Ham doi tuan duong ham Nhat trong WW2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đặt hàng: 1923

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Aoba

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Mitsubishi tại Nagasaki

Đặt lườn: 23 tháng 1 năm 1924

Hạ thủy: 25 tháng 9 năm 1926

Hoạt động: 20 tháng 9 năm 1927[1]

Bị mất: Bị đánh chìm ngày 28 tháng 7 năm 1945 tại Kure, Hiroshima; 34°14′N 132°30′E

Xóa đăng bạ: 20 tháng 11 năm 1945

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 8.300 tấn (tiêu chuẩn); 9.000 tấn (sau cùng)

Chiều dài: 185,17 m (607 ft 6 in)

Mạn thuyền: 15,83 m (51 ft 11 in) (ban đầu)

17,56 m (57 ft 7 in) (sau cùng)

Tầm nước: 5,71 m (18 ft 9 in) (ban đầu)

5,66 m (18 ft 7 in) (sau cùng)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước Brown Curtis

12 × nồi hơi Kampon

4 trục

công suất 102.000 mã lực (76 MW)

Tốc độ: 66,7 km/h (36 knot)

Tầm xa: 13.000 km ở tốc độ 26 km/h

(7.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 657

Vũ khí: Ban đầu:6 × pháo 200 mm (7,9 inch)/50 (3x2),

4 × pháo 120 mm (4,7 inch)/45 (4x1),

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch) (6x2)

Sau cùng: 6 × pháo 203 mm (8 inch)/50 (3x2),

4 × pháo 120 mm (4,7 inch)/45 (4x1),

8 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch) (2x4)

50 x súng phòng không 25 mm

Vỏ giáp: đai giáp: 76 mm (3 inch)

sàn tàu: 36 mm (1,5 inch)

Máy bay: 1 x thủy phi cơ (ban đầu)

2 x thủy phi cơ, 1 máy phóng (sau cùng)

Aoba (tiếng Nhật: 青葉) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo núi Aoba, một núi lửa tọa lạc tại Maizuru, Kyoto. Aoba đã hoạt động trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai và cuối cùng bị đánh chìm vào ngày 28 tháng 7 năm 1945 tại Kure, Hiroshima.

Thiết kế và chế tạo

Aoba cùng chiếc tàu chị em với nó Kinugasa ban đầu được vạch kế hoạch như những chiếc thứ ba và thứ tư trong lớp Furutaka. Tuy nhiên, những vấn đề về thiết kế đối với lớp Furutaka đã đưa đến một số cải biến bao gồm các tháp pháo đôi và một máy phóng máy bay. Những cải biến này lại làm tăng thêm trọng lượng của cấu trúc bên trên của một thiết kế đã khá nặng nề, gây ra những vấn đề về sự mất ổn định. Dù sao, Aoba đã đóng một vai trò quan trọng trong Thế Chiến II.

Lịch sử hoạt động

Giữa hai cuộc thế chiến

Aoba được hoàn tất tại xưởng tàu của Mitsubishi tại Nagasaki vào ngày 20 tháng 9 năm 1927 và được bố trí về Hải đội Tuần dương 5 cho đến năm 1933 rồi sau đó là Hải đội Tuần dương 6 và Hải đội Tuần dương 7, phục vụ như là soái hạm trong hầu hết thời gian đó. Nó thường được cho tách ra để tuần tra dọc theo bờ biển Trung Quốc trong những năm cuối Thập niên 1920 và những năm 1930.Aoba được hiện đại hóa một cách đáng kể tại Xưởng hải quân Sasebo trong những năm 1938 - 1940, được trang bị các ống phóng ngư lôi mới, hỏa lực phòng không được tăng cường, cải thiện hệ thống điều khiển hỏa lực và các thiết bị dành cho máy bay tốt hơn. Cầu tàu được thiết kế lại và các tấm thép được bổ sung vào thân tàu để bù trừ cho trọng lượng tăng thêm và cải thiện sự cân bằng. Khi được cho hoạt động trở lại vào tháng 10 năm 1940, Aoba được bố trí quay về Hải đội Tuần dương 6.

Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương

Vào cuối năm 1941, Aoba là soái hạm của Chuẩn Đô đốc Aritomo Goto, Tư lệnh Hải đội Tuần dương 6 bao gồm Aoba, Kinugasa, Furutaka và Kako; hải đội này nằm trong thành phần của Hạm Đội 1 dưới quyền chỉ huy chung của Phó Đô đốc Takasu Shiro. Vào thời gian diễn ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng, nó đang yểm trợ cho cuộc chiếm đóng đảo Guam.Sau khi đợt tấn công thứ nhất nhắm vào Wake thất bại, Hải đội Tuần dương 6 được bố trí vào một lực lượng tấn công thứ hai mạnh mẻ hơn, và sau khi Wake thất thủ, nó quay về căn cứ tiền phương đặt tại Truk thuộc quần đảo Caroline.Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1942, Kinugasa đặt căn cứ tại Truk nơi nó hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của quân Nhật lên quần đảo Solomon và New Guinea tại Rabaul, Kavieng, Buka, Shortland, Kieta, đảo Manus, quần đảo Admiralty và Tulagi.

Trận chiến biển Coral

Trong Trận chiến biển Coral, Hải đội Tuần dương 6 khởi hành rời Shortland đi đến một điểm hẹn gặp chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Shoho. Lúc 11 giờ 00 ngày 7 tháng 5 năm 1942, đang khi ở về phía Bắc đảo Tulagi, Shoho bị tấn công và bị đánh chìm bởi 93 máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless và máy bay ném bom-ngư lôi TBD Devastator từ các tàu sân bay USS Yorktown và USS Lexington. Ngày hôm sau, 8 tháng 5 năm 1942; 46 chiếc SBD, 21 chiếc TBD và 15 chiếc Grumman F4F Wildcat xuất phát từ Yorktown và Lexington đã tấn công và gây hư hại nặng cho chiếc Shokaku, buộc nó phải rút lui. Furutaka và Kinugasa vốn không bị hư hại trong trận đánh này, đã hộ tống Shokaku quay trở về Truk; Kako và Aoba tiếp tục yểm trợ việc rút lui của đoàn tàu vận tải dự định tấn công cảng Moresby.Sau khi được tiếp nhiên liệu tại Shortland ngày 9 tháng 5, Aoba quay trở về Kure vào ngày 22 tháng 5 năm 1942 để sửa chữa, rồi quay trở lại Truk vào ngày 23 tháng 6 năm 1942; rồi từ Truk đến vịnh Rekata, Santa Isabel, nơi nó được phân các nhiệm vụ tuần tra cho đến tháng 7. Trong cuộc cải tổ sâu rộng Hải quân Nhật sau thất bại của trận Midway, vào ngày 14 tháng 7 năm 1942, Aoba được phân về Hạm đội 8 vừa mới được thành lập dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Mikawa Gunichi và được bố trí tuần tra chung quanh khu vực quần đảo Solomon, New Britain và New Ireland.

Trận chiến đảo Savo

Ngày 7 tháng 8 năm 1942, một thủy phi cơ trinh sát Aichi E13A1 "Jake" xuất phát từ Aoba đã trông thấy một lực lượng đối phương bao gồm "một thiết giáp hạm, một tàu sân bay phối thuộc, bốn tàu tuần dương, bảy tàu khu trục và 15 tàu vận tải" ngoài khơi Lunga Point gần Tulagi.Trong Trận chiến đảo Savo vào ngày 9 tháng 8 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 (bao gồm Aoba, Furutaka, Kako và Kinugasa), Chokai, các tàu tuần dương hạng nhẹ Tenryu và Yūbari và tàu khu trục Yūnagi đã đối đầu cùng lực lượng hạm đội Đồng Minh trong một trận đánh đêm bằng hải pháo và ngư lôi. Vào khoảng 23 giờ 00, Chokai, Furutaka và Kako đã tung các thủy phi cơ trinh sát của mình ra. Những chiếc máy bay này lượn vòng bên trên hạm đội Đồng Minh và thả các quả pháo sáng chiếu rõ các mục tiêu, và tất cả các tàu chiến Nhật đã khai hỏa. Các tàu tuần dương USS Astoria, USS Quincy, USS Vincennes và HMAS Canberra đã bị đánh chìm, trong khi USS Chicago cùng các tàu khu trục USS Ralph Talbot và USS Patterson bị hư hại. Bên phía Nhật Bản, Chokai bị bắn trúng ba phát, Kinugasa trúng hai phát, Aoba một phát và Furutaka hoàn toàn vô hại. Khi Hải đội Tuần dương 6 rút lui về phía Kavieng, Kako bị tàu ngầm Mỹ S-44 đánh chìm, nhưng Aoba thoát được mà không phải chịu thêm thiệt hại nào. vào ngày 10 tháng 8 năm 1942.Cho đến hết tháng 8 và tháng 9, Hải đội Tuần dương 6 được lệnh hỗ trợ từ xa cho các đoàn tàu vận tải "Tốc hành Tokyo" đến tăng cường bổ sung cho Guadalcanal.

Trận chiến mũi Esperance

Trong Trận chiến mũi Esperance diễn ra vào ngày 11 tháng 10 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 (bao gồm Aoba, Furutaka và Kinugasa) cùng các tàu khu trục Fubuki và Hatsuyuki rời Shortland để yểm trợ cho một đoàn tàu vận tải chở quân tăng cường cho Guadalcanal bằng cách bắn phá sân bay Henderson trên đảo này. Hai máy bay trinh sát Mỹ OS2U Kingfisher đã phát hiện ra hạm đội đang di chuyển dọc theo eo biển với vận tốc 56 km/h (30 knot).Được báo động kịp thời, các tàu tuần dương Mỹ được trang bị radar USS San Francisco, Boise, Salt Lake City và Helena cùng năm tàu khu trục đã di chuyển vòng qua mũi cực Nam đảo Guadalcanal để phong tỏa lối vào eo biển Savo.Lúc 22 giờ 35 phút, radar của chiếc Helena phát hiện ra hạm đội Nhật, và lực lượng Mỹ đã thành công trong việc Cắt ngang chữ T hạm đội Nhật. Cả hai bên đều nổ súng, nhưng do Đô đốc Goto nghĩ rằng mình đang bị bắn nhầm từ các tàu bạn, đã ra lệnh cho toàn hải đội quay mũi 180 độ khiến toàn bộ lực lượng của ông bị phơi sườn ra trước hỏa lực các tàu chiến Mỹ. Furutaka bị đánh chìm. Aoba bị bắn trúng khoảng 40 phát đạn pháo 152 mm (6 inch) và 203 mm (8 inch). Cầu tàu bị phá hỏng, tháp súng số 2 bị vô hiệu và tháp súng số 3 bị phá hủy. Các phát bắn trúng khác đã khiến cho bốn trong số các nồi hơi của Aoba không hoạt động. Đô đốc Goto bị tử thương và 80 thành viên thủy thủ đoàn khác thiệt mạng. Sau khi được sửa chữa tạm thời tại Shortland, Aoba cố gắng quay trở về Truk vào ngày 15 tháng 10, nơi Đô đốc Isoroku Yamamoto trực tiếp thị sát các hư hỏng và ra lệnh cho con tàu quay trở về Nhật Bản.

Các hoạt động sau cùng

Aoba quay trở về Kure vào ngày 22 tháng 10. Trong quá trình sửa chữa, tháp pháo Số 3 hư hại được che lại bởi các tấm thép, và một khẩu đội súng phòng không 25 mm Kiểu 96 ba nòng được bố trí vào đó. Aoba quay trở lại Truk vào ngày 24 tháng 2 năm 1943.Vào ngày 3 tháng 4, trong khi đang neo đậu tại Kavieng, New Ireland, Aoba bị các máy bay ném bom Boeing B-17 Flying Fortress Liên đội Ném bom 43 thuộc Không lực 5 tấn công. Một quả bom ném trúng đã khiến hai quả ngư lôi Kiểu 93 Long Lance phát nổ gây ra một đám cháy trong khi những chiếc B-17 tiếp tục càn quét bắn phá sàn tàu. Aoba bị buộc phải tự mắc cạn để tránh bị chìm.Sau khi được kéo trở về Truk, và quay về Kure một lần nữa vào ngày 1 tháng 8, Aoba được sửa chữa và tái trang bị. Tháp pháo 203 mm (8 inch) được phục hồi tại vị trí số 3, và nó được trang bị thêm radar dò tìm trên không Kiểu 21 cùng hai khẩu đội phòng không Kiểu 96 nòng đôi 25 mm. Tuy nhiên, tốc độ tối đa của Aoba bị giảm xuống chỉ còn 46 km/h (25 knot) do những hư hỏng của động cơ không thể sửa chữa được.Aoba được tái bố trí về Hạm đội Viễn chinh Phương Nam 1 và đi đến Singapore vào ngày 24 tháng 12 năm 1943. Nó đặt căn cứ tại Singapore cho đến cuối tháng 2 năm 1944, hộ tống các đoàn tàu vận tải tiếp tế đi đến Miến Điện, quần đảo Andaman và dọc theo bờ biển Malaya. Vào ngày 25 tháng 2, nó được phân về Hải đội Tuần dương 16 và tham gia trận đột kích Ấn Độ Dương vào tháng 3 năm 1944. Từ tháng 4 đến tháng 6, Aoba tiếp tục nhiệm vụ hộ tống tại khu vực Đông Ấn thuộc Hà Lan và New Guinea. Trong một đợt tân trang tại Singapore vào tháng 7, Aoba được bổ sung bốn khẩu đội phòng không bốn nòng và 15 khẩu nòng đơn 25 mm Kiểu 96 cùng radar dò tìm mặt biển Kiểu 22.Ngày 11 tháng 10, Aoba bị tai nạn va chạm cùng chiếc tàu tuần dương Kinu nhưng chỉ bị hư hại nhẹ. Tuy nhiên, vào ngày 23 tháng 10 năm 1944, Aoba bị tàu ngầm Mỹ USS Bream tấn công, và một trong số sáu quả ngư lôi bắn ra đã đánh trúng Aoba tại phòng máy số 2. Aoba xoay sở quay về được Xưởng hải quân Cavite gần Manila, nhưng trong khi công việc sửa chữa khẩn cấp còn đang được tiến hành, vào ngày 29 tháng 10 nó lại bị máy bay từ các tàu sân bay của Lực lượng Đặc nhiệm 38 ném bom. Đang khi công việc sửa chữa còn chưa hoàn tất, Aoba lại được bố trí vào một đoàn tàu vận tải quay trở về Nhật Bản. Đoàn tàu này bị tấn công vào ngày 6 tháng 11 ngoài khơi Luzon bởi các tàu ngầm Mỹ USS Guitarro, Bream, Raton và Ray. Các tàu ngầm đã bắn tổng cộng 23 quả ngư lôi, hai trong số đó trúng phải tàu tuần dương Kumano, nhưng Aoba đã may mắn thoát được mà không chịu thêm thiệt hại nào. Khi về đến Kure vào ngày 12 tháng 12, Aoba được khảo sát và được đánh giá là không thể sửa chữa được và được xếp loại làm tàu dự bị.Trong một cuộc không kích của Mỹ vào cảng Kure ngày 24 tháng 4 năm 1945, Aoba chịu đựng thêm những thiệt hại bởi bom và mắc cạn xuống đáy cảng. Thay vì sửa chữa con tàu hư hỏng, nó được tăng cường thêm bốn súng phòng không nòng đôi 25 mm chung quanh cột buồm chính, nâng tổng số nòng súng 25 mm lên 50 (5x3, 10x2, 15x1); và Aoba được xếp lại làm một pháo đài phòng không nổi. Vào ngày 24 tháng 7 năm 1945, khoảng 30 máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm 38 tấn công Kure và ném bom Aoba một lần nữa. Đến 22 giờ 00, Aoba chìm xuống đáy cảng ở độ sâu 8 m (25 ft) ở tọa độ 34°14′N 132°30′E. Đến ngày 28 tháng 7 năm 1945, thân tàu lại là mục tiêu cho mười máy bay ném bom của Lực lượng Đặc nhiệm 38. Bốn quả bom đánh trúng nó sinh ra một đám cháy, và đám cháy lại thu hút các máy bay ném bom B-24 Liberator của Không lực 7 đến đánh trúng thêm bốn quả bom 250 kg (500 lb), làm đuôi tàu bị vỡ ra.Aoba được chính thức xóa khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 20 tháng 11 năm 1945. Xác tàu đắm của nó được tháo dỡ trong những năm 1946 - 1947.

Đặt hàng: 1923

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Myōkō

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Kawasaki, Kobe

Đặt lườn: 11 tháng 4 năm 1924

Hạ thủy: 22 tháng 4 năm 1928

Hoạt động: 20 tháng 8 năm 1929

Bị mất: Bị đánh chìm ngoài khơi Đông Ấn thuộc Hà Lan ngày 8 tháng 6 năm 1945

Xóa đăng bạ:

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 13.300 tấn

Chiều dài: 203,76 m (668 ft 6 in)

Mạn thuyền: 19 m (62 ft 4 in)

Tầm nước: 5,03 m (16 ft 6 in)

Lực đẩy: turbine hơi nước

12 × nồi hơi

4 × trục

công suất 130.000 mã lực (97 MW)

Tốc độ: 65,7 km/h (35,5 knot)

Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h

(8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 920-970

Vũ khí: 10 × pháo 203 mm (8 inch) (5×2)

6 × pháo 120 mm (4,7 inch) (8 × từ năm 1935)

2 × súng máy 13 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)[1]

Vỏ giáp: đai giáp: 100 mm (4 inch)

sàn tàu: 37 mm (1,5 inch)

tháp pháo: 25 mm (1 inch)

tháp súng: 75 mm (3 inch)

Máy bay: 1

Ashigara (tiếng Nhật: 足柄) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp Myōkō bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong lớp này là Myōkō, Nachi và Haguro. Tên của nó được đặt theo một ngọn núi giáp ranh giữa hai tỉnh Kanagawa và Shizuoka, vốn còn được gọi là núi Kintoki. Ashigara đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và bị tàu ngầm Anh Quốc đánh chìm tại vùng biển ngoài khơi Đông Ấn thuộc Hà Lan ngày 8 tháng 6 năm 1945.

Thiết kế và chế tạo

Những con tàu trong lớp này có trọng lượng rẽ nước 13.300 tấn, dài 204 m và có thể di chuyển với tốc độ tối đa đến 36 knot (67 km/h). Chúng được trang bị dàn pháo chính bao gồm mười khẩu 203mm (8 inch), hỏa lực mạnh nhất vào thời đó đối với mọi tàu tuần dương trên thế giới. Đặc điểm khác biệt của Ashigara so với những chiếc còn lại trong lớp là nó chỉ mang theo một thủy phi cơ duy nhất thay vì hai.Ashigara được đặt lườn tại Xưởng đóng tàu Kawasaki tại Kobe vào ngày 11 tháng 4 năm 1924, được hạ thủy vào ngày 22 tháng 4 năm 1928, và được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào ngày 20 tháng 8 năm 1929.

Lịch sử hoạt động

Khởi đầu Thế Chiến II, Ashigara tham gia cuộc Chiếm đóng the Philippines trong tháng 12 năm 1941. Sau đó, trong Trận chiến biển Java vào ngày 1 tháng 3 năm 1942, nó đã góp phần vào việc đánh chìm tàu tuần dương Anh HMS Exeter và tàu khu trục HMS Encounter.Từ năm 1942 đến năm 1944 Ashigara được phân công các vai trò tuần tra và vận chuyển binh lính nên không có hoạt động tác chiến nào được ghi nhận.Trong Trận chiến vịnh Leyte vào ngày 24 tháng 10 năm 1944, Ashigara dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Đại tá Hải quân Hayao Miura được phân về lực lượng của Phó Đô đốc Kiyohide Shima cùng với Nachi và tám tàu khu trục. Lực lượng này tiến vào eo biển Surigao vào ngày 25 tháng 10 sau khi lực lượng của Đô đốc Shoji Nishimura đã bị tiêu diệt. Ashigara và Nachi đã phóng các quả ngư lôi của chúng vào đối phương rồi rút lui. Trên đường rút lui Nachi bị hư hại do va chạm với chiếc tàu tuần dương Mogami.Vào tháng 12 năm 1944, Ashigara tham gia vào cuộc tấn công lực lượng Mỹ đang đổ bộ lên đảo Mindoro thuộc Philippines. Vào ngày 26 tháng 12, nó chịu đựng một đợt không kích và bị hư hại bởi một quả bom 227 kg (500 lb), nhưng vẫn có thể bắn phá vào bãi đổ bộ của quân Mỹ trong ngày 27 tháng 12.Vào ngày 8 tháng 6 năm 1945, Ashigara rời Batavia đi đến Singapore với 1.600 binh sĩ trên tàu và được hộ tống bởi tàu khu trục Kamikaze. Tại eo biển Bangka, chúng bị các tàu ngầm Đồng Minh USS Blueback, HMS Trenchant và HMS Stygian chặn đánh. Kamikaze tấn công Trenchant bằng hải pháo, buộc nó phải lặn xuống, rồi tiếp tục tấn công bằng mìn sâu, nhưng thuyền trưởng là Trung tá Hải quân Arthur Hezlet phát hiện ra Ashigara và bắn một loạt tám quả ngư lôi vào chiếc tàu tuần dương lúc khoảng 12 giờ 15 phút. Ashigara trúng phải năm quả ở khoảng cách 3.600 m (4.000 yard), [2] rồi bị lật úp lúc 12 giờ 37 phút. Kamikaze cứu được 400 binh sĩ và 853 thành viên thủy thủ đoàn, trong đó có Thuyền trưởng Chuẩn Đô đốc Hayao Miura.

Đặt hàng: 1927

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Takao

Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Yokosuka

Đặt lườn: 28 tháng 4 năm 1927

Hạ thủy: 16 tháng 6 năm 1930

Hoạt động: 30 tháng 3 năm 1932

Bị mất: Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm ngày 23 tháng 10 năm 1944 trong Trận chiến eo biển Palawan

Xóa đăng bạ:

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 9.850 tấn (tiêu chuẩn); 14.616 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 203,8 m (668 ft 6 in)

Mạn thuyền: 18,0 - 20,7 m (59 - 68 ft)

Tầm nước: 6,1 - 6,3 m (20 ft - 20 ft 8 in)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước

12 × nồi hơi Kampon

4 × trục

công suất 133.100 mã lực (99,3 MW)

Tốc độ: 65,7 km/h (35,5 knot)

Tầm xa: 15.700 km ở tốc độ 26 km/h

(8.500 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 773

Vũ khí: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 caliber (5x2)

4 × pháo 120 mm (4,7 inch) góc cao (4x1)

2 × pháo phòng không 40 mm (2x1)

60 × súng phòng không 25 mm

4 × súng máy 13,2 mm

4 × ống phóng ngư lôi 609 mm (24 inch)

mìn sâu

Vỏ giáp: đai giáp 37 đến 127 mm (1,5 - 5 inch)

sàn tàu 40 mm (1,5 inch)

vách ngăn 75 - 100 mm (3 - 4 inch)

tháp súng 25 mm (1 inch)

Máy bay: 3 thủy phi cơ (1 × Aichi E13A1 "Jake", 2 × F1M2 "Pete")

2 × máy phóng

Atago (tiếng Nhật: 愛宕) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp Takao bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp Myōkō trước đó. Atago đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị đánh chìm ngày 23 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến eo biển Palawan trong khuôn khổ Trận chiến vịnh Leyte.

Thiết kế và chế tạo

Những tàu chiến thuộc lớp Myōkō được xem là không ổn định và nhiều kinh nghiệm rút ra đã được áp dụng cải tiến cho lớp Takao. Chúng là những tàu chiến nhanh và mạnh mẻ, trang bị mười khẩu pháo 203 mm (8 inch) và bốn khẩu pháo 120 mm (4,7 inch), tám ống phóng ngư lôi và nhiều vũ khí phòng không hổn hợp, một hỏa lực đủ mạnh để đối đầu với bất kỳ tàu tuần dương của mọi lực lượng hải quân trên thế giới.Những chiếc trong lớp Takao được chấp thuận trong năm tài chính 1927 như một phần trong chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản về một trận chiến quyết định. Chúng tạo nên xương sống cho lực lượng tấn công chiến đấu tầm xa. Atago được chế tạo tại Xưởng hải quân Kure gần Hiroshima, và giống như những con tàu chị em với nó, tên nó được đặt theo tên một ngọn núi: Núi Atago tọa lạc tại ngoại ô Kyoto. Atago được đặt lườn vào ngày 28 tháng 4 năm 1927, được hạ thủy vào ngày 16 tháng 6 năm 1930 và được đưa vào hoạt động ngày 30 tháng 3 năm 1932.

Lịch sử hoạt động

Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương

Lúc khởi đầu Chiến tranh Thái Bình Dương, Atago là soái hạm của Hải đội Tuần dương 4 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc (sau này là Đô đốc) Kondo Nobutake cùng với các con tàu chị em với nó Maya, Chokai và Takao, và được trao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Malaya và Philippines.Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1942, Atago đặt căn cứ tại Palau, và tham gia các chiến dịch nhằm chiếm đóng khu vực Đông Ấn thuộc Hà Lan vốn giàu nguồn dự trữ dầu mỏ tối cần thiết cho Nhật Bản. Nó tham gia nhiều hoạt động tác chiến, bao gồm Trận chiến biển Java. Sau khi đưa Phó Đô đốc Kondo đi một vòng thị sát các lãnh thổ mới chiếm được của Nhật, Atago quay về Yokosuka vào tháng 4 năm 1942 và tham gia cuộc truy đuổi không thành công Lực lượng Đặc nhiệm 16.2 vốn đã tung ra cuộc Không kích Doolittle xuống Tokyo.Sau khi được tái trang bị vào tháng 4 năm 1942, thay thế các khẩu pháo đa dụng nòng đơn 120 mm (4,7 inch) bằng kiểu 127 mm (5 inch) hai nòng, Atago khởi hành tham gia vào Trận Midway tai hại, nhưng nó quay trở về an toàn mà không bị thiệt hại.

Chiến dịch Guadalcanal

Ngày 7 tháng 8 năm 1942, Atago được bố trí về phía Nam đến Truk, nơi nó thực hiện nhiều hoạt động trong Chiến dịch Guadalcanal cho đến tận tháng 12. Atago đã tham gia Trận chiến Đông Solomons vào ngày 24 tháng 8 năm 1942, và vào ngày 25 tháng 8, máy bay từ tàu sân bay Mỹ Wasp đã bắn rơi hai thủy phi cơ Aichi E13A cất cánh từ Atago trong một phi vụ trinh sát, làm tất cả bốn thành viên đội bay đều thiệt mạng. Nó còn tham gia Trận chiến quần đảo Santa Cruz từ ngày 26 đến ngày 27 tháng 10 năm 1942.[1]Trong trận Hải chiến Guadalcanal ngày 15 tháng 11 năm 1942, trong cuộc đấu súng ban đêm cùng các thiết giáp hạm South Dakota và Washington, Atago và Takao đã bắn trúng South Dakota 17 phát đạn pháo 203 mm (8 inch), năm phát 152 mm (6 inch) và một phát 127 mm (5 inch). Thiết giáp hạm Kirishima cũng bắn trúng South Dakota một phát đạn 355 mm (14 inch) vào tháp súng Số 3 về phía đuôi. Tuy nhiên, South Dakota chỉ bị hư hại mà không chìm. Trước đó, Atago và Takao mỗi chiếc đã phóng tám ngư lôi Type 93 "Long Lance" nhắm vào Washington nhưng đều bị trượt. Atago bị hư hại nhẹ trong trận này, và phải quay về Kure để sửa chữa vào ngày 17 tháng 12 năm 1942.Đến tháng 1 năm 1943, Atago quay trở lại Truk tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ lực lượng Nhật Bản giữ vững quần đảo Solomon, và sau đó hỗ trợ việc triệt thoái khỏi Guadalcanal. Nó tiếp tục đặt căn cứ tại Truk cho đến tháng 7 năm 1943, khi nó quay về Yokosuka cho một đợt cải biến và tái trang bị, bổ sung thêm hai khẩu đội súng phòng không ba nòng 25 mm Kiểu 96.

1943-1944

Từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1943, Atago quay trở lại Truk tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ lực lượng Nhật Bản tại quần đảo Solomon. Nhằm đối phó lại cuộc đổ bộ của quân Đồng Minh lên đảo Bougainville vào ngày 1 tháng 11 năm 1943, Atago cùng nhiều tàu tuần dương khác được gửi đến Rabaul chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào lực lượng đổ bộ Đồng Minh. Vào ngày 5 tháng 11 năm 1943, trong khi được tiếp nhiên liệu ngoài khơi Rabaul, lực lượng đặc nhiệm của Atago bị tấn công bởi 97 máy bay từ các tàu sân bay Saratoga và Princeton. Atago chịu đựng ba quả bom 227 kg (500 lb) nổ sát cạnh con tàu khiến 22 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng, kể cả Thuyền trưởng Nakaoka khi ông bị trúng một mảnh bom lúc đang đứng trên cầu tàu. Vào ngày 15 tháng 11 năm 1943, Atago quay về Yokosuka để sửa chữa, đồng thời cũng được trang bị thêm các khẩu đội phòng không 25 mm và radar dò tìm mặt đất Kiểu 22.Vào tháng 1 năm 1944, Atago quay trở lại khu vực Truk. Vào ngày 10 tháng 2 năm 1944, lực lượng tàu tuần dương bị tàu ngầm Mỹ Permit tấn công vào ban đêm, nhưng tất cả bốn quả ngư lôi nhắm vào nó đều bị trượt. Sau đó Atago được bố trí vào hải đội Tuần dương 4 đặt căn cứ tại Palau thuộc Hạm đội Lưu động thứ nhất của Phó đô đốc Ozawa. Một lần nữa lực lượng tàu tuần dương lại là mục tiêu của cuộc tấn công bất thành từ tàu ngầm Mỹ USS Dace vào ngày 6 tháng 4 năm 1944.Vào ngày 13 tháng 6 năm 1944, Atago tham gia Trận chiến biển Philippine, mà kết quả là tổn thất to lớn cho không lực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản với ba t̀au sân bay bị đánh chìm và mất gần 400 máy bay; Tuy nhiên, Atago thoát được mà không bị thiệt hại. Đến ngày 22 tháng 6 năm 1944, Atago rút lui cùng với phần còn lại của hạm đội ngang qua Okinawa về Kure, nơi nó được tái trang bị lần cuối, bổ sung thêm bốn khẩu phòng không 25 mm ba nòng và 22 khẩu nòng đơn, lên tổng cộng 60 nòng, cùng radar dò tìm trên không Kiểu 13.

Trận chiến vịnh Leyte

Từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1944, Atago là soái hạm của Lực lượng Tấn công Lưu động thứ nhất của Đô đốc Kurita, thành phần mạnh nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản với bảy thiết giáp hạm, mười một tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và mười chín tàu khu trục đặt căn cứ tại Lingga gần Singapore. Vào ngày 22 tháng 10 năm 1944, trong trận chiến vịnh Leyte, Atago lên đường cùng với tất cả các con tàu chị em với nó Chōkai, Takao và Maya trong thành phần Hải đội Tuần dương 4. Vào ngày hôm sau 23 tháng 10 năm 1944, trong Trận chiến eo biển Palawan, Atago trúng phải bốn ngư lôi phóng đi từ tàu ngầm Darter, và bị bốc cháy. Lúc 05 giờ 53 phút, Atago lật úp và chìm ở độ sâu khoảng 1.800 m (6.000 ft) tại tọa độ 09°28′N 117°17′E.Trong số thành viên thủy thủ đoàn của Atago, có 360 người thiệt mạng, nhưng 529 người khác trong đó có Phó Đô đốc Kurita, Tham mưu trưởng Chuẩn Đô đốc (sau là Phó Đô đốc) Tomiji Koyanagi (nguyên thuyền trưởng thiết giáp hạm Kongō), và Thuyền trưởng chiếc Atago Chuẩn Đô đốc Araki được chiếc Kishinami vớt lên; và 171 người sống sót khác được chiếc Asashimo cứu. Số phận những con tàu chị em với Atago cũng không may mắn hơn trong trận đánh này: Maya bị tàu ngầm Dace đánh chìm; Takao buộc phải quay về Brunei sau khi trúng phải ngư lôi của tàu ngầm Darter (chiếc này sau đó phải tự hủy khi mắc cạn vào một bãi san hô ngầm); và hai ngày sau Chōkai bị mất trong Trận chiến ngoài khơi Samar.

Đặt hàng: 1932

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Tone

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Mitsubishi tại Nagasaki

Đặt lườn: 1 tháng 10 năm 1935

Hạ thủy: 19 tháng 3 năm 1938

Hoạt động: 20 tháng 5 năm 1939[1]

Bị mất: Bị đánh đắm ngày 25 tháng 10 năm 1944 sau Trận chiến ngoài khơi Samar ở tọa độ 11°25′N 126°36′E

Xóa đăng bạ: 20 tháng 4 năm 1945

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 11.213 tấn (tiêu chuẩn); 15.443 tấn (sau cùng)

Chiều dài: 189,1 m (620 ft 5 in)

Mạn thuyền: 19,4 m (63 ft 8 in)

Tầm nước: 6,2 m (20 ft 4 in)

Lực đẩy: 4 turbine hộp số Gihon

8 × nồi hơi

công suất 152.000 mã lực (113,4 MW)

Tốc độ: 65 km/h (35 knot)

Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 33,3 km/h

(8.000 hải lý ở tốc độ 18 knot)

Quân số: 874

Vũ khí: 8 × pháo 203 mm (8 inch) (4×2)

8 × pháo 127 mm (5 inch)

6 × súng phòng không 25 mm (3×2)

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (4×3)

Vỏ giáp: đai giáp 100 mm (4 inch)

sàn tàu 35 mm (1,4 inch)

Máy bay: 6 × thủy phi cơ

Chikuma (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp Tone vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt theo sông Chikuma tại tỉnh Nagano của Nhật Bản. Nó từng được sử dụng rộng rải trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị đánh đắm ngày 25 tháng 10 năm 1944 trong Trận chiến ngoài khơi Samar.

Thiết kế và chế tạo

Lớp tàu tuần dương Tone được chấp thuận cho chế tạo vào năm 1932. Chikuma được thiết kế cho các nhiệm vụ tuần tra trinh sát tầm xa và có thể mang theo một lượng thủy phi cơ lớn. Chikuma được đặt lườn vào ngày 1 tháng 10 năm 1935 tại xưởng đóng tàu của hãng Mitsubishi tại Nagasaki. Nó được hạ thủy vào ngày 19 tháng 3 năm 1938 và được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 5 năm 1939.

Lịch sử hoạt động

Sau nhiều tháng nằm trong thành phần Hải đội Tuần dương 6 của Đệ Nhị hạm đội, Chikuma được chuyển sang Hải đội Tuần dương 8 vào tháng 11 năm 1939. Ngoài việc tham gia các cuộc tập trận thường xuyên trong vùng biển nhà Nhật Bản, nó còn có ba lượt hoạt động tại khu vực biển Nam Trung Quốc từ tháng 3 năm 1940 đến tháng 3 năm 1941.

Trận Trân Châu Cảng

Vào cuối năm 1941, Chikuma cùng với con tàu chị em với nó Tone được phân về Hải đội Tuần dương 8, và đã hiện diện trong cuộc Tấn công Trân Châu Cảng. Sáng sớm ngày 7 tháng 12 năm 1941, Chikuma và Tone mỗi chiếc đã cho phóng lên một chiếc thủy phi cơ Aichi E13A1 "Jake" để trinh sát thời tiết bên trên đảo Oahu lần cuối cùng. Lúc 06 giờ 30, Chikuma và Tone mỗi chiếc lại tung ra một chiếc thủy phi cơ hai chỗ ngồi tầm ngắn Nakajima E8N "Dave" hoạt động như những tiêu điểm radar và tuần tra về phía Nam của Lực lượng tấn công. Thủy phi cơ của Chikuma đã báo cáo về sự hiện diện của chín chiếc thiết giáp hạm đang thả neo trong cảng (có thể đã nhầm lẫn chiếc tàu mục tiêu-huấn luyện Utah (AG-16) là một thiết giáp hạm). Trong cuộc tấn công diễn ra sau đó, các thiết giáp hạm Arizona, Oklahoma, West Virginia và California bị đánh chìm, trong khi Nevada, Pennsylvania, Tennessee, Maryland cùng nhiều tàu chiến nhỏ khác bị hư hại.Vào ngày 16 tháng 12, Hải đội Tuần dương 8 được lệnh hỗ trợ cho nỗ lực nhằm chiếm đảo Wake lần thứ hai. Hỏa lực phòng không đã làm hỏng một thủy phi cơ tuần tiễu của Chikuma, khiến nó bị buộc phải hạ cánh xuống biển, nhưng đội bay được giải cứu. Sau khi Wake thất thủ, Hải đội Tuần dương 8 quay trở về Kure, Hiroshima. Đến ngày 14 tháng 1 năm 1942, Hải đội Tuần dương 8 đặt căn cứ tại Truk thuộc quần đảo Caroline, và hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Rabaul thuộc New Britain cũng như các cuộc tấn công nhắm vào Lae và Salamaua thuộc New Guinea. Vào ngày 24 tháng 1 năm 1942, máy bay của Chikuma đã tấn công quần đảo Admiralty. Sau cuộc không kích do Phó Đô đốc William Halsey, Jr trên chiếc tàu sân bay Enterprise thực hiện nhắm vào Kwajalein diễn ra ngày 1 tháng 2, Chikuma rời Truk cùng Lực lượng tấn công tàu sân bay tiến hành truy đuổi bất thành. Sau đó Chikuma và Tone tham gia vào cuộc Ném bom cảng Darwin thuộc Australia vào ngày 19 tháng 2, tiêu diệt 15 máy bay và đánh chìm 11 tàu. Từ ngày 25 tháng 2 năm 1942, Chikuma tham gia vào việc hỗ trợ cho cuộc xâm chiến của quân Nhật tại Java.

Trận chiến biển Java

Vào ngày 1 tháng 3 năm 1942, thủy phi cơ của Chikuma đã phát hiện ra chiếc t̀au chở hàng Hà Lan tải trọng 8.806 tấn Modjokerto đang tìm cách thoát đi từ Tjilatjap về Australia. Chikuma cùng với Tone và các tàu khu trục Kasumi và Shiranuhi đã đánh chặn và đánh chìm chiếc tàu hàng này trước giữa trưa. Chiều hôm đó, Hải đội Tuần dương 8 đã phát hiện chiếc tàu khu trục cũ Edsall ở vị trí 250 dặm về phía Nam Đông Nam đảo Christmas. Chikuma đã bắn các quả đạn pháo 203 mm (8 inch) nhắm vào nó từ khoảng cách rất xa 11 dặm, nhưng tất cả đều bị bắn trượt. Sau đó Chikuma được sự phối hợp của các thiết giáp hạm Hiei và Kirishima, vốn cũng khai hỏa các khẩu pháo chính 355 mm (14 inch)của chúng. Tuy nhiên, Edsall không chỉ tìm cách né tránh được 297 quả đạn pháo 355 mm (14 inch) và 132 quả đạn 152 mm (6 inch) từ những chiếc thiết giáp hạm cùng với 844 quả đạn pháo 203 mm (8 inch) và 62 quả đạn 127 mm (5 inch) từ các tàu tuần dương, nhưng còn tiến lại gần và khai hỏa các khẩu pháo 102 mm (4 inch) nhắm vào chiếc Chikuma. Những phát bắn trúng xuất phát từ Hiei và Tone cũng như các máy bay ném bom bổ nhào cất cánh từ Sōryū và Akagi cuối cùng đã chặn được Edsall, và nó bị kết liễu bởi Chikuma.Ngày 4 tháng 3, Chikuma đánh chìm chiếc tàu buôn Hà Lan tải trọng 5.412 tấn Enggano (trước đó đã bị hư hại bởi một thủy phi cơ xuất phát từ Takao). Ngày 5 tháng 3, thủy phi cơ của Tone và Chikuma đã tham gia cuộc tấn công vào Tjilatjap. Sau khi Đông Ấn thuộc Hà Lan đầu hàng, Chikuma được giao nhiệm vụ tham gia các hoạt động tại Ấn Độ Dương.

Không kích Ấn Độ Dương

Ngày 5 tháng 4 năm 1942, Chikuma nằm trong thành phần một lực lượng đặc nhiệm lớn, đã tung ra 315 máy bay không kích vào Columbo, Ceylon. Kết quả là các tàu chiến Tenedos, Hector cùng 27 máy bay bị tiêu diệt và trên 500 người thiệt mạng ngay tại cảng, trong khi các tàu tuần dương Cornwall và Dorsetshire bị đánh chìm ngoài biển. Sau khi truy tìm những lực lượng còn lại của Hải quân Hoàng gia Anh, vào ngày 9 tháng 4, Lực lượng Đặc nhiệm Ấn Độ Dương đã tung ra 91 máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A1 "Val" và 41 máy bay tiêm kích Mitsubishi A6M2 "Zeke" tấn công căn cứ hải quân Anh tại Trincomalee, Ceylon. Chúng tìm thấy một hải cảng trống rỗng, nhưng cũng gây hư hại cho các cơ sở hậu cần của cảng và bắn rơi chín máy bay; rồi sau đó đánh chìm chiếc tàu sân bay Anh HMS Hermes, tàu chiến Australia HMAS Vampire và tàu hộ tống nhỏ HMS Hollyhock, một tàu chở dầu và một tàu tiếp liệu ngoài biển cách căn cứ 65 dặm.Chikuma cùng với lực lượng đặc nhiệm rút lui về Nhật bản vào giữa tháng 4 năm 1942, khi nó hầu như ngay lập tức được giao nhiệm vụ truy đuổi bất thành Lực lượng Đặc nhiệm 16.2 của Đô đốc Halsey bao gồm chiếc tàu sân bay Hornet sau vụ Đột kích Doolittle.

Trận Midway

Trong trận Midway, Tone cùng Hải đội Tuần dương 8 nằm trong thành phần Lực lượng Tấn công tàu sân bay của Phó Đô đốc Nagumo Chūichi. Vào ngày 4 tháng 6, Tone và Chikuma mỗi chiếc đã cho phóng lên hai thủy phi cơ Aichi E13A1 "Jake" để trinh sát trong một phạm vi rộng đến 300 dặm nhằm truy tìm các tàu sân bay Mỹ. Máy bay của Tone đã tìm thấy mục tiêu, nhưng do hệ thống báo cáo quan liêu nội bộ bên trong cấu trúc chỉ huy, bản báo cáo của nó đã không được chuyển giao ngay cho Đô đốc Nagumo. Kết quả là ông đã ra lệnh cho máy bay của mình chuẩn bị một đợt không kích khác xuống đảo Midway trước khi nhận được báo cáo, đưa đến kết quả bi thảm là bị đánh chìm tất cả bốn tàu sân bay hạm đội. Thủy phi cơ của Chikuma đã tìm thấy chiếc tàu sân bay USS Yorktown, và đã dõi theo nó trong vòng ba giờ, hướng dẫn cho những chiếc máy bay ném bom tấn công Yorktown vào buổi chiều tối hôm đó. Hai chiếc thủy phi cơ khác của Chikuma đã tiếp tục quan sát Yorktown vốn đã bị hỏng nặng suốt đêm đó, trong đó một chiếc cùng đội bay đã bị mất. Sau đó Chikuma đã hướng dẫn cho chiếc tàu ngầm I-168 tìm kiếm và tiêu diệt chiếc Yorktown sáng sớm hôm sau.Sau đó Chikuma và Tone được điều đến giúp đỡ lực lượng tấn công quần đảo Aleut của Phó Đô đốc Boshiro Hosogaya. Tuy nhiên, sự phản công của lực lượng Đồng Minh tại đây đã không diễn ra như dự tính, nên Hải đội Tuần dương 8 bình yên quay trở về. Chikuma quay về cảng Ominato vào ngày 24 tháng 6.

Trận chiến Đông Solomon

Chuẩn Đô đốc Chuichi Hara tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 8 từ ngày 14 tháng 7 năm 1942. Cùng với việc lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên đảo Guadalcanal, Chikuma và Tone được lệnh tiến về phía Nam vào ngày 16 tháng 8 cùng với các tàu sân bay Shōkaku, Zuikaku, Zuihō, Junyō, Hiyō và Ryūjō. Chúng được tháp tùng bởi các thiết giáp hạm Hiei và Kirishima, tàu chở thủy phi cơ Chitose cùng các tàu tuần dương Atago, Maya, Takao và Nagara.Vào ngày 24 tháng 8 năm 1942, các tàu tuần dương Kumano, Suzuya và Mogami của Hải đội Tuần dương 7 đến gia nhập tăng cường cho lực lượng hạm đội tại khu vực Guadalcanal. Sáng hôm sau, một chiếc thủy phi cơ PBY Đồng Minh phát hiện ra Ryūjō, và sau đó những chiếc máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless và máy bay ném bom-ngư lôi TBF Avenger cất cánh từ Enterprise đã tấn công nó nhưng không thành công. Bảy thủy phi cơ của Tone và Chikuma đã được tung ra để truy tìm hạm đội Mỹ; và một chiếc xuất phát từ Chikuma đã phát hiện ra lực lượng Mỹ, nhưng đã bị bắn rơi trước khi kịp gửi bản báo cáo. Tuy nhiên, một thủy phi cơ thứ hai đã thành công, và hạm đội Nhật tung ra đợt tấn công nhắm vào Enterprise, đánh trúng nó ba quả bom khiến sàn tàu bằng gỗ bốc cháy. Cùng lúc đó, người Mỹ cũng phát hiện ra hạm đội Nhật, và Ryūjō bị đánh chìm bởi máy bay xuất phát trừ tàu sân bay Saratoga. Chikuma không bị thiệt hại nào trong trận này, và đã quay về Truk an toàn.Trong suốt tháng 10, Chikuma và Tone tuần tra tại khu vực phía nam quần đảo Solomon, chờ đợi cơ hội tái chiếm sân bay Henderson.

Trận chiến Santa Cruz

Vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, ở vị trí 250 dặm về phía Đông Bắc Guadalcanal, lực lượng đặc nhiệm của Chuẩn Đô đốc Abe Hiroaki tung ra bảy thủy phi cơ để tuần tiểu khu vực phía Nam Guadalcanal. Chúng trông thấy hạm đội Mỹ, và cuộc tấn công mà Đô đốc Abe tung ra sau đó với 13 máy bay ném bom-ngư lôi Nakajima B5N2 "Kate" đã đánh chìm tàu sân bay Hornet cũng như làm hư hại chiếc thiết giáp hạm South Dakota và chiếc tàu tuần dương San Juan. Tuy nhiên, Chikuma bị một chiếc máy bay ném bom bổ nhào Douglas SBD Dauntless duy nhất xuất phát từ Hornet tấn công. Con tàu được thoát khỏi thảm họa nhờ sự nhanh trí của thủy thủ đoàn đã phóng bỏ các quả ngư lôi vài giây trước khi một quả bom 225 kg (500 lb) đánh trúng phòng ngư lôi bên mạn phải phía trước. Chiếc tàu tuần dương còn bị đánh trúng thêm hai quả bom nữa, phá hủy một thủy phi cơ đặt trên máy phóng. Chikuma bị tổn thất 190 người chết cùng 154 người bị thương, trong số đó có Thuyền Komura.Chikuma được hộ tống bởi các tàu khu trục Urakaze và Tanikaze quay về Truk để sửa chữa khẩn cấp, rồi được gửi về Kure cùng với chiếc tàu sân bay Zuiho cũng bị hư hại. Trong quá trình sửa chữa và tái trang bị, nó được trang bị bổ sung hai khẩu đội pháo phòng không nòng đôi 25 mm Kiểu 96 cùng một hệ thống radar dò tìm không trung Kiểu 21. Công việc sửa chữa hoàn tất vào ngày 27 tháng 2 năm 1943.Vào ngày 15 tháng 3 năm 1943, Chuẩn Đô đốc Fukuji Kishi tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 8, và Chikuma được lệnh quay trở lại khu vực Truk. Tuy nhiên, vào ngày 17 tháng 5, Chikuma và Tone được giao nhiệm vụ tháp tùng chiếc thiết giáp hạm Musashi quay trở lại Tokyo đưa di hài của Đô đốc Yamamoto Isoroku về làm lễ quốc tang tại chính quốc. Chikuma quay trở lại Truk vào ngày 15 tháng 7, và đã tránh được nhiều cuộc tấn công bằng tàu ngầm dọc theo đường đi.Từ tháng 7 đến tháng 11, Chikuma tham gia nhiều chuyến vận chuyển binh lực đến Rabaul, và những chuyến tuần tra tại quần đảo Marshall để truy đuổi bất thành hạm đội Mỹ. Trong khi đang được tiếp nhiên liệu tại Rabaul vào ngày 5 tháng 11 năm 1943, Chikuma và lực lượng đặc nhiệm của nó bị 97 máy bay từ các tàu sân bay Satatoga và USS Princeton tấn công. Các tàu tuần dương Atago, Takao, Maya, Mogami, Agano và Noshiro bị hư hại trong trận này, trong khi Chikuma chỉ bị một chiếc máy bay ném bom bổ nhào SDB duy nhất tấn công, và chỉ chịu đựng những hư hại nhẹ do những quả bom ném suýt trúng.Khi quay trở về Kure vào ngày 12 tháng 12 năm, Chikuma lại được trang bị thêm các khẩu pháo phòng không 25 mm, nâng tổng số lên 20 nòng pháo. Hải đội Tuần dương 8 bị giải thể vào ngày 1 tháng 1 năm 1944, nên cả hai chiếc Tone và Chikuma đều được phân về Hải đội Tuần dương 7 cùng với Suzuya và Kumano dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Nishimura Shoji. Công việc tái trang bị hoàn tất vào ngày 1 tháng 2, và Chikuma quay trở lại Singapore vào ngày 13 tháng 2 và đến Batavia vào ngày 15 tháng 3 sau một tháng tham gia vào đợt đánh cướp tàu buôn tại Ấn Độ Dương. Ngày 20 tháng 3 năm 1944, Chuẩn Đô đốc Kazutaka Shiraishi tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 7, và Chikuma trở thành soái hạm của ông.

Trận chiến biển Philippine

Ngày 13 tháng 6 năm 1944, Đô đốc Soemu Toyoda ra mệnh lệnh thực hiện "Chiến dịch A-Go" nhằm phòng thủ bảo vệ quần đảo Mariana. Chikuma được phân về Lực lượng "C" thuộc Hạm đội Cơ động của Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, vốn đã băng qua biển Visayan để đi đến biển Philippine hướng về phía Saipan. Vào ngày 20 tháng 6, sau khi các thiết giáp hạm Haruna và Kongo cùng tàu sân bay Chiyoda bị tấn công bởi máy bay xuất phát từ các tàu sân bay Mỹ Bunker Hill, Monterey và Cabot, và khi hầu hết lực lượng không quân yểm trợ trên không đã bị tiêu diệt trong các gọi là "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại", Chikuma rút lui cùng với Hạm đội Lưu động về phía Okinawa. Sau khi tham gia vận chuyển binh lính đến Okinawa, Chikuma Tone được phái đến Singapore vào tháng 7, và phục vụ như là soái hạm của Hải đội Tuần dương 4 trong khi Atago đang được sửa chữa.

Trận chiến vịnh Leyte

Vào ngày 23 tháng 10 năm 1944, Chikuma cùng với Kumano, Suzuya và Tone khởi hành rời Brunei hướng về phía Philippines cùng với Lực lượng Tấn công Lưu động của Phó Đô đốc Kurita. Trong trận chiến eo biển Palawan, Atago và Maya bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm và Takao bị hư hại. Trong trận chiến biển Sibuyan diễn ra ngày hôm sau, Musashi bị đánh chìm trong khi Nagato, Haruna và Myoko bị hư hại.Ngày 25 tháng 10, trong trận chiến ngoài khơi Samar, Chikuma đã tấn công các tàu sân bay hộ tống Mỹ, góp phần đánh chìm chiếc USS Gambier Bay, nhưng phải chịu đựng hỏa lực từ tàu khu trục Mỹ USS Heermann và các đợt không kích. Chikuma gây ra nhiều hư hại cho Heermann, nhưng bản thân nó không lâu sau bị bốn máy bay ném bom-ngư lôi TBM Avenger tấn công, một trong số đó đã phóng thành công một quả ngư lôi Mark 13 trúng đuôi tàu bên mạn trái làm hỏng chân vịt và bánh lái bên mạn trái. Tốc độ Chikuma bị giảm xuống còn 18 knot, rồi chỉ còn 9 knot, nhưng nghiêm trọng hơn cả là con tàu không thể kiểm soát lái được nữa. Đến 11 giờ 05 phút, Chikuma lại bị năm chiếc TBM từ tàu sân bay bỏ túi USS Kitkun Bay tấn công. Chiếc tàu tuần dương bị đánh trúng hai quả ngư lôi ở giữa tàu bên mạn trái và phòng động cơ bị ngập nước. Đến 14 giờ 00 phút, ba chiếc TBM thuộc một phi đội hỗn hợp xuất phát từ các tàu sân bay hộ tống USS Omanney Bay và USS Natoma Bay do Đại úy Joseph Cady dẫn đầu đã thả trúng thêm ngư lôi vào mạn phải chiếc Chikuma.[2] Trước đây người ta tin rằng chiếc tàu khu trục Nowaki đã đón nhận những người còn sống sót trên chiếc Chikuma, rồi sau đó đánh đắm nó tại tọa độ 11°25′N 126°36′E vào sáng ngày 25 tháng 10 năm 1944, nhưng một công trình nghiên cứu gần đây cho rằng Chikuma bị chìm do ảnh hưởng của chính những đợt không kích, và Nowaki chỉ đến kịp lúc để vớt những người sống sót trên mặt nước.[3]Vào ngày 26 tháng 10 năm 1944, đến lượt Nowaki bị đánh chìm bởi hải pháo từ các tàu tuần dương USS Vincennes, Biloxi và USS Miami cùng các tàu khu trục thuộc Hải đội Khu trục 103 USS Miller, USS Owen và USS Lewis Hancock. Nó chìm tại vị trí cách 65 dặm về hướng Nam Đông Nam Legaspi, Philippines với khoảng 1.400 người, trong đó bao gồm tất cả ngoại trừ một người là thành viên thủy thủ đoàn Chikuma còn sống sót.Chikuma được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 20 tháng 4 năm 1945.

Đặt hàng: 26 tháng 3 năm 1928

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Takao

Xưởng đóng tàu: Xưởng tàu Mitsubishi tại Nagasaki

Đặt lườn: 5 tháng 4 năm 1931

Hạ thủy: 30 tháng 6 năm 1932

Hoạt động: 1932

Bị mất: Bị đánh chìm ngày 25 tháng 10 năm 1944 trong Trận chiến ngoài khơi Samar

Xóa đăng bạ: 20 tháng 12 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 9.850 tấn (tiêu chuẩn); 15.781 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 203,8 m (668 ft 6 in)

Mạn thuyền: 18,0 - 20,7 m (59 - 68 ft)

Tầm nước: 6,1 - 6,3 m (20 ft - 20 ft 8 in)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước

12 × nồi hơi Kampon

4 × trục

công suất 133.100 mã lực (99,3 MW)

Tốc độ: 65,7 km/h (35,5 knot)

Tầm xa: 15.700 km ở tốc độ 26 km/h

(8.500 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 773

Vũ khí: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 caliber (5x2)

4 × pháo 120 mm (4,7 inch) góc cao (4x1)

66 × súng phòng không 25 mm

8 × ống phóng ngư lôi 609 mm (24 inch)

Vỏ giáp: đai giáp 37 đến 127 mm (1,5 - 5 inch)

sàn tàu 40 mm (1,5 inch)

vách ngăn 75 - 100 mm (3 - 4 inch)

tháp súng 25 mm (1 inch)

Máy bay: 3 thủy phi cơ (1 × Aichi E13A1 "Jake", 2 × F1M2 "Pete")

2 × máy phóng

Chōkai (tiếng Nhật: 鳥海) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp Takao bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp Myōkō trước đó. Chōkai đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị đánh chìm ngày 25 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến ngoài khơi Samar trong khuôn khổ Trận chiến vịnh Leyte.

Thiết kế và chế tạo

Những tàu chiến thuộc lớp Myōkō được xem là không ổn định và nhiều kinh nghiệm rút ra đã được áp dụng cải tiến cho lớp Takao. Chúng là những tàu chiến nhanh và mạnh mẻ, trang bị mười khẩu pháo 203 mm (8 inch) và bốn khẩu pháo 120 mm (4,7 inch), tám ống phóng ngư lôi và nhiều vũ khí phòng không hổn hợp, một hỏa lực đủ mạnh để đối đầu với bất kỳ tàu tuần dương của mọi lực lượng hải quân trên thế giới.Những chiếc trong lớp Takao được chấp thuận trong năm tài chính 1927 như một phần trong chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản về một trận chiến quyết định. Chúng tạo nên xương sống cho lực lượng tấn công chiến đấu tầm xa. Chōkai được chế tạo tại xưởng tàu của Mitsubishi tại Nagasaki, được đặt lườn vào ngày 5 tháng 4 năm 1931, được hạ thủy vào ngày 30 tháng 6 năm 1932 và được đưa vào hoạt động năm 1932.

Lịch sử hoạt động

Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương

Lúc khởi đầu Chiến tranh Thái Bình Dương, Chōkai được phân về Hải đội Tuần dương 4 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc (sau này là Đô đốc) Kondo Nobutake cùng với các con tàu chị em với nó Maya, Atago và Takao, và được trao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Malaya và Philippines. Vào tháng 12 năm 1941, nó tham gia cuộc săn tìm các chiến hạm Prince of Wales và Repulse (Lực lượng Z) của Hải quân Hoàng gia Anh. Trong tháng 1 và tháng 2 năm 1942, Chōkai tham gia các chiến dịch nhằm chiếm đóng khu vực Đông Ấn thuộc Hà Lan và đảo Borneo vốn giàu nguồn dự trữ dầu mỏ tối cần thiết cho Nhật Bản. Ngày 22 tháng 2 năm 1942, trong khi di chuyển gần mũi St. Jacques (Vũng Tàu) thuộc Đông Dương, Chōkai va phải một dãi đá ngầm, và bị hư hại lườn tàu. Ngày 27 tháng 2, nó đi Singapore để sửa chữa.Sau khi sửa chữa hoàn tất, Chōkai lại được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho các cuộc chiếm đóng, lần này là cuộc đổ bộ Iri, Sumatra, và cuộc chiến đóng quần đảo Andaman cùng việc chiếm cảng Blair vài ngày sau đó. Sau khi kết thúc, Chōkai hướng đến Mergui, Miến Điện.Vào ngày 1 tháng 4 năm 1942, Chōkai rời Mergui tham gia Chiến dịch C, một cuộc đột kích vào các tàu buôn trong khu vực Ấn Độ Dương. Thoạt tiên, Chōkai phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu chở hàng Mỹ Bienville, và sau đó là chiếc tàu hơi nước Anh Ganges vào ngày 6 tháng 4. Sau khi nhiệm vụ này hoàn thành, Chōkai quay về Yokosuka vào ngày 22 tháng 4 năm 1942.

Chiến dịch Guadalcanal

Đến giữa tháng 7 năm 1942, Chōkai trở thành soái hạm của Phó Đô đốc Mikawa Gunichi, tư lệnh Hạm đội 8 vừa mới thành lập, và hướng đến Rabaul. Vào ngày 7 tháng 8 năm 1942, khi Guadalcanal bị lực lượng Đồng Minh xâm chiếm, Chōkai hướng đến vùng biển Guadalcanal cùng Đô đốc Mikawa trên tàu. Trong Trận chiến đảo Savo, lực lượng tàu tuần dương hạng nặng của Mikawa đã đánh bại hải đội Đồng Minh, đánh chìm bốn tàu tuần dương hạng nặng (ba của Mỹ và một của Australia) và làm hư hại một chiếc khác. Tuy nhiên, Chōkai cũng hứng chịu nhiều phát đạn pháo từ các tàu tuần dương Quincy và Astoria, thổi tung một trong các tháp pháo của nó và làm thiệt mạng 34 người. Chōkai buộc phải quay về Rabaul để sửa chữa tạm thời. Trong suốt thời gian còn lại của Chiến dịch Guadalcanal, Chōkai tham gia nhiều trận đánh đêm chống lại Hải quân Mỹ, nhiều lần bị thiệt hại nhưng thường là nhẹ.Bàn giao lại vai trò soái hạm của Hạm đội 8 không lâu sau khi thực hiện đợt triệt thoái cuối cùng lực lượng Nhật khỏi đảo Guadalcanal, Chōkai quay trở về Yokosuka vào ngày 20 tháng 2 năm 1943. Nó thực hiện nhiều nhiệm vụ thứ yếu khác nhau trong suốt phần còn lại của năm 1943 và nữa đầu năm 1944. Chōkai lại được đặt làm soái hạm của Hải đội Tuần dương 4 vào ngày 3 tháng 8 năm 1944. Nó thoát khỏi một cuộc tấn công bằng tàu ngầm vào ngày 23 tháng 10 năm 1944, trở thành tàu chiến duy nhất của Hải đội Tuần dương 4 không bị hư hại.

Trận chiến ngoài khơi Samar

Chuẩn bị cho Trận chiến vịnh Leyte, Chōkai được chuyển sang Hải đội Tuần dương 5, nơi nó thoát được một đợt tấn công khác vào ngày 24 tháng 10 năm 1944, lần này là bởi máy bay, trong vùng biển Sibuyan. Sáng ngày 25 tháng 10, Chōkai trong thành phần "Lực lượng Trung tâm" của Đô đốc Takeo Kurita bao gồm một lực lượng lớn các thiết giáp hạm, tàu tuần dương và tàu khu trục đã tấn công lực lượng Mỹ bao gồm các tàu sân bay hộ tống, tàu khu trục và tàu khu trục hộ tống trong Trận chiến ngoài khơi Samar thuộc Philippines. Trong cuộc đụng độ, Chōkai bị đánh trúng giữa tàu bên mạn phải bởi ngư lôi phóng từ chiếc t̀au khu trục hộ tống Mỹ Samuel B. Roberts; và các khẩu pháo 127 mm (5 inch) của Roberts cũng bắn trúng nhiều phát, gây hư hại cầu tàu và tháp súng phía trước. Sau đó, một vụ nổ thứ phát xảy ra do các quả ngư lôi bị hư hại trên sàn tàu, làm hỏng động cơ và bánh lái. Chōkai nhanh chóng bị rớt khỏi đội hình và không thể tiếp tục chiến đấu.Trong vòng vài phút, một máy bay Mỹ ném một quả bom 227 kg (500 lb) trúng phòng máy phía trước của chiếc Chōkai, khiến lửa bắt đầu lan nhanh khắp con tàu, và nó chết đứng tại chỗ. Cuối ngày hôm đó, nó bị tàu khu trục Fujinami đánh đắm bằng ngư lôi, sau khi cứu những thành viên thủy thủ đoàn còn sống sót, trong số đó. Không may là hai ngày sau đó, bản thân Fujinami bị không kích đánh chìm khiến toàn bộ số người có mặt trên tàu thiệt mạng, kể cả những người còn sống sót của chiếc Chōkai, khiến Chōkai trở thành một trong những tàu chiến lớn nhất bị đánh chìm với toàn bộ thủy thủ đoàn trong Thế Chiến II.

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Furutaka

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Mitsubishi, Nagasaki

Đặt lườn: 5 tháng 12 năm 1922

Hạ thủy: 25 tháng 2 năm 1925

Hoạt động: 31 tháng 3 năm 1926[1]

Bị mất: Bị đánh chìm ngày 12 tháng 10 năm 1942 trong Trận chiến mũi Esperance

02°28′S 152°11′E

Xóa đăng bạ: 20 tháng 12 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 7.950 tấn (tiêu chuẩn)

9.150 tấn (sau khi cải tiến)

Chiều dài: 176,8 m (580 ft)

Mạn thuyền: 15,8 m (51 ft 10 in)

Tầm nước: 5,6 m (18 ft 5 in)

Lực đẩy: 4 turbine hơi nước Parsons

12 × nồi hơi Kampon

4 trục

công suất 102.000 mã lực (76 MW)

Tốc độ: 64 km/h (34,5 knot)

Tầm xa: 13.000 km ở tốc độ 26 km/h

(7.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 616

Vũ khí: (ban đầu): 6 × 200 mm (7,9 inch)/50-cal (6x1),

4 × pháo 76 mm (3,1 inch)/40-cal (4x1),

12 × ống phóng ngư lôi 610mm (24 inch) (6x2)

(từ năm 1937): 6 × pháo 203 mm (8 inch)/50-cal (3x2),

4 × pháo 120 mm (4,7 inch)/45-cal (4x1),

8 × ống phóng ngư lôi 610mm (24 inch) (2x4)

Vỏ giáp: đai giáp: 76 mm (3 inch)

sàn tàu: 36 mm (1,4 inch)

Máy bay: 1 x thủy phi cơ Nakajima E4N2

(2 x thủy phi cơ Kawanishi E7K2 từ năm 1936)

1 máy phóng (từ năm 1933)

Furutaka (tiếng Nhật: 古鷹) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo đỉnh núi Furutaka tọa lạc tại Etajima, Hiroshima, ngay phía sau Học viện Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó bị đánh chìm trong Trận chiến mũi Esperance ngày 12 tháng 10 năm 1942.

Thiết kế và chế tạo

Furutaka và chiếc tàu chị em với nó Kako thuộc thế hệ đầu tiên của những tàu tuần dương hạng nặng tốc độ cao của Hải quân Nhật; được dự tính để đối đầu cùng những chiếc tàu tuần dương trinh sát thuộc lớp Omaha của Hải quân Mỹ và lớp Hawkins của Hải quân Anh. Chúng được phát triển dựa trên thiết kế thử nghiệm được bắt đầu bởi chiếc tàu tuần dương Yūbari. Mặc dù được thiết kế để tối thiểu hóa trọng lượng và lớp vỏ giáp chỉ đủ để bảo vệ chống lại đạn pháo 150 mm (6 inch), lượng rẽ nước của con tàu lại tỏ ra quá tải trầm trọng.[2]Hai chiếc tàu chiến này được xem là những "tàu tuần dương trinh sát", được thiết kế để mang theo máy bay. Tuy nhiên, việc thiếu sót một máy phóng đã buộc phải phóng thủy phi cơ từ mặt nước cho đến khi chúng được cải tiến trong những năm 1932-1933.

Lịch sử hoạt động

Trước chiến tranh

Thoạt tiên Furutaka được phân về Hải đội Tuần dương 5 nơi nó hoạt động cho đến khi được rút về lực lượng dự bị vào tháng 12 năm 1931. Furutaka trải qua một loạt các cải tiến đáng kể trong những năm 1930. Chiếc tàu chiến được tái cấu trúc và hiện đại hóa tại Căn cứ hải quân Kure vào năm 1932-1933, nâng cấp các khẩu pháo phòng không lên kiểu 120 mm (4,7 inch), bổ sung máy phóng máy bay và một thủy phi cơ E4N2. Chiếc tàu tuần dương được cho tái hoạt động và được bố trí về Hải đội Tuần dương 6.[2]Đợt nâng cấp đáng kể tiếp theo diễn ra vào tháng 4 năm 1937. Các khẩu pháo 203 mm (8 inch) xẻ rãnh được trang bị trên các bệ cải tiến có góc nâng lên đến 55°, thay đổi hệ thống điều khiển hỏa lực, bổ sung thêm các vũ khí phòng không hạng nhẹ và các ống phóng ngư lôi kiểu mới ngư lôi Kiểu 93 (24 inch). Trang bị được nâng cấp để mang hai thủy phi cơ E7K2. Các nồi hơi đốt dầu mới được trang bị, đồng thời cũng được nâng cấp về động cơ. Do sự gia tăng trọng lượng của cấu trúc bên trên, một nỗ lực được thực hiện nhằm duy trì sự ổn định của con tàu bằng cách tăng thêm chiều rộng của mạn thuyền, nhưng không mấy thành công.[2]

Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương

Vào cuối năm 1941, Furutaka được phân về Hải đội Tuần dương 6 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Aritomo Goto trong thành phần của Hạm đội 1 cùng với các tàu tuần dương Aoba, Kako và Kinugasa. Vào thời gian diễn ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng, nó đang yểm trợ cho cuộc chiếm đóng đảo Guam.Sau khi đợt tấn công thứ nhất nhắm vào Wake thất bại, Hải đội Tuần dương 6 được bố trí vào một lực lượng tấn công thứ hai mạnh mẻ hơn, và sau khi Wake thất thủ, nó quay về căn cứ tiền phương đặt tại Truk thuộc quần đảo Caroline.Từ ngày 18 tháng 1 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 được phân công hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của quân Nhật lên Rabaul thuộc New Britain và Kavieng thuộc New Ireland và tuần tra quanh khu vực quân đảo Marshall để truy đuổi bất thành hạm đội Hoa Kỳ. Trong tháng 3 và tháng 4 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 hỗ trợ cho Hải đội Tuần dương 18 bảo vệ cuộc đổ bộ của quân Nhật lên quần đảo Solomon và New Guinea tại Buka, Shortland, Kieta, đảo Manus, quần đảo Admiralty và Tulagi từ căn cứ tiền phương ở Rabaul. Trong khi đang ở Shortland vào ngày 6 tháng 5 năm 1942, Furutaka bị bốn máy bay ném bom Boeing B-17 Flying Fortress thuộc Không lực Mỹ tấn công nhưng không bị hư hại.

Trận chiến biển Coral

Trong Trận chiến biển Coral, Hải đội Tuần dương 6 khởi hành rời Shortland đi đến một điểm hẹn gặp chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Shoho. Lúc 11 giờ 00 ngày 7 tháng 5 năm 1942, đang khi ở về phía Bắc đảo Tulagi, Shoho bị tấn công và bị đánh chìm bởi 93 máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless và máy bay ném bom-ngư lôi TBD Devastator từ các tàu sân bay USS Yorktown và USS Lexington. Ngày hôm sau, 8 tháng 5 năm 1942; 46 chiếc SBD, 21 chiếc TBD và 15 chiếc Grumman F4F Wildcat xuất phát từ Yorktown và Lexington đã tấn công và gây hư hại nặng cho chiếc Shokaku, buộc nó phải rút lui. Furutaka và Kinugasa vốn không bị hư hại trong trận đánh này, đã hộ tống Shokaku quay trở về Truk.Furutaka quay trở về Kure vào ngày 5 tháng 6 năm 1942 để sửa chữa, rồi quay trở lại Truk vào ngày 7 tháng 7 năm 1942. Trong cuộc cải tổ sâu rộng Hải quân Nhật sau thất bại của trận Midway, vào ngày 14 tháng 7 năm 1942, Furutaka được phân về Hạm đội 8 vừa mới được thành lập dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Mikawa Gunichi và được bố trí tuần tra chung quanh khu vực quần đảo Solomon, New Britain và New Ireland.

Trận chiến đảo Savo

Ngày 7 tháng 8 năm 1942, một thủy phi cơ trinh sát Aichi E13A1 "Jake" xuất phát từ Aoba đã trông thấy một lực lượng đối phương bao gồm "một thiết giáp hạm, một tàu sân bay phối thuộc, bốn tàu tuần dương, bảy tàu khu trục và 15 tàu vận tải" ngoài khơi Lunga Point gần Tulagi.Trong Trận chiến đảo Savo vào ngày 9 tháng 8 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 (bao gồm Aoba, Furutaka, Kako và Kinugasa), Chokai, các tàu tuần dương hạng nhẹ Tenryu và Yūbari và tàu khu trục Yūnagi đã đối đầu cùng lực lượng hạm đội Đồng Minh trong một trận đánh đêm bằng hải pháo và ngư lôi. Vào khoảng 23 giờ 00, Chokai, Furutaka và Kako đã tung các thủy phi cơ trinh sát của mình ra. Những chiếc máy bay này lượn vòng bên trên hạm đội Đồng Minh và thả các quả pháo sáng chiếu rõ các mục tiêu, và tất cả các tàu chiến Nhật đã khai hỏa. Các tàu tuần dương USS Astoria, USS Quincy, USS Vincennes và HMAS Canberra đã bị đánh chìm, trong khi USS Chicago cùng các tàu khu trục USS Ralph Talbot và USS Patterson bị hư hại. Bên phía Nhật Bản, Chokai bị bắn trúng ba phát, Kinugasa trúng hai phát, Aoba một phát và Furutaka hoàn toàn vô hại và quay trở về đến Kavieng vào ngày 10 tháng 8 năm 1942.Vào cuối tháng 8, Hải đội Tuần dương 6 cùng chiếc Chokai khởi hành rời Shortland để hỗ trợ từ xa cho các đoàn tàu vận tải "Tốc hành Tokyo" đến tăng cường bổ sung cho Guadalcanal. Cùng ngày hôm đó, một chiếc PBY Catalina thuộc Phi đội VP23 "Black Cats" dũng cảm lao vào tấn công Furutaka ngay giữa lúc ban ngày nhưng bị thất bại. Furutaka di chuyển qua lại giữa Kieta và Rabaul để tiếp nhiên liệu và tiếp tế cho đến giữa tháng 9. Đến ngày 12 tháng 9, ở phía Nam New Ireland, Furutaka bị tàu ngầm Mỹ USS S-47 tấn công nhưng không thành công và không bị hư hại.

Trận chiến mũi Esperance

Trong Trận chiến mũi Esperance diễn ra vào ngày 11 tháng 10 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 (bao gồm Aoba, Furutaka và Kinugasa) cùng các tàu khu trục Fubuki và Hatsuyuki rời Shortland để yểm trợ cho một đoàn tàu vận tải chở quân tăng cường cho Guadalcanal bằng cách bắn phá sân bay Henderson trên đảo này. Hai máy bay trinh sát Mỹ OS2U Kingfisher đã phát hiện ra hạm đội đang di chuyển dọc theo eo biển với vận tốc 56 km/h (30 knot).Được báo động kịp thời, các tàu tuần dương Mỹ được trang bị radar USS San Francisco, Boise, Salt Lake City và Helena cùng năm tàu khu trục đã di chuyển vòng qua mũi cực Nam đảo Guadalcanal để phong tỏa lối vào eo biển Savo.Lúc 22 giờ 35 phút, radar của chiếc Helena phát hiện ra hạm đội Nhật, và lực lượng Mỹ đã thành công trong việc cắt ngang chữ T hạm đội Nhật. Cả hai bên đều nổ súng, nhưng do Đô đốc Goto nghĩ rằng mình đang bị bắn nhầm từ các tàu bạn, đã ra lệnh cho toàn hải đội quay mũi 180 độ khiến toàn bộ lực lượng của ông bị phơi sườn ra trước hỏa lực các tàu chiến Mỹ. Aoba bị hư hỏng nặng, và Đô đốc Goto bị tử thương ngay trên cầu tàu. Sau khi chiếc Aoba bị đánh hỏng, Thuyền trưởng Araki trên chiếc Furutaka quay mũi con tàu của mình ra khỏi đội hình hàng tàu chiến để đối đầu với Salt Lake City. Tàu khu trục USS Duncan phóng hai quả ngư lôi về phía Furutaka nhưng đều không trúng hoặc không nổ; tuy nhiên Duncan tiếp tục nả pháo nhắm vào Furutaka cho đến khi nó bị loại khỏi vòng chiến do bị bắn trúng nhiều phát. Đến 23 giờ 54 phút, Furutaka trúng phải một quả ngư lôi làm ngập phòng máy phía trước; và trong suốt quá trình trận chiến, Furutaka bị trúng khoảng 90 phát đạn pháo, và một số trong đó đã gây phát nổ các quả ngư lôi Kiểu 93 "Long Lance", gây ra các đám cháy.Lúc 02 giờ 28 phút ngày 12 tháng 10 năm 1942, Furutaka chìm tại tọa độ 09°02′S 159°33′E với đuôi tàu chìm trước. Thuyền trưởng Araki cùng 514 người sống sót được cứu thoát bởi các tàu khu trục Hatsuyuki, Murakumo và Shirayuki. Ba mươi ba thành viên thủy thủ đoàn tử trận và 110 người khác sau đó được ghi nhận là mất tích. Người Mỹ vớt được 115 người trên chiếc Furutaka và trở thành tù binh chiến tranh.Furutaka được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 10 tháng 11 năm 1942.

Đặt hàng: 1924

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Myōkō

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Mitsubishi, Nagasaki

Đặt lườn: 16 tháng 3 năm 1925

Hạ thủy: 24 tháng 3 năm 1928

Hoạt động: 25 tháng 4 năm 1929

Bị mất: Bị đánh chìm tại eo biển Malacca ngày 16 tháng 6 năm 1945

Xóa đăng bạ: 20 tháng 6 năm 1945

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 13.300 tấn

Chiều dài: 201,7 m (661 ft 9 in)

Mạn thuyền: 20,73 m (68 ft 1 in)

Tầm nước: 6,32 m (20 ft 9 in)

Lực đẩy: turbine hơi nước

12 × nồi hơi

4 × trục

công suất 130.000 mã lực (97 MW)

Tốc độ: 66,7 km/h (36 knot)

Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h

(8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 773

Vũ khí: 10 × pháo 203 mm (8 inch) (5×2)

6 × pháo 120 mm (4,7 inch) (8 × từ năm 1935)

2 × súng máy 13 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)[1]

Vỏ giáp: đai giáp: 100 mm (4 inch)

sàn tàu: 37 mm (1,5 inch)

tháp pháo: 25 mm (1 inch)

tháp súng: 75 mm (3 inch)

Máy bay: 2

Haguro (tiếng Nhật:羽黒) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong lớp Myōkō bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong lớp này là Myōkō, Nachi và Ashigara. Tên của nó được đặt theo ngọn núi Haguro tại tỉnh Yamagata. Haguro đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và bị đánh chìm tại eo biển Malacca ngày 16 tháng 6 năm 1945.

Thiết kế và chế tạo

Những con tàu trong lớp này có trọng lượng rẽ nước 13.300 tấn, dài 204 m và có thể di chuyển với tốc độ tối đa đến 36 knot (67 km/h). Chúng mang được hai thủy phi cơ và dàn pháo chính bao gồm mười khẩu 203mm (8 inch), hỏa lực mạnh nhất vào thời đó đối với mọi tàu tuần dương trên thế giới.Haguro được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Mitsubishi tại Nagasaki vào ngày 16 tháng 3 năm 1925, được hạ thủy và đặt tên vào ngày 24 tháng 3 năm 1928, và được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào ngày 25 tháng 4 năm 1929.

Lịch sử hoạt động

Khởi đầu Thế Chiến II, Haguro có mặt tại Đông Ấn thuộc Hà Lan nơi nó đối đầu cùng tàu chiến đối phương ngoài khơi Makassar ngày 8 tháng 2 năm 1942. Nó đóng một vai trò quan trọng trong Trận chiến biển Java vào ngày 27 tháng 2, và đã góp phần vào việc đánh chìm tàu tuần dương Anh HMS Exeter và tàu khu trục HMS Encounter vào ngày 1 tháng 3.Ngày 7 tháng 5 năm 1942, Haguro tham gia trận chiến biển Coral. Sau đó nó di chuyển đến khu vực quần đảo Solomon nơi nó tham dự trận chiến Đông Solomons vào ngày 24 tháng 8 năm 1942; hỗ trợ cho cuộc triệt thoái khỏi Guadalcanal vào cuối tháng 1 năm 1943; rồi bị hư hại nhẹ trong Trận chiến vịnh Nữ hoàng Augusta vào ngày 2 tháng 11 năm 1943. Ngày 19 tháng 6 năm 1944, nó sống sót sau khi trải qua trận chiến biển Philippine, và trong các ngày 23-25 tháng 10 năm 1944 nó bị hư hại nhẹ trong trận chiến vịnh Leyte.Vào tháng 5 năm 1945, Haguro là mục tiêu của các tàu chiến Anh Quốc trong Chiến dịch Dukedom. Chi hạm đội Khu trục 26 tìm thấy nó cùng với tàu khu trục Kamikaze ngay sau nữa đêm 16 tháng 5 năm 1945 và bắt đầu tấn công. Trong trận chiến sau đó, Kamikaze chỉ bị hư hại nhẹ, nhưng Haguro trúng phải đạn pháo và ba quả ngư lôi Mark IX, bắt đầu chạy chậm dần và nghiêng 30 độ qua mạn trái. Đến 2 giờ 32 phút, Haguro bắt đầu chìm với phần đuôi chìm trước trong eo biển Malacca cách Penang 88 km (55 dặm). Kamikaze cứu được 320 người sống sót. Chín trăm người khác trong đó có Phó Đô đốc Shintarō Hashimoto và Thuyền trưởng Chuẩn Đô đốc Kaju Sugiura chìm theo con tàu. Sau này Chuẩn Đô đốc Sugiura được truy thăng lên Phó Đô đốc. Trận đánh này là hoạt động đấu pháo cuối cùng giữa các hạm tàu nổi trong lịch sử.Haguro được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 20 tháng 6 năm 1945. Xác tàu đắm của nó được tìm thấy vào năm 2003, cho thấy sự phá hủy đáng kể cấu trúc thượng tầng do trận chiến cuối cùng và cũng do các trận đánh trước đó.

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Furutaka

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Mitsubishi, Nagasaki

Đặt lườn: 5 tháng 12 năm 1922

Hạ thủy: 10 tháng 4 năm 1925

Hoạt động: 30 tháng 7 năm 1926[1]

Bị mất: Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm ngày 10 tháng 8 năm 1942 ngoài khơi đảo Savo

02°28′S 152°11′E

Xóa đăng bạ: 15 tháng 9 năm 1942

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 7.950 tấn (tiêu chuẩn)

9.150 tấn (sau khi cải tiến)

Chiều dài: 176,8 m (580 ft)

Mạn thuyền: 15,8 m (51 ft 10 in)

Tầm nước: 5,6 m (18 ft 5 in)

Lực đẩy: 4 turbine hơi nước Brown Curtis

12 × nồi hơi Kampon

4 trục

công suất 102.000 mã lực (76 MW)

Tốc độ: 64 km/h (34,5 knot)

Tầm xa: 13.000 km ở tốc độ 26 km/h

(7.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 616

Vũ khí: (ban đầu): 6 × 200 mm (7,9 inch)/50-cal (6x1),

4 × pháo 76 mm (3,1 inch)/40-cal (4x1),

12 × ống phóng ngư lôi 610mm (24 inch) (6x2)

(từ năm 1937): 6 × pháo 203 mm (8 inch)/50-cal (3x2),

4 × pháo 120 mm (4,7 inch)/45-cal (4x1),

8 × ống phóng ngư lôi 610mm (24 inch) (2x4)

Vỏ giáp: đai giáp: 76 mm (3 inch)

sàn tàu: 36 mm (1,4 inch)

Máy bay: 1 x thủy phi cơ

1 máy phóng

Kako (tiếng Nhật: 加古) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là chiếc thứ hai trong tổng số hai chiếc thuộc lớp Furutaka. Tên của nó được đặt theo con sông Kako thuộc tỉnh Hyogo. Nó bị tàu ngầm Mỹ USS S-44 đánh chìm tại vùng biển ngoài khơi đảo Savo ngày 10 tháng 8 năm 1942.

Thiết kế và chế tạo

Kako và chiếc tàu chị em với nó Furutaka thuộc thế hệ đầu tiên của những tàu tuần dương hạng nặng tốc độ cao của Hải quân Nhật; được dự tính để đối đầu cùng những chiếc tàu tuần dương trinh sát thuộc lớp Omaha của Hải quân Mỹ và lớp Hawkins của Hải quân Anh. Chúng được phát triển dựa trên thiết kế thử nghiệm được bắt đầu bởi chiếc tàu tuần dương Yūbari. Mặc dù được thiết kế để tối thiểu hóa trọng lượng và lớp vỏ giáp chỉ đủ để bảo vệ chống lại đạn pháo 150 mm (6 inch), lượng rẽ nước của con tàu lại tỏ ra quá tải trầm trọng.[2]

Kako được hoàn tất tại hãng đóng tàu Kawasaki ở Kobe vào ngày 20 tháng 7 năm 1926. Hai chiếc tàu chiến này được xem là những "tàu tuần dương trinh sát", được thiết kế để mang theo máy bay. Tuy nhiên, việc thiếu sót một máy phóng đã buộc phải phóng thủy phi cơ từ mặt nước cho đến khi chúng được cải tiến trong những năm 1932-1933.

Lịch sử hoạt động

Trước chiến tranh

Thoạt tiên Kako được phân về Hải đội Tuần dương 5 và phục vụ tại đây cho đến năm 1933. Trong giai đoạn này nó hoạt động tại vùng biển Nhật Bản và Trung Quốc, tham gia nhiều cuộc thực tập cơ động hạm đội và hoạt động tác chiến ngoài khơi bờ biển Trung Quốc. Kako trải qua một loạt các cải tiến đáng kể trong những năm 1929-1930, nâng cấp hệ thống động cơ và thay đổi chút ít dáng vẻ bên ngoài. Hoạt động một thời gian ngắn cùng Hải đội Tuần dương 6 vào năm 1933, Kako tham gia cuộc duyệt binh hải quân ngoài khơi Yokohama vào cuối tháng 8 năm đó. Nó được đưa về tình trạng tàu hộ vệ vào tháng 11 và đưa về lực lượng dự bị vào năm 1934.Vào tháng 7 năm 1936, Kako bắt đầu một đợt tái cấu trúc rộng rãi tại xưởng hải quân Sasebo, và được hoàn tất vào ngày 27 tháng 12 năm 1937. Sáu tháp pháo đơn 200 mm (7,9 inch) được thay thế bằng ba tháp pháo đôi 203,2 mm (8 inch).

Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương

Vào cuối năm 1941, Kako được phân về Hải đội Tuần dương 6 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Aritomo Goto trong thành phần của Hạm đội 1 cùng với các tàu tuần dương Aoba, Furutaka và Kinugasa. Vào thời gian diễn ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng, nó đang yểm trợ cho cuộc chiếm đóng đảo Guam.Sau khi đợt tấn công thứ nhất nhắm vào Wake thất bại, Hải đội Tuần dương 6 được bố trí vào một lực lượng tấn công thứ hai mạnh mẻ hơn, và sau khi Wake thất thủ, nó quay về căn cứ tiền phương đặt tại Truk thuộc quần đảo Caroline.Từ ngày 18 tháng 1 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 được phân công hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của quân Nhật lên Rabaul thuộc New Britain và Kavieng thuộc New Ireland và tuần tra quanh khu vực quân đảo Marshall để truy đuổi bất thành hạm đội Hoa Kỳ. Trong tháng 3 và tháng 4 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 hỗ trợ cho Hải đội Tuần dương 18 bảo vệ cuộc đổ bộ của quân Nhật lên quần đảo Solomon và New Guinea tại Buka, Shortland, Kieta, đảo Manus, quần đảo Admiralty và Tulagi từ căn cứ tiền phương ở Rabaul. Trong khi đang ở Shortland vào ngày 6 tháng 5 năm 1942, Kako bị bốn máy bay ném bom Boeing B-17 Flying Fortress thuộc Không lực Mỹ tấn công nhưng không bị hư hại.

Trận chiến biển Coral

Trong Trận chiến biển Coral, Hải đội Tuần dương 6 khởi hành rời Shortland đi đến một điểm hẹn gặp chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Shoho. Lúc 11 giờ 00 ngày 7 tháng 5 năm 1942, đang khi ở về phía Bắc đảo Tulagi, Shoho bị tấn công và bị đánh chìm bởi 93 máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless và máy bay ném bom-ngư lôi TBD Devastator từ các tàu sân bay USS Yorktown và USS Lexington. Ngày hôm sau, 8 tháng 5 năm 1942; 46 chiếc SBD, 21 chiếc TBD và 15 chiếc Grumman F4F Wildcat xuất phát từ Yorktown và Lexington đã tấn công và gây hư hại nặng cho chiếc Shokaku, buộc nó phải rút lui. Do Furutaka và Kinugasa vốn không bị hư hại trong trận đánh này đã hộ tống Shokaku quay trở về Truk; Kako và Aoba tiếp tục yểm trợ việc rút lui của đoàn tàu vận tải dự định tấn công cảng Moresby.Sau khi tiếp nhiên liệu tại Shortland vào ngày 9 tháng 5, Kako bị mắc cạn vào một dãi san hô ngầm ở lối vào cảng Queen Carola, nhưng nó nhanh chóng nổi trở lại được. Kako quay về xưởng hải quân Kure vào ngày 22 tháng 5 năm 1942 để sửa chữa, rồi quay trở lại Truk vào ngày 23 tháng 6, rồi từ Truk di chuyển đến vịnh Rekata, đảo Santa Isabel, nơi nó được bố trí nhiệm vụ tuần tra cho đến tháng 7.Trong cuộc cải tổ sâu rộng Hải quân Nhật sau thất bại của trận Midway, vào ngày 14 tháng 7 năm 1942, Kako được phân về Hạm đội 8 vừa mới được thành lập dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Mikawa Gunichi và được bố trí tuần tra chung quanh khu vực quần đảo Solomon, New Britain và New Ireland.

Trận chiến đảo Savo

Vào ngày 8 tháng 8 năm 1942, về phía Bắc Guadalcanal, một chiếc thủy phi cơ trinh sát Aichi E13A1 "Jake" ba chỗ ngồi phóng lên bởi Kako đã bị một máy bay SBD Dauntless thuộc phi đội VS-72 từ tàu sân bay USS Wasp bắn rơi. Đây là sự kiện mở màn cho Trận chiến đảo Savo ngày hôm sau.Vào ngày 9 tháng 8 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 (bao gồm Kako, Aoba, Furutaka và Kinusaga), Chokai, các tàu tuần dương hạng nhẹ Tenryu và Yūbari và tàu khu trục Yūnagi đã đối đầu cùng lực lượng hạm đội Đồng Minh trong một trận đánh đêm bằng hải pháo và ngư lôi. Vào khoảng 23 giờ 00, Chokai, Furutaka và Kako đã tung các thủy phi cơ trinh sát của mình ra. Những chiếc máy bay này lượn vòng bên trên hạm đội Đồng Minh và thả các quả pháo sáng chiếu rõ các mục tiêu, và tất cả các tàu chiến Nhật đã khai hỏa. Các tàu tuần dương USS Astoria, USS Quincy, USS Vincennes và HMAS Canberra đã bị đánh chìm, trong khi USS Chicago cùng các tàu khu trục USS Ralph Talbot và USS Patterson bị hư hại. Hỏa lực pháo của Kako đã bắn trúng hầm chứa máy bay của Vincennes và đã phá hủy tất cả những thủy phi cơ Curtiss SOC Seagull của nó. Bên phía Nhật Bản, Chokai bị bắn trúng ba phát, Kinugasa trúng hai phát, Aoba một phát trong khi Furutaka và Kako hoàn toàn vô hại.Tuy nhiên, sang ngày 10 tháng 8, bốn chiếc tàu tuần dương hạng nặng thuộc Hải đội Tuần dương 6 được lệnh tách ra để hướng đến Kavieng, trong khi phần còn lại của lực lượng tấn công quay trở về Rabaul. Lúc 06 giờ 50 phút, chiếc tàu ngầm Mỹ USS S-44 trông thấy Hải đội Tuần dương 6 ở khoảng cách không đầy 800 m (900 yard) và đã bắn bốn quả ngư lôi Mark 10 từ khoảng cách 630 m (700 yard) vào chiếc tàu tuần dương đi cuối đội hình, lại chính là Kako. Lúc 07 giờ 08 phút, ba quả ngư lôi đánh trúng Kako. Quả thứ nhất đánh trúng mạn phải phía trước tháp pháo số 1. Các quả còn lại đánh trúng phiá sau cạnh hầm đạn phía trước và các phòng nồi hơi số 1 và 2. Kako lật nghiêng qua mạn phải và phát nổ khi nước biển ngập đến các nồi hơi của nó. Đến 07 giờ 15 phút, Kako chìm xuống nước với phần mũi tàu chìm trước tại vùng biển ngoài khơi đảo Simbari ở tọa độ 02°28′S 152°11′E và độ sâu khoảng 40 m (130 ft). Aoba, Furutaka và Kinugasa cứu được Thuyền trưởng Takahashi và hầu hết thủy thủ đoàn của Kako, ngoại trừ ba mươi bốn người thiệt mạng.Kako được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 9 năm 1942.

Đặt hàng: 1923

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Aoba

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Kawasaki

Đặt lườn: 24 tháng 10 năm 1924

Hạ thủy: 24 tháng 10 năm 1926

Hoạt động: 30 tháng 9 năm 1927[1]

Bị mất: Bị đánh chìm ngày 13 tháng 11 năm 1942 trong trận Hải chiến Guadalcanal; 08°45′S 157°00′E

Xóa đăng bạ: 15 tháng 12 năm 1942

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 8.300 tấn (tiêu chuẩn); 9.000 tấn (sau cùng)

Chiều dài: 185,17 m (607 ft 6 in)

Mạn thuyền: 15,83 m (51 ft 11 in) (ban đầu)

17,56 m (57 ft 7 in) (sau cùng)

Tầm nước: 5,71 m (18 ft 9 in) (ban đầu)

5,66 m (18 ft 7 in) (sau cùng)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước Brown Curtis

12 × nồi hơi Kampon

4 trục

công suất 102.000 mã lực (76 MW)

Tốc độ: 66,7 km/h (36 knot)

Tầm xa: 13.000 km ở tốc độ 26 km/h

(7.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 657

Vũ khí: Ban đầu:6 × pháo 200 mm (7,9 inch)/50 (3x2),

4 × pháo 120 mm (4,7 inch)/45 (4x1),

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch) (6x2)

Sau cùng: 6 × pháo 203 mm (8 inch)/50 (3x2),

4 × pháo 120 mm (4,7 inch)/45 (4x1),

8 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch) (2x4)

50 x súng phòng không 25 mm

Vỏ giáp: đai giáp: 76 mm (3 inch)

sàn tàu: 36 mm (1,5 inch)

Máy bay: 1 x thủy phi cơ (ban đầu)

2 x thủy phi cơ, 1 máy phóng (sau cùng)

Kinugasa (Nhật: 衣笠? Y Lạp) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp Aoba bao gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo đỉnh núi Kinugasa tọa lạc tại Yokosuka, Kanagawa. Nó tham gia hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị máy bay Mỹ đánh chìm trong trận Hải chiến Guadalcanal ngày 13 tháng 11 năm 1942.

Thiết kế và chế tạo

Kinugasa cùng chiếc tàu chị em với nó Aoba ban đầu được vạch kế hoạch như những chiếc thứ ba và thứ tư trong lớp Furutaka. Tuy nhiên, những vấn đề về thiết kế đối với lớp Furutaka đã đưa đến một số cải biến bao gồm các tháp pháo đôi và một máy phóng máy bay. Những cải biến này lại làm tăng thêm trọng lượng của cấu trúc bên trên của một thiết kế đã khá nặng nề, gây ra những vấn đề về sự ổn định. Dù sao, Kinugasa cũng tham gia nhiều chiến dịch quan trọng trong giai đoạn mở đầu của Thế Chiến II.

Lịch sử hoạt động

Giữa hai cuộc thế chiến

Kinugasa được hoàn tất vào ngày 30 tháng 9 năm 1927 tại xưởng tàu Kawasaki ở Kobe. Thoạt tiên nó được chọn làm soái hạm của Hải đội Tuần dương 5, và nó đã trãi qua hầu như toàn bộ cuộc đời hoạt động cùng đơn vị này và các hải đội 6 và 7. Vào năm 1928, nó là chiếc tàu chiến Nhật Bản đầu tiên được trang bị một máy phóng máy bay.Kinugasa hoạt động ngoài khơi bờ biển Trung Quốc từ năm 1928 đến năm 1929 và trong nhiều dịp khác trong những năm 1930. Được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 9 năm 1937, nó được hiện đại hóa một cách rộng rãi tại Xưởng hải quân Sasebo và chỉ được đưa vào hoạt động trở lại vào cuối tháng 10 năm 1940.

Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương

Vào cuối năm 1941, Kinugasa được phân về Hải đội Tuần dương 6 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Aritomo Goto, bao gồm cả Aoba, Furutaka và Kako; hải đội này nằm trong thành phần của Hạm Đội 1 dưới quyền chỉ huy chung của Phó Đô đốc Takasu Shiro. Vào thời gian diễn ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng, nó đang yểm trợ cho cuộc chiếm đóng đảo Guam.Sau khi đợt tấn công thứ nhất nhắm vào Wake thất bại, Hải đội Tuần dương 6 được bố trí vào một lực lượng tấn công thứ hai mạnh mẻ hơn, và sau khi Wake thất thủ, nó quay về căn cứ tiền phương đặt tại Truk thuộc quần đảo Caroline.Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1942, Kinugasa đặt căn cứ tại Truk nơi nó hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của quân Nhật lên quần đảo Solomon và New Guinea tại Rabaul, Kavieng, Buka, Shortland, Kieta, đảo Manus, quần đảo Admiralty và Tulagi.

Trận chiến biển Coral

Trong Trận chiến biển Coral, Hải đội Tuần dương 6 khởi hành rời Shortland đi đến một điểm hẹn gặp chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Shoho. Lúc 11 giờ 00 ngày 7 tháng 5 năm 1942, đang khi ở về phía Bắc đảo Tulagi, Shoho bị tấn công và bị đánh chìm bởi 93 máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless và máy bay ném bom-ngư lôi TBD Devastator từ các tàu sân bay USS Yorktown và USS Lexington. Ngày hôm sau, 8 tháng 5 năm 1942; 46 chiếc SBD, 21 chiếc TBD và 15 chiếc Grumman F4F Wildcat xuất phát từ Yorktown và Lexington đã tấn công và gây hư hại nặng cho chiếc Shokaku, buộc nó phải rút lui. Furutaka và Kinugasa vốn không bị hư hại trong trận đánh này, đã hộ tống Shokaku quay trở về Truk.Kinugasa quay trở về Nhật Bản vào tháng 6 năm 1942 để sửa chữa, rồi quay trở lại Truk vào ngày 4 tháng 7. Trong cuộc cải tổ sâu rộng Hải quân Nhật sau thất bại của trận Midway, vào ngày 14 tháng 7 năm 1942, Kinugasa được phân về Hạm đội 8 vừa mới được thành lập dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Mikawa Gunichi đặt căn cứ tại Rabaul.

Trận chiến đảo Savo

Trong Trận chiến đảo Savo vào ngày 9 tháng 8 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 (bao gồm Aoba, Furutaka, Kako và Kinugasa), Chokai, các tàu tuần dương hạng nhẹ Tenryu và Yūbari và tàu khu trục Yūnagi đã đối đầu cùng lực lượng hạm đội Đồng Minh trong một trận đánh đêm bằng hải pháo và ngư lôi. Vào khoảng 23 giờ 00, Chokai, Furutaka và Kako đã tung các thủy phi cơ trinh sát của mình ra. Những chiếc máy bay này lượn vòng bên trên hạm đội Đồng Minh và thả các quả pháo sáng chiếu rõ các mục tiêu, và tất cả các tàu chiến Nhật đã khai hỏa. Các tàu tuần dương USS Astoria, USS Quincy, USS Vincennes và HMAS Canberra đã bị đánh chìm, trong khi USS Chicago cùng các tàu khu trục USS Ralph Talbot và USS Patterson bị hư hại. Bên phía Nhật Bản, Kinugasa bị bắn trúng hai phát: một quả đạn pháo 127 mm (5 inch) từ chiếc Patterson bắn trúng phòng máy số 1, và một quả đạn khác của Vincennes bắn trúng bánh lái bên mạn trái. Chokai bị bắn trúng ba phát, Aoba một phát trong khi Furutaka hoàn toàn vô hại.Những con tàu vận tải chất đầy và nặng trĩu của Mỹ ngoài khơi Guadalcanal trở nên hoàn toàn không được bảo vệ. Tuy nhiên, Đô đốc Mikawa không biết được là những chiếc tàu sân bay bảo vệ của Đô đốc Fletcher đã rút lui. Do lo ngại một cuộc không kích lúc bình minh, ông đã ra lệnh lui quân. Thuyền trưởng Sawa của Kinugasa, thất vọng về quyết định này, đã phóng một loạt ngư lôi bên mạn phải về phía các tàu vận tải Đồng Minh ở khoảng cách 21 km (13 dặm) nhưng đều bị trượt. Ngày hôm sau, trong khi Hải đội Tuần dương 6 di chuyển về hướng Kavieng, Kako bị tàu ngầm Mỹ S 44 phóng ngư lôi đánh chìm.

Trận chiến mũi Esperance

Trong Trận chiến mũi Esperance diễn ra vào ngày 11 tháng 10 năm 1942, Hải đội Tuần dương 6 (bao gồm Aoba, Furutaka và Kinugasa) cùng các tàu khu trục Fubuki và Hatsuyuki rời Shortland để yểm trợ cho một đoàn tàu vận tải chở quân tăng cường cho Guadalcanal bằng cách bắn phá sân bay Henderson trên đảo này. Hai máy bay trinh sát Mỹ OS2U Kingfisher đã phát hiện ra hạm đội đang di chuyển dọc theo eo biển với vận tốc 56 km/h (30 knot).Được báo động kịp thời, các tàu tuần dương Mỹ được trang bị radar USS San Francisco, Boise, Salt Lake City và Helena cùng năm tàu khu trục đã di chuyển vòng qua mũi cực Nam đảo Guadalcanal để phong tỏa lối vào eo biển Savo. Lúc 22 giờ 35 phút, radar của chiếc Helena phát hiện ra hạm đội Nhật, và lực lượng Mỹ đã thành công trong việc Cắt ngang chữ T hạm đội Nhật. Cả hai bên đều nổ súng, nhưng do Đô đốc Goto nghĩ rằng mình đang bị bắn nhầm từ các tàu bạn, đã ra lệnh cho toàn hải đội quay mũi 180 độ khiến toàn bộ lực lượng của ông bị phơi sườn ra trước hỏa lực các tàu chiến Mỹ.Aoba bị hư hỏng nặng, và Đô đốc Goto bị tử thương. Furutaka bị bắn trúng một quả ngư lôi vào phòng máy phía trước và bị hải pháo của Salt Lake City và tàu khu trục Duncan đánh chìm. Hải pháo 203 mm (8 inch) của Kinugasa bắn trúng Boise và Salt Lake City, phá hỏng tháp pháo số 1 và số 2 của chiếc Boise; nhưng bản thân nó cũng bị bắn trúng bốn phát. Sáng hôm sau, Kinugasa bị năm máy bay Mỹ tấn công nhưng không bị thiệt hại, và quay trở về Shortland an toàn.

Hải chiến Guadalcanal

Vào ngày 14 tháng 10 năm 1942, Kinugasa trở thành soái hạm của Hải đội Tuần dương 6. Ngày hôm sau, Kinugasa và Chōkai tiến hành bắn phá sân bay Henderson trên đảo Guadalcanal với tổng cộng 752 quả đạn pháo 203 mm (8 inch).Trong các ngày 24 đến 26 tháng 10 và 1 đến 5 tháng 11, Kinugasa và Chōkai hỗ trợ cho các đoàn tàu vận tải chở binh lính và trang bị bổ sung thay thế nhằm tăng cường cho việc phòng thủ của quân Nhật tại Guadalcanal. Vào ngày 14 tháng 11 năm 1942, trong trận Hải chiến Guadalcanal, Kinugasa bị các máy bay ném bom-ngư lôi TBM Avenger từ tàu sân bay USS Enterprise và của lực lượng Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal tấn công. Lúc 09 giờ 36 phút một quả bom 250 kg (500 lb) đánh trúng khẩu đội súng máy 13,2 mm ngay phía trước cầu tàu chiếc Kinugasa, gây một đám cháy tại kho chứa xăng phía trước; Thuyền trưởng Sawa và Sĩ quan Cao cấp bị thiệt mạng bởi quả bom, và Kinugasa dần dần bị nghiêng sang mạn trái. Các quả bom ném gần trúng đã gây thêm các đám cháy và ngập nước. Một đợt tấn công thứ hai bởi 17 máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless đã phá hỏng động cơ và bánh lái, cũng như thêm nhiều ngăn bị ngập nước. Đến 11 giờ 22 phút, Kinugasa lật úp và chìm ở về phía Tây Nam đảo Rendova ở tọa độ 08°45′S 157°00′E, mang theo nó 511 thành viên thủy thủ đoàn.Kinugasa được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 12 năm 1942.

Đặt hàng: 1920

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Mogami

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Kawasaki, Kobe

Đặt lườn: tháng 4 năm 1934

Hạ thủy: 15 tháng 10 năm 1936

Hoạt động: tháng 10 năm 1937

Bị mất: Bị đánh chìm ngày 25 tháng 11 năm 1944

Xóa đăng bạ:

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 13.440 tấn

Chiều dài: 201,6 m (661 ft 5 in)

Mạn thuyền: 22 m (72 ft 2 in)

Tầm nước: 5,5 m (18 ft)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước

10 × nồi hơi Kampon; 4 × trục

công suất 152.000 mã lực (113 MW)

Tốc độ: 65 km/h (35 knot)

Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h

(8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 850

Vũ khí: ban đầu: 15 × pháo 155 mm (6,1 inch)/60 cal (5x3)

8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2)

4 × súng phòng không 40 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)

sau cùng: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 cal (5x2)

8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2)

30 × súng phòng không 25 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)

Vỏ giáp: đai giáp 100-125 mm (4-5 inch)

sàn tàu 35-60 mm (1,5-2,5 inch)

tháp súng 25 mm (1 inch)

hầm đạn: 127 mm (5 inch)

Máy bay: 3 × thủy phi cơ tuần tiểu Kiểu 1

Kumano (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp Mogami. Kumano từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị máy bay Mỹ đánh chìm tại Santa Cruz vào ngày 25 tháng 11 năm 1944.

Thiết kế và chế tạo

Được chế tạo trong Chương trình Tăng cường Hạm đội 1931, những chiếc trong lớp Mogami được thiết kế bởi Yuzuru Hiraga, và được chế tạo như những tàu tuần dương "hạng nhẹ" theo quy định của Hiệp ước Hải quân Washington; nhưng áp dụng những kỹ thuật mới nhất, trang bị năm tháp pháo đa dụng ba nòng 155 mm (6,1 inch) có góc nâng lên đến 55°. Để giảm trọng lượng, người ta áp dụng kỹ thuật hàn điện, sử dụng nhôm trong chế tạo cấu trúc thượng tầng, và chỉ có một ống khói duy nhất. Kiểu động cơ turbine hộp số mới, cùng với dàn hỏa lực phòng không rất hùng hậu, cho phép chúng có tốc độ rất nhanh và bảo vệ tốt.Chúng tỏ ra khá lớn so với những chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ, và các tháp súng được thiết kế sao cho có thể nhanh chóng chuyển đổi sang kiểu pháo 203 mm (8 inch) nòng đôi. Dù sao, lớp Mogami cũng mắc phải một số vấn đề kỹ thuật do thiết bị chưa được thử nghiệm và trọng lượng bên trên quá nặng tạo ra sự mất ổn định khi đi ngoài biển khơi trong thời tiết xấu.Mogami được hoàn tất tại xưởng đóng tàu của hãng Kawasaki tại Kobe vào ngày 31 tháng 10 năm 1937. Trong năm 1937 cả bốn chiếc trong lớp đều được "cải biến" thành những tàu tuần dương hạng nặng với mười khẩu pháo chính cỡ nòng 203 mm (8 inch); công việc tái cấu trúc và tái trang bị chỉ hoàn tất vào ngày 30 tháng 9 năm 1939.

Lịch sử hoạt động

Giai đoạn mở màn Thế Chiến II

Được phân về Hải đội Tuần dương 7 cùng các tàu chị em với nó Mogami, Mikuma và Suzuya, vào đầu năm 1941, từ căn cứ tiền phương của nó ở Hải Nam, Kumano tham gia vào việc chiếm đóng Nam Kỳ tại Đông Dương sau khi Đế quốc Nhật Bản và chính phủ Vichy đạt được thỏa thuận về việc sử dụng các căn cứ không quân và hải quân tại đây từ tháng 7 năm 1941. Vào lúc diễn ra trận tấn công Trân Châu Cảng, Kumano được giao nhiệm vụ hỗ trợ cuộc chiếm đóng Malaya trong thành phần Hải đội Tuần dương 7 thuộc Hạm đội Viễn chinh Phương Nam 1 của Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, trực tiếp bảo vệ cho các cuộc đổ bộ quân Nhật lên Singora, Patani và Kota Bharu.Vào ngày 9 tháng 12 năm 1941, tàu ngầm Nhật I-65 báo cáo trông thấy Lực lượng Z của Hải quân Hoàng gia Anh bao gồm chiếc thiết giáp hạm HMS Prince of Wales, tàu chiến-tuần dương HMS Repulse và các tàu khu trục hộ tống. Bản báo cáo này được tàu tuần dương hạng nhẹ Sendai thu được, và chuyển tiếp đến Đô đốc Ozawa lúc đó đang ở trên soái hạm của mình là tàu tuần dương Chokai. Tuy nhiên, việc thu tín hiệu rất kém và bản thân bức thông điệp phải mất thêm 90 phút để giải mã. Hơn nữa, bản báo cáo của I-65 không chính xác về hướng tiến của Lực lượng Z. Hai chiếc thủy phi cơ Aichi E13A1 "Jake" phóng lên từ Suzuya và Kumano dự tính để theo dõi Lực lượng Z, nhưng cả hai đều bị buộc phải đáp xuống biển do hết nhiên liệu, và chỉ có đội bay của Suzuya được cứu vớt. Ngày hôm sau, Lực lượng Z bị áp đảo bởi những máy bay ném bom-ngư lôi của Không đoàn 22 xuất phát từ Đông Dương, và bị tiêu diệt.Vào tháng 12 năm 1941, Kumano được giao nhiệm vụ chiếm đóng Sarawak, cùng với tàu tuần dương Suzuya hỗ trợ cuộc đổ bộ quân Nhật xuống Miri. Từ căn cứ của nó tại vịnh Cam Ranh, nó khởi hành cùng với Suzuya để hỗ trợ các cuộc đổ bộ tại Anambas, Endau, Palembang và đảo Banka, Sabang tại Sumatra và Java từ cuối tháng 12 năm 1941 đến giữa tháng 3 năm 1942. Kumano còn tham gia việc chiếm đóng quần đảo Andaman vào ngày 20 tháng 3 năm 1942.

Không kích Ấn Độ Dương

Từ ngày 1 tháng 4 năm 1942, Hải đội Tuần dương 7 đặt căn cứ tại Mergui, Burma hợp cùng Hải đội Tuần dương 4 để tham gia cuộc Không kích Ấn Độ Dương. Mikuma, Mogami và tàu khu trục Amagiri được tách ra để thành lập "Đội phía Nam" với vai trò truy lùng các tàu buôn đối phương trong khu vực vịnh Bengal; trong khi Kumano, Suzuya và tàu khu trục Shiokaze đảm trách các khu vực phía Bắc. Tàu tuần dương Chokai, tàu tuần dương hạng nhẹ Yura thuộc Hải đội Khu trục 4, tàu sân bay Ryujo cùng các tàu khu trục Ayanami, Yugiri và Asagiri hình thành nên đội trung tâm để tăng cường các lực lượng phía Nam hay phía Bắc khi cần thiết. Trong vài tuần sau đó, đội phía Bắc đã đánh chìm tàu buôn Mỹ tải trọng 4.986 tấn Exmoor và các tàu buôn Anh Autoclycus tải trọng 7.621 tấn, Malta 9.066 tấn và Shinkuang 2.440 tấn.Tổng cộng Hải quân Nhật đã đánh chìm hơn 20 tàu trong thời gian ở lại ngắn ngủi tại vịnh Bengal. Sau đó, Kumano được cho rút lui về Kure để sửa chữa, rồi được gửi đến Guam để gia nhập Đội vận chuyển Đổ bộ của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka đang chuẩn bị cho trận Midway.

Trận Midway

Ngày 5 tháng 6 năm 1942, Đô đốc Yamamoto Isoroku, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã ra lệnh cho Hải đội Tuần dương 7 tiến hành bắn pháo xuống đảo san hô Midway nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên đảo này. Lúc đó, Hải đội Tuần dương 7 và Hải đội Khu trục 8 còn cách mục tiêu 660 km (410 dặm), nên họ lao đi với tốc độ lên đến 65 km/h (35 knot); và vì biển động nên những chiếc tàu khu trục bị tụt lại. Đến 21 giờ 20 phút, mệnh lệnh bị hủy bỏ. Tuy nhiên, sự di chuyển đã đặt Hải đội Tuần dương 7 vào trong tầm bắn ngư lôi của chiếc tàu ngầm Mỹ USS Tambor, vốn bị Kumano phát hiện. Với tư cách soái hạm, Kumano ra lệnh chuyển hướng đồng loạt 45° sang mạn trái để tránh nguy cơ trúng ngư lôi. Mệnh lệnh chuyển hướng khẩn cấp được chiếc soái hạm và tàu tuần dương Suzuya thực hiện đúng, nhưng chiếc thứ ba trong đội hình Mikuma đã sai lầm thực hiện chuyển hướng 90°. Phía sau nó, Mogami chuyển hướng 45° như được chỉ thị, và điều này đã dẫn đến việc va chạm, khi Mogami đâm mạnh vào hông chiếc Mikuma bên mạn trái ngay bên dưới cầu tàu, khiến cả hai đều bị hư hại nặng. Kumano quay trở về Kure vào ngày 23 tháng 6 và Hải đội Tuần dương 7 được điều từ Hạm đội 2 sang Hạm đội 3.Sau khi quay lại Singapore, Hải đội Tuần dương 7 (Suzuya và Kumano) được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc tấn công Miến Điện từ ngày 28 tháng 7 năm 1942. Tuy nhiên, với việc lực lượng Mỹ tiến hành đổ bộ lên Guadalcanal vào ngày 7 tháng 8, Kumano nhanh chóng được gọi đến mặt trận Nam Thái Bình Dương.

Trận chiến biển Philippine

Vào ngày 13 tháng 6 năm 1944, Đô đốc Soemu Toyoda, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã ra lệnh tiến hành Chiến dịch "A-Go" để phòng thủ quần đảo Mariana Islands. Kumano được phân về "Lực lượng C" của Đô đốc Kurita Takeo cùng với các thiết giáp hạm Yamato và Musashi, các tàu sân bay Zuiho, Chiyoda và Chitose cùng các tàu tuần dương Atago, Takao, Maya, Chokai, Suzuya, Chikuma, Tone và Noshiro.Ngày 19 tháng 6, Hạm đội Cơ động Nhật Bản đã tấn công Lực lượng Đặc nhiệm 58 Mỹ ngoài khơi Saipan, nhưng đã phải chịu đựng thiệt hại nặng nề về không lực hải quân trong trận không chiến mà phía Mỹ đặt cái tên lóng là "Cuộc săn vịt trời Mariana vĩ đại". Khi hạm đội Mỹ phản công vào chiều tối ngày hôm sau, chiếc tàu tuần dương bị máy bay từ các tàu sân bay Mỹ Bunker Hill, Monterey và Cabot tấn công. Lúc 20 giờ 30 phút ngày 20 tháng 6, hai giờ sau khi bị đánh trúng ngư lôi phóng ra bởi máy bay Grumman TBM Avenger từ tàu sân bay USS Belleau Wood, tàu sân bay Hiyo bị nổ tung và chìm; đồng thời chiếc thiết giáp hạm Haruna bị hư hỏng nặng, nhưng Kumano thoát được mà không chịu thiệt hại. Đêm đó, Kumano rút lui cùng với phần còn lại của Hạm đội Nhật Bản về Okinawa.

Trận chiến vịnh Leyte

Cuối tháng 10 năm 1944, hạm đội Nhật Bản được tập trung tại Brunei nhằm đối phó với mối đe dọa về một cuộc đổ bộ của lực lượng Mỹ lên Philippine. Vào ngày 25 tháng 10 năm 1944, Kumano nằm trong thành phần "Lực lượng Trung Tâm" dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Kurita Takeo tham gia Trận chiến vịnh Leyte. Trong trận chiến ngoài khơi Samar, Kumano tấn công vào ba chiếc tàu sân bay hộ tống của Đội Đặc nhiệm 77.4 thuộc Đệ Thất hạm đội, và bị chống cự bởi chiếc tàu khu trục Johnston, khi nó phóng một loạt ngư lôi nhắm vào Kumano. Một quả ngư lôi Mark 15 đã đánh trúng và làm hư hại mũi tàu. Khi Kumano rút lui về hướng eo biển San Bernardino, nó còn chịu đựng một số đợt không khích nhưng chỉ bị hư hại nhẹ.Ngày hôm sau, Kumano bị các máy bay xuất phát từ tàu sân bay Hancock tấn công trong khu vực biển Sibuyan, và bị đánh trúng ba quả bom 225 kg (500 lb). Chiếc tàu tuần dương vẫn sống sót và rút lui được về vịnh Manila để sửa chữa mũi tàu và cả bốn nồi hơi.Kumano quay trở lại hoạt động vào ngày 6 tháng 11 năm 1944, thực hiện việc hộ tống cho đoàn tàu vận tải Ma-Ta 31. Đoàn tàu này bị một hải đội tàu ngầm Mỹ bao gồm những chiếc Batfish, Guitarro, Bream, Raton và Ray tấn công. Trong số những chiếc tàu ngầm Mỹ được nêu bên trên, chiếc Ray gây ra hư hại nhiều nhất cho chiếc Kumano. Tổng cộng các tàu ngầm Mỹ đã bắn ra 23 quả ngư lôi, và hai quả trong số đó đã đánh trúng Kumano. Quả thứ nhất phá hủy mũi tàu vừa mới được sửa chữa thay thế; trong khi quả thứ hai làm hư hại phòng động cơ bên mạn phải làm ngập nước tất cả bốn phòng động cơ. Chiếc tàu tuần dương bị nghiêng 11 độ và bị mất lái. Đến 19 giờ 30 phút, nó được chiếc tàu chở hàng Doryo Maru kéo vào vịnh Dasol, và từ đây được đưa về Santa Cruz trên đảo Luzon thuộc quần đảo Philippine.Trong khi đang được sửa chữa tại Santa Cruz, vào ngày 25 tháng 11 năm 1944, Kumano bị các máy bay xuất phát từ tàu sân bay Ticonderoga tấn công. Năm quả ngư lôi và bốn quả bom 225 kg (500 lb) đã đánh trúng chiếc tàu tuần dương, và đến 15 giờ 15 phút nó lật úp và chìm ở độ sâu khoảng 31 m (100 ft) nước.

Đặt hàng: 1927

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Takao

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Kawasaki tại Yokosuka

Đặt lườn: 4 tháng 12 năm 1928

Hạ thủy: 8 tháng 11 năm 1930

Hoạt động: 30 tháng 6 năm 1932

Bị mất: Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm ngày 23 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến eo biển Palawan

Xóa đăng bạ: 20 tháng 12 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 9.850 tấn (tiêu chuẩn); 13.350 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 203,8 m (668 ft 6 in)

Mạn thuyền: 19,0 - 20,7 m (62,3 - 68 ft)

Tầm nước: 6,1 - 6,4 m (20 ft - 21 ft)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước

12 × nồi hơi Kampon

4 × trục

công suất 133.100 mã lực (99,3 MW)

Tốc độ: 65,7 km/h (35,5 knot)

Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h

(8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 921 - 996

Vũ khí: Ban đầu: 10 × pháo 203 mm (8 inch)

4 × pháo 120 mm (4,7 inch)

8 × ống phóng ngư lôi

Sau khi tái trang bị: 8 × pháo 203 mm (8 inch)

12 × pháo 120 mm (4,7 inch)

cho đến 117 × súng phòng không 25 mm

8 × ống phóng ngư lôi

Vỏ giáp: đai giáp 37 đến 127 mm (1,5 - 5 inch)

sàn tàu 40 mm (1,5 inch)

vách ngăn 75 - 100 mm (3 - 4 inch)

tháp súng 25 mm (1 inch)

Máy bay: 3 thủy phi cơ (1 × Aichi E13A1 "Jake", 2 × F1M2 "Pete")

2 × máy phóng

Maya (Nhật: 摩耶? Ma Gia) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp Takao bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp Myōkō trước đó. Maya đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm ngày 23 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến eo biển Palawan trong khuôn khổ Trận chiến vịnh Leyte.

Thiết kế và chế tạo

Những tàu chiến thuộc lớp Myōkō được xem là không ổn định và nhiều kinh nghiệm rút ra đã được áp dụng cải tiến cho lớp Takao. Chúng là những tàu chiến nhanh và mạnh mẻ, trang bị mười khẩu pháo 203 mm (8 inch) và bốn khẩu pháo 120 mm (4,7 inch), tám ống phóng ngư lôi và nhiều vũ khí phòng không hổn hợp, một hỏa lực đủ mạnh để đối đầu với bất kỳ tàu tuần dương của mọi lực lượng hải quân trên thế giới.Những chiếc trong lớp Takao được chấp thuận trong năm tài chính 1927 như một phần trong chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản về một trận chiến quyết định. Chúng tạo nên xương sống cho lực lượng tấn công chiến đấu tầm xa. Maya được chế tạo tại xưởng đóng tàu của Kawasaki tại Yokosuka, và giống như những con tàu chị em với nó, tên nó được đặt theo tên một ngọn núi: Núi Maya tọa lạc tại ngoại ô Kobe. Maya được đặt lườn vào ngày 4 tháng 12 năm 1928, được hạ thủy vào ngày 8 tháng 11 năm 1930 và được đưa vào hoạt động ngày 30 tháng 6 năm 1932.

Lịch sử hoạt động

Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương

Lúc khởi đầu Chiến tranh Thái Bình Dương, Maya là soái hạm của Hải đội Tuần dương 4 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc (sau này là Đô đốc) Kondo Nobutake cùng với các con tàu chị em với nó Atago, Chōkai và Takao, và được trao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Malaya và Philippines. Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1942, Maya tham gia các chiến dịch nhằm chiếm đóng khu vực Đông Ấn thuộc Hà Lan vốn giàu nguồn dự trữ dầu mỏ tối cần thiết cho Nhật Bản. Vào ngày 3 tháng 3 năm 1942 Maya có mặt trong vụ đánh chìm chiếc pháo hạm Mỹ USS Asheville (PG-21) ở phía Nam đảo Java.Quay trở về Nhật Bản vào tháng 4 năm 1942, Maya tham gia cuộc truy đuổi không thành công Lực lượng Đặc nhiệm 16.2 vốn đã tung ra cuộc Không kích Doolittle xuống Tokyo làm hư hại chiếc tàu sân bay Ryuho đang trong quá trình cải tạo. Trong tháng 5 và tháng 6 năm 1942, nó tham gia vào chiến dịch chiếm đóng quần đảo Aleut.

Chiến dịch Guadalcanal và Chiến dịch quần đảo Aleut

Vào tháng 8 năm 1942, Maya được bố trí về phía Nam nhằm tăng cường lực lượng phòng thủ tại quần đảo Solomon, và đã tham gia Trận chiến Đông Solomons. Nó đặt căn cứ tại Truk cho đến hết năm 1942. Tuy nhiên, trong đợt tiến hành bắn phá sân bay Henderson vào ngày 14 tháng 11 năm 1942, lực lượng đặc nhiệm của Maya bị tàu ngầm Mỹ USS Flying Fish (SS-229) tấn công, nhưng sáu quả ngư lôi nhằm vào Maya đều bị trượt. Sau đó, Maya còn bị các máy bay ném bom bổ nhào Douglas "SBD Dauntless" thuộc Phi đội VB-10 tấn công, một chiếc đã ném một quả bom 227 kg (500-lb) trượt về phía sau con tàu, nhưng cánh phải của máy bay đã va chạm với cột buồm của Maya và đâm vào mạn trái con tàu, kích nổ những quả đạn pháo 120 mm (4,7 inch). Vụ nổ tiếp theo sau đã khiến 37 thủy thủ thiệt mạng.

Maya quay về Yokosuka để sửa chữa và tái trang bị vào tháng 1 năm 1943, rồi sau đó được bố trí vào Hạm đội Bắc, hỗ trợ các chiến dịch tiếp tế đến quần đảo Kurile và quần đảo Aleut. Vào ngày 26 tháng 3 năm 1943, Maya tham gia Trận chiến quần đảo Komandorski ngoài khơi bán đảo Kamchatka. Lực lượng Đội Đặc nhiệm 16.6 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc (sau là Phó Đô đốc) Charles H. McMorris, bao gồm các tàu tuần dương USS Richmond (CL-9), USS Salt Lake City (CA-25) và bốn tàu khu trục, đã tấn công Hạm đội 5 của Phó Đô đốc Hosogaya, gồm các tàu tuần dương Maya, Nachi, Tama, Abukuma và hai tàu khu trục, đang hộ tống một đoàn tàu vận tải chở binh lính và tiếp liệu tăng cường cho lực lượng bị cô lập trên Attu. Maya đã tung máy bay chỉ điểm pháo binh của nó ra, và phóng các quả ngư lôi Kiểu 93 "Long Lance" vào hạm đội Mỹ nhưng không trúng đích. Trong cuộc đấu pháo kéo dài bốn giờ, tàu tuần dương Salt Lake City và tàu khu trục USS Bailey (DD-492) bị hư hại; trong khi về phía Nhật, Maya và Nachi cũng bị hư hại và người Nhật phải từ bỏ chiến dịch tiếp tế bằng tàu nổi của họ.Sau khi được sửa chữa tại Yokosuka, Maya quay trở lại Kuriles vào cuối tháng 4 và trở thành soái hạm của Hạm đội 5, hỗ trợ cho việc triệt thoái lực lượng Nhật tại Kiska sau khi đảo Attu bị thất thủ vào tay lực lượng Mỹ vào tháng 8 năm 1943.Sau đợt tái trang bị tại Yokosuka với những khẩu đội phòng không Kiểu 96 nòng đôi (đưa tổng cộng lên đến 16 nòng), Maya cùng tàu tuần dương Chōkai quay trở lại Truk, đến nơi vào cuối tháng 9, và bắt đầu nhiệm vụ chuyển binh lính và tiếp liệu từ Truk đến Rabaul. Vào tháng 11, Maya bị các máy bay ném bom bổ nhào "SBD Dauntless" của tàu sân bay USS Saratoga (CV-3) tấn công. Một quả bom đã đánh trúng sàn để máy bay bên mạn trái bên trên phòng động cơ số 3, làm bùng phát một đám cháy lớn, và khiến 70 người thiệt mạng. Những sửa chữa khẩn cấp được thực hiện tại Rabaul trước khi Maya quay về Yokosuka vào cuối năm 1943.Tại Kure, Maya nhận lên tàu hai máy bay trinh sát tầm xa Aichi E13A1 Jake, binh lính và tiếp liệu. Một con khỉ, quà tặng của Sở thú Kure cho thủy thủ đoàn chiếc Maya, cũng được cho lên tàu. Trong hành trình trên biển kéo dài, con khỉ được huấn luyện để đứng nghiêm chào các sĩ quan cao cấp một cách rất thông minh, bất kể sự phiền nhiễu mà nó gây ra.

Trận chiến biển Phillipine và Trận chiến vịnh Leyte

Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1944, Maya hỗ trợ các đơn vị khác trong việc phòng thủ Philippines, mà cao điểm là Trận chiến biển Philippine trong các ngày 19 và 20 tháng 6 năm 1944, trong đó Maya bị hư hại nhẹ do các quả bom ném suýt trúng đích. Vào ngày 20 tháng 6 năm 1944, Maya cùng phần còn lại của Hạm đội rút lui ngang qua Okinawa về Yokosuka, nơi phải đưa lên bờ đội bay và con vật thân yêu của họ.Ngày 22 tháng 10 năm 1944, chuẩn bị cho Trận chiến vịnh Leyte, Maya được bố trí vào Hải đội Tuần dương 5 cùng với các con tàu chị em với nó Atago, Takao và Chōkai. Vào ngày 23 tháng 10 năm 1944, trong trận chiến eo biển Palawan, Atago và Takao trúng phải ngư lôi của tàu ngầm Mỹ USS Darter (SS-227) lúc 05 giờ 33 phút, và Atago bị chìm trong vòng 18 phút. Hai mươi phút sau, tàu ngầm Mỹ USS Dace (SS-247) phóng sáu ngư lôi về phía Maya, nhầm lẫn nó là một thiết giáp hạm thuộc lớp Kongō. Maya trúng phải bốn quả ngư lôi bên mạn trái: một quả trong buồng chứa dây neo phía trước, một quả khác đối diện tháp pháo số 1, quả thứ ba trúng phòng nồi hơi số 7 và quả cuối cùng trúng phòng động cơ phía sau. Các vụ nổ thứ phát xảy ra ngay lập tức, và đến 6 giờ 00 Maya chết đứng giữa biển và nghiêng nặng về mạn trái. Nó chìm năm phút sau đó, mang theo 336 sĩ quan và thủy thủ, kể cả vị thuyền trưởng chỉ huy.Tàu khu trục Akishimo đã cứu được 769 người, và sau đó chuyển họ lên chiếc thiết giáp hạm Musashi. Điều không may là bản thân chiếc thiết giáp hạm cũng bị máy bay Mỹ đánh chìm ngay ngày hôm sau 24 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến biển Sibuyan, khiến 143 thành viên thủy thủ đoàn của Maya bị mất cùng Musashi. Do đó, trong tổng số 1105 thuyền viên, 479 người đã tử trận.

Đặt hàng: 1931

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Mogami

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Mitsubishi tại Nagasaki

Đặt lườn: 24 tháng 12 năm 1931

Hạ thủy: 31 tháng 5 năm 1934

Hoạt động: 29 tháng 8 năm 1935[1]

Bị mất: Bị đánh chìm ngày 6 tháng 6 năm 1942 trong trận Midway tại tọa độ 29°20′N 173°30′E

Xóa đăng bạ: 10 tháng 8 năm 1942

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 8.500 tấn (ban đầu)

13.670 tấn (sau cùng)

Chiều dài: 197 m (646 ft 4 in) (ban đầu)

198 m (649 ft 7 in) (sau cùng)

Mạn thuyền: 18 m (59 ft) (ban đầu)

20,2 m (66 ft 4 in) (sau cùng)

Tầm nước: 5,5 m (18 ft) (ban đầu)

5,89 m (19 ft 4 in) (sau cùng)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước

10 × nồi hơi Kampon; 4 × trục

công suất 152.000 mã lực (113 MW)

Tốc độ: 68,5 km/h (37 knot) (ban đầu)

65 km/h (35 knot) (sau cùng)

Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h

(8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 850

Vũ khí: ban đầu: 15 × pháo 155 mm (6,1 inch)/60 cal (5x3)

8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2)

4 × súng phòng không 40 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)

sau cùng: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 cal (5x2)

8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2)

30 × súng phòng không 25 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)

Vỏ giáp: đai giáp 100-125 mm (4-5 inch)

sàn tàu 35-60 mm (1,5-2,5 inch)

tháp súng 25 mm (1 inch)

Máy bay: 3 × thủy phi cơ

Mikuma (tiếng Nhật: 三隈) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp Mogami. Tên của nó được đặt theo tên con sông Mikuma tại tỉnh Oita, Nhật Bản. Mikuma từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị máy bay Mỹ đánh chìm trong trận Midway ngày 6 tháng 6 năm 1942.

Thiết kế và chế tạo

Được chế tạo trong Chương trình Tăng cường Hạm đội 1931, những chiếc trong lớp Mogami được thiết kế bởi Hiraga Yuzuru, và được chế tạo như những tàu tuần dương "hạng nhẹ" theo quy định của Hiệp ước Hải quân Washington; nhưng áp dụng những kỹ thuật mới nhất, trang bị năm tháp pháo đa dụng ba nòng 155 mm (6,1 inch) có góc nâng lên đến 55°. Để giảm trọng lượng, người ta áp dụng kỹ thuật hàn điện, sử dụng nhôm trong chế tạo cấu trúc thượng tầng, và chỉ có một ống khói duy nhất. Kiểu động cơ turbine hộp số mới, cùng với dàn hỏa lực phòng không rất hùng hậu, cho phép chúng có tốc độ rất nhanh và bảo vệ tốt.Chúng tỏ ra khá lớn so với những chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ, và các tháp súng được thiết kế sao cho có thể nhanh chóng chuyển đổi sang kiểu pháo 203 mm (8 inch) nòng đôi. Dù sao, lớp Mogami cũng mắc phải một số vấn đề kỹ thuật do thiết bị chưa được thử nghiệm và trọng lượng bên trên quá nặng tạo ra sự mất ổn định khi đi ngoài biển khơi trong thời tiết xấu.Mikuma được hoàn tất tại xưởng đóng tàu của Mitsubishi tại Nagasaki vào ngày 29 tháng 8 năm 1935. Đến năm 1937 cả bốn chiếc trong lớp đều được "cải biến" thành những tàu tuần dương hạng nặng với mười khẩu pháo chính cỡ nòng 203 mm (8 inch). Các tháp súng cũ 155 mm ba nòng của nó được trang bị cho chiếc siêu-thiết giáp hạm Yamato; đồng thời đai giáp chống ngư lôi cũng được bổ sung để cải thiện độ ổn định. Tuy nhiên, việc tăng trọng lượng rẽ nước của con tàu đã làm giảm tốc độ tối đa.

[sửa] Lịch sử hoạt động

[sửa] Giai đoạn mở màn Thế Chiến II

Vào đầu năm 1941, từ căn cứ tiền phương của nó ở Hải Nam, Mikuma tham gia vào việc chiếm đóng Nam Kỳ tại Đông Dương sau khi Đế quốc Nhật Bản và chính phủ Vichy đạt được thỏa thuận về việc sử dụng các căn cứ không quân và hải quân tại đây từ tháng 7 năm 1941. Vào lúc diễn ra trận tấn công Trân Châu Cảng, Mikuma được giao nhiệm vụ hỗ trợ cuộc chiếm đóng Malaya trong thành phần Hải đội Tuần dương 7 thuộc Hạm đội Viễn chinh Phương Nam 1 của Phó Đô đốc Ozawa Jisaburo, trực tiếp bảo vệ cho các cuộc đổ bộ quân Nhật lên Singora, Patani và Kota Bharu.Vào tháng 12 năm 1941, Mikuma được giao nhiệm vụ chiếm đóng Sarawak, cùng với tàu tuần dương Mogami hỗ trợ cuộc đổ bộ quân Nhật xuống Kuching. Vào tháng 2 năm 1942, Mikuma được giao nhiệm vụ bảo vệ các cuộc đổ bộ tại Java, Borneo và Sumatra. Ngày 10 tháng 2, Mikuma và tàu tuần dương Chokai bị tàu ngầm Mỹ USS Searaven tấn công với bốn quả ngư lôi, nhưng tất cả đều kh̀ông trúng đích.

Trận chiến eo biển Sunda

Lúc 23 giờ 00 ngày 28 tháng 2 năm 1942, Mikuma và Mogami, tàu tuần dương hạng nhẹ Natori cùng các tàu khu trục Shikinami, Shirakumo, Murakumo, Shirayuki, Hatsuyuki và Asakaze đã đối đầu cùng tàu tuần dương Mỹ USS Houston và tàu tuần dương Australia HMAS Perth bằng hải pháo và ngư lôi sau khi các tàu chiến Mỹ tấn công các tàu vận tải Nhật bản tại eo biển Sunda. Lúc 23 giờ 55 phút, Houston bắn trúng vào Mikuma, làm thiệt mạng sáu người và bị thương 11 người khác, cùng làm hỏng hệ thống điện, nhưng hư hỏng này nhanh chóng được khắc phục. Cả hai chiếc Houston và Perth đều bị đánh chìm trong trận đánh này, trong khi phía Nhật bị thiệt hại chiếc tàu vận tải Ryujo Maru cùng Trung tướng Imamura Hitoshi Tư lệnh Tập đoàn quân 16 Nhật.Sang tháng 3, Mogami cùng Hải đội Tuần dương 7 đặt căn cứ tại Singapore để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ quân Nhật lên Sumatra và chiếm đóng quần đảo Andaman.

Không kích Ấn Độ Dương

Từ ngày 1 tháng 4 năm 1942, Hải đội Tuần dương 7 đặt căn cứ tại Mergui, Burma hợp cùng Hải đội Tuần dương 4 để tham gia cuộc Không kích Ấn Độ Dương. Mikuma, Mogami và tàu khu trục Amagiri được tách ra để thành lập "Đội phía Nam" với vai trò truy lùng các tàu buôn đối phương trong khu vực vịnh Bengal; trong khi Chokai, tàu tuần dương hạng nhẹ Yura thuộc Hải đội Khu trục 4 và các tàu khu trục Ayanami, Yugiri, Asagiri và Shiokaze đảm trách các khu vực phía Bắc. Trong quá trình chiến dịch, "Đội phía Nam" đã đánh chìm được các tàu buôn Anh Dardanus tải trọng 7.726 tấn, Ganara 5.281 tấn và Indora 6.622 tấn đang trên đường từ Calcutta đến Mauritius.Ngày 22 tháng 4 năm 1942, Hải đội Tuần dương 7 quay trở về Kure, và Mikuma vào ụ tàu để được đại tu. Ngày 26 tháng 5, Hải đội Tuần dương 7 đi đến Guam để hỗ trợ cho Đội vận chuyển Đổ bộ của Chuẩn Đô đốc Tanaka Raizo đang chuẩn bị cho trận Midway. Thủy thủ đoàn của Mikuma được thông báo sau khi hoàn tất việc chiến đóng Midway như dự định, họ sẽ tiếp tục đi đến quần đảo Aleut và sau đó sẽ là Australia.

Trận Midway

Ngày 5 tháng 6 năm 1942, Đô đốc Yamamoto Isoroku, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã ra lệnh cho Hải đội Tuần dương 7 tiến hành bắn pháo xuống đảo san hô Midway nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên đảo này. Lúc đó, Hải đội Tuần dương 7 và Hải đội Khu trục 8 còn cách mục tiêu 660 km (410 dặm), nên họ lao đi với tốc độ lên đến 65 km/h (35 knot); và vì biển động nên những chiếc tàu khu trục bị tụt lại. Đến 21 giờ 20 phút, mệnh lệnh bị hủy bỏ. Tuy nhiên, sự di chuyển đã đặt Hải đội Tuần dương 7 vào trong tầm bắn ngư lôi của chiếc tàu ngầm Mỹ USS Tambor, vốn bị tàu tuần dương Kumano phát hiện. Với tư cách soái hạm, Kumano ra lệnh chuyển hướng đồng loạt 45° sang mạn trái để tránh nguy cơ trúng ngư lôi. Mệnh lệnh chuyển hướng khẩn cấp được chiếc soái hạm và chiếc Suzuya thực hiện đúng; nhưng Mikuma, di chuyển thứ ba trong đội hình, đã sai lầm thực hiện chuyển hướng 90°. Phía sau nó, chiếc Mogami chuyển hướng 45° như được chỉ thị, và điều này đã dẫn đến việc va chạm, khi Mogami đâm mạnh vào hông chiếc Mikuma bên mạn trái ngay bên dưới cầu tàu. Mũi của chiếc Mogami bị biến dạng và nó bị hư hỏng nặng; trong khi bồn chứa dầu bên mạn trái chiếc Mikuma bị vỡ và nó bị tràn dầu, nhưng dù sao thiệt hại đối với nó là nhẹ. Các tàu khu trục Arashio và Asashio được lệnh ở lại phía sau để hộ tống Mogami và Mikuma. Sáng hôm sau, 6 tháng 6 năm 1942 lúc 05 giờ 34 phút, Mikuma và Mogami đang rút lui bị tấn công từ trên tầm cao bởi tám máy bay ném bom Boeing B-17 Flying Fortress xuất phát từ Midway, nhưng tất cả các quả bom đều trượt. Đến 08 giờ 05 phút, sáu chiếc máy bay ném bom bổ nhào Douglas SBD Dauntless thuộc Thủy quân Lục chiến cùng sáu chiếc Vought SB2U Vindicator từ Midway lại tấn công Mikuma và Mogami nhưng chúng chỉ ném được những quả bom suýt trúng đích.Mikuma và Mogami đang trên đường hướng đến đảo Wake khi chúng lại bị tấn công. Lần này là ba đợt máy bay ném bom bổ nhào với tổng cộng 31 chiếc SBD Dauntless xuất phát từ các tàu sân bay USS Enterprise và USS Hornet. Arashio và Asashio mỗi chiếc trúng một quả bom, trong khi Mogami trúng sáu quả bom và bị hư hại đáng kể nhưng có thể rút lui được. Mikuma trúng ít nhất năm quả bom ở cầu tàu, tháp chỉ huy phía trước và phía giữa tàu, và bị bốc cháy. Quả bom đánh trúng tháp chỉ huy đã vô hiệu hóa các tháp súng phía trước, quả bom đánh trúng cầu tàu gây một số thương vong, trong khi quả bom nổ phía giữa tàu làm kích nổ các quả ngư lôi và các vụ nổ phát sinh đã phá hủy toàn bộ con tàu. Thuyền trưởng Sakiyama bị thương nặng. Mikuma nghiêng qua mạn trái và chìm tại tọa độ 29°20′N 173°30′E. Các nguồn khác cho rằng có thể Asashio hay Suzuya đã phóng ngư lôi đánh đắm Mikuma vào ngày hôm sau.Asashio cứu được Thuyền trưởng Sakiyama, và sau đó chuyển ông sang chiếc Suzuya để tiếp tục chữa trị, nhưng ông mất bốn ngày sau đó do vết thương quá nặng. Mogami, Asashio và Arashio vớt được 240 người sống sót, nhưng có đến 650 người đã chìm theo con tàu. Đến ngày 9 tháng 6 năm 1942, tàu ngầm Mỹ USS Trout vớt thêm được hai người sống sót từ chiếc Mikuma và đưa các tù binh chiến tranh này về Trân Châu Cảng.Mikuma được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 10 tháng 8 năm 1942.

Đặt hàng: 1931

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Mogami

Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Kure

Đặt lườn: 27 tháng 10 năm 1931

Hạ thủy: 14 tháng 3 năm 1934

Hoạt động: 28 tháng 7 năm 1935[1]

Bị mất: Bị đánh chìm ngày 25 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến eo biển Surigao tại tọa độ 09°40′N 124°50′E

Xóa đăng bạ: 20 tháng 12 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 8.500 tấn (ban đầu)

13.670 tấn (sau cùng)

Chiều dài: 197 m (646 ft 4 in) (ban đầu)

198 m (649 ft 7 in) (sau cùng)

Mạn thuyền: 18 m (59 ft) (ban đầu)

20,2 m (66 ft 4 in) (sau cùng)

Tầm nước: 5,5 m (18 ft) (ban đầu)

5,89 m (19 ft 4 in) (sau cùng)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước

10 × nồi hơi Kampon; 4 × trục

công suất 152.000 mã lực (113 MW)

Tốc độ: 68,5 km/h (37 knot) (ban đầu)

65 km/h (35 knot) (sau cùng)

Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h

(8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 850

Vũ khí: ban đầu: 15 × pháo 155 mm (6,1 inch)/60 cal (5x3)

8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2)

4 x súng phòng không 40 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)

sau cùng: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 cal (5x2)

8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2)

30 x súng phòng không 25 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)

Vỏ giáp: đai giáp 100-125 mm (4-5 inch)

sàn tàu 35-60 mm (1,5-2,5 inch)

tháp súng 25 mm (1 inch)

Máy bay: 11 × thủy phi cơ

Mogami (Nhật: 最上? Tối Thượng) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami trong khu vực Tohoku của Nhật Bản. Nó từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị đánh chìm vào ngày 25 tháng 10 năm 1944 trong Trận chiến eo biển Surigao.

Thiết kế và chế tạo

Được chế tạo trong Chương trình Tăng cường Hạm đội 1931, những chiếc trong lớp Mogami được thiết kế bởi Yuzuru Hiraga, và được chế tạo như những tàu tuần dương "hạng nhẹ" theo quy định của Hiệp ước Hải quân Washington; nhưng áp dụng những kỹ thuật mới nhất, trang bị năm tháp pháo đa dụng ba nòng 155 mm (6,1 inch) có góc nâng lên đến 55°. Để giảm trọng lượng, người ta áp dụng kỹ thuật hàn điện, sử dụng nhôm trong chế tạo cấu trúc thượng tầng, và chỉ có một ống khói duy nhất. Kiểu động cơ turbine hộp số mới, cùng với dàn hỏa lực phòng không rất hùng hậu, cho phép chúng có tốc độ rất nhanh và bảo vệ tốt.Chúng tỏ ra khá lớn so với những chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ, và các tháp súng được thiết kế sao cho có thể nhanh chóng chuyển đổi sang kiểu pháo 203 mm (8 inch) nòng đôi. Dù sao, lớp Mogami cũng mắc phải một số vấn đề kỹ thuật do thiết bị chưa được thử nghiệm và trọng lượng bên trên quá nặng tạo ra sự mất ổn định khi đi ngoài biển khơi trong thời tiết xấu.Mogami được hoàn tất tại Xưởng hải quân Kure vào ngày 28 tháng 7 năm 1935. Đến năm 1937 cả bốn chiếc trong lớp đều được "cải biến" thành những tàu tuần dương hạng nặng với mười khẩu pháo chính cỡ nòng 203 mm (8 inch).

Lịch sử hoạt động

Giai đoạn mở màn Thế Chiến II

Vào đầu năm 1941, từ căn cứ tiền phương của nó ở Hải Nam, Mogami tham gia vào việc chiếm đóng Nam Kỳ tại Đông Dương sau khi Đế quốc Nhật Bản và chính phủ Vichy đạt được thỏa thuận về việc sử dụng các căn cứ không quân và hải quân tại đây từ tháng 7 năm 1941. Vào lúc diễn ra trận tấn công Trân Châu Cảng, Mogami được giao nhiệm vụ hỗ trợ cuộc chiếm đóng Malaya trong thành phần Hải đội Tuần dương 7 thuộc Hạm đội Viễn chinh Phương Nam 1 của Phó Đô đốc Ozawa Jisaburo, trực tiếp bảo vệ cho các cuộc đổ bộ quân Nhật lên Singora, Patani và Kota Bharu.Vào tháng 12 năm 1941, Mogami được giao nhiệm vụ chiếm đóng Sarawak, cùng với tàu tuần dương Mikuma hỗ trợ cuộc đổ bộ quân Nhật xuống Kuching. Vào tháng 2 năm 1942, Mogami được giao nhiệm vụ bảo vệ các cuộc đổ bộ tại Java, Borneo và Sumatra. Ngày 10 tháng 2, Mogami và tàu tuần dương Chokai bị tàu ngầm Mỹ USS Searaven tấn công với bốn quả ngư lôi, nhưng tất cả đều kh̀ông trúng đích.

Trận chiến eo biển Sunda

Lúc 23 giờ 00 ngày 28 tháng 2 năm 1942, Mogami và Mikuma, tàu tuần dương hạng nhẹ Natori cùng các tàu khu trục Shikinami, Shirakumo, Murakumo, Shirayuki, Hatsuyuki và Asakaze đã đối đầu cùng tàu tuần dương Mỹ USS Houston và tàu tuần dương Australia HMAS Perth bằng hải pháo và ngư lôi sau khi các tàu chiến Mỹ tấn công các tàu vận tải Nhật Bản tại eo biển Sunda. Cả hai chiếc Houston và Perth đều bị đánh chìm trong trận đánh này, trong khi phía Nhật bị thiệt hại chiếc tàu vận tải Ryujo Maru cùng Trung tướng Imamura Hitoshi Tư lệnh Tập đoàn quân 16 Nhật.Sang tháng 3, Mogami cùng Hải đội Tuần dương 7 đặt căn cứ tại Singapore để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ quân Nhật lên Sumatra và chiếm đóng quần đảo Andaman.

Không kích Ấn Độ Dương

Từ ngày 1 tháng 4 năm 1942, Hải đội Tuần dương 7 đặt căn cứ tại Mergui, Burma hợp cùng Hải đội Tuần dương 4 để tham gia cuộc Không kích Ấn Độ Dương. Mikuma, Mogami và tàu khu trục Amagiri được tách ra để thành lập "Đội phía Nam" với vai trò truy lùng các tàu buôn đối phương trong khu vực vịnh Bengal; trong khi Chokai, tàu tuần dương hạng nhẹ Yura thuộc Hải đội Khu trục 4 và các tàu khu trục Ayanami, Yugiri, Asagiri và Shiokaze đảm trách các khu vực phía Bắc. Trong quá trình chiến dịch, "Đội phía Nam" đã đánh chìm được các tàu buôn Anh Dardanus tải trọng 7.726 tấn, Ganara 5.281 tấn và Indora 6.622 tấn đang trên đường từ Calcutta đến Mauritius.Ngày 22 tháng 4 năm 1942, Hải đội Tuần dương 7 quay trở về Kure, và Mogami vào ụ tàu để được đại tu. Ngày 26 tháng 5, Hải đội Tuần dương 7 đi đến Guam để hỗ trợ cho Đội vận chuyển Đổ bộ của Chuẩn Đô đốc Tanaka Raizo đang chuẩn bị cho trận Midway.

Trận Midway

Ngày 5 tháng 6 năm 1942, Đô đốc Yamamoto Isoroku, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã ra lệnh cho Hải đội Tuần dương 7 tiến hành bắn pháo xuống đảo san hô Midway nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên đảo này. Lúc đó, Hải đội Tuần dương 7 và Hải đội Khu trục 8 còn cách mục tiêu 660 km (410 dặm), nên họ lao đi với tốc độ lên đến 65 km/h (35 knot); và vì biển động nên những chiếc tàu khu trục bị tụt lại. Đến 21 giờ 20 phút, mệnh lệnh bị hủy bỏ. Tuy nhiên, sự di chuyển đã đặt Hải đội Tuần dương 7 vào trong tầm bắn ngư lôi của chiếc tàu ngầm Mỹ USS Tambor, vốn bị tàu tuần dương Kumano phát hiện. Với tư cách soái hạm, Kumano ra lệnh chuyển hướng đồng loạt 45° sang mạn trái để tránh nguy cơ trúng ngư lôi. Mệnh lệnh chuyển hướng khẩn cấp được chiếc soái hạm và chiếc Suzuya thực hiện đúng, nhưng chiếc thứ ba trong đội hình Mikuma đã sai lầm thực hiện chuyển hướng 90°. Phía sau nó, Mogami chuyển hướng 45° như được chỉ thị, và điều này đã dẫn đến việc va chạm, khi Mogami đâm mạnh vào hông chiếc Mikuma bên mạn trái ngay bên dưới cầu tàu. Mũi của chiếc Mogami bị biến dạng và nó bị hư hỏng nặng; trong khi bồn chứa dầu bên mạn trái chiếc Mikuma bị vỡ và nó bị tràn dầu, nhưng dù sao thiệt hại đối với nó là nhẹ. Các tàu khu trục Arashio và Asashio được lệnh ở lại phía sau để hộ tống Mogami và Mikuma. Sáng hôm sau, 6 tháng 6 năm 1942 lúc 05 giờ 34 phút, Mikuma và Mogami đang rút lui bị tấn công từ trên tầm cao bởi tám máy bay ném bom Boeing B-17 Flying Fortress xuất phát từ Midway, nhưng tất cả các quả bom đều trượt. Đến 08 giờ 05 phút, sáu chiếc máy bay ném bom bổ nhào Douglas SBD Dauntless thuộc Thủy quân Lục chiến cùng sáu chiếc Vought SB2U Vindicator từ Midway lại tấn công Mikuma và Mogami nhưng chúng chỉ ném được những quả bom suýt trúng đích.Mikuma và Mogami đang trên đường hướng đến đảo Wake khi chúng lại bị tấn công. Lần này là ba đợt máy bay ném bom bổ nhào với tổng cộng 31 chiếc SBD Dauntless xuất phát từ các tàu sân bay USS Enterprise và USS Hornet. Mikuma trúng ít nhất năm quả bom và bốc cháy. Các quả ngư lôi của nó phát nổ, và các vụ nổ thứ phát đã phá hủy toàn bộ con tàu. Arashio và Asashio mỗi chiếc trúng một quả bom. Mogami trúng sáu quả bom. Tháp pháo số 5 hoàn toàn bị phá hủy và có 81 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng. Tuy nhiên, sĩ quan chỉ huy việc kiểm soát hư hỏng, Thiếu tá Masayushi Saruwatari, đã phóng bỏ các quả ngư lôi và thuốc súng, giúp cứu được con tàu khi một quả bom đánh trúng gần các ống phóng ngư lôi.

Nghỉ ngơi tại Nhật Bản

Mogami lại gia nhập Hải đội Tuần dương 7 vào ngày 8 tháng 6 năm 1942, và được sửa chữa tại Truk. Ngày 20 tháng 6, Chuẩn Đô đốc Nishimura Shoji tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 7, và đơn vị này được chuyển sang Hạm đội 3. Mogami được cho quay trở về Nhật Bản, và từ ngày 25 tháng 8 trải qua một đợt cải biến lớn tại Xưởng hải quân Sasebo, nâng cấp khả năng mang theo máy bay nhằm tăng cường khả năng trinh sát của hạm đội. Các tháp súng số 4 và số 5 được tháo bỏ, hầm đạn phía sau được cải tạo lại để chứa nhiên liệu máy bay và đạn dược. Sàn tàu phía sau được kéo dài và được trang bị một hệ thống đường ray để có thể mang được 11 thủy phi cơ trinh sát Aichi E16A Zuiun ("Paul"). Các khẩu pháo phòng không nòng đôi 25 mm và súng máy 13 mm được thay thế bằng 10 tháp súng ba nòng 25 mm Kiểu 96; và nó cũng được trang bị radar dò tìm trên không Kiểu 21. Vì kiểu máy bay mới E16A chưa sẵn sàng, ba chiếc máy bay cánh kép hai chỗ ngồi Mitsubishi F1M2 Kiểu 0 ("Pete") và bốn chiếc thủy phi cơ ba chỗ ngồi Aichi E13A1 Kiểu O ("Jake") được nhận lên tàu. Công việc cải tạo được hoàn tất vào ngày 30 tháng 4 năm 1943, và Mogami được bố trí về Hạm đội 1.[2]Ngày 22 tháng 5, Mogami bị va chạm với chiếc tàu chở dầu Toa Maru trong vịnh Tokyo và bị hư hại nhẹ. Ngày 8 tháng 6, Mogami neo đậu tại Hashirajima bên cạnh chiếc thiết giáp hạm Mutsu khi chiếc này nổ tung và chìm một cách bí ẩn. Mogami đã thả xuồng tìm cách cứu vớt những người sống sót và truy tìm kẻ tấn công nhưng đều thất bại. Ngày 9 tháng 7 năm 1943, Mogami rời Nhật Bản đi đến Truk cùng với một đoàn tàu vận tải lớn chở binh lính và tiếp liệu; lực lượng này bị tấn công bất thành bởi tàu ngầm Mỹ USS Tinosa; và sau khi đến được Truk, chiếc tàu tuần dương tiếp tục đi đến Rabaul.Từ tháng 8 đến tháng 11, Mogami thực hiện nhiều chuyến đi từ Truk để truy tìm hạm đội Mỹ và phản ứng lại các đợt tấn công thăm dò của Mỹ tại quần đảo Marshall. Từ ngày 3 tháng 11, các Hải đội Tuần dương 4, 7 và 8 được bố trí đến mặt trận tại quần đảo Solomon để tấn công lực lượng Mỹ ngoài khơi đảo Bougainville. Trong khi đang neo đậu tại Rabaul vào ngày 5 tháng 11, Mogami bị một máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless cất cánh từ tàu sân bay USS Saratoga tấn công đánh trúng một quả bom 225 kg (500 lb). Chiếc tàu tuần dương bị bốc cháy và 19 thủy thủ thiệt mạng.Sau khi được sửa chữa tại Truk, Mogami được lệnh quay về Nhật Bản. Tại Kure từ ngày 22 tháng 12 năm 1943, tám khẩu đội phòng không 25 mm Kiểu 96 nòng đơn được trang bị bổ sung trên sàn phía sau, nâng tổng cộng lên 38 nòng súng. Công việc tái trang bị hoàn tất vào ngày 8 tháng 3 năm 1944, và Mogami quay lại Singapore một tuần sau đó.

Trận chiến biển Philippine

Ngày 13 tháng 6 năm 1944, Đô đốc Soemu Toyoda, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp, ra lệnh bắt đầu Chiến dịch "A-Go" để bảo vệ quần đảo Mariana. Mogami được phân về "Lực lượng B" của Chuẩn Đô đốc Takatsugu Jojima cùng với các tàu sân bay Junyō, Hiyō và Ryūhō và thiết giáp hạm Nagato, được bố trí phía sau "Lực lượng Tiên phong C" của Phó Đô đốc Kurita Takeo.Lúc 05 giờ 30 phút, Mogami phóng ra hai chiếc thủy phi cơ trinh sát để phát hiện lực lượng đối phương. Sau đó, máy bay của Hạm đội Di động Nhật Bản đã tấn công Lực lượng Đặc nhiệm 58 Mỹ ngoài khơi Saipan, nhưng đã phải chịu đựng thiệt hại rất lớn trong "Cuộc săn vịt trời Marianna vĩ đại", một tên lóng mà phi công Mỹ đặt cho cuộc không chiến trong Trận chiến biển Philippine. Sau đó, lúc 20 giờ 30 phút ngày 20 tháng 6, tàu sân bay Hiyō bị nổ tung và chìm chỉ hai giờ sau khi bị đánh trúng ngư lôi bởi máy bay Grumman TBM Avenger từ tàu sân bay Mỹ USS Belleau Wood. Đêm hôm đó, Mogami rút lui cùng với phần còn lại của hạm đội về Okinawa.Quay trở lại Kure ngày 25 tháng 6, Mogami lại được tái trang bị một lần nữa. Bốn tháp pháo ba nòng và 10 tháp súng nòng đơn 25 mm phòng không Kiểu 96 được bổ sung, nâng tổng cộng lên 60 nòng súng (14x3 và 18x1); đồng thời các hệ thống radar dò tìm mặt đất Kiểu 22 và dò tìm trên không Kiểu 13 cũng được trang bị. Ngày 8 tháng 7, Mogami khởi hành rời Kure hướng đến Singapore và sau đó là Brunei, tham dự các đợt huấn luyện hạm đội và tuần tra trong khu vực Singapore-Brunei cho đến tháng 10.

Hải chiến vịnh Leyte

Vào cuối tháng 10, hạm đội Nhật Bản được tập trung tại Brunei nhằm đối phó với mối đe dọa Đồng Minh sẽ đổ bộ lên Philippine. Sáng ngày 24 tháng 10 năm 1944, Phó Đô đốc Nishimura ra lệnh phóng một trong những thủy phi cơ của Mogami để thám sát khu vực vịnh Leyte. Chiếc máy bay báo cáo nhìn thấy bốn thiết giáp hạm, hai tàu tuần dương và khoảng 80 tàu vận tải ngoài khơi khu vực đổ bộ; cùng bốn tàu khu trục và nhiều tàu tuần tra-phóng lôi (PT boat) ở gần eo biển Surigao. Thêm vào đó, máy bay tuần tiểu còn báo cáo về một lực lượng 12 tàu sân bay bỏ túi và 10 tàu khu trục cách 64 km (40 dặm) về phía Đông Nam đảo Leyte. Sau đó, lực lượng Nhật Bản bị tấn công trong vùng biển Sulu bởi 26 máy bay cất cánh từ các tàu sân bay USS Enterprise và Franklin. Mogami chỉ bị thiệt hại nhẹ bởi súng máy càn quét và rocket.

Trong trận chiến eo biển Surigao lúc rạng sáng ngày 25 tháng 10, từ 03 giờ 00 đến 03 giờ 30 phút, lực lượng Nhật bị các tàu tuần tra-phóng lôi PT boat và tàu khu trục Mỹ tấn công. Các thiết giáp hạm Fuso và Yamashiro trúng ngư lôi, trong khi tàu khu trục Yamagumo bị đánh chìm và Michishio bị loại khỏi vòng chiến, nhưng Mogami vẫn được an toàn. Sau đó Fuso và Yamashiro đều bị nổ tung và chìm. Từ 03 giờ 50 phút đến 04 giờ 02 phút, sau khi đi vào eo biển Surigao, Mogami bị bắn trúng bốn quả đạn pháo 203 mm (8 inch) làm phá hủy cầu tàu và trung tâm chỉ huy phòng không, cả thuyền trưởng lẫn sĩ quan cao cấp đều thiệt mạng trên cầu tàu, nên sĩ quan điều khiển hỏa lực phải lên nắm quyền chỉ huy con tàu. Trong khi tìm cách rút lui về phía Nam, chiếc soái hạm của Phó Đô đốc Kiyohide Shima, tàu tuần dương Nachi, đã va chạm với Mogami. Mũi của chiếc Nachi bị hư hại, trong khi mạn phải của Mogami bị thủng một lổ lớn bên trên mực nước, các đám cháy làm kích nổ năm quả ngư lôi và làm hư hại phòng động cơ bên mạn phải.Từ 05 giờ 30 phút đến 05 giờ 35 phút, chiếc Mogami đã hư hại lại bị trúng thêm từ 10 đến 20 phát đạn pháo 152 mm (6 inch) và 203 mm (8 inch) từ các tàu tuần dương Mỹ USS Portland, USS Louisville và USS Denver. Đến 08 giờ 30 phút, động cơ bên mạn trái của Mogami ngừng hoạt động. Đến 09 giờ 02 phút, trong khi bị trôi không thể điều khiển, nó còn bị 17 máy bay ném bom- ngư lôi TBM-1 Grumman Avenger thuộc Đội Đặc nhiệm 77.4.1 tấn công, và trúng thêm hai quả bom 225 kg (500 lb).Lúc 10 giờ 47 phút, Mogami bị bỏ lại. Đến 12 giờ 40 phút, tàu khu trục Akebono đánh chìm nó bằng một quả ngư lôi "Long Lance", và đến 13 giờ 07 phút, Mogami chìm tại tọa độ 09°40′N 124°50′E. Akebono cứu được 700 người sống sót, nhưng có 192 thành viên thủy thủ đoàn chìm theo cùng con tàu.Mogami được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 20 tháng 12 năm 1944.

Đặt hàng: 1924

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Myōkō

Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Yokosuka

Đặt lườn: 25 tháng 10 năm 1924

Hạ thủy: 16 tháng 4 năm 1927

Hoạt động: 31 tháng 7 năm 1929

Bị mất: Đánh đắm tại eo biển Malacca ngày 8 tháng 6 năm 1946

Xóa đăng bạ: 10 tháng 8 năm 1946

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 13.300 tấn

Chiều dài: 201,7 m (661 ft 9 in)

Mạn thuyền: 20,73 m (68 ft 1 in)

Tầm nước: 6,32 m (20 ft 9 in)

Lực đẩy: turbine hơi nước

12 × nồi hơi

4 × trục

công suất 130.000 mã lực (97 MW)

Tốc độ: 66,7 km/h (36 knot)

Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h

(8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 773

Vũ khí: 10 × pháo 203 mm (8 inch) (5×2)

6 × pháo 120 mm (4,7 inch) (8 × từ năm 1935)

2 × súng máy 13 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)[1]

Vỏ giáp: đai giáp: 100 mm (4 inch)

sàn tàu: 37 mm (1,5 inch)

tháp pháo: 25 mm (1 inch)

tháp súng: 75 mm (3 inch)

Máy bay: 2

Myōkō (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong lớp này là Nachi, Ashigara và Haguro. Tên của nó được đặt theo một ngọn núi tại tỉnh Niigata. Myōkō đã hoạt động trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai, và sau khi chiến tranh kết thúc nó bị cho đánh chìm tại eo biển Malacca ngoài khơi Singapore.

Thiết kế và chế tạo

Những con tàu trong lớp này có trọng lượng rẽ nước 13.300 tấn, dài 204 m và có thể di chuyển với tốc độ tối đa đến 36 knot (67 km/h). Chúng mang được hai thủy phi cơ và dàn pháo chính bao gồm mười khẩu 203mm (8 inch), hỏa lực mạnh nhất vào thời đó đối với mọi tàu tuần dương trên thế giới.Myōkō được đặt lườn tại Xưởng hải quân Yokosuka vào ngày 25 tháng 10 năm 1924, được hạ thủy và đặt tên vào ngày 16 tháng 4 năm 1927, và được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào ngày 31 tháng 7 năm 1929.

Lịch sử hoạt động

Giữa hai cuộc thế chiến

Trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật, Myōkō tham gia Chiến dịch Amoy từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 5 năm 1938. Sau đó Myōkō cùng các tàu tuần dương Nagara và Nachi tham gia Chiến dịch đảo Hải Nam vào tháng 2 năm 1939 dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Nobutake Kondō. Myōkō đã phục vụ như là soái hạm của vị Đô đốc trong chiến dịch này.

Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương

Các tàu tuần dương hạng nặng Myōkō và Nachi hợp thành Hải đội Tuần dương 5 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Takeo Takagi và tham gia vào Lực lượng hỗ trợ cho "Chiến dịch M" chiếm đóng phần phía Nam quần đảo Philippine. Soái hạm của lực lượng này là chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Ryujo, mang cờ hiệu của Phó Đô đốc Ibō Takahashi. Tham gia lực lượng này còn có tàu tuần dương hạng nhẹ Jintsu và tám tàu khu trục. Chúng đã hỗ trợ cho việc đổ bộ lên Davao và Legaspi vào tháng 12 năm 1941.Trong một đợt sắp xếp lại vào cuối tháng 12, Hải đội Tuần dương 5 được đưa vào Lực lượng tấn công dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Raizō Tanaka. Lực lượng này còn bao gồm các tàu sân bay Ryujo và Chitose, các tàu tuần dương Nagara và Naka, năm tàu khu trục và bảy tàu vận chuyển. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1942, lực lượng này bị các máy bay ném bom Mỹ B-17 Flying Fortress tấn công. Myōkō trúng phải một quả bom 227 kg (500 lb) và chỉ bị thiệt hại nhẹ, nhưng nó cũng được cho quay về ụ tàu ở Sasebo để sửa chữa.Trong Trận chiến biển Java vào ngày 1 tháng 3 năm 1942, Myōkō tham gia truy đuổi những đơn vị tàn quân còn lại của hạm đội Đồng Minh tại khu vực Đông Ấn. Lúc 11 giờ 50 phút, Myōkō, Ashigara và hai tàu khu trục đã nổ súng vào chiếc tàu tuần dương hạng nặng đã hư hại của Anh Exeter và hai tàu khu trục hộ tống. Hỏa lực pháo 203 mm (8 inch) của Myōkō đã phá hỏng tàu khu trục Encounter buộc nó phải tự đánh đắm sau đó.Cuối tháng 3, Myōkō trải qua một đợt đại tu và tái trang bị tại Sasebo. Sang tháng 4, nó tham gia vào việc truy đuổi không thành công lực lượng đặc nhiệm đã tung ra cuộc Không kích Doolittle.Vào tháng 5, Myōkō nằm trong hạm đội dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Chūichi Hara hộ tống cho lực lượng tấn công Tulagi. Lực lượng này bao gồm các tàu sân bay Shōkaku và Zuikaku, các tàu tuần dương hạng nặng Myōkō và Haguro cùng năm tàu khu trục. Trong trận chiến biển Coral diễn ra sau đó, Shōkaku bị máy bay Mỹ đánh hỏng trong khi Zuikaku bị mất hầu hết máy bay của nó, nên hạm đội bị buộc phải rút lui không thể đánh chiếm cảng Moresby.Sang tháng 6, Hải đội Tuần dương 5 tham gia Lực lượng hỗ trợ của Phó Đô đốc Nobutake Kondō trong trận Midway. Lực lượng này bao gồm các thiết giáp hạm Kongo và Hiei, các tàu tuần dương hạng nặng Myōkō, Haguro, Atago và Chokai, tàu tuần dương hạng nhẹ Yura cùng bảy tàu khu trục. Lực lượng hỗ trợ này đã không giáp chiến cùng đối phương trong trận đánh này.Vào cuối tháng 6, Hải đội Tuần dương 5 hỗ trợ cho đoàn tàu vận tải tăng cường đến các hòn đảo vừa mới chiếm được Attu và Kiska trong quần đảo Aleutian. Toàn bộ lực lượng đặc nhiệm bao gồm tàu sân bay Zuikaku, các tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho, Junyo và Ryujo, các tàu tuần dương hạng nặng Maya, Takao, Myōkō, Haguro và Nachi, các tàu tuần dương hạng nhẹ Abukuma, Kiso và Tama, cùng 15 tàu khu trục.

Chiến dịch quần đảo Solomon

Vào ngày 11 tháng 10 năm 1942, Myōkō khởi hành từ Truk trong thành phần của Hạm đội 2. Lực lượng này bao gồm các thiết giáp hạm Kongo và Haruna, các tàu tuần dương hạng nặng Myōkō, Atago, Chokai và Nachi, tàu tuần dương hạng nhẹ Isuzu cùng 12 tàu khu trục. Chúng được tiếp nối bởi lực lượng tàu sân bay tấn công của Phó Đô đốc Chuichi Nagumo, với nhiệm vụ tăng cường và bổ sung tiếp tế cho quân Nhật trên đảo Guadalcanal, vốn đang bị lực lượng Mỹ tấn công từ tháng 8.Từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943, sau một đợt đại tu tại Sasebo, Myōkō tham gia cuộc triệt thoái khỏi Guadalcanal. Lực lượng này bao gồm các tàu sân bay Zuikaku, Zuiho và Junyo, các thiết giáp hạm Kongo và Haruna, các tàu tuần dương hạng nặng Atago, Takao, Myōkō và Haguro, các tàu tuần dương hạng nhẹ Nagara và Agano cùng 11 tàu khu trục. Lực lượng này đã thành công trong việc rút lui 11.700 binh sĩ khỏi hòn đảo.

Các chiến dịch tiếp theo sau

Vào tháng 5 năm 1943, Myōkō và Haguro di chuyển lên phía Bắc để hỗ trợ cho cuộc rút lui khỏi Kiska. Đến tháng 6, chúng quay trở về Sasebo cho một đợt tái trang bị khác. Myōkō được bổ sung bốn khẩu đội phòng không 25 mm Kiểu 96 nòng đôi và radar dò tìm trên không Kiểu 21.Để đáp trả một đợt không kích của lực lượng tàu sân bay Mỹ xuống quần đảo Gilbert, Myōkō khởi hành cùng hạm đội của Phó Đô đốc Jisaburō Ozawa để đối đầu các tàu sân bay Mỹ. Hạm đội bao gồm các tàu sân bay Shōkaku, Zuikaku và Zuiho, các thiết giáp hạm Yamato và Nagato, các tàu tuần dương hạng nặng Myōkō, Haguro, Tone, Chikuma, Mogami, Atago, Takao, Chokai và Maya, tàu tuần dương hạng nhẹ Agano cùng 15 tàu khu trục. Mặc dù đã truy tìm rộng khắp, lực lượng này đã không bắt gặp được hạm đội đối phương và phải quay về Truk.Ngày 1 tháng 11, Myōkō và Haguro từ Truk di chuyển về phía Nam cùng hai tàu khu trục để hộ tống một đoàn tàu vận tải tiếp liệu đến Rabaul. Từ Rabaul, Hải đội Tuần dương 5 cùng các tàu tuần dương hạng nhẹ Agano và Sendai cùng sáu tàu khu trục hộ tống lực lượng tăng cường cho đảo Bougainville, với khoảng 1.000 binh sĩ Nhật được chở trên bốn tàu khu trục. Các tàu chiến di chuyển phía trước những con tàu vận tải, và đã đối mặt với lực lượng Mỹ trong Trận chiến vịnh Nữ hoàng Augusta lúc 12 giờ 50 phút ngày 3 tháng 11. Lực lượng mỹ gồm bốn tàu tuần dương hặng nhẹ và tám tàu khu trục đã đánh chìm Sendai bằng hỏa lực pháo 152 mm (6 inch). Trong khi cơ động để lẫn tránh đạn pháo Mỹ, Myōkō va chạm với chiếc tàu khu trục Hatsukaze khiến nó bị hư hỏng. Hatsukaze bị tụt lại phía sau đội hình khi rút lui và bị hải pháo Mỹ kết liễu. Chiếc Haguro bị hư hại nhẹ trong trận này, trong khi về phía Mỹ tàu khu trục Foote bị phá hủy bởi một quả ngư lôi Long Lance.Ngày 17 tháng 11, Myōkō quay trở về Sasebo để được tái trang bị. Nó được bổ sung thêm tám khẩu pháo phòng không 25 mm nòng đơn, nâng tổng số lên 24 khẩu. Vào tháng 1 năm 1944, Hải đội Tuần dương 5 (cùng với Tone và hai tàu khu trục) thực hiện an toàn một chuyến đi vận chuyển từ Truk đến Kavieng và quay về. Vào ngày 10 tháng 2, trong khi di chuyển từ Truk đến Palau cùng Atago và Chokai và tám tàu khu trục thuộc Hải đội Tuần dương 4, Hải đội Tuần dương 5 bị tấn công bởi một loạt bốn quả ngư lôi từ tàu ngầm Mỹ Permit, nhưng tất cả đều bị trượt.Vào tháng 3, Hải đội Tuần dương 5 cùng tàu khu trục Shiratsuyu hộ tống một đoàn tàu chở dầu rỗng từ Palau đến Borneo. Vào ngày 6 tháng 4, cả hai hải đội (được hai tàu khu trục hộ tống) bị tàu ngầm Dace tấn công. Nó bắn tấn cả sáu ngư lôi phía mũi, nhưng đều bị trượt. Tàu ngầm Darter cũng nhìn thấy lực lượng này, nhưng đã không thể cơ động vào vị trí có thể tấn công.

Trận chiến biển Philippine và Trận chiến vịnh Leyte

Vào tháng 6 năm 1944, Hải đội Tuần dương 5 tham gia vào Trận chiến biển Philippine, khi hạm đội Nhật Bản khởi hành từ Tawi Tawi đánh trả vào lực lượng Mỹ đang tấn công chiếm đóng quần đảo Marianas. Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Nhật Bản nhận thức rằng máy bay ném bom hạng nặng Mỹ đặt căn cứ tại Marianas có thể bay đến các đảo chính quốc Nhật, phá hủy các nhà máy và xưởng tàu của họ. Sau này các thủy thủ Mỹ đã đặt tên lóng cho trận đánh là "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại", vì đã có hơn 300 máy bay Nhật bị bắn rơi chỉ trong một ngày 19 tháng 6.Sau khi tham gia Trận chiến vịnh Leyte, trên đường đi đến vịnh Cam Ranh, Myōkō trúng phải một trong loạt sáu ngư lôi bắn ra từ tàu ngầm Mỹ Bergall lúc 21 giờ 35 phút ngày 13 tháng 12 năm 1944. Nó được chiếc tàu khu trục Ushio và nhiều tàu khác kéo về cảng Singapore để sửa chữa. Tuy nhiên, tình trạng thiếu hụt vật liệu trầm trọng tại Singapore không cho phép hoàn tất việc sửa chữa cho cả Myōkō lẫn Takao, lúc đó cũng đang ở tại đây.Đến tháng 2 năm 1945, chỉ huy cảng đã báo cáo về việc Myōkō không thể sửa chữa tại Singapore mà không có thêm nguyên vật liệu, và không thể kéo nó về Nhật Bản. Ông đề nghị giữ Myōkō lại Singapore như một pháo đài nổi phòng không. Đề nghị được chấp thuận, và cho dù cả Myōkō và Takao đều là mục tiêu cho các tàu ngầm bỏ túi Anh tấn công vào ngày 26 tháng 7, Myōkō đã sống sót qua được cuộc chiến. Myōkō chính thức đầu hàng các đơn vị Anh vào ngày 21 tháng 9, và sau đó được kéo ra eo biển Malacca và đánh chìm ngoài khơi cảng Klang, Malaysia, cạnh các tàu ngầm I-501 và I-502.

Đặt hàng: 1923

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Myōkō

Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Kure

Đặt lườn: 26 tháng 11 năm 1924

Hạ thủy: 15 tháng 6 năm 1927

Hoạt động: 28 tháng 11 năm 1928

Bị mất: Bị đánh chìm tại vịnh Manila ngày 5 tháng 11 năm 1944

Xóa đăng bạ: 20 tháng 1 năm 1945

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 13.300 tấn

Chiều dài: 201,7 m (661 ft 9 in)

Mạn thuyền: 20,73 m (68 ft 1 in)

Tầm nước: 6,32 m (20 ft 9 in)

Lực đẩy: turbine hơi nước

12 × nồi hơi

4 × trục

công suất 130.000 mã lực (97 MW)

Tốc độ: 66,7 km/h (36 knot)

Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h

(8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 773

Vũ khí: 10 × pháo 203 mm (8 inch) (5×2)

6 × pháo 120 mm (4,7 inch) (8 × từ năm 1935)

2 × súng máy 13 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)[1]

Vỏ giáp: đai giáp: 100 mm (4 inch)

sàn tàu: 37 mm (1,5 inch)

tháp pháo: 25 mm (1 inch)

tháp súng: 75 mm (3 inch)

Máy bay: 2

Nachi (tiếng Nhật: 那智) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, một trong số bốn chiếc thuộc lớp Myōkō; những chiếc khác trong lớp này là Myōkō, Ashigara và Haguro. Tên của nó được đặt theo một ngọn núi tại tỉnh Wakayama. Nachi đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và bị máy bay Mỹ đánh chìm tại vịnh Manila ngày 5 tháng 11 năm 1944.

Thiết kế và chế tạo

Những con tàu trong lớp này có trọng lượng rẽ nước 13.300 tấn, dài 204 m và có thể di chuyển với tốc độ tối đa đến 36 knot (67 km/h). Chúng mang được hai thủy phi cơ và dàn pháo chính bao gồm mười khẩu 203mm (8 inch), hỏa lực mạnh nhất vào thời đó đối với mọi tàu tuần dương trên thế giới.Nachi được đặt lườn tại Xưởng hải quân Kure vào ngày 26 tháng 11 năm 1924, được hạ thủy và đặt tên vào ngày 15 tháng 6 năm 1927, và được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào ngày 26 tháng 11 năm 1928.

Lịch sử hoạt động

Giai đoạn mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương

Các tàu tuần dương hạng nặng Myōkō và Nachi hợp thành Hải đội Tuần dương 5 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Takeo Takagi và tham gia vào Lực lượng hỗ trợ cho "Chiến dịch M" chiếm đóng phần phía Nam quần đảo Philippine. Soái hạm của lực lượng này là chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Ryujo, mang cờ hiệu của Phó Đô đốc Ibō Takahashi. Tham gia lực lượng này còn có tàu tuần dương hạng nhẹ Jintsu và tám tàu khu trục. Chúng đã hỗ trợ cho việc đổ bộ lên Davao và Legaspi vào tháng 12 năm 1941.Trong một đợt sắp xếp lại vào cuối tháng 12, Hải đội Tuần dương 5 được đưa vào Lực lượng tấn công dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Raizō Tanaka. Lực lượng này còn bao gồm các tàu sân bay Ryujo và Chitose, các tàu tuần dương Nagara và Naka, năm tàu khu trục và bảy tàu vận chuyển.Tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, Nachi đối đầu cùng lực lượng đối phương ngoài khơi Makassar vào ngày 8 tháng 2 năm 1942. Nó đóng vai trò quan trọng trong Trận chiến biển Java vào ngày 27 tháng 2 năm 1942, và tham gia vào việc đánh chìm tàu tuần dương hạng nặng Anh Exeter và tàu khu trục Encounter trong một hoạt động khác ngoài khơi phía Nam Borneo vào ngày 1 tháng 3 năm 1942.Sau đó Nachi di chuyển đến quần đảo Aleut nơi nó tham gia một đòn tấn công phân tán nghi binh tại quần đảo này vào ngày 3 tháng 6 năm 1942. Nó quay trở lại quần đảo Aleut sau khi bị hư hại vào ngày 26 tháng 3 năm 1943 trong Trận chiến quần đảo Komandorski, và tham gia hoạt động tại Kiska vào tháng 7 năm 1943. Đến tháng 10 năm 1944, nó có mặt tại Philippines, và bị hư hại khi tham gia Trận chiến eo biển Surigao vào ngày 25 tháng 10 năm 1944.

Kết thúc

Cuối cùng Nachi bị máy bay từ các tàu sân bay Lexington và Ticonderoga đánh chìm trong vịnh Manila vào ngày 5 tháng 11 năm 1944. Chiếc tàu tuần dương chịu đựng ba đợt không kích và trúng ít nhất chín quả ngư lôi và nhiều rocket, bị nổ tung hai lần và bị tách làm ba mảnh trước khi chìm trong một đám dầu loang lớn. Trong số thủy thủ đoàn, có 807 người thiệt mạng kể cả Thuyền trưởng Kanooka, và có 220 người sống sót. Tư lệnh lực lượng tấn công, Phó Đô đốc Kiyohide Shima, sống sót vì ông đang ở trên bờ khi máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm 38 tấn công.Trong quyển sách của mình Combined Fleet Decoded, tác giả John Prados cho biết về một cú sốc tình báo quan trọng khi người nhái Hải quân Mỹ phát hiện các tài liệu về bộ mật mã được tìm thấy trên bàn và trong ngăn kéo trên chiếc Nachi. Điều này gây sửng sốt vì những tài liệu mật như vậy thậm chí còn không được cất giữ trong những két sắt an toàn, vì lúc đó Nachi đang là soái hạm của lực lượng tấn công. Các trang bị radar đời đầu của Nhật Bản cũng được tìm thấy trên xác tàu đắm của con tàu.[2]Đã có sự suy đoán rằng một số lượng vàng lớn đang trên chiếc Nachi khi nó bị đánh chìm, và sau đó được các người nhái Hải quân Mỹ tìm thấy. Tuy nhiên đây là một điểm gây ra nhiều sự tranh luận và nghi ngờ, khi bị đa số các tác giả bác bỏ vì có quá ít chứng cứ.

Đặt hàng: 1931

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Mogami

Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Yokosuka

Đặt lườn: 11 tháng 12 năm 1933

Hạ thủy: 20 tháng 11 năm 1934

Hoạt động: 31 tháng 10 năm 1937[1]

Bị mất: Bị đánh chìm ngày 25 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến ngoài khơi Samar tại tọa độ 11°45.2′N 126°11.2′E

Xóa đăng bạ: 20 tháng 12 năm 1944

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 8.500 tấn (ban đầu)

13.670 tấn (sau cùng)

Chiều dài: 197 m (646 ft 4 in) (ban đầu)

198 m (649 ft 7 in) (sau cùng)

Mạn thuyền: 18 m (59 ft) (ban đầu)

20,2 m (66 ft 4 in) (sau cùng)

Tầm nước: 5,5 m (18 ft) (ban đầu)

5,89 m (19 ft 4 in) (sau cùng)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước

10 × nồi hơi Kampon; 4 × trục

công suất 152.000 mã lực (113 MW)

Tốc độ: 68,5 km/h (37 knot) (ban đầu)

65 km/h (35 knot) (sau cùng)

Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 26 km/h

(8.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 850

Vũ khí: ban đầu: 15 × pháo 155 mm (6,1 inch)/60 cal (5x3)

8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2)

4 × súng phòng không 40 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)

sau cùng: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 cal (5x2)

8 × pháo 127 mm (5 inch)/40 cal (4x2)

30 × súng phòng không 25 mm

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (24 inch)

Vỏ giáp: đai giáp 100-125 mm (4-5 inch)

sàn tàu 35-60 mm (1,5-2,5 inch)

tháp súng 25 mm (1 inch)

Máy bay: 3 × thủy phi cơ

Suzuya (tiếng Nhật: 鈴谷 suzuya) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp Mogami. Tên của nó được đặt theo tên con sông Suzuya tại khu vực Tohoku, Nhật Bản. Suzuya từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị máy bay Mỹ đánh chìm trong trận chiến ngoài khơi Samar ngày 25 tháng 10 năm 1944.

Thiết kế và chế tạo

Được chế tạo trong Chương trình Tăng cường Hạm đội 1931, những chiếc trong lớp Mogami được thiết kế bởi Yuzuru Hiraga, và được chế tạo như những tàu tuần dương "hạng nhẹ" theo quy định của Hiệp ước Hải quân Washington; nhưng áp dụng những kỹ thuật mới nhất, trang bị năm tháp pháo đa dụng ba nòng 155 mm (6,1 inch) có góc nâng lên đến 55°. Để giảm trọng lượng, người ta áp dụng kỹ thuật hàn điện, sử dụng nhôm trong chế tạo cấu trúc thượng tầng, và chỉ có một ống khói duy nhất. Kiểu động cơ turbine hộp số mới, cùng với dàn hỏa lực phòng không rất hùng hậu, cho phép chúng có tốc độ rất nhanh và bảo vệ tốt.Chúng tỏ ra khá lớn so với những chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ, và các tháp súng được thiết kế sao cho có thể nhanh chóng chuyển đổi sang kiểu pháo 203 mm (8 inch) nòng đôi. Dù sao, lớp Mogami cũng mắc phải một số vấn đề kỹ thuật do thiết bị chưa được thử nghiệm và trọng lượng bên trên quá nặng tạo ra sự mất ổn định khi đi ngoài biển khơi trong thời tiết xấu.Suzuya được hoàn tất tại Xưởng hải quân Yokosuka vào tháng 1 năm 1936, nhưng được đưa về lực lượng dự bị trong khi chờ đợi có chỗ trống trong ụ tàu để tiến hành cải tạo. Đến năm 1937 cả bốn chiếc trong lớp đều được "cải biến" thành những tàu tuần dương hạng nặng với mười khẩu pháo chính cỡ nòng 203 mm (8 inch); công việc tái cấu trúc và tái trang bị chỉ hoàn tất vào ngày 30 tháng 9 năm 1939.

Lịch sử hoạt động

Giai đoạn mở màn Thế Chiến II

Được phân về Hải đội Tuần dương 7 cùng các tàu chị em với nó Mogami, Mikuma và Kumano, vào đầu năm 1941, từ căn cứ tiền phương của nó ở Hải Nam, Suzuya tham gia vào việc chiếm đóng Nam Kỳ tại Đông Dương sau khi Đế quốc Nhật Bản và chính phủ Vichy đạt được thỏa thuận về việc sử dụng các căn cứ không quân và hải quân tại đây từ tháng 7 năm 1941. Vào lúc diễn ra trận tấn công Trân Châu Cảng, Suzuya được giao nhiệm vụ hỗ trợ cuộc chiếm đóng Malaya trong thành phần Hải đội Tuần dương 7 thuộc Hạm đội Viễn chinh Phương Nam 1 của Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, trực tiếp bảo vệ cho các cuộc đổ bộ quân Nhật lên Singora, Patani và Kota Bharu.Vào ngày 9 tháng 12 năm 1941, tàu ngầm Nhật I-65 báo cáo trông thấy Lực lượng Z của Hải quân Hoàng gia Anh bao gồm chiếc thiết giáp hạm HMS Prince of Wales, tàu chiến-tuần dương HMS Repulse và các tàu khu trục hộ tống. Bản báo cáo này được tàu tuần dương hạng nhẹ Sendai thu được, và chuyển tiếp đến Đô đốc Ozawa lúc đó đang ở trên soái hạm của mình là tàu tuần dương Chokai. Tuy nhiên, việc thu tín hiệu rất kém và bản thân bức thông điệp phải mất thêm 90 phút để giải mã. Hơn nữa, bản báo cáo của I-65 không chính xác về hướng tiến của Lực lượng Z. Hai chiếc thủy phi cơ Aichi E13A1 "Jake" phóng lên từ Suzuya và Kumano dự tính để theo dõi Lực lượng Z, nhưng cả hai đều bị buộc phải đáp xuống biển do hết nhiên liệu, và chỉ có đội bay của Suzuya được cứu vớt. Ngày hôm sau, Lực lượng Z bị áp đảo bởi những máy bay ném bom-ngư lôi của Không đoàn 22 xuất phát từ Đông Dương, và bị tiêu diệt.Vào tháng 12 năm 1941, Suzuya được giao nhiệm vụ chiếm đóng Sarawak, cùng với tàu tuần dương Kumano hỗ trợ cuộc đổ bộ quân Nhật xuống Miri. Từ căn cứ của nó tại vịnh Cam Ranh, nó khởi hành cùng với Kumano để hỗ trợ các cuộc đổ bộ tại Anambas, Endau, Palembang và đảo Banka, Sabang tại Sumatra và Java từ cuối tháng 12 năm 1941 đến giữa tháng 3 năm 1942. Suzuya còn tham gia việc chiếm đóng quần đảo Andaman vào ngày 20 tháng 3 năm 1942.

Không kích Ấn Độ Dương

Từ ngày 1 tháng 4 năm 1942, Hải đội Tuần dương 7 đặt căn cứ tại Mergui, Burma hợp cùng Hải đội Tuần dương 4 để tham gia cuộc Không kích Ấn Độ Dương. Mikuma, Mogami và tàu khu trục Amagiri được tách ra để thành lập "Đội phía Nam" với vai trò truy lùng các tàu buôn đối phương trong khu vực vịnh Bengal; trong khi Suzuya, Kumano và tàu khu trục Shiokaze đảm trách các khu vực phía Bắc. Tàu tuần dương Chokai, tàu tuần dương hạng nhẹ Yura thuộc Hải đội Khu trục 4, tàu sân bay Ryujo cùng các tàu khu trục Ayanami, Yugiri và Asagiri hình thành nên đội trung tâm để tăng cường các lực lượng phía Nam hay phía Bắc khi cần thiết. Trong vài tuần sau đó, đội phía Bắc đã đánh chìm tàu buôn Mỹ tải trọng 4.986 tấn Exmoor và các tàu buôn Anh Autoclycus tải trọng 7.621 tấn, Malta 9.066 tấn và Shinkuang 2.440-ton.Tổng cộng Hải quân Nhật đã đánh chìm hơn 20 tàu trong thời gian ở lại ngắn ngủi tại vịnh Bengal. Sau đó, Suzuya được cho rút lui về Kure để sửa chữa, rồi được gửi đến Guam để gia nhập Đội vận chuyển Đổ bộ của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka đang chuẩn bị cho trận Midway.

Trận Midway

Ngày 5 tháng 6 năm 1942, Đô đốc Yamamoto Isoroku, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã ra lệnh cho Hải đội Tuần dương 7 tiến hành bắn pháo xuống đảo san hô Midway nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên đảo này. Lúc đó, Hải đội Tuần dương 7 và Hải đội Khu trục 8 còn cách mục tiêu 660 km (410 dặm), nên họ lao đi với tốc độ lên đến 65 km/h (35 knot); và vì biển động nên những chiếc tàu khu trục bị tụt lại. Đến 21 giờ 20 phút, mệnh lệnh bị hủy bỏ. Tuy nhiên, sự di chuyển đã đặt Hải đội Tuần dương 7 vào trong tầm bắn ngư lôi của chiếc tàu ngầm Mỹ USS Tambor, vốn bị tàu tuần dương Kumano phát hiện. Với tư cách soái hạm, Kumano ra lệnh chuyển hướng đồng loạt 45° sang mạn trái để tránh nguy cơ trúng ngư lôi. Mệnh lệnh chuyển hướng khẩn cấp được chiếc soái hạm và chiếc Suzuya thực hiện đúng, nhưng chiếc thứ ba trong đội hình Mikuma đã sai lầm thực hiện chuyển hướng 90°. Phía sau nó, Mogami chuyển hướng 45° như được chỉ thị, và điều này đã dẫn đến việc va chạm, khi Mogami đâm mạnh vào hông chiếc Mikuma bên mạn trái ngay bên dưới cầu tàu, khiến cả hai đều bị hư hại nặng. Suzuya quay trở về Kure vào ngày 23 tháng 6 và Hải đội Tuần dương 7 được điều từ Hạm đội 2 sang Hạm đội 3.Sau khi quay lại Singapore, Hải đội Tuần dương 7 (Suzuya và Kumano) được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc tấn công Miến Điện từ ngày 28 tháng 7 năm 1942. Trong khi di chuyển tại eo biển Malacca, Suzuya bị tàu ngầm O-23 của Hải quân Hoàng gia Hà Lan tấn công với bốn quả ngư lôi nhắm vào nó, nhưng đều bị trượt. Tuy nhiên, với việc lực lượng Mỹ tiến hành đổ bộ lên Guadalcanal vào ngày 7 tháng 8, Suzuya nhanh chóng được gọi đến mặt trận Nam Thái Bình Dương.

Các chiến dịch tại quần đảo Solomon

Ngày 24 tháng 8 năm 1942, Hải đội Tuần dương 7 gia nhập lực lượng tấn công tàu sân bay của Phó Đô đốc Chuichi Nagumo, bao gồm các tàu sân bay Shokaku, Zuikaku, Zuiho và Ryujo) cùng tàu tuần dương Chikuma ở về phía Đông Bắc Guadalcanal. Trong Trận chiến Đông Solomon diễn ra sau đó, tàu sân bay Mỹ USS Saratoga đã đánh chìm chiếc tàu sân bay Nhật Ryujo; nhưng Suzuya ở quá xa để có thể tham dự vào trận chiến. Sau đó Suzuya tuần tra tại khu vực giữa Truk và quần đảo Solomon cho đến giữa tháng 10.Ngày 26 tháng 10 năm 1942, lực lượng tấn công tàu sân bay của Nagumo lại giáp chiến cùng các tàu sân bay USS Enterprise, USS Hornet, thiết giáp hạm USS South Dakota và tàu tuần dương USS San Juan trong trận Santa Cruz, đánh chìm chiếc Hornet và làm hư hại những chiếc khác. Trận đánh này thuần túy là những cuộc không kích tầm xa, nên một lần nữa Suzuya lại ở quá xa để có thể tham gia chiến đấu trực tiếp.Vào đầu tháng 11, Hải đội Tuần dương 7 được lệnh tăng cường cho Hạm đội 8 của Phó Đô đốc Gunichi Mikawa tại Shortland, và tham gia bắn phá sân bay Henderson trên đảo Guadalcanal vào ngày 14 tháng 11. Các tàu tuần dương Suzuya, Maya, Tenryu, Chokai, Kinugasa và Isuzu cùng các tàu khu trục Kazagumo, Makigumo, Michishio, Yugumo, Asashio và Arashio đã bắn phá sân bay Henderson với 989 quả đạn pháo 203 mm (8 inch). Trên đường rút lui, lực lượng đặc nhiệm bị tàu ngầm Mỹ USS Flying Fish tấn công nhưng đều trượt, và sau đó là máy bay cất cánh từ tàu sân bay Enterprise và từ Guadalcanal. Kinugasa bị đánh chìm, Chokai và Maya bị hư hại, riêng Suzuya thoát được mà không bị thiệt hại, và cho đến đầu tháng 1 năm 1943 tiếp tục nhiệm vụ tuần tra và hộ tống các đoàn tàu vận tải di chuyển giữa Truk, Kavieng và Rabaul.Suzuya quay trở về Kure vào ngày 12 tháng 1 năm 1943 để sửa chữa, và cũng để bổ sung thêm hỏa lực phòng không và một hệ thống radar dò tìm trên không Kiểu 21. Nó quay trở lại Kure một lần nữa vào ngày 6 tháng 4, khi các khẩu súng máy 13 mm nòng đôi được thay thế bằng hai khẩu 25 mm AT/AA Kiểu 96 đa dụng ba nòng.Suzuya rời cảng Yokosuka vào ngày 16 tháng 6 năm 1943 cùng một đoàn tàu vận tải tiếp liệu quan trọng đi đến quần đảo Solomon, và sau đó thực hiện các chuyến đi lại con thoi giữa Truk và Rabaul cho đến cuối năm đó. Vào ngày 18 tháng 7, Suzuya bị những chiếc máy bay ném bom-ngư lôi TBM Avenger của Thủy quân Lục chiến Mỹ đặt căn cứ tại Guadalcanal tấn công ngoài khơi Kolombangara, nhưng thoát được mà không bị thiệt hại. Vào ngày 3 tháng 11, Suzuya cùng với Mogami và Chikuma được cho tách ra từ Rabaul để tiến hành bắn phá vào lực lượng Mỹ vừa mới đổ bộ xuống vịnh nữ hoàng Augusta trên đảo Bougainville Nhưng cuộc nả pháo bị ngăn chặn chặn bên ngoài tầm pháo nhờ hoạt động thắng lợi của Đô đốc Merill, đánh chìm được chiếc Sendai. Suzuya quay trở lại cảng Rabaul vào ngày 5 tháng 11, đúng vào lúc lực lượng Mỹ tung ra đợt tấn công với 97 máy bay xuất phát từ các tàu sân bay USS Saratoga và USS Princeton. Suzuya là một trong số ít tàu hiếm hoi không bị đánh trúng trong trận này.Vào ngày 1 tháng 2 năm 1944, Suzuya hỗ trợ cho cuộc triệt thoái khỏi Truk. Ngày 20 tháng 3 Chuẩn Đô đốc Shiraishi Kazutaka tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 7; và sau đó Suzuya trải qua một đợt tái trang bị tại Singapore vào ngày 24 tháng 3, khi nó được bổ sung thêm tám khẩu súng phòng không nòng đơn 25 mm Kiểu 96.

Trận chiến biển Philippine

Vào ngày 13 tháng 6 năm 1944, Đô đốc Soemu Toyoda, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã ra lệnh tiến hành Chiến dịch "A-Go" để phòng thủ quần đảo Mariana Islands. Suzuya được phân về "Lực lượng C" của Đô đốc Kurita Takeo cùng với các thiết giáp hạm Yamato và Musashi, các tàu sân bay Zuiho, Chiyoda và Chitose cùng các tàu tuần dương Atago, Takao, Maya, Chokai, Kumano, Chikuma, Tone và Noshiro.Ngày 19 tháng 6, Hạm đội Cơ động Nhật Bản đã tấn công Lực lượng Đặc nhiệm 58 Mỹ ngoài khơi Saipan, nhưng đã phải chịu đựng thiệt hại nặng nề về không lực hải quân trong trận không chiến mà phía Mỹ đặt cái tên lóng là "Cuộc săn vịt trời Mariana vĩ đại". Khi hạm đội Mỹ phản công vào chiều tối ngày hôm sau, lúc 20 giờ 30 phút ngày 20 tháng 6, hai giờ sau khi bị đánh trúng ngư lôi phóng ra bởi máy bay Grumman TBM Avenger từ tàu sân bay USS Belleau Wood, tàu sân bay Hiyo bị nổ tung và chìm. Đêm đó, Suzuya rút lui cùng với phần còn lại của Hạm đội Nhật Bản về Okinawa.Quay trở lại Kure vào ngày 25 tháng 6 năm 1944, Suzuya một lần nữa được tái trang bị. Nó được bổ sung thêm bốn tháp súng ba nòng và 10 tháp súng nòng đơn phòng không 25 mm Kiểu 96, đưa tổng số lên 50 nòng (14×3 và 18×1), cùng các hệ thống radar dò tìm mặt đất Kiểu 22 và dò tìm trên không Kiểu 13. Ngày 8 tháng 8, Suzuya rời Kure quay lại khu vực Singapore và Brunei, tham gia các cuộc huấn luyện hạm đội và tuần tra trong khu vực Singapore-Brunei trong suốt tháng 10. Vào lúc này, hệ thống radar Kiểu 22 Kai 4M được nâng cấp lên loại Kai 4S dùng cho việc kiểm soát hỏa lực.

Trận chiến vịnh Leyte

Cuối tháng 10 năm 1944, hạm đội Nhật Bản được tập trung tại Brunei nhằm đối phó với mối đe dọa về một cuộc đổ bộ của lực lượng Mỹ lên Philippine. Vào ngày 25 tháng 10 năm 1944, trong Trận chiến ngoài khơi Samar, Suzuya tấn công vào ba chiếc tàu sân bay hộ tống của Đội Đặc nhiệm 77.4 thuộc Đệ Thất hạm đội, và bị chống cự bởi cuộc tấn công của mười chiếc máy bay ném bom-ngư lôi TBM Avenger, khi một quả bom ném suýt trúng làm hư hại chân vịt bên mạn trái. Đến 10 giờ 50 phút, Suzuya chịu đựng một đợt tấn công khác bởi 30 máy bay xuất phát từ tàu sân bay. Một quả bom ném suýt trúng đích khác đã làm kích nổ quả ngư lôi Long Lance trong ống phóng số 1, làm phát sinh các đám cháy, gây hư hại phòng động cơ bên mạn phải và phòng nồi hơi số 7. Lệnh bỏ tàu được đưa ra lúc 11 giờ 50 phút, và Suzuya bị chìm lúc 13 giờ 22 phút tại tọa độ 11°45.2′N 126°11.2′E. Tàu khu trục Okinami đã vớt được Thuyền trưởng Teraoka cùng 401 thành viên thủy thủ đoàn, trong khi các tàu chiến Mỹ vớt thêm được một số người khác sau đó.Suzuya được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 20 tháng 12 năm 1944.

Đặt hàng: 1927

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Takao

Xưởng đóng tàu: Xưởng hải quân Yokosuka

Đặt lườn: 28 tháng 4 năm 1927

Hạ thủy: 12 tháng 5 năm 1930

Hoạt động: 31 tháng 5 năm 1932

Bị mất: Bị đánh chìm như một mục tiêu tác xạ ngày 19 tháng 10 năm 1946 tại Eo biển Malacca

Xóa đăng bạ: 3 tháng 5 năm 1947

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 9.850 tấn (tiêu chuẩn); 15.490 tấn (đầy tải)

Chiều dài: 192,5 m (631 ft 8 in) mực nước

203,8 m (668 ft 6 in) chung

Mạn thuyền: 18,0 - 20,7 m (59 - 68 ft)

Tầm nước: 6,1 - 6,3 m (20 ft - 20 ft 8 in)

Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước

12 × nồi hơi Kampon

4 × trục

công suất 133.100 mã lực (99,3 MW)

Tốc độ: 65,7 km/h (35,5 knot)

Tầm xa: 15.700 km ở tốc độ 26 km/h

(8.500 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Quân số: 773

Vũ khí: ban đầu: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 caliber (5x2)

4 × pháo 120 mm (4,7 inch) góc cao (4x1)

2 × pháo phòng không 40 mm (2x1)

8 × ống phóng ngư lôi 609 mm (24 inch)

cuối cùng: 10 × pháo 203 mm (8 inch)/50 caliber (5x2)

4 × pháo 120 mm (4,7 inch) góc cao (4x1)

66 × súng phòng không 25 mm

16 × ống phóng ngư lôi 609 mm (24 inch)

Vỏ giáp: đai giáp 37 đến 127 mm (1,5 - 5 inch)

sàn tàu 40 mm (1,5 inch)

vách ngăn 75 - 100 mm (3 - 4 inch)

tháp súng 25 mm (1 inch)

Máy bay: 3 thủy phi cơ (1 × Aichi E13A1 "Jake", 2 × F1M2 "Pete")

2 × máy phóng

Takao (tiếng Nhật: 高雄) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp Myōkō trước đó. Takao đã hoạt động cho đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai trước khi đầu hàng lực lượng Anh tại Singapore và bị đánh chìm tại eo biển Malacca.

Thiết kế và chế tạo

Những tàu chiến thuộc lớp Myōkō được xem là không ổn định và nhiều kinh nghiệm rút ra đã được áp dụng cải tiến cho lớp Takao. Chúng là những tàu chiến nhanh và mạnh mẻ, trang bị mười khẩu pháo 203 mm (8 inch) và bốn khẩu pháo 120 mm (4,7 inch), tám ống phóng ngư lôi và nhiều vũ khí phòng không hổn hợp, một hỏa lực đủ mạnh để đối đầu với bất kỳ tàu tuần dương của mọi lực lượng hải quân trên thế giới.Những chiếc trong lớp Takao được chấp thuận trong năm tài chính 1927 như một phần trong chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản về một trận chiến quyết định. Chúng tạo nên xương sống cho lực lượng tấn công chiến đấu tầm xa. Takao được chế tạo tại Xưởng hải quân Yokosuka, và giống như những con tàu chị em với nó, tên nó được đặt theo tên một ngọn núi: Núi Takao (tiếng Nhật: 高雄山) tọa lạc tại ngoại ô Kyoto.[1] Takao được đặt lườn vào ngày 28 tháng 4 năm 1927, được hạ thủy vào ngày 12 tháng 5 năm 1930 tại Xưởng hải quân Yokosuka và được đưa vào hoạt động ngày 31 tháng 5 năm 1932.

Lịch sử hoạt động

Lúc khởi đầu Chiến tranh Thái Bình Dương, Takao đặt dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Đại tá Hải quân Asakura Bunji và được phân về Hải đội Tuần dương 4 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc (sau này là Đô đốc) Kondo Nobutake cùng với các con tàu chị em với nó Maya, Chokai và Atago, và được trao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Malaya và Philippines. Vào cuối tháng 12 năm 1941, nó bắn pháo hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen trên đảo Luzon tại Philippines.Đầu năm 1942, Takao hoạt động tại khu vực biển Java trong khuôn khổ Trận chiến biển Java Sea vào đầu tháng 3. Vào ngày 1 tháng 3, một trong số các thủy phi cơ của Takao đã ném bom chiếc tàu buôn Hà Lan Enggano. Đêm hôm sau, Takao và Atago tiêu diệt chiếc tàu khu trục Pillsbury cũ của Hải quân Mỹ và nó chìm mà không có người nào sống sót. Sáng sớm ngày 4 tháng 3, Takao, Atago, Maya và hai tàu khu trục của Hải đội Khu trục 4, Arashi và Nowaki đã tấn công một đoàn tàu vận tải gần Tjilatjap. Chiếc xà lúp HMAS Yarra của Hải quân Hoàng gia Australia đã ra sức bảo vệ cho đoàn tàu vận tải trong một giờ rưỡi trước khi bị đánh chìm chỉ với 34 người sống sót trong tổng số 151 thành viên thủy thủ đoàn. [2] Sau đó, các tàu tuần dương Nhật đã đánh chìm ba chiếc trong đoàn tàu vận tải: tàu chở dầu Francol, tàu quân nhu Anking, và một tàu quét mìn. Hai tàu chở hàng Hà Lan cũng bị chiếm giữ.Vào tháng 6 năm 1942, Takao và Maya hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng quần đảo Aleut. Vào ngày 3 tháng 6 năm 1942, những thủy phi cơ trinh sát của nó bị các máy bay tiêm kích Curtiss P-40 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ trú đóng tại Umnak tấn công và hai chiếc bị bắn rơi. Ngày 5 tháng 6, Takao bắn rơi một máy bay ném bom B-17 Flying Fortress.Vào tháng 8 năm 1942, Takao tham gia Chiến dịch Ka, một đợt tăng cường cho lực lượng Nhật Bản trong trận Guadalcanal, và tham gia Trận chiến quần đảo Santa Cruz vào ngày 26 tháng 10. Một cố gắng có chủ định để bắn phá căn cứ của Mỹ tại sân bay Henderson đã dẫn đến trận Hải chiến Guadalcanal vào sáng sớm ngày 15 tháng 11 năm 1942. Thiết giáp hạm Kirishima, được sự hỗ trợ của các tàu tuần dương Takao và Atago, đã đối đầu cùng các thiết giáp hạm Mỹ Washington và South Dakota. Cả ba tàu chiến Nhật đã bắn trúng South Dakota nhiều phát đạn pháo khiến nó hư hỏng nặng; Takao và Atago còn bắn ngư lôi Long Lance nhằm vào Washington nhưng đều trượt. Tuy nhiên, Kirishima bị Washington bắn hỏng và phải tự đánh đắm sáng hôm sau. Atago bị hư hại trong khi Takao thoát ra an toàn nhưng phải rút lui về Truk.Đầu năm 1943, Takao hỗ trợ cho Chiến dịch Ke, cuộc triệt thoái lực lượng Nhật khỏi đảo Guadalcanal. Sau đó, dưới quyền chỉ huy của Inoguchi Toshihira, nó hoạt động tại khu vực Trung Thái Bình Dương từ căn cứ Truk. Ngày 5 tháng 11 năm 1943, trong khi đang được tiếp nhiên liệu tại Rabaul trong quần đảo Bismarck, Takao bị các máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless từ tàu sân bay USS Saratoga tấn công, và bị trúng hai quả bom khiến 23 người thiệt mạng và hư hại hệ thống lái. Nó bị buộc phải quay về Yokosuka tại Nhật Bản và vào ụ tàu để sửa chữa.Ngày 22 tháng 10 năm 1944, Takao gia nhập "Lực lượng Trung tâm" của Đô đốc Takeo Kurita và khởi hành từ vịnh Brunei để tham gia Trận chiến vịnh Leyte. Sang ngày 23 tháng 10, khi đang di chuyển ngang qua đảo Palawan, lực lượng Nhật Bản bị hai tàu ngầm Mỹ tấn công. Lúc 06 giờ 34 phút, Takao trúng hai quả ngư lôi phóng từ tàu ngầm USS Darter, làm hỏng hai trục và ngập nước ba phòng nồi hơi. Nó bị buộc phải quay trở về Brunei, và được hộ tống bởi các tàu khu trục Naganami và Asashimo, chiếc tàu phóng ngư lôi Hiyodori và tàu vận tải Mitsu Maru. Lực lượng này bị các tàu ngầm Darter và Dace tiếp tục săn đuổi cho đến sau nữa đêm ngày 24 tháng 10, khi Darter mắc cạn vào một bãi san hô tại bãi đá ngầm Bombay và Dace phải ở lại để cứu hộ.Takao bị hỏng nặng đến mức không thể sửa chữa tại Singapore, cũng như không thể (và không có khả năng) kéo về Nhật Bản để sửa chữa. Vì vậy một phần đuôi tàu được cắt rời ra, và nó được cho neo đậu và sử dụng như một pháo đài phòng không nổi để phòng thủ Singapore. Trong khi thả neo tại đây, nó là mục tiêu của cuộc tấn công được thực hiện bởi tàu ngầm bỏ túi Anh XE-3 (Chiến dịch Struggle) vào ngày 31 tháng 7 năm 1945 dưới sự chỉ huy của Trung úy Ian Edward Fraser và Thủy thủ James Joseph Magennis.[3] Magennis đã gắn được sáu quả "mìn hàu" vào thân chiếc Takao; và khi phát nổ đã tạo ra một lổ thủng lớn 20 m x 10 m. Đa số các khẩu pháo của Takao bị mất tác dụng, hệ thống điều khiển hỏa lực bị phá hủy và nhiều ngăn bị ngập nước.Vào ngày 5 tháng 9 năm 1945, căn cứ hải quân của Nhật Bản tại Eo biển Johor chính thức đầu hàng lực lượng Anh, và việc tiếp quản chiếc Takao, lúc đó vẫn có một số ít thủy thủ duy trì hoạt động, diễn ra vào ngày 21 tháng 9 năm 1945. Cuối cùng nó được kéo ra Eo biển Malacca để sử dụng như một mục tiêu tác xạ cho chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Newfoundland và bị đánh chìm vào ngày 19 tháng 10 năm 1946.

Đặt hàng: 1932

Lớp tàu: Lớp tàu tuần dương Tone

Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Mitsubishi tại Nagasaki

Đặt lườn: 1 tháng 12 năm 1934

Hạ thủy: 21 tháng 11 năm 1937

Hoạt động: 20 tháng 11 năm 1938[1]

Bị mất: Bị máy bay Mỹ đánh chìm ngày 24 tháng 7 năm 1945 tại Kure, Hiroshima, tọa độ 34°14′N 132°30′E

Xóa đăng bạ: 20 tháng 11 năm 1945

Các đặc tính chung

Lượng rẽ nước: 11.213 tấn (tiêu chuẩn); 15.443 tấn (sau cùng)

Chiều dài: 189,1 m (620 ft 5 in)

Mạn thuyền: 19,4 m (63 ft 8 in)

Tầm nước: 6,2 m (20 ft 4 in)

Lực đẩy: 4 turbine hộp số Gihon

8 × nồi hơi

công suất 152.000 mã lực (113,4 MW)

Tốc độ: 65 km/h (35 knot)

Tầm xa: 14.800 km ở tốc độ 33,3 km/h

(8.000 hải lý ở tốc độ 18 knot)

Quân số: 874

Vũ khí: 8 × pháo 203 mm (8 inch) (4×2)

8 × pháo 127 mm (5 inch)

12 × súng phòng không 25 mm (6×2)

12 × ống phóng ngư lôi 610 mm (4×3)

Vỏ giáp: đai giáp 100 mm (4 inch)

sàn tàu 35 mm (1,4 inch)

Máy bay: 6 × thủy phi cơ

Tone (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc Chikuma. Tên của nó được đặt theo sông Tone tại khu vực Kantō của Nhật Bản. Nó từng được sử dụng rộng rải trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị đánh chìm tại Kure vào ngày 24 tháng 7 năm 1945.

Thiết kế và chế tạo

Lớp tàu tuần dương Tone được chấp thuận cho chế tạo vào năm 1932. Tone được thiết kế cho các nhiệm vụ tuần tra trinh sát tầm xa và có thể mang theo một lượng thủy phi cơ lớn. Tone được đặt lườn vào ngày 1 tháng 12 năm 1934 tại xưởng đóng tàu của hãng Mitsubishi tại Nagasaki. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 11 năm 1937 và được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 11 năm 1938.

Lịch sử hoạt động

Trận Trân Châu Cảng

Vào cuối năm 1941, Tone cùng với con tàu chị em với nó Chikuma được phân về Hải đội Tuần dương 8, và đã hiện diện trong cuộc Tấn công Trân Châu Cảng. Sáng sớm ngày 7 tháng 12 năm 1941, Tone và Chikuma mỗi chiếc đã cho phóng lên một chiếc thủy phi cơ Aichi E13A1 "Jake" để trinh sát thời tiết bên trên đảo Oahu lần cuối cùng. Lúc 06 giờ 30, Tone và Chikuma mỗi chiếc lại tung ra một chiếc thủy phi cơ hai chỗ ngồi tầm ngắn Nakajima E8N "Dave" hoạt động như những tiêu điểm radar và tuần tra về phía Nam của Lực lượng tấn công. Thủy phi cơ của Tone đã bay về phía Lahaina, nhưng không phát hiện được sự hiện diện của bất kỳ hạm đội Mỹ nào. Trong cuộc tấn công diễn ra sau đó, các thiết giáp hạm Arizona, Oklahoma, West Virginia và California bị đánh chìm, trong khi Nevada, Pennsylvania, Tennessee, Maryland cùng nhiều tàu chiến nhỏ khác bị hư hại.Vào ngày 16 tháng 12, Hải đội Tuần dương 8 được lệnh hỗ trợ cho nỗ lực nhằm chiếm đảo Wake lần thứ hai. Tone tung ra hai thủy phi cơ "Dave" làm nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm. Sau khi Wake thất thủ, Hải đội Tuần dương 8 quay trở về Kure, Hiroshima. Đến ngày 14 tháng 1 năm 1942, Hải đội Tuần dương 8 đặt căn cứ tại Truk thuộc quần đảo Caroline, và hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Rabaul thuộc New Britain cũng như các cuộc tấn công nhắm vào Lae và Salamaua thuộc New Guinea. Vào ngày 24 tháng 1 năm 1942, máy bay của Tone đã tấn công quần đảo Admiralty. Sau cuộc không kích do Phó Đô đốc William Halsey, Jr trên chiếc tàu sân bay Enterprise thực hiện nhắm vào Kwajalein diễn ra ngày 1 tháng 2, Tone rời Truk cùng Lực lượng tấn công tàu sân bay tiến hành truy đuổi bất thành. Sau đó Chikuma và Tone tham gia vào cuộc Ném bom cảng Darwin thuộc Australia vào ngày 19 tháng 2, tiêu diệt 15 máy bay và đánh chìm 11 tàu. Trong trận này, Tone tung ra một thủy phi cơ nhằm mục đích trinh sát thời tiết trước cuộc tấn công, nhưng hệ thống liên lạc radio của chiếc máy bay bị hỏng và nó buộc phải quay về tàu. Sau đó, một thủy phi cơ khác được tung ra, và đã hoạt động thành công hơn khi bắn rơi được một chiếc PBY Catalina của Không quân Hoàng gia Australia.

Trận chiến biển Java

Vào ngày 1 tháng 3 năm 1942, Tone phát hiện ra chiếc tàu khu trục cũ Edsall ở vị trí 250 dặm về phía Nam Đông Nam đảo Christmas. Bốn ngày sau, thủy phi cơ của Tone và Chikuma đã tham gia cuộc tấn công vào Tjilatjap. Ngày 6 tháng 3, Tone vớt được một thủy thủ Anh trôi dạt trên biển sau khi thuyền của anh ta bị đánh đắm ngoài khơi Java kể từ ngày 27 tháng 2.

Không kích Ấn Độ Dương

Ngày 5 tháng 4 năm 1942, Tone nằm trong thành phần một lực lượng đặc nhiệm lớn, đã tung ra 315 máy bay không kích vào Columbo, Ceylon. Kết quả là các tàu chiến Tenedos, Hector cùng 27 máy bay bị tiêu diệt và trên 500 người thiệt mạng ngay tại cảng, trong khi các tàu tuần dương Cornwall và Dorsetshire bị đánh chìm ngoài biển. Tone cùng với lực lượng đặc nhiệm rút lui về Nhật bản vào giữa tháng 4 năm 1942, khi nó hầu như ngay lập tức được giao nhiệm vụ truy đuổi bất thành Lực lượng Đặc nhiệm 16.2 của Đô đốc Halsey bao gồm chiếc tàu sân bay Hornet sau vụ Đột kích Doolittle.

Trận Midway

Trong trận Midway, Tone cùng Hải đội Tuần dương 8 nằm trong thành phần Lực lượng Tấn công tàu sân bay của Phó Đô đốc Nagumo Chūichi. Vào ngày 4 tháng 6, Tone và Chikuma mỗi chiếc đã cho phóng lên hai thủy phi cơ "Jake" để trinh sát trong một phạm vi rộng đến 300 dặm nhằm truy tìm các tàu sân bay Mỹ. Máy bay của Tone đã tìm thấy mục tiêu, nhưng do hệ thống báo cáo quan liêu nội bộ bên trong cấu trúc chỉ huy, bản báo cáo của nó đã không được chuyển giao ngay cho Đô đốc Nagumo. Kết quả là ông đã ra lệnh cho máy bay của mình chuẩn bị một đợt không kích khác xuống đảo Midway trước khi nhận được báo cáo, đưa đến kết quả bi thảm là bị đánh chìm tất cả bốn tàu sân bay hạm đội. Tone cũng bị máy bay từ tàu sân bay Mỹ tấn công trong trận này, nhưng không bị thiệt hại nào ngoại trừ một máy bay "Dave" cùng đội bay của nó. Sau đó Chikuma và Tone được điều đến giúp đỡ lực lượng tấn công quần đảo Aleut của Phó Đô đốc Boshiro Hosogaya. Tuy nhiên, sự phản công của lực lượng Đồng Minh tại đây đã không diễn ra như dự tính, nên Hải đội Tuần dương 8 bình yên quay trở về.

Trận chiến Đông Solomon

Chuẩn Đô đốc Chuichi Hara tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 8 từ ngày 14 tháng 7 năm 1942. Cùng với việc lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên đảo Guadalcanal, Chikuma và Tone được lệnh tiến về phía Nam vào ngày 16 tháng 8 cùng với các tàu sân bay Shōkaku, Zuikaku, Zuihō, Junyō, Hiyō và Ryūjō. Chúng được tháp tùng bởi các thiết giáp hạm Hiei và Kirishima, tàu chở thủy phi cơ Chitose cùng các tàu tuần dương Atago, Maya, Takao và Nagara.Vào ngày 24 tháng 8 năm 1942, các tàu tuần dương Kumano, Suzuya và Mogami của Hải đội Tuần dương 7 đến gia nhập tăng cường cho lực lượng hạm đội tại khu vực Guadalcanal. Sáng hôm sau, một chiếc thủy phi cơ PBY Đồng Minh phát hiện ra Ryūjō, và sau đó những chiếc máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless và máy bay ném bom-ngư lôi TBF Avenger cất cánh từ Enterprise đã tấn công nó nhưng không thành công. Bảy thủy phi cơ của Tone và Chikuma đã được tung ra để truy tìm hạm đội Mỹ; và một chiếc xuất phát từ Chikuma đã phát hiện ra lực lượng Mỹ, nhưng đã bị bắn rơi trước khi kịp gửi bản báo cáo. Tuy nhiên, một thủy phi cơ thứ hai đã thành công, và hạm đội Nhật tung ra đợt tấn công nhắm vào Enterprise, đánh trúng nó ba quả bom khiến sàn tàu bằng gỗ bốc cháy. Cùng lúc đó, người Mỹ cũng phát hiện ra hạm đội Nhật, và Ryūjō bị đánh chìm bởi máy bay xuất phát trừ tàu sân bay Saratoga. Trong trận này, Tone cũng bị tấn công bất thành bởi hại chiếc Avenger khi những quả ngư lôi Mark 13 phóng ra đều bị trượt, và chiếc tàu tuần dương quay trở về Truk an toàn.

Trận chiến Santa Cruz

Trong suốt tháng 10, Chikuma và Tone tuần tra tại khu vực phía nam quần đảo Solomon, chờ đợi cơ hội tái chiếm sân bay Henderson. Vào ngày 19 tháng 10, Tone cùng với tàu khu trục Teruzuki được tách ra thực hiện nhiệm vụ độc lập trinh sát các tàu chiến Mỹ. Cả hai chiếc đều hoạt động tại khu vực ngoài khơi quần đảo Santa Cruz cho đến khi một chiếc thủy phi cơ Kawanishi H6K "Emily" xuất phát từ đảo san hô Jaluit nhìn thấy một tàu sân bay ngoài khơi quần đảo New Hebride. Vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, ở vị trí 250 dặm về phía Đông Bắc Guadalcanal, lực lượng đặc nhiệm của Chuẩn Đô đốc Abe Hiroaki tung ra bảy thủy phi cơ để tuần tiểu khu vực phía Nam Guadalcanal. Chúng trông thấy hạm đội Mỹ, và cuộc tấn công mà Đô đốc Abe tung ra sau đó với 13 máy bay ném bom-ngư lôi Nakajima B5N2 "Kate" đã đánh chìm tàu sân bay Hornet cũng như làm hư hại chiếc thiết giáp hạm South Dakota và chiếc tàu tuần dương San Juan. Tuy nhiên, hai trong số bốn thủy phi cơ mà Tone phóng lên trong cuộc tấn công này đã bị bắn rơi.Sau đó, Tone hỗ trợ các nỗ lực tăng viện cho lực lượng Nhật tại Guadalcanal cho đến giữa tháng 11 năm 1942, rồi sau đó được giao nhiệm vụ tuần tra từ căn cứ ở Truk cho đến giữa tháng 2 năm 1943. Sau khi quay về Maizuru ngày 21 tháng 2 để được nâng cấp, khi nó được trang bị bổ sung hai khẩu đội pháo phòng không nòng đôi 25 mm Kiểu 96 cùng một hệ thống radar dò tìm không trung Kiểu 21. Vào ngày 15 tháng 3 năm 1943, Chuẩn Đô đốc Fukuji Kishi tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 8, và Tone được lệnh quay trở lại khu vực Truk. Tuy nhiên, vào ngày 17 tháng 5, Chikuma và Tone được giao nhiệm vụ tháp tùng chiếc thiết giáp hạm Musashi quay trở lại Tokyo đưa di hài của Đô đốc Yamamoto Isoroku về làm lễ quốc tang tại chính quốc. Tone quay trở lại Truk vào ngày 15 tháng 7, và đã tránh được nhiều cuộc tấn công bằng tàu ngầm dọc theo đường đi. Từ tháng 7 đến tháng 11, Tone tham gia nhiều chuyến vận chuyển binh lực đến Rabaul, và những chuyến tuần tra tại quần đảo Marshall để truy đuổi bất thành hạm đội Mỹ. Khi quay trở về Kure vào ngày 6 tháng 11, Tone lại được trang bị thêm các khẩu pháo phòng không 25 mm, nâng tổng số lên 20 nòng pháo. Hải đội Tuần dương 8 bị giải thể vào ngày 1 tháng 1 năm 1944, nên cả hai chiếc Tone và Chikuma đều được phân về Hải đội Tuần dương 7 cùng với Suzuya và Kumano dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Nishimura Shoji. Tone quay trở lại Truk vào ngày 2 tháng 1. Trong tháng 2, Tone hỗ trợ cho việc triệt thoái lực lượng Nhật Bản từ Truk về Palau.

Từ ngày 1 tháng 3 năm 1944, Tone tham gia vào đợt đánh cướp tàu buôn tại Ấn Độ Dương. Ngày 9 tháng 3, Tone đánh chìm chiếc tàu chở hàng Anh Quốc SS Behar, bắt giữ 108 người sống sót. Trong số những người sống sót, 32 người được chuyển lên bờ tại Batavia như những tù binh chiến tranh. Đô đốc Sakonjo Naomasa trên chiếc soái hạm Aoba đã ra lệnh "thanh lý" số tù binh còn lại, và họ bị đưa lên boong tàu và bị chém đầu.[2][3] Ngày 20 tháng 3 năm 1944, Chuẩn Đô đốc Kazutaka Shiraishi tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tuần dương 7.

Trận chiến biển Philippine

Ngày 13 tháng 6 năm 1944, Đô đốc Soemu Toyoda ra mệnh lệnh thực hiện "Chiến dịch A-Go" nhằm phòng thủ bảo vệ quần đảo Mariana. Tone được phân về Lực lượng "C" thuộc Hạm đội Cơ động của Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, vốn đã băng qua biển Visayan để đi đến biển Philippine hướng về phía Saipan. Vào ngày 20 tháng 6, sau khi các thiết giáp hạm Haruna và Kongo cùng tàu sân bay Chiyoda bị tấn công bởi máy bay xuất phát từ các tàu sân bay Mỹ Bunker Hill, Monterey và Cabot, và khi hầu hết lực lượng không quân yểm trợ trên không đã bị tiêu diệt trong cái gọi là "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại", Tone rút lui cùng với Hạm đội Lưu động về phía Okinawa, và sau đó là Kure. Trong khi ở lại Kure từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1944, Tone được trang bị bổ sung các khẩu pháo phòng không 25-mm Kiểu 96, nâng tổng số lên 57 nòng súng. Hai hệ thống radar mới dò tìm mặt đất Kiểu 22 và một hệ thống dò tìm trên không Kiểu 13 cũng được trang bị. Sau khi tham gia vận chuyển binh lính đến Okinawa, Tone được phái đến Singapore vào tháng 7.

Trận chiến vịnh Leyte

Ngày 23 tháng 10 năm 1944, Tone cùng với Kumano, Suzuya và Chikuma khởi hành rời Brunei hướng về phía Philippines cùng với Lực lượng Tấn công Lưu động của Phó Đô đốc Kurita. Trong trận chiến eo biển Palawan, các tàu tuần dương Atago và Maya bị tàu ngầm đánh chìm, và chiếc Takao bị hư hại. Vào ngày 24 tháng 10, Hải đội Tuần dương 7 nằm trong thành phần "Lực lượng Trung tâm" của Phó Đô đốc Kurita Takeo. Trong trận chiến biển Sibuyan diễn ra sau đó, Lực lượng Trung tâm phải chịu đựng mười một đợt không kích bởi máy bay Mỹ xuất phát từ các tàu sân bay của Đội Đặc nhiệm 38.2, kết quả là chiếc siêu thiết giáp hạm Musashi bị đánh chìm và Tone trúng bom. Ngày hôm sau, trong trận chiến ngoài khơi Samar, Yamato, Nagato, Haruna và Myoko bị hư hại. Tone đã tấn công tàu khu trục Mỹ Heermann nhưng bị ngăn trở bởi các đợt không kích. Nó rút lui an toàn ngang qua eo biển San Bernardino mà không phải chịu đựng thiệt hại gì thêm, nhưng chiếc tàu chị em với Tone là Chikuma cùng Chokai và Suzuya đều bị mất.Ngày 6 tháng 11, Tone rời Brunei hướng đến Manila, rồi sau đó đi đến Mako thuộc quần đảo Pescadores và Kure. Quay trở vào ụ tàu tại Maizuru, Tone lại được trang bị thêm bốn khẩu đội phòng không ba nòng 25 mm phía sau tàu, nâng tổng số lên 62 nòng pháo. Radar Kiểu 21 cũng được thay thế bằng Kiểu 22. Hải đội Tuần dương 7 bị giải tán vào ngày 21 tháng 11 và Tone được phân về Hải đội Tuần dương 5 cùng với Kumano. Sau khi công việc sửa chữa hoàn tất vào ngày 18 tháng 2 năm 1945, Tone được bố trí đến Etajima, nơi nó được neo đậu và sử dụng như một tàu huấn luyện. Chiếc tàu tuần dương bị hư hại nhẹ trong một cuộc không kích vào ngày 19 tháng 3.Vào ngày 24 tháng 7 năm 1945, Lực lượng Đặc nhiệm 38 tung ra một đợt không kích vào Kure với ý định tiêu diệt hoàn toàn Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chín máy bay xuất phát từ tàu sân bay Monterey đã nhắm vào Tone và đánh trúng nó ba quả bom, khiến chiếc tàu tuần dương mắc cạn xuống đáy vịnh. Phần thân tàu nổi trên mặt nước còn bị tấn công một lần nữa vào ngày 28 tháng 7 bởi rocket và bom xuyên thép của máy bay xuất phát từ các tàu sân bay Wasp và Ticonderoga. Sau chiến tranh, Tone được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 20 tháng 11 năm 1945. Thân tàu được vớt lên và tháo dỡ trong những năm 1947 - 1948.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro