Hành trình tìm mộ liệt sĩ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hành Trình Tìm Mộ Liệt Sĩ Và

Những chuyện kỳ bí về thế giới tâm linh – Kỳ 1

Thiên phóng sự đặc sắc của Hoàng Anh Sướng

 

Nhà báo Hoàng Anh Sướng

Những năm gần đây, qua các phương tiện thông tin đại chúng, bạn đọc đã biết đến khả năng đặc biệt: tìm mộ từ xa của các nhà ngoại cảm Việt Nam. Những cái tên như Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bảy, Thẩm Thuý Hoàn, Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Nhã đã ít nhiều trở nên quen thuộc đối với chúng ta. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, số hài cốt mà các nhà ngoại cảm tìm thấy trong thời gian vừa qua đã lên tới vài trăm ngàn. Địa bàn hoạt động của các nhà ngoại cảm không chỉ dừng ở 61 tỉnh thành mà còn vượt cả biên giới quốc gia, sang tận Lào, Căm-pu-chia, Trung Quốc. Việc tìm kiếm hài cốt, khi hội đủ duyên may thì ly kỳ, huyền hoặc như những thiên cổ tích. Song nếu chưa đủ duyên thì khó khăn như tìm bóng câu, tăm cá, khổ chủ sinh ra bất mãn, ngán ngẩm, chán chường. Chính vì thế đã xuất hiện những luồng dư luận trái chiều: người được chứng kiến việc tìm thấy mộ thì hết lời ngợi ca các nhà ngoại cảm, thậm chí còn thần thánh hoá khả năng đặc biệt của họ, người không tìm được mộ người thân hoặc cố tình không tin thì phủ nhận sạch trơn, thậm chí còn riết róng tố cáo họ là những kẻ đại bịp, lừa đảo.

Mong muốn có một cái nhìn chân xác về thế giới huyền bí này, suốt nửa năm trời đằng đẵng, tôi đã theo chân các nhà ngoại cảm lên rừng, xuống biển, đến những vùng thậm xa xôi để chứng kiến, ghi hình, tìm hiểu công việc làm đặc biệt của họ – tìm hài cốt. Tôi cũng đã gặp hàng trăm nhân chứng, hàng chục các nhà khoa học đã và đang nghiên cứu về lĩnh vực tâm linh huyền bí này để thu thập tài liệu, chứng cứ, kiểm chứng. Thiên phóng sự đặc biệt “Những chuyện kỳ bí về thế giới tâm linh” là kết quả của những chuyến khoác ba lô vượt rừng, ngược suối ấy. Hàng trăm câu chuyện ly kỳ, huyền hoặc với hàng ngàn tình tiết hấp dẫn, đầy xúc động về chuyện nghề, chuyện đời của các nhà ngoại cảm đã được tôi ghi lại một cách trung thực, sinh động. Khởi đăng thiên phóng sự này, chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ giúp ích phần nào cho các nhà nghiên cứu và những người quan tâm đến ngoại cảm trong việc vén bức màn bí mật của thế giới tâm linh kỳ bí. Và cũng có thể, sẽ giúp cho hàng ngàn những người mẹ, người vợ liệt sĩ sớm tìm thấy hài cốt của chồng con mình sau mấy chục năm dằng dặc đỏ mắt mỏi mòn ngóng trông.

Bài 1: Hành trình đi tìm gần 500 hài cốt liệt sĩ ở Tây Nguyên

Cuối cùng, chúng tôi cũng có mặt ở K’Nác, huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai sau hành trình ngót 2 ngày đêm vượt 1.500 cây số bằng ô tô từ Hà Nội. Tây Nguyên vào tiết thu đẹp nao lòng. Trời ngằn ngặt xanh, mây trắng lốp, nắng vàng rượi, gió mơn man. Xa xa, dòng suối Đắc- lốp, nơi 41 năm trước đã nhuốm đỏ máu liệt sĩ vẫn rì rầm chảy giữa cỏ lau ngút ngàn. Ngọn đồi trước mặt, nơi căn cứ biệt kích của địch chiếm đóng xưa, nay là toà nhà 4 tầng khang trang, trụ sở của lâm trường Kông- Hà – Nừng. Dưới chân đồi, nơi từng diễn ra trận đánh khốc liệt, gần 500 chiến sĩ đã vùi xác, giờ chỗ là ao hồ, chỗ là nhà cửa, chuồng trại. Chao ôi cái sự xoá nhoà khắc nghiệt của thời gian.

Đang miên man nghĩ, bất giác, tôi chợt rùng mình khi nghe nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, người đang chắp tay trước bàn thờ thực hiện cuộc trò chuyện với các vong liệt sĩ từ sáng, quay sang chúng tôi nói, giọng nghèn nghẹn: “Liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn đặc công 409, quân khu 5 khóc ghê quá. Chú ấy bảo: Ngót 40 năm, lâu quá rồi, thời gian đủ để xoá nhoà tất cả, kể cả chúng tôi, những người đã hy sinh vùi xác thân vĩnh viễn nơi này. Chỉ có các bạn là những người còn nhớ đến để đi tìm. Còn những người chúng tôi nằm xuống xanh cỏ để cho họ đỏ ngực, để được thăng quan tiến chức thì có bao giờ họ nghĩ đến chúng tôi đâu. Giá như họ nhớ đến chúng tôi chỉ một chút thôi và sớm hơn một chút thôi thì giờ đây, đâu đến nỗi các bạn phải khổ sở và nhất là chúng tôi, mấy trăm con người phải vùi thịt xương nơi rừng xanh núi đỏ, không một nén hương tàn. Tôi không nỡ bỏ anh em ở lại núi rừng để mà về quê dù rất thương em trai tôi. Các em ở đây chúng còn trẻ quá. Hầu hết mới 18 – 19 tuổi đầu. Tôi phải đưa bằng được họ về với quê. Tôi sẽ chỉ dẫn cho các bạn tìm hài cốt của họ”.

Kỳ 1: Gần trọn một đời tìm anh

Khởi hành gian nan


Nếu không có cuộc hành trình tìm kiếm hài cốt người anh thân yêu của giám đốc công ty S-fone Phạm Văn Mẫn thì có lẽ mãi mãi, người đời sẽ chẳng biết gì về trận đánh khốc liệt vào trường biệt kích của địch ở K’Nác năm xưa. Và chắc chắn, thịt xương của ngót năm trăm chiến sĩ sẽ vĩnh viễn chìm sâu trong lòng đất, dưới đáy ao chuôm, chuồng trại, nhà cửa. Bởi lẽ, trong hầu hết các trang sử của những đơn vị bộ đội, chẳng có một dòng ghi chép nào nhắc đến trận đánh K’Nác tối ngày mồng 7 rạng ngày 8 tháng 3 năm 1965 buồn thảm ấy. Bộ đội ta hy sinh quá nhiều. Máu của các chiến sĩ đã nhuốm đỏ dòng suối Đắc – lốp. Xác các anh phơi trắng chân đồi. Theo thượng tướng Nguyễn Nam Khánh thì sở dĩ người ta cố tình quên đi vì sợ bị quy trách nhiệm. Cách hành xử ấy không những có lỗi với các chiến sĩ đã hy sinh mà còn có lỗi với thân nhân các gia đình liệt sĩ vì sẽ gây rất nhiều khó khăn cho họ trong việc tìm kiếm hài cốt chồng con mình sau này.

Anh Mẫn thắp hương tại đền tưởng niệm các LS ở K’Nack

Trở lại câu chuyện đi tìm mộ liệt sĩ của anh Phạm Văn Mẫn. Mẫn có người anh trai tên Phạm Văn Thành, quê ở Xuân Trung, Xuân Trường, Nam Định, lên đường nhập ngũ năm 1964. Năm ấy, cậu bé Mẫn mới tròn 10 tuổi. Lúc lên xe, anh Thành đã dúi vào tay Mẫn nắm cơm, khẩu phần ăn duy nhất của anh trước lúc lên đường. Thương anh, mắt nhoè lệ, lòng quặn đau như kim châm, dao cứa.

Chiến trường ác liệt. Anh đi biền biệt không về. Chẳng một lá thư, một dòng nhắn gửi. Mẹ đỏ mắt ngóng chờ. Năm 1972, tin sét đánh ngang tai. Anh Thành đã hy sinh. Cả nhà chết lặng.

Hoà bình lập lại. Nhớ thương anh, Mẫn quyết chí đi tìm. Nhưng biết tìm ở đâu? Giấy báo tử chỉ vỏn vẹn ghi: “Hy sinh ở mặt trận phía Nam”. Kệ, Mẫn cứ đi. Lúc bắt xe khách, khi cuốc bộ ngược đường Trường Sơn. Cứ thấy nghĩa trang liệt sĩ là anh vào. Lần tìm từng tấm bia trên mộ nhưng cái tên Phạm Văn Thành, quê Nam Định vẫn biệt vô âm tín. Thấm thoắt đã ngót 30 năm. Từ lúc tóc Mẫn còn xanh đến khi điểm bạc mà thông tin về phần mộ người anh vẫn biền biệt phương trời.

Đúng lúc tưởng như vô vọng nhất thì tình cờ anh gặp được đồng chí Trần Văn Thức, đồng đội cũ của anh Thành cùng trực tiếp tham gia trận đánh K’Nak. Anh Thức kể: “Tôi thuộc đơn vị bộ đội chủ lực tham gia hỗ trợ bộ đội Quân khu 5 đánh Trường biệt kích Tây Nguyên. Súng nổ mở màn lúc 23h 30′ thì chừng vài phút sau, tôi bị thương cùng với anh Thành. Nhưng mãi đến sáng mới được đưa ra Trạm xá Trung phẫu, cách K’Nác khoảng 8 -10 km. Tại đây, tôi có nhìn thấy dân công hoả tuyến đưa đồng chí Thành đi mai táng cạnh trạm Trung phẫu. Vị trí chôn cất thì không rõ lắm vì lúc đó tôi bị thương nặng, lúc tỉnh, lúc mê”. Thông tin ấy khiến cho anh Mẫn khấp khởi hy vọng và càng quyết chí đi tìm anh.

Từ đồng chí Thức, anh Mẫn đã gặp gỡ được nhiều nhân chứng vốn từng tham gia trận đánh K’Nak xưa. Gặp đồng chí Trần Duy Trung thuộc Trung đoàn 95 A, sư đoàn 325 bộ đội chủ lực, nay đang ở Xuân Trường, Nam Định. Gặp Trung tá Trần Tấn Ước, nguyên chính trị viên phó tiểu đoàn 409, hiện ở thị trấn Bình Sơn, Bình Định. Gặp trung tá, anh hùng Nguyên Ngọc Bình nguyên là đại đội trưởng đại đội 1 của tiểu đoàn 409, người được phong anh hùng trong trận đánh K’Nak. Gặp trung tá Nguyễn Văn ẩm, nguyên chính trị viên phó tiểu đoàn, phụ trách việc chôn cất các liệt sĩ cùng một số nhân chứng khác. Cả một trận đánh khốc liệt năm xưa chợt hiện về qua hồi ức của những người một thời vào sinh ra tử ấy.

Vén bức màn bí mật về trận đánh khốc liệt K’Nak

Căn cứ biệt kích K’Nak nằm trên 3 quả đồi chạy dọc Bắc Nam, có nhiều lợi thế quân sự. Nơi đây đồi núi lô nhô, thuận lợi cho việc xây dựng phòng thủ và bố trí binh lực, hoả lực, xuất phát tiến công. Lại có nhiều thung lũng sình lầy, có sông Ba và khe suối bao bọc, cản trở khi bị đối phương tiến công. Mỹ nguỵ đã xây dựng ở đây một cụm cứ điểm bao gồm đồn luỹ bảo vệ, sân bay dã chiến và trại pháo nhằm chặn cắt đường giao liên giữa Bình Định và Gia Lai. Quân ta đã nhiều lần tập kích căn cứ này nhưng đều không thành công. Mùa xuân năm 1963, Đảng uỷ, Bộ tư lệnh quân khu 5 và Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên quyết định tập trung lực lượng trên quy mô lớn tấn công căn cứ này. Lực lượng ta gấp 3 số lượng địch, gồm: Tiểu đoàn đặc công 409 quân khu 5, một đơn vị đặc công của tỉnh Bình Định, trung đoàn số 10 và Bộ phận chỉ huy tiền phương quân khu 5. Tổng quân số lên tới gần 750 người.

14h ngày 7 tháng 3 năm 1965, bộ đội ta xuất quân từ Kông-Hà-Nừng, cách K’Nak hơn 20 km. 18h, cách suối khô 500m. 19h, bắt đầu tiếp cận. Đến 23h, quân ta đã chiếm lĩnh xong các vị trí quy định. Theo kế hoạch, đặc công mở cửa diệt các vị trí trọng yếu. Sau đó, bộ binh dùng xung lực mạnh giảI quyết trận địa. Song do quá trình trinh sát địa hình chuẩn bị trận đánh trước đó một tháng đã để lộ dấu vết nên địch biết trước kế hoạch tấn công của ta. 23h 30′, bộ đội ta vấp phải mìn nổ, mìn sáng. Địch lập tức nổ súng trùm lên toàn bộ đội hình của ta. Pháo sáng chúng bắn sáng rực như ban ngày. Ta tiến công cưỡng hành. Bộ đội ta chiến đấu cực kỳ dũng cảm, đã đánh chiếm được điểm cao phía Bắc và phía Nam nhưng hướng chủ yếu ở giữa chỉ chiếm được “đầu cầu”. Lô cốt cố thủ của địch bắn chặn quyết liệt. Đến 0h 30′ ngày 8 tháng 3, quân ta thương vong gần hết. Xác của các chiến sĩ nằm la liệt trắng cả ven suối và chân đồi K’Nak. Lực lượng còn lại buộc phải rút lui. Địch vẫn bắn truy kích dữ dội. Gần 500 thương binh và tử sĩ của ta không mang theo được. Một phần địch gom lại, đổ xăng đốt. Số còn lại, dùng xe ủi đào từng hố hất các liệt sĩ xuống rồi san phẳng.

Đồng chí Nguyễn Văn ẩm, chính trị viên phó Tiểu đoàn 409, phụ trách công tác thương binh ở trạm trung phẫu (cách vị trí địch khoảng 8km) cho đào sẵn 50 huyệt mai táng. Mỗi hàng 10 huyệt, cách nhau 60 – 80cm nhưng duy nhất chỉ mai táng được 8 đồng chí, trong đó có tiểu đoàn trưởng Ngô Trọng Đãi và liệt sĩ Phạm Văn Thành. 8 đồng chí này bị thương ngay từ đầu trận đánh nên mới đưa ra được phía sau. Lực lượng cứu thương và dân công hoả tuyến (đều là người dân tộc) cũng hy sinh hết cả nên không còn người cấp cứu và tải thương ra cứ được. Nếu tính cả lực lượng này, hơn 1.000 người đã để lại xương thịt ở trận địa K’Nak.

Cuộc điện đàm… huyền hoặc

Chuyện tìm hài cốt liệt sĩ Phạm Văn Thành giờ tưởng chừng dễ dàng như trong lòng bàn tay. Nhưng khi đưa các nhân chứng vào K’Nak, anh Mẫn đã bật khóc nức nở. Ngót 37 năm trời dằng dặc, cảnh vật thay đổi quá nhiều. Trạm trung phẫu trước kia có 4 cây đa cổ thụ to lắm, che chắn cho trạm xá, nay chỉ còn một cây. Suối Đắc-lốp giờ đã ngăn dòng làm đập thuỷ điện. Đồng đội cũ của anh Thành giờ đều tuổi cao, sức yếu, trí nhớ giảm sút nên việc xác định vị trí ngôi mộ rất khó khăn. Nhiều lần, anh Mẫn phải cầu viện đến các nhà ngoại cảm. 9 nhà ngoại cảm nổi tiếng từ Bắc chí Nam anh đều đã vời vào nhưng không hiểu sao, người ra đến sân bay thì cáo ốm xin về, người bước đến cửa rừng thì kêu: “khu rừng này thiêng lắm, sợ lắm, không tìm được đâu” rồi hớt hải bỏ về. Có nhà ngoại cảm vừa đào đào bới bới bỗng lăn đùng ra đất, tay ôm chặt đầu lăn lộn, miệng kêu gào: “Ôi! đau đầu quá! Đau quá”. Lần cuối cùng, ngày 26 tháng 12 năm 2001, nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy cùng anh Mẫn đi Tây Nguyên. Trước khi đi, nhà ngoại cảm bằng khả năng đặc biệt đã cung cấp những thông tin ban đầu khá chính xác:

-           Nơi liệt sĩ Thành nằm còn có 7 người nữa.

-           Khu mộ cách con suối từ 20 – 50m, có nhiều bụi rậm, trong đó có một cây cụt.

-           Anh Thành nằm hàng thứ 2, ngôi thứ 2 từ phải qua trái. Ngôi đầu, hàng đầu là một người chỉ huy.

Nhưng vào làm việc tại thực địa, nhà ngoại cảm cho khai quật một số điểm đều không thấy. Tranh luận nổ ra. Một số người trong đoàn giảm niềm tin và chán nản. Lúc đó, nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy mới gọi điện thoại di động trao đổi với thiếu tướng Nguyễn Chu Phác – chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người), rồi chuyển điện thoại cho anh Mẫn trực tiếp nói chuyện. Từ Hà Nội, thiếu tướng Chu Phác hỏi: “ở đấy ai là Thành?”. Anh Mẫn đáp: “Thưa chú! Thành là anh ruột cháu. Anh ấy là liệt sĩ. Chúng cháu đang tìm nhưng không thấy”. Thiếu tướng lại hỏi: “ở đấy có ông chỉ huy tên Ngô Trọng Đãi đeo súng ngắn hy sinh không?”. “Thưa chú! Chú Ngô Trọng Đãi là tiểu đoàn trưởng, hy sinh cùng anh cháu”. Thiếu tướng bảo: “Ông ấy đeo súng lục, tay cầm cái gậy, đuổi các cậu về và nói: ở đây có hàng trăm liệt sĩ, chúng nó không tìm mà chỉ nhăm nhăm đi tìm một người là Thành – anh nó thì không cho tìm”. Thiếu tướng trùng giọng: “Thôi! Các cậu về đi. Về ngay để nghiên cứu, tổ chức lại cuộc tìm mộ này”.

Ngày 20 tháng 2 năm 2002, anh Phạm Văn Mẫn đã làm một lá đơn gửi Bộ môn cận tâm lý và Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người nhờ giúp đỡ tìm mộ anh trai và đồng đội ở K’Nak. Hơn một tháng sau, Bộ môn đã cử một đoàn công tác đặc biệt gồm 3 nhà ngoại cảm nổi tiếng: Phan Thị Bích Hằng, Thẩm Thuý Hoàn, Nguyễn Khắc Bảy do Đại tá Hàn Thuỵ Vũ phụ trách trở lại Tây Nguyên. Anh Phạm Văn Mẫn đã trực tiếp mời Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên Phó tư lệnh quân khu 5 cùng nhiều nhân chứng khác tham gia đoàn. Trước khi lên đường trở lại chiến trường xưa, Đoàn và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, bằng khả năng đặc biệt đã mời vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tiểu đoàn trưởng và vong linh liệt sĩ Phạm Văn Thành về nhà riêng ở Khu tập thể Kim Liên để xin ý kiến. Cuộc trò chuyện kéo dài hơn 1 tiếng đồng hồ trong bảng lảng hương khói và nước mắt với rất nhiều thông tin của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi đã mở ra hướng đi mới cho việc tìm mộ tập thể liệt sĩ ở Tây Nguyên.

Hành trình tìm mộ liệt sĩ & Những chuyện kỳ bí về thế giới tâm linh – Kỳ 2

Kỳ 2:  Bí mật dưới dòng Đắc-lốp

“Tìm liệt sĩ tiếng lòng vẫy gọi

Đánh thức lương tri của mỗi con người

Ai đem hạnh phúc cho đời

Nhớ người chiến sĩ quên mình năm xưa”

Trò chuyện với…vong linh liệt sĩ

Nhà ngoại cảm Bích Hằng đang “trò chuyện” cùng các LS tại K’Nack

Cuộc “gặp gỡ” kỳ lạ đượm chất “liêu trai” giữa nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, Phạm Văn Thành đã diễn ra vào hồi 16h ngày 26 tháng 3 năm 2002 tại căn phòng nhỏ của chị ở khu tập thể Kim Liên, Hà Nội. Tham gia cuộc gặp gỡ có thiếu tướng Chu Phác, chủ nhiệm bộ môn cận tâm lý, thuộc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, Đại tá Hàn Thụy Vũ và anh Phạm Văn Mẫn. Trong không khí tĩnh lặng, thiêng liêng phảng phất hương trầm, trước di ảnh của hai liệt sĩ, nhà ngoại cảm tay chắp trước ngực thành kính, giọng đầy xúc động: “Thưa bác Ngô Trọng Đãi và anh Phạm Văn Thành! Hôm nay là ngày 26 tháng 3 năm 2002, cháu Phan Thị Bích Hằng cùng anh Phạm Văn Mẫn  là em của liệt sĩ Phạm Văn Thành, Thiếu tướng Chu Phác, Đại tá Hàn Thuỵ Vũ muốn được mời bác và anh Thành về. Xin hỏi bác những thông tin có liên quan đến trận đánh căn cứ biệt kích K’Nak và đặc biệt là nơi mai táng cũng như tình trạng hiện nay của các liệt sĩ tại K’Bang”. Ngừng lời như kìm nén niềm xúc động, mắt vẫn dõi nhìn vào tấm ảnh đã ố vàng của liệt sĩ Đãi, chị đằng hắng giọng rồi nói tiếp, giọng run run: “Thưa bác Đãi! Nhiều năm qua, anh Mẫn đã bỏ ra rất nhiều công sức, tiền của để đi tìm mộ anh Thành tại khu rừng mà mọi người chỉ dẫn là nơi đặt trạm trung phẫu 37 năm về trước mà không đạt kết quả. Hôm nay, xin phép bác và anh Thành cho anh Mẫn được thưa chuyện. Mong được hai người chỉ dẫn”.

Anh Mẫn: “Thưa bác Ngô Trọng Đãi và anh Thành! Nhiều năm qua, đã mấy chục lần cháu đi tìm anh cháu và các bác ở K’Bang. Lần gần đây nhất là tháng 12 năm 2001. Mặc dầu đã được các nhân chứng chỉ chỗ chôn cất các bác, cháu đã khai quật nhiều lần mà vẫn không thấy. Lần này, trời run rủi cho cháu được gặp nhiều đồng đội cũ của Bác, những người trực tiếp chỉ huy trận đánh, trực tiếp chiến đấu và mai táng như bác Nguyễn Văn ẩm, bác Trần Duy Trung, bác Nguyễn Trọng Bình, Châu Khải Địch, Nguyễn Văn Cán, Nguyễn Minh Sang, Trần Tấn Ước… Đặc biệt chuyến đi tới còn có Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh cùng nhiều thành viên khác. Cháu mong bác và anh linh thiêng hướng dẫn thêm để chuyến đi này đạt kết quả như mong muốn”. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, sau một hồi chăm chú nhìn bức ảnh liệt sĩ Đãi và lắng nghe, miệng “dạ, vâng”  liên tục như thể hai người trần đang trò chuyện với nhau, đã quay sang anh Mẫn để truyền đạt lại lời của liệt sĩ (từ đây xin ghi là liệt sĩ Đãi – tác giả). “Tôi không nỡ bỏ anh em ở lại núi rừng để về quê hương dù rất thương em trai tôi. Cả Thành cũng vậy, dù rất thương cậu xong cũng không thể về một mình mà để lại đồng đội đâu Mẫn ạ. Lần nào cậu vào đào bới chúng tôi đều biết hết. Sự hiện diện của cậu ở K’Bang bao nhiêu năm nay ở núi rừng K’Bang là nguồn động viên an ủi vô cùng lớn đối với linh hồn các liệt sĩ. Như vậy là vẫn có người nhớ đến chúng tôi. Chúng tôi vẫn còn  có cơ hội về quê. Nhưng cậu chỉ đi tìm anh cậu còn để bỏ mặc đồng đội của tôi, của anh cậu thì làm sao tìm được”. Anh Mẫn: “Thưa bác, những lần đi tìm trước, cháu có đào đúng chỗ các bác nằm không ạ?”.  Liệt sĩ Đãi: “Toạ độ cậu xác định là đúng nhưng địa điểm cụ thể thì chưa. Phải lùi về phía con suối nữa, nơi có nhiều cây song le gần sát nước. Trước đây chỗ mai táng chỉ cách suối khoảng 25m thôi. Đấy là lúc suối cạn. Còn bây giờ suối đã ngập nhiều rồi. Chỗ hồ nước mênh mông ấy, hài cốt chúng mình ở dưới ấy. Cậu có đủ can đảm lặn xuống đáy không?”.  Anh Mẫn: “Thưa bác, như vậy có nghĩa là các bác nằm ở dưới con suối ạ? Vì ở đó bây giờ là đập thuỷ điện”. Liệt sĩ Đãi: “Cũng gần như vậy. Duy chỉ có một điều tôi không muốn nói ra vì nếu nói, sẽ chẳng ai vào đây với chúng tôi nữa. Thôi, dù sao cũng cố gắng vào với chúng tôi đi. Tôi muốn gặp lại những đồng đội cũ của tôi còn may mắn sống sót sau trận đánh ấy và cũng để cho họ được một lần trở lại chiến trường xưa”. Anh Mẫn: “Vậy có cách nào để xả con suối đó không ạ?”.  Liệt sĩ Đãi: “Thế tôi mới hỏi cậu”. Anh Mẫn: “Bác Đãi ơi! Bác hãy giúp cháu. Cháu sẽ xin xả đập nước. Nhưng nếu chính quyền họ bắt cháu thì sao. Xin bác và các liệt sĩ giúp cháu”. Liệt sĩ Đãi: “Cậu làm vì việc nghĩa thì không ai dám hại cậu đâu, miễn là hợp lý, hợp tình. Nhưng có một điều tôi muốn nói với cậu. Tôi sợ cậu lực bất tòng tâm. Tìm các liệt sĩ còn muôn vàn gian khó đấy. Nhiệt tình không chưa đủ. à, mà cậu đã qua Vĩnh Thạnh bao giờ chưa?”.  Anh Mẫn ngạc nhiên hỏi: “Thưa bác, sao lại phải qua Vĩnh Thạnh xa xôi thế ạ?”. Liệt sĩ Đãi: “Cậu dốt lắm. Không qua Vĩnh Thạnh thì chuyến đi của cậu còn có ý nghĩa gì. Kiểu gì cũng phải qua đó thắp hương. Các liệt sĩ quê ở đó nhiều lắm và còn nhiều lý do khác nữa, sau này mới hiểu”.

Anh Mẫn còn đang vân vi về lời dặn của liệt sĩ Đãi thì vong linh của liệt sĩ Thành về, nói qua nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: “Anh không biết nói gì thêm với em cả, chỉ mong sớm được cùng em về với quê hương, cha mẹ. Khi đi em nhớ thắp hương xin phép tổ tiên để các cụ phù hộ cho em nhé. Nhà mình còn một ông chú chết trẻ nữa đấy. Chú trách là không bao giờ nói gì đến chú cả. Lần này em phải nhớ. Anh và bác Đãi sẽ phù hộ cho em”.

Chị Hằng tay vẫn chắp trước ngực, nói: “Thưa bác Đãi! Thưa anh Thành. Lần này, anh Mẫn tổ chức đoàn đi tìm kiếm các liệt sĩ tương đối quy mô. Có sự tham gia của nhiều nhân chứng, sự giúp đỡ của quân khu 5, của địa phương tỉnh Gia Lai và các nhà ngoại cảm thuộc Bộ môn cận tâm lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Thành phần này rất đầy đủ và chuẩn bị rất công phu. Cháu mong các bác hãy phù hộ giúp đỡ cho đoàn đi tìm kiếm đợt này đạt được như ý muốn. Cháu cảm ơn bác Đãi, anh Thành và cảm ơn các liệt sĩ”.

Cuộc nói chuyện kết thúc vào hồi 17h nhưng mọi người còn bịn rịn chưa muốn về. Ai cũng băn khoăn trước những câu nói khó hiểu của liệt sĩ Đãi: “Nếu tôi nói ra sẽ chẳng ai vào đây nữa”. “Nếu không đi Vĩnh Thạnh, chuyến đi của cậu sẽ chẳng còn ý nghĩa gì” và “Cậu có đủ can đảm mò xuống dưới suối không?”. Có gì ẩn chứa trong những lời nói ấy? Câu trả lời vẫn còn ở phía trước, tận núi rừng Tây Nguyên xa xôi, hùng vĩ khiến tất cả mọi người cứ khắc khoải như chính linh hồn các liệt sĩ đã từng khắc khoải đợi chờ suốt 37 năm dằng dặc.

Nước mắt giữa rừng sâu

Trở lại chiến trường xưa tìm đồng đội

Ngày 27 tháng 3 năm 2002, đoàn xuất phát từ Hà Nội. Trên đường đến K’Nak, đoàn rẽ vào Nghệ An, Đà Nẵng đón thêm một số nhân chứng, trong đó có bác Ngô Trọng Quang là em ruột của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tổng cộng khoảng hơn 40 người, do Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh làm trưởng đoàn. Ba ngày sau, tại núi rừng K’Bang âm u, trùng điệp, tại chính mảnh đất đã thấm đẫm máu của ngót 500 chiến sĩ đặc công anh hùng, những người lính đã một thời vào sinh ra tử trong trận đánh khốc liệt K’Nak, sau 37 năm trời đằng đẵng, nay tóc bạc da mồi, bồi hồi xúc động kể lại kỷ niệm xưa. Nước mắt lăn dài, khói hương nghi ngút, những tiếng nấc nghẹn ngào cứ bật ra. Trung tá Nguyễn Văn Cán, 70 tuổi, sụt sùi kể: “Lúc đó trận đánh rát quá, quân ta thương vong quá nhiều nên tôi phải liên lạc và báo cáo cấp trên bằng bộ đàm. Đang báo cáo thì anh Ngô Trọng Đãi giật lấy máy từ tay tôi để xin ý kiến chỉ đạo. Đúng lúc đó, một quả pháo cối  của địch bắn trúng anh. Bụng anh bị vỡ, máu chảy ồ ạt, ruột gan tòi hết cả ra ngoài. Tôi phải xé quần áo buộc chặt. Dân quân hoả tuyến vội vàng đưa anh về trạm trung phẫu cấp cứu nhưng không kịp. Đau xót và thương lắm các đồng chí ạ!”. Nói đoạn, trung tá Cán bật khóc nức nở như thể đang đứng trước trận chiến năm nào, đầy xác và máu đồng đội.

Các nhân chứng đang xem lại sơ đồ trận đánh để xác định vị trí trạm trung phẫu

Trung tá Nguyễn Văn ẩm, 74 tuổi, nhân vật trung tâm của chuyến đi vì ông là người trực tiếp chôn cất liệt sĩ Đãi, Thành và 6 đồng chí khác nhớ lại: “Tôi đào sẵn 50 hố. Mặc dù số lượng hy sinh quá nhiều so với dự kiến nhưng cuối cùng cũng chỉ đưa về mai táng được 8 đồng chí thôi. Sợ địch phát hiện nên chôn cất xong chúng tôi phải san phẳng ngay. Kể lại thì xót xa lắm. Lúc đó vì khó khăn nên mai táng các đồng chí ấy chẳng có quan tài, áo mưa hay tăng võng gì sất. Chỉ vỏn vẹn có 4m vải xô trắng quấn qua loa. Nếu tìm thấy bây giờ thì xương cốt chắc cũng chẳng còn gì nữa”.

Trung tá Nguyễn Minh Sang, người trực tiếp tham gia trận đánh, sau này đã từng bám trụ chống lại bọn lâm tặc phá rừng, nơi đồng đội của bác đã đổ xương máu, hiện đang sống tại K’Bang thì vừa khóc tu tu, vừa nói: “Phải tìm bằng được các liệt sĩ rồi sau này có chết đi cũng không có gì phải áy náy. Chừng nào chưa tìm được các anh thì rừng này vẫn phải giữ nguyên không ai được chặt phá. Trong khi chúng ta còn sống thì bằng mọi cách, phải đưa các anh trở về với quê cha đất mẹ”.

Bí mật dưới hồ Đắc-lốp

Suối Đắc Lốp

13h ngày 30 tháng 3 năm 2002, bắt đầu cuộc tìm kiếm hài cốt 8 liệt sĩ tại khu vực trạm trung phẫu. Trung tá Nguyễn Văn ẩm, do tuổi cao, sức yếu, trí nhớ giảm sút, cộng với địa hình thay đổi quá nhiều qua 37 năm mưa nắng nên không thể nhớ được chính xác vị trí trạm trung phẫu cũng như nơi chôn cất 8 liệt sĩ. Cả ba nhà ngoại cảm là Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bảy và Thẩm Thuý Hoàn thì đều kêu ở đây nhiễu quá, mất hết thông tin, không ai gặp được vong. Lực lượng bộ đội và dân quân đào một số đoạn hào nhưng không phát hiện được dấu vết gì. Một số dân địa phương, người Ba Na lớn tuổi, chỉ một số điểm khác cũng không trúng.

Vị trí trạm trung phẫu gần suối Đắc-Lốp

Các nhà ngoại cảm đều cố gắng cầu khấn xin gặp vong người chỉ huy cao nhất là liệt sĩ Ngô Trọng Đãi. Đến 21h ngày 30 tháng 3 năm 2002, tại nhà nghỉ, Thẩm Thuý Hoàn gặp được vong liệt sĩ Ngô Trọng Đãi. Liệt sĩ dặn: “Triển khai xuống phía dưới con suối, không nên đào quá lên trên. Hôm nay đã hất một phần, ngày mai chịu khó bới lại một chút. Từ chỗ đào hôm nay hơi chéo xuống. Vì hài cốt của chúng tôi không còn nhiều nên khi đào phải chú ý thận trọng một chút. Ngày mai tìm được các liệt sĩ khác rồi mới tìm được tôi và anh Thành. Nếu không, các anh em còn lại sẽ không có ai tìm nữa”.

Cùng thời gian đó, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cũng được “yết kiến” vong liệt sĩ Đãi. Chị nói thêm: “Người bác rất cần gặp trong ngày hôm nay vì bác đã xanh cỏ để cho họ đỏ ngực thì không đến để nói một lời chia sẻ với các anh em ở đây. Bác ẩm là đồng đội cũ nhưng không nói thay được. Khi nghe tin đoàn vào, anh em liệt sĩ ở đây rất mừng, ra đón rất đông. Nhưng các vị tướng lại không nói một lời. Sát mép gần bờ suối còn nhiều anh em. Cháu yên tâm không đi nhầm khu vực. Bác sẽ hiệp đồng với cháu”. Hình ảnh của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi xuất hiện mờ ảo, rất nhanh nhưng cả hai nhà ngoại cảm đều thu được trùng khớp thời gian và nét mặt.

Chiều hôm sau, đoàn tìm kiếm quay trở lại rừng. 13h, cùng một lúc, chị Hằng và Hoàn đều reo lên: “Bác Đãi về kìa”. Việc tìm kiếm khu mộ bắt đầu chuyển hướng về phía chân đồi, nơi dòng suối Đắc-lốp. Cả đoàn túm vào phát quang hơn 100m rừng le rậm rạp, mở đường xuống suối. Các nhà ngoại cảm và trung tá Nguyễn Văn ẩm cùng chung một ý nghĩ: Dòng suối cạn khi xưa nay đã thành hồ nước rộng gần 100m2 do chính quyền huyện K’Bang ngăn nước tạo đập làm thuỷ điện. Và kia rồi, một gốc cây cổ thụ bị cưa ngang nổi lập lờ mặt nước. Bằng khả năng đặc biệt, nhà ngoại cảm Bích Hằng đã xác định được vị trí của 8 liệt sĩ đang nằm dưới lòng suối, rồi cho người cắm cọc theo các trật tự như sau: Liệt sĩ Đãi, Tất, Được, Tuyển, Hưởng, Bình, Thành và Công. Liệt sĩ Đãi là tiểu đoàn trưởng, người chỉ huy cao nhất nên được an táng đầu tiên. Người được an táng cuối cùng là liệt sĩ Công, trẻ nhất.

Bích Hằng thắp hương tại vị trí đang khai quật để nói chuyện với các liệt sĩ. Liệt sĩ Đãi yêu cầu gặp bác Lại (em trai).  Liệt sĩ nói (qua Bích Hằng): “Em mới vào đây thì biết gì đâu. Không đào chỗ này nữa. Cô Lệ dạo này ra sao?”. Bác Lại đáp: “Cô Lệ đã lấy chồng là thương binh anh ạ”. Liệt sĩ Đãi: “Trước đây, anh có người yêu tên Lý, quê ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, làm giáo viên, quen nhau ở lớp học bình dân. Cô ấy đã tình nguyện quan hệ với anh một lần. Lúc đó, hai đứa có bàn với nhau: Nếu con gái đặt tên là Hoài, con trai đặt tên là Nhơn. Nhưng trong túi anh lúc nào cũng có ảnh của cô Lệ ở quê mình đã dạm hỏi ý. Rất tiếc là lúc chôn anh, bác ẩm đã không chôn bức ảnh cùng. Giỗ anh vào ngày mồng 7 tháng 3 chứ không phải mồng 8. Làm lệch ngày, anh về, không có nén hương, anh tủi thân. Vị trí các anh em liệt sĩ ở đây là: Đãi, Tất, Được, Tuyển, Hưởng, Bình, Thành, Công. Nếu anh Chương (đồng chí Nguyễn Huy Chương, nguyên chính trị viên trưởng tiểu đoàn, người quyết định trận đánh – tác giả) mà có trách nhiệm đến thăm anh em ngay từ khi hoà bình lập lại thì có biết bao nhiêu anh em đi theo ủng hộ, chứ phải đâu như bây giờ. Nơi này tắm máu anh em xong để đấy. Y cụ, xong nồi, chảo vẫn ở dưới suối”. Liệt sĩ Thành nói chen vào: “Lúc nãy bác Đãi thấy bác Lại cứ đi vòng quanh mãi nên bác Đãi thương quá mà về gặp. Mẫn ơi! Chỉ cần em vào đây thắp hương là đủ rồi. Để cho anh ở lại đây. Không phải anh không muốn về. Anh cũng nhớ mẹ lắm chứ nhưng sợ em lực bất tòng tâm vì anh đang nằm ở dưới làn nước sâu. Chị Thường nản rồi không vào thăm anh nữa à? Chị ấy là phụ nữ, đi lại vất vả thế, chắc không chịu được. Có thằng Hải, thằng Đông vào đây là anh vui rồi. Hải nó lớt phớt, không tin là tìm được anh. Anh chỉ còn rất ít”. Liệt sĩ Đãi nói tiếp: “Khẩu súng lục anh đeo, lúc vào trạm trung phẫu, vì ruột cứ lòi ra nên đã tháo ra để quấn băng. Anh chỉ ú ớ được mấy tiếng rồi không biết gì. Cô Lý rất yêu anh nhưng nhà đã dạm hỏi coi như anh có vợ. Muốn gửi lời xin lỗi cô Lệ đã để cô ấy chờ lâu quá. Em mang về dù một nắm đất cũng nhắn Lệ đến thăm anh”.

Bích Hằng: “Thưa bác Đãi, cháu xin phép được thỉnh cầu bác lần nữa. Mong bác cho biết, toạ độ chúng cháu cắm cọc kia đã đúng chưa ạ? Bác có thể chỉ dẫn để chúng cháu cắm lại. Và bác Lại có đôi lời muốn thưa chuyện với bác”. Liệt sĩ Đãi: “Đây là cọc đầu tiên và 6 cọc tiếp theo. Nhưng không phải chỗ này, đi tiếp cắm lại. Được rồi. Bắt đầu từ đấy kéo dài thẳng đến gốc cây. Đây là cây đa che chở cho trạm trung phẫu”. Bác Ngô Trọng Lại, chắp tay vái lia lịa, miệng mếu máo: “Anh ơi! Nếu đúng mảnh đất này là nơi lưu giữ xương thịt anh thì anh cho phép tất các các gia đình thân nhân liệt sĩ ở đây đem nắm đất này về. Mong anh trao đổi với các anh em và cho biết ý kiến. Điều kiện em rất khó khăn, tuổi cao, sức yếu, khả năng tài chính eo hẹp. Anh nên về nghĩa trang liệt sĩ Hoà Vang hoặc đài liệt sĩ xãHoà Thọ quê mình yên nghỉ”. Liệt sĩ Đãi: “Thật ra trong lòng anh đã nghĩ đến điều đó. Dù sao nơi này cũng có xương máu của anh và đồng đội. Với tình cảm của em và mọi người dành cho anh thì dù chỉ là một nắm đất cũng đầy đủ ý nghĩa rồi. Hồi xưa đi hoạt động, anh vẫn thường bảo với em là: Anh hùng xá kể chi thân xác. Mạng sống của mình còn chẳng tiếc, huống hồ một nắm xương tàn. Thôi thì sinh thổ hoá thổ. Sinh ra từ đất rồi lại trở về với đất. Với anh em ở đây, về mặt chỉ huy anh có thể nói được. Nhưng tình cảm cá nhân thì mỗi người một ý, anh không thể quyết định thay được. Riêng anh, anh đồng ý theo em về. Em mỗi tuổi mỗi yếu, đi lại nhiều, thương lắm. Quê mình là Hoà Nhơn sao bây giờ là Hoà Thọ. Dù về nghĩa trang xã hay huyện đều được còn như thế này coi như anh được thuỷ táng dưới lòng suối với anh em. Cậu Tuyển, Được cũng sẵn sàng về. Còn các anh em khác đang lưỡng lự. Em có thể bốc một nắm đất sát bờ suối. Còn vị trí vừa cắm cọc là có anh nằm ở dưới. Em cứ bốc một nắm đất lên rồi khấn: Ba hồn bảy vía anh Ngô Trọng Đãi ở đâu thì theo em về quê. Em bốc bảy lần và nói như vậy. Mỗi lần cắm một nén hương. Em chắp tay xin thần rừng, thần sông, thần suối phù hộ cho linh hồn anh được về quê. Anh không muốn về trong ngậm ngùi mà muốn có lá cờ Tổ quốc phủ lên phần đất, dù là tượng trưng, để phủ lên cho anh”.

Bác Lại vâng lời, làm đúng lời anh dặn. Vừa bốc đất, vừa khấn, vừa khóc. Tiếng khóc nấc đớn đau chất chứa cả một đời cứ lan trong chiều tím nghe vừa ai oán, vừa xót xa. Cả đoàn không ai kìm được nước mắt. Còn anh Mẫn, lặn ngụp dưới lòng hồ suốt từ chiều đến giờ nhưng vì hồ rộng, nước sâu nên đành chịu. Nước hồ chỗn lẫn nước mắt ướt đầm. Thương anh đứt ruột nhưng đành phải gạt nước mắt tạ từ chờ đến mùa khô nước cạn.

Vì hồ rộng nước sâu nên anh Mẫn đành phải nuốt nước mắt lên bờ

Kỳ 3: Trở về đất mẹ

Trả lại tên cho các anh

Cũng trong thời gian ở K’Bang, đoàn công tác đã chia đội ngũ các nhà ngoại cảm ra làm 2 nhóm nhằm mở rộng phạm vi tìm kiếm hài cốt của gần 500 liệt sĩ còn vùi sâu đâu đó khắp K’Nak. Nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn, Nguyễn Khắc Bảy làm một nhóm. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, đại tá Hàn Thuỵ Vũ, nhà giáo Đoàn Thanh Hương (thư ký Đoàn) làm một nhóm khác cùng đông đảo các nhân chứng. Và kỳ diệu như trong chuyện cổ tích, các nhà ngoại cảm với khả năng đặc biệt siêu phàm như thấu thị, đối thoại (nhìn thấy và trò chuyện với các vong hồn) đã nhanh chóng tìm thấy các hố chôn tập thể hài cốt liệt sĩ giữa mênh mông đồng bãi, ngút ngàn cỏ lau, điệp trùng suối, núi, hơn thế, còn xác định được danh tính của từng người, điều mà với những con mắt trần thường tình của người đời là điều không thể.

ở hố chôn thứ nhất, dọc con suối Đắc-lốp, trong lùm cây rậm rạp, dưới gò mối lớn tìm được 22 liệt sĩ. Qua Bích Hằng, các liệt sĩ cho biết: đây là hố chôn tập thể. Phần nửa phía tây, gần căn cứ K’Nak, bị địch chất đống đổ xăng đốt nhưng mùi da thịt cháy khét lẹt bốc lên đồi khiến chúng không chịu nổi nên nửa hố phía đông, chúng dùng máy xúc đào đất lấp vùi. Bích Hằng lấy được tên tuổi, địa chỉ quê quán của cả 22 người. Điều đặc biệt là sau này, khi đối chiếu những tên tuổi này với danh sách các liệt sĩ ở Trung đoàn 95A và Tiểu đoàn đặc công 409 thì trùng khít.

ở hố chôn thứ 2, bên dãy cây bạch đàn có gò mối lớn, cách hố thứ nhất khoảng 100m, tìm được tên 12 liệt sĩ.

8h sáng ngày 1 tháng 4 năm 2002, Đoàn lên đồi thông K’Nak để xác minh một ngôi mộ vô danh. Đây chính là cứ điểm phía Bắc của cụm cứ điểm biệt kích K’Nak. Nhà ngoại cảm Bích Hằng thắp hương mời vong liệt sĩ lên trò chuyện. Liệt sĩ cho biết tên là Nguyễn Văn Minh, chính trị viên Đại đội 40, Tiểu đoàn đặc công 409, quê ở Thạch Khê, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Nhân chứng tại chỗ, anh hùng lực lượng vũ trang, trung tá Nguyễn Ngọc Bình, nguyên Đại đội trưởng đại đội đặc công 40 (D409) xác nhận: thông tin trên hoàn toàn chính xác. Ông kể: khi quả pháo nổ trước mặt, anh Minh ngã vật xuống, anh Lê Xuân Hổ văng ra, đồng chí liên lạc hy sinh tại chỗ còn ông thì bị thương gẫy tay phải.

Liệt sĩ Minh hỏi Trung tá Bình (qua nhà ngoại cảm): “Anh Lê Xuân Hổ thế nào?”. Trung tá Bình, tay chắp trước ngực, mắt nhìn vào làn khói hương nghi ngút trên mộ đồng đội, trả lời, giọng run run: “Anh Lê Xuân Hổ lên giúp Tây Nguyên. Năm 1972, chuyển đơn vị về Chu Lai, làm trung đoàn phó chiến đấu ở Tuyên Phước. Trong lúc đi điều tra, anh ấy đã hy sinh”. Liệt sĩ Minh: “Anh Trần Tấn Ước (tiểu đoàn phó tiểu đoàn 409 - tác giả) có khoẻ không? Tôi rất xúc động khi gặp các anh. Tuy nằm ở trên đồi này mát mẻ nhưng tôi không thích vì gần đồn địch. Tôi muốn về quê. Bố tôi là Nguyễn Văn Tỉnh ở Thạch Khê, Hà Tĩnh nhưng đã mất. Còn em là Nguyễn Văn Tiến nhà nghèo, không đủ khả năng đưa tôi về. Trước mắt cho tôi về nghĩa trang liệt sĩ với anh em. Chân phải tôi bị gãy. Tôi nằm trong một khe đá nhỏ, không có người chôn. Giỗ tôi ngày 8 tháng 3″.

Người tìm thấy hài cốt liệt sĩ Minh là anh Giang Xuân Lâm, 40 tuổi, quê ở Thái Bình. Ngày 18 tháng 10 năm 1992 (Âm lịch), trong khi đào phế liệu, anh Lâm phát hiện cạnh tấm tôn có xương hàm nên bới cẩn thận, lật lên thấy hài cốt. Xương dài, cao. Xương chân bên trái còn có băng cuốn. Gia đình anh đã di chuyển mộ 2 lần. Năm 1995, đưa về an táng trên đồi thông.

9h30′ cùng ngày, đoàn khảo sát một số khu vực dọc suối, thuộc phía đông đồn cũ của địch, Bích Hằng phát hiện dưới vườn khoai lang của dân có 5 liệt sĩ. Do có nhóm công binh đi cùng, đoàn cho khai quật một hố nhỏ, rộng 0,60m, dài 1,2m, sâu 0,60 m thì tìm thấy một chiếc răng và mảnh xương. Sợ không đủ sức nên đoàn không dám đào thêm.

Sát mép suối, dưới gốc cây sung, Thẩm Thúy Hoàn đọc được tên 5 liệt sĩ. Liệt sĩ Việt bảo: “Cảm ơn đoàn đã bỏ nhiều công sức đi tìm chúng tôi. Cảm ơn anh em đồng đội đã đến đây. Tại sao khi chúng tôi đi có họ tên mà bây giờ vô danh không ai biết tới”. Thấy chị Đoàn Thanh Hương ngồi ghi chép tên tuổi, quê quán các liệt sĩ, liệt sĩ Việt nhắc: “Chị ghi nhầm quê của tôi rồi”.

Cuộc tìm kiếm kết thúc vào ngày 2 tháng 4 năm 2002. Đoàn đã xác định được 10 hố chôn với 128 liệt sĩ trong tổng số gần 500 người hy sinh tại K’Nak. Có danh sách cụ thể và đã đối chiếu với đơn vị. Các nhân chứng từng là cán bộ chỉ huy xác nhận là phù hợp với thực tế.

Đưa anh về với mẹ

 

Lại một mùa mưa rừng qua đi. Giữa lúc lòng anh Mẫn nóng ran như người ngồi trên đống lửa vì hài cốt của người anh và đồng đội vẫn chìm dưới hồ nước bạc thì bất ngờ anh nhận được tin nhắn từ K’Nak: Hồ chứa nước trên dòng suối Đắc-lốp đã cạn. Anh Mẫn mừng rơn như người bộ hành trên sa mạc trong cơn khát cháy bỗng gặp nguồn nước mát. Anh tức tốc báo cáo với Ban chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý, đề nghị cử nhà ngoại cảm vào giúp đỡ khai quật ngay. Anh Mẫn kể lại: “Trước hôm trở lại K’Bang, tôi phải tổ chức buổi họp mặt gia đình gấp. Không hiểu sao, suốt 30 năm vượt thác băng rừng tìm anh, biết bao hiểm nguy rình rập, tôi không sợ. Vậy mà đêm ấy, lòng cứ thấp thỏm không yên. Tôi thông báo với gia đình toàn bộ việc làm của mình cùng toàn bộ hồ sơ, tài liệu, phòng khi gặp chuyện chẳng lành, con cháu có thể thay tôi tiếp tục hành trình tìm kiếm. Nửa đêm, tôi dậy thắp hương cho anh Thành, thầm cầu nguyện vong linh anh sống khôn chết thiêng phù hộ cho tôi chân cứng đá mềm để tìm thấy anh. Và lạ kỳ thay, bát hương trên bàn thờ anh bốc cháy. Tôi hiểu, ở nơi rừng rú heo hút ấy, anh đã nghe được lời nguyện cầu của tôi”.

Sáng 27 tháng 7 năm 2002, nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn (Bích Hằng có việc tại Liên Bang Nga nên vắng mặt) cùng bộ phận tìm kiếm vào đến suối Đắc-lốp. Nhưng đập chứa vẫn còn mênh mông nước. Bằng chính tấm tình tha thiết với các liệt sĩ, anh Mẫn đã thuyết phục được chính quyền và nhân dân huyện K’Bang làm một việc “động trời”: tháo đập nước Đắc-lốp. Sau nhiều ngày ăn trực nằm chờ, đập cạn trơ đáy. Lòng vừa khấp khởi mừng thì bất ngờ cơn mưa rừng ập đến. Mưa như trút nước. Mưa sầm sập từ ngày qua đêm. Đập nước lại đầy. Cả đoàn ngồi khóc. Anh Mẫn một lần nữa lại phải cầu xin những người giữ đập xả nước. Lần này, đích thân anh lặn xuống vực nước sâu hơn 4m ùng ục réo để nâng từng tấm gỗ chắn lên. Mọi người ngồi trên bờ sợ thót tim. Chỉ sơ sểnh một tý, cái xác thân vạm vỡ của anh sẽ bị dòng nước cuồn cuộn gào thét cuốn phăng. Nhưng cuối cùng, sức người, nói đúng hơn, lòng người đã thắng. Vài ngày sau, nước rút cạn.

Việc xác định các mốc: gốc cây lớn đã cưa cụt, đường xuống suối cũ, sườn đồi liên quan tới khu vực trạm trung phẫu đều khớp với những dự báo của Bích Hằng từ đợt trước. Về vị trí mộ cũng đã được xác định và cắm cọc từ đợt đó. Vậy mà 4 ngày đào bới cật lực vẫn không thấy dấu vết gì. Mọi người trong đoàn đều hoang mang. Anh Mẫn cũng nản lòng.

Đầu giờ chiều, vừa ăn cơm trưa xong, đoàn đang chuẩn bị đào bới một lần nữa thì mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến. Cả khu rừng tối sầm. Bầu trời đen kịt. Anh Mẫn quỳ sụp xuống lạy bốn phương, vừa lạy, vừa khóc. Lần đầu tiên anh khấn trách: “Cháu vào đây làm những việc chưa ai từng làm để tìm anh cháu và các chú, các bác. Vậy mà các bác không thương cháu. Lần này cháu lại phải về không rồi”. Đang tuyệt vọng than vãn như vậy thì bất ngờ, một tiếng reo to như thức tỉnh cả núi rừng: “Chú Mẫn ơi! Tìm thấy rồi”. Người cất tiếng reo vui ấy là Quang, một tân binh vừa tròn 20 tuổi. Cả đoàn hăm hở đào liên tục trong hai tiếng đồng hồ. Và đây rồi, các anh đã hiện ra. 8 bộ hài cốt nằm thành hai hàng, cách nhau 0,5m đều tăm tắp. Tiếng khóc xen lẫn tiếng cười cứ hoang hoải buông trong buổi chiều tàn giữa rừng sâu thăm thẳm.

Khi đoàn làm lễ đưa các liệt sĩ lên xe về huyện đội K’Bang, trời giăng mưa trắng xoá. Thế là, sau 37 năm nằm lạnh lẽo dưới lòng nước bạc, không một nén hương tàn, không một lời thăm viếng, các anh lại trở về trong vòng tay đồng đội, trong niềm xúc động nghẹn ngào của người thân, gia đình.

Ngày đưa anh Thành về nghĩa trang quê nhà (xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) trong không khí long trọng và trang nghiêm cũng là ngày nước mắt mặn mòi của người mẹ 84 tuổi đổ thật nhiều. 37 năm vò võ đợi tin con. 9 lần phấp phỏng chờ Mẫn vào Tây Nguyên đưa Thành về là 9 lần mẹ mừng huỵt, 9 lần mẹ khóc oà tức tưởi. Tưởng vĩnh viễn đời này, kiếp này mẹ mãi mãi mất Thành. Nên lần này, mặc dầu Mẫn điện về thông báo đã tìm được hài cốt anh Thành, chính quyền và nhân dân huyện Xuân Trường đang khẩn trương chuẩn bị đèn, hoa, kèn, trống để tổ chức đón nhận và làm lễ truy điệu cho anh, mẹ vẫn hồi hộp, thấp thỏm không yên. Mẹ sợ trái tim già nua không đủ sức chịu đựng trước trò đùa của tạo hoá lần nữa. Đầu giờ chiều, mẹ đã ra gốc đa đầu làng ngồi chờ. Đêm xuống, sương giăng lạnh, mẹ vẫn lặng câm ngồi như hoá đá. 37 năm, gần 14 nghìn đêm thâu mẹ đã chờ đã đợi. Giờ chờ thêm một đêm nữa có sao. Cho đến 1h sáng, khi chiếc xe trở Thành vừa đỗ, mẹ cuống cuồng lao đến, giang vòng tay gầy guộc ôm trùm lên chiếc tiểu sành phủ lá cờ tổ quốc. Mẹ khóc nấc lên. Ôi! Đứa con yêu của mẹ! Da thịt của mẹ! Máu xương của mẹ! Ngày tiễn con đi mẹ lén lau dòng nước mắt. Giờ đón con về nước mắt mẹ lại tuôn rơi. Có điều, nước mặt mẹ bây giờ mặn chát, chất chứa cả một đời thương đau.

Nỗi băn khoăn được giải toả

Có một niềm băn khoăn, day dứt kể từ buổi trò chuyện với liệt sĩ Ngô Trọng Đãi trong buổi chiều ngày 26 tháng 3 năm 2002: “Nếu không đi Vĩnh Thạnh, chuyến đi của cậu sẽ chẳng còn ý nghĩa gì”. Mãi sau này, anh Phạm Văn Mẫn mới giải toả được. Chuyện là, được tin anh Mẫn tìm được nhiều hài cốt liệt sĩ ở trận đánh K’Nak, gia đình ông Phạm Văn Minh (cùng quê Nam Định) đã tìm gặp anh Mẫn, đề nghị giúp đỡ tìm mộ em trai là liệt sĩ Phạm Xuân Ninh cũng hy sinh trong trận đánh đó. Anh Mẫn và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng vui vẻ nhận lời.

Ngày 18 tháng 1 năm 2003, đoàn xuất phát từ Hà Nội. Trời cuối đông rét cắt da, cắt thịt, cộng với mưa rừng khiến cuộc tìm kiếm vô cùng gian nan. Cuối cùng, Bích Hằng cũng tìm được hài cốt liệt sĩ Phạm Xuân Ninh gần rừng le phía bờ suối cạn. Hài cốt liệt sĩ còn đủ với các đặc điểm được gia đình ông Phạm Xuân Minh công nhận. Trên đường trở ra Hà Nội, anh Mẫn đề nghị đoàn đi vòng đường Vĩnh Thạnh, cách K’Nak khoảng hơn 60km. Đến nghĩa trang huyện Vĩnh Thạnh, anh Mẫn dẫn mọi người tới một ngôi mộ có bia đề tên: Liệt sĩ Phạm Văn Thành (Miền Bắc). Anh Mẫn kể: Từ năm 1995, ông đã đến đây nhiều lần thắp hương và khóc thương người anh của mình nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ. Nay lại tìm thấy hài cốt anh Thành ở suối Đắc-lốp. Vậy ngôi mộ này là thế nào?

Bích Hằng làm lễ và thực hiện cuộc trò chuyện với người dưới mộ. Liệt sĩ cho biết đúng tên là Phạm Văn Thành nhưng hy sinh tháng 6 năm 1966 tại trạm xá 210. Quê ở Aí Mộ, Bồ Đề, Gia Lâm (Hà Nội). Nay liệt sĩ còn người anh là Phạm Văn ất khoảng 80 tuổi. Anh Mẫn lập tức điện thoại ra Hà Nội nhờ người đến Aí Mộ để xác minh. Và thật bất ngờ, những thông tin trên hoàn toàn chính xác. Ông Phạm Văn ất hiện vẫn còn nhưng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không có điều kiện vào thăm và đưa hài cốt em mình về quê được. Đến đây, nỗi băn khoăn, vướng mắc bao ngày, anh Mẫn mới giải toả hoàn toàn. Điều đó, càng khiến ông biết ơn vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi.

Hành trình tìm kiếm còn dài

Tìm được hài cốt anh Thành, hơn thế, đưa được anh trở về quê hương, ước nguyện một đời của anh Mẫn đã hoàn thành. Nhưng đêm đêm, anh vẫn thảng thốt giật mình khi chợt nhớ, ở núi rừng K’Bang heo hút, giá lạnh, vẫn còn đó những đồng đội của anh Thành thân xác đang nằm dưới chuồng lợn, nhà xí, dưới hồ sâu, cỏ hoang. Không! Anh phải đi, phải tiếp tục đi tìm cho tới khi tất cả các liệt sĩ được về yên nghỉ tại nghĩa trang. Không thể để cho các anh hy sinh thêm một lần nữa. Và thế là, cứ một năm vài lần, tạm gác lại khối công việc đồ sộ của giám đốc S.phone Hà Nội, anh cùng nhiều cựu chiến binh một thời vào sinh ra tử, lại khoác ba lô đưa các nhà ngoại cảm vào K’Bang tìm kiếm hài cốt. Thành quả của những chuyến đi ngược ngàn ấy là hơn hài trăm hài cốt liệt sĩ đã được tìm thấy và quy tập tại nghĩa trang huyện K’Bang. Điều ấy, khiến anh Mẫn vui lắm. Anh bảo: “Chừng nào còn sức, còn tiền là tôi còn đi”.

Để kết thúc bài viết bày, chúng tôi xin được mượn những vần thơ đong đầy nước mắt mà nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã đọc trong buổi chiều mưa rừng mịt mù tiễn đưa linh hồn liệt sĩ Ngô Trọng Đãi về quê hương. Đây được xem như những nén tâm nhang chứa chan lòng biết ơn và cả niềm tiếc thương vô hạn đối với những chiến sĩ đã hy sinh thân mình vì nước mà xác thân còn vùi sâu dưới nước lạnh, cỏ hoang, trong sự thờ ơ, lãng quên vô cảm của người đời.

Cầu xin cho linh hồn các anh được siêu thoát.

Lời ru ngọn cỏ

Cỏ xanh bên mộ khẽ ru

à ơi! Rừng đã vào thu lá vàng

Người ơi dù có muộn màng

Dẫu chưa về được nghĩa trang quê nhà

Nơi đây nhiều cỏ, ít hoa

Hãy say giấc ngủ như là tuổi xanh

Mặc ai xây mộng viễn hành

Mặc ai ngắt lá, bẻ cành, rung hoa

Đất này dù đất miền xa.

Thân thương như đất quê nhà người ơi!

Lá vàng lại lá vàng rơi

Lẻ loi lại vắng xa nơi đất rừng

Ru người giữa chốn mông lung

Giọt sương cũng muốn đọng ngưng nỗi niềm

Dấu chân đã trải trăm miền

Về đây ấm với Tây Nguyên nghĩa tình

Người hy sinh, đất hồi sinh

Máu người hoá ngọc lung linh giữa đời

Thương đau ru đến muôn đời

Và xanh xanh mãi những lời ru êm

à ơi! Ai nhớ ai quên

Thì đây cỏ biếc vẫn bên mộ người.

K’Bang ngày 2 tháng 4 năm 2002

Phan Thị Bích Hằng

Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh:

“Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chưa có trận đánh nào chúng ta bị tổn thất nặng nề như trận đánh căn cứ biệt kích của địch ở K’Nak năm 1965. Việc tổ chức tìm kiếm hài cốt liệt sĩ ở đó là rất tốt, góp phần thực hiện chính sách của Đảng, đồng thời sẽ có thêm kinh nghiệm để chỉ đạo việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ trên phạm vi cả nước. ở riêng Quân khu 5, có khoảng 10 trận đánh tổn thất như thế này”.

Thiếu tướng Châu Khải Địch: “Số lượng anh em hy sinh quá lớn. Nếu tính cả dân quân du kích địa phương, số hy sinh trong trận này lên tới hơn 1.000 người. Lại bị chôn tập thể. Nhiều chiến sĩ bị địch chất đống đổ xăng đốt mất xác nên dẫu tìm kiếm hết sức cũng không thể nào hết được. Cần xây dựng đài tưởng niệmi để chính quyền, nhân dân địa phương, gia đình thân nhân liệt sĩ đến viếng thăm”.

Ông Phan Minh Túc - chủ tịch huyện K’Bang:

Với sự giúp đỡ tận tình, đầy trách nhiệm của các đồng chí lãnh đạo Bộ quốc phòng, Bộ môn cận tâm lý - Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, đồng đội và thân nhân liệt sĩ, đặc biệt là nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và gia đình ông Phạm Văn Mẫn đã giúp cho huyện K’Bang tìm kiếm, cất bốc, quy tập và đưa vào an táng tại nghĩa trang huyện hơn 200 hài cốt liệt sĩ. Hiện nay, nghĩa trang liệt sĩ K’Bang đã bị quá tải. Việc tìm kiếm vẫn tiếp tục. Chúng tôi đang chuẩn bị mở rộng nghĩa tranh để thời gian tới, có thể quy tập thêm nhiều hài cốt liệt sĩ. Chúng tôi cũng tha thiết đề nghị Bộ lao động thương binh và xã hội sớm có kế hoạch và kinh phí đầu tư cho địa phương triển khai xây dựng Đài tưởng niệm các liệt sĩ trong trận đánh đồn K’Nak trong năm 2006 và đầu năm 2007, kịp khánh thành vào dịp kỷ niệm 60 năm ngày thương binh liệt sĩ 27 tháng 2 năm 2007.

Kỳ 4:  Vượt ngàn trùng sóng … tìm cha

Cho đến tận bây giờ, khi nấm mồ của người cha thân yêu đã xanh rì cỏ mọc và câu chuyện đầy ly kỳ, huyền hoặc về hành trình vượt muôn trùng sóng nước tìm cha ở đảo Hòn Mê (Thanh Hoá) của ông Trần Văn Mắc đã bớt xôn xao trên những con phố nhỏ, ông vẫn không thể tin nổi rằng, có một ngày, ông lại có thể tìm thấy hài cốt của người cha bị mất tích trong cơn bão biển sau 17 năm sống trong vô vọng. Càng không thể tin nổi, người vẽ đường và giúp ông tìm cha là một người hoàn toàn xa lạ, chẳng có máu mủ hay quan hệ thân tình gì với gia đình ông, chẳng biết gì về trận bão khủng khiếp năm ấy và cũng chưa một lần đặt chân ra đảo Hòn Mê. Ngồi tít tận Hà Nội vẽ sơ đồ chỉ dẫn chi tiết, lạ kỳ thay, hành trình tìm kiếm đều diễn ra đúng như có sự sắp đặt của bàn tay tạo hoá. Một ngày cuối tháng 8 năm 2006, ngồi kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện ly kỳ ấy tại nhà riêng ở ngõ 33 Kỳ Đồng, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, ông Trần Văn Mắc miệng không ngớt xuýt xoa: “Thần bí lắm! Huyền hoặc lắm! Đến mức nhiều khi không thể tin nổi. Cứ y như trong Liêu trai chí dị ấy”. Rồi giơ cánh tay chắc lẳn ra trước mặt tôi, ông thì thào: “Đấy, cứ nhắc đến chuyện ấy là tôi lại nổi hết da gà lên đây này”.

Cơn bão tang thương năm 1985 và cuộc gặp gỡ nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy

Ngày 20 tháng 10 năm 1985 sẽ mãi mãi đi vào lịch sử thôn Lương Khê, xã Tráng Cát, huyện An Hải (Hải Phòng), quê của ông Trần Văn Mắc. Bởi đó là một ngày buồn đau thê lương nhất. Cơn bão cuối năm với gió giật cấp 6, cấp 7 đã nuốt chìm 4 chiếc thuyền đánh cá ngoài biển khơi, vĩnh viễn cướp đi riêng của thôn Lương Khê 13 người. Ông Mắc đau đớn nhất. Mất liền một lúc 3 người thân: cha (ông Trần Văn Mặc), em út Trần Văn Sùng mới 12 tuổi và em rể Trần Văn Dũng. Em Trần Văn Sùng lần đầu tiên theo cha ra biển chơi và đó cũng là lần cuối cùng trong đời.

Ròng rã suốt nửa tháng trời, gia đình ông Mắc cứ đội mưa dầm gió bấc, đi suốt dòng đục bến trong để tìm xác 3 người xấu số mà chỉ thấy muôn trùng sóng nước mịt mù nỗi u hoài thê lương. Ông Mắc vẫn đi, đi mãi. Đến tận mũi Cồn Mòi (vùng biển tỉnh Thái Bình) thì vớt được xác chiếc thuyền của cha.

Thấm thoắt 17 năm trôi qua. Hy vọng tìm thấy thi hài cha và các em đã trở nên vô vọng. Mẹ thì mỗi năm một già yếu mà nỗi nhớ chồng con cứ day dứt khôn nguôi. Nhiều lần, mẹ níu tay Mắc mà khóc rằng: “Con ơi! Bằng mọi giá phải tìm được bố và em. Dù chỉ là một mẩu xương khô cũng được. Nếu không, mẹ chết không nhắm được mắt đâu con ơi!”. Thương mẹ đứt ruột nhưng biết tìm cha ở đâu bây giờ?

Một ngày đầu tháng 5 năm 2002, trong một lần gặp gỡ ông Trần Tích Tiến, phó tổng giám đốc Công ty cao su INQUE Việt Nam, ông Mắc đã đem nỗi lòng u uẩn của mình ra giãi bày. Không ngờ, nghe chuyện xong, ông Tiến cười bảo: “Anh yên tâm! Tôi sẽ giúp anh tìm được mộ cụ”. Ông Mắc ngạc nhiên hỏi: “Bằng cách nào, thưa anh?!”. Ông Tiến bảo: “Tôi vừa nhờ nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy giúp cho bạn tôi tìm được mộ bố là liệt sĩ Vũ Duy Dư, chôn tít trên đỉnh núi bản Adiu, vùng sâu xa nhất của Đà Nẵng. Chuyện ly kỳ lắm. (Chuyện đi tìm mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư, chúng tôi sẽ kể chi tiết ở phần sau – PV). Anh hãy tin tôi đi”. Nụ cười ấm áp và cái bắt tay xiết chặt của ông Tiến khiến ông Mắc lòng khấp khởi mừng mà vẫn thấy lo lo. Bố và em chết ngoài biển cả. Biết trôi dạt nơi nào? Mười bảy năm rồi còn gì. Thời gian quá dài đủ để xoá đi tất cả những gì gọi là dấu vết còn lại.

Đêm ấy, về đến nhà, ông Mắc kể lại toàn bộ câu chuyện gặp gỡ ông Tiến hồi sáng cho mẹ và vợ nghe. Mẹ nghe xong khóc ầm lên, vừa khóc vừa giục ông Mắc đi gặp nhà ngoại cảm sớm. Vợ ông, bà Phan Thị Trinh thì bảo: “Em cứ thấy hoang đường thế nào ấy. Chả tin được. Ông Nguyễn Khắc Bảy có hoạ là thánh mới làm được như thế. Nhưng thôi, chiều mẹ, mình cứ đi. Được thì nhất. Không được cũng chẳng mất gì”.

Quyết định như thế nhưng mãi đến đầu tháng 10, ông Mắc mới có cuộc gặp gỡ với nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy. Ông Mắc kể lại: “Nhìn thấy Bảy, tôi hoàn toàn bất ngờ. Bảy cao, gầy, thư sinh, ăn nói nhỏ nhẹ, hoàn toàn trái ngược với các ông đồng bà cốt tôi vẫn thường gặp ngoài đời. Sau một hồi nhìn chằm chặp vào chán tôi, Bảy reo nhỏ: “Thấy cụ rồi anh ạ!” rồi vội vàng lôi tờ giấy A3 đặt lên mặt bàn. Miệng nói, mắt nhìn chán tôi, tay vẽ. Bảy đưa các thông tin:

1. Bố tôi bị cá ăn mất bàn chân phải.

2. Bố tôi có mộ vì xác trôi dạt vào đảo Hòn Mê (Tĩnh Gia, Thanh Hoá), được bộ đội vớt lên an táng.

3. Mộ nằm trong một cụm gồm 6 ngôi nằm ở phía Đông Bắc của đảo Hòn Mê, trên một vùng đất thấp, giữa một khe nước và hai lối đi nhỏ của bộ đội.

4. Trong 6 ngôi thì có 2 ngôi nằm song song, 2 ngôi nằm chèn ngang. Anh Dũng nằm ở ngôi thứ 3. Bố tôi nằm ở ngôi thứ nhất, cách mép nước khoảng 37m, cách khu bộ đội A9 khoảng 150m. Em ruột tôi là Trần Văn Sùng không có ở đây.

5. Những người đã mai táng bố tôi và anh Dũng là các anh bộ đội trên đảo, trong đó có các anh tên là: Định, Tuấn, Bính, Ngơi…

Viết xong, Bảy đưa cho tôi, bảo: “Anh cứ dựa vào sơ đồ này, thể nào cũng tìm thấy bác và anh Dũng”. Thú thực, lúc đó đầu tôi cứ mụ đi. Người cứ như nửa tỉnh nửa mê. Nhưng tiễn Bảy về rồi mà lòng vẫn cứ bán tín bán nghi. Tôi bèn nhờ các anh công nhân bên Bảo hiểm hàng hải và Nhà Đèn xác minh hộ. Thông tin nhận được thật bất ngờ: Phía Đông Bắc đảo Hòn Mê đúng là có 6 ngôi mộ của dân, trong đó có những người chết trong trận bão tháng 10 năm 1985 được bộ đội vớt lên an táng”.

Thông tin phản hồi ấy như ánh nắng mặt trời xoá tan đám mây nghi ngờ u ám vốn bao phủ trong đầu vợ chồng ông Mặc bấy lâu. Gia đình ông vội vàng chuẩn bị và làm các thủ tục xin ra đảo Hòn Mê vì đây là hòn đảo quân sự, không có dân cư ở.

Lần thứ nhất ra đảo: Đào mộ nhầm và 2 cuộc báo mộng kỳ lạ

Tối ngày 5 tháng 11 năm 2002, gia đình ông Mắc gồm 7 người cùng nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy và bà Quan Lệ Lan, cán bộ nghiên cứu của Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người) rời Hà Nội trên chiếc xe Toyota 14 chỗ tiến thẳng về huyện Tĩnh Gia (Thanh Hoá). Mất một ngày để lo các thủ tục. Sáng sớm hôm sau, đoàn thuê một chiếc tàu đánh cá ra đảo Hòn Mê. Được anh em chiến sĩ trên đảo đón tiếp nhiệt tình, ông Mắc cũng cảm thấy yên tâm phần nào. Tới phía Đông Bắc của đảo, cả đoàn sững người. Trong mờ mịt sương giăng, 6 ngôi mộ lần lượt hiện ra. Hai bên là khe nước và lối đi. Ông Mắc vội vàng lấy thước dây ra đo. Từ mép nước đến ngôi mộ thứ nhất đúng gần 38m. Ông giật mình, chân tay cứ run bắn lên. Những thông tin anh Bảy đưa ra đã trùng khớp với địa hình, địa vật ở đây.

Cả 6 ngôi mộ đều được vun đắp cao ráo, chắc chắn, sạch sẽ. Bởi ngày rằm và mồng một, tháng đều đặn 2 lần, anh em bộ đội trên đảo hương khói chu toàn. Sau khi dâng lễ cúng thần linh, đoàn chuẩn bị khai quật ngôi mộ thứ nhất và thứ 3 (theo sơ đồ thì đó là mộ của bố anh Mắc và anh Dũng) thì bất ngờ, nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy bảo: “Không! Nhầm rồi. Nhầm rồi. Đào ngôi thứ 4 và thứ 2 mới đúng”. Thầy bảo sao thì nghe vậy. Gia đình ông Mắc và các chiến sĩ ở đảo nhanh chóng khai quật. “ối giời! Các ông đào nhầm mồ mả người khác rồi”. Bà Trinh hét toáng lên. Cả đoàn tá hoả. “Toàn hài cốt phụ nữ đây này”. Miệng nói, tay bà run run cầm 2 chiếc vòng tránh thai giơ lên cho cả đoàn xem. Cả đoàn chết lặng. “Đây nữa, quần áo, khăn sống vẫn còn nguyên đây này”. Giời ạ! Đúng là toàn quần áo phụ nữ. Vì khi an táng, thi hài được bọc trong những tấm tăng dày nên xương cốt, trang phục còn nguyên vẹn. Bà Trinh khóc ầm lên vì sợ hãi. Mọi người cuống cuồng vùi lấp lại, rồi làm lễ tạ tội. Nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy thành kính thắp hương mời vong người đàn bà xấu số lên nói chuyện. Chị cho biết tên là Vân, cũng bị chết biển trong trận bão năm 1985. Có lẽ, vong linh của chị thiêng quá nên đã “ốp” vào nhà ngoại cảm, buộc anh chỉ nhầm. Đang thực hiện cuộc trò chuyện bỗng đâu mây đen ùn ùn kéo tới. Gió ràn rạt thổi. Anh Bảy giục cuống cả lên. Anh bảo: “Bác Mặc đang hò hét tôi đưa các anh chị vào đất liền sớm kẻo bão”. Ngay chiều hôm ấy, cả đoàn rời đảo. Về đến thành phố Thanh Hoá thì mưa giông chớp giật. Cả đoàn hoàn hồn.

Trên đường ra Hà Nội, đoàn ghé thăm ông Trúc, nguyên đảo phó đảo Hòn Mê những năm 1980. Không hề hay biết gì về sơ đồ anh Bảy đã vẽ ở Hà Nội, ông Trúc nhiệt tình kể: Tháng 10 năm 1985, có 4 xác người chết dạt vào bờ. Anh Tuấn quân y được lệnh đi vớt và chôn cất. Sau đó, anh Tuấn về báo cáo lại, có một người đàn ông to lớn cao tuổi nhất bị cá ăn mất bàn chân phải. Xác ông cứ dập dềnh ngoài biển. Anh em bộ đội phải quăng dây câu để kéo vào thì xác lại vướng đá ngầm, không kéo vào được. Cuối cùng, anh Tuấn phải khấn xin rằng anh em sẽ an táng chu đáo, mới đưa được xác ông vào. Nghe chuyện, ông Mắc khóc oà. Người đàn ông luống tuổi cao lớn ấy đúng là bố rồi. Năm 1985, bố ông vừa tròn 51 tuổi, sức khoẻ tráng kiện, nổi tiếng cả làng chài về tài đạp sóng, vượt gió. Nếu không vì cậu con trai Trần Văn Sùng 12 tuổi, có lẽ ông không thể chết đuối được. Và phải chăng, vì không thấy xác con nên xác ông cứ nấn ná ngoài biển cả?

Những điều ông Trúc kể càng thắp thêm niềm tin, hy vọng tìm thấy hài cốt cha trong ông Mặc. Ông quyết tâm quay lại đảo vào một ngày gần nhất.

Có hai điều vô cùng huyền bí mà đến tận bây giờ, ông Mắc vẫn không thể nào lý giải được. Chuyện là, khi về đến nhà, đã thấy người mẹ già nước mắt vắn dài, bảo: “Đào nhầm mộ bố rồi phải không?”. Cả đoàn sửng sốt, không hiểu sao bà cụ ở nhà lại biết. Bà thở dài, bảo: “Đêm qua, u nằm mơ thấy thầy con về. Thầy đứng đầu giường u, tay phe phẩy quạt nan, cười khà khà bảo: Mộ bố không đào lại đi đào mộ hàng xóm. Nhưng không sao, rồi sẽ tìm thấy tôi”. Chưa hết ngạc nhiên. Trưa hôm sau, vừa ăn cơm xong, ông Mắc thấy một người phụ nữ chừng 35 tuổi đến nhà ông gõ cửa, xin gặp ông Mắc, bà Trinh. Hai vợ chồng ông còn đang ngơ ngác thì người phụ nữ đã hỏi: “Có phải ông bà vừa ở đảo Hòn Mê về phải không? Có phải ông bà đã đào nhầm mộ người phụ nữ tên Vân có phải không?”. Ông Mắc gật đầu xác nhận. Người phụ nữ khóc oà rồi sụt sùi kể: chị chính là em gái của chị Vân. Tối qua, chị Vân về báo mộng cho chị, rằng muốn tìm thấy mộ chị, hãy đến địa chỉ số nhà 4, ngõ 33 phố Kỳ Đồng, Quận Hồng Bàng, Hải Phòng, gặp vợ chồng ông Mắc, bà Trinh. Chị đi mà lòng dạ cứ bán tín bán nghi. Và thật kỳ lạ, mọi chuyện xảy ra đúng như lời người báo mộng.

Lần thứ 2 ra đảo: sự trùng khớp lạ kỳ

Ngày 28 tháng 11 năm 2002, được sự giúp đỡ của ông Sơn – nguyên đảo trưởng đảo Hòn Mê, ông Trúc – nguyên đảo phó, ông Tuấn – quân y, những người đã từng công tác ở đảo năm 1985 (nay đã nghỉ hưu), gia đình ông Mắc và chị Vân lại ra đảo. Xem sơ đồ anh Bảy vẽ, các ông Sơn, Trúc, Tuấn đều khẳng định đúng như thực tế lúc đó. Năm 1985, ông Sơn đang triển khai xây dựng nhà A9 còn ông Tuấn là người trực tiếp chôn 4 thi hài chết trôi. Ông Trúc là đảo phó chính trị nên nắm rất rõ các chi tiết.

7h sáng ngày 29 tháng 11 năm 2002, ngôi mộ thứ nhất nằm cách mép nước gần 38m được khai quật. Thi hài một người đàn ông bị mất chân phải hiện ra. Lắp hai chiếc răng rụng vào hàm thì vừa khớp. Cả nhà khóc oà khi nhận ra sợi dây chun quần thắt rất nhiều nút để tăng tính đàn hồi mà ông Mắc đã làm cho cụ. Đây đích thực là xương cốt của bố rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.

Khai quật tiếp ngôi thứ 3, mở nắp quan tài ra, lại những tiếng khóc vỡ oà khi gia đình anh Dũng nhận ra bộ quần áo bò vá gối anh Dũng mặc hôm ra khơi.

Khai quật lại ngôi thứ 4, gia đình chị Vân nhận ra tấm mề đay mang hình đức Mẹ mà chị luôn mang bên mình. Ba ngôi còn lại vì chưa xác định được nhân thân nên anh em chiến sĩ trên đảo khai quật lên, ghi lại những dấu vết còn lại của từng bộ hài cốt, tắm rửa, sang tiểu rồi chôn lại.

Thế là, sau 17 năm sống trong vô vọng, cuối cùng, ông Mắc cũng tìm được và đưa hài cốt người cha thân yêu về với quê nhà, thoả một đời ước nguyện của mẹ. Ông nghẹn ngào nói: “Đời này, kiếp này, chúng tôi chịu ơn nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy và Bộ môn cận tâm lý, chịu ơn tấm tình nồng hậu mà các chiến sĩ đảo Hòn Mê đã dành cho gia đình chúng tôi. Thế giới này quả là rộng lớn và có biết bao điều lỳ lạ. Một lần nữa xin được tạ ơn với đời, với người”.

Kỳ 5: Tìm mộ liệt sĩ qua…vong một thai nhi 3 tháng tuổi

“Lúc đầu, nghe cô đồng Tuyên ở thị trấn Thứa (Bắc Ninh) gọi tôi là bố và xưng con, tôi ngơ ngác không hiểu gì. Sau mới vỡ lẽ, vong của con trai tôi về và nhập vào cô. Cháu vốn là một… thai nhi mới 3 tháng tuổi. Những năm 80, vợ tôi mang thai cháu là thứ 3 nhưng do chính sách kế hoạch hoá gia đình nên đã nạo bỏ cháu ở nhà hộ sinh. Tôi đâu có biết là mình đã đánh mất cháu, chỉ đến khi tôi hỏi cháu mới kể như vậy. Thú thực, lúc ấy tôi xúc động quá, cả ân hận nữa. Tôi xin lỗi cháu nhưng cháu cười bảo: cha mẹ không có lỗi vì đấy là qui định của nhà nước. Tôi khóc oà lên. Ôi! Không ngờ một đứa trẻ mà lại có những suy nghĩ và tấm lòng bao dung đến vậy”. Câu chuyện về hành trình leo núi ngược ngàn đi tìm mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư trên điểm cao 463 ở bản Adiu (Quảng Nam) đã được ông Trần Tích Tiến, Phó tổng giám đốc công ty cao su INOUE mở đầu như vậy. Ông nói, giọng nghèn nghẹn: “Điều bất ngờ là chính cháu đã vẽ đường đi nước bước cho chúng tôi đi tìm mộ và cuối cùng, chúng tôi đã tìm thấy”. Câu chuyện ông Tiến kể trong đêm mưa dầm sùi sụt ấy cứ bị ngắt quãng bởi những giọt nước mắt và tiếng nấc nghẹn ngào.

Từ sự chỉ dẫn của vong… thai nhi 3 tháng tuổi

Ông Trần Tích Tiến, thực ra, không có quan hệ máu mủ, ruột thịt gì với liệt sĩ Vũ Duy Dư. Ông chỉ là chỗ quan hệ thân tình với gia đình con gái út của liệt sĩ: chị Vũ Thị Thắng và anh Nguyễn Văn Thành. Song, đúng như lời giới thiệu của chị Thắng: “Anh muốn tìm hiểu kỹ về chuyện đi tìm mộ bố em thì phải gặp anh Tiến, vì anh ấy lưu giữ được đầy đủ tư liệu về chuyến đi này. Anh Tiến có tâm với gia đình các liệt sĩ nhiều lắm. Nếu không có anh ấy, chắc giờ này bố em vẫn nằm giãi dầu sương gió trên đỉnh núi Adiu”.

Chị Thắng kể: Cha chị sinh hạ được 3 người con. Anh cả là Vũ Duy Đoàn, anh thứ là Vũ Duy Kết. Chị là con gái út. Năm 1968, chiến trường miền Nam nổ ra ác liệt, cha lên đường nhập ngũ, rồi đi biệt không về. Không một lá thư, không một lời nhắn gửi. Cả nhà ngóng đợi. Đến tận năm 1975, đất nước hát khúc khải hoàn ca, đồng đội của cha náo nức trở về mà cha vẫn biệt vô âm tín. Đi dò hỏi, đồng đội của cha bảo: Năm 1968, các bác thỉnh thoảng gặp cha đi lấy gạo ở Adiu (Quảng Nam) nhưng về sau thì không gặp nữa. Không biết cha chuyển đi nơi khác hay đã hy sinh rồi. Các bác còn dặn thêm: Nếu hy sinh thì chỉ ở Adiu thôi.

Niềm hy vọng cứ mỏng dần theo năm tháng. Rồi một hôm, người của huyện đội Thanh Trì đến nhà chị cùng tin sét đánh: Cha đã hy sinh ở chiến trường miền Nam. Mẹ chị chết lặng. Còn mấy anh em thì ôm nhau khóc ầm lên. Khổ thân cha! Ra đi không để lại một kỷ vật gì. Mẹ lặng lẽ lập bát hương thờ cha. Giấy báo tử ghi cha hy sinh ngày 15 tháng 3 năm 1975. Mẹ lấy đó làm ngày giỗ. Ngày ấy nhà chị nghèo quá, thường phải ăn rau cháo trừ bữa. Mẹ tảo tần nuôi ba đứa con ăn học.

Mãi sau này, khi kinh tế gia đình bớt khó khăn, thấy nhiều gia đình vào miền Nam tìm mộ thân nhân, được Bộ và Sở lao động thương binh xã hội cấp giấy đi tìm, khát vọng tìm mộ cha trong chị Thắng chợt trỗi dậy. Nhân ngày giỗ cha, chị bàn với gia đình, cô gì chú bác nhưng mọi người gạt đi. Họ bảo: Giấy báo tử chỉ ghi vỏn vẹn là hy sinh ở chiến trường miền Nam mà miền Nam thì rộng lớn như vậy, biết mộ cha chỗ nào mà tìm. Không nản lòng, vợ chồng chị bàn riêng với anh Đoàn quyết tâm làm một chuyến vào tận bản Adiu tìm cha.

Vào một ngày cuối tháng 8 năm 2000, anh Đoàn cùng một người bạn khoác ba lô lên tàu vào Đà Nẵng. Hỏi thăm, được biết bản Adiu thuộc huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam, cách Đà Nẵng chừng 100km. Nghỉ một đêm tại Đà Nẵng, sáng sớm hôm sau, hai anh em bắt xe vào huyện Hiên. Mặc dầu được các đồng chí phòng lao động thương binh và xã hội huyện Hiên tận tình giúp đỡ, kiểm tra toàn bộ danh sách liệt sĩ đã được quy tập về nghĩa trang nhưng không thấy tên liệt sĩ Vũ Duy Dư. Anh Đoàn quyết định thuê xe ôm vào bản Adiu. Khổ thân anh! Đường lên Adiu quá nhiều đèo dốc hiểm trở, lại đúng vào mùa mưa Tây Nguyên nên đi chừng 7 – 8 km, buộc lòng phải quay lại.

Niềm hy vọng tìm thấy cha bị rơi rụng nhưng đêm đêm, nỗi day trở cứ cắn rứt lương tâm chị Thắng khiến chị không yên. Nhiều lần, chị khóc với bạn bè rằng: Cha đi chinh chiến khi chị vừa tròn 2 tuổi. Kỷ niệm về cha không có nhiều. Khuôn mặt cha chị cũng không còn nhớ. Nhưng đời này, kiếp này, nếu không tìm được mộ cha, chị là đứa con bất hiếu. Là người đã từng xông pha trận mạc, tận tay chôn cất những mảnh thi hài còn sót lại của đồng đội ở chiến trường miền tây Nam bộ, ông Trần Tích Tiến rất hiểu và cảm thông với nỗi niềm của chị Thắng. Lòng tự nhủ, bằng mọi cách phải giúp Thắng làm tròn được tâm nguyện. Làm phó tổng giám đốc công ty cao su INOUE, ông Tiến có điều kiện đi đây đó nhiều. Đến đâu, ông cũng tranh thủ đến các nghĩa trang liệt sĩ để tìm mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư, bày tỏ nỗi niềm cùng những người bạn tâm đắc mong có sự trợ giúp.

Ngày 24 tháng 2 năm 2002, nhờ sự đưa đường của anh Thắng ở phố Lò Rèn (Hà Nội), ông Tiến cùng vợ chồng chị Thắng, anh Thành đã xuống nhà cô đồng Tuyên ở thị trấn Thứa, Bắc Ninh để gọi hồn liệt sĩ Vũ Duy Dư. Vừa đặt chút lễ mọn lên bàn thờ, chưa kịp ngồi yên vị, ông Tiến đã giật nảy mình khi nghe cô đồng Tuyên gọi ông là “bố Tiến” và xưng con. Qua trò chuyện, ông mới biết đó là vong của thai nhi 3 tháng tuổi mà vợ ông đã nạo bỏ ở nhà hộ sinh cách đó gần 20 năm. Càng nói chuyện, ông Tiến càng bị xúc động vì những thông tin cháu nói (qua cô đồng Tuyên) rất chính xác, kể cả những chuyện rất riêng tư, bí mật chỉ mình ông biết. Ông Tiến hỏi: “Thế con có biết ai đang ngồi cạnh bố không?”. Cháu bảo: “Chú Thành, bạn bố, nhà ở 509 đường Nguyễn Văn Cừ, Gia Lâm, Hà Nội chứ gì? Vợ chú đang muốn tìm mộ bố là liệt sĩ có đúng không? Hồi Tết, chú đến nhà cháu chơi mà không mừng tuổi cho cháu đấy nhé”. Cháu còn nói tên những người hàng xóm cạnh nhà “bố Tiến”, nhận xét người này tốt, người kia xấu, rồi căn dặn ông nên quan hệ với người này, cảnh giác với người kia”. Ông Tiến bảo: “Con giúp vợ chồng cô Thắng tìm được mộ ông nhé”. Cháu cười bảo: “Cô chú sẽ tìm được. Gần tìm được rồi. Bố cứ đến nhà chú Bảy (nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy) ở phòng 212, nhà B19, khu tập thể Kim Liên và ông Chu Phác (thiếu tướng Chu Phác – chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người) là tìm được thôi mà”.

…đến sơ đồ của nhà ngoại cảm

Đúng như sự chỉ dẫn của vong thai nhi 3 tháng tuổi, gia đình chị Thắng đã tìm đến phòng số 212, nhà B19, khu Tập thể Kim Liên (Hà Nội) và gặp được nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy. Đó là căn phòng chật hẹp chừng 18m2 nhưng mọi thứ bày biện gọn gàng, ngăn nắp. Sau khi đặt lễ lên bàn thờ, nơi treo ảnh Bác Hồ kính yêu, nhà ngoại cảm mời chị Thắng ngồi trước mặt. Anh hỏi thăm về gia đình chị, về người cha liệt sĩ rồi bảo: “Chị yên tâm! Sẽ tìm được cụ. Nhưng chị có anh trai hoặc em trai không? Nếu có thì gọi đến đây để kết hợp xem sẽ tốt hơn. Bởi đây là vấn đề tâm linh mang tính huyết thống. Thông thường, ở vợ và con trai liệt sĩ thể hiện rõ hơn song phải là những người có tâm, luôn tưởng nhớ tới người đã mất”. Nghe vậy, chị Thắng liền gọi điện cho anh trai cả Vũ Duy Đoàn.

Khi anh Đoàn và chị Thắng ngồi ngay ngắn, nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy bảo hai người vén tóc lên cho gọn gàng rồi chăm chú nhìn vào trán họ. Anh hỏi chị Thắng: “Cụ hy sinh năm nào? Giấy báo tử ghi thế nào?”. Chị Thắng sụt sịt: “Em cũng không biết cụ thể. Chỉ thấy trong giấy báo tử ghi bố em mất ngày 15 tháng 3 năm 1975 tại mặt trận phía Nam thôi và gia đình lấy ngày đó để làm giỗ cho cụ”. Nghe xong, anh Bảy chắp hai tay trước ngực, mặt hướng lên bàn thờ Bác Hồ một cách thành kính, miệng khấn lầm rầm. Chừng 5 phút sau, anh quay sang chị Thắng nói: “Cụ về rồi đấy chị ạ!”. Nói đoạn, anh lấy tờ giấy trắng khổ A3 cùng hộp bút màu bày ra trước mặt rồi lại chăm chú nhìn lên trán hai người. “Thấy rồi. Có mộ anh chị ạ! Mộ chưa quy tập”. Tay vẽ, miệng anh thuyết minh: Đây là dãy núi. Đi qua chiếc cầu bằng cây bắc qua con suối. Đây là đường mòn nhỏ đơn vị hay đi lấy gạo. Cụ không phải mất ngày 15 tháng 3 năm 1975 đâu chị ạ. Chị ghi lại đi. Cụ mất ngày 14 tháng 10 năm 1969 âm lịch ở bản Adiu cơ. Giấy báo tử ghi sai. Nhiều trường hợp như thế này lắm. Giấy báo tử thời chống Pháp ghi chi tiết chứ không như thế này.

Mọi người nhìn vào sơ đồ thấy núi non trùng điệp, ruộng lúa bậc thang, cỏ cây ngút ngàn. Có cầu bắc qua sông, qua suối.


Vẽ xong sơ đồ, anh Bảy bắt đầu điền các ký hiệu, trong đó có cao điểm 463, nơi trạm trung phẫu của đơn vị. Đang cắm cúi viết, nhà ngoại cảm bất chợt dừng bút hỏi: “Anh Tiến này. Em nghe thấy cụ nói điểm cao 463. Không hiểu ở chiến trường, người ta có gọi như thế không nhỉ?”. Ông Tiến bảo: “Có đấy. Điểm cao là quả đồi hay ngọn núi cao nhất. Người ta đặt cho nó một cái tên để phân biệt với những ngọn núi khác. Thông thường, những con số đặt cho điểm cao là chiều cao của ngọn núi. Song cũng có thể chỉ là mã số trong bản đồ quân sự”. Nhà ngoại cảm bảo: “Em nghe không rõ, chỉ thấy cụ nói điểm cao 463 thì điền vào chứ thực tình em không hiểu. Em nghe thấy gì thì ghi vào để lấy tín hiệu. Càng nhiều tín hiệu thì khi tìm càng dễ”. Ngừng lời, anh Bảy lại chăm chú lắng nghe và tiếp tục ghi chép, miệng lẩm bẩm: ông Lai, ông Luật, anh Hạo ở thôn 1, bản Adiu là những người trước kia thường xuyên gặp cụ. Ông Lai có nước da ngăm đen, hàm trên rụng hết không còn một chiếc răng nào. Cứ thế, anh viết lên tấm sơ đồ đã vẽ xong. Cuối cùng, anh khoanh tròn một chấm đen rồi kẻ một đường mũi tên ra ngoài khoảng trống, ghi: phần mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư. Anh chấm ba nốt tròn nữa cạnh mộ liệt sĩ rồi cũng ghi chú là 3 ngôi mộ của dân địa phương phía sau. Ngẩng đầu lên, anh Bảy bảo: “Thế là đã rõ rồi. Em chỉ băn khoăn một điều là sao lại có mỗi một mộ liệt sĩ ở đây. Hay những người khác quy tập rồi sót cụ ở lại?”. Ông Tiến hỏi: “Có chắc chắn không? Bảy cố gắng hỏi lại cụ xem”. “Để lát nữa anh ạ. Nếu có thêm tín hiệu em sẽ tiếp tục ghi. Anh chị cứ yên tâm, em sẽ làm hết sức chi tiết cho gia đình”. Chiêu một ngụm nước, anh Bảy chậm rãi nói: “Anh ạ! Bản đồ thế này là rõ lắm rồi”. Vừa nói, Bảy vừa lấy tờ giấy trắng khác tiếp tục ghi chép những thông tin mới. “Mộ cụ chôn ngay gần đường mòn mà đơn vị vẫn đi lấy gạo qua. Đồng đội của cụ có đánh dấu một tảng đá to cạnh đấy. Mộ ở cạnh một gốc cây cụt. Cốt còn nhưng ít lắm. Có một bát cơm đã hoá thạch, một lọ thuốc ký ninh, bên trong là tờ giấy ghi địa chỉ nhưng mờ hết rồi. Có hộp dầu cao hổ đút ở túi ngực. Cụ không phải hy sinh trong trận đánh đâu. Cụ là bác sĩ phải không ạ?”. Chị Thắng ngồi bên trả lời: “Vâng! Bố em ở nhà là y sĩ”. Anh Bảy bảo: “ừ! Đúng rồi. Cụ mất lúc 14h. Khi đang mổ cho thương binh thì có một vệt sáng từ máy bay lao xuống làm sập cái nhà phẫu. Chỉ có mình cụ mất thôi. Cạnh cụ còn có chị Lý là y tá vẫn sống, quê ở Quảng Trị và hai người nữa”. Anh Bảy ngừng viết, nhìn kỹ vào khuôn mặt anh Đoàn, chị Thắng, bảo: “Em nhìn thấy cụ rồi. Cụ giống chị, trắng, cao chứ không giống anh Đoàn có đúng không?”. Cả hai anh em đều gật đầu xác nhận đúng. Chừng hơn một tiếng đồng hồ, tấm sơ đồ được vẽ xong. Ông Tiến hỏi thêm, nếu gia đình đi tìm theo sơ đồ này thì cần phải làm những thủ tục gì? Bảy bảo: “Tốt nhất trước khi đi, gia đình gọi điện báo cho em biết, em sẽ hướng dẫn cho. Em vẫn chỉ dẫn qua điện thoại cho nhiều gia đình mà kết quả vẫn tốt”. Là người đã từng sống và chiến đấu trong chiến trường nên khi nhìn tấm bản đồ, ông Tiến biết việc đi tìm chẳng đơn giản chút nào. Ông tha thiết đề nghị anh Bảy bớt chút thời giờ đi cùng đoàn. Thật may, anh Bảy nhận lời. Cả nhà đều vui mừng, nhất là chị Thắng, mặt mũi rạng rỡ hẳn lên. Trên đường về nhà, chị luôn miệng trầm trồ, xuýt xoa: “Lạ nhỉ?! Không hiểu tại sao anh ấy lại biết rõ thế nhỉ?”. Từ hôm ấy, tất cả ráo riết chuẩn bị chờ ngày lên đường tìm cha.

Kỳ 6: Ngược ngàn thang đá lên bản Adiu

Mặc dầu đã có tấm bản đồ chỉ dẫn khá chi tiết nhưng cũng phải mất hơn một tháng sau, gia đình chị Thắng mới quyết định lên đường tìm cha. Nhìn vào tấm bản đồ ấy cũng đủ thấy hành trình đi gian nan thế nào. Phải vượt qua sông qua suối, trèo núi cao vực sâu. Chị Thắng phải chuẩn bị rất kỹ lưỡng từ những dụng cụ nhỏ nhất như đèn pin, dao, võng, áo mưa, thuốc men. Đoàn khởi hành từ Hà Nội vào chiều ngày 31 tháng 2 năm 2002 gồm 5 thành viên: Ông Trần Tích Tiến (trưởng đoàn), nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy (phó đoàn), anh Vũ Duy Đoàn, chị Vũ Thị Thắng, anh Nguyễn Văn Thành và bác sĩ Phạm Đỗ Bình. Sáng hôm sau, đoàn đã có mặt ở huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam. Biết đoàn vào tìm mộ liệt sĩ nên các đồng chí lãnh đạo và cán bộ phòng Lao động thương binh và xã hội huyện và Huyện đội tiếp đón rất chu đáo và tận tình giúp đỡ. Tuy không tìm thấy danh sách của liệt sĩ Vũ Duy Dư song những thông tin mà huyện đội cung cấp đã trùng khớp với một số tín hiệu được xác lập trên tấm bản đồ: có bản Adiu, có điểm cao 463. Biết đường lên Adiu quá hiểm trở nên huyện đội đã cử đồng chí Đức, người dân tộc Cà-tu đi làm hoa tiêu cho đoàn. Đi được chừng 8km trên đường mòn Hồ Chí Minh thì bắt gặp một chiếc cầu treo bắc qua con sông rộng. Xe ô tô Toyota 15 chỗ buộc phải dừng lại. Cả đoàn chỉ mang theo những thứ thật cần thiết. Mỗi người một chiếc ba lô. Lặng lẽ vượt qua suối, qua đồi. Chừng 3 tiếng đồng hồ thì tới xã A-roi. Đồng chí Đức cho đoàn tạm nghỉ giải lao rồi cùng ông Tiến, anh Bảy lên thăm đồng chí Thắng, nguyên là huyện đội trưởng, nay đã nghỉ hưu để hỏi thăm tình hình bản A-diu. Thông tin ông Thắng cung cấp thật bất ngờ: ở bản A-diu có ông Lai, ông Luật, ông Hạo. (Đúng như thông tin nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy cung cấp từ Hà Nội). Nhưng ông Luật mất rồi. Ông Hạo thì chuyển đi nơi khác. Hiện chỉ còn mỗi bố Lai thôi. Ông Tiến sốt sắng hỏi: “Thế ở xã mình có điểm cao 463 không?”. “Có đấy. ở ngay sau bản A-diu ấy”. Đồng chí Thắng đáp. Nghe vậy, ông Tiến mừng rơi lệ. Nhìn sang Bảy, thấy mắt anh cũng rưng rưng. Chỉ mỗi anh Đức là khuôn mặt vẫn bình thản vì đoàn chưa cho anh biết những điều huyền bí trong tấm bản đồ.

Tạm biệt đồng chí Thắng, đoàn tiếp tục hành trình lên bản A-diu. Cả đoàn cặm cụi đi, không ai nói với ai một lời. Một niềm xúc động đang dâng trào trong mỗi người. Chừng một giờ leo núi, đoàn đặt chân đến bản, nghỉ tại nhà ông Lai. Bản A-diu nghèo xác xơ với gần một trăm hộ, hầu hết là người Cà-tu. Bản nghèo đến mức anh Đức hỏi mua gạo để nhờ gia đình nấu cơm cho đoàn mà chạy khắp bản không mua nổi một bơ. Cô con gái bố Lai cười lỏn lẻn: “ở đây chỉ có sắn thôi” khiến cả đoàn sững sờ. Chị Thắng rầu rĩ bảo, không ngờ ở đời còn có những nơi nghèo khổ thế này”. Một nồi sắn to nóng hổi dọn ra. Cả đoàn sà vào. Chỉ có sắn luộc chấm với muối dầm, ớt xanh mà sao thấy ngon thế. Chị Thắng thở dài đánh thượt: Chả bù ở Hà Nội, toàn sơn hào hải vị mà bữa cũng chỉ nuốt được bát cơm.

Bố Lai ra huyện lĩnh lương từ sáng sớm, mãi đến sẩm tối mới về. Năm nay, bố khoảng 67 tuổi, người cao, gầy, nước da nâu đồng săn chắc. Bước chân đến sân, bố đã cười khơ khớ, để lộ hàm trên không còn một chiếc răng nào. (Đúng như tín hiệu anh Bảy cho). Bố hồ hởi kể cho đoàn nghe về các ngôi mộ mà khi làm rẫy, bố gặp song không phải ở bản A-diu. Bố cũng chẳng biết đấy là mộ của bộ đội hay địch vì ngày xưa đánh nhau, địch chết cũng nhiều và chôn ở những nương ấy. Biết đoàn từ Hà Nội lên tìm mộ liệt sĩ nên dân bản kéo đến rất đông. Chuyện nổ như ngô rang. Giữa lúc tiếng nói, tiếng cười râm ran khắp bản thì bất ngờ, một ông già tóc bạc như cước, người chắc lẳn như cây lim, cây táu bước đến trước mặt ông Tiến, hỏi: “Có phải đi tìm bộ đội Dư không? Tao biết nó đấy. Chính tao với thằng A-feng chôn nó vì hồi ấy, tao làm du kích bản mà”. Ông già ấy là bố A-mo. Bố kể: “Bộ đội Dư là bác sĩ. Nó bị thương, bộ đội để nó ở lại với dân bản. Nó đã cứu giúp dân bản, chữa bệnh sốt rét cho dân bản. Dân bản quý nó lắm. Nhưng đến lúc nó bị sốt rét thì hết thuốc nên nó chết đấy. Ai cũng khóc thương nó. Tao chôn nó ở đằng sau một cây to. Tao đánh dấu cây ấy rồi”. Cả đoàn sướng rơn. Ông Tiến hỏi mà lưỡi cứ líu lại: “Thế bố có nhớ bộ đội Dư mất năm nào không?”. Bố bảo, cuối năm 1969 nhưng tháng thì bộ chịu. Ông Tiến lại hỏi: “Bố có nhớ đường đến đó không?”. Bố A-mo cười: “Nhớ chứ. Nó ở trên núi cao đằng sau bản ấy. Đi lên đó, nếu mà người dân thì mất hai tiếng còn chúng bay phải mất 3 tiếng”. Ông Tiến đề nghị bố dẫn đường. Bố A-mo nhận lời ngay.

Đêm ấy, cả đoàn không sao chợp mắt được. Nằm chùm chiếu co ro mà cái rét vùng cao lạnh thấu thịt thấu xương. Nửa đêm, chị Thắng dậy ngồi bưng mặt khóc thút thít. Linh cảm về cuộc hội ngộ cha con sau bao năm cách biệt đang đến gần khiến chị xúc động.

Sáng sớm hôm sau, khi tiếng chim rừng vừa cất, đoàn đ• lục tục chuẩn bị lên điểm cao 463. Đi cùng đoàn còn có 3 trai bản cường tráng do già làng cắt cử, tổng cộng 11 người, chia làm 3 tốp. Mỗi tốp do một người dân tộc dẫn đường, đề phòng có ai mệt, cần ngồi nghỉ, vẫn có thể sát nhập tốp cuối cùng. Núi sừng sững, lau sậy cao lút đầu. Lá sậy sắc lẻm như ngàn lưỡi dao cứa tướp máu đôi cánh tay trần của ông Tiến. Dốc dựng đứng. Đầu người dưới trạm chân người leo phía trên. Không ai dám nhìn xuống vì độ cao chóng mặt. Vực sâu thăm thẳm. Mây xoà vào mặt, quấn quýt lấy thân người. Mồm miệng thi nhau thở. Hơi phì cả ra đằng tai. ì ạch vượt qua ngọn núi đầy lau lách lại thấy hiện lên trước mặt dốc núi một cánh rừng nguyên sinh. Đi theo một khe suối cạn, hai bên vách đá dốc ngược, cây cối um tùm. Bố A-mo bảo, con đường này dân bản chẳng ai dám đi, chỉ có thợ săn thú thỉnh thoảng mới bước chân vào nên cây dại mọc chằng chịt, vừa leo vừa phải dùng dao phát quang mở đường. Nhiều đoạn phải đi trên vách đá treo leo, một bên là sườn núi cao, một bên là vực thẳm. Rừng rậm đến mức không có nổi một tia nắng mặt trời xuyên qua được kẽ lá. Mặt đất ẩm ướt, đầy lá mục. Bước chân đến đâu, vắt ngóc đầu quăng mình rào rào đến đây. Chị Thắng bị mấy con bám vào bụng chân, sợ quá, khóc thét, vừa nhảy, vừa kêu la.

Chừng hơn 3 tiếng sau, đoàn đặt chân đến một khu rừng có mấy cây cổ thụ, xung quanh được bao bọc bởi nhiều cây con và dây leo chằng chịt. Bố A-mo ngắm nghía một hồi rồi hạ lệnh dừng lại. Bố khoát tay chỉ, chính nơi này, sau những gốc cây kia, bố đã an táng liệt sĩ Dư. Hơn chục người lao vào phát quang bụi rậm, tạo thành một khoảng trống rộng để xác định  vị trí ngôi mộ nhưng tìm mãi chẳng thấy nấm đất nào. Nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy kiểm tra lại tín hiệu rồi khẳng định, mộ liệt sĩ Dư đúng ở chỗ gốc cây cụt. Ông Tiến vội bày lễ vật, hương hoa, nải quả lên trên gốc cây, thắp hương lầm rầm khấn. Chị Thắng, từ lúc lên, cứ ngồi phệt xuống đất khóc réo gọi bố. Sau khi làm xong thủ tục tâm linh, đoàn bắt đầu đào bới. Anh Đoàn – con trai cả của liệt sĩ, dưới sự chỉ dẫn của anh Bảy, là người bập nhát cuốc đầu tiên ở ngay gốc cây cụt, nơi vừa thắp hương, đằng sau gốc cây cổ thụ to nhất. Đây chính là cây mà bố A-mo đã đánh dấu trên thân cách đây 33 năm bằng cách dùng dao chặt tước vỏ. Nay, vết chém vẫn còn, dài khoảng 60 cm, rộng 30cm. Mọi người thay nhau đào. Đến 12 h trưa, hố đào đã được mở rộng 1,5m, sâu chừng 70cm mà vẫn chưa thấy dấu hiệu gì. Ông Tiến lo ra mặt, hỏi bố A-mo có nhớ nhầm không? Bố khẳng định chắc nịch: “Đúng ở cây to này mà. Nhưng tao không nhớ bên phải hay bên trái. Tao chôn bộ đội Dư trước, rồi chôn 3 cái dân sau mà”. Nói đoạn, bố tóm tay ông Tiến, dẫn đi cách cây cổ thụ chừng 10 m về bên trái, chỉ vào chỗ bụi cây rậm rạp: “Mộ 3 cái dân ở chỗ ấy đấy”. Ông Tiến vạch cành len vào trong thì nhìn thấy một nửa thân gỗ to, dài chừng 2m nằm trên mặt đất, lá rừng phủ dầy bên trên. Đồng chí Đức giải thích, người dân tộc Cà-tu mai táng người chết như thế. Họ xẻ thân cây gỗ làm hai mảnh. Sau đó đục rỗng rồi đặt người chết vào đó. Hố chôn sâu chừng 60cm, do đó nửa trên của thân cây vẫn nổi trên mặt đất.

Như vậy, vị trí bố A-mo xác định nơi mai táng liệt sĩ Vũ Duy Dư là chính xác nhưng sao đào mãi vẫn không thấy. Ông Tiến bàn với đồng chí Đức cho đào hố thứ hai dịch về phía bên phải cây cổ thụ, cách hố thứ nhất khoảng 4m. ở vị trí này cũng có một gốc cây cụt. Hố thứ hai đào rộng 1,5m, sâu 50 cm thì gặp một lớp đá ong. Bố A-mo bảo: “Không phải chỗ này rồi vì ngày xưa tao đào không gặp lớp đá như thế”. Ông Tiến nhờ nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy xin thêm tín hiệu tại hiện trường để xác định. Bảy bảo: “Để em thắp hương xin con ong chỉ dẫn”. Khoảng 5 phút sau, một con ong to bằng ngón tay út bỗng từ đâu vù đến, bay xung quanh mặt chị Thắng hai vòng rồi dừng lại, đậu vào trán chị. Chị Thắng sợ quá, mặt tái mét. Anh Bảy trấn an: “Cứ bình tĩnh, đừng sợ”. Nghe vậy, chị Thắng đứng yên, hai tay chắp trước ngực, miệng khấn xin bố chỉ dẫn. 30 giây sau, con ong rời khỏi trán chị Thắng, xà xuống, bay xung quanh nơi anh Bình đang nằm nghỉ vì mệt, cách miệng hố thứ nhất 40cm rồi bay thẳng vào rừng sâu.

Mặt trời đã ngả về Tây. Rừng rậm bắt đầu âm u. Nhìn đồng hồ đã 1h30′ chiều. Cả đoàn lo lắng. Nếu hôm nay không tìm thấy thì buộc lòng phải quay về bản vì không mang theo lương thực. Mà ngày mai lại tiếp tục lên tìm kiếm thì mọi người không đủ sức. Hôm nay leo núi đã oải quá rồi. Ông Tiến bàn với đồng chí Đức huyện đội và anh Bảy: “Tín hiệu con ong không cho biết rõ ràng nhưng cũng có xà xuống đất, bay quanh anh Bình nằm giữa hố 1 và 2. Theo tôi, chúng ta nên mở rộng hố 1 thêm 40 cm nữa về phía hố 2. Nếu vẫn không thấy thì đào một đường hào rộng 60 cm, sâu 60 cm, chạy dài từ hố 1 sang hố 2, cắt toàn bộ đằng sau cây cổ thụ. Vì thời gian không còn nhiều nữa”. Mọi người đều nhất trí, thay nhau đào. Anh Bảy ngồi xếp bằng, tay chắp trước ngực, lẩm bẩm khấn. Đột nhiên, anh nói: “Em vừa nhìn thấy một người con gái đứng đằng sau gốc cây kia. Anh Tiến ra xem nào”. Vừa nói, Bảy vừa chỉ vào cây cổ thụ phía đằng xa, cách chỗ mọi người đào chừng 15 m. Ông Tiến ngó nghiêng một hồi chẳng thấy gì. Anh Bảy lại nói: “Đấy, chị ấy vừa ló ra đấy. Chị ấy cắt tóc ngắn, mặc váy dân tộc mà. Anh ra xem có ngôi mộ nào ở đó không?”. Nghe vậy, bố A-mo bảo: “Có con A-lý chôn ở đấy”. Anh Bảy liền bước đến phía sau gốc cây to, thắp hương khấn: “Chị A-lý ơi! Tôi dân bản rất quý bộ đội Dư nên muốn giữ ở lại. Nhưng bộ đội Dư đã ở đây với dân bản, với chị A-lý hơn 30 năm rồi. Nay gia đình muốn xin dân bản cho đón bộ đội Dư về với ông bà, tổ tiên để thoả lòng thương nhớ. Chị A-lý linh thiêng hãy giúp đỡ phù hộ cho chúng tôi nhanh chóng tìm được bộ đội Dư chị nhé”.

Từ lúc mọi người tích cực đào bới, anh Đoàn cứ ngồi rũ ở gần mép hố 2. Anh Bảy đề nghị đào mở rộng hố 2 chỗ anh Đoàn ngồi. Vừa cuốc vài nhát, anh Đoàn reo lên: “Anh Tiến ơi! Hình như em thấy dây võng này”. Mọi người đổ xô vào. Bảy nhảy xuống hố, dùng tay khẽ bới. Sợi dây dù lộ dần ra. “Chính xác rồi”. Bảy nói to, giọng reo vui. “Chiếc võng ngày xưa làm bằng vải Tô Châu nên mặc dầu vùi sâu dưới đất hơn 30 năm nhưng những sợi ny-lon và dây dù buộc quanh đầu võng vẫn còn”.

Sau khi xác định được hướng nằm của chiếc võng, mọi người nhẹ nhàng đào rộng và dài dần ra. Có một sự trùng hợp đặc biệt là hướng chiếc võng đặt đúng vị trí anh Bình nằm nghỉ khi con ong xà xuống bay xung quanh. Điều đó, chứng tỏ rằng liệt sĩ đã nhận được lời cầu khẩn và sai linh vật hỗ trợ. Đặc biệt thứ hai là ông Tiến và anh Đức, lúc đầu,  đào đúng vị trí chiếc võng mà không thấy. Chỉ đến khi anh Đoàn, con trai cả của liệt sĩ, xới thêm chừng 4 cm thì thấy. Như vậy, vấn đề huyết thống trong tâm linh rất quan trọng.

Tất cả đoàn đều thở phào nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng. Đồng hồ đã chỉ 14h30′. Mọi người vội vã tập trung tìm kiếm hài cốt và kỷ vật của liệt sĩ. Đúng như tín hiệu anh Bảy đã báo trước ở Hà Nội, do mai táng trong rừng rậm, đất ẩm nên hài cốt không còn nhiều. Những chiếc khuy áo, nắp hộp thuốc mỡ dạng tuýp, một tấm vải dù đùng để nguỵ trang khi hành quân còn nguyên vẹn đã ngả sang màu vàng nhạt. Tất cả được gom lại, niệm trong miếng vải màu lá cờ tổ quốc rồi trang trọng đặt trong ba lô. Đoàn xuống núi.

23h ngày 4 tháng 3 năm 2002, chiếc xe ô tô trở di hài của liệt sĩ Vũ Duy Dư đã về tới thôn Đại Từ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Mặc dầu trời đã khuya song nhân dân địa phương vẫn tập trung rất đông để đón đứa con của quê hương trở về sau 33 năm xa cách. Sáng ngày 5 tháng 3, lễ truy điệu liệt sĩ đã được huyện đội Thanh Trì, hội cựu chiến binh, các ban ngành địa phương cùng gia đình cử hành trang trọng. Hài cốt liệt sĩ đã được mai táng tại nghĩa  trang quê nhà.

Cuộc trò chuyên giữa tác giả và ông Trần Tích Tiến:

PV: Là người theo suốt cuộc hành trình đi tìm mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư, ông có nhận xét gì về tấm sơ đồ và những thông tin, tín hiệu mà nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy đã cung cấp tại Hà Nội?

Ông Trần Tích Tiến: Sơ đồ vẽ đẹp, rõ ràng từng khu vực, từ đồi núi, sông suối, ruộng nương, bản làng… Có thể nói, tín hiệu được xác lập từ Hà Nội, qua thực địa, chính xác đến 90%. Chính nhờ tín hiệu này mà đoàn tìm kiếm đã đạt kết quả tốt trong thời gian rất ngắn. Cụ thể:

1. Mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư mai táng tại bản A-diu, huyện Hiên (Quảng Ngãi). Địa danh này hoàn toàn chính xác.

2. Bản A-diu có ông Lai, ông Luật, ông Hạo biết thông tin về phần mộ liệt sĩ.

3. Có điểm cao 463. Và thực tế, mộ liệt sĩ đã nằm trên đỉnh của điểm cao.

4. Liệt sĩ hy sinh ngày 14 tháng 10 năm 1969. Về thông tin này, tôi cho là chính xác. Vì theo giấy báo tử, liệt sĩ Dư hy sinh ngày 15 tháng 3 năm 1975 tại mặt trận phía Nam nhưng sau khi xác minh nhân chứng là bố A-mo, người trực tiếp mai táng liệt sĩ , bố khẳng định liệt sĩ mất khoảng cuối năm 1969.

PV: Vậy còn những thông tin chưa chính xác?

Ông Trần Tích Tiến: Thứ nhất, là thông tin về sự hy sinh của liệt sĩ. Nhà ngoại cảm cho biết: trong lúc đang cứu chữa bệnh nhân trong một lán trại, do máy bay địch oanh tạc, chiếc lán bị sập. Y sĩ Vũ Duy Dư đã hy sinh. Nhưng khi gặp bố A-mo và một số người già bản A-diu, được biết, liệt sĩ Dư bị thương, khi đơn vị chuyển quân đã để lại nhờ bản chăm sóc. Trong thời gian ở lại bản, thấy dân bản bị sốt rét nhiều quá, y sĩ Dư đã cấp phát thuốc chữa bệnh cho dân. Khi y sĩ Dư bị sốt rét thì hết thuốc nên đã mất. Chính vì nghĩa cử cao đẹp này mà đồng bào rất biết ơn liệt sĩ.

Thứ hai, trong mộ liệt sĩ có bát cơm cúng hoá thạch, có lọ thuốc ký ninh bên trong đựng tờ giấy mờ hết chữ. Trong túi áo bên trái còn hộp dầu con hổ. Tại thực địa, khi khai quật mộ, không thấy những thứ đó. Chỉ có tuýp thuốc mỡ, mảnh vải dù được gấp gọn gàng dưới phần đầu của liệt sĩ.

Kỳ 7: 84 năm đi tìm mộ người anh hùng Lương Ngọc Quyến

99 năm đã qua đi, kể từ khi ngọn lửa của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên bùng cháy (30/8/1917 – 5/1/1918). Đây là lần đầu tiên, trong lịch sử cận đại Việt Nam, một cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp đã chiếm được tỉnh lỵ, không những làm vang dội cả nước Việt Nam mà còn làm rung động nước Pháp và ảnh hưởng tới các xứ thuộc địa của Pháp. Cuộc bạo động ấy cùng tên tuổi của hai nhà lãnh tụ Lương Ngọc Quyến, Đội Cấn sẽ mãi mãi là những nét vàng son rực rỡ ghi trong trang sử hào hùng của đất Thái Nguyên, của lịch sử dân tộc. Song có một điều ít ai biết được rằng, phía sau cái chết còn nhiều bí ẩn của người anh hùng Lương Ngọc Quyến là cuộc hành trình tìm kiếm hài cốt có lẽ là dài nhất, đằng đẵng nhất – 84 năm, của rất nhiều thế hệ con cháu của cụ. Và đến tận những ngày này, khi chút ít hài cốt của cụ Lương Ngọc Quyến đã được tìm thấy nhờ khả năng đặc biệt của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và được an táng tại quê nhà (xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây) thì di hài của người anh hùng Đội Cấn vẫn còn chìm lấp đâu đó giữa bạt ngàn nương chè, cỏ dại.

Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên và cái chết oanh liệt của người anh hùng Lương Ngọc Quyến

Sinh ra trong thời buổi loạn lạc, đất nước bị giặc ngoại xâm giày xéo, ngay từ thuở nhỏ, cậu bé Lương Ngọc Quyến đã mang trong mình lòng yêu nước và mối căm thù giặc sâu sắc. Mặc dầu được cha là cụ cử Lương Văn Can, người sáng lập ra Đông kinh nghĩa thục, kèm cặp chữ thánh hiền song cậu bé Quyến vẫn chuộng võ hơn văn. Năm 1900, đi thi hương không đậu, ông bèn rũ bỏ con đường khoa cử, dốc hết tâm trí vào việc rèn luyện trí lực, những mong có thời cơ cứu nước. Tháng 10 năm 1905, khi nhà yêu nước Phan Bội Châu phát động phong trào Đông du, ngay lập tức, Lương Ngọc Quyến lên đường, trở thành một trong bốn học sinh có mặt tại Nhật. Ngày ra đi, ông cúi đầu lạy từ cha mẹ, gạt nước mắt phân ly, làm giấy cho phép người vợ hiền cải giá, để lại nhà đứa con thơ dại, chỉ mang một số tiền vừa đủ đến Yokohama (Nhật Bản). Cái nghĩa khí của một đấng nam nhi “ra đi đầu không ngoảnh lại” ấy đã gây một niềm cảm kích mãnh liệt trong lòng lãnh tụ Phan Bội Châu. Trong Ngục trung thư, cụ Phan đã dành những lời khen ngợi tốt đẹp nhất cho Lương Ngọc Quyến: “Tôi xem ra người thật có khí phách hăng hái, đầu tóc còn để bờm sờm. Dò hỏi mới biết Lương quân đã bỏ nhà trốn sang Nhật trơ trọi một thân, lúc lên đến bến thì trong túi chỉ còn vẻn vẹn 3 xu. Thấy thế tôi vừa mừng vừa chưng hửng. Vì bạn nhỏ tuổi nước ta, một thân một bóng mà dám liều mạng xông pha sóng gió muôn trùng đến một nước mình chưa quen biết bao giờ, Lương quân chính là người thứ nhất vậy. Té ra, Lương quân vốn là một thanh niên chứa sẵn kỳ khí, có hoài bão cao xa, chỉ nghe nói tôi đã sang Đông, cho nên mạnh bạo bỏ nhà ra đi, không kể gì mọi nỗi gian nan nguy hiểm. Bạn thiếu niên anh tuấn nước ta, có mấy người được như Lương quân?!”.

Tháng 5 năm 1906, Lương Ngọc Quyến được Phan Bội Châu bố trí vào học quân sự tại Chấn Võ Học hiệu (Simbu Gakku), một trường quân sự của chính phủ Nhật Bản đào tạo sĩ quan cho Trung Quốc. Nhưng đến ngày 10 tháng 6 năm 1907, Pháp và Nhật bắt tay nhau, nên ngày 8 tháng 3 năm 1909, Phan Bội Châu cùng toàn bộ du học sinh Việt Nam bị chính phủ Nhật trục xuất. Cụ Phan cùng Lương Ngọc Quyến và một số đồng chí phải sang Quảng Đông, nương náu ở nhà Chu Bá Linh, một nữ giáo viên Trung Quốc có cảm tình với các nhà cách mạng Việt Nam.

Bấy giờ, phong trào cách mạng trong và ngoài nước đều gặp nhiều khó khăn. Cụ Phan phải đi bán sách để sinh nhai, tối về lại cùng Lương Ngọc Quyến uống rượu giải sầu. Muốn thoát khỏi cảnh cùng quẫn, Lương Ngọc Quyến tìm đường về nước để vận động tài chính. Cụ Lương Văn Can đã gom góp được 250 đồng để Quyến mang sang Trung Quốc. Tháng 10 năm 1910, cụ Phan đã dùng số tiền ấy để đưa một số đồng chí sang Xiêm cày cấy, chờ đợi thời cơ. Năm 1911, cha Lương Văn Can lại đứng ra hỏi cưới và tổ chức cho Nguyễn Thị Hồng Đính, con gái thứ hai của chí sĩ yêu nước Nguyễn Hữu Cương (làng Động Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) sang Đông Hưng, Trung Quốc để thành hôn với Lương Ngọc Quyến. Sau đó, với tư cách là một học viên đã tốt nghiệp Chấn Võ Học hiệu, Lương Ngọc Quyến được vào học trường Quân nhu học hiệu ở Quảng Đông và trường Sĩ quan học hiệu Bắc Kinh, rồi trở thành thiếu tá trong quân đội cách mạng Trung Hoa. Đang tuổi thanh xuân, ý chí giết giặc cứu nước luôn sôi sục nên ông lao vào học tập và thực hành sở học ngay trên chiến địa Trung Hoa. Cụ Phan nhận xét: “Lúc ấy, học vấn khác, phần nhiều Lương Ngọc Quyến đều không lưu ý, duy một khoa học quân sự chiến thuật thì lại thiệt tâm nghiên cứu. Cái chí đoản đao thất mã (thanh gươm yên ngựa) e không một phút nào quên”.

Tháng 6 năm 1912, nhân cách mạng Tân Hợi (1911) thành công ở Trung Hoa, Phan Bội Châu đã thành lập Việt Nam quang phục Hội, lấy chủ nghĩa dân chủ cùng mục tiêu “khu trục Pháp tặc, khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam cộng hoà dân quốc” làm tôn chỉ. Lương Ngọc Quyến cùng Hoàng Trọng Mậu được cử làm uỷ viên quân vụ thuộc Bộ chấp hành. Khi ấy, số hội viên tập hợp ở Quảng Đông lên đến cả trăm người. Để có lương thực nuôi quân, đầu năm 1913, Lương Ngọc Quyến về nước lần thứ 2. Tại nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Hữu Cương, Lương Ngọc Quyến đã bàn với con cháu các chí sĩ tiến hành hai cuộc tập kích vào Ty rượu Thanh Ba và Dinh tuần phủ Phú Thọ Chế Quang Ân. Rất tiếc, hai trận đánh này đều thất bại, nhiều chiến sĩ cách mạng đã hy sinh anh dũng. Đến tháng 4 năm 1913, Lương Ngọc Quyến lại đưa Phan Bội Châu đến tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) gặp người bạn đồng học cũ là Trương Huy Toản, đang giữ chức sư trưởng của quân đội Trung Hoa Dân quốc ở Hồ Nam để nhờ tài trợ. Trương Huy Toản nhận lời giúp nhưng ngay sau đó, Trung Hoa rơi vào nội chiến. “Hoạ vô đơn chí”, đang lúc gian nan thì ở trong nước lại xảy ra hai vụ đánh bom ở Thái Bình và Hà Nội khiến cho mạng lưới của Việt Nam quang phục hội bị càn quét tơi bời.

Giữa năm 1914, nhân cơ hội ở Châu Âu sắp xảy ra đại chiến, Lương Ngọc Quyến lên đường vào Sài Gòn, tìm xuống Long Xuyên gặp gỡ Dương Bá Trạc để trù tính việc đưa người sang Xiêm để khẩn ruộng, luyện quân, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa. Biết giặc Pháp sẽ tra xét kỹ ở biên giới Miên – Xiêm, Lương Ngọc Quyến thay đổi lộ trình, đi Hương Cảng để từ đó vòng sang đất Xiêm. Nhưng tại Hương Cảng, ông đã bị cảnh sát Anh phục bắt rồi giao cho nhà cầm quyền Pháp ở Quảng Châu Loan. Khoảng tháng 3 năm 1915, ông bị giải về Hà Nội, ra toà án binh Cao Bằng rồi lần lượt bị chuyển sang các nhà lao Hoả Lò (Hà Nội), Nam Định, Sơn Tây, Phú Thọ và lại quay về Hoả Lò. Tại đây, địch đã dùng những đòn tra tấn dã man nhất, cả những ngón nghề mua chuộc xảo quyệt song vẫn không làm lung lạc được ý chí sắt đá, nghị lực phi thường của người chiến sĩ cách mạng Lương Ngọc Quyến. Theo Việt Nam nghĩa sử lược (1918) của Đặng Đoàn Bằng và Phan Thị Hán (tức Phan Bội Châu), thì trong phiên toà xét sử Lương Ngọc Quyến tại Hà Nội, thực dân Pháp đã cho vời mẹ của ông – bà Lê Thị Lễ đến chứng kiến, hòng lợi dụng tình mẫu tử để lung lạc ý chí của ông. Nhìn thấy con mình bị gông xiềng tù tội, lòng mẹ đau đớn như cắt từng khúc ruột nhưng ra trước toà, vừa ngó thấy mặt con, cụ đã mắng: “Tao nuôi mày khôn lớn những mong báo đền nợ nước thù nhà. Nhưng mày làm thế nào để bị giặc bắt đưa ra xét sử, thật đáng xấu hổ”. Cụ bà cò cứng cỏi chất vấn quan toà: “Từ thuở còn là bào thai, chúng tôi đã dạy con về tình yêu thương giống nòi, chủng tộc. Bởi vậy, con tôi theo đuổi mục đích cứu nước là hợp với đạo lý của gia đình và của đất nước chúng tôi, sao lại gọi là phản loạn?”. Nói đoạn, cụ quay sang nói với con trai mình: “Mẹ chỉ mong con xứng đáng là công dân nước Việt đến hơi thở cuối cùng”. Là một người mẹ hiền đức, cần kiệm, tảo tần lúc thường ngày, nhưng chính trong thời khắc căng thẳng ấy, hốt nhiên, cụ bà Lê Thị Lễ bộc lộ trọn vẹn khí phách của một người mẹ Việt Nam anh hùng. Chính khí phách anh hùng của mẹ đã vun đắp thêm chí khí cho con.

Ngay trong địa ngục Hoả Lò, Lương Ngọc Quyến còn tìm mọi cách tuyên truyền, giác ngộ lòng yêu nước, căm thù giặc trong các bạn tù, kêu gọi họ nổi dậy chống thực dân. Biết không thể khuất phục được Lương Ngọc Quyến, ngày 25 tháng 7 năm 1916, thực dân Pháp bèn phạt ông án tù chung thân và đưa ông lên Thái Nguyên.

Tên Công sứ khét tiếng tàn ác Darles, để diệt trừ mầm nguy hiểm Lương Ngọc Quyến, đã sai lính dùi bàn chân của ông rồi tra xích sắt, làm cho ông bị liệt hẳn chân. Nhưng hắn không thể ngờ, hành động tàn ác ấy chỉ càng làm bùng lên ngọn lửa căm thù trong con người Lương Ngọc Quyến. Chính tại nhà tù của giặc Pháp, ông đã tìm được người đồng chí mới là Đội Cấn (tên thật là Trịnh Văn Cấn), một viên đội khố xanh yêu nước, đang phục vụ trong cơ binh Pháp ở Thái Nguyên. Xuất thân từ tầng lớp nông dân, tuy đứng trong hàng ngũ của địch nhưng Đội Cấn thấm thía vô cùng nỗi nhục mất nước và đau xót trước cảnh ngộ của đồng bào khi hàng ngày, tận mắt chứng kiến những hành động tàn ác của Darles với người bản xứ, với tù nhân, dân phu. Điều đó, đã hun đúc trong ông ý chí giết giặc cứu nước. Sau một thời gian, ông đã bí mật kết giao được với nhiều người có cùng chí hướng trong đơn vị. Lấy tư cách là Uỷ viên quân vụ thuộc Bộ chấp hành của Việt Nam quang phục hội, Lương Ngọc Quyến đã kết nạp Đội Cấn vào Hội.

Sau đó, một Ban chỉ huy khởi nghĩa đã được thành lập gồm: Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến, Đội Giá, Đội Xuyên, Đội Nam, Đội 935 và một người đội văn thư. Kế hoạch tấn công đã được vạch ra: huy động lực lượng lính khố xanh ở trại tỉnh lỵ, các đồn lân cận (175 lính), các tù chính trị và tù thường phạm giác ngộ đánh chiếm tỉnh lỵ Thái Nguyên làm căn cứ. Khi cuộc bạo động nổ ra, sẽ có quân của Việt Nam quang phục hội từ bên ngoài vào tiếp ứng. 22 h ngày 30 tháng 8 năm 1917, ban chỉ huy hạ lệnh khởi sự. Đội Trường dẫn quân đi diệt tên giám binh Noel và các tên tay sai là Phó quản Lạp và Đội Hành. Đội Giá dẫn quân phá đề lao, diệt tên giám ngục Lô-ép, giải phóng 203 tù nhân, trong đó có Lương Ngọc Quyến. Tiếp đó, Đội Cấn tập hợp thành đội ngũ hùng mạnh, lấy đại nghĩa “giết thù cứu nước” để hiểu dụ anh em. 131 lính khố xanh đã đồng lòng hưởng ứng. Mọi người nhất trí bầu Đội Cấn làm Thái Nguyên Quang phục Quân Đại đô đốc và cử Lương Ngọc Quyến làm quân sư. Ngay đêm đó, nghĩa quân đã toả ra đánh chiếm các công sở như toà sứ, toà án, nhà đoan, kho vũ khí, kho bạc, nhà dây thép  và bao vây trại lính Pháp. Khi phá kho vũ khí, nghĩa quân đã thu được 167 súng trường và 62.175 viên đạn.

Sáng ra, nghĩa quân trương trước cửa thành lá quốc kỳ nền vàng năm sao đỏ do Việt Nam quang phục hội chế định và quân kỳ nền đỏ năm sao trắng của Việt Nam Quang phục Quân cùng bức trướng đề bốn chữ “Nam binh phục quốc”. Dùng loa tuyên bố Thái Nguyên độc lập, đặt quốc hiệu là “Đại hùng đế quốc”. Trước đó, từ ngay nửa đêm, nghĩa quân đã công bố bản “Tuyên ngôn thứ nhất” do ông Tú Nguyễn Gia Cầu khởi thảo, Lương Ngọc Quyến chỉnh sửa. Bản tuyên ngôn kể rõ tội ác của thực dân Pháp kể từ khi chúng xâm chiếm nước ta, nhấn mạnh dã tâm vơ vét của cải, đưa dân ta đi làm bia đỡ đạn ở chiến trường Châu Âu. Phần cuối, nhân danh Đại đô đốc Quang phục Quân Trịnh Văn Cấn, bản tuyên ngôn kêu gọi nhân dân đứng lên khởi nghĩa, đồng tâm hiệp lực diệt trừ giặc Pháp, dành độc lập cho tổ quốc.

Hưởng ứng lời kêu gọi, hơn 300 người dân địa phương đã tình nguyện gia nhập nghĩa quân nâng tổng số quân lên đến 623 người với võ khí tương đối đầy đủ. Cân nhắc tương quan lực lượng giữa ta và địch, Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn đã chọn phương án cố thủ Thái Nguyên để chờ ngoại viện. Toàn thể nghĩa quân được tổ chức thành 8 đội, chia nhau đào công sự và ngăn giữ các hướng ra vào tỉnh lỵ. Lương Ngọc Quyến chỉ huy tuyến phòng thủ bên ngoài. Đội Cấn lo giữ phía trong.

Hốt hoảng trước việc tỉnh lỵ Thái Nguyên bị nghĩa quân chiếm đóng, ngày 31 tháng 8 năm 1917, thực dân Pháp cấp tốc điều quân từ Hà Nội và Đáp Cầu lên giữ đồn Gia Sàng. Sáng 2 tháng 9, bắt đầu mở cuộc tấn công với lực lượng hùng mạnh gồm 2.000 quân, có pháo binh, tàu chiến yểm trợ. Nghĩa quân đã kháng cự rất quyết liệt, tiêu diệt được 107 tên, sát thương 17 tên. Song trước kẻ địch mạnh gấp bội, nghĩa quân cũng bị tiêu hao, chỉ còn 250 tay súng nên buộc phải rút lui. Chính trong lần rút chạy ấy, Lương Ngọc Quyến đã anh dũng hy sinh.

Trưa ngày 5 tháng 9, Đội Cấn ra lệnh rút quân khỏi tỉnh lỵ để toả ra các vùng rừng núi xung quanh. Bị giặc Pháp truy đuổi ráo riết, nghĩa quân phải di chuyển suốt 4 tháng ròng từ Hùng Sơn (huyện lỵ Đại Từ), Quán Chu đến Vĩnh Yên, Phúc Yên rồi quay lại Thái Nguyên, đèo Nứa. Ngày 21 tháng 12, lực lượng của Đội Cấn tại căn cứ núi Pháo chỉ còn 30 tay súng nhưng đã đánh bật nhiều đợt tấn công liên tiếp của địch. Bị trọng thương và bị bao vây, vào lúc 21h ngày 5 tháng 1 năm 1918, Đội Cấn đã tự sát để khỏi sa vào tay giặc.

Tuy chỉ dành được độc lập vỏn vẹn có 7 ngày rồi bị địch dìm trong biển máu nhưng cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên vẫn là điểm son rực rỡ nhất của phong trào yêu nước theo đường lối bạo động. Điểm son ấy đã kết thúc một cách oanh liệt phong trào yêu nước trong hai thập niên đầu thế kỷ 20. Sau này, khi viết Phan Bội Châu niên biểu, cụ Phan một lần nữa, lại dành những lời hay nhất để ca tụng Lương Ngọc Quyến: “Việc Thái Nguyên Quang phục 7 ngày, ông thiệt là tướng tiên phong cho quân cách mệnh. Thế mới biết, người ta chỉ sợ không chí khí, không sợ không một ngày biểu hiện được. Xem ở ông Lương mà càng đáng tin lắm”. Còn học giả Nguyễn Hiến Lê, cũng không tiếc lời ca ngợi khi viết Đông kinh nghĩa thục: “Trong lịch sử cách mạng của dân tộc ta, hai cái chết đó oanh liệt và cảm động bậc nhất”.

Tuy nhiên, cái chết của người anh hùng Lương Ngọc Quyến, cho đến tận bây giờ, vẫn còn là một ẩn số đối với các nhà nghiên cứu lịch sử. Đã có nhiều giả thiết về cái chết đầy bi tráng này. Theo nhà nghiên cứu Đào Trinh Nhất thì “Đến trưa ngày 5 tháng 9, tỉnh thành thập phần nguy cấp. Quang phục quân được lệnh bỏ tỉnh thành lục tục ra đi. Đội Cấn đã xếp đặt võng cáng sẵn sàng để đưa Lương Ngọc Quyến theo quân. Nhưng ông đã khảng khái từ chối, không muốn đi theo quân để anh em chiến sĩ phải bận lòng vì mình, phải chậm trễ trên đường bạt thiệp bôn ba, mỗi bước có giặc theo sau, mỗi bước phải quay lại cự địch. Ông quyết định chết ở Thái Nguyên, lấy hồn tiễn đưa các chiến sĩ. Sau mấy câu vắn tắt yên uỷ mọi người, ông nói với Đội Cấn, thành thực và tự nhiên: Ông bắn hộ một phát vào giữa ngực cho tôi khỏi trông thấy thực dân dày xéo lên lá cờ cách mạng. Bất đắc dĩ, Đội Cấn phải làm theo ý muốn ấy. Sau đó, di hài Lương Ngọc Quyến được nghĩa quân đào hố chôn lấp tử tế và san phẳng mặt đất rồi mới từ giã tỉnh thành kéo đi”. Nhưng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Kiệm thì “vào ngày 4 tháng 9, địch dồn hết lực lượng tấn công. Lương Ngọc Quyến trong lúc chỉ huy chiến đấu bị mảnh đại bác bắn vào đầu nên hy sinh ngay tại trận”. Chính cái chết đầy bí ẩn ấy đã dẫn đến hành trình tìm mộ dài dằng dặc ngót một thế kỷ của rất nhiều thế hệ con cháu người anh hùng Lương Ngọc Quyến sau này.

Kỳ 8: 84 năm, hai thế hệ đi tìm mộ cha, ông

Sinh thời, Lương Ngọc Quyến có với người vợ thứ 2, bà Nguyễn Thị Hồng Đính, 3 mặt con: Lương Dân Nguyên, Lương Tân Khải và Lương Cao Vinh. Cả ba cậu con trai, bà Đính đều sinh hạ tại Trung Quốc. Năm 1917, sau khi Lương Ngọc Quyến hy sinh, bà gửi đứa con thứ 2 là Lương Tân Khải cho một phụ nữ Trung Quốc nuôi dùm rồi đưa 2 con Nguyên và Vinh về nước. Mất cha từ lúc tuổi còn thơ nhưng hình ảnh của cha với khí phách của một người anh hùng trọn đời hy sinh vì dân vì nước vẫn hiện hữu trọn vẹn, trở thành niềm tự hào trong tâm hồn hai cậu bé qua lời kể của mẹ. Sau này, trưởng thành, nỗi đau mất phần mộ cha trở thành nỗi ám ảnh, thôi thúc Nguyên và Vinh đi tìm. Nhưng hoàn cảnh thời ấy, chiến tranh thì liên miên, hết chống Pháp rồi đánh Mỹ, gia cảnh thì nghèo túng, Thái Nguyên thì mênh mông đồi núi, tin tức về cha gần như chẳng có, việc tìm mộ chẳng khác gì “mò kim đáy bể”. Năm 1967, ông Lương Cao Vinh lâm trọng bệnh mất. Gánh nặng tìm mộ cha dồn cả lên vai ông Nguyên. Năm lần bảy lượt đi tìm chẳng được. Năm 1993, tuổi cao sức yếu, ông Nguyên cũng ra đi. Trước khi mất, lời trăn trối cuối cùng với cậu con trai thứ Lương Quân vẫn là nỗi canh cánh trọn đời về phần mộ cha Lương Ngọc Quyến: “Con gắng thay cha tìm mộ ông. Bằng mọi cách phải tìm cho được. Bố linh cảm mộ ông được chôn gần một ngôi chùa nào đó trên Thái Nguyên”.

Thấu hiểu nỗi đau của cha. Nhưng biết tìm mộ ông ở đâu bây giờ? Năm 1994, qua báo chí, ông Quân biết đến khả năng tìm mộ đặc biệt của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng. Bấy giờ, tên tuổi của Bích Hằng đã vang dội cả nước qua hàng ngàn vụ tìm mộ, nhất là vụ tìm mộ tập thể 13 liệt sĩ ở Non Nước (Ninh Bình) và 5 mộ liệt sĩ ở Đông Triều (Quảng Ninh). Qua sự giới thiệu của ông Nguyễn Văn Huy, giám đốc Bảo tàng dân tộc học, quãng giữa tháng 4 năm 1994, ông Quân tìm đến nhà riêng của Bích Hằng ở Khu tập thể binh đoàn 11 (Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội) cùng bức ảnh truyền thần của ông nội Lương Ngọc Quyến được vẽ lại từ bức ảnh chụp của Sở mật thám Pháp khi ông Quyến bị cầm tù. Bích Hằng, sau khi thắp hương mời vong cụ Quyến về, cho biết: hình ảnh cụ hiện lên rất mờ, thông tin nhận được rất ít. Cụ nói, mộ cụ vẫn còn nhưng cốt không còn nhiều, được chôn gần một ngôi chùa nào đó ở Vô Tranh, huyện Phú Lương hay Phú Bình gì đó. Địa điểm không rõ lắm nên gia đình cứ lên đó mà tìm, hy vọng sẽ có người biết mà chỉ dùm.

Vài ngày sau, ông Quân tìm đường lên Thái Nguyên. Xem bản đồ, chỉ có xã Vô Tranh thuộc huyện Phú Lương. Ông bèn nhờ người cậu ruột, nguyên là cán bộ quân khu Việt Bắc giới thiệu với ông trưởng thôn Thống Nhất, xã Vô Tranh dẫn đi tìm. Phú Lương ngày ấy rừng núi còn rậm rạp, hoang vu, nhà nọ cách nhà kia một quả đồi. Sục vào từng nhà, gặp gỡ các cụ cao niên trong làng để hỏi nhưng chẳng ai biết gì về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917, huống hồ là thông tin về phần mộ cụ Lương Ngọc Quyến. Bác trưởng thôn đưa ông Quân đến hai ngôi chùa trong xã. Một ngôi có tên là chùa Lụa nằm trên một quả đồi nhưng đã đổ nát hoàn toàn, chỉ còn lại những hòn đá kê chân cột. Xung quanh là rừng nứa ngút ngàn. Dưới chân đồi có một gia đình người Thái Bình lên khai hoang lập nghiệp từ những năm 1950. Hỏi về cụ Quyến, họ lắc đầu nguây nguẩy không biết, lại còn nghi ngờ ông Quân đi tìm đồ cổ. Ngôi chùa thứ hai cũng toạ lạc trên một sườn đồi, bạt ngàn sắn. Ông trưởng thôn cho biết, ngôi chùa này đã bị cháy lâu lắm rồi, do Pháp đốt. Nền chùa chính là chỗ đã mọc lên cây ngái to cỡ một người ôm. Người chủ nương sắn đã đan một tấm liếp nhỏ, dưới đặt bát hương để cúng vái thần linh vào những ngày rằm, mồng một. Đến hai ngôi chùa, ông Quân đều thành tâm thắp hương cầu nguyện, đi xung quanh quan sát địa hình kỹ lưỡng, hy vọng tìm thấy một dấu hiệu nào đó nhưng vô vọng.

Trở về Hà Nội, ông gặp Bích Hằng, kể lại chuyện lên Thái Nguyên tìm mộ cụ Quyến. Bích Hằng khuyên ông nên nhẫn nại, kiên trì. Chị khẳng định mộ cụ còn nhưng hiện thời chị chỉ giúp được thế. Sau đó, ông Quân có đến gặp Bích Hằng vài lần nữa nhưng cùng không thu được thông tin gì mới. Cũng trong thời gian ấy, anh em ông Quân có nhờ một số nhà ngoại cảm tiếng tăm khác như ông Đỗ Bá Hiệp (Hà Nội), ông Tư Liên (Đà Nẵng)  nhưng sự việc cũng chẳng sáng sủa gì. Giữa lúc tưởng chừng bế tắc, không còn một tia hy vọng gì thì ông Quân bất ngờ nhận được tin nhắn của Bích Hằng: đã có thông tin về phần mộ cụ Lương Ngọc Quyến. Ngay lập tức, ông Quân cùng ông Cơ, người em con ông chú ruột, vội vã đến nhà Bích Hằng. Chị vui mừng thông báo: chị vừa lên xã Vô Tranh, huyện Phú Lương tìm mộ nhà báo Thôi Hữu, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong lúc “trò chuyện” với vong liệt sĩ Thôi Hữu, ông cho biết, quả đồi bên kia có mộ của người anh hùng Lương Ngọc Quyến. Rất tiếc, lúc đó trời đã sâm sẩm tối nên Bích Hằng không sang được.

Lần này, đến gặp Bích Hằng, ông Quân đã tháo bức ảnh cụ Lương Ngọc Quyến mà gia đình đã thờ phụng mấy chục năm nay. Bức ảnh này được chụp lại từ bức ảnh của Sở mật thám Pháp, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng cách mạng Việt Nam. Khi nói chuyện với vong cụ Quyến, chị Hằng nói cụ hiện lên rất rõ, cằm vuông, mắt sáng, đặc biệt là thông tin về phần mộ cụ rất nhiều. Cụ chỉ dẫn: Đi qua cây cầu có tên Rùng Rình thì tạt vào bên phải đường. Qua một thửa ruộng, lên một quả đồi, trên đó có một ngôi nhà ngói. Phía đầu hồi nhà có một bụi tre, một chuồng nuôi gia súc, dưới chân đồi có một cái ao. Giữa bụi tre và ao là một cây bạch đàn lớn mới bị chặt, trên gốc cây vừa nhú lên hai mầm non. Cụ nằm dưới gốc cây bạch đàn ấy.

8h ngày 23 tháng 12 năm 2001, chiếc xe Toyota 12 chỗ ngồi xuất phát từ Hà Nội đi Thái Nguyên. Đoàn đi bốc mộ gồm đông đảo con cháu cụ Lương Ngọc Quyến cùng nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và đại tá Hàn Thuỵ Vụ, Phó chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người). Trước khi đi, thực hiện đúng lời dặn của Bích Hằng, gia đình đã thắp hương trên bàn thờ gia tiên, trình bày toàn bộ sự việc, xin phép lên đón cụ Lương Ngọc Quyến về. Hành trình đi khá thuận lợi. Thông tin kiểm chứng đầu tiên là cây cầu Rùng Rình, vốn trước đó là một cây cầu tre, khi đi qua thì cầu rung rinh, nay mặc dầu đã được bê tông hoá kiên cố song dân địa phương vẫn gọi bằng tên cũ: cầu Rùng Rình. Vị trí hài cốt cụ Lương Ngọc Quyến cũng nhanh chóng được xác định, trùng khớp với những thông tin Bích Hằng cho từ Hà Nội: Nương chè, bụi tre, chuồng gia súc (gia chủ mới dỡ bỏ), ao, gốc cây bạch đàn có hai mầm tái sinh. Chủ của nương chè này là ông Bân, năm nay chừng 50 tuổi, quê gốc Thái Bình, lên đây khai hoang từ cuối những năm 1970. Trước đó hai ngày, ông Quân đã lên đây, trình bày nguyện vọng với UBND xã Vô Tranh và gia đình ông Ban, xin được giúp đỡ. Vì hài cốt của cụ Quyến nằm trên nương chè của ông Bân nên việc khai quật sẽ ảnh hưởng ít nhiều. Ông Bân bảo: “Việc gia đình tìm mộ là việc nghĩa nên cứ thoả mải tiến hành”. Tuy nhiên, buổi sáng hôm đoàn lên khai quật, trong khi bà vợ săng sái đi đun nước, thành kính giúp đoàn lập bàn thờ thắp hương vì tin tưởng vào chuyện tâm linh, vào khả năng tìm mộ đặc biệt của nhà ngoại cảm thì ông chồng cứ chắp tay sau hông đứng nhìn, cười khành khạch, cho đấy là chuyện hoang đường, mê tín dị đoan.

Trước khi khai quật, Bích Hằng thắp hương tại mộ, mời cụ Quyến lên trò chuyện. Điều bất ngờ đầu tiên là vong của cụ bà Nguyễn Thị Hồng Đính cùng các con: Nguyên, Vinh cũng lên theo. Cuộc trò chuyện kéo dài gần hai tiếng đồng hồ trong sụt sùi nước mắt và tiếng cười (đã được gia đình ghi âm và đại tá Hàn Thuỵ Vũ quay phim đầy đủ, nay chất lượng băng còn khá tốt – PV) với rất nhiều thông tin mà gia đình ông Quân, ông Cơ xác nhận sau này là chính xác đến… 100%. Điều ngạc nhiên là có nhiều chuyện rất bí mật, riêng tư, chỉ rất ít người trong gia đình biết mà Bích Hằng cứ nói… vanh vách, khiến cả nhà… choáng. Ví như vừa thấy Bích Hằng reo: “Cụ bà cũng về đấy” đã thấy cụ trách (qua nhà ngoại cảm): “Sáng nay chúng may thắp hương sao không hoá vàng?”. Mọi người hướng sang cô Dung, vợ chú Thắng (em trai ông Quân). Cô Dung bảo: “Trước khi đi, em đã dặn anh Thắng hoá rồi cơ mà?!”. Nói xong, cô rút máy điện thoại di động, điện về nhà. Chú Thắng giật mình bảo: “Chết thật! Sáng anh vội đi dạy học nên quên chưa hoá”. Một lát, cụ bà lại bảo: “Hôm qua, ở quê vui lắm. Xã được tuyên dương anh hùng. Bao nhiêu anh em họ hàng nhà mình đều được nêu danh”. Cả nhà ngớ người, nhớ ra hôm qua (ngày 22 tháng 12 năm 2001), xã Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình – quê của cụ bà Nguyễn Thị Hồng Đính, vừa tổ chức lễ đón nhận danh hiệu anh hùng thời kỳ chống Pháp. Trong danh sách các anh hùng liệt sĩ có công với nước, có rất nhiều người thân của bà: ông nội là Nguyễn Mậu Kiến (1819 – 1879), thủ lĩnh văn thân chống Pháp ở Thái Bình. Cha là chí sĩ Cần Vương và Duy Tân Nguyễn Hữu Cương (1855 – 1912), cùng đông đảo anh em, cháu, chắt của bà từng được ghi danh trong sách sử của tỉnh.

“Thằng Long đâu rồi, bốc mấy nắm đất trên mộ ông cho bố mày khỏi đau bụng”. Nghe cụ bà gọi, cả nhà lại giật mình. Long là con chú Thắng, mới học lớp một. Thắng bị bệnh thận phải mổ. Vết mổ gần chục năm rồi vẫn cứ rỉ nước vàng, người đau yếu rất khó chịu. Cháu Long vâng lời, làm đúng lời cụ dặn. Chừng một tuần sau, vết thương lành, đến tận những ngày này (tháng 10 năm 2006) vẫn chưa thấy hiện tượng gì, trong khi trước đó, Thắng chạy khắp các bệnh viện, gõ cửa nhiều giáo sư, bác sĩ, thầy lang mà không khỏi.

Bích Hằng reo: “Ông Nguyên cũng lên đây này”. Ông Nguyên là con cả của cụ Lương Ngọc Quyến. Ông Nguyên bảo: “Thằng Chính mua cho tao cái vé máy bay để tao vào Sài Gòn chơi”. Chính nghe vậy, bưng mặt khóc tu tu. Chính là con ông Vinh, cháu gọi ông Nguyên là bác ruột, hiện lập nghiệp trong Sài Gòn. Khi còn sống, ông Nguyên luôn muốn vào Sài Gòn chơi với họ hàng, bạn bè, con cháu. Nhưng vì ông to béo, lại già yếu, nhiều bệnh tật, chuyện sinh hoạt cá nhân còn không tự làm được thì đi làm sao? Có lần, ông bí mật mua vé máy bay định trốn vào Sài Gòn chơi, may con cháu phát hiện ra kịp thời ngăn cản. Anh Chính bảo: “Chuyện này chỉ những người thân trong gia đình tôi biết và đã xảy ra từ 20 năm trước, cô Hằng không thể biết được”. Anh Chính hỏi Bích Hằng: “Cô thấy ông Nguyên hình dáng thế nào?”. Bích Hằng cười, bảo: “Ông lão to lớn, râu dài bạc phơ, mắt lúc nào cũng cười”. Anh Chính xác nhận, rất đúng với vóc dáng và tính cách của ông Nguyên.

Cuộc gặp gỡ, trò chuyện kéo dài đến 12 giờ trưa. Cụ Lương Ngọc Quyến vội giục: “Các cháu mau căng bạt che nắng để chuẩn bị đào. Xương cốt ông còn rất ít. May ra có thể thấy cái cùm sắt vì khi giam ông, giặc Pháp đã cùm ông rất chặt, xiên cả dây thép qua chân nên không tháo ra được. Khi chôn, ông nằm nghiêng, chân co, lưng quay về chân đồi. Rễ cây bạch đàn ăn vào chân ông khiến ông rất đau. Chính ông làm cho nó chết. Lát nữa, có nhiều nghĩa quân khởi nghĩa năm xưa đến đây để tiễn đưa ông. Các cháu nhớ nấu cho ông nồi cháo to để ông chiêu đãi quân sĩ”.

Việc đầu tiên là phải bứng gốc cây bạch đàn có đường kính hơn 30cm lên. Khi gạt hết phần đất mượn do trong quá trình làm nương, chủ nhà đã san lấp bớt cho đỡ dốc, đến phần đất cũ độ 20cm, Bích Hằng gạt mọi người ra, bảo: “Sắp đến hài cốt của cụ rồi. Cháu phải trực tiếp xuống vì mọi người không biết đâu mà xác định. Cụ bảo: đầu cụ là chỗ chú Tiến đứng (Tiến là anh ruột ông Quân). Chân cụ là nơi chú Chính đứng”. Cả nhà lại một lần nữa bị bất ngờ vì trước đó, không ai nói tên Tiến và Chính cho Bích Hằng biết. Tiếp xúc với Hằng, từ trước đến nay chỉ có 3 người: ông Quân, ông Cơ và cô Phấn (em gái ông Cơ).

Sau khi gạt thêm một vài lớp đất mỏng, Bích Hằng reo khẽ: “Cốt cụ đây rồi”. Trăm con mắt đều nhìn xuống hố, thấy rõ hình hài một bộ xương người trong tư thế nằm nghiêng, chân co lại. Xương ống đùi, cẳng chân với các đầu xương phình to hằn rõ trên nền đất. Phần ngực có rất nhiều bột trăng trắng, trong khi xung quanh là đất đen pha đá dăm. Bích Hằng dặn: “Cốt cụ vì chôn quá lâu, lại chẳng có hòm ván gì cả nên tan ra hết. Cụ dặn các chú nhớ bốc những đất lẫn cốt đem về để táng”.

Trong khi ông Quân, ông Cơ đang cặm cụi nhặt từng mẩu xương cùng đất vụn cho vào bọc vải đỏ thì trong sân, ông chủ nhà  mắt tái xanh, hốt hoảng chạy vào nhà thắp hương lạy như tế sao. Thấy lạ, chị Phấn mới kéo bà vợ ra hỏi nhỏ. Chị vợ cười, bảo: “Nhà em từ xưa đến nay không bao giờ tin vào chuyện vong hồn, thần thánh. Ngày hôm kia, khi bác Quân lên đây, có một đàn chim về rất đông, hót ríu ran trên bụi tre. Đêm qua, đột nhiên nhà em nằm mơ, thấy ở chỗ gốc cây bạch đàn có một vật đen tròn. Nhà em bèn vác cuốc ra cuốc hối hả chỗ ấy, rồi nghe thấy tiếng người bảo: ngày mai, con cháu tôi sẽ lên đón tôi về. Choàng tỉnh giấc, nhà em liền kể ngay với em song lại bảo: Chắc là tại ngày tôi nghĩ nhiều nên đêm mới mơ như vậy. Định bụng, cứ để mọi người xem thế nào. Nay, thấy mọi việc diễn ra đúng như trong mơ nên ông ấy mới sợ, vội vã thắp hương để tạ lỗi với cụ. Chứ từ ngày lấy nhà em, có bao giờ thấy ông ấy cúng vái bao giờ đâu”.

Sau khi công việc đã hoàn tất, nhìn sang quả đồi bên cạnh, cách chỗ vừa khai quật vài thửa ruộng, ông Quân thấy một tốp thợ đang đục đẽo gỗ để dựng nhà. Hỏi vợ anh Bân, được biết, thôn Thống Nhất đang dựng lại ngôi chùa trên nền cũ. Ông Quân cầm thẻ hương sang thì nhận ra, đó chính là ngôi chùa ông đã từng lên thắp hương, bát hương ngày ấy được đặt tạm lên cây ngái giữa bạt ngàn nương sắn. Ông chợt giật mình, nhớ lại cách đây 8 năm, Bích Hằng đã cho thông tin mộ cụ được đặt gần một ngôi chùa và băn khoăn không hiểu vì sao, trước khi mất, cha ông cũng dặn chắc như đinh đóng cột như thế?

Chi tiết cái cùm ở chân cụ Quyến, Bích Hằng nói “có thể còn” nhưng lúc đào lên không thấy. Tuy nhiên, tại khu vực phía chân cụ, mọi người thấy một vết đất vàng vàng như rỉ sắt. Có thể, trải qua hơn 80 năm mưa nắng, chiếc cùm sắt đã rỉ tiêu hết cả rồi?

Chiều ngày 23 tháng 12 năm 2001, tức mồng 9 tháng 11 năm Tân Tỵ, tại xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, lễ truy điệu và an táng nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến đã được Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc và nhân dân xã cùng các thế hệ con cháu nội ngoại của ông long trọng tiến hành. Trên bia mộ ông, trân trọng đề dòng chữ: “Cụ ông Lương Ngọc Quyến (1885 – 1917), lãnh tụ khởi nghĩa Thái Nguyên”. Bên cạnh là bia mộ của bà Nguyễn Thị Hồng Đính. Phía trên, giữa hai bia là phù điêu tạo hình lá quân kỳ nền đỏ năm sao trắng của Việt Nam quang phục quân.

Như vậy, trải qua 84 năm đằng đẵng, cả hai thế hệ con, cháu cất công tìm kiếm, di hài của người anh hùng Lương Ngọc Quyến đã được an nghỉ tại quê nhà. Người hạnh phúc nhất có lẽ là ông Lương Quân. Bởi việc tìm được phần mộ ông nội Lương Ngọc Quyến vừa là việc hiếu đễ với tổ tiên, vừa trút được nỗi canh cánh nặng trĩu trong lòng người cha thân yêu suốt một đời đau đáu. Duy có một điều làm ông còn day dứt, khiến niềm vui kia của ông chưa trọn vẹn. Đó là phần mộ của người anh hùng Đội Cấn, vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm xưa, người bạn chiến đấu của cụ Lương Ngọc Quyến vẫn còn vùi lấp đâu đó trên những đồi núi điệp trùng Thái Nguyên. Hôm lên Vô Tranh đưa hài cốt cụ Quyến về quê nhà, qua Bích Hằng, được biết cụ Đội Cấn có đến chia vui và tiễn biệt người bạn. Lúc đó, cụ Đội Cấn có nhắn qua Bích Hằng vị trí nơi chôn cất. Sau này, khi đài báo đưa tin đã tìm được mộ cụ Lương Ngọc Quyến, có một vị cao niên nhận là cháu cụ Đội Cấn, tìm về Nhị Khê thắp hương. Song rất tiếc, gia đình ông Lương Quân không được gặp và vị khách ấy cũng không để lại địa chỉ. Nay, qua Thế giới mới, anh em ông Lương Quân xin nhắn nhủ: nếu con cháu cụ Đội Cấn đọc được những thông tin này và muốn tìm hài cốt cụ, xin vui lòng liên lạc với ông theo địa chỉ: Lương Quân, số 9 Núi Trúc, quận Ba Đình, Hà Nội. Điện thoại: 04.8464679.

* Trong bài viết này, chúng tôi có sử dụng một số tư liệu trong cuốn “Lương Văn Can và phong trào Duy Tân – Đông Du”  của nhà nghiên cứu Lý Tùng Hiếu.

Kỳ 9: Tìm mộ vị lãnh tụ nông dân Hoàng Công Chất

và sự chắp nối kỳ diệu gia phả dòng họ Hoàng Văn

Trong suốt hành trình 15 năm phát tâm nguyện đi tìm những ngôi mộ bị thất lạc giúp đời, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, bằng khả năng đặc biệt, đã tìm được khoảng 7.000 hài cốt, trong đó phần lớn là hài cốt liệt sĩ. Đó thực sự là một kỳ tích,  đem lại niềm hạnh phúc nghẹn ngào cho hàng vạn người sau nhiều năm đỏ mắt mỏi mòn ngóng trông. Với chị, mỗi chuyến đi là một kỷ niệm. Mỗi cuộc tìm kiếm hài cốt là cả ngàn những tình tiết ly kỳ, xúc động, huyền bí không thể nào quên. Nhưng, hành trình đi tìm mộ người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất đợt đầu năm 2005 có lẽ ám ảnh chị nhiều nhất. Đó không chỉ là sự ám ảnh bởi sự linh ứng đến kỳ lạ giữa cõi vô hình và hữu hình, giữa cõi âm và dương mà đó còn là sự chắp nối kỳ diệu của rất nhiều chi tộc dòng họ Hoàng sau hơn hai trăm năm dâu bể.

Từ lời sấm truyền trong dòng họ

Một buổi chiều đầu tháng giêng năm 2005, có hai người khách lạ tìm đến nhà Phan Thị Bích Hằng. Người đàn ông mặc bộ Veston chừng 45 tuổi, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Người phụ nữ đi cùng trạc 40, mặt trái xoan, dáng người thanh mảnh, quyền quý. Người đàn ông tự giới thiệu, anh là Hoàng Văn Khánh, chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng giám đốc công ty Placo và em gái Hoàng Thị Sáu, quê Hải Phòng. Sau một chút bối rối, anh trình bày những uẩn khúc, trăn trở bao năm đè nén trong lòng khiến tâm bất an. Anh kể: Từ hồi còn nhỏ, anh đã từng nghe cha chú, trong nhịp dịp chén thù chén tạc, rung đùi vuốt râu tự hào về dòng dõi, tổ tiên. Nghe đâu, cụ tổ anh là thủ lĩnh nghĩa quân chống lại triều đình Lê – Trịnh. Năm 1770, linh cảm về một ngày đen tối đang đến gần, cụ cho người đưa 3 cháu nội về tổng Cổ Trà Nghi Dương (nay là thôn Ngọc Tỉnh, xã Tân Trào, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng) những mong bảo tồn nòi dống. Có một câu sấm truyền từ đời nọ đến đời kia trong dòng họ Hoàng: “Bao giờ phát phú phát vương. Tầm lại cố hương. Bái tạ tiên đường. Nơi đó có chữ Hoàng gia đại tộc”. Sau này, trước lúc lâm chung, cha anh, rồi người chú ruột, cứ níu chặt tay anh mà dặn dò: “Con gắng tìm cội nguồn tiên tổ”. Lời trăn trối ấy cứ ám ảnh anh Khánh. Có uẩn khúc gì trong lời nói, tự sâu thẳm ánh mắt của cha?

Khi trở thành một doanh nhân thành đạt ở Hải Phòng, ngẫm về lời sấm truyền tụng bao đời: “Bao giờ phát phú phát vương”, nhớ đến ánh mắt như van vỉ của cha trước lúc đi xa, anh Khánh quyết chí đi tìm tổ tiên dòng họ. Anh đi khắp nơi, ở đâu có đền thờ họ Hoàng là tìm đến nhưng mãi vẫn không thấy chữ “Hoàng gia đại tộc”, thấy cội nguồn tổ tiên. Một lần về Nam Định công tác, gặp một nhà nghiên cứu văn hóa lão thành, anh trải nỗi lòng mình. Nghe xong, nhà nghiên cứu cười khà: “Có lẽ, cụ tổ họ Hoàng đã run rủi ta làm sứ giả cho anh đây. Anh hãy về thôn Hoàng Xá, xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xem. ở đó, có nhà thờ dòng họ Hoàng Văn to lắm”. Vâng lời, anh Khánh tìm đường về Nguyên Xá, xin được vào thắp hương nhà thờ họ Hoàng. Anh chợt run bắn người khi nhìn thấy bức hoành phi treo chính giữa ban thờ với bốn chữ đại tự viết bằng chữ thảo: “Hoàng gia đại tộc”. Và oà khóc nức nở khi lật giở cuốn gia phả đã ố màu thời gian, thấy ghi chi tộc họ Hoàng Văn ở Hải Phòng. Té ra, cụ tổ của anh chính là người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất. Cụ sinh ra tại Thủ Trì, Sơn Nam, nay là Hoàng Xá, Nguyên Xá, Vũ Thư, Thái Bình. Cụ là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra năm 1739 cùng hai cuộc khởi nghĩa lớn khác của cụ Nguyễn Hữu Cầu (tức Quận He) và cụ Lê Duy Mật.

Nhưng mộ phần cụ Hoàng Công Chất ở đâu? Các con cháu cụ lưu lạc nơi nào? Đã rất nhiều năm anh Khánh cất công đi tìm kiếm di hài của cụ Hoàng Công Chất và mong muốn dựng lại hoàn chỉnh sơ đồ phả tộc mà không thành. Tình cờ, một lần, anh được đọc một tập tài liệu viết về hành trình đi tìm người em gái, vốn là một nữ du kích gan dạ của đội Hoàng Ngân năm xưa, của nguyên Phó thủ tướng chính phủ Trần Phương, dưới sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, đặc biệt là khả năng gọi hồn của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng (Chuyện sẽ kể chi tiết ở phần sau – PV) với rất nhiều tình tiết ly kỳ, huyền bí. Điều đó, thôi thúc anh tìm gặp Bích Hằng, nhờ chị tìm hộ di hài tiên tổ và các chi tộc bị thất lạc.

Ba ngày sau. Vào một đêm mưa dầm sùi sụt, rét cắt da cắt thịt, vừa chợp mắt được một lát, Bích Hằng chợt nghe thấy tiếng vó ngựa, tiếng gươm khua. Chaỵ ra sân mở. Chị giật mình khi thấy trước mặt là một người đàn ông quắc thước, da nâu, trống gươm đứng nhìn chị. Quan sát kỹ, thấy trang phục, tướng mạo đúng là một võ tướng. Xung quanh, có rất nhiều binh lính. Võ tướng cười, bảo: “Cháu đừng sợ. Ta là võ tướng họ Hoàng. Còn đây là quan quân của ta. Cháu đi về với ta đi. Con cháu ta đang mong đợi cháu từng ngày”. Nói đoạn, ông lên ngựa đi. Hình bóng khuất xa rồi mà tiếng cười hiền hậu còn vang mãi.

Bích Hằng choàng tỉnh. Chị sực nhớ đến chiếc các-vi-dít mà hai người khách họ Hoàng ở Hải Phòng để lại chiều hôm nọ. Đọc kỹ, thấy ghi: Hoàng Văn Khánh. Tổng giám đốc Công ty Placo. Trụ sở: Km5, đường Phạm Văn Đồng, Anh Dũng, Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Điện thoại: 0913.24004. Bên tai chị lại văng vẳng lời nhờ cậy thiết tha của vị võ tướng họ Hoàng. Sáng sớm hôm sau, chị chủ động điện thoại cho anh Khánh, hẹn ngày 16 tháng giêng (âm lịch), chị sẽ xuống Hải Phòng tìm giúp.

Đến những tín hiệu cho trước

Đúng hẹn, sáng ngày 16 tháng giêng, Bích Hằng có mặt tại nhà thờ họ Hoàng ở xã Tân Thành, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Đi cùng chị hôm đó, còn có nhà nghiên cứu Quan Lệ Lan, thư ký của Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người). Trước sự chứng kiến, thành tâm của đông đảo con cháu họ Hoàng, Bích Hằng đã vời vong linh của cụ Hoàng Công Chất về trò chuyện. Qua Bích Hằng, cụ bảo: “Những người đi theo triều đình thì coi ta là giặc cỏ. Nhưng nhân dân lại coi ta là anh hùng. Ta vẫn thích sống trong lòng dân hơn. Còn với các con các cháu, ta là giặc cỏ hay anh hùng, điều đó ta không cần quan tâm nữa. Chỉ biết rằng ta là cụ tổ của các con. Trước kia, ta đã cùng các tù trưởng Lò Ngải, Lò Khanh, Lò Thang đánh giặc giữ biên thuỳ. Nay ta đang ở đất châu Điện Biên. Đáng khen các con đã làm được những việc khiến ta thấy được an ủi nơi chín suối, mát mặt với tướng sĩ ba quân”. Anh Khánh chắp tay thành kính, giọng run run: “Thưa tổ! Xin tổ cho chúng con biết, hiện giờ mộ tổ ở đâu”. Cụ Hoàng Công Chất nói (qua Bích Hằng): “Các con cứ lên Thành Bản Phủ. Cứ nơi nào trồng cây đa là có nghĩa quân của ta. Trước kia, nhà Lê Trịnh đã cho quân khai quật mộ ta rồi chặt làm 3 khúc. (Chuyện này, chính sử cũng có nhắc đến). Chân ta, chúng ném xuống sông Nậm Rốn. Đầu, thân thì vứt lăn lóc. Đêm, nghĩa quân của ta lén đi lấy. Thân thì chôn ở gần sông Nậm Rốn nhưng cách đây ít năm, người ta đã ủi đi rồi. Đầu thì vác về gần Thành Bản Phủ, chôn dưới một gốc cây đa. ở đó có một cây thuốc. Khi các con đi tìm ta, sẽ có một người răng vổ gốc Thái Bình ra dẫn đường”.

Đang “thông dịch” cho mọi người nghe, bất chợt, Bích Hằng nhìn thấy một thiếu phụ trẻ người Thái, đứng cạnh cụ Hoàng Công Chất bưng mặt khóc. Lấy làm lạ, Bích Hằng hỏi, cụ Chất bảo: “Đây là liệt nữ Lò Thị Nương, con một vị tù trưởng ở Điện Biên”. Xưa, nàng đi theo cha đánh giặc, cảm phục tài đức của tướng Hoàng Công Chất, nàng tình nguyện làm vợ thứ 4. Sở dĩ cụ Chất gọi bà là liệt nữ vì bà đã hy sinh cho nghĩa quân. Chuyện rằng: trong một lần bị giặc Phẻ truy kích, bà cùng con trai là Hoàng Công Trực đã đánh lạc hướng cho nghĩa quân rút lui. Bắt được hai mẹ con, giặc đã đem bà ra làm mồi nhử. Chúng trói hai người vào chiệc cột gỗ chôn giữa đồng Tông Khao, xung quanh chất củi cao ngập đầu. Nếu tướng Hoàng Công Chất muốn chuộc vợ, con thì phải mở cổng thành. Bằng không, chúng sẽ thiêu cháy. Từ dưới đồng, bà Lò Thị Nương thét to: “Không được mở cổng thành”. Lửa cháy ngùn ngụt. Hai mẹ con bà bị thiêu chết. Xót thương người vợ hiền, cụ Chất cho trồng một cây đa trên mộ nàng. Nơi đây bốn mùa hoa nở. Hoa vàng và hoa đỏ. Cụ bảo: “Đó là những tín hiệu ta cho để các con đi tìm mộ. Khi đi, sẽ có một phụ nữ dân tộc Thái dẫn đường”.

Đi tìm di hài tổ tiên: sự linh ứng đến kỳ lạ

Một tháng sau ngày chiêu hồn cụ Hoàng Công Chất tại nhà thờ họ Hoàng ở Hải Phòng, sáng ngày 29 tháng 3 năm 2005, khoảng 50 người, già trẻ, gái trai đủ các chi ngành cùng nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng lên Điện Biên tìm mộ. Thành Bản Phủ là nơi đoàn đặt chân đầu tiên. Những nghi lễ trang trọng nhất đã được cử hành tại đây. Ông trưởng chi Hoàng Văn Nhương thành kính dâng sớ, cầu xin tổ tiên linh hiển, báo cho con cháu biết nơi tổ yên nghỉ để con cháu được tu sửa, thờ vọng. Lời khấn vừa dứt, sớ chưa kịp hoá bỗng một cơn gió lớn từ đâu ào đến. Và những thanh âm nghe “lách cách, lách cách” như hàng ngàn tiếng gươm khua khiến cả đoàn, đang thành kính chắp tay làm lễ đồng loạt quay lưng lại phía sau. Lại một cơn cuồng phong cuốn bụi mịt mù. Mọi người hốt hoảng chạy ra sân. Một cảnh tượng lạ lùng đập vào mắt khiến khiến tất cả đứng chết lặng: nền sân gạch đỏ giờ ngập tràn lá xanh. Có những chiếc lá còn non tơ. Tịnh không có một chiếc lá vàng nào. (Giữa xuân, kiếm đâu ra lá vàng?!). Đó là lá của ba cây đa, si, xanh quấn quýt trước đền trút xuống, tương truyền, do chính tay cụ Hoàng Công Chất trồng, như một lời nguyền với non sông giữ tình đoàn kết giữa miền xuôi và miền ngược, thề đòi lại và giữ yên biên cương đất nước. Cây đa là cụ. Cây đề là trời đất. Còn cây si loà xoà gốc rễ là dân tộc Thái. Qua Bích Hằng, cụ bảo, đấy là cụ khóc mừng khi thầy tề tựu đầy đủ con cháu trai gái, dâu rể… lên với tổ. Cụ bảo: Cụ có 4 anh em là Hoàng Văn Phiệt, Hoàng Văn Phí, Hoàng Công Chất và Hoàng Công Tại. Cụ có 3 vợ và có nhiều con. Hoàng Công Toản là con cả. Kế tiếp là Chính, Châu, Thao, Tần, Toản, Túc, Lựu  (Trùng khớp với gia phả – PV). Năm 1768, nghĩa quân của cụ bị quân của triều đình nhà Lê – Trịnh đánh tan tác. Con cháu cụ phải chạy ra bản Loong Luống. Hiện vẫn còn ở đấy. Tiên lượng về một ngày đen tối sẽ đến, để bảo tồn nòi giống, cụ cho người em gái là Hoàng Thị Chiên dẫn 3 đứa cháu nội là Cao, Tháo, Thọ về quê, cầu cứu nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu (tức Quận He). Trong 3 đứa cháu, Tháo là người có chí nhất. Tháo lúc ấy còn bé lắm. Cụ trao cho Tháo một áo bào tía, một thanh gươm rồi bảo: “Con hãy giữ làm vật tin để dâng lên tướng Nguyễn Hữu Cầu”. Tháo cầm lấy thanh gươm từ tay ông nội. Thanh gươm cao hơn đầu, ôm lấy túi áo bào, vừa khóc vừa nói: “Ông ơi! Cháu sẽ khôi phục lại sự nghiệp của ông”. Nói đến đây, cả nhà anh Khánh khóc ầm lên. Cháu Tháo bé bỏng mà đầy chí khí ngày ấy chính là hậu tổ của anh Khánh. Trong gia phả ghi rõ: Cụ hậu tổ là Hoàng Quí Công, tự Công Tháo”. Anh Khánh vừa khóc vừa kể: Lúc còn sống, cha anh lúc nào cũng giữ khư khư một cái bọc, trong có chiếc áo bào tía và một thanh gươm. Một lần hoả hoạn, chiếc áo bào cháy mất. Cha anh khóc ròng mấy tháng trời vì tiếc. Đó là đồ gia bảo. Cha còn quý hơn cả tính mạng mình.

Sau một hồi làm con cháu trấn tĩnh, cụ Chất bảo: “Thôi! Giờ để ta hướng dẫn các con đến những nơi tổ yên nghỉ”. Cả đoàn bước ra khỏi đền. Từ trên cao phóng tầm mắt ra bốn hướng, anh Khánh reo to: “Cây đa cổ thụ kia rồi”. Nhìn theo phía tay anh chỉ, cách chỗ đứng chừng 500m, thấy một cây đa cổ thụ xoè bóng mát giữa trưa nắng vàng.

Khánh phăm phăm dẫn đường. Bích Hằng vô cùng ngạc nhiên. Thấy vậy, mọi người mới kể: Cách đây chừng 10 năm, anh Khánh nằm mơ thấy tổ về chỉ đường cho tìm mộ. Tỉnh dậy, anh có kể lại cho gia đình và vẽ lại sơ đồ. Không ngờ, hôm nay, thấy thực địa diễn ra đúng như trong giấc mơ ấy nên anh mới thông thạo đến vậy. Lúc ấy, Bích Hằng mới ngả ngửa người. Chưa hết ngạc nhiên. Khi cả đoàn đứng trước đống mối lớn, dưới gốc đa cổ thụ chừng 200 năm tuổi, Bích Hằng vừa xác định: “đúng mộ cụ đây rồi” thì bất ngờ, từ đâu xuất hiện một người đàn ông răng vổ, bảo: “Đi tìm mộ cụ Hoàng Công Chất phải không? Tôi là Nguyễn Văn Nhân, quê Thái Bình lên đây lập nghiệp lâu rồi. Trước đây, tôi nghe các cụ già ở đây bảo: đây là nơi quân sĩ chôn một phần thi hài của cụ Chất đấy”.

Như vậy, tín hiệu mà Bích Hằng cho từ Hải Phòng cách đây chừng một tháng: gốc đa cổ thụ, người đàn ông răng vổ quê Thái Bình, đã có kiểm chứng. Nhưng còn tín hiệu thứ 3: cây thuốc? Nhìn khắp lượt, chỉ thấy một cây hoa trắng, gốc cây bị vạc hết vỏ. Hỏi ông Nhân, ông cười bảo: “Cây này chữa sâu răng tốt lắm. Tước một ít vỏ, nhét vào chỗ sâu răng. Ngậm chừng 2-3 lần là khỏi”. Mọi người thở phào.

Cả đoàn lên bản Tông Khao tìm mộ cụ Lò Thị Nương. Hoa tiêu là một chị người Thái ở Chi hội phụ nữ Điện Biên. Xe ô tô chạy rì rì trên con đường đất đỏ, hai bên là ruộng lúa xanh rờn. Đến gần một cái ao, bỗng anh Khánh hô: “Dừng xe lại! Cụ kia rồi”. Vừa xuống xe, anh Khánh lao thẳng vào con đường bé xíu, ngoằn nghèo chuột chạy. Chạy đến lúc bở hơi tai thì dừng lại dưới một gốc đa cổ thụ. Chưa kịp định thần thì cả đoàn chết lặng: Trên thảm cỏ xanh rì, cả một bụi hoa loa kèn đỏ rực còn long lanh hạt sương sớm. Bên cạnh có một cây si, quả to như ngón chân cái, vàng rượi từ gốc đến ngọn.

Cả nhà đang thắp hương xì xụp khấn vái thì có một người phụ nữ Thái đi làm đồng, bước lại hỏi: “Chúng mày vào đây để làm gì? ở nơi này, ngày xưa có một cái miếu thờ, có 3 bát hương. Song chỉ có họ Lò mới được vào đây cúng. Còn các họ khác chỉ đứng ngoài xem thôi. Sau này giặc phá hết. Miếu này thiêng lắm đấy”. Nghe vậy, anh Khánh lại khóc oà.

Cuộc hội ngộ của các chi tộc họ Hoàng

Tìm được mộ tiên tổ, ước nguyện của anh Khánh đã hoàn thành được một nửa. Nhưng còn các chi tộc họ Hoàng khác? Nhớ đến lời kể của cụ Chất về cuộc chạy loạn của dòng họ Hoàng lên bản Loong Luống năm 1768, anh Khánh quyết định sáng hôm sau đi tìm. Hỏi thăm dân bản, họ bảo: Có bản Loong Luống. Nhưng trước bị lũ lụt nên dân đi hết rồi. Cứ tìm nhà nào họ Hoàng thì vào. Một gợi ý hay nhưng khác nào mò kim đáy bể. Đành nhờ cậu bí thư đoàn xã dẫn đường. Vào nhà họ Hoàng thứ nhất. Cả đoàn không có cảm giác gì. Hỏi quê, đúng Thái Bình. Hỏi ông nội là ai? Không biết. Hỏi bố đẻ là ai? Cũng không biết nốt. Đến nhà họ Hoàng thứ hai, ông Quàng Lả. Vừa thấy anh Khánh bước vào, hai vợ chồng đon đả chạy ra, tay bắt mặt mừng như người thân lâu ngày gặp lại. Linh cảm gì chăng? Ông Quàng Lả tự hào kể: “Các cụ ngày xưa khai thiên lập ấp ở dưới Loong Luống kia kìa. Ông cha ở đấy lâu lắm rồi. Lũ lụt mới chuyển lên đây”. Anh Khánh hỏi: “Sao ông lại là họ Quàng?”. Ông Lả lại cười: “Tao họ Hoàng đấy. Nhưng tiếng Thái, lúc Quàng, lúc Hoàng. Mà này, tao có một thằng cháu họ Hoàng, làm cán bộ tỉnh to lắm. Là cháu nhưng nó hơn tuổi tao nhiều. Nó tên là Xuyên. Nó có cả gia phả đấy”.

Thì ra là ông Hoàng Xuyên, nguyên Phó bí thư tỉnh uỷ Điện Biên. Tìm đến nhà ông Xuyên, anh Khánh xúc động quá. Vốn hàng ngày là người hoạt ngôn mà nay, ngồi trước ông Xuyên cứ lúng búng như gà mắc tóc. Bích Hằng phải trình bày dùm hoàn cảnh, mục đích cuộc gặp gỡ. Hỏi về cuốn gia phả họ Hoàng, lúc đầu ông Xuyên lắc đầu nguây nguẩy: “Tôi đâu có. Đâu biết”. Trong khi bà vợ ngồi cạnh lại cứ tủm tỉm cười, huých nhẹ khuỷu tay vào chồng: “Kìa anh! Đưa cho các cô chú xem đi. Cuốn gia phả dưới hầm ấy”. Đến nước này thì không thể chối được nữa. Ông Xuyên thú nhận: Đúng là trước kia, nhà ông có một cuốn gia phả viết bằng chữ Hán. Tổ tiên ông chính là tướng quân Hoàng Công Chất. Đợt cải cách ruộng đất, sợ bị kết tội là con cháu Then, Phìa thì bị giết cả nhà nên ông nội phải cất dấu dưới hầm. Hồi đi học Trung Quốc về, ông đã đem đốt đi. Ông kể, ngày trước, ở Đền Bản Phủ, mỗi khi đến ngày giỗ cụ Hoàng Công Chất, chỉ mình ông nội được ra lễ. Ông mặc áo vàng, cưỡi ngựa, có lọng che đầu. Hàng chục người hầu đội lễ rất to. Bây giờ Bảo tàng văn hoá còn lưu bức ảnh này. Nói đoạn, ông Xuyên và anh Khánh ôm choàng lấy nhau, khóc nấc lên. Thôi, đúng chúng ta là anh em rồi. Về tuổi tác, ông Xuyên gần gấp đôi tuổi anh Khánh. Nhưng về vai vế dòng họ, cả hai đều là cháu đời thứ 8 của cụ Hoàng Công Chất.

Ngày giỗ của cụ Hoàng Công Chất năm nay, chưa bao giờ con cháu lại tề tựu đông đủ đến thế. Chi tộc họ Hoàng ở Điện Biên về. Chi tộc họ Hoàng ở Hải Phòng xuống. Cùng chi tộc họ Hoàng ở Thái Bình. Tất cả, đều một lòng thành kính hướng về cội nguồn, tiên tổ. Bữa cơm đoàn tụ hôm ấy, đầy ắp tiếng cười và cả những giọt nước mắt hạnh phúc tuôn rơi…

Kỳ 10: Hành trình tìm mộ em gái của Giáo sư Trần Phương

 “Chưa bao giờ tôi tin ở đời lại có linh hồn, thần thánh, ma quỷ. Ngay cả ngày giỗ bố mẹ, tôi cũng chẳng làm cơm cúng hay thắp hương khói gì sất, chỉ sửa một lọ hoa tươi để tưởng nhớ người đã khuất. Bởi tôi vốn dĩ được đào tạo theo tinh thần khoa học thực nghiệm. Cái gì chứng minh được mới tin là có. Cái gì chưa chứng minh được thì dứt khoát không tin. Cho nên, lúc cùng đường, nhờ các nhà ngoại cảm tìm mộ cô em gái vốn là đội trưởng đội du kích Hoàng Ngân, trái tim thì tha thiết tìm thấy em mà lý trí tôi thì cố tỉnh táo để tìm cách “chống trọi” lại khả năng gọi hồn, thấu thị… của họ. Vậy mà cuối cùng, tôi hoàn toàn bị khuất phục trước khả năng đặc biệt của hai nhà ngoại cảm nổi tiếng: Nguyễn Văn Nhã và Phan Thị Bích Hằng, người vẽ mộ, người gọi hồn. 24 ngày mò tìm trong bí ẩn, cuối cùng, tôi đã tìm được hài cốt người em gái sau ngót 50 năm trôi dạt”.

Tìm em theo sơ đồ của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã

Giáo sư Trần Phương, nguyên Phó thủ tướng chính phủ, hiệu trưởng trường Đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội, có một người em gái, sinh năm 1929, tên là Vũ Thị Kính. Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, ngay từ năm 16 tuổi, cô Kính đã đi tham gia kháng chiến, trở thành một nữ giao liên gan dạ với bí danh Trần Thị Khang. Năm 1950, cô trở thành Huyện uỷ viên Đảng bộ Phù Cừ, Bí thư Hội phụ nữ cứu quốc huyện, người tổ chức và chỉ huy đội nữ du kích Hoàng Ngân nổi tiếng. Tháng 6 năm 1950, giặc bắt được cô, đưa về bốt La Tiến, một đồn binh lớn án ngữ phía nam tỉnh Hưng Yên, phía bắc tỉnh Thái Bình và phía tây tỉnh Hải Dương. Tại đây, giặc đã dùng mọi cực hình tra tấn dã man nhất (chuyện sẽ kể ở phần sau – PV) nhưng người nữ du kích kiên trung ấy vẫn không hé nửa lời. Tức giận, giặc đã cắt cổ cô rồi vứt xác xuống sông Luộc. Sau cái chết anh hùng ấy của cô, đội nữ du kích Hoàng Ngân đã phát động “Tuần lễ giết giặc, trả thù cho chị Khang”.

Mặc dầu Huyện uỷ và đội nữ du kích Hoàng Ngân đã đi khắp các bến đục dòng trong những mong tìm xác cô mà không thấy. Thương con, người mẹ già khóc mờ cả mắt. Suốt mấy chục năm ròng, thỉnh thoảng, mẹ lại ngước đôi mắt đục mờ như cùi nhãn khô về phía giáo sư Phương, hỏi bằng cái giọng tủi hờn, xót xa: “Có tìm thấy xác em không hả con?”. “Bao giờ hết chiến tranh, con sẽ đi tìm. Chắc là thấy mẹ ạ!”. Miệng thì trả lời mẹ thế mà họng thì thấy nghẹn đắng. Cả một dòng sông Luộc mang mang, cuồn cuộn sóng trôi ra biển cả, biết tìm em nơi nào?

Mẹ mất. Tin tức về phần mộ em vẫn biền biệt phương trời. Giáo sư Phương lúc nào cũng sống trong cảm giác day dứt, đau xót, không yên. Năm 1989, khi đó, giáo sư Phương đang làm Viện trưởng viện nghiên cứu chiến lược phát triển, có xuống công tác tại Sở kinh tế đối ngoại (cũ) Quảng Ninh. Nghe anh em dưới đó đồn rằng, cách Bãi Cháy, về phía Hà Nội 20 km, có một cô công nhân, trước vốn bị tan nạn lao động, nay có khả năng ngoại cảm đặc biệt: biết quá khứ, dự báo tương lai, phán đúng như thần. Anh em trong cơ quan, ai có việc gì hệ trọng đều đến nhờ cô xem dùm. Họ khuyên giáo sư Phương nên đến đó xem một lần. Bán tín bán nghi, giáo sư Phương tìm đến. Nhà ngoại cảm là một người phụ nữ xanh xao, gầy yếu nằm bệt trên chiếc phản kê gần cửa sổ. Vừa nhìn thấy giáo sư Phương, cô đã nói, giọng yếu ớt: “Ghế có một người anh chết trẻ, chết trong lửa”. Giáo sư Phương giật mình đánh thót. Năm 1951, người anh ruột của ông là Vũ Sơn, trưởng ban tuyên giáo của đại đoàn 320, hy sinh trong trận đánh ở Hà Nam Ninh. Quả bom Na-pan rơi đúng hầm chỉ huy. Anh Sơn cùng một số đồng chí khác bị chết cháy. Chưa kịp trấn tĩnh, giáo sư Phương lại rụng rời khi nghe nhà ngoại cảm phán tiếp: “Ghế còn có một người em gái chết trẻ. Hài cốt vẫn còn nhưng vì ghế không tin nên không đi tìm”. Nhà ngoại cảm còn phán rất nhiều về cuộc đời, sự nghiệp, thân thế của giáo sư Phương khiến ông hoang mang: Có lẽ mình phải đi tìm manh mối thế nào đây? Tại sao có người lại biết nhiều về mình như thế?

Sau đó, về Hà Nội, ông nghe tin nhiều người tìm được mộ người thân bằng gọi hồn, thấu thị, ngoại cảm, với những tình tiết hết sức ly kỳ, huyền bí khiến ông càng hoang mang. Trong ông, chợt loé lên một niềm hy vọng mong manh: Biết đâu đấy. Nếu bằng phương pháp thần bí mà tìm được mộ em gái mình thì có gì phải câu nệ? Song ông lại chột dạ: lấy cái gì để xác nhận đó là hài cốt của em Khang sau 50 năm trôi dạt? Hàm răng trắng, không nhuộm đen ư? Thời đó, thiếu gì con gái không nhuộm răng? Đã có lần, bạn bè mách bảo ông một bộ hài cốt vô thừa nhận có đặc biệt là răng trắng. Lúc đó, ông đã đấu tranh tư tưởng: nhận hay không nhận? Nhận một bộ hài cốt mà trong lòng nghi hoặc mỗi khi tưởng niệm thì phỏng có ý nghĩa gì? Còn khám nghiệm AND ư? Quá xa vời. Song trong tình cảnh chính mình và cả khoa học thực nghiệm bị bất lực thì việc phải nhờ đến tâm linh huyền bí để giải toả nỗi đau tâm thế ám ảnh bao năm là việc nên làm. Nghĩ thế, ông bèn tìm cách tiếp cận các nhà ngoại cảm có tiếng tăm.

Chị Tuyết Nga, bạn ông, người đã nhờ nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên (Tứ Kỳ, Hải Dương) tìm được mộ người mẹ thân yêu bị giặc sát hại từ những năm 1960, khuyên ông nên đến nhờ anh Liên. Nghe lời, chú Quỳnh, em ruột của ông, ăn chực nằm chờ nhà anh Liên hơn một tháng trời, cuối cùng, được anh vẽ cho một tấm sơ đồ phần mộ. Nhưng sơ đồ lại ghi mộ cô Khang nằm ở huyện Khoái Châu (Hưng Yên), cách bến đò La Tiến đến mấy chục cây về phía thựợng lưu. Không thuyết phục. Đành tự an ủi rằng: chú em út chưa đủ thân thiết với cô chị nên thông tin chưa được chính xác. Cuối cùng, đích thân giáo sư Phương tìm đến cạy nhờ anh Liên. Nhưng chờ đến đỏ mắt vẫn không thấy nhà ngoại cảm mách bảo gì. Thương ông, chị Tuyết Nga bảo: “Em có người bạn là anh Nguyễn Văn Nhã, một nhà ngoại cảm nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh. Anh Nhã đã vẽ được hơn 600 ngôi mộ, tỷ lệ trúng đạt trên 60%. Để em điện thoại nhờ anh ấy xem sao”.

Sáng sớm ngày 25 tháng 7 năm 1999, anh Nhã có mặt tại Hà Nội. Trong phòng làm việc của giáo sư Trần Phương, không có hương khói gì, sau khi hỏi vợ chồng giáo sư một số thông tin về cô Khang như tên tuổi, ngày tháng năm sinh, năm mất, bến đò La Tiến thuộc xã nào? Huyện Phù Cừ thuộc tỉnh nào? Bến đò ấy có cây cầu nào không?… (Điều đó chứng tỏ nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã không biết gì về vùng đất này), anh Nhã bèn lấy một tờ giấy trắng khổ lớn và mấy cây bút màu ra vẽ. Anh vẽ một cách thư thả, lưu loát. Dưới ngòi bút của anh, thấy hiện lên con sông uốn lượn, đường to, đường nhỏ giao nhau. Rồi anh ghi chú rõ ràng, rành mạch: Từ bến đò La Tiến đi về hướng Đông Nam thấy một trường học. Đi chừng 1,6 km thì đến một ngã tư. Phía trái ngã tư có cửa hàng tạp hóa cửa màu xanh dương. Rẽ tay phải thấy một cái đình. Đi tiếp 1km hãy rẽ trái vào một con đường nhỏ. Cách đó 45m là phần mộ cô Khang. Ngôi mộ nằm trên đất cô Nhường. Đối diện với mộ là quán ông An. Mộ chôn đầu về hướng tây, cách đó 4m có một gốc cây đổ. Trên mộ có một khúc cây dài 4 tấc, một cục gạch vỡ màu nâu đỏ và 5 cây cỏ dại có hoa màu tím nhạt…

Vẽ chừng 10 phút thì xong. Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã ngẩng mặt lên hỏi giáo sư Phương: “Bao giờ thì bác đi tìm mộ?”. Giáo sư Phương trả lời: “Khoảng 3 ngày nữa”. Anh Nhã bảo: “Tôi sẽ cho anh một tín hiệu để dễ tìm. Hai con bướm nhé?”. Giáo sư Phương: “Hai con bướm sợ khó tìm”. Ngẫm ngợi giây lát, anh Nhã bảo: “Vậy thì một bé gái nhé”. Nói đoạn, anh cắm cúi ghi tiếp vào tấm bản đồ: 13h30’ngày 28 tháng 7, sẽ có một bé gái chừng 11 tuổi, mặc áo hoa xanh đến gần mộ. Rồi anh dặn: “Nếu bác đến sớm thì 5 cây cỏ dại có 10 bông hoa tím. Nếu đến muộn thì chỉ còn 5 bông”. Quá đỗi ngạc nhiên, giáo sư Phương hỏi: “Anh không biết tí gì về vùng đất đó, vậy dựa vào cái gì mà anh vẽ được tấm bản đồ chi tiết này?”. Anh Nhã lắc đầu cười xoà: “Tôi cũng chẳng biết nữa. Cứ thấy trong đầu hiện lên thế nào thì vẽ ra thế ấy”. Giáo sư Phương lại hỏi: “Thế còn những cái tên: đất cô Nhường, quán ông An?”. Anh Nhã: “Tai tôi bỗng nghe thấy những âm thanh ấy. Có thể là Nhương, Nhường, An hay Am gì đấy”. Trao tấm bản đồ cho giáo sư Phương, anh Nhã vội vã ra sân bay, vào thành phố Hồ Chí Minh. Còn giáo sư Phương cứ đứng ngẩn người, chẳng hiểu ra làm sao. Song tin hay không thì vẫn cứ phải làm theo chỉ dẫn của nhà ngoại cảm. Bởi còn cách nào khác nữa đâu.

Kỳ 11: Ngày tìm mộ thứ nhất: Quán bà Nhờ, cô bé mặc áo xanh

Đúng hẹn, ngày 28 tháng 7, cả gia đình giáo sư Trần Phương tìm đường về La Tiến, cách Hà Nội chừng 100km. Đoàn chia làm nhiều ngả, đối chiếu với bản đồ mà tìm. Có một lối hướng thẳng vào giữa làng La Tiến là trùng khớp với bản đồ. Có điều, đường từ bến đó đến nơi ghi là phần mộ lại rất ngắn, chỉ bằng 1/3 cự ly trong bản đồ. Băn khoăn, giáo sư Phương bèn điện thoại hỏi anh Nhã. Từ thành phố Hồ Chí Minh, anh Nhã bảo: “Cự ly do tôi ước lượng nên có thể không chính xác. Miễn là tìm thấy các dấu hiệu đã ghi, nhất là 4 tín hiệu nơi phần mộ”.

Cả nhà hướng mắt ra bốn phía quan sát kỹ lưỡng rồi săm soi đối chiếu với tấm bản đồ. Lần theo chỉ dẫn và các tín hiệu trên đường: trường học, đình làng, quán tạp hoá màu xanh dương, ngã tư, (tất cả đều trùng khớp với những tín hiệu anh Nhã cho trước), đoàn đến đất nhà ông Điển, một nông dân kiêm thợ nề. Hai vợ chồng ông chỉ đoàn ra dải đất phía ngoài đê, cạnh vụng Quạ (một khúc cua của con sông Luộc, nơi các xác chết thường bị cuốn vào, quạ đến ăn nhiều nên dân làng gọi là vụng Quạ), cách nhà ông chừng nửa cây số, nơi đó có 3 ngôi mộ vô thừa nhận. Mọi người sướng rơn nhưng khi đến xem xét kỹ lại không thấy một dấu hiệu nào như anh Nhã cho nên đành quay về nhà ông Điển.

Đứng trước cửa nhà, nhìn về chân đê sông Luộc, chếch về phía tây là ngôi nhà anh An. Nhà xây bằng gạch nhưng để ở chứ không bày biện bán hàng gì. Anh An cho biết: vợ anh có một gian hàng bán lòng lợn ở chợ La Tiến, sáng sớm gánh hàng ra bán song nếu ai cần mua tại nhà anh chị cũng bán. Như vậy cũng có thể tạm coi là quán hàng được.

Còn đất bà Nhường? Hỏi thăm cả làng, chẳng ai có tên như vậy. Chỉ có một bà lão tên Nhương, khoảng 70 tuổi. Bà vốn trước đó cũng là một nữ du kích, hoạt động cách mạng cùng cô Khang. Cách đó mấy năm, bà có nhắn giáo sư Trần Phương về nhận một bộ hài cốt vô thừa nhận. Bộ hài cốt có hàm răng màu trắng, giống hàm răng của cô Khang nên bà cho là hài cốt của người đồng đội mình.

Như vậy, những dấu hiệu dẫn đến ngôi mộ đã tìm thấy nhưng dấu hiệu của chính ngôi mộ thì chưa. Đành chờ đến 13h 30. Giữa trưa hè trời nắng hầm hập như đổ lửa, đoàn vẫn chia làm mấy nhóm đón lõng ở các ngả đường dẫn đến nhà ông Điển. 10 phút. Rồi 15 phút ngột thở trôi qua. Bỗng một tốp học sinh ào ào đạp xe từ cuối làng tới. Nhìn kỹ, thấy toàn con trai. Mấy phút sau, có một tốp con gái đi bộ tới. Mọi người liền giữ các em lại hỏi thăm. Các em chỉ nhà bà Nhương ở gần ngã tư, sau cái đình làng. Ba em săng sái dẫn ông Quỳnh, em ruột giáo sư Phương tới đó, còn một em đứng lại. Giáo sư Phương giật mình. Em gái ấy mặc áo màu xanh lá cây, có hai bông hoa to in trước ngực. Hỏi về những ngôi mộ vô thừa nhận, em chỉ mấy ngôi ở vườn chùa ngay cạnh chỗ đứng. Giáo sư Phương biết, đó là mộ của những người chết đói năm 1945. Em lại chỉ 3 ngôi mộ phía ngoài đê, cạnh vụng Quạ, nơi mà đoàn đã ra tìm từ sáng. Hỏi thêm em một số chuyện nữa nhưng cũng không thu thêm được thông tin quan trọng gì. Đến xế chiều, gần như mất phương hướng, giáo sư Phương lại gọi điện cho anh Nhã. Anh hỏi: “Có thấy lạch nước không? Có cái cống không?”. Anh Nhã hỏi cứ y như anh đang nhìn thấy vậy. Rồi anh bảo: “Bác hãy đi tìm ngôi nhà mà bốn mặt đều sơn màu trắng, phía trước đầy hoa đỏ”.

Cái cống lớn xây bằng gạch cạnh đất chùa, xế nhà ông Điển, chính là nơi giáo sư vừa ngồi nói chuyện với bé gái mặc áo hoa màu tím. Còn lạch nước? Hỏi ông Điển, hồi lâu ông mới sực nhớ ra: Ba mươi năm về trước, chính cái đầm sen là một vùng ruộng trũng. Bờ ruộng chạy song song với một con lạch dẫn nước qua cống cửa chùa vào ruộng mạ mà nay là đất ở của ông và mấy nhà xung quanh. Cuối những năm 60, để lấy đất bồi đắp con đê sông Luộc, người ta đã biến vùng ruộng trũng thành đầm sen bây giờ. Bờ ruộng và cái lạch nước cũng biến mất trong lòng cái đầm sen ấy.

Mọi người ngó nghiêng khắp làng để tìm ngôi nhà tứ bề quét vôi màu trắng mà chẳng thấy. Chỉ thấy nhà màu vàng hoặc xám. Bỗng ông Tân Cương, một cộng sự của giáo sư Phương chỉ vào cái quán bên đường: “Hay là cái này?”. Đó là cái quán nước nhỏ, thấp lè tè, xây bằng gạch, đủ kê một cái giường và cái chõng, trên bày bán mấy gói kẹo và mấy chai nước ngọt. Quán mới xây, cả 4 mặt đều quét vôi trắng xoá. Ông Tân Cương lý luận: “Một cái quán cũng có thể coi là nhà được lắm chứ”. Vậy còn hoa đỏ? Đảo mắt một vòng, anh Tân Cương reo khẽ. Nhìn theo hướng tay anh chỉ về phía đầm sen, mọi người sững sờ. Cả một biển hoa sen hồng thắm giữa trưa hè. Hương đưa ngào ngạt.

Chủ quán là một bà lão hom hem. Cụ cho biết tên là Mân. Nhưng đó là tên chồng, còn tên thật của bà là Nguyễn Thị Nhờ, năm nay 81 tuổi. Mọi người sục sạo tìm kiếm đến tối mịt mà chẳng thấy thêm tín hiệu gì đành quay về Hà Nội. Gọi điện cho anh Nhã, anh chấn an: “Tìm được cái quán trắng làm mốc là tốt rồi. Bác nên tìm tiếp tục. Hôm nay chưa thấy thì ngày mai lại đi. Chỉnh mộ là cả một hành trình đầy vất vả, không thể một lần mà trúng ngay được”. Rồi anh chỉ dẫn tiếp: “8h sáng mai bác phải có mặt ở cái quán quét vôi màu trắng ấy. Bác hoặc con bác hãy thắp 20 nén hương ở lối đi bên cạnh. Khoảng 8h30’, có một con chó vàng nâu đứng cách đó chừng 10m. Nó nhìn bác một lát rồi đi. Thỉnh thoảng, nó ngoái đầu lại xem bác có đi theo nó không. Bác cứ đi theo và giữ khoảng cách. Đi chừng hơn 100m, con chó sẽ dừng lại, hít đất rồi bới. Bác hãy nhớ lấy chỗ đó, quan sát kỹ, tìm những dấu hiệu trên phần mộ như đã ghi trong bản đồ”. Ngừng một lát, anh Nhã dặn tiếp: “Nếu không thấy con chó xuất hiện thì chờ đến khoảng 9h, tìm kiếm quanh vùng sẽ thấy một con chó vàng nằm bệt như ốm. Đánh dấu lấy chỗ ấy mà đào. Đào thấy thì con chó sẽ hết ốm. Khi nào thấy tín hiệu thì điện thoại lại, tôi sẽ chỉ dẫn tiếp”.

Ngày thứ 2 tìm mộ: Con chó nằm bẹp như ốm – Quả trứng trên đầu đũa

Sáng sớm hôm sau, đoàn lại lục tục quay trở lại La Tiến. Việc đầu tiên là chia ra làm nhiều tốp, đứng ở các ngả đường xem có con chó vàng nâu nào tiến về phía quán nước quét vôi trắng không? Chờ đến gần 9h vẫn chưa thấy tín hiệu gì. Đành chuyển sang phương án 2: tìm con chó vàng nằm bệt như ốm. Mọi người sục sạo vào từng nhà quanh vùng. ở đây, nhà nào cũng nuôi chó vàng, thấy khách lạ, chúng nhảy sồ ra sủa inh ỏi, chẳng thấy con nào nằm bệt một chỗ. Cô Nam (em ruột cô Khang) mấy lần vào ra nhà cụ Nhờ, ngó ngó nghiêng nghiêng khắp xó xỉnh, bỗng phát hiện thấy phía sâu bên trong gian nhà phụ, dưới gầm giường, có một con chó vàng nằm ệp. Mọi người lần lượt vào xem, nó vẫn nằm im thít như cục bông, chẳng gầm gừ hay sủa. Hỏi cụ Nhờ, cụ chép miệng bảo: nó chửa, chê cơm mấy hôm nay rồi. GS Phương liền điện thoại cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã. Anh chỉ dẫn: Tìm kiếm trong vòng bán kính 10 m xem có những dấu hiệu trên phần mộ (cách mộ 4m có một gốc cây đổ, trên mộ có khúc cây dài 4 tấc, một cục gạch vỡ màu nâu đỏ và 5 cây cỏ dại có hoa màu tím nhạt) không?

Từ chỗ con chó nằm ệp, GS Phương kẻ một vòng tròn có bán kính 10 m. Phần lớn vòng tròn bao lấy sân gạch và nhà của cụ Nhờ, chỉ một phần nhỏ lấn sang khoảnh vườn hẹp trước tường hoa nhà ông Điển. Khoảnh vườn này, hôm trước đoàn đã đi qua mà không ai để ý đến mấy vạt rau lang. Cả nhà dán mắt xuống đất tìm. Anh Tân Cương bỗng phát hiện ra một gốc cây đổ bị vùi lấp dưới lớp dây lang, gốc cây to bằng bắp chân, dài hơn gang tay. Trên thân lơ thơ mấy cái chồi cằn cỗi. Ông Điển bảo đó là cây nhót ông chặt năm ngoái nhưng chưa kịp đánh gốc. Tiếp tục tìm kiếm, thấy cách gốc cây nhót về hướng đông chừng 2m, có nửa viên gạch vỡ màu nâu đỏ nằm cạnh một cành cây khô to bằng cổ tay, dài nửa mét. Nhìn tiếp về hướng đông chừng 3m nữa, dưới tán cây cam thấp lùn, cả đoàn reo lên khi trước mắt hiện lên cả một dãy hoa màu tím nhạt bung lên khỏi đám rau lang. GS Phương tỉ mẩn ngồi dếm được đúng 5 gốc, mỗi gốc nở hai bông hoa to và dài bằng ngón tay.

Sau khi rà soát lại kỹ càng, GS Phương lại điện cho anh Nhã. Anh bảo: “Từ gốc cây đổ đến dãy hoa tím, vẽ một hình tam giác. Bác hãy đứng vào giữa rồi đánh dấu lại. Lấy một chiếc đũa cắm xuống chỗ đó. Chính tay bác hoặc người khác nhưng phải cùng máu mủ với cô Khang, đặt một quả trứng lên đỉnh chiếc đũa. Nếu quả trứng nằm vững trên đầu đũa là đúng. Nếu không nằm im thì cắm chiếc đũa lùi ra nửa mét”.

Bà Điển lập cập chạy vào bếp rút từ ống đũa ra một chiếc rồi chạy ra chuồng gà nhặt trong ổ một quả trứng vừa mới đẻ đưa cho GS Phương. Ngồi ngắm nghía chiếc đũa tre khẳng khiu, tay vân vê quả trứng gà, GS Phương chột dạ: Tay Nhã đánh đố mình đây. Song lại tự chấn an: vấn đề là ở chỗ phải ngắm cho thật cân và không được xúc động. Hít một hơi thật sâu, GS Phương rón rén đặt quả trứng lên đầu chiếc đũa. Gần trăm con mắt dán vào quả trứng gà như nín thở. Bịch! Quả trứng rơi xuống đất. Nhặt lên, khẽ khàng đặt lại. Lần 2, lần 3… Đặt nằm rồi đặt đứng. Quả trứng vẫn lăn bo lo xuống đất. GS Phương ngồi bệt xuống đất, thở hắt ra. “Chỉ tại cái đũa chết tiệt. Tiết diện quá nhỏ mà lại không phẳng thì tài thánh cũng chẳng đặt được quả trứng tròn cho cân”.

Nghĩ vậy nhưng GS đứng dậy, lùi lại nửa mét, mặt vẫn hướng vào tường hoa. Cắm chiếc đũa cho thật thẳng rồi nhẹ nhàng đặt quả trứng lên. Mọi người vội chìa tay ra hứng sợ trứng rơi vỡ. Ô kìa! Kỳ lạ quá! Quả trứng nằm im trên đầu đũa tựa như có chất keo kết dính.

Mặc dầu không tin vào sự can thiệp của cô Khang (vì làm gì có linh hồn mà can thiệp? Mà nếu có thì linh hồn đâu phải là lực hút vật chất – GS Phương nghĩ thế) nhưng GS vẫn thở phào nhẹ nhõm vì nếu không làm được điều này sẽ không thể đi tiếp bước sau. Lại gọi điện cho anh Nhã cầu cứu. Anh bảo: “Lấy quả trứng làm tâm, vẽ một hình chữ nhật dài 2 mét, rộng 1,2m rồi đào sâu xuống 1,5m cho đến lớp cát đen, hài cốt sẽ ở đó”.

Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Vừa đói, vừa mệt, GS Phương quyết định tạm nghỉ, ra bến đò La Tiến ăn cơm. Trời đang nắng gắt bỗng đâu mây đen ùn ùn kéo tới, gió ào ào thổi cuốn bụi mịt mù. Mưa như trút nước. Mưa kéo dài lê thê. Chừng hơn một tiếng mới tạnh. Moị người vội vã kéo về nhà ông Điển. Anh Tân Cương bảo: “Phen này phải đền quả trứng của bà Điển là cái chắc”. Thế nhưng khi bước ra vườn, tất cả đều sững sờ khi thấy quả trứng vẫn nằm chon von trên đầu đũa bé xíu. Chẳng nhẽ khi mưa, lúc nào cũng có 2 giọt nước rơi cân bằng xuống 2 đầu quả trứng à? Lại còn gió to nữa chứ? Bụi tre bờ sông gió vặn còn nghiêng ngả cơ mà? Có điều gì huyền bí đây?

GS Phương từ từ gỡ quả trứng ra khỏi chiếc đũa để cho tốp thợ đào đất. Hai bàn tay ông cảm nhận rõ một sức hút nhẹ như có bàn tay vô hình cố giữ quả trứng. Hai tốp thợ thay nhau đào. Đầu tiên là lớp đất màu nâu. Sâu chừng 1,2m thì đến lớp bùn đen pha cát. GS Phương nhắc nhở mọi người rà soát từng xẻng cát xem có lẫn xương cốt không? Nhưng đào m•i đến độ sâu 1,5 m vẫn không thấy gì. Anh Nhã hướng dẫn qua điện thoại: phát triển về hướng Nam, đào sâu thêm 4 cm nữa. Hố đào lập tức được mở rộng thêm nửa mét ra phía bờ ao. Chiều sâu thì đến 2,8 m mà vẫn không có tín hiệu gì. Trời sập tối. Mọi người buộc phải ngừng tay. Nỗi buồn xen lẫn thất vọng hiển hiện rõ trên khuôn mặt già nua của GS Phương. Tuy vậy, ông vẫn quyết định ngày mai đào tiếp.

Kỳ 12: Ngày thứ 3 tìm mộ: Soát đống cát đen, thu dọn “chiến trường”

Suốt hai ngày trời, dậy từ 4h sáng, mướt mải tìm kiếm, đào bới đến 11h đêm mới về nhà, cái tuổi 72 của GS đã cảm thấy đuối sức. Niềm tin cũng giảm sút. Sáng ngày thứ 3, GS uỷ nhiệm cho các con, cháu, người chị ruột và anh Tân Cương đi tiếp. Ông dặn: Không đào sâu thêm nữa, chỉ soát lại đống cát đen đào xới lên hôm qua, hoạ may nhặt được mẩu xương nào thì đem về. Nếu không thì “thu dọn chiến trường”.

Mọi người thực hiện đúng lời dặn, hì hụi bới tìm gần hết buổi sáng chẳng thấy gì. Nhiều cụ già trong làng đến xem, xúm lại bài bác: “Đã bảo mà! Tìm ở ngoài đê, quanh cái vụng Quạ thì không, lại cứ cắm đầu tìm ở trong đê. Làm gì có xác nào trôi sông mà lại vượt qua được con đê để tận vào trong đồng”. Đúng lúc ấy, anh Thìn, hiệu trưởng trường trung học cơ sở La Tiến đến xem kể: Hồi trước, bố anh làm nghề đơm đó, đánh dậm, có vớt được 3 cái xác: 2 nam, 1 nữ trôi dạt vào vụng Quạ. Ông đã kéo qua đê rồi chôn ở cánh đồng này. Bố anh rất nghèo nhưng bạo gan. Trong làng, nhà ai có việc đào huyệt hay bốc mộ, đều đến nhờ cụ. Cả những cháu bé bị chết đuối, xác trương lên, cụ cũng sẵn sàng vác lên vai đi chôn giúp. Hồi kháng chiến chống Pháp, có nhiều xác chết nổi lên ở vụng Quạ, làng giao hết cho cụ vớt lên chôn cất. Sau này, cụ còn được chính phủ tặng bằng khen vì những thành tích trong kháng chiến chống Pháp. Chỉ tiếc, cụ đã mất 18 năm rồi.

Lại loé lên những tia hy vọng. GS Phương vội điện cho anh Nhã. Từ Sài Gòn, anh bảo: “Biết gia đình tìm được đầy đủ các tín hiệu, tôi mừng lắm tuy cự ly có phần không đúng. Có điều, bây giờ phải lật cái bản đồ mà xem từ âm bản”. GS Phương ngạc nhiên hỏi: “Như vậy có nghĩa là phần mộ cô Khang sẽ nằm ở bên kia sông, tức là trên đất Thái Bình à?”. Anh Nhã gật đầu: “Đúng thế”. Rồi anh dặn: Phải tìm đến một cái vụng xoáy dọc bờ sông. ở đó có một xóm dân cư mới, ra lập nghiệp được khoảng 20 năm. Trong đó có cô Nhường, ông An. Mộ cô Khang nằm trên đất cô Nhường. Trên mộ vẫn đầy đủ những dấu hiệu như đã chỉ”.

Ngày thứ tư tìm mộ: Vô vọng , nghi ngờ “cái trận đồ bát quái”

Hầu hết các thành viên trong gia đình GS Phương, vốn đã không tin vào chuyện tâm linh thần bí, nay thấy sự việc đi vào bế tắc, đều không muốn đi nữa. Bản thân GS thì mệt mỏi rã rời. Chỉ có anh Tân Cương là vẫn vững lòng tin vì chính anh đã nhờ các nhà ngoại cảm mà tìm được mồ mả gia tiên. Ngày hôm sau, anh cùng anh Đạt vượt bến đò La Tiến sang đất Thái Bình. Anh cứ dọc bờ sông Luộc mà đi, những mong tìm được cái vụng xoáy. Đi mãi. Đi cho tới khi xế chiều, anh bắt gặp một cụ già râu tóc bạc phơ. Cụ bảo: “Phía Thái Bình không có cái vụng xoáy nào đâu. Vì con sông đến đoạn này thì quật sang đất Hưng Yên”. Nói rồi cụ chỉ sang vụng bà Khán Mỹ bên kia sông. (Gọi thế vì bà Khán Mỹ đã nhiều năm sinh sống trên vụng đó bằng thuyền đánh cá). Vậy là lại phải qua sông để trở về đất Hưng Yên. Cạnh vụng bà Khán Mỹ, trên đất bãi, có một xóm mới. ở đó, có một chị tên Nhường và một anh tên An. Có mấy ngôi mộ vô thừa nhận. Nhưng tìm kiếm mãi vẫn chẳng thấy tín hiệu nào trùng khớp với bản đồ của anh Nhã.

Không nản, anh Tân Cương đi tiếp một ngày nữa. Từ vụng bà Khán Mỹ, anh đi ngược lên vụng Quạ. Nơi nào có mộ vô thừa nhận là anh đến. Nhưng càng đi tìm lại càng tuyệt vọng. Cuộc tìm kiếm theo đủ mọi hướng đến đây coi như lâm vào ngõ cụt. Cái tính hoài nghi khoa học vốn có trong con người GS Phương giờ “nổi loạn”. Ông nghĩ: Lão Nhã này, hắn đày ải, đánh đố mình đây. Hắn bày ra cả một “trận đồ bát quái”, nào là dấu hiệu, tín hiệu, tên người, tên đất… rồi bảo mình phải đi tìm cho đủ. Lục tìm cả cái đất nước này, chưa chắc đã có nơi nào khớp được. Nghĩ thế nhưng ông lại tự trách mình là vô lý. Đã chấp nhận đi theo thầy Nhã mà tỷ lệ trúng mộ chỉ đạt 60% thì hà cớ gì, trường hợp của mình lại không rơi vào 40% kia? Đã xác định tìm đến con đường thần bí như nguồn hy vọng mỏng manh cuối cùng thì lý gì lại đòi hỏi phải lý giải ngọn nguồn cái trận đồ bát quái ấy?

Theo đuổi đến tận cùng hai nhà ngoại cảm nổi tiếng đã vẽ trúng hàng ngàn ngôi mộ liệt sĩ nhưng đến lượt mình thì không có “duyên”, GS Phương bèn bàn với anh Tân Cương chỉ còn cách là tìm đến những người có khả năng gọi hồn. Chị Tuyết Nga cũng ủng hộ cách làm ấy. Chị đưa cho GS địa chỉ, điện thoại của một nhà ngoại cảm nổi tiếng khác. Điều tra ra thì đó chính là điện thoại của Phan Thị Bích Hằng. Chị nhận lời giúp GS vào chiều ngày 9 tháng 8 năm 1999 tại nhà riêng của ông. Cuộc gọi hồn kéo dài gần hai tiếng đồng hồ với nhiều chi tiết vừa xác thực, vừa ly kỳ, xúc động cùng rất nhiều nước mắt đã hé ra một cách tìm mới về mộ cô Khang và điều đặc biệt nhất là xé toang nỗi nghi ngờ như làn sương bao phủ trong đầu vị GS “vô thần” Trần Phương.

Trò chuyện với… linh hồn

Cuộc trò chuyện với linh hồn cô Khang trong buổi chiều ngày 9 tháng 8 năm 1999 ấy, cho đến tận bây giờ, vẫn là nỗi ám ảnh lớn trong tâm trí của GS Phương. Bởi đó không chỉ là cuộc hội ngộ đầy nước mắt giữa những người thân sau mấy mươi năm sinh ly tử biệt mà đó thực sự là bước ngoặt lớn trong nhận thức của GS về thế giới tâm linh, thế giới của những linh hồn. GS vẫn còn nhớ rất rõ, trong lúc nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đang lúi cúi sắp đặt một cốc nước, một cốc gạo, nến, tiền vàng và bức ảnh của cô Khang lên bàn thì GS cố lục tìm trong trí nhớ những vụ việc rất bí mật mà chỉ GS và cô Khang biết để kiểm tra xem có đúng là linh hồn người em gái đang trò chuyện với ông không? Và điều quan trọng hơn, có thật là linh hồn còn tồn tại sau khi con người đã chết? Cảnh giác, GS còn dặn cả nhà tham dự buổi gọi hồn phải tỉnh táo, không được nói hớ, để lộ thông tin cho “thầy bói nói dựa”.

Thắp hương và đốt nến xong, Bích Hằng thành kính chắp tay trước ngực, khấn mời cô Khang bằng một giọng nhỏ nhẹ rồi quay sang nói với GS Phương: “ở căn phòng này bác không thờ cúng bao giờ, có thể vong linh cô Khang sẽ khó về”. Nghe vậy, GS đâm hoang mang quá. Đúng là ở căn nhà này, GS chưa thờ cúng ai bao giờ, thậm chí, 10 năm nay, ông không ở đây vì đã bàn giao cho con. GS đảo mắt nhìn quanh, thấy bốn bề cửa kính đóng kín mít, máy điều hoà chạy mát lạnh. Mùi hương không lọt ra ngoài thì cô Khang làm sao nhận biết được? Cả tiếng khấn nhẹ như gió thoảng của Bích Hằng nữa? Cô có nghe thấy không? Mà có nghe thấy thì làm sao tìm được địa chỉ này giữa lòng thành phố ồn ào chin chít nhà cửa? Và lách qua kẽ hở nào mà vào?

GS bỗng thấy ngột ngạt, căng thẳng quá. Bên cạnh, Bích Hằng vẫn chăm chắm nhìn tấm ảnh cô Khang. Một phút chờ đợi chậm chạp trôi. Hai phút… Rồi 3 phút. Chợt Bích Hằng reo khẽ: “Cháu chào cô ạ! Cháu là Phan Thị Bích Hằng. Bác Trần Phương có nhờ cháu mời cô về để hỏi xem hài cốt cô hiện ở đâu ạ?”. Nói đoạn, Bích Hằng vội quay sang G.S Phương, hạ giọng nói: “Cháu nhìn thấy một thanh niên đi cùng với cô Khang”. Tim GS Phương đập thình thịch như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Ông cố đoán xem người đàn ông ấy là ai trong khi Bích Hằng vẫn chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng lại “Vâng! à thế ạ. Cô Ngân hay là cái gì ngân ạ?…” Một lúc sau, Bích Hằng quay sang GS Phương, nói: “Cô Khang bảo: Người thanh niên đi cùng em chính là anh Sơn đấy. Anh ấy vẫn thường xuyên đến thăm em”. G.S Phương giật mình. Ôi! Anh Sơn. Người anh ruột hơn G.S Phương 4 tuổi nhưng cũng là người bạn, người đồng chí thân thiết. Anh từng là uỷ viên thường vụ tỉnh Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Đông (cũ). Rồi khi thành lập Đại đoàn 320, anh được điều làm Trưởng ban tuyên giáo của đại đoàn. Anh hy sinh trong chiến dịch Hà Nam Ninh tháng 6 năm 1951. G.S Phương muốn reo lên, gọi thật to tên anh. Nhưng sực nhớ Bích Hằng ngồi cạnh, ông cố kìm cảm xúc lại, chờ xem.

Bích Hằng nói tiếp: “Anh không có duyên rồi. Đi tìm em, đối mặt với em rồi mà không đến được với em. Từ hôm anh đến, mấy chị em trong đội du kích Hoàng Ngân cứ bảo: sao lâu quá không thấy anh Phương trở lại. Chỗ em nằm chỉ cách chỗ anh đào 3 sải chân ra phía bờ ao thôi”. G.S Phương vội ngắt lời: “Vậy em nằm trên vườn hay dưới ao?”. Cô Khang bảo (qua Bích Hằng, từ đây gọi là cô Khang – PV): “Đến bờ ao cũng còn 3 bước chân nữa. Phía trên em chừng 2 m là chị Nguyễn Thị Bê, đội viên đội du kích Hoàng Ngân, quê ở ngay làng La Tiến. Cũng cách chừng 2m về phía Đông là một người đàn ông, bị bắt từ Hải Dương về, em không biết tên. Hai người bị giết cùng một ngày với em. Chúng cột tay chúng em lại rồi vất xác xuống sông vào nửa đêm. Dân phòng ta có đi tìm nhưng không thấy. Mãi mấy ngày sau, xác mới nổi lên. Dân vớt được, đưa về đây chôn nên 3 mộ gần sát nhau, gần như nằm trên một đường thẳng. Xa hơn, còn mấy người nữa. Chỗ này cả thảy 7 người cơ”. G.S Phương hỏi: “Chôn em có quan tài không?”. Cô Khang cười buồn: “Mấy người nổi lên trước thì dân còn cho được manh chiếu mà bó. Còn nổi lên sau thì đến manh chiếu cũng không có, nói gì đến quan tài”.

Qua Bích Hằng, cô Khang chỉ dẫn tỉ mỉ chỗ cô nằm với các đặc điểm về cây cỏ xung quanh. G.S Phương nhận ra ngay vì đó là cây nhãn giáp với nhà bà Nhờ, bữa trước ông đã ngồi ở đó để theo dõi việc đào mộ. G.S Phương hỏi: “Em có biết chỗ em nằm thuộc về đất của ai không?”. Cô Khang đáp: “Em cũng không biết nữa. Địch đánh em gãy xương sườn, gãy xương cánh tay và xương đòn tay bên phải, gãy hai chiếc răng nanh ở hàm trên bên phải, dập gò má bên trái. Xương cốt hiện nay vẫn còn nhưng đã mủn vì chôn có quan tài đâu nên khi đào, anh phải cẩn thận, chỉ cần xúc một xẻng đất là nó vỡ ra ngay. Anh chú ý ở tay em vẫn còn cái còng bằng sắt. Địch khoá tay em vào tay người đàn ông bị bắt ở Hải Dương bằng cái còng ấy. Răng hàm dưới đã rụng ra nhưng rất may, hàm trên vẫn còn nguyên vẹn. ở đấy có mấy anh chị, nếu anh có đào nhầm sang mộ người khác thì vẫn có thể nhận ra ngay. Ngày xưa, mọi người hay trêu đùa em là có hàm răng đẹp nhất, trắng nhất, tươi tắn nhất đội du kích. Nhưng bây giờ răng em đã chuyển sang màu đen rồi, đen xỉn ấy do bùn đất lâu năm ngấm vào chứ không phải đen hạt na đâu”. Một niềm xót thương chợt trào dâng khiến nước mắt G.S Phương lưng tròng. Mặc dù chỉ nói một cách kín đáo nhưng ông nhận ra ngay vẻ đẹp mặn mòi rất đặc trưng của em Khang. Ôi! Người con gái đã lìa đời hơn 50 năm mà vẫn thầm tự hào về nhan sắc, về hàm răng trắng như ngà khiến biết bao chàng trai ngưỡng mộ.

Cố kìm nén niềm xúc động, G.S Phương hỏi: “Nếu tìm được hài cốt em thì đưa về quê mình, cạnh mộ bố mẹ hay đưa em về nghĩa trang liệt sĩ của huyện, nơi anh Sơn đang nằm?”. Cô Khang đáp: “Mẹ bảo em: Con là phận gái chết trẻ, không chồng con gì. Về với bố mẹ để sau này cháu chắt còn thăm viếng, hương khói cho con. Nhưng anh Sơn thì bảo: Em là đội trưởng đội nữ du kích Hoàng Ngân. Em cứ về nghĩa trang liệt sĩ cho có anh có em. Tổ quốc ghi công mình cơ mà. Anh Sơn hôm nay cũng về cùng với em đấy”. Suốt nửa tiếng đồng hồ cố nén niềm xúc động, giờ, không kìm được nữa, G.S Phương khóc oà: “Trời ơi! Anh Sơn”. Ông lẳng lặng rút từ trong túi ra một bức ảnh, đưa cho Bích Hằng. Nhìn qua, Bích Hằng bảo: “Đúng đây là ảnh bác Sơn rồi. Nhưng trông bác già và gầy hơn trong ảnh”. G.S Phương gật đầu xác nhận. Bức ảnh chụp từ năm 1948, khi anh Sơn đang công tác ở Sơn Tây nên trông rất điển trai.

Anh Sơn trách G.S Phương: “Chú đi tìm em Khang mà chẳng nói với anh một câu. Lần sau, chú báo trước cho anh, anh sẽ dẫn đường cho chú đến tận nơi. Ai khoanh cho chú chỗ ấy là họ hiểu biết đấy. Cũng may mà khúc sông ấy hơi cong lại, xác em mình mới dạt vào. Nếu không đã trôi tuột mất rồi. Mẹ khóc thương em Khang nhiều lắm. Cứ muốn đưa em về bên mẹ để mẹ ôm ấp. Nhưng anh lại khuyên em Khang về nghĩa trang liệt sĩ vì đấy là vinh dự của em mình, của cả gia đình mình cơ mà. Tổ quốc ghi công mình, đời đời nhân dân thắp hương cho mình chứ đâu chỉ có con cháu trong gia đình. Vả lại, đời anh chị em mình đã vậy chứ đến đời thằng An thì nó còn biết gì.”. G.S Phương lại giật mình. An là con đẻ của ông. 10 năm sau khi anh Sơn hy sinh, An mới ra đời.

“Hôm chú đi tìm mộ em Khang, anh cũng có theo dõi. Chú đào xuyên đến cả lớp đất nguyên thuỷ. Em Khang đâu có nằm sâu thế. Chỉ hơn 1m là đến lớp cát đen rồi. Em mình chỉ nằm ở tầm ấy thôi. Lần này đào tiếp, chú để ý sẽ thấy một thanh củi mục. Thực ra, đấy là cái cán thuổng mà người đào huyệt đã đánh gãy vất lại đó, vô tình như đánh dấu cho mình”. G.S Phương hỏi: “Anh bảo sẽ dẫn đường cho em. Vậy làm cách nào mà em nhận biết được?”. Anh Sơn: “Anh không thể nắm tay chú mà dẫn đi như người trần được. Nhưng anh sẽ sai khiến một con vật nào đó như con ong, con bướm chẳng hạn, dẫn đường cho chú. Làm việc này đối với người âm là khó đấy nhưng anh sẽ cố. Khi thấy con vật, chú gọi nó lại rồi đi theo nó, đến chỗ nó đậu. Hôm nào đi, chú mua ít hoa quả thắp hương mời chị em. Người ta chết cùng nhau, mình chỉ hì hục đào tìm em mình thì người ta cũng tủi. Phía trên mộ em Khang là mộ một chị liên lạc, cấp dưỡng cho đội du kích, người địa phương, nên báo cho gia đình chị ấy biết mà đến tìm. Chú kiếm cho anh mấy bao Cáp-tăng để anh mời anh em. Bây giờ anh cũng chỉ huy cỡ trung đoàn đấy”.

G.S Phương hỏi đôi điều về “đời sống” của anh Sơn và cô Khang. Cô Khang bảo: “Có lần, em về thăm chị Nghĩa mà không vào được, chỉ đứng ngoài nhìn vào”. (Chị Nghĩa là chị cả của gia đình GS Trần Phương – PV). Anh Sơn vội giải thích: “Em Khang bị chết trôi sông. Đã có ai bắc cầu đâu mà hễ nhớ chị nhớ em thì chỗ nào cũng vào được. Bây giờ, cuộc trò chuyện ở đây tạm kết thúc. Cô Khang đi với anh đến nhà Quỳnh chơi”. (Quỳnh là em út của GS Phương – PV). Nói rồi biến mất. Cuộn băng ghi âm 90 phút cũng vừa vặn hết.

Sau này, GS Phương đã nghe đi nghe lại cuộn băng ghi âm nhiều lần. Qua những tên người trong gia đình được nhắc đến một cách ngẫu nhiên, qua cách xưng hô, sự hiểu biết tính cách từng người còn sống, cách xử sự và tâm tư tình cảm của người nói, GS Phương tin chắc rằng: đó là vong linh của anh Sơn và em Khang. Người khác, dù biết rõ gia đình GS đến mấy, cũng không thể sáng tác ra một kịch bản như thế, huống hồ Bích Hằng là người mà hoàn toàn xa lạ, lần đầu tiên được gặp GS. Song điều khiến GS băn khoăn là: “Nếu đúng là khi người ta chết đi, vẫn còn lại một cái gì đó mà người đời thường gọi là linh hồn thì linh hồn là gì? Nó phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó thì Bích Hằng mới có thể nhìn thấy và nhận diện qua ảnh. Phải phát ra tiếng nói qua một tần số nào đấy thì Bích Hằng mới có thể nghe thấy và nói lại cho tôi nghe. Đối với tôi, nó là vô hình nhưng đối với Bích Hằng, nó là hữu hình. Đối với tôi, nó là câm lặng nhưng đối với Bích Hằng, nó lại phát ra âm thanh với đầy đủ những sắc thái sống động của tình cảm, tư duy, hệt như tiếng nói của người đang sống. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là: Nếu linh hồn là một dạng vật chất có hình thù và khả năng phát ra âm thanh thì, theo cách nói của triết học, nó thuộc phạm trù tồn tại mang tính khách quan chứ không thuộc phạm trù ý thức mang tính chủ quan. Nhận biết được nó hay không là tuỳ khả năng của từng người. Đối với tất cả những gì ta chưa có khả năng nhận biết được mà đã vội vất vào cái sọt rác mê tín dị đoan thì khoa học còn việc gì để nghiên cứu? Lâu nay, tôi cứ đinh ninh cho mình là duy vật, hoá ra chính mình lại là duy tâm chủ quan: cái gì mình cho là nó tồn tại thì nó tồn tại. Cái gì ta cho là nó không tồn tại thì nó không tồn tại, nó chỉ là mê tín dị đoan”.

Lần đầu tiên trong đời được tiếp xúc với linh hồn, GS Phương nhận ra như thế. Song những thông tin do linh hồn cung cấp đúng hay sai thì phải chờ vào kết quả cuộc đào bới. Điều kỳ thú là thông tin do Bích Hằng cung cấp về vị trí hài cốt lại trùng khớp với tấm sơ đồ do nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã vẽ trước đây nên GS Phương vô cùng háo hức, coi đây cũng là dịp để kiểm nghiệm lại “cái trận đồ bát quái” của anh. Hy vọng xen lẫn hoài nghi, ông nóng lòng chờ ngày hẹn Bích Hằng về La Tiến. Và cuối cùng, ngày hẹn được ấn định: 17 tháng 8 năm 1999.

Kỳ 13: Chuẩn bị cho cuộc tìm mộ lần thứ 5

Ngày 13 tháng 8 năm 1999, tức 4 ngày trước khi tiến hành cuộc đào bới, GS Phương đã cử người em ruột là chú Quỳnh cùng anh Tân Cương về La Tiến làm một số công việc chuẩn bị. Trên đường đi, anh Tân Cương gọi điện thoại cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, thông báo toàn bộ sự việc. Biết tin Bích Hằng vào cuộc, anh Nhã rất mừng. Từ Sài Gòn, anh cho một tín hiệu: “Khoảng 10h sáng, sẽ có hai con bướm màu sắc sặc sỡ bay lượn quanh mộ rồi đậu lại. Hãy đánh dấu lấy chỗ đó”.

Đến nhà ông Điển, đúng 10h, anh Tân Cương ra vườn ngồi chờ dưới gốc nhãn. Bỗng hai con bướm đen đốm hoa từ đâu bay tới lượn tung tăng. Anh Tân Cương nín thở dán mắt nhìn. Rồi một con bay đi, một con đậu lại trên cành nhãn. Anh Tân Cương vội chạy lại, chiếu thẳng từ cành nhãn xuống đất, cắm một cây que đánh dấu. Cây que cách chỗ đặt quả trứng bữa trước 2m ra phía bờ ao. Ông Điển đứng bên tường hoa theo dõi cứ tủm tỉm cười. Lúc vào nhà uống nước, ông mới kể: Sau lần đào bới thứ 4 không thấy, ông có mời thầy về cúng. Thầy chỉ mộ cô nằm đúng vào vị trí của cây que đó.

Rời nhà ông Điển, anh Tân Cương đến thẳng Uỷ ban xã để điều tra xem trong danh sách liệt sĩ, có ai là Nguyễn Thị Bê không? Tìm đi tìm lại đống sổ sách, lần hỏi từng cụ già trong làng mà chẳng ai biết cái tên như thế. Điều đó lại khiến GS Phương hoang mang. Vậy là em Khang nói sai? Cả anh Sơn nữa. Anh còn nói cụ thể chị Bê là liên lạc, cấp dưỡng của đội du kích nữ Hoàng Ngân nữa cơ mà? Chẳng nhẽ người nói chuyện với mình bữa trước không phải là em Khang, anh Sơn?

Cuối cùng, ngày 17 tháng 8 năm 1999 cũng đến. Đêm hôm trước, GS Phương không sao chợp mắt được. Lòng dạ cứ bồn chồn. Ruột nóng như có người hơ lửa. Nửa đêm, ông lụi cụi dậy thắp hương, báo cáo với anh Sơn việc tìm em Khang ngày mai. Ông vừa khấn vừa run. Đây có lẽ là lần đầu tiên trong đời, vị GS tóc hoa râm mới tự mình làm cái việc tâm linh huyền bí đó.

Em của anh đây rồi!

Thực hiện đúng lời dặn của anh Sơn, ngày 17 tháng 8 năm 1999, gia đình GS Trần Phương chuẩn bị đầy đủ lễ vật gồm: hương hoa, tiền vàng, nải quả và mấy bao thuốc lá Cáp-tăng, thẳng đường xuống La Tiến. Vừa tới nhà ông Điển, bà chị của GS đã phăm phăm bước ra vườn, bày biện lễ vật lên chiếc mâm rồi đặt lên tường hoa để nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng khấn mời. Cả nhà thành tâm chắp tay cầu nguyện. Khấn khứa một hồi, Bích Hằng cầm bó hương nghi ngút khói đi thẳng ra gốc cây vải, gần cây nhãn sát bờ ao, ngắm ngắm nghía nghía rồi cắm bó hương xuống đất. Lấy đó làm tâm, chị vạch một hình chữ nhật rồi bảo với GS Phương: “Lúc cháu đang chắp tay khấn đã thấy bác Sơn và cô Khang đứng ở gốc cây vải vẫy cháu lại rồi chỉ cho cháu chỗ cắm hương này, cả đầu và chân ngôi mộ nữa”.

Nhìn bó hương Bích Hằng cắm, GS thấy nó cách quả trứng bữa trước chừng 3m ra phía bờ ao và hình chữ nhật nằm ngoài hình tam giác đào lần trước, cạnh của nó là cạnh đáy của hình tam giác nối dài ra phía bờ ao. Trong khi tốp thợ thuê đào tay cuốc, tay xẻng chuẩn bị khai quật thì Bích Hằng khẽ khàng đặt bức ảnh cô Khang dưới gốc cây vải. Mắt nhìn vào tấm ảnh, chị chắp tay trước ngực nói bằng một giọng nhẹ như gió thoảng: “Thưa cô! Chỗ cô nằm, cháu đã vạch theo đúng như cô chỉ. Còn hài cốt thì như hiện trạng cháu nhìn thấy, còn rất ít, khi bốc lên có thể mủn ra. Vậy xin cô cho phép bốc lẫn cả đất mang về. Nếu không được đầy đủ mong cô thông cảm cho”. Cô Khang bảo: “Lần này nhìn thấy cậu Quỳnh là chị phấn khởi rồi. Cậu Quỳnh mà đi thì chắc là được (Quỳnh là em ruột cô Khang, vốn là người tin vào thần phật, lần trước không đi – PV). Còn anh Phương thì thần thánh anh ấy cũng chả sợ, có khi chỉ nhiễu quan trần, còn quan âm thì chẳng ai giúp. Anh Sơn cũng ở đây suốt từ sáng. Anh ấy trách cháu An. Nếu mà lần trước nó kiên trì, bình tĩnh thì đã đưa được em về rồi”. Bỗng Bích Hằng gọi: “Ai là Hậu? Cô Khang muốn gặp chị Hậu”. Bà Hậu, chị của GS Phương, đang ngồi uống nước trong nhà ông Điển nghe vậy vội lập cập chạy ra. Cô Khang nói tiếp: “Chị đã cất công xuống tận đây mà không ra với em, lại cứ ngồi lỳ trong đấy. Hài cốt của em không còn nguyên vẹn. Nhưng chị bốc cho em dù chỉ một nắm đất về quê mình là em cũng mừng rồi. ở đây tuy có nhiều chị em đồng đội nhưng không phải là ruột thịt, cả năm chả ai thắp cho một nén hương, em tủi lắm. Chả lẽ cứ ở đây quấy quả ông An mãi”. Bác Sơn nói chen vào: “Mọi người cứ bốc cho bằng hết. Dù ít dù nhiều cũng là máu thịt của em mình. Không bỏ vừa trong tiểu thì đắp lên mộ cho em”. Anh Tân Cương hỏi: “Cô có biết cháu không ạ?”. Cô Khang cười: “Nếu tôi không biết anh Tân Cương thì hoá ra tôi vô tình quá. Anh lặn lội vất vả với tôi quá nhiều”. Anh Tân Cương lại hỏi: “Cô có biết, ai mai táng cho cô không ạ? Nhiều người không tin là thi thể cô có thể trôi dạt vào đây. Cháu vừa nghe thấy cô nhắc đến ông An là ông An nào? ở đâu ạ?”. Cô Khang: “Nếu có cách gì làm cho cụ Đặng Đình Giám sống lại thì gia đình mình khỏi phải mất công tìm kiếm. Rất tiếc đã gặp cụ dưới âm phủ mất rồi. Lúc giết em xong, giặc ném xác em xuống sông. Mấy ngày sau xác nổi lên, gặp lúc triều cường, dạt vào một khúc quanh. Cụ Giám nhìn thấy, vớt lên, kéo qua một cái rãnh nước rồi dừng lại. Cụ bảo: Mấy vị chết ở đây, nếu đói khát, khi nào nhà ông An lên hương thì vào mà xin lộc”. Rồi cô Khang chỉ cho Bích Hằng ngôi mộ người đàn ông Hải Dương, ngay liền kề phía chân cái hố sắp đào. Bích Hằng bảo: Người đàn ông ấy đứng bên cạnh cô Khang, xưng tên mình và có nói mấy câu nhưng nói nhỏ quá, chị không nghe thấy. Phải đến lúc cô Khang nói, chị mới nghe được. Khi cô Khang chỉ ngôi mộ, chị nhìn thì thấy rõ một bộ hài cốt không đầu.

Tốp thợ bắt tay đào. Đào hết lớp đất “vượt thổ” thì Bích Hằng bảo “dừng lại”. Chị nhảy xuống hố, lấy tay gạt nhẹ từng lớp cát đen. Sâu thêm chừng một gang tay thì vướng vào thanh củi mục. Nạy lên, thả vào nước. Mọi người chợt ồ lên khi nhận ra đó là một khúc tre già, thịt tre đã phân huỷ hết nhưng xơ và đốt tre vẫn còn nguyên. Khúc tre dài hơn một gang tay, to bằng cổ tay người lớn, không thể tra vừa bất cứ một loại xẻng hay cuốc nào, chỉ có thể tra vừa thuổng (Loại thuổng hình lưỡi mai, mặt phẳng, bề ngang nhỏ hơn lưỡi xẻng, có nơi gọi là mai). Mọi người vô cùng kinh ngạc khi thấy lời dặn của bác Sơn trong buổi gọi hồn chiều ngày 9 tháng 8: “Lần này đào tiếp, chú để ý sẽ thấy một thanh củi mục. Thực ra, đấy là cái cán thuổng mà người đào huyệt đã đánh gãy vất lại đó, vô tình như đánh dấu cho mình” đã linh ứng một cách kỳ lạ. Riêng GS Phương thì vui mừng khôn xiết. Vì đây là dấu hiệu đáng tin cậy nhất để chứng minh đó chính là mộ của em gái mình. Cái cán thuổng đã bị vùi sâu dưới lòng đất ngót 50 năm rồi, không ai có thể nguỵ tạo ra nó được. Dấu hiệu đó lại do chính linh hồn anh Sơn mách bảo cách đó 9 hôm, người đời bằng con mắt trần không ai nhìn thấy mà mách bảo được.

Sau khi tìm thấy cán thuổng, Bích Hằng chỉ gạt vài lớp đất mỏng nữa thì bắt gặp hài cốt của cô Khang. Trùm lên sọ là một mảng tóc đen nhánh. Những đốt xương cổ hiện lồ lộ trên nền cát đen. Nhưng khi bàn tay Bích Hằng vừa chạm đến, mớ tóc vủn ra luôn còn những đốt xương thì gãy ra như chiếc bánh quy thấm nước. Qua hình dáng hài cốt, có thể mường tượng ra, khi chôn, người ta đã đặt cô Khang nằm nghiêng, người hơi cong, mặt hướng ra vụng Quạ, đầu hướng về Tây Bắc, chân về hướng Đông Nam. Bích Hằng khẽ khàng bốc tất cả số bùn đất theo hình nằm cong ấy cho vào tấm vải đỏ. Chị hỏi cô Khang: “Thưa cô! Răng cô ở đâu để cháu mang đi đãi ạ?”. Bốc vài nắm đất tìm bới, cuối cùng tìm được 5 chiếc. GS Phương cho lên lòng bàn tay nhìn kỹ thì thấy đúng là những chiếc răng trắng nhưng do ngâm quá lâu trong bùn đất nên đã ngả sang màu xám và đen xỉn. Thấy vậy, mấy người đứng trên bờ nhắc Bích Hằng tìm móng tay. Chị bèn hỏi cô Khang: “Thế còn móng tay cô ở chỗ nào, cô chỉ cho cháu?”. Bỗng thấy Bích Hằng khóc nấc lên. Một lát sau, chỉ nghẹn ngào kể lại với GS Phương: “Cô Khang giơ hai bàn tay toè toẹt máu ra trước mặt cháu, bảo: Chúng nó rót hết móng tay của cô rồi, còn đâu nữa mà tìm hả cháu”. GS Phương chết lặng. Một nỗi niềm chua xót, buốt lòng dâng lên khiến ông đứng lặng, không nói nên lời. Ông chợt nhớ lại. Ngày ấy, sau khi em Khang bị giặc giết, huyện uỷ Phù Cừ có gửi riêng cho ông bản báo cáo, kể rõ em Khang bị địch bắt, tra tấn dã man và bị giết đau đớn như thế nào. (Vì ngày ấy, ông là Phó bí thư tỉnh uỷ Hưng Yên, có nhiều gắn bó với huyện Phù Cừ). Chúng dùng kìm, rút từng chiếc móng tay của em Khang rồi cắm kim vào đó cho mưng mủ, lấy giày đinh giẫm lên mặc cho em Khang giãy giụa, quằn quại. Dã man hơn, chúng còn dí điện vào hai đầu vú, thọc gậy vào âm hộ, treo ngược lên cành cây như bị cát rồi thoả sức đấm, đá… Những chuyện buốt lòng ấy, GS Phương đã chôn kín trong lòng, không hé lộ cho bất kỳ ai trong gia đình. Ông sợ mọi người không chịu đựng được nỗi đau ấy. Nay, thấy Bích Hằng nói vậy, ông vô cùng xúc động. Và càng tin chắc chắn rằng, bộ hài cốt kia đích thị là người em gái xinh đẹp và kiên trung của mình.

Bích Hằng vẫn lúi húi dưới hố tìm kiếm và chỉ đạo mấy người giúp việc. Chị tìm mãi chiếc còng sắt vẫn không thấy. Hỏi cô Khang, cô cũng không chỉ được. GS Phương bảo: “Có thể nó đã bị rỉ thành đất qua 50 năm ngâm trong bùn”. Thỉnh thoảng, Bích Hằng lại nhô đầu lên nói chuyện với gia đình GS Trần Phương. Bỗng chị bảo: “Có một cụ cứ ngồi nhìn rồi tủm tỉm cười. Không biết có phải cụ Giám không?”. Rồi chị cất giọng lễ phép hỏi: “Cháu chào cụ ạ! Cụ cho phép cháu được biết quý danh của cụ?”. Lắng nghe hồi lâu, Bích Hằng nói như reo lên: “Cụ An”. Nói đoạn, Bích Hằng tự giới thiệu mình cùng gia đình đi tìm hài cốt cô Khang và đề nghị cụ giúp đỡ. Cụ An bảo (qua Bích Hằng): “Tôi là hàng xóm, nhà tôi ở vệ đê. Lần nào các bác về đây tìm mà tôi chả biết. Tôi còn nhớ như in, đêm hôm ấy, vào lúc gà gáy canh hai, ông Giám qua nhà tôi hỏi mượn cái mai. Tôi hỏi để làm gì? Ông ấy giơ ngón tay lên miệng: “suỵt! Để chôn người chết trôi”. Tôi nhìn kỹ thì thấy một cái xác cụt đầu, biết ngay là cán bộ cách mạng. ở chỗ kia trước là cái rãnh nước. Ông Giám kéo mấy cái xác qua đó, đến đây là chân ruộng mạ. Ông Điển mới ở đây thôi chứ ngày xưa là ruộng mạ, thuộc chủ khác”. Bích Hằng bèn đưa ảnh cô Khang, hỏi: “Cụ có nhận ra ai đây không ạ?”. Cụ An bảo: “Bà này là thân nhân của một ông cán bộ tỉnh uỷ ở đây. Nhưng chôn cất như thế nào thì cả tôi, cả ông Yên, ông Trọng đều không biết gì đâu. Chỉ có mình ông Giám là biết thôi. Để tôi đi tìm ông Giám cho”.

Chờ một lúc lâu, Bích Hằng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ đi cùng cụ An về. Cụ An cười bảo: “Tất cả những chuyện cô cần biết, chỉ có mình ông Giám này là giúp được thôi”. Bích Hằng nhỏ nhẻ giới thiệu và nêu ra đề nghị với cụ Giám: nhận diện người chết qua tấm ảnh và chỉ dùm cái còng sắt nằm ở chỗ nào? Cụ Giám nói: “Đêm ấy trời tối đen như mực nên tôi chỉ nhìn thấy loáng thoáng thôi. Xác ngâm dưới nước lâu ngày đã trương lên rồi, mặt mũi nhìn không rõ. Tóc thì không vấn như trong ảnh thế này đâu mà cắt ngang gáy như cô bây giờ. Nhưng xoã xượi dưới nước. Lần ấy, tôi đem về không phải một người mà những 3 người cơ. Tôi kéo người phụ nữ lên trước nhưng cứ thấy vương vướng. Nhìn kỹ hoá ra tay trái của cô ấy bị xích vào tay người đàn ông. Khi chôn, chẳng nhẽ lại chôn hai người một hố nên tôi phải tuột tay một người đàn ông ra khỏi cái vòng. Tôi chôn người phụ nữ ở đây còn người đàn ông ở chỗ kia. Sức tôi cũng chỉ kéo được có thế. Khi chôn, vì xác bị trói đã cứng lại, không nắn thẳng ra được nên tôi đành đặt nằm nghiêng, mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Còn người phụ nữ nữa, tôi chôn ở góc kia, chỗ gốc cây nhãn ấy. Nhưng bây giờ thì đã tụt xuống ao mất rồi. Hình như lúc chết, bà ấy đang mang thai hay sao ấy”. Anh Tân Cương hỏi: “Một số người thắc mắc, không hiểu được tại sao xác chết trôi sông lại có thể dạt vào đây được?”. Cụ Giám gắt: “Cái con mẹ Tiến nó cứ mồm năm miệng mười chứ làm sao mà nó biết bằng tôi được. ở ngoài kia nước cả, không đem vào đây thì vùi ở đâu”. Ngừng một lát, cụ nói tiếp: “Điều này thì tôi chỉ nghe phong thanh thôi. Tụi lính dõng ở đồn nó bảo người phụ nữ bị giết đêm hôm ấy (cô Khang – PV) là bà bé của tay xếp bốt”. Cụ An cãi lại: “Ông thì chỉ được cái ăn no vác nặng, có biết gì đâu. Có lần ông chôn một anh bộ đội, ông lại bảo là thằng lính dõng. Tôi thì không được kéo xác như ông nhưng việc này thì tôi biết rõ. Có một người nữ du kích bị bắt (cô Khang – PV), thằng xếp Bách dụ làm vợ bé không được, nó đã giết đi. ở bốt này có một thằng quan Tư là quan thày người Pháp còn thằng Bách tuy là tay sai nhưng cũng được gọi là xếp. Thằng Bách lấy vợ người La Tiến làng mình, ai mà chẳng biết rõ về nó”.

Trời đã xế chiều. Mọi người hối hả thu dọn. Bác Sơn bảo (qua Bích Hằng): “Còn cái chân của cô, moi sâu vào mà bốc. Được bà chị xuống với em, chẳng giúp được việc gì, chỉ ngồi khóc”. Anh Tân Cương tưởng bác Sơn nói đến cô Nam (chị gái của cô Khang) đa cảm, hay xúc động liền nói chêm vào: “Sáng nay, bà ấy cứ nhất định đòi đi”. Bích Hằng thấy vậy, liền cải chính: “Không phải thế đâu. Bác Sơn nói đến bà chị là bác Nghĩa (đã mất) cơ. Từ nãy, bác ấy cứ ngồi khóc một chỗ. Bác ấy bảo: Nhà có 6 chị em gái, ai nấy đều có phận. Riêng em tôi giỏi giang xinh xắn nhất nhà thì lại chịu cảnh thế này. Không tìm được xác em, lúc tôi chết cũng không nhắm được mắt. Bây giờ tìm được em thì mình đã thành người thiên cổ rồi”. GS Phương nghe thấy bác Nghĩa nhắc đến 6 chị em, vội giơ đốt ngón tay đếm. 6 hay 5 nhỉ? Đúng là 6 thật! Bác Sơn như hiểu ý của anh Tân Cương, nói: “Uí giời! Cho cái cô Nam nhà tôi xuống đây thì chỉ được cái bù lu bù loa chứ giúp được gì. Tính cái con ấy nó vậy”. Cô Khang nói: “Buồn cười quá! Sau lần gặp cô em, về đến nhà, ông anh Phương vội vàng bốc cát lập ngay… 7 bát hương. Mỗi người một bát. Đúng là một cuộc cách mạng. Em Khang cảm động ghi nhận tấm lòng của anh Phương, chị Thuỷ”. (Bà Thuỷ là vợ của GS Phương – PV). GS Phương giật mình. Quái lạ! Việc ông lập đến 7 bát hương, thờ phụng ở nhà, (một bát thờ tổ tiên, một bát thờ cụ nội, một bát thờ ông bà nội, một bát thờ bố mẹ, một bát thờ anh Sơn, một bát thờ cô Khang, một bát thờ người con giai chết trẻ – thế cô Khang mới buồn cười) chỉ có mình ông và vợ biết, có nói với ai đâu. Tại sao Bích Hằng lại nói đúng thế nhỉ?

Cụ An bảo: “Cô Khanh là liệt sĩ, sao không làm lễ truy điệu rồi hãy mang về quê?”. Bác Sơn vội giải thích: “Hôm nay cập rập quá, gia đình chuẩn bị không kịp. Hôm tới đưa về nghĩa trang liệt sĩ của huyện sẽ làm lễ truy điệu sau”. Cô Khang bảo: “Cậu Quỳnh còn giữ những giấy tờ, bằng khen của chị không?”. Chú Quỳnh đáp: “Bằng khen và Huân chương của chị, em vẫn giữ”. Cô Khang: “Hôm này làm lễ truy điệu chị ở nghĩa trang liệt sĩ, cậu nhớ mang theo nhé”. Chao ôi! Người con gái đã hy sinh ngót 50 năm mà vẫn quan tâm đến những vinh dự của mình nơi trần thế – GS Phương ngậm ngùi nghĩ mà lòng thì rưng rưng xúc động.

Nói đoạn, cô Khang quay lại nhìn cụ Giám, cười bảo: “Cụ Giám ạ! Vừa rồi cụ nói oan cho tôi quá. Tôi đã được làm vợ bé ngày nào đâu”. Bích Hằng thông dịch đến đây, mọi người trên bờ cười ồ cả lên. “Nhưng cụ nói đúng đấy. Ngày xưa ai cũng gọi tôi là cô Khang tóc dài. Nhưng khi bị bắt, giặc đã cắt cụt hết. Trong việc chôn cất các liệt sĩ ở đây, cụ là người có công lớn nhất. Chúng tôi vô cùng biết ơn cụ. Nay tôi về Mỹ Hào quê tôi, về với anh Sơn. Nằm lại đây còn một bộ hài cốt, gia đình người ta cũng sẽ đến bốc về. Chỉ còn chị Bê, hài cốt không còn gì. Nhờ bác Điển hương khói cho vong hồn chị. Chị ấy sẽ phù hộ cho bác. Hồi đi hoạt động cách mạng, chị lấy tên là Nguyễn Thị Bê nhưng tên thật của chị là Nguyễn Thị út. (Mấy người trong làng đứng xem chợt ồ lên: Ôi! Bà út. Thế mà con cháu cứ tìm kiếm mãi). Nhờ bác Điển đem mâm lễ phát lộc cho các cháu”.

Mặt trời khuất hẳn sau luỹ tre ven sông thì công việc thu vét hài cốt cũng xong. Mọi người vây quanh gốc cây vải, nơi đặt bàn thờ tạm. Bích Hằng bảo: “Suốt ngày cô Khang và bác Sơn quanh quẩn ở đó. Buổi chiều, bác Nghĩa cũng ngồi ở đó ôm lấy tấm ảnh cô Khang mà khóc. Cụ An và cụ Giám thì ngồi ở phía tường hoa”. Trời nhọ mặt người, gia đình GS Trần Phương mới đưa hài cốt của cô Khang về nhà. Hai ngày sau, lễ truy điệu người nữ du kích anh hùng Trần Thị Khang đã diễn ra trọng thể tại nghĩa trang liệt sĩ của Huyện với sự có mặt của hơn 300 người gồm các Ban, ngành, chính quyền, đoàn thể cùng đông đủ họ hàng nội ngoại. Người xúc động nhất buổi hôm ấy, có lẽ là GS Trần Phương. Sau 24 ngày mò tìm trong bí ẩn, nhiều lúc tưởng chừng như tuyệt vọng, cuối cùng, hài cốt của người em gái thân yêu đã tìm thấy. Đó là một kết thúc có hậu. Đó cũng là hành trình đưa GS đến với thế giới tâm linh đầy huyền hoặc với những khám phá bất ngờ, thú vị và cả những day dứt, trăn trở…

GS Trần Phương, nguyên Phó thủ tướng chính phủ, hiệu trưởng trường Đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội: “Hài cốt em tôi đã tìm thấy nhưng cách thức tìm của các nhà ngoại cảm, với tôi, vẫn còn là bí ẩn. Khám phá ra bí ẩn này, như tôi biết, không phải là điều dễ dàng gì. ở đây, tôi chỉ xin đề xuất một số vấn đề để các nhà nghiên cứu xem xét:

1. Tôi có căn cứ để tin rằng: Tôi đã gặp linh hồn em Khang, anh Sơn, thậm chí, cả linh hồn cụ Giám, cụ An, Bích Hằng đã nhận dạng được linh hồn qua tấm ảnh, đã nghe được tiếng nói của linh hồn. Như vậy, linh hồn phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó thì mới có hình thù và khả năng phát ra tiếng nói như vậy. Đã là một dạng vật chất thì vật lý học, hoá học, sinh học, y học… với những phương tiện quang học và điện tử tinh vi, hẳn sẽ có ngày tìm ra. Vậy các nhà khoa học Việt Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?

2. Tôi nhận thấy linh hồn người chết vẫn thể hiện những tình cảm vui buồn, ước muốn, vẫn kể lại rành rọt, chính xác những việc đã qua, kể cả những sự việc sau khi mình đã chết, vẫn theo dõi những việc mà người sống đang làm. Như vậy, linh hồn đâu phải là vật thể vô tri vô giác mà là những vật thể sống, có tư duy và tình cảm. Điều này, đặt ra một loạt câu hỏi: “Có một thế giới linh hồn ngoài thế giới của chúng ta đang sống không? Nó hoạt động như thế nào, tác động gì đến thế giới của chúng ta? Linh hồn có mất đi hay tồn tại mãi?Người sống dâng cúng đồ lễ, tiền vàng là đúng hay nhảm nhí? Tìm lời giải cho những vấn đề này, nếu chỉ dựa vào suy luận thì sẽ dẫn đến những cuộc tranh cãi bất tận. Vấn đề mấu chốt là phải chứng minh.

3. Hầu hết mọi người đều không nhìn thấy linh hồn, nghe thấy tiếng nói của linh hồn. Ngoại trừ một số hiếm hoi là các nhà ngoại cảm. Vậy khả năng đặc biệt ấy là do cấu tạo sinh lý?

4. Để nghiên cứu lĩnh vực này, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã lập ra Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người (Bộ môn cận tâm lý). Song quyền hạn, phương tiện nghiên cứu, tài chính hoạt động còn hạn hẹp. Nên chăng, thành lập một viện nghiên cứu có sự hỗ trợ về kinh phí của nhà nước, có sự quyên góp tự nguyện của những người quan tâm? Nếu nghiên cứu thành công không những có ý nghĩa nhân văn mà còn giúp ích nhiều mặt, kể cả về mặt điều tra hình sự (nếu vong hồn người bị giết nói ra thì kẻ giết người tránh sao khỏi tội?).

5. Trong khi chờ đợi kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, cần có những chính sách, chế độ ưu đãi cho các nhà ngoại cảm để họ có thể phát huy cao hơn nữa khả năng đặc biệt vào việc tìm kiếm hài cốt các liệt sĩ, thoả lòng mong ước của hàng chục vạn gia đình. Tránh những lời bổ báng vội vã, tránh vơ đũa cả nắm giữa các nhà ngoại cảm có khả năng thực sự với những kẻ buôn thần bán thánh, lợi dụng mê tín dị đoạn để loè bịp, trục lợi.

* Trong bài viết này, chúng tôi có sử dụng một số tư liệu của gia đình GS Trần Phương

Kỳ 14: HÀNH TRÌNH TÌM MỘ CHỊ GÁI CỦA GIA ĐÌNH TƯỚNG TRẦN ĐỘ

“Bác Câu tôi hy sinh được 13 năm, tôi mới cất tiếng khóc chào đời. Nhưng hình ảnh của bác, cuộc đời hoạt động cách mạng đầy chông gai và cả cái chết đầy thương cảm của bác vẫn mãi sống trong tâm trí tôi qua lời kể của bà, của cha. Tôi vẫn nhớ như in hồi còn nhỏ ở với bà, vào những đêm trăng sáng, bà thường kể cho tôi nghe về bác Câu. Có những chuyện, bà kể đi kể lại nhiều lần như một niềm thôi thúc. Và lần nào cũng thế, câu chuyện đều bị bỏ giữa chừng vì tiếng khóc tắc nghẹn của bà. Bà vừa nghẹn ngào khóc, vừa xót xa kể lể: Bác Câu tôi từ lúc sống cho đến lúc chết, chưa một ngày được an nhàn, sung sướng. Mới tẹo tuổi đầu đã phải lam làm suốt ngày để giúp mẹ nuôi các em. Lớn lên đi theo cách mạng rồi biền biệt không về. Rồi tù đày, bị đánh đập, tra tấn dã man. Đến lúc chết cũng cô độc một mình trong tù. Mồ mả mất tích nơi nào chẳng ai rõ. Khổ thân bác, không chồng con, chẳng ai hương khói. Tiếng khóc tắc nghẹn của bà khiến tôi cũng sụt sùi khóc theo. Nghĩ mà thương bà, xót thương cho bác Câu quá. Tôi an ủi bà: “Bà ơi! Bà đừng khóc nữa. Sau này lớn lên, cháu sẽ đi tìm mộ bác Câu về cho bà”. Thế mà, cũng phải ngót 50 năm sau, lời hứa ấy, tôi mới thực hiện được”. Câu chuyện về hành trình đi tìm mộ nữ liệt sĩ Tạ Thị Câu được bắt đầu bằng những dòng hồi ức buồn, đầy tâm trạng của ông Trần Toàn Thắng, con trai cả của tướng Trần Độ.

Bà nội tôi sinh hạ được 4 người con. Cha tôi, tướng Trần Độ (tên thật là Tạ Ngọc Phách – PV), thứ 3. Chị thứ hai giáp cha tôi là bác Tạ Thị Câu. Cô Tạ Thị Xuyến là út. Ông nội mất sớm, bà ở vậy, một nách nuôi 4 con. Bác Câu hơn cha tôi 4 tuổi, thường đi buôn bán các chợ xa phụ giúp bà. Bác Câu yêu quý cha tôi lắm, thường mua quà và kèm cặp cha học hành. Bác hay khoe với bạn bè về cha với một niềm tự hào rất lớn. Ngay từ năm 17 tuổi, khi phong trào dân chủ vừa nổ ra, bác đã tham gia hoạt động cách mạng. Cho đến năm 1939, bác đã là Tỉnh uỷ viên tỉnh Thái Bình. Chính bác là người đã dìu dắt cha tôi đến với cách mạng, trực tiếp thử thách, khuyến khích rồi giới thiệu cha tôi vào Đảng. Năm 1940, ở làng tôi (thôn Thư Điền, xã Tây Giang, huyện Tiền Hải, Thái Bình) nổ ra cuộc mít tinh ở cánh đồng Đông Lang. Bị lính phủ và tuần phiên khủng bố đẫm máu, Bác Câu và cha tôi nửa đêm vượt cánh đồng đi làm cách mạng chuyên nghiệp. Nghe đâu, bác làm việc cho xứ uỷ Bắc Kỳ nhưng cụ thể làm gì thì tôi không được rõ.

Năm 1941, cha tôi bị giặc bắt, chịu án 15 năm tù rồi bị đày lên Sơn La. Cũng thời gian đó, bác Câu bị bắt. Giặc giam bác ở nhà tù Hoả Lò cùng với nhiều chiến sĩ kiên trung, trong đó có bác Nguyễn Thị Minh Thái (Vợ trước của Đại tướng Võ Nguyên Giáp), bác Trương Thị Mỹ (sau là chủ tịch liên đoàn lao động Việt Nam) và bà Nguyễn Thị Hằng (sau này lấy cha tôi). Trong suốt mấy năm trời, hai chị em vẫn thường xuyên liên lạc thư từ. Và bác Câu, vẫn là người chị thảo hiền, yêu em hết mực, thỉnh thoảng vẫn gửi quà và xé áo của mình khâu những chiếc khăn gửi lên cho cha để chống trọi với cái giá lạnh miền sơn cước. Thế rồi, năm 1944, trên đường bị giặc giải từ Sơn La về Hoả Lò (Hà Nội) để đầy đi Côn Đảo, cha tôi được Chi bộ nhà tù tổ chức cho trốn thoát. Từ đấy, hai chị em bặt tin nhau. Sau này, cha tôi nghe mọi người kể lại, bác Câu bị ốm chết trong nhà tù Hoả Lò. Giấy báo tử của chính quyền Pháp gửi cho bà nội tôi ghi: bác mất ngày 29 tháng 9 năm 1944. Cái chết của bác khiến cả nhà khóc thương, nhất là cha tôi. Ông xót xa bảo: Nếu bác Câu sống thêm mấy tháng nữa, bác sẽ được chứng kiến ngày cách mạng thành công. Bác chết trẻ quá, 25 tuổi đầu, hình như trong đời chưa một lần được yêu. Càng xót xa hơn khi không biết hài cốt bác giặc chôn ở nơi nào?

Chưa kịp đi tìm mộ bác thì cả nước lại bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, bụi trường chinh cuốn cha đi. Thỉnh thoảng, cha về, cả nhà lại sụt sùi khóc nhớ thương bác. Cha bảo: “Bác Câu bị ốm đau chết trong tù, chắc là Pháp chôn qua quýt ở đâu đó. Rất có thể là ở khu vực trường bắn của Pháp ở Hoàng Mai, nơi bác Hoàng Văn Thụ bị bắn”. Sau này, vào đầu những năm 90 của thế kỷ 20, khi những thông tin về việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ của các nhà ngoại cảm Việt Nam đăng rầm rộ trên các báo, đài, nhất là khi được nghe Giáo sư Trần Phương kể tường tận hành trình đi tìm mộ người em gái vốn là đội trưởng đội nữ du kích Hoàng Ngân, cha tôi và cả gia đình mới loé lên hy vọng tìm thấy mộ bác Câu. Tôi nhớ, khoảng năm 1997, qua một người quen giới thiệu, cha tôi đã liên lạc được với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, người đang nổi tiếng với việc chỉ dẫn tìm kiếm hàng ngàn hài cốt liệt sĩ. Qua điện thoại, cha tôi nói: “Tôi có một người chị gái bị tù ở Hoả Lò rồi ốm chết trước cách mạng tháng Tám. Không biết bây giờ mộ ở đâu?”. Anh Liên bảo: “Còn mộ đấy, có thể tìm được. Ông đứng trước cửa Hoả Lò, chiếu thẳng về hướng Nam, cách khoảng 2 km, mộ sẽ nằm ở đó. Nhưng tôi sợ bây giờ nhà cửa của dân xây san sát như thế, mộ nằm phía dưới sẽ rất khó tìm đấy”. Cha tôi đối chiếu bản đồ, thấy rõ khu vực ông Liên chỉ là vùng Bạch Mai, Hoàng Mai bây giờ. Cha tôi sực nhớ đến thiếu tướng Chu Phác, người đồng đội cũ, hiện là Chủ nhiệm bộ môn Cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người).

Ông quen biết khá nhiều nhà ngoại cảm nổi tiếng như Nguyễn Văn Liên, Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bảy, Thẩm Thuý Hoàn, Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Thị Phương. Cha tôi liền tìm đến thiếu tướng nhờ giúp đỡ. Ông vui vẻ nhận lời và lên kế hoạch tìm mộ gồm 2 bước:

Bước một, nhờ một số nhà ngoại cảm, hoạt động độc lập, bằng khả năng đặc biệt, rất riêng của mình, thu nhận thông tin về bác Câu. Sau đó, sẽ đối chiếu các thông tin ấy với nhau, tìm ra một đáp số chung nhất.

Bước hai, từ đáp số chung ấy sẽ tiến hành làm các thủ tục khai quật. Khi khai quật vẫn phải có sự tham gia của các nhà ngoại cảm trực tiếp hoặc gián tiếp (qua điện thoại), theo dõi, hướng dẫn và điều chỉnh cho đến khi tìm được hài cốt.

Ngày 4 tháng 8 năm 2000, thiếu tướng Chu Phác cùng nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy đến nhà tôi ở Trần Hưng Đạo (Hà Nội). Anh Bảy ngồi đối diện với cha tôi, chăm chú nhìn vào trán ông, miệng hỏi, tay vẽ sơ đồ. Anh Bảy cho biết: Mộ bác Câu tôi hiện vẫn còn, nằm gần mộ ông Hoàng Văn Thụ, trong vùng bãi bắn Hoàng Mai. Mộ bác ở cạnh một vũng nước, trong khu vực có nhiều mộ. Có những bộ hài cốt đã chuyển đi. Khu vực này có những công trình kiến trúc lớn như đình, chùa, trường học, xưởng máy. Đường xá vào đó khá ngoằn ngoèo.

Ngày 25 tháng 11 năm 2000, thiếu tướng Chu Phác lại dẫn một nhà ngoại cảm khác là Nguyễn Mạnh Hùng đến gặp cha tôi.

Anh Hùng sinh ngày 15 tháng 6 năm 1959 trong một gia đình làm nghề đông y lâu đời ở 35 phố Lãn Ông, quận Hoàn Kiếm (Hà Nội). Anh đã từng tốt nghiệp trường trung cấp y học Tuệ Tĩnh, có tay nghề bốc thuốc. Được ông cha truyền thủ thuật bắt mạch bệnh nhân, đặc biệt là bắt mạch thái tố, Dương Mạnh Hùng thấy dần hình thành trong mình khả năng ngoại cảm. Qua việc đặt 3 ngón tay lên mạch ở cổ tay đối tượng, Hùng có thể thấy một phần quá khứ, hiện tại và tương lai của họ, thấy một số điều về tổ tiên, cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái, thấy địa hình, địa vật nơi mồ mả cần tìm… Với cha tôi, anh cũng làm vậy. Bắt mạch thái tố cho cha tôi, anh hỏi: “Trong nhà bác có người phụ nữ nào chết từ lúc còn rất trẻ không?”. Cha tôi trả lời: “Có anh ạ! Đó là bà chị tôi. Hiện tôi đang muốn tìm mộ chị ấy”. Cha tôi vừa nói dứt lời, anh Hùng đã nhìn xoáy vào góc phòng, miệng lẩm bẩm: “Đã xuất hiện rồi”. Cha tôi sốt sắng hỏi: “Anh nói cái gì. Ai xuất hiện cơ ạ?”. Anh Hùng vẫn khẽ khàng: “Chị gái bác ấy”. Nói đoạn, anh bảo cha tôi đưa cho tờ giấy trắng và cái bút rồi phác thảo ngay một khuôn mặt phụ nữ. Cha tôi nhìn, giật mình thấy khuôn mặt trong giấy giống chị Câu như đúc. Từ đấy, anh Hùng cứ nắm chặt lấy cổ tay cha tôi, mắt nhìn chăm chú vào góc phòng và bắt đầu trò chuyện. Cha tôi muốn rút tay ra nhưng anh Hùng bảo: “Cháu rời tay bác ra là bà ấy biến mất ngay”. Anh Hùng cứ thủ thỉ trò chuyện như thể bác Câu tôi đang đứng ngay trước mặt anh. Cuộc nói chuyện khá dài, tôi không nhớ hết. Tóm tắt những thông tin thu được là: Bà Câu là một người con gái trẻ đẹp, to cao, bị ốm phù nề rồi chết. Mộ bây giờ ở một nơi giống bãi tha  ma. Muốn đi tới đó, phải qua những con đường ngoằn ngoèo có tên là Bạch Mai, Trương Định, Hoàng Mai. Mộ ở gần một ngôi chùa và đình, gần một hàng nước mà ông chủ hàng là một ông già độ 60 tuổi tên Trúc có bà vợ tên Thu. Vong bà Câu hay về nhà ông Trúc. Dân quanh vùng làm nghề đậu phụ, gần một cái chợ. Gần mộ bà Câu có một cây hoa râm bụt đỏ, một cây hoa trinh nữ trắng, cạnh một bãi phẳng như sân bóng. Bà Câu chết vào năm Giáp Thân (1944), vào mùa thu, tháng 8, đêm 26 rạng ngày 27 âm lịch. Cứ như trí nhớ của mẹ tôi (bà Nguyễn Thị Hằng – PV), người đã ở tù cùng bác Câu thì một buổi sáng, mẹ đến làm vệ sinh cho bác đã thấy bác nằm chết cứng. Có thể, bác chết lúc gần sáng. Bác chết năm trước thì năm sau Nhật đảo chính Pháp. Vì thế, mẹ cứ tiếc bác Câu tôi không sống thêm mấy tháng để trốn khỏi nhà tù. Năm sau là năm 1945, vậy năm trước đúng là năm 1944 (Giáp Thân).

Anh Hùng cho biết thêm: Hài cốt của bác Câu còn có một chứng tích, đó là hàm răng đen của bác bị gãy mất một cái. Bác đồng ý cho gia đình tôi bốc hài cốt bác đưa về quê. Anh Hùng hai lần hỏi bác câu này và cả hai lần, bác Câu gật đầu.

Trong suốt hai ngày, 26 và 27 tháng 11 năm 2000, thiếu tướng Chu Phác đã đưa 3 nhà ngoại cảm là Nguyễn Khắc Bảy, Dương Mạnh Hùng và Thẩm Thuý Hoàn đi thực địa. Họ đến làng Hoàng Mai, tìm đến chùa Nga My và ngôi đình làng, nơi thờ tướng quân Trần Khát Chân, ra khu vực nghi ngờ có mộ bác Câu tôi. Điều kỳ lạ là tất cả những gì hiện hữu trước mặt lúc ấy đều trùng khớp với những thông tin mà các nhà ngoại cảm cung cấp từ trước. Đình, chùa, bãi đất phẳng như sân bóng, một khu đất trống rộng chừng mấy chục m2 có rất nhiều mộ. Mộ bác Câu tôi nằm bên cạnh một vũng nước, cách cây hoa đại trắng chừng 3-4m. Cây đại cao hơn bức tường bao quanh, cạnh một bụi cỏ khô mọc trên một chiếc thùng phuy đã hoen rỉ. Mộ chỉ là một mô đất cao độ 10 -20 cm, bên cạnh con đường xi măng nhỏ, phía sau đình và gần chùa. Nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn còn cung cấp thêm thông tin: mộ bác Câu nằm chếch, đầu gối vào cột trụ, bị cột trụ đè lên một ít, chân hướng về phía đường đi.

Cũng trong ngày 26 tháng 11, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã có cuộc gọi hồn bác Câu tôi tại văn phòng của Bộ môn cận tâm lý ở 46 Nguyễn Văn Ngọc (Hà Nội). Thông tin Bích Hằng nhận được là: Đến làng Hoàng Mai hỏi chùa Nga My, cách một khu vườn vài chục mét. Mộ nằm ở nơi đất bằng phẳng, cạnh gốc cây chuối gần chùa Nga My và đền thờ Trần Khát Chân. Có cây hoa đại, mộ nhìn lên hàng rào dây thép gai ở đầu nhà dân. Bác Câu mặt bị sưng to và nằm nghiêng, sâu độ 70 -90cm. Mộ không có tiểu, khi đào phải cẩn thận.

Như vậy, các thông tin mà các nhà ngoại cảm thu nhận được về phần mộ bác Câu tôi khá đầy đủ, chi tiết. Điều đặc biệt là tuy các nhà ngoại cảm làm việc độc lập với nhau song các tín hiệu đưa ra có nhiều điểm trùng hợp. Điều đó khiến cả nhà tôi vui mừng và tràn đầy hy vọng, nhất là cha tôi. Ngày 13 tháng 12 năm 2000, cha tôi điện thoại vào thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu tôi thu xếp công việc ra Hà Nội để thay cha tìm mộ bác. Cha tôi lúc này đã 78 tuổi, lại đang vào giai đoạn cuối của bệnh tiểu đường nên sức khoẻ sa sút trầm trọng. Tôi là con trưởng, lại sẵn tình cảm xót thương bác Câu nên nhanh chóng sắp xếp hành lý ra Hà Nội ngay. Trước khi lên máy bay, thiếu tướng Chu Phác có điện thoại cho tôi, yêu cầu tôi liên lạc với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã ở thành phố Hồ Chí Minh.

Qua điện thoại, anh Nhã cung cấp thông tin:

-           Vị trí mộ đúng như các nhà ngoại cảm ở Hà Nội đã xác định.

-           Cách mộ hơn 3m về phía tây có một cây hoa đại trắng cao hơn 3m.

-           Cách mộ chừng 1,5m có bụi cỏ khô cao hơn 1m.

-           Trên mộ có 3 mảnh thuỷ tinh hoặc sành lấp lánh.

-           Mộ gần vũng nước.

-           Năm ngày nữa anh đến, cách mộ mấy mét có con gà trống kiếm ăn ở đó.

Kỳ 15: TRỞ VỀ QUÊ MẸ

Đặt chân đến Hà Nội hôm trước, ngày hôm sau, tôi xuống thẳng Hoàng Mai để khảo sát địa hình, đồng thời, để kiểm chứng tính xác thực của những thông tin mà các nhà ngoại cảm Bích Hằng, Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Khắc Bảy, Thẩm Thúy Hoàn, Nguyễn Văn Nhã… cung cấp. Tôi thấy mộ bác Câu tôi là một mô đất đen, nằm cạnh con đường xi măng nhỏ, gần một vũng nước dài đến 2m, rộng chừng 1m. Mộ nằm trong khoảnh đất trống rộng độ 30m2, xung quanh là nhà dân với tường bao quanh che kín hết. Muốn ra mộ, tôi phải đi qua nhà chị Ngà. Gia đình chị ở đây đã lâu nên quá quen thuộc với các cuộc tìm kiếm, bốc mộ. Chị đã cho tôi nhiều lời khuyên bổ ích. Quan sát kỹ, tôi thấy cái khoảnh đất mấy chục mét vuông này còn rất nhiều ngôi mộ khác, trong đó, có chừng 10 ngôi đã dựng bia. Bất chợt, mắt tôi bị hút vào ngọn cây đại nhô lên từ bức tường hướng tây, cách mộ bác Câu hơn 3m. Tôi thấy cả lùm cỏ khô ở trên cao hơn 1m vì lùm cỏ này mọc trên một cái ống xi măng dựng đứng. Điều đặc biệt là ngày 18 tháng 12 năm 2000, tức là đúng 5 ngày sau cuộc điện đàm với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, tôi cùng thiếu tướng Chu Phác xuống thực địa lần nữa thì bất ngờ gặp một con gà trống mào đỏ au đang tha thẩn đào bới kiếm mồi ở gần mộ bác Câu. Kỳ lạ hơn nữa khi chị Ngà cho biết, con gà này là của chị, vốn thường ngày chị nhốt ở trong chuồng. Nhưng không hiểu sao, sáng nay đã bảnh mắt rồi mà nó cứ đập cánh gáy ran rồi lồng lộn trong chuồng. Bực mình, chị mở cửa chuồng cho nó ra đúng lúc tôi và thiếu tướng Chu Phác đến. Tôi vô cùng ngạc nhiên về chuyện này. Điều đó càng khẳng  định thêm độ chính xác cho thông tin của anh Nhã.

Đến lúc này, gia đình tôi xác định với thiếu tướng Chu Phác: vị trí mộ bác Câu chính xác đến hơn 90% rồi. Tất cả những thông tin của các nhà ngoại cảm về địa hình, địa vật, đường dẫn đến ngôi mộ… hầu hết trùng khớp, tuy cách diễn đạt có khác nhau và có đôi chút sai lệch. Cần phải tổ chức bốc mộ sớm vì đã năm cùng tháng tận, vả lại, tôi cũng không thể ở Hà Nội lâu được. Sau khi cân nhắc kỹ, gia đình tôi quyết định chọn ngày 27 tháng 12 (tức mồng 2 tháng chạp) sẽ tiến hành khai quật mộ bác Câu.

Chờ đợi 9 ngày trời mà sao tôi thấy dài đằng đẵng như 9 năm. Để khỏi sốt ruột, gia đình tôi về quê làm việc với huyện Tiền Hải, đào và xây sẵn mộ trong nghĩa trang liệt sĩ của huyện, chuẩn bị cho lễ truy điệu bác Câu. Cuối cùng, ngày 27 cũng đến. Tôi vẫn nhớ, trời hôm đó tuy cuối đông nhưng rất ấm áp, nắng vàng như mật. Cả gia đình tôi kéo xuống làng Hoàng Mai. Cha tôi tuy đau yếu cũng cố đi. Cha muốn tận tay thắp hương và khấn người chị yêu quý của mình. Những thủ tục tâm linh cần thiết đều làm trọn vẹn. Đúng 9 giờ sáng, những nhát cuốc đầu tiên bập vào ụ đất thấp lè xè bên đường. Bỗng dưng tôi thấy hoang mang lạ. Vì lúc này, không có một nhà ngoại cảm nào bên cạnh chúng tôi. Bích Hằng thì đang ở tít tận Tây Nguyên. Các nhà ngoại cảm khác, người thì bận đi học, người thì đi công tác. Tìm hiểu về các vụ tìm mộ trước đó, tôi biết, không phải trường hợp nào cũng tìm thấy hài cốt. Bởi khi đào thực địa, có thể có những sai lệch. Biết đâu, trường hợp bác Câu tôi cũng thế thì sao?

Đào bới chừng hơn một tiếng đồng hồ thì tốp thợ buộc phải dừng lại vì mặt trời đã lên gần đến đỉnh đầu, ánh nắng quá rực rỡ sợ làm tổn thương hài cốt. Chờ đến tận 4 giờ chiều, công việc khai quật mới lại tiếp tục. Hố đào sâu chừng 70 cm rồi mà vẫn chưa thấy dấu tích gì. Nước mạch tràn vào ào ạt khiến tốp thợ phải hì hục vừa đào vừa tát. Thiếu tướng Chu Phác vội điện thoại cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã. Từ thành phố Hồ Chí Minh, anh Nhã chỉ dẫn:

- Đào sâu thêm 60 – 70 cm nữa.

- Đào chếch về phía người thợ mặc áo xanh nhạt.

- Đào về phía rãnh nước.

Anh Nhã còn nhắc nhở cần phải khấn các vong linh xung quanh đó phù hộ cho bớt nước ở  các mạch tràn vào huyệt. Tôi vội vàng thắp hương khấn vái. Và kỳ lạ thay, chừng 10 phút sau, lượng nước chảy giảm hẳn, công việc đào bới trở nên thuận lợi rất nhiều.

Cũng qua điện thoại, nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn chỉ dẫn thêm:

- Đào về phía rãnh nước.

- Đào sâu đến 2m.

- Đào vuông thành sắc cạnh, đừng đào lòng chảo.

Thực hiện đúng như chỉ dẫn, tốp thợ đào miết đến 21h 30, độ sâu chừng 2m thì lưỡi xẻng chạm vào một cái tiểu sành. Tôi càng hoang mang. Vì trước đó, không một nhà ngoại cảm nào nói bác tôi nằm trong tiểu. Bích Hằng chỉ nói bác tôi chết trong tình trạng người bị phù, chôn trong tư thế nằm nghiêng. Các nhà ngoại cảm khác, người thì nói bác tôi được chôn trong hòm gỗ, người thì bảo không có hòm. Cha tôi còn hoang mang hơn. Ông suy luận: khoảng những năm 1940, thân phận một người tù, hơn thế, một người tù cộng sản như bác tôi, không thể được chôn cất chu đáo, tử tế như thế. Cùng lắm thì được chôn trong chiếc quan tài bằng gỗ tạp, còn thường thì bó chiếu. Bởi vậy, cha tôi nghĩ, hài cốt bác Câu chỉ là những mẩu xương nằm lẫn trong bùn đất đen. Khi tìm thấy, phải nhặt kỹ càng cho bằng hết.

Bỗng dưng tôi sực nhớ đến lời anh Nhã nói qua điện thoại hôm tôi ở sân bay chuẩn bị ra Hà Nội: “Tôi linh cảm thấy hài cốt của bác Câu còn nguyên vẹn vì tín hiệu phát ra mạnh lắm. Chính vì tín hiệu mạnh này mà nhiều nhà ngoại cảm đều có thể tìm thấy mộ”. Tôi vội vàng điện thoại ngay cho anh Nhã, thông báo đã chạm tiểu. Anh bảo: “Đúng là hài cốt của bác Câu rồi. Trước đây, có một gia đình đã đào để tìm mộ nhưng thấy nhầm lẫn nên họ đã đưa hài cốt bác Câu vào tiểu và chôn cất lại cẩn thận. Đó là nghĩa cử thường thấy ở nhiều địa phương”. Những người dân xung quanh đứng xem từ chiều cũng khẳng định: ở khu đất trống này do có nhiều mộ nên chuyện đào nhầm thường xảy ra. Và để tạ lỗi với người đã khuất, bao giờ khổ chủ cũng đưa hài cốt vào tiểu sành chôn lại tử tế. Trường hợp bác Câu không phải là cá biệt.

Chiếc tiểu đựng hài cốt bác Câu tôi có tuổi thọ khá tốt. Vùi sâu dưới lòng đất mấy chục năm rồi mà thành tiểu vẫn rắn như đanh. Khi mở nắp tiểu, tôi đã bật khóc vì xúc động và sung sướng khi thấy hài cốt của bác gần như còn nguyên vẹn. Xương sọ còn nguyên. Những người thợ đào nhận xét: xương chân tay to thế này chứng tỏ người mất rất cao lớn. Cha tôi gật đầu xác nhận. Và khi đưa ảnh của bác Câu cho họ xem để đối chiếu với xương sọ, họ bảo rất khớp. Đây đúng là mộ bác Câu. Riêng tôi, có một bằng chứng khiến tôi hoàn toàn tin tưởng đây chính là hài cốt của người bác ruột mình. Đó là hai hàm răng đen gần như còn nguyên vẹn, chỉ thiếu duy nhất một chiếc, đúng như tín hiệu mà nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng đã cung cấp.

22h30, việc chuyển hài cốt bác tôi sang tiểu mới, có rửa nước thơm, ướp trà thơm, bọc trong vải đỏ đã xong. Tôi và Quang, người em ruột vội về nhà lấy ảnh, bia khắc sẵn và bát hương rồi ngay đêm hôm ấy, đưa bác tôi về Tây Giang, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, về chính mảnh đất mà bác tôi đã sinh ra và lớn lên. Ngày 28 tháng 12 năm 2000, lễ truy điệu bác tôi được cử hành trọng thể và hài cốt được đưa vào yên nghỉ tại nghĩa trang của huyện, chấm dứt 56 năm bơ vơ nơi đất khách quê người.

H.A.S

Ông Trần Toàn Thắng: Qua hành trình tìm mộ liệt sĩ Tạ Thị Câu, tôi thấy khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là có thật. Tuy nhiên, các thông tin họ đưa ra, không thể lúc nào cũng chính xác 100%. Vì sự thu nhận của họ (trông thấy và nghe thấy) có nhiều yếu tố thời gian và không gian tác động. Bởi vậy, Bộ môn cận tâm lý đã có một cách làm rất khoa học, đó là lựa chọn các thông tin trùng khớp nhau của nhiều nhà ngoại cảm để tìm ra những thông tin gần với sự thật nhất. Việc làm của họ có ý nghĩa rất lớn, giúp bao gia đình xoa dịu nỗi đau vì mất người thân. Tôi thấy đó là những năng lực lớn. Tôi ủng hộ họ và ủng hộ cách làm có tính khoa học dựa vào các tiềm năng con người vì con người.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro