảng ngày 20 tháng 4 năm 1941 cùng với các tàu khu trục Warrington, Somers và Jouett; hướng về phía Đông Nam, đi qua kênh đào Panama trong đêm 6 - 7 tháng 5, và đến Bermuda vào ngày 12 tháng 5. Từ lúc đó cho đến khi Hoa Kỳ tham gia chiến tranh, Yorktown thực hiện bốn chuyến tuần tra tại Đại Tây Dương, kéo dài từ Newfoundland đến Bermuda dài tổng cộng 28.392 km (17.642 dặm) để thực thi vai trò trung lập của Hoa Kỳ.Cho dù Adolf Hitler đã ngăn cấm các tàu ngầm của ông tấn công tàu bè của Mỹ, những người chỉ huy trên các tàu chiến Mỹ đã không biết được chính sách này và đã hoạt động như thể đang trong thời chiến tại Đại Tây Dương.Ngày 28 tháng 10, trong khi Yorktown, thiết giáp hạm New Mexico và các tàu chiến Hoa Kỳ khác đang bảo vệ một đoàn tàu vận tải, một tàu khu trục đã bắt được tín hiệu của một tàu ngầm và đã thả mìn sâu để tấn công, trong khi bản thân đoàn tàu vận tải phải chuyển hướng khẩn cấp về mạn phải, lần đầu tiên trong số ba lần thay đổi hành trình khẩn cấp trong chuyến đi. Chiều hôm đó, việc sửa chữa động cơ trên một trong những chiếc tàu vận tải trong đoàn, chiếc Empire Pintail, đã làm giảm tốc độ của đoàn tàu chỉ còn 11 knot (20 km/h).Trong đêm, các tàu chiến Mỹ bắt được tín hiệu radio Đức khá mạnh, chứng tỏ có sự hoạt động của tàu ngầm ở khu vực lân cận. Chuẩn Đô đốc H. Kent Hewitt, chỉ huy lực lượng hộ tống, đã gửi một tàu khu trục đi càn quét phía sau đoàn tàu vận tải để tiêu diệt chiếc U-boat hay ít nhất cũng xua đuổi được nó.Ngày hôm sau, trong khi những chiếc máy bay trinh sát thực hiện tuần tra bên trên, Yorktown và tàu tuần dương Savannah tiến hành tiếp nhiên liệu cho các tàu khu trục theo hộ tống, và công việc chỉ kết thúc khi trời sụp tối. Vào ngày 30 tháng 10, Yorktown chuẩn bị tiếp nhiên liệu cho ba tàu khu trục khi những tàu hộ tống khác bắt được tín hiệu âm thanh. Đoàn tàu vận tải sau đó phải thực hiện các cú chuyển hướng khẩn cấp trong khi các tàu khu trục Morris và Anderson thả các mìn sâu, còn chiếc Hughes hỗ trợ việc truy tìm đối phương. Anderson sau đó còn thực hiện hai đợt tấn công bằng mìn sâu, ghi nhận "có các lượng dầu loang đáng kể nhưng không thấy xác tàu."Từng ngày trôi qua và khả năng chiến tranh ngày càng trở nên hiện thực. Tại một nơi khác cũng trong ngày 30 tháng 10, hơn một tháng trước khi máy bay Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, chiếc U-562 đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu khu trục Reuben James và gây thiệt hại nhân lực nặng nề - là tổn thất tàu chiến Mỹ đầu tiên trong Thế Chiến II.Sau một chuyến Tuần tra Trung lập khác vào tháng 11, Yorktown trở về Norfolk vào ngày 2 tháng 12 và nó ở đấy khi năm ngày sau khi Mỹ bị lôi kéo vào Thế Chiến II.

Thế Chiến II

Những tin tức ban đầu từ Thái Bình Dương thật ảm đạm, Hạm đội Thái Bình Dương phải chịu tổn thất đáng kể. Vì những chiếc thiết giáp hạm bị phá hỏng, tầm quan trọng của những chiếc tàu sân bay Hoa Kỳ không bị hư hỏng trở nên lớn lao. Tính đến ngày 7 tháng 12, chỉ có ba chiếc trên vùng biển Thái Bình Dương: Enterprise, Lexington và Saratoga. Trong khi những chiếc Ranger, Wasp và chiếc Hornet vừa mới đưa vào sử dụng được giữ lại chiến trường Đại tây Dương, Yorktown được điều động rời khỏi Norfolk ngày 16 tháng 12 năm 1941 để tăng cường cho chiến trường Thái Bình Dương. Hàng hỏa lực pháo thứ cấp được bổ sung các khẩu pháo Oerlikon 20 mm. Nó đến San Diego ngày 30 tháng 12 năm 1941 và không lâu sau trở thành kỳ hạm của Chuẩn Đô đốc Frank Jack Fletcher, tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm TF 17 mới được thành lập.Nhiệm vụ đầu tiên của chiếc tàu sân bay trên chiến trường này là hộ tống một đoàn tàu vận tải chuyên chở các lực lượng Thủy quân Lục chiến đến tăng cường cho đảo Samoa. Rời San Diego ngày 6 tháng 1 năm 1942, Yorktown cùng các tàu phối thuộc bảo vệ cho cuộc chuyển quân của Thủy quân Lục chiến đến Tutuila và Pago Pago bổ sung cho các lực lượng hiện có tại đây.Sau khi bảo vệ an toàn cuộc chuyển quân, Yorktown phối hợp cùng tàu sân bay chị em Enterprise rời khỏi vùng biển Samoa ngày 25 tháng 1. Sáu ngày sau, Lực lượng Đặc nhiệm TF 8 (xây dựng chung quanh chiếc Enterprise) tách khỏi Lực lượng Đặc nhiệm TF 17 (quanh chiếc Yorktown); TF 8 hướng đến quần đảo Marshall trong khi TF 17 tiến về quần đảo Gilbert để cùng tham gia vào một trong những chiến dịch tấn công đầu tiên của lực lượng Mỹ trong cuộc chiến, các trận không kích Marshall-Gilbert.Lúc 05 giờ 17 phút, chiếc Yorktown - được bảo vệ bởi tàu tuần dương Louisville và tàu tuần dương hạng nhẹ St. Louis cùng bốn khu trục hạm - đã tung ra 11 chiếc máy bay ném ngư lôi Douglas TBD-1 Devastator và 17 máy bay ném bom bổ nhào Douglas SBD-3 Dauntless dưới sự chỉ huy của Trung tá Curtis W. Smiley. Những máy bay này đã tấn công các cơ sở và tàu bè Nhật mà họ thấy được tại Jaluit, nhưng các cơn giông nặng nề đã cản trở việc thực hiện phi vụ, và đã có bảy máy bay bị mất. Các máy bay khác của chiếc Yorktown đã tấn công các cơ sở và tàu bè Nhật tại các đảo san hô Makin và Mili.Cuộc tấn công trên quần đảo Gilberts thực hiện bởi Lực lượng đặc nhiệm TF17 rõ ràng là một bất ngờ hoàn toàn vì lực lượng Mỹ không gặp phải bất kỳ chiếc tàu đối phương nào. Một chiếc thủy phi cơ tuần tra Kawanishi H6K "Mavis" bốn động cơ dự định tấn công các tàu khu trục Mỹ đang được bố trí phía sau trong hy vọng vớt được đội bay những chiếc bị rơi lại trong phi vụ tấn công Jaluit. Hỏa lực phòng không từ nhừng tàu khu trục đã đánh đuổi kẻ xâm nhập trước khi nó có thể gây ra được thiệt hại gì.Sau đó, một chiếc "Mavis" khác hoặc có thể là chính nó, ló ra khỏi các đám mây thấp ở khoảng cách 13.700 m (15.000 yd) từ chiếc Yorktown. Chiếc tàu sân bay đã giữ lại không sử dụng hỏa lực pháo phòng không để không nhiễu loạn với những chiếc máy bay tiêm kích tuần tra chiến đấu trên không (CAP). Trong khi đó chiếc "Mavis", bị săn đuổi bởi hai chiếc F4F Wildcat, đã biến mất trong một đám mây. Trong vòng năm phút, chiếc máy bay tuần tra đối phương ló ra khỏi mây và rơi xuống nước.Mặc dù Lực lượng Đặc nhiệm TF17 được cử ra thực hiện một cuộc tấn công thứ hai vào Jaluit, kế hoạch bị hủy bỏ do mưa giông nặng và trời đã tối. Do đó, lực lượng Yorktown rút lui khỏi khu vực này.Đô đốc Chester Nimitz sau này đã cho rằng cuộc không kích Marshalls-Gilberts "có ý tưởng tốt, vạch kế hoạch tốt, và thực hiện một cách xuất sắc." Kết quả đạt được bởi các lực lượng đặc nhiệm TF 8 và TF 17 là đáng kể, Nimitz tiếp tục nêu lên trong báo cáo của ông sau đó, vì các lực lượng đặc nhiệm bị buộc phải thực hiện các cuộc tấn công một cách dò dẫm do thiếu các thông tin tình báo trên các hòn đảo bị Nhật Bản chiếm đóng.Yorktown sau đó quay về Trân Châu Cảng để được tiếp liệu trước khi trở ra khơi vào ngày 14 tháng 2, hướng về phía biển Coral. Vào ngày 6 tháng 3, nó gặp gỡ Lực lượng đặc nhiệm TF 11 - được hình thành chung quanh chiếc Lexington và dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Wilson Brown - và hướng về phía Rabaul và Gasmata để tấn công các tàu Nhật ở đây trong một nỗ lực nhằm ngăn chặn sự xâm lấn của Nhật cũng như yểm trợ việc đổ bộ quân Đồng Minh xuống Nouméa, Tân Caledonia. Tuy nhiên, khi hai chiếc tàu sân bay - được bao bọc bởi một lực lượng hùng hậu gồm tám tàu tuần dương hạng nặng kể cả chiếc tàu Australia HMAS Australia và 14 tàu khu trục - di chuyển về hướng New Guinea, quân Nhật tiếp tục hướng về phía Australia bằng một cuộc đổ bộ vào ngày 7 tháng 3 tại vịnh Huon, trong khu vực Salamaua-Lae tận cùng phía Đông New Guinea.Tin tức về chiến dịch của quân Nhật đã buộc Đô đốc Brown phải thay đổi mục tiêu của Lực lượng Đặc nhiệm TF 11 từ Rabaul sang khu vực Salamaua-Lae. Sáng ngày 10 tháng 3 năm 1942, các tàu sân bay Mỹ đã tung những chiếc máy bay của nó từ vịnh Papua. Các phi đội của chiếc Lexington cất cánh lúc 07 giờ 49 phút, và 21 phút sau đó Yorktown nối tiếp theo sau. Trong khi việc lựa chọn vịnh này làm điểm xuất phát cuộc tấn công có nghĩa là những chiếc máy bay phải bay một quãng đường 200 km (125 dặm) vượt qua dãy núi Owen Stanley - một tầm bay vượt quá các điều kiện bay tốt nhất, cách tiếp cận này đem đến sự an toàn cho lực lượng đặc nhiệm và đảm bảo sự bất ngờ.Trong cuộc tấn công sau đó, những chiếc SBD của Lexington thuộc Phi đội Tuần tiểu 2 (VS-2) thực hiện ném bom bổ nhào các tàu Nhật tại Lae lúc 09 giờ 22 phút. Các phi đội máy bay phóng ngư lôi và máy bay ném bom (VT-2 và VB-2) tấn công các tàu bè tại Salamaua vào lúc 09 giờ 38 phút. Các máy bay tiêm kích của nó (VF-2) chia làm hai tốp tấn công bốn máy bay: một nhóm bắn phá Lae còn nhóm kia nhắm vào Salamaua. Những chiếc máy bay của Yorktown tiếp nối theo sau những chiếc thuộc "Lady Lex" (tên lóng của Lexington). Các phi đội VB-5 và VT-5 tấn công các tàu Nhật trong khu vực Salamaua vào lúc 09 giờ 50 phút, trong khi phi đội VS-5 nhắm vào các lực lượng phối thuộc thả neo gần bờ ở Lae. Những chiếc máy bay tiêm kích của phi đội VF-42 bay tuần tra chiến đấu trên không bên trên Salamaua cho đến khi họ xác định không có lực lượng đối đầu trên không, rồi bắn phá các mục tiêu trên mặt đất và các thuyền nhỏ trong cảng.Sau khi thực hiện các nhiệm vụ, các máy bay Mỹ quay trở lại tàu sân bay, và 103 máy bay trong tổng số 104 chiếc được tung ra đã quay về an toàn vào trưa hôm đó. Một chiếc SBD-2 bị bắn rơi bởi hỏa lực pháo phòng không Nhật Bản. Cuộc không kích vào Salamaua và Lae là cuộc tấn công đầu tiên của nhiều phi công trên cả hai chiếc tàu sân bay; và trong khi kết quả về độ chính xác của những trái ngư lôi và bom còn thấp so với mức đạt được trong các hoạt động sau này, chiến dịch này cung cấp cho các phi công các kinh nghiệm vô giá, cho phép họ hoạt động rất tốt trong các trận biển Coral và Midway sau này.Lực lượng Đặc Nhiệm TF 11 rút lui với vận tốc 20 knot (23 mph, 37km/h) hướng về phía Đông Nam cho đến khi trời tối, khi các chiếc tàu chuyển hướng sang phía Đông với vận tốc 15 knot (17 mph, 28 km/h) và gặp gỡ Đội Đặc nhiệm TG 11.7, bốn tàu tuần dương hạng nặng và bốn tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Australia John Crace, nhằm hộ tống các tàu sân bay trên đường đến New Guinea.Yorktown tiếp tục tuần tra trên khu vực biển Coral, ở ngoài khơi cho đến tận tháng 4, bên ngoài tầm của những chiếc máy bay Nhật đặt căn cứ trên đất liền và sẵn sàng thực hiện các hoạt động tấn công mỗi khi có cơ hội. Sau trận không kích Lae-Salamaua, tình hình tại khu vực Nam Thái Bình Dương xem ra tạm thời ổn định, và Yorktown cùng những tàu phối thuộc của Lực lượng Đặc Nhiệm TF 17 quay về cảng Tongatapu trong quần đảo Tonga vốn còn đang xây dựng để thực hiện các bảo trì cần thiết, vì nó đã ở ngoài khơi liên tục sau khi rời khỏi Trân Châu Cảng vào ngày 14 tháng 2.Tuy nhiên, đối phương không lâu sau lại bắt đầu hành động. Theo Đô đốc Nimitz, dường như đã có "những dấu hiệu rõ ràng cho thấy quân Nhật dự định tấn công bằng đường biển vào cảng Moresby trong tuần lễ thứ nhất của tháng 5". Do vậy Yorktown được lệnh rời khỏi Tongatapu vào ngày 27 tháng 4 năm 1942, một lần nữa hướng về biển Coral. Lực lượng Đặc nhiệm TF 11, giờ đây dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Aubrey W. Fitch, người thay thế Brown trên chiếc Lexington, rời Trân Châu Cảng để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 17 của Đô đốc Fletcher và tiến đến gần vị trí của nhóm Yorktown, phía Tây Nam quần đảo New Hebrides vào ngày 1 tháng 5.

Trận chiến biển Coral

Lúc 15 giờ 17 phút ngày hôm sau, hai chiếc Dauntless thuộc phi đội VS-5 nhìn thấy một tàu ngầm Nhật chạy trên mặt nước. Ba chiếc Devastator cất cánh từ Yorktown nhanh chóng bay đến nơi và thực hiện cuộc tấn công nhưng chỉ đuổi được chiếc tàu ngậm lặn sâu xuống.Sáng ngày 3 tháng 5, các lực lượng đặc nhiệm TF 11 và TF 17 ở cách nhau 160 km (100 dặm) thực hiện việc tiếp nhiên liệu. Lúc nữa đêm, Đô đốc Fletcher nhận được tin từ các máy bay đặt căn cứ tại Australia rằng các tàu vận tải Nhật đã đổ quân và thiết bị lên Tulagi thuộc quần đảo Solomon. Đến nơi không lâu sau khi người Australia rút lui khỏi nơi này, quân Nhật khởi sự xây dựng một căn cứ thủy phi cơ để hỗ trợ các đòn tấn công về phía Nam.Yorktown tiến lên phía Bắc với vận tốc 27 knot (31 mph, 50 km/h). Vào lúc bình minh ngày 4 tháng 5, nó đến tầm tấn công các căn cứ đầu cầu của Nhật vừa mới được xây dựng và tung ra đợt không kích đầu tiên vào lúc 07 giờ 01 phút, gồm 18 chiếc F4F-3 thuộc Phi đội VF-42, 12 chiếc TBD thuộc VT-5 và 28 chiếc SBD của VS và BY-5. Lực lượng không quân của chiếc Yorktown đã thực hiện ba cuộc tấn công liên tiếp lên các tàu bè đối phương và các cơ sở trên bờ tại Tulagi và Gavutu trên bờ biển phía Nam của đảo Florida trong quân đảo Solomons. Với 22 quả ngư lôi và 76 quả bom 454 kg (1.000 lb) trong ba đợt tấn công, các máy bay của Yorktown đã đánh chìm tàu khu trục Nhật Kikuzuki, ba tàu quét mìn và bốn xà lan. Thêm vào đó, Liên đội 5 còn bắn rơi năm thủy phi cơ đối phương, với thiệt hại là hai chiếc F4F (các phi công được cứu thoát) và một chiếc TBD(đội bay bị tổn thất).Cùng ngày hôm đó, Lực lượng Đặc nhiệm TF 44, một nhóm tàu tuần dương và tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Anh Crace, gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF11 của chiếc Lexington, hoàn tất việc sáp nhập một lực lượng Đồng Minh hỗn hợp trước Trận chiến biển Coral quyết định.Ở một nơi nào đó về phía Bắc, mười một tàu vận tải đổ bộ được hộ tống bởi các tàu khu trục và được yểm trở bởi chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Shōhō, bốn tàu tuần dương hạng nặng và một tàu khu trục, đang hướng tới cảng Moresby. Thêm vào đó, một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản khác - xây dựng chung quanh hai cựu binh của trận Trân Châu Cảng là các tàu sân bay Shōkaku và Zuikaku, và được hộ tống bởi hai tàu tuần dương hạng nặng và sáu tàu khu trục cung cấp sự hỗ trợ từ trên không.Sáng ngày 6 tháng 5, Đô đốc Fletcher tập hợp mọi lực lượng Đồng Minh dưới quyền chỉ huy chiến thuật của ông thành Lực lượng Đặc nhiệm TF 17. Sáng sớm ngày 7, ông tách Đô đốc Crace cùng các tàu tuần dương và tàu khu trục dưới quyền hướng đến quần đảo Louisiade để đánh chặn mọi lực lượng đối phương dự định hướng đến cảng Moresby.Trong khi Fletcher di chuyển lực lượng của ông với hai tàu sân bay lên phía Bắc và tung lực lượng tìm kiếm đối phương, các máy bay trinh sát Nhật đã phát hiện chiếc tàu chở dầu Neosho và chiếc tàu khu trục theo hộ tống Sims, và nhận nhầm chiếc đầu là một tàu sân bay. Hai đợt máy bay Nhật, trước tiên là những chiếc máy bay ném bom bay cao rồi đến các máy bay ném bom bổ nhào, đã tấn công hai chiếc tàu này. Chiếc Sims, do hệ thống pháo phòng không bị hỏng, bị đánh trúng ba quả và chìm nhanh chóng với tổn thất nhân mạng nặng nề. Chiếc Neosho may mắn hơn, cho dù bị đánh trúng trực tiếp bảy quả cùng tám quả gần trúng đích, vẫn còn nổi được đến tận ngày 11, khi những người còn sống sót được tàu khu trục Henley cứu thoát và xác tàu được chiếc tàu khu trục cho đánh chìm.Neosho và Sims đã thực hiện một nghĩa vụ đáng giá là thu hút các máy bay có thể đã đánh trúng các tàu sân bay của Fletcher. Trong khi đó, máy bay của Yorktown và Lexington đã tìm thấy Shōhō và đánh chìm nó. Một phi công của Lexington đã báo cáo chiến thắng này bằng một thông điệp radio nổi tiếng "Xóa sổ một tàu sân bay" (Scratch one flattop).Chiều hôm đó, Shōkaku và Zuikaku, vốn chưa được lực lượng của Đô đốc Fletcher tìm thấy, đã tung ra 27 chiếc máy bay ném bom và máy bay phóng ngư lôi để tìm kiếm các tàu Mỹ. Những chuyến bay này tỏ ra êm ả cho đến khi chúng chạm trán cùng các máy bay tiêm kích của Yorktown và Lexington, và bị bắn rơi chín chiếc trong cuộc không chiến diễn ra sau đó.Lúc trời chập tối, ba chiếc máy bay Nhật nhận nhầm chiếc Yorktown là tàu sân bay của mình và dự định hạ cánh. Các khẩu súng trên tàu đã đuổi chúng đi; và các máy bay đối phương đã bay lướt qua mũi chiếc Yorktown trước khi chuyển hướng mất dạng. Hai mươi phút sau, khi có thêm ba máy bay đối phương lại tìm cách hạ cánh trên chiếc Yorktown, các xạ thủ súng lần này đã bắn trúng một trong ba chiếc.Tuy nhiên, trận chiến còn lâu mới kết thúc. Sáng hôm sau 8 tháng 5, một máy bay trinh sát của chiếc Lexington tìm thấy lực lượng tàu sân bay tấn công của đô đốc Takagi bao gồm chiếc Zuikaku và chiếc Shōkaku. Máy bay của Yorktown ném trúng hai quả bom trên chiếc Shōkaku, làm hỏng sàn đáp khiến nó không thể phóng hay thu hồi máy bay; thêm vào đó, các quả bom đã gây ra các vụ nổ các thùng chứa xăng và phá hủy một xưởng sửa chữa động cơ. Những chiếc Dauntless của Lexington đánh trúng thêm một phát nữa. Các đòn tấn công của hai tàu sân bay Mỹ đã khiến 108 thủy thủ Nhật thiệt mạng và làm bịthương 40 người khác.Trong khi các máy bay Mỹ đang bậm bịu với các tàu sân bay Nhật, Yorktown và Lexington được báo động do một tin điện bắt được cho thấy vị trí của họ đã bị quân Nhật biết rõ, bắt đầu chuẩn bị để chống lại một cuộc tấn công trả đủa, vốn diễn ra không lâu sau lúc 11 giờ.Những chiếc máy bay Wildcat Mỹ tuần tra chiến đấu trên không đã bắn rơi 17 máy bay, nhưng một số đã tìm cách vượt qua được hàng phòng thủ. Những chiếc "Kate" phóng ra những quả ngư lôi cả hai bên sườn chiếc Lexington, trong đó hai quả đã đánh trúng mạn trái của "Lady Lex"; những chiếc máy bay ném bom bổ nhào "Val" bồi thêm những hư hỏng với ba quả bom ném trúng đích. Lexington bắt đầu bị nghiêng với ba ngăn hầm máy bị ngập một phần, nhiều đám cháy phát sinh ở các sàn bên dưới và các thang nâng máy bay không hoạt động.Trong lúc đó Yorktown cũng gặp phải những vấn đề của chính nó. Thuyền trưởng Elliott đã điều khiển cơ động chiếc tàu sân bay lẫn tránh được tám ngư lôi. Bị tấn công sau đó bởi những chiếc "Vals", chiếc tàu đã tìm cách né tránh được tất cả ngoại trừ một quả bom. Quả bom duy nhất này lại xuyên thủng sàn đáp và phát nổ ở các sàn bên dưới, làm thiệt mạng hay bị thương nặng 66 người.Các đội cứu hộ trên chiếc Lexington đã kiểm soát được các đám cháy, và chiếc tàu có thể tiếp tục các hoạt động không lực cho dù bị hư hại. Bản thân trận chiến trên không kết thúc vào giữa trưa ngày 5; trong vòng một giờ, chiếc tàu sân bay đã lấy lại được thăng bằng, cho dù hơi bị thấp về phía mũi. Tuy nhiên, một vụ nổ gây ra do hơi xăng đã làm phát sinh thêm một đám cháy và phá hỏng mọi thứ bên trong tàu. Lexington bị bỏ lại lúc 17 giờ 07 phút, và sau đó bị đánh chìm bởi chiếc tàu khu trục Phelps.Quân Nhật đã giành được một thắng lợi về phương diện chiến thuật, gây ra những thiệt hại tương đối lớn cho lực lượng Đồng Minh, nhưng với việc chặn đứng được đà xâm chiếm của quân Nhật ở khu vực Nam và Tây Nam Thái Bình Dương, phe Đồng Minh đã có được một chiến thắng về mặt chiến lược. Yorktown phải gánh chịu những hư hỏng đáng kể khiến các chuyên gia ước tính rằng phải mất ít nhất là ba tháng trong ụ tàu để có thể đưa nó trở lại tình trạng hoàn toàn sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên, không có đủ thời gian để sửa chữa nó, bởi vì theo tin tức tình báo Đồng Minh - chủ yếu là đơn vị giải mã tại Trân Châu Cảng - đã thu thập đủ thông tin từ các bức điện giải mã được của Hải quân Nhật để dự đoán rằng Nhật đang tích cực chuẩn bị cho một chiến dịch quan trọng nhắm vào đỉnh cực Tây Bắc của chuỗi quần đảo Hawaii - hai hòn đảo nhỏ trong một vũng biển san hô được biết đến dưới tên gọi là Midway.

Trận Midway

Với các thông tin tình báo có được, Đô đốc Nimitz bắt đầu vạch kế hoạch phòng thủ Midway một cách có hệ thống, tăng cường mọi lực lượng có thể có được bao gồm nhân lực, máy bay và pháo đến Midway. Thêm vào đó, ông cũng tập trung lực lượng hải quân dưới quyền để đối đầu cùng đối phương trên biển. Trong sự chuẩn bị đó, ông triệu hồi Lực lượng Đặc nhiệm TF 16 bao gồm Enterprise và Hornet (CV-8) quay về Trân Châu Cảng để được bổ sung tiếp liệu gấp.Yorktown cũng nhận được lệnh quay về Hawaii; và nó về đến Trân Châu Cảng ngày 27 tháng 5. Thực hiện một công việc gần như là kỳ diệu, công nhân của xưởng tàu đã làm việc suốt ngày đêm để thực hiện các sửa chữa đủ cho phép chiếc tàu có thể tiếp tục ra khơi. Lực lượng không quân của nó, đa số là có kinh nghiệm nhưng đã bị kiệt sức, được bổ sung bằng máy bay và phi công của chiếc Saratoga (CV-3) lúc đó còn đang hướng về vùng biển Hawaii sau khi được hiện đại hóa ở vùng bờ Tây. Sẵn sàng để tham chiến, chiếc Yorktown khởi hành như là hạt nhân của Lực lượng đặc nhiệm TF 17 vào ngày 30 tháng 5.Về phía Đông Bắc Midway, Yorktown, treo cờ hiệu của Chuẩn Đô đốc Fletcher, gặp gỡ Lực lượng đặc nhiệm TF 16 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Raymond A. Spruance và duy trì một khoảng cách 16 km (10 dặm) về phía Bắc. Các chuyến bay tuần tra xuất phát từ cả Midway lẫn các tàu sân bay được thực hiện đều đặn trong những ngày đầu tháng 6. Sáng sớm ngày 4 tháng 6 khi hừng đông vừa ló dạng, Yorktown tung ra một nhóm mười chiếc Dauntless thuộc phi đội VB-5 tìm kiếm trong một vùng bán kính 160 km (100 dặm) về phía Bắc nhưng không tìm thấy được gì.Trong khi đó, những chiếc PBY cất cánh từ Midway đã nhìn thấy lực lượng Nhật Bản đang tiến đến gần và chuyển tiếp lệnh báo động đến các lực lượng Hoa Kỳ đang phòng thủ hòn đảo san hô chiến lược. Đô đốc Fletcher, người nắm quyền chỉ huy chiến thuật, ra lệnh cho Lực lượng Đặc nhiệm TF 16 của Đô đốc Spruance truy tìm lực lượng tàu sân bay đối phương và tấn công chúng ngay khi tìm thấy.Nhóm trinh sát của chiếc Yorktown quay trở về vào lúc 8 giờ 30 phút, hạ cánh không lâu sau khi một nhóm sáu (CAP) vừa cất cánh. Khi chiếc Dauntless cuối cùng được thu hồi, sàn đáp được gấp rút tái bố trí để chuẩn bị tung ra nhóm tấn công: 17 chiếc Dauntless thuộc Phi đội VB-3; 12 chiếc Devastator thuộc Phi đội VT-3, và sáu chiếc Wildcat thuộc Phi đội VF-3. Trong khi đó, Enterprise và Hornet cũng tung ra các nhóm tấn công của họ.Những chiếc máy bay ném ngư lôi từ ba chiếc tàu sân bay Mỹ đã tìm thấy lực lượng tấn công Nhật Bản, nhưng chúng gặp phải tai họa. Trong số 41 máy bay thuộc các phi đội VT-8, VT-6, và VT-3, chỉ có sáu chiếc quay trở về Enterprise và Yorktown, trong khi không có chiếc nào quay trở về Hornet.Tuy nhiên, việc mất mát những chiếc máy bay ném ngư lôi cũng mang lại một kết quả. Những chiếc máy bay tiêm kích tuần tra trên không Nhật Bản đã rời bỏ vị trí bảo vệ các tàu sân bay trên tầm cao và tập trung vào những chiếc Devastator đang bay sát mặt biển. Bầu trời trên cao bị bỏ ngõ cho những chiếc Dauntless đến từ những chiếc Yorktown và Enterprise.Hầu như không bị ngăn trở, các máy bay ném bom bổ nhào của chiếc Yorktown nhắm vào Sōryū, đánh trúng ba phát chí mạng bằng bom 450 kg (1.000 lb), biến nó thành một địa ngục. [2] Trong lúc đó, máy bay của Enterprise đã đánh trúng Akagi và Kaga, biến chúng thành những xác tàu trong phút chốc. Bom ném ra từ những chiếc Dauntless trúng vào các tàu sân bay Nhật khi chúng đang trong quá trình tiếp nhiên liệu và tiếp bom đạn cho máy bay, và sự kết hợp của nổ bom và xăng là một thảm họa cho phía Nhật Bản.Ba tàu sân bay Nhật đã bị mất. Tuy vậy, chiếc thứ tư là Hiryū vẫn còn đang tự do. Tách biệt khỏi những chiếc tàu sân bay kia, nó tung ra một lực lượng tấn công bao gồm 18 chiếc "Vals" và nhanh chóng tìm thấy Yorktown.Ngay khi những kẻ tấn công được nhận diện trên màn hình radar của chiếc Yorktown vào khoảng 13 giờ 29 phút, nó ngưng việc tiếp nhiên liệu cho những chiếc máy bay tiêm kích tuần tra trên không trên sàn đáp và nhanh chóng chuẩn bị hành động. Những chiếc máy bay ném bom bổ nhào quay trở về được lệnh tránh xa tạo khoảng trống cho hỏa lực phòng không. Những chiếc Dauntless được lệnh bay trên tầm cao nhằm tạo ra một hàng rào tuần tra trên không. Một thùng xăng phụ trữ lượng 800 gallon cũng được đẩy bỏ qua đuôi tàu nhằm hạn chế nguy cơ cháy. Thủy thủ đoàn tháo rỗng các ống dẫn nhiên liệu, đóng chặt và cố định tất cả các ngăn.Tất cả những chiếc máy bay tiêm kích của Yorktown đều được tung ra để đánh chặn những chiếc máy bay Nhật Bản đang tiến đến gần, và đã chạm trán với nhau ở khoảng cách 24 đến 32 km (15 - 20 dặm). Những chiếc Wildcat đã tấn công một cách quyết liệt, phá vỡ một cuộc tấn công xem ra được tổ chức khá chặt chẻ với khoảng 18 chiếc máy bay ném bom bổ nhào "Val" và 18 chiếc máy bay tiêm kích "Zero". "Máy bay bay tán loạn ở khắp mọi hướng", thuyền trưởng Buckmaster sau này ghi lại "và nhiều chiếc bị bốc cháy". Người chỉ huy của tốp "Val", Trung úy Joichi Tomonaga, có thể đã bị bắn rơi bởi chỉ huy phi đội VF-3, Đại úy John S. Thach.[1].Cho dù đã có một hàng phòng thủ ngăn chặn mạnh mẽ và sự cơ động lẫn tránh, vẫn có ba chiếc "Val" ném bom trúng đích. Hai chiếc trong số đó bị bắn rơi không lâu sau khi cắt bom; còn chiếc thứ ba bị mất điều khiển ngay sau khi quả bom rời khỏi đế. Nó bay loạng choạng và đâm trúng ngay phía sau thang nâng số hai, nổ tung khi chạm tạo ra một lổ hổng khoảng ba mét vuông trên sàn đáp. Các mảnh bom nổ tung đã giết hại hai khẩu đội pháo 1,1 inch phía sau đảo cấu trúc thượng tầng và trên sàn đáp bên dưới. Các mảnh bom xuyên thủng sàn đáp trúng phải ba chiếc máy bay đang đậu trong sàn chứa, gây ra các đám cháy. Một trong những chiếc máy bay này, một chiếc Dauntless, đã nạp đầy xăng và mang một quả bom 450 kg (1.000 lb). Các phản ứng tức thời của Trung úy A. C. Emerson, sĩ quan chỉ huy sàn chứa, đã ngăn chặn được một đám cháy nghiêm trọng có thể xảy ra bằng cách kích hoạt hệ thống vòi phun chữa cháy và nhanh chóng dập tắt đám cháy.Quả bom thứ hai ném trúng chiếc tàu từ mạn trái, xuyên thủng sàn đáp, và nổ tung ở phần bên dưới các ống khói. Nó phá vỡ ống lấy hơi của ba nồi hơi, làm ngưng hoạt động hai nồi hơi, và làm dập lửa năm nồi hơi. Khói và hơi gas bắt đầu tràn ngập các lò đốt của sáu nồi hơi. Tuy nhiên, thủy thủ đoàn của nồi hơi số một vẫn tiếp tục ở lại vị trí của họ bất chấp sự nguy hiểm và sự khó chịu để tiếp tục đốt lò, giữ cho có đủ áp lực hơi nước để vận hành hệ thống hơi nước phụ trợ.Quả bom thứ ba ném trúng chiếc tàu từ mạn phải, xuyên thủng cạnh của thang nâng thứ nhất và nổ tung ở hầm thứ tư, gây ra một đám cháy dai dẳng trong hầm chứa ngay sát cạnh kho chứa xăng và đạn phía trước. Hành động cảnh giác trước đây tháo rỗng hệ thống xăng bằng khí carbonic không nghi ngờ gì đã giúp cho xăng không bị bắt cháy.Trong khi con tàu đang phục hồi các hư hỏng gây ra bởi đợt tấn công của máy bay ném bom bổ nhào, vận tốc của nó giảm còn sáu knot; và đến 14 giờ 40 phút, khoảng 20 phút sau khi quả bom ném trúng làm tắt hầu hết các nồi hơi, Yorktown đứng chết một chỗ trên mặt nước.Khoảng 15 giờ 40 phút, Yorktown chuẩn bị để tiếp tục di chuyển; và đến 15 giờ 50 phút, phòng máy báo cáo rằng họ sẵn sàng để có thể đạt được tốc độ 36 km/h (20 knot) hoặc nhanh hơn. Chiếc tàu chưa hẵn đã bị loại khỏi vòng chiến.Đồng thời lúc đó, việc chữa cháy đã có hiệu quả đủ đảm bảo cho việc tiếp nhiên liệu trở nên an toàn, Yorktown bắt đầu tiếp nhiên liệu cho những chiếc máy bay tiêm kích đang trên sàn đáp; thì màn hình radar của con tàu lại bắt được tín hiệu của một tốp máy bay đang tiến đến gần ở khoảng cách 53 km (33 dặm). Trong khi con tàu lại chuẩn bị chiến đấu, tháo rỗng các hệ thống xăng và ngừng việc tiếp nhiên liệu cho những chiếc máy bay trên sàn đáp, nó phóng đi bốn trong số sáu chiếc máy bay tiêm kích tuần tra trên không (CAP) để đánh chặn các kẻ tấn công. Trong số mười chiếc máy bay tiêm kích trên tàu, tám chiếc chỉ có được khoảng 23 gallon nhiên liệu trong thùng chứa. Chúng được tung ra trong khi cặp máy bay tiêm kích CAP còn lại hướng ra đánh chặn những chiếc máy bay NhậtLúc 16 giờ, Yorktown di chuyển với tốc độ 36 km/h (20 knot), trong lúc những chiếc máy bay tiêm kích được tung ra để đánh chặn đã bắt đầu tiếp xúc với đối phương. Yorktown nhận được báo cáo những kẻ tấn công lần này là những chiếc máy bay ném ngư lôi "Kate". Những chiếc Wildcat đã bắn hạ được ít nhất ba chiếc, nhưng số còn lại tiếp tục tiến đến gần trong khi con tàu sân bay và các tàu hộ tống dựng lên một màn hỏa lực phòng không dày đặc.Yorktown cơ động để lẫn tránh, né được ít nhất hai quả ngư lôi cho đến khi hai quả khác đâm trúng mạn trái tàu cách nhau ít phút, quả đầu tiên vào lúc 16 giờ 20. Chiếc tàu sân bay giờ đây bị tổn thương chí mạng; nó bị mất điện và đứng chết trên biển, bánh lái bị kẹt và nghiêng dần sang mạn trái.Khi độ nghiêng tăng dần, Trung tá C. E. Aldrich, sĩ quan kiểm soát hư hỏng, báo cáo từ trạm trung tâm rằng, vì không có điện, không thể thực hiện việc kiểm soát nước ngập. Sĩ quan phòng máy, Thiếu tá J. F. Delaney, sau đó báo cáo rằng lửa đã được dập, nhưng mọi nguồn điện đều mất và không thể khắc phục độ nghiêng. Buckmaster đã ra lệnh cho Aldrich, Delaney, và người của họ đóng chặt các khoang, tập trung lên boong tàu và mặc áo phao.Trong khi đó, con tàu tiếp tục nghiêng. Khi nó đạt đến 26o, Buckmaster và Aldrich nhất trí rằng khả năng lật úp có thể sắp xảy ra. "Để có thể cứu được thủy thủ đoàn càng nhiều càng tốt", thuyền trưởng sau đó đã viết lại, ông "đã ra lệnh bỏ tàu".Trong vòng vài phút tiếp theo sau, thủy thủ đoàn đã hạ những người bị thương xuống các bè cứu sinh rồi hướng về các tàu tuần dương và tàu khu trục chung quanh để được vớt lên, rời bỏ con tàu một cách trật tự. Sau khi cho di tản tất cả những người bị thương, Trung tá I. D. Wiltsie, sĩ quan cao cấp, rời tàu bằng một sợi dây bên mạn phải. Trong khi đó, Buckmaster rảo quanh con tàu một lần cuối xem có còn ai. Sau khi thấy không còn ai sống sót ở lại, ông hạ xuống biển qua một sợi dây ở phía đuôi tàu, lúc này nước đã mấp mé cửa sàn chứa máy bay bên mạn trái.Sau khi được chiếc tàu khu trục Hammann vớt lên, Buckmaster chuyển sang chiếc tàu tuần dương Astoria và báo cáo với Chuẩn Đô đốc Fletcher, vốn đã chuyển cờ hiệu của mình sang chiếc tàu tuần dương hạng nặng ngay sau đợt tấn công thứ nhất của các máy bay ném bom bổ nhào. Hai ông đồng ý thành lập một đội cứu hộ để tìm cách giải cứu con tàu, vì nó vẫn ngoan cường tiếp tục nổi cho dù bị nghiêng nặng và nguy cơ lật úp vẫn tồn tại.Trong khi các nỗ lực nhằm giải cứu Yorktown được tiến hành từng bước, máy bay của nó vẫn tiếp tục hoạt động, hợp cùng những máy bay của tàu sân bay Enterprise tấncông chiếc tàu sân bay cuối cùng của Nhật, chiếc Hiryū, vào cuối buổi chiều hôm đó. Bị đánh trúng bốn phát trực tiếp, con tàu sân bay Nhật đã trở nên vô vọng. Nó bị thủy thủ đoàn bỏ rơi và trôi đi không kiểm soát được.Yorktown, như sau này cho thấy, tiếp tục nổi suốt đêm. Hai thủy thủ vẫn còn sống sót ở lại trên tàu; một người đã cố gắng lôi kéo sự chú ý bằng cách bắn súng máy, và đã được chiếc tàu khu trục duy nhất ở gần đó Hughes nghe thấy. Chiếc tàu hộ tống đã vớt được họ, nhưng một trong hai người sau đó đã chết.Trong khi đó, Buckmaster đã chọn 29 sĩ quan và 141 thủy thủ quay trở lại con tàu trong một cố gắng cứu lấy nó. Năm chiếc tàu khu trục tạo thành một màn chắn tàu ngầm trong khi toán cứu hộ leo lên con tàu vẫn còn đang bị nghiêng, đám cháy trong kho chứa vẫn còn âm ỉ vào buổi sáng ngày 6 tháng 6. Chiếc Vireo, được trưng dụng từ Pearl and Hermes Reef, tiến đến gần vào lai kéo con tàu. Tuy vậy, công việc được tiến hành khá chậm chạp.Nhóm sửa chữa chiếc Yorktown lên tàu với một kế hoạch được sắp đặt cẩn thận trước tiến hành bởi người của các bộ phận - kiểm soát hư hỏng, kỹ thuật súng ống, hoa tiêu, liên lạc, tiếp liệu và y tế. Để giúp đỡ tiến hành công việc, Trung tá Arnold E. True đã đưa chiếc tàu khu trục Hammann của ông chạy cặp bên mạn phải về phía sau, cung ứng bơm và năng lượng điện.Đến giữa buổi chiều, xem ra canh bạc giải cứu con tàu đã có phần thắng. Công việc làm giảm bớt trọng lượng phần trên con tàu được tiến hành khả quan, một khẩu pháo 127 mm (5 inch) đã được thả xuống biển qua mạn tàu trong khi một khẩu thứ hai đang được tháo dỡ; máy bay được đẩy qua mạn tàu, các bơm nước hoạt động nhờ nguồn điện cung cấp bởi chiếc Hammann đã bơm ra được rất nhiều nước khỏi các khoang máy. Các nỗ lực của đội cứu hộ đã làm giảm bớt độ nghiêng của con tàu được khoảng hai độ.Hoàn toàn không bị Yorktown và sáu chiếc tàu khu trục gần đó nhận biết, tàu ngầm Nhật Bản I-168 tiến đến một vị trí khai hỏa thuận lợi. Một điều đáng lưu ý là không có tàu khu trục nào nhìn thấy chiếc tàu ngầm đang đến gần, nhưng điều này có lẽ hiểu được do mặt nước biển chung quanh đầy dẫy mảnh vỡ và xác máy bay. Đến 15 giờ 36 phút, một trinh sát viên phát hiện được một loạt bốn quả ngư lôi đang hướng đến con tàu từ mạn phải.Hammann tiến ra phía giữa, một khẩu đội súng máy 20 mm lập tức khai hỏa để tìm cách bắn nổ quả ngư lôi trên mặt nước. Một quả ngư lôi đánh trúng chiếc Hammann - chân vịt của nó đánh nước tung tóe dưới đuôi khi nó cố gắng né tránh. Chiếc tàu khu trục bị gẩy làm đôi và nhanh chóng chìm xuống nước.Hai quả ngư lôi đánh trúng chiếc Yorktown ngay bên dưới chổ uốn của đáy tàu phía sau đảo cấu trúc thượng tầng. Quả ngư lôi thứ tư trượt qua ngay phía sau đuôi tàu.Khoảng một phút sau khi chiếc Hammann bị chìm, một vụ nổ dữ dội xảy ra từ dưới nước, có thể là do những quả mìn sâu của con tàu khu trục bị rơi ra. Vụ nổ giết hại nhiều thành viên thủy thủ đoàn của chiếc Hammann và một số từ trên chiếc Yorktown bị ném xuống nước. Sự chấn động tiếp tục gây hao mòn cho thân chiếc tàu sân bay vốn đã bị hư hỏng, gây ra nhiều cú chấn động dữ dội làm rơi máy phát điện phụ trợ của chiếc Yorktown, nhiều vật dụng treo trên sàn chứa máy bay phía trên bị rơi xuống tầng hầm bên dưới, nhánh bên phải của cột buồm bị cắt đứt, và ném tung thủy thủ đoàn ra nhiều hướng khác nhau, gây nhiều trường hợp gảy xương và nhiều vết thương nhỏ.Các tàu khu trục ngay lập tức truy lùng tàu ngầm đối phương (vốn đã chạy thoát) và tiến hành cứu vớt thủy thủ đoàn của chiếc Hammann và Yorktown. Thuyền trưởng Buckmaster quyết định cho ngưng lại mọi hoạt động cứu hộ cho đến ngày hôm sau.Vireo cắt dây kéo và quay trở lại chiếc Yorktown để vớt những người sống sót, cứu chữa những người bị thương. Con tàu nhỏ bé chịu đ̣ựng một tải trọng quá sức của nó nhưng vẫn kiên cường ở bên cạnh con tàu sân bay để thực hiện nghĩa vụ cứu hộ của nó. Sau đó, trên con tàu kéo, Buckmaster tiến hành mai táng trên biển cho hai sĩ quan và một thủy thủ của chiếc Hammann.Nỗ lực thứ hai nhằm cứu con tàu không bao giờ thực hiện được. Suốt đêm 6 và rạng ngày 7 tháng 6, Yorktown vẫn còn ngoan cường nổi trên mặt nước. Tuy nhiên đến 05 giờ 30 phút ngày 7 tháng 6, người trên các con tàu lân cận thấy độ nghiêng của con tàu nhanh chóng gia tăng. Đến 07 giờ 01 phút, con tàu lật sang mạn trái và chìm ở độ sâu 5.500 m.

Phần thưởng - Tái phát hiện

Chiếc Yorktown (CV-5) đã nhận được ba ngôi sao chiến đấu do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, hai trong số đó là do phần tham gia đáng kể của nó trong việc ngăn chặn sự bành trướng của lực lượng Nhật Bản và làm đảo chiều diễn biến chiến tranh trong trận chiến biển Coral và tại Midway.

Vào ngày 19 tháng 5 năm 1998, xác tàu đắm của chiếc Yorktown được tìm thấy và được chụp ảnh bởi nhà đại dương học nổi tiếng là Tiến sĩ Robert D. Ballard, người cũng đã tìm ra xác tàu đắm của chiếc RMS Titanic. Điều ngạc nhiên là xác tàu chìm sâu 4,8 km (3 dặm) bên dưới mặt nước lại gần như nguyên vẹn sau khi đã ở lại dưới đáy biển từ năm 1942; hầu hết nước sơn và các trang bị vẫn còn nhìn thấy được.[

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro