hau thuy hu 103 den 110

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 103

VÌ EM VỢ,TRIÊU QUẢN DOANH MẤT MẠNG

NỂ CON DÌ,PHẠM TIẾT CẤP RA TAY

Đang nói chuyện Vương Khánh ở trang viện của Cung Đoan tại Cung gia trung,nhân buổi sáng mặt trời chưa lên,gió sớm mát mẻ,ra dưới gốc liễu bên sân đập lúa dạy bài đánh gậy cho anh em Cung Đoan,bỗng thấy một người to lớn, đầu hói không chít khăn,chỉ gióc đuôi sam,mặc quần lụa mỏng áo cánh vải Lôi Châu,chân đi giày cỏ mỏng,tay cầm quạt cói ba nan,ngước mắt nhìn rồi chắp tay sau lưng bước vào sân.

Ngày hôm qua,biết chuyện có tên tội phạm đánh bại kẻ mãi võ ở chợ thị trấn Manh Đông,người ấy sợ anh em Cung Đoan học được miếng gậy hiểm,nên vừa thấy Vương Khánh đã cất tiếng mắng rằng:

-Ngươi là kẻ tội phạm đi đày sao dám đánh người?Lại còn đến đây lòe bịp anh em nhà này?

Vương Khánh không dám trả lời chỉ đáp mình là bà con của anh em họ Cung.

Nguyên người này chính là Hoàng Đạt ở thôn Đông.Hắn ta nhân buổi sáng mát mẻ đi dạo, định đến đòi nợ bạc nhà Liễu đại lang ở cuối Cung Gia Thôn.Hắn ta thường ngày vẫn quen coi thường anh em họ Cung,nhân đi qua nghe tiếng hô quát,bèn tự tiện ghé vào.Cung Đoan thấy Hoàng Đạt dẫn xác đến thì hầm hầm tức giận,,không sao kìm được,bèn lên tiếng mắng rằng:

-Thằng khốn kiếp lạc loài kia, đã ăn quỵt tiền đánh bạc của ta còn dám vác xác đến đây trêu tức ta.

Hoàng Đạt cả giận mắng lại:

-Mi dám hổn xược với ta?

Nói đoạn vứt chiếc quạt cói,giơ nắm đấm sấn vào toan đánh vào mặt Cung Đoan.Vương Khánh nghe hai người to tiếng với nhau thầm đoán gã kia là Hoàng Đạt,bèn giả vờ đến khuyên can,rồi bất ngờ hất cổ lăng chiếc gông vào mạng sườn hắn.Hoàng Đạt đau điếng,loạng choạng ngã nhào không gượng dậy nổi,thâm tím mặt mũi chân tay.Hoàng Đạt bị một phen no đòn,bị lột xé hết quần áo,chỉ biết kêu rên rỉ:

-Đánh nữa đi ! Đánh nữa đi !

Thấy Hoàng đạt trên người không còn mảnh vải che thân,hai người công sai Tôn Lâm,Hạ Cát phải khuyên can mãi Cung Đoan mới chịu dừng tay.Hoàng Đạt bị đánh nhũn người,chỉ còn thở thoi thóp,không gượng dậy được.Cung Đoan bèn sai ba bốn trang khách khiêng đến vứt trên bãi cỏ giữa đường tới thôn Đông.Hoàng Đạt nằm cong queo ở đó phơi nắng ngót nữa ngày cho đến khi người hàng xóm đến cắt cỏ trông thấy mới dìu về.Hoàng Đạt nghĩ ngơi cho lại sức rồi nhờ người viết đơn kiện trình lên quan huyện Tân An,chuyện không cần nói đến.

Lại nói anh em Cung Đoan làm náo động cả buổi sáng rồi sai trang khách dọn cơm rượu mời Vương Khánh điểm tâm.Vương Khánh nói:

-Tên khốn kia thế nào cũng đến đây báo thù !

Cung Đoan nói:

-Nhà hắn chỉ có một mụ vợ,láng giềng thường ngày bị bắt nạt nên sợ hãi.Nay thấy thằng khốn ấy bị đánh nhừ đòn,chẳng ai hơi đâu mà dây với hắn.Nếu hắn chết thì chịu bồi thường mạng và khai là do trang khách lỡ tay,dù quan ty có xét cũng không đáng ngại.Nếu hắn không chết thì chỉ là việc kiện tụng do đôi bên đánh nhau.Hôm nay anh em tiểu đệ trả thù được hắn là nhờ có sư phụ giúp cho.Sư phụ cứ uống rượu,yên tâm ở lại đây dạy cho anh em bọn tôi các môn thương bổng,anh em chúng tôi xin hết lòng đáp tạ.

Cung Đoan nói xong lấy ra hai đỉnh bạc,mỗi đỉnh năm lạng biếu hai người công sai,xin họ thư thả cho ít ngày.Tôn Lâm,Hạ Cát đã nhận bạc nên cũng đành chiều ý.Trong suốt hơn mười hôm,Vương Khánh truyền hết các miếng gậy hiểm cho anh em Cung Đoan,Cung Chính.Sau vì hai người công sai thúc giục lên đường,lại nghe nói Hoàng Đạt nhờ người kiện lên quan huyện,Cung Đoan bèn lấy năm mươi lạng bạc biếu Vương Khánh làm lộ phí đi Thiểm Châu.Ba người dậy từ nửa đêm thu xếp bao gói tay nải,ngay khi trời chưa sáng hẳn đã rời trang viện ra đi,.Cung Đoan bảo Cung Chính đem thêm ít bạc nữa đến biếu Vương Khánh và cùng đi tiển.Chuyện trên đường không có gì đáng nói.

Một ngày kia,ba người đã đến Thiểm Châu,Tôn Lâm,Hạ Cát dẫn Vương Khánh vào sân phủ đường rồi lên sảnh trình văn thư của quan phủ doãn Khai Phong,Quan châu doãn xem văn thư rồi cho tiếp nhận Vương Khánh, áp triện vào văn thư phúc đáp trao cho hai người công sai.Bôn Tôn Lâm ,Hạ Cát lên đường trở về.Châu Doãn liền viết trát sai dẫn Vương Khánh đến doanh Lao thành.Công sai đôi bên làm thủ tục giao nhận,cũng không có chuyện gì phải nói.

Trước đó Cung Chính đã nhờ người quen thay Vương Khánh đem một ít bạc đến biếu các viên quản doanh,sái bát.Viên quản doanh ấy họ Trương,tên đôi là Thế Khai đã nhận tiền hối lộ của Cung Chính bèn sai tháo gông cho Vương Khánh,cũng không đánh đòn ra oai hoặc sai phái phục dịch cho việc vặt,chỉ phát Vương Khánh xuống buồng giam riêng cho tùy ý muốn làm gì thì làm.Thấm thoát qua hai tháng,trời đã sang thu.Bỗng một hôm Vương Khánh ngồi rỗi trong buồng,có tên quân vào nói:

-Quan quản doanh cho gọi ông lên.

Vương Khánh theo tên quân đến phòng điểm diện lạy chào quản doanh.Trương Thế Khai nói:

-Ngươi đến đây cũng đã lâu nhưng ta chưa từng sai phái ngươi việc gì,nay ta muốn mua một chiếc cung sừng Trần Châu.Châu ấy vốn thuộc đất Đông Kinh,ngươi là người Đông Kinh tất biết thiệt giả.

Nói xong rút trong tay áo ra một gói giấy đưa cho Vương Khánh và nói:

-Trong gói này có hai lạng bạc,ngươi cầm đi mua rồi về báo cho ta biết.

Vương Khánh nói:

-Tiểu nhân xin vâng lời quan lớn.

Vương Khánh nhận bạc trở về buồng riêng mở gói giấy ra xem thấy hai nén bạc hoa trắng xóa, đem đổi tiền lẻ cũng có thể đổi ra được bốn phân.Vương Khánh ra phố, đến hàng bán cung ở phố chợ phía bắc phủ chọn mua một chiếc cung sừng Trần Châu thật tốt,giá chỉ một lạng bảy phân.Xong việc Vương Khánh trở về thì TRương quản doanh đã bận việc đi vắng.Vương Khánh bèn chuyển cho người hầu của quan phủ đưa vào,lấy làm thích thú vì còn thừa được ba phân bạc lẻ.Ngày hôm sau Trương thế Khai lại gọi Vương Khánh lên phòng điểm diện bảo:

-Hôm qua ngươi giúp ta rấy được việc,mua được cây cung rất tốt.

Vương Khánh nói:

-Tương công nên treo cung hong khói luôn luôn thì mới tốt.

Trương Thế Khai nói:

-Ta hiểu rồi.

Từ đó,hàng ngày quản doanh sai Vương Khánh đi mua bán thức ăn vật dụng,nhưng không giao tiền mặt như trước,mà cấp cho Vương Khánh một quyển sổ,chi tiêu hết bao nhiêu thì ghi vào đó.Các nhà hàng ai là người ưng bán chịu?Vương Khánh đành phải lấy tiền riêng mua sắm các thứ cho quản doanh.Nhưng Trương Thế Khai lần nào cũng đánh mắng,chê đủ chê thiếu. Đến hơn mười ngày,Vương Khánh đem sổ trình lên xin quản doanh trả nợ,quản doanh vẫn không trả hào nào.Sau hơn một tháng,Vương Khánh bị quản doanh khi đánh năm đòn,khi cho ba gậy,tộng cộng đến hơn ba trăm roi,hai bắp chân sưng vù.Số bạc năm mươi lạng của Cung Đoan cho dạo trước xuất ra mua hàng cho quản doanh đã hết sạch.

Một hôm Vương Khánh đến phường Đông gần bia Vũ công ở phía tây doanh,vào hàng bán thuốc hoàn tán của thầy lang họ Trương mua mấy lá cao dán vết thương.Thầy lang họ Trương vừa dán thuốc vừa nói chuyện với Vương Khánh:

-Em vợ của Trương quản doanh là Bàng đại lang,dạo trước cũng đến đây mua thuốc cao đế dán cổ tay bị đau. Đại lang nói là ông ta bị ngã ở trấn Manh Đông,nhưng tôi xem chỗ cổ tay thì hình như vết đánh.

Vương Khánh nghe nói thế vội hỏi:

-Tiểu nhân ở trong doanh sao chưa từng biết mặt Bàng đại lang là ai cả?

Thầy thuốc họ Trương đáp:

-Bàng đại lang tên là Nguyên là em ruột vợ bé của Trương quản doanh,Bàng đại lang thích cờ bạc,ham thương bổng,thường khi thiếu thốn vẫn được bà chị giúp cho.

Vương Khánh nghe câu chuyện ấy,chín phần đoán chắc: "Bàng Nguyên chính là người bị ta đánh ngã dưới gốc liễu ở Cung Gia thôn,trách gì Trương Thế Khai bới móc tìm cách hành tội mình".Vương Khánh cáo từ ông chủ hiệu thuốc rồi trở về doanh,tìm cách săn đón tên người hầu của quản doanh,mua rượu thịt mời hắn ăn uống,lại cho thêm tiền bạc,rồi dần dà hỏi dò hắn cặn kẽ về Bàng Nguyên.Tên hầu ấy cũng nói những điều giống như lời ông chủ hiệu thuốc,nhất là có hai câu nói rất rõ ràng: "Bàng Nguyên dạo trước bị đại ca đánh đau.Trước mặt quản doanh,hắn ta thường tỏ ra căm tức đại ca.Ngón gậy độc của đại ca đến nay hắn chữa cũng chưa khỏi".

Đúng là:

Hiếu thắng khoe cường thị họa thai,

Khiêm hòa thủ phận tự vô tai.

Chỉ nhân nhất bổng thành cừu khích,

Như kim gia lợi phụng hoàn lai.

Hiếu thắng khoe tài chuốc họa ngay,

Khiêm nhường biết phận thế mà hay.

Chỉ vì một gậy nên thù địch

Thói đời ơn giả ,oán khôn vay

Bấy giờ Vương Khánh hỏi chuyện tên hầu của quản doanh xong,trở về phòng riêng than thở: "Đúng là chẳng sợ quan,chỉ sợ quản chỉ vì buộc miệng nói động đến hắn,rồi lại đánh hắn bị thua,ai biết đâu hắn lại là em vợ quản doanh Vì vậy quản doanh mới tìm cách trị mình ! Phải trốn đi thì mới yên thân được ! Ra sao về sau sẽ liệu".

Vương Khánh lén ra phố mua một con dao nhọn,giắt vào người để đề phòng bất trắc. Được hơn mười ngày không thấy quản doanh gọi đến hỏi,vết thương cũng lành dần.Bỗng một hôm Trương quản doanh lại gọi Vương Khánh lên sai đi mua hai tấm lụa,Vương Khánh đã biết ý,không dám thoái thác,vội ra phố mua ngay đem về.Trương quản doanh đang ngồi ở phòng điểm diện,Vương Khánh bước vào đem lụa trình lên.Trương Thế Khai đảo mắt liếc qua,chê chọn màu không đẹp,khổ ngắn,kiểu hoa đã cũ rồi mắng:

-Tên này to gan thật.Ngươi là tên tù phạm, đáng lẽ phải làm những việc khiêng đá gánh nước hoặc bị gông cùm nhốt trong ngục cấm cố.Nay ta sai ngươi làm công việc chạy đây chạy đó,thế là cất nhắc cho người lắm rồi.Nhưng ngươi là thằng giặc cứng đầu,không biết thế nào là tốt xấu !

Vương Khánh bị mắng vuốt mặt không kịp,chỉ biết cúi đầu lạy lia lịa xin tha tội.Trương Thế Khai quát:

-Cho ngươi khất một trận đòn,phải mau đem lụa đi đổi tấm khác,hẹn cho tối nay phải đem về.Nếu chậm trễ thì cứ liệu hồn !

Vương Khánh đành cởi áo đến cửa hàng cầm đồ đổi lấy hai quan tiền phụ thêm vào đổi tấm khác đem về doanh.Loanh quanh đi lại mãi đến lúc lên đèn mới về đến nơi.Không may cửa doanh đã đóng.Người lính trực nói:

-Đêm hôm thế này ai dám cho ngươi vào?

Vương Khánh phân trần rằng:

-Đây là việc nhà của quản doanh,chính quan quản sai tôi đi.

Người lính trực vẫn không chịu nghe.Vương Khánh trong người còn chút ít tiền đành đưa cho tên ấy,lằng nhằng một hồi lâu hắn mới chịu cho vào.

Ôm tấm lụa trong tay,Vương Khánh chạy vù vào trước cổng nhà quản doanh,người giữ cổng nói:

-Quan quản cãi nhau với bà lớn,hiện đang ở bên nhà bà bé.Bà lớn ghê gớm như thế,ai dám nhắn hộ ngươi để chuốc họa vào thân!

Vương Khánh nghĩ bụng : "Hắn ta đã hẹn tối nay đem lụa về trình,thế mà còn gây rắc rối cho ta nữa.Ngày mai tránh sao khỏi trận đòn,chẳng phải cố ý hại ta là gì?Cái tính mạng ta đây hẳn đã rơi vào tay thằng khốn kiếp ấy.Ta đã bị hắn đánh ba trăm đòn, để trả thù một gậy cũng đủ lắm rồi!Trước hắn đã nhận của Cung Chính bao nhiêu là bạc,thế mà trở mặt hành hạ ta!".

Vương Khánh ngổ ngáo từ thuở bé,cha mẹ cũng không dám nói động. Đến bây giờ bản tính thù nghịch bùng lên.Vương Khánh nghĩ bụng: "Đúng như người ta thường nói: "Giận việc nhỏ không quân tử,không mưu độc chẳng trượng phu". Đã không thì thôi, đã làm phải làm cho trót!Chờ đến quá đầu canh một,quân lính và tù phạm trong doanh đã ngủ cả.Vương Khánh rón chân đi khẽ đến phía sau dãy nhà trong trèo qua tường,se sẽ đẩy chốt cửa, đứng nấp vào một bên.Dưới sao sáng,Vương Khánh thấy rõ một tầu ngựa ở phía đông dãy tường,còn phía tây là túp nhà nhỏ nhìn kỹ thì là nhà xí.Vương Khánh bèn đi tới tầu ngựa nhổ một cộc rào,dựng sát tường cửa cuốn,rối bám cọc rào trèo lên mái tường,lại cúi xuống rút chiếc cộc ấy lên thả vào trong để làm thang,nhẹ nhàng tụt xuống.Tiếp đó Vương Khánh lại rút chốt cửa,tìm chỗ giấu cái cọc đi.Bên trong lại một lớp tường nữa,nghe sau tường có tiếng nói ồn ào.Vương Khánh nhón chân đi đến,ghé tai nghe ngóng,nhận ra giọng nói của Trương Thế Khai,một giọng đàn bà và một người đàn ông khác.Bọn họ đang cùng nhau uống rượu,bàn chuyện phiếm.Vương Khánh rình một hồi lâu,chợt nghe Trương Thế Khai nói:

-Này cậu,thằng ấy ngày mai đến gặp tôi lại ăn một trận đòn nữa !

Tiếng người đàn ông kia nói:

-Đệ căm tức cái thằng ấy lắm rồi.Xin đại huynh quyết ý mau hạ thủ hắn đi cho !

Trương Thế Khai nói:

-Chỉ đến ngày kia là cậu được thỏa giận thôi.

Người đàn bà nói:

-Hay lắm!Có thế cậu mới khỏi thúc giục hàng ngày !

Tiếng người đàn ông kia nói:

-Sao chị lại nói thế?Chị còn không biết chuyện hay sao?

Vương Khánh nép ngoài bờ tường,nghe rõ từng câu từng lời của cả ba người,lửa giận bốc ngút,không sao kìm được,chỉ tiếc không đủ sức hộ pháp để đẩy sập tường,xông vào mà giết tươi cả bọn.

Đúng là:

Sáng khẩu vật đa chung tác bệnh.

Khoái tâm sự quá tất vi ương.

Kim phong vị động thiền tiên giác,

Vô thường án tống chẩn đề phòng.

Sướng miệng tốn tiền sinh bệnh tật

Khoái lòng mắc tội chuốc tai ương.

Hơi thu chưa bén ve đã biết.

Ai ngờ xó tối nổi cuồng phong.

Bấy giờ Vương Khánh tức giận đùng đùng,không kiềm chế nổ,chợt nghe Trương Thế Khai gọi to: "Thằng nhỏ đâu,châm đèn đưa ta đi đằng sau".Vương Khánh liền rút dao nhọn,qùy nấp sau gốc mơ.Nghe "két" một tiếng,hai cánh cổng tường sau bật mở,Vương Khánh từ trong bóng tối nhìn ra,thấy rõ thằng nhỏ bữa trước đã tiết lộ chuyện Bàng Nguyên cho mình biết,bây giờ đang xách chiếc đèn chai soi đường cho Trương Thế Khải đi sau.Không biết trong bóng tối có người,Trương Thế Khai vượt lên đi trước.Ra đến cổng cuốn,thấy cổng không cài then,Trương Thế Khải cất giọng mắng:

-Bọn ăn hại,không biết cẩn thận ! Đêm hôm thế này sao không đóng chốt cổng?

Thằng nhỏ mở cổng soi đèn cho Trường Thế Khai đi ra.Vương Khánh nhón chân bước sấn lên.Trương Thế Khai nghe tiếng chân đàng sau,liền quay lại,nhận ra Vương Khánh tay phải cầm dao nhọn,tay trái xoè ra nhẩy xổ tới.Trương Thế Khai khiếp đảm,hồn vía bay tận may xanh,chỉ kêu được một tiếng: "Giặc".

Nói thì chậm làm thì nhanh.Vương Khánh khoát tay đưa một mũi dao đâm suốt từ mang tai qua cổ,Trương Thế Khai liền ngã gục.Thằng nhỏ xách đèn,tuy đã từng quen biết Vương Khánh,nhưng bây giờ thấy Vương Khánh cầm con dao sáng loáng vừa đâm ngã chủ mình làm sao mà không khiếp sợ?Hắn muốn quay chạy,nhưng hai chân cứ như bị đóng đinh xuống đất,muốn kêu cứu nhưng mồm ú ớ không kêu thành tiếng, đành ngây người đứng yên một chỗ.Trương Thế Khai lúc ấy còn giãy giụa,Vương Khánh bèn sấn đến đâm một nhát từ sau lưng xuyên ngực,kết liễu đời hắn.Bàng Nguyên đang ngồi uống rượu trong nhà nghe loáng thoáng bên ngoài có tiếng kêu cứu,không kịp thắp đèn,vội chạy ra nghe ngóng.Vương Khánh thấy trong nhà có người chạy ra liền quay lại đá thằng nhỏ cầm đèn.Thằng nhỏ ngã xóng xoài, đèn cũng tắt phụt.Bàng Nguyên thấy vậy tưởng là Trương Thế Khai đá thằng nhỏ vội kêu:

-Trương huynh sao lại đá thằng nhỏ?

Bàng Nguyên địng chạy đến khuyên can thì Vương Khánh từ trong bóng tối nhẩy vụt đến vung dao đâm đúng vào mạng sườn hắn.Bàng Nguyên kêu rống lên như bị chọc tiết rồi ngã vật xuống.Vương Khánh bước đến túm tóc hắn,xã thêm một dao cắt đầu rời khỏi cổ.Vợ bé của Trương Thế Khai là Bàng Thị nghe tiếng kêu gắt ở ngoài,liền gọi a hoàn thấp đèn ra xem.Vương Khánh thấy Bàng Thi đi ra,cũng định giết nốt.Nhưng Thật lạ lùng,Vương Khánh chớp mắt nhìn cho rõ thì thấy phía sau Bàng thị có đến hơn chục tê lính hầu cầm khí giới hò hét chạy tới.Vương Khánh sợ cuống chân tay vội quay lại bỏ chạy.Vương Khánh chạy đến đẩy toang cổng cuốn trèo qua tường sau nhảy ra ngoài,cởi vứt áo cánh đầy máu,lau sạch lưỡi dao giắt vào người,bấy giờ nghe tiếng trống vừa điểm canh ba.Nhân lúc đêm khuya phố vắng xá người,Vương Khánh đi nhanh đến dưới chân thành.Thành Thiểm Châu chỉ là tòa thành đất,tường không cao,hào cũng không sâu lắm.Vương Khánh bèn vượt qua thành mà đi.

Chưa nói chuyện vượt thành đi trốn,hãy kể tiếp truyện vợ Trương Thế Khai củng hai a hoàn xách đèn ra xem.Chỉ có mấy người ấy chứ không có lính hầu đầy tớ nào khác.Thấy Bàng Nguyên đầu rời một bên,thây lìa một chỗ,máu tuôn lênh láng,Bàng Thị và hai a hoàn khiếp sợ đứng sững nhìn nhau,một lúc sau cả bọn chạy vào nhà,vừa chạy vừa thất thanh kêu cứu.Quân hầu,lín trực bên ngoài nghe tiếng đều cầm đèn đốt đuốc xách khí giới chạy vào cứu ứng.Cả bọn ra ngoài cổng cuốn thấy xác Trương auản doanh nằm đó,thằng nhỏ soi đèn thì hộc máu mồm đang giãy giụa nhưng xem chừng cũng không sống nổi.Mọi người thấy cổng mở toang,biết là hung thủ vào theo lối ấy.Lại xô nhau chạy ra xem thì hai tấm lụa vất chổng chơ giữa đất,cả bọn đồng thanh nói hung thủ là Vương Khánh.Cho ngưiờ đi điểm danh tù phạm thì đúng là thiếu Vương Khánh.Bấy giờ việc náo động cả doanh Lao Thành,Dân chúng xung quanh đều biết chuyện.Mọi người cùng ra ngoài bức tường phía sau doanh,thấy chiếc áo bết máu vất đấy,ai cũng nhận đúng là áo của Vương Khánh.Mọi người bàn nhau nhân lúc chưa mở cổng thành phải đi bao ngay cho quan châu doãn để kịp sai người lùng bắt.

Lúc ấy sang canh năm,quan châu doãn nghe báo cả kinh cấp tốc sai huyện húy đến khám nghiệm sơ qua đế biết số người bị giết và lối hung thủ ra vào.Châu doãn một mặt ra lệnh cho quân canh ở bốn cổng thanéh phải đóng chặt cửa,một mặt dẫn quân lính và các nhân viên tập bổ,cùng các viên trưởng phường,trưởng xóm lần lượt đi khám xét từng nhà để lùng bắt hung phạm Vương Khánh.Suốt hai ngày đóng cổng thành,khám xét nhà dân khắp lượt,vẫn không thấy tăm hơi hung thủ.Gửi kèm theo các công văn ấy có cả những bản sao ghi họ tên,quê quán,tuổi tác, đạc điểm nhận dạng và ảnh vẽ hình Vương Khánh để căn cứ vào đó mà tìm bắt,treo thưởng một nghìn quan tiền cho kẻ nào bắt được Vương Khánh.Dù không tự mình bắt được,nhưng ai biết tung tích nơi Vương Khánh ẩn náo đến đến báo cho quan châu thì cũng được thưởng tùy theo công lao nhiều ít.Kẻ nào chứa chấp nuôi dưỡng hung thủ trong nhà,khi phát giác sẽ xử tội như phạm nhân.Các văn thư giấy tờ nói trên cũng đều gửi đến cho các châu huyện lân cận để cùng truy nã hung thủ;Lại nói Vương Khánh vượt ra khỏi thành Thiểm Châu,vén quần áo tìm chỗ hào nước cạn mà lội qua,nghĩ bụng: "Tuy đã thoát chết nhưng biết trốn tránh nơi đâu?"Bấy giờ sắp đến tháng giữa đông,cỏ khô lá rụng,dưới ánh sao lờ mờ vẫn nhận ra được lối đi.Vương Khánh từ đường này rẽ sang lối khác ngoặt đến bốn năm lần mới tới một con đường lớn.Từ đấy Vương Khánh cắm đầu chạy, đến khi mặt trời lên đã đi khỏi thành chừng sáu bảy mươi dặm,vẫn tiếp tục đi miết về phía nam,từ xa đã thấy một khu dân cư nhà cửa đông đúc.Một lúc sau,Vương Khánh đi vào thị trấn.Bấy giờ còn sớm nên các quán rượu chưa mở cửa.Vương Khánh chợt nhận ra một nhà ở xế về mé đông,dưới mái hiên có treo chiếc đèn lồng xách của khách đi ban đêm vào nhà trọ mà nhà hàng chưa kịp đem cất,nhìn kỹ hơn,thấy cánh cửa chỉ khép hờ.Vương Khánh mạnh bạo bước tới đẩy cửa bước vào.Nghe tiếng kẹt cửa,một người đàn ông mới ngủ dậy,chưa kịp rửa mặt chải tóc từ trong nhà ra.Vương Khánh nhìn kỹ,nhận ra đó là viện trưởng Phạm Toàn,anh em con dì của Vương Khánh.Phạm Toàn từ nhỏ theo cha đến sinh sống ở Phòng Châu,công việc làm ăn gặp thuận lợi,vì thế được sung chức tiết cấp áp lao lưỡng viện ở châu ấy.Khoảng trung tuần tháng ba năm nay về công cán ở Đông Kinh,Phạm Toàn có ghé lại nghĩ ở nhà Vương Khánh vài ngày.Nhận ra Phạm Toàn,Vương Khánh lên tiếng hỏi:

-Đại huynh lâu nay được mạnh giỏi không?

Phạm Toàn hỏi lại:

-Có phải gia đệ Vương Khánh chăng?

Thấy Vương Khánh bộ dạng hốt hoảng,trên tráng lại có chữ kim ấn,Phạm Toàn đã hơi ngờ,chưa biết trả lời ra sao, đành hỏi mập mờ như thế.Vương Khánh thấy xung quanh không có ai bèn qùy xuống nói:

-Đại huynh làm ơn cứu đệ !

Phạm Toàn vội dìu Vương Khánh đứng dậy hỏi:

-Có đúng hiền đệ Vương Khánh đấy không?

Vương Khánh xua tay:

-Xin im lặng cho !

Phạm Toàn hiểu ý bèn kéo tay,dẫn Vương Khánh vào buồng trọ.Cũng may đêm qua Phạm Toàn thuê được căn buồng độc thân.Phạm Toàn hỏi Vương Khánh:

-Hiền đệ làm sao đến nông nổi này?

Vương Khánh ghé tai nói nhỏ với Phạm Toàn việc mình bị quan ti xử tội đầy đến Thiểm Châu,rồi bị TRương Thế Khai báo thù cho em vợ,dẫn đến sự việc đêm hôm qua như thế nào.Phạm Toàn cả kinh,suy nghĩ hồi lâu rồi đứng dậy đi rửa mặt ăn sáng,trả tiền buồng,tiền cơm cho nhà trọ.Xong đó Phạm Toàn bảo Vương Khánh giả cách như tên quân phạm trong lao thao hầu thượng quan,cùng mình rời quán trọ lên đường đi Phòng Châu.

Trên đường đi,Vương Khánh hỏi Phạm Toàn đến Thiểm Châu có việc gì,Phạm Toàn đáp:

-Quan bản châu sai ta đi công cán chuyển công văn thư trát cho phủ doãn Thiểm Châu.Hôm qua xong việc, đã nhận công văn phúc đáp,ta định đi ngay nhưng vì trời tối nên ghé vào đạy nghĩ.Không ngờ hiền đệ cũng ở Thiểm Châu lại đang gặp chuyện rắc rối như thế.

Vương Khánh theo chân Phạm Toàn, đêm nghĩ ngày đi,chẳng bao lâu đã lánh sang địa phận Phòng Châu,yên ổn được hai ngày, đến ngày thứ ba thì có công văn ở Thiểm Châu gửi sang thông báo truy nã hung thủ Vương Khánh.Phạm Toàn biết tin,lo toát mồ hôi vội về nhà nói lại với Vương Khánh:

-Hiền đệ không ở trong thành được.Ta có mấy gian nhà lá và hơn hai chục mẫu ruộng mua từ mấy năm trước ở phía đông bảo Định Sơn thuộc ngoại thành phòng Châu.Hiền đệ nên đến đó lánh thân ít ngày,sau ra sao sẽ liệu.

Ngay đêm ấy Phạm Toàn dẫn Vương Khánh ra khỏi thành, đi về trang trại ở bảo Định Sơn.Tới nơi Phạm Toàn liền đưa Vương Khánh vào ẩn trong buồng,rồi đổi họ tên cho Vương Khánh là Lý Đức.Phạm Toàn thầm nghĩ dù thế nào đi nữa cũng phải xoá dòng chữ kim ấn trên trán cho Vương Khánh thì mới ổn chuyện.Cũng may mấy năm trước khi đến Kiến Giang,nghe danh tiếng thần y An Đạo Toàn,Phạm Toàn đã có lễ vật ưu hậu để kết giao,nhờ đó học được cách tẩy chữa vết kim ấn.Phạm Toàn bèn theo cách thức ấy bôi thuốc độc lên trán Vương Khánh cho loét nhòe vết chữ,rồi lại xức thuốc chữa cho lên da non,lấy vàng ngọc tán thành bột mịn màng hàng ngày bôi lên vết thương,sau hai tháng thì vết chữ kim ấn mất hẳn.

Vương Khánh đến Phòng Châu thấm thoát đã hơn trăm ngày.Bấy giờ là giữa tháng ba năm Tuyên Hòa thứ nhất (1119 ).Trát truy nã của quan Thiểm Châu chỉ đầu voi đuôi chuột,trước gắt sau buông.Trên trán không còn vết kim ấn nữa,Vương Khánh dần dần cũng ra vào tự nhiên thoải mái, áo quần giày mũ thì đã có Phạm Toàn chu cấp.Một hôm đang ngồi buồn trong nhànchợt nghe xa xa bên ngoài có tiếng ồn ào huyên náo,Vương Khánh bèn đứng dậy đi ra sân,hỏi thăm thì trang khách đáp:

-Thưa lý quan nhân,cách đây hơn một dặm là địa phận của Đoàn Gia Trang ,cũng thuộc bảo Định Sơn này.Anh em họ Đoàn lên châu thành đón được đào hát mời về trang viện,dựng rạp diễn trò ca hát vui chơi.Người con hát ấy nhan sắc tài nghệ vẹn toàn,nguyên là người ở đât Tây Kinh, đến hát cho một nhà hàng viện mới mở ở trên châu thành,người khắp nơi nô nức đến xem như trẩy hội.Sao quan nhân không sang bên đó nghe hát cho vui?

Vương Khánh nghe vậy không ghìm được,bèn rảo bước đi sang bảo Định Sơn;Chưa biết Vương Khánh sanh bên đó có xảy ra chuyện gì không,chỉ biết rằng:

Gái quê hung phạm vui duyên mới,

Đất dữ dân đau khổ một miền.

Chưa biết Vương Khánh đi xem hát có gặp cô đào hay không,xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 104

Đoàn Gia trang kén rể hiền,

Phòng Sơn trại đổi chủ mới.

Đang nói chuyện Vương Khánh sang chơi bảo Định Sơn. Bên ấy có chừng năm sáu trăm nhà, dựng rạp diễn trò hát trên đám ruộng ở phía đông. Bấy giờ vai đào hát chưa lên rạp diễn. Phía dưới kê ba bốn chục chiếc bàn, người đứng vòng trong vòng ngoài, chen nhau vào để chơi xúc xắc, đánh xóc đĩa ăn tiền. Mỗi tiếng bạc ít cũng có vài người đặt cược. Khắp nơi râm ran kẻ hô người đáp. Nào là "Lục phong nhi", "Ngũ ma tử", "Hảo liêu mao", "Chu oa nhi".

Những người đánh xóc đĩa ngồi quỳ trên đất đến hơn hai chục đám, cũng hô gọi ồn ào: "Hồn thuần nhi", "Tam bối gian", "Bát xoa nhi".

Bọn đánh xúc xắc đằng này hô "Lục", kẻ đánh xóc đĩa đằng kia quát "Bối", rồi thì cười nói, văng tục, gây chuyện đánh nhau. Kẻ thua thì cởi áo tháo khăn, cầm cố lấy tiền đánh gỡ vốn đến nỗi mất cả gia nghiệp, quên ngủ, bỏ ăn, rốt cuộc chỉ chuốc một tiếng "thua" vào mình. Người được thì mặt mày hớn hở, khoát đông vẫy tây, ra quán rượu đằng này lại vào ăn hàng ăn đằng nọ. Kẻ thì bao túi đeo vai, khăn lưng buộc bụng, ống áo vén tay, chỗ nào cũng thấy tiền, nhưng khi tính lại mới biết vào lỗ hà ra lỗ hổng, bị nhà hồ hớt ngọn, thành ra thu được cũng chẳng bao nhiêu, đành buộc túi cúi đầu đi thẳng. Không cứ gì các đám cờ bạc, đàn bà con gái các thôn ấy cũng vứt cuốc cày, bỏ rổ rau hái dở, túm năm tụm ba kéo nhau đi xem hội, phô những khuôn trăng đen nhẻm, lộ những hăm răng ngọc vàng khè, đứng ngây người chờ xem các vai đào kép. Ai nấy trầm trồ khen cô đào chính, cũng là người do cha sinh mẹ đẻ mà sao lại đép như tiên, được bao nhiêu người hâm mộ? Đêm diễn hôm ấy, chẳng những các thôn phường lân cận, mà người châu thành cũng đánh đường đến xem, khiến cho những ruộng lúa mạch đã lên xanh bị xéo nát đến hơn mười mẫu.

Không kể rườm rà: Vương Khánh đi lướt xem xung quanh mỗi nơi một tí. Đến gần bên nhà rạp thấy giữa đám đông một người đàn ông to lớn ngồi trên chiếc ghế đẩu, hai tay vịn mép bàn. Người ấy mặt to bè, hai mắt tròn xoe, vai rộng bụng thon. Trên bàn đặt sẵn năm quan tiền, một hộp xúc xắc và sáu hột đổ bằng xương, nhưng không thấy khách chơi nào đến xóc hộp. Vương Khánh nghĩ bụng: "Ta từ khi bị phát vãng đến nay đã mười mấy tháng chưa được chơi trò này lần nào. Hôm trước đại huynh Phạm Toàn đưa cho ta đĩnh bạc để mua củi đóm, vẫn còn cả đây, nay tạm dùng làm vốn, thử đồ chơi vài ván, may ra được lãi vài quan mua hoa quả ăn cho vui". Nghĩ đoạn Vương Khánh lấy đĩnh bạc ném lên bàn rồi nói:

- Đưa đây đổ chơi vài ván!

Người chủ bàn xúc xắc liếc Vương Khánh rồi đáp:

- Muốn đổ thì đổ.

Người ấy chưa dứt lời, một gã to cao nét mặt hao hao giống người chủ bàn, từ phía bên kia lách đám đông đi đến nói với Vương Khánh:

- Ông trọc ơi, người kia không chịu cho xuất chủ bằng đĩnh bạc ấy đâu. Đem bạc đây tôi cho ông vay tiền. Nếu ông được, mỗi quan chỉ cần trả lãi hai mươi đồng.

Vương Khánh đáp:

- Tốt lắm!

Nói đoạn lấy đĩnh bạc đưa cho người kia để cầm hai quan tiền, nhưng đã bị hắn trừ ngay mỗi quan hai mươi đồng. Vương Khánh tặc lưỡi: "Cũng được!" Nói đoạn bảo chủ bàn xóc hộp, đổ hột, rồi hô: "Chu oa nhi!". Đổ được hai ba ván lại có một người khác chen vào đặt tiền suất chủ để cùng đổ. Vương Khánh vốn chuyên nghề cờ bạc ở Đông Kinh, hô phát nào thường trúng phát ấy, lại biết cách né mình đánh lảng và nhiều mánh gian khác khiến cho người đứng cược phải thua thiệt. Người cho Vương Khánh vay tiền nhân lúc lộn xộn đã lẻn sang bàn bên kia. Người chen đến đánh sau nói là Vương Khánh đánh hăng quá không theo được, bèn gật đầu ra hiệu cho người chủ cược, rồi bỏ đi nơi khác. Vương Khánh đánh một mạch, thắng cược được hai quan, người đứng xem tấm tắc khen ngợi. Tiếp theo, càng đánh lại càng đỏ. Vương Khánh chỉ việc giơ tay vơ tiền. Người chủ bàn cược nóng mặt, muốn đánh cao cho chóng thu lại vốn, nhưng càng đổ càng thua, Vương Khánh đánh chín ván thì chủ cược thua hết tám, chẳng mấy chốc thua sạch cả năm quan tiền. Vương Khánh được tiền, lấy dây xâu hai quan để lên bàn, chờ tìm người cho vay tiền vốn, còn ba quan cũng xâu lại để đó. Vương Khánh định đi tìm người cho vay để trả tiền chuộc bạc lại, người chủ cược liền quát:

- Nhà ngươi định đem tiền đi đâu? Tiền mới ra lò, nóng bỏng tay đấy!

Vương Khánh tức giận nói:

- Ngươi đánh cược bị thua vào tay ta rồi, còn nói thối gì nữa?

Người chủ bàn cược trừng mắt mắng:

- Đồ chó đẻ! sao mi dám chạm đến bố đẻ của mi?

Vương Khánh mắng lại:

- Thằng đểu, ta chỉ sợ ngươi đấm vào bụng ta rồi rút tay không ra thôi! bỏ ra để ta đi!

Người chủ bàn cược bèn giơ nắm tay đấm vào mặt Vương Khánh. Vương Khánh né người tránh được, liền lựa thế nắm lấy tên kia, hất khủyu tay đánh vào ngực, lại co chân phải đá vào chân trái hắn. Tên kia chỉ cậy sức mạnh mà không biết phép võ, làm sao gỡ được thế quật ấy, rốt cuộc bị ngã chổng vó. Đám đông cười rộ, khoái chí. Tên chủ bàn cược đang giãy gụa, chưa kịp bò dậy thì Vương Khánh đã nhảy đè lên mà đấm. Gã cầm bạc lúc nãy chạy tới chẳng khuyên can mà cũng không đánh giúp, thừa dịp vơ tiền trên bàn bỏ chạy. Vương Khánh cả giận bỏ tên chủ bàn cược, co chân đuổi theo tên cướp tiền. Bỗng thấy một người con gái rẽ đám đông bước ra quát lớn:

- Tên kia không được vô lễ, có ta ở đây!

Cô gái ấy khoảng chừng hai tư, hai lăm tuổi, vội cởi áo ngoài cuộn vo lại ném lên bàn, chỉ mặc áo chẽn hẹp tay và áo bán thân màu lục, quần thêu hẹp ống màu tía. Bây giờ cô gái vung tay xông đến đánh. Vương Khánh thấy đối thủ là con gái, nước quyền đánh tới lại có chỗ sơ hở, nên có ý đùa bỡn coi thường, vờn qua vờn lại chờ người con gái kia đánh tới.

Bấy giờ vài đào hát đã lên rạp diễn, hát một bài theo điệu tiếu nhạc. Nhưng người đi xem thấy đôi nam nữ đang đánh nhau thì đổ xô đến xem, đứng chật vòng trong vòng ngoài. Người con gái thấy Vương Khánh chỉ ngáng tay làm rào chắn mà không dám xông vào, bèn giả cách chú ý vào chỗ không rồi dùng thế "Hắc hổ thâu tâm" (hổ đen móc tim) thoi một quyền vào ngực Vương Khánh. Vương Khánh nhẩy sang một bên, tránh được. Người con gái kia đánh hụt, không kịp thu quyền về, liền bị Vương Khánh lựa thế khóa tay rồi hất chân quật ngã. Nhưng khi cô gái sắp đập đầu xuống đất, Vương Khánh đã kịp luồn tay qua lưng, bế thốc lên, thế võ ấy gọi là "hổ bão đầu" (hổ ôm đầu). Vương Khánh nói:

- Chưa bẩn quần áo. Trót làm đụng chạm, xing đừng trách, vì chính cô nương tự tìm đến.

Cô gái không chút xấu hổ tức giận, lại còn khen Vương Khánh:

- Đường quyền đẹp lắm, quả là cứng tay!

Bấy giờ cả gã chủ cược và gã cướp tiền từ ngoài rẽ đám đông xông vào quát tháo:

- Thằng lạc loài, sao mi dám đánh ngã em ta?

Vương Khánh lớn tiếng mắng lại:

- Đồ bẩn thỉu, đã thua cược lại cướp tiền của ta mà còn dám nói thối!

Nói đoạn vung tay sấn đến đánh. Bỗng từ trong đám đông một người vội xông tới đứng chặn, cất tiếng can ngăn:

- Lý đại lang không được vô lễ. Các đại ca Đoàn Nhị, Đoàn Ngũ cũng xin dừng tay cho. Chỗ láng giềng quen biết, có chuyện gì thì bảo nhau mới phải.

Vương Khánh nguoclến nhận ra Phạm Toàn. Bấy giờ cả ba người đều chịu đứng im. Phạm Toàn nói với cô gái:

- Xin chào Tam nương.

Người con gái cũng đáp chào "Vạn Phúc", rồi hỏi:

- Lý đại lang là bà con của viện trưởng à?

Phạm Toàn đáp:

- Là em con dì của tôi.

Tam nương nói:

- Một tay đánh quyền xuất sắc đấy.

Vương Khánh nói với Phạm Toàn:

- Chỉ vì người kia đánh được xúc xắc thua tiền của đệ, rồi bảo đồng bọn đến cướp.

Phạm Toàn cười đáp:

- Đây là nơi làm ăn của Nhị lang và Ngũ lang, hiền đệ sao lại đến gây chuyện rắc rối?

Đoàn Nhị và Đoàn Ngũ đưa mắt nhìn Tam nương. Tam nương nói:

- Vì nể thể diện của Phạm viện trưởng, chẳng cần phải tranh chấp với Lý đại lang làm gì. Đem đĩnh bạc ra đây!

Đoàn Ngũ nghe em gái khuyên can, phải chịu nhận mình thua cuộc và đem đĩnh bạc ra để Tam nương trả lại Phạm Toàn.

- Đĩnh bạc còn nguyên đây, viện trưởng đem trả cho người ấy.

Nói xong Đoàn Tam nương dẫn Đoàn Nhị, Đoàn Ngũ rẽ đám đông đi ra. Phạm Toàn cũng kéo Vương Khánh về trang trại. Trên đường đi, Phạm Toàn trách Vương Khánh:

- Ta nể tình với dì, dù biết nguy hiểm vẫn giữ hiền đệ ở lại đây, chờ khi được ân xá lại lo liệu tiếp. Thế mà hiền đệ chẳng chịu ngồi yên cho! hai gã Đoàn Nhị và Đoàn Ngũ kia là hạng điêu toa lừa đảo. Còn Đoàn Tam nương có tiếng là hạng đàn bà đáo để, người ta đặt cho ả biệt danh là "Đại trùng oa" (cọp ở hang), con em nhà tử tế bị ả ta dụ dỗ lừa đảo không biết bao nhiêu mà kể. Năm mười lăm tuổi, cha mẹ đã gả cho một lão già, chỉ một năm là lão ngốc ấy bị ả ta nướng nghẻo. Ả cậy có sức khoẻ, thường theo bọn Đoàn Nhị, Đoàn Ngũ đi gây sự cướp bóc kiếm chác. Các thôn phường lân cận đây ai cũng phải kiềng mặt anh em nhà ả. Khi nào đón được đào hát ở châu về, anh em ả đều đứng ra làm chủ gá bạc, có bàn xúc xắc đĩa nào mà không thuộc vòng khống chế của bọn họ? Thế mà hiền đệ không biết, lại đến đây gây chuyện rắc rối. Chẳng may để lộ tung tích, cả ta và hiền đệ đều phải chuốc tai họa không nhỏ.

Vương Khánh bị Phạm Toàn mắng cho một trận cứng họng, không đối đáp được. Khi ra đi, Phạm Toàn bảo Vương Khánh:

- Ta phải về thành đi trực, ngày mai lại đến thăm hiền đệ.

Không nói việc Phạm Toàn trở về thành Phòng Châu, kể tiếp chuyện Vương Khánh đêm ấy nghỉ ngơi, không có sự gì xảy ra. Sáng hôm sau, Khánh vừa dậy rửa mặt chải đầu xong thì thấy trang khách vào báo: "Có Đoàn thái công đến thăm đại lang". Vương Khánh vội ra tiếp. Đó là một cụ già da nhăn nheo, râu tóc bạc trắng. Chào hỏi xong, hai người chia ngôi chủ khách cùng ngồi. Đoàn thái công nhìn Vương Khánh một lượt từ đầu đến chân, nói nhỏ một mình: "Quả là khôi ngôi tuấn tú". Rồi Đoàn thái công hỏi quên quán họ hàng gia thế của Vương Khánh, vì sao đến ở Phòng Châu, bà con với Phạm viện trưởng như thế nào, đã có vợ chưa, v..v.. Vương Khánh nghe thái công hỏi hai nhiêu khê, bèn bịa chuyện trả lời:

- Tiểu nhân nhà ở Tây Kinh, cha mẹ mất sớm, vợ cũng ốm chết, tiểu nhân là em con dì của Phạm tiết cấp. Năm ngoái Phạm tiết cấp có việc đi công cám ở Tây Kinh, thấy tiểu nhân sống độc thân không ai chăm sóc nên đón về đây để anh em được gần gũi, nương tựa vào nhau. Tiểu nhân cũng biết qua các môn quyền bổng, chờ dịp thuận tiện sẽ xin một chân thưa phái ở bản châu.

Đoàn thái công nghe xong cả mừng, hỏi thêm tuổi tác, ngày tháng năm sinh của Vương Khánh, rồi cáo từ ra về. Hồi lâu sau, Vương Khánh đang ngồi lo nghĩ ngợi thì một người khách lạ đẩy cửa bước vào cất tiếng hỏi:

- Phạm viện trưởng có nhà không? có phải vị đây là Lý đại lang?

Hai người ngạc nhiên im lặng nhìn nhau một lúc. Cả hai đều nghĩ: "Có lẽ đã gặp người này ở đâu rồi?" Chào hỏi xong, hai người đang nói chuyện thì Phạm Toàn đến. Ba người ngồi yên chỗ, Phạm Toàn hỏi:

- Lý tiên sinh có việc gì đến đây?

Vương Khánh nghe nhắc đến Lý tiên sinh chợt nhớ ra: "Đúng rồi! hắn đúng là gã thầy bó Lý Trợ". Lý Trợ cũng nhớ lại: "Người này ở Đông Kinh, họ Vương, đã từng mời ta xem bói". Lý Trợ nói với Phạm Toàn:

- Thưa Phạm viện trưởng, tiểu nhân chưa có dịp làm quen với vị đây, có phải là lệnh đệ Lý đại lang không?

Phạm Toàn chỉ Vương Khánh nói:

- Đúng là Lý đại lang em họ tôi đấy.

Vương Khánh nó tiếp:

- Tiểu nhân vốn họ Lý, gọi họ Vương là họ bên ngoại.

Lý Trợ vỗ tay, cười nói:

- Nhớ ra rồi. Đúng vị này họ Vương, tiểu nhân tôi từng gặp trước cửa phủ Khai Phong ở Đông Kinh.

Vương Khánh thấy Lý Trợ đã nói ra rành mạch như thế, chỉ ngồi yên cúi đầu. Lý Trợ nói với Vương Khánh:

- Sau ngày tôi với đại lang chia tay, tôi xuống miền Kinh Nam được dị nhân truyền thụ kiếm thuật, và diệu quyết xem tướng số, vì thế người ta gọi tôi là "Kim kiếm tiên sinh". Gần đây đến Phòng Châu, nghe nói miền này đông vui, tôi tìm đến hành nghề. Anh em họ Đoàn biết tôi am hiểu kiếm thuật, mời tôi đến ở tại nhà để chỉ giáo cho họ. Đoàn thái công vừa ở đây về đưa tờ ghi tuổi tác, ngày giờ sinh của đại lang có tướng tinh đẹp thế, ngày sau sẽ được phú quý hết chỗ nói. Còn hiện nay đại lang đang có chim loan đỏ ứng chiếu vào mệnh, hợp với việc vui mừng. Đoàn thái công đang muốn chọn đại lang làm rể, mà hôm nay lại là ngày đại cát. Tiểu nhân đến đây để làm nguyệt lão xe tơ. Tướng tinh của Đoàn Tam nương cũng rất vượng cho chồng. Hôm qua hai vị gặp nhau, ngang tài ngang sức thật đẹp đôi. Mong hai vị sớm thành nhân duyên cho tiểu nhân kiếm rượu uống.

Phạm Toàn nghe câu chuyện của Lý Trợ, trầm ngâm nghĩ ngợi hồi lâu: "Cha con họ Đoàn là hạng điêu toa, ghê gớm, nếu không bằng lòng cuộc thu xếp nhân duyên này thì có chỗ sơ hở khiến họ nghi ngờ, cái hại chẳng nhỏ. Tốt nhất cứ phải tương kế tựu kế". Nghĩ đoạn Phạm Toàn bèn nói với Lý Trợ:

- Việc tốt mà Phạm Toàn tôi không biết! nhã ý của cha con Đoàn thái công như vậy, có điều là em họ tôi đây tính tình thô vụng, không biết có xứng làm rể họ Đoàn không?

Lý Trợ nói:

- Ái chà! viện trưởng bất tất phải khiêm tốn quá. Đoàn Tam nương từ khi gặp đại lang về nhà không ngớt lời khen ngợi.

Phạm Toàn nói:

- Như thế thì hay lắm! Phạm Toàn tôi sẵn sàng đứng làm chủ hôn.

Nói đoạn lấy năm lạng bạc đưa biếu Lý Trợ rồi nói:

- Ở đây thôn quê không có gì thết đãi, chút quà mọn biếu tiên sinh uống nước, xong việc sẽ xin hậu tạ.

Lý Trợ nói:

- Chẳng có gì đáng kể, xin viện trưởng chớ bận tâm.

Phạm Toàn nói:

- Khoan đã! xin dặn tiên sinh một câu: tiên sinh bất tất phải nói em họ tôi có hai họ. Mọi chuyện xin tiên sinh chu toàn cho.

Lý Trợ là gã thầy bói, chỉ cốt được tiền, cám ơn rối rít rồi cáo tù trở về Đoàn gia trang, chẳng chú ý gì đến chuyện hai họ hay một họ, tốt xấu ra sao, chỉ cốt nói vun vào để kiếm tiền uống rượu. Hơn nữa việc kén chọn ấy lại là do ý của Đoàn Tam nương. Ngày thường cả nhà vẫn sợ ả ta, cả Đoàn thái công cũng chẳng dám nói động đến, vì thế việc chắc chắn phải thành.

Lý Trợ qua lại bàn bạc với cả hai bên, mong có nhiều sinh lễ để cho ông mối mát mặt. Nhưg Phạm Toàn lại lo việc sính lễ sẽ gây chuyện lôi thôi, bèn bàn với hai bên nên giảm cả. Đoàn thái công là bên nhà gái đứng ra thu xếp việc nhân duyên, nghe Phạm Toàn bàn thế cũng lấy làm mừng, bèn chọn ngày làm lễ cưới. Ngày hai mươi tháng ấy hai bên sẽ giết dê, mổ lợn, đánh cá, sửa soạn cỗ bàn, mời bà con họ hàng đến uống rượu mừng. Các khoản sênh tiêu, kèn trống, lễ động phòng hoa chúc, v..v.. Đều bỏ cả. Phạm Toàn may cho Vương Khánh một bộ quần áo mới, đích thân dẫn đến Đoàn gia trang, sau đó vì bận việc quan nên xin cáo từ về trước. Vương Khánh và Đoàn Tam nương làm lễ hợp cẩn, các nghi thức khác cũng chỉ chiếu lệ cho xong chuyện. Đoàn thái công bầy tiệc rượu trên thảo đường. Hơn hai chục người thân thích con cái trong nhà, cùng chàng rể mới và ông mối Lý Trợ ngồi uống rượu vui vẻ suốt một ngày, đến chiều tối mới tan. Bà con thân thích ở gần đều cáo từ ra về, chỉ có mấy người vì đường xa phải ngủ lại là vợ chồng cô dượng Phương Hàn; vợ chồng em họ Khưu Tường, và vợ chồng Thi Tuấn là cậu của Đoàn Nhị. Ba khách nam nghỉ ở chái phái đông, ba khách nữ, đều còn trẻ, ngồi lại uống rượu vui chơi với Vương Khánh và Đoàn Tam nương, hồi lâu mới tan về phòng đi nghỉ. Người vú già vào phòng tân hôn trải chăn đệm, mời tân lang và tiểu thư vào nghỉ, rồi đóng cửa phòng đi ra. Đám con gái còn đang ngồi lại nô đùa cười nói, bỗn thấy Đoàn Nhị từ bên ngoài hốt hoảng chạy vào nói to:

- Nguy rồi! bọn các ngươi không biết việc gì hay sao còn ngồi đố mà cười!

Ai nấy sợ toát mồ hôi nhưng không biết xảy ra việc gì. Đoàn Nhị chạy đến trước phòng tân hôn gọi to:

- Tam nương đâu, dậy mau, tai vạ đến nơi rồi!

Đoàn Tam nương đang lúc vui vẻ, nghe Đoàn Nhị gọi lấy làm bực, nằm trên giường nói vọng ra:

- Đêm hôm có chuyện gì mà làm ầm lên thế?

Đoàn Nhị lại kêu to:

- Lửa sém lông mày rồi, chỉ còn các người là chưa biết!

Vương Khánh có tật giật mình, vội bảo Đoàn Tam nương mặc quần áo chạy ra ngoài xem sao. Đám đàn bàn con gái ngồi chơi ở nhà đã chạy ta cả. Vương Khánh vừa ra khỏi phòng thì Đoàn Nhị kéo ngay đến thảo đường. Vương Khánh bước vào đã thấy Phạm toàn đang ngồi ở đó, không ngớt mồn kêu khổ, tiếp sau là Đoàn thái công, Đoàn Ngũ, Đoàn Tam nương cũng theo đến.

Nguyên là gã Hoàng Đạt ở phía đông Cung Gia thôn huyện Tân An sau khi chữa lành vết thương và khỏi ốm, ngày đêm săn lùng tung tích Vương Khánh. Đêm hôm qua hắn đã đến Phòng Châu báo cho quan doãn biết Vương Khánh hiện đang ở đây. Quan châu doãn Trương Cô Hành liền áp triện công văn sai một viên đô đầu đem quân lính đến bắt hung phạm Vương Khánh. Kẻ chứa chấp là Phạm Toàn và cả nhà Đoàn thái công. Phạm Toàn vốn chơi thân với Tiết khổng mục chuyên lập hồ sơ án kiện của bản châu nên được Tiết khổng mục rỉ tai báo cho biết trước chuyện đó. Phạm Toàn không kịp đem theo vợ con, đi ngay đến đây vừa lúc quân quan chưa kịp kéo đến. Thế là mọi người đều bị dính vào việc quan ty. Ai nấy đều giẫm chân đấm ngực, nháo nhác như ổ gà bị lật, cuống cuồng sợ hãi, xúm đến mắng nhiếc Vương Khánh và Đoàn Tam nương. Đang lúc ồn ào bỗn thấy Kim kiếm tiên sinh Lý Trợ từ gian nhà chái phía đông đi vào thảo đường, nói:

- Các vị muốn tránh khỏi tai họa thì phải nghe tôi nói!

Mọi người xúm đến hỏi, Lý Trợ nói:

- Việc đã như vậy, ba mươi sáu chước, chuồn là hơn cả!

Mọi người hỏi:

- Nhưng biết chạy đi đâu?

Lý Trợ đáp:

- Chỉ còn cách lên núi Phòng Sơn ở phía tây, cách đây hai mươi dặm.

Mọi người nói:

- Chỗ ấy bọn cướp thường hai lui tới.

Lý Trợ cười đáp:

- Chao ôi, sao các vị ngu ngốc thế? sự thể này mà còn mong làm người lương thiện được ư?

Mọi người lại nói:

- Vậy làm thế nào?

Lý Trợ nói:

- Trại chủ Phòng Sơn là Liêu Lập vốn quen biết với Lý Trợ tôi. Thủ hạ của ông ta có đến năm sáu trăm lâu la, quan quân không lùng bắt nổi. Mau thu xếp đồ tế nhuyễn, đi ngay đến xin nhập bọn mới tránh được tai vạ.

Bọn Phương Hàn, sáu người cả đàn ông, đàn bà sợ sau này liên lụy đến họ hàng thân thích nên chần chừ chưa muốn đi. Vương Khánh và Đoàn Tam nương phải hết sức thuyết phục, không còn cách nào khác, đành phải ưng thuận. Sau đó mọi người thu xếp những của cải, đồ vật quý để đem đi, còn lại dồn thành ba bốn chục đống châm lửa đốt.

Xong xuôi mọi việc, Vương Khánh, Đoàn tam nương, Đoàn Nhị, Đoàn Ngũ, Phương Hàn, Khâu Tường, Thi Tuấn, Lý Trợ, Phạm Toàn, tất cả chín người đều hai nịt gọn gàng, ai nấy đeo đoản đao, rút mã tấu cầm tay. Điểm gọi số trang khách muố[n đi theo, tất cả có hơn bốn chục người. Ai nấy đều lo gói buộc tay nải, hành lý. Vương Khánh, Lý Trợ, Phạm Toàn đi đầu, Phương Hàn, Khâu Tường, Thi Tuấn hộ vệ đàn bà con gái đi giũ7a. Cũng may cả bọn đàn bà ấy đều có bàn chân như lưỡi cuốc nên đi nhanh chẳng kém gì đàn ông. Đi sau cùng là Đoàn Tam nương, Đoàn Nhị, Đoàn Ngũ. Ba anh em đi khắp một lượt châm lửa đốt trang trại, rồi hò reo dẫn đoàn người cầm khí giới, nhằm đường chạy về phía tây. Láng giềng và dân chúng các làng lân cận ngày thường vẫn sợ nhà họ Đoàn như cọp, nay thấy lửa cháy rừng rực mà bọn họ ai nấy đều gậy gộc cầm tay, không hiểu nguyên do thế nào, cho nên nhà ai cũng đóng cửa đứng im nhìn không dám cản trở.

Bọn Vương Khánh đi chung bốn năm dặm thì gặp đội quân do viên giáo đầu của bản châu chỉ huy, có cả Hoàng Đạt, đang trên đường về Đoàn gia trang. Viên đô đầu đi trước liền bị Vương Khánh vung dao chém đứt làm hai đoạn. Bọn Lý Trợ, Đoàn Tam nương nhất tề xông lên chém giết bọn quân nhân, Hoàng Đạt cũng bị Vương Khánh giết.

Tảng sáng, bọn Vương Khánh đến dưới trại Phòng Sơn. Lý Trợ bảo mọi người chờ để mình lên núi báo trước với Liêu Lập. Lâu la đi tuần tiễu, thấy dưới chân núi có nhiều đám đuốc cháy liền trở về báo cho trại chủ. Liêu Lập ngờ đó là quan quân đến đánh. Hàng ngày hắn vẫn coi thường quan quân, nay thấy quan quân kéo đến vội đứng dậy đeo đai, khoác thương, điểm lâu la xuống núi chặn đánh. Vương Khánh thấy lửa sáng trên núi, rồi nhiều bóng người đi xuống, liền chuẩn bị đối phó. Liêu Lập xuống đến nơi thấy đông cả đàn ông đàn bà, đoán chừng không phải quan quân bèn xách thương lên tiếng quát:

- Đám đông các người vì cớ gì đén đây làm kinh động sơn trại của ta? có muốn sao Thái Tuế dọi đầu hồi không thì bảo?

Lý Trợ bước lên cung kính cúi chào:

- Thưa đaivượng, ngu đệ chính là Lý Trợ đây.

Tiếp đó Lý Trợ đem chuyện Vương Khánh phạm tội đi đầy, giết quản doanh và quân lính ra sao kể lại một lượt với Liêu Lập. Liêu Lập nghe Lý Trợ khen Vương Khánh tài giỏi, lại thấy hắn có anh em họ Đoàn đi theo, sợ mình thân cô thế cô, ngày sau mặc mưu độc, bèn trở mặt nói với Lý Trợ:

- Sơn trại của bọn ta chỉ àl nơi nhỏ hẹp, cũng khó thu nạp anh em quý vị.

Vương Khánh nghĩ bụng: "Sơn trại chỉ có mình hắn làm chủ, trừ khử được khắn thì bọn lâu la có đáng lo ngại gì?"

Vương Khánh bèn tước mã tấu xông vào. Liêu Lập cả giận, vung thương chặn đánh. Đoàn Tam nương sợ Vương Khánh sơ hở, cũng xách mã tấu đến giúp sức. Ba người đánh hơn mười hiệp thì có một người ngã. Đúng là:

Bình gốm vỡ liền trên miệng giệng,

Gian hùng ngã gục dưới làn tên.

Chưa biết người bị đánh ngã là ai, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 105

Tống Công Minh tránh nắng dưỡnng quân,

Kiều Đạo Thanh quạt gió thiêu giặc

Đang nói chuyện Vương Khánh và Đoàn Tam nương xông vào đánh Liêu Lập, hai bên giao chiến hơn chục hiệp, Vương Khánh đâm dứ một đường để Liêu Lập đánh vào rồi vọt tới đâm ngã. Đoàn Tam nương đuổi tới bồi tiếp một đao, kết liễu tính mạng hắn. Liêu Lập nửa đời làm nghề cường đạo, đến đây kết thúc giấc mộng xuân!

Vương Khánh xách mã tấu quát lớn:

- Kẻ nào không thuận theo ta thì cứ xem gương Liêu Lập đó!

Bọn lâu lau thấy Liêu Lập bị giết vội nâng giáo lạy hàng, không dám chống cự. Vương Khánh lên núi vào trong trại. Bấy giờ chân trời đã ửng rạng đằng đông. Ngọn núi này xung quanh có nhiều vòm đá tự nhiên giống như những căn phòng nên gọi là Phòng Sơn, thuộc địa hạt Phòng Châu. Bấy giờ, Vương Khánh sắp xếp nơi ăn chốn ở cho từng nhà, xong cho điểm số lâu la, xem xét lương thảo, vàng bạc, vải vóc và ngựa chiến trong doanh trại. Một mặt cho giết bò mổ ngựa bầy tiệc rượu chúc mừng khao thưởng lâu la. Mọi người đều suy tôn Vương Khánh làm trại chủ. Một mặt cho rèn binh khí, huấn luyện lâu la chuẩn bị giao chiến với quân triều đình, việc không cần nói đến.

Lại nói đội quân Phòng Châu theo viên đô đầu tìm bắt Vương Khánh, bị bọn Vương Khánh chém giết, đánh đuổi chạy tan, có kẻ thoát được trở về báo với châu doãn Trương Cố Hành: "Bọn Vương Khánh biết trước sự việc, đã tìm cách chống cự với quan quân. Đô đầu và người tố giác là Hoàng Đạt đều bị giết. Sau đó cả bọn chạy về phía tây". Ngay ngày hôm ấy Trương Cố Hành liền bàn với võ quan trấn thủ bản châu để phái quân tuần tiễu cùng với quân ở bản doanh đi truy bắt. Nhưng vì giặc cướp hung tợn, quan quân lại thiệt mạng một số người nữa. Số lâu la theo lên sơn trại ngày càng đông, bọn Vương Khánh thường đem quân xuống núi đi các nơi cướp phá. Trương Cố Hành thấy thế giặc ngày càng hung hãn, một mặt gửi văn thư báo cho các huyện canh phòng để giữ yên trong cõi, điều thêm quân về châu để hợp sức dẹp cướp. Một mặt lại bàn với chỉ huy binh mã bản châu là đô giám Hồ Hữu Vi tìm kế sách tiễu trừ. Đô giám Hồ Hữu Vi liền điểm quân lính của bản doanh chọn ngày cất quân tiến đánh. Bất ngờ quân lính cả hai doanh hò reo khua trống ầm ầm, hỏi ra thì nguyên nhân là vì đã hai tháng nay không được cấp phát tiền gạo, bụng đói meo sao mà đi đánh giặc được?

Trương Cố Hành nghe tin quân sĩ làm biến liền cho đem tiền gạo đến phát trước một tháng, nhưng vẫn lo làm như thế càng khiến quân sĩ tức giận thì sau không biết làm thế nào? Sự việc xảy ra là do ngày thường không biết vỗ về răn dạy quân sĩ, đến khi quân sĩ đánh trống làm reo mới đem tiền bạc đến phát, thế là đã làm cho quân sĩ sinh kiêu. Lại còn chuyện nực cười nữa: việc đã xảy ra như thế nhưng các tệ khấu đầu trừ đuôi, bớt xén tiền lương của quân sĩ vẫn không giảm. Quân lính thường ngày đã bị bớt xén quá nhiều, nay bỗng được dịp bùng lên. Quân sĩ ào ào tức giận, nổi dậy giết chết đô giám Hồ Hữu Vi. Châu doãn Trương Cố Hành thấy tình thế bất lợi vội ôm giấy tờ ấn tín tìm đường tẩu thoát. Trong thành vô chủ, lại thêm bọn vô lại phụ họa với bọn quân kéo đi đốt phá, cướp bóc các nhà dân.

Vương Khánh thấy trong thành có biến, thừa thế đem quân lâu la xuống núi đánh vào thành Phòng Châu. Bao nhiêu quân sĩ làm phản cùng bọn gian đồ ô hợp ra mặt quy thuận. Vương Khánh hả hê đắc chí, bèn chiếm thành Phòng Châu làm sào huyệt. Châu doãn Trương Cố Hành trốn tránh không thoát cũng bị bắt giết. Vương Khánh cướp đoạt lương tiền trong các kho công ở Phòng Châu, sai Lý Trợ, Đoàn Nhị, Đoàn Ngũ chia nhau đến Phòng Sơn và các nơi khác dựng cờ hiệu, chiêu binh mãi mã, tích chứa lương thảo. Khắp các trấn gần, thôn xa đều bị cướp đoạt kinh động. Bọn vô lại du thủ du thực cùng bọn tù phạm gian ác phản nghịch đều nhao nhao kéo đến quy thuận Vương Khánh. Bọn Cung Đoan, Cung Chính trước đó bị Hoàng Đạt phát đơn kiện làm cho mất sạch gia sản, nay nghe tin Vương Khánh chiêu mộ binh sĩ cũng tìm đến xin nhập bọn. Các châu huyện lân cận chỉ lo giữ thành trì, còn ai dám đem quân cứu ứng? Trong vòng hơn hai tháng, dưới tay Vương Khánh đã tụ tập được hơn hai vạn tên, Khánh bèn tung quân đi đánh phá thành trì các huyện lân cận như Thượng Tân, Trúc Sơn, Viên Hương. Các quan châu huyện dâng biểu tâu lên. Triều đình xuống lệnh cho trấn quan địa phương ấy đem quân đi đánh dẹp. Đám quân triều đình nhà Tống phần nhiều vì lương bổng không đủ, nên ít được thao diễn luyện tập, quân không sợ tướng, tướng chẳng biết quân. Kịp khi nghe tin có biến, quan quân thường thổi phồng thế lực quân giặc mười phần hung dữ, khiến cho sĩ tốt chợt nghe đã nản lòng, trăm họ kinh hoàng tán đảm. Đến khi ra trận đối đầu với địch, tướng quân thì khiếp nhược, quân sĩ thì đói mệt, làm sao mà đánh lại được quân của Vương Khánh? Gần toàn những dân vong mạng, quân Vương Khánh khi đã liều chết đánh tới thì quan quân đều phải tan chạy như gió xô cỏ lướt. Vì vậy, thế lực của Vương Khánh ngày càng mạnh, vượt sang đánh phá cả ở phủ Nam Phong. Về sau, triều đình sai quân đi đánh thì các tướng tá được giao chức cầm quân nếu không hối lộ Sái Kinh, Đồng Quán thì cũng đút lót Dương Tiễn, Cao Cầu. Bọn họ nhận tiền bạc đút lót rồi thì dù là kẻ tầm thường hèn nhát cũng cho cân nhắc bổ dụng. Bọn ấy đã mất tiền của đút lót, một khi nắm được quyền binh trong tay liền thả sức bớt xén quân lương, bức hại dân lành để mạo nhận công lao, rông quân cho đi vơ vét đốt phá gây rối động khắp vùng, dân chúng vì bị bức bách mà phải theo. Từ đó thế giặc ngày càng lớn mạnh, Vương Khánh đã tung quân đánh xuống miền Nam. Lý Trợ vốn là người Kinh Nam liền hiến kế xin Vương Khánh cho đóng vai thầy bói đi trước vào thành, ngầm kết giao với bọn gian manh côn đồ, rồi trong ngoài ứng hợp đánh lấy thành Kinh Nam. Vương Khánh bèn cho Lý Trợ làm quân sư, tự xưng là "Sở Vương". Các bọn giặc sông cướp biển, cường đạo ở chốn sơn lâm đều tìm đến quy hàng. Trong khoảng ba bốn năm bọn Vương Khánh đã chiếm giữ sáu châu thành của nhà Tống.

Vương Khánh đem bộ hạ vaò đóng trong thành Nam Phong, cho xây dựng cung điện, lâu đài, tiếm ngụy thay đổi niên hiệu, cũng bắt chước triều nhà Tống đặt ngụy quan tướng văn tướng võ và hàng quan liêu ở các đài, sảnh, viện. Phong Lý Trợ làm quân sư đô thừa tướng, Phương Hàn làm khu mật, Đoàn Nhị làm hộ quốc thống quân đại tướng, Đoàn Ngũ làm phụ quốc thống quân đô đốc, Phạm Toàn làm Điện súy, Cung Đoàn làm tuyên phủ sứ, Cung Chính làm chuyển vận sứ chuyên cai quản việc chi tiêu xuất nhập, kiểm tra tính toán lương tiền, Khâu Tưởng làm ngự doanh sứ, lập Đoàn Tam nương làm chánh phi, Vương Khánh xưng vương được năm nwm kể từ năm Tuyên Hòa thứ nhất đến mùa xuân năm Tuyên Hòa thứ năm. Bấy giờ bọn anh em Tống Giang đang đi đánh Điền Hồ ở Hà Bắc, đến khi đánh quân Điền Hổ ở ải quân Vân An và Uyển Châu, tổng cộng là tám châu thành. Đó là các châu: Nam Phong, Kinh Nam, Sơn Nam, Vân An, An Đức, Đông Xuyên, Uyển Châu, Tân Kinh.

Số châu huyện thuộc các quận ấy tất cả là tám mươi sáu. Vương Khánh sai dựng hành cung ở huyện Vân An, sai Thi Tuấn đóng giữ, làm trấn thủ quận Vân An.

Lúc đầu Vương Khánh sai bọn Lưu Mẫn đánh lấy Uyển Châu. Châu này ở gần Đông Kinh, bọn Sái Kinh không che giấu được, phải tâu lên Đạo quân hoàng đế. Thiên tử xuống sắc sai Sái Du, Đồng Quán đem quân đi đánh dẹp Vương Khánh, cứu Uyển Châu. Quân lính của Sái Du, Đồng Quán là hạng quân lính tàn bạo, không có phép tắc kẻ cương, trên dưới lìa lòng, vì thế bị bọn Lưu Mẫn đánh bại. Quân Vương Khánh phá được thành Uyển Châu, khắp kinh đô dân chúng chấn động lo sợ. Bọn Sái Du, Đồng Quán sợ tội, cố tìm cách không cho thiên tử biết chuyện. Tướng giặc là bọn Lưu Mẫn, Lỗ Thành sau khi lấy được Uyển Châu liền đem quân bao vây Lỗ Châu, Dương Châu. Anh em Tống Giang dẹp yên Điền Hổ ở Hà Bắc, chưa đem quân về đến Đông Kinh đã tiếp chiếu sắc sai đi đánh Vương Khánh ở Hoài Tây. Đúng là người ngồi chưa ấm chỗ, ngựa chưa kịp nghỉ chân, anh em Tống Giang lại phải thống lĩnh đại binh hơn hai mươi vạn người ngựa tiến xuống phía nam. Vừa qua sông Hoàng Hà lại tiếp được văn thư của sảnh viện thúc giục Trần an phủ và Tống Giang cho binh mã ngày đêm ruổi gấp đến cứu ứng cho Lỗ Châu, Dương Châu. Tống Giang bon ngựa đẫm mồ hôi, hành quân giữa mùa nóng nực, theo đường từ huyện Túc và sông Dĩ Thủy tiến xuống, những nơi đi qua không mảy may xâm phạm của dân. Nghe tin đại binh của Tống Giang tiến đến địa giới châu Dương Định, quân Vương Khánh phải lui về. Hai thành Lỗ Châu và Dương Châu được giải vây.

Lại nói chuyện Trương Thanh, Quỳnh Anh, Diệp Thanh được tận mắt chứng kiến việc hành hình Điền Hổ, được thiên tử ban tước rồi vâng mệnh trở lại quân doanh theo Tống Giang đem quân đi đánh Vương Khánh. Bọn Trương Thanh rời Đông Kinh đến thành Dĩnh Xương chờ hơn nửa tháng, nghe tin quân của Tống tiên phong đã tới, cả ba người đều đến trước quân doanh chào đón. Trương Thanh kể lại việc ba người ở kinh được thiên tử ban phong phẩm tước, Tống Giang và các anh em đầu lĩnh hết lòng khen ngợi. Tống Giang cho bọn Trương Thanh ở lại trong quân doanh để chờ sai phái.

Tống Giang mời Trần an phủ, Hầu tham mưu và La vũ dụ vào đóng quân trong thành Dương Định, còn anh em Tống Giang phải chỉ huy đại quân, không tiện đem quân vào thành. Tống Giang truyền lệnh cho các tướng đóng quân trong khi rừng cây cối rậm rạp ở núi Phương Thành. Nhận thấy quân sĩ vượt đường xa ngàn dặm giữa mùa hè nóng bức, trong quân nhiều người ốm đau, Tống Giang giao cho An Đạo Toàn lo liệu thuốc men chữa bệnh. Lại sai quân sĩ dựng lều lán cho ngựa nghỉ ngơi, giao cho Hoàng Phủ Đoan sai quân tắm rửa, chải lông cho ngựa và khám chữa những con bị ốm.

Ngô Dụng nói với Tống Giang:

- Đại quân ta đóng trong rừng, chỉ lo quân giặc dùng kế hỏa công.

Tống Giang nói:

- Chính ta đang muốn dùng hỏa công đốt trại giặc.

Tống Giang bèn sai quân sĩ tìm chỗ râm mát trên gò cao núi Phương Thành, dùng tre nứa, cỏ trang dựng một dẫy lán nhỏ. Bấy giờ hàn tướng Hà Bắc là Kiều Đạo Thanh đến thưa với Tống Giang:

- Đạo Thanh tôi được nhờ ơn sâu của tiên phong, nay xin góp chút sức mọn.

Tống Giang cả mừng, bí mật bàn định mưu kế với Kiều Đạo Thanh, rồi giao cho Kiều Đạo Thanh vào trông nom công việc trong lán. Tống Giang xuống lệnh tuyển chọn ba vạn quân khoẻ mạnh. Lệnh cho Trương Thanh, Quỳnh Anh chỉ huy một vạn quân mã đến mai phục ở chân núi phía đông. Lệnh cho Tôn An, Biện Tường chỉ huy một vạn binh mã mai phục ở chân núi phía tây. Hễ nghe tiếng pháo oanh thiên nổ vang ở trung quân thì các quân mai phục nhất tề xông ra đánh. Toàn bộ lương thảo đều chất cả ở chân núi phía nam, giao cho Lý Ứng, Sài Tiến chỉ huy năm nghìn quân canh giữ.

Cắt cử mọi việc đâu đó đã xong, bỗng Công Tông Thắng bước vào nói:

- Huynh trưởng trù hoạch kế sách thần diệu, nhưng hiện nay đang mùa nóng bức, quân sĩ đi lại mệt mỏi. Nếu giặc cho quân tinh nhuệ đến đánh thì quân ta tuy đông gấp mười lần cũng không giành được phần thắng. Bần đạo xin thi thố chút phát thuật để giải trừ buồn phiền nóng nực, khiến cho tướng sĩ mát mẻ sảng khoái, tự nhiên sẽ cảm thấy trong người khoẻ mạnh.

Nói xong bèn chống kiếm làm phép, tay trái làm dấu Thiên lôi, tay phải vung kiếm bắt quyết, định thần suy nghĩ hướng về phía đông bắc thổi một luồng khí rồi niệm chú. Trong nháy mắt gió lạnh nổi lên, mây đen cuồn cuộn từ trong thung lũng đùn ra, nhanh chóng phủ kín núi Phương Thành. Hơn hai vạn người ngựa được cơn gió lạnh thổi mát. Trong khi đó những vùng xung quanh vẫn nóng như thiêu, ve kêu nhức óc, chim chóc phải tìm nơi trống nắng. Quân sĩ Tống Giang ai nấy đều vui, khen ngợi đạo pháp thần diệu của Công Tôn Thắng. Trong khoảng sáu bảy ngày đó cũng đủ cho An Đạo Toàn chăm quân, Hoàng Phủ Đoan chữa ngựa. Đại quân người ngựa dần dần được sung túc, việc không cần nói đến.

Lại nói tướng của Vương Khánh là Lưu Mẫn đóng giữ Uyển Châu vốn là kẻ khá mưu lược, được tôn là "Lưu Trí Bá". Bấy giờ Lưu Mẫn cho quân đi thám thính, biết binh mã của Tống Giang đang đóng trại nghỉ ngơi tránh nắng trong rừng. Lưu Mẫn nói:

- Bọn Tống Giang rốt cuộc chỉ là giặc cỏ miền sông nước, không hiểu binh pháp cho nên chẳng làm được việc lớn. Ta chỉ cần thi thố một kế nhỏ đủ khiến cho hai mươi vạn người ngựa của chúng, ít nhất cũng một nửa bị thiêu cháy thành tro.

Nói đoạn truyền lệnh chọn năm nghìn tên quân nhanh nhẹn ai nấy sửa soạn đầy đủ tên lửa, hỏa pháo và đuốc nhựa. Lại sửa soạn hai nghìn cỗ xe trận chở đầy lau sậy, củi khô cùng các thứ thuốc dẫn lửa như lưu quỳnh, diêm tiêu. Mỗi xe có bốn tên quân sĩ kéo đẩy. Bấy giờ là trung tuần tháng bảy, tiết đầu thu, Lưu Mẫn dẫn bốn viên phó tướng: Lỗ Thành, Trịnh Tiệp, Khấu Mãnh, Cố Sầm đem một vạn quân thiết kỵ, người mặc giáp mỏng, ngựa bỏ lục lạc đi sau tiếp ứng. Lưu Mẫn để hai phó tướng là Hàn Triết và Ban Trạch ở lại giữ thành. Chiều muộn, bọn Lưu Mẫn ra khỏi thành, gặp lúc giố nam thổi mạnh, Lưu Mẫn cả mừng nói:

- Phen này bọn Tống Giang tất phải thua to!

Đến đầu canh ba quân Lưu Mẫn mới đến cách núi Phương Thành hai dặm về phía nam, bỗn thấy mù đen bao trùm thung lũng. Lưu Mẫn nói:

- Trời giúp ta lập công.

Nói đoạn sai quân đi sau đánh trống hò reo trợ chiến, Lưu Mẫn tự mình dẫn năm nghìn quân tiến vào rừng đánh quân Tống Giang. Quân Lưu Mẫn được lệnh ồ ạt bắn hỏa tiễn, hỏa pháo, đuốc lửa để đốt cháy trại quân Tống Giang. Lại sai bọn Khấu Mãnh, Tất Thắng đốc thúc quân sĩ đẩy xe châm mồi lửa rồi đẩy xuóng chân núi để đốt cháy lương thảo của quân Tống. Quân Lưu Mẫn đang hăng hái tiến đánh bỗng cùng lúc kêu thét lên. Lúc ấy gió nam đang thổi mạnh, bất ngờ chuyền ngược lại thành gió bắc! Lại nghe trên núi có tiếng nổ vang. Đó là Kiều Đạo Thanh đã dùng phép quạt gió trở lửa, làm cho bao nhiêu tên lửa, đuốc lửa đều biến thành rồng lửa rắn lửa cháy bùng bay ngược lại thiêu đốt quân Lưu Mẫn, khiến chúng không kịp tìm nơi ẩn nấp. Đương thời trong quân Tống lưu truyền bốn câu thơ chê cười bọn Lưu Mẫn:

Quân cơ cố nam trắc

Tặc nhân võng tý hoạch

Phóng hỏa tự thiêu quân

Hảo cá "Lưu Trí Bá".

Việc quân khó khôn dại

Đánh giặc giặc không bại

Phóng hỏa thiêu quân mình

"Lưu Trí Bá" giỏi đấy!

Bấy giờ Tống tiên phong truyền lệnh cho pháo thủ Lăng Chấn bắn hỏa pháo. Đạn pháo bay vọt lên không rồi nổ tung. Phía đông các tướng Trương Thanh, Quỳnh Anh; phía tây các tướng Tôn An, Biện Tường đều dẫn quân đánh ập tới. Quân Vương Khánh một phen thua to. Lỗ Thành bị Tôn An vung kiếm sả làm hai đoạn. Trịnh Tiệp bị Quỳnh Anh ném đá lăn xuống ngựa, Trương Thanh đưa thêm một mũi thương kết liễu tính mệnh. Cố Sầm bị Biện Tường đâm chết. Khấu Mãnh chết trong đám loạn quân. Hơn hai vạn ba nghìn quân Lưu Mẫn bị cháy, bị giết đến quá nửa, số còn lại tán loạn chạy trốn khắp nơi, hai nghìn cỗ xe cháy trụi không còng một chiếc. Lưu Mẫn cùng ba bốn trăm tên tàn quân thoát chết tìm đường chạy về Uyển Châu. Quân Tống không phải đốt một cọng rơm sợi cỏ, không thiệt mạng một tên quân nào mà thu đoạt được ngựa chiến, áo giáp, chiêng trống nhiều không đếm xuể.

Bọn Trương Thanh, Tôn An thắng trận trở về sơn trại báo công. Tôn An dâng thủ cấp Lỗ Thành; Trương Thanh, Quỳnh Anh nộp đầu Trịnh Tiệp; Biện Tường hiến thủ cấp Cố Sầm. Tống Giang xuống lệnh khao thưởng ba quân tướng sĩ, nêu công đầu cho Kiều Đạo Thanh, thứ đến là bọn Trương Thanh, Quỳnh Anh, Tôn An, Biện Tường. Quân sư Ngô Dụng nói:

- Huynh trưởng mưu tính kỳ diệu khiến quân giặc một phen mất trận kinh hồn. Tuy nhiên địa thế Uyển Châu sông núi quanh co, gò bãi bùn lầy, dân ở đây thường vẫn gọi là "Biển cạn", nếu giặc điều thêm quân tướng, cho đại binh đóng giữ thì bên ta rất khó đánh chiếm. Nay đã sang thu tiết trời mát mẻ, người ngựa đều sung sức, thừa lúc uy thế quân ta đang mạnh, quân giặc trong thành thế cô lực yếu, ta nên thúc quân đóng giữ ở hai phía nam bắc đề phòng quân giặc cho viện binh tiếp ứng.

Tống Giang khen phải, theo đúng kế sách truyền lệnh thi hành: giao cho Quan Thắng, Tần Minh, Dương Chí, Hoàn Tín, Tôn Lập, Tuyên Hán, Hách Tư Văn, Trần Đạt, Dương Xuân, Chu Thông thống lĩnh ba vạn quân mã đến đóng giữ phía đông Uyển Châu đề phòng viện binh giặc từ phía nam tiến đến. Giao cho Lâm Xung, Hô Diên Chước, Đổng Bình, Sách Siêu, Hàn Thao, Bành Kỷ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Âu Bằng, Đặng Phi đem ba vạn quân bộ đến đống ở phía tây Uyển Châu để chặn quân giặc từ phía bắc kéo đến. Các tướng tuân lệnh điểm quân cho người ngựa lên đường. Bấy giờ các hàng tướng Hà Bắc là bọn Tôn An mười bảy người cùng nhau đến thưa với Tống tiên phong rằng:

- Bọn anh em chúng tôi được tiên phong thu dụng, cho hưởng nhiều đặc ân. Nay chúng tôi nguyện xin đem quân đi tiên phong trong trận đánh thành mong báo đáp ơn sâu của tiên phong.

Tống Giang cả mừng bèn lệnh cho Trương Thanh, Quỳnh Anh thống lĩnh bọn Tôn An mười bảy viên chánh phó tướng và năm vạn quân mã đi tiền bộ. Mười bảy viên chánh phó tướng ấy là: Trương Thanh tuân lênh thống lĩnh quân mã lên đường tiến về Uyển Châu. Tống Giang cùng Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng và các tướng còn lại thống lĩnh đại quân nhổ trại rời núi Phương Thành tiến xuống phía nam, đến cách thành Uyển Châu mười dặm thì dừng lại đóng trại, Tống Giang hạ lệnh cho Lý Vân, Thanh Long, Đào Tôn Vượng trông coi việc tu sửa các dụng cụ đánh thành, tu sửa xong thì chở đến quân doanh cho bọn Trương Thanh sử dụng.

Trương Thanh và các tướng đem binh mã đến vây thành Uyển Châu. Liền trong sáu bảy ngày quân giặc giữ thành rất vững nên không thể hạ được. Phía bắc Uyển Châu tiếp giáp vơi Nhữ Châu. Tướng giặc là Trương Thọ dẫn hai vạn quân tiến đến bị quân Lâm Xung chặn đánh, chủ tướng Trương Thọ bị giết, các tướng tá còn lại và quân lính thua chạy tán loạn. Cùng ngày hôm ấy viện binh của giặc từ huyện An Xương, Nghiã Dương ở phía nam Uyển Châu kéo đến bị quân Quan Thắng đánh bại. Tướng giặc là bọn Bá Nhân, Trương Di bị bắt sống đem đến hành quyết trước quân doanh của Tống tiên phong. Quân tướng giặc ở cả hai cánh viện binh bị chém giết và bắt sống nhiều không kể xiết. Bấy giờ bọn Lý Vân đã sửa chữa và làm xong các dụng cụ đánh thành. Bọn Tôn An, Mã Linh đốc xuất quân sĩ xúc đất cho vào bao, chất thành nhiều đống cao bằng mặt thành. Lại chọn các quân sĩ dũng cảm nhanh nhẹn dùng cầu bay vượt qua các lớp rào nhọn, hào rãnh rồi nhất loạt chèo lên chiếm thành. Thành Uyển Châu liền bị hạ. Lưu Mẫn bị bắt sống, các tướng tá dưới quyền bị giết hơn hai mươi tên. Quân sĩ chết tại trận hơn năm nghìn, số đầu hàng đến hơn một vạn. Tống Giang và các tướng đem quân vào thành Uyển Châu, truyền lệnh đem tướng giặc Lưu Mẫn ra chém bêu đầu. Cho yết bảng vỗ yên dân chúng. Tống tiên phong xuống lệnh ghi công đầu cho Quan Thắng, Lâm Xung, Trương Thanh, thứ đến là bọn Tôn An. Một mặt sai người đến thành Dương Định báo tin thắng trận và mời Trần an phủ dời bản doanh đến đóng ở Uyển Châu. Trân an phủ nghe tin cả mừng liền cùng với tham mưu Hầu Mông và Vũ học dụ La Tiễn lên đường đi Uyển Châu. Tống Giang và các tướng ra ngoài thành nghênh đón, mời Trần an phủ vào thành. Trần an phủ không hết lời khen ngợi công lao của anh em tống Giang, việc ấy bất tất phải nói đến.

Tống Giang đóng quân ở thành Uyển Châu lo liệu mọi việc đến hơn mười ngày. Bấy giờ đã là thượng tuần tháng tám, thời tiết mát dần. Tống Giang mời quân sư Ngô Dụng đến hỏi:

- Nay ta nên đánh thành nào?

Ngô Dụng đáp:

- Từ đây tiến xuống phía nam là quận Sơn nam, tận cùng là vùng Động Đình, sông Tương; quận đó phía bắc khống chế Quan Trung, Lạc Dương, là đất yết hầu của cả hai miền Sở, Thục. Vì thế ta nên đánh chiệm thành Sơn Nam để phân chia thế giặc.

Tống Giang nói:

- Quân sư nói rất phải.

Nói đoạn truyền lệnh cho Hoa Vinh, Lâm Xung, Tuyên Tán Hách Tư Văn, Lã Phương, Quách Thịnh quản lĩnh năm vạn quân mã giúp Trần an phủ ở lại đóng giữ Uyển Châu. Trần an phủ sai Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng đi truyền lệnh cho các thủy quân đầu lĩnh là bọn Lý Tuấn tám người thống lĩnh chiến thuyền xuất phát từ sông Tất, tiếng xuống sông Hán ở phía bắc thành Sơn Nam, để hộ với đại quân.

Tống giang chia quân bộ làm ba đội, cáo từ Trần an phủ, rồi thống lĩnh các tướng tá và mười lăm vạn quân mã rời thành Uyển Châu lên đường tiến đánh quân Sơn Nam.

Đúng là:

Muôn ngựa đua bon trời đất sợ,

Nghìn quân nhảy nhót quỷ thầnh kinh.

Chưa biết quân Tống tiếng đánh thành Sơn Nam như thế nào hồi sau sẽ rõ.

Hồi 106

Tiêu Nhượng Nói Cười Lui Giặc Mạnh

Lý Tuấn Lặn Nước Phá Thành Dày

Đang nói chuyện Tống Giang điều động người ngựa chia hai đường thủy lục cùng tiến. Quân bộ chia làm ba đội:

- Tiền đội do mười hai viên kiêu tướng thống lĩnh một vạn quân mã.

Mười hai kiêu tướng ấy là:

- Đổng Bình, Tần Minh, Từ Ninh, Sách Siêu, Trương Thanh, Quỳnh Anh, Tôn An, Biện Tường, Mã Linh, Đường Bân, Văn Trọng Dung, Thôi Dã.

Hậu đội do mười bốn viên bưu tướng thống lĩnh năm vạn quân mã. Mười bốn viên bưu tướng ấy là:

- Hoàng Tín, Tôn Lập, Hàn Thao, Đan Đình Khuê, Bành Kỷ, âu Bằng, Ngụy Định Quốc, Đặng Phi, Yến Thuận, Mã Lân, Trần Đạt, Dương Xuân, Chu Thông, Dương Lâm.

Trung quân do Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa chỉ huy, thống lĩnh hơn chín mươi tướng tá, quân mã mười vạn, thẳng đường tiến về phía thành Sơn Nam..

Đội tiên phong của Đổng Bình đã tiến đến đóng trại cách phía bắc núi Long Trung năm dặm. Quân thám mã trở về báo tin Vương Khánh nghe tin quân triều đình tiến đến đã cho thêm hai vạn quân mã đến đóng ở sườn phía bắc núi Long Trung, sai dũng tướng Hạ Cát, Mi Sảnh, Quách Cán, Trần Bân thống lĩnh quân mã đóng giữ ở đó. Bọn Đổng Bình liền cùng nhau bàn định kế sách:

- Giao cho Tôn An, Biện Tường dẫn năm nghìn quân bộ mai phục phía trái núi:

- Linh, Đường Bân cũng dẫn năm nghìn quân mã mai phục phía bên phải, hễ nghe tiếng súng nổ thì nhất loạt xông ra đánh. Đổng Bình và các tướng sắp đặt quân sĩ đâu đó đã xong, cũng vừa lúc quân giặc reo hò, khua phèng, phất cờ gióng trống tiến đến khiêu chiến. Quân hai bên dàn trận, cờ trống đối nhau, quân cung nỏ bắn tên tới tấp sang quân địch. Dưới cờ tướng bên quân giặc, Mi Sảnh cưỡi ngựa tiến ra. Viên tướng này đầu đội mũ sắt, mình mặc giáp sắt, vai đeo chiếc cung chạm hình chim thước và ống tên lông chim, mặt bạnh, da chì, mắt ốc nhồi. Mi Sảnh tay cầm búa lớn cán dài, cưỡi ngựa chiến lông vàng bờm xoắn, cất tiếng nói to:

- Các ngươi là bọn giặc cỏ ở chốn bờ sông bến nước, cớ sao lại ra sức tận tụy với tên hỗn quân vô đạo, dẫn xác tới đây chịu chết?

Bên trận quân Tống trống nổi vang trời, kế đó Cấp tiên phong Sách Siêu tế ngựa ra trước trận quát lớn:

- Bọn cường đạo vô cớ làm phản, còn dám nói thối! Đợi đó sẽ nếm thừ trăm nhát búa của tá Nói đoạn vung búa giật ngựa xông đến đánh Mi Sảnh. Mi Sảnh cũng vung búa nghênh chiến. Quân hai bên hò reo, hai tướng ngồi trên ngựa quần giữa trận đến hơn năm mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại. Mi Sảnh quả là viên dũng tướng?

Bên trận quân Tống, Tích lịch hỏa Tần Minh thấy Cấp tiên phong Sách Siêu chưa thắng, bèn múa cây lang nha côn phóng ngựa ra trợ chiến. Bên quân Vương Khánh, Trần Bân vội nâng kích chặn đánh. Bốn tướng giao chiến trong đám bụi mù mịt. Đang lúc hai bên đánh hăng, bỗng nghe tiếng pháo nổ, tiếp đó là các tướng Tôn An, Biện Tường dẫn quân mai phục từ bên trái đánh ào đến. Tướng giặc là Hạ Cát liền chia quân đánh chặn. Cùng lúc Mã Linh, Đường Bân cho quân mai phục phía bên phải đánh đến. Tướng giặc là Quách Cán cũng vội chia quân chặn đánh.

Bên trận quân Tống, Quỳnh Anh phóng ngựa ra trận, lén móc lấy viên đá nhằm Trần Bân mà ném, trúng ngay hốc mũi, Trần Bân lăn nhào xuống ngựa. Tần Minh vội đuổi tới vung côn đánh, cả đầu và mũ sắt Trần Bân vỡ làm đôi. Ở trận bên trái, Tôn An và Hạ Cát đánh hơn ba mươi hiệp thì bị Tôn An chém rơi đầu. Ở trận bên phải Đường Bân cũng giết được Quách Cán. Mi Sảnh thấy quân mình bất lợi, gắng gượng đánh chặn ngọn búa của Sách Siêu rồi giật ngựa lùi chạy.

Bọn Sách Siêu, Tôn An, Mã Linh xua quân đuổi theo chém giết, quân giặc thua lớn. Các tướng đuổi theo Mi Sảnh, vừa đến đầu mỏm núi thì sa vào trận mai phục của hơn một vạn quân giặc từ khu rừng phía sau ập tới. Tướng giặc là Cảnh Văn và Tiết Tán đem quân ra hợp với Mi Sảnh quay lại đánh bọn Sách Siêu. Bên quân Tống, Văn Trọng Dung muốn lập công đầu vội nâng thương thúc ngựa ra giao chiến với Mi Sảnh. Hai người giao chiến hơn mười hiệp thì Văn Trọng Dung bị Mi Sảnh vung búa chém lăn xuống ngựa, thân đứt làm hai đoạn. Thôi Dã thấy Văn Trọng Dung bị giết bèn tức giận xách đao tế ngựa đến đánh Mi Sảnh. Hai bên đánh chừng sáu bẩy hiệp thì Thôi Dã được Đường Bân phóng ngựa đến hỗ trợ. Mi Sảnh thấy hai tướng cùng hiệp sức đánh mình, bèn quát to một tiếng, chồm ngựa tới, đánh một búa chém Thôi Dã lăn xuống đất. Rồi Mi Sảnh chặn đánh Đường Bân. Trương Thanh, Quỳnh Anh thấy bên mình bị mất hai tướng, vội sánh ngựa tiến ra. Trương Thanh vung tay nhằm Mi Sảnh mà ném. Mi Sảnh nhanh như cắt giơ búa đỡ, chỉ nghe một tiếng "choang" và lửa lóe lên ở đầu lưỡi búa, viên đá bị gạt rơi xuống đất.

Lại một viên đá nữa ném tới, Mi Sảnh vội cúi đầu giơ mũ sắt đỡ đá Bên quân Tống, hai tướng Từ Ninh và Đổng Bình thấy hai viên đá của Trương Thanh đều bị Mi Sảnh đỡ được, liền sánh ngựa xông tới đánh. Mi Sảnh thấy tình thế bất lợi, vội chặn ngọn giáo của Đường Bân rồi quay ngựa chạy. Đường Bân đổi theo rất gấp nhưng bị bọn Cảnh Văn, Tiết Tán ~tế ngựa ra chặn lại giúp Mi Sảnh chạy thoát. Các tướng chỉ chém được Cảnh Văn và Tiết Tán. Quân giặc bị giết, ngựa chiến bị bắt, chiêng trống giáp trụ thu đoạt nhiều vô kể. Đổng Bình sai thu nhặt thi hài Văn Trọng Dung và Thôi Dã. Đường Bân khóc lớn, tự tay cùng quân sĩ khâm liệm mai táng hai người.

Sau trận đó, bọn Đổng Bình chín tướng đều cho quân sĩ dựng trại đóng giữ ở sườn phía nam núi Long Trung.

Ngày hôm sau hai đội đại binh của Tống Giang cũng kịp đến hội với quân tướng bọn Đổng Bình. Tống Giang thấy mất hai tướng, vô cùng thương xót. Làm lễ tế hai tướng xong, Tống Giang cùng với quân sư Ngô Dụng bàn kế đánh thành. Ngô Dụng và Chu Vũ trèo thang trận quan sát hình thế thành lũy hào rãnh, rồi nói với Tống Giang:

- Thành này khá kiên cố, ta đánh vào không dễ gì phá được Tạm thời hãy tỏ ý quyết đánh để phá thành, rồi chờ ít bữa xem thế nào.

Tống Giang bèn truyền lệnh, một mặt cho quân sĩ sửa soạn khí giới đánh thành, một mặt sai quân do thám đi dò xét tin tức các nơi xung quanh.

Tạm gác chuyện Tống Giang bàn kế đánh thành, kể tiếp chuyện Mi Sảnh dẫn theo hơn hai trăm tên quân ky chạy thoát vào thành Sơn Nam. Chủ tướng giữ thành là Đoàn Nhị, em vợ Vương Khánh. Nghe tin triều đình sai anh em Tống Giang đem quân mã đến đánh, Vương Khánh bèn gia phong cho Đoàn Nhị là Bình đông đại nguyên súy, đặc cách sai đến trấn thủ thành này. Bấy giờ Mi Sảnh đến dưới trướng vái chào Đoàn Nhị, rồi kể cho Đoàn Nhị nghe bên Tống Giang binh hùng tướng mạnh đã giết mất của bên mình năm tướng.

Quân sĩ bị đánh giết tan tác cả, xin nguyên súy cho mượn quân để phục thù. Nguyên bọn Mi Sảnh do Vương Khánh đích thân sai phái, vì vậy nên nói là mượn quân. Đoàn Nhị cả giận, nói:

- Ngươi tuy không thuộc quyền cai quản của ta, nhưng tội làm tan quân mất tướng thì ta có thể chém đầu ngươi được.

Nói đoạn bèn quát quân sĩ đến trói Mi Sảnh đưa đi xử trảm. Vừa lúc ấy có người bước vào trong trướng nói to:

- Xin nguyên súy bớt giận, tạm tha tội chết cho người này.

Đoàn Nhị đưa mắt nhìn mới biết đó là viên quan do Vương Khánh sai đến giữ chức phó tham mưu. Đoàn Nhị nói:

- Sao lại tha hắn?

Phó tham mưu nói:

- Tôi nghe nói Mi Sảnh là viên dũng tướng kiêu hùng, trong trận vừa rồi đã giết hai tướng của Tống Giang. Đúng là bọn Tống Giang có binh hùng tướng mạnh, chỉ có thể dùng mưu mà thắng, chứ không thể lấy sức mà đánh.

Đoàn Nhị nói:

- Dùng mưu mà thắng là thế nào?

Phó tham mưu nói:

- Đại quân của Tống Giang xe cộ, lương thảo đều đóng cả ở Uyển Châu, vận chuyển đi các nơi đều phải lấy từ đó. Tôi nghe nói ở Uyển Châu binh mã của quân Tống thế cô lực yếu, nguyên súy nên mật sai người đến bàn với tướng trấn thủ ở Quân Châu và Củng Châu, hẹn ngày để họ từ hai đường đến đánh vào phía nam Uyển Châu ở đây ta sẽ chọn tinh binh giao cho Mi tướng quân thống lĩnh ruổi gấp đến phía bắc Uyển Châu lập công chuộc tội. Bọn Tống Giang nghe tin, sợ Uyển Châu thất thủ tất sẽ lui quân về ứng cứu. Thừa dịp ấ~r, ở đây Chúng ta sẽ điều tinh binh theo hai đường tiến đánh. Như thế có thể bắt được Tống Giang.

Đoàn Nhị vốn là gã quê mùa dốt nát, làm sao hiểu được binh cơ. Nay nghe viên tham mưu bàn vậy bèn cứ theo kế ấy mà thi hành. Bàn định xong, Đoàn Nhị sai người đi Quân Châu và Củng Châu. Một mặt sai điểm hai vạn quân mã giao cho bọn Mi Sảnh, Khuyết Chữ, ông Phi thống lĩnh, nhân lúc đêm tối cuốn cờ im trống đưa quân ra cửa thành phía tây tiến về Uyển Châu.

Lại nói Tống Giang đang ngồi trong quân doanh suy tính kế sách đánh thành thì thấy thủy quân đầu lĩnh ~ý Tuấn bước vào trong trướng, thưa:

- Chiến thuyền của thủy quân hiện đã đến đậu ở hai nơi sông Hán và sông Tương phía tây thành Sơn Nam. Tiểu đệ đến đây chờ lệnh đại huynh.

Tống Giang mời ~ý Tuấn ở lại dưới trướng, róc rượu cùng uống dăm chén. Vừa lúc ấy quân do thám trở về báo lại những tin tức nghe ngóng được trong thành, nói bọn Đoàn Nhị đã đem quân mã đến đánh Uyển Châu:

- Tống Giang nghe xong cả sợ, vội sai mời quân sư Ngô Dụng đến bàn bạc. Ngô Dụng nói:

- Trần an phủ và bọn Hoa Vinh đều là những người can đảm, dũng lược; tiên phong không phải lo cho thành Uyển Châu. Ngược lại, nhân cơ hội này ta nhất định phá được thành Sơn Nam.

Nói đoạn Ngô Dụng ghé tai nói nhỏ với Tống Giang. Tống Giang cả mừng liền truyền đạt mật kế cho bọn ~ý Tuấn và các đầu lĩnh quân bộ là bọn Bao Húc, hai mươi người, dẫn hai nghìn quân bộ, đến nửa đêm thì lên đường đi theo ~ý Tuấn, việc ấy hãy tạm chưa nói đến.

Lại nói tướng giặc là bọn Mi Sảnh đã đem quân đến gần Uyển Châu. Quân thám báo trở về báo tin, Trần an phủ giao cho Hoa Vinh và ~âm Xung đem hai vạn quân mã ra ngoài thành đón đánh. Hai tướng vừa đưa quân ra khỏi thành thì có quân thám mã lưu tinh về phi báo:

- Bọn Mi Sảnh đã ước hẹn với giặc ở Quân Châu, hiện giờ ba vạn quân mã từ Quân Châu đã kéo đến cách phía bắc thành mười dặm. Trần an phủ lại giao cho ~ã Phương, Quách Thịnh đem hai vạn quân mã ra cửa bắc thành nghênh chiến. Một giờ sau lại có tin báo về:

- Quần giặc ở Củng Châu do bọn Qúy Tam Tư, Nghê Tập thống lĩnh ba vạn quân mã đang tiến đến phía ngoài cửa tây.

Mọi người nhìn nhau sửng sốt lo lắng:

- Trong thành chỉ còn hai tướng là Tuyên Tán, Hách Tư Văn, quân mã tuy có hai vạn nhưng quá nửa là quân già yếu, làm sao chống đỡ nổi?

Bấy giờ Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng nói:

- An phủ đại nhân chớ quá lo lắng. Tiêu Nhượng tôi xin có một kế.

Nói đoạn chéo hai ngón tay trỏ nói với mọi người:

- "Xin cứ làm như thế... như thế... thì phá tan được giặc".

Mọi người từ Trần an phủ trở xuống đều gật đầu tán thưởng.

Tiếp đó Trần an phủ truyền lệnh, giao cho Tuyên Tán, Hách Tư Văn chọn năm nghìn quân tráng kiện mai phục trong cổng thành phía tây đợi khi quân giặc rút lui mới nổi dậy đánh.

Hai tướng vâng lệnh ra đi. Trần Quán lại ra lệnh cho các quân sĩ già yếu không phải giữ thành chỉ cuốn sẵn cờ đại, cờ lệnh các loại, hễ nghe tiếng súng nổ trên lầu thành cửa tây thì nhất loạt giương cờ, đi đi lại lại phía trong tường thành, nhưng không ai được ra ngoài. Cắt cử quân tướng đâu đó đã xong, Trần an phủ sai quân sĩ khiêng rượu thịt lên bày tiệc trên lầu thành cửa tây đợi quân giặc kéo đến. Chẳng bao lâu quân giặc ở Củng Châu do bọn Xúy Tam Tư và Nghê Tập chỉ huy, dưới cờ có hơn mười viên phó tướng, hiên ngang hùng hổ đem quân tiến đến dưới thành. Bọn Tam Tư, Nghê Tập thấy cổng thành mở toang, trên lầu thành có ba viên quan và một viên tú tài đang ngồi uống rượu, xung quanh đàn sáo nổi vang, thướt tha gấm lụa, nhìn quanh bốn phía tịnh không thấy một bóng cờ. Xúy Tam Tư lấy làm lạ, không dám cho quân tiến lên. Nghê Tập nói:

- Trong thành đã sẵn sàng nghênh chiến, chúng ta phải rút ngay kẻo bị trúng kế của địch.

Xúy Tam Tư liền ra lệnh lui quân. Bỗng nghe trên lầu thành một tiếng pháo nổ vang, rồi quân sĩ bốn phía hò reo vang trời, chiêng trống dậy đất. Không biết bao nhiêu cờ to, cờ nhỏ di động qua lại phía trong tường thành. Quân lính nghe hai vị chủ tướng nói chuyện với nhau đã lấy làm nghi ngờ kinh sợ, bây giờ lại càng hoảng hốt, không đánh mà rối loạn. Từ trong thành Tuyên Tán và Hách Tư Văn nhanh chóng dẫn quân đánh thốc ra. Quân giặc đại bại, vứt bỏ cờ xí, chiêng trống, giáo mác, ngựa chiến, giáp trụ nhiều vô kể, số bị chém đầu đến hơn một vạn tên. Xúy Tam Tư và Nghê Tập đều bị loạn quân giết chết. Quân sĩ còn lại tán loạn tìm đường chạy trốn. Tuyên Tán, Hách Tư Văn đắc thắng thu binh dẫn quân về thành. Trần an phủ trước đó đã trở về súy phủ.

ở phía bắc, bọn Hoa Vinh, Lâm Xung đã giết được hai tướng Khuyết Chữ và ông Phi, đánh tan quân giặc từ Quân Châu kéo đến, chỉ riêng Mi Sảnh trốn thoát. Bọn Hoa Vinh thắng trận đem quân trở về, khi sắp vào thành thì nghe tin quân giặc từ hai đường đánh tới:

- Giặc ở phía tây trúng kế Tiêu Nhượng đã phải rút lui, còn giặc ở phía nam thì bọn Lã Phương, Quách Thịnh đang chặn đánh, chưa biết thắng bại ra sao. Bọn Hoa Vinh liền truyền lệnh cho quân sĩ ruổi ngựa tiến gấp về phía nam. Bấy giờ Lã Phương và Quách Thịnh đang hợp sức giao chiến với tướng giặc. Lâm Xung, Hoa Vinh thấy vậy liền thúc ngựa đến hỗ trợ. Quân giặc bị đánh tan số bị chém đầu tại trận và bắt sống nhiều không đếm xuể.

Như vậy trong ngày hôm ấy cả ba cánh quân của Vương Khánh bị chết đến hơn ba vạn tên. Số bị thương không tính hết, khắp nơi thây chết đầy đồng, máu chảy ngập ruộng. Các tướng Lâm Xung, Hoa Vinh, Lã Phương, Quách Thịnh thu quân về thành, cùng với Tuyên Tán, Hách Tư Văn đến báo công trước trướng của Trần an phủ. Trần Quán, Hầu Mông, La Tiễn đều vui mừng khen ngợi diệu kế của Tiêu Nhượng, biểu dương anh em bọn Hoa Vinh dũng cảm anh hùng. Các tướng dạ ran, khiêm nhường không dám nhận. Trần an phủ sai bày tiệc lớn khao thưởng ba quân tướng sĩ, ghi công cho bọn Tiêu Nhượng, Lâm Xung, một mặt truyền lệnh cho quân sĩ giữ vững thành trì, chuyện không nói nữa.

Lại nói Đoàn Nhị sai bọn Mi Sảnh đe ai quân ra khỏi thành, đêm hôm sau Đoàn Nhị đứng trên.lầu thành nhìn về phía quân Tống. Bấy giờ sắp đến rằm tháng tám, vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng như ban ngày. Đoàn Nhị thấy bên quân Tống các loại cờ hiệu di động lộn xộn, rồi từ từ lui về hướng bắc. Đoàn Nhị nói với viên phó tham mưu:

- Có lẽ Tống Giang biết tin Uyển Châu nguy cấp nên đành rút lui.

Phó tham mưu nói:

- Hẳn đúng thế. Chúng ta phải điều ngay quân thiết kỵ ra ngoài thành đuổi đánh.

Đoàn Nhị bèn ra lệnh cho hai tướng Tiền Tân, Tiền Nghi điều hai vạn quân mã đuổi theo quân Tống. Hai tưởng vâng lệnh đi ngay. Đoàn Nhị nhìn về phía tây, thấy dòng Tương Thủy ở ngoài thành lăn tăn lấp lánh ánh trăng, đoàn chiến thuyền bốn năm trăm chiếc cũng đi dần lên phía bắc. Đoàn Nhị ngày thường đã quen cướp phá, đêm nay thấy một đoàn thuyền lương đông như thế, lại không có thủy quân đi kèm, mỗi thuyền chỉ có chừng sáu bẩy tay chèo, bèn ra lệnh mở cửa sông phía tây thành, sai thủy quân tổng quản Chư Năng dẫn năm trăm chiến thuyền đuổi theo đoạt đoàn thuyền lương.

Quân Tống thấy chiến thuyền của Đoàn Nhị tiến đến liền hạ lệnh cho thuyền ghé vào bờ, các thủy thủ đều nhẩy lên bộ.

Vừa lúc đoàn thuyền của Chư Năng đến gần, bỗng nghe bên phía thuyền quân Tống tiếng phèng la nổi lên vang trời, liền đó hơn một trăm chiếc thuyền nhỏ, mỗi thuyền có hai người chèo, ba bốn người cầm thương giơ thuẫn, vun vút lao tới.

Chư Năng ra lệnh cho thủy quân bắn hỏa pháo và tên lừa chặn đánh. Quân trên các thuyền nhỏ không chống cự nổi, kêu la inh ỏi rồi nhảy ào xuống nước. Quân giặc đắc thắng đoạt lấy đoàn thuyền lương. Chư Năng ra lệnh cho các thủy thủ đem hết số thuyền đó vào thành. Chiếc đi đầu vừa qua khỏi cửa sông thì có lệnh từng thuyền một phải khám xét, rồi mới được vào thành. Chư Năng sai quân khám xét chiếc thuyền đã qua cửa sông. Hơn mười tên lính nhẩy lên mở cửa thuyền nhưng không thể mở được vì cửa khoang đã bị đóng chặt bằng một tấm gỗ. Chư Năng cả sợ nói:

- Trúng gian kế của địch rồi!

Nói xong ra lệnh đem búa đến phá chốt mở khoang thuyền.

Một mặt ra lệnh:

- "Những thuyền còn ở bên ngoài hãy thong thả chưa được vào". Chư Năng chưa dứt lời thì thấy bên ngoài ba bốn chiếc thuyền lương không có người chèo, nhưng dẫn theo dòng nước trôi nhanh như buồm gặp gió. Chư Năng biết bị mắc mưu, vội sai lôi ngay những thuyền ấy vào bờ. Đúng lúc ấy, từ dưới nước nhô lên hơn chục người, ai nấy đều ngậm dao lá răm ngang miệng. Đó chính là tám vị anh hùng thủy quân:

- Lý Tuấn, hai anh em họ Trương, ba anh em họ Nguyễn, hai anh em họ Đồng. Chư Năng hạ lệnh cho quân sĩ cầm giáo đâm xuống, Lý Tuấn bèn đặt tay lên miệng huýt còi. Bấy giờ các đ~ u lĩnh quân bộ nấp trong khoang thuyền tay lăm lăm khí giới, bật cửa hò hét xông ra. Đấy là bọn hai mươi tám đầu lĩnh:

- Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn) Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Vương Định Lục, Bạch Thắng, Đoàn Cảnh Trụ, Thời Thiên, Thạch Dũng, Lăng Chấn cùng hơn một nghìn quân bộ ào ạt nhẩy lên bờ, xông vào chém giết. Quân giũ thành không chống cự nổi, tán loạn tìm đường chạy trốn. Chư Năng bị Đồng Uy chém đầu, quân tướng trên các thuyền ở cả trong và ngoài thành bị bọn Lý Qùy giết chết đến quá nửa, nước sông đỏ ngầu. Bọn Lý Tuấn chiếm lấy thủy môn. Bấy giờ Bao Húc hộ vệ cho Lăng Chấn bắn pháo hiệu oanh thiên đạn mẹ đẻ đạn con, rồi chia nhau đi đánh phá các nơi. Dân chúng trong thành xôn xao, cha con, anh em hô gọi nhau nháo nhác. Đoàn Nhị biết có biến vội đem quân đến cứu ứng, gặp ngay bọn Võ Tòng, Lưu Đường, Dương Hùng, Thạch Tú, Vương Định Lục. Vương Định Lục lia một phác đao ngang đùi, Đoàn Nhị ngã gục và bị bắt sống. Bọn Lỗ Trí Thâm, Lý Qùy hơn mười đầu lĩnh dẫn quân xông lên cửa bắc, chém giết đánh tan quân canh giữ rồi mở cửa thành, thả cầu treo. Bấy giờ binh mã của Tống Giang nghe tiếng pháo oanh thiên nổ vang liền quay lại đánh. vừa gặp Tiền Tân, Tiền Nghi đem quân tiến đến. Quân hai bên xông vào hỗn chiến, Tiền Tân bị Biện Tường đâm chết. Tiền Nghi bị Mã Linh đánh ngã, rồi bị người ngựa xéo nát như bùn. Ba vạn quân thiết kỵ của bọn Tân, Nghi bị giết tại trận đến quá nửa. Các tướng Tôn An, Biện Tường, Mã Linh dẫn quân lên trước, ruổi dài thẳng tiến vào cửa bắc. Các tướng đánh tan quân giặc, đoạt lấy thành trì, mời Tống tiên phong đem đại binh vào đóng trong thành.

Bấy giờ trời đã gần sáng, Tống Giang truyền lệnh cho quân sĩ dập tắt các đám cháy, cấm giết hại dân thường. Đến khi trời sáng, Tống tiên phong cho treo bảng chiêu an, các tướng đều đem thủ cấp giặc đến báo công. Vương Định Lục áp giải Đoàn Nhị đến trước trưởng. Tống Giang sai đưa đến trình Trần an phủ rồi đem xử chém. Viên phó tham mưu thì đã bị chết trong đám loạn quân, các tướng tá khác chết trận nhiều vô kể, số đầu hàng đến hơn một vạn tên. Tống Giang truyền lệnh giết trâu mổ ngựa khao thưởng ba quân tướng sĩ, ghi công đầu cho Lý Tuấn, thứ đến là các đầu lĩnh khác, sai Mã Linh đến dinh Trần an phủ báo tin thắng trận và hỏi tình hình quân giặc. Mã Linh tuân lệnh ra đi, độ vài giờ sau trở về báo:

- "Trần an phủ được tin rất vui mừng, sẽ dâng biểu về kinh tâu lên triều đình". Mã Linh còn thuật lại chuyện nhi ri nói ng dùng mưu đẩy lùi quân giặc. Tống Giang ngạc Nếu quân giặc đoán ra ý định thì đối phó thế nào? Đúng là mưu mẹo của thư sinh?

Tống Giang xuống lệnh lấy thóc gạo trong kho chẩn cấp cho những người bị tai nạn binh hỏa. Một mặt sai thu xếp các khoản việc quân.

Công việc đã tạm xong, Tống Giang đang cùng quân sư Ngô Dụng bàn kế tiến đánh quận Kinh Nam thì tiếp thư của Trần an phủ cho biết:

- Khu mật viện gửi trát đến nói quân giặc hoành hành ở Tây Kinh, thường thọc sang đánh phá các huyện thuộc Đông Kinh, vậy truyền cho anh em Tống Giang kịp đến Tây Kinh dẹp giặc, còn sào huyệt của Vương Khánh.

sẽ tiến đánh sau. Trần an phủ cũng có thư riêng cho Tống Giang, trong đó kể vài chuyện nực cười của khu mật viện.

Tống Giang, Ngô Dụng đã hiểu rõ ý của Trần an phủ, liền bàn kế điều quân:

- Một mặt vẫn đánh Kinh Nam, một mặt tiến đánh Tây Kinh. Bấy giờ phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa và các hàng tướng Hà Bắc đều tình nguyện đem quân đánh Tây Kinh. Tống Giang cả mừng, liền điều hai mươi bốn viên chánh phó tướng và năm vạn quân mã đặt dưới quyền thống lĩnh của Lư Tuấn Nghĩa. Hai mươi bốn viên chánh phó tướng ấy là:

- Phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa Phó quân sư Chu Vũ; Các tướng Dương Chí, Từ Ninh, Tôn Lập, Sách Siêu, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Trần Đạt, Dương Xuân, Yến Thanh, Giải Trân, Giải Bảo, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Tiết Vĩnh, Lý Trung, Mục Xuân, Thi ân.

Các hàng tướng Hà Bắc:

- Kiều Đạo Thanh, Mã Linh, Tôn An, Biện Tường, Sơn Sĩ Kỳ, Đường Bân. Ngay ngày hôm ấy Lư Tuấn Nghĩa cáo từ Tống tiên phong rồi thống lĩnh tướng tá quân mã lên đường đi đánh Tây Kinh.

Tống Giang lệnh cho Sử Tiến, Mục Hoẵng, âu Bằng, Đặng Phi thống lĩnh hai vạn quân mã ở lại đóng giữ thành Sơn Nam. Tống Giang căn dặn Sừ Tiến:

- Nếu quân giặc đến đánh thì anh em ở đây chỉ nên giữ thành cho chắc.

Rồi Tống Giang thống lĩnh các tướng còn lại cùng tám vạn quân mã nhằm phía Kinh Nam tiến phát. Chỉ thấy:

- Giáo gươm nườm nượp như nước chảy, người ngựa bon nhanh tựa gió ào.

Đúng là:

Gươm đao trắng lóa nghìn dặm tuyệt

Lọng cờ đỏ rực vạn chân mây.

Chưa biết quân Tống Giang đi đánh châu Kinh Nam thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 107

Tống Gian Đại Thắng Kỷ Sơn Quân

Chu Vũ Phá Tan Lục Hoa Trận

Đang nói chuyện Tống Giang thống lĩnh đại quân người ngựa tiến nhanh về phía Kinh Nam, mỗi ngày quân đi sáu mươi dặm thì đóng trại nghỉ ngơi. Phàm những nơi đại quân đi qua không tơ hào xâm phạm tài sản của dân. Chẳng bao lâu người ngựa dừng đóng ở huyện Kỷ Sơn. Huyện này là nơi trọng yếu về phía bắc châu Kinh Nam, do tướng giặc là Lý Hoài quản lĩnh ba vạn binh mã đóng giữ trên núi. Tên Lý Hoài này là cháu Lý Trợ, được Vương Khánh phong chức huyện tuyên phủ sứ. Lý Hoài nghe tin anh em Tống Giang thắng trận ở quận Sơn Nam, Đoàn Nhị bị bắt sống, bèn sai quân lưu tinh về châu Nam Phong tâu với Vương Khánh và Lý Trợ.

- Quân Tống Giang binh hùng tướng mạnh đã đánh chiếm hai quận lớn, nay bọn chúng sắp tiến đánh Kinh Nam, lại sai Lư Tuấn Nghĩa đem binh mã đến đánh Tây Kinh.

Lý Trợ nghe nói cả sợ, liền vào cung tâu với Vương Khánh.

Quan nội thị chuyển tâu vào trong. Một lát sau có thánh chỉ truyền:

- "Quân sư hãy đợi. Đại vương sẽ ra ngự Ở chính điện".

Lý Trợ chờ đợi hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh, bèn hỏi thăm viên quan hầu quen biết. Người này nói:

- Đại vương và Đoàn chính phi đang to tiếng cãi nhau.

Lý Trợ hỏi:

-

- To tiếng vì chuyện gì?

Viên quan hầu ghé tai nói nhỏ với Lý Trợ:

- "Đoàn chính phi gây sự vì đã lâu không được đại vương ngó đến". Lý Trợ lại chờ thêm lúc nữa mới thấy viên hầu cận ra bảo:

- Đại vương hỏi quân sư còn chờ ở đây không?

Lý Trợ đáp:

- Hạ quan vẫn đợi ở đây.

Nội thị lại chuyển tâu vào cung, lúc sau thấy một đoàn thị tì theo hầu Vương Khánh lên chính điện. Lý Trợ bước vào lạy chào rồi tâu:

- Cháu của hạ thần là Lý Hoài báo tin về nói quân Tống Giang thế lực hùng mạnh, đã đánh chiếm hai thành Uyển Châu và Sơn Nam. Nay Tống Giang đang chia quân hai đường:

- Một đánh về Tây Kinh, một đánh Kinh Nam. Cúi mong đại vương cho quân đi cứu viện.

Vương Khánh cả giận nói:

- Bọn Tống Giang là giặc cỏ sao dám cả gan chiếm đoạt thành trì của ta?

Nói đoạn sai đô đốc Đỗ Canh thống lĩnh mười hai viên chánh phó tướng và hai vạn quân mã đi cứu viện Tây Kinh.

Lại sai thống quân đại tướng Tạ Vũ thững lĩnh mười hai chánh phó tướng và hai vạn quân mã cứu viện Kinh Nam. Hai tướng nhận binh phù, tướng lệnh, lựa chọn binh mã, sửa soạn khí giới để lên đường. Các tướng tá do khu mật viện điều tới cùng quan chuyển vận sứ Cung Chính lo việc vận chuyển lương thảo cùng vào cáo từ Vương Khánh để lên đường, chuyện không có gì đáng nói.

Lại nói binh mã của Tống Giang đến phía bắc, cách núi Kỷ Sơn mười dặm thì dừng lại đóng trại, chuẩn bị tiến đánh.

Quân do thám trở về báo cáo tình hình bên giặc. Tống Giang bàn bạc với quân sư Ngô Dụng, rồi nói với các tướng:

- Ta nghe nói thủ hạ của tên Lý Hoài đều là những tướng sĩ dũng mãnh, Kỷ Sơn lại là nơi trọng trấn của Kinh Nam.

Bên ta tuy quân đông gấp bội, nhưng địch giữ chỗ hiểm, ta ở nơi địa thế thấp, dễ bị quân địch bao vây. Tên Lý Trợ rất khôn ngoan quỷ quyệt, anh em các tướng tiến đánh cần phải xem xét tình thế không được khinh suất xem thường.

Nói đoạn hạ lệnh:

- Tướng quân vào doanh đóng cửa giảng bàn việc nước, ai làm việc riêng:

- Chém; ai to tiếng tranh cãi:

- Chém. Quân không có hai lệnh, kẻ nào hai lệnh:

- Chém; kẻ nào bất tuân lệnh:

- Chém.

Tuyên bố quân lệnh xong, toàn quân im phăng phắc. Tống Giang sai Đái Tôn đi truyền lệnh cho đầu lĩnh thủy quân Lý Tuấn phải canh phòng cẩn mật đoàn thuyền chở lương để kịp thời tiếp tế cho quân sĩ. Lại sai người viết thư khiêu chiến gửi cho Lý Hoài, hẹn hôm sau đem quân quyết chiến.

Tống Giang phong truyền lệnh sai Tần Minh, Đổng Bình, HÔ Diên Chước, Từ Ninh, Trương Thanh, Quỳnh Anh, Kim Đĩnh, Hoàng Việt dẫn hai vạn quân mã tiến lên đánh trước.

Sai Tiêu Đĩnh, ục Bảo Tứ, Đoàn Cảnh Trụ, Thạch Dũng dẫn hai nghìn quân bộ đi chặt cây mở đường cho tiện chiến đấu.

Cắt cử mọi việc đâu đó xong, Tống Giang và các tướng khác ở lại giữ trại. Ngày hôm sau, từ canh năm, quân sĩ thức dậy thổi cơm, người ngựa ăn uống no, chờ lệnh đi đánh giặc. Bên quân địch, Lý Hoài và các phó tướng Mã Cường, Mã Kính, Viên Lãng, Đằng Quỳ, Đằng Kham và hai vạn quân mã ào ạt tiến đánh. Đó là năm tên kiêu dũng nhất trong số tướng giặc đã được Vương Khánh phong là "Hổ uy tướng quân". Bấy giờ Lý Hoài dẫn quân đến dàn trận đối diện với bọn Tần Minh ở chân núi phía bắc, trên núi còn có quân mã phục sẵn để tiếp ứng. Cờ xí phất phơ rải khắp chiến trường. Quân hai bên dàn thành trận thế, đối trận đều là những tay cung nỏ thiện xạ.

Tên bay tới tấp, tiếng trống thúc hò reo vang trời, cờ lệnh đủ :

- Tung bay loạn mắt.

Bên quân Vương Khánh, Viên Lãng cưỡi ngựa đứng dưới cờ tướng. Viên tướng này đầu dội mũ sắt, mình mặc áo chiến bào thêu hoa cuộn, ngoài chẽn giáp sắt đen bóng, cưỡi ngựa Ô truy lông xoắn, mặt đỏ râu vàng, thân cao chín thước, hai tay cầm hai cây giáo thủy tạ, một chiếc nặng mười lăm cân, một chiếc nặng mười sáu cân. Viên Lãng cất tiếng nói to:

- Bọn giặc cỏ kia, kẻ nào dám đến đây nộp mạng Bên trận quân Ương, hai hàng tướng Hà Bắc là Kim Đĩnh và Hoàng Việt muốn lập công liền sánh ngựa xông ra trước trận mắng rằng:

- Bọn phản nghịch không đáng đếm xỉa?

Nói đoạn Kim Đĩnh liền vung cây đại đao bạt phong, Hoàng Việt múa cây giáo hồn thiết điểm cương thúc ngựa phóng đến đánh Viên Lãng. Viên Lãng liền vung đôi giáo đón chặn; ba người ngồi trên ngựa dàn thành hình chữ "đinh". Ba tướng đánh nhau chưa đầy ba mươi hiệp. Viên Lãng giơ giáo chặn đỡ rồi quay ngựa bỏ chạy. Kim Đĩnh, Hoàng Việt thúc ngựa đuổi theo. Bất ngờ Viên Lãng quay ngựa lại, ngựa của Kim Đĩnh quá đà hơi vượt lên. Kim Đĩnh định vung đao chém với, nhưng Viên Lãng đã kịp đỡ, nghe "choang" một tiếng, thanh đao của Kim Đĩnh đã bị quằn lưỡi. Kim Đĩnh thu đao không kịp, bị Viên Lãng vươn tay phải đâm một giáo xuyên qua cả mũ sắt và đầu, lăn nhào xuống ngựa. Hoàng Việt kịp phóng ngựa đến lao mũi giáo nhằm vào tim Viên Lãng, nhưng Viên Lãng nhanh như cắt né mình tránh được. Mũi giáo của Hoàng Việt mất đà, đâm sượt qua bên hông Viên Lãng. Viên Lãng kẹp nách trái lại rồi thuận thế giật mạnh cán giáo của Hoàng Việt, Hoàng Việt mất đà ngã nhào vào ngực Viên Lãng. Viên Lãng vội vươn tay phải ôm ngang lưng Hoàng Việt rồi xô mạnh xông đất. Quân giặc hò reo chạy đến bắt Hoàng Việt lôi về, con ngựa của Hoàng Việt đã kịp chạy về bên quân Tống. Tích lịch hỏa Tần Minh thấy mất hai tướng, trong lòng cả giận thúc ngựa chồm ra trước trận múa cây lang nha côn xông thẳng đến đánh Viên Lãng. Viên Lãng cũng múa qua đón chặn. Hai tướng đánh nhau hơn năm mươi hiệp, bên trận quân Tống nữ tướng Quỳnh Anh cưỡi ngựa bạch, tay cầm cây phương thiện họa kích, đầu đội mũ trụ màu tía cắm lông phượng, mình mặc áo bào thêu lụa đỏ, ngoài chẽn áo giáp vẩy bạc có khảm vàng xông trận trợ chiến cho Tần Minh. Tướng giặc là Đằng Qùy thấy viên nữ tướng thì vội cưỡi ngựa xông ra trận, cười lớn:

- Bọn giặc cỏ Tống Giang sao lại đưa tướng đàn bà ra trận?

Nói đoạn giơ cây đao hai mũi ba lưỡi mác đón Quỳnh Anh.

Hai người đánh nhau hơn mười hiệp. Quỳnh Anh giơ kích gạt mũi đao của Đằng Qùy rồi quay ngựa chạy về phía trận nhà.

Đằng Qùy quát to một tiếng, thúc ngựa đuổi theo. Quỳnh Anh lén lấy đá trong chiếc túi gấm treo bên yên ngựa, quay lưng lại ném trúng giữa trán Đằng Quỳ. Đằng Qùy mặt bết máu, lăn nhào xuống ngựa. Quỳnh Anh bất ngờ quay ngựa đâm tiếp một mũi kích, kết liễu đời hắn. Đằng Kham thấy anh mình bị chết bởi tay một viên nữ tướng, bừng bừng tức giận, đạp ngựa ra trận vung roi sắt xông đến đánh Quỳnh Anh. Bên quân Tống, sõlg tiên tướng HÔ Diên Chước phóng ngựa vung roi ra chặn đánh Đằng Kham. Quân hai bên thấy tướng ngang sức ngang tài mà trang phục cũng giống nhau:

- HÔ Diên Chước chít khăn mỏ rìu buông vạt đứng, mặc áo cụt chẽn ngực lửa vàng ánh kim, áo bào thất tinh màu đen, ngoài khoác giáp sắt đen bóng, cưỡi ngựa Ô truỵ Đằng Kham chít khăn mỏ rìu thắt vạt chéo chẽn ngực, lụa đỏ ánh lửa lông vàng. Xem ra HÔ Diên Chước chỉ hơn Đằng Kham một cây roi sắt thủy ma bát lăng. Hai người xoay vòng tròn trước trận, giao đấu vời nhau khi qua khi lại, hơn năm mươi hiệp chưa phân thắng bại. Ở đằng kia, Tần Minh và Viên Lãng đã giao đấu đến một trăm năm mươi hiệp vẫn không phân thắng bại.

Chủ tướng giặc là Lý Hoài đứng trên cao thấy nữ tướng bên quân Tống ném đá giết Đằng Quỳ, bèn khua chiêng thu binh, bọn Viên Lãng đưa quân rút lên núi. Tần Minh, HÔ Diên Chước thấy tướng giặc dũng mãnh cũng không đuổi theo, bèn quay lại dẫn quân về trại. Bọn Tần Minh trở về báo với Tống tiên phong biết quân giặc thế mạnh đã giết hai tướng Kim Đĩnh và Hoàng Việt, nếu không có vợ chồng Trương Thanh thì quân ta đã mất nhuệ khí. Tống Giang lo lắng buồn phiền, nói vôi quân sư Ngô Dụng:

- Tình thế như vậy, làm sao đánh được Kinh Nam?

Ngô Dụng chập chập hai ngón tay trỏ phác họa kế sách đánh Kinh Nam. Tống Giang cả mừng nghe theo. Tiếp đó Tống Giang truyền lệnh cho Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Tiêu Đĩnh, Lý Quỳ, Phàn Thụy, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Trịnh Thiên Thọ, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Thạch Dũng tất cả là mười bốn đầu lĩnh cùng pháo thủ Lăng Chấn, dẫn năm nghìn quân khỏe mạnh, nhanh nhẹn, nhân lúc tối trăng, ai nấy chỉ đem các thứ khí giới nhẹ như đoản đao, mã tấu theo đường tắt đi lén ra phía sau núi. Các đầu lĩnh vâng lệnh ra đi. Sáng hôm sau Lý Hoài sai chuyển chiến thư đến quân doanh của Tống Giang. Ngô Dụng bàn với Tống tiên phong:

- Quân giặc tất có mưu kế xảo quyệt. Nhưng bên ta bọn Lỗ Trí Thâm đã lọt vào nơi trọng yếu, như vậy xin tiên phong cứ cho sửa soạn để đánh ngaỵ Tống Giang chấp thuận đem quân giao chiến ngay hôm ấy, phê vào thư cho lính của Lý Hoài mang về núi, rồi truyền lệnh cho Tần Minh, Đổng Bình, HÔ Diên Chước, Từ Ninh, Trương Thanh, Quỳnh Anh làm tiên bộ thống lĩnh hai vạn quân mã, cho quân cung nỏ đi bên ngoài, quân đánh kích thuẫn đi bên trong, xe trận tiên trước có kỵ binh đi kèm. Sai Hoàng Tín, Tôn Lập, Vương Anh Hỗ Tam Nương điều khiển một vạn quân mã túc trực trong doanh chờ lệnh. Lại sai Lý ứng , Sài Tiến, Hàn Thao, Bành Kỷ điều khiển một vạn quân mã ngựa trực sẵn trong doanh. Tống tiên phong căn dặn:

- "Hễ nghe tiếng pháo hiệu thì các tướng từ hai hướng đông nam phải lập tức đem quân đánh ập vào". Mặt khác lệnh cho Quan Thắng, Chu Đồng, Lôi Hoành, Tôn Tân , CốĐạI Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương thống lĩnh hai vạn quân mã và quân bộ đóng giữ phía sau trại lớn đề phòng viện binh của giặc đánh tới.

Cắt đặt công việc đã xong, Tống Giang cùng Ngô Dụng và Công Tôn Thắng đích thân ra trận đốc chiến, còn các tướng tá khác ở lại giữ trại. Khoảng đầu giờ Thìn, Ngô Dụng trèo lên chòi quan sát, thấy địa hình núi non hiểm trở, vội xin Tống tiên phong ra lệnh cho quân mã lui về phía sau hai dặm, dàn trận ở đó để có thể hỗ trợ cho hai đội kỵ binh. Quân Tống vừa dàn trận xong thì từ núi Kỷ Sơn, tướng giặc Lý Hoài thống lĩnh bốn viên hổ tướng:

- Viên Lãng, Đằng Kham, Mã Cương, Mã Kính dẫn hai vạn năm nghìn quân mã đi trước.

Đằng Kham sai quân sĩ cắm đầu Hoàng Việt lên chiếc sào dài vác theo trong đoàn xung trận năm nghìn quân thiết kỵ. Quân mã của Đằng Kham đầu đội mũ sắt dầy, khoác giáp nặng, chỉ hở đôi mắt, ngựa chiến cũng khoác giáp, đeo mặt nạ, chỉ chừa bốn vó. Hôm qua Lý Hoài thấy nữ tướng bên quân Tống có tài ném đá rất lợi hại, đã sát thương một tướng bên mình, Lý Hoài nghĩ bụng hôm nay nếu xảy ra như thế thì dù có ném đá cũng chẳng làm gì nổi. Bấy giờ năm nghìn quân mã của Đằng Kham cứ hai tay cung thủ hỗ trợ một tên quân đánh giáo mà tiến đánh. Quân bộ đi theo sau chia làm hai cánh đánh ốp vào. Quân Tống chống cự không nổi, phải lùi về phía sau. Tống Giang vội truyền lệnh bắn pháo hiệu. Mấy trăm quân sĩ đẩy xe bị quân Lý Hoài bắn sát thương, may có những

chiếc xe ngựa chặn đường nên quân thiết kỵ của Lý Hoài không tiến lên được. Những xe phía sau tuy có ky binh đi kèm nhưng cũng không tiến lên được. Đang lúc nguy cấp bỗng nghe tiếng súng liên châu nổ vang sau núi, rồi bọn Lỗ Trí Thâm dẫn quân trèo núi vượt đánh xông lên.

ở sơn trại của giặc chỉ có bốn nghìn tên già yếu, do một viên tướng chỉ huy, bị giết sạch không còn một mống. Anh em trí Thâm liền đoạt lấy sơn trại. Bọn Lý Hoài thấy sau núi òề biến vội cho quân lui về, bị hai cánh quân do bọn Hoàng Tính và Lý ưng đánh úp vào. Tống Giang lại lệnh cho các pháo thủ nhằm vào quân thiết kỵ của giặc mà bắn. Quân Lý Hoài thua lớn, tan rã bỏ chạy. Bọn Lỗ Trí Thâm, Lý Qùy mười bốn đầu lĩnh dẫn quân bộ từ trên núi đánh bạt xuống, quân giặc bị giết nhiều như ngả rạ, số sống sót tán loạn tìm đường bỏ chạy. Tiếc thay cho Viên Lãng là viên mãnh tướng giờ đây bị giết bởi làn đạn lửa? Lý Hoài chạy sau, bị Lỗ Trí Thâm giết chết, Mã Kinh, Đằng Kham bị giết trong đám loạn quân, chỉ một mình Mã Cương trốn thoát. Quân Tống Giang thu được giáp trụ, chiêng trống, ngựa chiến nhiều vô kể. Hơn ba vạn quân Lý Hoài chết trận đến quá nửa. Khắp nơi trên núi, dưới đồi từ thi chất đống. Tống Giang truyền lệnh thu quân, điểm lại quân sĩ mới biết thiệt hại đến hơn nghìn người.

Bấy giờ cũng vừa lúc trời sắp tối, Tống Giang bèn cho quân đóng lại nghỉ ngơi ở phía bắc núi Kỷ Sơn. Ngày hôm sau Tống Giang dẫn tướng sĩ lên núi sai quân thu thập vàng bạc, lương thảo của bọn Lý Hoài, phóng hỏa đốt trại của chúng rồi khao thưởng ba quân tướng sĩ, ghi thứ tự công lao cho bọn Lỗ Trí Thâm mười lăm người và nữ tướng Quỳnh Anh. Xong việc, Tống Giang lại đốc suất quân sĩ lên đường. Vượt qua Kỷ Sơn, đại binh của Tống Giang dừng lại đóng trại cách thành Kinh Nam mười lăm dặm. Tống tiên phong bàn bạc với quân sư Ngô Dụng để sắp xếp điều khiển các tướng sửa soạn tiến đánh thành Kinh Nam. Chuyện ấy bất tất phải kể đến.

Chuyện kể tiếp sau đây theo hai đường:

- Hãy quay lại nói việc Lư Tuấn Nghĩa đem quân tiến đánh Tây Kinh, quân đi đến đâu bạt núi mở đường, bắc cầu qua sông suối. Quân giặc đóng ở Bảo Phong, và các nơi khác trên đường đại quân đi qua đều đầu hàng qui thuận, chong đèn đốt đuốc, dâng hương hoa tiến nộp thành trì, xin hàng triều đình. Lư Tuấn Nghĩa ôn tồn úy lạo phủ dụ, vẫn giao cho các hàng tướng tiếp tục cai quản thành trì. Các hàng tướng vì thế cảm động ứa nước mắt, đều bầy tỏ ý nguyện cải tà qui chính.

Từ đó bọn Lư Tuấn Nghĩa không phải lo lắng mạn phía nam, ngày đêm dẫn quân mã ruổi dài thẳng tiến.

Chẳng bao lâu đại quân của Lư Tuấn Nghĩa đã đến phía nam thành Tây Kinh ba mươi dặm. Lư Tuấn Nghĩa xuống lệnh cho quân đóng trại ở núi Y Khuyết. Quân thám mã đi dò tin tức, trở về báo tin chủ súy giặc là ngụy tuyên phủ sứ Cung Đoan cùng các viên thống quân Hề Thắng và mấy viên mãnh tướng đóng trong thành. Riêng tướng thống quân Hề Thắng là người khá am hiểu trận pháp. Lư Tuấn Nghĩa cùng phó quân sư Chu Vũ định bàn nghị kế sách tiến đánh Tây Kinh. Phó quân sư nói:

- Chu Vũ tôi được biết Hề Thắng là kẻ hiểu biết binh pháp.

Chắc hắn sẽ tìm cách đương đầu với bọn ta. Vậy bên ta nên bầy trước trận thế, đợi bọn hắn đem quân đến sẽ từ từ tiến ra khiêu chiến.

Lư Tuấn Nghĩa nói:

- Lời bàn của quân sư rất phải.

Nói đoạn hạ lệnh đưa quân mã xuống bãi núi phía nam dàn thành thế trận Tuần hoàn bát quái.

Đang chờ thì thấy quân giặc ở Tây Ninh chia ba đường trung quân giương cờ đỏ, tả quân giương cờ xanh, hữu quân cũng giương cờ đỏ cùng lúc tiến đến. Hề Thắng thấy quân

Tống dàn thế trận trước bèn truyền lệnh chò hai cánh quân tả hữu dừng lại đóng trại. Hề Thắng tự mình lên chòi cao quan sát trận Tuần hoàn bát quái của quân Tống rồi nói:

- Thế trận này chẳng lấy gì làm cao lắm. Đợi đó sẽ cho chúng biết trận pháp của ta?

Nói đoạn Hề Thắng sai quân gióng ba hồi trống, lên đứng trên tướng đài, hai tay phất hai cờ hiệu để điều khiển quân sĩ hai bên tả hữu dàn trận thế. Dàn thế trận xong, Hề Thắng bước xuống, gọi tướng giữ kỳ môn mở cửa trận rồi thúc ngựa đến trước trận nói lớn:

- Ngươi bầy trận Tuần hoàn bát quái định che mắt ta sao?

Lư Tuấn Nghĩa thấy Hề thắng muốn đối đáp trận pháp bèn cùng Chu Vũ lên chòi quan sát nhìn sang. Trận thế của giặc cứ ba người kết thành một tiểu đội, hợp ba tiểu đội thành một trung đội, hợp năm trung đội thành một đại đội, xếp theo thế ngoài vuông trong tròn, lấy trận lớn bao trận nhỏ để hỗ trợ liên lạc với nhau. Chu Vũ nói với Lư Tuấn Nghĩa:

- Đấy là phép trận Lục hoa của Lý Dược S~l), Lý Dược Sư (#1)dựa vào Bát trận đồ của Vũ Hầu Gia Cát Lượng, cắt xén thành trận Lục hoa. Quân giặc khinh ta không biết thế trận đó, mà chẳng hay rằng đó cũng chỉ là trận bát quái, biết tám tám thành sáu tư. Như vậy phép bát trận đồ của Gia Cát Lượng có thể phá được trận Lục hoa.

Lư Tuấn Nghĩa bèn ra trước trận quát to:

- Trận Lục hoa của ngươi cũng chẳng có gì lạ?

Hề Thắng nói:

- Ngươi có dám đánh vào không?

Lư Tuấn Nghĩa cả cười nói:

- Thế trận của ngươi nhỏ bé, đánh có khó gì~ Nói đoạn thúc ngựa vào trận. Chu Vũ đứng trên tướng đài giơ cờ hiệu phất trái giơ phải biến thành thế Bát trận đồ. Chu Vũ thay Lư Tuấn Nghĩa truyền lệnh cho Dương Chí, Tôn An, Biện Tường ưnh một nghìn quân mã tiến vào đánh trận. Chu Vũ nói:

- Hôm nay thuộc về ngày Kim, hãy xuất phát từ phương ly ở phía nam, tất cả cùng lúc xông trận.

Bọn Dương Chí tuân lệnh, gióng ba hồi trống đại. Các tướng nghe hiệu lệnh đều băng băng tiến đến phá tam môn kỳ phía tây, giết tướng, chém quân, rồi ào ạt xông vào giữa trận. Bên trận chính Lư Tuấn Nghĩa cùng bọn Mã Linh dẫn quân đánh ào sang, quân giặc đại bại.

Lại nói bọn Dương Chí tung quân đánh vào giữa trận quân giặc thì gặp ngay Hề Thắng đang được bốn viên mãnh tướng hộ vệ chạy về phía bắc. Bọn Tôn An, Biện Tường muốn lập công bèn dẫn quân đuổi theo, không ngờ tiến sâu vào nơi trọng yếu Bỗng nghe phía sau sườn núi vang lên tiếng thanh la, rồi một đoàn quân mã bon nhanh tới. Bọn Dương Chí, Tôn An quay lại không kịp. Đúng là:

Xông trận ngựa lăn bên vách thẳm đá,

Vượt sông thuyền đắm giữa dòng xanh.

Chưa biết đội quân mã ấy từ đâu kéo đến, và bọn Tôn An nghênh địch ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích:

(1-) Lý Dược Sư tử Lý Tịnh, danh tướng đời Đường.

Hồi 108

Tiểu Toàn Phong Nghi Binh Đánh Giặc

Kiều Đạo Thanh Phung Khói Chiếm Thành

Đang nói chuyện Dương Chí, Tôn An, Biện Tường đuổi theo Hề Thắng đến chân núi Y Khuyết, không ngờ phía sau sườn núi tướng giặc đã phục sẵn hơn một vạn kỵ binh, bất ngờ xông ra chặn đánh. Quân hai bên xáp vào giao chiến lớn. Hề Thắng thoát chết dẫn tàn quân chạy về thành Tây Kinh. Tôn An thừa thắng đuổi theo, chém rụng hai tướng giặc. Nhưng vì quân ít không địch nổi, bị hơn nghìn kỵ binh giáp mà dồn vào lũng núi. Thung lũng này bốn phía đều là vách cao dựng dửng, quân giặc đã khuân đá chất bịt lối nên không có đường ra. Tàn quân của Hề Thắng vào thành báo tin thất lợi với Cung Đoan. Cung Đoàn liền sai hai nghìn quân đến chặn giữ ở cửa thung lũng. Bọn Dương Chí, Tôn An họa có cánh mới thoát được.

Tạm gác chưa nói chuyện bọn Dương Chí bị vây, kể tiếp chuyện Lư Tuấn Nghĩa phá trận Lục hoa của Hề Thắng, phần nhiều nhờ có Mã Linh dùng Phép "Kim chuyên" (viên gạch vàng) phá trận, lại thêm bọn anh em các tướng dũng mãnh nên giành toàn thắng, giết tại trận ba tướng. Lư Tuấn Nghĩa thừa thế khua quân đuổi dài, chiếm ải Long Môn, chặt thủ cấp hơn một vạn quân giặc, thu giáp trụ, ngựa chiến, chiêng trống nhiều không kể xiết. Quân giặc thua to, lui về cố thu?

trong thành. Lư Tuấn Nghĩa điểm lại quân mã, mới biết thiếu bọn Dương Chí, Tôn An, Biện Tường và một nghìn quân mã, liền sai Giải Trân, Giải Bảo, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, mỗi người lĩnh một nghìn quân mã chia đi tìm khắp bốn phía.

Đến chiều tối bọn Giải Trân trở về cũng chưa rõ tung tích bọn Dương Chí ở đâu.

Ngày hôm sau, Lư Tuấn Nghĩa cho quân đóng yên bất động, lại sai bọn Giải Trân chia nhau đi tìm. Giải Bảo dẫn quân rẽ dây leo, vén gại mây, tìm đường vượt đèo qua núi, cuối cùng đến ngọn đèo cao nhất trong dãy Y Khuyết. Đứng trên đèo này nhìn về phía tây, bên dưới là một hang sâu bị cây cối um tùm che khuất, thấy lờ mờ bóng người ngựa. Bọn Giải Bảo nhìn xuống không thấy rõ, mà gọi to cũng không nghe thấu. Giải Bảo bèn đem quân xuống núi, định tìm dân địa phương để hỏi, nhưng bốn phía không một bằng người. Dân ở đây tránh loạn đã rời đi nơi khác. Cuối cùng, khi vào một thung lũng bằng phẳng, rộng rãi ở nơi sâu vắng mới gặp một khu thôn cư nghèo khổ. Mấy người dân thấy quan quân vào thôn thì hoảng sợ, đứng túm tụm với nhau. Giải Bảo nói:

- Chúng tôi là quân sĩ của triều đình đến đây truy bắt giặc cướp.

Mấy người dân nghe nói quân triều đình lại cành tỏ ra hoảng sợ. Giải Bảo ôn tồn vỗ về thăm hỏi rồi nói:

- Chúng tôi là bộ hạ của Tống tiên phong.

Mấy người ấy lại nói:

- Có phải Tống tiên phong đã từng đánh quân Liêu, bắt Điền Hổ, không làm phiền nhiễu dân chúng hay không?

Giải Bảo nói:

- Đúng thế.

Mấy thôn đần bèn quỳ lạy, nói:

- Như vậy đủ biết quý tướng quân đến đây không phải để bắt gà, bắt chó! Năm trước cũng từng có quan quân đến đây bắt giặc, nhưng bọn họ cũng cướp phá chẳng khác gì quân

cường đạo. Vì thế dân thôn chúng tôi mới phải lánh vào thung lũng này. Hôm nay quý tướng quân đến làm cho dân thôn chúng tôi lại được thấy mặt trời.

Giải Bảo hỏi mọi người về việc hơn một nghìn quân mã của bọn Dương Chí bị lạc đường không rõ hiện ở đâu, cũng hỏi luôn cả đường lối đi vào hang sâu ở phía tây đèo. Thôn dân trả lời:

- Hang này gọi là hang Liên Hồng, chỉ có một lối nhỏ đi vào.

Nói đoạn rồi dẫn bọn Giải Bảo đi đến cửa hang, cũng gặp lúc hai cánh quân mã của Trâu Uyên, Trâu Thuận tìm đường đến đấy. Cả ba cánh cùng hội quân rồi tiến đánh quân giặc giữ cửa hang, phá bức tường đá. Sau đó Giải Bảo và Trâu Uyên dẫn quân mã tiến vào hang.

Bấy giờ bọn Dương Chí, Tôn An, Biện Tường cùng một nghìn quân sĩ người ngựa đói mệt đang ngồi dưới gốc cây buồn bã đợi chết, bỗng thấy bọn ~liải Bảo từ ngoài hang đi vào, ai nấy đều nhẩy lên vui mừng. Giải Bảo lấy lương khô phân phát cho mọi người. ăn xong, tất cả người ngựa lần lượt ra khỏi hang núi. Giải bảo đưa cả mấy người thôn dân về trại yết kiến Lư tiên phong. Lư Tuấn Nghĩa cả mừng, sai lấy tiền bạc, thóc gạo cấp cho họ, các thôn dân đều lạy tạ rồi ra về.

Không bao lâu đội quân của Giải Trân cũng trở về. Đêm ấy quân sĩ nghỉ ngơi, không có gì đáng nói.

Ngày hôm sau, Lư Tuấn Nghĩa đang cùng quân sư Chu Vũ bàn việc đưa quân đi đánh Tây Kinh, bỗng có quân lưu tinh thám mã về báo:

- "Vương Khánh sai ngụy đô đốc Đỗ Học dẫn mười hai viên chánh phó tướng và hai vạn binh mã đi cứu viện, hiện đã đến cách thành Tây Kinh ba mươi dặm". Lư Tuấn Nghĩa liền lệnh cho Chu Vũ, Dương Chí, Tôn Lập, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc cùng với Kiều Đạo Thanh, Mã Linh thống lĩnh hai vạn binh mã dàn trận trước đại trại để sẵn sàng đánh quân giặc từ trong thành ra. Lệnh cho Giải Trân, Giải Bảo, Mục Xuân, Tiết V nh thống lĩnh năm nghìn

quân mã đóng giữ sơn trại. Lư Tuấn Nghĩa tự mình cùng với các tướng tá còn lại thống lĩnh ba vạn năm nghìn quân mã để đón đánh quân Đỗ Học. Bấy giờ Lãng từ Yến Thanh vào thưa với Lư tiên phong:

- Theo ngu ý ngày hôm nay chủ nhân không nên ra trận.

Lư Tuấn Nghĩa hỏi:

- Tại sao?

Yến Thanh đáp:

- Đêm qua tiểu nhân chiêm bao thấy có điềm chẳng lành.

Lư Tuấn Nghĩa nói:

- Chuyện mộng mị chẳng đáng tin. Đã đem thân báo nước thì có kể gì lợi hại?

Yến Thanh nói:

- Nếu tiên phong quyết ý đi đánh, xin cho tiểu nhân năm trăm quân để dùng có việc.

Lư Tuấn Nghĩa cười nói:

-.

- Hiền đệ định làm gì?

Yến Thanh đáp:

- Xin chủ tướng đừng hỏi, cứ giao quân cho tiểu đệ là được.

Lư Tuấn Nghĩa nói:

- Được rồi, ta sẽ cho quân, để xem hiền đệ làm gì?

Nói đoạn xuống lệnh điều năm trăm quân bộ giao cho Yến Thanh. Yến Thanh cáo từ dẫn quân ra đi.

Lư Tuấn Nghĩa nhìn theo mỉm cười. Sau đó Lư Tuấn Nghĩa thống lĩnh người ngựa ra khỏi đại trại, đi về phía cầu Bình Tuyền. Ở đây có nhiều phiến đá kỳ dị, là trang ấp cũ của Lý Đức Dụ đời Đường. Lư Tuấn Nghĩa đi qua đó, thấy Yến Thanh đang đốc suất quân ~ chặt cây phát rậm thì buồn cười, nhưng vì vội đem quân đi nên cũng không kịp hỏi. Đại quân của Lư tiên phong tiến đếtl cách phía tây cửa Long Môn mười dặm thì dừng lại dàn thành thế trận hướng về phía tây. Khoảng một giờ sau, quân giặc trong thành kéo tới. Hai bên dàn trận đối nhau, quân sĩ nổi trống hò reo. Bên quân Tây Kinh, phó

tướng Vệ Hạc múa đại đao thúc ngựa tiến ra trước. Bên quân Tống Sơn Sĩ Kỳ chẳng nói chẳng rằng nâng thương giật ngựa tiến ra chặn đánh. Hai người ngồi trên ngựá quần đánh giữa trận đến gần ba mươi hiệp, Sơn Sĩ Kỳ đưa mũi thương đâm đúng chân ngựa của Vệ Hạc. Con ngựa quy ngã, hất Vệ Hạc xuống đất. Sơn Sĩ Kỳ đuổi theo đâm một thương giết chết.

Bên quân Tây Kinh, phó tướng Phong Thái, cả giận, bèn hai tay vung hai cây thiết giản, lao ngựa đến đánh Sơn Sĩ Kỳ.

Hai tướng đánh nhau hơn mười hiệp, Biện Tường thấy Sơn Sĩ Kỳ không thắng nổi Phong Thái, liền cắp thương thúc ngứa đến trợ chiến. Phong Thái quát to một tiếng rồi đánh một thiết giản hất Sơn Sĩ Kỳ xuống ngựa. Lái đánh tiếp một thiết giản kết liễu tính mệnh Sơn Sĩ Kỳ, rồi thúc ngựa múa kiếm đón đánh Biện Tường. Nhưng Biện Tường là viên mãnh tướng.

Phong Thái vừa lao đến đầu tầm ngựa, Biện Tường quát vang, lao thương đâm trúng giữa tim. Phong Thái lăn nhào xuống đất Quân hai bên hò reo vang dậy. Chủ súy quân Tây Kinh là Đỗ Học thấy một lúc mất liền hai tướng trong lòng bừng bừng tức giận liền vung cây trường bát xà mâu, phóng ngựa ra trận. Bên quân Tống, Lư Tuấn Nghĩa cũng đích thân ra trận đối địch với Đỗ Học. Hai người giao chiến hơn năm mươi hiệp không phân thắng bại. Cây xà mâu của Đỗ Học bay lượn xuất quỷ nhập thần. Tôn An thấy Lư tiên phong không thắng được Đỗ Học, vội vung kiếm thúc ngựa ra giúp sức. Tướng giặc là Trác Mậu thấy vậy liền múa cây lang nha côn ra chặn đánh Tôn An. Chỉ mới bốn năm hiệp, Tôn An phấn khích vung kiếm phạt mạnh hất đầu Trác Mậu xuống đất. Rồi Tôn An quay ngựa vọt lên phía trước, vung kiếm xông đánh Đỗ Học. Thấy Tôn An vừa giết Trác Mậu, Đỗ Học chùn tay liền bị Tôn An vung kiếm chém đứt tay phải, lăn xuống ngựa. Lư Tuấn Nghĩa đâm tiếp một thương, kết liễu đời hắn. Lư Tuấn Nghĩa thúc quân ồ ạt đánh tràn sang, quân giặc đại bại.

Bỗng trên con đường nhỏ chạy xiên từ phía tây nam có một

đội kỵ binh đang phóng như bay tới. Viên tướng cưỡi ngựa đi đầu mặt mũi đen xì xấu xí, tóc bồng, đội mũ sắt, mặc chiến bào đỏ, cưỡi ngựa chiến màu hung đỏ, tay giơ cao kiếm chỉ huy đội quân kỵ phóng tới. Lư Tuấn Nghĩa và các tướng thấy đoàn quân mặc áo có dấu của giặc, bèn thúc quân xông lên chặn đánh. Nhưng chỉ thấy viên tướng kia lẩm nhẩm niệm.

chú rồi nhìn về hướng chính nam vung kiếm chém mạnh một nhát. Trong chớp mắt, viên tướng phun ra những luồng lửa đỏ rực, khắp mặt đất khói bốc mù mịt, lửa cháy đùng đùng, những lưỡi lửa lan nhanh về phía quân Tống. Lư Tuấn Nghĩa chạy lánh không kịp, quân Tống một phen đại bại, vứt cả chiêng trống, khí giới, tán loạn tìm đường chạy trốn, những kẻ chậm chân đều bị cháy đầu bỏng trán, thiệt mạng đến hơn năm nghìn người. Các tướng hộ vệ Lư Tuấn Nghĩa chạy thoát về cầu Bình Tuyền, binh sĩ chen nhau qua cầu, giẫm đạp đè lên nhau làm cho mặt cầu nghiêng võng. Cũng may trước đó, Yến Thanh đã chặt cây đốn gỗ để sẵn hai bên bờ và ghép xong cầu phao, hai vạn quân Lư Tuấn Nghĩa nhờ đó qua sông an toàn. Lư Tuấn Nghĩa và Biện Tường phi ngựa chạy sau, vừa đến bên cầu thì bị tướng giặc đuổi kịp, phun một luồng lửa đúng vào người Biện Tường. Biện Tường lửa cháy đầy mình lăn nhào xuống ngựa, bị quân giặc ập tới đâm chết. Lư Tuấn Nghĩa vừa kịp lên cầu phao chạy thoát. Tên tướng giặc vẫn xua quân đuổi theo. Bên quân Tống, đội tiền quân do Chu Vũ thống lĩnh biết tin đại quân thất bại, vội báo cho đạo sĩ Kiều Đạo Thanh. Kiều Đạo Thanh một mình một ngựa vung kiếm phóng đến đón chặn. Viên tướng ấy thấy Kiều Đạo Thanh liền giơ kiếm chỉ hướng nam.và chém, ngọn lửa càng bốc dữ dội hơn. Kiều Đạo Thanh múa tay bắt quyết, miệng lẩm nhẩm niệm chú, rồi vung kiếm chỉ về phía bắc làm phép "Tam muội thần hỏa", Trong chớp mắt, bầu trời xuất hiện những luồng khí đen bay nhanh tới, rồi biến thành trận mưa trút xuống ào ào như thác đổ. Lại có vô vàn những khối sáng trắng như

ngọc tới tấp rơi xuống đầu quân giặc. Chỉ trong chốc lát, khối lửa yêu quái ấy bị dập tắt. Tướng giặc thấy yêu thuật của mình bị phá, vội quay ngựa bỏ chạy. Ngựa chiến. của hắn giẫm lên một tảng băng trơn, trượt chân ngã khuỵu, hất hắn lăn xuống đất. Kiều Đạo Thanh thúc ngựa tới, vung kiếm đưa một nhát, chém đứt làm hai đoạn. Đội kỵ binh giặc thiệt mạng hơn năm trăm tên. Kiều Đạo Thanh chống kiếm quát to:

- Kẻ nào quy hàng thì tha tội chết!

Quân giặc thấy Kiều Đạo Thanh có phép lực thần thông đều xuống ngựa, vứt giáo quỳ lạy xin tha mạng. Kiều Đạo Thanh dùng lời lẽ ôn tồn vỗ về, chặt lấy thủ cấp tướng giặc rồi dẫn hàng binh về yết kiến Lư tiên phong, báo tin thắng trận. Lư Tuấn Nghĩa không ngớt lời cảm tạ phép thuật cao cường của Kiều Đạo Thanh và khen ngợi công lao của Yến Thanh, bấy giờ các tướng hỏi ra mới biết tên tướng kia họ tên là Khấu Uy, quen dùng yêu thuật sinh lửa để đốt người, và vì tướng mạo hắn xấu xí nên gọi là "Độc diện quỷ vương" (Quỷ vương lửa độc). Trước đây hắn giúp Vương Khánh nổi loạn, không biết bỏ đi đâu chừng hai năm, gần đây thấy hắn đến Nam Phong nói:

- "Quân Tống thế lực rất lớn, đợi đó ta sẽ quét sạch chúng". Vương Khánh bèn sai Khấu Uy ngày đêm đi gấp đến đây. Bọn Cung Đoan, Hề Thắng thấy quân cứu viện bị đánh tan, không dám mở cửa thành ra đánh, chỉ cho thêm quân đóng giữ những nơi trọng yếu. Bấy giờ Kiều Đạo Thanh nói:

- Thành Tây Kinh vững chắc, không vội đánh ngay được.

Đêm nay bần đạo xin thi thố một thuật nhỏ, góp công báo đáp ơn lớn của hai tiên phong.

Lư Tuấn Nghĩa nói:

- Xin đạo sĩ cho nghe diệu thuật.

Kiều Đạo Thanh ghé tai Lư Tuấn Nghĩa nói nhỏ:

- "Cứ như thế, như thế...". Lư Tuấn Nghĩa cả mừng cắt cử các tướng

chuẩn bị đánh thành. Ai đi lo việc nấy. Một mặt sai quân sĩ lo việc an táng Sơn Sĩ Kỳ và Biện Tường. Lư Tuấn Nghĩa tự tay dâng lễ tế. Đêm ấy vào khoảng canh hai, Kiều Đạo Thanh đi ra ngoài trỏ kiếm làm phép. Trong nháy mắt mây mù đen kịt trùm kín thành Tây Kinh. Quân giữ thành chỉ trong gang tấc không nhìn rõ nhau. Quân Tống lợi dụng lúc tối trời theo cầu bay đu người vượt qua hào, trèo lên các ụ tường. Bỗng nghe một tiếng súng nổ, bầu trời tối mịt bỗng chốc rực sáng.

Quân Tống đeo sẵn mồi lửa, nghe hiệu lệnh liền châm lửa đốt đuốc khắp bốn mặt thành đều được chiếu sáng như ban ngày.

Quân giữ thành khiếp sợ, luống cuống không biết đối phó ra sao, bị quân của Lư Tuấn Nghĩa tràn vào rút khí giới chém giết Quân giặc bị giết rơi xuống chân thành nhiều không kể xiết Cung Đoan và Hề Thắng nghe tin có biến vội dẫn quân đến cứu, nhưng lúc ấy cả bốn cửa thành đều đã bị quân Tống chiếm giữ. Lư Tuấn Nghĩa đốc thúc quân m~ tiến vào thành.

Cung Đoan, Hề Thắng bị loạn quân giết chết. Các tướng tá đầu mục khác và ba vạn quân sĩ đều hạ k.hí giới qui hàng.

Trăm họ không mảy may bị xâm phạm.

Trời vừa sáng, Lư Tuấn Nghĩa cho yết bảng chiêu an, ghi công lớn cho Kiều Đạo Thanh, khao thưởng ba quân tướng sĩ.

Một mặt sai Mã Linh đến chỗ Tống tiên phong báo ti 1 thắng trận. Mã Linh tuân lệnh ra đi, đến chiều tối hôm ấy trở về nói lại:

- "Tống tiên phong đánh thành Kinh Nam, đã mấy ngày liền giao chiến, đánh bại quân cứu viện từ Nam Phong tới.

Chủ súy giặc là Từ Ninh bị bắt sống. Tống tiên phong vì việc quân vất vả bị Ốm phải nghỉ ngơi, trong vài ngày mọi việc đều do quân sư Ngô Dụng điều khiển".

Lư Tuấn Nghĩa nghe nói Tống Giang bị Ốm, có ý lo buồn, vội thu xếp công việc, giao cho Kiều Đạo Thanh và Mã Linh cai quản quân sĩ đóng giữ thành Tây Kinh. Ngày hôm sau Lư Tuấn Nghĩa từ biệt Kiều Đạo Thanh và Mã Linh, đem theo bọn Chu Vũ và mười hai chánh phó tướng rời Tây Kinh lên

đường đi gấp về Kinh Nam.

Một ngày kia binh mã của Lư Tuấn Nghĩa đã đến doanh trại của đại quân đóng ở phía bắc thành Kinh Nam, anh em Lư Tuấn Nghĩa cùng vào trong trướng thăm hỏi sức khỏe của Tống tiên phong. Nhờ có An Đạo Toàn điều trị, bệnh tình của Tống Giang đã thuyên giảm sáu bẩy phần, bọn Lư Tuấn Nghĩa đều yên lòng. Đang lúc mọi người chuyện trò bàn bạc việc quân, bỗng có tên quân chạy về báo tin:

- "Đường Bân hộ tống bọn Tiêu Nhượng rời doanh trại được ba mươi dặm thì gặp tướng giặc Kinh Nam là Mi Sảnh, Mã Cương dẫn một vạn tinh binh theo đường hẻm tiến đến. Bọn Mi Sảnh định nhân lúc Tống tiên phong bị Ốm, đem quân đánh từ phía sau nhằm cướp doanh trại. Đường Bân một mình địch với hai tướng giặc, quân sĩ ít, hơn nữa Mi Sảnh lại là viên tướng mười phần dũng mãnh, nên đã bị Mi Sảnh giết. Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên, Kim Đại Kiên bị giặc bắt sống. Bọn chúng đang tìm cách cướp trại thì có tin đại quân của Lư tiên phong tiến đến, quân giặc đã trốn đi đem theo cả bọn Tiêu Nhượng".

Tống Giang lo quá, bất giác bật khóc, nói:

- Tính mạng bọn Tiêu Nhượng nguy mất.

Tống Giang vì lo lắng, bệnh tình có phần nặng hơn. Lư Tuấn Nghĩa phải lựa lời khuyên giải rồi hỏi:

- Huynh trưởng sai Tiêu Nhượng đi đâu?

Tống Giang nói:

- Tiêu Nhượng biết ta bị Ốm, xin phép Trần an phủ đến thăm, Trần an phủ lại cho Tiêu Nhượng đem cả Kim Đại Kiên và Bùi Tuyên đến Uyển Châu dựng bia ghi công và xem xét văn thư giấy tờ. Hôm nay ta đã giao cho Đường Bân dẫn một nghìn quân bộ hộ tống bọn Tiêu Nhượng đi Uyển Châu, không ngờ bị quân giặc bắt được. Bọn Tiêu Nhượng chắc sẽ bị giặc giết.

Tống Giang giao cho Lư Tuấn Nghĩa giúp bọn Ngô Dụng tiếp tục đánh thành Kinh Nam, bắt cho được bọn Mi Sảnh,

Mã Cương để báo thù. Lư Tuấn Nghĩa tuân lệnh, đi ngay đến doanh trại đóng ở phía bắc thành. Chuyện trò thăm hỏi bọn Ngô Dụng xong, Lư Tuấn Nghĩa kể lại việc Tiêu Nhượng bị bắt. Ngô Dụng giật mình kinh sợ nói:

- Khổ quá? Nguy cho bọn ba người này rồi?

Nói đoạn, Ngô Dụng truyền lệnh cho các tướng đem quân đi vây thành, quyết hạ cho bằng được.

Các tướng tuân lệnh, chia quân bao vây bốn mặt, cho bắc thang gọi to vào thành:

- Phải trả ngay Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiên, Bùi Tuyên?

Nếu chậm trễ đại quân đánh vào thì bất kể quân dân đều bị giết hết.

Lại nói quân giặc đóng giữ thành do tướng Lương Vĩnh làm trấn thủ, còn bọn Mi Sảnh, Mã Cương chỉ là tướng bại trận chạy về tránh ở đấy. Hôm ấy sau khi bắt được bọn Tiêu Nhượng, Mi Sảnh gọi lính canh mở cổng tì-lành áp giải ba người vào dâng công trước súy phủ. Lương Vểnh từng nghe tên tuổi Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng, bèn sai quân sĩ cởi trói, tìm cách dụ hàng. Bọn Tiêu Nhượng đều trừng mắt quát mắng:

- Quân vô lễ! Các ngươi coi bọn ta là hạng người thế nào?

Bọn phản nghịch, hãy đem ta ra mà chém ngay đi? Cả sáu đầu gối của bọn ta đây, các ngươi đừng mong một cái ~ ìo biết quỳ! Chỉ trong ngày hôm nay, đại quân của Tống tiên phong sẽ kéo đến phá tan thành trì, phanh thây quân phản nghịch làm muôn mảnh?

Lương V nh cả giận, quát gọi quân sĩ:

- Đánh cho ba con vật này bắt chúng phải quỳ!

Bọn lính hầu của Lương V nh vác gậy đến đánh bọn Tiêu Nhượng. Chỉ nghe tiếng ngã huỳnh huỵch, chẳng những không ai chịu quỳ mà còn luôn mồm chửi mắng. Lương V nh nói:

- Các ngươi muốn chém làm hai đoạn thì cứ đợi đấy, ta sẽ cho được như ý.

Nói đoạn quát quân sĩ:

- Đóng gông cả ba đứa đem ra trước cửa doanh, nhè vào chân lừa của chúng mà đánh, ắt phải chịu quỳ.

Mấy tên lính tuân lệnh đem gông đến đóng vào cổ ba người, dẫn đi.

Quân lính và dân chúng khi ấy đang đứng xung quanh cửa doanh đều xúm đến xem mặt cho biết quan quân triều đình như thế nào. Thấy bọn Tiêu Nhượng bị đánh đập tàn nhẫn, trong đám đông có kẻ trượng phu không nén nổi căm giận. Người ấy họ Tiêu, tên tự là Gia Huệ, trú ngụ Ở phốhàng Giấy phía nam súy phủ. Cụ cao tổ của người ấy là Tiêu Đảm, tự Tăng Đạt giữ chức thứ sử Kinh Nam dưới thời Nam Bắc Triều. Một lần mưa lũ vỡ đê, Tiêu Đảm đứng dưới mưa to gió lớn đốc suất quân dân hộ đê. Có kẻ tiểu lại xin quan cho tạm nghỉ để tránh mưa, Tiêu Đảm nói:

- "Các quan muốn theo nước lụt trôi cả ra sông? Còn ta thì không nỡ để quý quan phải chết oan!". Mọi người thấy quan thứ sử nghiêm khắc như vậy đều phải gắng sức đắp đê, nhờ vậy quãng đê vỡ đắp xong, tránh được trận lụt. Năm ấy được mùa, có một cây lúa trổ năm bông Tiêu Gia Huệ lấy tên tự theo sự tích tốt đẹp đó của cụ cao tổ. Nhân có việc xuống chơi Kinh Nam, Tiêu Gia Huệ thấy dân ở đây còn nhớ ơn đức Tiêu Đảm, nên rất kính trọng Gia Huệ. Gia Huệ là người can đảm, bản tính hào hiệp chí khí cao xa, có lòng độ lượng, sức vóc, võ nghệ hơn người. Hễ gặp những người dũng cảm gan dạ, bất kể sang hèn, Gia Huệ đều kết giao và giúp đỡ tiền bạc. Khi Vương Khánh làm loạn, cướp đoạt thành trì, Gia Huệ từng hiến kế nhưng quan trấn thủ không chịu nghe, rốt cuộc bi mất thành. Tiêu Gia Huệ mắc kẹt phải ở lại trong thành Kinh Nam, ngày đêm vẫn mưu toan việc thu phục thành trì. Nhưng "một cây làm chẳng nên non". Đến nay thấy quân giặc trói đánh bọn Tiêu Nhượng, lại nghe nói quân Tống Giang đang tiến đến vây đánh, quân dân trong thành đều lo lắng. Tiêu Gia Huệ suy tính:

- "Thời

cơ đã đến, phải quyết một phen mới bảo toàn được dân cư trong thành". Nghĩ đoạn Gia Huệ trở về nhà trọ. Bấy giờ vào khoảng xế chiều, Gia Huệ gọi tiểu đồng mài mực, ra phố tìm mua mấy tờ giấy khổ to loại dày và dai, rồi trở về thắp đèn, chấm mực đẫm bút, viết bản cáo thị bằng chữ lớn:

- "Dân chúng trong thành đều là thần dân lương thiện của triều đình nhà Tống, tất không cam chịu tiếp tay cho giặc.

Tống tiên phong là tướng giỏi của triều đình, từng đánh quân Liêu, bắt giặc Điền Hổ, đến đâu không một kẻ nào dám đụng mũi giáo. Dưới cờ của Tống tiên phong, thủ hạ có một trăm linh.tám tướng lĩnh cùng đồng lòng hiệp sức. Ba vị đầu lĩnh bị bắt trói trước doanh, vì nghĩa khí không chịu quỳ gối, đủ biết anh em Tống tiên phong anh hùng trung nghĩa như thế nào? Hôm nay nếu quân giặc giết hại ba người ấy thì sớm muộn thành này cũng bị đánh phá vì thế giặc trong thành quân cô tướng ít, lúc bấy giờ ngọc đá chẳng phân. Vậy quân dân trong thành, ai muốn bảo toàn tính mạng, hãy theo ta ra đánh giặc".

Tiêu Gia Huệ viết xong cáo thị, lặng lẽ ra ngoài phố đi nghe ngóng tình hình. Thấy dân chúng nhiều người than khóc lo sợ, Gia Huệ thầm nghĩ:

- "Lòng dân như thế, kế của ta chắc thành". Mờ sáng hôm sau, Gia Huệ lẩn vào đám đông . quanh các phố gần súy phủ, lén vứt tờ cáo thị xuống đường. Một lúc sau, trời sáng hẳn, quân sĩ và dân chúng nhặt được tờ giấy xúm nhau mở xem. Ở một chỗ khác mọi người cũng đang xúm đọc một tờ cáo thị như thế. Một tên quân tuần tiễu đi đến, giật lấy một tờ, chạy như bay đem về nộp cho Lương Vĩnh. Lương V anh cả sợ; vội truyền lệnh canh giữ doanh trại cẩn mật, một mặt phải tuần hành gắt gao để truy bắt gian tế.

Tiêu Gia Huệ dắt đoản đao lẫn vào đám đông đi quanh các nơi xem xét, thỉnh thoảng đứng lại đọc giúp bản cáo thị cho mọi người nghe. Quân dân nghe đọc xong bản cáo thị, ai nấy đều sửng sốt nhìn nhau. Lúc ấy có một viên quan đi truyền

lệnh cưỡi ngựa cùng năm sáu tên lính hầu vừa đi qua. Tiêu Gia Huệ bèn sấn đến quát to một tiếng, rút đoản đao chém đứt chân ngựa. Viên quan kia ngã nhào xuống đất, Gia Huệ sả tiếp một đao khiến hắn đầu lìa khỏi cổ. Gia Huệ tay trái xách thủ cấp tên giặc, tay phải cầm đoản đao hô lớn:

- Những ai muốn giữ tính mạng hãy theo Tiêu Gia Huệ tôi đi đánh giặc!

Đám quân sĩ ở trước súy phủ ngày thường đã biết Tiêu Gia Huệ là người có chí khí sắt đá, cho nên chỉ trong khoảnh khắc có đến năm sáu trăm người đồng tình xin theo. Tiêu Gia Huệ thấy đám đông hưởng ứng, lại nói lớn:

- Ai là người dũng cảm hãy giúp sức với ta!

Tiếng hô vang động đến mấy trăm bước. Dân chúng dồn đến mỗi lúc một đông. Kẻ vác giáo, người xách gậy, cũng có người nhổ cọc rào, bẻ chân bàn làm khí giới:

- chỉ trong chốc lát đã có đến năm sáu nghìn người. Đám đông hò reo vang dậy. Tiêu Gia Huệ đi đầu, dẫn đoàn người xông vào súy phủ.

Lương Vĩnh ngày thường ngược đãi đánh đập quân dân quân hộ vệ của hắn cũng căm ghét hắn đến tận xương tủy.

Nghe có biến, bọn họ vội chạy ra hưởng ứng. Đám đông nổi giận ùa vào, giết hết lớn bé cả nhà Lương Vĩnh. Khi Gia Huệ dẫn đám đông ra khỏi súy phủ thì số người theo đã lên đến hơn hai vạn người. Mọi người kéo đến cởi trói, tháo gông cho Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên và Kim Đại Kiên. Tiêu Gia Huệ chọn ba người khỏe mạnh cõng bọn Bùi Tuyên, xách thủ cấp Lương Vĩnh, dẫn đầu đoàn người tiến ra cửa bắc, giết tướng giữ thành là Mã Cương, đánh đuổi lính canh, rồi mở cổng thành, thả cầu treo.

Bấy giờ Ngô Dụng đã đến ngoài cửa bắc, đang thúc quân đánh thành. Nghe bên trong có tiếng hò reo, rồi cổng thành bật mở, mọi người ngỡ là quân giặc đánh ra. Ngô DụN~F vội cho quân mã lui về phía sau ba bốn tầm tên, dàn trận đón đánh. Bấy giờ bên quân Tống mới nhìn thấy Tiêu Gia Huê.

xách thủ cấp, phía sau là ba tên quân khỏe mạnh cõng bọn Tiêu Nhượng chạy qua cầu treo ra ngoài. Ngô Dụng chưa hết ngạc nhiên, thì nghe tiếng Tiêu Nhượng gọi to:

- Ngô quân sư! Đây là tráng sĩ Tiêu Gia Huệ, người đã kêu gọi dân chúng nổi dậy giết giặc, giải cứu cho bọn tôi?

Ngô Dụng nửa lo nửa mừng, Tiêu Gia Huệ bước đến nói:

- Việc đang gấp không kịp thi lễ. Xin quân sư đem binh mã vào thành ngay.

Những người đứng bên cầu treo cũng đồng thanh hô lớn:

- Xin mời Tống tiên phong vào thành!

Thấy nét mặt hân hoan của mọi người, Ngô Dụng yên lòng bèn truyền lệnh cho các tướng đem quân mã tiến vào thành.

Cấm quân sĩ không được giết hại lương dân. Kẻ nào trái lệnh sẽ chém cả người đồng ngũ. Quân sĩ canh giữ trên mặt thành cửa bắc thấy tình thế như vậy đều vứt giáo, xuống thành đầu hàng. Quân sĩ ở ba cửa còn lại nghe tin đều trói tướng giữ thành, mở toang cổng lớn, bưng hương hoa đèn nến ra ngoài nghênh đón quân Tống. Trong lúc lộn xộn, kh!)ắng a; dám đến gần Mi Sảnh nên hắn nhân đó lẻn ra cửa tây, rồi xông qua vòng vây chạy thoát.

Ngô Dụng liền sai quân phi báo cho Tống Giang. Tống Giang nghe tin thắng trận, trong lòng vui vẻ, bệnh tình thuyên giảm đến tám chín phần, liền truyền lệnh cho các tướng nnớ trại lên đường.

Đại quân tiến vào thành Kinh Nam, Tống Giang lên chính đường trong súy phủ, vỗ yên quân dân, úy lạo tướng sĩ. Tống Giang mời Tiêu Gia Huệ vào trong phủ đường, khoác tay mời ngồi vào ghế giữa rồi sụp xuống lạy tạ:

- Nhờ công của nghĩa sĩ tập hợp dân chúng nổi dậy giết quân phản nghịch, khiến cho sinh linh trăm họ vẹn toàn, lấy lại được thành trì mà không phải đổ máu, cứu sống cho ba người anh em chúng tôi. Tống Giang xin đa tạ tráng sĩ?

Tiêu Gia Huệ đáp lạy không kịp, nói:

- Đó là công sức của quân dân trong thành không phải do tài cán một mình Gia Huệ tôi?

Nghe lời khiêm tốn của Gia Huệ, Tống Giang lại càng kính phục hơn. Các đầu lĩnh khác đều đến lạy tạ Tiêu Gia Huệ.

lúc ấy quân sĩ trong thành cũng vừa áp giải bọn tướng giặc đến dâng nộp. Tống Giang cho hỏi từng người, thàm kẻ nào chịu đầu hàng đều được tha tội chết. Khắp thành tiếng hò reo hân hoan vang dậy. Quân Vương Khánh vứt giáo qui phục đến mấy vạn người. Đoàn chiến thuyền trên sông Hán cũng đã đến đậu ở ngoài thành. Lý Tuấn và các đầu lĩnh thủy quân vào súy phủ chào Tống tiên phong.

Tống Giang sai dọn tiệc rượu khoản đãi Tiêu tráng sĩ. Tống Giang nâng chén nói:

- Túc hạ tài cao đức cả, Tống Giang tôi về triều xin tâu để tráng sĩ được thiên tử cất nhắc trọng dụng.

Tiêu Gia Huệ nói:

- Tiên phong bất tất phải làm như vậy. Việc làm hôm nay của Gia Ĩuệ tôi chẳng phải vì phú quý công danh. Gia Huệ tôi từ lúc còn trẻ đã sống ngang tàng, lớn lên cung không chịu gò mình trong khuôn phép hương ẩm, chỉ là một kẻ quê mùa cô lậu mà thôi. Ngày nay, bọn sàm nịnh khua môi múa mép mà bậc hiển sĩ vắng người. Dẫu có tài năng quý báu như ngọc châu của Tùy hầu, ngọc bích của Biện Hòa, dẫu có đức hạnh như Hứa Do, Bá Di, cũng không được cửu trùng biết đến. Gia Huệ tôi thấy không ít người có chí khí anh hùng, vào sinh ra tử vì việc quốc gia, nhưng cử sự có chỗ không ổn đáng, cũng chỉ vì muốn được toàn vẹn cho thân mình và gia đình vợ con, rồi dần dần cũng dưỡng thành thói xấu, phó mặc cả tính mệnh bản nhân và gia đình trong tay bọn quyền thần gian nịnh.

Gia Huệ tôi không nặng nợ kiếp trước, thảnh thơi như hạc nội mây ngàn, muốn bay đến chân trời nào thì bay!

Câu chuyện bên bàn tiệc khiến anh em Tống Giang đều có ý buồn rầu. Bọn Công Tôn Thắng, Lỗ Trì Thâm, Võ Tòng, Yến Thanh, Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Đái Tôn, Sài Tiến, Phàn Thuỵ, Chu Vũ, Tưởng Kính đến hơn mười đầu lĩnh đều trầm ngân tán thưởng ý vị trong câu chuyện của Tiêu tráng sĩ. Chiều tối tiệc tan, Tiêu Gia Huệ cáo từ ra về.

Ngày hôm sau, Tống Giang sai Đái Tôn đến báo tin thắng trận với Trần an phủ, rồi đích thân đến tận chỗ ở thăm Tiêu tráng sĩ, không ngờ Tiêu tráng sĩ đã đi xa rồi. Người chủ hàng giấy nói:

- Tiêu tiên sinh sáng nay đã thu xếp khăn gói gươm đàn, từ biệt chúng tôi để lên đường, không rõ đi đâu.

Tống Giang về súy phủ nói cho mọi người biết Tiêu Gia Huệ đã đi xa, các đầu lĩnh ai nấy đều luyến tiếc. Buổi tối Đái Tôn trở về báo cho Tống Giang biết Vũ học dụ La Tiễn cùng bọn Lâm Xung, Hoa Vinh theo kế sách của Trần an phủ và Hầu tràm mưu đã thu phục được các châu huyện ở Uyển Châu, Sơl(l Nam, triều đình đã sai các tân quan đến cai quản, công việc đôi bên giao nhận đã xong. Trần an phủ cùng các tướng hiện đã lên đường đến Kinh Nam, chẳng bao lâu sẽ tới nơi.

Tống Giang bàn với quân sư Ngô Dụng, đợi khi Trần an phủ đến thay giữ thành Kinh Nam thì đại quân sẽ tiến đánh sào huyệt của Vương Khánh. Trong khoảng sáu bẩy ngày nghỉ ngơi diều trì ở thành Kinh Nam, bệnh tình của Tống Giang đã khỏi. Nghe tin quân mã của Trần an phủ đến, Tống Giang và các đầu lĩnh đều ra ngoài thành đón tiếp. Các tướng đến lạy chào xong, Trần an phủ cho khao thưởng ba quân tướng sĩ Bọn Sài Tiến trấn thủ ở Sơn Nam sau khi giao lại việc châu cho quan mới để tiến theo đại quân, cũng vừa đến nơi.

Tống Giang giao công việc ở châu Kinh Nam cho Trần an phủ cai quản. Rồi đó Tống Giang dẫn các đầu hnh vào cáo từ Trần

an phủ để thống lĩnh đại quân lên đường, chia hai ngả tnủy lục tiến đánh sào huyệt Vương Khánh ở châu Nam Phong.

Lúc này đủ mặt một trăm linh tám vị đầu lĩnh, có thêm các hàng tướng Hà Bắc là bọn Tôn An mười một người, quân mã tất cả hơn hai mươi vạn. Quân Tống Giang càng đánh càng thắng, binh uy ngày càng vang động. Quan quân đến đâu, quân giặc đều sợ hãi quy hàng. Mỗi khi thu phục được các châu huyện, Tống Giang lại phi báo để Trần an phủ xuống lệnh cho Vũ học dụ La Tiễn đem binh mã đến đóng giữ.

Đại quân thủy bộ của Tống Giang ruổi dài tiến đến địa giới châu Nam Phong. Quân thám mã về báo tin Vương Khánh vừa phong cho Lý Trợ làm thống quân đại nguyên súy. Lý Trợ đã lấy năm vạn quân thủy bộ Ở châu Nam Phong, lại điều thêm quân mã ở các châu Vân An, Đông Xuyên, An Đức, mỗi châu hai vạn giao cho bọn đô giám Lưu Dĩ Kính, Thượng Quan Nghĩa thống hnh. Tất cả có đến mấy chục viên mãnh tướng và hơn mười một vạn hùng binh do Vương Khánh đích thân đốc suất lên đường, chặn đánh quan quân nhà Tống. Tống Giang được tin, bàn với quân sư Ngô Dụng:

- Quân giặc ào ạt tiến đến, ắt bọn chúng sẽ liều chết quyết chiến. Ta nên có kế sách gì để đánh thắng?

Ngô Dụng nói:

- Bính pháp có câu:

- "Đa phương dĩ ngộ chi" (chia ra nhiều hướng để lừa địch). Nay bọn ta các tướng sĩ đều hội cả một nơi, không bằng chia làm mấy cánh, khiến bọn chúng rối loạn không ứng phó được. Tống Giang xuống lệnh điều quân theo kế sách Ngô Dụng đã bàn.

Trước đó một ngày, Phốc thiên điêu Lý ứng, Tiểu toàn phong Sài Tiến vâng lệnh Tống tiên phong đã cùng các đầu lĩnh quân bộ là Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Thi ân, Tiết Vĩnh, Mục Xuân, Lý Trung đem năm nghìn quân hộ tống đoàn xe chở lương thảo vải vóc, súng ống.

Phía sau đại quân gầnb chân núi Long Môncó một Thôn trang , xung quanh núi đất bao bọc như bức thành ., có lối ra vào từ ba phía. Trong thôn có khoảng vài tra9m nóc nhà lá đều bỏ trống. Dân làng tránh binh mã đã dời đi nơi khác cả.. Tối hôm a6 y, gió đông bắc thổi mạnh, mây đen che kín bầu trời.

Bọn Lý Ứng , Sài Tiến thấy trời tối, sợ mưa ướt lương thảo nên sai quân phá cửa các nhà để đẩy xe vào trú. Quân sĩ sắp nghĩ ngơi đe6? thổi cơm ăn thì bên đại tùng Triết Vĩnh đi tuần tiểu bắt được một tên gian tế đưa về báo sài Tiến:

- Tiểu đệ đã tra hỏi, tên gian tế này khai rằng:

- Canh hai đêm nay tướng giặc là Mi Sảnh dẫn một vạn quân đến đo6 t phá, đánh cướp đoàn xe lương. Hiện nay chúng đang mai phục trong núi Long Môn.

Nguyên núi Long Môn có hai vách đá dựng đứng nối nhau, ở giữa có dòng suối thuyền bè nhỏ có thể qua lại.

Lý Ứng biết tin liền nói với Sài Tiến:

- Tiểu đệ xin đem quân mai phục trước thôn, đợi giặc đi qua sẽ xông đánh, ắt bọn chúng manh giáp không còn.

Sài Tiến nói:

- Mi Sảnh là viên mảnh tướng, bọn ta ít quân không thể đọ sức với hắn được. Ta muốn thi thố một kế nhỏ, đành chịu mất năm sáu co6? hỏa pháo, hơn trăm xe củi khô.

Nói đoạn Sài Tiến sai giết tên gian tế để báo thù cho bọn Đường Bân, gioa cho Lý Ứng dẫn ba nghìn quân sẵn sàng cung tên đi hộ vệ đoàn quân chở lương thảo và hỏa pháo. Trời sắp tối sẽ rời khỏi thôn đi về phía nam, chỉ để lại các xe củi khô rải rác ở đầu hè , các dãy nhà tranh theo hướng tây nam. Lại đem hơn trăm chiếc xe kho6ng cụm lại thành năm sáu chổ. Giữa mo6~i cụm xe có giấu các cổ hỏa pháo, trên xếp vài cụm khô có rắc diêm tiêu và lưu hoàng, trên cùng phủ một lớp gạo. Bọn Thi Ân , Tiết Vĩnh, Mục Xuân, Lý Trung được lệnh đem hai nghìn quân mai phục ở cửa khẩu đường gò đất phía đông; Đan Đình Khuê đem một nghìn quân mã đến cửa khẩu phía nam thôn chờ giặc đến.

Nói đoạn Sài Tiến cùng Thần hỏa tưởng quân Ngụy Định Quốc đem ba trăm quân bộ, ai nấy giắt theo mồi lửa và hỏa khí lên mai phục trong các lùm cầy rậm trên núi.

Đầu canh hai hôm ấy, quả nhiên tưởng giặc Mi Sảnh cùng hai phó tướng dẫn hơn một vạn quân mã đeo buộc gọn nhẹ, người ngậm tăm, ngựa bỏ đạc, cuốn cờ im trống bon nhanh đến cửa khẩu gò đất phía nam. Đan Đình Khuê thấy giặc đến liền lệnh cho quân sĩ đốt đuốc xông ra chặn đánh. Đan Đình Khuê giao chiến với Mi Sảnh vài hiệp thì quay ngựa chạy về.

Mi Sảnh là kẻ hữu dũng vô mưu, liền xua quân đuổi theo.

Bọn Tiết Vĩnh, Thi ân thấy cháy ở phía nam vội ra hiệu cho bọn Lý Trung, Mục Xuân đem một nghìn quân phi nhanh tới bịt chặt cửa khẩu. Bấy giờ quân giặc đã lọt vào trong thôn, đang ồ ạt theo hướng đầu gió đông bắc mà tiến. Đến nơi không thấy lương thực, nhà cửa đều trống không, Mi Sảnh vội cho quân đi lùng soát, sau mới thấy các đoàn xe lương chừng một hai trăm chiếc đỗ ở phía cuối làng, chỉ có khoảng năm sáu trăm tên quân canh giữ. Thấy quân Mi Sảnh tới, bọn giữ xe lương đều sợ hãi hò nhau bỏ chạy. Mi Sảnh nói:

- Hóa ra lương thực của bọn này cũng chẳng có bao nhiêu?

Nói đoạn sai quân sĩ đốt đuốc đi xem xét. Giữa đoàn xe thấy có hai chiếc chở vải vóc, quân Mi Sảnh xúm lại tranh cướp Mi Sảnh vội thúc ngựa đến quát mắng. Đúng lúc ấy tên lửa, đuốc lửa từ trên núi tới tấp

- bắn xuống. Những dãy nhà tranh chứa các xe củi khô nhất loạt bốc cháy. Quân giặc hoảng hốt kêu la, tìm nơi ẩn nấp. Bỗng tiếng hỏa pháo nổ vang, mồi dẫn truyền lửa rất nhanh, các cỗ hỏa pháo cùng lúc nổ rền như sấm, không ngớt phóng ra các búi lửa lởn. Quân giặc không chạy kịp đều bị đám lửa thiêu chết. Trong chốc lát, ngọn lửa rừng rực bốc lên, khói đen mù mịt, hỏa pháo nổ vang như đất chuyển. Trong chốc lát hơn trăm gian nhà cỏ biến thành cả khối khói lửa mịt mù. Mi Sảnh bị trúng hỏa pháo chết ngay tại trận. Quân giặc trúng đạn chết cháy dện quá nửa, số bị thương thì nhiều không đếm xuể. Giữa lúc đó quân mai phục của Đan Đình Khuê, Thi ân từ ba phía ập vào chém giết. Một vạn quân người ngựa của Mi Sảnh chỉ còn hơn một nghìn tên thoát chết bò qua núi đất tìm đường chạy trốn. Đến lúc trời sáng, bọn Sài Tiến, Lý ứng hội binh cho quân sĩ chuyển đoàn xe thảo về đại trại. Tống tiên phong vào ngồi dưới trướng điều khiển binh mã.

Chỉ thấy:

- quân mã buộc yên đóng ngựa, quân bộ sửa soạn khí giới.

Đúng là:

Cờ xí rợp trời pha ráng đo?

Đao thương sáng lóa tựa sương băng.

Chưa biết Tống Giang tiến đánh quân giặc như thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.

Hậu Thủy Hử

Scan: Mars - Đánh máy M4P

Hồi 109

Vương Khánh Qua Sông Bị Bắt

Tống Giang Đánh Giặc Thành Công

Đang nói chuyện hôm ấy Tống Giang vào trong trướng nghị bàn việc quân, các tướng đứng vòng tay chờ lệnh. Những quân sĩ giữ việc bắn pháo hiệu, đánh chiêng trống, vẫy cờ cùng đầu mục chỉ huy các doanh lần lượt đến dưới trướng xếp hàng chỉnh tề chờ nghe hiệu lệnh. Sau một hồi trống điểm, quan tuyên lệnh đọc chiến lệnh xong, các đầu lĩnh chỉ huy các trại đều lần lượt cúi đầu nghiêng mình nhận lệnh, rồi đứng xếp hàng hai bên. Quân tuần tra giũ cờ xanh quỳ nghe lệnh:

- Những ai hò reo không đều, hàng ngũ lộn xộn, làm ồn ào, ra trận chần chừ không tiến đều phải bắt về nghiêm trị. Các viên kỳ bài tả hữu mỗi bên hai mươi người, Tống tiên phong đích thân ra lệnh:

- Các ngươi trở về doanh trại đốc thúc quân sĩ ra trận, kẻ nào chần chừ lui bước không nghe lệnh thì cứ bắt về trị tội. Các viên kỳ bài tuân lệnh, ai nấy trở về bản doanh nổi hiệu chiêng trống, sắp xếp đội ngũ đợi lệnh lên đường. Sau cùng Tống Giang truyền lệnh cho các đầu lĩnh thủy bộ, đợi kèn nổi hiệu lần thứ nhất chỉnh điểm đội ngũ, lần thứ hai giương cờ, lần thứ ba các đội quân tiến ra khỏi trại lên đường ra trận. Chiêng trống nổi vang, cờ ngũ phương phấp phới, đại pháo nổ rung trời. Đúng là:

- Vang trời chiêng nổi rung đầu núi Rực đất cờ bay át quỷ thần.Lính thủy quân Tưởng Sĩ Văn, Nhân Thế Sùng đã sai đi xa, Vương Khánh giao cho Lưu Dĩ Kính, nguyên là đô giám chỉ huy quân mã châu Vân An làm chánh tiên phong, giao cho Thượng Quan Nghĩa nguyên là đô giám chỉ huy quân mã châu Đông Xuyên làm phó tiên phong; thống quân châu Nam Phong là Lý Hùng và Tất Tiên chỉ huy cánh quân bên tả; thống quân châu An Đức là Liễu Nguyên và Phan Trung chỉ huy cánh quân bên hữu; giao cho thống quân đại tướng Đoàn Ngũ chỉ huy đội hậu quân; ngự doanh sứ Khâu Tường làm phó chỉ huy; giao cho quan khu mật Phương Hàn làm vũ dực đội trung quân. Vương Khánh đích thân thống lĩnh đội trung quân, dưới quyền có nhiều ngụy quan thượng thư, ngự doanh kim ngô, vệ giá tướng quân, hiệu úy và bọn tướng tá giúp rập, tất cả đến mấy chục tên. Lý Trợ được phong làm nguyên súy. Đội quân người ngựa mười phần chỉnh tề, Vương Khánh tự mình đốc suất và giám chiến. Tướng sĩ đeo đai khoác giáp lên ngựa, quân sĩ giương cung kéo dây, nghe ba hồi trống lệnh tất cả đều rời trại xuất phát.

Quân tiến chứa đầy r~lười dặm, từ xa trong đám bụi mù đã thấy đội tiền tiêu bên quân Tống tiến đến mỗi lúc một gần, tiếng đạc ngựa mỗi lúc một rõ, thấp thoáng chừng hơn ba chục quân thám mã, tất cả đều chít khăn chóp xanh, phía sau cắm lông trĩ, mặc áo màu lục, bờm ngựa tết tua hồng, hai bên hông đeo vài chục chiếc lục lạc, tay cầm giáo dài sáng quắc, vai đeo cung tên nhẹ. Viên tướng đi đầu là Hổ kỵ tướng quân Một vũ tiễn Trương Thanh vừa được Đạo quân hoàng đế ban sắc mệnh cho được giữ chức cũ. Trương Thanh đầu quấn khăn chóp xanh giát vàng, mặc chiến bào xanh thẫm thêu hoa, thắt đai lụa màu tía, đi giày thơm da mềm, cưỡi ngựa yên mầu ánh bạc. Bên trái là Trinh Thuận nghi nhân

Quỳnh Anh quận chúa, đầu đội mũ gió mầu tía giát vàng khảm ngọc, mặc chiến bào tía thêu hoa, thắt đai lụa nhiều màu, đi giày đỏ mui cong thêu hoa, cưỡi tuấn mã bờm trắng.

Đi phía sau bên phải là Nghĩa bộc chánh bài quân Diệp Thanh.

Đội tiền tiêu của Trương Thanh tiến thẳng tới quân Lý Trợ, cách chừng hơn trăm bước thì ghìm ngựa quay về. Bên quân Vương Khánh, tiên phong đội tiền quân Lưu Dĩ Kính, Thượng Quan Nghĩa giật ngựa đuổi đánh. Trương Thanh lao ngựa đến, nâng ngọn thương bạch lê hoa chặn đánh Trương Dĩ Kính và Thượng Quan Nghĩa. Quỳnh Anh múa cây phương thiên họa kích thúc ngựa ra trợ chiến. Bốn tướng quần thảo hơn mười hiệp. Trương Thanh, Quỳnh Anh đỡ gạt mấy đường rồi quay ngựa chạy. Lưu Dĩ Kính và Thượng Quan Nghĩa bèn thúc ngựa đuổi theo, quân tả hữu gọi lớn:

- Tiên phong chớ đuổi theo? Hai người ấy có túi đá sau yên ngựa, thường vẫn ném trăm phát trăm trúng.

Lưu Dĩ Kính, Thượng Quan Nghĩa nghe vậy bèn ghìm ngựa lại Vừa lúc ấy từ phía sau núi Long Môn tiếng trống trận nổi vang rồi năm sáu trăm quân bộ xông ra. Bốn tướng đi đầu là Hắc toàn phong Lý Quỳ. Hỗn thế ma vương Phàn Thuỵ.

Bát tí Na Tra Hạng Sung, Phi thiên đại thánh Lý Cổn phăng phăng dẫn đoàn quân ập tới. Năm sáu trăm quân bộ dàn hàng chữ nhất dưới chân núi, quân đao thuẫn đứng hai bên.

Khi quân giặc đánh tới, Lý Quỳ, Phàn Thụy liền chia quân làm hai cánh, tất cả đều chúc khiên xuống đất, đi vòng ra sau núi. Đại quân của Vương Khánh và Lý Trợ vừa tiến đến, thấy bóng quân Tống liền đuổi gấp. Bọn Lý Quỳ, Phàn Thụy thúc quân chạy như bay lên núi, vượt đèo, xuyên rừng rồi mất hút.

Lý Trợ truyền lệnh cho quân sĩ dàn thế trận trên khoảng đất bằng dưới chân núi. Bỗng từ phía sau núi tiếng pháo nổ vang, một đội quân mã do ba viên tướng dẫn đầu từ phía nam phi nhanh tới:

- Chính giữa là Nụy cước hổ Vương Anh, bên trái là Tiêu úy Trì Tôn

Tân, bên phải là Thái viên tử Trương Thanh. Ba tướng thống lĩnh năm nghìn quân mã cắt đường ruổi đến. Vương Khánh định sai tướng thủ hạ tiến lên đón đánh, bỗng lại nghe một tiếng pháo nữa nổ vang, rồi từ phía bắc một đội quân mã khác vùn vụt lao tới, đi đầu là ba nữ tướng:

- Chính giữa là Nhất trượng thanh Hỗ Tam Nương, bên trái là Mẫu đại trùng Cố Đại Tẩu, bên phải là Mẫu dạ xoa Tôn Nhị Nương, ba tướng thống lĩnh năm nghìn quân mã vừa đuổi gấp tới thì gặp cánh quân giặc bên phải do Liễu Nguyên và Phan Trung chỉ huy chặn lại. Quân của bọn Vương Anh cũng bị cánh quân giặc bên trái do Lý Hùng, Tất Tiên chỉ huy chặn đánh. Các tướng đôi bên đánh nhau hơn mười hiệp thì ở cánh quân phía nam là bọn Vương Anh, Tôn Tân, Trương Thanh quay n~a dẫn quân chạy về phía đông. Ở cánh quân phía bắc, bọn Hỗ Tam Nương, Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương cũng quay ngựa cho quân chạy về phía đông. Vương Khánh thấy vậy nhếch mép cười nói:

- Thủ hạ của Tống Giang chỉ là bọn đàn ông đàn bà tầm thường thế mà không hiểu tại sao quân tướng của ta cứ thua mãi? Nói đoạn xua quân đuổi theo. Được chừng năm sáu dặm, bỗng nghe tiếng thanh la nổi vang, rồi cánh quân bộ của bọn bốn tướng Lý Quỳ, Phàn Thuỵ, Hạng Sung, Lý Cổn từ khu rừng bên trái đổ ra. Lại thêm toán quân bộ năm trăm người dưới quyền bốn tướng:

- Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm, Hành giả Võ Tòng, Một diện mục Tiêu Đĩnh, Xích. phát quỷ Lưu Đường, ai nấy tay lăm lăm đao thuẫn xông tới. Phó tiên phong giặc là Thượng Quan Nghĩa vội cho hai nghìn quân bộ chặn đánh. Bọn Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm đánh nhau chừng dăm hiệp rồi vờ thua chia hai tốp cắp vũ khí chạy vào rừng, quân giặc đuổi theo nhưng không kịp. Lý Trợ thấy vậy nói với Vương Khánh:

- Đại vương không nên cho quân đuổi theo, đấy là kế dụ địch của bọn chúng. Ta nên dàn trận nghênh địch là hơn.

Nói đoạn, Lý Trợ lên tướng đài điều khiển binh mã dàn trận. Thế trận bầy bố chưa xong, một tiếng pháo oanh thiên nổ vang sau núi, liền đó là đại quân người ngựa ào ạt xông ra chiếm giữa bãi núi và dàn ngay thế trận. Vương Khánh cho dừng n~a rồi đích thân lên tướng đài xem xét, chỉ thấy đội quân mã ở phía chính nam dùng cờ lệnh màu đỏ, tướng sĩ đều mặc giáp đỏ, đai tua đỏ, cưỡi n~a đỏ:

- Đi đầu là lá cờ dẫn quân màu đỏ lấp lánh. Sát lớp cờ đỏ dưới cờ dẫn quân, một viên đại tướng cưỡi ngựa xông ra, đó là Tích lịch hỏa Tần Minh, bên trái là Thánh thủy tướng quân Đan Đình Khuê, bên phải là Thần hỏa tướng quân Ngụy Định Quốc. Ba viên đại tướng nâng thương vác đao, cưỡi ngựa đỏ dừng trước trận.

Đội quân mã ở sườn núi phía đông dùng cờ lệnh màu xanh, tướng sĩ mặc giáp xanh, chiến bào xanh, đeo dải tua xanh, cưỡi n~a xanh:

- Lá cờ dẫn quân đi đầu sáng màu xanh lấp lánh. Sát lớp cờ xanh dưới cờ dẫn quân, một viên đại tướng phi n~a tới. Đó là Đại đao Quan Thắng. Bên trái là Xú quận mã Tuyên Tán, bên phải là Tỉnh mộc hãn Hách Tư Văn. Ba viên đại tướng nâng thương vác đao, cưỡi ngtta xanh dừng trước trận.

Đội quân mã ở sườn núi phía tây dùng cờ hiệu màu trắng, tướng sĩ mặc giáp trắng, chiến bào trắng, đeo dải tua trắng, cưỡi n~a trắng:

- Lá cờ dẫn quân đi đầu sáng màu trắng lấp lánh. Sát lớp cờ trắng dưới cờ dẫn quân, một viên đại tướng phi n~a tới. Đó là Báo tử đầu Lâm Xung. Bên trái là Trấn tam sơn Hoàng Tín, bên phải là Bệnh úy Trì Tôn Lập. Ba viên đại tướng nâng thương vác giáo, cưỡi ngựa trắng dừng trước trận.

Đội hậu quân dùng cờ hiệu màu đen, tướng sĩ mặc giáp đen, chiến bào đen, đeo giải tua đen, cưỡi n~a đen:

- Lá cờ dẫn quân đi đầu màu đen lấp lánh. Sát lớp cờ đen dưới cờ dẫn quân, một viên đại tướng cưỡi ngựa phi tới. Đó là Song tiên tướng HÔ Diên Chước. Bên trái là Bách thắng tướng Hàn Thao,

bên phải là Thiên mục tướng Bành Kỷ. Ba viên đại tướng nâng thương, vác đao, cưỡi ngựa đen dừng trước trận.

Dưới vùng cờ rợp phía đông nam, một đội quân mã dùng cờ hiệu xanh, mặc áo giáp đỏ. Dưới lá cờ thêu dẫn quân, một viên đại tướng xông ra. Đó là Song thương tướng Đổng Bình, bên trái là Ma vân kim xí âu Bằng, bên phải là Hỏa nhãn toan nghê Đặng Phị Ba viên tướng cùng xách thương vác đao, cưỡi ngựa chiến dừng trước trận.

Dưới vùng cờ rợp phía tây nam, một đội quân mã dùng cờ hiệu đỏ, mặc giáp trắng, dưới lá cờ thêu dẫn quân, một viên đại tướng xông ra. Đó là Cấp tiên phong Sách Siêu. Bên trái là Cẩm mao hổ Yến Thuận, bên phải là Thiết dịch tiên Mã Lân. Ba viên đại tướng cùng nâng thương cắp giáo, cưỡi ngựa chiến dừng trước trận.

Dưới vùng cờ rợp phía đông bắc, một đội quân mã dùng cờ hiệu đen, mặc giáp xanh, dưới lá cờ thêu dẫn quân, một viên đại tướng xông ra. Đó là Cửu văn long Sử Tiến. Bên trái là Khiêu giản hổ Trần Đạt, bên phải là Bạch hoa xà Dương Xuân.

Ba viên đại tướng cùng nâng thương vác giáo, cưỡi ngựa chiến dừng trước trận.

Dưới vùng cờ rợp phía tây bắc, một đội quân mã dùng cờ hiệu trắng, mặc giáp đen, dưới lá cờ thêu một viên đại tướng xông ra:

- Đó là Thanh diện thú Dương Chí. Bên trái là Cẩm báo từ Dương Lâm, bên phải là Tiểu bá vương Chu Thông.

Ba viên đại tướng cùng nâng thương vác giáo, cưỡi ngựa chiến dừng trước trận.

Thế trận tám phương như xếp thùng sắt. Ở cửa trận, quân mã quân bộ đều xếp thành từng đội; tướng sĩ ai nấy cầm đao sắc búa to, kiếm lớn thương dài, cờ hiệu chỉnh tề, đội ngũ uy nghiêm. Phương trung ương nằm giữa tám trận là đội quân mã dùng cờ hiệu màu vàng ánh kim, gồm sáu mươi tư lá cờ lệnh cán dài. Cao hơn ở phía trên là cờ sáu mươi tư quẻ, cũng chia thành bốn lớp cửa cờ. Dưới cửa cờ phương nam là quân

mã. Hai viên đại tướng đứng dưới cờ lệnh màu vàng, đi đầu là Mỹ nhiêm công Chu Đồng, tiếp sau là Sáp sĩ hổ Lôi Hoành, thảy đều dùng cờ hiệu màu vàng, cưỡi ngựa vàng, chiến bào vàng, mặc giáp đồng, đeo đai tua vàng.

ở trận trung ương, giữ cửa phía đông là Kim. nhãn bưu Thi ân, giữ cửa phía tây là Bạc.li diện lang quân Trịnh Thiên Thọ, giữ cửa phía nam là Vân lý kim cương Tống Vạn, giữ cửa phía bắc là Bệnh đại trùng Tiết Vĩnh. Sau đội quân cờ vàng là các xe hỏa pháo, bên cạnh là pháo thủ súng oanh thiên lôi Lăng Chấn cùng với hơn hai chục pháo.thủ đứng vây quanh các cỗ pháo. Sau mỗi cỗ pháo là đội quân câu liêm, thòng lọng chuyên dùng bắt tướng. Sau đội quân câu liêm là quân mã dùng cờ hiệu nhiều màu. Xung quanh là hai mươi tám lá cờ Nhị thập bát tú. Giữa vùng cờ thêu ánh vàng lấp lánh là lá cờ súy màu vàng thiên nga bằng gấm thêu vòng ngọc châu, đuôi cờ đeo đạc vàng, đầu ngọn cắm lông trĩ. Tráng sĩ cầm cờ đội mũ đuôi cá cài trâm vàng, mặc giáp mềm xếp vảy kỳ lân, thân cao hơn trượng, lẫm liệt uy phong; đó là Hiểm đạo thần ục Bảo Tứ. Hai bên là hai tướng hộ kỳ cưỡi ngựa chiến và trang phục giống như Chánh kỳ thủy:

- Đó là Mao đầu tinh Khổng Minh và Độc hỏa tinh Khổng Lượng.

Trước sau cửa súy hai mươi bốn tên quân sĩ mặc giáp sắt, vác lang nha côn dàn thành hàng. Sau cờ súy là hai lá cờ lĩnh chiến bằng gấm thêu, hai bên dàn hai mươi bốn quân sĩ vác thiên phương họa kích hộ vệ hai viên kiêu tướng, bên trái là Tiểu ôn hầu Lã Phương, bên phải là Trại nhân quý Quách Thịnh. Hai viên kiệu tướng tay cầm họa kích dừng ngựa đứng hai bên. Phía trong hàng họa kích là đội quân sĩ vác đinh ba do hai viên bộ quân kiêu tướng Lưỡng đầu xà Giải Trân và Song vĩ yết Giải Bảo cầm đinh ba hoa sen chỉ huy quân sĩ bảo vệ trung quân. Cưỡi hai chiến mã yên cương gấm đứng sau, phía bên trái là Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng, bên phải là Thiết diện khổng mục Bùi Tuyên. Phía sau hai tướng ấy

là đội quân áo tía vác đao ma tra tua tủa như rừng, giữa là hai tướng chỉ huy quân đao phủ:

- Đằng trước là Thiết tí bác Sái Phúc, đằng sau là Nhất chi hoa Sái Khánh. Hai bên sườn là hai đội kim thương và ngân thương do hai viên đại tướng chỉ huỵ Chỉ huy đội kim thương là Kim thương thủ Từ Ninh, chỉ huy đội Ngân thương là Tiểu lý quảng Hoa Vinh. Tiếp sau là lính cẩm y xếp hàng đôi, mũ hoa áo gấm tầng tầng lớp lớp, cờ mao tiết việt phướn đỏ lọng vàng. Đi đầu là ba vị anh hùng:

- Bên phải là Nhập vân long Công Tôn Thắng, bên trái là Trí đa tinh Ngô Dụng, vị tướng cưỡi trên ngựa chiến dạ ngọc sư tử là Chinh tây bình khấu chánh tiên phong Sơn Đông Cập thời vũ HÔ bảo nghĩa Tống Công Minh nai nịt chặt chẽ, tay cẩm bảo kiếm Côn Ngô chỉ huy đội trung quân đích thân ra trận giám chiến. Trước ngựa Tống Giang, phía trái là Thần hành thái bảo Đái Tôn chuyên việc phi báo truyền lệnh điều binh khiển tướng; phía phải là Lãng tử Yến Thanh quen giúp việc cơ mật ở trung quân. Phía sau là một đội ba mươi lăm viên phó tướng cầm kích lớn, giáo dài đeo cung tên ngồi trên chiến mã phủ yên gấm. Tiếp sau là đội nhạc binh đeo tù và, khoác kèn trống. Hậu quân đặt hai đội du binh mai phục hai bên để hộ vệ các cánh trung quân:

- Đội bên trái do Thạch tướng quân Thạch Dũng và Cửu vĩ quy Đào Tông Vượng chỉ huy ba nghìn quân mã bộ. Đội bên phải do Một già lan Mục Hoẵng và Tiểu già lan Mục Xuân chỉ huy ba nghìn quân mã bộ. Thế trận thật chỉnh tề chặt chẽ. Đúng là:

- Quân sư đa lược súy khôi hoẵng, Sĩ dũng tì hưu mã khóa long.

Chỉ huy yếu kiến bình tây tích, Suất sá tư thành đãng khấu công.

Quân sư mưu lược tướng anh hùng Sĩ tốt hùm beo ngựa vượt rồng.

Dưới trên những muôn bình Tây tặc Quát thét đua tài lập chiến công.

Lúc ấy Vương Khánh cùng Lý Trợ lên tướng đài dựng giữa trận xem xét kỹ tình hình binh mã của Tống Giang. Chỉ trong chốc lát quân Tống đã thay đổi vị trí, xếp thành thế trận Cửu cung bát quái, tướng sĩ dũng mãnh anh hùng, quân phong chỉnh tề, nghiêm túc, thương sắc đao bén. Vương Khánh thấy vậy sợ hãi lo lắng, buột miệng kêu lên:

- Bọn chúng lợi hại như thế hèn gì quân ta cứ thua mãi? Bỗng nghe bên quân Tống trống trận nổi vang như sấm.

Vương Khánh, Lý Trợ rời tướng đài lên ngựa, hai bên tả hữu có các tướng kim ngô hộ vệ, phía sau là đám đông quân cận vệ theo hầu. Vương Khánh truyền lệnh cho tướng tiền bộ tiên phong xuất trận. Quân Tống và quân ngụy triều Vương Khánh đối trận đúng vào ngày mộc theo cách tính của thuật số ngũ hành. Từ dưới cờ tướng phương chính nam, bên quân Tống, Báo tử đầu Lâm Xung phi ngựa ra trận. Quân hai bên hò reo vang trời. Lâm Xung dừng ngựa cầm ngang cây bát xà mâu quát to:

- Lũ phản nghịch điên cuồng ngu ngốc, quân thiên triều đã đến đây, không cởi giáp quy hàng còn đợi đến bao giờ? Lúc thịt nát xương tan hối thì đã muộn?

Bên quân Vương Khánh, Lý Trợ vốn là gã thầy bói hiểu được phép ngũ hành tương sinh tương khắc, liền truyền lệnh cho hai viên chỉ huy cánh quân bên trái là Liễu Nguyên và Phan Trung dẫn đội quân cờ đỏ xông trận. Hai tướng tuân lệnh phóng ngựa vẫy quân tiến lên. Trống trận cả hai bên khua dồn, quân sĩ hò reo không ngớt. Lâm Xung chặn đánh Liễu Nguyên, bốn cánh tay cùng vung khí giới, tám vó ngựa chồm tung. Hai tướng đằng đằng sát khí quần thảo trong đám bụi mù, bên qua bên lại, vòng phải vòng trái, đấu đến hơn năm mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại. Phan Trung thấy Liễu Nguyên là viên tướng dũng mãnh mà cũng khó thắng nổi, bèn vung đao thúc ngựa đến trợ chiến. Lâm Xung một mình địch lại hai tướng. Bất ngờ Lâm Xung quát vang

một tiếng, uy phong phấn khích, vọt tới đưa ngang ngọn mâu đâm Liễu Nguyên lăn nhào xuống ngựa. Phó tướng của Lâm Xung là Hoàng Tín, Tôn Lập cũng phi ngựa tiến đến. Hoàng Tín tuốt thanh tang môn kiếm nhằm Phan Trung chém xuống.

Chỉ thấy một tia máu phọt lên, chiếc đầu đội mũ đâu mâu lăn lông lốc.

Thấy Phan Trung lăn ngựa, quân sĩ hoảng sợ bỏ chạy tán loạn, chân trận(l) bên quân Vương Khánh bắt đầu nao núng.

Thủ hạ của Phan Trung vội phi báo vào trung quân. Vương Khánh nghe tín bị mất hai tướng, vội truyền lệnh cho lui quân. Bỗng nghe bên quân Tống một tiếng pháo lệnh nổ vang, rồi quân mã ào ào chuyển động:

- Cờ trắng dẫn quân đen, cờ đen dẫn quân xanh, cờ xanh dẫn quân đỏ, biến thành thế trận trường xà, các đội quân chuyển quanh xoay vòng cuộn thắt lại. Vương.Khánh, Lý Trợ vội sai tướng điều quân chặn đánh các phía, nhưng quân Tống vững chắc như bức thành đồng, quân Vương Khánh không sao phá nổi vòng vây. Đó là trận đại chiến của quan quân Tống Giang với tặc quân Vương Khánh.

Sau lúc hỗn chiến, quân giặc đại bại quân Tống Giang thắng lớn, Vương Khánh truyền lệnh lui quân về đại nội ở thành Nam Phong tìm cách đối phó. Bỗng nghe tiếng súng nổ từ phía hậu quân rồi thám mã đến báo:

- Thưa đại vương, phía sau cũng có quân Tống Giang đánh đến.

Viên đại tướng anh hùng cầm ngang cây điểm cương thương, cưỡi ngựa dẫn đầu đội quân ấy chính là Phó tiên phong Hà Bắc Ngọc Kỳ lân Lư Tuấn Nghĩa. Vị hảo hán cầm phác đao đi bên trái là Bệnh Quan Sách Dương Hùng, người cầm phác đao đi bên phải là Phanh mệnh tam lang Thạch Tú. Đội quân 1 Nguyên văn là "trận cước", chỉ hàng quân đầu tiên trong thế trận dàn hàng ngang.

Này gồm một vạn tinh binh, tinh thần phấn khích, ào ạt xông tới chém giết. Dương Hùng chém rơi đầu Đoàn Ngũ, Thạch Tú đâm chết Khêu Tường, quân sĩ ùa theo đuổi đánh, quân giặc thua to tan chạy. Đang lúc Vương Khánh hoảng hốt lo sợ, lại nghe một tiếng súng nổ vang. Phía bên trái là tám vị đầu lĩnh dũng mãnh:

- Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lý Quỳ, Tiết Vĩnh, Hạng Sung, Lý Cổn, Phàn Thuỵ, vung thiền trượng, giới đao, búa lớn, phác đao, tang môn kiếm, phi đao, tiêu thương, khiên thuẫn dẫn một nghìn quân bộ xông đến chém giết quân của bọn Lý Hùng, Tất Tiên như băm rau bổ dưa. Phía bên phải là bốn đôi vợ chồng anh hùng:

- Trương Thanh, Vương Anh, Tôn Tân, Trương Thanh, Quỳnh Anh, Hỗ Tam Nương, Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương dẫn một nghìn quân kỵ múa hoa lê thương, tiêu cương thương, phương thiên họa kích, nhật nguyệt song kiếm, cương thương, đoản đao, xông đến đánh tan cánh quân bên trái của Vương Khánh, khí thế như xô cành khô, đạp gỗ mục, quân giặc bị cắt đứt thành bốn năm mảng, tan tác tìm đường tháo chạy. Lư Tuấn Nghĩa, Dương Hùng, Thạch Tú đánh thẳng vào trung quân. Phương Hàn vừa chống cự liền bị Lư Tuấn Nghĩa đâm chết. Bọn Lư Tuấn Nghĩa tả xung hữu đột đánh tan đội vũ dực trung quân, rồi thúc ngựa đuổi gấp vào bắt Vương Khánh. Vừa lúc ấy Kim kiếm tiên sinh Lý Trợ phóng ngựa đến chặn đường. Tên Lý Trợ vốn có kiếm thuật, từ xa vung kiếm vù vù loang loáng như chớp tiến đến. Đang lúc Lư Tuấn Nghĩa lúng túng chưa kịp đối phó thì đội trung quân của Tống Giang vừa đánh tới. Nhập vân long Công Tôn Thắng thấy Lý Trợ dùng kiếm thuật đánh Lư Tuấn Nghĩa, vội nhấm thần chú rồi quát:

- "Mau?". Thanh kiếm của Lý Trợ liền rời khỏi tay hắn rơi xuống đất. Lư Tuấn Nghĩa phóng ngựa tới gần, vươn tay túm đai lưng Lý Trợ giật mạnh, kéo sang ngựa mình, rồi vứt xuống giao cho quân sĩ trói gô lại. Lư Tuấn Nghĩa lại nâng thương thúc ngựa tiến lên phía trước bắt sống

vương Khánh, dũng mãnh như phim eắt bắt én, như hổ dữ vồ dê non. Quân giặc quẳng chiêng bỏ trống, vứt đao thương, hoảng sợ kêu la tìm đường chạy trốn. Quân Vương Khánh hơn mười vạn bị chém giết đến quá nửa, thây chết đầy đồng, máu chảy đỏ sông, số đầu hàng hơn ba vạn. Những tên sống sót phần nhiều đều bị thương thập tử nhất sinh, nằm gục la liệt, lại bị đại quân người ngựa băng đến xéo nát như bùn.

thương vong không đếm xuể. Hai mãnh tướng Lưu Dĩ Kính và Thượng Quan Nghĩa bị Tiêu Đĩnh chém ngựa, ngã nhào rồi bị giết. Lý Huỳnh bị Quỳnh Anh ném ngã và đâm chết.

Tất Tiên đang tìm đường trốn thì Hoạt thiểm bà Vương Định Lục đột ngột xông đến lia một phác đao hất xuống ngựa, lại thêm một nhát vào giữa ngựa, kết liễu đời hắn. Các tên ngụy thượng thư, khu mật, điện súy, kim ngô tướng quân đều không kịp trốn, chỉ một mình Vương Khánh chạy thoát, không biết trốn đằng nào. Quân Tống đại thắng.

Tống Giang eho khua chiêng thu quân về thành Nam Phong, giao cho Trương Thanh, Quỳnh Anh dẫn năm nghìn quân mã đi trước dò đường. Lại sai Thần hành thái bảo Đái Tôn đi nghe ngóng tình hình bọn Tôn An đánh úp thành Nam Phong.

Đái Tôn tuân lệnh, trổ phép thần hành vượt cả Trương Thanh, Quỳnh Anh, chẳng bao lâu đã từ thành Nam Phong trở về báo tin:

- Tôn An vâng lệnh Tống tiên phong chõđóng giả làm quân Vương Khánh đi vào thành, bị giặc phát giác. Bọn chúng đào hố sập ở phía trong cửa thành rồi mở cửa phía đông đưa người ngựa đi ra. Bẩy phó tướng của Tôn An là bọn Mai Ngọc, Kim Xước, Tất Tiệp, Phan Tấn, Dương Phương, Phùng Thăng, Hồ Mại vội đưa năm trăm quân sĩ vào thành, cả người lẫn ngựa bị lăn hết xuống hố. Quân giặc mai phục hai bên nhất tề vùng dậy dùng giáo dài, kích nhọn đâm xuống. Hơn năm trăm quân sĩ của bọn Mai Ngọc đều chết hết. Tôn An đi sau thừa thế tiến vào thành đánh giết quân giặc, một mặt sai quân sĩ lấp hố. Một mình Tôn An dẫn quân đánh vào, quân giặc chống cự không nổi. Tôn An liền hô quân ào lên chiếm

cửa thành phía đông. Sau đó quân giặc từ bốn phía kéo đến, người ngựa của bọn Tôn An hiện bị bao vây trong thành. Tiếu đệ nghe được tin này, vội về phi báo. Dọc đường gặp vợ chồng Trương tướng quân, hai người biết chuyện đang eho quân ruỏl gấp đến cứu Tôn An".

Tống Giang nghe xong liền đốc thúc quân sĩ tiến đánh Nam Phong. Bấy giờ Trương Thanh, Quỳnh Anh đã đem quân vào cửa đông. Tôn An được giao giữ eừa, còn Trương Thanh, Quỳnh Anh tự mình đốc quân giao chiến với giặc. Tống Giang cho đại quân người ngựa theo lối cửa đông tiến vào chiếm thành, đánh tan quân giặc, dựng cờ hiệu quân Tống trên khắp bốn mặt thành. Bọn Phạm Toàn và nhiều ngụy quân văn võ khác đều bị giết sạch. Nghe tin quân Tống vào chiếm thành, chính phi của Vương Khánh là Đoàn Tam Nương vội nai nịt lên ngựa dẫn hơn năm trăm quân hầu ai nấy đều mang khí giới, rời cung điện đi về phía sau nội uyển ra cửa tây, định chạy về châu Vân An. Vừa lúc Quỳnh Anh dẫn quân vào đến nội uyển, Đoàn Tam Nương múa bảo đao, thúc ngựa liều chết xông vào đánh Quỳnh Anh. Quỳnh Anh vung tay ném đá trúng giữa trán Đoàn Tam Nương máu chảy đầm đìa lăn xuống ngựa, quân sĩ ùa tới bắt sống, lính hầu thì bị giết không còn một tên. Quỳnh Anh dẫn quân vào nội cung. Cáe cung tần mỹ nữ của Vương Khánh nghe tin quân Tống chiếm thành, kẻ treo cổ, đập đầu, người nhảy xuống giếng tự sát đến quá nửa. Quỳnh Anh cho quân sĩ trói bắt sốeòn lại đem nộp trước doanh. Tống tiên phong cả mừng, sai giam bọn Đoàn thị, chờ bắt được Vương Khánh sẽ cùng giải về kinh. Một mặt sai quân chia đi bốn hướng tìm bắt Vương Khánh.

Lại nói Vương Khánh dẫn vài trăm quân thiết kỵ vừa đánh vừa chạy vượt vòng vây về phía đông thành Nam Phong. Thấy quân Tống đã lọt vào đánh phá thành, Vương Khánh khiếp sợ hồn xiêu khánh lại. Vừa lúc ấy đại binh của Tống Giang từ phía sau ập tới, Vương Khánh ehỉ còn biết nhằm hướng bắc thúc ngựa chạy trốn. Vương Khánh ngoái nhìn hai bên

tả hữu thấy chỉ còn mấy trăm người, ngoài ra vô số quân tướng ngày thường được sủng ái, nay thấy tình thế nguy ngập đều đã cao chạy xa.baỵ Bọn Vương Khánh lthằm phía châu Vân An mà chạy. Dọc đường Vương Khánh nói với viên hầu cận:

- Quả nhân còn giữ được các thành Vân An, Đông Xuyên, An Đức, há chẳng phải là "Giang Đông tuy nhỏ cũng đủ xưng vương" đó sao? Có điều đáng giận là bọn quan viên đại thần thường ngày được quả nhân cho hưởng bổng cao lộc hậu, nay có sự biến, lũ khăn ấy đã theo nhau bỏ trốn. Đợi khi hưng binh đánh lui quân Ương, ta sẽ bắt hết đem về băm vằm làm mắm.

Bọn Vương Khánh không kịp cho ngựa nghỉ chân, chạy miết đến lúc trời sáng. Từ xa nhìn thấy thành Vân An, Vương Khánh ngồi trên ngựa vui mừng nói:

- Tướng sĩ của ta đóng giữ thành này rất nghiêm mật. Xem ra cờ quạt khí giới trên thành vẫn chỉnh tề, nghiêm túc.

Nói đoạn Vương Khánh vẫy quân mã phi gấp vào thành.

Trong số quân hầu có người biết chữ, bỗng nói to:

- Thưa đại vương, nguy rồi! Trên mặt thành chỉ thấy toàn cờ hiệu quân Tống?

Vương Khánh nghe nói liền ngước nhìn, quả nhiên thấy lá cờ đại dựng trên cửa thành phía đông có thêu dòng chữ vàng lớn "Ngự tây Tống tiên phong mao hạ thủy quân chánh tướng Hỗn giang...", tiếp sau còn mấy chữ nữa bị gió lay che khuất không đọc được. Vương Khánh kinh sợ rụng rời, đứng chết lặng hồi lâu, nghĩ bụng:

- "Đúng là quân Tống từ trên trời rơi xuống". Bấy giờ trong thủ hạ của Vương Khánh có một viên hầu cận vốn là người khá hiểu biết, liền nói:

- Thưa đại vương, mọi việc không nên chậm trễ. Đại vương mau thay ngự bào, chạy gấp về Đông Xuyên, nếu để dân trong vùng nhìn thấy sẽ sinh biến loạn.

Vương Khánh đáp:

- Khanh nói rất phải? Rồi tự tay tháo bỏ khăn xung thiên, ngự bào thêu hình nhật nguyệt đai vàng khảm ngọc châu, hia thêu kim tuyến,

thay bằng khăn chít, áo ngắn, giày mềm. Bọn hầu cận đi theo cũng lần lượt cởi thay quần áo. Cả bọn cắm đầu chạy theo đường tắt chạy qua thành Vân An về châu Đông Xuyên. Dọc đường cả bọn đói khát, người ngựa đều mỏi mệt rã rời. Dân chúng bị giặc giết hại, lại nghe đại binh của triều đình đến đánh, nên ở những nơi đường sá giao thông quan yếu mọi người đã dời hết đi nơi khác. Khắp nơi vắng tanh vắng ngắt, không một bóng người, không một tiếng gà, ngay cả nước cũng không có uống, nói gì đến rượu thịt? Bấy giờ bọn thủ hạ đi theo Vương Khánh, kẻ mượn cớ này, người tìm kế khác bỏ trốn đến sáu bẩy chục.

Vương Khánh dẫn hơn ba chục tên quân kỵ chạy miết đến chiều tối mới đến huyện Khai Châu thuộc châu Văn An. Đến đây thì bị con sông chặn đường. Sông này bắt nguồn từ đầm Vạn Khoảnh ở Đạt Châu, nước sông trong vắt, nên có tên là Thanh Giang. Vương Khánh nói:

- Tìm đâu ra thuyền mà qua sông bây giờ?

Tên quân hầu đứng sau chỉ tay nói:

- Thưa đại vương, có mấy chiếc thuyền câu ở chỗ bến lau vắng vẻ đằng kia. Vương Khánh nhìn theo rồi cùng bọn quân hầu đi ra bờ sông. Bấy giờ đã là tháng đầu đông, trời mới se lạnh. Trên sông, vài chục chiếc thuyền con đang buông câu thả lưới, có vài chiếc lững lờ giữa dòng, mấy người trên thuyền đang hoa tay múa chân cười nói uống rượu vui vẻ. Vương Khánh thở dài nói:

- Bọn chài lưới kia hôm nay làm gì mà vui thế nhỉ? Chúng vốn là thần dân của ta, chẳng biết ta đang khốn khổ lại còn vui vẻ thế Tên quân hầu gọi to:

- Mấy ông chài kia, đem thuyền vào cho sang sông, bọn ta sẽ hậu tạ?

Hai ông chài nghe tiếng vội bỏ rượu, lướt mái chèo ràn rát đưa thuyền vào bờ. Ông chài đứng đầu mũi thuyền cầm sào, những thuyền áp bờ đưa mắt nhìn Vương Khánh từ đầu đến chân rồi nói:

- Hay lắm, đang còn rượu thịt đây. Mời xuống? Mời xuống!

Tên quân hầu dìu Vương Khánh xuống ngựa. Vương Khánh ngước mắt thấy ông chài thân hình cao lớn, mày rậm mắt to, da mặt đỏ au, râu ngạnh trê đen nhánh, giọng nói sang sảng như chuông đồng. Người ấy một tay cầm sào, một tay đỡ Vương Khánh xuống thuyền, rồi chống sào dún mạnh, chiếc thuyền con liền rời khỏi bờ đến hơn một trượng. Bọn quân hầu của Vương Khánh đứng trên bờ nháo nhác đồng thanh gọi to:

- Quay thuyền lại đã? Bọn chúng tôi cũng cần qua sông!

ông chài trừng mắt quát:

- Xuống đây! Đi đâu mà vội? Nói đoạn buông sào, bất ngờ thụp nghe áo rồi du mạnh Vương Khánh ngã xuống sàn thuyền. Vương Khánh đang cố giãy giụa vùng dậy thì người cầm chèo vội bỏ tay chèo nhảy tới giúp sức ghì trói Vương Khánh. Những người đang phơi lưới trên eáe thuyền gần đó thấy Vương Khánh bị bắt vội nhẩy lên bờ chặn đường bắt giặc. Bọn quân hầu của Vương Khánh hơn ba mươi tên đều bị trói eổ.

Nguyên ông chài kia không ai xa lạ mà chính là Hỗn long giang Lý Tuấn, người cầm chèo là Xuất động giao Đồng Uỵ Những người đánh cá, phơi lưới cũng phần nhiều là các đầu lĩnh thủy quân cả?

Trước đó, Lý Tuấn vâng lệnh Tống tiên phong đã đem chiến thuyền đến đánh một trận lớn với thủy quân của Vương Khánh ở eo sông Cù Đường, giết chủ súy thủy quân là đô đốc Tưởng Sĩ Văn và Nhân Thế Sùng, bắt sống phó tướng Hồ Tuấn, quân giặc đại bại. Lý Tuấn thấy Hồ Tuấn tưởng mạo khác thường bèn tha chết. Hồ Tuấn eảm kính, bầy mưu cho Lý Tuấn lừa giặc mở cửa sông thành Vân An rồi đưa thuyền vào phiếm thành. Tướng trấn thủ của giăm là bọn Thi Tuấn đều bị giết. Hỗn long giang Lý Tuấn đã tính trước:

- Quân giặc giao chiến với đại binh, nếu

tan vỡ tất phải tìm đường nhạy về sào huyệt, vì vậy đã sai Trương Hoành Trương Thuận ở lại đóng giữ thành, tự mình cùng bọn Đồng Uy, Đồng Mãnh dẫn các đầu lính thủy quân đóng giả làm người đánh cá chèo thuyền trên sông để thám thính. Lại sai ba anh em họ Nguyễn đóng giả làm người Dán cá đến gò Diệm Dự, sông Mân và bến cá để nghe ngóng tin tức Vừa nãy, Lý Tuấn trông thấy từ xa có một người cưỡi ngựa đi đầu, theo sau eo nhiều người hộ vệ, đoán ngay là một tên đầu mục nào đó của giặc, nhưng không biết đích xác là ai. Tra hỏi bọn tùy tùng biết khánh là Vương Khánh, Lý Tuấn vỗ tay reo mừng, trói gô Vương Khánh áp giải về thành Vân An. Một mặt sai người báo cho anh em họ Nguyễn và anh em họ Trương ở lại giữ thành Vân An, còn tự mình cùng hàng tướng Hồ Tuấn tiếp tục giải bọn Vương Khánh đến quân doanh của Tống tiên phong. Dọc đường nghe tin Tống Giang đã hạ thành Nam Phong, bọn Lý Tuấn bèn đi thẳng vào thành, giải Vương Khánh đến súy phủ. Lúe ấy Tống Giang nghe tin báo đã bắt được Vương Khánh thì vui mừng khôn xiết. Lý Tuấn vào trong trướng yết kiến Tống tiên phong. Tống Giang khen :

- Công này của hiền đệ quả là không nhỏ!

Rồi lại hỏi tên hàng tướng Hồ Tuấn và bảo bọn Hồ Tuấn kể cho nghe kế lừa giặc để lấy thành Vân An như thế nào. Tống Giang xuống lệnh vỗ về khen thưởng tướng sĩ, rồi cùng các tướng bàn kế tiến đánh hai thành Đông Xuyên và án Đức. Hàng tướng Hồ Tuấn thưa:

- Xin tiên phong chớ lo nghĩ nhiều, Hồ Tuấn tôi có một kế lấy hai thành đó dễ như trở bàn taỵ Tống Giang cả mừng, đứng dậy đến bên Hồ Tuấn hỏi mưu kế. Hồ Tuấn cúi người nói nhỏ với Tống Giang mấy câu. Chỉ biết rằng:

Một tên không mất, thành liền ha.

Ba quân yên giữ, giặc đầu hàng.

Chưa biết Hồ Tuấn nói mưu kế gì, xem hồi sau sẽ rõ.

Hậu Thủy Hử

Scan: Mars - Đánh máy M4P

Hồi 110

Yến Thanh Qua Rừng Thu Bắn Nhạn

Tống Giang Về Đông Kinh Dâng Tù

Đang nói chuyện Tống Giang hỏi các tướng có cách nào để đánh lấy hai thành Đông Xuyên, An Đức. Hồ Tuấn nói:

- Tướng trấn thủ thành Đông Xuyên Hồ Hiển chính là em ruột Hồ Tuấn tôi. Tiểu tướng đội ơn Lý tướng quân tha mạng, nguyện xin vào thành gọi Hồ Hiển đến quy làng. Còn một thành An Đức trơ trọi, không cần đánh, quân giặc ở đó tất cũng phải dâng nộp.

Tống Giang cả mừng sai Lý Tuấn cùng đi. Một mặt Tống Giang điều khiển các tướng chia quân đi gọi hàng những huyện chưa thu phục được. Một mặt sai Đái Tôn đưa biểu văn về triều đình xin thánh chỉ định đoạt, đưa thư trình ĩ ~n an phủ và Túc thái úy biết. Tống Giang sai tướng sĩ vào cung điện của Vương Khánh thu đoạt báu vật vàng bạc, ngọc ngà gấm vóc, rồi cho phóng hỏa đốt hết các nơi cung cấm, gác phượng lầu rồng, hiên son mải trả cùng là các thứ đồ dùng quần áo của ngụy triều. Lại sai người đến thành Vân An truyền lệnh cho bọn Trương Hoành cũng thu đoạt các báu vật rồi thiêu hủy hành cung của Vương Khánh.

Nói tiếp, chuyện Đái Tôn đem văn thư của Tống Giang về Kinh Nam, vào trình Trần an phủ. Trần an phủ viết ngay biểu văn nhờ Đái Tôn đelỉ về kinh.

Đái Tỗl về Đông Kinh đem thư và lễ vật trình lên Túc thái úy Túc thái úy dâng biểu vào hoàng cung. Huy Tông hoàng đế cả mừng, truyền chỉ đến Hoài Tây, sai áp giải phản tặc Vương Khánh về kinh chờ lệnh trảm quyết. Còn bọn ngụy phi, ngụy quan và những tên giặc khác đã bắt được thì đem ra chợ chém đầu thị chúng. Dân chúng Hoài Tây từng bị Vương Khánh bạo ngược thì cho phép trích một ít quân lương để chia cấp cho các hộ dân nghèo. Các tướng sĩ trận vong, các hàng tướng có công, đều được ấm phong trọng hậu. Các châu huyện ở Hoài Tây hiện còn thiếu quan viên chánh phó, đều cấp tốc sai bộ lại tìm người để kịp đi nhậm chức. Ngụy quân ở các châu phần nhiều là những người bị giặc bức theo, sau đã cải tà quy chính, đều giao cho Trần Quán tùy liệu phân biệt, cho được tự ý xử lý. Các chánh phó tướng có công đánh dẹp thì đợi ngày về kinh đô sẽ xét công thăng thưởng. Sắc mệnh của hoàng đế chưa kịp truyền xuống thì Đái Tôn đã về trước báo tin.

Bấy giờ Trần an phủ đã từ Kinh Nam dời súy phủ đến thành Nam Phong. Hồ Tuấn thuyết phục được Hồ Hiển đầu hàng, đem sổ sách, hộ khẩu của quân dân Đông Xuyên cùng sổ ghi lương tiền các khoản đến nộp trước dinh súy phủ xin chịu tội. Quân giặc ở châu An Đức biết tình thế nguy khốn cũng xin quy hàng. Dân chúng ở ba châu Vân An, Đông Xuyên, An Đức kẻ làm nông không phải rời ruộng vườn, kẻ đi buôn không phải bỏ hàng quán, đều là do công của Lý Tuấn. Tất cả tám mươi sáu châu huyện thuộc tám quận bị Vương Khánh chiếm đoạt đều đã thu lại được hết.

Sau khi Đái Tôn về đến Nam Phong hơn mười ngày, sứ giả mang chiếu thư từ Đông Kinh cũng vừa tới. Trần an phủ và các tướng tiếp thánh chỉ nhất nhất vâng chiếu thi hành. Ngày hôm sau sứ giả lên đường về kinh. Trần an phủ ra lệnh cho quân đao phủ vào nhà giam bắt Đoàn thị, Lý Trợ và bọn tùy tùng đem ra chợ Nam Phong chém đầu thị chúng. Đoàn Tam Nương từ bé không nghe lời cha mẹ dạy dỗ, về sau tự mình kén chồng, gây những tội ác tầy trời, đến nay không những đầu lìa khỏi cổ mà còn làm liên lụy bao nhiêu thân quyến, cha là Đoàn thái công thì trước đó đã chết ở trại Phòng Sơn.

Lại nói đến Trần an phủ và Tống tiên phong ghi công đầu, công thứ cho bọn Lý Tuấn, Hồ Tuấn, Quỳnh Anh, Tôn An, sai treo bảng chiêu an ở các châu huyện, vỗ yên trăm họ. Dân chúng ở tám mươi sáu châu huyện được trở lại làm lương dân như lại thấy mặt trời. Những kẻ đã theo làm giặc nhưng không giết hại dân chúng thì được trả lại sản nghiệp để làm ăn sinh sống. Tướng trấn thủ Tây Kinh là Kiều Đạo Thanh và Mã linh giao lại nhiệm sở cho quan mới cũng đã về đến Nam Phong. Quân chánh phó các châu huyện mới được bổ nhiệm cũng đã lục tục về đến lỵ sở. BọTL Lý Tuấn, anh em họ Trương, anh em họ Nguyễn, anh em họ Đồng đã giao lại việc châu cho quan mới, cũng đã về yết kiến Tống tiên phong. Trần an phủ và các quan tùy tòng cùng anh em Tống Giang một trăm linh tám đầu lĩnh và các hàng tướng Hà Bắc mở tiệc lớn trong thành Nam Phong chúc nền thái bình, mừng công các quan văn võ, khao thưởng ba quân. Tống Giang giao cho Công Tôn Thắng và Kiều Đạo Thanh chủ trì lập đàn chay bẩy ngày bẩy đêm cầu siêu cho các tướng sĩ trận vong và các oan hồn ở Hoài Tây bị bức tử. Xong việc, bỗng có tin báo Tôn An bi bệnh cấp phát đã chết ở doanh. Tống Giang buồn thương vô hạn, bèn sai khâm liệm, làm lễ mai táng bên chân núi Long Môn.

Kiều Đạo Thanh xót thương đau đớn nói với Tống Giang:

- Tôn An với bần đạo là người cùng một quê, đối xử với bần đạo rất tốt, vì báo thù cha mà phạm tội rồi rơi vào tay giặc tiêu, đội ơn tiên phong thu dụng, mong ngày sau làm nên sự nghiệp, không may giữa đường đứt gánh. Bần đạo đội ơn tiên phong thu dùng cũng là nhờ Tôn An chỉ đường khai sáng cho.

Nay Tôn An đã mất, bần đạo không còn bụng dạ nào mà theo việc quân nữa. Bần đạo vân khắc cốt ghi lòng ơn lớn của hai vị tiên phong nhưng chưa chút báo đền. Nay xin hai vị cho bần đạo trở về quê quán kéo dài chút hơi tàn.

Mã Linh biết Kiều Đạo Thanh xin về cũng đến vái tạ Tống Giang mà nói:

- Xin tiên phong cho phép Mã Linh tôi được cùng đi với Kiều pháp sư.

Tống Giang lấy làm buồn không muộn xa cách, nhưng vì hai người quyết ý xin đi, khuyên nài mãi mà không được, đành phải ưng thuận, sai bày tiệc rượu tiễn biệt hai người.

Công Tôn Thắng ngồi bên im lặng không nói. Kiều Đạo Thanh, Mã Linh vái chào từ tạ Tống Giang và Công Tôn Thắng, sau đó đến chào Trần an phủ, rồi nhẹ nhàng ra đi. Về sau Kiều Đạo Thanh và Mã Linh cùng đến chỗ La chân nhân theo thầy học đạo, trọn đời sống tu hành.

Trần an phủ vỗ về chẩn cấp quân dân các châu quận Hoài Tây đã xong. Nguyên miền này ở về phía tây sông Hoài, người đời Tống vẫn gọi Uyển Châu, Nam Phong v.v... là đất Hoài Tây. Trần an phủ xuống lệnh cho tiên phong và các đầu mục sửa soạn đem quân về kinh. Quân lệnh truyền xuống, Tống Giang một mặt cho quân mã của đội trung quân đi trước hộ tống Trần an phủ, Hầu tham mưu, La vũ dụ lên đường. Một mặt truyền cho các đầu lĩnh thủy quân đưa chiến thuyền đi trước về kinh. Tống Giang sai Tiêu Nhượng soạn bài ký, Kim Đại Kiên khắc đá làm bia ghi chiến công dựng ở chân núi Long Môn phía đông thành Nam Phong, đến nay bia ấy vẫn còn. Hàng tướng Hồ Tuấn, Hồ Hiển bày tiệc rượu tiễn biệt Tống Giang. Sau đó Tống Giang về triều tâu lên thiên tử biết việc chiêu hàng và hai tướng Hồ Tuấn. Hồ Hiển đã cải tà quy thính. Thiên tử đặc ân phong cho Hồ Tuấn , Hồ Hiển chức đoàn luyện thủy quân ở Đông Xuyên, nhưng đó là chuyện vê sau.

Tống Giang chia quân mã làm năm đoàn, trước sau lần lượt lên đường. Các quân sĩ, ngoài một số ở lại đóng giữ các châu huyện cũng có một số ít xin về quê quán, số hiện còn tất cả hơn mười vạn người lục tục rời Nam Phong lên đường về Đông Kinh. Quân lính giữ nghiêm kỷ luật, những nơi đi qua không tơ hào xâm phạm của dân. Trăm họ bưng bàn bày hương hoa đèn nến đặt bên vệ đường để chào mừng đại quân.

Sau mấy ngày đi đường, đại quân đi qua bến đò có tên là bến Thu Lâm. Bến đò này nằm ở phía nam núi Thu Lâm ở huyện Hương thuộc Uyển Châu. Trên núi nhiều nơi suối đẹp đá lạ.

Tống Giang ngồi trên ngựa ngắm nhìn phong cảnh từ xa. Ngước nhìn bầu trời, Tống Giang thấy giữa tầng không một đàn chim nhạn con cao con thấp, không bay thành hàng, có ý như kinh sợ Tống Giang thấy vậy lấy làm ngờ lạ, lại nghe trong đoàn quân phía trước có tiếng cười reo khen giỏi, bèn sai người thúc ngựa lên hỏi nguyên do. Hóa ra là Lãng tử Yến Thanh luyện tập bắn cung, nhằm đàn nhạn trên không, bắn phát nào trúng phát ấy, chỉ một lát Yến Thanh hắn rơi hơn chục con, các tướng ngạc nhiên khen ngợi mãi. Tống Giang bèn cho gọi Yến Thanh. Một lúc sau Yến Thanh khoác cung tên phi ngựa đến sau lưng đeo mấy con nhạn vừa bắn được. Yến Thanh xuống ngựa, tháo yên, đến chào Tống Giang. Tống Công Minh hỏi:

- Ban nãy hiền đệ bắn nhạn phải không?

Yến Thanh đáp:

- Tiểu đệ bắn cung còn kém, ngẫu nhiên thấy đàn nhạn bay qua bèn bắn chơi, không ngờ phát nào cũng trúng.

Tống Giang nói:

- Tập bắn cung cho giỏi là công việc của bọn ta. Vừa rồi hiền đệ bắn thê là khá lắm. Nhưng nghĩ rằng người ta thường ví chim hồng, chim nhạn như khách, vì tránh rét mới phải rời núi Thái sơn qua quan ải bay vào địa phận nước ta để đến miền Giang Nam ấm áp tìm thức ăn, đến mùa xuân loài chim ấy lại bay về đất cũ. Loại hồng, nhạn ấy đáng gọi là loài chim nhân nghĩa, hợp đoàn từ mười đến ba bốn chục con, kính nhường lẫn nhau, những con được tôn quý bay đầu, những con khác tiếp sau giữ đúng thứ tự mà bay, không con nào vượt lấn bầy bạn, đêm tối dừng lại nghỉ cũng có hiệu báo cho cả đàn cùng biết. Lại cũng loài chim ấy, nếu con trống mà mất con mái, hoặc con mái mà mất con trống thì trọn đời không sánh đôi cùng con khác. Loài chim như thế đáng gọi là có đủ ngũ thường:

- Nhân, nghĩa, lễ, trì, tín. Thấy đồng loại bị giết, cả đàn đều tỏ ý đau buồn, những con mất bạn bay lẻ không con nào tranh đến, ấy là nhân. Một con trống hoặc con mái chết, con còn sống không sánh đôi với con khác, ấy là nghĩa. Theo tôn ti thứ bậc mà bay, không lấn vượt kẻ sau người trước, ấy là lễ. Biết báo tin cho nhau khi bị diều hâu đại bàng săn đuổi, ngậm cỏ tranh bay qua ải đem về làm tổ ở phương nam, ấy là trí. Mùa thu bay về phương nam, xuân đến lại bay về phương bắc, không tùy tiện thay đổi, ấy là tín.

Loài chim có đủ ngũ thường như thế, sao hiền đệ nỡ lòng giết hại chúng? Một đoàn hồng nhạn kêu gọi nhau mà bay trên trời, chẳng khác gì bọn anh em ta sống chết có nhau. Hiền đệ bắn rơi mấy con, cũng ví như trong anh em ta chẳng may bị mất mấy người, những người còn lại đau xót đến thế nào?

Hiền đệ nên nghe lời ta, từ nay không giết hại loài chim có lễ nghĩa ấy nữa.

Yến Thanh hối lỗi đứng lặng không đáp. Tống Giang trong lòng xúc động ngồi trên lưng ngựa khẩu chiếm một bài thơ:

Sơn lĩnh kỳ khu, thủy diễn mang,

Hoành không nhạn trận lưỡng tam hàng.

Hốt nhiên thất khước song phi bạn,

Nguyệt lãnh phong thanh dã đoạn tràng.

Đèo núi gồ ghề, nuộc mênh mang,.

phải xử trị theo quân pháp, làm hư hỏng thanh danh của cả bọn ta. Như thế triều đình không cho phép anh em ta vào thành hóa ra lại là điều may vậy. Bọn các ngươi nếu tị hiềm vì bị bó buộc mà có dị tâm thì trước hết hãy chém đầu Tống Giang này, rồi sau đó muốn làm gì tùy ý:

- Nếu trái lại thì Tống Giang cũng không còn mặt mũi nào mà sống ở đời, tất phải tự mình treo cổ chết cho xong. Mọi việc bây giờ tùy vào các ngươi định đoạt cả.

Các anh em đầu lĩnh nghe nói đều rơi lệ, cùng nhau thề không trái ý huynh trưởng, rồi ra về. Có thơ làm chứng như sau:

- Thùy tướng Tây Chu hoài hảo âm,.

Công Minh trung nghĩa bất di tâm.

Đương thời hữu sát Tần trưởng cước,.

Thân tại Nam triều, tâm tại Kim (câm).

Ai ngóng Tây Chu mong chủ mới, Công Minh trung nghĩa chẳng thay lòng.

Vung dao hỏi tội Tần trưởng lại.

Chung một triều vua lòng chẳng đồng.

Từ đó, Tống Giang và các tướng khi không có việc gì không vào thành. Bấy giờ sắp đến rằm tháng giêng, tục lệ Ở Đông Kinh hàng năm đều mở hội treo đèn kết hoa mừng đêm nguyên tiêu Các ngả đường đèn đuốc sáng trưng, các nơi công sở dinh thự phần nhiều có đốt pháo bông. Ở trong trại quân của Tống Giang, Lãng Tử Yến Thanh bàn với Nhạc Hòa:

- Ngày mai ở Đông Kinh có hội đèn hoa chúc năm mới được mùa, thiên tử cùng dân chúng đều vui chơi. Bọn ta thay quần áo khác lén vào thành chơi một chuyến xem sao?

Vừa lúc ấy có ai nói to:

- Các ngươi đi xem hội đèn phải cho ta cùng đi với!

Yến Thình nhìn lên mới biết là Hắc toàn phong Lý Quỳ.

Lý Qùy nói:

- Các ngươi đừng có giấu ta, các ngươi rủ nhau đi xem hội đèn ta đã nghe rõ cả!

Yến Thanh đáp:

- Đại ca muốn cùng đi cũng được, nhưng chỉ sợ đại ca nóng nẩy lại gây ra sự rắc rối, trúng phải mưu bọn ác độc ở sảnh viện.

Lý Qùy đáp:

- Lần này ta không gây sự nữa, các ngươi bảo sao ta nghe vậy!

Yến Thanh nói:

- Vậy thì ngày mai đại ca thay khăn áo, ăn mặc như người thường, rồi theo anh em tiểu đệ vào thành.

Lý Qùy cả mừng, ngày hôm sau cải trang như người khách hàng đi chơi, chờ bọn Yến Thanh đến rủ. Không ngờ Nhạc Hòa vì sợ Lý Qùy gây rắc rối, nên đã cùng Thời Thiên lén đi trước rồi. Yến Thanh không làm sao được đành phải cùng đi với Lý Quỳ. Hai người không dám qua trạm Trần Kiều, mà đi đường vòng rồi vào lối cửa Phong Khâu. Lý Qùy và Yến Thanh dắt tay nhau đi về phía nhà rạp dựng bên đường. Đến trước cửa, nghe tiếng phèng la trong rạp vọng ra, Lý Qùy muốn vào xem, Yến Thanh đành phải theo. Lý Qùy chen lấn đám đông mà vào. Lúc ấy trên nhà rạp diễn trò kể tích Tam quốc chí, đang đến đoạn Quan Vân Trường mổ xương chữa bệnh. Bấy giờ Vân Trường bị trúng tên ở cánh tay trái, thuốc độc ngấm vào xương, thầy thuốc Hoa Đà bảo:

- "Muốn giải được chất độc ngày phải dựng một cây cột đồng, bên trên gắn một chiếc vòng sắt, đút cánh tay vào trói lại, rồi lấy dao mổ rạch thịt cắt ba phần ống xương để loại bỏ chỗ bị nhiễm độc. Sau đó khâu lại, ngoài bôi thuốc điều trị, trong uống thuốc bồi trợ, khoảng nửa tháng thì lành. Việc chữa trị vì vậy rất khó khăn". Quan công cả cười nói:

- "Đại trượng phu chết cũng không sợ huống hồ chỉ một cánh tay? Ta không cần phải cột đồng, vòng sắt gì hết, cứ giơ tay mà mổ, ngại gì?". Nói đoạn liền gọi đem bàn cờ ra cùng người khác ngồi đánh, .đồng thời giơ tay trái cho Hoa Đà tiên sinh mổ xương khử độc, sắc mặt vẫn thản nhiên, ung dung cười nói như thường. Người thuyết thoại kể đến đây thì Lý Qùy chen vào nói to:

- Thế mới đáng là bậc mày râu nam tử!

Mọi người giật mình quay lại nhìn Lý Quỳ. Yến Thanh phải vội vàng nói chặn:

- Này Lý đại ca, sao mà quê mùa thế? Vào rạp nghe tích, xem hát lại kêu toáng lên làm cho mọi người khiếp sợ.

Lý Qùy nói:

- Kể đến chỗ này thì phải cho người ta khen hay chức Yến Thanh vội kéo Lý Qùy đi ra. Hai người rời khỏi khu nhà rạp, qua ngã tư thấy một gã to lớn đang cầm gạch đá ném vào một nhà dân gần đó. Người trong nhà kêu ầm lên:

- Thời buổi thanh bình, giữa ban ngày ban mặt thế này, đã quệt tiền hai lần không trả, lại còn giở mặt ném đá phá nhà người ta!

Hắc toàn phong giữa đường thấy chuyện bất bằng, nổi nóng muốn xông vào đánh. Yến Thanh cố sức ôm chặt Lý Qùy nhưng Lý Qùy vẫn trừng mắt như muốn đánh nhau. Gã to lớn nói với Lý Quỳ:

- Ta vay tiền của nhà kia thì can hệ gì đến ngươi? Hôm nay ta sắp theo Trương chiêu thảo xuống Giang Nam đánh giặc, ngươi đừng có sinh sự với ta? Xuống đánh chác ở đó thì cầm bằng cái chết, ngươi muốn đánh thì ta đánh với ngươi, có chết cũng được, ở đâu cũng đến cho vào quan tài là xong!

Lý Qùy hỏi:

- Ngươi bảo cái gì xuống Giang Nam? Lão gia chẳng nghe ai nói quân tướng nào đi đánh dưới đó cả.

Yến Thanh ra sức can ngăn để hai người khỏi cãi nhau, rồi kéo tay Lý Qùy ra khỏi ngõ hẻm. Sang bên kia đường, thấy một quán trà, hai người vào kéo ghế gọi trà uống. Ngồi đối diện lcả một người có tuổi, bọn Yến Thanh róc nước mời, rồi bàn chuyện phiếm. Yến Thanh nói:

- Thưa lão trượng, vừa rồi bọn tiểu nhân gặp một gã to lớn ở đầu ngõ kia, hắn ta bảo sắp theo Trương chiêu thảo xuống Giang Nam đánh giặc. Lão trượng có biết giặc nào không?

Cụ già đáp:

- Thì ra hai vị chưa biết chuyện, nay có bọn giặc cỏ Phương Lạp ở Giang Nam đã nổi lên chiếm đoạt tám châu hai mươi lăm huyện, từ Mục Châu đến Nhuận Châu, tự xưng là một nước, sớm muộn sẽ đánh đến Dương Châu. Vì thế triều đình sai Trương chiêu thảo và Lưu đô đốc đi đánh đẹp.

Yến Thanh và Lý Qùy nghe xong câu chuyện của cụ già vội trả tiền rồi rời quán trà trở về. Vừa đến doanh trại hai người gặp ngay quân sư Ngô Dụng, liền báo cho Ngô Dụng biết tin ấy. Ngô Dụng cả mừng báo ngay việc này với Tống Giang. Tống Giang nói:

- Binh mã của anh em các tướng bọn ta lâu ngày đóng trại ở đây cũng có điều bất tiện, chi bằng ta nên nói với Túc thái úy để thái úy tâu lên thiên tử xin cho bọn ta được đem quân đi đánh dẹp.

Nói đoạn Tống Giang truyền họp các tướng để bàn bạc, ai nấy đều vui lòng thuận nguyện. Ngày hôm sau Tống Giang đổi trang phục đưa theo Yến Thanh vào thành:

- Hai người đến thẳng phủ đệ Túc thái úy mới xuống ngựa. Lúc ấy Túc thái úy đang ở phủ, Tống Giang nhờ quân hầu báo tin. Túc thái úy vội cho mời Tống Giang vào. Tống Giang vào trước sảnh đường lạy chào xong, Túc thái úy hỏi:

- Tướng quân có việc gì mà phải đổi quần áo để vào đây?

Tống Giang đáp:

- Gần đây vì các quan ở sảnh viện có treo bảng truyền cho các quan quân chuyên đi đánh trận, nếu không có lệnh gọi thì không được tự ý vào thành. Hôm nay tiểu tướng đi riêng vào đây là có công chuyện muốn trình lên ân tướng. Anh em Tống Giang tôi nghe nói Phương Lạp nổi loạn ở Giang Nam, chiếm cứ các châu quận, thay đổi niên hiệu, hiện đã xâm phạm Nhuận Châu, sớm muộn sẽ vượt sông lớn, đánh Dương Châu. Người ngựa của bọn Tống Giang tôi lâu nay nhàn rỗi đóng yên một nơi, thật cũng không tiện lắm. Vì thế anh em Tống Giang tôi tình nguyện xin đem quân mã đi đánh dẹp để tận trung báo quốc, cúi mong ân tướng tâu lên, xin thiên tử chuẩn cho lời thỉnh cầu ấy.

Túc thái úy nghe xong cả mừng nói:

- Lời của tướng quân chính hợp ý hạ quan. Hạ quan xin hết sức tâu với thiên tử. Tướng quân cứ về nghỉ ngơi, buổi chầu sáng mai hạ quan tâu lên, thiên tử tất sẽ vui lòng trọng dụng.

Tống Giang cáo từ Túc thái úy, lên ngựa về doanh trại báo cho các đầu lĩnh biết.

Lại nói Túc thái úy sáng hôm sau vào triều, gặp lúc thiên tử bàn việc với các quan văn võ ở điện Phi Hương, đang nói đến việc Phương Lạp nổi loạn, gây thiệt hại cho dân chúng, chiếm giữ tám châu hai mươi lăm huyện của triều đình, tiếm xưng niên hiệu, tự xưng bá xưng tôn, chẳng bao lâu nữa sẽ xâm phạm đến Dương Châu. Thiên tử nói:

- Trẫm đã truyền chỉ sai Trương chiêu thảo và Lưu đô đốc đi đánh, nhưng chưa thấy hai viên ấy cho quân xuất phát.

Túc thái úy bước ra khỏi hàng tâu:

- Theo ngu ý của thần thì bọn giặc cỏ ấy nay đã thành mối lo lớn cho triều đình. Xin bệ hạ một mặt sai Trương tổng binh và Lưu đô đốc đem quân đi đánh, nhưng cũng nên sai thêm quân mã của Tống tiên phong vừa mới dẹp tan giặc Vương Khánh ở Hoài Tây trở về nữa. Hai đội quân mã ấy làm tiền bộ tiên phong, chắc hẳn sẽ lập công lớn, tiễu trừ được giặc Phương Lạp ở Giang Nam.

Thiên tử nghe tâu cả mừng, hến sai trung sứ truyền cho quan sảnh viện vào nhận thánh chỉ. Trương chiêu thảo và Lưu đô đốc lúc ấy có mặt tại triều cũng tâu xin thiên tử điều quân mã của Tống Giang làm quân tiên phong tiền bộ. Quan sảnh viện vào trước điện vâng nhận thánh chỉ rồi lập tức sai người đi tuyên triệu Tống tiên phong và Lư tiên phong đến điện Phú Hương triều kiến thiên từ. Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa đến dưới điện lạy chào xong, thiên tử ban sắc phong cho Tống Giang làm Bình nam đô tổng quản chánh tiên phong, phong Lư Tuấn Nghĩa làm Binh mã phó tổng quản Bình nam phó tiên phong. Mỗi người đều được ban đai vàng, cẩm bạc mỗi thứ một chiếc, áo giáp vàng một bộ, tuấn mã một con, lụa màu hai mươi lăm tấm. Các chánh phó tướng khác đều được ban bạc, lụa, đợi khi xét công chiếu theo danh sách mà ban thưởng, và gia phong quan tước. Các viên đầu mục trong ba quân cũng được thưởng bạc, tự đến phủ nội vụ để lĩnh.

Các việc ban thưởng đã xong, lại định rõ ngày tháng đưa quân lên đường.

Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa vâng mệnh vào tạ Ơn thiên tử Thiên tử nói:

- Trong số các khanh có người là Kim Đại Kiên giỏi nghề chạm ngọc khắc đá, lại có Hoàng Phủ Đoan có tài xem tướng ngựa, trẫm muốn giữ hai người đó ở kinh đô để tiện sai phái.

Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa cúi đầu lĩnh mệnh, lại sụp lạy tạ Ơn rồi rời khỏi đại nội lên ngựa trở về.

Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa vui vẻ sánh ngựa ra khỏi thành.

Trên đường đi, khi qua phố chợ thấy một người tay ôm một vật hai bên đeo hai thanh gỗ đã mọt, ở giữa có lỗ xâu dây, người ấy cầm sợi dây mà kéo, cái vật bưng trong tay liền phát ra tiếng kêu. Tống Giang không biết đó là vật gì bèn hỏi:

- Cái này gọi là vật gì?

Người kia đáp:

- Đây là cái đàn của người Hổ, dùng tay kéo dây tự nhiên sẽ có tiếng. Tống Giang cảm hứng làm một bài th.ơ:

- Nhất thanh đê liễu nhất thanh cao,.

Liêu lượng thanh âm thấu bích tiêu.

Không hữu hứa đa hùng khí lực,.

VÔ nhân đề khế mạn đồ lao.

Tiếng trầm vừa dứt lại lên cao.

Rít gió âm thanh nhịp dạt dào.

Rỗng ruột tiếng vang nghe náo nức,.

Không người nâng kéo nghĩ buồn sao.

Tống Giang ngồi trên ngựa nói với Lư Tuấn Nghĩa:

- Cái đàn Hổ ấy khá giống ta và hiền đệ:

- Trong lòng hàm chứa bản lĩnh cao cường nhưng không có ai nâng kéo thì âm thanh không vang lên được?

Lư Tuấn Nghĩa hỏi:

- Sao huynh trưởng lại nghĩ như vậy? Xét về học thức thì anh em ta cũng không thua kém các bậc danh tướng xưa nay.

Nếu bản thân mình tài năng võ nghệ thấp kém thì dẫu có người nâng kéo cũng không dùng được việc gì.

Tống Giang nói:

- Hiền đệ nghĩ nhầm rồi, anh em ta nếu không có Túc thái úy hết lòng đề cử thì làm sao được thiên tử trọng dụng? Uống nước phải nhớ nguồn!

Lư Tuấn Nghĩa biết lỡ lời nên lặng im không đáp.

Hai người về đến doanh trại, vào trong trướng cùng ngồi, sau đó cho gọi các tướng đến hội. Trừ nữ tướng Quỳnh Anh đang lúc có mang mà bị Ốm nặng phải nghỉ ở kinh và vợ chồng Diệp Thanh ở lại thuốc phang hầu hạ, còn các tướng khác đều sửa sang áo giáp, yên ngựa sẵn sàng đem quân đi dẹp giặc Phương Lạp. Sau đó Quỳnh Anh khỏi ốm, đủ ngày trọn tháng sinh được một đứa con trai mặt vuông tai lớn, đặt tên là Trương Tiết. Về sau nghe tin chồng bị tướng giặc là Lệ Thiên Nhuận giết ở ải Độc Tùng, Quỳnh Anh đau xót chết ngất, rồi cùng với vợ chồng Diệp Thanh tìm đến ải Độc Tùng đưa linh cữu Trương Thanh về an táng ở quê nhà tại phủ Chương Đức.

Sau đó Diệp Thanh cũng bị Ốm chết, Quỳnh Anh cùng với bà già họ An nuôi dưỡng Trương Tiết. Đến khi khôn lớn Trương Tiết theo Ngô Giới đánh bại quân Kim ở cao nguyên Hòa thượng, khiến vua Kim là Ngột Truật phải quắp râu chạy trốn. Trương Tiết dược phong quan tước, trở về quê phụng dưỡng mẹ già và nghỉ ngơi cho đến hết đời còn thân mẫu thì được ban tặng tôn hiệu Trinh tiết. Đấy là gương hiếu nghĩa, trinh tiết của Quỳnh Anh và những người trong gia quyến.

Khỏi kể rườm rà; sau ngày nhận chiếu của thiên tử sai đi đánh Phương Lạp, Tống Giang đến kho nội phủ lĩnh các khoản đồ thưởng bạc lụa chia phát cho các tướng, các đầu mục. Lại cho Kim Đại Kiên và Hoàng Phủ Đoan vào hoàng cung chờ thiên tử sai phái. Sau đó Tống Giang lệnh cho các đầu lĩnh thủy quân sửa sang sào chèo, buồm lái, rồi truyền lệnh cho đoàn chiến thuyền xuất phát trước. Một mặt truyền lệnh cho các đầu lĩnh quân mã chỉnh đốn đai giáp, giáo gươm, cung nỏ, sẵn sàng xuất phát tiếp theo, thủy lục cùng tiến.

Quân chưa lên đường thì có sai nhân của thái sư sai đến gọi lấy Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng để giữ việc sao chép giấy tờ Ngày hôm sau lại có Vương đô úy đến hỏi Tống Giang muốn xin Thiết khiếu tử Nhạc Hòa về phủ để trông nom công việc ca xướng. Tống Giang đành phải chia tay với Tiêu Nhượng và Nhạc Hòa. Cũng kể từ đây các anh em đầu linh thiếu mất năm người, Tống Giang cảm thấy lòng buồn vô hạn. Mọi việc đã xong xuôi, Tống Giang bàn bạc với Lư Tuấn Nghĩa, rồi truyền lệnh cho ba quân chuẩn bị lên đường.

Lại nói ở đất Giang Nam, Phương Lạp làm phản đã lâu, tích tiểu thành đại, đã dựng được cơ nghiệp khá lớn. Phưỡvìg Lạp nguyên chỉ là một gã tiều phu ở vùng núi Hấp Châu, một hôm đi đại tiện bên bờ khe thấy dòng nước phản chiếu bóng mình đội mũ bình thiên, mặc áo long cổn, nhân đó thường nói với dân làng là nhà mình có phúc phát vương. Khi Chu Miễn đưa dân phu đến đất Ngô Trun~l) đào đá hoa cương, dân chúng oán giận, muốn dấy loạn. Phương Lạp nhân cơ hội ấy nổi lên làm phản, rồi xây dựng lâu dài, cung điện, nội uyển ở trong 1 Ngô Trung:

- Chỉ Ngô huyện (và phụ cận) tỉnh Giang Tô.

vùng động Bang Nguyên thuộc huyện Thanh Khê. Ở Mục Châu, Hấp Châu cũng đều có hành cung của Phương IJạP Triều đình của Phương IJạP cũng có đủ tướng văn tướng võ, các đại thần đứng đầu đài sảnh. Mục Châu thì đương thời là châu Kiến Đức, nhà Tống đổi là Nguyên Châu. Hấp Châu đương thời là châu Vụ Nguyên, nhà Tống đổi là Huy Châu. Phương IJạP từ vùng này chiếm đoạt đất đai đến tận Nhuận Châu, đương thời gọi là châu Trấn Giang. Tính tất cả thuộc đất của Phương IJạP là tám châu hai mươi lăm huyện. Tám châu ấy là:

- Hấp Châu, Mục Châu, Hàng Châu, TÔ Châu, Thường Châu, Hồ Châu, Tuyên Châu, Nhuận Châu. Bấy giờ các nơi như Gia Hưng, Tùng Giang, Sùng Đức, Hải Ninh đều là huyện lỵ Phương IJạP tự xưng là quốc vương, độc chiếm một miền không phải nhỏ. Phương IJạP tự cho mình có số ứng với sách trời, thường vẫn nói rằng trong sách có câu:

- "Thập thiên gia nhất điểm, đông tận thủy xưng tôn. Tung hoành quá Chiết Thủy, hiển tích tại Ngô Hưng". Thập thiên (mười nghìn) là vạn, trên đầu thêm dấu chấm là chữ Phương. Đông tận tức là IJạP (tháng mười hai). Còn "xưng tôn" có nghĩa là làm vua. Cả mấy câu ấy chính ứng vào hai chữ Phương IJạP Phương IJạP chiếm giữ tám quận miền Giang Nam, ngăn cách với miền bắc bởi con hào thiên nhiên là sông Trường Giang, lại có phần rộng lớn hơn miền Hoài Tây nữa.

IJạI nói Tống Giang tuyển chọn tướng tá điều khiển quân sĩ đã xong, bèn vào thành cáo từ các quan sảnh viện. Túc thái úy và Triệu khu mật đích thân đến doanh trại khao thưởng ba quân, tiễn đưa anh em Tống Giang đem quân lên đường.

Bấy giờ các đầu lĩnh thủy quân đã đưa đoàn chiến thuyền từ sông Tứ vào sông Hoài, dọc theo bờ đê ở quận Hoài An tiến đến Dương Châu. Tống Giang, IJƯ Tuấn Nghĩa từ tạ Túc thái úy và Triệu khu mật, dẫn quân mã chia làm năm đoàn, theo đường bộ tiến về Dương Châu. Chuyện trên đường đi không có gì đáng nói. Chẳng bao lâu tiền quân đã đến hạ trại ở huyện Hoài An. Các quan bản châu ra ngoài thành đón tiếp, mời Tống tiên phong vào thành, mở tiệc lớn đón mừng. Quan châu doãn nói:

- Giặc Phương IJạP thế lực rất mạnh không thể xem thường.

Trước mặt thành đây là sông cái Dương Tử Giang, là nơi hiểm yếu bậc nhất ở miền Giang Nam. Bên kia sông là Nhuận Châu, hiện do thủ hạ của Phương IJạC là bọn khu mật IJữ sư Nang và mười hai viên thống chế đóng giữ vùng ven sông. Nếu không lấy được Nhuận Châu thì khó lòng đương đầu nổi bọn chúng.

Tống Giang nghe xong liền mời quân sư Ngô Dụng đến bàn định kế sách để dùng chiến thuyền vượt sông sang bờ nam.

Ngô Dụng nói:

- Bờ nam sông Dương Tử có hai hòn núi gọi là núi Kim và núi Tiêu chắn sát sau chân thành Nhuận Châu. Ta nên cho vài anh em sang đó thăm dò tin tức, rồi mới biết nên dùng loại thuyền nào để vượt sông.

Tống Giang cho gọi các đầu lĩnh thủy quân đến hỏi:

- Trong các anh em, ai có thể giúp đi dò xét tin tức bên bờ nam?

Cùng lúc đứng dưới trướng có bốn viên chiến tướng đều tự nguyện xin đi. Không biết bốn người này đi dò đường như thế nào. Chỉ biết rằng:

- Thây chất như núi cao Bắc Cổ,.

Máu chảy ngầu sông đỏ Trường Giang.

Đúng là:

Trận Rồng đen đại binh vượt bên,.

Bờ Nhạn trắng chiến hạm đầu quân.

Chưa biết quân mã của Tống Giang tiến đánh Phương Lạp ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#minhhoai