Hậu duệ thần đèn ( FULL )

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hậu duệ thần đèn

Nơi nóng nhất trái đất

TTO - Đó là một bữa xế trưa trong một ngày hè nóng bức tại Ai Cập. Hussein Hussaout và cậu con trai mười một tuổi Baksheesh, cùng con chó Effendi của họ đã dựng trại trên một sa mạc cách thành phốCairohai mươi dặm đường. Như mọi khi, họ đang lén đào bới những món đồ cổ để bán trong cửa hàng của mình.

Không có vật gì chuyển động trong sa mạc ngoại trừ một con rắn, một con bọ hung, một con bọ cạp nhỏ xíu, và ở đằng xa, một con lừa đang ì ạch kéo chiếc xe thồ bằng gỗ chất đầy lá cọ trên một con đường mòn mù mịt bụi. Ngoại trừ những vật đó, còn lại tất cả đều im ắng và bất động. Đối với các du khách bình thường, thật khó để họ tưởng tượng được cái hẻm núi đầy đá và cát này lại là một phần của di tích khảo cổ lớn nhất Ai Cập. Họ cũng không thể nào ngờ lớp đất khô cằn này chôn giấu bên dưới nó cả một kho tàng khổng lồ những tượng đài và báu vật vô giá.

Baksheesh rất thích giúp cha tìm kiếm cổ vật trên sa mạc. Nhưng, công việc nóng bức này khiến hai cha con cậu cứ vài phút lại phải ném xuổng xuống đất, chạy tới chiếc Land Rover để uống nước và tranh thủ tận hưởng chút không khí mát lạnh từ máy điều hoà nhiệt độ bên trong xe, trước khi trở lại với việc đào bới. Công việc cũng khá nguy hiểm. Bên cạnh hiểm họa từ rắn và bọ cạp, đây còn là một vùng đất đầy rẫy những hố cát lún sâu hút. Chỉ cần một chút sơ suất, người hay lạc đà đều có thể bị chúng nuốt chửng ngay.

Vận may có vẻ đã mỉm cười với cha con Baksheesh. Chỉ trong buổi sáng, họ đã tìm thấy một vài hình nhân Shabti cổ, mấy món đồ đất nung vỡ, và một bông tai nhỏ bằng vàng. Baksheesh cảm thấy rất vui vì chính cậu đã tìm thấy cái bông tai. Cha cậu nói nó rất có giá trị. Phản chiếu tia nắng sa mạc nóng bỏng, nó rực cháy như một cái vòng lửa trên những ngón tay cáu bẩn của ông Hussein.

Ông bảo con trai:

- Đi ăn trưa đi con trai. Hôm nay con đã làm tốt lắm rồi.

Nhưng bản thân ông vẫn tiếp tục đào bới, hy vọng sẽ kiếm được thêm nhiều món đồ khác.

- Vâng ạ.

Baksheesh đi về phía đuôi chiếc Land Rover. Con Effendi đi sát theo sau cậu, hy vọng sẽ được cho ăn cái gì đó. Baksheesh đến bên cốp xe. Cậu đang định lấy ca nước lạnh thì bất thình lình,chiếcLandRover chuyển động. Nghĩ bụng chắc cái thắng tay không được gài cẩn thận, cậu lao về phía cửa xe bên tay lái, định nhảy vào bên trong để xiết lại thắng cho chặt. Nhưng khi cậu vừa với tay đến cái nắm cửa, nó đột ngột vuột ra. Một hay hai giây ngay sau đó, Baksheesh cảm thấy một chấn động dữ dội ngay dưới chân cậu, như thể một gã khổng lồ vừa đấm vào cái trần đá trên đầu hắn. Nhìn xuống, Baksheesh thấy mặt đất đang cuộn dưới chân cậu, thành từng đợt sóng chạy dọc theo thung lũng. Mất thăng bằng, cậu ngã nhào vào chiếc xe, cùi chỏ tay trầy xước nhẹ. Liền sau đó, Baksheesh thét lên sợ hãi khi một cơn địa chấn thứ hai dữ dội hơn xảy đến ngay khi cơn đầu tiên vừa kết thúc.

Baksheesh lồm cồm bò dậy, cố không để bị ngã nhoài. Mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn một khi cậu không nhìn xuống đất nữa. Thay vào đó, cậu dán chặt mắt vào một vách núi phía trước, cách chỗ cậu đang đứng chừng một phần tư dặm. Đó là nơi quen thuộc với hai cha con cậu, vì họ thường xuyên làm việc ở đó. Tuy nhiên, ngay khi cậu nhìn về phía đó, cả cái vách đổ ụp xuống thành một mớ hỗn độn bụi, đá và cát.

Baksheesh ngồi phịch xuống đất, chỉ cốt để tránh bị té ngã lần nữa. Dù chưa từng gặp một cơn động đất trước đây, cậu vẫn cảm thấy khó có thể lầm cơn chuyển động đáng sợ này của mặt đất với bất cứ điều gì khác. Tuy nhiên, trái ngược với tâm trạng của Baksheesh, thay vì sợ hãi, cha cậu lại có vẻ rất vui sướng bởi cơn động đất. Loạng choạng giữ thăng bằng, ông bắt đầu cười lên một cách điên dại và hét vang:

- Cuối cùng nó cũng xảy ra. Cuối cùng nó cũng xảy ra.

Có vẻ ông tin rằng cơn động đất xảy ra là có lợi cho ông.

Những cơn chấn động trở nên dữ dội hơn – những cú giật theo chiều ngang trộn lẫn với những rung chuyển theo chiều thẳng đứng, như thể Mẹ thiên nhiên đang định đánh bại tất cả những người như Hussein Hussaout, những người đủ thông minh để giả vờ như mình đang bước đi trên boong một con thuyền trong bão – với Baksheesh, có vẻ cha cậu đã hóa điên.

Ông Hussein hét lớn, át cả tiếng gầm rống đinh tai của mặt đất:

- Mười năm! Ta đã chờ đợi giây phút này mười năm trời.

Trong sự ngạc nhiên tột độ của Baksheesh, sự hào hứng, vui sướng của cha cậu không có vẻ gì là sẽ giảm xuống, ngay cả khi một khối đất đá lớn từ dưới lòng đất đâm thẳng lên trời, nhấc bổng chiếc Land Rover lên cao gần hai mét phía trên đầu cậu và lật ngược chiếc xe.

Giữ chặt con Effendi đang rên ư ử và run bần bật vì sợ hãi, cậu hét lên:

- Ngừng lại đi cha! Cha điên rồi. Làm ơn ngừng lại đi, không cha sẽ chết mất.

Trên thực tế, việc ông Hussein Hussaout đứng trên nền đất rung chuyển không nguy hiểm gì hơn việc con trai và con chó của ông bám chặt vào nó, tuy nhiên Baksheesh cảm thấy có một điều gì đó bất kính về cách xử sự của cha cậu, như thể những tinh linh của đất có thể thấy bị xúc phạm trước sự vui sướng và thái độ “coi trời bằng vung” của ông, và quyết định trừng phạt cả ba.

Và rồi, cũng đột ngột như khi đã bắt đầu, tiếng gầm gừ bên dưới lòng đất dần dần tắt lịm, những chuyển động đáng sợ ngừng lại, bụi và cát nằm yên, sự bất động trở lại và tất cả lại trở nên im ắng – tất cả, ngoại trừ Hussein Hussaout.

Ông hỏi to:

- Tuyệt quá, phải không con?

Chỉ đến lúc này, khi cuối cùng mặt đất đã ngừng chuyển động, ông mới cho phép mình khuỵu chân quỳ xuống đất và, vẫn cười nhăn nhở như một người điên, ông chắp hai tay vào nhau như thể đang cầu nguyện.

Quay nhìn chiếc Land Rover đang nằm chỏng vó lên trời, Baksheesh lắc đầu và nói:

- Có vẻ như chúng ta sẽ phải đi bộ ngược ra đường lớn để tìm người giúp. Con chẳng thấy chuyện này có gì tuyệt quá cả.

Cha cậu vẫn giữ nguyên quan điểm của mình:

- Không đâu. Đây là một chuyện tuyệt vời.

Và ông giơ lên cho Baksheesh xem một mảnh đá nhỏ hơn cái đĩa CD một chút.

- Nhìn này! Cha trông thấy nó ngay khi mặt đất bắt đầu di chuyển. Hàng ngàn năm nay, gió và cát luôn là kẻ bảo vệ kho báu của pharaoh. Nhưng đôi khi, mặt đất lại chuyển dời và những thứ chôn giấu bên dưới nó lại hiện ra.

Với Baksheesh, mảnh đá nhìn chẳng có vẻ gì là một báu vật. Trên thực tế, hầu như tất cả những người khác có lẽ cũng sẽ bỏ qua mảnh đá bazan nhẵn, xám, vuông vức có khắc vài đường rãnh trên mặt mà ông Hussein đang cầm. Nhưng ông Hussein đã ngay lập tức nhận ra nó là gì: một miếng bia đá Ai Cập.

Cha cậu giải thích:

- Đây là một tấm bảng đá trên đó có khắc những dòng chữ tượng hình cổ của Triều đại thứ 18. Nếu như cha không lầm thì chúng ta đã tìm thấy chìa khóa giải mã một bí ẩn đã bị che giấu suốt hàng ngàn năm. Hôm nay có thể sẽ là ngày tuyệt nhất trong cả cuộc đời của chúng ta. Một người như cha đã chờ đợi cả đời cho một cơ hội như thế này. Đó chính là điều tuyệt vời mà cha đã nói, con trai. Là lý do vì sao cha thấy vui.

P.B.KERR

Chương 1: Đặt tên chó

TTO - Ông bà Edward Gaunt sống trong một tòa nhà bảy tầng cổ kính nằm tại số 7, đường 77 phía Đông thành phốNew York. Hai đứa con sinh đôi của ông bà, John và Philippa, cùng mười hai tuổi, nhưng lại chẳng giống nhau một chút nào (và cả hai đứa đều cảm thấy nhẹ nhõm và thỏa mãn với điều đó).

Chúng khác nhau đến nỗi người ta khó có thể tin được chúng lại là trẻ sinh đôi. John, may mắn được làm anh vì sinh ra trước mười phút, là một cậu bé cao dong dỏng với mái tóc thẳng màu nâu và sở thích mặc đồ màu đen. Cô em gái Philippa của cậu người nhỏ nhắn hơn với mái tóc lượn sóng màu đỏ, thích mặc đồ màu hồng. Cặp mắt kiếng gọng sừng làm cô nhìn có vẻ thông minh hơn anh. Cả hai đều cảm thấy tội nghiệp cho những cặp sinh đôi giống nhau như đúc và tin rằng chúng đã may mắn thoát nạn, cho dù đôi lúc cũng thấy bực mình khi người ta cứ nhận xét chúng trông không giống nhau như thế nào, như thể chẳng ai chú ý đến điều đó trước đây.

Tuy nhiên, những gì diễn ra bên trong đầu hai anh em nhà này lại là một chuyện hoàn toàn khác. John và Philippa thường xuyên có những suy nghĩ tương tự nhau. Thỉnh thoảng ở trường học, khi thầy giáo đặt một câu hỏi, cả hai giơ tay xin trả lời cùng một lúc. Khi xem các chương trình game show trên tivi, chúng sẽ đồng loạt nói câu trả lời. Và không ai có thể chiến thắng hai anh em nhà này trong trò chơi Pictionary(*) một khi chúng chơi chung một đội.

Cha chúng, ông Gaunt, là một giám đốc ngân hàng đầu tư, nghĩa là ông cực kỳ giàu có. Bà Gaunt, thường được cộng đồngNew Yorkbiết đến với cái tên Layla, là một phụ nữ xinh đẹp rất tích cực tham gia vào các hoạt động từ thiện. Và công việc đó rất cần đến bà, bởi vì tất cả những gì bà chạm tay vào đều thành công. Bà tổ chức nhiều buổi dạ tiệc, lời nói của bà lấp lánh như chùm đèn pha lê, và bà quyến rũ bởi sự thông minh, khéo léo, sắc đẹp cùng vẻ kiêu sa khó với.

Nhưng cũng không ai có thể phủ nhận rằng ông bà Edward Gaunt nhìn chẳng có vẻ gì là một cặp – gần giống trường hợp hai người con sinh đôi của họ. Bà Layla, có mái tóc đen tuyền và một thân hình tuyệt vời như một vận động viên thể thao, đi chân không cũng đã cao hơn một mét tám, trong khi ông Edward, với mái tóc xám hơi dài và cặp mắt kiếng nhuộm màu, dù có mang giày Berluti cũng chỉ cao chưa tới một mét sáu. Người ta sẽ lập tức chú ý đến bà Layla ngay khi bà bước vào phòng, nhưng lại thờ ơ bỏ qua ông Edward – thật may là ông lại thích như vậy hơn. Là tuýp người sống kín đáo, dè dặt, ông Edward hoàn toàn hài lòng với việc để cho vợ và ngôi nhà trên đường 77 của ông thu hút mọi sự chú ý và tán thưởng.

Thường xuyên được nhắc đến trên mọi loại tạp chí hào nhoáng, ngôi nhà của gia đình Gaunt ở khu thượng lưu phía đôngNew Yorknhìn giống một ngôi đền hơn là một ngôi nhà. Cửa trước được bảo vệ bởi một cánh cổng sắt khổng lồ có mái vòm, và tất cả các bức tường đều được ép gỗ gụ chất lượng hạng nhất. Bên trong nhà có rất nhiều bức tranh Pháp, đồ cổ Anh, thảm quý hiếm Ba Tư, và các lọ hoa Trung Quốc đắt giá. Philippa đôi lúc vẫn nhận xét cha mẹ cô lo cho các vật dụng trong nhà còn nhiều hơn là lo cho con cái. Tuy nhiên, cô luôn biết đó không phải là sự thật, và cô chỉ nói như vậy để tạo hiệu ứng giống với cách của John. John thường thích nói với cha mình rằng, căn nhà số 7 này giống như một bảo tàng nghệ thuật hơn là một nơi chốn trú ngụ phù hợp cho hai đứa trẻ mười hai tuổi. Những lúc John nói như vậy, thường là khi ông Gaunt trở về nhà với một bức tranh cổ mà ông mới lùng mua được, ông Gaunt luôn bật cười và bảo con trai rằng, nếu căn nhà số 7 là một bảo tàng nghệ thuật, chắc chắn nó sẽ không cho phép có chó, cho dù đó là hai con chó nuôi trong nhà của gia đình Gaunt.

Alan và Neil là hai con chó giống Rottweiler to lớn, có thể xếp vào hàng những sinh vật đặc biệt, bởi vì chúng dường như hiểu được những gì người ta nói với chúng. Có một lần John, làm biếng đứng dậy kiếm cái điều khiển từ xa của tivi, đã ra lệnh cho con Alan đổi kênh, và cậu đã một phen kinh ngạc khi nó thực hiện đúng lời cậu nói. Con Neil cũng thông minh không kém; cả hai con chó đều có thể phân biệt kênh Fox Kids, kênh Disney Channel với kênh Nickelodeon và kênh CNN. Chúng thường đồng hành với cặp sinh đôi trên mọi nẻo đường ở New York, và John cùng Philippa có lẽ là hai đứa trẻ duy nhất sống trong thành phố có thể đi dạo ở Công viên Trung Tâm gần nhà khi trời tối mà vẫn cảm thấy an toàn. Tuy nhiên, việc hai con chó thông minh như thế lại có những cái tên quá đỗi bình thường khiến John thấy rất cáu.

Một buổi sáng, khi kỳ nghỉ hè sắp bắt đầu, cậu phàn nàn với cha mẹ trong bữa ăn sáng:

- Rottweiler là giống chó đầu tiên được người La Mã cổ đại thuần hóa để làm chó cảnh giới. Chúng gần như là giống chó nhà duy nhất đi cùng với cảnh báo sức khỏe của chính phủ. Cú ngoặm của chúng dữ dội hơn bất kỳ con chó nào khác, có lẽ chỉ trừ con chó ba đầu canh giữ địa ngục.

Ông Gaunt lẩm bẩm nối lời con:

- Là Con Ceberus.

Rồi cầm tờ New York Times của mình lên, ông bắt đầu đọc bản tin về vụ động đất ởCairo. Có cả một bức hình to đùng về nó ngay trên trang bìa.

John nói:

- Con biết mà cha. Con đang muốn nói, Rottweiler vốn là một giống chó ưa chuộng của quân đội và cảnh sát, cho nên con nghĩ nếu gọi chúng là Alan và Neil thì nghe ngớ ngẩn quá.

Ông Gaunt hỏi:

- Sao lại ngớ ngẩn? Đó là tên của chúng từ trước đến giờ mà.

- Con biết. Nhưng cha à, nếu là con, con sẽ đặt cho hai con chó giống Rottweiler những cái tên phù hợp hơn nhiều. Như Nero và Tiberius chẳng hạn. Lấy theo tên của hai vị hoàng đế La Mã ấy.

Mẹ cậu nói:

- Nero và Tiberius không phải là người tốt đâu con yêu.

Cha cậu đồng ý:

- Đúng thế. Tiberius thiếu mọi sự nhã nhặn cần thiết – civile ingenium. Và hắn là một kẻ đáng khinh. Còn Nero chỉ là một gã khùng. Tệ hơn nữa, hắn sát hại cả mẹ mình, Agrippina. Và vợ hắn, Octavia. Và thiêu rụi cả thành phố. Odisse coepi, postquam parricida matris et uxoris, auriga et histrio et incendiarius extitisti.

Cha cậu cười độc ác:

- Cha hỏi con, kẻ như vậy có thể làm tấm gương gì cho một con chó chứ?

John cắn môi. Cậu luôn cảm thấy khó tranh cãi với cha mình một khi ông bắt đầu nói bằng tiếng Latinh. Có một thứ gì đó với những người nói bằng tiếng Latinh – giống như thẩm phán và các đức giáo hoàng – làm cho họ trở thành những người khó ai cãi lại được. John nhượng bộ:

- Vậy thì không lấy tên bất cứ hoàng đế La Mã nào cũng được. Tên gì khác thì sao? Tên gì đó nghe “giống như chó” hơn. Elvis chẳng hạn.

Ông Gaunt nói một cách kiên quyết:

- Con không nhận ra rằng hai con chó nhà mình chẳng con nào thật sự “giống như chó” à? Như con đã nói, giống Rottweiler được quân đội và các lực lượng bảo vệ pháp luật ưa chuộng. Chúng không phải là loại chó “giống như chó”, thường vẫy đuôi nhặng xị. Vài gia đình có một con chó có thể đi lấy báo từ hộp thư. Chúng ta có những con chó có thể chạy đến tận cửa hàng tạp hóa vào sáng thứ Bảy để lấy về một túi bánh vòng mà không hề ăn mất một cái. Cha nói cho con biết, ngay cả Elvis cũng không thể làm thế. Và liệu một con chó “giống như chó” có biết tự đi đến bác sĩ thú y khi cảm thấy không được khỏe? Hay biết bỏ tiền vào đồng hồ đỗ xe? Này, cha thật muốn thấy Hoàng đế Nero thử bỏ tiền vào đồng hồ đỗ xe đấy.

Gấp tờ báo lại, ông nói tiếp:

- Với lại, bây giờ có muốn đổi cũng đã muộn. Chúng đã là những con chó trưởng thành. Cả cuộc đời, chúng đã quen được gọi Alan và Neil. Con nghĩ chúng có thể trả lời với những cái tên mới đơn giản vậy sao? Một con chó không giống như một ngôi sao nhạc pop hay một diễn viên điện ảnh ngớ ngẩn nào đó. Bọn họ có thể làm quen với những cái tên dở hơi mới. Như Pink. Dido. Hay Sting. Nhưng một con chó sẽ trở thành như chính cái tên của nó theo cách mà không một động vật nào khác có thể.

Ông Gaunt liếc nhìn con gái và hỏi:

- Con có đồng ý với cha không, Philippa?

Vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ, Philippa gật đầu:

- Đúng là chúng không giống chó lắm. Cho nên con nghĩ thế này: nếu chúng ta giải thích cho chúng, thật cặn kẽ, rằng chúng sẽ có những cái tên mới, chúng ta sẽ có thể xem thử phản ứng của chúng. Một con chó đủ thông minh để nhận ra được sự khác biệt giữa kênh CNN và Fox Kids thì chắc cũng có thể quen với một cái tên mới.

- Nhưng cha vẫn không thấy tên chúng có gì không ổn. Alan và Neil đều là những cái tên Celtic. Alan có nghĩa là đẹp trai, và Neil nghĩa là vô địch. Cha chẳng thấy có gì không đúng về hai con chó mang tên đẹp trai và vô địch cả. Thật sự đấy.

Bà Gaunt trả lời:

- Anh à, em nghĩ đó là một ý kiến hay đấy chứ. Mà nhìn con Alan nhà ta thì dù có đầu óc tưởng tượng đến đâu cũng không ai đi mô tả nó đẹp trai cả. Còn con Neil thì chưa bao giờ chiến thắng cái gì trong suốt cuộc đời của nó hết.

Và bà mỉm cười như thể vấn đề đã được quyết định rồi:

- Vậy chúng ta sẽ gọi chúng là gì đây? Nói thật là mẹ cũng thích cái tên Elvis lắm. Alan là con chó lớn hơn, và cũng là con ăn nhiều hơn. Mẹ nghĩ nó hợp với cái tên Elvis nhất.

Ông Gaunt đưa mắt nhìn vợ với vẻ nghiêm khắc, dò hỏi, như thể ông rất không đồng ý với bà. Ông lầm bầm nói:

- Layla, đây không phải chuyện đùa đâu.

Philippa đề nghị:

- Thử gọi con Neil là Winston nhé. Lấy theo tên của Winston Churchill. Trong hai con chó nhà ta, nó là con chó dữ nhất, và tiếng gầm gừ của nó làm nó giống y chang Winston Churchill(*).

John tiếp lời:

- Nó cũng thích xì-gà. Cứ mỗi khi có ai trong nhà hút xì-gà, là y như rằng con Neil sẽ đến bên và bắt đầu hít ngửi không khí, giống như nó đang thưởng thức khói thuốc ấy.

Philippa đồng ý:

- Đúng là thế.

John hỏi:

- Vậy thì chỉ còn một vấn đề: ai sẽ là người thông báo cho chúng về việc đổi tên?

Philippa đề nghị:

- Chắc chắn phải là mẹ rồi. Chúng luôn nghe lời mẹ. Tất cả mọi người cũng vậy. Kể cả cha.

Đó là sự thật. Alan và Neil luôn luôn phục tùng bà Gaunt không một chút lưỡng lự nào.

Ông Gaunt vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình:

- Cha vẫn không đồng ý với chuyện đó.

John nói:

- Nếu vậy, chúng ta bỏ phiếu đi. Ai đồng ý đổi tên mới cho hai con chó nhà ta thì giơ tay lên.

Ba bàn tay giơ lên. Ông Gaunt thở dài một cách bất lực:

- Mọi người thích làm gì thì làm đi. Nhưng cha cá là Alan và Neil sẽ không chịu đâu.

Bà Gaunt bảo:

- Cứ thử sẽ biết. Mà anh à, đáng lẽ chúng ta nên nghĩ về chuyện này trước đây mới phải. Con mình nói đúng đấy.

Đặt ngón tay lên miệng, bà huýt sáo một tiếng thật lớn đủ để làm bất cứ chàng cao bồi nào cũng phải ghen tị.

Vài giây sau đó, hai con chó đi vào trong bếp và trình diện ngay ngắn trước mặt bà Gaunt như thể đang đợi chỉ thị. Bà nói với chúng:

- Hãy nghe cho kỹ nhé, các chàng trai. Mọi người đã quyết định rằng hai đứa sẽ có những cái tên mới giống chó hơn.

Con Neil nhìn qua con Alan và gừ lên ư ử. Con Alan thì làm bộ ngáp dài và ngồi bệt xuống sàn.

Bà Gaunt không bỏ cuộc:

- Không, ta không muốn nghe bất cứ phản đối nào cả. Neil, từ bây giờ tên mày sẽ là Winston. Còn Alan sẽ là Elvis. Cả hai rõ chưa?

Cả hai con chó tiếp tục giữ im lặng, và bà Gaunt lặp lại câu hỏi một lần nữa. Lần này, cả hai con chó sủa lớn. John nhận xét:

- Tuyệt cú mèo.

Ông Gaunt lên tiếng:

- Cha sẽ tiếp tục sử dụng cái tên cũ của chúng. Hai con chó có thể quen với cái tên mới, nhưng cha thì chắc chắn không.

Bà Gaunt ra lệnh:

- Winston đâu? Nằm xuống!

Và con chó trước đây mang tên Neil nằm xuống sàn bếp.

- Elvis đâu? Đứng lên!

Và con chó trước đây mang tên Alan đứng lên.

John trầm trồ:

- Tuyệt quá! Ai bảo chúng ta không thể dạy chó những mẹo mới chứ?

Philippa nói:

- Hai con chó này phải được lên tivi mới phải.

Ông Gaunt quăng tờ báo sang một bên và đứng dậy khỏi cái bàn ăn to rộng bằng gỗ anh đào. Vẻ mặt khó chịu, ông đi thẳng ra khỏi bếp sau khi nói:

- Đừng bao giờ nghĩ về chuyện đó.

Sau đó, cặp sinh đôi đi đến trường như bình thường, và, cũng như bình thường, không có chuyện gì xảy ra. John và Philippa luôn nằm trong top đầu của lớp trong hầu hết các môn học, ngoại trừ môn toán, nhưng chúng thật sự xuất sắc nhất trong môn thể dục, nhờ thân hình rất khỏe mạnh, cân đối – cân đối hơn phần lớn những đứa trẻ khác trong trường vốn lười biếng và mập ú. Lý do cả hai đứa có thân hình cân đối là vì chúng đều mắc chứng sợ bị giam giữ, nghĩa là rất ghét phải ở trong một không gian nhỏ hẹp, tù túng. Chúng đặc biệt ghét thang máy – một việc gây cho chúng không ít rắc rối trong một thành phố nhưNew Yorkvới quá nhiều tòa nhà cao tầng. Trong khi hầu hết những người khác sử dụng thang máy, John và Philippa thường chọn thang bộ. Thỉnh thoảng, chúng phải chạy cỡ năm sáu chục tầng lầu để lên đến nơi chúng muốn đến. Điều này làm chúng có thân hình cân đối như những vận động viên chạy bộ. Trên thực tế, những vận động viên chạy bộ sẽ phải đến phòng tập thể dục để có được thân hình cân đối như John và Philippa. Nhưng ngay cả những đứa trẻ có thân hình cân đối như John và Philippa cũng không thể nào nhanh bằng cái thang máy, nên kết quả là hai anh em nổi tiếng luôn trễ tràng trong hầu hết mọi chuyện. Đây là một điều có thể làm các bậc phụ huynh rất bực, tuy nhiên ông Edward và bà Layla Gaunt có vẻ còn hiểu rõ về con cái mình hơn cả mong đợi của John và Philippa.

P.B.KERR

Chương 2: Đi khám răng

TTO - Hầu hết trẻ em đều nóng lòng chờ đợi thời điểm cuối học kỳ mùa xuân và bắt đầu kỳ nghỉ mùa hè. Nhưng với cặp sinh đôi, ngày đầu tiên của kỳ nghỉ hè luôn gắn liền với một nỗi căm ghét pha lẫn sợ hãi đáng kể, vì đó luôn là ngày bà Gaunt chọn để đưa John và Philippa đi khám răng.

John và Philippa có những hàm răng khỏe mạnh, trắng như kẹo bạc hà, và đều đặn như một dãy xe đậu. Chẳng đứa nào từng phải trám răng, và trên thực tế, chúng thường chẳng bao giờ phải lo lắng về chuyện đó. Tuy nhiên, chúng lại luôn có cảm giác rằng một ngày nào đó, nha sĩ Larr sẽ tìm thấy một thứ gì đó trong hàm răng của chúng cần được chỉnh sửa, và rồi tất cả những mũi khoan sáng loáng, ống tiêm, cây chọc và que thăm bằng sắt nằm trên bàn của ông giống như những công cụ tra tấn sẽ thình lình được trưng dụng cho những việc hứa hẹn nhiều đau đớn. Cặp sinh đôi đã xem quá nhiều phim để hiểu rằng một nha sĩ có thể gây ra sự đau đớn như thế nào một khi ông bắt tay vào làm việc thật sự thay vì chỉ đơn thuần làm công việc kiểm tra thường lệ như chúng vốn đã quen.

Đó có lẽ là lý do tại sao sáng sớm ngày hai anh em có hẹn với nha sĩ Larr, John thức dậy từ một cơn ác mộng y như thật mà trong đó, cậu bị một cơn đau răng khủng khiếp hành hạ: một cơn đau răng kinh khủng đến nỗi có thể biến một người đàn ông trưởng thành mạnh mẽ thành một cái bánh trứng đường rên ư ử suốt ngày, hay có thể khiến một con gấu xám hung dữ trở thành bạn chí thân của một cậu bé đủ can đảm lãnh vai trò của một nha sĩ thú y; một cơn đau răng mà trong giấc mơ của John kết thúc bằng việc tất cả răng của cậu bị nhổ sạch.

Thở hổn hển, người đầy mồ hôi và run rẩy vì sợ hãi, John té lăn ra khỏi giường, tay bưng mặt, và nhẹ cả người khi nhận ra cơn đau răng đó chỉ là ác mộng. Nhưng có một chuyện còn kỳ lạ hơn so với giấc mơ đã xảy ra, vì khi cậu đang ngủ, tấm gương treo trên bức tường kế bên giường ngủ của cậu đã bị nứt từ bên này sang bên kia. Và không chỉ tấm gương mà cả tấm ván đầu giường cậu cũng bị nứt, làm cho vết nứt từ tấm gương dẫn thẳng xuống lớp gỗ. Hoặc có thể là ngược lại, vì còn có cả một vết cháy xém và rách nhỏ trên cái gối ngay chỗ đầu cậu đã đặt lên, giống như sự đau đớn được tạo ra bởi trí óc trong mơ của cậu đã tự biến nó thành một dạng sức mạnh gây ảnh hưởng đến tất cả những đồ vật xung quanh phòng cậu.

Ít nhất đó là suy nghĩ ban đầu của John.

Đứng quan sát những tổn hại từ cửa phòng, Philippa hỏi anh:

- Đêm hôm qua anh đã làm gì vậy? Cảm thấy đói bụng đến nỗi phải gặm tường cho đỡ đói à?

John bực dọc hỏi lại:

- Bộ nhìn anh giống một con chuột đồng lắm sao?

Tuy nhiên cậu không dám nói cho em mình nghe về điều cậu nghĩ có thể là lời giải thích cho vết nứt kỳ lạ trên tường vì sợ cô em gái sẽ cười vào mũi cậu.

Philippa nói:

- Không. Nhưng thỉnh thoảng anh có mùi y như nó.

Bước đến bên tấm gương, cô cẩn thận vê ngón tay dọc theo vết nứt rồi nhận xét:

- Nếu em không biết rõ, em sẽ nói nhìn cái này giống như kết quả của một trận động đất. Chỉ có điều cơn động đất cuối cùng ởNew Yorkchỉ có 5,1 độ và đã xảy ra vào năm 1983.

John ngạc nhiên nói:

- Em có vẻ biết nhiều về nó thế.

- Em đã xem một bộ phim trên tivi về nó vài tuần trước.

Rồi cô đột nhiên chau mày lại và nói:

- Lạ quá.

John tán thành:

- Dĩ nhiên là lạ rồi.

Nhưng Philippa đã đi ra khỏi phòng cậu, và trong vài phút, cậu không còn nghĩ ngợi gì về lời em mình vừa nói, cho đến khi cô quay lại với một tờ báo New York Times trên tay. Đẩy tờ báo vào tay anh mình, cô nói:

- Anh xem thử cái này đi.

- Báo của ngày hôm qua à? Thì sao?

- Họ nói có một trận động đất vừa xảy ra ở Ai Cập.

- Điều đó thì liên quan gì đến vết nứt trên tấm gương của anh chứ?

- Anh nhìn kỹ nhé.

Miệng nói, Philippa với tay lấy lại tờ báo. Cô đặt nó lên trên tấm gương, sao cho tấm hình ở trang bìa về vết nứt trên bức tường của Bảo tàng Cổ vật Ai Cập nổi tiếng thế giới ở Cairo nằm bên cạnh vết nứt trên tấm gương phòng John. John há hốc mồm vì kinh ngạc: hai vết nứt ngoằn ngoèo có vẻ rất ngẫu nhiên ấy lại giống nhau như đúc.

John thở dài một tiếng đầy kinh ngạc:

- Woa. Tuyệt cú mèo.

Philippa lại chau mày. Cô buộc tội:

- Anh cố tình làm thế phải không? Để làm em sợ.

John biện minh:

- Anh không có làm gì hết. Thật đó. Anh chỉ thức dậy và nó đã có ở đó, anh thề đấy.

- Vậy thì chuyện gì đã xảy ra?

- Điều này nghe có vẻ ngớ ngẩn, nhưng anh đã mơ thấy bị dính một cơn đau răng khủng khiếp. Và điều kỳ lạ là vết nứt này dường như bắt đầu từ ngay chỗ má mà anh kê lên gối.

Thay vì chế giễu anh mình, Philippa xem xét cái gối. Rồi cô hỏi:

- Vậy tại sao em không mơ thấy điều đó? Ý em là, chẳng phải chúng ta thường có những giấc mơ y hệt nhau sao?

John thú thật:

- Anh cũng đã thắc mắc về điều đó. Và anh đi đến kết luận rằng, đó là bởi vì anh sợ đến nha sĩ hơn em.

Philippa gật đầu: đó là sự thật. Nhưng cô nói:

- Nhưng điều đó vẫn chưa giải thích được sự giống nhau giữa vết nứt trên tường phòng anh với vết nứt trên bức tường ở Bảo tàngCairo.

Vài giờ sau đó, cả hai vẫn tiếp tục bàn về vết nứt trên tường khi chúng leo lên 24 tầng lầu dẫn đến phòng răng của nha sĩ Maurice Larr tại Đại lộ số 3.

Mẹ chúng, do đi bằng thang máy, đã có mặt sẵn trong phòng đợi khi hai anh em đến nơi. Nha sĩ Larr đang nói chuyện với bà – không phải về vấn đề răng miệng mà về tennis, môn thể thao mà cả bà Gaunt và ông Larr đều rất say mê.

Ông Larr ngước nhìn qua gờ phía trên cặp mắt kiếng của mình và nháy mắt với lũ trẻ. Ông mô tả về trận đấu tennis mới nhất của họ:

- Mẹ các cháu đã làm bác thua lăn lóc. Dẫn bác đến chỗ tẩy rửa quần áo và lấy được phiếu giảm giá. Bà ấy thật sự có thể trở thành một vận động viên chuyên nghiệp đấy. Nhiều phụ nữ chơi tennis để kiếm sống sẽ ao ước cả đời để có được một cú phát bóng như mẹ các cháu. Và các cháu biết gì không, mẹ các cháu làm nó đẹp đẽ như một môn nghệ thuật ấy. Ngay bản thân việc đó đã là chuyện hiếm. Các cháu đã xem biết bao trận chung kết tennis của các quý bà mà trông cứ như trong trận đấu vòng loại của nam nhi rồi, đúng không. Với mẹ các cháu thì không có chuyện đó đâu nhé... Các cháu nên tự hào về bà.

Cặp sinh đôi gật đầu một cách lịch sự. Chúng đã quá quen với những lời tán dương mẹ mình lên tận mây xanh vì bà giỏi cái này giỏi cái kia. “Miễn nhiễm” với một thứ khó định nghĩa như sự quyến rũ, chúng thỉnh thoảng nghĩ rằng mẹ mình dường như có một sức thu hút lạ lùng, thậm chí bí ẩn đối với mọi người, gần như thể cuộc sống đã cho bà một chút vượt trội, làm cho tất cả mọi thứ về bà luôn nổi bật hơn người khác. Những người thợ làm đầu khen ngợi mái tóc đen mượt xinh đẹp của bà và nói bà nên đi quảng cáo cho dầu gội. Những nhà thiết kế váy áo khen ngợi thân hình hoàn hảo của bà và nói bà nên đi làm người mẫu thời trang. Những nhân viên tư vấn mỹ phẩm khen ngợi làn da căng mềm mại như lụa của bà và nói bà nên cho ra dòng mỹ phẩm của riêng mình. Các nhà văn khen ngợi trí thông minh của bà và nói bà nên viết một cuốn sách. Khách tham gia tiệc tối khen ngợi tài nấu ăn của bà và nói bà nên mở một nhà hàng. Những nhà hoạt động từ thiện khen ngợi khả năng quyên góp tiền cho những hoạt động nhân đạo của bà và nói bà nên làm một chính trị gia. Cho nên đối với John và Philippa, không có gì đáng ngạc nhiên khi ông Larr đánh giá cao về khả năng chơi tennis của mẹ chúng.

Bà Gaunt mỉm cười:

- Thôi nào, anh Mo. Anh làm tôi xấu hổ đấy.

Nhưng cặp sinh đôi biết rằng mẹ chúng không ngại gì chuyện đó. Nếu như bà Gaunt có một nhược điểm, thì đó chính là việc bà rất thích được khen. Bà khao khát chúng như những kẻ háu đói ăn quá nhiều bánh ga-tô.

Nhìn hai đứa trẻ, nở nụ cười thân thiện nhất của mình, ông Larr xoa hai tay vào nhau, hỏi:

- Okay, vậy thì ai trong hai cháu sẽ ngồi vào ghế của bác Mo trước đây?

Bà Gaunt trả lời:

- John.

Và đó là tất cả những gì cần nói. Bà Gaunt đã quen với việc được nghe lời hoàn toàn mà không bị thắc mắc hỏi lại gì – giống như một ông thẩm phán hay một viên cảnh sát.

John ngồi lên ghế, trong khi ông Larr đeo một cặp găng tay cao su vào khiến cho bàn tay của ông nhìn như vừa được nhúng vào một xô kem. Rồi ông đến đứng bên cạnh John và dùng mũi giày nhấn một cái nút trên sàn. Cái ghế da từ từ nâng lên cao, khiến John cảm thấy mình như một tình nguyện viên được một nhà ảo thuật nâng lên trên không trung.

Bật một cái đèn làm ấm mũi John, ông Larr nói:

- Mở miệng to ra nào.

John há miệng ra.

- To chút nữa đi John. Thế. Cám ơn.

Và vũ trang với một cái gương nhỏ nhìn giống như một cây gậy chơi gôn bé xíu, cùng một cái gậy móc sắc nhỏ, ông Larr dòm vào kiểm tra bên trong miệng John. Ông cúi sát đến nỗi John có thể ngửi được mùi thuốc đánh răng trong hơi thở của ông và mùi nước cạo râu Acqua di Parma – cha cậu cũng dùng loại này – trên lớp da rám nắng của ông.

- Mmm - hmm.

Ông Larr nói theo cách của một người chuyên nói “Mmm - hmm” một ngàn lần mỗi ngày. Và rồi ông thình lình nói:

- Ồ, ồ, chúng ta có gì ở đây thế nhỉ?

John nắm chặt tay trên thành ghế một cách lo lắng. Ông Larr tiếp tục:

- Ồ, ồ, cái gì đây? Và thêm một cái nữa? Ấy chà.

Nhấc cặp kính bảo hộ lên và hạ cái khăn bịt mặt của mình xuống, ông Larr quay qua bà Gaunt và hỏi:

- Layla, nhắc tôi nhớ xem năm nay John bao nhiêu tuổi nhỉ?

- Mười hai tuổi, anh Mo à.

- Tôi cũng nghĩ vậy.

Ông lắc đầu và mỉm cười:

- Tôi chưa bao giờ thấy chuyện như vầy ở một cậu bé cỡ tuổi John. Hay nên gọi là một chàng trai trẻ nhỉ? Cháu có răng khôn đấy, John. Người trẻ nhất có răng khôn mà bác từng gặp.

Bà Gaunt ngồi xuống ghế một cách nặng nề và lầm bầm:

- Răng khôn? Vậy là xong rồi.

John chống cùi chỏ nhổm dậy. Việc có răng khôn nghe có vẻ đỡ hơn việc có răng cần phải trám. Cậu hỏi:

- Răng khôn? Là gì vậy bác?

- Người ta gọi chúng là răng khôn vì bình thường cháu chỉ có chúng một khi cháu lớn lên. Cháu thấy đó, người ta vẫn cho rằng cháu phải lớn lên thì mới thông minh, chín chắn được. Cho dù cháu sẽ không nghĩ vậy về cái cách xử sự của một số người lớn.

Ông Larr tiếp tục nói:

- Layla, vấn đề ở đây là, hàm của cháu nó chưa đủ rộng để chứa bốn cái răng mới. Đúng thế đấy, John. Giống y như trong sách Khải huyền. Cháu có đến bốn cái răng khôn đấy. Và bởi vì hàm của cháu không đủ lớn cho cả bốn cái răng mới, nó sẽ gây rắc rối cho những cái răng khác của cháu. Những cái răng khôn này sẽ ép những cái răng khác lại với nhau khiến cho nụ cười đều đặn như hàng thông của cháu sẽ cong oằn, vặn vẹo. Và chúng ta không muốn điều đó xảy ra, đúng không nào?

Mặc dù đã dự đoán được trước câu trả lời, John vẫn hỏi:

- Vậy theo bác, phải làm gì bây giờ?

- Những cái răng khôn này phải được lấy ra, John à. Cháu sẽ phải nhổ răng. Chính xác là nhổ bốn cái răng. Cũng nên đặt giường trong bệnh viện. Cháu sẽ cần được gây mê trước, và sau đó chúng ta sẽ nhổ chúng ra khi cháu đang ngủ.

John tái mét:

- Cái gì?

Ông Larr trấn an cậu:

- Ấy, không có gì phải sợ đâu, chàng trai trẻ. Đích thân bác sẽ làm việc đó. Cháu sẽ không cảm thấy gì đâu. Dễ như ăn bánh ấy mà. Layla, tôi có thể sắp xếp việc này vào ngày mốt, nhưng không biết như thế có tiện cho chị và cháu không nhỉ?

Bà Gaunt hỏi:

- Anh Mo, bộ chúng cần phải được nhổ bây giờ sao? Chúng ta không thể để một thời gian nữa à? Ý tôi là, việc này hơi bị bất tiện.

Ông Larr nói:

- Đối với một cái miệng còn nhỏ như của John, tôi khuyên là nên thực hiện việc này càng sớm càng tốt. Chưa tính gì đến khía cạnh đẹp hay xấu, những cái răng khác của cháu nó có thể bị nén chặt vào xương hàm. Và rồi chúng có thể bị áp-xe và nhiễm trùng.

Bà Gaunt thở dài:

- Được rồi, anh Mo. Cứ theo lời anh nói đi. Nếu cần nhổ thì phải nhổ thôi. Anh biết đó, chẳng qua tôi chỉ chưa chuẩn bị tinh thần cho chuyện này xảy ra quá sớm thôi.

- Ai có thể chuẩn bị sẵn cho một sự phát triển sớm như vầy chứ? Ok, phần cháu xong rồi đó, chàng trai trẻ. Hãy kiểm tra cho em của cháu nào. Phil, lại đây và hãy làm như một ca sĩ opera nào.

Philippa ngồi lên ghế và há to miệng. Cô chắc chắn rằng ông Larr sẽ không tìm thấy gì thú vị trong miệng cô, và hoàn toàn hạnh phúc với việc ông nghĩ cô có những cái răng ít hứng thú nhất thế giới. Chẳng có gì bất ngờ với việc John là người trẻ nhất có răng khôn mà ông Larr từng biết đến. “Anh ấy luôn phô trương thế”, Philippa nghĩ thầm rồi cố gắng thả lỏng người thư giãn và nghĩ về việc cô sẽ bỏ phiếu chọn bộ phim nào sau khi chuyến đi khám răng của cô kết thúc: sau khi đến phòng răng, bà Gaunt luôn dẫn cặp sinh đôi đi xem phim.

Ông Larr cắt ngang dòng suy nghĩ của cô:

- Woa, không thể tin được. Layla, bà biết gì không? Tôi biết con của bà là trẻ sinh đôi, nhưng như vầy đúng là quá bất ngờ.

Bà Gaunt lại buông ra một tiếng rên đầy ngao ngán.

Philippa muốn hỏi, “Chuyện gì vậy, bác Larr?”, nhưng vì miệng cô đang đầy nhóc ngón tay và những dụng cụ nha khoa của ông Larr, nên những gì phát ra từ miệng cô là:

-Chu... gi... va, ba...La...?

Hoàn toàn hiểu thứ ngôn ngữ kỳ lạ ấy, ông Larr rút tay và dụng cụ ra khỏi miệng Philippa. Gỡ mặt nạ ra, ông cười rạng rỡ và tuyên bố với cô:

- Bác sẽ nói cho cháu biết đó là gì, cô gái trẻ. Đây là lịch sử của cả ngành nha khoa. Cháu cũng có răng khôn, y như anh của cháu.

Bà Gaunt lầm bầm theo cái cách mà John nghĩ bà không nghĩ vậy tí nào:

- Tuyệt vời. Đúng là tuyệt vời.

Nhìn thẳng vào John với vẻ đắc thắng, Philippa nói:

- Ha, vì cháu ra đời muộn hơn anh John mười phút, vậy thì cháu sẽ là người trẻ nhất có răng khôn mà bác từng thấy, thay vì cậu bé mặt mụn kia.

Philippa luôn gọi anh mình là cậu bé mặt mụn khi cô muốn chọc tức cậu.

- Bác cho rằng đúng là như thế.

Ông Larr đáp, rồi quay sang cười tươi với bà Gaunt, nhận xét:

- Những đứa trẻ này, chúng thật tuyệt vời.

Bà Gaunt trả lời một cách yếu ớt:

- Ừ. Tuyệt vời lắm.

Cầm tay bà Gaunt lên và vỗ nhẹ, ông tiếp tục:

- Tôi không biết tại sao tôi lại phải ngạc nhiên thế nhỉ. Lũ trẻ có một bà mẹ đặc biệt thế cơ mà.

Philippa nhăn mặt vì sự bất công của câu nhận xét đó. Cô là người trẻ nhất có răng khôn mà ông Larr từng thấy, thế mà ông lại xử sự như thể tất cả là nhờ mẹ cô. Như thể đó là một thứ gì đó bà đã làm, giống việc bà chơi tennis giỏi hay có một làn da đẹp.

Philippa hỏi:

- Vậy điều đó có nghĩa là gì?

Bà Gaunt trả lời:

- Rắc rối. Điều đó nghĩa là rắc rối.

- Ý con là, liệu những cái răng khôn của con có cần phải nhổ luôn không?

Ông Larr trả lời:

- Ừ, chúng cũng phải được nhổ, Philippa. Tốt nhất là chúng ta làm việc đó cùng lúc với anh cháu. Chúng ta sẽ đặt hai đứa vào hai cái giường đối diện nhau, nên các cháu sẽ không cô đơn đâu.

Và nhìn về phía bà Layla, ông lắc đầu nói:

- Và Layla à, thật sự sẽ không có rắc rối gì đâu.

Vẻ mặt mệt mỏi, bà Gaunt sắp xếp cuộc hẹn nhổ răng với ông Larr và rồi đi bộ cùng hai con về ngôi nhà trên đường 77. Bà nói:

- Mẹ nghĩ chúng ta nên hoãn chuyến đi xem phim hôm nay lại. Mẹ phải báo tin này cho cha các con. Và chúng ta còn phải dàn xếp nhiều chuyện khác.

Hy vọng trả đũa cô em gái vì lời nhận xét cậu bé mặt mụn mới nãy bằng cách làm cô lo lắng, John hỏi mẹ:

- Ví dụ như gọi điện cho nhà tang lễ à mẹ?

- Đừng ngớ ngẩn thế, con trai. Bác Larr nói đúng đấy. Chẳng có gì phải lo lắng đâu.

Bà Gaunt gượng cười như thể đang tự thuyết phục bản thân về điều đó. Bà nói:

- Có điều này mẹ nên nói với các con. Mẹ không nói hồi nãy trước mặt bác Larr vì bác ấy hào hứng quá, chứ thật ra, việc có răng khôn sớm không có gì là bất thường ở bên phía dòng họ của mẹ. Thực tế, mẹ cũng chỉ hơn các con vài tuổi khi mẹ phải đi nhổ răng khôn. Và nhìn mẹ thử xem!

Bà nở một nụ cười quảng cáo kem đánh răng hoàn hảo chứa đầy nỗi buồn và sự lo âu rồi kết luận:

- Mẹ có những cái răng hoàn hảo đây này.

John rên rỉ:

- Con biết. Nhưng phải đến tận bệnh viện thì...

Mẹ cậu trấn an:

- Hãy nghĩ thế này nhé! Đây là một nghi lễ để trở thành một người trưởng thành. Lớn lên là như thế.

Bà thêm vào:

- Gấp đôi trong trường hợp của các con, vì là anh em sinh đôi.

Bà Gaunt thở dài và nhấc một điếu thuốc lá lên môi. Cặp sinh đôi nhăn mặt. Chúng ghét việc bà hút thuốc. Đây dường như là một phần kém hấp dẫn nhất của bà Layla Gaunt, đặc biệt là ởNew Yorknơi người ta khuyến khích những chuyện như là chuyện hút thuốc nhiều hơn là chuyện súng ống.

John nhăn nhó hỏi:

- Mẹ cứ phải hút thuốc mới được sao?

Lờ đi sự không tán thành của con, bà Gaunt nói tiếp:

- Thế này nhé, nếu các con can đảm đến bệnh viện nhổ răng khôn mà không phàn nàn gì, các con có thể tham gia trại hè. Các con thấy thế nào?

- Mẹ nói thật chứ?

- Dĩ nhiên là thật rồi. Tất cả những gì mẹ yêu cầu là cả hai con phải can đảm. À, và mẹ được giữ những cái răng khôn đó.

Philippa hỏi:

- Mẹ muốn giữ những cái răng à? Cả tám cái? Kinh quá! Mẹ cứ tự nhiên đi.

John hỏi:

- Tại sao mẹ muốn giữ chúng?

- Các con có thể coi nó như một món đồ lưu niệm ấy. Mẹ đang nghĩ có thể mẹ sẽ đem chúng đi bọc vàng và làm thành một cái vòng đeo tay.

John nhận xét:

- Tuyệt cú mèo. Cứ y như việc đeo răng nanh vậy. Con hiểu rồi.

Bà Gaunt nói tiếp:

- Các con sẽ có một mùa hè tuyệt vời. Mẹ biết có một trại hè khá hay ởSalem,Massachusetts. Ở đó, cả hai con sẽ...

Philippa phản đối:

- Mẹ, con không muốn tham gia cùng một trại hè với anh ấy.

John nói:

- Và con chắn chắn không muốn đi đến một cái trại nào đó ởMassachusettsvới Philippa. Con muốn học một số kỹ năng sinh tồn.

Bà Gaunt nói:

- Mẹ bảo đảm với các con rằng Nhà Alembic là một trong những trại hè dành cho cả nam và nữ tốt nhất ở Bắc Mỹ. Sáu trăm hecta với đồng cỏ, đồi, suối, và rừng cây với một thác nước cao hai dặm. Các con sẽ có những khoảng thời gian tuyệt vời ở đó. Dĩ nhiên, nếu không muốn đi, các con vẫn có thể đi nghỉ hè với cha mẹ ở đảoLong Islandgiống như mọi năm.

John nhìn Philippa và nhún vai. Nhà Alembic nghe tốt hơn nhiều so với việc không có một cái trại hè nào; và tất cả mọi thứ đều tốt hơn việc lại phải trải qua một mùa hè buồn chán ởHamptons. Philippa gật đầu lại với anh và nói:

- Không. Con nghĩ đến Nhà Alembic cũng là một ý hay.

John đồng ý:

- Dĩ nhiên rồi. Vậy bao giờ chúng con có thể đi?

Bà Gaunt nói:

- Có lẽ sẽ cần vài ngày để các con hồi phục lại sau cuộc giải phẫu. Và dĩ nhiên mẹ sẽ phải thuyết phục cha các con. Mẹ biết cha rất mong chờ được nghỉ hè cùng các con. Nhưng các con thấy khoảng tuần tới thế nào?

P.B.KERR

Chương 3: Bạn chỉ sống hai lần

TTO - Buổi sáng hôm phẫu thuật, John và Philippa có mặt tại bệnh viện nhi W.C Fields Memorial Children's Hospital – một tòa nhà hiện đại, bắt mắt nằm trong công viênGramercyParkởNew York. Ngay phía trước công viên, người ta có thể chiêm ngưỡng một bức tượng đồng lớn – tác phẩm của nhà điêu khắc Antony Gormley, tạc hình một người đàn ông tươi cười cầm trong tay một lọ thuốc.

Cuộc phẫu thuật của hai anh em được sắp xếp vào 9 giờ sáng, đồng nghĩa với việc cặp sinh đôi bị cấm ăn điểm tâm hôm đó. Vào khoảng 8 giờ, bác sĩ Larr ghé thăm và giới thiệu với hai đứa trẻ bác sĩ gây mê Moody. Bà Layla đang đi mua một ly cà phê Starbucks tạiUnion Square(*). Sự vắng mặt tạm thời của bà khiến cơn đói bụng và nỗi lo lắng của John gia tăng. Cậu cáu kỉnh hỏi bác sĩ Moody:

- Vậy rốt cuộc bác định dùng loại thuốc nào để hạ gục cháu và em gái cháu đây?

Bác sĩ Moody, một người đàn ông cao lớn, dáng vẻ mệt mỏi, vốn không quen bàn luận về phương thức gây mê của mình với bất cứ ai khác, chứ đừng nói gì đến một đứa bé mười hai tuổi, mỉm cười một cách khó chịu và trả lời:

- À, tôi sẽ dùng một loại thuốc có tên là Ketamine. Nó luôn cho kết quả rất tốt.

Do đã tìm đọc hết tất cả các thông tin về phương pháp gây mê trên Internet và cảm thấy mình rành rẽ chẳng kém ai, John chau mày hỏi:

- Nhưng đó không phải là loại thuốc các bác sĩ thú y vẫn xài khi họ muốn trấn an các con thú sao?

Bác sĩ Larr bật cười:

- Bọn nhỏ thời nay thật là... đúng là khó có thể qua mặt chúng được.

Cố gắng kìm nén sự bực bội của mình, bác sĩ Moody nói:

- Tôi chẳng có ý qua mặt ai cả. Chàng trai trẻ, bộ cậu lo lắng việc tôi sử dụng Ketamine sao hả?

John nói tỉnh rụi:

- À không, cháu chẳng lo lắng gì hết. Thật ra cháu còn đang hy vọng bác sẽ xài Ketamine đấy chứ.

- Ồ? Tại sao?

- Vì cháu nghe nói đó là thứ tốt nhất có thể mang lại cho bệnh nhân một KNXC mà. Hoặc ít nhất là những nét chính của một KNXC.

Bác sĩ Moody nghiến răng thừa nhận:

- Một KNXC? Tôi không nghĩ tôi đã nghe nói về nó.

John tỉnh bơ nói:

- Một Kinh Nghiệm Xém Chết. Bác biết rồi đó. Khi bác đang bị phẫu thuật và sắp chết, bác sẽ đi qua một đường hầm tối đen về phía một vùng sáng và bị một thiên thần chộp lấy khi đến cuối đường.

Khuôn mặt ông Moody tối sầm vì giận dữ. Thấy vậy, ông Larr quyết định ra tay can thiệp trước khi có chuyện không hay xảy ra:

- John, John, thư giãn đi cháu. Mọi thứ sẽ ổn thôi. Dễ như ăn bánh ấy. Bác sĩ Moody đây là một nhà gây mê đại tài. Giỏi nhất ởNew Yorkđấy.

John nói:

- À, dĩ nhiên là thế rồi. Cháu không hề nghi ngờ điều đó bao giờ. Chẳng qua cháu chỉ nghĩ được gặp một thiên thần cũng hay thôi. Cho dù đó chỉ là một ảo giác.

Ông Moody nói:

- Cháu có thể chắc chắn một điều là, chưa có bệnh nhân nào của tôi nói là họ đã thấy thiên thần sau khi tỉnh mê.

John lầm bầm:

- Tại sao cháu lại thấy điều đó đáng tin nhỉ?

Cánh cửa phòng mở ra và bà Gaunt bước vào, trên bàn tay với những móng được cắt sửa đẹp đẽ của bà là một ly cà phê Starbucks lớn. Ông Larr nói:

- Vừa nhắc đến thiên thần là cô ấy xuất hiện.

Philippa nhăn mặt và quay đi chỗ khác. Cô hỏi:

- Chúng ta có thể bắt đầu được chưa ạ? Cháu đã lỡ bữa sáng rồi. Cháu chẳng muốn lỡ luôn bữa trưa đâu.

Bức tường hành lang bên ngoài phòng của hai đứa trẻ nhìn giống như một triển lãm nghệ thuật của những bệnh nhân nhí đã ở bệnh viện này, với vô số tranh ảnh, poster và những câu chuyện kể về cảm giác của chúng khi được phẫu thuật. Nhưng không có câu chuyện hay bức tranh nào ở cái bệnh viện này có thể cho Philippa một khái niệm cụ thể về phẫu thuật. Cô phải thừa nhận rằng có lẽ đó là một chuyện khó mô tả bằng bất cứ hình thức nào. Một phút trước cô còn đang nắm tay mẹ và cảm thấy một cái gì đó rất lạnh đang lan dần từ tay cô lên phía trên, và đến phút tiếp theo, không còn gì cả. Giống như ai đó đã gạt một công tắc bên trong đầu Philippa làm tắt hết tất cả giác quan của cô.

Hay gần như là tất cả.

Theo những gì nghe được từ cuộc đối thoại giữa mẹ cô và ông Moody, Philippa nghĩ rằng ngay khi thuốc mê có hiệu lực, cô sẽ không cảm thấy bất cứ điều gì nữa. Tuy nhiên, ngay khi thuốc Ketamine bắt đầu phát huy tác dụng của nó, Philippa nhận ra mình đang đi dọc theo một dòng sông quanh co, khúc khuỷu như một mê cung. Chảy qua một cái động to lớn gần như kéo dài đến vô tận, con sông dẫn Philippa thẳng ra một bờ biển âm u. Điều này có thể sẽ làm cô hoảng sợ một chút, nếu như không có chuyện John cũng đang có mặt ở đó. Đây là điều làm Philippa ngạc nhiên nhất.

Cô hỏi anh trai:

- Chuyện gì thế anh? Một giấc mơ, hay là một trong những KNXC mà anh vừa nói ban nãy?

John đưa mắt nhìn quanh và thú nhận:

- Anh cũng chẳng biết nữa. Nhưng cái này rõ ràng không giống một đường hầm, và anh cũng chẳng thấy một vùng sáng hay một thiên thần nào cả.

Đến sát bờ biển trông như không có sự sống, hai đứa trẻ nhìn thấy tòa nhà kiến trúc hoàng gia Trung Đông đang trôi lững lờ trên không trung cách mặt nước chừng một mét rưỡi. Đó là một tòa nhà to lớn với các ngọn tháp, các bức ngăn, và những mái ngói hình vòm với những khung cửa sổ nhỏ hình thoi phản chiếu ánh mặt trời.

Quay nhìn Philippa, John nhận ra cô em có vẻ không thoải mái lắm. Cậu trấn an:

- Đừng lo lắng, em gái. Em sẽ ổn thôi mà.

Philippa nói:

- Chắc là em đang nằm mơ quá.

John chau mày hỏi:

- Sao em lại nghĩ vậy?

Cô giải thích:

- Vì tự nhiên anh lại đối xử tốt với em.

- Cái con bé này... chúng ta không thể nào cùng có một giấc mơ như nhau.

- Ai nói chúng ta cùng mơ? Chỉ có em đang mơ một giấc mơ, trong đó anh xuất hiện và cứ cho rằng anh đang có một giấc mơ giống em mà thôi.

John nói:

- Em giải thích như vậy cũng có lý. Nhưng mà, làm sao em chắc rằng không phải chính em mới là người đang xâm nhập vào giấc mơ của anh?

- Em cũng không chắc nữa. Chắc là chúng ta phải chờ tỉnh mê mới biết rõ điều đó quá.

Chừng hai giây sau, một cánh cửa sổ trên mái vòm mở ra. Một người đàn ông to lớn với đôi mắt rực sáng và mái tóc bay bồng bềnh thò đầu ra ngoài và vẫy tay với họ.

- Phil nè, em có nhớ mới nãy anh nói gì không? Về việc anh muốn gặp một thiên thần ấy. Cái đó chỉ là nói chơi thôi. Chứ chuyện này đáng sợ quá.

- Em cũng thấy sợ.

John cầm tay em gái và nắm chặt nó khiến Philippa cảm thấy đỡ sợ hơn một chút. Và cậu đẩy cô ra sau lưng mình, như thể muốn che chở cô khỏi bất cứ điều gì sắp sửa xảy ra. Đây là một trong những lúc Philippa cảm thấy John là một người anh tốt nhất trên thế giới.

Người đàn ông trên cửa sổ giục:

- Đừng có đực mặt ra giống những trái chanh như thế. Hai đứa lên đây đi chứ.

John la lớn:

- Bằng cách nào ạ? Chẳng có cầu thang nào cả.

- Ủa. Thật à?

Người đàn ông chồm ra khỏi cửa sổ và nhìn xuống mặt biển bên dưới. Ông nói:

- A, cháu nói đúng thật. Xem ra chúng ta đang trôi trên không trung thay vì trên mặt nước. Lỗi của chú. Nhưng không sao, chuyện này dễ giải quyết thôi.

Và dần dần, hệt một phi thuyền khổng lồ đáp xuống một hành tinh cấm, tòa nhà hoàng gia với người đàn ông kỳ lạ bắt đầu hạ thấp xuống cho đến khi nó nằm một cách vững vàng trên bờ biển.

Người đàn ông la to:

- Đây. Giờ thì nhanh lên. Chúng ta không có nhiều thời gian đâu.

Vẫn nắm chặt tay nhau, cặp sinh đôi bước vào tòa nhà. Bên trong lắp đầy gương, khiến cho mỗi căn phòng nhìn giống như một động băng. Ở đâu đó bên trong tòa nhà, một người phụ nữ đang hát theo tiếng nhạc của một loại nhạc cụ mà hai đứa trẻ không thể nào xác định được là gì.

Philippa nói trong sợ hãi:

- Có khi đúng là một thiên thần. Đây chỉ là một ảo giác, đúng không anh?

- Nếu không phải là ảo giác thì em rắc rối to rồi.

- Em à?

- Thì em nói đây là giấc mơ của em chứ không phải của anh, nhớ không?

Tiếng bước chân vang lên từ căn phòng trước mặt họ, và rồi họ thấy người đàn ông ban nãy. Cao lớn, da ngăm đen, vận trên người một cái áo khoác đỏ, một cái áo sơ mi và một cái cà vạt cũng màu đỏ, người đàn ông mỉm cười thật tươi với hai đứa trẻ. Với giọng nói oang oang như tiếng còi tàu vang dội khắp căn phòng trang trí hai màu vàng – đỏ, ông hỏi:

- Sao thế? Các cháu không nhận ra chú à?

Philippa thầm thì:

- Em không nghĩ thiên thần mặc đồ đỏ.

John hỏi:

- Em không nghĩ đây là... ác quỷ chứ?

Người đàn ông lắp bắp nói:

- Ác... ác quỷ? Làm sao các cháu lại có ý nghĩ ngớ ngẩn thế chứ? Chú là chú Nimrod của các cháu đây. Từ London.

Ông ngừng lại như thể chờ đợi một phản ứng reo hò nào đó chứng tỏ hai đứa trẻ đã nhận ra ông. Chờ mãi không thấy gì, ông nhắc:

- Chúng ta đã gặp nhau khi các cháu mới sinh đấy.

John nói:

- Ừm... chú không giận nếu tụi cháu không nhớ chứ?

Chú Nimrod ngạc nhiên hỏi:

- Thật à?

Philippa ngọt ngào nói thêm:

- Nhưng tụi cháu đã nghe nói về chú. Chỉ là tụi cháu hơi hoảng sợ khi gặp chú ở đây, bên trong giấc mơ của tụi cháu. Trong khi tụi cháu đang bị phẫu thuật.

Chú Nimrod nói:

- À đúng, cho chú xin lỗi về chuyện này. Nhưng chú e rằng chú chẳng còn cách nào khác tốt hơn.

Giang rộng hai tay, chú Nimrod hỏi:

- Thế nào, chú chẳng nhận được một cái ôm hay một nụ hôn chào mừng nào sao?

Vì đây là một giấc mơ, và vì đây đúng là chú của cặp sinh đôi, người mà hai anh em có thể lờ mờ nhận ra từ một tấm ảnh để trên bàn làm việc của mẹ mình, hai đứa trẻ mỉm cười một cách can đảm và lịch sự ôm chú Nimrod.

Philippa chau mày hỏi:

- Đây là đâu vậy chú?

Chú Nimrod nói:

- Cháu không thích nó sao? Tòa nhà Hoàng giaBrightonđấy. Từ vùng biển phíaNamnước Anh. Chú nghĩ nó sẽ phù hợp với giấc mơ của các cháu. Cháu biết đó. Người đàn ông từ Porlock?

Cặp sinh đôi ngây người nhìn chú.

- Coledrige? “Kubla Khan ở Xanadu - Một sắc lệnh lâu đài vui thú trang nghiêm?” Không nhớ à? Thôi kệ, đừng để ý đến nó. Rõ ràng đây không phải là thứ được dạy ở Mỹ.

- Thế ai đang hát vậy chú?

- À, đó là một người hầu Abyssinian, hát chung với cây đàn ximbalum.

Chú Nimrod ngượng ngùng lắc đầu và nói:

- Đi chung một bộ khi mua ấy mà. Nói chung là đừng để ý đến cô ấy. Giống như chú đã nói, chúng ta không có nhiều thời gian. Thuốc gây mê hiện đại là thế.

Chỉ về phía những chiếc ghế cổ trang nhã vây quanh một cái bàn chơi bài, chú bảo:

- Lại kia ngồi đi.

Họ cùng ngồi xuống, và chú Nimrod lấy ra một cái ly gỗ lớn. Bỏ năm viên xúc xắc vào trong ly, chú niềm nở nói:

- Chúng ta có thể vừa chơi vừa nói chuyện.

John hỏi:

- Chơi cái gì mới được?

- Các hòn đá khảm. Xúc xắc, cậu bé ạ. Chúng ta đổ xúc xắc trong khi chúng ta bàn tính chuyện, giống như những người La Mã cổ đại. Chú chơi trước.

Chú Nimrod đổ xúc xắc. Nhăn mặt, chú nhặt chúng lên tay trước khi John và Philippa kịp nhìn thấy chú đổ được gì.

John hỏi tiếp:

- Chúng ta bàn tính chuyện gì?

Liếc nhìn cái đồng hồ bằng vàng đeo trên tay, chú Nimrod nói:

- Để xem... Bất cứ chuyện gì cháu thích. Thật đấy.

Rồi chú thả những viên xúc xắc vào lại trong ly và đưa cho John.

- Đến lượt cháu.

John nói:

- Ước gì cháu biết được luật chơi.

Khi John đổ được ba số 6, chú Nimrod nói:

- Chỉ có một luật duy nhất trong trò chơi này. Luật quan trọng nhất trong bất cứ trò chơi nào. Đó là phải may mắn. Và đó là điều cháu rõ ràng có được đấy, cậu bé của ta.

Nhặt xúc xắc lên, Philippa tuyên bố:

- Tất cả những gì anh ấy làm được...

Cô thả những viên xúc xắc vào trong ly rồi đổ chúng lên lớp vải len xanh bọc bàn và nói tiếp:

- ... cháu đều có thể làm tốt hơn.

Philippa reo lên vui sướng khi thấy mình đổ được bốn số 6.

Nhặt xúc xắc lên, chú Nimrod khen:

- Tuyệt vời. Nào, bây giờ hãy xem thử hai cháu có thể làm gì khi hợp lực cùng nhau.

Chú đưa cái ly cho John, rồi đặt tay Philippa lên trên tay người anh sinh đôi của cô. Chú giục:

- Nhanh lên. Chúng ta không có cả ngày đâu.

Cặp sinh đôi nhìn nhau, nhún vai và rồi đổ xúc xắc... năm số 6.

Chú Nimrod nói:

- Đúng như chú nghĩ.

John vui vẻ hỏi:

- Thế nào chú?

- May mắn hơn là khi chỉ có mỗi một đứa trong hai cháu. Tốt. Rất tốt. Chúng ta có thể tận dụng điều này.

John hỏi:

- Bằng cách nào?

Philippa nói:

- Cho cháu xem mấy viên xúc xắc được không?

Chú Nimrod nói:

- Chúng hoàn toàn là những viên xúc xắc bình thường thôi.

Philippa nhăn mặt:

- Làm gì có thứ được gọi là may mắn chứ. Cha cháu vẫn thường nói vậy mà.

Chú Nimrod trách:

- Ôi, cháu gái, đừng nói như thế. Cơ hội đổ được năm số 6 như vậy là 6-5, hay 0,0001286. Có nghĩa là hầu hết mọi người sẽ phải đổ xúc xắc 3.888 lần mới có khoảng 50% cơ hội trúng được năm số 6. Có nghĩa là, các cháu của ta, các cháu là một cặp rất may mắn đấy.

John nói:

- Cháu chẳng thấy điều đó bao giờ.

- Ồ, có lẽ là chưa đâu. Nhưng rồi cháu sẽ gặp may. Nhất định sẽ thế. Khi nào đó chúng ta sẽ phải cho các cháu thử sức với Astaragali mới được.

- Đó là gì?

- Trò chơi với bảy viên xúc xắc sáu cạnh. Một trò chơi đã được tạo ra từ hàng ngàn năm trước để thử thách sự may mắn. Chú có thể nói luật chơi cho các cháu nếu muốn.

Philippa nói:

- Cháu thật sự không thấy làm vậy thì được gì. Nếu đây là một giấc mơ.

- Vớ vẩn. Với nhiều người, ví dụ như thổ dân bản địaAustralia, giấc mơ cũng quan trọng như cuộc sống đời thật. Đó là nơi mà, rất thường xuyên, tất cả những chuyện thật sự quan trọng sẽ xảy ra.

John nói:

- Phải rồi, và nhìn thử xem cuối cùng chuyện gì đã xảy ra với họ.

Chú Nimrod nói:

- Chú luôn muốn biết thêm về những nền văn hóa thành công như họ. Những gì họ có được đã tồn tại suốt tám mươi ngàn năm. Còn cháu, ngược lại, chú cá là cháu còn chẳng nhớ đã nhận được nhận gì vào Giáng sinh hai năm trước.

Chú Nimrod gật đầu cả quyết như thể đã kết thúc được chủ đề này. Bỏ những viên xúc xắc lại vào trong túi, chú mỉm cười, liếc nhìn đồng hồ lần nữa, rồi nói:

- Dù sao thì bây giờ, sau khi đã xác định được mức độ may mắn của các cháu, chúng ta hãy nói về tương lai của các cháu nào. Hãy lắng nghe thật cẩn thận nhé. Số là chú đang cần sự giúp đỡ của các cháu. Cho nên đây là việc chú muốn các cháu làm. Khi các cháu đã hồi phục lại sau cuộc phẫu thuật, đừng bao giờ kể với mẹ là các cháu đã gặp chú. Chú với bà ấy đã không hợp nhau lắm từ khi các cháu được sinh ra. Lý do tại sao thì tạm thời bây giờ chú không tiện nói. Nhưng chú hứa sẽ kể tất cả khi nào các cháu đếnLondon.

-London? Khi nào tụi cháu điLondon?

- Bất cứ khi nào các cháu muốn. Mà các cháu muốn điLondonphải không?

Cặp sinh đôi đồng thanh trả lời:

- Dĩ nhiên muốn ạ.

- Vậy tất cả những gì các cháu phải làm là nói với cha mẹ, nói một cách thật lịch sự nhé, rằng các cháu rất muốn đến ở với chú. ỞLondon. Tự đi. Đó là điều mà chú muốn nói với các cháu.

Liếc nhìn đồng hồ lần nữa, chú Nimrod nói:

- Ôi, chúng ta sắp hết thời gian rồi. Các cháu sẽ thức dậy trong vài phút nữa thôi.

John bật cười:

- Chú đùa phải không? Cha mẹ cháu sẽ không bao giờ đồng ý chuyện đó. Không bao giờ.

- Ngược lại, chú nghĩ các cháu sẽ ngạc nhiên khi thấy họ đồng ý với ý kiến đó. Trừ khi các cháu thật sự muốn tham dự trại hè ởSalem. Mặc dù trên thực tế, chỗ đó giống một trường học hơn.

John giận dữ hỏi lại:

- Một trường học ấy à?

- Ừ. Một trường học hè, cho những đứa trẻ có năng khiếu đặc biệt.

John lặp lại với sự kinh tởm:

- Trường học hè.

- Cho nên lời khuyên của chú là các cháu nên điLondon. Chỉ cần nhớ đừng bao giờ nói chú là người đưa ra ý kiến này. Điều đó rất quan trọng. Mẹ các cháu và chú không có cách nhìn giống nhau ở một số vấn đề.

John hỏi:

- Ví dụ như?

- À, như là cách trải qua kỳ nghỉ hè phù hợp nhất cho hai người trẻ tuổi. Chú bỏ phiếu cho ý tưởng trường-học-nơi-các-cháu-được-vui-vẻ. Còn mẹ các cháu lại tán thành ý trường-học-nơi-chẳng-có-gì-vui ởSalem, nơi mà bà ấy định gửi các cháu tới mùa hè này.

Philippa nói:

- Chú đúng một trăm phần trăm.

John gật đầu đồng ý.

Chú Nimrod đứng dậy và nói:

- Ok. Vậy là chúng ta đã xong việc ở đây. Các cháu đang bắt đầu thức dậy đấy.

John gọi:

- Khoan đã chú.

Chú Nimrod nói:

- Mọi chuyện xong rồi.

Cậu hỏi:

- Lỡ họ nói không thì sao?

Bác sĩ Larr tuyên bố:

- Mọi chuyện xong rồi.

Lảo đảo ngồi dậy trên giường bệnh, theo bản năng, John đưa tay sờ hàm, và dùng lưỡi sờ thử những lỗ hổng mới trong lợi của cậu.

Bác sĩ gây mê Moody giải thích:

- Miệng của các cháu sẽ hơi bị ê ẩm trong vài ngày. Nhưng đó là chuyện bình thường thôi. Tôi sẽ đi lấy vài thứ để các cháu giảm đau.

Ông cười và rời khỏi phòng mổ.

Ngồi dậy trên giường của mình, Philippa hỏi:

- Chú ấy đi chưa?

Nghĩ rằng câu hỏi của Philippa dành cho mình, bác sĩ Larr trả lời:

- Ừ, đi rồi. Cháu có muốn xem những cái răng khôn của mình không? Chúng đây này.

Vừa nói, ông vừa đưa cho cô bé xem một cái đĩa sắt hình quả cật, bên trên có bốn cái răng khôn nhỏ phủ đầy máu.

Với Philippa, chúng giống như những quân cờ vua bị hạ. Cô nhăn mặt:

- Eo ơi. Bác mang chúng đi đi.

John hỏi em gái:

- Em có thấy chú ấy không? Chú Nimrod ấy?

- Có. Anh cũng thấy phải không?

Vẫn tốt bụng nghĩ hai đứa trẻ đang nói về những cái răng, ông Larr đưa cho John cái khay chứa những cái răng khôn của cậu và nói:

- Chúng ở ngay đây. Cháu nhìn thử đi, John.

John nhìn và cảm thấy muốn ói. Cậu nghĩ những cái răng của mình nhìn giống như thứ mà một gã săn trộm người châu Phi sẽ cắt đi khỏi miệng một giống voi nhỏ nhưng quý hiếm. Cùng lúc đó, cậu biết chắc rằng, trong danh sách những nghề nghiệp không bao giờ làm của mình ngoài nhân viên nhà băng, kế toán viên, nay sẽ có thêm nha sĩ. Cậu nói với Philippa:

- Có. Anh đã thấy chú ấy.

Philippa hỏi:

- Vậy thì... Liệu đó chỉ là thuốc Ketamine? Một giấc mơ? Hay một chuyện đi kèm với việc sinh đôi?

- Có lẽ vậy.

- Dù gì, em nghĩ đây không phải là việc em sẽ nói với cha mẹ. Ít nhất không phải là bây giờ.

P.B.KERR

Chương 4: Những thay đổi

TTO - Khi cặp sinh đôi trở về nhà từ bệnh viện đêm hôm đó, mặt chúng nhìn như thể đã tống thức ăn đầy má như những chú chuột đồng háu ăn. Khi đứng trên cầu thang, hai anh em nghe lỏm được cuộc nói chuyện của cha mẹ mình.

Cha chúng nói:

- Em không nghĩ hai đứa nó có vẻ vẫn bình thường sao? Ý anh là, đến giờ này vẫn chưa có gì kỳ lạ xảy ra.

Bà Gaunt hỏi:

- Anh không nghĩ vậy à?

- Không. Anh không thấy có gì lạ.

Ông Gaunt chợt khựng lại và hỏi dồn:

- Cái gì? Cái gì? Nói cho anh đi. Có gì xảy ra à?

- Không có gì cả, anh à. Ít nhất là không có gì lớn. Chỉ là, trừ khi em lầm, chứ John nó đã bắt đầu thay đổi rồi.

Bà Gaunt thở dài một tiếng trước khi nói tiếp:

- Anh không nhận ra gì sao? Từ khi con nó trở về từ bệnh viện, những cái mụn trên mặt nó đã biến mất hết rồi.

Philippa quay sang nhìn kỹ mặt John và tuyên bố:

- Này, cậu bé mặt mụn, anh biết gì không? Mẹ nói đúng đấy. Những cái mụn biến hết sạch rồi. Chẳng còn lấy một cái trên mặt anh nữa.

Nhảy lên cầu thang, John đi thẳng về phía phòng thay đồ của mẹ và cái gương dài đụng trần đứng đối diện cái tủ áo khổng lồ của bà. Suốt cả năm ngoái, cậu đã bị hành hạ liên tục bởi mụn – những ngọn đồi đỏ hoét giận dữ và dễ nhớ trên khuôn mặt cậu mà thỉnh thoảng lại có đợt bùng nổ kinh khủng.

John lẩm bẩm:

- Đáng lẽ phải có ai đó nói về chuyện này trước đây chứ.

Săm soi khuôn mặt mình, cậu bẹo má hết về phía này lại về phía khác, nhưng dù cố gắng đến đâu, John vẫn không tài nào tìm thấy một cái mụn đầu bọc hay mụn đầu đen nào trên khuôn mặt giờ đây mịn màng hết sức của mình. Bình thường, cậu luôn tránh soi gương để không bị xuống tinh thần vì những cái mụn, nhưng giờ đây, cậu chẳng hiểu nổi lý do gì mà mọi người trong gia đình cậu lại không quan tâm đến điều kỳ diệu hiển nhiên này. Như trường hợp mẹ cậu chẳng hạn, không hiểu tại sao mẹ lại thấy sự vắng mặt của những cái mụn trên mặt cậu lại là một nỗi lo lắng cơ chứ.

Philippa xuất hiện chỗ cửa phòng tắm. Dường như cảm nhận được sự bực dọc của anh trai với gia đình, cô nói:

- Em thề là khi chúng ta trở về từ bệnh viện, cái mặt của anh vẫn giống y như bản đồ mặt trăng ấy.

John nói:

- Không thể tin được. Có vẻ như mấy ông bác sĩ ấy đã nói đúng. Những cái mụn sẽ tự biến mất.

Chẳng bị thuyết phục mấy bởi niềm tin vào y học được phục hồi đột ngột của anh mình, Philippa nói:

- Ờ. Dĩ nhiên rồi. Nếu anh muốn nghĩ như vậy thì cứ tự nhiên.

- Em nói vậy là có ý gì?

- Anh không nghĩ có điều gì kỳ lạ đang diễn ra ở đây hay sao?

Còn quá ấn tượng với khuôn mặt của mình, John không để ý lắm đến những gì em gái vừa nói. Cậu lơ đãng trả lời:

- Có lẽ thế. Anh cũng không biết.

Chặc lưỡi một tiếng lớn, cậu thở dài một cách bực bội và nói thêm:

- Tin anh đi Phil, nếu một chuyện như thế bỗng nhiên xảy ra với em, em cũng sẽ cảm thấy khá tự hào về bản thân mình ấy chứ.

- Vậy anh nghĩ cha mẹ đang nói về chuyện gì chứ?

- Anh không biết. Có lẽ về thời điểm trưởng thành của chúng ta. Anh nghe nói nhiều bậc cha mẹ khá lo lắng khi chuyện đó xảy ra. Hóc-môn của con họ bắt đầu hoạt động, và họ lập tức gửi chúng đến các chuyên gia tâm thần học. Cha mẹ Felix Grabel đã đưa cậu ấy đến gặp một bác sĩ chuyên ngành lông tóc khi cậu ấy bắt đầu mọc râu đấy.

Philippa nhận xét:

- Cha mẹ của anh Felix Grabel còn quái lạ hơn anh ấy. Nhưng nếu anh muốn biết thế nào là quái lạ thì đi với em. Em sẽ chỉ anh một thứ còn quái lạ hơn.

Philippa dẫn John lên trên một tầng lầu và vào phòng cô, một nơi mà cậu hiếm khi dám bước vào. Cậu luôn cảm thấy muốn ọe trước sở thích của em gái: mấy thứ đồ chơi phải nâng niu như nâng trứng, thú nhồi bông và hình ảnh của các ban nhạc nam nhìn ẻo lả như con gái. Trên bức tường đằng sau cánh cửa phòng là một tấm biểu đồ đo chiều cao (trên đó tuyên bố “Hãy xem thử bạn cao hơn các ngôi sao điện ảnh yêu thích của mình bao nhiêu”). Philippa chỉ vào mốc đo mới nhất được cô đánh dấu vào trước ngày nhổ răng.

Đưa cho John thước và bút chì, cô nói:

- Hôm kia, em cao đúng một mét năm mươi hai. Bây giờ thì anh nhìn thử xem!

Đá giày ra khỏi chân, cô đến đứng chính giữa Tom Cruiser và Robert De Niro.

John đặt cây thước lên trên đỉnh đầu em gái rồi dùng bút chì đánh dấu chiều cao của cô.

Philippa nói:

- Em chắc chắn là mình đã cao hơn.

John nói:

- Ok, Phil. Xong rồi đó.

Philippa bước ra xa khỏi tấm biểu đồ và cả hai cùng thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên. Không còn nghi ngờ gì nữa: Philippa đã cao lên một cách đáng kể. John kiểm tra khoảng gia tăng chiều cao của em gái và nói:

- Cả gần ba phân á? Không thể nào. Chắc là lần trước em đã đo lầm.

Philippa khăng khăng:

- Không có. Bà Trump đo cho em mà.

Bà Trump là người ông bà Gaunt thuê để nấu ăn và trông coi nhà cửa cho gia đình họ.

- Vậy chắc bà ấy đã đo lầm. Không ai có thể cao lên cả ba phân trong chưa đầy 48 tiếng đồng hồ.

- Được rồi. Vậy lần cuối anh đo chiều cao của mình là bao giờ?

- Tuần trước. Cha đo cho anh. Cha nói, khi nào anh cao một mét bảy, cha sẽ mua cho anh một đôi giày trượt tuyết mới. Cha không bao giờ đo lầm. Cha luôn chính xác.

- Vậy chúng ta đo thử chiều cao của anh đi.

Họ đi vào phòng của John. Cậu đứng quay lưng vào tấm biều đồ đo chiều cao James Bonds của cậu (trên đó nói “Hãy so sánh thử chiều cao của bạn với điệp viên 007”) giữa Sean Connery và Pierce Brosnan, và chờ Philippa đánh dấu chiều cao cho cậu.

Cô tuyên bố:

- Không nghi ngờ gì nữa, anh cũng đã cao lên. Để xem... anh đã cao lên gần bốn phân.

- Thật à? Woa, anh cao lên thế à? Tuyệt quá.

- Đúng như em đã nói, có một điều gì kỳ lạ đang diễn ra ở đây. Đầu tiên, chúng ta mọc răng khôn sớm hơn bình thường; rồi khi chúng ta đang bị phẫu thuật để nhổ những cái răng đó ra, chúng ta có cùng một giấc mơ trong đó chú Nimrod của chúng ta xuất hiện. Không những vậy, mỗi người trong chúng ta đều có một sự gia tăng chiều cao bất thường chỉ qua một đêm.

- Đừng quên những cái mụn của anh.

- Không quên những cái mụn của anh.

- Và cả vết nứt trên tường phòng ngủ của anh nữa. Và việc nó giống y chang vết nứt trên tường cái bảo tàng ở Ai Cập.

Philippa ngừng lại ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Anh muốn biết chuyện gì khác cũng rất kỳ lạ không? Chỉ có em nghĩ vậy, hay là cả anh cũng cảm thấy máy điều hòa nhiệt độ vặn hơi bị lạnh?

John nhún vai trả lời:

- Nó đã lạnh như vậy ngay khi chúng ta trở về đấy chứ. Chắc là bà Trump đã bật máy lạnh lên cao. Bà ấy luôn cảm thấy rất nóng khi hút bụi mấy tấm thảm mà.

- Đi hỏi bà ấy xem sao.

Cặp sinh đôi phóng nhanh xuống năm tầng lầu và đi vào trong bếp nơi bà Trump đang lấy chén bát ra khỏi máy rửa chén. Khó mà tưởng tượng được trước đây, ở một hành tinh xa xôi, bà Trump từng là một nữ hoàng xinh đẹp – hai đứa trẻ đã thấy nhiều bức hình và những mảnh báo cắt chứng minh cho điều đó. Tuy nhiên thời gian đã không nhân nhượng với bà Trump, và giờ đây bà chỉ là một phụ nữ khắc khổ bình thường với hàm răng trên thiếu mất một cái và có hai người con gái sống ở châu Âu mà bà không bao giờ gặp.

Philippa hỏi:

- Bà Trump, bà có bật máy lạnh lên không vậy?

- Không. Tại sao ta lại phải bật máy lạnh lên chứ? Ta thích làm việc trong một lò nướng. Người ta phải trả khối tiền để đến một phòng tập thể dục và ngồi mướt mồ hôi trong một phòng tắm xông hơi. Còn ta thì sao? Ta may mắn đến đây và có được tất cả lợi ích như họ.

Bật cười với câu nói đùa của mình, bà Trump đóng sầm cánh cửa kéo lại và dựa vào kệ bếp. Khi cười, bà lấy tay che miệng lại để lũ trẻ không thấy cái răng bị mất của bà, điều mà chúng luôn thấy rất rõ.

John nói:

- Chúng cháu cảm thấy hơi lạnh từ khi đi bệnh viện về.

Bà Trump đặt một bàn tay lạnh lẽo lên trán John rồi nói:

- Cháu không có vẻ gì đang bị sốt cả. Nhưng có lẽ các cháu đang bị cảm lạnh.

John khẳng định:

- Tụi cháu khỏe mà. Thật đấy. Chẳng qua tụi cháu chỉ thấy hơi lạnh thôi.

Bà Trump cười khúc khích:

- Cháu nói hơi lạnh à? Nhiệt độ bên ngoài là 90 độ(*) với độ ẩm 75% đấy.

Bà lắc đầu và tuyên bố:

- Tất cả những gì ta có thể nói là, đừng đổ tội cho ta mà đổ tội cho mẹ các cháu ấy. Những gì ta nghe nói về các cháu có thật không đấy?

Philippa lập tức cứng người lại. Liếc nhìn bà Trump một cách ngờ vực, cô hỏi:

- Bà nghe chuyện gì cơ?

- Các cháu đúng là những đứa trẻ may mắn. Khi ta còn nhỏ, ta chưa bao giờ được đi trại hè nào cả. Ta chưa bao giờ được đi đâu cả.

Nhẹ cả người, Philippa hóm hỉnh hỏi:

- Bà sẽ đi đâu vậy, bà Trump? Nếu như bà có thể đi đâu ấy...

- Nếu ta có tiền à? Ta sẽ đếnRomethăm hai đứa con gái của ta. Cả hai đều cưới những chàng rể người Ý cả.

John hỏi:

- Bộ đếnRometốn nhiều tiền lắm hả bà?

- Với những người như ta thì đúng là nhiều. Nhưng có thể một ngày nào đó ta sẽ đi, nếu ta trúng xổ số.

Vốn rất quý bà Trump và cảm thấy tội nghiệp cho bà, Philippa nói:

- Phải có ai đó trúng chứ. Tại sao người đó không lại là bà nhỉ?

- Một ngày nào đó. Có thể.

Rồi bà Trump ngước mắt, giơ một tay lên trời, nói:

- Ta ước thế.

Philippa rên lên một tiếng và đột ngột ngồi phịch xuống một cái ghế trong bếp.

Bà Trump hỏi:

- Cháu ổn chứ, cháu gái?

Philippa gật đầu:

- Cháu không sao. Chỉ là tự nhiên cháu cảm thấy hơi buồn cười một chút. Giống như cháu mất hết mọi năng lượng ấy.

Cô lắc lắc đầu. Bà Trump lấy cho cô một ly nước, và cô uống cạn trước khi nhớ ra cô vốn rất ghét mùi vị nước lọc củaNew York.

Một, hai phút sau, cảm thấy mình đã hoàn toàn hồi phục, Philippa hít một hơi dài và mỉm cười:

- Lạ quá, bây giờ cháu lại cảm thấy bình thường rồi.

- Giống như ta đã nói, sau một cuộc phẫu thuật, các cháu không nên dậy đi lại quá sớm thế. Hai đứa nên ở trên giường mới đúng. Cháu có muốn uống thêm ít nước không?

- Ấy, dạ thôi ạ. Cám ơn bà.

Ánh mắt Philippa rơi xuống cái túi đầm của bà Trump đang để mở trên kệ bếp và gói thuốc lá ngay sát mép túi. Cô nói:

- Nhưng bà biết không, có điều này lạ lắm. Cháu thật sự không biết giải thích ra sao nữa, nhưng mà thình lình cháu bỗng muốn, rất muốn thử...

Philippa ngần ngừ không dám kết thúc câu nói của mình, như thể đó là một điều khủng khiếp nếu nói rõ ra. Mà đúng là như vậy thật. Cô thấy kinh hãi chính mình.

Bà Trump bật cười khanh khách, rồi ngượng ngùng đưa tay che miệng, nhất là che cái răng bị mất của mình, khi bà đoán được Philippa muốn nói gì. Bà nhận xét:

- Bọn trẻ con các cháu toàn nói những điều hài hước.

Philippa nói:

- Cháu không thể giải thích điều này. Ý cháu là, cháu thật sự rất ghét việc hút thuốc. Cháu nghĩ nó không tốt cho sức khỏe của bà chút nào. Cháu cũng mong mẹ cháu đừng hút thuốc. Chỉ có điều, tự nhiên cháu rất muốn đốt thử một điếu. Làm ơn đi bà Trump, cháu có thể đốt thử một điếu thuốc của bà không?

Bà Trump nhìn John hỏi:

- Em gái cháu đang nói đùa phải không?

John nhún vai, không nói gì. Thật ra cậu cũng đang thầm hy vọng bà Trump sẽ đồng ý, bởi vì thật kỳ dị, cậu cũng đang có cùng một ham muốn lạ thường như cô em gái sinh đôi của mình. Ý nghĩ về một điếu thuốc lá và – quan trọng hơn cả – luồng khói thuốc mà nó tạo ra cùng đốm lửa nhỏ nóng hổi ở đầu điếu thuốc dường như trở nên quá lôi cuốn. Cậu không còn thấy sự căm ghét mà trước đây cậu thường cảm thấy mỗi khi nhìn ai đó hút thuốc. Dường như cậu cần khói thuốc và hơi nóng, như thể thân thể của cậu tin rằng sức nóng của việc đốt một điếu thuốc có thể mang lại một chút hơi ấm cho sự lạnh lẽo mà cậu hiện đang cảm thấy.

Philippa nài nỉ:

- Làm ơn đi mà bà Trump. Làm ơn đi! Cháu xin bà đấy.

Bà Trump cười một cách lo lắng:

- Bộ các cháu muốn bà bị đuổi việc sao? Chúa ơi, bà chưa bao giờ nghe yêu cầu nào kỳ lạ như vầy cả. Bộ các cháu đã từng hút thuốc trước đây rồi sao?

Philippa nói:

- Dạ không. Cháu chỉ tự nhiên thấy ý tưởng đó có vẻ hấp dẫn thôi.

John thú nhận:

- Cả cháu nữa. Và cháu không biết tại sao lại vậy.

Bà Trump nói:

- Đó là vì các cháu là hai anh em sinh đôi.

John gật đầu:

- Nói thật nhé, tụi cháu chỉ nói đùa thôi.

Cậu liếc mắt nhìn em mình, thầm hy vọng cô hiểu ý cậu rồi nói tiếp:

- Cho nên bà cứ tự nhiên ra ngoài sân hút một điếu như bà thường làm đi. Tụi cháu chỉ nghĩ, nếu tụi cháu nói cũng muốn hút thuốc, bà có thể bị sốc đến mức quyết định bỏ thuốc. Đúng không, Phil?

Bắt đầu hiểu được anh mình đang dự định chuyện gì, Philippa đồng ý:

- Vâng ạ.

Không hiểu lý do gì, cô chợt nhớ đến chuyện Winston, con chó giống Rottweiler trước đây tên Neil, thường đến bên cạnh cha cô khi ông hút xì-gà và bắt đầu hít hít không khí. Cô nói tiếp:

- Đó chỉ là một câu nói đùa hơi quá trớn thôi bà ạ. Bà cứ tự nhiên ra ngoài hút một điếu đi. Tụi cháu không muốn làm hỏng thú vui của bà đâu.

Bà Trump gật đầu. Thực tế là, khi cặp sinh đôi bước vào trong nhà bếp, bà cũng đang định đi ra vườn và hút một điếu thuốc. Bà đã trông chờ việc này suốt mấy tiếng qua. Bà nhặt gói thuốc láSalemcủa mình lên và đi ra ngoài.

Cặp sinh đôi đã cùng nhau lên kế hoạch hầu như bằng ngoại cảm. Chúng đi theo bà Trump ra vườn và ngồi xuống cạnh bà trên những cái ghế vườn. Chúng chăm chú nhìn bà châm một điếu thuốc rồi thở ra một cụm khói xanh.

Philippa nói:

- Đó là nơi trại hè của tụi cháu được tổ chức. ỞSalemấy.

Bà Trump ngạc nhiên.

- Một nơi như vậy mà tổ chức trại hè thì hơi lạ. Ý ta là, có cả một lịch sử về nó mà.

John tiếp lời:

- Đó cũng là điều tụi cháu đang nghĩ. Tụi cháu đã diễn vở kịch The Crucible của Arthur Miller ở trường. Và...

Hít vội không khí chứa đầy khói thuốc, cậu nói tiếp:

- ... và bà nói đúng, đó không phải là nơi để tổ chức trại hè.

Bà Trump đồng tình:

- Đúng thế. Nhưng dù sao, bà nghĩ các cháu được đến đó cũng tốt.

Hít sâu khói thuốc của bà Trump, Philippa nói:

- Vâng. Chỉ có điều tụi cháu đang nghĩ có lẽ tụi cháu muốn đến châu Âu hơn.

Dần dần, bà Trump nhận ra hai đứa trẻ đang chằm chằm nhìn bà, giống như những chú mèo đang nhìn ai đó ăn một miếng cá ngon.

Khi em gái hít mạnh một tiếng lớn, John giả ngây nhận xét:

- Thật là một buổi tối đẹp trời, đúng không Philippa?

Philippa trả lời khi anh cô cũng hít một hơi lớn:

- Đúng thế.

Bà Trump chau mày:

- Các cháu đang...

Rồi bà cáu kỉnh đứng bật dậy, ném điếu thuốc xuống mặt sân trải đá và dùng gót giày di tắt nó. Vừa đi trở lại vào trong nhà bếp, bà vừa nói:

- Thật tình, ta chưa bao giờ thấy chuyện như vầy. Đáng lẽ ta nên mách với mẹ các cháu. May cho các cháu ta không phải loại người chuyên đi mách lẻo. Ngay cả khi đó là hai đứa trẻ đáng bị đánh đòn.

Cảm thấy xấu hổ về chính mình, cặp sinh đôi ngồi yên trong vườn, ngước nhìn bầu trời màu cam. John nói:

- Bộ những gì chúng ta làm lộ liễu lắm hả Phil?

- Chắc vậy, nếu không bà ấy đâu có nhận ra.

- Mới nãy trong bếp, khi em ngồi xuống rên rỉ ấy, có chuyện gì với em thế?

- Em không biết nữa.

Philippa ngừng lại, cố gắng tìm cách miêu tả có thể làm hài lòng anh mình.

- Nó giống như một cái gì đó bỗng níu kéo tâm trí của em. Một cái gì đó bị quên lãng từ rất lâu. Tất cả những gì em biết là, thình lình em nghĩ rằng mọi chuyện sẽ tốt biết bao nếu bà Trump có thể trúng số, bởi vì như vậy bà ấy sẽ có đủ tiền đến thăm con gái. Nhưng ngay khi em nghĩ thế, em đột ngột cảm thấy mệt mỏi. Giống y như cảm giác sau khi anh vừa chạy đua xong ấy.

Cô nhún vai và kết thúc:

- Cảm giác đó chỉ diễn ra trong một giây thôi. Giống như em sắp ngất xỉu ấy.

- Còn bây giờ thì sao?

- Em cảm thấy bình thường.

John kết luận:

- Hóc-môn.

- Có liên quan gì chứ?

- Anh đã nghĩ về điều em mới nói khi nãy, và anh tin rằng đó có thể là điều đang xảy ra với chúng ta.

- Có thể. Em không chắc lắm.

Rồi Philippa đứng dậy. Hai tay ôm ngực, cô giục:

- Đi nào. Chúng ta vào trong thôi. Em lạnh quá.

Cha mẹ hai đứa trẻ vẫn đang nói chuyện trong phòng khách, và cặp sinh đôi ngồi xuống cầu thang rồi bắt đầu nghe lỏm như khi nãy. Nghe lỏm trên cầu thang luôn là cách mà hầu hết mọi đứa trẻ khám phá ra những điều quan trọng có ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng. Và John cùng Philippa nhanh chóng nhận ra rằng ông bà Gaunt có vẻ quan trọng hóa đến những cái răng của chúng, và chuyến đi của hai anh em đến trại hè ở Salem dường như không phù hợp chút nào.

Cha chúng nói:

- Trời ạ, mọi thứ đang bình thường, thế mà khi không chuyện này lại xảy ra.

Bà Gaunt đáp lời:

- Đâu phải anh không biết trước ngày này rồi sẽ đến. Em đã cố gắng hết sức để tạo dựng một ngôi nhà bình thường, hy sinh bản thân quá nhiều để làm một người phụ nữ bình thường, và từ bỏ những gì em đang làm khi em gặp anh.

Đây là một điều bất ngờ với cặp sinh đôi. Cả hai chưa bao giờ nghĩ bà Gaunt có làm gì khác ngoại trừ việc làm mẹ của chúng.

- Anh biết. Anh biết chứ. Và Layla thân yêu, em đừng nghĩ anh không đánh giá cao điều đó.

- Nhưng Edward, em luôn luôn, luôn luôn thẳng thắn với anh về hai đứa con của chúng ta.

- Dĩ nhiên rồi. Dĩ nhiên là thế rồi. Chỉ là anh không bao giờ nghĩ chuyện này lại xảy ra sớm đến thế. Ý anh là, Chúa ơi, có ông bố nào lại nghĩ đến việc con mình phải đi nhổ răng khôn ngay trước khi chúng là thiếu niên chứ? Hai mươi tư tuổi anh mới phải nhổ răng khôn. Hai mươi tư tuổi đấy.

- Em đã nói với anh là quá trình trưởng thành bên họ nhà em rất khác mà.

Ông Gaunt nói:

- Sao anh lại không biết điều đó? Nhìn em xem Layla, em tuyệt vời đến thế cơ mà. Còn anh, anh nhìn... anh cũng không biết nữa. Già hơn, có lẽ thế. Giống như anh là cha của em hay ai đó tương tự.

Bà Gaunt đồng ý:

- Già hơn. Và nổi bật. Em thích điều đó ở một người đàn ông.

- Ôi, đừng nói nữa. Anh quá quen với những lời khen ngợi rồi. Anh có một cái gương cạo râu biết nói sự thật với anh mỗi buổi sáng mà. Vậy theo em, chuyện gì sẽ xảy ra bây giờ đây?

- Hai đứa sẽ đến Nhà Alembic trong mùa hè này như chúng ta đã thống nhất. Trước khi có chuyện xảy ra.

- Lạy Chúa, Layla, em nói cứ như thể...

Ông Gaunt hạ thấp giọng thì thầm từ tiếp theo, như thể ông không thể nào nói to nó ra, cho nên ít nhất lúc này, cặp sinh đôi không thể nghe được ông vừa nói gì. Ông kết thúc:

- ... khi chúng ở đây.

- Nhưng anh không thấy sao, đó chính xác là vấn đề. Chúng có lẽ vẫn chưa biết, nhưng chúng đang ở ngưỡng bắt đầu thức tỉnh. Đó là điều làm em lo lắng. Hoặc là chúng ta gửi chúng đến chỗ bác sĩ Griggs, hoặc là anh phải học cách giữ lời nói của mình. Tất cả những người khác cũng vậy.

Ông Gaunt thảng thốt nói:

- Layla, làm ơn nói với anh em chỉ đùa thôi đi. Lạy Chúa, chúng là con anh cơ mà. Tại sao anh lại phải cẩn thận với những gì anh nói chứ?

- Bởi vì chúng không thể tự kiểm soát bản thân chúng. Giả sử một đứa có điều gì đó giận dữ với anh, chuyện gì sẽ xảy ra?

- Điều em đề nghị nghe hơi nghiêm trọng quá. Cái trại hè chỗ Nhà Alembic ấy, đó có phải là một nơi tốt không vậy? Cái ông bác sĩ Griggs ấy là người thế nào mới được?

- Edward, anh yêu, thật sự không có gì đáng lo đâu. Em có thể bảo đảm với anh chuyện này. Em đề nghị nơi đó chỉ vì muốn tốt cho các con thôi. Mục đích của chuyện gửi chúng tới Nhà Alembic là để chúng có thể thiết lập được một vài ranh giới về chuyện chúng có thể làm gì và chúng không thể làm gì. William Griggs là người rất có kinh nghiệm đối với những vấn đề như thế này. Nhiều hơn cả em. Anh muốn các con có một cuộc sống bình thường, hạnh phúc, không phải sao?

- Dĩ nhiên anh muốn chứ. Em biết là anh muốn thế mà.

John thì thầm:

- Nghe vầy đủ rồi đó Phil. Anh nghĩ đã đến lúc chúng ta tìm hiểu một chút về Nhà Alembic cũng như ông bác sĩ Griggs đó.

Philippa đi theo John lên phòng của cậu. Ngồi xuống máy vi tính, cậu bắt đầu đánh vào một công cụ tìm kiếm trên Internet. Chưa đầy một phút sau, cậu đã có được cái mình muốn tìm.

“Bác sĩ William Griggs, bằng Thạc sĩ ngành Nhi khoa và Tâm lý Trẻ em. Chuyên gia trong nghiên cứu những thay đổi, biến đổi, đột biến và xu hướng giao tiếp xã hội chung của những trẻ em có năng lực đặc biệt. Chủ sở hữu và Bác sĩ Tư vấn Chính của Nhà Alembic, Salem, Massachusetts, Bệnh viện và Trường học hè cho những thần đồng trẻ và những “genii” vị thành niên. “Genii” là gì nhỉ?

- Ngốc, đó là số nhiều của từ “genius - thần đồng” bên tiếng Latinh.

- Vậy là giống như những gì chú Nimrod đã nói trong giấc mơ của chúng ta. Đây chẳng phải trại hè gì cả mà là một trường học hè. Cho những... geniuses.

Philippa nhăn mặt.

- “Genii”. Số nhiều là “Genii”, chứ không phải thêm “es” vào cuối. Thần đồng như anh mà chia sai à?

John chợt nói:

- Chờ đã. Chờ một chút.

- Chuyện gì?

- Em không thấy điều này có nghĩa gì sao? Chúng ta không thể nào biết trước rằng đây thật sự không phải là một trại hè. Làm sao chúng ta có thể mơ về điều đó được?

Cậu lắc đầu và kết luận:

- Như vậy thì đó không phải là một giấc mơ.

Philippa gật đầu tán đồng:

- Đúng thế. Em hiểu anh muốn nói gì rồi. Vậy là chú Nimrod thật sự đã xuất hiện.

John nói:

- Quyết định vậy đi. Hãy nói với cha mẹ. Giống như những gì chú Nimrod đã nói. Rằng chúng ta muốn điLondon. Nếu chú ấy nói đúng về ngôi trường ởSalem, vậy thì có lẽ chú ấy cũng sẽ đúng về việc cha mẹ sẽ cho phép chúng ta đi London nếu chúng ta xin phép.

Philippa hơi nhăn mặt. Sự thật là cô hơi sợ việc hai anh em một mình điLondon, chỉ có điều cô không muốn John biết điều đó.

- Có lẽ tối nay chúng ta cứ đi ngủ đã. Để xem sáng mai mọi chuyện thế nào rồi hẵng quyết định.

John gật đầu:

- Ý kiến hay đó.

Nhẹ nhàng đẩy Philippa về phía cửa phòng, cậu nói:

- Cho đến lúc đó, anh sẽ ngồi đây và xem xét khả năng anh có thật sự là một thần đồng hay không. Dù gì thì anh cũng luôn muốn đoạt giải Nobel hay một giải gì đó tương tự mà.

P.B.KERR

Chương 5: Tiếng hét

TTO - Ngày tiếp theo bắt đầu bằng một tiếng hét lớn. John nhảy dựng ra khỏi giường và chạy bắn qua phòng Philippa. Cô đang ngồi trên giường, giụi mắt ngái ngủ.

Philippa hỏi anh:

- Có chuyện gì vậy? Hình như em mới nghe tiếng ai đó hét.

John gật đầu:

- Anh cũng có nghe.

Cậu đến bồn rửa tay, nhìn vào gương để kiểm tra thử những cái mụn của cậu tối qua có quay trở lại hay không, tuy nhiên mặt cậu vẫn láng o không có gì.

- May quá, anh cứ nghĩ đó chỉ là một giấc mơ thôi.

- Giấc mơ gì? Về tiếng hét á?

- Không, về những cái mụn tự nhiên biến mất.

Đi xuống lầu, cặp sinh đôi thấy cha mẹ mình đang thầm thì nói chuyện trên hành lang.

Ông Gaunt nói:

- Có lẽ đây chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên thôi.

Bà Gaunt hỏi:

- Anh có biết khả năng một chuyện trùng hợp ngẫu nhiên như thế xảy ra là bao nhiêu không? Một trên một triệu đấy. Không, đây mới chỉ là sự bắt đầu thôi.

- Em có nghĩ quá không vậy?

- Em có nghĩ quá không à? Không có đâu.

- Vả lại làm sao tụi nó làm được chuyện đó chứ? Tụi nó thậm chí còn chưa biết gì mà.

Ông Gaunt khựng lại mấy giây rồi thầm thì hỏi:

- Hay là tụi nó biết rồi? Dù gì thì cũng có thể em đúng. Nghi quá, chuyện này xảy ra ngay sau khi...

Trông thấy cặp sinh đôi, ông Gaunt bỏ dở câu nói, ngập ngừng chào:

- À... chào buổi sáng.

Philippa hỏi:

- Tụi con nghe có ai đó hét. Có chuyện gì vậy ạ?

Ông Gaunt liếc nhìn vợ và gượng cười.

- Mẹ các con sẽ nói cho các con biết. Phải không, em yêu? Cha phải đi làm đây. Trễ rồi. Hai đứa nhớ phải... à... phải ngoan ngoãn, và đừng gây rắc rối gì nhé.

John bực mình hỏi:

- Cha ám chỉ cái gì vậy chứ?

Cố tỏ vẻ ngây thơ, ông Gaunt trả lời:

- Cha có ám chỉ gì đâu. Chỉ là một cách chào thông thường thôi mà. Giống như “bảo trọng nhé”. Hay là “chúc các con một ngày tốt lành”. Không cần phải xù lên thế. Cha đâu có rầy la gì hai đứa đâu.

John nói:

- Nhưng cha nói cứ y như đang rầy la tụi con ấy. Cha không thấy việc đề nghị tụi con cố gắng đừng gây rắc rối gì là rất bất công sao? Cứ như tụi con chuyên gây rắc rối vậy.

Ngay khi vừa nói xong, John cảm thấy hình như cậu đã đi quá xa khi dám nói với cha mình như thế. Và, ngay khi từ cuối cùng buột ra khỏi miệng, John chắc rằng cha cậu sẽ gỡ kính ra và trừng mắt nhìn cậu với ánh mắt có thể đâm thủng cả một cái áo giáp. Cho nên chuyện xảy ra tiếp sau đó làm cậu hoàn toàn bất ngờ.

Ông Ganut xin lỗi:

- Cho cha xin lỗi nhé, John. Cả con nữa, Philippa. Đúng, con nói đúng. Cha đã nói mà không suy nghĩ. Không có một đứa trẻ nào ngoan hơn các con mà.

Vừa nói, ông Gaunt vừa đút tay vào trong túi sau và rút ra một xấp tiền dày cộm như một cái bánh sandwich. Cầm lên hai tờ 100 đô, ông dúi tiền về phía John và nói:

- Đây. Mỗi đứa một tờ. Cầm lấy mua đồ đẹp. Cho trại hè...

Bà Gaunt phản đối:

- Edward, anh đâu cần phải làm vậy. Anh hoang tưởng quá đấy.

Với John, chuyện hoang tưởng như vậy xem ra lại quá tốt nếu như nó giúp anh em cậu có được 100 đô tiêu vặt. Đưa tay lấy tiền trước khi mẹ kịp thuyết phục cha đổi ý, John bị sốc khi thấy cha giật nẩy mình lúc cậu chạm nhẹ vào tay ông. Và niềm vui nhận được 100 đô của John biến mất hoàn toàn khi cậu nhận ra cha cậu dường như rất sợ cậu. Liếc mắt về phía em gái, cậu có thể thấy Philippa cũng nhận ra điều đó. Khi mẹ cậu đi theo cha ra cửa trước, nơi chiếc xe limousine của ông đang đợi sẵn, John xiết chặt tay Philippa và rít nhỏ vào tai cô:

- Em có thấy không? Có thấy cách cha nhìn chúng ta không? Đây là cơ hội tốt nhất cho chúng ta.

- Cơ hội gì ạ?

- Làm điều mà chú Nimrod đã đề nghị ấy. Nói với cha mẹ rằng cả hai chúng ta muốn đi châu Âu.

- Em không biết đâu.

- Bộ em muốn tiêu cả kỳ nghỉ hè cho cái trường học dành cho geniuses - các thần đồng nào đó sao?

Philippa chỉnh lời anh:

- Genii. Số nhiều là genii. Nếu thật sự là một thần đồng thì anh phải nhớ điều này chứ.

Và cô gật đầu:

- Được. Đi thôi!

Cặp sinh đôi đi theo cha xuống xe. John ngỏ lời:

- Cha, tụi con đã suy nghĩ mấy ngày nay. Sau khi tìm thông tin về cái trại hè ởSalemđó trên Internet, tụi con hổng muốn dự trại tí nào. Nó giống một trường học hơn là một trại hè...

Philippa tiếp lời:

- Còn nữa, cái ông thầy Griggs đó là bác sĩ tâm thần đó.

Cô nói cứ như thể đó là điều tệ hại nhất.

John nói tiếp:

- Biết đâu trước khi tụi con kịp định thần ông ấy đã tống cho tụi con cả đống thuốc Ritalin cũng nên.

Bà Gaunt nói:

- John, con nghĩ gì vớ vẩn thế? Tiến sĩ Griggs là một người rất giỏi.

Vuốt tóc Philippa, bà nói thêm:

- Nhà Alembic là một nơi tuyệt vời cho những trẻ em có năng khiếu đặc biệt. Ở đó, các con có thể học cách trở thành những đứa trẻ tuyệt vời nhất.

John nhấn mạnh:

- Nhưng con không muốn trở thành một đứa trẻ tuyệt vời gì cả. Con chỉ muốn làm một đứa trẻ bình thường thôi.

Ông Gaunt hỏi:

- Vậy các con muốn thế nào?

Liếc mắt nhìn em gái, John hít một hơi thật sâu và nói:

- Tụi con muốn đi châu Âu.

Philippa tán thành:

- Đúng thế. Tụi con muốn điLondonthăm chú Nimrod.

John nói thêm:

- Và tụi con muốn tự đi...

Ông Gaunt chau mày và lắc đầu. Ông nói:

- Dĩ nhiên...

John chắc chắn chữ “không” sẽ nhanh chóng nối theo chữ “dĩ nhiên”, tuy nhiên đến giây cuối cùng, ông Gaunt nhìn sang vợ, và cặp sinh đôi thấy bà lắc đầu như thể khuyên chồng không nên từ chối.

Ông Gaunt mất mấy giây trấn tĩnh lại, và rồi, thay vì từ chối đề nghị của John, ông mỉm cười. Và, trước sự ngạc nhiên của hai đứa trẻ, ông gật đầu:

- Dĩ nhiên. Dĩ nhiên rồi. Nếu đó là điều các con muốn. Nếu hai đứa muốn tự mình điLondon, thì cha mẹ cũng không phản đối. Đúng không, Layla?

- Dĩ nhiên rồi.

Bà Gaunt trả lời một cách điềm tĩnh, như thể đó là đề nghị hợp lý nhất trên thế giới. Bà nói:

- Sao lại không nhỉ? Hai đứa đều đủ lớn để có thể tự đi đâu đó một mình. Tí nữa mẹ sẽ thông báo cho chú Nimrod là các con muốn đến thăm, và xem thử khi nào thì tiện nhất cho chú.

Ông Gaunt nói:

- Và cha sẽ bảo thư ký đặt sẵn vé máy bay cho các con. Các con đi vé hạng Club Class của BA(*) được không?

John há hốc mồm ngạc nhiên. Cậu và Philippa chưa bao giờ đi vé máy bay sang hơn hạng Economic bao giờ. Sững sờ trước đề nghị của ông Gaunt, cậu hỏi lại:

- Hạng Club Class ạ?

Ông Gaunt vội vã đáp:

- Được rồi, được rồi, vậy đi vé hạng Nhất nhé. Không sao.

Nhìn vẻ mặt cha lúc này, John có cảm giác ông thậm chí sẽ không phản đối gì nếu cậu nói muốn đi theo gánh xiếc.

Philippa nói:

- Hạng Club Class được rồi cha. Cám ơn cha.

John mỉm cười:

- Cám ơn cha rất nhiều.

Ông Gaunt cười niềm nở rồi đóng cửa xe lại. Cảm thấy dễ thở hơn vì đã có cái ngăn cách ông với các con, ông ra lệnh cho tài xế lái xe đi.

Vẫn vẫy tay chào chiếc limousine đang dần mất hút trên đường, cặp sinh đôi bước ngược lên bậc thềm dẫn đến cửa trước. Mẹ chúng cười tao nhã:

- Sao đột ngột vậy? Trước giờ các con có nhắc đến chú Nimrod đâu.

Philippa trả lời:

- Đâu phải lỗi tụi con. Chính mẹ cũng chẳng nhắc gì đến chú ấy nữa kìa...

Cô lắc đầu rồi nói tiếp:

- Con thật sự không hiểu, đó là em trai của mẹ mà.

Bà Gaunt nhún vai:

- Trước đây mẹ và chú ấy cũng rất thân với nhau. Giống như hai con bây giờ vậy. Nhưng rồi chúng ta không còn gần gũi nữa. Chỉ vậy thôi.

John và Philippa đi theo mẹ vào trong bếp. Choàng tay ôm ngang hông mẹ, Philippa nói:

- Cám ơn mẹ đã cho phép tụi con tự đi London. Mẹ đúng là một người mẹ tuyệt vời nhất trên đời.

Bà Gaunt mỉm cười một cách can đảm, tuy nhiên cặp sinh đôi có thể nhận ra bà đang buồn bã vì một chuyện gì đó. Philippa động viên:

- Đừng buồn mà mẹ.

Bà Gaunt thú thật:

- Bất cứ bà mẹ nào cũng cảm thấy hơi buồn khi con cái lớn lên. Chỉ là, nó xảy ra sớm hơn mẹ nghĩ. Giống như chuyện những cái răng khôn. Có lẽ đó là vì hai đứa là anh em sinh đôi. Vài năm nữa tụi con sẽ muốn đi học đại học, và rồi cả hai sẽ rời khỏi nhà.

Bà nhún nhẹ vai và kết luận:

- Có lẽ cuộc sống là thế.

Trong bếp, hai con chó Winston và Elvis co rúm người tránh John khi cậu với tay gãi tai chào chúng như vẫn làm mỗi buổi sáng. Cậu ngạc nhiên hỏi:

- Chuyện gì xảy ra với tụi mày vậy?

Giơ hai tay ra trước để chứng tỏ cậu không có ý gì xấu, John đuổi theo chúng chạy vòng vòng quanh cái bàn. Bà Gaunt quắc mắt nhìn hai con chó Rottweiler và ra lệnh:

- Đầu tiên là Edward, giờ lại đến lượt tụi mày nữa à? Chuyện này đi quá xa rồi đấy. Winston, Elvis, lại đây coi!

Rất ngần ngừ, hai con chó bẽn lẽn đến trình diện trước mũi giày Jimmy Choo của bà Gaunt. Bà giơ một ngón tay trỏ chỉ thẳng vào cái mõm khổng lồ của chúng và đe:

- Cả hai đứa mày cư xử ngớ ngẩn quá đấy. Hoàn toàn chẳng có lý do gì để tụi bây phải sợ hãi ai đó trong cái nhà này, chứ đừng nói gì đến hai đứa trẻ. Nếu còn cư xử tệ như thế nữa, tụi bây sẽ bị nhịn ăn và cấm xem tivi cả ngày. Hiểu chưa?

Hai con chó đồng thanh sủa một tiếng lớn.

- Bây giờ thì đi xin lỗi John vì thái độ lếu láo lúc nãy đi.

Xấu hổ cúi đầu, hai con chó đi về phía John và liếm tay cậu để bày tỏ sự hối hận. John nói:

- Không sao. Tao không giận gì tụi mày đâu.

Sự thật, cậu thấy tò mò về một điều mẹ mình vừa nói. Tại sao đến bây giờ cậu mới hiểu ra nhỉ? Winston và Elvis thật sự rất thích xem tivi. Đó có lẽ là lý do tại sao chúng lại biết đổi kênh tivi.

Philippa hỏi:

- Bà Trump đâu rồi mẹ?

Bình thường giờ này bà Trump đang bận rộn lo bữa sáng trong bếp cho hai đứa trẻ, tuy nhiên hôm nay không thấy bà đâu cả.

Bà Gaunt trả lời:

- Bà ấy đang ở ngoài vườn. Hít thở không khí một chút.

John hỏi:

- Tiếng hét mới nãy là của bà ấy, phải không mẹ?

- Mẹ không biết chính xác là bao nhiêu, nhưng hình như bà ấy vừa trúng sổ xố New York.

Philippa la lớn:

- Thật à? Hay quá. Bao nhiêu vậy mẹ?

- Mẹ nói rồi đó, mẹ cũng không rõ. Mẹ đâu có rành mấy chuyện như vầy. Nhưng mà, theo như bà ấy nói, thì bà ấy đã dò được sáu số và trúng nguyên giải độc đắc.

John nhặt tờ tin vắn mà bà Trump hay đọc đang nằm chỏng chơ trên kệ bếp. Nó đã mở sẵn ở trang đăng con số và trị giá của giải độc đắc. Cậu trầm trồ:

- Woa. Tờ báo nói rằng chỉ có một giải độc đắc với trị giá 33 triệu đô.

Cậu liếc nhìn quanh bếp, và kia, ở ngay kế bên cái giỏ xách tay của bà Trump, là tấm vé số của bà. Cậu nhặt nó lên và kiểm tra các con số. Cậu thở dốc một tiếng lớn:

- Không tin được. Bà Trump thật sự trúng giải độc đắc.

Philippa mừng rỡ nói:

- Vậy không tuyệt lắm sao? Bây giờ thì bà Trump có thể đến Rome thăm con gái rồi.

Bà Gaunt hỏi:

- Có phải bà Trump nói bà ấy muốn đi không?

- Vâng ạ. Hôm qua bà Trump có nói với tụi con là bà ước gì được trúng số, bởi vì đó là cách duy nhất để bà có đủ tiền đi thăm con gái.

Bà Gaunt nói:

- Giờ thì mẹ bắt đầu hiểu chuyện gì xảy ra.

Philippa hỏi:

- Hiểu chuyện gì cơ ạ?

Bà Gaunt nhanh chóng trả lời:

- Mẹ bắt đầu hiểu tại sao cha con quá lo lắng sáng nay.

Nhìn thấy con gái chau mày, bà nói thêm:

- Ý mẹ là, cha con sẽ buồn khi bà Trump ra đi. Bởi vì bà ấy đã gần như là một phần của gia đình chúng ta. Các con nghĩ thử đi, đâu có ai có 33 triệu đô lại muốn làm một người giữ nhà? Bà Trump có thể thuê một người giữ nhà riêng cho mình ấy chứ. Giờ bà là một phụ nữ giàu có. Mẹ thật không biết cái giải đó trúng nhiều tiền như vậy.

Hai đứa trẻ đi ra vườn kiếm bà Trump. Bà đang cầm một gói đậu lupin quạt lấy quạt để vào người. Mặt bà đẫm nước mắt, còn miệng thì run rẩy. Bà lẩm bẩm liên tục:

- Mình phải làm gì đây? Nhiều tiền thế này. Mình phải làm gì đây?

John ngạc nhiên hỏi:

- Làm gì à? Cháu nghĩ bà sẽ vui vẻ tiêu xài thoải mái chứ. Nếu là cháu, cháu sẽ làm vậy.

Bà Trump nói trong nước mắt:

- Cháu biết là bà sẽ không rời khỏi đây mà.

- Ôi không, bà Trump, chắc hẳn bà sẽ không muốn làm việc như bây giờ nữa đâu. Giờ bà đã có nhiều tiền thế cơ mà. Từ giờ trở đi, cuộc sống của bà sẽ dễ dàng hơn.

Bà Trump sụt sịt trả lời:

- Không. Nãy giờ ngồi ngoài này, bà đã suy nghĩ rất nhiều. Nếu từ bỏ công việc này, bà sẽ nhớ các cháu đến chết thôi. Các cháu biết bà vốn không có nhiều bạn bè mà. Mà bà sẽ làm gì cơ chứ? Đi mua sắm suốt ngày à? Đó không phải là cách một người nên sống. Không đâu. Bà Gaunt, nếu bà cho phép, tôi chỉ muốn xin nghỉ phép hai tuần. Đi thăm con gái. Và đưa cho chúng một ít tiền. Và rồi quay lại đây. Nếu ông bà thấy được...

Bà Gaunt nói:

- Bà cứ việc nghỉ phép thoải mái, bà Trump. Lâu chừng nào cũng được. Và đừng vội quyết định gì hết. Đó là lời khuyên của tôi. Có thể bà sẽ nghĩ khác sau chừng một hay hai ngày nữa. Người ta vẫn thường thay đổi ý định sau khi điều ước của họ thình lình được thực hiện mà.

Trưa hôm đó, bà Gaunt thuyết phục được bà Trump nghỉ phép một vài ngày để phục hồi sau cú sốc thình lình trở nên giàu có gần bằng gia đình chủ của bà. Trước khi rời nhà để bắt chuyến xe điện ngầm về căn hộ trên đại lộ Aqueduct ở Bronx của mình, bà Trump nói với John và Philippa:

- Chúc các cháu một kỳ nghỉ vui vẻ ở trại hè. Bà chắc rằng các cháu sẽ có một khoảng thời gian tuyệt vời tại đó.

John thông báo:

- Tụi cháu sẽ không tham gia trại hè đó đâu bà ơi.

Philippa đắc thắng nói:

- Tụi cháu sẽ đi London.

Bà Trump nhận xét:

- Hay đó. Được thì nhớ gửi cho bà một tấm bưu thiếp nhé.

Philippa hứa:

- Chắc chắn tụi cháu sẽ gửi mà.

Cố gắng không bật khóc, cô tự hỏi không biết họ có còn gặp lại bà Trump nữa không.

P.B.KERR

Chương 7: Nimrod

TTO - Băng qua cổng đến của phi trường Heathrow, London, cặp sinh đôi không mấy khó khăn tìm ra chú Nimrod trong dòng người đến đón người quen vừa rời khỏi chuyến bay từ New York của British Airways. Chú mặc bộ đồ đỏ với cái cà vạt đỏ có những ngôi sao vàng y chang như trong giấc mơ của hai anh em.

Giữa đám đông những người ăn mặc bình thường tại Heathrow, chú nổi bật lên như một trái dâu đỏ tươi bên trên một cái bánh xốp. Giờ gặp lại chú Nimrod, hai anh em thấy chú ngoài đời có lẽ hơi đáng sợ hơn hai anh em đã nhớ trong mơ. Nói đúng ra, trông chú như thể diễn viên trên sân khấu Anh quốc, sắm vai vị bạo chúa nào đó trong một vở kịch của William Shakespeare. Nhận ra hai người cháu của mình, chú cất tiếng gọi:

- Chà, ôi Đèn ơi, cuối cùng chúng cũng đã đến.

Giọng chú ầm ầm vang vọng khắp sảnh chờ, rõ và lớn như thể chú đang cầm một cái mi-crô trên tay chứ không phải một điếu xì-gà to cộ như một cái kính viễn vọng loại nhỏ. Có vẻ chú không quan tâm lắm đến việc ai nghe tiếng chú gọi, và trên thực tế, cách đó một mét rưỡi, hai cô gái đỏng đảnh bên trong một hiệu bán báo ở phía bên kia sảnh chờ quay ngoắt lại, tưởng ai đó đang nói chuyện với họ. Chú nói tiếp:

- Và nhìn xem, các cháu lớn nhanh thật. Cả hai đứa hình như đều cao hơn hẳn so với lần cuối chúng ta gặp nhau.

John tự hào tuyên bố:

- Chính xác là cao lên gần bốn phân từ sau khi tụi cháu nhổ răng khôn.

- Đến gần bốn phân cơ à? Chà, chú không ngạc nhiên đâu. Tất cả mọi thứ đều to lớn hơn bình thường ở New York, không đúng sao? Nhà cửa, xe cộ, bánh sandwich, con người, mọi thứ. Sao các cháu lại ngoại lệ được nhỉ?

Đưa điếu xì-gà khổng lồ lên miệng ngậm, chú Nimrod đặt hai bàn tay to lớn đeo đầy nhẫn vàng lên trên cái xe đẩy chứa hành lý của cặp sinh đôi và hỏi:

- Chỉ có chừng này thôi à? Chú cứ nghĩ các cháu sẽ mang theo ít nhất nửa tá va li, thế mới đúng là con của bà chị chú chứ.

John nói:

- Đây là tất cả ạ.

- Vậy à? Vậy thì chúng ta đi tìm Groanin với cái xe đi là vừa.

Nói rồi chú Nimrod đẩy xe hành lý đi trước dẫn đường. Ngáp dài như những con mèo lười, cặp sinh đôi đi theo chú ra bên ngoài phi trường Heathrow. Bây giờ là 7 giờ 30 sáng, và người chúng khẽ run vì cái lạnh thấu xương của một buổi sáng mùa hè nước Anh.

Philippa dò hỏi:

- Mới nãy chú nói “lần cuối chúng ta gặp nhau”. Ý chú là lúc tụi cháu mới sinh ra, hay là trong giấc mơ của tụi cháu tuần trước – giấc mơ mà chú xuất hiện trong đó?

Chú Nimrod mỉm cười:

- Thật à?

John nói:

- Lúc đó chú cũng mặc bộ đồ đỏ này. Và chú nói chú có chuyện gấp cần sự giúp đỡ của tụi cháu.

Chú Nimrod nói:

- Cứ từ từ. Chúng ta có nhiều thời gian mà. Chỉ tiếc là chúng ta không gặp nhau mấy trong suốt mười năm qua.

Philippa thăm dò:

- Mẹ chẳng bao giờ nói cho tụi cháu biết lý do tại sao cả.

- Hử? Chị ấy không nói gì à?

- Không. Hoàn toàn không nói gì.

Nimrod nhăn mặt:

- Chú chỉ có thể nói “Ồ” mà thôi. Chậc, mẹ các cháu là thế. Chị ấy luôn cảm thấy không thoải mái khi nói về chuyện của chúng ta.

John hỏi:

- Nhưng là chuyện gì cơ?

- Trước tiên phải tìm xe của chúng ta cái đã. Chà, ba chúng ta sẽ có một chuyến phiêu lưu tuyệt vời. Đây sẽ là một mùa hè thú vị nhất. Chú đã luôn mong chờ ngày này. Ngay từ khi các cháu mới sinh ra.

Giọng chú Nimrod sôi nổi, hệt một lon nước có ga đã được lắc mạnh chứ không chỉ khuấy lên:

- Dĩ nhiên sự hợp tác của chúng ta cũng có thể có mặt nguy hiểm của nó, nhưng bất cứ chuyến phiêu lưu thật sự nào cũng phải có ít nhất một yếu tố liều lĩnh, đúng không nào? Dù gì đó cũng là cách duy nhất để chúng ta có thể tự thách thức bản thân và trở thành những người mạnh mẽ. Đi qua nghịch cảnh. Còn bây giờ, không biết Groanin với cái xe chết tiệt đâu rồi nhỉ?

Trong khi chú Nimrod nheo mắt nhìn dọc theo con đường tìm kiếm, John và Philippa liếc nhìn nhau với đôi mắt mở to như muốn hỏi “có phải chú ấy mới nói đến nguy hiểm không vậy?”

Chú Nimrod lầm bầm:

- Tệ thật, hôm nay chú mang lộn kính rồi.

John chú ý đến một chiếc xe Rolls-Royce khổng lồ sơn hai màu nâu sẫm và bạc, đậu cách họ chừng 45 mét. Đứng kế bên nó, một người đàn ông dường như đang vẫy gọi họ như điên. Cậu hỏi:

- Có phải ở đó không?

Chú Nimrod đưa mắt nhìn theo hướng tay John chỉ. Đi về phía chiếc xe, chú la lớn:

- A, anh ấy đây rồi. Vừa đúng lúc.

Đến gần chiếc Rolls-Royce, hai anh em nhận ra tài xế – một người đàn ông trông như một cái thây, béo tốt, cao ráo mang vét xám và một cái mũ lưỡi trai đội trên cái đầu trọc – chỉ có một tay. Với cặp sinh đôi, đây là một trong những điều làm chúng tò mò nhất, vì cả hai đứa trước đây đều cho rằng người ta cần đến hai tay để có thể lái bất cứ cái xe nào, chứ đừng nói gì đến một chiếc Rolls-Royce.

Chú Nimrod giới thiệu:

- Đây là anh Groanin.

Ông Groanin lầm bầm chào lại một tiếng rồi bắt đầu sắp hành lý của hai đứa trẻ vào trong cái thùng xe to đùng. Với một giọng nói như đưa đám, ông giải thích:

- Cảnh sát giao thông đã buộc tôi phải dời xe đi chỗ khác. Ý tôi là, tôi bị buộc phải dời xe đi chỗ khác. Cho nên tôi đã phải lái xe vòng vòng cho đến khi tôi thấy mọi người đứng đây. Tôi xin lỗi nếu đã gây ra bất cứ phiền phức nào cho mọi người, dù có lẽ là chẳng có phiền phức nào hết.

Vừa đẩy cặp sinh đôi về phía cửa sau, chú Nimrod vừa nói:

- Anh lúc nào cũng có lý do chính đáng cả, anh Groanin.

- Cám ơn ông.

Chú Nimrod quay sang hai đứa trẻ và nói:

- Chắc hai cháu cũng thấy, anh Groanin đây không chỉ bẳn tính mà còn chỉ có một tay. Có lẽ các cháu sẽ nghĩ anh ấy thật không may mắn, tuy nhiên điều đó không ngăn nổi anh ấy trở thành một tài xế tuyệt vời. Chú có thể bảo đảm với các cháu rằng, chúng ta có thể hoàn toàn an tâm khi ngồi sau tay lái của anh ấy.

- Cám ơn ông. Ông quá khen.

Chỉ tay vào cái bánh lái có gắn một nút bấm to ở trên, chú Nimrod nói thêm:

- Các cháu thấy đó, cái xe đã được chỉnh sửa lại để người một tay cũng có thể lái nó.

Khi họ cuối cùng cũng ở bên trong chiếc Rolls-Royce và xe bắt đầu chạy về nhà chú Nimrod, chú Nimrod đốt lại điếu xì-gà cháy dở và thở ra một cụm khói màu xanh lớn đến nỗi cặp sinh đôi phải tự hỏi liệu có một cái lỗ nào trên ống bô xe hay không. Khói thuốc tiếp tục tuôn ra từ hai lỗ mũi phập phồng của chú Nimrod, và rồi thình lình chú nhận ra cặp sinh đôi đang nhìn chăm chăm điếu thuốc xì-gà. Chú nhìn nó, rồi quay sang nhìn hai anh em với vẻ mặt của một người tin rằng mình vừa phạm một sai lầm lớn. Chú nói:

- Ôi, chú quên mất. Các cháu là người Mỹ, đúng không? Cho chú xin lỗi cả hai nhé. Chú không nghĩ đến chuyện các cháu không thích xì-gà.

Philippa nói:

- Tụi cháu không phiền gì với mùi xì-gà đâu.

- À, chắc là tại mẹ các cháu phải không? Chị ấy vốn rất mê xì-gà mà.

- Mẹ cháu ấy à? Chú đùa phải không?

- Không, chú nói thật đấy. Chị ấy thường hút rất nhiều xì-gà mà.

Trong khi chú Nimrod hùng hồn nói về những đề tài yêu thích của chú, chiếc Rolls-Royce lướt nhẹ dọc theo những con đường của London như một tấm thảm thần có chân, và Philippa dõi mắt ra ngoài cửa kính xe nhuộm màu để quan sát thành phố lần đầu tiên. Dường như London trải rộng hơn New York, vì bầu trời có một không gian riêng của nó chứ không phải chia sẻ cùng các tòa nhà chọc trời. Cảm giác đầu tiên của cô khi nhìn thấy những tòa nhà là sự nhẹ nhõm vì cô sẽ không phải leo quá nhiều tầng cầu thang. Philippa thích tất cả các khu vườn nhỏ xinh và những hàng cây dọc đường. Cô gần như reo lên khi lần đầu tiên thấy một chiếc xe buýt màu đỏ và một chiếc taxi màu đen.

John quan tâm đến chiếc xe hơn là thành phố. Cậu chưa bao giờ ngồi bên trong một chiếc Rolls-Royce, và với những cái ghế bọc da màu đỏ, lớp thảm dày và cái bàn làm bằng gỗ cây óc chó, nó làm cậu liên tưởng đến phòng làm việc của cha mình ở New York. Hẳn nhiên chiếc xe cũng êm kinh khủng, ngay cả khi đang di chuyển. Cậu nói:

- Cháu thích cái xe của chú, chú Nimrod.

Chú Nimrod mỉm cười:

- Cháu tinh mắt lắm, cháu trai của ta. Chất lượng vẫn còn nguyên như mới, ngay cả sau khi người ta đã quên hẳn về giá cả và tên công ty sản xuất ra nó. Chú mua lại được chiếc xe này từ một anh bạn đạo diễn phim có cô vợ mắc chứng bệnh cứ thấy màu đỏ lại táy máy tay chân ăn cắp đồ. Cho nên, đáng tiếc cho anh ấy, anh ấy đành phải nhượng lại cái xe cho chú.

John hỏi:

- Chú Nimrod nè, bộ ở Anh ai cũng nói chuyện như chú à?

- Thật sự thì không đâu. Người Hà Lan và người Đức mới là những người nói tiếng Anh giỏi nhất. Chứ còn bản thân người Anh á, họ nói một thứ tiếng Anh rất lộn xộn, không có đầu mà cũng chẳng có đuôi rõ ràng gì. Giống như một mớ khoai tây nghiền mà họ đổ vào trong đĩa của cháu và cho rằng cháu sẽ hiểu ấy. Đặc biệt là ở khu vực phía Bắc nước Anh...

Đến đây chú Nimrod dường như cố tình nói lớn để ông Groanin nghe:

- ... ngôn ngữ ở đó đặc biệt chẳng có hình thù gì cả.

Ông Groanin khẽ “hừ” một tiếng, như thể ông nhận ra lời nhận xét đó đang nhắm vào mình.

Chú Nimrod sống tại căn nhà số 7 ở khu Stanhope, đi vào từ đường Bayswater. Nó nằm ngay kế bên khu vườn Kensington. Từ cửa sổ xe, chú Nimrod chỉ về phía khu vườn và nói:

- Có một bức tượng Peter Pan ở đâu đó trong ấy.

Và với giọng giễu cợt, chú nói thêm:

- “Cậu bé từ chối lớn lên”. Đừng bao giờ tin tưởng một đứa bé cứ thích làm một đứa bé mãi mãi. Ước muốn đó quái gở y như việc nó không thích thịt, hoặc sô-cô-la, hoặc sở thú, hoặc rạp xiếc, hoặc khu vui chơi, hoặc những chiếc xe chạy nhanh, hoặc Giáng sinh, hoặc ngày sinh nhật. Các cháu có biết chúng ta gọi một đứa trẻ không thích tất cả những điều đó là gì không?

Philippa suy nghĩ trong mấy giây rồi hỏi:

- Ngu ngốc?

- Gần đúng, nhưng chưa phải là câu trả lời chính xác. Một đứa con nít. Đó là cái mà chúng ta gọi một đứa bé không thích tất cả những điều đó. Một đứa con nít.

Mặt chú Nimrod nhăn nhó với vẻ kinh tởm.

- Sữa, sữa, sữa, đó là tất cả những gì chúng nghĩ tới. Chú thật sự không thể chịu được con nít. Chỉ cần nghĩ đến lũ trọc lóc bé tẹo đó là chú đã đủ muốn bệnh rồi. Lúc nào cũng phàm ăn, ích kỷ và những nỗi kinh hoàng khó kiềm chế.

Vốn cũng thích trẻ con, Philippa lên tiếng:

- Nhưng chú Nimrod, không phải chú cũng từng là một đứa con nít sao?

Chú Nimrod run người thấy rõ:

- Đừng nhắc chú nhớ đến chuyện đó. Nó ám ảnh từng giây phút mơ màng vẩn vơ của chú. Y như bóng ma không mời của Banquo ấy.

- Ý chú là, chú nhớ chuyện lúc chú còn là một đứa con nít à?

- Chú nhớ chứ. Nhớ đến từng đĩa bột, từng cái tã ướt.

- Sao chú nhớ hay vậy?

- Đây là một điều đặc biệt đối với bên họ ngoại của các cháu. Càng lớn, chúng ta càng nhớ rõ tất cả những chi tiết khủng khiếp về thời thơ ấu của mình. Ngày mất, ông của chú nói với chú rằng ông vừa nhớ ra khoảnh khắc ông được sinh ra. Biết đâu được, có khi chính cú sốc với cái ký ức đặc biệt đó lại làm ông đứng tim mà chết cũng nên.

Philippa nhận xét:

- Ghê quá.

Chú Nimrod đồng ý:

- Chính xác thế. Ghê đến một trăm bốn mươi phần trăm ấy chứ.

Philippa lịch sự mỉm cười với chú, dù rằng trong đầu mình, cô tự hỏi không biết có phải sự ác cảm với trẻ con của chú Nimrod là lý do khiến cô và John chỉ gặp chú đúng một lần trước đây khi hai đứa còn nhỏ không.

Chiếc Rolls-Royce đỗ lại bên ngoài một tòa nhà màu trắng to lớn. Với một mái ngói theo phong cách của những lâu đài cổ và vài tòa tháp, nó nhìn y hệt một pháo đài nhỏ vừa được trang hoàng lại. Đẩy hai đứa trẻ vào bên trong lãnh địa ma thuật của mình, chú Nimrod tuyên bố:

- Chào mừng các cháu đến thăm nhà chú. Hãy tự do bước vào và hãy chắc chắn rằng các cháu sẽ để lại một chút hạnh phúc mà các cháu mang theo đến đây.

John và Philippa, vốn không quen lắm với những câu chào hỏi trang trọng như vậy, đáp rằng chúng sẽ làm vậy.

Tòa nhà có vẻ lớn hơn nhiều so với vẻ bề ngoài. Và nó im ắng một cách đáng kinh ngạc cho dù chỉ cách một con đường đông đúc chừng vài mét. Kiến trúc nội thất bên trong căn nhà là sự kết hợp của nhiều phong cách khác nhau. Phần lâu đời nhất của căn nhà mang phong cách thời Trung cổ với những bức tường ốp gỗ, những tấm thảm phai màu, sàn gỗ mun, và những lò sưởi kiểu Pháp được trang trí bởi những cái đầu tượng chạm khắc mà chú Nimrod bảo là của các vị thần La Mã. Còn ở bên trong tòa tháp một nửa xây bằng gỗ, một con kỳ nhông gỗ khổng lồ bò dọc theo một cái cầu thang cũng bằng gỗ, trên đỉnh là tượng một người Ả Rập di cư bằng gỗ sồi bóng loáng đang mỉm cười, trên tay cầm một cái đèn gas bằng đồng cổ kính soi lối đi với một ánh lửa xanh sáng rực. Tuy nhiên phần lớn căn nhà nhìn có vẻ hiện đại, chỉ khoảng chừng hai hoặc ba trăm năm tuổi với đầy rẫy những thủ thuật kiến trúc trong việc sắp đặt những tấm gương, những cái trần nhà nhìn giống như bầu trời mùa hè, những kệ sách đồng thời là những cánh cửa, và, trên những bức tường được che phủ bởi một loại giấy dán tường kỳ lạ màu vàng ánh bạc giống như một tấm vàng trắng xỉn màu, những cánh cửa mà hoàn toàn không phải là cửa.

Hầu hết các căn phòng đều được trang trí bằng các món đồ Ai Cập, áo giáp đồng, kỷ niệm chương của những chuyến đi săn, trứng đà điểu. Tất cả ghế ngồi và sofa đều được bọc vải đỏ. Dường như đó là màu yêu thích nhất của chú Nimrod. Ánh sáng từ các ngọn lửa bập bùng cháy trong tất cả các lò sưởi, cũng như từ các chân nến to đùng và các cây đèn nến bằng bạc khổng lồ, vài cái trong số đó có đến hàng tá ngọn nến bằng sáp ong, dễ làm người ta tưởng lầm là đang ban đêm cho dù vẫn đương buổi sáng. Phần lớn các bức tranh trong nhà đều là ảnh khỏa thân, nhưng theo Philippa, chỉ có một số ít người trông hấp dẫn, còn những người khác đáng lẽ nên giảm đi một vài cân rồi hẵng cho người ta vẽ chân dung. Ở những chỗ khác, những hộp đựng xì-gà được trang trí lộng lẫy chứa đầy các loại xì-gà hảo hạng nhất, đứng chen chân với những đồ thủy tinh quý giá, những chiếc bật lửa kiểu cổ, và những chiếc đèn dầu cổ của La Mã hay Etruscan.

Một thư viện với hàng trăm đầu sách có vẻ là nơi chú Nimrod thấy thoải mái nhất. Một chiếc bàn bằng gỗ mun to lớn với chân sư tử và một cái ghế mạ vàng nằm ở vị trí trang trọng nhất trong phòng. Chú Nimrod tự hào cho biết đây chính là bộ bàn ghế mà vua Solomon vĩ đại đã từng sử dụng. John hỏi:

- Vậy chắc nó có giá lắm chú nhỉ?

- Có giá? Ý cháu là có giá về mặt tiền bạc ấy à?

- Vâng. Vì cháu nghe nói vua Solomon giàu kinh khủng mà.

Chú Nimrod nhận xét:

- Đó là một quan niệm sai lầm mà ai cũng mắc phải.

Philippa hỏi:

- Nhưng chẳng phải ông ấy có những mỏ kim cương của riêng mình sao?

John tán thành:

- Đúng rồi. “Những Cái Mỏ Của Vua Solomon”. Chắc chú có nghe về chuyện đó.

Chú Nimrod mở một ngăn kéo trên bàn và lấy ra một quyển sách lớn. Đặt nó lên trên mặt bàn, chú tự hào bảo John:

- Cháu đọc cuốn sách này đi.

- Cháu đâu có đọc được. Nó viết bằng loại chữ cổ nào đó lạ quá.

- À, phải rồi. Chú quên mất cả hai đứa chưa được dạy gì nhiều. Thế này nhé, vua Solomon vốn cũng gặp đủ loại rắc rối với thuộc hạ. Cho nên ông ấy làm một quyển nhật ký, trong đó ghi lại tất cả những cách mà thuộc hạ của ông làm ông bực mình. Và, vì là một người có óc hài hước, ông lão Solomon ấy đặt tên cho quyển nhật ký là Quyển sách lớn của những lời than vãn(*). Các cháu thấy không? Đó có thể là kết quả của một sự biên dịch sai lầm, hoặc là ai đó nắm những thông tin không chính xác, nhưng thực tế chưa bao giờ có cái được gọi là Những cái mỏ của Vua Solomon(*) cả. Chỉ có một Quyển sách của những lời than vãn. Những lời than vãn của Vua Solomon(*).

Vẫy một ngón tay trỏ to lớn về phía cặp sinh đôi, chú Nimrod nói:

- Các cháu sẽ học được rất nhiều điều thú vị khi ở đây với chú. Những điều bổ ích, chứ không phải mấy cái thứ vớ vẩn mà họ dạy các cháu ở trường. Đó là vấn đề đối với trường học thời nay. Tất cả những gì họ quan tâm là tiền bạc và kết quả các kỳ thi. Nhào nặn ra nhân viên nhà băng và kế toán có bằng cấp, như thể thế giới cần thêm những người như thế. Hãy nghe lời khuyên của chú: Giáo dục là thứ mà các cháu tốt nhất tự mình đưa ra. Nhắc mới nhớ, chú có quà cho các cháu đây.

Chú Nimrod đi lại tủ sách của mình và lấy ra hai quyển sách được bọc bìa khá đẹp. Đưa cho cặp sinh đôi mỗi đứa một cuốn, chú nói:

- Đây là một trong những quyển sách vĩ đại nhất của con người. Đêm Ả Rập: Nghìn lẻ một đêm. Chuyện công chúa Scheherazade làm thế nào để làm hài lòng một ông vua tàn bạo, người đe dọa sẽ giết nàng cũng như tất cả các người vợ khác của ông nếu như ông đâm chán với những câu chuyện của nàng. Các cháu đọc nhanh lên nhé, rồi nói cho chú biết hai đứa nghĩ gì về nó.

Lật nhanh cuốn sách, John hỏi:

- Đọc nhanh hả? Nhưng nó có đến hơn ngàn trang. Chính xác là một ngàn lẻ một trang. Cháu mà đọc hết cuốn sách này chắc hết cả năm quá. Có khi hết cả năm sau nữa cũng không biết đã xong chưa.

Philippa đặt cuốn sách bọc da dày cộm trên lòng bàn tay và thử đoán trọng lượng của nó. Cô ham đọc sách hơn John rất nhiều, nhưng ngay cả cô, người đã đọc hết cuốn Oliver Twist của Charles Dickens, cũng bị choáng trước kích thước của cuốn sách mà cô phải đọc lần này. Cô nói:

- Cuốn sách này nặng chừng hơn hai kí. Đang đọc cái này mà lỡ ngủ gục thì có thể bị thương nặng chứ chẳng chơi.

Chú Nimrod nói:

- Dù sao thì chú vẫn muốn các cháu đọc hết nó. Còn bây giờ để chú dẫn các cháu đến phòng của mình.

Cặp sinh đôi được xếp ở tại một tòa tháp cổ, trong hai căn phòng lớn hình thất giác được ngăn cách bởi một phòng tắm thiết kế theo phong cách Art Deco được viền bằng đá mã não và đồng thiếc Nga.

Chú Nimrod nói:

- Đảm bảo các cháu sẽ thấy thoải mái trong những căn phòng này. Tuy nhiên, trong trường hợp các cháu muốn đi khám phá khắp tòa nhà, hãy nhớ là nó rất cũ. Đặc biệt là ở khu này. Và hãy nhớ chúng ta đang ở Anh, và Anh không giống như Mỹ. Lối sống ở đây không phải là lối sống mà các cháu đã quen thuộc, cho nên có thể một vài thứ có vẻ hơi kỳ lạ với các cháu.

Chú lắc đầu:

- Nếu bất cứ chuyện gì bất thường xảy ra, hãy đừng quá hoảng sợ. Tòa nhà này khá lành đấy...

John và Philippa mỉm cười một cách dũng cảm, cố không tỏ vẻ hoảng sợ. Nhưng thật khó vì những gì chú Nimrod nói nghe thấy ớn quá.

Chú Nimrod dẫn hai anh em vào trong một phòng khách nhỏ có một cái ghế sofa và một bộ tivi. Cầm cái điều khiển lên bật tivi, chú nói tiếp:

- Để các cháu thoải mái như ở nhà, chú đã lắp thêm một bộ tivi ở đây. Các cháu có thể giải trí với nó bất cứ lúc nào. Chú thì chẳng bao giờ dùng tivi, nhưng theo như chú biết, trẻ em thời nay hình như không thể sống thiếu nó được.

John đột ngột la lớn và chỉ vào tivi:

- Nhìn kìa.

Trên màn hình là bức ảnh của ông Otis và bà Melody Barstool, cặp vợ chồng đến từ Poughkeepsia ở New York. John hét lên:

- Nhanh lên. Chú bật nó lên đi. Tụi cháu phải xem cái đó.

Nimrod thốt lên:

- Chú không biết thói nghiện ti vi là thâm căn cố đế rồi.

- Chắc chắn đó là tin về hai vợ chồng ngồi ở dãy ghế kế bên tụi cháu trên máy bay. Họ đã đột ngột mất tích khi đang bay.

Nở một nụ cười bí hiểm, chú Nimrod ngồi xuống ghế sofa, bên cạnh cặp sinh đôi. Chú nói:

- Vậy à? Nghe có vẻ thú vị đây. Chú luôn thích những chuyện kỳ lạ.

Trên tivi, phát thanh viên của đài BBC đang đọc tiếp bản tin:

- Một cuộc tìm kiếm kỹ càng đã được tổ chức ngay trên chuyến bay cũng như tại phi trường London, tuy nhiên người ta vẫn không tìm ra bất cứ điều gì có thể cho biết hai hành khách mất tích đang ở đâu. Cảnh sát tại London và New York đã được báo động vì vấn đề an toàn cho cặp vợ chồng độ tuổi 70 này. Và rồi rạng sáng hôm nay, họ đã xuất hiện lại tại nhà của mình tại Poughkeepsie trong trạng thái sức khỏe hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên, họ cũng không thể nào giải thích được sự biến mất của chính mình. Rất nhiều nhân chứng cam đoan họ đã thấy ông bà Barstool lên chiếc máy bay Boeing 747 của hãng hàng không British Airways, cũng như đã nói chuyện với họ trong chuyến bay.

Chú Nimrod hỏi:

- Cháu nói là họ ngồi kế bên các cháu à?

Philippa trả lời:

- Vâng ạ.

Trên tivi, ông Otis Barstool đang nói với một phóng viên:

- Chúng tôi chỉ vừa ăn xong bữa ăn chính của chuyến bay. Tôi đã dùng món thịt bò, còn Melody dùng món gà. Không ai trong chúng tôi uống rượu cả. Rồi khi tôi vừa mở một cuốn sách ra định đọc, thình lình máy bay gặp một khu vực khí lưu bất ổn. Trước đây chúng tôi không đi máy bay nhiều lắm, và tôi không ngại nói cho anh biết là chúng tôi thật sự rất lo lắng.

Chú Nimrod bật cười. Giả giọng ông Otis một cách hoàn hảo, chú lặp lại:

- Thật sự rất lo lắng.

Ông Otis kể tiếp:

- Cả hai chúng tôi bắt đầu ước, cầu khẩn rằng phải chi chúng tôi đang ở nhà. Và điều tiếp theo mà tôi biết, là chúng tôi đang ngồi trên cái ghế sofa trong phòng khách nhà chúng tôi như thể chúng tôi chưa bao giờ đi đâu. Chúng tôi đã ngồi đó cả một lúc lâu, cố gắng giải thích chuyện gì đang xảy ra. Cuối cùng, chúng tôi đi đến kết luận là, có thể chúng tôi vừa mới bị khủng hoảng tinh thần, hoặc chỉ vừa nằm mơ. Nhưng rồi ông cảnh sát trưởng đến bấm chuông cửa, và chắc anh cũng biết chuyện gì xảy ra tiếp theo rồi đó. Tôi có nghe nói đến chuyện các hãng hàng không làm mất hành lý, nhưng đây là lần đầu tiên tôi nghe nói họ làm mất hai hành khách. Trên thực tế, hãng Hàng không British Airways không có làm mất hành lý của chúng tôi. Chúng hiện đang ở London.

Người phóng viên hỏi:

- Ông bà có nghĩ là, có thể lời cầu khấn của ông bà đã linh nghiệm?

Bà Melody Barstool thừa nhận:

- Tôi thật sự tin rằng đó là lời giải thích hợp lý nhất.

- Vậy ông bà có định khởi kiện hãng Hàng không British Airways không?

- Chúng tôi đã nói chuyện với một luật sư. Nhưng ông ấy nói rằng, việc cả hai chúng tôi đều tin rằng sức mạnh của lời khấn cầu đã giúp chúng tôi rời khỏi chuyến bay có thể ảnh hưởng đến bất cứ kiện cáo nào đối với British Airways. Có vẻ như các hãng hàng không cũng chẳng có trách nhiệm về pháp lý đối với những chuyện như thế này. Họ gọi nó là “Việc Làm của Thượng Đế” mà.

Mắt lấp lánh với vẻ nghi ngờ, chú Nimrod nghiêng người về phía John và hỏi:

- Nói chú biết đi, chàng trai trẻ, bộ em gái cháu luôn bốc đồng như vậy hả? Quá chân thật và chẳng theo thể thức gì hết.

Không hiểu chẳng theo thể thức nghĩa là gì, nhưng John vẫn bật cười:

- Vâng, em ấy luôn kỳ lạ như thế.

Chú Nimrod cũng bật cười:

- Philippa, chắc là ông ấy đã nói điều gì đó với cháu. Cho nên cháu mới làm cho ông lão tội nghiệp ấy biến mất như thế.

Tiếng cười vui vẻ của chú vang vọng khắp căn phòng.

- Cháu yêu của chú, giờ thì chú đã biết sau này chú phải cẩn thận như thế nào khi nói chuyện với cháu nếu không muốn kết thúc như ông bà Barstool.

Chẳng hiểu được chú Nimrod đang nói đùa về chuyện gì, Philippa gượng cười và nói:

- Thích thì hai người cứ cười đi. Nhưng họ là một cặp rất dễ thương, và cháu mừng là họ không bị sao cả.

John nói:

- Anh thì nghĩ lỗi là do món gà người ta phục vụ trên máy bay. Mùi vị nó kỳ kỳ thế nào ấy.

Philippa bảo:

- Đó là vì anh ăn gà chung với thịt bò thôi.

Chú Nimrod hỏi:

- Nhắc đến thức ăn mới nhớ, hai cháu đói bụng chưa?

John thú nhận:

- Đói cào cả ruột.

- Tốt. Vậy thì chú sẽ nấu cho hai đứa một bữa ăn sáng kiểu Anh thịnh soạn. Nó cũng tương tự bữa sáng kiểu Mỹ thôi, nhưng sẽ có ba sự khác biệt chính: món trứng chiên sẽ để bên phần đĩa phía Đông chứ không phải phía Tây; món thịt nướng sẽ có vị của thịt thay vì vị của một miếng da khô lột ra từ gót chân của một phu xe kéo làm việc quá sức, và món cà chua sẽ được phục vụ nguyên chất không pha trộn thêm bất cứ nguyên liệu nào khác, nếu không tất cả sẽ hỏng bét.

Sau bữa ăn sáng ngon lành đúng như chú Nimrod đã cam đoan, Philippa quay lại đề tài về ông bà Barstool. Cô hỏi:

- Làm thế nào mà hai ông bà lão có thể tự nhiên biến mất ngay trong một chuyến bay được chứ? Ý cháu là, chắc phải có nhầm lẫn ở đâu đó. Chứ những chuyện như thế này đâu có thể xảy ra được.

Chú Nimrod nói:

- Nhưng mà nó đã xảy ra rồi đấy thôi. Nếu như chúng ta có thể tin được bản tin tivi.

Chú gật gù cười. Châm lửa mồi một điếu xì-gà, chú nói tiếp:

- Đúng là đã đến lúc chúng ta cần phải cẩn thận với điều ước của mình.

Philippa hỏi:

- Gì cơ?

Chú Nimrod đứng dậy tuyên bố:

- Ý chú là, đã đến lúc chúng ta cần phải đi rửa chén bát. Anh Groanin đã có đủ thứ chuyện phải lo trong nhà rồi, chúng ta không thể làm phiền anh ấy thêm nữa. Và nếu chúng ta để chén bát lại cho anh ấy rửa, thể nào anh ấy cũng cằn nhằn cả ngày cho xem. Tuy là người phục vụ chỉ có một tay, nhưng không có nghĩa anh ấy hài lòng với bất cứ công việc nào bị buộc phải làm đâu nhé. Chú vẫn luôn nói cái tên “Groanin” đúng là phù hợp với cái tính hay cằn nhằn của anh ấy mà(*).

Sau khi đã dọn dẹp xong đống chén dĩa, họ quay lại thư viện và sưởi ấm người trước lò sưởi. Trong khi chú Nimrod châm tiếp một điếu xì-gà khác, Philippa đưa mắt nhìn những quyển sách trên kệ. Cô chú ý thấy có đến vài tá bản dịch khác nhau của một cuốn sách về chơi bài cùng những trò chơi cờ bạc khác được viết bởi một người tên Hoyle, và một bộ sách năm mươi tập bọc da về một thứ được gọi là Những quy luật Baghdad.

Philippa hỏi:

- Những quy luật Baghdad là gì vậy chú?

Chú Nimrod trả lời một cách mơ hồ:

- Đó là những quy luật về nghi thức ngoại giao được trình bày có hệ thống tại Baghdad từ cách đây rất lâu. Nếu các cháu không có việc gì khác cần làm chiều nay, sao các cháu không thử đọc một hoặc hai chương của quyển Nghìn lẻ một đêm mà chú đã đưa cho các cháu nhỉ? Như thế chúng ta sẽ có cái để thảo luận trong bữa ăn tối nay. Và sau khi các cháu đọc xong nó, chú sẽ giải thích cho các cháu về những sự thật của cuộc sống. Về việc làm sao các cháu có mặt ở đây.

John và Philippa tái xanh cả mặt. John ấp úng nói:

- À... cái đó... tụi cháu đã biết hết về việc một đứa bé được tạo ra như thế nào rồi. Cho nên chú không cần giải thích những chuyện đó đâu.

Chú Nimrod nhăn mặt:

- Không, không phải những sự thật đó. Chú đang nói về những thứ thú vị hơn nhiều so với chuyện tạo ra một đứa bé như thế nào.

Philippa chọc:

- Điều gì có thể thú vị hơn chuyện đó nhỉ?

Câu nói của cô làm mặt chú Nimrod thoáng buồn. Chú nói:

- Chú đang nói về việc làm sao các cháu có thể có mặt ở London lúc này. Về việc tại sao cha mẹ các cháu lại không có khả năng phản đối chuyện các cháu đến ở với chú thay vì gửi các cháu đi đến Nhà Alembic. Về việc tại sao chú lại xâm nhập vào giấc mơ của các cháu khi cả hai đứa đang bị gây mê. Về việc các cháu là ai, và các cháu là gì. Về sự may mắn và việc nó diễn ra như thế nào. Và về nhiệm vụ quan trọng cần đến sự có mặt của các cháu ở đây. Đó là những sự thật của cuộc sống.

Chú Nimrod định nói thêm điều gì nữa, tuy nhiên lời nói của chú trở thành một cái ngáp dài. Chú nói:

- À, cho chú xin lỗi nhé. Chú không quen với việc dậy sớm như thế này. Chú nghĩ chú cần đi ngủ một lát. Và chú đề nghị các cháu cũng nên làm vậy.

Bước về phía cửa thư viện, chú vẫy tay chào cả hai và nói:

- Chúng ta sẽ gặp lại nhau vào bữa tối. Lúc đó mọi chuyện sẽ được giải thích rõ cho các cháu.

P.B.KERR

Chương 6: Sự biến mất của ông bà Barstool

TTO - Vài ngày sau, bà Gaunt dẫn John và Philippa ra phi trường John F. Kennedy của thành phố New York để đón chuyến bay 9 giờ tối đi London. Sau khi giúp cặp sinh đôi đăng ký hành lý, bà đi theo chúng đến phòng chờ đi của hãng hàng không British Airways. Bà dặn dò:

- Nếu các con bắt đầu cảm thấy những triệu chứng của bệnh sợ không gian chật chội, hãy uống cái này. Nó sẽ làm các con cảm thấy đỡ hơn.

Đưa cho Philippa một lọ thuốc nhỏ màu tím với cái nắp đậy bằng vàng, bà dặn thêm:

- Cách 4 giờ uống một viên nhé.

Philippa thở phào nhẹ nhõm:

- Cám ơn mẹ.

Cô đã trông chờ được nhận những viên thuốc đặc biệt của mẹ. Trong những chuyến đi trước đây, cặp sinh đôi luôn được mẹ đưa cho uống những viên thuốc trị chứng sợ không gian chật đã được hòa tan sẵn trong nước, hay được dập chung cùng một muỗng mứt. Vì đây là lần đầu tiên cặp sinh đôi đi một mình, nên đây cũng là lần đầu tiên bà Gaunt giao cho chúng việc tự lo uống thuốc.

Đưa vé máy bay cho John, bà Gaunt nói:

- Các con sẽ đến London vào khoảng 7 giờ rưỡi sáng. Chú Nimrod sẽ đón các con ở ngay sân bay.

Rồi cúi xuống ôm con, bà Gaunt nói trong nước mắt:

- Tạm biệt các con yêu. Mẹ sẽ nhớ các con lắm. Có thể ban đầu các con sẽ không quen với London và chú Nimrod. Nhưng dù có chuyện gì xảy ra, hãy nhớ rằng cha và mẹ rất yêu các con. Và rằng tất cả những gì chúng ta đã làm đều vì các con cả.

Nuốt nghẹn, bà rút khăn từ cái túi Hermès Kelly bằng da cá sấu của mình ra và chấm khóe mắt ngấn nước.

- Tạm biệt.

Và rồi bà quay về.

Sau một khoảng thời gian có vẻ dài đằng đẵng, một cô tiếp viên hàng không đến dẫn hai anh em ra máy bay. Đó cũng là tín hiệu để cả hai uống viên thuốc mà mẹ chúng đã đưa để chống lại chứng sợ không gian chật. John tò mò nhìn viên thuốc màu bạc trên lòng bàn tay cậu:

- Anh không biết là nên nuốt nó hay đánh bóng nó nữa.

Philippa đồng ý:

- Ừ, nhìn chúng đẹp thật.

Cô nuốt viên thuốc của mình rồi quay qua hỏi anh:

- Anh không uống sao?

- Có lẽ anh nên chờ đến khi lên máy bay. Để coi em có bị trúng độc gì không.

Khi hai anh em đến chỗ máy bay đậu, John đã xanh mặt sợ hãi, mồ hôi đầm đìa trước viễn cảnh phải trải qua 7 hoặc 8 tiếng đồng hồ bên trong một cái ống kim loại lớn. Khi hai anh em tìm thấy chỗ ngồi của mình, cậu nhận xét:

- Ở đây nhìn chật chội quá đi. Giống như bên trong một cái máy hút bụi ấy. Phil, em nhường cho anh ghế ngồi kế cửa sổ được không? Anh cảm thấy như mình đang bị nhốt lại ấy. Trời ạ, sao bức bối thế này. Làm sao người ta có thể mang nhiều không khí hơn vào bên trong cái thứ này chứ? Mà cái chú kia cũng kỳ, bộ cứ phải đóng cánh cửa đó lại ngay bây giờ mới được sao?

Philippa điềm tĩnh nói:

- Anh uống thuốc đi.

John ngoan ngoãn nuốt viên thuốc, không hề cằn nhằn gì thêm nữa. Và viên thuốc có hiệu quả y như một phép màu. Ngay lập tức, một luồng không khí nóng tỏa ra từ cổ họng và nhanh chóng lan xuống ngực, bụng, đầu và chân tay cậu. Giống như có ai đó đã bật một công tắc trong người làm John cảm thấy thoải mái và thư giãn hơn với môi trường xung quanh. John nghĩ thầm, bây giờ dù có ai đó đem nhốt cậu vào trong chai và đậy nắp lại, cậu cũng sẽ không phiền hà gì.

Hai mươi phút sau, họ đã ở trên không trung.

Thức uống được phục vụ, và cùng với nó là các hoạt động giải trí bên trong máy bay. Cả hai đứa trẻ đều nôn nóng chờ được xem các bộ phim mà trước đây chúng không được phép xem khi đi chung với cha mẹ. John thức suốt đêm để xem liên tục hơn hai bộ phim không phù hợp với tuổi của cậu. Nhưng Philippa thì ngủ gục ngay sau bộ phim thứ nhất.

Cô bị đánh thức khi máy bay đi qua một luồng không khí xấu. Nó giật mạnh như một chiếc xe buýt đang trên một con đường đầy ổ gà, ổ voi. Cả cái máy bay kêu lên ken két đầy báo động, giống như một chiếc máy bay đồ chơi rẻ tiền trong hội chợ, và bên ngoài cửa sổ, cánh máy bay run bần bật như một cái cầu nhún bắc trên hồ bơi. Lại cảm thấy sợ hãi vì bị nhốt trong không gian tù túng của máy bay, Philippa uống thêm một viên thuốc nữa. Lần này, thuốc đặc sệt vị thịt nướng của tiệc barbercue. Rồi cô bắt đầu dỏng tai nghe lỏm câu chuyện của một cặp vợ chồng ngồi ở dãy ghế bên kia. Tay nắm chặt, người run lên bần bật, rõ ràng họ không thoải mái gì với chuyến bay đến London của mình.

Người vợ, một phụ nữ to con mang một cái nón bóng chày và một cái áo pông-sô màu đỏ tươi, rên rỉ:

- Ôi, lạy Chúa tôi, thật kinh khủng. Ôi trời ơi, bộ cái máy bay nào cũng phải nhảy tưng tưng như vầy sao? Như thể nó đang vỡ ra ấy. Anh Otis, nếu chúng ta sống qua đêm nay, hãy hứa với em là mình sẽ không bao giờ đi máy bay nữa. Ngoại trừ để quay lại nhà chúng ta ở Mỹ.

Ông Otis thậm chí còn to hơn vợ, với một thân hình bồ tượng bên dưới một cái đầu to ngang ngửa những bức tượng ở núi Rushmore(*). Ông nhìn Philippa và mỉm cười một cách yếu ớt, như thể, dù chính mình cũng đang rất hoảng sợ, ông vẫn cố trấn an người khác. Philippa ngay lập tức có cảm tình với ông và thấy rất thương cảm cho ông. Ông nấc cục vài lần và nuốt nước miếng một cách khó khăn như thể đang cố gắng để không ói ra. Đặt một bàn tay ú nu lên miệng, ông hỏi:

- Cháu ổn không, cô bé?

Philippa gật đầu:

- Cháu không sao ạ.

- Bác ghen tị với lòng can đảm của cháu đấy, cô gái trẻ. Nếu là bác, bác chỉ ước gì mình vẫn còn ở tại Poughkeepsie. Bác không ngại nói cho cháu biết đâu. Bác ước gì bác đang ở nhà.

Ai mà chẳng biết Poughkeepsie là một thành phố nhỏ ở gần New York với dân số khoảng ba chục ngàn người. Nó nổi tiếng là nơi sản xuất ra những bóng đèn điện tốt nhất thế giới.

Philippa mỉm cười với ông Otis với hy vọng nụ cười của cô có thể bày tỏ sự thông cảm với người đàn ông tội nghiệp đang sợ hãi cực độ này.

Ông Otis tuyên bố:

- Hai bác đang đi đến London.

Philippa định nhắc cho ông rằng tất cả mọi người trên chiếc máy bay này đều đang đến London, nhưng rồi cô kiềm lại được và chỉ nói:

- Ồ, thế giới nhỏ thật. Tụi cháu cũng đang đến đó.

Ông Otis tiếp tục nói:

- Nhưng bây giờ cả hai vợ chồng bác đều ước gì mình đang ở Poughkeepsie.

Philippa thú nhận:

- Đúng là chuyến bay này hơi khó chịu thật.

- Ừ. Bác rất vui được nói chuyện với cháu đấy, cô bé. Bác cũng có một đứa con gái. Giờ thì nó đã lớn rồi. Nếu cần gì thì cháu cứ gọi nhé. Đừng ngại. Bác sẽ giúp cháu nếu có thể.

Với Philippa, ông Otis có lẽ là người đàn ông tốt bụng nhất mà cô từng biết đến. Cô mỉm cười:

- Cám ơn bác.

Vài phút sau, cô lại ngủ thiếp đi.

Philippa không biết mình đã ngủ trong bao lâu, nhưng khi cô bị đánh thức dậy bởi một tiếp viên hàng không, (đánh thức hơi bị mạnh bạo theo nhận xét của cô), thì anh trai John của cô đang coi một bộ phim hoàn toàn khác về những con vượn biết nói. Chị tiếp viên trông có vẻ rất lo lắng. Chỉ về hai chiếc ghế của cặp vợ chồng đến từ Poughkeepsie, chị hỏi:

- Em có thấy cặp vợ chồng ngồi ở dãy ghế bên này không vậy?

- Chị đang nói về ông Otis và vợ của ông ấy à?

- Đúng thế. Ông Otis Barstool và vợ ông, bà Melody.

- Có, em có thấy họ. Em đã nói chuyện với ông Otis. Ông ấy rất tốt. Hơi sợ vì luồng không khí không ổn định khi nãy, nhưng rất tốt.

- Em có biết bây giờ họ đang ở đâu không? Hay họ đang nấp đâu đấy?

Philippa ngạc nhiên hỏi lại:

- Nấp á?

Theo như những gì cô biết, không có nhiều chỗ để ai đó có thể nấp trên một chiếc Boeing 747, cho dù đó là một đứa trẻ như cô, chứ đừng nói gì đến hai người to lớn như ông Otis và bà Melody Barstool. Bản thân cô thì còn có thể leo vào tủ đựng đồ trên đầu, nhưng ông Otis thì không thể, và bà Melody thì càng không thể hơn. Ngoài toa lét và tủ đựng áo khoác, Philippa không còn biết nơi nào khác để có thể chỉ cho chị tiếp viên đi tìm cặp vợ chồng mất tích. Ngoài ra, cô không nghĩ ông Otis là dạng người đi làm những chuyện ranh mãnh như ẩn nấp bên trong một chuyến bay xuyên lục địa mà ông đã có vé sẵn. Cô nói lên suy nghĩ của mình:

- Tại sao họ lại phải nấp chứ?

Viên phi công xuất hiện đằng sau chị tiếp viên. Chị nói:

- Thật ra tụi chị đang hy vọng em có thể giúp trả lời câu hỏi đó, vì dường như em là người cuối cùng nói chuyện với họ. Em thấy không Philippa, họ không có ở trong ghế của mình trong khi phi công trưởng đã bật đèn hiệu thắt chặt dây an toàn vì chúng ta sắp hạ cánh xuống London, và sự thật là tụi chị đã kiếm khắp máy bay mà không thấy bóng dáng họ đâu. Tụi chị thậm chí còn kiếm cả trong khoang hành lý nữa, mà cũng không có.

Viên phi công ngồi xuống bên cạnh ghế của Philippa và mỉm cười một cách tử tế. Ông nói:

- Chúng ta có một bảng kiểm soát về những ai lên máy bay và họ ngồi ở đâu, cho nên không thể có chuyện ai đó tự nhiên biến mất. Họ chắc chắn phải nấp ở đâu đó. Nếu biết lý do tại sao thì có thể chúng ta cũng sẽ biết được họ đang ở đâu.

Khẽ nhún vai, ông nói tiếp:

- Việc để mất hành khách trên một chuyến bay là một vấn đề rất nghiêm trọng. Có nhiều luật lệ để ngăn chuyện đó xảy ra. Nếu cháu nghĩ ra điều gì, bất cứ điều gì, có thể giúp tìm ra họ, chúng tôi sẽ mang ơn cháu rất nhiều.

Philippa lắc đầu. Cô không biết trả lời thế nào.

- Xin lỗi, nhưng cháu không nghĩ được điều gì cả. Cháu chỉ nhớ là ông Otis dường như không thích đi máy bay cho lắm.

John hỏi:

- Các bác đã đếm thử đầu người chưa?

Viên phi công kiên nhẫn trả lời:

- Dĩ nhiên rồi. Bốn trăm chín mươi người đã lên máy bay ở phi trường JFK. Bây giờ thì chúng ta chỉ đếm được bốn trăm tám mươi tám người trên máy bay.

John nhăn răng cười:

- Woa.

Viên phi công cùng chị tiếp viên mệt mỏi gật đầu rồi tiếp tục đi kiếm. Nhìn họ có vẻ còn lo lắng hơn lúc đầu.

Philippa hỏi:

- Anh nghĩ điều gì có thể xảy ra cho ông bà Barstool?

John trả lời:

- Anh không nghĩ họ có thể nhảy dù ra khỏi máy bay mà vẫn có thể đóng cửa lại sau lưng. Trừ khi họ có người trên máy bay hỗ trợ. Nhưng nếu như thế thì phi công sẽ biết cánh cửa đã bị mở ra. Tất cả chúng ta sẽ biết. Cho nên anh đoán chỉ còn một khả năng duy nhất.

- Là khả năng gì?

- À, chắc là em cũng có nghe chuyện về những người tự nhiên biến mất trên những con tàu, đúng không? Như con tàu Marie Celeste(*) ấy. Hay ở Tam giác Bermuda(**). Có thể đây là một chuyện tương tự như thế. Có thể họ đã bị một chiếc tàu không gian nào đó bắt cóc.

Philippa thở dài:

- Cũng may là anh không chia sẻ suy nghĩ ấy với viên phi công.

Cặp sinh đôi đưa mắt nhìn hai chiếc ghế trống rỗng. Mọi chuyện đều có vẻ bình thường, như thể cặp vợ chồng mất tích sẽ trở lại ghế ngay thôi.

Philippa nói:

- Em nghĩ họ sẽ xuất hiện thôi. Ông Otis là một người tốt. Em chỉ hy vọng chuyện này sẽ không gây ảnh hưởng gì đến kỳ nghỉ của họ.

John nói:

- Em biết gì không, nếu họ xuất hiện, họ sẽ chứng minh những gì anh nói đều đúng. Rằng người ngoài hành tinh đã bắt cóc họ.

Philippa nhăn nhó:

- Người ngoài hành tinh á? Anh không thể nào ngừng nói những chuyện vớ vẩn vậy à? Ý tưởng đó vô lý đến nỗi em không hiểu tại sao anh lại có thể là anh em sinh đôi với em cơ đấy.

- Em có bao giờ đọc Sherlock Holmes chưa?

Philippa lắc đầu. John tuyên bố:

- Vậy thì em nên nhớ một điều ông ấy từng nói.

- Điều gì?

- Khi em đã loại trừ hết những thứ không thể, thì bất cứ thứ gì còn lại, cho dù vô lý đến đâu, đều là sự thật.

John gật đầu và nói tiếp:

- Mọi người đã kiếm khắp máy bay từ đầu đến đuôi. Cho nên họ không có mặt trên máy bay. Một khi em thừa nhận chuyện này, dù muốn hay không, em vẫn bị kẹt với một khả năng bình thường có thể bị coi là vô lý.

P.B.KERR

Chương 8: Ông Rakshasas

TTO - Khi John thức dậy vào đầu giờ trưa hôm đó, cậu nằm ngó trần nhà một lúc lâu. Không phải là một cái trần nhà thông thường, nó là cả một bức tranh bích họa lớn hình những đám mây và những luồng sấm sét.

Nằm bên dưới nó, John bị ám ảnh cái cảm giác nếu như không phải trời sắp trút mưa xuống đầu cậu, thì cũng là một trận động đất nào đó sắp sửa xảy ra. Cậu nằm yên như thế suốt nửa tiếng đồng hồ, và rồi, nằm hoài không làm gì cũng chán, John ngồi dậy trên giường và bắt đầu đọc cuốn sách chú Nimrod đã đưa cho. Ban đầu cậu chỉ định liếc sơ qua vài trang, nhưng rồi thật bất ngờ, cậu phát hiện ra mình đã bị lôi cuốn vào cuốn sách từ lúc nào không biết.

Nghìn lẻ một đêm không phải là một câu chuyện đơn lẻ mà là một loạt những câu chuyện biến ảo khôn lường, được kể bởi một phụ nữ trẻ dũng cảm - Công chúa Scheherazade. Nghệ thuật kể chuyện của nàng quyết định sự sống còn của nàng. Đây là những câu chuyện về các ông vua và các nàng công chúa, về những vị thần vĩ đại và những phép màu chỉ hay ho lúc ban đầu, về những kẻ lừa đảo thông minh, những gã thương gia tham lam và những tên trộm đầy mưu trí. Một vài câu chuyện trong đó, như Sinbad, Aladdin, Alibaba và bốn mươi tên cướp... dĩ nhiên đã quá quen thuộc với John. Tuy nhiên, điều quyến rũ nhất ở cuốn sách là cách mà từ bên trong một câu chuyện xuất hiện một câu chuyện khác, y như một trò chơi xếp hình Trung Quốc, khiến cậu không thể nào dứt ra được. Chưa có một cuốn sách nào từng cuốn hút cậu như vậy. Trước đây, John chưa bao giờ tin những lời giới thiệu trên bất kỳ tờ báo nào, cam đoan với độc giả rằng có những quyển sách mà người ta không thể nào đặt nó xuống trước khi chưa đọc hết, nhưng giờ đây, thật ngạc nhiên khi đó chính xác là điều đang xảy ra với cậu. John nhận ra điều đó đặc biệt như thế nào, và trong suốt cuộc đời còn lại của mình, cậu sẽ không bao giờ quên được cái ngày mà tại London, cậu đã lần đầu tiên mở ra cuốn sách của những điều kỳ diệu này.

Nghìn lẻ một đêm còn là một cuốn sách rất kỳ lạ. Bình thường, John có thể đánh dấu trang của một cuốn sách đang đọc bằng cách gấp mép sách xuống, nhưng với cuốn sách mà chú Nimrod đưa cho, một hoặc hai lần cậu thử gấp mép sách, và khi cậu nhìn lại một lần nữa, trang sách vẫn thẳng thớm như chưa có gì xảy ra. Không chỉ thế, cuốn sách dường như còn có khả năng tự phát sáng, vì khi ánh sáng ban ngày nhường chỗ cho ban đêm, John vẫn có thể đọc sách mà không cần bật đèn. Thậm chí, khi cậu thử kéo chăn che kín đầu, cậu vẫn đọc được nó trong bóng tối mà không cần dùng đèn pin hỗ trợ.

Một điều kỳ lạ khác đối với John, người chưa bao giờ đọc một cuốn sách dày trong đời, cũng như chưa bao giờ say mê đọc sách, là tốc độ mà cậu lật những trang sách mềm như vải lụa. Ánh mắt của cậu dường như bay dọc theo những con chữ, và nếu như trước kia cậu phải mất chừng hai, ba phút mới đọc hết một trang thì giờ đây, cậu đọc một trang chỉ tốn chừng mười đến hai mươi giây, cho nên cả cuốn sách một ngàn lẻ một trang được cậu đọc xong trong chưa đầy 6 tiếng. Ngay khi đóng lại trang cuối cùng, quá tự hào với chính mình, John chạy ù sang phòng Philippa để khoe với em. Nhưng Philippa cũng đã đọc hết cuốn sách, và có vẻ như cô đã đọc xong trước cậu đến cả một tiếng đồng hồ.

Nén lại sự bực mình với cô em gái sinh đôi, John tuyên bố:

- Có cái gì lạ lắm đang diễn ra ở đây.

Luôn là một người mê đọc sách hơn hẳn ông anh trai, Philippa bật cười:

- Cái đó thì anh phải nói cho em biết mới đúng chứ. Có bao giờ anh bỏ cả một buổi trưa để đọc một quyển sách nào đâu. À khoan, có chứ. Lần Giáng sinh vừa rồi, cha hứa sẽ cho anh 50 đô nếu anh đọc hết cuốn Tiếng gọi nơi hoang dã của Jack London.

John chống chế:

- Anh xứng đáng với từng xu của 50 đô ấy. Đó là cuốn sách chán nhất mà anh từng đọc. Ngoài ra, em biết chính xác anh đang nói về chuyện gì mà.

Philippa mỉm cười:

- Em biết nhiều hơn anh đấy, John. Em ngồi chờ anh nãy giờ để làm chứng cho một thí nghiệm của em.

- Thí nghiệm về cái gì?

- Cái này.

Nhặt cuốn Nghìn lẻ một đêm của mình lên, Philippa ném nó vào ngọn lửa đang bập bùng cháy trong lò sưởi. John thảng thốt hỏi:

- Này, em điên rồi à?

Cô chỉ mỉm cười một cách chiến thắng:

- Đúng như em nghĩ.

Rồi cô đưa tay chỉ vào cuốn sách đang nằm yên trên những hòn than nóng rực nhưng lại không hề bị ngọn lửa nuốt chửng.

- Anh nghĩ sao về cuốn sách kỳ lạ không bao giờ bị cháy?

Trong mấy phút tiếp theo, hai đứa đứng yên nhìn cuốn sách thẳng thừng từ chối bắt lửa. Cuối cùng, John lấy cây cời than nhấc cuốn sách ra khỏi ngọn lửa và cẩn thận đặt nó lên thềm bên ngoài lò sưởi. Cậu rụt rè chạm vào nó, lật mấy trang kiểm tra thử rồi nói:

- Một vết cháy xém nhỏ cũng không có. Và em sờ nó thử xem. Nó thậm chí không nóng.

Philippa đặt một bàn tay lên quyển sách. Nó mát lạnh bên dưới những ngón tay cô. Philippa hỏi:

- Không biết nó làm bằng gì nhỉ?

- Sao chúng ta không đi hỏi chú Nimrod thử?

Khi đang đi xuống cầu thang, hai đứa trẻ hơi bất ngờ khi gặp một người đàn ông cao dong dỏng, vẻ ngoài bí hiểm với một chòm râu trắng, đội một cái khăn xếp trắng và mặc một cái áo thụng cũng màu trắng đang đi ngược lên cầu thang. Trông thấy cặp sinh đôi, ông chắp hai tay vào nhau và cúi đầu chào khi đi ngang qua chúng. Rồi ông tiếp tục đi lên lầu trước khi mở một cánh cửa ẩn bên trong một bức tường màu bạc và đóng nó lại sau lưng.

Thở phào nhẹ nhõm, John hỏi:

- Em nghĩ đó là ai thế?

Philippa nói:

- Thoải mái đi. Có lẽ ông ấy chỉ là một người bạn của chú Nimrod thôi. Không phải ông ấy mỉm cười với chúng ta sao?

- Em không thấy hơi lạ là người mà chúng ta gặp đầu tiên sau khi đọc cuốn Nghìn lẻ một đêm lại trông giống như một nhân vật trong cuốn sách đó sao. Giống như một vị thần chai ấy.

Philippa bật cười:

- Thần chai? Làm sao anh biết được điều đó chứ? Anh không để ý à, ông ấy đâu có bay ra từ một cái chai nào. Ông ấy đi bộ lên cầu thang mà.

- Nhưng mà ông ấy đội khăn xếp.

Philippa nhún vai:

- Thời buổi này đâu phải ai đội khăn xếp cũng đều có phép thuật. Tuy nhiên, để chắc ăn, anh có thể hỏi xin ông ấy ba điều ước.

John nói:

- Dù ông ấy không phải là thần chai đi nữa, anh nghĩ chú Nimrod sẽ có nhiều chuyện cần phải giải thích.

Hai đứa trẻ tìm thấy chú Nimrod trong phòng ăn, nơi một cái bàn đã được dọn sẵn với một tá đĩa đồ ăn khác nhau, bao gồm nguyên một con ngỗng quay, một miếng thịt sườn nai, thịt lợn muối chiên, một miếng đùi cừu, các món rau, pho mát, trái cây, rượu và Coca Cola. Có vẻ chú Nimrod cũng đang đợi hai đứa trẻ, bởi vì bàn ăn được dọn sẵn cho ba người, và chú đang hí hoáy xẻ con ngỗng quay.

Chú Nimrod vui vẻ nói:

- A, hai cháu đây rồi. Vừa đúng lúc cho bữa ăn tối. Tự phục vụ đi nhé.

Chú xua đi đợt câu hỏi dồn dập đầu tiên mà hai đứa trẻ đang định hỏi bằng một cái phất tay, và ít nhất trong vòng vài phút, tất cả ý định thẩm vấn chú Nimrod về cuốn sách kỳ lạ và người đàn ông còn kỳ lạ hơn trên cầu thang đã biến mất khỏi đầu hai đứa trẻ khi chúng nhận ra mình đang đói ngấu cỡ nào. Nhanh chóng ngồi xuống ghế, John và Philippa bắt đầu chất thức ăn lên đĩa của mình.

Vừa nhai miếng thịt lợn muối, Philippa vừa kể:

- Tụi cháu mới gặp một người đàn ông kỳ lạ mặc toàn đồ trắng. Đội cả một cái khăn xếp nữa.

John hỏi:

- Ông ấy có phải là một hồn ma không?

- Hồn ma? Ồ không, không phải trong cái nhà này. Có cho vàng lũ ranh đó cũng không dám. Không, đó không phải là một hồn ma. Đó là anh Rakshasas, đến từ Ấn Độ. Và anh ấy sẽ tham gia với chúng ta lần này. Chắc mới nãy các cháu làm anh ấy sợ lắm.

John chau mày hỏi:

- Tụi cháu làm ông ấy sợ hả? Còn tụi cháu thì sao? Ông ấy làm tụi cháu sợ gần chết ấy chứ.

- Anh Rakshasas mà nghe cháu nói vậy thì chắc anh ấy buồn lắm đấy, John. Thật sự anh ấy là một người rất hiền. Thậm chí còn không dám hù một con ngỗng nữa là.

Chú Nimrod ngần ngừ một lát rồi bỏ nguyên một miếng ức ngỗng lớn vào miệng và nói:

- Tất nhiên có hù con ngỗng này cũng chẳng được gì, bởi vì nó đã chết mất tiêu rồi. Nhưng chắc các cháu hiểu ý chú, đúng không?

Philippa nói:

- Anh John nói quá thôi. Ông Rakshasas bạn chú thật ra không có vẻ gì đáng sợ cả. Chỉ có điều, trông ông ấy nhìn hơi bí hiểm một chút.

Chú Nimrod nói:

- Bình tĩnh. Cứ từ từ. Chú đã nói sẽ kể cho các cháu nghe những sự thật của cuộc sống, và chú sẽ giữ lời hứa.

Ông Groanin bước vào phòng, cầm theo một cái bánh xốp kem khổng lồ trên cánh tay duy nhất của ông. Chú Nimrod vui vẻ nói:

- Nhìn xem. Chú đã rất khó nhọc để trình làng bữa tiệc linh đình này...

Ông Groanin thở khì một tiếng khinh khỉnh và đặt cái bánh lên bàn. Ông lầm bầm:

- Ông ấy nói “khó nhọc” cơ đấy. Đúng là buồn cười.

Chú Nimrod vẫn tiếp tục nói:

- ... cho nên việc tối thiểu mà các cháu có thể làm là thưởng thức hết lòng để cho công bằng với bữa tiệc tuyệt diệu này. À mà anh mới nói về khó nhọc gì thế nhỉ, anh Groanin?

- Không khó nhọc gì hết, thưa ông. Mọi người còn cần gì không?

- Không. Cám ơn anh.

Lấy nĩa xâu một miếng thịt lợn lớn cho vào cái đĩa vốn đã đầy ắp của mình, chú Nimrod giục:

- Hai đứa ăn đi chứ. Không nói gì nữa cho đến khi chúng ta đã no căng bụng đấy nhé.

Ba mươi phút sau, chú Nimrod cởi nút áo khoác đỏ, kiểm tra thời gian trên cái đồng hồ đeo tay bằng vàng, tự rót cho mình một ly rượu Burgundy lớn nữa, châm một điếu xì-gà khổng lồ, và rồi ngả người xuống cái ghế bành kêu ken két của mình. Chú nhận xét:

- Đúng là một bữa ăn tuyệt vời! Sao? Các cháu thấy thế nào?

John đồng ý:

- Tuyệt vời.

Một tiếng gõ cửa vang lên. Ông Rakshasas đi vào trong phòng ăn và cúi đầu chào một cách trang trọng. Ông nói:

- Một trăm ngàn lời chào mừng đến con cháu của đèn. Cầu cho các cháu đạt được tất cả điều ước của mình ngoại trừ một điều, để vẫn còn một cái gì đó cần phấn đấu đạt được. Và cầu cho ngày đau buồn nhất trong tương lai của các cháu sẽ không tệ hơn ngày hạnh phúc nhất trong quá khứ của các cháu.

Ông Rakshasas phát âm bằng chất giọng Ireland. Trông thấy chân mày John và Philippa nhướn cao vì ngạc nhiên, chú Nimrod nhanh chóng giải thích:

- Anh Rakshasas sống một mình nhiều năm, và anh ấy học tiếng Anh từ chương trình tivi của Ireland.

Ông Rakshasas gật đầu một cách nghiêm trang và nói:

- Cầu cho những kẻ thù của nước Ireland không bao giờ được ăn bánh mì hay uống rượu whisky, và bị khổ sở vì ngứa ngáy mà không được gãi.

Giờ đây khi đã thấy ông Rakshasas trong ánh sáng rõ hơn, cặp sinh đôi nhận ra ông không đến nỗi đáng sợ như chúng tưởng ban đầu. Ông vận một cái áo jacket trắng cài nút đến tận cổ, một cái quần dài trắng, đi đôi dép trắng và đội một cái khăn xếp trắng với một viên ngọc trai trắng hình giọt lệ treo ngay trước trán. Một bộ râu dài rối bù cùng một hàng ria mép cũng trắng xóa như cái khăn xếp hoàn chỉnh vẻ bề ngoài kỳ lạ của ông. Đôi mắt màu nâu của ông nhìn phúc hậu và đang mỉm cười với hai đứa trẻ, tuy nhiên Philippa có cảm giác chúng che giấu một bi kịch khủng khiếp từng xảy ra cho ông Rakshasas. Ông ngồi xuống chiếc ghế bọc da ở bên cạnh lò sưởi, gần đến nỗi cặp sinh đôi sợ ông sẽ bốc cháy bất cứ lúc nào, và hơ ấm đôi bàn tay dài, gầy gò của mình trước ngọn lửa vài phút trước khi châm một ống điếu.

Chú Nimrod nói:

- Anh Rakshasas, anh luôn xuất hiện rất đúng lúc. Tôi vừa định nói cho cháu trai và cháu gái của tôi nghe về những món quà của chúng đây.

Trái tim John nhảy lồng lên trong ngực như một con cá hồi hoang dã. Một món quà, và hôm nay thậm chí không phải Giáng Sinh hay sinh nhật của cậu. Nhưng Philippa thì lờ mờ hiểu được món quà mà chú Nimrod đang nói đến là gì, và bắt đầu lo lắng rằng điều này có thể làm cô trở thành một con mọt sách lập dị.

Cái đồng hồ quả lắc to để đứng, vốn đều đặn báo giờ suốt bữa ăn tối như một con dao gõ trên bàn phím piano bỗng thình lình ngừng lại, tạo một sự im ắng gần như ngạt thở. Với cặp sinh đôi, nó dường như đánh dấu khoảnh khắc cuộc sống cũ của chúng kết thúc và một cuộc đời mới sắp sửa bắt đầu.

Chú Nimrod nói:

- Bây giờ, chú nghĩ tốt nhất là chú nói và các cháu chỉ cần im lặng lắng nghe. Bởi vì sẽ có rất nhiều thứ hai đứa cần suy nghĩ. Có lẽ tôi nên bắt đầu từ đầu, phải không anh Rakshasas?

Ông Rakshasas chậm chạp trả lời giữa hai cú rít thuốc từ ống điếu của mình:

- Ờ. Có lẽ kể toàn bộ câu chuyện là tốt nhất. “Một người phụ nữ Tyrone không bao giờ mua một con thỏ không đầu vì sợ đó là một con mèo”, người ta vẫn nói thế.

Chú Nimrod nói:

- Tất cả những gì chú sắp nói với các cháu đều là sự thật. Sẽ có nhiều chuyện làm các cháu kinh ngạc, hay thậm chí là không tin, và chú muốn các cháu cứ tin chú, và tạm thời nén sự không tin tưởng của mình lại, như thể các cháu đang ở trong rạp xem một bộ phim viễn tưởng xa vời nào đó.

Vẻ mặt nghĩ ngợi, chú Nimrod rít một hơi thuốc dài và một cụm khói lớn thoát khỏi miệng chú. Chú tiếp tục:

- Bất cứ người có hiểu biết nào cũng sẽ nói với các cháu là có ba dạng sinh vật thông minh trong vũ trụ này. Thứ nhất là thiên thần, được tạo ra bởi ánh sáng. Thứ hai là con người, được tạo ra bởi đất. Chú chắc là các cháu xem tivi vẫn thấy các vị cha xứ trong các buổi tang lễ đều nói “Đất trở về đất, cát bụi trở về cát bụi”, đúng không? Đó chính xác là thứ tạo nên một con người. Đất, hay chất carbon nếu các cháu muốn xét trên khía cạnh khoa học. Muốn khoa học hơn nữa thì là carbon với nước. Nhưng nói chung, chúng ta không cần quan tâm đến con người bây giờ. Cái mà chúng ta quan tâm đến hiện giờ là dạng sinh vật thông minh cuối cùng. Đó là những djinn. Những người mà mọi người hay gắn cho cái tên “thần chai”. Chú hy vọng không có họ hàng nào của chú sử dụng cái từ “thần chai”(*). Đó là từ dành cho phim ảnh, hay cho những vở kịch câm Giáng sinh, chứ không phải cho những người như chú và các cháu. Từ đúng là “djinn” và djinn được tạo ra bởi lửa. Đúng thế, chính là lửa.

Chú Nimrod nhả ra thêm vài cụm khói xì-gà như muốn nhấn mạnh điểm này.

Philippa hỏi:

- Chú đang nói đùa phải không?

Chú Nimrod khẳng định:

- Chú có thể bảo đảm với cháu là chú hoàn toàn nghiêm chỉnh. Có rất nhiều tộc djinn. Chúng ta có thể mất cả đêm để mô tả về họ, đúng không anh Rakshasas?

- Ờ, chính xác thế.

- Nhưng các cháu, chú, mẹ các cháu và anh Rakshasas đây rất may mắn được là djinn của bộ tộc có tiếng nhất. Tộc Marid. Tuy có số người ít nhất, nhưng chúng ta lại là bộ tộc mạnh nhất.

Và chú Nimrod bật cười:

- Đó, chú đã nói rồi đó. “Djinn đã ra khỏi chai”, như người ta thường nói. Chắc là các cháu đã nghe cách nói đó rồi, đúng không? Chú dám nói là các cháu chưa bao giờ dành một giây nào suy nghĩ thử chuyện này có liên quan gì đến hai đứa trẻ như các cháu không. Và chú có mặt ở đây là để bảo đảm với các cháu là nó có liên quan đấy. Bởi vì các cháu đều là hậu duệ của thần đèn.

P.B.KERR

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hiển