Ham doi thiet giap ham Hoa Ky trong WW2 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tên lóng: "Lucky A"

Đặt hàng: 1 tháng 4 năm 1939

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm South Dakota (1939)

Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Norfolk

Đặt lườn: 1 tháng 2 năm 1940

Hạ thủy: 16 tháng 2 năm 1942

Đỡ đầu: Henrietta McCormick Hill

Hoạt động: 16 tháng 8 năm 1942

Ngừng hoạt động: 9 tháng 1 năm 1947

Xóa đăng bạ: 1 tháng 6 năm 1962

Tình trạng: Tàu bảo tàng tại Mobile, Alabama, từ ngày 11 tháng 6 năm 1964

Tặng thưởng: 9 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 35.000 tấn (tiêu chuẩn)

Chiều dài: 207,3 m (680 ft)

Mạn thuyền: 33 m (108 ft 2 in)

Tầm nước: 11 m (36 ft 2 in)

Lực đẩy: turbine hơi nước đốt dầu

4 × trục

Tốc độ: 51 km/h (27,5 knot)

Tầm xa: 27.800 km ở tốc độ 28 km/h

(15.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 1.793

Vũ khí: 9 × pháo 406 mm (16 inch)/45 cal

20 × pháo 127 mm (5 inch)/38 cal

24 × pháo Bofors 40 mm

22 × pháo Oerlikon 20 mm

Cảm biến: Radar

Vỏ giáp:

Máy bay: 2 × OS2U Kingfisher

USS Alabama (BB-60) là một thiết giáp hạm thuộc lớp South Dakota của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc tàu chiến thứ sáu của hải quân Mỹ mang cái tên này, nhưng chỉ là chiếc thứ ba được đưa ra hoạt động. Alabama được đưa vào hoạt động năm 1942 và phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại các mặt trận Tây Âu và Thái Bình Dương. Nó được cho ngưng hoạt động vào năm 1947 để đưa về lực lượng dự bị. Nó được cho nghỉ hưu vào năm 1962, và đến năm 1964, Alabama được đưa về vịnh Mobile và bắt đầu hoạt động như một tàu bảo tàng một năm sau đó. Con tàu được công nhận là Địa điểm lịch sử quốc gia vào năm 1986.

Thiết kế và chế tạo

Alabama được đặt lườn vào ngày 1 tháng 2 năm 1940 tại xưởng hải quân Norfolk, được hạ thủy vào ngày 16 tháng 2 năm 1942, được đỡ đầu bởi Bà Henrietta McCormick Hill, phu nhân Thượng nghị sĩ tiểu bang Alabama J. Lister Hill. Buổi lễ hạ thủy được diễn ra dưới sự có mặt của Bộ trưởng Hải quân Frank Knox. Alabama được đưa vào hoạt động ngày 16 tháng 8 năm 1942 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân George B. Wilson.

Lịch sử hoạt động

Thế Chiến II

1943

Sau khi hoàn tất việc trang bị, Alabama thực hiện chuyến đi chạy thử máy tại vịnh Chesapeake vào ngày 11 tháng 11 năm 1942. Đầu năm 1943, chiếc thiết giáp hạm mới hướng lên phía Bắc để hoạt động huấn luyện tại khu vực ngoài khơi vịnh Casco, Maine. Nó quay về vịnh Chesapeake vào ngày 11 tháng 1 hoàn tất công việc thử máy và huấn luyện. Sau một thời gian tiếp liệu tại Norfolk, Alabama được phân về Đội Đặc nhiệm 22.2 và quay về vịnh Casco thực hiện các cuộc thực tập chiến thuật vào ngày 13 tháng 2 năm 1943.Với sự điều động một lực lượng lớn các tàu chiến chủ lực đến khu vực Địa Trung Hải nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên Sicily, Hải quân Hoàng gia Anh thiếu hụt các tàu chiến hạng nặng cần thiết để bảo vệ các con đường vận tải phía Bắc. Sự yêu cầu trợ giúp từ phía Anh đã đưa đến việc tạm thời điều động các thiết giáp hạm Alabama và South Dakota đến Hạm đội Nhà Anh Quốc.Ngày 2 tháng 4 năm 1943, Alabama, trong thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm 22, khởi hành đi quần đảo Orkney cùng với chiếc tàu chị em với nó cùng các tàu khu trục hộ tống. Đi ngang qua Little Placentia Sound và căn cứ hải quân Argentia, Newfoundland, chiếc thiết giáp hạm đi đến Scapa Flow ngày 19 tháng 5 và được bố trí hoạt động cùng Lực lượng Đặc nhiệm 61 và trở thành một đơn vị của Hạm đội Nhà Anh Quốc. Không lâu sau đó, nó bắt đầu một giai đoạn huấn luyện chiến thuật khẩn trương nhằm phối hợp hoạt động.Vào đầu tháng 6, Alabama và con tàu chị em của nó cùng với Hạm đội Nhà Anh Quốc đã hỗ trợ cho việc tăng cường lực lượng trú đóng trên đảo Spitsbergen, che chở sườn phía Bắc của con đường vận chuyển đến Nga, nhằm đưa các con tàu vượt qua Vòng Cực. Không lâu sau khi quay về Scapa Flow, con tàu đã được Đô đốc Harold R. Stark, Tư lệnh Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại Châu Âu, đến thị sát.Không lâu sau đó, vào tháng 7, Alabama tham gia chiến dịch Governor, một đòn nghi binh phân tán nhắm vào phía Nam Na Uy nhằm thu hút sự chú ý của quân Đức khỏi hướng hoạt động chủ yếu của Đồng Minh nhắm vào Sicily. Chiến dịch này còn nhằm mục đích nhữ chiếc thiết giáp hạm Đức Tirpitz ra khỏi căn cứ của nó, nhưng người Đức đã không đối đầu với thách thức này, và chiếc tàu chiến đối phương vẫn ở lại Na Uy.Alabama được tách khỏi Hạm đội Nhà Anh Quốc vào ngày 1 tháng 8 năm 1943, và hợp với chiếc South Dakota cùng các tàu khu trục hộ tống quay trở về Norfolk, và đến nơi ngày 9 tháng 8. Trong mười ngày tiếp theo sau, Alabama tiến hành đại tu và sửa chữa. Sau khi công việc này hoàn tất, chiếc thiết giáp hạm rời Norfolk ngày 20 tháng 8 tiến sang Thái Bình Dương. Nó đi qua kênh đào Panama năm ngày sau đó, và cuối cùng nó buông neo tại cảng Havannah ở Efate thuộc quần đảo New Hebride vào ngày 14 tháng 9.Sau một giai đoạn huấn luyện và tập trận cùng lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh kéo dài một tháng rưỡi, chiếc thiết giáp hạm di chuyển đến Fiji vào ngày 7 tháng 11. Alabama khởi hành vào ngày 11 tháng 11 để tham gia chiến dịch Galvanic, cuộc tấn công đổ bộ lên quần đảo Gilbert vẫn còn do quân Nhật chiếm đóng. Nó yểm trợ cho các tàu sân bay nhanh khi chúng tung ra các đợt tấn công xuống các đảo san hô Jaluit và Mille thuộc quần đảo Marshall để vô hiệu hóa các sân bay Nhật Bản tại đây. Alabama hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Tarawa vào ngày 20 tháng 11, rồi sau đó tham gia vào hoạt động bình ổn tình hình tại Betio và Makin. Trong đêm 26 tháng 11, hai lần Alabama đã nổ súng nhắm đẩy lui các máy bay đối phương đang tìm cách xâm nhập đội hình của nó.Vào ngày 8 tháng 12, Alabama cùng năm chiếc thiết giáp hạm nhanh khác thực hiện đợt nả pháo đầu tiên được thực hiện bởi loại tàu chiến này tại Thái Bình Dương. Các khẩu pháo hạng nặng của Alabama đã nả 535 quả đạn vào các vị trí kiên cố của đối phương trên đảo Nauru, một trung tâm sản xuất phosphate của Nhật bản, gây thiệt hại nặng nề cho các cơ sở trên bờ tại đây. Nó cũng đi kèm theo để hộ tống chiếc tàu khu trục Boyd, sau khi chiếc này trúng phải một quả đạn pháo phòng thủ duyên hải của quân Nhật tại Nauru, và chuyển lên tàu ba người bị thương để cứu chữa. Sau đó nó hộ tống các tàu sân bay Bunker Hill và Monterey quay trở về Efate, và đến nơi vào ngày 12 tháng 12.

1944

Alabama rời New Hebrides hướng về Trân Châu Cảng vào ngày 5 tháng 1 năm 1944, và đến nơi ngày 12 tháng 1, rồi vào ụ tàu tại xưởng hải quân Trân Châu Cảng. Trong giai đoạn ngắn bảo trì thường xuyên tại đây, nó cũng được thay thế chân vịt mạn trái phía ngoài; và sau khi hoàn tất Alabama lại lên đường quay trở lại hoạt động tại khu vực chiến sự Thái Bình Dương.Alabama đi đến Funafuti thuộc quần đảo Ellice vào ngày 21 tháng 1 năm 1944 và tái gia nhập hạm đội tại đây. Được phân về Đội Đặc nhiệm 58.2, vốn được hình thành chung quanh chiếc tàu sân bay Essex, Alabama rời quần đảo Ellice ngày 25 tháng 1 thực hiện chiến dịch Flintlock, cuộc tấn công đổ bộ lên quần đảo Marshall. Alabama, South Dakota và North Carolina đã tiến hành bắn ph́a Roi vào ngày 29 và Namur trong ngày 30 tháng 1; riêng Alabama đã bắn 330 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) và 1.562 quả 127 mm (5 inch) vào các mục tiêu của quân Nhật, phá hủy máy bay và các cơ sở sân bay, căn cứ, doanh trại và các khẩu đội pháo. Trong những ngày tiếp theo sau của chiến dịch, Alabama tuần tra khu vực phía Bắc đảo san hô Kwajalein. Vào ngày 12 tháng 2, Alabama khởi hành cùng đội đặc nhiệm của chiếc Bunker Hill để tung ra các đợt tấn công vào các căn cứ, máy bay và tàu bè Nhật Truk. Các cuộc không kích được thực hiện trong các ngày 16 và 17 tháng 2 đã gây thiệt hại nặng cho tàu bè đối phương đang tập trung tại căn cứ thuộc hòn đảo này.Rời Truk, Alabama lên đường hướng về phía quần đảo Mariana hỗ trợ các cuộc tấn công lên Tinian, Saipan và Guam. Trong đợt hoạt động này, trong khi đang chiến đấu đẩy lùi các đợt không kích của đối phương trong ngày 21 tháng 2, khẩu đội pháo 127 mm (5 inch) Số 9 đã vô tình bắn trúng khẩu đội Số 5, khiến năm người thiệt mạng và mười một người bị thương trong tai nạn này.Sau khi các cuộc tấn công kết thúc vào ngày 22 tháng 2, Alabama tiến hành cuộc càn quét truy tìm những tàu bè đối phương còn sót lại tại khu vực Tây Nam Saipan, rồi sau đó quay trở về Majuro vào ngày 26 tháng 2 năm 1944. Tại đây nó phục vụ tạm thời như là soái hạm của Phó Đô đốc Marc Mitscher, Tư lệnh Lực lượng đặc nhiệm 58, từ ngày 3 đến ngày 8 tháng 3.Nhiệm vụ tiếp theo của Alabama là hộ tống các tàu sân bay nhanh khi chúng tung ra các cuộc không kích vào các vị trí của quân Nhật trên các đảo Palau, Yap, Ulithi và Woleai thuộc quần đảo Caroline. Nó khởi hành từ Majuro vào ngày 22 tháng 3 cùng lực lượng đặc nhiệm 58 để hộ tống chiếc Yorktown. Trong đêm 29 tháng 3, có khoảng sáu máy bay đối phương tiến đến gần Đội đặc nhiệm 58.3, nơi Alabama hoạt động, và bốn chiếc đã tách ra để tấn công để tấn công các tàu chiến kề cận chiếc thiết giáp hạm. Tự thân Alabama đã bắn rơi một chiếc và giúp vào phá hủy một chiếc khác.Vào ngày 30 tháng 3, máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm 58 bắt đầu ném bom các sân bay, tàu bè, căn cứ và các cơ sở hậu cần hạm đội Nhật trên các đảo Palau, Yap, Ulithi và Woleai. Trong ngày đó, Alabama lại tung ra hỏa lực phòng không mỗi khi máy bay đối phương xuất hiện. Lúc 20 giờ 44 phút, một máy bay đơn độc lại xuất hiện bên trên Đội Đặc nhiệm 58.3, nhưng Alabama và các tàu chiếc khác đã đánh đuổi nó trước khi nó có thể gây ra thiệt hại gì.Chiếc thiết giáp hạm quay trở lại Majuro một thời gian ngắn trước khi lại khởi hành vào ngày 13 tháng 4 cùng Lực lượng Đặc nhiệm 58, lần này là để hộ tống chiếc tàu sân bay kỳ cựu Enterprise. Trong ba tuần lễ tiếp theo sau, Lực lượng Đặc nhiệm 58 tấn công các mục tiêu đối phương tại Hollandia (ngày nay là Jayapura), Wakde, Sawar và Sarmi dọc theo bờ biển New Guinea; hỗ trợ cho việc đổ bộ Lục quân lên Aitape, vịnh Tanahmerah và vịnh Humboldt Bay; và thực hiện các đợt không kích khác nhắm vào Truk.Như một phần của sự chuẩn bị cho cuộc tấn công lên quần đảo Mariana, Alabama cùng với năm thiết giáp hạm nhanh khác tiến hành bắn phá hòn đảo lớn Ponape thuộc quần đảo Caroline, nơi có sân bay và căn cứ hải quân lớn của quân Nhật. Như Thuyền trưởng của chiếc Alabama, Đại tá Hải quân Fred T. Kirtland ghi nhận, cuộc nã pháo kéo dài 70 phút được thực hiện "một cách nhàn nhã". Sau đó Alabama quay về Majuro vào ngày 4 tháng 5 năm 1944 để chuẩn bị cho cuộc tấn công lên quần đảo Marianas.Sau khi trải qua một tháng tái trang bị và thực tập, Alabama lại lên đường cùng Lực lượng Đặc nhiệm 58 tham gia Chiến dịch Forager. Vào ngày 12 tháng 6, chiếc thiết giáp hạm hộ tống các tàu sân bay tấn công Saipan. Ngày 13 tháng 6, nó trực tiếp bắn phá chuẩn bị xuống bờ biển phía Tây Saipan kéo dài sáu giờ nhằm phá hủy hệ thống phòng thủ tại đây đồng thời hỗ trợ cho các hoạt động quét mìn. Thủy phi cơ trinh sát của nó báo cáo về tác động hủy diệt nặng nề và đám cháy mà các loạt pháo hạng nặng của chiếc thiết giáp hạm đã gây ra cho thị trấn Garapan. Cho dù cuộc bắn pháo xem có vẽ ngoạn mục, kết quả cuối cùng lại được xem như là một thất bại do không được huấn luyện chuyên sâu đầy đủ và không có kinh nghiệm đòi hỏi để có thể thực hiện th̀anh công việc bắn pháo vào đất liền. Các cuộc tấn công này vẫn tiếp diễn khi lực lượng Mỹ đổ bộ lên Saipan vào ngày 15 tháng 6.Vào ngày 19 tháng 6, trong trận chiến biển Philippines, Alabama hoạt động cùng Đội Đặc nhiệm 58.7, và đã đưa ra lời cảnh báo sớm đầu tiên về cuộc không kích Nhật Bản đang tiến đến gần cho Lực lượng Đặc nhiệm 58 khi nó báo cáo đã phát hiện trên màn hình radar một lực lượng máy bay lớn ở khoảng cách 227 km (141 dặm) lúc 10 giờ 06 phút. Trả lời cho Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm 58, Phó Đô đốc Marc A. Mitscher, về yêu cầu thẩm tra lại báo cáo này, thiết giáp hạm Iowa đã xác nhận báo cáo của Alabama. Bắt đầu từ 10 giờ 46 phút và kéo dài đến năm giờ, máy bay Nhật Bản liên tục không kích nhắm vào lực lượng các tàu sân bay nhanh của Đô đốc Mitscher, với tổng cộng là bảy đợt. Ba đợt trong số đó nhắm vào Đội đặc nhiệm 58.7, và Alabama đã nổ súng trong hai đợt.Trong đợt tấn công đầu tiên, chỉ có hai máy bay Nhật xoay sở xâm nhập qua được đội hình phòng thủ để tấn công thiết giáp hạm South Dakota, nhưng chiếc tàu chiến lại trúng một quả bom làm thiệt mạng một sĩ quan và 20 thủy thủ cùng làm bị thương 23 người khác. Một đợt tấn công thứ hai tiếp nối một giờ sau đó, chủ yếu là các máy bay ném ngư lôi, nhưng hàng rào hỏa lực của Alabama đã đánh đuổi được hai máy bay đối phương tìm cách phóng ngư lôi tấn công vào South Dakota lúc đó đang bị hư hại. Việc tập trung căng thẳng vào những chiếc máy bay ném ngư lôi đang đến gần đã khiến cho một máy bay ném bom bổ nhào đối phương lẻn vào mà gần như không phát hiện, và nó đã xoay sở ném bom nhắm vào Alabama; tuy nhiên hai trái bom nhỏ chỉ suýt trúng đích và không gây thiệt hại nào.Kết quả cuối cùng của trận chiến mà phi công Mỹ thường ví von là "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại" đã gây thiệt hại nặng nề cho không lực của Hải quân Nhật; và Alabama cùng Iowa đã góp công vào chiến thắng này, khi được Tư lệnh Đội Đặc nhiệm 58.7, Phó Đô đốc Willis A. Lee, biểu dương trong mệnh lệnh lúc 12 giờ 47 phút. Lời cảnh báo sớm đưa ra bởi Alabama cho phép các tàu sân bay tung các các máy bay tiêm kích của chúng ra đánh chặn máy bay đối phương đang đến ở một điểm an toàn cách xa Lực lượng Đặc nhiệm 58 đáng kể. Alabama tiếp tục tuần tra tại khu vực chung quanh Marianas để bảo vệ cho lực lượng Mỹ đổ bộ lên Saipan, hộ tống các tàu sân bay khi chúng không kích tàu bè, máy bay và các cơ sở tại Guam, Tinian, Rota và Saipan. Sau đó nó rút lui về quần đảo Marshalls để bảo trì.Hoạt động như là soái hạm của Chuẩn Đô đốc E. W. Hanson, Tư lệnh Hải đội Thiết giáp hạm 9, Alabama rời Eniwetok ngày 14 tháng 7 trong thành phần đội đặc nhiệm được hình thành chung quanh chiếc tàu sân bay Bunker Hill. Nó hộ tống các tàu sân bay khi chúng tung các các đợt không kích chuẩn bị và trực tiếp hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên đảo Guam vào ngày 21 tháng 7. Nó quay về Eniwetok một thời gian ngắn vào ngày 11 tháng 8, rồi lại lên đường vào ngày 30 tháng 8 hộ tống cho tàu sân bay Essex thực hiện Chiến dịch Stalemate II nhằm chiếm đóng Palau, Ulithi và Yap. Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 9, lực lượng này tung các đợt không kích lên quần đảo Carolinas.Alabama rời Carolines hướng đến Philippines; hộ tống các tàu sân bay khi chúng không kích xuống các đảo Cebu, Leyte, Bohol và Negros từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 9; được tiếp nối bằng các đợt không kích xuống tàu bè và căn cứ trong khu vực vịnh Manila trong các ngày 21 và 22 tháng 9; và sau đó là vào khu vực Trung Philippines vào ngày 24 tháng 9. Nó rút lui về Saipan một thời gian ngắn vào ngày 28 tháng 9, rồi hướng đến Ulithi vào ngày 1 tháng 10. Ngày 6 tháng 10, Alabama lên đường cùng Lực lượng Đặc nhiệm 38 hỗ trợ cho chiến dịch giải phóng Philippines, một lần nữa trong thành phần của lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh. Chiếc thiết giáp hạm đảm trách vai trò bảo vệ các tàu sân bay khi chúng tung ra các đợt không kích vào các căn cứ Nhật Bản tại Okinawa, quần đảo Penghu và Đài Loan.Rời khỏi khu vực Đài Loan vào ngày 14 tháng 10 hướng đến Luzon, chiếc thiết giáp hạm sử dụng dàn pháo phòng không mạnh mẻ hộ tống các tàu sân bay khi máy bay đối phương tìm cách tấn công vào đội hình. Xạ thủ trên chiếc Alabama đã bắn rơi ba máy bay đối phương và làm hư hại một chiếc khác. Đến ngày 15 tháng 10, Alabama hỗ trợ các hoạt động đổ bộ lên đảo Leyte. Sau đó nó hộ tống các tàu sân bay khi chúng thực hiện không kích lên Cebu, Negros, Panay, phía Bắc Mindanao và Leyte trong ngày 21 tháng 10.Trong thành phần hộ tống cho chiếc tàu sân bay Enterprise, Alabama hỗ trợ các cuộc không kích xuống Lực lượng phía Nam Nhật Bản tại khu vự phụ cận eo biển Surigao, rồi sau đó di chuyển lên phía Bắc tấn công Lực lượng Trung tâm Nhật Bản mạnh mẻ đang hướng đến eo biển San Bernardino Strait. Sau khi nhận được thông báo về một lực lượng Nhật Bản thứ ba gồm các tàu sân bay xuất hiện, mà thực chất chỉ là con mồi để nhữ lực lượng Đồng Minh khỏi chiến trường chính, chiếc thiết giáp hạm đã hoạt động hộ tống cho lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh khi chúng hướng đến mũi Engaño truy kích các tàu sân bay Nhật. Ngày 24 tháng 10, trong khi lực lượng tàu sân bay và thiết giáp hạm Mỹ theo đuổi con mồi trong Trận chiến ngoài khơi mũi Engaño và đánh chìm được bốn tàu sân bay Nhật Bản, lực lượng trung tâm dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Takeo Kurita đã vượt qua eo biển San Bernardino, xuất hiện tại vùng biển ngoài khơi đảo Samar, nơi chúng tấn công một lực lượng các tàu sân bay hộ tống Mỹ chỉ được bảo vệ bởi một nhóm nhỏ các tàu khu trục và tàu khu trục hộ tống. Alabama buộc phải quay mũi hướng về Samar giúp đỡ lực lượng Mỹ bị áp đảo về số lượng. Tuy nhiên, hạm đội Nhật Bản đã rút lui qua khỏi eo biển San Bernardino trước khi nó quay về đến chiến trường. Sau đó, chiếc thiết giáp hạm hộ tống cho đội đặc nhiệm tàu sân bay Essex tấn công các lực lượng Nhật tại miền Trung Philippines trước khi rút lui về Ulithi vào ngày 30 tháng 10 năm 1944 để được tiếp liệu.Lại khởi hành vào ngày 3 tháng 11, Alabama bảo vệ các tàu sân bay nhanh khi chúng tung các cuộc tấn công vào các sân bay Nhật và các cơ sở trên đảo Luzon chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên đảo Mindoro. Nó trải qua vài tuần lễ sau đó tham gia các chiến dịch chống lại Visayas và Luzon trước khi rút lui về Ulithi vào ngày 24 tháng 11.Trong nữa đầu của tháng 12 năm 1944, Alabama tham gia nhiều cuộc tập trận và thực hiện các bảo trì cần thiết. Nó rời Ulithi ngày 10 tháng 12, đi đến vị trí xuất phát các cuộc không kích nhắm vào Luzon ngày 14 tháng 12, khi các tàu sân bay tung máy bay của chúng ra thực hiện các cuộc không kích chuẩn bị xuống các sân bay tại Luzon có thể đe dọa cuộc đổ bộ được dự định thực hiện tại Mindoro. Từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 12, ưu thế trên không bởi máy bay từ các tàu sân bay bên trên các sân bay trong khu vực Luzon đã ngăn trở mọi máy bay đối phương có thể cất cánh để thách thức các đoàn tàu vận tải Đồng Minh đang hướng đến Mindoro. Sau khi hoàn tất các nhiệm vụ, nó rời khu vực để được tiếp nhiên liệu vào ngày 17 tháng 12, nhưng khi nó đi đến điểm hẹn tiếp nhiên liệu thời tiết trở nên rất xấu. Lúc bình minh ngày 18 tháng 12, biển động mạnh và thời tiết rất xấu khiến cho việc tiếp nhiên liệu không thể thực hiện, vận tốc gió lên đến 93 km/h (50 knot) khiến các con tàu bị chao đảo mạnh. Alabama chịu đựng những cú chao nghiêng lên đến 30o, khiến cả hai chiếc thủy phi cơ OS2U Kingfisher bị hư hại đến mức hoàn toàn không sửa chữa được nữa, và bản thân chiếc thiết giáp hạm cũng bị hư hại nhẹ về cấu trúc thân tàu. Vào lúc cao điểm của trận bão, Alabama ghi nhận sức gió lên đến 154 km/h (83 knot). Ba tàu khu trục Hull, Monaghan và Spence bị mất trong trận bão này. Sang ngày 19 tháng 12, cơn bão đã qua đi và Alabama có thể quay về Ulithi vào ngày 24 tháng 12. Sau một chặng dừng ngắn tại đây, chiếc thiết giáp hạm tiếp tục hướng đến xưởng hải quân Puget Sound để được đại tu.

1945

Chiếc thiết giáp hạm vào ụ tàu ngày 18 tháng 1 năm 1945, và ở lại đây cho đến ngày 25 tháng 2. Công việc bảo trì tiếp tục cho đến ngày 17 tháng 3, khi Alabama lên đường chạy thử máy và huấn luyện ôn tập dọc theo bờ biển Nam California. Ngày 4 tháng 4, nó khởi hành đi Trân Châu Cảng, đến nơi vào ngày 10 tháng 4 và ở lại một tuần thực tập huấn luyện. Nó lại tiếp tục hành trình về phía Ulithi và thả neo tại đây vào ngày 28 tháng 4.Alabama rời Ulithi cùng Lực lượng Đặc nhiệm 58 vào ngày 9 tháng 5, hướng đến quần đảo Ryukyu để hỗ trợ cho lực lượng đã đổ bộ lên Okinawa vào ngày 1 tháng 4, và cũng để bảo vệ các tàu sân bay nhanh khi chúng tung ra các đợt không kích xuống các căn cứ đối phương tại Ryukyus và trên đảo Kyūshū. Vào ngày 14 tháng 5, nhiều máy bay Nhật đã lọt qua được hàng rào tuần tra chiến đấu trên không tiếp cận các tàu sân bay, trong đó một chiếc đã đâm bổ vào soái hạm của Đô đốc Mitscher. Hỏa lực phòng không của Alabama đã bắn rơi được hai máy bay đối phương và hỗ trợ cho việc bắn rơi hai chiếc khác.Trong các ngày 4 và 5 tháng 6, Alabama chịu đựng một cơn bão và chỉ bị thiệt hại nhẹ, trong khi chiếc tàu tuần dương Pittsburgh bị mất mũi tàu. Sau đó chiếc tàu chiến cùng với các thiết giáp hạm nhanh khác tiến hành nả pháo xuống hòn đảo Nhật Bản Minami Daito Shima vào ngày 10 tháng 6, rồi hướng đến vịnh Leyte vào cuối tháng 6 chuẩn bị tấn công thẳng vào chính quốc Nhật Bản cùng với các đơn vị khác của Đệ Tam hạm đội.Vào ngày 1 tháng 7, Alabama cùng các đơn vị khác của Hạm đội 3 lên đường nhắm đến các đảo chính quốc Nhật Bản. Trong suốt tháng 7, Alabama tiến hành các cuộc tấn công vào các mục tiêu tại khu công nghiệp Tokyo và các điểm khác tại Honshū, Hokkaidō, và Kyūshū. Vào đêm 17 và 18 tháng 7, Alabama cùng các thiết giáp hạm nhanh khác trong đội đặc nhiệm đã tiến hành đợt bắn phá ban đêm lần đầu tiên nhắm vào sáu nhà máy công nghiệp quan trọng tại khu vực Hitachi-Mito trên đảo Honshū, khoảng 13 km (8 dặm) về phía Đông Bắc Tokyo. Có mặt bên trên chiếc Alabama để thị sát các hoạt động trên là Chuẩn Đô đốc hồi hưu Richard Byrd, nhà thám hiểm Bắc Cực lừng danh.Ngày 9 tháng 8, Alabama chuyển một đội chăm sóc y tế sang tàu khu trục Ault, để sau đó được chuyển sang tàu khu trục Borie. Chiếc này đang làm nhiệm vụ cảnh giới radar từ xa, khi bị một máy bay tấn công cảm tử kamikaze Nhật Bản đánh trúng vào ngày hôm đó, và cần những sự trợ giúp y tế ngay lập tức.Căn cứ vào tài liệu được lưu trữ, chiếc thiết giáp hạm đã bắn trên 1.250 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) vào các mục tiêu đối phương trong các chiến dịch hỗ trợ, bắn rơi 22 máy bay đối phương và chưa hề phải chịu thiệt hại nào do hành động của đối phương. Alabama chỉ chịu 5 thương vong trong cuộc chiến, nhưng do một tai nạn bắn nhầm từ một khẩu đội vào một khẩu đội khác trên tàu.

Sau chiến tranh

Chiến tranh kết thúc đang khi Alabama còn đang ngoài biển, hoạt động ngoài khơi bờ biển phía Nam đảo Honshū. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, nó nhận được tin Nhật Bản chấp thuận đầu hàng. Trong cuộc chiếm đóng ban đầu xuống khu vực Yokosuka-Tokyo, Alabama đưa lên bờ các đội Thủy quân Lục chiến và thủy thủ cho các nhiệm vụ tạm thời, là một trong số các đơn vị đổ bộ đầu tiên. Chiếc thiết giáp hạm còn tiếp tục hộ tống các tàu sân bay khi chúng thực hiện các phi vụ trinh sát nhằm tìm kiếm các trại tập trung tù binh chiến tranh.Alabama tiến vào vịnh Tokyo ngày 5 tháng 9 để nhận lại những người phục vụ tạm thời trên bờ, rồi nó rời vùng biển Nhật Bản vào ngày 20 tháng 9. Tại Okinawa, nó nhận lên tàu 700 người, chủ yếu là thành viên các tiểu đoàn công binh hải quân ("Seabee"), như một phần của Chiến dịch Magic Carpet. Nó về đến San Francisco ngày 15 tháng 10, và trong dịp lễ hội Ngày Hải quân 27 tháng 10 đã đón 9.000 khách. Sau đó Alabama chuyển đến San Pedro, California vào ngày 29 tháng 10, và ở lại đó cho đến ngày 27 tháng 2 năm 1946, khi nó khởi hành hướng đến xưởng hải quân Puget Sound để đại tu. Alabama được cho ngừng hoạt động vào ngày 9 tháng 1 năm 1947 tại Seattle, và được phân về Đội Bremerton thuộc Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương. Nó tiếp tục ở lại đó cho đến khi được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1962.

Phần thưởng

Alabama được tặng thưởng chín Ngôi sao Chiến đấu do thành tích hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang chú ý là chiếc tàu chiến đã không bị mất đi người nào trong hoạt động chiến đấu cùng đối phương, và có được cái tên lóng "Lucky A" (A may mắn).

Tàu bảo tàng

Công dân của tiểu bang Alabama đã thành lập "Ủy ban thiết giáp hạm USS Alabama" nhằm gây quỹ cho việc bảo tồn Alabama như một tàu bảo tàng nhằm tưởng niệm những người đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Trong đó, đáng chú ý là có gần 100.000 Đô-la được quyên góp bởi trẻ em học sinh Alabama hầu hết dưới dạng tiền lẻ; và tổng cộng có gần 1 triệu Đô-la đã được quyên góp từ các công ty và tổ chức.[1] Con tàu được chính thức trao cho tiểu bang vào ngày 7 tháng 7 năm 1964 trong một buổi lễ tổ chức tại Seattle. Sau đó Alabama được kéo về bến neo đậu vĩnh viễn tại Battleship Memorial Park, Mobile, Alabama, về đến vịnh Mobile vào ngày 14 tháng 9 năm 1964, và mở cửa như một tàu bảo tàng vào ngày 9 tháng 1 năm 1965. Đến năm 1969 có thêm chiếc tàu ngầm USS Drum cùng gia nhập và được cho neo đậu phía sau Alabama cho đến khi nó bị hư hại trong trận bão Georges, khiến phải chuyển sang một điểm trưng bày trên bờ.Alabama được công nhận là một Di tích Lịch sử Quốc gia vào năm 1986.[2][3][4]Du khách được phép viếng thăm bên trong các tháp pháo chính và tháp súng phòng không. Hầm thuốc súng của pháo chính được mở ra cho khách tham quan bằng cách cắt những lổ và đặt thang dẫn vào. Giường ngũ của cầu thủ bóng chày nổi tiếng Bob Feller được đánh dấu trong chuyến tham quan. Feller từng phục vụ nhiều năm trên chiếc Alabama trong Thế Chiến II.Trong những năm gần đây, Alabama thỉnh thoảng đã được sử dụng làm những nơi trú bão. Trong cơn bão Katrina, trong khi gia đình của 18 nhân viên làm việc cho bảo tàng Alabama đang trú ẩn trên tàu,[5] chiếc thiết giáp hạm chịu đựng những hư hại làm nó bị nghiêng 8 độ sang mạn trái,[5] và bị xô lệch khỏi nơi neo đậu vĩnh viễn. Thêm vào đó, cánh trưng bày máy bay bị hư hại nặng, và ba trong số máy bay trưng bày bị phá hủy.Vào cuối năm 2005, những thiệt hại được ước lượng vượt quá bốn triệu Đô-la. Bảo tàng đã được mở cửa trở lại vào ngày 9 tháng 1 năm 2006, khi con tàu vẫn còn bị nghiêng 3 độ và vẫn còn đang trong quá trình sửa chữa. Các gian triển lãm thiết giáp hạm, tàu ngầm và máy bay đã đều được mở.

Đặt hàng: 4 tháng 3 năm 1913

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Pennsylvania

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Brooklyn

Đặt lườn: 16 tháng 3 năm 1914

Hạ thủy: 19 tháng 6 năm 1915

Đỡ đầu: Esther Ross

Hoạt động: 17 tháng 10 năm 1916

Bị mất: Bị đánh chìm trong trận Tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941

Ngừng hoạt động: 29 tháng 12 năm 1941

Xóa đăng bạ: 1 tháng 12 năm 1942

Tặng thưởng: 1 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 31.400 tấn (ban đầu)

Chiều dài: 185 m (608 ft)

Mạn thuyền: 29,5 m (97 ft) ở mực ngấn nước

32,3 m (106 ft) tối đa

Tầm nước: 8,8 m (28 ft 9 in)

Lực đẩy: 4 trục vận hành bởi Turbine hơi nước Parson[1]

Tốc độ: 39 km/h (21 knot)[1]

Quân số: 1.081

Vũ khí: 12 × pháo 356 mm (14 in)/45 cal

22 × pháo (127 mm) 5 in/51 cal,[2]

4 × pháo 76 mm (3 in)

2 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 in)

USS Arizona (BB-39) là một thiết giáp hạm thuộc lớp Pennsylvania của Hải quân Hoa Kỳ, và là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 48 của Mỹ. Nó được đưa vào hoạt động kể từ năm 1916 và đã phục vụ tích cực trong Thế Chiến I. Trong cuộc tấn công mà Hải quân Nhật nhắm vào Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941, sự kiện đã lôi kéo Hoa Kỳ can dự vào Thế Chiến II, Arizona bị nổ tung và bị đánh chìm một cách bi thảm, với tổn thất lên đến 1.177 nhân mạng. Xác con tàu đã không được vớt lên mà tiếp tục nằm bên dưới đáy cảng, và là địa điểm mà một đài tưởng niệm được xây dựng để tưởng nhớ những người đã hy sinh vào ngày hôm đó.

Thiết kế và chế tạo

Vào ngày 4 tháng 3 năm 1913, Quốc hội Mỹ thông qua việc chế tạo Arizona, chiếc thứ hai và là chiếc cuối cùng trong lớp Pennsylvania của loại thiết giáp hạm "siêu-dreadnought". Lườn của nó được đặt tại Xưởng hải quân Brooklyn vào ngày 16 tháng 3 năm 1914. Nó được hạ thủy vào ngày 19 tháng 6 năm 1915, được đỡ đầu bởi Esther Ross, con gái của W.W. Ross ở Prescott, Arizona, một nhân vật tiền phong nổi bật của Arizona. Máy móc của nó được tiếp tục lắp đặt, bao gồm loại turbine Parson mới,[1] và con tàu được đưa vào hoạt động tại xưởng tàu đã chế tạo nó vào ngày 17 tháng 10 năm 1916 dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng John D. McDonald.

Lịch sử hoạt động

Thế Chiến I

Arizona rời New York vào ngày 16 tháng 11 năm 1916 thực hiện chuyến đi chạy thử máy và huấn luyện ngoài khơi Virginia Capes và Newport, Rhode Island, sau đó hướng đến vịnh Guantánamo. Nó quay về Norfolk vào ngày 16 tháng 12 để bắn thử pháo và tiến hành thực tập phòng thủ chống ngư lôi tại Tangier Sound. Chiếc thiết giáp hạm quay về xưởng tàu của nó vào ngày trước lễ Giáng sinh năm 1916 để được đại tu sau chạy thử. Hoàn tất các việc thay đổi và sửa chữa vào ngày 3 tháng 4 năm 1917, nó rời xưởng tàu hướng về Norfolk, và khi đến nơi vào ngày hôm sau nó gia nhập Đội thiết giáp hạm 8 (BatDiv 8).Vài ngày sau, Hoa Kỳ từ bỏ thế trung lập mong manh của họ trong cuộc xung đột thế giới và chính thức tham gia Thế Chiến I. Chiếc thiết giáp hạm mới hoạt động ngoài khơi Norfolk cho đến hết chiến tranh trong vai trò tàu huấn luyện tác xạ và tuần tra vùng bờ biển phía Đông trải dài từ Virginia Capes đến New York. Là một tàu đốt dầu, nó không được bố trí đến vùng biển Châu Âu do tình trạng khan hiếm dầu đốt tại quần đảo Anh Quốc, căn cứ của các thiết giáp hạm Hoa Kỳ khác được gửi đến để tham gia Hạm đội Grand Anh Quốc.

Những năm giữa hai cuộc thế chiến

Một tuần sau khi có thỏa thuận ngừng bắn ngày 11 tháng 11 năm 1918 ngừng tiếng súng ở mặt trận phía Tây, Arizona rời Hampton Roads hướng đến Portland, Anh Quốc và đến nơi ngày 30 tháng 11, cùng với đội tàu của nó ra khơi ngày 12 tháng 12 năm để gặp gỡ chiếc George Washington, con tàu chở Tổng thống Woodrow Wilson tham dự Hội nghị Hòa bình Paris. Arizona, một trong những thiết giáp hạm Mỹ thế hệ "dreadnought" mới nhất và mạnh mẽ nhất, đã hoạt động như đoàn hộ tống danh dự cho Tổng thống Mỹ đến Brest, Pháp vào ngày 13 tháng 12.Như một điềm báo trước cho chiến dịch Magic Carpet sau Thế Chiến II, Arizona nhận lên tàu 238 hành khách là cựu chiến binh quay về nước và khởi hành từ Brest đi New York vào ngày 14 tháng 12. Nó đi đến trạm hải đăng Ambrose vào buổi trưa ngày lễ Giáng Sinh. Ngày hôm sau, nó đi duyệt qua trước mặt Bộ trưởng Hải quân Josephus Daniels, người đã lên chiếc Mayflower cạnh tượng Nữ thần Tự do, trước khi vào cảng New York trong sự chào đón nồng nhiệt những người quay trở về nhà. Sau đó chiếc thiết giáp hạm khởi hành đi Hampton Roads vào ngày 22 tháng 1 năm 1919, và quay về căn cứ nhà ở Norfolk ngày hôm sau.Arizona cùng hạm đội lên đường đi vịnh Guantánamo, và đến nơi vào ngày 8 tháng 2 năm 1919. Sau khi tham dự các cuộc thực hành và cơ động tại đây, nó khởi hành đi Trinidad vào ngày 17 tháng 3, và đến nơi đó năm ngày sau nhằm thực hiện chuyến viếng thăm cảng này kéo dài ba ngày. Sau đó nó quay trở về vịnh Guantánamo vào ngày 29 tháng 3, ở lại đó một thời gian ngắn rồi khởi hành đi Hampton Roads ngày 9 tháng 4 và đến nơi sáng ngày 12 tháng 4. Nó lên đường vào chiều tối cùng ngày hướng đến Brest, và đi đến đó ngày 21 tháng 4.Chiếc thiết giáp hạm rời cảng Brest ngày 3 tháng 5 năm 1919, hướng về vùng Tiểu Á, và đi đến cảng Smyrna (hiện nay là İzmir) tám ngày sau để bảo vệ những người Mỹ sống tại đây trong khi Hy Lạp chiếm cảng này, một cuộc chiếm đóng bị những người quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ kháng cự lại bằng vũ lực. Arizona cung cấp chỗ trú ngụ tạm thời trên tàu cho một nhóm người quốc tịch Hy Lạp, trong khi chi đội Thủy quân Lục chiến phối thuộc của chiếc thiết giáp hạm đổ bộ lên bờ để bảo vệ Lãnh sự Hoa Kỳ tại đây; một số công dân Mỹ cũng ở lại trên chiếc Arizona cho đến khi tình hình cho phép họ quay trở lên bờ. Rời Smyrna ngày 9 tháng 6, chiếc thiết giáp hạm chở Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ Leland F. Morris đến Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, rồi Arizona khởi hành đi New York ngày 15 tháng 6, đi ngang qua Gibraltar và đến nơi ngày 30 tháng 6.Arizona vào Xưởng hải quân New York không lâu sau đó để được bảo trì và sửa đổi, bao gồm việc tháo dỡ 6 trong tổng số 22 khẩu pháo 127 mm (5 inch/51 caliber),[2] chiếc thiết giáp hạm rời cảng ngày 6 tháng 1 năm 1920 để gia nhập Đội Thiết giáp hạm 7 trong các đợt cơ động mùa Đông và mùa Xuân tại vùng biển Caribbe. Nó hoạt động ngoài khơi vịnh Guantánamo trong giai đoạn này, và từng viếng thăm Bridgetown, Barbados trong quần đảo Tây Ấn thuộc Anh và Colón trong vùng kênh đào Panama, trước khi nó hướng lên phía Bắc về phía New York, và đến nơi vào ngày 1 tháng 5. Rời New York ngày 17 tháng 5, Arizona hoạt động tại khu vực thực hành phía nam, rồi ghé thăm Norfolk và Annapolis, Maryland trước khi quay về New York ngày 25 tháng 6. Trong sáu tháng tiếp theo sau, con tàu hoạt động tại chỗ ngoài khơi New York. Trong thời gian này, nó được đặt ký hiệu thân tàu BB-39 vào ngày 17 tháng 7, và đến ngày 23 tháng 8, nó trở thành soái hạm của Tư lệnh Đội Thiết giáp hạm 7 là Chuẩn Đô đốc Edward V. Eberle.Rời New York ngày 4 tháng 1 năm 1921, Arizona gia nhập hạm đội khi nó di chuyển về hướng vịnh Guantánamo và vùng kênh đào Panama. Đi đến Colón, Panama ở phía Đại Tây Dương của con kênh đào nối liền hai đại dương, Arizona vượt qua kênh đào lần đầu tiên vào ngày 19 tháng 1 và đi đến vịnh Panama vào ngày 20 tháng 1. Khởi hành đi Callao, Peru ngày 22 tháng 1, hạm đội đến nơi ngày 31 tháng 1 thực hiện chuyến viếng thăm kéo dài sáu ngày. Trong khi hạm đội đang lưu lại đây, Tổng thống Peru đã lên thăm chiếc Arizona. Lên đường đi Balboa ngày 5 tháng 2, Arizona đến nơi vào ngày 14 tháng 2. Băng qua con kênh đào một lần nữa sau ngày sinh nhật của Washington một ngày, chiếc thiết giáp hạm về đến vịnh Guantánamo ngày 26 tháng 2. Nó hoạt động tại đây cho đến tận ngày 24 tháng 4, khi nó lên đường quay về New York ngang qua Hampton Roads.Arizona về đến New York ngày 29 tháng 4 năm 1921, tại đây nó được đại tu cho đến ngày 15 tháng 6, khi nó khởi hành đi Hampton Roads. Ngày 21 tháng 6, nó rời Cape Charles cùng các quan sát viên Lục quân và Hải quân để chứng kiến việc thử nghiệm ném bom chiếc tàu ngầm U-117. Quay trở về New York, chiếc thiết giáp hạm mang cờ hiệu của Phó Đô đốc John D. McDonald, người từng là vị chỉ huy đầu tiên của Arizona dưới tư cách thuyền trưởng, vào ngày 1 tháng 7, và lên đường đi Panama và Peru vào ngày 9 tháng 7. Nó đi đến cảng Callao ngày 22 tháng 7 như là kỳ hạm của Lực lượng Thiết giáp hạm thuộc Hạm đội Đại Tây Dương, để tham gia các lễ hội mừng Một trăm năm độc lập của Peru. Ngày 27 tháng 7, Phó Đô đốc McDonald lên bờ đại diện cho Hoa Kỳ khánh thành tượng đài kỷ niệm việc José de San Martín hoàn tất công việc giải phóng Peru khỏi sự đô hộ của Tây Ban Nha một thế kỷ trước đó.Khởi hành đi vịnh Panama ngày 3 tháng 8, Arizona trở thành soái hạm của Đội Thiết giáp hạm 7 khi Phó Đô đốc McDonald chuyển cờ hiệu của mình sang chiếc Wyoming và Chuẩn Đô đốc Josiah S. McKean chuyển cờ hiệu của mình như là tư lệnh của đội vào ngày 10 tháng 8 tại Balboa. Ngày hôm sau, chiếc thiết giáp hạm khởi hành đi San Diego, và đến nơi ngày 21 tháng 8.Trong 14 năm tiếp theo sau, Arizona luân phiên phục vụ như là soái hạm của các Đội Thiết giáp hạm 2, 3 và 4. Đặt căn cứ tại San Pedro, California trong giai đoạn này, Arizona hoạt động cùng hạm đội tại vùng biển ngoài khơi bờ biển phía Nam California và tại vùng biển Caribbe mỗi khi hạm đội được tập trung tại đây. Nó tham gia một chuỗi các cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội (các cuộc tập trận cơ động hạm đội hàng năm như là đợt tổng kết huấn luyện cả năm), trải dài từ vùng biển Caribbe ngoài khơi bờ Đông Trung Mỹ và vùng kênh đào Panama; từ quân đảo Tây Ấn đến vùng biển giữa Hawaii và bờ Tây Hoa Kỳ.Sau khi tham gia cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội IX (tháng 1 năm 1929), Arizona đi qua kênh đào Panama ngày 7 tháng 2 để đi đến vịnh Guantánamo, nơi nó hoạt động cho đến tận tháng 4. Sau đó nó quay về xưởng hải quân Norfolk, và đến nơi vào ngày 4 tháng 5 chuẩn bị cho việc hiện đại hóa.Được tạm thời cho ngưng hoạt động vào ngày 15 tháng 7 năm 1929, công việc hiện đại hóa chiếc Arizona kéo dài 20 tháng. Kiểu cột buồm dạng ba chân, trên đỉnh có ba tầng kiểm soát hỏa lực pháo, thay thế cho kiểu cột buồm dạng lồng hyperbol; số khẩu pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber được giảm xuống còn 12 và được bố trí lại trên một tầng sàn tàu cao hơn; và tám khẩu pháo phòng không 127 mm (5 inch)/25 caliber[2] thay thế cho kiểu 76 mm (3 inch)/50 caliber trước đây. Nó cũng được bổ sung thêm giáp bảo vệ những phần sống còn chống đỡ đạn pháo, và những tấm ốp bảo vệ chống ngư lôi hay hư hại do những quả bom ném suýt trúng đích. Ngoài ra, nó còn được trang bị các nồi hơi mới cũng như các turbine chính và turbine đường trường. Cuối cùng, nó được đưa trở lại hoạt động vào ngày 1 tháng 3 năm 1931.Hơn hai tuần sau, vào ngày 19 tháng 3, Tổng thống Herbert Hoover lên con tàu chiến vừa mới được hiện đại hóa và thực hiện chuyến đi từ Hampton Roads đến Puerto Rico và quần đảo Virgin cùng ngày hôm đó. Quay trở về Hampton Roads ngày 29 tháng 3, Arizona tiễn vị Tổng Tư Lệnh cùng đoàn tháp tùng rời tàu, rồi tiếp tục hành trình về hướng Bắc đến Rockland, Maine tiến hành chạy thử nghiệm hiệu chỉnh sau đợt hiện đại hóa. Sau khi ghé thăm Boston, chiếc thiết giáp hạm quay về Norfolk, rồi nó khởi hành đi San Pedro ngày 1 tháng 8, và được bố trí vào Đội thiết giáp hạm 3.Trong một thập niên tiếp theo sau, Arizona tiếp tục hoạt động cùng Hạm đội Thiết giáp hạm và tham gia một chuỗi các cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội diễn ra từ vùng biển Bắc Thái Bình Dương và Alaska cho đến Tây Ấn, và vùng biển phía Đông quân đảo Tiểu Antille. Con tàu cùng thủy thủ đoàn còn tham gia trong một bộ phim do James Cagney thực hiện cho hãng Warner Brothers vào năm 1935, Here Comes the Navy, sử dụng rộng rãi nhiều đoạn quay bên ngoài lẫn những cảnh quay trực tiếp trên tàu.Ngày 17 tháng 9 năm 1938, Arizona trở thành soái hạm của Đội Thiết giáp hạm 1, khi Chuẩn Đô đốc Chester Nimitz (sau này là Tổng tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương) đặt cờ hiệu của ông trên chiếc tàu chiến. Được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo Văn phòng Hàng hải ngày 27 tháng 5 năm 1939, Nimitz được thay thế vào ngày hôm đó bởi Chuẩn Đô đốc Russell Willson.Cuộc tập trận lớn cuối cùng mà Arizona tham gia là Vấn đề Hạm đội XXI. Sau khi cuộc tập trận kết thúc, Hạm đội Hoa Kỳ ở lại vùng biển Hawaii, đặt căn cứ tại Trân Châu Cảng. Nó hoạt động tại đây cho đến cuối mùa Hè, rồi nó quay về Long Beach, California ngày 30 tháng 9 năm 1940. Sau đó nó được đại tu tại xưởng hải quân Puget Sound, Bremerton, Washington cho đến năm sau. Số khẩu đội pháo phòng không được tăng thêm đến 12 khẩu 127 mm (5 inch)/25 caliber.[2] Cờ hiệu chỉ huy của nó được thay đổi lần cuối cùng vào ngày 23 tháng 1 năm 1941, khi Chuẩn Đô đốc Isaac C. Kidd thay thế Chuẩn Đô đốc Willson làm Tư lệnh Đội thiết giáp hạm 1.Chiếc thiết giáp hạm quay về Trân Châu Cảng ngày 3 tháng 2 để tiếp tục việc huấn luyện vốn được Hạm đội Thái Bình Dương tiến hành một cách khẩn trương. Nó thực hiện chuyến đi đến bờ tây nước Mỹ lần cuối, khi rời Trân Châu Cảng ngày 11 tháng 6 đi Long Beach, và cuối cùng quay trở lại căn cứ tại Hawaii vào ngày 8 tháng 7. Trong năm tháng tiếp theo sau, nó tiến hành các đợt huấn luyện và tập trận với nhiều hình thức huấn luyện và thực hành chiếc thuật khác nhau tại vùng biển Hawaii. Nó trải qua một đợt tu bổ ngắn tại xưởng hải quân Trân Châu Cảng bắt đầu vào ngày 27 tháng 10, được trang bị radar tìm kiếm bên trên cột buồm phía trước. Nó cùng với Nevada và Oklahoma tiến hành buổi tập luyện cuối cùng, thực hành bắn pháo ban đêm trong đêm 4 tháng 12. Sau đó cả ba chiếc thiết giáp hạm cùng quay về neo đậu dọc theo đảo Ford vào ngày 5 tháng 12.Được dự định để tiếp liệu và bảo trì, Arizona cặp song song cùng tàu sửa chữa Vestal vào ngày thứ bảy, 6 tháng 12. Hai chiếc tàu neo đậu chung với nhau vào buổi sáng ngày 7 tháng 12; và trong số những người có mặt trên chiếc Arizona vào buổi sáng định mệnh hôm đó có Chuẩn Đô đốc Kidd, và người chỉ huy con tàu, Thuyền trưởng Franklin van Valkenburgh.

Ngày 7 tháng 12 năm 1941

Ngay trước 8 giờ sáng, máy bay Nhật Bản cất cánh từ sáu tàu sân bay hạm đội đã tấn công vào Hạm đội Thái Bình Dương khi chúng đang bỏ neo tại Trân Châu Cảng, và trong hai đợt không kích tiếp nối nhau, họ đã đánh tan tác lực lượng thiết giáp hạm Hoa Kỳ cùng các cơ sở không quân và lục quân có vai trò phòng thủ căn cứ quân sự quan trọng này.Trên chiếc Arizona, lệnh báo động không kích được đưa ra vào khoảng 7 giờ 55 phút, và không lâu sau con tàu được chuyển sang chế độ thường trực chiến đấu. Không lâu sau 8 giờ 00, một quả bom phóng ra từ một chiếc máy bay ném bom tầm cao Nakajima B5N "Kate" cất cánh từ tàu sân bay Nhật Kaga đã trúng phải bên cạnh tháp súng số 4 rồi xuyên xuống sàn bên dưới, tạo một đám cháy nhỏ nhưng chỉ gây ra thiệt hại nhẹ.Lúc 08 giờ 06 phút, một chiếc Kate xuất phát từ tàu sân bay Hiryū đã ném trúng một quả bom vào giữa hai tháp pháo số 1 và số 2 bên mạn phải. Vụ nổ tiếp theo sau đã phá hủy phần phía trước của chiếc Arizona do phát nổ đạn pháo bên trong một khu hầm đạn được bọc thép bên dưới sàn tàu. Đa số các chuyên gia đều đồng ý rằng quả bom này khó có thể xuyên thủng vỏ giáp của con tàu,[3] nhưng họ đều nhận định rằng có thể loại thuốc súng đen (dùng trong việc phóng máy bay) đã phát nổ trước, kích nổ các thùng thuốc súng không khói (sử dụng cho các khẩu pháo chính trên tàu). Một bản báo cáo năm 1944 nghi ngờ rằng một cách cửa đi vào hầm đạn chứa thuốc súng đen đã bị để ngõ, và có thể các vật liệu dễ cháy đã được chứa gần đó. Một nguồn thông tin khác về đề tài lịch sử Hải quân Mỹ còn đi xa hơn khi cho rằng thuốc súng đen đã được cất giữ bên ngoài hầm đạn bọc thép.[4] Dù sao, thật khó có thể có được một câu trả lời xác định cho vấn đề này. Chiến công đánh trúng con tàu được Hải quân Nhật ghi nhận dành cho hoa tiêu Noburu Kanai cùng phi công Tadashi Kusumi.[5] Vụ nổ tai họa này xé toang phần trước con tàu, gây ra những đám cháy kéo dài đến hai ngày; và những mảnh vụn bị bắn tung đến khu vực lân cận trên đảo Ford. Điều khôi hài là sức ép của vụ nổ đã dập tắt được các đám cháy bên trên chiếc tàu sửa chữa Vestal vốn đang neo đậu song song với nóNhiều sĩ quan và thủy thủ trên chiếc Arizona đã hành động rất dũng cảm dưới sự dẫn dắt của Thiếu tá Hải quân Samuel G. Fuqua, sĩ quan chỉ huy kiểm soát hư hỏng của con tàu, mà sự bình tĩnh khi chiến đấu dập lửa và di tản những người sống sót khỏi con tàu đã khiến ông được trao tặng Huân chương Danh dự. Huân chương cao quý này còn được truy tặng cho Chuẩn Đô đốc Isaac C. Kidd, vị tướng hải quân đầu tiên tử trận tại mặt trận Thái Bình Dương, và cho Thuyền trưởng Franklin Van Valkenburgh, người đã đến được cầu tàu để tìm cách bảo vệ con tàu khi quả bom ném trúng hầm đạn đã phá hủy nó.Vụ nổ làm phá hủy chiếc Arizona và nhấn chìm nó xuống nước bên cạnh đảo Ford cũng làm thiệt mạng 1.177 người trong tổng số 1.400 thành viên thủy thủ đoàn có mặt trên tàu vào lúc đó - chiếm quá nữa tổng số thiệt hại nhân mạng của cả hạm đội trong cuộc tấn công này.Được cho ngừng hoạt động tại Trân Châu Cảng vào ngày 29 tháng 12 năm 1941, Arizona được xóa khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 12 năm 1942. Xác tàu của nó được cắt để chỉ có rất ít cấu trúc thượng tầng nhô lên khỏi khỏi mặt nước. Pháo và súng các cỡ ở phần đuôi được tháo và vớt lên để dùng làm pháo phòng thủ duyên hải. Tháp súng số 1 được tìm thấy trong một cuộc lặn vào năm 1983. Các tháp súng số 3 và số 4 phía sau được tháo dỡ để trang bị cho Khẩu đội Arizona trên bờ biển phía Tây đảo Oahu và khẩu đội Pennsylvania tại Mokapu Point, thuộc Quân đoàn Pháo binh Duyên hải của Lục quân.[7] Tháp súng số 2 sau đó được trang bị lại trên chiếc thiết giáp hạm Nevada vào mùa Thu năm 1944,[8] và Nevada đã dùng các khẩu pháo này tấn công các hòn đảo Nhật Bản Okinawa và Iwo Jima.[9]Người ta vẫn còn tin, nhưng không đúng, rằng chiếc Arizona được giữ lại hoạt động "vĩnh viễn", giống như trường hợp của chiếc USS Constitution.[10]

Tưởng niệm và danh dự

Xác tàu đắm của chiếc Arizona tiếp tục nằm lại trong Trân Châu Cảng, và là một đài tưởng niệm những thành viên của thủy thủ đoàn đã thiệt mạng vào buổi sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Vào ngày 7 tháng 3 năm 1950, Đô đốc Arthur W. Radford, Tổng tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương vào lúc đó, chỉ thị cho treo cờ tưởng niệm bên trên xác tàu đắm. Các cuộc vận động vào thời chính phủ của các tổng thống Dwight D. Eisenhower và John F. Kennedy đã đưa đến việc công nhận xác con tàu đắm này là đài tưởng niệm quốc gia vào ngày 30 tháng 5 năm 1962. Một đài tưởng niệm được xây dựng ngang qua xác còn lại của con tàu dưới mặt nước, bao gồm một căn phòng mà tên những thành viên của thủy thủ đoàn đã thiệt mạng được khắc trên tường bằng cẩm thạch. Trong khi các cấu trúc thượng tầng và ba trong số bốn tháp pháo chính đã được tháo dỡ, tháp pháo còn lại vẫn còn nhìn thấy được từ trên mặt nước. Các hoạt động tưởng niệm vẫn được tổ chức thường xuyên tại đây; nhưng với số cựu chiến binh còn sống sót trên chiếc Arizona ngày càng ít đi theo từng năm tháng trôi qua. Tàu chiến của Lực lượng Phòng vệ biển Nhật Bản và hải quân các nước vẫn chào chiếc Arizona mỗi khi có dịp ghé ngang qua Trân Châu Cảng.Tính cho đến năm 2008, tức là 66 năm sau vụ nổ đã phá hủy chiếc Arizona, dầu rò rỉ ra từ thân tàu vẫn tiếp tục nổi lên trên mặt nước. Arizona tiếp tục rỉ ra cảng khoảng một lít dầu mỗi ngày.[11] Những thành viên thủy thủ đoàn còn sống sót cho rằng dầu sẽ tiếp tục rỉ cho đến khi người cuối cùng trong số họ qua đời.[12] Nhiều người trong số họ đã thu xếp để sau khi họ chết, thi hài sẽ được hỏa táng và tro của họ sẽ được đặt tại con tàu chung với những người đồng đội của họ đã ngã xuống. Hải quân Mỹ, cùng với cơ quan Dịch vụ Công viên Quốc gia, gần đây đã xem xét kế hoạch thực hiện một bản đồ số hóa toàn bộ thân con tàu một cách cẩn thận để tôn vinh nó như một di tích chiến tranh. Hải quân Mỹ cũng cân nhắc những biện pháp không xâm lấn để giảm bớt việc dầu tiếp tục rò rỉ nhằm cải thiện điều kiện môi trường bên trong cảng.Arizona được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến đấu do hoạt động của nó trong Thế chiến II. Đài tưởng niệm USS Arizona được chính thức công nhận là một Di tích Lịch sử cấp Quốc gia vào ngày 15 tháng 10 năm 1966; trong khi bản thân con tàu được công nhận là một Địa điểm Lịch sử Quốc gia vào ngày 5 tháng 5 năm 1989.Một trong những chiếc chuông nguyên thủy trên chiếc Arizona ngày nay được treo tại Viện đại học Arizona. Trường đại học này đã xây dựng khu học xá sinh viên trị giá 60 triệu Đô la theo dáng của thân con tàu Arizona.Một cột buồm và mỏ neo của chiếc Arizona hiện đang được trưng bày ở Wesley Bolin Memorial Plaza, phía Đông khu phức hợp Arizona State Capitol ở Phoenix, Arizona. Các hiện vật khác của con tàu được trưng bày tại khu triển lãm "Flagship of the Fleet: Life and Death of the USS Arizona" tại Bảo tàng Arizona State Capitol.[13]Một phần phẳng của thân tàu cùng các hiện vật khác trên chiếc Arizona được trưng bày trên chiếc "tàu" huấn luyện USS Arizona tại căn cứ hải quân Great Lakes.

Đặt hàng: 28 tháng 12 năm 1915

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Tennessee

Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Mare Island

Đặt lườn: 25 tháng 10 năm 1916

Hạ thủy: 20 tháng 11 năm 1919

Đỡ đầu: Barbara Stephens

Hoạt động: 10 tháng 8 năm 1921

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 10 tháng 7 năm 1959

Ngừng hoạt động: 14 tháng 2 năm 1947

Xóa đăng bạ:

Tặng thưởng:

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 32.300 tấn (ban đầu);

40.950 tấn (sau khi tái cấu trúc)

Chiều dài: 190,3 m (624 ft 6 in)

Mạn thuyền: 29,7 m (97 ft 4 in)

Tầm nước: 9,2 m (30 ft 4 in)

Tốc độ: 39 km/h (21 knot)

Quân số: 57 sĩ quan, 1.026 thủy thủ

Vũ khí: 12 × pháo 356 mm (14 inch)

14 × pháo 127 mm (5 in)

4 × pháo phòng không 76 mm (3 in)

2 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 in)

Vũ khí điện tử: radar RCA CXAM-1 từ năm 1940[1]

USS California (BB-44) là một thiết giáp hạm thuộc lớp Tennessee, và là chiếc tàu chiến thứ năm của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 31 của Hoa Kỳ.[2] Bắt đầu phục vụ như là soái hạm của Hạm đội Thái Bình Dương, nó hoạt động tại đây trong suốt quãng đời phục vụ. Trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941, nó bị đánh chìm, nhưng sau đó được vớt lên và tái cấu trúc. Nó tiếp tục phục vụ tại mặt trận Thái Bình Dương trong phần còn lại của Thế Chiến II cho đến khi kết thúc, rồi được cho ngừng hoạt động vào năm 1947 do đã lạc hậu.

Thiết kế và chế tạo

Nó được đặt lườn vào ngày 25 tháng 10 năm 1916 tại xưởng hải quân Mare Island ở Vallejo, California. California được hạ thủy vào ngày 20 tháng 11 năm 1919 dưới sự đỡ đầu của Barbara Stephens, con gái của William D. Stephens, Thống đốc tiểu bang Califonia lúc đó; và được đưa vào hoạt động ngày 10 tháng 8 năm 1921 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng H.J. Ziegemeier. Nó được bố trí đến Hạm đội Thái Bình Dương và trở thành kỳ hạm của hạm đội này.

Lịch sử hoạt động

Giữa hai cuộc thế chiến

Trong 20 năm, từ năm 1921 đến năm 1941, California đã phục vụ như soái hạm của Hạm đội Thái Bình Dương, rồi là soái hạm của Hạm đội Thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ. Các hoạt động thường kỳ hằng năm của nó bao gồm các cuộc tập trận chung Hải quân-Lục quân, huấn luyện chiến thuật và các vấn đề tổ chức, các cuộc tập trung hạm đội cho những mục đích khác nhau. Thành tích huấn luyện tích cực và sự thể hiện tốt khiến nó được tặng thưởng các danh hiệu trong các năm 1921, 1922, 1925 và 1926.Vào mùa Hè năm 1925 California dẫn đầu Hạm đội Thiết giáp hạm và một đội tàu tuần dương của Hạm đội Tuần tiễu thực hiện chuyến viếng thăm hữu nghị đến Úc và New Zealand. Nó tham gia cuộc Duyệt binh Tổng thống trong các năm 1927, 1930, và 1934. Nó được cho hiện đại hóa vào cuối năm 1929 và đầu năm 1930, được trang bị các khẩu đội pháo phòng không cải tiến, với tám khẩu pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber thay thế cho pháo 76 mm (3 inch).[3]Từ giữa cho đến cuối thập niên 1930, California cùng 14 chiếc thiết giáp hạm khác của Hạm đội Hoa Kỳ đặt căn cứ tại San Pedro, California. Trong khoảng thời gian này, chúng tham gia nhiều cuộc diễn tập hạm đội dọc theo bờ Tây nước Mỹ, đến Hawaii, và vào năm 1939 thông qua kênh đào Panama đến Cuba, và đến New York nhân dịp Hội chợ Thế giới 1939.Hàng năm, California cùng các tàu chiến chủ lực khác (các thiết giáp hạm, các tàu sân bay Lexington và Saratoga) tranh đua với nhau dành giải thưởng thể thao, gồm các môn phổ biến tại Mỹ như bóng bầu dục và bóng chày, đấm bốc, đấu vật, chèo thuyền, bóng rổ và các môn khác - thường được biết dưới tên gọi "Iron Man Trophy", được tổ chức hằng năm kể từ năm 1919. California lần đầu tiên giành được giải "Iron Man" vào năm 1925 và giữ được danh hiệu này trong ba năm. Năm 1939, California chiến thắng giải "Iron Man" lần cuối cùng với tổng số điểm .733 đánh bại đội New Mexico.Trong những năm đó, việc tranh tài trong giải "Iron Man" rất căng thẳng giữa các tàu chiến chủ lực của Hạm đội Thái Bình Dương, cho đến khi đa số chúng được tái bố trí đến Hawaii vào tháng 5 năm 1940 sau cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XXI do sự lo ngại ngày càng gia tăng trong quan hệ với Nhật Bản. California là một trong số sáu tàu chiến đầu tiên được trang bị kiểu radar mới RCA CXAM vào năm 1940.[1]

Thế Chiến II

Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, California neo đậu cùng với các thiết giáp hạm khác tại phần cực nam của "hàng thiết giáp hạm" dọc theo đảo Ford khi Hải quân Nhật tung ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Độ kín nước của con tàu bị ảnh hưởng do nó đang chuẩn bị cho một cuộc khảo sát vật liệu, nên con tàu bị ngập nước lan rộng khi bị đánh trúng.[4] Một quả ngư lôi phát nổ bên dưới đai giáp giữa khung số 46 và 60, trong khi một quả thứ hai nổ giữa khung số 95 và 100.[5] Lúc 08 giờ 45 phút, một quả bom 250 kg đánh trúng sàn tàu phía trên bên mạn phải tại khung số 60, xuyên qua sàn chính, và phát nổ tại sàn bọc thép thứ hai, gây nổ hầm đạn pháo phòng không và làm thiệt mạng khoảng 50 người.[6] Một quả bom thứ hai suýt trúng làm bong các tấm thép ở mũi tàu.[4] Khói từ các đám cháy do quả bom phát nổ lan đến phòng máy phía trước, buộc thủy thủ phải di tản khỏi nơi đây lúc 10 giờ 00 và chấm dứt các nổ lực bơm giữ cho chiếc thiết giáp hạm tiếp tục nổi.[4] Sau ba ngày bị tràn nước liên tục, California chìm xuống đáy bùn trong vịnh cảng, chỉ còn nổi trên mặt nước phần cấu trúc thượng tầng.[4] Khi chiến sự kết thúc, 100 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng cùng 62 người khác bị thương. Robert R. Scott là một trong các thủy thủ tử trận trong ngày 7 tháng 12, anh được truy tặng Huân chương Danh dự vì những hành động anh dũng của mình.Vào ngày 25 tháng 3 năm 1942, các nỗ lực trục vớt đã giúp cho California nổi trở lại và được đưa vào ụ tàu tại Trân Châu Cảng để sửa chữa. Ngày 7 tháng 6 nó lên đường bằng động lực của chính nó để đi đến Xưởng hải quân Puget Sound, nơi thực hiện một cuộc tái cấu trúc triệt để. Các vỏ giáp bảo vệ được cải tiến, thêm các ngăn kín nước, cải tiến độ ổn định, bổ sung hệ thống phòng không và hệ thống kiểm soát hỏa lực. Các khẩu pháo hạng hai 127 mm (5 inch) /51 caliber và pháo phòng không 127 mm (5 inch) /25 caliber nguyên thủy được thay thế bằng 16 khẩu pháo 127 mm (5 inch) /38 caliber bố trí trên tháp đôi. [3] Giống như tàu chị em với nó, California thực ra là một con tàu mới được xây dựng trên khung con tàu cũ.[7]California rời Bremerton, Washington ngày 31 tháng 1 năm 1944 để thực hiện chuyến đi thử máy tại San Pedro, California, rồi khởi hành từ San Francisco, California ngày 5 tháng 5 chuẩn bị cho cuộc tấn công lên quần đảo Mariana. Ngoài khơi Saipan vào tháng 6 năm 1944, nó tiến hành nả pháo dọc bờ biển và yểm trợ theo yêu cầu. Ngày 14 tháng 6 nó trúng phải một quả đạn pháo phòng thủ duyên hải đối phương khiến một người tử trận và chín người bị thương. Sau Saipan, các khẩu pháo cỡ lớn của nó giúp mở đường cho các chiến dịch tấn công đổ bộ lên Guam và Tinian từ ngày 18 tháng 7 đến ngày 9 tháng 8. Vào ngày 24 tháng 8, nó về đến Espiritu Santo để sửa chữa mạn trái tàu bị hư hại do đụng phải chiếc thiết giáp hạm USS Tennessee (BB-43).Vào ngày 17 tháng 9 năm 1944 California khởi hành đi Manus chuẩn bị cho chiến dịch tấn công Philippines. Từ ngày 17 đến ngày 20 tháng 11, nó đóng một vai trò chủ chốt trong trận chiến vịnh Leyte khi tiêu diệt hạm đội Nhật Bản trong trận chiến eo biển Surigao vào ngày 25 tháng 10. Đến ngày 1 tháng 1 năm 1945, nó rời Palaus tham gia chiến dịch đổ bộ lên đảo Luzon. Các khẩu pháo hạng nặng của nó góp vai trò quan trọng vào sự thành công của những chiến dịch nguy hiểm vào sâu trong lãnh thổ do đối phương chiếm đóng. Vào ngày 6 tháng 1, trong khi đang thực hiện bắn phá vịnh Lingayen, nó bị một máy bay tấn công cảm tử kamikaze đánh trúng, khiến 44 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng và 155 người khác bị thương. California thực hiện các sửa chữa tạm thời ngay tại chỗ và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ nả pháo cần thiết vào các mục tiêu cho đến khi hoàn tất. Nó khởi hành ngày 23 tháng 1 hướng về xưởng hải quân Puget Sound, và đến nơi ngày 15 tháng 2 để tiến hành các sửa chữa toàn diện.California quay trở lại hoạt động ngoài khơi vùng biển Okinawa vào ngày 15 tháng 6 năm 1945 và ở lại tại khu vực chiến sự này cho đến tận ngày 21 tháng 7. Hai ngày sau nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 95 để hỗ trợ các chiến dịch quét mìn tại biển Đông Trung Quốc. Sau một chuyến đi ngắn đến vịnh San Pedro, Philippines trong tháng 8, chiếc tàu chiến rời Okinawa ngày 20 tháng 9 để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ chiếm đóng của Tập đoàn quân 6 tại Wakanoura Wan thuộc Honshū. Nó tiếp tục hỗ trợ cuộc chiếm đóng cho đến ngày 15 tháng 10, rồi lên đường, đi ngang qua Singapore, Colombo và Cape Town, Nam Phi để đến Philadelphia, Pennsylvania, và đến nơi ngày 7 tháng 12. Nó được đưa về làm lực lượng trừ bị tại đây vào ngày 7 tháng 8 năm 1946, được cho ngừng hoạt động vào ngày 14 tháng 2 năm 1947, và được bán để tháo dỡ vào ngày 10 tháng 7 năm 1959.

Đặt hàng: 15 tháng 12 năm 1938

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm South Dakota (1939)

Xưởng đóng tàu: Newport News, Virginia

Đặt lườn: 20 tháng 11 năm 1939

Hạ thủy: 21 tháng 11 năm 1941

Đỡ đầu: Lewis C. Robbins

Hoạt động: 30 tháng 4 năm 1942

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ tháng 10 năm 1963

Ngừng hoạt động: 11 tháng 9 năm 1947

Xóa đăng bạ:

Tặng thưởng: 9 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 35.000 tấn

Chiều dài: 207,3 m (680 ft)

Mạn thuyền: 33 m (108 ft 3 in)

Tầm nước: 8,9 m (29 ft 4 in)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước

8 nồi hơi đốt dầu, 4 trục

công suất 130.000 mã lực (97 MW)

Tốc độ: 50 km/h (27 knot)

Tầm xa: 37.000 km ở tốc độ 28 km/h

(20.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 1.793 (115 sĩ quan, 1.678 thủy thủ)

Vũ khí: 9 × pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber Mark 6

20 × pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber

68 × súng phòng không 40 mm

76 × súng phòng không 20 mm

Cảm biến:

Vỏ giáp: Tối đa 310 mm (12,2 inch)

Máy bay: 2 × OS2U Kingfisher

USS Indiana (BB-58) là một thiết giáp hạm thuộc lớp South Dakota được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 19 của Hoa Kỳ. Trong Thế chiến II, chiếc thiết giáp hạm chỉ hoạt động tại Mặt trận Thái Bình Dương, từng tham gia nhiều chiến dịch chủ yếu, và sau khi chiến tranh chấm dứt, nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1947 và được bán để tháo dỡ vào năm 1963.

Thiết kế và chế tạo

Indiana được đặt lườn vào ngày 20 tháng 11 năm 1939 bởi hãng Northrop Grumman Newport News tại Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 11 năm 1941, được đỡ đầu bởi Bà Lewis C. Robbins, con gái Thống đốc tiểu bang Indiana Henry F. Schricker, và được đưa vào hoạt động ngày 30 tháng 4 năm 1942 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Đại tá Hải quân A.A. Merrill.

Lịch sử hoạt động

Sau chuyến đi thử máy tại vịnh Casco, Maine, chiếc thiết giáp hạm mới đi ngang qua kênh đào Panama để củng cố các đơn vị Hạm đội Mỹ tại Thái Bình Dương trong những tháng đầu tiên đầy khó khăn của Thế Chiến II. Nó gia nhập lực lượng của Chuẩn Đô đốc Lee hộ tống cho các tàu sân bay vào ngày 28 tháng 11 năm 1942. Trong 11 tháng tiếp theo sau, Indiana giúp bảo vệ các tàu sân bay Enterprise và Saratoga, sau đó hỗ trợ cho lực lượng Mỹ tiến quân tại quần đảo Solomon.Indiana đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 21 tháng 10 năm 1943, rồi lại khởi hành vào ngày 11 tháng 11 cùng với các lực lượng hỗ trợ cho cuộc tấn công đổ bộ lên quần đảo Gilbert. Chiếc thiết giáp hạm tham gia bảo vệ các tàu sân bay đang hỗ trợ lực lượng Thủy quân Lục chiến trong trận đánh đẫm máu tại Tarawa. Sau đó vào cuối tháng 1 năm 1944 nó bắn phá Kwajalein trong tám ngày trước các cuộc đổ bộ xuống quần đảo Marshall vào ngày 1 tháng 2. Trong đêm đó, khi đang cơ động để tiếp nhiên liệu cho các tàu khu trục hộ tống, Indiana đã va chạm với chiếc thiết giáp hạm Washington, làm thiệt mạng nhiều người. Những sửa chữa tạm thời bên mạn phải con tàu được thực hiện tại đảo san hô Majuro trước khi con tàu quay về Trân Châu Cảng vào ngày 13 tháng 2 để sửa chữa lớn. Thuyền trưởng của Indiana thừa nhận rằng con tàu của ông đã tách khỏi đội hình, và ông nhận hoàn toàn trách nhiệm về vụ va chạm. Ông bị Đô đốc Nimitz cách chức và được thay thế.Indiana gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 58 trong cuộc không kích lớn nhắm vào đảo san hô Truk trong các ngày 29 và 30 tháng 4, rồi sau đó nó nả pháo xuống đảo Ponape trong ngày 1 tháng 5. Vào tháng 6 Indiana hướng đến quần đảo Marianas cùng hạm đội Mỹ đông đảo nhằm tấn công và chiếm đóng chuỗi quần đảo chiến lược này. Nó nả pháo xuống đảo Saipan trong các ngày 13 và 14 tháng 6 và bắn rơi nhiều máy bay đối phương bằng hỏa lực phòng không khi chống trả lại các đợt không kích trong ngày 15 tháng 6. Khi hạm đội tàu sân bay Nhật Bản tiến đến Marianas nhằm đẩy lui lực lượng Mỹ, Indiana đã đối đầu với họ trong thành phần "hàng thiết giáp hạm" của Phó Đô đốc Willis A. Lee. Hai hạm đội khổng lồ đã đối đầu nhau trong ngày 19 tháng 6 năm 1944 trong trận chiến lớn nhất giữa các tàu sân bay trong Thế Chiến II, Trận chiến biển Philippine, khi bốn đợt không kích được phía Nhật tung ra nhắm vào hạm đội Mỹ. Những chiếc máy bay tiêm kích F6F Hellcat của hạm đội, cùng với sự trợ giúp ít ỏi của các tàu hộ tống, đã bắn rơi gần 400 máy bay tấn công Nhật. Trận không chiến này vì vậy được mang cái tên lóng "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại". Với sự trợ giúp lớn từ các tàu ngầm, lực lượng của Phó Đô đốc Marc A. Mitscher đã đánh chìm ba tàu sân bay Nhật, trong đó có chiếc tàu sân bay kỳ cựu Shōkaku và chiếc tàu sân bay mới nguyên Taihō. Indiana đã bắn rơi nhiều máy bay đối phương, và né tránh được hai quả ngư lôi suýt trúng đích. Sau khi trận chiến kết thúc với ưu thế rõ rệt cho phía Mỹ, Indiana tiếp tục vai trò yểm trợ chung quanh các tàu sân bay, và đã ở liên tục ngoài biển khơi trong 64 ngày đêm liên tục để hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Marianas.Vào tháng 8, Indiana bắt đầu hoạt động trong thành phần của Đội Đặc nhiệm 38.3, tiến hành bắn phá quần đảo Palau, và sau đó là Philippines. Nó hộ tống cho các cuộc không kích vào các căn cứ trên bờ của đối phương từ ngày 12 đến ngày 30 tháng 9 năm 1944, giúp chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên đảo Leyte sắp tới tại khu vực Trung quần đảo Philippine. Sau đó Indiana rời Philippines quay về xưởng hải quân tại Bremerton, Washington, và đến nơi vào ngày 23 tháng 10, để thực hiện việc đại tu cần thiết đồng thời cũng được trang bị thêm các vũ khí phòng không. Vì vậy, chiếc thiết giáp hạm đã có dịp tham dự Trận chiến vịnh Leyte mang tính quyết định ngoài khơi Philippines. Sau khi hoàn tất việc đại tu, Indiana khởi hành hướng đến Trân Châu Cảng.Đi đến Trân Châu Cảng ngày 12 tháng 12, Indiana ngay lập tức bắt đầu tiến hành huấn luyện chuẩn bị cho các cuộc chiến mới. Nó lại lên đường vào ngày 10 tháng 1 năm 1945, và cùng với một lực lượng các thiết giáp hạm và tàu tuần dương, chiếc thiết giáp hạm tiến hành bắn phá Iwo Jima trong ngày 24 tháng 1. Sau đó Indiana hợp cùng Lực lượng Đặc nhiệm 58 quay về đảo san hô Ulithi, rồi lại khởi hành vào ngày 10 tháng 2 tham gia tấn công chiếm đóng Iwo Jima, bước tiếp theo của cuộc chinh phục Nhật Bản. Chiếc thiết giáp hạm đã hộ tống các tàu sân bay trong đợt không kích khu vực Tokyo vào ngày 17 tháng 2, và một đợt khác vào ngày 25 tháng 2, cùng với nhiệm vụ bảo vệ các cuộc không kích xuống Iwo Jima xen kẻ giữa hai lần đó. Sau đó, Indiana hỗ trợ cho cuộc không kích xuống Okinawa trước khi lên đường quay trở về căn cứ. Nó về đến Ulithi vào ngày 5 tháng 3 năm 1945 để được bổ sung tiếp liệu và nghỉ ngơi.Indiana nhổ neo rời Ulithi vào ngày 14 tháng 3 năm tham gia trận chiến nhằm chiếm đóng Okinawa, và cho đến tháng 6 năm 1945, nó hỗ trợ cho hoạt động không kích của các tàu sân bay xuống chính quốc Nhật Bản và Okinawa. Các cuộc không kích này được thực hiện nhằm hỗ trợ tối đa cho chiến dịch trên đất liền, cũng như phá hủy nền công nghiệp chiến tranh Nhật Bản. Trong giai đoạn này, chiếc thiết giáp hạm phải thường xuyên chống trả các cuộc tấn công tự sát của đối phương, khi quân Nhật nỗ lực liều mạng một cách tuyệt vọng mong thay đổi được tình thế. Đầu tháng 6, Indiana thoát khỏi một cơn bão hung hãn, rồi sau đó hướng đến vịnh San Pedro thuộc Philippines, và đến nơi vào ngày 13 tháng 6.Trong thành phần của Đội Đặc nhiệm 38.1, Indiana hoạt động tại vùng biển ngoài khơi các đảo chính quốc Nhật Bản từ ngày 1 tháng 7 đến ngày 15 tháng 8, hỗ trợ các cuộc không kích xuống Nhật Bản cũng như bắn pháo vào các mục tiêu duyên hải bằng các khẩu pháo chính 406 mm (16 inch). Chiếc thiết giáp hạm kỳ cự tiến vào vịnh Tokyo ngày 5 tháng 9 năm 1945; và chín ngày sau, nó khởi hành quay về San Francisco, California, và đến nơi vào ngày 29 tháng 9 năm 1945.Quay trở về Hoa Kỳ không lâu sau khi Nhật Bản đầu hàng, Indiana được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 9 năm 1946 và chính thức ngừng hoạt động một năm sau đó. Nó không còn tham gia hoạt động nào khác và bị bán để tháo dỡ vào tháng 10 năm 1963.Cột buồm chính của Indiana được dựng tại Sân vận động Memorial của Trường Đại học Indiana Bloomington; một mỏ neo của nó đặt tại Đài tưởng niệm chiến tranh Allen County tại Fort Wayne, Indiana; trong khi chiếc chuông của nó hiện đang đặt tại Heslar Naval Armory ở Indianapolis, Indiana và nhiều hiện vật khác được trưng bày tại nhiều bảo tàng và trường học khác nhau khắp Indiana. Mũi tàu Indiana hiện đang đặt tại Berkeley, California.Indiana được tặng thưởng chín Ngôi sao Chiến đấu do thành tích hoạt động trong Thế Chiến II.

Đặt hàng: 1 tháng 7 năm 1939

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Iowa

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu New York

Đặt lườn: 27 tháng 6 năm 1940

Hạ thủy: 27 tháng 8 năm 1942

Đỡ đầu: Ilo Wallace

Hoạt động: 22 tháng 2 năm 1943

Ngừng hoạt động: 26 tháng 10 năm 1990

Xóa đăng bạ: 17 tháng 3 năm 2006

Tình trạng: Hạm đội Trừ bị Vệ binh Quốc gia tại vịnh Suisun, gần San Francisco, California

Tặng thưởng: 11 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung ban đầu

Lượng rẽ nước: 45.000 tấn

Chiều dài: 270 m (887 ft 3 in)

Mạn thuyền: 32,9 m (108 ft 2 in)

Tầm nước: 11,3 m (37 ft 2 in)

Lực đẩy: Turbine hơi nước,

19 nồi hơi, 4 trục,

133.000 mã lực (99,2 MW)

Tốc độ: 61 km/h (33 knot)

Tầm xa: 15.200 km ở tốc độ 22 km/h

(8.200 nm ở tốc độ 12 knot)

Quân số: 151 sĩ quan, 2637 thủy thủ

Vũ khí: 9 x pháo 406 mm (16 in) 50 cal. Mark 7

20 × pháo 127 mm (5 in) 38 cal. Mark 12

80 x pháo phòng không Bofors 40 mm 56 cal.

49 x pháo phòng không Oerlikon 20 mm 70 cal.

Vỏ giáp: đai giáp: 307 mm (12,1 in)

vách ngăn: 287 mm (11,3 in)

lá chắn bệ pháo: 295 đến 439 mm (11,6 đến 17,3 in)

tháp pháo: 500 mm (19,7 in)

sàn tàu: 190 mm (7,5 in)

Máy bay: thủy phi cơ

Các đặc tính chung sau cải biến năm 1984

Vũ khí: 9 x pháo 406 mm (16 in) 50 cal. Mark 7

12 × pháo 127 mm (5 in) 38 cal. Mark 12

32 x tên lửa Tomahawk BGM-109

16 x tên lửa đối hạm Harpoon RGM-84

4 x pháo Phalanx CIWS 20 mm/76 cal.

Cảm biến: Radar dò tìm phòng không AN/SPS-49

Radar dò tìm mặt biển AN/SPS-67

Radar dò tìm mặt biển/kiểm soát vũ khí AN/SPQ-9

Vũ khí điện tử: Hệ thống EWS AN/SLQ-32

Hệ thống ngụy trang AN/SLQ-25 Nixie

8 × Hệ thống phóng rocket pháo sáng cực nhanh Mark 36 SRBOC

Máy bay: máy bay trực thăng, máy bay không người lái

USS Iowa (BB-61) (biệt danh "The Big Stick") là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm Iowa và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên nhằm vinh danh tiểu bang thứ 29 của Hoa Kỳ. Iowa là tàu chiến duy nhất của Hoa Kỳ được trang bị một bồn tắm, và là chiếc duy nhất trong lớp của nó từng hoạt động tại Đại Tây Dương trong Thế Chiến II.Trong Thế Chiến II, Iowa khi hoạt động tại Đại Tây Dương đã phục vụ cho chuyến đưa đón Tổng thống Roosevelt tham dự Hội nghị Tehran. Khi được chuyển sang hạm đội Thái Bình Dương vào năm 1944, Iowa đã bắn phá các bãi biển tại Kwajalein và Eniwetok trước các cuộc tấn công đổ bộ của lực lượng Đồng Minh và hộ tống cho cho các tàu sân bay hoạt động tại quần đảo Marshall. Trong chiến tranh Triều Tiên, Iowa tham gia bắn phá dọc theo bờ biển Bắc Triều Tiên, trước khi được cho dừng hoạt động và chuyển về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương. Nó được cho hoạt động trở lại vào năm 1984 như một phần của Kế hoạch 600 tàu chiến Hải quân, và hoạt động tại các hạm đội Đại Tây Dương và Thái Bình Dương để đối phó lại sự bành trướng của Hải quân Xô Viết. Vào tháng 4 năm 1989, tháp súng số 2 trên chiếc Iowa phát nổ mà không xác định được nguyên nhân, làm thiệt mạng 47 thủy thủ.Iowa cuối cùng được cho ngừng hoạt động vào năm 1990, và được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào năm 1995; nhưng nó lại được đăng bạ trở lại từ năm 1999 đến năm 2006 theo một đạo luật liên bang buộc phải giữ lại và duy trì hai thiết giáp hạm lớp Iowa. Hiện tại, Iowa thuộc về Hạm đội Trừ bị Vệ binh Quốc gia tại vịnh Suisun, gần San Francisco, California; và đang chờ đợi để được tặng cho một tổ chức phi lợi nhuận sẽ sử dụng nó như một tàu bảo tàng. Cho đến nay, Iowa là chiếc duy nhất trong lớp chưa được mở ra cho công chúng tham quan.

Chế tạo

Iowa là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm nhanh mang tên nó, vốn được thiết kế vào năm 1938 bởi bởi Chi nhánh Thiết kế Sơ thảo của Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa. Nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 8 năm 1942, được đỡ đầu bởi Ilo Wallace (phu nhân của Phó Tổng thống Henry Wallace), và được đưa vào hoạt động ngày 22 tháng 2 năm 1943 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng John L. McCrea.[1] Nó là chiếc đầu tiên trong lớp của nó được Hải quân Mỹ đưa ra hoạt động.[2]Dàn pháo chính của Iowa bao gồm chín khẩu Mark 7/50-caliber 406 mm (16-inch) có khả năng bắn đạn xuyên thép nặng 1.200 kg (2.700 lb) đi xa được khoảng 37 km (20 dặm). Pháo hạng hai bao gồm hai mươi khẩu pháo 5-inch (127 mm)/38-caliber bố trí trong các tháp súng đôi, có tầm bắn khoảng 22 km (12 hải lý). Với sự ra đời của không lực, và yêu cầu chiếm lấy và duy trì ưu thế trên không đòi hỏi phải bảo vệ hạm đội các tàu sân bay Đồng Minh đang ngày càng lớn mạnh, Iowa được trang bị một loạt các pháo phòng không Bofors 40 mm 56 cal. và Oerlikon 20 mm 70 cal. để bảo vệ các tàu sân bay khỏi bị máy bay đối phương không kích.[3]

Thế Chiến II (1943-1945)

Chạy thử máy và hoạt động cùng Hạm đội Đại Tây Dương

Vào ngày 24 tháng 2 năm 1943, Iowa hướng ra biển trong một chuyến đi thử máy trong vịnh Chesapeake và dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Nó khởi hành ngày 27 tháng 8 năm 1943 hướng đến Argentia, Newfoundland, nhằm đối phó lại mối đe dọa của chiếc thiết giáp hạm Đức Tirpitz được báo cáo là đang hoạt động tại vùng biển Na Uy, trước khi quay trở về Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 10 để tiến hành bảo dưỡng trong hai tuần tại Xưởng hải quân Norfolk.[4]Sau khi được tiếp nhiên liệu và được các tàu khác hộ tống, Iowa chở Tổng thống Franklin D. Roosevelt, Ngoại trưởng Cordell Hull và các tướng lĩnh đến Casablanca, Morocco, chặng đầu tiên trong hành trình đi dự Hội nghị Tehran. Trong số các tàu chiến hộ tống cho Iowa trong chuyến đi này có William D. Porter, một tàu khu trục thuộc lớp Fletcher, vốn đã can dự vào một tai nạn rủi ro vào đêm hôm trước khi mỏ neo của nó xé rách hàng rào và giá treo thuyền cứu sinh một chiếc tàu khu trục chị em neo đậu bên cạnh. Ngày hôm sau, một quả mìn sâu trên boong chiếc Porter bị rời ra và rơi xuống biển phát nổ, khiến cho Iowa cùng các tàu hộ tống khác phải thực hiện cơ động lẫn tránh vì suy đoán rằng lực lượng hạm đội đang bị ngư lôi từ các tàu ngầm U-boat của Đức tấn công.[6]Vào ngày 14 tháng 11, theo yêu cầu của Roosevelt, Iowa tiến hành thực tập pháo phòng không để trình diễn khả năng tự bảo vệ. Cuộc thực tập được bắt đầu bằng việc thả một số quả bóng bay dùng làm mục tiêu. Trong khi hầu hết các quả bóng bị các xạ thủ trên chiếc Iowa bắn trúng, một số tiếp tục bay về phía William D. Porter và cũng bị bắn trúng. Sau đó chiếc Porter cùng các tàu hộ tống khác trình diễn một cuộc thực tập ngư lôi bằng cách mô phỏng một cuộc phóng nhắm vào chiếc Iowa. Cuộc thực tập này bất ngờ suýt trở thành thảm họa khi quả ngư lôi số 3 trên William D. Porter phóng ra khỏi ống và hướng về chiếc Iowa.[6]William D. Porter tìm cách báo hiệu cho chiếc Iowa về việc quả ngư lôi đang hướng đến gần, nhưng do quy định giữ im lặng vô tuyến, họ buộc phải sử dụng tín hiệu đèn. Chiếc tàu khu trục lại nhầm lẫn hướng đi của quả ngư lôi nên chuyển đi một thông điệp sai đến chiếc Iowa rằng Porter đang hỗ trợ mà không đề cập đến việc một quả ngư lôi đang ở dưới nước.[6] Trong tình thế tuyệt vọng, cuối cùng chiếc tàu khu trục phải phá vỡ sự im lặng vô tuyến, dùng mật mã chuyển một thông điệp cảnh báo đến chiếc Iowa về việc quả ngư lôi đang hướng đến. Sau khi xác nhận được nguồn gốc của bức điện, Iowa phải ngoặc gấp để tránh quả ngư lôi. Trong khi đó, Roosevelt nhận được tin về mối đe dọa đang đến gần, đã yêu cầu cận vệ đẩy chiếc xe lăn của ông ra sát mạn con tàu chiến.[6] Không lâu sau đó, quả ngư lôi phát nổ trong đợt sóng của con tàu; Iowa được bình an và quay các khẩu súng của nó hướng vào chiếc William D. Porter do mối lo ngại con tàu hộ tống này can dự vào một cuộc mưu sát tổng thống.[7][8]Iowa hoàn tất nhiệm vụ hộ tống Tổng Thống vào ngày 16 tháng 12 khi đưa ông quay trở về đến Hoa Kỳ.[6] Roosevelt phát biểu trước thủy thủ đoàn chiếc Iowa trước khi rời tàu:"...từ tất cả những gì tôi nghe và tôi thấy, Iowa là một "con tàu hạnh phúc", và vì đã từng phục vụ trong hải quân trong nhiều năm, tôi biết, và các bạn cũng biết, điều đó nghĩa là gì". Ông cũng đề cập đến những tiến bộ đạt được trong cuộc hội đàm trước khi kết thúc bài phát biểu: "... chúc các bạn may mắn, và xin nhớ là trên tinh thần, tôi luôn ở cùng các bạn, từng người một trong tất cả các bạn."[9]

Phục vụ cùng Hải đội Thiết giáp hạm 7

Trở thành soái hạm của Hải đội Thiết giáp hạm 7, Iowa rời Hoa Kỳ ngày 2 tháng 1 năm 1944 lên đường đi Thái Bình Dương, đi ngang qua kênh đào Panama vào ngày 7 tháng 1, và chuẩn bị hoạt động tác chiến mở màn tại quần đảo Marshall. Từ ngày 29 tháng 1 đến ngày 3 tháng 2, nó hỗ trợ các cuộc không kích từ các tàu sân bay thuộc Đội đặc nhiệm 38.3 của Chuẩn Đô đốc Frederick C. Sherman xuống các đảo san hô Kwajalein và Eniwetok. Nhiệm vụ tiếp theo của nó là hỗ trợ các cuộc không kích xuống căn cứ hải quân và tiếp tế chủ lực của Nhật Bản tại Truk thuộc quần đảo Caroline. Iowa cùng với các tàu chiến khác được tách ra khỏi lực lượng hỗ trợ vào ngày 16 tháng 2 năm 1944 để thực hiện đợt càn quét tàu bè quanh khu vực Truk, nhằm mục đích tiêu diệt các tàu bè đối phương đang tháo chạy về phía Bắc. Vào ngày 21 tháng 2, chiếc thiết giáp hạm phối hợp cùng Lực lượng Đặc nhiệm tàu sân bay nhanh[10] thực hiện các đợt tấn công nhắm vào Saipan, Tinian, Rota và Guam trong quần đảo Mariana. Trong đợt hoạt động này, Iowa đã giúp đánh chìm chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Katori.[4]Vào ngày 18 tháng 3 năm 1944, Iowa, treo cờ hiệu của Phó Đô đốc Willis A. Lee, tham gia việc bắn phá đảo san hô Mili thuộc quần đảo Marshall. Mặc dù bị bắn trúng hai phát đạn 120 mm (4,7 inch) Nhật Bản, Iowa chỉ bị thiệt hại nhẹ. Sau đó nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 58 vào ngày 30 tháng 3, và hỗ trợ cho các cuộc không kích lên quần đảo Palau và Woleai thuộc quần đảo Carolines trong nhiều ngày.[1]Từ ngày 22 đến ngày 28 tháng 4 năm 1944, Iowa hỗ trợ cho các cuộc không kích nhắm vào các đảo Hollandia (hiện nay là Jayapura), Aitape và Wakde nhằm giúp cho lực lượng lục quân tại Aitape và tại Tanahmerah và vịnh Humboldt ở Tân Guinea. Sau đó nó tham gia đợt tấn công thứ hai của Lực lượng đặc nhiệm vào Truk trong các ngày 29 và 30 tháng 4 và bắn phá các cơ sở Nhật Bản tại Ponape thuộc quầ đảo Caroline vào ngày 1 tháng 5.[1]Vào giai đoạn mở màn của Chiến dịch quần đảo Mariana và Palau, Iowa bảo vệ các tàu sân bay Mỹ trong các cuộc không kích xuống các đảo Saipan, Tinian, Guam, Rota và Pagan trong ngày 12 tháng 6. Sau đó Iowa tách ra để bắn phá các cơ sở đối phương tại Saipan và Tinian trong các ngày 13 và 14 tháng 6, phá hủy được một kho đạn Nhật. Trong ngày 19 tháng 6, trong trận chiến biển Philippine, Iowa, trong thành phần hàng thiết giáp hạm của Lực lượng Đặc nhiệm 58, đã giúp đẩy lui bốn đợt không kích lớn lao của Hạm đội Cơ động Nhật Bản. Kết quả của trận đánh quan trọng này là đã tiêu diệt hầu hết không lực trên tàu sân của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, trong đó Iowa đã góp phần mình khi bắn rơi ba máy bay đối phương. Sau đó Iowa tham gia việc truy đuổi hạm đội đối phương đang tháo chạy, bắn rơi một máy bay ném ngư lôi và trợ giúp vào việc tiêu diệt một chiếc khác.[4][1]Trong suốt tháng 7, Iowa tiếp tục tuần tra ngoài khơi vùng biển Mariana hỗ trợ các cuộc không kích xuống Palaus và cuộc đổ bộ lên Guam. Sau khi nghỉ ngơi một tháng, Iowa khởi hành từ Eniwetok trong thành phần của Đệ Tam hạm đội, và hỗ trợ cho việc đổ bộ lên Peleliu vào ngày 17 tháng 9. Sau đó nó bảo vệ cho các tàu sân bay trong các cuộc không kích vào miền Trung Philippines để vô hiệu hóa không lực đối phương, chuẩn bị cho cuộc đổ bộ đã được chờ đợi từ lâu lên quần đảo này. Ngày 10 tháng 10, Iowa đến vùng biển ngoài khơi Okinawa cho một loạt các cuộc không kích lên quần đảo Ryukyu và Đài Loan. Sau đó nó hỗ trợ cho các đợt không kích nhắm vào Luzon vào ngày 18 tháng 10 và tiếp tục vai trò này cho đến khi diễn ra cuộc đổ bộ lên Leyte của Tướng Douglas MacArthur vào ngày 20 tháng 10.[

Đặt hàng: 5 tháng 12 năm 1916

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Colorado

Xưởng đóng tàu: Newport News, Virginia

Đặt lườn: 24 tháng 4 năm 1917

Hạ thủy: 20 tháng 3 năm 1920

Đỡ đầu: E. Brook Lee

Hoạt động: 21 tháng 7 năm 1921

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 8 tháng 7 năm 1959

Ngừng hoạt động: 3 tháng 4 năm 1947

Xóa đăng bạ:

Tặng thưởng: 7 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 32.600 tấn

Chiều dài: 190 m (624855 ft)

Mạn thuyền: 29,7 m (97 ft 6 in)

Tầm nước: 9,3 m (30 ft 6 in)

Tốc độ: 39 km/h (21,2 knot)

Quân số: 1.080

Vũ khí: 8 × pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber

12 × pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber

4 × pháo 76 mm (3 inch)

4 × six-pounder (2,7 kg),

2 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)

USS Maryland (BB-46) (Fighting Mary) là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ hoạt động trong Thế chiến II. Nó thuộc lớp Colorado, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ bảy của Mỹ.

Nó từng là mục tiêu được quân Nhật nhắm đến trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, nhưng chỉ bị hư hỏng nhẹ. Sau khi được sửa chữa, nó tiếp tục hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương cho đến hết Thế chiến II. Nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 3 tháng 4 năm 1947, và bị bán để tháo dỡ vào ngày 8 tháng 7 năm 1959.

Thiết kế và chế tạo

Maryland được đặt lườn vào ngày 24 tháng 4 năm 1917 bởi hãng Newport News Shipbuilding tại Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 3 năm 1920, được đỡ đầu bởi E. Brook Lee, phu nhân của Kiểm soát viên bang Maryland và là con dâu của nghị sĩ bang Maryland Blair Lee; và được đưa vào hoạt động ngày 21 tháng 7 năm 1921 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng C.F. Preston.

Lịch sử hoạt động

Giữa hai cuộc chiến tranh

Với một loại máy phóng thủy phi cơ mới và các khẩu pháo 406 mm (16 inch) lần đầu tiên được trang bị cho một tàu chiến Hoa Kỳ, Maryland là niềm tự hào của Hải quân Mỹ. Sau chuyến đi chạy thử máy dọc theo bờ Đông nước Mỹ, nó được yêu cầu tham gia vào nhiều sự kiện đặc biệt. Nó xuất hiện tại Annapolis, Maryland trong dịp lễ tốt nghiệp năm 1922 của Học viện hải quân Hoa Kỳ và tại Boston, Massachusetts nhân dịp kỷ niệm trận Bunker Hill và Ngày Độc lập của nước Mỹ. Từ ngày 18 tháng 8 đến ngày 25 tháng 9 lần đầu tiên nó viếng thăm một cảng nước ngoài khi chở Ngoại trưởng Charles Evans Hughes đến Rio de Janeiro tham dự triển lãm Một trăm năm Brazil. Năm 1923, sau các cuộc tập trận hạm đội ngoài khơi khu vực kênh đào Panama, Maryland đi qua kênh đào vào cuối tháng 6 để gia nhập lực lượng hạm đội tại bờ Tây nước Mỹ.Nó thực hiện chuyến viếng thăm hữu nghị đến Australia và New Zealand vào năm 1925, và chở Tổng thống Herbert Hoover trên chặng Thái Bình Dương trong chuyến đi vòng quanh các nước Châu Mỹ Latin vào năm 1928. Trong những năm 1928- 1929, tám khẩu pháo phòng không 76 mm (3 inch) được thay thế bằng số lượng tương đương pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber.[1] Trong suốt những năm của thập niên 1930, nó là lực lượng nòng cốt của hạm đội qua hàng loạt các cuộc thực tập huấn luyện. Đến năm 1940 Maryland và các thiết giáp hạm khác thuộc lực lượng tàu chiến chuyển căn cứ đến Trân Châu Cảng. Nó có mặt tại hàng thiết giáp hạm neo đậu dọc theo đảo Ford khi Hải quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941.

Thế Chiến II

Thủy thủ Leslie Short là người đầu tiên trên chiếc Maryland đã khai hỏa khẩu súng máy của mình và đã bắn rơi một trong hai máy bay ném ngư lôi vừa mới tấn công chiếc Oklahoma. Neo đậu bên trong chiếc Oklahoma, và do đó tránh được cú tấn công phủ đầu bằng ngư lôi, Maryland đã tìm cách đưa được tất cả các súng phòng không vào hoạt động. Dù vậy, Maryland vẫn bị hai quả bom xuyên thép đánh trúng.[2] Quả thứ nhất đánh trúng khoang phía trước tàu tạo một lổ thủng 3 x 5 m (12 x 20 ft).[2] Quả thứ hai phát nổ sau khi xuyên qua sàn tàu đến mức ngấn nước 22 ft tại khung số 10,[2] gây ngập khoang tàu và làm tăng độ ngập nước phía trước thêm 1,5 m (5 ft).[2] Maryland vẫn tiếp tục chiến đấu, và sau đợt tấn công đã gởi các đội cứu hỏa đến giúp các con tàu chị em. Người Nhật tuyên bố rằng chiếc thiết giáp hạm đã bị đánh chìm, nhưng vào ngày 30 tháng 12, bị hư hại nhưng vẫn còn chắc chắn, con tàu đi vào ụ sửa chữa của Xưởng hải quân Puget Sound, Washington. Hai trong số 12 khẩu 127 mm (5 inch)/51 caliber ban đầu được tháo dỡ, và số pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber được thay thế bằng số lượng tương đương pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber.[1]Nó rời Puget Sound ngày 26 tháng 2 năm 1942, không chỉ được sửa chữa mà còn được hiện đại hóa và sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên trong trận Midway mang tính quyết định, những chiếc thiết giáp hạm cũ quá chậm chạp không thể đủ tốc độ để tháp tùng các tàu sân bay nên chỉ hoạt động như những lực lượng dự phòng. Vì vậy, Maryland hầu như chỉ tham gia các cuộc diễn tập huấn luyện cho đến ngày 1 tháng 8 khi nó quay về Trân Châu Cảng.Được giao nhiệm vụ canh giữ dọc theo tuyến đường vận chuyển phía Nam đến Australia và các chiến trường khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, Maryland cùng Colorado hoạt động ngoài khơi quần đảo Fiji trong tháng 11 năm 1942 rồi tiến sang quần đảo New Hebrides vào tháng 2 năm 1943. Nó quay về Trân Châu Cảng sau mười tháng tại các điểm nóng ở Nam Thái Bình Dương để được trang bị thêm các khẩu pháo phòng không 40 mm.Trong một loạt các chiến dịch tại Thái Bình Dương, hỏa lực mạnh mẻ của thiết giáp hạm Maryland và những con tàu chị em với nó đóng một vai trò quyết định. Rời quần đảo Hawaii ngày 20 tháng 10 năm 1943 hướng đến khu vực nam Thái Bình Dương, Maryland trở thành soái hạm cho Lực lượng tấn công phía Nam của Chuẩn Đô đốc Harry W. Hill trong cuộc tấn công vào quần đảo Gilbert, cùng Trung tướng Julian C. Smith Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến 2 trên tàu. Sáng sớm ngày 20 tháng 11, dàn pháo chính của nó bắt đầu đợt bắn phá kéo dài năm ngày và nả pháo theo yêu cầu để hỗ trợ cho một trong những chiến dịch đổ bộ dũng cảm nhất trong lịch sử lên Tarawa. Sau khi chiếm đóng được hòn đảo, nó tiếp tục ở lại khu vực này bảo vệ việc vận chuyển cho đến khi nó quay trở về Hoa Kỳ ngày 7 tháng 12.Maryland khởi hành từ San Pedro, California vào ngày 13 tháng 1 năm 1944, gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 53 tại Hawaii, di chuyển đến vùng biển ngoài khơi Kwajalein, là một cứ điểm được củng cố rất vững chắc trong quần đảo Marshall, vào buổi sáng ngày 31 tháng 1. Được giao nhiệm vụ áp chế các công sự phòng thủ trên đảo Roi, chiếc thiết giáp hạm cũ nả đạn pháo trong suốt ngày và cả buổi sáng ngày hôm sau, cho đến khi các đợt tấn công chỉ còn cách bờ biển tiền duyên 450 m. Sau chiến dịch này, nó quay trở về Bremerton, Washington, để được đại tu và trang bị các khẩu pháo hạng trung thế hệ mới hơn.Hai tháng sau Maryland quay lại tình trạng sẵn sàng chiến đấu, và khởi hành ngày 5 tháng 5 năm 1944 về hướng Tây để tham gia chiến dịch đổ bộ lớn nhất từng thực hiện tại mặt trận Thái Bình Dương xuống Saipan. Phó Đô đốc Richmond K. Turner bố trí Lực lượng Đặc nhiệm TF 52 một thời hạn ba ngày để vô hiệu hóa hàng rào hỏa lực phòng thủ trên hòn đảo. Việc bắn phá được bắt đầu lúc 5 giờ 45 phút ngày 14 tháng 6. Khóa miệng được hai khẩu pháo duyên hải, Maryland chỉ bị chống trả một cách yếu ớt khi nó tiếp tục các đợt nả pháo vào các mục tiêu đối phương. Tuy nhiên quân Nhật đã tìm cách đáp trả bằng không quân. Ngày 18 tháng 6, xạ thủ súng phòng không trên tàu đã ghi được chiến công đầu tiên, nhưng bốn ngày sau một chiếc G4M Betty bay thấp ngang qua các ngọn đồi còn đang tranh chấp trên đảo và phát hiện ra hai chiếc tàu chiến đang buông neo. Vượt qua phần mũi chiếc thiết giáp hạm Pennsylvania, nó thả một quả ngư lôi trúng đích làm xé toang một lổ hổng bên mạn trái phần trước mũi chiếc Maryland. Con tàu chỉ bị thiệt hại nhẹ, và sau 15 phút nó lên đường đi Eniwetok, rồi sau đó quay về Trân Châu Cảng để sửa chữaNhờ những nổ lực suốt ngày đêm của công nhân xưởng tàu, vào ngày 19 tháng 8 năm 1944, 34 ngày sau khi vào xưởng, chiếc thiết giáp hạm lại lên đường hướng về khu vực chiến sự. Sau một đợt diễn tập ngắn tại quần đảo, nó gia nhập Đội Đặc nhiệm TG 32.5 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Jesse B. Oldendorf, là lực lượng hỗ trợ hỏa lực hướng Tây tiến đến quần đảo Palau. Bắt đầu các đợt bắn phá vào ngày 12 tháng 9 hỗ trợ các hoạt động quét mìn và các đội công binh người nhái dưới nước, nó tiếp tục việc bắn phá mục tiêu cho đến khi các xuồng đổ bộ tiếp cận các bãi biển vào ngày 15 tháng 9. Sau bốn ngày, mọi sự đề kháng của đối phương bị áp chế hoàn toàn cho phép các con tàu hỗ trợ hỏa lực quay về quần đảo Admiralty.Được phân về Hạm đội 7, Maryland lên đường ngày 12 tháng 10 năm 1944 để hỗ trợ cuộc đổ bộ quan trọng lên đảo Leyte thuộc quần đảo Philippines. Cho dù bị phong tỏa bởi thủy lôi, lực lượng đổ bộ vẫn tiến vào vịnh Leyte ngày 18 tháng 10. Công việc bắn phá vào ngày hôm sau và việc đổ bộ vào ngày 20 tháng 10 tiến triển tốt đẹp, nhưng quân Nhật quyết định phản công bằng cả máy bay cảm tử kamikaze lẫn ba gọng kìm tàu chiến.Được cảnh báo trước bởi tàu ngầm và máy bay trinh sát, lực lượng thiết giáp hạm và tàu tuần dương Mỹ lên đường ngày 24 tháng 10 năm 1944 hướng đến cực nam của vịnh Leyte để bảo vệ eo biển Surigao. Sáng sớm ngày 25 tháng 10, các thiết giáp hạm đối phương Fusō và Yamashiro dẫn đầu hải đội Nhật Bản tiến qua eo biển, và bị lực lượng phục kích đang chờ đợi tấn công quyết liệt. Trước tiên là những quả ngư lôi từ những chiếc PT boat, rồi thêm nhiều ngư lôi từ những tàu khu trục đã tiêu diệt chiếc Fusō. Sau đó là hỏa lực từ các tàu tuần dương, và cuối cùng lúc 3 giờ 55 phút là các khẩu pháo chính từ hàng thiết giáp hạm. Các loạt đạn pháo cỡ lớn bắn dồn dập đã khiến hàng ngũ đối phương đi chậm lại và các thiết giáp hạm Nhật bốc cháy. Bỏ lại những chiếc thiết giáp hạm có số phận bi đát, hải đội Nhật còn lại rút lui, nhưng chỉ có một số nhỏ thoát khỏi các cuộc không kích tiếp theo sau. Tương tự như vậy, các lực lượng Mỹ khác đã tiêu hao và đánh lui các đợt tấn công phía Bắc của đối phương trong Trận chiến vịnh Leyte mang tính quyết định.Sau chiến thắng quan trọng này, Maryland tuần tra tại các ngỏ đường dẫn đến eo biển Surigao cho đến ngày 29 tháng 10 năm 1944. Sau một đợt nghỉ ngơi tiếp liệu tại Manus, Admiralties, nó tiếp tục nhiệm vụ tuần tra vào ngày 16 tháng 11. Các đợt không kích của máy bay Nhật tiếp tục là mối nguy hiểm tiềm táng. Trong một đợt không kích vào ngày 17 tháng 11, các khẩu pháo của Đội Đặc nhiệm TG 77.2 đã bắn rơi 11 máy bay tấn công. Hai ngày sau đó, không lâu sau lúc hoàng hôn, một máy bay tự sát ló ra khỏi đám mây và đâm trúng chiếc Maryland giữa các tháp súng số 1 và số 2, làm 31 thủy thủ thiệt mạng trong vụ nổ và đám cháy bùng lên sau đó. Đến ngày 29 tháng 11, Maryland một lần nữa bị hư hại bởi một cuộc tấn công cảm tử kamikaze khác;[3] tuy nhiên, chiếc thiết giáp hạm kiên cường vẫn tiếp tục nhiệm vụ tuần tra của nó cho đến khi được thay phiên vào ngày 2 tháng 12. Nó về đến Trân Châu Cảng ngày 18 tháng 12, và trong hai tháng tiếp theo, công nhân xưởng tàu đã sửa chữa và tái trang bị cho "Fighting Mary".Sau một khóa thực tập huấn luyện, Maryland khởi hành ngày 4 tháng 3 năm 1945 hướng đến khu vực tây Thái Bình Dương, và đi đến Ulithi ngày 16 tháng 3. Tại đây nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 54 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc M.L. Deyo và vào ngày 21 tháng 3 lên đường tiến hành cuộc tấn công chiếm đóng Okinawa. Nó tiến đến gần bờ biển Okinawa ngày 25 tháng 3 và bắt đầu bắn phá các mục tiêu được chỉ định dọc theo phần Tây Nam của hòn đảo pháo đài này. Ngoài ra nó còn bắn pháo yểm trợ cho một cuộc tấn công phân tán vào bờ biển Đông Nam nhằm đánh lạc hướng đối phương khỏi hướng đổ bộ chính tại các bãi biển hướng Tây. Ngày 3 tháng 4, nó nhận được lời yêu cầu hỗ trợ hỏa lực từ Minneapolis (CA-36). Chiếc tàu tuần dương đã không thể áp chế các khẩu đội pháo duyên hải đối phương bằng các khẩu pháo 203 mm (8 inch), nên đã nhờ cậy đến các khẩu pháo 406 mm (16 inch) của "Fighting Mary" trợ giúp. Sáu loạt pháo cỡ nòng lớn từ chiếc thiết giáp hạm kỳ cựu đã tiêu diệt được toàn bộ pháo đối phương.Maryland tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực cho đến ngày 7 tháng 4 năm 1945, khi nó khởi hành cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 54 đi đánh chặn một lực lượng tàu nổi Nhật Bản về phía Bắc. Lực lượng này, bao gồm cả chiếc thiết giáp hạm khổng lồ Yamato, đã chịu những đợt không kích căng thẳng cùng ngày hôm đó, và máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm tàu sân bay nhanh đã đánh chìm sáu trong số mười tàu chiến của hạm đội này, kể cả chiếc Yamato. Chập tối ngày 7 tháng 4, Maryland trúng phải cú không kích tự sát thứ ba trong vòng mười tháng, khi một máy bay cảm tử mang theo một quả bom 230 kg (500 lb) đâm trúng nóc tháp pháo số 3 từ mạn phải. Vụ nổ bắn tung toàn bộ các khẩu súng 20 mm bêm trên tháp và gây 53 thương vong. Tuy vậy, như những lần trước, nó vẫn tiếp tục nhiệm vụ bắn phá bờ biển đối phương bằng những quả đạn pháo 406 mm (16 inch). Và trong khi canh gác khu vực vận chuyển phía tây trong ngày 11 tháng 4, nó bắn rơi được hai máy bay đối phương trong một đợt không kích chiều hôm đó.Ngày 14 tháng 4 năm 1945, Maryland rời khu vực chiến trường để hộ tống cho đoàn tàu vận tải quay trở về căn cứ. Đia ngang qua quần đảo Mariana và Trân Châu Cảng, nó về đến xưởng hải quân Puget Sound tại Bremerton, Washington ngày 7 tháng 5, và ngày hôm sau tiến hành đợt đại tu rộng rãi. Tất cả các khẩu pháo 127 mm (5 inch) cũ được tháo bỏ thay thế bằng 16 khẩu pháo 127 mm 5"/38 caliber bố trí trên các tháp pháo đôi mới.[1] Hoàn tất các việc việc sửa chữa vào tháng 8, giờ đây chiếc thiết giáp hạm tham gia vào các Chiến dịch Magic Carpet. Trong bốn tháng tiếp theo sau, nó thực hiện năm chuyến đi giữa bờ Tây nước Mỹ và Trân Châu Cảng, hồi hương hơn 8.000 cựu chiến binh về lục địa Hoa Kỳ.Về đến Seattle, Washington ngày 17 tháng 12 năm 1945, nó hoàn tất nhiệm vụ vận chuyển Magic Carpet. Nó vào xưởng hải quân Puget Sound ngày 15 tháng 4 năm 1946 và được xếp vào lực lượng dự bị vào ngày 16 tháng 7. Nó được cho ngừng hoạt động tại Bremerton ngày 3 tháng 4 năm 1947 nhưng được giữ lại trong Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương. Cuối cùng vào ngày 8 tháng 7 năm 1959 Maryland được bán cho hãng Learner tại Oakland, California để được tháo dỡ.Ngày 2 tháng 6 năm 1961, Thống đốc tiểu bang Maryland bấy giờ là J. Millard Tawes đã quyết định xây dựng một đài tưởng niệm để ghi nhớ chiếc thiết giáp hạm cùng những người phục vụ trên nó. Được xây dựng bằng đá granite và đồng, và cũng mang chiếc chuông của "Fighting Mary", tượng đài này được đặt tại sân của tòa nhà tiểu bang ở Annapolis, Maryland.Maryland được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến đấu vì thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Đặt hàng: 15 tháng 12 năm 1938

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm South Dakota (1939)

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Fore River

Đặt lườn: 20 tháng 7 năm 1939

Hạ thủy: 23 tháng 9 năm 1941

Đỡ đầu: Charles Francis Adams

Hoạt động: 12 tháng 5 năm 1942

Ngừng hoạt động: 27 tháng 3 năm 1947

Xóa đăng bạ: 1 tháng 6 năm 1962

Tình trạng: Tàu bảo tàng ở Fall River, Massachusetts.

Tặng thưởng: 11 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 35.000 tấn (tiêu chuẩn)

Chiều dài: 208 m (680 ft 10 in)

Mạn thuyền: 33 m (108 ft 2 in)

Tầm nước: 8,9 m (29 ft 4 in)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước

8 nồi hơi đốt dầu, 4 trục

công suất 130.000 mã lực (97 MW)

Tốc độ: 50,2 km/h (27,8 knot)

Tầm xa: 37.000 km ở tốc độ 28 km/h

(20.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 115 sĩ quan, 1678 thủy thủ

Vũ khí: 9 × pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber Mark 6

20 × pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber

24 × súng phòng không 40 mm

35 × súng phòng không 20 mm

Cảm biến:

Vỏ giáp: Tối đa 310 mm (12,2 inch)

Máy bay: 2 × OS2U Kingfisher

USS Massachusetts (BB-59), tên lóng mà thủy thủ đoàn thường gọi "Big Mamie" trong Thế Chiến II, là một thiết giáp hạm thuộc lớp South Dakota. Nó là chiếc tàu chiến thứ bảy của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ sáu của Hoa Kỳ. Chiếc tàu chiến, vốn được đưa ra hoạt động trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai, được tin là chiếc tàu chiến Mỹ đã bắn những phát đạn pháo 406 mm đầu tiên cũng như phát cuối cùng của cuộc chiến này.BB-59 hiện nay là một tàu bảo tàng tại Battleship Cove ở Fall River thuộc Massachusetts.

Thiết kế và chế tạo

Lườn của Massachusetts được đặt lườn vào ngày 20 tháng 7 năm 1939 tại xưởng tàu Fore River ở Quincy, Massachusetts. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 9 năm 1941, được đở đầu bởi Bà Charles Francis Adams, phu nhân Bộ trưởng Hải quân, và được đưa vào hoạt động ngày 12 tháng 5 năm 1942 tại Boston, Massachusetts dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Francis E.M. Whiting.

Lịch sử hoạt động

Các chiến dịch Đại Tây Dương

Sau chuyến đi chạy thử máy, Massachusetts rời vịnh Casco tại Portland, Maine vào ngày 24 tháng 10 năm 1942, và gặp gỡ Lực lượng Đặc nhiệm Hải quân Tây bốn ngày sau đó nhằm chuẩn bị cho cuộc tấn công lên Bắc Phi, phục vụ như là soái hạm của Đô đốc H. Kent Hewitt. Trong khi di chuyển ngoài khơi Casablanca ngày 8 tháng 11 để hỗ trợ cho Chiến dịch Torch, nó chịu đựng hỏa lực pháo 381 mm (15 inch) bắn ra từ chiếc thiết giáp hạm Pháp mới Jean Bart. Nó bắn trả vào lúc 07 giờ 40 phút, bắn đi những quả đạn hải pháo 406 mm (16 inch) đầu tiên của Mỹ tại chiến trường Châu Âu. Trong vòng vài phút, dàn pháo chính của chiếc Jean Bart im tiếng. Sau đó, với sự trợ giúp của chiếc tàu tuần dương hạng nặng Tuscaloosa, Massachusetts chuyển mục tiêu sang các tàu khu trục Pháp lúc này cùng tham gia cuộc tấn công, đánh chìm Fougueux và Boulonnais cùng chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Primauguet. Bản thân chiếc thiết giáp hạm bị bắn trúng hai phát đạn pháo 240 mm từ các khẩu đội pháo trên bờ, nhưng chỉ bị thiệt hại nhẹ. Nó cũng nả pháo vào các mục tiêu trên bờ bao gồm các khẩu đội pháo và một kho đạn. Sau khi dàn xếp được việc ngừng bắn đối với lực lượng Pháp, Massachusetts quay trở về Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 11 và chuẩn bị để được bố trí sang chiến trường Thái Bình Dương.

Các chiến dịch Thái Bình Dương

Massachusetts đi đến Noumea, New Caledonia, vào ngày 4 tháng 3 năm 1943. Trong những tháng tiếp theo sau, nó hoạt động tại mặt trận Nam Thái Bình Dương, bảo vệ các đoàn tàu vận tải và hỗ trợ cho các chiến dịch tại quần đảo Solomon. Từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 11, nó di chuyển cùng một đội đặc nhiệm tàu sân bay tấn công Makin, Tarawa và Abemama thuộc quần đảo Gilbert. Sang ngày 8 tháng 12, nó bắn phá các vị trí quân Nhật trên Nauru; và vào ngày 29 tháng 1 năm 1944 nó hộ tống các tàu sân bay trong việc tấn công Tarawa thuộc quần đảo Gilbert.Hải quân Mỹ giờ đây tiến quân đều đặn vượt ngang qua Thái Bình Dương. Ngày 30 tháng 1, Massachusetts dội pháo xuống Kwajalein, và nó đã hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên đây vào ngày 1 tháng 2. Cùng một đội đặc nhiệm tàu sân bay, chiếc thiết giáp hạm đã tấn công các vị trí cố thủ của quân Nhật tại Truk vào ngày 17 tháng 2. Đòn đột kích này không những đã gây thiệt hại nặng cho lực lượng không quân và hải quân Nhật, mà còn giáng một đòn mạnh và tinh thần chiến đấu của đối phương. Trong các ngày 21 và 22 tháng 2, Massachusetts giúp chống trả một đợt tấn công mạnh mẻ của đối phương nhằm vào đội đặc nhiệm khi họ đang thực hiện không kích xuống Saipan, Tinian và Guam. Chiếc thiết giáp hạm tham gia tấn công quần đảo Caroline vào cuối tháng 3 rồi tham dự vào cuộc tấn công Hollandia (ngày nay là Jayapura) vào ngày 22 tháng 4, nơi tiến hành việc đổ bộ 60.000 quân để chiếm lĩnh hòn đảo này. Trên đường rút lui khỏi Hollandia, đội đặc nhiệm của nó còn giáng thêm một đòn tấn công khác nhắm vào Truk.Massachusetts nả pháo xuống đảo Ponape trong ngày 1 tháng 5, nhiệm vụ tác chiến cuối cùng của nó trước khi lên đường quay về Puget Sound để đại tu và xẻ rảnh lại các nòng pháo của nó vốn đã bị nhẵn ra do sử dụng quá mức trong chiến trận. Ngày 1 tháng 8, chiếc thiết giáp hạm rời Trân Châu Cảng tiếp tục tham chiến tại khu vực mặt trận Thái Bình Dương. Nó rời quần đảo Marshall vào ngày 6 tháng 10 để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ tại vịnh Leyte. Trong một nỗ lực nhằm ngăn chặn các cuộc không kích của quân Nhật để cản trở chiến dịch thực hiện tại đây, Massachusetts tham gia cuộc không kích xuống Okinawa vào ngày 10 tháng 10. Từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 10, nó bảo vệ cho lực lượng tiến hành không kích lên Đài Loan. Trong thành phần của Đội Đặc nhiệm 38.3, chiếc thiết giáp hạm đã tham gia Trận chiến vịnh Leyte từ ngày 22 đến ngày 27 tháng 10, khi máy bay của đội đặc nhiệm đã góp phần đánh chìm bốn tàu sân bay Nhật Bản trong Trận chiến ngoài khơi mũi Engaño.Dừng chân một chặng ngắn tại Ulithi, Massachusetts quay trở lại Philippines trong thành phần của lực lượng đặc nhiệm không kích Manila vào ngày 14 tháng 12. Trong khi hỗ trợ cho cuộc tấn công chiếm đóng Mindoro, Massachusetts gặp phải cơn bão Cobra vào ngày 17 tháng 12, với sức gió lên đến 220 km/h (120 knot) vốn đã nhấn chìm ba tàu khu trục. Từ ngày 30 tháng 12 năm 1944 đến ngày 23 tháng 1 năm 1945, chiếc thiết giáp hạm nằm trong thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm 38, tiến hành không kích Đài Loan và hỗ trợ cho cuộc đổ bộ tại Lingayen. Trong thời gian này, nó còn quay trở lại khu vực biển Nam Trung Hoa, khi lực lượng đặc nhiệm của nó tấn công các tàu bè trong khu vực từ Sài Gòn đến Hong Kong, và kết thúc đợt tác chiến bằng các cuộc không kích xuống Đài Loan và Okinawa.Từ ngày 10 tháng 2 đến ngày 3 tháng 3, cùng với Đệ Ngũ hạm đội, Massachusetts bảo vệ các tàu sân bay khi chúng tiến hành không kích xuống đảo Honshū. Đội đặc nhiệm của nó còn thực hiện không kích xuống Iwo Jima chuẩn bị cho việc chiếm đóng hòn đảo này. Ngày 17 tháng 3, các tàu sân bay thực hiện không kích xuống Kyūshū trong khi Massachusetts nổ súng chống trả các đợt tấn công của máy bay đối phương, bắn rơi nhiều máy bay. Bảy ngày sau, nó tiến hành bắn phá Okinawa. Chiếc thiết giáp hạm trải qua hầu hết thời gian của tháng 4 chống trả các cuộc không kích của đối phương. Sau một chặng nghỉ ngơi, nó quay trở lại khu vực chiến sự Okinawa vào tháng 6, và lại phải đi qua tâm một cơn bão khác với sức gió lên đến 180 km/h (100 knot) vào ngày 5 tháng 6. Nó tiến hành nả pháo xuống Minami Daito Jima thuộc quần đảo Ryukyu vào ngày 10 tháng 6.Massachusetts lên đường ngày 1 tháng 7 từ vịnh Leyte để tham gia đợt tấn công cuối cùng của Đệ Tam hạm đội xuống Nhật Bản. Sau khi hộ tống các tàu sân bay tung ra các cuộc không kích xuống khu vực Tokyo, chiếc thiết giáp hạm tiến hành dội pháo xuống Kamaishi trên đảo Honshū vào ngày 14 tháng 7, một trung tâm công nghiệp sắt thép lớn thứ hai của Nhật Bản. Hai tuần sau, nó tiến hành nả pháo xuống tổ hợp công nghiệp tại Hamamatsu, trước khi quay trở lại bắn phá Kamaishi một lần nữa vào ngày 9 tháng 8. Chính tại nơi đây mà Massachusetts đã nả những quả đạn pháo 406 mm (16 inch) có thể xem là cuối cùng của Thế Chiến II.Massachusetts được tặng thưởng 11 Ngôi sao Chiến đấu do thành tích hoạt động trong Thế Chiến II. Trong suốt cuộc chiến này, không có thiệt mạng về nhân sự Hải quân hay Thủy quân Lục chiến do hoạt động của đối phương xảy ra bên trên chiếc Massachusetts.

Các hoạt động sau chiến tranh

Sau khi Nhật Bản đầu hàng, chiếc thiết giáp hạm khởi hành vào ngày 1 tháng 9 năm 1945 hướng về Puget Sound để đại tu. Nó rời khỏi xưởng tàu vào ngày 28 tháng 1 năm 1946 để hoạt động ngoài khơi bờ biển California, cho đến khi rời San Francisco, California hướng đến Hampton Roads, và đến nơi vào ngày 22 tháng 4. Massachusetts được cho ngừng hoạt động vào ngày 27 tháng 3 năm 1947 và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương tại Norfolk, Virginia; rồi được rút kh̉i danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1962."Big Mamie", như nó vẫn thường được gọi một cách thân mật, đã tránh khỏi số phận bị biến thành sắt vụn, khi các cựu chiến binh và công dân của tiểu bang Massachusetts, với sự phụ giúp của học sinh của tiểu bang đã quyên góp được 50.000 Đô-la, đả chuyển quyền sở hữu con tàu cho Ủy ban Tưởng niệm Massachusetts vào ngày 8 tháng 6 năm 1965. Chiếc tàu chiến kỳ cựu được cho neo đậu tại Battleship Cove ở Fall River, Massachusetts, vào ngày 14 tháng 8 năm 1965, như một đài tưởng niệm của tiểu bang dành cho những người đã ngả xuống trong Thế Chiến II.Vào những năm 1980, dưới thời nội các của Tổng thống Ronald Reagan, chương trình "600 tàu chiến" nhằm hiện đại hóa Hải quân Mỹ đã cho tái hoạt động toàn bộ bốn chiếc thiết giáp hạm thuộc lớp Iowa. Hải quân đã cho huy động một số lượng lớn các thiết bị chuyên dùng và linh kiện phụ tùng còn đang được dự trữ bên trên chiếc Massachusetts. Vào năm 1998, nó được kéo đến Ụ nổi số 3 lịch sử tại cảng Boston để đại tu, rồi được cho quay trở lại Fall River vào năm tiếp theo.USS Massachusetts là một trong số tám thiết giáp hạm của Hải quân Mỹ còn lại cho đến nay (cùng với Iowa, Texas, Alabama, North Carolina, New Jersey, Missouri và Wisconsin), trong số rất nhiều chiếc đã từng được chế tạo trong nữa đầu của thế kỷ 20.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro