Ham doi thiet giap ham Hoa Ky trong WW2 4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Florida

Xưởng đóng tàu: New York Shipbuilding Corporation

Đặt lườn: 9 tháng 3 năm 1909

Hạ thủy: 23 tháng 12 năm 1909

Đỡ đầu: Mary Alice Spry

Hoạt động: 31 tháng 8 năm 1911

Bị mất: Bị đánh chìm trong vụ Tấn công Trân Châu Cảng

Ngừng hoạt động: 5 tháng 9 năm 1944

Xóa đăng bạ: 13 tháng 11 năm 1944

Tặng thưởng: 1 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 21.825 tấn

Chiều dài: 159 m (521 ft 6 in)

Mạn thuyền: 27 m (88 ft 4 in)

Tầm nước: 8,6 m (28 ft 4 in)

Tốc độ: 38,5 km/h (20,8 knot)

Quân số: 1.041

Vũ khí: 10 × pháo 305 mm (12 inch)/45 caliber Mark 5

16 × pháo 127 mm (5 inch)/51 cal[1]

2 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)

USS Utah (BB-31) là một thiết giáp hạm cũ thuộc lớp Florida, đã bị tấn công và đánh chìm tại Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang Utah. Trước Thế Chiến II, nó được xem là không còn hữu dụng và đã được sử dụng trong một thời gian như một mục tiêu di động để thực hành tác xạ với ký hiệu AG-16. Tuy nhiên vào năm 1941, nó được tái trang bị và được sử dụng cho mục đích huấn luyện cho đến khi bị Hải quân Nhật đánh chìm bởi một quả ngư lôi duy nhất.

Thiết kế và chế tạo

Utah được đặt lườn vào ngày 9 tháng 3 năm 1909 tại Camden, New Jersey bởi New York Shipbuilding Corporation. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 12 năm 1909 dưới sự đỡ đầu của Mary Alice Spry, con gái Thống đốc tiểu bang Utah William Spry; và được đưa vào hoạt động tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 31 tháng 8 năm 1911 dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng William S. Benson.

Lịch sử hoạt động

Sau một chuyến đi thử máy đưa nó lần lượt viếng thăm Hampton Roads, đảo Santa Rosa, Pensacola, Florida, Galveston, Texas, Kingston, Jamaica, Portland Bight và vịnh Guantánamo thuộc Cuba; Utah được phối thuộc cho Hạm đội Đại Tây Dương vào tháng 3 năm 1912. Nó hoạt động cùng hạm đội này vào đầu mùa Xuân, tiến hành các cuộc thực tập tác xạ pháo và phòng thủ ngư lôi, trước khi quay vào xưởng hải quân New York ngày 16 tháng 4 để được đại tu.Rời New York ngày 1 tháng 6, Utah viếng thăm Hampton Roads một thời gian ngắn rồi lên đường hướng đến Annapolis, Maryland và đến nơi ngày 6 tháng 6. Tại đây nó nhận lên tàu các học viên mới của Học viện Hải quân Hoa Kỳ rồi lên đường ngày 10 tháng 6 đi đến Virginia Capes và Đại Tây Dương. Nó tiến hành một khóa huấn luyện học viên mới ngoài khơi vùng biển New England cho đến hết mùa Hè trước khi hoàn trả các học viên sĩ quan tương lai về Annapolis trong các ngày 24 và 25 tháng 8. Không lâu sau đó, chiếc thiết giáp hạm hướng đến khu vực thực tập phía nam để thực hành tác xạ pháo.Trong hơn hai năm sau đó, chiếc thiết giáp hạm tiến hành các hoạt động thường xuyên tại vùng biển ngoài khơi bờ Đông nước Mỹ, trải dài từ bờ biển New England đến vùng biển Cuba. Trong thời gian này, nó thực hiện một chuyến đi đến vùng biển Châu Âu, viếng thăm Villefranche, Pháp, từ ngày 8 đến ngày 30 tháng 11 năm 1913.Utah bắt đầu năm 1914 trong Xưởng hải quân New York, sau đó di chuyển về hướng Nam vào ngày 5 tháng 1. Sau khi dừng tại Hampton Roads, nó đến vùng biển Cuba cuối tháng đó để thực hành tác xạ ngư lôi và pháo cỡ nhỏ. Tuy nhiên, do sự căng thẳng gia tăng tại Mexico, Utah di chuyển đến vùng biển nước này vào đầu tháng 2 và đi đến Vera Cruz vào ngày 16 tháng 2. Nó hoạt động ngoài khơi cảng này rồi hướng đến Tampico vào ngày 9 tháng 4 cùng hàng trăm người tị nạn trên tàu. Không lâu sau đó, nó nhận được tin tức về việc con tàu chở hàng Đức SS Ypiranga đang hướng về phía cảng Vera Cruz với một chuyến hàng vũ khí và đạn dược cho nhà độc tài Victoriano Huerta. Utah nhận được lệnh truy tìm con tàu, nó ra khơi và đi đến Vera Cruz ngày 16 tháng 4. Khi biết rằng con tàu nói trên có thể đã cập bến, Hải quân quyết định sẽ chiếm giữ sở thuế quan tại Vera Cruz và ngăn chặn việc giao hàng. Vì mục đích đó, kế hoạch được vạch ra nhằm đổ bộ lên Vera Cruz, và việc này được xúc tiến vào ngày 21 tháng 4 năm 1914.Utah cho đổ bộ "tiểu đoàn" của nó, 17 sĩ quan và 367 thủy thủ dưới quyền chỉ huy của Đại úy Guy W. S. Castle cùng một chi đội Thủy quân Lục chiến là một phần của Lữ đoàn 1 Thủy quân Lục chiến, vốn được thành lập để đối phó tình hình từ các đơn vị thủy quân lục chiến của các con tàu Mỹ khác cùng đến vùng biển này để thể hiện lập trường của Mỹ. Trong trận chiến sau đó, nơi mà tiểu đoàn áo xanh của Utah đã chiến đấu dũng cảm, bảy người đã được tặng thưởng Huân chương Danh Dự bao gồm người chỉ huy là Đại úy Castle.Utah ở lại Vera Cruz gần hai tháng trước khi quay trở về Xưởng hải quân New York vào cuối tháng 6 để được đại tu. Trong ba năm sau đó, chiếc thiết giáp hạm tiến hành các hoạt động thường xuyên tập trận và thao diễn hạm đội ngoài khơi bờ biển phía Đông cho đến vùng biển Caribbe, khi Hoa Kỳ duy trì lực lượng quân đội trong tình trạng sẵn sàng trước lúc tham gia vào Thế Chiến I.

Thế Chiến I

Sau khi Hoa kỳ chính thức tuyên chiến vào ngày 6 tháng 4 năm 1917, Utah hoạt động tại vùng biển ngoài khơi vịnh Chesapeake như một tàu huấn luyện kỹ thuật và tác xạ cho đến ngày 30 tháng 8 năm 1918, khi nó lên đường hướng đến vịnh Bantry cùng với Phó Đô đốc Henry T. Mayo, Tổng tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương.Mối lo ngại về việc Đức dùng vũ khí hạng nặng tấn công các đoàn tàu vận tải chuyên chở binh lính và vũ khí vượt Đại Tây Dương sang mặt trận phía Tây (Châu Âu) khiến người ta phải điều một lực lượng thiết giáp hạm mạnh sang vùng biển Ái Nhĩ Lan. Trong cuộc điều động này, Utah đến Brerehaven, vịnh Bantry, Ái Nhĩ Lan vào ngày 10 tháng 9. Tại đây, nó trở thành soái hạm của Chuẩn Đô đốc Thomas S. Rodgers, Tư lệnh đội thiết giáp hạm 6 (BatDiv 6). Cho đến khi ký kết hiệp ước đình chiến vào ngày 11 tháng 11 năm 1918, Utah cùng với Nevada và Oklahoma hoạt động từ vịnh Bantry, hộ tống các đoàn tàu vận tải Đồng Minh ghé vào quần đảo Anh Quốc, sẵn sàng đối phó với mọi sự đe dọa trên mặt biển mà Hải quân Đế chế Đức có thể nhắm vào các con tàu vận tải và tiếp liệu quý giá của Đồng Minh.Sau khi chấm dứt chiến sự, Utah ghé thăm đảo Portland của Anh Quốc, và sau đó than gia vào đoàn hộ tống danh dự cho chiếc George Washington, khi con tàu này chở Tổng thống Woodrow Wilson đi đến cảng Brest, Pháp vào ngày 13 tháng 12 năm 1918. Ngày hôm sau, Utah quay về nhà, và nó về đến New York vào ngày lễ Giáng sinh năm 1918.

Những năm giữa hai cuộc thế chiến

Utah tiếp tục thả neo tại North River bên ngoài thành phố New York cho đến ngày 30 tháng 1 năm 1919. Trong thời gian này, nó từng treo cờ rũ lúc 14 giờ 40 phút ngày 7 tháng 1 do cái chết của Cựu Tổng thống Theodore Roosevelt, và trong ngày 8 tháng 1 nó bắn pháo chào cách mỗi nửa giờ một lần trong suốt ngày để tưởng nhớ vị chính khách Hoa Kỳ vĩ đại này.Utah tiến hành các hoạt động thường xuyên thực tập và thao diễn hạm đội, trải dài từ bờ biển New England đến vùng biển Caribbe đến tận giữa năm 1921. Trong thời gian này, nó được đặt số hiệu lườn tàu là BB-31 vào ngày 17 tháng 7 năm 1920, khi Hải quân Mỹ áp dụng rộng rãi cách dùng ký hiệu phân loại lớp tàu.Rời cảng Boston ngày 9 tháng 7 năm 1921, Utah hướng đến Lisbon, Bồ Đào Nha, và đến Cherbourg, Pháp không lâu sau đó. Tại đây, Utah trở thành soái hạm của lực lượng hải quân Mỹ tại các vùng biển Châu Âu. Nó đảm trách vai trò này tại các cảng chính ở Đại Tây Dương và Địa Trung Hải cho đến khi được thay thế bởi chiếc tàu tuần dương Pittsburgh vào tháng 10 năm 1922. Quay trở về Hoa Kỳ ngày 21 tháng 10 năm 1922, Utah trở thành soái hạm của Đội thiết giáp hạm 6 và hoạt động cùng Hạm đội Tuần tiểu trong vòng hơn ba năm rưỡi tiếp theo.Cuối năm 1924, Utah được chọn thực hiện nhiệm vụ ngoại giao của Hoa Kỳ nhân dịp kỷ niệm một trăm năm Trận Ayacucho (9 tháng 12 năm 1824), sự kiện quyết định dẫn đến việc nước Peru dành được độc lập. Được chỉ định làm soái hạm cho hải đội đặc biệt đại diện cho Hoa Kỳ tham dự các lễ hội này, Utah rời New York ngày 22 tháng 11 năm 1924 cùng với Thống tướng John J. Pershing và cựu nghị sĩ F. C. Hicks, và đi đến Callao vào ngày 9 tháng 12.Utah đưa Tướng Pershing và các thành viên khác trong đoàn lên bờ vào ngày Giáng sinh năm 1924, để thực hiện chuyến viếng thăm hữu nghị các thành phố Nam Mỹ. Trong những tuần lễ tiếp theo sau, Utah viếng thăm các cảng Chile Punta Arenas và Valparaíso trước khi vòng qua mũi Horn để gặp Tướng Pershing tại Montevideo, Uruguay. Đón vị tướng và đoàn trở lên tàu, chiếc thiết giáp hạm tiếp tục chương trình thăm viếng hữa nghị Rio de Janeiro, Brazil; La Guaira, Venezuela; và Havana, Cuba trước khi kết thúc chuyến đi hữu nghị này tại New York ngày 18 tháng 3 năm 1926. Utah trải qua các mùa Hè những năm 1925 và 1926 cùng hải đội thực tập học viên mới, và sau khi đưa các học viên lên bờ khi kết thúc chuyến đi thực tập năm 1925, nó vào xưởng hải quân Boston và được cho tạm ngưng hoạt động vào ngày 31 tháng 10 năm 1925 để được hiện đại hóa. Trong quá trình sửa chữa và cải tạo này, cột buồm chính dạng "lồng" (cage) của con tàu được thay thế bằng kiểu cột nhẹ hơn, và nó được trang bị để sử dụng dầu đốt làm nhiên liệu thay vì đốt than, và vũ khí của nó cũng được cải tiến thể hiện mối quan tâm đến việc phòng không. Điều lý thú là Utah và Florida không được trang bị kiểu cột buồm "ba chân" (tripod) hiện đại hơn vốn được trang bị cho các lớp tàu khác.Utah được cho hoạt động trở lại vào ngày 1 tháng 12 năm 1925, và sau các hoạt động tại chỗ cùng Hạm đội Tuần tiễu, nó rời Hampton Roads ngày 21 tháng 11 năm 1928 lên đường hướng đấn Nam Mỹ. Đến Montevideo ngày 18 tháng 12, nó đón lên tàu Tổng thống Herbert C. Hoover và phu nhân; Đại sứ Mỹ tại Italy Henry T. Fletcher cùng đoàn báo chí tháp tùng. Utah chở đoàn của Tổng thống đến Rio de Janeiro, Brazil từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 12, rồi tiếp tục cuộc hành trình quay về nhà. Trong chuyến đi, Tổng thống đã có dịp duyệt qua thủy thủ đoàn trước khi con tàu về đến Hampton Roads vào ngày 6 tháng 1 năm 1929.Tuy nhiên, số phận của chiếc Utah như một thiết giáp hạm chỉ còn tính từng ngày. Theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân London năm 1930, Utah được chọn để cải biến thành một tàu mục tiêu di động thay thế cho chiếc thiết giáp hạm North Dakota; và vào ngày 1 tháng 7 năm 1931 Utah được đổi số hiệu thành AG-16. Công việc cải biến được thực hiện tại Xưởng hải quân Norfolk bao gồm việc gắn các thiết bị điều khiển từ xa bằng sóng vô tuyến. Utah được cho hoạt động trở lại tại Norfolk vào ngày 1 tháng 4 năm 1932 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Randall Jacobs.Utah rời Norfolk ngày 7 tháng 4 trong chuyến đi huấn luyện kỹ thuật sử dụng các thiết bị mới và chạy thử thiết bị vô tuyến, qua đó con tàu có thể điều khiển để di chuyển ở tác tốc độ khác nhau và thay đổi hướng đi của con tàu như trong một trận đánh thực sự. Các động cơ điện của nó có thể được vận hành bởi tín hiệu phát ra từ tàu điều khiển, có thể đóng mở các van bướm ga, xoay bánh lái và điều chỉnh lượng dầu cung cấp cho các buồng đốt. Thêm vào đó, một con quay hồi chuyển Sperry sẽ giúp giữ cho con tàu đi đúng hướng.Quay trở lại cảng ngày 21 tháng 4, Utah tiến hành thử nghiệm thiết bị điều khiển bằng vô tuyến ở vùng biển ngoài khơi Virginia Capes ngày 6 tháng 5. Đến ngày 1 tháng 6, Utah di chuyển trong ba giờ dưới sự điều khiển từ xa dưới sự hiện diện của nhân sự tại các vị trí vận hành; và trong hai ngày tiếp theo sau nó thực hiện thành công hai chuyến đi, mỗi chuyến kéo dài bốn giờ, trong đó các máy móc hoàn toàn không được con người chạm tay đến. Chỉ có hai quan sát viên tại mỗi phòng điều khiển và mỗi phòng máy giữ liên lạc thông tin qua điện thoại và ghi nhận các dữ liệu.Sau khi hoàn tất các thuộc thử, Utah rời Norfolk ngày 9 tháng 6. Vượt qua kênh đào Panama, nó đi đến San Pedro, California vào ngày 30 tháng 6 và được sắp xếp vào Hải đội Huấn luyện 1 thuộc lực lượng căn bản của Hạm đội Hoa Kỳ. Nó thực hiện vai trò mục tiêu đầu tiên dành cho các tàu tuần dương của Hạm đội vào ngày 26 tháng 7, và vào ngày 2 tháng 8 thực hiện các chuyến đi thao dợt dành cho Nevada, trong đó Utah được điều khiển bởi các tàu khu trục Hovey và Talbot.Trong vòng chín năm tiếp theo sau đó, con tàu đóng vai trò phục vụ cần thiết cho hạm đội như một mục tiêu di động, góp phần hiện thực hóa trong các đợt huấn luyện ném bom bổ nhào, ném ngư lôi và ném bom tầm cao cho phi công hải quân. Vì vậy, nó đã góp phần to lớn vào việc phát triển các chiến thuật trong các lĩnh vực này. Trong một dịp khác, nó còn hoạt động trong vai trò chuyên chở khi đưa 223 sĩ quan và binh sĩ lực lượng Thủy quân Lục chiến từ đảo Sand, Midway tham gia đổ bộ lên vịnh Hilo, Hawaii trong đợt tập trận Vấn đề Hạm đội XVI vào đầu mùa Hè năm 193. Sau đó nó vận chuyển Thủy quân Lục chiến từ Hawaii đến San Diego, California, và đưa họ lên bờ vào ngày 12 tháng 6 năm 1936.Cũng trong tháng 6 năm 1935, trên chiếc Utah đã thành lập một trường súng máy hạm đội trong khi nó vẫn tiếp tục nhiệm vụ như một tàu mục tiêu di động. Chiếc thiết giáp hạm nhận lên tàu những giáo viên đầu tiên trong tháng 8 năm 1936, và những học viên đầu tiên được rút ra từ thủy thủ đoàn các tàu tuần dương Raleigh, Concord, Omaha, Memphis, Milwaukee và tàu sân bay Ranger, đã có mặt vào ngày 20 tháng 9 để huấn luyện. Sau đó, trong những năm 1936 - 1937, Utah được trang bị các khẩu súng máy phòng không bốn nòng mới 28 mm (1,1 inch)/75 caliber nhằm mục đích thử nghiệm và phát triển bởi trường súng máy. Một số thử nghiệm đầu tiên của loại vũ khí mới này được thực hiện trên tàu.Ngoài việc phục vụ như một mục tiêu giống như thật trong luyện tập bao gồm cả máy bay xuất phát từ tàu sân bay, Utah còn kéo theo các mục tiêu trong các cuộc tập trận được tiến hành bởi các thiết giáp hạm của hạm đội, và tham gia các cuộc tập trận "Vấn đề Hạm đội" hằng năm. Nó đi qua kênh đào Panama ngày 9 tháng 1 năm 1939 để tham gia Vấn đề Hạm đội XX, cuộc thao dượt được đích thân Tổng thống Franklin Delano Roosevelt theo dõi bên trên chiếc tàu tuần dương Houston.Sau khi phục vụ làm mục tiêu di động dành cho tàu ngầm của Hải đội Tàu ngầm 6 vào cuối mùa Thu và đầu mùa Đông năm 1939, Utah dành ra tám tháng tiếp theo sau cho khóa thực hành súng máy đặc biệt. Vào mùa Hè tiếp theo, Utah hướng đến quần đảo Hawaii và đến Trân Châu Cảng ngày 1 tháng 8 năm 1940. Nó thực hành tác xạ phòng không nâng cao tại khu vực thực hành Hawaii cho đến ngày 14 tháng 12 năm 1940, khi nó hướng về bờ Tây, và quay về đến Long Beach, California vào ngày 21 tháng 12.Trong hai tháng tiếp theo sau, Utah phục vụ như một mục tiêu di động để ném bom ngoài khơi đảo San Clemente, California cho máy bay của Không đoàn Tuần tiểu 1 và từ các tàu sân bay Lexington, Saratoga và Enterprise. Utah quay trở về vùng biển Hawaii vào ngày 1 tháng 4 năm 1941, nhận lên tàu các học viên của Trường Pháo phòng không Nâng cao, những xạ thủ được rút ra từ các tàu West Virginia, Oklahoma, Colorado, Phoenix, Nashville, Philadelphia và New Orleans.Trong những tuần lễ tiếp theo sau, nó tiến hành huấn luyện các học viên đã lên tàu việc sử dụng và nạp đạn các khẩu pháo 127 mm (5 inch), thực hành bắn các mục tiêu giả điều khiển từ xa bằng vô tuyến, cũng như thực hành bắn các cỡ pháo .50-caliber và 1,1 inch trên các mục tiêu giả và bong bóng. Utah quay trở về Los Angeles, California ngày 20 tháng 5 và nhận lên tàu các hành khách Thủy quân Lục chiến để chuyên chở đến Bremerton, Washington. Đưa các Thủy quân Lục chiến lên bờ một tuần sau đó, chiếc tàu vào Xưởng hải quân Puget Sound ngày 31 tháng 5 năm 1941.Trong đợt đại tu thực hiện sau đó, Utah được sửa chữa và các cải biến được thiết kế nhằm giúp cho con tàu đảm trách vai trò huấn luyện thực hành tác xạ hiệu quả hơn. Các thay đổi bao gồm bổ sung các khẩu pháo 127 mm (5 inch)/38 calibre nòng đơn có giáp chắn tương tự như loại được trang bị trên các tàu khu trục hiện đại hơn đang phục vụ vào thời đó. Nó cũng mất đi màu sơn trước chiến tranh khi được sơn lại theo kiểu ngụy trang Phương thức 1: màu sơn chung "5-D xám đậm" trong khi cột buồm và cấu trúc thượng tầng màu "5-L xám nhạt". Kết thúc đợt đại tu, Utah lên đường ngày 14 tháng 9 đi đến vùng biển Hawaii sau khi ghé qua Port Townsend, Washington, San Francisco, California và San Pedro, California. Nó đến Trân Châu Cảng không lâu sau đó và tiến hành huấn luyện phòng không và làm mục tiêu tác xạ đến suốt cuối mùa Thu.

Tấn công Trân Châu Cảng

Utah vừa hoàn tất một chuyến đi huấn luyện súng phòng không nâng cao trong vùng biển Hawaii không lâu trước khi nó quay về Trân Châu Cảng vào đầu tháng 12 năm 1941, và thả neo cạnh đảo Ford ở cầu tàu F-11. Vào buổi sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941, cả Thuyền trưởng lẫn Sĩ quan Cao cấp đều đang nghỉ phép trên bờ, nên vị chỉ huy có cấp bậc cao nhất trên tàu lúc đó là Thiếu tá Hải quân Solomon S. Isquith, kỹ sư trưởng.Không lâu trước 08 giờ 00, những người trên cầu tàu nhìn thấy ba chiếc máy bay, mà họ cho là những máy bay Mỹ đang cơ động, bay từ lối vào cảng hướng lên phía Bắc. Chúng bổ nhào thấp xuống phần phía Nam của đảo Ford nơi có kho chứa thủy phi cơ và bắt đầu ném bom.Cuộc tấn công Trân Châu Cảng kéo dài gần hai giờ, nhưng đối với Utah, nó chỉ kéo dài trong vài phút. Lúc 08 giờ 01 phút, ngay sau khi thủy thủ bắt đầu kéo cờ lên cột cờ phía đuôi tàu, chiếc thiết giáp hạm cũ kỹ trúng phải một ngư lôi ở phía trước và ngay lập tức bắt đầu bị nghiêng sang mạn trái.Khi con tàu bắt đầu chậm chạp lật nghiêng, những phiến gỗ kích thước 150 x 300 mm (6 x 12 inch) đặt trên sàn tàu[2] bắt đầu bị dịch chuyển, ngăn trở nỗ lực của thủy thủ trong việc rời tàu. Bên dưới, mọi người thoát lên tầng phía trên bằng mọi cách. Riêng Thượng sĩ Peter Tomich đã ở lại bên dưới, tiếp tục kiểm tra các nồi hơi và để biết chắc mọi người đã ra khỏi các phòng máy. Một người khác, John B. Vaessen, cũng ở lại vị trí của mình trong phòng máy phát điện, cố giữ cho con tàu có đủ điện để thắp sáng càng lâu càng tốt.Thiếu tá Isquith thực hiện cuộc khảo sát lần cuối xem mọi người đã ra khỏi tàu hay chưa, và ông đã suýt bị mắc kẹt lại bên trong tàu. Khi con tàu bắt đầu lật nghiêng, ông phát hiện lối cửa thoát đã bị bịt kín. Trong lúc ông đang tìm cách thoát ra qua một lỗ hổng, chiếc bàn mà ông đang đứng lên bị trượt do độ nghiêng của con tàu đang tăng lên làm ông bị hụt chân. May mắn là vào giây phút cuối cùng, một người bên ngoài đã nắm được cánh tay của Isquith và kéo được ông ra.Lúc 08 giờ 12 phút, những sợi dây neo bị chằng đứt, và Utah lật nghiêng qua bên hông tàu. Những người còn sống sót bơi thoát lên bờ, một số phải ẩn nấp trên các bến neo tàu vì máy bay Nhật vẫn còn đang tích cực càu quét.Không lâu sau khi hầu hết mọi người đã lên bờ, Thiếu tá Isquith và những người khác nghe những tiếng gỏ từ bên trong thân con tàu đang lật nghiêng. Cho dù máy bay Nhật vẫn còn đang tiếp tục bắn phá khu vực, Isquith kêu gọi những người tình nguyện cùng quay trở lại thân tàu và khảo sát nguồn gốc của tiếng gỏ. Lấy được một mỏ hàn cắt từ chiếc Raleigh, bản thân chiếc tàu này vẫn còn đang chống đỡ các hư hỏng sau khi trúng phải ngư lôi, những người tình nguyện lao vào công việc cứu hộ. Nhờ những nỗ lực quên mình này, bốn người còn kẹt lại bên trong đã được cứu thoát khỏi nơi tưởng chừng đã là nấm mồ của họ.Utah được công bố "không hoạt động" vào ngày 29 tháng 12 năm 1941 và được đặt dưới quyền quản lý của Lực lượng Căn cứ Trân Châu Cảng. Được dựng lên một phần nhằm dọn trống bến đỗ bên cạnh, nó được công bố ngừng hoạt động vào ngày 5 tháng 9 năm 1944. Tên của Utah được xóa khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 13 tháng 11 năm 1944. Thân tàu rĩ sét bị chìm một phần của nó vẫn còn nằm tại Trân Châu Cảng với một số lượng không rõ di hài các thủy thủ còn kẹt lại bên trong.[

Đặt hàng: 1 tháng 8 năm 1937

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm North Carolina

Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Philadelphia

Đặt lườn: 14 tháng 6 năm 1938

Hạ thủy: 1 tháng 6 năm 1940

Đỡ đầu: Virginia Marshall

Hoạt động: 15 tháng 5 năm 1941

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 24 tháng 5 năm 1961

Ngừng hoạt động: 27 tháng 6 năm 1947

Xóa đăng bạ: 1 tháng 6 năm 1960

Tặng thưởng: 13 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 37.484 tấn (tiêu chuẩn); 44.377 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 222,1 m (728 ft 10 in)

Mạn thuyền: 33 m (108 ft 4 in)

Tầm nước: 10 m (33 ft 0 in)

Lực đẩy: turbine General Electric

8 nồi hơi, 4 trục

công suất 121.000 mã lực (88,7 MW)

Tốc độ: 50 km/h (27 knot)

Tầm xa: 32.300 km ở tốc độ 28 km/h

(17.450 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 1.880 (108 sĩ quan, 1.772 thủy thủ)

Vũ khí: 9 × pháo 406 mm (16 inch)

20 × pháo 127 mm (5 inch)/38 mục đích kép,

16 × súng máy 27 mm (1,1 inch); thay bằng súng phòng không 20 mm và 40 mm

Cảm biến: radar CXAM-1[1]

Vỏ giáp: tối đa 406 mm (16 inch)

Máy bay: 3 × Vought OS2U Kingfisher

2 × máy phóng

USS Washington (BB-56), chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp North Carolina vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 42 của Hoa Kỳ.Washington có điểm nổi bật là đã phục vụ suốt trọn Chiến tranh Thế giới lần thứ hai tại Mặt trận Thái Bình Dương mà không bị tổn thất người nào do hỏa lực đối phương, và chỉ bị bắn trúng một lần duy nhất ngoài khơi Guadalcanal khi một quả đạn pháo 127 mm (5 inch) xuyên qua ăn-ten radar của nó mà không phát nổ. Tuy nhiên, trong trận Hải chiến Guadalcanal, nhiều quả ngư lôi Nhật Bản đã phát nổ trên những đợt sóng gần tàu; nhiều thủy thủ trên Washington tử trận do những tai nạn nhỏ, và con tàu cũng gặp phải tai nạn va chạm nghiêm trọng với thiết giáp hạm USS Indiana (BB-58) khiến nhiều người chết và bị thương vào tháng 2 năm 1944.Washington được cho ngừng hoạt động vào năm 1947 và được bán để tháo dỡ vào năm 1961.

Thiết kế và chế tạo

Washington được đặt lườn vào ngày 14 tháng 6 năm 1938 tại xưởng hải quân Philadelphia. Nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 6 năm 1940, được đỡ đầu bởi Cô Virginia Marshall ở Spokane, Washington, một hậu duệ của Ngài John Marshall, Thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ; và được đưa vào hoạt động tại xưởng hải quân Philadelphia ngày 15 tháng 5 năm 1941, dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Howard H.J. Benson. Washington là một trong số mười bốn tàu chiến đầu tiên được trang bị kiểu radar mới RCA CXAM.[1]

Lịch sử hoạt động

Mặt trận Đại Tây Dương

Việc chạy thử máy và huấn luyện chiếc thiết giáp hạm mới được tiến hành dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ trải rộng đến tận vịnh Mexico và kéo dài cho đến khi Hoa Kỳ tham gia Chiến tranh Thế giới lần thứ hai vào tháng 12 năm 1941. Trong giai đoạn hoạt động cùng chiếc tàu chị em với nó North Carolina và chiếc tàu sân bay mới Hornet, Washington trở thành soái hạm của Chuẩn Đô đốc John W. Wilcox, Jr., Tư lệnh Hải đội Thiết giáp hạm 6 thuộc Hạm đội Đại Tây Dương.Đảm nhiệm vai trò soái hạm của Lực lượng Đặc nhiệm 39 vào ngày 26 tháng 3 năm 1942 tại Portland, Maine, Washington một lần nữa mang cờ hiệu của Đô đốc Wilcox khi nó lên đường hướng đến Anh Quốc ngày hôm đó. Được cử ra để củng cố Hạm đội Nhà Anh Quốc, chiếc thiết giáp hạm, cùng với chiếc tàu sân bay Wasp, các tàu tuần dương hạng nặng Wichita và Tuscaloosa đi đến Scapa Flow, căn cứ của lực lượng hạm đội Anh tại quần đảo Orkney, Scotland.Trong khi đang di chuyển trong vùng biển động khá mạnh vào ngày hôm sau, 27 tháng 3, lệnh báo động "mất tích người trên boong" được đưa ra trên chiếc Washington, và một cuộc điểm binh nhanh cho thấy Đô đốc Wilcox đã bị mất tích. Chiếc Tuscaloosa đang di chuyển cách 900 m (1.000 yard) về phía sau đã cơ động và ném phao cứu sinh xuống biển, trong khi hai chiếc tàu khu trục lần theo vệt sóng của Washington để tìm kiếm vị Đô đốc mất tích. Bất chấp thời tiết xấu, máy bay của Wasp cũng cất cánh để hỗ trợ việc tìm kiếm.Các quan sát viên trên tàu khu trục Wilson nhìn thấy thi thể của Wilcox úp mặt xuống mặt nước từ một khoảng cách, nhưng họ không thể vớt lên được. Những hoàn cảnh chung quanh việc Wilcox bị quét qua cầu tàu và rơi xuống biển từ soái hạm của mình không thể được giải thích rõ hoàn toàn; một số giả thuyết đặt ra cho rằng ông mắc phải một cơn đột quỵ tim trầm trọng, số khác cho rằng ông tự tử. Ủy ban Điều tra Hải quân kết luận rằng Wilcox chết trong khi thi hành nhiệm vụ, và không do bất cẩn hay điều sai trái nào khác.Đến 12 giờ 28 phút ngày 27 tháng 3, việc tìm kiếm Đô đốc Wilcox bị hủy bỏ, và quyền chỉ huy lực lượng đặc nhiệm được chuyển cho sĩ quan cấp bậc lớn tiếp theo là Chuẩn Đô đốc Robert C. Giffen, người đặt cờ hiệu của mình trên tàu tuần dương Wichita. Vào ngày 4 tháng 4, lực lượng đặc nhiệm đi đến Scapa Flow, gia nhập Hạm đội Nhà Anh Quốc dưới sự chỉ huy chung của Sir John Tovey, người đặt cờ hiệu của mình trên thiết giáp hạm King George V.Washington tham gia các cuộc cơ động và tập trận cùng các đơn vị của Hạm đội Nhà ngoài khơi Scapa Flow cho đến tận cuối tháng 4, khi Lực lượng Đặc nhiệm 39 được đổi tên thành Lực lượng Đặc nhiệm 99 với Washington làm soái hạm. Vào ngày 28 tháng 4, lực lượng này lên đường tham gia hoạt động trinh sát nhằm bảo vệ các đoàn tàu vận tải chuyên chở các tiếp liệu chiến tranh sống còn đến cảng biển Murmansk về phía Bắc Liên Xô.Trong khi thực hiện các nhiệm vụ này, bi kịch đã xảy ra đối với hạm đội. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1942, King George V va chạm với tàu khu trục lớp Tribal Punjabi (F21) khiến nó bị cắt ra làm đôi rồi chìm nhanh chóng ngay trước hướng đi của chiếc Washington đang tiến đến. Bị buộc phải băng qua giữa hai nữa của chiếc tàu khu trục đang chìm, chiếc thiết giáp hạm tiếp tục hướng thẳng đến trước trong khi những quả mìn sâu của Punjabi nổ tung ngay cạnh thân tàu khi nó băng qua hiện trường.May mắn cho Washington là nó đã không phải chịu đựng hư hại nghiêm trọng nào cho thân tàu hay bị rò rỉ nước do hậu quả của những trái mìn sâu phát nổ. Dù vậy, nó vẫn bị hư hại các hệ thống điều khiển hỏa lực và radar tinh tế, cũng như một bồn chứa dầu diesel bị một vết rò rỉ nhỏ.Trong khi đó, hai chiếc tàu khu trục đã cứu vớt được thuyền trưởng chiếc Punjabi cùng bốn sĩ quan khác và 182 thủy thủ. Sau đó King George V phải quay về Scapa Flow để sửa chữa trong khi Washington và các tàu hộ tống ở lại biển khơi cho đến ngày 5 tháng 5, khi Lực lượng Đặc nhiệm 99 tiến vào cảng Hvalfjörður thuộc Iceland để được nhận tiếp liệu và tiếp nhiên liệu từ chiếc Mizar. Trong khi ở lại Hvalfjörður, các công sứ Hoa Kỳ và Đan Mạch tại Iceland đến thăm Đô đốc Giffen và thị sát soái hạm của ông vào ngày 12 tháng 5.Sau đó Lực lượng Đặc nhiệm 99 khởi hành vào ngày 15 tháng 5 để gặp gỡ các đơn vị của Hạm đội Nhà và quay trở về Scapa Flow vào ngày 3 tháng 6. Ngày hôm sau, Đô đốc Harold R. Stark, Tư lệnh lực lượng hải quân Mỹ tại Châu Âu, lên tàu và đặt cờ hiệu của mình trên chiếc Washington, thiết lập một bộ chỉ huy hành chính tạm thời trên tàu. Chiếc thiết giáp hạm được vinh dự đón Vua George VI tại Scapa Flow vào ngày 7 tháng 6, khi Đức Vua lên tàu thị sát chiếc thiết giáp hạm.Không lâu sau khi Đô đốc Stark rời khỏi Washington, chiếc thiết giáp hạm tiếp tục các hoạt động cùng hạm đội Nhà, tuần tra dọc theo các tuyến đường hàng hải của Đồng Minh dẫn đến các cảng của Nga. Vào ngày 14 tháng 7 năm 1942, tại Hvalfjörður, Đô đốc Giffen chuyển cờ hiệu của mình từ chiếc thiết giáp hạm sang tàu tuần dương Wichita: và cùng ngày hôm đó, Washington, dưới sự hộ tống của bốn tàu khu trục, nhổ neo rời vùng biển Iceland. Nó về đến vịnh Gravesend, New York vào ngày 21 tháng 7, và hai ngày sau nó vào xưởng hải quân New York tại Brooklyn, New York cho một đợt đại tu.

Chiến dịch quần đảo Solomon

Sau khi hoàn tất, ngày 23 tháng 8 năm 1942, Washington khởi hành đi Thái Bình Dương dưới sự hộ tống của ba tàu khu trục. Năm ngày sau, nó đi qua kênh đào Panama, và vào ngày 14 tháng 9, nó đến Tongatapu thuộc đảo Tonga tại Nam Thái Bình Dương. Ngày hôm đó, Chuẩn Đô đốc Willis A. Lee, Jr., đặt cờ hiệu của mình trên thiết giáp hạm Washington như là Tư lệnh của Hải đội Thiết giáp hạm 6, đồng thời chỉ huy Đội đặc nhiệm 12.2.Ngày hôm sau, 15 tháng 9, Washington hướng ra khơi để gặp gỡ Lực lượng Đặc nhiệm 17, vốn được hình thành chung quanh chiếc tàu sân bay Hornet. Sau đó Washington hướng đến Nouméa thuộc New Caledonia để hỗ trợ cho Chiến dịch quần đảo Solomon đang tiếp diễn, bảo vệ cho nhiều đoàn tàu vận tải đang vận chuyển lực lượng và phương tiện tăng cường cho Guadalcanal. Trong những tuần lễ đó, chiếc thiết giáp hạm đặt căn cứ tại Nouméa và Espiritu Santo thuộc quần đảo New Hebrides.Đến giữa tháng 11, tình hình tại Solomons vẫn khá căng thẳng cho phía Mỹ, khi chỉ có một tàu sân bay còn hoạt động, chiếc USS Enterprise (CV-6), sau khi bị mất chiếc USS Wasp (CV-7) vào tháng 9 và USS Hornet (CV-8) vào tháng 10; và lực lượng tàu nổi Nhật Bản thường xuyên bắn phá sân bay Henderson trên đảo Guadalcanal của lực lượng Thủy quân Lục chiến bằng hải pháo hạng nặng. Điều đáng kể là, Hải quân Nhật thực hiện nhiều cuộc đột nhập vào ban đêm dưới tên gọi "Tốc hành Tokyo", vì máy bay Đồng Minh từ sân bay Henderson kiểm soát bầu trời và vùng biển lân cận vào ban ngày. Điều đó có nghĩa là phía Mỹ được tự do di chuyển lực lượng tăng cường và hàng tiếp liệu đến vùng biển Guadalcanal vào những giờ ban ngày, và phía Nhật làm điều tương tự như vậy vào ban đêm.

Hải chiến Guadalcanal

Washington thực hiện các nhiệm vụ cần thiết như vậy cho đến giữa tháng 11 năm 1942. Vào ngày 9 tháng 11, tin tức tình báo hải quân nhận được cho biết ba nhóm tàu chiến Nhật Bản đang hướng về phía Guadalcanal, trong đó một nhóm bao gồm 24 tàu vận tải và các tàu khu trục hộ tống. Một báo cáo khác cho biết trông thấy lực lượng đối phương bao gồm hai thiết giáp hạm, một tàu tuần dương hạng nhẹ và 11 tàu khu trục.Chiều tối ngày 13 tháng 11, Chuẩn Đô đốc Willis A. Lee dẫn một lực lượng bao gồm USS Washington, thiết giáp hạm South Dakota và bốn tàu khu trục hướng đến đảo Savo; địa điểm từng xảy ra các hoạt động tác chiến ban đêm của Trận chiến đảo Savo gây thiệt hại nặng nề cho phe Đồng Minh vào ngày 9 tháng 8; đến một vị trí để đánh chặn đoàn tàu vận tải Nhật Bản cùng lực lượng hộ tống cho chúng. Các tàu chiến của Lee, được đặt tên là Lực lượng Đặc nhiệm 64, đến một điểm cách 80 km (50 dặm) về phía Tây Nam Guadalcanal gần trưa ngày 14 tháng 11 năm và trải qua hầu hết thời gian của ngày hôm đó lẫn tránh, nhưng không thành công, sự phát hiện của các máy bay trinh sát Nhật Bản.Tiếp cận đến Guadalcanal bằng con đường phía Bắc và ở cách 9 dặm về phía Tây, Lực lượng Đặc nhiệm 64 bị một máy bay trinh sát Nhật phát hiện và thông báo vị trí, bao gồm một thiết giáp hạm, một tàu tuần dương (thực ra là hai thiết giáp hạm) và bốn tàu khu trục di chuyển theo đội hình hàng dọc. Đội hình hạm đội Mỹ được dẫn đầu bởi tàu khu trục Walke, rồi tiếp nối bởi Benham, Preston, Gwin, và hai chiếc thiết giáp hạm đi sau cùng Washington và South Dakota.Khi những con tàu chiến di chuyển trên mặt nước phẳng lặng trong đêm dưới những đám mây, radar của Washington bắt được tín hiệu của một mục tiêu di chuyển về phía Đông đảo Savo lúc 00 giờ 01 phút ngày 15 tháng 11. Mười lăm phút sau, lúc 00 giờ 16 phút, Washington khai hỏa các khẩu pháo chính 406 mm (16 inch) nhắm vào mục tiêu, mở màn trận đánh.Lực lượng Nhật Bản bao gồm chiếc thiết giáp hạm Kirishima, các tàu tuần dương hạng nặng Atago và Takao, các tàu tuần dương hạng nhẹ Sendai và Nagara cùng một lực lượng chín tàu khu trục dẫn trước bốn tàu vận tải. Dự định thực hiện một cuộc bắn phá xuống các vị trí của lực lượng Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal nhằm bảo vệ cho cuộc đổ bộ lực lượng vào ngày hôm sau, lực lượng Nhật đã hướng thẳng vào các tàu chiến trong Lực lượng Đặc nhiệm 64 của Lee.Trong ba phút tiếp theo sau, Washington bắn ra 42 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) từ khoảng cách 17 km (18.500 yard), nhắm vào chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Sendai. Cùng lúc đó, dàn pháo hạng hai 127 mm (5 inch) đa dụng của nó cũng nhắm vào một tàu chiến khác vốn cũng đang bị chiếc South Dakota nả pháo. Trong khoảng thời gian từ 00 giờ 25 phút đến 00 giờ 34 phút, chiếc thiết giáp hạm đối đầu cùng tàu chiến đối phương ở khoảng cách 9 km (10.000 yard) bằng các khẩu pháo 127 mm (5 inch) của nó.Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là Washington không lâu sau đó giáp chiến cùng với Kirishima trong cuộc đối đầu giữa những thiết giáp hạm lần đầu tiên trong chiến tranh tại Thái Bình Dương. Trong bảy phút, được hướng dẫn bởi radar, Washington đã bắn 75 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) và 107 quả đạn 127 mm (5 inch) ở tầm xa từ 7.700 đến 11.600 m (8.400 - 12.650 yard), bắn trúng ít nhất chín quả đạn 406 mm và khoảng 40 quả đạn 127 mm, khiến Kirishima phải lặng tiếng và bốc cháy. Sau đó, các khẩu đội pháo 127 mm (5 inch) của Washington còn bắn vào các mục tiêu khác hiện diện trên màn hình radar.Tuy nhiên, trận hải chiến ngoài khơi Guadalcanal không phải chỉ là một chiều. Hải pháo cùng ngư lôi Long Lance mạnh mẻ của lực lượng Nhật đã phá hủy bốn tàu khu trục của Lực lượng Đặc nhiệm 64. Walke và Preston trúng nhiều đạn pháo đủ các cỡ và bị đánh chìm; Benham bị hư hại nặng phía mũi tàu, trong khi Gwin đúng đạn phía sau đuôi tàu.South Dakota phải cơ động để tránh những chiếc Walke và Preston đang bốc cháy, nhưng không lâu sau lại trở thành mục tiêu của toàn bộ lực lượng bắn pháo Nhật Bản. Chiếc thiết giáp hạm chịu đựng nhiều phát đạn bắn trúng và hư hỏng hệ thống điện nên bị buộc phải rút lui, trong khi Washington di chuyển về phía Bắc thu hút hỏa lực đối phương về phía nó che chở cho đồng đội đang bị hư hại cũng như các tàu khu trục Benham và Gwin. Thoạt tiên, các tàu chiến Nhật còn lại truy đuổi theo Washington nhưng chúng nhanh chóng tháo lui vì e ngại các khẩu pháo hạng nặng của chiếc thiết giáp hạm; sau đó chúng rút lui dưới sự che chở của một màn khói ngụy trang.Sau khi Washington cơ động né tránh được các quả ngư lôi phóng ra bởi các tàu khu trục Nhật, trong đó nhiều quả phát nổ trên sóng phía sau tàu, nó gặp gỡ South Dakota sáng hôm sau và lên đường hướng về Nouméa. Sau các hoạt động tác chiến căng thẳng, Washington đã thể hiện trong chiến đấu tốt và thoát ra được mà không bị hư hại gì, ngoại trừ một quả đạn pháo 127 mm (5 inch) xuyên qua một trong những ăn-ten radar của nó mà không phát nổ. South Dakota không được may mắn như thế, phải chịu đựng những hư hỏng nghiêm trọng cho cấu trúc thượng tầng, với 38 người thiệt mạng và 60 người khác bị thương. Về phía Nhật Bản, họ bị mất chiếc thiết giáp hạm Kirishima, khi chiếc tàu chiến trôi nổi với các đám cháy và các vụ nổ bùng phát, khiến phải bỏ tàu và sau đó bị đánh đắm. Một thiệt hại khác là chiếc tàu khu trục Ayanami, bị đánh đắm sáng hôm sau.Trong khi South Dakota quay trở về New York để sửa chữa lớn, Washington ở lại khu vực chiến trường Nam Thái Bình Dương, đặt căn cứ tại New Caledonia và tiếp tục phục vụ như là soái hạm của Chuẩn Đô đốc Lee. Chiếc thiết giáp hạm tiến hành bảo vệ các đội đặc nhiệm tàu sân bay và các lực lượng đặc nhiệm tham gia chiến dịch Solomon tiếp diễn cho đến cuối tháng 4 năm 1943, hoạt động chủ yếu cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 11, vốn bao gồm chiếc tàu sân bay Saratoga, vốn vừa mới được sửa chữa sau khi trúng phải ngư lôi từ tàu ngầm Nhật; và cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 16 vốn được xây dựng chung quanh chiếc tàu sân bay Enterprise.Washington khởi hành từ Nouméa vào ngày 30 tháng 4 năm 1943 hướng đến Hawaii. Trên đường đi, Lực lượng Đặc nhiệm 16 cùng tháp tùng; và cùng nhau về đến Trân Châu Cảng vào ngày 8 tháng 5. Chiếc thiết giáp hạm, phục vụ như là một đơn vị và là soái hạm của Lực lượng Đặc nhiệm 60, tiến hành các cuộc tập trận tại vùng biển Hawaii cho đến ngày 28 tháng 5 năm 1943, sau đó nó vào xưởng hải quân Trân Châu Cảng để được đại tu.Washington tiếp nối các cuộc tập trận tại Hawaii sau khi hoàn tất các công việc sửa chữa và cải biến; và sau đó tham gia một đoàn tàu vận tải vào ngày 27 tháng 7 để hình thành nên Đội Đặc nhiệm 56.14, và hướng đến khu vực Nam Thái Bình Dương. Được tách ra vào ngày 6 tháng 8 năm, Washington đi đến cảng Havannah tại Efate thuộc quần đảo New Hebrides vào ngày 7 tháng 8. Sau đó nó hoạt động tại vùng biển ngoài khơi Efate cho đến cuối tháng 10, chủ yếu tham gia các cuộc tập trận chiến thuật cùng lực lượng đặc nhiệ tàu sân bay nhanh.Rời cảng Havannah vào ngày cuối cùng của tháng 10, Washington di chuyển trong thành phần của Đội Đặc nhiệm 53.2 bao gồm bốn thiết giáp hạm và sáu tàu khu trục. Ngày hôm sau, các tàu sân bay Enterprise, Essex và Independence, cùng các đơn vị hộ tống của Đội Đặc nhiệm 53.3 gia nhập Đội Đặc nhiệm 53.2 và dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Willis A. Lee. Các con tàu chiến tiến hành thực tập cơ động phối hợp cho đến ngày 6 tháng 11, khi các con tàu sân bay được cho tách khỏi đội hình. Washington cùng với các tàu hộ tống cho nó lên đường hướng đến Viti Levu thuộc quần đảo Fiji, và đến nơi vào ngày 7 tháng 11.

Chiến dịch quần đảo Gilbert

Tuy nhiên, bốn ngày sau, Washington lại lên đường cùng với Chuẩn Đô đốc Lee, lúc này được bổ nhiệm làm tư lệnh lực lượng Thiết giáp hạm Thái Bình Dương, cùng các đơn vị thuộc các hải đội thiết giáp hạm 8 và 9. Vào ngày 16 tháng 11 năm 1943, những chiếc thiết giáp hạm cùng lực lượng hộ tống với nó gặp gỡ Đội Đặc nhiệm 50.1 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Charles A. Pownall, vốn đặt cờ hiệu của mình trên tàu sân bay Yorktown. Lực lượng phối hợp này hướng về phía quần đảo Gilbert để cùng thực hiện ném bom hằng ngày xuống các vị trí của quân Nhật trên quần đảo Gilbert và quần đảo Marshall, vô hiệu hóa chúng chuẩn bị cho cuộc đổ bộ sắp tới.Vào ngày 19 tháng 11, máy bay xuất phát từ Đội Đặc nhiệm 50.1 đã tấn công Mili và Jaluit thuộc quần đảo Marshall, và tiếp tục không kích cho đến ngày 20 tháng 11, ngày mà các lực lượng Hải quân, Thủy quân Lục chiến và Lục quân Mỹ đổ bộ lên Tarawa và Makin thuộc quần đảo Gilbert. Vào ngày 22 tháng 11, đội đặc nhiệm tung máy bay của nó ra tấn công Mili trong nhiều đợt; rồi sau đó, đội đặc nhiệm di chuyển để hoạt động tại khu vực phía Bắc Makin.USS Washington gặp gỡ các đội đặc nhiệm tàu sân bay khác vốn hình thành nên Lực lượng Đặc nhiệm 50 vào ngày 25 tháng 11, và việc tái sắp xếp lực lượng sau đó đã điều động chiếc thiết giáp hạm vào Đội Đặc nhiệm 50.4, một đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Frederick C. "Ted" Sherman. Các tàu sân bay hình thành nên hạt nhân của đội gồm chiếc Bunker Hill và chiếc Monterey. Hai chiếc thiết giáp hạm khác hộ tống bảo vệ các tàu sân bay là Alabama và South Dakota. Tám tàu khu trục hình thành lực lượng che chắn bên ngoài.Đội đặc nhiệm này hoạt động tại khu vực phía Bắc Makin, cung cấp việc bảo vệ trên không, trên biển và chống tàu ngầm cho các hoạt động đổ bộ tại Makin bắt đầu vào ngày 26 tháng 11. Máy bay đối phương đã tiến hành tấn công vào đội đặc nhiệm vào các ngày 27 và 28 tháng 11, nhưng chúng bị đánh đuổi mà không gây được bất kỳ thiệt hại nào cho đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh.Trong khi Chiến dịch quần đảo Gilbert đi đến hồi kết thúc, Đội Đặc nhiệm 50.8 được thành lập vào ngày 6 tháng 12 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Willis A. Lee, đặt cờ hiệu của ông trên chiếc USS Washington. Các tàu chiến khác trong đội bao gồm chiếc thiết giáp hạm chị em North Carolina, Massachusetts, Indiana, South Dakota và Alabama cùng tàu sân bay hạm đội USS Bunker Hill và tàu sân bay hạng nhẹ USS Monterey. Mười một tàu khu trục theo hộ tống các tàu chiến hạng nặng.Đội đặc nhiệm thoạt tiên di chuyển đến phía Nam và phía Tây đảo Ocean chiến lĩnh các vị trí xuất phát để không kích và nả pháo xuống đảo Nauru. Trước lúc bình minh ngày 8 tháng 12, các tàu sân bay đã tung ra các cuộc không kích trong khi các thiết giáp hạm xếp đội hình hàng dọc. 135 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) từ sáu chiếc thiết giáp hạm đã nả xuống các vị trí của quân Nhật tại Nauru; và sau khi hoàn tất, đến lượt dàn hỏa lực hạng hai từ các thiết giáp hạm trong khi hai thủy phi cơ từ mỗi thiết giáp hạm trinh sát điểm rơi của các quả đạn pháo.

Đặt hàng: 5 tháng 12 năm 1916

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Colorado

Xưởng đóng tàu: Newport News, Virginia

Đặt lườn: 12 tháng 4 năm 1920

Hạ thủy: 17 tháng 11 năm 1921

Đỡ đầu: Alice Wright Mann

Hoạt động: 1 tháng 12 năm 1923

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 24 tháng 8 năm 1959

Ngừng hoạt động: 9 tháng 1 năm 1947

Xóa đăng bạ: 1 tháng 3 năm 1959

Tặng thưởng: 5 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 33.590 tấn

Chiều dài: 190,2 m (624 ft)

Mạn thuyền: 29,7 m (97 ft 4 in)

Tầm nước: 9,3 m (30 ft 6 in)

Tốc độ: 39 km/h (21 knot)

Quân số: 1.407 sĩ quan và thủy thủ

Vũ khí: 8 × pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber

12 × pháo 127 mm (5 inch)

8 × pháo phòng không 76 mm (3 inch)

4 × pháo six pounder

2 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)

Vũ khí điện tử: radar RCA CXAM-1 [1]

USS West Virginia (BB-48) (tên lóng "Wee Vee"), là một thiết giáp hạm thuộc lớp Colorado, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 35 của nước Mỹ.Là một thiết giáp hạm thuộc kiểu "Siêu-dreadnought", West Virginia từng là mục tiêu bị Hải quân Nhật nhắm đến trong vụ tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Sau khi được vớt lên, sửa chữa và hiện đại hóa, từ năm 1944 nó tiếp tục tham gia chiến đấu tại mặt trận Thái Bình Dương cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1947, và được bán để tháo dỡ vào năm 1959.

Thiết kế và chế tạo

Là một trong những chiếc "siêu-Dreadnought" mới nhất, West Virginia tích hợp các kiến thức mới nhất của kiến trúc hải quân; các ngăn kín nước của lườn tàu và quy mô của vỏ giáp khiến cho nó có ưu thế đáng kể so với những chiếc thiết giáp hạm được chế tạo hay thiết kế trước trận Jutland.Nó được đặt lườn vào ngày 12 tháng 4 năm 1920 bởi hãng Newport News Shipbuilding tại Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 11 năm 1921, được đỡ đầu bởi Cô Alice Wright Mann, con gái ngài Isaac T. Mann, một nhân vật nổi bật tại West Virginia; và được đưa vào hoạt động ngày 1 tháng 12 năm 1923 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Thomas J. Senn.

Lịch sử hoạt động

1923 - 1941

Trong những tháng tiếp theo sau, West Virginia tiến hành các chuyến đi chạy thử và các cải biến hiệu chỉnh. Sau một giai đoạn ngắn trong xưởng hải quân New York, con tàu thực hiện chuyến đi đến Hampton Roads, cho dù nó gặp phải trục trặc bánh lái trên đường đi. Thực hiện sửa chữa cần thiết trong thời gian ở lại Hampton Roads, West Virginia lại ra khơi vào buổi sáng ngày 16 tháng 6 năm 1924. Lúc 10 giờ 10 phút, trong khi con tàu đang di chuyển giữa luồng Lynnhaven, sĩ quan phòng lái báo cáo lên rằng đồng hồ chỉ thị bánh lái không hoạt động. Chuông báo động gửi đến phòng động cơ bánh lái không được trả lời; nên Thuyền trưởng Senn nhanh chóng ra lệnh cho ngừng tất cả các động cơ, nhưng máy điện báo của phòng động cơ cũng không trả lời. Cuộc điều tra sau này cho thấy điện năng đã không cung cấp đến máy điện báo của cả phòng máy lẫn phòng lái.Thuyền trưởng đã phải nhờ đến phương cách gửi mệnh lệnh đến phòng máy chính thông qua ống nói từ cầu tàu. Ông ra lệnh mở hết tốc độ động cơ bên mạn trái và tắt hết động cơ bên mạn phải. Mọi nỗ lực đều được cố gắng tối đa trong lúc đó nhằm lái con tàu bằng động cơ giữ cho nó trong luồng tàu. Không may là những nỗ lực này đều thất bại, và West Virginia bị mắc cạn lên trên nền đất bùn nhão. Điều may mắn là, như Trung tá (sau này là Đô đốc) Harold R. Stark, sĩ quan cao cấp, báo cáo: "...thân tàu đã không bị bất kỳ một hư hỏng nào dù là nhỏ nhặt."Cuộc điều tra của tòa án quân sự sau đó cho thấy con tàu đã được cung cấp những thông tin hải hành không chính xác và sai lầm. Chú thích trên các bảng biểu đã chỉ thị luồng tàu đi có độ rộng lớn hơn so với thực tế. Các phát hiện của tòa án quân sự đã miễn trừ cho Thuyền trưởng Senn và sĩ quan hoa tiêu của ông khỏi mọi trách nhiệm.Sau khi được sửa chữa, West Virginia trở thành soái hạm của Tư lệnh Hạm đội Thiết giáp hạm vào ngày 30 tháng 10 năm 1924, khởi đầu cuộc đời phục vụ như một phần "xương sống của hạm đội" như cách nhìn những chiếc thiết giáp hạm vào thời đó.Trong thời kỳ này; West Virginia trải qua những chu kỳ huấn luyện, bảo trì và thực hành, tham gia các cuộc thi kỹ thuật và tác xạ, cũng như cuộc tập trận "Vấn đề Hạm đội" được tổ chức hàng năm. Trong cuộc cơ động lớn của hạm đội này, lực lượng sẽ được chia ra hai phía đối kháng nhau, và một tình huống chiến lược hay chiến dịch sẽ được đề ra; những bài học thu lượm được sẽ góp phần vào việc xây dựng các học thuyết mà sau này sẽ được thử thách trong môi trường chiến đấu khắc nghiệt.Vào năm 1926, chiếc thiết giáp hạm tham gia vào một cuộc cơ động phối hợp Lục quân- Hải quân thử nghiệm việc phòng thủ quần đảo Hawaii rồi thực hiện chuyến đi cùng hạm đội đến Úc và New Zealand. Trong các cuộc tập trận hạm đội sau đó, West Virginia có mặt từ Hawaii đến vùng biển Caribbe và Đại Tây Dương cũng như trải từ Alaska đến vùng biển Panama.Nhằm theo kịp sự phát triển kỹ thuật trong lĩnh vực súng đạn và kiểm soát hỏa lực, cũng như cơ khí và hàng không, chiếc tàu chiến trải qua các đợt cải biến được thiết kế nhằm tăng cường khả năng để tthực hiện vai trò được giao. Các cải tiến bao gồm thay thế các khẩu pháo phòng không 76 mm (3 inch) nguyên thủy bằng kiểu pháo 127 mm (5 in)/25 caliber đa dụng; bổ sung thêm súng máy 0,50 inch ở cột buồm trước và giữa tàu; thêm các máy phóng trên boong trên phía sau, phía đuôi tàu và bên trên tháp súng III.Tuy nhiên, trong những năm cuối của thập niên 1930, điều trở nên rõ ràng đối với nhiều người rằng đây chỉ là vấn đề thời gian trước khi Hoa Kỳ phải can dự vào một cuộc chiến tranh nữa với quy mô lớn hơn. Do đó, Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ trở thành công cụ răn đe Nhật Bản, kẻ thù tiềm năng nhất; đó là lý do khiến có sự bố trí vội vã lực lượng hạm đội đến vùng biển Thái Bình Dương vào mùa Xuân năm 1939 và việc giữ hạm đội tại vùng biển Hawaii vào năm 1940 sau khi cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XXI kết thúc vào tháng 4 năm đó.Trong năm 1941, West Virginia thực hiện một lịch trình huấn luyện khẩn trương, đặt căn cứ tại Trân Châu Cảng và hoạt động trong nhiều lực lượng và đội đặc nhiệm khác nhau tại vùng biển Hawaii. Các hoạt động thường lệ này vẫn được tiếp tục cho dù tình hình bắt đầu căng thẳng từ cuối tháng 11 và tiếp tục kéo dài. Sau các giai đoạn hoạt động tích cực ngoài biển khơi là những lúc nghỉ ngơi bảo trì trong cảng, khi những chiếc thiết giáp hạm neo đậu dọc theo bờ Đông Nam đảo Ford ở Trung Tâm Trân Châu Cảng. West Virginia là một trong số 14 tàu chiến đầu tiên được trang bị kiểu radar đời đầu RCA CXAM-1.[1]

7 tháng 12 năm 1941

Vào ngày Chủ nhật 7 tháng 12 năm 1941, West Virginia neo đậu bên ngoài thiết giáp hạm Tennessee tại bến F-6 với độ sâu 12 m (40 ft) nước bên dưới lườn tàu. Ngay trước 08 giờ 00, máy bay Nhật xuất phát từ sáu tàu sân bay tiến hành cuộc tấn công Trân Châu Cảng được hoạch định khá chu đáo. Nhiều quả ngư lôi 457 mm (18 inch) phóng từ máy bay đã đánh trúng mạn trái West Virginia,[2] trong đó một quả trúng phải đuôi tàu và làm gảy bánh lái.[2] Ít nhất ba quả trúng bên dưới đai giáp, và một hoặc nhiều quả đánh trúng đai giáp làm buộc phải thay thế bảy tấm giáp thép.[2] Một hoặc hai quả ngư lôi đã xuyên vào trong con tàu qua những lổ hổng tạo ra do đợt ngư lôi trước trong khi con tàu đã bị nghiêng và phát nổ trên sàn bọc thép thứ hai.[2] Các khảo cứu gần đây cho thấy có ít nhất một trong các quả ngư lôi đánh trúng xuất phát từ một tàu ngầm bỏ túi. Việc phân tích các hình ảnh do Học viện Hải quân Hoa Kỳ tiến hành vào năm 1999 cho thấy một chiếc tàu ngầm bỏ túi Nhật Bản đã tìm cách lọt được vào bên trong cảng và đã phóng thành công một quả ngư lôi vào chiếc West Virginia. Số phận cuối cùng của chiếc tàu ngầm này hiện vẫn chưa rõ.[3]West Virginia cũng trúng phải hai quả bom được chế tạo từ những quả đạn pháo xuyên thép 406 mm (16 inch) có gắn thêm các vây đuôi. Quả bom thứ nhất đánh trúng sàn tàu phía trước, xuyên qua sàn kiến trúc thượng tầng, và được tìm thấy không phát nổ trong đám mảnh vụn của sàn tàu thứ hai.[4] Quả bom thứ hai đánh trúng phía đuôi tàu, phá hỏng một thủy phi cơ Vought OS2U Kingfisher trên máy phóng bên trên tháp pháo III và hất tung chiếc thứ hai trên máy phóng đặt dưới sàn tàu. Quả đạn đâm xuyên qua nóc tháp pháo dày 102 mm (4 inch), phá hỏng một khẩu pháo chính. Mặc dù quả bom này cũng tịt ngòi, xăng tràn ra từ chiếc máy bay hư hỏng bốc cháy gây một số thiệt hại. Sau đó West Virginia bị hư hỏng nghiêm trọng do mắc kẹt trong đám cháy dầu lan trên mặt biển xuất phát từ chiếc Arizona kéo dài đến ba mươi giờ do nhiên liệu rỉ ra từ cả hai con tàu.[4]Các quả ngư lôi phát nổ đã làm thủng hai lổ lớn trải từ khoang 43 đến khoang 52 và từ khoang 62 đến khoang 97.[5] Các hoạt động tức thời của Đại úy Claude V. Ricketts[6], sĩ quan phụ tá cứu hỏa vốn có chút kiến thức về kỹ thuật kiểm soát hư hỏng, đã cứu con tàu khỏi số phận như chiếc Oklahoma đang neo đậu phía trước mắc phải. Oklahoma cũng bị trúng phải nhiều quả ngư lôi, và nó đã bị ngập nước rồi lật úp.Những ví dụ về hành động anh hùng bên trên con tàu chiến bị hư hại nặng nề kéo dài trong suốt cuộc chiến nóng bỏng. Chỉ huy con tàu, Đại tá Mervyn S. Bennion có mặt rất sớm trên cầu tàu chỉ huy để rồi bị một mảnh bom bắn trúng, khi một quả bom cải tạo từ đạn pháo xuyên thép 406 mm (16 inch) đánh trúng khẩu súng giữa của tháp súng II trên chiếc Tennessee, trút một cơn mưa mảnh đạn lên cấu trúc thượng tầng West Virginia. Bennion bị thương vào bụng và ngã sấp xuống sàn tàu, rồi sau đó bị tử thương. Nhưng cho đến giây phút cuối cùng của cuộc sống, ông vẫn gắng gượng bám víu và tiếp tục chỉ huy việc phòng thủ con tàu cho đến phút cuối cùng. Do sự hết lòng tận tụy với nghĩa vụ, sự can đảm phi thường và đã hoàn toàn bất chấp đến mạng sống của bản thân, Đại tá Bennion được truy tặng Huân chương Danh dự. Doris Miller, một đầu bếp, đã giúp đưa Thuyền trưởng Bennion vào một nơi an toàn hơn, rồi đứng vào một khẩu súng cao xạ cho dù anh chưa từng có kinh nghiệm sử dụng. Anh là người Mỹ da màu đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Chữ Thập Hải quân.West Virginia bị bỏ lại, bị chìm xuống đáy vịnh nhưng lườn tàu vẫn cân bằng, các đám cháy bên trên nó được cứu chữa bởi một nhóm tình nguyện quay trở lại tàu sau đợt bỏ tàu thứ nhất. Đến trưa ngày hôm sau, 8 tháng 12, đám cháy được dập tắt hoàn toàn. Chiếc sà lan tiếp liệu YG-17 đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các nỗ lực trên, đã ở lại vị trí bên cạnh chiếc thiết giáp hạm bất chấp nguy cơ phát nổ các hầm đạn trên chiếc tàu chiến. Với các tấm thép được hàn bịt vào các lổ thủng, nước được bơm ra và con tàu được cho nổi trở lại vào ngày 17 tháng 5 năm 1942 và được đưa vào ụ tàu số 1 ngày 9 tháng 6. West Virginia được xem xét cẩn thận một lần nữa, và người ta thấy nó bị đánh trúng không phải sáu, mà là tổng cộng bảy quả ngư lôi.[7]Trong quá trình sửa chữa con tàu, công nhân xưởng tàu đã phát hiện 66 thi thể của thủy thủ chiếc West Virginia bị kẹt lại bên dưới khi con tàu chìm.[8] Nhiều thi thể được tìm thấy nằm úp trên các ống dẫn hơi nước trong các ô không khí còn sót lại trong các khoang ngập nước.[8] Ba thi thể được tìm thấy tại một kho chứa nơi họ kéo dài cuộc sống nhờ những khẩu phần khẩn cấp và nước ngọt từ một vị trí chiến đấu.[8] Một quyển lịch tìm được cùng với họ cho thấy họ đã sống sót cho đến ngày 23 tháng 12.[9] Các thủy thủ và công nhân phải đối mặt với một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, do những thiệt hại rất lớn bên mạn trái của con tàu chiến. Dù sao, cuối cùng, West Virginia cũng rời Trân Châu Cảng hướng đến bờ Tây Hoa Kỳ và được cải tạo mới hoàn toàn tại xưởng hải quân Puget Sound ở Brementon, Washington.Được hiện đại hóa một cách rộng rãi, chiếc thiết giáp hạm thoát ra từ sự tàn phá của Trân Châu Cảng mang một diện mạo khác hẵn so với trước ngày 7 tháng 12 năm 1941. Vẻ bên ngoài của nó gần tương tự như Tennessee và California, vốn cũng được chế tạo lại cho giống những chiếc thiết giáp hạm thuộc lớp South Dakota, chỉ khác biệt những tháp súng chính chỉ gồm hai khẩu.Được tháo bỏ cột buồm dạng lồng hyperbol nâng đỡ ba tầng kiểm soát hoả lực cùng hai ống khói, các khẩu pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber và các tháp pháo nhỏ mang pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber. Một cấu trúc thượng tầng suôn thẳng cho phép con tàu mang một dáng vẻ hoàn toàn mới; trang bị pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber công dụng kép đặt trong các tháp pháo kín cung cấp cho con tàu hỏa lực phòng không đầy uy lực. Thêm vào đó, các khẩu đội cao xạ 40 mm Bofors và 20 mm Oerlikon được rãi khắp sàn tàu, cho phép chiếc thiết giáp hạm có một hỏa lực mạnh mẻ đối phó với những máy bay đối phương tiếp cận.West Virginia ở lại Xưởng Hải quân Puget Sound cho đến đầu tháng 7 năm 1944. Sau khi tiếp liệu đạn dược lên tàu trong ngày 2 tháng 7, chiếc thiết giáp hạm hoàn toàn mới lên đường không lâu sau đó nhằm thực hiện các cuộc chạy thử ngoài khơi Port Townsend, Washington. Nó thực hiện cuộc chạy thử hết tốc độ vào ngày 6 tháng 7, và tiếp tục công việc cho đến ngày 12 tháng 7. Sau khi quay về Puget Sound để thực hiện các sửa chữa cuối cùng, chiếc thiết giáp hạm hướng về San Pedro, California cho chuyến đi thử máy cuối cùng sau khi được hiện đại hóa.Sẵn sàng tái gia nhập hạm đội mà nó đã xa rời hơn hai năm trước đây, West Virginia hướng đến quần đảo Hawaii vào ngày 14 tháng 9. Được hộ tống bởi bởi hai tàu khu trục, nó đến Oahu vào ngày 23 tháng 9, rồi sau đó, như một thành phần của Hải đội Thiết giáp hạm 4, West Virginia cùng với tàu sân bay hạm đội Hancock, lên đường hướng đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty, và vào cảng Seeadler vào ngày 5 tháng 10. Ngày hôm sau, nó lại trở thành soái hạm khi Chuẩn Đô đốc Theodore Ruddock, tư lệnh Hải đội Thiết giáp hạm 4, chuyển cờ hiệu của mình từ chiếc Maryland sang "Wee Vee".

Đổ bộ lên Leyte

Lên đường ngày 12 tháng 10 để tham gia cuộc đổ bộ lên Philippine, West Virginia được bố trí trong thành phần của Đội đặc nhiệm 77.2 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Jesse B. Oldendorf. Vào ngày 18 tháng 10, hàng thiết giáp hạm tiến vào vịnh Leyte, West Virginia di chuyển phía sau chiếc thiết giáp hạm California. Lúc 16 giờ 45 phút, California cắt rời được một quả thủy lôi bằng máy cắt dây mìn ngầm (paravane); West Virginia né tránh được mối đe dọa, và ít phút sau nó bị phá hủy bởi hỏa lực pháo của một trong các tàu khu trục theo hộ tống.Ngày 19 tháng 10, West Virginia đi đến vị trí chiến đấu tại vịnh San Pedro lúc 07 giờ 00 thường trực ngoài khơi và bắt đầu bắn phá các mục tiêu tại khu vực Tacloban thuộc đảo Leyte. Trong ngày hôm đó, chiếc thiết giáp hạm đã nả 278 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) và 1.586 quả đạn 127 mm (5 inch), giúp vô hiệu hóa hỏa lực pháo binh Nhật Bản và hỗ trợ cho các đội công binh phá mìn dưới nước (UDT, underwater demolition team) nhằm chuẩn bị các bãi đổ bộ vốn dự tính sẽ diễn ra vào ngày 20 tháng 10. Rút lui ra biển khi trời tối, chiếc thiết giáp hạm cùng các tàu hộ tống quay trở lại lúc bình minh để tiếp tục tiêu diệt các căn cứ Nhật Bản chung quanh khu vực Tacloban. Máy bay đối phương bắt đầu xuất hiện bên trên khu vực đổ bộ, và West Virginia đã tìm cách bắn hạ chúng nhưng không thành công.Ngày 21 tháng 10, khi tiếp tục bắn pháo hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ đang tiếp tục chiến đấu tiến lên bờ, West Virginia bị mắc cạn gây hư hại nhẹ ba trong số bốn chân vịt của nó. Sự rung động do vận hành những chân vịt bị hư hại khiến tốc độ hoạt động của con tàu bị giới hạn còn 29,6 km/h (16 knot) và 33,3 km/h (18 knot) lúc khẩn cấp.Trong hai ngày tiếp theo sau, West Virginia, cùng với dàn hỏa lực phòng không được tăng cường mạnh mẻ, tiếp tục bố trí ngoài khơi bãi đổ bộ lúc ban ngày và rút lui ra khơi vào ban đêm, tiếp tục hỗ trợ phòng không cho chiến dịch tấn công. Trong khi đó, người Nhật nhận ra cuộc tấn công vào Leyte của Đồng Minh được thực hiện với quy mô lớn, đã quyết định phản công. Theo đó, bất chấp hậu quả có thể có, họ tung ra bốn lực lượng riêng biệt để tấn công hạm đội tấn công Hoa Kỳ.

Hải chiến vịnh Leyte

Bốn tàu sân bay và hai tàu sân bay "lai" (các thiết giáp hạm-tàu sân bay Ise và Hyūga) hướng về phía biển Philippine từ vùng biển nội địa Nhật Bản; một lực lượng tàu nổi nhỏ của Đô đốc Kiyohide Shima hướng đến biển Sulu; hai lực lượng tấn công bao gồm các thiết giáp hạm, tàu tuần dương và tàu khu trục khởi hành từ Lingga Roads, Sumatra, trước khi tách ra ở phía Bắc Borneo. Lực lượng lớn hơn trong số hai nhóm dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Takeo Kurita, băng qua phía Bắc đảo Palawan để đi qua biển Sibuyan.Các tàu ngầm Mỹ Darter và Dace, đã mở đầu trận chiến nổi tiếng vào ngày 23 tháng 10 năm 1944 được biết đến dưới tên gọi trận chiến vịnh Leyte, khi chúng đánh chìm hai tàu tuần dương của Kurita, Maya và Atago. Không nao núng, Kurita tiếp tục cuộc chuyển quân. Lực lượng của ông được xây dựng chung quanh các thiết giáp hạm khổng lồ Yamato và Musashi.Lực lượng nhỏ hơn trong số hai nhóm dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Shoji Nishimura quay mũi về phía Nam Palawan và đi ngang qua biển Sulu giữa hai đảo Mindanao và Leyte. Lực lượng của Shima nối tiếp phía sau lực lượng của Nishimura, hướng đến vịnh Leyte như là gọng kìm thứ hai ở phía Nam nhằm tiêu diệt lực lượng tàu đổ bộ và tàu vận tải đang tập trung tại các bãi đổ bộ ở Leyte. Để đối đầu với lực lượng đối phương đang hướng về phía mình, Đô đốc Oldendorf bố trí lực lượng mạnh mẻ của mình, với sáu thiết giáp hạm, tám tàu tuần dương và 28 tàu khu trục tại eo biển Surigao.Lúc 22 giờ 36 phút ngày 24 tháng 10 năm 1944, các tàu phóng lôi-tuần tra (PT boat) Mỹ bố trí bên trong và ở lối vào eo biển phát hiện ra lực lượng của Nishimura qua radar, và tiến hành tấn công quấy rối, vốn gây ra khó khăn, nhưng không thể ngăn cản bước tiến của đối phương. Bắt đầu tiến vào eo biển lúc 03 giờ 00 ngày 25 tháng 10, Nishimura sắp xếp đội hình tàu chiến của mình khi năm tàu khu trục Mỹ tung ra đợt tấn công bằng ngư lôi được vạch kế hoạch hoàn chỉnh. Thiết giáp hạm Fusō trúng phải một số quả ngư lôi và bị lọt ra khỏi đội hình; đợt tấn công ngư lôi này cũng kết liễu hai tàu khu trục Nhật và phá hỏng một chiếc thứ ba. Cùng lúc đó, tàu chị em với Fusō là Yamashiro cũng bị trúng một quả ngư lôi và phải giảm tốc độ, để rồi trúng thêm một quả nữa chỉ sau 15 phút. Bản thân Fusō chịu đựng những tổn hại đáng kể do những đám cháy bùng phát do những quả ngư lôi, bị nổ tung và cắt làm đôi lúc 03 giờ 38 phút.Giờ đây West Virginia dẫn đầu hàng thiết giáp hạm bao gồm Maryland, Mississippi, Tennessee, California, Pennsylvania; bốn trong số chúng, giống như West Virginia, là những cựu binh của trận Trân Châu Cảng. Từ 00 giờ 21 phút ngày 25 tháng 10, chiếc thiết giáp hạm bắt đầu nhận được báo cáo về cuộc tấn công của những chiếc tàu phóng lôi-tuần tra rồi sau đó của các tàu khu trục. Cuối cùng lúc 03 giờ 16 phút, radar West Virginia bắt được tín hiệu từ lực lượng của Nishimura ở khoảng cách 38 km (42.000 yard) và có được phương án tác xạ ở khoảng cách 27 km (30.000 yard). Nó tiếp tục theo dõi khi đối phương tiến đến gần trong bóng đêm tối đen như mực.Lúc 03 giờ 52 phút, West Virginia khai hỏa tám khẩu pháo chính 406 mm (16 inch) ở khoảng cách 21 km (22.800 yard), tấn công chiếc thiết giáp hạm Nhật dẫn đầu với loạt pháo đầu tiên. Trong số sáu loạt pháo đầu tiên do nó bắn ra, năm loạt đã trúng mục tiêu; và tổng cộng nó đã bắn 16 loạt nhắm vào các tàu chiến của Nishimura khi lực lượng của Oldendorf cắt ngang chữ T hạm đội Nhật, đạt được ưu thế chiến thuật trong một tình huống mà hầu như mọi đô đốc hạm tàu nổi đều mơ ước. Đến 04 giờ 13 phút, "Wee Vee" ngừng bắn; phần còn lại của hạm đội Nhật Bản tháo chạy hổn loạn khỏi eo biển nơi chúng đã tiến vào, trong khi nhiều tàu chiến bị bắn cháy soi sáng cả vùng biển. West Virginia đã góp công vào việc kết liễu chiếc Yamashiro, trả thù được những hư hại mà nó phải gánh chịu trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng.West Virginia đã tham gia trận hải chiến lớn cuối cùng giữa các tàu chiến tuyến trong lịch sử, và đến ngày 29 tháng 10 rời Philippines quay về Ulithi cùng với Tennessee và Maryland. Sau đó nó hướng đến Espiritu Santo trong quần đảo New Hebrides; và sau khi Đô đốc Ruddock chuyển cờ hiệu của mình từ West Virginia sang Maryland, nó trải qua một giai đoạn bảo trì trong ụ nổi di động Artisan (AFDB-1) để sửa chữa các chân vịt bị hư hại.

Chiến dịch Philippines

"Wee Vee" quay trở lại Philippine ngang qua Manus vào ngày 26 tháng 11, tiếp tục nhiệm vụ tuần tra trong vịnh Leyte và hoạt động trong thành phần yểm trợ phòng không cho lực lượng tàu vận tải và đổ bộ. Lúc 11 giờ 39 phút ngày 27 tháng 11, súng cao xạ của West Virginia đã bắn rơi một máy bay kamikaze và hỗ trợ trong việc bắn hạ nhiều chiếc khác trong phiên hoạt động ngày hôm sau.Sau khi Đô đốc Ruddock chuyển cờ hiệu của mình trở lại tàu vào ngày 30 tháng 11, West Virginia tiếp tục các hoạt động ngoài khơi Leyte cho đến ngày 2 tháng 12, khi chiếc thiết giáp hạm khởi hành hướng về quần đảo Palau. Tại đây, nó trở thành soái hạm của Đội đặc nhiệm 77.12 mới được thành lập và hướng đến biển Sulu hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của lực lượng Tây Nam Thái Bình Dương lên đảo Mindoro. Đi đến vịnh Leyte chiều tối ngày 12 tháng 12, West Virginia đi qua eo biển Surigao vào ngày 13 tháng 12 và hướng đến biển Sulu cùng với một lực lượng tàu sân bay để hỗ trợ cho cuộc di chuyển của Đội đặc nhiệm 78.3.Sau đó nó hộ tống cho các tàu vận tải rút lui vào ngày 16 tháng 12, được tiếp nhiên liệu tại vịnh Leyte trước khi quay về Kossol Roads, Palau vào ngày 19 tháng 12. Tại đây West Virginia được nghỉ lễ Giáng Sinh 1944. Tuy nhiên, nhiều nhiệm vụ đang chờ đợi trước mắt, và chiếc thiết giáp hạm, khi nó lại tiếp tục lên đường hướng về Philippine. Vào ngày đầu năm mới 1945, Chuẩn Đô đốc Ingram C. Sowell thay thế Chuẩn Đô đốc Ruddock giữ chức Tư lệnh Hải đội Thiết giáp hạm 4, khi còn tàu tiến hướng đến vịnh Leyte trong thành phần của Đội đặc nhiệm 77.2.Đến nơi vào rạng sáng sớm ngày 3 tháng 1 năm 1945, West Virginia tiếp tục tiến đến biển Sulu. Sự kháng cự của quân Nhật, vốn bắt đầu khẩn trương từ lúc mở màn chiến dịch Philippine, ngày càng trở nên nguy hiểm. Người trên chiếc West Virginia tận mắt chứng kiến một máy bay Yokosuka P1Y "Frances" hai động cơ đâm bổ tự sát vào chiếc tàu sân bay hộ tống Ommaney Bay lúc 17 giờ 12 ngày 4 tháng 1. Các đám cháy và các vụ nổ nghiêm trọng cuối cùng đã buộc phải bỏ chiếc "tàu sân bay jeep", những người sống sót được các tàu hộ tống gần đó cứu thoát. Tàu khu trục Burns (DD-588) đánh chìm chiếc tàu bị bỏ lại đang bừng cháy bằng ngư lôi.Nhận lên tàu những người còn sống sót trên chiếc Ommaney Bay từ chiếc tàu khu trục Twiggs, West Virginia tiến vào biển Nam Trung Quốc sáng ngày hôm sau 5 tháng 1 năm 1945, bảo vệ các tàu sân bay khỏi các cuộc không kích của quân Nhật trong ngày hôm đó. Sau đó, chiếc thiết giáp hạm tách khỏi các tàu sân bay tiến sát gần bờ để tiến hành bắn phá San Fernando Point. West Virginia đã phá hủy các căn cứ Nhật Bản trên bờ bằng các khẩu pháo 406 mm (16 inch).Tuy nhiên, các cuộc tấn công cảm tử Kamikaze ngày càng gia tăng cho dù phải đối mặt với hỏa lực cao xạ dày đặc và các máy bay tiêm kích tuần tra chiến đấu trên không. Thiệt hại gây ra cho các tàu chiến Đồng Minh tiếp tục tăng cao, khi chúng gây hư hại cho chiếc HMSA Australia và các thiết giáp hạm California và New Mexico trong ngày 5 tháng 1. West Virginia tham gia vào việc xây dựng một hàng rào hỏa lực phòng không trong các cuộc tấn công này, đã trải qua chiến đấu mà không bị thiệt hại.West Virginia, vốn còn đang chuyên chở thủy thủ đoàn chiếc Ommaney Bay, lại tiếp tục nhận lên bờ một nhóm người sống sót khác: thủy thủ đoàn chiếc tàu quét mìn cao tốc Hovey, đã bị ngư lôi Nhật đánh chìm vào ngày 6 tháng 1. Trước khi nó có thể chuyển người của chiếc tàu sân bay hộ tống và tàu quét mìn đến một nơi nào khác, trước tiên chiếc thiết giáp hạm còn phải thi hành những nhiệm vụ được trao phó cho nó. Vì thế, các khẩu pháo 406 mm (16 inch) của West Virginia lại phá hủy các vị trí Nhật Bản trên bờ ở San Fabian vào các ngày 8 và 9 tháng 1, khi lực lượng đổ bộ lên bờ vào ngày hôm sau. Mãi đến tận buổi tối ngày 9 tháng 1, chiếc thiết giáp hạm mới có dịp chuyển những hành khách "bất đắc dĩ" lên bờ.Sau khi hỗ trợ bắn pháo theo yêu cầu suốt ngày 10 tháng 1, West Virginia tuần tra ngoài khơi vịnh Lingayen trong một tuần lễ tiếp theo sau trước khi đi đến một địa điểm buông neo nơi nó được tiếp tế đạn dược. Trong đợt hoạt động bắn phá ngoài khơi San Fabian, West Virginia chứng tỏ được sự hữu ích của nó khi hỗ trợ các hoạt động công binh, tiêu diệt các vị trí súng cối, pháo và công sự đối phương cũng như san bằng thị trấn San Fabian. Thêm vào đó, "Wee Vee" còn phá hủy các kho đạn, đường sắt và các ga đầu mối, các vị trí súng máy và nhà kho. Trong thời gian này, nó đã sử dụng 395 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) và trên 2.800 quả đạn 127 mm (5 inch). Lại lên đường lúc 07 giờ 07 phút ngày 21 tháng 1, West Virginia thực hiện nhiệm vụ bắn pháo theo yêu cầu lúc 08 giờ 15 phút, sẵn sàng hoạt động phối hợp với các đơn vị Lục quân trên bờ tại khu vực lân cận các thị trấn Rosario và Santo Tomas. Sau khi trải qua vài ngày hỗ trợ bắn pháo theo yêu cầu, West Virginia trở lại thả neo tại vịnh Lingayen ngày 1 tháng 2.Sau đó, trong thành phần của Đội đặc nhiệm 77.2, West Virginia bảo vệ cho các tàu bè đi đến các bãi đổ bộ tại Lingayen và sẵn sàng đáp ứng bắn pháo theo yêu cầu của bộ binh khi cần thiết. Sau khi hoàn tất nhiệm vụ, nó rời vịnh Lingayen vào ngày 10 tháng 2 hướng đến vịnh Leyte. Trước khi khởi hành, nó nhận được 79 bao thư từ gửi từ Hoa Kỳ, lần đầu tiên nó nhận thư kể từ lễ Giáng Sinh.Sau khi ghé qua vịnh San Pedro, Leyte, West Virginia đi đến Ulithi vào ngày 16 tháng 2 và được bố trí hoạt động cùng Đệ Ngũ hạm đội. Được lệnh chuẩn bị cấp tốc cho một nhiệm vụ tiếp theo, chiếc thiết giáp hạm được tiếp nhiên liệu cùng hàng tiếp liệu với mức độ ưu tiên cao nhất. Chiếc tàu hoàn tất việc chất lên tàu khoảng 300 tấn tiếp liệu lúc 04 giờ 00 phút ngày 17 tháng 2; rồi đến 07 giờ 30 phút, West Virginia lên đường hướng đến Iwo Jima cùng với các tàu khu trục Izard và McCall để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 51.

Trận Iwo Jima

West Virginia nhìn thấy Iwo Jima từ khoảng cách 82 dặm (132 km) lúc 09 giờ 07 phút ngày 19 tháng 2. Khi đến gần, nó nhìn thấy nhiều tàu chiến khác đang bắn phá hòn đảo từ mọi phía và cuộc đổ bộ đầu tiên lên hòn đảo đang diễn ra. Đến 11 giờ 25 phút, chiếc thiết giáp hạm nhận các mệnh lệnh tác chiến, và 20 phút sau, tiến đến vị trí hỗ trợ hỏa lực đối diện các bãi biển. Lúc 12 giờ 45 phút, các khẩu pháo hạng nặng của nó bắt đầu hỗ trợ lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ, nhắm vào các vị trí pháo, công sự, xe cộ, hầm trú ẩn và kho tiếp liệu. Sáng ngày 21 tháng 2, chiếc tàu chiến quay trở lại vị trí trực chiến, và từ 08 giờ 00, tiếp tục vai trò hỗ trợ hỏa lực.Các quả đạn pháo hạng nặng 406 mm (16 inch) của nó tiếp tục bắn phá các hang động trú ẩn, phá hủy các vị trí đặt súng phòng không cùng các lô cốt; Một loạt đạn pháo đã bắn trúng một kho hoặc hầm đạn và nó phát nổ trong suốt hai giờ sau đó. Ngày 22 tháng 2, một quả đạn pháo cỡ nhỏ bắn trúng tàu gần tháp pháo số 2 khiến một thủy thủ bị thương. Cùng ngày hôm đó, một sự kiện đáng kể khác diễn ra trên bờ khi lực lượng Thủy quân Lục chiến chiếm được núi Suribachi, điểm cao nổi bật tại một đầu của hòn đảo núi lửa này. Từ trên tàu ở vị trí gần bờ, thủy thủ đoàn trên chiếc West Virginia có thể trông thấy được lá cờ cắm trên đỉnh cao này.Trong suốt thời gian còn lại của tháng 2, West Virginia tiếp tục nhiệm vụ hằng ngày hỗ trợ hỏa lực cho lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ. Một lần nữa, các vị trí Nhật Bản trên bờ phải chịu đựng hỏa lực của những quả đạn pháo hạng nặng 406 mm (16 inch) của chiếc thiết giáp hạm. Nó bắn trúng các vị trí tập trung lực lượng, doanh trại và các chiến hào. Trong khi đang trực chiến ngoài khơi bãi biển vào ngày 27 tháng 2, chiếc thiết giáp hạm phát hiện một khẩu đội pháo của quân Nhật trên bờ đang nhắm vào chiếc tàu khu trục Bryant. West Virginia tiến đến gần, và ở khoảng cách 550 m (600 yard), khác khẩu pháo hạng hai 127 mm (5 inch) của nó đã khiến pháo đối phương im tiếng.Được tiếp đạn vào sáng sớm ngày 28 tháng 2, West Virginia quay trở lại vị trí trực chiến trưa hôm đó, bắn pháo quấy phá đối phương và can thiệp, cũng như vô hiệu hóa các khẩu đội pháo inh bằng dàn pháo hạng hai. Trong ba ngày đầu của tháng 3, West Virginia tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực của nó, chủ yếu tập trung vào các cứ điểm của quân Nhật tại bờ biển Đông Bắc Iwo Jima. Cuối cùng, vào ngày 4 tháng 3, chiếc thiết giáp hạm lên đường hướng về quân đảo Caroline, đi đến Ulithi vào ngày 6 tháng 3.

Trận Okinawa

Gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 64 để hoạt động trong chiến dịch Okinawa, West Virginia lên đường vào ngày 21 tháng 3, đi đến mục tiêu bốn ngày sau đó, 25 tháng 3. Trong giai đoạn đầu, West Virginia trãi qua các ngày sau đó vô hiệu sự kháng cự tại Okinawa chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên đảo này dự định thực hiện vào ngày 1 tháng 4. Lúc 10 giờ 29 phút ngày 26 tháng 3, trinh sát viên trên tàu báo cáo về ánh lửa đạn pháo xuất hiện trên bờ, được tiếp nối bởi những cột nước cách con tàu khoảng 5,5 km (6.000 yard) bên mạn trái. Khai hỏa những loạt đạn pháo đầu tiên trong chiến dịch này, West Virginia đã nã 28 quả đạn pháo 406 mm (16-inch) xuống các khẩu đội pháo Nhật Bản gây sự.Ngày hôm sau, "Wee Vee" kháng cự lại các cuộc không kích của đối phương, khi một máy bay ném bom hai động cơ "Frances" trúng phải đạn phòng không và bốc cháy lúc 05 giờ 20 phút, đâm nhào xuống biển bên mạn trái tàu. Trong những ngày tiếp theo sau, sự kháng cự của đối phương thể hiện dưới dạng các cuộc tấn công tự sát của máy bay. Các quả thủy lôi Nhật Bản cũng chứng tỏ tác dụng hủy diệt của chúng, khi một quả đã đánh chìm chiếc tàu quét mìn Skylark cách mạn trái West Virginia 2,7 km (3.000 yard) lúc 09 giờ 30 phút ngày 28 tháng 3.Sau khi được tiếp đạn tại Kerama Retto, hòn đảo được chiếm để xây dựng một căn cứ tiền phương nhằm hỗ trợ cho lực lượng tấn công, West Virginia lại lên đường hướng đến Okinawa bắn pháo hỗ trợ trực tiếp cho cuộc đổ bộ. Trên đường đi, lúc 04 giờ 55 phút, nó bị buộc phải chạy lui động cơ hết mức khi một chiếc tàu khu trục không nhận diện được đã chắn ngang trước mũi tàu hầu tránh một cú va chạm.Dự định khai hỏa lúc 06 giờ 30 phút, chiếc thiết giáp hạm hướng đến vị trí trực chiến ngoài khơi các bãi biển Okinawa. Khi nó đang chuẩn bị thực hiện bắn pháo, West Virginia phát hiện một máy bay Nhật xuất hiện bên mạn trái con tàu. Các khẩu đội pháo phòng không đã ngắm theo mục tiêu và nổ súng, bắn rơi máy bay đối phương ở khoảng cách 180 m (200 yard). Sau đó có thêm bốn máy bay đối phương bay đến gần, và West Virginia bắn rơi được một trong số chúng.Cuối cùng, lúc 06 giờ 30 phút, West Virginia khai hỏa vào các vị trí trên bờ trong khi các xuồng đổ bộ chuẩn bị hướng vào các bãi biển Okinawa. Đến 08 giờ 42 phút, trinh sát viên trên tàu báo cáo trông thấy các hoạt động tác chiến diễn ra trên bờ. Trận chiến giành Okinawa chính thức bắt đầu.West Virginia tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực suốt ngày hôm đó, sẵn sàng phản pháo nhằm hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ đang tấn công nhanh trên đất liền. Có vẻ như ít có sự kháng cự đáng kể trong ngày 1 tháng 4, và chiếc thiết giáp hạm tiếp tục tuần tra gần bờ chờ đợi nhận chỉ thị mới. Tuy nhiên, lúc 19 giờ 03 phút, một máy bay đối phương đã phá vỡ sự bình yên đang có trên West Virginia.Màn hình radar bắt được tín hiệu của ba máy bay đối phương và theo dõi chúng khi chúng đến gần. Màn hỏa lực phòng không dày đặc không ngăn được một trong số chúng tiếp cận bên mạn trái West Virginia và đâm bổ vào sàn cấu trúc thượng tầng ngay phía trước tháp pháo 127 mm (5 inch) số hai. Bốn người bị thiệt mạng trong vụ nổ, cùng bảy người khác bị thương tại một khẩu đội súng 20 mm gần đó. Quả bom mà chiếc máy bay mang theo rơi khỏi đế và xuyên qua sàn tàu đến hầm tàu thứ hai, nhưng may mắn là không phát nổ và bị vô hiệu hóa bởi sĩ quan vũ khí trên tàu. West Virginia báo cáo những hư hại của nó "có thể sửa chữa được", và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bắn pháo chiếu sáng ban đêm cho lực lượng đổ bộ trên bờ.West Virginia mai táng những người chết trên biển trong khi vẫn đang tiếp diễn các đợt tấn công kamikaze trong ngày 1 tháng 4, và tiếp nối các nhiệm vụ bắn pháo hỗ trợ không lâu sau đó. Trong thời gian hoạt động gần bờ vào đầu tháng 4, hỏa lực phòng không của chiếc thiết giáp hạm đã bắn rơi một chiếc Aichi D3A "Val" vào ngày 6 tháng 4.Vào đầu tháng 4, quân Nhật dự định tấn công vào hạm đội Mỹ bằng một lực lượng hạm tàu nổi được hình thành chung quanh chiếc siêu thiết giáp hạm Yamato. Trong đêm 7 rạng sáng ngày 8 tháng 4, West Virginia di chuyển trong vùng biển phía Tây Okinawa sẵn sàng đánh chặn và đối đầu cùng lực lượng Nhật Bản đang hướng về khu vực này. Sáng hôm sau, Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm 68 thông báo rằng hầu hết các tàu chiến đối phương trong lực lượng này đã bị đánh chìm kể cả chiếc Yamato, khi trong hành trình cuối cùng này nó chỉ được tiếp đủ nhiên liệu để đi đến Okinawa mà không đủ để quay về. Vì vậy, lực lượng tự sát lớn nhất của Hải quân Nhật đã bị tiêu diệt khi còn cách rất xa mục tiêu của nó.Tuy nhiên, đối với West Virginia, nhiệm vụ của nó vẫn tiếp diễn, hỗ trợ bắn pháo sáng và phản pháo bằng cả dàn pháo chính lẫn pháo hạng hai; và là dịp cho các xạ thủ khẩu đội phòng không luôn luôn bận rộn không ngơi tay do sự xuất hiện dày đặc của những cuộc tấn công tự sát. Thiết giáp hạm Tennessee, tàu tuần dương Salt Lake City, các tàu khu trục Zellars và Stanly cùng các tàu chiến khác là những nạn nhân của những cơn "thần phong" này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro