ham doi thiet giap ham My trong ww2 (p2)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Pennsylvania

Xưởng đóng tàu: Newport News Shipbuilding

Đặt lườn: 27 tháng 10 năm 1913

Hạ thủy: 16 tháng 3 năm 1915

Đỡ đầu: Elizabeth Kolb

Hoạt động: 12 tháng 6 năm 1916

Bị mất: Bị đánh chìm sau khi thử nghiệm bom nguyên tử ngoài khơi Kwajalein ngày 10 tháng 2 năm 1948

Ngừng hoạt động: 29 tháng 8 năm 1946

Xóa đăng bạ: 19 tháng 2 năm 1948

Tặng thưởng: Đơn vị Tuyên dương Hải quân

8 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 31.400 tấn

Chiều dài: 185,3 m (608 ft)

Mạn thuyền: 29,6 m (97 ft 1 in)

Tầm nước: 8,8 m (28 ft 11 in)

Tốc độ: 39 km/h (21 knot)

Quân số: 915

Vũ khí: 12 × pháo 356 mm (14 inch)/45 caliber (4 × 3)

14 × pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber[1] (14 × 1)

4 × pháo phòng không 76 mm (3 inch)

4 × six-pounder (2,7 kg)

2 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)

Vũ khí điện tử: radar RCA CXAM-1[2]

USS Pennsylvania (BB-38) là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó thuộc thế hệ các thiết giáp hạm "siêu-dreadnought"; và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang Pennsylvania.

Được đưa vào hoạt động khi Đệ nhất thế chiến còn đang tiếp diễn, nó từng hoạt động trong cả Thế chiến I và Thế chiến II. Nó từng là mục tiêu được quân Nhật nhắm đến trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, nhưng chỉ bị hư hỏng nhẹ. Sau khi được sửa chữa, nó tiếp tục hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương cho đến hết Thế chiến II. Nó bị đánh chìm vào ngày 10 tháng 2 năm 1948 khi được sử dụng trong thử nghiệm bom nguyên tử ngoài khơi Kwajalein.

Thiết kế và chế tạo

Pennsylvania được đặt lườn vào ngày 27 tháng 10 năm 1913 bởi hãng Northrop Grumman Newport News tại Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 3 năm 1915, được đỡ đầu bởi Elizabeth Kolb ở Philadelphia, Pennsylvania, và được đưa vào hoạt động ngày 12 tháng 6 năm 1916 dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Henry B. Wilson.

[sửa] Lịch sử hoạt động

[sửa] Hạm đội Đại Tây Dương

Pennsylvania thoạt tiên được bố trí đến Hạm đội Đại Tây Dương. Vào ngày 12 tháng 10 năm 1916, nó trở thành soái hạm của Tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương, khi Đô đốc Henry T. Mayo chuyển cờ hiệu của mình từ chiếc Wyoming (BB-32) sang chiếc Pennsylvania. Vào tháng 1 năm 1917, Pennsylvania lên đường tham gia diễn tập hạm đội trong vùng biển Caribbe. Nó quay về căn cứ tại Yorktown, Virginia ngày 6 tháng 4 năm 1917, ngày mà Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức. Nó đã không lên đường gia nhập vào Hạm đội Grand của Hải quân Anh vì nó dùng dầu đốt thay vì than, và không thể dành thêm tàu chở dầu để chuyên chở nhiên liệu bổ sung sang Anh Quốc, lúc này đang bị thiếu hụt dầu. Trong hoàn cảnh như vậy, chỉ có các thiết giáp hạm chạy bằng than mới được chọn cho nhiệm vụ này. Đặt căn cứ tại Yorktown, nó duy trì tình trạng sẵn sàng chiến đấu qua các đợt diễn tập hạm đội và huấn luyện chiến thuật trong khu vực vịnh Chesapeake, xen kẻ với việc đại tu tại Norfolk và New York, cùng một lần cơ động đến Long Island.

Vào ngày 11 tháng 8 năm 1917, trong khi ở tại Yorktown, Pennsylvania xếp hàng thủy thủ đoàn trên boong tàu để chào mừng khi chiếc Mayflower cùng Tổng thống Woodrow Wilson đến nơi. Lúc 12 giờ 15 phút, Tổng thống Wilson đi duyệt qua Pennsylvania với nghi thức trọng thể đầy đủ.

Vào ngày 2 tháng 12 năm 1918, Pennsylvania đến thả neo ngoài khơi Tompkinsville, New York. Ngày 4 tháng 12, nó lên đường đi đến Brest, Pháp. Lúc 11 giờ 00, chiếc George Washington treo cờ hiệu của Tổng thống Hoa Kỳ tiến ra khơi cùng với sự hộ tống của mười tàu khu trục. Pennsylvania xếp hàng thủy thủ đoàn trên boong tàu và bắn 21 phát đại bác để chào mừng. Nó chiếm lấy vị trí phía trước chiếc George Washington dẫn đầu đoàn hộ tống danh dự cho Tổng thống. Đến Brest ngày 13 tháng 12, thủy thủ đoàn xếp hàng và chào mừng khi chiếc George Washington đi ngang vào chỗ neo đậu. Ngày 14 tháng 12, Pennsylvania khởi hành quay về New York, và đến nơi ngày 25 tháng 12.

Vào tháng 2 năm 1919, Pennsylvania tham gia cuộc cơ động của hạm đội tại vùng biển Caribbe, và quay trở về New York vào cuối mùa Xuân. Trong khi ở lại New York, ngày 30 tháng 6 năm 1919, chức vụ Tổng tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương của Đô đốc Mayo được thay thế bởi Phó Đô đốc Henry B. Wilson, nguyên là thuyền trưởng đầu tiên của con tàu.

Tại Tompkinsville ngày 8 tháng 7 năm 1919, Pennsylvania đón lên tàu Phó Tổng thống Thomas R. Marshall, các Bộ trưởng trong nội các Daniels, Glass, Wilson, Baker, Lane và Nghị sĩ Champ Clark rồi tiến ra khơi. Lúc 10 giờ 00, thiết giáp hạm Oklahoma được nhìn thấy cùng với chiếc George Washington đang treo cờ hiệu vủa Tổng thống cùng với đoàn tàu hộ tống. Pennsylvania bắn một loạt pháo chào mừng Tổng thống, rồi chiếm lấy vị trí dẫn đầu phía trước chiếc Oklahoma hướng về phía New York, dừng lại để tiễn các vị thượng khách danh dự lên bờ trước khi quay về chỗ neo đậu.

Ngày 7 tháng 1 năm 1920, chiếc thiết giáp hạm rời New York tham gia cuộc cơ động của hạm đội tại vùng biển Caribbe, và quay trở về New York ngày 26 tháng 4 năm 1920. Nó tiếp tục thực hiện lịch trình huấn luyện tại chỗ cho đến ngày 17 tháng 1 năm 1921 khi nó rời New York đi đến vùng kênh đào Panama. Pennsylvania đi đến Balboa, Panama ngày 20 tháng 1, gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương và trở thành soái hạm của hạm đội hỗn hợp, khi Tổng tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương nắm quyền chỉ huy Hạm đội Thiết giáp hạm theo lệnh của Bộ Hải quân.

Ngày 21 tháng 1 năm 1921, Hạm đội khởi hành từ Balboa đi Callao, Peru, và đến nơi ngày 31 tháng 1 năm 1921. Rời cảng này ngày 2 tháng 2, Pennsylvania quay về Balboa vào ngày 14 tháng 2, rồi tiến hành các đợt thực tập ngắn trong khi ở lại Căn cứ Hải quân vịnh Guantanamo, Cuba. Quay về Hampton Roads ngày 28 tháng 4 năm 1921, nó bắn 21 loạt đạn chào khi đi ngang qua chiếc Mayflower. Sau đó Bộ trưởng Hải quân, Thứ trưởng Hải quân và Trưởng phònng Hành quân Hải quân cùng lên tàu chuẩn bị cho lễ tiếp đón Tổng thống Hoa Kỳ. Lúc 11 giờ 40 phút, Tổng thống Warren Harding lên tàu và cờ hiệu của ông được kéo lên cột buồm chính.

[sửa] Hạm đội Thái Bình Dương

Ngày 22 tháng 8 năm 1922, Pennsylvania rời Lynnhaven Roads gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương. Đi đến San Pedro, California ngày 26 tháng 9 năm 1922, khu vực hoạt động chủ yếu của nó cho đến năm 1929 là dọc theo bờ biển California, Washington và Oregon, với các cuộc cơ động và thực tập chiến thuật được tổ chức định kỳ tại khu vực kênh đào Panama, vùng biển Caribbe và khu vực Hawaii. Chiếc thiết giáp hạm cùng Hạm đội rời San Francisco, California ngày 15 tháng 4 năm 1925, và sau khi tham dự một cuộc tập trận tại khu vực Hawaii, đã rời Honolulu, Hawaii ngày 1 tháng 7 lên đường sang Melbourne, Australia. Sau khi ghé thăm Wellington, New Zealand, nó quay trở về San Pedro vào ngày 26 tháng 9 năm 1925.

Vào tháng 1 năm 1929, Pennsylvania thực hiện chuyến đi đến Panama; và sau các đợt cơ động huấn luyện trong thời gian đặt căn cứ tại vịnh Guantanamo, Cuba, nó di chuyển xưởng hải quân Philadelphia, đến nơi ngày 1 tháng 6 năm 1929, để tiến hành đại tu và hiện đại hóa. Chiếc thiết giáp hạm ở lại xưởng tàu gần hai năm; khi dàn pháo hạng hai giảm xuống còn 12 khẩu pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber và số súng phòng không 76 mm (3 inch) được thay thế bằng tám khẩu pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber.[1] Ngày 8 tháng 5 năm 1931, nó khởi hành một chuyến đi huấn luyện học viên mới đến vịnh Guantanamo, Cuba, rồi quay trở về. Ngày 6 tháng 8 năm 1931, một lần nữa chiếc tàu chiến lại đi đến Guantanamo, rồi tiếp tục đi đến San Pedro, nơi nó lại gia nhập Hạm đội Thiết giáp hạm.

Từ tháng 8 năm 1931 đến năm 1941, Pennsylvania tham gia các đợt thực hành chiến thuật và tác xạ của Hạm đội dọc theo bờ Tây Hoa Kỳ, cũng như tham dự các cuộc tập trận cơ động Vấn đề Hạm đội được tổ chức định kỳ tại vùng biển Hawaii và biển Caribbe. Pennsylvania là một trong số 14 tàu chiến được trang bị kiểu radar thế hệ đầu CXAM-1 của hãng RCA.[2] Sau một đợt đại tu và cải biến tại Xưởng hải quân Puget Sound nhằm tăng số pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber lên 12 khẩu,[1] ngày 7 tháng 1 năm 1941, chiếc thiết giáp hạm khởi hành hướng đến vùng biển Hawaii, nơi nó thực hiện các hoạt động thường xuyên cùng các đơn vị của Lực lượng Đặc nhiệm 1 và 5 trong suốt năm đó, và từng thực hiện một chuyến đi ngắn đến bờ Tây nước Mỹ cùng Lực lượng Đặc nhiệm 18.

[sửa] Thế Chiến II

[sửa] 1941-1943

Vào lúc Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941, Pennsylvania đang trong ụ tàu của xưởng hải quân Trân Châu Cảng. Nó là một trong những tàu chiến đầu tiên nổ súng khi các máy bay ném bom bổ nhào và máy bay ném ngư lôi đối phương bắt đầu cuộc tấn công. Chúng đã không thành công trong những nỗ lực phóng ngư lôi vào thùng chặn của ụ tàu, nhưng Pennsylvania cùng khu vực chung quanh bị bắn phá nặng nề. Một khẩu đội pháo 127 mm (5 inch) bị loại khỏi vòng chiến khi một quả bom đánh trúng mạn phải tàu và phát nổ trong ngăn số 9. Các tàu khu trục Cassin và Downes, ngay phía trước chiếc Pennsylvania trong ụ tàu, bị hư hại nặng do trúng phải bom, và bản thân chiếc thiết giáp hạm bị bao phủ bởi một cơn mưa mảnh vụn. Một phần của ống phóng ngư lôi trên chiếc Downes, nặng khoảng 450 kg (1.000 lb), bị thổi tung lên cầu tàu chiếc Pennsylvania. Khi cuộc tấn công kết thúc, chiếc tàu chiến bị tổn thất 15 người thiệt mạng (bao gồm Sĩ quan Cao cấp của nó), 14 người mất tích và 38 người bị thương.

Ngày 20 tháng 12 năm 1941, Pennsylvania khởi hành đi San Francisco, và đến nơi ngày 29 tháng 12 năm 1941. Công việc sửa chữa những hư hỏng của nó kéo dài đến tận ngày 30 tháng 3 năm 1942. Từ ngày 14 tháng 4 đến ngày 1 tháng 8 năm 1942, Pennsylvania tiến hành huấn luyện và tuần tra dọc theo bờ biển California, bị ngắt quãng bởi các lần đại tu tại San Francisco. Trong giai đoạn này, vào ngày 4 tháng 6 năm 1942, Đô đốc Ernest J. King, Tổng tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ, chủ trì một buổi lễ ngắn trên chiếc Pennsylvania để trao tặng Huân chương Phục vụ Dũng cảm cho Đô đốc Chester W. Nimitz do những cống hiến xứng đáng trong cương vị Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ từ ngày 31 tháng 12 năm 1941. Sau đó nó khởi hành như một trong số bảy thiết giáp hạm dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc William S. Pye sẵn sàng đánh chặn lực lượng Nhật Bản nếu như chúng có ý định tấn công bờ Tây Hoa Kỳ. Sau khi trận Midway kết thúc bằng chiến thắng rõ ràng cho phía Mỹ, lực lượng khởi hành đi San Pedro.

Ngày 1 tháng 8 năm 1942, Pennsylvania rời San Francisco hướng đến Trân Châu Cảng, và đến nơi ngày 14 tháng 8. Nó tiến hành thực tập tác xạ và tham gia vào lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay hoạt động tại vùng biển Hawaii. Vào ngày 4 tháng 10, Pennsylvania quay về San Francisco, rồi ở lại đó để đại tu và cải biến cho đến tận ngày 5 tháng 2 năm 1943. Các kiểu pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber và 127 mm (5 inch)/25 caliber được thay thế bằng 16 khẩu 127 mm (5 inch)/38 caliber pháo đa dụng bố trí trên các tháp pháo đôi.[1] Nó bắt đầu tiến hành các cuộc huấn luyện ôn tập và tuần tra phòng không ngoài khơi bờ biển California. Vào ngày 23 tháng 4, Pennsylvania khởi hành đi Alaska tham gia Chiến dịch Aleut.

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1943, Pennsylvania đi đến vịnh Cold, Alaska. Trong các ngày 11 và 12 tháng 5, nó tham gia bắn phá các mục tiêu tại vịnh Holtz, Attu và cảng Chicago để hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ. Khi nó rút lui khỏi Attu ngày 12 tháng 5, một máy bay tuần tra phát tin cảnh báo một làn sóng ngư lôi đang hướng chiếc Pennsylvania. Chiếc thiết giáp hạm cơ động lẫn tránh với tốc độ tối đa và né tránh được quả ngư lôi an toàn. Tàu khu trục Edwards hợp cùng Farragut truy tìm kẻ tấn công. Sau mười giờ liên tục săn đuổi bằng mìn sâu, chiếc tàu ngầm Nhật Bản I-31 bị buộc phải nổi lên mặt nước và bị hỏa lực pháo của chiếc Edwards bắn trúng. Dù bị hư hại nặng, chiếc tàu ngầm đối phương vẫn sống sót cho đến ngày 13 tháng 6 khi nó bị tàu khu trục Frazier đánh chìm. Sóng ngư lôi lại được trông thấy vào buổi sáng ngày 14 tháng 5, và lần này những chiếc tàu khu trục truy tìm một cách vô vọng. Cùng buổi sáng hôm đó, thủy phi cơ của Pennsylvania (những chiếc OS2U Kingfisher) được tung ra để hoạt động từ chiếc tàu chở thủy phi cơ Casco để càn quét các mục tiêu đối phương trên đảo Attu.

Trưa ngày 14 tháng 5, Pennsylvania tiến hành đợt bắn phá bờ biển thứ ba, lần này là nhằm hỗ trợ cho cuộc tấn công của bộ binh lên cánh phải vịnh Holtz. Sau đó nó hoạt động ở phía Bắc và Đông Attu cho đến ngày 19 tháng 5 khi nó khởi hành đi Adak. Nó rời Adak ngày 21 tháng 5 và về đến xưởng hải quân Puget Sound, Bremerton, Washington ngày 28 tháng 5. Chiếc thiết giáp hạm quay trở lại Adak ngày 7 tháng 8, và rời nơi đó ngày 13 tháng 8 như là soái hạm của Chuẩn Đô đốc Francis W. Rockwell, chỉ huy Lực lượng tấn công Kiska. Ngày 15 tháng 8, lực lượng tấn công đã đổ bộ lên các bãi biển phía Tây Kiska mà không gặp sự kháng cự. Đến chiều tối ngày 16 tháng 8, sự việc trở nên rõ ràng là quân Nhật đã triệt thoái dưới sự che chở của sương mù trước cuộc đổ bộ. Pennsylvania tuần tra ngoài khơi Kiska thêm một thời gian trước khi quay về Adak vào ngày 23 tháng 8.

Pennsylvania quay về đến Trân Châu Cảng ngày 1 tháng 9. Nó nhận lên tàu 790 hành khách rồi khởi hành ngày 19 tháng 9 hướng đến San Francisco, và đến nơi ngày 25 tháng 9. Nó quay lại Trân Châu Cảng ngày 6 tháng 10, và sau khi đưa hành khách lên bờ, chiếc thiết giáp hạm tham gia thực tập tác xạ và huấn luyện tại khu vực Hawaii. Nó trở thành soái hạm của Chuẩn Đô đốc Richmond K. Turner, Tư lệnh Lực lượng Đổ bộ 5, và tham gia vào Lực lượng Tấn công cánh Bắc, rời Trân Châu Cảng ngày 10 tháng 11 để tấn công lên đảo san hô Makin trong quần đảo Gilbert.

Lực lượng Đặc nhiệm bao gồm bốn thiết giáp hạm, bốn tàu tuần dương, ba tàu sân bay hộ tống các tàu vận tải và tàu khu trục đã tiếp cận đảo san hô Makin từ hướng Tây Nam vào buổi sáng ngày 20 tháng 11. Pennsylvania khai hỏa nhắm vào đảo Butaritari trước tiên bằng các khẩu pháo chính của nó ở khoảng cách 13 km (14.200 yard) rồi sau đó khai hỏa các khẩu pháo hạng hai của nó.

Ngay trước khi sẵn sàng tác chiến vào lúc sáng sớm ngày 24 tháng 11, một tiếng nổ dữ dội xảy ra về phía mạn phải con tàu trong khi Pennsylvania đang đi đến vị trí yểm trợ ngoài khơi Makin. Trong nhiều phút sau vụ nổ, một đám cháy bừng lên chiếu sáng cả khu vực. Tin tức nhận được cho biết chiếc tàu sân bay hộ tống Liscome Bay đã bị trúng ngư lôi, bị chìm với tổn thất nhân mạng nặng nề, bao gồm Chuẩn Đô đốc Henry M. Mullinnix tư lệnh hải đội. Máy bay phóng ngư lôi đối phương tiếp nối các cuộc tấn công ban đêm kiên quyết vào các đêm 25 và 26 tháng 11 nhưng bị đánh lui mà không gây thêm thiệt hại nào cho Lực lượng Đặc nhiệm.

[sửa] 1944

Vào ngày 31 tháng 1 năm 1944, Pennsylvania tiến hành nã pháo xuống đảo Kwajalein và tiếp tục suốt ngày hôm đó. Cuộc đổ bộ được thực hiện vào ngày 1 tháng 2, khi Pennsylvania tham gia hỗ trợ bắn pháo các mục tiêu đối phương trước và trong khi đổ bộ. Chiều tối ngày 3 tháng 2, chiếc thiết giáp hạm thả neo trong vũng biển san hô gần Kwajalein. Sự thành công của chiến dịch Kwajalein đã được đảm bảo và Pennsylvania rút lui về đảo san hô Majuro để được tiếp tế đạn dược.

Ngày 12 tháng 2 Pennsylvania lên đường tham gia chiến dịch tấn công Eniwetok. Vào ngày 17 tháng 2, Pennsylvania táo bạo băng qua luồng nước sâu tiến vào vũng biển Eniwetok trong khi các khẩu đội pháo khai hỏa. Nó di chuyển dọc theo một một luồng trong vũng biển đến một vị trí ngoài khơi đảo Engebi và thực hiện nã pháo các vị trí đối phương. Sáng ngày 18 tháng 2, Pennsylvania tiến hành nã pháo xuống Engebi trước và trong khi các đợt của lực lượng tấn công các bãi đổ bộ. Sau khi Engebi đã được đảm bảo, Pennsylvania di chuyển về phía Nam băng qua vũng biển đến khu vực phụ cận đảo Parry, nơi nó tiến hành nã pháo các mục tiêu trong các ngày 20 và 21 tháng 2 nhằm chuẩn bị cho cuộc tấn công đổ bộ lên đảo này. Vào lúc bắt đầu đợt bắn phá, hòn đảo này được che phủ bởi những rừng cây cọ dày đạc che phủ cho đến mép nước; nhưng đến khi kết thúc cuộc bắn phá, không còn cây nào đứng vững. Sáng ngày 22 tháng 2, nó bắn pháo dọn đường cho cuộc đổ bộ lên đảo Parry.

Pennsylvania rút lui về Majuro ngày 1 tháng 3, rồi sau đó di chuyển về phía Nam đến cảng Havannah, Efate, New Hebrides. Nó ở lại Efate cho đến cuối tháng 4, và đến ngày 29 tháng 4, Pennsylvania đi đến Sydney. Nó quay lại Efate ngày 11 tháng 5 rồi tiếp tục di chuyển đến cảng Purvis, quần đảo Florida, nơi nó tiến hành các cuộc thực tập bắn pháo và tấn công đổ bộ. Chiếc thiết giáp hạm quay trở lại Efate ngày 27 tháng 3, và sau khi được tiếp tế đạn dược, nó khởi hành ngày 2 tháng 6 và đi đến Roi ngày 3 tháng 6.

Ngày 10 tháng 6, Pennsylvania hợp cùng một lực lượng các thiết giáp hạm, tàu tuần dương, tàu sân bay hộ tống và tàu khu trục lên đường chuẩn bị cho cuộc tấn công và đổ bộ lên quần đảo Mariana. Đêm hôm đó, một tàu khu trục đang hộ tống báo cáo nghe được âm thanh đối phương nên lệnh cơ động lẫn tránh 90 độ sang mạn trái được ban ra. Do sự cơ động này, Pennsylvania va chạm với chiếc tàu vận tải cao tốc Talbot và bị hư hại nhẹ. Talbot bị buộc phải quay về Eniwetok để được sửa chữa khẩn cấp.

Ngày 14 tháng 6, Pennsylvania tham gia bắn phá Saipan chuẩn bị cho cuộc tấn công đổ bộ được tiến hành sáng hôm sau trong khi chiếc thiết giáp hạm di chuyển ngoài khơi bờ biển Đông Bắc Tinian, thực hiện các cuộc bắn phá xuống hòn đảo nhằm vô hiệu hóa các khẩu đội pháo đối phương có thể khai hỏa vào các bãi đổ bộ tại Saipan. Vào ngày 16 tháng 6, chiếc thiết giáp hạm tiến hành bắn phá các mục tiêu đối phương tại Orote Point, Guam, rồi sau đó rút lui để bảo vệ khu vực Saipan. Pennsylvania rời Mariana ngày 25 tháng 6, và sau khi ở lại Eniwetok một thời gian ngắn, lại khởi hành ngày 9 tháng 7 để tiếp tục hỗ trợ cho chiến dịch Marianas.

Từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 7, Pennsylvania tiến hành đợt bắn pháo lên đảo Guam nhằm chuẩn bị cho cuộc tấn công và đổ bộ lên hòn đảo này. Sau khi hoàn tất việc nã pháo vào chiều tối ngày 14 tháng 7, nó quay về Saipan được tiếp tế đạn dược. Nó quay lại Guam vào ngày 17 tháng 7, dùng hỏa lực hỗ trợ cho các nhóm công binh dọn đường. Cùng lúc đó chiếc thiết giáp hạm tiếp tục bắn pháo có chủ định vào các mục tiêu được chỉ định cho đến ngày 20 tháng 7, Trong quá trình chiến dịch Guam, nó đã bắn nhiều quả đạn pháo hơn bất kỳ chiếc tàu chiến nào khác trong một chiến dịch duy nhất.[3] Vì lý do đó, nó có được một trong các tên lóng là "Old Falling Apart," vì nó tung ra quá nhiều sắt thép đến mức dường như nó sắp rời ra từng mảnh.

Sáng ngày 21 tháng 7, Pennsylvania chiếm lấy vị trí giữa bãi Agat và bán đảo Orote, thực hiện bắn pháo xuống khu vực bãi biển để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ trong khi lực lượng và thiết bị được chất lên các tàu đổ bộ và sắp xếp các đợt đổ bộ. Khi các bãi đổ bộ đã được hình thành, nó ở vị trí trực chiến sẵn sàng nã pháo theo yêu cầu có thể có từ các nhóm trinh sát pháo binh trên bờ, và tiếp tục vai trò này cho đến ngày 3 tháng 8. Nó di chuyển đến Eniwetok, rồi tiếp tục đến quần đảo New Hebride, và sau một cuộc tổng dượt tấn công đổ bộ tại mũi Esperance, Guadalcanal; chiếc thiết giáp hạm đi đến cảng Purvis, đảo Florida. Nó khởi hành ngày 6 tháng 9 trong thành phần của Đội đặc nhiệm bắn pháo và yểm trợ hỏa lực Palau. Từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 9, Pennsylvania tham gia bắn phá dày đặc các mục tiêu trên đảo Peleliu. Vào ngày 15 tháng 9, nó còn hỗ trợ hỏa lực cho lực lượng đổ bộ trên hòn đảo; rồi sau đó tấn công phá hủy các vị trí pháo đối phương đặt dọc theo đỉnh núi và sườn đồi bên cạnh bãi Red trên đảo Angaur.

Ngày 25 tháng 9, Pennsylvania đi đến Manus thuộc quần đảo Admiralty thực hiện sửa chữa khẩn cấp, vào một ụ tàu nổi tại đây vào ngày 1 tháng 10 năm 1944. Nó khởi hành vào ngày 12 tháng 10, là một trong số sáu thiết giáp hạm thuộc lực lượng bắn phá và hỗ trợ hỏa lực của Chuẩn Đô đốc Jesse B. Oldendorf trong thành phần Đệ Thất hạm đội dưới quyền chỉ huy chung của Phó Đô đốc Thomas C. Kinkaid, sẽ hoạt động tại khu vực Trung Philippine.

Pennsylvania đi đến vị trí hỗ trợ hỏa lực tại bờ Đông đảo Leyte vào ngày 18 tháng 10, và bắt đầu đợt bắn pháo che chở cho các toán trinh sát bờ biển, các toán công binh hoạt động dưới nước, và các đơn vị quét mìn hoạt động trong vịnh Leyte và tại cảng San Pedro. Nó thực hiện các nhiệm vụ bắn phá vào ngày hôm sau và hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Leyte vào ngày 20 tháng 10. Nhiệm vụ bắn pháo được tiếp tục cho đến ngày 22 tháng 10, bao gồm cả việc quấy nhiễu đối phương và bắn pháo sáng vào ban đêm.

Ngày 24 tháng 10, mọi tàu chiến Mỹ có mặt trong khu vực đều được huy động chuẩn bị trong khi hạm đội Nhật đang đến gần, khai mào Trận chiến vịnh Leyte. Pennsylvania và năm thiết giáp hạm khác, cùng các tàu tuần dương và tàu khu trục trong lực lượng của Chuẩn Đô đốc Oldendorf di chuyển về phía Nam, và khi đêm xuống đã được bố trí chắn ngang lối ra vào phía Bắc của eo biển Surigao, chờ đợi sự xuất hiện của lực lượng đối phương. Đêm hôm đó, các tàu tuần tra ngư lôi (PT boat) Mỹ bố trí ngay lối vào phía Nam eo biển Surigao tấn công trước tiên bằng ngư lôi. Kế tiếp, lực lượng tàu khu trục bố trí hai bên sườn tiếp nối đợt tấn công bằng ngư lôi và hải pháo. Lúc 03 giờ 53 phút ngày 26 tháng 10, thiết giáp hạm West Virginia khai hỏa trước tiên, rồi nhanh chóng được các thiết giáp hạm và tàu tuần dương khác tham gia. Lực lượng Nhật Bản đã thẳng tiến vào một cái bẫy hoàn hảo: Chuẩn Đô đốc Oldendorf đã bố trí được đội hình tàu chiến của mình vào tư thế vốn là điều mơ ước của các nhà chiến thuật hải quân khi cắt ngang chữ T đội hình của đối phương. Phía Nhật bị mất hai thiết giáp hạm Yamashiro và Fusō cùng ba tàu khu trục trong trận chiến eo biển Surigao; tàu tuần dương Mogami cùng một tàu khu trục là những lực lượng duy nhất còn lại thoát ra được. Lực lượng của Chuẩn Đô đốc Oldendorf không bị bất kỳ thiệt hại nào, trong khi Mogami bị máy bay từ các tàu sân bay đánh chìm ngày hôm sau.

Ngày 26 tháng 10 năm 1944, mười máy bay đối phương đã đồng loạt tấn công một tàu khu trục bên cạnh Pennsylvania, và chiếc thiết giáp hạm đã giúp đỡ vào việc bắn rơi bốn máy bay và đánh đuổi những chiếc còn lại. Đêm 28 tháng 10, nó bắn rơi một máy bay ném bom đang dự tính tấn công bằng ngư lôi.

[sửa] 1945

Pennsylvania tiếp tục tuần tra lại khu vực vịnh Leyte cho đến ngày 25 tháng 11, di chuyển đến Manus thuộc quần đảo Admiralty và sau đó đến Kossol Passage nơi nó được tiếp đạn. Nó khởi hành ngày 1 tháng 1 năm 1945 cùng lực lượng hỗ trợ hỏa lực của Phó Đô đốc Oldendorf hướng đến Lingayen Gulf. Đội đặc nhiệm chịu đựng các cuộc không kích nặng nề trong các ngày 4 và 5 tháng 1, khi chiếc tàu sân bay hộ tống Ommaney Bay bị một máy bay tự sát đâm trúng và bị hủy hoại do đám cháy phát sinh. Nhiều tàu chiến khác cũng bị hư hại.

Sáng ngày 6 tháng 1, Pennsylvania thực hiện cuộc bắn phá xuống các khu vực mục tiêu trên đảo Santiago tại cửa vịnh Lingayen. Trưa hôm đó, chiếc thiết giáp hạm tiến vào vịnh thực hiện các cuộc phản pháo hỗ trợ cho các lực lượng quét mìn trước khi rút lui khi đêm xuống. Sáng hôm sau, 7 tháng 1, toàn bộ lực lượng hỗ trợ hỏa lực tiến vào vịnh Lingayen bắn pháo hỗ trợ cũng như tiêu diệt mục tiêu đối phương , và công việc nả pháo chuẩn bị này kéo dài cho đến hết ngày hôm sau. Vào ngày 9 tháng 1, Pennsylvania thực hiện bắn pháo hỗ trợ cho các đợt đổ bộ. Máy bay đối phương đã tấn công lực lượng trong vịnh Lingayen vào ngày 10 tháng 1. Bốn quả bom đã nổ sát bên cạnh, nhưng không gây thiệt hại gì cho Pennsylvania. Trưa hôm đó, nó thực hiện nhiệm vụ bắn pháo theo yêu cầu lần cuối cùng nhằm hỗ trợ cho hoạt động trên bờ với 12 quả pháo nhằm tiêu diệt một điểm tập trung xe tăng đối phương được phát hiện bởi một toán trinh sát pháo binh trên bờ.

Từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 1 năm 1945, Pennsylvania thực hiện một chuyến tuần tra trong khu vực biển Nam Trung Quốc, ngoài khơi vịnh Lingayen, cùng các tàu chiến khác của đội đặc nhiệm. Ngày 17 tháng 1, nó thả neo tại vịnh Lingayen và ở lại đây cho đến tận ngày 10 tháng 2, khi nó lên đường đến Manus thuộc quần đảo Admiralty để thực hiện các sửa chữa tạm thời. Lại lên đường ngày 22 tháng 2, chiếc thiết giáp hạm đi ngang qua quần đảo Marshall và Trân Châu Cảng trước khi về đến San Francisco vào ngày 13 tháng 3. Nó đi vào xưởng tàu Hunter's Point để được đại tu rộng rãi. Các khẩu pháo chính và pháo hạng hai của nó được tái trang bị, trong đó một số nòng pháo 356 mm (14 inch) mới của nó được vớt lên từ chiếc thiết giáp hạm Oklahoma bị chìm trong vụ quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng. Ngoài ra, các vũ khí phòng không bổ sung, radar và hệ thống kiểm soát hỏa lực được cải tiến cũng được trang bị.

Sau khi hoàn tất việc đại tu, Pennsylvania tiến hành các cuộc chạy thử máy tại vùng biển ngoài khơi San Francisco, rồi được tiếp nối bằng các đợt huấn luyện ôn tập trong thời gian ở lại San Diego, California. Nó rời San Francisco ngày 12 tháng 7 hướng đến Trân Châu Cảng, và đến nơi vào ngày 18 tháng 7. Nó khởi hành đi Okinawa vào ngày 24 tháng 7. Trên đường đi chiếc thiết giáp hạm tham gia vào cuộc bắn phá đảo Wake vào ngày 1 tháng 8; và sau khi khi được tiếp đạn tại Saipan ngày hôm sau, nó lại tiếp tục hành trình. Tại Okinawa nó th̉a neo trong vịnh Buckner cạnh thiết giáp hạm Tennessee. Vào ngày 12 tháng 8, chỉ ba ngày trước khi Nhật Bản đầu hàng, một máy bay ném ngư lôi đối phương xâm nhập vịnh Buckner mà không bị phát hiện và phóng một quả ngư lôi nhắm vào Pennsylvania lúc đó đang thả neo tại đây. Bị đánh trúng phía đuôi tàu, Pennsylvania bị hư hại đáng kể. Vụ nổ do quả ngư lôi gây ra đã làm thủng một lỗ khoảng 9 m (30 ft) đường kính phía đuôi tàu, khiến 20 người thiệt mạng v̀a 10 người bị thương, cùng nhiều ngăn bị ngập nước. Pennsylvania bị nghiêng nặng về phía đuôi, tuy nhiên độ ngập nước của con tàu đã kiểm soát được nhờ hoạt động của các đội cứu hộ trên chiếc Pennsylvania cùng với sự trợ giúp kịp thời của hai tàu kéo cứu hộ. Ngày hôm sau, nó được kéo vào chỗ nước nông nơi những hoạt động cứu hộ được tiếp tục thực hiện.

Ngày 18 tháng 8, được hai tàu kéo lai dắt, Pennsylvania rời vịnh Buckner. Nó đi đến cảng Apra, Guam ngày 6 tháng 9 và vào ụ tàu tại đây, nơi một tấm thép lớn được được hàn vào lỗ thủng bởi ngư lôi, cho phép chiếc thiết giáp hạm quay trở về Hoa Kỳ bằng chính động lực của nó. Ngày 4 tháng 10, nó lên đường thực hiện chuyến hải trình về nhà dưới sự tháp tùng của tàu tuần dương Atlanta và tàu khu trục Walke. Đến ngày 17 tháng 10, đang trên đường đi, trục số 3 bất ngờ trượt ra, buộc phải cử thợ lặn xuống nước cắt rời trục và chân vịt cho chúng chìm xuống biển. Bị ngập nước và chỉ hoạt động một chân vịt, Pennsylvania gắng gượng lê lết về Xưởng hải quân Puget Sound, Washington, vào ngày 24 tháng 10.

Việc sửa chữa được thực hiện cho phép Pennsylvania di chuyển đến quần đảo Marshall nơi nó được sử dụng như một tàu mục tiêu cho việc tiến hành Chiến dịch Crossroads, một cuộc thử nghiệm tác động của bom nguyên tử đối với các tàu chiến tại đảo san hô Bikini vào tháng 7 năm 1946. Sau đó, nó được kéo về vũng biển Kwajalein, nơi chiếc thiết giáp hạm kỳ cựu được cho nngưng hoạt động vào ngày 29 tháng 8 năm 1946. Nó ở lại Kwajalein để được nghiên cứu tác động phóng xạ và cấu trúc cho đến ngày 10 tháng 2 năm 1948 khi nó bị đánh chìm ngoài khơi Kwajalein với phần đuôi chìm trước. Pennsylvania được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 19 tháng 2 năm 1948.

Pennsylvania được tặng thưởng Đơn vị Tuyên dương Hải quân và tám Ngôi sao Chiến đấu do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Đặt hàng: 15 tháng 12 năm 1938

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm South Dakota (1939)

Xưởng đóng tàu: New York Shipbuilding Corporation

Đặt lườn: 5 tháng 7 năm 1939

Hạ thủy: 7 tháng 6 năm 1941

Đỡ đầu: Harlan J. Bushfield

Hoạt động: 20 tháng 3 năm 1942

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 25 tháng 10 năm 1962

Ngừng hoạt động: 31 tháng 1 năm 1947

Xóa đăng bạ: 1 tháng 6 năm 1962

Tặng thưởng: 13 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 35.000 tấn

Chiều dài: 207,3 m (680 ft)

Mạn thuyền: 33 m (108 ft 3 in)

Tầm nước: 11 m (36 ft 4 in)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước

8 nồi hơi đốt dầu, 4 trục

công suất 130.000 mã lực (97 MW)

Tốc độ: 50,2 km/h (27,8 knot)

Tầm xa: 37.000 km ở tốc độ 28 km/h

(20.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 2.364

Vũ khí: 9 × pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber Mark 6

16 × pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber

68 × súng phòng không 40 mm

76 × súng phòng không 20 mm

Cảm biến:

Vỏ giáp: Tối đa 310 mm (12,2 inch)

Máy bay: 2 × OS2U Kingfisher

USS South Dakota (BB-57) là một thiết giáp hạm được Hải quân Hoa Kỳ đưa ra hoạt động từ năm 1942 đến năm 1947. Là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, South Dakota là tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ mang cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 40 của Hoa Kỳ. Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, chiếc thiết giáp hạm hoạt động chủ yếu tại Mặt trận Thái Bình Dương, và đã được tặng thưởng 13 Ngôi sao Chiến đấu. Nó được cho ngừng hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, và được bán để tháo dỡ vào năm 1962.

Thiết kế và chế tạo

South Dakota được đặt lườn vào ngày 5 tháng 7 năm 1939 bởi hãng tàu New York Shipbuilding Corporation tại Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 6 năm 1941, được đỡ đầu bởi Bà Harlan J. Bushfield, Phu nhân Thống đốc tiểu bang South Dakota; và được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 3 năm 1942 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá hải quân Thomas L. Gatch.

Sau khi được trang bị tại xưởng hải quân Philadelphia, Pennsylvania, South Dakota thực hiện chuyến đi chạy thử máy và huấn luyện từ ngày 3 tháng 6 đến ngày 26 tháng 7 năm 1942.

[sửa] Lịch sử hoạt động

[sửa] Hạm đội Thái Bình Dương

South Dakota rời Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 16 tháng 8 năm 1942 hướng đến Panama. Chiếc thiết giáp hạm đi qua kênh đào Panama vào ngày 21 tháng 8 và thẳng hướng đến quần đảo Tonga, đi đến Nukuʻalofa, Tonga, vào ngày 4 tháng 9. Hai ngày sau, nó đụng phải một dãi san hô ngầm không được vẽ trên bản đồ tại eo biển Lahai và bị hỏng đáng kể lườn tàu, vì vậy vào ngày 12 tháng 9 nó bị buộc phải quay về xưởng hải quân Trân Châu Cảng để sửa chữa.

South Dakota lại sẵn sàng vào ngày 12 tháng 10 năm 1942 và bắt đầu hoạt động huấn luyện cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 16, vốn được xây dựng chung quanh chiếc tàu sân bay Enterprise. Lực lượng Đặc nhiệm rời Trân Châu Cảng vào ngày 16 tháng 10 để phối hợp với Lực lượng Đặc nhiệm TF 17, vốn được tập trung chung quanh chiếc tàu sân bay Hornet và đang hoạt động tại khu vực Đông Bắc Espiritu Santo. Cuộc gặp gỡ diễn ra vào ngày 24 tháng 10; và giờ đây lực lượng phối hợp này, dưới tên gọi mới là Lực lượng Đặc nhiệm TF 61 thuộc quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc T.C. Kinkaid, thực hiện một cuộc càn quét tại khu vực quần đảo Santa Cruz rồi di chuyển về hướng Tây Nam nhằm ngăn chặn mọi lực lượng Nhật Bản tiến đến Guadalcanal.

Những máy bay tuần tra ném bom PBY "Catalina" đã trông thấy một lực lượng tàu sân bay Nhật vào giữa trưa ngày 25 tháng 10, và Lực lượng Đặc nhiệm TF 61 hướng về phía Tây Bắc để đánh chặn. Sáng sớm ngày hôm sau, khi các lực lượng đối địch đang ở trong tầm tấn công, một máy bay trinh sát Nhật phát hiện lực lượng Mỹ và Trận chiến quần đảo Santa Cruz mở màn. South Dakota và nhóm Enterprise ở cách nhóm Hornet khoảng 18 km (10 hải lý) khi trận không chiến xảy ra.

Đợt tấn công đầu tiên của đối phương tập trung vào Hornet. Lúc 10 giờ 45 phút, South Dakota hoạt động gần chiếc Enterprise để cung cấp hỏa lực bảo vệ từ số lượng lớn súng phòng không của nó khi nhóm này bị máy bay ném bom bổ nhào tấn công. Khoảng một giờ sau, có chừng 40 máy bay phóng ngư lôi tấn công hai chiếc tàu chiến. Một đợt tấn công thứ ba, bao gồm cả máy bay ném bom bổ nhào và máy bay phóng ngư lôi, tiếp nối vào lúc 12 giờ 30 phút. South Dakota trúng phải một quả bom 225 kg (500 lb) bên trên tháp pháo số 1. Khi hoạt động tác chiến kết thúc lúc chiều tối, lực lượng Mỹ rút lui về phía Nouméa, New Caledonia, khi chiếc thiết giáp hạm được ghi nhận bắn rơi 26 máy bay đối phương.

Lúc 04 giờ 14 phút ngày 30 tháng 10, trong khi cơ động để lẫn tránh tàu ngầm đối phương, South Dakota va chạm cùng tàu khu trục Mahan gây hư hại cho cả hai. Mũi chiếc Mahan bị uốn cong sang mạn trái, hư hỏng khoang 14 và phát sinh một đám cháy phía trước tàu nhưng được dập tắt nhanh chóng. Cả hai chiếc tàu tiếp tục đi đến Nouméa, nơi chiếc tàu sửa chữa Vestal tiến hành phục hồi các hư hỏng của South Dakota do tai nạn và trong chiến đấu.

Vào ngày 11 tháng 11 năm 1942, South Dakota, trong thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm TF 16, khởi hành rời Nouméa hướng đến Guadalcanal. Sau khi trận Hải chiến Guadalcanal bắt đầu vào ngày 13 tháng 11 khiến hầu hết các tàu tuần dương Đồng Minh trong khu vực bị mất hoặc hư hỏng, nó hợp cùng thiết giáp hạm Washington, các tàu khu trục Preston, Walke, Benham và Gwin để hình thành Lực lượng Đặc nhiệm TF 64 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc W. A. Lee đến tăng cường tại khu vực này. Chiều tối ngày hôm sau lúc 23 giờ 30 phút, lực lượng này đang hoạt động cách Guadalcanal 90 km (50 hải lý) về hướng Tây Nam khi Lee được tin một đoàn tàu vận tải Nhật Bản sẽ di chuyển qua eo biển ngoài khơi Savo trong khoảng giữa 00 giờ 30 phút và 02 giờ 30 phút. Đó chính là đội đặc nhiệm của Đô đốc Nobutake Kondo có nhiệm vụ tiêu diệt sân bay Henderson trên đảo Gudalcanal và đưa một lực lượng tăng cường cùng hàng tiếp liệu cho quân Nhật trên đảo này.

Vào ngày 14 tháng 11, lực lượng của Đô đốc Kondo được tách làm ba nhóm: nhóm bắn phá bao gồm thiết giáp hạm Kirishima, các tàu tuần dương hạng nặng Takao và Atago và hai tàu khu trục hộ tống; nhóm hỗ trợ gần bao gồm tàu tuần dương Nagara và sáu tàu khu trục; và nhóm hỗ trợ xa bao gồm tàu tuần dương Sendai và ba tàu khu trục ở giữa các nhóm khác. Ánh trăng thượng tuần cho phép có tầm nhìn tốt, và ba tàu chiến đối phương được nhìn thấy từ cầu tàu South Dakota ở khoảng cách 16,6 km (18.100 yard). Washington nổ súng vào chiếc dẫn đầu, cho rằng nó là một thiết giáp hạm hay một tàu tuần dương hạng nặng; South Dakota tiếp nối một phút sau đó khi khai hỏa vào con tàu gần nó nhất. Cả hai loạt pháo đều trúng đích và gây phát hỏa trên mục tiêu. Sau đó South Dakota bắn vào một mục tiêu khác và tiếp tục cho đến khi nó biến mất khỏi màn hình radar. Tháp pháo số 3 nổ súng vào một mục tiêu khác và tiếp tục cho đến khi được cho là đã chìm. Dàn hỏa lực hạng hai nhắm vào tám chiếc tàu khu trục gần bờ đảo Savo.

Một khoảnh khắc tạm lắng ngắn ngủi trước khi màn hình radar cho thấy bốn tàu chiến đối phương vừa ló ra khỏi bờ trái đảo Savo và tiến đến gần bên mạn trái ở khoảng cách 5,3 km (5.800 yard). Đèn pha trên chiếc tàu chiến đối phương thứ hai chiếu sáng rõ ràng South Dakota. Washington khai hỏa dàn pháo chính của nó vào chiếc tàu chiến Nhật dẫn đầu, cũng là chiếc lớn nhất; trong khi dàn pháo hạng hai của South Dakota bắn hỏng đèn pha tàu chiến đối phương và nó hướng dàn pháo chính nhắm vào tàu chiến thứ ba, tin rằng là một tàu tuần dương, và nó nhanh chóng ngập trong khói. Lúc 23 giờ 50, một hỏng hóc trong bảng điện của phòng động cơ khiến cho South Dakota bị mất điện toàn bộ: không có radar, không thông tin vô tuyến liên lạc, và hầu hết các tháp pháo không thể hoạt động.[1] South Dakota, ở gần đối phương nhất, chịu đựng hỏa lực của ít nhất ba tàu chiến đối phương, bị bắn trúng 42 phát và gây một số hư hại đáng kể.[2] Hệ thống liên lạc vô tuyến hư hỏng; màn hình radar không hoạt động; ba radar điều khiển hỏa lực bị hỏng; một đám cháy trên cột buồm chính; và nó bị mất liên lạc cùng Washington. Có 39 người tử trận và 59 người bị thương trong số thành viên thủy thủ đoàn. Vì không còn bị hỏa lực đối phương nhắm tới và không còn mục tiêu nào, South Dakota rút lui, gặp lại Washington tại điểm hẹn đã được ấn định trước; rồi cùng đi đến Nouméa. Trong số các tàu khu trục Mỹ chỉ có Gwin quay về cảng; ba chiếc kia bị hỏng nặng trong trận chiến. Walke và Preston bị đánh chìm. Một phần mũi chiếc Benham bị thổi tung do một quả ngư lôi, và trên đường quay về Nouméa cùng với chiếc Gwin bị hư hại theo hộ tống, nó bị buộc phải bỏ lại và bị Gwin đánh chìm bằng hải pháo. Bên phía Nhật Bản, Takao và Atago bị bắn trúng và hư hại; Kirishima và chiếc tàu khu trục Ayanami bị hỏng nặng do hải pháo và bị buộc phải bỏ lại và đánh đắm.

[sửa] Đại Tây Dương

Tàu sửa chữa Prometheus đã khắc phục tạm thời một số thiệt hại trên chiếc South Dakota ngay tại Nouméa, cho phép chiếc thiết giáp hạm lên đường vào ngày 25 tháng 11 năm 1942 hướng đến Tongatapu rồi sau đó quay về nhà. South Dakota về đến New York ngày 18 tháng 12 để được đại tu và hoàn tất việc sửa chữa các hư hỏng trong chiến đấu. Nó trở ra biển khơi vào ngày 25 tháng 2 năm 1943, và sau khi hoàn tất việc chạy thử máy, đã hoạt động cùng tàu sân bay Ranger trong khu vực Bắc Đại Tây Dương cho đến giữa tháng 4. Sau đó South Dakota hoạt động cùng Hạm đội Nhà Anh Quốc, đặt căn cứ tại Scapa Flow, cho đến ngày 1 tháng 8 khi nó quay trở về Norfolk, Virginia.

[sửa] Quay lại Thái Bình Dương

Vào ngày 21 tháng 8 năm 1943, South Dakota rời Norfolk lên đường đi đảo Efate, và đến cảng Havannah vào ngày 14 tháng 9. Nó di chuyển đến Fiji vào ngày 7 tháng 11 và khởi hành từ đây bốn ngày sau đó cùng với các hải đội thiết giáp hạm 8 và 9 để hỗ trợ cho Đội Đặc nhiệm 50.1, một nhóm các tàu sân bay, cho Chiến dịch Galvanic, cuộc tấn công đổ bộ vào quần đảo Gilbert. Các tàu sân bay đã tung ra các cuộc không kích nhắm vào các đảo san hô Jaluit và Mili thuộc quần đảo Marshall vào ngày 19 tháng 11 để vô hiệu hóa các sân bay đối phương tại đây. Sau đó hạm đội Mỹ hỗ trợ trên không cho cuộc đổ bộ lên các đảo san hô Makin và Tarawa thuộc quần đảo Gilbert.

South Dakota, cùng với năm thiết giáp hạm khác, hình thành nên một đội đặc nhiệm vào ngày 8 tháng 12 để bắn phá đảo Nauru. Một sự phối hợp không kích và nả pháo đã gây hư hại nặng nề các căn cứ và sân bay của đối phương trên bờ. Sau đó, South Dakota rút lui về Efate vào ngày 12 tháng 12 năm 1943 để bảo trì và tiếp đạn. Hoạt động tiếp theo của nó diễn ra vào ngày 29 tháng 1 năm 1944, khi các tàu sân bay tung ra cuộc không kích xuống Roi và Namur thuộc quần đảo Marshall. Ngày hôm sau, chiếc thiết giáp hạm di chuyển vào vị trí bắn pháo xuống các vị trí đối phương tại đây, rồi cùng các tàu sân bay hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lên Kwajalein, Majuro, Roi và Namur.

South Dakota rời quần đảo Marshall vào ngày 12 tháng 2 cùng một lực lượng đặc nhiệm với nhiệm vụ tấn công Truk, căn cứ chủ lực và vững chắc của quân Nhật, trong các ngày 17 và 18 tháng 2. Sáu ngày sau, nó nằm trong thành phần hộ tống cho các tàu sân bay tung ra các đợt không kích đầu tiên xuống quần đảo Mariana. Lực lượng liên tục bị các đợt máy bay đối phương tấn công, và South Dakota đã bắn rơi bốn máy bay Nhật. Nó quay về Majuro từ ngày 26 tháng 2 đến ngày 22 tháng 3, khi chiếc tàu chiến lại lên đường cùng lực lượng tàu sân bay nhanh của Đệ Ngũ hạm đội. Các cuộc không kích được tung ra từ ngày 30 tháng 3 đến ngày 1 tháng 4 xuống các đảo Palau, Yap, Woleai và Ulithi về phía Tây quần đảo Caroline.

South Dakota quay trở về Majuro vào ngày 6 tháng 4, rồi lại khởi hành một tuần sau đó, một lần nữa tháp tùng các tàu sân bay. Vào ngày 21 tháng 4, các cuộc không kích được tung ra nhắm vào Hollandia (nay là Jayapura) thuộc New Guinea, và ngày hôm sau, xuống vịnh Aitape, vịnh Tanahmerah và vịnh Humboldt hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh. Trong các ngày 29 và 30 tháng 4, được sự hộ tống của South Dakota, các tàu sân bay quay trở lại Truk ném bom căn cứ này. Ngày hôm sau, chiếc thiết giáp hạm nằm trong lực lượng hỗ trợ hỏa lực tiến hành bắn pháo xuống đảo Ponape trong quần đảo Carolines. Nó quay về Majuro để bảo trì từ ngày 4 đến ngày 5 tháng 6, rồi lại lên đường cùng Lực lượng Đặc nhiệm 58 tham gia Chiến dịch Forager, cuộc đổ bộ lên Saipan và Tinian. Các tàu sân bay bắt đầu tung ra các cuộc không kích vào ngày 11 tháng 6 nhắm vào các vị trí đối phương trên khắp các hòn đảo. Ngày 13 tháng 6, South Dakota cùng sáu thiết giáp hạm khác được cho tách ra khỏi lực lượng tàu sân bay nhanh để tiến hành nả pháo xuống Saipan và Tinian, khi South Dakota tiến hành bắn phá bờ biển Tây Bắc cảng Tanapag, Saipan, trong hơn sáu giờ bằng cả các khẩu pháo hạng nặng lẫn dàn pháo hạng hai của nó.

Chiều tối ngày 15 tháng 6, 12 máy bay tiêm kích và máy bay ném bom đối phương vượt qua được hàng rào tuần tra chiến đấu trên không để tấn công đội đặc nhiệm. South Dakota nhắm vào bốn chiếc trong số chúng và bắn hạ được một, trong khi tất cả 11 chiếc còn lại đều bị bắn hạ bởi các tàu chiến khác. Vào ngày 19 tháng 6, một lần nữa chiếc thiết giáp hạm lại hoạt động cùng các tàu sân bay; khi tin tức tình báo nhận được cho biết một lực lượng hạm đội đối phương mạnh mẻ đang tiến đến từ phía Tây, nên các tàu chiến chủ lực Mỹ được bố trí sao cho có thể tiếp tục hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ tại Saipan đồng thời vẫn có thể đánh chặn hạm đội đối phương.

Lúc 10 giờ 12, một nhóm lớn máy bay đối phương hướng đến từ phía Tây xuất hiện trên màn hình radar; và đến 10 giờ 49 phút, một chiếc D4Y "Judy" ném một quả bom 225 kg (500 pound) xuống sàn tàu chính của South Dakota, vụ nổ làm thủng một lổ lớn, cắt đứt dây điện và ống dẫn, nhưng không gây thiệt hại nghiêm trọng nào khác. Tuy nhiên, tổn thất về nhân mạng khá lớn với 24 người chết và 27 người bị thương. Chiếc thiết giáp hạm tiếp tục chiến đấu suốt ngày hôm đó khi các cuộc không kích tiếp diễn không ngừng. Đây chính là ngày đầu tiên của Trận chiến biển Philippine, vốn còn có tên lóng là "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại" do lực lượng Nhật Bản bị bắn rơi hơn 300 máy bay chỉ trong một ngày. Cuộc không chiến còn tiếp tục kéo dài sang ngày hôm sau 20 tháng 6. Khi trận chiến kết thúc, hạm đội Nhật Bản bị đánh bại nặng nề không còn là mối đe dọa cho lực lượng Mỹ đang chinh phục Marianas. Đội đặc nhiệm quay trở về Ulithi vào ngày 27 tháng 6, và South Dakota tiếp tục hành trình ngang qua Trân Châu Cảng để quay về bờ Tây Hoa Kỳ, và về đến Puget Sound ngày 10 tháng 7.

Chiếc thiết giáp hạm được cho đại tu tại xưởng hải quân ở đây; và sau các chuyến đi thử máy, nó lại khởi hành vào ngày 26 tháng 8 hướng đến Trân Châu Cảng. South Dakota lại thẳng tiến đến Ulithi, và khi đến nơi nó được bố trí vào Đội Đặc nhiệm 38.3; một trong số bốn đội đặc nhiệm hình thành nên Lực lượng Đặc nhiệm 38, lực lượng tàu sân bay nhanh chủ lực của hạm đội Thái Bình Dương. Lực lượng Đặc nhiệm 38 khởi hành vào ngày 6 tháng 10, và bốn ngày sau chúng tung ra các cuộc không kích nhắm vào Okinawa. Trong các ngày 12 và 13 tháng 10, các cuộc không kích tập trung vào các căn cứ và tàu bè tại Đài Loan. Ba trong số bốn đội đặc nhiệm, trong đó có đội của South Dakota, được cho rút lui và hoạt động tại khu vực phía Đông quần đảo Philippine cho đến ngày 24 tháng 12. Trong đợt này, các tàu sân bay đã tung các cuộc không kích vào các mục tiêu đối phương tại Manila và Luzon hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Mindoro. Trong giai đoạn từ ngày 30 tháng 12 năm 1944 cho đến ngày 26 tháng 1 năm 1945, lực lượng tàu sân bay nhanh tiến hành không kích Đài Loan trong các ngày 3, 4, 9, 15 và 21 tháng 1; vào Luzon trong các ngày 6 và 7 tháng 1; Cape Saint Jacques và vịnh Cam Ranh vào ngày 12 tháng 1; Hong Kong và Hải Nam vào ngày 16 tháng 1; và xuống Okinawa vào ngày 22 tháng 1.

South Dakota hoạt động cùng các tàu sân bay nhanh trong các cuộc không kích xuống khu vực Tokyo vào ngày 17 tháng 2 năm 1945, và xuống Iwo Jima trong các ngày 19 và 20 tháng 2 để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ tại đây. Tokyo trở thành mục tiêu tiếp theo vào ngày 25 tháng 2, và sau đó đến lượt Okinawa vào ngày 1 tháng 3. Sau khi được tiếp đạn tại Ulithi, các đội đặc nhiệm một lần nữa lên đường hướng về phía Chính quốc Nhật Bản, tấn công các mục tiêu tại Kobe, Kure thuộc Hiroshima và khu vực Kyūshū trong các ngày 18 và 19 tháng 3. Chúng tung ra các đợt không kích xuống Okinawa vào ngày 23 tháng 3; và vào ngày 24 tháng 3, chiếc thiết giáp hạm tham gia một nhóm hỏa lực tiến hành nả pháo xuống khu vực Đông Nam Okinawa. Nó lại gia nhập đội đặc nhiệm của mình, và sau khi ném bom xuống Okinawa, đã tấn công các sân bay đối phương ở phía Nam đảo Kyūshū vào ngày 29 tháng 3, rồi sau đó từ ngày 31 tháng 3 đến ngày 3 tháng 4, lại nhắm vào các mục tiêu tại Okinawa. Vào ngày 7 tháng 4, tất cả các tàu sân bay lại tung ra một đợt tấn công vào một hạm đội đối phương về phía Tây Nam Kyūshū, đánh chìm chiếc siêu thiết giáp hạm Nhật Bản Yamato cùng với một tàu tuần dương hạng nhẹ và bốn tàu khu trục.

South Dakota một lần nữa tham gia vào việc bắn phá bờ biển phía Đông Nam Okinawa vào ngày 19 tháng 4 hỗ trợ cho cuộc tấn công toàn lực của Quân đoàn 24 Lục quân Hoa Kỳ vào các phòng tuyến đối phương.

Trong khi được tiếp đạn từ chiếc tàu tiếp liệu Wrangell vào ngày 6 tháng 5 năm 1945, một thùng chứa thuốc nổ dung lượng cao dành cho pháo 406 mm (16 inch) phát nổ, gây ra một đám cháy và kích nổ thêm bốn thùng khác. Tháp súng số 2 được làm ngập nước và dập tắt được đám cháy, nhưng đã có ba người chết tại chỗ, tám người khác chết do thương tích trầm trọng và 24 người bị thương. Chiếc thiết giáp hạm bị buộc phải rút lui về Guam từ ngày 11 đến ngày 29 tháng 5 để sửa chữa, trước khi lên đường đi đến Leyte, và đến nơi vào ngày 1 tháng 6.

South Dakota rời Leyte ngày 1 tháng 7, hỗ trợ các tàu sân bay thuộc Đội Đặc nhiệm 38.1 trong nhiệm vụ không kích khu vực Tokyo vào ngày 10 tháng 7. Vào ngày 14 tháng 7, như một phần của nhóm bắn phá, chiếc thiết giáp hạm nả pháo vào Nhà máy thép Kamaishi tại Kamaishi trên đảo Honshū. Đây là cuộc tấn công bằng hải pháo lần đầu tiên nhắm vào các đảo chính quốc Nhật Bản. Từ ngày 15 đến ngày 28 tháng 7, South Dakota một lần nữa hỗ trợ cho các tàu sân bay khi chúng tiến hành không kích xuống Honshū và Hokkaidō. Trong đêm 29 tháng 7 rạng sáng ngày 30 tháng 7, nó tham gia bắn phá Hamamatsu trên đảo Honshū; và vào ngày 9 tháng 8, nhắm vào Kamaishi. Chiếc thiết giáp hạm hỗ trợ các tàu sân bay trong cuộc không kích phần phía Bắc đảo Honshū vào ngày 10 tháng 8, và tại khu vực Tokyo vào các ngày 13 và 15 tháng 8. Đây chính là hoạt động tác chiến cuối cùng của con tàu chiến, vì trong ngày hôm đó Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vô điều kiện.

South Dakota thả neo tại Sagami Wan, Honshū, vào ngày 27 tháng 8 năm 1945; và tiến vào vịnh Tokyo vào ngày 29 tháng 8. Nó khởi hành rời vịnh Tokyo ngày 20 tháng 9, ghé qua Okinawa và Trân Châu Cảng trước khi về đến Bờ Tây Hoa Kỳ. Ngày 29 tháng 10, chiếc thiết giáp hạm di chuyển dọc bờ biển từ San Francisco, California đến San Pedro, California.

[sửa] Sau chiến tranh

South Dakota lên đường đi đến Bờ Đông Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 1 năm 1946, đi đến Philadelphia trải qua một đợt đại tu. Đến tháng 6, nó được phân về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương. Ngày 31 tháng 1 năm 1947, chiếc thiết giáp hạm được chính thức cho ngừng hoạt động; và nó ở trạng thái này cho đến khi được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1962. Ngày 25 tháng 10 năm 1962, chiếc tàu chiến kỳ cựu được bán cho Chi nhánh Lipsett thuộc hãng Luria Brothers & Company Inc., để tháo dỡ với giá 446.000 Đô la Mỹ.[3] Một phần của thỏa thuận mua bán yêu cầu hãng Luria Brothers phải hoàn trả cho chính phủ các trang thiết bị trên chiếc USS South Dakota trị giá khoảng hai triệu Đô-la, bao gồm các tấm vỏ giáp nặng 6.000 tấn cho Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Hoa Kỳ.[3] Chiếc tàu chiến được lưu niệm tại Sioux Falls, South Dakota, nơi các bảng sự kiện và các hiện vật của con tàu được trưng bày trong một khoảng mô phỏng sàn chính của USS South Dakota.

South Dakota được tặng thưởng 13 Ngôi sao Chiến đấu do thành tích hoạt động trong Thế Chiến II.

Đặt hàng: 28 tháng 12 năm 1915

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Tennessee

Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân New York

Đặt lườn: 14 tháng 5 năm 1917

Hạ thủy: 30 tháng 4 năm 1919

Đỡ đầu: Helen Lenore Roberts

Hoạt động: 3 tháng 6 năm 1920

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 10 tháng 7 năm 1959

Ngừng hoạt động: 14 tháng 2 năm 1947

Xóa đăng bạ: 1 tháng 3 năm 1959

Tặng thưởng: Đơn vị Tuyên dương Hải quân

10 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 33.190 tấn (ban đầu);

40.950 tấn (sau khi tái cấu trúc)

Chiều dài: 190 m (624 ft)

Mạn thuyền: 29,7 m (97 ft 4 in)

Tầm nước: 9,4 m (31 ft)

Tốc độ: 39 km/h (21 knot)

Quân số: 57 sĩ quan, 1.026 thủy thủ

Vũ khí: 12 × pháo 356 mm (14 inch)

14 × pháo 127 mm (5 in)

4 × pháo phòng không 76 mm (3 in)

2 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 in)

USS Tennessee (BB-43) là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II, là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của hải quân Mỹ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 16. [1] Nó từng bị hư hại trong vụ tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941, nhưng được sửa chữa và tiếp tục hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương cho đến hết Thế chiến II. Nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 14 tháng 2 năm 1947, bị xóa đăng bạ vào ngày 1 tháng 3 năm 1959, và bị bán để tháo dỡ vào ngày 10 tháng 7 năm 1959.

Thiết kế và chế tạo

[sửa] Thiết kế

Tennessee cùng với chiếc tàu chị em với nó California (BB-44) là những thiết giáp hạm Mỹ đầu tiên có sườn tàu được thiết kế theo kiểu "hậu-Jutland". Nhờ kết quả của việc nghiên cứu và thử nghiệm một cách rộng rãi, việc bảo vệ sườn tàu bên dưới mực ngấn nước được cải tiến đáng kể so với các lớp thiết giáp hạm trước đó; và cả dàn pháo chính lẫn pháo hạng hai đều được trang bị hệ thống kiểm soát hỏa lực. Lớp thiết giáp hạm Tennessee và ba chiếc thuộc lớp Colorado tiếp theo sau có thể dễ dàng nhận biết bởi hai cột buồm lớn chống đỡ hệ thống kiểm soát hỏa lực lớn bên trên. Đặc tính này giúp phân biệt năm chiếc thiết giáp hạm nhóm "Big Five" so với những chiếc còn lại cho đến tận Thế chiến II. Vì các tháp pháo chính 356 mm (14 inch) của Tennessee có thể nâng lên cho đến 30o thay vì chỉ 15o trên những thiết giáp hạm trước đó, tầm bắn của những khẩu pháo này được tăng thêm 9.100 m (10.000 yard). Thêm vào đó, các thiết giáp hạm bắt đầu chở theo thủy phi cơ để hiệu chỉnh bắn pháo ở tầm xa, khả năng của Tennessee có thể bắn "bên kia đường chân trời" có một giá trị thực tiễn.

[sửa] Chế tạo

Nó được đặt lườn vào ngày 14 tháng 5 năm 1917 tại xưởng hải quân New York. Nó được hạ thủy vào ngày 30 tháng 4 năm 1919 dưới sự đỡ đầu của Helen Lenore Roberts, con gái của Thống đốc tiểu bang Tennessee Albert H. Roberts, và được đưa vào hoạt động ngày 3 tháng 6 năm 1920 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Richard H. Leigh.

[sửa] Lịch sử hoạt động

[sửa] 1920-1941

Sau khi được trang bị, Tennessee thực hiện các chuyến chạy thử máy tại Long Island từ ngày 15 đến ngày 23 tháng 10 năm 1920. Trong khi Tennessee còn ở tại New York, một trong những máy phát điện dịch vụ 300 Kw của nó bị nổ vào ngày 30 tháng 10, phá hủy toàn bộ phần đuôi turbine của máy tàu và làm bị thương hai người. Các cuộc sửa chữa cần thiết được thực hiện, cho phép chiếc thiết giáp hạm rời New York ngày 26 tháng 2 năm 1921 thực hiện các cuộc chạy thử tại vịnh Guantánamo. Sau đó nó di chuyển lên phía Bắc hướng đến Virginia Capes và đến Hampton Roads ngày 19 tháng 3. Tennessee thực hiện các cuộc bắn pháo thử nghiệm để hiệu chỉnh tại Dahlgren, Virginia rồi vào ụ tàu ở Boston trước khi bước vào đợt chạy thử hết tốc độ ngoài khơi Rockland, Maine. Hai trong số 14 khẩu pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber được tháo bỏ.[2] Sau khi ghé qua New York, nó hướng về phía Nam, đi qua kênh đào Panama, và vào ngày 17 tháng 6, đến San Pedro, California, cảng nhà mới của nó, nơi nó sẽ phục vụ trong 19 năm sau đó.

Tại đây, nó gia nhập Lực lượng Thiết giáp hạm thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Đến năm 1922, Hạm đội Thái Bình Dương được đổi tên thành Hạm đội Thiết giáp hạm (đổi tên thành Lực lượng Thiết giáp hạm vào năm 1931) thuộc Hạm đội Hoa Kỳ. Trong hai thập niên tiếp theo, đội thiết giáp hạm của Hạm đội là hạt nhân thống lĩnh lực lượng tàu nổi của Hải quân, và Tennessee phục vụ tại đây cho đến khi Thế Chiến II bùng nổ.

Các hoạt động theo chu kỳ hàng năm trong thời bình cùng với đội thiết giáp hạm bao gồm việc huấn luyện, bảo trì và tập trận sẵn sàng chiến đấu. Nó tham gia tranh đua thực hành tác xạ pháo và thực hành kỹ thuật, cũng như tham gia tập trận "vấn đề hạm đội", cuộc tập trận quy mô lớn trong đó hầu hết hoặc tất cả các tàu chiến Hạm đội Mỹ được chia ra các phe đối địch và được đề ra một loạt các tình huống chiến lược và chiến thuật để giải quyết. Bắt đầu với Vấn đề Hạm đội I vào năm 1923 và được tiếp tục cho đến Vấn đề Hạm đội XXI vào tháng 4 năm 1940, Tennessee có một vai trò nổi bật trong các cuộc tập trận này.

Trong năm 1925, nó tham gia cuộc tập trận cơ động phối hợp Lục quân-Hải quân nhằm thử nghiệm việc phòng thủ quần đảo Hawaii trước khi thăm viếng hữu nghị Australia và New Zealand. Các đợt thực hành chiến thuật và vấn đề hạm đội tiếp theo sau đưa Tennessee từ Hawaii đến Caribbe và Đại Tây Dương, và từ vùng biển Alaska đến Panama. Các khẩu pháo phòng không 76 mm (3 inch) nguyên thủy được thay thế bằng tám khẩu pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber trong những năm 1929- 1930.[2]

Vấn đề Hạm đội XXI được tiến hành tại vùng biển Hawaii trong mùa Xuân năm 1940. Cuối đợt tập trận, lực lượng thiết giáp hạm không quay trở về San Pedro; nhưng theo chỉ thị của Tổng thống Roosevelt, căn cứ hoạt động của chúng được chuyển đến Trân Châu Cảng với hy vọng hành động này có thể ngăn cản sự bành trướng của Nhật Bản tại Viễn Đông. Sau một đợt đại tu tại Xưởng hải quân Puget Sound sau khi kết thúc Vấn đề Hạm đội XXI, Tennessee đi đến căn cứ mới của nó vào ngày 12 tháng 8 năm 1940. Do tình hình thế giới ngày càng trở nên tồi tệ, cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XXII dự định tiến hành vào mủa Xuân năm 1941 bị hủy bỏ. Vì thế, hoạt động của Tennessee trong những tháng hòa bình cuối cùng chỉ là những hoạt động ở quy mô nhỏ.

[sửa] Thế Chiến II : 1941-1943

Sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941, Tennessee neo đậu bên mạn phải của "Hàng Thiết giáp hạm", tên đặt cho dãi nước sâu thuận tiện cho việc neo đậu các tàu có lượng rẽ nước lớn, nằm dọc theo mặt Đông Nam của đảo Ford tại Trân Châu Cảng.

Trong quá trình trận tấn công Trân Châu Cảng, Tennessee đã xoay sở đưa vào hoạt động các khẩu pháo phòng không và tìm cách bảo vệ cảng trong phạm vi có thể. Tennessee bị đánh trúng hai quả bom xuyên thép nổ ở tầm sâu.[3] Quả đầu tiên đánh trúng khẩu pháo giữa của tháp súng số 2 khiến cả ba khẩu pháo đều không thể hoạt động.[3] Quả thứ hai xuyên qua nóc tháp súng số 3 và làm hư hại khẩu súng bên trái.[3] Tennessee chịu một cơn mưa mảnh đạn khi hầm đạn của chiếc Arizona nổ tung và phần đuôi tàu bị chìm ngập trong biển lửa do dầu máy bị tràn ra từ chiếc Arizona.[3] Sau khi được sửa chữa sơ bộ tại Trân Châu Cảng, Tennessee quay về Xưởng hải quân Puget Sound để được sửa chữa triệt để.

Ngoài việc sửa chữa các hư hỏng, chiếc thiết giáp hạm còn được nâng cấp hỏa lực pháp phòng không và trang bị các radar tìm kiếm và kiểm soát hỏa lực; cũng như các cải biến khác để nâng cao khả năng sống sót của con tàu.

Vào ngày 26 tháng 2 năm 1942, Tennessee rời Puget Sound sau khi hoàn tất việc sửa chữa. Sau khi về đến San Francisco, California, nó bắt đầu một giai đoạn thực hành huấn luyện khẩn trương cùng Lực lượng Đặc nhiệm 1 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc William S. Pye, bao gồm những chiếc thiết giáp hạm đang sẵn có của Hạm đội Thái Bình Dương và các tàu khu trục hộ tống.

Khi các trận hải chiến thay đổi từ phương thức giáp chiến giữa các chiến hạm nổi sang kiểu đối đầu giữa các lực lượng tàu sân bay nhanh, những chiếc thiết giáp cũ như kiểu Tennessee trở nên quá chậm chạp không thể theo kịp những tàu sân bay hiện đại. Tennessee trải qua một thời gian cùng Lực lượng Đặc nhiệm 1 tuần tra khu vực Đông Thái Bình Dương do mối lo ngại rằng lực lượng hạm đội Nhật có thể liều lĩnh thực hiện một "đòn không kích cuối cùng" vào bờ Tây nước Mỹ.

Vào ngày 1 tháng 8 năm 1942, Tennessee lên đường rời San Francisco cùng Lực lượng Đặc nhiệm 1. Sau một tuần thực tập, những chiếc thiết giáp hạm hợp cùng tàu sân bay Hornet (CV-8) lên đường đi đến khu vực Nam Thái Bình Dương hỗ trợ cho chiến dịch Guadalcanal, và hộ tống chiếc tàu sân bay đến tận Hawaii. Đi đến Trân Châu Cảng ngày 14 tháng 8, Tennessee quay trở về Puget Sound ngày 27 tháng 8 để được hiện đại hóa.

Vào lúc Tennessee rời Xưởng hải quân Puget Sound ngày 7 tháng 5 năm 1943, nó mang một dáng vẻ hoàn toàn mới khác biệt hẳn so với trước đây. Việc cải biến đã tăng cường sự bảo vệ chống lại ngư lôi nhờ các ngăn kín nước bên trong được sắp xếp lại và cải tiến, một thiết kế cấu trúc thượng tầng gọn gàng hơn giúp vào công việc kiểm tra và chỉ huy trong khi lại ít gây trở ngại cho hỏa lực phòng không. Bản thân các khẩu pháo phòng không cùng radar kiểm soát hỏa lực cũng được nâng cấp. Hệ thống pháo hạng hai nguyên thủy gồm các khẩu pháo 127 mm (5 inch)/51 cùng kiểu súng phòng không 127 mm (5 inch)/25 được thay thế bằng 16 khẩu pháo đa dụng 127 mm (5 inch)/38 bố trí thành tám tháp súng đôi và được điều khiển bằng bốn hệ thống kiểm soát hỏa lực Mk 37.[2]

Ngày 31 tháng 5 năm 1943, Tennessee lên đường hướng đến Alaska và tham chiến tại quần đảo Aleut. Trong khi thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ từ phía biển cho lực lượng đổ bộ, lực lượng Hải quân Nhật đã không gây ngăn trở gì. Thay vào đó, chiếc thiết giáp hạm đã sử dụng những khẩu pháo mạnh mẽ của nó áp chế các vị trí trên bờ của đối phương. Đó là một nhiệm vụ mà nó sẽ thực hiện trong suốt cuộc chiến. Quần đảo Aleut lại nằm trong vòng kiểm soát của lực lượng Hoa Kỳ, và chiếc thiết giáp hạm quay trở về cảng nhà San Francisco vào ngày 31 tháng 8. Sau đó Tennessee bước vào một giai đoạn luyện tập khẩn trương.

Nhiệm vụ tiếp theo của Tennessee là hỗ trợ cuộc tấn công Betio trong Trận Tarawa. Từ ngày 20 đến ngày 23 tháng 11 năm 1943, trận chiến diễn ra dưới sự yểm trợ của các khẩu pháo trên chiếc Tennessee, và nó cũng phối hợp cùng các tàu chiến khác trong việc đánh chìm chiếc tàu ngầm Nhật I-35. Chập tối ngày 3 tháng 12, Tennessee rời khu vực chiến sự quay về Trân Châu Cảng rồi tiếp tục đi đến San Francisco. Tại đây nó được nhanh chóng sơn lại màu ngụy trang theo kiểu "Dazzle". Từ ngày 29 tháng 12 năm 1943, Tennessee bắt đầu khẩn trương thực tập tác xạ, nả pháo xuống đảo San Clemente nhằm chuẩn bị cho đợt tấn công quần đảo Marshall.

[sửa] 1944

Sáng sớm ngày 13 tháng 1 năm 1944, Tennessee khởi hành đi Hawaii cùng Phân đội Đặc nhiệm 58.5.1, và thả neo tại Lahaina Roads ngoài khơi Maui ngày 21 tháng 1. Ngày hôm đó, con tàu được thị sát bởi một nhóm quan chức Bộ Hải quân do Thứ trưởng James Forrestal dẫn đầu. Ngày 29 tháng 1, Tennessee, cùng với Forrestal trên tàu, hướng đến quần đảo Marshall.

Đến nơi ngày 31 tháng 1 năm 1944, Tennessee tiến hành bắn phá các hòn đảo hỗ trợ cho lực lượng trên bờ và phá hủy nhiều khẩu đội pháo duyên hải cùng một kho đạn Nhật tại Namur. Vào ban đêm, lực lượng trên bờ nhiều lần gọi điện yêu cầu hỗ trợ chiếu sáng. Các tàu khu trục sử dụng các đèn chiếu sáng rọi vào các khu vực do quân Nhật chiếm giữ, trong khi các khẩu pháo 127 mm (5 inch) trên Tennessee bắn nhiều đạn pháo sáng. Nhiều lúc chiếc thiết giáp hạm tiến sát vào các mục tiêu, như vào buổi trưa ngày 20 tháng 2, nó đã áp chế hệ thống phòng ngự bờ biển bằng các khẩu pháo 40 mm.

Ngày 23 tháng 2 năm 1944, Tennessee khởi hành đi Majuro. Tại đây, nó sáp nhập với các thiết giáp hạm New Mexico (BB-40), Mississippi (BB-41), và Idaho (BB-42) dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Robert M. Griffin. Những chiếc tàu chiến rời Majuro ngày 15 tháng 3 cùng hai tàu sân bay hộ tống và 15 khu trục.

Mục tiêu của chúng là các căn cứ không quân và hải quân tại Kavieng ở mỏm cực Bắc của đảo New Ireland. Quần đảo Bismarck, với hai đảo lớn New Britain và New Ireland, nằm về phía Đông New Guinea. Rabaul, giờ đây trở thành căn cứ chủ lực của Nhật Bản của vòng đai phòng thủ phía ngoài, ở rìa phía Đông của New Britain, ở đối diện New Ireland phía bên kia một eo biển hẹp. Khoảng 386 km (240 dặm) về phía Tây Bắc Rabaul, phía bên kia biển Bismarck, là nhóm quần đảo nhỏ Admiralty.

Một lần nữa các khẩu pháo lớn của Tennessee lại dội lửa lên các vị trí của quân Nhật, phá hủy các khẩu đội pháo duyên hải và hỗ trợ cho lực lượng trên bộ đánh bại đối phương cũng như dội pháo xuống sân bay Nhật Bản và các mục tiêu khác.

Chiến dịch Forager, đòn tấn công lên quần đảo Mariana, được vạch kế hoạch gồm hai mũi gọng kìm. Lực lượng Đặc nhiệm 51 của Phó Đô đốc Richmond K. Turner được tổ chức lại thành một lực lượng tấn công phía Bắc (Lực lượng Đặc nhiệm 52) do ông đích thân chỉ huy, và một lực lượng tấn công phía Nam (Lực lượng Đặc nhiệm 53) dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Richard Conolly. Lực lượng tấn công phía Bắc được tập trung tại Hawaii vào giữa tháng 5 năm 1944. Sau các đợt tổng dợt ngoài khơi Maui và Kahoolawe, nhóm hỗ trợ hỏa lực thứ nhất khởi hành đi Kwajalein trong khi lực lượng tàu vận tải đổ bộ tập trung tại Eniwetok. Ngày 10 tháng 6 năm 1944, Tennessee cùng đội đặc nhiệm của nó rời Kwajalein hướng đến Saipan.

Tại Saipan, ngoài vai trò bảo vệ hạm đội, Tennessee còn bắt đầu bắn phá một cách hệ thống khu vực đổ bộ được lựa chọn ở phần phía Nam bờ biển phía Tây Saipan để hỗ trợ cho các tàu quét mìn thực hiện việc rà phá mìn tại đó. Các đội công binh phá mìn (UDT: Underwater Demolition Team) tiếp cận bãi đổ bộ trên những con tàu nhỏ để do thám các bãi đổ bộ và lắp đặt các cột mốc radar làm các tiêu điểm cho cuộc đổ bộ ngày hôm sau. Tennessee đã tiến sát đến Agingan Point ở khoảng cách 2.700 m (3.000 yard) và khai hỏa các cỡ pháo 355 mm (14 inch), 127 mm (5 inch) và 40 mm.

Lực lượng Nhật Bản bắt đầu nã đạn cối và súng máy vào các đội công binh, trong khi đạn pháo bắt đầu nổ quanh các con tàu yểm trợ từ các khẩu đội pháo ở Tinian gần đó. Tàu tuần dương Cleveland (CL-55) được an toàn, trong khi California và tàu khu trục Braine (DD-630) trúng đạn. Tennessee khai hỏa phản pháo vào lực lượng phòng thủ đang đối đầu với những đội công binh, và các khẩu pháo chính của nó nhắm vào Tinian. Ngay sau giữa trưa, nó di chuyển về phía Tây Bắc để nả pháo các vị trí kiên cố Nhật Bản tại Afetna Point, gần trung tâm khu vực đổ bộ.

Vị trí chiến đấu của Tennessee ở phần cực Nam của bãi đổ bộ, và trong đợt tấn công đổ bộ đầu tiên, pháo của nó liên tục nhắm vào vị trí này dọn đường cho cánh phải của Sư đoàn 4 Thủy quân Lục chiến chiến đấu mở đường lên bờ. Các khẩu pháo 120 mm (4,7 inch) Nhật Bản bố trí trong các hang động tại Tinian bắn trả nhắm vào Tennessee. Chiếc thiết giáp hạm tiến hành phản pháo, nhưng loạt đạn thứ ba của đối phương đã bắn trúng ba phát. Một quả phá tung một tháp pháo 127 mm (5 inch) nòng đôi, làm bùng phát một đám cháy nhưng được dập tắt chỉ trong vòng hai phút bởi đội kiểm soát hư hỏng và người của các khẩu đội lân cận. Quả thứ hai trúng vào mạn tàu, gây hư hại cho tấm thép ốp ngoài, nhưng sự hư hại được ngăn ngừa nhờ đai giáp bảo vệ chính. Quả thứ ba xé toang một lổ hổng tại phần sau của sàn tàu chính, tung ra một cơn mưa mảnh đạn xuống hầm tàu bên dưới. Tám người tử trận do các mảnh đạn, và 26 người khác bị thương do mảnh đạn và bỏng. Tuy nhiên, những hư hại trên không thể ngăn cản Tennessee tiếp tục thực hiện nả pháo theo yêu cầu nhằm giúp phá vỡ cuộc phản công của quân Nhật gần Agingan Point trước khi chiếc thiết giáp hạm rời vị trí chiến đấu để sửa chữa khẩn cấp các hỏng hóc. Vào buổi chiều và tối hôm đó, nó chiếm lấy vị trí hỗ trợ cho các tàu vận chuyển. Bốn máy bay ném bom bổ nhào Nhật tấn công các tàu bè lân cận vào lúc 18 giờ 46 phút, và các khẩu đội pháo 127 mm (5 inch) của Tennessee đã nổ súng nhưng không bắn trúng chiếc nào. Đêm hôm đó, đài phát thanh Tokyo thông báo thắng lợi của họ tại Saipan, cho rằng họ đã đánh chìm được một thiết giáp hạm được nhận diện "có thể là New Jersey".

Chiếc Tennessee "bị đánh chìm" quay về eo biển Saipan ngày hôm sau. Nhiều cuộc phản công của quân Nhật bị đánh chặn trong đêm đó, và hỏa lực yểm trợ của Tennessee đã giúp lực lượng Thủy quân Lục chiến tổ chức lại và củng cố bãi đổ bộ của họ. Đêm 22 tháng 6, Tennessee khởi hành đi Eniwetok, nơi chiếc Hector (AR-7) thực hiện sửa chữa các hư hại trong chiến đấu của nó trong khi cuộc chiến tại Saipan đi đến hồi kết thúc vào ngày 9 tháng 7. Điểm đến kế tiếp của nó là Guam.

Ngày 20 tháng 7, chiếc thiết giáp hạm tham gia một đợt bắn phá mang tính hệ thống vốn đã được bắt đầu vào ngày 8 tháng 7, được vạch kế hoạch cẩn thận nhằm vô hiệu hóa sức kháng cự của đối phương trong khi cố gắng giữ an toàn cho dân cư tại Chamorros trên hòn đảo. Một lần nữa Tennessee hỗ trợ hỏa lực ban ngày và bắn pháo sáng ban đêm yểm trợ cho lực lượng đổ bộ lên đảo. Quần đảo Palau là mục tiêu tiếp theo sau của Tennessee. Đây không phải là một đảo san hô mà là một cụm kéo dài các đảo phía Bắc đường xích đạo ở về phía cực Tây của quần đảo Caroline. Trận Peleliu là một trong những trận đánh quyết liệt nhất tại Mặt trận Thái Bình Dương, và sự kháng cự có tổ chức của đối phương chỉ có thể dập tắt vào tận tháng 11 với tổn thất lớn về nhân mạng. Mục tiêu của Tennessee là hòn đảo Angaur nhỏ hơn cách Peleliu vài dặm về phía Nam. Sáng ngày 12 tháng 9, Tennessee và Pennsylvania cùng bốn tàu tuần dương hạng nhẹ và năm tàu khu trục bắt đầu một cuộc bắn phá kéo dài trong khi các tàu sân bay cùng thực hiện vai trò của mình.

Chiếc thiết giáp hạm nhận được lệnh triệt phá một ngọn hải đăng bằng đá nổi bật trên bờ biển phía Tây của đảo Angaur để quân Nhật không thể sử dụng nó trong việc trinh sát pháo binh. Mười hai phát đạn 356 mm (14 inch) đã được ngắm vào nó, xới tung cả khu vực chung quanh, và ba phát đã trúng đích nhưng không thể đánh sập ngôi tháp. Công việc bắn phá các mục tiêu khác đã khiến Tennessee bận rộn suốt ba ngày tiếp theo sau. Tennessee sẵn sàng ngoài khơi Peleliu vào buổi sáng ngày 15 tháng 9 phòng ngừa trường hợp hỏa lực pháo của nó cần thiết để hỗ trợ cho lực lượng tấn công đổ bộ. Khi công việc này hoàn tất, nó quay trở lại vào chiều tối ngày 16 tháng 9 để thanh toán nốt ngọn hải đăng ngoan cố trước khi diễn ra cuộc đổ bộ vào buổi sáng ngày hôm sau.

Tennessee nhổ neo vào ngày 12 tháng 10 lên đường hướng đến vịnh Leyte. Dưới sự chỉ huy tối cao của Tướng MacArthur, lực lượng Đệ Thất hạm đội của Phó đô đốc Thomas Kinkaid vận chuyển hai quân đoàn Lục Quân đến khu vực tấn công.

Lúc 06 giờ 09 phút sáng ngày 18 tháng 10, Tennessee cùng với lực lượng yểm trợ hỏa lực tiến qua eo biển giữa các đảo Homonhon và Dinagat. Máy cắt dây mìn ngầm được giăng ra hai bên lườn tàu trong khi Thủy quân Lục chiến trên thượng tầng tàu đánh chìm hoặc phá nổ những quả ngư lôi trôi nổi. Các con tàu quét mìn tiếp tục phần công việc còn lại trong khi những chiếc tàu chiến hạng nặng di chuyển chậm chạp dọc lên vịnh Leyte.

Cuộc đổ bộ được dự định thực hiện vào ngày 20 tháng 10, và vào lúc 06 giờ 00, Tennessee khai hỏa để vô hiệu hóa sự kháng cự của đối phương. Chiếc thiết giáp hạm tiếp tục thực hiện vai trò giúp đỡ ngoài khơi khu vực đổ bộ cho đến khi sự hỗ trợ hỏa lực không còn cần thiết, và hoạt động của không lực Nhật Bản ngày càng gia tăng buộc nó phải di chuyển vào khu vực đổ bộ để các khẩu pháo phòng không của nó có thể yểm trợ cho các tàu chở quân và vận tải.

Chiều tối ngày 21 tháng 10, trong khi đang nằm im trên biển dưới sự che phủ của một màn khói ngụy trang nhằm che chở khỏi bị máy bay tấn công, Tennessee bị chiếc tàu vận tải USS War Hawk (AP-168) đâm trúng gần phía đuôi tàu. Không có thương vong, và cấu trúc chắc chắn của thân tàu giúp cho nó ít bị thiệt hại, nhưng mệnh lệnh đưa ra cho một nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực ban đêm bị hủy bỏ.

Trong khi Tennessee hoạt động ngoài khơi đảo Leyte, Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản nhận ra quy mô của cuộc tấn công đang được tiến hành và đã quyết định chọn hòn đảo này làm nơi diễn ra trận hải chiến phản công quyết định: trận chiến vịnh Leyte. Kế hoạch của Nhật, dựa trên sự phối hợp về địa hình, tiếp liệu và sự thiếu sót một lực lượng tàu sân bay thích đáng, tung ra bốn mũi tấn công gọng kìm nhắm vào khu vực vịnh Leyte trong một nỗ lực nhằm tiêu diệt bằng mọi giá lực lượng đổ bộ Mỹ.

Một lực lượng tương đối yếu dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Shoji Nishimura, hướng đến phía Nam đảo Palawan và vượt qua biển Sulu để đi ngang giữa Mindanao và Leyte. Lực lượng của Nishimura sẽ vấp phải một lực lượng hỗn hợp các tàu chiến Mỹ, trong đó có Tennessee, trong trận chiến eo biển Surigao.

Khi chúng đi ngang mũi đảo Panaon vào lúc chiều tối ngày 24 tháng 10 và rạng sáng ngày 25 tháng 10, lực lượng Nhật Bản lọt vào một cái bẫy chết người do lực lượng của Đệ Thất hạm đội giăng ra. Chuẩn Đô đốc Jesse Oldendorf có trong tay sáu thiết giáp hạm: Mississippi, Maryland, West Virginia, Tennessee, California và Pennsylvania, tất cả ngoại trừ Mississippi đều là những cựu binh từng bị hư hại tại Trân Châu Cảng; bốn tàu tuần dương hạng nặng :USS Louisville (soái hạm), Portland, Minneapolis và HMAS Shropshire; bốn tàu tuần dương hạng nhẹ: USS Denver, Columbia, Phoenix và Boise; 28 tàu khu trục và 39 tàu tuần tra-ngư lôi PT.

Bên trên chiếc Tennessee, các quan sát viên có thể thấy được ánh lửa từ phía xa của các quả đạn pháo khi các tàu tuần tra-ngư lôi và tàu khu trục đụng độ cùng lực lượng Nhật Bản, và không lâu sau đã có thể nghe thấy tiếng nổ. Lúc 03 giờ 02 phút, radar của chiếc thiết giáp hạm bắt được tín hiệu của lực lượng Nishimura đang tiến đến gần ở khoảng cách 40.000 m (44.000 yard) và bắt đầu theo dõi chiếc dẫn đầu. Đó chính là soái hạm của hạm đội Nhật, thiết giáp hạm Yamashiro. Cùng với tàu tuần dương Mogami và tàu khu trục Shigure, đó là tất cả những gì còn lại của lực lượng Nhật Bản. Lúc 03 giờ 51 phút, Oldendorf ra lệnh cho các tàu tuần dương hai bên sườn nổ súng, và cuối cùng đến 03 giờ 56 phút, chiếc thiết giáp hạm khai hỏa ở khoảng cách 19.000 m (20.600 yard).

Hệ thống điều khiển hỏa lực bằng radar đã cho phép các thiết giáp hạm Mỹ có thể bắn trúng mục tiêu từ một khoảng cách mà phía Nhật không thể đáp trả do hệ thống điều khiển hỏa lực lạc hậu của họ. Những chiếc Yamashiro và Mogami bị phá hủy bởi các quả đạn pháo xuyên thép 356 mm (14 inch) và 406 mm (16 inch). Shigure quay mũi bỏ chạy, nhưng bị mất lái và chết đứng. Yamashiro chìm lúc 04 giờ 19 phút. Cho đến nay, Trận chiến eo biển Surigao là trận chiến của hàng thiết giáp hạm cuối cùng trong lịch sử hải quân; Yamashiro là thiết giáp hạm cuối cùng đối đầu một chiếc khác trong chiến trận, và là một trong số ít ỏi những chiếc bị đánh chìm bởi một thiết giáp hạm khác trong Thế Chiến II. Trong số bảy tàu chiến của Nishimura, chỉ còn lại Shigure sống sót.

Nhiều ngày tiếp theo sau đó là khoảng thời gian khá yên bình đối với Tennessee, cho dù quân Nhật tung ra nhiều cuộc không kích xuất phát từ đất liền nhắm vào lực lượng đang tập trung tại vịnh Leyte. Ngày 29 tháng 10, chiếc thiết giáp hạm khởi hành quay trở về Xưởng hải quân Puget Sound. Lần tái trang bị này không làm thay đổi nhiều dáng vẽ bên ngoài của Tennessee. Các khẩu pháo chính được nâng cấp hệ thống điều khiển hỏa lực với radar Mark 8, trong khi radar Mark 4 dùng cho các khẩu pháo 127 mm (5 inch) được thay thế bằng thiết bị kiểu phối hợp Mark 12 và Mark 22 đa mục đích. Sự hữu ích của Tennessee như một tàu phòng không được nâng cao nhờ việc bổ sung radar kiểu SP đo độ cao. Màu ngụy trang của nó được thay thế bằng lớp sơn cuối cùng màu xám đậm vốn được tính toán nhằm giảm thiểu sự phô bày trong các cuộc tấn công tự sát kamikaze, bắt đầu được sử dụng từ khi diễn ra việc tái chiếm Philippines và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong mùa Đông năm 1944 và phần còn lại của năm 1945 tại Thái Bình Dương.

[sửa] 1945

Trong khi Tennessee được tái trang bị, các cuộc đổ bộ được thực hiện tại miền Trung Philippines và tại Luzon; và nhiệm vụ giải phóng Philippines đã sắp hoàn thành. Vào ngày 2 tháng 2 năm 1945, Tennessee lên đường hướng đến khu vực Tây Thái Bình Dương, ngang qua Trân Châu Cảng và Saipan, nó đến nơi kịp lúc để gia nhập lực lượng yểm trợ hỏa lực của Chuẩn Đô đốc W.H.P. Blandy tham gia trận Iwo Jima.

Sáng sớm ngày 16 tháng 2 năm 1945, nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực được giao đã đưa Tennessee đến khu vực dọc theo bờ biển Đông Nam đảo Iwo Jima. Các khẩu pháo chính 356 mm (14 inch) của nó nả vào sườn núi Suribachi ở tầm xa từ 2.000 m (2.200 yard) đến 5.500 m (6.000 yard) trong khi các khẩu pháo hạng hai nhắm vào các điểm cao phía Bắc bãi đổ bộ, các khẩu đội 40 mm nhắm vào các mục tiêu khác trên bãi đổ bộ và xác nhiều chiếc tàu Nhật bị đắm gần bờ; chúng từng được sử dụng làm nơi ẩn nấp cho các tay súng bắn tỉa và ổ súng máy tại Tarawa gây nhiều khó khăn lúc đổ bộ, và từ đó luôn được xem là những mối đe dọa tiềm tàng. Nhiều đám cháy bùng lên trên bờ, và một kho đạn trúng đạn phát nổ một cách ngoạn mục và bùng cháy trong nhiều giờ.

Sáng hôm sau, bắt đầu từ 08 giờ 03 phút, Tennessee cùng với Idaho và Nevada tiến sát bờ khoảng 2.700 m (3.000 yard) và bắt đầu khai hỏa. Những con tàu tiến quá gần bờ đến mức có một lúc Tennessee trúng phải hỏa lực bắn trả của một khẩu đội pháo duyên hải 127 mm (5 inch)/38 làm thiệt mạng một người và bị thương bốn người khác. Đến 10 giờ 25 phút, chiếc thiết giáp hạm được lệnh rút lui nhường chỗ cho lực lượng đổ bộ. Người ta nhận thấy là những loạt đạn từng phát một ở tầm gần, sử dụng cách "ngắm thẳng" qua kính ngắm, tỏ ra chính xác và hiệu quả. Khái niệm sử dụng hải pháo 356 mm (14 inch) để bắn tỉa có vẻ mới, nhưng xem ra khá hữu dụng.

Cuộc chiến trên bộ tại Iwo Jima tiếp diễn cho đến tận ngày 26 tháng 3, khi sự kháng cự ngoan cố của quân Nhật dần dần bị đẩy lui khỏi các vị trí mà họ tiếp tục phòng thủ cho đến người cuối cùng. Tennessee tham gia cuộc chiến đấu này cho đến ngày 7 tháng 3, khi nó khởi hành đi Ulithi, sau khi đã rót xuống Iwo Jima tổng cộng 1.370 quả đạn pháo 356 mm (14 inch), 6.380 quả đạn 127 mm (5 inch) và 11.481 quả đạn 40 mm. Tại Ulithi, nó bắt đầu chuẩn bị để hoạt động trong Chiến dịch Okinawa.

Hoạt động của chiếc thiết giáp hạm ngoài khơi Okinawa bao gồm hỗ trợ hỏa lực vào đất liền và chống trả các đợt tấn công cảm tử kamikaze. Công việc trực chiến kéo dài nhiều giờ liền khiến mọi người căng thẳng và mệt mỏi, khi chiếc tàu chiến tuần tra dọc hòn đảo nả pháo vào mọi mục tiêu khả nghi, trong khi danh sách báo cáo về các cuộc tấn công tự sát ngày càng kéo dài.

Sự kháng cự trên hòn đảo chỉ kết thúc vào ngày 21 tháng 6. Trong thời gian đó, lực lượng Hải quân phải chiến đấu ngày đêm chống lại các cuộc tấn công tự sát kamikaze không ngừng nghỉ. Xế trưa ngày 12 tháng 4, thay cho nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực, Tennessee đang di chuyển trong đội hình phòng không khi năm chiếc máy bay kamikaze ló ra từ trong đám khói dày đặc bốc lên từ chiếc tàu khu trục Zellars (DD-777) và nhắm thẳng vào Tennessee. Bốn chiếc bị bắn rơi, ba chiếc cuối trong số đó chỉ còn cách chiếc thiết giáp hạm vài trăm mét. Chiếc cuối cùng bốc cháy do trúng đạn pháo 127 mm (5 inch) và bổ nhào một góc 45 độ xuống nước sát đuôi tàu. Cùng lúc đó, một máy bay ném bom bổ nhào Aichi A6M "Val" bay thấp bên mạn phải hướng thẳng đến cầu tàu của Tennessee. Các quan sát viên phát hiện chiếc "Val" từ khoảng cách 2.300 m (2.500 yard), và mọi vũ khí tự động trên tàu có khả năng đều khai hỏa. Một trong các bánh đáp cố định của chiếc máy bay bị bắn rời, và động cơ bắt đầu bốc khói.

Thoạt tiên nhắm vào tháp cột buồm phía trước của Tennessee, viên phi công Nhật lái chệnh đi và đâm vào cầu tàu. Xác máy bay cháy bùng trượt dọc về phía sau cấu trúc thượng tầng, cày nát các khẩu đội phòng không và dừng lại tại tháp pháo số 3. Nó mang theo một quả bom 113 kg (250 lb), và cùng với những gì còn lại của chiếc máy bay, xuyên qua sàn gỗ và phát nổ. Có tổng cộng hai mươi hai người chết cùng 107 người bị thương.

Tuy nhiên, những thiệt hại đó không đủ để loại Tennessee khỏi vòng chiến. Những người chết được mai táng trên biển, trong khi những người bị thương được chuyển sang chiếc tàu tải thương Pinkney (APH-2). Công việc sửa chữa khẩn cấp được tiến hành, và đến ngày 14 tháng 4, chiếc thiết giáp hạm lại tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực. Tennessee còn ở lại khu vực ngoài khơi Okinawa thêm hai tuần nữa.

Ngày 1 tháng 5, Đô đốc Deyo chuyển cờ hiệu của ông sang một tàu tuần dương, và Tennessee lên đường đi Ulithi. Tại đây, chiếc tàu sửa chữa Ajax (AR-6) thực hiện các công việc bảo trì cần thiết, thay thế các tấm thép bị hư hại trong chiến đấu và trang bị các khẩu đội pháo thay thế cho số đã bị mất. Ngày 3 tháng 6, chiếc thiết giáp hạm lên đường, và đi đến Okinawa vào ngày 9 tháng 6. Đến lúc này, những điều tồi tệ nhất đã qua đi, khi các đơn vị Lục quân tiến hành những trận đánh để tiêu diệt những ổ kháng cự cuối cùng của quân Nhật, và hỏa lực của Tennessee lại tỏ ra hữu ích trong việc yểm trợ. Cùng các thiết giáp hạm "cũ" khác, nó tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ cho đến khi sự kháng cự có tổ chức cuối cùng chấm dứt vào ngày 21 tháng 6.

Phó Đô đốc Oldendorf được đặt làm chỉ huy lực lượng hải quân tại quần đảo Ryukyus, và ông đặt cờ hiệu của mình trên Tennessee khi chiếc thiết giáp hạm hỗ trợ cho các chiến dịch quét mìn tại biển Đông Trung Quốc và tuần tra tại vùng biển ngoài khơi Thượng Hải trong khi các tàu sân bay hộ tống tung ra các đợt không kích dọc theo bờ biển Trung Quốc. Tennessee tiếp tục hoạt động tại khu vực này cho đến khi Nhật Bản tuyên bố đầu hàng, kết thúc cuộc xung đột tại Thái Bình Dương. Lúc đó chiếc thiết giáp hạm đang hoạt động ngoài khơi Okinawa và đang chuẩn bị để tham gia kế hoạch tấn công Nhật Bản.

[sửa] Sau chiến tranh

Nhiệm vụ cuối cùng của chiếc thiết giáp hạm trong chiến tranh là hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lực lượng chiếm đóng lên Wakayama. Nó đến nơi vào ngày 23 tháng 9, rồi sau đó tiếp tục đến Yokosuka. Tại đây, thủy thủ đoàn của Tennessee có dịp nhìn thấy tận mắt xưởng tàu và căn cứ hoạt động một thời của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước khi lên đường đi Singapore vào ngày 16 tháng 10. Tại Singapore, Đô đốc Oldendorf chuyển cờ hiệu của ông lên chiếc tàu tuần dương Springfield (CL-66), và Tennessee tiếp tục chuyến hành trình dài quay trở về nhà ngang qua mũi Hảo Vọng.

Vào dịp kỷ niệm bốn năm ngày Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, Tennessee đang thả neo tại Xưởng hải quân Philadelphia. Trong những năm đó, chiếc thiết giáp hạm đã bắn tổng cộng 9.347 quả đạn pháo 356 mm (14 inch), 46.341 quả đạn 127 mm (5 inch) và hơn 100.000 phát đạn phòng không.

Quá trình cắt giảm lực lượng Hải quân sau chiến tranh được tiến hành. Tennessee được xếp loại là cũ, cho dù vẫn còn hữu dụng, và được chọn để đưa về "hạm đội bỏ xó"; và vào năm 1946, được cho tiến hành bảo quản và chuẩn bị để ngưng hoạt động. Công việc tiến triển chậm chạp, do số lượng lớn các con tàu được đưa về dự bị và do thiếu nhân lực. Cuối cùng, vào ngày 14 tháng 2 năm 1947, cờ hiệu của Tennessee được hạ xuống lần cuối cùng khi nó được chính thức cho ngừng hoạt động.

Tennessee ở lại hạm đội dự bị thêm 12 năm nữa, khi thời gian trôi đi và kỹ thuật hải quân không ngừng tiến triển. Ngày 1 tháng 3 năm 1959, tên nó được xóa khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân; và vào ngày 10 tháng 7 năm đó, nó được bán cho hãng Bethlehem Steel Company để tháo dỡ.

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Florida

Xưởng đóng tàu: New York Shipbuilding Corporation

Đặt lườn: 9 tháng 3 năm 1909

Hạ thủy: 23 tháng 12 năm 1909

Đỡ đầu: Mary Alice Spry

Hoạt động: 31 tháng 8 năm 1911

Bị mất: Bị đánh chìm trong vụ Tấn công Trân Châu Cảng

Ngừng hoạt động: 5 tháng 9 năm 1944

Xóa đăng bạ: 13 tháng 11 năm 1944

Tặng thưởng: 1 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 21.825 tấn

Chiều dài: 159 m (521 ft 6 in)

Mạn thuyền: 27 m (88 ft 4 in)

Tầm nước: 8,6 m (28 ft 4 in)

Tốc độ: 38,5 km/h (20,8 knot)

Quân số: 1.041

Vũ khí: 10 × pháo 305 mm (12 inch)/45 caliber Mark 5

16 × pháo 127 mm (5 inch)/51 cal[1]

2 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)

USS Utah (BB-31) là một thiết giáp hạm cũ thuộc lớp Florida, đã bị tấn công và đánh chìm tại Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang Utah. Trước Thế Chiến II, nó được xem là không còn hữu dụng và đã được sử dụng trong một thời gian như một mục tiêu di động để thực hành tác xạ với ký hiệu AG-16. Tuy nhiên vào năm 1941, nó được tái trang bị và được sử dụng cho mục đích huấn luyện cho đến khi bị Hải quân Nhật đánh chìm bởi một quả ngư lôi duy nhất.

Thiết kế và chế tạo

Utah được đặt lườn vào ngày 9 tháng 3 năm 1909 tại Camden, New Jersey bởi New York Shipbuilding Corporation. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 12 năm 1909 dưới sự đỡ đầu của Mary Alice Spry, con gái Thống đốc tiểu bang Utah William Spry; và được đưa vào hoạt động tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 31 tháng 8 năm 1911 dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng William S. Benson.

[sửa] Lịch sử hoạt động

Sau một chuyến đi thử máy đưa nó lần lượt viếng thăm Hampton Roads, đảo Santa Rosa, Pensacola, Florida, Galveston, Texas, Kingston, Jamaica, Portland Bight và vịnh Guantánamo thuộc Cuba; Utah được phối thuộc cho Hạm đội Đại Tây Dương vào tháng 3 năm 1912. Nó hoạt động cùng hạm đội này vào đầu mùa Xuân, tiến hành các cuộc thực tập tác xạ pháo và phòng thủ ngư lôi, trước khi quay vào xưởng hải quân New York ngày 16 tháng 4 để được đại tu.

Rời New York ngày 1 tháng 6, Utah viếng thăm Hampton Roads một thời gian ngắn rồi lên đường hướng đến Annapolis, Maryland và đến nơi ngày 6 tháng 6. Tại đây nó nhận lên tàu các học viên mới của Học viện Hải quân Hoa Kỳ rồi lên đường ngày 10 tháng 6 đi đến Virginia Capes và Đại Tây Dương. Nó tiến hành một khóa huấn luyện học viên mới ngoài khơi vùng biển New England cho đến hết mùa Hè trước khi hoàn trả các học viên sĩ quan tương lai về Annapolis trong các ngày 24 và 25 tháng 8. Không lâu sau đó, chiếc thiết giáp hạm hướng đến khu vực thực tập phía nam để thực hành tác xạ pháo.

Trong hơn hai năm sau đó, chiếc thiết giáp hạm tiến hành các hoạt động thường xuyên tại vùng biển ngoài khơi bờ Đông nước Mỹ, trải dài từ bờ biển New England đến vùng biển Cuba. Trong thời gian này, nó thực hiện một chuyến đi đến vùng biển Châu Âu, viếng thăm Villefranche, Pháp, từ ngày 8 đến ngày 30 tháng 11 năm 1913.

Utah bắt đầu năm 1914 trong Xưởng hải quân New York, sau đó di chuyển về hướng Nam vào ngày 5 tháng 1. Sau khi dừng tại Hampton Roads, nó đến vùng biển Cuba cuối tháng đó để thực hành tác xạ ngư lôi và pháo cỡ nhỏ. Tuy nhiên, do sự căng thẳng gia tăng tại Mexico, Utah di chuyển đến vùng biển nước này vào đầu tháng 2 và đi đến Vera Cruz vào ngày 16 tháng 2. Nó hoạt động ngoài khơi cảng này rồi hướng đến Tampico vào ngày 9 tháng 4 cùng hàng trăm người tị nạn trên tàu. Không lâu sau đó, nó nhận được tin tức về việc con tàu chở hàng Đức SS Ypiranga đang hướng về phía cảng Vera Cruz với một chuyến hàng vũ khí và đạn dược cho nhà độc tài Victoriano Huerta. Utah nhận được lệnh truy tìm con tàu, nó ra khơi và đi đến Vera Cruz ngày 16 tháng 4. Khi biết rằng con tàu nói trên có thể đã cập bến, Hải quân quyết định sẽ chiếm giữ sở thuế quan tại Vera Cruz và ngăn chặn việc giao hàng. Vì mục đích đó, kế hoạch được vạch ra nhằm đổ bộ lên Vera Cruz, và việc này được xúc tiến vào ngày 21 tháng 4 năm 1914.

Utah cho đổ bộ "tiểu đoàn" của nó, 17 sĩ quan và 367 thủy thủ dưới quyền chỉ huy của Đại úy Guy W. S. Castle cùng một chi đội Thủy quân Lục chiến là một phần của Lữ đoàn 1 Thủy quân Lục chiến, vốn được thành lập để đối phó tình hình từ các đơn vị thủy quân lục chiến của các con tàu Mỹ khác cùng đến vùng biển này để thể hiện lập trường của Mỹ. Trong trận chiến sau đó, nơi mà tiểu đoàn áo xanh của Utah đã chiến đấu dũng cảm, bảy người đã được tặng thưởng Huân chương Danh Dự bao gồm người chỉ huy là Đại úy Castle.

Utah ở lại Vera Cruz gần hai tháng trước khi quay trở về Xưởng hải quân New York vào cuối tháng 6 để được đại tu. Trong ba năm sau đó, chiếc thiết giáp hạm tiến hành các hoạt động thường xuyên tập trận và thao diễn hạm đội ngoài khơi bờ biển phía Đông cho đến vùng biển Caribbe, khi Hoa Kỳ duy trì lực lượng quân đội trong tình trạng sẵn sàng trước lúc tham gia vào Thế Chiến I.

[sửa] Thế Chiến I

Sau khi Hoa kỳ chính thức tuyên chiến vào ngày 6 tháng 4 năm 1917, Utah hoạt động tại vùng biển ngoài khơi vịnh Chesapeake như một tàu huấn luyện kỹ thuật và tác xạ cho đến ngày 30 tháng 8 năm 1918, khi nó lên đường hướng đến vịnh Bantry cùng với Phó Đô đốc Henry T. Mayo, Tổng tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương.

Mối lo ngại về việc Đức dùng vũ khí hạng nặng tấn công các đoàn tàu vận tải chuyên chở binh lính và vũ khí vượt Đại Tây Dương sang mặt trận phía Tây (Châu Âu) khiến người ta phải điều một lực lượng thiết giáp hạm mạnh sang vùng biển Ái Nhĩ Lan. Trong cuộc điều động này, Utah đến Brerehaven, vịnh Bantry, Ái Nhĩ Lan vào ngày 10 tháng 9. Tại đây, nó trở thành soái hạm của Chuẩn Đô đốc Thomas S. Rodgers, Tư lệnh đội thiết giáp hạm 6 (BatDiv 6). Cho đến khi ký kết hiệp ước đình chiến vào ngày 11 tháng 11 năm 1918, Utah cùng với Nevada và Oklahoma hoạt động từ vịnh Bantry, hộ tống các đoàn tàu vận tải Đồng Minh ghé vào quần đảo Anh Quốc, sẵn sàng đối phó với mọi sự đe dọa trên mặt biển mà Hải quân Đế chế Đức có thể nhắm vào các con tàu vận tải và tiếp liệu quý giá của Đồng Minh.

Sau khi chấm dứt chiến sự, Utah ghé thăm đảo Portland của Anh Quốc, và sau đó than gia vào đoàn hộ tống danh dự cho chiếc George Washington, khi con tàu này chở Tổng thống Woodrow Wilson đi đến cảng Brest, Pháp vào ngày 13 tháng 12 năm 1918. Ngày hôm sau, Utah quay về nhà, và nó về đến New York vào ngày lễ Giáng sinh năm 1918.

[sửa] Những năm giữa hai cuộc thế chiến

Utah tiếp tục thả neo tại North River bên ngoài thành phố New York cho đến ngày 30 tháng 1 năm 1919. Trong thời gian này, nó từng treo cờ rũ lúc 14 giờ 40 phút ngày 7 tháng 1 do cái chết của Cựu Tổng thống Theodore Roosevelt, và trong ngày 8 tháng 1 nó bắn pháo chào cách mỗi nửa giờ một lần trong suốt ngày để tưởng nhớ vị chính khách Hoa Kỳ vĩ đại này.

Utah tiến hành các hoạt động thường xuyên thực tập và thao diễn hạm đội, trải dài từ bờ biển New England đến vùng biển Caribbe đến tận giữa năm 1921. Trong thời gian này, nó được đặt số hiệu lườn tàu là BB-31 vào ngày 17 tháng 7 năm 1920, khi Hải quân Mỹ áp dụng rộng rãi cách dùng ký hiệu phân loại lớp tàu.

Rời cảng Boston ngày 9 tháng 7 năm 1921, Utah hướng đến Lisbon, Bồ Đào Nha, và đến Cherbourg, Pháp không lâu sau đó. Tại đây, Utah trở thành soái hạm của lực lượng hải quân Mỹ tại các vùng biển Châu Âu. Nó đảm trách vai trò này tại các cảng chính ở Đại Tây Dương và Địa Trung Hải cho đến khi được thay thế bởi chiếc tàu tuần dương Pittsburgh vào tháng 10 năm 1922. Quay trở về Hoa Kỳ ngày 21 tháng 10 năm 1922, Utah trở thành soái hạm của Đội thiết giáp hạm 6 và hoạt động cùng Hạm đội Tuần tiểu trong vòng hơn ba năm rưỡi tiếp theo.

Cuối năm 1924, Utah được chọn thực hiện nhiệm vụ ngoại giao của Hoa Kỳ nhân dịp kỷ niệm một trăm năm Trận Ayacucho (9 tháng 12 năm 1824), sự kiện quyết định dẫn đến việc nước Peru dành được độc lập. Được chỉ định làm soái hạm cho hải đội đặc biệt đại diện cho Hoa Kỳ tham dự các lễ hội này, Utah rời New York ngày 22 tháng 11 năm 1924 cùng với Thống tướng John J. Pershing và cựu nghị sĩ F. C. Hicks, và đi đến Callao vào ngày 9 tháng 12.

Utah đưa Tướng Pershing và các thành viên khác trong đoàn lên bờ vào ngày Giáng sinh năm 1924, để thực hiện chuyến viếng thăm hữu nghị các thành phố Nam Mỹ. Trong những tuần lễ tiếp theo sau, Utah viếng thăm các cảng Chile Punta Arenas và Valparaíso trước khi vòng qua mũi Horn để gặp Tướng Pershing tại Montevideo, Uruguay. Đón vị tướng và đoàn trở lên tàu, chiếc thiết giáp hạm tiếp tục chương trình thăm viếng hữa nghị Rio de Janeiro, Brazil; La Guaira, Venezuela; và Havana, Cuba trước khi kết thúc chuyến đi hữu nghị này tại New York ngày 18 tháng 3 năm 1926. Utah trải qua các mùa Hè những năm 1925 và 1926 cùng hải đội thực tập học viên mới, và sau khi đưa các học viên lên bờ khi kết thúc chuyến đi thực tập năm 1925, nó vào xưởng hải quân Boston và được cho tạm ngưng hoạt động vào ngày 31 tháng 10 năm 1925 để được hiện đại hóa. Trong quá trình sửa chữa và cải tạo này, cột buồm chính dạng "lồng" (cage) của con tàu được thay thế bằng kiểu cột nhẹ hơn, và nó được trang bị để sử dụng dầu đốt làm nhiên liệu thay vì đốt than, và vũ khí của nó cũng được cải tiến thể hiện mối quan tâm đến việc phòng không. Điều lý thú là Utah và Florida không được trang bị kiểu cột buồm "ba chân" (tripod) hiện đại hơn vốn được trang bị cho các lớp tàu khác.

Utah được cho hoạt động trở lại vào ngày 1 tháng 12 năm 1925, và sau các hoạt động tại chỗ cùng Hạm đội Tuần tiễu, nó rời Hampton Roads ngày 21 tháng 11 năm 1928 lên đường hướng đấn Nam Mỹ. Đến Montevideo ngày 18 tháng 12, nó đón lên tàu Tổng thống Herbert C. Hoover và phu nhân; Đại sứ Mỹ tại Italy Henry T. Fletcher cùng đoàn báo chí tháp tùng. Utah chở đoàn của Tổng thống đến Rio de Janeiro, Brazil từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 12, rồi tiếp tục cuộc hành trình quay về nhà. Trong chuyến đi, Tổng thống đã có dịp duyệt qua thủy thủ đoàn trước khi con tàu về đến Hampton Roads vào ngày 6 tháng 1 năm 1929.

Tuy nhiên, số phận của chiếc Utah như một thiết giáp hạm chỉ còn tính từng ngày. Theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân London năm 1930, Utah được chọn để cải biến thành một tàu mục tiêu di động thay thế cho chiếc thiết giáp hạm North Dakota; và vào ngày 1 tháng 7 năm 1931 Utah được đổi số hiệu thành AG-16. Công việc cải biến được thực hiện tại Xưởng hải quân Norfolk bao gồm việc gắn các thiết bị điều khiển từ xa bằng sóng vô tuyến. Utah được cho hoạt động trở lại tại Norfolk vào ngày 1 tháng 4 năm 1932 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Randall Jacobs.

Utah rời Norfolk ngày 7 tháng 4 trong chuyến đi huấn luyện kỹ thuật sử dụng các thiết bị mới và chạy thử thiết bị vô tuyến, qua đó con tàu có thể điều khiển để di chuyển ở tác tốc độ khác nhau và thay đổi hướng đi của con tàu như trong một trận đánh thực sự. Các động cơ điện của nó có thể được vận hành bởi tín hiệu phát ra từ tàu điều khiển, có thể đóng mở các van bướm ga, xoay bánh lái và điều chỉnh lượng dầu cung cấp cho các buồng đốt. Thêm vào đó, một con quay hồi chuyển Sperry sẽ giúp giữ cho con tàu đi đúng hướng.

Quay trở lại cảng ngày 21 tháng 4, Utah tiến hành thử nghiệm thiết bị điều khiển bằng vô tuyến ở vùng biển ngoài khơi Virginia Capes ngày 6 tháng 5. Đến ngày 1 tháng 6, Utah di chuyển trong ba giờ dưới sự điều khiển từ xa dưới sự hiện diện của nhân sự tại các vị trí vận hành; và trong hai ngày tiếp theo sau nó thực hiện thành công hai chuyến đi, mỗi chuyến kéo dài bốn giờ, trong đó các máy móc hoàn toàn không được con người chạm tay đến. Chỉ có hai quan sát viên tại mỗi phòng điều khiển và mỗi phòng máy giữ liên lạc thông tin qua điện thoại và ghi nhận các dữ liệu.

Sau khi hoàn tất các thuộc thử, Utah rời Norfolk ngày 9 tháng 6. Vượt qua kênh đào Panama, nó đi đến San Pedro, California vào ngày 30 tháng 6 và được sắp xếp vào Hải đội Huấn luyện 1 thuộc lực lượng căn bản của Hạm đội Hoa Kỳ. Nó thực hiện vai trò mục tiêu đầu tiên dành cho các tàu tuần dương của Hạm đội vào ngày 26 tháng 7, và vào ngày 2 tháng 8 thực hiện các chuyến đi thao dợt dành cho Nevada, trong đó Utah được điều khiển bởi các tàu khu trục Hovey và Talbot.

Trong vòng chín năm tiếp theo sau đó, con tàu đóng vai trò phục vụ cần thiết cho hạm đội như một mục tiêu di động, góp phần hiện thực hóa trong các đợt huấn luyện ném bom bổ nhào, ném ngư lôi và ném bom tầm cao cho phi công hải quân. Vì vậy, nó đã góp phần to lớn vào việc phát triển các chiến thuật trong các lĩnh vực này. Trong một dịp khác, nó còn hoạt động trong vai trò chuyên chở khi đưa 223 sĩ quan và binh sĩ lực lượng Thủy quân Lục chiến từ đảo Sand, Midway tham gia đổ bộ lên vịnh Hilo, Hawaii trong đợt tập trận Vấn đề Hạm đội XVI vào đầu mùa Hè năm 193. Sau đó nó vận chuyển Thủy quân Lục chiến từ Hawaii đến San Diego, California, và đưa họ lên bờ vào ngày 12 tháng 6 năm 1936.

Cũng trong tháng 6 năm 1935, trên chiếc Utah đã thành lập một trường súng máy hạm đội trong khi nó vẫn tiếp tục nhiệm vụ như một tàu mục tiêu di động. Chiếc thiết giáp hạm nhận lên tàu những giáo viên đầu tiên trong tháng 8 năm 1936, và những học viên đầu tiên được rút ra từ thủy thủ đoàn các tàu tuần dương Raleigh, Concord, Omaha, Memphis, Milwaukee và tàu sân bay Ranger, đã có mặt vào ngày 20 tháng 9 để huấn luyện. Sau đó, trong những năm 1936 - 1937, Utah được trang bị các khẩu súng máy phòng không bốn nòng mới 28 mm (1,1 inch)/75 caliber nhằm mục đích thử nghiệm và phát triển bởi trường súng máy. Một số thử nghiệm đầu tiên của loại vũ khí mới này được thực hiện trên tàu.

Ngoài việc phục vụ như một mục tiêu giống như thật trong luyện tập bao gồm cả máy bay xuất phát từ tàu sân bay, Utah còn kéo theo các mục tiêu trong các cuộc tập trận được tiến hành bởi các thiết giáp hạm của hạm đội, và tham gia các cuộc tập trận "Vấn đề Hạm đội" hằng năm. Nó đi qua kênh đào Panama ngày 9 tháng 1 năm 1939 để tham gia Vấn đề Hạm đội XX, cuộc thao dượt được đích thân Tổng thống Franklin Delano Roosevelt theo dõi bên trên chiếc tàu tuần dương Houston.

Sau khi phục vụ làm mục tiêu di động dành cho tàu ngầm của Hải đội Tàu ngầm 6 vào cuối mùa Thu và đầu mùa Đông năm 1939, Utah dành ra tám tháng tiếp theo sau cho khóa thực hành súng máy đặc biệt. Vào mùa Hè tiếp theo, Utah hướng đến quần đảo Hawaii và đến Trân Châu Cảng ngày 1 tháng 8 năm 1940. Nó thực hành tác xạ phòng không nâng cao tại khu vực thực hành Hawaii cho đến ngày 14 tháng 12 năm 1940, khi nó hướng về bờ Tây, và quay về đến Long Beach, California vào ngày 21 tháng 12.

Trong hai tháng tiếp theo sau, Utah phục vụ như một mục tiêu di động để ném bom ngoài khơi đảo San Clemente, California cho máy bay của Không đoàn Tuần tiểu 1 và từ các tàu sân bay Lexington, Saratoga và Enterprise. Utah quay trở về vùng biển Hawaii vào ngày 1 tháng 4 năm 1941, nhận lên tàu các học viên của Trường Pháo phòng không Nâng cao, những xạ thủ được rút ra từ các tàu West Virginia, Oklahoma, Colorado, Phoenix, Nashville, Philadelphia và New Orleans.

Trong những tuần lễ tiếp theo sau, nó tiến hành huấn luyện các học viên đã lên tàu việc sử dụng và nạp đạn các khẩu pháo 127 mm (5 inch), thực hành bắn các mục tiêu giả điều khiển từ xa bằng vô tuyến, cũng như thực hành bắn các cỡ pháo .50-caliber và 1,1 inch trên các mục tiêu giả và bong bóng. Utah quay trở về Los Angeles, California ngày 20 tháng 5 và nhận lên tàu các hành khách Thủy quân Lục chiến để chuyên chở đến Bremerton, Washington. Đưa các Thủy quân Lục chiến lên bờ một tuần sau đó, chiếc tàu vào Xưởng hải quân Puget Sound ngày 31 tháng 5 năm 1941.

Trong đợt đại tu thực hiện sau đó, Utah được sửa chữa và các cải biến được thiết kế nhằm giúp cho con tàu đảm trách vai trò huấn luyện thực hành tác xạ hiệu quả hơn. Các thay đổi bao gồm bổ sung các khẩu pháo 127 mm (5 inch)/38 calibre nòng đơn có giáp chắn tương tự như loại được trang bị trên các tàu khu trục hiện đại hơn đang phục vụ vào thời đó. Nó cũng mất đi màu sơn trước chiến tranh khi được sơn lại theo kiểu ngụy trang Phương thức 1: màu sơn chung "5-D xám đậm" trong khi cột buồm và cấu trúc thượng tầng màu "5-L xám nhạt". Kết thúc đợt đại tu, Utah lên đường ngày 14 tháng 9 đi đến vùng biển Hawaii sau khi ghé qua Port Townsend, Washington, San Francisco, California và San Pedro, California. Nó đến Trân Châu Cảng không lâu sau đó và tiến hành huấn luyện phòng không và làm mục tiêu tác xạ đến suốt cuối mùa Thu.

[sửa] Tấn công Trân Châu Cảng

Utah vừa hoàn tất một chuyến đi huấn luyện súng phòng không nâng cao trong vùng biển Hawaii không lâu trước khi nó quay về Trân Châu Cảng vào đầu tháng 12 năm 1941, và thả neo cạnh đảo Ford ở cầu tàu F-11. Vào buổi sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941, cả Thuyền trưởng lẫn Sĩ quan Cao cấp đều đang nghỉ phép trên bờ, nên vị chỉ huy có cấp bậc cao nhất trên tàu lúc đó là Thiếu tá Hải quân Solomon S. Isquith, kỹ sư trưởng.

Không lâu trước 08 giờ 00, những người trên cầu tàu nhìn thấy ba chiếc máy bay, mà họ cho là những máy bay Mỹ đang cơ động, bay từ lối vào cảng hướng lên phía Bắc. Chúng bổ nhào thấp xuống phần phía Nam của đảo Ford nơi có kho chứa thủy phi cơ và bắt đầu ném bom.

Cuộc tấn công Trân Châu Cảng kéo dài gần hai giờ, nhưng đối với Utah, nó chỉ kéo dài trong vài phút. Lúc 08 giờ 01 phút, ngay sau khi thủy thủ bắt đầu kéo cờ lên cột cờ phía đuôi tàu, chiếc thiết giáp hạm cũ kỹ trúng phải một ngư lôi ở phía trước và ngay lập tức bắt đầu bị nghiêng sang mạn trái.

Khi con tàu bắt đầu chậm chạp lật nghiêng, những phiến gỗ kích thước 150 x 300 mm (6 x 12 inch) đặt trên sàn tàu[2] bắt đầu bị dịch chuyển, ngăn trở nỗ lực của thủy thủ trong việc rời tàu. Bên dưới, mọi người thoát lên tầng phía trên bằng mọi cách. Riêng Thượng sĩ Peter Tomich đã ở lại bên dưới, tiếp tục kiểm tra các nồi hơi và để biết chắc mọi người đã ra khỏi các phòng máy. Một người khác, John B. Vaessen, cũng ở lại vị trí của mình trong phòng máy phát điện, cố giữ cho con tàu có đủ điện để thắp sáng càng lâu càng tốt.

Thiếu tá Isquith thực hiện cuộc khảo sát lần cuối xem mọi người đã ra khỏi tàu hay chưa, và ông đã suýt bị mắc kẹt lại bên trong tàu. Khi con tàu bắt đầu lật nghiêng, ông phát hiện lối cửa thoát đã bị bịt kín. Trong lúc ông đang tìm cách thoát ra qua một lỗ hổng, chiếc bàn mà ông đang đứng lên bị trượt do độ nghiêng của con tàu đang tăng lên làm ông bị hụt chân. May mắn là vào giây phút cuối cùng, một người bên ngoài đã nắm được cánh tay của Isquith và kéo được ông ra.

Lúc 08 giờ 12 phút, những sợi dây neo bị chằng đứt, và Utah lật nghiêng qua bên hông tàu. Những người còn sống sót bơi thoát lên bờ, một số phải ẩn nấp trên các bến neo tàu vì máy bay Nhật vẫn còn đang tích cực càu quét.

Không lâu sau khi hầu hết mọi người đã lên bờ, Thiếu tá Isquith và những người khác nghe những tiếng gỏ từ bên trong thân con tàu đang lật nghiêng. Cho dù máy bay Nhật vẫn còn đang tiếp tục bắn phá khu vực, Isquith kêu gọi những người tình nguyện cùng quay trở lại thân tàu và khảo sát nguồn gốc của tiếng gỏ. Lấy được một mỏ hàn cắt từ chiếc Raleigh, bản thân chiếc tàu này vẫn còn đang chống đỡ các hư hỏng sau khi trúng phải ngư lôi, những người tình nguyện lao vào công việc cứu hộ. Nhờ những nỗ lực quên mình này, bốn người còn kẹt lại bên trong đã được cứu thoát khỏi nơi tưởng chừng đã là nấm mồ của họ.

Utah được công bố "không hoạt động" vào ngày 29 tháng 12 năm 1941 và được đặt dưới quyền quản lý của Lực lượng Căn cứ Trân Châu Cảng. Được dựng lên một phần nhằm dọn trống bến đỗ bên cạnh, nó được công bố ngừng hoạt động vào ngày 5 tháng 9 năm 1944. Tên của Utah được xóa khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 13 tháng 11 năm 1944. Thân tàu rĩ sét bị chìm một phần của nó vẫn còn nằm tại Trân Châu Cảng với một số lượng không rõ di hài các thủy thủ còn kẹt lại bên trong.[3]

[sửa] Tưởng niệm và phần thưởng

Vào năm 1972, một đài tưởng niệm nhằm tôn vinh thủy thủ trên chiếc Utah được xây dựng trên phía Tây Bắc của đảo Ford, gần xác tàu đắm.

Trong số thủy thủ đoàn của Utah, 30 sĩ quan và 431 thủy thủ sống sót sau khi con tàu chìm, sáu sĩ quan và 52 thủy thủ tử trận. Bốn người trong số đó sau này được tìm thấy và được an táng trên bờ cùng bảy người vô danh khác của chiếc Utah. Thượng sĩ Tomich được truy tặng Huân chương Danh dự do đã dũng cảm quên mình nhằm đảm bảo an toàn cho những người khác.

Utah nhận được một Ngôi sao Chiến đấu do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Ngoài ra, con tàu còn là một Di tích Lịch sử cấp Quốc gia[4] và được công nhận là một Địa điểm Lịch sử Quốc gia vào ngày 5 tháng 5 năm 1989[5]. Nó là Con tàu Chính thức của Tiểu bang Utah.

Đặt hàng: 1 tháng 8 năm 1937

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm North Carolina

Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Philadelphia

Đặt lườn: 14 tháng 6 năm 1938

Hạ thủy: 1 tháng 6 năm 1940

Đỡ đầu: Virginia Marshall

Hoạt động: 15 tháng 5 năm 1941

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 24 tháng 5 năm 1961

Ngừng hoạt động: 27 tháng 6 năm 1947

Xóa đăng bạ: 1 tháng 6 năm 1960

Tặng thưởng: 13 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 37.484 tấn (tiêu chuẩn); 44.377 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 222,1 m (728 ft 10 in)

Mạn thuyền: 33 m (108 ft 4 in)

Tầm nước: 10 m (33 ft 0 in)

Lực đẩy: turbine General Electric

8 nồi hơi, 4 trục

công suất 121.000 mã lực (88,7 MW)

Tốc độ: 50 km/h (27 knot)

Tầm xa: 32.300 km ở tốc độ 28 km/h

(17.450 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Quân số: 1.880 (108 sĩ quan, 1.772 thủy thủ)

Vũ khí: 9 × pháo 406 mm (16 inch)

20 × pháo 127 mm (5 inch)/38 mục đích kép,

16 × súng máy 27 mm (1,1 inch); thay bằng súng phòng không 20 mm và 40 mm

Cảm biến: radar CXAM-1[1]

Vỏ giáp: tối đa 406 mm (16 inch)

Máy bay: 3 × Vought OS2U Kingfisher

2 × máy phóng

USS Washington (BB-56), chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp North Carolina vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 42 của Hoa Kỳ.

Washington có điểm nổi bật là đã phục vụ suốt trọn Chiến tranh Thế giới lần thứ hai tại Mặt trận Thái Bình Dương mà không bị tổn thất người nào do hỏa lực đối phương, và chỉ bị bắn trúng một lần duy nhất ngoài khơi Guadalcanal khi một quả đạn pháo 127 mm (5 inch) xuyên qua ăn-ten radar của nó mà không phát nổ. Tuy nhiên, trong trận Hải chiến Guadalcanal, nhiều quả ngư lôi Nhật Bản đã phát nổ trên những đợt sóng gần tàu; nhiều thủy thủ trên Washington tử trận do những tai nạn nhỏ, và con tàu cũng gặp phải tai nạn va chạm nghiêm trọng với thiết giáp hạm USS Indiana (BB-58) khiến nhiều người chết và bị thương vào tháng 2 năm 1944.

Washington được cho ngừng hoạt động vào năm 1947 và được bán để tháo dỡ vào năm 1961.

Thiết kế và chế tạo

Washington được đặt lườn vào ngày 14 tháng 6 năm 1938 tại xưởng hải quân Philadelphia. Nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 6 năm 1940, được đỡ đầu bởi Cô Virginia Marshall ở Spokane, Washington, một hậu duệ của Ngài John Marshall, Thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ; và được đưa vào hoạt động tại xưởng hải quân Philadelphia ngày 15 tháng 5 năm 1941, dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Howard H.J. Benson. Washington là một trong số mười bốn tàu chiến đầu tiên được trang bị kiểu radar mới RCA CXAM.[1]

[sửa] Lịch sử hoạt động

[sửa] Mặt trận Đại Tây Dương

Việc chạy thử máy và huấn luyện chiếc thiết giáp hạm mới được tiến hành dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ trải rộng đến tận vịnh Mexico và kéo dài cho đến khi Hoa Kỳ tham gia Chiến tranh Thế giới lần thứ hai vào tháng 12 năm 1941. Trong giai đoạn hoạt động cùng chiếc tàu chị em với nó North Carolina và chiếc tàu sân bay mới Hornet, Washington trở thành soái hạm của Chuẩn Đô đốc John W. Wilcox, Jr., Tư lệnh Hải đội Thiết giáp hạm 6 thuộc Hạm đội Đại Tây Dương.

Đảm nhiệm vai trò soái hạm của Lực lượng Đặc nhiệm 39 vào ngày 26 tháng 3 năm 1942 tại Portland, Maine, Washington một lần nữa mang cờ hiệu của Đô đốc Wilcox khi nó lên đường hướng đến Anh Quốc ngày hôm đó. Được cử ra để củng cố Hạm đội Nhà Anh Quốc, chiếc thiết giáp hạm, cùng với chiếc tàu sân bay Wasp, các tàu tuần dương hạng nặng Wichita và Tuscaloosa đi đến Scapa Flow, căn cứ của lực lượng hạm đội Anh tại quần đảo Orkney, Scotland.

Trong khi đang di chuyển trong vùng biển động khá mạnh vào ngày hôm sau, 27 tháng 3, lệnh báo động "mất tích người trên boong" được đưa ra trên chiếc Washington, và một cuộc điểm binh nhanh cho thấy Đô đốc Wilcox đã bị mất tích. Chiếc Tuscaloosa đang di chuyển cách 900 m (1.000 yard) về phía sau đã cơ động và ném phao cứu sinh xuống biển, trong khi hai chiếc tàu khu trục lần theo vệt sóng của Washington để tìm kiếm vị Đô đốc mất tích. Bất chấp thời tiết xấu, máy bay của Wasp cũng cất cánh để hỗ trợ việc tìm kiếm.

Các quan sát viên trên tàu khu trục Wilson nhìn thấy thi thể của Wilcox úp mặt xuống mặt nước từ một khoảng cách, nhưng họ không thể vớt lên được. Những hoàn cảnh chung quanh việc Wilcox bị quét qua cầu tàu và rơi xuống biển từ soái hạm của mình không thể được giải thích rõ hoàn toàn; một số giả thuyết đặt ra cho rằng ông mắc phải một cơn đột quỵ tim trầm trọng, số khác cho rằng ông tự tử. Ủy ban Điều tra Hải quân kết luận rằng Wilcox chết trong khi thi hành nhiệm vụ, và không do bất cẩn hay điều sai trái nào khác.

Đến 12 giờ 28 phút ngày 27 tháng 3, việc tìm kiếm Đô đốc Wilcox bị hủy bỏ, và quyền chỉ huy lực lượng đặc nhiệm được chuyển cho sĩ quan cấp bậc lớn tiếp theo là Chuẩn Đô đốc Robert C. Giffen, người đặt cờ hiệu của mình trên tàu tuần dương Wichita. Vào ngày 4 tháng 4, lực lượng đặc nhiệm đi đến Scapa Flow, gia nhập Hạm đội Nhà Anh Quốc dưới sự chỉ huy chung của Sir John Tovey, người đặt cờ hiệu của mình trên thiết giáp hạm King George V.

Washington tham gia các cuộc cơ động và tập trận cùng các đơn vị của Hạm đội Nhà ngoài khơi Scapa Flow cho đến tận cuối tháng 4, khi Lực lượng Đặc nhiệm 39 được đổi tên thành Lực lượng Đặc nhiệm 99 với Washington làm soái hạm. Vào ngày 28 tháng 4, lực lượng này lên đường tham gia hoạt động trinh sát nhằm bảo vệ các đoàn tàu vận tải chuyên chở các tiếp liệu chiến tranh sống còn đến cảng biển Murmansk về phía Bắc Liên Xô.

Trong khi thực hiện các nhiệm vụ này, bi kịch đã xảy ra đối với hạm đội. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1942, King George V va chạm với tàu khu trục lớp Tribal Punjabi (F21) khiến nó bị cắt ra làm đôi rồi chìm nhanh chóng ngay trước hướng đi của chiếc Washington đang tiến đến. Bị buộc phải băng qua giữa hai nữa của chiếc tàu khu trục đang chìm, chiếc thiết giáp hạm tiếp tục hướng thẳng đến trước trong khi những quả mìn sâu của Punjabi nổ tung ngay cạnh thân tàu khi nó băng qua hiện trường.

May mắn cho Washington là nó đã không phải chịu đựng hư hại nghiêm trọng nào cho thân tàu hay bị rò rỉ nước do hậu quả của những trái mìn sâu phát nổ. Dù vậy, nó vẫn bị hư hại các hệ thống điều khiển hỏa lực và radar tinh tế, cũng như một bồn chứa dầu diesel bị một vết rò rỉ nhỏ.

Trong khi đó, hai chiếc tàu khu trục đã cứu vớt được thuyền trưởng chiếc Punjabi cùng bốn sĩ quan khác và 182 thủy thủ. Sau đó King George V phải quay về Scapa Flow để sửa chữa trong khi Washington và các tàu hộ tống ở lại biển khơi cho đến ngày 5 tháng 5, khi Lực lượng Đặc nhiệm 99 tiến vào cảng Hvalfjörður thuộc Iceland để được nhận tiếp liệu và tiếp nhiên liệu từ chiếc Mizar. Trong khi ở lại Hvalfjörður, các công sứ Hoa Kỳ và Đan Mạch tại Iceland đến thăm Đô đốc Giffen và thị sát soái hạm của ông vào ngày 12 tháng 5.

Sau đó Lực lượng Đặc nhiệm 99 khởi hành vào ngày 15 tháng 5 để gặp gỡ các đơn vị của Hạm đội Nhà và quay trở về Scapa Flow vào ngày 3 tháng 6. Ngày hôm sau, Đô đốc Harold R. Stark, Tư lệnh lực lượng hải quân Mỹ tại Châu Âu, lên tàu và đặt cờ hiệu của mình trên chiếc Washington, thiết lập một bộ chỉ huy hành chính tạm thời trên tàu. Chiếc thiết giáp hạm được vinh dự đón Vua George VI tại Scapa Flow vào ngày 7 tháng 6, khi Đức Vua lên tàu thị sát chiếc thiết giáp hạm.

Không lâu sau khi Đô đốc Stark rời khỏi Washington, chiếc thiết giáp hạm tiếp tục các hoạt động cùng hạm đội Nhà, tuần tra dọc theo các tuyến đường hàng hải của Đồng Minh dẫn đến các cảng của Nga. Vào ngày 14 tháng 7 năm 1942, tại Hvalfjörður, Đô đốc Giffen chuyển cờ hiệu của mình từ chiếc thiết giáp hạm sang tàu tuần dương Wichita: và cùng ngày hôm đó, Washington, dưới sự hộ tống của bốn tàu khu trục, nhổ neo rời vùng biển Iceland. Nó về đến vịnh Gravesend, New York vào ngày 21 tháng 7, và hai ngày sau nó vào xưởng hải quân New York tại Brooklyn, New York cho một đợt đại tu.

[sửa] Chiến dịch quần đảo Solomon

Sau khi hoàn tất, ngày 23 tháng 8 năm 1942, Washington khởi hành đi Thái Bình Dương dưới sự hộ tống của ba tàu khu trục. Năm ngày sau, nó đi qua kênh đào Panama, và vào ngày 14 tháng 9, nó đến Tongatapu thuộc đảo Tonga tại Nam Thái Bình Dương. Ngày hôm đó, Chuẩn Đô đốc Willis A. Lee, Jr., đặt cờ hiệu của mình trên thiết giáp hạm Washington như là Tư lệnh của Hải đội Thiết giáp hạm 6, đồng thời chỉ huy Đội đặc nhiệm 12.2.

Ngày hôm sau, 15 tháng 9, Washington hướng ra khơi để gặp gỡ Lực lượng Đặc nhiệm 17, vốn được hình thành chung quanh chiếc tàu sân bay Hornet. Sau đó Washington hướng đến Nouméa thuộc New Caledonia để hỗ trợ cho Chiến dịch quần đảo Solomon đang tiếp diễn, bảo vệ cho nhiều đoàn tàu vận tải đang vận chuyển lực lượng và phương tiện tăng cường cho Guadalcanal. Trong những tuần lễ đó, chiếc thiết giáp hạm đặt căn cứ tại Nouméa và Espiritu Santo thuộc quần đảo New Hebrides.

Đến giữa tháng 11, tình hình tại Solomons vẫn khá căng thẳng cho phía Mỹ, khi chỉ có một tàu sân bay còn hoạt động, chiếc USS Enterprise (CV-6), sau khi bị mất chiếc USS Wasp (CV-7) vào tháng 9 và USS Hornet (CV-8) vào tháng 10; và lực lượng tàu nổi Nhật Bản thường xuyên bắn phá sân bay Henderson trên đảo Guadalcanal của lực lượng Thủy quân Lục chiến bằng hải pháo hạng nặng. Điều đáng kể là, Hải quân Nhật thực hiện nhiều cuộc đột nhập vào ban đêm dưới tên gọi "Tốc hành Tokyo", vì máy bay Đồng Minh từ sân bay Henderson kiểm soát bầu trời và vùng biển lân cận vào ban ngày. Điều đó có nghĩa là phía Mỹ được tự do di chuyển lực lượng tăng cường và hàng tiếp liệu đến vùng biển Guadalcanal vào những giờ ban ngày, và phía Nhật làm điều tương tự như vậy vào ban đêm.

[sửa] Hải chiến Guadalcanal

Washington thực hiện các nhiệm vụ cần thiết như vậy cho đến giữa tháng 11 năm 1942. Vào ngày 9 tháng 11, tin tức tình báo hải quân nhận được cho biết ba nhóm tàu chiến Nhật Bản đang hướng về phía Guadalcanal, trong đó một nhóm bao gồm 24 tàu vận tải và các tàu khu trục hộ tống. Một báo cáo khác cho biết trông thấy lực lượng đối phương bao gồm hai thiết giáp hạm, một tàu tuần dương hạng nhẹ và 11 tàu khu trục.

Chiều tối ngày 13 tháng 11, Chuẩn Đô đốc Willis A. Lee dẫn một lực lượng bao gồm USS Washington, thiết giáp hạm South Dakota và bốn tàu khu trục hướng đến đảo Savo; địa điểm từng xảy ra các hoạt động tác chiến ban đêm của Trận chiến đảo Savo gây thiệt hại nặng nề cho phe Đồng Minh vào ngày 9 tháng 8; đến một vị trí để đánh chặn đoàn tàu vận tải Nhật Bản cùng lực lượng hộ tống cho chúng. Các tàu chiến của Lee, được đặt tên là Lực lượng Đặc nhiệm 64, đến một điểm cách 80 km (50 dặm) về phía Tây Nam Guadalcanal gần trưa ngày 14 tháng 11 năm và trải qua hầu hết thời gian của ngày hôm đó lẫn tránh, nhưng không thành công, sự phát hiện của các máy bay trinh sát Nhật Bản.

Tiếp cận đến Guadalcanal bằng con đường phía Bắc và ở cách 9 dặm về phía Tây, Lực lượng Đặc nhiệm 64 bị một máy bay trinh sát Nhật phát hiện và thông báo vị trí, bao gồm một thiết giáp hạm, một tàu tuần dương (thực ra là hai thiết giáp hạm) và bốn tàu khu trục di chuyển theo đội hình hàng dọc. Đội hình hạm đội Mỹ được dẫn đầu bởi tàu khu trục Walke, rồi tiếp nối bởi Benham, Preston, Gwin, và hai chiếc thiết giáp hạm đi sau cùng Washington và South Dakota.

Khi những con tàu chiến di chuyển trên mặt nước phẳng lặng trong đêm dưới những đám mây, radar của Washington bắt được tín hiệu của một mục tiêu di chuyển về phía Đông đảo Savo lúc 00 giờ 01 phút ngày 15 tháng 11. Mười lăm phút sau, lúc 00 giờ 16 phút, Washington khai hỏa các khẩu pháo chính 406 mm (16 inch) nhắm vào mục tiêu, mở màn trận đánh.

Lực lượng Nhật Bản bao gồm chiếc thiết giáp hạm Kirishima, các tàu tuần dương hạng nặng Atago và Takao, các tàu tuần dương hạng nhẹ Sendai và Nagara cùng một lực lượng chín tàu khu trục dẫn trước bốn tàu vận tải. Dự định thực hiện một cuộc bắn phá xuống các vị trí của lực lượng Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal nhằm bảo vệ cho cuộc đổ bộ lực lượng vào ngày hôm sau, lực lượng Nhật đã hướng thẳng vào các tàu chiến trong Lực lượng Đặc nhiệm 64 của Lee.

Trong ba phút tiếp theo sau, Washington bắn ra 42 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) từ khoảng cách 17 km (18.500 yard), nhắm vào chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Sendai. Cùng lúc đó, dàn pháo hạng hai 127 mm (5 inch) đa dụng của nó cũng nhắm vào một tàu chiến khác vốn cũng đang bị chiếc South Dakota nả pháo. Trong khoảng thời gian từ 00 giờ 25 phút đến 00 giờ 34 phút, chiếc thiết giáp hạm đối đầu cùng tàu chiến đối phương ở khoảng cách 9 km (10.000 yard) bằng các khẩu pháo 127 mm (5 inch) của nó.

Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là Washington không lâu sau đó giáp chiến cùng với Kirishima trong cuộc đối đầu giữa những thiết giáp hạm lần đầu tiên trong chiến tranh tại Thái Bình Dương. Trong bảy phút, được hướng dẫn bởi radar, Washington đã bắn 75 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) và 107 quả đạn 127 mm (5 inch) ở tầm xa từ 7.700 đến 11.600 m (8.400 - 12.650 yard), bắn trúng ít nhất chín quả đạn 406 mm và khoảng 40 quả đạn 127 mm, khiến Kirishima phải lặng tiếng và bốc cháy. Sau đó, các khẩu đội pháo 127 mm (5 inch) của Washington còn bắn vào các mục tiêu khác hiện diện trên màn hình radar.

Tuy nhiên, trận hải chiến ngoài khơi Guadalcanal không phải chỉ là một chiều. Hải pháo cùng ngư lôi Long Lance mạnh mẻ của lực lượng Nhật đã phá hủy bốn tàu khu trục của Lực lượng Đặc nhiệm 64. Walke và Preston trúng nhiều đạn pháo đủ các cỡ và bị đánh chìm; Benham bị hư hại nặng phía mũi tàu, trong khi Gwin đúng đạn phía sau đuôi tàu.

South Dakota phải cơ động để tránh những chiếc Walke và Preston đang bốc cháy, nhưng không lâu sau lại trở thành mục tiêu của toàn bộ lực lượng bắn pháo Nhật Bản. Chiếc thiết giáp hạm chịu đựng nhiều phát đạn bắn trúng và hư hỏng hệ thống điện nên bị buộc phải rút lui, trong khi Washington di chuyển về phía Bắc thu hút hỏa lực đối phương về phía nó che chở cho đồng đội đang bị hư hại cũng như các tàu khu trục Benham và Gwin. Thoạt tiên, các tàu chiến Nhật còn lại truy đuổi theo Washington nhưng chúng nhanh chóng tháo lui vì e ngại các khẩu pháo hạng nặng của chiếc thiết giáp hạm; sau đó chúng rút lui dưới sự che chở của một màn khói ngụy trang.

Sau khi Washington cơ động né tránh được các quả ngư lôi phóng ra bởi các tàu khu trục Nhật, trong đó nhiều quả phát nổ trên sóng phía sau tàu, nó gặp gỡ South Dakota sáng hôm sau và lên đường hướng về Nouméa. Sau các hoạt động tác chiến căng thẳng, Washington đã thể hiện trong chiến đấu tốt và thoát ra được mà không bị hư hại gì, ngoại trừ một quả đạn pháo 127 mm (5 inch) xuyên qua một trong những ăn-ten radar của nó mà không phát nổ. South Dakota không được may mắn như thế, phải chịu đựng những hư hỏng nghiêm trọng cho cấu trúc thượng tầng, với 38 người thiệt mạng và 60 người khác bị thương. Về phía Nhật Bản, họ bị mất chiếc thiết giáp hạm Kirishima, khi chiếc tàu chiến trôi nổi với các đám cháy và các vụ nổ bùng phát, khiến phải bỏ tàu và sau đó bị đánh đắm. Một thiệt hại khác là chiếc tàu khu trục Ayanami, bị đánh đắm sáng hôm sau.

Trong khi South Dakota quay trở về New York để sửa chữa lớn, Washington ở lại khu vực chiến trường Nam Thái Bình Dương, đặt căn cứ tại New Caledonia và tiếp tục phục vụ như là soái hạm của Chuẩn Đô đốc Lee. Chiếc thiết giáp hạm tiến hành bảo vệ các đội đặc nhiệm tàu sân bay và các lực lượng đặc nhiệm tham gia chiến dịch Solomon tiếp diễn cho đến cuối tháng 4 năm 1943, hoạt động chủ yếu cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 11, vốn bao gồm chiếc tàu sân bay Saratoga, vốn vừa mới được sửa chữa sau khi trúng phải ngư lôi từ tàu ngầm Nhật; và cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 16 vốn được xây dựng chung quanh chiếc tàu sân bay Enterprise.

Washington khởi hành từ Nouméa vào ngày 30 tháng 4 năm 1943 hướng đến Hawaii. Trên đường đi, Lực lượng Đặc nhiệm 16 cùng tháp tùng; và cùng nhau về đến Trân Châu Cảng vào ngày 8 tháng 5. Chiếc thiết giáp hạm, phục vụ như là một đơn vị và là soái hạm của Lực lượng Đặc nhiệm 60, tiến hành các cuộc tập trận tại vùng biển Hawaii cho đến ngày 28 tháng 5 năm 1943, sau đó nó vào xưởng hải quân Trân Châu Cảng để được đại tu.

Washington tiếp nối các cuộc tập trận tại Hawaii sau khi hoàn tất các công việc sửa chữa và cải biến; và sau đó tham gia một đoàn tàu vận tải vào ngày 27 tháng 7 để hình thành nên Đội Đặc nhiệm 56.14, và hướng đến khu vực Nam Thái Bình Dương. Được tách ra vào ngày 6 tháng 8 năm, Washington đi đến cảng Havannah tại Efate thuộc quần đảo New Hebrides vào ngày 7 tháng 8. Sau đó nó hoạt động tại vùng biển ngoài khơi Efate cho đến cuối tháng 10, chủ yếu tham gia các cuộc tập trận chiến thuật cùng lực lượng đặc nhiệ tàu sân bay nhanh.

Rời cảng Havannah vào ngày cuối cùng của tháng 10, Washington di chuyển trong thành phần của Đội Đặc nhiệm 53.2 bao gồm bốn thiết giáp hạm và sáu tàu khu trục. Ngày hôm sau, các tàu sân bay Enterprise, Essex và Independence, cùng các đơn vị hộ tống của Đội Đặc nhiệm 53.3 gia nhập Đội Đặc nhiệm 53.2 và dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Willis A. Lee. Các con tàu chiến tiến hành thực tập cơ động phối hợp cho đến ngày 6 tháng 11, khi các con tàu sân bay được cho tách khỏi đội hình. Washington cùng với các tàu hộ tống cho nó lên đường hướng đến Viti Levu thuộc quần đảo Fiji, và đến nơi vào ngày 7 tháng 11.

[sửa] Chiến dịch quần đảo Gilbert

Tuy nhiên, bốn ngày sau, Washington lại lên đường cùng với Chuẩn Đô đốc Lee, lúc này được bổ nhiệm làm tư lệnh lực lượng Thiết giáp hạm Thái Bình Dương, cùng các đơn vị thuộc các hải đội thiết giáp hạm 8 và 9. Vào ngày 16 tháng 11 năm 1943, những chiếc thiết giáp hạm cùng lực lượng hộ tống với nó gặp gỡ Đội Đặc nhiệm 50.1 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Charles A. Pownall, vốn đặt cờ hiệu của mình trên tàu sân bay Yorktown. Lực lượng phối hợp này hướng về phía quần đảo Gilbert để cùng thực hiện ném bom hằng ngày xuống các vị trí của quân Nhật trên quần đảo Gilbert và quần đảo Marshall, vô hiệu hóa chúng chuẩn bị cho cuộc đổ bộ sắp tới.

Vào ngày 19 tháng 11, máy bay xuất phát từ Đội Đặc nhiệm 50.1 đã tấn công Mili và Jaluit thuộc quần đảo Marshall, và tiếp tục không kích cho đến ngày 20 tháng 11, ngày mà các lực lượng Hải quân, Thủy quân Lục chiến và Lục quân Mỹ đổ bộ lên Tarawa và Makin thuộc quần đảo Gilbert. Vào ngày 22 tháng 11, đội đặc nhiệm tung máy bay của nó ra tấn công Mili trong nhiều đợt; rồi sau đó, đội đặc nhiệm di chuyển để hoạt động tại khu vực phía Bắc Makin.

Đặt hàng: 5 tháng 12 năm 1916

Lớp tàu: Lớp thiết giáp hạm Colorado

Xưởng đóng tàu: Newport News, Virginia

Đặt lườn: 12 tháng 4 năm 1920

Hạ thủy: 17 tháng 11 năm 1921

Đỡ đầu: Alice Wright Mann

Hoạt động: 1 tháng 12 năm 1923

Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 24 tháng 8 năm 1959

Ngừng hoạt động: 9 tháng 1 năm 1947

Xóa đăng bạ: 1 tháng 3 năm 1959

Tặng thưởng: 5 Ngôi sao Chiến đấu

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 33.590 tấn

Chiều dài: 190,2 m (624 ft)

Mạn thuyền: 29,7 m (97 ft 4 in)

Tầm nước: 9,3 m (30 ft 6 in)

Tốc độ: 39 km/h (21 knot)

Quân số: 1.407 sĩ quan và thủy thủ

Vũ khí: 8 × pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber

12 × pháo 127 mm (5 inch)

8 × pháo phòng không 76 mm (3 inch)

4 × pháo six pounder

2 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)

Vũ khí điện tử: radar RCA CXAM-1 [1]

USS West Virginia (BB-48) (tên lóng "Wee Vee"), là một thiết giáp hạm thuộc lớp Colorado, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 35 của nước Mỹ.

Là một thiết giáp hạm thuộc kiểu "Siêu-dreadnought", West Virginia từng là mục tiêu bị Hải quân Nhật nhắm đến trong vụ tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941. Sau khi được vớt lên, sửa chữa và hiện đại hóa, từ năm 1944 nó tiếp tục tham gia chiến đấu tại mặt trận Thái Bình Dương cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1947, và được bán để tháo dỡ vào năm 1959.

Thiết kế và chế tạo

Là một trong những chiếc "siêu-Dreadnought" mới nhất, West Virginia tích hợp các kiến thức mới nhất của kiến trúc hải quân; các ngăn kín nước của lườn tàu và quy mô của vỏ giáp khiến cho nó có ưu thế đáng kể so với những chiếc thiết giáp hạm được chế tạo hay thiết kế trước trận Jutland.

Nó được đặt lườn vào ngày 12 tháng 4 năm 1920 bởi hãng Newport News Shipbuilding tại Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 11 năm 1921, được đỡ đầu bởi Cô Alice Wright Mann, con gái ngài Isaac T. Mann, một nhân vật nổi bật tại West Virginia; và được đưa vào hoạt động ngày 1 tháng 12 năm 1923 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Thomas J. Senn.

[sửa] Lịch sử hoạt động

[sửa] 1923 - 1941

Trong những tháng tiếp theo sau, West Virginia tiến hành các chuyến đi chạy thử và các cải biến hiệu chỉnh. Sau một giai đoạn ngắn trong xưởng hải quân New York, con tàu thực hiện chuyến đi đến Hampton Roads, cho dù nó gặp phải trục trặc bánh lái trên đường đi. Thực hiện sửa chữa cần thiết trong thời gian ở lại Hampton Roads, West Virginia lại ra khơi vào buổi sáng ngày 16 tháng 6 năm 1924. Lúc 10 giờ 10 phút, trong khi con tàu đang di chuyển giữa luồng Lynnhaven, sĩ quan phòng lái báo cáo lên rằng đồng hồ chỉ thị bánh lái không hoạt động. Chuông báo động gửi đến phòng động cơ bánh lái không được trả lời; nên Thuyền trưởng Senn nhanh chóng ra lệnh cho ngừng tất cả các động cơ, nhưng máy điện báo của phòng động cơ cũng không trả lời. Cuộc điều tra sau này cho thấy điện năng đã không cung cấp đến máy điện báo của cả phòng máy lẫn phòng lái.

Thuyền trưởng đã phải nhờ đến phương cách gửi mệnh lệnh đến phòng máy chính thông qua ống nói từ cầu tàu. Ông ra lệnh mở hết tốc độ động cơ bên mạn trái và tắt hết động cơ bên mạn phải. Mọi nỗ lực đều được cố gắng tối đa trong lúc đó nhằm lái con tàu bằng động cơ giữ cho nó trong luồng tàu. Không may là những nỗ lực này đều thất bại, và West Virginia bị mắc cạn lên trên nền đất bùn nhão. Điều may mắn là, như Trung tá (sau này là Đô đốc) Harold R. Stark, sĩ quan cao cấp, báo cáo: "...thân tàu đã không bị bất kỳ một hư hỏng nào dù là nhỏ nhặt."

Cuộc điều tra của tòa án quân sự sau đó cho thấy con tàu đã được cung cấp những thông tin hải hành không chính xác và sai lầm. Chú thích trên các bảng biểu đã chỉ thị luồng tàu đi có độ rộng lớn hơn so với thực tế. Các phát hiện của tòa án quân sự đã miễn trừ cho Thuyền trưởng Senn và sĩ quan hoa tiêu của ông khỏi mọi trách nhiệm.

Sau khi được sửa chữa, West Virginia trở thành soái hạm của Tư lệnh Hạm đội Thiết giáp hạm vào ngày 30 tháng 10 năm 1924, khởi đầu cuộc đời phục vụ như một phần "xương sống của hạm đội" như cách nhìn những chiếc thiết giáp hạm vào thời đó.

Trong thời kỳ này; West Virginia trải qua những chu kỳ huấn luyện, bảo trì và thực hành, tham gia các cuộc thi kỹ thuật và tác xạ, cũng như cuộc tập trận "Vấn đề Hạm đội" được tổ chức hàng năm. Trong cuộc cơ động lớn của hạm đội này, lực lượng sẽ được chia ra hai phía đối kháng nhau, và một tình huống chiến lược hay chiến dịch sẽ được đề ra; những bài học thu lượm được sẽ góp phần vào việc xây dựng các học thuyết mà sau này sẽ được thử thách trong môi trường chiến đấu khắc nghiệt.

Vào năm 1926, chiếc thiết giáp hạm tham gia vào một cuộc cơ động phối hợp Lục quân- Hải quân thử nghiệm việc phòng thủ quần đảo Hawaii rồi thực hiện chuyến đi cùng hạm đội đến Úc và New Zealand. Trong các cuộc tập trận hạm đội sau đó, West Virginia có mặt từ Hawaii đến vùng biển Caribbe và Đại Tây Dương cũng như trải từ Alaska đến vùng biển Panama.

Nhằm theo kịp sự phát triển kỹ thuật trong lĩnh vực súng đạn và kiểm soát hỏa lực, cũng như cơ khí và hàng không, chiếc tàu chiến trải qua các đợt cải biến được thiết kế nhằm tăng cường khả năng để tthực hiện vai trò được giao. Các cải tiến bao gồm thay thế các khẩu pháo phòng không 76 mm (3 inch) nguyên thủy bằng kiểu pháo 127 mm (5 in)/25 caliber đa dụng; bổ sung thêm súng máy 0,50 inch ở cột buồm trước và giữa tàu; thêm các máy phóng trên boong trên phía sau, phía đuôi tàu và bên trên tháp súng III.

Tuy nhiên, trong những năm cuối của thập niên 1930, điều trở nên rõ ràng đối với nhiều người rằng đây chỉ là vấn đề thời gian trước khi Hoa Kỳ phải can dự vào một cuộc chiến tranh nữa với quy mô lớn hơn. Do đó, Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ trở thành công cụ răn đe Nhật Bản, kẻ thù tiềm năng nhất; đó là lý do khiến có sự bố trí vội vã lực lượng hạm đội đến vùng biển Thái Bình Dương vào mùa Xuân năm 1939 và việc giữ hạm đội tại vùng biển Hawaii vào năm 1940 sau khi cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XXI kết thúc vào tháng 4 năm đó.

Trong năm 1941, West Virginia thực hiện một lịch trình huấn luyện khẩn trương, đặt căn cứ tại Trân Châu Cảng và hoạt động trong nhiều lực lượng và đội đặc nhiệm khác nhau tại vùng biển Hawaii. Các hoạt động thường lệ này vẫn được tiếp tục cho dù tình hình bắt đầu căng thẳng từ cuối tháng 11 và tiếp tục kéo dài. Sau các giai đoạn hoạt động tích cực ngoài biển khơi là những lúc nghỉ ngơi bảo trì trong cảng, khi những chiếc thiết giáp hạm neo đậu dọc theo bờ Đông Nam đảo Ford ở Trung Tâm Trân Châu Cảng. West Virginia là một trong số 14 tàu chiến đầu tiên được trang bị kiểu radar đời đầu RCA CXAM-1.[1]

[sửa] 7 tháng 12 năm 1941

Vào ngày Chủ nhật 7 tháng 12 năm 1941, West Virginia neo đậu bên ngoài thiết giáp hạm Tennessee tại bến F-6 với độ sâu 12 m (40 ft) nước bên dưới lườn tàu. Ngay trước 08 giờ 00, máy bay Nhật xuất phát từ sáu tàu sân bay tiến hành cuộc tấn công Trân Châu Cảng được hoạch định khá chu đáo. Nhiều quả ngư lôi 457 mm (18 inch) phóng từ máy bay đã đánh trúng mạn trái West Virginia,[2] trong đó một quả trúng phải đuôi tàu và làm gảy bánh lái.[2] Ít nhất ba quả trúng bên dưới đai giáp, và một hoặc nhiều quả đánh trúng đai giáp làm buộc phải thay thế bảy tấm giáp thép.[2] Một hoặc hai quả ngư lôi đã xuyên vào trong con tàu qua những lổ hổng tạo ra do đợt ngư lôi trước trong khi con tàu đã bị nghiêng và phát nổ trên sàn bọc thép thứ hai.[2] Các khảo cứu gần đây cho thấy có ít nhất một trong các quả ngư lôi đánh trúng xuất phát từ một tàu ngầm bỏ túi. Việc phân tích các hình ảnh do Học viện Hải quân Hoa Kỳ tiến hành vào năm 1999 cho thấy một chiếc tàu ngầm bỏ túi Nhật Bản đã tìm cách lọt được vào bên trong cảng và đã phóng thành công một quả ngư lôi vào chiếc West Virginia. Số phận cuối cùng của chiếc tàu ngầm này hiện vẫn chưa rõ.[3]

West Virginia cũng trúng phải hai quả bom được chế tạo từ những quả đạn pháo xuyên thép 406 mm (16 inch) có gắn thêm các vây đuôi. Quả bom thứ nhất đánh trúng sàn tàu phía trước, xuyên qua sàn kiến trúc thượng tầng, và được tìm thấy không phát nổ trong đám mảnh vụn của sàn tàu thứ hai.[4] Quả bom thứ hai đánh trúng phía đuôi tàu, phá hỏng một thủy phi cơ Vought OS2U Kingfisher trên máy phóng bên trên tháp pháo III và hất tung chiếc thứ hai trên máy phóng đặt dưới sàn tàu. Quả đạn đâm xuyên qua nóc tháp pháo dày 102 mm (4 inch), phá hỏng một khẩu pháo chính. Mặc dù quả bom này cũng tịt ngòi, xăng tràn ra từ chiếc máy bay hư hỏng bốc cháy gây một số thiệt hại. Sau đó West Virginia bị hư hỏng nghiêm trọng do mắc kẹt trong đám cháy dầu lan trên mặt biển xuất phát từ chiếc Arizona kéo dài đến ba mươi giờ do nhiên liệu rỉ ra từ cả hai con tàu.[4]

Các quả ngư lôi phát nổ đã làm thủng hai lổ lớn trải từ khoang 43 đến khoang 52 và từ khoang 62 đến khoang 97.[5] Các hoạt động tức thời của Đại úy Claude V. Ricketts[6], sĩ quan phụ tá cứu hỏa vốn có chút kiến thức về kỹ thuật kiểm soát hư hỏng, đã cứu con tàu khỏi số phận như chiếc Oklahoma đang neo đậu phía trước mắc phải. Oklahoma cũng bị trúng phải nhiều quả ngư lôi, và nó đã bị ngập nước rồi lật úp.

Những ví dụ về hành động anh hùng bên trên con tàu chiến bị hư hại nặng nề kéo dài trong suốt cuộc chiến nóng bỏng. Chỉ huy con tàu, Đại tá Mervyn S. Bennion có mặt rất sớm trên cầu tàu chỉ huy để rồi bị một mảnh bom bắn trúng, khi một quả bom cải tạo từ đạn pháo xuyên thép 406 mm (16 inch) đánh trúng khẩu súng giữa của tháp súng II trên chiếc Tennessee, trút một cơn mưa mảnh đạn lên cấu trúc thượng tầng West Virginia. Bennion bị thương vào bụng và ngã sấp xuống sàn tàu, rồi sau đó bị tử thương. Nhưng cho đến giây phút cuối cùng của cuộc sống, ông vẫn gắng gượng bám víu và tiếp tục chỉ huy việc phòng thủ con tàu cho đến phút cuối cùng. Do sự hết lòng tận tụy với nghĩa vụ, sự can đảm phi thường và đã hoàn toàn bất chấp đến mạng sống của bản thân, Đại tá Bennion được truy tặng Huân chương Danh dự. Doris Miller, một đầu bếp, đã giúp đưa Thuyền trưởng Bennion vào một nơi an toàn hơn, rồi đứng vào một khẩu súng cao xạ cho dù anh chưa từng có kinh nghiệm sử dụng. Anh là người Mỹ da màu đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Chữ Thập Hải quân.

West Virginia bị bỏ lại, bị chìm xuống đáy vịnh nhưng lườn tàu vẫn cân bằng, các đám cháy bên trên nó được cứu chữa bởi một nhóm tình nguyện quay trở lại tàu sau đợt bỏ tàu thứ nhất. Đến trưa ngày hôm sau, 8 tháng 12, đám cháy được dập tắt hoàn toàn. Chiếc sà lan tiếp liệu YG-17 đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các nỗ lực trên, đã ở lại vị trí bên cạnh chiếc thiết giáp hạm bất chấp nguy cơ phát nổ các hầm đạn trên chiếc tàu chiến. Với các tấm thép được hàn bịt vào các lổ thủng, nước được bơm ra và con tàu được cho nổi trở lại vào ngày 17 tháng 5 năm 1942 và được đưa vào ụ tàu số 1 ngày 9 tháng 6. West Virginia được xem xét cẩn thận một lần nữa, và người ta thấy nó bị đánh trúng không phải sáu, mà là tổng cộng bảy quả ngư lôi.[7]

Trong quá trình sửa chữa con tàu, công nhân xưởng tàu đã phát hiện 66 thi thể của thủy thủ chiếc West Virginia bị kẹt lại bên dưới khi con tàu chìm.[8] Nhiều thi thể được tìm thấy nằm úp trên các ống dẫn hơi nước trong các ô không khí còn sót lại trong các khoang ngập nước.[8] Ba thi thể được tìm thấy tại một kho chứa nơi họ kéo dài cuộc sống nhờ những khẩu phần khẩn cấp và nước ngọt từ một vị trí chiến đấu.[8] Một quyển lịch tìm được cùng với họ cho thấy họ đã sống sót cho đến ngày 23 tháng 12.[9] Các thủy thủ và công nhân phải đối mặt với một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, do những thiệt hại rất lớn bên mạn trái của con tàu chiến. Dù sao, cuối cùng, West Virginia cũng rời Trân Châu Cảng hướng đến bờ Tây Hoa Kỳ và được cải tạo mới hoàn toàn tại xưởng hải quân Puget Sound ở Brementon, Washington.

Được hiện đại hóa một cách rộng rãi, chiếc thiết giáp hạm thoát ra từ sự tàn phá của Trân Châu Cảng mang một diện mạo khác hẵn so với trước ngày 7 tháng 12 năm 1941. Vẻ bên ngoài của nó gần tương tự như Tennessee và California, vốn cũng được chế tạo lại cho giống những chiếc thiết giáp hạm thuộc lớp South Dakota, chỉ khác biệt những tháp súng chính chỉ gồm hai khẩu.

Được tháo bỏ cột buồm dạng lồng hyperbol nâng đỡ ba tầng kiểm soát hoả lực cùng hai ống khói, các khẩu pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber và các tháp pháo nhỏ mang pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber. Một cấu trúc thượng tầng suôn thẳng cho phép con tàu mang một dáng vẻ hoàn toàn mới; trang bị pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber công dụng kép đặt trong các tháp pháo kín cung cấp cho con tàu hỏa lực phòng không đầy uy lực. Thêm vào đó, các khẩu đội cao xạ 40 mm Bofors và 20 mm Oerlikon được rãi khắp sàn tàu, cho phép chiếc thiết giáp hạm có một hỏa lực mạnh mẻ đối phó với những máy bay đối phương tiếp cận.

West Virginia ở lại Xưởng Hải quân Puget Sound cho đến đầu tháng 7 năm 1944. Sau khi tiếp liệu đạn dược lên tàu trong ngày 2 tháng 7, chiếc thiết giáp hạm hoàn toàn mới lên đường không lâu sau đó nhằm thực hiện các cuộc chạy thử ngoài khơi Port Townsend, Washington. Nó thực hiện cuộc chạy thử hết tốc độ vào ngày 6 tháng 7, và tiếp tục công việc cho đến ngày 12 tháng 7. Sau khi quay về Puget Sound để thực hiện các sửa chữa cuối cùng, chiếc thiết giáp hạm hướng về San Pedro, California cho chuyến đi thử máy cuối cùng sau khi được hiện đại hóa.

Sẵn sàng tái gia nhập hạm đội mà nó đã xa rời hơn hai năm trước đây, West Virginia hướng đến quần đảo Hawaii vào ngày 14 tháng 9. Được hộ tống bởi bởi hai tàu khu trục, nó đến Oahu vào ngày 23 tháng 9, rồi sau đó, như một thành phần của Hải đội Thiết giáp hạm 4, West Virginia cùng với tàu sân bay hạm đội Hancock, lên đường hướng đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty, và vào cảng Seeadler vào ngày 5 tháng 10. Ngày hôm sau, nó lại trở thành soái hạm khi Chuẩn Đô đốc Theodore Ruddock, tư lệnh Hải đội Thiết giáp hạm 4, chuyển cờ hiệu của mình từ chiếc Maryland sang "Wee Vee".

[sửa] Đổ bộ lên Leyte

Lên đường ngày 12 tháng 10 để tham gia cuộc đổ bộ lên Philippine, West Virginia được bố trí trong thành phần của Đội đặc nhiệm 77.2 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Jesse B. Oldendorf. Vào ngày 18 tháng 10, hàng thiết giáp hạm tiến vào vịnh Leyte, West Virginia di chuyển phía sau chiếc thiết giáp hạm California. Lúc 16 giờ 45 phút, California cắt rời được một quả thủy lôi bằng máy cắt dây mìn ngầm (paravane); West Virginia né tránh được mối đe dọa, và ít phút sau nó bị phá hủy bởi hỏa lực pháo của một trong các tàu khu trục theo hộ tống.

Ngày 19 tháng 10, West Virginia đi đến vị trí chiến đấu tại vịnh San Pedro lúc 07 giờ 00 thường trực ngoài khơi và bắt đầu bắn phá các mục tiêu tại khu vực Tacloban thuộc đảo Leyte. Trong ngày hôm đó, chiếc thiết giáp hạm đã nả 278 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) và 1.586 quả đạn 127 mm (5 inch), giúp vô hiệu hóa hỏa lực pháo binh Nhật Bản và hỗ trợ cho các đội công binh phá mìn dưới nước (UDT, underwater demolition team) nhằm chuẩn bị các bãi đổ bộ vốn dự tính sẽ diễn ra vào ngày 20 tháng 10. Rút lui ra biển khi trời tối, chiếc thiết giáp hạm cùng các tàu hộ tống quay trở lại lúc bình minh để tiếp tục tiêu diệt các căn cứ Nhật Bản chung quanh khu vực Tacloban. Máy bay đối phương bắt đầu xuất hiện bên trên khu vực đổ bộ, và West Virginia đã tìm cách bắn hạ chúng nhưng không thành công.

Ngày 21 tháng 10, khi tiếp tục bắn pháo hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ đang tiếp tục chiến đấu tiến lên bờ, West Virginia bị mắc cạn gây hư hại nhẹ ba trong số bốn chân vịt của nó. Sự rung động do vận hành những chân vịt bị hư hại khiến tốc độ hoạt động của con tàu bị giới hạn còn 29,6 km/h (16 knot) và 33,3 km/h (18 knot) lúc khẩn cấp.

Trong hai ngày tiếp theo sau, West Virginia, cùng với dàn hỏa lực phòng không được tăng cường mạnh mẻ, tiếp tục bố trí ngoài khơi bãi đổ bộ lúc ban ngày và rút lui ra khơi vào ban đêm, tiếp tục hỗ trợ phòng không cho chiến dịch tấn công. Trong khi đó, người Nhật nhận ra cuộc tấn công vào Leyte của Đồng Minh được thực hiện với quy mô lớn, đã quyết định phản công. Theo đó, bất chấp hậu quả có thể có, họ tung ra bốn lực lượng riêng biệt để tấn công hạm đội tấn công Hoa Kỳ.

[sửa] Hải chiến vịnh Leyte

Bốn tàu sân bay và hai tàu sân bay "lai" (các thiết giáp hạm-tàu sân bay Ise và Hyūga) hướng về phía biển Philippine từ vùng biển nội địa Nhật Bản; một lực lượng tàu nổi nhỏ của Đô đốc Kiyohide Shima hướng đến biển Sulu; hai lực lượng tấn công bao gồm các thiết giáp hạm, tàu tuần dương và tàu khu trục khởi hành từ Lingga Roads, Sumatra, trước khi tách ra ở phía Bắc Borneo. Lực lượng lớn hơn trong số hai nhóm dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Takeo Kurita, băng qua phía Bắc đảo Palawan để đi qua biển Sibuyan.

Các tàu ngầm Mỹ Darter và Dace, đã mở đầu trận chiến nổi tiếng vào ngày 23 tháng 10 năm 1944 được biết đến dưới tên gọi trận chiến vịnh Leyte, khi chúng đánh chìm hai tàu tuần dương của Kurita, Maya và Atago. Không nao núng, Kurita tiếp tục cuộc chuyển quân. Lực lượng của ông được xây dựng chung quanh các thiết giáp hạm khổng lồ Yamato và Musashi.

Lực lượng nhỏ hơn trong số hai nhóm dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Shoji Nishimura quay mũi về phía Nam Palawan và đi ngang qua biển Sulu giữa hai đảo Mindanao và Leyte. Lực lượng của Shima nối tiếp phía sau lực lượng của Nishimura, hướng đến vịnh Leyte như là gọng kìm thứ hai ở phía Nam nhằm tiêu diệt lực lượng tàu đổ bộ và tàu vận tải đang tập trung tại các bãi đổ bộ ở Leyte. Để đối đầu với lực lượng đối phương đang hướng về phía mình, Đô đốc Oldendorf bố trí lực lượng mạnh mẻ của mình, với sáu thiết giáp hạm, tám tàu tuần dương và 28 tàu khu trục tại eo biển Surigao.

Lúc 22 giờ 36 phút ngày 24 tháng 10 năm 1944, các tàu phóng lôi-tuần tra (PT boat) Mỹ bố trí bên trong và ở lối vào eo biển phát hiện ra lực lượng của Nishimura qua radar, và tiến hành tấn công quấy rối, vốn gây ra khó khăn, nhưng không thể ngăn cản bước tiến của đối phương. Bắt đầu tiến vào eo biển lúc 03 giờ 00 ngày 25 tháng 10, Nishimura sắp xếp đội hình tàu chiến của mình khi năm tàu khu trục Mỹ tung ra đợt tấn công bằng ngư lôi được vạch kế hoạch hoàn chỉnh. Thiết giáp hạm Fusō trúng phải một số quả ngư lôi và bị lọt ra khỏi đội hình; đợt tấn công ngư lôi này cũng kết liễu hai tàu khu trục Nhật và phá hỏng một chiếc thứ ba. Cùng lúc đó, tàu chị em với Fusō là Yamashiro cũng bị trúng một quả ngư lôi và phải giảm tốc độ, để rồi trúng thêm một quả nữa chỉ sau 15 phút. Bản thân Fusō chịu đựng những tổn hại đáng kể do những đám cháy bùng phát do những quả ngư lôi, bị nổ tung và cắt làm đôi lúc 03 giờ 38 phút.

Giờ đây West Virginia dẫn đầu hàng thiết giáp hạm bao gồm Maryland, Mississippi, Tennessee, California, Pennsylvania; bốn trong số chúng, giống như West Virginia, là những cựu binh của trận Trân Châu Cảng. Từ 00 giờ 21 phút ngày 25 tháng 10, chiếc thiết giáp hạm bắt đầu nhận được báo cáo về cuộc tấn công của những chiếc tàu phóng lôi-tuần tra rồi sau đó của các tàu khu trục. Cuối cùng lúc 03 giờ 16 phút, radar West Virginia bắt được tín hiệu từ lực lượng của Nishimura ở khoảng cách 38 km (42.000 yard) và có được phương án tác xạ ở khoảng cách 27 km (30.000 yard). Nó tiếp tục theo dõi khi đối phương tiến đến gần trong bóng đêm tối đen như mực.

Lúc 03 giờ 52 phút, West Virginia khai hỏa tám khẩu pháo chính 406 mm (16 inch) ở khoảng cách 21 km (22.800 yard), tấn công chiếc thiết giáp hạm Nhật dẫn đầu với loạt pháo đầu tiên. Trong số sáu loạt pháo đầu tiên do nó bắn ra, năm loạt đã trúng mục tiêu; và tổng cộng nó đã bắn 16 loạt nhắm vào các tàu chiến của Nishimura khi lực lượng của Oldendorf cắt ngang chữ T hạm đội Nhật, đạt được ưu thế chiến thuật trong một tình huống mà hầu như mọi đô đốc hạm tàu nổi đều mơ ước. Đến 04 giờ 13 phút, "Wee Vee" ngừng bắn; phần còn lại của hạm đội Nhật Bản tháo chạy hổn loạn khỏi eo biển nơi chúng đã tiến vào, trong khi nhiều tàu chiến bị bắn cháy soi sáng cả vùng biển. West Virginia đã góp công vào việc kết liễu chiếc Yamashiro, trả thù được những hư hại mà nó phải gánh chịu trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng.

West Virginia đã tham gia trận hải chiến lớn cuối cùng giữa các tàu chiến tuyến trong lịch sử, và đến ngày 29 tháng 10 rời Philippines quay về Ulithi cùng với Tennessee và Maryland. Sau đó nó hướng đến Espiritu Santo trong quần đảo New Hebrides; và sau khi Đô đốc Ruddock chuyển cờ hiệu của mình từ West Virginia sang Maryland, nó trải qua một giai đoạn bảo trì trong ụ nổi di động Artisan (AFDB-1) để sửa chữa các chân vịt bị hư hại.

[sửa] Chiến dịch Philippines

"Wee Vee" quay trở lại Philippine ngang qua Manus vào ngày 26 tháng 11, tiếp tục nhiệm vụ tuần tra trong vịnh Leyte và hoạt động trong thành phần yểm trợ phòng không cho lực lượng tàu vận tải và đổ bộ. Lúc 11 giờ 39 phút ngày 27 tháng 11, súng cao xạ của West Virginia đã bắn rơi một máy bay kamikaze và hỗ trợ trong việc bắn hạ nhiều chiếc khác trong phiên hoạt động ngày hôm sau.

Sau khi Đô đốc Ruddock chuyển cờ hiệu của mình trở lại tàu vào ngày 30 tháng 11, West Virginia tiếp tục các hoạt động ngoài khơi Leyte cho đến ngày 2 tháng 12, khi chiếc thiết giáp hạm khởi hành hướng về quần đảo Palau. Tại đây, nó trở thành soái hạm của Đội đặc nhiệm 77.12 mới được thành lập và hướng đến biển Sulu hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của lực lượng Tây Nam Thái Bình Dương lên đảo Mindoro. Đi đến vịnh Leyte chiều tối ngày 12 tháng 12, West Virginia đi qua eo biển Surigao vào ngày 13 tháng 12 và hướng đến biển Sulu cùng với một lực lượng tàu sân bay để hỗ trợ cho cuộc di chuyển của Đội đặc nhiệm 78.3.

Sau đó nó hộ tống cho các tàu vận tải rút lui vào ngày 16 tháng 12, được tiếp nhiên liệu tại vịnh Leyte trước khi quay về Kossol Roads, Palau vào ngày 19 tháng 12. Tại đây West Virginia được nghỉ lễ Giáng Sinh 1944. Tuy nhiên, nhiều nhiệm vụ đang chờ đợi trước mắt, và chiếc thiết giáp hạm, khi nó lại tiếp tục lên đường hướng về Philippine. Vào ngày đầu năm mới 1945, Chuẩn Đô đốc Ingram C. Sowell thay thế Chuẩn Đô đốc Ruddock giữ chức Tư lệnh Hải đội Thiết giáp hạm 4, khi còn tàu tiến hướng đến vịnh Leyte trong thành phần của Đội đặc nhiệm 77.2.

Đến nơi vào rạng sáng sớm ngày 3 tháng 1 năm 1945, West Virginia tiếp tục tiến đến biển Sulu. Sự kháng cự của quân Nhật, vốn bắt đầu khẩn trương từ lúc mở màn chiến dịch Philippine, ngày càng trở nên nguy hiểm. Người trên chiếc West Virginia tận mắt chứng kiến một máy bay Yokosuka P1Y "Frances" hai động cơ đâm bổ tự sát vào chiếc tàu sân bay hộ tống Ommaney Bay lúc 17 giờ 12 ngày 4 tháng 1. Các đám cháy và các vụ nổ nghiêm trọng cuối cùng đã buộc phải bỏ chiếc "tàu sân bay jeep", những người sống sót được các tàu hộ tống gần đó cứu thoát. Tàu khu trục Burns (DD-588) đánh chìm chiếc tàu bị bỏ lại đang bừng cháy bằng ngư lôi.

Nhận lên tàu những người còn sống sót trên chiếc Ommaney Bay từ chiếc tàu khu trục Twiggs, West Virginia tiến vào biển Nam Trung Quốc sáng ngày hôm sau 5 tháng 1 năm 1945, bảo vệ các tàu sân bay khỏi các cuộc không kích của quân Nhật trong ngày hôm đó. Sau đó, chiếc thiết giáp hạm tách khỏi các tàu sân bay tiến sát gần bờ để tiến hành bắn phá San Fernando Point. West Virginia đã phá hủy các căn cứ Nhật Bản trên bờ bằng các khẩu pháo 406 mm (16 inch).

Tuy nhiên, các cuộc tấn công cảm tử Kamikaze ngày càng gia tăng cho dù phải đối mặt với hỏa lực cao xạ dày đặc và các máy bay tiêm kích tuần tra chiến đấu trên không. Thiệt hại gây ra cho các tàu chiến Đồng Minh tiếp tục tăng cao, khi chúng gây hư hại cho chiếc HMSA Australia và các thiết giáp hạm California và New Mexico trong ngày 5 tháng 1. West Virginia tham gia vào việc xây dựng một hàng rào hỏa lực phòng không trong các cuộc tấn công này, đã trải qua chiến đấu mà không bị thiệt hại.

West Virginia, vốn còn đang chuyên chở thủy thủ đoàn chiếc Ommaney Bay, lại tiếp tục nhận lên bờ một nhóm người sống sót khác: thủy thủ đoàn chiếc tàu quét mìn cao tốc Hovey, đã bị ngư lôi Nhật đánh chìm vào ngày 6 tháng 1. Trước khi nó có thể chuyển người của chiếc tàu sân bay hộ tống và tàu quét mìn đến một nơi nào khác, trước tiên chiếc thiết giáp hạm còn phải thi hành những nhiệm vụ được trao phó cho nó. Vì thế, các khẩu pháo 406 mm (16 inch) của West Virginia lại phá hủy các vị trí Nhật Bản trên bờ ở San Fabian vào các ngày 8 và 9 tháng 1, khi lực lượng đổ bộ lên bờ vào ngày hôm sau. Mãi đến tận buổi tối ngày 9 tháng 1, chiếc thiết giáp hạm mới có dịp chuyển những hành khách "bất đắc dĩ" lên bờ.

Sau khi hỗ trợ bắn pháo theo yêu cầu suốt ngày 10 tháng 1, West Virginia tuần tra ngoài khơi vịnh Lingayen trong một tuần lễ tiếp theo sau trước khi đi đến một địa điểm buông neo nơi nó được tiếp tế đạn dược. Trong đợt hoạt động bắn phá ngoài khơi San Fabian, West Virginia chứng tỏ được sự hữu ích của nó khi hỗ trợ các hoạt động công binh, tiêu diệt các vị trí súng cối, pháo và công sự đối phương cũng như san bằng thị trấn San Fabian. Thêm vào đó, "Wee Vee" còn phá hủy các kho đạn, đường sắt và các ga đầu mối, các vị trí súng máy và nhà kho. Trong thời gian này, nó đã sử dụng 395 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) và trên 2.800 quả đạn 127 mm (5 inch). Lại lên đường lúc 07 giờ 07 phút ngày 21 tháng 1, West Virginia thực hiện nhiệm vụ bắn pháo theo yêu cầu lúc 08 giờ 15 phút, sẵn sàng hoạt động phối hợp với các đơn vị Lục quân trên bờ tại khu vực lân cận các thị trấn Rosario và Santo Tomas. Sau khi trải qua vài ngày hỗ trợ bắn pháo theo yêu cầu, West Virginia trở lại thả neo tại vịnh Lingayen ngày 1 tháng 2.

Sau đó, trong thành phần của Đội đặc nhiệm 77.2, West Virginia bảo vệ cho các tàu bè đi đến các bãi đổ bộ tại Lingayen và sẵn sàng đáp ứng bắn pháo theo yêu cầu của bộ binh khi cần thiết. Sau khi hoàn tất nhiệm vụ, nó rời vịnh Lingayen vào ngày 10 tháng 2 hướng đến vịnh Leyte. Trước khi khởi hành, nó nhận được 79 bao thư từ gửi từ Hoa Kỳ, lần đầu tiên nó nhận thư kể từ lễ Giáng Sinh.

Sau khi ghé qua vịnh San Pedro, Leyte, West Virginia đi đến Ulithi vào ngày 16 tháng 2 và được bố trí hoạt động cùng Đệ Ngũ hạm đội. Được lệnh chuẩn bị cấp tốc cho một nhiệm vụ tiếp theo, chiếc thiết giáp hạm được tiếp nhiên liệu cùng hàng tiếp liệu với mức độ ưu tiên cao nhất. Chiếc tàu hoàn tất việc chất lên tàu khoảng 300 tấn tiếp liệu lúc 04 giờ 00 phút ngày 17 tháng 2; rồi đến 07 giờ 30 phút, West Virginia lên đường hướng đến Iwo Jima cùng với các tàu khu trục Izard và McCall để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 51.

[sửa] Trận Iwo Jima

West Virginia nhìn thấy Iwo Jima từ khoảng cách 82 dặm (132 km) lúc 09 giờ 07 phút ngày 19 tháng 2. Khi đến gần, nó nhìn thấy nhiều tàu chiến khác đang bắn phá hòn đảo từ mọi phía và cuộc đổ bộ đầu tiên lên hòn đảo đang diễn ra. Đến 11 giờ 25 phút, chiếc thiết giáp hạm nhận các mệnh lệnh tác chiến, và 20 phút sau, tiến đến vị trí hỗ trợ hỏa lực đối diện các bãi biển. Lúc 12 giờ 45 phút, các khẩu pháo hạng nặng của nó bắt đầu hỗ trợ lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ, nhắm vào các vị trí pháo, công sự, xe cộ, hầm trú ẩn và kho tiếp liệu. Sáng ngày 21 tháng 2, chiếc tàu chiến quay trở lại vị trí trực chiến, và từ 08 giờ 00, tiếp tục vai trò hỗ trợ hỏa lực.

Các quả đạn pháo hạng nặng 406 mm (16 inch) của nó tiếp tục bắn phá các hang động trú ẩn, phá hủy các vị trí đặt súng phòng không cùng các lô cốt; Một loạt đạn pháo đã bắn trúng một kho hoặc hầm đạn và nó phát nổ trong suốt hai giờ sau đó. Ngày 22 tháng 2, một quả đạn pháo cỡ nhỏ bắn trúng tàu gần tháp pháo số 2 khiến một thủy thủ bị thương. Cùng ngày hôm đó, một sự kiện đáng kể khác diễn ra trên bờ khi lực lượng Thủy quân Lục chiến chiếm được núi Suribachi, điểm cao nổi bật tại một đầu của hòn đảo núi lửa này. Từ trên tàu ở vị trí gần bờ, thủy thủ đoàn trên chiếc West Virginia có thể trông thấy được lá cờ cắm trên đỉnh cao này.

Trong suốt thời gian còn lại của tháng 2, West Virginia tiếp tục nhiệm vụ hằng ngày hỗ trợ hỏa lực cho lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ. Một lần nữa, các vị trí Nhật Bản trên bờ phải chịu đựng hỏa lực của những quả đạn pháo hạng nặng 406 mm (16 inch) của chiếc thiết giáp hạm. Nó bắn trúng các vị trí tập trung lực lượng, doanh trại và các chiến hào. Trong khi đang trực chiến ngoài khơi bãi biển vào ngày 27 tháng 2, chiếc thiết giáp hạm phát hiện một khẩu đội pháo của quân Nhật trên bờ đang nhắm vào chiếc tàu khu trục Bryant. West Virginia tiến đến gần, và ở khoảng cách 550 m (600 yard), khác khẩu pháo hạng hai 127 mm (5 inch) của nó đã khiến pháo đối phương im tiếng.

Được tiếp đạn vào sáng sớm ngày 28 tháng 2, West Virginia quay trở lại vị trí trực chiến trưa hôm đó, bắn pháo quấy phá đối phương và can thiệp, cũng như vô hiệu hóa các khẩu đội pháo inh bằng dàn pháo hạng hai. Trong ba ngày đầu của tháng 3, West Virginia tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực của nó, chủ yếu tập trung vào các cứ điểm của quân Nhật tại bờ biển Đông Bắc Iwo Jima. Cuối cùng, vào ngày 4 tháng 3, chiếc thiết giáp hạm lên đường hướng về quân đảo Caroline, đi đến Ulithi vào ngày 6 tháng 3.

[sửa] Trận Okinawa

Gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 64 để hoạt động trong chiến dịch Okinawa, West Virginia lên đường vào ngày 21 tháng 3, đi đến mục tiêu bốn ngày sau đó, 25 tháng 3. Trong giai đoạn đầu, West Virginia trãi qua các ngày sau đó vô hiệu sự kháng cự tại Okinawa chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên đảo này dự định thực hiện vào ngày 1 tháng 4. Lúc 10 giờ 29 phút ngày 26 tháng 3, trinh sát viên trên tàu báo cáo về ánh lửa đạn pháo xuất hiện trên bờ, được tiếp nối bởi những cột nước cách con tàu khoảng 5,5 km (6.000 yard) bên mạn trái. Khai hỏa những loạt đạn pháo đầu tiên trong chiến dịch này, West Virginia đã nã 28 quả đạn pháo 406 mm (16-inch) xuống các khẩu đội pháo Nhật Bản gây sự.

Ngày hôm sau, "Wee Vee" kháng cự lại các cuộc không kích của đối phương, khi một máy bay ném bom hai động cơ "Frances" trúng phải đạn phòng không và bốc cháy lúc 05 giờ 20 phút, đâm nhào xuống biển bên mạn trái tàu. Trong những ngày tiếp theo sau, sự kháng cự của đối phương thể hiện dưới dạng các cuộc tấn công tự sát của máy bay. Các quả thủy lôi Nhật Bản cũng chứng tỏ tác dụng hủy diệt của chúng, khi một quả đã đánh chìm chiếc tàu quét mìn Skylark cách mạn trái West Virginia 2,7 km (3.000 yard) lúc 09 giờ 30 phút ngày 28 tháng 3.

Sau khi được tiếp đạn tại Kerama Retto, hòn đảo được chiếm để xây dựng một căn cứ tiền phương nhằm hỗ trợ cho lực lượng tấn công, West Virginia lại lên đường hướng đến Okinawa bắn pháo hỗ trợ trực tiếp cho cuộc đổ bộ. Trên đường đi, lúc 04 giờ 55 phút, nó bị buộc phải chạy lui động cơ hết mức khi một chiếc tàu khu trục không nhận diện được đã chắn ngang trước mũi tàu hầu tránh một cú va chạm.

Dự định khai hỏa lúc 06 giờ 30 phút, chiếc thiết giáp hạm hướng đến vị trí trực chiến ngoài khơi các bãi biển Okinawa. Khi nó đang chuẩn bị thực hiện bắn pháo, West Virginia phát hiện một máy bay Nhật xuất hiện bên mạn trái con tàu. Các khẩu đội pháo phòng không đã ngắm theo mục tiêu và nổ súng, bắn rơi máy bay đối phương ở khoảng cách 180 m (200 yard). Sau đó có thêm bốn máy bay đối phương bay đến gần, và West Virginia bắn rơi được một trong số chúng.

Cuối cùng, lúc 06 giờ 30 phút, West Virginia khai hỏa vào các vị trí trên bờ trong khi các xuồng đổ bộ chuẩn bị hướng vào các bãi biển Okinawa. Đến 08 giờ 42 phút, trinh sát viên trên tàu báo cáo trông thấy các hoạt động tác chiến diễn ra trên bờ. Trận chiến giành Okinawa chính thức bắt đầu.

West Virginia tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực suốt ngày hôm đó, sẵn sàng phản pháo nhằm hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ đang tấn công nhanh trên đất liền. Có vẻ như ít có sự kháng cự đáng kể trong ngày 1 tháng 4, và chiếc thiết giáp hạm tiếp tục tuần tra gần bờ chờ đợi nhận chỉ thị mới. Tuy nhiên, lúc 19 giờ 03 phút, một máy bay đối phương đã phá vỡ sự bình yên đang có trên West Virginia.

Màn hình radar bắt được tín hiệu của ba máy bay đối phương và theo dõi chúng khi chúng đến gần. Màn hỏa lực phòng không dày đặc không ngăn được một trong số chúng tiếp cận bên mạn trái West Virginia và đâm bổ vào sàn cấu trúc thượng tầng ngay phía trước tháp pháo 127 mm (5 inch) số hai. Bốn người bị thiệt mạng trong vụ nổ, cùng bảy người khác bị thương tại một khẩu đội súng 20 mm gần đó. Quả bom mà chiếc máy bay mang theo rơi khỏi đế và xuyên qua sàn tàu đến hầm tàu thứ hai, nhưng may mắn là không phát nổ và bị vô hiệu hóa bởi sĩ quan vũ khí trên tàu. West Virginia báo cáo những hư hại của nó "có thể sửa chữa được", và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bắn pháo chiếu sáng ban đêm cho lực lượng đổ bộ trên bờ.

West Virginia mai táng những người chết trên biển trong khi vẫn đang tiếp diễn các đợt tấn công kamikaze trong ngày 1 tháng 4, và tiếp nối các nhiệm vụ bắn pháo hỗ trợ không lâu sau đó. Trong thời gian hoạt động gần bờ vào đầu tháng 4, hỏa lực phòng không của chiếc thiết giáp hạm đã bắn rơi một chiếc Aichi D3A "Val" vào ngày 6 tháng 4.

Vào đầu tháng 4, quân Nhật dự định tấn công vào hạm đội Mỹ bằng một lực lượng hạm tàu nổi được hình thành chung quanh chiếc siêu thiết giáp hạm Yamato. Trong đêm 7 rạng sáng ngày 8 tháng 4, West Virginia di chuyển trong vùng biển phía Tây Okinawa sẵn sàng đánh chặn và đối đầu cùng lực lượng Nhật Bản đang hướng về khu vực này. Sáng hôm sau, Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm 68 thông báo rằng hầu hết các tàu chiến đối phương trong lực lượng này đã bị đánh chìm kể cả chiếc Yamato, khi trong hành trình cuối cùng này nó chỉ được tiếp đủ nhiên liệu để đi đến Okinawa mà không đủ để quay về. Vì vậy, lực lượng tự sát lớn nhất của Hải quân Nhật đã bị tiêu diệt khi còn cách rất xa mục tiêu của nó.

Tuy nhiên, đối với West Virginia, nhiệm vụ của nó vẫn tiếp diễn, hỗ trợ bắn pháo sáng và phản pháo bằng cả dàn pháo chính lẫn pháo hạng hai; và là dịp cho các xạ thủ khẩu đội phòng không luôn luôn bận rộn không ngơi tay do sự xuất hiện dày đặc của những cuộc tấn công tự sát. Thiết giáp hạm Tennessee, tàu tuần dương Salt Lake City, các tàu khu trục Zellars và Stanly cùng các tàu chiến khác là những nạn nhân của những cơn "thần phong" này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro