CHƯƠNG IV: NHỮNG MỐI TÌNH - Phần 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

3. MAI ĐÌNH NỮ SĨ

Khác với những mối tình âm thầm kín đáo, hoặc dè dặt của Hoàng Hoa, của Mộng Cầm, chị Mai Đình là người yêu thơ cũng như yêu con người phong cùi đó, một cách ồn ào, sôi nổi và tha thiết nhất.

Thơ của chị cảm ứng với hàn Mặc Tử rất nhiều.

Chị Mai Đình làm thơ rất có khiếu và dễ dàng, ý thơ tình nghĩa, súc tích gắn bó với thơ Hàn Mặc Tử gần năm mươi năm nay. Tôi nói gắn bó với thơ anh Trí, vì hiện nay chị đã có gia đình.

Từ thời tiền chiến, và suốt thời kỳ kháng chiến, thơ chị được truyền khẩu hoặc trao tay người này qua người khác, mà toàn là các bạn làng văn.

Có lẽ chị chất phác dễ thân mật. Bất cứ chỗ nào có vài người họp lại để nói về thơ anh Trí là có chị tham gia. Cho nên có rất nhiều bài thơ nghe nói là của chị sáng tác, vẫn còn chờ đợi được minh xác chưa ai dám tự tiện phổ biến.

Tôi cũng có dịp đọc được, thơ hay, tình nghĩa và tự nhiên.

Nhà văn Trần Thanh Mại từng viết về chị trong cuốn Hàn Mặc Tử rằng: “Về người đàn bà này (Mai Đình) ta có thể nói nhiều hơn, kể rõ ràng hơn, mà không ngần ngại phải chạm đến danh giá của một kẻ nào, đến cái mà họ trương lên làm danh giá.

Một người đàn bà không cần dư luận, một người trong hạng người thành thật nhất xã hội.

Họ đáng nhịp vào chế độ lễ nghi, mọi thứ do người bày đặt ra để che lấp cái giả dối của người."

Lời phê bình trên đây thật rộng rãi đủ để không cần phải dè dặt, lịch sự nữa.

Những năm 1938-1939, tôi nghe nói chị đến thăm anh Trí tại nhà, lúc bấy giờ đã dọn về đường Odend’hall vì anh bắt đầu đau nặng, mà mẹ tôi không muốn cho ai biết. Việc chị Mai Đình đến thăm anh Trí như một tin sốt dẻo được loan đi rất nhanh trong những người bạn
thân. Vì thế đã làm ồn ào lên một dạo mà mẹ tôi lo sợ tai tiếng cho chị.

Thế nhưng sự dè dặt đó không cần thiết gì đối với chị. Chị Như Lễ nói với tôi: “Chị Mai Đình do ông Tấn giới thiệu cho anh Trí kết bạn thơ.”

Theo chỗ tôi biết qua bạn bè anh Trí, thì chị Mai Đình đã ham mê thơ anh từ lâu, nhưng không ai giới thiệu. Đến khi gặp anh thì lại yêu luôn anh, mặc dầu thấy tận mắt anh đang bệnh.

Thật sự thì bệnh anh cũng không có vẻ gì đáng sợ, nếu nhìn về bên ngoài.

Năm 1939, anh đau nặng nhất, thì cũng chỉ là dấu hiệu khô chết lớp da bên ngoài. Tay anh cầm muỗng ăn hay viết lách, chỉ khó khăn khi kéo mấy ngón tay co lại. Bàn tay như mang một chiếc găng da khô cứng. Da dẻ đen sạm đi không lở lói gì.

Với chị Mai Đình, thì hình như chị cũng không thấy “cái bên ngoài “ đó nữa, mà chỉ cần nghe anh ngâm thơ, chỉ cần ở gần bên anh.

Nhiều người bạn, nói theo thời bấy giờ là chị Mai Đình bị tiếng sét ái tình đánh gục (Coup de foudre). Người đàn bà đã từng phen lưu lạc phong trần mà thơ viết lên nghe như cô gái mới được yêu.

Nghe nói chị vẫn dạy nữ công cho nhiều trường ở Saigon, nhưng thỉnh thoảng lại động lòng bốn phương, tìm bạn bè ngâm thơ vịnh nguyệt. Mai Đình viết cho Hàn Mặc Tử lá thơ nũng nịu đủ thứ khiến anh Trí buồn cười đem xếp lại thành bài thơ dưới đây…

Thôi em chán quá, em buồn quá
Anh của em giờ cười với ai
Với những gì đâu tức tối lạ
Em hồ nghi mãi giận không thôi…
Nhưng xa xôi quá biết làm sao
Lấy Trí tương tư đo được nào
Em mới vùng vằng em thở dốc
Tình thương trong dạ cứ xôn xao.

Năm 1939, tôi về thăm nhà, nghe chị có ghé lại ở chơi mấy ngày.

Trong nhà, hình như ai cũng yêu mến chị, vì chị đơn sơ thành thật, không nề hà khách sáo, có lẽ cuộc đời “phiếm thủy đào hoa” của chị nhiều trôi nổi quá, nên sống cách nào cũng được, không thấy khó khăn gì, nên ai cũng thương.

Anh Trí cho tôi xem bài thơ tặng chị mà lời lẽ trong thơ có vẻ chán chường. Tôi trách anh đã xem nhẹ tình chị. Những câu như: “Đây Mai Đình, tiên nữ của vu sơn” đã làm cho người đọc chữ vu sơn khó chịu rồi lại còn”

“Nàng là mật của muôn tuần trăng mật”

(Thì thật là chán chường quá).

Toàn bài thơ không xứng đáng tặng chị, một người đang sống với mối tình cao đẹp nhất chưa bao giờ được sống như thế.

Anh Trí hối hận, chắc là anh nghe dư luận về chị không còn gì đáng ca tụng nữa.

Bài thơ ý không tao nhã lắm:

Đây Mai Đình, tiên nữ của vu sơn
Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt
Nàng, ôm Nàng hai tay ta ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay
Ta là người uống muôn hận sầu cay
Nàng là mật của muôn tuần trăng mật

…….

May thay, tình yêu làm chị mù quáng, nên không nhận thấy. Hoặc như Trần Thanh Mại viết:

“Người đàn bà đó không có gì tự ái cả.”

Về sau anh Trí viết lại bài Đánh lừa

Tôi thương em không cần phải so đo
Vì trinh tiết há hằng hương vạn đại

…….

Son phấn cũ thơm bằng son phấn mới.

Tuy nhiên tôi áy náy tội nghiệp cho chị, nên có làm lại bài thơ đánh loãng bớt nghiệp chướng của chị (không biết ở nhà có trao lại chị không).

Mai Đình tiên nữ chốn vu sơn
Vướng nghiệp văn chương trở xuống trần
Oan trái tào khang vừa tháo gỡ
Nợ nần xướng họa lại đa mang
Giang hồ ánh bướm không lo mỏi

Mưa gió đời hoa chẳng ngại tàn
Còn chút duyên thừa dâng trọn thuở
Cho tình sống mãi với thi văn.

*

Khoảng cuối năm 1941, tôi ở Lào về nhiệm sở cũ ở Đà Lạt ghé lại Qui Nhơn thăm nhà.

Vừa bước xuống xe, một người đàn bà còn trẻ, nước da ngâm đen, mau mắn bước ra chào:

“Kìa! Chú Tín về đấy à! Được điện tín hôm qua cả nhà trông chú lắm.”
Tôi ngỡ ngàng một giây, nhưng đoán được là chị Mai Đình rồi.

Chị Như Nghĩa cũng ra theo, cả nhà tíu tít. Tôi để ý một người đàn bà trẻ, sang trọng cũng đứng lên chào tôi, chị Mai Đình vội vã giới thiệu: “Đây là cô Lan (hay Liên gì đó) bạn tôi ở Saigon ra chơi!’.
Chị lại chỉ về tôi: “Chú Tín đây em anh Trí làm việc ở phòng kiến trúc Đà Lạt
bị động viên qua Lào vừa mới trở về”.

Trông chị, tôi bật cười, tuồng như chị đóng vai chính trong gia đình tôi.

Trong câu chuyện trao đổi, chị không e dè hay sợ mất lòng ai hết. Thái độ đối với người bạn gái, chị cũng không úp mở, chị oang oang nói:

“Tuy chưa biết chú, nhưng nghe nói chú lo lắng cho anh Trí mấy năm nay, làm cho tôi cảm phục quá”, rồi tiếp tục phân bua, không rào đón: “Không chịu lấy vợ ở như vậy để lo cho gia đình. Chú thật quân tử quý hóa quá”.

Tôi lịch sự: “Chị mới thật là người đàn bà đáng quý trọng. Tôi chưa hề biết có ai dám đem cuộc đời tốt đẹp của mình đánh đổi một mối tình đầy bất trắc tai tiếng như chị với anh Trí. Chị thật là siêu nữ nhân”. Chị cười thích chí lắm.

Tôi ngẫm nghĩ, thương chị, thì ra chị biết hết việc nhà tôi. Chị lại thông cảm cả cuộc sống của tôi ở Đà Lạt. Khi chị hạ giọng bảo tôi: “Chú ở Đà Lạt lạnh lẽo quá, mà tiền lương gởi về cả làm sao đủ sống? Chú đừng ngại, nếu cần hàng nỉ may đồ lạnh, chú cứ bảo tôi. Để tôi lo
cho” – Trời! bà chị ở đây rơi xuống đây, thật là vượt xa các chị ruột tôi hết. Dù sao, tôi cũng được người chia sẻ nỗi khó khăn, và cũng cảm thấy được an ủi.

Về sau chị Nghĩa cho biết Mai Đình muốn làm mối cho tôi, bạn gái của chị, một quả phụ hai mươi ba tuổi đó là một nữ chủ nhân tiệm hàng vải cỡ lớn ở Saigon.

Tôi rất buồn cười nhưng cũng quý chị lắm. Chị Mai Đình như thế đó, ở trong gia đình tôi. Lạ chưa!

*


Mùa thu năm 1942, chị Mai Đình lên Đà Lạt, nhắn tôi xuống nhà ga xe lửa gặp chị.

Tối hôm đó, ngồi ở bàn cà phê, chị nói với tôi rất nhiều về chuyện in thơ Hàn Mặc Tử. Chị hỏi tôi: “Chú có biết thơ anh Trí được bao nhiêu bài?”

Tôi nói: “Từ năm 1935 anh Trí ở Saigon về ở chung với tôi một phòng, không có sáng nào không thấy thơ anh vứt bừa bãi, trên bàn, trên giường, dưới nền nhà. Tôi phải dùng hai “kết” dựng bia để xếp vào.

Những khi đi vắng, tôi vẫn dặn người nhà nhặt hết tất cả giấy tờ gì trong phòng anh đều bỏ vào đó”.

“Cuối năm 1937, tôi đổi lên Đà Lạt, rồi ở luôn 7 năm. Tôi nghĩ thơ anh nhiều lắm. Thỉnh thoảng anh giở ra xem rồi chép lại, mang đi đánh máy, tặng bạn bè, mà tôi biết anh đã gởi cho Trần Thanh Địch và Trần Tài Phúng nhiều hơn hết. Coi như gần đủ bộ thơ anh. Bút tích vẫn để lại trong hai thùng gỗ đó.”

“Tôi chỉ thuộc một số, chú Hiếu thuộc nhiều vì ngâm thơ hay, nên bạn bè thường đến nghe chú ngâm.”

Khi tôi ở Lào về, thì chú Hiếu đã chuyển giao bút tích văn thơ tất cả cho anh Tấn. Chú sợ lây nên không sao chép, không kiểm nhận. Vì thế không biết đích thực là nhiều hay ít.

Tôi rất bực mình về việc đó, nhưng mẹ tôi ngăn tôi không cho hỏi lại vì sợ mất lòng anh Tấn.

“Bây giờ, chị Mai Đình muốn biết phải hỏi lại anh Tấn.”

Chị trầm ngâm hồi lâu rồi nói: “Chú biết không? Thơ anh Trí khó mà xuất bản được. Tôi đến nhắc anh Tấn mấy lần, cả chị Như Lễ cũng viết thơ nhắc lại lời hứa xuất bản thơ Hàn Mặc Tử, anh đều không trả lời.” (Tôi nghĩ, anh Tấn hẳn phải có lý do chính đáng nào đó nên
anh chưa in được).

“Tôi (chị Mai Đình nói) có đưa một người bạn quen chủ nhà in và xuất bản ở Hà Nội vào để thương lượng với anh tấn (hình như ông Doãn hay gì đó). Nhưng anh Tấn đưa ra nhiều điều
kiện khó nghe, chưa bao giờ có.

Anh Tấn còn nói là thơ anh Trí không phải bài nào cũng hay cả đâu, mà cần phải sửa lại mới in được. Vả lại những bài hay in được, thì ông Mại đã trích lấy hết rồi. Còn lại không bao nhiêu…"

Những lời chị Mai Đình nói với tôi tại ga xe lửa Đà Lạt nay đã 45 năm rồi, mà tôi còn nhớ rõ, vì liên quan đến một câu chuyện đã xảy ra lúc tôi còn ở Lào:

“Bấy giờ vào khoảng lễ Giáng sinh 1940, tôi đang ở lại Paksé đợi chuyến xe “công voa” đi Mường Cầu (Attopeu) Lào. Tôi ở trọ lại nhà ông Tú Vọng, một cụ tú tài thất chí quê ở Quảng Bình. Sáng hôm ấy, chờ xe, rảnh rỗi giở bản tử vi của anh Trí (mà cậu Bá tôi đã chấm) ra nghiên cứu đỡ buồn. Cụ Tú đi ngang trông thấy, ghé mắt nhìn hỏi tôi: “Lá số của ai đó Thầy?” – Tôi thưa của Anh tôi. Cụ nhìn tôi rồi nhìn cái băng đen mang bên cánh tay. Cụ nói:

“A! ra Thầy để tang cho ông này a”. Biết gặp tay “thượng thừa”, tôi mời Cụ ngồi xuống lấy mục kỉnh xem lại, Cụ bảo: “Chà! Đại hạn xấu quá, năm Thìn gặp Trúc la, mà mạng Mộc thì tuyệt địa rồi.”

Tôi cũng nói theo: “Có phải hạn Liêm sát mà gặp hung tinh là “lộ thượng mai thi” không” (chết chôn bên đường). Cụ cười: “Vậy ra Thầy biết rồi. Tôi sợ mất lòng không dám nói. Thầy nầy chết không gặp thân nhân đúng là lộ thượng mai thi – Tai nạn xe cộ à? – Thưa, đau
bệnh.

Cụ xem một hồi nữa rồi nói: “Thầy này không có vợ con gì. Mà cũng lạ Lưu niên lại ở Tứ Tức.” Ông Cụ tiếp: “Có con rơi con rớt chi không? Vậy thì ông ta lưu cái chi lại cho dòng họ.” Tôi đáp: “Anh tôi là thi sĩ”. Ông cụ vỗ đùi: “À, phải rồi. Vậy thì thơ hay đó. Nhưng bị mất mát
ngăn chận gì đó mà phải trên 50 năm mới tìm lại được. Vì Văn tinh bị Tuần triệt chận hết.” Cụ lại bảo: “Con cái là tác phẩm mà thơ văn cũng là tác phẩm”.

Câu chuyện trên đây thật kỳ lạ, vì thơ anh Trí bị thưa kiện (Triệt) rồi mất mát, thất lạc (Tuần).

Và bây giờ là đúng 50 năm.

Tôi không bao giờ quên được con người kỳ lạ đó.

Hai chị em ngồi đến khuy, chị buồn buồn ngâm lại bài Lưu Luyến:

Chưa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn Anh theo dõi bóng em đi…
Rồi chị sụt sùi mãi. Tôi im lặng tôn trọng mối thương lòng chị. Hồi lâu, chị đọc bốn câu:
Lòng ta, sầu thảm hơn mùa lạnh
Hơn cả u buồn của nước mây
Của những tình duyên thương lỡ dở
Của lời rên xiết gió heo may.

Chị lại hỏi: “Bài sầu vạn cổ anh Trí tặng ai chú biết không?” Tôi nói: “Lòng anh Trí mênh mông, tình anh cũng rất mênh mông. Trong đó chắc có chị rồi. Nhưng… ở đây lại có gió heo may… Chị nhìn tôi: “Chú nói đúng. Anh Trí yêu nhiều, nhưng mùa Thu nhắc nhớ Anh hơn.”

(Chị muốn nói, chị chưa được yêu sâu đậm bằng Hoàng Hoa).

Lúc ấy hình như có ai gọi.

Đứng dậy, chị nói: “Không biết còn gặp lại không”. Rồi chị từ biệt ra đi. Bóng chị đi hơi lụp chụp, thất thểu qua màn sương đêm khi mờ khi tỏ.

Tôi nhìn theo thương hại, người đàn bà nặng kiếp, “Khước tác phiêu bồng” này đang trôi dạt về đâu?


*


Sau ngày giải phóng miền Nam, nghe nói chị có mặt ở Saigon, nhưng mãi đến 83-84 gì đó mới gặp chị.

Chị vẫn thế, dáng đi vẫn chồm chồm như luôn luôn vội vã, hay lo lắng suy tư gì.

Tôi nghe nói chị sống hạnh phúc với chồng con và có nhiều công lao cách mạng.

Đọc lại tập hồi ký này, chắc chị vui lắm.

Mong như thế.

*

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro