happywaydkh4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

MÀNG TREO RUỘT x. Màng treo ruột

MẠCH MÁU LƯU THÔNG. sự vận động hàng hoá trên các kênh lưu thông của nền kinh tế quốc dân. Toàn bộ nền kinh tế quốc dân được coi như một cơ thể sống mà lưu thông là mạch máu. Trong nền kinh tế ngày càng phát triển, hàng hoá không ngừng đưa ra thị trường qua các kênh lưu thông để đi vào lĩnh vực tiêu dùng. MMLT chảy đều và mạnh tức là các kênh lưu thông được thông suốt, sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất và cải thiện đời sống ngược lại, đứt MMLT tức là các kênh lưu thông bị ách tắc, sẽ dẫn đến tình trạng gián đoạn quá trình tái sản xuất của xã hội.

MẠI DÂM. kiếm tiền bằng các kiểu quan hệ tình dục (đồng giới tính, khác giới tính, vv.), với mục đích kiếm sống do nghèo khó thất nghiệp, hoặc để thoả mãn lối sống buông thả, sa đọa. Là một tệ nạn xã hội phức tạp có nguy cơ làm lan tràn các bệnh hoa liễu, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) và các tệ nạn xã hội khác (nghiện ma tuý, vv).

Cần kiên quyết đấu tranh và bài trừ. Các biện pháp để từng bước khống chế tệ nạn MD: xây dựng xã hội tiến bộ, lành mạnh dựa theo một chiến lược con người thích hợp; đẩy mạnh giáo dục thanh niên có lốI sống lành mạnh, có hiểu biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục, có quan niệm đúng đắn về hôn nhân và gia đình; phát triển kinh tế để nâng cao mức sống của toàn dân.

MẠN TÍNH tình trạng rối loạn bệnh lý diễn biến chậm, lâu dài, cường độ nhẹ, có khi khó chẩn đoán, hay tái phát thành những đợt cấp tính, thường ít gây khó chịu hoặc chịu đựng được đốI với người bệnh nhân dần dần sinh ra nhiều biến chứng rất khó chữa. Thường là hậu quả tiếp theo một bệnh cấp tính không được điều trị triệt để hoặc là một căn bệnh bắt đều nhẹ, kín đáo: không sốt cao, sốt nhẹ hoặc không sốt, lúc đau lúc không được điều trị triệt để hoặc là một căn bệnh bắt đầu nhẹ, kín đáo không được điều trị đúng. Các dấu hiệu thường kín đáo: không sốt cao, sốt nhẹ hoặc không sốt, lúc đau lúc không; người bệnh vẫn chịu đựng được, hàng ngày vẫn sinh hoạt và làm việc bình thường, vd. Trong viêm phế quản MT; có thể ho ít nhiều, khạc đờm.... trong viêm khớp MT, khớp có lúc đau, lúc không, bình thường vẫn vận động đi lạI được, trong trường hợp viêm đạI tràng MT, phân khi tốt khi xấu, chán ăn, vv. Bệnh MT rất khó điều trị triệt để, thường để lạI nhiều di chứng, biến chứng nghiêm trọng. Vd. Gan hoá trong viêm phổI mạn tính. Ngoài dùng thuốc phục hồI chức năng có tác dụng quan trọng trong điều trị.

MANG MẦM BỆNH người hoặc sinh vật khác đang mang vi khuẩn, virut, kí sinh trùng trong cơ thể và đang tiếp tục thảI chúng ra ngoài theo các chất bài tiết. Có hai loạI chính: vật bị bệnh sau khi khỏi bệnh về lâm sàng nhưng vẫn còn tiếp tục mang và đào thảI mầm bệnh một thờI gian: người tiếp xúc với mầm bệnh và nhiễm phảI mầm bệnh nhưng bệnh không phát hiện ra mà chỉ ở "thể ẩn". MMB là nguồn lây truyền bệnh nguy hiểm vì vẫn hoạt động và tiếp xúc với xung quanh. Khi xuất hiện một mầm bệnh trong một quần thể (vd. Viêm gan virut, lị trực khuẩn, nhiễm khuẩn màng não cầu, dịch tả...), trong số ngườI tiếp xúc vớI bệnh nhân, dễ có những người MMB. Trong các ngành nghề có tiếp xúc rộng rãi với công chúng, cần chú ý phát hiện ngườI MMB (giáo viên, người nuôi dạy trẻ, dịch vụ ăn uống, cắt tóc, thương nghiệp vv). Trong chăn nuôi cần cách li vật MMB.

MÀNG BỒ ĐÀO màng có nhiều sắc tố và mạch máu, gồm ba phần kể từ trước ra sau: mống mắt, thể mi và hắc mạc (mạch mạc)

MÀNG BỤNG (cg. Phúc mạc), màng phủ lên mặt trong của thành bụng và bao bọc các tạng trong ổ bụng, nối với nhau bằng màng nối. Các bệnh thường gặp: viêm MB do nhiễm vi khuẩn tạng rộng bị thủng (dạ dày, ruột thừa, vv), tràn máu, ung thư di căn tớI; bệnh khu trú ở MB (lao); tràn dịch gây cổ trướng (trong xơ gan).

MÀNG CỨNG x. xơ cứng

MÀNG ĐÁY. (tk màng nền) 1. lớp keo mỏng, nằm ở đáy lớp biểu mô. Ở biểu mô đơn chỉ có một lớp tế bào dưới cùng bám vào MD. Trong bào Baoman (Bowman) của thận, MD là một lớp duy nhất ngăn cách giữa máu và phần nước lọc. Huyết áp tăng ở trong tiểu cầu thận làm cho nước và các chất hoà tan (từ protein) đi qua MD vào trong bao Baoman.

2. Màng ảo, sinh ra do tác động qua lạI giữa nhiều loạI liên bào (liên bào phủ cũng như liên bào tuyến) vớI tổ chức liên kết vây quanh. MD không tách rờI được, nhưng vẫn có một vai trò sinh học, dùng làm điện trao đổI giữa tế bào và môi trường quanh tế bào. Đặc biệt trong ung thư học, hình ảnh MD bị xâm lấn có một giá trị rất lớn trong chẩn đoán dạng ung thư.

MÀNG GIẢ (cg. giả mạc), màng sinh ra do tơ huyết và tế bào viêm phủ trên một niêm mạc bị viêm, song không có cấu trúc của những màng thông thường. Hay gặp trong viêm họng thanh quản, bạch hầu và là một dấu hiệu cho phép xác định bệnh: màng thường có màu trắng xám (đốI lập vớI màng màu đỏ của các loạI viêm họng khác), bóc dính, dễ chảy máu, chứa rất nhiều trực khuẩn bạch hầu Loflo [theo tên của Loflơ (F. Lofler), nhà vi khuẩn học Đức]. Cần chẩn đoán và điều trị sớm MG trong bệnh bạch hầu để tránh những tai biến nguy hiểm chết ngườI như ngạt thở, viêm phổI, viêm cơ tim, vv. (x. Bệnh bạch hầu). Cũng có thể gặp MG trong bệnh viêm ruột non - đạI tràng màng.

MÀNG HOẠT TÍNH. Màng phủ mặt trong các khớp vận động và làm thành túi chứa dịch khớp, cấu tạo từ mô liên kết có lượng keo (colagen) trắng và tiết dịch làm trơn khớp. Trên bề mặt MHD có nhiều mao mạch nổI lộ, tiếp xúc vớI dịch khớp và đóng vai trò của màng lọc các chất thẩm từ huyết tương vào khớp. Làm nhiệm vụ nuôi dưỡng, trao đổI chất và tiết dịch khớp tại ổ khớp. MHD là nơi bắt đầu của một số bệnh khớp (viêm khớp dạng thấp, lao khớp, vv). Sinh thiết MHD giúp chẩn đoán sớm một số bệnh khớp.

MÀNG MẠCH. Màng mắt ở động vật có xương sống, nằm giữa màng cứng và màng võng. Có rất nhiều mạch máu và các sắc tố để hấp thu và chắc chắn các tia sáng phản lại sau khi đã đi qua màng cứng. Ở phía trước, MM có thể mi và lòng đen.

MÀNG MÁU. 1. Triệu chứng của bệnh mắt hột trên giác mạc, có thể kèm theo hột hoặc di chứng của hột. MM có giá trị chẩn đoán ngang với hột và sẹo trên kết mạc.

2. Biến chứng của bệnh mắt hột do lông quặm cọ sát vào giác mạc, với nhiều tân mạch ở cực trên hoặc cả ở cực dưới giác mạc nhưng không bao giờ kèm theo hột hoặc lõm hột trên giác mạc

MÀNG NÃO TUỶ. Màng bao bọc toàn bộ não (màng óc, màng não) và tuỷ. Bệnh của màng não tuỷ, biểu hiện bằng hội chứng màng não, trong đó có dấu hiệu : sốt, nhức đầu, cứng gáy, nôn, vv. Khi xét nghiệm, thấy thành phần của nước não tuỷ thay đổI tuỳ theo nguyên nhân (viêm màng não do vi khuẩn, virut, xuất huyết, u màng não, vv)

MÀNG NGOÀI TIM (tk. ngoại tâm mạc), màng bọc quả tim gồm có hai lá: lá thành hay lớp màng ngoài và lá tạng phủ trực tiếp lên quả tim, bình thường hai lá ép sát lên nhau tạo ra một khoảng ảo (chỉ nhận ra được khi có tràn dịch giữa hai lá). MNT có tác dụng bảo vệ cơ tim và giữ cho tim tránh được những thay đổI đột ngột về vị trí trong lồng ngực khi di chuyển mạnh.

MÀNG NHẦY. niêm mạc bên trong của một số đường ống thông với bên ngoài như ống tiêu hoá, đường hô hấp ở động vật có xương sống. Gồm lớp biểu mô ở ngoài tiết các chất nhày và lớp mô liên kết ở trong.

MÀNG NHĨ. Màng mỏng, tròn, trắng, ngăn tai ngoài và tai giữa: làm nhiệm vụ truyền rung động tới tai giữa và tai trong MN có thể bị viêm, bị thủng hoặc rách do sức ép của không khí (trong các quá trình nổ), bị dầy, xơ hoá. Những trường hợp trên làm giả khả năng nghe. Viêm tai giữa cấp tính ở trẻ em thường gây ỉa chảy nhiễm độc, cần phảI chích MN.

MÀNG NỐI. nếp gấp của màng bụng (phúc mạc) đi từ dạ dày đến một cơ quan khác trong ổ bụng. Có : MN vị - đạI tràng (MN lớn) đi từ bờ cong lớn của dạ dày đến đạI tràng ngang và được treo như một tạp dề phủ trước các quai ruột; MN dạ dày - gan (MN nhỏ) đi từ các mép của rốn gan đến bờ cong nhỏ của dạ dày và bờ trên hành tá tràng đến dướI lỗ môn vị khoảng 2cm, trong có cuống gan (ống mật chủ, động mạch gan, tĩnh mạch cửa), MN vị - đạI tràng có đặc tính thấm hút và dính: khi có vi khuẩn đột nhập vào ổ màng bụng, MN lớn cố tiêu huỷ vi khuẩn đó hoặc dính vào các quai ruột làm thành một hàng rào cách li ổ viêm, không cho ổ viêm lan rộng, trong trường hợp có lỗ thủng ở một tạng khác thành bụng; MN lớn đến bịt lỗ thủng ở một tạng hoặc thành bụng; MN lớn đến bịt lỗ thủng. Trong ngoạI khoa, thường dùng MN lớn để đệm lên và củng cố đường khâu ruột.

MÀNG ỐI. Màng phôi ở một số động vật có xương sống (bò sát, động vật có vú) và động vật không có xương sống và động vật không có xương sống. Gồm hai lớp: màng trong MÔ, màng ngoài (màng thanh dịch). Ở động vật có vú là màng đệm, được hình thành từ hai lá phôi giữa. Ở bò sát, MÔ không có mạch dẫn; ở chim và động vật có vú có mạch máu phát triển và các yếu tố cơ co rút. MÔ bao quanh phôi, trong xoang chứa dịch ối bảo vệ cho thai không bị khô và các va chạm cơ học. Ở người, MÔ là màng bào thai nhi, dính vào tử cung, chứa nước ối. Khi sản phụ chuyển dạ, tử cung mở rộng dần ra. Khi đẻ, MÔ tự vỡ hoặc phải chọc MÔ để thai nhanh ra. Có thể lấy dịch ối để thử và chẩn đoán một số bệnh di truyền bất thường.

Dựa vào quá trình hình thành MÔ hay không hình thành MÔ trong quá trình phát triển phôi để chia động vật có xương sống ra hai nhóm: động vật có MÔ (động vật có xương sống bậc cao, kể cả người) và động vật không MÔ (động vật có xương sống bậc thấp). Màng phôi của côn trùng, bọ cạp, giun tròn và cầu gai cũng được gọi là MÔ.

MÀNG PHÔI. cấu trúc và màng do phôi tạo nên để nuôi hoặc bảo vệ phôi. Không tham gia trực tiếp vào sự phát triển của các cấu trúc phôi. Các màng này hình thành trong giai đoạn muộn của phôi động vật có vú, đặc biệt ở phôi ngườI là các màng thai. X. Màng ối; Bao noãn hoàng.

MÀNG PHỔI. Màng mỏng gồm hai lá: là trong bao bọc tất cả phổi, trừ rốn phổi; lá ngoài phủ lên măt trong của thành ngực và cơ hoành. Bệnh của MP có thể xuất phát từ: thành ngực (do chấn thương vùng ngực), cơ hoành (apxe dưới cơ hoành, bệnh của gan); phổI (lao phổI, viêm phổI, ápxe phổI); từ trung thất (bệnh các hạch bạch huyết, vv). MP có thể bị tràn máu, trành khí, viêm mủ do thủng từ phế nang. Vết thương lồng ngực, tràn dịch do xuất tiết (lao); ung thư MP thường là do hung thư từ một cơ quan khác di căn đến

MÀNG TREO RUỘT. 1. Màng mỏng trong suốt, đi từ thành bụng sau tốI bao bọc các quai ruột. Gồm hai lớp, giữa hai lớp có nhánh động mạch màng, bạch hạch và chuỗi hạch bạch huyết, các nhanh thần kinh và mô mỡ bọc toàn bộ ống tiêu hoá và treo nó vào vách lưng của bụng. Đây là mô liên kết, đựơc bọc ngoài bởi lớp biểu mô hình vảy.

2. Một trong nhiều vách ngăn dọc trong xoang ruột của hảI quỳ

MÀNG TRINH. Màng tương đốI dày bịt lỗ ngoài âm đạo. Màng thường có một lỗ to hay nhiều lỗ thủng nhỏ để máu kinh nguyệt có thể từ tử cung chảy qua âm đạo ra ngoài. Hãn hữu MT không có lỗ thủng, máu kinh sẽ bị ứ lạI trong tử vung và trong âm đạo, làm bệnh nhân rất đau bụng mỗI kỳ có kinh. Chỉ cần rạch rộng MT là máu kinh thoát được ra ngoài. Khi giao hợp lần đầu, MT thường bị rách thành nhiều mảnh, gây chảy ít máu. Cũng có khi do MT dày và dai, nên khi giao hợp, MT chỉ dãn rộng mà không rách nên không chảy máu.

MÀNG TRONG TIM (tk. nộI tâm mạc), màng mỏng bao bọc mặt trong các bồng tim (tâm nhĩ, tâm thất) và các van tim. MTT dễ bị ảnh hưởng của các tác nhân gây bệnh, chủ yếu là vi sinh vật (bệnh thấp khớp cấp, nhiễm khuẩn huyết, vv) gây nên bệnh viêm MTT vớI các tổn thương: phù, dầy, xơ hoá, sùi loét, vv.

MÀNG TRONG TỬ CUNG (tk. nội mạc tử cung), màng lót mặt trong của tử cung ở các loài động vật có vú. Hình ảnh để đón nhận và nuôi dưỡng phôi phát triển. Nhưng nếu không có thụ tinh thì hoặc MTTC trở lạI trạng thái trước đó hoặc bị bong và đẩy ra ngoài theo chu kì kinh nguyệt (ở ngườI và một số linh trưởng), MTTC trảI qua các chu kỳ sinh trưởng, phát triển và thoái hoá phù hợp vớI chu kỳ rụng trứng.

MÀNG NƠ NHÂN TẠO (A, artificiat neuron network), một mô hình tính toán, thực hiện bằng thiết bị hoặc phần mềm máy tính mô phỏng theo hoạt động của các mạng nơron sinh học, MNNT được nghiên cứu và sử dụng nhiều trong những năm gần đây trong các quá trình học - máy, phân loạI thông tin và nhận dạng và chứng tỏ có nhiều ưu điểm trong các loạI bài toán đó.

MAO MẠCH. một trong số rất nhiều các mạch máu nhỏ, đường kính 5 - 20 mm, phân nhánh từ các động mạch và hình thành nên một mạng lưới dày đặc trong các mô rồi kết hợp lại thành các tĩnh mạch nhỏ. Thành mỏng, cấu tạo từ lớp nội mô dẹt, đa diện gắn vớI nhau bằng một chất gian bào rất mỏng. Qua MM, oxi, cacbon dioxit, các ion vô cơ, thức ăn hoà tan, các sản phẩm bài tiết, vv được trao đổi giữa máu và các tế bào qua dịch mô

MÀO THẦN KINH. Các tế bào chuyên hoá ở bờ của tấm thần kinh trong phôi động vật có xương sống. Trong quá trình hình thành ống thần kinh, các bờ máng thần kinh sát nhau rồi các bờ máng khép lại và hình thành nên một mào dọc trên lưng ống thần kinh. Các tế bào MTK di chuyển riêng rẽ sau tuỷ sống và các hạch thần kinh giao cảm.

MÀO TINH (epididymis), tập hợp các ống dẹt nối với bề mặt của tuyến tinh ở bò sát, chim và động vật có vú, dài 6 - 7 mm, ở người, MT hình quả bầu dài, nằm ở bờ sau tinh hoàn, có đầu thân và đuôi. Biểu mô MT gồm các tế bào có lông và tế bào đáy. Là nơi tích tụ tinh trùng trước khi xuất tinh ra ngoài lúc giao phối. Chất tiết của MT nuôi dưỡng tinh trùng, làm cho tinh trùng tự chuyển động được. Nguồn gốc từ trung thận của phôi. Xt. Hệ sinh dục đực.

MASEAN (Medical Association of Southeast Asia) x. Hiệp hội Y học các nước Đông Nam Á.

MÁU. Mô lỏng vận chuyển trong cơ thể động vật, do co bóp của cơ tim (ở động vật có xương sống) hoặc các mạch khác, các xong máu (ở động vật không xương sống). M mang oxi và chất dinh dưỡng tới các mô và lấy cacbon dioxit và sản phẩm thải chứa nitơ để bài tiết ra ngoài. M cũng vận chuyển hocmon đi khắp cơ thể. M gồm có huyết tương lỏng, các yếu tố tế bào: bạch cầu, hồng cầu, tiểu cầu.

Ở đa số động vật (trừ côn trùng). M mang oxi kết hợp với sắc tố hemoglobin ở động vật có xương sống và hemocyanin ở một số động vật không xương sống.

Ở người, khối lượng M bằng 5 - 9% trọng lượng cơ thể, trong đó 45% là thành phần hữu hình và 55% là huyết tương. Khi loại bỏ fibrin (loại protein có tác dụng làm đông máu) trong huyết tương, thu được huyết thanh. Khi mất đột ngột một khốI lượng M trên 10% thì có thể gây sốc. Trong trường hợp này, để kịp thời cứu tính mạng bệnh nhân, biện pháp tốt nhất là truyền trả lại lượng máu đã mất, cho nên, hiến M để lập một ngân hàng M dự trữ, cung cấp kịp thời M lúc cần thiết cấp cứu là một hành động nhân đạo và văn minh, cần khuyến khích.

MÁU KHÔ. huyết tương qua xử lí bằng phương pháp đông khô để chuyển thành dạng bột, khi dùng chỉ pha thêm đủ nước là có thể truyền được. MK có thuận lợi là giữ được lâu không hỏng. Hiện nay hồng cầu cũng có thể chuyển thành dạng "khô" nhưng thực chất là dạng lạnh sâu (-700C), nên cũng lưu trữ được lâu.

MÁY ĐO SỨC NGHE. (tk. Thính lực kế), thiết bị điện tử đo sự giảm súc sức nghe bằng số lượng (tính bằng đexiben - Db). MDSN thông dụng đo tần số 125 Hz - 8000 Hz, cường độ tối đa 100 - 110 dB; đo sức nghe âm đơn qua xương và đường khí. Có loại đo được bằng tiếng nói, đo các rối loạn trên ngưỡng nghe; MDSN bán tự động; MDSN khách quan.

MÁY GHI ĐIỆN TIM. thiết bị ghi biến thiên của dòng điện tim theo thời gian (điện tâm đồ). Khi lấy điện tâm đồ, các điện cực được áp lên da của đối tượng cần đo tại những vị trí nhất định. Theo điện tâm đồ ghi trên băng giấy, sẽ chẩn đoán được bệnh lí của tim.

MÁY GIA CÔNG RĂNG. Máy cắt kim loại, gia công răng của các bánh răng (bánh xích, líp, vv). Theo loại bánh răng, phương pháp gia công và dụng cụ cắt, phân ra: 1/ Máy phay lăn răng vạn năng: phay răng thẳng, răng nghiêng (của các bánh răng trụ ăn khớp ngoài và bánh vít) bằng dao phay lăn trục vít. 2/ Máy phay bánh răng côn: phay các bánh răng côn răng thẳng và răng cong bằng đầu dao phay bao hình. 3/ Máy xọc răng: xọc bao hình răng thẳng và răng nghiêng (của các bánh răng trụ ăn khớp ngoài và trong) bằng dao xọc răng hoặc dao lược răng (cho bánh răng trụ ăn khớp ngoài). 4/ Máy bào răng: bào bao hình bánh răng côn răng thẳng. 5/Máy vê đầu răng: phay lượn tròn mặt đầu răng, dễ dàng khi đi trượt vào khớp của hai bánh răng. 6/Máy cà răng: cà bóng các bánh răng trụ và bánh vít bằng dao cà răng. 7/ Máy lăn ép răng: lăn ép nguội và nóng bề mặt răng bằng phương pháp biến dạng dẻo. 8/ Máy mài răng: mài bao hình các răng bằng bánh mài dạng đĩa hoặc dạng trục vít. 9/ Máy mài nghiền răng: nghiền bóng bề mặt răng. Còn có các loại MGCR chuyên môn hoá hoặc chuyên dùng; để gia công chi tiết đặc biệt hoặc loạt sản xuất lớn (trục răng trong đồng hồ, bánh răng chữ V, vv).

MÁY KHOAN RĂNG. thiết bị y tế để hàn và chữa răng (x. Khoan răng), gồm mô tơ điện làm ngay một đầu tay khoang thẳng hoặc khuỷu có gắn mũi khoan để khoan răng. Có MKR tốc độ chậm (tốc độ quy ước 10 nghìn - 60 nghìn vòng/phút) . MKR tốc độ cao (tốc độ quy ước 60 nghìn - 100 nghìn vòng/phút) và MKR siêu tốc (tốc độ quy ước 100 nghìn - 300 nghìn vòng/phút).

MÁY MÀI RĂNG. Máy cắt gọt kim loại thuộc nhóm máy mài dùng để gia công tinh răng bánh răng đạt độ chính xác và độ bóng cao. Song phương pháp này so với các phương pháp cà, mài nghiền răng, hay lăn ép răng thì năng suất thấp nhất, máy phức tạp nhất. Những bánh răng mài thường dùng cho máy chính xác, máy bay, tàu vũ trụ, vv. Có hai phương pháp mài răng: phương pháp chép hình và phương pháp bao hình. Theo phương pháp chép hình thì đá mài (có dạng phay đĩa môđun) thực hiện chuyển động quay tròn, chi tiết tịnh tiến, sau mỗi lần gia công xong lại phân độ. Phương pháp này năng suất cao hơn phương pháp bao hình nhưng độ chính xác thấp hơn. Phương pháp bao hình dựa vào nguyên lí ăn khớp giữa cặp thanh răng - bánh răng mà thanh răng đóng vai trò đá mài. Gíơi hạn môđun bánh răng được mài: 0,2 - 12mm và lớn hơn. Giới hạn đường kính ngoài bánh răng được mài 5 - 500mm.

MÁY THỞ. thiết bị y học thực hiện hô hấp nhân tạo kéo dài, bằng cách bơm không khí thường hay oxi qua một ống thông vào khí quản để cuối cùng làm cho bệnh nhân tự thở lại đựơc bình thường; được dùng trong các trường hợp bị ngất, ngạt, ngừng thở (bại liệt). Thường dùng MT tự động điều khiển Engxtơrơm với tần số, biên độ, áp lực được điều chỉnh tuỳ theo tình trạng của mỗi bệnh nhân, thời gian dùng máy có thể kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng. Trước đây, còn dùng phổi thép - kết kim loại, bệnh nhân được nằm trong đó; sự thay đổi áp lực nhịp nhàng của phổi thép duy trì các động tác thở của lồng ngực và sự thông khí nhân tạo. Nay đã bỏ không dùng.

MẮT. cơ quan để nhìn hay tiếp nhận ánh sáng. Ở động vật không xương sống, M chỉ là một cơ quan cảm thụ ánh sáng đơn giản (M đơn) nhạy cảm với hướng và cường độ ánh sáng. Động vật thân mềm bậc cao và chân đốt có M kép tạo nên hình ảnh. Ở động vật có xương sống, M cấu tạo phức tạp, liên hệ với não bằng dây thần kinh vận động. M hình cầu, ngoài có màng cứng trắng, phía trước trong suốt là màng giác. Phía trong là màng mạch mềm, có sắc tố phản chiếu ánh sán. Phía trước màng mạch làm thành mống M có thủng lỗ (hay con ngươi), qua đó ánh sáng lọt vào trong cùng của M là màng võng chứa các tế bào nhạy cảm ánh sáng (tế bào hình nón, hình que). Ở người, M (nhãn cầu) có hình cầu đường kính trước sau khoảng 24 - 25mm, khối lượng 7g và thể tích 6,5cm3. M là cơ quan tiếp xúc quan trọng với môi trường bên ngoài.

MẮT GIẢ. mắt nhân tạo, được dùng để lắp vào túi kết mạc của hốc mắt ở bệnh nhân bị teo nhãn cầu, khoét nhãn cầu vì bệnh tật hoặc chấn thương, nhằm phục hồI thẩm mỹ. MG được chế tạo từ nguyên liệu: thuỷ tinh, sứ, pha lê tráng men hoặc nhựa tổng hợp. Có MG đơn và MG kép. Tuỳ tình trạng của túi kết mạc mà bác sỹ chỉ định dùng loại MG phù hợp. Yêu cầu đối với MG: không gây phản ứng xấu ở hốc mắt, thoải mái cho người dụng: đạt yêu cầu về thẩm mỹ (giống mắt còn lại).

MẮT HỘT. bệnh viêm kết - giác mạc lây lan, mạn tính ở mặt người do Chlamydia trachomatis gây ra. Biểu hiện lâm sàng chính: thẩm lậu hột, nhú gai trên kết mạc, màng máu, nhiều khi có kèm theo hột trên giác mạc và thường kết thúc bằng sẹo. MH xuất hiện ở trẻ em 1 - 2 tuổi, lây lan qua đồ dùng chung (khăn mặt, chậu rửa mặt) và vật truyền bệnh (ruồi). Phòng bệnh MH bằng cách cải thiện vệ sinh môi trường sống, diệt ruồi truyền bệnh.

Điều trị bằng thuốc sát khuẩn, chống bội nhiễm vi khuẩn và thuốc mỡ tetracycline 1% đặc hiệu chống Chlamydia trachomatis, ngày tra 1-2 lần, ít nhất trong 3 - 6 tháng.

MẮT LÁC x. Lác

MẪN CẢM. trạng thái một cơ thể, một phủ tạng hoặc một mô có thể phản ứng một cách đặc biệt (phản ứng dị ứng) khi tiếp xúc với một chất hoá học hoặc yếu tố vật lý (kháng nguyên). MC là nguyên nhân của các phản ứng toàn thân (sốc, sốt) hoặc tại chỗ (mày đay, ban xuất huyết, vàng da, vv). Là một hiện tượng miễn dịch, trong đó các tế bào lympho đóng vai trò chủ yếu.

MẤT DINH DƯỠNG. trường hợp xảy ra khi khẩu phần ăn không đáp ứng đủ nhu cầu của cơ thể về mặt protein - năng lượng, nghĩa là dị hoá cao hơn đồng hoá, sự tiêu hao năng lương cao hơn sự thu nhập. Trong giai đoạn đầu, cơ thể phải sử dụng dự trữ mỡ, thịt có sẵn trong người, do đó, bệnh nhân bị sút cân, sức lực giảm. Nếu tình trạng MDD kéo dài, cơ thể càng bị suy kiệt, người bệnh càng dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn.

MẤT ĐIỀU HOÀ. (tk. mất phối, mất điều hoà phối), mất phối hợp trong các vận động tự chủ, nhưng lực cơ không bị suy giảm. Các động tác của bệnh nhân trở nên vụng về, thiếu chính xác. Khi bệnh nhân nhắm mắt, các rối loạn phối hợp càng tăng lên do thiếu sự kiểm ta của thị giác. Bệnh do tổn thương lan tới thân não, chủ yếu là mất cảm giác sâu làm bệnh nhân mất khả năng nhận thức vị trí không gian của thân người hoặc các đoạn chi. Nhiều nguyên nhân có thể gây MDH, chủ yếu là nhiễm khuẩn (viêm não, giang mai, vv), u tại các nhân trung ương, rối loạn tiền đình hoặc di truyền. Điều trị chủ yếu bằng chữa căn nguyên.

MẤT KHẢ NĂNG LAO ĐỘNG. Không còn khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn do bệnh tật, tai nạn hoặc do các nguyên nhân khác. Là một vấn đề xã hội phức tạp, liên quan mật thiết tới phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán, dân số, vv.

MẤT KINH. X. vô kinh

MẤT NGÔN NGỮ. mất hoặc rối loạn sự hiểu biết và sử dụng ngôn ngữ nói và viết. Bệnh xảy ra ở một người trước đây vẫn hiểu biết bình thường về ngôn ngữ và không sa sút trí tuệ, cũng như không có bệnh gây suy giảm chức năng nghe, nhìn hoặc phát âm. Bệnh nhân mất khả năng gọi tên cả các đồ vật quen thuộc dù là bằng lời nói hay bằng chữ viết. Bệnh có biểu hiện bằng nhiều dấu hiệu: bệnh nhân hoàn toàn không phát âm được hoặc sai từ. MNN xảy ra khi có tổn thương bán cầu đại não bên trái (đối với người thuận tay phải). Đây là điểm khác với các rối loạn ngôn ngữ khác. Các bệnh nhiễm khuẩn, chấn thương, u và nhất là tai biến mạch máu não ở bán cầu trái là những nguyên nhân gây MNN

MẤT NGỦ. rối loạn giấc ngủ có tính chất chức năng làm cho không ngủ được lúc đầu buổi tối, dậy nhiều lần ban đêm và mỗi lần dậy khó ngủ lại, thao thức suốt đêm không ngủ được, vv. Nguyên nhân rất đa dạng: lo âu về gia đình, công việc, trong hoạt động xã hội; ưu tư dài ngày phối hợp với rối loạn thần kinh chức năng, suy nhược thần kinh, bệnh tưởng; làm việc quá sức, lao tâm, lao lực; uống nhiều cà phê, nước chè đặc, nhất là vào buổi tối; du lịch bằng máy bay; lạm dụng thuốc ngủ, thuốc an thần; không rèn luyện cơ thể, vv. Nhiều trường hợp đương sự ngủ đủ thời gian, nhưng dậy sớm nên có cảm tưởng là không được ngủ ban đêm. Dự phòng: nên bỏ thói quen làm việc quá khuya; nên ngủ trước mười giờ đêm; ban đêm chỉ nên làm các công việc nhẹ không phải suy nghĩ nhiều; rèn luyện cơ thể và dinh dưỡng; tim và khắc phục các nguyên nhân gây rối loạn giấc ngủ, đối với người cao tuổi, nên ngủ sớm, buổi trưa nằm nghỉ khoảng nửa giờ, ban đêm nếu phải dậy đi tiểu quá 5 lần thì phải đi khám, nguyên nhân ở nam giới có thể là một u tuyến tiền liệt, vv.

MẤT NƯỚC. sự giảm nước của cơ thể, có thể cấp tính hay mạn tính, thường kèm theo rối loạn cân bằng các chất điện giải (Na+, Cl-, K+, vv). MN cấp, đặc biệt ở trẻ em, dễ gây tử vong vớI các dấu hiệu: niêm mạc khô, khát nước, nước tiểu ít, sẫm hoặc không có nước tiểu, mắt trũng, khi véo da nhăn nheo rõ, chậm trở lại bình thường; thở nhanh, mạch nhanh, sút cân, vv

Có nhiều nguyên nhân gây nên MN, cơ chế phức tạp, nhiều khi chưa xác định được. Một số nguyên nhân đã biết: MN do không được cung cấp đủ nước (trên sa mạc); MN do hội chứng kém hấp thu (nước đưa vào cơ thể đủ, song không đáp ứng được nhu cầu vì ruột hấp thu kém, phổ biến là mất quá nhiều nước do nôn, ỉa chảy, sốt cao), MN mạn thường gặp ở người gà, người ốm lâu ngày. Về nguyên tắc, chữa MN bằng cách bù nước (x. bù nước), điều chỉnh rối loạn điện giải. Trong MN cấp, đặc biệt trong ỉa chảy cấp, thường bù nước bằng cách uống dung dịch erosol; có thể còn dùng nước cháo loãng, nước gạo rang pha lẫn đường và muối, cho ăn muối để bù kali. Khi MN quá nhiều, có rối loạn điện giải nghiêm trọng, cần tiêm truyền tĩnh mạch..., phải đưa bệnh nhân đến cấp cứu ở các cơ sở y tế chuyên khoa

MẤT TRÍ. trạng thái bệnh lý mạn tính: suy giảm trí tuệ, bao gồm trí nhớ, sự hiểu biết, sự phán đoán, khả năng tiếp thu cái mới. Sự suy giảm này mang tính chất toàn bộ, ngày càng nặng không hồi phục và thường kèm theo mất kiềm chế cảm xúc, rối loạn tác phong nặng nề, gây trở ngại cho sinh hoạt thường ngày của người bệnh.

MẤT TRÍ NHỚ. mất trí nhớ toàn bộ hoặc một phần do bệnh hoặc chấn thương thần kinh, có thể tạm thời hoặc vĩnh viễn. MTN có thể: ngược chiều (quên những việc xảy ra trước khi bị bệnh), thuận chiều (quên những việc xảy ra sau khi bị bệnh); khu trú trong một sự vật hoặc quên cả một hệ thống; MTN trong một giai đoạn nhất định hoặc không nhận thức được các thông tin từ giác quan (mùi, vị, sờ mó vv).

MẤT TRÍ TUỔI GIÀ. mất trí xảy ra ở người già (trên 65 tuổi) do các tổn thương thoái hoá não, gây teo não, nguyên nhân hay nêu lên là xơ mạch não, vv; thường kèm theo trầm cảm, hoang tưởng, ít gặp trạng thái kích động.

MẤT TƯƠNG LỰC CƠ. hiện tượng nhẽo và doãi cơ do các tổn thương thần kinh ngoại vi, hoặc tổn thương ở thần kinh trung ương giai đoạn đầu: giai đoạn choáng tuỷ, các nơron vận động ở sừng trước tuỷ sống ngừng hoạt động khi mất các xung điều kiển từ trung ương qua đường các bó tháp, hết giai đoạn đó, nơron hoạt động trở lại, gây co cứng cơ. Cơ còn bị nhẽo ở người suy nhược, kém dinh dưỡng, nhất là trẻ em.

MẤT VẬN ĐỘNG. Tình trạng giảm, khó vận động hoặc mất hoàn toàn khả năng vận động tích cực ở từng bộ phận hoặc cơ quan (chân tay, cơ, thần kinh, bộ phận sinh dục nam, vv), do nhiều nguyên nhân khác nhau. Điều trị nguyên nhân MVĐ và kết hợp luyện tập phục hồi chức năng.

MẬT NGƯỜI. dịch được gan tiết ra từ 800 đến 1.000 ml trong 24 giờ, đưa vào tá tràng, qua ống mật. Theo hình thái, mật chia 3 loạI: A, B, C. Mật C ở gan ra, màu vàng tươi, trong và hơi quánh: Mật B ở trong túi mật, màu nâu, quánh hơn và hơi đục có thể không có hoặc có rất ít, khi tắc hoàn toàn hay một phần ống túi mật (do viêm dính quanh túi mật, quanh tá tràng; sỏi ống túi mật), có thể quá nhiều khi mất trương lực túi mật. Mật A trong ống mật chủ màu vàng; có thể không có hoặc có rất ít, khi tắc hoàn toàn hay một phần ống mật chủ (do ung thư đầu tuỵ, sỏi mật), mật A, B, C đều đục trong trường hợp nhiễm khuẩn. Tác dụng của MN: kiềm hoá môi trường ruột non, tiêu hoá mỡ (nhũ hoá, tiêu hoá, hấp thu), ngăn cản quá trình thối rữa, vv. Thành phần của MN: muối mật, sắc tố mật, bilirubin, colesteron (cholesterol), vv. Hình thái của M thay đổi: do nhiễm khuẩn (làm đục), sỏi mật, vv

MÔ BỆNH HỌC. khoa học nghiên cứu những biến đổi về hình thái và chức năng của mô, tế bào trong những hoàn cảnh bệnh lý khác nhau.

MÔ THẦN KINH. loại mô cảm ứng của động vật, gồm tế bào thần kinh hay nơron, tế bào thần kinh đệm. Nguồn gốc là phôi ngoài.

1/ Tế bào thần kinh: có thân chứa nhân, những nhánh bào tương mọc từ nhân ra gọi là sợI thần kinh: sợi trục và đuôi gai. Các cúc tận cùng của sợi trục chứa túi nhỏ là các túi synap. Trong hệ thần kinh, nơi nơron này bắt đầu liên lạc với nơron khác gọi là synap liên nơron. Các tế bào thần kinh có thể có một, hai hay nhiều cực.

2/ Tế bào thần kinh đệm: là mô chống đỡ của hệ thần kinh có ở xung quanh khoang của trục não, tuỷ và trên mặt những nhung mao của đám rối màng mạch, tạo thành lớp biểu mô đơn. Ngoài nguồn gốc lá phôi ngoài, các tế bào thần kinh đệm còn bị xâm nhập bởi ít nhiều tế bào lá phôi giữa. Gồm tế bào biểu mô nội tuỷ, tế bào biểu mô màng mạch, tế bào biểu mô thể mí, tế bào sao, tế bào sao ít nhánh, những vi bào đệm và những tế bào đệm ngoại vi.

MÔ XƯƠNG. một loại mô liên kết thích nghi cao nhất với chức năng chống đỡ, bảo vệ các cơ quan nội tạng của cơ thể động vật. Ngoài chức năng trên, MX còn đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển hoá một số chất, nhất là trong chuyển hoá canxi. Gồm 3 phần chính: 1/ Chất căn bản (cơ chất) nhiễm những chất đặc biệt là chất khoáng như canxi, photphat, magie, natri. Chất căn bản này chiếm 70% khối lượng xương. Những chất hữu cơ chiếm 30% khối lượng xương là mucopolisacarit, protein, các chất này rất ưa axit. 2/ Những phân tử sợi là các sợI tạo keo và tiền tạo keo. Các sợi này có tác dụng chống lại sức giằng kéo. 3/ Tế bào hình sao có nhều nhánh tiếp xúc với tế bào lân cận gọi là tế bào xương. Tế bào xương là tế bào chuyển hoá hoạt động tích cực, đảm bảo cho MX đang phát triển hay đã trưởng thành có sức sống và luôn luôn đổi mới bằng cách đắp thêm và tiêu huỷ chất căn bản xung quanh chúng. Hiện tượng này là do kết quả hoạt động của các bào quan trong tế bào xương. Ngoài ra, trong tế bào xương còn có các tiểu thể còn chứa nhiều enzim có tác dụng tiêu huỷ protein của chất căn bản. Trong xương còn có các hốc gọi là hốc tuỷ, chứa những mô liên kết đặc biệt là tuỷ xương. Có 4 loại tuỷ xương: tuỷ tạo cốt, tuỷ tạo huyết màu đỏ, tuỷ tạo mỡ màu vàng và tuỷ tạo xơ màu xám. Xt. Xương.

MỒ HÔI NẶNG MÙI. Tình trạng toát mồ hôi chứa nhiều axit béo, các trường hợp chất của amoniac, vi khuẩn, nấm, khi gặp không khí bị oxi hoá và phân huỷ, tạo nên mùi khó chịu. Nguyên nhân chủ yếu: do thể tạng, yếu tố gia đình, có khi do thức ăn (hành, tỏi, rượu), hạn chế mùi khó chịu bằng cách năng tắm giặt, tiết chế ăn uống, rắc bột phèn phi vào các kẽ da. Có thể dùng mĩ phẩm có các chất thơm làm át mùi mồ hôi; các thuốc dùng tạI chỗ tương tác vớI sự hình thành mồ hôi và có khả năng kháng khuẩn (có chứa nhôm clorua, nhôm sulfat, vv); xà phòng kháng khuẩn chữa cacbanilit, triclosan, vv.

MỔ LẤY THAI (tk. mổ tử cung), phẫu thuật mở thành bụng rồI mở tử cung để lấy thai nhi còn sống ra, khi không thể đẻ theo đường âm đạo được, do những nguyên nhân đe doạ đến tính mạng ngườI mẹ và thai nhi, vd: sản phụ bị suy tim, khung chậu hẹp hoặc ngôi thai không thuận (ngang), rốI loạn cơ co tử cung (x. vỡ tử cung) vv. Nếu MLT không phảI do nguyên nhân cơ giớI (khung chậu hẹp), kì thai sau có thể để tự nhiên được. Tuy nhiên, đẻ vớI một vết sẹo mổ cũ rất nguy hiểm và cần được theo dõi tạI bệnh viện có đủ trang bị hồI sức và phẫu thuật. Về nguyên tắc, sau MLT không nên có thai trước 3 - 5 năm và không nên MLT quá 2 lần.

MỔ XÁC. Kĩ thuật mổ ngườI đã chết ở các bệnh viện để kiểm tra chẩn đoán và quan trọng hơn là để phát hiện những bệnh và những tổn thương mà lâm sàng không chẩn đoán được hoặc bỏ sót, hoặc để tìm các nguyên nhân chết có nghi vấn (trong y pháp). Ở hầu hết các nước đã phát triển, MX là một yêu cầu bắt buộc ở tất cả các cơ sở y tế và đã giúp rất nhiều cho nâng cao chất lượng các dịch vụ sức khỏe.

MÔN HỌC VỀ SỰ CHẾT. (tk. tử học), môn học nghiên cứu về sự chết và những vấn đề liên quan tới sự chết, vd. những dấu hiệu của chết, xác định chết thật (chết não), thời điểm chết, quá trình thối rữa thi thể, khám nghiệm tử thi, vv. Trong xã hội hiện đại, MHVSC ngày càng phát triển, rất cần cho công tác giải phẫu bệnh, y pháp, khoa học hình sự...

MÔN VỊ. lỗ dưới của dạ dày thông vớI tá tràng, là vòng cơ trơn có chức năng điều chỉnh lượng thức ăn từ dạ dày xuống tá tràng (ruột non). Các bệnh thường hay gặp ở MV là hẹp MV, tắc MV: hẹp lỗ MV bẩm sinh ở trẻ sơ sinh: hẹp MV do loét dạ dày - tá tràng, ung thư dạ dày, vv. Điều trị bằng ngoại khoa theo chỉ định của thầy thuốc

MỐNG MẮT. vùng hình đĩa chứa sắc tố nằm ở phần trước của mắt động vật có xương sống và động vật chân đầu (mực, bạch tuộc). Có một lỗ ở giữa - đồng tử. MM có thể co giãn nhu màn chắn làm thay đổI kích thước đồng tử, điều chỉnh lượng ánh sáng di vào mắt. Bờ ngoài MM nốI với thể mi nằm giữa màng cứng và thể thuỷ tinh. MM nằm trong dịch thuỷ. Những phần tử nhỏ mịn của sắc tố nâu phân tán các tia sáng làm cho MM có màu xanh da trờI và các sắc tố phụ làm nó có màu xẫm, nâu hoặc các màu khác.

Ở người, màu của MM thay đổi tuỳ theo chủng tộc. Ở ngườI Việt Nam, MM: một loại vòng quanh đồng tử là cơ thắt và một loại toả hình tia là cơ giãn. Khi có ánh sáng chói, hoặc nhìn gần, cơ thắt co làm đồng tử nhỏ lại để giảm lượng ánh sáng lọt vào cầu mắt. Trong ánh sáng yếu, cơ giãn làm đồng tử rộng ra để ánh sáng vào mắt nhiều hơn, các cơ này do hệ thần kinh thực vật điều khiển.

MỘNG THỊT. nếp gấp kết mạc, dày, nhiều mạch máu, có hình tam giác với đỉnh quay vào phía giác mạc và có xu hướng tiến triển, xâm nhập vào trung tâm giác mạc, thậm chí vượt qua diện đồng tử. Thường gặp MT ở góc trong nhưng cũng có khi ở phái ngoài, hoặc ở cả hai phía của mắt. MT ảnh hưởng tớI vẻ đẹp của mắt, làm giảm thị lực (do gây loạn thị và che lấp vùng đồng tử). Thường phát sinh ở những vùng khí hậu khô nóng, nắng, nhiều bụi. Viêm kết mạc mạn tính là yếu tố thuận lợi cho sự phát sinh MT. Điều trị: giữ vệ sinh mắt, dùng thuốc sát khuẩn, đeo kính. Dùng phương pháp phẫu thuật khi MT tiến triển sâu vào giác mạc, nhưng cần mổ trước khi MT che vùng đồng tử.

MỘNG TINH. X. Di tinh

MỞ KHÍ QUẢN. thủ thuật tạo ra một lỗ thủng nhân tạo ở khí quản ra cổ để người bệnh thở và có thể hút các chất xuất tiết ở phổi ra. Thường là thủ thuật cấp cứu, được chỉ định trong các trường hợp: tắc nghẽn đường hô hấp gây khó thở do u, dị vật ở họng, thanh quản; viêm phù nề hoặc có màng giả (bạch hầu); liệt thanh quản; co thắt thanh quản (vd. uốn ván); cần hút đờm giãi ứ đọng ở phế quản để khai thông đường hô hấp.

MỞ LỒNG NGỰC. thủ thuật ngoại khoa mở lồng ngực để bộc lộ các phủ tạng trong lồng ngực và trung thất. Là giai đoạn mở đầu tiếp tục tiến hành các phẫu thuật dự định về phổi, màng phổi, tim, các mạch máu lớn, khối u ở trung thất, thực quản, vv. Hai đường MLN thường được thực hiện: MLN sau - bên; MLN trước - bên. MLN sau - bên là đường mở rộng và thuận lợi để có thể tiến hành nhiều phẫu thuật trong lồng ngực hơn cả.

NAM DƯỢC THẦN HIỆU. bộ sách thuốc của Tuệ Tĩnh. Theo "Lời tựa" của hoà thượng Bản Lai, tác giả của "NDTH" là Quỳ Công. Trên bản khắc của Vương Thiên Trí chỉ có 500 phương thuốc. Hoà thượng Bản Lai đã hiệu chỉnh có 3.932 phương thuốc. Bộ "NDTH" gồm: quyển đầu ghi chép tên gọi, khí vị, chủ trị của 499 vị thuốc nam và 10 quyển tiếp ghi chép về các bệnh trúng, bệnh khí, chứng, thất huyết bệnh có đau, bệnh không đau, bệnh chín khiếu, bệnh nội thương, bệnh phụ khoa, bệnh nhi khoa, bệnh ngoại khoa (tổng cộng là 184 chứng bệnh khác nhau); mỗi bệnh đều ghi rõ nơi bị bệnh, cơ chế sinh bệnh đơn giản, các biểu hiện hiện lí đơn giản, những phương thuốc kinh nghiệm chọn lọc trong các sách và những phương thuốc truyền miệng có tác dụng chữa chứng bệnh. "NDTH" đã được Viện Nghiên cứu Đông y dịch và Nhà xuất bản Y học xuất bản lần đầu năm 1960.

NANG. tổ chức bình thường hay là sản phẩm bệnh lý, hình hơi tròn, có ranh giớI khá rõ, có thể có một thành xơ hoặc không có thành; chứa nước, chất nhày, chất bã hoặc là một tổ chức đặc

1/ N lympho: những cấu trúc tròn, gồm một tâm điểm sáng tế bào lympho non (nguyên bào lympho) và một vùng ngoạI vi tốI, có những tế bào lympho trưởng thành loạI B.

2/ N trứng: cấu trúc của buồng trứng, chứa một trứng (noãn) ở nhiều tuổI khác nhau cùng vớI những tế bào vệ tinh vây quanh (tế bào nang). N đặc khi còn non. N chứa nước khi trưởng thành. Ở phụ nữ trưởng thành, mỗI tháng có một N trứng chín, phóng noãn ra ngoài và được loa vòi bắt giữ cho sự thụ tinh.

3/ U nang (kyste), một cấu trúc bệnh lý, thường rỗng, chứa nước hay không; hình tròn hay bầu dục, mặt trong có liên bào phủ (u nang thật) hoặc không (u nang giả).

4/ U nang buồng trứng: u phát triển từ buồng trứng có chứa một dịch lỏng (có thể chứa chất đặc, thành phần của da là u nang bì hoặc chất nhầy sánh khi là u nang nhầy hay chất nước khi là u nang nước). Hình tròn hay bầu dục, kích thước có thể rất lớn, có một ngăn hay nhiều ngăn nhỏ cao quá rốn và đẩy các nộI tạng bụng ra xung quanh. Cách chữa: cắt bỏ u nang sau khi được chẩn đoán để tránh nguy cơ ung thư hoá. Mổ sớm cho kết quả tốt, thủ thuật đơn giản.

NANG GIÁP. X. Bào noãn

NANG HOẢ. trạng thái một tổn thương hay dị vật được bọc trong một lớp mô liên kết khít đặc và được cách li khỏi mô xung quanh. Thường xuất hiện khi một dị vật đưa từ ngoài vào bị vùi trong cơ thể (vd. mảnh đạn bị vùi trong cơ, vv) hoặc phát sinh ngay trong cơ thể như ấu trùng sán lợn (kén ấu trùng), NH là một hình thức chống đỡ của cơ thể.

NANG LÔNG. Túi hình ống do đầu trong phình ra thành hình tròn, giữa là một nhú mô liên kết non do các tế bào biểu bì ăn sâu vào lớp bì và bao quanh chân lông. Ở đáy có các tế bào sinh lông. Xung quanh nang có các cơ để làm dựng lông và tăng sự cách nhiệt. Các mút thần kinh dính vào nang nhạy cảm với mọi sự va chạm. Tuyến bã tiết chất nhờn đổ vào NL.

NANG RĂNG. U lành tính trong xương hàm có liên quan tới răng, gồm một túi chứa dịch hoặc chất sụn, chất nhày. Có nang thân răng phát triển từ một răng ngầm (thường là răng nanh hoặc răng khôn); nang chân răng bám ở chóp răng do nhiễm khuẩn mạn tính tuỷ răng. NR có thể phá huỷ xương hàm, làm cho xương hàm sưng to, đau và hơi thở hôi kéo dài, vv. Chụp xquang giúp cho chẩn đoán. Cần phải điều trị tại cơ sở y tế chuyên khoa.

NANG TRỨNG x. Bao noãn

NÃO. phần phình rộng nhất của hệ thần kinh, nằm ở đầu trước cơ thể cùng các giác quan chính và là trung tâm điều hoà thần kinh động vật. N người có hai bán cầu N gấp nếp chiếm phần lớn bề mặt N. Lớp ngoài là vỏ N, trung tâm tổng hợp của toàn bộ hệ thần kinh và liên quan đến trí nhớ, học tập. Tiểu N nằm ở dưới hai bán cầu N phía sau của N. Vỏ N điều khiển hoạt động cơ. Cùng dưới đồi nằm sâu trung N điều khiển các chức năng trao đổi chất và hoạt động tuyến yên. N có bốn khoang rỗng là các N thất chứa đầy dịch N. Phía ngoài có ba màng N bảo vệ. Ở cá và chim, các trung tâm vận động và cảm giác chính nằm trong vùng sâu và mở rộng của bán cầu N gọi là thể vân, quyết định tính trội của tập tính bẩm sinh của chim (x. Tiểu nào; Vùng dưới đồi; Hành tuỷ; Não thất)

NÃO GIỮA. một trong ba phần chính của não, nối não trước với não sau. Có một khoang hẹp ở giữa gọi là ống não. NG là trung tâm chi phối của não cá, lưỡng cư và có thể có một thuỳ thị giác, đặc biệt đôi thùy gỗ cao và phát triển ở chim. NG ở động vật có vú kém phát triển hơn (xt. Não trước; Não sau).

NÃO SAU. Vùng nằm sau cùng của não, gồm hành tuỷ, cầu não và tiểu não (xt. Não trước, Não giữa).

NÃO THẤT. khoang não chứa đầy dịch, phia chia ra NT I và II nằm trong các bán cầu não và thông với NT III qua một lỗ nhỏ nằm ở đường giữa. NT III nối với NT IV của não sau qua một rãnh não hẹp của não trung gian, còn NT IV thông với trung tâm của tuỷ sống. Ở hai vùng có màng mỏng là các đám rối màng mạch để dịch não tuỷ được lọc từ máu và đi vào các não thất (x. Đám rối màng mạch).

NÃO TRƯỚC. phần nằm ở phía trước trong ba phần cơ bản về giải phẫu học của não, gồm hai bán cầu não, đồi thị và vùng dưới đồi (x. Não sau; Não giữa).

NẠO THAI. thủ thuật lấy bào thai ra khỏi tử cung của những thai phụ không muốn có con (vd. thực hiện kế hoạch hoá gia đình) hoặc không nên có con vì có hại cho sức khỏe và nguy hiểm cho tính mạng của người mẹ (vd. bệnh tim nặng, vv). Tiêu chuẩn để thực hiện NT an toàn: thai không quá 12 tuần tuổi tính từ ngày đầu của kì kinh cuối. Có thể hút thai nhỏ hơn (chậm kinh không quá 14 ngày).

NẠO V.A (cg. nạo sùi vòm họng), thủ thuật nạo bỏ V.A, có thể được tiến hành riêng rẽ ở trẻ nhỏ hoặc đồng thời với cắt amiđan (còn gọi là hạch hạnh nhân) ở trẻ lớn và được chỉ định khi có V.A quá phát (x V.A).

NẰM BẾP. thời kỳ kiêng khem của người phụ nữ vừa mới sinh con ở nông thôn Việt Nam trước kia. Khi sản phụ đẻ, người ta nhóm một bếp lửa đặt trong buồng, cạnh giường sản phụ, vừa để độ ấm, vừa có ảnh lửa để xua đuổi xú khí , tà ma có thể làm hạI đến cơ thể còn yếu của đứa trẻ và ngườI mẹ. Từ đó mớI có từ "NB". Thường khi NB, sản phụ phảI ăn kiêng và đựơc chăm sóc chu đáo. NgườI lạ không được vào buồng của sản phụ vì sợ những vía nặng, vía dữ ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ con sản phụ.

NẮN CHỈNH. đặt trở lạI vị trí cũ một đoạn chi bị dịch chuyển khỏI vị trí bình thường (trong trường hợp gãy xương sai khớp) hoặc đặt một cơ quan trong cở thể trở lạI vị trí tự nhiên ban đầu (thận di động, lách di động, các loại thoát vị, các loại xoắn phủ tạng như ruột, tinh hoàn).

NẮN GẪY XƯƠNG. Thao tác dùng trong ngoại khoa và phục hồi chức năng để điều trị gãy xương ở chi, hoặc gãy vỡ các xương khác do tai nạn (không phải do tình trạng bệnh lý, nhằm đặt lại hai đầu xương của chỗ gãy trở lại vị trí bình thường ban đầu, để chỗ gãy liền đúng và phục hồi chức năng. Hai đầu chỗ gãy thường rời nhau, di lệch do gân cơ co kéo, gây đau, biến dạng, mất chức năng và có thể gây biến chứng tổn thương mạch máu, thần kinh do chèn ép. Hai đầu chỗ gãy nếu liền không đúng, sẽ thành can lệch, khớp giả, ảnh hưởng tới chức năng vận động của xương và chi. Để loại trừ các tác hại trên, đảm bảo phục hồi hình thái của xương, khi gãy cần nắn chỉnh hình sớm, sau khi đã kiểm tra kiểu thế di lệch. Sau khi nắn chỉnh phải cố định bằng bột, bất động một thời gian để xương liền, cần tập luyện trong và sau khi bó bột. Nếu các xương nhỏ, chỗ gãy không có di lệch, có thể dùng nẹp, bó với các loại thuốc y học cổ truyền, tránh teo cơ và có thể vận động các khớp trên và dướI chỗ gãy.

NẤC. co thắt đột ngột ở cơ hoành gây giật thành bụng và lồng ngực, co thắt thanh môn và rung giật các dây thanh, làm phát ra một tiếng động trầm. N phản ánh dây thần kinh hoành bi kích thích tự phát (N chỉ thoáng qua) hay thứ phát sau một bệnh thực thể (nếu N kéo dài). Bệnh thực thể này thường ở xung quanh cơ hoành, cũng có trường hợp N do một phản xạ xảy ra ở một bệnh có một yếu tố tinh thuần khác thường (trong bệnh viêm não dịch tễ hay viêm não ngủ lịm). Không cần chữa N thoáng qua hay chỉ cần uống một hơi cốc nước lạnh. Đối với N kéo dài và liên tục (N cụt), cần đi khám bệnh. Y học cổ truyền gọi N là ách nghịch. Chia thành N do hàn, do nhiệt, do khí uất, do thực tích ở vị, do bệnh hư lâu ngày. Cơ chế gây N là vị khí nghịch lên. Cách chữa: có thể dùng tai hồng sấy vàng, tán nhỏ uống với rượu cho các dạng N; châm cứu huyệt Cách du, Khí xá, Cụ khuyết, Nội quan, Túc tam lý, Thái xung, day ấn huyệt Nội quan, Chương môn, Cách du, bờ dưới xương sườn số 10.

NẤC CỤT x. nấc

NẤM DA. Danh từ chỉ những bệnh da ở người do các loài nấm khác nhau gây nên. Bệnh lây truyền từ người bệnh sang người lành, có thể từ súc vật sang người. Tuỳ theo sợi nấm nhiễm vào lớp nào của da, có bệnh ND ở lớp sừng (lang ben), ND ở biểu bì (nấm kẽ, hắc lào), nấm sâu (Actinomyces). Phát hiện bằng cách soi tươi nấm, cấy nấm. Thuốc trị nấm phổ biến: chữa lang ben bằng cách sáng bôi dung dịch cồn iốt - salixilic, tối bôi mỡ axit salixilic 3%, bôi liền một tháng hoặc bôi dung dịch natri hiposunfit 5%, chờ khô bôi tiếp dung dịch thứ hai có axit tactric 3%; với nấm kẽ chân có vảy, dùng dung dịch iot và natri iodua 2%, glixerin 20ml, hoặc dung dịch axit axetic 20 - 40%, bôi liền trong một tuần. Phòng bệnh: không dùng chung quần áo, chăn chiếu, tất, giầy dép; nấu quần áo, sát khuẩn giầy dép bằng dung dịch formalin 10%. Cần tiến hành các biện pháp phòng bệnh ở nhà tắm, bể bơi công cộng; thường xuyên khám phát hiện bệnh da, không cho người có bệnh sử dụng chung các công trình này; sát khuẩn các giát gỗ; chống đọng nước bẩn.

NẤM DA GÂY BỆNH. những loài nấm kỹ sinh ở thực vật, động vật. Hiện có biết 80 nghìn loài. Theo cách sử dụng chất hữu cơ làm thức ăn, nấm được chia thành hai nhó: nấm kí sinh ăn chất hữu cơ trên các cơ thể đã chết. Gĩưa hai nhóm, có nhiều dạng trung gian, được gọi là bán hoại sinh hay bán kí sinh. Nấm gây nhiều loạI bệnh cho cây: có những bệnh nguy hiểm như đạo ôn hại lúa; mốc sương cà chua, khoai tây; sưng rễ bắp cải, chết rạp thuốc lá: thán thư đay và nhiều bệnh cây rừng. Ba nguồn xuất phát của NGB cây: hạt giống, đất, tàn dư thực vật và các loại cây đang sống trên đồng ruộng. Từ những nguồn ban đầu này, nấm nhờ gió, nước, sâu bọ, con người, các loài động vật, các công cụ lao động, máy móc mang đi, lan truyền từ cây này sang cây khác. NGB vật nuôi là các loài nấm kí sinh và gây bệnh ở vật nuôi, thuộc 3 lớp: Oomycetes, Ascomyceles và Hyphomycetes.

NẤM GÂY U. bệnh nấm ở bò, do Actinomyces bovis (thụôc bộ Nấm bông Hyphomycetales) gây ra. Triệu chứng thường thấy nhất ở hàm và lưỡi. Khi bệnh ở hàm, những u rất to có thể làm bò không nhai được, răng bị rụng, con vật chết vì đói. U có lỗ rò và chứa mủ lổn nhổn. Bệnh khó chữa, con vật thường chết. Nguyên nhân là do bò ăn thức ăn cứng nhọn, làm bị thương niêm mạc miệng, nấm mốc ở rơm, cỏ khô (phơi không kĩ) xâm nhập qua vết thương vào hàm và lưỡi. Bệnh không lây nên phòng bệnh chủ yếu là loạI bỏ thức ăn cứng, nhọn, ẩm mốc.

NẤM LINH CHI. (tk. vạn niên nhung, chi linh, mộc linh chi, hổ nhũ linh chi, bất lão thảo, thần tiên thảo, đoạn thảo, nấm lim...), nhóm nấm quý họ Linh chi (ganodermataceae), sống trên cây, trên gỗ hay rễ cây mục. NLC phiên âm theo tiếng Trung Quốc là lingzhi, theo tiếng Nhật là reishi. Cho tới nay đã có 386 tên loài được ghi nhận trên toàn thế giới thuộc họ Linh chi, trong đó 221 loài được các nhà khoa học công nhận, hơn 200 loài còn lại là các loài đồng nghĩa (synonym), các loài được sắp xếp nhầm vào họ Linh chi và gần 10 loài chưa định loạI được. Các loài trên được sắp xếp vào các chi sau: Linh chi bóng (Gamoderma) vớI 166 tên (48 có thể là synonym). Hắc chỉ bào tử hình cầu (Amauroderma) với 96 tên (41 có thể là synoym). Linh chi bào tử có rãnh dọc (Haddowia) với 5 loài (2 loài có thể là synonym) và các chi Linh chi bao tử mạng lướI (Humphreya) vớI 10 loài (3 loài có thể là synonym). Linh chi hảI miên (Tomophagus) vớI 2 loài thể là synonym). Linh chi hải miên với 2 loài (1 loài có thể là synonym), Linh chi không bóng vớI 51 loài (21 loài có thể là synonym) có khi còn được một số tác giả gộp chung và chi Linh chi bóng.

Đặc trưng cơ bản của NLC là có hệ sợi nấm ban đầu màu trắng, mọc ký sinh hay hoạI sinh trong cây, trong gỗ hay trên đất giầu mùn gỗ, khi gặp điều kiện thuận lợi hình thành nên quả thể nấm chất bản đến chất gỗ, có khi hoá sừng rất cứng. Chúng có thể có cuống hay không có cuống với phần thịt nấm ở trên và ống nấm ở phía dưới. NLC có bào tử đặc trưng gồm hai lớp (hình cầu đến hình trứng cụt đầu, đôi khi có các gờ trang trí theo chiều dọc hay mạng lưới đặc trưng cho từng chi). Nhóm NLC bao gồm các loài sống một năm (đơn niên) và các loài sống nhiều năm (đa niên được gọi là cổ NLC). Phân bố trên toàn thế giới nhưng phong phú và đa dạng nhất là ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.

Nhóm NLC bao gồm các loài sống kí sinh trên cây gây mục ruỗng, trên cây chết hoặc đã chặt hạ, trên rễ cây mục hoặc đất có mùn gỗ mục và thường là các loài có hệ enzim mạnh, phân huỷ gỗ cây nên mục trắng gỗ, gây hại cây rừng cũng như cây công nghiệp, cây ăn quả. Tuy nhiên, từ trước Công nguyên, NLC đã được coi là vị thuốc quý, được nhân dân Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam... sử dụng và được coi là thượng dược, có khi còn hơn cả nhân sâm. Gần đây, các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu các chất có hoạt tính sinh học của NLC, trong đó đáng kể nhất là một số polisacarit, ganodemic axit...). Các trường hợp chất trên có tác dụng kháng khuẩn, giảm cholesterol trong máu, giữ vững và tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, chống oxi hoá... Vì vậy chúng có khả năng phòng chống nhiều bệnh hiểm nghèo thuộc hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ tiêu hoá, hệ bài tiết, ung thư... cũng như tăng tuổI thọ và nâng cao trí nhớ.

Ở Việt Nam đã định tên được hơn 40 loài NLC và còn hàng chục loài khác mớI chỉ định tên được đến chi. Khu hệ NLC của Việt Nam rất đa dạng về thành phần loài và dạng sống (có loài đường kính lớn tớI 110 cm), nhiều loài rất quý hiếm có giá trị dược liệu cao cần được nghiên cứu, bảo tồn nguồn gen và sử dụng hợp lý để giữ gìn và nâng cao sức khỏe của nhân dân, xử lí môi trường và giữ cân bằng cho hệ sinh thái bền vững của đất nước.

NẤM MÓNG. (Onychomycosis), bệnh nhấm gây thương tổn ở móng tay, móng chân (có thể một, hai hoặc tất cả các móng). Do phải đi lại và dễ bị chấn thương nên móng chân bị NM nhiều hơn móng tay. Biểu hiện: mố đầu ở bờ tự do hoặc bờ bên của móng có các đốm trắng mờ đục, sau móng trở nên dễ gẫy, mủn ra, lòng móng bị thương tổn, toàn bộ móng bị biến dạng, đổi mầu vàng hoặc nâu sẫm; cạo móng làm xét nghiệm có thể tìm được nấm gây bệnh. Bệnh tiến triển dai dẳng. Điều trị lâu dài bằng các loại thuốc diệt nấm, kết hợp với bóc móng trong các trường hợp cần thiết.

NẤM NHẦY. 1/ Myxomycophyta, ngành sinh vật đơn giản mang tính chất của cả động vật và thực vật. Cơ thể có nhiều nhân, không có vách tế bào, chuyển vận theo kiểu amip tiêu hoá thức ăn, do đó có một số được ghép vào động vật nguyên sinh như Mycelozoa. Một số chỉ có vách tế bào bằng xenlulozơ được hình thành bên trong các túi bào tử là đặc tính của thực vật. Có khoảng 500 loài. Gồm có 4 lớp: Acrasiales, Labyrinthulales, Mycomycetes, Plasmodiophorales.

2/ Myxomycetes, lớp lớn nhất trong ngành NN. Thể sinh dưỡng của nấm lưỡng bội và có dạng một khối sinh chất nhiều nhân (thể hợp bào) tiêu hoá thức ăn. Sinh sản bằng các bào tử có roi, được hình thành bên trong các túi bào tử. NN phát triển trên gỗ mục, lá mục trong rừng ẩm ướt. Phần lớn NN hoại sinh, một số gây hại cây trồng.

NẤM PHỔI. thuật ngữ chung chỉ những bệnh phổi ở người, động vật do các loài nấm (Candida, Geotrichum, Aspergillus, Nocardia, Actinomyces, Penicillium, vv) gây ra

1. Ở ngườI, nấm có thể xâm nhập vào phổI do hít vào hoặc từ một tổn thương ở gần (thường là từ mũi, họng, mắt, miệng vv) lan tới. Không có triệu chứng lâm sàng. Xquang đặc hiệu thường dễ bị nhầm vớI các bệnh phổi - phế quản mạn tính như lao, ung thư, viêm phế quản mạn, dãn phế quản, xơ phổI thâm nhiễm mau bay. Việc chẩn đoán căn cứ chủ yếu vào kiểm tra đờm (qua soi trực tiếp hoặc nuôi cấy, tiêm truyền vào súc vật), phản ứng ngoài da. VớI các kỹ thuật miễn dịch học, có thể phát hiện kháng thể đặc hiệu và việc chẩn đoán trở nên đơn giản và chính xác hơn. NP ít chịu tác dụng của kháng sinh; trong điều trị, thường dùng amphotericin B.

2. Ở động vật, NP do Aspergillus fumigatus gây ra ở chim, ngựa, bò... vì con vật hít phảI bào tử nấm trong rơm, cỏ mốc. Bệnh còn thấy ở gà, vịt con mớI nở do dụng cụ ấp có nấm. Triệu chứng : ho, chảy nước mũi, khó thở, gầy dần; xuất hiện các hang trong phổI do các sợI nấm ký sinh. Bệnh khó chữa.

NẤM TÓC. nấm gây bệnh rụng tóc lây lan. Thường gặp ở trẻ em. Có 2 loạI NT: NT do nấm Trichophyton vớI các bào tử nấm nằm thành chuỗI trong sợI tóc, trên da đầu có nhiều mảng nhỏ, tròn hay bầu dục, mầu hồng, tóc gãy cách da đầu 1 - 3cm: NT do nấm Microsporum vớI các bào tử nhỏ nằm lộn xộn ở ngoài và trong sợI tóc, trên da đầu có những mảng lớn, xám nhạt, số lượng thương tổn ít, tóc gãy cách da đầu 5 - 8cm; quanh chân tóc có bào tử nấm trắng như bột. Điều trị: dùng griseofulvin với liều 20mg cho 1 kg thể trọng: trong thời gian điều trị, cắt tóc mỗi tuần một lần; buổi sáng bôi cồn iot, buổi chiều bôi mỡ lưu huỳnh 3% và hắc ín 3%; dùng thuốc liên tục cho tới khi xét nghiệm 2 lần (cách nhau 1 tuần) cho kết quả âm tính. Phòng bệnh: tổ chức khám bệnh định kỳ vào lúc khai trường ở vườn trẻ, lớp mẫu giáo, trường học để kịp thờI cách li và điều trị trẻ em mắc bệnh; không dùng chung lược, để lẫn mũ, khăn quàng.

NGẤT. tình trạng mất tri giác đột ngột, hoàn toàn trong một thời gian ngắn, kèm theo ngừng tim tạm thời, mất mạch, mất huyết áp, sắc mặt tái nhợt, chân tay lạnh toát. Nguyên nhân: phản ứng thần kinh do một cảm xúc mạnh; sau một bữa ăn quá nhiều (bệnh nhân thấy khó chịu, nôn, vã mồ hôi và N); thay đổi tư thế đột ngột ngồi phắt dậy); bệnh tim, loạn nhịp tim, vv. N kéo dài quá 5 phút sẽ ảnh hưỡng đến việc cung cấp oxi cho não và sự hồi phục của não. Cần cấp cứu tức thời; cho bệnh nhân nằm ngửa (nằm nghiêng nếu có nôn mửa), hà hơi thổi ngạt (làm hô hấp nhân tạo), xoa bóp tim ngoài lồng ngực (chú ý tránh làm gẫy xương sườn), vv. Chuyển bệnh nhân về cơ sở y tế sau khi bệnh nhân hồi tỉnh, tim đập trở lại.

NGHE BỆNH. một phương pháp khám bệnh lâm sàng trong y học: thầy thuốc dùng tai nghe hoặc dùng ống nghe áp vào vùng định khám để đánh giá tình trạng (bình thường hay bệnh lý) của cơ quan hay bộ phận cơ thể đó. Vd. Nghe tiếng thở của phổi, tiếng tim đập, tiếng tim thai, tiếng óc ách trong ổ bụng, tiếng hơi chuyển động trong ống tiêu hoá.

NGHẼN MẠCH. Tình trạng mạch máu bị tắc làm cho máu không lưu thông được. Các tác nhân có thể gây: NML: một cục máu đông từ xa theo dòng chảy tới (NM huyết khối); một bọt khí (không khí) lọt vào mạch máu (NM khí); một giọt dầu hoặc mỡ (NM mỡ). NM huyết khốI thường gặp trong các bệnh tim mạch mạn tính, đặc biệt là bệnh hẹp van hai lá, suy tim, xơ vữa động mạch. NM khí xảy ra trong các vết thương tĩnh mạch lớn như tĩnh mạch cảnh, tĩnh mạch dưới đòn hoặc do sơ xuất khi tiêm truyền để không khí lọt vào bộ tiêm truyền. NM mỡ xảy ra trong các trường hợp gãy xương lớn hoặc tiêm nhầm thuốc có đầu vào mạch máu. Vị trí bị ngọng, đau ngực. Đặc biệt, NM khí ở động mạch phổi dễ gây sốc và tử vong đột ngột. Điều trị cấp cứu bằng phẫu thuật. Trong các bệnh tim mạch, phải điều trị theo căn nguyên: có thể dùng thuốc chống đông máu khi có nhiều nguy cơ gây NM và điều kiện cho phép.

NGHÈO DINH DƯỠNG. Tình trạng ao hồ thiếu chất dinh dưỡng cần thiết cho sinh vật sống ở đó dẫn đến năng suất sinh học bị giảm sút (xt. Giàu dinh dưỡng).

NGHẸT QUY ĐẦU. quy đầu bị thắt nghẹt do bao quy đầu hẹp, bị kéo trật về phía sau của vành quy đầu, không lộn trở lại được để che quy đầu. Cần phải mổ cắt vòng thắt nghẹt ngay.

NGOẠI ĐỘC TỐ. những độc tố được vi sinh vật tiết ra bên ngoài tế bào (khác với nội độc tố là những độc tố nằm bên trong tế bào vi sinh vật, chỉ được giải phóng ra bên ngoài khi tế bào vi sinh vật bị phá huỷ). Về bản chất, NĐT là các protein có phân tử khối cao, có thể gây tử vong với liều lượng rất nhỏ, dễ bị nhiệt phá huỷ. Vd. NĐT bạch hầu, NĐT uốn ván, vv.

NGOẠI HÌNH GIỚI TÍNH. đặc điểm của động vật để thu hút cá thể khác giới tìm đến ghép đôi. Có thể ổn định cho từng giới tính hoặc chỉ xuất hiện khi đến tuổi trưởng thành thực sinh dục hoặc chỉ xuất hiện trong mùa sinh sản. Vd. Màu sắc lông, tiếng hót ở chim, chòm râu ở cá thể đực, bưới ở bò đực, vv.

NGOẠI KHOA. 1. chuyên khoa y học chuyên về các bệnh chữa bằng phẫu thuật (mổ) và bằng các thủ thuật, các biện pháp kĩ thuật NK như băng, nắn chỉnh, bó ép, chọc tháo, dẫn lưu, vv. NK còn đồng nghĩa với phẫu thuật, NK được phân chia theo nhiều cách: dựa vào nhóm tạng, cơ quan bị bệnh, bị thương phân chia thành NK chung, NK bụng, NK lồng ngực, NK tiết niệu, NK thần kinh, NK phụ sản, vv; dựa vào tác nhân gây thương tổn chia thành: NK chấn thương, NK bệnh lý, NK chiến tranh; dựa vào mục đích cứu chữa chia thành NK cấp cứu, NK thẩm mĩ, NK tạo hình, NK sửa chữa, NK bảo tồn, vv.

2. Môn học trong y học cổ truyền chuyên chữa bệnh ngoài da bằng các phương pháp uống thuốc, đắp thuốc, dán cao, chích tháo, rửa, xông, thậm chí cắt bỏ tổ chức chết. Bệnh ở ngoài da thường qua 3 giai đoạn: giai đoạn đầu - độc tà kết tụ với cách chữa phải làm tiêu hoá kết tụ đó; giai đoạn giữa - độc tà hoá thành mủ, nếu vỡ mủ thì độc tố bị thải ra ngoài (cách chữa phải "nội thác" làm cho mủ tống ra ngoài); giai đoạn cuối là sinh cơ hàn khẩu với cách chữa phảI bổ dưỡng để lành vết loét. Các bệnh NK mà Tuệ Tĩnh ghi chép trong "Nam dược thần hiệu" là vô danh thũng độc, mụn nhọt, đinh độc, phụ cốt thu, ung thư ruột, ban sẩn, nang ung, huyền ung tràng nhạc, anh lựu, ổ gà, lở, lở ống chân, lở giang mai, hột xoài, hạ cam, xích bạch điển, phong cùi, gãy xương, bị thương do đụng giập, do tên đạn, mũi nhọn, bỏng, thú dữ cắn, rắn, rết, sâu độc cắn, vv.

NGOẠI KHOA DÃ CHIẾN. chuyên ngành y học quân sự nghiên cứu biện pháp cứu chữa người bị thương và các phương pháp xử lý vết thương trong điều kiện dã ngoại. Hoạt động NKDC được tiến hành trong điều kiện làm việc không ổn định, trang thiết bị y tế hạn chế; các vết thương đa dạng, cần cấp cứu khẩn trương...

NGOẠI LAI (y; tk. ngoại sinh), sinh ra từ bên ngoài cơ thể (vd. Vi khuẩn, virut, kí sinh vật, bụi, chất độc, tia phóng xạ, dị nguyên) và tác động hoặc xâm nhập vào cơ thể qua nhiều đường (hô hấp, tiêu hoá, da, niêm mạc, vv). Vì tác nhân gây bệnh chủ yếu là NL nên đề phòng bệnh, y học phải phối hợp với toàn xã hội trong việc bảo vệ, làm trong sạch môi trường sống.

NGOẠI NHÂN GÂY BỆNH. những nguyên nhân bên ngoài gây bệnh cho cơ thể. Theo y học cổ truyền, ngoại nhân là lục khí (x. Lục khí), dịch lệ (cũng gọi là ngoại tà). Ngoại nhân gây được bệnh khi sức tấn công của ngoại tà vượt sức chống đỡ của cơ thể (chính khí), có thể biểu hiện là sự cân bằng giữa con người và thiên nhiên bị phá vỡ. Ngoại tà mạnh hơn chính khí trong các trường hợp: khí hậu trái thường (đang mưa lại khô hạn, đang lạnh lạI nóng và ngược lại); tà khí có sức tấn công lớn hơn như nóng gắt, gió rét đậm, quá ẩm thấp, dịch lệ lan tràn (chứng vừa làm suy yếu chính khí, vừa tấn công trực tiếp vào cơ thể); do mệt nhọc, ốm yếu, trác táng, bệnh tật, cáu giận, buồn rầu... làm chính khí suy yếu. Khi sức chống đỡ của cơ thể giảm sút, tuy sức tấn công của ngoại tà vẫn như cũ song nó vẫn đủ sức vượt qua để xâm nhập vào cơ thể. Ngoại tà được chia làm dương tà (phong, thử, táo, hoả, dịch lệ) và âm tà (hàn, thấp). Dương tà khi gây bệnh thường làm tổn thương phần âm (tân, âm dịch, huyết, kinh dương) và thể hiện bằng chứng âm, hàn. Nói chung bệnh ở phần dương là bệnh nhẹ, bệnh ở phần âm là bệnh nặng.

Khi sức chống đỡ của cơ thể (chính khí) phục hồI và mạnh dần, sức tấn công của ngoạI tà yếu dần thì ngoại tà sẽ bị đẩy ra ngoài theo đường mồ hôi, đạI tiện, tiểu tiện... tuỳ theo vị trí bị bệnh. Nếu sức chống đỡ suy kiệt và sức tấn công của ngoạI tà vẫn mạnh thì ngườI bệnh sẽ chết.

NGOẠI TÂM THU. Co bóp tim đến sớm, có thể xuất hiện mau hay thưa và làm cho nhịp tim và mạch trở nên thất thường (loạn nhịp). NTT không phát sinh từ nút xoang như bình thường, mà có thể phát sinh từ tâm nhĩ, tâm thất hoặc bộ nối. NgườI bệnh có cảm giác tim đập mạnh hoặc hẫng trong lồng ngực. Nguyên nhân: bệnh ở tim (NTT báo hiệu bệnh đang diễn biến); vữa xơ động mạch (ở ngườI cao tuổI); ngộ độc thuốc digital. NTT gặp ở người trẻ tuổi không có bệnh tim, thường do trạng thái dễ cảm xúc; lạm dụng các chất kích thích (rượu, cà phê, thuốc lá); nói chung lành tính, khỏi sau vài ngày.

NGÓN. một bộ phận của chi, điển hình ở động vật bốn chi có năm N. MỗI N gồm một số xương nhỏ (đốt N). Các nhóm động vật khác nhau có sự tiêu giảm hay biến đổI so với trường hợp điển hình. Ở một số loài, có thêm móng hoặc guốc ở đầu N (xt. Chi năm ngón; Ngón chân cái; Ngón tay cái).

NGÓN CHÂN (Artiodactyla), bộ động vật có vú, gồm các loại có ngón guốc chân. Trọng lượng cơ thể chỉ dần vào ngón chân thứ ba và bốn, hai ngón ngày phát triển bằng nhau. Ngón thứ hai và thứ năm nhỏ, không có ngón thứ nhất. Các thú NC lớn ăn cỏ là trâu, bò, cừu, dê, nai, sơn dương, lạc đà, hươu cao cổ. Việt Nam có 12 loài thú NC quý được ghi vào "Sách đỏ". Xt. Ngón lẻ.

NGÓN CHÂN CÁI. Ngón thứ nhất của chân sau ở động vật bốn chi. Trên bàn chân năm ngón điển hình. NCC có hai đốt, song ở một số động vật có vú hoặc tiêu giảm và biến đổI, vd. thỏ không có NCC. Ở đa số loài chim, ngón này hướng thẳng về phía sau để thích ứng với việc đậu trên cành cây.

NGÓN LẺ (Perissodactyla), bộ động vật có vú gồm các loài có ngón guốc lẻ như ngựa (một ngón), tê giác (3 ngón). Ngón giữa đỡ toàn bộ trọng lượng cơ thể. Ngón chân được bọc trong tấm sừng cuốn thành ống để bảo vệ. Môi thích nghi với việc nhổ cỏ, răng cửa rất khỏe để gậm, răng hàm và răng trước hàm thích nghi để nhai. Dạ dày đơn giản. Sự tiêu hoá xenlulơzơ diễn ra trong ruột thừa nhờ vi khuẩn cộng sinh. Ở Việt Nam có loài heo vòi (Tapirus indicus), tê giác hai sừng (Dicerorhinus sumartrensis) và tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) được ghi vào "Sách đỏ". Xt. Ngón chẵn.

NGÓN TAY CÁI. Ngón thứ nhất chi trước ở động vật bốn chi. Trên bàn tay năm ngón điển hình, NTC có 2 đốt, song cũng có nhiều biến đổI ở động vật có vú, thậm chí tiêu giảm hoàn toàn. Ở ngườI và vựon ngườI, NTC nằm đốI diện vớI các ngón khác và nhờ đó có thể cầm nắm được dễ dàng.

NGÓN TAY DÙI TRỐNG. biến dạng của các ngón tay: đốt cuối ngón tay bè to, móng tay cong vòng, úp xuống, hình mỏ vẹt, khiến ngón tay trông như một cái dùi trống. Gặp chủ yếu trong những bệnh nung mủ phổi kéo dài, dãn phế quản, apxe, lao mạn tính, ung thư phế quản - phổi và trong cả một số bệnh tim mạch, bệnh do amip, bệnh do polip ruột.

NGỌNG. 1/ hiện tượng rối loạn phát âm, xét về mặt ngôn ngữ học bệnh lý, cũng thuộc chứng thất ngôn mà nguyên nhân là sự tổn thương của hệ thống thần kinh trung ương hoặc các khuyết tật của bộ vị cấu âm. Hiện tượng không phát âm được các âm đầu của âm. Hiện tượng không phát âm được các âm đầu của âm tiết tiếng Việt, không phát âm được các âm mũi hay ngược lại chỉ phát âm được âm mũi và mũi hoá, hoặc không phân biệt được âm mũi và mũi hoá, hoặc không phân biệt được hai phụ âm n/l do bệnh lí đều bị coi là N.

2/ Theo quan niệm thông thường, một hiện tượng phát âm chệch chuẩn chung, mà nguyên nhân chủ yếu là do cách phát âm địa phương ở một vài nơi thuộc phương ngữ Bắc Bộ.

Xét về mặt hệ thống, đó là những chuẩn mực ngữ âm địa phương, nhưng không phù hợp với chuẩn mực ngữ âm chung của tiếng Việt. Đó là hiện tượng N mang tính chất ngôn ngữ học xã hội.

NGỘ ĐỘC. (tk. Trúng độc) 1. Trong y học, NĐ là hiện tượng rối loạn hoạt động sinh lý của cơ thể do tác dụng của chất độc; là một nhiễm độc bất ngờ (xt. Nhiễm độc) xảy ra ngoài ý muốn của nạn nhân, coi như một tai nạn, một biến cố. Thường gặp NĐ do nghề nghiệp (vd. NĐ chì), do môi trường bị ô nhiễm, nọc độc của động vật cắn, dùng thuốc quá liều quy định (NĐ do nghề nghiệp (vd. NĐ chì), do môi trường bị ô nhiễm, nọc độc của động vật cắn, dùng thuốc quá liều quy định (NĐ thuốc ngủ, opi), thức ăn độc hoặc nhiễm khuẩn (NĐ nấm, sắn...), cố tình tự sát hoặc bị đầu độc. Tình trạng NĐ nặng, nhẹ tuỳ thuộc vào bản chất của chất độc. Hoà tan phân tán trong cơ thể, liều lượng bị nhiễm, tình trạng sứ ckhỏe bệnh nhân. Các hiện tượng rốI loạn sinh lý thường biểu hiện ở hệ thần kinh, hệ tim mạch, hệ máu, hệ tiêu hoá, hệ hô hấp. Cấp cứu khi NĐ: cần loạI chất độc khỏI cơ thể càng nhanh càng tốt, phá huỷ và trung hoà chất độc, điều trị các rốI loạn sinh lý, nâng cao sức khỏe đề kháng của cơ thể. Kiểm nghiệm chất độc là công tác quan trọng, khẩn trương giúp việc điều trị xử lý khi NĐ. Xt. Ngộ độc thức ăn; Ngộ độc thuốc.

2/ Trong thú y, NĐ là hậu quả của việc đưa một chất độc vào cơ thể vật nuôi hoặc trực tiếp, hoặc qua thức ăn. Vật nuôi có thể bị NĐ do nhiều nguyên nhân: ăn phảI cây cỏ độc ngoài bãi chăn (rau quyết, cỏ tháp bút đầm lầy, cỏ gà nước...), dùng thuốc quá liều, dùng thức ăn không đúng (NĐ muốI, NĐ vì thức ăn mốc...). Triệu chứng NĐ thường là viêm dạ dày, viêm ruột , rốI loạn thần kinh, vv. Cách chữa: làm cho cơ thể vật nuôi ngừng hấp thụ chất độc, thảI chất độc ra ngoài, dùng thuốc giảI độc đặc hiệu cho từng loạI chất độc.

NGỘ ĐỘC BOTULIN (L. botulus), bệnh do độc tố của trực khuẩn Clostridium botulinum tiết ra trong thực phẩm gây ra. Độc tố này có tác động chọn lọc vớI hệ thần kinh trung ương: các triệu chứng thường xuất hiện nhanh chóng trong vòng 12 - 36 giờ sau khi ăn phải thực phẩm nhiễm độc, gây liệt dây thần kinh và tử vong do liệt hô hấp. Trực khuẩn C botulinum phát triển trong thực phẩm bảo quản không đúng cách, nhất là đồ hộp tiệt khuẩn không kỹ, cá ướp muối, xúc xích, giăm bông. Độc tố có phần nào không bền với nhiệt và sẽ bị tiêu huỷ khi nấu. Nguồn thực phẩm bị nhiễm độc có thể gây ngộ độc cho nhiều người.

NGỘ ĐỘC BRÔM. trạng thái bệnh lý do brom gây ra hơi brom vớI nồng độ thấp trong không khí gây kích ứng niêm mạc, làm chảy nước mắt, ho, chóng mặt, đau đầu, chảy máu mũi; với nồng độ cao gây viêm khí quản, có thể làm ngạt thở, gây tím tái và chết; brom lỏng dính vào da gây bỏng, loét. Khi có triệu chứng ngộ độc, lập tức phảI rửa mắt, mũi, súc miệng bằng dung dịch natri hidrocacbonat loãng 1%, uống sữa nóng, cà phê nóng. Rửa chỗ bỏng trên da nhiều lần bằng nước, rồi bằng dung dịch natri hiđrocacbonat 2%. Khi làm việc với brom, phải tiến hành trong tủ húg, đeo kính và găng tay cao su (nồng độ giớI hạn cho phép của hơi brom trong khi khí là 0,002 mg/l không khí)

NGỘ ĐỘC THUỐC. tình trạng nhiễm độc bất ngờ trong sử dụng thuốc, nhất là trong hoàn cảnh tự dùng thuốc. NĐT có thể nặng hay nhẹ, xuất hiện sớm hay muộn, tiến triển nhanh, cấp tính (các thuốc độc bảng A) hay lâu dài, mạn tính có khi khó phát hiện (các thuốc độc gây nghiện thuộc bảng B). Xt. Ngộ độc; Nhiễm độc.

NGỘ ĐỘC THỨC ĂN. bệnh xuất hiện do ăn phảI thức ăn có chất độc (cây độc, nấm độc, độc tố của vi khuẩn, hợp chất hoá học...), các triệu chứng thường xuất hiện nhanh chóng trong vòng 12 - 36 giờ, biểu hiện bằng dấu hiệu nôn, ỉa chảy, có khi liệt dây thần kinh, tụt huyết áp (x. Ngộ độc). NĐTÂ thường gây bệnh hàng loạt cho nhiều người cùng ăn một nguồn thực phẩm tồn trữ không đúng cách như đồ hộp tiệt khuẩn không kỹ, cá ướp muối... có thời gian nung bệnh giống nhau.

NGỘ SÁT. lỡ làm chết người, không có chủ ý. NS xảy ra trong những tình huống như: cha mẹ, người lớn đánh trẻ con nhằm dạy bảo, không may trúng phải chỗ hiểm, đi săn bắn chim, thú lỡ bắn nhầm phải người; ném đá, bắn vào nơi tưởng là an toàn, song lại gây chết người. NS là tội vô ý làm chết người, được quy định tại điều 98 Bộ luật hình sự.

NGÔI THAI. phần thai nhi trình diện ở eo trên của khung chậu và sẽ lọt trước tiên vào con đường sinh dục của sản phụ, mà ngón tay người đỡ sẽ sờ thấy khi khám qua lỗ tử cung. Vd. nếu phần chỏm của đầu thai nhi lọt trước tiên thì ngón tay người đỡ sẽ sờ thấy xương chẩm hoặc thóp sau của đầu thai nhi qua lỗ tử cung đang mở (gọi là ngôi chỏm). Trong sản khoa, có thể gặp; ngôi chỏm; ngôi mông (sờ thấy hai mông thai nhi); ngôi trán, ngôi mặt.

NGÔN NGỮ. 1. Hệ thống tín hiệu quan trọng và độc đáo nhất trong giao tiếp của loài người; là phương tiện để biểu hiện và phát triển tư duy, bảo lưu và chuyển giao có hiệu lực nhất các truyền thống lịch sử - văn hoá của một dân tộc.

2. Vốn tri thức, tầm hiểu biết về tiếng mẹ đẻ và sự am hiểu văn hoá của một cá nhân thể hiện qua cách dùng NN trong đời sống hàng ngày và trong tác phẩm văn học. Vd. NN Nguyễn Du, NN Nguyễn Tuân, NN Hồ Chí Minh.

3. Phương tiện giao tiếp trong các cảnh hướng, môi trường không sử dụng được ngôn ngữ lời nói. Vd. Ngôn ngữ động vật, ngôn ngữ cử chỉ, ngôn ngữ máy tính, vv.

NGÔN NGỮ NGÓN TAY. Phương tiện giao tiếp của những người câm điếc bằng cách sử dụng các ngón tay. Mỗi một ngón tay đối với vị trí chung của cả bàn tay được ứng với một chữ cái trong hệ chữ viết thông thường. NNNT cũng được sử dụng trong việc dạy những người câm điếc.

NGỦ. trạng thái sinh lý bình thường, có tính chu kì để giảm phản ứng đối với các kích thích ở động vật có xương sống. Ở người, giấc N là tình trạng sinh lí đặc trưng bởi sự ngừng tạm thời chức năng thức tỉnh của não, gây nên bởi sự ức chế lan tỏa, xảy ra từng chu kì ở vỏ não và các trung tâm dưới vỏ. Sự ức chế này có tính chất bảo vệ, giúp cho các nơron cũng như nhiều cơ quan khác đựơc nghỉ ngơi, phục vụ sự cân bằng môi trường bên trong.. Khả năng thức tỉnh trở lạI là điều kiện để phân biệt giấc ngủ vớI hôn mê hoặc với thôi miên. Trong 24 giờ, nhu cầu N giảm dần theo tuổi: trẻ sơ sinh hầu như ngủ suốt ngày, trẻ còn bú N tới 18 giờ, người lớn từ 6 - 9 giờ, người già ngủ ít hơn và thức nhiều lần. Khi N, trương lực cơ giảm, thân nhiệt hạ, vv. Gíâc N còn là thời gian xảy ra các hoạt động tiềm thức (chiêm bao). Trung tâm chi phối sự thức tỉnh là thể lưới nằm trong nhân não. Khi thể lưới bị ức chế, trạng thái thức tỉnh giảm đi gây ra giấc N.

NGỦ ĐÔNG. trạng thái ngủ mà hệ số trao đổI chất giảm xuống tốI thiểu, cho phép các loài thú sống qua giai đoạn nhiệt độ thấp và khan hiếm thức ăn kéo dài. Lượng mỡ dự trữ cung cấp năng lượng đủ để cho cơ thể có thể hoạt động chậm chạp và duy trì nhiệt độ cơ thể có thể hoạt động chậm chạp và duy trì nhiệt độ cơ thể con vật cao hơn nhiệt độ môi trường. Một số loài dơi thì thức dậy và kiếm ăn trong những ngày nóng. Độ dài ngày và khan hiếm thức ăn kích thích cơ thể NĐ, nhưng ở động vật vùng ôn đớI và hàn đớI thì yếu tố kích thích là lạnh. NgườI ta đã phát hiện hocmon NĐ nhưng chưa tách chiết được. Khi NĐ kết thúc, nhiệt độ cơ thể lạI tăng lên nhanh chóng. Ở côn trùng, có hiện tượng tình dục tương tự như NĐ nhưng có trường hợp kéo dài hàng năm. Xt. Đình dục.

NGỦ GÀ. trạng thái ngủ không sâu, không thật thực, không thật ngủ.

NGỦ HÈ. trạng thái nghỉ của một số động vật kéo dài trong mùa hè hay mùa khô nóng. Vd. Cá phổi vùi mình trong bùn lầy để chống lại thời kỳ khô cạn của thuỷ vực.

NGỦ LỊM. trạng thái ngủ rất sâu và liên tục, rất khó tỉnh. Khi bị đánh thức, bệnh nhân nói nhưng không nhớ câu mình đã nói.

NGỦ RŨ. trạng thái bệnh lý muốn ngủ, có xu hướng không chống lại được giấc ngủ. Đến từng cơn đột thường phối hợp với cơn ngủ khuya, ngủ gục. Thường là hậu quả của u não, giang mai não, chấn thương sọ não, béo bệu, đái tháo đường, động kinh, vv

NGŨ QUAN. Năm giác quan của con người, bao gồm: tai (thính giác), mắt (thị giác), mũi (khíu giác), lưỡi (vị giác), da (xúc giác); giúp cho con người nhận biết về bên ngoài bằng cách nghe, nhìn, ngửi, nếm và sờ mó tiếp xúc. NQ cũng giúp người thầy thuốc lâm sàng tìm ra các dấu hiệu bệnh lý ở ngườI bệnh để chẩn đoán, phòng và chữa bệnh.

NGŨ TẠNG. Danh từ Đông y chỉ 5 tạng trong cơ thể: tâm, can, tì, phế, thận. Một số học giả đối chiếu với giải phẫu học hiện đại, gần các tạng với các cơ quan cụ thể (tim, gan, lách, phổi và thận). Quan niệm này tất nhiên chưa hoàn toàn phù hợp với tư duy trừu tượng và khái quát hoá của y học cổ truyền.

NGUỒN GEN. tất cả các giống, nòi, dòng, quần thể cây trồng, cây rừng, vật nuôi, thuỷ sản, vv, hiện có, duy trì từ các cơ sở giữ giông và được nhân lên trong điều kiện khác nhau ở các cơ sở sản xuất giống. NG gồm cả những giống địa phương, giống hoang dạI còn ít được sưu tầm, nghiên cứu, nhưng có thể chứa nhiều gen quý cho chọn lọc và lai tạo giống mới. NG có thể được sưu tầm theo chuyên ngành: NG động vật, NG thực vật, NG cây trồng, vv.

NGUỒN GỐC SỰ SỐNG. Quan niệm hiện đại xem sự phát sinh sự sống là quá trình phức tạp hoá các hợp chất của cacbon, dẫn tới sự hình thành các đại phân tử protein và các nucleic làm thành một hệ tương tác có khả năng tự phân đôi, tự đổi mới. Qua trình này gồm 2 giai đoạn chính: a/ Tiến hoá hoá học là qúa trình tiến hoá các phân tử chất hữu cơ, từ những phân tử đơn giảm đến các đạI phân tử rồi đến các hệ đại phân tử đơn giản đến các đạI phân tử. b/ Tiến hoá tiền sinh học là giai đoạn hình thành mầm mống những cơ thể đầu tiên, gồm 2 giai đoạn nhỏ là sự tập trung các chất hữu cơ hoà tan thành các coaxecva và sự hình thành đạI phân tử có khả năng tự nhân đôi, tự đổI mới. Các thực nghiệm của Redi (F. Redi; thế kỉ 17) và Paxtơ (L. Pasteur; thế kỉ 19) đã chứng minh được rằng sự sống không thể xuất hiện từ các chất hữu cơ hoà tan tạo thành các coaxecva trong điều kiện như hiện nay.

NGUYÊN BÀO LYMPHO. Các tế bào giầu bào tương, được biệt hoá nên các tế bào bạch cầu T đã bị kích thích do kháng nguyên.

NGUYÊN BÀO THẦN KINH. Các tế bào trong phôi động vật, trực tiếp phân hoá thành tế bào thần kinh. Khác với các tế bào khác của ống thần kinh ở động vật có xương sống hoặc bất kì tế bào nào của phôi động vật. NBTK cũng có thể biến thành hoặc sinh ra tế bào thần kinh nhờ phân chia nguyên bào không đều.

NGUYÊN BÀO TINH. tế bào sinh sản ở tinh hoàn, nằm ở biểu mô nấm, trải dài trong các ống sinh tinh. Qua các giai đoạn số lượng được nhân lên và sinh trưởng, chúng trở thành các tinh bào (x. Phát sinh tinh trùng)

NGUYÊN BÀO TRỨNG. (tk. Noãn nguyên bào). 1. Một tế bào trong buồng trứng của động vật, sau một giai đoạn phân chia và sinh trưởng sẽ cho tế bào trứng (x. Phát sinh trứng). 2. Cơ quan sinh dục cái của một số nấm và tảo mà về hình dạng, kích thước hoàn toàn khác với cơ quan sinh dục đực. 3. Túi bào tử của sinh vật đơn bào có chứa vài tế bào đơn bộI không di động được (bào tử). Nó có thể được phóng ra ngoài như ở Ficus hoặc nằm trong NBT như Phyhium.

NGUYÊN BÀO XƯƠNG. (tk. tạo cốt bào), các tế bào tạo nên các lớp xương trong giai đoạn sớm của quá trình hình thành xương. Lúc đầu các tế bào này nằm ngoài sụn phôi hoặc màng, sau khi các cấu trúc này bị các tế bào huỷ xương (huỷ cốt bào) ăn mòn thì NBX cùng mạch máu lẫn vào trong tạo nên các thớ xương. Sau đó NBX bám vào các cấu trúc vĩnh viễn của xương và trở thành các trung tâm hoá xương nằm giữa các tâm xương là các tế bào xương. Xt. Xương; Tế bào huỷ xương; Tế bào xương.

NGUYÊN ĐƠN THẬN. (protenephridium), cơ quan bài tiết của một số động vật không xương sống như giun dẹp, luân trùng và một số loài giun đốt. Gồm tế bào ngọn lửa thông vớI các ống dẫn chất bài tiết (tế bào ngọn lửa lọc và chứa vào xoang) và thải ra ngoài.

NGUYÊN HỒNG CẦU. một loại tế bào nằm trong tuỷ xương đỏ sinh ra hồng cầu. NHC là các tế bào không màu, có nhân và có khả nâng phân chia. Ở động vật có vú bậc cao, chỉ gập NHC trong máu ngoại vi trong các trường hợp bệnh lí. Ở động vật có vú bậc thấp, NHC và hồng cầu cùng có trong máu. Xt. Hồng cầu.

NGUYÊN NHÂN BỆNH. những yếu tố, tác nhân tác động vào cơ thể người, sinh vật gây nên bệnh. Chia 2 loại: nguyên nhân bên ngoài (vật lý, hoá học, chấn thương, vi khuẩn, môi trường...); nguyên nhân bên trong (nội tiết, di truyền, bẩm sinh). Trong quá trình dự phòng và điều trị một bệnh, việc xác định nguyên nhân là cần thiết.

NGỰ Y. thầy thuốc thời xưa làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho vua chúa phong kiến, thường được lựa chọn theo tiêu chuẩn rất chặt chẽ về y thuật và y đức phong kiến.

NGỨA. triệu chứng cơ năng chung cho nhiều bệnh: bệnh da, bệnh dị ứng, bệnh nội tạng, bệnh nộI tiết, thần kinh, tâm thần, rối loạn chuyển hoá, bệnh về máu, vv (vd. Chàm, mày đay, đái tháo đường, thiểu năng gan, tăng bạch cầu). Ngoài dấu hiệu chính thường có vết xước da, dấu hiệu ở da do gãi (da dày, thâm lại, nếp da nổi rõ như kẻ ô), móng tay dày, bóng do gãi nhiều; bệnh nhân mất ngủ, sức khỏe giảm sút. Phải điều trị căn nguyên kết hợp vớI làm dịu N; tránh ăn các chất kích thích mạnh.

NGỰC. 1. Phần cơ thể nằm giữa cổ và bụng, được giới hạn ở xung quanh bằng cột sống, các xương sống, ngăn cách với ổ bụng phía dưới bởi cơ hoành và thông với đấy cổ ở phía trên bởi lỗ trên lồng ngực. Khoang ngực chứa tim, phổi, trung thất, tuyến ức, nhiều dây thần kinh, mạch máu lớn, thực quản. Lồng ngực có thể bị biến dạng do các bệnh: hen, khí thũng (N hình thùng), còi xương, suy dinh dưỡng (N nhô như ngực gà), lao phổI (N lép, N ômêga). Các chấn thương lồng ngực thường rất nặng do chấn động và thương tổn của các nộI tạng ở bên trong.

2. Ở động vật chân đốt, N nằm giữa đầu và bụng. Ở côn trùng, N có 3 đốt, mỗi đốt có 4 tấm biểu bì bao bọc, các đốt ngực mang các đôi phần phụ vận động, chân và cánh (xt. Đầu ngực).

NGƯỜI CHO MÁU. ngườI cung cấp máu để truyền cho các bệnh nhân. Một người lớn nặng 60kg, có khoảng 4,5 lít máu lưu chuyển trong cơ thể, có thể cho 0,5 lít máu để truyền cho một người khác mà không ảnh hưởng gì đến sức khỏe, khả năng làm việc và hoạt động. Những người huyết áp cao, muốn giữ cho huyết áp được ổn định, thường vẫn cho máu, một năm hai lần. Một người Việt Nam nặng 50 kg có thể cho máu mỗi lần 300 - 350 ml mà không sợ bị ảnh hưởng gì xấu đến sức khỏe, một người nặng 40kg có thể cho mỗi lần 200 - 250ml. Để đảm bảo an toàn cho NCM cũngnhư người nhận máu, bao giờ cũng phải khám kĩ sức khỏe NCM về các mặt (lâm sàng và các xét nghiệm), để xác định rõ nhóm máu và biết chắc không có các yếu tố lây bệnh cho ngườI nhận máu, vd. Virut HIV, viêm gan B, kí sinh trùng sốt rét...

NGƯỜI NHẬN MÁU. bệnh nhân bị thiếu máu toàn bộ hay từng phần (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, huyết tương các yếu tố đông máu); cần được truyền lượng máu thiếu hoặc từng phần thiếu hụt để phục hồI sức khỏe, tuỳ theo chỉ định của thầy thuốc. Trước khi truyền máu, cần xác định kĩ nhóm máu của NNM và kiểm tra kĩ máu sẽ truyền để biết chắc chắn là phù hợp về nhóm máu và NNM không bị lây bệnh do truyền máu.

NHA CHU VIÊM. X. Suy nha chu

NHÀ HỘ SINH. Cơ sở y tế (công hoặc tư) làm dịch vũ đỡ đẻ. Ở Việt Nam, trước năm 1960, NHS có chức năng đỡ đẻ thường và do nữ hộ sinh phụ trách., Hiện nay NHS quận, thị xã có bác sỹ chuyên khoa phụ sản phụ trách nên chức năng được mở rộng hơn gồm: quản lí thai sản, đỡ đẻ thường; làm công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh; công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình. NHS xã cũng làm những chức năng trên trong phạm vi địa phương nhưng không đỡ đẻ khó.

NHÀ XÁC. Nơi tạm bảo quản tử thi. Có NX thành phố, NX bệnh viện, vv. Ngoài phòng để xác, thường có phòng để tiến hành việc khâm liệm và làm các nghi thức tang lễ tuỳ theo phong tục, tập quán mỗi nước. Ở những cơ sở y tế hiện đại, tử thi được bảo quản trong phòng lạnh. Ngoài ra, ở các bệnh viện của hầu hết các nước phát triển còn có một cơ sở để khám nghiệm tử thi, khi việc khám nghiệm đã trở thành một yêu cầu bắt buộc trước khi khâm liệm. Xt. Tử thi.

NHAU. X. nhau thai

NHAU BONG NON. Bánh rau bị tách rờI khỏI thành từ cung trước khi sổ thai vì một nguyên nhân nào đó có thể do chấn thương va chạm vào thành bụng. Tuỳ theo tình trạng nhau bong ít hay nhiều, sẽ gây suy thai nhẹ, nặng hay chết thai. NBN chưa rõ nguyên nhân, thường gặp ở thai phụ bị nhiễm độc thai nghén và ở ngườI bị huyết áp cao. Dấu hiệu: thể nhẹ hoặc trung bình - thai phụ có thể thấy ra ít máu đen đau bụng nhiều, kèo theo sốt nặng, sờ nắn vào bụng thấy tử cung co cứng liên tục và to lên nhanh. Thai thường bị chết rất nhanh, thai phụ ở tình trạng rất nguy kịch, có triệu chứng sốc và nhiễm độc phối hợp. Cần được xử trí cấp cứu.

NHAU THAI. (tk. Bánh rau, rau), cơ quan bảo đảm mối liên hệ giữa cơ thể mẹ với phôi thai trong quá trình phát triển cơ thể non trong dạ con. Qua NT, phôi thai có thể hấp thụ các chất dinh dưỡng và oxi từ máu của cơ thể mẹ, bài xuất được khí (chủ yếu là CO2) và các chất bã, sản phẩm của trao đổi hocmon quan trọng. Ở động vật có vú, NT được tạo bởi các lông nhung và mô của thành dạ con.

NT người ở ngoài có hình đĩa, phần trung tâm dày nhất khoảng 3 - 4cm, phần ngoại biên mỏng, đường kính khoảng 18cm; nặng bằng 1/6 - 1/7 trọng lượng thai nhi (khoảng 450 - 500g). Mặt quay về phía mẹ xù xì có các múi nổi lồi, được giới hạn bằng các rãnh sâu; trong các múi có các nhung mao, chứa các mao mạch của thai nhi; máu của thai nhi tiếp xúc với máu mẹ chứa đựng trong các hố huyết và được coi al2 nhúng trong máu mẹ, nhưng màng nhung mao rất mỏng, có thể để lọt vào trong máu thai nhi các chất dinh dưỡng, oxi và cả các yếu tố có hại như virut, độc tố và thải loại khí cacbonic (C02), các chất thải nitơ... từ máu thai nhi vào trong máu mẹ.

Tuỳ theo mỗi dân tộc mà có tập quán riêng đối với NT. Vd. người Việt Nam quan niệm NT là một phần cơ thể của đứa trẻ, nên có tục chôn NT. Người ta bỏ NT vào cái nồi đất, rồi đậy kín đem chôn. NT phải chôn thật sâu để tránh cho đứa trẻ buồn nôn, lại tránh chon nôi giọt nước mái hiên để đứa trẻ khỏi toét mắt...Vì tục này mà ở người Việt có câu: "nơi chôn rau cắt rốn", tức nơi sinh ra mình. Người Mơ Nông chôn NT, để trong vỏ quả bầu khô. Người Thái bỏ vào ống tre, treo lên cây trong rừng cấm để báo với Then (trời) biết là có một con ngườI đã sinh ra. Người Mường cũng chôn NT. Người, Tày bỏ NT vào trong hũ, treo lên cây trong rừng.

NHAU TIỀN ĐẠO. bán nhau bám ở vị trí bất thường (bình thường khi có thai, nhau bám ở phía đáy tử cung). Nếu có một nguyên nhân bất thường nào đó như tử cung dị dạng, tử cung có u xơ, người có thai nhiều lần, thai sinh đôi, sinh ba, người có tiền sử nạo hút nhiều lần: bánh nhau bám ở đoạn phủ lên lỗ trong cổ tử cung (NTĐ trung tâm). Các dấu hiệu: chảy máu qua âm đạo (băng huyết) vào ba tháng cuối; máu ra tự nhiên, từng đợt; lượng máu ra ít hay nhiều tuỳ theo vị trí nhau bám, vị trí nhau bám càng thấp thì máu chảy ra càng nhiều.

NHÂN TRỨNG CÁ. Nhân màu trắng đục, chắc phần giữa phình ra hai bên hơi nhọ, có trong mụn trứng cá đã già và được hình thành bởI nhiều chất kết lạI: chất bã, các tế bào tuyến bã, nang lông bị phá huỷ, xác vi khuẩn, các tế bào nhân, đạI thực bào, tế bào mủ, vv. Sự bài tiết quá mức chất bã và ứ tắc chất bã trong các nang lông tạo môi trường tốt cho nhiễm khuẩn và hình thành mụn trứng cá. Mụn trứng cá có mủ lỏng khi còn non và có NTC khi đã già. Không nên nặn trứng cá non và có NTC khi đã già . Không nên nặn trứng cá còn non vì có thể nguy hiểm cho tính mạng, nhưng cũng không nên để quá già, vì đầu trứng cá bị oxi hoá do tiếp xúc vớI không khí

NHĨ CHÂM. (tk. Châm loa tai), một phương pháp châm cứu mà nơi châm là các vị trí đạI diện ở loa tai có liên quan đến bệnh tật ở các cơ quan. Có thể dùng kim nhỏ để châm. Cũng có thể dùng kim vòng găm vào tai để lưu kích thích. Cũng có thể kích thích bằng điện châm hoặc hoặc bằng thuốc tiêm tác động vào một điểm nào đó của loa tai để chữa bệnh. Đã có từ lâu ở nhiều nước trên thế giớI, song mãi đến năm 1956, nhờ kết quả nghiên cứu của Pôn Nôgiê. Châm loa tai mới trở thành một phương pháp của châm cứu. Cơ sở của châm loa tai là sơ đồ loa tai do Pôn Nôgiê xây dựng vớI cách đặt vấn đề: loa tai là vùng phản chiếu của các cơ quan của cơ thể. Khi cơ quan có bệnh thì ở vị trí tương ứng với nó ở loa tai có biểu hiện khác thường. Biểu hiện đó được thể hiện: màu tai bạc đi hoặc sạm hơn; da khô hơn hoặc sần sùi hoặc nổi cục, ấn vào đó có cảm giác đau hơn, hoặc lượng thông điện qua da ở nơi đó cao hơn các nơi khác. Năm 1987, Tổ chức y tế thế giớI khu vực tây thái bình dương đã tổ chức họp ở Xơun (Hàn Quốc) để thảo luận về danh pháp giải phẫu loa tai và danh pháp 43 huyết trên loa tai. Năm 1990, Tổ chức Y tế Thế giớI họp ở Lyông (Lyon, Pháp) đã xác định danh pháp giải phẫu loa tai và danh pháp 39 huyệt loa tai. Cũng như châm cúu nói chung, châm loa tai có tác dụng điều khí và giảm đau. ĐốI vớI những trường hợp đau cấp, châm loa tai có tác dụng giảm đau khá tốt.

NHIỄM BẨN KHÔNG KHÍ. . x. ô nhiễm

NHIỄM BẨN NƯỚC DƯỚI ĐẤT. quá trình thay đổi thành phần và tính chất của nước dướI đất do tác đợng của con người, dẫn đến làm giảm chất lượng nước đối với việc sử dụng. Theo yếu tố gây bẩn, thường phân biệt: nhiễm bẩn hoá học, nhiễm bẩn vi khuẩn, nhiễm khuẩn phóng xạ, nhiễm bẩn cơ học và nhiễm bẩn nhiệt học. Nhiễm bẩn hoá học phổ biến hơn cả và khó đốI phó nhất. Những nơi nước dưới đất dễ nhiễm bẩn hoá học: nơi tích tụ nước thải, các bãi thải, các khoáng chứa dầu, nguyên liệu hoặc sản phẩm hoá học, các nhà máy hoá chất hoặc nơi sử dụng nhiều nguyên liệu hoá chất, những vùng nước thải sinh hoạt, các trại chăn nuôi, các lò mổ, vv. Nhiễm bẩn phóng xạ, các nhà máy điện nguyên tử, các xí nghiệp công nghệp nguyên tử, vv. Nhiễm bẩn nhiệt và cơ học ít khi gặp và mức độ nguy hiểm cũng không lớn lắm.

NHIỄM CHẤT SẮT. tình trạng cơ thể ứ đọng quá nhiều chất sắt do không chuyển hoá và đào thải được chất sắt. Sắt ứ đọng ở gan, tuỵ, tim, da và gây ra những biểu hiện đặc biệt: gan to, da xạm, đái tháo đường, suy tim; đôi khi có đau nhiều khớp, mệt mỏi, yếu sinh dục. Có nhiều nguyên nhân gây ra NCS, trong đó bệnh bẩm sinh ở hồng cầu, bệnh tan máu và một số bệnh khác. Điều trị triệu chứng; dùng các chất đào thảI sắt (DTA desferioxamin); trích huyết; đôi khi rất khó điều trị bệnh.

NHIỄM ĐỘC. Tình trạng do tác động của các chất độc khi bộc lộ (NĐ cấp), khi tiềm tàng khó nhận biết (NĐ mạn) gây nên. Nguồn gốc NĐ có thể là nội sinh do các chất chuyển hoá không loại thải được (như urê trong viêm thận cấp hay mạn); hoặc ngoạI sinh, từ ngoài đưa vào cơ thể theo nhiều đường khác nhau: tiêu hoá (thức ăn, thuốc uống), hô hấp, da, tiêm, vv. Các triệu chứng có thể xuất hiện ngay tức thời (uống thuốc độc, ăn nấm độc..) hoặc sau một thời gian dài (các bệnh nghề nghiệp như NĐ chì, hoá chất, thuốc trừ sâu, nhiễm bụi các loại. NĐ là một lĩnh vực bệnh học quan trọng trong y pháp. Xt. Nhiễm độc ánh sáng; Nhiễm độc chì nghề nghiệp; Nhiễm độc đồng.

NHIỄM ĐỘC ÁNH SÁNG. Tác động của ánh sáng (tia cực tím) đối với da, nhẹ nhất là gây tổn thương da, nặng hơn là gây "cháy nắng". Tổn thương gây ra do "cháy nắng" tương tự như bỏng độ I: dãn mao mạch, phù dưới da với mức độ nhiều hay ít, đôi khi có di cư bạch cầu vào trung bì, tăng sừng hoá và bong tế bào bề mặt.

NHIỄM ĐỘC CHÌ NGHỀ NGHIỆP. dạng nhiễm độc do chì, loại nhiễm được biết từ thời xa xưa do việc chì được sử dụng lâu đời qua các nền văn minh cổ. Chì gây nhiễm độc ở dạng kim loại (hơi hay bụi chì) hoặc các hợp chất: 1g chì tương đương với 5g axetat chì hấp thụ vào cơ thể một lần, thường là liều gây tử vong: hằng ngày một liều hấp thụ 10mg có thể dẫn đến nhiễm độc nặng sau vài tuần: hàng ngày hấp thu 1mg chì, sau nhiều ngày có thể xuất hiện nhiễm độc mạn tính ở người bình thường. Các loại bụi chì ở dạng muối hay chì oxit hoặc hơi chì hít vào phổi được hấp thu toàn bộ. Nhiễm độc chì nhiều khi còn qua đường tiêu hoá: hút thuốc, ăn uống khi tay bẩn có dính chì; ăn uống ngay tại nơi làm việc, bụi chì đọng vào thực phẩm. Chì có thể vào cơ thể qua vết thương hay các vết xây sát ở da. Vào cơ thể, chì khu trú trong xương, trong hồng cầu. Chì được đào thải chủ yếu qua đường tiết niệu và tiêu hoá. Nhiễm độc chì gây tổn thương toàn bộ cơ thể nhưng biểu hiện chính tại hệ thần kinh, hệ tiêu hoá và hệ huyết học. Biểu hiện của nhiễm độc chì cấp tính: rối loạn tiêu hoá xuất hiện sớm và mãnh liệt (bỏng thực quản, buồn nôn, nôn, đau thượng vị có kèm theo ỉa chảy hoặc không); tình trạng toàn thân suy sụp nhanh chóng, lo lắng, mạch nhỏ, chuột rút, co giật, dấu hiệu viêm thận hay viêm gan thận (đái ít, protein niệu, protein huyết tăng, vàng da), thường tử vong trước ngày thứ tư hay nếu khỏi thì thời gian hồi phục kéo dài. Các triệu chứng sớm của nhiễm độc chì mạn tính: suy sụp thể lực, mệt mỏi, ngủ ít, nhức đầu, đau cơ xương, rối loạn tiêu hoá, đặc biệt là táo bón, ăn kém ngon. Các triệu chứng khách quan: da tái, đường viền chỉ ở lợi (đường viền chì Bruton). Khi nhiễm độc nghiêm trọng có cơn đau bụng chì: đau dữ dội, phải ôm chặt lấy bụng, nằm co. Chẩn đoán phân biệt với đau bụng ngoại khoa dựa vào mạch chậm và cứng, huyết áp tăng, không co cứng bụng. Các di chứng mạn tính cổ điển: liệt do chì, thấp khớp do chì, thấp khớp do chì, tai biến não, huyết áp cao, viêm thận, vv. Liệt do chì điển hình là liệt các cơ duỗi các ngón, lúc đầu tập trung vào ngón giữa và ngón nhẫn rồi sau đó lan ra các ngón (hình ảnh "bàn tay rủ"). Ở Việt Nam hiện nay, hằng ngày có hàng nghìn ngườI lao động tiếp xúc với chì ở các nhà in, sản xuất ắc quy, luyện kim loại chì... nhưng chưa gặp trường hợp nhiễm độc chì điển hình vớI triệu chứng liệt. Các trường hợp phổ biến là thấm nhiễm chì vớI tình trạng rối loạn sinh hoá, lượng delta ALA xuất hiện nhiều trong nước tiểu trong 24 giờ (giớI hạn bệnh lý của loại axit này là trên 10mg/l nước tiểu).

Điều trị nhiễm độc chì điển hình, cấp và mạn tính: có thể tiêm tĩnh mạch chậm EDTA Na2Ca (loại thuốc thải chì có hiệu quả cao). Đối vớI trường hợp thấm nhiễm chì, lượng delta ALA niệu trên 10mg/l, chưa cần dùng thuốc thải, chỉ cần tách người lao động ra khỏi môi trường lao động và cơ thể có khả năng tự thải chì. Đối với trường hợp lượng delta ALA niệu cao hơn 10mg/l, kèm theo một số triệu chứng sớm, người bệnh cần ngừng tiếp xúc và dùng viên ethambutol uống (loai thuốc vẫn sử dụng để điều trị lao phổi nhưng có tác dụng thảI chì tốt, tuy chậm). Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở Việt Nam xác nhận khả năng thải chì của ethambutol nghiên cứu trên súc vật và trên người: đến nay, ethambutol đã được ứng dụng điều trị thấm nhiễm chì khá rộng rãi. Nhiễm độc chì là bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm. Khi mắc bệnh và nếu có di chứng, ngườI bệnh được giám định và hưởng chế độ đền bù.

NHIỄM ĐỘC ĐỒNG. Tình trạng nhiễm độc do tác động của đồng (muối đồng). Thời xưa gặp trong các vụ đầu độc. Nay ít gặp, có khi gặp trong ngộ độc mạn tính do sử dụng những dụng cụ nấu ăn bằng đồng, hoặc do nghề nghiệp (công nhân mỏ đồng, nấu đồng).

NHIỄM ĐỘC LAO. biểu hiện bệnh lý ở người do các tính chất độc từ chuyển hoá của trực khuẩn lao tác động đến hệ thần kinh trung ương và thần kinh thực vật, với một số triệu chứng lâm sàng toàn thể: sốt nhẹ thất thường, gầy, kém ăn, tăng kích thích, sưng hạch: phản ứng da [Măngtu (Mantoux)] dương tính.

NHIỄM ĐỘC THAI NGHÉN. trạng thái bệnh lí ở phụ nữ do tình trạng có thai gây nên. NĐTN thường sớm xảy ra trong 3 tháng đầu, biểu hiện lâm sàng bằng nghén (x. Nghén). NĐTN muộn xảy ra trong 3 tháng cuối, biểu hiện bằng huyết áp tăng, phù và protein niệu có thể dẫn tới sản giật, gây tử vong cho mẹ và cho thai. Những người có tiền sử NĐTN thuộc đối tượng có nguy cơ cao, cần được cơ quan y tế theo dõi và điều trị.

NHIỄM KHUẨN. trạng thái của cơ thể sinh vật do sự xâm nhập của một vi khuẩn gây nên (tuy không mạnh nhưng cũng có khả năng gây bệnh tiềm tàng). NK không phải bao giờ cũng đồng nghĩa với có bệnh, vì có rất nhiều người và động vật lành mang mầm bệnh mà không phát triệu chứng bệnh như thương hàn, kiết lị, lao... nhưng có thể gieo rắc bệnh ra chung quanh. Người mang mầm bệnh chỉ trở thành bệnh nhân trong những hoàn cảnh nhất định (giảm thể lực, giảm miễn dịch, vv). Một số ngành, nghề có nhiều điều kiện lây bệnh sang cho nhiều người khác (giáo viên, các cô nuôi dạy trẻ, thợ cắt tóc, nhân viên các cửa hàng ăn, cửa hàng lượng thực thực phẩm, vv. Ở nhiều nước, pháp luật quy định những người làm các nghề trên phải được khám sức khỏe định kỳ. Nếu phát hiện mầm bệnh thì phải được chữa cho khỏi mới được hành nghề trở lại.

NHIỄM KHUẨN HẬU SẢN. thuật ngữ chung chỉ tất cả các trường hợp nhiễm khuẩn sau đẻ hoặc sau sẩy thai: vi khuẩn gây bệnh xâm nhập chủ yếu từ nơi nhau bám trong tử cung, từ đó lan tới các bộ phận khác của cơ thể. NKHS có thể nhẹ (vd. Viêm niêm mạc tử cung), có thể nặng (viêm phúc mạc) hoặc rất nặng (nhiễm khuẩn huyết). Triệu chứng chung: sốt, sản dịch hôi, thốI; tử cung to, đau khi sờ nắn, vv. Hướng xử lý chung: giải quyết nhau sót; điều trị kháng sinh: dẫn lưu mủ, có khi phải cắt tử cung...

NHIỄM KHUẨN HUYẾT. trạng thái một vi sinh vật phát triển và gây bệnh trong máu của người bệnh từ một ổ nguyên phát. Thường có dấu hiệu toàn thân rất nặng và có những ổ thứ phát: khi cấy máu, phân lập được vi sinh vật gây bệnh.

NHIỄM KHUẨN HUYẾT GÂY MỦ. hình thái nhiễm khuẩn huyết rất nặng, có đặc trưng là các ổ mủ thứ phát thường do các cục tắc nhiễm khuẩn, xuất phát từ một viêm tắc tĩnh mạch của ổ nguyên phát.

NHIỄM KHUẨN KỊ KHÍ. nhiễm khuẩn do các vi khuẩn chỉ phát triển được ở môi trường không có oxi, với đặc điểm: mủ màu sẫm và hôi; các tổ chức bị hoại thư, có hơi trong các mô; hình thành huyết khối và di căn nhiễm khuẩn. Vd. hoại thư sinh hơi do Clostridium perfringens, Clostridium septicum, vv.

NHIỄM KHUẨN RỐN. nhiễm khuẩn ở chân dây rốn sau khi cắt dây rốn cho trẻ sơ sinh với dụng cụ không được tiệt khuẩn kĩ, tay không sạch hoặc băng rốn không được vô khuẩn. NKR là biến chứng rất nguy hiểm của trẻ sơ sinh, có thể dẫn tới nhiễm khuẩn huyết và tử vong.

NHIỄM KHUẨN VẾT THƯƠNG. Tình trạng vi khuẩn xâm nhập và phát triển ở vết thương. Các vết thương (nhất là các vết thương chiến tranh) rất dễ bị nhiễm vi khuẩn ngay sau hoại tử, bọc máu, dị vật, rối loạn tuần hàn cục bộ, sức chống đỡ của cơ thể bị giảm sút do sốc chấn thương, mất máu và thiếu máu, rối loạn chuyển hoá và dinh dưỡng sau khi bị thương. Thường gặp viêm mủ vết thương, xuất hiện vào ngày thứ 5 - 7 sau khi bị thương.

Trạng thái bệnh lí của NKVT do số lượng vi khuẩn phát triển và loại vi khuẩn gây bệnh quyết định. Khi số lượng vi khuẩn lên tới 104 - 105 (trên 1cm2 hoặc trong 1g mô hoại tử hoặc mô hạt), xuất hiện nguy cơ nhiễm khuẩn lan tràn và có nguy cơ nhiễm khuẩn huyết. Để tránh NKVT, cần sơ cứu tốt ngay từ đầu (lau sạch da quanh vết thương, sát khuẩn da, băng vô khuẩn vết thương, hồi sức tại chỗ, gửi về cơ sở ngoại khoa ở tuyến sau để xử lí sớm). Nguyên tắc xử lí nhiễm khuẩn vết thương: rạch rộng vết thương, dẫn lưu tốt và dùng kháng sinh thích hợp.

NHIỄM KÍ SINH TRÙNG. trạng thái của cơ thể do sự xâm nhập của kí sinh trùng gây nên. Bệnh có thể nặng, nhẹ thất thường. Mỗi loại kí sinh trùng thường có một chu trình phát triển riêng. Chu kì phát triển có thể đơn giản (truyền thẳng từ vật chủ này sang vật chủ khác) hoặc phức tạp (qua một hay nhiều vật chủ trung gian trước khi đến vật chủ chính). Bệnh NKST phụ thuộc rất nhiều vào môi trường, nhất là ở các xứ nhiệt đới. Bảo vệ và làm trong sạch môi trường chính là một nội dung cơ bản của chăm sóc sức khỏe ban đầu và dự phòng NKST.

NHIỄM LIÊN CẦU KHUẨN. nhiềm vi khuẩn Streptococus gây chốc lở, viêm họng, viêm phổI vớicác biến chứng xa: viêm cầu thận cấp, thấp khớp cấp, múa vờn cấp (nhóm A); nhiễm khuẩn sơ sinh, nhiễm khuẩn khi đẻ (nhóm B); viêm đ ường tiết niệu (nhóm D); viêm nộI tâm mạc ác tính chậm, nhiễm khuẩn máu (nhóm viridans).

NHIỄM MENALIN. Quá trình sẫm màu do xuất hiện nhiễm sắc tố melanin nâu đen.

NHIỄM SẮC THỂ. (chromosome), một nhóm những cấu trúc nhỏ dạng sợi, có độ dài và hình dạng khác nhau trong nhân của tế bào có nhân chuẩn, có thức năng lưu trữ và truyền thông tin. Trong quá trình phân chia nhân, mỗi NST cuộn xoắn rất chặt, dễ dàng nhìn thấy qua ống kính hiển vi quang học. Sau khi phân chia, chúng dãn ra nên khó nhận biết. NST mang gen kiểm tra hoạt động của tế bào. Được tạo thành từ AND, ARN và protein. Số lượng NST trong nhân đặc trưng cho từng loài, vd. ở người có 46 NST. Thông thường có một bộ (đơn bộ) hoặc hai bộ (lưỡng bộ) NST trong nhân tế bào. Ở pha đầu sớm của nguyên nhân và pha đầu muộn của giảm phân, các NST tách theo chiều dài thành hai phần tử nhiễm sắc giống hệt nhau và gắn với nhau nhờ tâm động. Trong các tế bào lưỡng bội, có cặp NST giới tính và các NST thường. Mỗi NST chứa một phân tử AND cuộn lại và tạo xoắn.Vai trò kiến trúc chính làm cho mạch (xoắn) AND có dạng đơn vị siêu xoắn hoặc hạt là do histon, mỗi đơn vị có đường kính khoảng 10nm và chứa 200 cặp bazơ. Các đơn vị này lại tiếp tục tạo thành các cuộn gồm khoảng 400 hạt và chúng co thể là những đơn vị chức năng như gen hoặc nhóm gen. Các cuộn này có thể tương ứng với các hạt NST. xt. Phân bào; Hạt nhiễm sắc; Bản đồ nhiễm sắc thể; Gen.

NHIỄM SẮC THỂ GIỚI TÍNH. Các nhiễm sắc thể quy định giớI tính ở phần lớn động vật. Có 2 loại: nhiễm sắc thể X và Y. Ở giới tính dị giao tử (XY), NSTGT thường khác biệt với X (những cập nhiễm sắc thể khác là những cặp hoàn toàn đồng dạng). Xt. Xác định giới tính; Liên kết giới tính.

NHIỄM SẮC THỂ THƯỜNG. Các nhiễm sắc thể soma ghép cặp được, không giữ vai trò xác định giớI tính.

NHIỄM TỤ CẦU KHUẨN. nhiễm vi khuẩn Staphylococcus (x. Tụ cầu khuẩn), gây viêm nang lông, nhọt đầu đinh, đinh râu, chín mé, mụn nhọt, chốc lở, viêm tai, viêm xương chũm, viêm xoang, viêm phế quản, viêm phổi, áp xe phổi, viêm mang phổi mủ, viêm cốt tuỷ xương cấp, viêm khớp, viêm màng não mủ, viêm vú, viêm đường tiêu hoá cấp, nhiễm khuẩn huyết, NTCK cấp ở mặt (đinh râu) với biểu hiện sưng đỏ và cứng, lan rộng nhanh chóng xung quanh một nhọt ở cánh mũi hay môi trên, tiến tới sưng vù toàn mặt và nhiễm khuẩn huyết, đôi khi với biến chứng viêm tắc tĩnh mạch ở xoang hang. Trong các nhiễm khuẩn tại bệnh viện, tụ cầu khuẩn gây bệnh là một căn nguyên phổ biến.

NHIỄM VIRUT. trạng thái của cơ thể do sự xâm nhập của virut gây nên. Kích thước của virut rất nhỏ từ khoảng 10mm (virut bại liệt) đến khoảng 200 - 300 mm (virut đậu mùa, virut sốt vẹt). Virut bắt buộc phải sống kí sinh trong nguyên sinh chất của tế bào chủ (kí sinh nội bào). Thời gian ủ bệnh có thể ngắn (bệnh cúm, bệnh sởi, vv), có thể dài hay rất dài (một số bệnh ung thư, AIDS), có khi tồn tại không biểu hiện lâm sàng (tình trạng mang virut). Virut gây ra nhiều vụ dịch lớn: cúm, sốt suất huyết Đăngơ (Dengue), bại liệt, viêm gan, mới nhất là AIDS. Cho đến nay, thuốc kháng sinh không có tác dụng trực tiếp đến các bệnh virut (bại liệt, sởi, viêm não Nhật Bản B, viêm gan B, vv), đặc biệt bệnh đầu mùa coi như đã được thanh toán trên phạm vi toàn thế giới (từ 1978 theo Tổ chức Y tế thế giới - WHO)

NHIỄM XẠ. hiện tượng tồn tại các chất phóng xạ trên hay dưới mặt đất, trong nước, trong không khí, trên các vật thể, trên cơ thể người, xảy ra khi bụi từ đám mây phóng xạ rôi xuống, hoặc do phóng xạ cảm sinh tạo ra. Các vụ nổ hạt nhân với phương thức nổ mặt đất, mặt nước và cả nổ dưới đất, dướI nước gây NX địa hình rất nguy hiểm. Trình độ NX nặng hay nhẹ được xác định bằng mức NX.

NHIẾP ẢNH Y HỌC. loại hình chụp ảnh khoa học về y học. Gồm ảnh y học quan sát và ảnh y học thông tin. NAYH thu nhận và truyền lại những hình ảnh chứng minh bệnh lý. Có thể chụp bề mặt thân thể bên ngoài, phẫu thuật. Về chuyên koa còn có chụp soi trong (endographie) chụp tia cực tím, tia hồng ngoại, bằng ánh sáng huỳnh quang, chụp vi mô quang học và điện tử, chụp các biến dạng sinh học trên màn cotôt, chụp theo phương pháp dung hoà độ đậm (equidensites) màu sắc...

NHIỆT. (tk. Nóng) theo Đông y, nói chung N đại diện cho dương, là biểu hiện của dương, còn hàn đạI diện cho âm, là biểu hiện của âm. Ở trạng thái bình thường, âm dương cân bằng, hàn N cân bằng. Khí dương mạnh hơn âm thì có biểu hiện N. Khi âm mạnh hơn dương thì có biểu hiện hàn. Ở người, có người nghiêng về dương, có tạng N, chịu lạnh tốt, thích ăn, uống thứ mát: có người nghiêng về âm có tạng hàn thể hiện ở người: có cảm giác nóng hơn, sốt, bồn chồn, thích mạch sác (nhanh). Âm hư có thể sinh N, gọi là hư N, với biểu hiện: dễ ra mồ hôi trộm, sốt không cao, lòng bàn chân, lòng bàn tay nóng, mạch tế sác. Dương thịnh làm N tăng lên, gọi là thực N; sốt cao, mồ hôi ra nhiều, rêu lưỡi vàng, mạch thực sắc hoặc hồng dại.

N gây bệnh gọi là N là: có thể là sức nóng của lửa, của Mặt trời; có thể là do phong, hàn, thấp, thức ăn, đờm, khí, huyết uất lâu hoá thành.

Theo Đông y, N là một trong "4 khí" của thuốc (nhiệt, ôn, lương, hàn). Thuốc ôn N được thể hiện ở cảm giác thấy ấm nóng trong người hoặc ở lưỡi khi uống vào hoặc nếm thuốc, có nghĩa là phần dương của thuốc đã trội hơn phần dương của người (vd. gừng, riềng, quế), được dùng cho ngườI hàn. Thuốc hàn lương đựơc thể hiện ở cảm giác mát mẻ ở trong người hoặc ở lưỡi khi uống vào hoặc nếm thuốc, có nghĩa là phần âm của thuốc đã trội hơn phần âm của người (vd. mạch môn, hoàng cầu, chi tử); được dùng cho người N.

NHỊN ĂN. chủ động không ăn: có thể không ăn tất cả các loại thức ăn, kể cả nước uống (nhịn tuyệt đối), có thể không ăn, nhưng vẫn uống nước (nhịn hoàn toàn) hoặc có thể vẫn uống nước, vẫn ăn nhưng với số lượng hạn chế (nhịn không hoàn toàn). Là hiện tượng sinh lý của các động vật ngủ đông như bò sát, lương cư, cá, vv. Ở người, khi nhịn hoàn toàn, những biến đổi trong cơ thể diễn ra theo ba giai đoạn: giai đầu tiên kéo dài từ 2-4 ngày, cảm giác đói tăng lên, chuyển hoá giảm nhẹ, các kho dự trữ gluxit và lipit của cơ thể bị huy động, trọng lượng của cơ thể giảm 1kg mỗi ngày; giai đoạn thích nghi có thời gian dài hơi, cảm giác đói và khát giảm, mạch chậm, bài tiết nước tiểu giảm, phù nhẹ, thần kinh bị kích thích gây nhức đầu, khó chịu, sau đó chuyển sang trạng thái ức chế (uể oải, thờ ơ, buồn ngủ), hoạt động tinh thần vẫn bình thường, cơ thể sống chủ yếu nhờ lipit và protein dự trữ trong gan, cơ; giai đoạn hấp hối kéo dài 5-7 ngày, dự trữ gluxit và lipit của cơ bị cạn kiệt, protein của những tạng liên quan đến đời sống như của tim, thần kinh cũng bị huy động, chuyển hoá bị rối loạn, hôn mê, thần kinh giảm rồi chết. Thời gian sống (giới hạn là 65-70 ngày) thay đổi theo trọng lượng cơ thể lúc bắt đầu NĂ, theo lứa tuổi (trẻ em dễ chết hơn), theo giới (phụ nữ chịu đựng được lâu hơn), theo đặc điểm cá thể. Nhịn tuyệt đối sống được vài ngày. Nhịn không hoàn toàn sống dài hơn. Người ta cũng NĂ theo tôn giáo, theo tập quán (ăn chay), NĂ trong đấu tranh chính trị (tuyệt thực) và bắt đầu buộc phải NĂ khi có nạn đói.

NHÍP (tk. cặp) dụng cụ phẫu thuật, đầu có mấu hoặc khía ngang không có mấu, thường dùng để kẹp bông, gạc, bơm tiêm, nhằm đảm bảo vô khuẩn và nâng các mô lên để cắt hoặc khâu khi mổ.

NHỊP SINH HỌC. hiện tượng lặp đi lặp lại có tính chu kỳ các đặc tính, cường độ, các trạng thái và sự kiện ở tất cả các cơ thể sống, từ đơn bào đến tế bào. Gồm nhiều đặc điểm: tần số, biên độ, pha, mức độ, trắc điện vv, phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra chúng. Được chia ra NSH ngoại sinh và NSH nộI sinh, NSH ngoại sinh là những dao động có tính chu kỳ do các yếu tố như: ánh sáng, nhiệt độ, áp suất khí quyển, sức hút trái đất, bức xạ vũ trụ, vv, gây ra là những phản ứng thụ động của cơ thể đáp lạI những dao động của yếu tố ngoại môi. NSH nộI sinh là những dao động tự phát do các quá trình tích cực trong chính bản thân các hệ thống sống và duy trì bằng cơ chế liên hệ ngược. Về mức độ tổ chức sinh học, người ta chi NSH thành: NSH trong tế bào (chu kỳ phân chia) và trong cơ quan (co bóp ruột), trong cơ thể (chu kỳ rụng trứng) và trong quần thể (dao động số lượng cá thể). Theo chức năng, có thể chi thành các nhịp sinh lí (chu kỳ hoạt động của từng cơ quan như hô hấp, nhịp tim) và nhịp sinh thái - thích nghi (x. nhịp ngày đêm). Tần số các nhịp sinh lí thay đổI rất mạnh, phụ thuộc vào gánh nặng chức năng, tần số nhịp sinh thái; ngược lại NSH tương đốI ổn định và được củng cố bằng di truyền. Thời gian các NSH, đáng chú ý nhất là nhịp ngày đêm; rồI đến nhịp nhiều ngày (nhịp tháng) - NSH đặc trưng cho động vật sống gần bờ biển; nhịp sinh sản của động vật có vú. Nhịp nhiều năm là sự dao động về số lượng cá thể trong quần thể, phụ thuộc vào các quá trình tự dao động trong chu kỳ dinh dưỡng với thời gian 2 - 15 năm. Những NSH có chu kỳ khác nhau ở một cơ thể sống có thể ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng thường tương đốI độc lập. Các NSH có chu kỳ giống nhau và ngược lại, thường có mối quan hệ phụ thuộc theo một trật tự nhất định. Vd. những nhóm tế bào đặc biệt được gọi là nhóm dẫn nhịp có thể đóng vai trò trung tâm của một hoạt động đồng bộ.

NHỊP THỞ. một lần hít vào và thở ra bình thườmg, được điều khiển từ trung tâm hô hấp trong hành tuỷ. Thông thường thời gian hít vào dài hơn 2 - 3 lần so với thời gian thở ra. Bình thường, người lớn có 16 - 20 NT/phút; trẻ em có 30 - 60 NT/phút. NT nhanh lên khi vận động, bị xúc cảm và chậm lạI khi nghỉ ngơi, ngủ. Trong trường hợp bệnh lý, NT có thể nhanh (trong bệnh viêm phế quản - phổi, bệnh tim, thiếu máu, vv), chậm (trong bệnh hen xuyễn) hoặc bị rối loạn (trong trường hợp urê - huyết cao, hôn mê, đái tháo đường, vv).

NHỊP TIM CHẬM. nhịp tim đập dưới 60 lần trong 1 phút có thể đều hoặc không đều (loạn nhịp), NTC sinh lí gặp ở những vận động viên thể dục thể thao luyệt tập tốt; NTC bệnh lí do ngộ độc (thuốc trợ tim, lá trúc đào, trứng cóc...) do các bệnh tim (nhồi máu cơ tim, xơ cơ tim, các bệnh van tim...), NTC thường không có dấu hiệu lâm sàng, tình cơ được phát hiện khi thăm khám, những trường hợp nhịp tim chậm nhiều bệnh nhân cảm thấy khó chịu, choáng váng, thoáng ngất... nhất là khi gắng sức. Chẩn đoán xác định và tìm nguyên nhân NTC phải dựa vào thăm khám và làm các xét nghiệm (chụp Xquang, siêu âm, điện tim...). Điều trị NTC tuỳ thuộc nguyên nhân, trường hợp nặng phải dùng dụng cụ đặc biệt để điều chỉnh nhịp tim (máy tạo nhịp).

NHỊP TIM NHANH. nhịp tim đập trên 100 lần trong một phút, có thể đều hoặc không đều, NTN sinh lý xuất hiện sau vận động thể lực, cảm động, hồI hộp, lo lắng... NTN loại này đều, tần số trung bình (100 - 120 lần/phút), khi nghỉ ngơi sẽ trở lạI bình thường, NTN bệnh lí có nguyên nhân toàn thân như sốt cao, cường tuyến giáp... hoặc nguyên nhân tim mạch như các bệnh van tim, bệnh cơ tim, bệnh mạch vành, cao huyết áp... Chẩn đoán NTN cần dựa vào các dấu hiệu lâm sàng, xét nghiệm, Xquang và nhất là ghi điện tim. Điều trị tuỳ thuộc vào nguyên nhân.

NHÓM MÁU. đặc tính di truyền biểu hiện trên mặt các tế bào máu, đầu tiên phát hiện trên hồng cầu (nhóm ABO), sau đến trên bạch cầu (nhóm thuộc hệ thống LHA) nay có thể mở rộng ra cả đến các nhóm protein huyết thanh. Việc phát hiện ra các NM khác nhau là nhờ sự phát triển của các kĩ thuật miễn dịch học và đã dẫn đến kết luận: muốn bảo đảm an toàn trong truyền máu, tốt nhất là dùng máu cùng nhóm giữa người cho và người nhận. Điều kiện này khó thực hiện, nhất là những khi cần cấp cứu. Trong phạm vi NM thông thường ABO, có thể dùng nhóm máu O cho tất cả mọi nhóm khác nhưng không phải hoàn toàn không có tai biến.

NHỌT. x. đinh nhọt

NHỒI MÁU. ổ hoại tử có giới hạn, hình thành do ngừng đột ngột lưu thông máu động mạch hoặc thiếu máu cục bộ cấp tính (tác động mạch hay tĩnh mạch như ngập máu phổi, não, tử cung, nhau, vv). Có hai loại NM: NM trắng - tổn thương nhạt màu do tác động mạch tận ít tuần hoàn phụ, thường gặp ở thận, lách, não, tim: NM đỏ (cg. NM trắng - tổn thương nhạt màu do tắc động mạch tận ít tuần hoàn phụ, thường gặp ở thận, lách, não, tim; NM đỏ (cg. NM ngập máu) - tổn thương hoại tử máu nặng, tuần hoàn phụ tương đối phong phú, thường gặp ở những cơ quan rỗng như phổi, ruột. Nguyên nhân trực tiếp của van tim và động mạch (vd. Xơ vữa động mạch). MN thường hay xảy ra nhưng khó chẩn đoán. Bệnh xãy ra đột ngột và có những biểu hiện khác nhau tuỳ vị trí bị NM, nhưng ít khi thiếu cơn đau. Xt. Nhồi máu cơ tim; Nhồi máu mạc treo ruột; Nhồi máu não; Nhồi máu phổi.

NHỒI MÁU CƠ TIM. hoại tử nặng và rộng ở cơ tim (phạm vi tổn thương quá 2cm2) do thiếu máu cục bộ. Nguyên nhân chủ yếu là vữa xơ gây hẹp động mạch vành nuôi dưỡng tim. Hay gặp ở nam 58 - 60 tuổi. Thông thường, NMCT xảy ra sau một gắng sức lớn, xúc động mạnh, chấn thương hoặc phẫu thuật. Dấu hiệu: đau dữ dội vùng trước tim, sau xương ức, lan tỏa lên hàm và tay trái; đau dai dẳng kéo dài hàng giờ, huyết áp tụt; sốt nhẹ; rốI loạn tiêu hoá. Điện tâm đồ cho phép chẩn đoán bệnh và xác định vị trí của NMCT. Các biến chứng nặng: truỵ mạch, suy tim, vỡ tim, tắc nghẽn trong tim, vv. Bệnh có thể tái phát với các đợt bệnh sau thường nguy hiểm hơn đợt trước. Phòng bệnh: phòng bệnh xơ vữa động mạch (xt. Xơ vữa động mạch), người trên 50 tuổi cần được thường xuyên theo dõi, quản lí sức khỏe (khám sức khỏe định kỳ). Khi xuất hiện cơn đau thắt ngực hoặc triệu chứng báo hiệu, phải tránh mọi gắng sức đột ngột, nằm nghỉ ngay tại chỗ và dùng thuốc giãn mạch vành; sau khi đã qua khỏi cơn đau phải đi khám bệnh ngay.

Nhồi máu mạc treo ruột. tình trạng ngấm máu thánh ruột do tác động mạch hay tĩnh mạch mạc treo ruột, gây ứ đầy hồng cầu và hoại tử vùng ruột tương ứng. Chưa rõ nguyên nhân của NMMTR, nhưng có thể do biến chứng của các bệnh tim mạch (viêm màng trong tim, hẹp van hai lá, vv), tắc ruột cấp, viêm ruột hoại tử. Dấu hiệu: đau bụng dữ dội, bụng mềm, hơi trướng, nôn, bí trung đại tiện, thường sốt hoặc truỵ mạch. Bệnh diễn biến nhanh, tiên lượng xấu. Trong khi di chuyển cấp cứu, cần hồI sức và chống sốc (truyền dịch, thở oxi, trợ tim, nâng huyết áp...)

NHỒI MÁU NÃO. Tình trạng một vùng của mô não bị hoại tử do động mạch của não bị tắc nghẽn, nguyên nhân có thể do vữa xơ gây hẹp rối tắc hoặc do một cục máu đông, từ nơi khác tới; phần lớn NMN xuất hiện từ từ, các dấu hiệu tăng dần và nặng dần (do vữa xơ), nhưng cũng có thể xuất hiện đột ngột (do cục máu đông). Tuỳ theo vị trí và kích thước vùng não bị hoại tử, người bệnh có các dấu hiệu về tri giác, về thần kinh (hôn mê, co giật, liệt...); chẩn đoán NMN dựa vào các dấu hiệu lâm sàng và chụp Xquang cắt lớp vi tính. Phần lớn trường hợp NMN sẽ hồi phục dần sau một thờI gian tiến triển và thường để lại di chứng: ở một số trường hợp hợp, bệnh nặng dần rồi tử vong.

NHỒI MÁU PHỔI. hậu quả và biến chứng của bệnh tác động mạch phổi do cục máu đông hoặc biến chứng của bệnh tim (hẹp van hai lá, nhồi máu cơ tim, suy tim, vv). Cục máu đông có thể tách từ cục nghẽn ở tĩnh mạch chi dưới sau đẻ, hoặc ở tĩnh mạch chậu sau mổ tại hố chậu. Cục máu đông to làm tắc thân động mạch phổi và có thể dẫn tới tử vong không kịp cấp cứu. Cục máu đông vừa làm tắc một nhánh động mạch phổi và tạo ra khu vực NMP với triệu chứng: đau ngực, khó thở, ho khan rồI chuyển sang ho có đờm lẫn máu; sốt trên 380C; mạch nhanh, vv. Cục máu đông nhỏ làm tắc một nhánh nhỏ của động mạch phổi và có thể không có dấu hiệu gì đáng lưu ý. Dự phòng: điều trị viêm tĩnh mạch. Điều trị cấp cứu theo chỉ định của thầy thuốc.

NHÚ VỊ GIÁC. Nhóm nhỏ các tế bào thụ cảm hoá học, giống như các nhú gai nhỏ, gặp ở động vật có xương sống, chúng có tác dụng nhận biệt vị. Ở động vật có xương sống ở cạn, NVG thường nằm ở các phần lồi nhỏ của biểu mô họng. Các chất dịch hoá học kích thích các tế bào vị giác, các xung thần kinh được chuyển đến não để phân tích. Ở người, có 4 loạI NVG, phân biệt các vị: ngọt, chua, mạn và đắng. Ở động vật có xương sống ở nước, NVG có thể nằm ở bất kì chỗ nào trên bề mặt cơ thể.

NHUNG MAO RUỘT. cấu trúc có hình nhú lồi nhỏ (chỉ nhìn rõ qua kính hiển vi) phủ trên bề mặt ruột, gồm niêm mạc tuyến và một trục liên kết. NMR làm cho bề mặt ruột mịn như nhung, tăng gấp bội diện tích tiếp xúc và tạo thuận lợi cho sự hấp thu nước và các chất dinh dưỡng. NMR có thể bị tổn thương hoặc bị phá huỷ hoàn toàn (trong nhiều bệnh viêm ruột cấp và mạn tính, u, loét, vv) gây rối loạn tiêu hoá (ỉa chảy, kém hấp thu, vv).

NHỨC ĐẦU. x. đau đầu

NHỨC NỬA ĐẦU. cơn nhức đầu kéo dài, xảy ra có chu kì, thường khu trú ở một nửa đầu (vùng thái dương và vùng hốc mắt), có thể kèm theo buồn nôn, nôn, chảy nước mắt, nổ đom đóm mắt, tăng cảm giác, giảm khả năng lao động. Các rối loạn vận mạch là nguyên nhân trực tiếp gây cơn đau, tuy nguyên nhân chính chưa được xác định. Các yếu tố di truyền có vai trò rõ rệt ở nhiều người bệnh. NNĐ còn hay gặp ở người lao động trí óc khi phải làm việc căng thẳng, nhất là về đêm. Cách điều trị: ngoài thuốc an thần, thuốc chữa triệu chứng, chủ yếu cần tránh các nguyên nhân gây nên cơn đau (tuỳ từng trường hợp).

NHƯỢC CƠ. bệnh biểu hiện bằng tình trạng mỏi mệt cơ xuất hiện nhanh và rõ rệt khi bệnh nhân thực hiện liên tục một động tác (chải đầu, nhắm, mở mắt). Các cơ bị bệnh thường là cơ vận động mắt, cơ mặt và gốc chi cũng như các cơ nhai, phát âm, nuốt và hô hấp do các cơ hô hấp bất lực, hoặc rốI loạn sự nuốt. Nguyên nhân trực tiếp của bệnh là do các cơ hô hấp bất lực, hoặc rối loạn sự nuốt. Nguyên nhân trực tiếp của bệnh là do các xung thần kinh điều khiển hoạt động của cơ bị chẹn. Bệnh có liên quan đến u tuyến ức, vì trong nhiều trường hợp, khi cắt u tuyến ức, vì trong nhiều trường hợp, khi cắt u tuyến ức, bệnh có giảm hoặc bớt hẳn.

NIỆU ĐẠO. ống dẫn nước tiểu từ bàng quang ra ngoài. Ở con đực của động vật có vú. NĐ nam dài thông ra ở đỉnh quy đầu, NĐ nữ ngắn thông ra dưới âm vật trước âm đạo. Xt. Hệ sinh dục cái; Hệ sinh dục đực.

NIỆU HỌC (cd. Khoa tiết niệu).chuyên khoa nghiên cứu và điều trị các bệnh thuộc cơ quan tiết niệu của hai giới và cơ quan sinh dục nam (các bệnh của cơ sinh sinh dục nữ thuộc lĩnh vực phụ khoa). Được chia thành nhiều phân khoa theo tuổi của bệnh nhân (NH nhi và NH người lớn) hoặc theo lĩnh vực chuyên khoa sâu (nội tiết, tình dục học, thận nhân tạo, ghép thận).

NIỆU QUẢN. ống dẫn nước tiểu từ bể thận xuống bàng quang. Bình thường mỗi thận có một NQ.

NÓI GIỌNG MŨI. rối loạn phát âm về giọng nói do các biến đổi về cộng hưởng ở hốc mũi. Có hai loại: 1/ NGM hở là biến đổi giọng vì hốc mũi thường xuyên thông với miệng và họng do liệt cơ, lỗ dò vòm miệng, khe hở màn hầu, vv, dẫn tới biến đổi giọng khi phát âm một số phụ âm có cộng hưởng ở mũi (p, k, b, đ, g). 2/ NGM tịt là biến đổi giọng vì mất hẳn sự lưu thông giữa mũi và họng. Trong trường hợp có vật chướng ngại ở phía sau, sẽ không phát âm được các phụ âm đơn điệu. Trong trường hợp vật chướng ngại ở phần trước hốc mũi, giọng giống giọng hề nói khi bịt mũi.

NÓI LẮP. một kiểu rối loạn về cách nói: nói ấp úng, ngắc ngứ, ngập ngừng do khó khăn lúc phát âm và khó kết hợp các âm tiết. Thường bắt đầu ở lứa tuổi nhỏ. Có thể kèm theo các rối loạn về hô hấp hoặc lo lắng ám ảnh. NL xuất hiện cách quãng và biến mất hoàn toàn khi hát.

NÓI NGỌNG. Phát âm sai một hoặc nhiều nhóm từ do thói quen hoặc dị tật hoặc do tổn thương các cơ quan phát âm như lưỡi, môi, răng, vòm miệng, thanh quản...

NÓI SAI GIỌNG. (tk. Khó phát âm)., khó khăn trong trong khi phát âm, giọng nói bị thay đổi về cường độ, độ cao và âm sắc. Do nguyên nhân ở thần kinh trung ương hoặc có thương tổn, dị dạng ở cơ quan phát âm ngoại biên (môi, lưỡi, thanh quản...). Nói khó (khó cấu âm), nói ngọng, khàn tiếng... đều là các dạng NSG.

NỘI ĐỘC TỐ. (tk. Endotoxin), chất độc được tạo ra bên trong vi khuẩn gram âm và được giải phóng ra khi vi khuẩn bị phân huỷ. Là phức chất protein polisacarit, bền vững với nhiệt, gây hiệu ứng không đặc hiệu ở vật chủ như gây sốt, Xt. Độc tố.

NỘI KHOA. 1. Chuyên khoa y học nghiên cứu các bệnh bên trong cơ thể (nội tạng) hoặc điều trị không cần phải mổ xẻ. NK chia ra các phân khoa chuyên sâu vào từng bộ phận cơ thể (tiêu hoá, xơ - xương - khớp, tim mạch, phổi, thần kinh, tâm thần, vv).

2. Trong y học cổ truyền, NK là khoa học về những bệnh ở bên trong cơ thể như bệnh ở 6 kinh, bệnh ở vệ khí, dinh huyết, tam tiêu, bệnh ở tạng phủ, kinh lạc.

NỘI KHOA DÃ CHIẾN. chuyên ngành y học quân sự nghiên cứu đặc điểm bệnh lý và các biện pháp cứu chữa các bệnh nội khoa trong chiến tranh, bệnh nội khoa ở người bị thương, tổn thương nội khoa do các vũ khí huỷ diệt lớn (nhiễm độc chất độc quân sự, bệnh phóng xạ, tổn thương nội khoa do sóng nổ, vv) trong điều kiện dã ngoại (cơ sở điều trị không ổn định, phương tiện hạn chế...). Công tác cứu chữa người bị bệnh trong chiến tranh được triển khai theo bậc thang điều trị từ trận địa về hậu phương.

NỘI MẠC TỬ CUNG (tk. Màng trong tử cung), ở người lớp mô phủ mặt trong buồng tử cung; dày khoảng 1,5mm, gồm một lớp liên bào trụ với chiều cao 30mm dựa trên một lớp đệm giàu mao mạch và tế bào lympho; nhiều tuyến ống. NMTC biến đổi theo chu kỳ kinh nguyệt; đến kỳ kinh nguyệt NMTC bong ra và chảy máu (hành kinh); sau khi sạch kinh, một lớp NMTC mới lại được hình thành.

NỘI MÔ. lớp biểu mô lót bên trong mạch máu và tim, chỉ có một lớp tế bào dẹt, mỏng, xếp rất sít nhau, mặt tiếp xúc rất nhỏ. Trong các mao mạch, là một lớp mỏng ngăn cách giữa máu và dịch lỏng chứa các tế bào. Nước và tất cả các chất đã phân giải có phân tử nhỏ thấm qua các tế NM. Bạch cầu đa nhân cũng có thể lách qua các tế bào NM để xuyên qua thành mạch trong một số trường hợp bệnh lý như viêm do vi khuẩn.

NỘI SOI. kỹ thuật khám trực tiếp bằng mắt các tạng rỗng (ống tiêu hoá), các khoang có lỗ vào nhỏ (bàng quang), các khoang rỗng kín (ổ màng bụng, ổ màng phổi) bằng một dụng cụ gọi là ống nội soi (ống cứng, ống mềm, ống sợi). Ống sợi là một ống mềm có một hệ thống quang học bằng sợi thuỷ tinh và một nguồn sáng lạnh cho phép thăm khám trực tiếp, tỷ mỉ các thương tổn; chụp ảnh, quay phim, quay vô tuyến truyền hình; làm sinh thiết niêm mạc phế quản, niêm mạc ống tiêu hoá (dạ dày, tá tràng, ống mật chủ, đại tràng, vv); còn có thể qua ống đưa vào các dụng cụ khác nhau cho phép rửa hoặc hút dịch, làm sinh thiết chữa bệnh (cắt một polyp, cầm máu, tiêm xơ cứng các giãn tĩnh mạch, phá huỷ các khối u bằng tia laze hay điện, lấy một ngoại vật). Là kỹ thuật ít nguy hiểm, đáng tin cậy, được dùng trong nhiều chuyên khoa: tiêu hoám niệu học, các bệnh phổi, tai - mũi - họng, phụ khoa (soi ổ bụng, đặc biệt để khám cơ quan sinh dục nữ, chẩn đoán chửa ngoài dạ con, xoắc nang buồng trứng, vô sinh, vv). Không được trong các trường hợp túi thừa thực quản, ung thư thực quản, phình động mạch chủ, giãn to tâm nhĩ trái, viêm màng bụng, cơ thể suy kiệt...

NỘI THƯƠNG. (y học cổ truyền), sự tổn thương bên trong cơ thể gây bệnh. Những nguyên nhân gây NT: thất tình, ăn uống, sinh hoạt, làm việc không điều độ, làm cho tì vị bị rối loạn suy yếu, thận bị tổn thương, hư lao, khí huyết không điều hoà. Những bệnh do NT gây nên thường là các bệnh của tạng phủ.

NỘI TIẾT. quá trình các tuyến NT tạo ra các sản phẩm gọi là nội tiết tố đặc thù cho mỗi tuyến, được đổ vào máu và tác động đặc thù vào một khu vực hoạt động của cơ thể, vd. tuyến tuỵ tiết ra insulin tác động vào qáu trình chuyển hoá chất đường. Có những tác động qua lại giữa các tuyến NT với nhau và với hệ thần kinh turng ương theo một cơ chế phức tạp.

NỘI TIẾT HỌC. khoa học nghiên cứu về hocmon, các hình thành, các tính chất và tác dụng của chúng. Trong lịch sử phát triển NTH, bắt nguồn từ nghiên cứu sinh lý người đến những hiểu biết về hocmon động vật có xương sống và đến đầu thế kỷ 20 phát triển sang hocmon động vật không xương sống, thực vật.

NỘI TRÚ BỆNH VIỆN. phương thức đào tạo chuyên gia y tế thực hành chuyên khoa giỏi, trẻ tuổi: sinh viên y khoa năm cuối khoá hoặc mới tốt nghiệp được tuyển chọn qua một kỳ thi theo một khoá đào tạo chuyên khoa sau đại học (4 năm hoặc 3 năm); sinh hoạt và làm việc trong các bệnh viện do bệnh viện đài thọ. Học viên sau khi tốt nghiệp NTBV được mang chức danh bác sỹ chuyên khoa cấp I hoặc có thể tiếp tục đi sâu hơn nữa về chuyên khoa (bác sỹ chuyên khoa cấp II, vv).

NÔN. phản ứng làm cho những chất chứa trong dạ dày bị tống vọt ra ngoài miệng. Cần phân biệt với khạc ộc mủ, khạc ra máu (x. Khái huyết, Khái mủ). Nguyên nhân gây N: viêm họng (hết rất nhanh);nghén (x. nghén); các bệnh cấp cứu ở bụng như viêm ruột thừa, viêm túi mật, tắc ruột (chất nôn có thể lẫn phân lỏng); các bệnh đường tiêu hoá (loét dạ dày, đầy hơi, vv); các bệnh ngộ độc như ngộ độc thuốc trợ tim, thuốc trừ sâu, kim loại nặng (chì, đồng); các bệnh nhiễm khuẩn như viêm ganm viêm màng não (nôn vọt ở trẻ em), non chu kỳ (ở trẻ em, kèm theo các bệnh ở khớp xương, hết rất nhanh sau 2 - 4 ngày); các bệnh tâm thần. Điều trị theo nguyên nhân. Điều trị triệu chứng: liệu pháp tâm lý; thường dùng thuốc chống N như scopolamin (viêm, băng dính), thuốc kháng histamin như scopolamin (viên, băng dính), thuốc kháng histamin như promethazin (sirô, viên), viêm halopyridol (x. Thuốc chống loạn thần). Nói chung không dùng thuốc chống N trong 3 tháng đầu mang thai; nếu N quá nhiều, có thể thủ dùng promethazin. Y học cổ truyền gọi nôn mi73a là ẩu thổ, do khí của vị nghịch lên, thường chia ra các thể: 1/ N do hàn có thể chữa bằng uông nước sắc với gừng hoặc ăn củ gừng sống... chiêu với nước nóng, hoặc dùng bài thuốc: hoắc hương 12g, củ sả 10g, can khương (gừng khô) 8g, tô tử 12g, trần bì 12g, sinh khương (gừng tươi) 8g, 2/ Nôn do nhiệt có thể dùng bài: hoắc hương 12g, chi tử 8g rau má 16g, sinh khương 12g, gạo nếp sao vàng 8g; sắc uống; 3/N do thương thực, có thể uống nước sắc gừng, hoặc dùng bài thuốc hoắc hương 12g, trần bì 12g, củ sả 8g, hậu phác 12g, sinh khương 12g, gạo nếp sao vàng 8g; sắc uống; 3/ N do thương thực, có thể uống nước sắc gừng, hoặc dùng bài thuốc hoắc hương 12g, trần bì 12g, củ sả 8g, hậu phác 12g, sinh khương 12g. Bài thuốc chữa N chung cho các loại: bán hạ 8g, sinh khương 5g sắc uống. Châm cứu các huyệt: nội quan, trung quản, túc tam lý.

NÔN RA MÁU. (tk. thổ huyết), hội chứng nôn mà trong chất nôn có lẫn thức ăn và máu của bản thân bệnh nhân (máu đóng vón, lợn cợn hoặc thành cục đen do ảnh hưởng của dịch vị). Do nhiều nguyên nhân: máu chảy chủ yếu từ dạ dày (loét hành tá tràng, loét bờ cong nhỏ, vv), từ thực quản (giãn tĩnh mạch), đường mật hoặc máu từ mũi, họng, hầu, vv, nuốt vào dạ dày. Dấu hiệu lâm sàng thay đổi tùy theo lượng máu bị mất và thời gian chảy máu (da, niêm mạc nhợt nhạt, chóng mặt, hoa mắt, mạch nhanh, hạ huyết áp, vv). Cần phân biệt với ho ra máu (khái huyết). Chữa bệnh: để bệnh nhân nằm ngửa, nghỉ yên tĩnh trên giường: bắt mạch; đo và theo dõi huyết áp, chườm đá vùng thượng vị; nhịn ăn uống. Nếu không đỡ, cần chuyển đi bệnh viện để cấp cứu.

Y học cổ truyền gọi NRM là thổ huyết. Thường có các thể chính sau: 1/ Thổ huyết do vị nhiệt với biểu hiện thượng vị đau, khó chịu, phân táo, miệng hôi, môi đỏ, mạch sắc; có thể dùng bài: củ sắn dây tươi 40g, mạch môn 40g, cỏ nhọ nồi sao đen 40g, lá tre 20g, sắc uống với bách thảo sương 20g. 2/ Thổ huyết do cản hoả hại vị với biểu hiện cáu gắt, đau đầu, rìa lưỡi đỏ, mạch huyền, có thể dùng bài: tính tre 40g, thanh bì 10g, chi tử sao đen 30g, cỏ nhọ nồi sao đen 60g. Khi thổ huyết nhiều có biểu hiện hư thoát (choáng), dùng ngay nhân sâm (10 - 15g) sắc uống. Nếu chưa có biểu hiện hư thoát, uống bột sâm tam thất (5 - 10g). Châm cứu huyệt Túc tam lí, Trung quản, Nội đình, Nội quan, Thái xung.

NÔN RA MẬT. nôn mà trong chất nôn có lẫn mật từ tá tràng, do một nguyên nhân bất thường (phản ứng nhu động) mật chảy ngược lên dạ dày. Chất nôn thường có màu xanh và bệnh nhân thấy đắng miệng.

NƠ RON. (tk. tế bào thần kinh). Đơn vị cấu tạo và chức năng của mô thần kinh. Một N gồm có: một thân tế bào (tập trung thành lớp, xám ở vỏ đại não, vỏ tiểu não, thành cột tuỷ, cột sống và các hạch phó giao cảm ở gần các cơ quan), những nhánh tỏa từ thân, một nhánh chính dài gọi là sợi trục, nhiều nhánh phụ ngắn gọn là đuôi gai. Các tua rễ của N chui qua các lỗ xương sọ và cột sống ra ngoài thành các dây thần kinh ngoại vi, 12 đôi dây thần kinh não và các dây thần kinh tuỷ, mỗi đốt một đôi. Với số lượng khoảng 14 tỷ và cố định ngay từ khi mới đẻ, N không sinh sản thêm, không tái tạo, với hiệu suất sử dụng hầu như vô hạn, càng làm việc nhiều càng lâu thoái hoá. Làm nhiệm vụ tiếp nhận, phân tích, tổng hợp các kích thích thần kinh rồi dẫn truyền, phân phối các xung động thần kinh đến khắp nơi trong cơ thể, chi phối, điều hoà sự hoạt động của mọi cơ quan và làm cho các cơ quan có quan hệ với nhau. Nó phản ánh các hiện tượng xảy ra bên ngoài, làm cơ thể động vật thích nghi với hoàn cảnh.

NƠ RON THẦN KINH. tế bào thần kinh nối giữa tế bào thần kinh cảm giác (nơron thụ cảm và nơron vận động). NTG nằm chủ yếu ở trong hệ thần kinh trung ương.

NƠ RON VẬN ĐỘNG. loại tế bào thần kinh truyền các xung động thần kinh từ não hay tuỷ sống tới vỏ hay một cơ quan thực hiện khác.

NỤ THỊT. mô liên kết non tạm thời, được hình thành trong quá trình hàn gắn vết thương (thường thấy rõ ở tổn thương ngoài da), có màu hồng tươi, giống như thịt, trước khi được biểu mô phủ lên lúc làm sẹo.

NUỐT ĐAU. cảm giác đau ở họng hoặc thực quản trong khi nuốt. Nguyên nhân: viêm loét, chấn thương, ung thư, dị vật ở họng và thực quản.

NUỐT KHÓ. cảm giác thức ăn bị cản trở (vướng mắc, dừng lại, tắc nghẽn...) trên đường đi qua thực quản sau khi nuốt. Có 2 dạng: NK thức ăn đặc; NK thức ăn lỏng. Thông thường NK thức ăn đặc: thoạt đầu khó nuốt thức ăn rắn, sau đến khó nuốt thức ăn mềm, lỏng. Nguyên nhân: hẹp lòng thực quản (viêm loét các loại, sẹo do bỏng), u lành và ung thư, thực quản (viêm loét các loại, sẹo do bỏng, u lành và ung thư dị vật, chèn ép thực quản từ ngoài do khối u trung thất, phình động mạch chủ và một số dị dạng mạch máu khác, tim trái to (hẹp van hai lá), viêm màng phổi. Có khi là do nguyên nhân toàn thể, vd, hội chứng Plume - Vinxơn (Plummer - Vilson) hoặc Kely - Patecxơn (Kelly - Paterson), do thiếu máu thiếu sắt; có khi là do rối loạn thần kinh gây ra nhiều kiểu co thắt thực quản. Nguyên nhân gây NK thức ăn lỏng: chứng to thực quản, túi thừa thực quản. Cần phân biệt với nuốt đau do viêm họng, viêm amiđan. Chẩn đoán: chiếu và chụp Xquang với chất cản quang (bari sufat); soi thực quản (quan sát tình trạng niêm mạc thực quản, sinh thiết niêm mạc); siêu âm. Điều trị theo nguyên nhân.

NUỐT NGHẸN. từ nhân dân quen dùng để chỉ sự nuốt khó, đôi khi kèm theo hiện tượng khó thở (x. nuốt khó)

NÚT XOANG TÂM NHĨ. (tk. hạch xoang nhĩ), khu vực nhỏ với các sợ cơ tim chuyển hoá ở thành tâm nhĩ phải của tim động vật có vú. Những hoạt động điện tự phát củ anút khơi mào và duy trì co bóp của tim (tim đập); tốc độ tim đập do thần kinh kiểm soát, NXTN cũng gặp ở tâm nhĩ phải của chim, bò sát và xoang tĩnh mạch của cá, lưỡng cư.

NƯỚC BỌT. chất tiết của tuyến nước bọt, dùng để nhào ướt và làm trơn thức ăn, ở một số loài, còn chứa enzym. Vd. ở người và một số côn trùng, trong NB có enzim amilaza dùng tiêu hoá tinh bột, NB ở muỗi có chứa chất chống đông máu.

NƯỚC ĐÁI. X. nước tiểu

NƯỚC TIỂU (cg. nước đái), chất lỏng được thải ra ống đái hoặc lỗ huyệt. Được hình thành trong thận, chứa urê hoặc axit và nhiều chất khác với tỷ lệ thấp. Ở người, mỗi ngày thải trung bình 1 - 1,5 lít. Thành phần gồm: nước, các sản phẩm giáng hoá, các chất khoáng (natri, kali, canxi...) một số chất được đưa vào cơ thể nhiều quá nhu cầu, chất độc, vv, NT mới trong suốt, màu vàng nhạt, mùi hơi khai, đựng trong ống nghiệm một thời gian xuất hiện cặn lắng dưới đáy gồm các tế bào, các tinh thể, các vi khuẩn, bất thường có protein, hồng cầu... Làm xét nghiệm cận NT rất cần thiết trong chẩn đoán một số bệnh; xét nghiệm NT cho phụ nữ có thai ít nhất 3 lần trong các kì thăm thai là một yêu cầu bắt buộc để phòng các tai biến nhiễm độc thai nghén, sản giật.

ỐC TAI. ống màng hình xoắn ốc nằm ở tai trong động vật có vú để tiếp nhận âm thanh. Sóng âm thanh truyền vào tai trong, qua cửa sổ bầu dục truyền qua ngoại dịch bao quanh OT; làm màng màng đáy rung động, kích thích lên các tế bào thính giác làm phát sinh các xung động truyền về não. Âm thanh có tần số khác nhau tác động lên các vùng khác nhau của màng đáy, ở vùng đỉnh ứng với các âm thanh tần số thấp, ở góc âm thanh tần số cao và cho phép phân biệt các âm thanh có độ cao khác nhau. ÔT cũng có ở cá sấu và chim.

ỐNG. cấu trúc mô với hình thái, cấu tạo và chức năng rất khác nhau tùy thuộc vào vị trí. Vd. Ô động mạch là một Ô tồn tại trong thời kì phôi thai, nối liền động mạch chủ và động mạch phổi (về sau teo nhỏ và biến mất) nếu còn tồn tại sau khi ra đời, nó trở thành một dị tật bẩm sinh; Ô dẫn sữa của tuyến vú; Ô mật chủ dẫn mật từ gan và túi mật đến tá tràng; ống nội tuỷ sống chạy dọc theo đường trục của tủy sống để dẫn thông dịch não tuỷ.

ỐNG BẠCH HUYẾT NGỰC ống bạch huyết kéo dài từ phía lưng, là ống chính của hệ bạch huyết. Nhận bạch huyết từ hầu hết các vùng của cơ thể. Ở động vật có vú, ÔBHN xuất hiện từ dưới cơ hoành, đi tới phía trước cột sống và đổ vào tĩnh mạch không tên ở gốc cổ.

ỐNG DƯỠNG TRẤP. ống hiển vi chứa bạch huyết, có trong lông nhung mao của niêm mạc ruột non. Chất béo đã tiêu hoá đựơc hấp thụ vào ÔDT nối với các vi mao mạch bạch huyết và các mao mạch bạch huyết lớn hơn của ruột. Nhờ hệ mao mạch này mà chất béo từ ÔDT được chuyển vào máu qua ống động mạch ngực đổ vào tĩnh mạch cảnh, đến các mô mỡ trong cơ thể.

ỐNG MANPIGHI. Cơ quan bài tiết ở côn trùng, gồm các ống mảnh, kín một đầu, đầu kia đổ vào phần đầu ruột sau. Được gọi theo tên nhà giải phẫu học Italia Manpighi (M Malpighi; 1625-96). Số lượng ÔM có thể thay đổi từ 2 (ở rệp sáp) đến 150 (ở ong mật). Mỗi ÔM có một lớp tế bào, chủ yếu để thải axit uric được hình thành trong quá trình trao đổi chất vào ruột sau, đổ ra ngoài theo phân. Ở nhiều loài côn trùng cánh gân (chuồn chuồn...), ÔM còn có chức năng phụ là tiết tơ.

ỐNG MẬT. ống dẫn dịch mật từ gan đổ vào tá tràng ở động vật có xương sống (x. Túi mật).

ỐNG NGHE. một bộ phận của điện thoại, có tác dụng biến đổi dao động điện thành dao động âm. ÔN gồm có nam châm điện và màng rung. Dưới tác động của dao động điện, màng dao động và phát ra âm.

ỐNG NGHIỆM. ống thuỷ tinh trong suốt, đáy tròn, dùng để thử nghiệm các phản ứng hoá học. Tuỳ theo yêu cầu thử nghiệm, có các ÔN với nhiều kiểu, cỡ và hình dáng khác nhau: thẳng, cong, có nhánh, có nút, chia độ, chịu nhiệt,

ỐNG NỘI SOI. dụng cụ quang học, hình ống, luồn vào trong khoang của một tạng rộng (khí quản, xoang mặt, thực quản, dạ dày, trực tràng, bàng quang, ổ bụng, vvv) cho phép quan sát tình trạng của tạng (vết loét, khối u, ngoại vật), cắt polyp, loại bỏ một số tổn thương khác, Gồm một ống có nguồn sáng nóng hoặc lạnh và có thể có một nhánh bên để luồn ống sông hút dịch, kẹp gắp ngoại vật, kim làm sinh thiết. ÔNS có loại cứng bằng kim loại (ống soi cứng), có loại mềm bằng các sợi thuỷ tinh (ống soi mềm).

Ngày nay, ÔNS được dùng để tiến hành phẫu thuật trong nhiều chuyên khoa. Vd. Khoa tiết niệu làm phẫu thuật nội soi ổ bụng sử dụng ÔNS và các dụng cụ chuyên biệt đưa vào ổ bụng qua đường rạch nhỏ một vài centimét, phẫu thuật viên nhìn mành ảnh truyền hình để thao tác; khoa tai, mũi, họng phát triển "phẫu thuật chức năng xoang mặt" sử dụng các ÔNS (còn gọi là ống soi xa), các dụng cụ vi phẫu và truyền hình.

ỐNG SINH TINH. búi các ống nhỏ cuộn khúc nằm trong tinh hoàn của động vật có xương sống, có chức năng sinh ra tinh trùng.

ỐNG THẦN KINH. yếu tố hình thành đầu tiên của tuỷ sống và não ở động vật có xương sống. Được hình thành do tấm thần kinh cuộn lại và lõm vào thành một ống. ÔTK thường mở ra ngoài ở phía trước bằng lỗ xoang thần kinh. Phía sau ống có thể thông với ruột nguyên thuỷ qua ống ruột thần kinh cho đến khi hình thành đuôi. ÔTK có nguồn gốc từ ngoại bì thần kinh.

ỐNG THẬN. ống dài hẹp tạo thành một phần đơn vị bài tiết của thận động vật có xương sống, để tái thu chọn lọc các chất có lợi. Phần nước lọc rồi bao Bâumân qua các cuộn mạch (hoặc tiểu cầu); ở đây một phần glucozơ, axit amin, một phần nước được hấp thu lại. Sau đó nước lọc đi qua ống lượn, qua quai Henlê - nơi chủ yếu hấp thụ lại nước, rồi qua phần hai ống lượn là nơi hấp thu lại muối, nước. Cuối cùng, chất lỏng còn lại đi vào ống thu nước tiểu chảy vào bể thận. Ở một số động như lưỡng cư, quai Henlê nhỏ hoặc không có ống lượn, vì thế không có khả năng tạo nước tiểu đậm đặc.

ỐNG TIÊU HOÁ.x hệ tiêu hoá

ỐNG TINH một cập ống dẫn chính ở động vật, để dẫn tinh từ tinh hoàn ra ngoài và mở vào niệu đạo ngay sát bàng quang. Ở động vật có vú đực, ÔT bắt đầu từ mào tinh hoàn.

ƠSTROGEN. Hocmon sinh dục cái thuộc loại C18 (vòng A là một nhân thơm) được chế tiết chủ yếu từ tế bào lớp vỏ (ảo) trong của nang trứng, từ một tế bào thể vàng, hoặc từ nhau thai (từ tuần chửa thứ 10 của phụ nữ và bài tiết vào nước tiểu). Một lượng nhỏ Ơ được chế tiết từ vỏ thượng thận và từ dịch hoàn (tế bào Sectoli). Một lượng nhỏ testosteron trong máu cũng được chuyển hoá thành Ơ. Trong 8 chất có mang tính Ơ (phát hiện ở động vật và thực vật), có 3 chất chủ yếu: estron (E 1), ostraction (E 2) và ơstradion (E 2) và ơstrion (E 3), E 2 có tác dụng mạnh nhất (lưu thông trong máu), E 3 yếu nhất (đào thải vào nước tiểu). Ở con cái: Ơ làm nang trứng phát triển. Ơ kết hợp với progesteron làm biến đổi đường sinh dục theo chu kì như tăng trưởng nội mạc dạ con, cổ tử cung, gây sừng hoá tế bào âm đạo, kích thích nội mạc dạ con, bài tiết niêm dịch và glycogen, làm niêm dịch lỏng và kiềm tính hơn (thuận lợi cho tinhtrung di chuyển), hình thành các đặc tính sinh dục thứ cấp, đẩy mạnh chuyển hoá và tăng đồng hoá protein, phát triển tuyến vú, tăng tích luỹ mỡ dưới da, kích thích phát triển hệ cơ xương, giữ nước và muối trước kì kinh nguyệt. Ở con đực. Ơ có tác dụng tăng sinh, làm phát triển tuyến tiền liệt túi tinh, ống dẫn tinh. Ơ được sử dụng riêng hoặc phối hợp với progesteron để ức chế rụng trứng (thuốc tránh thai bằng steroit tổng hợp). Dùng điều trị chứng "bốc hoả" của phụ nữ mạn kinh. Nhưng vì Ơ có thể tác dụng làm cho nội mạc dạ con phát triển quá mức, để dẫn đến ung thư nên cần thận trong khi sử dụng.

PAXTƠ. Nhà hoá học và sinh học Pháp. Đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu: tinh thể học, tính không đổi xứng phân tử; sự lên men, men, nấm, mốc (qua các công trình này, Paxtơ phủ định thuyết tự sinh), sự sống ưa khí và kị khí; sự hoại thối (Paxtơ coi là một dạng lên men). Phương pháp tiệt khuẩn Paxtơ (với nhiệt độ thấp 50 - 600C) loại trừ các tác nhân vi sinh vật gây ra các bệnh dịch ở người và động vật; sự giảm độc các vi sinh vật, từ đó sản xuất ra các vacxin đặc hiệu phòng từng loại bệnh nhiễm khuẩn ở gia súc và người (bệnh tả gà, bệnh than... đặc biệt là bệnh dại lần đầu tiên trị khỏi cho một em bé trai ngày 6-5-1885). Paxtơ là một trong số những người sáng lập ra ngành vi sinh vật và miễn dịch y học. Tên của Paxtơ được đặt cho nhiều viện nghiên cứu khoa học ở Pháp và nhiều nước khác trên thế giới (khối các nước nói tiếng Pháp trong số đó có Việt Nam.

PENIXILIN. chất kháng sinh, được tạo thành từ dịch của các nấm Penicilium notatum và Penicilium chrysogenum hoặc bằng cách tổng hợp. Là nhóm hợp chất có công thức (CH3)2C5H3NSO-(COOH).NHCOR. Do Flêminh (J.A. Fleming), tìm ra (1929). Trong y học, dùng làm thuốc kháng sinh. Có thể gây dị ứng.

PHÁ THAI. Cho thai ra ngoài buồng tử cung trước khi thai nhi có khả năng sống ở bên ngoài (trước đây quy ước là tuổi thai dưới 180 ngày tính từ ngày thụ thai) bằng các biện pháp nhân tạo (nạo tử cung, hút thai, dùng thuốc tống thai ra..). Lí do PT; thai phụ không muốn có con (kế hoạch hoá gia đình, thai ngoài giá thú, ...); có nguy cơ gây bệnh nặng cho mẹ (phổi, tim, thận...) hay cho con sau này (bệnh di truyền, bẩm sinh, chẩn đoán đựơc lúc còn trong bụng mẹ), vv. Để đảm bảo sức khỏe và đời sống cho người mẹ, pháp luật quy định: PT dưới 3 tháng tuổi (phổi chưa thành hình người, thoả mãn yêu cầu đạo lý của các tôn giáo và ít gây nguy hiểm cho mẹ); PT trên 3 tháng tuổi phải có chỉ định của thầy thuốc, phải do thầy thuốc thực hiện ở một cơ sở y tế và bảo đảm kỹ thuật; tự nguyện và có sự đồng tình của bản thân người phụ nữ. Không theo ba quy định trên là PT phạm pháp; nếu xảy ra biến chứng gây nguy hiểm cho đương sự (thủng tử cung, nhiễm khuẩn, tổn thương bộ phân sinh dục) thì pháp luật ở nhiều nước xử như một tội phạm hình sự. Đã từ nhiều năm, PT là vấn đề tranh cãi ở nhiều nước cùng với sự phản đối quyết liệt của các tôn giáo. Ở Việt Nam, nếu không muốn có con, người phụ nữ có quyền yêu cầu cơ quan y tế PT vào bảo đảm bí mật. Trong kế hoạch hoá gia đình, để giảm PT nên phát triển việc phòng tránh thai.

PHÁ TRINH. Làm rách màng trinh ở người phụ nữ trước đó chưa hề có quan hệ tình dục. Nguyên nhân: chủ yếu do giao hợp; chấn thương vùng âm hộ; thủ dâm. Trong một số trường hợp, do có khả năng đàn hồi cao (thường ở thể màng trinh có một lỗ tròn) cho nên sau giao hợp, màng trinh chỉ dãn rộng, không rách nhưng cho lọt một ngón tay dễ dàng cũng được coi đã có phá trinh. Một quy định có tính nguyên tắc: không thăm âm đạo ở một trinh nữ; phải thăm trực tràng nếu cần khám vùng tiểu khung.

PHẢN VỆ. phản ứng quá mẫn cấp tính xảy ra sau khi đưa (tiêm) một kháng nguyên vào một cơ thể sống trước kia đã từng được nhận kháng nguyên đó (bằng con đường qua da, tiêm, tiêu hoá). Sự kết hợp kháng nguyên với kháng thể đã giải phóng ào ạt những chất histamin và các chất dạng histamin gây nên các phản ứng rối loạn huyết động học toàn thân (khó thở, mạch nhanh, ngất xỉu, vv) gọi là sốc phản vệ (phản ứng phản vệ), đôi khi nguy hiểm đến tính mạng nếu không cứu chữa kịp thời

PHẢN XẠ. phản ứng của cơ thể trả lời lại tác động của các kích thích phát sinh từ bên ngoài hoặc bên trong cơ thể được thực hiện bởi hệ thần kinh trung ương. PX thường được kết thúc dưới dạng sự co của cơ hoặc sự tiết của các tuyến. Thông qua PX, hệ thần kinh của động vật với môi trường. PX có tính thích nghi được thực hiện qua cung PX, bao gồm: cơ quan nhận cảm, dây thần kinh hướng tâm, dây thần kinh lí tâm đến cơ quan thực hiện. PX đơn giản nhất là PX không điều kiện: đối với mỗi kích thích có một trả lời nhất định. Vd. PX đồng tử (đồng tử co khi sáng và giãn khi tối), PX có điều kiển chỉ xuất hiện trong những điều kiện nhất định, đòi hỏi được củng cố thường xuyên và không có tính di truyền. Thí nghiệm kinh điển về PX có điều kiện do Paplôp thực hiện ở cho khi cho nhìn miếng thịt, chó tiết nước dãi, đó là PX không điều kiện; nếu đồng thời với đưa miếng thịt tạo thêm kích thích khác như tiếng chuông khi cho chó ăn và làm nhiều lần như vậy cho tới khi chỉ cần nghe tiếng chuông là cho đã tiết nước dãi. Tiếng chuông là tác nhân gây PX có điều kiện. Nhưng nếu chỉ nghe tiếng chuông mà không có miếng thịt, dần dần PX có điều kiện sẽ mất. Ví dụ trên là loại PX cấp I. Người ta đã gây được PX nhiều cấp hơn ở chó. Với người, ngôn ngữ và chữ viết là các tác nhân gây PX có điều kiện phức tạp. Xt. Phản xạ và không điều kiện.

PHẢN XẠ ÁNH SÁNG. sự lan truyền ngược lại của sóng ánhs áng khi gặp lớp ranh giới giữa 2 môi trường có chiết suất khác nhau. Sóng tới và sóng phản xạ nằm trong cùng một môi trường. Phân biệt: 1/ PXAS gương, khi độ mấp mô Dl, trong đó phương của tia phản xạ là bất kỳ. Nhờ sự PXAS mà ta quan sát được các vật không bức xạ ánh sáng, vd. Mặt trăng và các hành tinh trong Thái Dương hệ. Trong khoa học kỹ thuật, PXAS được ứng dụng để xác định các đặc trưng lí, hoá của môi trường, vv.

PHẢN XẠ CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ KHÔNG CÓ ĐIỀU KIỆN. khả năng thích nghi của động vật và con người được quy định bởi sự kích thích các bộ phận tiếp nhận và hoạt động của hệ thần kinh trung ương ở những mức độ khác nhau. Phản xạ không điều kiện là những phản ứng đáp lại có tính chất bẩm sinh của cơ thể, giống nhau ở các cơ thể riêng biệt thuộc cùng một loại. Chúng được đặc trưng bằng mối liên hệ thường xuyên và đơn nghĩa của sự tác động giữa các bộ phận tiếp nhận này hay bộ phận tiếp nhận khác và bằng sự phản ứng đáp lại nhất định đảm bảo cho cơ thể thích nghi với những điều kiện ổn định của đời sống. Thông thường, các phản xạ không điều kiện được thực hiện nhờ tuỷ sống và những bộ phận hạ đẳng của bộ não. Những phức thể phức tạp và những chuỗi phản xạ không điều kiện được gọi là những bản năng. PX có điều kiện là những phản ứng có thể có được trong đời sống được hình thành trong những điều kiện nhất định (do đó tên gọi là phản xạ có điều kiện) của động vật và con người, trên cơ sở những phản xạ không điều kiện nhất định (do đó có tên gọi là phản xạ có điều kiện) của động vật và con người, trên cơ sở những phản xạ không điều kiện, bẩm sinh. Thuật ngữ phản xạ có điều kiện do Paplôp đưa ra. Các phản xạ có điều kiện được hình thành bằng cách tạo nên những dây liên lạc tạm thời trong vỏ não và dùng làm cơ chế để thích nghi với những điều kiện được hình thành bằng cách tạo nên những dây liên lạc trong vỏ não và dùng làm cơ chế để thích nghi với những điều kiện thay đổi phức tạp của môi trường bên ngoài. Hiện tượng hoạt động tâm lí có bản chất phản xạ đã được Xêchênôp chứng minh lần đầu tiên. Phương pháp do Paplôp sáng tạo về phản xạ có điều kiện là cơ sở cho học thuyết về hai hệ thống tín hiệu. Học thuyết này có ý nghĩa to lớn đối với việc xác lập một cơ sở khoa học tự nhiên cho tâm lí học duy vật và lí luận phản ánh duy vật biện chứng.

PHÁP Y. một chuyên ngành của y học, nghiên cứu và giải quyết những vấn đề y học, sinh học, nhằm phục vụ cho quá trình điều tra, xét xử những vụ án hình sự hay dân sự. Xt. Giám định pháp y.

PHÁT ÂM. 1. Quá trình hình thành âm thanh ngôn ngữ do con người phát ra, gồm 3 giai đoạn chính: a/ Luồng hơi đi ra từ phổi; b/ Sự tạo âm (trong thanh quản); c/ Sự cấu âm (trong khong trên thanh quản, yết hầu, miệng, mũi)

2. Toàn bộ đặc trưng hay tập quán phát âm của một ngôn ngữ, của một phương ngữ.

PHÁT HIỆN BỆNH. Tìm ra hay nhận ra bệnh còn ẩn hay chưa biểu lộ. Thường áp dụng cho những bệnh phổ biến và (hoặc) nguy hiểm. Vd. PHB suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), sốt rét, ung thư cổ tử cung, vv trên một phạm vi rộng để có khả năng dự phòng hoặc điều trị sớm.

PHÁT HIỆN BỆNH SỚM. tìm ra bệnh từ khi mới mắc. Đó là một nhiệm vụ quan trọng của y tế cộng đồng trong chăm sóc sức khỏe ban đầu, đặc biệt đối với các bệnh phổ biến và (hoặc) nguy hiểm như một số bệnh lây truyền, ung thư, vv. Trên thực tế, yêu cầu PHBS thường ở thời điểm bệnh nhân chưa có hoặc mới chớm có những biểu hiện lâm sàng rõ rệt của bệnh, nên đáp ứng không dễ, thường tốn công, tốn sức và đòi hỏi một tổ chức y tế tiến bộ, PHBS là một điều kiện cơ bản của việc phòng và chữa bệnh có hiệu quả.

PHÁT SINH TINH TRÙNG. (tk. Tạo tinh trùng),. Quá trình hình thành tinh trùng ở tinh hoàn con đực. Những tế bào khởi nguyên nằm trong biểu mô bắt đầu nhân lên nhờ nguyên phân và hình thành tinh nguyên bào từ trước khi con vật được sinh ra chỉ nhận thấy rõ ràng từ khi bắt đầu thành thục sinh dục. Ở người, tinh trùng được tạo ra liên tục từ lúc trưởng thành sinh dục đến tuổi 70 - 80. Từ khi bắt đầu đến khi thành thục trung bình mất 90 ngày. Những tinh bào sẽ hình thành nên tinh trùng dịch chuyển trong khoang ống tinh và chuyển sang giai đoạn sinh trưởng để hình thành tinh bào sơ cấp; tinh bào sơ cấp phân chia giảm phân (hay giảm nhiễm) đầu tiên tạo ra hai tinh bào thứ cấp chứa bộ nhiễm sắc đơn bội; mỗi tinh bào thứ cấp qua giảm phân lần thứ hai tạo ra hai tinh tử. Sau đó bằng một loạt những biến đổi, tinh tử chuyển thành tinh trùng, suốt thời gian đó chúng liên kết với tế bào Xectoli. Khi các tinh trùng chín sẽ chuyển từ ống tinh sang mào tinh để dự trữ tạo thời.

PHÁT SINH TRỨNG. Quá trình tạo thành trứng trong buồng trứng của cá thể cái. Các tế bào tiền thân nằm trong biểu mô mầm được nhân lên do phân chia nguyên phân thành nguyên bào noãn ngay cả trước khi con vật được sinh ra. Ở người, lúc mới sinh có khảng 150 - 500 nghìn nguyên bào noãn. Mỗi nguyên bào noãn đựơc bọc trong 8 tế bào nhỏ, hình thành nên một nang trứng ban đầu. Từ tuổi dậy thì đến tuổi mãn kinh điển hình (45 - 55 tuổi), mỗi nguyên bào noãn phát triển thành một trứng trong chu kì 28 ngày, luân phiên giữa hai buồng trứng (thời gian này nang trứng được gọi là nang Grap). Nguyên bào noãn phát triển và trở thành noãn bào sơ cấp, sau đó tiến hành phân chia giảm phân. Sau lần giảm phân thứ nhất (hoặc phân chia giảm nhiễm) hình thành nên noãn bào thứ cấp và thể cực nhỏ. Phân chia giảm phân lần thứ hai của noãn bào thứ cấp sẽ sinh ra trứng và thể cực thứ hai.

PHÂN LOẠI NHÓM MÁU. biện pháp kĩ thuật miễn dịch nhằm xác định huyết cầu hay huyết thanh thuộc về loại nhóm nào (x. Nhóm máu). Ngày xưa chỉ có kháng huyết thanh đa clôn, nay đã có kháng huyết thanh đơn clôn đặc hiệu (x. Kháng thể)

PHÂN LOẠI TIP MÁU. Thuật ngữ chủ yếu dùng trong ung thư học và mô bệnh học để xác định hình thái vi thể của một u nhất định. PLTB ngày càng được áp dụng rộng rãi vì giúp cho thầy thuốc điều trị chọn cách xử lí thích hợp và dự kiến được tiên lượng. Vd. Khi PLTB của một ung thư phổi là ung thư biểu mô vảy (dạng biểu bì) biệt hoá; nếu u gọn, phương pháp điều trị tốt nhất là cắt bỏ u, khả năng sống thêm của bệnh nhân thường trên 5 năm...; nếu típ bệnh thuộc loại ung thư biểu mô bất thục sản tế bào nhỏ, phẫu thuật cắt bỏ u thường là chống chỉ định, tiên lượng xấu hơn típ trên.

PHẪU THUẬT BẢO TỒN. cắt bỏ một thương tổn và một phần mô lành tối thiểu cần thiết xung quanh để bảo vệ chức năng của cơ quan bị tổn thương. Vd. Không cắt bỏ toàn bộ chi dưới ở bệnh nhân bị ung thư xương đùi, mà chỉ cắt đoạn xương bị u xâm nhiễm để phục hồi lại chức năng của chi.

PHẪU THUẬT CẤP CỨU. cuộc mổ cần phải được thực hiện ngay sau khi chẩn đoán hoặc sau một thời gian ngắn để kịp thời cứu chữa với kết quả khả quan một chức năng hoặc tính mạng bệnh nhân. Cần phân biệt các cuộc mổ cấp cứu chảy máu trong (vd. vỡ chửa ngoài dạ con, vỡ lách, vỡ khí quản ngay (vd. Trong bệnh bạch hầu thanh quản, sang chấn thương sọ não, vv), với PTCC có trì hoãn, cần hồi sức trước khi mổ (vd. Trong trường hợp tắc ruột, phải hút dạ dày, truyền dịch trước khi mổ, vv).

PHẪU THỤÂT CHẤN THƯƠNG. Can thiệp bằng phẫu thuật các tổn thương xương, khớp, gân, cơ và da nhằm phục hồi lại hình thể và chức năng của phần bị tổn thương. Ở xương, có thể lấy bỏ những mảnh vụn, lắp ráp các mảnh xương rời, các đoạn gãy rồi cố định bằng cung ngoại vi hay kết xương bằng kim loại (đinh, vít, nẹp, vv). Ở gân, cơ phải cắt bỏ các phần giập nát, khâu nối lại để phục hồi hình dạng cũng như chức năng. Đối với da, cũng phải cắt lọc và khâu phục hồi, khi cần thiết có thể sử dụng các vạt chuyển hoặc da ghép để che phủ các phần dưới da.

PHẪU THUẬT CHỈNH HÌNH. những can thiệp mổ xẻ vào xương, khớp, cơ, gân và da để sửa chữa các biến dạng của chi do di chứng chấn thương hoặc do một bệnh bẩm sinh hay mắc phải để lại (giảm hay mất chức năng sử dụng, ảnh hưởng tới thẩm mĩ của chi). Mổ xương để chỉnh trục, kéo dài hoặc rút ngắn xương, ghép thêm xương vào những ổ khuyết hoặc đóng cứng xương. Mổ gân để chuyển hay kéo dài gân, ghép gân, gỡ dính để tạo điều kiện cho chi có thể hoạt động bình thường. Mổ da có thể là vá da, chuyển vạt, ghép da. Trong thực tế thường phải mổ phối hợp cả xương, gân, da mới phục hồi được cả hình thể lẫn chức năng của chi.

PHẪU THUẬT LẠNH. phẫu thuật dùng các chất làm lạnh (nitơ lỏng) và thiết bị có đầu áp lạnh vào nơi tổn thương rồi phun nitơ lỏng theo kĩ thuật "đông lạnh - tan băng", tạo lớp băng mỏng áp dính chặt vào vùng thương tổn. Tuỳ loại bệnh, thời gian áp lạnh từ 60 đến 100 giây. Sau PTL, vùng được áp lạnh bị hoại tử, sau vài tuần rụng thành sẹo.

Ưu điểm của PTL: đơn giản, không cần gây tê, gây mê như phương pháp đốt điện hoặc đông điện; không mất máu như mổ bằng dao kim loại: thời gian phẫu thuật được rút ngắn. Tuy nhiên, PTL chỉ áp dụng đối với những tổn thương không lớn theo chỉ định của thầy thuốc.

PHẪU THUẬT NGỰC. khu vực điều trị ngoại khoa rất rộng từ thủ thuật chọc dò thông thường vào lồng ngực, những phẫu thuật đựơc tiến hành để điều trị các bệnh ở bên ngoài thành ngực (da, vú...), ở thành ngực (xương sườn, mạch máu, thần kinh, thủng thành ngực, vv) đến các phẫu thuật phức tạp trong lồng ngực và trung thất (ở tim, phổi và các phủ tạng trong trung thất.

PHẪU THUẬT NHI KHOA. một ngành của ngoại khoa mà đối tượng là trẻ em từ sơ sinh đến 15 tuổi, PTNK mang tính chất đặc thù về phương pháp, kĩ thuật và dụng cụ phẫu thuật, cũng như về mặt tổ chức các dịch vụ y tế.

PHẪU THUẬT PHỤ SẢN KHOA. thủ thuật dùng dao, kéo và một số dụng cụ khác để giải quyết một số bệnh phụ khoa và sản khoa. Phẫu thuật phụ khoa nhằm giải quyết những sai lệch và bệnh tật ở bộ phận sinh dục nữ, vd. cắt bỏ khối u ở tử cung, ở buồng trứng, vv. Phẫu thuật sản khoa nhằm giải quyết những trường hợp đẻ khó, vd.mổ tử cung lấy thai, cắt bỏ tử cung sau đẻ khó, vv

PHẪU THUẬT TẠO HÌNH. Chuyên ngành ngoại khoa có nhiệm vụ: xử trí (sửa chữa, phục hồi, xây dựng) những dị dạng, dị hình; phục hồi hình thể, chức năng của những bộ phận bộc lộ của cơ thể mang tật bẩm sinh, những tổn thương bệnh lý hoặc di chứng của chúng. Cùng với ngành ngoại khoa chung, PTTH hình thành từ thời cổ xưa, thực sự phát triển và trở thành một chuyên khoa từ sau Chiến tranh thế giới I và có vị trí ngày càng quan trọng trong ngành ngoại khoa thời bình cũng như trong thời chiến.

PHẪU THUẬT THẨM MỸ. Chuyên khoa phẫu thuật tách ra khỏi chuyên ngành phẫu thuật tạo hình vào những năm 20 của thế kỉ 20. Nhiệm vụ của PTTM là sửa chữa hình dáng bên ngoài của cơ thể vì mục đích thẩm mĩ (làm đẹp). Vd., ghép xương hay sụn để nâng cao sống mũi quá thấp, căng da mặt để giảm bớt những nếp nhăn do tuổi tác, vv

PHẪU THUẬT THẦN KINH. Chuyên ngành phẫu thuật điều trị các bệnh thuộc hệ thần kinh trung ương và ngoại biên, các chấn thương hệ thần kinh. Phẫu thuật định vị thần kinh có thể đưa các điện cực vào vùng tổn thương ở não để chẩn đoán hoặc điều trị bệnh.

PHẪU THUẬT TIẾT NIỆU. chuyên ngành phẫu thuật chữa bệnh và tật ở bộ phận bài tiết nước tiểu (thận, niệu quản, bàng quang, niệu đạo) và các cơ quan liên quan đến đường tiết niệu (tuyến tiền liệt, vv).

PHẪU THUẬT TIM MẠCH. Chuyên khoa phẫu thuật điều trị các bệnh tim mạch. Năm 1882, Blaloc (A. Blalock; 1899 - 1965; nhà phẫu thuật Hoa Kì) là người đầu tiên khâu thực nghiệm vết thương tim trên động vật; năm 1886, lần đầu tiên mổ tim thành công trên người. Mổ tim để điều trị bệnh tim đã bắt đầu phổ biến trên 40 năm nay. Đã mổ thành công bệnh hẹp van hai lá bằng phương pháp mổ tim kín (1948). Sau khi đã giải quyết được vấn đề tuần hoàn ngoài cơ thể bằng máy tim phổi nhân tạo, năm 1952, đã bắt đầu mổ bệnh hở van hai lá. Đã có thể mổ đựơc thành công nhiều bệnh tim bẩm sinh và mắc phải nhờ kết hợp với kĩ thuật hạ thân nhiệt nhân tạo. Đỉnh cao của PTTM là kĩ thuật thay tim, ghép tim.

PHẪU TÍCH. Kĩ thuật tách các thành phần cấu tạo của một bộ phận, một vùng của cơ quan để tìm hiểu hình thái, sự liên quan với vùng lân cận, để có thể tiến hành các thao tác cần thiết trong một cuộc mổ. Vd. Tách rời mạch máu để khâu, để buộc, tách dây thần kinh để nối, để cắt và buộc.

PHẨY KHUẨN. 1. Dạng vi khuẩn hình dấu phẩy.

2. Tên một chu vi khuẩn có dạng hình que hơi cong, gram âm, kị khí không bắt buộc, gây bệnh tả, sinh sản rất nhanh gây hiện tượng mất nước và mất các ion Na+, HCO- 3 và Cl-, vv.

PHÌNG ĐỘNG MẠCH. (cg. phồng động mạch) tình trạng một đoạn động mạch mà cấu trúc bị biến đổi làm cho thành mạch yếu đi, bị phình to thành một túi phồng. Nguyên nhân; vữa xơ động mạch; giang mai; rách thành bên do một vết thương động mạch, vv. Thường gặp ở động mạch chủ, động mạch dưới đòn, nách, động mạch chậu ngoài, động mạch đùi, khoeo. Có hai loại PĐM: 1/ PĐM thực sự hay bệnh lí - ít khi thành của chỗ phình (gọi là túi phình) vẫn còn giữ được đầy đủ cấu trúc ba lớp (lớp áo trong, lớp cơ và lớp áo ngoài) hoặc ít nhất hai lớp (lớp cơ và lớp áo ngoài); 2/ PĐM chấn thương, còn gọi là PĐM giả do vết thương làm rách thành bên của động mạch, qua đó máu chảy ra ngoài tạo thành một bọc máu tụ; sau một thời gian (từ 1 tháng trở lên) bọc máu tụ trợ thành túi PĐM với một vỏ xơ dày, chắc; thành túi phình không có cấu trúc hai hoặc ba lớp của thành động mạch; nghe hoặc sở trên chỗ phình có thể thấy tiếng rung hoặc cảm giác rung theo nhịp mạch đập. Các phồng động mạch; nghe rung theo nhịp mạch đập. Các phồng động mạch lớn có thể gây rối loạn tuần hoàn tại chỗ, gây viêm nhiễm, hình thành cục đông máu (gây tắc mạch), vv. Cũng có thể cản trở đến sinh hoạt, vận động. Điều trị bằng phẫu thuật.

PHÓNG TINH. (cg. xuất tinh) hiện tượng tinh dịch chứa trong túi tinh xuất ra ngoài qua niệu đạo, do sự co bóp của túi tinh; xảy ra ở người đàn ông vào giai đoạn cuối của giao hợp.

PHÓNG NOÃN. hiện tượng vỡ nang noãn sau khi nang noãn đã chín và để noãn (giao tử cái, trứng rụng chưa thụ tinh) phóng ra khỏi buồng trứng. Noãn chỉ có thể thụ tinh được sau khi đã phóng ra khỏi nang noãn. Ở những phụ nữ có kinh đều, PN xảy ra giữa vòng kinh. Trong mỗi vòng kinh, thường chỉ có một nang noãn PN, song cá biệt, có thể có PN phụ, nghĩa là trong một vòng kinh, có thêm 1 lần PN hoặc có PN nhưng xảy ra khi không có hành kinh. Noãn chỉ sống tối đa được 24 giờ và có thể thụ tinh được trong thời gian đó. Sau khi PN, phần còn lại của nang noãn tại buồng trứng sẽ phát triển thành hoàng thể, chế tiết ra progesteron. X. rụng trứng.

PHỒNG ĐỘNG MẠCH. X phình động mạch

PHÙ DO THAI NGHÉN. Phù xuất hiện chủ yếu vào 3 tháng cuối của thời kì thei nghén: bắt đầu từ phù chân, sớm nhất ở mắt cá chân; phù trắng, mềm, ấn lõm, không đau. Nếu chỉ có phù chân, có thể là phù do ứ trê tuần hoàn, tử cung có thai đã chèn ép vào tĩnh mạch chủ dưới và các tĩnh mạch chân. Khi bệnh nặng thêm, phù sẽ xuất hiện ở mặt, ở bụng và phù toàn thân, do muối và nước được giữ trong các khoáng gian bào. Phát hiện bằng theo dõi cân nặng. Bình quan mỗi ngày tăng quá 100g là cơ thể có phù. Khoảng 60% số người tăng cân quá mức sẽ có những nguy cơ tăng huyết áp, có protein niệu, PDTN là một dấu hiệu sớm của nhiễm độc thai nghén. Phải theo dõi thai phụ, đo huyết áp, tìm protein niệu ít nhất 2 tuần một lần; có chế độ điều trị, ăn uống, lao động, nghỉ ngơi thích hợp, vv, để dự phòng sản giật.

PHÙ NỀ. x. Phù

PHÙ NIÊM. trạng thái bệnh lí do giảm năng tuyến giáp ở trẻ lớn hay người trưởng thành. Dấu hiệu lâm sàng: ngấm niêm dịch vào da, các mô của cơ thể, vv; mệt mỏi, ngủ lịm không chịu được lạnh, vô cảm...; các chức năng sống giảm hoạt động, lãnh đạm tình dục, giảm khả năng hoạt động trí tuệ, giảm chuyển hoá cơ bản; ởtrẻ em, toàn bộ sự phát triển bị giảm và ngừng lại trước khi dậy thì, dẫn tới bệnh đần. Điều trị: dùng hocmon giáp tổng hợp, cao tuyến giáp tổng hợp, cao tuyến giáp, tính chất giáo theo hướng dẫn của thầy thuốc.

PHÙ PHỔI CẤP. trạng thái bệnh lí ở phổi với huyết tương đột nhập và tràn ngập các phế nang. Thường xảy ra đột ngột và là một cấp cứu nội khoa hàng đầu. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu: khó thở cấp dữ dội; khạc đờm nhiều (có thể tới hàng trăm mililit); đờm loãng, nhiều bọt, có màu hồng. Nguyên nhân: bệnh tim mạch (hẹp van hai lá, cao huyết áp, vv) ảnh hưởng đến hệ thống tuần hoàn phổi; bệnh nhiễm khuẩn (ở phổi, thận, sởi, cúm, vv); ngộ độc; xảy ra sau một gắng sức khi leo núi ở người không thích nghi với khí hậu núi cao. Điều trị cấp cứu và điều trị nguyên nhân.

PHÙ THẬN. phù hay ngấm nước vào các mô của cơ thể, đặc biệt mô lỏng lẻo dướida, niêm mạc; xảy ra trong các bệnh thận (tổn thương trong các tiểu cầu thận làm tích nước và muối trong cơ thể). Dấu hiệu: phù ở mặt, ở các bộ phận có nhiều mô lỏng lẻo, (vd. Hai mí mắt), phù hai chân, phù toàn thân; có thể tích nước trong các khoang màng bụng, màng phổi, màng tim; da trên vùng bị phù trắng, không đỏ hoặc tím, ấn mềm, lõm xuống và để lại dấu lõm ngón tay; tăng cân: xét nghiệm nước tiểu thấy có protein niệu. Điều trị: chữa nguyên nhân; ăn nhạt, uống nước râu ngô, cây bông mã đề; rau dừa nước (du long thái), trạch tả, vv, hoặc các thuốc lợi niệu (hypothiazide, furosemide).

PHÙ THIẾU DINH DƯỠNG. chứng phù do chế độ ăn thiếu chất, chủ yếu là thiếu protein động vật như trong trường hợp khẩu phần ăn không có sữa, thịt, cá, trứng...Cũng có thể mắc chứng phù dinh dưỡng khi bộ máy tiêu hoá không hấp thụ được các chất ăn vào như trong bệnh viêm ruột hoặc ỉa chảy kéo dài. Người gia và trẻ dưới 3 tuổi dễ mắc chứng PTDD hơn trẻ lớn và người lớn. PTDD xảy ra ở các vùng miền núi nhiều hơn ở vùng đồng bằng.

PHÙ TIM. Phù do suy tim. Suy tim làm giảm lưu lượng máu vào thận và ứ trệ máu ở tĩnh mạch đổ về tim, hậu quả là nước và muối được tích trong các mô của cơ thể. Xuất hiện trước tiên ở mắt cá chân, sau tăng dần lên toàn bộ hai chi dưới, toàn thân rồi lan đến các xoang tự nhiên trong cơ thể (xoang màng bụng, màng phổi, màng ngoài tim, vv). Thường có kèm theo dấu hiệu: tím xanh các niêm mạc do tăng hemoglobin khử (trên 5g/100ml ở máu ngoại biên); khó thở, bệnh nhân phải nằm gối đầu cao, không gắng sức được. Phù có thể xảy ra ở nhu mô phổi, gây phù phổi cấp, có thể nhanh chóng dẫn đến tử vong nếu không cấp cứu kịp thời. Chẩn đoán khó dẫn đến tử vong nếu không cấp cứu kịp thời. Chẩn đoán khó trong thời gian đầu lúc phù còn kín đáo; cần kiểm tra cân nặng bệnh nhân hàng ngày để theo dõi lượng nước tích trong các mô của cơ thể, làm biểu đồ cân nặng hàng ngày để đánh giá kết quả chữa bệnh. Dự phòng: chữa bệnh suy tim theo chỉ dẫn của thầy thuốc; ăn nhạt, chế độ sinh hoạt nhẹ, dùng thuốc lợi tiểu.

PHÙ VOI. Tăng kích thước của một chi hay một bộ phận trong cơ thể do phù cứng và viêm mạn tính da và mô dưới da; xuất hiện từ từ, do các bạch mạch, nhất là ở các gốc chi bị giãn và viêm, làm tắc tuần hoàn bạch huyết (do fibrinogen của bạch huyết đông lại thành fibrin, lẫn với tế bào viêm, bạch cầu một nhân và đa nhân). Có hai loại PV: PV nhiệt đới do giun chỉ gây ra, làm tắc các hạch lympho và bạch hạch bẹn, gây phù, viêm da và mô dưới da, kèm theo xơ cứng của toàn bộ chi dưới, bìu ở nam, môi sinh dục lớn ở nữ; phù Nostra xảy ra ở châu Âu do liên cầu khuẩn gây viêm quầng mạn tính. Chữa PV nhiệt đới: phẫu thuật để chỉnh hình, kèm theo điều trị giun chỉ.

PHỤ KHOA. Chuyên khoa y học nghiên cứu những nội dung sinh lí và bệnh lí có liên quan đến cơ quan sinh dục nữ, trong đó có vấn đề điều trị các bệnh liên quan đến sinh dục là chủ yếu, đồng thời cũng đề cập đến các vấn đề thuộc lĩnh vực y - xã hội học có liên quan đến hoạt động của phụ nữ như sức khỏe sinh sản, kế hoạch hoá gia đình, vv.

PHÚC MẠC. x. màng bụng

PHỤC HỒI CHỨC NĂNG. phục hồi khả năng hoạt động của một cơ quan, một bộ phận cơ thể bị suy giảm, rối loạn, bị mất đi, có nguy cơ làm cho đương sự trở thành một người tàn tật, tàn phế. Cần thiết trong điều trị tất cả các loại bệnh, đề phòng các hậu quả do thiếu vận động bình thường hay một lí do nào khác gây ứ trệ trong cơ thể. PHCN là một phương pháp chữa bệnh, nhất là các đối tượng mà hoạt động hàng ngày bị giảm (phụ nữ lúc có thai, lúc sinh đẻ, trong thời kì sau đẻ; người bị các thương tật ở các mức độ khác nhau; người cao tuổi không còn làm việc; người lao động, nhất là trong các ngành nghề nặng nhọc, có nhiều độc hại, hoặc làm việc trong các tư thể gò bó, vv). Tiến hành PHCN ở tất cả cơ sở y tế mở rộng đến tận các gia đình, tạo cho mỗi người dân một tập quán thực hiện hàng ngày. Sử dụng các phương tiện chữa và tập luyện hiện đại đến các phương tiện đơn giản nhất có thể tự tạo với các nguyên liệu sẵn có tại chỗ, các phương pháp dưỡng sinh không cần dụng cụ. Trong giáo dục, PHCN là huấn luyện trẻ sử dụng các chức năng sinh lí còn lại bù đắp cho chức năng bị mất, để có khả năng tự phục vụ và hoà nhập vào cuộc sống xã hội.

PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TRONG CỘNG ĐỒNG. Hình thức tổ chức huấn luyện người khuyết tật sử dụng những chức năng sinh lý còn lại, với sự hỗ trợ của các phương tiện, thực hiện các hoạt động cá nhân ngay trong môi trường gia đình và xã hội mà người khuyết tật sinh sống. PHCNTCĐ là hình thức chủ yếu của khoa học phục hồi chức năng được áp dụng ở các nước Bắc Âu. Ở Việt Nam, hình thức tổ chức giáo dục này bắt đầu được ứng dụng từ 1989.

PROGESTERON. (A. progesterone; tk. Hocmon thể vàng), C21H30O2. Một loại hocmon được tiết ra từ thể vàng (cg. Hoàng thể) của phụ nữ và động vật cái và từ vỏ tuyến thượng thận, nhau thai. Kết tinh dưới dạng tinh thể màu trắng, không mùi; thường gặp ở hai dạng: đồng phân có tnc=1280C và có tnc=1210C. Tan trong ancol, ete; không tan trong nước. Tác dụng chính là kích thích phát triển và gây biến đổi trong dạ con (tử cung), chuẩn bị đón trứng đã thụ tinh, tạo điều kiện cho phôi và thai phát triển; P làm mềm tử cung, giảm kích thích co bóp tử cung (vì thế P có tác dụng giữ thai, nên còn được gọi là tố trợ thai); ức chế quá trình rụng trứng, tăng cường kích thích tiết sữa, ảnh hưởng đến quá trình trao đổi nước và muối khoáng trong cơ thể. P là chỉ tiêu quan trọng được dùng để chẩn đoán các giai đoạn của chu kì động dục và chẩn đoán có chứa, thể vàng tồn lưu và u nang buồng trứng. P được cơ thể thải qua phân, nước tiểu dưới dạng chất hoà tan. Ngày nay, người ta đã tổng hợp được nhiều chất có tác dụng tương tự P; có thể uống được, gọi chung là progestin. Các progestin tổng hợp thường được dùng nhiều để tránh thai (x. thuốc tránh thai).

PROLACTIN (tk. Kích thích nhũ tố, kích tố dưỡng thể vàng) hocmon polipeptit do tế bào ưa axit của thuỳ trước tuyến yên chế tiết, cấu trúc có số axit amin 191-198 (loài động vật có vú) hoặc 199 (người), khối lượng phân tử 21 - 26 nghìn dalton, không chứa các cacbohidrat, là một chuỗi đơn, hình thành những quai bằng 3 cầu nối đisunfua, P có ở tất cả động vật có xương sống, cùng với hocmon sinh trưởng (GH, STH) và hocmon lactogen nhau (PL) tạo nên hocmon polipeptit đồng đẳng về cấu trúc.

P thúc đẩy phát triển tuyến sữa và tiết sữa sau khi đẻ; tác động lên hệ thần kinh trung ương làm cho gia súc cái có biểu hiện bản năng làm mẹ và gia cầm mái có bản năng ấp trứng; tác động đến sinh sản, kích thích sinh trưởng, cân bằng nước và điện tích, cũng có tác dụng kích thích thể vàng tiết progesteron. Ở phụ nữ, hàm lượng P cao sẽ kìm hãm chu kỳ kinh nguyệt (hội chứng tắt kinh do tiết sữa) nhưng hàm lượng P kông có liên quan đến hiện tượng không động dục ở bò và cừu. Ở chim, P kích thích tiết sữa điều tiết từ tuyên diều để nuôi con.

Còn tìm thấy P trong tuyến sữa bò và trong huyết thanh ngựa chứa.

PROTEAZA. Nhóm các enzym thủy phân liên kết peptit của protein. Bao gồm nhiều enzym đã đựơc biết rõ như pepsin, tripsin, papain, rennin. Dễ tan trong nước. Được sử dụng làm men bánh mì, các thuốc trợ tiêu hoá và trong sản xuất bia.

PROTEIN. Có nghĩa là thứ nhất nói lên ý nghĩa quan trọng của loại hợp chất này; tk. Protit, đạm, những hợp chất tự nhiên, cao phân tử, có đơn vị cấu tạo là các a - aminoaxit thuộc dãy đồng phân L, gồm 20 loại (trong số trên hai trăm loại axit amin tồn tại trong thiên nhiên). Những axit amin này được nói với nhau thành chuỗi thẳng (không rẽ nhánh) bằng liên kết peptit (-CO-NH-) khá bền vững. Số lượng và trình tự các gốc axit amin trong những chuỗi polipeptit này quyết định các tính chất lí, hoá, và đặc biệt là những tính năng sinh học của các P. Với con số nguyên liệu gốc là 20 loại a-aminoaxit nhưng thông qua sự thay đổi số lượng về trình tự sắp xếp mà tế bào sinh vật có được một số lượng nhiều vô tận các phân tử P khác nhau. Đặc tính về số lượng và trình tự này gọi là cấu trúc bậc I của P, được quy định bởi mã di truyền trong AND và ARN, P là vật chất mang sự sống ở sinh vật, nơi biểu hiện của trạng thái sống như trao đổi chất, sinh trưởng, phát triển, vận động, hoạt động thần kinh... đều gắn liền với chức phận của những phân tử P khác nhau (như các enzym, anbumin, globulin, miosin, các hocmon, kháng thể, kháng độc tố, vv). Khối lượng phân tử của P rất khác nhau, từ 102 đến 105 dalton, nghĩa là có những phân tử chỉ gồm vài ba gốc cho đến hàng nghìn gốc axit amin: trong tế bào, nhiều P còn liên kết thành những tổ hợp chức năng có khối lượng hàng triệu dalton. Dựa vào cấu hình, có hai dạng P là dạng cầu và dạng sợi. Dựa vào thành phần hoá học có thể chia P thành hai lớp lớn: 1/ Holoprotein, là những proteit hay protit phức tạp, là những P có thêm nhóm ghép (nhóm ngoại) không phải axit amin. Lớp này chia thành 5 nhóm tuỳ thuộc vào bản chất phần ghép (photphoproteit, glycoproteit, lipoproteit, cromoproteit và nucleoproteit). P có khả năng tham gia nhiều phản ứng hoá học (oxi hoá - khử, este hoá, vv), tạo dung dịch keo và lưỡng tính, có thể tạo muối với các axit cũng như với bazơ. Để sinh trưởng và phát triển, sinh vật phải thường xuyên được cung cấp đủ các axit amin để tạo ra một P cần thiết. Trong số 20 loại axit amin, có phải lấy từ nguồn dinh dưỡng (xt. Axit amin). Không có hoặc thiếu P trong thức ăn sẽ gây ra những bệnh nghiêm trọng. Nhu cầu của người lớn là 70 - 80g P trong một ngày. Thuộc loại P thường có: protamin, proteinoit, vv. Việc nghiên cứu cấu trúc và tính năng của P giúp con người hiểu được những cơ chế phân tử của hiện tượng sống để tiến tới điều tiết các hoạt động này. Đây chính là mục tiêu hàng đầu của sinh học hiện đại.

PROTEIN NIỆU. tình trạng trong nước tiểu có protein nguồn gốc từ huyết thanh, được bài tiết qua thận bị viêm (anbumin, globulin) hoặc từ những đường bài xuất niệu (từ bàng quang, niệu đạo do bị viêm) hoặc từ những mô (do tiêu các mô của ống thận). Thuật ngữ PN thay cho thuật ngữ anbumin niệu dùng trước đây.

Để theo dõi sức khỏe phụ nữ có thai, phải thăm thai ít nhất là 3 lần, từ tháng thứ 5 cho đến khi đẻ: mỗi lần thăm thai phải xét nghiệm nước tiểu và tìm PN để đề phòng sản giật và các tai biến khác. Kĩ thuật tìm PN đơn giản, có thể thực hiện được ở bất kì nhà hộ sinh nào.

PROTEIN SỮA. lượng protein có trong sữa thể hiện bằng tỷ lệ phần trăm (%). Tỷ lệ PS ở một số động vật như sau: bò 3,2; trâu 4,5, ngựa 2,1; dê 3,6; cừu 5,8; lợn 7,2; thỏ 15,5; chó 9,7; mèo 9,1. Thành phần chủ yếu của PS là cazein (chiếm khoảng 80%), phần còn lại là lactoanbumin và lactoglobulin. Cazein là nguyên liệu để sản xuất pho mát. PS là loại protein có giá trị dinh dưỡng cao, chứa đủ và cân đối các axit amin cần thiết cho người và động vật.

PROTIT (Ph. Protide; A. protein: tên khoa học của đạm). x. Protein.

QUÁ MẪN. phản ứng quá mức của một cơ thể đối với một protein lạ (kháng nguyên) xâm nhập vào cơ thể và tạo ra sự xung khắc kháng nguyên - kháng thể, vd. Hen xuyễn, mề đay, phù Quyncơ (Quyncke), sốc phản vệ, vv. Thông thường, khi xâm nhập vào cơ thể lần thứ nhất, protein lạ không gây phản ứng đặc biệt đến biểu lộ ra ngoài như tiêm huyết thanh chống bạch hầu, tiêm tubeculin hay BCG. Khi tiêm lần thứ hai sau đó một thời gian (2-3 tuần), có thể xảy ra hai trường hợp.

1. QM tức thì (QM sớm) - cơ thể phản ứng ngay ít phút sau: phản ứng nhẹ - ở chỗ tiêm sưng đỏ, đau, sốt nhẹ, mệt mỏi; phản ứng nặng - phản ứng mãnh liệt kiểu sốc phản vệ (vd. Khi tiêm huyết thanh chống bạch hầu). Nguyên nhân có các kháng thể hoà tan lưu hành trong máu (miễn dịch thể dịch).

2. QM chậm - cơ thể phản ứng chậm sau 2 - 3 ngày (vd. Khi tiêm tubeculin hay BCG): phản ứng tại chỗ như đỏ, sưng nhẹ và vài tuần sau tự khỏi; có thể phải có thời gian để huy động các tế bào có chức năng miễn dịch như lymphô T đại thực bào (miễn dịch tế bào).

QM xảy ra ở một số bệnh nhân có cơ địa riêng, khi tiêm vào cơ thể một số thuốc hay chế phẩm (penicillin, streptomyxin, BCG, các vacxin, huyết thanh, vv), mà thường không gây ra phản ứng gì đối với nhiều cá thể khác. Vì vậy, trước khi sử dụng các chế phẩm loại này, cần hỏi kĩ tiền sử QM đối với các loại thuốc và chế phẩm kể trên, phải thăm dò cẩn thận phản ứng miễn dịch của bệnh nhân và dùng các biện phải giải mẫn cảm nếu cần.

QUAI. Trong giải phẫu học là một cấu trúc giống cái quai. Vd. Q cổ là Q do hai thần kinh ở cổ nối nhau; Q ruột, Q hàm, Q động mạch, vv

QUAI BỊ. x bệnh quai bị.

QUÁI THAI. Bào thai phát triển không bình thường về mặt sinh thái chức năng hay hoá sinh. Phân biệt: QT đơn - những bộ phận của một thai phát triển không bình thường, không đều; QT phức (tạp) - hai hay nhiều thai chung trứng bị dính nhau hay lồng vào nhau.

Có hai trường hợp QT đơn: QT đơn tự dưỡng - bản thân QT có hệ tuần hoàn riêng: QT đơn kí sinh - QT ăn bám vào một thai bình thường cùng trứng, thường dính với nhau bằng dây rốn hay nhau của thai bình thường. QT rốn nuôi là dạng QT đơn và mạch máu trong nhau thông với mạch máu thai cùng trứng có bộ phận tuần hoàn bình thường. Do hoạt động của tim thai mà máu được lưu thông trong thai, nhưng vì máu lưu thông trong nhau là những mạch máu cùng loại nên tuần hoàn trong QT là tuần hoàn ngược nên các QT thường không đầu, không mình.

Có 2 loại QT phức: QT phức kí sinh: QT tự dưỡng. Ở QT phức kí sinh, một thai kém phát triển hơn thai kia và hình như ăn bám vào thai kia. Thai kí sinh có thể coi là khối u của thai kia, có thể có đầu, một cánh tay... nhiều khi chỉ ra khối mô có da bao bọc. Có những u quái lồng trong cơ thể bình thường trên, phần giữa hoặc phần dưới cơ thể. Thái chỉ dính da và lưng có thể tách rời được; các thai có những phủ tạng gắn nhau hay hợp nhất với nhau thì không thể tách được.

QUÁI THAI HỌC. khoa học nghiên cứu những quai thai và dị tật phát triển ở thực vật, động, người và nguyên nhân gây ra.

QUAN HOẠN. x. hoạn quan

QUẢN LÝ SỨC KHOẺ.tổng hợp các biện pháp chuyên môn kỹ thuật y tế, môi trường và xã hội, nhằm mục đích theo dõi có hệ thống, nắm được tình hình sức khỏe của mỗi người dân và cộng đồng để có kế hoạch giải quyết một cách toàn diện mọi vấn đề có liên quan đến sức khỏe của toàn dân. Nội dung của QLSK cá nhân: giải quyết ngay các bệnh mới phát hiện, các điểm bất thường của sức khỏe...; khám sức khỏe định kỳ (một hay nhiều lần trong một năm hay 2 - 3năm một lần tuỳ theo tình hình của mỗi người, không kể các trường hợp bất thường), khám lại sức khỏe, ghi các nhận xét vào sổ sức khỏe, giải quyết ngay các bệnh mới phát hiện.

QLSK có thể là cơ sở của việc xây dựng sức khỏe gia đình, sức khỏe cộng đồng, của dịch tễ học, của thống kê y học, xây dựng các chương trình sức khỏe quốc gia và mỗi cộng đồng của tổ chức mạng lưới y tế, của hoạt động y tế.

QUẦNG SÁNG. 1. Vòng hay đai sáng, không bắt mầu, vây quanh nhân tế bào (như bào tương)

2. Vòng sáng trắng không nhuốm màu, quanh một đốm sáng mà bệnhnhân bị glôcôm (tăng nhãn áp) thường nhìn thấy.

3. Vòng tròn hiện diện quanh điểm vàng khi soi đáy mắt.

QUẦNG THÂM. Vùng có dạng hình tròn, sẫm màu hay nâu đen, xanh tím quanh mắt (do mệt mỏi, dị ứng, rối loạn nội tiết...); xung quanh vết thương, vết đụng dập.

Quinacrin. C23H30CIN30. Thuốc trị sốt rét tổng hợp có màu vàng, vị đắng, tác dung vào thể schzonte và thẻ gamet của Plasmodium malariae và P. vivax. Phối hợp với plasmoquin hoặc qunin cũng có tác dụng vào P fulciparum. Còn dùng trị sán lá và sán dây. Cũng dùng dẫn xuất của Q (aminoacrichin) để trị sán dây và diệt Trichomonas. Việc dùng Q để tránh thai (đặt vào trong buồng tử cung) không được sự nhất trí của các nhà nghiên cứu trên thế giới.

Quinin.C20H24N202. Hợp chất thuộc nhóm các ancalit, có trong vỏ cây canhkina (Cinchona sp). Vỏ cây Cinchona officinalis có khoảng 8% Q. Cây canhkina mọc nhiều ở Nam Mỹ và được trồng ở Java (Indonexia). Bột vô định hình; rất đắng: tne = 1770C; độ quay cực riêng với tia D: -1580 (trong etanol). Ít tan trong nước; tan trong etanol ete, clorofom. Dạng muối sunfat, hidro clorua, fomiat, etyl cacbonat của Q (euquinin) không đắng và là thuốc trị sốt rét (diệt thể vô tính gây sốt ở máu, thể sốt nặng, ác tính). Dạng thuốc: viên nén và thuốc tiêm. Dùng theo chỉ định của thầy thuốc; phụ nữ đang có kinh cần thận trọng khi dùng Q (Q gây co bóp tử cung kiểu ecgotin). Không dùng Q để phòng bệnh.

Quinidin. (tk. Quinidin, sunfat, quinicacđin, quinide, đồng phân của quinin. Dùng Q làm thuốc chống loạn nhịp tim trong cơn nhịp nhanh trên thất, phòng rung thất nhĩ và cuống động nhĩ, ngoại tâm thu. Có dạng thuốc viên 0,20g và ống tiêm 2ml chứa 0,5g. Chống chỉ định: mẫn cảm với Q, blốc nhĩ thất, phân li nhĩ thất, nhiễm độc digitalis, hội chứng yếu nút xoang, suy tim nặng. Dùng Q theo chỉ định của thầy thuốc.

Quinolin. C9H7N. hợp chất dị vòng thơm chứa nitơ, lấy từ nhựa than đá, từ sản phẩm dầu mỏ. Chất lỏng nhớt, không mầu sắc hoặc có màu vàng nhạt, thẫm màu dần khi tiếp xúc với không khí và ánh sáng, có mùi đặc trưng: t8 = 2370C. Tan trong etanol, benzen, ete. Dùng làm dung môi hoà tan nhựa, vv, làm nguyên liệu cho tổng hợp phẩm nhuộm xianin, dược phẩm, vd. Atophan (xincophen), enteroxepton, quinojol; 8-hidroxiquinolin là một loại thuốc thử torng hoá phân tích. Nhân Q là thành phần cấu tạo của nhiều ancaloit, vd. Quinin.

RẠCH. động tác dùng dao cắt mở da, niêm mạc và các phần mềm, các tạng hoặc bộ phận cơ thể nhằm bộc lộ khu vực mổ, cắt bỏ, thông tháo hoặc dẫn lưu, vv. X. Đường rạch.

RĂNG. phần phụ cứng rắn ở trong xoang miệng, dùng để nghiền, xé thức ăn. Số lượng, cách sắp xếp và sinh lý của R tạo thành các kiểu R đặc trưng cho từng loài động vật.

Ở người, R được chia ra: 1/ R sữa là R tạm thời, mọc lên từ lúc 6 đến 30 tháng tuổi. Có 20 chiếc và sẽ được thay dần bằng R vĩnh viễn. Đến tuổi thay R, nên nhổ R sữa khi bắt đầu lung lay. 2/ R khôn, loại R cối lớn (R hàm) thứ ba, mọc vào lứa tuổi thành niên (18-25 tuổi) cũng có khi mọc chậm hơn hoặc không mọc. R khôn có thể mọc lệch (mọc kẹt vào góc xương hàm), gây đau khó há miệng, có khi bị khít hàm. R khôn mọc lệch thường làm hỏng R hàm đứng trước nó. Phải nhổ R khôn mọc lệch ở cơ sở y tế chuyên khoa, tránh biến chứng. 3/ R vĩnh viễn là loại R thay R sữa và tồn tại đến tuổi già. Có 32 răng vĩnh viễn, mọc từ lúc 6 tuổi đến khoảng 22-25 tuổi (x. công thức răng).

RĂNG CỬA. răng nằm phía trước hàm ở động vật có vú, có phần vành và chân đơn giản. Thường có dạng chiếc đục với bờ cắt sắc. Dùng cắt thức ăn và ở các loài gặm nhấm dùng để gặm. RC của gặm nhấm là răng có ống tuỷ hở mọc ra liên tục suốt đời sống. Đa số các loài động vật có vú bốn RC hàm trên và bốn RC hàm dưới.

RĂNG GIẢ. Răng làm bằng kim loại, nhựa hoặc sứ để thay răng vĩnh viễn bị mất. Có tác dụng giữ cho những răng còn lại không bị đổ, bảo tồn chức năng nhai và giữ vẻ đẹp của hàm răng. Cần làm ngay RG sau khi nhổ răng.

RĂNG HÀM. Răng nằm ở vùng má, có kích thước lớn. Ở động vật có vú, có từ hai cái trở lên, nằm ở vùng sau cùng của hàm. Trên mặt RH có một số mấu lồi, dùng nghiền hay nhai thức ăn. RH chỉ mọc một lần trong đời. Ở người, RH thứ ba ở cả hai phía của mỗi hàm đến tuổi thành niên mới mọc (vì thế còn gọi là răng khôn).

RĂNG-HÀM-MẶT. chuyên khoa nghiên cứu làm công tác dự phòng và chữa các bệnh về răng và hàm mặt. Muốn phát triển và đáp ứng được các yêu cầu của nhân dân, khoa R-H-M hiện đại ứng được các yêu cầu của nhân dân, khoa R-H-M hiện đại cần có các trang thiết bị và vật tư đầy đủ, cán bộ có kinh nghiệm và kĩ thuật. Do chi phí cho chữa bệnh rất tốn kém và ngày càng đắt tiền hơn, cần phát triển theo hướng dự phòng, bảo vệ răng miệng cho trẻ em và nhân dân lao động bằng biện pháp ít tốn kém nhất; vệ sinh răng miệng, xỉa răng, chùi đánh răng sau mỗi bữa ăn; chế độ ăn uống giảm đường; kẹo; phòng bệnh sâu răng bằng cách cung cấp nước có trộn flo.

RĂNG KHÔN. X. răng

RĂNG NANH. loại răng cố định nhọn hình chóp, nằm ở cả hai bên, giữa răng cửa và răng trước hàm ở động vật có vú. Chỉ có 1 RH ở mỗi phía của mỗi hàm, tổng số là 4 RN. Ở động vật ăn thịt (vd. Chó), RN dài dùng giết mồi. Động vật gặm nhấm không có RN.

RĂNG NÓN. X. Conođonta

RĂNG SỮA. X. răng

RĂNG TẠM THỜI. X răng

RĂNG THỊT. loại răng đặc biệt có ở chó và các động vật có vú ăn thịt: răng hàm nhỏ (răng trước hàm) cuối cùng ở hàm trên và răng hàm đầu tiên ở hàm dưới. Các răng này rất to, dùng cắt thịt, gặm xương, chỉ có một dãy mấu lồi chạy dọc theo hàm. Mặt trong phẳng và nhẵn của RT hàm trên có thể cắt qua cắt lại trên bề mặt ngoài nhẵn của răng hàm dưới, giống như lưỡi kéo. Khi ăn thịt hoặc gặm xương, chó đưa mồi vào sâu trong miệng đến chỗ các RT để nghiền và gặm.

RĂNG HÀM TRƯỚC. (tk. Răng hàm nhỏ), răng nằm giữa răng nanh hoặc răng cửa ở phía trước và răng hàm ở phía sau của động vật có vú. Có nhiều chân cắm chắc vào hàm và củ lồi trên mặt răng dùng để nghiền thức ăn (x. răng)

RĂNG VĨNH VIỄN. x. răng

RẬM LÔNG - RẬM RÂU. rậm lông chủ yếu do rối loạn nội tiết. Có 3 loại: loại dị hình - thường gặp ở phụ nữ ở tuổi dậy thì hoặc tiền mãn kinh, kèm theo mọc râu, dấu hiệu của nam tính hoá; loại dị sắc ở trẻ em - lông râu mọc sớm; loại dị sản - lông phát triển khắp người hoặc ở chỗ bất thường, có tính chất gia đình, thường kèm theo dị tật khác. Rậm râu ở phụ nữ do có u tuyến yên, u nam tính, hoá buồng trứng hoặc tuyến vỏ thượng thận. Cần được khám chuyên khoa để điều trị.

RẬN. x. chấy rận

RẬN MU. bệnh do rận kí sinh ở vùng lông mu. Lây khi quan hệ tình dục với người có bệnh; có thể lây do dùng chung quần áo, chăn, chiếu, chậu rửa. Rận đốt, gây ngứa vùng lông mu (triệu chứng sớm) và để lại những vết xước do ngứa gãi và những sẩn nhỏ, rớm máu. Có thể tìm được rận và trứng ở vùng mu. Điều trị: cạo lông mu; vệ sinh cá nhân, chăn, màn, giường chiếu; bôi các loại thuốc diệt kí sinh vật (nhũ dịch benzil benzoat 25%).

RÒ. X. Đường rò

RÒ HẬU MÔN. đường thông bất thường đi từ lỗ ngoài da đến lỗ trong ở niêm mạc hậu môn - trực tràng và ở trong cơ thắt hậu môn (đường rò hoàn toàn), hoặc từ da vào hố ngồi - trực tràng, ở ngoài cơ thắt hậu môn (đường rò chột), xảy ra sau apxe quanh hậu môn và tự vỡ ra ngoài; đường rò bị xơ hoá, có nhiều mô hạt, rỉ dịch và mủ, không tự liền được. Dự phòng: rạch rộng apxe quanh hậu môn tự vỡ ra ngoài; đường dò bị xơ hoá, có nhiều mô hạt, rỉ dịch và mủ, không tự liền được. Dự phòng: rạch rộng apxe quanh hậu môn theo đúng kĩ thuật, băng bó hàng ngày, điều khiển sự lên sẹo từ trong sâu ra ngoài da, không cho vít miệng quá sớm. Điều trị: rạch rộng đường rò, phá huỷ hết các ngách đường rò, phơi bày đường rò và điểu khiển sự lên sẹo.

RÒ ĐỘNG TĨNH MẠCH. Tình trạng có một lỗ hoặc một đường nối thông giữa một động mạch và một tĩnh mạch (thường chạy song song và sát nhau). Có hai loại: RĐ - TM bẩm sinh (có từ khi mới sinh), vd. Các u bẩm sinh của mạch máu; RD-TM mắc phải còn gọi là rò chấn thương khi hai mạch máu ở gần nhau cùng bị thương một lúc ở một điểm gần sát nhau. Qua lỗ hay đường rò, máu từ động mạch (có áp lực cao) chảy sang tĩnh mạch (có áp lực thấp) rồi đổ về tim phải gây rối loạn về huyết động; tim bắt buộc phải làm việc tăng lên, cuối cùng dẫn đến suy tim phải. Cách điều trị duy nhất là phẫu thuật (xt. Phình động mạch).

RONG HUYẾT. ra huyết từ đường sinh dục nữ ra ngoài, kéo dài trên 7 ngày ngoài kì kinh nguyệt. Nguyên nhân: doạ sẩy thai, sẩy thai; ung thư cổ tử cung; ung thư thân tử cung, u xơ tử cung. Cần được khám bệnh để xác định nguyên nhân và điều trị.

RONG KINH. hiện tượng hành kinh kéo dài trên 7 ngày, bất kể lượng máu nhiều hay ít. RK có thể do nguyên nhân rối loạn hoạt động nội tiết liên quan đến sinh dục; tử cung bị tổn thương (u xơ, lao niêm mạc tử cung); các bệnh rối loạn chảy máu, đông máu. Nói chung, RK bao giờ cũng là bệnh lí và cần được xác định nguyên nhân bệnh và điều trị kịp thời, đỡ mất máu kéo dài. Đặc biệt đối với những em gái đang ở tuổi dậy thì, RK cần được chữa rất sớm, tránh để thiếu máu kéo dài, gây khó khăn cho việc điều trị nguyên nhân bệnh.

RỐI LOẠN CHỨC NĂNG SINH DỤC. tình trạng không thỏa mãn trong giao hợp. Có thể ở người chồng hay người vợ. Ở người chồng, có những biểu hiện: ham muốn tình dục thấp do ốm đau, mệt mỏi, hôn nhân không phù hợp, sự thông cảm và tôn trọng giữa vợ chồng bị giảm sút, do một số bệnh (suy nhược cơ thể, bệnh thận, bệnh nội phóng tinh như xuất tinh sớm, xuất tinh ngược dòng (tinh xuất vào bàng quang); đau khi giao hợp (đau ở dương vật hay tinh hoàn) do dị tật dương vật, sang chấn thương dương vật, chít hẹp quy đầu hoặc do bị tổn thương ở âm đạo (sẹo cứng ở tầng sinh môn, thiếu dịch nhầy) hoặc do dị ứng với bao cao su, thuốc diệt tinh trùng. Ở người vợ có những biểu hiện: giảm kích thích do rối loạn cương tụ máu ở 2/3 ngoài âm đạo không được trơn; co thắt âm đạo ở 1/3 ngoài âm đạo ngăn cản sự giao hợp; cơn cực khoái thấp, thường do đau khi giao hợp (đau ở âm đạo, âm vật hay vùng tiểu khung).

RỐI LOẠN KINH NGUYỆT. hiện tượng bất thường về kinh nguyệt như hành kinh kéo dài (rong kinh), hành kinh nhiều huyết (băng kinh), hành kinh đau (thống kinh), vv RLKN chỉ là triệu chứng của các bệnh khác nhau, vì vậy phải tìm nguyên nhân bệnh để điều trị (x. rong kinh; thống kinh; vô kinh).

RỐI LOẠN NGÔN NGỮ. Một trong các rối loạn tâm thần, thần kinh, bao gồm các biểu hiện mất cảm giác ngôn ngữ, bệnh mất ngôn ngữ vận động, tật nói ngọng, tật viết sai... có khi có một trong các rối loạn này, có trường hợp bị hỏng ngôn ngữ hoàn toàn.

RỐI LOẠN NƯỚC ĐIỆN GIẢI. Trong cơ thể sống khỏe mạnh luôn luôn có một sự vận chuyển nước và điện giải qua các khu vực chính: trong và ngoài tế bào, trong và ngoài lòng mạch máu, tạo thành một thể cân bằng do tính chất của màng phân cách (màng tế bào thành mạch) và nồng độ các chất trong khu vực. Khi có thay đổi tình trạng màng phân cách hay đậm độ điện giải, sẽ xảy ra các rối loạn nước và điện giải. Vd. Trong ỉa chảy.

RÔÍ LOẠN SẮC GIÁC. rối loạn khả năng nhận biết màu sắc, có thể bẩm sinh hay mắc phải. RLSG có nhiều mức độ, từ nhẹ đến nặng: nhược sắc - cảm nhận 3 màu yếu: khuyết sắc - chỉ cảm nhận được hai màu trong số ba màu cơ bản (x. Sắc giác); mù màu - không phân biệt được màu nào. Việc xác định các RLSG bẩm sinh rất cần thiết trong việc tuyển lựa nghề nghiệp đối với các ngành như lái tàu, phi công, lái thuyền và một số ngành sản xuất công nghiệp có liên quan đến màu sắc (vd. người mù màu đỏ cấm không được làm trong ngành đường sắt ). Các RLSG mắc phải thường xuất hiện trong các bệnh của võng mạc và thần kinh.

RỐI LOẠN TIỀN ĐÌNH. rối loạn khả năng cảm nhận thăng bằng, biểu hiện thông thường là chóng mặt, buồn nôn, nhức đầu. Sự cảm thụ vị trí của cơ thể trong không gian dựa trên 3 hệ thống thông tin: từ thị giác, từ tiền đình tai trong và từ cơ quan cảm thụ bản thể (các cảm giác sâu, gân và cơ). Hội chứng tiền đỉnh xảy ra khi có thương tổn trong hệ thống tiền đình từ điền đình tai trong đến trung tâm tiền đình ở thân não hoặc khi bộ máy tiền đình bị kích thích quá mức (dao động của đu quay, tàu thuyền, vv).

RỐN.1. Ở thực vật: a/ vết sẹo trên vỏ hạt được tạo thành tại điểm dính của noãn trên vách bầu bởi cuống noãn. Là đặc điểm phân biệt hạt và quả, b/ điểm giữa của hạt tinh bột, được tinh bột bao quanh. C/ điểm nhỏ ở gốc của bào tử đám gần chỗ dính vào buồng bao tử.

2. Ở động vật: a/ sẹo của cuống nhau ở vùng giữa bụng. Ở người, thai nhi nằm trong tử cung, không thở; ôxi và các chất dinh dưỡng được cung cấp từ máu mẹ qua nhau và cuống nhau. Khi trẻ ra đời, cuống nhau bị cắt và sau 2 - 5 ngày teo đi và rụng, để lại vết sẹo lõm, đó là R. Do thao tác kĩ thuật (cắt cuống nhau bằng mảnh chai, mảnh sành, dao kéo bẩn...) và chăm sóc thiếu vô khuẩn, vùng R có thể bị nhiễm khuẩn, ướt có mủ, có nhiều khả năng gây uốn ván R sơ sinh (tỷ lệ tử vong cao, trên 70 - 80%). B/ vùng lõm mà qua đó mạch máu và dây thần kinh đi vào tạng, như R gan, R lách, R phổi, R thận.

RUNG GIẬT NHÃN CẦU. một loại rung động của nhãn cầu ngoài ý muốn, có thể bẩm sinh, sinh lí hoặc bệnh lý, tự phát, hoặc chỉ có một số tư thế, hoặc được gây ra bằng các biện pháp; nhiệt, ghế quay dao động; ghế quay gia tốc, giảm tốc, vv. Tuỳ theo hướng có: RGNC ngang, RGNC dọc, RGNC xoay tròn, RGNC phối hợp hoặc đa hướng, còn có thể xảy ra khi nhìn một vệt sáng hoặc các vạch sáng, tối chuyển động. RLNC gồm hai pha: pha chậm và pha nhanh; được gọi tên theo pha nhanh.

RUNG TÂM NHĨ. Loạn nhịp tim do những xung động nhanh (300 - 400 lần/phút), không đều, tác động lên cơ nhĩ, làm cho cơ nhĩ mất khả năng co bóp mà chỉ rung động liên tục. Biểu hiện: tim đập không đều về biên độ và khoảng cách (cg. loạn nhịp tim hoàn toàn). Điều trị bằng thuốc quinidin hoặc sốc điện theo chỉ định của thầy thuốc.

RUNG THANH. Rung động do tiếng nói phát ra từ các dây thanh âm và truyền qua khí - phế quản, nhu mô phổi đến thành ngực gây ra, có thể cảm thấy được khi áp sát gan bàn tay lên lồng ngực, RT tăng trong các trường hợp kết đặc nhu mô phổi (viêm phổi), viêm xơ cứng, thâm nhiễm lao trên diện rộng vv. RT giảm trong các tràn dịch, tràn khí màng phổi; RT mất hẳn trong xẹp phổi lớn, tràn khí màng phổi toàn bộ, hang khổng lồ không có phế quản dẫn thông, vv

RUNG TIM. Xung động hỗn loạn, tác động lên sợi cơ tim (chủ yếu cổ tâm thất), làm cho các thớ cơ rung lên loạn xạ, dẫn tới liệt và mất khả năng co bóp, tim ngừng đập và chết ngay. RT là bệnh cấp cứu, cần phá rung bằng sốc điện tại trung tâm chuyên khoa tim mạch.

RỤNG LÔNG TÓC. Tình trạng rụng lông hay tóc bệnh lí do nhiều nguyên nhân: tật bẩm sinh, nhiễm khuẩn cấp cứu (sốt rét, thương hàn), nhiễm khuẩn mạn tính như giang mai, chấn thương, phẫu thuật, xúc cảm đột ngột, một số thuốc (vd. Hoá chất tali), tia X (thường làm RL-T sau 15 ngày), do nấm ở trẻ em (x. nấm tóc), do tạng da mỡ ở người lớn (x. hói đầu). Sau khi khỏi bệnh, tóc sẽ mọc trở lại. Điều trị: thường dùng thuốc kích thích mọc tóc theo công thức 4ml amoniac + 12ml terebenthin + 84ml cồn long não.

RỤNG TRỨNG. Quá trình sinh lí thực hiện chức năng sinh sản ở động vật bậc cao. Sau khi tế bào trứng phát triển đầy đủ (trứng chín) sẽ di chuyển từ bao não tới miệng ống dẫn trứng và thoát ra khỏi buồng trứng (ở gia cầm, trứng thoát ra ngoài). Ở động vật có vú như trâu, bò, lợn, vv, trứng rụng khi bao não, chín và có tỷ lệ hocmon RT (LH/FSH) thích hợp, thường là 1/3. Nếu không gặp tinh trùng, trứng sẽ tự tiêu trong ống dẫn trứng và trứng mới đựơc hình thành. Hiện tượng vỡ nang RT được lặp lại theo chu kì, thực hiện khi có mặt của hocmon RT. Số lượng trứng dụng theo loài và lứa tuổi. Lợn cái và gia súc đẻ nhiều con có khoảng 20 trứng rụng: trâu, bò có 5-7 trứng rụng cho mỗi chu kì động dục. Ở người, RT là hiện tương vỡ nang trứng sau khi nang noãn đã chín và phóng noãn ra khỏi buồng trứng. Trong mỗi vòng kinh bình thường chỉ có một nang noãn được phóng ra, noãn chỉ sống tối đa 24 giờ và chỉ có thể thụ tinh trong thời gian đó. Sau khi phóng noãn, phần còn lại của nang noãn tại buồng trứng sẽ phát triển thành thể vàng (hoàng thể) tiết ra progesteron. Nếu có sự thụ tinh, thể vàng rất lớn (có khi tới 2cm) và bắt đầu thoái hoá từ tháng tư của bào thai cho đến khi đẻ.

RUỘT. ống vận chuyển thức ăn từ dạ dày xuống hậu môn. Trong quá trình vận chuyển, thức ăn di chuyển trong R, đồng thời lại có sự tiêu hoá và hấp thụ chất dinh dưỡng. Ở động vật có xương sống. R được chia thành R non (hẹp) và R già (lớn) (x. đại tràng; ruột non).

RUỘT GIÀ. (tk. đại tràng) x. đại tràng

RUỘT GIỮA. phần giữa ống tiêu hoá ở động vật chân đốt và động vật có xương sống, tiêu hoá và hấp thụ thức ăn. Ở động vật chân đốt, RG và ruột tịt kết thúc phía trước của ống Manpighi; được hình thành từ lá phôi trong, gồm các tế bào hình trụ cao có lớp cuticun lót bên trong. Ở động vật có xương sống, RG là đoạn từ ống mật đến ruột thẳng (x. Ruột trước, ruột sau).

RUỘT NGUYÊN THUỶ. Xoang xuất hiện sớm nhất ở da số phôi động vật. Được hình thành do nếp gấp phần mặt ngoài của phôi nang tạo nên xoang phía trong. Thông với bên ngoài qua miệng phôi.

RUỘT NON. phần ống hẹp giữa dạ dày và ruột già, RN gồm ruột tá, ruột chạy (hỗng tràng) và ruột hồi (hồi tràng), có lông nhung bọc lót. Là nơi tiêu hoá và hấp thụ thức ăn.

RUỘT SAU. phần cuối cùng của ống tiêu hoá ở động vật chân đốt và động vật có xương sống. Ở động vật chân đốt, RS gồm: hồi tràng, kết tràng, trực tràng, được lót bằng lớp biểu mô, lớp này tiết ra màng kitin bảo vệ tcó thành phần tương tự bộ xương ngoài. Màng kitin bong khi lột xác. Về mặt phôi sinh học, RS bắt nguồn từ ống hậu môn và liên quan với lá phôi ngoài. Ở động vật có xương sống, RS là phần phía sau của ống ruột.

RUỘT THỪA. đoạn ruột hình con giun, dài khoảng 7 - 8cm cắm vào dây manh tràng ở dưới góc hồi - manh tràng khoảng 3cm. Chỗ RT cắm vào manh tràng là điểm cố định nhất, dùng làm mốc để tìm RT, ứng với điểm ở một phần ba ngoài và hai phần ba trong trên đường nối gai chậu trứơc - trên với rốn, ở hố chậu phải, gọi là điểm Mac Bony (gọi theo tên nhà phẫu thuật C. Mc Burney) hay điểm RT. Đỉnh và thân RT thường ở dưới hay cạnh trong manh tràng nhưng dễ thay đổi vị trí, tạo nên nhiều hình thái bệnh lý, rất khó chẩn đoán Xt. hệ tiêu hoá.

RUỘT TỊT. x. manh tràng

RUỘT TRƯỚC. phần đầu tiên của ống tiêu hoá ở động vật chân đốt và động vật có xương sống. Ở động vật chân đốt, RT gồm xoang miệng, thực quản, diều và mề, được lót bằng lớp biểu mô; lớp này tiết ra màng kitin bảo vệ ở phía trong, được bong đi khi lột xác. Trong quá trình phát triển phôi, RT bắt nguồn từ miệng phôi (nguyên khẩu) do lá phôi ngoài lõm vào. Ở động vật có xương sống, RT đoạn đầu tiên của ống tiêu hoá tới ống mật.

RÚT MÁU. Thao tác lấy máu ra khỏi cơ thể. Trong thú y, có nhiều trường hợp cần RM: 1/ RM để chữa bệnh, lấy ra một phần máu của con vật nhằm làm giảm cho một khí quan hay một bộ phần nào đó của cơ thể giảm xung huyết; 2/ Rút kiệt máu, RM hoàn toàn, thường tiến hành ở các lò mổ, phải làm thật nhanh để đảm bảo giữ được chất lượng thịt sau khi mổ RM trong phòng thí nghiệm, về cách làm cũng giống như RM để chữa bệnh, nhưng với mục đích kiểm tra huyết học: lấy ở con vật cho máu một lượng máu để có đủ lượng huyết thanh cần thiết cho việc xét nghiệm những đặc tính hoá sinh và miễn dịch hay cầm máu mà không làm con vật cho máu bị chết.

RỬA VẾT THƯƠNG. Dùng nước đun sôi để nguội và xà phòng rửa sạch da xung quanh vết thương; cạo lông, tóc (nếu có), sau đó dùng các loại thuốc nước như dung dịch natri clorua 9%, dịch daykin [gọi theo tên của daykin (H.D. Dakin) ; 1880 - 1952; nhà hoá học Anh], nước ôxy già nhẹ rửa vết thương, rửa trôi đất, các dị vật bám vào mặt vết thương, đặc biệt ở trong các hốc, các khe giữa các cơ và dưới da. Sau khi RVT, đắp lên một miếng gạc vô khuẩn, bông sạch, băng qua và đưa vào phòng mổ để thầy thuốc xử lý vết thương. Là thao tác bắt buộc trước khi xử lí vết thương, nhất là vết thương do tai nạn giao thông, lao động, vv

SA DẠ CON. X. sa sinh dục

SA DÂY NHAU. hiện tượng bất thường xảy ra khi chuyển dạ đẻ: dây nhau (dây rốn) bị sa xuống dước trước ngôi thai. SDN gây nguy hiểm cho sự sống của thai nhi, vì ngôi đè ép vào dây nhau làm nghẹt lưu thông tuần hoàn nhau thai. Nguyên nhân: vỡ ối đột ngột trong lúc ngôi thai chưa bình chỉnh tốt với khung chậu người mẹ. Hay xảy ra trong trường hợp đa ối, ngôi bất thường, cơn co tử cung bất thường. Là một trường hợp cấp cứu khẩn cấp cho thai nhi, cần giải quyết nhanh tại chỗ, với những thao tác thành thạo để có thể đẩy dây nhau lên, đồng thời làm giảm cơn co tử cung. Phần lớn phải mổ nhanh để cứu thai nhi.

SA NHÂN. Loài cây thảo, họ gừng, cây có thể cao đến 2-3m. Thân rễ hình củ, lá xanh thẫm, nhẵn bóng. Hoa mọc thành chùm ở gốc sát mặt đất. Hoa màu trắng đốm tía. Qủa nang 3 ngăn hình trứng, chấm đen, vị cay nồng. Bộ phận dùng làm thuốc là quả gần chín, bóc vỏ, phơi khô, chứa 1,7 - 3% tinh dầu. Tinh dầu có thành phần chủ yếu là d-campho, d-bocneol, bocnylaxetat, linadol, nerilidol. Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc, miền Trung Việt Nam. Qủa dùng làm thuốc kích thích tiêu hoá, làm gia vị và chế rượu mùi. Ngoài loài A. xanthiodes, ở Việt Nam còn gặp SN thầu dầu (A. Echinosphaerum = A villosum) và SN thầu dầu (A. Echinosphaerum = A. villosum) và SN trúc sa (A. repens) SN cũng thường gặp ở Lào, Campuchia, Thái Lan, Ấn Độ.

SA SINH DỤC. cơ quan sinh dục nữ bị xuống thấp so với vị trí bình thường. Nguyên nhân: bẩm sinh, hệ thống nâng (các dây chằng) và đỡ (tầng sinh môn) yếu; lao động quá nặng gây sức dồn ép vào thành bụng, đẩy cơ quan sinh dục thấp xuống; sinh đẻ nhiều làm cho tầng sinh môn yếu hoặc bị rách mà không được khâu phục hồi tốt; hệ thống nâng và đỡ yếu đi do tuổi tác. Thường gặp sa thành sau âm đạo, sa trực tràng. SSD được chia thành 4 độ (lấy cổ và thân tử cung làm mốc); SSD độ 1 - cổ tử cung xuống thấp nhung còn ở trong âm đạo; SSD độ 2 - cổ tử cung sa đến lỗ âm đạo; SSD độ 3 - cổ tử cung ra ngoài âm hộ với một phần thànht rước và thành sau âm đạo cũng bị lộn hết ra ngoài âm hộ; SSD độ 4 -đáy tử cung ra ngoài âm hộ, hai thành trước và sau lộn hết ra ngoài như lộn bít tất. Điều trị bằng phẫu thuật SSD độ 3 và độ 4. Dự phòng: đẻ ít con và theo kế hoạch chủ động; đỡ đẻ tốt (không để rách âm hộ, nếu cần thì cắt âm hộ và khâu phục hồi đúng kĩ thuật); luyện tập thể dục phục hồi sau mỗi lần đẻ; tập thể dục thường xuyên; có chế độ lao động thích hợp cho phụ nữ...

Sa sút trí tuỆ. x. Mất trí

Sa tẠng. Tình trạng một tạng hoặc một phần tạng dịch chuyển đến vị trí thấp hơn bình thường, do các dây chằng và dây treo bị chùng. Thường gặp sa dạ dày, sa tử cung, sa hậu môn, sa thận... Trong thời kì đầu, khi mức độ ST còn nhẹ, có thể đẩy tạng bị sa trở lại vị trí cũ một cách tạm thời và dùng nịt cao su cố định bên ngoài. Khi tạng bị sa ảnh hưởng đến nhiều chức năng bình thường, cần can thiệp bằng phẫu thuật để đưa tạng bị sa trở lại vị trí cũ.

Sa thẬn (cg thận di động), thận di chuyển khỏi vị trí; sa xuống thấp, di chuyển vào ổ bụng. Bình thường thận được giữ tại chỗ (hai bên vùng thắt lưng). Trong trường hợp bất thường, các tổ chức cố định bị mềm nhẽo (người quá gầy, các cơ thành bụng bị giãn nhão do sinh đẻ nhiều, do nhược cơ...) gây nên tình trạng ST, ST thường kèm theo sa nhiều cơ quan khác. Trong giai đoạn đầu, không có dấu hiệu bệnh lí nên bệnh nhân không để ý; lúc thận di chuyển xa vị trí cũ, có thể làm gấp niệu quản, thận ứ nước, nhiễm khuẩn thận... làm xuất hiện các triệu chứng bệnh lý như đau, rối loạn tiêu hoá, rối loạn tiết niệu... Điều trị: tập thể dục nâng cao trương lực cơ, chữa các biến chứng: mổ để cố định thận.

Sa trỰc tràng. Tình trạng bệnh lý: niêm mạc (ở trẻ em hoặc người già) hoặc toàn bộ trực tràng (3 lớp áo) thoát ra ngoài hậu môn (cơ thắt hậu môn). Nguyên nhân: tăng quá mức áp lực trong ổ bụng (táo bón, rặn quá mạnh lúc đi ngoài, thường xuyên phải nâng vác vật quá nặng...); các dây chằng và cơ nâng hậu môn suy yếu; ngồi xổm quá lâu. Dấu hiệu: đau rát, vướng ở hậu môn, đi lại khó khăn; tăng tiết dịch ở hậu môn. Các biến chứng: chảy máu, hoại tử niêm mạc, thương tổn rách niêm mạc, vv. Điều trị STT ở giai đoạn đầu: nằm nghỉ, nằm nghiêng, một chân co, một chân duỗi, trực tràng bị sa có thể tụt lên tự nhiên hay ấn đẩy nhẹ lên; giữ gìn vệ sinh, tránh ngồi xổm, tránh táo bón, tập thể dục hàng ngày. Điều trị sa niêm mạc ở trẻ em, người già: mổ, treo trực tràng, tạo hình lại đáy chậu.

Sai khỚp tình trạng một đầu xương trật ra khỏi ổ khớp, làm cho hai mặt khớp chuyển dịch bất thường khỏi vị trí tự nhiên và mất liên quan một phần (SK không hoàn toàn hay bán trật khớp) hoặc hoàn toàn với nhau (SK hoàn toàn). Nguyên nhân: chấn thương, hội chứng thoái hoá khớp, dị dạng hoặc đứt thứ phát các dây chằng do chấn thương cũ và bẩm sinh (vd. SK háng bẩm sinh ở trẻ sơ sinh). Điều trị SK do chấn thương bằng cách nắn khớp, đặt đầu xương trở lại vị trí cũ; nếu thất bại phải mổ. Đối với SK bẩm sinh, phần lớn phải làm phẫu thuật chỉnh hình; cần chữa trước khi trẻ biết đi.

Sài hỒ bẮc. (y. Bupleurum sinense), cây thảo sống lâu năm, họ Hoa tán (Apiaceae). Cao 40 - 79cm. Lá mọc so le, hình mác. Cụm hoa hình tán kép, mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành, màu vàng. Qủa hình bầu dục. Cây có saponin, bupleurumol, phytosterol, rutin, một ít tinh dầu. Rễ phơi sấy nhẹ có vị đắng, mùi thơm; Đông y dùng làm thuốc giải cảm, thông khí, nhuận gan, sáng mắt; dùng dưới dạng thuốc sắc, bột, hoàn. Vị thuốc nhập từ Trung Quốc.

Sài hỒ nam. (Pluchea pteropoda; cg. Cây lức), cây thảo sống lâu năm, họ cúc (Asteraceae). Cao 40 - 70cm. Mọc hoang ở vùng gần biển và sông có nước mặn (cg. hải sài). Thâm mẫm chắc. Lá mọc so le, hình thìa, mép có răng cưa. Cụm hoa hình đầu, màu đỏ nhạt. Qủa bế. Rễ phơi sấy khô có vị đắng. Y học dân gian dùng SHN chữa cảm, sốt nóng hơi rét, nhức đầu, khát nước, tức ngực khó chịu: dùng dưới dạng thuốc sắc, bột, hoàn.

Sán. chỉ giun dẹp, sống kí sinh ở người. Cơ thể dài 4-10m, gồm 1.000 - 2.000 đốt, đầu không có vòng móc; đường kính 1-2mm; có 4 giác bám để bám vào thành ruột non. Người mắc bệnh do ăn thịt trâu, bò có kén sán không được nấu chín. Ở người, thường chỉ có 1 con. Có thể sống trong cơ thể người đến 25 năm.

Sán bò. Loài sán kí sin ở người. Cơ thể dài 4-10m, gồm 1000 - 2000 đốt, đầu không có vòng móc, đường kính 1-2mm; có 3 giác bám để bám vào thành ruột non. Người mắc bệnh do ăn thịt trâu, bò có kén sán không được nấu chín. Ở người, thường chỉ có 1 con. Có thể sống trong cơ thể người đến 25 năm.

Sán dây. lớp thuộc ngành giun dẹp. Cơ thể sán trưởng thành hình dải, dài 1m đến 10m tuỳ loài. Phần đầu sán rất nhỏ, mang cơ quan bám để bám vào nơi kí sinh. Phần cổ nhỏ và ngắn là vùng sinh trưởng (sinh ra các đốt mới). Phần thân dài, gồm nhiều đốt (có khi tới hàng nghìn). Sống kí sinh trong ruột động vật có xương sống, hấp thụ chất dinh dưỡng qua thành cơ thể, có lớp cuticun bọc ngoài để chống lại dịch tiêu hoá của vật chủ. Vòng đời SD thường phát triển qua vài ba kí chủ khác nhau. Dạng trưởng thành là các vật nội kí sinh (thường ở trong ống tiêu hoá của động vật có xương sống). Dạng ấu trùng và nang sán lại phát triển qua một vài vật chủ trung gian khác (động vật bậc thấp hay bậc cao thích hợp). Để thích nghi với lối sống kí sinh, một số cơ quan của SD rất phát triển (hệ sinh dục, cơ quan bám). Ngược lại, một số cơ quan khác bị tiêu giảm (hệ tiêu hoá, hệ thần kinh). SD có khoảng 3.400 loài. Ở Việt Nam đã biết khoảng 150 loài. Một số loài có thể gặp: SD lợn, dạng trưởng thành (dài 2 - 4m, có khi đến 8m, với khoảng 700 - 1000 đốt), sống trong ruột non của người. Ấu trùng phát triển thành nang sán thường tồn tại trong các thớ cơ của lợn, gây lên bệnh lợn gạo, SD bò dài 4-10m, có 1.200 - 2.000 đốt, có vòng đời như SD lợn, gây lên bệnh bò gạo.

Sán lá. lớp giun dẹp kí sinh ở động vật. Cơ thể hình bầu dục, thuôn dài, bên ngoài có lớp vỏ cuticun dày để chống lại sự phá huỷ do quá trình tiêu hoá của vật chủ. Có giác và móc bám. Chia làm hai bộ; SL một vật chủ có chu kỳ phát triển nhanh, vd. (Gyrodactylus); SL đa vật chủ (SL gan, SL máu). Trứng SL gan, SL máu nở ra ấu trùng tiêm mao miracidium trong nước ngọt. Ấu trùng chui vào ốc nước ngọt, phát triển thành ấu trùng cercaria và khoảng 300 loài sống kí sinh ở người, động vật và gây bệnh nguy hiểm cho người, thú, gia cầm và cá.

Sán lá gan. chỉ động vật không xương sống, họ Fasciolidae, lớp sán lá (Trematoda), kí sinh trong ống mật của động vật nhai lại. Chu trình phát triển có qua kí chủ trung gian là một loài ốc nước ngọt. Cơ thể hình lá dài hai đầu thuôn nhỏ, giữa phình to, màu đỏ máu. Mật bụng có 2 giác bám; giác miệng vừa là cơ quan bám vừa là phần đầu ống tiêu hoá; giác bụng vừa là cơ quan bám vừa là phần cuối ống tiêu hoá. Qúa trình phát triển trải qua ấu trùng tiêm mao (miracidium), ấu trùng redia, cercaria và bào xác (adolescaria). Bệnh SLG phổ biến nhất ở Việt Nam là bệnh ở động vật ăn cỏ và động vật ăn thịt. Bệnh SLG ở động vật ăn cỏ chủ yếu do Fasciola hepatica (ở bò, thỏ), F gigantica (ở trâu). Trâu, bò, thỏ nhiễm bệnh do nuốt phải ấu trùng của sán bám vào rau, có ở nước. Bệnh SLG là một trong những nguyên nhân làm trâu bò cày "đổ ngã" vào vụ đông xuân ở đồng bằng miền Bắc Việt Nam.

2. SLG ở người và thú ăn thịt (chò, mèo...) chủ yếu do Clonorchis sinensis gây ra. Chu kì phát triển của Clonorchis sinensis qua hai kì chủ trung gian là ốc và một số loài cá (cá giếc, trắm, rô, vv). Tục ăn gỏi cá sống làm tỷ lệ đường mật, túi mật, xơ gan... Phòng bệnh: không ăn thịt sống, vệ sinh nguồn nước, giải quyết tốt nguồn phân. Cần khám để biết rõ bị nhiễm loại sán nào để điều trị phù hợp.

Sán lá phỔi. Loài sán lá có hình dạng giống hạt cà phê, màu nâu đỏ, một mặt dẹt, một mặt lồi, trứng trong phế quản. Trứng màu nâu vàng, hình bầu dục, theo đờm hoặc phân ra ngoài. Ở nước, trứng nở thành mao ấu trùng, rồi chui vào ốc thành vĩ ấu trùng, sau đó chiu vào cua đồng, cua núi hoặc cua sông thành nang trùng. Nếu người uống nước lã hay ăn cua có nang trùng chưa nấu chín sẽ mắc bệnh. Nang trùng tới tá tràng, xuyên qua ruột, phúc mạc, cơ hoành tới phế quản, có khi còn gặp ở não, tinh hoàn. Chẩn đoán bằng phương pháp kháng nguyên, xét nghiệm đờm hoặc phân. Phòng bệnh: không ăn cua nướng, cua nấu chưa chín, uống nước lã. Điều trị theo chỉ định của thầy thuốc.

Sán lá ruỘt. loài sán lá thuộc lớp sán lá (Trematoda), họ Fasciolidae, thường thấy ở ruột lợn, ruột động vật nhai lại, động vật ăn thịt và gia cầm. Ở người SLR có màu hơi đỏ, dài 2 - 7cm, rộng 8 - 20mm, dày 0,5 - 3mm, tử cung chứa nhiều trứng. Khi ra khỏi cơ thể, sau 3-7 tuần, ấu trùng trưởng thành chui vào sống trong ốc, sau đó bám vào rong bèo, ngó sen, củ ấu, tạo thành nang trứng. Nang trứng có vỏ không bị chất toan dạ dày phá huỷ, bám vào niêm mạc tá tràng và đoạn trên hồi tràng gây tắc ruột, viêm hoặc làm tê liệt thành ruột. Kí chủ trung gian của SLR là ốc Plamorbis và Segmentina. Lợn nhiễm sán do nuốt phải ấu trùng sán cùng với rau, bèo sống (rau lấp, rau muống, củ ấu, củ niễng, cây súng, vv). Tỷ lệ lợn mắc sán ở phía Bắc Việt Nam khá cao, lợn trên bốn tháng tuổi, lợn đực giống và lợn nái nhiễm cao nhất. Tác hại chủ yếu của bệnh; lợn tăng cân chậm, tiêu tốn nhiều thức ăn. Phòng bệnh: không tháo phân lợn tươi vào ao, hồ, nơi dùng để lấy nước hay trồng thả , thức ăn cho lợn (bón phân trâu bò cho những ao, hồ này); ủ lấy ở những nơi ô nhiễm; diệt ốc kí chủ trung gian. Dùng thuốc tẩy sán cho lợn thịt 3 - 4 tháng tuần (lần 1), và 7-8 tháng tuổi (lần 2), cho lợn nái sau khi cai sữa.

SẮc thái. một hệ thống xử lý tổng hợp các đặc tính của nhạc thanh một cách tinh vi để gây sức truyền cảm cho tác phẩm. Trong bản ghi nhạc, nhiều ST được chỉ dẫn bằng tiếng Italia hoặc bằng kí hiệu (vd crescendo có nghĩa là to lên, vv), nhưng phần lớn ST được truyền qua thầy dạy, bắt chước qua phương tiện đại chúng (đài, tivi...) và sáng tạo cá nhân, ST có ý nghĩa quyết định trong biểu diễn âm nhạc.

SẮc tỐ. chất có màu, có nguồn gốc vô cơ hay hữu cơ. Thường được dùng ở dạng bột mịn để chế tạo sơn; nhuộm màu chất dẻo, cao su, sợi nhân tạo. Vd các ST vô cơ nhân tạo là kẽm oxit (ZnO) (ST trắng), untramarin (ST xanh), muội than đen (ST đen), vv. Các ST vô cơ tự nhiên là phấn, hồng đơn, đất son, vv. Các ST azo, phtaloxiamin là những loại ST hữu cơ quan trọng.

SẮc tỐ hô hẤp. những hợp chất có màu, kết hợp một cách thuận nghịch với oxi. Ở tất cả động vật có xương sống và rất nhiều động vật không xương sống có hemoglobin (huyết cầu tố). Hemoerythrin (chứa nhân sắt) và hemoxianin (chứa nhân đồng) thấy ở động vật bậc thấp và thường hoà tan trong huyết tương, ái lực của chúng với oxy cũng gần như hemoglobin hoặc thấp hơn đôi chút (x. Hemoglobin).

SẮc tỐ mẬt. những sắc tố được tiết ra trong mật là những sản phẩm phân huỷ của hemoglobin. Khi hemoglobin phân huỷ thì phần globin (tức phần protein) sẽ thành axit amin, phần pophirin (phần nhân hem) sẽ tạo ra các STM. Sắc tố đầu tiên là biliveđin có màu lục, dễ bị khử thànhsắc tố nâu đỏ bilirubin. Trong người, phần bilirubin là chủ yếu, còn bilivedin chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Ở chim, biliveđin là chủ yếu. Bilivedin và bilirubin bị enzym biliverdinreductaza xúc tác, khử từ hem của các tế bào lưới nội mô trong gan, lách và tuỷ xương. Các sắc tố chuyển đến gan và tiết vào mật. Ở ruột non, bilirubin bị biến đổi hoá học tiếp tục thải ra ngoài qua phân.

SẮc tỐ quang hỢp. các sắc tố hấp thu năng lượng ánh sáng cần thiết cho quang hợp. Có trong các lục lạp của thực vật hoặc phân tán trong chất tế bào của sinh vật nhân sơ. Tất cả các sinh vật quang hợp đều có chứa; sắc tố lục (clorophin), sắc tố dịch tế bào (antoxian). Sắc tố lục là nhóm sắc tố chiếm vai trò quan trọng nhất đối với quang hợp vì nó có khả năng hấp thu năng lượng ánh sáng mặt trời và biến thành năng lượng hoá học. Sắc tố lục không tan trong nước, chỉ tan trong dung môi hữu cơ. Clorophin ở trong tế bào không bị mất màu vì nằm trong phức hệ protein và lipoit, nhưng dung dịch clorophin ngoài ánh sáng và trong môi trường có oxi phân tử (02) thì bị mất màu do bị oxi hoá dưới tác dụng của ánh sáng. Quang phổ hấp thụ của clorophin là 400 - 700nm (có 2 vùng hấp thụ 430nm cho màu xanh lam, 662nm cho màu đỏ). Màu xanh đặc trưng của clorophin do kết quả sự hấp thụ ở vùng quang phổ xanh và đỏ. Năng lượng của lượng từ ánh sáng được clorophin hấp thu đã kích thích phân tử clorophin và các dạng của phân tử sắc tố đã truyền năng lượng cho nhau, tạo nên hiện tượng huỳnh quang và lân quang.

Nhóm sắc tố vàng gồm 2 nhóm nhỏ là caroten và xantophin. Caroten (C40H56), không tan trong nước, chỉ tan trong dung môi hữu cơ. Trong thực vật thường có 3 loại: a, b và d. Cắt đôi b-caroten sẽ được phân tử vitamin A, Xantophin C40H56On (n=1-6) là dẫn xuất của caroten. Có nhiều loại xantophin, vd kriptoxantin (C40H56O4). Quang phổ hấp thụ 451 - 481nm. Phân ra 2 nhóm xantophin: nhóm carotenoit sơ cấp làm nhiệm vụ hoạt động quang hợp hoặc bảo vệ; nhóm carotenoit thứ cấp có trong các cơ quan như hoa, quả, các cơ quan hoá già hoặc bị bệnh thiếu dinh dưỡng khoáng. Vai trò của carotenoit là lọc ánh sáng, bảo vệ clorophin. Xantophin tham gia vào quá trình phân li nước (H2O) cà thải oxi (O2) thông qua sự biến đổi từ violaxantophin thành lutein. Nhóm carotenoit tham gia vào quang hợp bằng cách tiếp nhận năng lượng ánh sáng mặt trời và truyền năng lượng này cho clorophin và nó có mặt trong hệ thống quang hóa II.

Nhóm sắc tố thực vật bậc thấp có ở tảo và thực vật bậc thấp sống dưới nước. Là nhóm sắc tố thích nước, trong tế bào chúng liên kết với protein nên còn gọi là biliprotein hay phicobiliprotein, gồm phicoeritrin (C14H47O4O8) và phicoxianin (C34H42N4O9). Quang phổ hấp thụ là vùng ánh sáng lục và vàng.

Nhóm antoxian (sắc tố dịch bào) là loại glucozit. Khi hấp thụ quang tử ánh sáng, nó biến năng lượng quang tử thành dạng nhiệt năng, sưởi ấm cho cây (điều này thấy rõ ở cây vùng lạnh có màu sắc sặc sỡ). Antoxian còn làm tăng khả năng giữ nước của tế bào khi bị hạn và gió khô. Trên cơ sở các số liệu và hàm lượng các dạng sắc tố trong lá, người ta có thể đánh giá khả năng quang hợp của thực vật và xếp loại các thực vật thuộc nhóm ưa sáng, ưa bóng, thực vật C3 C4. Các STQH có vai trò lớn trong dinh dưỡng và y học như caroten phicoxianin.

SẮc tỐ tẾ bào. (cg. Xytocrom). loại sắc tố dị protein của tế bào (chứa một nguyên tử sắt gắn với một nhân pophirin) có chức năng trong hô hấp tế bào (chuyển vận điện tử). Sắt ở đây có thể từ trạng thái sắt II (ferơ) chuyển sang trạng thái sắt III (feric) và ngược lại. Có nhiều loại STTB, đều có trong các sinh vật ưa khí.

Sâm. Loài cây thuốc họ nhân sâm. Panax theo tiếng Hi Lạp là chữa được mọi bệnh; gọi là nhân sâm do củ S có hình giống người. Phân làm 2 phân loài: nhân sâm mọc hoang và nhân sâm trồng. Cây sống nhiều năm. Cao 0,5 - 0,6m. Rễ mầm phát triển thành củ to chính là của S. Lá mọc vòng, có cuống dài, lá kép, nằm thứ nhất lá có 3 lá chết, những năm sau có 5 là chét. Cây mỗi năm chỉ ra 1 lá kép, sau 5 năm cây có từ 4 - 5 lá kép. Mỗi lá kép có 5 lá chét, rất hiếm có 6 lá chét. Nhưng người ta chỉ dùng hạt của cây năm thứ năm làm giống, ngắt bỏ những hoa năm thứ 3 - 4 vì chất lượng hạt chưa tốt. Hoa tự hình tán mọc ở đầu cành, màu xanh nhạt chưa tốt, nhị, bầu có 2 núm. Qủa mọng hơi dẹt, khi chín có màu đỏ, trong có 2 hạt. S có ở Trung Quốc, Triều Tiên, vùng Viễn Đông thuộc Nga, Nhật Bản, nhưng S tốt nhất là ở Triều Tiên. Tuỳ cách chế biến có bạch S, hồng S.

Sâm bỐ chính. (Hibiscus sagittifolius var. quin - quelobus), cây thảo, họ Bông (Malvaceae). Cao khoảng 0,5 - 1m. Hoa 5 cánh, màu hồng, đỏ hoặc vàng, mọc đối ở kẽ lá. Lá phía gốc hình trái soan, lá phía ngọn chia 3 thuỳ. Qủa hình trứng nhọn. Mọc hoang và trồng ở nhiều nơi. Rễ củ phơi sấy khô có vị ngọt, hơi nhớt; dùng dưới dạng thuốc sắc chữa suy nhược cơ thể.

Sâm đẠi hành. (Eleutherine subaphylla; cg. tỏi lào, sâm cau), cây thảo lâu năm, họ Layơn (Iriddaceae). Thân hành (củ) gồm nhiều vảy đỏ nâu. Lá dài, hình mác. Trong củ có các hợp chất kháng khuẩn (eleutherin, isoeleuherin và eleutherol). Mọc hoang và được trồng làm thuốc. Dùng củ chữa thiếu máu, mệt mỏi, băng huyết, ho ra máu, ho gà, viêm họng, mụn nhọt. Dùng dưới dạng thuốc sắc từ củ khô.

Sâm nam (Dipsacus japonicus; tk, tục đoạn), loài cây họ Tục đoạn (Dipsacaeceae), cây thảo cao 1,5 - 2m. Thân có 6 cạnh, trên cạnh có hàng gai thưa, càng lên cao gai càng mau dần, gai quập xuống. Lá mọc đối không có cuống, bẹ ôm lấy cành hoặc thân. Lá non có răng cưa dài, phiến lá thuôn nhỏ dài, đầu nhọn. Gan lá cách. Trên đương gân mặt dưới lá có một hàng gai nhỏ cứng, càng về cuối lá càng mềm dần. Lá có răng cưa, phiến lá xẻ cách từ 3 - 9 thuỳ, cũng có lá nguyên. Hoa hình trứng hay hình cầu. Cành mang hoa dài 10-20 cm, 6 cạnh, có lông cứng, càng lên cao gai càng máu dán. Hoa màu trắng, có lá bắc dài 1-2cm. Qủa bế, có 4 cạnh, màu trắng xám, dài 5 - 6mm.

Sâm ngỌc linh. (Panax vietnamensis; tk. Cây thuốc dấu, sâm khu năm, tam thất hoang), cây thân thảo họ nhân sâm (Araliaceae), sống nhiều năm, cao tới 1m. Thân rễ mập, đường kính 3,5cm, dài 40 - 50cm. Thân khí sinh rỗng. Lá kép chân vịt có 5 - 7 lá chét, có răng xiên rất rõ. Cụm hoa dài 25cm, dài gần gấp hai cuống lá. Qủa khi chín màu đỏ, thường có một chấm đen ở đỉnh. Hạt hình thận hẹp. SNL là loài mới được phát hiện ở Gia Lai, Kon Tum, trên đỉnh núi Ngọc Linh (ở độ cao 1850m so với mặt biển). Cây ưa bóng, ưa ẩm và khí hậu mát, thường mọc trên đất có nhiều mùn, mọc rải rác hay thành từng đám nhỏ. Mùa ra hoa tháng 4 - 6. Mùa quả tháng 7 - 12. Có khả năng tái sinh bằng củ, bằng hạt hoặc bằng thân.

Đã được dùng làm thuốc tăng lực và chữa bệnh. Trong củ có saponin triterpen (12 - 15%), 16 axit amin, 11 axit béo, vitamin C, tinh dầu và nhiều nguyên tố khoáng như sắc, natri, kali, canxi, magie. Lấy củ để ngâm rươụ hay phối hợp với một số vị thuốc khác làm viên thuốc bổ.

Sâm nam. (Dipsacus japonicus; tk tục đoạn), loài cây họ Tục đoạn (Dipsacaceae). Cây thảo cao 1.5 - 2m. Thân có 6 cạnh, trên cạnh có hàng gai thưa, càng lên cao gai càng mau dần, gai quặp xuống. Lá mọc đối không có cuống, bẹ ôm lấy cành hoặc thân. Lá non có răng cưa dài, phiến lá thuôn nhỏ dài, đầu nhọn. Gân lá cách. Trên đường gân mặt dưới lá có một hàng gai nhỏ cứng, càng về cuối lá càng mềm dần. Lá có răng cưa, phiến lá xẻ cách từ 3 - 9 thuỳ, cũng có lá nguyên. Hoa hình trứng hay hình cầu. Cành mang hoa dài 10 - 20cm, 6 cạnh có lông cứng, càng lên cao gai càng mau dần. Hoa màu trắng, có lá bắc dài 1 - 2cm. Qủa bế, có 4 cạnh, màu trắng xám, dài 5-6mm.

SN mọc hoang trên các đồi cỏ ở các vùng có đá vôi của miền Bắc Việt Nam như Sa Pa, Lào Cai, Hà Giang, nơi có độ cao 1400 - 1700m. Rễ thu hoạch vào tháng 8 - 10, phơi hay sấy khô để sử dụng làm thuốc. Hiện được trồng tại các vùng này bằng hạt hoặc cây con. SN đựơc dùng làm thuốc bổ toàn thân, làm dịu đau, lợi sữa, an thai, cầm máu.

Sâm TrIỀu Tiên. X. Sâm

SẨy thai. Tình trạng phôi hoặc thai bị đẩy ra khỏi tử cung trước tuổi thai được 28 tuần tính từ ngày đầu của kì kinh cuối.

1. ST tự nhiên: ST không phải do thuốc hoặc một phương pháp nhân tạo nào khác gây ra. Nguyên nhân: sai lạc nhiễm sắc thể chiếm 60% tổng số ST trong 8 tuần đầu; chấn thương, trượt chân ngã; rối loạn nội tiết, ..

2. ST liên tiếp: ST tự nhiên, liền nhau từ 3 lần trở lên. Trong tất cả các trường hợp ST đều có thể có nguy cơ chảy máu nhiều và nhiễm khuẩn.

Đa số các trường hợp ST đều cần phải nạo để lấy hết những phần còn sót, sau đó dùng kháng sinh dự phòng. Đối với ST liên tiếp, cần tìm nguyên nhân để đề phòng ST lần sau.

SẸo. tổ chức hình thành ở nơi bị khuyết hỏng tổ chức do một quá trình hoại tử bệnh lý hoặc do chấn thương các loại làm rách, đứt mô, phần mềm. Trong vài tháng đầu, S ở da và phần mềm thường chắc và ít di động. Từ 6 đến 12 tháng, S trở nên mềm, di động. Từ tháng thứ ba mới phục hồi cảm giác. S có thể bị xơ, phì đại, co kéo, dính, phát triển quá mức, lồi loét lâu liền, biến đối màu sắc, vv. Dự phòng S: thực hiện vô khuẩn tuyệt đối trong khi xử lí vết thương ngay từ đầu, chăm sóc hằng ngày; lúc S lên da non, kinh nghiệm nhân dân là bôi nghệ để làm mềm S, đường S nhỏ, không bị thẫm da, tránh S lồi. Tác dụng của ăn nhiều rau muống gây S lồi chưa được xác định.

SẸo đỤc giác mẠc di chứng của viêm loét, chấn thương giác mạc do nhiều nguyên nhân (vi khuẩn, nấm, virut); giác mạc mất tính chất trong suốt bình thường. SĐGM có những mức độ khác nhau; sẹo mỏng giác mạc có thể như có những mức độ khác nhau: sẹo mỏng giác mạc có thể như một màng mây, màng khói, làm cho thị lực giảm sút (còn 2/10 - 3/10); SĐGM dày, trắng như sứ, làm cho thị lực giảm sút đến mức mắt chỉ còn nhìn thấy bóng bàn tay (trong trường hợp loét giác mạc nặng do hecpet tái phát nhiều lần hoặc loét giác mạc nặng do vi khuẩn như trực khuẩn mủ xanh), SĐGM sau loét giác mạc là một nguyên nhân chính gây mù. Đối với dạng màng mây, màng khói, khi mới hình thành có thể điều trị bằng thuốc tra, chạy điện di dionin 1 - 2%. Điều trị sẹo đục trắng giác mạc bằng phẫu thuật ghép giác mạc (thay thế giác mạc bị sẹo đục bằng giác mạc trong suốt lấy từ tử thi). Xt. Ghép giác mạc.

SẸo lỒi. sẹo không bình thường, phát triển quá mức, lồi trên bề mặt, tương đối cứng; không nguy hiểm nhưng gây khó chịu, có khi đau, dễ bị cọ sát và gây xước. Có lẽ có những cơ địa để sinh ra SL, do di truyền những kiểu gen điều khiển sự sản xuất nhiều colagen. Có thể coi SL giông như một u xơ lành nhưng bờ ranh giới không rõ rệt; dễ tái phát sau khi mổ cắt bỏ.

Siêu âm. Các sóng đàn hồi có tần số từ 2.104 Hz, tai người không nghe thấy được. SÂ có trong tiếng gió rít, sóng biển, tiếng ô tô chạy... Nhiều loài động vật (dơi, cá, côn trùng...) có thể phát và thu SÂ. Được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu vật lý, lí hoá và sinh học, trong các kĩ thuật như thăm dò khuyết tật, làm tăng nhanh một vài quá trình công nghệ hoá học, thu nhận nhũ tương, sấy khô, làm sạch, hàn, gia công vật rắn. Trong y học, SÂ được dùng để chẩn đoán, thăm dò độ sâu, vị trí, độ lớn và tư thế thai nhi; điều trị một số bệnh sỏi (tán vụn sỏi đường tiết niệu). Trong phòng thí nghiệm, SÂ được dùng để làm tan các tế bào (để thu nhận các chất bên trong tế bào hoặc để diệt tế bào) (x. vang kí siêu âm) và chữa bệnh với các máy siêu âm màu vi tính, cắt lớp, ba chiều; SÂ còn đựơc dùng để định vị dưới nước trong hàng hải.

Siêu cẤu trúc. Trong y học, thường dùng để chỉ các cấu trúc của các mô hoặc tế bào... quan sát được qua kính hiển vi điện tử.

Sinh, lão, bỆnh tỬ. quan niệm nhân sinh của đạo Phật cho rằng đời là bể khổ. Con người sinh ra trên đồi vốn phải chịu nhiều nỗi đau khổ là do bản thân con người, do những dục vọng của họ, S, L, B, T là bốn nỗi khổ chung cho tất cả chúng sinh trong cuộc đời, không ai có thể thoát khỏi được. Theo đạo Phật, chỉ có các bật A La Hán nhờ khổ công tu luyện, đã thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, mãi mãi vào cõi Niết Bàn, không còn phải chịu bốn nỗi khổ S, L, B, T nữa, cho nên được gọi là vô sinh hay bất sinh.

Sinh lý bỆnh hỌc. môn học về quá trình phát sinh trong cơ thể, về những chức phận đã bị rối loạn, về mối quan hệ rối loạn giữa cơ thể với môi trường và về những rối loạn điều tiết của cơ thể. Theo quan niệm hiện nay, SLBH bao gồm cả bệnh sinh học và bệnh căn học.

Sinh lý hỌc. khoa học về hoạt động sống của cơ thể, của hệ thống cơ quan, các cơ quan, các mô, tế bào và sự điều hoà các chứa năng sinh lý của sinh vật, SLH cũng nghiên cứu nhưng quy luật tác động qua lại của cơ thể sống với môi trường xung quanh, SLH là lĩnh vực quan trọng của sinh học, đồng thời là cơ sở lý luận cho y học và nhiều ngành khoa học khác. Được chia thành: SLH chung, SLH chuyên ngành, SLH ứng dụng, SLH thực vật, SLH động vật... SLH liên quan chặt chẽ với nhiều lĩnh vực khác; SLH ngày càng sử dụng nhiều các kết quả và phương pháp của vật lí học, sinh lý học... Ngược lại, những kiến thức của SLH rất cần cho các lĩnh vực khác, vd. SLH cung cấp cơ sở khoa học cho những biện pháp phòng và chữa bệnh, bảo vệ sức khỏe con người, là cơ sở cung cấp cho việc chọn giống cây trồng, vật nuôi... SLH là khoa học có từ thời cổ xưa nhờ thu nhập các dẫn liệu qua quan sát, qua giải phẫu của các thầy thuốc và các nhà sinh vật học. Đến ngày nay, SLH trở thành ngành mũi nhọn của sinh học.

Sinh lý lao đỘng. Môn y học chuyên nghiên cứu tính chất, khả năng đáp ứng của cơ thể với lao động, ảnh hưởng của các yếu tố lao động và môi trường ngoại cảnh đến các chức năng sinh lý tối ưu, giới hạn cho mỗi loại lao động trong mối quan hệ giữa con người và kĩ thuật (máy, trang bị); kiến nghị các biện pháp tuyển lựa, rèn luyện thích nghi nhằm bảo vệ sức khỏe, nâng cao khả năng và năng suất lao động.

Sinh lý lao đỘng quân sỰ. môn học nghiên cứu các đặc điểm sinh lý của lao động quân sự gắn liền với các yếu tố chực hạn và các điều kiện ngoại cảnh đặc biệt trong hoạt động sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của các quân, binh chủng; đề xuất các biện pháp tuyển lựa, rèn luyện thích nghi, nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng chiến đấu trong từng dạng lao động quân sự.

Sinh sẢn. khả năng của sinh vật sinh ra thế hệ sau giống chúng, đảm bảo cho việc duy trì loài đó. Là tính chất đặc trưng và bắt buộc của mọi cơ thể sống. Phân biệt hai kiểu SS chính: SS vô tính, SS hữu tính, SS hữu tính đặc trưng bằng sự có mặt của quá trình giảm phân, tạo giao tử đơn bội và kết hợp chúng trong thụ tinh cho ra hợp tử lưỡng bội, là tế bào đầu tiên của một sinh vật toàn vẹn, mở đầu cho một cá thể mới, gặp ở hầu hết thực vật có hoa và động vật bậc cao... SS vô tính (sinh dưỡng) xảy ra không có sự phân bào giảm nhiễm và sự thụ tinh mà bằng cách tách đơn giản từng phần cơ thể của bộ mẹ hoặc phân chia tế bào như một phần thân, sự phát triển của cơ thể mới do tổ hợp lại các gen không có giảm nhiễm sắc thể và không giảm phân. Có 2 dạng SS đơn tính: SS đơn tính cái là sự phát triển của phôi do nhân tế bào trứng và chất tế bào của nó và con sinh ra mang những tình trạng của mẹ; SS đơn tính đực do nhân của tinh từ không có giai đoạn đầu của thụ tinh xảy ra bình thường, các tinh tử lọt vào túi phôi và một số chúng nhập vào chất tế bào trứng, nhân tế bào trứng sẽ thoái hoá.Nhân tinh từ được giữ lại và phân chia trong sinh chất của tế bào trứng, SS đơn tính đực là một dạng của SS vô phối.

Sinh sẢn hỮu tính. việc hình thành cá thể mới bằng cách phối hợp hai nhân hoặc hai tế bào sinh dục (các giao tử) tạo nên hợp tử. Ở các sinh vật đơn bào, toàn bộ cá thể có thể kết hợp với nhau, nhưng ở đa số sinh vật đa bào, chỉ có các giao tử mới kết hợp với nhau. Ở những sinh vật có phân biệt giới tính, có hai loại giao tử đực và cái (ở động vật có tinh trùng và trứng). Chúng được tạo ra trong các cơ quan đặc biệt (noãn, bao phấn ở thực vật, tinh hoàn, buồng trứng ở động vật), cùng với các cấu trúc bổ trợ tạo nên hệ sinh dục để thực hiện quá trình sinh sản. Các cá thể mang cả hai cơ quan sinh dục (đực - cái) gọi là sinh vật cùng gốc hay lưỡng tính. Nói chung, quá trình giảm phân xảy ra trước khi hình thành giao tử tạo nên bộ nhiễm sắc thể đơn bội (chứa một nửa bộ nhiễm sắc thể bình thường). Khi hữu phối các giao tử kết hợp số SSHT cho phép xảy ra tái tổ hợp di truyền, tạo sự đa dạng lớn ở đời sau và đảm bảo cơ chế tiến hoá bằng chọn lọc tự nhiên. Sinh sản vô phối và trinh sản (sinh sản đơn tính) thường được xem là những biến hình của SSHT.

Sinh sẢn vô tính sự phát triển phôi không có thụ tinh từ tế bào sinh dưỡng của thể giao tử hoặc thể bào tử như tế bào kèm, tế bào đối cực, tế bào noãn tâm hoặc vỏ noãn. Nếu những tế bào ban đầu có số nhiễm sắc thể không giảm thì gọi là SSVT lưỡng bội. SSVT là một cơ sở của sinh sản vô phối. Trong SSVT lưỡng bội, phôi phát triển từ tế bào soma của noãn tâm hoặc vỏ noãn, gọi là hiện tượng phôi phụ (phôi phát triển vào xoang túi phôi). Trong SSVT đơn bội, khi phôi phát triển từ tế bào kèm hoặc tế bào đối cực thì gọi là vô giao tử tế bào kèm giảm nhiễm hoặc vô giao tử tế bào đối cực không giảm nhiễm (xt. Sinh sản)

Sinh thiẾt. thủ thuật lấy mảnh mô hay tế bào trên người sống để xác định bệnh (bằng xét nghiệm vi thể). Có thể lấy mảnh mô bằng những loại kim to chuyên biệt hoặc từ bệnh phẩm được cắt bỏ sau khi mổ; lấy tế bào bằng những loại kim nhỏ chọc hút vùng tổn thương. Nhờ những cải tiến kĩ thuật gần đây, có thể làm ST ở hầu hết các cơ quan trong cơ thể, giúp cho chẩn đoán chính xác; đặc biệt với các khối u ác tính. ST là yêu cầu bắt buộc.

Sinh tỐ. x. vitamin

Soi. dùng dụng cụ quang học để tập trung ánh sáng lạnh vào một chỗ hoặc một hốc trong cơ thể để quan sát, nhận xét tình trạng hoặc làm sinh thiết chỗ tổn thương để chẩn đoán bệnh. S rất phổ cập để chẩn đoán bệnh, bao gồm: soi đáy mắt, tai mũi họng, đường hô hấp trên, phế quản, ống tiêu hoá (thực quản, dạ dày, trực tràng...) các phủ tạng trong ổ bụng (gan, mật, ruột, buồng trứng), cổ tử cung. Bằng ống soi mềm gồm những sợi thuỷ tinh, người ta có thể soi tá tràng, dạ dày, ruột và các buồng tim.Xt. nội soi.

Soi bàng quang. Phương pháp khám bàng quang bằng máy soi bàng quang đưa từ niệu đạo vào bàng quang, cho phép nhìn thấy trực tiếp tình trạng niêm mạc bàng quang, niệu đạo, các lỗ niệu quản, các thương tổn trên bàng quang (loét, viêm, u...), các dị vật (sỏi, mủ, máu...); làm một số thủ thuật trong bàng quang (sinh thiết, cắt và đốt các u, tán sỏi, đặt ống thông lên niệu quản...). Có 2 loại máy soi bàng quang; máy cung cấp nguồn ánh sáng nóng (dùng bóng đèn tại chỗ); máy cung cấp nguồn ánh sáng lạnh (cung cấp nguồn ánh sáng ở ngoài cơ thể và ánh sáng dẫn truyền vào bàng quang bằng một hệ thống sợi quang học.

Soi cỔ tỬ cung. Phương pháp quan sát âm đạo và cổ tử cung bằng một máy soi có hệ thống kính phóng đại từ 8 - 12 lần, có thể tới 50 lần, thậm chí đến 150 lần. Dùng SCTC để phát hiện các tổn thương mà mắt thường không nhìn thấy; đặc biệt hay dùng để phát hiện sớm các tổn thương bất thường, nghi ngờ ung thư, tiền ung thư của cổ tử cung; định hướng cần làm sinh thiết cổ tử cung.

Soi đáy mẮt. kĩ thuật khám đáy mắt: dùng dụng cụ có nguồn sáng mạnh chiếu qua đồng tử để quan sát những chi tiết ở đáy mắt (đĩa thần kinh thị giác, võng mạc, vùng hoàng điểm, các động mạch và tĩnh mạch võng mạc) và một phần hắc mạc. Bằng cách SĐM, có thể phát hiện những biến đổi bệnh lí ở mắt, sọ não hoặc toàn thân (tăng huyết áp, đái tháo đường, vv)

Soi khí phẾ quẢn. thăm khám khí quản, phế quản bằng ống soi cứng hoặc ống soi mềm. Nhờ SK-PQ có thể quan sát trực tiếp các tổn thương, chụp ảnh, truyền hình, làm sinh thiết, gắp dị vật, hút chất dịch ở khí quản, phế quản và phổi.

SỎi. trạng thái bệnh lý do rối loạn chuyển hoá làm cho các chất khoáng (Ca, P...) và hữu cơ vẫn có trong cơ thể với một nồng độ nhất định (vd. Canxi 0,1 g/l) lắng đọng thành cát, sạn sỏi ở những cơ quan rỗng (túi mật, bể thận, bàng quang...). Thành phần của S phần lớn là muối vô cơ (canxi oxalat, cacbonat, photphat). Nguyên nhân: tắc (bẩm sinh, nhiễm khuẩn...) các đường tiết (mật, tuỵ, nước bọt...); có một dị vật nhỏ làm nhân cho sự lắng đọng các muối (vd. trứng giun trong đường mật, vv); các rối loạn chuyển hoá mà nguyên nhân chưa biết rõ. Ở những cơ địa nhất định, cần chú ý một số yếu tố: tính chất di truyền trong gia đình; chế độ ăn không cân đối; uống ít nước làm cho lượng nước tiểu giảm. Dấu hiệu lâm sàng: dấu hiện chung nhất là đau thành cơ dữ dội, ở vị trí tuỳ theo cơ quan có S, toả lan ra các vùng xung quanh, kèm theo nhiều dấu hiệu khác thay đổi tuỳ theo cơ quan và các biến chứng. Xquang, siêu âm, nội soi rất quan trọng để chẩn đoán. Cách chữa: các S nhỏ, có thể tự tan hay được đẩy ra ngoài với điều trị nội khoa bằng các thuốc tiêu sỏi, thuốc bồi dưỡng cơ thể làm thay đổi cơ địa, các thuốc lợi tiểu, lợi mật, vv, kết hợp với điều chỉnh chế độ ăn, uống nhiều nước, tán S bằng cách kẹp nát viên sỏi; mổ lấy viên S, tán S ngoài cơ thể (dùng máy); tán S ngoài cơ thể (dùng máy); tán S và lấy S bằng phương pháp nội soi.

SỎi bàng quang. Một hoặc nhiều viên sỏi hiện diện ở trong bàng quang. Bệnh lý này thường xảy ra ở mọi lứa tuổi, nam nhiều hơn nữ. Nguyên nhân sinh bệnh, có 3 loại: sỏi nguyên phát là sỏi được hình thành từ thận rồi rơi xuống bàng quang; sỏi thứ phát là hậu quả của việc ứ trệ nước tiểu ở bàng quang do các bệnh và dị tật bẩm sinh gây chít hẹp vùng cổ bàng quang và niệu đạo, vd. U lành phì đại tuyến tiền liệt, van niệu đạo, vv; do dị vật từ ngoài lọt vào bàng quang như cúc áo, cặp tóc, các mảnh hỏa khí... Cặn vôi sẽ bao bọc các dị vật và hình thành viên sỏi.

Chẩn đoán dựa vào các triệu chứng lâm sàng: bí đái, bí đái ngắt quãng; đau dữ dội vùng bàng quang lan ra đầu bộ phận sinh dục, vv; thăm khám bằng dụng cụ kim loại có tiếng chạm sỏi; sỏi bàng quang, siêu âm, chụp Xquang sẽ thấy viên sỏi. Cách điều trị: tán sỏi qua nội soi, mổ bàng quang lấy sỏi.

SỎi mẬt. sỏi trong đường mật, túi mật, dưới dạng cát, sạn nhỏ hoặc viên sỏi. Điển hình là viên sỏi đa giác, ngoài mặt nhẵn khi có nhiều sỏi cọ sát vào nhau. Trong thành phần sỏi có canxi; cholesteron, bilirubin nguyên chất hoặc hỗn hợp. Dấu hiệu: đau ở vùng dưới sườn phải, đau dữ dội, lan ra phía sau lưng hoặc đau âm ỉ, đau tăng khi đi lại nhiều; kèm theo rối loạn tiêu hoá (kém ăn, sợ mỡ, trứng, vv); sốt nếu có nhiễm khuẩn. Chụp Xquang, siêu âm để phát hiện sỏi. Các biến chứng; nhiễm khuẩn; tắc trong đường mật, trở thành mạn tính (viêm túi mật xơ - teo, vv). Cách chữa: mổ và lấy sỏi bằng phương pháp nội soi: tán sỏi ngoài cơ thể. Bệnh có thể tái phát sau mổ. Thay đổi chế độ ăn uống theo chỉ dẫn của thầy thuốc (giảm mỡ, trứng, sữa...), uống nước khoáng.

SỎi niỆu quẢN. sỏi ở trong lòng niệu quản, từ thận di truyền xuống hoặc được hình thành tại chỗ do bệnh và tật gây chít hẹp phía dưới niệu quản. SNQ có thể gây thận ứ nước, nhiễm khuẩn thận, vv, làm giảm chức năng hay mất chức năng thận. Biểu hiện lâm sàng, cơn đau quặn thận. Điều trị: nếu sỏi nhỏ, thận không ứ nước, có thể uống nhiều nước và thuốc lợi tiểu, tập nhảy dây để sỏi di chuyển theo nước tiểu ra ngoài: phải mổ gắp sỏi ra nếu sỏi to, gây nhiều biến chứng; tán sỏi ngoài cơ thể, tán hoặc lấy sỏi qua phương pháp nội soi.

SỎi thẬn. kết tể rắn cấu tạo bởi các tinh thể vô cơ và các chất hữu cơ, dưới ảnh hưởng của các rối loạn chuyển hoá của cơ thể hay sự bão hoà các chất sinh sỏi và thay đổi pH của nước tiểu; sỏi thường ở vị trí trong đài thận và bể thận, nhưng có thể di chuyển xuống niệu quản, nếu kích thước nhỏ và không có gai, ST có thể có tính cản quang hay không tuỳ theo thành phần của sỏi (photphat, oxalat, urat, cystin). Các dấu hiệu lâm sàng chủ yếu: đau quặn ở vùng thắt lưng hay dấu hiệu này thường xuất hiện lúc bệnh nhân lao động nặng, đi lại nhiều, nhất là đi trên các đường xấu, xóc nhiều. Biến chứng: nhiễm khuẩn, ứ nước, ứ mủ thận, vô niệu, làm giảm hoặc mất chức năng thận. Nhiều tiến bộ kĩ thuật hiện nay (siêu âm, Xquang cắt lớp, nội soi) cho phép chẩn đoán sớm và điều trị có kết quả.

SỐc. (cg. Choáng) hội chứng suy tuần hoàn cấp diễn. Thường xảy ra sau những chấn thương nặng (S chấn thương); những bệnh nhiễm khuẩn nặng như nhiễm khuẩn huyết gram âm, nhiễm khuẩn nặng như nhiễm khuẩn huyết gram âm, nhiễm khuẩn kị khí, hoại thư sinh hơi, vv (S nhiễm khuẩn); sau khi truyền dịch (S huyết thanh) hay tiêm một số thuốc như penicillin (S phản vệ); khi mất một lượng nước lớn trong cơ thể do nôn và ỉa chảy (S giảm thể tích); suy tim đột ngột (S tim), vv. Điều trị S trong những trung tâm cấp cứu, bao gồm điều trị S nói chung (nâng cao huyết áp, hồi phục lại lưu lượng máu bị giảm,...) và điều trị nguyên nhân S.

SỐc chẤn thương. trạng thái suy sụp toàn bộ các chức phận sống của cơ thể, xuất hiện sau khi bị các chấn thương nặng. Có nhiều thuuết về bệnh sinh: thần kinh, nhiễm độc, mất máu và mất huyết tương... Về sinh lí bệnh, thấy có trạng thái hưng phấn rồi chuyển sang trạng thái ức chế ở hệ thần kinh trung ương; giảm khối lượng máu lưu hành, rối loạn tuần hoàn vi thể; giảm trương lực cơ, thiếu oxi ở máu lưu hành, mô và tế bào. Khi gặp SCT, cần sơ cứu tại chỗ như ủ ấm, cố định xương gãy, cầm máu tạm thời, vv, trước khi đưa về cơ sở y tế bằng các phương tiện vận chuyển cấp cứu.

SỐc điỆN. phương pháp trị liệu dùng dòng điện mạnh trong một số tình huống cấp cứu tim mạch nặng (ngừng tim, rung thấp, cơn nhịp nhanh kịch phát, vv). SĐ có thể làm cho nhịp tim trở lại bình thường. Còn dùng SĐ để điều trị bệnh tâm thần phân liệt.

SỐC phẢn vỆ. (tk. phản ứng phản vệ). x. phản vệ

SỐt Ở ngưỜi. hội chứng chung cho nhiều bệnh, gồm: tăng thân nhiệt trên 370C (nhiệt độ lấy ở nách), mạch nhanh, nhịp thở nhanh, đái ít, khô miệng, nhức đầu; có thể co giật khi thân nhiệt lên quá cao. Nguyên nhân: phản ứng bảo vệ của cơ thể đối với sự xâm nhiễm của các vi sinh vật gây bệnh (virut, vi khuẩn, kí sinh vật, ) và một số yếu tố khác (vd. Say nắng, say nóng, dị ứng, ngộ độc nặng, vv). Tuỳ theo mức độ tăng của thân nhiệt, có : S vừa (thân nhiệt 38 - 390C); S cao (thân nhiệt 40-410C). Có nhiều loại S: S liên tục; S từng cơn, từng đợt, S cách nhật; S dao động, vv. Điều trị tuỳ theo nguyên nhân; cần chú ý không để S cao, nhất là ở trẻ em. Trừ các trường hợp S do viêm phế quản, hen khó thở, có thể hạ thân nhiệt bằng các phương pháp vật lý (bỏ bớt áo, quần, chăn đắp; chườm lạnh bằng túi nước đá hoặc đắp khăn nhúng nước mát lên toàn cơ thể, nhất là nách, háng và trán), uống nhiều nước nguội hoặc nước quả; trong trường hợp cần thiết, có thể hạ nhiệt bằng thuốc hạ sốt (paracetamol) kết hợp với thuốc an thần (diazepam, vv); đề phòng co giật ở trẻ em bị sốt cao.

SỐt ba ngày. bệnh do virut truyền sang người theo vết đốt của muỗi cái Phlebotomus papatasii ở vùng Địa Trung Hải và châu Á. Bệnh xảy ra trong mùa hè với khởi phát đột ngột, sung huyết niêm mạc mắt, đau mình, nhức đầu, thường sốt giảm vào ngày thứ ba, nhưng thời gian dưỡng bệnh kéo dài hơn. Chỉ điều trị triệu chứng (hạ sốt).

SỐt hỒi quy. bệnh nhiễm khuẩn do xoắn khuẩn gây bệnh cho người và một số động vật hoang dã và đôi khi các loài gia súc như chó, mèo. Bệnh truyền do chấy rận, cào làm xước da, tạo điều kiện cho chất thải của chấy, rận có chứa xoắn khuẩn xâm nhập vào cơ thể người lành. Bệnh biểu hiện bằng các chu kì sốt xen kẽ với các chu kì không sốt. Về lâm sàng, bệnh xảy ra khoảng một tuần sau khi nhiễm với các biểu hiện: sốt cao 400C, sung huyết da và niêm mạc mắt, nhức đầu, đau cơ và các khớp. Các triệu chứng lâm sàng kéo dài trong một tuần, sau đó nhiệt độ hạ 370C với đái nhiều, vã mồ hôi, mệt mỏi đôi khi truỵ mạch. Những cơn bệnh tiếp theo nhẹ hơn và cách nhau 3 - 10 ngày, nếu không chữa trị có thể kéo dài vài tuần. Điều trị: dùng tetracyclin hoặc doxycylin (phụ nữ có mang và trẻ em dưới 9 tuổi không được dùng) hay chloramphenicol hoặc penicillin.

SỐt lỞ mỒm long móng. bệnh cấp tính ở các loài động vật guốc lẻ, lây lan mạnh ở bò và lợn, ở cừu và dê bệnh nhẹ hơn; do virut loại Aphthovirus, họ Picornaviridae gây ra. Virus lở mồm long móng lan truyền nhanh rộng, lây lan chủ yếu qua tiếp xúc trực tiếp và qua không khí, có thể qua đường hô hấp. Có 7 serotyp với trên 60 typ phụ đựơc phân biệt bằng những "tét" định lượng bảo hộ chéo và "tét" huyết thanh học. Từng vùng có những serotyp gây bệnh khác nhau về tính kháng nguyên; Nam Mĩ và châu Âu có serotyp O, A, C; châu Phi có O, A, C và SAT 1, 2, 3; châu Á có O, A, C và Asia - 1. Triệu chứng đặc trưng; sốt cao, bỏ ăn, xuất hiện mụn nước trên niêm mạc và da. Khi mụn vỡ gây thành loét, bội nhiễm, gây hoại tử, gây hỏng móng, con bệnh đi khập khiễng, có thể biến chứng. Viêm cơ tim do virut, gây khó thở,. Tỷ lệ chết không cao, nhưng năng suất sữa, thịt giảm hẳn. Bệnh thường phát thành dịch, có khi thành đại dịch, nên bệnh gây thiệt hại kinh tế lớn và là đối tượng cấm trong thương mại quốc tế. Bệnh lưu hành hầu hết khắp thế giới, trừ các nước Bắc và Trung Mĩ, vùng Caribê, Ôxtrâylia và Niu Zilân. Ở Việt Nam, bệnh được phát hiện lần đầu tiên ở Nha Trang năm 1890; trong những năm 1953 - 56 có một vụ dịch lớn ở trâu bò ở nhiều tỉnh miền Bắc.

Điều trị triệu chứng loét, loét móng bằng cồn iốt, dung dịch axit tannic 5%, dung dịch cồn axit tannic 10%, mỡ oxi kẽm... tăng sức đề kháng bằng các dung dịch muối glucozơ. Có thể điều trị bằng kháng huyết thanh tới miễn dịch cho những gia súc có giá trị cao. Phóng bệnh bằng vacxin vô hoạt có bổ trợ keo phèn hoặc bổ trợ dầu kháng. Đã chế tạo thành công vacxin tổng hợp peptit bằng công nghệ gen.

SỐt rét. bệnh nhiễm kí sinh trùng máu thuộc chi Plasmodium, lây truyền qua muỗi Anopheles, gây dịch lưu hành ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Biểu hiện lâm sàng với 3 dấu hiệu: sốt rét run vã mồ hôi, thiếu máu và lách to. Có nhiều thể lâm sàng: sốt cách nhật do P. vivax (hay P. ovale ở châu Phi), có thể tái phát sau khi rời khỏi vùng dịch; sốt cách nhật ác tính do P. falciparum, không tái phát khi đã rời khỏi vùng dịch. SR do P. falciparum thường có nhiều biến chứng nặng; sốt rét ác tính, sốt nôn ra mật, đái ra hemoglobin, vv gây tử vong cao. Phòng bệnh: diệt muỗi bằng hoá chất diệt côn trùng; nằm màn tẩm permethrine; thay đổi môi trường thiên nhiên; dùng thuốc diệt kí sinh trùng thể schizonte và giao bào. Ở Việt Nam, chương trình thanh toán là một bệnh lưu hành nặng ở nhiều địa phương miền núi, trung du, vùng ven biển., ảnh hưởng đến đời sống, sinh mạng của nhân dân, đến sự phân bố lao động lên các vùng kinh tế mới, vv. Chương trình chống SR là chương trình quốc gia số 2 của ngành y tế; muốn đạt kết quả tốt đòi hỏi một nỗ lực rất lớn của nhà nước, của toàn xã hội và toàn ngành y tế.

Hiện nay ở Việt Nam đã phát triển thuốc actemisinin từ cây thanh hao hoa vàng để chữa SR do P. falciparum đã kháng thuốc.

SỐt rét đái hỒng cẦu tỐ. tai biến tan huyết nặng ở người bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét P. falciparum; khởi phát do bị lạnh hay do cơ chế miễn dịch dị ứng khi điều trị bằng kinin. Triệu chứng: sốt rét, đau bụng, nôn ra mật, nước tiểu ngày càng sẫm mầu (chứa hemoglobin), đái ít hay vô niệu, vàng da và thiếu máu giảm hồng cầu.

SỐt tỪng cơn. dạng sốt được biểu hiện bằng các cơn sốt, có khoảng cách đều đặn và giữa các cơn sốt thân nhiệt hoàn toàn bình thường. Đôi khi STC là triệu chứng của ổ nung mủ sâu (ổ mủ tại gan, nhiễm khuẩn tiết niệu, viêm màng trong tim), nhưng hay gặp nhất trong bệnh sốt rét và thuật ngữ này để chị bệnh sốt rét.

SỐt vàng. bệnh truyền nhiễm cấp tính do Arbovirus gây nên, lây truyền qua muỗi. Bệnh lưu hành và gây dịch ở vùng nhiệt đới Nam Mĩ (truyền qua muỗi Haemagorus) và châu Phi (truyền qua muỗi Aedes africamus). Bệnh xuất hiện đột ngột; sốt cao 400C, đau đầu, đau người dữ dội, nôn mửa, mặt sung huyết; ngày thứ ba, thứ tư nhiệt độ hạ và khỏi; trong trường hợp nặng, sốt lại, nôn ra máu, vàng da, tử vong do suy gan và suy thận. Phòng bệnh bằng tiêm vacxin điều chế bằng virut sống giảm hoạt. Kiểm dịch quốc tế yêu cầu hành khách phải có chứng nhận đã tiêm chủng chống SV khi đến các nước châu Phi (nơi có bệnh lưu hành).

Sơ cỨu. những chăm sóc, xử lý ban đầu, đơn giản được tiến hành ngay tại chỗ hoặc gần nơi xảy ra tai biến, tai nạn, nhằm làm giảm nhẹ các nguy cơ đe dọa sức khỏe hay tính mạng bệnh nhân, nạn nhân trước khi được chuyển đến cơ sở điều trị đầy đủ. Vd. cố định xương gãy trước khi di chuyển, hà hơi thổi ngạt trong trường hợp chết đuối, điện giật, garô khi bị rắn cắn, ngậm nitroglixerin khi có cơn đau thắt ngực...

Sơ nhiỄm lao. trạng thái một cơ thể bị vi khuẩn lao xâm nhập lần đầu tiên. Cần phân biệt SNL và bệnh lao; khi vi khuẩn lao xâm nhập, các tế bào bao vây nhưng không thể tiêu diệt được vi khuẩn; sự tồn tại của vi khuẩn lao như vậy tạo nên trạng thái nhiễm lao, biểu hiện ra ngoài bằng một phản ứng sinh học dương tính với tubeculin (thường gọi là phản ứng măngtu); sau này trong một số điều kiện bất lợi cho cơ thể (nguồn lây quá mạnh, suy giảm sức đề kháng), người bị nhiễm lao sẽ trở thành người mắc bệnh lao. Theo số liệu thống kê, trong số 100 người nhiễm lao, khoảng 10 người sẽ trở thành bệnh nhân lao. Ở Việt Nam, SNL thường xảy ra ở trẻ nhỏ (khoảng 30 - 40% trẻ em dưới 15 tuổi đã có phản ứng tubeculin dương tính). Trong đại đa số trường hợp SNL chỉ thể hiện bằng những triệu chứng không đặc hiệu như ho, sốt, đổ mồ hôi trộm, chậm lớn, biếng ăn. Chỉ điều trị lao sơ nhiễm khi thấy có nguy cơ xảy ra biến chứng nguy hiểm. Tiêm BCG cho trẻ em là một biện pháp tích cực có hiệu quả đề phòng SNL (trẻ được tiêm BCG sẽ có sức đề kháng tương đương); sau này nếu vi khuẩn lao xâm nhập cũng sẽ chỉ gây nên một sơ nhiễm nhẹ, ít có biến chứng nguy hiểm như lao màng lão, lao kê.

SỜ nẮN. phương pháp khám lâm sàng, thầy thuốc dùng cảm giác của đầu ngón tay để phát hiện những dấu hiệu bất thường ở một số cơ quan hay bộ phận trong cơ thể. Vd. sờ da tìm kiếm đau, phát hiện phù, u, cục; sờ gan, lách để phát hiện gan to, lách to, sờ mạch máu, vvv. Trong y học cổ truyền, sờ mạch gọi là bắt mạch (x. Thiết chẩn)

SỢi nẤm. sợi mạnh, hình ống, không quang hợp; các sợi chằng chịt tạo nên mạng xốp là hệ SN hay kết tụ thành thể quả (như nấm mũ). Không có lạp thể hay sắc tố, chất tế bào hoặc các giọt dầu. SN kí sinh hoặc hoại sinh do ở đầu tận cùng có bộ phận tiết enzym vào nguồn dinh dưỡng và phân huỷ nguồn đó. SN cũng có ở tảo, tạo nên mô giả như tán ở tảo biển.

SỢi thẦN kinh khỔng lỒ. sợi thần kinh có tiết diện tương đối lớn và có khả năng dẫn truyền nhanh các xung thần kinh. Có ở nhiều nhóm động vật không xương sống và thường hỗ trợ các cơ quan phản ứng bảo vệ, vd. sự co rút đầu ở giun đất.

SỢi tơi cơ. sợi rất mảnh phần lớn nằm trong chất gian sợi. Ở cơ vân các sợi này có vân, ngang và chứa vô số cơ tiết dục theo STC và tạo thành bộ máy co rút của STC.

SỢi trỤc thẦn kinh. phần kéo dài của thân tế bào thần kinh, truyền các xung thần kinh từ thân tới synap (khớp thần kinh). Ở đa số động vật có xương sống, xung quanh STTK có bọc bằng một bọc chất béo (bao myelin) và ngoài cùng có thêm một màng mỏng (bao thần kinh). Xt. Tế bào thần kinh.

Steroit. Tên gọi chung các dẫn xuất của pehidroxiclopentano - phenantren. Chất rắn có tính quang hoạt, ít tan trong nước, S được phân thành các nhóm sau: sterin, vitamin D, axit mật, ancol mật, saponin, steroit cacdiotonic, ancoloit steroit và hocmon steroit. Phổ biến trong động vật và thực vật, S được tác chiết từ tuỷ sống và mật của động vật có sừng, từ dịch thuỷ phân kiềm của sự lên men, từ dầu thực vật, mỡ động vật, từ chất thải của công nghiệp giấy, từ loài thực vật khác nhau hoặc tổng hợp từ các nguyên liệu không phải nguồn gốc thiên nhiên. Dùng chủ yếu để làm thuốc chữa bệnh.

Streptomycin. Công thức chung S12H39O12N7 chất kháng sinh tách được từ xạ khuẩn streptomyces griseus và một số xạ khuẩn khác, liên kết đặc hiệu với phần tiểu đơn vị 30S ở ribosom có tác dụng ngăn cản quá trình sinh tổng hợp protein ở nhiều vi khuẩn gram dương, gram âm.

Stress. thuật ngữ do Xêly (H. Selye; 1907 - 82; thầy thuốc Canada) đưa ra năm 1936 để chỉ một trạng thái căng thẳng của cá thể trong những điều kiện đặc biệt về sinh lý, tâm lý và hành vi. Có hai loại chủ yếu: S sinh lý và S tâm lí. Loại sau lại chia thành S thông tin (nảy sinh trong tình huống quá tải về thông tin) và S cảm xúc (xuất hiện trong tình huống bị đe dọa, nguy hiểm, xấu hổ, vv). S có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đối với hoạt động của chủ thể, S gồm ba thời kì: thời kì phản ứng báo động dưới các hội chứng sốc, sau đó là phản ứng và tăng cường khả năng chống lại tác nhân S; nếu tác nhân S quá mạnh hoặc kéo dài vượt mức thích nghi của cơ thể, cơ thể rơi vào thời kì suy kiệt dẫn tới tử vong. Trong quá trình chống đỡ của cơ thể đối với tác nhân S, trục hạ khâu não - tuyến yên - tuyến thượng thận và các hệ thống miễn dịch của cơ thể có vai trò đặc biệt quan trọng.

Strichnin. C21H22N2O2. Hợp chất thuộc loại ancaloit. Tinh thể mầu trắng; tnc = 2680C; t8 = 2700C/5 mmHg độ quay cực riêng với tia D: -1590 (trong clorofom), -1250 (trong etanol). Ít tan torng nước; tan trong etanol, benzen, clorofom. Trong y học, được dùng dưới dạng stricnin nitrat, S kích thích hệ thần kinh trung ương và là chất độc. Với lượng nhỏ có thể dùng làm chất trợ tim.

Sùi. tổn thương u hoặc dạng u (loại sau thường do viêm) làm thành nhú nhô cao trên bề mặt của da hoặc niêm mạc, vd. S trên bề mặt van tim (viêm màng trong tim do vi khuẩn), S vòm họng (cg. V.A), S ung thư,... S có thể rụng hoặc bong, gây chảy máu và tắc mạch. Điều trị: cắt, nạo sạch các loại S lành tính ở da hay vòm họng; điều trị tại chuyên khoa sâu đối với các S dạng trên van tim hay S ung thư...

Sùi vòm hỌng. X. V.A

SỤn. một loại mô liên kết chứa các tế bào sụn chìm trong cơ chất (loại protein cứng, có thể có các sợi đàn hồi hoặc sợi keo) có trong cơ thể của một số động vật không xương sống và tất cả động vật có xương sống. Là chất tạo nên bộ khung cứng, dẻo của toàn bộ xương cá sụn (cá mập, cá nhám, vv). Ở động vật có xương sống bậc cao hơn, bộ xương đầu tiên hình thành trong phôi ở dạng S và sau được thay bằng xương. Ở dạng trưởng thành, S chỉ còn ở một số ít chỗ như đỉnh mũi. Ở dạng trưởng thành, S chỉ còn ở một số ít chỗ như đỉnh mũi, vành tai, đĩa đệm các đốt sống, ở đầu xương và các khớp. Có nhiều loại S, quan trọng nhất là S trong, S chun và S xơ. Trong quá trình hình thành S, các tế bào phân chia không tách nhau và hợp lại thành các nhóm 2 hoặc 4 tế bào (các tế bào đồng tộc).

Sulfamit, loại hợp chất hữu cơ có chứa nhóm SO2NR'R'' (R' và R'' là hidro hoặc các gốc hữu cơ khác nhau). Quan trọng nhất là amit của axit sunfanilic, vd. Streptoxit (NH2C6H4SO2NH2). Được dùng rộng rãi trong y học để làm thuốc, có tính kháng khuẩn mạnh.

Sung huyẾt. hiện tượng máu ứ đọng trong một cơ quan, phủ tạng, một bộ phận cơ thể. Nguyên nhân: viêm (chủ yếu viêm cấp tính), chướng ngại trên vòng tuần hoàn (ở động mạch, tĩnh mạch, mao mạch) làm cản trở sự lưu thông máu, làm cho máu bị dồn lại ở phía trên. Vd. hẹp van hai lá làm SH ở phổi; suy tim phải và suy tim toàn bộ gây SH ở gan, làm gan to.

Suy dinh dưỠng. Tình trạng bệnh lí chủ yếu thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, do không được cung cấp đủ hoặc do thành phần chất dinh dưỡng không cân đối, một số ít trường hợp do ăn quá thừa một hay nhiều chất dinh dưỡng, gây rối loạn chuyển hoá. Thiếu chất dinh dưỡng là do chao ăn thiếu (vd. trẻ còn bú không được ăn đủ sữa, phải nuôi nhân tạo, ăn quá nhiều bột; khẩu phần ăn không cung cấp đủ protein, vitamin, muối khoáng, sữa pha không đúng phương pháp; chất lượng bột kém...); do hấp thu kém, do tăng tiêu hao các chất dinh dưỡng (vd. ở trẻ em đang lớn, ở tuổi dậy thì, ở người mắc các bệnh nhiễm khuẩn, kí sinh trùng như lị, ỉa chảy, lao, viêm đường tiết niệu...); do tăng nhu cầu chất dinh dưỡng (phụ nữ đang cho con bú, thai phụ), SDD diễn biến qua hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, cơ thể cố gắng thích nghi với sự thiếu dinh dưỡng (vd. tầm vóc nhỏ hơn người cùng lứa tuổi, năng suất lao động thấp...). Giai đoạn hai - SDD thực sự; hiếm sảy ra ở người lớn, người có tuổi; chủ yếu gặp ở trẻ nhỏ. Có nhiều thể bệnh: 1/ thể thiếu protein và năng lượng, với hai thể bệnh chính là thể phù và thể teo đét; 2/ thiếu sắt (bệnh thiếu máu); 3/ thiếu vitamin A (bệnh khô giác mạc, nhuyễn giác mạc, mù); 4/ thiếu vitamin D (bệnh còi xương); 5/ thiếu vitamin B1 (bệnh beri - beri hay tê phù); 6/ thiếu vitamin C (bệnh scobut hay chảy máu chân răng); 7/ thiếu iot (bệnh bướu giáp). Dự phòng SDD; quản lý tốt sức khỏe cho trẻ em từ lúc mới sinh; giải quyết tốt vấn đề ăn uống, bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng, nhất là trong thời kì cai sữa; cho trẻ bú sữa mẹ đện 12 - 18 tháng tuổi; chữa bệnh kịp thời. Chữa SDD: chữa nguyên nhân bệnh, đẩy mạnh chăm sóc điều dưỡng, vệ sinh ăn uống... sử dụng các kinh nghiệm của y học cổ truyền (vd. Dùng phì nhi hoàn, bột thịt cóc,...).

Suy đỘng mẠch vành. Tình trạng động mạch vành (động mạch của bản thân quả tim và có nhiệm vụ tưới máu đều đặn cho tim) không cung cấp đủ lượng máu cần thiết để nuôi cơ tim. Nguyên nhân: động mạch vành bị hẹp do vữa xơ (nguyên nhân chủ yếu),. dị tật bẩm sinh, vv. Biểu hiện: khi gắng sức hay làm việc nặng, xuất hiện cơn đau thắt ngực, đau ở sau xương ức, lan lên vai, ra cánh tay trái, lên lên cổ hoặc ra sau lưng, vv. Cơn đau giảm khi dừng lại nghỉ ngơi hoặc dùng thuốc giãn mạch vành (đặt 1 viên nitroglixerin 0,5mg hoặc 1 viên lenitral dưới lưỡi), SĐMV xảy ra ở người lớn tuổi (sẵn có tăng huyết áp, béo phì), người lao động trí óc, làm việc tĩnh tại, ít vận động thể lực... Thường gây ra nhiều biến chứng: cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, loạn nhịp tim, suy tim, vv. Để giảm các tai biến nguy hiểm, bệnh nhân bị SĐMV cần được quản lý sức khỏe, kiểm tra sức khỏe định kỳ, dưỡng sinh, thực hiện chế độ sinh hoạt, lao động, ăn uống... hợp lí, dùng thuốc theo chỉ định của thầy thuốc.

Suy hô hẤp. tình trạng bệnh lý: bộ máy hô hấp không đảm bảo đựơc chức năng trao đổi khí, không cung cấp đủ ôxi, không thải trừ đủ CO2 (cacbon dioxit) cho cơ thể khi nghỉ hay khi làm việc; không duy trì được trong máu động mạch các phân áp oxi và độ bão hoà oxi ở mức bình thường, thể hiện bằng phân áp oxi trong máu động mạch (PaO2) dưới 8 kPa (60mmHg) và có thể kèm theo phân áp CO2 (PaCO2) cao trên 6,5kPa (49 mmHg). Các nguyên nhân của SHH; thông khí không đầy đủ, giảm thông khí, thông khí hạn chế, loạn thông khí, tắc nghẽn do cản trở vướng tắc của khí hít vào, nhất là khí thở ra (do viêm phế quản mạn tính, hen, giãn phế nang...); rối loạn thông khí hỗn hợp, do suy giảm màng phế nang, mao mạch, rối loạn trao đổi khí giữa các phế nang và mao mạch phổi,...

Suy nha chu. (tk. Hư nha chu, hư quanh răng). Thoái hoá các mô quanh răng do nhiều nguyên nhân: y ếu tố thần kinh, cơ địa (thể tạng); nhiễm khuẩn; vệ sinh và dinh dưỡng kém; các bệnh răng miệng, đặc biệt là cao răng; tuổi gia (lão suy), vv. SNC có mức độ nhẹ hơn và thường là bước đầu của viêm nha chu (x. Viêm nha chu). Phòng bệnh và điều trị theo nguyên nhân.

Suy nhưỢc. tình trạng giảm sức lực làm cho người mệt nhọc, thiếu ý chí, nghị lực và năng lực hoạt động. SN toàn thân, xảy ra trong nhiều tình trạng bệnh lí mạn tính như thiếu máu và ung thư, đặc biệt trong bệnh lí tuyến thượng thận, SN là bệnh cảnh nổi bật. Cũng gặp trong các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc, trong một số trạng thái thần kinh, tâm thần...

Suy nhưỢc thẦn kinh. sự suy yếu có hệ thống, sự căng thẳng hệ thần kinh dẫn đến suy nhược quá trình hưng phấn (thể nhược) hoặc quá trình ức chế (thể cường). Trên lâm sàng, biểu hiện đặc trưng của bệnh: tăng nhẹ quá trình hưng phấn và chóng mệt mỏi, gần như bao giờ cũng có rối loạn giấc ngủ, nhức đầu, giảm sút khả năng tập trung chú ý. Các rối loạn thực vật gắn liền với rối loạn chức năng các cơ quan (tim, gan, dạ dày...). Thường gặp ở người có quá trình thần kinh không cân bằng (hoặc hưng phấn, hoặc ức chế chiếm ưu thế), người mệt mỏi do làm việc quá sức. Ngày nay, SNTK được xếp vào nhóm loạn thần kinh chức năng.

Suy thẬn. giảm sút chức năng thận (cấp, mạn) dưới mức bình thường, từ mức nhẹ đến mức ngừng bài tiết nước tiểu (vô niệu), gây nên tử vong do thận không đào thải đựơc các chất độc ở trong cơ thể. Nguyên nhân: rối loạn huyết động học do truỵ tim mạch gây ra thiếu máu cục bộ thận; thương tổn hữu cơ của nhu mô thận do nhiễm độc; viêm tiểu cầu thận, chướng ngại trên các đường bài xuất nước tiểu... Dấu hiệu: thiếu máu, tăng huyết áp, khó thở, chảy máu, buồn nôn, ỉa chảy, cuối cùng là đi vào hôn mê. Xét nghiệm máu: tăng urê huyết (quá 0,60 g trong 1 lít máu), tăng creatinin hệ số thanh thải (thanh thải creatinin dưới 60ml trong một phút). Điều trị nguyên nhân của bệnh: giải quyết việc thải các chất độc tích tụ trong cơ thể; làm thẩm phân màng bụng, chạy thận nhân tạo, ghép thận.

Suy tim. Tình trạng bệnh lý tim không đủ khả năng bảo đảm lưu lượng máu để đáp ứng nhu câầ trong mọi tình huống sinh hoạt của cơ thể người bệnh. Những nguyên nhân gây giảm lưu lượng máu của tim gồm: các bệnh hô hấp mạn tính (hen, viêm phế quản...). Các dấu hiệu chính của ST: khó thở (nhất là khi gắng sức), tím tái, đái ít, phù, tim to, gan to... nếu tiến triển nặng có thể tử vong do phù phổi, loạn nhịp tim. Điều trị: nghỉ hoàn toàn, ăn nhạt, thở oxi, dùng thuốc trợ tim, lợi tiểu, giãn mạch; cố gắng tìm nguyên nhân để điều trị.

Suy tuỶ. Suy giảm sinh sản tế bào tuỷ xương. Tuỳ theo mức độ ST, có giảm sản và bắt sản tuỷ. Có ST bẩm sinh và mắc phải. Nguyên nhân của ST mắc phải: ảnh hưởng của thuốc chloramphenicol, phenylbutazon, thuốc trừ sâu, chất phóng xạ, bức xạ ion hoá, vv. Biểu hiện: giảm hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu máu ngoại vi; thiếu máu nặng, khó hồi phục, kèm theo dễ chảy máu và nhiễm khuẩn. Điều trị: truyền máu, hocmon nam và ghép tuỷ.

SỬ quân tỬ. lá đơn, nguyên mọc đối. Hoa mọc thành bông ở kẽ lá hoặc đầu cành, lúc mới nở màu trắng, sau chuyển thành đỏ. Qủa có cạnh lồi, nâu sẫm khi chín. Trong quả già có nhân. Cây mọc hoang hoặc được trồng làm cảnh ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Dùng nhân quả làm thuốc tẩy giun đũa. Trẻ em (tuỳ tuổi) dùng ít hơn. Dùng SQT có thể gây nấc, nôn mửa, đau bụng.

SỮa. sản phẩm tiết ra từ tuyến S ở động vsật có vú cái sau khi đẻ và dùng để nuôi con. S được tạo thành từ nguyên liệu hữu cơ và vô cơ rút từ máu đi qua tuyến S. Muốn tạo được một lít S phải có khoảng 400 - 500 lít máu đi qua hệ huyết quản tuyến S. Trong tuần lễ đầu sau khi đẻ, bầu vú tiết ra loại S non, còn gọi là S đầu, với tính chất và thành phần hoá học khác với S thường (chứa nhiều kháng thể, chất tẩy ống tiêu hoá cho con sơ sinh...) và chỉ dùng để nuôi con mới đẻ. S vắt từ ngày thứ 10 trở đi mới gọi là S thường, cũng gọi là S nguyên.

S động vật ở dạng lỏng, màu trắng đục hơi ngả màu vàng nhạt, vị hơi ngọt, có mùi đặc trưng, riêng S trâu có mùi gây mạnh hơn các loài S động vật khác. Thành phần hoá học S của các loài động vật khác nhau cũng khác nhau, S trâu và S cừu có hàm lượng chất béo cao nhất khoảng 7 - 8%. Còn S dê, S bò có hàm lượng chất béo thấp hơn 3,8 - 4%. Ngoài chất béo ra trong S động vật còn có các chất như protein (chủ yếu là casein chiếm khoảng 80%, còn lại là anbumin và globulin), gluxit (chủ yếu là đường lactozơ), các vitamin hoà tan trong chất béo (A, D, E...) và các vitamin hoà tan trong nước như B, C,M K, F... các loại muối khoáng, các nguyên tố vi lượng rất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể, các enzym, S động vật không có chất bột như S thực vật. Tỷ lệ phần trăm (%) những hợp chất chính ở S một số loài vật nuôi như sau:

S động vật được chế biến thành nhiều loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hoá, hấp thu cho con người. Đặc biệt, do có thành phần hoá học gần giống S mẹ nên S động vật có thể thay thế S mẹ được.

SỮa bỘt. (tk. sữa khô), sản phẩm chế biến từ sữa tươi có độ khô 11 - 13%, hoặc từ sữa đã cô đặc đến độ khô 35 - 40%, đem sấy khô, nghiền thành bột, sàng, rây được sữa ở dạng bột có độ khô 90 - 96%, độ ẩm 4-10%. Tuỳ thuộc vào thiết bị sấy có được sản phẩm SB có chất lượng khác nhau. Sấy phun, sấy thăng hoa cho sản phẩm có độ khô 96 - 97%, sấy màng thì SB có độ khô 85 - 90%. Một chỉ số quan trọng của SB là khả năng và tốc độ hoà tan trở lại (sữa hoàn nguyên). Thực tế cho thấy: độ hoà tan của SB sấy bằng phương pháp thăng hoa đạt 98 - 99%, sấy phun đạt 96 - 98%, sấy màng đạt 85 - 88%. Tốc độ tan của SB sấy thăng hoa là nhanh nhất, SB sấy phun tan cũng tương đối nhanh, SB tốt nhưng không kinh tế. SB giầu chất dinh dưỡng, độ ẩm rất thấp nên có thể bảo quản trong bao bì kín ở nhiệt độ thường khoảng 12 - 15 tháng, SB có thể hoà tan ăn ngay, hoặc dùng làm nguyên liệu để chế biến các sản phẩm khác từ sữa từ sữa thanh trùng, sữa cô đặc, có đường, làm phomat, sữa chua, làm bánh kẹo, socola, vv

SỮa chua. sản phẩm thu được khi len men lactic sữa động vật. Sau khi lọc sạch, thanh trùng, người ta làm nguội xuống 37 - 400C, cấy chủng SC vào và để lên men ở nhiệt độ 37 - 400C trong khoảng 3 giờ, rồi cho vào bảo quản lạnh ở nhiệt độ 4 - 60C trong 5 - 10 giờ, sau đó có thể đưa ra sử dụng. Nhờ có quá trình lên men lactic, một phần protein được phân giải thành axit amin, chất thơm axetoin, một phần protein được phân giải thành axit amin, chất thơm axetoin, diaxetin và các vi khuẩn lactic. Vì vậy, ngoài việc cung cấp các chất dinh dưỡng SB còn có tác dụng cung cấp các vi khuẩn lactic, chữa bệnh đường ruột, bệnh dạ dày và các bệnh về tiêu hoá.

SỮa không mỠ. x. sữa tách bơ

SỮa MẸ. x. sữa

SỮa non. X. sữa đầu

SỮa tách bơ. (cg. sữa không mỡ, sữa gầy, sữa khử bơ), sữa động vật đã được tách gần hết phần chất béo bằng máy li tâm cao tốc. Thông thường, trong STB chỉ còn lại khoảng 0,05% chất béo. Phần chất béo tách ra được đem chế biến thành các loại bơ. Thành phần hoá học của STB có protein, lactozơ, nước, muối khoáng, enzym, các vitamin hoà tan trong nước như vitamin C, nhóm B, K... Sữa bò tươi đã tách mỡ có thành phần gồm khoảng 89% nước, 3,2% protein, 0,05% lipit (chất béo), 4,8% gluxit (lactozơ) 0,7% khoáng, STB có thể dùng chế biến sữa bột, sữa đặc có đường, phomát; sữa chua dùng trong sản xuất bánh kẹo, sôcôla cho người. Trong chăn nuôi, STB là nguồn thức ăn rất tốt dùng để thay thế một phần sữa nguyên nuôi bê nghé trong thời kì còn phải nuôi bằng sữa. Sữa bột không mỡ bảo quản được lâu hơn sữa bột bình thường mà không có mùi vị ôi khét, dùng làm nguyên liệu dự trữ rất tốt.

SỮa tiêu chuẨn. lượng sữa thu được của một gia súc cái vắt sữa sau khi chuyển lượng sữa có tỷ lệ mỡ sữa thực tế sang tỷ lệ mỡ sữa 4%, tính theo công thức: STC (kg) = 0,4 STT (kg) + 15 MTT (kg), trong đó: STT - sữa thực tế (kg), MTT lưỡng mỡ thực tế

SỨt môi. dị dạng bẩm sinh ở môi: khe hở ở một bên hoặc hai bên môi và có thể lan rộng đến sàn mũi, xương ổ răng, vòm khẩu cái. Chữa bằng mổ tạo hình sớm (có thể ở trẻ nhỏ dưới 2 - 3 tháng tuổi).

Synap. cấu trúc gồm túi nhỏ có đường kính 200 - 500 Â, màng dày khoảng 50 Â, liên kết giữa hai tế bào thần kinh hoặc giữa tế bào thần kinh đi qua, S nằm giữa đầu tận cùng có dạng cầu của sợi trục một tế bào thần kinh và sợi nhánh hoặc thân tế bào thần kinh khác. Một tế bào thần kinh có thể có nhiều S với các tế bào thần kinh khác. Mỗi S có hai vùng chuyển hoá ở màng tế bào của hai tế bào thần kinh tiếp xúc, cách nhau bởi khe nhỏ (khe hoặc xoang S). Xung thần kinh đi từ sợi trục của tế bào trước S làm các bóng nhỏ vỡ ra và giải phóng chất dẫn truyền thần kinh, các chất này khuếch tán qua khe S và kết hợp với các thụ quan trên màng tế bào sau S. Tuỳ theo các loại tế bào thần kinh, có thể có tác động gây xung động ở tế bào sau S (sự hưng phấn) hoặc ngăn cản xung từ các tế bào thần kinh khác (sự ức chế). Đa số S chỉ truyền sung theo một hướng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro