hanjieun - du thao BVNTD

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Góp ý hoàn thiện Dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng

Luật gia Vũ Xuân Tiền

Tổng Giám đốc Công ty cổ phần

Tư vấn Quản lý và Đào tạo VFAM Việt Nam

Dự thảo 4 Luật Bảo vệ người tiêu dùng ( DT4) đã được Ban soạn thảo đưa ra trưng cầu ý kiến góp ý của nhân dân, các doanh nghiệp, các nhà quản lý và nghiên cứu. Với 9 chương, 71 Điều khoản, DT4 đã đề cập đến rất nhiều vấn đề nhằm bảo vệ đến mức cao nhất cho người tiêu dùng. Đó là một tất yếu khách quan của kinh tế xã hội chủ nghĩa và đáp ứng những yêu cầu cao hơn của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, để Luật Bảo vệ người tiêu dùng phát huy tác dụng tích cực trong cuộc sống, bảo đảm sự hài hòa về lợi ích giữa người sản xuất, kinh doanh với người tiêu dùng, còn những vấn đề trong DT4 cần được xem xét một cách toàn diện và hài hòa hơn.

Với các thương nhân - cần minh bạch hơn về quyền và trách nhiệm

Các thương nhân - người sản xuất, kinh doanh hàng hóa và cung ứng dịch vụ là đối tượng quan trọng nhất trong việc thực hiện Luật Bảo vệ người tiêu dùng (BVNTD). Vì vậy, các quy định của Luật cần bảo đảm sự minh bạch đến mức cao nhất về quyền và nghĩa vụ của thương nhân. Với mục đích trên, xin kiến nghị bổ sung, sửa đổi những vấn đề sau:

1. Về trách nhiệm thông tin cho người tiêu dùng: Đề nghị bổ sung vào Điều 6 DT 4 một trách nhiệm quan trọng của thuơng nhân là: "Cung cấp cho người tiêu dùng các bằng chứng về cơ sở pháp lý của hàng hóa, dịch vụ do thương nhân kinh doanh". Đây là thông tin có ý nghĩa rất quan trọng để người tiêu dùng biết rõ hàng hóa sẽ mua và sử dụng xuất xứ từ đâu, có phải là hàng hóa hợp pháp hay không. Việc cung cấp thông tin trên còn nhằm ngăn chặn những hành vi lừa đảo, bán và cung ứng những thứ mà thương nhân không hoặc chưa có như việc bán nhà từ các dự án "ma" đã và đang xẩy ra.

2. Về trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng: tiết c khoản 3, Điều7, DT 4 đã quy định trách nhiệm của bên thứ ba là: "c) Chịu trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ, trừ trường hợp chứng minh được đã thực hiện tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để kiểm tra tính chính xác và đầy đủ của thông tin". Quy định như trên là hợp lý. Song, thông qua quảng cáo để cung cấp thông tin cho người tiêu dùng là biện pháp phổ biến hiện nay của các thương nhân. Trong trường hợp này, bên thứ ba là tổ chức kinh doanh dịch vụ quảng cáo, đơn vị phát hành quảng cáo. Vì vậy, để đảm bảo sự đồng bộ của Luật, cần bổ sung quy định nêu trên vào Luật Quảng cáo. Rất đáng tiếc, tại Điều 10 Nghĩa vụ của người kinh doanh dịch vụ quảng cáo và Điều 14. Nghĩa vụ của người phát hành quảng cáo trong Dự thảo Luật Quảng cáo đã công bố lại không quy định trách nhiệm liên đới này.

3. Về hành vi ép buộc người tiêu dùng: Khoản 4 Điều 9 DT 4 quy định một hành vi được coi là ép buộc người tiêu dùng và bị cấm đối với các thương nhân là: "Từ chối giao dịch với một hoặc một số người tiêu dùng nhất định trong cùng các điều kiện thương mại mà thương nhân đã thực hiện giao dịch với khách hàng khác, trừ các trường hợp bất khả kháng". Chúng tôi cho rằng quy định như trên không hợp lý vi phạm quyền của thương nhân trong mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ quy định trong Luật Doanh nghiệp, Luật Dân sự và Luật Thương mại.

4. Về hợp đồng theo mẫu: Khoản 4 Điều 13 DT 4 quy định: "Thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho người tiêu dùng có sử dụng hợp đồng theo mẫu phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng trước khi sử dụng". Theo chúng tôi, quy định nêu trên là không cần thiết và về bản chất là làm phát sinh thêm một "giấy phép con". Chỉ cần quy định: "Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng có quyền yêu cầu thương nhân hủy bỏ hoặc sửa đổi hợp đồng theo mẫu theo đề nghị của người tiêu dùng hoặc trong trường hợp phát hiện quy định trong hợp đồng vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng" tại khoản 5 Điều 13 là đủ phục vụ cho mục đích bảo vệ người tiêu dùng,

Công tác quản lý về bảo vệ người tiêu dùng - cần đảm bảo tính khả thi

Công tác quản lý nhà nước nhằm thực hiện Luật BVNTD có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, để công tác quản lý nhà nước có hiệu lực trong thực tế, rất cần đảm bảo tính khả thi cho những quy định trong văn bản luật. Về vấn đề này, đề nghị nghiên cứu kỹ hơn những vấn đề sau:

1.Về trung tâm hòa giải: Điều 25 DT 4 quy định: "1. Trung tâm hòa giải là tổ chức phi lợi nhuận, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. 2. Trung tâm hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí hòa giải và các nguồn thu hợp pháp khác". Với quy định như trên, những câu hỏi được đặt ra là: Trung tâm hòa giải là loại hình tổ chức gì? Hoạt động hòa giải rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ phải có kiến thức sâu và rộng, song trung tâm hòa giải lại là một tổ chức phi lợi nhuận, không được hỗ trợ từ NSNN, phải tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí hòa giải thì liệu trung tâm hòa giải có tồn tại được hay không? Có những biện pháp gì để ngăn chặn hiện tượng hoạt động thu lợi nhuận núp dưới danh nghĩa một tổ chức "phi lợi nhuận"? Có thể giao việc hòa giải giữa thương nhân và người tiêu dùng khi có tranh chấp cho Trọng tài kinh tế, các văn phòng luâtl sư, các công ty tư vấn được thành lập hợp pháp được không?

2. Về thủ tục hòa giải: Khoản 4 Điều 28 DT 4 quy định: "Các bên tranh chấp có quyền rút khỏi quá trình hoà giải tại bất kỳ thời điểm nào sau khi đã có thông báo bằng văn bản cho Trung tâm hoà giải và bên kia".Chúng tôi cho rằng, quy định như trên không hợp lý có thể dẫn đến sự tùy tiện trong việc khiếu kiện của người tiêu dùng. Hơn nữa, rất có thể từ quy định "quá thoáng" này, hành vi khiếu kiện nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh được thực hiện, gây rắc rối cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của thương nhân bị khiếu kiện trong một thời gian nhất định sau đó sẽ rút khỏi quá trình hòa giải.

3. Về giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành: Khoản 2. Điều 30 DT 4 quy định: "Trong trường hợp một bên không tự nguyện thi hành các nghĩa vụ theo biên bản hòa giải thành thì bên kia có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 31 của Luật này ra quyết định buộc thi hành" và khoản 2 Điều 33 DT 4 quy định: " 2. Trong trường hợp bên phải thi hành nghĩa vụ không thực hiện quyết định của Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng tại địa phương thì Cơ quan bảo vệ người tiêu dung có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế quy định tại khoản 3 Điều này". Những quy định nêu trên về giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành không tương xứng với địa vị pháp lý của Trung tâm hòa giải. Nếu thực hiện theo những quy định đó, Trung tâm hòa giải đã làm thay công việc của Tòa án hoặc cơ quan Trọng tài.

4. Về cơ quan bảo vệ người tiêu dùng: Khoản 1 Điều 54 quy định: "Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng là cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng". Thiết nghĩ, Luật cần làm rõ đó là cơ quan nào? Sẽ thành lập mới hay bổ sung chức năng cho các cơ quan hiện nay? Khoản 2 Điều 61 qiuy định: "Tổ chức bảo vệ người tiêu dùng được thành lập và hoạt động theo các quy định của pháp luật" và khoản 3 quy định: " 3. Tổ chức bảo vệ người tiêu dùng hoạt động phi lợi nhuận và không nhận tài trợ, hỗ trợ tài chính trực tiếp từ các thương nhân". Tương tự như Trung tâm hòa giải, tổ chức bảo vệ người tiêu dùng sẽ được thành lập và hoạt động theo Luật nào? Nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động được lấy từ đâu? Đó là vấn đề rất quan trọng cần được giải quyết để tổ chức bảo vệ người tiêu dùng có thể hoạt động được.

Cần hướng đến việc hình thành những người tiêu dùng văn minh

Người tiêu dùng là đối tượng điều chỉnh của Luật BVNTD. Hơn nữa, Luật BVNTD cần đặt ra mục tiêu từng bước hình thành những người tiêu dùng văn minh, có đủ kiến thức tự bảo vệ mình. Với mục đích đó, xin kiến nghị:

1.Bổ sung vào DT 4 điều khoản về trách nhiệm tự bảo vệ của người tiêu dùng với những nội dung như: người tiêu dùng có trách nhiệm tìm hiểu về chất lượng, xuất xứ, cơ sở pháp lý của hàng hóa, dịch vụ sẽ tiêu dùng; không tiêu dùng những hàng hóa không rõ về cơ sở pháp lý, gây ảnh hưởng tới môi trường sống, có thể nguy hiểm cho sức khỏe, tính mạng....

2. Về trách nhiệm của người tiêu dùng trong vụ án dân sự: Khoản 1 Điều 44 DT 4 quy định: " 1.Trong vụ án dân sự về bảo vệ người tiêu dùng, người tiêu dùng và tổ chức bảo vệ người tiêu dùng không phải đưa ra chứng cứ để chứng minh lỗi của thương nhân". Theo chúng tôi, quy định nêu trên không hợp lý, đã bảo vệ quá mức cần thiết đối với người tiêu dùng và có thể dẫn đến những hành vi vi phạm khác nghiêm trọng hơn.

Nguồn: Diễn đàn Doanh nghiệp

Góp ý Dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng

VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM

TS. PHAN HUY HỒNG

Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

Quan hệ giữa người tiêu dùng (NTD) và người cung cấp sản phẩm, dịch vụ (gọi chung là doanh nghiệp) là một loại quan hệ dân sự (phổ biến trong đời sống xã hội). Như vậy chúng phải được thiết lập, thực hiện và bảo vệ theo các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, bao gồm nguyên tắc tự do thỏa thuận, nguyên tắc bình đẳng, thiện chí và trung thực, tự chịu trách nhiệm, tôn trọng đạo đức tốt đẹp, tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự, tôn trọng lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, nguyên tắc tuân thủ pháp luật và nguyên tắc hòa giải.[1] Tuy nhiên, giữa các chủ thể pháp luật dân sự không tồn tại trạng thái "bình đẳng" một cách tuyệt đối trên thực tế, mà bản thân pháp luật (bao gồm các lĩnh vực pháp luật khác) phải góp phần tạo lập và gìn giữ và bảo đảm sự bình đẳng này.

Trong mối quan hệ này, NTD thường ở vị trí yếu thế, bởi sự hạn chế về thông tin, về kiến thức chuyên môn, về khả năng đàm phán hợp đồng cũng như khả năng tự bảo vệ mình. Để tạo lập, gìn giữ và bảo vệ sự bình đẳng giữa NTD và doanh nghiệp cần có sự can thiệp mạnh mẽ của pháp luật.

Như vậy, trong khi doanh nghiệp được tạo điều kiện để gia nhập thị trường, phát triển kinh doanh thông qua các văn bản pháp luật kinh tế nhấn mạnh đến quyền tự do kinh doanh, thì quyền lợi của NTD được bảo vệ bổ sung bằng các quy định pháp luật được tập hợp dưới tên gọi "pháp luật bảo vệ người tiêu dùng".

Bảo vệ NTD không chỉ là vấn đề của các quốc gia chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường, mà cũng là vấn đề thời sự của các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển. Bảo vệ NTD còn trở nên đặc biệt phức tạp trong điều kiện toàn cầu hóa, khi mà NTD và nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ không chỉ đến từ cùng một quốc gia.

Có thể áp dụng nhiều công cụ và phương pháp khác nhau để bảo vệ NTD. Có các chủ thể với các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau có thể tham gia bảo vệ NTD. Trong đó "các tổ chức bảo vệ NTD" có thể đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng, bảo vệ và phát huy hiệu lực của pháp luật bảo vệ NTD một cách có hiệu quả. Trong phạm vi tham luận này, trước hết tôi xem xét sự tồn tại và chức năng của các chủ thể tham gia bảo vệ quyền lợi của NTD, đặc biệt là các "Hội người tiêu dùng" hay "Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng" (I), tiếp đó đến vai trò của "Hội tiêu chuẩn và bảo vệ lợi ích người tiêu dùng Việt Nam (VINASTAS) và các Hội bảo vệ người tiêu dùng ở các địa phương với tư cách là các tổ chức xã hội (duy nhất hiện nay) có chức năng trực tiếp bảo vệ lợi ích của NTD (II) và cuối cùng là bàn đến vai trò cần phải có của chúng trong tương lai.

1. Hệ thống các chủ thể có chức năng bảo vệ lợi ích của NTD

a. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD là trách nhiệm chung của toàn xã hội

Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 (PLBVNTD) quy định "bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng là trách nhiệm chung của toàn xã hội" (đoạn 1 Điều 2). Quy định này thể hiện một nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và tính cần thiết của việc bảo vệ lợi ích của NTD. Bởi vì các quyền cơ bản của NTD mà Bản hướng dẫn về bảo vệ NTD của Liên Hiệp quốc năm 1985[2] đưa ra, bao gồm (1) quyền được thỏa mãn nhu cầu cơ bản, (2) quyền được an toàn, (3) quyền được thông tin, (4) quyền được lựa chọn, (5) quyền được lắng nghe, (6) quyền được bồi thường, (7) quyền được giáo dục về tiêu dùng và (8) quyền được có một môi trường lành mạnh và bền vững, rõ ràng chỉ có thể được đảm bảo bằng sự chung sức của toàn xã hội.

Trên cơ sở đó Pháp lệnh này quy định: "Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân có trách nhiệm thực hiện các quy định của Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật có liên quan về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân tham gia các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng" (đoạn 2, 3 Điều 2).

Chắc chắn rằng, tất cả các chủ thể này đều cần phải và có thể, phù hợp với chức năng của mình, đóng một vai trò nhất định trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NTD. Tuy nhiên quy định trên chỉ là quy định có tính nguyên tắc, trước hết có giá trị làm căn cứ cho các quy định nghĩa vụ cụ thể khác, từ đó chưa thể rút ra một nghĩa vụ cụ thể nào của các chủ thể được nêu.

b. Cơ quan nhà nước

Căn cứ quy định của PLBVNTD, mọi cơ quan nhà nước đều có trách nhiệm bảo vệ NTD. Tuy nhiên, nhiệm vụ và phương thức thực hiện của các cơ quan nhà nước liên quan đến bảo vệ NTD là rất khác nhau. Có thể phân loại thành các phương thức gián tiếp và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ NTD. Trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ NTD trước hết phải kể đến hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng và quản lý nhà nước về thương mại. Các cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng chỉ áp dụng các biện pháp hành chính và chế tài hành chính trong quan hệ giữa nhà nước với người sản xuất, người phân phối và cung ứng dịch vụ. Trong khi đó, các tranh chấp phát sinh giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp là các tranh chấp dân sự, được giải quyết trước các cơ quan tài phán, ở đó luật được áp dụng để giải quyết mà không tồn tại sự bảo vệ người tiêu dùng theo nghĩa "đứng về phía người tiêu dùng".

Trong số các cơ quan quản lý nhà nước, nay Bộ Công Thương có nhiệm vụ là cơ quan chuyên trách bảo vệ NTD,[3] Cục quản lý Cạnh tranh được giao nhiệm vụ giúp Bộ Trưởng thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD cũng như quản lý Nhà nước về bảo vệ NTD trong phạm vi cả nước. Điều đó là phù hợp với quy định tại Luật Cạnh tranh, theo đó Cục Quản lý cạnh tranh cũng có nhiệm vụ điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh; xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh.[4] Giao nhiệm vụ trên cho Cục Quản lý cạnh tranh tỏ ra là phù hợp, bởi mục tiêu của pháp luật cạnh tranh cũng là bảo vệ người tiêu dùng (thông qua đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp). Như vậy, điểm đặc biệt ở đây là đối với cả hai nhóm hành vi cạnh tranh có thể xâm hại quyền lợi NTD, Cục quản lý cạnh tranh tự tiến hành điều tra hoặc điều tra trên cơ sở đơn khiếu nại của NTD theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ, và được xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh bằng các chế tài của Luật Cạnh tranh và các chế tài hành chính.

c. Các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, xã hội, xã hội-nghề nghiệp

Theo PLBVNTD, tất cả các loại tổ chức này đều có trách nhiệm thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân tham gia các hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD và thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD. Tuy nhiên, Pháp lệnh này cũng chỉ dừng lại ở quy định chung đó. Chỉ có nghị định hướng dẫn thi hành mới có quy định về loại tổ chức "chuyên trách" với tên gọi "tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng".

Trên thực tế, ở phạm vi trung ương từ năm 1991 đã có Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (VINASTAS) thực hiện chức năng này.[5] Hiện nay đã có 30 tỉnh thành trên cả nước có Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được thành lập trên cơ sở các quy định của Nghị định số 69/2001/NĐ-CP.

Tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD được xác định là tổ chức xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt thành phần kinh tế, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, trình độ, nghề nghiệp; là tổ chức đại diện để bảo vệ quyền lợi NTD theo quy định của pháp luật (Điều 14 Nghị định 69/2001/NĐ-CP). Các tổ chức này phải hoạt động theo nguyên tắc (1) là tổ chức đại diện cho NTD, (2) không liên quan đến việc khuyếch trương cho bất kỳ tổ chức, các nhân nào khác, (3) không quảng cáo cho bất kỳ mục đích thương mại nào trong các hoạt động của mình, (4) không được khai thác thông tin, hướng dẫn NTD nhằm mục đích kinh doanh, (5) không chịu ảnh hưởng hoặc chịu lệ thuộc bởi việc nhận tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trong mọi hoạt động. Đây là các nguyên tắc hoạt động đặc trưng của một tổ chức xã hội có thể được tiếp nhận bởi Luật về Hội đang được xây dựng. Tuy nhiên, Nghị định này cũng không trao cho loại hội này một quyền hạn cụ thể nào cả. Điều lệ các hội loại này tự xác định nhiệm vụ của mình, và đều có cùng nội dung.

2. Thực trạng vai trò của Hội Tiêu chuẩn và BVNTD Việt Nam và các hội thành viên ở địa phương

Hội tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (VINASTAS) có các đơn vị trực thuộc là Văn phòng trung ương hội, Văn phòng hội phía Nam, Tạp chí người tiêu dùng, Văn phòng khiếu nại của người tiêu dùng, các câu lạc bộ (như CLB chất lượng, CLB nhà báo bảo vệ NTD, CLB người tiêu dùng nữ, CLB chống hàng giả), Trung tâm nghiên cứu và tư vấn về tiêu dùng (CESCON) và Công ty Dịch vụ Tiêu chuẩn, đo lường chất lượng, Trung tâm tư vấn và chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn chất lượng (CETA). Hội hoạt động bằng kinh phí tự có, kinh phí thực hiện dự án và các nguồn tài trợ. Các Hội địa phương đều có văn phòng khiếu nại để tiếp nhận và xử lý khiếu nại của người NTD. Tuy nhiên, chỉ một số ít tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD địa phương nhận được sự hỗ trợ kinh phí từ chính quyền địa phương.

Tiếp nhận và xử lý khiếu nại của NTD là một mảng hoạt động quan trọng của VINASTAS và các Hội thành viên. Theo thông tin của VINASTAS, đến năm 2005 mỗi năm VINASTAS tiếp nhận khoảng 400 đơn từ khiếu nại các loại của NTD tập trung vào các vấn đề chất lượng hàng hóa, điện nước, vệ sinh an toàn thực phẩm. 85% số vụ việc đã được VINASTAS phối hợp với các cơ quan chức năng giải quyết.[6] Trong hai năm 2006 và 2007 VINASTAS tiếp nhận mỗi năm khoảng 1.000 đơn từ khiếu nại, trong đó 80% số vụ được giải quyết thông qua hòa giải, các trường hợp không hòa giải được, Hội hướng dẫn, giúp đỡ NTD hoặc đại diện cho NTD đưa khiếu nại tới các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.[7] Các số liệu này một mặt cho thấy các hội bảo vệ quyền lợi NTD đã được NTD biết đến và tin tưởng, mặt khác khả năng giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải là khá cao. Tuy nhiên, VINASTAS cũng đánh giá tuy số lượng đơn từ khiếu nại có tăng, nhưng không phản ánh đúng tình trạng gia tăng các vụ việc xâm hại quyền lợi của NTD. Một trong các nguyên nhân là "NTD Việt Nam còn hiền lành quá".[8]

Bên cạnh đó, trong những vụ việc nổi cộm VINASTAS đều đã lên tiếng bảo vệ NTD. Ví dụ, ngày 13/11/2006 VINASTAS đã gửi đơn kiến nghị đến các Bộ trưởng Bộ Y tế, Thương mại, Khoa học và công nghệ, NN&PTNT, Công nghiệp phản đối việc một số công ty sữa ghi nhãn sữa tươi hoặc sữa tươi nguyên chất cho loại sữa nước được hoàn nguyên từ sữa bột.[9] Mặc dù một trong ba yêu cầu của VINASTAS là "Kiểm tra làm rõ mức độ thiệt hại của NTD do doanh nghiệp ghi sai nhãn hàng hóa, buộc doanh nghiệp phải bồi hoàn thiệt hại do họ gây ra, xử phạt nghiêm khắc hành vi vi phạm, đồng thời công khai xin lỗi NTD" đã không được các cơ quan chức năng cũng như doanh nghiệp đáp ứng. Nhưng, trên thực tế sau một thời gian VINAMILK đã thay thế các sản phẩm này bằng các sản phẩm đề rõ "Sữa tươi 95%" (có đường) và "100% sữa tươi nguyên chất" (không đường) có chất lượng khác hẳn với các loại "sữa tươi" trước đó. Ngoài ra VINASTAS cũng tham gia giải quyết một số vụ điển hình khác như vụ điện kế điện tử tại TP. Hồ Chí Minh, vụ xăng có chứa aceton, đồng hồ nước của công ty nước sạch v.v. Trong các trường hợp như vậy, VINASTAS đã thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích của người NTD nói chung.

Gần đây đã bắt đầu có những động thái phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước và VINASTAS hỗ trợ thông tin cho NTD. Theo đó, Cục Quản lý cạnh tranh và VINASTAS đã phối hợp xây dựng một mục có tên là Thông tin cảnh báo cho NTD trên trang web của Cục. Tại đây, dựa trên khiếu nại của NTD, trên ý kiến của các hội bảo vệ NTD địa phương, các sở thương mại, các phương tiện thông tin đại chúng... những sản phẩm, dịch vụ có nguy cơ gây mất an toàn, vệ sinh đối với NTD sẽ được đưa ra cảnh báo sử dụng. Bên cạnh đó, hai cơ quan, tổ chức này đang phối hợp tổ chức xét tặng hàng năm "Danh hiệu văn minh thương mại vì Người tiêu dùng Việt Nam" nhằm tôn vinh các doanh nghiệp kinh doanh trung thực, lành mạnh, thực hiện tốt trách nhiệm bảo vệ quyền lợi chính đáng của NTD.

Và cuối cùng, không thể không nói đến là việc VINASTAS đã tham gia soạn thảo Pháp lệnh về Bảo vệ ngư¬ời tiêu dùng năm 1999, và có dấu ấn trong các chính sách và văn bản pháp luật khác liên quan đến quyền lợi NTD.

Nhưng trước những bước phát triển mới của nền kinh tế và thông qua việc đánh giá hoạt động của mình trong những năm qua, chính các nhà lãnh đạo VINASTAS cũng phải thừa nhận rằng, "Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng không còn phù hợp" và đòi hỏi "Chúng ta cần sớm ban hành Luật Bảo vệ người tiêu dùng nhằm điều chỉnh các hoạt động bảo vệ người tiêu dùng, xác định rõ hơn quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng, quy định nội dung bảo vệ người tiêu dùng, tổ chức và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các hiệp hội, các doanh nghiệp đối với việc bảo vệ người tiêu dùng".[10] Và luật mới "Phải là luật hành động, cụ thể, chi tiết chứ không phải là chỉ nêu nguyên tắc chung vì giao dịch chính trong xã hội là giao dịch giữa NTD và người sản xuất, kinh doanh."[11]

3. Vai trò cần thiết của các Hội BVNTD

Thực chất, Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng chưa bao giờ phù hợp để bảo vệ NTD. Nó chỉ là bản tuyên ngôn về sự thông cảm của Nhà nước với NTD. Bởi vì nó không trao thêm cho NTD một công cụ tự vệ hay bảo vệ nào khác ngoài những cái có sẵn trong các văn bản pháp luật khác. Trong khi đó vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD trong các văn bản pháp luật khác lại không được chú trọng. Bản thân VINASTAS cũng nhận định nguyên nhân chính của các trường hợp không giải quyết được các khiếu nại của NTD là vì thiếu cơ sở pháp lý.[12]

Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này tôi đề cập đến các quy định liên quan đến vai trò cần thiết của các tổ chức bảo vệ NTD trong một luật mới như vậy, và nêu một số ý kiến như sau:

Thứ nhất, trên cơ sở xác định tổ chức bảo vệ lợi ích NTD là một loại tổ chức xã hội, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nguyên tắc hoạt động của chúng sẽ phải trong khuôn khổ Luật về Hội sẽ được ban hành trong tương lai. Tuy nhiên một Luật Bảo vệ người tiêu dùng cần cụ thể hóa các nguyên tắc hoạt động của các hội bảo vệ NTD phù hợp với chức năng cụ thể của chúng. Theo tôi các nguyên tắc hoạt động của Hội bảo vệ NTD quy định tại Điều 15 Nghị định 69/2001/NĐ-CP có thể được đưa vào Luật, vì 5 nguyên tắc được nêu ở đó là tỏ ra phù hợp.

Thứ hai, cần nâng địa vị của Hội bảo vệ NTD ngang bằng với các Hiệp hội ngành nghề và hiệp hội nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là đối với tất cả các dự án luật mà phạm vi điều chỉnh liên quan đến quyền lợi của NTD thì không chỉ các Hiệp hội ngành nghề, Hiệp hội nghề nghiệp được tham gia, mà còn phải có sự tham gia của Hội bảo vệ NTD dưới hình thức thích đáng. Tuy nhiên, khi thực hiện điều này Hội bảo vệ NTD cần đảm bảo tính đại diện của họ cho NTD. Điều đó có nghĩa là quan điểm của Hội phải là quan điểm của NTD. Điều đó có thể thực hiện thông qua cơ chế lấy ý kiến người tiêu dùng của Hội.

Thứ ba, trong xu hướng ngày càng nhiều doanh nghiệp trong nhiều ngành nghề áp dụng hợp việc ký kết theo đồng mẫu với NTD hoặc áp dụng các điều kiện thương mại chung, Luật Bảo vệ người tiêu dùng cần có các quy định hạn chế doanh nghiệp làm dụng thế mạnh kinh tế của mình để áp đặt các điều kiện hợp đồng đối với NTD. Một mặt Luật mới cần bổ sung các các trường hợp mà điều kiện hợp đồng được áp đặt bị vô hiệu, nếu quyền lợi của NTD bị xâm hại với tư cách là bên yếu thế. Các quy định của BLDS về hợp đồng vô hiệu không đủ để bảo vệ NTD trước sức mạnh kinh tế và khả năng áp đặt của họ đối với NTD. Mặt khác, cần tạo cơ chế để Hội NTD tham gia vào việc soạn thảo các điều kiện hợp đồng mẫu hay điều kiện thương mại chung như vậy của doanh nghiệp hay hiệp hội ngành nghề, để đảm bảo ngay từ đầu rằng chỉ có các hợp đồng mẫu hay điều kiện thương mại chung đảm bảo lợi ích của NTD mới được áp dụng. Điều đó có thể thực hiện thông qua quy định rằng (có thể chỉ đối với một số ngành nghề), các hợp đồng mẫu hoặc các điều kiện thương mại chung chỉ có giá trị khi đã được Hội bảo vệ NTD theo ngành, địa phương hoặc trung ương chấp thuận.

Thứ tư, đồng quan điểm với lãnh của VINASTAS[13], tôi cho rằng Luật mới nên quy định quyền của Hội bảo vệ người tiêu dùng được đại diện cho NTD tiến hành khởi kiện vì lợi ích chung mà không cần có văn bản ủy quyền cụ thể của NTD. Ví dụ, trường hợp doanh nghiệp cố tình ghi nhãn mác sai, đánh lừa NTD, thu lợi bất chính từ hàng triệu NTD trong thời gian dài, với quy mô lớn, thì việc từng NTD riêng lẻ hoặc một nhóm NTD khởi kiện doanh nghiệp đòi bồi thường là không khả thi. Quyền khởi kiện của Hội bảo vệ người tiêu dùng sẽ cho phép buộc doanh nghiệp phải trả lại khoản thu lợi bất chính đó. Có thể quy định doanh nghiệp phải trả khoản tiền bồi thường đó cho Hội bảo vệ NTD, tạo nguồn kinh phí cho hoạt động của Hội. Các chế tài xử phạt vi phạm hành chính không loại trừ nghĩa vụ bồi thường của doanh nghiệp.

Thứ năm, đồng quan điểm với ông Tưởng Duy Lượng[14], Chánh tòa Dân sự TANDTC, tôi cho rằng cần áp dụng chế độ án phí đặc biệt đối với các vụ kiện do NTD hoặc Hội bảo vệ NTD theo hướng không buộc những người khởi kiện này phải nộp tiền tạm ứng án phí khi tiến hành khởi kiện. Riêng đối với việc khiếu nại hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh, tôi cho rằng cần sửa đổi quy định về mức phí giải quyết vụ việc cạnh tranh là 10 triệu đồng[15], theo hướng giảm mức phí hoặc miễn trừ phí đối với trường hợp bên khiếu nại là NTD.

Thứ sáu, mặc dù ý kiến này không liên quan trực tiếp đến đề tài tham luận, nhưng liên quan mật thiết đến khả năng khởi kiện của NTD và Hội Bảo vệ NTD. Đó là việc nghiên cứu quy định về nghĩa vụ chứng minh trong một số trường hợp. Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh yêu cầu của mình thuộc về nguyên đơn. Tuy nhiên, trong việc khiếu kiện về chất lượng sản phẩm sự đảo ngược nghĩa vụ chứng minh trong nhiều trường hợp là cần thiết. Chẳng hạn khi tồn tại những dấu hiệu nhất định, doanh nghịêp (bị đơn) có nghĩa vụ chứng minh sản phẩm của mình là an toàn thay vì nguyên đơn phải chứng minh sản phẩm đó là không an toàn.

Trên đây là một số ý kiến sơ bộ của tôi về vai trò của các tổ chức bảo vệ NTD cần phải được luật hóa, với mong muốn được bàn thảo.

Góp ý Dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN

TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

Tưởng Duy Lượng

Chánh tòa Dân sự, TANDTC

Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2007, tr. 29-34

I. Vài nét về công tác bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam trong thời gian qua

1. Tình hình xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng

Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, không ngày nào không xuất hiện các thông tin về các trường hợp quyền lợi của người tiêu dùng bị xâm phạm. Trong số đó, phải kể đến các bài báo về các vụ ngộ độc thực phẩm tập thể, có nơi cả trăm người phải vào bệnh viện, sự lưu hành của các loại rau được trồng trong môi trường bị ô nhiễm, thịt gia súc, gia cầm của một số cơ sở sản xuất còn dư lượng kháng sinh, các chất tăng trọng, các loại hải sản có ướp chất độc hại, các loại mỹ phẩm kém chất lượng được bán trôi nổi trên thị trường, các loại giò chả có hàn the, phở, bún có phooc-môn, các loại rau quả được xử lý bởi hóa chất độc hại, các loại sữa kém chất lượng v.v. Chỉ tính riêng năm 2006 và những tháng đầu năm 2007 vừa qua đã phát hiện những vụ việc xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng được dư luận đặc biệt chú ý như vụ xăng pha acetone làm hư hỏng một số bộ phận trong xe máy (diễn ra vào khoảng tháng 8-9/2006 khiến cho hàng ngàn xe máy bị thiệt hại), vụ sữa bột pha nước được ghi thành sữa tươi nguyên chất của một số nhà sản xuất sữa ở Việt Nam (trong đó Công ty Vinamilk). Trong bản công bố ghi là: "Sữa tươi tiệt trùng không đường nhãn Vinamilk". Tuy nhiên, trên bao bì của sản phẩm đang lưu hành lại ghi: "Sữa tươi tiệt trùng nguyên chất" là không phù hợp giữa tên của sản phẩm đang lưu hành với tên của sản phẩm ghi trong bản công bố, một loại gian lận thương mại gây thiệt hại cho người tiêu dùng (năm 2006). Vụ nước tương có chứa chất 3-MCPD gây ung thư (năm 2007) và gần đây (năm 2008) báo chí liên tiếp đề cập đến việc quảng cáo lẫn lộn giữa thực phẩm chức năng với thuốc chữa bệnh tạo nên sự ngộ nhận cho người tiêu dùng v.v. Theo thống kê của Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng, mỗi năm, các cấp Hội đã nhận được khoảng 1000 đơn khiếu nại[1] của người tiêu dùng. Thực tiễn ấy cho thấy, trong thời gian tới, nhà nước cần có những biện pháp quyết liệt hơn nữa để hoàn thiện pháp luật xử lý các hành vi vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam.

2. Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong số đó, phải kể đến các văn bản như: Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng năm 1999, Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003, Luật Cạnh tranh năm 2004, Pháp lệnh quảng cáo năm 2001, Pháp lệnh chất lượng sản phẩm năm 1999 v.v.

Cũng giống như mọi lĩnh vực pháp luật khác, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng cũng đặt ra các quyền và nghĩa vụ cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, hệ thống quyền và nghĩa vụ này sẽ khó có thể được thực thi nếu không được thiết kế kèm với hệ thống tổ chức thực hiện, hệ thống biện pháp chế tài thích hợp để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm.

Có 3 loại biện pháp chế tài cơ bản mà pháp luật thường sử dụng để điều chỉnh hành vi của các tổ chức, cá nhân trong xã hội đó là chế tài dân sự (các biện pháp bồi thường thiệt hại và các biện pháp khác), chế tài hành chính (xử phạt hành chính và các biện pháp khác), chế tài hình sự (hình phạt và các biện pháp khác). Cho đến nay, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng đã có cả 3 loại chế tài này. Cụ thể:

a. Về chế tài dân sự

Trong các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 có nhiều quy định liên quan đến việc xử lý hành vi xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng, cụ thể Điều 604 quy định: "Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó". Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định (trước đó là Điều 632 Bộ luật dân sự năm 1995) "cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hoá mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường".

Nguyên tắc bồi thường được quy định tại Điều 605 theo hướng thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường là 2 năm được quy định tại Điều 607. Bên cạnh đó, Điều 608 quy định cách xác định thiệt hại khi tài sản bị xâm phạm; Điều 609 quy định cách xác định thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm; Điều 610 quy định về cách xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm...

Ngoài ra, Bộ luật dân sự năm 2005 còn quy định các biện pháp bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong trường hợp giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất, kinh doanh có quan hệ hợp đồng như quan hệ mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ v.v... ví dụ như:

- Điều 444 quy định: Bên bán phải bảo đảm giá trị sử dụng hoặc các đặc tính của vật mua bán; nếu sau khi mua mà bên mua phát hiện khuyết tật làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị sử dụng của vật đã mua thì phải báo ngay khi phát hiện ra khuyết tật và có quyền yêu cầu bên bán sửa chữa, đổi vật có khuyết tật, giảm giá và bồi thường thiệt hại, nếu không có thoả thuận khác. Bên bán phải bảo đảm vật bán phù hợp với sự mô tả trên bao bì, nhãn hiệu hàng hoá hoặc phù hợp với mẫu mà bên mua đã lựa chọn. Tuy nhiên, bên bán không chịu trách nhiệm về khuyết tật của vật trong các trường hợp sau đây: a) Khuyết tật mà bên mua đã biết hoặc phải biết khi mua; b) Vật bán đấu giá, vật bán ở cửa hàng đồ cũ; c) Bên mua có lỗi gây ra khuyết tật của vật.

- Điều 445. Nghĩa vụ bảo hành: Bên bán có nghĩa vụ bảo hành đối với vật mua bán trong một thời hạn, gọi là thời hạn bảo hành, nếu việc bảo hành do các bên thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Thời hạn bảo hành được tính kể từ thời điểm bên mua có nghĩa vụ phải nhận vật.

v.v...

b. Chế tài hành chính

Trên cơ sở quy định của Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và các văn bản có liên quan, Chính phủ đã ban hành một số Nghị định xử lý vi phạm hành chính có liên quan trực tiếp tới công tác bảo vệ người tiêu dùng. Trong số đó phải kể đến Nghị định 175/2004/NĐ-CP ngày 10-10-2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại; Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh; Nghị định số 126/2005/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2005 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hoá (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 95/2007/NĐ-CP ngày 4/6/2007); Nghị định 45/2005/NĐ-CP ngày 06-04-2005 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế; Nghị định số 63/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin; Nghị định 106/2006/NĐ-CP ngày 22-09-2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp; Nghị định 129/2005/NĐ-CP ngày 17-10-2005 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y; Nghị định 169/2004/NĐ-CP ngày 22-09-2004 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá; Nghị định 118/2003/NĐ-CP ngày 13-10-2003 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm; Nghị định 74/2003/NĐ-CP ngày 26-06-2003 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực; Nghị định 70/2003/NĐ-CP ngày 17-06-2003 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuỷ sản; Nghị định 26/2003/NĐ-CP ngày 19-03-2003 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật v.v.

Các quy định này đã quy định cụ thể các biện pháp chế tài có thể áp dụng trong việc xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Các biện pháp chế tài này gồm có hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung[2].

Hình thức xử phạt chính bao gồm: (1) Phạt cảnh cáo và (2) phạt tiền. Mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng tối đa có thể lên tới 70.000.000 đồng;

Hình thức xử phạt bổ sung bao gồm: a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.

Ngoài ra, cá nhân, tổ chức vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:

a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra;

b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;

c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện;

d) Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng;

đ) Các biện pháp khác do Chính phủ quy định (chẳng hạn buộc thu hồi sản phẩm v.v.).

c. Chế tài hình sự

Bộ luật Hình sự năm 1999 đã có một số quy định về các tội phạm trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng với các biện pháp chế tài khá đa dạng gồm cả phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc có trường hợp có thể phạt tù tới 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình cụ thể như sau:

- Điều 156. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả;

- Điều 157. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh;

- Điều 158. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi;

- Điều 162. Tội lừa dối khách hàng (cân, đo, đong, đếm, tính gian, đánh tráo v.v.);

- Điều 164. Tội làm tem giả, vé giả; tội buôn bán tem giả, vé giả;

- Điều 168. Tội quảng cáo gian dối...

II. Vai trò của Toà án trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Có nhiều cơ quan tham gia bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, với nhiều biện pháp xử lý khác nhau, trong đó có biện pháp hành chính, biện pháp tư pháp. Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các biện pháp thì mới có thể bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng có hiệu quả.

Trong số các cơ quan tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì Tòa án có một vai trò, vị trí hết sức đặc biệt, bởi lẽ khi xử lý các hành vi xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng, Tòa án phải tuân theo một trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ, và nhân danh nhà nước để xử lý; chế tài được áp dụng cho các đối tượng xâm phạm lợi ích người tiêu dùng, trong nhiều trường hợp là rất nghiêm khắc, có tính răn đe, giáo dục mạnh mẽ; quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành cao và bảo vệ được triệt để quyền lợi của người tiêu dùng. Trong những trường hợp cần thiết và theo yêu cầu của người khởi kiện trước khi thụ lý, trong quá trình tố tụng, Tòa án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ ngay các lợi ích cấp bách của đương sự. Theo pháp luật hiện hành, thì Tòa án có quyền áp dụng chế tài dân sự (nhất là trong các vụ kiện đòi bồi thường theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng) và chế tài hình sự. Việc áp dụng chế tài hình sự được tiến hành theo trình tự, thủ tục về tố tụng hình sự. Việc áp dụng chế tài dân sự trong các vụ kiện dân sự được tiến hành theo trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Đồng thời, Tòa hành chính cũng có vai trò nhất định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thông qua việc xem xét các hành vi hành chính, quyết định hành chính của người có thẩm quyền xử lý các hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng bị khởi kiện tại Tòa hành chính.

Ở nước ta, không có Toà án chuyên trách về bảo vệ người tiêu dùng. Các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng được xếp vào loại vụ kiện dân sự và có thể được giải quyết theo pháp luật hợp đồng hoặc pháp luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà Bộ luật dân sự và các văn bản có liên quan đã quy định. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc nếu có đơn khởi kiện của người tiêu dùng. Trình tự, thủ tục khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được áp dụng theo trình tự chung mà Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã quy định. Cụ thể:

1. Quyền khởi kiện

Người tiêu dùng có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì có quyền tiến hành khởi kiện người có hành vi xâm phạm ra trước Toà án để đòi bồi thường. Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng có quyền khởi kiện nếu được người tiêu dùng ủy quyền bằng văn bản. Tinh thần này đã được quy định tại Điều 4 và Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2006.

Trong quá trình giải quyết vụ kiện, người tiêu dùng và doanh nghiệp bị kiện bình đẳng với nhau trước Tòa án (Điều 8 BLTTDS) có quyền thoả thuận, hoà giải với nhau về việc giải quyết vụ kiện (Điều 5 và Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự).

Cả hai bên đương sự, khi khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện, người tiêu dùng, người bị kiện phải cung cấp chứng cứ chứng minh cho các yêu cầu của mình. Toà án chỉ xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp Bộ luật tố tụng dân sự có quy định (Điều 6, Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự).

2. Thẩm quyền giải quyết vụ việc

Vụ kiện về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bất kể là vụ kiện theo quy định của pháp luật về hợp đồng hay theo quy định của pháp luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nhìn chung đều thuộc thẩm quyền giải quyết tại Toà án nhân dân cấp huyện (thường là nơi cá nhân, doanh nghiệp bị kiện có trụ sở hoặc nơi cư trú)[3].

3. Thủ tục khởi kiện

Người tiêu dùng muốn tiến hành khởi kiện đối tượng đã gây thiệt hại cho mình thì phải làm đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự.

Kèm theo đơn khởi kiện, người khởi kiện phải gửi cho Toà án các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp[4].

Chẳng hạn, người tiêu dùng phải nộp các loại chứng cứ chứng minh mình đã mua hàng của doanh nghiệp bị kiện, các loại chứng cứ chứng minh mình bị thiệt hại, các loại chứng cứ chứng minh doanh nghiệp bị kiện đã có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.

Người khởi kiện có thể gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng cách nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi qua đường bưu điện. Ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Toà án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi[5].

Toà án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Toà án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:

1. Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình;

2. Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác;

3. Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Trường hợp Toà án thụ lý vụ kiện, các thủ tục sau đó sẽ được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

4. Nộp tạm ứng án phí và chi phí tố tụng khác

Người tiêu dùng khi tiến hành khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí theo mức quy định của Nhà nước (Điều 130 Bộ luật tố tụng dân sự).

Người tiêu dùng khi yêu cầu Toà án trưng cầu giám định thì phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định (Điều 136 Bộ luật tố tụng dân sự).v.v...

5. Vấn đề áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Người tiêu dùng có thể yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong đó có thể buộc bên bị kiện thu hồi sản phẩm nếu việc tiếp tục cho lưu thông hàng hoá đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng, nhất là các loại thiệt hại không thể khắc phục được (Khoản 1 và 2 Điều 99, Khoản 12 Điều 102 và Điều 115 Bộ luật tố tụng dân sự).

III. Một số nhận xét và đánh giá

Pháp luật hiện hành không có quy định riêng về loại việc tranh chấp này, nên trong thống kê của ngành Toà án không có hạng mục thống kê về các vụ án khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhưng qua theo dõi công tác xét xử trong lĩnh vực án dân sự, chúng tôi thấy rằng, thời gian qua, các vụ khởi kiện bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam còn rất ít. Số vụ án hình sự về lĩnh vực này cũng không nhiều. Điều đó không có nghĩa rằng số vụ việc xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng là ít. Trên thực tế, đã có vụ việc, các hộ gia đình, cá nhân kinh doanh, các doanh nghiệp gây thiệt hại cho người tiêu dùng ở quy mô rất lớn nhưng hầu như không có người tiêu dùng nào đứng ra thực hiện quyền khởi kiện. Chẳng hạn, trong vụ xăng pha acetôn (năm 2006), hàng ngàn người tiêu dùng ở thành phố Hồ Chí Minh đã mua phải loại xăng này và khi sử dụng, loại xăng này đã gây hư hại cho nhiều bộ phận của một số loại phương tiện giao thông. Tuy nhiên, không có người tiêu dùng nào đứng ra khởi kiện. Một số hãng kinh doanh sữa ghi sai nhãn mác (năm 2006), có sự gian dối với người tiêu dùng, bán sữa nước (sữa bột pha nước) nhưng lại ghi thành sữa tươi nguyên chất 100% tiệt trùng, hàng triệu người tiêu dùng bị thiệt hại, nhưng cũng không có người tiêu dùng nào đứng ra khởi kiện. Trong vụ nước tương "đen" (năm 2007), nhiều cơ sở sản xuất nước tương đưa ra thị trường khắp trong Nam, ngoài Bắc các loại sản phẩm nước tương có chứa chất 3-MCPD là loại chất độc hại có khả năng gây ung thư cho người tiêu dùng và trên thực tế, hàng triệu người tiêu dùng đã sử dụng sản phẩm này mà không biết về những độc hại mình đang gánh chịu... Khi báo chí đăng tải về vụ việc này, trên diễn đàn của Báo điện tử Vietnam Net, nhiều người tiêu dùng đã bày tỏ những ý kiến rất bất bình, chẳng hạn[6]:

- "Tôi là người không thể ăn cơm nếu không có nước tương và bây giờ, tôi muốn kiện các nhà sản xuất nước tương và những người đã sống bằng tiền của nhân dân chúng tôi để làm công việc kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm... Họ đã để tôi phải ăn cái chất 3-MCPD suốt bao nhiêu năm trời".

- "Thật không công bằng, trung thực khi chúng ta, những người tiêu dùng trả tiền để mua những sản phẩm chất lượng, thì họ, những nhà sản xuất thiếu lương tâm đáp lại bằng những sản phẩm độc hại mà họ biết rõ tác hại của nó. Nếu họ "ngây thơ" nói rằng họ không biết đó là độc hại thì lại càng nguy hiểm hơn, vì họ đang cung cấp cho chúng ta những sản phẩm mà chính họ cũng không biết gì về nó!".

- "Hết bánh phở, đậu phụ... đến nước tương? Chúng tôi không còn lòng tin vào bất cứ sản phẩm nào nữa. Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi lương tâm của các nhà sản xuất, hãy vì sức khỏe của dân, chứ đừng vì tiền, vì lợi nhuận mà làm hại dân, hại nước".

Trong vụ việc này, lần đầu tiên có người đứng ra khởi kiện là anh Hà Hữu Tường ở quận Thủ Đức - thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức nộp đơn khởi kiện các cơ sở nước tương "đen" và yêu cầu bồi thường 30 tỷ đồng đến Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh với tâm niệm rằng "Tôi đi kiện vì muốn công lý và pháp luật phải được tôn trọng, quyền lợi người tiêu dùng phải được bảo vệ. Tôi nghĩ mình sẽ không đơn độc trong vụ kiện này vì hàng triệu người tiêu dùng bị lừa dối nhiều năm qua sẽ ủng hộ tôi"[7]. Hiện tại, vụ việc đang được Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xem xét theo thẩm quyền.

Có thể thấy rằng, trong thời gian qua, người tiêu dùng chưa tích cực trong việc tiến hành khởi kiện không phải vì pháp luật chưa quy định cho người tiêu dùng quyền khởi kiện (thực tế là quyền năng này đã được quy định rõ trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự) mà là vì các lý do sau:

- Thứ nhất, pháp luật nước ta chỉ cho phép người nào bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi vi phạm pháp luật của người khác thì mới được quyền đứng ra khởi kiện người có hành vi vi phạm đó. Điều này có nghĩa là người khởi kiện phải có đơn khởi kiện và có nghĩa vụ có mặt theo sự triệu tập của Tòa án để cung cấp tài liệu, chứng cứ, tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa. Trong trường hợp không muốn trực tiếp tham gia tố tụng thì người khởi kiện phải có văn bản ủy quyền cho người được ủy quyền thay mặt mình tham gia tố tụng. Mặt khác, tuy mức thiệt hại mà tập thể người tiêu dùng phải gánh chịu là lớn nhưng cá nhân, mỗi người tiêu dùng phải gánh chịu đôi khi không quá lớn. Trong điều kiện, trình tự, thủ tục khởi kiện tương đối rắc rối và mất thời gian, đồng thời, phải bỏ ra các chi phí (ví dụ chi phí tàu xe, giám định, thuê luật sư...) có thể sẽ lớn hơn so với khoản bồi thường mà người khởi kiện nhận được (nếu thắng kiện), cùng với nét văn hoá ngại kiện tụng của người Việt Nam, người tiêu dùng sẽ có rất ít động lực để khởi kiện.

- Thứ hai, pháp luật nước ta chưa quy định rõ ai sẽ là người bị kiện trong chuỗi phân phối hàng hoá từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Chính vì thế, trong thực tiễn áp dụng, khi muốn khởi kiện, người tiêu dùng cũng lúng túng không biết nên tiến hành khởi kiện với ai: nhà sản xuất, nhà phân phối hay người bán lẻ?

- Thứ ba, việc pháp luật quy định muốn khởi kiện phải nộp tạm ứng án phí cũng là một trong những rào cản khiến người tiêu dùng ngại đưa vụ việc ra Toà án giải quyết.

- Thứ tư, do thói quen của người tiêu dùng: trên thực tế, khi mua một số sản phẩm, hàng hoá, người tiêu dùng thường không có thói quen giữ lại các hoá đơn, chứng từ cần thiết. Chính vì thế, khi vụ việc xảy ra, người tiêu dùng sẽ gặp khó khăn trong việc thu thập các loại tài liệu, chứng cứ để chứng minh mình đã mua và đã tiêu dùng loại sản phẩm không an toàn, gây thiệt hại cho bản thân mình.

- Thứ năm, trong nhiều trường hợp để kết luận sản phẩm có chứa chất độc tố hoặc có ảnh hưởng đến người tiêu dùng phải qua quy trình kiểm tra, giám định nghiêm ngặt mới phát hiện được; nhưng hệ thống kiểm tra, kiểm nghiệm hiện nay chưa đủ lực, chưa trở thành công cụ cung cấp chứng cứ thuận lợi cho người tiêu dùng khi khởi kiện cũng là một trở ngại khi người tiêu dùng muốn khiếu nại, khởi kiện.

- Thứ sáu, việc chứng minh thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại mà người tiêu dùng phải gánh chịu trong thực tế rất phức tạp, nhất là đối với các vụ việc liên quan tới các loại thực phẩm độc hại nhưng chưa gây bệnh ngay tức khắc. Trong trường hợp đó, nguyên đơn rất khó chứng minh và thuyết phục được Toà án rằng, những tổn hại về sức khoẻ hoặc các thiệt hại khác mà mình gánh chịu chỉ xuất phát từ việc tiêu thụ những loại sản phẩm độc hại liên quan trong vụ kiện. Người khởi kiện sẽ không được bồi thường nếu không chứng minh được tác hại của sản phẩm đối với bản thân.

- Thứ bảy, các quy định của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng còn nặng về hình thức và sơ cứng chưa gắn với thực tiễn nên rất khó sử dụng làm công cụ bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng có hiệu quả.

IV. Những đề xuất, kiến nghị

Về mặt lý thuyết, khách hàng được coi là "thượng đế", nhưng các "thượng đế" ở Việt Nam lại ở thế yếu, đặc biệt đối với các mặt hàng độc quyền ví dụ như điện, nước... Dù rằng hiện nay, các "thượng đế" có vị thế khá hơn do sự đa dạng, phong phú của hàng hóa, dịch vụ. Song, do thiếu một sự quản lý chặt chẽ, kiểm soát thường xuyên, khoa học của nhà nước, nên sản phẩm kém chất lượng, độc hại vẫn được lưu hành tràn lan trên thị trường; người tiêu dùng không được cảnh báo kịp thời, không có điều kiện để nhận biết được sản phẩm tốt với sản phẩm xấu, sản phẩm an toàn với sản phẩm độc hại... Vì vậy, người tiêu dùng Việt Nam rất dễ bị tổn thương nhưng chưa được quan tâm bảo vệ đúng mức. Ngay cả khi họ biết được lợi ích của mình bị xâm phạm cũng không biết "kêu ai" có hiệu quả. Dù rằng, nhìn vào hệ thống các quy định của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng và chế tài được quy định trong các văn bản pháp luật thì thấy đã có đủ, nhưng còn nặng về hình thức và khô cứng với nhiều quy định chung chung có tính nguyên tắc, nên người tiêu dùng khó mà sử dụng nó như một công cụ pháp lý để bảo vệ mình. Vì vậy, cần có một tư duy mới giàu tính thực tiễn trong quy định của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng; không chỉ cần có nhiều biện pháp hợp lý, linh hoạt với điều kiện, thủ tục yêu cầu khởi kiện đơn giản mà còn cần có hệ thống bộ máy đồng bộ đầy đủ từ kiểm tra, kiểm soát, đến xử lý thì mới bảo vệ được người tiêu dùng.

Hệ thống Toà án có vai trò rất quan trọng trong công tác bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, với đặc thù là cơ quan chỉ đứng ra giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi có việc truy tố ra Tòa án (đối với các vụ có dấu hiệu hình sự) hay có đơn khởi kiện của người tiêu dùng hoặc của các tổ chức hữu quan. Do đó, để nâng cao vai trò của Toà án trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói riêng và hiệu quả của công tác này nói chung, cần thực hiện một số biện pháp sau:

1- Trong điều kiện người tiêu dùng còn e ngại việc khởi kiện, trước mắt, cần áp dụng chế độ án phí đặc biệt đối với các vụ kiện do người tiêu dùng hoặc Hội bảo vệ người tiêu dùng khởi kiện theo hướng không buộc những người khởi kiện này phải nộp tiền tạm ứng án phí khi tiến hành khởi kiện; và dù có thua kiện họ cũng không phải chịu án phí. Sau này, khi đã tạo ra được phản ứng bình thường của người tiêu dùng (chứ không phải cam chịu như ngày nay) thì sẽ tính đến việc buộc người khởi kiện phải nộp tạm ứng án phí.

2- Nghiên cứu để bổ sung quy định quyền khởi kiện của người tiêu dùng theo hướng người tiêu dùng có thể khởi kiện bất cứ ai trong chuỗi phân phối sản phẩm. Cụ thể, trong chuỗi cung cấp, phân phối sản phẩm (nhà sản xuất, nhà bán buôn và nhà bán lẻ v.v.), người tiêu dùng có thể khởi kiện nhà sản xuất hoặc người bán sản phẩm trực tiếp cho mình mà người tiêu dùng thấy hợp lý và có khả năng đòi bồi thường thành công cao.

3- Nghiên cứu việc áp dụng cơ chế khởi kiện tập thể, Hội người tiêu dùng có quyền chủ động khởi kiện để áp dụng cho các vụ kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi doanh nghiệp gây thiệt hại cho người tiêu dùng ở phạm vi rộng.

4- Cần quy định rõ buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các chi phí cho người khởi kiện (chi phí đi lại, thời gian theo kiện, chi phí thuê luật sư...). Vì thực tế hiện nay hầu hết các tranh chấp dân sự, Tòa án Việt Nam chưa xem xét thiệt hại này.

5- Xây dựng hệ thống cơ quan giám định tại các địa phương đủ năng lực giám định một cách nhanh chóng và chính xác các loại sản phẩm là thực phẩm có chứa chất độc hại sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, các sản phẩm không bảo đảm chất lượng, các loại sản phẩm mà nhà sản xuất cố ý gian dối, lừa dối người tiêu dùng... giám định một cách chính xác tính năng, mức độ nguy hiểm của các loại sản phẩm sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng khi họ sử dụng... Vừa để kịp thời cảnh báo, xử lý và có thể được dùng làm chứng cứ trong các vụ kiện.

6- Trong thời gian tới, cần củng cố năng lực phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để nâng cao hiệu quả răn đe, phòng ngừa đối với các cá nhân, doanh nghiệp có hành vi vi phạm.

7- Cần củng cố hệ thống mạng lưới bảo vệ người tiêu dùng: đặc biệt, cần tăng cường năng lực hoạt động của hệ thống các Hội bảo vệ người tiêu dùng ở địa phương. Tới đây, khi xây dựng Luật Bảo vệ người tiêu dùng, nên quy định rõ quyền của Hội bảo vệ người tiêu dùng được đại diện cho người tiêu dùng tiến hành khởi kiện vì lợi ích chung mà không cần có văn bản ủy quyền cụ thể của người tiêu dùng.

8- Những khó khăn về kinh tế là một trong những rào cản chính trong việc tiếp cận công lý. Vì vậy, cần xây dựng quỹ khởi kiện tập thể, trong đó, nhà nước hỗ trợ một phần khi xây dựng quỹ, biến nó thành công cụ tài chính hữu ích hỗ trợ cho việc khởi kiện tập thể bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

9- Nghiên cứu việc áp dụng chế độ trách nhiệm đối với nhà sản xuất, phân phối sản phẩm, cung cấp dịch vụ với nhiều mức bồi thường khác nhau và theo hướng không buộc người tiêu dùng phải chứng minh bị bệnh tật, bị thiệt hại do sản phẩm gây ra và không phải chứng minh lỗi của nhà sản xuất, phân phối mà chỉ cần người tiêu dùng chứng minh rằng họ đã sử dụng sản phẩm không đúng chất lượng đã được nhà sản xuất công bố sản phẩm, có độc hại.v.v... và vì sự gian lận trong thương mại, hoặc sản phẩm độc hại đó mà người tiêu dùng đã phải gánh chịu thiệt hại hoặc có thể sẽ bị bệnh tật, thiệt hại là đủ.

10- Cần buộc các nhà sản xuất, phân phối, cung cấp dịch vụ có các quy định cụ thể về các trường hợp họ sẽ chịu trách nhiệm bồi thường trực tiếp cho người tiêu dùng, mức bồi thường và phải công bố công khai. Đây sẽ là công cụ có hiệu quả vừa để nhà sản xuất, phân phối, cung cấp dịch vụ nâng cao trách nhiệm, vừa để thuận tiện cho người tiêu dùng trực tiếp yêu cầu nhà sản xuất, phân phối, cung cấp dịch vụ phải bồi thường cho người tiêu dùng khi họ sử dụng sản phẩm, dịch vụ không đảm bảo chất lượng, có chất độc hại.v.v... gây thiệt hại cho người tiêu dùng.

Góp ý cho dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng

Pháp luật bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu dùng

Nguyễn Văn Mạnh

Ai đó đã nói một cách hình tượng rằng, sức khoẻ là vốn quý nhất của con người. Cũng chính vì lẽ đó, các quy định nhằm bảo vệ sức khoẻ cộng đồng giữ một vị trí quan trọng trong hệ các quy định của mỗi chế độ, từ khi chưa có nhà nước đến khi có nhà nước, từ các quy định bất thành văn đến các quy định thành văn.

I. Pháp luật về bảo vệ sức khoẻ cộng đồng ở Việt Nam

Ở Việt Nam, vấn đề bảo vệ sức khoẻ cộng đồng không phải chỉ xuất hiện từ năm 1945 (với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà) mà đã được đề cập đến trong các thời kỳ phong kiến, Pháp thuộc. Qua các Bộ luật Hồng Đức (nhà Lê), Bộ luật Gia Long (nhà Nguyễn), Bộ Dân luật Bắc Kỳ 1931, Dân luật Trung Kỳ 1936 và các tài liệu nghiên cứu lịch sử đã cho thấy điều này. Tuy nhiên, phải đến khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, nhất là từ năm 1986, thì hệ thống các quy phạm bảo vệ sức khoẻ cộng đồng mới có bước phát triển cao, tập trung, sâu sắc.

Hệ thống văn bản pháp luật về sức khoẻ cộng đồng rất rộng, có thể chia thành các lĩnh vực[1]: các văn bản quy định chung; về hôn nhân gia đình; về bảo vệ phụ nữ và trẻ em; về phòng chống tệ nạn xã hội; về bồi thường thiệt hại; về lĩnh vực y tế, dược; về lĩnh vực thương mại. Do tính liên quan rộng rãi của vấn đề sức khoẻ cộng đồng, nên không thể có một bộ luật chung về vấn đề này. Đạo luật liên quan trực tiếp nhất là Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân, tuy nhiên đạo luật này chỉ đưa ra các nguyên tắc chung cho việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân, thiếu cơ chế, quy phạm cụ thể. Do đó, để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sức khoẻ nhân dân, sức khoẻ cộng đồng phải căn cứ vào các văn bản chuyên ngành.

Cùng với sự ra đời của của đạo luật mới trong thời gian gần đây, như Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Luật Thương mại 2005; Luật Bảo vệ môi trường 2005, Luật Bảo hiểm xã hội 2006, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật 2006; Luật Trợ giúp pháp lý 2006; Luật Phòng, chống HIV /AIDS 2006... vấn đề bảo vệ sức khoẻ cộng đồng ngày càng được quan tâm và luật hoá.

Tuy nhiên, các quy định của pháp luật còn mang tính khái quát, chưa mang tính quy phạm cụ thể nên hiệu quả áp dụng chưa cao. Trong thời gian tới, cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Trước mắt cần tập trung xây dựng Luật Bồi thường Nhà nước; Luật Bảo vệ người tiêu dùng.

II. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng

Vấn đề bảo vệ sức khoẻ cộng đồng là một phạm trù rộng, kèm theo đó, hệ thống pháp luật có liên quan cũng rất rộng. Chúng tôi xin đề cập một vài nét chuyên sâu về một khía cạnh của bảo vệ sức khoẻ cộng đồng - pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng.

1. Pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng

Cũng giống như việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng nói chung, việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng bao gồm rất nhiều các văn bản điều chỉnh.Xin liệt kê một số văn bản chủ yếu là: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Thương mại (liên quan trực tiếp là Điều 9 bảo vệ quyền lợi chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng), Pháp lệnh Thú y; Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật; Pháp lệnh Hành nghề y dược tư nhân; Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá; Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, các nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực, như Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường; Nghị định 78/CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật....

Trong các văn bản này, quan trọng nhất phải kể đến hai văn bản: Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và Nghị định 69/2001/NĐ-CP ngày 02/10/2001 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Pháp lệnh) có hiệu lực từ ngày 01/10/1999, gồm 06 chương, 30 điều. Về Pháp lệnh này, có thể rút ra một số nhận xét sau:

- Pháp lệnh không có quy định chính thức về đối tượng áp dụng, mà thông qua các quy định tại Điều 1, 4, 5, 6, chúng ta có thể nhận thấy đối tượng áp dụng là cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hoá (trong nước và ngoài nước) và người tiêu dùng. Cụ thể hoá điều này, Nghị định 69/2001/NĐ-CP (Nghị định 69) quy định rõ đối tượng điều chỉnh là tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt và nhu cầu công việc của tổ chức, cá nhân, gia đình; đồng thời chỉ rõ "người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định..."

- Một số quy định trong Pháp lệnh thể hiện tư tưởng, đường lối, chính sách, không mang tính quy phạm (ví dụ Điều 2 "bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng là trách nhiệm của toàn xã hội"; Điều 3 " Nhà nước khuyến khích việc tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm"). Chúng tôi cho rằng, trong các văn bản luật, việc đặt ra các điều luật này là không cần thiết.

- Nghị định 69 quy định thêm một số trách nhiệm của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; đồng thời nhắc lại một số trách nhiệm đã được quy định tại Pháp lệnh - mang tính trùng lặp, cần bỏ các quy định này.

- Điều 14 Pháp lệnh quy định "Chính phủ quy định cụ thể việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong trường hợp sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không đăng ký, công bố tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ". Các loại hình kinh doanh này khá phổ biến ở Việt Nam (bán hàng rong, quán "cóc"...), việc quản lý lĩnh vực này khá nhạy cảm và khó khăn. Do vậy, để khả thi, Pháp lệnh quy định Chính phủ sẽ quy định chi tiết. Tiếc rằng, Nghị định 69 đã không làm được việc này. Nói khác hơn, trong trường hợp này, quyền lợi của người tiêu dùng được bảo vệ dựa trên các nguyên lý chung của luật dân sự mà không có quy phạm "chuyên ngành".

- Trong đời sống, luôn tồn tại nhiều kiểu "hợp đồng chấp nhận" - những hợp đồng được soạn thảo sẵn mà người tiêu dùng chỉ có thể chấp nhận hay không chấp nhận tham gia, không được sửa chữa gì (hợp đồng cung cấp điện, nước, thông tin truyền thông, tín dụng...), trong đó người sản xuất, kinh doanh đưa nhiều điều kiện bất lợi cho người tiêu dùng - và do tính chất "độc quyền", người tiêu dùng buộc phải ký các hợp đồng này. Khi xảy ra tranh chấp, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng như thế nào thì Pháp lệnh và Nghị định 69 đều không nêu rõ Chúng tôi cho rằng, trong thời gian tới, khi xây dựng Luật Bảo vệ người tiêu dùng, cần cấm việc đưa vào hợp đồng những điều khoản gây bất lợi, bất bình đẳng cho người tiêu dùng.

- Về vấn đề "quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng", Pháp lệnh đã đưa ra các lĩnh vực hoạt động quản lý nhà nước bảo vệ người tiêu dùng. Cụ thể hoá Pháp lệnh, Nghị định 69 đã quy định khá chi tiết trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Tuy nhiên, hiện nay còn một số vấn đề phải giải quyết như sau: Thứ nhất, cơ cấu, tên gọi của các Bộ, cơ quan ngang Bộ hiện nay đã có nhiều thay đổi, nên việc sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của các Bộ cần được thực hiện cho phù hợp với Chính phủ mới.

Thứ hai, cần quy định cụ thể mối quan hệ của các Bộ với Tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Ban bảo vệ người tiêu dùng thuộc Bộ Công thương. Thứ ba, trong công tác bảo vệ người tiêu dùng, vai trò của điều tra viên rất lớn. Thông qua hoạt động của mình, điều tra viên xác định tính chất của sự việc, chủ động làm việc với người sản xuất, kinh doanh, từ đó xác định các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng. Hiện nay, chức danh điều tra viên đã được tổ chức trong Cục quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương. Tuy nhiên, nhiệm vụ và quyền hạn chưa được xác định tại Pháp lệnh và Nghị định 69. Do vậy, cơ sở pháp lý cho hoạt động của điều tra viên chưa rõ ràng.

- Về giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm. Pháp lệnh chỉ đưa ra các nguyên tắc chung trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, như: người tiêu dùng trực tiếp hoặc thông qua đại diện để thực hiện việc khiếu nại, yêu cầu bồi hoàn, bồi thường; việc giải quyết trước hết theo nguyên tắc hoà giải, nếu không hoà giải được, người tiêu dùng có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật; người sản xuất, kinh doanh vi phạm quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bị xử phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật... Các quy định này rất chung, chủ yếu mang tính nguyên tắc, "hiến chương", dẫn chiếu luật (mà cũng chỉ có tính chất dẫn chiếu chung) nên hiệu quả áp dụng không cao. Pháp lệnh và Nghị định 69 cũng không quy định thời hạn khiếu nại của người tiêu dùng và thời hạn giải quyết khiếu nại của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh. Điều đó hạn chế tính khả thi của các quy định bảo vệ người tiêu dùng. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng không được quy định rõ ràng: người tiêu dùng có phải làm đơn không; nộp ở đâu; có chịu lệ phí gì không; thời hạn giải quyết; phương thức giải quyết; nếu không đồng ý với ý kiến giải quyết của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh thì người tiêu dùng khiếu nại tiếp đến đâu hay khởi kiện ra Toà; trường hợp cá nhân, tổ chức chậm giải quyết khiếu nại dẫn đến hết thời hiệu khởi kiện dân sự thì giải quyết thế nào; nếu khởi kiện ra Toà án thì người tiêu dùng có được quyền yêu cầu cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh bồi thường các chi phí phát sinh trong quá trình khiếu nại, khởi kiện không (chi phí thuê luật sư, đi lại...). Các vấn đề này cũng chưa được Pháp lệnh và Nghị định 69 làm rõ. Việc Nghị định 69 quy định nguyên tắc giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo là không hợp lý. Chúng tôi cho rằng, hành vi khiếu nại ở đây không thuộc nội dung khiếu nại hành chính mà là khiếu nại dân sự, do vậy, cần có quy định riêng, cụ thể về việc cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng. Pháp lệnh không quy định cụ thể các biện pháp xử lý hành chính cá nhân, tổ chức vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Nói khác hơn, khi cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh vi phạm quy định về trách nhiệm của mình theo quy định của Pháp lệnh và Nghị định 69 thì không có chế tài cho cá nhân, tổ chức đó. Điều đó không thể hiện tính "trừng phạt", răn đe, giáo dục, từ đó làm giảm tính hiệu quả của việc bảo vệ người tiêu dùng.

2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ người tiêu dùng

Trong thời gian tới, Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng Luật Bảo vệ người tiêu dùng. Nội dung chính của đạo luật này cần phải thể hiện được những vấn đề sau:

2.1. Thể hiện được 8 quyền của người tiêu dùng [2]

a) Quyền được an toàn

Quyền được an toàn là quyền của người tiêu dùng được an toàn về tính mạng, sức khoẻ khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ. Trong những năm qua, đặc biệt trong thời gian gần đây, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm luôn giữ vị trí trọng tâm trong sinh hoạt của người dân Việt Nam.

Hàng hóa và dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng phải đảm bảo các điều kiện cơ bản, có thể sử dụng được và không gây hại đến sức khỏe và an toàn cho người tiêu dùng. Hàng hóa và dịch vụ cung ứng đe dọa đến sức khỏe và an toàn cho người tiêu dùng phải được thu hồi khỏi thị trường theo một quy trình nhanh gọn và đơn giản. Nếu các nguy cơ gắn liền với sản phẩm đang được người tiêu dùng sử dụng, người tiêu dùng cần phải được thông báo kịp thời về chất lượng của sản phẩm để tránh các hậu quả đe dọa đến sức khỏe, tính mạng của họ có thể gây ra từ các sản phẩm hay dịch vụ kém chất lượng.

Hiện nay, chúng ta đã xây dựng Luật Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật. Trong thời gian tới, các Bộ cần đẩy mạnh xây dựng các quy chuẩn cho hàng hoá, dịch vụ do Bộ quản lý và giám sát nghiêm ngặt việc thực hiện những quy định này. Đối với các sản phẩm liên quan đến những quy chuẩn bắt buộc, các doanh nghiệp phải thông báo và hướng dẫn chi tiết, rõ ràng về các ảnh hưởng có hại trên nhãn hàng hoá và trên quảng cáo, có hướng dẫn sử dụng để người tiêu dùng tự bảo vệ mình.

Đồng thời, cần hệ thống hoá, hoàn thiện các chế tài đối với hành vi cung cấp hàng hoá, dịch vụ không an toàn, bao gồm cả chế tài dân sự, chế tài hành chính và chế tài hình sự.

b) Quyền được lựa chọn

Quyền được lựa chọn là quyền của người tiêu dùng tự do thể hiện ý chí, tự định đoạt trong việc lựa chọn hàng hoá, dịch vụ mà không phụ thuộc ý chí của người sản xuất, kinh doanh.

Để thực hiện được quyền này, Luật Bảo vệ người tiêu dùng phải quy định các nguyên tắc: phải công bố rõ ràng tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, dịch vụ; niêm yết giá công khai; cung cấp thông tin về hàng hoá, dịch vụ trung thực, đầy đủ; nghiêm cấm hành vi cạnh tranh không lành mạnh; ghi nhận quyền đòi bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng.

c) Quyền được đào tạo về tiêu dùng

Quyền được đào tạo về tiêu dùng là quyền người tiêu dùng có được những kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực hiện việc lựa chọn hàng hoá, dịch vụ và sử dụng chúng một cách tốt nhất.

Trước khi mua một sản phẩm hay một dịch vụ, người tiêu dùng có quyền được nhận các thông tin thích đáng cho phép họ hiểu biết về đặc tính chủ yếu như về bản chất, chất lượng, số lượng và giá của sản phẩm hay dịch vụ đề nghị; lựa chọn hợp lý giữa nhiều sản phẩm và dịch vụ cạnh tranh; sử dụng một cách an toàn và thỏa mãn sản phẩm hay dịch vụ.

Để thực hiện quyền này, Luật Bảo vệ người tiêu dùng cần quy định trách nhiệm đào tạo về tiêu dùng của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh và của Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng (thuộc Bộ Công thương).

d) Quyền được thông tin

Quyền được thông tin là quyền được hiểu, biết những dữ kiện, dữ liệu cần thiết cho việc lựa chọn của người tiêu dùng trước những thông tin, quảng cáo, nhãn hiệu sai lệch. Thực tế, luôn luôn tồn tại sự bất bình đẳng (hay sự không đối xứng) giữa người tiêu dùng và người cung ứng: người cung ứng luôn có nhiều thông tin hơn người tiêu dùng. Hậu quả là người tiêu dùng có thể sử dụng sai túi tiền của họ do thiếu hiểu biết hoặc chỉ biết một phần sự thật. Nếu thông tin không được đảm bảo đồng nghĩa với việc là thị trường không minh bạch. Trong khi đó, sự minh bạch của thị trường là điều kiện cần thiết để tạo ra một thị trường cạnh tranh lành mạnh. Bởi vậy, cần đảm bảo thông tin cho người tiêu dùng. Điều này không những đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng mà còn đảm bảo sự minh bạch của thị trường[3].

Để thực hiện quyền này, Luật Bảo vệ người tiêu dùng cần quy định trách nhiệm cụ thể của người sản xuất, kinh doanh trong việc đảm bảo thông tin đầy đủ, chính xác cho người tiêu dùng; Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng (thuộc Bộ Công thương) cần thu thập, xử lý, lưu trữ các thông tin liên quan đến hàng hoá, dịch vụ và những vấn đề mà người tiêu dùng quan tâm, cung cấp kịp thời, nhanh chóng cho người tiêu dùng và cơ quan thông tin, báo chí.

e) Quyền được đại diện

Quyền được đại diện là quyền của người tiêu dùng trong việc thông qua người khác hoặc tổ chức khác để bảo vệ quyền lợi của mình.

Cơ chế đại diện đã được quy định trong Bộ luật Dân sự. Tổ chức đại diện cho người tiêu dùng hiện nay đã được thành lập, đó là Hội bảo vệ người tiêu dùng. Vấn đề đặt ra là vị trí pháp lý của Hội như thế nào (Nghị định 69 quy định về Tổ chức bảo vệ người tiêu dùng tại Chương I - Chúng tôi cho rằng, trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng không nên quy định về việc thành lập tổ chức này, mà sẽ do Luật về Hội quy định; nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng của Hội sẽ được quy định trong Điều lệ của Hội).

g) Quyền được trả lại hàng hoá và bồi thường thiệt hại

Quyền được bồi thường là quyền được khắc phục, sửa chữa, đổi hàng hoá kém chất lượng hoặc dịch vụ không đáp ứng được yêu cầu.

Để thực hiện được quyền này, Luật Bảo vệ người tiêu dùng cần quy định hệ thống tổ chức giải quyết khiếu nại từ trung ương đến địa phương; quy định rõ về các thủ tục khiếu nại, giải quyết tranh chấp, bồi thường thiệt hại[4].

Bên cạnh đó, cũng cần ghi nhận người tiêu dùng có quyền được hối hận (từ chối) - còn được gọi là quyền trả lại hàng hoá - trong một số trường hợp như: trường hợp bán hàng giao tận nhà; cam kết mua hàng trả góp; mua hàng từ xa qua internet - cách mua hàng này có thể mang đến nhiều bất ngờ cho người tiêu dùng. Trên thực tế, người tiêu dùng rất khó biết sản phẩm chỉ qua một bức ảnh. Vì vậy cần thiết phải có quy định về quyền được trả lại sản phẩm trong một thời gian pháp lý nhất định.

h) Quyền được thoả mãn những nhu cầu cơ bản

Quyền được thoả mãn các nhu cầu cơ bản là quyền được tiếp cận, được đáp ứng tốt với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, thoả mãn được các nhu cầu về ăn, uống, mặc, ở, bảo vệ sức khỏe, giáo dục và vệ sinh. Để thực hiện được quyền này, Luật Bảo vệ người tiêu dùng cần có những quy định về tiêu chuẩn hoá, đảm bảo đo lường, thử nghiệm, đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh đối với các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản về tiêu dùng cho người dân.

i) Quyền được có một môi trường lành mạnh

Quyền được có một môi trường lành mạnh là quyền được sống và làm việc trong một môi trường không đe dọa tới sức khỏe của thế hệ hiện tại cũng như các thế hệ tương lai.

Vấn đề bảo vệ môi trường đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường, trong khuôn khổ của Luật Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, cần ghi nhận nguyên tắc khuyến khích sử dụng các hàng hoá, dịch vụ thích hợp với môi trường, có thể tái chế được; đối với các hàng hoá có khả năng gây ô nhiễm môi trường, người sản xuất, kinh doanh phải có dấu hiệu cảnh báo trên hàng hoá và nơi lưu giữ hàng hoá; quy định nghĩa vụ của người sản xuất và cơ quan bảo vệ người tiêu dùng trong việc thu thập thông tin, hướng dẫn người tiêu dùng về cách lựa chọn, sử dụng và phòng chống độc hại.

2.2. Nâng cao vai trò của cơ quan bảo vệ người tiêu dùng

Hiện nay, cơ quan bảo vệ người tiêu dùng là Ban bảo vệ người tiêu dùng thuộc Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương. Trong thời gian tới, cần nâng cao vai trò của cơ quan này, thể hiện ở hai giải pháp[5]:

- Thành lập Cục bảo vệ người tiêu dùng

- Tăng cường quyền hạn, trách nhiệm của Cục bảo vệ người tiêu dùng và các điều tra viên trong Cục (có quyền thanh, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính, đình chỉ hoạt động của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh; kiến nghị thu hồi giấy phép kinh doanh...).

2.3. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp trong vấn đề bảo vệ người tiêu dùng

Luật Bảo vệ người tiêu dùng cần ghi nhận: tranh chấp giữa người tiêu dùng và người sản xuất, kinh doanh là tranh chấp dân sự. Do vậy, về nguyên tắc, việc giải quyết tuân theo các quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Luật Bảo vệ người tiêu dùng quy định trình tự, thủ tụng khiếu nại của người tiêu dùng và lưu ý các vấn đề sau:

- Quy định rõ thời hạn khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại. Trong thời gian người sản xuất, kinh doanh trả lời khiếu nại hoặc thời gian cơ quan bảo vệ người tiêu dùng điều tra theo đơn khiếu nại của người tiêu dùng thì không tính vào thời hiệu khởi kiện (để bảo đảm quyền khởi kiện của người tiêu dùng).

- Khi quyền của người tiêu dùng bị xâm phạm, người tiêu dùng có thể khởi kiện tại Toà án mà không cần trình tự khiếu nại.

- Quy định hệ thống các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, dân sự, hình sự (có thể dẫn chiếu) nhưng cần cụ thể, rõ ràng.

2.4. Quyền và nghĩa vụ của người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dung

Để Luật Bảo vệ người tiêu dùng có tính thực tiễn, dễ áp dụng, cần quy định cụ thể (có thể dẫn chiếu) các quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng, đặc biệt là đối với cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh, tránh tình trạng luật khung - nói khác hơn là các điều luật cần mang tính quy phạm - các chủ thể được quy định trong luật cần được biết mình có quyền làm gì và có nghĩa vụ không được làm gì cùng với chế tài cụ thể kèm theo.

[1] Chúng tôi chỉ nêu các văn bản dưới dạng Luật, Nghị quyết, Nghị định. Sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối.

[2] Người đầu tiên nêu lên các quyền cơ bản của người tiêu dùng là Tổng thống Mỹ Jonh Kennedy năm 1962, bao gồm quyền được an toàn, quyền được thông tin, quyền được lựa chọn, quyền được lắng nghe ý kiến.

[3] Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Đức quy định: một quảng cáo bị coi là mang tính chất lừa dối, nếu 15% người tiêu dùng nhận thấy các khẩu hiệu tuyển truyền quảng cáo là không đúng sự thật

[4] Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại, xác định thiệt hại... tuân theo quy định của Bộ luật Dân sự.

[5] Luật mẫu về bảo vệ người tiêu dùng của CI kiến nghị thành lập Bộ, Cục bảo vệ người tiêu dùng. Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Thái Lan quy định thành lập 'Hội đồng bảo vệ người tiêu dùng" đứng đầu là Thủ tướng; Luật Bảo vệ người tiêu dùng Singapor quy định Bộ Thương mại có trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng, Bộ trưởng cử một giám đốc bảo vệ người tiêu dùng đặc trách lĩnh vực này; Luật Bảo vệ người tiêu dùng Nhật Bản quy định thành lập Hội đồng bảo vệ người tiêu dùng trực thuộc Văn phòng Thủ tướng; Luật Bảo vệ người tiêu dùng ấn độ quy định thành lập Hội đồng bảo vệ người tiêu dùng do Bộ trưởng làm Chủ tịch... Nhìn chung, trong các nước có hệ thống pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, vai trò, vị trí pháp lý của Tổ chức (cơ quan) bảo vệ người tiêu dùng rât lớn, tương đương cấp Cục ở Việt Nam trở lên.

Bài viết đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 105, tháng 9/2007

Góp ý dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng

Một số vấn đề về xây dựng Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Ths. Nguyễn Văn Cương

Trước tình trạng việc vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng còn diễn biến phức tạp, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta còn nhiều bất cập cả về phương diện quy định và công tác tổ chức thực thi, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Luật BVQLNTD) đã chính thức được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XII. Đến nay, Bộ Công thương, cơ quan chủ trì soạn thảo đạo luật này đã thực hiện những công việc khởi động bước đầu, trong đó có việc đánh giá thực trạng công tác bảo vệ người tiêu dùng, thực trạng pháp luật BVQLNTD và xây dựng đề cương Dự thảo Luật BVQLNTD. Hiện có nhiều ý kiến khác nhau của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động thực tiễn về việc nên hay không nên xây dựng đạo luật này và nếu xây dựng thì phạm vi điều chỉnh ra sao. Bài viết này góp phần vào việc giải quyết những vấn đề đó.

1. Bắt đầu từ vấn đề của người tiêu dung

Trong hệ thống pháp luật nước ta hiện nay, có khá nhiều luật, pháp lệnh có nội dung quy định trực tiếp hoặc gián tiếp về bảo vệ người tiêu dùng, như: Pháp lệnh BVQLNTD năm 1999, Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS), Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007, Pháp lệnh Vệ sinh, an toàn thực phẩm năm 2003, Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001, Pháp lệnh Giá năm 2002... Như vậy, Luật BVQLNTD khi được ban hành (thay cho Pháp lệnh BVQLNTD) sẽ thực hiện những nhiệm vụ gì và những nhiệm vụ đó hiện nay đã được đáp ứng như thế nào bởi các luật, pháp lệnh hiện tại.

Chúng ta đều biết rằng, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng có nhiệm vụ cung cấp các giải pháp pháp lý để giải quyết các vấn đề mà người tiêu dùng thường mắc phải trong thực tiễn mua sắm, tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ của mình. Kinh nghiệm thực tiễn ở Việt Nam và quốc tế cho thấy, trong quan hệ mua sắm hoặc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ, người tiêu dùng thường gặp bốn vấn đề (hay bốn yếu thế) cơ bản sau:

- Yếu thế trong việc tiếp cận, xử lý và hiểu các thông tin về hàng hoá, dịch vụ trong quan hệ mua bán, trao đổi (vấn đề thông tin không cân xứng). Người tiêu dùng, do không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá, dịch vụ, cũng như do những hạn chế trong hiểu biết về chuyên môn, kỹ thuật nên thường không hiểu được đầy đủ tính năng, công dụng, chất lượng, các rủi ro liên quan tới quá trình tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ như các tổ chức, cá nhân sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ (tạm gọi là thương nhân). Trong giao dịch với thương nhân, người tiêu dùng còn có thể gặp các bất lợi khác như không nắm bắt được thông tin về giá cả của các loại hàng hoá, dịch vụ tương tự, các thông tin về chất lượng dịch vụ, hậu mãi, v.v..

- Yếu thế trong việc đàm phán, thiết lập hợp đồng, giao dịch khi quan hệ với các thương nhân trên thị trường.

- Yếu thế về khả năng chi phối giá cả, các điều kiện kinh doanh, giao dịch trên thị trường, nhất là trong các thị trường mà chỉ có một số ít doanh nghiệp chi phối, chiếm lĩnh.

- Yếu thế về khả năng chịu rủi ro trong quá trình tiêu dùng sản phẩm. Do tiềm lực tài chính có hạn, khi xảy ra các rủi ro (tai nạn) phát sinh trong quá trình tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ, người tiêu dùng sẽ rất khó khăn khi phải tự mình trang trải các chi phí khắc phục những rủi ro. Trong khi đó, nếu gánh nặng chi phí ngăn ngừa, gánh chịu rủi ro ấy được chuyển sang cho thương nhân, thì khả năng trang trải các chi phí này thường là tốt hơn.

Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, muốn đáp ứng được tốt yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng, thực hiện được chức năng đã định phải tính tới các yếu thế đó của người tiêu dùng để có giải pháp phù hợp. Nhưng rất tiếc, có thể nói, trong quá trình xây dựng Pháp lệnh BVQLNTD năm 1999 và các đạo luật có liên quan, bốn vấn đề cơ bản kể trên của người tiêu dùng chưa được đề cập một cách trực diện và tổng thể. Luật BVQLNTD cần được ban hành một phần do yêu cầu khắc phục các bất cập đó trong pháp luật hiện hành.

2. Cách tiếp cận của Luật BVQLNTD

Hiện nay, có ý kiến cho rằng, Luật BVQLNTD chỉ nên tập trung ghi nhận quyền của người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh; cơ sở pháp lý cho các hội bảo vệ người tiêu dùng hoạt động và cung cấp cơ sở pháp lý để thực hiện việc quản lý nhà nước đối với công tác bảo vệ người tiêu dùng (trong đó có việc thiết lập cơ quan chuyên trách về bảo vệ người tiêu dùng và thiết kế các quyền năng phù hợp cho cơ quan này). Đạo luật không nên có các quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa người tiêu dùng với thương nhân, bởi các vấn đề về hợp đồng đã được nêu tương đối đầy đủ và chi tiết trong BLDS và Luật Thương mại năm 2005. Nếu Luật BVQLNTD lại điều chỉnh cả quan hệ hợp đồng sẽ tạo sự chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định đã có trong BLDS và Luật Thương mại.

Tuy nhiên, theo chúng tôi, quan điểm trên có nhiều điểm không phù hợp với yêu cầu thực tiễn bảo vệ người tiêu dùng đang đặt ra cũng như không phù hợp với thông lệ quốc tế. Quan điểm này chưa nhận thấy rõ những bất cập của BLDS và Luật Thương mại hiện hành trong việc giải quyết các vấn đề của người tiêu dùng.

Chúng ta đều biết rằng, BLDS được sinh ra để điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể độc lập, bình đẳng nhau về địa vị pháp lý (không có mối quan hệ lệ thuộc nhau về tài sản hoặc tổ chức) nên việc bảo đảm nguyên tắc tự do hợp đồng là yêu cầu hàng đầu của Bộ luật này. Luật Thương mại cũng tập trung điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể độc lập, bình đẳng nhau về địa vị pháp lý, nhưng các chủ thể này đều mang tính chuyên nghiệp trong các hoạt động liên quan tới quan hệ được điều chỉnh.

Do nhấn mạnh tới sự bình đẳng của các chủ thể tham gia quan hệ, BLDS và Luật Thương mại không có đủ điều kiện để tính đến các vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa một bên có tính chuyên nghiệp với một bên có tính nghiệp dư trong các quan hệ giao dịch, mua bán. Quan hệ giữa các thương nhân với người tiêu dùng tuy có sự bình đẳng nhất định vì hai chủ thể này là hai chủ thể không lệ thuộc nhau về mặt tài sản hoặc tổ chức; nhưng do đây là mối quan hệ giữa một bên có tính chuyên nghiệp (thương nhân) với một bên mang nặng tính nghiệp dư (người tiêu dùng) trong các giao dịch, mua bán hàng hoá, dịch vụ nên mức độ bình đẳng về mặt thực tế của các chủ thể này có nhiều vấn đề. Khi đó, BLDS và Luật Thương mại, với việc nhấn mạnh nguyên tắc tự do hợp đồng sẽ trở nên không phù hợp để điều chỉnh quan hệ giữa thương nhân với người tiêu dùng trong một số trường hợp nhất định.

Chính vì vậy, nhằm bảo đảm sự công bằng trong giao dịch giữa thương nhân và người tiêu dùng, ngăn ngừa khả năng thương nhân lợi dụng các ưu thế của mình để xâm hại quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng, việc đưa ra các quy tắc đặc thù điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa thương nhân với người tiêu dùng là rất cần thiết. Pháp luật về BVQLNTD của nhiều nước hoặc Luật Hợp đồng tiêu dùng ở một số nước có sứ mệnh này. Theo chúng tôi, Luật BVQLNTD ở Việt Nam cũng nên có các quy tắc điều chỉnh quan hệ hợp đồng với các nội dung quy định khác với các quy tắc tương ứng trong BLDS trong những trường hợp cần thiết nhằm nâng cao mức độ bảo vệ người tiêu dùng trong các giao dịch với thương nhân.

3. Phạm vi điều chỉnh của Luật BVQLNTD

Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm xây dựng pháp luật về BVQLNTD của các nước trên thế giới, kế thừa những quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm của Pháp lệnh BVQLNTD năm 1999, chúng tôi cho rằng, Luật BVQLNTD của Việt Nam nên tập trung điều chỉnh các nội dung: Hệ thống các quyền của người tiêu dùng và những trách nhiệm của cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; Các hành vi thương mại không lành mạnh như: hành vi thông tin gian dối, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, cưỡng ép người tiêu dùng v.v..; Các vấn đề về hợp đồng tiêu dùng, trong đó có quy định về điều khoản hợp đồng không công bằng, ngôn ngữ hợp đồng, bảo hành và một số loại hợp đồng tiêu dùng đặc thù như hợp đồng bán hàng trực tiếp, hợp đồng cung ứng dịch vụ liên tục, hợp đồng bán hàng từ xa v.v...; Các vấn đề về trách nhiệm sản phẩm (phân chia trách nhiệm chịu rủi ro trong quá trình tiêu dùng sản phẩm); Cơ quan chuyên trách về bảo vệ người tiêu dùng và các quyền năng của cơ quan này, nhất là quyền thanh tra, kiểm tra, quyền xử lý vi phạm; Các biện pháp chế tài và trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp chế tài, trong đó cần bổ sung các loại chế tài như cảnh báo, công bố công khai hành vi vi phạm, khuyến nghị phương thức chấp hành pháp luật v.v..; Các quy định về Hội bảo vệ người tiêu dùng, trong đó cần nêu rõ cơ chế hỗ trợ tài chính cho các Hội này hoạt động.

3. Vị trí của Luật BVQLNTD

Để khắc phục những yếu thế của người tiêu dùng, Luật BVQLNTD nên được quan niệm có vị trí ưu tiên áp dụng so với các quy định về hợp đồng giữa thương nhân với người tiêu dùng mà BLDS và Luật Thương mại đã quy định.

Luật BVQLNTD lại là đạo luật có tính chất quy định chung về các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng trong mối tương quan với các đạo luật điều chỉnh từng loại thị trường, từng lĩnh vực kinh doanh nhất định. Ví dụ, trong mối tương quan với các đạo luật điều chỉnh từng lĩnh vực kinh doanh nhất định như Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Du lịch, Luật Dược, Luật Điện lực v.v..., Luật BVQLNTD là đạo luật chung, còn các đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực cụ thể sẽ là đạo luật chuyên ngành. Trường hợp đạo luật chuyên ngành có quy định khác thì áp dụng quy định của đạo luật chuyên ngành. Trường hợp đạo luật chuyên ngành không quy định mà đạo luật chung có quy định thì áp dụng quy định của đạo luật chung.

5. Một số nội dung về quan hệ hợp đồng cần được điều chỉnh trong Luật BVQLNTD

Ngôn ngữ của hợp đồng tiêu dùng: để giúp người tiêu dùng hiểu rõ hơn về nội dung của giao dịch giữa họ với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, ngăn ngừa khả năng tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh lợi dụng ưu thế về kỹ năng giao dịch của mình gây hại cho người tiêu dùng, Luật BVQLNTD nên quy định về ngôn ngữ trong các hợp đồng tiêu dùng có sử dụng văn bản. Chẳng hạn, Luật cần quy định rằng, trong trường hợp điều khoản hợp đồng được trình bày bằng văn bản thì ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản này phải là ngôn ngữ phổ thông, dễ hiểu đối với người tiêu dùng thông thường. Trường hợp có nhiều cách hiểu khác nhau về điều khoản trong hợp đồng thì cách hiểu có lợi nhất cho người tiêu dùng sẽ là cách hiểu chính thức. Quy định này tương tự như quy định trong Khoản 8, Điều 409 của BLDS nhưng nó chi tiết, rõ ràng hơn và đặc biệt là khẳng định dứt khoát rằng, người tiêu dùng chính là bên yếu thế.

Quy định đánh giá điều khoản bất công trong các hợp đồng tiêu dùng: với mục tiêu bảo đảm tính công bằng trong quan hệ giữa thương nhân và người tiêu dùng, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của nhiều quốc gia như: các quốc gia thuộc liên minh Châu Âu, Canada, Nhật Bản, Hoa Kỳ... cấm thương nhân đưa các điều khoản không công bằng vào trong hợp đồng của mình với người tiêu dùng. Pháp luật của các quốc gia này thường nêu khá chi tiết và cụ thể các dạng quy định được coi là bất công với người tiêu dùng để người tiêu dùng dễ dàng nhận biết, đánh giá và yêu cầu thương nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền xem xét lại. Một điều khoản sẽ được coi là bất công nếu điều khoản đó nằm trong các hợp đồng mẫu do thương nhân sử dụng, không được đưa ra thương lượng trực tiếp với người tiêu dùng và tạo sự bất cân xứng giữa quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng theo hướng bất lợi cho người tiêu dùng. Một điều khoản bị người tiêu dùng khiếu nại hoặc khởi kiện về tính bất công thì nghĩa vụ chứng minh sự công bằng của điều khoản ấy sẽ thuộc về thương nhân. Những nội dung kể trên rất nên được quy định trong Luật BVQLNTD của Việt Nam.

Ngoài ra, để người tiêu dùng dễ phát hiện, nhận biết các điều khoản có dấu hiệu bất công, Luật BVQLNTD nên nêu chi tiết những trường hợp điển hình mà điều khoản trong hợp đồng được coi là "không công bằng", đó là các điều khoản: 1) giới hạn trách nhiệm pháp lý của thương nhân khi người tiêu dùng bị xâm hại về tính mạng, sức khoẻ do hành vi trái pháp luật của thương nhân; 2) giới hạn quyền của người tiêu dùng đối với thương nhân hoặc với bên thứ ba trong trường hợp thương nhân không thực hiện đúng các nghĩa vụ trong hợp đồng; 3) đưa ra quy định mà việc thay đổi chỉ lệ thuộc vào ý chí của thương nhân; 4) cho phép thương nhân được giữ lại một phần tiền của người tiêu dùng khi người tiêu dùng quyết định không ký kết hoặc thực hiện hợp đồng, mà không cho người tiêu dùng nhận phần đền bù tương xứng với khoản tiền đã bỏ ra; 5) cho phép thương nhân tự ý chấm dứt hợp đồng mà không cần thông báo trước cho người tiêu dùng trong một thời hạn hợp lý; 6) cho phép thương nhân tự ý kéo dài thời hạn áp dụng của hợp đồng mà không có sự đồng ý một cách rõ ràng của người tiêu dùng; 7) cho phép thương nhân tự ý thay đổi các điều khoản của hợp đồng mà không có sự đồng ý của người tiêu dùng; 8) cho phép thương nhân tự ý thay đổi các đặc điểm của sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho người tiêu dùng mà không có sự đồng ý của người tiêu dùng; 9) cho phép thương nhân được tự ý thay đổi giá cả hàng hoá, dịch vụ cung ứng mà không cho phép người tiêu dùng quyền được chấm dứt hợp đồng; 10) cho phép thương nhân tự ý quyết định việc hàng hoá, dịch vụ cung ứng có phù hợp với quy định trong hợp đồng hay không, cho phép thương nhân tự ý giải thích hợp đồng theo ý của mình và buộc người tiêu dùng phải theo; 11) buộc người tiêu dùng phải hoàn thành tất cả các nghĩa vụ của mình khi thương nhân chưa thực hiện nghĩa vụ của mình; 12) cho phép thương nhân tự ý chuyển các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà không có sự đồng ý của người tiêu dùng; 13) cản trở người tiêu dùng sử dụng các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt là quy định buộc người tiêu dùng không được đưa vụ kiện của mình ra giải quyết tại toà án v.v..

Quy định về giao dịch bán hàng trực tiếp: hiện nay, việc các công ty cho nhân viên đi bán hàng trực tiếp (mang hàng tiếp thị tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng) đang có xu hướng phát triển. Các hệ thống bán hàng đa cấp ở Việt Nam chủ yếu sử dụng phương thức này để bán các loại hàng gia dụng như dầu gội đầu, máy sấy tóc, máy sinh tố, thực phẩm chức năng, máy mát -xa, máy tạo ôzôn, đệm từ v.v.. Trong nhiều trường hợp, do ở thế bị động và thiếu thông tin, người tiêu dùng đã mua phải các sản phẩm với giá rất đắt hoặc sản phẩm có dấu hiệu lừa dối. Hiện tại, pháp luật hợp đồng Việt Nam (quy định trong BLDS) coi các hợp đồng bán hàng trực tiếp này cũng giống như mọi loại hợp đồng bán hàng, bán tài sản khác. Điều đó có nghĩa, nếu người tiêu dùng đã đồng ý mua hàng, trả tiền thì nói chung không còn được tự ý chấm dứt hợp đồng, trả lại hàng, đòi lại tiền. Xét từ góc độ bảo đảm quyền được thông tin và quyền lựa chọn hàng hoá của người tiêu dùng, quy định như trên của pháp luật Việt Nam chưa thực sự bảo đảm tốt các quyền năng của người tiêu dùng. Lý do là, phương thức bán hàng trực tiếp đã khiến cho người tiêu dùng rơi vào thế "bị tấn công", thế bị động, không có đủ thời gian, sự tỉnh táo cần thiết để kiểm chứng thông tin, tìm hiểu thêm về sản phẩm được tiếp thị và dễ đưa ra các quyết định vội vàng.

Giải quyết tình huống đó, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của nhiều quốc gia, như Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Nhật Bản v.v.. thường đưa ra quy định cho phép người tiêu dùng có một thời gian nhất định (thường là từ 7 đến 10 ngày) để cân nhắc, suy nghĩ, tham khảo thêm thông tin. Trong thời hạn đó, người tiêu dùng có thể đổi ý, trả lại hàng hoá, đòi lại tiền của người bán hàng bất cứ khi nào mà không cần giải thích lý do. Khoảng thời gian này là thời gian để người tiêu dùng "làm nguội" cái đầu của mình từ đó đưa ra các quyết định cẩn trọng hơn.

Để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người tiêu dùng, Luật BVQLNTD của nước ta trong tương lai nên có quy định tương tự về vấn đề này. Chẳng hạn, Luật có thể quy định, người bán hàng trực tiếp phải xuất trình giấy tờ chứng minh tư cách của mình, hợp đồng bán hàng trực tiếp đối với những mặt hàng có giá trị từ một mức tiền nào đó (ví dụ: từ 100 ngàn trở lên) phải được thể hiện bằng văn bản và phải được gửi cho người tiêu dùng. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày mua hàng, người tiêu dùng có quyền chấm dứt hợp đồng, trả lại hàng, đòi lại tiền cho người bán mà không phải giải thích lý do và cũng không phải bồi thường bất cứ khoản chi phí nào.

Quy định về hợp đồng bán hàng từ xa: hình thức bán hàng từ xa (bán hàng trong khi người tiêu dùng không được trực tiếp xem, kiểm tra chất lượng hàng hoá tại thời điểm đặt mua hàng) ngày càng trở nên phổ biến ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh các phương tiện viễn thông như điện thoại, Internet đang ngày càng được ưa chuộng ở nước ta.

Theo quy định của pháp luật hợp đồng của Việt Nam, hợp đồng bán hàng từ xa cũng được coi như một hợp đồng bán hàng thông thường. Hình thức của hợp đồng này có thể thể hiện dưới bất cứ hình thức nào (bằng lời nói, hành vi hoặc bằng văn bản). Trong thực tế, không ít trường hợp, người tiêu dùng đặt hàng qua điện thoại hoặc qua mạng Internet, thanh toán tiền qua tài khoản, khi nhận được hàng thì lại không được loại hàng như mình mong muốn (thường là chất lượng không bảo đảm), khi khiếu nại không được giải quyết thoả đáng.

Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng, pháp luật về BVQLNTD của nhiều quốc gia trên thế giới thường đưa ra quy định hợp đồng bán hàng từ xa phải được thể hiện dưới hình thức văn bản do người bán phát hành, trong đó phải ghi rõ những điều khoản cơ bản nhất như: tên, địa chỉ liên lạc của người bán; tên, địa chỉ của người mua; ngày ký hợp đồng; mô tả chi tiết về hàng hoá, dịch vụ được cung ứng (ghi rõ các chỉ tiêu về kỹ thuật và chuyên môn); cấu thành giá của hàng hoá, dịch vụ (nêu rõ giá chưa có thuế và giá có thuế, các khoản phí phải trả, bao gồm cả phí vận chuyển, phí môi giới); điều kiện về vận chuyển (bao gồm cả tên của người có trách nhiệm vận chuyển, địa điểm giao hàng); cách thức thanh toán tiền hàng (các khoản trả chậm, trả dần nếu có, mức lãi suất áp dụng cho các khoản trả chậm, trả dần); các giới hạn trách nhiệm (nếu có) của người bán, người vận chuyển; điều kiện chấm dứt hợp đồng; điều kiện đổi, trả lại hàng hoá; chính sách trả lại tiền hàng v.v. .

Trường hợp hợp đồng bán hàng từ xa được thể hiện dưới hình thức điện tử (trên mạng Internet), thì người bán hàng phải bảo đảm rằng trước khi người tiêu dùng giao kết hợp đồng, họ phải được cung cấp các thông tin cần thiết về hàng hoá, dịch vụ. Các thông tin đó có thể lưu giữ lại dưới dạng bản in; đồng thời, người tiêu dùng phải được quyền sửa chữa những sai sót mà mình đã viết vào bản hợp đồng.

Chúng tôi cho rằng, Luật BVQLNTD của nước ta cũng nên có các quy định tương tự nhằm bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng ở nước ta hiện nay. Luật nên nêu rõ trong một thời hạn nhất định sau khi đã giao kết hợp đồng, người bán phải gửi cho người tiêu dùng một bản hợp đồng chính thức để người tiêu dùng biết và kiểm tra quá trình thực hiện hợp đồng của các bên. Nếu người tiêu dùng không nhận được bản hợp đồng trong thời hạn đó, người tiêu dùng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không phải bồi thường, bồi hoàn cho người bán; trong trường hợp người tiêu dùng chấm dứt hợp đồng mà người tiêu dùng đã trả tiền cho người bán thì trong một thời hạn nhất định (chẳng hạn nhiều nhất là 15 ngày), người bán phải trả lại khoản tiền đã nhận của người tiêu dùng.

Cả thực tiễn và lý luận đều đang chỉ ra rằng, việc xây dựng Luật BVQLNTD để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ người tiêu dùng đang là vấn đề cần thiết. Tuy nhiên, làm thế nào để đạo luật thân thiện với người tiêu dùng hơn, dễ sử dụng hơn đối với người tiêu dùng, chắc chắn sẽ còn nhiều điều cần tiếp tục suy ngẫm.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp điện tử

Tham luËn trong héi th¶o gãp ý cho dù th¶o luËt Bao vÖ ng­êi tiªu dïng

(§µ N¾ng 31/7/2009)

TÁM QUYỀN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG

CẦN ĐƯỢC ĐƯA ĐẦY ĐỦ VÀO LUẬT

ĐỖ GIA PHAN

Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ

Người tiêu dùng Việt Nam

Khi Quốc tế người tiêu dùng (Tiền thân là Liên hiệp các tổ chức người tiêu dùng quốc tế - IOCU - International Union of Consumers Associations) mới được thành lập vào những năm 50 của thế kỷ trước với 5 nước sáng lập là Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan và Hoa kỳ, đều là các nước phát triển, lúc đó người ta mới nêu ra 4 quyền của người tiêu dùng, là các quyền được an toàn, quyền được thông tin, quyền được lựa chọ và quyền được lắng nghe, chủ yếu xoay quanh vấn đề hàng hoá, dịch vụ tương xứng với đồng tiền bỏ ra. Khi phong trào người tiêu dùng lan đến các nước đang phát triển thì vấn đề quan tâm của người tiêu dùng vượt ra ngoài gía trị của đồng tiền, đề cập đến những vấn đề rộng lớn hơn thiết yếu hơn với những người nghèo, đó là vấn đề thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, vấn đề ô nhiễm môi trường...Bốn quyền của người tiêu dùng đã phát triển thành 8 quyền như ngày nay. Đó là các quyền:

1. Quyền được thoả mãn những nhu cầu cơ bản

2. Quyền được an toàn.

3. Quyền được thông tin.

4. Quyền được lựa chọn.

5. Quyền được lắng nghe.

6. Quyền được bồi thương

7. Quyền được giáo dục.

8. Quyền được sống trong một môi trường lành mạnh và bền vững.

Những quyền trên là những quyền cơ bản của người tiêu dùng, nó chỉ đạo mọi hoạt động của Quốc tế người tiêu dùng và các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng trên toàn thế giới. Ngày 15 tháng 3 hàng năm được lấy làm ngày Quyên của người tiêu dùng Thé giới, là ngày đoàn kết động viên mọi công dân với tư cách là người tiêu dùng đứng lên bảo vệ những quyền cơ bản của mình, chống lại mọi sự lạm dụng trên thị trương làm tổn hại đến quyền của người tiêu dùng. Ngày Quyền người tiêu dùng Thế giới được kỷ niệm lần đầu tiên vào ngảy 15/3/1983.

Hai năm sau, ngày 5/4/1985, Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua bản Hướng dẫn Bảo vệ người tiêu dùng, kết quả của 10 năm vận động của Quốc tế người tiêu dùng và các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng trên toàn thế giới.

Bản Hướng dẫn bao quát toàn bộ tám quyền cơ bản của người tiêu dùng và cung cấp những khung khổ cho việc tăng cường chính sách bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia. Với việc phê chuẩn của Liên hiệp quốc, các quyền của người tiêu dùng đã được quốc tế công nhận về mặt pháp lý, được tất cả các nước, kể cả các nước phát triển lẫn đang phát triển đón nhận và thực hiện.

Việc công nhận tám quyền cơ bản của người tiêu dùng là thành tựu đấu tranh của đông đảo người tiêu dùng trên toàn thế giới trong đó có vai trò to lớn của các nước đang phát triển. Tám quyền cơ nbản của người tiêu dùng đã được thể hiện trên luật bảo vệ người tiêu dùng của hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, viêc thể hiện trước đây trên pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng và ngày nay trên bản dự thảo luật bảo vệ người tiêu dùng của nước ta còn thiếu và chưa rõ ràng. Trong bản dự thảo lần này, quyền Được thoả mản nhứng nhu cầu cơ bản của người tiêu dùng, quyền được sống trong một môi trường lành mạnh và bền vững, quyền được giáo dục, chưa được nói đến.

Tuy không liệt kê tám quyền của người tiêu dùng, nhưng điều 4 của luật về Nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng cũng đã nêu lên một số quyền của người tiêu dùng thể hiện bằng 8 khoản trong điều này. Tuy nhiên 8 khoản trong điều này không nêu đủ 8 quyền cơ bản của người tiêu dùng mà chỉ nêu có 5 quyền. Chúng tôi xin đi sâu vào các quyền còn thiếu. Đó là các quyền Được thoả mãn những nhu cầu cơ bản, Được giáo dục, Được sống trong một môi trường lành mạnh và bền vững. Việc đưa đủ 8 quyền của người tiêu dùng vào luật cũng thể hiện sự tôn trọng những thông lệ quốc tế.

Trước hết nói về quyền được giáo dục.

Có thể những người soạn thảo luật này cho răng quyền được giáo dục là vấn đề rất rộng lớn, đã có hẳn trong một bộ luật là luật giáo dục thì không nên đưa vào một bộ luật chuyên ngành như luật bảo vệ người tiêu dùng nữa. Nghĩ như vậy cũng chưa thật thoả đáng vì có thể nói rất nhiều nội dung trong luật bảo vệ người tiêu dùng đã được thể hiện trên các luật khác nhưng vẫn được thể hiện trên luật này. Đó là thể hiện quan điểm, sự quan tâm của xã hội chúng ta đối với người tiêu dùng.

Quyền được giáo dục trong luật bảo vệ người tiêu dùng không chỉ quy định những nguyên tắc chung về giáo dục, mà nhấn mạnh đến vấn đề giáo dục về tiêu dùng như phong cách tiêu dùng lành mạnh, kỹ năng tiêu dùng, các kiến thức về tiêu dùng..., đưa giáo dục về tiêu dùng vào trong chương trình giáo dục...

VËy quyÒn ®­îc gi¸o dôc vÒ tiªu dïng ®­îc hiÓu nh­ thÕ nµo?

Tr­íc hÕt, ®ã lµ quyÒn cña ng­êi tiªu dïng ®­îc h­íng dÉn, gi¸o dôc vÒ tiªu dïng. Gi¸o dôc ng­êi tiªu dïng lµ lµm cho hä biÕt vÒ c¸c quyÒn vµ tr¸ch nhiÖm cña hä, n©ng cao nhËn thøc vÒ quan ®iÓm, phong c¸ch vµ kü n¨ng tiªu dïng, ®Ó hä trë thµnh ng­êi tiªu dïng kh«n ngoan, thËn träng, cã kh¶ n¨ng tù b¶o vÖ m×nh trong mäi t×nh huèng. Ng­êi tiªu dïng ph¶i nhËn thøc ®­îc vÞ trÝ vµ søc m¹nh cña m×nh, biÕt r»ng nÕu kh«ng cã sù ñng hé cña hä th× bÊt kú doanh nghiÖp nµo còng kh«ng thÓ thµnh c«ng. Hä cÇn cã nhËn thøc nh­ vËy ®Ó cã thÓ tù tin trong c¸c t×nh huèng giao dÞch víi c¸c nhµ s¶n xuÊt, kinh doanh. CÇn ph¶i gi¸o dôc ng­êi tiªu dïng, gióp hä cã kiÕn thøc ®Ó cã thÓ ngµng b»ng víi c¸c nhµ s¶n xuÊt kinh doanh khi tiÕn hµnh c«ng viÖc giao dÞch trªn thÞ tr­êng. Ng­êi tiªu dïng cÇn hiÓu biÕt s©u s¾c vÒ c¸c quyÒn cña m×nh, cã kiÕn thøc ®Ó cã thÓ tù gi¶i quyÕt ®­îc nh÷ng khã kh¨n khi cã tranh chÊp trªn thÞ tr­êng. Ng­êi tiªu dïng cÇn ®­îc gi¸o dôc, ®­îc gióp ®ì n©ng cao nhËn thøc ®Ó cã thÓ tù tin vµ tù b¶o vÖ ®­îc m×nh trong mäi t×nh huèng. §ã còng lµ mét biÖn ph¸p hÕt søc quan träng ®Ó b¶o vÖ ng­êi tiªu dïng, v× kh«ng thÓ cã mét lùc l­îng, mét tæ chøc nµo, kÓ c¶ héi b¶o vÖ ng­êi tiªu dïng vµ c¶ chÝnh phñ cã thÓ b¶o vÖ ®­îc tõng ng­êi tiªu dïng trong sè h¬n 85 triÖu ng­êi tiªu dïng cña n­íc ta.

Ngoµi nh÷ng nhËn thøc, kiÕn thøc vµ kü n¨ng vÒ tiªu dïng, ng­êi tiªu dïng cßn cÇn ®­îc gi¸o dôc vÒ tr¸ch nhiÖm cña m×nh. NÕu nh­ c¸c c«ng ty cã bé quy t¾c øng xö vÒ tr¸ch nhiÖm x• héi cña doanh nghiÖp, th× ng­êi tiªu dïng còng cã nh÷ng tr¸ch nhiÖm x• héi m×nh. Hä kh«ng nh÷ng quan t©m ®Õn b¶n th©n mµ cßn cã tr¸ch nhiÖm quan t©m ®Õn x• héi ®Ó gãp phÇn x©y dùng mét x• héi c«ng b»ng, d©n chñ, v¨n minh.

ViÖc gi¸o dôc ng­êi tiªu dïng cã lîi cho nhiÒu phÝa. Tr­íc hÕt lµ cã lîi cho b¶n th©n ng­êi tiªu dïng, gióp hä suy nghÜ nghiªm tóc, chi tiªu hîp lý, tù tin, ®éc lËp, kh«ng ch¹y theo thÞ hiÕu mét c¸ch mï qu¸ng. ViÖc gi¸o dôc ng­êi tiªu dïng còng cã lîi cho x• héi, khiÕn cho thÞ tr­êng vËn hµnh lµnh m¹nh, nguån lùc cña x• héi ®­îc sö dông cã hiÖu qu¶ h¬n.

Gi¸o dôc vÒ tiªu dïng kh«ng chØ lµ gi¸o dôc cho mçi ng­êi víi t­ c¸ch lµ ng­êi tiªu dïng, mµ cßn bao gåm viÖc gi¸o dôc cho c¸c doanh nghiÖp vÒ tr¸ch nhiÖm, nghÜa vô cña hä ®èi víi vÊn ®Ò tiªu dïng, ®èi víi ng­êi tiªu dïng. VËy t¹i sao ph¶i gi¸o dôc c¸c doanh nghiÖp vÒ tiªu dïng?

Gi¸o dôc doanh nghiÖp vÒ tiªu dïng lµ ®Ó t¹o ra mét ý thøc kinh doanh lµnh m¹nh cho c¸c doanh nghiÖp. Tr­íc ®©y, trong c¬ chÕ tËp trung, bao cÊp cò, kh¸i niÖm ng­êi tiªu dïng hÇu nh­ ch­a cã, c¸c doanh nghiÖp kh«ng cÇn quan t©m ®Õn ng­êi tiªu dïng, v× s¶n phÈm dÞch vô hä cung øng kh«ng ph¶i v× ng­êi tiªu dïng mµ lµ ®Ó hoµn thµnh chØ tiªu kÕ ho¹ch ®­îc giao. Ngµy nay, nÕu c¸c doanh nghiÖp s¶n xuÊt vµ cung øng ®­îc nhiÒu hµng ho¸ , dÞch vô cã chÊt l­îng t«t vµ gi¸ c¶ ph¶i ch¨ng, t¹o ra ®­îc t×nh c¶m tèt ®èi víi kh¸ch hµng, víi ng­êi tiªu dïng th× kh¸ch hµng sÏ mua thªm hµng ho¸, sÏ quay l¹i ®Ó mua lÇn sau, lµm cho sù nghiÖp kinh doanh cña doanh nghiÖp ph¸t ®¹t.

H¬n lóc nµo hÕt, giê ®©y c¸c doanh nghiÖp cÇn thÊy hÕt søc m¹nh cña ng­êi tiªu dïng, t¸c ®éng quyÕt ®Þnh cña ng­êi tiªu dïng ®Õn kÕt qu¶ s¶n xuÊt kinh doanh cña hä. Mét thÝ dô lµ gÇn ®©y, chØ mét ph¶n øng nhá cña ng­êi tiªu dïng ®èi víi viÖc ghi nh•n "s÷a hoµn nguyªn" thµnh "s÷a t­¬i nguyªn chÊt", ®• lµm cho doanh thu cña mét sè c«ng ty s÷a gi¶m ®Õn 40%. NhËn thøc ®­îc ®iÒu nµy, nhiÒu doanh nghiÖp ®• quan t©m h¬n ®Õn ng­êi tiªu dïng, coi viÖc phôc vô lîi Ých ng­êi tiªu dïng lµ ph­¬ng ch©m kinh doanh cña nm×nh. ChÝnh s¸ch chÊt l­îng cña nhiÒu doanh nghiÖp ®• ghi " phÊn ®Êu nh»m tho¶ m•n tèi ®a yªu cÇu cña ng­êi tiªu dïng". Tuy nhiªn, vÉn cßn kh«ng Ýt doanh nghiÖp ch­a quan t©m ®Õn vÊn ®Ò nµy, thËm chÝ cßn cã hµnh ®éng coi th­êng ng­êi tiªu dïng, nh­ lµm hµng gi¶, hµng kÐm chÊt l­îng, qu¶ng c¸o khoa tr­¬ng nh»m lµm l¹c h­íng ng­êi tiªu dïng, ®èi xö kh«ng c«ng b»ng víi ng­êi tiªu dïng.

¥ nhiÒu n­íc, chÝnh phñ rÊt coi träng viÖc gi¸o dôc vÒ tiªu dïng. Ch­¬ng tr×nh gi¸o dôc tiªu dïng ®­îc hä ®­a vµo c¸c tr­êng häc, lµ mét bé m«n riªng, hoÆc ®­îc lång ghÐp víi c¸c bé m«n kh¸c.

Gi¸o dôc tiªu dïng quan träng nh­ vËy, nh­ng trong d­ th¶o luËt b¶o vÖ ng­êi tiªu dïng, vÊn ®Ò gi¸o dôc ng­êi tiªu dïng ch­a thÊy ®Ò cËp ®Õn, vÊn ®Ò gi¸o dôc tiªu dïng cho c¶ ng­êi tiªu dïng vµ doanh nghiÖp. V× vËy, ®©y lµ mét m¶ng trèng kh¸ lín cÇn ®­îc bæ sung khi hoµn chØnh dù th¶o luËt b¶o vÖ ng­êi tiªu dïng.

VÒ quyÒn ®­îc tho¶ m•n nh÷ng nhu cÇu c¬ b¶n

Nhu cÇu c¬ b¶n cña ng­êi tiªu dïng bao gåm nh÷ng nhu cÇu thiÕt yÕu cho cuéc sèng cña con ng­êi, c¶ vÒ vËt chÊt vµ tinh thÇn nh­ ¨n, mÆc, ë häc hµnh, ®i l¹i, gi¶i trÝ...Chóng ta kh«ng nªn lo l¾ng lµ nÕu ®­a vÊn ®Ò nµy vµo luËt th× sÏ g©y khã kh¨n cho ta nÕu kh«ng tho¶ m•n ®­îc nhu cÇu c¬ b¶n cña ng­êi tiªu dïng. Nhu cÇu c¬ b¶n cña ng­êi tiªu dïng lµ mét yÕu tè ®éng, nã thay ®æi tuú theo møc ®é ph¸t triÓn cña mçi d©n téc ë nh÷ng thêi ®iÓm kh¸c nhau. Nh©n d©n ta kh«ng bao giê ®ßi hái nh÷ng g× qu¸ kh¶ n¨ng cña ®Êt n­íc.

Trong hai cuéc kh¸ng chiÕn, víi cuéc sèng cùc kú ®¹m b¹c trong ®iÒu kiÖn chiÕn tranh ¸c liÖt, nh©n d©n ta vÉn yªn t©m, vui vÎ, chÊp nhËn mäi khã kh¨n trong cuéc sèng, lµm nªn nh÷ng th¾ng lîi lÉy lõng, giµnh ®éc lËp, thèng nhÊt cho tæ quèc, kh«ng ai phµn nµn vÒ ®êi sèng khã kh¨n thêi ®ã. Trong hoµ b×nh, sau mét thêi gian ®iÒu chØnh vµ thö nghiÖm, §¶ng ta ®• ®­a ra ®­êng lèi ®æi míi nÒn kinh tÕ theo c¬ chÕ thÞ tr­êng vµ ®• thu ®­îc nhiÒu th¾ng lîi, nÒn kinh tÕ kh«ng ngõng t¨ng tr­ëng, ®êi sèng nh©n d©n ®­îc c¶i thiÖn. §Õn nay, phÇn lín c¸c nhu cÇu c¬ b¶n cña ng­êi tiªu dïng ®• ®­îc ®¸p øng, so víi tr­íc ®©y th× møc sèng cña ng­êi d©n ®• ®­îc t¨ng ®¸ng kÓ.

Bªn c¹nh nh÷ng chÝnh s¸ch, ph¸p luËt vÒ kinh tÕ, nh÷ng ®iÒu kho¶n cña ph¸p luËt cã liªn quan ®Õn ng­êi tiªu dïng, trong ®ã cã ph¸p lÖnh vÒ b¶o vÖ quyÒn lîi ng­êi tiªu dïng ®• gãp phÇn ®¸ng kÓ trong viÖc b¶o ®¶m quyÒn ®­îc tho¶ m•n nh÷ng nhu cÇu c¬ b¶n cña ng­êi tiªu dïng. Tuy nhiªn, trong chÝnh ph¸p lÖnh vÒ b¶o vÖ quyÒn lîi ng­êi tiªu dïng tr­íc ®©y còng nh­ dù th¶o luËt b¶o vÖ ng­êi tiªu dïng hiÖn nay l¹i kh«ng trùc tiÕp nªu lªn quyÒn ®­îc tho¶ m•n nh÷ng nhu cÇu c¬ b¶n cña ng­êi tiªu dïng ®Ó kh¼ng ®Þnh chÝnh s¸ch cña §¶ng vµ nhµ n­íc ta lµ lu«n quan t©m vµ b¶o vÖ quyÒn con ng­êi. §©y lµ mét viÖc cÇn thiÕt, cÇn ®Ò cËp tíi trong viÖc so¹n th¶o luËt vÒ b¶o vÖ quyÒn lîi ng­êi tiªu dïng trong thêi gian tíi.

QuyÒn ®­îc cã mét m«i tr­êng lµnh m¹nh vµ bÒn v÷ng

B¶o vÖ m«i tr­êng lµ nhiÖm vô cña mäi ng­êi, v× lîi Ých h«m nay vµ ngµy mai. Nh­ng víi ng­êi tiªu dïng, vÊn ®Ò b¶o vÖ m«i tr­êng l¹i cã tÇm quan träng ®Æc biÖt víi ý nghÜa tiªu dïng lµnh m¹nh vµ bÒn v÷ng. B»ng hµnh ®éng tiªu dïng, ng­êi ta cã thÓ b¶o vÖ hoÆc ph¸ ho¹i m«i tr­êng. V× tÇm quan träng cña nã, n¨m 1995, Liªn hiªp Quèc ®• söa l¹i b¶n h­íng dÉn vÒ b¶o vÖ ng­êi tiªu dïng, trong ®ã néi dung b¶o vÖ m«i tr­êng ®­îc bæ sung vµ chiÕm mét phÇn quan träng.

QuyÒn vÒ m«i tr­êng ®èi víi ng­êi tiªu dïng cã hai hµm ý: ng­êi tiªu dïng cã quyÒn ®­îc sèng trong mét m«i tr­êng lµnh m¹nh, bÒn v÷ng vµ ng­êi tiªu dïng cã tr¸ch nhiÖm b¶o vÖ m«i tr­êng th«ng qua hµnh ®éng tiªu dïng cña m×nh.

Ng­êi tiªu dïng cã quyÒn ®­îc sèng trong mét m«i tr­êng kh«ng bÞ « nhiÔm. Ngµy nay, víi nh÷ng tiÕn bé cña khoa häc, trong n«ng nghiÖp ®• sö dông nhiÒu lo¹i ho¸ chÊt trõ dÞch h¹i cho c©y trång, vËt nu«i, vµ c¸c lo¹i ph©n bãn, thuèc kÝch thÝch. Nh÷ng lo¹i ho¸ chÊt cã thÓ g©y nguy h¹i cho ng­êi tiªu dïng, h¹i ngay hoÆc nguy h¹i l©u dµi ®• bÞ cÊm. Nhµ n­íc ®• cã mét danh môc nh÷ng ho¸ chÊt n«ng nghiÖp ®­îc phÐp sö dông. Ngoµi danh môc nµy, nh÷ng lo¹i ho¸ chÊt kh¸c kh«ng ®­îc dïng hoÆc chØ ®­îc dïng cã ®iÒu kiÖn, hoÆc khi ®• ®­îc kiÓm nghiÖm. Tuy nhiªn hiÖn nay, viÖc sö dông ho¸ chÊt trong n«ng nghiÖp diÔn ra kh¸ tuú tiÖn, thiÕu kiÓm so¸t vµ thiÕu h­íng dÉn ®• lµm m«i tr­êng bÞ xuèng cÊp trÇm träng, ®Êt ®ai bÞ b¹c mµu, ng­êi n«ng d©n ngµy cµng khã kh¨n. N¹n ph¸ rõng còng ®ang lµ mét ®e do¹ m«i tr­êng ®èi víi n­íc ta. §Êy lµ thÝ dô vÒ viÖc lµm « nhiÔm m«i tr­êng do lçi cña nhµ s¶n xuÊt.

VÒ phÝa ng­êi tiªu dïng, do ho¹t ®éng tiªu dïng kh«ng hîp lý cña m×nh, ®• gãp phÇn ph¸ ho¹i m«i tr­êng, lµm cho m«i tr­êng bÞ « nhiÔm, xuèng cÊp. Tiªu dïng qu¸ møc, lµm c¹n kiÖt tµi nguyªn cña ng­êi tiªu dïng n­íc ta ®ang cã xu thÕ ph¸t triÓn. NhiÒu ng­êi tiªu dïng, phÇn lín lµ ng­êi tiªu dïng trÎ tuæi ®• ch¹y theo mèt, hä mua nhiÒu quÇn ¸o, vËt dông kh«ng cÇn thiÕt trong khi ng­êi tiªu dïng nghÌo kh«ng cã mµ dïng. Tiªu dïng n¨ng l­îng kh«ng tiÕt kiÖm lµm l•ng phÝ tµi nguyªn, th¶i ra c¸c khÝ th¶i lµm m«i tr­êng bÞ xuèng cÊp còng thuéc vÒ tr¸ch nhiÖm cña ng­êi tiªu dïng. . Mét hµnh ®éng t­ëng nh­ rÊt nhá nh­ dïng bao b× b»ng chÊt dÎo råi th¶i r¸c bõa b•i ra m«i tr­êng ®• gãp phÇn lµm cho m«i tr­êng xuèng cÊp nh­ng vÉn ch­a ®­îc uèn n¾n. Nh­ vËy ng­êi tiªu dïng b»ng hµnh ®éng tiªu dïng cña m×nh, cã thÓ b¶o vÖ m«i tr­êng hay lµm cho m«i tr­êng xuèng cÊp.

Ng­êi tiªu dïng kh«ng nh÷ng cÇn cã mét m«i tr­êng tù nhiªn lµnh m¹nh, bÒn v÷ng, mµ cßn cÇn ®­îc sèng trong mét m«i tr­êng lµnh m¹nh vÒ mÆt tinh thÇn. ThËt lµ bÊt h¹nh khi mét ng­êi ph¶i sèng trong mét m«i tr­êng x• héi kh«ng th©n thiÖn, thiÕu v¨n ho¸ víi nh÷ng tÖ n¹n x• héi nh­ trém c¾p, ®Ü ®iÕm, tiªm chÝch ma tuý, ®©m thuª chÐm m­ín...M«i tr­êng lµnh m¹nh cho ng­êi tiªu dïng bao gåm c¶ nh÷ng ®iÒu nµy.

HÖ thèng ph¸p luËt cña n­íc ta ®• cã mét sè chÕ tµi nh»m b¶o vÖ m«i tr­êng sèng cho ng­êi tiªu dïng, nh­ng viÖc thùc thi vÉn cßn bÊt cËp. VÒ vÊn ®Ò m«i tr­êng, ph¸p lÖnh b¶o vÖ quyÒn lîi ng­êi tiªu dïng tr­íc ®©y chØ ®Ò cËp ®Õn mét c¸ch rÊt s¬ sµi trong ®iÒu 10 vÒ quyÒn cña ng­êi tiªu dïng: "Ng­êi tiªu dïng cã quyÒn yªu cÇu tæ chøc, c¸ nh©n s¶n xuÊt kinh doanh...b¶o vÖ m«i tr­êng..." hÇu nh­ kh«ng nãi g× ®Õn c¸c biÖn ph¸p b¶o vÖ m«i tr­êng, còng nh­ kh«ng ®Ò cËp ®Õn tr¸ch nhiÖm cña ng­êi tiªu dïng trong viÖc b¶o vÖ m«i tr­êng sèng cña m×nh. Dù th¶o luËt b¶o vÖ ng­êi tiªu dïng lÇn nµy còng ch­a ®Ò cËp ®Õn vÊn ®Ò m«i tr­êng cho ng­êi tiªu dïng mét c¸ch ®óng møc. §ã lµ mét thiÕu sãt cÇn ®­îc bæ sung trong luËt b¶o vÖ ng­êi tiªu dïng lÇn nµy.

T¸m quyÒn cña ng­êi tiªu dïng ph¶n ¶nh t­¬ng ®èi toµn diÖn c¸c quyÒn cña ng­êi tiªu dïng, ®Æc biÖt nh÷ng ng­êi sèng ë c¸c n­íc ®ang ph¸t triÓn nh­ n­íc ta. §Êy lµ nh÷ng quyÒn trong quyÒn con ng­êi mµ mçi ng­êi chóng ta ®Òu cÇn ®­îc h­ëng. N­íc ta lµ thµnh viªn cña Liªn hiÖp quèc. B¶n h­íng dÉn cña Liªn hiÖp quèc vÒ b¶o vÖ ng­êi tiªu dïng ®• kh¼ng ®Þnh t¸m quyÒn cña ng­êi tiªu dïng. Nh­ phÇn lín luËt b¶o vÖ ng­êi tiªu dïng cña c¸c n­íc, c¶ t¸m quyÒn cña ng­êi tiªu dïng ®Òu cÇn ®­îc ®­a vµo luËt b¶o vÖ ng­êi tiªu dïng cña n­íc ta.

Hµ Néi th¸ng 7/2009

XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG DỰ THẢO 4 LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG

________________________

Nguyễn Mạnh Hùng

Nguyên P/cục trưởng Cục Quản lý thị trường

Bộ Công Thương.

Bảo vệ người tiêu dùng xét cho cùng cũng vì mục tiêu con người mà bất cứ các nước văn minh nào trên thế giới cũng cần hướng tới. Chính vì vậy 8 quyền cơ bản của người tiêu dùng đã được Liên hiệp quốc và nhiều nước công nhận. Ở Việt Nam, từ khi có Pháp lệnh số 13 ngày 27/4/1999 công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ngày càng được quan tâm hơn. Nay chúng ta xây dựng Luật, một văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn là rất phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam hiện nay cũng như nhiều nước trên thế giới.

Sau khi nghiên cứu dự thảo 4 của Luật tôi thấy 8 quyền cơ bản Đại hội đồng Liên hiệp quốc phê chuẩn ngày 9/4/1985 đã được cụ thể hóa vào hoàn cảnh Việt Nam. Dự thảo đã xây dựng các quy định cụ thể đối với thương nhân (từ điều 6 đến điều 9 và từ điều 15 đến điều 17); quy định các biện pháp giải quyết tranh chấp như: Thương lượng (điều 21), hòa giải (điều 23), trọng tài (điều 35), hành chính (điều 36) và Tòa án (điều 39 và mục 4 chương V).

Sau đây tôi xin đi sâu vào chương VIII : "Xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng". Vì đây là vấn đề mấu chốt để quyền lợi chính đáng của mọi người tiêu dùng được pháp luật bảo đảm trên thực tế. Các biện pháp giải quyết tranh chấp nêu ra trong dự thảo Luật rất cần cho giải quyết một vụ việc cụ thể, nhưng chỉ phát sinh khi có tranh chấp, hơn nữa tỷ lệ người ra tranh chấp so với số người bị thiệt hại rất thấp. Trong khi nhiều thiệt hại gây ra hàng ngày cho số đông người tiêu dùng không phát sinh những vụ tranh chấp cụ thể. Đối với một người, mức độ thiệt hại không lớn dễ bỏ qua, nhưng đối với toàn xã hội mức thiệt hai lại rất đáng kể. Có những thiệt hại không xác định được đối tượng cụ thể gây ra.

Trong nền kinh tế thị trường tiêu dùng quyết định sản xuất, các nhà sản xuất kinh doanh đưa ra khẩu hiệu "Khách hàng là thượng đế", trên thực tế, người tiêu dùng thường bị động, yếu thế hơn do hạn chế về thông tin, về thị trường, về hiểu biết đối với hàng hóa trước một "mê cung" hàng thật, hàng giả; hàng kém chất lượng; hàng thực phẩm tồn dư các chất kích thích, chất bảo quản, chất tăng trọng,chất phụ gia, kim loại nặng, thuốc BVTV độc hại không được phép sử dụng; hàng không an toàn khác và trước kinh nghiệm dày dạn trên thương trường của những người buôn bán không coi trọng chữ tín. Trong điều kiện thị trường chưa được kiểm soát chặt chẽ như hiện nay, người tiêu dùng đang phải đối mặt với những thách thức đối với quyền lợi lẽ ra được hưởng khi bỏ tiền mua hàng và dịch vụ, thiệt hại đối với họ đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ, khi cụ thể, khi âm thầm lặng lẽ mà điển hình là diễn biến bệnh tật từ nhiễm độc mãn tính về thực phẩm.

Quyền lợi người tiêu dùng còn bị ảnh hưởng khi các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không chấp hàng nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước đối với ngành, nghề mình hoạt động. Bên cạnh nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh chấp hành tốt pháp luật, nhưng cũng không ít cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ vi phạm, từ việc chấp hành đăng ký kinh doanh, điều kiện kinh doanh, đến kinh doanh các mặt hàng nhập lậu, hàng giả, ngoài ra còn ép cấp, ép giá, không thực hiện đầy đủ việc ghi nhãn hàng hóa, niêm yết giá, cân, đong, đo thiếu và nhiều hành vi vi phạm khác.

Những hành vi vi phạm đó chỉ có thể giải quyết hiệu quả bằng biện pháp hành chính, qua hoạt động kiểm tra, kiểm soát, phát hiện, xử lý của các cơ quan chức năng; bởi những hành vi đó không thể giải quyết bằng biện pháp thương lượng, hòa giải, trọng tài.

Trong dự thảo Luật, vấn đề xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng được quy định tại chương VIII, có 4 điều, từ điều 66 đến điều 69.

Điều 66, tại khoản 1 ghi: "Tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của luật này sẽ bị xử phạt theo pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành."

Ở đây có hai vấn đề:

- Một là về cụm từ " Tổ chức cá nhân vị phạm các quy định của luật này" được hiểu bao gồm toàn bộ đối tượng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ dù có đăng ký hay không đăng ký kinh doanh. Điều này mâu thuẫn với đối tượng được điều chỉnh ghi tại khoản 2, điều 2, dự thảo Luật chỉ bao gồm Thương nhân. Trong dự thảo Luật không giải thich khái niệm Thương nhân. Theo Luật Thương mại tại khoản 1, điều 6 "Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh." Như vậy chỉ những đối tượng có đăng ký kinh doanh mới được coi là thương nhân.

Theo tôi nên giữ nguyên cụm từ này và sửa khoản 2, điều 2 để mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật, đưa đối tượng không đăng ký kinh doanh vào phạm vi điều chỉnh để ngăn chặn triệt để vi phạm của mọi đối tượng có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, dù có đăng ký hay không đăng k‎ý. Luật Thương mại tại điều 2 về đối tượng áp dụng cũng bao gồm Thương nhân và các "Tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại". Sự thiệt hại gây ra cho người tiêu dùng ở những đối tượng không đăng ký kinh doanh cũng rất đáng quan tâm. Chỉ riêng dịch vụ thức ăn đường phố, theo thống kê từ 12 tỉnh trong 3 năm (từ 2001 - 2003 ) người bán rong chiếm trên 30%,số người này không có đăng ký kinh doanh. Số vụ ngộ độc thực phẩm do thức ăn đường phố chiếm trên 10% (theo báo cáo của Cục VSATTP). Người sản xuất nhỏ, tự sản tự tiêu, hàng ngày cũng đem bán ra thị trường một khối lượng lớn nông sản, thực phẩm; trong số đó có rau quả tồn dư hóa chất bảo vệ thực vật ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc cấm sử dụng; thực phẩm tồn dư hóa chất tăng trọng, chất bảo quản không an toàn. Ngoài ra các đối tượng kinh doanh, buôn bán, hành nghề không hợp pháp cũng lưu thông hàng cấm, hàng giả và các mặt hàng không an toàn khác. Những đối tượng này không thể để ngoài sự điều chỉnh của pháp luật .

- Hai là về cụm từ "sẽ bị xử phạt theo pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành." Tôi cho rằng về mặt kỹ thuật soạn thảo thì rất ngắn gọn, bao quát và kín kẽ nhưng về mặt thực tiễn thì chưa tạo được công cụ pháp lý đầy đủ để bảo đảm được mục tiêu rất nhân văn được nêu ra trong 8 "Nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng" ở điều 4 dự thảo Luật. Ở đây tôi cũng đề nghị nên thay cụm từ " Nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng " bằng cụm từ " Quyền của người tiêu dùng" như Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã ghi và Liên hiệp quốc đã thừa nhận .

Còn về nội hàm của cụm từ " pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành " được nêu ra trong khoản 1, điều 66, dự thảo Luật, tôi có bình luận như sau:

Như chúng ta đã biết văn bản pháp lý cao nhất hiện nay về xử lý vi phạm hành chính là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính số 13/1999/PL-UBTVQH10 ngày 27/4/1999. Đến 31/5/2007 có 88 nghị định xử phạt vi phạm hành chính được Chính phủ ban hành, nay có thêm một số nghị định mới nữa. Tuy nhiên trong số các nghị định xử phạt vi phạm hành chính đã ban hành, chưa có nghị định nào quy định riêng về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Những hành vi vi phạm liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng bị xử phạt được quy định rải rác ở một số điều trong nhiều nghị định xử phạt vi phạm hành chính khác nhau. Trong điều kiện văn bản pháp luật không ổn định, một vài năm lại sửa đổi hoặc ban hành mới. Sau đây là một số dẫn chứng cụ thể :

+ Trong lĩnh vực thương mại, nơi biểu hiện tập trung của sự va chạm quyền lợi giữa người mua và người bán, từ năm 1996 đến nay đã 3 lần sửa đổi hoặc thay thế nghị định xử phạt; hiện hành là Nghị định 06/2008/NĐ-CP ngày 16/1/2008 " Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại ". Trong 68 điều của nghị định này, chỉ có 1 điều 27 nói rõ vi phạm quy định về giao dịch với khách hàng, người tiêu dùng, ngoài ra còn một số điều khác có liên quan .

Nếu căn cứ theo " pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành" như trong dự thảo Luật ghi thì trong trường hợp hành vi vi phạm vào quyền được quy định ở khoản 5, điều 4 dự thảo Luật " Người tiêu dùng được bồi hoàn, bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả, hoặc các nội dung khác mà thương nhân đã công bố và cam kết." thì pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành ghi tại điểm b, điểm d, khoản 1, điều 27, Nghị định 06 lại chỉ áp dụng đối với hành vi do nhầm lẫn, do đánh tráo, gian lận hàng hóa, dịch vụ; mức phạt chỉ cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000đ đến 500.000đ.

Như vậy còn nhiều hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng được ghi trong dự thảo Luật như: người bán giao hàng không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả chưa có chế tài xử phạt.

Một dẫn chứng khác: về trách nhiệm bảo hành theo điều 16 dự thảo Luật, trong đó quy định 8 trách nhiệm cụ thể của thương nhân. Nhưng trong trường hợp tư nhân vi phạm, nếu căn cứ theo pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành, cụ thể trong trường hợp này được quy định tại điều 27 Nghị định 06 trên đây thì chỉ có chế tài xử lý đối với hành vi không thực hiện bảo hành và gây khó khăn, trở ngại trong việc bảo hành, còn lại nhiều hành vi vi phạm khác trong vấn đề bảo hành như quy định trong dự thảo Luật chưa có chế tài xử phạt.

Như vậy phần mục tiêu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được nêu ra đầy đủ, hấp dẫn bao nhiêu thì phần biện pháp bảo đảm quyền ấy trên thực tế lại được xây dựng khiêm tốn bấy nhiêu, điều đó cũng đồng nghĩa với việc những quyền ấy của người tiêu dùng vẫn chưa được pháp luật bảo đảm kể cả trên văn bản. Một bất cập khác trong pháp luật hiện hành :

+ Nghị định 45/2005/NĐ-CP ngày 6/4/2005 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế:

Điều 15 quy định xử phạt về VSATTP. Với cùng một hành vi sản xuất, kinh doanh hàng quá hạn sử dụng tại điểm g, khoản 5 điều này quy định phạt tiền từ 10 triệu đến 15 triệu . Nhưng tại điểm a, khoản 1, điểm b, khoản 8 điều 26 Nghị định 06 trên đây lại quy định mức phạt theo giá trị hàng hóa; giá trị càng cao thì mực phạt càng lớn.

Hành vi vi phạm trong sản xuất và kinh doanh, mức phạt trong Nghị định 45 trên đây như nhau, nhưng trong Nghị định 06 mức phạt vi phạm trong sản xuất lại nặng gấp 2 lần trong kinh doanh.

Như vậy về mức phạt và nguyên tắc xử phạt đối với cùng một hành vi vi phạm có sự khác nhau hoàn toàn giữa hai văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành.

Giữa Nghị định 45 trên đây với Nghị định 107/2008/NĐ-CP ngày 22/9/2008 cũng có nhiều điểm không thống nhất. Với cùng một hành vi không thực hiện việc niêm yết giá, khoản 1 điều 41 Nghị định 45 phạt từ 200.000đ đến 500.000đ, trong khi tại điểm a, khoản 1, điều 9 Nghị định 107 lại phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000đ đến 1.000.000đ . Cùng hành vi bán cao hơn giá niêm yết, tại khoản 2, điều 41 Nghị định 45 phạt từ 500.000đ đến 2.000.000đ, trong khi tại khoản 2, điều 9, Nghị định 107 phạt từ 1.000.000đ đến 5.000.000đ .Ngoài ra còn nhiều điểm bất cập khác tương tự như trên.

Ngoài những nghị định trên,chế tài xử lý hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng còn được quy định ở nhiều nghị định xử phạt vi phạm hành chính chuyên ngành khác như:

Nghị định 126/2005/NĐ-CP ngày 10/10/2005

Nghị định 40/2009/NĐ-CP ngày 24/4/2009

Nghị định 26/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003

Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005

Nghị định 06/2009/NĐ-CP ngày 22/1/2009

Nghị định 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006

....

Từ tình hình trên cho thấy pháp luật xử lý vi phạm hành chính bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta hiện nay đã được hình thành nhưng chưa tập trung vào một nghị định, các chế tài xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn phân tán ở nhiều nghị định ở những lĩnh vực khác nhau, do các Bộ phụ trách lĩnh vực nào thì chủ trì xây dựng nghị định ở lĩnh vực đó, do vậy không tránh khỏi những bất cập như trên. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 ngày 3/6/2008 đã có quy định trong việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên trong thực hiện vẫn không tránh khỏi lúng túng, đối với người tiêu dùng không có điều kiện tiếp cận với văn bản pháp luật thì việc nắm vững những quyền chính đáng của mình, những hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để đấu tranh tự bảo vệ, thực sự là một thách thức lớn.

Do vậy xử lý vi phạm hành chính do các cơ quan chức năng của Nhà nước thực hiện là một biện pháp quan trọng, then chốt để xây dựng một thị trường hạn chế đến mức thấp nhất các tiêu cực, tiến tới xây dựng một thị trường phát triển lành mạnh, trên cơ sở đó 8 quyền cơ bản của người tiêu dùng mới được bảo đảm trên thực tế.

Từ đó tôi kiến nghị Ban soạn thảo nghiên cứu:

1, Bổ sung, sửa đổi một số cụm từ như trên đã trình bày.

2, Xây dựng Nghị định: "Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trogn lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng". Tuy việc này rất khó khăn phức tạp nhưng nếu được ban hành đây sẽ là một công cụ quan trọng giúp cho cơ quan Nhà nước, các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng và người tiêu dùng đấu tranh có hiệu quả với các hành vi vi phạm.

3, Trong trường hợp chưa xây dựng được nghị định chuyên ngành thì cần cụ thể hóa hơn chương VIII; trong đó đặc biệt là điều 66 dự thảo Luật để tránh những bất cập hiện nay trong hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng./.

Hà Nội ngày 16/7/2009

THỰC TẾ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI NGƯỜI TIÊU DÙNG

VÀ MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CHO

DỰ THẢO LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG

TS. Vương Ngọc Tuấn

VPTVKN VINASTAS

Đà Nẵng, 31 tháng 07 năm 2009

Thực tế giải quyết khiếu nại đã làm sáng tỏ một số vấn đề trả lời cho các câu hỏi sau:

Ai là người khiếu nại?

Ai là người bị khiếu nại?

Khiếu nại về những vấn đề gi?

Mục đích khiếu nại như thế nào?

Khiếu nại ở VPTVKN VINASTAS có ưu thê gi?

Phương pháp giải quyết khiếu nại ở các Văn phòng tư vấn giải quyết khiếu nại các Hội bảo vệ người tiêu dùng được thực hiện như thế nào?

Ai là người có thể làm công tác tư vấn giải quyết khiếu nại người tiêu dùng?

Kinh phí để tổ chức hoạt động tư vấn giải quyết khiếu nại người tiêu dùng có thể lấy từ đâu?

1. Ai là người khiếu nại?

Trong hơn hai tháng qua VPTVKN Trung ương Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam đã tiếp nhận và tư vấn giải quyết hàng trăm khiếu nại trực tiếp hoặc gián tiếp qua điện thoại và thư điện tử của người tiêu dùng trên khắp cả nước.

Thống kê 45 khiếu nại trực tiếp tới VPTVKN đã và đang được giải quyết cho thấy các số liệu như sau:

Người khiếu nai

Số lượng khiếu nại Tỷ lệ %

Người tiêu dùng (cá nhân hoặc thể nhân là tổ chức, doanh nghiệp) mua và sử dụng sản phẩm, dịch vụ;

43

95,5

Tập thể hoặc nhiều người khiếu nại về chất lượng hàng hóa, dịch vụ, gian lận thương mại, ô nhiễm môi trường..

2

4,5

Người khiếu nại có thể là người tiêu dùng cụ thể, có thể là thể nhân, nhưng cũng có thể là cùng một lúc nhiều người khiếu nại vệ một vấn đề.

2. Ai là người bị khiếu nại?

Người bị khiếu nai

Số lượng khiếu nại Tỷ lệ %

Thương nhân, kinh doanh vì lợi nhuận

42 93,3

Tổ chức phi lợi nhuận, hành chính công

3 6,7

Người bị khiếu nại không phải luôn luôn là thương nhân, mà còn có thể là các đơn vị hành chính của nhà nước, các đơn vị và tổ chức hoạt động phi lợi nhuận.

3. Khiếu nại về những vấn đề gì?

Vấn đề khiếu nai

Số lượng khiếu nại Tỷ lệ %

Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ

45 100

Thông tin, quảng cáo lừa dối, làm giả nhãn mác, hàng hóa

8 17,7

Vệ sinh, an toàn, ô nhiễm môi trường

7 15,5

Khiếu nại về tất cả các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của người tiêu dùng.

4. Mục đích khiếu nại như thế nào?

Mục đích khiếu nai

Số lượng khiếu nại Tỷ lệ %

Đòi quyền lợi chính đáng bị thiệt hại do chất lượng hàng hóa không đạt yêu cầu; dịch vụ không hoàn hảo, bảo hành không đúng cam kết, lừa đảo.. vi phạm các quyền và lợi ích người tiêu dùng;

41 91

Đóng góp ý kiến giúp các doanh nghiệp, tổ chức cải tiến, hoàn thiện;

5

11

Thông tin cảnh báo sự mất vệ sinh, mất an toàn đối với sức khỏe, con người và môi trường;

3 6,7

Lợi dụng, gây áp lực với doanh nghiệp, tổ chức, đòi quyền lợi quá mức;

2 4,5

Mục đích khiếu nại đa phần là đòi lại quyền lợi chính đáng bị xâm hại, nhưng cũng có khi là tiếng nói đóng góp với doanh nghiệp, tổ chức và cũng có khi là sự lợi dụng danh nghĩa Hội, đòi quyền lợi quá đáng.

5. Khiếu nại ở Văn phòng Tư vấn khiếu nại người tiêu dùng (VPTVKN) Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam có những lợi thế gì?

Theo luật định người tiêu dùng có thể khiếu nại ở các cơ quan khác nhau:

Tại các cơ quan công quyền, chịu trách nhiệm quản lý các lĩnh vực khác nhau liên quan đến quyền và quyền lợi của người tiêu dùng; tại các cơ quan trọng tài, tòa án. Nhưng ngày càng nhiều người chọn Văn phòng tư vấn khiếu nại người tiêu dùng của các Hội bảo vệ người tiêu dùng.

Tại sao người tiêu dùng lại chọn Văn phòng tư vấn khiếu nại người tiêu dùng của các Hội bảo vệ người tiêu dùng?

Vì rằng với sự tư vấn, hỗ trợ và trung gian hòa giải của VPTVKN:

- Có thể giải quyết được tranh chấp;

- Nhanh chóng và hiệu quả;

- Đáng tin cậy;

- Không cần lễ nghi phức tạp;

- Đưa ra phương án cả hai phía đều có thể thống nhất

- Phương thức thân thiện, ít áp lực nhất.

6. Phương pháp giải quyết khiếu nại ở các Văn phòng tư vấn giải quyết khiếu nại các Hội bảo vệ người tiêu dùng được thực hiện như thế nào?

(Xem bản giới thiệu hoạt động của Văn phòng tư vấn khiếu nại người tiêu dùng đính kèm)

7. Ai là người có thể làm công tác tư vấn giải quyết khiếu nại người tiêu dùng?

Thực tế giải quyết cho thấy người làm công tác giải quyết khiếu nại người tiêu dùng phải có phẩm chất, có kiến thức và kỹ năng xác định:

- Phải trung thực, vô tư và công bằng;

- Phải hiểu biết về các lĩnh vực quản lý:

 Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tiêu chuẩn, đo lường, thử nghiệm, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường; thương mai, quảng cáo .v.v.

 Chính sách và pháp luật bảo vệ người tiêu dùng;

- Có nghiệp vụ và kỹ năng giải quyết khiếu nại người tiêu dùng.

Ngoài phẩm chất và trình độ học vấn, người làm công tác tư vấn giải quyết khiếu nại còn phải được đào tạo để có hiểu biết về các lĩnh vực liên quan, để có nghiệp vụ và kỹ năng giải quyết khiếu nại người tiêu dùng.

8. Kinh phí để tổ chức hoạt động tư vấn giải quyết khiếu nại người tiêu dùng có thể lấy từ đâu?

Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu dùng là tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận, nhưng khi tiến hành các hoạt động tư vấn, hỗ trợ và trung gian hòa giải giải quyết khiếu nại đòi hỏi phải có các chi phí xác định. cần thiết như là chi phí địa điểm, văn phòng, thư tín, hội trường, điện, nước, điện thoại, chi phí đi lại, tiền công và nhiều chi phí khác liên quan.

Cho đến nay không có một nguồn thu nào cho công tác này. VPTVKN không thu một khoản kinh phí chính thức nào từ người khiếu nại và người bị khiếu nại. Các khoản chi phí văn phòng, thư tín, hội trường, điện nước, điện thoại thì dựa vào khoản kinh phí ít ỏi của Hội. Cán bộ công tác tình nguyện không có tiền công, chưa kể họ phải tự bỏ tiền túi ra để đi lại và giải quyết khiếu nại.

Vậy kinh phí cho VPTVKN lấy từ đâu?

Thực tế có thể thu phí từ người khiếu nại và người bị khiếu nại. Nhưng nguồn thu từ các khoản thu này cũng sẽ không đáng kể vì bản thân giá trị kinh tế các khiếu nại của người tiêu dùng nhỏ và khoản thu này chỉ có thể thu được khi người tiêu dùng chính thức khiếu nại và việc giải quyết khiếu nài có kết quả. Các khoản thu này không thể đáp ứng gì nhiêu cho hoạt động của VPTVKN. Kinh nghiệm của các nước khác, như Singapore, Hội bảo vệ người tiêu dùng CASE có hoạt động tư vấn hòa giải giải quyết khiếu nại rất tốt, nhưng nguồn thu từ hoạt động này cũng rất rất nhỏ, không đáng kể gì so với nguồn kinh phí hoạt động của CASE nhận từ nhà nước.

Hoạt động của VPTVKN đòi hỏi phải có được những nguồn tài trợ cơ bản khác.

Hoạt động giải quyết khiếu nại người tiêu dùng là một trong các nội dung thực hiện chính sách và quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng. Nội dung đó được các tổ chức xã hội bảo vệ người tiêu dùng thực hiện và thực hiện tốt, có tác dụng rất lớn trong việc đảm bảo an sinh xã hội. Vì vậy nguồn tài trợ chính phải là nguồn tài trợ từ Quỹ Bảo vệ người tiêu dùng.

Tài trợ từ các tổ chức khác nhau trong nước và quốc tế, có thể có được và cũng đóng vai trò quan trọng cho hoạt động của VPTVKN, nhưng cũng rất hạn chế vì nó không thể là nguồn tài trợ thường xuyên.

HỘI TIÊU CHUẨN VÀ BẢO VỆ

NGƯỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM

HOẠT ĐỘNG CỦA VĂN PHÒNG TƯ VẤN KHIẾU NẠI NGƯỜI TIÊU DÙNG

(Giới thiệu và hướng dẫn quy trình khiếu nại)

Các Văn phòng tư vấn khiếu nại người tiêu dùng (gọi tắt là VPTVKN) được thành lập bởi Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam và các Hội thành viên tại các tỉnh, thành phố trong toàn quốc để tư vấn giải quyết các tranh chấp giữa NTD (gọi tắt là người khiếu nại - NKN) và các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân liên quan (gọi tắt là người bị khiếu nại - NBKN) cung cấp hàng hóa, dịch vụ hoặc xâm phạm đến các quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.

Mục đích hoạt động của VPTVKN

Khuyến khích NKN tham gia vào quá trình tự hòa giải hoặc hòa giải với sự trung gian hòa giải và trọng tài của VPTVKN, mà quá trình đó đem đến cho cả hai phía khả năng giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và với chi phí ít nhất.

VPTVKN đáp ứng những gì cho quá trình hòa giải?

- Cung cấp các nhà trung gian hòa giải được đào tạo vệ nghiệp vụ hòa giải và hiểu biết trong lĩnh vực hòa giải;

- Tạo nên tình thế thỏa thuận có thể chấp nhận cho cả NKN và NBKN;

- Giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và với chi phí thấp nhất.

Sự trung gian hòa giải của VPTVKN là gì?

Sự trung gian hòa giải của VPTVKN là một phương pháp giải quyết tranh cãi giữa NKN và NBKN mà không cần phải sử dụng đến các thủ tục hành chính chính thức của các cơ quan quản lý nhà nước hay của tòa án.

Sự trung gian hòa giải của VPTVKN được tiến hành như thế nào?

VPTVKH sẽ làm việc với NKN và NBKN, sử dụng kỹ năng và phương pháp không nghi thức, khác với thủ tục hành chính chính thức của các cơ quan quản lý nhà nước hay của tòa án để giúp cả hai phía trong tranh chấp đi đến một thỏa thuận hợp lý.

Khi nào thì cần đến trung gian hòa giải của VPTVKN?

Khi mà tranh chấp giữa NKN và NBKN không tự dàn xếp được ổn thỏa, NKN có thể xem xét sự hỗ trợ của VPTVKN. Trong trường hợp này sự hỗ trợ của VPTVKN chia làm hai bước, hai mức độ:

Bước 1- Mức độ 1:

NKN và NBKN tự thỏa thuận giải quyết khiếu nại với sự tư vấn và hỗ trợ của VPTVKN

- NKN được VPTVKN trao đổi và tư vấn về các vấn đề pháp lý liên quan đến khiếu nại và tranh chấp của mình với NBKN;

- VPTVKN trao đổi và tư vấn (bằng thư, công văn, bằng điện thoại trực tiếp) với NBKN liên quan về vấn đề khiếu nại của NKN, tạo điều kiện để NKN và NBKN tự thỏa thuận và giải quyết tranh chấp;

- VPTVKN tư vấn và trong trường hợp cần thiết giới thiệu NKN đến các cơ quan công quyền có trách nhiệm để giải quyết khiếu nại.

Bước 2 - Mức độ 2:

Chỉ trong trường hợp không tự dàn xếp giải quyết tranh chấp được với NBKN thì NKN mới cần đến sự trung gian hòa giải của VPTVKN.

- NKN và NBKN thống nhất giải quyết khiếu nại với sự trung gian hòa giải của VPTVKN;

- NKN và NBKN ký cam kết với VPTVKN tuân thủ các quy định về trung gian hòa giải của VPTVKN;

- NKN và NBKN cung cấp các thông tin và chứng cứ và luận cứ cần thiết liên quan đến khiếu nại cho VPTVKN;

- VPTVKN tổ chức buổi hòa giải giữa NKN và NBKN;

- Nếu thỏa thuận đạt được, NKN và NBKN ký cam kết chấp thuận và thực hiện phương án đạt được.

NKN sẽ làm gì khi muốn có sự trung gian hòa giải của VPTVKN?

Nếu NKN có sự tranh chấp và muốn được giải quyết với sự tư vấn, hỗ trợ hoặc trung gian hòa giải của các VPTVKN, bước trước tiên là gọi điện thoại hoặc trực tiếp tới, hoặc trong trường hợp không có thể thì gửi thư tới VPTVKN gần nhất thuộc địa phương mình đang sinh sống.

VPTVKN thuộc Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam có địa chỉ: 214 ngõ 22 Tôn Thất Tùng Đống Đa, Hà Nội; điện thoại: 04.35745757; Email. [email protected].

Các bước tiếp theo sẽ là:

- NKN cung cấp các thông tin và các chứng cứ cần thiết minh chứng cho khiếu nại của mình;

- VPTVKN sẽ tiếp nhận các thông tin và chứng cứ cần thiết từ hai phía NKN và NBKN;

- VPTVKN sẽ tổ chức cho hai phía ký các tài liệu cần thiết và thông báo với hai phía các khoản mục liên quan đến quá trình hòa giải;

- Khi mà tất cả các tài liệu cần thiết đã được ký, VPTVKN sẽ tổ chức buổi hòa giải tại VPTVKN;

- VPTVKN thảo luận với hai phía và đưa ra phương án thỏa thuận giải quyết khiếu nại, thuyết phục, làm trọng tài để hai phía ký văn bản thỏa thuận; giúp đỡ các bên tuân thủ bản thỏa thuận này.

Các thông tin, chứng cứ phải khách quan và trung thực

- NKN và NBKN phải cung cấp các thông tin và chứng cứ một cách trung thực và chính xác và phải chịu trách nhiệm về các thông tin và chứng cứ đó.

Thỏa thuận đạt được là bắt buộc?

Các khoản mục của thỏa thuận được viết ra và được ký bởi hai phía tại buổi làm việc hòa giải là bắt buộc.

Tại sao lại chọn sự hòa giải của VPTVKN?

- Vì rằng bằng cách này có thể giải quyết được tranh chấp;

- Nhanh chóng và hiệu quả;

- Đáng tin cậy;

- Không cần lễ nghi phức tạp;

- Đưa ra phương án cả hai phía đề có thể thống nhất

- Phương thức thân thiện, ít áp lực nhất.

Kinh phí bao nhiêu?

Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu dùng là tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận, nhưng khi tiến hành các hoạt động tư vấn, hỗ trợ và trung gian hòa giải giải quyết khiếu nại đòi hỏi phải có các chi phí xác định. NKN và NBKN khi có nhu cầu về sự tư vấn, hỗ trợ, trung gian hòa giải của VPTVKN ký văn bản tự nguyện đóng góp kinh phí để chi cho các khoản cần thiết như là hội trường, điện, nước, điện thoại, chi phí đi lại, tiền công, .v.v. Mức kinh phí đóng phụ thuộc vào thực tế quá trình hòa giải và sự tự nguyện của các bên tham gia hòa giải.

Điều kiện cho sự trung gian hòa giải của VPTVKN

- Có sự tranh chấp giữa NKN và NBKN;

- Sự tranh chấp không thể giải quyết bởi hai phía, thậm chí với sự tư vấn hỗ trợ bước 1 của VPTVKN;

- Cả hai phía ký văn bản đồng ý với sự trung gian hòa giải của VPTVKN;

- Các văn bản liên quan quy định cách thức hòa giải, mức kinh phí đóng góp cần thiết được phải được thống nhất và thực hiện trước khi diễn ra buổi hòa giải;

- VPTVKN dự kiến thời gian phù hợp và mời hai phía tham gia buổi hòa giải, tổ chức tại VPTVKN.

- VPTVKN có quyền công bố và không công bố về kết quả giải quyết khiếu nại với các cơ quan hữu quan khác nhau.

TS.VƯƠNG NGỌC TUẤN

GÓP Ý KIẾN CHO

DỰ THẢO LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG

Ths.Ls.Phan Thông Anh

Ủy viên Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam; Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam; Giám đốc Công ty Luật hợp danh Việt Nam

Khi tham gia góp ý kiến cho dự thảo này chúng tôi tiếp cận theo quan điểm Luật Bảo vệ người tiêu dùng hướng đến mục tiêu là bảo vệ người tiêu dùng nhưng việc bảo vệ đó phải được dựa trên quan hệ pháp luật về hợp đồng giao dịch không nên quá nghiêng về phía người tiêu dùng gây bất lợi hoàn toàn cho thương nhân, cần phải có sự hài hòa giữa hai bên; phải cân bằng lợi ích của thương nhân với người tiêu dùng và Luật phải được xây dựng phù hợp với các luật chuyên ngành khác như Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại.

Qua ba lần dự thảo, góp ý, tiếp thu sửa đổi bổ sung, chúng ta đã có dự thảo 4 Luật Bảo vệ người tiêu dùng tương đối hoàn chỉnh gồm 9 chương, 71 điều với các quy định về bảo vệ người tiêu dùng trước, trong khi giao dịch với thương nhân; giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân bằng hình thức trọng tài; bằng biện pháp hành chính, bằng Tòa án và Quản lý nhà nước về bảo vệ tiêu dùng nhưng cũng có một số quan điểm còn khác nhau và nhiều vần đề cần góp ý bổ sung như sau :

1)-Khái niệm thương nhân trong Luật bảo vệ người tiêu dùng :

Trước đây khái niệm " thương nhân" được quy định trong Luật thương mại 1997 nhưng trong quá trình áp dụng Luật thương mại 1997 khái niệm " thương nhân" đã gây khó trong việc xác định chủ thể kinh doanh là pháp nhân trong Luật doanh nghiệp nên khi sửa đổi bổ sung Luật thương mại 2005 khái niệm này đã bỏ ra không được quy định lại. Do đó khái niệm pháp lý của thương nhân không còn được quy định trong Luật thương mại nếu Luật bảo vệ người tiêu dùng muốn dùng khái niệm thương nhân cần phải có bổ sung phần giải thích từ ngữ thương nhân là gì hoặc thay đổi là "bên bán hàng" hoặc "người bán hàng "

2)-Một điều khoản trong hợp đồng vô hiệu có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu không ?

Dự thảo Điều 12 về Điều khoản vô hiệu quy định :

Khoản 2 : " Người tiêu dùng có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố toàn bộ hợp đồng vô hiệu nếu trong hợp đồng có nội dung quy định tại khoản 1 Điều này"

Trường hợp Hợp đồng vô hiệu toàn phần rơi vào các trường hợp khác được quy định tại điều 122/BLDS (2005) (phải có năng lực hành vi dân sự; mục đích nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội; các bên phải tự nguyện; hình thức giao dịch phải tuân theo các quy định của pháp luật)

Những trường hợp quy định tại khoản 1 của điều 12 bao gồm :

1. Các điều khoản trong hợp đồng ký kết với người tiêu dùng và các điều kiện thương mại áp dụng chung có một trong những nội dung sau đây bị vô hiệu:

a) Loại trừ trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng theo quy định của pháp luật;

b) Quy định loại trừ các quyền khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng;

c) Cho phép thương nhân có quyền đơn phương thay đổi các điều kiện thương mại đã thoả thuận với người tiêu dùng;

d) Cho phép thương nhân có quyền đơn phương quyết định người tiêu dùng không thực hiện được một hoặc một số nghĩa vụ;

đ) Hạn chế các quyền khác của người tiêu dùng theo quy định của pháp luật.

Những nội dung trên không thuộc nhóm vô hiệu toàn phần do vậy dự thảo quy định như khoản 2 là trái với nguyên tắc pháp luật cơ bản, điều khoản nào vô hiệu thì Tòa án có thẩm quyền sẽ tuyên bố vô hiệu điều khoản đó trong trường hợp này được hiểu là hợp đồng bị vô hiệu từng phần chứ không thể quy định từ một điều khoản vô hiệu lại đề nghị Tòa án tuyên bố vô hiệu cả hợp đồng .Theo chúng tôi cần bỏ Khoản 2 này ra khỏi điều 12 của dự thảo

3)-Thương nhân có bị bắt buộc chấp nhận yêu cầu sửa đổi hợp đồng trong trường hợp người tiêu dùng không đồng ý với nội dung của hợp đồng theo mẫu.

Dự thảo Điều 13 về Hợp đồng mẫu

Chúng tôi cũng nhận thức được rằng khi bên bán hàng (thương nhân) sử dụng hợp đồng mẫu là thương nhân đã sắp đặt ý chí của mình để ép người tiêu dùng nên điều khoản này quy định để bảo vệ người tiêu dùng là đúng nhưng không thể quy định quá mức xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của thương nhân.

Các khoản trong điều này chúng tôi đồng ý

1. Khi giao kết hợp đồng theo mẫu, thương nhân phải dành cho người tiêu dùng có một thời gian hợp lý để nghiên cứu hợp đồng.

2. Người tiêu dùng có quyền yêu cầu sửa đổi hợp đồng trong trường hợp không đồng ý với nội dung của hợp đồng theo mẫu.

3. Thương nhân phải chịu trách nhiệm bảo quản hợp đồng theo mẫu đã giao kết cho đến khi hợp đồng đó hết hiệu lực. Trong trường hợp bản hợp đồng do người tiêu dùng giữ bị mất hoặc hư hỏng thì thương nhân phải cấp cho người tiêu dùng bản sao hợp đồng có giá trị như bản chính.

................................................................................................

6. Chính phủ quy định danh mục hàng hoá, dịch vụ thiết yếu và quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến hợp đồng theo mẫu.

Trong những quy định trên có một vấn đề cũng cần làm rõ về quyền yêu cầu của người tiêu dùng và quyền chấp nhận yêu cầu của thương nhân

Trường hợp người tiêu dùng có quyền yêu cầu sửa đổi hợp đồng trong trường hợp không đồng ý với nội dung của hợp đồng theo mẫu nhưng thương nhân có chấp nhận lời yêu cầu đó hay không là một việc khác, trong quy định này được hiểu là luật quy định quyền của người tiêu dùng chứ không phải quy định nghĩa vụ của thương nhân. Nếu yêu cầu đó không được thương nhân chấp nhận thì khi đó hoặc là người tiêu dùng có thể quyết định hoặc là chấp nhận mua hàng hoặc là đi tìm hàng của thương nhân khác mà mua.

4)-Pháp luật hiện hành có quy định nào buộc doanh nghiệp phải đăng ký hợp đồng với cơ quan quản lý nhà nước hay không ?

Dự thảo Điều 13 về Hợp đồng mẫu

Khoản 4. Thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho người tiêu dùng có sử dụng hợp đồng theo mẫu phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng trước khi sử dụng.

Việc đăng ký hợp đồng mẫu với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng là không phù hợp với nguyên tắc tự do thỏa thuận của hai bên và bán hàng cho người tiêu dùng nhóm hàng phổ dụng không thuộc nhóm hàng hóa cần có điều kiện kinh doanh nên cơ quan nhà nước không có quyền can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của thương nhân.

Nếu mặt hàng bán cho người tiêu dùng thuộc nhóm hàng hóa khi kinh doanh cần có điều kiện thì chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quy định trên không những đăng ký hợp đồng mẫu là cần thiết, ngoài ra còn phải tuân thủ các điều kiện khác nữa theo quy định của pháp luật.

5)-Không có quy định nào của pháp luật hiện hành cho phép cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền được quyền can thiệp yêu cầu các bên giao phải kết hợp đồng theo lệnh, theo nội dung quy định của cơ quan quản lý nhà nước cả

Dự thảo Điều 13 về Hợp đồng mẫu

Khoản 5. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng có quyền yêu cầu thương nhân hủy bỏ hoặc sửa đổi hợp đồng theo mẫu theo đề nghị của người tiêu dùng hoặc trong trường hợp phát hiện quy định trong hợp đồng vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.

Quyền tự do giao kết hợp đồng trong trường hợp này là tự do ý chí của hai bên, thuận mua vừa bán, người mua hàng không cảm thấy thoải mái thì không mua, cơ quan bảo vệ người tiêu dùng không có quyền chỉ đạo các bên phải ký hợp đồng theo ý chí của nhà nước. Nếu hợp đồng có vấn đề tranh chấp thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng đã có cơ quan Tòa án hoặc Trọng tài.

Chúng tôi giả định Công ty Điện lực và Công ty cung cấp nước sạch hiện nay là các doanh nghiệp nhà nước đang sử dụng hợp đồng mẫu ép người tiêu dùng là tất cả những hộ dân đang sử dụng nguồn điện, nguồn nước độc quyền của nhà nước có phải sửa hợp đồng và bồi thường thiệt hại khi gây thiệt hay không cho hộ dân theo chỉ đạo của cơ quan bảo vệ người tiêu dùng hay không ?

6)-Nếu thương nhận không có lỗi thì thương nhân có phải bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng không ?

Dự thảo Điều 17 : Trách nhiệm sản phẩm

Khoản 1. Thương nhân sản xuất sản phẩm, thương nhân gắn tên thương mại lên sản phẩm hoặc sử dụng nhãn hiệu hay dấu hiệu cho phép nhận diện đó là thương nhân sản xuất sản phẩm hoặc thương nhân nhập khẩu sản phẩm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khuyết tật của sản phẩm gây ra cho người tiêu dùng ngay cả trong trường hợp thương nhân đó không có lỗi.

Xét quy định của Bộ luật Dân sự

Điều 604/BLDS Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Khoản 1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Điều 630/BLDS Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng

Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hoá mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường.

Hợp đồng mua bán, giao dịch mua bán giữa thương nhân và người tiêu dùng trong trường hợp này được xem là một hợp đồng dân sự với mục đích tiêu dùng nên những quy phạm điều chỉnh cần phải tương thích với các quy định của pháp luật dân sự.Do đó chúng tôi có cơ sở cho rằng điều này của dự thảo chưa phù hợp với Bộ Luật dân sự Việt Nam, thương nhân chỉ bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng khi mình có lỗi và phạm vi thương nhân phải bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng là hàng hóa không đảm bảo chất lượng. Do đó chúng tôi đề nghị sửa lại Điều 17 : Trách nhiệm sản phẩm

Khoản 1. Thương nhân sản xuất sản phẩm, thương nhân gắn tên thương mại lên sản phẩm hoặc sử dụng nhãn hiệu hay dấu hiệu cho phép nhận diện đó là thương nhân sản xuất sản phẩm hoặc thương nhân nhập khẩu sản phẩm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khuyết tật của sản phẩm gây ra cho người tiêu dùng trong trường hợp thương nhân đó có lỗi.

7)-Về cơ quan có thẩm quyền thi hành quyết định của cơ quan bảo vệ người tiêu dùng ?

Dự thảo Điều 31 về Thẩm quyền buộc thi hành biên bản hòa giải thành

Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng tại địa phương nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của bên có nghĩa vụ thi hành có thẩm quyền buộc thi hành biên bản hòa giải thành.

Dự thảo Điều 33 về Thủ tục công nhận và buộc thi hành biên bản hòa giải thành

1. Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị buộc thi hành biên bản hòa giải thành hợp lệ, cơ quan bảo vệ người tiêu dùng tại địa phương phải thông báo cho các bên liên quan và ra quyết định buộc thi hành biên bản hòa giải thành.

2. Trong trường hợp bên phải thi hành nghĩa vụ không thực hiện quyết định của Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng tại địa phương thì Cơ quan bảo vệ người tiêu dung có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế quy định tại khoản 3 Điều này.

3. Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ bao gồm:

a) Khấu trừ khoản tiền tương ứng nghĩa vụ từ tài khoản tại ngân hàng;

b) Kê biên phần tài sản có giá trị tương ứng để hoàn trả cho người tiêu dùng hoặc bán đấu giá;

c) Các biện pháp cần thiết khác theo quy định của pháp luật.

4. Mọi chi phí phát sinh để thực hiện biện pháp buộc thi hành nghĩa vụ do bên phải thi hành nghĩa vụ chịu.

Quy định như dự thảo trên là trái với nguyên tắc cơ bản của thi hành án, nếu là quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cần cưỡng chế thực hiện mà các cơ quan liên quan và bên buộc thực hiện không chấp nhận thực hiện thì cơ quan nào sẽ thực hiện việc cưỡng chế. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ có cơ quan thi hành án mới có thẩm quyền cưỡng chế thực hiện kể cả quyết định xử lý của Cục quản lý cạnh tranh hiện nay cũng đã được Luật thi hành án quy định thuộc phạm vi thẩm quyền của cơ quan thi hành án, không có một cơ quan nhà nước nào có quyền tự thi hành được cả.

Khi dự thảo quy định buộc thi hành thì đã mang ý nghĩa nếu không thực hiện thì phải cưỡng chế thi hành để đảm bảo kỷ cương nhà nước mà không có cơ quan nào được phép nhân danh nhà nước cưỡng chế thực hiện ngoại trừ cơ quan thi hành án thi hành theo Luật thi hành án

Do đó chúng tôi đề nghị bỏ dự thảo điều khoản này ra khỏi dự thảo Luật

8)-Những quy định bất hợp lý liên quan đến quyền khởi kiện của tổ chức bảo vệ người tiêu dùng cần phải xem lại

- Quy định phân chia ra ngưỡng dưới 100 triệu thuộc thẩm quyền giải quyết hành chính; trên 100 triệu mới thuộc thẩm quyền của Tòa án, dự thảo tiếp cận theo tiêu chí nào để quy định ngưỡng giá ngạch của cơ quan hành chính tài phán, vượt ngưỡng lại do Tòa án tài phán.

- Quy định thủ tục xét xử rút gọn cho Tòa án, đây là điều không thể chấp nhận được về tính Logic của văn bản Luật, đây là luật nội dung lại quy định cả hình thức xét xử của Tòa án.Trường hợp nào Tòa án thấy cần thiết thì Tòa án cho áp dụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Quy định thêm một chủ thể khởi kiện là tổ chức bảo vệ người tiêu dùng trong trường hợp này được hiểu như thế nào ?

a. Luật đã tước đi quyền tự khởi kiện của người tiêu dùng chuyển giao quyền khởi kiện đó cho tổ chức bảo vệ người tiêu dùng hay là

b. Giao thêm quyền khởi kiện cho một chủ thể khác.

- Quy định sự bất hợp lý khi khởi kiện người có quyền phải đăng ký với một tổ chức trung gian.

- Quy định điều kiện khởi kiện của tổ chức bảo vệ người tiêu dùng :

a.Có ít nhất năm năm hoạt động tính đến thời điểm khởi kiện;

b. Có ít nhất một trăm người tiêu dùng tham gia khởi kiện;

Trong thời gian tổ chức này hoạt động chưa đến 5 năm hoặc không đủ 100 người tham gia khởi kiện thì những người muốn kiện phải chờ hay tự đi kiện

9)-Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên đi kiện

Dự thảo Điều 44 : Nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự về bảo vệ người tiêu dùng

1. Trong vụ án dân sự về bảo vệ người tiêu dùng, người tiêu dùng và tổ chức bảo vệ người tiêu dùng không phải đưa ra chứng cứ để chứng minh lỗi của thương nhân.

2. Nghĩa vụ chứng minh không có lỗi thuộc về thương nhân.

Xét quy định của Bộ luật tố tụng dân sự

Điều 79/Bộ luật tố tụng dân sự quy định về Nghĩa vụ chứng minh

1. Đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.

2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.

3. Cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.

Dự thảo điều 44 đã trái với quy định điều 79 của Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam về nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên đi kiện. Do đó chúng tôi đề nghị sửa lại nội dung điều 44

Điều 44 : Nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự về bảo vệ người tiêu dùng

1. Trong vụ án dân sự về bảo vệ người tiêu dùng, người tiêu dùng và tổ chức bảo vệ người tiêu dùng phải đưa ra chứng cứ để chứng minh lỗi của thương nhân.

2. Nghĩa vụ chứng minh có lỗi thuộc về người tiêu dùng.

10)-Tại sao người tiêu dùng đi kiện không nộp tạm ứng án phí

Dự thảo Điều 52 Chi phí trong các vụ án bảo vệ người tiêu dùng do tổ chức bảo vệ người tiêu dùng khởi kiện

1. Tổ chức bảo vệ người tiêu dùng không phải nộp tạm ứng án phí khi khởi kiện vụ án bảo vệ người tiêu dùng

Đây là quy định bất hợp lý, mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật, chỉ ngoại trừ đối tượng đặc biệt mà pháp luật quy định điều chỉnh miễn giảm, chứ tất cả người tiêu dùng Việt Nam ở đây hầu như là dân cư trong cả nước thì không thể miễn nộp tiền án phí được.Mục đích của việc tăng án phí theo Pháp lệnh Phí và lệ phí kể từ ngày 01/07/2009 ngoài việc tăng thu ngân sách còn ý nghĩa hạn chế việc kiện tụng bừa bãi của các bên do đó chúng tôi đề nghị phải nộp tạm ứng án phí như các chủ thể công dân bình thường khác.

11)-Về giải quyết tranh chấp bảo vệ người tiêu dùng

Dự thảo đã quy định có 3 phương thức giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng.

1)-Giải quyết tranh chấp bằng phương thức Trong tài : Điều 35

2)-Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hành chính : Điều 36 đến điều 42

3)-Giải quyết tranh chấp Tại Tòa án : Điều 43 đến điều 53

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì

a)-Tranh chấp về lĩnh vực cạnh tranh pháp luật do liên quan đến yếu tố độc quyền nhà nước mới quy định hình thức giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hành chính và Tòa án;

b)-Tranh chấp trong lĩnh vực thương mại pháp luật quy định hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và Tòa án,

c)-Tranh chấp lĩnh vực dân sự thì chỉ quy định giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.

Lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng mang hai yếu tố thương mại và dân sự nên hình thức giải quyết tranh chấp chỉ nên quy định hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và Tòa án. Theo chúng tôi nên giữ lại như quy định tại Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng là bỏ hẳn phần quy định giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hành chính mới được dự thảo trong Luật cho phù hợp đỡ phải đặt ra bộ máy giải quyết hành chính từ Huyện đến Tỉnh, cuối cùng không thi hành được cũng phải chuyển cho cơ quan thi hành án thi hành chứ cơ quan bảo vệ người tiêu dùng không có quyền năng này trong hệ thống pháp luật hiện hành ./.

Nguồn: Diễn đàn doanh nghiệp (www.dddn.com.vn)

Góp ý Dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng

Dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng: Doanh nghiệp lo ngại!

Dự thảo Bảo vệ người tiêu dùng được thiết kế để có thể đi vào cuộc sống và trở thành một phần không thể thiếu trong hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng chính các doanh nghiệp lại e ngại, dự luật chưa công bằng, khó khả thi!

Trong thời gian gần đây, ngày càng gia tăng các vụ việc xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng với qui mô và mức độ nghiêm trọng ngày một lớn hơn. Đặt trong bối cảnh ấy, việc hình thành luật bảo vệ người tiêu dùng là một việc làm cấp bách. Thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Danh Vĩnh nhìn nhận, cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng đối với sự ra đời của luật này.

Quyền lực thị trường

Ông Đặng Hoàng Hả - Phó Cục trưởng cục Quản lý cạnh tranh, thành viên ban soạn thảo, tổ phó tổ biên soạn Luật bảo vệ người tiêu dùng nhấn mạnh, luật này coi người tiêu dùng là trung tâm và là một bên yếu thế trong quan hệ với thương nhân. Do vậy, định hướng xây dựng Luật bảo vệ người tiêu dùng lần này sẽ sử dụng quyền lực thị trường nhằm nâng cao lợi ích người tiêu dùng. Cách tiếp cận này có thể "tiếp thêm sức mạnh" cho bên yếu thế. Vậy nên, có thể hiểu vì sao các doanh nghiệp cảm thấy có phần bất an với những gì mà "quyền lực thị trường" có thể đem lại một khi dự luật được thực thi.

Chia sẻ với việc luật phải cân bằng lợi ích giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp, ông Phạm Chí Cường - Chủ tịch Hiệp hội thép Việt Nam nhìn nhận, xây dựng Luật này là rất khó.

Trong khi ban soạn thảo nhấn mạnh đến việc bảo vệ người tiêu dùng, ông Cường cho rằng, nếu có tranh chấp thì doanh nghiệp lại yếu thế hơn người tiêu dùng. Thực tế, khi xây dựng một thương hiệu, doanh nghiệp rất lo sợ mỗi khi người tiêu dùng phản hồi và kiện cáo vì nó ảnh hưởng tới uy tín của chính thương hiệu. Do đó, chỉ cần một va vấp nhỏ của doanh nghiệp, người tiêu dùng kiện là ảnh hưởng ngay tới thương hiệu được gìn giữ và xây dựng bao lâu của chính doanh nghiệp đó. Do vậy, muốn bảo vệ người tiêu dùng phải có cơ chế pháp lý xử phạt hợp lý, đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng và cho cả doanh nghiệp nữa. Cũng cần xem xét tới quyền lợi của doanh nghiệp, đặc biệt là trong những vụ tranh chấp, kiện tụng, bởi trên thực tế cũng còn nhiều vụ kiện chưa được minh bạch, ông Cường kiến nghị.

Ông Hoàng Văn Hạnh - đại diện của Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam góp ý, nên bổ sung một chương bảo vệ người sản xuất trước người tiêu dùng trong quá trình sản xuất.

Ở góc độ của một doanh nghiệp có lợi thế độc quyền tự nhiên và thường xuyên là đối tượng của những lời than phiền từ phía khách hàng, ông Vũ Khắc Thư - đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam có mối lo rất cụ thể. Chẳng hạn như, về quyền khởi kiện của tổ chức người tiêu dùng (đại diện bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng), ông Thư cho rằng, không phải là quyền đương nhiên mà chỉ nên hiểu trong trường hợp quyền của người tiêu dùng bị xâm phạm không thể đứng ra bảo vệ mình được thì tổ chức đại diện đứng ra. Nếu không sẽ khó tránh được việc bị lạm dụng.

Còn về trách nhiệm của nhà cung cấp (thương nhân), ông Thư đặt vấn đề, dự thảo chưa quy định trường hợp bất khả kháng với thương nhân. Do đó, cần phải xem xét bổ sung.

Cần sự minh bạch

Luật gia Vũ Xuân Tiền - Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tư vấn quản lý và đào tạo VFAM Việt Nam cho rằng, Luật Bảo vệ người tiêu dùng cần phải được xem xét toàn diện hơn nhằm bảo đảm sự hài hòa về lợi ích giữa người sản xuất, kinh doanh với người tiêu dùng. "Các thương nhân - người sản xuất, kinh doanh hàng hóa và cung ứng dịch vụ là đối tượng quan trọng nhất trong việc thực hiện Luật Bảo vệ người tiêu dùng. Vì vậy, các quy định của Luật cần bảo đảm sự minh bạch đến mức cao nhất về quyền và nghĩa vụ của thương nhân" - ông Tiền nói.

Chẳng hạn, về hành vi ép buộc người tiêu dùng, ông Tiền nhìn nhận, quy định như dự thảo không hợp lý và vi phạm quyền của thương nhân trong mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ quy định trong Luật Doanh nghiệp, Luật Dân sự và Luật Thương mại. Hay như về quy định đối với hợp đồng theo mẫu, thì chính việc yêu cầu "Thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho người tiêu dùng có sử dụng hợp đồng theo mẫu phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng trước khi sử dụng" được ông Tiền nhìn nhận là không cần thiết và về bản chất là làm phát sinh thêm một "giấy phép con"!?

Để hoá giải mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng trong các trường hợp xung đột lợi ích, Trung tâm hòa giải là một điểm thu hút sự quan tâm. Tuy nhiên, kỳ vọng này không được dự thảo đáp lại thỏa đáng. Bởi tuy có phần quy định riêng về Trung tâm này nhưng lại không xác định thuộc loại hình tổ chức gì? Hoạt động hòa giải rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ phải có kiến thức sâu và rộng, song Trung tâm hòa giải lại là một tổ chức phi lợi nhuận, không được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, phải tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí hòa giải. Liệu Trung tâm hòa giải có tồn tại được hay không? Có những biện pháp gì để ngăn chặn hiện tượng hoạt động thu lợi nhuận núp dưới danh nghĩa một tổ chức "phi lợi nhuận"? Có thể giao việc hòa giải giữa thương nhân và người tiêu dùng khi có tranh chấp cho trọng tài kinh tế, các văn phòng luật sư, các công ty tư vấn được thành lập hợp pháp được không? - Một loạt câu hỏi được ông Vũ Xuân Tiền nêu ra. Những lo ngại chưa dừng ở đó, ông Lê Minh Tuấn - Tập đoàn Bảo Việt nhận xét, chính cách nhìn mới dừng ở một chiều nên đề cập tới thủ tục giải quyết tranh chấp chỉ có một bên là người tiêu dùng nên khó có thể đảm bảo được quyền lợi của doanh nghiệp. Vì vậy, ông Tuấn đề nghị cần phải làm rõ hơn vấn đề này nhằm đảm bảo sự công bằng.

Dự kiến, dự luật sẽ được thông qua vào năm 2010. Thời gian không còn nhiều, nhưng các doanh nghiệp mong muốn những góp ý về tính công bằng cho dự luật sẽ được xem xét cẩn trọng. Nói như ông Hoàng Văn Hạnh, muốn bộ luật này có tính chất khả thi thì cần phải tổ chức nhiều lần lấy ý kiến của thương nhân, nhà quản lý, người tiêu dùng để có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn. Bà Midori Tani, chuyên gia phân tích cao cấp về chính sách người tiêu dùng, Bộ Công thương Nhật Bản, cũng khẳng định, đại diện doanh nghiệp cần phải có những ý kiến đóng góp cho Luật Bảo vệ người tiêu dùng để Luật ngày càng tốt hơn.

Nguồn: Diễn đàn doanh nghiệp (www.dddn.com.vn)

Dự Luật Bảo vệ người tiêu dùng gây tranh cãi

Quy định, người tiêu dùng có quyền khởi kiện doanh nghiệp mà không cần chứng minh thiệt hại mâu thuẫn với Luật Dân sự và có thể dẫn đến trường hợp khách hàng cố tình lợi dụng để gây hại cho thương nhân.

Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng ban hành năm 1999 mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận các quyền của người tiêu dùng như một "tuyên ngôn" mà chưa có những cơ chế cụ thể để thực thi các quyền này. Tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội sáng nay, các đại biểu nhất trí việc ban hành Luật Bảo vệ người tiêu dùng là cần thiết, tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, trong dự thảo có nhiều quy định chưa thỏa đáng.

Ông Đào Trọng Thi, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên Nhi đồng nhấn mạnh, phạm vi điều chỉnh trong dự thảo chưa khái quát. Dự thảo mới chỉ đề cập tới hàng hóa dịch vụ chung chung mà chưa quan tâm tới hàng hóa, dịch vụ trong lĩnh vực kinh doanh có điều kiện hoặc dịch vụ công dược hưởng ưu đãi về thuế như tín dụng. Bởi trên thực tế, có những linh vực người tiêu dùng không thể định đoạt được như chất lượng sức khỏe, giáo dục, văn hóa. "Cần bổ sung các chế tài đối với những mặt hàng gây ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, sức khỏe", ông Thi nhấn mạnh.

Điều 51 dự thảo luật quy định, trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, người tiêu dùng và Tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không phải đưa ra chứng cứ để chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Nghĩa vụ chứng minh không có lỗi thuộc về tổ chức, cá nhân kinh doanh. Một số đại biểu cho rằng, quy định này mâu thuẫn với Luật dân sự. Trên thực tế, tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh được hiểu là các tranh chấp dân sự nên được xử lý theo các quy định hiện hành về pháp luật tố tụng dân sự. Theo Luật dân sự, việc chứng minh có lỗi thuộc về trách nhiệm của cả người tiêu dùng và doanh nghiệp.

Theo đánh giá của Ủy ban khoa học công nghệ và môi trường, quy định người tiêu dùng có thêm lợi thế đi kiện trên dễ dẫn đến tình trạng khách hàng lợi dụng gây hại cho doanh nghiệp. Có thể dẫn đến trường hợp đơn kiện không đúng làm mất nhiều thời gian, công sức, tiền của của doanh nghiệp.

Ngoài ra, dự luật cần phải bổ sung thêm quy định về trách nhiệm của nhà sản xuất trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Vì trong một số trường hợp, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hàng hóa mới là người có lỗi tạo ra sản phẩm gây tác động xấu tới khách hàng. Đại biểu Ksor Phước, Chủ tịch hội đồng dân tộc Quốc hội cho rằng, dự thảo luật cần bổ sung trách nhiệm của doanh nghiệp khi bị làm hàng giả, hàng nhái kém chất lượng. Theo ông Ksor Phước, doanh nghiệp và đại diện hợp pháp của doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng khi chính sản phẩm của mình bị làm giả làm nhái. "Doanh nghiệp cần công bố công khai và hợp tác điều tra làm rõ hành vi làm hàng giả để bảo vệ uy tin và thương hiệu của mình. Người tiêu dùng cũng cần phải được bổ sung quyền được tố cáo", ông Phước nói.

Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên cho rằng, nội dung dự luật cần nghiên cứu làm rõ hơn các điều khoản để người tiêu dùng có thể tự bảo vệ mình. Dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng được Bộ Công Thương soạn thảo để thay thế Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 và dự kiến sẽ thông qua năm 2010.

Bách Hợp, VnExpress, cập nhật Thứ bảy, 17/4/2010, 20:05 GMT+7

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hoaianh