hd 11111111111111

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồ Dương – 01

November 9th, 2009 Print This | by Trường An in "Hồ Dương"

Đó là một ngày cuối mùa xuân năm Đinh Vị.

Mùa xuân, đó là cách người ta hay gọi. Phương Nam không có mùa xuân, phương Nam cũng chẳng có hạ, thu hay đông. Phương Nam chỉ có hai đợt nắng mưa luân phiên nhau hoán đổi. Chỉ là theo thói quen, người ta vẫn vạch ra những cột mốc để tính thời gian. Cuối mùa xuân năm Đinh Vị là những ngày mà mọi thứ đạt tới cực đại của nó. Nắng và mưa đều đạt tới mức cực đại của chúng. Mưa sầm sập, ào ào như thác lũ kéo dài cả đêm, cả ngày, rồi đến lượt nắng chói chang, gay gắt như lửa thiêu vạn vật. Mọi thứ luân chuyển như thế, trên những cánh đồng và ruộng nước đã gặt xong mới được cày tơi, trên những rặng tre, rừng cỏ, lẩn khuất giữa các khu rừng.

Ngày cuối mùa xuân năm Đinh Vị nọ là một ngày nắng sau những đợt mưa dài. Nắng, nắng chao chát trên bầu trời xanh phơn phớt mây trắng, nắng lấp loáng chói mắt trên các vũng nước đọng, các ao hồ, kênh rạch, sông ngòi, nắng nhảy múa trên các tán lá lấp loáng xanh. Chàng có cảm giác rằng, chỉ một cái chớp mắt, mình sẽ tan đi dưới nắng.

Tan đi dưới nắng, thầm nhẩm lại câu nói ấy trong tâm trí, chàng nhảy qua nhánh cây ngáng đường. Bùn đất lệt sệt dưới chân chàng. Những kẻ đi đằng sau cũng chẳng lấy gì làm vội vã, họ bước qua nhánh cây chậm rãi. Những ngày mưa làm con người chậm chạp hẳn lại. Cái ý muốn được nằm xuống, nghỉ ngơi, lơ đãng và biếng lười được vỗ về trong tiếng mưa rầm rập, trong thế giới nước đang trút xuống từng đợt không ngớt dễ tạo thành thói quen. Thói quen ấy, dù sao, cũng dễ chịu hơn là những trận đánh nhau quay cuồng trong đất, bùn và nắng, trong những kênh rạch nước chảy xiết. Mưa lớn đồng nghĩa với được ngưng chiến và nghỉ ngơi khi không ai có thể di chuyển trên lớp bùn sền sệt qua mắt cá chân, những đợt sóng đánh nghiêng ngả và nước trút xuống thuyền khiến không ai có thể tát đi kịp. Vì vậy, không thể đừng, họ đón cái nắng với một cảm giác uể oải thấy rõ. Trên con đường đến bến thuyền cạnh trại, có người không nén nổi cái ngáp dài. Nếu Võ Văn Lượng ở đây, hẳn ông ta đã quát tướng lên, chàng nghĩ với cái cười nhẹ.

Vừa hay sao, mới nghĩ đến Võ Văn Lượng, một tiếng gọi đã chói lói cất lên từ trong sân:

- Tánh đại ca, quay lại! Trại chủ cho gọi!

Một vài kẻ khẽ nhướng mày trước khi nhún vai đi tiếp, để chàng quay lại phía tiếng gọi. Võ Văn Lượng, người chủ của trang trại này, người tài trợ và thành lập nên Kiến Hòa quân cho chàng. Đối với ông ta, chàng có lòng kính trọng như với một người anh lớn. Ông ta, kẻ cai quản trang trại lớn nhất Kiến Hòa, cũng như của cả miền Nam này, nhất định không phải một nhân vật tầm thường. Kiến Hòa quân là đội quân chống Tây Sơn lớn nhất tại Gia Định, hơn cả lực lượng mà chúa Nguyễn từng có. Tuy vậy, Võ Văn Lượng chỉ cho họ chiếm giữ gò Tre và giới hạn trong việc chống trả Tây Sơn chứ không đánh chiếm vùng ngoài, không mở rộng chiến cuộc. Khi chàng hỏi lý do của sự thận trọng ấy, ông ta chỉ im lặng. Nhưng chàng tin ông ta. Võ Văn Lượng không phải là một nhân vật tầm thường.

Nhân vật ấy đang đợi chàng trong gian nhà chính được xây bằng gỗ lim qúy thơm dìu dịu quanh năm. Một hầu gái cúi xuống lau bàn chân lấm bùn cho chàng trước khi vào nhà. Gạch mát lạnh dưới chân chàng. Ngồi trên chiếc phản gỗ cẩn xà cừ, thả một chân xuống đất, Võ Văn Lượng có vẻ lơ đãng như đang chìm trong suy nghĩ. Cho đến tận khi chàng cất tiếng gọi, ông ta mới ngẩng lên, đôi mày không hề giãn ra.

- Có chuyện gì mà gọi tôi về gấp khi đang đi tuần tra thế? – Chàng hỏi, ngồi xuống phản mà không đợi mời. Bỏ ống điếu sang bên, Võ Văn Lượng hơi cúi người về phía chàng.

- Chuyện gấp, Tánh à. Tây Sơn có biến. – Giọng Võ Văn Lượng trầm xuống, gần như thì thào. – Nguyễn Huệ đã làm phản, đánh Nhạc ở Quy Nhơn. Nghiêm trọng đấy, nghe đâu Huệ đã huy động cả sáu, bảy vạn quân.

Họ im lặng nhìn nhau. Nghe tiếng hàng dừa trong vườn xào xạc. Một lúc sau, chàng mới mở lời:

- Anh nghĩ sao?

- Tôi đang nghĩ xem ai sẽ thắng. – Ngả người về phía sau, lại với lấy ống điếu, chầm chậm nhồi thuốc, Võ Văn Lượng hơi mỉm cười. – Nhạc tuy là Tây Sơn vương nhưng qúa cả tin đến mức giết chết mình. Giao cả đội quân chủ lực vào tay Huệ để rồi bọn chúng theo Huệ mà bỏ cả vua mới dẫn đến cớ sự này. Quân chủ lực của Tây Sơn nằm trong tay Huệ. Thuận Hóa và Quảng Nam, Quảng Ngãi dồi dào nhân lực, tài lực hơn hẳn Quy Nhơn. Việc ai sẽ chiếm thế thượng phong thì không cần phải suy nghĩ nhiều.

- Như vậy, Gia Định này sẽ… - Chàng nôn nóng ngắt lời Võ Văn Lượng. Hàm râu của ông ta rung rung.

- Nguyễn Lữ sẽ phải chọn lựa. Nếu theo Huệ, hắn sẽ phải chống đỡ với Nhạc ở ngay tại đây, đội quân Tây Sơn sẽ phải xẻ đôi. Nếu theo Nhạc, hắn sẽ mất Gia Định khi Huệ thuận đường tiến đánh, phải chăng? Không. Bọn chúng chưa bao giờ để tâm đến vùng đất này, Huệ sẽ chẳng cần đến mảnh đất này khi có một miền Bắc giàu có đang chờ hắn. Gia Định này sẽ bị bỏ rơi.

- Cơ hội của chúng ta là đây! – Chàng sôi nổi nói, có thể nghe máu nóng bốc lên tai. Trong sự ngạc nhiên của chàng, Võ Văn Lượng vẫn chầm chậm lắc đầu.

- Chàng trai trẻ, bây giờ chưa phải lúc. – Khói thở qua mũi ông ta, bốc thành làn xanh mờ. – Bấy nhiêu năm qua, tôi giữ các anh ở vùng gò Tre này không phải là để thắng một hai trận đánh, tôi nghĩ anh phải hiểu ý tôi. Thắng một hai trận đánh, giữ được một hai vùng đất, rồi thì sao? Quân chủ lực của Tây Sơn vẫn còn, dù Nhạc hay Huệ thắng, thấy có biến loạn thì trước hay sau chúng sẽ lại tràn xuống. Anh chưa thấy tấm gương của chúa Nguyễn đó sao?

- Nhưng cứ đợi đến lúc chúng ổn định lại thì chúng ta cũng mất luôn cơ hội! – Một lần nữa, chàng ngắt lời Võ Văn Lượng. Đợt máu nóng vừa rồi hóa thành cơn giận bốc đến đỉnh đầu chàng. – Quân chủ lực của Tây Sơn vẫn còn, lúc nào chúng cũng sẽ còn! Nếu chúng ta không làm gì thì mãi mãi cũng chỉ ôm lấy vùng Định Tường này, đợi đến khi chúng đem đại quân từ Bắc tràn xuống tiêu diệt chúng ta! Chúng ta lập Kiến Hòa quân chỉ là để ôm lấy gò Tre, giữ lấy lúa gạo ăn và đợi đến lúc bị tiêu diệt thôi sao?

Không vội đáp những lời nói gay gắt của chàng, Võ Văn Lượng nhìn ra sân. Vườn cau trầu rộng dài tít tắp nối nhau xanh mướt, để lộ ra một con đường uốn khúc giữa những thân cây cao. Ồ, ông nhớ đến những ngày mới đến vùng đất này, cắm những thân cây đầu tiên xuống đất, rồi đợi chúng lớn lên qua những mùa mưa lũ, những ngày nắng hạn. Biết bao ngày đã đi qua, những ngày ông đã sống ở vùng đất này.

- Anh biết tại sao ta lại thành lập Kiến Hòa quân. – Ông nói, không phải là hỏi. Nghe tiếng khịt mũi của chàng trai.

- Vì quân Tây Sơn đến cướp lúa gạo cá mắm của trại, chở về không hết nên tiêu tiểu vào để không ai còn ăn được. Anh tức giận nên thành lập đội quân này.

Lần này thì ông cười. Ông cười lớn. Chiếc điếu rời khỏi tay ông lăn trên phản. Dứt cơn cười, ông quay lại nhìn người trước mặt – người thanh niên trẻ tuổi, vẫn còn rất trẻ. Nét cười vẫn còn trong giọng nói của ông.

- Đúng vậy, nhưng cũng sai rồi, Tánh. Chúng đến cướp, ta có thể không lý gì đến bọn cướp nghèo khốn khổ ấy, qúa lắm thì ta bảo vệ kỹ hơn, thế thôi. Nhưng ta không chấp nhận được hành động làm số ô uế lương thực còn lại của chúng. Bọn cướp vốn chỉ lấy những gì chúng cần – Nhưng chúng thì phá hoại tất cả những gì chúng không cần, đó là điều mà ta không bao giờ chấp nhận được. Miền đất này lương thực dồi dào, không vì chúng cướp mà phải chết đói, nhưng số của cải, lương thực ấy chúng ta cũng phải đổ mồ hôi, và cả máu nữa – trong những cánh rừng đầy hổ báo, trên những dòng sông đầy cá sấu - trả bằng cả tính mạng mình mới có được. Tôi tức giận, phải, nhưng không phải vì số lương thực phải bỏ đi, mà vì những kẻ ấy cho mình quyền chà đạp và khinh rẻ kẻ khác. Có người đã khóc khi nhìn số lương thực bị chúng làm ô uế, Tánh à. Mồ hôi và máu của họ, nguồn sống của họ. Tôi không bao giờ quên được cảnh tượng ấy. Và tôi không bao giờ chấp nhận kẻ cho mình cái quyền phá hoại những gì bản thân chúng cảm thấy không cần, cho mình cái quyền chà đạp kẻ khác. Như chúng đã làm ở Cù lao Đại Phố, như chúng đã làm ở bờ sông Tân Bình. Không gì có thể bào chữa, biện hộ cho việc đánh giết thường dân và phá hoại của cải họ, ngay cả với bọn kẻ cướp. Kẻ cướp chỉ lấy những gì chúng cần, còn bọn vô lương tâm mới phá tất cả những gì chúng không cần. Ta có thể đánh bạn với kẻ cướp, nhưng không tha thứ cho kẻ vô lương.

- Kiến Hòa quân, - Võ Văn Lượng mỉm cười. Ông lại hơi nghiêng người về phía chàng trai trẻ. – Anh hiểu ý nghĩa của những chữ ấy chứ, Tánh? Quân đem lại hòa bình. Đó là mục đích của chúng ta, đừng bao giờ quên. Mục đích của chúng ta không phải là một hai vùng đất, một hai trận thắng, mà những gì có thể đem lại hòa bình. Hòa bình cho vùng đất này. Một hai trận thắng không thể đem tới điều ấy. Đuổi được Nguyễn Lữ, Phạm Văn Sâm không khó, chỉ cần ta kêu gọi những nhóm chống Tây Sơn khác lại. Nhưng rồi thì sao? Nguyễn Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Tuyết ở Trấn Biên, Lê Công Trấn, Phạm Văn Điền ở Sài Côn, những tướng của chúa Nguyễn vẫn còn ở Gia Định này, tàn quân Đông Sơn vẫn lẩn khuất – Tất cả bọn họ có ai chịu nhường nhịn ai? Hãy nhìn tấm gương chúa Nguyễn, chàng trai. Những kẻ mang danh chống Tây Sơn đánh lẫn nhau, mỗi kẻ cơ hội lại thủ sẵn cho mình một vùng đất, làm hại nhau trước khi Tây Sơn tiến đánh. Chúa Nguyễn mất liền ba tướng chỉ để dọn dẹp tàn quân của anh cậu, trong lúc đánh Tây Sơn lại bị bọn phản quân đánh sau lưng, gần như mất mạng. Hòa bình, chúng ta cần hòa bình chứ không cần tranh đoạt. Có Tây Sơn ở đây, cục diện tạm thời ổn định. Đuổi Tây Sơn đi, tình thế sẽ chuyển sang cảnh nồi da xáo thịt, vĩnh viễn không thể hàn gắn được tình anh em trên vùng đất này. Mất tình anh em, vùng đất này sẽ không bao giờ bình yên.

- Vậy chúng ta phải làm thế nào? – Dường như đã hiểu những gì ông nói, chàng trai cau mày. Gõ ống điếu vào khay, Võ Văn Lượng trở về trạng thái lơ đãng.

- Ta vẫn phải xem xét tình thế một thời gian nữa… Nhưng từ nay anh hãy cẩn trọng hơn khi tuần tra, tránh gây chiến, kể cả với quân Tây Sơn hay người bên ngoài. Hẳn quân Tây Sơn cũng đang xáo động. Bọn chúng không phải tất cả đều tệ, phải không?

- Phải. – Hiểu ý Văn Lượng, chàng gật đầu. – Trong số bọn chúng có Nguyễn Văn Trương là người ở miền Nam này. Hắn là tay chơi được. Tôi đã quan sát hắn đánh quân chúa Nguyễn. Không hiếu sát như bọn Tây Sơn kia, hắn ngăn quân không đuổi theo giết đám tàn binh chạy trốn. Khi đụng độ với chúng ta, hắn cũng rất có kiềm chế.

- Nếu gặp hắn thì đừng gây sự. – Võ Văn Lượng nheo mắt. Nhìn vào mắt ông, chàng lại mím môi gật đầu.

Nắng càng rực rỡ hơn khi chàng bước ra ngoài. Trời đang dần chuyển sang trưa. Chuyến tuần tra buổi sáng đã bị bỏ lỡ nhưng chàng chưa vội gọi người đến báo cáo. Hẳn quân Tây Sơn cũng chẳng có lòng dạ nào đến gây rối. Chúng còn xáo động hơn cả ta bây giờ. Ta bây giờ, chàng vẫn có thể tiếng máu sôi trong tai. Dù Võ Văn Lượng đã bảo phải chờ đợi và chàng vẫn tin ông ta, chàng không tránh khỏi nôn nao. Cơ hội chính là đây, chàng thầm nhủ khi đi như chạy trên con đường dẫn ra ngoài trang trại. Tây Sơn rạn nứt, đúng như những gì Võ Văn Lượng đã dự đoán ba năm trước. Ông ấy đã nói gì nhỉ? Chiến thắng qúa dễ dàng, Văn Lượng nói khi cùng chàng đi thị sát vùng chiến cuộc của quân Xiêm và Tây Sơn, vùng đất chỉ còn khói và xác người, những thân cây trơ khấc đã thành than. Chiến thắng qúa dễ dàng và tàn khốc. Dù là chiến tranh, qúa tàn nhẫn cũng không nên. Nguyễn Huệ này, mỗi lần hắn đến Gia Định là mỗi lần tắm máu. Chiến thắng qúa dễ dàng, lại với một kẻ sẵn sàng ra tay tàn bạo như thế này, ta không nghĩ hắn sẽ chịu ở dưới quyền Nhạc lâu hơn nữa. Nhạc tốt nhất nên yên vị ở Quy Nhơn. Tây Sơn càng lên đỉnh cao thì sẽ càng nứt rạn. Nhạc là một tên Biện lại mà cuối cùng lại không hiểu lẽ thánh hiền: Không bao giờ nên tin những kẻ không có lòng Nhân.

Sự rạn nứt này, Võ Văn Lượng đã nhận thấy ngay từ hai năm trước. Ông ta đã chờ đợi, với lòng kiên nhẫn của một con hổ nằm trong bụi rậm, đón từng tin của Tây Sơn ở miền đất Bắc: Tây Sơn chiến thắng ở Phú Xuân, lên miền Bắc Hà. Trong sự lo lắng trước thanh thế Tây Sơn ngày càng mạnh của người xung quanh, ông ta đã mỉm cười. Nguyễn Nhạc đã để con hổ xổ cũi, và hắn sẽ bị cắn, ông ta thì thầm với chàng. Nhưng ông đang chờ điều gì? Ông ta chưa bao giờ trả lời chàng. Chỉ đôi lúc, chàng thấy ông ta nhìn mình cân nhắc. Giống hệt như cái tên, ông ta thích trầm ngâm đánh giá mọi chuyện và đưa ra cách thức hơn là bàn bạc. Nhưng ông ta đã lên tiếng, chỉ điều đó thôi đã đánh động chàng đến một cơ hội rõ rệt hơn lúc nào.

Ông ta đã nhắc chàng đến Nguyễn Văn Trương, chàng nghĩ khi đứng ở bờ sông, gọi người cho lấy thuyền. Đã lâu rồi không gặp hắn, chàng cũng muốn giãn gân cốt một phen, và nhất là nhìn bộ mặt hắn lúc này. Ai chà, kẻ mang danh là tướng của Tây Sơn mà có bộ mặt lành hơn cục bột, đánh nhau bao giờ cũng sợ giết qúa nhiều người. Lần đứng trên đồi cao nhìn hắn đánh nhau với quân chúa Nguyễn, khi hắn quát quân lính không được đuổi giết bại quân, trời ạ, chàng đã không nhịn được mà cười lớn. Dường như hắn cũng nghe được, có thể gió đã thổi đến tai hắn. Hắn quay lại, và chàng đã bò ra cười trước bộ mặt hắn. Ở khoảng cách xa như vậy, hắn hẳn không nhìn rõ, chỉ thấy bàn tay chàng giơ lên vẫy. Chậc, nhưng hắn nhận ra, khi đưa thuyền đến gò Tre này và đụng độ đội tuần tra của chàng. Hắn đưa thuyền lùi lại, chàng cũng không tiến đánh. Có lần chàng thách thức hắn, và kết cuộc cả hai về doanh trại với bùn đất dội từ đầu đến chân.

Nhưng chàng không tìm thấy Nguyễn Văn Trương, dù đã cho thuyền trôi xuôi cả đoạn sông dài. Đến khi chàng nhận ra, thuyền đã qua biên giới Định Tường. Dừa nước mọc là đà hai bên sông, ngả xuống một bến đò đang vãn khi phiên chợ sáng tan được ít lâu. Đò đang đi về bến bên kia, trên bờ chỉ còn đôi cô gái ôm chiếc thúng đựng vài cái bánh nhỏ đang đợi. Họ hẳn cố nán lại bán cho hết số bánh ấy, chàng nghĩ, chợt thấy mủi lòng.

- Hai cô, sang sông thì tôi chở sang! – Ghé thuyền lại bến, chàng gọi. Hai cô gái giật mình ngẩng lên. Mỹ nhân, chàng cũng giật mình với ý nghĩ chạy như chớp xẹt qua tâm trí. Có vẻ là hai chị em, tuổi tác cũng sàn sàn nhau. Cả hai cùng có khuôn mặt trái xoan nhỏ nhắn, đôi môi hơi mím nhưng khóe môi cong như đang cười, cặp mắt đen dài. Cô lớn hơn đeo một mảnh khăn tang đen trên tay, chàng tinh mắt nhận ra. Cả hai nhìn chàng, vẻ nghi ngờ hiện lên trong mắt. Đa nghi hơi qúa đáng, chàng nghĩ. Việc cho đi nhờ thuyền thì có gì là lạ, và chàng không mặc áo chiến hôm nay, tay chân vẫn còn dính đầy bùn. Chống mái chèo, chàng hơi nghiêng mình.

- Đò mới đi được nửa sông, nếu đợi thì giữa trưa các cô mới qua được. Hôm nay tôi trúng mánh lớn nên tâm trạng vui vẻ, muốn làm phúc mà.

Khuôn mặt hai cô gái có vẻ dịu xuống. Cô trẻ hơn quay lại thì thầm với người chị. Cuối cùng, cả hai đứng dậy, bước xuống thuyền chàng. Khuôn mặt họ vẫn lấp ló sau chiếc nón rộng mà cả hai không có ý định bỏ xuống. Chàng chống đẩy thuyền ra sông.

- Hai người ở đâu, hay là tôi chở hai người về nhà luôn? – Chàng vốn chỉ thuận miệng hỏi. Nhưng hai cô gái nhìn nhau, rất nhanh, với ánh mắt sắc lạnh khiến chàng phải ngạc nhiên. Cô em ngẩng đầu nhìn chàng, bỏ nón xuống. Mái tóc vấn gọn ghẽ trên đầu, xõa vài lọn trên cổ, trên vai, cô gái trông có vẻ rất chín chắn, cả khắc nghiệt nữa, với đôi mày cau lại. Chàng bỗng cảm thấy bực mình trước thái độ của họ. Đúng, họ đẹp thật, nhưng không nên cảnh giác qúa như thế, dù có là thời chiến như bây giờ.

- Tôi đã bảo hôm nay trúng mánh muốn làm phúc mà dì Hai. – Chàng kéo dài giọng. – Nếu không muốn thì nói, tôi chở sang bên kia sông rồi tôi để hai người lại. Tôi chẳng muốn phá hỏng ngày đẹp như thế này bằng hai bộ mặt đưa đám đâu. Nhất là cô, - Chàng chỉ về phía cô chị. - Làm sao mà cô đi đò đầu ngày với cái băng tang kia? Xúi quẩy chết!

- Im đi! – Cô em gằn giọng. Chàng nhíu mày. Giọng nói này…

Dường như nhận ra sai lầm, cô gái im bặt. Cô chị kéo tay em gái, gượng gạo mỉm cười.

- Xin lỗi anh. Thời chiến mà, thân gái phải biết cẩn thận đôi chút. Chúng tôi vợ góa con côi, lỡ chuyện gì thì có ai lo lắng? Tôi tang chồng chưa đoạn, vả lại cũng không muốn bỏ băng tang này, chút lòng trung trinh chỉ mong người khác thông cảm chứ đâu dám oán trách chi ai.

Lời nói nhỏ nhẹ nhún nhường, giọng lại êm dịu dễ nghe như nước giữa ngày nắng đủ làm cơn giận của chàng dịu xuống. Cô em lại đội nón lên, quay ra sông im lặng. Giọng nói vừa rồi vẫn còn lởn vởn trong tâm trí, chàng không đừng được lại cất tiếng hỏi.

- Nghe giọng hai cô hình như là người ở kinh? – Chàng đã ra vẻ như vô tình, hai cô cũng dường như chờ trước câu hỏi này. Vẫn chỉ có cô chị thở dài trả lời chàng.

- Gia đình chúng tôi buôn bán ở kinh cũng được mấy đời, vừa chuyển sang Hội An định phen này mở mang cơ nghiệp, nào ngờ giặc Tây đến cướp của giết người, đốt phá Hội An thành bình địa. Chúng tôi phải chạy vào Gia Định, lại bị cướp phá. Cơ nghiệp tan hoang, người cũng bị giết trong đợt tàn sát năm Dần, chồng tôi mất. Chúng tôi trôi dạt ra vùng biên ải, chỉ có mấy người phụ nữ nương tựa với nhau sống qua ngày.

À… Chàng cũng cảm thấy khi nãy mình lỡ lời, vừa muốn xin lỗi vừa hơi ngần ngại. Chẳng trách cô em giận dữ như thế. Cô ta vẫn không nhìn chàng, chỉ quay sang bờ sông đang tiến lại. Khoan đã, họ nói “vợ góa con côi”, nhưng cô gái này lại không mang tang…

- Cô chưa có chồng? – Lần này, chàng buột miệng. Tuy câu hỏi không nhắm vào ai, nhưng mắt chàng đã nhìn cô gái. Cô ta quay lại, đôi mắt càng sắc, nét giận càng bừng lên.

- Liên quan gì đến anh? – Cô gái dường như đang cố nén giận. Đã đóng thì đóng cho trót, chàng toét miệng cười.

- Không, chỉ lạ là cô xinh đẹp như thế, tuổi có vẻ cũng đã lớn, lại chưa có mối manh. Gánh nặng gia đình với cô hình như rất lớn, nghĩ thấy vừa tiếc vừa thương, bất giác giật mình nói ra. Thứ lỗi cho.

Cô gái chớp mắt, lại nhìn ra sông. Lạ, hình như cô ta đỏ mặt, chàng nghĩ, chợt có ý muốn cúi xuống nhìn cho rõ. Nhưng thuyền đã cập bến sông. Hai cô gái vội vàng đứng dậy từ giã. Cô em thậm chí không ngoái lại. Đứng ngẩn một lúc, chàng gọi với theo.

- Này, hai cô cũng cho tôi biết tên chứ!

Cô chị đứng lại, nhìn chàng rồi nhìn sang người em, hình như hơi mỉm cười.

- Tôi tên Tú, còn em ấy là Du.

Du. Du Du. Chàng lẩm nhẩm trong miệng, muốn bật cười. “Thanh thanh tử khâm. Du du ngã tâm.” Khéo sao cô ta cũng mặc áo xanh.

Đi được một đoạn, Tú nắm lấy tay em gái, hạ giọng:

- Anh ta vẫn chống sào nhìn theo em đấy.

- Đừng nói vớ vẩn. – Hất tay người chị, cô gái vẫn cắm cúi đi. – Với những tên bẻm mép, nhiều chuyện như thế càng phải cảnh giác. Chúng ta phải nhớ gương cô cô Ngọc Đảo bị bọn phản quân giết chết. Những kẻ vẻ ngoài như thế nhưng ai biết trong lòng thế nào. Chúng ta giờ là mục tiêu của tất cả các bên, lộ hình tích ra một chút là nguy hiểm khôn lường.

- Em bao giờ cũng đa nghi như thế. Nghi ngờ là tốt nhưng cả nhà chỉ còn em phòng không cũng vì tính cách này. Anh ta nói cũng đúng, em xinh đẹp như thế, ngày xuân lại thấm thoắt trôi qua, chẳng mấy năm nữa đến tuổi ba mươi. Lúc ấy e rằng cả Nguyễn Thái Nguyên vừa già vừa quê mùa cũng chẳng còn thiết tha nữa đâu.

Trong giọng Tú vừa có ý đùa cợt vừa muốn thăm dò. Biết tính chị, Du cũng chỉ “hừ” nhẹ.

- Nước mất nhà suy, còn tâm trí đâu mà nghĩ đến những chuyện như vậy? Các anh em vừa mất, chúa phải lưu vong, không gánh vác công việc thì còn ai? Em đã thề, nếu chưa trung hưng được họ Nguyễn thì nhất quyết không lấy chồng để lo cho gia đình.

Giọng nói cứng cỏi của người em cũng khiến Tú phải im lặng. Một lát, cô thở dài:

- Ta cũng đã thề, khi Điển mất, trái tim ta cũng đã chết theo anh ấy, khi nào lấy lại được kinh đô cũ thì cắt tóc quy y, thờ Phật hết đời còn lại. Giờ đây chúng ta chỉ gượng sống để chờ đợi ngày ấy. Nhưng chúa đã lưu vong, thần tử tan tác, ở phương trời nào có còn nhớ tới chúng ta? Cơ nghiệp họ Nguyễn tiêu tán thành cát bụi, người có thể làm lại từ đầu? Càng nghĩ càng cảm thấy tuyệt vọng. Đến ngày nào chúng ta mới lấy lại được cơ nghiệp tổ tiên, trả được thù nhà? Một thân chị đã bỏ đi, em định đem đời em đánh cuộc với thời thế đến lúc nào?

Càng nói, giọng Tú càng nghẹn ngào. Du vẫn không quay lại, nàng hướng mắt về phía khoảng rừng trước mặt tràn nắng đổ. Những năm vừa qua, nàng đã quen với những giọt nước mắt lẫn những nỗi đau. Qúa nhiều nước mắt và nỗi đau, nàng thầm nghĩ. Chỉ trong một lượt đánh, ba anh em chết trận. Ngọc Tuyền bị bắt rồi tự sát. Lê Phúc Điển, chồng Ngọc Tú, cởi áo đổi cho chúa để rồi bị giết. Những đại tang nối tiếp quét sạch gia đình nhỏ này, chỉ để lại mẹ góa con côi, những tiếng khóc nức nở lặng thầm vẫn nghe thấy trong đêm vắng. Nàng đã quen, phải quen. Nếu không, sẽ không thể sống.

- “Bình sinh nhất trích tầm thường lệ. Bất khốc trung thần khốc loạn thần.” Nếu chúng ta không tin thì sẽ còn ai tin? Gia Định có thể mất, nhưng lòng người Gia Định không mất thì chúng ta còn hy vọng. Ở chợ ta đã nghe thấy việc Tây Sơn rạn nứt, tin rằng thời cơ đã tới. Cần phải gấp rút liên lạc với những thuộc tướng, tụ họp họ về. Ở đất Gia Định này, người có khả năng tập hợp lòng dân chỉ có một mình chúa công. Tuyên cô cô ở Phú Xuân vẫn không ngớt truyền tin về, cho rằng Tây Sơn đến hồi rối loạn tột bậc. Anh em chúng đánh giết nhau là cái thói của nhà vô phúc, loạn thì dẫn đến suy vi, đâu phải chúng ta không hiểu đó là như thế nào. Thời gian gấp rút, không phải cho chúng ta ở đây thở than.

Thời gian gấp rút, phải, Ngọc Du thầm nghĩ khi nàng dấn bước. Cô cô Ngọc Đảo đã mất, Ngọc Tuyền đã mất, mẹ đã già, chị dâu và Ngọc Tú còn vướng bận gia quy cho người đã có chồng, chỉ còn nàng có thể lo công việc. Nàng là chị của chúa Nguyễn, là người đứng sau chúa công.

Vì thế, người ta mới gọi nàng là Hồ Dương. Hồ Dương công nương.

Đó là một ngày cuối mùa xuân năm Đinh Vị. Mặt trời đã lên đứng bóng. Trời lặng gió, những tán cây không lay động. Vạn vật im lìm, như thể không còn sự chuyển động nào ngoài dòng nước.

Chàng trai thả mái chèo, nằm ngả người trên thuyền, nheo mắt ngắm mặt trời. Không thấy Nguyễn Văn Trương, hắn trốn đâu mất rồi? Chàng lầm bầm nguyền rủa. Hẳn hắn sợ gặp ta, bị ta trêu chọc. Ồ, bộ mặt của hắn lúc này hẳn là khó coi chết được. Nhưng cứ đợi đấy, ta nhất định sẽ lùng ra hắn. Bởi vì, ngoài chuyện trêu chọc hắn thì ta còn có bao nhiêu việc khác.

Thời gian gấp rút biết bao.

Chú thích:

Định Tường: Vùng Bến Tre, Gò Công.

Xiêm La: Thái Lan.

Sông Tân Bình: Sông Sài Gòn ngày nay.

“Bình sinh nhất trích tầm thường lệ. Bất khốc trung thần khốc loạn thần.”: Câu thơ của Lâm Tấn đề ở đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh sau khi Tây Sơn đốt cháy Cù lao Phố.

“Thanh thanh tử khâm. Du du ngã tâm”: Tà áo xanh xanh. Lòng ta bồi hồi.

2

Nguyễn Văn Trương cố nén tiếng thở dài khi nghiêng người bước vào quán rượu cất tạm bợ ven sông. Mùa hạ năm Đinh Vị đến với những tin tức càng lúc càng bất lợi. Đặng Văn Trấn đem phần lớn quân từ Gia Định trở về Quy Nhơn, nửa đường bị Nguyễn Huệ đón giết. Quân Tây Sơn ở Gia Định đã mỏng ngày càng mỏng hơn. Đã thế, lòng quân ngày càng tan tác phân rã. Sự chấn động ấy, ngay cả Nguyễn Văn Trương này cũng nhận thấy trong chính lòng mình.

- Chào. – Giật mình, Văn Trương ngẩng lên nhìn bóng người đã che khoảng sông trước mặt. Võ Tánh, người lãnh đạo Kiến Hòa quân. Anh ta dám đến tận Sài Côn này, Văn Trương hỏi thầm với sự hoang mang trong mắt, chạm vào tay gươm đeo bên hông. Thấy cử chỉ ấy, Võ Tánh chỉ mỉm cười.

- Tôi đeo gươm trên lưng, và tay tôi đang khoanh trước ngực, tướng quân có gì phải sợ? Tôi đến đây là địa bàn của tướng quân, vốn an nguy phải phụ thuộc tướng quân, tất nhiên không phải để gây chiến.

- Anh đến làm gì? – Văn Trương hỏi khi Võ Tánh từ tốn ngồi xuống và tự nhiên kéo bình rượu đang uống dở lẫn đĩa thức ăn về phía mình. Xé nhỏ con cá khô trên đĩa thành từng miếng dài, chàng ta nhắp một ngụm rượu rồi mới trả lời:

- Phong hoa tuyết nguyệt là thứ nên thưởng lãm. Vinh hoa là thứ nên phấn đấu để thưởng thức từ từ. “Thịnh suy bỉ thái có thì”, tôi nghĩ Sài Côn này mới được chục năm mà đã mấy lần đổi chủ, vốn là nơi nên tham quan kẻo vật đổi sao dời muốn tìm người xưa cũng không được nữa.

Trong lòng Văn Trương đã sẵn hỗn loạn, nghe những lời nói của Võ Tánh câu nào cũng như chọc vào tai. Vốn đối với chàng ta cũng không có ác cảm, đánh nhau chỉ vì chiến tuyến khác biệt, nay chàng ta chủ động tìm mình trong tình thế này hẳn có ý quyến dụ. Khéo thăm dò cũng biết được ít nhiều ý định của đội quân chống Tây Sơn bọn họ, Văn Trương thầm nghĩ. Đã vậy, lấy làm tươi cười.

- Nghe Tây Sơn có biến thì qủa thật ai cũng dỏng tai lên. Quân Kiến Hòa các anh định nhân dịp này xẻ đôi sơn hà, làm vua một cõi?

- Tướng quân xem thường chúng tôi qúa. – Võ Tánh phì cười, nói khi vẫn đưa từng miếng cá khô vào miệng. – Há lại xem chúng tôi là phường ham danh cầu lợi, vì chút tham vọng riêng tư mà đem oán than đến cho kẻ khác? Nếu như vậy tôi chỉ cần cho tướng quân một kiếm ngoài chiến trận, đâu phải tôi không làm được, mà phải chịu nguy hiểm đến tận đây?

Câu nào của chàng ta cũng như châm chọc, Văn Trương giữa trưa hè mà thấy như thấy như có kiến cắn khắp người. Võ Tánh tì tì ngồi ăn hết con cá khô, uống hết một bình rượu rồi mới ngẩng lên.

- Tôi đến đây chỉ vì một thắc mắc riêng tư nho nhỏ mà mãi vẫn không trả lời được, đành phải nhờ tướng quân: Tại sao tướng quân lại đi theo Tây Sơn?

Nguyễn Văn Trương nhướng mày. Võ Tánh búng tay gọi thêm một bình rượu và chiếc ly khác.

- Thắc mắc này tôi đã nghĩ mãi kể từ ngày thấy tướng quân thả cho quân Nguyễn chạy trốn. Tướng quân là người nơi đây, hẳn đã trông thấy những thảm cảnh Cù lao Đại Phố, Chợ Lớn ngày nào. Con sông trước mặt chúng ta đã từng đỏ máu người, nước tắc không chảy được, mùi hôi lan xa cả dặm, vài tuần mới tan. Ông già bà cả, trẻ em đàn bà, những kẻ tay không tấc sắt, không thể trốn chạy mới là những người bị tàn sát. Cơ nghiệp người dân cả trăm năm lao khổ gầy dựng chỉ một đám lửa đã ra tro. Tướng quân có vẻ không phải người tàn ác, tại sao có thể theo một đám người như thế?

Hoặc là, tôi tự thuyết phục mình. – Ánh mắt Võ Tánh không rời Nguyễn Văn Trương. – Tướng quân xuất thân bần hàn, với những kẻ kia vốn có sự cảm thông. Chúng cũng là những kẻ áo vải làm nên nghiệp lớn, chia đôi thiên hạ làm vua, cho cơ hội để tướng quân từ kẻ chăn trâu làm một dũng tướng. Kể ra, những điều này khi nói đều thật là đẹp đẽ, cao cả. Một triều đình từ những kẻ áo vải, những kẻ nghèo hèn, nói ra thì thật là hay. Nhưng sau này nghĩ lại, tôi giật mình. Đinh Tiên Hoàng cũng là trẻ chăn trâu, Trần Thủ Độ cũng là ngư phủ, Lê Thái Tổ cũng là thổ mục, điều đó đâu có nghĩa triều đình của họ khác biệt gì? Thậm chí, chúa Trịnh có tổ tiên là người chăn ngựa, khác biệt gì? Ngược lại, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn mới là những vẻ đẹp bị bức tử, không phải đám người tự cho mình cao qúy kia.

Tướng quân, khi đi theo Tây Sơn, tướng quân có ước vọng gì? Chống lại Trương Phúc Loan, chống lại chúa Nguyễn ư – cho đó là nguyên nhân sự khốn khổ của các người? Nhưng các người làm được gì khác với họ? Các người khác gì với những kẻ mà các người chống lại? Giờ đây, vì tranh chấp quyền lực mà bọn họ vứt hết cả đạo nghĩa, cả những khẩu hiệu đẹp đẽ mỹ miều. Vì tranh chấp quyền lực, không gì khác. Hai anh em xử trị nhau để phân ngôi cao thấp. Bọn họ khác gì Trịnh, Nguyễn đem mạng dân ra nướng cho mục đích của mình? Tướng quân, khi chứng kiến bọn họ vơ vét, tàn sát miền đất quê hương anh, anh nghĩ gì? Tướng quân, anh sẵn sàng bỏ mạng cho cuộc tranh chấp quyền lực của bọn họ sao – Chừng nào họ còn dành cho anh một vị trí trong quân? Đáng tiếc, ngay cả điều đó cũng không có chỗ cho anh. Hãy nhìn bọn họ sử dụng những ai – Em trai, Phò mã, họ Phạm, họ Bùi, họ Nguyễn đằng mẹ, những kẻ đồng tộc, đồng tính. Tất cả đều xoay quanh gia đình ấy, mối quan hệ thân thuộc ấy, còn hơn cả chúa Nguyễn dùng người Thuận Quảng, nhà Lê dùng người Thanh Hóa thưở xưa. Sợ có ngày anh còn phải ở dưới quyền điều khiển của một người đàn bà không chừng. Tôi nghĩ mãi vẫn không hiểu nổi, anh chờ đợi gì ở bọn họ, tướng quân?

Tình thế xoay chuyển, Gia Định này trước sau cũng có biến, chúng ta không phải là người đi cùng thuyền nhưng cũng có ít nhiều kính trọng, tôi tìm đến vốn để chỉ giải tỏa thắc mắc lâu nay. Tướng quân liệu có thể trả lời?

Võ Tánh nói năng chậm rãi, vừa uống rượu vừa thẩn tha trò chuyện. Nguyễn Văn Trương mặt hết trắng lại đỏ, rượu vừa uống vài ngụm mà đã có cảm giác chống chếnh. Đến khi Võ Tánh đã im lặng một lúc lâu, Nguyễn Văn Trương vẫn không mở miệng. Thở dài, Võ Tánh cầm dốc ngược bình rượu đã cạn, đứng dậy vươn vai.

- Sự đời vốn biến đổi khôn lường. Chuyện một người làm có khi bản thân cũng không hiểu tại sao. Kính thay!

- Anh là một chàng trai lãng mạn, Võ tướng quân. – Khi Võ Tánh đã ra đến cửa, Văn Trương chợt lên tiếng. – Với anh thì tất cả mọi điều đều đơn giản. Cả Kiến Hòa quân của anh cũng vậy. Không hiểu nên gọi anh là người đơn thuần hay ngây thơ.

- Tôi tin mình là người đơn thuần. – Võ Tánh quay đầu lại tuy vẫn bước ra ngoài, cười lớn. – Vì mọi thứ trên đời vốn rất đơn thuần, chỉ có người ta làm phức tạp lên đấy thôi.

Quán rượu tạm bợ ven sông ngày mùa hạ năm Đinh Vị ấy vắng người. Câu chuyện của vị khách không mời ở Sài Côn cùng tướng quân họ Nguyễn không ai nghe được, ngay cả người chủ quán nặng tai. Chỉ là, xuôi xuống dưới bờ sông cát sỏi, một cô gái ôm chiếc thúng nhỏ, quấn chiếc khăn rằn quanh đầu vẫn lặng lẽ nhìn dòng nước chảy.

Thật ra, cũng như Võ Tánh, nàng ta đến đây để tìm Nguyễn Văn Trương. Muộn mất rồi, nàng ta thầm nghĩ, đứng dậy. Việc của Nguyễn Văn Trương cứ từ từ đã, Giám quân Tống Phúc Đạm đã đến lúc phải khởi hành.

Đêm đầu hạ năm Đinh Vị, những chiếc thuyền nhỏ âm thầm rời khỏi bến Hà Tiên, đi về phía Tây. Đưa chúa trở về, mấy người đứng trên bờ thì thầm, giọng nói tan vào đêm.

Cách đó rất xa, Ngọc Du cũng đợi ở bến cảng Sài Côn. Chiếc cần câu trên tay nàng rung rinh nhẹ trong dòng nước, cái rọ bên cạnh vẫn trống. Người trong vùng đã bị chuyển về Cầu Sơn, để lại Chợ Quán hoang vắng trơ trọi vài mái nhà. Bên cạnh nàng, người lính hầu đi theo bồn chồn dõi mắt vào bóng tối ngày càng đặc lại. Anh ta có đến không, anh lính hỏi nhỏ nhưng không nhận được câu trả lời. Bốn bề chỉ có cây lá xào xạc quanh họ, uốn thành những hình thù đen đúa trong đêm. Đến lúc người lính vừa mở miệng định lặp lại câu hỏi, tiếng nước khẽ vang vọng. Một chiếc thuyền nhỏ không thắp đèn đang bơi đến phía họ.

- Cô là người hẹn ta? – Tiếng người trên thuyền hỏi. Thuyền tiến lại nhưng không đủ để nhìn rõ mặt, chỉ mờ mờ một dáng người cao lớn. Quân Tây Sơn, người lính thầm nghĩ khi nghe giọng nói vùng Phú Yên.

- Tôi là Hồ Dương công nương, chị của chúa Nguyễn. – Không thu dây câu, cũng không đứng dậy, Ngọc Du trả lời lạnh lẽo. Người trên thuyền im bặt. – Nếu bắt tôi, hẳn anh được công to. Nhưng cái công ấy có đủ cho anh về được Phú Xuân an toàn, hay phải làm ma dưới lưỡi đao Quy Nhơn, thậm chí là Gia Định?

- Cô đã hẹn tôi ra đây, hẳn là đã biết chuyện, không cần phải vòng vo! – Người trên thuyền cắt lời Ngọc Du, giọng nói đã có vẻ cáu giận. – Đêm nay đã ra đây thì ta biết sẽ khó toàn mạng trở về với Phạm Văn Sâm và Nguyễn Lữ. Hai tên ấy đang chờ cơ hội để giết ta.

- Nhưng ai nói rằng chúa Nguyễn sẽ thu nhận ngài? – Ngọc Du để thoát một tiếng cười ngắn. – Ngài là con nuôi của Nguyễn Huệ, vì tình thế bị bỏ rơi ở đây mà phải giả điên giả dại giữ mình. Nhưng tình nghĩa với cha nuôi ngài dễ cắt thế sao?

- Cha nuôi? – Người trên thuyền đáp lại bằng một tiếng cười tương tự. – Không, kẻ ta kính yêu là một người biết qúy trọng tình nghĩa anh em, không phải là kẻ bất chấp tất cả để đạt được mục đích của mình, kể cả xẻ đôi Tây Sơn. Tây Sơn không còn nữa, nó đã bị chính bọn họ tiêu diệt rồi. Ta căm giận Phạm Văn Sâm và Nguyễn Lữ, nhưng ta hận Tây Sơn.

- Vì một giấc mơ tan vỡ ư? – Tiếng cười vẫn thoảng trong giọng Ngọc Du. – Lời nói của ngài vẫn thật khó tin, Đăng Vân tướng quân. Tôi đã biết có những kẻ như vậy, khi đụng chạm đến quyền lợi của mình thì nghiến răng nguyền rủa, nhưng được nhử cái mồi trước mắt thì cụp đuôi chạy theo. Những kẻ chạy đuổi theo một giấc mơ thì lại càng vô lý, vì suốt đời chúng không thể thỏa lòng, và chúng phản bội nhiều hơn bất cứ ai.

- Giấc mơ tan vỡ? Ta e rằng cô không bao giờ hiểu nổi đâu, công nương. Đàn ông chúng ta có những giá trị sắt đá về tình huynh đệ, bạn bè. Đàn ông chúng ta có những đạo lý không thể phá vỡ. Cô không hiểu được cảm giác bị phản bội ấy đâu, công nương. Dù sao thì cô gọi ta ra đây không phải vì muốn xem ta thế nào. Cô định đưa ta về với họ Nguyễn? Họ Nguyễn của cô giờ chỉ còn vài tên quân và mấy viên tướng phiêu dạt khắp nơi, cô cho rằng ta sẽ có cơ hội sống được mà báo thù hay sao?

- Ngày xưa họ Triệu chỉ còn một đứa trẻ mà vẫn báo được thù nhà, họ Lưu chỉ cần một người là có thể khởi binh lập quốc, nhà Đường chỉ còn một toán quân mà lòng dân thương nhớ vẫn có thể phục hồi. Quân chỉ là con số. Tướng ta tuy ít mà lòng trung vô hạn, gọi một tiếng người người tụ họp. Lúc này quân địch lung lay, lòng lính tráng xiêu tán rời rã. Huống hồ Tây Sơn tụ hội ở đây vốn chỉ lo truy bức quân Đông Sơn mà đào rạch xây thành phiền nhiễu người dân, chuyển phố xá rời xa nơi thuận lợi, kinh tế tiêu tán, người người đều oán thán. Chỉ đợi người hô to một tiếng, tất cả đều theo. Chúa ta ngày trước ở đây, đón dân phiêu bạt chạy từ Cù lao Phố đến, sắp xếp nơi ăn chốn ở, lo lắng cho việc buôn bán cày bừa, kêu gọi tàu Tây dương tụ hội sầm uất, so nơi ấy với chốn hoang vắng qủy khóc ma kêu hiện giờ thì chẳng phải khác biệt qúa rõ ràng. Đạo trị nước lấy dân làm gốc, Tây tặc bỏ dân mà theo bạo ngược, chân lề đã chông chênh. Công đức của các chúa Nguyễn ngày xưa, ơn bảo vệ chăm lo của chúa công hiện tại, tất cả hẳn đều phải nhớ. Quân từ dân mà lớn mạnh, triều đình từ dân mà bền vững. Người có khả năng thu phục lòng người Gia Định có ai khác ngoài chúa công tôi? Vả lại, kẻ anh hùng làm nên nghiệp lớn từ hai bàn tay trắng, lẽ nào tướng quân lại chê khó muốn hưởng công đức thái bình?

Im lặng. Tiếng gió vẫn rào rạt trên sông qua những lùm cây. Người trên thuyền ngồi xuống, mái chèo khua khe khẽ. Cần câu trên tay Ngọc Du lay động nhẹ. Nàng ngẩng nhìn trời thoảng vài đám mây mỏng trên khoảng không mờ tối. Hẳn Giám quân và những người khác đã đi rồi, nàng thầm nghĩ, quyết định đánh ván cờ cuối với người trên thuyền.

- Khi gửi thư cho tướng quân, tôi đã đóng ấn triện Nguyễn triều. Ngài đến đây, hẳn là lòng đã quyết, sao còn phân vân tính toán? Thù riêng oán lớn, không trả sao có thể làm người? Giờ đây không chỉ ngài phò tá chúa công, mà chúa công còn giúp ngài trả hận. Đánh một mình cũng là đánh, đánh một trận cũng là đánh. Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, uy danh không để được với đời thì cũng thỏa mộng bình sinh của bản thân, có gì để hối hận?

Mái chèo vẫn chạm vào nước những tiếng lục ục khe khẽ. Không nói không rằng, người trên thuyền chèo đi. Chẳng mấy chốc, bóng anh ta khuất vào đêm tối.

- Công nương, người cho rằng hắn ta có bị thuyết phục? – Người lính bên cạnh nôn nóng hỏi. Ngọc Du chưa kịp trả lời, từ bụi cây bên cạnh đã phát ra tiếng.

- Nếu hắn không bị thuyết phục thì một hắn là kẻ ngu đần, thứ hai là hắn bị điếc.

Bụi cây rung động, một bóng người bước ra. Rất nhanh, lưỡi kiếm của người lính đã được tuốt khỏi vỏ. Bóng đen lùi lại, xua tay.

- Ta không mang kiếm. Ta không muốn đánh nhau với ai nhưng cũng không muốn để ai chém ta đâu.

- Lui xuống. – Ngọc Du bảo người lính, vẫn chỉ hơi xoay người lại. Nàng cau mày nhìn vào bóng tối. Bóng đen đã đứng thẳng, đang phủi bụi ở áo và tóc.

- Tên bẻm mép ở bến đò? – Nàng hỏi. Nghe tiếng cười khẽ.

- Đúng tôi ở bến đò, nhưng tôi chưa hề nhớ mình được đặt tên là tên bẻm mép. Chúng ta lại gặp nhau ở đây, không ngờ Thanh Khâm còn là công nương nhà Nguyễn, thật lấy làm kinh ngạc.

- Thanh Khâm? – Ngọc Du hỏi lại. Nàng biết trước mặt mình là Võ Tánh, chủ tướng Kiến Hòa quân - đội quân chống Tây Sơn còn lại đến giờ, thanh thế ngày càng mạnh nhưng lại không theo Nguyễn. Võ Tánh, em trai của Võ Nhàn, kẻ đã bị chúa Nguyễn Phúc Ánh giết chết khi phản lại quân Nguyễn. Anh ta là kẻ mang mối thâm thù với chúa công, nàng tự nhắc mình, do đó, cũng không để lộ ra sự nhận biết. Nàng đã bắt gặp Võ Tánh nói chuyện với Nguyễn Văn Trương buổi sáng, không ngờ anh ta vẫn còn đây.

- Đó là câu thơ trong Kinh Thi. – Vẫn bằng giọng nửa đùa nửa thật, Võ Tánh trả lời. “Thanh thanh tử khâm. Du du ngã tâm.” Ngọc Du cũng vừa chợt nhận ra. Trong bóng tối, nàng lại thấy má mình nóng. Trong khi đó, bằng điệu bộ tự nhiên cực độ, Võ Tánh đến bên nàng, thả chân ngồi xuống bờ sông, với tay lấy lưỡi câu lên ngắm nghía.

- Lưỡi câu thẳng. Ngày xưa Khương Tử Nha ngồi câu được Văn vương, nay công nương nhà Nguyễn ngồi câu hàng thần. Nàng có định câu tôi không, công nương? – Ngừng một chút, tiếng cười lại vọng bên tai nàng. – Nàng đừng bảo không nhận ra tôi là ai. Nếu tôi chỉ là một kẻ bẻm mép ở bến đò thì nàng đã sai giết người bịt miệng rồi. Con mồi Nguyễn Đăng Vân to lớn quan trọng như thế, thân phận nàng cao qúy như vậy, lẽ nào lại đánh cuộc với một kẻ nhỏ bé bẻm mép ở bến đò? Thấy nàng ba lần bốn lượt chưa ra tay, tôi hiểu nàng cũng đã biết tôi là ai.

- Vậy thì anh có định theo chúng tôi không? – Mím môi, Ngọc Du quyết định nói thẳng. Ném lưỡi câu xuống nước trở lại, Võ Tánh đứng dậy, quay lưng về phía nàng.

- Không.

- Chỉ vì một mối thù trong cảnh loạn lạc? Chúng ta ai thờ chủ nấy mà giết nhau, đâu phải vì chúng ta muốn…

- Không phải như thế, công nương. – Chàng ngắt lời Ngọc Du, hơi ưỡn người đón ngọn gió từ sông thổi vào. – Những kẻ nàng chiêu dụ được, kẻ vì danh lợi, kẻ vì hận thù, kẻ vì rối loạn, kẻ vì mơ hồ không rõ. Ngay cả anh trai của tôi cũng vậy, anh ấy đi theo Đỗ Thanh Nhơn và sống chết vì ông ấy. Tôi thách nàng giờ đây có thể đưa ra một lý lẽ để chiêu dụ tôi.

- Vậy thì anh cho tôi biết anh muốn gì? – Với thái độ khinh bạc này, Ngọc Du cũng đã có vài phần bực bội. Thêm vào cả ngày hôm nay nàng đã mệt nhọc. Kẻ ấy lại còn cười trước giọng nói cáu kỉnh của nàng.

- Hòa bình. Tôi muốn hòa bình, công nương. Nghĩa là, các người biến hết cả đi, khỏi mảnh đất này!

Chú thích:

Sài Côn: Sài Gòn.

Vọng Các: Bangkok.

3

Hôm ấy, cũng như mọi ngày, y cởi sợi dây buộc thuyền, chống mái chèo vào bờ đất đẩy thuyền ra khơi. Bọn lính Tây Sơn trên thuyền vẫn nhốn nháo, nhộn nhạo với đủ thứ chuyện có tên và không tên khác. Chúng cũng đủ thận trọng để không nhắc đến chủ đề hiện diện trong đầu bất cứ ai hiện tại: Trận đánh ở Quy Nhơn. Có kẻ theo phe Nhạc, có kẻ theo phe Huệ, nhưng chúng đủ khôn ngoan để không bộc lộ quan điểm của mình – điều sẽ dễ dàng dẫn đến cái chết như chơi. Không khí của các doanh trại đã rơi vào tình trạng cực kỳ căng thẳng trong những tháng gần đây. Và y sẽ không lấy làm lạ gì khi có kẻ đào ngũ.

Nhếch nhẹ môi, y nghĩ đến điều đó – những cuộc bỏ trốn và sự tan rã nhất định sẽ diễn ra. Không chỉ đám tướng lãnh, bọn lính sẽ phải lựa chọn, hoặc là lợi dụng cơ hội này để lựa chọn. Một số ít trong đó, như y, là không được chọn lựa. Mẹ y bị Tây Sơn bắt giam, buộc y phải ra hàng. Và một tướng của chúa Nguyễn như y phải làm tên chèo đò cho đám lính – chúng muốn hạ nhục y chứ chẳng phải muốn y quy phục gì. Nhưng y lấy làm may mắn về chuyện này, y không muốn tham gia vào những gì chúng làm. Y chỉ có một vị chúa duy nhất, luôn luôn và vĩnh viễn.

Thuyền ra đến giữa sông, chầm chậm trôi. Y nheo mắt nhìn đám sen bên bờ đang vào mùa nở rộ đằng trước mặt. Một cô gái chèo chiếc thúng nhỏ đang ôm một bó sen trong tay. Cô ta mặc áo xanh thẫm, đầu đội nón rộng vành, quấn khăn che gần hết cả tóc và mặt. Trời vừa hửng nắng, đám sương vẫn váng vất trên sông. Y nghe trong gió tiếng tiêu khe khẽ vang.

Có lẽ vì mải nhìn theo cô gái, y đã không để ý đến vùng xoáy nước bất chợt xuất hiện. Đầu thuyền chao mạnh, y vấp phải sợi dây cột, lăn xuống nước. Vài tên lính hét lên. Tên lính nhanh nhẹn nhất vội nhảy lên đầu thuyền giữ mái chèo. Thuyền chênh chao một lúc lâu rồi mới đứng yên. Nhìn lại nơi tên chèo vừa rơi xuống, đám lính không còn thấy y đâu nữa. Đám bèo đã nhanh chóng phủ lên mặt sông. Có tiếng nước lục bục khe khẽ, rồi chiếc mõm lớn với cặp mắt vàng nổi lên, trừng trừng nhìn chúng. “Cá sấu!”, có kẻ rùng mình. Hắn đã bị cá sấu nuốt rồi, cho thuyền lùi lại, chúng nói với tên cầm chèo. Không còn chèo thuyền, ta cũng trở về thôi. Xôn xao một lúc, chiếc thuyền rời khỏi tầm mắt của con cá sấu vẫn lập lờ nổi, trở về bến sông. Trong sự rối loạn ấy, không ai để ý đến chiếc mủng nhỏ cùng cô gái vẫn ngồi yên trong đám sen.

Khi chiếc thuyền chở đầy quân lính đã đi khuất, cô gái chợt lên tiếng:

- Tôi đã phải bỏ cả nửa lạng bạc mua chiếc đầu cá sấu này đấy.

- Hồ Dương công nương qủa là liệu sự hơn người. – Tiếng y trả lời trong đám sen. Đầu y vẫn lấp ló nổi sau đám lá dày. Lúc rơi xuống, trong khi đám lính còn náo loạn vì chiếc thuyền chao đảo, y đã bơi đến đám sen này ẩn nấp. Giờ đây, y ngoi cả nửa người lên, nhìn cái đầu cá sấu trên sông mà cười lớn. Cô gái kéo sợi dây đang cầm trong tay, chiếc đầu giật lùi về phía họ. Nàng đã buộc đá vào cái đầu này, và y khi bơi qua chỉ việc giật đứt mối nối để nó nổi lên. Đám lính tin rằng y đã bị cá sấu ăn thịt, sẽ không phiền nhiễu đến mẹ y. Y đã được tự do.

Như đoán được ý nghĩ của y, Ngọc Du quay lại, mỉm cười:

- Mừng ngài trở lại, Phan Văn Triệu tướng quân.

Trong lòng y như có lửa đốt. Nguyễn Văn Duệ hẳn đã nghi ngờ, cho rằng y bán đứng hắn. Y đã tính qúa hóa dở, vốn định đưa về thêm một dũng tướng cho chúa nhưng Nguyễn Văn Duệ hóa ra lại qúa trung thành với Tây Sơn. Nhạc và Huệ đánh nhau, y nhân dịp này bảo Duệ bỏ Nghệ An đang trấn giữ về với Nhạc. Đến lúc đi được nửa đường, y lại nói đến chuyện theo y đến Gia Định với chúa công, tin rằng Duệ không thể quay lại được, nhưng hắn không chịu bội phản Tây Sơn. Giờ đây hắn lại nghĩ y cố tình lừa hắn vào chỗ bội nghĩa, sẽ cho người giết y để tâng công với chủ không chừng. Không còn cách nào khác, y phải liệu tìm đường mà thoát thân.

Lúc trước, Nguyễn Huệ đã bắt được y cùng với năm trăm người khác. Qua chuyến Bắc phạt, lực lượng cũng thay đổi nhiều. Khi khuyến dụ Nguyễn Văn Duệ rời bỏ Huệ về với Nhạc, y đã xin đi tiền đồn, cố ý tuyển lựa những tâm phúc trước thành đội quân cho mình. Nghe đến về với chủ cũ, chúng nhất nhất xin tuân theo lời y. Nhưng phía trước Quy Nhơn và đường thượng đạo đã bị chặn, đằng sau Nguyễn Văn Duệ chờ chực, muốn trở lại Gia Định thì y chỉ có cách đi vòng sang Vạn Tượng. Đường đi hiểm trở, người Phiên lại thù địch. Y vẫn chưa quên năm nào cả đội quân chúa Nguyễn đã bị Chân Lạp giết không còn một người.

- Nếu không đi thì chúng ta cũng chỉ bỏ xác trong rừng, một đời hào kiệt phí phạm. – Y nói với đám lính. – Nay chúa đã cho gọi, ta lại tham sống sợ chết mà không quy tập thì sau này còn mặt mũi nào nhìn mặt cha ông? Kẻ nào muốn trở về thì đi theo ta, ai không muốn thì cứ vào nhà dân trốn lánh cho qua đận khốn khó này, chỉ mong khi chúa đến kêu gọi thì anh em vẫn đồng lòng như trước.

Chúng tôi theo ngài, đám lính hét vang. Vậy là đám người của y cắt ngang đường núi mà đi. Đường dốc đứng, mây mù khí độc giăng ngang, lương thực dần cạn. Y đến lúc phải hái lá cây mà ăn, hứng sương mà uống. Có người trúng độc, ngã nước mà chết. Y mặt mày vàng võ, đám lá đắng ngắt trong miệng có khi phải nôn ọe ra. May tìm được trái cây lạ trong rừng mà đám lính thoát khỏi chết đói. Người trong núi nghe chuyện, đem lương khô cho đám lính lạc chủ, chỉ đường y sang Xiêm La. Thuyền vừa vào Vọng Các, quân Xiêm đã ập vào bao vây, giải đám người sức cùng lực kiệt đến gặp Xiêm vương. Đến lúc ấy, y mới biết chúa đã rời khỏi Xiêm trở về.

Xiêm vương thần sắc có vẻ giận, nói một hồi lâu với tên phiên dịch. Hắn chuyển lời đến y:

- Chúa công ngươi đang đêm bỏ Xiêm mà đi, đám lính ít ỏi cũng không đem theo, chỉ mang gia quyến cùng thân tín trở về. Dù Tây Sơn có loạn, việc làm ấy cũng qúa phiêu lưu. Giờ đây dù có trở về thì chúa công ngươi cũng chỉ thân cô thế cô, không một đội quân, không một cơ sở vững chắc. Trước kia Xiêm vương đã có hậu ý biệt đãi ngài, bảo trợ giúp quân lương nhưng ngài từ chối, để bây giờ lại chọn việc làm như vậy. Xiêm vương ta vừa giận vừa thương, vẫn lưu giữ đám quân thuyền mà chúa công ngươi bỏ lại, hẳn có dịp dùng đến. Việc trở về này thành bại không rõ, chi bằng ngươi đợi ở đây xem sự thể thế nào. Xiêm vương ta có mắt biệt đãi nhân tài, đối với người chắc chắn không tệ.

Nghe đến đâu, máu nóng của y bốc lên đến đấy. Y thất vọng vì không tìm được chúa thì ít mà giận vì bị ngăn trở thì nhiều, liền trừng mắt nhìn Xiêm vương mà sang sảng quát:

- Kẻ bề tôi nào nghe đến việc chúa công thân cô thế cô xông pha lửa đạn mà chịu ở lại hưởng phúc đợi thời? Huỳnh Đức ta ba đời chịu ơn thánh chúa, không nát thân báo đền thì thôi chứ sao lại làm việc không bằng chó lợn? Chúng ta xuyên rừng bạt núi tìm chủ cay đắng trăm phần, mười người đi chỉ còn ba bốn, là nhất quyết không chịu sống hèn, lẽ nào giờ đây giương mắt nhìn chúa một mình nơi quan ải, lẽ nào khi chúa cần lại không có mặt? Lúc này không trở về thì đợi đến bao giờ? Ta chịu khuất phục trước Tây tặc cũng chỉ là để giữ mạng này phụng sự chúa công, đâu phải loại tham mạng mà cố sống!

Càng nói, uất ức của những ngày vừa rồi càng tăng, chặng đường vất vả khiến y cũng đã kiệt quệ. Y thổ ra một bụm máu tươi, gục xuống tại sân điện. Cung Xiêm La nhốn nháo, Xiêm vương vội vàng đưa y đi cứu chữa. Khi tỉnh dậy, y đã thấy tên phiên dịch đưa tờ giấy phép trở về trước mắt.

- Xiêm vương bảo anh đem cả những toán quân mà chúa công anh đã để lại ở Xiêm La về. Giữ được người nhưng không giữ được lòng thì là vô ích. Chúa các anh cũng vậy, các anh cũng vậy.

Y cười. Y cười lớn. Y vẫn cười lớn khi những chiếc thuyền căng buồm hướng ra bờ vịnh. Tự do. Huỳnh Đức này đã được tự do. Y đang hướng về phía chúa công. Người đã cho gọi và y sẽ tới.

Thái trưởng công nương đã chuyển lời nhắn đến. Chúa công đã cho gọi.

Võ Tánh vội vã đi vào phòng của Võ Văn Lượng. Nguyễn Văn Hiếu bám sát gót chàng. Không đợi hầu gái cúi xuống lau chân, cả hai tới ngay chiếc phản nơi Võ Văn Lượng vẫn ngồi lơ đãng suy tính. Thấy nét mặt hai người, ông ta nhướng mày.

- Chúa Nguyễn đã trở về. – Võ Tánh nói khi chưa ngồi xuống. Giọng chàng cưng cứng. – Nguyễn Đăng Vân đã bỏ trốn, chèo thuyền rời khỏi doanh trại Tây Sơn vào giữa đêm. Có thể hắn đã đi tìm chúa Nguyễn.

- Chúa Nguyễn hiện đang ở đâu? – Bỏ ống điếu xuống, Võ Văn Lượng khoanh chân ngồi xếp bằng dành chỗ cho hai người vừa đến. Nguyễn Văn Hiếu nhìn Võ Tánh rồi đến Võ Văn Lượng.

- Nghe đâu ở một hòn đảo ngoài khơi Hà Tiên. – Nguyễn Văn Hiếu nói. – Chúng tôi thấy sự di chuyển của bọn hải tặc Bạch Liên Giáo hướng về nơi đó. Bọn ấy vốn xung đột với quân Tàu Ô mà Tây Sơn lưu dụng, nay Tây Sơn đóng ở đây, càng lúc càng đe dọa vùng làm ăn của bọn chúng nên chúng tìm nơi bảo bọc khác.

- Chỉ có mấy thuyền Tàu Ô thì làm được gì? - Võ Văn Lượng mỉm cười. – Chúa Nguyễn rời khỏi Xiêm rồi vẫn phải trú tất ở hoang đảo, cho thấy lực lượng ít ỏi, chưa thể hành động. Bọn Tàu Ô chỉ có khả năng lẩn lút đánh nhanh rút gọn, không phải lực lượng chiến đấu tin cậy được. Động tĩnh ở Gia Định thế nào, Tánh?

- Đám tướng lãnh Nguyễn đã lục đục trở về. – Võ Tánh nói sau một lúc im lặng. – Bọn Tống Phúc Đạm, Tống Phúc Ngọc đã được phái đi Vọng Các đón chúa Nguyễn. Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Đức Xuyên cũng thấp thoáng có mặt ở vùng biên ải. Mạc Tử Sanh đã thấy xuất hiện ở Hà Tiên. Cả các tướng đã hàng Tây Sơn cũng đào ngũ biến mất. Việc con nuôi của Nguyễn Huệ là Nguyễn Đăng Vân trốn thoát làm rối loạn quân tình không ít. Tôi cho rằng không sớm thì muộn sẽ có tướng Tây Sơn theo về Nguyễn.

- Nguyễn Văn Trương thế nào? – Dường như đọc được sự im lặng của Võ Tánh, Võ Văn Lượng hỏi. Chàng không trả lời ông. Nguyễn Văn Trương đã ra Hậu Giang nghênh trận với các đợt tấn công nếu có của chúa Nguyễn. Nhưng tâm ý của Nguyễn Văn Trương thì chàng vẫn chưa nắm bắt được. Ông ta sẽ quyết trung thành với Tây Sơn đến cùng hay nửa đường tạo phản? Võ Văn Lượng cũng không để tâm đến câu trả lời của chàng, ông ta nhìn ra ngoài cửa sổ một lúc rồi cau mày, chậm rãi nói:

- Chúa Nguyễn được đón về từ Vọng Các? Vậy kẻ điều động ở Gia Định này không phải là chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cũng chỉ là quân cờ được sắp đúng chỗ đúng lúc và được kẻ ấy phái người đến đưa về. Tất cả đã được sắp đặt sẵn cho chúa Nguyễn. Tất cả đã chuyển động thật nhịp nhàng, các anh có nhận thấy? Tập trung các tướng, lôi kéo hàng tướng, bắn tiếng cho cả bọn Thiên Địa Hội, kẻ này chắc chắn đã phải dùng danh nghĩa của chúa Nguyễn để huy động chừng ấy người. Trong những thuộc hạ nhà Nguyễn, kẻ nào có khả năng ấy? Tống Phúc Đạm thâm trầm điềm tĩnh nhưng với tính nhát gan của ông ta thì bọn tướng lãnh lại không phục. Lê Văn Duyệt thân cận gia quyến chúa Nguyễn nhưng tuổi còn trẻ, danh không chính thì ngôn không thuận. Mạc Tử Sanh tuy dòng dõi nhà họ Mạc nhưng do người Xiêm nuôi lớn, không được tín cẩn. Bọn văn thần như Bạch Doãn Triều, Mai Đức Nghị, Nguyễn Bảo Trí thì kẻ bỏ xác trên đường chạy trốn, kẻ bị Tây Sơn giết chết, người trốn vào đám dân chúng, người đi theo chúa Nguyễn làm kẻ tòng vong. Nếu ngay cả Nguyễn Đăng Vân cũng tìm được chúa Nguyễn thì ta tin chắc hắn đã bị thuyết dụ. Kẻ nào có thể thay mặt chúa Nguyễn để sắp đặt tất cả việc này?

- Hồ Dương. – Nguyễn Văn Hiếu buột miệng nói mà không nhận thấy ánh mắt của Võ Tánh bên cạnh. – Tôi nghe thấy trong bọn họ có một người gọi là Hồ Dương công nương.

- Hồ Dương? – Võ Văn Lượng lặp lại. Vết nhăn giữa trán ông càng sâu hơn. – Các công nương họ Nguyễn ở Gia Định đã bị giết gần hết, còn có hai người. Đây là danh phận thật hay chỉ là tên gọi? Dù sao thì cũng không thể xem thường đàn bà họ Nguyễn. Ngày xưa nhờ công nương Ngọc Vạn mà chúng ta có Gia Định này. Ngày nay không phải vô cớ mà họ bị giết. Năm xưa Thái trưởng công nương Ngọc Đảo là người coi sóc quân nhu của họ. Bây giờ là ai? Hồ Dương – Bóng mặt trời trên hồ, phải chăng? Kẻ đóng vai trò cái bóng của chúa Nguyễn?

- Nếu đúng thế thì cô ta sẽ tới đây thôi. – Nguyễn Văn Hiếu nóng nảy cắt ngang luồng suy tưởng của Lượng. – Muốn giữ Gia Định thì họ sẽ phải quan tâm đến chúng ta. Anh định thế nào, trại chủ?

Võ Văn Lượng nhìn Võ Tánh. Ông ta cũng không quên, mối thù của chúa Nguyễn và người thanh niên này. Mặt Võ Tánh sắt lại, lầm lì. Ông không cho chúng ta hành động để rồi Gia Định lại lọt vào tay chúa Nguyễn sao? Hay ông định về với nhà Nguyễn, Lượng? Hay đó chính là điều ông đã chờ đợi?

- Chúng ta tạm thời án binh bất động xem tình hình thế nào. – Cuối cùng, Võ Văn Lượng khép mắt, nói ra câu quen thuộc mấy tháng rày của ông. – Dù sao thì chúa Nguyễn cũng khó mà thắng được. Phải, chỉ khi Phạm Văn Sâm hoặc Nguyễn Lữ theo hàng thì may ra. Không một mảnh đất, một đội quân chính quy, một sự liên kết trong quân nào ngoài sự lắp ghép vội vã, một vài thứ vũ khí lấy được vội vã? Bắt đầu lại tất cả từ hai bàn tay trắng không dễ dàng thế đâu. Không dễ dàng thế đâu.

Đầu mùa thu năm Đinh Vị, Hậu Giang vắng tanh, chỉ còn thuyền quân Tây Sơn tập trung đậu thành dãy trong tình trạng sẵn sàng nghênh chiến. Dân cư vùng này đã sơ tán gần hết khi nghe tin sắp có chiến trận. Quân lính liền chiếm dụng ngay những căn nhà bỏ trống làm doanh trại trong những đợt mưa không hề có dấu hiệu ngớt, chỉ ngày càng mạnh thêm. Bầu trời bao giờ cũng nằng nặng mây xám, gió rừng, gió sông biển lạnh ngắt, muỗi và vắt như đan vào nhau trên không, dưới bàn chân. Trong đêm, lính phải giăng một cái màn rộng giữa nhà để tránh muỗi. Nguyễn Văn Trương cho dựng chòi ở ngay cạnh bờ sông, vừa để canh phòng vừa lợi dụng gió biển đuổi côn trùng. Tuy thế, ông phải che ngọn lửa lại trong những đợt gió mạnh chực chờ thổi tắt bất cứ lúc nào. Đốm lửa than lập lòe giữa căn chòi chỉ có chút tác dụng sưởi ấm, lại càng không thể tỏ mặt người vừa bước vào.

- Thật là “Nhất thủy hộ điền tương lục nhiễu”, cảnh sắc thế này lại là nơi chiến địa, tướng quân có thấy tiếc chăng? – Người bước vào lên tiếng. Giọng phụ nữ thanh và nhẹ. Dáng điệu cũng nhỏ bé thanh thoát như phụ nữ.

- Tôi vốn là người ít học, e rằng không hiểu những gì cô nương vừa nói. – Vẫn ngồi yên, Nguyễn Văn Trương quan sát cô gái. Lá thư của cô ta vừa được gửi tới hồi sáng, đã bị đốt cháy để giữ bí mật. Cô ta sử dụng ấn tín nhà Nguyễn. Chúa Nguyễn dùng phụ nữ trong thám báo? Nguyễn Văn Trương tự hỏi. Rõ ràng, trong thời chiến này, khi mọi người đàn ông đều bị nghi ngờ, lục soát, bị cấm đi lại thì phụ nữ lại là lựa chọn khôn ngoan hơn. Cô gái này di chuyển trong đêm vào doanh trại quân lính, dù có thể thoát thân qua bến sông, cũng là to gan lớn mật. Cô ta có phải là Hồ Dương mà mọi người từng nhắc đến?

- Đó là câu thơ trong bài “Đề vịnh trên tường nhà Hồ Dương tiên sinh”. – Dường như đoán được ý Văn Trương, cô gái cười khẽ. – Giới thiệu bản thân một cách khiêm nhường cũng thật khó khăn.

- Và không cần thiết. Tôi vốn là kẻ chăn trâu nơi đồng cỏ, đáng lẽ phải cúi đầu trước công nương đây. Công nương là người đã liên tiếp gửi thư cho tôi, đến giờ mới được diện kiến, thật cảm thấy kinh ngạc.

- Tướng quân y lời hẹn mới khiến tôi muôn phần cảm kích. Chúa tôi nghe tướng quân nghênh trận nên giữ quân không đánh, giục tôi đến gặp ngài trần tình. Năm xưa chúa công vẫn phục ngài đức độ hiền từ, giữa chiến trận mà dốc lòng tha cho anh em quân lính, tuy thờ khác chủ nhưng không vì thế rẻ rúng mạng người. Nếu một lần nữa phải đối đầu với nhau thật là đáng tiếc. Ngày nay Tây tặc bất nghĩa, anh em đánh nhau mà suy vi, tướng quân đâu cứ phải cùng sống chết với đám người đã bỏ rơi Gia Định này. Chi bằng về với chúa tôi, giương lên lá cờ đại nghĩa, danh phận đã tròn mà đức độ lại thỏa lòng mong.

- Lá cờ đại nghĩa? – Nguyễn Văn Trương hơi mỉm cười. – Nàng đã quên rồi sao, công nương? Ngày chúa công của nàng đến đây đã được dân Gia Định này đùm bọc che chở. Đạo quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn đã vì chúa công nàng dốc lòng bảo vệ, cuối cùng bị chúa công nàng đối xử ra sao? Rồi sau đó, những kẻ mang danh đại nghĩa ấy vì thù riêng mà chia năm xẻ bảy, kẻ chiếm Sài Côn, người chiếm Mỹ Tho, Hà Tiên… đánh lẫn nhau. Lúc ấy, ai quan tâm đến Gia Định thế nào? Bại vong của chúa công nàng do chính mình chuốc lấy. Rồi chúa công nàng trở lại, mang theo đám quân Xiêm quấy nhiễu khắp nơi, đại nghĩa ở đâu? Tôi không phải là kẻ một lòng với Tây Sơn, nhưng chính chúa công nàng đã đẩy tôi về phía Tây Sơn rồi.

- Nghĩa – Là theo đạo lý mà làm. Chúa công tôi chưa bao giờ đi chệch con đường ấy, và do đó, không có gì phải hổ thẹn. Đỗ Thanh Nhơn mang danh phụ chính mà kiêu ngạo càn rỡ, bên ngoài thì dùng hình phạt không ghê tay, không tha cho cả đàn bà có mang, bên trong thì khinh rẻ tổ tiên nhà chúa, đến ngày giỗ đức Tổ phụ mà không đưa tiền cho chúa công để chúa công phải bán áo làm đám. Lòng dạ người như thế, lẽ nào chúa công lại để mình biến thành Đông cung Dương thứ hai, là công cụ cho người ta lợi dụng, bức hại dân chúng làm chỗ dựa cho mình? Trên vì đạo hiếu với tổ tiên, dưới vì lòng nhân với trăm họ mà để bản thân trở thành kẻ khiến người khác căm ghét. Những kẻ khác vì chữ Nghĩa với chủ nhân mà chống đối, vốn là tình thế chẳng đặng đừng. Những ngày ở đây, chúa công tôi tự xét không làm việc gì bất đức. Tây Sơn đốt Cù lao Phố, người dẫn dân chúng đến lập nghiệp ở Sài Côn, xây bờ đắp đập, đảm bảo cho dân yên ổn làm ăn. Tây Sơn lại đến tàn sát Chợ Lớn, máu chảy thành sông, người chết hơn vạn, cơ nghiệp vừa dựng xây lại bị tàn phá sạch sanh, ngài nghĩ lòng chúa công không đau đớn hay sao? Rồi những người cuối cùng trong nhà bị giết chết, ngài nghĩ lòng chúa công không chết theo họ sao? Chúa công trong lúc hồ đồ mà bị quân Xiêm đem vào Vọng Các, trở về nơi này cũng chỉ vì muốn đuổi quân tàn bạo mà trả lại sự bình yên. Nào ngờ lòng Xiêm cũng chẳng hơn Tây tặc, coi mạng người không bằng cỏ rác. Trong những năm tháng lưu vong, Xiêm vương cũng ba lần bốn lượt gọi mời cho chúa công một đội quân khác mà trở về đánh Tây Sơn nhưng người đều từ chối, cho thấy lòng người đã quyết. Gia Định này người người đều đến tranh chấp, nhưng có ai thật sự coi trọng dân chúng như chúa công? Ai vì Gia Định này mà sẵn sàng hy sinh? Ai vì Gia Định này mà đau lòng? Tướng quân sống ở Gia Định, hẳn cũng biết cảm giác trân trọng từng gốc cây ngọn cỏ, huống chi cuộc sống, mạng người. Những người con của Gia Định không bảo vệ nó thì còn có ai? Chẳng lẽ tướng quân đành giương mắt nhìn người dân bị tập trung dồn về Cầu Sơn để bóp chết từ từ trong nghèo đói? Chẳng lẽ tướng quân mỗi đêm không nghe tiếng qủy khóc gào đòi mạng trên dòng sông Tân Bình? Hàng trăm năm kể từ ngày mở đất, chúa Nguyễn đã chỉ một lòng lo cho sự ấm no hạnh phúc của dân chúng, lẽ nào tướng quân đành đoạn nhìn tất cả những gì chúng ta đã dựng xây, sau Hội An, Cù lao Phố, Chợ Lớn, Hà Tiên, Mỹ Tho tan hoang tàn lụi? Chúa công tôi có những sai lầm của tuổi trẻ, của sự hỗn loạn và cả lòng tin đặt không đúng nơi. Nhưng chúa công tôi chưa bao giờ sai lầm về đạo nghĩa. Đó là điều duy nhất đúng, đó là điều duy nhất mà ta có thể hy vọng. Với tấm lòng ấy, chúa công tôi chỉ thiếu người có thể thực hiện nó, để nó đi đúng đường, đúng hướng. Lẽ nào lại chê trách người biết hối lỗi? Nhà nước như thế nào cũng do một phần thần tử của nó quyết định, tướng quân lẽ nào muốn đứng ngoài, hay theo đường hướng kẻ phản loạn mà hủy hoại tất cả, trong khi có một cơ hội để thay đổi? Chúa công tôi trọng ngài là người có đức nên biệt đãi ngài. Người đã hiểu lòng ngài như vậy, mong ngài cũng hiểu cho chúa công.

Nguyễn Văn Trương im lặng. Gió vẫn rào rạt thổi. Trong đám rừng loáng thoáng những đốm đom đóm xanh chao lượn. Trăng đã lên cao, soi tỏ một bên má mịn màng của cô gái. Làn da nàng trắng xanh dưới ánh trăng, đôi mày càng đen thẫm lại. Nàng ngồi đặt tay lên gối, chờ đợi người trước mặt đáp lời. Một lúc lâu sau, Nguyễn Văn Trương mới mở miệng.

- Tôi tuy lòng qúy mến chúa công nhưng chúng ta là kẻ thù đã từng đánh nhau nhiều trận sinh tử. Mang thân về với bên đối địch, chỉ e lòng người vẫn chưa quên được thù cũ…

- Tôi xin đem tính mạng bảo đảm rằng chúa công không phải người như vậy. – Cô gái cười khẽ. – Năm xưa Lý Tài theo Tây Sơn đuổi người ra Gia Định mà người vẫn có lòng thu nạp. Chúa công hiểu thấu hoàn cảnh hỗn loạn, người ta nhiều khi rơi vào tình thế chẳng đặng đừng, ngay chính bản thân người cũng vậy. Vừa rồi Nguyễn Đăng Vân đã đến xin quy phục, được chúa công tin dùng, cho ngay vào đội Tiền quân.

- Nguyễn Đăng Vân? – Nguyễn Văn Trương hơi giật mình. – Con nuôi của Nguyễn Huệ? Người như vậy lại đến xin hàng? Chúa công chịu tiếp nhận hắn?

- Nguyễn Đăng Vân đã chèo thuyền đến Vọng Các bái kiến chúa công. – Giọng cô gái như nói về một điều đương nhiên. – Đây là thư của Đăng Vân tướng quân gửi cho ngài.

Cô gái lấy trong tay áo ra một lá thư gấp nhỏ. Soi tờ giấy vào đốm lửa leo lét, Nguyễn Văn Trương nhận ra thủ bút của Nguyễn Đăng Vân. Buông lá thư xuống đám tro hồng, Nguyễn Văn Trương quay nhìn cô gái, cân nhắc.

- Có vị tướng quân nào đi với nàng? – Tất nhiên, Văn Trương biết cô ta không vào doanh trại một mình. – Ngày mai bảo ông ấy đến cửa sông, tôi sẽ sai bộ tướng Hoàng Văn Điểm theo nàng đến bái kiến chúa công.

- Đa tạ tấm lòng của tướng quân. – Cô gái cúi đầu, nhẹ nhàng rút trong tay ra một tập giấy nữa. - Xin ngài biên cho chúa công tôi mấy chữ để người được vui mừng.

Like

4

Khi cô gái đã ra khỏi chòi của Nguyễn Văn Trương, xuống chiếc thuyền chầm chậm xuôi men theo bờ đến đón, Võ Tánh vẫn ngồi yên trên cành cây. Qua hình dáng và cử chỉ, chàng đã nhận ra cô ta là ai. Hồ Dương. Cô công nương này chỉ xuất hiện ở những nơi cô ta thấy sẽ đạt được thành qủa quyết định. Cô ta đã thu phục được Nguyễn Văn Trương?

Chàng đã không thật tâm với Võ Văn Lượng khi nói về Nguyễn Văn Trương. Đúng là hắn ta đang dao động, thậm chí, rất dao động. Nhưng về với một chúa Nguyễn trẻ tuổi có quân đội tan tác, rệu rã, bắt đầu lại từ đầu? – Hắn thông minh hơn thế, hoặc là, không thông minh như thế. Đã từng chứng kiến những cuộc bại trận của đội quân chúa Nguyễn trước đại quân của Quy Nhơn, chàng hiểu sự thận trọng của Võ Văn Lượng. Gia Định này bốn bề đồng bằng sông nước và rừng thấp, chỉ có vài ngọn núi nhỏ không đáng kể ở vùng biên giới, vốn rất khó phòng thủ cũng như bày thế cuộc tấn công. Chúa Nguyễn lại chọn đóng quân ở Sài Côn. Sài Côn không phải là một nơi vững vàng để làm căn cứ quân sự, địa thế trống trải, dựa hoàn toàn vào hệ thống lũy do Đốc chiến Nguyễn Đàm xây dựng. Hai mặt còn lại của Sài Côn được sông ngòi vây quanh, việc phòng thủ trông tựa vào những đồn thủy quân bên bờ. Lọt vào vùng đất này, không thể chiếm giữ đất đai nếu không có một lực lượng đông đúc nhất định. Ngay cả Tây Sơn chiếm được Sài Côn cũng chỉ có thể tập trung dồn lại phòng thủ, để cho các lực lượng chống đối nổi lên khắp nơi mà không thể đánh dẹp. Gia Định, và miền Nam này, là vùng đất bị chia cắt bởi những cánh rừng, các con sông hoang dã, những nhóm người sống xen lẫn với rừng và nước, chiếm được một vùng nào đó thì dễ, nhưng ổn định được toàn cục thì không. Chúa Nguyễn bị dồn đuổi xuống miền Nam này đã là thất sách. Với số quân ít ỏi, èo uột, không được huấn luyện, không được trang bị kia – ngay cả tồn tại cũng đã là việc khó làm, nói gì đến chuyện chống lại kẻ đang thắng thế ở Đại Việt? Ngay cả lấy được miền Nam này, dù chỉ đối đầu với Nguyễn Lữ, cũng là chuyện không thể thực hiện, huống hồ gì nói đến phục hồi? Theo về với chúa Nguyễn, Nguyễn Văn Trương thật là một kẻ liều mạng.

Hoặc là, chàng đã đánh giá hắn ta qúa thấp.

Chàng cau mày nhìn theo bóng chiếc thuyền con đã mờ khuất trong đêm tối. Những ánh đom đóm xanh vẫn lập lòe bay lượn xung quanh. Nguyễn Văn Trương là kẻ đi theo Tây Sơn ngay từ ngày chúng đến miền Nam này, đã có hơn mười năm trong quân đội của chúng. Hắn đã hơn bốn mươi tuổi, nhất định không phải là loại người xốc nổi làm việc theo cảm tính. Theo về một đội quân chắp vá thì còn tệ hơn ở lại với Tây Sơn dù trong khủng hoảng. Dù khủng hoảng, trận chiến của hai anh em Nhạc - Huệ cũng đã kết thúc, Nhạc vẫn còn đủ sức để giữ miền Nam này nếu không có biến động quá lớn. Thậm chí, nếu có biến động, đặc biệt là liên quan đến họ Nguyễn Gia Miêu, Tây Sơn sẽ lại dốc toàn lực đánh xuống, Gia Định khó mà chống lại nổi lực lượng toàn Đại Việt. Với kẻ như Nguyễn Đăng Vân thì chàng còn có thể hiểu, Nguyễn Văn Trương có lý do gì để chọn kẻ đối thủ không có tương lai như chúa Nguyễn?

Ồ không, chàng không phải không nhận thấy Võ Văn Lượng đã dành cho chúa Nguyễn thái độ mong chờ như thế nào. Chúa Nguyễn, kẻ đã sống sót một cách dai dẳng và lì lợm, kể cả thần kỳ nữa – sự thần kỳ đã được những tên thuộc hạ tâng bốc thành “chân mệnh thiên tử”. Chàng nhếch môi, “chân mệnh thiên tử” với điều kiện phải tập trung được lực lượng đáng kể chứ không phải đội quân chỉ tồn tại được trong một vài trận đánh rồi tan rã, không phải kẻ đã khiến đội quân Đông Sơn của chính mình chia năm xẻ bảy đánh lẫn nhau. Chúa Nguyễn, kẻ chỉ còn có cái tên là đáng kể. Cái tên ấy dù sao vẫn gây ra rung động đối với bất kỳ người dân nào ở phương Nam. Bao nhiêu năm, các chúa Nguyễn đã đưa người khai khẩn, cho quân bảo vệ miền đất này. Có lẽ Võ Văn Lượng vẫn chờ đợi ở cái tên ấy, danh phận của vị chúa trẻ. Trong tình cảnh rối loạn hiện giờ, có danh phận của chúa Nguyễn là một trợ lực vô cùng to lớn để tập hợp lòng người. Nhưng chính ông ta đã đặt ra Kiến Hòa quân, không phải Tây Sơn, không phải Đông Sơn hay Trung Nghĩa quân, Hòa Nghĩa quân. Chúa Nguyễn cũng chẳng phải loại người để cho kẻ khác lấn lướt mình. Cái chết của Đỗ Thanh Nhơn, sau đó là Đỗ Bảng, Võ Nhàn anh trai chàng, đã cho thấy điều đó. Chúa Nguyễn không chỉ muốn phương Nam, chúa Nguyễn sẽ cần một mục tiêu lớn hơn rất, rất nhiều lần. Và cuộc chiến ấy sẽ tiếp diễn không biết đến lúc nào.

Cuộc chiến sẽ vẫn tiếp diễn. Chàng nhắm mắt, ngả người trên nhánh cây. Gió thổi rào rạt bên tai chàng. Kiến Hòa quân, nhưng làm thế nào để “kiến hòa”, chàng vẫn không biết, không thể mường tượng được. Tây Sơn sẽ không chịu buông vùng đất dồi dào lương thực này. Chúa Nguyễn vẫn không bỏ cuộc. Quân Xiêm đã dòm ngó Gia Định từ cái lần đánh nhau với Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên rồi bị chúa Nguyễn đẩy lui. Đuổi được một hai đội quân đi, nhưng không thể kiểm soát vùng đất bất khả phòng thủ này, lại để cho quân ngoài tấn công vào. Không lực lượng nào có đủ sức kiểm soát phương Nam. Chiến tranh sẽ tiếp diễn không bao giờ kết thúc. Không bao giờ kết thúc, cuộc tranh chấp này.

Chàng đã tìm đến với Nguyễn Văn Trương với hy vọng lôi kéo hắn ta, nhưng dường như cô công nương kia đã đi trước một bước. Nếu không, Nguyễn Văn Trương đã không để cô ta đi. Nhưng hắn ta thì có thể làm gì?

- Đội quân của Nguyễn Văn Trương ở Hoàng Trấn chỉ có chưa tới hai chục chiếc thuyền và vài trăm quân. – Nguyễn Văn Hiếu nói. Ông ta mới được Võ Tánh gọi dậy khi trở về doanh trại lúc trời tảng sáng. Vừa pha một ấm trà buổi sớm, Nguyễn Văn Hiếu vừa mở tấm địa đồ trải lên trên bàn. – Lực lượng ấy chẳng thể làm được gì nhiều nhặn. Nhưng anh có biết tại sao chúa Nguyễn lại nhắm vào trạm phòng thủ mà Nguyễn Văn Trương trấn giữ?

Đây, - Khoanh tròn nơi hai dòng sông uốn khúc, Nguyễn Văn Hiếu chậm rãi giảng giải. – Nơi hai dòng sông Tiền và sông Hậu chảy qua. Về phía Đông một chút là dinh Long Hồ cùng các đồn binh quan trọng, đại bản doanh của quân đội nhà Nguyễn trước kia để kiểm soát toàn miền Gia Định. Từ vịnh Xiêm La, đây là đoạn đường ngắn nhất để vào trung tâm Gia Định. Và ven theo biên giới của châu Định Viễn là các đồn binh quan trọng.

- Phải, đó là nơi quan trọng nhất trên toàn chiến địa miền Nam, ai cũng biết! – Võ Tánh nóng nảy ngắt lời Nguyễn Văn Hiếu. – Tây Sơn cũng biết nên đã đưa Nguyễn Văn Trương ra phòng thủ. Nhưng chiếm được khu vực ấy rồi thì sao? Vài trăm quân, chục chiếc thuyền…

- Anh quên những đợt phản công trước kia của chúa Nguyễn với Tây Sơn? Tuy không giữ được Gia Định nhưng đội quân ấy có khả năng tập hợp rất cao. Chúa Nguyễn luôn luôn từ đạo Long Xuyên, Hà Tiên mà tập hợp người, đánh lên Long Hồ. Bây giờ chỉ có vài trăm, nhưng đừng xem thường cái tên của chúa Nguyễn. Thủ phủ, đại bản doanh của quân đội nhà Nguyễn, anh bạn trẻ. Nơi mà trước kia đội quân chúa Nguyễn đánh thắng Xiêm La. Lần này trở về lại chọn Hậu Giang – Long Hồ làm điểm tấn công đầu tiên, chúa Nguyễn đã chủ tâm khẳng định sự tồn tại của mình. Quy Nhơn sẽ không can thiệp vào Gia Định được nữa khi đang canh chừng Huệ. Lực lượng của cả hai bên sẽ do chính bản thân họ huy động. Nghĩa là, kết qủa của chiến cuộc bây giờ không phải kẻ nào có quân số đông hơn, mà là kẻ nào có khả năng kiểm soát miền Nam này tốt hơn.

- Kẻ nào kiểm soát tốt hơn? – Lặp lại lời Nguyễn Văn Hiếu, Võ Tánh cau mày. Nếu Võ Văn Lượng rất giỏi nắm bắt tình thế, Nguyễn Văn Hiếu lại có đầu óc quan sát sắc bén. Lần này, ông ta lặp lại đúng những gì chàng đã nghĩ.

Tây Sơn không hề kiểm soát Long Xuyên cũng như Hà Tiên, để trống cho chúa Nguyễn hết lần này đến lần khác nương náu, tập hợp người. Châu Định Viễn là đất của người Cao Miên, hoang vu vắng vẻ dễ dàng ẩn trốn. Mạc Tử Sanh đã về Hà Tiên, và họ Mạc vẫn giữ lòng trung thành tuyệt đối với Nguyễn triều. Chỗ trống của chủ quản Hà Tiên đã có chủ, chúa Nguyễn được hậu thuẫn sau lưng nên mới có thể nhắm ngay vào Long Hồ ngay khi trở về đất liền. Từ đảo trở về, chúa Nguyễn không đợi chiêu tập lực lượng cũ mà dựa vào Nguyễn Văn Trương nhắm đến Long Hồ dinh cùng các đồn quân ở biên giới phía Tây. Hàng quân và thủ phủ của quân đội nhà Nguyễn – cả hai sẽ tạo ra một thanh thế lớn đủ để rung động toàn Gia Định, toàn quân Tây Sơn đang lòng dạ rối bời.

Sự thắng bại lần này của chúa Nguyễn nằm ở khả năng kiểm soát tình thế.

Chàng cũng muốn xem kết qủa.

Ngọc Du đi theo người lính mặc thường phục vào trong khu nhà lợp lá nằm dựa vào vách đồi. Dừa xào xạc trên đầu họ, cát ram ráp trong giày. Người đi bên cạnh nàng có vẻ bồn chồn, luôn đưa mắt nhìn quanh, đôi lần quay cả đầu quan sát một kẻ mặc áo quần người Minh đi ngang qua. Khu nhà nhỏ, màu lá ở các vách nhà vẫn còn vẻ tươi mới như vừa mới được dựng, vẻ hoang vu trên đảo càng làm cho sự hiện diện của những kẻ mang vũ khí ở đây thêm kỳ lạ. Hòn Trúc Dự này là nơi vị chúa đã tới ẩn tránh sau khi chạy thoát lực lượng truy đuổi của Xiêm La. Bị cả hai thế lực trên bờ theo dõi, họ đã chọn hòn đảo hoang vắng không người ở này. Thậm chí, ngoài một số lương khô ít ỏi của bọn hải tặc Bạch Liên giáo đem tới, họ không còn gì khác để ăn ngoại trừ thịt rùa bắt được trên bờ biển. Tại đây, họ dựng lên những ngôi nhà tạm bằng tre nứa để trú ẩn. Thấy Ngọc Du, vài kẻ cúi đầu, trong lúc một số chỉ nhìn nàng với câu hỏi hiện lên trong mắt. Rất ít kẻ biết mặt nàng, Ngọc Du thầm nghĩ, sau cuộc bại trận năm ấy và những ngày lưu lạc, số người ngày xưa chỉ còn một vài tướng lĩnh. Trong số người Tàu này, ngay cả sự hiện diện của một công nương nhà Nguyễn cũng không được biết tới. Nàng đã vài lần ghé đảo, nhưng cảm thấy hoàn toàn không cần thiết giới thiệu thân phận của mình.

Nguyễn Văn Thành ra đón cũng không có vẻ muốn loan báo sự có mặt của Ngọc Du. Anh ta đứng ngoài cửa căn nhà có vẻ sạch sẽ nằm cuối khu, gật đầu với những người lính canh cửa, bảo mở lối cho nàng. Người đi cùng nàng phải đứng lại cho bọn họ lục soát. Trong lúc đó, nàng đưa mắt vào căn phòng chỉ có một cái giường đóng vội tối mờ mờ. Không có ai ở trong.

- Chúa công đang ở ngoài bãi. – Nhận ra ánh mắt của Ngọc Du, Nguyễn Văn Thành nói. – Giờ này là thời gian tập cung kiếm của ngài. Nếu công nương cần gặp gấp, thần sẽ cho người đi gọi.

- Không cần. Ta sẽ đến đó, ta cũng có chuyện cần bàn với ngài. Nhờ anh tiếp đãi Hoàng tướng quân. – Ngọc Du lắc đầu, quay lại nói với Hoàng Văn Điểm vài câu rồi đi xuống bến sau lưng hòn đảo.

Nàng biết, chúa công đến đây không phải để luyện tập. Nguyễn Văn Thành chỉ nói thế trước mặt người lạ và quân lính. Người được gọi là chúa Nguyễn ấy đến bãi sau này, nơi chỉ có sóng đánh vào đá ầm ào quanh năm suốt tháng, để ngồi nhìn trời. Như bây giờ cũng vậy, em trai nàng thả chân trên vách đá, súng và gươm xếp gọn ghẽ sang bên cạnh, mắt nhắm hờ, chẳng rõ là thức hay ngủ. Sau năm năm không gặp, chàng thanh niên trẻ ngày xưa có vẻ lặng lẽ hơn hẳn. Đã đôi lần nàng gặng hỏi, nhưng vị chúa không bao giờ bộc bạch những gì mình nghĩ trên những mỏm đá bên bờ biển. Ngài ta chẳng bao giờ nói gì về kế hoạch lẫn suy nghĩ cho tương lai, khi chỉ có một mình. Lần này, nàng cảm thấy hơi hơi tức giận trước thái độ ấy, vẻ thờ ơ lơ đãng này.

- Chúa công! – Ngọc Du lên tiếng. Người em trai – chúa Nguyễn Phúc Ánh - mở mắt nhìn sang như thể đã biết sự có mặt của nàng từ lâu, thậm chí chẳng lên tiếng chào. Thở ra, Ngọc Du đến ngồi xuống bên cạnh vị chúa.

- Nguyễn Văn Trương đã phái bộ tướng Hoàng Văn Điểm đến, chúa công. – Giọng Ngọc Du ra vẻ phấn chấn. - Hoàng Văn Điểm sẽ đón quân ta ngoài biển, Nguyễn Văn Trương sẽ hợp sức với ta tấn công Long Hồ.

- Ờ… - Buông một câu trả lời ngắn, Nguyễn Phúc Ánh lại nhìn ra biển, đôi mày cau lại. Họ đã bàn kế hoạch thuyết hàng Nguyễn Văn Trương và định ngày tấn công. Nhưng vị chúa không có gì để nói. Cơn giận âm ỉ của Ngọc Du bùng lên.

- “Ờ” nghĩa là sao, chúa công? Ngài học được chữ “ờ” đấy ở đâu vậy? – Không thèm hạ giọng, Ngọc Du nói lớn. Tay nàng đập xuống hòn đá lạnh. – Hoàng Văn Điểm đang đợi trong làng… Nhưng ngài có định chiến đấu không, chúa công? Ngài định chiến đấu bằng thái độ này đấy à, chúa công?

- Trưởng công nương nghĩ thái độ của ta phải như thế nào? – Mỉm cười, Nguyễn Phúc Ánh nhẹ nhàng đứng dậy, cầm theo súng và gươm đeo vào thắt lưng, phủi cát trên áo. – Chị chỉ cần nói là Hoàng Văn Điểm đang đợi thì đủ rồi. Chỉ là đánh nhau thôi mà.

- Chúa công! – Ngọc Du đứng phắt dậy theo, giọng nói gần như quát lên. – Ngài định nói gì với câu “Chỉ là đánh nhau thôi mà” ấy? Trận chiến quan trọng như thế…

- Trận chiến nào cũng quan trọng, trưởng công nương. – Giữ nụ cười trên môi, Nguyễn Phúc Ánh đi xuống bãi cát. – Ngay cả những trận chiến với quân Miến Điện, Mã Lai ở Xiêm La, ngay cả những cuộc cướp thuyền lương để khỏi chết đói ngoài vịnh. Lần này cũng vậy thôi. Chúng đánh, ta lùi, rồi ta lại tấn công khi chúng lơi lỏng. Chị đừng qúa đặt nặng thắng bại. Nếu không, chị sẽ không gượng dậy nổi.

Ngọc Du định nói, nhưng rồi quyết định im lặng. Năm năm lưu vong và trở về với một nhúm quân bao gồm cả bọn hải tặc trong tay, nàng biết Nguyễn Phúc Ánh đang nghĩ gì trong hoàn cảnh này. Mạc Tử Sanh đã đem ba trăm khẩu súng điểu thương từ Hà Tiên đến, nhưng đó vẫn là một con số qúa ít ỏi. Năm năm lưu vong, tướng lãnh quan lại đã lưu tán, đội quân không chủ tướng, không lề luật này liệu có khả năng đánh trận? Nàng vẫn không quên câu chuyện về đội quân Đông Sơn phò chúa Nguyễn Phúc Thuần ngày xưa. Vì bất mãn với quân Hòa Nghĩa, lại không có kẻ chỉ huy đáng tin cậy, đội quân ấy đã thảm bại khiến dòng chính họ Nguyễn gần như tận diệt. Nắm lực lượng như thế trong tay, có kẻ nào mà không khỏi hoang mang? Khi nghe bàn về việc tấn công, em trai nàng đã hỏi liệu có là qúa sớm. Nhưng quân Tàu Ô của Hà Hỷ Văn không phải là kẻ biết kiên nhẫn. Họ đang đánh một cú liều vào miền đất phương Nam, nàng cũng biết điều đó.

- Điều ta lo bây giờ không phải là thắng hay bại. – Đi phía trước, Nguyễn Phúc Ánh chợt lên tiếng, tay đặt hờ hững trên đốc gươm. – Mà chúng ta có thể thắng hay bại được bao nhiêu lần nữa? Ngày xưa, chị còn nhớ không, ta có thể rất liều lĩnh. Bị Tây Sơn đẩy lui một lần, ta liền chiếm ngay lại Gia Định sau đó. Để rồi, khi Tây Sơn phản công, hai anh em nhà ta chết ngay trong một trận đánh, chồng Ngọc Tú vì ta mà chết. Theo quân Xiêm trở lại, Châu Văn Tiếp bị giết. Liều lĩnh lần này, nếu đặt ra mục tiêu chỉ có thể thắng thì qủa là viển vông. Chỉ e rằng khi thua thì sẽ không gượng dậy nổi.

Chúa công sẽ làm được, những gì Ngọc Du định nói đã lặng im. Em trai nàng không nói về chính bản thân mình, mà là cả một khối to lớn gọi là “nhà Nguyễn”. Không ai trong số họ còn tiếp tục phản kháng nữa, kể cả các tôn thất họ gần. Tất cả đã lặng yên, sau mùa mưa đẫm máu ấy.

Mùa mưa đẫm máu ấy. Khi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ giết cả Chợ Lớn trả thù cho Phạm Ngạn bị quân Hòa Nghĩa ám sát tại Ba Giồng. Khi quân Lương Sơn tá quốc vỡ trận và họ thua trận Đồng Tuyên, vị chúa cùng gia đình, thuộc hạ đã phải chạy ra Phú Quốc nương náu. Nguyễn Phúc Mân, em trai họ, đã chết tại Sài Côn khi ở lại phòng thủ trên sông Tân Bình. Nguyễn Phúc Thiểm, Lê Phúc Điển đã cùng chết tại hòn Đá Chồng khi quân Tây Sơn đuổi tới.

Hoặc là, mùa mưa khác, xa hơn nữa, khi Định vương và Tân Chính vương cùng thua trận, Nguyễn Phúc Đồng, người anh thứ hai trong gia đình họ cũng bị giết theo. Sau lần ấy, triều Nguyễn tưởng đã tan vỡ. Con trai thứ mười bảy của Võ vương là Nguyễn Phúc Xuân sang Xiêm La rồi bị Xiêm vương giết chết. Lần ấy, triều Nguyễn tưởng đã tan vỡ - Nhưng rồi Nguyễn Phúc Ánh từ Hà Tiên trở lại, tự xưng là Nguyên soái nhiếp chính để tập hợp tàn quân cùng nghĩa binh tại Long Xuyên, lấy Long Hồ dinh rồi kết hợp cùng với quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn để chiếm lại Gia Định. Cùng với quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn, rồi liên lạc được với quân Lương Sơn tá quốc của Châu Văn Tiếp, các lực lượng tản mác của họ Nguyễn còn tại phương Nam, họ đã giữ được Gia Định trong năm năm trời. Sau khi Cù lao Phố bị đốt cháy, các thương nhân người Tàu tập hợp đến Sài Côn để mở khu buôn bán mới là Chợ Lớn. Tây Sơn đã nhiều lần bao vây Sài Côn, Gia Định nhưng không thể đánh vào.

Nhưng rồi mối liên kết đã tan vỡ khi chúa Nguyễn giết Đỗ Thanh Nhơn. Vị chúa trẻ đã giả bệnh, chờ Đỗ Thanh Nhơn đến thăm để cho người đâm chết ông ta. Và đó là khởi đầu của rối loạn tại Gia Định. Quân Đông Sơn tại Ba Giồng do Võ Nhàn, Đỗ Bảng cầm đầu tách riêng, chống lại quân Nguyễn. Chúa Nguyễn đã tổn thất không ít để triệt hạ được đội quân chống đối này. Đúng lúc ấy, Nguyễn Nhạc nghe tin Đỗ Thanh Nhơn vừa mất, cùng lúc với việc thu nhận thêm được bọn thủ hạ Tề Ngôi mới, liền cho quân đánh xuống Gia Định. Đội quân vừa thành lập của vị chúa mới hai mươi tuổi không thể chống lại. Vỡ trận, chúa Nguyễn phải trốn xuống Long Xuyên, ra Phú Quốc. Ở tại Sài Côn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đã bày ra cuộc thảm sát tại Chợ Lớn hòng triệt tiêu hoàn toàn Gia Định, tất cả những nguồn sống còn lại sau Cù lao Phố.

Dù quân Lương Sơn tá quốc của Châu Văn Tiếp nghe tin, từ Phan Rang đến lấy lại Gia Định, tất cả những gì họ còn lại là các mảnh vỡ tan nát. Không lạ gì khi họ tiếp tục thua lần thứ hai khi đại quân Tây Sơn kéo xuống. Và lần này, quyết không cho họ đường sống, quân Tây Sơn tràn qua Chân Lạp bắt tất cả dân Việt phải trở về hòng truy lùng ra vị chúa. Vùng Hà Tiên vốn là đất riêng của nhà họ Mạc cũng bị Tây Sơn càn quét. Tướng Đông Sơn cũ là Đỗ Nhàn Trập quyết báo thù cho chủ, truy cùng đuổi tận chúa Nguyễn hết từ Phú Quốc đến hòn Đá Chồng, rồi ra đảo Cổ Long. Tại đây, những nam nhân cuối cùng của gia đình họ đã hòa thân cùng với biển. Và rồi, Châu Văn Tiếp chạy sang cầu cứu Xiêm vương chỉ làm tình hình tồi tệ thêm. Đội quân ô hợp ngông nghênh của Chiêu Tăng, Chiêu Sương làm mồi cho Tây Sơn, còn chúa Nguyễn bị buộc phải về Xiêm La, trong vòng vây của Phật vương. Gửi Phúc Cảnh sang Phú Lang Sa, để gia đình ở lại Phú Quốc, vị chúa đã ra đi không hẹn ngày về.

Trong những năm này, Tây Sơn tiếp tục thừa cơ lớn mạnh. Họ Trịnh ở Thăng Long rối loạn sau khi chúa Trịnh Sâm mất, để lại hai người con trai là Trịnh Khải và Trịnh Cán. Quận Huy, con nuôi của Hoàng Ngũ Phúc, người mà thế lực bao trùm cả triều đình họ Trịnh, định đưa con út Trịnh Cán lên ngôi chúa. Bằng một cuộc binh biến của quân lính, Trịnh Khải lấy lại ngôi vị thừa kế, giết chết Quận Huy. Cũng từ đó, đội quân có công phò tá vị chúa Trịnh mới bắt đầu kiêu lộng, hoành hành khắp phương Bắc. Thuộc hạ cũ của Quận Huy, Nguyễn Hữu Chỉnh, đã xuống Nam Hà nương nhờ Tây Sơn, báo tình hình Bắc Hà cùng đội quân Trịnh bị bỏ rơi ở Phú Xuân để Tây Sơn tiến đánh.

Chiếm được Phú Xuân, được khích lệ bởi Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, trương cờ “Phù Lê diệt Trịnh”. Chiến thắng thật dễ dàng khi đội quân kiêu binh bỏ Trịnh Khải mà chạy. Trịnh Khải tự sát, nhường cung điện họ Trịnh cùng ngôi vị phò tá vua Lê cho Nguyễn Huệ.

Sau cuộc gặp gỡ giữa vua Lê Hiển tông và Nguyễn Nhạc, Nhạc đã được phong làm Thái Đức đế, để Huệ làm Bắc Bình vương. Huệ đóng tại Phú Xuân, Nhạc đóng tại Quy Nhơn.

Sự thắng thế của Tây Sơn ở Phú Xuân, ở Bắc Hà đã đem đến cho chúng danh nghĩa “nhất thống” nhà Lê, đã đem đến cho chúng quân lực, tài lực và vật lực đáng kể nhất từ trước đến nay. Các cuộc nổi loạn đã dần lắng xuống, kể cả các tông thất nhà Nguyễn. Những thuộc hạ cũ trong vùng Thượng như Nguyễn Long cũng lặng yên. Họ chỉ còn nằm trong núi, trong rừng mà quan sát thời thế, mà làm những kẻ chống đối vô chính quyền. Tất cả vẫn còn đang phập phồng quan sát, ngay cả với rối loạn của Tây Sơn. Chúa Nguyễn, lần này, lại là kẻ đầu tiên nổ phát súng trở lại. Trong đơn độc và thiếu thốn.

Lần này, nếu thất bại thì sẽ không còn cơ hội nào cho họ.

Nàng quan sát bóng dáng trầm mặc của vị chúa trẻ tuổi trên bờ cát trắng, để tiếng thở dài tan vào sóng. Đi theo lên bờ đá, nàng để bàn tay mình chạm vào tay áo em trai.

- Nếu lần này không thành công, chúng ta sẽ trở ra đảo, như tông thất nhà Lý đã đi sang Cao Ly, như những người Minh kia lập thành một quốc gia riêng cho mình. Tổ tiên chúng ta cũng bị đẩy lui khỏi quê cha đất tổ, có gì mà chúng ta không làm được? Gia đình chúng ta sẽ sống với nhau, vậy là đủ.

Chúng ta sẽ luôn ở bên nhau, đó là điều nàng muốn nói. Chúng ta, cái gia đình nhỏ tan tác và đau đớn này. Những nỗi đau không ai nhắc tới nữa. Không ai nhắc tới nỗi đau, kể từ khi vị chúa trở lại. Và họ cũng không nhìn vào mắt nhau. Họ đã chỉ nói tới kế hoạch và chiến trận, những gì đã bị cắt đứt trong năm năm dài. Cả tình cảm và đau đớn cũng đã bị cắt đứt trong năm năm dài.

Đáp lời nàng, Nguyễn Phúc Ánh chỉ mỉm cười. Nhìn sang người chị, vị chúa trẻ vẫn giữ vẻ lạnh lẽo trong mắt như khi trông ra biển cả.

- Thối lui? Không bao giờ đâu.

Chú thích:

Hoàng Trấn: Tên Nguyễn Ánh đặt cho dinh Long Hồ, châu Định Viễn sau năm 1778.

Dinh Long Hồ: Vĩnh Long.

Châu Định Viễn: Phần ngoài Vĩnh Long đến Châu Đốc.

5

Không bao giờ đâu. Ngọc Du đã thầm nhẩm lại câu nói ấy trên cả quãng đường trở về đất liền. Chia tay Hoàng Văn Điểm, nàng quay lại Long Hồ dinh. Ngọc Tú đã trở về đảo Phú Quốc với mẹ và chị dâu, bên cạnh nàng chỉ còn người lính hầu cận. Ngày mai, quân đội chúa Nguyễn sẽ tấn công, đó là những gì họ đã định. Mục tiêu là Long Hồ dinh, đó là những gì họ đã định. Long Hồ dinh, thủ phủ của phương Nam, đang chìm dưới ánh hoàng hôn đỏ rực. Tiếng lao xao của thị thành này cũng đang lắng dần sau tiếng trống thu không. Mọi người đang vội vã trở về nhà, không ai hay đến biến cố đang tới. Nghĩ tới điều đó, không hiểu sao nàng lại có cảm giác u buồn.

Không bao giờ đâu, nàng lại nghĩ tới câu nói và nụ cười ấy, cái nhếch miệng khẽ nhưng sức nặng nó đặt trĩu xuống người đối diện. Ngọc Du phải thừa nhận một điều, nàng chưa bao giờ hiểu rõ người em mình. Từ khi cha mất lúc mới được bốn tuổi, em nàng đã được một người họ hàng nuôi nấng, rồi vào cung sống với chúa Nguyễn Phúc Thuần. Đến tận lúc cả hai đã bị đẩy ra Quảng Nam trong cuộc tấn công của quân Trịnh vào thành, gia đình mới biết được tin, cũng từ đó bặt tin Nguyễn Phúc Ánh. Không có mặt trong những tông thất nhà Nguyễn bị giải về Quy Nhơn chém đầu, không có tên trong những tin báo tử, người em nàng đã biến mất nơi đất phương Nam. Và người đến đón họ tại một làng ngoại đô Phú Xuân là một bất ngờ to lớn. Mười bảy tuổi, nàng đã từ Phú Xuân đến Gia Định, và đó cũng là lần đầu tiên nàng nhận chân được người em mình – đã trở thành Nguyên soái nhiếp chính, đã trở thành chúa Nguyễn. Em trai nàng, cậu bé mười ba tuổi mà hình ảnh cuối cùng còn lưu giữ trong nàng, đã đổi khác. Lăn lộn trong nắng gió và bùn lầy đất phương Nam, cậu ta đã không còn là cậu bé. Đã sớm, rất sớm, ấu thơ đã mất đi. Và những kỷ niệm tuổi thiếu thời thoáng qua trong lúc cậu ta về thăm nhà, những tình cảm mơ hồ mà tha thiết của tình thân, cũng đã nhạt nhòa. Cậu ta đối với mẹ, với những anh chị em, bằng sự thân thiết pha lẫn kính trọng. Nhưng phần nào đó trong cậu ta, cái con người dành cho suy tính và chiến trận kia, nàng không bao giờ hiểu thấu. Như lần cậu ta quyết định giết Đỗ Thanh Nhơn, ngay cả mẹ, cả vợ cậu ta đứng bên cạnh giường mà vị chúa trẻ nằm giả bệnh, cũng không hề biết mưu tính ấy. Mưu tính ấy, chỉ dành cho cậu ta và kẻ được cậu ta chọn ra tay. Cậu ta không tin bất cứ ai, kể cả người thân thuộc nhất, nàng đã nhận ra điều đó. Có một phần nào đó trong con người cậu ta đã trở nên lạ lẫm và xa vời.

Giờ đây, vị chúa trẻ ấy đang nghĩ gì? Trước trận chiến quyết định cho vận mạng tất cả mọi người này? Nàng dường như đã cảm thấy sự mệt mỏi trong cậu ta, nhưng cậu ta đã làm suy nghĩ ấy tan vỡ với câu nói cuối cùng của mình. Bốn năm ở Xiêm La, cậu ta đã làm gì, nghĩ gì? Từ chối ý định cho mượn quân của vua Xiêm, từ chối cả sự giúp đỡ của người Tây dương khi thấy Xiêm vương không bằng lòng, Nguyễn Văn Thành đã kể. Chúa công chỉ chờ đợi Bá Đa Lộc và công tử Cảnh, chỉ bảo thuộc hạ chuyên chú đóng tàu và luyện tập. Là một vong nhân tay trắng, cậu ta đã nghĩ gì, trong suốt những năm tháng ấy?

Ngày mai, nàng nghĩ về nó khi màn đêm chậm chạp buông. Quán trọ hoi hoi mùi ruộng đồng và bùn mà nàng đang trú ngụ chỉ có ba phòng và một tiền sảnh nhỏ bán rượu. Ngồi ở góc tiền sảnh, nàng quan sát những bức tranh, bức liễn treo trên tường, màu mực vẫn còn đậm nét, tươi mới trong ánh nến. Người chủ căn nhà này đã đi mất trong chiến tranh, chủ quán kể. Anh ta cũng chỉ là một lưu dân may mắn có được căn nhà, tài sản duy nhất có thể giúp anh ta kiếm sống. Ngày mai, có thể nó sẽ bị đốt cháy trong trận chiến.

Nàng không nhận ra mình thở dài đến khi có tiếng nói vang lên bên cạnh.

- Đêm đang đẹp đẽ thế này lẽ ra không nên âu sầu mới phải.

Gần như giật mình vì giọng nói quen, nàng ngẩng nhìn người ngồi bàn trước mặt, quay ra cửa quán. Võ Tánh. Chàng ta đang nhìn nàng, nét cười phớt trên môi. Cầm bình rượu lên, kéo ghế dịch về phía bàn nàng mà không đợi mời, Võ Tánh nói mà chẳng buồn hạ giọng.

- Hôm trước tôi còn thấy cô xuất hiện ở chòi một vị tướng quân, đáng lẽ phải phấn chấn vui mừng lắm chứ sao lại ngồi ủ rũ thở dài ở đây?

Ngọc Du nhướng mày. Võ Tánh biết nàng đến gặp Nguyễn Văn Trương, và bây giờ anh ta lại xuất hiện ở Long Hồ…

- Anh theo dõi tôi? – Sự bất ngờ qua mau, nàng lại nghĩ đến vấn đề trước mặt. Sự xuất hiện của Võ Tánh ở đây trước trận đánh có mục đích gì? Anh ta đã biết được điều gì? Đáp lại ánh mắt nghi ngờ của nàng, Võ Tánh chỉ nhún vai.

- Tôi và cô có những mục tiêu giống nhau. Gia Định, rồi Hậu Giang, đến Long Hồ này, qủa thật chúng ta đang suy nghĩ giống nhau.

- Anh biết tôi đang nghĩ gì à? – Cười nhẹ, Ngọc Du hỏi, nhìn theo bình rượu đang được cầm trên tay chàng trai trước mặt.

- Nếu cô đã xuất hiện ở đây, thì cuộc chiến sẽ sớm, rất sớm thôi. – Đáp lại bằng nụ cười tương tự, Võ Tánh rót rượu ra chiếc ly đang để trước mặt Ngọc Du. - Yên tâm đi, tôi chỉ là kẻ đứng ngoài quan sát. Tôi còn phải xem tấn tuồng giữa Tây Sơn và các vị sẽ dẫn đến đâu.

- Ồ, vâng, còn tôi rất ghét những kẻ muốn đóng vai anh hùng, luôn cho rằng mình đúng. Nhất là những kẻ anh hùng đó vốn chẳng biết làm gì để thực hiện được những gì mình cho là đúng. Những kẻ ấy lại luôn cho mình quyền đứng ngoài phán xét, thật là nực cười.

Nâng ly rượu lên môi, Ngọc Du mỉm cười trước khi uống cạn. Đặt ly xuống, nàng cầm lấy bình rượu tự rót cho mình, làm ra vẻ như không thấy ánh mắt Võ Tánh.

- Đừng ngạc nhiên, Võ tướng quân. Tửu lượng của tôi rất cao, anh có biết tại sao không? Cái năm nọ, khi Tây Sơn giết người ném xuống sông Tân Bình, mùi hôi lan xa cả dặm, tôi đang trốn lẫn trong dinh trong chuyến về quyên góp ngân lượng cho quân. Và tôi đã phải uống hết bình rượu này đến bình rượu khác trong một tửu quán bỏ hoang của người Tàu để có sức mà đứng dậy chạy đi. Mùa mưa năm nọ, khi đưa mẹ tôi đi trốn ngoài hoang đảo, tôi đã phải đến xin Lê Văn Duyệt rượu của anh ta. Có thế thì tôi mới đứng vững mà nâng những phụ nữ đang khóc ngất dậy được. Hai đứa con trai trong nhà đều chết hết, vợ chồng một đứa em mới mười chín tuổi cũng bị bắt rồi bị giết, chồng chị gái chết trận, chúa công thì không biết còn sống hay đã chết ở đâu. Đến giờ, mỗi khi ở lại nhà, tôi vẫn phải uống rượu để ngủ được trong những tiếng khóc của họ. Tôi uống, uống mãi, đến mức bây giờ không có thứ rượu nào làm tôi say được nữa.

Họ im lặng, nghe sự thinh lặng của màn đêm. Người chủ quán cũng đã dọn dẹp và nhắc họ đi nghỉ, sau đó để lại một ngọn đèn ở bàn họ cùng vài bình rượu khác. Họ uống rượu và không nhìn nhau. Ngọc Du không nhìn chàng thanh niên trước mặt. Võ Tánh không nhìn nàng, chỉ quan sát bàn tay trắng xanh đặt trên bàn. Bàn tay gầy với những ngón dài, mảnh khảnh, như thể chỉ bóp nhẹ là gãy vỡ. Chàng có thể cảm thấy cả ánh mắt của người lính đằng sau họ trong bóng tối. Ngọn đèn dần cạn, ánh leo lét chấp chới trong ngọn gió len qua khe cửa khép hờ. Tiếng chiêng điểm canh xa xa vọng lại. Ngọc Du nhìn lên, trong ánh mắt như chợt thảng thốt. Cô ta đang đợi, Võ Tánh nghĩ thầm. Cũng có thể chỉ là thói quen của cô ta – đi trong đêm và cảnh giác với từng tiếng động. Có thể là cả hai. Chỉ có một điều rất rõ ràng: Cô gái này mang đầy những bất an.

Bất an lao xao trong bóng tối.

Nàng im lặng đưa mắt nhìn ánh trăng luồn qua khe cửa. Bất an lao xao trong bóng tối, nàng nghĩ thầm. Ngày mai, cuộc chiến mới lại bắt đầu. Ngày mai, những gì họ và nàng đã lao tâm xếp đặt trong năm năm qua sẽ có lời đáp. Bốn năm, nàng đã đi qua những mảnh đất phương Nam trong đêm tối cũng như dưới ánh sáng, cố gắng để giữ vững mối liên kết với những người còn có thể liên lạc được. Bốn năm, tất cả đã chờ đợi. Họ đã chờ đợi với những tàn tro qúa khứ còn nắm được trong tay, nuôi dưỡng sự chờ đợi ấy bằng nỗi đau và cái chết. Phải, nỗi đau dành cho những gì đã chết là điều giúp cho họ còn sống. Những cái chết ấy không thể là vô ích và vô nghĩa lý. Họ đã nói, còn nàng chỉ lặng im. Những cái chết sẽ luôn luôn vô ích và vô nghĩa lý nếu như chúng ta thất bại, nàng muốn nói nhưng đã lặng im. Những nỗi đau này sẽ bị lãng quên, sẽ bị chà đạp và lãng quên, trở thành vô ích, vô nghĩa lý.

Đêm nay, nàng nghe bất an lao xao trong bóng tối.

Chúa công đã nghĩ gì khi nhìn ra biển, nàng chợt nhớ đến người em trai. Người em trai xa cách nhất trong cả gia đình. Từ khi cha mất trong ngục do Trương Phúc Loan ám hại, cậu bé Nguyễn Phúc Ánh đã được đưa khỏi gia đình để đến sống với người họ hàng xa. Chúa Nguyễn Phúc Thuần đã đón cậu ta vào cung không chỉ vì tình thương mà còn là để xoa dịu bất mãn trong phe đối địch. Trong cái gia đình nhỏ bị bỏ rơi của họ, em trai nàng dường như chỉ là khách. Đôi lần nàng thấy ánh mắt cậu ta nhìn họ khi ghé lại, vẻ xa cách và u buồn trên khuôn mặt trẻ con. Mẹ Cả còn có người con khác để chăm sóc, còn có một gia đình đã vắng đàn ông trụ cột để lo toan. Đôi lần ghé lại, người em nàng chỉ đứng nhìn và mỉm cười lặng lẽ. Ngày ấy, nàng qúa nhỏ để nhận ra rằng sự có mặt của cậu ta trong cung chính là sự bảo đảm an toàn cho gia đình. Sự có mặt của cậu ta trong cung chính là để đem lại nguồn sống và sự sống cho gia đình. Những điều ấy, người em nàng không bao giờ nói ra, nhưng nàng đã nhận biết, và mẹ Cả nữa, cũng xác nhận. Người em nàng, số phận đã để cho cậu ta, không phải Nguyễn Phúc Thuần hay Nguyễn Phúc Dương kia, trở thành chúa Nguyễn. Cậu em mồ côi và mất mát mà ký ức nàng vẫn còn lưu dấu hình bóng nhỏ bé nhạt mờ. Vị chúa trẻ tuổi trên mỏm đá một mình nhìn ra biển. Sóng đánh ầm ào trong trí nhớ của nàng, đánh cả vào tiềm thức.

Ngọn lửa chao mình rồi tắt hẳn.

- Tại sao lại là chúng tôi? Nhiều khi, tôi đã muốn hỏi như thế. – Trong bóng tối, Ngọc Du khép mắt, thì thầm. Bóng tối cho nàng sự an toàn và yên lặng cho nàng sự bình yên. Nàng chợt muốn nói, một điều gì đó, bất cứ điều gì đó. Ngày mai, nàng không muốn nghĩ về nó, tuy vẫn chờ đợi bước chân của nó. Ngày mai, tất cả sẽ khởi đầu hoặc kết thúc. – Tôi đã lớn lên trong ngôi nhà nằm ở một góc Phú Xuân. Tôi không nhớ mặt cha mình, ông ấy được chôn vội trong nấm mộ nằm trong núi, gần nơi ông ấy bị giam giữ đến chết. Gia đình tôi mang danh là họ Nguyễn nhưng chưa bao giờ giàu có. Gia đình của một hoàng thân bị giam đến chết thì giàu có sao được? Mẹ tôi vẫn phải nhận vải về may áo. Tất cả những người phụ nữ phải làm việc. Rồi khi quân Trịnh đánh Phú Xuân, chúng tôi phải chạy khỏi căn nhà đó, trôi dạt về miền quê ngoại ô. Năm ấy, tôi mười ba tuổi. Tôi cũng phải ra ruộng làm đồng, cũng phải quay sợi dệt áo, cũng phải nai lưng tát nước mùa cạn cùng chị em gái. Những em trai của tôi cũng phải vào rừng đốn củi, săn thú, đi cày bừa. Chúng tôi đã sống như thế đó, trước khi được gọi vào Gia Định này. Trước khi chúng tôi được gọi là công nương, công tử. Mà có khác gì? Đỗ Thanh Nhơn còn sống, chúng tôi thậm chí không có tiền làm đám giỗ cho cha. Đỗ Thanh Nhơn vừa mất, Tây Sơn tấn công, chúng tôi tiếp tục chạy loạn và trốn tránh. Nhiều bữa đói đến hoa cả mắt. Nhiều bữa chân tay rời rã như thể muốn mình chết đi cho rồi. Những đứa em trai của tôi, chúng đã làm gì? Đó là trận chiến đầu tiên của chúng, và chúng chết. Chúng chỉ biết có cày bừa, săn thú và sau này là theo anh chúng vào quân thôi, tất nhiên, chúng phải chết. Những chị em gái của tôi, họ có tội lỗi gì? Một người bị bắt, nhảy xuống sông tự vẫn; một người goá chồng khi mới đôi mươi; một đứa em nữa đã thất lạc ngay từ khi chạy trốn quân Trịnh, không biết còn sống hay đã chết. Những bà mẹ của tôi, họ có tội lỗi gì? Họ đã mất chồng, giờ con của họ không chết thì cũng sống không bằng chết. Em dâu của tôi, phải, người được gọi là Nguyên phi đấy, hai bàn tay lột vải lanh tứa máu, mười đầu ngón tay nát bấy vì khâu áo cho quân, những tấm áo sau này thành vải liệm người chết. Đứa cháu nhỏ của tôi mới bốn tuổi đã được gửi đi đâu không rõ, đến cha nó còn không được tin tức gì. Cha nó, chúa công em trai tôi, làm con tin cũng từ khi mới bốn tuổi. Có nhiều khi tôi tự hỏi, rất nhiều khi tôi tự hỏi: Số phận là gì?

Ngày mai, sẽ kết thúc hoặc khởi đầu, nỗi đau này hay nhiều đau đớn mới. Có thể thắng hay bại được bao lâu, được bao nhiêu lần nữa, cho đến khi bản thân tuyệt diệt? Con người có khả năng chịu đựng được bao nhiêu? Năm năm, trong hoang tàn và rối loạn, nàng đã đứng dậy, rảo chân đi khắp miền Nam này để nối lại mành lưới con người họ Nguyễn. Hay vì nàng không thể chịu nổi những nỗi đau của người bên cạnh? Vì những gì đã chết, cuộc sống của họ giờ đây biến thành địa ngục.

“Lấy được kinh đô cũ thì sẽ xuất gia thờ Phật”, Ngọc Tú đã ban lời thệ vào giữa tuổi xuân xanh. Đó là một lời báo oán. Khi oán thù được giải, chị ấy mới có thể dứt khỏi cuộc sống cay nghiệt này. Cuộc sống của họ đã mất, đã mất rồi. Cái gia đình nhỏ ấy chỉ còn toàn tiếng khóc của tuổi thanh xuân tàn héo, bị chặt phăng, dẫm đạp đến kiệt cùng.

- Tôi cũng muốn hỏi điều đó khi anh tôi mất. – Võ Tánh chợt lên tiếng. Chàng dựa lưng vào tường. Cái bóng của chàng nổi rõ vết hằn trong đêm. – Nhà tôi chỉ có hai anh em, anh ấy đã nuôi tôi khôn lớn. Khi đi theo Đỗ Thanh Nhơn, anh ấy để tôi ở lại. Rồi anh ấy không trở về nữa.

Thinh lặng. Giọng Võ Tánh đều đều, không trách cứ cũng chẳng gợn phiền muộn, chỉ như nói ra một sự việc, một điều gì sáng rõ và giản dị. Ngọc Du đăm đăm nhìn vào bóng tối, nơi người thanh niên đang ngồi. Chỉ nghe tiếng bình rượu được dốc ngược lên miệng, tu ừng ực. Chàng ta không muộn phiền hay trách cứ, ngay cả với người mang dòng máu của kẻ đã giết anh mình, chỉ giản đơn là đau đớn.

Mọi nỗi đau trên đời đều rất giản đơn.

Ngay cả lý do mà chúng ta giết nhau cũng vậy.

Chàng muốn kể về Võ Văn Lượng, con trai một hào phú, kẻ đã bật khóc khi nhìn thấy số lương thực bị Tây Sơn cướp phá, làm ô uế và qùy xuống xin người cha thành lập Kiến Hòa quân. Chàng muốn kể về Nguyễn Văn Hiếu, một người sống bằng nghề cắt cỏ đến năm ba mươi tuổi rồi gia nhập Kiến Hòa. Bọn họ không mang thù hận, bọn họ chẳng có gì để hận thù. Nhưng điều bọn họ muốn, không có ai đem đến được cho họ.

Chàng muốn nói về bao nhiêu người khác, nhà cửa đã bị đốt cháy, thân thuộc đã bị giết chết. Chàng muốn nói về những người lính không có quyền chọn lựa phải phơi thây nơi chiến trận. Điều mà họ cần, không ai đem được tới cho họ.

Chàng đưa thêm một bình rượu cho nàng, cô công nương. Nàng nhận lấy, không rót ra ly, ngửa cổ uống cạn. Chàng mỉm cười.

- Tôi không tin nàng không biết say. – Võ Tánh nói. Nghe tiếng bình rượu chạm vào mặt bàn.

- Anh định dụ tôi uống say? Tôi không việc gì phải chứng minh cho anh biết.

- Không, tôi chỉ định mời nàng uống cùng tôi đêm nay. Nói thế với đàn ông thì dễ, nhưng tôi chưa từng mời phụ nữ. Đó có phải là qúa thất lễ?

- Đúng, rất thất lễ. – Ngọc Du cười. – Nhưng tôi đã nói mình không phải là một công nương cao qúy trong điện ngọc. Đêm nay tôi cũng muốn có bạn.

- Bạn?

- Tôi đã ở phương Nam này gần mười năm rồi, đừng ra vẻ với tôi. Kẻ ngồi chung một bàn là huynh đệ, đó chẳng phải là điều các anh hay nói?

Đêm rung mình vì tiếng cười dài.

- Được. Có lẽ chúng ta phải gọi chủ quán dậy đem thêm vài bình rượu.

- Chi bằng bảo anh ta mở khóa phòng cất rượu rồi sáng mai đếm bình rượu trả tiền.

- Công nương qủa là suy tính chu đáo.

Mặt trời đã lên cao, nắng chiếu chênh chếch qua cửa sổ mở rộng gần đứng bóng. Đã gần đến giờ nghỉ trưa, đám nông phu thẩn thơ đi lại trên đường đất. Võ Tánh quan sát những con thuyền đang cập lại bến sông. Lạ, ít thuyền hơn hẳn mọi ngày. Xa xa, đồn binh gần nhất vẫn im lìm trong bức vách đắp bằng gỗ và đất nện cao vượt đầu người. Cũng không thấy bóng quân lính Tây Sơn ruổi ngựa ra ăn cỏ như thường lệ.

Quay vào trong, chàng thấy Ngọc Du vẫn gục mặt trên bàn ngủ say. Cô công nương này nói thật về chuyện cô ta không say rượu. Chỉ đến gần sáng, nàng mới uể oải gục đầu ngủ gật. Chàng đã định đưa nàng về phòng, nhưng nghĩ lại thì không nên chạm đến người con gái chưa chồng này, nhất là dưới ánh mắt vẫn chăm chăm từ bóng tối dõi ra. Ngay cả tên lính ấy cũng không biết phải xử trí thế nào, chàng cười thầm trước khi quyết định cứ để Ngọc Du ngủ lại trên bàn. Người chủ quán, sau lần bị gọi dậy giữa đêm, chỉ lắc đầu khi thấy họ. Ở miền đất chiến tranh và hoang dã này, điều gì chẳng có thể xảy ra? Cả khách vào quán uống ly nước, ăn vài cái bánh cũng chẳng để tâm đến cô gái ngồi ngủ trong một góc.

Mà nàng có gì khiến người ta phải để tâm? Ngồi xuống ghế, Võ Tánh quan sát nàng, vầng trán cao và mái tóc đã lơi khỏi búi vấn, rơi xuống vai, lưng, tràn qua mặt. Giấc ngủ đã xóa đi nét khắc khổ và nghi ngờ thường trực của người con gái này. Giấc ngủ trả nàng lại đúng tuổi thật của mình, không còn là thiếu nữ, cũng chưa đi qua xuân xanh. Ở tuổi này, những người phụ nữ khác đã làm vợ, làm mẹ của một gia đình đông đúc. Còn nàng vẫn mãi chỉ là một ngọn gió xinh đẹp phiêu bạt, cứ để thanh xuân trôi qua mà không mơ đến một bến bờ.

Có lẽ do đó nàng mới có thể là người uống rượu cùng chàng cả đêm. Không phải là thiếu nữ để rụt rè e lệ, cũng chẳng đủ lớn tuổi để cứng nhắc khô khan, đủ danh phận để tự tin và cũng đủ bản lĩnh để quyết định làm những gì mình muốn, phụ nữ ở tuổi này thật là thú vị.

Kìa, chàng đang nghĩ những điều thật vô phép tắc.

Trong không khí chợt như có một luồng chuyển động mạnh quét qua. Rồi chàng nghe tiếng xôn xao từ phía đầu con sông dội lại. Có tiếng người, rất nhiều tiếng người. Tiếng vó ngựa, tiếng chân, tiếng la hét. Ban đầu chỉ là thanh âm nhỏ, rất nhanh, đám xôn xao này đã ập đến. Ngọc Du choàng tỉnh như một con mèo thính tiếng, đẩy bàn chạy ra cửa quán. Người trong vùng cũng đã đổ ra bờ sông, nhìn về phía đầu nguồn, nơi tiếng động đang xô đến. Tiếng vó ngựa phi nước đại về phía họ, rồi một binh của Tây Sơn cưỡi ngựa chạy thẳng vào đồn binh đằng xa.

- Có chuyện gì vậy? – Người trên bờ sông xôn xao hỏi nhau trong tiếng sóng âm thanh đang tràn lại. Một đám thanh niên trẻ chạy bổ về phía họ, một đám khác tấp thuyền vào bến, nhảy lên bờ. Ai nấy mặt đỏ gay.

- Chúa Nguyễn trở về! – Có tiếng người hét lên. Đám đông lặng đi một thoáng. Có vẻ như sợ người ta không tin, một người trong đám thanh niên vừa đến hoa tay múa chân nói:

- Thuyền chúa Nguyễn vào cửa Rạch Giá, quân Tây Sơn ra hàng hết thảy. Họ đang đến đây. Họ từ ngoài biển vào thẳng đến đây!

Tiếng động bùng vỡ.

Dường như những người cuối cùng còn ẩn trong nhà nghe ngóng cũng đã chạy về phía bờ sông. Ngoài cửa sông nghe tiếng xôn xao của đoàn quân đang tới. Rồi họ thấy bóng cờ vàng trên chiếc thuyền đầu tiên từ đằng xa tiến lại trong nắng chói chang. Bóng cờ vàng chói chang trong nắng trưa. Những chiếc thuyền khác từ từ xuất hiện, mái chèo khua sóng sánh mặt sông tràn nắng.

Chúa công trở về! Chúa công đã trở về! Thanh âm lan truyền trên mặt nước, trên đám đông. Chủ quán trọ chạy ra, va cả vào Ngọc Du nhưng không quay lại. Trên tay anh ta là giỏ bánh làm ban sáng để bán trong ngày.

Trên chiếc thuyền đầu tiên tiến lại, dưới bóng cờ, chúa Nguyễn Phúc Ánh mặc hoàng bào, vai đeo khẩu súng còn chưa nhả đạn, bên hông đeo hai thanh gươm, đang đứng cùng những cận tướng. Võ Tánh nhận ra Nguyễn Văn Trương ngay bên cạnh vị chúa trẻ.

- Qủy tha ma bắt, vào tận đây mà chẳng cần đánh đấm gì! – Chàng buột miệng, đưa mắt về phía người lính Tây Sơn vừa mới chạy qua. Vẫn im lìm.

Tiếng hò reo vang dội khuấy động cả sông nước ban trưa. Chúa Nguyễn, chàng nghe cái tên ấy lặp đi lặp lại trên môi mọi người mọi kẻ đứng trên bờ. Chàng có thể hình dung thấy cảnh tượng này đã kéo dài trên cả đoạn sông Kiên Giang, Hậu Giang đến tận Long Hồ. Những người trên thuyền, từ tướng cho đến lính tráng, quần áo không một vết bẩn. Và sự xuất hiện bất ngờ, nhanh chóng của họ như thể một giấc mơ.

Chúa Nguyễn đã tiến vào Hoàng Trấn mà không tốn một viên đạn.

- Qủy tha ma bắt! – Chàng lặp lại với chính bản thân mình. Bất chợt, một bàn tay nắm lấy tay áo chàng. Ngọc Du, đứng bên cạnh chàng trên bậc cửa quán trọ, nắm lấy tay áo chàng. Nàng nhìn ra sông, nhìn đoàn thuyền đang đến. Nước mắt long lanh trong mắt nàng.

Nàng đang khóc.

Ngoảnh lại về phía vị chúa trẻ và đoàn tùy tùng, Võ Tánh thấy họ đang chỉ về phía đồn binh cuối cùng còn lại của Tây Sơn ở Ba Thắc. Họ sẽ không dừng lại, chàng nghĩ thầm. Và không gì có thể cản họ, quân Tây Sơn đã bị bỏ rơi trong đồn, giữa làn sóng người đang rền vang tiếng này.

Chỉ trong một buổi sáng, chúa Nguyễn đã tiến vào phủ Gia Định.

Và đó là lần đầu tiên chàng được thấy sức mạnh của cái tên chúa Nguyễn.

Nước mắt đang chảy tràn trên khuôn mặt Ngọc Du, nàng cũng chẳng buồn lau đi. Hoặc là chính nàng cũng không nhận thấy.

Nàng đã thắng, công nương. Chàng muốn nói điều đó, nhưng cuối cùng im lặng.

Không, từ đây cuộc chiến sẽ chỉ mới bắt đầu.

6

Ngọc Du bồn chồn đứng đợi ngoài cửa khi Nguyễn Văn Trương vẫn còn đang nói chuyện với chúa Nguyễn. Sau chiến thắng ở đồn Ba Thắc, Nguyễn Văn Trương đã được phong ngay chức Tiên phong Chưởng cơ. Tuy nhiên, cuộc nói chuyện đã kéo dài cả giờ. Thật lòng, nàng không tin tưởng lắm vào người em trai nóng tính này. Giờ đây bị kích thích vì chiến thắng dễ dàng với Tây Sơn, thu phục cả châu Định Viễn chỉ trong một ngày, liệu Nguyễn Phúc Ánh có như ngày xưa, quyết định đánh cả vào Sài Côn?

Chiến thắng thì đã có, nhưng còn chưa đủ. Bọn họ cũng chỉ mới có vài trăm quân và vài chục chiếc thuyền. Những điều đó, không phải một đêm có thể biến đổi được.

Cuối cùng Nguyễn Văn Trương cũng đã ra, mỉm cười cúi đầu chào nàng. Ngọc Du bước lại, đáp lễ ông ta.

- Vất vả cho ngài hôm nay, Trương tướng quân. – Nàng nói, đưa mắt vào trong. Hiểu ý, Nguyễn Văn Trương nói:

- Chúa công bảo tôi nghỉ ngơi rồi chuẩn bị đưa quân đến Cần Giờ.

À… Ngọc Du hơi ngẩn người trước khi cúi chào cáo từ Nguyễn Văn Trương. Cần Giờ? Chúa công đã thật định tấn công Sài Côn?

- Chị sau này nên bỏ thói dò hỏi tướng lãnh ngay ngoài cửa đi. Làm thế thật chẳng có phép tắc gì.

Ngọc Du nhướng mày. Ngồi sau bàn, Nguyễn Phúc Ánh lục lọi đống giấy tờ mà quân tướng Tây Sơn vứt bỏ lại, không ngẩng lên. Trời đã tối, đèn trong phòng thắp sáng trưng. Bên ngoài, quân lính vẫn dọn dẹp tàn tích của trận chiến buổi sáng. Hai chân gác lên bàn, em trai nàng ngả người đọc một cuộn giấy viết chữ Nôm ngoằn ngoèo.

Ngọc Du bất chợt có cảm giác buồn cười.

- Vâng, chúa công. – Nàng kéo dài giọng. – Thế chúa công có định nói cho chị biết mình đang định làm gì không?

- Chị đã nghe rồi, đến cửa Cần Giờ.

- Cần Giờ? Tấn công Sài Côn? Chúa công, lúc này ta…

- Ai bảo chị chúng ta sẽ tấn công Sài Côn? – Ngẩng lên, Nguyễn Phúc Ánh ngắt lời người chị. Ra hiệu cho nàng đến gần, vị chúa trẻ trải cuộn giấy mình đang đọc lên bàn. Một báo cáo thu thuế của Tây Sơn. Tay vị chúa đập lên những cuộn giấy khác. – Đây là những văn thư gửi tới từ các địa điểm đóng quân của Tây Sơn. Dốc quân đánh Sài Côn bây giờ là hạ sách. Quân Tây Sơn ở Sài Côn vẫn còn nhiều, trong năm năm qua chúng cũng đã kịp đắp thành dựng trại ở Cầu Sơn. Cầu Sơn nằm ở đoạn cuối sông Tân Bình, chúng ép mọi người vào đó để không ai có thể gây biến ở đoạn đầu sông, lại có thể dựa vào thế đất để phòng thủ. Hiện thời Nguyễn Lữ đã kéo về Trấn Biên phía Đông, đồn Tây Sơn vẫn còn tại Mỹ Tho. Quân tại những địa điểm khác kéo về thì chúng ta không thể đương cự nổi.

- Vậy thì đến Cần Giờ…?

- Khuấy động một chút, thế thôi. – Nguyễn Phúc Ánh mỉm cười. – Cuộc xâm nhập vào Định Viễn này đã cho ta thấy lòng dân vẫn hướng về nhà Nguyễn. Chiến thắng thật dễ dàng, ai biết chúng ta mới chỉ có vài trăm quân? Cứ phô trương thanh thế một chút, cho bọn Nguyễn Lữ phải lo sốt vó mà phòng thủ chết ở Sài Côn, không dám chủ động đánh chúng ta. Bọn chúng lòng dạ đã rối bời, gặp nguy cơ thì dễ gây loạn. Trong lúc đó, ta rảnh tay dọn dẹp những cứ điểm của chúng xung quanh vùng, ép chúng vào trung tâm Gia Định. Từ nay chúng ta sẽ phát triển quân tướng trấn giữ nhiều vùng, không tập trung chỉ ở phía Sài Côn hay trong một địa điểm bất kỳ nào nữa. Trước kia quân tướng túm tụm một nơi, quân số lẫn thực lực thì lại không bằng quân địch, thua một trận là tan tác. Ta nghĩ, lợi thế của chúng ta chính là có thể ẩn vào trong dân chúng, trong những khu vực hoang dã ngoại vi. Như thế, đội quân của ta có khả năng biến hóa khôn lường, có thể một địch mười, mười địch trăm. Cứ từ từ mà đánh, không phải vội. Cứ cho kẻ thù thấy là ta hăng hái tiến công để chúng phải lo sợ đề phòng, còn ta thận trọng đã.

Vừa nói, vị chúa nhà Nguyễn vừa lơ đãng mở những cuộn giấy còn chưa lật, đôi lần cầm bút khoanh tròn một câu từ nào đó. Ngọc Du nhìn người em trai, lấy làm kinh ngạc. Từ từ, nàng chưa từng hình dung ra câu nói ấy lại được thốt ra từ người em đoản tính này. Dường như vị chúa hôm trước và hôm nay là hai người khác nhau. Giờ đây, Nguyễn Phúc Ánh vạch ra chiến lược tấn công như thể đã soạn sẵn trong đầu từ lâu.

- Nghe nói rằng trong thời gian gần đây có rất nhiều nhóm quân nghĩa hiệp khởi binh trong rừng núi. Trước khi ta về, đã có người đánh Sài Côn nhưng thất bại? – Vẫn không ngẩng lên, Nguyễn Phúc Ánh nói. - Nếu như có thể tập hợp được tất cả bọn họ thì thật là việc tốt. Mỗi người bọn họ là thủ lãnh của vùng họ đóng quân, có họ thì cũng coi như nắm được vùng ấy trong tay. Nay chiếm được Long Hồ, thanh thế có đủ. Hưng binh ở Cần Giờ, cũng theo đó mà đánh động lòng người. Những việc còn lại, e rằng phải nhờ đến công nương Hồ Dương.

Ngọc Du cau mày. Em trai nàng chợt ngẩng lên, nở nụ cười. Nụ cười mà cậu ta luôn dùng khi muốn nói với nàng một chuyện riêng tư.

- Nhưng bây giờ nhờ chị soạn giúp cho mấy món lễ vật để ta đi thăm họ ngoại Nguyên phi. Dòng dõi Nguyên phi là Lưu thủ của Long Hồ này, đến đây thì ta nên đi hỏi han họ hàng đã.

Cụ Tống Phúc Hiệp là Lưu thủ Long Hồ dinh, người đã đánh thắng Xiêm La, Ngọc Du nhớ đến điều đó khi bước ra ngoài. Cố tình chọn Long Hồ dinh, vị chúa đã định trước chuyện này? Cụ Lưu thủ mà danh tiếng lẫy lừng vẫn còn trong tâm bất cứ ai ở Gia Định, họ Tống Phúc với những vị quan tướng trung thành truyền đời. Cha Nguyên phi là Tống Phúc Khuông cùng người em Tống Phúc Lương đã là những người đầu tiên đứng lên ủng hộ vị chúa mới mười lăm tuổi ngay từ những ngày đầu. Cụ Tống Phúc Hiệp, Tiết chế Kính Quận công, đã trấn thủ Gia Định, đánh lui cuộc xâm lấn của Tây Sơn lấy lại ba phủ Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang, thu phục bọn Hòa Nghĩa quân Lý Tài. Cuộc hôn nhân rất sớm ngay từ khi vị chúa còn đang tập hợp lực lượng trong đầm ruộng đã đem đến đội quân đủ sức giữ Sài Côn trong cả năm năm. Cuộc hôn nhân đã liên kết vị chúa với Gia Định gắn bó hơn ai hết trong Nguyễn Phúc tộc. Khi trở lại, em trai nàng vẫn không quên điều đó.

Đèn đuốc trong đồn vẫn thắp sáng cho đám quân binh kiểm kê số quân lương tài vật mà Tây Sơn bỏ lại. Không tổ chức ăn mừng chiếm đất thành công, huy động toàn bộ quân đi ổn định trong vùng, em trai nàng có vẻ như biết mình đang làm gì.

Có vẻ như nàng đã lo lắng qúa nhiều…

Sau này sẽ khó khăn đấy, Võ Tánh đã nói khi sắp chia tay. Chiến thắng đầu tiên qúa dễ dàng sẽ gây nhiều bất lợi. Nên nhớ rằng đội quân Tây Sơn ở Sài Côn là quân chính quy được tuyển chọn và huấn luyện tại Quy Nhơn hơn mười năm, lúc này lại không thể trở về, không còn đường nào để đi, thế thì họ sẽ liều chết mà đánh. Đối đầu với đội quân ấy bằng lực lượng chắp vá này, chiến thắng ban đầu qúa dễ lại tạo nên trạng thái khinh địch. Cẩn thận đấy!

Chúa công qua nhiều lần thất bại hẳn hiểu điều đó, nàng thầm nghĩ, trong lòng đầy lo âu. Việc trước tiên là phát triển lực lượng, nhưng cũng phải kiềm chế quân Tây Sơn ở Sài Côn lẫn lực những kẻ đang đầy phấn khích trong chính đội quân mình. Nguyễn Đăng Vân đang nôn nóng báo thù, Hà Hỷ Văn đang say máu chiến thắng, các tướng lãnh trẻ đang hăng hái đòi phục hận, những kẻ mới về đang muốn lập chiến công. Chúa công cho quân đi tấn công Sài Côn, việc của nàng là tìm kiếm sự ủng hộ trong Gia Định để bọc lót vòng ngoài.

Đó là một nhiệm vụ không dễ dàng.

Sau này sẽ khó khăn đấy, nàng lại nhớ đến lời Võ Tánh. Võ Tánh, Kiến Hoà quân, đội quân mạnh nhất trong tất cả lực lượng chống Tây Sơn. Nhưng đúng như anh ta nói, nàng lấy danh nghĩa gì để thuyết phục họ? Nhất là Võ Tánh, anh ta có thể chịu quy phục một người đã giết chết anh mình?

Dù sao, nàng vẫn phải tìm đến họ.

Dường như ngay cả những người chủ của Kiến Hòa quân cũng đã đợi sự xuất hiện của nàng. Nghe đến tên Hồ Dương công nương, người lính canh cửa nhận thư đã cười mời nàng vào mà không cần báo lại với chủ nhân. Bước qua lớp lũy đắp bằng đất và tre nứa, nàng thấy mình như lọt vào một cái làng nhỏ. Có chòi canh, vọng gác cao, cả những người lính thay phiên nhau đổi gác, nhưng trong khoảng đất rộng trồng cau trầu xanh ngát, những ngôi nhà nép dưới bóng cây, sau các hàng rào tre trúc không hề gợn lên một không khí chiến tranh. Trên sân trống, những mảnh vải nhuộm bay lật phật nhè nhẹ trong gió. Cơn mưa vừa đi qua, lớp đất dẻo sánh dưới bàn chân nàng trên con đường đất dẫn vào trong làng. Một người hầu gái đã đợi sẵn ở cửa ngôi nhà chính có vẻ khang trang hơn hẳn xung quanh, lau chân cho nàng trước khi bước vào.

Trong căn phòng rộng, ba người đàn ông ngồi trên bộ bàn ghế kê giữa phòng đang đợi nàng. Ngọc Du nhận ra Võ Tánh, người trẻ nhất trong bọn họ. Hai người còn lại, một người có vẻ chỉnh chu kiêu bạc mà nàng có thể đoán chắc là Võ Văn Lượng, người còn lại ăn mặc giản dị áo nâu còn dính vết bùn hẳn là Nguyễn Văn Hiếu. Nàng đến trước họ, cúi đầu chào. Ba người đàn ông vẫn không đứng dậy, chỉ có Nguyễn Văn Hiếu mỉm cười.

- Mời công nương ngồi – Ông đưa tay ra hiệu đến chiếc ghế còn lại. Một người hầu gái vội chạy đến đẩy ghế cho nàng và rót trà ra ly.

- Chúng tôi đang đánh cược xem bao giờ nàng đến. – Võ Văn Lượng cất lời, nhìn Võ Tánh cả cười. Võ Tánh không đáp lại. Chàng chỉ nhìn Ngọc Du. Nàng mỉm cười đáp lễ.

- Không ngờ sự trở về của chúng tôi lại náo động Gia Định đến thế. – Nàng nói. Võ Văn Lượng nhếch môi như chế giễu.

- Phải, đúng là rất náo động. Thu phục châu Định Viễn chỉ trong một ngày, bằng một trận đánh nhỏ. Đưa thuyền vào cửa Cần Giờ khiến Nguyễn Lữ phải chạy khỏi Sài Côn về đắp đồn ở gò Lượng tại Trấn Biên. Bây giờ ở đâu chẳng nghe nhắc đến cái tên chúa Nguyễn? Riêng tôi thì thật bội phục kẻ nào ở Gia Định này đã chuẩn bị được chừng ấy lực lượng để đón mừng chúa Nguyễn trở về long trọng đến thế. Ồ, năm năm, vậy mà chỉ như một cái chớp mắt, gương vỡ lại lành tưởng chỉ là truyền thuyết.

- Tiếc là gương vỡ cũng đã vỡ rồi. – Ngọc Du để thoát ra một tiếng thở dài. – Năm năm chiếm đóng, Tây Sơn lùa dân chúng vào Cầu Sơn để kiểm soát, chỉ lo yên ổn thân mình mà thu thuế hưởng lợi khiến đất đai phân tán, lòng người rời rã. Gia Định đất rộng người ít, dễ tan khó tụ. Ngày đưa dân chúng đến Sài Côn sau khi bị Tây Sơn đốt cháy Cù lao Phố, chúa công kiểm lại thì chỉ còn chưa tới một phần mười. Qua mấy lần loạn ly, số dân ấy bỏ Gia Định mà trôi dạt sang Cao Miên, Vạn Tượng, số phận thật đáng thương. Khiến giờ đây dù chúng dân có định chống Tây Sơn thì lực vẫn không thể đủ.

- Tôi cũng cho rằng đó là điều đáng tiếc. – Võ Văn Lượng bắt nhịp với câu nói của Ngọc Du một cách dễ dàng. – Nhưng đã chiếm được Định Viễn nhị dinh, nghĩ cũng là một thuận lợi rất lớn rồi. Vùng đất ấy chẳng hơn Sài Côn mới thành lập chưa được mười năm, lại qua mấy lần binh biến hay sao? Sông nước quanh co, phòng thủ tấn công đều dễ. Nhân lực vật lực chẳng phải cũng là tạm đủ?

- Ngài lại cho rằng chúng tôi như quân Tây Sơn vô đạo ấy sao? – Ngọc Du hơi hất nhẹ cằm. – Chúng tôi nhất quyết không làm cái trò thả chó vào rừng, đâm giáo vào bụi để bắt người sung quân làm bia đỡ đạn. Binh lính của chúng tôi là người tập hợp dưới cờ nghĩa khí, vì một Gia Định an bình, vì cơ nghiệp tổ tiên mà chiến đấu. Chúng tôi không dùng bạo ngược để thu phục người, và cũng không dùng bạo ngược để so bì với kẻ bất nhân.

- Vậy thì các vị có đem đến một Gia Định an bình, có đem lại được cơ nghiệp tổ tiên cho họ không, công nương? Tôi biết rằng điều này nói với nàng thì thật không phải. Nàng không phải là chúa công nàng, kẻ có thể trả lời chúng tôi. Các vị là tướng, là vương, là thủ lãnh - quân đội với các vị chỉ là con số, chỉ là công cụ, chỉ là tấm khiên, tấm giáo bằng thịt người. Nhưng họ là người, là con người như các vị, có gia đình, có tình thân. Chúng dân Gia Định này là anh em. Các vị sử dụng dân Gia Định này cho tranh chấp của các vị, nhưng đổi lại, các vị cho họ được gì? Giết Đỗ Thanh Nhơn, dù với lý do gì, cũng chỉ vì tranh chấp quyền lực của chúa công nàng không chấp nhận trở thành kẻ bị lợi dụng cho danh nghĩa nhà Nguyễn. Thế còn người Gia Định có thể bị lợi dụng trong tranh chấp của các vị? Không, nếu vậy, chúng tôi thà tự trị lấy mình, khoanh một vùng đất mà bản thân làm chủ, người thân của chúng tôi sống tự do, hạnh phúc, vậy là đủ.

Võ Văn Lượng từ tốn dừng lời, nâng ly trà lên nhấp một ngụm. Ngọc Du nhìn giọt nước nhỏ còn đọng lại trên bộ râu ông ta, khẽ cau mày.

- Nhưng còn tương lai, chẳng lẽ các vị không nghĩ đến tương lai? Các vị không thể tập hợp như thế này mãi mãi. Tình thế tại Gia Định đang xoay chuyển, Tây Sơn sớm muộn cũng sẽ bị đẩy lui. Gia nhập nhà nước mới, các vị mới có cơ hội bảo vệ Gia Định, ấm no cho dân chúng.

- Phải. Nên chúng tôi sẽ chờ xem chúa công nàng có khả năng thực hiện những gì nàng vừa nói hay không. – Võ Văn Lượng cười độ lượng. - Đẩy lui Tây Sơn, thành lập nhà nước mới đem bình an cho dân chúng. Bây giờ mới là một đội quân của Phạm Văn Sâm, Nguyễn Lữ, sau này là hàng chục vạn quân của miền Bắc thì thế nào? Bây giờ mới chỉ là Định Viễn nho nhỏ, sau này là toàn Gia Định thì thế nào? Chúng tôi muốn thấy kẻ có khả năng khiến chúng tôi có thể phò tá.

Ngọc Du im lặng. Nàng nghe tiếng sấm bên ngoài dội về và gió thổi mát lạnh sau lưng. Lại mưa rồi, nàng chợt nghĩ, nhớ đến những trận lũ bùn cuốn phăng dưới bàn chân. Bắt gặp thoáng xao lãng của nàng, Nguyễn Văn Hiếu chậm chạp mở lời.

- Hồ Dương công nương, chúng ta tuy không là kẻ hợp tác nhưng không phải kẻ thù. Chúng tôi kính trọng chúa Nguyễn và dòng dõi của ngài, chúng tôi sẽ không làm điều gì bất lợi cho các vị. Chẳng qua con đường chúng ta đi vốn khác biệt. Hy vọng rằng chúa công nàng nhận ra điều đó.

- Đa tạ sự chỉ bảo của các vị. – Ngọc Du chớp mắt, cúi đầu. Kết cuộc này nàng đã đoán biết được, tuy không phải không có chút phiền lòng. Tuy vậy, nàng có một thắng lợi nho nhỏ: Lời thách thức của bọn họ, hoặc là, lời hứa của bọn họ. Với một kẻ thương thuyết lọc lõi như nàng, đó là một cơ hội mở. Sau này, nàng sẽ suy nghĩ về nó. Nàng đến đây vốn không có hy vọng nhiều lắm về cơ hội họ sẽ theo về với Nguyễn quân, chỉ như một lời chào hỏi. Không chống đối quân Nguyễn, lời hứa này cũng đã là một thu hoạch.

Nàng liếc nhìn Võ Tánh. Phải, đây đã là một thu hoạch, với địa vị của chàng ta. Quân Kiến Hòa sẽ không như quân Đông Sơn thưở xưa, không chống đối vị chúa báo thù, cũng không gây bất lợi cho họ. Đây đã là một lời hứa đáng giá đối với nàng.

Tiếng sấm bên ngoài càng lớn, gió càng mạnh. Họ có thể nghe thấy tiếng cây lá trong vườn rào rào vang dội. Nguyễn Văn Hiếu nhìn ra, rồi quay về phía nàng:

- Sắp có mưa lớn, e rằng công nương không về được. Đường đi rất lầy lội, mùa này nước lên, cá sấu tấp vào ngay ven bờ ruộng, đi thuyền cũng rất nguy hiểm. Chi bằng công nương ở lại đây nghỉ ngơi, tôi sẽ cho người sửa soạn phòng cho nàng. Bao giờ ngớt mưa, chúng tôi sẽ cho người đưa nàng về.

Ngọc Du ngoảnh nhìn khoảng trời mây xám xịt, gió vần vũ cuốn thốc đám lá khô lẫn tươi ném bụi mù mịt vào khoảng không. Nàng đưa mắt sang Võ Tánh. Từ đầu đến cuối, chàng không lên tiếng.

- Vâng, cám ơn thịnh tình của các vị. – Một lần nữa, nàng cúi đầu.

Mưa vẫn không ngớt cho đến tối. Phòng được bố trí cho Ngọc Du nằm bên chái nhà trông ra một khoảng sân nhỏ. Người lính hộ tống nàng ở phòng bên cạnh. Một thị nữ đem đèn và bữa ăn tối đến cho nàng. Chưa kịp mở lồng cơm, nàng đã nghe tiếng gõ ngoài cửa. Rồi Võ Tánh bước vào, tay cầm một bình rượu.

- Thịt cá sấu vừa mới bắt. - Ngồi xuống chiếc chiếu trải trên đất, đối diện phía Ngọc Du, Võ Tánh vừa nói vừa mở lồng cơm. Đĩa thịt trắng còn bốc hơi nghi ngút. – Nếu nàng đến ngày hôm qua thì sẽ được ăn thịt hổ. Chúng tôi chia cho mỗi nhà một miếng, chỉ còn có bộ da đang phơi, nàng có thấy không?

- Không, tôi không để ý. – Ngọc Du nói, hơi nhướng mày nhìn Võ Tánh xới cơm ra hai chiếc chén và cầm đũa lên. – Hổ bẫy được à?

- Không, chúng tôi bắt đấy. – Võ Tánh cười, không hề giấu thái độ tự đắc. – Võ sư của chúng tôi là tay bắt hổ cừ khôi. Vùng Ba Giồng là đất võ của Gia Định, tập trung những anh kiệt hạng nhất. Quân Tây Sơn hễ đến đây là bị chúng tôi đẩy lui.

- Đến hổ còn bắt được thì sao lại sợ người. – Ngọc Du nhếch nhẹ môi. Bắt gặp ánh mắt Võ Tánh, nàng cười. – Hổ tuy lớn nhưng đơn độc, tuy mạnh nhưng cồng kềnh, không có mắt nhìn thấu mười cõi trời, tai không thể nghe khắp cả thiên hạ, không học được bài học của trăm năm. Người tuy nhỏ bé nhưng thuần thục, bài võ đánh hổ được thế hệ này truyền cho thế hệ khác, gọt giũa mà thành, lại thêm sức sinh tồn vượt bậc. Hùm dữ lọt bẫy như anh hùng sa cơ, không phải vì bản thân yếu kém, mà vì sinh bất phùng thời, đi khỏi chốn sơn lâm để sa vào nơi tuyệt địa.

- “Hưng vong bỉ thái có thì. Chớ đem thành bại mà suy anh hùng”. Danh thần Đào Duy Từ của nhà Nguyễn các vị viết những câu này đúng là có lúc dùng đến. Nghe nói ông ấy học Dịch rất giỏi, có thể ngồi một chỗ đoán biết chuyện thiên hạ, tự xưng là học trò của Khổng Minh?

- Câu cuối của bài Ngọa Long cương vấn ấy là: “Chúa hay dùng đặng tôi tài. Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên.” Dù rằng “chúa hay” phải đi cùng với “tôi tài”, nhưng tôi thần là nhiều, chúa công là ít. Đạo trị quốc nằm ở thuật dùng người. Đất nước có hỏng thì do tội của kẻ tôi thần. Vua chuá có hỏng là do bọn người bên cạnh. Tôi thần trung hay tôi thần loạn mới là kẻ ảnh hưởng đến vận nước. Mà kẻ thay đổi được vận nước cũng chỉ có tôi thần.

- Một cánh én không làm nên mùa xuân. Nhạc Phi vì trung mà mang tội. Ức Trai vì trung mà ba đời bị giết. Tôi trung phải chọn chúa giỏi mà thờ, đó là lời người xưa khuyên dạy. Nếu không thì chỉ hại mình hại người, hại cả thân thuộc thật không đáng.

Ngọc Du ngước mắt nhìn Võ Tánh. Ánh lửa bập bùng trong mắt nàng. Cuối cùng, nàng thở dài.

- Đúng vậy, tôi chỉ là một nữ lưu, tôi vốn không bận tâm đến chuyện non nước thế nào, chỉ cần người xung quanh tôi bình yên là đủ. Cứ vứt hết những lý lẽ anh hùng viển vông ấy xuống hồ đi. Nếu lần này không thắng, tôi chỉ cần em tôi còn sống, nhà tôi còn sống, ở bất cứ nơi đâu cũng được. Nếu tôi chết hoặc không bao giờ gặp lại tôi nữa, anh có buồn không?

Võ Tánh nhìn nàng, miếng cơm vẫn còn lùa trong miệng. Ngẩn người một lúc, chàng cười:

- Công nương qủa là nhà thương thuyết có tài. Sau này chúng ta sẽ nghĩ về chuyện đó, vậy nhé.

Ngọc Du im lặng. Họ lặng lẽ ăn trong tiếng mưa rào ào ạt, sầm sập đổ nước xuống. Và hết chén cơm, nàng buông đũa, đứng dậy đến nằm trên chiếc giường trong góc, quay mặt vào tường. Nghe tiếng động cọt kẹt khẽ khi có người ngồi lên giường cạnh nàng. Nàng cau mày.

- Phép tắc của anh ở đâu thế?

- Nếu công nương cứng nhắc đến vậy thì đã đuổi tôi ngay từ khi tôi bước vào rồi. Cô nam qủa nữ ở chung một phòng, nàng không nghĩ đến chuyện người ta nhìn vào sao? – Giọng Võ Tánh trả lời nàng vẫn thản nhiên.

- Cũng không có nghĩa anh được ngồi lên giường tôi. Bây giờ thì tôi đuổi anh. Đi đi!

Im lặng. Cuối cùng nàng nghe tiếng thở dài. Chiếc quạt bện bằng lá để ở cuối giường đập vào vai nàng nhè nhẹ.

- Được rồi. Chúng ta là bạn. Nếu nàng có chuyện gì thì tôi sẽ rất là buồn. Thậm chí chỉ cần nàng gặp nguy thì tôi sẽ nhảy vào cứu ngay. Trên trời dưới đất, thiên la địa võng, vạc dầu chảo lửa, chỗ nào nàng cần thì tôi cam tâm tình nguyện lao đến. Tôi còn tìm đâu được một cô gái uống rượu với tôi suốt đêm chứ?

Ngọc Du bật cười. Nàng cười đến phát ho. Không quay lại, nàng nói:

- Đó có phải là chủ tướng Kiến Hòa quân đã hứa giúp tôi không thế?

- Không. Đó là Võ Tánh hứa với Hồ Dương công nương. Chỉ tôi với nàng thôi.

Thinh lặng. Nghe tiếng mưa vẫn sầm sập bên ngoài. Không khí trong phòng chợt nặng như đeo đá.

Ngọc Du nghe tiếng tim mình đập rộn trong lồng ngực. Nàng không biết phải nói gì, cũng không thể quay người lại. Nàng sợ, sợ một điều gì đó mà nàng không hiểu được.

Người thanh niên cạnh nàng cũng im lặng. Một lúc sau, chàng đứng dậy, mở cửa bước ra ngoài.

- Đi ngủ nhớ bỏ mùng, nhiều muỗi lắm. – Đó là lời chàng nói trước khi cửa khép.

Chú thích:

Trấn Biên: Biên Hòa.

7

Nhìn theo Võ Tánh rời khỏi phòng Ngọc Du, với lấy tàu lá che đầu trước khi chạy về, Võ Văn Lượng khẽ mỉm cười. Ông ra hiệu cho Nguyễn Văn Hiếu đến bên cửa sổ.

- Tôi đã nói là chàng trai trẻ của chúng ta biết cô công nương ấy. – Võ Văn Lượng nói. – Cậu ấy đã luôn im lặng khi nhắc đến cô ta.

- Quen biết Hồ Dương công nương, chị gái chúa Nguyễn? – Nguyễn Văn Hiếu lắc đầu nhè nhẹ, không rõ thái độ trên khuôn mặt khuất trong bóng tối.

- Dù sao thì cũng vẫn là một cô gái. Một cô gái đẹp. – Võ Văn Lượng cười lớn, trở về bàn cờ đang đánh dở. Đi theo ông, Nguyễn Văn Hiếu ngồi xuống phía đối diện.

- Dù Tánh có bỏ qua được mối thù của anh trai, cậu ta vẫn chỉ là một thường dân. Một thường dân không rõ tông tích, không có cha mẹ, anh trai là kẻ phản chúa. – Vẫn không dứt hết thắc mắc, Nguyễn Văn Hiếu nói khi đi quân cờ của mình. – Tôi vẫn nghĩ cậu ta dàn hòa với chúa Nguyễn là tốt, nhưng không phải bằng cách này. Chúa Nguyễn chịu gả chị mình cho một thường dân?

- Có thể chứ. – Võ Văn Lượng nhếch mép cười khẩy. – Vua Lê đã gả công chúa cho Nguyễn Huệ thì chàng trai trẻ của chúng ta cũng có cơ hội chứ. Vua chúa bọn họ khi có vấn đề đến quyền lực của mình thì bất chấp tất cả thôi.

- Anh nghĩ chúa Nguyễn sẽ hạ mình đến thế để cầu cạnh chúng ta? – Nguyễn Văn Hiếu hỏi khi quân cờ của ông lọt vào tay đối thủ. Vẫn không ngẩng lên, Võ Văn Lượng nhẹ lắc đầu.

- Tôi không biết. Tôi vẫn còn phải xem anh ta là kẻ thế nào. Hai lần trước chiếm được Sài Côn, chúa Nguyễn có Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn, rồi quân Lương Sơn tá quốc của Châu Văn Tiếp. Giờ đây, chúa Nguyễn mới thực sự làm lại tất cả từ đầu bằng danh phận của chính mình. Chúng ta còn cần phải quan sát đã.

- Nếu vậy thì cô công nương sẽ còn phải đến đây lâu dài. – Nguyễn Văn Hiếu cười rung rung chòm râu. Một quân cờ khác của ông lại lọt vào tay Văn Lượng.

Ngọc Du choàng tỉnh khi tiếng ồn ào dội qua cửa sổ vào phòng cùng với nắng sớm. Ngoài bãi đất, những thanh niên trẻ đã dàn hàng ngang cho buổi tập sáng. Thanh âm của tiếng hét, tiếng binh khí va chạm, cả tiếng trẻ con khóc ở đâu đó náo động buổi sáng còn vương hơi sương mờ. Nàng quan sát họ qua cửa sổ, thầm đánh giá về thực lực cũng như số lượng. Võ Tánh đã nói đây là vùng đất võ của Gia Định. Có điều gì đó rất nhẹ nhõm trong họ, trong võ thuật cũng như thái độ luyện tập. Võ thuật nằm trong máu thịt của họ, như nước và hơi thở. Họ luyện võ và cười đùa. Ở góc sân, một thanh niên đem chiếc phất trần ra làm vũ khí, tiếng vi vút trong gió. Góc bên kia, nàng có thể thấy bộ da hổ mà Võ Tánh đã nhắc tới đang được khuân ra phơi nắng, một đứa trẻ cầm chiếc đuôi thõng xuống ngoáy tít trong tay.

Họ là con người, đột nhiên nàng nhớ đến lời Võ Văn Lượng. Những khuôn mặt thanh niên sáng bừng trong nắng, những tiếng cười nói rộn vang. Nàng quan sát họ, nụ cười của họ, những thân thể cường tráng tràn đầy sức sống, như thể mới chợt nhận ra. Sự sống, một điều thật thiết thân mà cũng đầy xa lạ. Võ Văn Lượng nói đúng, từ lâu nàng đã không quan sát đội quân của mình, những kẻ trong đội quân của mình, như sự sống. Nàng nhìn họ, rất nhiều khuôn mặt trẻ trung đến mức nàng không thể nhớ được bất cứ ai, cái tổng thể của rất nhiều con người – như thể một guồng quay, như thể một công cụ. Rất nhiều con người đứng trong một đội quân, và rồi, họ không còn là con người, trong mắt nàng. Họ là con số, là tấm khiên, tấm giáo bằng thịt người, lời nói của Võ Văn Lượng tàn nhẫn vang dội trong nàng. Ông ta là một con người kiêu bạc, và sẵn sàng đâm thấu ánh mắt sắc lạnh của mình qua kẻ khác.

Chớp mắt, Ngọc Du rời khỏi cửa sổ, đến chái nhà đằng sau. Một lu nhỏ đầy nước trong vắt đã được để ở đấy. Vườn trước chái nhà trông ra khu trồng trầu và cau vắng vẻ, gió luồn lách thổi lạnh buốt trên khoảng đất ướt mưa. Khẽ rùng mình, nàng vốc nước trong lu rửa mặt. Mái tóc xõa xuống lưng rơi qua vai nàng, vài lọn trượt vào nước. Không vuốt lại, nàng ngẩn ngơ nhìn hình bóng mình phản chiếu trên mặt nước trong vòng tròn nhỏ bằng sành.

So với tuổi đôi chín, má nàng đã hơi hõm lại, quầng mắt đã đậm hơn sau qúa nhiều đêm thức trắng, làn da cũng đã mất đi vẻ mịn màng, khô như bụi phấn dưới ngón tay nàng. Chẳng mấy năm nữa là đến ba mươi, nàng nhớ đến lời cảnh cáo của Ngọc Tú với cái nhếch mép cay đắng. Thanh xuân đã đi qua như chưa bao giờ có. Tuổi trẻ và mộng ước của thiếu thời tưởng như chưa từng hiện diện.

Có lẽ, nàng đã quên, ngay cả bản thân mình cũng là một sự sống.

- “Bởi nàng người đẹp như hoa, tuổi trôi như nước.” – Giọng Võ Tánh ngay bên cạnh làm Ngọc Du giật mình đứng thẳng dậy. Thấy ánh mắt nàng, chàng ta nhe răng cười. – Đó là lời trong vở hát Mẫu Đơn đình của người Tàu. Thấy nàng ngơ ngẩn nhìn bóng nước đến mức không nhận ra tôi vào thì chợt nhớ đến.

- Phải, đúng là anh chỉ học được những thứ không đàng hoàng. – Ngọc Du nói, quay bước vào nhà trong. Nàng chợt thấy giận. Không nhận ra, Võ Tánh vẫn đi theo nàng.

- Đó là vở hát về người con gái say mê Kinh Thi, mộng thấy một thư sinh trong vườn nhà, yêu anh ta rồi vì tương tư mà mất. Mấy năm sau, thư sinh mà nàng ta mơ thấy đến ở lại trong vườn, hồn nàng ta liền hiện về sum họp. So với những truyện như Liêu trai chí dị, Truyền kỳ mạn lục thì cũng đâu có mấy khác biệt. Nàng nói là thứ không đàng hoàng thật hơi oan cho nó.

Võ Tánh nói liền một lúc, vừa nói vừa quay nhìn quang cảnh trong phòng. Ngọc Du cầm chiếc lược chải tóc, càng lúc càng thấy bực bội. Lời nào của chàng ta dường như cũng muốn châm chọc nàng. Nhắc đến Kinh Thi, nàng lại nhớ đến lúc chàng đem tên nàng gắn với Kinh Thi để đùa dạo trước. Đêm qua, sau một hồi lăn qua trở lại, nàng đã quyết định cho rằng lời của người thanh niên này chỉ là xuất kỳ bất ý, vui miệng mà nói ra, chẳng thể cho là thật. Đến bây giờ chứng thực cách chàng ta ăn nói bỗ bã như thế, tuy đã quen nhưng có mấy kẻ dám đem nàng ra đùa cợt như vậy?

- Những vở hát nơi ăn chơi đàn đúm của người Tàu tôi cũng có biết qua. Nhưng xin anh nhớ cho tôi là ai.

Nàng ngồi xuống trước chiếc bàn để cái gương nhỏ, chăm chú chải mái tóc dài. Người thanh niên im lặng. Cuối cùng chàng ta dựa lưng vào tường, khoanh tay gật đầu.

- Vâng, công nương. Tôi đến đây định báo là chúng tôi đã chuẩn bị sẵn thuyền đưa nàng về. Nếu công nương đã dậy thì tôi đi gọi người sửa soạn.

Nói đoạn, chàng quay bước ra khỏi phòng.

Mày là thằng ngu, vừa đi chàng vừa tự rủa xả bản thân. Nàng ấy tin cậy mày không có nghĩa nàng có cảm tình với mày, huống chi những chuyện xa xôi. Đêm qua lỡ lời mà thốt ra câu nói ấy, thấy nàng không nổi giận cũng vui vui. Không ngờ sáng nay nàng tỏ ngay thái độ xa cách, nhắc ngay đến thân phận của mình. Cóc ghẻ muốn ăn thịt thiên nga, nghĩ gì mà có tư tưởng ấy?

Thật là ma đưa lối qủy đưa đường, đá vào cành cây rơi xuống trong cơn mưa đêm qua chắn ngang đường, chàng buột miệng mắng thầm. Không lẽ nào chàng lại để cho một cô gái coi thường mình đến vậy. Tất nhiên chàng sẽ nhớ, nhớ để không bao giờ có tư tưởng kia lần thứ hai.

Khi Võ Tánh đi khỏi, Ngọc Du cũng nhận ra mình đã nói hơi qúa đáng. Dù sao cũng tốt, anh ta sẽ bớt cợt nhả đi, nàng cau mày, cuốn mái tóc vấn lại. Có thân đến mức nào thì anh ta và nàng vẫn là nam nữ cách biệt, những lời ấy có ai nghe được thì chẳng còn thể diện cho nàng. Nàng nhìn gương mặt mình trong chiếc gương đồng, lặng lẽ thở dài.

Người đẹp như hoa, tuổi trôi như nước. Anh ta không nên nói những lời ấy. Không nên nói những lời khiến nàng phải động lòng.

Võ Tánh đã đứng đợi nàng bên bờ sông khi nàng từ giã hai vị chủ tướng còn lại của Kiến Hòa quân. Chàng cầm mái chèo nhìn ra mặt sông lấp lánh ánh nước, những đám bèo trôi qua còn ướt mưa. Nàng lại gần, nhẹ cúi đầu chào.

- Võ tướng quân, mong rằng chúng ta còn có dịp uống rượu cùng nhau. – Nàng nói, mỉm cười trước khi xuống thuyền. Võ Tánh đưa mái chèo cho người lái thuyền. Chàng vẫn nhìn theo chiếc thuyền rời bến, chầm chậm trôi trên sông. Ngọc Du ngồi xuống đầu thuyền, không ngoái lại.

Nàng qủa là thuyết khách có tài, chàng nghĩ. Với những con người như vậy, chạm vào cõi lòng của họ hay tin họ đều là không thể.

Không trở về Long Hồ, nàng bảo người lái thuyền đưa mình đến Rạch Kiến, từ đó nàng đổi thuyền đi vào cửa sông Vàm Cỏ. Quân của chúa Nguyễn đã tạo thành một vành đai ngoài Sài Côn, dựng một đồn nho nhỏ. Khi nàng vào, gặp ngay Nguyễn Phúc Hội ngoài cửa. Ông ta cũng vội vã đến gặp chúa Nguyễn. Đám quân của ông ta áp giải hai người dường như một cặp vợ chồng vào trong sân bãi.

- Chúng tôi bắt được thuyền của Tây Sơn. – Nguyễn Phúc Hội nói với nàng. – Đây là Hộ đốc và người thiếp của ông ta.

Ngọc Du nhìn thoáng qua người phụ nữ mà mái tóc đã xõa che gần hết khuôn mặt, theo Nguyễn Phúc Hội vào doanh trại chính. Chúa Nguyễn đang ở ngoài sân, tháo ráp một khẩu súng dài. Nghe báo cáo của Nguyễn Phúc Hội, vị chúa bỏ súng xuống, cầm khăn lau tay.

- Có thu phục được hắn không? – Vị chúa hỏi. Bây giờ là lúc cần người, phải hạn chế tối đa việc giết chóc, em trai nàng đã nói. Nguyễn Phúc Hội lắc đầu.

- Hắn định rút kiếm tự sát, chúng tôi phải trói lại. Nếu không giết hắn thì cũng không thể thả ra. Nhưng thiếp của hắn nói hắn là Hộ đốc vừa từ Quy Nhơn đến, hẳn có việc quan trọng mà Nhạc muốn bàn với Lữ.

- Vừa từ Quy Nhơn đến? – Chúa Nguyễn nhướng mày. Nhận ra cái nhìn của vị chúa, Nguyễn Phúc Hội gật nhẹ đầu.

- Hiện nay quân Tây Sơn chia thành hai đội phòng thủ Trấn Biên và Sài Côn tiếp ứng cho nhau. Nhưng phân chia như vậy cũng cho thấy chúng không tin nhau. Qua việc Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Đăng Vân, hiện lòng chúng hẳn tràn đầy nghi ngờ. Sẵn có kẻ mới từ Quy Nhơn đến, ta chỉ cần cho chúng một mồi lửa.

Nguyễn Phúc Hội chậm rãi trình bày. Nguyễn Phúc Ánh cười nhẹ.

- Nhưng hắn không chịu theo ta? Thế người thiếp của hắn tên gì?

- Y thị tên Lộc.

- Đưa hai người vào trong trại, đối xử tốt với họ. Tìm trong quân có kẻ nào khéo tay khắc cho ta một con dấu giả, ta có sẵn mẫu quân Tây Sơn để lại đây rồi. – Chúa Nguyễn vừa nói vừa đưa mắt nhìn sang người chị.

Người phụ nữ tên Lộc ấy là nhiệm vụ của nàng.

Người phụ nữ đã tươi tỉnh lại một chút so với vẻ sợ hãi thất sắc hồi đầu. Ngồi trong một góc phòng giam riêng, cô ta giật mình khi thấy Ngọc Du bước vào. Cho đến khi nàng xưng danh, cô ta vẫn chỉ trừng trừng mắt nhìn. Mỉm cười, nàng lại gần cô ta, đặt chiếc túi gương lược xuống bên cạnh.

- Đừng sợ, chúng tôi không giết người bừa bãi. Chúa công đã ra lệnh khoản đãi các vị, tiếc rằng trong quân lương thực có hạn, không có vật phẩm ngon lành qúy hiếm nào, mong rằng các vị no lòng. – Ngọc Du ngồi xuống, đưa tay vuốt sợi tóc rơi xuống má của cô ta ra sau tai. Cô gái vẫn còn trẻ, trẻ hơn nàng. Cô ta run lên.

- Nhưng nếu anh Lý… anh ấy không chịu hàng, các vị… các vị sẽ giết anh ấy phải không?

Ngọc Du mỉm cười dịu dàng.

- Tôi e rằng như vậy. Chúng tôi cũng không thể thả đối thủ về để họ đối phó với chúng tôi, phải không?

- Đừng, tôi xin cô, xin công nương. – Người phụ nữ òa khóc, nắm chặt lấy tay nàng, qùy xuống dập đầu như tế sao. – Đừng giết anh ấy. Tôi hứa, tôi hứa là khi được thả chúng tôi sẽ không bao giờ trở về Tây Sơn nữa. Chúng tôi sẽ đi, đi thật xa, về nhà làm ruộng, không chống đối với các vị.

- Làm sao mà chúng tôi tin được? – Giọng Ngọc Du vẫn nhẹ nhàng. Nàng không nâng cô gái dậy, chỉ nhìn cô ta. – Chúng ta là phụ nữ, tôi hiểu lòng nàng. Nhưng phu quân của nàng là đàn ông, có sĩ diện, có lý tưởng, có lòng trung thành lẫn nghĩa khí của mình. Nàng chỉ là một thị thiếp nhỏ bé, lời của nàng đâu thể là lời hứa của ông ấy.

Cô gái lặng yên, chỉ nghe tiếng nức nở và bờ vai cô run bần bật. Một lúc, Ngọc Du đặt tay lên vai cô, vỗ nhè nhẹ.

- Thấy nàng thế này thì tôi cũng đau lòng. Nếu nàng yêu thương phu quân đến vậy thì có một cách để giữ được mạng cho ông ấy, nhưng phiền đến chính nàng phải ra mặt. Cách này là phản bội lại Tây Sơn của phu quân nàng, ông ấy sẽ không thể trở về, nhưng ông ấy sẽ sống. Lúc ấy, nàng có thể thực hiện ước vọng trở về quê nhà vui thú điền viên chồng vợ, không quan tâm đến thế sự. Việc thì nhỏ, nhưng nàng có thể làm được chăng?

Người phụ nữ ngẩng lên nhìn Ngọc Du không chớp mắt. Đôi môi cô ta run rẩy trong lúc những giọt nước mắt không ngừng rơi xuống. Những ngón tay cô ta bấu vào tay nàng đau nhói. Cuối cùng, cô gật đầu:

- Chỉ cần giữ được mạng cho anh ấy, tôi sẽ làm. – Giọng cô gái vẫn còn đứt quãng, nhưng đã không run nữa. Ngọc Du mỉm cười, lấy trong tay áo ra một phong thư.

- Chúng tôi chỉ cần nàng đưa bức thư này đến tay Phạm Văn Sâm. Đến Sài Côn, nàng hãy lấy thân phận vợ của Hộ đốc mà xin gặp ông ta. Nói với ông ta rằng phu quân nàng được lệnh từ Quy Nhơn đến đưa thư cho Nguyễn Lữ, trên đường đi nàng tình cờ phát hiện ra. Trong thư này, Nguyễn Nhạc yêu cầu Lữ giết Sâm vì nghi ngờ mưu phản. Nàng hãy nói rằng: Việc này thật rất hồ đồ. Tây Sơn vương ở xa ngàn dặm, làm sao biết được tình hình của Gia Định lẫn lòng trung thành của các tướng quân? Tuy trong nhà anh em sát phạt nhau thì cũng không thể đem lòng nghi ngờ tất cả mọi người. Địch thủ đang ở ngoài ải, chúng tướng lại đi giết hại nhau thì còn sức đâu chống chọi. Nghi ngờ lẫn nhau là cái họa mất nước. Phu quân nàng khi đọc thư này cũng kinh hoàng không kém, liền cử nàng bí mật đến báo cho tướng Sâm trong lúc ông ấy thừa lệnh đến doanh trại của Nguyễn Lữ, mong ông ta hiểu cho. Bây giờ đánh nhau là tự giết mình, chi bằng ông ta giương cờ trắng mà đến gặp Lữ thanh minh, cứu vãn thế cuộc. Phu quân nàng ở doanh trại bên ấy nhận được ám hiệu sẽ thuyết phục Lữ lòng trung của tướng quân Sâm.

Nàng chỉ cần nói như thế là đủ. – Dừng lời một lát, Ngọc Du nắm lấy tay cô gái. – Nếu Sâm có hỏi thì cứ bảo nàng là phận nữ lưu, phu quân nàng nói sao thì nàng nghe vậy. Mọi việc tướng Sâm cứ gặp Lữ khắc rõ. Lúc Sâm đi rồi, nàng tìm đường trốn ra khỏi thành, chúng tôi sẽ đưa nàng về đây và thả phu quân nàng, đưa tiền cho hai người về quê quán làm ăn sinh sống.

Những ngón tay cô gái nhẹ bẫng trong tay nàng. Cô ta mím môi, gật đầu.

Người phụ nữ đi được hai ngày thì có tin báo về. Người lính truyền tin phi ngựa thẳng vào doanh trại, hấp tấp nhảy xuống chạy vào dinh chính. Thấy động, nhiều người nhìn theo, xì xào. Ngọc Du vội vã đến doanh trại chính, vừa lúc người lính báo cáo xong. Trong lều chỉ có vị chúa cùng vài người tùy tướng.

- Nguyễn Lữ chạy mất rồi. – Thấy nàng, Nguyễn Phúc Ánh nói. Khóe môi vị chúa nhếch lên trong nụ cười khinh miệt. – Thấy Phạm Văn Sâm kéo cờ trắng đến, y như tin mà chúng ta gieo vào đội quân hắn là Sâm đã đầu hàng, hắn bỏ thành chạy mất. Thế mà ta cứ tưởng bọn chúng sẽ quyết sống mái với nhau một trận. Thật uổng công!

- Chúng chỉ dựa vào đám đông mà ức hiếp người khác chứ có chút can đảm nào? – Đứng trong góc, Nguyễn Đăng Vân cười gằn lạnh lẽo. Trong mắt anh ta hằn nỗi oán hận sâu cay. – Dù sao thì chúng ta cũng đã trừ được Nguyễn Lữ ở Trấn Biên. Phạm Văn Sâm giờ chỉ còn một mình ở Sài Côn.

- Với số quân mà Lữ bỏ lại. Chúng đánh nhau một trận thì tốt hơn. – Vị chúa nhẹ nhàng nói với cái thở dài. – Biết thế thì ta đã chặn đường rút về Quy Nhơn.

- Còn người phụ nữ đưa thư đã sao rồi, chúa công? – Ngọc Du lên tiếng. Em trai nàng phẩy tay.

- Đã đưa cô ta về và lệnh thả họ. Chị đưa tiền cho hai người, cám ơn họ cho ta.

Ngọc Du cúi đầu lui ra. Nguyễn Đăng Vân, nàng thầm nghĩ khi đến khu giam giữ, anh ta thật là một kẻ khó kiểm soát. Trong mắt em trai nàng là một sự dè chừng đầy thận trọng, ngay cả với vị tướng mới về đầu quân này. Nhìn ánh mắt Nguyễn Đăng Vân, tưởng như anh ta có thể ngay lập tức nhảy bổ vào đội quân đang giữ Sài Côn kia. Giữ Nguyễn Đăng Vân bên cạnh, chúa công muốn khống chế anh ta. Nhưng chỉ sợ đến lúc sẽ bị anh ta cuốn theo, nàng nghĩ, hơi cau mày.

Trong khu giam giữ tù nhân có tiếng ồn ào. Trước cửa trại, một người đàn ông mặc thường phục mà nàng có thể nhận ra là Hộ đốc Lý đang bị một phụ nữ nằm trên đất níu chân lại. Mái tóc cô ta xõa tung trên lưng, qua khuôn mặt đầy nước mắt khi cô ta gào khóc.

- Xin chàng, xin chàng đừng quay lại đó. Họ giết chàng mất. Làm ơn, làm ơn!

- Buông ra, con đàn bà này! – Người đàn ông lồng lộn, cố hất chân mình ra khỏi vòng tay người thiếp. – Mày khiến ta thành kẻ bất trung bất nghĩa, giờ còn có mặt mũi bảo tao đi trốn sao? Từ nay tao từ mày. Đi đi! Đi cho khuất mắt tao!

- Lúc được thả ra, ông ta hỏi tại sao, rồi thành như vậy đấy. Ông ta phát điên phát cuồng lên. – Người lính canh cửa vẫn đứng yên nhìn cảnh trước mặt quay lại phía Ngọc Du thì thầm. Tất cả lính tráng đứng yên như phỗng, chẳng ai biết can thiệp ra sao. Người phụ nữ vật vã trên đất chợt ngẩng đầu, khuôn mặt tái xanh như xác chết.

- Được, nếu chàng muốn bỏ thiếp, thiếp xin vâng. Chỉ xin chàng, xin chàng đừng quay lại nơi ấy. Vì tính mạng chàng, thiếp làm gì cũng được. Muốn đổ bao nhiêu tội lỗi cho thiếp cũng được. Thiếp gánh hết tội lỗi này, chỉ xin chàng cố mà sống. Xin chàng!

Với tiếng gào thống thiết lần cuối, người phụ nữ rút con dao cô giấu trong thắt lưng đâm thẳng vào cổ. Hành động đột ngột ấy khiến không ai kịp trở tay. Ngọc Du lao tới khi người phụ nữ quằn quại trên đất, nấc lên mấy tiếng rồi thở hắt ra. Mắt cô ta trợn ngược trên khuôn mặt đầm đìa máu.

- Cô ấy chết rồi. – Ngọc Du nói, nhìn con dao ngập sâu trong cổ cô gái. Người đàn ông đứng như hóa đá, thậm chí không nghe cả tiếng thở. Rồi đột nhiên ông ta khụy chân xuống, hất văng nàng sang bên. Những ngón tay thô ráp vuốt lên mặt người phụ nữ, khiến đôi mắt cô khép lại. Ôm xốc cô lên bằng hai tay, người đàn ông bước thấp bước cao ra khỏi doanh trại. Máu rơi theo bước chân ông ta thành vệt.

Xung quanh, mọi người vẫn lặng im. Bóng chiều phủ đỏ quạch lên mảnh đất và khu rừng. Bầu trời phía xa nhao nhác tiếng chim kêu. Ngọc Du đứng dậy, đưa cho người lính bên cạnh túi tiền mà nàng đã cầm theo khi đến.

- Đi theo, tìm cách nào đó nhét vào túi ông ấy. Bảo với ông ấy, vợ ông ấy muốn chồng mình sống mà trở về quê. Bằng cách nào thì ông ta cũng phải sống.

Người lính cầm lấy túi tiền, hấp tấp chạy theo bóng đen kỳ dị đang in vào nền trời. Ngọc Du quay đi không nhìn lại. Bên kia doanh trại, tiếng cười nói ồn ào ngày càng lớn. Tiếng hoan hô, tiếng chúc mừng, có ai đó đem cả trống con ra gõ.

Hẳn họ đã nghe việc Nguyễn Lữ bỏ Trấn Biên, nàng nghĩ.

Bên này, mọi người vẫn lặng im trong tiếng gió.

8

Tháng chín năm Đinh Vị, những ngày giữa tiết hàn lộ và sương giáng theo lịch phương Bắc, phương Nam tràn ngập trong những cơn mưa. Những cơn mưa sắp vào cuối mùa đến thất thường hơn và kéo dài dai dẳng. Bùn lẫy nhẫy dưới lớp cỏ cao đến ngang ngực, có nơi cỏ phủ lút đầu người. Những đám sen đã đến mùa tàn, chỉ còn lớp lá và đài vẫn vươn trên mặt nước. Rừng xanh hơn và sâu hơn, không khí hăng hăng mùi đất. Những thân cây lớn đã ngả sang màu xám đen, rêu mọc dày, mũ nấm nở bung khắp nơi trên mặt đất. Đám ong rừng cũng đông đúc nhộn nhịp tỏa đi khắp nơi, đập cánh rù rì giữa các cành nhánh dày. Hoa dại nở bung trong đồng cỏ, trong rừng, dưới những tầng lá thấp, uốn mình dựa vào các cành cao. Càng đi sâu vào rừng, mùi hoa lan càng rõ. Lan hồ điệp, Võ Tánh nghĩ, đưa mắt nhìn quanh. Vẫn không thấy cành hoa ở đâu, hương thơm đã ngào ngạt bay đến theo luồng gió. Chàng nhìn theo hướng bay của một con ong, thầm tiếc. Nếu là lúc rảnh rỗi hơn, chàng đã đi theo nó tìm cho được cành lan này.

Lúc này, chàng đang luồn theo đường rừng đến dinh Trấn Định. Một toán quân khác đã được phái đi đường thủy. Võ Văn Lượng đã căn dặn họ không được gây chiến. Chiến trường của Tây Sơn và chúa Nguyễn đã di chuyển sát đến vùng đất của họ, cần phải đề cao cảnh giác. Bọn họ có thể ập vào cướp lương thuyền hay người của chúng ta bất cứ lúc nào, ông ta nói. Còn chàng, vì thói tò mò, đã tình nguyện cầm một toán quân về phía dinh Trấn Định. Dinh Trấn Định, trung tâm là chợ Mỹ Tho, nơi đã từng trở thành địa điểm thay thế Cù lao Phố để buôn bán với Sài Côn, huyện Kiến Khương và chợ Ba Lai có kho dự trữ lương thảo. Từ sau khi rút khỏi ngoại vi Sài Côn, chúa Nguyễn đã tung quân đi đánh dẹp các địa điểm đóng quân của Tây Sơn quanh vùng. Ở sông Ba Vác, Nguyễn Kế Nhuận đã phải ra hàng. Ở sông Ba Lai giáp với Mỹ Tho, quân Nguyễn dùng lửa đốt thuyền, tập hậu hai mặt phá quân Tây Sơn. Quân Nguyễn đã siết chặt kiểm soát của mình trên khu vực sầm uất thứ hai của Gia Định. Trong khi đó, Phạm Văn Sâm vẫn như một con hổ bị thương dồn vào tuyệt lộ, lồng lộn chống trả. Sáng nay, chàng đã nghe tin Sâm bỏ Sài Côn, đem quân tiến về dinh Trấn Định.

Cả hai đều nôn nóng, Võ Tánh nghĩ khi gạt cành cây chắn ngang. Chân chàng đạp lên một đám lá khô đầy mối. Chàng vội nhảy tránh.

Cả hai đều nôn nóng, nhưng vì những lý do khác nhau. Nguyễn Lữ đã từ Trấn Biên chạy thẳng về Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc sẽ phản ứng thế nào? Và cả Nguyễn Huệ nữa. Tuy đánh nhau nhưng không kẻ nào thật sự muốn mất Gia Định. Nhất là mất Gia Định vào tay chúa Nguyễn, kẻ vẫn còn đầy ảnh hưởng tại Phú Xuân, Thuận Hóa. Nhưng Phạm Văn Sâm, căm giận vì sự bỏ trốn của Nguyễn Lữ, cho rằng mình đã bị bỏ rơi nơi đây. Cả Sâm và chúa Nguyễn đều muốn nhanh chóng giải quyết đối thủ, hay ít nhất giành được thế thượng phong tại Gia Định. Chúa Nguyễn vì để chuẩn bị lực lượng phòng quân Tây Sơn từ miền Bắc tràn xuống. Phạm Văn Sâm vì không thể để quân Nguyễn phát triển thêm nữa. Đúng như chàng nghĩ, quân Tây Sơn đã rơi vào thế phải liều chết.

Hai đội quân nôn nóng ấy, nếu đụng độ nhau thì thật là khủng khiếp.

Nhưng đội quân ba tháng và đội quân mười năm sẽ có khác biệt.

Sau lần lừa được Nguyễn Lữ chạy đi, quân Nguyễn vấp phải sự chống trả của Phạm Văn Sâm cũng phải rút khỏi Sài Côn. Phạm Văn Sâm chắc đã đoán ra được thực lực của đội quân này sau những trò phô trương thanh thế mà chúa Nguyễn dàn dựng, ông ta không việc gì phải cố thủ ở Sài Côn thêm nữa. Ngược lại, Sâm hẳn đang căm tức thấy mình bị biến thành một con lừa, Võ Tánh cười thầm với ý nghĩ ấy. Chúa Nguyễn đã chơi trò câu giờ tuyệt hảo, nhưng đáng tiếc cũng vì trò đùa của mình mà bị lật tẩy hơi sớm. Còn hậu qủa của nó, nếu gặp Phạm Văn Sâm bây giờ, hẳn vị chúa sẽ hiểu.

Quân Nguyễn hiện thời đang ở đâu, chàng tự hỏi. Phân tán quân đội của mình đi đánh dẹp quanh dinh Trấn Định, quân chủ lực của chúa Nguyễn sẽ tiến về nơi nào nếu không phải Mỹ Tho? Ba Vác ở phía Tây Nam, Ba Lai ở phía Bắc, trung tâm còn lại là vùng Mỹ Tho. Hẳn Phạm Văn Sâm cũng không khó khăn đoán ra điều đó.

Cũng vì thế mà chàng đang nhằm hướng Mỹ Tho đi tới.

Cô công nương ấy hiện đang ở đâu, một ý nghĩa thoáng qua trong chàng. Chúa Nguyễn đem theo chị mình trong quân hay nàng đã ở lại Long Hồ? Việc quân nhu trong quân Nguyễn trước kia do Thái trưởng công nương Ngọc Đảo coi sóc. Nay bà ta đã bị giết, ai thay thế vị trí ấy? Quân lương, ồ, chàng hiểu rõ mối hiểm nguy của nó. Những đội thuyền là mục tiêu của bất cứ ai mà không có một đội quân xứng đáng để bảo vệ, là một mục tiêu dễ dàng triệt hạ đến kinh tởm. Chiến tranh không phải việc của phụ nữ, nhưng với những công nương mang họ Nguyễn thì khác.

Ra khỏi khu rừng, họ đi ven theo bờ sông chờ dấu hiệu của đội quân đường thủy được phái đi trước. Những chiếc thuyền trên mảnh đất chằng chịt kênh rạch sông ngòi này có thể đi nhanh hơn cả ngựa, men theo những lối nước đan vào nhau giữa các cánh rừng. Mỹ Tho đã ở bên ngoài địa phận của Kiến Hòa quân, Võ Văn Lượng chỉ phái vài chiếc thuyền đến thám thính. Đứng trên bờ sông, họ nhìn bóng của chiếc thuyền trở về ngày càng rõ dần trên mặt sông lấp lánh nắng trưa.

- Quân Nguyễn đụng độ tướng Sâm rồi! – Chưa tấp vào bờ, người trên thuyền đã hét lên thông báo. – Đang đánh nhau ở Mỹ Tho.

- Ai là chủ tướng? – Võ Tánh hỏi khi người lính trẻ bỏ mái chèo.

- Chúa Nguyễn và Nguyễn Đăng Vân.

Qủa đúng như chàng nghĩ, họ dồn về Mỹ Tho.

- Tôi đi xem tình hình. – Lấy mái chèo từ tay người vừa trở lại, chàng chuyển mình nhảy lên thuyền.

Qủa đúng như đã nghĩ, Ngọc Du nhủ thầm khi nhìn về phía trận chiến lầy bùn từ chiếc thuyền hơi lui về phía sau trận địa. Nguyễn Đăng Vân và Phạm Văn Sâm đã lao vào nhau ngay khi vừa thấy mặt. Giờ đây, bê bết bùn lầy, quân lính hai bên đang đánh giáp lá cà trên bờ, dưới sông những chiếc thuyền gần như va vào nhau, tiếng súng nổ lác đác. Bất ngờ gặp Phạm Văn Sâm trên đường đến Mỹ Tho, bên cạnh chúa Nguyễn chỉ còn Nguyễn Đăng Vân và Hà Hỷ Văn. Kẻ hải tặc người Minh này mới lần đầu giáp trận trên sông nước miền Nam, lúng túng xoay chuyển trên những bãi cạn vẩy bùn. Những chiếc chiến thuyền đóng theo kiểu Tàu không theo kịp với sự nhẹ nhàng của ghe thuyền đi trên sông, chẳng mấy chốc đã bị bao vây. Em trai nàng đã ra lệnh cho đội thuyền lùi lại sau hàng thuyền lớn, giương súng chống cự để giữ khoảng cách với đội quân đang tràn đến.

- Chúng ta chắc phải lui thôi. – Bên cạnh nàng, người lính chèo thuyền nói mà không cần hạ giọng. Ngọc Du không trả lời, chỉ nhìn sang phía người em. Đứng ở mũi thuyền chiến, khẩu súng trên tay, áo bào vương khói và bùn, vị chúa vẫn lệnh cho những chiếc thuyền dần lùi lại. Tuy nhiên, không có lệnh nào với đội quân vẫn đang đánh nhau trên bờ và bọn hải tặc đang mắc kẹt.

Trên bờ là Nguyễn Đăng Vân.

Bây giờ thì nàng không nhận ra ai với ai giữa đám người bùn dội từ đầu đến chân. Cả những mũi gươm, mũi giáo cũng vấy bùn đen sánh. Những trận mưa kéo dài đã biến vùng đất này thành một bãi lầy khổng lồ. Thậm chí có nơi nàng chỉ thấy đám cỏ rung động. Dưới lệnh của Nguyễn Đăng Vân, dường như quân bộ đang lao vào quyết chiến.

Tuy nhiên, đó là hạ sách. Đối đầu với đội quân thiện chiến Tây Sơn, những tráng binh mới tập hợp từ sông nước Long Hồ không phải là đối thủ. Chỉ một mình Nguyễn Đăng Vân không thể xoay chuyển tình thế.

Khoảng cách của những chiếc thuyền đang giãn dần nhưng có một sự chùng chình nào đó trong khoảng không. Trống đánh lui quân vang trên thuyền chúa Nguyễn. Chiếc thuyền hải tặc đột ngột tăng tốc đánh dạt những chiếc thuyền nhỏ chạy về phía cửa sông. Sóng đánh đến chiếc thuyền của Ngọc Du chòng chành. Nhưng người trên bờ dường như vẫn không nghe thấy. Những tiếng hét xung trận vẫn vang động.

Hồi trống lui quân thứ hai vang ngay sau đó khi những chiếc thuyền Tây Sơn để sổng thuyền hải tặc quay đầu về đội thuyền chúa Nguyễn. Nhưng quân trên bờ vẫn không phản ứng.

Tây Sơn không có trống lui quân, Ngọc Du thầm nhớ ra. Nguyễn Đăng Vân trong cơn say máu hẳn đã quên. Nhưng chúa Nguyễn không thể đánh liều với anh ta thêm nữa. Những chiếc thuyền đầu tiên đã quay đầu hướng ra cửa sông.

- Chạy đi, chúa công! – Nàng gọi lớn. Không biết có nghe nàng hay không, chúa Nguyễn quay nhìn một lần cuối đoàn quân trên bờ rồi chỉ kiếm ra cửa sông. Những chiếc thuyền hộ quân hợp thành một vành đai bảo vệ thuyền chúa rời đi. Hồi trống lui quân lần thứ ba vang lên mà không nhận được hồi đáp.

- Chúng ta cũng đi thôi, công nương. - Người lính chèo thuyền hấp tấp nói. Nàng gật đầu, vẫn nhìn về đội quân thuyền trên bờ sông. Nguyễn Đăng Vân, nàng cắn môi. Không phải bao giờ liều chết cũng là điều tốt.

Thuyền chúa Nguyễn chạy qua nàng, liền sau đó là đội thuyền lẫn lộn của Nguyễn và Tây Sơn. Dường như nhận ra phía của tiếng hét lúc nãy, một người chỉ tay về phía chiếc thuyền tách khỏi đội quân đang quay đầu. Tiếng súng vang lên, người lính chèo thuyền của nàng bật ngửa ra sau, mái chèo đánh vào sợi dây neo thuyền. Chiếc thuyền nghiêng hẳn sang bên, hất nàng lăn xuống. Khi nàng ngẩng đầu nhìn, một chiếc thuyền Tây Sơn đang tiến lại. Người lính của nàng đã bị một phát đạn ngay đầu, mặt mũi bê bết máu lẫn chất dịch trắng trào ra khi anh ta quằn quại. Chiếc thuyền càng rung động mạnh.

Mím môi, nàng lăn xuống nước.

Khi nàng mở mắt, trận chiến đã chỉ còn tiếng vang ngày càng nhỏ. Thuyền nàng đậu ngay gần bãi cỏ, và nàng đã bơi vào giữa đám cỏ cao trải rộng hàng mẫu dẫn vào rừng. Nhắm mắt để tránh những lưỡi cỏ non đâm vào, nàng trượt đi trong bùn, vừa chạy vừa cầu trời cho đám lính trên thuyền không đi theo. Thuyền không thể lách vào bãi cỏ, nhưng nếu muốn thì chúng vẫn có thể sục sạo tìm nàng.

May cho nàng, chúng đã không làm thế, hoặc chúng không tìm được nàng trong đám cỏ.

Dẫn đến bìa rừng, bãi cỏ bị cắt đứt một cách đột ngột, nàng bỗng nhiên không cảm thấy những lưỡi cỏ cứa vào thân người nữa. Khi nàng mở mắt, thanh âm trận chiến chỉ còn dội lại từ đằng xa.

Đôi chân rời rã ném nàng xuống một gốc cây lớn. Một mùi hương ngọt ngào thoảng vào khứu giác nàng.

Hoa lan, nàng chợt nghĩ khi nhìn về phía tiếng động. Nguyễn Đăng Vân, anh ta đã thực sự cuốn đội quân của nàng vào một thế cuộc nguy hiểm. Và Hà Hỷ Văn càng không đáng nghĩ đến.

Tiếng động lặng dần, rồi im ắng đến khi chiều đã buông. Đang vào những ngày mà trời tối sụp chỉ sau một cái chớp mắt. Gió thổi qua áo nàng ướt, lạnh buốt. Nàng đứng dậy, phân vân giữa cái ý nghĩ trở về phía chiến trường và tìm đường men theo rừng.

Trở lại chiến trường là một hành động nguy hiểm. Nhưng men theo rừng với hy vọng tìm được nhà dân hay con người nào đó còn là nguy hiểm lớn hơn. Nghe tiếng chiến trận xôn xao, những dã thú đã lánh khỏi khu vực này. Giờ đây, chúng sẽ trở lại theo mùi máu và xác chết. Giờ đây chỉ còn nàng với rừng cùng các con mắt dõi vào bóng tối đang tràn xuống.

Nàng mím môi. Không thể thừa nhận rằng nàng sợ đến suýt phát khóc lên được.

Chưa bao giờ nàng phải đi một mình. Ở bất cứ nơi đâu nàng cũng có ít nhất một người hộ vệ. Có họ bên cạnh cùng mũi gươm, lưỡi giáo dài của họ, nàng không cần phải bận tâm đến những sinh vật di chuyển trong đêm. Còn lại một mình với thanh đoản kiếm bên hông, con người với nàng cũng đáng sợ như bất cứ loài dã thú nào. Trở về phía chiến trường, tìm cho mình một chiếc thuyền có cơ may còn lại để tấp vào đâu đó, hoặc ở lại rừng chờ một mãnh thú xông ra, nàng phải chọn cho mình cách ít nguy hiểm hơn. Nếu chẳng may vẫn còn kẻ nào của Tây Sơn ở lại, nàng chỉ cần như Ngọc Tuyền – Tự sát, thế là được.

Nàng đi vòng qua bờ cỏ tìm một lối đi ít bùn lầy hơn. Mặt trời đã ngả xuống trên ngọn dừa nước. Bóng mây màu mỡ gà trải rộng trên bầu trời. Lần thứ hai, nàng vẹt đám cỏ, nhắm mắt lội xuống bùn.

Khi nàng mở mắt lần này, không gian đã chuyển sang màu tím thẫm. Những tia sáng cuối cùng còn hắt lại phía đầu dòng sông. Chớp mắt để định hướng, nàng nhận ra mình đã đi hơi xa nơi nàng định đến. Phải quành một đoạn qua viền cỏ mới đến chiến trường buổi sáng.

Thôi vậy, nàng nhún vai, tự trấn an mình. Có thể sẽ có một chiếc thuyền trôi đến mà không cần trở lại trận địa. Nghĩ vậy, nàng men theo bãi cỏ, vừa lội lõm bõm trong bùn vừa bơi trong nước, vẫn đưa mắt nhìn ra sông. Không có cơ may đó cho nàng. Không một chiếc thuyền nào còn lại, chỉ có những mảnh vỡ của chúng, kể cả khi nàng đã đặt chân lên chiến địa chồng chất xác người. Quân Tây Sơn có vẻ đã lôi hết xác của quân mình trở về, để lại binh lính của đối phương trên bờ đất. Dưới bóng tối của ánh trăng vừa mọc, những thân thể đen thẫm nằm trên bùn tạo thành các hình khối nổi lên như tạc vào đất. Trên gốc dừa mọc cạnh sông hằn một thân người bị trói với thanh kiếm ghim thẳng vào ngực. Nguyễn Đăng Vân, nàng nhận ra chiếc áo giáp dành cho tướng lãnh tỏa ánh sáng bạc dưới trăng, dưới lớp bùn và có lẽ là cả máu. Cuối cùng, anh ta đã chết cho mối hận thù của mình.

Xa xa, nàng nghe văng vẳng tiếng thú kêu.

Trước khung cảnh tang tóc này, nàng cũng không có thời gian để mà thương cảm. Nàng đã bị bỏ lại đây, với đám thú đang từ khắp các nẻo tràn về nơi đẫm mùi máu và xác người. Đưa mắt nhìn một lần cuối cả bờ sông, nàng cũng chỉ nhìn thấy những chiếc thuyền nát lập lờ nổi.

Em trai nàng liệu có cho người trở lại tìm khi thấy vắng mặt nàng? Khi mà có cả một đội thuyền đuổi theo ngay sau lưng?

Có vẻ nàng chỉ còn cách leo lên cây mà đợi trời sáng. Nhưng ven bờ sông chỉ toàn có dừa. Nàng đủ sức bám lấy cành dừa cho đến hết đêm?

Đốt một đám lửa? Nhỡ kẻ nào vẫn còn quanh quẩn đâu đây nhận thấy?

Dù sao thì nàng vẫn phải chọn cách nào có cơ may cao nhất.

Đi dọc theo bờ sông, gom những mảnh gỗ vỡ, các gốc cây khô tấp vào bờ, nàng chọn cho mình một gốc dừa hơi nghiêng xuống sông thành hình một cái móc câu không được cong cho lắm. Vịn lấy thân cây vài lần để thử độ chắc chắn, nàng để gỗ vừa gom được dưới gốc cây, lấy đá đánh lửa. Cành cây cứng và thẳng còn lại, nàng lấy đoản kiếm để chuốt thành một mũi đâm cá. Lửa đã cháy, nàng dõi mắt xuống dòng sông chờ đợi. Mùa nước lên, cá vẫn bơi qua hàng đàn, thò tay xuống là bắt được. Chỉ lúc sau, nàng có hai con cá nướng thơm phức trên lửa.

Ở chiến trường đằng xa đã có tiếng gầm gừ, rồi tiếng di chuyển sột soạt. Nàng leo lên cành dừa. Có thể ngả lưng một chút trên thân cây nghiêng này, nàng cười nhẹ, nghĩ đến việc lấy thắt lưng buộc mình lại trên thân cây. Chỉ cần cố chịu đựng đến lúc trời sáng, nàng nghĩ khi nhìn lên bầu trời. Trăng đang chiếu sáng trên mép rừng qua những đám mây tím xám.

Chẳng mấy chốc, mây kéo về đầy trời. Gió lung lay thân dừa nơi nàng đang nằm. Mưa, nàng cắn môi. Mưa đêm giữa rừng, ông trời đã quyết diệt nàng nơi đất phương Nam này chăng?

Gió ngày càng mạnh, lạnh như đâm dao vào da thịt. Hơi nước trên dòng sông bốc thành sương. Áo nàng ướt bùn lầy càng không thể khô lại, chỉ như đang biến thành băng. Nàng nhắm mắt khi thân thể run lên hơn cả cành cây đang bám víu. Răng đánh vào nhau ù cả tai, nàng đã không nhận ra thanh âm trên dòng nước cho đến khi giọng nói quen đến lạ lùng chợt vẳng bên tai nàng.

- Ai trên đó? – Giọng nói ngay dưới nàng, trên dòng sông.

Mở mắt, Ngọc Du nhận ra một chiếc thuyền nhỏ đang tấp vào bờ, tại gốc dừa. Ánh sáng lửa soi tỏ khuôn mặt quen đang chống chèo nhìn lên. Võ Tánh. Chàng ta cũng nhận ra nàng.

- Ngọc Du? – Giọng chàng tràn đầy kinh ngạc. Ngọc Du thở hắt ra, cười yếu ớt.

- Tôi tưởng đêm nay mình chết rồi…

Lời nói chưa dứt, tay nàng đã rã rời. Thân thể đã đông cứng lại vì lạnh của nàng rơi xuống dòng sông.

Dường như nàng đã ngửi thấy hương sen. Tại dòng sông cạnh kinh thành, góc Phú Xuân mà gia đình nàng sinh sống, mỗi khi đến mùa là sen lại đua nhau nở rộ. Sen chen chúc nhau, lớp trên chưa tàn lớp dưới đã chớm. Những ngày còn nhỏ, nàng thường cùng các chị em chèo thuyền con ra hái sen. Hoa để chưng trong nhà, ngó sen để làm gỏi, lá để gói xôi bánh, hạt để nấu chè. Bên chái nhà trông ra vườn, nàng vẫn thường cùng Ngọc Tú, Ngọc Tuyền, Ngọc Uyển ngồi tách từng hạt sen nhỏ bằng đầu ngón tay, lấy ra những chiếc nhân xanh biếc. Rồi trong lúc Ngọc Tú rải nhân sen lên chiếc sàng tre để phơi khô uống trà, nàng và Ngọc Tuyền, Ngọc Uyển ngồi canh bếp lửa nồi chè. Mùi chè sen thơm ngát, ngọt lịm mùi đường, cay cay mùi gừng.

Nàng nhớ, có lần nàng đã đem cho em trai một chén chè sen. Đi qua Phú Xuân, đi qua những cánh cổng và tường gác, chén chè dù được ủ trong lớp bông dày đã nguội lạnh. Ngồi bên nàng trên bậc thang của ngôi nhà tạ trông ra khoảng vườn vắng, em trai nàng múc từng muỗng chè sen nhỏ, ăn chậm chạp từng hạt một. Mùi sen rất thơm, cậu ta nói. Và nàng đã vui suốt cả mấy ngày sau.

Dường như nàng đã ngửi thấy hương sen. Sen trong hồ nước bên nhà, trên dòng sông. Mùi hương sau cơn mưa lẩn khuất trong không khí man mát hơi của nước. Nước bao vây nàng bằng những vòng tay mỏng mảnh. Rồi nàng thấy hơi ấm, nhẹ bỗng, mơ hồ ẩn sâu trong lòng nước. Hơi ấm và nước. Hơi ấm và nước, một điều thật lạ lùng. Cả hai đan quện vào nhau, bao vây nàng.

Nàng mở mắt trong bóng tối. Điều đầu tiên nàng nhận ra là tiếng mưa. Mưa rất nhẹ. Ai đó đã phủ lên nàng tấm áo tơi và nàng chỉ nghe những hạt mưa rơi xuống chiếc áo. Đầu nàng chòng chành đến mức một lúc sau nàng mới nhận ra đang ở trên một chiếc thuyền. Đầu nàng được đặt trên mũi thuyền, chân thả trên lòng thuyền lót tấm lưới mỏng. Chiếc áo tơi đã che tầm mắt của nàng, nàng gạt nó qua bên. Một giọt mưa chọn đúng lúc rơi vào mắt nàng.

- Nàng tỉnh rồi à? - Giọng nói từ mũi thuyền bên kia đưa lại. Không cần nhìn, nàng cũng đã nhận ra người nói.

Anh ta đã đến thật đúng lúc, nàng nghĩ, đầu ngả lại về sau, mắt chớp vài lần để đẩy giọt mưa. Có lẽ đã mưa lớn trong một lúc, chỉ có chỗ nàng nằm là khô ráo, xung quanh đều ướt. Những ngón tay nàng chạm vào lớp lưới ướt. Áo nàng vẫn khô ráo.

Khoan đã, nàng giật mình khi chạm vào lớp vải trên người lần nữa. Chắc chắn áo nàng không thể khô ráo…

- Nàng có thấy đau ở đâu không? – Giờ thì giọng nói đã ở ngay bên cạnh nàng. Nàng nhìn lên, trong bóng tối vẫn có thể nhận ra dáng thanh niên đang cúi xuống bên cạnh. Chàng ta cởi trần, làn da lấp lánh ánh nước trong ánh trăng nhạt qua lớp mây mù.

- Áo tôi… - Nàng mở miệng, nghe tiếng nói mình khô khốc. Không khó khăn để nàng nhận ra áo mình đang mặc là của ai.

- Đừng lo, lúc ấy tôi tắt lửa rồi. – Dường như chàng ta cũng đã chuẩn bị sẵn đến lúc bị gạn hỏi. Trong cái giọng tỉnh bơ ấy cũng có đôi chút ngượng ngập. – Trời thì mưa, nàng thì lạnh, nếu cứ để thế thì chưa tìm được nhà dân nào quanh đây, nàng đã cảm lạnh mất rồi.

- Ở trại tôi cũng phụ giúp cho đại phu, cứ coi tôi là thầy thuốc cũng được. Thầy thuốc chăm sóc cho bệnh nhân đâu có kiêng kỵ. – Một lúc vẫn không thấy nàng nói gì, người thanh niên càng cảm thấy phải thanh minh.

Vẫn không thấy động tĩnh, chàng ta thở ra, hạ giọng nói nhỏ.

– Mà cùng lắm thì tôi cưới nàng thôi.

- Anh…

Ngọc Du chỉ có thể thốt ra một tiếng rồi im bặt. Khắp người nàng giờ đây nóng bừng bừng. Nàng biết chàng ta cũng lọt vào tình thế khó xử, chỉ muốn chàng đi khuất để nàng đỡ ngượng. Đằng này, chàng ta cứ ở cạnh nàng lải nhải, càng nói càng không ra sao. Nàng thầm trách trời sao lại để mình gặp phải con người này đúng lúc nguy nan nhất. Nếu không thì nàng đã cho anh ta một đạp rơi xuống sông cho xứng với kiểu cách ăn nói.

Nhưng dường như hài lòng khi thấy nàng phản ứng, chàng đứng dậy, tiếp tục chèo thuyền. Mưa ngớt rồi tạnh hẳn. Dưới tấm áo tơi, Ngọc Du cũng trấn tĩnh lại. Nàng là một phụ nữ trưởng thành cơ mà, nàng tự nhắc mình. Lúc này đâu phải để e lệ với ngượng ngập. Lúc này nếu không thấy nàng, em trai nàng sẽ lo lắng vô cùng.

- Anh đang chèo đi đâu thế? – Trật chiếc áo tơi khỏi đầu, Ngọc Du nhìn Võ Tánh hỏi. Trăng đã lại sáng trên bầu trời. Nàng thấy nụ cười của chàng thanh niên mở rộng.

- Về doanh trại Kiến Hòa. Tôi định nếu nàng không tỉnh thì tìm nhà dân nào ghé lại, nhưng đêm đã khuya rồi. Yên tâm, tôi sẽ không nói cho ai biết đâu. – Chàng bổ sung thêm sau một thoáng im lặng.

- Cám ơn. – Ngọc Du lẩm bẩm, hai má lại nóng. Anh ta không nói gì thì hơn, nàng nghĩ thầm. – Sao anh lại có mặt ở chỗ tôi?

- Tôi phải xem trận chiến của các vị với Tây Sơn thế nào chứ. – Võ Tánh nói như thể một chuyện tất nhiên. – Chỗ chiến trường không phải là nơi của phụ nữ, nàng ra làm gì?

- Tây Sơn có đội nữ binh đấy thôi. – Ngọc Du bỏ tấm áo tơi sang bên, cẩn thận xem xét cái áo qúa rộng được khoác lên mình. Áo ngược từ trước ra sau, vậy là chàng ta đã quay lưng nàng lại mà mặc. Cũng không đến nỗi, nàng nghĩ với hơi thở nhẹ hơn.

- Chẳng hay ho gì. Phụ nữ đã có chuyện gia đình, con cái, nhà cửa, ruộng đồng phải lo, giờ còn khoác lên họ chuyện đánh nhau, thật chẳng ra sao. Đánh nhau là chuyện của đàn ông. Đàn ông đánh nhau vì chính bản thân họ thôi. Bao nhiêu năm chiến tranh, việc ruộng đồng nhà cửa dồn hết cho phụ nữ đã là qúa đủ, chẳng cần họ phải chết ở chiến trường nữa.

- Trừ trường hợp phụ nữ chết vì người đàn ông của họ. – Một nụ cười mơ hồ thoáng qua gương mặt Ngọc Du. Ngẩng lên, Võ Tánh đang đăm đăm nhìn nàng.

- Không một người đàn ông thực sự nào lại muốn người phụ nữ của mình chết vì mình. Như thế thì họ sẽ sống khổ hơn cả chết. Điều đó chỉ là ảo tưởng của phụ nữ các nàng.

Ngọc Du định nói điều gì đó, nhưng im lặng. Nàng nhìn sang bên, cánh rừng lặng im dưới trăng ấp ủ bóng tối đen huyền. Nàng nhớ đến nỗi sợ hãi ban chiều và cảnh tượng Nguyễn Đăng Vân chết trên cành dừa với thanh kiếm đâm xuyên qua ngực. Phụ nữ như cô không hiểu đàn ông chúng tôi đâu, anh ta cũng đã từng nói với nàng như thế. Anh ta chết cho nỗi căm hận của mình, không ai có thể can thiệp được. Anh ta lao vào cái chết ấy, trừng trừng mắt nhìn nó, đón nhận nó. Còn nàng khi bị bỏ lại một mình đã sợ hãi biết bao.

- Lần sau đừng mạo hiểm như thế. – Võ Tánh nói sau một lúc lâu. – Tôi đã hứa là nàng gặp nguy ở đâu thì tôi nhảy vào cứu đấy rồi mà.

Câu cuối chàng ta nói với giọng điệu không thể khiến nàng tin là thật hay đùa. Ngọc Du cau mày.

- Cám ơn. Anh im đi thì tốt hơn.

Nàng với lấy chiếc áo tơi đắp lên người, ngả lưng ra sau thuyền. Mắt nàng lại nặng trĩu. Nàng thiếp ngủ khi chiếc thuyền lặng lẽ trôi trên sông.

9

Ngọc Du đã ngủ liền hai ngày sau đó. Cơn lạnh đã ngấm vào nàng trước khi Võ Tánh đến. Khi thuyền cập bến doanh trại Kiến Hòa quân, mặt trời vẫn chưa mọc. Dù chàng đã cất tiếng gọi ba lần, nàng vẫn không tỉnh dậy. Hơi thở nàng nóng hổi trên ngón tay chàng. Một lần nữa, chàng buộc phải xốc nàng lên, đưa vào nhà trong.

Ấm nước đã sôi, hai cô hầu gái đem nồi nước pha âm ấm vào phòng. Ngọc Du đã được thay quần áo sạch, lau những vết bùn trên người và rũ nước khỏi tóc. Cô hầu gái cẩn thận đã bỏ cả một vài loại lá thơm, cánh hoa vào nước rửa, căn phòng bốc mùi thơm dìu dịu. Giờ đây, hai cô gái đem thuốc xức vào những vết xước chi chít trên tay chân, trên mặt Ngọc Du, đắp khăn lạnh lên trán nàng. Nàng không phản ứng ngay cả khi thuốc rơi vào vết thương hở, hơi thở vẫn nhẹ. Nàng nằm yên dưới lớp chăn. Khi hai cô hầu gái xong việc, nắng cũng đã ửng trên bầu trời. Chàng nghe tiếng nói chuyện của những người dậy sớm đã bắt đầu xôn xao ở một góc trại.

- Đừng nói cho ai biết. – Chàng nói trước khi hai cô hầu đi ra ngoài lấy thuốc.

May mà không có ai nhìn thấy ngoài vài người canh phòng, họ cũng chỉ thấy chàng đem một vật quấn trong chiếc áo tơi đi vào, chàng nghĩ. Nếu không hẳn nàng sẽ lại tỏ thái độ bực bội.

Phải, bực bội, chàng nhủ thầm khi nhìn ra ánh nắng ngày càng sáng rõ. Trong bếp lửa nhỏ, tiếng ấm nước đang được đun sôi kêu khe khẽ. Nhìn đám lửa liu riu cháy trên đám than hồng, chàng lại nghĩ đến cái giới hạn phải tự đặt ra cho mình. Giới hạn, đó là tất cả những gì đã ở trong tâm trí chàng khi ôm cô gái ướt sũng lạnh toát đưa lên bờ, khi những ngón tay chạm vào làn da sau lớp vải. Trong tình thế ấy, đó là những gì mà chàng bắt buộc phải làm, với bất cứ ai. Cho nên, chàng có thể làm như không nhận thấy mồ hôi đã vã trên trán mình giữa những trận gió ào ạt của cơn mưa đang đến, không thấy ngón tay mình run và cảm giác muốn ôm lấy người con gái này vào lòng dù chỉ một lần. Cả nỗi sợ hãi kia, nỗi sợ hãi đến trong khoảnh khắc nhìn thấy nụ cười yếu ớt của nàng trên cành cây cao trước khi nàng rơi xuống, rơi xuống trong bóng đêm và nước xoáy cuốn băng băng dưới bầu trời vần vũ mây đồng. Tưởng như cái đập cánh rung rung của một con bướm đêm trước khi lao mình vào đám lửa. Lửa đã cháy sáng lên một lần cuối trước khi lụi tắt dưới sức nặng của gió và mưa, cả dòng nước đang lấn tràn bờ. Trái tim chàng đã rung lên, giật nảy mình và rơi xuống, khoảnh khắc như thể là tuyệt vọng và mãi mãi.

Đó chỉ là những cảm xúc thoáng qua, thoáng qua và nên quên đi. Lửa đã cháy sáng và lụi tắt. Nàng đã tỏ thái độ rất rõ ràng, sự bực bội rất rõ ràng. Dù đùa cợt, chàng cũng nên tự biết giới hạn mà dừng lại. Đã sống chừng này năm tháng, chàng biết phân biệt rõ những cảm xúc đến và đi, những gì có thể và không thể lưu dấu trong ký ức. Điều đó trước hết là tốt cho bản thân chàng.

Cô gái trên giường trở nhẹ đầu trong giấc ngủ. Bàn tay nàng rơi ra ngoài mép chăn, lật ngửa lòng bàn tay còn đỏ thẫm những vết xước trầy, đôi chỗ da đã bị tróc ra từng mảng lớn. Lớp thuốc mới vừa được bôi lên còn chưa kịp ngấm hạt lấm tấm trắng như bụi phấn hoa. Chàng lại nhớ đến khoảnh khắc mà trái tim đã ngưng đập, đã rơi xuống cùng nàng trong làn nước tối. Ngón tay chàng chạm khẽ vào lòng bàn tay nàng, làn da đã bị hủy hoại. Đã bị hủy hoại, những gì chàng có thể và không thể thấy được. Nàng không than thở, cũng chẳng oán trách, nàng cũng chẳng trả lời khi chàng hỏi lý do sự có mặt của nàng nơi chiến địa. Tại sao nàng lại chỉ có một mình nơi ấy? Em trai nàng đã bỏ chị mình lại, phải chăng? Sau tất cả những gì nàng đã làm cho họ?

Nàng có thể chết vì anh ta?

Rồi sau này sẽ ra sao, chàng tự hỏi, ngón tay do dự trên lòng bàn tay nàng. Sau này, chàng sẽ phải chọn lựa khi trận chiến của chúa Nguyễn và Tây Sơn ở Gia Định đến kết cuộc. Không thể tập hợp như thế này mãi mãi, nàng nói đúng. Chàng đã nhìn thấy ánh mắt trao đổi của Võ Văn Lượng và Nguyễn Văn Hiếu. Họ đã chọn con đường này vì điều gì, để được gì? Mọi chuyện đã không còn giản đơn như khi bắt đầu, khi họ chỉ có một kẻ thù duy nhất, khi chúa Nguyễn đã bị đẩy bật khỏi Gia Định. Mọi chuyện đã không còn đơn giản nữa, khi chàng đã chứng kiến cảnh tượng ngày trở về của chúa Nguyễn, cái sức mạnh lan tỏa không thể lường được. Chúa Nguyễn đã chỉ cần dựa vào sức mạnh vô hình ấy để bức đối thủ phải co cụm lại, lược bớt đối thủ, phát triển lực lượng của mình trong những ngày đầu. Và như thế, vị chúa này sẽ không bao giờ thất bại, không bao giờ bị tiêu diệt. Những làn sóng xô vào, rút đi liên tục trên mảnh đất hơn bảy lần đổi chủ và hứa hẹn những biến động lớn lao. Với những người như Võ Văn Lượng hay Nguyễn Văn Hiếu, sự lựa chọn với thời cuộc có thể sẽ dễ dàng hơn chàng. Chàng hiểu rõ Võ Văn Lượng, ông ấy đang chọn một thời điểm và thời cơ thích hợp…

Ồ, đôi lúc chàng thấy căm ghét sự tính toán của con người.

Anh trai chàng cũng là một kẻ giản đơn. Giản đơn và cố chấp. Một khi đã chọn con đường cho mình, một điều gì đó mà mình có thể hiến dâng tính mạng của bản thân cho, anh ấy sẽ không bao giờ quay đầu lại. Một khi đã quyết rằng thế nào là sai, là đúng, anh ấy sẽ không bao giờ tính toán đến thiệt hơn. Đội quân của anh trai chàng đã bị chúa Nguyễn tiêu diệt. Anh ấy sẽ không bao giờ trở về nữa. Anh ấy chọn cho mình một lòng trung thành duy nhất trong cuộc đời, và không gì có thể đổi thay điều đó.

Chàng rút những ngón tay về, chăm chú quan sát gương mặt Ngọc Du. Nàng thở khẽ, cánh mũi phập phồng nhè nhẹ. Có vài vết xước trên má nàng, vệt đỏ sẫm qua làn da xanh. Nàng đã trải qua chuyện gì, chàng không thể hỏi được.

Chỉ là, khi thấy chàng, nàng đã có thể để mình buông tay…

Đôi khi, chỉ như thế thôi cũng đã đủ.

Chàng đứng dậy khi hai cô hầu gái trở về, tiếp tục công việc mỗi ngày của mình. Trong suốt hai ngày, chàng cũng chỉ đứng ngoài lặng lẽ nhìn nàng. Cơn sốt của nàng âm ỉ trôi qua. Đến ngày thứ ba, nàng mở mắt. Khi ấy, bóng đêm đã lại phủ lên căn phòng nhỏ. Cây lá rào rạt trong cơn mưa cuối mùa.

- Cô ấy dậy rồi. – Người hầu gái khe khẽ gọi. Lại gần Ngọc Du, cô ân cần lấy chiếc khăn đắp trên đầu nàng xuống, đưa tay cho nàng vịn để ngồi lên.

- Đây là trại Kiến Hòa. – Võ Tánh nói khi thấy Ngọc Du nhìn quanh. – Nàng đã ngủ suốt hai ngày rồi.

- Hai ngày? – Nàng hỏi lại, giọng vẫn còn hơi khàn. Nếp nhăn giữa đôi lông mày của nàng sâu lại. – Đã báo cho chúa công tôi chưa?

- Tại sao tôi phải báo? – Thoáng khó chịu, Võ Tánh quay đầu nhìn ra cửa sổ. Người hầu gái hỏi Ngọc Du muốn ăn gì và nhận được cái lắc đầu của nàng. Chàng ra hiệu cho cô đi ra. Ngọc Du vẫn nhìn chàng, ý thức dần dà trở về trong đôi mắt sâu tối trong ánh đèn.

- Anh có biết tin gì của họ không? – Nàng tiếp tục hỏi. Im lặng một lúc, chàng trả lời miễn cưỡng.

- Chúa công nàng về Cù lao Hổ. Nhưng giờ thì tướng Nguyễn có mặt khắp nơi, Sâm lại phải về Sài Côn rồi.

- Vậy… anh làm ơn sắp cho tôi một chiếc thuyền… - Ngọc Du chưa dứt lời, Võ Tánh đã quay lại. Cơn giận trong mắt chàng.

- Nàng lại định đi đâu với tình trạng này? Thiếu nàng thì bọn họ cũng chẳng chết, nhưng nếu nàng không chịu nghỉ, đi trên sông nước mùa này nhiễm khí độc thì chính nàng mới không qua nổi.

Ngọc Du im lặng. Một lúc sau, nàng dựa lưng vào bức vách, hạ giọng nói:

- Vậy anh làm ơn cho người về Long Hồ dinh gặp Nhị phi để thông báo về tình trạng của tôi.

- Nàng cho rằng chúa công nàng quan tâm đến thế sao? – Không đừng được trước nỗ lực liên tục của Ngọc Du, Võ Tánh buột miệng cười. Ngọc Du cau mày.

- Anh không hiểu chúng tôi đâu. – Giọng nàng gay gắt, nhưng giọng Võ Tánh còn gay gắt hơn.

- Phải, tôi không hiểu anh chị em các người. Nếu không tôi đã không cứu chị của người giết anh trai tôi đem về đây!

Môi Ngọc Du cử động, nhưng rồi nàng chỉ cắn môi không nói. Ngay khi vừa thốt lời kia ra miệng, chàng đã lập tức thấy hối hận. Chàng đang nổi giận một cách vô lý. Hoặc chỉ vì lý do: nàng đang chứng tỏ sẽ làm bất cứ điều gì cho người em trai kia, ngay cả hy sinh bản thân mình. Ý nghĩ đầu tiên của nàng khi tỉnh dậy là vị chúa công ấy, không gì khác, ngay cả bản thân mình. Chẳng còn gì khác trong trái tim nàng.

Ngọc Du thu chân gần sát ngực, ngồi dựa vào tường nhìn sang khung cửa sổ nhìn ra khoảng bóng tối đẫm mưa. Chàng đứng dậy ra ngoài, một lúc sau trở vào với chén cháo nóng còn bốc khói, ngồi xuống cạnh giường.

- Nàng phải ăn mà lấy sức còn trở về với chúa công. – Chàng nói chân thành, hoàn toàn không nhận ra ý nghĩa mỉa mai trong lời của mình. Ngọc Du vẫn không quay lại. Nàng khoanh tay quanh gối, dường như muốn thu mình lại càng xa chàng hơn. Thở ra, chàng đặt chén cháo xuống đầu giường, ngả người đến trước mặt Ngọc Du.

- Này! - Chàng gọi, và im bặt.

Nước mắt vòng quanh khuôn mặt nàng. Thấy chàng, nàng cúi mặt, lại quay đi. Nàng khóc không một thanh âm, không một chút run rẩy. Chàng chỉ thấy những giọt nước mắt thi nhau rơi xuống ướt đẫm ngực áo nàng.

Có lẽ, khi ấy chàng đã không biết mình phải làm gì hoặc không biết phải nói gì. Chàng đã muốn xin lỗi, nhưng biết là vô ích. Chàng đã muốn an ủi, nhưng không biết phải làm cách nào. Với nỗi đau ngày càng rõ trong lồng ngực, chàng hiểu rõ rằng không phải lỗi của nàng khi coi trọng một điều gì đó hơn cả bản thân, không phải lỗi của nàng khi sống chết vì nó. Nàng đã từng đối mặt với cái chết, vừa mới bước qua nó, thoát được vòng tay của nó trong giấc ngủ kéo dài. Ngay cả sự cô độc và bỏ rơi này cũng không phải lỗi của nàng. Thân thể nàng vẫn còn đầy những vết thương mới vừa khép miệng, và trái tim nàng đã từ lâu ứ đọng nỗi sầu bi. Cũng không phải lỗi của chàng khi tức giận, vì nàng đúng thật là một cô gái khiến người khác phải tức giận. Chàng không xin lỗi, chàng chỉ ôm lấy nàng. Ôm lấy đôi vai nàng, kéo nàng vào lòng, để nước mắt nàng đẫm trên lồng ngực phía trái tim đang đập. Nàng không phản ứng, chỉ đôi lần bật ra tiếng nấc nhẹ.

Quanh họ, đêm rì rào, tỏa sáng leo lét như ngọn đèn nghiêng mình trong từng đợt gió.

- Tôi sẽ cho người về Long Hồ. – Chàng nói khi nàng đã dịu xuống. Nàng không trả lời. Một lúc sau, chàng lại tiếp tục phá tan sự tĩnh lặng trong phòng. – Giờ thì công nương phải ăn đã, không thì tôi cứ phải giữ nàng lại.

Ngọc Du khẽ gật đầu, chậm chạp rời khỏi vòng tay chàng. Nàng vẫn không ngẩng lên khi chàng đưa chén cháo đến trước mặt. Cháo đã nguội, lớp bên trên đã đặc lại. Chàng vừa cầm muỗng đảo cháo trong chén, vừa cười bảo:

- Tay nàng bị thương rồi, để tôi đút cho.

- Tôi ăn được. – Nàng nói, giọng rất nhỏ. Nàng đưa tay lên rồi lại bỏ xuống, mím môi. – Anh để xuống đi.

Nếu đỡ lấy cái chén, nàng sẽ phải chạm vào tay chàng, chàng nghĩ ra điều đó khi nhìn nàng đưa hai ngón tay cầm chiếc muỗng nhỏ. Chén được lót một lớp vải dày nằm êm ái trên tay nàng. Nàng nhìn chén cháo một lúc, rồi thì thầm:

- Hạt sen à?

- Chúng tôi xâu chuỗi hạt sen để dùng dần. – Chàng nói, thấy lạ lùng trước thái độ của nàng. Thoáng cười hiện lên trên khóe môi Ngọc Du trước khi nàng ăn từng muỗng nhỏ. Mắt và má nàng vẫn còn đỏ. Nàng chưa hề ngẩng lên nhìn chàng lấy một lần.

- Nếu nàng muốn, tôi sẽ cho nàng vài chục xâu đem về. – Một lần nữa, chàng cố gắng giải tỏa không khí nặng nề trong phòng. Ngọc Du hơi ngẩn người, nhưng rồi lắc đầu.

- Không. Đem về cũng chẳng để làm gì.

- Nấu cho chúa công của nàng. – Dù không chủ tâm, giọng chàng vẫn thoáng chút khó chịu. Nàng liếc nhìn chàng dưới hàng mi dài. Trong ánh đèn vàng yếu ớt, nàng trông có vẻ buồn bã.

- Đó là việc của vợ ngài ấy. – Nàng nói, đặt chén cháo đã ăn hết xuống cái ghế bên cạnh. Chàng thu chân ngồi hẳn lên trên giường, khoanh tay ngả người ra thanh chắn đầu giường. Một lần nữa, nàng có vẻ thu người lại lảng tránh.

- Thì đã sao? Anh chị em trong nhà không thể lo cho nhau được à? Tôi thấy mỗi khi nấu món gì, chị em vẫn thường đem cho nhau.

Mi mắt nàng chớp nhẹ. Lại có điều gì nàng muốn nói ra mà không thể nói. Đầu nàng lại nhức, nàng cảm thấy mệt mỏi và chỉ muốn nằm xuống. Nhưng nàng không thể tự nhiên như thế với người thanh niên trước mặt.

- Nàng đã từng nói rằng chúa công nàng phải rời khỏi nhà từ khi còn rất nhỏ, vậy chắc người trong nhà cũng không thân mật lắm với nhau. – Chàng ta vẫn không để nàng yên. Đầu óc nàng trống rỗng, mịt mờ, và nàng nghe thanh âm trôi nổi trong không gian trước khi đến được màng não nàng. - Bây giờ được ở gần nhau thì chăm sóc nhau một chút cũng đâu có gì lạ.

- Điều khổ sở nhất khi làm một đứa trẻ là bọn trẻ con luôn muốn được yêu thương nhiều hơn chúng đáng được nhận. Cho nên, khi không còn là đứa trẻ, chuyện đó đã trở thành không quan trọng nữa.

Nàng trả lời trong mơ hồ, chống tay vào trán để ngăn cơn chuếnh choáng. Có lẽ nàng đã nói ra điều không nên nói, hoặc là điều không thể nói. Không cố hơn được nữa, nàng ngả người nằm xuống. Võ Tánh chỉ dịch ra một chút trên chiếc giường rộng chứ không có ý định rời đi. Qủy tha ma bắt anh ta và cái lối tự nhiên như không của anh ta đi, nàng thầm rủa. Ồ, nàng lại đang dùng chính những từ ngữ của anh ta.

Võ Tánh chỉ nhìn nàng. Có thể chàng ta hiểu hoặc không hiểu những gì nàng nói. Nàng khép mắt khi chàng thở dài. Thanh âm ấy lẫn vào trong tiếng mưa.

Khi nàng dậy lần này, trời đã sang trưa. Võ Tánh đã không còn ở bên nàng, cô hầu gái đang lúi húi cạnh bếp lửa, không để ý nàng đã thức. Nằm trên giường, nàng nghe tiếng ồn ào từ bên ngoài đưa đến. Nhiều, rất nhiều người, họ lẫn vào trong tiếng lá rừng, tiếng dòng sông và cả thanh âm của gió từ bầu trời. Kiến Hòa quân, nàng vẩn vơ nghĩ. Bằng cách nào họ có thể tụ họp những đội quân như thế? Võ Văn Lượng chỉ là một phú hào. Nguyễn Văn Hiếu chỉ là người cắt cỏ thuê. Võ Tánh chỉ là một thanh niên còn rất trẻ. Cũng như vậy, Đỗ Thanh Nhơn, Châu Văn Tiếp chẳng có danh phận gì khi họ tập hợp quân Đông Sơn, Lương Sơn tá quốc. Chúa công nàng đã luôn phải dựa vào họ, nhưng bây giờ mới chỉ là một Gia Định. Chinh phục cả Đại Việt, giành lại cơ đồ cũ là việc yêu cầu nhiều hơn một hai đạo quân. Ổn định được cơ đồ ấy cần nhiều hơn là một hai đạo quân.

Nàng nhận ra ẩn ý trong lời của Võ Văn Lượng. Sau này sẽ thế nào? Làm cách nào để chiến thắng ở một vùng đất hoang vắng, manh mún, phân tán đến thế này? Những lần thất trận liên tục đâu phải vì thiếu quân trợ giúp, nhưng một hai đội quân thì không thể đủ. Dưới ảnh hưởng của Bá Đa Lộc, chúa công nàng đã nhận ra sức mạnh của khí cụ Tây dương và đã có ý cầu người. Chỉ một hai ngàn quân và vài thuyền, nhưng họ sẽ đem tới kỹ thuật và vũ khí. Tương lai chiến tranh sẽ không nằm ở sức mạnh quân lực mà là khả năng của vũ khí, em trai nàng đã nói. Nhưng chiến tranh cũng không phải là lời giải cho đất nước này.

Bao nhiêu người đã chết và sẽ phải chết? Đêm qua, khi nghe Võ Tánh quát lên, nàng đã thực sự cảm thấy bi thương. Nàng vẫn nhớ Võ Nhàn, anh trai của người thanh niên trước mặt, họ rất giống nhau, giống đến lạ lùng. Giống đến cả cái cách truy hỏi đến tận cùng mọi chuyện. Nàng đã thật sự cảm thấy bi thương. Chàng ta nói đúng, chàng hoàn toàn có quyền căm ghét và bỏ mặc nàng, hay thậm chí lợi dụng nàng để trả thù. Nhưng chàng chưa bao giờ nói đến chuyện trả thù. Chàng dỗ dành nàng, vụng về, như thể dỗ một đứa trẻ. Đôi tay to lớn và ấm áp. Lần đầu tiên trong đời, nàng thấy mình có thể tin cậy được một người...

Ngoài khung cửa, ngoài những bức tường gỗ, nàng nghe đêm đang rơi rụng như thể những con bọ cánh cứng buông mình xuống trong mưa.

Cũng có thể không phải là lần đầu tiên. Có lẽ, xưa lắm rồi, cha cũng đã từng ôm nàng vào lòng, để nàng áp mặt vào khuôn ngực rộng và vững chãi như thế. Có lẽ, xưa lắm rồi, người anh cả cũng đã nắm lấy tay nàng dắt qua những con đường đan nhau dưới bóng cây. Nhưng tất cả bọn họ đã mất đi, mất đi trước khi nàng còn kịp nhớ nhung, lưu dấu, trước khi nàng kịp trưởng thành. Trong đêm, nhìn ra bóng mưa ngoài cửa, nàng đã cảm thấy một nỗi bi thương đến không thể chịu đựng được tràn ngập trong tim. Sự sống thật sự qúa mỏng manh. Nàng đã chứng kiến bao nhiêu người phải chết, đã chết? Nàng đã chứng kiến bao nhiêu giọt nước mắt? Sau mỗi cuộc chiến, trong mỗi cuộc chiến, thi thoảng nàng vẫn thấy vài người phụ nữ đến doanh trại đóng quân để đem xác chàng trai của họ về. Những người kém may mắn hơn sẽ ở lại với đất, với nước, làm mồi cho dã thú. Ngay cả bản thân nàng cũng vậy, cũng chỉ cách cái chết một gang tay. Cái chết làm cho sự sống đang có trong tay trở thành vô nghĩa đến không thể chịu đựng nổi. Cái chết làm cho cuộc đối mặt với những chứng tích còn đang sống trở thành không chịu đựng nổi. Nàng đã khóc, vì cơn sốt, vì mệt mỏi, vì đau buồn và vì cái chết. Nàng giã từ nó trong cái lạnh đang thoát ra từ từ trong thân thể, cảm nhận được nó trong từng mạch máu. Cô đơn, cái chết là sự cô đơn vĩnh cửu và tột bậc. Nên nàng đã không từ chối vòng tay người thanh niên ấy. Nàng cũng cần có một hơi ấm, một hơi ấm để biết rằng mình đang còn sống.

Nàng chớp mắt, nhìn vào khoảng không. Trần nhà với những thanh xà ngang dọc tối đi trong ánh sáng đã không còn hắt qua cửa sổ. Mặt trời đã đứng bóng. Lại một ngày nữa sắp đi qua, nàng nghĩ với sự sợ hãi thoáng qua. Bên ngoài đã ra sao? Cuộc chiến của em trai nàng đã ra sao? Võ Tánh hẳn đã cho người về Long Hồ dinh báo tin. Nàng biết tính khí liều lĩnh của em trai mình. Cậu ta đã từng bỏ đội quân, một mình đem thuyền đi do thám đến nỗi suýt bị quân Tây Sơn bắt được. Không thấy nàng, cậu ta liệu có cho người trở lại Mỹ Tho tìm kiếm? Không cần thêm một người nào nữa phải chết cho nàng.

Có tiếng chào ngoài cửa, rồi Võ Tánh đi vào. Thấy nàng đã thức, chàng cười, ngồi xuống trên giường. Nàng có thể cảm thấy hơi nóng từ bên ngoài còn trên quần áo chàng phả qua mình. Cả một mùi thơm ngọt đằm tỏa ngát. Đến lúc ấy nàng mới để ý đến cành lan trên tay chàng. Cành lan hồ điệp dài chừng một cánh tay, xòe rộng như đuôi cáo với những lớp hoa dệt dày còn gắn chặt với mảnh gỗ cũng màu vàng tươi, vỏ nâu đen. Những bông hoa vàng nhỏ bằng hai đầu ngón tay, cánh điểm xuyến chút vân đỏ trắng tỏa hương ngào ngạt.

- Nhân tiện tuần phòng quanh vùng, tôi tìm được cái này. – Võ Tánh hồ hởi khoe. Khi vui, chàng ta có vẻ rất giống một đứa trẻ tìm được đồ chơi, nàng nghĩ thầm, gật đầu.

- Đẹp qúa. Hoa lan này mọc trên gỗ qúy, phải không? Hương hoa lan phụ thuộc vào loại gỗ cây mà nó mọc. Đây là đàn hương?

- Phải. Gần đó tôi còn thấy một tổ ong lớn. Bao giờ đến mùa mật, tôi sẽ lấy cho nàng. Ong này hút nhụy hoa giữa rừng cây gỗ qúy, mật chắc chắn thuộc loại hảo hạng, vừa thơm vừa ngọt.

Võ Tánh vừa trả lời vừa thu chân lên giường, say mê nhìn cành hoa trong tay. Nàng không còn bất ngờ với sự tự nhiên thái qúa này, tuy không khỏi thấy bất tiện. Hơi ấm từ nắng gió trên người chàng vẫn quẩn quanh bên nàng. Cả mùi mằn mặn của sông nước và mồ hôi lẫn vào hương hoa. Tuy đã ở trong quân đội lâu ngày, nàng vẫn chưa bao giờ ở cùng một người khác giới trong tư thế này, trên cùng một chiếc giường, trong một căn phòng nhỏ. Người nằm người ngồi thật không hay. Nàng nghĩ vậy, liền ngồi dậy, kéo chiếc chăn sang bên.

- Nàng thích không? – Dường như hiểu sai cử động của nàng, Võ Tánh quay sang hỏi. Mất một lúc để nàng hiểu chàng đang nói về cành lan. – Nếu nàng thích thì ta sẽ cho nàng.

- Không cần. – Nàng lắc đầu. – Tôi đi suốt, không thể chăm sóc nó được.

- À… - Võ Tánh có vẻ hơi thất vọng. Chàng đứng dậy, đến bên cửa sổ còn khép hờ, đẩy hai cánh cửa mở rộng. - Ở đây chúng tôi có một vườn lan. Trong những ngày vừa đủ nắng, hương thơm của chúng tỏa khắp vùng.

- Các anh nên nuôi ong. – Ngọc Du cười nhẹ, không đứng dậy, cũng không ngoảnh nhìn. Nàng nghe tiếng mở cửa tủ, rồi Võ Tánh lại đến bên nàng, trong tay chàng là một hũ sành nhỏ bịt kín.

- Có nhiều tổ ong quanh đây, nhưng bây giờ chưa đến mùa lấy mật. Nàng ăn thử xem.

Nàng chớp mắt, nhận lấy thanh tre nhỏ vàng sánh mật trước sự nhiệt tình của chàng. Nhấm một giọt mật nhỏ, nàng gật đầu.

- Thơm qúa. Ngọt nhưng không gắt. Khi đã tan thì còn lại vị như mùi phấn hoa trong cổ.

- Thành qủa gác kèo của tôi đấy. – Lần này thì nàng không còn thấy lạ trước vẻ hớn hở mãn nguyện rất tự nhiên của người thanh niên này. Chàng ta có vẻ tự mãn không khiến người khác thấy ghét bỏ hay bực bội. Chàng nói, say sưa. – Đến những tháng này là chúng tôi chuẩn bị sẵn những cành cây chặt sẵn, chọn vị trí vừa nhiều nắng vừa im ắng gác lên. Mưa sẽ gột đi hơi sắt ở vết chặt. Những nơi qúa ẩm thấp thì mật sẽ bị chua. Vài chục kèo gác lên chỉ được mấy tổ ong, nhưng mật thì ngay cả cung vua cũng không thể có được. Vào mùa ăn ong, nàng đến thì sẽ được ăn món ong non chấm mật. Ăn món này thường xuyên, ngay cả cụ già tám mươi cũng có thể đánh nhau với cá sấu.

- Anh có vẻ giống như trại chủ nông trại. – Ngọc Du cười, chợt đưa mắt nhìn xuống ống quần vẫn xắn bên thấp bên cao của chàng. Chàng đáp lại nàng bằng nụ cười càng mở rộng.

- Phải, hồi bé tôi rất ham chơi. Anh trai để tôi lại cũng vì thế. Khi anh ấy hỏi sau này muốn làm gì, tôi nói chỉ thích câu cá với trồng hoa.

Lời nói của chàng vô tình, nhưng nàng khẽ giật mình. Nhìn xuống hũ mật trên tay mình, nàng tránh ánh mắt chàng.

- Còn tôi lúc nhỏ thì thích có một hồ sen trong vườn. – Nàng nói, cốt chỉ để đánh trống lảng. Nhưng người thanh niên kia hầu như chẳng cảm thấy gì, vẫn cứ vui vẻ cười.

- Vậy chúng ta sẽ quây một cái hồ, bên trên trồng sen, bên dưới thả cá. Nàng hái hoa còn tôi câu cá.

Anh lại nói nhảm, nàng muốn nói, muốn cau có như mọi lần. Nhưng mùi mật ong ngọt ngào vẫn quẩn quanh trong nàng, sưởi ấm như thể nắng đang ngấm vào cơ thể, từng thớ thịt, mạch máu. Như thể trong mình đang tỏa sáng một hơi ấm nồng hương hoa. Một món mà ngay cả cung vua cũng không thể có. Cuộc sống của chàng ta cũng thế, chàng ta có những gì ngay cả kẻ quyền lực tột cùng cũng không thể có. Nghĩ đến điều đó, không hiểu sao nàng chỉ thấy thoáng buồn.

- Anh ra ngoài thấy tình hình thế nào? – Ngẩng lên, nàng quyết định hỏi. Lần này đến lượt chàng tránh nhìn nàng. Chàng ta không vui khi nàng nhắc đến chúa công, cũng như thái độ đêm hôm trước, nàng nhận ra mà không hiểu lý do.

- Vẫn chưa có gì. – Chàng trả lời, hơi miễn cưỡng. – Chỉ nghe nói rằng bọn hải tặc Bạch Liên giáo đã chạy thẳng ra Phú Quốc, chưa quay lại.

- Càng tốt. – Ngọc Du thở ra. Sau khi chứng kiến cuộc chạy trốn của Hà Hỷ Văn, nàng không muốn nhìn thấy bọn chúng lần nữa. Nàng đặt lại hũ mật vào tay Võ Tánh khi người hầu gái đem cơm vào phòng. Chàng định nói gì đó, nhưng chỉ im lặng nhìn nàng đứng dậy đến bên mâm cơm, ngồi xuống so đũa. Nàng vẫn có vẻ yếu ớt, nhưng không còn chuếnh choáng nữa. Vẫn không nhìn chàng, vừa mở mâm và xới cơm ra chén, nàng vừa nói:

- Có lẽ ngày mai tôi về Long Hồ, nhờ anh cho mượn một chiếc thuyền. – Giọng nàng lạnh nhạt. Hay chính chàng đang nghe thành lạnh nhạt.

- Mai tôi sẽ đưa nàng đi. – Chàng cũng bắt chước giọng nói không âm điệu của nàng.

10

Tháng chạp năm Đinh Vị, Nguyễn quân thu được dinh Trấn Biên.

Họ im lặng khi nghe cái tin ấy. Võ Văn Lượng nhắm hờ mắt, lặng lẽ rít thuốc. Khói xanh bốc qua cửa sổ lặng gió, cuốn từng đám tan vào nắng. Nắng đã nhạt trong những ngày cuối năm khi nước lũ từ đầu sông tràn về. Nguyễn Văn Hiếu nhìn theo ngọn cau đã đơm những chùm trái nhỏ. Sắp đến mùa nắng, Võ Tánh chợt nghĩ, gần đến ngày lấy mật khi các tổ ong đã ăm ắp đầy.

- Sâm qủa là phải vất vả. – Cuối cùng, Nguyễn Văn Hiếu khoanh tay nói. Võ Văn Lượng để buột một tiếng cười khẽ. Không ai trong họ tỏ ra ngạc nhiên.

Tất nhiên thôi, chàng có thể đọc được ý nghĩ của những người trong phòng. Phạm Văn Sâm đã bị quân Nguyễn quay như dế với chiến thuật rải quân thoắt ẩn thoắt hiện khắp Gia Định. Sâm ở Mỹ Tho, quân Nguyễn đánh vào sông Lương Phú, Ba Giồng. Sâm về Sài Côn, quân Nguyễn đánh sông Mỹ Lung, Trà Lọt. Quân Tây Sơn bị tỉa dần dần, phải tụ về Cầu Sơn, Mỹ Tho. Quân Nguyễn đã tạo thành một vành đai bao vây Phạm Văn Sâm vào giữa. Tránh đụng độ với binh chủ lực của Tây Sơn, lại chiếm cứ gần hết các địa điểm vận chuyển, cung cấp quân lương, chúa Nguyễn đang muốn thực hiện kế hoạch chiến tranh chậm rãi của mình. Dù biết điều đó thì tướng Sâm cũng vẫn không thể thoát được.

- Sắp đến mùa gió bấc. – Võ Văn Lượng chợt nói, phả khói qua những chấn song cửa sổ.

Hai người còn lại đưa mắt nhìn nhau. Sắp đến mùa gió Bắc vào lúc cường thịnh nhất, thời điểm tấn công của quân Tây Sơn hằng năm. Nguyễn Nhạc đã im lìm không động tịnh có thể vì đang chờ đợi quãng thời gian này.

- Nguyễn Huệ có thể không can thiệp. – Nguyễn Văn Hiếu lên tiếng. – Vua Lê đã bày tỏ thái độ với việc Huệ chiếm Nghệ An. Một kẻ như Huệ, ngay cả anh mình cũng làm phản, thì chẳng thờ vua Lê lâu được. Nghe phong phanh rằng chiến tranh đã xảy ra ở Nghệ An.

- Chuyện đó không thể nói trước được. – Võ Văn Lượng lắc đầu. – Huệ vốn dĩ biết Gia Định này, sau khi quân Đông Sơn, Lương Sơn bị phá, thì chẳng còn lực lượng nào đáng kể. Huệ phải ở lại Phú Xuân để canh chừng Nhạc, cho tướng lãnh của mình bình Bắc Hà, thì cũng có thể cho tướng lãnh quyền vào Gia Định. Tùy theo đánh giá mặt trận nào quan trọng hơn, Huệ sẽ đích thân quản lý nơi ấy.

Họ lại im lặng. Võ Tánh có thể cảm thấy một câu hỏi lơ lửng trong không khí. Họ sẽ làm gì trong hoàn cảnh sắp tới?

Bằng việc chiếm cứ dinh Trấn Biên, chúa Nguyễn đã chứng tỏ được rằng mình có khả năng. Rải binh trên khắp Gia Định, kiểm soát được cả Hà Tiên cùng các vùng phụ cận với Chân Lạp, lực lượng ngày càng tăng, thu phục cả những hàng binh, hàng tướng Tây Sơn, chúa Nguyễn đã trưởng thành hơn hẳn. Rút kinh nghiệm những ngày trước, có thể vị chúa này sẽ không để lại một mảnh đất độc lập nào nằm ngoài tầm kiểm soát của mình. Bây giờ họ không còn có thể lựa chọn, mà phải quyết định.

- Tánh. – Võ Văn Lượng gọi. Chàng quay sang, chờ đợi, chỉ thấy ông ta mỉm cười. – Sửa soạn Tết cho trại đến đâu rồi?

- Một bánh pháo to đến mức cả Tây Sơn và chúa Nguyễn đều phải giật mình. – Khoanh tay, chàng trả lời không bằng lòng cho lắm. Võ Văn Lượng cười khùng khục trong cổ.

- Dù sau này có thế nào thì Tết cũng phải làm cho tươm tất. – Ông nói, giọng chợt chùng xuống, rất nhẹ đến mức chàng đã có thể không nhận thấy.

Vận hội mới, hoặc hoàn cảnh mới, đang đến gần. Họ phải lựa chọn. Và sự lựa chọn này sẽ dẫn họ vào một cuộc hành trình dài, rất dài. Như những thủy thủ đang đứng trước biển khơi, biết rằng khi buông mình trên ngọn sóng và làn gió, họ chỉ có thể phó mặc cho vận mệnh. Con đường mà họ đã bắt đầu, phải đi đến tận cùng của nó.

- Để tôi cho gọi Trần Văn Tín và Mạc Văn Tô về. – Võ Tánh nói, trước khi đứng dậy đi ra.

- Cậu ấy có vẻ thông suốt rồi. – Nguyễn Văn Hiếu nói khi chỉ còn lại hai người. Võ Văn Lượng không đáp lời ông. Một lúc sau, Nguyễn Văn Hiếu lại tiếp lời. – Nhưng cậu ta lẫn chúa Nguyễn còn chờ đợi gì? Từ dạo Nguyễn Đức Xuyên đến đây, chúa Nguyễn chẳng còn chính thức kêu gọi lần nữa. Ngay cả sau vụ việc ở Kỳ Hôn, bên quân Nguyễn vẫn không thấy động tịnh.

- Kỳ Hôn… - Võ Văn Lượng cau mày. – Phải, ba trận ở Kỳ Hôn đuổi Phạm Văn Sâm về Sài Côn, tạo đà cho chúa Nguyễn chiếm Trấn Biên. Chính chúng ta cũng thấy bất ngờ. Chàng trai trẻ của chúng ta nghĩ gì khi làm việc ấy vậy? Hẳn chúa Nguyễn cũng đang tự hỏi điều đó nên chưa bày tỏ thái độ. Vậy thì phải đợi đến lúc giải tỏa được cái nguyên nhân thật sự này thôi.

- Quân Phạm Văn Sâm từ Mang Thít về, đó chẳng phải là lý do qúa rõ ràng? – Nguyễn Văn Hiếu chợt cười.

Mang Thít, ngoại biên của Long Hồ dinh. Thừa thắng từ Mỹ Tho, quân Phạm Văn Sâm đã tràn đến Long Hồ, trận chiến kéo dằng dai trên sông Mang Thít cho đến khi quân Nguyễn lấy trái cau khô làm đạn bắn qua lũy Tây Sơn bắt phải lui. Khi quân Tây Sơn đến Kỳ Hôn phía Nam Mỹ Tho, Võ Tánh đã chặn đường đánh tan cả đội khiến Sâm phải chạy thẳng về Sài Côn. Hành động bất ngờ ấy khiến cả Nguyễn Văn Hiếu, lúc đó còn đi thu mua quân lương, không hề hay biết. Kéo quân trở về gò Tre, chàng ta lại coi như không có gì xảy ra.

- Nên tôi nói chừng nào cái nguyên nhân ấy rõ ràng thì chúng ta mới có thể đi chung đường. – Võ Văn Lượng khẽ nhếch môi. – Tôi đang tự hỏi không biết Tết này chúng ta có nhận được qùa gì không?

Ngọc Du đi dọc theo bờ sông nhìn những con thuyền chuyển hàng vào bờ. Quân lương đang được xếp vào kho, nhưng còn một khoản riêng cho chi dùng dịp Tết. Dù trong thời chiến, thêm được một hai bát cơm là việc nên làm, nàng nghĩ với cái thở dài. Không có một cơ sở chắc chắn, việc thu thập quân lương ngày một khó khăn. Phải tổ chức cả cúng giỗ ngày lễ tết, nàng hẳn phải bán thêm vài món nữ trang nữa. Địa điểm tạm trú của chúa Nguyễn tại Long Hồ dinh đã được trang trí sơ sài, bàn thờ chưa được lập. Mấy hôm nữa vị chúa trở về, nàng chẳng còn bao nhiêu thời gian.

Đầu bên kia đoàn thuyền, một phụ nữ trẻ cũng đang quan sát như nàng. Ngọc Du đi về phía cô, vẫy tay. Thấy nàng, cô gái mỉm cười.

- Chị đã về. – Lại gần Ngọc Du, cô gái cúi đầu chào. Không đợi nàng hỏi, cô nói tiếp bằng giọng rất trong và rành mạch. – Em đã trang trí trong phủ, vật liệu không tốt lắm nhưng cũng tạm được. Về bàn thờ, em đã cho người vào rừng chặt cây, chọn loại gỗ tốt và thơm. Mấy hôm nay em cũng đang may một tấm vải phủ và áo lễ cho chúa công. Người trong vùng có dâng mấy lồng gà, ta chỉ phải đi mua vài lạng thịt. Gạo cúng em đã đích thân chọn loại tốt nhất.

- Việc gì có thể tự làm thì nên làm để đỡ phí tổn. – Ngọc Du cười. – Em lại định nói thế. Chị đang định bán vài thứ nữ trang, nhưng giờ chắc không cần nữa vì có một nội tướng rất giỏi là em đây rồi.

- Bán đồ trong nhà là vạn bất đắc dĩ. Nữ trang là ông cha cho để phòng thân, không nên tùy tiện. – Cô gái nói nghiêm nghị. Nhưng rồi cô lại nhoẻn miệng cười. – Đúng là việc gì chúng ta có thể làm thì nên làm. Em là phi tử của chúa công, nếu chỉ chút việc nhỏ này mà làm phiền người khác thì lúc ấy các chị cho em theo chúa công làm gì?

- Lại nói thế. – Ngọc Du lắc đầu. - Em là phi tử chứ không phải nàng hầu.

- Em vốn là nàng hầu của các công nương và Quốc mẫu. – Cô gái trẻ cười, giọng nói vẫn bình thản. – Xuất thân em quê kệch, vốn chỉ giỏi giang những công việc thế này. Được hầu hạ chúa công là phúc phận của em, em nên ghi nhớ điều đó mới là người có ân nghĩa được chứ.

Ngọc Du định nói nhưng lại thôi. Con bé lém lỉnh này, nàng nghĩ và cười thầm, gọi theo thói quen cả chục năm nay. Miệng lưỡi nó càng ngày càng lợi hại. Chỉ một chuyện nho nhỏ nó cũng có thể chỉnh người bên cạnh dễ như chơi, mà cũng thật là dịu dàng nhún nhường như thế. Sáu năm không gặp, cô bé nửa trẻ con nửa thiếu nữ đã lớn hẳn, tháo vát nhanh nhẹn hơn cả ngày xưa, nét đẹp cũng đã đến lúc phát tiết rực rỡ nhất. Đứng bên cạnh cô gái, nàng lại thấy thực sự mình đã già…

Bây giờ không phải lúc để nghĩ về chuyện này. Chớp mắt, Ngọc Du lại nhìn về phía đoàn thuyền. Phải chuẩn bị cả lễ vật cho các họ hàng, nhóm quân, thủ lãnh các vùng. Việc này nàng phải đích thân lo liệu.

Như đoán được ý nghĩ của nàng, Nhị phi Trần Thị Đang chợt cất tiếng:

- Em đã gom được một ít ngân lượng để chị chi dùng những việc bên ngoài. Bao giờ cần thì chị nói với em.

Bật ra một tiếng cười, Ngọc Du quay sang cô gái trẻ, vỗ nhẹ vào vai cô.

- Chúa công có phúc phận lấy được em mới phải.

Trong tay Nhị phi thì số ngân lượng này sẽ không ít, nàng nghĩ, nhẹ nhõm. Cô bé con của một cận thần đã che chở gia đình họ trong những ngày chạy trốn quân Trịnh, người đã từng ôm áo của chúa công ra chợ bán trong những ngày khốn khó, ồ, nàng đã nhìn thấy cách cô trả giá co kéo từng đồng. Giờ nàng chỉ còn phải nghĩ xem sẽ phải làm gì với số tiền ấy.

Tuy nhiên, đó là việc khiến nàng phải nhức đầu hơn hết thảy, Ngọc Du thầm nhủ khi liệt kê những món lễ vật cần thiết trên mảnh giấy nhỏ. Đêm tháng chạp, gió hao hao lạnh. Buông bút, khoác thêm một chiếc áo, nàng mở cửa bước ra sân. Đã vào những ngày cuối tháng, trăng hạ huyền trắng nhạt trên bầu trời một mảnh cong mờ ảo. Trong ánh sáng ấy, sao lại càng sáng, lấp lánh trải dài đến tận chân trời sau các lùm cây rừng bên bờ sông. Sương mù kết thành đám lờ lững trôi trên mặt nước. Có tiếng mái chèo khua bên bến. Tiếng sáo ỉ ôi cả đêm vừa tắt, trả lại không gian khoảng không vắng chỉ có tiếng dế râm ran, thi thoảng đệm vào vài thanh âm của ếch nhái, tiếng nước động. Gió vọng từ xa xăm. Bầu trời sao và mây cùng luân chuyển. Hơi nước ẩm, hơi sương lạnh, cả hơi thở dịu dàng trong ánh sáng của những vì sao.

Tất cả vẫn giống như đêm ấy…

Nàng nhìn xuống bàn tay mình, làn da trắng xanh trong bóng đêm như chưa từng thương tổn. Những vết thương đã lành từ lâu, rất lâu. Thở dài, nàng ngồi xuống bậc thềm âm ẩm lạnh, đăm đắm nhìn dòng sông và bầu trời. Nàng đã chìm trong suy nghĩ đến mức không nghe tiếng gọi. Nhị phi, cũng quấn kín trong một chiếc áo khoác ngoài, đến bên nàng từ lúc nào. Cô đang nhìn xuống nàng với sự lo lắng hiện lên trong mắt.

- Sao em lại ra đây? – Nàng lại là người lên tiếng trước. Cô phi tử trẻ ngồi xuống cạnh nàng trên bậc thềm. Cô không hỏi nàng, cũng không trả lời. Chống cằm lên tay, cô lơ đãng nhìn khung cảnh bên ngoài, nụ cười mơ hồ trên môi.

- Em không ngủ được. Nghe tiếng cửa phòng mở, em nghĩ chị ra ngoài, qủa đúng vậy. – Ngừng lại một chút, cô nói tiếp như thì thầm. – Chị nghĩ chúa công hiện đang ở đâu?

- Trấn Biên dinh, nhưng chắc cũng đang trên đường trở về. Em lại hỏi giống như ngày xưa. – Ngọc Du thở ra. Có những điều không bao giờ thay đổi, phải chăng?

- Ngày xưa… - Giọng cô gái kéo dài bên nàng như tiếng thở. – Em bé nhất nên em luôn luôn hỏi những câu kiểu như “Chúa công ở đâu?”, “Tứ công tử ở đâu?”, “Ngũ công tử ở đâu?”… Đến mức có lần Quốc mẫu phát bực. Bây giờ có muốn hỏi họ ở đâu cũng không thể nữa.

Thinh lặng. Họ nghe đàn dế lách tách trong những bụi cỏ. Họ nghĩ đến cái cổ phập phồng của con ếch xanh như thể đang thổn thức.

- Có lần chị đã nghĩ rằng cha đặt những cái tên mới đúng làm sao. – Nhìn lên bầu trời đen thẫm dệt kín sao, Ngọc Du để tâm trí mình trôi nổi. – Tú là vì sao, sẽ cô đơn suốt cả cuộc đời. Tuyền là dòng nước, qủa nhiên em ấy nhảy xuống sông mà mất. Uyển là khu vườn, em ấy đã thất lạc trong dân gian. Những cái tên thật là mệnh số cả cuộc đời.

- Còn chị? Chị định mệnh số của chị sẽ là gì? – Trần Nhị Đang chợt hỏi. Những vì sao lấp lánh trong mắt cô gái. Khi Ngọc Du im lặng, cô nói tiếp, lặng lẽ. – Chúa công từng nói với em tìm chỗ nào để cho chị nương tựa. Hiềm nỗi trong quân quan tướng tuy nhiều nhưng kẻ còn trẻ thì liều lĩnh vô tâm, người lớn tuổi thì đã vợ con đầy đủ. Ngài rất cẩn thận tìm kiếm. Ngài nói, cả gia đình đã toàn những người bất hạnh, chị nhất định phải là người hạnh phúc nhất. Ngọc Du là ánh sáng. Hai chị em cùng sinh vào một năm, cùng được đặt tên dựa vào ánh sáng. Chị nhất định là người hạnh phúc nhất.

Trời lặng gió, nhưng nàng đã rùng mình.

- Nếu nói như vậy, chúa công cũng có thể là người hạnh phúc trong nhà chúng ta. – Nàng cắn môi. Cô gái bên cạnh lắc đầu.

- Chúa công… vốn dĩ là không bao giờ hạnh phúc. – Cô thì thầm, thì thầm. Giọng nói của cô lạc vào màn đêm ran tiếng côn trùng. Nàng không trả lời cô. Nàng nhìn một ngôi sao vừa lụi tắt phía chân trời. Có những điều mà số mệnh đã gắn kết chúng lại như vậy đấy, nàng nghĩ, ngôi sao và ánh sáng và màn đêm.

- Năm ấy, nghe tin chị Tuyền bị bắt, chúa công đã một mình quay trở lại về gần vòng vây của quân Tây Sơn. – Trần Thị Đang vẫn nói, áo khoác của cô rơi sang một bên vai. – Anh Mân chết trận đầu tiên, rồi đến Thiểm, đến anh Điển. Lần ấy, suýt bị Tây Sơn bắt được, chúa công giong buồm chạy ra biển. Khi trở về, ngài gần như kiệt quệ.

- Lúc ấy chúng ta đang ở Phú Quốc. – Ngọc Du khẽ khàng. – Nghe tin Tây Sơn đến, chúa công đã cho người trong nhà đi trốn đầu tiên. Ngọc Tuyền nhất quyết theo chồng nó đến Đồng Nai, rồi trận vỡ, bị bắt. Chúng tôi nghe tin của nó cùng với những người khác. Tất cả cùng được báo về một lượt.

Họ lại lặng im. Nước mắt cũng đã trở thành dư thừa, phải chăng? Trong họ chỉ còn một khối đá lặng lẽ chìm xuống và nằm lại dù cho có biết bao năm tháng đi qua. Họ nghe tiếng nước động khi con ếch xanh nhảy xuống chiếc lá sen. Họ nghe dòng chảy. Nước và thời gian. Bầu trời và mặt đất. Cô gái không kể với nàng về những trận chiến. Những trận chiến mà cô đã chứng kiến, đã thoát khỏi nó, đã bao lần thoát khỏi bàn tay tử thần của nó. Đi theo chúa công, nàng nhớ đến lời mẹ Cả đã nói với cô khi đưa cô về cho em trai nàng. Đi theo chúa công, trong tất cả những trận chiến, những khó khăn và bất hạnh. Luôn luôn, cô gái chỉ mỉm cười. Cô không nói về nỗi đau, cô nói đến ước vọng. Còn nàng thì vẫn chưa bao giờ nghĩ đến cuộc đời mình sẽ ra sao.

Đó chỉ là ảo tưởng của phụ nữ các nàng. Lời nói của chàng trai ấy lại trở về. Chàng trai ấy, người đã cho nàng một vòng tay, đã đến bên nàng. Nàng vẫn nhớ cái đêm dưới ánh trăng xanh và hạt cỏ đuổi mình trên những đợt sóng lăn tăn sáng. Chàng đã xuất hiện, trên người vẫn còn đầy mùi khói và mồ hôi hòa cùng với nước lăn tròn bên thái dương. Mùi khói. Mùi khói của những gì đã bị thiêu hủy. Những gì đã bị đốt cháy.

Em nghỉ đi, nàng nói với cô gái trẻ trước khi quay vào. Họ không có thói quen nói về nỗi đau và nhìn thẳng vào nó. Cứ để thời gian đi qua và những nỗi đau lắng xuống, trở thành một khối nặng trĩu đến thiên thu. Khi khép cửa, nàng nhìn lại một lần cuối dòng sông và bến sông vắng lặng. Đi lên đầu nguồn, đầu bờ cỏ dưới bóng cây cổ thụ là bến đò cho buổi họp chợ sáng. Sau những năm chiến tranh, nơi ấy đã bị bỏ hoang, chỉ còn bờ gỗ và bậc đá dẫn xuống dòng sông, chiếc cọc buộc thuyền đã đen xỉn vì mưa nắng. Nơi ấy, dưới bóng cây ngả tán lá xanh là đà trên dòng nước, trên dòng nước loang loáng trăng, trong bộ quần áo còn đẫm mùi khói súng cùng bùn đất, nàng mới thật sự thấy chàng đúng như những gì nàng đã biết: Tổng nhung Kiến Hòa quân, chàng trai vừa đánh bại đội quân Tây Sơn đến ba lần.

Nàng vẫn đứng đó, nơi bậc cửa, nhìn bến sông.

Điều gì đã xảy ra trong đêm ấy? Sự chuyển động của gió và mây, nét viền đen thẫm của bờ nước. Hơi lạnh từ những bậc thềm đá. Ánh mắt bỏng cháy của người thanh niên trên chiếc thuyền con. Tiếng mái chèo rơi xuống mặt nước trước khi chàng cũng buông mình xuống. Nước bắn lên tung tóe. Chàng thả mình nằm ngửa nổi trên dòng sông nước chảy chậm chạp. Nước đã dường như không chảy nữa. Chàng thả người nằm trên mặt nước, giữa bóng trăng luênh loáng xanh, nhìn trời. Nhìn những ngôi sao. Nhìn mây bay qua. Và rồi thế giới đã trở nên im lặng.

- Này! – Nàng đã gọi. Chàng trai không quay lại, không nhìn nàng.

- Tây Sơn tan rã rồi. Chúng chạy chân đất về Sài Côn. – Chàng nói, dang hai tay. Nước động thành vòng tròn quanh chàng.

Tôi nghe rồi. Nàng đã muốn nói điều ấy. Hoặc không phải. Sao anh lại làm thế, đó mới là điều đang nhảy múa trên đầu lưỡi nàng. Dằng dai ở sông Mang Thít, thiếu đạn dược phải lấy cả trái cau khô để bắn, quân Nguyễn mới đẩy lùi được Tây Sơn. Trong lúc họ đang chờ đợi Sâm trở về Mỹ Tho lấy thêm viện binh kéo đến một lần nữa, Võ Tánh đã cắt ngang trận chiến ấy. Tây Sơn bị Kiến Hòa quân đánh cho đại bại, tin báo về làm nhẹ nhõm cả Long Hồ dinh. Võ Tánh đã giáp chiến và phá tan quân của Sâm ở Kỳ Hôn, tin ấy làm nên một cái nhói nhẹ trong tim nàng.

- Nàng có biết Kiến Hòa quân được tạo lập thế nào? – Võ Tánh chợt lên tiếng. – Khi nghe tin anh trai mất, tôi đến Trấn Phiên tập hợp quân binh. Lần đầu là ở Ba Giồng, chỉ có một mình tôi ở đó. Đội quân ấy bị Tây Sơn kéo đến quét sạch, tôi mới về gò Tre này. Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Văn Tín, Mạc Văn Tô đến. Võ Văn Lượng là người tài trợ cho Kiến Hòa quân bằng tất cả gia sản của ông ấy. Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô là học trò của Kiến Hòa tiên sinh Phạm Đăng Long. Quân Tây Sơn kéo đến một lần nữa, lần này là do tướng tên Ngụy Nguyên chỉ huy. Tôi dụ chúng vào giữa giồng, dùng hỏa công thiêu rụi, phóng giáo tiêu diệt hết số còn lại. Từ ấy, Kiến Hòa quân chiếm cứ một vùng. Quân sự thì do tôi cùng Võ Văn Lượng, Trần Văn Tín, Mạc Văn Tô chỉ huy. Quân lương do Nguyễn Văn Hiếu phụ trách.

Họ im lặng. Võ Tánh quay mình bơi vào bờ. Khi chạm đến bậc thềm, tóc chàng đã rũ xuống trên vai, ướt ròng nước. Ánh trăng trên mi mắt chàng và bóng tối dưới hàng mi.

- Phải, tôi thừa nhận, tôi đã đến đây vì anh trai mình. – Chàng nói, nhìn thẳng vào mắt nàng. Giọng chàng trầm sâu. – Nàng có hiểu không? Chúng tôi là những đứa trẻ mồ côi, tôi chỉ có anh trai là người thân duy nhất. Trước đây tôi chỉ thích đánh cá và dong thuyền dạo chơi, vậy mà bây giờ lại thành như thế đấy. Rồi sau này sẽ thế nào, nàng có trả lời được không?

- Về với chúng tôi đi. – Nàng nói sau một lúc thinh lặng. Đôi môi chàng nhếch lên thành một nụ cười. Chàng buông tay khỏi bậc đá. Nhưng trước khi chàng thả mình ra xa, nàng đã nắm vai áo chàng lại. Vai áo ướt lạnh dưới tay nàng. Mùi khói đã được gột bớt vẫn còn thoang thoảng. Nhìn gần, nàng có thể thấy một vệt đen trên má chàng.

- Chỉ một mình anh đã có thể đánh bại cả đội quân mà chúng tôi phải vất vả mới đẩy lui được. – Nàng thì thầm, thao thiết. – Chúng ta cùng có một kẻ thù. Chúng ta cùng có một mục đích. Tôi có thể bảo đảm với anh điều đó. Tôi có thể dùng tính mạng để bảo đảm. Mối thù ấy, nếu cần, tôi có thể trả.

- Bằng cách nào? – Chàng trai hất nhẹ cằm. Nước ròng ròng trên mặt chàng. Mái tóc đẫm nước xõa cả xuống mắt. – Phải, đó là cách rất hay. Chúa công nàng giết anh tôi. Tôi giết chị của chúa công nàng, thật sòng phẳng, phải không? Cách hay nhất để hành hạ một người là giết đi kẻ thân yêu nhất của hắn.

Nàng chớp mắt. Những ngón tay nàng rời khỏi vai áo chàng. Chàng cũng không bơi ra xa. Chàng chống tay chuyển người bước lên bậc thềm đá. Thủy triều đang lên và nàng đã nghe nước xâm xấp dưới bàn chân trần của mình. Ngồi xuống bên nàng, chàng nhìn ra mép viền của dòng sông uốn mình khuất sau lùm cây.

- Sao nàng lại ở đây? – Chàng hỏi. Nàng mím môi.

- Hôm ấy, anh đã đưa tôi về đây chứ không phải bến sông chính để tránh bị bắt gặp. – Ngừng một lát, nàng nói, rất nhỏ. – Khi nghe tin anh đã đánh bại Tây Sơn, tôi cứ nghĩ anh sẽ đến đây.

- Phải, đáng lẽ tôi sẽ đến đây. – Chàng nói với tiếng cười khẽ. – Khi nghe tin Tây Sơn đến Long Hồ, tôi cứ nghĩ rằng nàng ở đó. Bọn chúng thật là tệ. Thay vì đuổi theo chúa công nàng thì chúng lại định trừ diệt Long Hồ. Đội quân của tôi đáng lẽ phải đến đây. Tôi đã hứa với nàng, phải không?

Tôi cứ nghĩ anh đùa, khó khăn lắm nàng mới kềm lại được. Lời nói ấy, thốt lên một cách hoàn toàn vô tình và vô ý. Lời nói đã khiến trái tim nàng loạn nhịp. Nàng cứ cho rằng đó là lời đùa cợt hay chính vì nàng không muốn tin?

Gió thì thào trong bóng tối những lời không nghe rõ. Thủy triều vẫn đang lên dưới chân họ. Trên những cành cây xòa xuống mặt nước, nàng thấy những cái bóng trăng trắng như thể đàn mối đang đuổi nhau chạy qua. Bóng đom đóm xanh lập lòe trong cỏ. Chiếc thuyền vẫn nằm lẻ loi trong bóng trăng, xoay mình chậm chạp. Mùi khói trên thân thể chàng giờ đây biến thành hơi đăng đắng.

Sao mình lại đến đây, nàng lại tự hỏi. Sau cả buổi tối bồn chồn, bước chân đã đưa nàng tới bến đò cũ nơi hai dòng nước giao nhau này. Bóng đom đóm xanh dẫn đường cho nàng. Những con thuyền thiếp ngủ bên bờ sông giục giã nàng. Tiếng gà trong vườn nhà ai đó động viên nàng. Phải chăng, trước khi đến, nàng đã nhận biết được câu trả lời? Nàng đã nhận biết câu trả lời khi chàng xuất hiện. Từ trong dòng sông đẫm trăng xanh. Mang theo mùi khói và cái chết.

Họ nghe tiếng một loài chim ăn đêm rúc trên ngọn cây cao.

Âm điệu buồn bã trong vắt của đêm.

Mất đoàn quân này, Tây Sơn sẽ không còn có thể tổ chức tấn công được nữa, nàng nghĩ. Chúng sẽ phải cảnh giác với bất kỳ địa điểm nào ngoài nơi đóng quân của mình. Dồn quân Tây Sơn vào Sài Côn, Mỹ Tho, chúng ta có thể toàn quyền kiểm soát miền Bắc, Tây Bắc Gia Định.

Nhưng nàng đến đây không phải vì điều đó.

Có nhiều điều nàng muốn nói, nhưng không biết phải nói gì. Nước đã ngập trên mắt cá chân nàng, nàng rút chân lên, thu sát ngực. Gặp khí lạnh của đêm, nàng hơi rùng mình.

- Tôi sợ. – Nàng nói, nhìn cọng cỏ lập lờ nhô mình trên mặt nước. – Chúng tôi đã chuẩn bị rút khỏi Long Hồ. Chúng ta luôn phải tính đến trường hợp xấu nhất, phải không? Như bao nhiêu lần trước. Tôi đã luôn luôn phải chạy trốn. Từ ngôi nhà ở Phú Xuân, tôi chạy về làng An Dụ. Từ làng An Dụ, tôi trốn đến Gia Định theo đường rừng. Đến những đợt đánh rồi lại rút. Chúng tôi bị lược bớt dần dần. Trước khi anh đến, tôi rất sợ.

Nàng đã rất sợ, cả cái lần treo mình trên ngọn cây cao. Nàng đã rất sợ, trong những đêm băng mình qua bóng tối. Nàng đã rất sợ, những lần đến các trạm kiểm soát của quân binh kẻ thù. Nàng nói ra điều đó với lồng ngực nặng trĩu. Chẳng ai có thể thay đổi những gì đã và đang xảy ra. Chẳng ai thay đổi được.

Bàn tay vuốt nhẹ lên tóc nàng. Bàn tay ướt nước.

Gió vẫn thì thào trong những cánh rừng. Sương đã buông và trăng đã lẩn mình trong một đám mây. Coi chừng nhiễm lạnh, nàng muốn nói điều đó với người thanh niên bên cạnh. Nhưng anh ta là con người được hun đúc thành từ đất phương Nam, từ những dòng nước, bùn đất và rừng, từ nắng gió và mưa. Từ trăng chuếnh choáng trong sương. Từ tiếng ca cất mình trong cỏ.

Cả từ hơi khói và cái chết. Những gì mà dòng sông không bôi xóa được.

Có điều gì mà chàng muốn nói, nhưng cũng không biết phải nói từ đâu. Mái tóc nàng rời khỏi búi buộc chặt, rơi qua những ngón tay chàng. Nàng giật mình. Chàng cũng giật mình.

Ngọc Du khép cánh cửa, tựa trán vào mặt gỗ lạnh.

Điều gì đã xảy ra trong đêm ấy? Sau sự căng thẳng của cuộc chiến, sau những buồn bực và mừng vui, sau những hy vọng và tuyệt vọng. Trong những sự phi lý của sự sống và nét cuốn hút tuyệt cùng của cái chết. Nơi nỗi cô đơn đã tróc ra rơi lả tả trên nền đất và những gì không thể bộc lộ trong ánh sáng ngày giờ trở thành hơi sương trong đêm vắng. Điệu nhạc da diết của dòng sông và đêm thâu. Vẻ trong trắng ngây thơ của ánh trăng. Nét đẹp đến bi thương của thế giới đầy hỗn loạn.

Cái giật mình thoáng qua đã trở thành khát khao khôn tả. Ai đã là kẻ đầu tiên tiến đến không còn là điều quan trọng. Đôi môi chàng tìm được đích xác nơi muốn đến. Môi chàng lạnh hơi sương, ngọt như nước của dòng sông. Ánh trăng lấp lóa trên mi mắt nàng trước khi phân tán thành muôn vàn, triệu triệu tia sáng khuất trong những đám mây. Nàng đáp lại đôi môi đang tìm kiếm, đón nhận nó đầy vô thức. Tay chàng quàng qua lưng nàng, kéo nàng gần lại. Nước trên áo chàng thấm qua nàng. Nàng nghe rõ tiếng tim đập qua làn da đang run rẩy. Sau đó là hơi ấm. Ngọn lửa bừng cháy trong nàng. Những mạch máu đập dồn đến mức tai như ù đi. Thân thể chàng như một cái cây, quấn siết nàng đến ngạt thở.

Nước luồn qua những ngón tay nàng. Tiếng thì thầm của dòng sông dưới bàn chân và xung quanh họ. Nước đánh dưới bàn chân nàng. Hương cỏ lành lạnh. Những bóng hình, thanh âm ấy chênh chao, chênh chao.

Thế giới tự nhiên vẫn thế, vẫn đầy hỗn loạn và u buồn.

Có thể tất cả chỉ xảy ra trong khoảnh khắc. Khoảnh khắc của một cái chớp mắt. Bầu trời và mặt đất và vầng trăng cùng những vì sao vẫn cứ như thế, không thay đổi. Cả những giọt nước đang nhỏ xuống từ tóc chàng. Nàng có thể cảm thấy nước đang trượt trên má mình. Ngón tay chàng chạm vào chúng, trên làn da nàng. Và chàng rời khỏi nàng.

Dòng sông vẫn rì rầm. Chẳng có điều gì đổi thay trên mặt đất.

Nàng nhìn chàng đứng dậy, một lần nữa buông mình xuống dòng sông. Chàng bơi theo chiếc thuyền đang bị cuốn về phía cuối nguồn. Từ lúc nào không rõ, dòng nước đã mạnh lên. Thủy triều đã ngập gần hết bờ đá, nàng đứng lên. Quay bước về phía con đường dẫn về phủ chính, nàng không nghe chàng gọi. Hoặc chàng đã không gọi nàng, có lẽ.

Điều đó không quan trọng, rồi chàng sẽ quay trở lại. Hoặc nàng sẽ quay trở lại.

Nàng nhắm mắt, để thoát ra một tiếng thở dài. Tờ giấy và mực vẫn ở trên bàn chờ đợi nàng. Ngọn đèn đã gần cháy hết. Khêu lại đèn, nàng cầm cây bút, từ tốn mài mực và chần chừ đặt nó lên khoảng giấy trắng.

Lễ vật để đưa đến Kiến Hòa quân. Nàng sẽ nghĩ về nó sau.

Chúa công nói, chị nhất định phải là người hạnh phúc nhất. Lời cô gái trẻ thì thầm bên tai nàng. Bên ngoài, nàng nghe tiếng cây lá đập vào khung cửa. Vẫn chưa nghe thấy cửa phòng bên mở ra. Nhị phi vẫn chưa về phòng. Hẳn cô gái trẻ lại đứng nhìn sương đêm cho đến khi vạt áo ướt đẫm.

11

– Thật là nóng! – Vừa bước vào phòng riêng, chúa Nguyễn đã thốt lên, quẳng áo khoác ngoài lên ghế, nới lỏng cổ áo. Nhị phi vội vã bước tới thu dọn, rót trà ra ly. Không để tâm đến, em trai nàng ngả người dựa vào bàn, nhìn nàng vẫn khoanh tay đứng bên cạnh.

- Chúa công đã về. – Ngọc Du hơi cúi đầu. Trước khi nàng định nói, vị chúa đã đưa tay ngăn lại.

- Nếu chị muốn báo cáo về việc chuẩn bị Tết thì để sau. Trời nóng thế này, ta chẳng muốn ngồi nghe bản liệt kê gạo muối cá mắm. Việc thưởng cho anh em binh lính thì các quan đã báo rồi.

- Còn lễ đưa đến các nơi, chúa công. – Ngọc Du vẫn kiên nhẫn nói. – Ngài đã về trễ hơn dự kiến, phải gấp rút phê chuẩn để đưa đi.

- À, lễ. – Em trai nàng nhướng mày. – Phải rồi, ta có món này nhờ chị đưa đi.

Vị chúa ra hiệu cho người lính ngoài cửa. Một lát sau, anh ta trở lại, đặt một chiếc hộp gỗ lên bàn trước mặt Ngọc Du. Nàng mở hộp, cau mày nhìn sang chúa Nguyễn. Đan hai bàn tay vào nhau, vị chúa mỉm cười.

- Nhờ chị đưa cho thủ lãnh Kiến Hòa quân. Nói với Võ Tánh đây là đặc sản quê hương mà ta tặng.

Mùa khô đã chiếm trọn mảnh đất phương Nam. Đường vào doanh trại Kiến Hòa lổn nhổn sỏi đá thay cho những vũng lầy các tháng trước. Dừng lại để lấy viên đá rơi vào trong giày, Ngọc Du khẽ nhăn mặt khi cạnh đá cứa vào bàn chân. Những cành cây khô rơi xuống, giăng mắc trên không, dưới đầu gối, quấn vào tay, vào áo. Lối đi lên gò lẫn giữa cánh rừng, vòng quanh các đầm nước nhỏ đang đến mùa cạn, không thể nhìn qúa vài thước phía trước. Nàng mím môi đi theo người dẫn đường. Sau lưng nàng, những người lính thở khẽ trong cái nóng ban trưa. Nhưng nàng không để ý đến thanh âm ấy. Nàng đang chỉ nghe nhịp đập của trái tim mình.

Rõ ràng, theo từng bước chân, tiếng tim nàng đang mạnh dần lên.

Nàng không còn là thiếu nữ để mơ mộng, không là cô tiểu thư cành vàng lá ngọc để e ấp ngại ngùng. Đêm ấy, cảm xúc thoáng qua và hành động bất ngờ đối với cả hai người có lẽ đều không phải là ý họ muốn. Hoặc là phải, nhưng vì đâu, như thế nào? Nàng không phải là người suy nghĩ dựa vào cảm xúc. Và nàng cũng hiểu rõ bản thân mình, rốt cuộc thì nàng chỉ là một phụ nữ. Một phụ nữ luôn có khoảnh khắc đau lòng của riêng mình. Còn chàng thanh niên ấy là một người đàn ông. Người đàn ông có những điều để theo đuổi mà chỉ có họ mới hiểu hết giá trị của nó.

Cho nên, không quan trọng là hai con đường đã giao nhau như thế nào, mà sẽ tiếp tục như thế nào.

Đó mới chính là điều khiến nàng vừa muốn tìm hiểu, vừa sợ phải đối mặt.

Những lãnh đạo của Kiến Hòa quân đã đợi nàng trong sân sau khi được người lính đi trước báo về. Sau lưng Võ Tánh có hai người mà nàng chưa từng gặp, hẳn là Mạc Văn Tô và Trần Văn Tín. Dừng lại trước họ chừng mười bước chân, nàng nhẹ cúi đầu – cái cúi đầu của một công nương trước người lạ.

- Nhân dịp Tết đến, chúa công tôi gửi tới trại Kiến Hòa món qùa nhỏ để tỏ tình kết giao với các danh sĩ phương Nam. – Nàng nói, tiếng vang rành mạch và rõ ràng trong khoảng sân rộng. Những người lính đặt các quang gánh xuống sân.

- Đa tạ hảo ý của Nguyễn vương, chúng tôi cũng đang chuẩn bị vật lễ tạ. – Võ Tánh cất lời, đều đều. – Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn tiệc để thiết đãi công nương và các anh em. Mong mọi người ở lại để chúng tôi bày tỏ lòng hiếu khách của mình được chu đáo.

- Cám ơn Tổng nhung, chúng tôi xin theo lời ngài. - Nàng nói, không nhìn lên. Quay lại ra hiệu với người lính, nhận lấy chiếc hộp mà anh ta đưa tới, nàng bước về phía trước, nâng nó lên bằng hai tay trước mặt Võ Tánh.

- Chúa công có món qùa tặng riêng cho Tổng nhung. Chúa công vừa ghé qua Trấn Biên quê Tổng nhung và muốn bày tỏ thành ý với ngài.

Chớp mắt, Võ Tánh đưa tay đỡ chiếc hộp. Chàng cám ơn rồi quay lại nói với Nguyễn Văn Hiếu chuẩn bị chỗ nghỉ ngơi cho đoàn người vừa tới. Rất nhanh, nghi lễ đã hoàn thành. Ngọc Du đi theo Nguyễn Văn Hiếu và Mạc Văn Tô về phía sau doanh trại trong khi những thủ lãnh Kiến Hòa quân vào nhà chính.

- Họ không nhắc tới sự việc ở Kỳ Hôn. – Trần Văn Tín cất tiếng khi vừa ngồi xuống ghế. – Chỉ cử chị mình đến đây, chúa Nguyễn cũng không muốn cuộc thăm viếng này là chính thức.

- Hẳn chúa Nguyễn còn rất thận trọng sau khi Nguyễn Đức Xuyên đến đây và bị từ chối. – Võ Văn Lượng nhẹ nhàng nói, quay sang Võ Tánh. Chàng đang mở chiếc hộp gỗ. Một nếp nhăn sâu hằn giữa hai lông mày chàng. – Cái gì vậy, Tánh?

Không nói không rằng, Võ Tánh đặt chiếc hộp xuống bàn. Võ Văn Lượng và Trần Văn Tín nhoài người đến. Lại Trần Văn Tín là người phản ứng trước tiên.

- Đất? – Phó tướng của Kiến Hòa quân trợn mắt nhìn gói đất nhỏ được đặt trang trọng trong chiếc hộp lót lụa. Đất khô đã ngả màu hơi xam xám, thấy được cả những hạt sỏi trắng lẫn vào. Võ Văn Lượng nhìn Võ Tánh. Chàng ngả người trên ghế, quay sang khoảng sân sau cánh cửa. Nắng chiều đã chiếu xiên bóng qua các chấn song.

- Phải, đất. – Võ Tánh nói. Nụ cười thoáng trên môi chàng.

Buổi chiêu đãi ban trưa kéo dài gần hết chiều. Đến những ngày cận Tết, doanh trại Kiến Hòa cũng đã chuẩn bị cho những buổi tiệc lớn. Với bản tính của phương Nam, rượu và thức ăn đổ tràn trề trên đất. Rất nhanh chóng, những người lính Nguyễn mới đến và quân Kiến Hòa chủ nhà đã thành bạn chén tạc chén thù bên bàn rượu. Thấy lẻ loi trong không khí ấy, Ngọc Du cáo từ đi ra. Bên ngoài, hoàng hôn đã nhuộm đỏ rực bầu trời. Mặt trời tròn đỏ au đã hạ xuống qua ngọn tre, ánh sáng loang qua các tầng mây tím thẫm. Hàng tre dưới chân gò xào xạc trong gió chiều. Đây là mặt phía Tây của doanh trại Kiến Hòa, nàng thầm nghĩ, từ đây có thể nhìn sang đầm Vạn Thắng, địa điểm đầu tiên Kiến Hòa giáp chiến và tiêu diệt Tây Sơn. Từ vị trí này chỉ thấy rừng nối tiếp rừng, những lằn nước ẩn hiện dưới các tán lá. Trong ánh nắng chiều của ngày khô hạn, tất cả như đang rừng rực chỉ đợi đến lúc bốc cháy.

- Nơi đây là chiến trường của chúng tôi đấy. – Giọng nói của Võ Tánh khiến nàng khẽ giật mình. Chàng đang đến gần nàng, mỉm cười. – Trong những đêm âm u, nghe nói rằng sẽ nhìn thấy bóng trắng của các hồn ma thoảng qua bên dưới.

- Anh đã từng thấy bao giờ chưa? – Ngọc Du hỏi, lại quay về phía mặt trời. Tiếng lá làm dịu đi nhịp đập của trái tim nàng.

- Rồi. – Võ Tánh chỉ trả lời có thế. Họ cùng quan sát mặt trời từ từ chạm vào mép viền của khu rừng và mặt đất.

- Chúng ta có những đền thờ dành cho kẻ thù của mình, ở khắp nơi. – Ngọc Du nói, khẽ khàng. – Khi chết, tất cả cùng bình đẳng.

- Tôi tin rằng khi sống cũng vậy. Nhưng có những người cho rằng mình có quyền quyết định sự sống của người khác. Rồi lại tự họ cảm thấy tội lỗi nên phải tìm cách an ủi những kẻ đã chết. Thật ra họ chỉ đang tự xoa dịu chính mình.

- Anh nói mình đã thấy những bóng ma? – Ngọc Du hỏi sau một lúc im lặng. Nàng chậm rãi quay nhìn chàng trai bên cạnh. – Anh đã mở món qùa của chúa công tôi chưa?

- Cả hai câu hỏi, rồi. – Võ Tánh vẫn nhìn khối lửa khổng lồ đang trôi dần xuống trong khoảng không chói lọi các sắc màu xen lẫn. Nắng soi trong mắt chàng, hằn rõ nếp nhăn sau đuôi mắt. – Chúa công nàng đã đến làng Phước Tỉnh?

- Chúng tôi vừa chiếm được Trấn Biên. – Nàng cười nhẹ.

- Phải. – Chàng nói rồi lại lặng im.

Nàng quan sát chàng qua khóe mắt. Đây không phải là phản ứng mà nàng chờ đợi. Em trai nàng có ý gì khi gửi cho thủ lãnh Kiến Hòa quân gói đất lấy từ quê hương chàng?

- Nàng có biết chúa công nàng từng gửi Nguyễn Đức Xuyên đến đây? – Chàng chợt hỏi. Nàng nhíu mày.

- Bao giờ?

- Khi chúa công nàng còn ở Xiêm La, trước khi chúng ta gặp nhau ở Long Hồ. – Chàng trả lời, nhìn vẻ ngạc nhiên của nàng. – Nàng không biết, phải không? Chúa công nàng dường như cho rằng nàng không cần biết chuyện đó.

Trong lúc ngài ấy bảo nàng đến đây. Những gì Võ Tánh không nói ra, nàng cũng đã hiểu. Trong lúc nàng còn đang lo lắng chuẩn bị, vị chúa dường như chỉ ngồi nhìn trời ấy lại đã hành động. Thất bại với Nguyễn Đức Xuyên, em trai nàng vẫn cử nàng đến, để mặc nàng quyết định.

Võ Tánh cười nhẹ, quay lưng đi về phía doanh trại chính. Chần chừ một lát, Ngọc Du đi theo chàng. Trong nàng vẫn đầy ắp những câu hỏi và thắc mắc không biết bắt đầu từ đâu. Gió chiều đã thổi mạnh, cuốn đám lá khô xoay tròn trên mặt đất. Nàng nhìn hai chiếc bóng ngả dài trước mặt, cắn môi. Nên hỏi điều gì? Anh cảm thấy thế nào? Anh định thế nào? Anh nghĩ thế nào? Những câu hỏi mà nàng chắc chắn sẽ không nhận được câu trả lời rõ ràng. Và em trai nàng, vị chúa công trẻ tuổi ấy, đang có những kế hoạch của riêng mình. Gửi một gói đất tới, chúa công đang chờ đợi Võ Tánh đáp trả như thế nào? Đâu là câu trả lời của họ?

Còn nàng, đang rõ hơn ai hết, mình chỉ là một công cụ của chúa công.

Không nói với nàng về việc của Nguyễn Đức Xuyên, không nói với nàng về chuyến thuyết khách thất bại, em trai nàng vẫn sử dụng nàng để kết nối những mối liên hệ không chính thức với Kiến Hòa quân, sử dụng sự không hay biết của nàng để biến nó thành lòng nhiệt thành ngây thơ đến tội nghiệp. Ồ, nàng có thể cảm nhận được những gì các người đàn ông thủ lãnh Kiến Hòa quân đã nghĩ khi thấy nàng. Nàng tưởng mình có thể thuyết phục được họ sao? Nàng chỉ là một vật thế thân mà em trai nàng dùng đến khi không muốn đích thân sử dụng danh nghĩa của mình.

Nàng nhìn xuống đôi chân người thanh niên vẫn chậm rãi đi bên cạnh. Chàng đang đi chậm lại để chờ đợi nàng. Nhận biết điều đó, lúc này nàng chỉ thấy buồn bực.

Tiếng ồn ào từ doanh trại, từ bàn tiệc và đám quân nhân đang trở về chỉ làm nàng cảm thấy lẻ loi hơn lúc nào.

- Tôi đã bảo các cô hầu chuẩn bị chỗ nghỉ cho nàng. – Võ Tánh lên tiếng. – Nếu nàng muốn tìm tôi, cứ hỏi các cô ấy.

Nàng gật đầu, nhìn chàng rẽ vào lối đi khác. Những bóng cây đan nhau đã phủ kín bóng chàng.

Đang vào những ngày cận Tết, tiếng ồn trong doanh trại không hề lắng xuống kể cả khi bóng đêm đã buông dày. Ngoài sân chính, một đám lửa lớn đã được đốt lên, có người còn đem đàn, sáo ra hát. Một con heo rừng còn nguyên sừng được xiên dọc thân nướng trên lửa. Thậm chí nàng còn thấy thấp thoáng người lính trong đoàn của mình giữa đám đông. Họ đang quay tròn cùng nhau trong điệu múa với men rượu, trong tiếng phách gõ nhịp. Ở một góc, các thủ lãnh ngồi với nhau trên manh chiếu nhỏ với những bình rượu chất chồng. Không thấy bóng dáng Võ Tánh dù nàng đã đưa mắt tìm kiếm.

Dù chàng đã bảo hỏi các cô hầu gái, nhưng từ dạo đến doanh trại này lần trước, nàng đã biết đích xác nơi ở của chàng. Tuy vậy, nàng không muốn tìm chàng lúc này. Nếu có gì muốn nói thì hẳn chàng đã nói. Nếu chàng muốn tỏ ra rằng chuyện trong đêm ấy chưa hề hiện diện thì nàng cũng chẳng nên nhắc lại.

Quay lưng rời khỏi khoảng sân, nàng đi về phía bìa rừng ban chiều. Có thể vì tò mò, nàng cũng muốn thấy những đốm sáng mà Võ Tánh nói tới. Trăng nhạt, chỉ còn là một mảng sáng phơn phớt trên bầu trời. Gió thổi qua mái tóc nàng mới gội còn âm ẩm xõa xuống lưng. Các cô hầu gái vốn quen biết nàng lúc trước đã chuẩn bị cả nước tắm cho nàng. Trong khí trời nóng ngốt và sau cả ngày đi rừng, nàng biết ơn họ vì sự tận tình ấy. Càng đi sâu vào giữa các lùm cây, không khí càng dịu lại, hanh hanh mùi lá cỏ khô. Men theo con đường ban sáng theo trí nhớ, nàng chỉ nhận ra mình đi lạc khi đã lọt vào một khoảng trống được dọn quang cỏ sạch sẽ. Xung quanh nàng, một hương thơm nhè nhẹ bao phủ. Lan rừng, nàng nghĩ và nhìn quanh. Bóng tối đã làm nàng không nhận ra các bụi hoa trên những nhánh cây cao, được gá vào thân cây. Nheo mắt để làm quen với bóng đêm trong khu rừng, nàng mới mờ mờ thấy những sắc màu đỏ trắng lẫn vào sắc lá.

Ở đây có một vườn lan, trong những ngày nắng đẹp chúng sẽ tỏa hương ngào ngạt. Nàng nhớ lại lời Võ Tánh hôm ấy. Đây hẳn là vườn lan chàng đã nói tới. Trong ánh trăng nhạt nhòa của mùa khô hạn, chúng vẫn chưa tỏa hết hương thơm. Nàng lại gần một giò lan gần nhất, chạm vào cành hoa trắng và cánh hoa mịn như nhung. Loài hoa rừng có thể tươi đến vài tháng trước khi tàn héo. Cánh của bông hoa nhỏ nhưng cứng cáp lạ kỳ.

Bất chợt, một bàn tay nắm lấy tay nàng, kéo nàng khỏi cành hoa.

- Đừng chạm vào, công nương. Hoa này có độc. - Giọng Võ Tánh vang bên tai nàng.

Không hiểu sao nàng rùng mình nhẹ.

- Anh đấy à? – Nàng nói khi rút tay khỏi bàn tay đang nắm chặt. – Sao anh biết tôi ở đây?

- Tôi đã ở đây từ trước. – Nàng nghe tiếng cười khẽ trong bóng tối. – Thấy mùi thơm trên tóc nàng, tôi biết kẻ mới đến là phụ nữ. Không một phụ nữ nào lại đến đây vào lúc này, chỉ có thể là nàng.

- Đây là vườn lan anh nói tới? – Nàng nhún vai, nhìn quanh. Vẫn chẳng thấy gì ngoài bờ cỏ dưới chân. – Tại sao không phụ nữ nào đến đây buổi tối?

- Nàng có biết truyền thuyết về các loài lan rừng? Tại sao một loài hoa như thế lại mọc trong rừng thẳm, những nơi hoang vu nhất? Tại sao chúng lại có vô vàn sắc thái, hương thơm? Người ta bảo đây là vật định tình mà thần rừng tạo ra để quyến dụ các cô gái trẻ. Trong buổi đêm, loài hoa rừng mới mang đầy đủ linh hồn ma quái của chúng. Ở gần một cành lan ban đêm, cô gái sẽ bị thần rừng bắt mất hồn. Cô ta hoặc sẽ bị các loài dã thú bắt đi, hoặc sẽ bỏ nhà và cuối cùng thất lạc trong rừng.

- Nghe như đó chỉ là chuyện dọa các cô bé để họ không nhận hoa từ người lạ. – Ngọc Du cười, đi theo Võ Tánh đến chỗ chàng đã ngồi trước khi nàng đến, một vạt cỏ được cắt gọn gàng, êm như nhung. Ngồi xuống cạnh chàng dưới một gốc cây, nàng phân vân muốn hỏi chàng đường đi đến mép gò ban sáng. Thấy nàng ngồi xuống, chàng thở ra. Tiếng thở nhẹ và dài.

- Nàng cũng biết thế thì có biết lý do thật mà các cô gái không nên đi vào rừng ban đêm? – Quay sang, nàng nhận ra ánh mắt chàng đang dõi thẳng vào nàng. - Ở những nơi chỉ toàn đàn ông như thế này, nàng nên cẩn trọng mới phải.

Có điều gì đó trong giọng nói của chàng khiến nàng cảm thấy nhột nhạt. Nàng chợt nhận ra vị trí của họ và sự gần gũi qúa mức. Bóng đêm và tâm trí lơ đãng đã khiến nàng quên mất vị trí của mình, nàng nghĩ, hai tai nóng bừng, toan đứng dậy.

Chân nàng chỉ vừa cử động, một bàn tay đã nắm lấy vai nàng.

Ánh trăng nhạt chỉ soi sáng được những đường viền của khuôn mặt, vầng trán, đỉnh mũi, mái tóc lòa xòa, bờ vai, cánh tay, chỗ hõm của cổ sau lần áo. Tất cả những điều khác về chàng chìm trong bóng tối. Chàng chìm trong bóng tối. Dưới những sợi mi ánh sắc trăng mờ, nàng chỉ thấy bóng của một điều gì đó khiến nàng tê liệt.

Phải, nàng đã tê liệt như con mồi dưới ánh mắt thôi miên của rắn hổ mang, như con chim sẻ run rẩy dưới móng vuốt đại bàng. Nụ hôn của chàng không còn giống đêm trước. Nụ hôn khao khát, đòi hỏi và buồn bã. Buồn bã, trong từng nhịp tim đập. Nụ hôn muốn được đáp lại, nhiều hơn, hơn nữa. Chàng nắm lấy tóc nàng, đẩy khuôn mặt nàng ngước lên.

Không còn nữa sự dịu dàng đêm trước. Đôi lần chàng cắn vào môi nàng. Những ngón tay chàng bấu vào sau cổ nàng. Nàng có thể cảm thấy những vết chai trên đầu ngón, lòng bàn tay.

Nàng thấy mình bị đẩy ra sau, rồi lớp vỏ cây nham nhám cứa vào lưng nàng sau lớp vải. Buồn bã, trong từng nhịp tim đập. Có điều gì rất lạ lùng trong cách chàng xiết chặt và đòi hỏi. Đáp lại, nàng nghĩ và đáp lại. Hơn, hơn nữa. Đó dường như là một nụ hôn không bao giờ kết thúc.

Đến khi toàn bộ hơi thở bị rút kiệt. Đến khi toàn bộ sự sống không còn nữa. Không còn nữa, cả bầu trời và mặt đất. Cả trăng và hương hoa. Cả nỗi đau trong lồng ngực và những chiếc gai nhọn đâm vào lưng nhè nhẹ. Cả khi những ngón tay cứng như sắt bấm vào da thịt, để lại vết trên da thịt.

Nàng buông mình vào nụ hôn ấy như đón nhận cái chết đến từ một lưỡi gươm.

Khi chàng dừng lại, hơi thở thoát qua mũi nàng đã trở thành đắng ngắt. Cả bóng tối cũng hóa thành nhòe nhoẹt trong mắt nàng. Hơi thở chàng phả trên mặt nàng, qua đôi môi vẫn còn tê buốt. Chớp mắt vài lần, nàng mới nhận rõ được gương mặt chàng, đôi mắt đang dõi thẳng vào mắt nàng.

- Nàng nên đi thì hơn. – Chàng nói, hơi đứt quãng trong tiếng thở. Giọng chàng sâu đến mức gần như xa lạ. – Nàng nên đi trước khi ta làm điều gì phạm đến nàng.

Một nửa trong nàng muốn đứng dậy chạy đi. Nửa còn lại thấy giận đến lạnh toát cả người.

- Anh là loại đàn ông cứ hôn rồi bỏ chạy? – Nàng hơi nghiêng đầu, khóe môi cong thành một nụ cười. Cả giọng nàng cũng lạ.

- Một công nương như nàng chẳng lẽ lại không biết điều gì nên làm hay không nên làm? – Bóng trăng soi trên làn da nhăn lại giữa đôi lông mày của chàng. Nhưng chàng không chuyển động. Mặt chàng vẫn chỉ cách nàng một hơi thở. Hơi ấm từ thân thể chàng vẫn bao bọc nàng.

Nàng bật lên một tiếng cười.

- Anh muốn nói gì? – Có vẻ như nàng biết đích xác điều chàng định nói. Nên chàng chỉ im lặng. Rồi đứng lên, rời xa nàng.

- Chúng ta đều không phải trẻ con. – Nàng vuốt lại tóc, ngẩng nhìn chàng. Giọng nói của nàng trở về vẻ điềm nhiên thường trực. – Hay là anh chỉ thích hôn tôi thôi? Không còn gì khác?

- Đúng ra tôi mới là người nên hỏi nàng muốn gì? – Võ Tánh cắt lời nàng. Giọng chàng ẩn giấu sự giận dữ như cơn cuồng nộ trước cơn bão. – Phải, tôi là đàn ông, có những lúc tôi không kiềm chế được mình. Nhưng còn nàng? Nàng muốn gì khi lại gần một kẻ bần nông như tôi? Nàng biết rằng chẳng bao giờ có kết qủa. Nàng biết rằng nàng ở địa vị nào. Nàng muốn gì? Hay đó cũng là một mục đích mà chúa công nàng đặt ra cho nàng?

Thinh lặng. Tiếng dế chợt ran lên trong một bụi cây gần đó. Ngọc Du chậm chạp đứng lên, phủi lá khô và cỏ trên quần áo, trong mái tóc. Nàng cười nhạt.

- Nếu ngài Tổng nhung nghĩ vậy, chúng ta tốt nhất đừng bao giờ gặp nhau nữa.

Xỏ chân vào chiếc dép đã rơi xuống cỏ, nàng quay đi mà không nói thêm một lời.

Vậy đấy, đàn ông. Nàng nghĩ, giận đến run người, mím chặt đôi môi vẫn còn đang râm ran buốt. Ban đầu là người em nàng, bây giờ đến chàng ta. Nhưng nàng đã qúa rõ em trai mình để không lấy làm để bụng. Còn con người đó là gì mà có thể coi nàng như một kẻ hạ tiện đến thế? Sống đến chừng này năm trên đời, nàng chưa từng phải chịu một sự hạ nhục lớn như vậy. À, phải, chàng ta hiện chắc đang thấy mình bị biến thành thằng ngốc vì đã đến cứu nàng ở Mỹ Tho, đã đưa quân đến giải vây cho nàng ở Long Hồ. Vậy ra tất cả sự ngần ngừ của chàng ta là vì như thế. Chàng ta đang thấy mình lọt bẫy, và nàng là một con nhện chúa chuyên mồi chài, nàng nghĩ, khóe môi nhếch lên. Qủy tha ma bắt anh ta đi!

Phải, giá mà qủy tha ma bắt anh ta đi!

Chưa bao giờ trong cuộc đời này nàng giận đến thế. Giá mà có cái cây, hay bất cứ vật gì ở đó, nàng sẵn sàng táng cho chàng ta một phát. Hay nhiều hơn nữa. Cho chàng ta biến khỏi mặt đất này nếu có thể.

Nàng dừng lại khi đầu gối cũng run không thể kiểm soát nổi. Khoảng đất trống ngoài bìa rừng mà nàng muốn đến đã hiện lên trước mắt. Và kìa, trong bóng tối đen thẫm của cánh rừng trải ngút ngàn và đường cắt của những dòng sông, nàng thấy những bóng trắng ẩn hiện, bay loang loáng dưới các lùm cây.

Nàng chỉ đứng lặng yên nhìn. Thanh âm của đêm bao quanh nàng. Bóng tối bao quanh nàng.

Cơn giận dần dịu xuống. Nàng không thấy sợ. Nàng chỉ nhìn cánh rừng trong đêm trăng tối âm u. Lòng nàng biến thành một khoảng trống. Trái tim nàng khô khấc. Vậy đấy, sự sống, nàng chua xót nhủ thầm. Sự sống của bao nhiêu con người đã bị triệt tiêu, rồi tất cả hóa thành những cái bóng. Bao nhiêu năm trước và bao nhiêu năm sau. Bao nhiêu cuộc sống trước và sau đó. Tình yêu và sự nhẫn tâm, hóa ra tất cả đều như nhau.

Tình yêu và sự nhẫn tâm, tất cả đều như nhau.

Xung quanh nàng không một tiếng động, ngoài đàn dế vẫn mải mê tấu khúc nhạc của chúng. Nàng đang chờ đợi gì? Phải chăng nàng vẫn đợi người thanh niên ấy đuổi theo? Để nói rằng thật ra anh ta không nghĩ thế - mà nàng biết chắc rằng đó là lời nói dối? Công nương, anh ta đã gọi. Hồ Dương công nương. Ngọc Du công nương. Nhị công nương. Nhị Trưởng công nương. Nàng biết rằng mình ở địa vị nào. Nàng biết rằng không có kết qủa.

Nàng biết mình ở địa vị nào. Nàng biết mình là ai. Nàng biết mình phải làm gì. Nàng phải biết tất cả những điều đó để không mang bất cứ ảo tưởng nào. Nàng đã chờ đợi điều gì khi đến đây?

Ồ, đàn ông. Bọn họ thật là rạch ròi. Tất cả chỉ là ảo tưởng của phụ nữ các nàng. Nàng cứ lao đi, cứ tưởng mình sống chết được cho họ. Còn họ giấu trong cái dịu dàng của mình sự nhẫn tâm đến không thể tưởng được. Tất cả bọn họ. Tình yêu và sự nhẫn tâm của họ là như nhau.

Mà nàng là ai để có thể nói như thế? Chẳng phải nàng là kẻ đẩy cô gái kia đến cái chết chỉ vì mấy lời nói của mình? Chẳng phải nàng là người sai lính quấn các tử thi trước khi giao trả cho người thân của họ? Chẳng phải nàng đã lôi mọi người khỏi nơi trú ẩn để tiếp tục cuộc chiến của mình? Cuộc chiến không biết đến hồi kết thúc?

Nàng biết những gì mình nên làm hay không nên làm.

Ngoài cánh rừng, những bóng trắng vẫn nhảy múa cùng màn đêm. Đuổi nhau dưới những tán cây. Hát ê a trong lặng im. Cười khanh khách trong tiếng gió.

12

Mùa xuân năm Mậu Thân đến phương Nam với nắng oi ả phả hơi nóng gay gắt khắp nơi. Đi qua con đường nhỏ giữa đồng lúa đang ngậm hạt xanh ngăn ngắt, Ngọc Du có thể thấy hơi nóng phả trên mặt mình qua lớp khăn dày. Trấn Biên dinh nằm ở phía Đông Bắc Gia Định, miền đất ít hoang vu hơn hẳn những vùng còn lại khi người Việt cùng người Minh đã đến đây sinh sống khá lâu. Không còn những dòng nước đan nhau, không còn những bóng cây là đà ngả sát mặt đất, khí hậu trở nên oi bức đến gần như ngạt thở.

Ngay sau khi qua mấy ngày Tết ở Long Hồ, chúa Nguyễn đã trở về Trấn Biên để tiếp tục cuộc chiến. Thái bảo Tây Sơn Phạm Văn Sâm vẫn cố bám trụ ở Cầu Sơn và Mỹ Tho. Đã đến mùa gió nồm, dinh Trấn Biên đang sửa soạn chờ đợi. Thu hẹp mặt trận ở vùng phía Đông Gia Định, chúa Nguyễn đã ra lệnh. Trấn Biên trở thành trấn lũy để cản quân Tây Sơn xâm nhập hay thoái lui. Vùng phía Tây Gia Định đã được kiểm soát hoàn toàn. Vùng Đông Nam Sài Côn, Đông Mỹ Tho là Kiến Hòa đạo, quân Tây Sơn không thể không cảnh giác. Năm đạo quân bảo vệ cho Long Hồ dinh đã được tái thiết lập, tuy vẫn còn mỏng về số lượng và thực lực.

Tất cả đang chờ đợi, khi gió bấc tràn xuống.

Đồn lũy mà Nguyễn Lữ bỏ lại ở Trấn Biên dinh đang được củng cố. Những dân quân, phu phen vẫn lặng lẽ làm việc dưới ánh nắng gay gắt ban trưa. Hơi nóng không dịu đi ngay cả trong ngôi chùa nơi chúa Nguyễn cư ngụ tạm. Bảo những người lính đi theo đứng lại bên ngoài, Ngọc Du bước vào phòng của vị chúa. Đón nàng, chúa Nguyễn chỉ gật đầu. Bên cạnh vị chúa là hai thuộc tướng thân tín Nguyễn Văn Thành cùng Lê Văn Duyệt. Vẫy tay ra hiệu cho hai người cũng đi ra rồi em trai mới quay lại nàng.

- Thế nào? – Vị chúa hỏi trống không. Ngọc Du chậm chạp lắc đầu.

- Không ổn lắm, chúa công. Quân lương của chúng ta đang cạn dần. Nếu quân Tây Sơn đến, kéo dài dằng dai thì chúng ta sẽ rất khó khăn. Cũng không thể thu thêm lương thực của dân chúng, đang vào những ngày giáp hạt, họ cũng không dư dả.

- Có thể duy trì được bao lâu? – Vị chúa đứng dậy nhìn ra ngoài cửa sổ đến tường lũy đang được đắp cao. Ngọc Du nhìn theo người em.

- Hai hay ba tháng. – Nàng trả lời. Em trai nàng gật đầu thở dài. Một lúc sau, Nguyễn Phúc Ánh quay trở lại bàn giấy, đưa cho nàng một bức thư đóng dấu đỏ. Thư khẩn.

- Nguyễn Huệ đã cho Phạm Văn Hưng vượt biển đến. – Vị chúa thông báo với nàng, ngồi xuống sau bàn. – Theo Tuyên cô cô, chúng có khoảng hơn ba trăm chiếc thuyền. Vũ Văn Nhậm ra Thăng Long triệt hạ nhà Lê đã có kết qủa. Vua Lê chạy khỏi Thăng Long rồi.

- Tuyên cô cô có biết thêm gì nữa không, chúa công? – Ngọc Du hỏi. Cái tin Tây Sơn kéo đến không làm cho nàng bất ngờ hay sợ hãi. Khóe môi chúa Nguyễn nhếch khẽ.

- Có. Vũ Văn Nhậm là con rể của Nhạc. Bắc Hà xáo trộn, loạn đảng cùng các nhóm phù Lê nổi lên khắp nơi, Vũ Văn Nhậm muốn yên ủi chúng thì trước sau cũng phải suy tôn lại họ Lê. Huệ vừa dẹp xong Nguyễn Văn Duệ - ồ, đây thật là công lớn của Huỳnh Đức - lại thêm Nguyễn Đăng Vân phản bội, hẳn hắn chẳng còn có thể tin tưởng một ai. Cái nhân chính Huệ đã gieo, giờ hắn phải đi thu lấy qủa. Cử Phạm Văn Hưng vào đây, chính Huệ cũng đang lưỡng lự. Hắn nửa muốn đánh bại chúng ta, nửa không muốn để Gia Định lại lọt vào tay anh trai mình. Hưng có đến thì Sâm cũng phải dè chừng, chúng không thể chiến đấu bên nhau lâu dài tốt đẹp được.

- Bắc Hà lần này sẽ có loạn lớn. – Khoanh tay, chúa Nguyễn lại nhìn ra phía nắng chói gắt ngoài cửa sổ. – Thật đúng là kẻ võ biền không biết suy nghĩ! Hắn tưởng trong hàng trăm năm, chúa Trịnh thờ Lê vì không đánh bại được Lê sao? Lê Hoàn muốn nối ngôi Đinh Bộ Lĩnh cũng phải bước qua xác Nguyễn Bặc, Đinh Điền. Trần Thủ Độ phải mất vài chục năm mới thu phục được hoàn toàn họ Lý. Hồ Qúy Ly làm quan cho nhà Trần gần cả cuộc đời mới đủ thế lực thay thế ngôi vua. Tấm gương họ Mạc vẫn còn tày liếp. Bắc Hà sẽ không bao giờ yên ổn. Bọn chúng sẽ đánh giết lẫn nhau, Tây Sơn lại tạo thêm một kẻ thù cho mình. Còn chúng ta đã lại có thêm đồng minh.

- Đồng minh? – Ngọc Du cau mày. Em trai nàng ngả người về trước, nhìn nàng cười nhẹ.

- Ta đã bảo Tuyên cô cô chuẩn bị. Những kẻ Bắc Hà mất chủ kia sẽ đi về đâu, chị có nghĩ không? Nhưng trước đó thì ta phải nuôi cuộc chiến của Lê và Tây Sơn dài ra, càng lâu càng tốt. Bị quấy rối phía Bắc, chúng chẳng còn lòng dạ nào để tâm đến chúng ta. Cứ để chúng đánh giết lẫn nhau, Nhạc và Huệ, Huệ và Lê. Loạn của chúng là đồng minh của ta.

- Còn trận chiến sắp tới, chúng ta sẽ đối phó như thế nào đây, chúa công? – Ngọc Du nói sau một khoảng im lặng ngắn. Gõ ngón tay xuống mặt bàn gỗ, chúa Nguyễn nhận lại bức thư từ tay nàng, hơi cau mày.

- Nói với binh sĩ rằng bọn Hưng chỉ có vài chục thuyền đến lấy lương thực như cái thói cướp bóc hàng năm của chúng. Như vậy sẽ không gây loạn, mà cũng làm oán khí trong lòng dân bốc cao hơn. Còn về lực lượng…

Ngừng lại một lát, chúa Nguyễn thở ra.

- Cứ để Hưng đến đây rồi khắc sẽ có phản ứng.

Ngọc Du biết em trai nàng đang nhắc đến ai. Những lực lượng chống Tây Sơn trong vùng đã tập hợp trong đội quân Nguyễn. Nguyễn Văn Nghĩa ở Trấn Biên đã đưa quân quy tập, nhận chức Chưởng cơ. Chỉ còn lại đội quân mạnh nhất, Kiến Hòa.

- Chúa công định để quân Tây Sơn thành “thuốc thử” Kiến Hòa? – Nàng hỏi, rành mạch. Người em trai chỉ nhìn nàng, không trả lời.

Sau lần trở về từ doanh trại Kiến Hòa, nàng đã hỏi vị chúa về việc Nguyễn Đức Xuyên. Người em thừa nhận với nàng, dửng dưng, và cho đó là việc không quan trọng. Nguyễn Đức Xuyên là người Gia Định, chúa Nguyễn nói, ta vốn định cho hắn về để dựa vào tình đồng hương, vào lý lẽ tình cảm của Gia Định này mà thuyết phục. Nhưng Đức Xuyên bị từ chối. Ta nhờ chị chính là viện đến danh nghĩa cá nhân ta, với cá nhân Võ Tánh. Quan hệ của ta và Võ Tánh có nhiều khúc mắc, nhờ chị thay ta ra mặt.

Việc như vậy sao chúa công không nói trước? Nàng hỏi, chỉ nhận được cái cười rất nhẹ. Đó là ân oán của đàn ông chúng ta, không can đến chị. Câu trả lời mà nàng có thể đoán được.

Lần này cũng vậy, chúa Nguyễn đã không trả lời nàng, cũng không còn bảo nàng liên hệ với Kiến Hòa quân. Vị chúa đang có dự định cho riêng mình.

Việc quân Tây Sơn kéo đến cũng là một phần trong dự định ấy. Kiến Hòa quân, không giống như các lực lượng quân sự khác được chiêu tập bởi các thủ lĩnh địa phương mang ít nhiều tham vọng chính trị, đã được lập ra sau khi Tây Sơn chiếm Gia Định. Mục đích chính của Kiến Hòa quân là Tây Sơn, là để bảo vệ Gia Định. Võ Tánh, Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, ba thủ lĩnh chính của Kiến Hòa, không phải là những người tham vọng, ngược lại, quá nhiều chính khí.

Quân Tây Sơn kéo xuống, lại một lần nữa Gia Định lại bị đe doạ trong một cuộc chiến chinh và tắm máu trả thù khác, Kiến Hoà quân cùng những thủ lãnh của nó khó có thể ngồi yên.

Nàng nghĩ đến điều đó khi đi ra khoảng sân sau, nhìn nắng đang tràn xuống. Những đốm nắng trong các bóng cây nhảy múa đến nhức mắt. Loạn ở Bắc Hà, người em trai nàng nói. Lại một dòng họ nữa bị tiêu diệt, lại những con người, những đứa trẻ nữa phải chạy trốn. Nàng lại nhớ đến mùa đông năm nọ, bến sông Hương nêm chặt thuyền và người, những con đường náo loạn người chạy trốn. Quân Trịnh đã tràn đến, phá bỏ thỏa ước của mình. Tiếng súng đã đánh thức Phú Xuân và đẩy nó vào hỗn loạn khôn cùng. Bàn tay Ngọc Uyển đã trượt khỏi tay nàng giữa đám đông mà nàng không tài nào ngoái lại. Dòng người cứ cuồn cuộn đổ đến, mặc cho có gào khóc đến khan cả cổ, nàng vẫn cứ bị cuốn phăng đi.

Đứa em gái nhỏ ấy không biết còn sống hay đã chết? Mà nếu còn sống, cuộc đời một đứa con gái lạc loài trong thời loạn sẽ ra sao? Chiến tranh đã xảy ra ở khắp nơi, khắp nơi trên đất nước này. Bắc Hà sẽ không bao giờ yên ổn, Phú Xuân sẽ là tâm điểm tranh chấp và thù địch. Đứa em gái nhỏ ấy, chẳng còn chỗ nào trú ẩn an toàn.

Chẳng còn nơi trú ẩn an toàn cho bất cứ ai.

Chỉ còn vài tháng quân lương, ngay cả nếu thu thêm được cũng rất khó khăn để tiếp tục, nàng lại nghĩ. Những trụ điểm của Tây Sơn ở quanh Gia Định đã bị tiêu diệt, cũng có nghĩa là không thu thêm tài vật của chúng được nữa. Gia Định chỉ có gạo, khó mà buôn bán trong thời chiến này. Trong khi đó, thuốc súng, đạn dược, vũ khí yêu cầu ngày càng nhiều hơn. Qủa thật bọn hải tặc người Minh cũng có lợi ích của chúng. Chúng có thể bán thuốc súng lấy gạo, muối và đường.

Nhưng nếu cuộc chiến kéo dài?

Ngay cả bọn họ cũng nôn nóng, Võ Tánh nghĩ thầm khi nhìn những người xung quanh. Sau một buổi tập luyện, họ tụm lại với nhau trò chuyện trong sân. Tây Sơn, chàng nghe họ nói, những cái lắc đầu của họ, những bàn tay nắm chặt của họ. Tây Sơn lại đến cướp lương thực, hoặc là lại đến đối đầu với chúa Nguyễn, cả hai lý do đều gây phẫn nộ. Phẫn nộ. Bọn họ không quên Cù lao Phố năm nào bị cướp phá đến từng cây cột chống, mái nhà, đến từng đỉnh đồng, lò hương trên bàn thờ. Bọn họ không quên mỗi lần gió bắc thổi xuống mang theo toán cường đạo chặn tất cả các thuyền lương thực trên sông, đốt phá các kho hàng, thiêu hủy các chợ, trốc từng gốc rạ. Mỗi năm, mỗi mùa gió kể từ khi chúa Nguyễn bị đẩy khỏi Gia Định. Bắt đầu là Cù lao Phố, sau đó là Chợ Lớn, rồi Mỹ Tho, Long Hồ. Nơi nơi đã bị đốt trụi. Mọi việc chỉ chấm dứt cùng với xung đột của Nhạc và Huệ. Hai mùa gió bấc yên lành. Giờ đây, chỉ cần nghe quân Tây Sơn đến cùng với gió bấc, máu trong huyết quản của tất cả mọi người đã sôi lên sùng sục.

Các tráng binh này đã tập hợp đến vào cái năm mà quân Tây Sơn đốt phá Mỹ Tho, tiêu hủy Chợ Lớn để dồn dân đến Cầu Sơn, Bến Nghé. Và đã không có gì cản được họ, ngay cả cái chết. Giồng Tre, đầm Vạn Thắng… nơi lửa đã được đốt bùng lên, những mũi giáo, mũi tên bắn vào quân Tây Sơn đòi quyết triệt hạ đến tên lính cuối cùng. Ngọn lửa kia lại được dịp cháy bùng trong những người thanh niên này. Mà sự kiên nhẫn, bền bỉ của chúa Nguyễn đối với họ đã trở thành một sự ngưỡng mộ.

Cho nên, chàng không ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi cái đầu đều quay lại khi nhìn thấy người lính báo tin chạy đến cùng với bức thư bọc vải vàng trên tay. Thư của chúa Nguyễn. Mọi ánh mắt dán chặt vào đó. Bức thư bọc vải vàng và nhận chỉ đỏ. Dấu hiệu của chúa Nguyễn.

- Sứ giả của chúa Nguyễn là Trương Phúc Giáo cầu kiến. – Người lính nâng bức thư bằng hai tay cho chàng, thông báo bằng giọng hơi hụt hơi vì đã hấp tấp chạy đến. Võ Tánh nhận lấy bức thư. Trong doanh trại, các phó tướng Kiến Hòa quân cũng đã đi ra. Trong mắt họ cũng là cái nhìn của những người lính cạnh chàng.

- Đón họ vào. – Chàng gật đầu. Nghe tiếng xôn xao như thể rừng cây nổi gió xung quanh.

Đoàn sứ giả của chúa Nguyễn không nhiều người. Trừ vài chục quân lính đi theo, chỉ có Trương Phúc Giáo cùng với đám hầu cận. Họ cũng không mang theo lễ vật. Đến trong sân, Trương Phúc Giáo hơi cúi mình chào. Những thủ lĩnh Kiến Hòa cũng đáp lễ bằng sự kính trọng tương tự.

- Mấy khi Nguyễn chúa cho người đến đây, chẳng hay có việc gì? – Võ Văn Lượng cất tiếng hỏi ngay khi họ đã phân chủ khách mời ngồi. Một lần nữa, Trương Phúc Giáo hơi cúi mình.

- Chúa công tôi từ lâu vẫn âm thầm mến mộ các anh hùng nơi thảo dã các vị. Tết vừa rồi, chúa công đã tặng ngài Tổng nhung một món lễ vật, chúa công muốn hỏi ngài có thích món lễ vật ấy không?

- Đối với món qùa như thế, khó mà nói là thích hay không. – Võ Tánh cười nhẹ. – Hay thật ra chúa công ngài muốn hỏi rằng ta đối với món qùa ấy có suy nghĩ thế nào?

- Tổng nhung thật là người hiểu biết. – Trương Phúc Giáo nhè nhẹ gật đầu. – Vòng vo không phải là tính của người Gia Định. Tâm ý của chúa công tôi từ dạo trước vẫn không thay đổi, chẳng hay Tổng nhung có suy nghĩ gì khác?

- Về với Nguyễn quân? – Võ Tánh nhướng mày. Trương Phúc Giáo hớp một ngụm rượu được đem dâng đến, khoanh hai tay dưới ống áo, giọng vang rành rẽ giữa căn phòng rộng.

- Võ Tổng nhung là đệ nhất anh hùng Gia Định, nói một tiếng “về với Nguyễn quân” chẳng phải là hơi khinh bạc? Những ngày ở đây, chỉ sau vài năm xa Gia Định rồi trở lại, Phúc Giáo tôi đã kinh ngạc xiết bao với danh tiếng của “Gia Định tam hùng” mà người dân truyền tụng, trong đó Võ tướng quân đến sau mà lại là kẻ đứng đầu. Võ tướng quân tạo dựng Kiến Hòa, danh tiếng anh hùng tay không đả hổ lập thành sự nghiệp truyền tụng đến muôn đời sau, liệu có cần thêm danh vọng của quan trường bạc bẽo? Nhưng kẻ anh hùng sống trên sông nước hay vùng thảo dã đều coi trọng một điều: Nghĩa khí. Có thể không cầu danh, không cầu lợi, nhưng có thể bỏ cả danh lợi, tính mạng để thực hiện ước vọng nghĩa khí của riêng mình, đó mới là bản chất anh hùng đích thực.

- Theo ông, thế nào là nghĩa khí? – Võ Tánh cười hỏi.

- Vì anh em. Trên bình diện hẹp, có ân không quên, có tình không bỏ, hứa phải làm, có nợ phải trả, có sai phải nhận. Trên bình diện rộng, hào sảng hiệp nghĩa, bảo bọc kẻ thế cô, gặp chuyện bất bình ra tay tương trợ. Có tấm lòng kết giao với cả thiên hạ, không phân sang hèn, không màng danh lợi, không theo tiền tài, không khuất bạo quyền. Thấy đúng thì theo, thấy sai thì chặn. Gia Định này khởi xứ hoang vu, người người gồng gánh kéo về, bạt lau lách mà đi, đâm cá kình, giết dã thú mà tiến, hạ rừng trăm tuổi làm nhà, chiếc ghe con xuyên qua sông nước, chiếc thúng nhỏ chống sóng biển Đông. Dựa vào nhau mà sống, khóc cười cùng nhau mà tồn tại, người người đều là anh em. Chung sống cùng một mái nhà, lấy đất mới làm quê hương, nguồn gốc là gì, địa vị là gì đều không quan trọng. Kẻ anh hùng của đất Gia Định là người vì Gia Định mà nguyện hiến dâng tính mạng.

- Điều ấy có liên quan gì đến Nguyễn quân? – Võ Tánh vẫn hỏi. Nụ cười vẫn đọng trên môi chàng.

- Chúa Nguyễn mở đất, ấy là ơn. Chúa Nguyễn đưa người đến khai hoang, cho quân bảo vệ, cho luật để ổn định, ấy là tình. Ơn tình thưở trước có thể không cần nói đến, nhưng chúa công hiện thời ở đây là để chống Tây Sơn bảo bọc cho Gia Định. Trong lúc Gia Định im ắng, người người đều co vào cố thủ cho riêng mình, chỉ có chúa công phất cờ lên tiếng, thân cô thế cô tạo lập thế đối đầu. Nay Nguyễn quân thu được hơn một nửa Gia Định, cùng với Kiến Hòa trấn áp Tây Sơn một phương. Cơ hội để trừ diệt Tây Sơn là đây. Chiếm cứ một vùng chỉ làm nên anh hùng nơi bến nước, vì dân trừ bạo mới tạo nên kẻ hậu thế lưu danh. Trấn giữ một nơi chỉ để thỏa chí riêng mình, vì hạnh phúc của mọi người mới là trượng phu hảo hán. Trên đời này mọi người đều có chí hướng, ước mơ và mục đích của riêng mình, không nên câu nệ hay ép buộc. Thấy lợi thì làm, thấy đúng thì theo mới là trang tuấn kiệt. Vì tính toán của riêng mình mà lại để Tây Sơn một lần nữa thủ lưu Gia Định, e rằng tất cả đều phải hối không kịp.

Võ Tánh vẫn cười, không trả lời. Ồ, chúa Nguyễn, chàng thầm nghĩ. Khi kẻ cận thần võ biền Nguyễn Đức Xuyên thất bại, vị chúa cử đến một quan thần với muôn vàn đạo lý, những lời có thể trấn áp và mê hoặc kẻ khác. Tiếng nói của ông ta vang sang sảng trong và ngoài căn phòng, đến với cả những kẻ đang tụ tập bên ngoài. Hãy xem, tất cả mọi người, kể cả những lính canh cửa, những tên hầu rượu, đều đang nhìn chàng. Ánh mắt họ hướng về chàng, chờ đợi.

Vị quan này nói đúng một điều: Cơ hội. Cái cơ hội lần đầu khi Tây Sơn rối loạn đã bị bỏ qua. Cơ hội mà Nguyễn Đức Xuyên đem đến để họ chống Tây Sơn lấy lại miền Nam cùng chúa Nguyễn đã bị bỏ qua. Khi cái cơ hội ấy lung lay với đợt tấn công mới của Tây Sơn, vị chúa đã đưa nó ra để thách thức chàng. Thách thức, phải, chính thế. Từ gói đất mà chúa Nguyễn đích thân gửi tới.

Chàng đã nhận ra sự thách thức ấy ngay khi nhìn thấy nó.

Chàng cũng nhận thấy những gì đã xảy ra quanh mình. Không khí trong Kiến Hoà quân ngày một nóng lên với từng đợt tấn công của Nguyễn quân. Chúa Nguyễn đã một mình tiến hành cuộc chiến, và thời gian càng lâu lại càng làm uy thế vị chúa tăng lên. Sau trận đánh Kỳ Hôn, tất cả đều đã chờ đợi, chờ đợi chúa Nguyễn lên tiếng. Một lần nữa, vị chúa chơi đòn cân não với họ, với chàng. Dường như bỏ mặc họ, cũng dường như muốn giữ liên hệ với họ, dường như muốn đặt họ ở ngoài trận chiến với Tây Sơn, chúa Nguyễn đã làm lòng quân lính Kiến Hòa nôn nóng tột độ. Cả Võ Văn Lượng cũng không che giấu thái độ muốn tham gia chiến cuộc của mình. Nhưng chúa Nguyễn đã chỉ gọi họ khi quân Tây Sơn từ phía Bắc tràn xuống. Đó vừa là một lời kêu gọi, vừa là một yêu cầu.

Đến lúc này thì chàng không thể lùi lại được nữa.

Ngay cả những phó tướng, những thủ lãnh khác của Kiến Hòa cũng đang chờ đợi.

Chúa Nguyễn và trò chơi cân não với mọi người mọi kẻ, khi nhận được bọc đất thì chàng đã hiểu. Với mỗi lần các sứ giả của mình đến đây, chúa Nguyễn siết chặt vòng vây với đạo Kiến Hòa này. Điều đó, chỉ khi ấy chàng mới hiểu. Vị chúa chưa bao giờ quên lãng đạo quân của chàng. Giờ đây, vận mệnh của Nguyễn quân đã được đánh đồng với sự tồn vong của Gia Định.

Chàng biết mình đã không còn sự lựa chọn.

- Chúa Nguyễn hiện đang ở đâu? – Chàng hỏi.

- Ngài ngụ tại Long Hồ dinh. – Trương Phúc Giáo nhẹ cúi đầu.

Long Hồ dinh, nơi chứng kiến ba lần hưng quân của chúa Nguyễn, lần này lại được dịp thấy một đạo quân khác. Trên những chiếc thuyền lớn, ghe nhỏ, những thanh niên của Kiến Hòa dường như đã chọn bộ áo đẹp nhất của mình để khoác vào. Tiếng lao xao khắp cả quãng sông dài. Tất cả mọi sự chú ý tập trung vào chiếc thuyền đi trước chở Trương Phúc Giáo và các thủ lĩnh quân Kiến Hòa. Người ta dễ dàng nhận thấy kẻ được gọi là anh hùng đả hổ của Gia Định, người thanh niên trẻ đứng ở mũi thuyền, dưới cờ vàng. Kiến Hòa quân đến yết kiến chúa Nguyễn.

Kiến Hòa quân yết kiến chúa Nguyễn vào một ngày cuối xuân năm Mậu Thân.

Thuyền cập bến, những người trên thuyền lần lượt đi xuống. Theo sau họ là hai người lính khiêng một mâm lễ lớn phủ vải đỏ. Tay chắp sau lưng, Tổng nhung Kiến Hòa quân trầm tĩnh theo Trương Phúc Giáo đến trước khu dinh phủ. Chúa Nguyễn cùng các cận thần và quân lính đã đứng đợi. Màu cờ vàng chói chang trong nắng phương Nam.

Ồ, mới một năm trước, chàng vẫn còn thả ghe trên sông ngắm mặt trời và nghĩ mình sẽ làm gì, Võ Tánh thầm nhủ. Sự đời thật biến thiên không thể lường được.

Ở khoảng cách này, chàng đã thấy rõ chúa Nguyễn. Chàng đã từng thấy vị chúa này từ đằng xa, thoáng qua ở Sài Côn hoặc Long Hồ. Nhìn gần, vị chúa còn trẻ hơn chàng nghĩ. Một thanh niên trẻ với những đường nét thanh tú và khép kín. Khép kín, như có một cánh cửa đóng lại sau đôi mắt ngài ta.

Cái suy nghĩ vào khoảnh khắc ấy sẽ đi theo chàng suốt cuộc đời.

Dừng lại trong khoảng sân rộng, chàng để Trương Phúc Giáo tiến lên phía trước cùnng với mâm lễ vật. Vị văn thần này thi lễ trước mặt chúa Nguyễn, cất giọng để tất cả cùng nghe thấy:

- Khi được biết thịnh tình của chúa công, thủ lãnh Kiến Hòa quân Võ Tánh đến đây để lễ tạ.

Ông ra hiệu cho hai người lính đem mâm lễ vật ra trước. Chúa Nguyễn gật đầu, lật tấm vải đỏ.

Tất cả đều im lặng.

Trên chiếc mâm đồng là một cây gạo cùng với một qủa trứng gà.

Võ Tánh khoanh tay nhìn vị chúa chớp mắt, rồi thanh âm lao xao xung quanh bùng nổ. Có tiếng cười. Có người lắc đầu. Có kẻ chỉ trỏ. Trong hàng ngũ quan tướng nhà Nguyễn, đã có kẻ cau mày. Khinh thị qúa đáng, chàng nghe tiếng nói vọt ra trong đám đông. Đến yết kiến lễ tạ thịnh tình của chúa công mà như thế? Khinh người qúa đáng, Kiến Hòa quân coi mình hơn cả chúa Nguyễn?

Chúa Nguyễn Phúc Ánh buông tấm vải, mỉm cười, cắt đứt tiếng lao xao bằng giọng nói vẫn điềm đạm.

- Thiên lý cống nha mao, lễ khinh nhân ý hậu. Lễ từ ngàn dặm đưa đến, một sợi lông cũng chất chứa ý hậu tình. Ta muốn biết tướng quân ý hậu thế nào.

Võ Tánh chậm rãi bước lên trước, dừng lại trước vị chúa. Chàng bốc một nắm gạo, cầm qủa trứng gà trong tay.

- Xin ngài hãy xem. Hạt gạo trắng trong, qủa trứng lòng đỏ lớn, tất cả đều là sản vật trên mảnh đất này.

Chúa Nguyễn chăm chú nhìn chàng. Rồi vị chúa cười, cười lớn. Nắm lấy tay Võ Tánh lắc mạnh, vị chúa nói trong tiếng cười:

- Thật là địa linh nhân kiệt! Địa linh nhân kiệt!

- Đem qủa trứng gà và cây gạo nấu cháo, cho vào nồi lớn chia mỗi người một chén! – Chúa Nguyễn nói với kẻ tùy tùng, rồi quay lại phía Võ Tánh, đưa tay. – Mời tướng quân vào phủ.

Bên ngoài, đám đông vẫn xôn xao. Những quan tướng nhìn nhau. Kẻ đứng ngoài hỏi nhau. Ngay cả những quân lính Kiến Hòa dường như cũng vừa mới thở phào nhẹ nhõm.

- Võ Tánh thật là kẻ kiêu hùng. Dám dùng món lễ ấy đến yết kiến chúa công. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu ý của chúng. – Đi bên Ngọc Du, Lê Văn Duyệt chợt nói. Nàng không nhìn sang vị tướng trông coi nội quân, chỉ quan sát bóng người em trai cùng các thủ lĩnh Kiến Hòa. Họ bước đi bên nhau, em trai nàng và Võ Tánh.

- Đó là câu trả lời của Võ Tánh. – Nàng nói với chính bản thân mình hơn là với Lê Văn Duyệt.

Đó là câu trả lời cho “Đất”.

Vị chúa đã gửi cho Võ Tánh một nắm đất. Đổi lại, Võ Tánh đưa đến “sản vật của đất”. Những gì sinh sôi nảy nở trên mặt đất. Sự sống trên mặt đất. Những gì họ có trên mặt đất.

Những gì họ cho và nhận.

Địa linh nhân kiệt, em trai nàng đã nói, cũng là “Đất”. Đất và người và sự sống và vạn vật. Võ Tánh đã đem đến, không chỉ có gạo và trứng, không chỉ là sản vật, mà là cả con người. Chàng đã đến. Đích thân chàng đã đến.

Đất và người và sự sống trên mặt đất. Những gì họ cho và nhận. Những gì họ trân trọng gìn giữ. Những gì họ muốn bảo vệ. Những gì họ hướng tới. Những gì họ muốn có được. Thỏa thuận của họ. Lời hứa của họ. Những gì mà họ thấu hiểu hơn ai hết.

Nhìn theo bóng hai người đàn ông khuất sau cánh cửa dinh phủ, Ngọc Du thấy lòng nhói khẽ. Em trai nàng đã đạt được mục đích của mình. Nhưng con đường chỉ vừa mới bắt đầu.

13

Không thể nói rằng họ đã không tranh cãi về món qùa chàng mang đến. Như lệ thường, Trần Văn Tín là người đầu tiên phản ứng bằng tiếng “ôi” đầy vẻ não nề. Cả Nguyễn Văn Hiếu cũng phải cau mày. Đắn do một lúc, Võ Văn Lượng lên tiếng:

- Dù anh có ý thế nào, chỉ e rằng chúa Nguyễn có thể hiểu sai. Gạo và trứng, anh có thể chọn món khác không? – Cả Võ Văn Lượng cũng có lúc chần chừ. Võ Tánh mỉm cười.

- Phải. Gạo và trứng. Nấu thành cơm, luộc qủa trứng thì thành món dâng lên bàn thờ cho người chết. Tôi cũng muốn biết chúa Nguyễn sẽ xử lý ra sao với hai thứ này.

- Anh có thể quyết định chỉ dựa vào điều đó? – Võ Văn Lượng cau mày. Món dâng cho người chết, tất cả cùng rùng mình với thanh âm ấy. Người người đều biết mối thù của Võ Tánh và chúa Nguyễn. Nụ cười trên môi Võ Tánh vẫn không đổi.

- Phải. Tôi sẽ quyết định nói chuyện với chúa Nguyễn hay không chỉ dựa vào ngài ta sẽ làm gì với món lễ vật này. Kẻ tiểu nhân sẽ cau có quay đi. Kẻ xốc nổi không suy nghĩ sẽ nhận lấy đem về nấu vài bữa cho mình. Kẻ giả dối sẽ đem nấu thành cơm và luộc trứng để ra vẻ thành tâm chuộc lỗi. Kẻ nhỏ nhen để bụng sẽ cất chúng đi nhân danh lưu giữ kỷ vật. Kẻ kém cỏi sẽ thậm chí không hiểu ta muốn nói gì. Những kẻ như thế sẽ không tài nào làm nên việc lớn, chúng ta có thể quên đi để theo con đường của riêng mình được rồi.

- Nhưng vật này liệu có hơi bất lễ? – Nguyễn Văn Hiếu lắc nhẹ đầu. – Tên lúc nhỏ của chúa Nguyễn là Chủng, gạo và trứng đều là “giống” chưa thành hình.

- Giống chưa thành hình đã bị tước đi. Gạo không phải là thóc để mọc lên cây, trứng không trống thì không thành gà. – Võ Tánh gật đầu. – Tôi muốn biết chúa Nguyễn sẽ xử lý thế nào.

Đó là những gì chàng đã nói, và không phải chàng đã không có một hy vọng nhỏ nhoi rằng chúa Nguyễn sẽ phạm phải sai lầm. Chàng đã thấy sự ngỡ ngàng trong đôi mắt chúa Nguyễn và biết rằng vị chúa đã nghĩ đến món ăn mà mọi kẻ đều phải nhớ tới: Bát cơm qủa trứng dâng lên bàn thờ mỗi bữa. Vị chúa có thể đã nghĩ tới cái tên của chính mình. Nhưng rồi vị chúa đã thật sự rất khôn ngoan…

Ngài ta rất khôn ngoan, chàng nghĩ khi chén cháo vừa nấu được dâng lên trước mặt chúa Nguyễn Phúc Ánh. Mỗi người bọn họ cũng lần lượt được dâng một chén. Vị chúa cầm chiếc muỗng gỗ lên, mỉm cười với họ:

- Mời các tướng quân.

Phong độ thoải mái như người phương Nam thật sự, Võ Tánh thầm nghĩ. Thật không lạ lùng khi vị chúa đều có kẻ kết giao ở mọi nơi ngài ấy đi qua. Ứng biến lanh lẹ, khôn ngoan thấu đáo, ngài ta đã cất tiếng hỏi ý món lễ vật ngay giữa sân phủ. Đem món lễ vật này chia cho mọi người, tự ngài ta đã biến nó thành thứ gắn kết chàng với tất cả mọi kẻ nơi đây. Trở thành thứ gắn kết chàng với ngài ta. Giản đơn như thế.

Giản đơn như thế, hóa giải những gì đã xảy ra giữa họ, câu hỏi và lời thách thức của chàng.

Chàng bắt gặp ánh mắt của Võ Văn Lượng và nhớ đến những điều ông ta đã nói với Ngọc Du. Họ không tin chúa Nguyễn, cho đến tận gần đây. Do đó, họ đã chấp nhận món lễ vật của chàng như một trò thử thách nho nhỏ. Và họ đã nhận được câu trả lời của mình.

Ăn xong chén cháo, chúa Nguyễn cười mà bảo:

- Ta đã bảo người sửa soạn một buổi tiệc rượu nhỏ cho các tướng quân. Võ Tổng nhung có muốn cùng ta đi dạo một lát?

Võ Tánh gật đầu. Hiểu ý vị chúa, các phó tướng của chàng ngồi lại, được các quan tướng tiếp đón. Chúa Nguyễn dẫn chàng ra sân sau, rồi vòng qua bến sông. Thuyền đậu san sát trên mặt nước, nắng chói chang cuối mùa khô làm cỏ cũng khô hanh dưới chân họ.

- Không có gì nhiều, phải không? – Chúa Nguyễn lên tiếng, nhìn ra đoàn thuyền. – Đội quân này vẫn chưa có gì nhiều nhặn. Thuyền và vũ khí ta phải lấy của Tây Sơn, khó khăn trùng trùng.

- Mới chỉ mấy tháng, bắt đầu từ tay trắng thì thế này cũng đã đáng kể rồi. – Võ Tánh trả lời, tự hỏi câu chuyện này sẽ dẫn đến đâu. Chúa Nguyễn bật lên tiếng cười.

- Không. So với trước đây thì qủa thật ta có hơi nôn nóng. Trước đây, ta hưng binh từ Long Hồ, lấy Nguyên phi là cháu của Lưu thủ, liên kết với Đỗ Thanh Nhơn mà có được toán quân giữ Gia Định. Trước đây ta có Châu Văn Tiếp và Lương Sơn tá quốc. Giờ đây chỉ có quan tướng Nguyễn tự mình xử lý đại cuộc, ta qủa thật rất âu lo. Giai đoạn ban đầu bao giờ cũng là lúc khó khăn nhất.

- Nên không biết bao nhiêu kẻ đã sụp bẫy ngay từ lúc ban đầu ấy. – Võ Tánh điềm nhiên trả lời. – Trí trá như Tây Sơn lấy Tân Chính vương làm mồi nhử được Lý Tài và Châu Văn Tiếp, cuối cùng lại phải đi đánh nhau dằng dai với Lý Tài và Châu Văn Tiếp, gây oán với người Minh Hương không đội chung trời mà cái tiếng giết vua phản chúa không tài nào gột rửa được. Nguyễn Hữu Chỉnh vì muốn trả thù cho Huy Quận công mà rước Tây Sơn vào Bắc Hà, cuối cùng lại bị chính Tây Sơn tiêu diệt cả bản thân lẫn vương tộc. Hoàng Ngũ Phúc đưa quân vào Phú Xuân nhưng không đủ sức đi tiếp nên liên kết với Tây Sơn, lại cũng bị Tây Sơn lật lọng triệt tiêu. Cả ngài nữa, chúa công, ngài có Đỗ Thanh Nhơn, nhưng suýt nữa thì ngài đã bị chính Đông Sơn lấn át. Ngài có Châu Văn Tiếp, có quân Xiêm, nhưng ngài không thể kiểm soát được bọn họ.

- Đúng vậy. – Vị chúa cười. – Nên hay nhất là biết việc gì có thể làm và điều gì cần làm, điều gì tốt nhất trong hoàn cảnh ấy. Trả giá bao nhiêu? Thiệt hại bao nhiêu? Có đáng để làm hay không? Nếu thời gian quay ngược lại, Tây Sơn cũng vẫn phải dựa vào bọn thương lái Minh Hương mà khởi nghiệp, lấy Tân Chính vương làm mồi; Trịnh vẫn phải liên kết cùng Tây Sơn; Hữu Chỉnh vẫn đến Phú Xuân cầu người. Chỉ là lần này, biết trước kết qủa, mọi kẻ sẽ chọn cách dứt điểm, cách giải quyết khác nhau, hạn chế thiệt hại và bất lợi đến mức thấp nhất. Kẻ có tài sẽ kiểm soát được đại cuộc.

Họ im lặng đi dọc bến sông. Gió ào ào thổi hơi nóng gay gắt vào bóng râm nơi họ đang đứng.

- Chúa công nói điều này khi đang cầu người, liệu có phải hơi bất lợi? – Cuối cùng, Võ Tánh nói. Liên kết để tạo dựng lực lượng là cần thiết, nhưng khi có kết qủa thì phải tùy cơ ứng biến trấn áp, ý của vị chúa không phải chàng không hiểu. Cái ý rõ rành rành trong lời nói mà vị chúa không hề che giấu.

Nguyễn Phúc Ánh vẫn đều đặn bước, nhìn ra phía đầu sông phía xa.

- Ta đã hỏi Nguyễn Văn Trương về Võ Tổng nhung. Cả hai vẫn đụng độ nhau lúc trước, phải không? Ông ta nói, Võ tướng quân là một thanh niên khá ngây thơ về chiến tranh.

Lại im lặng. Lá khô cuốn dưới chân họ. Sông mùa cạn trơ tầng đất bùn trắng trên mép nước.

- Mọi người trong Kiến Hòa đã tập hợp như thế nào, Võ tướng quân? Trước một toán quân xâm nhập bạo tàn, nhận được lời kêu gọi từ một vị anh hùng đả hổ oai danh lừng lẫy, tráng binh lẫn nhân sĩ trong vùng kéo đến. Trước là để chống kẻ thù trước mắt, sau là để bảo toàn bản thân và gia đình. Nhưng nếu chỉ có thế thì cũng chỉ là toán quân nơi bến nước, núi sâu. Nếu muốn phát triển, tự các anh phải tìm cho mình một danh nghĩa kêu gọi được nhiều người hơn nữa, liên kết với nhiều dạng người hơn nữa. Khi lao vào chiến cuộc, đúng hay sai, phi lý hay có lý đều không quan trọng, điều duy nhất mà anh có thể quan tâm là chiến thắng. Khi lao vào chiến tranh, điều duy nhất mà anh có thể bận tâm là sự tồn tại của chính bản thân mình, hay nhiều hơn nữa là những kẻ xung quanh mình, những gì anh yêu thương.

Vậy đấy, - Nguyễn Phúc Ánh thở nhẹ. – Có lý do hay không có lý do, các anh cũng phải tự tạo một chân lý cho mình. Có thế thì anh mới cuốn hút được một lực lượng lớn, lực lượng đủ để anh duy trì sự tồn tại. Và để tồn tại, anh phải tiêu diệt tất cả các kẻ gây nguy cơ. Kiến Hòa quân, đội quân có cái tên thật là hay, nhưng để có hòa bình thì phải diệt mọi mầm mống chiến tranh, phải thực sự hùng mạnh, phải kiểm soát được tất cả những gì có thể có ảnh hưởng – Điều đó, một đội quân thì không thể đủ.

Các mối liên kết đều mang trong mình nguy cơ tan vỡ. Người với người, nhóm người với nhóm người. Cuối cùng thì tất cả mọi người đều vì bản thân mình hơn hết thảy. Mọi người đều có hoàn cảnh, xuất thân, quyền lợi khác nhau, do đó, sẽ có ước vọng, mong muốn khác nhau. Tìm được một mẫu số chung, rồi ngay cả khi đã thực hiện được điều mong muốn chung đó, anh cũng phải giải quyết những khác biệt khác, những xung đột khác. Ngay cả chúng ta, ta và anh, cũng có chí hướng đôi phần khác biệt. Ta không phải là kẻ lừa gạt dối trá với bất cứ ai, ta cũng không núp bóng bất cứ danh nghĩa nào, ta chiến đấu vì họ Nguyễn. Nhưng ta cũng yêu qúy Gia Định này, vùng đất mà ta yêu qúy hơn cả quê hương mình, đó là điều duy nhất mà ta có thể nói. Chừng nào còn không xâm phạm đến những gì mà ta bảo vệ, kẻ nào đối tốt với ta thì ta sẽ không bao giờ quên.

- Nói như vậy, những kẻ đứng đầu chúng ta đều là bọn dối trá. – Võ Tánh cười, giọng chàng nhẹ nhàng và thoải mái. Chúa Nguyễn đáp lời chàng bằng nụ cười tương tự.

- Không hẳn thế, nhưng những kẻ lao đầu vào chiến tranh phải biết một điều: Họ chiến đấu vì một giấc mơ, một lời hứa. Và kẻ đưa giấc mơ, lời hứa ấy ra có khả năng thực hiện được không lại là chuyện khác. Chúng ta đang sống trong thời của những giấc mơ tan vỡ. Rối loạn tiền kẽm khiến giới thương nhân lao đao, họ trở thành thảo khấu, tập hợp nhau lại để đòi quyền lợi – Rồi họ bị chính kẻ liên kết, hứa hẹn với mình tiêu diệt. Loạn trong triều Nguyễn, Trương Phúc Loan chuyên quyền, Định vương không được lòng người, mọi người liền cử Tân Chính vương thay thế, bắt Trương Phúc Loan cho Trịnh – Rồi Trịnh trở cờ chiếm Phú Xuân, Tân Chính vương suýt nữa diệt cả họ Nguyễn. Nguyễn Hữu Chỉnh hùng tâm tráng chí đem Tây Sơn vào báo thù riêng, giúp việc nước - Rồi kết qủa là vua Lê mất cả nước, thân vong. Trịnh Khải kia tưởng đâu diệt được Quận Huy, cản Trịnh Cán, củng cố địa vị gia đình họ Trịnh – Rồi lại để bọn kiêu binh lấn lướt, mất đi không ai thèm luyến tiếc. Cả bọn Tây Sơn kia nữa, chúng hứa hẹn với thương nhân rồi chúng diệt thương nhân, chúng hứa hẹn với chúa Trịnh rồi chúng diệt Trịnh, chúng liên kết với Chỉnh rồi giết Chỉnh, chúng phù Lê rồi diệt Lê. Ngay cả với bản thân, chúng cũng anh em đánh giết nhau, chia năm xẻ bảy.

Ngay cả kẻ như Nguyễn Văn Trương, là chăn trâu trên đồng cỏ trước khi gia nhập Tây Sơn rồi lại chính mình từ bỏ, hắn ông ta cũng có những giấc mơ của riêng mình. Nguyễn Đăng Vân, Nguyễn Văn Duệ, tất cả những kẻ ấy có giấc mơ của riêng mình và có lúc tưởng rằng sẽ thực hiện được nó. Nhưng rồi chính họ quay lưng lại với nó ngay khi nó chưa có dấu hiệu tan vỡ.

Những giấc mơ tan vỡ. Tất cả chỉ là những giấc mơ tan vỡ.

Tất cả bọn họ đều không hiểu một điều: Cái mà họ có, ngoài thanh gươm hoặc khẩu súng, chỉ là một lời hứa. Lời hứa của những kẻ mà họ không thể bắt chúng giữ lời. Họ không hiểu rằng chiến tranh không thể, hoặc chỉ có thể giải quyết được rất ít, những vấn đề của họ. Ta có phải là thần thánh đâu để hứa rằng mọi người mọi kẻ đều sẽ đầy đủ, hạnh phúc? Ta có phải thần thánh đâu mà ngăn được thiên tai, dịch bệnh, đem mỡ màng đến cho đất bạc màu, làm ngọt vùng nước mặn? Thậm chí, ta làm sao có thể để cho thương nhân không làm giàu, không giàu hơn nông dân cuốc đất, không để họ xung đột với nhau? Thậm chí, ta không thể nào ngăn hết những kẻ có quyền, có tiền ngưng bắt nạt kẻ yếu hơn. Tất cả mọi người mọi kẻ đều hạnh phúc là không thể. Thỏa mãn ý muốn của tất cả mọi người là không thể. Đó là con người, là một tập hợp con người. Trông chờ và phụ thuộc vào lời hứa của những kẻ cũng chỉ là con người, họ phải chịu rủi ro và đừng ngạc nhiên khi phải thất vọng.

Những kẻ ca ngợi chiến tranh đều là bọn bất lương.

Không, chiến tranh không phải là tất yếu. Đó chỉ là sự ngụy biện của những kẻ cho mình cái quyền phán xét thế giới, những kẻ khinh rẻ sinh mạng con người. Tại sao lại chiến tranh, tại sao lại xung đột? Đó mới là điều mà người ta nên nghĩ tới, nên giải thích và giải quyết. Phải, sức mạnh là điều quan trọng, nhưng sử dụng sức mạnh ấy như thế nào lại do con người quyết định. Kẻ nắm trong tay sức mạnh để sử dụng bạo quyền thì trước sau cũng bị triệt tiêu. Kẻ nắm trong tay sức mạnh để thu vén lợi ích cho riêng mình thì trước sau sẽ bị phản bội. Kẻ nắm trong tay sức mạnh để điều chỉnh những mâu thuẫn, để giải quyết những xung đột, để bảo vệ chính bản thân mình và đem lại lợi ích cho người khác, ấy mới là đúng đắn. Mọi con người đều vì bản thân mình hơn hết thảy. Mọi nhóm người, dân tộc, tầng lớp đều co cụm, coi trọng quyền lợi của mình hơn hết thảy. Vì thế đạo lý mới được sinh ra để kiềm giữ con người. Vì thế mới cần kẻ có quyền lực và sức mạnh để điều hòa và nắm giữ sự ổn định. Những kẻ sử dụng chiến tranh để giải quyết xung đột đều là bọn kém cỏi. Ta chưa thấy cuộc chiến nào đem lại kết qủa tốt đẹp. Cái cuối cùng còn lại là một đống nát bấy để tất cả xây dựng lại từ đầu và biến thiên theo những gì còn lại của đống nát bấy ấy.

Chiến tranh là tất yếu? Đó chỉ là sự ngụy biện của bọn người cho rằng mình có quyền tiêu diệt kẻ khác vì mục đích của riêng mình.

Ngoài kia là nắng và gió. Cuối mùa xuân của phương Bắc và gần hết mùa khô của phương Nam. Giọng nói của chúa Nguyễn bình yên, gần như là thản nhiên. Bất lương, ngụy biện, mơ mộng, kém cỏi, chàng nghĩ về những từ ngữ ấy, tất cả những điều được nói ra bằng sự thản nhiên kỳ lạ.

- Sau hơn hai trăm năm chiến tranh, dù sao Đại Việt đã nhất thống dưới triều Lê. – Chàng cố tình nói. Chúa Nguyễn dửng dưng nhìn con thuyền đang trôi đến từ đầu nguồn.

- Thống nhất bằng chiến tranh? Thật là những kẻ hoặc ngây thơ hoặc coi thường con người đến cực hạn. Tại sao nhà Tần bị tiêu diệt? Tại sao Mông Cổ tan rã? Tại sao Liêu lụn bại? Con người là loài sinh vật có ký ức, có tình cảm, có lý trí. Những cộng đồng người có lịch sử, có niềm tự tôn, có nguồn gốc của riêng mình. Chỉ khi dung hòa được những điều như quyền lợi, như đời sống, như tình cảm… thì mới có thể sống bên nhau. Thống nhất – bằng cách cày xới nát các vết thương, bằng cách dẫm đạp lên kẻ khác? Ồ không, tất cả sẽ đều được lưu dấu, tất cả sẽ ghi nhớ, tất cả sẽ còn lại. Và những người như chúng ta sẽ hỏi, chúng ta được quyền hỏi: Tại sao chúng ta lại phải bị tiêu diệt? Nỗi đau của chúng ta là vô nghĩa lý sao? Số phận của chúng ta là vô nghĩa lý sao? Tiêu diệt – Tần Doanh Chính kia đã muốn tiêu diệt tất cả dấu vết phân chia của bảy nước; đốt sách, chôn học trò, phá hủy lăng miếu, đồng nhất ngôn ngữ, giết chóc và thảm sát. Và cuối cùng, kẻ tự xưng là tôi thần của nước Sở, con cháu của cựu quốc, đã vào Trường An đốt rụi cung A Phòng. Tất cả sẽ không quên. Cho đến tận bây giờ, người ta vẫn còn tự xưng mình là con cháu nước Tấn, nước Sở, nước Thục, nước Triệu… Dẫm đạp lên ký ức và niềm tự hào của kẻ khác còn tồi tệ hơn cướp đi tính mạng của họ.

Ta đã nói, phải không, rằng chiến tranh không giải quyết được bất cứ điều gì cả.

- Tại sao ngài lại nói tất cả những điều này với tôi? – Cuối cùng, Võ Tánh hỏi. Chúa Nguyễn quay sang chàng. Chàng lại thấy cánh cửa đóng khép sau đôi mắt vị chúa trẻ.

- Ta cần tướng quân. Chúng ta cần nhau để thực hiện ước muốn của mình. Nhưng trước hết thì chúng ta phải biết mình muốn gì. Chúng ta cần những người lính hăng hái. Nhưng nếu kẻ lãnh đạo cũng mang đầy ảo tưởng thì thật là nguy hại. Kẻ lãnh đạo không được mang ảo tưởng. Chỉ có thế thì chúng ta mới biết mình cần gì và biết giới hạn để dừng lại. Một đội quân dũng cảm và một đội quân cuồng bạo khác biệt là ở đó. Ta cần những người có thể giúp ta thực hiện cuộc chiến của mình.

Sau khi chúa Nguyễn cùng Võ Tánh trở về, yến tiệc đã kéo dài cho đến đêm. Ngồi chung bàn với những thủ lĩnh Kiến Hòa và quan tướng thân cận, vị chúa tiếp đãi, hỏi han họ bằng sự thành thục đã có được trong những năm tháng dãi dầu. Dù không ở trong buổi tiệc, Ngọc Du vẫn có thể mường tượng thấy được điều đó. Em trai nàng đã qúa quen thuộc với những cuộc kết giao, thương lượng và đàm phán, đã thu phục tất cả con người mọi nơi đi qua, từ những giáo sĩ Tây dương đến Xiêm vương, từ hàng tướng đến quân Đông Sơn đối địch. Một khi đã chấp nhận đến gặp chúa Nguyễn, Võ Tánh phải có sự quyết định.

Chàng sẽ đến với Nguyễn quân, nhìn dòng nước đen thẫm dưới bờ đá, Ngọc Du vẩn vơ nghĩ. Những cuộc gặp mặt sẽ là không tránh khỏi. Từ hôm ấy, nàng đã nhất quyết không gặp lại người thanh niên này, cáo từ về khi chàng còn đang đi tuần phòng quanh trại. Thật trẻ con, giờ đây thì nàng nghĩ. Thật ra mọi chuyện rất đơn giản. Nàng chỉ cần đối với chàng y như những gì chàng muốn. Chàng không muốn lại gần nàng, tốt thôi. Đó lại là một thái độ dễ chịu hơn khi họ còn phải gặp nhau lâu dài.

Và thật ra, nàng cũng không muốn mất một người bạn như thế.

Bạn, hay bất cứ điều gì khác đi nữa, ở bên chàng cũng dễ chịu. Vui vẻ, có lẽ. Cả sự tự nhiên bỗ bã, cả sự tự mãn buồn cười. Khi những điều đó mất đi, nàng cũng thấy luyến tiếc. Nhưng có những điều không thể quay lại được. Tại nơi đây, bến sông này, nơi từ lâu đã vắng những chuyến đò, đã xảy ra một điều khiến con đường của họ đứt đoạn.

Đêm vẫn như là đêm ấy. Trăng lăn tăn trên sóng nước. Tiếng lao xao của gió dưới cây lá. Tiếng rì rầm của dòng chảy dưới bờ đá. Thanh âm của các loài thú đêm. Trốn khỏi đám náo nhiệt của buổi tiệc, nàng đã tìm đến đây, như thói quen đã có từ mấy tháng ròng. Có lẽ nàng vẫn nhớ, có lẽ nàng vẫn chờ đợi? Chờ đợi? Chờ đợi điều gì?

Cũng có lẽ nàng biết câu trả lời ấy khi nhìn thấy bóng người xuất hiện đầu con đường dẫn ra bến sông. Võ Tánh. Tay chắp sau lưng, chậm rãi đi tới như khi chàng đến trước mặt chúa Nguyễn buổi sáng. Nàng nhìn chàng, rồi lại nhìn ra dòng sông. Nghe bước chân lại gần.

- Lâu rồi không gặp. – Chàng nói. Nàng mỉm cười. Con người này qủa thật là cứ tự nhiên như thể chẳng có gì khiến chàng ta ngần ngại.

Nàng không trả lời. Một lúc sau, chàng lại đằng hắng.

- Xin lỗi về chuyện lúc trước. Khi ấy, nhận được món mà chúa công gửi tới, tôi qủa thật thấy có áp lực. Trút áp lực ấy lên nàng qủa là không phải.

- Sao lại không phải? Tôi cũng là một phần trong áp lực ấy, đúng không? Tướng quân thay đổi thật là nhanh, anh quyết định đến hay đi cũng thật là dứt khoát.

Tính hiếu thắng trong nàng lại trỗi dậy. Nàng vẫn nhớ cảm giác tức giận đêm hôm đó, sự sỉ nhục mà không một cô gái nào có thể chịu đựng được. Không phải nàng không hiểu những gì người thanh niên này nghĩ, nhưng cái giọng nói dường như chẳng xảy ra chuyện gì kia lại làm nàng tức giận.

- Đúng vậy, tôi không muốn nàng ảnh hưởng đến quyết định của tôi. - Lại một lời thừa nhận thản nhiên, hay tất nhiên. – Tôi có những anh em của mình, tôi phải quyết định vận mệnh của họ, không thể chỉ dựa vào những cảm xúc nhất thời.

Ánh trăng trên mặt nước làm nàng nhức mắt. Nàng quay sang nhìn chàng. Nàng ngồi trên bờ đá, chàng vẫn đứng cách xa nàng chừng một bước chân.

- Vậy tướng quân quyết định thế nào? – Nàng điềm đạm hỏi.

- Về với Nguyễn quân. – Chàng trả lời đơn giản.

- Anh có thể cho tôi biết lý do mà anh quyết định như thế?

- Chúa công… - Im lặng trong một thoáng, rồi chàng tiếp tục. – Là một vị chúa buồn.

Lần này thì nàng nhướng mày.

- Hiểu qúa rõ những gì mình đang làm cũng không hẳn là tốt. – Chàng nhìn ra sông, rồi chiếc cọc cột thuyền. Sóng duềnh dưới chân nàng. – Tôi nghĩ, tôi đã hiểu được tại sao nàng lại yêu qúy người em của mình đến thế.

Ngọn gió thổi qua, khiến cả thế giới xôn xao chuyển động. Áng mây trời, ánh trăng, chiếc lá, tán cây, ngọn cỏ, dòng nước, cả tiếng gáy của con dế nhỏ, tiếng vang của dòng sông. Cả bầu trời được lọc qua các tầng ánh sáng và các vì sao xa tít.

- Không, đó là cảm giác tội lỗi. – Một lúc sau, nàng nói, giọng nhỏ như tiếng thì thầm. – Vì đã không làm được gì, không thể làm gì, không biết làm gì.

Nàng không nói về những gì nàng đã làm, chàng hiểu điều đó. Không phải lỗi của nàng, chàng muốn nói. Không và có, thật ra đều đã không còn quan trọng nữa. Nàng cũng không chỉ nói về người em trai mình.

Không ai có lỗi khi muốn tồn tại, chàng muốn nói. Nhưng ngay cả điều đó cũng không cần thiết.

Khi sự im lặng của họ đã trở nên mệt mỏi, nàng đứng dậy, mỉm cười.

- Chào mừng tướng quân đến với chúng tôi. Ta nên về thôi, kẻo lại có người đi tìm.

Miệng nói, chân nàng đã bước. Chàng nhìn theo nàng, định nói nhưng lại lặng im.

14

Sự lặng lẽ này thật là lạ, Võ Tánh thầm nghĩ khi nhìn lại doanh trại Kiến Hòa, hay nói đúng hơn, nơi từng là doanh trại Kiến Hòa. Hôm nay là ngày bọn họ rời khỏi nơi đóng quân suốt bốn năm. Tất cả cùng lặng lẽ, kể cả người hăng hái về với Nguyễn quân nhất, kể cả những kẻ đã từng reo mừng khi được sát cánh cùng với Nguyễn quân. Tất cả lặng lẽ đeo lên vai những gói hành lý được sửa soạn sẵn, chất đồ đạc xuống thuyền, xuống xe. Vành đai vòng ngoài của trại Kiến Hòa đã được hạ xuống. Võ Văn Lượng đã hỏi có nên đốt doanh trại và chàng đã bảo không. Họ không thể đối xử như vậy với nơi từng là chốn nương thân máu thịt, từng là ước mơ của họ.

Rời khỏi nơi ấy, tất cả cùng phải cảm thấy ngậm ngùi.

Nhìn những thanh niên trước mặt, chàng lại thấy ngậm ngùi vì một lý do hoàn toàn khác. Trước mặt họ là một con đường dài, rất dài, một chặng phiêu lưu đầy bất trắc. Họ chỉ muốn bảo vệ vùng đất của mình, nhưng điều đó cũng có nghĩa họ phải lao mình vào cuộc chiến của Tây Sơn và chúa Nguyễn. Phải tiêu diệt tất cả các mầm mống chiến tranh, vị chúa đã nói. Tất cả, họ phải đi đến ngày cuối cùng của cuộc chiến này. Đến ngày cuối cùng ấy, bao nhiêu người sẽ còn lại?

Nếu ai không muốn đi theo tôi, có thể trở về nhà, chàng cũng đã bảo họ. Nhưng họ ở lại. Nhà của họ là nơi đây, là cuộc chiến này, là Gia Định này. Có kẻ nào không liên can được sao? Đằng sau chàng, Võ Văn Lượng thì thầm. Gia Định này đã bị cuốn vào cuộc chiến, sớm hay muộn, nó phải dốc toàn bộ sức lực cho đến khi bị tận diệt.

Trời vừa hửng nắng. Bọn họ đã sửa soạn từ sớm nên việc đã gần xong. Gật đầu với Mạc Văn Tô, Võ Tánh đi về phía lán trại của mình. Các cô hầu gái đã xuống thuyền, đồ đạc quan trọng đã được chuyển, căn phòng trống hoác bộ bàn ghế, giường và tủ. Nhìn lại một lần nữa, chàng quay bước. Ngần ngừ một thoáng, chàng đến phía tây doanh trại, vườn lan mà chàng đã đem về. Tháng tư, nắng sớm đã trở nên rực rỡ. Bầu trời xanh trong phơn phớt mây. Ngày thật đẹp, chàng nghĩ thầm. Những bông hoa lan tỏa ngát. Hương thơm đằm lại say như rượu, trầm sâu như dòng suối giữa rừng. Những cành hoa như đàn bướm đủ sắc màu rung rinh trong gió. Cảnh sắc ấy đủ để chàng đứng lại, ngẩn ngơ nhìn.

Hoa lan chỉ là một thú chơi nho nhỏ của chàng, trong muôn vàn trò tiêu khiển khác. Nhưng ở giữa rừng sâu này, chàng có điều kiện để theo đuổi trò chơi ấy. Giờ đây, khi phải bỏ chúng lại, chàng lại thấy luyến tiếc, một sự luyến tiếc rất gần với cảm thương. Cho điều gì mà chàng vẫn không thể hiểu.

Không biết chàng đã đứng nơi ấy bao lâu, cho đến khi có tiếng gọi đằng sau chàng mới giật mình ngoái lại. Ngọc Du đang đứng sau chàng. Nàng cầm trên tay một danh sách dài.

- Võ tướng quân, tôi được cử tới để đón mọi người. – Nàng nói, điềm đạm và lạnh lùng. – Nguyễn Văn Hiếu đưa cho tôi cái này, anh xem thế nào?

- Nguyễn Văn Hiếu đã làm thì không cần xem lại. – Chàng trả lời hờ hững, lại quay về với những cành lan. Hương thơm của chúng ngày càng ngào ngạt, khiến cả Ngọc Du cũng phải chú ý. Lần đầu tiên nàng nhìn thấy vườn lan trong nắng. Trên những cành cây, các giò hoa được gá vào nối liền nhau, tạo thành cụm hoa đủ màu rực rỡ. Có cả chục cây như vậy, chưa kể các loài địa lan mọc trên đất, các giò lan treo, các cành lan con còn chưa được ghép. Thật là một gia tài lớn trong vòng có bốn năm, nàng nghĩ thầm.

- Anh không đem theo à? – Không đừng được, nàng hỏi. Chàng lắc đầu.

- Sau này không có nơi ở ổn định, không thể chăm sóc chúng. Để chúng lại rừng cũng tốt. Chúng là hoa mọc trong rừng, càng ít hơi người càng hay.

Nếu nghĩ vậy thì sao anh lại đem chúng về, nàng muốn nói. Nghĩ lại, câu hỏi ấy khiến nàng có cảm giác buồn buồn. Đứng im một lát, nàng cảm thấy khó xử. Đây là nơi xảy ra chuyện của nàng và Võ Tánh. Nàng không muốn khơi gợi chuyện đó ở đây.

- Chúng ta nên ra bến thôi, mọi người đang đợi. – Nàng nói, định quay đi trước. Giọng chàng đã ngăn nàng lại.

- Bao giờ cũng vậy sao, công nương? Mọi người thế này, mọi người thế kia, nàng thậm chí không thể nhìn ngắm một vườn lan vào lúc rực rỡ nhất. Nàng không hề bận tâm đến điều gì khác nữa sao?

Nàng chớp mắt, rồi cuối cùng cười nhẹ.

- Hoa đẹp đã ngắm rồi, lưu luyến thêm được ích lợi gì? Ngắm vẻ đẹp ấy thêm một chút cũng chẳng làm chúng tồn tại lâu thêm, cũng chẳng giữ chúng được bên mình. Hoa nở rồi hoa sẽ tàn, rồi sẽ lại thấy thêm những loài kỳ hoa dị thảo khác, rồi lại có những mối ưu tư khác. Phù du làm sao có thể tính lâu mau?

Chàng im lặng, vẫn không quay lại. Một lúc sau, nàng nghe có tiếng thở dài.

- Lần trước nàng nói chỉ có cảm giác tội lỗi, giờ thì tôi tin. Nàng hẳn chưa bao giờ biết yêu qúy điều gì.

Vậy mà tôi đã luôn muốn nàng nhìn thấy vườn lan này. Chàng nói trước khi quay bước về phía cổng doanh trại. Có tiếng gọi từ đằng xa và chàng đáp lời. Còn lại một mình, Ngọc Du nhìn theo bóng người thanh niên khuất sau ngã rẽ, rồi nhìn lại vườn lan.

Một gia tài thật lớn trong chỉ bốn năm, nàng nghĩ đến điều đó. Chàng hẳn đã đổ nhiều công sức cho nó, chuyên tâm vì nó, say mê nó. Và chàng đã phải bỏ lại. Bởi vì chàng thật đã khờ dại ngay từ khi bắt đầu xây dựng một vườn hoa trong khu doanh trại quân đội. Trong vòng đạn lửa, bên cạnh những con người lao mình vào chiến tranh. Trước sau gì thì họ cũng sẽ phải bỏ nó lại, cách này hay cách khác, thế này hay thế khác. Chỉ nên trồng rau, cây ăn qủa và các thứ cây trái ngắn ngày để phục vụ quân lương. Hoa thì có lợi ích gì?

Nàng cũng đã từng có một hồ sen trong vườn nhà, sen nở rực sông Hương những ngày vào hạ. Tất cả giờ chỉ còn là hương thơm váng vất trong miền ký ức mảnh như tơ.

Những cánh hoa rung rinh trong nắng, vẻ rực rỡ muộn phiền của phù du.

Nàng hẳn chưa biết yêu qúy bất cứ điều gì. Ồ, phải và không phải, có thể và có lẽ. Ngay cả nàng cũng không thể biết được, chàng hiểu sao? Chàng có thể phán xét chỉ vì nàng không muốn tự làm tổn thương bản thân vì những xúc cảm không đáng có? Trên đời này đã có qúa nhiều nỗi đau buồn, không cần phải tự tìm kiếm thêm. Mà có nghĩa lý gì đâu, nếu như nói nàng vẫn nhớ về hương sen bên thềm nhà, tiếng mưa rơi trên bậc đá? Những gì chỉ còn là ký ức mảnh như tơ.

Và rồi khu doanh trại này cũng vậy, nàng nghĩ khi rời khỏi vườn lan, đến nơi có tiếng người trò chuyện. Chẳng mấy chốc, nơi này sẽ bị bỏ hoang, trở thành nơi ẩn náu cho thú rừng, rồi nắng mưa, rừng rậm sẽ xóa đi dấu vết của nó. Hoặc may mắn hơn, sẽ có người tìm đến trú ngụ. Dù sao đi nữa, tất cả các dấu vết của họ cũng sẽ bị xóa sạch. Cả những bông hoa kia nữa. Chúng sẽ là thứ đầu tiên tàn héo, dù chúng là loài hoa có tuổi thọ lâu nhất trong tất cả mọi loài. Tất cả sẽ bị xóa sạch, nơi mà nàng đã từng đứng nhìn qua song cửa đến những con người rực rỡ. Đến lượt mình, những con người ấy sẽ lao mình vào lửa đạn, nơi sự sống ngắn ngủi hơn cái chết.

Họ đã rời khỏi nơi trú ẩn của mình để bước ra vùng hoang địa hung tàn. Rồi những gì họ để lại chỉ là khoảng không phù du trống.

Lưu luyến những bông hoa thì có ý nghĩa gì?

Tháng tư năm Mậu Thân, lũy Trấn Định bị hạ. Tây Sơn mất Mỹ Tho.

Quân chúa Nguyễn chỉ huy cùng Nguyễn Phúc Hội và Lê Văn Quân tiến đánh lũy Trấn Định, chiêu dụ Cai cơ Tây Sơn mở cửa đầu hàng. Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Mân ở Thang Trông bị bắt. Quân Nguyễn chiếm giữ con đường liên lạc giữa Sài Côn và Mỹ Tho. Mối liên hệ của Tây Sơn ở Sài Côn và Mỹ Tho tan vỡ, quân lính tháo chạy khỏi các căn cứ.

Trên con đường họ đến Mỹ Tho, thuyền và vũ khí bị quân Tây Sơn vứt lại vẫn còn nằm dọc hai bên bờ sông. Cả những chiếc áo lập lờ trôi trên nước, thấp thoáng trong những bụi cỏ. Họ đã vứt lại tất cả để chạy trốn, Ngọc Du thầm nghĩ. Những quân lính này sẽ đi đâu, làm gì? Nếu để họ lẩn khuất trong rừng, thế nào cũng có những toán quân tập hợp nhau lại quấy nhiễu dân chúng kiếm cái ăn. Đường trở về của họ đã bị chặn và cũng không thể băng qua rừng phía Tây đầy cá sấu, thú dữ. Chúa Nguyễn luôn chiêu hàng quân địch, nhưng đó là tướng lĩnh, còn số quân này? Xung đột triền miên của quân Tây Sơn và người Gia Định có thể sẽ phát tác. Được thả tự do, bọn họ sẽ đánh giết nhau bằng được.

Trên con đường họ đến Mỹ Tho vẫn còn thoang thoảng mùi khói súng. Chúa Nguyễn đón nàng ở bến sông, áo chiến vẫn chưa cởi. Vị chúa trẻ đang hướng dẫn lập một bảng cáo thị ngay bến sông. Còn những bảng cáo thị khác trong chợ và trước dinh phủ, em trai nàng nói. Xung quanh họ, quân lính vẫn đang dọn dẹp những tàn tích cuối cùng của cuộc chiến.

- Cáo thị về chuyện gì, chúa công? – Ngọc Du hỏi trên con đường đến phủ. Họ đã đi cách đám quân lính hộ tống một quãng khá xa để không ai nghe tiếng. Chúa Nguyễn nhìn về con đường phía trước, trả lời lơ đãng.

- Khen thưởng kẻ nào nuôi dưỡng quân Tây Sơn trong nhà. Hiện thời ta không có tiền, nhưng có thể miễn cho họ việc cung cấp quân lương, đại loại thế.

- Khen thưởng? – Ngọc Du nhướng mày. – Chỉ cần nuôi đám lính ấy, không gì khác?

- Chỉ cần chứa chấp họ trong nhà, cho họ chỗ trú thân. – Vị chúa chỉnh lại lời nàng. – Dân Gia Định này cũng không dư dả để nuôi người ngoài. Để đám lính ấy ở ngoài, rừng thiêng nước độc, xa lạ cả về phong thủy, sớm muộn cũng gây rối. Trong đó có cả quân của Phạm Văn Hưng đưa đến, chúng chẳng biết nơi này là đâu. Thu dưỡng chúng, cho chúng yên ổn mà sống cùng dân chúng, trước là bớt gây rắc rối, hai là Gia Định thêm người mà làm ăn. Bọn chúng từ Thuận Hóa đến đây, kể cũng là dân xứ rường cột của họ Nguyễn ta từ trước, không nên tàn nhẫn với chúng. Sau này trở về, đất đai ấy là của ta, dân chúng ấy là của ta, giết hại con cháu của họ thì làm sao ta có thể nhìn mặt họ?

“Xưa Đức Thái tổ ta gầy dựng cơ nghiệp ở cõi Nam hơn hai trăm năm, thần dân trong ngoài đều là xích tử triều đình, mà đất Thuận Hóa lại là tôn miếu xã tắc liệt thánh ta ở đó, nên ta chỉ coi dân xứ ấy cũng như tình cốt nhục. Khi ta còn nhỏ, gặp lúc gian nan, ở trụ nước láng giềng, thường muốn dựng lại cơ đồ đem về đất cũ. Bây giờ trời còn giúp nhà Hán, người chưa quên nhà Đường, binh triều vừa tới, quân giặc đã tan. Tây Sơn lại bắt dân Thuận Hóa hãm dưới binh đao, đến nỗi thây chất đầy nội, máu chảy thành sông. Vả lại các ngươi đều là thần tử, đội ơn nhà nước cũng nhiều, con em mà đánh lại cha anh, tưởng các ngươi không nỡ làm như vậy. Chẳng qua bức vì thời, các ngươi phải bỏ bà con cha mẹ đến đất khách quê người, tới lui đều khó. Ta nghĩ ra thương xót lắm. Vì thế ta đã hạ lệnh thu dưỡng, để cho có chỗ nương thân. Các ngươi phải đầu ngục các làng cho mau. Chờ khi ta lấy được Sài Côn, ai muốn ở thời ở, hoặc muốn về quê nhà cũng được. Nếu không như vậy, thời e chỗ chiến trường các ngươi không tránh khỏi, rồi ra lửa cháy núi Côn, ngọc tan mà đá cũng tan, phàn nàn không kịp được.”

Bản cáo thị đầu tiên đã được dán ngoài cổng dinh. Ngọc Du ngẩng đầu đọc, rồi quay nhìn những người lính ôm rất nhiều cuộn giấy khác tản ra xung quanh. Nàng nhìn người em, thở dài:

- Ngài định thưởng cho họ thế nào đây, chúa công?

- Thu dưỡng một người, miễn nửa số binh lương. Thu dưỡng hai người, miễn luôn thuế thân. Thu dưỡng ba người, tùy nghi ban thưởng. Các quan và ta đã định như thế.

- Rồi chúng ta sẽ sống thế nào, chúa công? Quân lương của chúng ta ngày càng khó khăn, thêm quân lính ngày càng nhiều, chỉ e rằng đám quân lính chạy trốn đó thì sống, còn ta thì nhịn đói.

Không thể nói rằng Ngọc Du đã không bực bội, tuy nàng hiểu những gì vị chúa đang làm. Miễn thuế, ban thưởng trong lúc chiến tranh gay go nhất? Thật là liều mạng. Dù chưa kiểm tra số tài vật mà quân Tây Sơn bỏ lại ở Mỹ Tho, nàng cũng hiểu cần nhiều hơn thế để đối đầu với Sài Côn. Nhưng không có khoản ban thưởng thì sẽ không ai nhận bọn lính ấy, những kẻ xa lạ thù địch. Ồ, chiếm được Mỹ Tho, họ lại đang phải xử lý mớ rối loạn của nó.

- Cách giải quyết gọn gàng êm đẹp nhất là giết hết chúng đi. – Chúa Nguyễn trả lời nàng bằng một tiếng cười. – Thế thì ta không sợ bị phản bội, không lo rối loạn, cũng chẳng phải bận tâm. Ồ, chúng là gì chứ? Quân lính thì ta kiếm ở đâu chẳng được, cứ đến từng nhà mà lùng, lôi cả nam phụ lão ấu ra, chẳng cần nhọc công. Ta cần là tướng, những tướng thật giỏi để bảo chúng chém đâu thì chém, chạy vào đâu thì chạy. Quân chết đứa này thì thay đứa khác. Huống gì những kẻ hai lòng như thế càng không đáng tin.

- Thần không có ý như thế, chuá công. – Ngọc Du ngắt lời người em, nàng cau mày. – Nhưng ngài đã nghĩ chúng ta sẽ như thế nào?

- Khó khăn một chút cũng chẳng sao đâu. – Vị chúa nói với nàng, thản nhiên. Họ bước qua cánh cổng dinh phủ, vài người trong vùng đã lấp ló nhìn họ. – Chúng ta là đàn ông. Cứ khó khăn một chút để rèn luyện đám người mới, hun đúc lòng quyết thắng cho họ. Hôm trước Nhị phi đã hiến kế quyên gom tiền bạc của tướng lãnh, khi cần kíp thì ta sẽ dùng cách ấy.

- Bọn họ đã chỉ có một ít lương, giờ còn thu thêm của họ, chúa công có qúa khắc nghiệt với người xung quanh?

- Phải, ta rất khắc nghiệt. – Chúa Nguyễn cười. – Cứ nói với họ rằng chiến trận cần kíp. Họ đã đi theo ta kể từ những ngày thậm chí không có gì ăn, há lại ngại mấy đồng lương? Đánh nhau bằng cả tính mạng mà lại sợ mất vài đồng nho nhỏ? Không ai vì mấy đồng tiền ấy mà để tâm. Chị cứ tính toán gom cả vào, lúc nào cấp bách ta sẽ nói.

Họ im lặng đi vào cổng chính trong dinh. Đã có một đám đông chờ họ. Thấy vị chúa, Lê Văn Duyệt bước ra khỏi đám lính, cúi đầu nói:

- Bẩm chúa công, nội quân vừa bắt được Điều khiển Hương, Chánh đội Lan vào làng đòi tiền sách nhiễu dân chúng. Thần đã bắt giải bọn họ để chúa công định liệu.

Chúa Nguyễn cau mày khi nghe lời nói. Gật đầu, vị chúa quay sang nói với tên lính đằng sau:

- Gọi Nguyễn Thái Nguyên đến cho ta!

Còn hai tên này, đem giết trước chợ. - Vị chúa lạnh lùng nói. Những người xung quanh, ngay cả Lê Văn Duyệt cũng phải giật mình. Hai người tướng đang bị cầm giữ mặt tái xanh, qùy sụp xuống van lạy như tế sao. Thấy không đành lòng, Ngọc Du lên tiếng bên cạnh người em.

- Chúa công, họ theo ngài đánh trận vất vả, lại mới phạm lỗi lần đầu, ngài có thể nương tay?

- Nếu kẻ nào cũng phạm lỗi lần đầu thì dân chúng còn lại cái gì, công nương? – Không nhìn người chị, vị chúa phất tay áo vào điện, bỏ qua cả tiếng ồn ào van xin bên ngoài. – Ta đã bảo không được giở thói ngang ngược ra, kẻ nào lấy một chén gạo của dân cũng đem chém. Lệnh đã ban, chẳng lẽ ta lại làm ngược lời của mình? Trong quân nếu lệnh không nghiêm thì ai nghe?

- Ngài bảo ngài đối xử với kẻ bên cạnh khắc nghiệt, nhưng thế này thì có qúa đáng không, chúa công? Ngài bỏ tiền cho đám người chống lại mình rồi đi thu lại của những người theo mình. Ngài yên ủi những hàng tướng kia rồi ngài lại giết chết kẻ theo mình mà trái lệnh. Ngài làm như thế thì ai còn dám đi theo ngài?

- Chị lầm lẫn rồi, trưởng công nương. Chị lầm lẫn giữa tình cảm với đại cuộc, điều gì nên làm hay không nên làm. Chị có còn nhớ ngày xưa đội quân Đông Sơn như thế nào? Thậm chí, chị nhìn đám quân Tây Sơn kia đã trở thành như thế nào? Lao vào chiến tranh có một phần là bọn thất phu, đầu trộm đuôi cướp, vô tài vô đức muốn lấy việc giết chóc để tiến thân. Kể cả không như vậy, giết chóc là việc bào mòn tâm hồn và nhân tính con người. Sau một cuộc chiến, kéo theo nó là trả thù, là cướp bóc, là hãm hiếp để giải tỏa sát khí, oán khí. Trong chiến trận chỉ có giết và giết, mạng người chẳng là gì cả. Cái ác trong mỗi kẻ được thỏa sức tung hoành, không cần biết tốt xấu đúng sai. Cho nên quân Tây Sơn, những kẻ vốn xuất thân từ đồng ruộng kia, có thể ra tay hạ sát hàng vạn người, có thể không cần biết đến ai ngoài chính bản thân chúng. Đó là lỗi của kẻ đứng đầu. Một kẻ sai, tất cả sai theo. Một kẻ nhân nhượng, tất cả sẽ chẳng còn nể nang gì nữa. Nếu ta không chặn lại, đội quân của ta sẽ trở thành một bọn ăn cướp. Những kẻ ngang nhiên cướp bóc và giết chóc. Lúc ấy, kẻ bị nguyền rủa sẽ là ta.

Giọng nói của vị chúa càng lúc càng gay gắt. Vị chúa cũng đã mệt mỏi, sau cuộc chiến và trông coi kiểm soát vùng đất mới lấy được, Ngọc Du thầm nghĩ. Ngoài kia tiếng ồn đã lặng, hẳn Lê Văn Duyệt đã dẫn hai người đi đến trước chợ chém đầu theo đúng lệnh được ban. Một lúc sau, Nguyễn Thái Nguyên bước vào thi lễ với chúa Nguyễn. Vị chúa chỉ cho ông ta bàn giấy còn bề bộn bút mực.

- Viết cho ta lệnh ban xuống toàn quân: Các tướng không được dung túng cho quân lính lấy của, bắt con gái dân gian. Ai phạm tội chém ngay. Các tướng nếu để tình trạng quân lính sa đà bạo ngược, nhẹ thì giáng cấp, nặng thì chịu chung hình phạt. Hai tên vừa rồi chém xong thì viết cáo thị cho dân chúng biết.

Nguyễn Thái Nguyên chớp mắt nhưng chỉ im lặng tuân mệnh. Việc xong, chúa Nguyễn cho ông mang đi chuyển cho các đội. Ngọc Du cũng cáo từ đi ra cùng Nguyễn Thái Nguyên .

- Vừa vào trận đã chém tướng, tôi qủa thật rất lo. – Ngọc Du nói, vết nhăn giữa lông mày nàng sâu lại. – Năm xưa cũng chỉ vì giết đi vài kẻ, quân lính ở Hà Tiên nổi loạn, giết chết Thái trưởng công nương. Chúa công tính tình nóng nảy, sao ông không lựa lời khuyên nhủ?

- Tôi cho rằng lần này chúa công làm đúng. – Chắp tay sau lưng, Nguyễn Thái Nguyên thong dong nói. – Chúng ta dựa vào danh nghĩa nào để tồn tại ở Gia Định? Mấy chục năm trôi qua, lớp người xưa mất đi, những liên kết của họ Nguyễn với Gia Định này cũng đã phôi pha rồi. Quan nhất thời, dân vạn đại. Chúng ta dựa vào sự ủng hộ của dân chúng mà thắng thì sự tồn tại của chúng ta gắn liền với họ. Phải cho họ thấy chúng ta nói thật chứ không phải phỉnh phờ. Thuyết chính danh đã nói: “Danh bất chính thì Ngôn bất thuận, Ngôn bất thuận tắc sự bất thành”. Muốn chính danh thì cái tên phải tương ứng với sự thật. Danh không đúng với sự thật là giả danh, là dối trá, hư ngụy. “Cô bất cô, cô tai cô tai!”, cái ly không vuông, bất chính là tội ở người trên chứ không phải bọn làm ly. Chúa công ban lệnh cho các tướng, chính là xử lý từ tận gốc. Những kẻ không hiểu được đạo lý thì mất đi ta cũng không tiếc. Dù rằng quân tướng muôn đời là bọn võ biền bạo ngược, chỉ biết dùng cách cứng rắn mà làm việc, ít học hành, xem nhẹ đạo lý, việc cản bọn họ sách nhiễu không thể nào toàn diện, nhưng luật làm ra để củng cố cho đạo đức. Chúng ta là vương tộc, quân lính của chúng ta là đoàn quân của vương gia, nhất quyết không thể nào không có phép tắc, tự cho mình ngang bằng với bọn thảo khấu. Nếu vậy thì những điều nghĩa nhân chúng ta nói sẽ trôi sông trôi biển, làm thứ để người ta cợt nhạo chê cười.

Chém tướng để răn người, cũng là để phục người. Mới chỉ là những chiến thắng đầu tiên mà tướng đã hành động như thế, vương còn mặt mũi nào phủ dụ chúng dân, nói đến an bình lạc nghiệp? Chỉ mới đầu tiên mà như thế, đám quân tướng được thể lấn tới thì khi thành quan, thành công, chúng còn ngang ngược chèn ép kẻ khác đến mức nào? Quân lính chúng ta thành phần phức tạp, ngoài những con cháu công thần, dòng dõi công khanh được dạy dỗ đạo lý thì số đông ít học chỉ biết cái lợi trước mắt chứ không nghĩ đến lâu dài. Lập nghiệp bằng chiến trận là đạp lên xác người mà lập công, nhân tính lẫn lòng từ tâm bị coi nhẹ. Rèn luyện họ ngay từ đầu là cần thiết. Nếu không, công thành cũng do họ mà phá hoại tất cả cũng do họ. Mà đó là lỗi của người trên chứ không ai khác.

Gió thổi mạnh, bầu trời đã kéo mây đen. Nguyễn Thái Nguyên đưa bản cáo thị cho thị đồng, bảo sao thành nhiều bản. Họ nghe tiếng xôn xao từ đầu chợ. Nguyễn Thái Nguyên đưa tay ra hiệu cho Lê Văn Duyệt từ đằng xa. Khi ngựa của viên tướng nội quân chạy trở lại, Nguyễn Thái Nguyên giao cho Văn Duyệt bản cáo thị mà ông đã viết.

- Tướng quân nói Thị giảng đọc lớn lên ngoài chợ cho mọi người cùng nghe, rồi dán lại trên tường. Cẩn thận kẻo mưa ướt.

Lê Văn Duyệt gật đầu quay trở lại nơi hai tướng đang bị đưa ra trảm quyết. Hai tay khoanh vào ống áo, Nguyễn Thái Nguyên nhìn những áng mây ngày càng kéo về kín đặc bầu trời.

- Chém tướng để đánh động dân, đó cũng là cách gây dựng thanh thế. Từ tâm đối xử với bọn người Thuận Hóa, tiếng tốt sẽ không chỉ trong Gia Định mà còn đến tận vùng đất cũ, đến tận Bắc Hà. Công nương có nghe chuyện Tây Sơn ở phía Bắc? Chúng đã giết cả một làng mà vua Lê đến trú ngụ. Ba vị quan nhà Lê đã tự sát trên sân điện. “Cổ lai nhân nghĩa tri vô địch”, lời nói của Trạng Trình có ngờ đến lúc cả ngôi làng của ngài bị tàn sát dưới đao kiếm bạo ngược? Với kẻ thù như vậy, chúng ta chỉ có vũ khí duy nhất để đối chọi.

- “Cổ lai nhân nghĩa tri vô địch. Lọ phải khư khư sự chiến tranh.” – Ngọc Du nói, bần thần nhìn về phía chân trời. Mùa mưa của phương Nam đã kéo về. Tiếng cười của Nguyễn Thái Nguyên nghe như tiếng thở dài.

- Đâu phải tất cả mọi người đều hiểu điều đó. Mất Đạo mới có Đức, mất Đức mới có Nhân nghĩa. Kẻ tri thiên mệnh có được mấy người?

Không ai trong họ lên tiếng khi tiếng ồn đầu chợ vọng đến cùng tiếng gió. Mùa mưa ở phương Nam đã kéo về.

Lặng yên, họ nghe thanh âm của bầu trời và dưới những tầng mây đang luân chuyển.

15

Mùa mưa năm Mậu Thân, đất trời vần vũ mây xám. Vùng đất hơi họ đóng quân dù đã cao hơn mặt đất thường vẫn lõng sõng trong bùn. Mưa rả rích kéo dài từ sáng đến trưa, ngoại trừ toán lính canh gác sùm sụp trong những chiếc áo tơi vẫn phải đứng bên ngoài, tất cả tụ lại trong các chiếc lều của họ. Võ Tánh vén tấm vải bạt nhìn ra ngoài khi mưa đã ngớt hạt. Trong khoảng rừng thưa, tiếng mưa lẫn vào thanh âm của gió qua các tán lá, khó mà phân định lúc nào thì tạnh.

Bên cạnh chàng, Trần Văn Tín phác tay làm một cử chỉ chán nản.

- Anh nôn nóng cái gì? Dù mưa có tạnh thì chúng ta vẫn đóng quân nơi đây, có khác biệt gì đâu.

- Dù sao thì mưa tạnh vẫn hơn. – Mỉm cười, Võ Tánh trả lời, buông tấm vải xuống. Bọn họ đã đóng quân ở đây suốt hơn hai tháng. Ngoại trừ những cuộc đụng độ nho nhỏ với các đội quân do thám của Tây Sơn, mọi việc vẫn im lìm. Trần Văn Tín đã lộ vẻ sốt ruột. Chúng ta ở địa phận rìa Sài Côn này là để ngăn quân Tây Sơn xuống Mỹ Tho, vì thế mà chúng không tiếp ứng được cho lũy Trấn Định – Võ Tánh đã nói với người phó tướng, giờ đây là Cai cơ dưới quyền chàng, nhưng cả quân lính đóng quân qúa lâu một chỗ cũng trở nên nóng nảy. Phải, ngăn Tây Sơn tràn xuống nên chúng cố thủ luôn ở Sài Côn, không chịu mất thêm một tên quân nào nữa – Trần Văn Tín cợt nhạo. Còn chúa công, thu phục xong Trấn Định, chúa công lập công đường, kiểm kê dân chúng, tập hợp lại cả bọn lính Tây Sơn chạy trốn, những việc chẳng biết bao giờ mới xong. Chỉ còn một góc Sài Côn mà lại qúa khó khăn.

Chỉ còn một góc Sài Côn mà Gia Định không sao ổn định được. Còn quân Tây Sơn là còn tình trạng chiến tranh. Nguyễn Huệ cho Phạm Văn Hưng đến chính là cố thủ chờ thời gian thuận tiện, chỉ cần chúng thanh toán xong Bắc Hà thì sẽ dòm ngó đến Gia Định. Chúa công hẳn là cũng nhận biết điều đó, ngài chỉ đang đợi đến lúc thời điểm thích hợp.

Nói là nói như vậy để yên ủi Trần Văn Tín, nhưng trong thâm tâm chàng đang nghĩ đến điều kiện khác có thể xảy ra: Vị chúa đang đợi cuộc chiến của Tây Sơn và nhà Lê đến lúc cao trào. Vua Lê vẫn còn lẩn khuất ở Bắc Hà, trong khi thuộc hạ và gia quyến Lê triều đã sang Thanh cầu viện. Việc như vậy, bọn Phạm Văn Hưng cũng chẳng còn lòng dạ nào ở lại Gia Định. Đến lúc ấy, mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Mạng người là qúy, chẳng việc gì ta phải hy sinh số lượng quân lớn trong khi có cơ hội để thắng dễ dàng hơn. Chàng có thể nghe vị chúa nói. Với số quân ít ỏi của họ, chẳng thể liều lĩnh ồ ạt dùng người đối chọi người. Vì vậy, vị chúa, với sự kiên nhẫn của mình, vẫn còn đang chờ đợi.

Chỉ có Kiến Hòa quân, từ khi về với chúa Nguyễn vẫn chưa được dự một trận đánh chính thức nào, đã bắt đầu sốt ruột. Nguyễn Văn Hiếu và Mạc Văn Tô lại đi đâu đó mất, hẳn đến chỗ bọn nhân sĩ Võ Trường Toản gần đây. Đã đôi lần họ đến doanh trại này, những Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định… Dưới sự cai trị của Tây Sơn, bọn họ lui về ở ẩn, tuy vẫn theo dõi tình hình Gia Định.

Chúng tôi theo chí hướng của thầy, Ngô Tùng Châu có lần đã nói. Việc gì có thể giúp nước giúp nhà thì nên làm, không vì danh lợi mà dấn thân vào chốn quan trường. Các anh là tướng ngoài trận địa, thường bảo văn nhân chúng tôi là bọn trong thời chiến thì núp, trong thời bình thì ra chiếm lấy danh vị, thật ra đó chỉ là bọn tham danh tham lợi, không đáng để tâm. Chúng tôi cũng như các anh, chỉ làm hết những gì mình có thể làm.

Tôi hiểu, ai bảo văn nhân sĩ phu không có sức mạnh? Võ Tánh trả lời. Năm xưa Ức Trai tiên sinh dùng một bức thư hạ mấy thành trì, quy phục tướng nhà Minh không mất một mũi tên, có tướng nào bì được?

Anh nói như vậy cũng không đúng, Lê Quang Định lắc đầu. Tuy viết nên lời lay động lòng người là tài của văn nhân, nhưng sau họ còn phải có rất nhiều trợ lực. Trợ lực lớn nhất của văn là lẽ phải và sự thật. Nhận ra được hai điều ấy, con người mới có thể tiếp nhận những gì được nói sau đó. Ức Trai tiên sinh viết thư hạ thành, trước là có đội quân của Lê Thái Tổ làm sức mạnh, sau là có lẽ phải của đạo lý, nhân nghĩa làm hậu thuẫn. Muốn phục người thì trước phải trọng người. Văn chỉ có lời hay ý đẹp thì như võ thuật mà chỉ có chiêu thức, không có nội lực, múa may thì đẹp mà thực dụng thì thua. Võ và văn thật ra cũng không mấy khác biệt và không thể tách rời. Võ không có văn thì thành tàn ngược, văn không có võ thì thành yếu bại. Võ độc tôn thì bạo phát bạo tàn trong một thời gian ngắn, văn chuyên chú thì tạo ra tình trạng học hành hủ lậu. Đạo lý thánh hiền vốn thâm sâu, hiểu rõ để đem vào thực hiện chứ không phải để ngâm vịnh. Làm bại hoại đạo lý thánh hiền là bọn người tham lam ngu dại chứ thánh hiền không có tội.

Chúa Nguyễn trở lại Gia Định, chỉ dùng mấy lời thu phục được Nguyễn Văn Trương, đuổi Nguyễn Lữ, mới đây thuyết hàng kẻ giữ lũy Trấn Định mà khôi phục Mỹ Tho, kể cũng là người mềm dẻo biết thời. Kiến Hòa quân chọn theo nhà Nguyễn cũng là thiên định. Võ thành danh toại, chỉ mong đừng quên dân Gia Định đã theo phù lúc khó khăn.

Giờ đây, trong cơn mưa rả rích kéo dài, chàng lại nghĩ về những lời của đám học trò Võ Trường Toản. Gia Định xử sỹ Võ Trường Toản, thật không ngạc nhiên khi Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô lại tìm đến ông. Kiến Hòa tiên sinh Phạm Đăng Long, thầy của họ, với Gia Định xử sỹ cũng có mối giao tình. Hay là bọn họ đã muốn lôi kéo đám nhân sĩ còn lẩn khuất ở Gia Định này về với Nguyễn quân? Mà nếu phải, đó có phải là ý của chúa Nguyễn?

Chúa Nguyễn. Trong sự chờ đợi dài dằng dặc này, chàng lại càng thắc mắc hơn những gì đang diễn ra trong tâm trí vị chúa trẻ măng ấy. Họ còn phải đợi cho đến lúc ngài ta sắp xếp xong tất cả. Đã có tin đồn rằng vị chúa đã quyết định đánh Sài Côn vào tháng sáu nhưng không phải, hoặc là đã bị hoãn lại.

Có tiếng ngựa đến từ đằng xa. Mở cửa nhìn ra khoảng trời đã tạnh ráo, chàng thấy đoàn quân thấp thoáng trong rừng, màu cờ vàng dẫn đường. Nguyễn Phúc Hội cùng toán quân đi theo dừng lại trước cửa doanh trại. Áo của họ vẫn còn ướt mưa và bùn.

- Tướng quân vội vã đến đây có lệnh gì cần truyền đạt? – Võ Tánh hỏi khi đã mời vị tướng thuộc họ Nguyễn Phúc này vào lán trại. Cởi áo khoác ướt nước rồi Nguyễn Phúc Hội mới từ tốn trả lời:

- Chúa công định cho tôi cùng hợp binh với Chưởng cơ đánh vào Ba Giồng. Chúa công cũng đã đưa quân đến.

Võ Tánh nhướng mày. Nguyễn Phúc Hội cũng trấn giữ một vùng gần nơi đóng quân của chàng. Hợp binh của ba đạo quân, gồm cả đại quân chúa Nguyễn sẽ đánh Ba Giồng. Đã đến lúc? Nhận thấy ánh mắt của chàng, Nguyễn Phúc Hội mỉm cười.

- Tôi đích thân đến đây để bàn sách lược với Võ Chưởng cơ. Chúng ta sẽ dàn binh trước, quân của chúa công tập hậu. Phải, đã đến lúc chúng ta tấn công Sài Côn. Bọn hải tặc người Minh cho biết quân Thanh đã tập trung ở Lưỡng Quảng từ tháng sáu, việc quân Thanh tấn công vào Bắc Hà chắc chắn sẽ diễn ra dù vua Lê có qua được biên giới hay không. Bọn chúng mang danh nghĩa bảo hộ nhà Lê nên có thể hành động chỉ cần sự có mặt của hoàng thân nhà Lê, chừng nào quân Tây Sơn còn có mặt ở Bắc Hà. Việc diễn ra từ tháng sáu, hiện thời chắc bọn Tây Sơn trong Sài Côn cũng đã biết tin rồi. Chúng ta cần vây chặt Sài Côn, tạo áp lực đẩy Phạm Văn Hưng đi. Ngoài cuộc tấn công Ba Giồng, một toán quân khác sẽ tấn công Đồng Nai.

- Tôi sẽ cho gọi các tướng. – Võ Tánh gật đầu ra ý hiểu.

Đã đến trận đánh đầu tiên của chàng dưới danh vị tướng quân nhà Nguyễn.

Tháng bảy năm Mậu Thân, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Phúc Hội, đội quân tiên phong của Võ Tánh vây chặt Tây Sơn ở lũy Ngũ Kiều. Bị hút về mặt lũy, quân Tây Sơn không nhận ra đội thủy binh chúa Nguyễn tiến sát cho đến khi quân Nguyễn dùng hỏa hổ đốt trại. Theo đường sông rạch, quân Nguyễn tạo một bức thành lửa vây kín đường rút chạy của quân Tây Sơn. Cả các thuyền để trong bến cũng cháy rừng rực. Phía bên kia, quân bộ Nguyễn tràn qua lũy, đánh sập cửa đồn. Đốc chiến Tây Sơn bị bắt sống.

Ở Đồng Nai, tướng Nguyễn Văn Nghĩa phá được đội quân Tây Sơn định tiến lên Trấn Biên.

Quân Nguyễn tạo thành một vòng vây phủ kín Sài Côn từ rạch Thị Nghè đến Đồng Nai.

Cuối ngày, sau trận đánh của họ, trời đổ cơn mưa lớn. Mưa tạnh cùng với màn đêm buông xuống, để lại đám người ướt lõng thõng từ đầu đến chân trong khu đồn lũy xác xơ. Lửa đã được mưa dập tắt, để lại số lán trại ít ỏi chưa bằng một nửa. Những hàng binh bị đưa vào quây giữ. Lửa đốt rừng rực trong sân không xua được cảm giác khó chịu khi bùn bám sần sật dưới chân họ.

- Hàng binh qúa nhiều, xem ra đêm nay chúng ta khó có thể nghỉ ngơi được. – Nguyễn Phúc Hội nói khi họ đang đi dọc chân lũy. Chúa Nguyễn nhìn theo ánh mắt ông, lắc đầu.

- Các quan của ta cũng sắp tới, để họ kiểm kê số quân này. Các anh phân bổ lính canh phòng thay phiên nhau nghỉ ngơi chưa?

- Bẩm chúa công, rồi ạ. – Nguyễn Phúc Hội vẫn giữ được phép tôn trọng và lịch sự của cung đình họ Nguyễn trong từng cử chỉ, lời nói. Đi bên cạnh họ, Võ Tánh im lặng. Hơi quay đầu về phía chàng, chúa Nguyễn cười.

- Võ Chưởng cơ, trận đầu tiên thắng lợi rực rỡ đáng lẽ nên mừng mới phải, sao lại có vẻ trầm ngâm?

- Không phải thế, chúa công. – Võ Tánh nhìn ra khoảng sân chen đầy người, cau mày. – Thần chỉ đang quan sát. Đánh trận thế này vẫn có điều lạ lẫm, thần phải học hỏi nhiều.

- Đúng vậy. – Chúa Nguyễn gật đầu. – Đánh trận chỉ là một bước trong vô số việc phải làm. Kẻ là tướng trên chiến trận có thể không phải là kẻ có khả năng ổn định. Thắng một trận chiến đã khó, nhưng thắng cả đại cục thì còn khó hơn bội phần. Khi đánh một trận chiến, phải nghĩ cách làm thế nào để thắng nhiều trận khác, thậm chí, không cần đánh nhiều trận khác. Đánh trận không phải là chỉ tiêu diệt đối thủ giành chiến thắng cho mình, mà là để đạt được đến kết cuộc tốt nhất. Đó mới là trận chiến có mục đích.

Nên vị chúa đã cho chàng ở dưới sự chỉ huy của Nguyễn Phúc Hội, Võ Tánh nghĩ thầm. Để một hoàng thân, một vị tướng giàu kinh nghiệm chỉ dẫn cho chàng. Nguyễn Phúc Hội thâm trầm, tuy có thể không phải là một vị tướng quyết thắng trên chiến trường nhưng khả năng nhìn nhận toàn cục rất tốt. Dưới sự điều khiển của ông, quân Nguyễn đã tiến thoái, đổi chỗ cho nhau nhịp nhàng, đúng thời điểm để tạo thành vòng vây quân địch, lùi lại khi quân chúa Nguyễn tới và tấn công kết thúc khi đến lúc. Ông có thể không phải là một vị tướng có những chiến thắng huy hoàng nhưng là người chỉ huy rất giỏi. Vị trí của ông trong Nguyễn quân chỉ ở dưới chúa Nguyễn. Để chàng dưới quyền ông, vị chúa đã muốn chàng học hỏi để đạt được tầm mức cao hơn một chiến tướng đơn thuần.

Ngay khi tiếp nhận chàng về với Nguyễn quân, vị chúa đã phong cho chàng chức Chưởng cơ. Và ngài ta đã bộc lộ rằng không muốn chàng dừng lại ở vị trí ấy.

- Sau trận này, ta sẽ phong Võ Chưởng cơ là Tiên phong Chưởng cơ. – Chúa Nguyễn lên tiếng khi chàng còn trầm ngâm suy nghĩ. – Nguyễn Văn Trương đã được phong làm Tiên phong của thủy quân, hợp với Võ Chưởng cơ cùng ta tấn công Sài Côn. Lần này, ta nhất định phải thắng.

Trong khi nói, vị chúa vẫn không quay lại. Nguyễn Phúc Hội nhìn chàng, khẽ mỉm cười. Tiên phong, đạo quân đi trước trận tiền. Đạo quân táo bạo và cần sự sự dũng cảm hơn ai hết. Chàng sẽ chỉ huy đội quân ấy.

Ngọn lửa phừng lên trong sân sau cơn gió mạnh. Hơi lạnh từ dòng sông thổi đến khiến nhiều người phải rùng mình sau lớp áo mỏng. Võ Tánh nhìn vị chúa đi trước, lưng áo vẫn còn mùi khói. Cũng như mọi người, ngài ta cởi giày để đi trên bùn. Mũ đã cởi ra, chỉ để đầu trần, trong bóng tối vị chúa trông không khác những người xung quanh. Tiên phong Chưởng cơ, lãnh binh đánh vào Sài Côn, ngài ta trọng dụng chàng giản đơn và nhanh chóng như thế, không hề nhắc lại chuyện cũ. Cũng như thế với Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Kế Nhuận và hàng chục tướng sĩ khác của Tây Sơn. Vị chúa này, hoặc có lòng tin người tuyệt đối, hoặc là có lòng tin vào bản thân tuyệt đối.

Như thể không ai có thể phản bội ngài ta.

Nhưng chàng, và cả vị chúa, biết rằng không phải, không hẳn là như thế.

Anh trai chàng đã chỉ trung thành với Đỗ Thanh Nhơn, đã chọn người chủ đã mất hơn là chúa Nguyễn. Có những người, khi bắt buộc phải lựa chọn, không chọn chúa Nguyễn. Ngay cả chàng hiện tại, điều đưa chàng đến với Nguyễn quân không phải vì chúa Nguyễn.

Có vẻ như nhận biết điều đó nên vị chúa đã trọng hậu đối đãi chàng.

Tiên phong Chưởng cơ thủy quân Nguyễn Văn Trương, một kẻ chăn trâu trong đồng cỏ Gia Định - Tiên phong Chưởng cơ bộ quân Võ Tánh, đứa trẻ mồ côi ở Trấn Biên. Ồ, chúa Nguyễn qủa thật rất biết đùa. Chàng chưa bao giờ nghĩ nhiều về vị trí xuất thân của mình cho đến lúc ấy, nhận biết bản thân mình giữa bọn họ, vương tộc và danh gia vọng tộc. Đó là một cảm giác thật sự kỳ lạ.

- Chúa công, - Tiếng gọi đằng sau cắt qua suy nghĩ của chàng. Ngọc Du đứng sau họ, cúi đầu trước chúa Nguyễn. – Chúa công, quân lương đã tới. Do sông ngập nên có cành cây gãy chắn ngang đường, vận chuyển bị chậm trễ.

- Đem nấu nướng phân phát cho quân lính. – Vị chúa gật nhẹ đầu rồi quay đi.

Ngọc Du lại cúi mình. Do đó, nàng không nhận ra ánh mắt Võ Tánh nhìn nàng trước khi đi theo vị chúa.

Nàng cũng qúa bận rộn với việc vận chuyển và nấu ăn mà chỉ nhận ra sự hiện diện của Võ Tánh khi đã xong tất cả công việc. Trời đã về khuya, chàng đứng ngoài căn bếp dựng tạm trong lũy, tựa cửa nhìn nàng. Không biết chàng đã đứng đó bao lâu, khi bước ra ngoài, ngẩng lên thì nàng mới nhận thấy. Nhìn nàng, Võ Tánh mỉm cười.

- Lâu rồi không gặp.

- Phải. – Nàng lầm bầm trả lời. Hẳn chàng chẳng có gì để nói ngoài câu ấy. Gió ngoài thổi mát lạnh, khác hẳn với căn bếp nồng nực hơi than. Nàng cũng đã mệt mỏi và muốn đi ngủ. Đứng thẳng người, nàng khoanh tay hỏi:

- Võ tướng quân có chuyện gì cần nói?

- Tôi đang nghĩ, sau khi thắng trận ở Sài Côn, tôi sẽ đến gặp chúa công hỏi cưới nàng.

Mất một lúc để những từ ngữ ấy có một ý nghĩa nào đó với nàng, ý nghĩa mà chúng chuyển tải. Giọng nói bao giờ cũng có vẻ thản nhiên, giờ đây là sự thản nhiên tuyệt đối, làm cho lời mà người thanh niên trước mặt vừa nói ra hoàn toàn mang vẻ vô lý đến cực cùng. Nàng chớp mắt, rồi chỉ có thể hỏi một câu hoàn toàn vô ý nghĩa:

- Cái gì?

- Lúc trước tôi chỉ nghĩ rằng thế này thế kia là không thể. Nhưng bây giờ tự nhiên tôi nghĩ ra, tại sao lại không được cơ chứ? – Võ Tánh thong dong nói. Chàng đứng thẳng lên, lại gần nàng vẫn đang trân trân nhìn. – Nếu tôi muốn, tôi có thể làm được. Nhất định là thế.

Những lời nói này vẫn mang vẻ vô lý như không thể là sự thật. Anh ta điên rồi, nàng nghĩ thầm. Tự dưng anh ta nhận ra muốn cưới nàng và chạy đến thông báo cho nàng biết? Sau khi anh ta xua đuổi nàng như bệnh dịch trước đây? Cái gì ở trong đầu con người này?

Đến gặp chúa công xin cưới? Nàng còn thậm chí không thể nghĩ đến chuyện đó.

- Anh không nghĩ tôi có muốn cưới anh hay không à? – Cuối cùng nàng hỏi. Anh ta thậm chí chỉ thông báo mà không cần hỏi ý nàng, nàng thật cảm thấy hơi bị xúc phạm.

Nụ cười trên môi Võ Tánh mở rộng.

- Theo như phản ứng lần trước, tôi biết là có.

Ngọc Du đỏ bừng mặt. Cái hôn mà anh ta đã cưỡng ép nàng, giờ đây anh ta còn dám nói đến? Mỗi lần nhớ đến lúc ấy là má nàng lại nóng như lửa đốt, thế mà anh ta ngang nhiên nhắc đến trước mặt nàng?

- Qủy tha ma bắt anh đi! – Nàng buột miệng. Võ Tánh nhún vai, bước qua nàng về phía lán trại của mình.

- Một công nương thì không nên dùng những lời lẽ như thế, Hồ Dương công nương ạ. – Giọng chàng lẫn với tiếng cười. Đứng lại một mình, nàng nhìn theo lưng người thanh niên, bao nhiêu câu mắng chỉ chờ vọt ra trên đầu lưỡi. Lần đầu tiên trong đời, nàng cảm thấy mất bình tĩnh đến vậy. Nhưng nàng còn đủ lý trí để không làm ồn giữa doanh trại đầy người này. Làm ồn vì một người cầu hôn mình? Mà đó có thể gọi là cầu hôn? À không, chàng ta chỉ nói như này: Trước đây vì tôi nghĩ thế kia nên tôi xua đuổi nàng, không thèm để tâm đến cảm xúc hay tình cảm của nàng. Sau đó vì tôi nghĩ thế này nên tôi muốn nàng về với tôi. A ha.

Tự nhiên nghĩ ra? Qủy tha ma bắt anh đi!

Nàng thà chết chứ không cưới con người như thế!

Cơn giận vẫn còn ở lại với nàng trong những ngày sau đó. Ở trong doanh trại, đôi lần nàng chạm mặt Võ Tánh nhưng đều lờ đi như không thấy. Đến ngày thứ năm, chàng lại chủ động tìm đến nàng – lần này là ở bên sông, nơi nàng đem đồ ra giặt.

Tiếng nước chảy đã làm nàng không nhận ra tiếng chân người. Bầu trời giữa màu hè vẫn thoang thoảng hơi mưa và những cơn mưa kéo đến bất chợt làm nàng nôn nóng làm xong việc để trở về. Do đó, giọng nói vang lên đã làm nàng giật bắn mình:

- Sao nàng lại ở đây một mình? – Ngẩng lên, nàng bắt gặp Võ Tánh nửa ngồi nửa qùy bên cạnh. Họ đang ngồi trên một tảng đá lớn có bờ dốc ra sông. Nước quây tròn dưới chân họ trong một khúc sông hõm vào. Vào mùa mưa, cỏ cây dại mọc cao tới đầu gối, hoa trắng nhụy vàng nhỏ bằng đầu ngón tay xen giữa đồng cỏ xanh. Các bụi cây trinh nữ bò dưới tảng đá khoe những chùm bông hồng tím thập thò. Cành cây vẫn còn rung rung do bước chân của Võ Tánh, những chiếc lá đã khép lại vẫn chưa mở ra.

- Sao tôi không được ở đây một mình? – Nàng cau mày. Một lần nữa, chàng làm ra vẻ không nhận thấy sự giận dữ của nàng.

- Đây là vùng chiến tranh, có thể đám lính chạy trốn vẫn còn lẩn khuất, hoặc kẻ do thám bất ngờ xuất hiện.

- Nếu anh không nhận ra, Võ tướng quân, tôi đã cho quân lính canh phòng ở khoảng cách ba mươi bước chân. – Nàng ngắt lời chàng trai trước mặt. – Anh đi qua họ được vì anh là tướng chỉ huy. Anh đừng ra vẻ người khác ai cũng khờ khạo cần anh bảo vệ. Tôi đã băng rừng vào Gia Định này từ ngày anh còn mải câu cá trên sông quê anh kia. Tôi muốn ở một mình thì làm ơn để tôi một mình, chẳng lẽ chuyện đó anh cũng không hiểu? Và khi muốn ở một mình thì tôi không thích gặp nhất là những kẻ bao giờ cũng tưởng mình hơn người khác như anh!

Giọng nàng gay gắt át cả tiếng nước chảy, vang giữa cánh đồng trống cạnh bờ sông. Trước thái độ đó, Võ Tánh lại nhoẻn cười.

- Nhưng đợi đến lúc nàng muốn gặp thì chẳng biết đến bao giờ. Nàng đang tránh mặt tôi, đúng không?

Ngọc Du không trả lời, cuốn chiếc áo đang giặt vào lại trong rổ. Chàng ta đã nhất quyết đến phá bĩnh ý định giặt quần áo hôm nay của nàng, tốt thôi. Nếu chàng ta muốn nghe nàng trả lời, bất cứ điều gì, nàng sẽ nói một lần cho kết thúc.

- Võ tướng quân, - Nàng nhấn mạnh từng chữ, trừng mắt nhìn thẳng vào Võ Tánh. - Trước đây tôi vẫn nghĩ anh là người thông minh, nhưng tại sao anh đối với cảm xúc con người lại hoàn toàn không hiểu gì như thế? Hay tôi phải nhắc lại với anh những gì anh đã nói đêm hôm đó? Anh sẽ cảm thấy thế nào nếu như bây giờ tôi nói rằng anh muốn cưới tôi hiện tại vì mờ mắt trước chức vụ và sự ưu ái của chúa công? Xúc phạm không? Sỉ nhục không? Vậy mà anh đã nói với tôi chính xác như thế đấy! Tôi đã chờ anh xin lỗi, rồi anh nói gì? Không thể vì tôi mà suy xét thiếu cẩn trọng, hay thật! Đến lúc tôi định quên phứt anh cho xong thì anh chạy đến bảo muốn cưới tôi. Anh là loại người gì vậy? Anh tưởng tôi chỉ cần có người đến hỏi là gật đầu à? Anh tưởng mình giỏi lắm, hay lắm, tất cả mọi người đều phải làm theo ý anh à? Để tôi khuyên anh câu này, Võ tướng quân: Nếu anh muốn lập nghiệp trong quan trường thì bớt tự cao tự đại đi, bớt vô cảm trơ lì khờ khạo đi, không thì kẻ ghét anh không chỉ có mình tôi đâu.

Những uất ức những tháng vừa rồi bùng nổ dù giọng nàng vẫn sắc nhọn và lạnh lẽo. Phải, chàng ta nghĩ gì đến nàng? Chàng ta chỉ nghĩ đến chuyện chàng ta thích hay không thích, muốn hay không muốn, cần gì hay không cần gì. Nàng không cần thêm một người đàn ông nữa như thế để chạy theo phục vụ. Trong đêm tháng chạp ấy, có thể nàng đã ngã vào tay chàng ta nếu chàng ta lại gần nàng. Sau khi nàng đã gói ghém lòng tổn thương, quyết định quên nó đi trong cả nửa năm trời, chàng ta trở lại. Sau khi nàng đã buông hoàn toàn mọi hy vọng, mọi cảm xúc vừa chớm nở thì chàng ta lại đến. Giờ đây thì nàng ghét chàng ta, ghét đến nỗi không muốn nhìn thấy. Đến nỗi nàng không thể tưởng tượng được mình đã từng chờ đợi ở con người này bất cứ điều gì.

Võ Tánh chỉ nhìn nàng, không nói. Vừa mệt mỏi vừa bực bội với sự im lặng của chàng, Ngọc Du định quay về. Chân nàng vừa chạm xuống thảm cỏ dại dưới tảng đá, Võ Tánh đã nắm cánh tay nàng lại.

- Xin lỗi. – Có vẻ chàng thốt ra từ này khó khăn đến nỗi nàng tưởng nó lẫn vào tiếng của dòng sông. – Qủa thật tôi không biết. Tôi chưa từng thân cận với phụ nữ để biết họ nghĩ thế nào.

Qủy tha ma bắt, chỉ cần mấy lời ấy là nàng lại mềm lòng.

Cơn giận của nàng như bị tạt một gáo nước lạnh. Chưa từng biết, điều ấy nói ra với chàng cũng thật khó khăn. Chỉ biết có anh trai mình, rồi đến Gia Định, chiến đấu cùng những thanh niên nơi rừng sâu, những phụ nữ bên cạnh cũng chẳng hơn vật dụng hàng ngày là mấy – chàng ta không hiểu, không thể hiểu. Chàng không thể hiểu rằng nàng không giống đàn ông bọn họ, khi mà vị chúa cũng có thể hóa giải oán thù với chàng chỉ bằng chén cháo nhỏ. Nàng không giống như đàn ông bọn họ, có thể dễ dàng bỏ qua tiểu tiết và sự vô tâm trong tình cảm. Nàng không thể đơn giản chỉ nhìn mọi thứ nên làm hay không nên làm lúc nào và như thế nào.

Nàng chớp mắt. Ở một góc cánh đồng nhìn ra sông, loài hoa muống biển bò khắp, phủ lên đất thảm hoa tím xanh dịu dàng. Ở một góc khác, đàn bướm rập rờn bay trên bụi hoa không tên vàng rực. Nắng đang dịu xuống. Con ve nào vừa gáy ran trong lá.

Bàn tay nắm lấy tay nàng vẫn không buông lỏng, không cử động.

- Tại sao? – Vẫn không quay lại, nàng hỏi. – Anh đã từng nói rằng tôi vốn chẳng biết yêu qúy thứ gì.

- Phải. Và còn nghiêm khắc, cổ hủ, vô tình, khó chịu, không đáng tin chút nào.

Nàng bật cười. Nghe như chàng cũng đã thả chân xuống tảng đá theo nàng. Bụi cây trinh nữ rung rung, đám lá khép lại vội vàng. Nàng nghĩ đến những cái gai nhỏ trong bụi cây, nhìn chúng, nhìn bàn chân đang đạp lên chúng, rồi nhìn lên chàng.

Trong mắt chàng là ánh nắng, ánh nắng của một mùa mưa kéo dài trên đất phương Nam. Nàng nhớ lại những gì đã qua giữa họ. Nàng nghĩ đến dòng sông và những nỗi vui buồn. Rốt cuộc thì nàng vẫn chưa bao giờ hiểu được người thanh niên trước mặt. Chưa bao giờ. Những điều không chỉ đơn giản như đám gai trong bụi cây, những gì nàng biết chắc chắn có hiện diện tuy không thể nhìn thấy. Những điều không thể nhìn thấy được vẫn chưa là tất cả. Đằng sau chúng, chìm sâu trong chúng, khuất lấp đâu đó, những gì không ai có thể đong đếm được.

Từ lâu, nàng đã trở nên ngần ngại với con người.

Hoặc e ngại, mệt mỏi, chán chường. Có thể hay có lẽ. Khi nhìn chàng, đôi mắt chàng, lúc này, nàng thấy mình xa lạ. Nàng đang ở đây, quan sát chàng, nhưng có một kẻ khác, một con người khác, ở một nơi nào đó cũng đang nhìn lại một cách lạnh lùng. Quan sát một cách lạnh lùng. Kẻ đó thậm chí không hiểu được những gì nàng đang cảm thấy.

Ngọn gió thổi qua họ. Hơi nóng của nắng phương Nam và mùi đất trước cơn mưa, hơi hăng ngọt của dòng nước và vị đắng tỏa trên đồng cỏ. Ngay cả những điều đó cũng đã trở nên lạ lùng đối với nàng.

Cơn giận đã qua đi, cũng nhẹ nhàng như chưa từng có. Giờ đây, nàng lại tự hỏi phải chăng lúc ấy nàng đã cảm thấy nhẹ nhõm khi nhận lời từ chối, xua đuổi của chàng. Nàng đã đến doanh trại Kiến Hòa với trái tim thắc thỏm âu lo, đã chờ đợi thái độ của chàng với sự miễn cưỡng bắt buộc, và khi đứng một mình nhìn xuống cánh rừng đêm, nàng đã nhẹ nhõm. Nàng đã nhẹ nhõm với sự tức giận và đau buồn, với trái tim đầy tổn thương của mình. Lòng kiêu hãnh có thể xoa dịu sự tổn thương, thời gian sẽ làm nguôi đi nỗi buồn và công việc có thể làm nàng quên. Kết thúc còn đơn giản hơn khởi đầu. Dứt bỏ còn dễ dàng hơn chấp nhận. Đó là những gì nàng thực sự nghĩ.

Đó là, thực sự nàng chẳng muốn lại qúa gần bất cứ một con người nào.

Nghe những lời chàng nói, nàng xúc động nhưng chẳng mừng vui. Thật ra, nàng không phải là người biết đối phó với những đổi thay trong tình cảm. Nàng đã học được cách giữ lòng mình bình lặng. Vô tình, có lẽ.

- Nếu đã biết như thế thì tại sao vẫn muốn cưới tôi? – Nàng hỏi với nụ cười vướng vất trên môi. Chàng vẫn nhìn vào mắt nàng.

- Tôi tin có thể làm cho nàng yêu tôi.

Một lần nữa, nàng lại cười. Nàng nhìn ra dòng sông và đồng cỏ, các bụi hoa đủ màu lẫn vào trong lá. Đã qua rồi, những ngày thiếu nữ trong thôn làng nhỏ cạnh kinh thành. Đã qua rồi, những năm tháng trưởng thành trong Gia Định đầy hỗn loạn. Đã qua rồi, cả những mộng mơ và rung động thời niên thiếu, cả những ước vọng và hoài nghi. Mùa hạ, phương Nam và những cơn mưa, như bao nhiêu năm trước và bao nhiêu năm sau đó, chẳng bao giờ thay đổi. Nàng đã nhìn ngắm chúng, dòng chảy, sự luân chuyển lặp đi lặp lại đến mức trở thành vô nghĩa lý. Tình yêu, nàng đã không nghĩ về nó nữa. Nàng đã không còn mộng mơ và khao khát, chỉ buồn.

Không bao giờ có thể hạnh phúc, nàng lại nhớ đến lời Nhị phi. Nhị phi, cô gái trẻ đã lớn lên bên nàng, đã lớn lên và trưởng thành từ qúa sớm. Chẳng còn gì ngoài nỗi buồn. Trong nàng, trong họ. Chẳng còn gì ngoài nỗi buồn, chẳng còn gì.

Như khi ngắm những bộng hoa vào thời nở rộ rực rỡ nhất, họ lại nghĩ đến khoảnh khắc tàn phai và khoảng thời gian trượt dài sau đó. Những gì đã trở thành nỗi ám ảnh ăn sâu vào trái tim họ. Đã trở thành nỗi buồn song hành cùng tất cả niềm vui. Đã trở thành một phần bản thể. Ngay cả tình yêu và hạnh phúc cũng không thể cứu giải được họ. Những bông hoa sẽ đến lúc phai tàn, chút phù du của khoảnh khắc không thể cứu giải được những gì đã mất và họ chỉ có thể trơ mắt nhìn nó qua đi, tan biến như chưa từng tồn tại.

Yêu hay không yêu, cuối cùng cũng chẳng để làm gì.

Nàng đã bước qua chàng, những xúc cảm vừa mới chớm đã lụi tàn, bằng sự nhận biết dửng dưng đau đớn ấy. Những cảm xúc kia có lẽ đã có, nhưng cũng có lẽ chẳng phải là quan trọng. Đó không phải là điều nàng muốn, cũng chẳng phải là điều nàng cần. Lại một lần nữa, chàng có vẻ không hề hiểu được nàng.

- Cứ để xem. – Cuối cùng, nàng nói.

Nhấc rổ quần áo khỏi bậc đá, nàng đi về doanh trại. Bàn tay trượt khỏi cánh tay nàng.

À, nàng nghĩ khi gió thổi qua đồng cỏ cuộn tròn sau lưng nàng, chiến thắng ở Sài Côn sẽ đổi thay tất cả. Nàng cũng muốn xem rồi tất cả sẽ dẫn đến đâu.

Rốt cuộc, cuộc đời này cũng chỉ là như thế. Buông mình vào vòng xoáy, quan sát, đón nhận những gì đi qua, ở lại và sẽ đến. Cố hết sức mình để tồn tại. Cố hết sức mình để níu giữ. Để có một ngày nhận ra tất cả rồi sẽ tàn diệt.

Không ai có lỗi khi muốn tồn tại, chàng đã nói. Nhưng chàng có hiểu sự tồn tại ấy đau đớn đến nỗi có lúc muốn gào khóc lên được, vĩnh viễn và vĩnh viễn? Đã qua rồi, những ngày tháng ấy. Đã qua rồi, mộng ước và ngây thơ. Tất cả đã bị hủy hoại. Cỏ vẫn mọc xanh trên mặt đất và hoa vẫn nở, nhưng những gì héo tàn mùa trước trong nắng cháy đã tan biến vào hư không vĩnh cửu.

Yêu hay không yêu, rốt cuộc thì có ý nghĩa gì?

16

Tháng tám năm Mậu Thân, Nguyễn quân đánh vào Sài Côn.

- Khi đánh hổ cần lưu ý những đặc điểm nào, Võ tướng quân?

Đứng trên bến chờ chuyến khởi hành từ đất Ba Giồng đến Nghi giang, chúa Nguyễn chợt hỏi Võ Tánh. Rời mắt khỏi đoàn quân thuyền, chàng nhìn sang vị chúa. Một lúc sau, Võ Tánh mới trả lời.

- Chúng có nhược điểm ở đằng sau gáy, nơi tiếp giáp của hộp sọ và xương sống. Hoặc sống mũi giữa hai mắt.

Ồ, chúa Nguyễn chỉ nói như vậy rồi im lặng. Theo kế hoạch, quân của vị chúa sẽ theo đường thủy đến đối đầu trực tiếp với quân của Phạm Văn Sâm phía Nam Phiên Trấn, Võ Tánh dẫn số quân còn lại chờ lệnh tấn công, Lê Văn Quân trấn giữ đường rút lui của quân địch. Phạm Văn Hưng đã rút quân về lại Phú Xuân. Việc bình định Sài Côn có thể chỉ quyết định trong một trận đánh này.

- Khi ta hưng quân chiếm lại Gia Định lần thứ nhất, xưng hiệu năm mười bảy tuổi, quân Tây Sơn đến, hai bên đã dàn quân đánh nhau hàng tháng trời. – Chúa Nguyễn nói khi họ đang đi qua đoàn quân. Mặt trời chỉ vừa hửng, gió từ mặt sông lành lạnh. – Đến nỗi dân chúng không thể buôn bán, bị vây bức, phong tỏa suốt cả thời gian ấy. Trong chợ chỉ còn ếch nhái, mắm lạt, bánh đậu; lấy lá dâu, lá khế thay cho trà, rễ cây chà là, bồ qùy thay cho trầu. Giá gạo muối còn cao hơn vàng, quan dân đều khổ sở. Giữa Gia Định này mà phải đói, có thể tưởng tượng được?

- Thần biết. – Võ Tánh trả lời. – Thuyền Tây Sơn phong tỏa Phước An, những chuyện ấy cũng đều xảy ra nơi thần ở, ngoại trừ muối. Quê thần ở gần biển, muối là sản vật sẵn có.

- Lúc ấy, anh của Võ tướng quân cũng đang chiến đấu trên biển. – Vị chúa nói, và Võ Tánh không phải đã không giật mình nhìn sang. Đôi mắt chúa Nguyễn vẫn dõi về phía đoàn quân, chẳng có cảm xúc nào trên khuôn mặt khi vị chúa vẫn tiếp tục nói. – Khi ta mới đến, Gia Định này thật là hỗn loạn. Quân Đông Sơn khởi chiếm Ba Giồng, đánh nhau với quân Hòa Nghĩa ở Châu Thới. Sau khi Lưu thủ Tống Phúc Hiệp mất, Lý Tài mất chủ càng càn rỡ, chiếm dinh Bình An giao chiến cùng Đông Sơn. Có lần Đông Sơn bị Hòa Nghĩa đánh bại, đuổi đến tận Sài Côn. Lúc ấy, Tân Chính vương chạy thoát đến Gia Định, nhớ tình nghĩa cũ mà chiêu dụ Hòa Nghĩa quân. Nhưng đem họ về, Đông Sơn bất mãn. Khi quân Tây Sơn tiến đánh, chính ta phải đi gọi quân Đông Sơn đến phò trợ mà cuối cùng do hai bên không thể nào hòa hợp dẫn đến tan rã. Tống Phúc Hòa chết, để cả Định vương lẫn Tân Chính vương bị bắt. Đến lúc ta khôi phục, Hòa Nghĩa quân vì quan hệ với họ Tống Phúc mà theo ta, thuyết phục được quân Đông Sơn trở lại, mầm họa vẫn chưa dứt. Lúc sạch bóng quân thù cũng là khi quân trong ngoài thoát khỏi cương lĩnh, mặc sức theo thói giang hồ tự do thưở trước. Không phải ta muốn thanh minh cho mình hoặc đổ lỗi cho người khác, nhưng ta cũng nếm đủ cay đắng của các loạn quân ấy. Đông Sơn đánh Hòa Nghĩa, Lương Sơn đánh Đông Sơn, rồi tàn quân, thuộc tướng, nhóm nhỏ của các đoàn quân ấy lại đánh lẫn nhau, lẩn khuất khắp nơi để tự tìm tự do nhỏ nhoi cho mình, rồi sẽ dẫn đến đâu? Cứ nhìn quân Tây Sơn kia, cái lệ kẻ nào thắng làm vua, kẻ nào mạnh làm chủ đã cuối cùng tàn phá chính chúng như thế nào. Ta không phải kẻ mạnh, ta cũng không phải là kẻ xuất chúng, ta xuất thân chỉ là một hoàng thất nhỏ nhoi, cha ta đã bị giam trong ngục cho đến chết. Nhưng ta tồn tại vì còn cần có sự tồn tại của ta, vì những kẻ còn cần ta tồn tại. Ta hay không phải ta cũng không quan trọng, mà là điều những kẻ ấy hướng tới. Trong thời đại này, ta hiểu rõ điều đó hơn ai hết.

Đất Ba Giồng mà chúng ta đang đứng là nơi quân Đông Sơn khởi thành và cũng là nơi kết thúc của họ, cũng là nơi Võ tướng quân tìm đến đầu tiên. Đăng giang tân kinh. Đã biết bao lần ta chiêu tập người tại nơi này. Chúng ta đang đứng tại nơi đã có nhiều biến động đến thế. Ta vẫn còn rất trẻ, đất Gia Định này vẫn còn rất trẻ. Ta đã có nhiều sai lầm và phải trả giá cho chúng. Chúng ta đã qúa non nớt, để rồi phải trả giá bằng hàng trăm năm lập nghiệp đã tiêu tán thành cát bụi. Cù lao Phố tại Trấn Biên, Chợ Lớn ở Phiên Trấn, Ba Lai, Mỹ Tho, Kiến Hòa ở Định Tường, Nhà Bè, Ba Vát, Hà Tiên, Long Hồ… Tất cả mọi nơi đã hóa hoang địa. Những phồn hoa đô hội, hạnh phúc sung túc đã tiêu tan. Thành qủa hàng trăm năm của chúng ta đã thành cát bụi.

“Thiên tương sự nghiệp quy tiền đại,

Địa dĩ sơn hà chúc hậu nhân.”

Trời đem sự nghiệp về với tiền nhân. Đất đem núi sông phó thác cho người hậu thế. Hàng trăm năm sự nghiệp tiền nhân đã bị phá hủy, tất cả sông núi này để lại cho chúng ta, do chúng ta gánh vác. Trận chiến này, ta không muốn nó là sự kết thúc, mà là sự khởi đầu. Khởi đầu cho công cuộc trung hưng của chúng ta, người Gia Định thực sự trở thành anh em, đất Gia Định trở thành nơi đất lành chim đậu, là phiên dậu bền vững, là nơi sung túc phồn vinh nhất trong tất cả mọi nơi, trong lịch sử Đại Việt từng đạt được. Chúng ta đã sai lầm, chúng ta đã trả giá, nhưng chúng ta còn phải chuộc lại lỗi lầm. Chúng ta sẽ bảo vệ Gia Định bằng cả tính mạng mình, sẽ xây dựng lại Gia Định hơn tất cả những gì mà tổ tiên để lại và chúng ta đã đánh mất. Đó là nghĩa vụ của chúng ta để trả nợ tổ tiên, trả món nợ núi sông đặt vào tay chúng ta, trả món nợ cho những người đã khuất và cả nỗi đau trong lòng người còn sống.

Càng nói, giọng chúa Nguyễn càng lớn, vang sang sảng trong bầu không khí còn đẫm hơi sương. Đoàn quân lính lặng phắc. Những tướng lĩnh cũng lặng phắc. Ngọn cờ vàng bay phần phật trong gió. Vị chúa đã ngừng lời một lúc lâu, toàn quân vẫn không ai cử động. Bước lên con thuyền lớn, vị chúa đưa mắt nhìn hàng vạn con người bên dưới. Chậm chạp, chúa Nguyễn Phúc Ánh tuốt thanh kiếm bên hông khỏi vỏ, đưa mũi kiếm về phía Bắc.

- Giành lại Gia Định! – Vị chúa nói, từ tốn nhấn từng lời.

- Giành lại Gia Định! – Tiếng hét như sấm rền vang.

Bằng cách nào không rõ, Võ Tánh thấy mình cùng giơ nắm đấm lên với họ, những người lính xung quanh. Cùng họ, chàng hét lên. Cùng họ, chàng thấy khí huyết sôi sùng sục trong lồng ngực. Dòng máu nóng bốc lên làm chàng thấy người bừng bừng bốc cháy, bất chấp gió sớm vẫn rần rật thổi.

Những lời chúa Nguyễn đã lay động chàng, từ tận đáy tâm can. Không phải chỉ vì những gì vị chúa đã nói, mà vì nỗi đau trong đó. Nỗi đau có thật đã đốt cháy trái tim chàng thành lửa.

Ngài ta đứng nơi ấy, đầu con thuyền, nhìn xuống tất cả con người phía dưới. Ngài ta không mỉm cười, không có vẻ gì như đắc thắng hay hăng hái, mừng vui. Trong đôi mắt ngài ta là màn sương đang phủ mờ trên dòng sông. Nắng đã chiếu những tia đầu tiên lên bầu trời. Ngày mùa hạ bắt đầu sớm. Mặt trời phương Nam to và đỏ rực đang hiện lên phía chân trời. Đây là khởi đầu, không phải kết thúc, vị chúa đã nói. Khởi đầu cho cuộc chiến thực sự của họ. Những năm tháng rất dài phía trước.

Điều ấy, chính điều ấy, đã đốt trái tim chàng thành lửa.

Và chàng đã thấy cả nỗi đau ấy, nỗi đau giống như thế, trong ánh mắt nàng.

Tình cờ, chàng bắt gặp nàng đứng lẫn trong đoàn quân, sau đoàn quân, trong bộ áo gần giống như nam giới. Chàng chỉ nhận ra nàng bằng một lý do đơn giản: Nàng đứng yên, đứng yên trong những con người đang sôi sục. Nàng quan sát họ, quan sát vị chúa – người em trai, bằng đôi mắt mang màu của màn sương trên dòng sông. Nỗi đau gần giống như người đang đứng trên đầu mũi thuyền, gần giống như những gì đang thét gào trong chàng. Chàng thấy nó trong đôi mắt nàng, trong vẻ câm lặng của nàng.

Ta đã phải trả giá, nhưng vị chúa không nói về những gì ngài ta đã mất. Nỗi đau của nàng, của họ, của mỗi con người. Mỗi con người đứng tại nơi đây.

Nàng quan sát nó, quan sát họ, như nhìn nước chảy dưới nghềnh đá.

Cảm thấy cái nhìn của chàng, nàng quay lại. Thấy chàng, nàng nhướng mày, rồi cuối cùng mỉm cười.

Một ngày tháng tám năm Mậu Thân, trận chiến tại Sài Côn bắt đầu.

Bên bờ sông Bình Dương, quân Tây Sơn do Phạm Văn Sâm chỉ huy đụng độ dữ dội với quân Nguyễn do chúa Nguyễn thân chinh điều khiển. Từ chợ Điều Khiển đến chợ Khung Dung suốt hơn hai dặm, quân Tây Sơn dàn thành một vành đai cản quân Nguyễn từ rạch Nghi giang tiến tới. Trên đồng Tập Trận, Võ Tánh nhận được lệnh vòng sang phía Tây đến Bến Nghé, đánh vào Cầu Sơn.

Quân Phạm Văn Sâm đã hút hết về phía Nam, thành lũy Bến Nghé bị hạ dễ dàng. Quân Võ Tánh từ phía Bắc tràn xuống tập hậu, Tây Sơn vỡ thế trận, Phạm Văn Sâm quay thuyền bỏ chạy ra cửa Cần Giờ. Tại đây, Lê Văn Quân đã đón lõng, Phạm Văn Sâm đem quân chạy đến Ba Thắc.

Ngày tám tháng tám năm Mậu Thân, quân Nguyễn toàn thắng tiến vào Sài Côn.

Tất cả những trận chiến đều giống nhau, Ngọc Du nghĩ khi nhìn đoàn quân đang tiến vào thành lũy Cầu Sơn. Khoảng đất rộng hơn trăm dặm, xung quanh là ruộng cạn và bốn phía sông nước được Tây Sơn chọn làm nơi đóng quân, dồn dân Gia Định vào ở. Mùa mưa, chiều tối nước dâng ngập đến gần mắt cá. Khu dinh trại trên gò cao hắt hiu bóng cờ trong nắng tím thẫm. Các ngôi nhà trong phố chợ dưới gò vẫn chưa đóng cửa. Người đổ ra đường ngày càng đông. Chúa Nguyễn và các tướng đã đến trên gò chờ đợi. Khi tới gần, nàng mới nhận ra trên tường, cửa đồn mang đầy vết đạn. Vũ khí vung vãi rơi trên đất vẫn chưa được dọn hết. Đất đang được lấp lên các vết máu. Một trận kịch chiến đã xảy ra nơi đây.

Chúa Nguyễn đang đưa cho quân thông tin một cuộn giấy lớn, bảo:

- Đem cái này dán lên bảng cáo thị trước chợ, đọc lớn lên cho mọi người.

Bản chiếu vỗ yên dân chúng, bảo họ cứ yên ổn làm ăn, Ngọc Du nghĩ mình đã biết những gì được viết trong cuộn giấy chuẩn bị sẵn. Dưới gò, người đổ ra ngày càng đông, tập trung quanh nơi niêm yết cáo thị trong chợ. Quay lưng, vị chúa bước vào khu đồn đã được thắp sáng, dọn quang. Trông em trai nàng vẫn có vẻ không vui.

Lê Văn Quân đã bỏ lỡ Phạm Văn Sâm, Ngọc Du biết lý do sự buồn bực của vị chúa. Gia Định hoang vu, chằng chịt sông ngòi kênh rạch, phức tạp các nhóm người, đội quân của Phạm Văn Sâm còn có thể quấy rối họ lâu dài. Các tướng cũng hiểu rõ nguy cơ ấy, sau trận thắng lớn nhưng ai nấy cũng đều trầm ngâm. Họ cùng bước theo chúa Nguyễn hoặc đến với đoàn quân của mình. Lính đang được phân bổ về nơi nghỉ ngơi. Trong sân luyện võ, đám hàng binh được quây lại thành từng nhóm nhỏ.

Không đi theo vị chúa, Ngọc Du trở lại với đám quân lương vừa được đem tới.

Kết thúc, nàng nghĩ thầm. Trên cơ bản, cũng đã là chiếm lại được Gia Định. Không còn những cuộc chinh chiến xa xôi với những đội quân lớn, tập trung ở Sài Côn và nhất là giải quyết lương thực. Tất cả đã gần cạn kiệt, lương tiền của họ. Chúa Nguyễn đã quyết thắng chỉ trong một trận này cũng vì không thể kéo dài thêm nữa.

- Không thu thêm được nữa sao? – Chúa Nguyễn đã hỏi nàng vào tháng trước khi quyết định đánh Ba Giồng. Nàng lắc đầu.

- Ở Phiên Trấn, tháng mười mới tới mùa gặt lúa, đào khoai, thu đậu phộng; đậu và bắp đến tháng bảy mới thu hoạch. Ở Trấn Biên, tháng chín mới đến mùa gặt ruộng sớm; đậu và bắp sớm lắm cũng tháng sáu, bảy; khoai tháng mười; đậu phộng tháng chạp; dưa tháng tám. Ở Định Viễn, lúa thu vào tháng chạp, khoai, đậu và bắp tháng bảy. Ở Định Tường, tháng chín mới thu được lúa sớm, đậu, bắp, dưa, khoai phải tháng bảy. Đang vào mùa giáp hạt, chúng ta sẽ hoàn toàn cạn hết tài lương vào tháng tám, tháng chín. Chúa công, nếu không kết thúc được cuộc chiến, chúng ta sẽ thậm chí thua vì đói. Lúc ấy, ngay cả tiền lương chúng ta cũng không có để phát, nói gì đến việc thu vào.

Nghe nàng nói, chúa Nguyễn chỉ im lặng gật đầu. Trận chiến đã diễn ra, họ đã chiến thắng, nhưng vẫn không giải quyết được khó khăn của họ. Tây Sơn đã để lại ở Cầu Sơn một khu đồn lũy trống rỗng. Phạm Văn Hưng đã kịp vơ vét nốt số lương thực còn lại về Phú Xuân. Giờ đây, trước số quân lương ít ỏi này, Ngọc Du thấy bất lực đến gần như muốn ứa nước mắt. Phạm Văn Sâm đã chạy thoát, cuộc chiến vẫn chưa thể kết thúc. Nếu giờ đây thiếu lương gây ra rối loạn, không biết hậu qủa sẽ như thế nào.

Không thể thu thêm thuế, nhất là vào mùa giáp hạt, vị chúa đã kiên quyết lắc đầu. Ta mới bắt đầu, còn phải thu thập nhân tâm của người Gia Định, làm như vậy chỉ gây ra rối loạn.

Con đường nào cũng gây ra rối loạn, Ngọc Du cắn môi, nhìn vào bóng tối đang phủ xuống. Dưới gò, các toán quân đã được tản đi canh giữ trong ngoài, người người lục tục trở về nhà. Cầu Sơn xôn xao trong bầu không khí nặng trĩu vương mùi khói. Mùi khói lẫn trong hơi thở của dòng sông. Chớp giật trên bầu trời, báo hiệu một cơn mưa thường trực trong mùa hạ sắp sửa đổ xuống.

Kết thúc, cho đến lúc này, tựa lưng vào cửa, chầm chậm ngồi xuống trên bậc thang nhìn ra khoảng đất trống ngoài đồn, Ngọc Du nhắm mắt thở dài. Tiếng nói vẫn xôn xao quanh nàng trong một khu đồn lũy không yên tĩnh. Có tiếng bước chân rất nhẹ đến bên nàng. Ngọc Du ngẩng lên, nhận ra Nhị phi Trần Thị Đang, cô gái trẻ cũng mặc bộ quần áo gần giống nam giới như nàng. Cúi đầu chào, Nhị phi ngồi xuống bên nàng, hạ giọng.

- Chị có còn giữ danh sách những người thân thiết của chúng ta tại Sài Côn không?

Nhìn cô gái, Ngọc Du hơi nhướng mày. Bằng giọng nói hơi vội vã, Nhị phi giải thích cho nàng, vẫn thì thầm:

- Sài Côn này là đất xưa của chúng ta, từ ngày chúa công cùng người Minh Hương đến lập nghiệp cũng đã có nhiều tình cảm. Tuy qua mấy đận chiến tranh, bị Tây Sơn truy giết suốt từ Chợ Lớn đến Mỹ Tho, họ vẫn còn bám trụ ở đây một số, tuy của cải cũng chẳng còn nhiều, hoặc là bị giấu đi hết. Chị biết mà, trước bọn cướp ấy thì chẳng nên lộ ra mình có nhiều của cải. Nay chúng ta trong lúc khó khăn, cũng mới vào thành, không thể thu lương tiền, nhưng có thể kêu gọi họ đóng góp.

- Kêu gọi? Chúa công không chịu đâu. – Ngọc Du lắc đầu. – Như vậy khác gì đi xin của họ? Làm như vậy, chúa công cấm đấy.

- Tất nhiên chúng ta sẽ khéo léo thôi. – Nhị phi cười. – Chúng ta trước là đến thuyết phục những nhà thân tín trước đây, lôi kéo họ quyên góp, rồi loan truyền việc ấy ra. Người có cảm tình với chúng ta sẽ tự biết phải làm thế nào. Người còn bàng quan sẽ cân nhắc, lại được dư luận do chúng ta tạo ra khuyến khích. Chúa công vừa vào thành đã ban lệnh cấm nhiễu hại chúng dân, cho họ yên ổn làm ăn, bỏ các phép lệnh nghiêm ngặt của Tây Sơn, ai lại chẳng thấy nhẹ nhõm? Quân lính của chúng ta người Minh Hương, Thanh Hà cũng rất nhiều, ta dùng họ để thuyết phục chúng dân về đại nghĩa. Chúng ta không cần phải nói về tình trạng khó khăn của mình, làm như vậy chỉ để bọn thù địch lợi dụng. Việc quyên góp này coi như là để biểu lộ tấm lòng của người dân với chúng ta.

Biểu lộ tấm lòng của dân chúng với đội quân cai trị mới, Ngọc Du thầm hiểu ra ý của người phi tần. Trong mấy lần đổi chủ, những thương buôn để tồn tại cũng phải nghiêng qua thân cận với các ông chủ mới. Trở lại lần này, trong số người kia cũng chẳng phải không có kẻ lo sợ. Quyên góp lần này, trước là củng cố quan hệ với chúng dân, sau là để xóa bỏ những nghi kị trong qúa khứ và hiện tại. Ngấm ngầm sử dụng áp lực đó, họ sẽ thu được không phải ít. Trong Gia Định bị tàn phá này, số khách thương ở Cầu Sơn cũng tạm coi như khá giả bậc nhất.

- Trước đây chúng ta vẫn được nhiều nhà buôn tài trợ, chị có còn giữ danh sách họ không? – Thấy Ngọc Du không nói, Nhị phi thúc giục nhẹ nhàng. – Chúa công đã thấy sổ biên thẻ bài mà Tây Sơn lập cho người ở Cầu Sơn, chúng ta tìm ra họ dễ dàng thôi. Sau đó là việc của những người liên lạc thân cận với họ.

- Chúa công nói em làm việc này à? – Ngọc Du hỏi. Một lần nữa, cô gái trẻ lại cười. Nụ cười rất tinh quái.

- Chị nghĩ chúa công có làm việc này không?

Ngọc Du im lặng. Một lúc sau, nàng nhún vai, đứng dậy.

- Một việc tốt cho tất cả mọi người, tại sao lại không làm? Để ta tìm cuốn sổ đưa cho em tùy nghi định liệu.

Cuốn sổ được tìm thấy trong tay nải mà nàng vẫn mang theo. Nhận nó từ tay nàng, Nhị phi vội vã trở về. Nhìn theo bóng cô gái, Ngọc Du để thoát ra tiếng thở dài.

Con bé cũng đã đổi khác rồi, một lần nữa, nàng gọi theo thói quen. Con bé nhỏ loắt choắt mà lần đầu tiên nàng gặp ở thôn An Dụ đã lớn lên, trưởng thành, và có những chuyện cô ta không nói với nàng. Đã đổi khác, mối quan hệ giữa em trai nàng và cô phi tử ấy. Đứng bên vị chúa, trong cái bóng mờ khuất, trong những cuộc chiến, những tang thương, tuyệt vọng, những khó khăn tột độ cực cùng, cô gái mà mẹ Cả đưa đến đã trở thành kẻ thân cận với em trai nàng hơn bất cứ ai. Với sự tin tưởng của họ, sự gắn kết của họ, Ngọc Du tự dưng lại cảm thấy cô đơn. Như thể em trai nàng đã gạt nàng ra khỏi cuộc đời cậu ta.

Phải thôi, một lần nữa nàng tự nhủ. Như việc với quân Kiến Hòa thưở trước, vị chúa chỉ xem nàng như một kẻ thừa hành. Lần này, vị trí của Nhị phi sẽ là tốt nhất, không ảnh hưởng đến tiếng tăm vị chúa, dù việc là do cô gái quyết định hay không.

Dù biết điều đó, nàng cũng không thể ngăn lòng mình cảm thấy trống rỗng.

Hoặc là, công việc của nàng đã đến hồi kết thúc. Sáu năm, con đường dài mà nàng đã đi đến hồi kết thúc. Nắm được quyền lực và tài lực của cả Gia Định trong tay, chúa Nguyễn đã không còn cần sự hỗ trợ của nàng. Từ khi vị chúa quay về Gia Định, các quan lại cũ không kịp đi theo lần trước đã lần lượt trở lại. Nguyễn Bảo Trí, Nguyễn Cửu Thống cùng những viên quan từ Vọng Các như Trần Hưng Đạt, Phan Thiên Phúc hoàn toàn có thể cai quản được đại cuộc. Nàng vốn chỉ thế chỗ cho họ, khi họ tản mác và thất lạc, khi không còn ai ở bên vị chúa. Con đường mà nàng đã bước từ khi cô cô Ngọc Đảo mất trong biến loạn, để thay thế người cô xấu số, để trốn tránh thực tại và nỗi đau – Cuối cùng, nàng đã đạt được kết qủa.

Con đường mà nàng đã bước vào từ tuổi đôi mươi, đổi cả thanh xuân cho nó. Những năm tháng đẹp đẽ nhất đã trôi qua.

Nàng nghe thanh âm bên ngoài vọng lại. Đồn Cầu Sơn, Sài Côn, Gia Định, họ đã trở về nơi đây, đã chiến thắng. Có thể đã bắt đầu một cuộc chiến khác, nhưng không cần có nàng nữa. Rồi sau này, nàng sẽ ra sao?

Buổi sáng hôm ấy, đứng cạnh bờ sông, trong hàng quân lính, nàng đã cảm thấy buồn đau, và cả hoang mang tột độ.

Kết thúc trận chiến, người sẽ ở lại để tiếp tục con đường dài, người sẽ trở về với gia đình, thôn xóm, quê hương. Còn nàng, gia đình nàng là ở đây, những con người mất mát và ngập tràn trong tuyệt vọng. Mỗi đêm ở lại ngôi nhà trong đảo hoang, nàng đã đều phải uống rượu trong tiếng khóc văng vẳng suốt đêm thâu. Mùi nước mắt mặn như gió biển. Mỗi tháng, em trai nàng lại đều đặn gửi một lá thư cho người giáo sĩ ngoài biên ải ngóng tin con trai. Bàn thờ ngày tết nghi ngút khói hương và bài vị của những người không tìm thấy xác. Gia đình. Gia đình của nàng.

Tiếng gõ cửa khe khẽ ngoài phòng nàng. Nghĩ Nhị phi quay trở lại, nàng bảo người ngoài cửa vào. Võ Tánh đứng trên bậc cửa, sau lưng là một chiếc xe đẩy gỗ. Nàng nhướng mắt, nhìn chàng đẩy chiếc xe phủ vải vào phòng. Tấm vải trên xe trượt xuống, để lộ những chiếc bình lớn.

- Rượu à? – Nàng hỏi, vẫn không đứng dậy rời khỏi giường. Võ Tánh đóng cánh cửa phía sau, cười lớn.

- Tìm được trong kho của Tây Sơn, tất nhiên là chúng không đem rượu theo khi chạy trốn. Dù đã có lệnh cấm say sưa, rượu cũng bị lấy trộm gần hết. Tôi nghĩ nàng cũng muốn nếm một ít nên đưa đến. Rượu Nông Nại thượng hảo hạng của Gia Định đấy.

- Đây là một ít? Anh muốn lấy phòng tôi thành chỗ giấu rượu thì có. – Ngọc Du phì cười. Nàng đưa tay. – Chúa công chỉ cấm say sưa chứ không cấm uống. Chừng nào còn không say thì ta không phạm luật. Cho tôi một bình nào!

Đưa cho Ngọc Du một bình rượu, Võ Tánh quan sát nàng mở nắp bình, đưa lên miệng định uống. Chàng đưa tay ngăn lại.

- Khoan đã, nàng uống rượu mà không cần biết đây là loại gì à?

- Quan trọng gì, giống nhau cả. – Ngọc Du cau mày.

- Thế mới là uổng phí. – Võ Tánh lắc đầu. – Nàng ngửi thử xem, hơi rượu rất ngọt. Đây là rượu được cất từ dừa nước ở Sa Khâu. Bình kia là Thạch Than của Trấn Biên, kia là rượu Tân Nhuận của Phiên Trấn, kia là rượu Long Hồ. Mỗi loại rượu tuy cùng có tên Nông Nại nhưng đều có vị khác nhau, chỉ người phương Nam mới nhận biết được. Uống rượu cũng nên từ từ thưởng thức. Một bình rượu có thể chứa cả phong vị của miền đất làm ra nó.

- Vâng, mời Võ tướng quân thưởng thức rượu, còn tôi uống rượu. – Giằng bình rượu khỏi tay Võ Tánh, Ngọc Du nói trước khi đưa lên môi. Nàng không có tâm trí để nghe chàng nói. Khi hạ bình rượu xuống, nàng mới nhận ra Võ Tánh vẫn đang nhìn nàng.

- Nàng có vẻ không vui à? – Chàng hỏi. Lại một lần nữa, nàng thấy khó chịu.

- Võ tướng quân, công việc trong thành còn nhiều sao anh lại ở đây?

- Đã có các Cai cơ của tôi làm hết rồi. – Võ Tánh toét miệng cười. – Quân của tôi quen thuộc với nhau đã lâu, chẳng có gì phải lo.

Nhưng anh cũng không nên vào phòng tôi, Ngọc Du muốn nói. Giữa nơi đông đúc thế này, nàng không muốn tạo ra dị nghị. Tuy vậy, hẳn chẳng ai nhận ra. Trời đã về khuya, phòng nàng ở nơi tách biệt và ai ai cũng có công việc của mình. Nghĩ thế, cuối cùng nàng gật đầu:

- Trước đây tôi đã hứa chúng ta có buổi uống rượu cùng nhau, nay có sẵn rượu thì uống thôi.

Nàng cầm bình rượu đến bên chiếc xe đẩy, ngồi xuống sàn và ra hiệu cho Võ Tánh. Khi chống tay ngồi, chàng vẫn nhìn nàng.

- Nàng có chuyện không vui? - Một lần nữa, chàng lại hỏi. Nàng thở dài.

- Võ tướng quân, Phạm Văn Sâm đã trốn mất rồi, anh hỏi tôi làm sao vui được?

- Tôi sẽ bắt hắn về cho nàng.

Ngọc Du cười. Ồ, lời nói của chàng ta thật là đơn giản. Nàng đã không muốn nói lý do thật của tâm trạng mình, chàng ta lại nói như vậy.

- Tôi đã hứa với nàng, phải không? – Chàng nói tiếp. Lần này nàng ngẩng lên nhìn chàng. – Nếu có bất cứ chuyện gì làm nàng phiền lòng, tôi sẽ giải quyết. Tôi không muốn thấy nàng buồn.

Tại sao, nàng muốn hỏi, nụ cười vẫn ở trên môi. Chàng đã hứa với nàng điều ấy, giản đơn như thế, khi cả hai mới chỉ vừa quen biết. Chẳng có gì ràng buộc bắt chàng phải giữ lời, thậm chí nàng còn không tin. Nàng có gì để chàng phải làm bất cứ điều gì cho nàng?

Nhưng những lời này nghe thật ngọt ngào.

Có lẽ là hơi rượu. Qủa thật rượu rất ngọt. Có lẽ là hơi mưa và mùi đất trước cơn mưa. Kìa, đã có tiếng nước rơi trên khung gỗ, trên mái nhà. Nàng nghe tiếng sấm từ xa xôi vọng lại. Nàng thấy ánh sáng của chớp qua những khe gỗ hở.

Tháng tám, ngày mùa hạ và đêm mưa kéo dài.

Sáu năm, nàng lại nghĩ về con số ấy, khoảng thời gian thật ra rất ngắn ngủi. Thanh xuân trong đời mỗi con người cũng ngắn ngủi như thế. Thoáng qua như một cơn mưa đêm và biến mất. Trong cơn mưa đêm, nàng đã đi, đã dấn thân trong gió mưa. Để rồi giờ đây nàng lại thấy luyến tiếc. Nàng thấy thương mình đến muốn khóc lên được.

Qủa thật, nàng đã qúa kiêu ngạo khi bỏ qua lời khuyên của những kẻ bên mình. Nàng đã qúa kiêu ngạo với cuộc đời của chính mình. Nàng tưởng mình có thể cứ tiếp tục đi mãi, để rồi đến lúc nàng cũng phải đến cuối con đường. Cuối con đường, nàng trở lại với những gì đã trốn tránh. Đứng trên bến sông, trong sương mù, nàng thấy trước viễn cảnh này, sự kết thúc này. Thậm chí, mọi việc có lẽ đã kết thúc vào ngay lúc vị chúa trở về. Nghĩa vụ của nàng đã chấm dứt. Cùng với thanh xuân của nàng.

- Chúng ta lấy nhau đi. – Nàng nói. Không, nàng yêu cầu. Van xin, có lẽ. Nàng thậm chí còn không tin những gì mình vừa nói.

Chàng im lặng. Họ vẫn uống trong lặng lẽ. Những bình rượu khác được nhấc lên. Mưa ngày càng mạnh. Gió giật cánh cửa phòng rùng rình.

Giờ này những người được cử đi hẳn đã đến các nhà dưới gò, Ngọc Du nghĩ. Nàng chợt nhìn thấy một con rầy nhỏ bay vào trong ngọn đèn trên bàn.

- Chúa công có chuyện gì làm nàng buồn à? – Cuối cùng, chàng hỏi.

Nàng chớp mắt nhìn chàng.

Có chuyện gì rất kỳ quái ở đây. Không, nàng không hề nghĩ cho bất cứ ai. Nàng chỉ thấy thương bản thân mình, duy nhất bản thân mình. Nói ra điều đó liệu có phải là qúa đáng? Đó có phải là điều nên nói ra? Rằng nàng chỉ muốn từ bỏ tất cả, và chàng xuất hiện đúng lúc để nàng có thể dựa dẫm? Đó có phải là điều nên nói?

- Anh nên đồng ý trước khi tôi đổi ý. – Cuối cùng, nàng lầm bầm. Võ Tánh chỉ cười.

- Sao lại không?

Chú thích:

Người Minh Hương là người gốc Hoa ở Phiên Trấn, người Thanh Hà là người gốc Hoa ở Trấn Biên.

17

Ngày trung thu năm Mậu Thân ở Sài Côn vẫn diễn ra nhộn nhịp dù vừa mới qua một trận chiến lớn. Đèn lồng đỏ đủ hình dạng treo giăng giăng trên các phố của người Minh Hương, trong chợ đã bày những sạp hàng bán bánh dẻo, bánh trăng nhân đậu và trứng. Trong đồn lũy, các binh lính Minh Hương, Thanh Hà cũng đem về những chiếc đèn lồng nhỏ treo trước lán trại. Trên bàn trong bữa ăn sáng của chúa Nguyễn, Võ Tánh cũng đã thấy có chiếc bánh trung thu nhỏ được cắt đều đặn bốn góc. Vị chúa ngồi ăn cùng các quan tướng, trong đó có cả Nguyễn Văn Hiếu.

Thấy chàng, vị chúa gật đầu.

- Hôm nay Võ Chưởng cơ đi cùng ta và Nguyễn Cai cơ. Ta muốn đến thăm Gia Định xử sỹ.

Võ Tánh nhìn Nguyễn Văn Hiếu, nhận được cái mỉm cười nhẹ nhàng của người phó tướng. Đúng như chàng nghĩ, chúa Nguyễn đang muốn tiếp cận các sĩ phu Gia Định, và chàng cùng Nguyễn Văn Hiếu được vị chúa nhờ cậy để tạo uy tín với người được gọi là Thái Sơn Bắc đẩu phương Nam - Võ Trường Toản, người thầy của những nhân sĩ xuất sắc nhất Gia Định.

Võ Trường Toản đang ngụ tại ngoại ô Sài Côn. Qua một đoạn đường ngắn, họ đã đến thôn làng nơi ông mở trường dạy học. Ngôi trường nhỏ, chỉ có căn nhà ba gian lợp lá. Nhận được lời nhắn của Nguyễn Văn Hiếu, tiểu đồng hấp tấp chạy đi rồi quay lại mời họ vào. Võ Trường Toản đang ở trong căn nhà chính, ngồi trên chiếc phản gỗ đã hơi bạc màu. Thấy vị chúa, ông đứng dậy chào. Dù đã ở tuổi bảy mươi, ông già tầm thước gầy gò này vẫn có sự tinh anh sáng rực trong đôi mắt.

Chúa Nguyễn cung kính chào ông, cùng ngồi xuống trên tấm phản không phân chủ khách. Tiểu đồng rót trà cho họ. Cậu bé vẫn còn lén nhìn vị chúa. Thái độ của Võ Trường Toản vẫn ung dung, như thể chúa Nguyễn đến đây đã là việc thường ngày.

- Từ lâu ta đã nghe danh về đạo hạnh của thầy, hôm nay nhân ngày lễ ta muốn đến chào thầy một lúc. – Chúa Nguyễn là người mở đầu câu chuyện trước. – Ta ở Gia Định này đã lâu, nhưng việc quân dồn dập, chinh chiến liên miên, đến giờ mới có dịp đi thăm mọi người. Đã lâu mới về Gia Định, lòng nhớ cố hương một thì càng mong nhớ con người đến gấp mười. Thầy là người gieo mầm đạo đức cho dân Gia Định, ta thật cám ơn thầy đã gìn giữ lòng người Gia Định bấy lâu.

- Truyền đạo giữ đức là việc của kẻ sĩ, không phải vì ai mà làm, chúa công qúa lời rồi. – Võ Trường Toản mỉm cười dưới hàm râu bạc. – Chúa công mới vào Sài Côn, công việc hẳn còn rất nhiều, đến đây chắc không phải chỉ là để thăm viếng ông lão lánh đời như tôi.

- Phải, Sài Côn mới được phục hồi, Gia Định mới được giành lại, bao nhiêu công việc còn đang cần ổn định. – Chúa Nguyễn đón bắt ý của Võ Trường Toản, cũng điềm nhiên mỉm cười. – Đất đai qua chiến tranh mấy đận hoang hóa, phố chợ bị tàn phá, dân chúng tản mác tiêu điều, lòng người tan tác, phong tục suy vi, tất cả đều cần chỉnh đốn, dựng xây. Ta muốn xây dựng lại Gia Định mà e rằng sức mình có hạn, dưới trướng các quan chỉ giỏi nghề chinh chiến, các văn quan thưở trước người đã bỏ mình nơi sa trường, tên bay đạn lạc, người bị Tây tặc giết hại vì lòng trung nghĩa. Thầy là Thái Sơn Bắc đẩu của Gia Định, là người thầy của trăm vạn học trò phương Nam, tài năng đức độ sáng soi một cõi. Công cuộc xây dựng Gia Định này, ta muốn mời thầy cùng góp sức.

- Chúa công đã gọi tôi là thầy, hẳn cũng đã nhận ra vị trí của tôi. – Võ Trường Toản lắc đầu. – Tôi đã chọn cuộc đời làm thầy kẻ khác, nhất quyết không can dự vào chốn quan trường danh lợi.

- Danh lợi hay không danh lợi, đó chẳng phải chỉ là đều do con người quyết định? Xét đoán kẻ khác qua vị trí của người ấy liệu có nên chăng? Một hiếu tử hái rau trở thành quan lại thì có phải không là hiếu tử? Bọn cướp dầu có trở thành thiên tử cũng không rũ bỏ được bản chất tàn ác bất nhân. Trong đời người hẳn cũng có kẻ gặp cơ biến mà đổi thay vị trí, nghề nghiệp, đâu có phải vì thế mà con người họ thay đổi, đâu có phải vì xuất thân hay địa vị mà thay đổi một con người.

- Chúa công nói điều đó cũng không hẳn đúng. Những câu truyện như Giấc mộng hoàng lương, những kẻ xuất thân nghèo hèn đạt được danh lợi rũ bỏ vợ con được lưu truyền trong người đời đâu phải chỉ là để kể chuyện thế cuộc. Con người vốn chịu tác động của những gì xung quanh, có khi có những điều không thuộc về bản chất. Người xưa vốn nói “Vua có không muốn ác cũng không được nào”. Trong mối quan hệ tương ứng với vị trí xã hội, con người tùy theo thế mà đổi thay, tùy theo thế mà đối xử. Khổng phu tử nói “Nhân chi sơ tính bản thiện”, Tuân Tử lại nói “Nhân chi sơ tính bản ác”. Ta học Khổng phu tử trước để rèn luyện đạo đức, nuôi trồng tính thiện trong lúc tuổi trẻ ngây thơ, lại học Tuân Tử sau trong lúc lập thân vào đời để kiềm chế tham vọng, dục vọng mà cuộc đời đặt ra trước mắt. Chốn quan trường vốn là nơi khêu gợi tham vọng hơn hết thảy, bước vào nơi ấy nếu ta không phạm đến người thì người phạm đến ta, không cách nào cho toàn vẹn. Chiến tranh và chính trị không bao giờ là tốt đẹp. Tôi đã chọn cuộc đời làm thầy kẻ khác, đạo hạnh không phải chỉ là của riêng tôi mà là của trăm vạn con người và nhiều đời sau nữa. Người thầy đạo hạnh tốt là tấm gương soi rọi cho học trò cả cuộc đời họ, đến cả con cái họ. Người thầy có điều phạm đến đạo hạnh thì những điều dạy cho học trò cũng hóa ra không còn nghĩa lý, họ mất đi niềm tin thì cũng mất đi một tiếng gọi của lương tri, mịt mù giữa đúng và sai. Cha mẹ xấu có thể còn không tai hại bằng thầy xấu. Cha mẹ có công sinh thành dưỡng dục cho tấm thân, người thầy là kẻ vun trồng cho tâm hồn, đạo đức. Kẻ làm thầy phải biết bảo vệ danh tiết, phẩm giá, đạo hạnh, đức độ của mình. Dấn thân vào chốn tranh giành đấu đá, dù đúng dù sai, dù ta phạm người hay người phạm ta, đem danh tiếng cả cuộc đời đánh cuộc mà liên quan đến nhiều người nữa, nhiều thế hệ sau nữa, tôi không thể liều lĩnh.

Họ im lặng một lúc sau đó. Chúa Nguyễn nâng ly trà lên môi, gật đầu nhè nhẹ. Đặt ly trà trở lại chỗ cũ trên chiếc đĩa sứ, vị chúa cười mà nói:

- Thầy đã nói như thế, ta cũng không thể ép. Nhưng ta tuổi trẻ đức mỏng, tri thức kinh nghiệm đều còn non kém, đường học hành đã bị cắt ngang từ khi còn nhỏ, cũng chỉ mong được bái thầy làm sư để chỉ dạy, thầy có thể chấp nhận chăng? Chúng ta theo đạo Khổng phu tử cũng là để giúp người giúp đời, nay trước quê hương hoang phế, ta lòng nóng như lửa đốt mà chỉ giận mình vô tài bất đức. Kẻ sĩ Gia Định này tôn thầy làm Thái Sơn Bắc đẩu, hẳn thầy cũng từng nghĩ đến phương cách cho Gia Định.

- Cho Gia Định hay cho họ Nguyễn, chúa công chọn con đường nào?

Trước câu hỏi thẳng thắn của Võ Trường Toản, những người bên cạnh cũng phải nhẹ giật mình. Chúa Nguyễn nhìn vào mắt người xử sỹ trước mặt, vẫn giữ nụ cười.

- Có đất mới có người, có người mới tạo nên đất. Dân có giàu thì nước mới mạnh, nước có mạnh thì nhà mới yên. Dân là nước để nâng thuyền mà cũng có thể lật thuyền. Người Gia Định đã có cơ hội để lựa chọn, và họ đã lựa chọn. Ta trở về chỉ với một nhúm quân, vài chiếc thuyền và ta đã chiến thắng - Đó là sự lựa chọn của người Gia Định. Như vậy, sự tồn vong của chúng ta đã gắn chặt với nhau. Nếu như nói vì họ Nguyễn thì ta chỉ còn chính bản thân ta để bảo vệ. Những gì họ Nguyễn ta dựng xây đã bị phá tan rồi. Dòng chính họ Nguyễn chỉ còn lại một mình ta. Nhưng họ Nguyễn ta gắn liền với bao nhiêu kẻ khác, bao nhiêu sinh mạng, dòng tộc khác. Ta phải có trách nhiệm với họ, những người đã chết cho chúng ta, vì chúng ta mà dốc sức. Chúng ta đã bị hủy hoại, nhưng ta không thể để họ bị hủy hoại theo ta.

Cả những kẻ ở Gia Định này đã chọn ta cũng thế. Chúng ta hiểu hơn ai hết mình muốn gì. Ta chấp nhận tất cả những kẻ muốn theo ta đâu phải vì tin họ sẽ trung thành với ta - làm gì có lòng trung thành nào đến trong một sớm một chiều. Mỗi người đều có lý do cho riêng mình, và ta tôn trọng điều đó. Mỗi người đều có quyền tìm kiếm cơ hội hạnh phúc và thành đạt cho bản thân mình, không có gì sai về điều đó. Ngay cả những hàng thần, hàng tướng bị bắt trong trận mà quy phục vì sợ hại đến tính mạng cũng vậy - yêu qúy cuộc sống của mình không phải là xấu xa. Người Gia Định đã chọn ta vì ký ức của những bình an thưở trước tổ tiên ta đem lại cũng được, vì chán ghét sự tàn ngược của Tây Sơn cũng được – Rốt cuộc thì họ hy vọng ta sẽ đem đến điều tốt đẹp cho họ. Nếu không, họ cũng lật đổ ta, phản lại ta như ngày trước.

Để tồn tại thì cần phải mạnh. Nước mạnh là đất nước không chỉ vững vàng về quân sự mà còn phải dồi dào về kinh tế, ổn định về trật tự trị an, bình ổn về chính trị, như thế, người dân cũng được an bình, sung túc. Trong cuộc tẩu quốc những ngày khó khăn trước, ta đã đến được nhiều nơi, tiếp xúc với đủ mọi loại người, kể ra đó cũng là một may mắn. Tầm mắt ta đã được mở mang, tâm trí ta trở nên sáng rõ, có thời gian thảnh thơi để ngẫm lại các đạo lý thánh hiền, nhận ra điểm sai và điểm cần phải củng cố trong thuyết trị quốc của ta. Sự tồn vong của ta đã gắn liền với Gia Định. Và ta không thể chỉ nhờ vào quân đội, vào võ lực để tồn tại. Chân Lạp kia tại sao lại bị xâu xé? Xiêm La kia tại sao hùng mạnh? Tây dương kia tại sao cường thịnh? Tuy vậy, ở trong lòng đất nước Xiêm La, tham gia những cuộc chiến tranh của nó, ta cũng nhận ra điểm yếu, sự phân tán trong lòng nó, học được cách ổn định sự phân tán nọ. Quân đội có thể cầu viện được, nhưng sức mạnh thật sự thì chỉ bản thân có thể tạo ra. Để thắng trong một hai cuộc chiến thì chỉ cần có tướng giỏi quân nhiều, nhưng để bảo toàn một đất nước thì phải huy động, phát huy được tất cả nội lực của nó. Trước đây ta không nhận ra điều đó, chỉ cốt dựa vào các thế lực, các cánh quân trong và ngoài vùng. Đông Sơn, Hòa Nghĩa, Lương Sơn tá quốc, Xiêm La… rốt cuộc vẫn không ai giữ được Gia Định. Trở về Gia Định, lúc đầu ta vốn chẳng mang nhiều hy vọng, nhưng ta đã có thể chiến thắng chỉ dựa vào sức lực của mình, vào sự ủng hộ của người Gia Định. Trong những lần ra đi và trở lại, rốt cuộc thì ta hiểu được rằng con người mới là quan trọng, chỉ có con người mới giữ được đất. Chỉ có người Gia Định mới yêu qúy Gia Định, mới giữ được Gia Định. Họ hy vọng vào ta, và ta cần có họ. Mối quan hệ của chúng ta phụ thuộc lẫn nhau. Đất nước của họ Nguyễn phải phụ thuộc vào chúng dân trong đất nước ấy.

Tất nhiên, chiến tranh và cai trị không phải là điều tốt đẹp hoàn mỹ. Tất nhiên, chiến tranh không phải chỉ là chuyện ra trận và chiến thắng. Cái thiện thắng cái ác chỉ là truyện cổ tích cho trẻ con. Để thắng trận, để có một đội quân hùng mạnh, ta không có cách nào khác phải lấy của chúng dân, phải huy động chúng dân vào cuộc chiến của ta. Họ sẽ phải hy sinh, thậm chí là rất nhiều. Tháng ngày phía trước sẽ rất khó khăn, cho ta và tất cả mọi người. Người Việt đánh người Việt, ta đem quân Gia Định đi đánh vào người ở đất tổ tiên, thật là chuyện chẳng đặng đừng. Kẻ nào chết cũng là đáng thương, cũng là mất mát. Đám quân nhân bị cuốn vào chiến tranh kẻ nào cũng là máu thịt đất nước ta.

- Từ lâu tôi vẫn nghe chúa công có điểm nhu nhược, qủa thật là như thế. – Võ Trường Toản ngắt lời chúa Nguyễn, lần này cái giật mình của tất cả mọi người xung quanh có thể thấy rõ. Rót trà vào ly cho vị chúa, Gia Định xử sỹ chậm rãi nói. – Chúa công, người biết mình muốn gì, tại sao lại phải do dự? Cái gì ngài cũng muốn, nhưng trên đời làm gì có toàn mỹ, nhất là chiến tranh? Đã bao lần ngài bị đuổi giết, đã bao lần Gia Định này bị hủy hoại? Mỗi lần ngài thua trận là mỗi lần Gia Định tan hoang. Họ Nguyễn thua, Hội An bị phá nát. Định vương mất, Cù lao Phố ra tro. Ngài thua trận lần thứ nhất, Chợ Quán biến thành sông máu. Ngài thua trận lần thứ hai, Mỹ Tho, Long Hồ, Kiến Hòa, Sài Côn, Ba Lai lần lượt thành đất hoang. Gia Định này còn gì để tiếp tục mất nữa? Ta không diệt người thì người sẽ diệt ta. Chiến tranh là chuyện không ai muốn, nhưng nếu đã bước vào thì phải làm đến nơi đến chốn, nếu không ngài sẽ hủy hoại tất cả mọi người. Trước hùm sói nói chuyện nhân nghĩa có thể được ư? Ngài là một vị chúa, ngài phải hành động như một vị chúa.

Con đường cứu quốc và phục quốc của ngài, trước tiên không phải là xác định được kẻ thù của mình, mà là đất nước của mình. Đất nước của ngài gồm những gì, như thế nào, cần có gì? Điều này ngài đã nhận biết rất rõ. Nhưng ngài còn chưa nhận ra rằng đất nước ấy là của ngài ư? Của ngài, ngài phải chịu toàn bộ trách nhiệm về nó. Ngài phải yêu thương bản thân mình như yêu thương đất nước mình. Ngài phải nhận thức được vị trí của mình.

Mạnh phu tử đã dạy: “Dĩ lực giả nhân giả Bá, Bá tất hữu đại quốc. Dĩ đức hành nhân giả Vương, Vương bất đãi đại." Người có sức lực mượn tiếng làm điều nhân là Bá, Bá tất có nước lớn. Người lấy đức làm điều nhân là Vương, Vương không cần lớn. Người làm Bá cần có sức mạnh để đè nén người nên mới cần nước lớn, người làm Vương lấy đức độ nhân nghĩa phục người, thiên hạ tự nhiên mà thuận, không cần nước lớn.

"Đem cả nước mà hô hào làm việc lễ nghĩa và không làm gì hại đến lễ nghĩa. Làm một điều bất nghĩa, giết một người không có tội, mà được cả thiên hạ thì kẻ nhân giả không làm. Cứ giữ vững lòng mình mà giữ nước. Được như thế thì thật là vững chắc lắm vậy.

Những người cùng với mình làm việc ấy đều là nghĩa sĩ. Những hình pháp đem bày ra cho quốc gia đều là pháp nghĩa. Những điều mà nhân chủ đã thật tin và đem quần thần qui hướng cả về đó đều là cái ý chú vào việc nghĩa.

Như thế, kẻ dưới lấy nghĩa mà trông cậy người trên, ấy là cơ bản định vậy. Cơ bản đã định thì nước định, nước định thì thiên hạ định.

Không bởi cớ gì khác, chỉ bởi cái cớ cố làm cho nên việc nghĩa. Ấy là việc nghĩa lập mà làm Vương vậy.

Người muốn làm Vương cả thiên hạ thì phải: Phát cái chánh trị ra, thi hành những điều nhân, khiến kẻ ra làm quan ở trong thiên hạ ai cũng muốn đứng ở triều nhà vua, kẻ cày ruộng ai cũng muốn cày ở đất của nhà vua, kẻ buôn bán ai cũng muốn đến ở trong chợ của nhà vua, người đi đường ai cũng muốn đi đường của nhà vua. Được như thế, ai chống lại mình được nữa."

"Đức tuy chưa đến cùng cực, nghĩa tuy chưa nên hẳn, song cái lý của thiên hạ cũng được có tiết tấu. Hình pháp thưởng phạt làm tin cho thiên hạ, kẻ bề tôi ở dưới đều hiểu rõ mà biết những điều yếu ước. Cái chính lệnh đã bày ra thì dẫu thấy rõ điều lợi của mình hỏng, nhưng cũng không lừa dối dân, đã kết ước với nước nào thì dẫu thấy rõ điều lợi của mình hỏng, nhưng cũng không lừa dối người.

Như thế thì binh mạnh, thành bền, nước địch sợ mình, cả nước một nền, dân với nước đều tin. Tuy ở nơi hẻo lánh, cũng có uy với thiên hạ. Song không phải là hết lòng sửa cái gốc ở sự chính và sự giáo, không phải là lấy văn lý làm căn bản, không phải là làm cho lòng người ta phục.

Làm điều gì thì xu hướng về phương lược, xét việc gì thì dùng thuật dĩ dật đãi lao, nghiêm cẩn sự súc tích, sửa sang việc chiến bị, trên dưới một lòng tin nhau, thiên hạ không ai dám đương đầu với mình. Ấy thế gọi là Tín lập mà làm Bá vậy."

Vương đạo bền vững lâu dài, Bá đạo chỉ còn khi quyền lực vững mạnh. Tuy nhiên, kẻ trên đời có mấy người thực hành được Vương đạo, hoặc chỉ mượn danh Vương đạo làm vỏ bọc để thi hành Bá đạo bên trong. Bá đạo có thể công thành rực rỡ nhanh chóng, nhưng cũng có thể tàn lụi mà không ai luyến tiếc. Vương đạo qúa trình xây dựng vất vả khó khăn, phải củng cố từ tận gốc rễ thần nhân, không phải một sớm một chiều mà thành tựu, nhưng những gì để lại trong thiên hạ qủa thật lâu dài. Nhà Hạ có phúc đức Nghiêu Thuấn mà bị Hậu Nghệ cướp nước cả bốn thế hệ vẫn còn có thể lấy lại. Nhà Đường có Thái Tông anh minh mà bị Võ Tắc Thiên khuynh loạn vẫn có thể phục hồi.

Kể ra, kẻ Nho gia nào cũng có thể bày cho ngài chính sách củng cố văn hóa, cải cách giáo dục, rèn luyện lễ nghi, trọng thị đạo đức. Nhưng điều cốt lõi nằm trong chính bản thân ngài. Ngài phải khiến cho người khác kính phục. Chính ngài phải tin vào những gì ngài làm. Oán hận của ngài không phải là điều xấu, đó là nghĩa vụ của ngài với tổ tiên, gia đình, là tình cảm của một người con cháu. Oán hận của chúng ta cũng không phải điều xấu, không kẻ nào có quyền giết chóc phá hoại chúng ta. Ngài tin điều gì là đúng, điều gì là nên làm thì làm. Vương đạo hay Bá đạo đều là thuật trị quốc. Vương đạo dành cho vua chúa, Bá đạo dành cho kẻ thống trị. Ngài đang đối đầu với những kẻ thù rất mạnh. Phương Bắc có Tây Sơn. Ngoài biên ải có Cao Miên, Xiêm La chờ chực. Trong tay ngài chỉ có một Gia Định nát bươm. Việc thắng thua thành bại e rằng không thể nói trước được, chỉ cần quân địch kéo đến như đợt trước thì Gia Định không thể giữ. Nhưng như ngài đã biết, người Gia Định đã chờ ngài trở về. Ngài hẳn tự biết mình phải làm gì.

Ngài hẳn tự biết mình phải làm gì. Vị chúa đã im lặng trước khi cáo từ người xử sỹ ra về. Vị chúa im lặng cả trên đường họ đi. Ở bên cạnh, Võ Tánh cũng không biết phải nói gì. Lời Võ Trường Toản có điều chàng hiểu hoặc không hiểu. Bao giờ chúa công rảnh thì chúng ta sẽ đàm đạo thêm, người thầy già nói, và vị chúa đã kính cẩn cúi mình. Khiến một người như chúa Nguyễn kính trọng, ông lão ấy qủa là không tầm thường. Chàng đã thầm trọng thị những người học trò của ông ta, nhưng người thầy ấy còn hơn họ một bậc. Mà chỉ người thầy như thế mới có thể đào tạo học trò như họ.

Chàng đã không gặp họ trong trường, thật lạ lùng trong ngày trung thu như thế. Hoặc là họ đã được báo trước để lánh đi. Chàng nhìn sang Nguyễn Văn Hiếu, ông ta vẫn trông ra dòng sông. Cả ông cũng có vẻ suy nghĩ rất lung.

- Trong những học trò Võ Trường Toản, ai đứng đầu? – Chúa Nguyễn chợt hỏi khi họ đã đi đến chân đồn.

- Môn sinh cao đệ nhất là Ngô Tùng Châu. – Nguyễn Văn Hiếu trả lời. – Ngô Nhơn Tịnh trong quân chúng ta cũng là học trò cũ của trường.

Chúa Nguyễn chỉ gật đầu. Vào đồn, vị chúa cho họ lui về. Đi cùng với Nguyễn Văn Hiếu, Võ Tánh không ngăn được tò mò mà hỏi:

- Bọn Ngô Tùng Châu đi đâu rồi?

- Họ ở trong trấn vẫn chưa về. Ba người Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh bọn họ vẫn được gọi là Gia Định tam gia trong làng thơ. Nhơn lúc Ngô Nhơn Tịnh theo chúa công trở về, bọn họ hẳn lại nhóm họp nhau ở đâu đó bàn việc lập thi xã đêm Trung thu rồi. – Nguyễn Văn Hiếu cười nhẹ. – Hẳn lát nữa họ sẽ có thư đến mời, anh có đi cùng không?

- Tôi là kẻ thất phu, đến đó chỉ uống rượu mà không làm được câu thơ nào, lại hóa thành trò cười cho các anh học trò ấy?

- Không nên câu nệ qúa. Một đêm vui trong thời binh loạn, chẳng ai để tâm đâu.

Đến chiều, Nguyễn Văn Hiếu vẫn thuyết phục chàng đến đêm hội – theo thư gửi tới, nằm ở tửu quán cạnh bờ sông. Ở đó có rất nhiều người, không phân biệt văn nhân hay không, ông nói. Võ Văn Lượng cùng những người khác đã có phiên trực. Nghĩ đến chuyện ở trại một mình, Võ Tánh gật đầu.

Đêm Trung thu, khu Cầu Sơn không còn lại mấy người. Vùng đất trũng ngập mặn cứ khi triều lên lại lênh láng nước mà người dân bắt buộc phải chuyển đến không phải là nơi họ muốn ở. Rất nhanh, theo lệnh bãi bỏ giới nghiêm mà chúa Nguyễn đã ban, các tửu quán lớn nhỏ xây tạm bợ đã mọc lên trên vùng đất Chợ Quán cũ. Đèn lồng cũng được giăng dây treo qua các lùm cây. Trên các con đường cỏ dại đã mọc đầy, hàng quán được đem ra buôn bán. Người ở Sài Côn dồn về bên dòng sông Tân Bình, đèn đuốc sáng rực. Cả những quân nhân mới đến cũng nhân dịp thảnh thơi đến khu vui chơi Trung thu. Trên khoảng đất trống còn hằn dấu các nền nhà cũ, họ tụ tập thành từng nhóm lớn nhỏ, nơi bày trò chơi, nơi đàn ca hát xướng, nơi uống rượu ngâm thơ.

“Tửu quán” mà nhóm Bình Dương thi xã ghi trong thư mời hóa ra cũng là khoảng đất trống cạnh bờ sông. Một cánh cổng tạm dựng lên bên con đường, bốn phía họ giăng dây kết đèn lồng. Một tấm chiếu lớn đã được trải trên đất, để bữa tiệc nhỏ. Tiệc thời giáp hạt chỉ có rượu và bánh đậu. Tuy vậy, khuôn mặt ai cũng lộ vẻ hân hoan. Khi chàng cùng Nguyễn Văn Hiếu bước vào, Trịnh Hoài Đức đang ngâm một bài thơ:

Đào Chu quán trục Ngũ hồ du,

Giới đạn lương hồi bất giác thu.

Phong cổ Hồ quần nghinh thuỷ khởi.

Kê ngân Đường cổ hoán lang đầu,

Tương vu tùng cúc không lai nguyệt,

Chính mỹ thuần lô thượng hệ chu.

Hư phụ gia trang trùng cửu ước,

Miên hoa cuồng nhứ loạn liêu sầu.

Người thanh niên trẻ vừa đọc thơ vừa cầm một ngọn cỏ lau vẽ vào không khí. Thấy chàng, cậu ta quay lại, nụ cười mở rộng.

- Võ Chưởng cơ! Hôm nay ngoài Ngô Thị giảng còn được đón Võ Chưởng cơ, thật là vinh hạnh.

- Tôi chỉ vì rượu mà đến, không biết làm thơ, mong các anh không đuổi ra. – Võ Tánh cười, đưa mắt nhìn quanh. Nhóm học trò Võ Trường Toản có mặt gần như đầy đủ. Ngô Tùng Châu và Lê Quang Định đang ngồi gieo xúc xắc uống rượu. Hoàng Minh Khánh và Ngô Nhơn Tịnh ngồi cùng những người bạn khác nhìn ra bờ sông. Nghe chàng nói, tất cả đều xua tay:

- Lại đây, đừng có nói những câu ấy! Chúng tôi không phải bọn giá áo túi cơm bày trò khinh bạc. Ngô Thị giảng đang kể cho chúng tôi về chiến công của tướng quân. Nghe tướng quân một mình đem quân bọc phía sau diệt đồn Cầu Sơn?

- Đó là lệnh của chúa công, tôi chỉ làm theo thôi. – Võ Tánh lắc đầu, ngồi xuống nơi Trịnh Hoài Đức mời. Cậu thanh niên vỗ vai chàng, đem ra một bình rượu lớn.

- Sao cũng được, công lớn là công lớn, chỉ cần cho bọn Tây tặc ấy một mẻ là sướng. Chúng hoành hành khắp nơi, cứ nghĩ đến là tôi thấy tức. Bao giờ anh đuổi chúng ra hẳn Gia Định thì tôi sẽ mừng anh một bữa rượu no say. Nay ta cứ mừng tự do cái đã.

Những bình rượu được nâng lên, uống cạn. Trăng đã mọc chênh chếch trên đầu họ, hình tròn vàng sáng rực. Nơi họ đang ngồi được phủ một lớp ánh sáng hơn cả ngàn chiếc đèn. Ngô Tùng Châu rời khỏi chén xúc xắc đến lấy thêm rượu, nhìn Trịnh Hoài Đức cười:

-  Cậu trai này sẵn dịp bộc lộ cho bõ những ngày bị kìm nén. Hôm nay trở lại đây, sao anh không đọc ra bài thơ viết sáu năm trước vẫn phải đem giấu với chúng tôi ấy?

- Phải, phải. Anh nhắc tôi mới nhớ ra. – Vứt ngọn cỏ vẫn đang cầm trên tay, Trịnh Hoài Đức đứng dậy, phủi áo quần. Khuôn mặt cậu ta bỗng trở nên nghiêm trang. Khi cất giọng, tiếng người thanh niên trẻ vang khắp đoạn sông dài, mang nỗi thê lương kỳ lạ:

“Hồi thủ kinh hoa lệ ám thuỳ,

Sinh dân đồ độc thị triều di.

Liễu doanh vũ cấp tướng tinh truỵ,

Hoa huyện xuân hoang chiến mã trì.

Bão thực nha nha giao táo hỉ,

Vô y lân quỷ dạ đề bi.

Giang lưu bán thị anh hùng huyết,

Chân tể minh minh tri bất tri?”

Cả những đám đông bên cạnh, những người đang đi gần đó cũng quay lại. Có người như hóa đá. Tất cả đổ dồn mắt nhìn chàng trai. Gió thổi trên triền sông. Ánh đèn vàng lay động cùng bóng cây tối. Trên dòng sông, những con thuyền treo đèn vẫn lặng lẽ lướt. Theo chiều gió thổi, tiếng đàn ca lặng dần. Theo chiều gió thổi, họ nghe văng vẳng như có tiếng khóc.

Ngô Tùng Châu lại ngồi xuống, quay lưng lại như không thấy cảnh tượng đang diễn ra. Bàn tay anh ta chạm vào những con xúc xắc, nhưng không buông xuống.

Trịnh Hoài Đức mím môi, vẫn đứng yên. Vai cậu ta run run.

Bi ai. Bi ai quét qua đoạn sông dài. Nơi họ đang ngồi đây là bến sông đã từng chứng kiến cuộc thảm sát sáu năm về trước. Sáu năm về trước, Ngô Tùng Châu đã nói. Cậu bé Trịnh Hoài Đức mười bảy tuổi đã chứng kiến cảnh tượng ấy, phải chăng? Sao cậu ta lại có thể còn sống, Võ Tánh lại bắt gặp mình tự hỏi.

- Lúc ấy, tôi không biết tại sao mình lại còn sống. – Trịnh Hoài Đức chợt nói, giọng run rẩy nhưng hoàn toàn không giống như sợ hãi. – Chúng đã tàn sát tất cả mọi người, tất cả người Minh Hương mà chúng gặp. Mẹ đã đẩy tôi chạy đi, chạy xuống thuyền thẳng qua Chân Lạp, không để tôi trở lại, không để tôi nhìn lại. Lúc ấy, tôi chỉ muốn trở lại, chạy trở lại, cầm súng, cầm giáo băm vằm lũ qủy ấy ra. Chúng giết tất cả mọi người, cả đàn bà trẻ con, cụ già. Những người không chạy được đều bị chúng giết chết.

- Chúng đã làm như vậy ở Cù lao Phố, chàng trai ạ. – Ngô Nhơn Tịnh bỏ bình rượu xuống, nói trầm tĩnh. – Lúc ấy anh còn đang ở Trấn Biên, phải không? Chứng kiến cảnh ấy, tôi đã về xin với thầy đi theo chúa Nguyễn ngay khi ngài vừa kêu gọi. Thầy mắng tôi, bảo tôi chưa học thành tài đã vội bỏ. Nhưng tôi không thể chịu đựng nổi.

Bọn chúng coi chúng ta không bằng heo chó, Võ Tánh nhớ lại lời Võ Văn Lượng đã nói với người cha trước khi đem tất cả gia sản vào rừng thành lập Kiến Hòa quân. Chàng nhớ đến những người lính đã đi theo mình từ ngày ấy. Chàng lại thấy ánh nhìn của họ trong đôi mắt Trịnh Hoài Đức lúc này. Trong đôi mắt của tất cả mọi người xung quanh. Của mọi người nơi chàng đã đi qua.

- Phía Nam Cù lao Phố có miếu thờ Lễ Thành hầu, - Ngô Nhơn Tịnh tiếp tục nói. – Rồi đền hoang miếu phế, đất lạnh hương tàn, có người trong vùng đi qua mà để lại mấy câu:

“Bạch thảo thê thê cổ tái trần,

Hoang thành duy kiến dã hoa tân.

Thiên tương sự nghiệp quy tiền đại,

Địa dĩ sơn hà chúc hậu nhân.

Phong vũ vị khôi chinh chiến cốt,

Tử tôn trường thác loạn ly thân.

Bình sinh nhất trích tầm thường lệ,

Bất khốc trung thần khốc loạn thần.”

Đó là hai câu mà chúa Nguyễn đã đọc trước trận đánh Sài Côn, Võ Tánh chợt nghĩ. Trong đám đông, những người lính cũng đã nhận ra. Tiếng xôn xao lan nhanh trong họ. Ngô  Nhân Tịnh đưa mắt nhìn quanh, lặp lại bài thơ:

“Bình sinh nhất trích tầm thường lệ,

Bất khốc trung thần khốc loạn thần.”

Không khóc cho trung thần mà khóc cho người có tài trị yên nước. Bên cạnh chàng, Nguyễn Văn Hiếu thở dài. Có tiếng nước động bên bờ sông, Võ Tánh nhìn ra sau lưng những người đang bị hút về phía Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhơn Tịnh. Một chiếc thuyền dừng lại dưới bóng cây không biết tự lúc nào. Người trên thuyền đứng nép trong bóng tối, chàng không nhìn rõ mặt.

- “Võ vương hữu loạn thần thập nhân.” – Ngô Tùng Châu lên tiếng. Con xúc xắc trên tay anh ta rơi xuống, vang tiếng lanh canh trong chiếc chén sứ. – Người làm bài này phải chăng là gọi kẻ cùng Võ vương trị yên đất nước, khởi binh phạt Trụ?

Trịnh Hoài Đức cười. Tiếng gieo xúc xắc phá vỡ bầu không khí nặng nề bao phủ. Người người dần tản mác nhưng tiếng đàn hát đã không còn ồn ã như trước. Ngô Nhơn Tịnh rời khỏi đám bạn, đến giữa khoảng đất nhỏ giọng cho họ vừa đủ nghe.

- Nhơn đây tôi có chuyện muốn thông báo. Ở Bắc Hà sắp có chiến tranh giữa Tây Sơn với Thanh. Tùy theo tình hình, chúa công nói có lẽ tôi phải sang Thanh một chuyến. Dù sao chúng ta mới vừa ổn định Gia Định, thêm bạn bớt thù, thăm dò ý tứ của nhà Thanh vẫn hơn.

- Sang Thanh, bằng đường biển? – Lê Quang Định ngạc nhiên hỏi. – Tây Sơn cùng với đám hải tặc Tàu Ô của chúng phong tỏa toàn bộ vùng biển miền Bắc, nếu gặp chúng thì qủa thật nguy không biết đàng nào mà kể.

- Chẳng qua thì cũng chỉ như Võ Danh Sở bị Nguyễn Nhạc ném xác xuống sông, Tham tán Nguyễn Tịnh bị Nguyễn Huệ bắt giết, Trần Công Xán bị Huệ đem dìm xuống biển. – Ngô Nhơn Tịnh cười. – Chúng ta là học trò sức trói gà không chặt. Tài học của ta cũng chỉ dùng được vào những việc như thế, nếu ta không làm thì ai làm?

Tiếng thở dài lại lan trong họ. Trịnh Hoài Đức ngồi ngẩn người, một lúc sau mới buông tiếng ngâm:

“Trích biệt tương thù tửu mạn châm,

Bá Kiều thi cú bất thành ngâm.

Gia bần, mẫu bệnh, ngô đa luỵ,

Quốc loạn, hương ly, nhữ viễn lâm.

Long Tịch si trì phi yến vũ,

Hổ Môn ngộ mị mộ vân tâm.

Thái bình khánh hội tri hà nhật,

Lệ thích bi ty động cổ cầm.”

- Anh tài năng xuất khẩu thành chương, sao lại cứ buộc mình chỉ làm những bài thơ như thế? – Ngô Nhơn Tịnh lắc đầu. – Thái bình hay không là do ta quyết lấy. Tài năng ấy, sao anh không dùng để cứu nước giúp nhà? Tôi đi lần này, chỉ mong ở nhà có người thay thế việc trọng. Nghĩ ngợi phẫn uất thì ai cũng làm được, nhưng ai chịu đứng ra làm một kẻ “trị yên nước”?

Trịnh Hoài Đức chớp mắt, không trả lời. Họ im lặng uống, thi thoảng nói chuyện với nhau khe khẽ. Nhân lúc họ không để ý, Võ Tánh lánh đến gần chiếc thuyền bên bụi cây. Bước chân chàng nhẹ đến nỗi khi chàng đã bước xuống thuyền, người đầu thuyền mới giật mình quay lại.

- Hóa ra là nàng. – Võ Tánh nhướng mày nhìn Ngọc Du. Rồi chàng cười. – Sợ rằng tôi đi chơi ở đâu nên nàng theo dõi à?

- Đừng nói nhảm. – Ngọc Du cau mày. Má nàng trong ánh trăng vẫn mờ sắc đỏ. Nghĩ một lát rồi nàng lại im lặng. Võ Tánh ngồi xuống cạnh nàng trong lòng thuyền, gật đầu.

-  Tôi nghĩ tôi biết lý do. Ngô Nhơn Tịnh ở đây là để chiêu dụ những học trò trường Võ Trường Toản, phải không? Chúa công cũng qủa là có mắt tinh đời.

- Có việc như thế đi nữa cũng không đến lượt tôi phải xem. Chẳng qua là… - Ngưng một lát, Ngọc Du ngập ngừng nói. – Võ Trường Toản đã nói gì với chúa công? Chiều nay tôi nghe ngài ấy gọi người vào định kế hoạch thu thuế của Sài Côn trong năm ngoái. Thuế năm ngoái đấy, lại thu bù vào năm nay, liệu có phải là qúa gấp?

- À… - Võ Tánh trả lời. – Ông ấy bảo chúa công: Thấy việc gì nên làm thì làm. Ngài là một vị chúa, phải hành động như một vị chúa. Ngài phải nhận thức được vị trí của mình. Rồi ông ấy nói đến vương đạo bá đạo gì đó, qủa tình thì tôi cũng không hiểu lắm.

Nghe Võ Tánh nói, Ngọc Du cắn môi. Nàng đã lờ mờ hiểu ra. So với việc làm khuất tất thu tài vật trong dân chúng, em trai nàng đã quyết định chính danh lấy thuế. Tháng chín lúa gạo ở Phiên Trấn cũng vừa đến lúc thu hoạch. Nhưng cũng có nghĩa họ phải đóng hai lần thuế trong một năm. Chưa kể số thiếc, đồng và gỗ trong danh sách thuế bắt phải nộp.

- Nàng có nghe họ kể về chuyện sáu năm trước? – Võ Tánh cắt ngang sự trầm ngâm của Ngọc Du. Chàng nhìn lên bờ, từ nơi thuyền đậu có thể thấy toàn cảnh bờ sông rực ánh đèn. – Thầy Võ nói, Gia Định còn gì để mà mất nữa? Họ sẽ hiểu thôi. Một vị chúa muốn đặt tồn vong của mình vào dân chúng thì phải biết tin họ đã.

Nàng chỉ nhìn chàng, không nói. Một lát, chàng thở ra.

- Hôm trước nàng bảo muốn cưới tôi, giờ đã đổi ý chưa?

- Người nên nghĩ lại là anh mới phải. Nếu cưới tôi, anh phải mang tiếng “Phò mã tốt áo”, càng ngày càng dấn sâu vào cái gia đình này. Tôi không phải công chúa nhà Lê đâu mà để chồng muốn làm gì cũng được.

Đến lượt chàng im lặng. Trăng bập bềnh trên đầu họ. Họ nghe tiếng sóng lẫn trong thanh âm từ trên bờ vọng lại.

- Tôi không phải kẻ nhiều tham vọng. Vả lại, tôi nghĩ tôi thích chúa công rồi. – Chàng cười.

Mắt nàng dõi vào chàng. Ánh trăng trong mắt nàng trở thành nỗi buồn xa xôi. Nàng lắc đầu.

- Đừng qúa gắn bó với ngài ấy. Những kẻ qúa gắn bó, qúa trung thành với ngài ấy không có kết cuộc tốt đâu. Có thể không phải vì chúa công, nhưng những kẻ qúa trung thành và giản đơn thì chẳng bao giờ có kết cuộc tốt cả.

- Nói đến kết cuộc qủa có hơi xa, phải không? Thân làm tướng đem tính mạng ra đầu súng mũi giáo, không nên toan tính qúa nhiều.

Anh lại nói bậy, nàng ngăn câu mắng trên đầu lưỡi. Anh ta tại sao ngay cả điều như thế cũng có thể nói thản nhiên đến vậy? Nhưng nàng lại thấy buồn thương đến nhói cả tim. Có lẽ vì đó là sự thật. Cái chết. Cái chết hiện diện với họ, cùng họ, ở khắp mọi nơi.

Dòng sông này mới năm nào còn ngập xác người, giờ đây chỉ còn ánh trăng soi trên mặt nước, trên những ngọn cỏ, cành cây. Họ lại tụ họp nơi đây, những con người đã phải bỏ chạy đến Châp Lạp, Vạn Tượng, Xiêm La… Mùi và hương cái chết thoang thoảng trong không khí, trong hơi thở, trong sự sống.

Hôm nay họ ở đây, nhưng còn những tháng ngày phía trước? Những tháng ngày rất dài phía trước?

Võ Tánh nhìn ra mặt sông, hơi nheo mắt trước ánh trăng lấp loáng rực rỡ phản chiếu trên các con sóng.

- “Giang lưu bán thị anh hùng huyết”, mới mười bảy tuổi mà cậu trai trẻ ấy viết ra những lời như vậy, không biết nên vui hay nên buồn đây? – Chàng chợt nói.

Đó là một lời nguyền, nàng nghĩ, rùng mình trước cơn gió thổi tới. Chàng quay về phía nàng. Ánh trăng tối lại trong mắt chàng một khoảnh khắc trước khi chàng cất tiếng.

- Để công việc thảnh thơi một chút rồi tôi sẽ nói với chúa công. Dù có được đồng ý hay không, tôi cũng sẽ cưới nàng.

Chú thích:

Ba bài thơ của Trịnh Hoài Đức:

Thu nhật khách trung tác

Đào Chu quen thói ngũ Hồ du,

Chiếu lạnh đêm nằm chẳng chở thu.

Chiêng trống dân Hồ mê đón nước,

Trút tiền chú Khách đón mua cau.

Cúc tùng hoang dại, trăng suông bóng,

Thuyền buộc lòng ai nhớ cá rau.

Trùng cửu hẹn rồi, lên dạo núi,

Hoa bay tản mạn, khiến ai sầu.

Thương loạn

Kinh sư nhoà lệ ngoảnh đầu trông,

Triều chợ, sinh linh cảnh hãi hùng.

Doanh Liễu mưa mau, sao tướng rụng,

Huyện Hoa xuân vắng, chiến câu giong.

No nê đàn quạ kêu mừng rỡ,

Vất vưởng ma trơi hú não nùng.

Pha máu anh hùng, sông một nửa,

Trời cao mờ mịt biết hay không?

Tống Ngô Nhữ Sơn chi Quảng Đông

Thù tạc vơi đầy chén tiễn đưa,

Bá Kiều ngâm chẳng trọn vần thơ.

Nhà nghèo, mẹ bệnh, tôi nhiều luỵ,

Nước loạn, quê lìa, bạn lánh xa.

Long Tịch xập xoè chim én liệng,

Hổ Môn thức ngủ ánh mây mơ.

Bao giờ mở hội thanh bình nhỉ?

Lệ nhỏ, ngàn xưa não tiếng tơ.

Lễ Thành hầu: Nguyễn Hữu Cảnh.

Bài thơ đề trên vách miếu Nguyễn Hữu Cảnh:

Cỏ bạc màu ủ ê giữa đám bụi nơi biên tái cũ,

Nơi thành hoang chỉ thấy hoa dại nở.

Trời đem sự nghiệp về cho đời trước,

Đất lấy núi sông phó thác cho người đời sau.

Gió mưa chưa làm cho xương người chinh chiến thành tro,

Con cháu chịu gởi thân mãi cảnh ly loạn.

Đời người nhỏ một giọt lệ tầm thường,

Không khóc vì bậc trung thần mà khóc vì kẻ trị yên nước.

Võ vương hữu loạn thần thập nhân: Võ vương có mười người giúp trị yên loạn.

18

– Đám học trò của tôi muốn theo chúa công.

Họ vừa ngồi xuống, Võ Trường Toản đã nói. Chúa Nguyễn hơi nhướng mày, rồi mỉm cười.

- Phải chăng có cậu Trịnh Hoài Đức đã gây xôn xao ở bến sông hôm trước? Nghe chuyện ấy, ta thật ngưỡng mộ.

Võ Trường Toản chỉ nhìn vị chúa. Rồi ông cũng cười.

- Nếu chúa công có lòng thu nhận thì ta không thể nào ngăn cản. Chúng nó đã lớn cả rồi, con đường là do chúng tự quyết định, chỉ mong chúa công có thể hướng chúng đến những việc có ích cho dân cho nước. “Quân, sư, phụ”, ta đã không giữ được chúng, giờ chỉ có thể nhờ cậy ở chúa công.

- Được học trò của Gia Định xử sỹ phù trợ là phúc phận của tôi, việc nước việc nhà được họ đỡ đần coi sóc thì ta nhẹ gánh lo đi tám chín phần. Người tài ra giúp nước là vận nước đến ngày hưng thịnh, lòng tôi biết ơn khôn xiết mới phải.

Họ nhìn chú bé tiểu đồng rót trà ra ly. Ngoài trời, nắng chuyển màu hanh nhạt. Tiếng ve đã ngớt dần sau những ngày hè dài. Mùa mưa đã sắp qua. Lúa ngoài đồng đã chuyển màu vàng ươm nắng. Rặng tre đầu ngõ rào rào khi gió thổi.

Sau khi truyền lập sở Công đồng làm nơi cho văn võ hội nghị, vị chúa một lần nữa vội vã đến trường học của người xử sỹ họ Võ. Cũng có thể vì Lê Văn Quân đã trở về báo cáo tình hình quân Phạm Văn Sâm ở Ba Thắc. Trên đường đi, vị chúa đã trầm ngâm suy nghĩ ra chiều tư lự.

- Chúa công đến đây hẳn lại có điều muốn luận bàn? – Nhận biết thái độ của vị chúa trẻ trước mặt, Võ Trường Toản hỏi. Chúa Nguyễn nhìn ông, gật đầu nhẹ.

- Ta vừa được báo rằng Thái bảo Tây Sơn đến trốn ở Trà Vinh, dựa vào đám quân người Cao Miên lẩn lút ở đó. Người Phiên sống nơi rừng rậm, bất xuất khó phòng, lại không thể kiểm soát. Họ sáng đầu tối đánh, lại được Tây Sơn buông lỏng trong những năm qua, có cảm tình với chúng. Chân Lạp rối loạn liên miên, nếu chẳng may người Phiên trong nước họp cùng Chân Lạp mà chống ta thì không thể nào yên ổn. Năm nào Nguyễn Hữu Thụy cùng cả bộ đoàn bị người Chân Lạp giết chết không sót một người, nghĩ lại vẫn vừa đau lòng vừa e ngại. Giờ đây có thể cho người đến chiêu hàng bọn họ, nhưng họ phản phúc bất thường, lại e bọn họ ở sâu trong nước, phá từ trong phá ra, không thể nào đề phòng được.

- Chúa công chỉ có dạ phòng người mà không nghĩ đến cách để họ toàn tâm toàn ý theo mình sao? Cứ giữ vững lòng mình mà giữ nước, chúa công đã quên rồi sao? Phải làm sao để họ muốn ở bên chúa công, lúc ấy thì không ai có thể quyến dụ họ nữa.

- Ta tuổi trẻ nóng nảy, vốn cần được chỉ dạy nhiều. Chân Lạp vốn có hiềm với ta từ trước, thù oán miên miên khó có thể một sớm một chiều bỏ qua. Người Phiên ở Gia Định ta vốn là dân cũ, lại mang oán khí thời trước để lại với triều đình. Ta trước nhờ có Huỳnh Đức thân cận với họ mà kêu gọi, nhưng Huỳnh Đức sau trốn tránh Nguyễn Văn Duệ đi đâu không rõ.

- Chúa công chỉ nghĩ đến việc dùng người mà không nghĩ đến chuyện cho họ gì ư? Sự tự do của Tây Sơn để lại cho họ tuy ít ỏi, nhưng cũng là có. Còn chúa công, ngài có gì để cho họ?

Nếp nhăn giữa hai lông mày chúa Nguyễn càng sâu thêm. Võ Trường Toản đặt ly trà xuống, quay lại bảo với tiểu đồng vẫn khoanh tay đứng cạnh:

- Con đi gọi Trịnh Hoài Đức vào đây.

Chú bé hấp tấp chạy đi, một lúc sau đã đưa vào Trịnh Hoài Đức. Có vẻ như quần áo hôm Trung thu là bộ tươm tất nhất của cậu ta. Hôm nay cậu ta mặc bộ áo nâu đã hơi bạc, vết vá rất khéo trên vai vẫn có thể nhận thấy trong nắng. Thấy chúa Nguyễn và Võ Tánh, Trịnh Hoài Đức thoáng lộ vẻ ngạc nhiên trước khi vội vã cúi chào. Võ Trường Toản ra dấu cho chàng trai lại gần, bảo:

- Chúa công đang có ưu tư về vấn đề người Phiên và Chân Lạp, con có thể đọc cho chúng ta nghe lai lịch xung đột của ta và họ?

Trịnh Hoài Đức chớp mắt. Rồi chàng trai hắng giọng, nói trôi chảy như thể đọc một văn bản trước mặt:

- Chân Lạp thời cổ khai nguyên gồm Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Lục Chân Lạp nằm trong rừng rậm núi sâu, Thủy Chân Lạp nhìn ra biển lớn. Gia Định vốn là đất của Thủy Chân Lạp thưở trước, là phiên thuộc của chúa Nguyễn tên gọi Nam Phiên. Hơn một trăm năm trước, vua Nam Phiên xâm phạm bờ cõi ta ở Trấn Biên hiện tại, chúa Hiền đem quân trừng trị, giải vua Miên về Quảng Bình rồi tha cho. Địa đầu Gia Định là Đồng Nai và Bà Rịa được nhường lại cho người Việt đến sinh sống, người Phiên rút về phía Nam.

Hai mươi năm sau đó, nước Cao Miên có loạn, vua Nặc Non bị thần tử đuổi sang nhờ cậy chúa Nguyễn. Chúa lại sai quân đến ổn định, hạ được ba lũy là Sài Côn, Gò Vách, Nam Vang, tên nghịch tặc thua chạy rồi chết. Vốn ngôi vương của Chân Lạp chia thành ba cấp: Chính vương, Nhị vương và Tam vương. Chúa ta liền để Nặc Non làm Phó vương, đóng đô tại Sài Côn, triều cống như xưa.

Vài năm sau, quan Tổng binh thủy lục Long Môn tại Quảng Đông là Dương Ngạn Địch cùng phó tướng Hoàng Tấn, quan Tổng binh trấn thủ trấn Cao Lôi Liêm là Trần Thắng Tài cùng phó tướng Trần An Bình dẫn ba ngàn quân cùng thuộc hạ sang ta lánh nạn giặc Thanh. Chúa Hiền liền cho họ đến Gia Định khai hoang lập nghiệp. Họ Dương theo thuyền đến trú tại Mỹ Tho. Họ Trần qua cửa Cần Giờ đến Đồng Nai. Họ lo mở mang đất đai, lập chợ lập phố, thu hút người Đường, người Nhật, Tây dương đến buôn bán sầm uất nhộn nhịp.

Hoàng Tấn sinh lòng kiêu mạn, giết chết Dương Ngạn Địch rồi chiếm Rạch Năn đúc vũ khí, đóng thuyền cướp bóc. Vua Cao Miên phải đắp lũy, chăng dây thép phòng thủ. Việc báo lên, quân Nguyễn triều lại đi đánh dẹp, ý chúa đã tính đến việc mở mang bờ cõi. Quân triều giả đánh Nam Vang, cho Tấn làm tiên phong rồi giết Tấn. Thuận đường, quân chúa đánh Chân Lạp, phá ba lũy Nam Vang, Cầu Nôm, Gò Vách. Mùa xuân năm sau, vua Cao Miên bị bắt về Sài Côn. Cả Chính vương và Phó vương Cao Miên đều mất, dòng đích không còn ai liền lập con Nặc Non làm vua, đóng ở thành Gò Vách.

Lại tám năm sau, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Minh cử đến kinh lược. Lễ Thành hầu liền lấy đất Nông Nại lập thành phủ Gia Định, đất Đồng Nai lập huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Ngài định quân đội lo cai trị, ngoài tinh binh còn thuộc binh để bảo vệ. Ngàn dặm đất đai, dân bốn vạn hộ, chiêu mộ dân từ Bố Chính đến lập nghiệp, định luật thuế để ổn định. Người Đường ở Phiên Trấn thì lập xã Minh Hương, ở Trấn Biên thì lập xã Thanh Hà, cho vào hộ tịch.

Mười năm sau nữa, Mạc Cửu ở Hà Tiên xin thần phục. Chúa sai người chia đất ở Gia Định liền với Hà Tiên lập thành châu Định Viễn và dinh Long Hồ.

Gần năm mươi năm sau, Nguyễn triều thu phục gần hết miền Nam Hà sau khi hạ sóc Soài Lạp thuộc trấn Định Tường đến Nam Vang, Cầu Đôn, Tầm Đôn. Cao Miên rút về La Vách. Chúa cho người Chiêm ở trấn Thuận Thành đến Gò Bắp lập nghiệp, họ bị Cao Miên tấn công. Chiến tranh ngày càng lớn, quân triều tiến sâu vào đất Cao Miên, vua Miên phải chạy sang Hà Tiên lánh nạn, nhờ Mạc Thiên Tứ xin cho. Vua Miên hiến hai phủ Tầm Đôn, Soài Lạp, ta đem đất ấy sáp nhập vào châu Định Viễn.

Ba mươi năm trước, chúa ta nhân giải cứu cho vua Cao Miên bị cướp ngôi mà bắt họ nộp thêm Ba Thắc, Trà Vinh, Tầm Phong Long. Lại lấy xứ Sa Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng ở Tiền Giang đặt làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc ở Hậu Giang làm đạo Châu Đốc. Mạc Thiên Tứ có ơn với vua Miên nên được tặng năm xứ Vũng Thơm, Cần Bột, Chân Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh. Mạc Thiên Tứ đặt xứ Rạch Giá làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên.

Cũng trong năm ấy, Nặc Ong Ton làm vua Miên, Nặc Ong Non chạy sang Xiêm La. Từ đó, Xiêm La thường xuyên tấn công cướp phá Chân Lạp lấy đường tấn công Vạn Tượng. Chân Lạp càng lúc càng yếu, dân chúng xiêu tán, đói khổ.

- Việc Chân Lạp giờ đây càng phức tạp hơn khi có Xiêm La nhúng tay vào. – Võ Trường Toản nói sau khi Trịnh Hoài Đức đã im lặng một lúc. – Chân Lạp mất nước vì đâu? Hàng trăm năm, khởi đầu từ một trận thua ngoài biên ải rồi cứ thế trượt dài. Trong nước vua không ra vua, tôi không ra tôi, phân quyền tam vương để rồi đua nhau giành giật, đánh giết nhau dẫn đến nhà tan cửa nát. Vua nhỏ đánh vua lớn, con giết cha, em giết anh, tôi giết chủ, thần giết vua, tất cả vì sự phân rã trong chính lòng mình mà dẫn đến bại vong không thể nào gượng dậy, lẽ đời bao giờ cũng thế. Mới ba mươi năm trước Ba Thắc, Trà Vinh về với chúng ta, dân họ hẳn vẫn chưa quên nước cũ. Chúa công, người có ba lựa chọn: Hoặc là giết tất cả bọn họ, hoặc là đánh đuổi tất cả bọn họ về với Chân Lạp, hoặc là lưu giữ bọn họ trong quốc gia của ngài. Nếu chọn cách thứ ba, ngài không thể chỉ nghĩ đến chuyện lưu dùng bọn họ cho ngài sử dụng, mà phải coi họ như thần dân thật sự. Ngài không thể đối xử với Chân Lạp như một phiên thuộc cho ngài tùy nghi phán quyết, mà phải thành tâm đãi ngộ họ.

Nếu chọn cách thứ ba, cũng nghĩa là ngài phải vứt bỏ đi ý nghĩ bá vương của mình. Trong hàng trăm năm, chúng ta đã lấn dần Chân Lạp, dùng cả phương cách chính trị lẫn vũ lực để ép họ dồn về phía Tây. Nếu ngài còn tham vọng, còn muốn mở mang đất đai thêm nữa, lòng oán sẽ chất càng nhiều, mà người trong quốc gia của ngài cũng không bao giờ yên ổn. Sự đời khó nói rõ đúng sai, nhất là với chúng ta mang phận con cháu của người mở đất. Ngay cả sự oán hận này cũng là gia sản mà chúng ta phải mang. Ngài dùng vũ lực thống trị Chân Lạp, để rồi khi Tây Sơn đến, họ đuổi giết ngài ngay khi có dịp mà người Miên trong nước quay lưng lại với ngài. Xóa bỏ oán thù không phải chỉ nói lời là được mà là việc của trăm năm. Những gì ngài đang phải gánh chịu hiện tại là do đời trước để lại, ngài hẳn không muốn con cháu mình tiếp tục lao tâm như thế. Xiêm La ngày càng tỏ rõ nhiều tham vọng, việc Chân Lạp không thể yên, xâm lấn Chân Lạp cũng là thách thức Xiêm La. Khi trước Tây Sơn đánh cướp Nam Vang mà Xiêm vương cử người đến đưa ngài về Vọng Các, đem quân đến tiếng là giúp ngài nhưng thật lòng là chỉ vì xung đột ở Chân Lạp. Muốn giữ yên đất nước thì phải giữ vững biên ải phía Tây đã.

Vương không cần lớn, những lời ấy mong ngài hiểu.

Chúa Nguyễn nghe rồi kính cẩn cúi đầu. Khi họ cáo từ Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Đức được cử đi tiễn. Ra đến cửa, chúa Nguyễn quay lại nhìn cậu thanh niên trẻ, mỉm cười.

- Ta ở Gia Định đã lâu nhưng chưa từng được nghe một ai kể về lịch sử vùng đất này rành rọt như thế. Sở học này cậu nghiên cứu ở đâu?

- Đó là công của thầy chỉ dạy. – Trịnh Hoài Đức hơi đỏ mặt, nhưng mắt cậu ta rực sáng. – Người đời học sử để biết chuyện xưa mà suy ngẫm cho hiện tại, rút ra bài học mà điều chỉnh bản thân, nhận ra lẽ thịnh suy thành bại mà biết cách phòng ngừa. Nhưng sử học đời trước chỉ chuyên chú vào việc ghi chép cung đình, việc xung quanh vua chúa mà ít để tâm đến việc trong thiên hạ. Tuy việc của vua chúa cũng là chuyện lớn của thiên hạ, nhưng đất đai phong tục ngày càng biến đổi, không có ghi chép thì thật là thiếu sót, mà đời sau chẳng biết đâu làm bằng. Những chuyện của dân gian lại chỉ được dân gian lưu trữ qua các câu truyện thần tiên huyền hoặc, thêm nhiều chi tiết hoang đường, khó có thể tin cậy. Người không biết tổ tiên thì như cây mất gốc, đất không có lịch sử thì như quán trọ không phải nhà. Trong thời ly loạn, thần cũng có cơ duyên đến ngụ tại Chân Lạp, nhân đó mà học hỏi được nhiều. Lại có thói quen ghi chép mọi chuyện để ngẫm nghĩ, không ngờ có ngày được hỏi tới.

- Hay cho câu “Học cho biết lẽ đúng sai thành bại”, nói như vậy thì cậu còn biết lý do đi học hơn cả bọn chứa thiên kinh vạn quyển trong đầu. – Chúa Nguyễn mỉm cười. – Khác biệt giữa bọn hủ nho và chân tài thực học chẳng qua cũng chỉ là như thế. Hiện nay triều đình vừa lập, còn nhiều thiếu thốn, nếu được các cậu giúp cho thì còn gì bằng. Cậu nghĩ thế nào?

Trịnh Hoài Đức im lặng một lúc, rồi nhìn ra khoảng sân sau rặng tre dẫn ra con đường nhỏ.

- Chúa công có lòng thu dụng không nề hà đến xuất thân khoa cử, thật ngạc nhiên khôn xiết. Hạ thần chỉ là một bạch đinh nghèo hèn, tuổi còn nhỏ, bài học còn chưa ráo mực, sao dám chen lấn cửa quan?

-  Ta trước nay chỉ nhìn người chứ không nhìn nhà. Thi cử chẳng qua là cái lệ để khuyến khích người đi học, để cho kẻ có tài nơi thi thố tuyển nhân tài cho đất nước. Thi cử nếu không làm được như vậy thì cũng chẳng để làm gì, mà kẻ thi đậu cũng là hạng vô dụng. Nhân tài trước mắt mà không lưu dụng lại viện đến cớ khoa cử thì thật là cố chấp phù phiếm. Các cậu là Tam gia của Gia Định, được cả Gia Định công nhận, có cuộc thi nào công minh thẳng thắn được như thế? Xe ta đang trống phía tả, cần người bổ khuyết. Chỉ cần kẻ có tài muốn đến, ta sẽ quay mặt về phía Đông đón rước.

Cậu cứ suy nghĩ, muốn đến lúc nào ta cũng hoan nghênh. Chúa Nguyễn nói trước khi quay bước. Khi họ đã đi được một quãng xa, Trịnh Hoài Đức vẫn còn nhìn theo.

- Chúa công thật lòng định thu nhận bọn họ? – Võ Tánh hỏi thăm dò. Trịnh Hoài Đức nói đúng, dù sao bọn họ vẫn là những thanh niên còn rất trẻ, chúa Nguyễn dùng họ vào việc gì, như thế nào?

- Bọn họ là nhân sĩ Gia Định, chắc chắn hiểu Gia Định cần gì. – Chúa Nguyễn trả lời, vẫn dõi về con đường phía trước. - Sức trẻ ấy, nhiệt huyết nọ là điều cần hơn hết. Quan ta kẻ cai quản được việc cũng nhiều, nhưng từ lâu đã quen thói cũ kỹ già cỗi trong triều, việc gì cũng câu nệ, nể nang, lại bị ràng buộc bởi muôn vàn mối quan hệ khác. Người Gia Định ở xa nơi phồn hoa, việc học không nghiêng về hàn lâm bề ngoài mà thực dụng thực tế, vừa học vừa hành. Ta có rất nhiều dự định để thay đổi, bọn họ có thể giúp được ta.

- Thay đổi? – Võ Tánh hỏi khi họ đã xuống thuyền. Chúa Nguyễn phác tay cho người chèo thuyền ra hiệu đi. Hôm nay Nguyễn Văn Hiếu có việc không thể đi cùng họ. Chúa Nguyễn ngồi xuống trong khoang thuyền, ngả lưng ra sau, nheo mắt nhìn trời.

- Nhưng phải đợi ta đi Ba Thắc về đã. À, ba mươi năm, Trà Vinh mới chỉ về với ta ba mươi năm, vậy đấy. Vậy ra khi ta đến Gia Định này, chiến tranh mới chỉ vừa chấm dứt. Vùng đất này chưa bao giờ bình yên, phải không?

- Chưa bao giờ. – Võ Tánh nói, nhìn ra dòng sông lấp lánh nắng bạc. – Khi còn nhỏ ở Trấn Biên, thần vẫn nhìn thấy các đoàn quân di chuyển đến Chân Lạp. Trước khi Tây Sơn đến là trận đánh lớn ở Long Hồ, Hà Tiên. Rồi các nhóm trong vùng tụ họp, mỗi người chiếm giữ một phương, lập thành bang hội. Lần rối loạn tiền kẽm năm nọ, giá gạo ở Gia Định tăng vọt, có người phải đói.

- Ta giết người và người giết ta. Người rối loạn suy yếu, ta giết người, chiếm đất người. Đến lượt ta rối loạn suy yếu, người giết ta. Cứ xoay vòng như vậy, ta gọi đó là lẽ đời, phải không?

Vẫn là sự bình thản dửng dưng. Câu hỏi bình thản dửng dưng buông vào bầu trời. Ngài ta vốn chẳng cần sự trả lời, chàng nghĩ. Ngài ta đã đi qua mọi nơi, chứng kiến bao cuộc thịnh suy thành bại, làm nên bao cuộc thịnh suy thành bại. Miền đất của họ, miền đất mà họ Nguyễn đã khai phá, là nơi đã chôn vùi lịch sử của bao tộc người khác. Chiêm Thành, Cao Miên, hai đất nước đã bị dẫm đạp, hủy hoại. Ngay cả sự oán hận này cũng là gia sản mà chúng ta phải mang. Chúng ta, vị chúa và chúng ta. Bị đuổi giết, bị hủy hoại, bị căm hận bởi những gì mình không hề làm, không hề biết. Rồi đến lượt mình để tồn tại phải hủy hoại kẻ khác.

Lẽ đời, ngài ta nói, không muộn phiền, không bi lụy. Chỉ là một câu hỏi buông vào bầu trời.

Những gì mà vị chúa nói với chàng lần đầu tiên bên bờ sông Long Hồ ấy, là dành cho ngài ta, cho họ. Và chàng đã cảm thấy trong lòng ngài ta là một cõi trống rỗng như bầu trời. Bầu trời trên mặt biển. Chứng kiến qúa nhiều và cũng chỉ xanh trong lặng im, chẳng bao giờ chạm đến được con sóng trên mặt nước.

Không phải đâu, chúa công rất yêu qúy người trong gia đình. Ngọc Du đã nói với chàng đêm Trung thu ấy. Ngọc Tuyền bị bắt, chúa công đưa thuyền từ Ma Ly quay về, suýt nữa cũng bị bắt được. Cô cô Ngọc Đảo bị giết, ngài tức giận đích thân đến Hà Tiên chinh phạt đám phản quân. Cả cận thần Doãn Triều theo ngài sang Xiêm, giữa đường bệnh mất, ngài cũng cởi áo đắp cho ông ta mà khóc.

Nhưng không thể làm gì, phải không? Chàng hỏi. Chàng nghĩ tới câu hỏi ấy lúc này, khi nhìn đôi mắt ngập trong nắng của vị chúa trước mặt. Hẳn ngài ta lại nghĩ đến kế hoạch bình định người Cao Miên hay sắp xếp trong triều. Chẳng còn gì có thể chạm tới ngài ta được nữa, ngay cả nỗi đau hay phiền muộn.

Một lần nữa, chàng lại đắn đo với câu hỏi chực chờ bật lên trong cổ họng. Chàng sẽ nói gì đây? Chúa công, thần muốn cưới chị gái ngài – như thế? Ồ không, họ đang ở trên thuyền, và vị chúa có thể cho chàng một kiếm rồi ném xuống sông cho cá sấu. Hay là – Chúa công, xin ngài gả Hồ Dương công nương cho thần? Vẫn qúa đường đột. Có lẽ chàng nên chọn một món lễ vật nào đó đến hỏi cưới đàng hoàng. Nhưng như vậy thì qúa ầm ĩ, nhất là khi khả năng vị chúa đồng ý ngay rất nhỏ, ngài ta sẽ cảm thấy bị chàng ép buộc. Hoặc là chọn một người mai mối đến ngỏ ý với vị chúa, nhưng ai là người thích hợp? Ngọc Du không thể mở miệng nhờ vả người trong triều, dù sao nàng cũng là nữ nhi. Còn chàng chưa đủ thân thiết với họ.

- Võ tướng quân có gia đình chưa? – Chúa Nguyễn chợt lên tiếng. Võ Tánh khẽ giật mình. Như thể ngài ta đọc được suy nghĩ trong đầu người đối diện.

- Thời loạn rối ren này, thần chưa có thời gian nghĩ đến việc ấy. – Chàng thận trọng trả lời. – Từ Trấn Biên, thần đến Ba Giồng rồi gò Tre. Thấm thoắt đã sáu bảy năm trôi qua, thật là nhanh.

- Hay là tướng quân vẫn còn đang đợi người tâm đầu ý hợp? – Vị chúa cười. – Thời thế càng loạn, càng nên lấy vợ có con sớm để có người kế thừa dòng tộc, kẻo không ai biết ngày sau thế nào.

- Phải, vì không ai biết ngày sau thế nào nên không nên câu nệ bỏ lỡ. – Chàng nhìn vị chúa. Vị chúa nhướng mày trước câu nói của chàng. Nhưng ngài ta cũng bỏ qua, lại nhìn ra sông. Hai bên sông dày cỏ bời bời.

- Con ta sắp trở về. – Chúa Nguyễn nói, không nhìn chàng. – Đã bốn năm bặt tin, vừa rồi ta mới biết nó đã đến Phú Lang Sa an toàn, sắp trở về cùng Bá Đa Lộc. Ta đang định đến đón gia đình về.

Võ Tánh vẫn không lên tiếng. Vị chúa đột nhiên nói chuyện này với chàng không phải để chàng lên tiếng. Gia đình. Cái gia đình chỉ còn toàn góa phụ mà Ngọc Du từng nói tới. Bất an đã lao xao trong bóng tối đêm ấy, sóng sánh trong hơi rượu. Và từ một kẻ đối địch, nàng đã làm chàng cảm động. Cảm thương, có lẽ. Không chỉ cho nàng.

- Còn sống là tốt rồi. – Chàng nói. Vị chúa đưa mắt nhìn chàng, bóng của nụ cười thoáng trên môi.

- Phải, còn sống là tốt rồi. – Ngài ta lặp lại. Tay vị chúa đưa xuống mạn thuyền, đầu ngón chạm nhẹ vào mặt nước. Cánh bèo cám trôi lẩn qua ngón tay.

Họ đã im lặng suốt trên đoạn đường ngắn ngủi còn lại. Ngay khi vừa trở về, chúa Nguyễn đã vội vã đi chuẩn bị cho đợt tấn công Ba Thắc. Chàng không có lệnh điều động, ở lại giữ Sài Côn. Chuyến này chủ yếu đến thăm dò Ba Thắc và người Cao Miên, dinh Tiên phong không có việc, vị chúa nói. Trái với sự nôn nóng của chàng, vị chúa có vẻ thận trọng. Vì vùng đất mà Sâm đến ẩn náu là của người Cao Miên, có lẽ. Lần này, vị chúa lại thân chinh đến, đem theo bên mình vị tướng người Miên Nguyễn Văn Tồn. Đến hỏi ý của Võ Trường Toản, dường như chúa Nguyễn đã quyết thu phục đám người Miên chống đối – mà vũ lực là kế sách cuối cùng.

Mọi việc đành để lại sau, chàng nghĩ. Nhưng Ngọc Du không nghĩ như chàng.

- Ngài ấy nói sắp đưa gia đình về? – Nàng hỏi. Trong mắt nàng là điều gì gần như sợ hãi. Chàng chỉ gật đầu nhìn nàng cắn môi. Họ lại đang ở phòng nàng, bên xe rượu đã gần hết. Nàng cúi xuống bình rượu đang uống dở, mái tóc xõa xuống một bên mắt. Bên ngoài, cơn mưa cuối mùa lại ầm ào. Cứ tối đến là mưa đổ xuống, lặp đi lặp lại suốt trong mấy ngày.

- Cũng tốt. Đúng ra thì chừng nào mẹ nàng về mới có thể tổ chức lễ được. Hay nàng gợi ý mấy chị em nói với chúa công đi.

Ngọc Du không trả lời chàng. Một lúc, nàng lại thì thầm.

- Hay là chúng ta… thôi vậy.

Chàng nhìn ngón tay nàng miết trên mép miệng bình, xoay thành những vòng tròn.

- Nàng xem chúng ta là trẻ con đấy à? – Chàng hỏi. Không phải đã không thấy giận.

- Mẹ… không đồng ý đâu. – Nàng nói, khó khăn. Nàng vẫn không ngẩng lên. – Lúc vợ chồng Tuyền mất, rồi chồng chị Tú mất, mẹ đã nói là không gả tôi cho tướng lãnh trong quân nữa.

- Nàng cũng biết tự quyết lấy chứ. – Tuy hiểu ý nàng, chàng vẫn muốn cố chấp. Quay sang chàng, mắt Ngọc Du đã có ánh giận.

- Tự quyết, rồi thì sao? Anh có hứa được là anh sẽ không có chuyện gì ngoài trận? Anh có hứa được là anh sẽ luôn ở bên tôi? Anh có hứa được là sẽ chăm sóc tôi? Không. Tôi biết cuộc sống của tướng lãnh các anh. Các anh không bao giờ có nhà. Các anh đi liên tục. Chỉ cần có lệnh là các anh biến mất. Bốn năm lấy Lê Phúc Điển mà Ngọc Tú không có được người con nào vì thế đấy! Thế vẫn còn tốt, ít ra các anh vẫn còn trở về. Lấy lính là chỉ có đợi, đợi và đợi mà không biết người ấy có trở về hay không. Mẹ tôi đã khóc hết nước mắt rồi, bà làm sao chịu được nữa?

- Vậy thì nàng cứ tìm một văn thần nào đó mà lấy. Bọn họ cũng đầy trong quân đấy. Bọn họ đủ tiêu chuẩn của nàng. Nàng cần gì quan tâm, nàng lấy ai chả được cơ mà!

Chàng giễu cợt. Giọng chàng cay đắng. Tuy rằng không phải chàng không hiểu, nhưng chàng không muốn thừa nhận. Chàng cũng muốn có một người sẽ đợi mình trở về, sẽ đón chàng trở lại. Nhưng đó có phải qúa ích kỷ? Chàng đi đánh trận vì ai, vì điều gì?

Anh có hứa được không? Không. Biết cái tương lai ấy mà chàng vẫn kéo nàng vào, liệu có phải là ích kỷ? Nàng đã chịu qúa nhiều rồi, cả cái gia đình của nàng. Chàng có hứa được gì cho họ? Không điều gì.

Chàng cũng cần một người vợ, một gia đình. Nhưng chàng có thể kéo nàng vào cuộc sống bất trắc ấy? Chàng có thể như vị chúa – biến mất và để đứa con đi lênh đênh trên biển suốt bốn, năm năm ròng? Cái cuối cùng mà họ còn lại chỉ còn là nỗi buồn đau.

Thế thì thôi vậy, câu nói chực chờ trên đầu lưỡi, trong tâm trí chàng mà vẫn không thể thốt ra. Cho đến tận bây giờ, mọi việc dường như vẫn qúa không thực đối với chàng. Họ nói về hôn nhân như thể bàn tính một cuộc rượu mà chưa hề nói đến tương lai của nó. Tương lai. Khi chạm đến nó là mọi điều đều vỡ vụn.

Ngọc Du mím môi im lặng. Thật là khờ khạo, nàng nghĩ. Nàng muốn chạy trốn qúa khứ thì lại phải đối mặt với hiện tại. Chỉ khi nhắc đến mẹ, nàng mới chợt nghĩ ra. Con không được lấy tướng lãnh, bà nói trong nước mắt cái ngày ấy. Cái ngày mà ở hòn Đá Chồng, Phúc Thiểm, Phúc Cốc chết, Lê Phúc Điển cởi áo đổi cho vị chúa để rồi bị giết. Dù là bần nông cũng được, học trò nghèo cũng chẳng sao, nhưng không được lấy quân lấy tướng. Lúc ấy, nàng đã không để tâm, nàng còn qúa bận tâm suy nghĩ phải làm gì trước mắt. Mọi chuyện đã xảy ra qúa nhanh trong cái ngày ấy. Từ Phú Quốc, quân Tây Sơn đã truy đuổi vị chúa ra hòn Đá Chồng, rồi đảo Cổ Long – mà chỉ một may mắn trời ban khi cơn bão nổi lên quét sạch cả toán quân Tây Sơn mới giúp cho chúa Nguyễn sống sót. Mải lo lắng cho sự an toàn của người em trai, nàng đã hầu như không hề để ý đến lời mẹ nói. Nàng đã quên, để rồi hành động khờ dại như thế.

Nàng nghe cơn mưa bên ngoài rả rích. Rả rích. Như không bao giờ kết thúc.

Những ngày mưa xứ Phú Xuân kéo dài quanh tháng, quanh mùa. Mùa thu đến cùng với nước nổi lênh láng trắng đồng. Nàng đã nằm nghe những giọt mưa, những cơn gió thổi qua muôn vàn chiếc lá đang rơi rụng, héo tàn, trên những ngọn núi, dòng sông. Trong cái lạnh cắt da, nàng đã mơ về một hơi ấm. Đã mơ. Những ngày thiếu nữ xa xôi như chưa từng hiện diện.

Những đêm trăng vằng vặc trên đảo Phú Quốc. Trăng Phú Quốc sáng rực đến dị kỳ, như thể ánh nắng vào ban đêm. Dưới ánh trăng, bên bình rượu, nàng đã nghe tiếng sóng đập mãi vào vách đá, ầm ào mãi trên mặt nước, từ bốn phía xung quanh dội tới. Trong những cơn gió vi vút bốn mùa không đổi, nàng đã mơ đến một cuộc trốn chạy. Đã mơ. Thanh xuân của nàng đã trôi qua như chìm sâu vào lòng biển, như chết đọng trong ánh trăng chói chang sáng rực.

Thì thôi vậy, nàng đã nghĩ. Tìm một người khác, có khó gì. Chỉ cần lệnh của chúa công ban xuống là êm đẹp. Nàng có còn là cô thiếu nữ lãng mạn đâu mà mơ tưởng đến hình ảnh oai hùng của người lính chiến, vị tướng trên chiến trận. Nàng biết sau đó chỉ là nước mắt, đợi chờ và nỗi đau. Đó là tất cả những gì họ gây ra cho người khác, ngay cả với những người họ thương yêu nhất. Đó là tất cả. Chẳng còn gì.

Ngay cả người thanh niên bên cạnh. Người có nụ cười bừng sáng và giản đơn. Như người anh mình, giản đơn lao vào trận chiến mà không ngoảnh đầu nhìn lại.

Nàng có thể chịu đựng, nhưng còn mẹ nàng? Bà chỉ còn một mình nàng, trong cả bốn người con đã sinh ra.

Con người thực sự có khả năng chịu đựng được bao nhiêu?

Thôi vậy, nàng muốn nói như nàng đã nói. Nhưng những lời cay đắng của người thanh niên bên cạnh đã làm nàng im lặng. Môi nàng run. Chỉ khi giọt nước rơi xuống bàn tay, nàng mới nhận ra mình đã khóc.

- Tôi không cần anh hùng. – Nàng nói, nghe mưa đập vào trong tai từng hồi như trống trận. Trống trận. Những lượt người lên, lên mãi, gục ngã, lớp sau đè lên lớp trước. Nàng đã chứng kiến. Nàng đã nhìn thấy. Nàng đã tham dự. Và rồi nàng sợ mình phải trả giá cho điều đó. Nàng sợ. Bao giờ nàng cũng sợ.

Nỗi sợ đã đẩy nàng đi, khiến nàng trở nên khờ dại. Tổn thương mình, tổn thương người khác. Nàng định chạy trốn, cuối cùng lại đẩy mình vào đường cùng. Nàng tính toán, cuối cùng lại trở thành đổ vỡ. Thôi vậy, nàng muốn nói, muốn gào lên, nhưng cuối cùng lại thấy không đành lòng.

Không đành lòng. Cái ý nghĩ nhỏ nhoi sẽ có người yêu thương mình cũng đã khiến nàng yên ổn trong một thời gian ngắn. Nàng tưởng đã thấy một bến bờ, trước khi nó biến thành ảo vọng. Vậy mà vẫn cố nắm lấy nó, khờ dại chăng?

Khờ dại chăng, khi vẫn muốn nắm lấy tay người thanh niên này, vẫn để chàng ta ôm vào lòng. Chàng ta luôn nhượng bộ khi nàng khóc, luôn dỗ dành khi nàng khóc. Cả khi nàng đã làm chàng thất vọng đến thế, tổn thương đến thế. Bình rượu lăn trên đất, tràn trên đất chất nước trong mờ. Chớp giật ngoài song cửa, làm rung lên tấm vách ngăn và mặt đất. Thế giới hỗn loạn và u buồn. Sự sống còn phi lý hơn cả cái chết.

Nếu nàng từ chối thẳng, có lẽ chàng còn cảm thấy bớt đau lòng hơn. Nhưng nàng chỉ rơi nước mắt. Nói rằng chàng không thể làm được gì cho nàng. Không thể. Bất cứ điều gì. Không có bất cứ điều gì.

Chàng hứa được gì với nàng?

Thôi vậy, lời nói nghẹn trong lồng ngực chàng. Buông tay và để nàng đi tìm những gì nàng cần, như chàng đã từng buông tay thưở trước. Thật ra, mọi điều đều không qúa khó khăn như người ta tưởng. Thật vậy.

Chỉ là chàng không đành lòng khi nhìn nàng khóc. Người con gái mang đầy những bất an. Sự sống còn đau đớn hơn cái chết.

Vai nàng run trong tay chàng. Chàng cúi xuống, để môi mình trượt trên trán nàng, sống mũi, đôi môi. Cố gắng xoa dịu nàng. Cố gắng để chứng minh sự có mặt của mình. Sự có mặt của chàng trong cuộc đời nàng. Có khi điều ấy cũng chẳng hơn cơn mưa đi qua mặt đất.

Cái suy nghĩ đó, cái phần tuyệt vọng và bất lực đó, làm tai chàng ù đi. Chàng chỉ nghe trên đầu, xung quanh, trong bóng tối dưới và bầu trời, tiếng sấm vang vọng. Mưa dồn xuống, cuốn trôi, đổ ào ạt. Chàng hôn nàng như cái đêm nọ, trong rừng cây, trong nỗi u buồn và tức giận. Chàng thấy như cuộc đời đã mỉa mai mình đến cực hạn. Nàng đến để mỉa mai chàng, sự phi lý tuyệt cùng của sự sống.

Mùi rượu ngọt, hương rượu còn phảng phất vị của dòng nước và những cánh rừng. Nàng ôm lấy chàng, ngón tay lùa vào tóc chàng. Nàng muốn gào lên, khóc lên nỗi căm hận này. Căm hận gì, căm hận ai? Có ai trả lời được cho nàng?

Nàng thấy bàn tay chàng trượt sau gáy, qua lưng. Nàng nắm lấy áo chàng bằng những ngón tay run rẩy. Nụ hôn chàng rơi xuống cổ, xuống vai nàng. Nàng nhắm mắt, để mặc cho mình rơi. Nàng đã mệt mỏi, mệt mỏi với cả cố gắng và hy vọng. Có quan trọng gì đâu khi cuối cùng cũng là chẳng nắm giữ được gì.

Bên tai nàng chỉ là tiếng mưa. Sấm chớp giật ầm ào.

Có lẽ vì thế mà nàng, cả chàng nữa, đã không nghe thấy tiếng chân đến, tiếng cửa mở. Chỉ khi cánh cửa đóng sập lại đánh rầm một tiếng, cả hai mới giật mình. Nhìn lên, nàng thấy nỗi sợ tràn đến tê cứng cả người.

Đứng trên bậc cửa, cơn thịnh nộ trong mắt hơn cả mưa bão ngoài trời, là chúa Nguyễn Phúc Ánh.

19

Cuối tháng tám năm Mậu Thân, chúa Nguyễn đưa quân đến bao vây Ba Thắc. Cùng Nguyễn Văn Tồn, vị chúa đích thân đến gặp tù trưởng người Miên.

Thu phục được người Miên, vị chúa để Nguyễn Phúc Hội ở lại Định Viễn coi sóc công việc, sắp đặt các toán quân chặn tất cả nẻo thoát chạy của quân Tây Sơn.

Khi chúa Nguyễn trở lại Sài Côn, tháng chín đã đến. Sở Công đồng vừa đặt đã được trang hoàng hoàn chỉnh, bốn chữ “Thiêm Ngôn Doãn Hiệp” được khắc nổi trên tường. Nhìn các công trình vừa xong, vị chúa gật đầu. Bàn với các quan việc thu thuế trong Sài Côn, khi chúa Nguyễn về phòng thì trời đã tối. Nhị phi khe khẽ gọi Ngọc Du đến. Từ đêm ấy, nàng đã sang ở phòng Nhị phi, theo lời vị chúa.

Đêm ấy, tuy đã từng chứng kiến nhiều cơn giận của người em trai, Ngọc Du lần đầu tiên thấy sợ khi sự thịnh nộ giáng xuống nàng. Quay lưng đi ra cửa chờ hai người chỉnh lại đầu tóc quần áo, khi cất lời, giọng vị chúa lạnh như đồng.

- Chị về phòng Nhị phi ngay lập tức. Võ tướng quân, ngày mai anh đem quân đến Trấn Biên.

Chuyện này ta sẽ nói sau khi trở về. Chúa Nguyễn nói khi Võ Tánh vừa định cất lời. Khi vị chúa bước đi, chàng không có cách nào khác phải đi theo. Vẫn không nhìn lại, vị chúa để mặc chàng về với doanh trại phía bên kia đồn lũy. Ngay sau đó, hai cô hầu gái đã đến dọn dẹp phòng Ngọc Du, đưa nàng về phòng Nhị phi. Cô gái thông minh không hỏi nàng lý do của sự thay đổi đột ngột này. Cô chỉ lắc đầu nói khe khẽ “Ngài giận lắm”, ra dấu cho nàng nên cẩn thận.

Khi trở về, có vẻ như cơn giận vẫn chưa nguôi trong mắt vị chúa. Ngồi sau bàn viết, người em trai nhìn nàng bước vào cúi đầu chào, bằng sự im lặng đầy đe dọa. Cắn môi, Ngọc Du ngẩng lên. Nhưng trước khi nàng định nói, vị chúa đã lại cất tiếng trước.

- Ta rất thất vọng về chị. – Giọng vị chúa không cao, chỉ trầm sâu, vang trong căn phòng sáng ánh lửa. – Ta tin tưởng để chị trong quân không phải để chị quan hệ lăng nhăng với tướng lãnh của ta.

Ngọc Du đỏ bừng mặt như vừa nhận được một cái tát. Không kềm được, nàng ngắt lời vị chúa, cao giọng.

- Không phải thế, chúa công.

- Không phải thế thì thế nào, trưởng công nương? – Vị chúa nhướn mày, trước khi cười khẽ. – Hay ta nhìn lầm? Ta đã gõ cửa mà chị không hề nghe thấy, thế đấy. Hai người đem cả rượu vào phòng chén tạc chén thù với nhau, chị có còn tự trọng gì nữa không, trưởng công nương? Ta tưởng chỉ có kỹ nữ mới đem đàn ông vào phòng uống rượu, làm những việc kinh thương bại lý như thế. Việc này đã bao lâu rồi?

Câu nói cuối, vị chúa gằn giọng. Môi Ngọc Du run run. Đúng, nàng đã sai. Và nàng không thể không thừa nhận rằng nếu vị chúa không đến, không biết chuyện sẽ dẫn đến đâu. Nếu việc lộ ra, nàng và cả vị chúa sẽ chẳng còn có thể ngẩng đầu nhìn người khác. Để nàng tùy ý ở trong quân, đi bất cứ đâu nàng muốn, vị chúa chắc chắn không chờ đợi một cảnh tượng như thế. Nhưng nàng không thể để việc ảnh hưởng xấu hơn nữa, nhất là đến Võ Tánh.

- Thật ra chúng thần đã định nói với chúa công ngay sau khi ngài ổn định Ba Thắc trở về. – Giọng nàng mất hết vẻ tự tin sẵn có. Vị chúa cau mày chờ đợi nàng tiếp tục. – Võ tướng quân đã định đến chúa công xin cưới ngay khi ngài vợi bớt công việc.

- Cưới? – Chúa Nguyễn nói sau một lúc im lặng. Ngón tay vị chúa gõ xuống mặt bàn gỗ. – Đó là ý của chị đấy à, trưởng công nương? Chị có biết là công nương Ngọc Khoa, Ngọc Vạn, Ngọc Hoa của chúng ta đã bị xóa tiểu sử khỏi gia phả vì lấy vua chúa phiên thuộc, thương nhân ngoại quốc?

- Đó là tướng của ngài, chúa công. – Ngọc Du không phải là không thấy bực bội trước cách gọi “trưởng công nương” liên tục của người em. – Hán Cao tổ gả công chúa cho Hàn Tín cũng thế thôi. Đó là người đã giúp ngài chinh phục Gia Định, và nếu ngài công thành thì sẽ trở thành công thần bậc nhất. Ngài vốn dùng người đâu phụ thuộc vào xuất thân, chúa công.

- Dùng người và lấy người là hai chuyện khác biệt, trưởng công nương. Thế chị tưởng vua Chân Lạp, Chiêm Thành kia thân phận không cao qúy, thương nhân Nhật Bản kia không có đóng góp cho cả hệ thống thương nghiệp, quân sự của chúng ta? Ngay cả tuyển cung phi, cung nữ cũng phải nhìn dòng tộc. Ngay cả hoàng tử, công tử kế vị cũng phải nhìn xuất thân họ ngoại. Chị định lấy một người không biết cha sinh mẹ đẻ ở đâu, chị bảo người ta nghĩ thế nào về chị?

- Muốn xóa thì xóa, cũng có sống đến lúc đọc được họ viết gì đâu. – Ngọc Du nói mà không cần hạ giọng. Vị chúa nheo mắt nhìn nàng, lại ngả lưng ra sau ghế.

- Chị quyết định như thế? – Em trai nàng hỏi, chậm rãi. – Ta định hỏi ý chị để dẹp vụ này đi không để người ngoài biết, nhưng nếu chị đã muốn thì ta không thể cản.

Ngọc Du không thể không nhận thấy nụ cười trên khóe môi vị chúa. Mỉa mai. Cậu ta mỉa mai nàng. “Dẹp vụ này đi”, nàng biết ý của người em trai khi nói điều đó. Cách ly nàng và Võ Tánh, tìm cách gả nàng đi nhanh nhất có thể. Đó chẳng phải điều mà nàng đã mong muốn?

Cậu ta hiểu nàng hơn bất cứ ai. Sự cao ngạo của nàng, cả sự cố chấp của nàng. Ồ, cứ coi như nàng có quan hệ với một thanh niên không rõ mẹ cha, nhưng lấy chàng ta thì là việc khác. Đó là việc nếu bình thường chính nàng sẽ cân nhắc, sẽ tính toán. Như nàng đã cân nhắc và tính toán. Nhưng lần này nàng lại mắc bẫy của chính mình.

- Ta không thể để chị gây tai tiếng thêm nữa, trưởng công nương. – Hai bàn tay vị chúa đan vào nhau, ngón tay trỏ nhịp nhẹ. – Chị đủ thông minh để hiểu hậu qủa việc làm của mình. Nếu chị đã quyết định thì đừng hối hận.

- Ngài không cần phải đe dọa chị mình, chúa công. – Ngọc Du lầm bầm. Vị chúa để thoát ra một tiếng cười.

- Không. Ta chỉ định nói với chị: Ngay cả Hàn Tín kia cuối cùng cũng không có kết qủa tốt đâu. Danh phận qúa cao thì áp lực cũng rất lớn. Nếu hắn không làm hại chị thì chị cũng làm hại hắn.

Thinh lặng.

- Ngài muốn thế nào đây, chúa công? – Cuối cùng, Ngọc Du nói.

- Chị bảo ta phải làm gì với chị đây, trưởng công nương? – Ánh lửa chập chờn trong mắt vị chúa. – Chị có biết là lúc bắt gặp hai người, ta đã muốn giết hắn? Chị có thể hành động như vậy sao, trưởng công nương? Việc gì chị đã làm thì chị phải biết hậu qủa. Hay chị định nói với ta rằng chị có thể làm như vậy với bất kỳ ai?

Vẫn là sự giận dữ lạnh băng. Ngọc Du lại mím môi lặng im. Hết rồi, nàng nghĩ. Trong giọng nói của vị chúa chỉ có sự giận dữ và thất vọng. Nàng đã làm cho chúa công thất vọng. Nếu không cưới Võ Tánh, nàng sẽ trở thành tồi tệ đến mức nào dưới mắt ngài ta? Nếu cưới Võ Tánh, nàng cũng chỉ có thể lui về làm một cái bóng như Ngọc Tú hiện tại. Ngài ta không bao giờ còn cần đến nàng. Nàng đã làm cho vị chúa hoàn toàn thất vọng.

Trưởng công nương, vị chúa gọi, mỉa mai. Nàng có thể giải thích được gì? Rằng nàng đau lòng vì không thể lấy người thanh niên ấy – trong khi định hiến thân cho anh ta? Sự thật còn tồi tệ hơn cả những gì ngài ta nghĩ. Nếu biết những gì nàng nghĩ, vị chúa còn khinh miệt nàng hơn đã từng. Không một công nương nào hành động như nàng. Không một cô gái nào có thể tính toán thấp kém hơn nàng.

Cho nên, tất cả những gì nàng có thể làm là lặng im.

- Ngài muốn quyết định sao cũng được, chúa công. – Cuối cùng, nàng nói. Không, nàng thì thầm. Nàng cúi đầu lui ra, thậm chí không thể nhìn lên đôi mắt vị chúa.

Nước mắt đã chỉ rơi khi nàng còn lại một mình.

Kết cuộc này không phải nàng đã không đoán biết. Để bảo toàn danh dự cho gia đình, em trai nàng sẽ buộc phải chấp nhận. Nhưng trong hoàn cảnh mà nàng không hề mong đợi, không hề muốn, cuộc hôn nhân này sẽ trở thành thế nào? Làm sao nàng có thể sống được dưới ánh mắt khinh miệt của vị chúa?

Nàng nghe tiếng Nhị phi thì thầm bên ngoài rồi im lặng. Có vẻ như đêm nay Nhị phi sẽ đến phòng em trai nàng, để cho nàng ở lại một mình. Nàng cũng chẳng muốn giáp mặt bất cứ ai.

Hết rồi. Chẳng điều gì còn quan trọng. Nàng đã đẩy mình vào ngõ cụt, vực sâu. Chỉ cần một chút ngốc nghếch, nàng đã trở thành một kẻ hạ lưu tồi tệ như thế. Chỉ cần một khoảnh khắc khờ dại, nàng đã đổ tất cả những gì đã dựng xây xuống biển. Vị chúa sẽ ném nàng ra khỏi gia đình như vứt bỏ một thứ tồi tệ, xấu xa. Ngài ta đã không nói cho cả Nhị phi biết chuyện xảy ra vì ngài ta qúa kinh tởm, qúa xấu hổ vì nàng.

Mẹ nàng sắp trở về. Để rồi nhìn nàng đi ngược lại với tất cả những gì bà từng mong muốn. Rồi những tháng ngày sau đó, nàng sẽ hành hạ mẹ bằng cuộc đời nàng. Chỉ nghĩ đến lúc bà được nghe tin báo, nàng đã thấy sợ đến lạnh cả người. Nàng sợ những giọt nước mắt, sợ cả tiếng khóc, cả những lời than van rền rĩ. Chúng như ném nàng xuống địa ngục.

Vùi mặt vào trong gối, nàng cố ngăn tiếng nức nở bật lên. Nước mắt đổ ngược xuống cổ họng nàng đắng ngắt.

Mùa thu năm Mậu Thân, đoàn thuyền Trương Phúc Giáo và Nguyễn Văn Nhơn từ Phú Quốc trở về, đưa theo gia đình chúa Nguyễn.

Đứng trên bờ đất còn ướt nước, Ngọc Du nhìn đoàn thuyền đang vào bến rồi nhìn theo lưng của vị chúa đứng trước. Nhị phi đứng lùi sau lưng nàng một bước. Cũng chỉ có cô đến gọi nàng, vị chúa dường như đã bỏ quên nàng. Cố gắng vã nước vào mặt để che cặp mắt đỏ lên vì khóc, nàng mới có thể ra ngoài. Hiện tại, nắng nhưng nhức trên mi mắt nàng. Không hiểu sao, nàng đã giật mình khi con tàu bỏ neo rơi xuống biển, tiếng nước động lan trong đám đông chờ đợi.

Quốc mẫu, tiếng gọi, tiếng nói xôn xao khi mẹ Cả được Ngọc Tú và Nguyên phi đưa xuống thuyền. Chúa Nguyễn vội vã tiến về phía trước, đưa tay đỡ bà lão tóc đã điểm trắng. Mẹ nàng ở phía sau họ, được vài cô hầu nâng đỡ. Nàng và Nhị phi cùng tiến đến, cúi đầu chào. Mẹ Cả một hồi lâu mới rời mắt khỏi vị chúa con trai bà, lau nước mắt nhìn sang. Cái nhìn của bà lướt qua Ngọc Du, dừng lại ở Nhị phi.

- Con bé Đang đấy à? Lớn qúa, ta không nhận ra được nữa.

- Đã lâu như thế mà, Quốc mẫu. – Cô gái cười. Nhưng chỉ làm lệ trong mắt bà lão tràn thêm.

Lâu qúa, lâu qúa rồi. Mẹ Cả nhắc đi nhắc lại trên con đường họ trở về đồn lũy. Khoác tay mẹ đằng sau, Ngọc Du và bà chỉ im lặng. Thi thoảng nàng vẫn về Phú Quốc trong những năm qua, nhưng giữa mẹ và nàng vẫn chẳng có gì để nói với nhau ngoài sự lặng im. Bà chỉ nhìn nàng, không than khóc, không nước mắt, chỉ có sự buồn bã lắng sâu, cô đọng, héo tàn. Bà chỉ nhìn nàng, trong những năm tháng ấy, nàng trong thanh xuân đang đuổi nhau đi qua, bằng cái nhìn yên như vũng nước lặng. Sự héo tàn phản chiếu trong nó. Và đó cũng là một nguyên nhân mà nàng không muốn trở về. Giờ đây, đi bên cạnh, nàng vẫn tránh nhìn vào mắt bà. Mẹ lại gầy đi, nàng muốn nói. Sau lớp áo, cánh tay, thân thể bà chỉ còn một sức nặng mỏng mảnh như thể cánh bướm. Bà cũng không nhìn nàng, bà dõi cặp mắt xa xôi vào những dãy phố, đồn lũy và quân lính. Bà, và cả nàng, làm như không nghe thấy tiếng khóc, tiếng thở than của mẹ Cả.

Ngọc Tú chỉ lặng lẽ đi bên cạnh Nguyên phi. Cả hai đều đã già đi một cách nhanh chóng, trong chỉ mấy năm. Chỉ mấy năm ngắn ngủi, họ đã như biến thành những con người khác. Xuân sắc vẫn còn trong họ, nhưng cũng đã bạc phếch, mỏi mệt, u buồn. Thời gian còn chưa là liều thuốc độc nhất đối với phụ nữ như sự mỏi mòn. Cả hai không than khóc, thậm chí cũng không đưa mắt nhìn quanh. Họ chỉ là hai cái bóng đi giữa hàng người. Lặng yên hơn cả cái bóng phản chiếu trên mặt đất, trải dài trên mặt đất.

Vẫn còn khóc được là tốt, Ngọc Du không thể đừng mà thầm nghĩ khi tiếng khóc lại vẳng đến tai nàng. Sau sáu năm, họ chỉ nhìn nhau lặng im, lặng im và ngạt thở như bị chìm vào trong đáy biển. Sáu năm, cái chết cắt qua họ, chia cách họ, hành hạ họ. Và rồi khi gặp lại, sự sống cũng đã trở nên mệt mỏi. Nàng thấy điều đó trong đôi mắt Nguyên phi. Nguyên phi chỉ nhìn con đường phía trước, không một lần đưa mắt về phía vị chúa. Những lần đến đảo, thi thoảng nàng vẫn bắt gặp Nguyên phi ngồi trong sân giữa đêm khuya. Cô chỉ nhìn ra biển. Biển đêm chỉ có bóng tối và tiếng sóng. Sự chờ đợi và hy vọng cũng trở nên mệt mỏi, trong cõi lòng úa tàn của họ.

Trở về khu đồn lũy, thực hiện tất cả các lễ nghi đón rước, các lễ tiệc chào mừng, họ chỉ có thể ở một mình khi đêm đã buông. Trong căn phòng rộng được sửa soạn dành cho Quốc mẫu, mẹ Cả nằm trên giường, vị chúa ngồi cạnh bà, những người còn lại hoặc nằm hoặc ngả lưng trên những chiếc tràng kỷ còn vương mùi gỗ mới. Ngọc Du đấm lưng nhè nhẹ cho mẹ khi bà nhắm mắt gối đầu lên lòng nàng. Vị chúa đang nói về kế hoạch hay chuyện nào đó khi ngài ta còn ở bên Xiêm La thì mẹ Cả ngắt lời.

- Con nói đã nhận được tin thằng Cảnh, bao giờ nó về? – Dường như chỉ đợi đến câu hỏi ấy, tất cả mọi ánh mắt đều hướng về phía vị chúa. Nguyên phi rời mắt khỏi bóng lửa trong chiếc đèn trên bàn, đăm đăm nhìn người chồng.

- Họ đã rời khỏi Phú Lang Sa, đang qúa cảnh ở các bến cảng, hẳn sẽ trở về sớm thôi. – Chúa Nguyễn mỉm cười. Nụ cười trở nên đơn độc và kỳ lạ trong căn phòng hiện tại. Nguyên phi lại đưa mắt về phía chiếc đèn. Vị chúa cũng không nhìn về phía vợ.

- Trong chừng ấy năm, con không có con cái gì sao? – Quốc mẫu lại hỏi. Và câu hỏi lần này lại đẩy người trong phòng vào thế khó xử. Vị chúa im lặng, chỉ có Nhị phi gượng gạo cười đỡ lời.

- Thời thế loạn lạc, ở trên đất nước kẻ thù, chúa công chỉ mải lo công việc báo quốc, con thì trẻ người vô phúc nên vẫn chưa có tin vui.

- Không thể nói lo công việc rồi không có con. – Quốc mẫu cau mày. – Đến tuổi này rồi mà chỉ có đứa con trai lại ném nó đi đến tận Tây dương. Nhà ta chỉ còn có một mình chúa công, chúa công lại chỉ có một mình nó với thằng Hy, nói dại lỡ có việc gì thì chúng ta biết xoay sở thế nào? Lúc nào chúng ta cũng chỉ nơm nớp sợ chúa công có việc gì, thằng Cảnh có việc gì. Họ ta đâu phải thiếu đinh, Định vương có mười bảy anh em cả thảy, nhà ta cũng có sáu đứa con trai, cuối cùng chỉ còn lại mình chúa công. Nói thời chiến như vậy thì giờ có thời gian hoà hoãn rồi, chúa công mau đi nạp thêm thê thiếp, sinh thêm qúy tử. Có con cũng là nghĩa vụ của đàn ông với tổ tiên, đi đánh trận làm gì nếu chỉ có việc ấy cũng không lo tròn?

- Con xin vâng lời mẹ dạy. – Chúa Nguyễn nói sau một lúc im lặng. Ngọc Du đổi chân, bắt đầu cảm thấy bức bối khó chịu. Mẹ nàng hé mắt, cười nhẹ rồi chống tay ngồi dậy.

- Chặng đường dài làm ta mệt mỏi qúa, xin phép Quốc mẫu và chúa công cho ta đi nghỉ, đám xương cốt già này không chịu nổi nữa.

Quốc mẫu vừa chợm gật đầu, chúa Nguyễn đã vội đưa tay ngăn mẹ nàng.

- Khoan, ta có chuyện muốn bàn với Từ phi. – Mặc kệ ánh mắt ngạc nhiên hoảng hốt lẫn van lơn của Ngọc Du, vị chúa thong thả nói. – Ta định bàn với Từ phi về chuyện hôn nhân của chị Hồ Dương, nghĩ sớm chừng nào tốt chừng nấy cho Từ phi có thời gian chuẩn bị.

- Hôn nhân? – Mẹ nàng quay nhìn, không thể không nhận ra gương mặt thất sắc của nàng. – Chúa công nhắm ai? Con nhà nào?

Con nhà nào. Câu hỏi như biến tim Ngọc Du thành đá. Nàng cắn môi, thậm chí không dám nhìn lên. Chỉ nghe giọng chúa Nguyễn vẫn đều đều.

- Tiên phong dinh Tổng nhung Chưởng cơ Võ Tánh, người Gia Định.

- Người Gia Định? Ta chưa từng nghe thấy cái tên ấy. Hay là… - Quốc mẫu lên tiếng, nhíu mày rồi im lặng một thoáng. – Ta nghe nói chúa công có đám thổ phỉ tập hợp được. Con đừng bảo đó là người trong đám tướng cướp ấy?

Cái giật mình của mẹ lan truyền cả sang nàng. Nàng có thể thấy mọi ánh mắt trong phòng, cả Ngọc Tú và Nguyên phi, cũng đều ghim vào mình. Nàng trân người như thể đang chịu một cơn bão, thấy lạnh buốt trong từng mạch máu.

- Họ là nghĩa sĩ tập trung chống Tây Sơn, không phải cướp. – Vị chúa nói, nhưng dường như chẳng thuyết phục được ai. Quốc mẫu để thoát ra một tiếng không biết là cười hay thở dài.

- Phải, phải, ta biết đám người ấy trong quân của chúa công. Như bọn Hòa Nghĩa quân cột giấy vàng bạc, giấy tiền quanh đầu, liều một sống hai chết, bắt được người thì mổ bụng ăn gan uống máu. Như bọn Đông Sơn bôi mặt năm màu, dắt dao quanh năm ở thắt lưng. Như bọn Lương Sơn tá quốc trên vùng Thượng xuống còn đem theo cả chiêng trống nhún nhảy. Như bọn quân Miên, quân Xiêm thô tục, tiếng nói còn không rành. Chúa công, con có thể thu dụng bọn chúng để giáo hóa, nhưng làm sao con có thể gả chị mình cho chúng? Con nói người Gia Định, nhưng có biết tổ tiên quê quán ở đâu, cha mẹ thế nào? Hay lại là con cái của đám tù nhân phát vãng, của bọn du thủ du thực giang hồ tứ chiếng trốn vua phản chúa? Lấy hạng người ấy, chị của chúa công còn có mặt mũi nào?

- Sao chúa công lại chọn người ấy? – Ngọc Tú lên tiếng khi vị chúa đã im lặng hồi lâu.

Họ đều có chung ý nghĩ: Vị chúa gả bán chị mình. Ngọc Du không đành mà phải mở miệng.

- Đó là vì… con chọn anh ta. – Càng nói, giọng nàng càng nhỏ lại. Nàng cúi đầu, vô thức dịch ra xa mẹ mình. Nàng nghe sự im lặng trong phòng, hơi thở của con người và tiếng lửa nổ lách tách trong bấc đèn. Ngoài kia là tiếng chân lính đổi gác. Tiếng vũ khí va chạm nhau lục đục. Xa xa, có tiếng gà gáy trong đêm vọng đến từ phía chân gò.

- Từ phi và Hồ Dương công nương xem xét việc này nhé. – Vị chúa nói, ngấm ngầm ra hiệu đây là việc của hai mẹ con nàng. Mẹ nàng đứng dậy, rời khỏi phòng. Không còn cách nào khác, nàng phải đi theo.

Mẹ nàng đã im lặng cho đến khi về phòng mình. Bà lặng im nằm xuống giường, quay lưng về phía nàng. Ngọc Du cũng không dám lên tiếng, chỉ ngồi khêu bấc đèn nhỏ lại. Mãi một lúc sau, mẹ nàng mới hắng giọng, ra hiệu cho nàng lại bên giường.

- Có thật là con muốn cưới người đó? – Bà hỏi, giọng trầm tĩnh và lặng lẽ.

- Vâng. – Nàng trả lời nhanh hơn nàng tưởng. Và rồi không biết phải nói gì.

Nói gì cũng đều là vô ích, vô nghĩa lý.

- Mẹ muốn gặp anh ta xem thế nào. – Bà chỉ nói thế rồi bảo nàng về nghỉ.

Khi Võ Tánh trở lại khu đồn lũy ở Sài Côn, chàng đã thấy bọn học trò Võ Trường Toản đứng trước cửa. Có vẻ bọn họ vừa mới từ đồn đi ra. Thấy chàng, Ngô Tùng Châu cất tiếng gọi. Anh ta là người có vẻ trầm tĩnh nhất trong đám học trò đang xôn xao xung quanh.

- Chúa công đã tiếp nhận chúng tôi. – Ngô Tùng Châu nói khi chàng lại gần. – Hôm nay bọn tôi mười hai người đến bái kiến, chúa công tiếp nhận cả. Ngài bảo sắp lập lại Hàn lâm viện, sẽ cho chúng tôi làm Chế cáo khởi đầu. Khi việc xong sẽ gọi chúng tôi đến ban mũ mão quan tước.

- Chúc mừng các anh. – Võ Tánh cười, nhìn quanh bọn họ. Vẫn những khuôn mặt quen thuộc: Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Phạm Đăng Hưng, Huỳnh Ngọc Uẩn, Lê Minh Phụng, Lê Kim Phẩm, Vương Kế Sinh… Chỉ một tiếng gọi, mười hai người đã đồng loạt bước ra. Lập lại Hàn lâm viện, vị chúa đã bắt đầu kế hoạch “thay đổi” của mình.

- Chúa công gọi Võ Chưởng cơ từ Trấn Biên trở lại hẳn cũng có việc cần kíp. – Ngô Tùng Châu nhìn vào mắt chàng có vẻ thăm dò. – Tôi nghe nói chúa công chuẩn bị sắp xếp lại nội các, ngoài các quan đã được cử đi trấn giữ nơi hiểm yếu, tất cả đều được tập trung ở Sài Côn.

- Chắc thế, - Võ Tánh cũng chỉ có thể cười. Tuy nhiên, chàng biết lý do mà chúa Nguyễn gọi chàng trở lại. Sau khi ta về sẽ nói, lời của vị chúa đã đến lúc thực hiện. Đã ném chàng đến Trấn Biên, còn đưa thêm người ở cạnh, ngài ta chỉ tạm thời cách ly chàng để chờ tới lúc giải quyết sự vụ.

Chúa Nguyễn cũng không giấu diếm ý định ấy. Khi chàng vào căn phòng họp kín, ngài ta cho tất cả người khác ra ngoài, thậm chí không bảo chàng ngồi xuống, chỉ đứng cạnh cửa nhìn chàng. Trong mắt ngài ta lại là một cánh cửa đóng khép, thậm chí còn xa cách hơn cả thường lệ.

- Khanh với chị ta quan hệ thế nào? – Câu hỏi đầu tiên của vị chúa thẳng thắn mà cũng mập mờ. Quan hệ thế nào, ngài ta muốn biết điều gì?

- Thần đã định hỏi cưới công nương từ mấy tháng nay. – Chàng nói. Vị chúa để thoát ra một tiếng cười. Ngài ta quay người lại, tay chống vào thanh kiếm bên hông.

- Hỏi cưới? Khanh nghĩ mình là ai? Khanh về với ta chưa được nửa năm mà đã muốn trèo cao như vậy à?

- Thần yêu chị chúa công khi còn chưa có ý định về với ngài, chúa công. – Võ Tánh ngắt lời vị chúa. “Yêu”, vị chúa nhướng mày khi nghe chàng nói.

- Vậy thì đó là lỗi của ta khi cho hai người thân mật với nhau, phải không? – Gió thổi vào cánh cửa sổ nửa mở nửa khép, làm bóng nắng lay động trong mắt vị chúa. – Võ tướng quân, ta biết khanh không biết lễ nghi, nhưng khanh cũng nên biết nếu nói lời ấy ra ngoài, khanh đã hủy hoại danh tiết của chị gái ta. Việc hai người làm đã là không thể tha thứ, khanh còn định nói là cả hai đã lén lút sau lưng ta một thời gian dài như vậy?

- Thế thì có tội lỗi gì, chúa công? – Chàng đang chờ đợi cơn thịnh nộ đổ xuống. Đúng, chàng không biết lễ nghi, cũng không hiểu tại sao lời nói của mình lại xấu xa đến như lời vị chúa.

Nhưng chúa Nguyễn chỉ lẳng lặng mỉm cười.

- Đây là cách khanh trả thù phải không, Võ tướng quân? Ta cướp đi một người thân của khanh, khanh đòi lại một người thân của ta. Theo đúng đạo nghĩa, ta phải trả lại cho khanh, hẳn vậy?

- Nếu chúa công muốn nghĩ như vậy cũng không có cách nào thay đổi. Mà nếu như vậy, thần chỉ cần một người thân chứ không cần sự trả thù.

- Khanh nghĩ mình là ai, Võ tướng quân? – Một lần nữa, chúa Nguyễn cau mày. – Khanh đã giết bao nhiêu người, khanh có ý định đem người thân của mình ra trả nợ cho họ không? Thậm chí khanh có dám đem tính mạng của mình trả nợ cho họ không? Chị gái ta không mắc nợ gì khanh. Ta không cho phép kẻ nào đụng đến người thân của ta. Ngay cả nếu khanh có yêu thương chị ấy, cũng không được hé răng nhắc đến chuyện của ta và khanh trước mặt chị ấy, nghĩ trong tâm cũng không.

Im lặng. Võ Tánh thấy lòng mình chùng xuống. Vị chúa nghi ngại, ngờ vực chàng. Trong khi chàng không có cách nào khiến ngài ta tin. Lời nói của chàng vừa rồi thật khờ dại. Ngài ta sẽ nghĩ đây là một kế hoạch được chàng sắp đặt từ lâu, trước khi về với Nguyễn quân. Trước khi về với Nguyễn quân, chàng đã nói, và sự thật ấy mang màu sắc không phải là nó nữa.

- Việc đến nước này, ta cũng không thể nào làm khác ngoài tác hợp cho hai người. – Vị chúa chậm rãi nói qua kẽ răng. – Nhưng hãy nhớ, Võ tướng quân, ta là chúa Nguyễn, là chúa công của khanh. Khanh cũng đừng mong chờ ta ưu ái gì cho khanh. Nếu khanh phạm lỗi, ta cũng sẽ xử như bao nhiêu kẻ khác. Khanh phải nghĩ đến chị ta mà sống cho đàng hoàng.

- Chúa công… ngài đồng ý? – Mất một lúc để chàng hiểu ra ý của vị chúa. Ngài ta ném cho chàng một cái nhìn bực bội trước khi đến bên bàn, nhấc lên một phong thư đỏ.

- Đáng lẽ việc hôn sự phải do một hoàng thân chủ hôn báo cho cha mẹ khanh. Nhưng gia tộc đang thiếu người, khanh lại cô thân cô thế, miễn được lễ nào thì miễn. Những việc như xem Can Chi năm tuổi lại càng không quan trọng. Ta đã bảo người lựa ngày, khanh lãnh mệnh chuẩn bị đến bái kiến Quốc mẫu và mẹ của chị ta, xin người định lễ hỏi. Ta cũng sẽ cho người đến hướng dẫn khanh. Trước nay việc hôn sự do hai bên cha mẹ quyết định, khanh lần này về phải chuyên chú học lễ nghi để không làm xấu mặt công nương trước quần thần.

Nói rồi vị chúa xua tay đuổi chàng ra ngoài. Nhận phong thư, ra đến cửa rồi mà chàng vẫn còn không thể tin được. Mở lá thư định hôn viết bằng mực đen thẫm trên giấy đỏ, chàng thấy tên mình và Ngọc Du được viết song song bên nhau, dưới là ngày định để vào chào Quốc mẫu. Dấu triện của chúa Nguyễn đóng vào như thể một giấc mơ.

Chàng phải cấu vào tay mình để tin rằng đây là sự thật.

Những người lính trên đường chàng đi đều phải ngoái lại trước nụ cười toe toét trên môi chàng. Cho đến tận khi ra đến cửa đồn, chàng mới sực nhớ ra rằng quân của mình đã về lại trong lũy. Vừa quay lưng định trở vào, một cô hầu gái đã vội vã tiến về phía chàng, hạ giọng nói nhỏ:

- Võ Chưởng cơ, Hồ Dương công nương và Từ phi mời ngài đến nói chuyện.

Từ phi? Phải một lúc chàng mới nghĩ ra đó là tên hiệu của mẹ Ngọc Du. Mẹ nàng đã trở về, nàng đối mặt với bà ra sao? Chàng nhớ sự sợ hãi của nàng đêm ấy, lòng chùng xuống. Miên man suy nghĩ, chàng theo cô hầu gái đi qua phố Cầu Sơn đến bến sông. Đó là một quán nhỏ nhìn ra sông, có bến ván bằng gỗ buộc đôi thuyền độc mộc. Ngọc Du và mẹ nàng đang ngồi đối mặt với nhau bên chiếc bàn kết bằng mây. Hàng tre tự nhiên tạo cho quán rượu này vẻ thinh lặng độc lập như tách rời khỏi thế giới bên ngoài. Thậm chí chàng còn không thấy bóng của chủ quán – hẳn ở đằng sau lũy tre phía bên kia đường.

Ngọc Du thấy chàng trước, rồi mẹ nàng quay lại. Từ phi là một bà lão gầy mảnh như thân tre. Khi bà cử động, chàng có thể tưởng như nghe thấy tiếng lá rì rào. Ngọc Du chỉ lặng im nhìn chàng khi hai người cất tiếng chào. Nàng trông có vẻ mệt mỏi, quầng thâm dưới hai mắt như in hằn vào khuôn mặt.

- Anh là Võ Chưởng cơ? – Từ phi hỏi, tiếng Phú Xuân thanh và nhẹ. Mắt bà lướt qua chàng từ trên đỉnh đầu xuống dưới bàn chân. Ngón chân chàng ngọ ngoạy trong chiếc dép cỏ đã đứt vài sợi. Từ Trấn Biên đưa quân trở về, chàng còn chưa thay bộ quần áo đầy bụi đỏ, thậm chí chưa bỏ ống quần xắn thấp cao xuống. Chúa Nguyễn không để tâm đến y phục của tướng lãnh, nhưng trước ánh mắt của bà lão này, chàng mới nhận ra sự thất thố của mình.

Anh phải học lễ nghi để không làm xấu mặt công nương, vị chúa vừa dặn, chàng đã mắc lỗi ngay lập tức. Vừa ngượng ngùng vừa bối rối, chàng lúng túng cúi đầu.

- Vâng ạ, chào… bác ạ.

Nếu không mang tâm trạng nặng nề như thế, có lẽ Ngọc Du đã bật cười. Con bé hầu gái đưa tay che miệng. Có vẻ như Võ Tánh cũng nhận ra sự lỡ lời, nhưng chàng không biết phải cải chính thế nào. Chàng nên gọi bà lão là gì đây, mẹ thì chưa phải, danh xưng trong cung thì chàng không biết. May cho chàng, Từ phi chỉ cười.

- Lâu rồi mới nghe một tiếng gọi thân thiết như thế. Mời Võ tướng quân ngồi, ta nói chuyện.

Hai bên bàn đã được mẹ con Ngọc Du ngồi. Cân nhắc một lúc, chàng quyết định ngồi xuống cạnh Ngọc Du. Lần này thì cái cau mày của nàng không thể nào không nhận thấy. Không nói không rằng, nàng dịch sát về phía đầu bàn, ngoảnh mặt nhìn ra sông. Sau lưng Từ phi, cô hầu lại ra dấu cho chàng chỗ trống đầu bàn còn lại.

- Đừng nên câu nệ qúa. Chúng ta đến đây để nói chuyện thân mật thôi mà. – Một lần nữa, Từ phi lại phải lên tiếng hòa giải không khí khó xử. Lần đầu tiên trong đời, Võ Tánh thấy hai tai mình nóng ran. Ngọc Du khịt mũi. Và chàng không thể không nhận thấy mình còn mang nguyên mùi mồ hôi cùng bụi đường trên bộ quần áo, trên thân thể.

Từ phi ngoảnh lại gọi thêm một bình trà. Cô hầu gái đem trà đến rồi lui ra ngoài. Lúc ấy, bà lão mới nhìn xuống thắt lưng chàng – nơi chàng đã nhét phong thư định hôn vào, màu lá thư đỏ nổi bật trên lớp vải.

- Võ tướng quân có thư báo hỷ sự gì kia? – Từ phi hỏi. Nhìn lại, Ngọc Du tái mặt thấy chàng rút phong thư ra từ thắt lưng. Mảnh giấy đã nhăn gãy ngay giữa. Lúng túng vuốt lại phong thư, Võ Tánh dâng hai tay đưa cho Từ phi. Bà liếc nhìn, rồi đưa cho Ngọc Du. Nàng chỉ đặt nó xuống bàn, lấy tay đè để gió khỏi lật.

- Vậy ngày lành tháng tốt đã chọn, Võ tướng quân có định mời thân thuộc nào đến chung vui cho ta gặp mặt? – Từ phi nói sau một lúc lặng yên. Bà cũng ngạc nhiên trước quyết định nhanh chóng của vị chúa. Vừa mới thông báo, ngài ta đã quyết định mà không chờ sự đồng ý của bà.

Một lần nữa, Võ Tánh thấy mình ngậm tăm. Mãi một lúc, chàng mới có thể mở miệng.

- Cha mẹ thần từ nơi khác đến Gia Định rồi cả hai người chẳng may mất sớm, gia đình chỉ có một người anh nhưng cũng đã về với tổ tiên. Thần xa quê đã lâu, không được chỉ dạy cho biết tổ tiên họ hàng ở đâu.

À, Từ phi chỉ thốt một tiếng khe khẽ rồi im lặng. Ngọc Du nhắm mắt thở ra. Ngay từ khi mẹ đòi gặp Võ Tánh, nàng đã hình dung được cảnh tượng này. Hiện giờ nàng chỉ muốn nhảy xuống sông để tránh ánh nhìn của mẹ.

- Ta nghe nói Võ tướng quân mang chức Chưởng cơ nhưng không nhớ là của đội quân nào? – Một lần nữa, Từ phi hỏi. Một lần nữa, Ngọc Du thấy tim mình ngừng đập.

- Dạ, Tiên phong dinh. – Câu trả lời chỉ làm mọi việc tồi tệ thêm.

Tiên phong, đội quân đi trước liều lĩnh bậc nhất, hy sinh cao nhất. Trong tiếng tre rì rào, nàng có thể cảm thấy mẹ mình run rẩy. Bà quay mình gọi cô hầu gái đỡ ra ngoài bến. Ta ra ngoài một lúc, bà nói mà không nhìn cả hai người đang cúi đầu.

Cả hai người vẫn cúi đầu sau khi bà đi. Cuối cùng, Ngọc Du thở ra, lại ngoảnh mặt ra sông. Nàng vừa bực bội bản thân vừa thấy giận người bên cạnh.

- Xin lỗi. – Chàng ta nói. Nàng vẫn không quay lại, không trả lời. Chàng nắm lấy tay nàng, bị nàng hất ra.

- Việc này tôi cũng không làm gì khác được. Mà sự thật là như thế, tôi có thể nói được gì đây? – Chàng cũng cảm thấy bực trước thái độ của nàng. Nàng trông có vẻ tiều tụy, hẳn là chịu nhiều áp lực. Cả vai nàng cũng gầy hơn. Chàng vừa giận lại vừa thấy thương nàng.

– Hay là bảo mẹ nàng chọn ngày cưới xa lại, tôi đến Ba Thắc đánh trận rồi không trở về đây nữa, thế là nàng thoát. – Câu này chàng chỉ buột miệng mà nói ra. Và chàng không lường được sự giận dữ trong mắt Ngọc Du khi nàng quay đầu lại.

- Không cần đến lượt anh bày trò thì chúa công đã có thể làm thế rồi. – Nàng rít lên. – Tôi giữ cái mạng này lại cho anh để rồi anh ăn nói, hành động không suy nghĩ thế à? Nghe đến gặp mẹ tôi mà anh không bỏ được cái ống quần xuống hay sao? Anh đến gặp con gái nhà ăn mày cũng không có cái bộ tịch đó! Lấy thư định hôn nhét vào thắt lưng, chỉ cần có người nhìn thấy là anh bay đầu, anh có biết không hả? Anh bảo mẹ tôi phải nghĩ gì về anh đây?

- Là do nàng xin với chúa công? – Chàng trân trân nhìn nàng. Mọi việc có vẻ như đã được sắp xếp, kể cả sự đồng ý nhanh chóng, lạnh lẽo của chúa Nguyễn, kể cả vẻ cam chịu của người mẹ. Mọi việc dần dà trở nên có lý khi chàng nghĩ lại. Ngọc Du chỉ khịt mũi nhìn đi nơi khác. Lần này nàng không phản ứng khi chàng cầm lấy tay nàng. Chàng chỉ rút tay về khi Từ phi trở lại. Bà ngồi xuống ghế, đuôi mắt hơi hoe đỏ. Trước khi bà cất tiếng, chàng đứng dậy, qùy xuống dưới chân bà.

- Thần họ Võ tên Tánh, người làng Phước Tỉnh, huyện Phước An, dinh Trấn Biên, xin với Từ phi được cưới Hồ Dương công nương làm vợ. – Giọng chàng vang trong khu quán nhỏ, hòa cùng với tiếng tre rì rào. Chàng nhìn thẳng vào mắt Từ phi. Đôi mắt bà vẫn còn hoe đỏ. – Thần không thân không thế, tuổi nhỏ không được học hành, không biết lễ nghi, duy chỉ có tấm lòng và bản thân là có thể trao cho người khác. Thần biết mình chẳng có gì để hứa hẹn, duy chỉ có thể xin vì công nương mà làm tất cả những gì nàng cần, thương yêu công nương đến hơi thở cuối cùng. Thần chẳng có gì để trao cho nàng ngoại trừ bản thân mình. Từ phi, xin người cho phép.

Đáp lời chàng chỉ có sự lặng im. Từ phi lặng im. Ngọc Du lặng im. Cả cô hầu gái cũng không thốt ra lời. Chỉ có ngọn gió và rặng tre rì rào. Rì rào. Xao xác. Mặt trời đã gần đứng bóng. Nắng đã dõi thẳng vào nơi họ.

- “Hơi thở cuối cùng” là một điều không nên nói. Chàng trai ạ, cậu qủa thật đúng là không được dạy dỗ rồi. – Từ phi thở dài. Chàng nghe như dòng nước lạnh xối xuống tâm can. – Khi đã gả nó cho cậu, ta mong hai người sống đời ở kiếp được với nhau hơn.

Bà nói rồi vẫy tay cho cô hầu gái, bảo đỡ bà đứng dậy. Ta về thôi, bà quay lại bảo Ngọc Du. Khi nàng đi qua chàng, ngón tay nàng nhịp khẽ vào vai chàng.

Mẹ đồng ý rồi, nàng ra hiệu.

- Nó chân chất chứ không thô lỗ, bỗ bã chứ không man dại. – Từ phi nói với nàng khi cả hai đã về đến phòng. Nàng chuyên chú rót trà cho bà uống trước bữa trưa, không ngẩng lên.

- Mẹ đã từng bảo không thích con lấy tướng lãnh. – Nàng nói, nhẹ nhàng. Từ phi nhìn lớp khói mỏng bốc lên từ ấm trà, lời nói như hơi thở.

- Lúc ấy ta đau buồn mà nói vậy, chứ ta hiểu mà. Họ Nguyễn ta chỉ gả con gái cho gia đình các võ tướng, không thì lại phiên thuộc, kẻ thù. Tất cả chỉ nhờ vào vận số của các con, thời loạn làm sao có thể nói trước được điều gì. Loạn năm Canh Ngọ, bốn Thái trưởng công nương bị giết cùng với chồng họ. Thái trưởng công nương Ngọc Quận lấy cha của Nguyên phi, giận chồng bỏ về đến Hội An bị Tây Sơn giết dìm xuống sông, tôi tớ chỉ còn có thể nhặt xác mà mai táng. Trong cái thời này, phụ nữ chỉ cần lấy được người mình yêu thương là đủ, là hạnh phúc lắm rồi.

Nàng không biết yêu thương bất cứ thứ gì, Ngọc Du chợt nhớ đến lời nói ấy, vẫn không nhìn mẹ mình.

Nếu hắn không làm hại chị thì chị cũng làm hại hắn, em trai nàng đã nói. Cậu ta vẫn có tầm nhìn thông suốt lạ lùng. Và nàng bỗng thấy mình căm ghét sự thông suốt của cậu ta đến lạ.

20

Đúng như Ngô Tùng Châu đã nói, chúa Nguyễn đã cho tập hợp tất cả các quan lại không bận việc quân về Sài Côn. Do vậy, ngày vị chúa định cho Võ Tánh ra mắt Quốc mẫu cũng đến tận cuối năm.

Hiện tại, chàng đang cùng các tướng đứng trong sân luyện võ của đồn Cầu Sơn chờ nghe đọc lệnh. Một lần nữa, chúa Nguyễn đến gặp Võ Trường Toản, lần này đem theo đám học trò của ông chứ không gọi chàng. Trở về, vị chúa đã có được bản Mười phương sách cứu quốc và phục quốc do người xử sỹ Gia Định tặng. Cùng những học trò của ông, vị chúa hẳn đang quyết tâm biến những phương sách ấy thành hoạt động thiết thực.

Trên bục cao, chúa Nguyễn đã bước ra. Bên cạnh ngài ta là viên quan Chế cáo mới được bổ nhiệm vào Hàn lâm viện Ngô Tùng Châu. Đưa tay ra hiệu cho mọi người im lặng, vị chúa cất tiếng, giọng nói không cần cất cao nhưng vẫn vang trong sân rộng:

- Ngày trước sau cuộc rối loạn, ta đã phân chia quân nội thuộc thành năm dinh Tiền, Hậu, Tả, Hữu, Trung, rồi cứ thế mà phân bổ tướng sĩ binh lính tùy theo chiến cuộc. Chiến tranh liên miên không dứt, người trong các dinh xáo trộn, nghĩ đã đến lúc phải sắp xếp lại cho mỗi người phát huy sở trường, mỗi đoàn quân thực hiện đúng nhiệm vụ để đạt được hiệu qủa cao nhất. Quân đội qúy ở chỗ tinh luyện. Quân ta tuy đều là hào kiệt nghĩa sĩ, danh tướng công thần nhưng từ lâu đã chỉ ưa hoạt động độc lập chứ không được huấn luyện về chiến trận binh thư, chỉ hoạt động trong vùng chứ khó có thể ra biển lớn, chỉ là nhóm, là đội chứ không phải là một đạo quân hùng. Nay ta điều phối quân đội, trước là để ổn định công việc, sau là để mọi người mọi kẻ có lề thói, phương châm mà luyện tập. Các tướng nghe lệnh mà thực hiện cho đúng.

Ngô Tùng Châu cầm bản viết ra phía trước, cao giọng đọc:

- Nay phân chia quân thành hai đạo chính gồm Thủy quân và Bộ quân. Bộ quân gồm sáu dinh: Tiền phong, Tiên quân, Hậu quân, Tả quân, Hữu quân và Trung quân.

Lĩnh Tiên phong dinh là Khâm sai Tổng nhung Chưởng cơ Võ Tánh.

Lĩnh Tiền quân dinh là Bình Tây Đô đốc Quận công Lê Văn Quân.

Lĩnh Trung quân dinh là Tiền chi Hiệu úy Khâm sai Tổng nhung Chánh cơ Nguyễn Văn Thành.

Lĩnh Tả quân dinh là Đô đốc Nguyễn Phúc Huy.

Lĩnh Hữu quân dinh là Khâm sai Đại tư nông Nguyễn Phúc Dụ.

Lĩnh Hậu quân dinh là Khâm sai Chưởng cơ Nguyễn Phúc Hội.

Giao Vệ úy Phạm Văn Nhân lãnh vệ Thần sách thuộc Trung quân dinh.

Ngoài ra, còn có các đạo Pháo binh và Tượng binh. Nay giao cho Cai cơ Trương Văn Giao thiết lập Trường đà lo huấn luyện binh tượng, xây dựng xưởng Chu sư để chế tạo khí cụ sẽ do chúa công đích thân coi sóc.

Thủy quân nay chia làm ba dinh Tiền thủy, Hậu thủy, Trung thủy.

Lĩnh Tiền quân thủy dinh là Khâm sai Chưởng cơ Nguyễn Văn Trương.

Lĩnh Trung quân thủy dinh là Khâm sai Cai cơ Võ Di Nguy.

Danh sách nội vệ và nội ban trong từng dinh cùng tướng cai đội sẽ được niêm yết tại các dinh. Các quan nhận mệnh thi hành.

Các tướng cúi đầu vâng mệnh rồi được chúa Nguyễn cho lui. Khi bóng vị chúa vừa mới khuất, bên cạnh Võ Tánh đã có tiếng cười:

- Trước nay chỉ có năm dinh Tiền, Hậu, Trung, Tả, Hữu, bây giờ lại ở đâu sinh ra một dinh Tiên phong? Chẳng lẽ lại để người ta có chức vụ mà nhận?

Ngoảnh lại, Võ Tánh nhận ra Lê Văn Quân. Viên Đô đốc Chưởng Tiền quân này đang khoanh tay nhìn chàng, nói chỉ vừa đủ cho những người xung quanh nghe thấy:

- Đã có Tiền quân dinh lại có Tiên phong dinh, chẳng hiểu để làm gì? Tiên phong trước nay là vệ thuộc Tiền quân mới phải, Võ tướng quân có nghĩ thế không?

- Đó là việc do chúa công sắp xếp, tôi không biết. – Võ Tánh trả lời, cảm thấy không ưa người đàn ông trước mặt. Thật sự, chàng cũng không hiểu phản ứng của Lê Văn Quân. Khi mới về với Nguyễn quân, chàng đã được ban chức Chưởng cơ Tiên phong dinh, không hề biết rằng dinh quân ấy chỉ vừa mới được đặt ra cùng sự xuất hiện của mình.

- Tôi nghĩ rằng tôi biết. – Lê Văn Quân khủng khỉnh cười. Người trong sân giờ đây cũng phải chú ý đến câu chuyện của hai người. – Đám quân của Võ tướng quân đem từ Kiến Hòa về chẳng biết để vào đâu mới phải, đành cho Võ tướng quân lãnh toàn số quân ấy. Lại không thể để một Phò mã làm Chưởng vệ, Chánh đội tầm thường, thế là nâng thành một dinh quân, đường đường sánh vai cùng kẻ khác. Con đường mà Võ tướng quân xây dựng thật bằng phẳng, thật chẳng như những kẻ đã bán máu bán mạng cho chúa công, lăn lộn sa trường mười mấy năm nay. Chỉ cần ở lại trong Gia Định này, dựa vào sự oán ghét Tây Sơn mà lập thành đội quân chiếm một vùng, lúc thấy chúa công sắp thắng thì ra tham dự lãnh công, chúa công không muốn gây oán nên phải nhận, phải trọng thưởng; rồi cưới một công nương lỡ thì. Chậc, từ kẻ cầu bơ cầu bất một bước lên tiên, vào gia tộc vua chúa nghiễm nhiên, thành tướng sánh vai với kẻ khác đường hoàng. Chẳng cần phải lăn lộn đánh trận, chẳng cần phải phù chúa mệt mỏi, thế mà tôi không nghĩ ra.

Lê Văn Quân càng nói, máu nóng càng bốc cao trong tai chàng. Không đừng được, chàng buột miệng:

- Nếu đã giỏi thì chúa không phải thua chạy để phải phù với chả trợ!

Choang! Võ Tánh lùi lại vừa kịp với tiếng gươm rút ra khỏi vỏ. Lê Văn Quân mắt hằn đỏ máu, giơ gươm chĩa thẳng vào mặt chàng mà rít lên.

- Mày nói gì, thằng nhóc?

Người bên cạnh xôn xao. Nguyễn Văn Nhơn đứng gần đó lấy giáo gạt gươm của Lê Văn Quân xuống, cười cầu hòa mà nhỏ giọng nói với ông ta:

- Chúa công mới ban chức mà tướng đã cãi nhau thì còn thể thống gì? Gươm giáo chỉ để nói chuyện với kẻ thù, sao lại chĩa vào đồng đội?

- Ta không đứng ngang hàng với kẻ thế này! – Lê Văn Quân đã hạ gươm xuống nhưng mặt ông ta đỏ phừng phừng. – Anh nghe nó phỉ nhổ chúng ta kia! Nó phỉ nhổ cả những người đã chết, bao nhiêu máu xương của chúng ta! Cái loại gặp thời gặp thế mà ngông cuồng ngạo mạn thốt ra những lời chó má như thế lại có thể đứng cùng với ta được à?

- Võ tướng quân chỉ lỡ lời thôi. Cậu ấy tuổi trẻ nóng nảy, anh chấp làm gì? – Nguyễn Văn Nhơn vẫn mềm giọng thuyết phục Lê Văn Quân, lấy gươm của ông ta nhét lại vào vỏ. Ông đưa mắt cho Võ Tánh.

Chàng đứng yên trong sân, thấy mọi ánh mắt đều dõi vào mình. Chàng cũng nhận ra lời nói vừa rồi của mình là sai lầm khủng khiếp. Nhưng chàng vừa mới mở miệng định xin lỗi, Lê Văn Quân đã cười gằn:

- Được, cậy mình giỏi thì đi đánh trận đi, và nhớ đừng để thua trận nào. Để rồi xem cái loại làm vương làm tướng trong đầm lầy, dựa hơi đàn bà mà khua môi múa mép thì được trò trống gì. Võ tướng quân, nhớ đừng để thua trận, nếu không thì có nhảy vào lửa cũng không hết nhục nhã được đâu!

Nói rồi ông ta đùng đùng quay đi, thanh gươm va vào cán dao bên hông loảng xoảng. Nguyễn Văn Nhơn lắc đầu nhìn theo, lại bên Võ Tánh vỗ vai nhẹ.

- Anh ta tính tình kiêu ngạo, hay nghi ngờ như thế, đừng để bụng. Nhưng Võ tướng quân cũng phải cẩn thận lời nói của mình mới được.

- Xin lỗi. – Võ Tánh lầm bầm. Nguyễn Văn Nhơn bật cười.

- Chúng ta đều là quân tướng xuất thân nơi thảo dã, tất nhiên lời nói hành động không được cẩn trọng, tôi cũng can mọi người quen rồi. Nhưng Võ tướng quân được chúa công ưu ái chỉ định làm Phò mã, ở địa vị mà mọi người nhìn vào thì phải cẩn trọng hơn người khác mới được. Những lời vừa rồi nếu chúa công nghe thấy thì anh không tránh được trách phạt đâu.

Cúi đầu cảm tạ lời khuyên của người Vệ úy, Võ Tánh cũng tự thấy xấu hổ. Nhưng chỉ trong một buổi sáng, chuyện cãi cọ giữa chàng và Lê Văn Quân đã lan khắp doanh trại. Người biết cả tính Lê Văn Quân và chàng thì chỉ cười, nhưng đến chiều thì, theo lời Võ Văn Lượng, chàng đã biến thành “một tên Phò mã nghênh ngang”.

- Trước nay tôi tưởng mình là ngạo mạn bậc nhất rồi, giờ đến đây lại thấy thua hai người, một là Lê Văn Quân, hai là anh. – Võ Văn Lượng cười. Nhưng Võ Tánh không nặn ra được một nụ cười khả dĩ. Có lẽ vẻ mặt chàng rất tệ nên Võ Văn Lượng lại thấy cần phải an ủi.

- Quan trường là như thế, thị phi đủ cả, anh để tâm làm gì? Chúng tôi biết anh thế nào, anh biết anh thế nào, công nương của anh biết anh thế nào, vậy là đủ. – Ông nói. Chàng chỉ nằm lăn ra tấm chiếu trải trên nền đất doanh trại, nhìn những lỗ thủng trên tấm vải bạt trên đầu mà thở dài.

- Thế này nếu thua trận thì tôi chỉ có nước trầm mình xuống biển cho xong.

- Đừng có học đòi theo thói ngạo mạn của kẻ khác. – Võ Văn Lượng nạt, nhưng chàng đã không nghe ông nữa.

Khối nghi ngờ dần lớn lên trong chàng. Rốt cuộc thì Lê Văn Quân không phải không có lý do để nổi nóng. Dinh Tiên phong chưa hề có mặt trong Nguyễn quân trước đây, chỉ xuất hiện để đặt tên cho hai đội quân mà chàng và Nguyễn Văn Trương đưa về. Nhưng khác với Nguyễn Văn Trương đã có hơn mười năm chinh chiến, đã bảo vệ cả đội thủy quân của chúa Nguyễn khi còn là một đội quân yếu ớt, thiếu thốn, chàng lại chỉ là một kẻ tự xưng danh trong rừng, lẩn lút mà đánh Tây Sơn nơi hoang vắng, vốn không thể coi là một tướng quân đúng nghĩa. Đã thế, chàng đến với chúa Nguyễn khi Nguyễn quân đã chiếm được hơn một nửa Gia Định. Không muốn gây oán, có lẽ là thế, chúa Nguyễn không muốn phải giải quyết bằng vũ lực với một lực lượng của Gia Định nên mới tìm mọi cách chiêu dụ, đãi ngộ chàng. Chàng đã làm được gì ngoài một trận đánh đồn Cầu Sơn đã bị hút hết quân lực vào trận chiến với đội quân của vị chúa? Ngài ta dùng quân của chàng như một thứ bổ trợ, chính thế. Để quân của chàng chờ đợi mỏi mòn rồi bảo phụ cho Nguyễn Phúc Hội chiếm Ba Giồng, vòng qua tập hậu ở Bến Nghé. Quân của chàng chưa bao giờ thật sự đứng cùng hàng ngũ trong trận chiến của ngài ta. Ngay cả Nguyễn Văn Trương kia rồi cũng được đưa vào Tiền quân thủy dinh, danh phận đàng hoàng. Là Chưởng Tiền quân, hẳn Lê Văn Quân cũng phải thấy sự trùng lặp của Tiền quân và Tiên phong, sự phân chia có vẻ qúa không cần thiết.

Rốt cuộc thì chàng đã làm gì đáng để được đứng cùng với họ?

Không thể để một Phò mã giữ chức vụ qúa tầm thường, hay đó là lý do? Nhất là một Phò mã không danh không phận, không có bất cứ thứ gì như chàng. Dù nói như thế, chúa Nguyễn cũng vẫn phải coi trọng thể diện của chị mình. Nâng Tiên phong thành một dinh quân hữu danh vô thực, ngài ta vừa có thể kiểm soát chàng, vừa đưa được chàng đến với danh phận “xứng đáng”. Biến chàng thành trò cười cho kẻ khác.

Bức thư định hôn vẫn để trên bàn, đỏ quạch trong mắt chàng. Họ đã vui mừng biết bao, những phó tướng, quân sĩ của chàng đã vui mừng biết bao khi biết chuyện. Họ không biết rằng chàng đã phải qùy xuống chân một bà lão, họ không biết rằng chính Ngọc Du đã mắng thẳng vào mặt chàng trước những gì nàng cho là vô lễ. Giờ đây, nghĩ đến điều đó, chàng không thể đừng mà cảm thấy nỗi buồn ứ lên trong lòng.

Là như thế, những gì mà người khác, những người đã sống lâu hơn chàng, nhiều hơn chàng, luôn nhắc nhở: Sự khó khăn của một cuộc hôn nhân chênh lệch. Chàng đã nghĩ mọi thứ qúa giản đơn, qúa đơn thuần. Đó không phải là một gia đình đơn thuần. Đó là gia đình của một vị chúa. Khanh nghĩ mình là ai, chàng như có thể thấy lại nụ cười nhếch môi của vị chúa. Ngọc Du luôn bảo chàng qúa kiêu ngạo, giờ đây thì chàng nhận ra nàng nói đúng. Kiêu ngạo một cách vô tâm và ngây ngô, cứ nghĩ rằng mình thật sự đáng giá trong mắt người khác như mình tưởng.

Chàng nhắm mắt, cố để dứt khỏi cái cảm giác lợn cợn buồn buồn nhoi nhói trong lòng, dâng lên cổ. Khi chàng mở mắt, phong thư vẫn nằm đó, một màu đỏ rưng rức, nhức nhối.

- Tôi ra ngoài đây. – Chàng nói và đứng dậy, không nhìn lại Võ Văn Lượng.

Buổi chiều mùa thu đến sớm. Trăng non đã mờ nhạt hiện ra phía chân trời. Quân lính đã về lại doanh trại sau một ngày luyện tập, đang xôn xao quanh các nồi cơm được đem tới. Có ai đó đã đem sáo ra thổi, tiếng nỉ non não lòng lan theo gió khi gần khi xa. Chàng đi qua các khu trại sáng ánh lửa, vô thức mà vừa mong chờ vừa e ngại nghe thấy cái tên mình trong đám đông. “Tên Phò mã nghênh ngang”, Võ Văn Lượng đã nói, đó có phải là điều Ngọc Du cảnh cáo với chàng ngày trước? “Phò mã tốt áo”, câu ngạn ngữ ấy chưa từng có ý nghĩa thật sự nào với chàng cho đến bây giờ.

Chàng ra đến ngoài cửa lũy mà không nghe thấy một tiếng gọi. Phố Cầu Sơn mở trước mắt chàng, vẻ tịch mịch lạ lùng của phố chợ trong chiều muộn. Ta sẽ để họ chuyển đi, vị chúa đã nói vào lúc nào đó. Khu đất ngập mặn này không phải là nơi thuận lợi để sinh sống, huống hồ gì buôn bán. Nhưng mọi việc phải chờ khi kết thúc chiến cuộc đã.

Kết thúc chiến cuộc, ngay cả vị chúa cũng không chắc chắn về từ ngữ trên môi mình. Kết thúc chiến cuộc – với Phạm Văn Sâm? Với Tây Sơn? Với Xiêm La, Chân Lạp? Vùng đất này chưa bao giờ bình yên. Chưa bao giờ bình yên. Chàng nhìn mảnh đất ấy, bây giờ, vẻ đìu hiu của những gì đã bị phá vỡ, những gì được xây dựng để chắp vá, lắp ghép vội vàng. Những con đường xiên xẹo len giữa các ngôi nhà cũng mang vẻ ngả nghiêng buồn bã. Ánh lửa cam buồn bã. Bóng cây và dòng sông nghiêng mình dưới trăng, nét viền buồn bã của đám mây trời. Họ đã đến đây, trên mảnh đất bị hủy hoại, rồi lại tiếp tục bị hủy hoại. Những gì chúng ta có được là một mảnh đất nát bươm, chàng nghĩ đến lời của Võ Trường Toản. Những con người cũng nát bươm, rời rã. Những gì chúng ta nắm được chỉ là một giấc mơ.

Vì giấc mơ ấy, chàng đã khởi đầu con đường này, đã đến nơi đây. Vậy mà con người nhiều khi còn làm cho chàng cay đắng hơn cả trong căn bệnh nặng nề nhất, cay đắng hơn cả khi đứng trước kẻ thù, hổ dữ. Mọi việc đều đã không đơn giản nữa, kể từ khi chàng bắt đầu cuộc hành trình của mình. Hay là do chính chàng đã dấn thân vào con đường không nên đi? Mọi việc sẽ đơn giản vô cùng nếu chàng chỉ như Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, giữ một chức Cai đội nho nhỏ nào đó, và ra trận theo những gì người trên chỉ bảo. Chàng không phải là kẻ có nhiều tham vọng. Chính chàng đã dấn thân vào một hoàn cảnh chỉ đem lại rắc rối cho mình.

Nhưng bảo phải bỏ Ngọc Du thì chàng không làm được. Cũng chẳng phải lỗi của nàng khi là một công nương. Nàng chưa bao giờ vui sướng với điều ấy. Vị trí ấy chưa bao giờ đem lại hạnh phúc cho nàng. Chàng chỉ muốn đưa nàng đi, thật xa gia đình đó, nhưng cũng không thể. Vị chúa nắm lấy họ, trong lòng bàn tay mình, trong vòng vây giăng giăng quanh họ, trong cả chính nàng, chính chàng. Vô thức, họ đã gắn kết với vị chúa, cùng nhau gắn kết với vị chúa hơn cả họ muốn.

Như giờ đây, chàng đang cảm thấy cay đắng như không thể chịu đựng nổi khi nghĩ rằng ngài ta vốn chẳng coi trọng gì chàng. Chàng vừa thấy giận dữ như thể bị đánh lừa, vừa thấy buồn trống tuếch trống toác.

Mà nghĩ đến Ngọc Du thì bất chợt chàng lại thấy nhớ nàng đến phát điên lên được.

Sau hôm gặp Từ phi, nàng đã không còn xuất hiện ở trong doanh trại. Tất cả công việc của nàng đã được giao cho các vị quan mới đến. Chàng cũng không thấy nàng ở lũy. Có thể vị chúa vẫn còn giận và chưa cho lệnh thả lỏng nàng. Có thể nàng qúa bận rộn tiếp chuyện, chăm sóc những người mới về, trong đó có cả mẹ nàng. Để gia đình có thể sống thoải mái, vị chúa đã đưa họ về làng Tân Lộc dựng nhà riêng. Ngôi làng chỉ cách lũy một đoạn không xa lắm, nhưng chàng không có mấy dịp đi qua.

Bây giờ nàng đang làm gì?

Ngọc Du thấy mình chán đến phát điên. Từ sáng, mẹ Cả đã đem về một lô danh sách con gái trong vùng, tên tuổi và ngày giờ sinh, kể cả hình vẽ của họ. Và bắt buộc, nàng cùng Ngọc Tú phải ngồi cạnh bà dò lá số tử vi cho chừng ấy người. Những lá số có cung Phu đẹp được xếp ngay ngắn sang bên, con nhà gia giáo được khuyên thêm một dấu đỏ. Nàng biết mẹ Cả đã bắt đầu thực hiện nỗ lực tìm thêm cháu nội nối dõi tông đường. Bà giống như con trai, có sự nóng nảy lẫn kiên quyết mà không ai có thể lay chuyển nổi.

Nhị phi đôi lần đi qua chỗ họ, lúc thì để đem cơm, lúc thì để dâng trà. Cô chỉ nháy mắt với nàng mà cười. Nguyên phi đã đến đồn lũy ở cạnh vị chúa. Không biết họ đã nói chuyện gì với nhau, nhưng từ khi về, Nguyên phi đã dần dần bớt lặng lẽ. Tuy nhiên, rào cản vẫn còn đó, lơ lửng giữa họ. Nguyên phi bắt nhịp lại với cuộc sống ngày xưa rất nhanh, chăm chú quan tâm đến công việc của chồng, nhưng mỗi lần trở về phòng riêng, nàng lại thấy cô có vẻ mệt mỏi. Cô luôn luôn có vẻ mệt mỏi.

Chỉ khi tàu rời đi rồi ta mới thấy đau đến như tưởng chết được. Nguyên phi có lần đã nói với nàng. Cô thì thầm, thì thầm. Nắng chiều chiếu hắt qua song cửa không làm sáng được căn phòng tối mờ mờ. Đứa con ta mang nặng đẻ đau, đã ôm nó mà chạy qua bao ngả đường, nguyện chết cho nó được sống, vậy mà đành phải để nó đi như vậy, chính tay mình lại gửi nó đi như vậy. Từ hôm ấy, ta cứ thấy mình như bị rút kiệt lần lần. Như thể cả thế giới này không còn gì quan trọng nữa.

Không còn gì quan trọng nữa, dù là cả thế giới, dù Nguyên phi vẫn cố hết sức làm tròn nghĩa vụ của mình. Cô chỉ mong ngóng, chờ đợi. Mục sư Hồ Văn Nghị đã được cấp tốc cử đến phần đất Tiểu Tây dương mà Phú Lang Sa đóng quân, nhưng vẫn chưa có ai trở về. Vị chúa đã trở nên bực dọc khi được hỏi đến tin tức của đoàn sứ bộ Tây dương này. Bá Đa Lộc bị Toàn quyền Phú Lang Sa câu thúc ở đất nhượng địa không xuất binh, Nhị phi khe khẽ nói với Ngọc Du, ra hiệu cho nàng giữ bí mật, ngay cả với Nguyên phi. Ông ấy đang thuyết phục vị Toàn quyền. Chúa công thì lo lắng quân ở Gia Định vừa thiếu vừa mỏng, hết năm là đến mùa gió bấc chưa biết thế nào, bảo Bá Đa Lộc cố gắng đến hết mức. Nhưng cũng có nghĩa là Cảnh còn lâu mới có thể về. Đó là bí mật không thể nói với Nguyên phi, chỉ có thể để cô ngóng chờ thấp thỏm từng ngày.

Bây giờ, bên cạnh mẹ Cả trong cuộc truy lùng thê thiếp cho chúa Nguyễn, nàng thấy chán ngán đến phát điên. Ngọc Tú vẫn đều đều đọc những bản ghi chép của thầy số và các bà mai đợi mẹ Cả gật hoặc lắc đầu. Ngọc Du ngừng tay khoanh dấu đỏ, nhìn ra bầu trời đã phủ bóng tối đen thẫm. Tiếng vạc đã nghe văng vẳng đâu đây. Nàng đứng dậy, viện cớ nghe tiếng mẹ gọi để đi ra ngoài. Mẹ Cả dường như cũng đã mệt, bảo Ngọc Tú xếp những tờ giấy còn chưa xem lại, cho tất cả đi về.

Gió thổi qua mặt Ngọc Du mát lạnh khi nàng ra sân. Bụi hoa dạ lý bên hiên đã tỏa hương thơm ngát. Giàn hoa trước cửa mới trồng từ khi xây căn nhà này đã khép cánh. Qua tán lá lưa thưa, nàng có thể thấy khoảng đất trống trước nhà xanh thẫm trong trăng. Ngôi nhà nằm ngoài ngôi làng, cách đình chỉ vài bước chân, lấy làng làm bức rào bảo vệ, phía sau là đồng ruộng đang vào mùa gặt với những đống rơm chất cao qúa đầu người. Mùi lúa thơm lẫn vào trong hương hoa thành vị say say gần như hơi rượu. Có lẽ nên giấu một ít gạo để nấu rượu, nàng nghĩ và cười thầm với cái ý nghĩ ấy. Ra đến bờ ruộng, rơm êm êm dưới chân nàng. Mùi ruộng lúa phương Nam có vị mằn mặn, không như ruộng phương Bắc hanh hao ngọt. Phía xa là đầm nước nhỏ, mùa này hoa sen đã tàn hết, chỉ còn mấy bông súng chĩa những chiếc cánh cứng nhọn màu tía lên trên đám bèo hoa dâu lấm tấm. Nàng dừng lại dưới bóng cây bên đầm nước, ngồi xuống đống rơm còn tươi mùi lá cỏ. Vẩn vơ, nàng nhặt một hòn đá ném xuống hồ. Con ếch xanh trên bờ giật mình nhảy ùm vào trong nước. Đám bèo tan ra, xao động một lát rồi lại phủ khắp mặt hồ. Con ếch xanh choãi chân bơi về phía bên kia, nhảy lên bụi cỏ. Những con dế hoảng hốt kêu reng réc.

Nàng cười vu vơ một mình.

Nàng chẳng ngạc nhiên khi thấy chàng xuất hiện từ bên kia bờ hồ, nơi con ếch xanh vừa biến mất. Nàng chỉ nhướn mày. Phía bên kia bờ hồ, nghĩa là vòng qua đằng sau ngôi làng, đi qua ruộng. Chàng không muốn người khác biết sự xuất hiện của mình. Và nàng cũng đã đủ quen thuộc để nhận ra trong mắt chàng có điều phiền muộn. Khuôn mặt chàng đã mất đi ánh sáng tươi rói dường như trẻ thơ. Ánh trăng chiếu lên chàng cũng bất chợt trở nên buồn bã.

Cho nên, nàng chỉ im lặng khi chàng tiến lại, ngồi xuống bên mình.

- May qúa, tôi cứ nghĩ không biết phải tìm phòng nàng ở đâu nếu không thấy nàng. – Chàng cười nói. Thản nhiên nói về một vụ đột nhập tư gia chúa Nguyễn. Như thể điều ấy là đương nhiên.

- Sao anh lại tới đây? – Nàng hỏi. Chàng nằm lăn trên đống rơm, chỉ nhìn nàng bằng cặp mắt dịu dàng.

- Tôi nhớ nàng.

Một lần nữa, nàng nhướng mày.

- Anh gặp chuyện gì phải không? – Cuối cùng, nàng hỏi. Chàng chớp mắt, nhìn ra mặt hồ lấm tấm hoa bèo. Trăng nhạt xạc xào trên đầu họ, đung đưa bóng lá dừa nước. Chàng với tay bứt lấy một tán, rồi chậm rãi tước nhỏ từng chiếc lá. Nàng quan sát bàn tay chàng thoăn thoắt bện, quấn, đan, thắt từng mảng lá vào nhau. Cuối cùng, chàng đưa cho nàng một con cào cào lớn còn xanh màu lá, thơm mát hơi cỏ.

- Đẹp không? – Chàng cười. Nàng vuốt đôi râu bằng sợi gân dừa được vuốt cong, không trả lời. Một lần nữa, chàng lại ngả mình xuống đống rơm, nhìn vu vơ lên trời.

- Tự nhiên tôi lại nghĩ, mình hiểu tại sao những kẻ xuất thân càng thấp kém, khi đạt được quyền lực trong tay lại càng trở nên tham vọng đến mức bạo tàn. – Chàng chợt nói, không nhìn nàng. – Tại sao những cuộc lật đổ đi liền với thảm sát, tại sao cái ác của những kẻ vốn thiện lương lại càng đáng sợ, mù quáng, điên cuồng. Tham vọng của những kẻ xuất thân hèn kém mang rất nhiều tính chất hủy hoại, từ xưa đến nay vẫn vậy. Từ xưa đến nay luôn luôn là như vậy. Đó là do tham vọng, chỉ do tham vọng của họ mà thôi. Nó trở thành lửa đốt cháy trái tim họ.

Bóng trăng vẫn đong đưa trên đầu họ, trên mặt hồ và cánh đồng vừa qua mùa gặt chỉ còn trơ gốc rạ. Cánh đồng trải dài trước mắt họ, kết thúc bằng mép viền đen thẫm của khoảng rừng đằng xa. Con cào cào bằng lá mát lạnh, đôi râu cọ vào mu bàn tay nàng nhột nhạt. Nàng quay nhìn đôi mắt chàng tối đi trong ánh trăng. Vẻ buồn bã xa lạ đối với nàng. Có vẻ xa lạ với cả chính chàng.

- Thế nên sau này cưới nhau rồi, chúng ta sẽ xây một ngôi nhà nhỏ cạnh cái hồ như thế này. Kết thúc chiến tranh, chúng ta sẽ về thả cá và trồng hoa. Mà lúc đó tôi có thể từ quan được không nhỉ? – Chàng hỏi ngay sau câu nói. Rồi lại trả lời ngay sau câu hỏi. – Một khi đã bước vào rồi thì khó có thể bước ra.

- Các công nương thường được gả cho con cái quan lại, rất nhiều người trong số họ chỉ là tập tước chứ không tham gia công việc triều đình. – Nàng nói. Chàng mỉm cười.

- Đúng vậy, sau này chúng ta sẽ không để con mình vào quan trường làm gì. Chỉ cần một miếng đất để thờ phụng tổ tiên là đủ.

Anh đúng là có chuyện gì rồi phải không, nàng muốn hỏi, nhưng biết rằng chàng sẽ không trả lời, như chàng đã tránh né trả lời. Danh phận qúa cao thì áp lực cũng rất lớn, nàng nhớ đến câu nói ấy, có vẻ như chàng đã phải chịu ảnh hưởng của nó. Quan trường, chàng nói về nó với vẻ chán ghét, hoặc là mệt mỏi. Chàng vốn là một người đơn thuần, qúa đơn thuần để thích ứng với một nơi như thế, với những gì nàng đã đặt lên vai chàng.

Tại sao mọi chuyện lại thành ra thế này, nàng lại nghĩ. Nàng chẳng thấy mình giống một cô dâu sắp về nhà chồng. Sự đồng ý của mẹ chỉ khiến nàng nhẹ lòng trong một thời gian ngắn, rồi những ngày sau đó nàng lại trở nên trống trải đến hẫng hụt. Tương lai, giờ đây chàng lại nói về nó. Những gì đặt ra trước mắt họ vẫn chưa được, không thể giải quyết, chỉ có họ là bị đẩy ra phía trước, không còn đường quay lại. Đó là lỗi của nàng, phải chăng? Nếu như nàng nói chuyện với vị chúa khôn khéo hơn, mọi sự đã không thành ra thế này.

- Vừa rồi ta mới biết nàng sinh cùng năm với chúa công. – Chàng chợt nói. – Nhưng chúa công sinh vào đầu năm, phải không?

- Phải, rằm tháng giêng. Cho nên gọi là chị nhưng chỉ cách có mấy ngày thôi. – Nàng cười nhẹ. - Giống như chị em sinh đôi vậy, mở mắt đã thấy bên cạnh mình có ngài ấy. Như lòng bàn tay, lật ra là thấy.

Chàng im lặng. Ngón tay chàng chạm vào mu bàn tay nàng, ngần ngừ một lát rồi nắm lấy.

Nàng không phản ứng cả khi chàng kéo nàng xuống. Nhưng chàng chỉ ôm nàng, mắt nhìn lên bóng trăng suông. Từ đầu dòng sông xa tít, tiếng bìm bịp kêu văng vẳng não lòng. Nước lớn, chàng nghĩ. Nước đang lên theo tiếng chim kêu, gọi mãi, gọi mãi trong bóng đêm cho đến khi nước rút.

Chàng có thể nói gì với nàng được đây? Nói rằng chỉ vì một câu ngốc nghếch không suy nghĩ, chàng đã trở thành kẻ bị dè bỉu khắp nơi? Hỏi rằng thật ra chúa công em trai nàng, cả nàng nữa, có coi trọng chàng như chàng đã tưởng? Mà thật ra thì chuyện đó có quan trọng gì? Trước nay chàng vốn cho rằng mình là một kẻ không có nhiều tham vọng, giờ lại thành ra qúa để ý lời kẻ khác như thế? Trước nay chàng chỉ cho rằng cuộc chiến này là điều cần làm, giờ nó lại hóa ra trở thành nơi để chàng ganh đua giành giật với kẻ khác? Vị chúa đã cảnh cáo chàng ngay từ khi gặp nhau lần đầu bên bến sông Long Hồ, ngay từ khi ngài ta nghe về chuyện chàng và Ngọc Du, hóa ra là như vậy. Hóa ra là như vậy, cuộc đời và dòng chảy của nó nhiều khi không để người ta biết mình bị cuốn đi đâu.

Ngay cả sự tổn thương này của chàng cũng thật sự có ý nghĩa gì?

Tiếng bìm bịp kêu nước lớn văng vẳng trong đêm, như từng giọt trăng rơi.

Cánh dơi nào vừa bay vụt qua bóng trăng.

Chàng thấy buồn đến ngẩn ngơ cho điều gì mà chàng vẫn chưa hiểu rõ. Những giấc mơ. Sự ngây thơ và những giấc mơ. Tất cả chỉ vừa vụt qua đã lìa xa, tựa như cánh chim trong bóng tối, tựa như tiếng kêu trong bóng tối. Đêm phương Nam buồn đến não lòng, đến se thắt cả tim. Dòng nước, tiếng côn trùng, sự đơn côi của loài vật ăn đêm và những cuộc kết hợp, những cuộc gặp gỡ  trong bóng tối chỉ làm động cành cây ngọn cỏ. Trên đầu họ là mênh mang khoảng trống, mênh mang bóng trăng. Dưới chân họ, dưới tầng tầng lớp rơm, lớp cỏ, lớp đất phù sa bồi đắp theo từng con nước, là những gì đã bị hủy hoại, chôn vùi. Tất cả chỉ hiển hiện trong bóng tối, nỗi buồn, nỗi buồn không có điểm khởi đầu cũng như nơi kết thúc, như gió mang ánh trăng vãi tung toang vào mây, như hơi nước từ những đầm lầy và dòng sông ngấm vào trong từng hơi thở.

Nằm ngả đầu lên vai chàng, Ngọc Du chỉ lắng nghe tiếng tim chàng đập. Đều đặn, chậm rãi, vững chãi và êm ả. Con người. Nàng chưa từng biết một con người nào như thế. Từ lâu nàng đã tránh né sự gần gũi với con người, ngay cả mẹ. Ở cạnh mẹ, nàng chỉ thấy buồn thương. Giờ đây, nàng vẫn cảm thấy buồn thương. Con người này đang bị nàng cuốn vào đâu? Trở về, chàng nói. Sau chiến tranh, chúng ta sẽ trở về. Nhưng đó là gia đình của nàng. Gia đình của nàng không phải là nơi để trở về.

Con cào cào bằng lá vẫn ở trong tay nàng. Nàng đặt nó lên lớp rơm. Ngắm nghía lớp lá đã hơi ngả màu thẫm lại ở những phần bị tước đi.

Nếu có ai thấy họ bây giờ, chắc vị chúa sẽ cho nhốt nàng hẳn lại. Dù đã định hôn, họ vẫn còn là hai người xa lạ. Nhưng giờ thì nàng không nghĩ về việc đó nữa. Nàng đã phải chịu một ngày chán ngán với những giấy tờ của mẹ Cả. Chúa công đã ném nàng trở về đây, không một lần nhìn lại nàng.

Những con dế tấu khúc nhạc khan rè cũ kỹ của chúng. Những con đom đóm tung hê cuộc đời chúng trong thứ ánh sáng xanh chập chờn. Những con ếch nhái ngửa mặt gọi trời.

Trong bóng tối, mọi loài đều cố chứng minh cho sự tồn tại của mình.

Vẻ đẹp của sự sống trong bóng tối, nàng nghĩ về điều đó khi ngắm nhìn con cào cào bất động. Có gì đó nhảy múa trong nó, có thể là ánh trăng, có thể là lớp nhựa cây vẫn còn tươi rói, vẫn còn chảy. Và có thể, cả linh hồn của một thứ đã được ban cho hình hài.

Cả lớp rơm dưới lưng nàng, cánh tay nàng. Cả những con bọ nhỏ đang rục rịch trong cỏ. Cả tiếng gõ mõ vọng đến, có thể mẹ nàng, mẹ Cả, Ngọc Tú và Nguyên phi đã lại đến buổi cầu kinh. Sau cái chết và nỗi đau, họ đã trở thành những tín đồ ngoan đạo cho niềm tin, tin vào sự đáp trả, nhân qủa và cả lý do mà con người phải chịu đau khổ trong cuộc đời. Họ tìm đến một Lẽ vô hình để trả lời cho cuộc đời của họ, của bao nhiêu kẻ khác, của những gì xảy ra trên thế giới này. Như thể điều đó an ủi hoặc giải thoát được cho họ.

Nhưng nàng không muốn nghĩ đến điều đó bây giờ. Ngay cả họ nữa, nàng cũng không muốn nghĩ đến.

Chúa công đã ném nàng trở về đây, nàng vẫn còn đau lòng, và sẽ luôn đau lòng vì điều đó. Nhưng nàng không nghĩ đến nó bây giờ.

Nàng đang phạm lỗi, đúng cái lỗi đã khiến nàng phải chịu hình phạt này. Nhưng ở sau đống rơm, núp trong ánh trăng mờ, lẩn trong tiếng kinh cầu siêu thoát, nàng lại thấy tính liều lĩnh ương bướng của mình trở lại, đủ để nàng tin rằng mình sẽ an toàn. An toàn như thể nằm trên một chiếc bè trôi trên sông chẳng biết sẽ bị cuốn đến nơi nào. Đó là một khoảnh khắc. Khoảnh khắc tiếng dế kêu ran, lần chớp sáng của bóng đom đóm nhỏ, ngọn gió thổi.

Chàng không nói ra điều khiến mình phiền muộn, nhưng nếu muốn thì nàng sẽ biết. Nàng có thể hỏi bất cứ ai. Nhưng đó là việc của ngày mai.

- Nếu rảnh thì dạy tôi cách làm con cào cào thế này nhé. – Nàng nói, mỉm cười. Chàng nhìn xuống nàng, ngạc nhiên thoáng qua trong mắt, rồi chàng cũng cười.

Ngày mai, nàng nghĩ. Mọi thứ có thể đổi thay chỉ trong một ngày, cái thế giới cuồng dại này. Nhưng đó là chuyện của ngày mai, những gì chưa được giải quyết và vẫn luôn hiện diện. Cả những gì đã xảy ra và không thể phục hồi. Cả nỗi đau trong lồng ngực và sự oán than khôn bề giải thoát.

21

Những ngày sau đó, mỗi khi gặp Võ Tánh, Lê Văn Quân đều không giấu diếm vẻ ghét bỏ ra mặt. Không may mắn, vì vị trí của hai dinh quân, chàng và Lê Văn Quân luôn phải giáp mặt, đứng rất gần nhau trong những cuộc họp bàn, những lần tập trận. Chỉ cần phất tay áo chạm nhau, Lê Văn Quân đã ngoảnh mặt mà mắng. Không khí căng thẳng đến nỗi cuối cùng chúa Nguyễn phải gọi Võ Tánh đến “bàn việc riêng”.

- Sao khanh chưa đến xin lỗi Lê Văn Quân? – Vị chúa hỏi ngay khi vừa nhìn thấy chàng. Ngài ta lại đang ở sân sau với khẩu súng của mình. Chàng đi theo ngài ta dọc trường tập bắn nhỏ, trên mép viền được vạch trên đất chỉ dấu cho người đứng bắn.

- Xin lỗi về chuyện gì, chúa công? – Không phải chàng không hiểu ý của vị chúa, nhưng thái độ của Lê Văn Quân những ngày qua cũng đã chọc tức chàng cực độ. Là đàn ông, ông ta lại qúa để ý đến một câu nói như thế thì có qúa nhỏ nhen? Huống hồ ông ta là một Quận công Đô đốc, địa vị hơn hẳn người khác, so sánh ganh ghét với chàng có phải là quá hẹp hòi?

Chúa Nguyễn kê súng lên vai, nheo mắt nhìn vào tấm bia gỗ đằng xa rồi mới hạ súng xuống, nhìn chàng lắc đầu.

- Lê Văn Quân là thuộc hạ của Châu Văn Tiếp, từng nhiều lần phù trợ chủ nhân nằm gai nếm mật từ những ngày ở vùng Thượng. Tiếp chết, kẻ đau lòng nhất chính là Quân. Khi ta sang Xiêm La, thân cô thế cô, phải gửi người về nước gọi Lê Văn Quân đang ở Gia Định, ông ta cũng đem quân sang bảo vệ cho ta chẳng nề khó nhọc. Lời khanh chẳng khác nào đạp lên mộ Châu Văn Tiếp nói riêng, những người đã chết nói chung. Nếu Lê Văn Quân cho khanh một kiếm, ta cũng sẽ không trách phạt ông ấy đâu. Lê Văn Quân công nhiều tất nhiên có ý kiêu căng, nhưng xúc phạm đến tình cảm của ông ấy như thế, khanh nghĩ mình không có lỗi gì ư?

- Thế còn tình cảm của thần, chúa công? – Chàng vẫn ương ngạnh. Chúa Nguyễn bật cười, vừa nhét thuốc vào súng vừa nói mà không nhìn chàng.

- Vậy thì khi ra trận bị kẻ thù mắng cho là hạng heo chó, khanh cũng phản ứng như vậy sao, cũng để bụng như vậy sao? Lê Văn Quân hẹp hòi thì chớ, chả lẽ khanh cũng như thế?

- Không phải thế. – Võ Tánh lầm bầm. – Nhưng cũng như ông ấy, thần không phải không cảm thấy có điều chênh lệch.

- Về ta? – Chúa Nguyễn nhướng mày. Đóng báng súng lại, vị chúa chống khẩu súng xuống đất mà nhìn chàng. – Khanh cũng không hiểu tại sao ta lại lập dinh Tiên phong?

Võ Tánh không trả lời. Chúa Nguyễn để thoát ra một tiếng cười nhẹ trước khi lại đưa súng lên vai ngắm bắn. Tiếng súng nổ đanh gọn làm đám chim sẻ đang đậu lên ngọn cây gần đó tao tác bay lên. Viên đạn bay sượt qua hồng tâm, in vào vạch ngoài của vòng tròn.

- Chuyện này nói ra thì không hay, nhưng sự thật trong quân chúng ta không có người lãnh nhiệm vị trí của khanh. – Chúa Nguyễn hạ súng, quan sát thành qủa của mình bằng cặp mắt hơi cau lại. – Nguyễn Văn Thành mưu trí nhưng qúa thận trọng, qúa chậm chạp nếu phải đánh nhanh. Nguyễn Phúc Hội có mưu có dũng, nhưng lại qúa cầu toàn, không phải là người đem quân đi trước trận. Lê Văn Quân bạo dạn nhưng kiêu căng, khinh suất, không thể giữ quân tiến đường. Nguyễn Phúc Huy thiên về mưu lược mềm dẻo. Ở hàng dưới thì Nguyễn Đức Xuyên, Nguyễn Văn Tánh, Tống Viết Phúc đều còn cần phải huấn luyện nhiều về khả năng chỉ huy kẻ khác, không nói đến những người như Tống Phúc Đạm sợ tiếng đại bác, dàn quân đánh trận xong đào hầm trốn xuống nấp.

Quân ta trước nay rất khó khăn trong việc tổ chức tấn công. – Chúa Nguyễn nói sau một tiếng cười khẽ. – Tiền quân qúa nhiều ban vệ, phân chia nhỏ lại càng khó điều động cho những trận đánh cần nhiều uy lực. Tiền quân có thể dùng để lúc tiến lúc lui, vừa tấn công vừa phòng thủ. Tiên phong chỉ có nhiệm vụ tấn công, xông pha hàng đầu vào hiểm địa, cần một người hăng hái dũng mãnh mà cũng biết tiến thoái, nhanh nhạy ứng phó với hoàn cảnh. Võ tướng quân ở gò Khổng Tước ngày trước cầm quân đi đánh Tây Sơn tại Kỳ Hôn, xung đột với Tây Sơn trăm trận đều thắng, cách đánh vừa nhanh, vừa mạnh, vừa đúng nơi hiểm yếu, đúng là mẫu người mà ta cần. Thử thách khanh bằng trận đánh Ba Giồng, Cầu Sơn, ta cũng nhận ra khanh thích hợp vào vị trí ấy.

Phải, ta lập ra dinh Tiên phong vì Võ tướng quân, nhưng vì đó là vị trí thích hợp nhất với khanh, và cần thiết cho ta. Tiên phong dinh là hy vọng củng cố đạo quân tấn công của ta.

Vị chúa để khẩu súng lại cho kẻ theo hầu, lấy khăn lau tay rồi bước về phía bóng râm của cây đa lớn bên kia thao trường. Nắng chan trên sân nhức mắt. Lại sắp một mùa khô nữa đang tới. Đón bình nước được đưa lại, vị chúa ngửa cổ uống cạn. Có người báo rằng bọn Trịnh Hoài Đức đã tới, chúa Nguyễn gật đầu rồi cho họ lui ra.

- Việc này ta cũng đã giải thích với Lê Văn Quân, tất nhiên là không nói đến tính khinh suất của ông ấy. – Vị chúa nhìn lại chàng vẫn im lặng đi theo. Chàng lại thấy sự giễu cợt trong mắt ngài ta. – Nhưng Võ tướng quân đã gây họa bằng câu nói của mình rồi, thế thì ta không làm gì được. Còn Lê Văn Quân muốn tin rằng khanh có tài hay là ta đang nâng đỡ khanh thì tùy theo ông ấy. Nhưng có một điều khanh nên biết, Võ tướng quân: Việc quân là việc hệ trọng, ta không đánh liều sinh mạng đội quân của ta chỉ vì khanh đâu.

Nói rồi vị chúa bỏ bình nước xuống, cầm lấy áo khoác ngoài đi đến chỗ Trịnh Hoài Đức đang đợi. Nắng đã chiếu xiên trên đỉnh đầu họ. Ngồi lại trong sân tập một lát rồi chàng cũng đi về doanh trại, đúng lúc Trịnh Hoài Đức vừa lui ra. Cậu ta vẫy chàng lại, nụ cười mở rộng.

- Tôi vừa được cử đi hướng dẫn cho anh những lễ tiết trong ngày ra mắt và lễ cưới hỏi. – Trịnh Hoài Đức thông báo ngay khi chàng vừa tới. – Còn một vị tôn thất nữa lo việc trong ngoài, có lẽ là Nguyễn Phúc Huy, Chưởng cơ Nguyễn Phúc Hội đã có việc ở Ba Thắc rồi, Nguyễn Phúc Dụ thì không khoẻ. Chúa công nói cả lễ ra mắt, lễ hỏi, lễ cưới phải hoàn thành trước đầu năm sau.

- Sao lại gấp như thế? – Chàng hỏi, thấy lạ lùng. Lễ ra mắt đã vào cuối năm, lại kết thúc lễ cưới trước đầu năm, thời gian qủa là qúa ngắn.

- Chúng ta ai nấy đều bận rộn, nhân dịp mọi người được tập hợp thì chung vui với nhau, lễ tiết cũng tiết giảm tối thiểu. Quân Thanh có đánh vào Thăng Long đi chăng nữa, chúng ta cũng khó có thể nói là mình đã an toàn. Lỡ đâu Thanh lại đánh Tây Sơn lùi hẳn khỏi Bắc Hà, chiến tranh ngày càng lớn thì cả hai đội quân tràn xuống Gia Định này, lúc ấy anh nghĩ Gia Định sẽ biến thành cái gì, lại Xiêm La, Chân Lạp không nhân cớ đó gây rối thêm hay sao? Cho nên chúa công phải cho người lo việc giao thiệp với nhà Thanh trước, việc có ra sao thì chúng ta còn có thể thương lượng. Sứ ta cũng mấy lần được cử đến Xiêm, cốt để xem chừng động tĩnh ở biên ải phía Tây. Gia Định trong ngoài đều có giặc, tương lai không biết thế nào, việc vui mừng chớ nên chậm trễ.

Võ Tánh im lặng. Họ đi xuống con đường dốc lên gò. Trước lũy có một đám đông nho nhỏ, những quân lính đội nón đỏ đang đóng một chiếc thùng gỗ xuống đất. Khi Võ Tánh dừng lại quan sát, Trịnh Hoài Đức cười.

- Thùng bỏ thơ đấy. Chúa công sau khi định lệ cấm đại khống, việt khống là kêu đơn thay hay kêu đơn sai nha môn thuộc huyện, lại sợ người không dám đi kiện việc sai trong địa bàn, lấy cớ cho quan nha làm bậy, người ta nhân cớ mà ức hiếp dân trong vùng, nên lập ra cái thùng bỏ thơ này cho ai muốn kiện cáo, tố giác gì thì đem tới bỏ vào.

- Công việc thật là rắc rối. – Nhìn thêm chiếc thùng bỏ thơ một lúc, Võ Tánh lại đi theo Trịnh Hoài Đức. Cậu ta gục gặc đầu.

- Phải. Bao nhiêu con người, đất đai, đủ mọi loại người, sắc dân, người xiêu dạt chiến tranh về hay đi, kể cả quân Tây Sơn đã được thu nhận đầy trong Gia Định, nội việc lập danh sách hộ tịch đã rắc rối vô cùng. Trước là bảo các địa phương ghi nhận số dân lậu ngụ cư và tàn quân Tây Sơn trong vùng lại đã, ai không có tài sản thì miễn thuế, chỉ chịu dao dịch như dân. Rồi đất đai bỏ hoang, xáo trộn, thương buôn đình trệ, chỉ còn mấy chiếc thuyền chở gạo muối cá mắm bé tẻo trên sông, ruộng muối, xưởng đường không ai làm. Từ thời rối loạn tiền kẽm đến giờ, tiền giả làm ra qúa nhiều mà đã hư hỏng cả, thiếu tiền khắp nơi. Mọi thứ thật là hỗn loạn. Đã vậy chúa công còn bảo lệnh cho học trò miễn phải đi phu, đi lính. Thế thì lại chẳng có kẻ lười biếng mà khai gian, thêm việc để mà làm.

- Học trò các anh có vào thì cũng làm được gì, cho ở nhà thì hơn. – Võ Tánh cười. Trịnh Hoài Đức biết tính chàng nên chẳng có vẻ tức giận, cũng cười theo.

- Đến lúc thiếu quân, thiếu phu thì cả anh lẫn chúa công đừng than trách. Lúc tôi nói là công việc thế thì rắc rối, chúa công còn bảo: Các khanh đi học để truyền đạo giữ đức, nay giao cho các khanh làm việc đó mà than khó hay sao? Thật chẳng biết nói gì nữa.

Thật chẳng biết nói gì nữa, Võ Tánh nghĩ khi cùng cười với Trịnh Hoài Đức. Ngài ta luôn có lý do của mình, vị chúa ấy. Cũng như ngài ta đã bắt chàng im lặng và tự cảm thấy xấu hổ vì sự nóng vội của mình. Chàng đã tự mình gây họa bằng lối nói năng không suy nghĩ, cả thói kiêu căng khi nghi ngờ chúa Nguyễn. Ta không hy sinh đội quân của mình chỉ vì khanh, ngài ta đã nói, đã ném chàng trở về vị trí của mình, với nghĩa vụ của mình. Chàng chỉ là một vị tướng trong hàng ngũ Nguyễn quân, dù có là ai trong đời thường, giống các tôn thất như Nguyễn Phúc Hội, Nguyễn Phúc Huy kia, họ cũng chỉ là một thành phần của đội quân. Ngài ta đã suy nghĩ, coi sóc cho cuộc hôn nhân của chàng, dù vui hay không vui với cuộc hôn nhân ấy. Giao cho chàng một dinh quân vừa mới lập, giao cho chàng cả người chị mình, ngài ta đã tin tưởng chàng. Và chàng không thể không thấy cảm động trước sự đãi ngộ ấy.

- Anh lại vui vẻ rồi. – Ngọc Du nói như một lời nhận xét khi họ đang ngồi bên đống rơm quen thuộc. Nàng đang bện một con cào cào bằng dừa nước đến cái cánh của nó, không ngẩng lên.

- Chỉ còn mười ngày nữa đến lễ ra mắt, vậy là chưa đầy một tháng nữa tôi sẽ có vợ, tất nhiên phải vui vẻ. – Chàng cười. Ngọc Du đỏ mặt. Nàng mím môi không nói.

Vậy là mọi việc đã được dàn xếp, nàng nghĩ thầm. Qua Nhị phi, nàng đã biết sự xích mích giữa Võ Tánh và Lê Văn Quân, nhưng một khi chàng đã không muốn nói, nàng cũng không khơi ra chuyện ấy. Sống với người em trai, nàng hiểu rằng thông minh nhất là nên để đàn ông giải quyết việc của họ, chỉ can thiệp đủ để họ không biết. Em trai nàng cũng đủ khôn khéo để giải quyết những sự việc thế này. Những tướng lãnh mọi thành phần xuất thân trong đội quân vị chúa có bao giờ ngưng xung đột.

Vậy là còn chưa đầy một tháng nữa, nàng lại nghĩ đến khoảng thời gian kia. Gia đình, nàng sẽ có một gia đình của riêng mình. Ý tưởng ấy vừa mới đây còn xa lạ với nàng biết bao, vậy mà giờ đã trở thành sự thật. Nàng muốn hỏi về việc học lễ nghi của Võ Tánh, nhưng có vẻ không cần thiết, chàng hiểu mình phải làm gì. Nàng muốn thông báo với chàng rằng vị chúa đã lệnh xây một ngôi nhà gần làng làm của hồi môn cho nàng nhưng lại thấy ngượng ngùng. Ngượng ngùng, giờ đây nàng mới thật sự có ý thức về vị trí của mình. Đã lâu, qúa lâu rồi, nàng sống mà quên mất mình là ai. Bị dứt khỏi những công việc lu bù, khỏi trại lính và những đoàn quân, trở về với ngôi nhà lặng lẽ, mỗi ngày chỉ ngắm mặt trời mọc và lặn, nghe tiếng xôn xao của ruộng đồng, dần dà nàng đã nghe tim mình dịu lại.

Đêm lặng lẽ quanh họ. Tiếng chim kêu trong bóng tối. Tiếng dế kêu trong cỏ. Cả tiếng trẻ con khóc từ làng vọng đến cũng trở nên yên ả lạ lùng.

- Lúc nào cũng thế này được thì tốt nhỉ. – Chàng bỗng nhiên nói, chắp tay sau gáy nằm trên đống rơm mà ngửa mặt đón gió trời. Trăng đã vào lúc hạ huyền mờ nhạt. Bóng mây trôi qua, bóng tối lững lờ đổ xuống. Thắt nhầm một nút trên chiếc cánh cào cào, nó gãy đôi, nàng bực dọc vứt nó sang một bên.

Chàng bật cười.

- Trời tối thế này, nàng không thấy đường đâu mà làm. – Chàng nói, đưa tay ra. – Lại đây.

Ngoan ngoãn, nàng ngồi xuống bên chàng. Hôm nay chàng có một bộ quần áo mới, nàng nhận ra. Mùi vải vẫn còn thơm, lẫn trong hơi ngai ngái từ đám rơm đang khô lại. Những cơn mưa cuối mùa đi qua, để lại lớp đất bị hun cháy trong nắng. Cỏ cũng đang khô dần trên những kho gò cao. Nàng vẫn còn đang nhìn theo một cành súng rũ xuống trên mặt nước khi chàng ôm lấy nàng. Lưng nàng tựa vào lồng ngực chàng, nghe tiếng tim đập dập dồn. Lạ, con người này lại trở về với vẻ hân hoan thơ trẻ như thế, vẻ trong sáng tưởng như không thể có ở một vị tướng trên chiến trận, kẻ đã từng cướp đi trăm ngàn mạng người. Cả sự thiện lương khó có thể tin được, khó mà hiểu được. Cả sự đơn thuần long lanh như một viên kim cương, không thể chạm tới.

- Anh lại vui vẻ. – Nàng lặp lại. Nghe tiếng cười khẽ thổi qua tai.

- Tôi nghĩ tôi thích chúa công rồi. – Đó là câu mà chàng đã nói, trước đây.

Lần này, sự hân hoan trong câu nói ấy khiến nàng phiền muộn.

Tim nàng đã đập hụt một nhịp, rồi nàng thấy điều gì gần như nỗi buồn ập đến. Điều gì gần như là ngơ ngác. Như là buồn thương. Như là phẫn nộ. Rồi rốt cuộc là muộn phiền.

Phải thôi, nàng nghĩ, như nàng đã luôn tự thuyết phục mình, như nàng rất giỏi trong việc tự thuyết phục mình. Như bao nhiêu người khác, những người đã ở bên vị chúa và không thể phản bội ngài ta. Những người đã ở bên vị chúa thì không thể phản bội ngài ta. Nàng đã thấy, đã luôn thấy. Từ những vị quan dòng dõi công khanh đến những kẻ hào kiệt thảo dã như Châu Văn Tiếp, Nguyễn Đức Xuyên, Nguyễn Văn Nhơn, Lê Văn Duyệt… Tất cả đã cuốn theo ngài ta, cuốn vào cái hấp lực khó có thể cưỡng lại. Điều gì đó còn cao hơn cả lòng trung thành - mà nàng không hiểu nổi.

Kể cả người thanh niên đơn thuần, trong sáng này.

Nàng lại như thấy cái bóng của chiến tranh lướt qua trước mắt. Những cái chết nối tiếp nhau. Từ rất sớm, nàng đã biết đến cái chết và mất mát. Và rồi tất cả nối tiếp nhau, cái chết và mất mát. Tất cả. Như thể nàng đã đứng bên vệ đường nhìn đoàn xe ngựa ấy diễu qua, và sau bóng của muôn vạn con người, muôn vạn linh hồn cùng sự vật, nàng đã thấy mờ ảo hình dáng của vị chúa – người em đã cùng sinh ra với nàng. Với nàng. Hình bóng đã đi bên cạnh nàng từ khi mới biết nhận thức, và điều đầu tiên đã bị tước đi.

Cậu ta nhìn nàng, bên kia con đường mù bụi. Đôi mắt phủ bụi mù.

Đó là một ảo tượng đầy vẻ chông chênh thường đến với nàng những khi hẫng hụt. Nàng lại thấy nó, bây giờ. Những nỗi ám ảnh không tên, khó có thể gọi tên khiến nàng run sợ.

- Nàng đã từng nói rằng tôi là kẻ muốn đóng vai anh hùng nhưng lại chẳng biết cách nào để thực hiện những gì mình cho là đúng. – Chàng vẫn thì thầm sôi nổi bên tai nàng. – Nhưng giờ tôi tin mình sẽ biết làm gì.

Nàng vẫn chỉ lặng im dõi mắt nhìn vào khoảng không trên cánh đồng và bầu trời.

Đó là những gì nàng đã luôn dùng để thuyết phục kẻ khác trước đây, nên nàng hiểu chàng đang muốn nói điều gì. Gia Định. Một Gia Định mang đầy những vết thương, những vết hủy hoại, tàn phá. Một Gia Định đang trong thời kỳ non trẻ và hỗn loạn. Quê hương thứ hai của họ, của cả nàng. Những kẻ đã bị đẩy khỏi quê hương, và do đó, thiết tha yêu miền đất đã đón họ, che chở họ. Miền đất mang những ký ức đau thương, miền đất của sự hủy hoại và tình yêu trong sự hủy hoại. Như cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ trước mắt nàng.

Nhưng thật lòng, đó chỉ là những điều nàng dùng để thuyết phục kẻ khác, còn đối với bản thân, nàng chỉ cần duy nhất một điều: Tồn tại. Nàng cần tồn tại, những người thương yêu của nàng cần tồn tại, vì sự tồn tại đó mà nàng sẵn sàng hy sinh cả linh hồn mình.

Nếu như tất cả hóa thành ngược lại?

Chỉ cần quay lại, nhìn về phía bên kia rặng tre, nàng có thể thấy được căn nhà đang xây cho nàng, cho gia đình nàng. Gia đình. Ngay sau lễ cưới, ngay sau năm mới, em trai nàng sẽ điều bát bộ quân đến Trà Vinh quyết diệt cho được Phạm Văn Sâm. Họ sẽ lại ra đi, hân hoan, sôi nổi và hăng hái. Họ sẽ để nàng ở lại. Trong căn nhà còn vương mùi gỗ mới.

- Anh có còn nhớ chị Ngọc Tú? – Nàng hỏi, lặng lẽ. Bàn tay nàng chạm vào cánh tay chàng đang khoanh trên vai nàng. – Chồng chị ấy là Lê Phúc Điển. Khi chúa công bị vây ở Hòn Đá Chồng, Lê Phúc Điển cởi áo đổi cho chúa công chạy đi, ở lại để bị bắt. Anh ấy bị ném xuống biển, không còn lại gì nữa. Không còn lại gì, ngay cả một mảnh áo. Tất cả những gì Ngọc Tú còn lại là oán hận.

Chàng im lặng. Chàng vẫn nhớ cô gái đeo băng tang đã ở cạnh Ngọc Du lần đầu tiên hai người gặp nhau bên bến sông. Sự giận dữ của Ngọc Du và nụ cười buồn bã của Ngọc Tú. Cô ấy không nói thật, đã bốn năm trôi qua kể từ ngày Lê Phúc Điển mất đi, cô đã mãn tang chồng. Chỉ là cô vẫn đeo mảnh băng tang ấy như một chứng tích, mang theo nó suốt cuộc đời mình.

Cuộc đời con người dài bao lâu so với nỗi đau?

Vẫn là điều đó, nỗi ám ảnh tồn tại thường trực quanh họ, trong họ. Chàng không thể hứa điều gì với nàng, không điều gì.

- Đừng nói về chúa công nữa, được không? – Nàng cúi đầu. Tóc nàng cọ vào má chàng, vương hương hoa ngan ngát. Chàng gật đầu, quên rằng có thể nàng không nhận thấy.

Nàng chỉ biết quanh mình duy nhất sự lặng im.

Ngọn gió lao xao qua các ngọn cây. Mùa lá rụng hẳn đã về phương Bắc, nhưng phương Nam chỉ có bụi bay trên khoảng không đầy gió. Phương Bắc, nàng lại nhớ đến những cơn mưa cuốn qua ngày, qua tháng, vang tiếng buồn nẫu não nề trên các bậc đá lạnh. Những thành quách, lâu đài nằm thiêm thiếp trong mưa, những cành lá lóng lánh mưa rủ xuống, rủ xuống đan dệt vào ký ức những vệt nhạt mờ. Phương Nam chỉ có nắng và mưa, gay gắt, ào ạt, phân biệt, rạch ròi. Phương Nam chỉ có khoảng trời bao la trên những cánh đồng, những khoảng rừng và các con sông chằng chịt. Phương Nam không chứa ký ức, chỉ ném tất cả vào khoảng không để gió cuốn đi, tan thành bụi. Phương Nam mờ bụi của những gì đã tồn tại và đã mất.

Trăng hạ huyền mờ tối không cho nàng thấy rõ những gì ở bên kia bờ nước. Thế giới thu hẹp lại, chỉ vài bước quanh nơi họ ngồi. Thế giới thu hẹp lại, khiến nàng thấy ngạt thở.

Đáng lẽ nàng nên nhận biết điều này, nàng nghĩ trong nỗi muộn phiền. Chàng đã dần dần xa nàng, còn xa hơn cả khi chàng ở doanh trại Kiến Hòa, khi nàng còn là chị của kẻ thù chàng. Chàng đang dần bước về phía bên kia con đường, gần với nơi người em nàng đứng. Cậu ta quan sát nàng, qua bụi mù thổi tung lên khoảng không loang loáng những bóng hình trôi lướt qua, lướt qua.

Bàn tay chàng đặt dưới cằm nàng, nâng khuôn mặt nàng lên. Khi nàng nhìn chàng, có thể do bóng tối, chàng lại thấy bóng hình phản chiếu của cánh cửa khép lại sau đôi mắt vị chúa. Cái phần thiết thân nhất thiết không thể bộc lộ, bị giấu kín, bị quay lưng, chối bỏ. Nàng nhìn chàng, vẻ điềm tĩnh xa xôi như có thể xuyên thấu qua người khác. Chàng không hiểu mình đã làm gì khiến nàng có cái nhìn ấy. Cái nhìn mà chàng chưa bao giờ thấy, kể cả khi nàng giận dữ. Nàng chỉ cuộn mình lại, giấu kín tất cả tâm thức trong cái vỏ bọc mong manh, vô hình và diệu vợi.

Kể cả khi nàng hôn chàng. Nàng chủ động thu ngắn khoảng cách của họ, khoảng cách của hai thân thể và con người. Hôn lễ đã định làm nàng trở nên bạo dạn. Sự buồn phiền làm nàng trở nên bất chấp. Có quan trọng sao nếu nàng được hay mất bất cứ điều gì? Họ ngay cả tính mạng mình cũng chẳng cần, sá gì nàng. Sá gì nàng, kể cả có yêu thương bao nhiêu đi chăng nữa. Kể cả có yêu thương, cuối cùng cũng chẳng để làm gì.

Vậy thì nàng nên học cách tự quan tâm bản thân mình trước. Chỉ có nàng mới thấu rõ cơn nhức nhối đang nhói lên trong tim này đau đớn đến thế nào.

Chàng vẫn ngọt ngào và nồng nàn. Sự đắm say phi lý, vô nghĩa lý của nỗi đau và tình yêu, nàng nghĩ khi ngả mình xuống đống rơm khô, nghe tiếng lạo xạo dưới lưng, vẫn gắn chặt với chàng trong cái hôn dài. Nàng muốn bật cười cho sự phi lý, vô nghĩa lý này. Ngay sau vòng tay say đắm, họ sẽ để nàng lại, trong muôn vàn tháng ngày dài. Nàng đã qúa rõ cuộc đời của họ, những con người lao vào chiến trận. Trao cuộc đời nàng cho họ? Thật phi lý. Họ còn không giữ được cuộc đời họ thì làm sao giữ được nàng?

Chỉ là khoảnh khắc này, nàng muốn thách thức với trời xanh, cả với vị chúa công mà nàng coi trọng hơn tính mạng mình. Giữ người thanh niên trong tay, ẩn mình trong bóng tối, nàng thấy mình được tự do. Tự do nếm trải hương vị của mùa xuân muộn mằn, cay đắng như mảnh cỏ khô hay hạt bụi rơi vào trong mắt. Dù chàng không đi xa hơn những nụ hôn, dù đôi lúc môi chàng trượt xuống cổ, sau thùy tai nàng, trong vòng tay chàng, nàng cảm thấy một niềm đắc thắng nho nhỏ của đứa trẻ phạm lỗi và không bị phát hiện. Cuộc hôn nhân sẽ không thể đem lại cho nàng cảm giác này. Cuộc hôn nhân, ngay cả nó nàng cũng không muốn nghĩ đến nữa.

Khi lẩn về phòng, nàng vẫn còn thấy má mình nóng. Nàng thậm chí không nhận ra Nguyên phi đã đứng trước cửa phòng nàng, nơi nhìn ra khoảng sân sau. Cô đứng nhìn bầu trời trên sân, bóng trăng mờ khuất sau mây xám. Ngọn đèn leo lét trong gió và dáng đứng im phăng phắc của Nguyên phi đã làm nàng không nhận ra. Chỉ lúc Nguyên phi khe khẽ gọi khi nàng đi qua, Ngọc Du mới giật mình nhìn lại. Nguyên phi mỉm cười với nàng, cô vẫn chưa thay bộ quần áo đi đường, hẳn vừa mới từ khu đồn lũy trở về.

- Chúa công vừa mới bàn với ta về khoản sính lễ hồi môn cho chị. – Nguyên phi nói, dịu dàng. – Chúng ta đang lúc khó khăn, tất nhiên không thể tiêu pha nhiều như bình thường.

- Ta hiểu. – Ngọc Du ngắt lời Nguyên phi. – Mọi người không cần phải lo lắng qúa, bao nhiêu cũng được. Vả lại, ta cũng không phải con gái của Quốc mẫu, tất nhiên của hồi môn không được nhiều như lệ thường.

Nàng nói điều đó với sự đương nhiên, nhưng Nguyên phi lại im lặng. Cuối cùng, cô gật đầu.

- Vậy ta sẽ bàn với Quốc mẫu. Vả lại… - Ngần ngừ một thoáng, cô nói nhanh. – Sau này chúa công sẽ về nhà luôn, hai người đừng gặp nhau ở gần đây như thế.

Ngọc Du nhướn mày. Nguyên phi cúi chào nàng rồi quay đi. Nhìn vẻ lặng lẽ của cô gái, Ngọc Du không thể đành mà cất tiếng gọi.

- Chúa công không nói gì nữa với Nguyên phi sao? – Nàng hỏi. Cô gái nhìn nàng, khó tả được cảm xúc trên khuôn mặt trầm tĩnh lẫn đôi mắt bị che khuất trong bóng tối.

- Cảnh còn lâu mới trở về, phải không? – Khóe môi cô hơi cong lên, nhưng chẳng có gì giống như một nụ cười. – Tất nhiên, chúa công không nói đâu, không ai nói cả, nhưng ta phải biết chứ. Ta đã sống với ngài ấy từ khi mười sáu tuổi cơ mà.

- Nhưng Nguyên phi vẫn ngóng tin mỗi ngày… - Ngọc Du ngập ngừng. Vẫn giữ nụ cười như tạc bằng đá, Nguyên phi nói mà không nhìn nàng.

- Dù nó không bao giờ trở về nữa, ta cũng vẫn đợi. Biết tin nó hay không biết tin nó cũng đâu quan trọng, ta sẽ đợi cho đến khi nó trở về.

Cau mày nhìn theo bóng người phi tử khuất sau hàng hiên tối, Ngọc Du nghĩ mình không thể hiểu được ý cô.

Cuối năm Mậu Thân, hôn lễ giữa công nương Ngọc Du và Chưởng cơ Tiền phong dinh Võ Tánh được tổ chức tại Sài Côn, Gia Định.

Từ ngôi nhà của gia đình chúa Nguyễn ở làng Tân Lộc, đám rước kiệu đi qua cánh đồng đến khu nhà mới được xây gần đó. Đám rước nhỏ chỉ có mệnh phụ phu nhân của các quan trong triều, một vài người được chúa Nguyễn cử tới giúp đỡ công việc. Trong đám đông, chỉ có mẹ nàng rơi lệ, Ngọc Du không thể biết là do bà mừng rỡ hay buồn bã. Nàng vẫn còn nghĩ tới những giọt nước mắt ấy khi được Võ Tánh đỡ xuống kiệu vào phòng khách phủ đệ mới. Một mâm cỗ nhỏ đã được bày ra để đón tiếp những người đến đưa dâu. Lễ hợp cẩn được tổ chức trong phòng riêng diễn ra nhanh chóng. Khi mọi người lui ra, mặt trời cũng chỉ vừa mới ngả chêch chếch về phía Tây trên rặng tre.

- Đói qúa! – Vừa mới khuất bóng người, Võ Tánh đã nằm lăn ra giường mà nói. Từ tờ mờ sáng, buổi lễ đã bắt đầu và kéo dài qua trưa. Miếng thịt chén rượu trong lễ hợp cẩn chỉ làm cái bao tử rỗng lên tiếng cồn cào.

Nhìn cảnh ấy, Ngọc Du cũng phải bật cười. Nàng hé cửa nhìn ra ngoài, gọi cô hầu nhỏ đưa vào thức ăn bày cho bữa tiệc. Lúc nàng trở vào, Võ Tánh đã nhắm mắt nằm trên giường. Có vẻ như đêm hôm trước, doanh trại đã tiễn chàng bằng một bữa rượu đến gần sáng. Nàng vẫn còn ngửi thấy hơi rượu phảng phất xung quanh chàng bây giờ. Thở ra, nàng cởi nút cổ áo cho chàng. Khi nàng vừa định đứng dậy, chàng đã vòng tay kéo nàng ngã xuống giường. Rồi vẫn nhắm mắt như thế, chàng ôm chặt nàng, mặc cho nàng định chống tay ngồi dậy.

- Con bé sắp đem thức ăn vào đấy. – Ngọc Du cau mày nhìn ra cửa. Chàng chỉ hé mắt.

- Mặc nó. Giờ thì mình là vợ chồng, nàng còn sợ gì?

Vợ chồng, từ ngữ nhảy múa trên đầu lưỡi chàng. Ngọc Du vùng vẫy lần cuối rồi yên lặng. Vẫn chỉ ôm nàng, chàng nhìn lên trần nhà có mấy vệt sáng từ nắng chiếu qua khe cửa. Những thanh xà vẫn còn tươi rói màu gỗ mới.

- Sau này chúng mình làm gì nhỉ? – Chàng nói, mơ màng. - Trịnh Hoài Đức bảo rằng hôm sau nàng phải đến nhà chồng làm lễ, nhưng chúng ta không phải đi rồi. Vậy là ta có năm ngày tự do cho đến khi phải vào ra mắt chúa công cùng một loạt lễ linh tinh khác.

- Đó không phải là lễ linh tinh. – Ngọc Du lầm bầm, tuy vẫn có cảm giác buồn cười. Suốt từ lễ ra mắt Quốc mẫu, lễ hỏi rồi lễ cưới, Võ Tánh có vẻ đã trân mình chịu đựng cho đến bây giờ thở dài nhẹ nhõm. Chàng buông nàng ra khi cô hầu gái gõ cửa. Bữa ăn trưa muộn màng của họ được sắp trên chiếc bàn còn phủ vải đỏ. Những ly rượu hợp cẩn được đem xuống bàn dưới nhường chỗ cho chén dĩa.

- Này, qủa thật chúng ta không phải đi làm lễ gia tiên à? – Ngọc Du hỏi khi Võ Tánh cắm cúi vào chén cơm. Chàng ngẩng lên, một cảm xúc khó đoán thoáng qua mắt khi chàng nhún vai.

- Ta bảo cha mẹ ta đến Gia Định này rồi mất là nói dối đấy. Từ bé ta đã theo anh trai đi với một đám người, rồi dừng chân tại Trấn Biên. Bây giờ nghĩ lại, có thể bọn họ là kẻ cướp hoặc tù nhân không chừng.

Chàng nói và quan sát nàng. Nàng chỉ nhướn mày. Và hết chén cơm, nàng đứng dậy, cởi áo tân nương khoác ngoài. Trời nóng đến độ không chịu đựng nổi. Vậy mà ở phương Bắc bây giờ là mùa đông cơ đấy, nàng nghĩ thoáng qua trong đầu. Ngay cả lớp phấn son trên mặt cũng làm nàng thấy bí bức. Nàng ngồi xuống bên bàn, cởi bỏ trang sức, lấy khăn và thau nước để sẵn rửa mặt. Ăn xong, Võ Tánh cũng lặp lại những động tác của nàng khi cởi bỏ chiếc áo lụa đỏ, lấy nước vã lên mặt. Trên chiếc giường rộng, họ nằm bên nhau, nghe tiếng xao xác của hàng tre và thanh âm tao tác của đàn chim sẻ dưới nắng trưa ngàn ngạt.

- Nàng có buồn không? – Chàng chợt hỏi. – Ta thường nghĩ hôn lễ rất là vui vẻ. Kiệu của cô dâu đến nhà chồng được thật nhiều họ hàng đến đón, rồi lễ ra mắt cha mẹ, tổ tiên, được lì xì, chúc phúc. Cỗ tiệc thậm chí còn kéo dài cho đến chiều.

- Lễ của công nương chỉ là từ phủ đệ này đến phủ đệ khác, đâu cũng vậy thôi. – Nàng nói, không mở mắt. Nàng cũng cảm thấy buồn ngủ. – Nếu có xôm tụ thì chỉ ở họ nhà gái đi tiễn, chúng ta lại có qúa ít người.

Họ lại im lặng. Ngọc Du lơ mơ ngủ thiếp đi. Dường như Võ Tánh đã vòng tay qua nàng, ghé đầu nàng sát vào vai chàng.

- Thiệt thòi cho nàng qúa. – Có vẻ như chàng đã nói như thế, khi nàng đang chìm dần vào giấc ngủ.

Thiệt thòi? Nàng lặp lại câu hỏi ấy trong đầu. Ồ không, nàng đã không mong chờ, sao lại có thể thất vọng?

22

Tháng mười hai năm Mậu Thân, tin tức từ Thăng Long báo đến lũy Sài Côn với một vị khách phương Bắc: Nguyễn Đình Đắc. Chống thuyền vào thẳng bến cảng Sài Côn đòi gặp chúa Nguyễn, viên tướng người Nghệ An này nói rằng đã phải mất gần một năm vượt biển mới đến nơi. Sự xuất hiện của anh ta cùng tin quân Thanh đã chiếm Thăng Long tạo nên một sự xôn xao nho nhỏ trong doanh trại.

- Trong khi quan nhà Lê chạy về phương Bắc cầu viện thì anh ta lại vào Nam. – Nguyễn Văn Thành nói, không rõ thái độ ra sao trong đôi mắt nhìn ra nắng. Sau buổi tập, các tướng tụm lại ngồi với nhau dưới bóng râm của cây đa cổ thụ bàn chuyện. Chúa Nguyễn vẫn đang tiếp Nguyễn Đình Đắc, chưa xuất hiện. – Lúc ấy chúa ta cũng chỉ vừa mới trở về. Đàng Ngoài, Đàng Trong phân biệt đã lâu, một kẻ Đàng Ngoài vào cầu viện chúng ta kể cũng lạ.

- Nếu ở Nghệ An thì anh ta cũng phải biết các trận đánh của chúa ta và họ Trịnh. Chúa công về, tin tức xôn xao vùng Thuận Hóa, chọn lựa như anh ta cũng không lạ. – Nguyễn Phúc Huy khoanh tay nhìn bóng nắng trả lời. - Chúa ta tuy xưng vương nhưng cũng vẫn là thần tử Lê triều, lấy niên hiệu của Lê triều, năm xưa từng là người góp phần đưa họ Lê trở lại ngôi vị. Hẳn anh ta cho rằng có thể nhờ chúng ta giúp đỡ.

- Giúp đỡ? Chúng ta sẽ làm gì với Đàng Ngoài đây? – Tống Viết Phúc buột miệng hỏi. Họ nhìn nhau.

Đàng Ngoài – Đó là một vùng đất xa lạ. Đó là vùng đất của họ Trịnh, họ Lê, nơi tổ tiên của họ đã ra đi hàng trăm năm trước. Đó là vùng đất bên kia sông Gianh, bên kia lũy Trấn Ninh. Với những người dòng dõi quan lại, họ vẫn còn nhớ những trận đánh dữ dội đã được nghe kể, bên này hay bên kia thành lũy. Nhưng không ai không nhớ đến năm Canh Ngọ nọ, quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc cầm đầu đã đánh vào Phú Xuân, bắt đầu cho quãng đời lưu lạc của họ. Giờ đây, khi nghe nói về vùng đất vừa quen thuộc vừa xa lạ kia, họ phải mất một thời gian mới có ý niệm về nó. Câu hỏi của Tống Viết Phúc lại mở ra trước mắt họ một tương lai khác: Họ Trịnh đã bị tiêu diệt, họ sẽ quan hệ thế nào với triều Lê, kẻ vẫn là hoàng đế của Đại Việt?

- Chúng ta sẽ đưa quân vào Thăng Long phù Lê, chắc thế. – Nguyễn Văn Nhơn nói rồi cười lớn như thể đang đùa. Võ Văn Lượng khịt mũi.

- Vua Lê đã có quân Thanh vào trợ giúp thì đâu đến lượt chúng ta. Bây giờ chúng ta chỉ nên lo quan hệ cho tốt với nhà Lê lẫn Thanh đã. Hòa hoãn được với ai thì tốt, chứ ba bốn kẻ thù lúc này sức đâu chống cho lại.

Họ vừa bàn đến đấy, chúa Nguyễn đã cho người đến gọi họ vào. Buổi họp thường nhật đã bị hoãn lại vì sự xuất hiện của Nguyễn Đình Đắc, giờ đây lại không thấy người phương Bắc ấy đâu. Chúa Nguyễn chỉ đăm chiêu nhìn vào tấm địa đồ trải trên bàn, gật đầu ra dấu cho các tướng ngồi.

- Hắn ta nói chuyện gì, chúa công? – Lê Văn Quân là người phá vỡ sự im lặng. Đã ở lâu bên chúa Nguyễn, lại không phải là người xuất thân trong triều đình, ông ta thường xuyên bỏ qua lễ nghi, ngay cả với vị chúa. Từ phía bên kia bàn, Võ Tánh thấy vị chúa cau mày.

Sau lần nói chuyện với chúa Nguyễn, cuối cùng chàng cũng đến gặp Lê Văn Quân xin lỗi. Nhưng dù ngoài mặt ậm ờ, chàng có cảm tưởng Lê Văn Quân vẫn không ưa chàng, chỉ vì lời của vị chúa mà hòa giải. Ngay cả lời của chúa Nguyễn cũng không thuyết phục được ông ta, hẳn vậy.

- Ta đã phong Nguyễn Đình Đắc làm Cai cơ. – Chúa Nguyễn nói sau một lúc trầm tư rồi mới ngẩng lên. – Anh ta muốn theo đội quân của chúng ta, dù nhà Lê có ra sao đi chăng nữa. Đó là con nhà gia thế Đàng Ngoài, ngoài kinh lễ còn biết cả binh thư, ta định để anh ta đào tạo bài bản binh lính chúng ta về chiến trận.

- Chỉ có thế? – Lê Văn Quân vẫn chưa thỏa mãn với câu trả lời của chúa Nguyễn. Câu hỏi của ông ta làm cái cau mày của vị chúa càng sâu lại.

- Lòng người phương Bắc đang tan rã. – Chúa Nguyễn cuốn tấm địa đồ về phía mình, chậm rãi nói. - Họ Trịnh mất, họ Lê suy, cả hai đều đã làm người mệt mỏi, nhưng họ chưa biết mình đang trông chờ vào cái gì. Họ Trịnh thì tao tác rối loạn, để đám binh lính chuyên quyền chẳng còn thể diện nào, kẻ cuối cùng là Trịnh Bồng lại hèn nhát vô năng. Họ Lê thì đơn thân yếu nhược, trong không quản được người, ngoài không coi được nước. Phong hóa mấy năm qua suy đồi rối loạn, làm cả những kẻ sĩ phu trung thành cũng thấy nản lòng. Nguyễn Đình Đắc lựa chọn theo ta, không cả họ Lê lẫn Tây Sơn chính vì lẽ ấy. Tùy theo tình hình chiến tranh thế nào mà ta tin rằng sẽ càng có nhiều người từ Đàng Ngoài muốn thoát ly, lúc ấy con đường vượt biển mà Nguyễn Đình Đắc khởi đầu sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều.

- Ồ, người phương Bắc… - Nguyễn Phúc Huy chỉ cười khẽ. Chúa Nguyễn ném về phía anh ta một cái nhìn. Là người trong hoàng tộc, cả hai từ lâu đã biết đến ý nghĩ cảnh giác với người ở Đàng Ngoài. Cuộc chiến hơn hai trăm năm của dòng họ khiến họ phải cảnh giác.

- Các khanh có biết lịch sử đất nước Xiêm La? – Dựa lưng về phía sau, chúa Nguyễn nhìn quanh bọn họ. – Ta đã từng kể cho các tướng theo ta ngày còn ở đấy, nhưng chắc chẳng mấy ai chú ý. Nước Xiêm La ngày trước tên là nước Xích Thổ, rồi sau một cuộc biến loạn, chia thành hai nước Xiêm và La Hộc. Nước Xiêm đất xấu cày cấy không được, nước La Hộc đất tốt, nay trở thành vựa lúa của Xiêm La. Đầu thời Nguyên, La Hộc ngày càng mạnh, lấy được nước Xiêm, trở thành nước Xiêm La Hộc. Triều Minh cho đoàn sứ giả nước này ấn khắc chữ “Xiêm La”, từ đó trở thành tên như ngày nay. Khi lập quốc, nước Xiêm La nhỏ bé mà Chân Lạp lớn, phải thần phục Chân Lạp. Sau Chân Lạp rối loạn mà nhược yếu dần dần, lại bị Xiêm La cướp phá. Ba mươi năm trước, Miến Điện nhân lúc Phong vương của Xiêm gây chiến với trong ngoài, gây thù oán với nước láng giềng, chính sự độc ác mà mất lòng dân, nên xua quân sang đánh chiếm, đốt hết cung thất, cướp hết tài sản, bắt hết dân chúng, chỉ để lại một vùng bạch địa. Rồi dịch bệnh hoành hành, biến Xiêm La thành đất hoang, ảnh hưởng đến cả Hà Tiên của ta.

Có người gốc Triều Châu tên là Trịnh Quốc Anh, tên Xiêm là Phi nhã Tân, nhân khi đất nước này rối loạn vô chủ mà tập hợp đám người phản loạn bỏ trốn trong nước, khởi sự bằng những cuộc tranh chiếm lẻ loi, sau giành được cả nước Xiêm La, lên ngôi hoàng đế. Kẻ đã gây hấn với Chân Lạp, Hà Tiên rồi đánh vào thủ phủ Long Hồ của chúng ta chính là người này. Phi nhã Tân cũng là kẻ đã giết chết, đày ải cả gia đình Tông Đức hầu Mạc Thiên Tứ khi ông ấy sang Xiêm. Phi nhã Tân hành sự bạo ngược, ưa chém giết lại hay gây hấn, dân chúng không biết sống vào đâu, loạn lạc lại nổi lên khắp nơi. Ngay cả trong triều, Phi nhã Tân cũng kết oán, bắt vợ con của tướng mình là Phi nhã Chất Tri, Sô Si.

Em của một vị tướng trong triều là Phi nhã Oan Sản giữ thành Cổ Lạc làm phản. Phi nhã Tân sai Oan Sản đến đánh, người em liền lên thành kể lại mọi nỗi tàn khốc của bạo chúa, nói Oan Sản nên tính trước kẻo bị hại. Oan Sản nghe theo, đem quân trở về Vọng Các, dân chúng theo rất đông. Phi nhã Tân bị tống giam vào ngục. Oan Sản cho gọi bọn Chất Tri, Sô Si đang ở Chân Lạp chiến tranh với ta về. Chất Tri để Sô Si ở lại hòa đàm với Chưởng cơ Nguyễn Hữu Thụy, về Vọng Các kể tội Phi nhã Tân giết đi. Sau đó, Chất Tri trở thành vua Xiêm La, tức Phật vương bây giờ, Sô Si trở thành Nhị vương, người cháu là Ma Lặc làm Tam vương.

Chúa Nguyễn đã im lặng hồi lâu, các tướng vẫn nhìn ngài ta. Thở ra, vị chúa phác tay vào không khí.

- Khi ta sang Xiêm La trú ngụ, Miến Điện một lần nữa lại đem quân đến tấn công. Ta đánh tiếng giúp vua Xiêm cũng là để xem tình hình chiến bị nước này. Ta ra quân chỉ một trận là thắng, có các tướng Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Quân ở đây là người tham gia hẳn biết. Miến Điện không phải khó đánh, chỉ là do nước Xiêm chính sự xáo trộn, tự mình làm yếu nhược mình. Ngày nay Xiêm vương đã dần ổn định đất nước, bên ngoài thì Miến Điện bận chiến tranh với Thanh, Chân Lạp đã trở thành phiên thuộc, Xiêm có rất nhiều cơ hội phát triển.

Nhưng đó cũng là một đất nước vừa qua cơn bão chiến tranh loạn lạc. Ta kể cho các khanh nghe cũng là để suy ngẫm một vài điều. Hợp tan, tan hợp vốn là chuyện thường xảy ra, với bất cứ quốc gia, chủng tộc nào. Kẻ giàu mạnh về kinh tế sẽ giàu mạnh về quân sự. Tần quốc kia trong suốt mấy trăm năm Chiến quốc chỉ là “đất nước của kẻ coi ngựa”, có trở thành bá vương cũng chỉ trong một lúc, ở nơi xa xôi cách trở, đất đai nghèo nàn. Nhưng chỉ cần một Thương Ưởng đem luật pháp ổn định trong ngoài, đốc suất dân chúng làm việc, sản xuất, chỉnh trang công cụ, chiến bị, nước Tần đã trở nên hùng mạnh đủ để thống nhất sáu nước đã bị chiến tranh cày xới tơi bời. Kẻ mạnh về kinh tế phải là kẻ vững vàng về chính trị. Muốn vững vàng về chính trị thì phải để người dưới tôn trọng người trên, dân chúng ủng hộ chính quyền, mà như thế thì không có cách nào khác phải dùng Đức mà cai trị. Những kẻ bạo chúa bị lật đổ trong lịch sử đâu phải là ít ỏi. Những chính quyền rối loạn bị triệt tiêu là chuyện luôn luôn xảy ra.

Nguyễn Đình Đắc đến với ta cũng là vì hiểu điều ấy. Vua Lê có thể dựa vào quân Thanh để giữ được nước bây giờ, nhưng không thể về lâu về dài. Rối loạn của Lê triều xuất phát từ trong chính bản thân nó. Ngay cả nếu Thanh có thắng Tây Sơn, rối loạn của Lê triều vẫn không cách nào giải quyết. Ngược lại, có khi chúng ta phải đối phó với quân Thanh không chừng.

Tổ tiên ta xung đột hàng trăm năm với họ Trịnh nhưng vẫn tôn họ Lê làm hoàng đế, vẫn chỉ xưng là Nguyên soái, chính là vì không muốn dứt bỏ nguồn gốc tổ tiên, không muốn biến mình thành kẻ thù của toàn bộ phần bên kia sông Gianh. Vì sự tồn tại của mình mà chúng ta bị bức đến phương Nam này, nhưng không phải vì thế mà chúng ta quên rằng mình là dân nước Việt. Nhìn nước Chu kia từ khi Võ vương đánh Trụ, phân chia đất cho các chư hầu, vẫn giữ ngôi vương để người ngoài nhớ về triều cống. Nhưng U vương gây oán, buộc Chu lui về phía Đông thành Đông Chu, thanh thế suy yếu, lại chư hầu kẻ nào kẻ nấy cũng xưng vương, xưng đế, mới dẫn đến cái họa phân tranh Chiến quốc. Ta đã không muốn dẫm vào vết xe đổ ấy, thì cũng nên nhớ mình là thần dân của Đại Việt. Ta xung đột hàng trăm năm với họ Trịnh chứ không xung đột với vua Lê. Ta xung đột với những kẻ muốn tiêu diệt chúng ta, chứ không xung đột với toàn bộ Đàng Ngoài là vùng đất tổ tiên ta.

Có vẻ như vị chúa muốn nói thêm điều gì, nhưng rồi ngài ta im lặng. Câu chuyện lại chuyển về công việc thường nhật của họ, lệnh cấm bài bạc mà vị chúa đã ban, ngay cả trong quân. Ngài ta nhìn Nguyễn Văn Thành, nheo mắt hơi có ý giễu cợt. Hẳn ngài ta vẫn chưa quên vị Tiền chi Hiệu úy này khi còn ở Xiêm La có lần gỡ bạc cho bạn mà dốc cả tháng tiền ăn của đội quân trả nợ. Quân tướng bị bắt thì xử hơn dân thường một bậc, với bất cứ tội lỗi gì, vị chúa cảnh cáo. Nghĩa là có thể bài bạc nhưng không nên làm giấy ghi nợ, Nguyễn Văn Thành lẩm bẩm khi ra ngoài. Ai nấy đều cười.

Câu chuyện về Nguyễn Đình Đắc được họ quên đi nhanh chóng, ngay cả khoảng ngập ngừng ngắn của chúa Nguyễn.

Võ Tánh chỉ nhớ đến chuyện ấy khi Ngọc Du kể cho chàng về việc chúa Nguyễn đã lệnh thuyền chở năm mươi vạn cân gạo cho Thăng Long cùng các sứ giả đến Thanh. Khi ấy, cơn bão đang hoành hành ngoài biển Đông. Trời phương Nam xám xịt một màu, mưa kéo dài cả ngày, lúc tạnh lúc rơi tầm tã. Chút cái lạnh mùa đông phương Bắc rơi rớt lại làm họ phải quấn thêm một lớp áo. Ngồi cuối giường, tay khoanh lại trong chăn, nghe mưa ào ào ngoài vườn, nàng vừa đọc một cuốn sách vừa như thuận miệng nói ra. Hôm ấy, chàng về khi trời đã khuya, phát hiện nàng vẫn để đèn đợi. Đang ngâm chân vào thau nước, cọ rửa những vết bùn ở ngón chân, chàng cũng không mấy để tâm. Một món lễ vật của chúa Nguyễn, hẳn vậy. Nhưng sao lại là gạo?

- Chúng ta còn gì khác để cho nữa đâu. – Ngọc Du ơ hờ nhún vai trả lời chàng. – Vả lại, theo các giáo sĩ ngoài đó cho biết, từ năm ngoái sau khi vua Lê chạy đi, cướp bóc loạn lạc đã xảy ra khắp nơi ở Bắc Hà, không ai ngăn được. Tây Sơn sau khi thu hết hai vụ thuế thì rút, đem quân đi đánh nhau với các nhóm phù Lê làm nhiều làng tan tác, lại bày ra chuyện xây thành nào đó ở Nghệ An. Ruộng lúa vào vụ mà không có người cày cấy, không chừng năm sau lại có nạn đói to. Lễ vật là việc nhỏ, nhưng lễ thế nào để có lợi cho mình là việc lớn. Dâng gạo thì có thể chẳng thấm tháp vào đâu so với nhu cầu của đội quân ấy, họ cũng chẳng đói hay no thêm một bữa, nhưng chủ tâm là bày tỏ lòng quan tâm với kẻ dưới ở phương Bắc mà cũng vui lòng nhà Lê.

Võ Tánh nhìn sang Ngọc Du. Kẻ dưới? Vị chúa không chỉ quan tâm đến việc lấy lòng nhà Lê mà còn cả những kẻ khác. Những kẻ khác. Giống như Nguyễn Đình Đắc.

- Phải cho người liên hệ với Thanh riêng sao? – Chàng hỏi. Ngọc Du nhìn lên, bỏ cuốn sách xuống, đưa khăn cho chàng lau tay.

- Nhà Thanh chưa bao giờ thân thiện với họ Nguyễn. – Nàng trả lời, giọng đều đều. – Từ sau khi Trịnh dẹp được triều đình họ Mạc bắt tay với Ngô Tam Quế ở Lưỡng Quảng, Cao Bằng, dư đảng của chúng vẫn lẩn quẩn nơi biên giới. Lưỡng Quảng đối với nhà Thanh vẫn là vùng đất gây đau đầu nên họ ra sức giữ vững quan hệ với nhà Lê Trịnh, không để đất ta thành nơi ẩn náu của quân phiến loạn. Đã thế chúa ta còn thu nhận người Minh chạy trốn nhà Thanh không chịu quy phục, cho họ ở trong đất mình. Từ lâu các chúa ta đã nhiều lần đặt vấn đề giao thiệp với Thanh nhưng không được chấp nhận. Bởi vậy chúa công mới lo lắng quân Thanh nhân dịp tràn xuống mà không nể mặt họ Nguyễn. Lúc ấy người Minh ở Nam Hà qủa thật là gặp nguy tai.

Lau khô chân tay, chàng nằm lăn trên giường. Ngọc Du bỏ màn xuống, nằm bên chàng. Nàng vẫn chưa tắt đèn, lại để cuốn sách trước mặt, cắm cúi đọc.

- Có thể lúc nào đó chúng ta sẽ nhìn thấy Thăng Long, nhỉ? – Chàng đột nhiên nói. Ngọc Du nhìn sang chàng, nhướng mày rồi cười nhẹ.

- Có thể chứ. Ai biết thời cuộc dẫn đến đâu. – Nàng nghiêng đầu. Mái tóc đã xõa ra rơi xuống vai. – Ngày trước chúa công hẳn cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc mình sẽ trở thành Nguyễn vương. Định vương có mười mấy anh em trai, rồi thái tử cũng có Đông cung Dương, ngay cả trong nhà cũng có hai người anh trước chúa công. Vậy mà bọn họ lần lượt mất đi, chúa công trở thành vương mà vẫn còn ngỡ ngàng ấy chứ.

- Thời cuộc… - Chàng nhắc lại. Chúa Nguyễn kể cho bọn họ câu chuyện về đất nước Xiêm La không phải chỉ là để nhắc nhở họ mối liên hệ với Đàng Ngoài. Hợp rồi tan, tan rồi hợp. Bạo ngược tất thua. Sự xuất hiện của Nguyễn Đình Đắc đã hướng vị chúa đến vùng đất bên kia lũy Thầy. Ngài ta cũng đang ngẫm nghĩ, tư lự về nó, mảnh đất ấy, những gì họ sẽ lấy làm mục tiêu. Triệt tiêu mọi mầm mống chiến tranh, ngài ta đã nói. Nhưng đích đến là gì, có thể nào chỉ đơn giản là tiêu diệt Tây Sơn, giành lại kinh đô cũ? Sự xuất hiện của Nguyễn Đình Đắc đã nhắc họ về những gì đang xảy ra ở Đàng Ngoài, sự rối loạn toàn diện, hoàn toàn mà thời thế đang đặt ra trước họ. Trịnh mất, Lê suy, con người xuất thân thế gia phương Bắc vượt biển tìm đến họ. Thời cuộc đang đặt ra trước mắt họ không chỉ gói gọn trong Gia Định.

Rồi chàng lại tự cười mình. Nghĩ tới chuyện này có phải là qúa sớm? Ngay cả Phạm Văn Sâm lẩn trốn ở Ba Thắc họ vẫn còn chưa đuổi được. Bao nhiêu việc đang đặt ra trước mắt. Bọn Trịnh Hoài Đức, Ngô Tùng Châu hiện thời hẳn vẫn còn phải chong đèn mà duyệt qua vô số hồ sơ chất đống. Tôn Thất Hội, Trương Tấn Bửu hẳn đang phải đi tuần dưới mưa bão mà canh chừng động tĩnh trong doanh trại quân Miên ở Vĩnh Trấn.

Chỉ đúng là, sự xuất hiện của một người phương Bắc có ảnh hưởng thật lạ lùng.

Chàng lùa tay vào mái tóc Ngọc Du, kéo nàng lại, lấy cuốn sách khỏi tầm tay nàng. Năm ngày phép ngắn ngủi để chàng cưới vợ đã trôi qua nhanh chóng đến nỗi chàng luyến tiếc ngẩn ngơ lúc phải quay lại doanh trại. Cũng may, nếu qúa quen hơi cái giường này, chàng có lẽ chẳng rời đi đâu được nữa, chàng nghĩ khi vùi mặt vào vai nàng. Nàng đẩy chàng ra, với đến cuốn sách đang đọc. Nhưng vòng tay chàng đã siết chặt quanh nàng.

- Để tắt đèn đi đã. – Nàng bực dọc nói khi nhận ra mình chịu thua. Chàng cười, ngón tay xoắn lọn tóc bên vai nàng.

- Ta đã bao giờ nói rằng thích nhất ở nàng là tính không e thẹn như mấy cô thiếu nữ chưa nhỉ? – Chàng thích thú thấy mặt nàng rực đỏ trong ánh nến. Cả cổ nàng cũng đỏ.

- Đồ không biết xấu hổ. – Không biết nói sao, nàng mắng. Ngón tay chàng lẩn qua sau vành tai nàng, trượt xuống theo đường viền của sợi tóc vương trên cổ. Nàng rùng mình nhẹ. Đó là điểm yếu của nàng đã bị chàng phát hiện. Môi chàng đi theo đường ngón tay đã chỉ khi nàng thấy chiếc áo dần tuột xuống vai.

- Tại sao lại phải xấu hổ? – Chàng cười khẽ bên vai nàng. Làn da nàng nóng ấm. Hơi nóng làm chàng quên đi cả cơn bão ngoài cửa vẫn đang rả rích, vần vũ.

Phải, bọn Ngô Tùng Châu lúc này đang phải đánh vật với con chữ, Nguyễn Phúc Hội đang phải đội mưa ở Trà Vinh. Ở Bắc Hà, chiến tranh đang xảy ra, có những kẻ đang tập trung lực lượng, có những cái chết. Ở cạnh nàng là một niềm hạnh phúc khó có thể có trên đời, chàng nên biết nắm lấy nó, bất cứ khắc nào.

Tháng giêng năm Kỷ Dậu bắt đầu bằng tin báo Phạm Văn Sâm định phá vòng vây ở Ba Thắc, tiến ra biển. Chúa Nguyễn liền tập hợp hai dinh Tiên phong, Tiền quân của Võ Tánh và Lê Văn Quân, Tiền quân thủy dinh của Nguyễn Văn Trương hợp cùng Nguyễn Phúc Hội và Nguyễn Văn Tồn phong tỏa Trà Vinh, Ba Thắc. Khi họ đến, Nguyễn Phúc Hội báo cho chúa Nguyễn tin xấu: Một toán binh Miên lại theo tù trưởng là Ốc nha Ốc làm phản.

- Quân Tây Sơn chia đường tiến ra cả trên thủy bộ. Bọn chúng dựa vào thế rừng lớn hoang vu, lấy nỏ bắn ra, lại xua trâu rừng vào quân ta, vừa húc vừa đạp như bão lũ. – Nguyễn Phúc Hội lắc đầu nói. Chúa Nguyễn vẫn chưa xuống thuyền, cả hai đứng trên mạn thuyền trò chuyện. – Nguyễn Văn Tồn đã được cử cầm nhóm quân Phiên đi kiềm chế, nhưng ta vẫn cần phải coi chừng bọn họ.

- Trước đây ta cũng đã từng cho quân chinh thảo vùng này. – Chúa Nguyễn trầm ngâm nói. – Đỗ Thanh Nhơn đích thân cầm quân đến, lấy khiên da che tên, lấy súng bắn dọn đường rồi đốn hết cây cối, bao vây cho chặt.

- Nhưng quân Tây Sơn cũng mang theo súng lớn và chiến bị, cách làm như vậy không khéo lại trở thành đấu súng giữa hai bên, tổn thất không phải ít. – Nguyễn Phúc Hội cau mày. Chúa Nguyễn gật đầu, ra hiệu cho Võ Tánh và Lê Văn Quân lại gần.

- Ta giao hai người bao vây trên bộ. Quân Miên có sở trường dùng nỏ, xua trâu trước trận, phải lấy khiên mà che, lấy súng phòng vệ, giữ khoảng cách từ từ mà tiến. Chỉ cần bao vây trên bờ cho chúng không chạy thoát là được. Phạm Văn Sâm ý muốn tiến ra biển, Nguyễn Văn Trương sẽ lĩnh chủ quân cản ở đầu sông. Nhân tình thế rối loạn, chú ý cắt nhỏ các toán quân của địch. Không cần chủ tâm tiêu diệt, chỉ cần dồn địch trở vào, không cho chạy thoát.

Chú ý toán Phiên binh, chúa Nguyễn nói riêng với Nguyễn Phúc Hội.

Vừa ra đến cù lao Hổ, quân của Phạm Văn Sâm đã gặp Nguyễn Văn Trương cản đường. Giáp chiến trên bộ, toán quân Miên của Ốc nha Ốc bị cắt rời, chạy về Cần Thơ thì bị Nguyễn Văn Phong tiêu diệt. Phía sau, tướng Nguyễn trước đây là Thanh Hàm nay nằm trong quân Tây Sơn phản lại, để quân của Lê Văn Quân tràn đến tiêu diệt cánh Ba Thắc. Cánh quân từ Mỹ Thanh lên tiếp cứu bị Nguyễn Phúc Hội, Võ Tánh phá tan. Phạm Văn Sâm lại chạy vào cố thủ trong rừng núi Ba Thắc.

Chúa Nguyễn để Võ Tánh và Lê Văn Quân ở lại trông coi đồn binh Miên Oai Viễn và bao vây Phạm Văn Sâm.

Khi trở về, tin tức mới từ Bắc Hà đã chào đón vị chúa: Quân Thanh bị Tây Sơn đánh đuổi khỏi Thăng Long. Đoàn thuyền chở lương thực cho nhà Lê cũng đã bị đắm bởi bão, không có tin tức.

Chúa Nguyễn nghe tin ấy, khẽ cau mày. Ngồi xuống sau bàn giấy trong căn phòng quân cơ, vị chúa chỉ nhìn người báo tin mà hỏi:

- Tình hình biên giới phía Bắc có tin gì không?

Người báo tin của họ - vốn là một thương nhân người Quảng Đông – rất nhanh hiểu ra ý của vị chúa, trả lời:

- Hầu như tất cả người Đường ở phía Bắc đã chạy trốn về Đại Thanh. Các thương nhân trong phố Hàng Buồm ở Thăng Long, phố Hiến ở Sơn Nam, phố Cơ Xá ở Kinh Bắc cũng theo tàn quân chạy qua biên giới vì sợ trả thù. Cả bọn khai thác mỏ ở Thái Nguyên trước đây có xung đột với Tây Sơn, nay sợ mà trở về bản quán.

Ồ, chúa Nguyễn thốt ra một thanh âm trong cổ họng, mỉm cười, thưởng cho người báo tin rồi cho lui. Ở góc phòng, Ngọc Du quan sát vị chúa lật xem qua các chiếu biểu trước khi ngẩng lên cho người gọi Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định. Khi hai vị quan này vào phòng, chúa Nguyễn vẫn đang còn xem xét một bản biểu dày, không ngẩng lên.

- Định lệ thuế cảng mới đã xong chưa? – Vị chúa hỏi, xếp lại đống giấy tờ. Trịnh Hoài Đức cúi đầu.

- Bẩm chúa công, luật thuế mới Lại bộ Phan Thiên Phúc đã hoàn thành, đang được Hình bộ xem qua để sửa sang. Nhà cai bạ bên Chợ Quán đã được xây lại, dân buôn đang tập trung về đó cũng nhiều. Theo lệnh của chúa công năm trước, bọn Hà Hỷ Văn đến các cảng kêu gọi người Đường đến buôn bán đã trở lại, nói rằng có kết qủa tốt đẹp. Vừa qua có chiến cuộc với quân Phiên nên giao thương với Chân Lạp kể cũng gặp khó khăn, nhưng những người Minh Hương trước đây bỏ sang Chân Lạp đã về.

- Bảo bọn Hà Hỷ Văn hay thương nhân Hoa Nam nào đó có uy tín loan truyền tin cho các nhà buôn khác, đặc biệt chú ý ở biên giới phía Bắc, vùng Quảng Đông. Nếu nhà buôn nào gặp khó khăn muốn đến Gia Định lập nghiệp, ta sẵn sàng chào đón. – Vị chúa ngả lưng ra sau, gật đầu nhẹ. – Nhưng cấm buôn bán các loại vật dụng dành cho việc binh như kẽm, sắt, đồng, diêm sinh, lưu huỳnh. Đem những hàng hóa ấy đến thì nhà nước thu mua, trả hậu và miễn thuế cho, nhưng tuyệt đối không buôn bán ra ngoài. Cũng không cho tàu buôn nước ngoài đến chở trộm lúa gạo, trầm hương, ngà voi, sừng tê là những sản vật qúy trong nước. Nói bộ Hình nhanh chóng phê duyệt luật thuế để dân chúng yên ổn, vững lòng mà làm ăn.

Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định cúi đầu tuân lệnh nhưng viên Chế cáo họ Trịnh vẫn còn có ý chần chừ. Nhận ra thái độ của cậu ta, chúa Nguyễn nhướng mày.

- Có việc gì khúc mắc không?

- Trước đây việc buôn bán trong Gia Định tập trung ở Cù lao Phố vốn có căn nguyên của nó. – Trịnh Hoài Đức vòng tay nói. – Cù lao Phố bốn mặt là sông, nằm ở trung tâm Gia Định, việc vào ra buôn bán đều dễ dàng mà cũng dễ liên hệ với các nguồn cung cấp sản vật trong vùng. Trước đây thuyền buôn cập cảng thì chỉ việc lên bờ thuê nhà ở, đến nhà chủ mua hàng kê khai toàn bộ tài sản với sở thuế để chủ định giá. Đến ngày trở về, nếu thương buôn muốn mua thứ gì thì chỉ việc kê khai, người chủ vựa theo đơn đặt hàng mua dùm, khách đến cứ việc ăn uống vui chơi. Phía Nam thì có bãi Thạch Than vừa sâu vừa trong, kín gió kín bão, không có cả hà đục thủng ván thuyền, là nơi lý tưởng cho các thuyền buôn đậu lâu ngày. Sau Tây Sơn đốt phá Cù lao Phố, thương nhân đến Sài Côn này không phải là không có cái lợi, nhưng đường vận chuyển khó khăn, dù đã được đào thêm kênh rạch từ Mỹ Tho đến. Lại thêm các thương buôn lâu năm chuyên mua trữ hàng hóa, đầu mối buôn bán đã xiêu dạt, khách thương đến phải hỏi Đông hỏi Tây tự tìm nguồn hàng, đã vất vả lại thường bị đám bất lương lừa gạt.

- Thương buôn tập trung đến Sài Côn vì họ cảm thấy nơi này an toàn. – Chúa Nguyễn gật đầu đăm chiêu. – Gia Định biến loạn khắp nơi, chỉ nơi quan quân ở là có trị an tương đối tốt.

- Vâng, nên những bất lợi về đường thông thương ta có thể cải tạo sau. Nhưng việc buôn bán ở Gia Định không thể chỉ nhờ vào một mình bến cảng Sài Côn. Từ chiến tranh đến nay, các phố chợ đã tiêu điều đổ nát, cần được xây dựng lại. Liên quan đến nguồn cung cấp hàng hóa cho Sài Côn là chợ Mỹ Tho, chợ cung cấp gỗ là Bến Gỗ ở sông An Hòa, chợ Biên Hòa ở Trấn Biên cung cấp đường cát và muối, chợ Bến Cá ở Phước Vinh cung cấp thổ sản miền núi, chợ Bà Lịa ở Long Thạnh cung cấp thủy sản miền biển, cửa khẩu Nhà Bè từ Trấn Biên đến Tân Bình vốn là nơi đóng thuyền cho cả Đại Thanh cũng đã bị Tây Sơn tàn phá chưa hồi phục… Chợ Mỹ Tho buôn bán gạo cực kỳ quan trọng với toàn vùng Gia Định này, chợ xiêu tán thì thông thương của Gia Định cũng bị đứt mạch. Nay xin chúa công cho tập hợp, sửa sang lại các chợ, gọi người đến buôn bán. Đó mới là củng cố thương nghiệp cho Gia Định toàn diện.

- Lời khanh nói là đúng, nhưng muốn buôn bán thì phải có hàng hóa. Ruộng vườn bỏ hoang, công việc không ai làm thì ta buôn bán cái gì? – Chúa Nguyễn cười. – Từ từ đã, Trịnh tiên sinh. Trước ta phải gọi người đến mua hàng đã thì mới có kẻ muốn làm giàu mà tạo ra vật để bán. Việc cải tạo lại các phố chợ, các khanh hãy bàn với nhau đề ra phương sách trình cho ta xem xét. Nhưng giờ thì khanh chú tâm đến những thương buôn Hoa Nam cho ta, ngay cả người Thanh cũng không phân biệt. Khanh với Phan Thiên Phúc bàn bạc thay đổi, điều chỉnh thế khóa thế nào cho hợp lý rồi cho ta hay.

Bàn thêm vài công việc nữa rồi vị chúa cho hai viên quan lui về. Đến lúc ấy, ngài ta mới nhìn sang Ngọc Du, nàng vẫn chỉ im lặng ngồi trong góc phòng.

- Chị đến hỏi tin tức Võ Tánh? – Chúa Nguyễn hỏi, bóng của nụ cười phớt trên môi. – Phạm Văn Sâm có thể phá vây trốn thoát bất cứ lúc nào, nên ta đành để Phò mã ở đó vậy.

- Không phải thế, chúa công. – Ngọc Du cau mày, không thể không nhận thấy ý giễu cợt của vị chúa. Từ khi xảy ra chuyện, ngài ta đã luôn đối xử với nàng như vậy. Hôm nay nếu không có chuyện, nàng cũng đã không đến để nhận sự chế nhạo của ngài ta. – Quốc mẫu cử thần đến báo cho ngài tin vui: Cô cung nhân họ Lâm đã có mang long chủng. Quốc mẫu bảo ngài mau thu xếp về nhà.

- À, - Lại một nụ cười nữa đến trên gương mặt chúa Nguyễn, vẫn không bớt đi vẻ giễu cợt. – Thế người nhà ta đâu cả rồi mà phải để chị đến tận đây?

- Nhị phi và Ngọc Tú đang sắp xếp lễ cầu phúc, cảm ơn trời đất cho ngài, chúa công. Ngài không nhớ rằng đã bỏ đi ngay trong mùng hai tết khi vừa mới nghe tin Phạm Văn Sâm sao? Ngay cả cúng lễ cho tổ tiên, ngài cũng chưa hoàn thành.

- Chị đừng bảo với ta họ lại rước mấy ông sư về. – Chúa Nguyễn cau mày. Sự giận dữ đột ngột này cũng chẳng làm Ngọc Du ngạc nhiên. Nàng nhún vai.

- Nhà sư vẫn tốt hơn đạo sĩ. Vả lại, chúa công không coi trọng Nguyên phi thì cũng nên nể mặt Quốc mẫu. Ngài cho đánh người đem tượng Phật vào phòng Nguyên phi lúc trước, không chỉ Nguyên phi mất mặt mà Quốc mẫu cũng giận lắm đấy.

- Nếu họ muốn, ta có thể xây một ngôi chùa cho họ, nhưng đừng đem những thứ ấy vào phòng riêng quanh chỗ ở của ta. – Sự giận dữ của chúa Nguyễn vẫn không giảm bớt. Ngọc Du nhướng mày.

- Liệu thần có thể hỏi lý do ngài ghét bỏ Phật đến vậy không, chúa công? Hay là ngài ở Xiêm La phải lạy Phật đến mòn cả đầu gối rồi nên đâm ra như thế?

Lời nàng nói vốn là để châm chích người em trai. Nhưng trái với suy nghĩ của nàng, cậu ta chỉ đáp lời nàng bằng nụ cười quen thuộc. Đứng dậy rời khỏi bàn, chúa Nguyễn Phúc Ánh đến bên nàng đang ngồi, hơi nghiêng người quan sát nàng.

- Vậy chị có tin thần Phật không, trưởng công nương? Có nghĩa lý gì chuyện tụng kinh gõ mõ trước một khối đồng, tin rằng ngay cả chuyện kẻ khác đưa dao vào cổ mình cũng là do tội lỗi của mình? Có nghĩa lý gì chuyện tin rằng mình cứ thiện lương rồi sẽ được báo đáp? Nếu tin vào điều đó, ta có thể sống đến hôm nay à? Định vương, Tân Chính vương cùng bao nhiêu người trong nhà ta bị bọn Tây Sơn lôi vào chùa giết chết đấy. Lúc ấy ông Phật ở trên cao kia có nghĩ gì không? Bọn chúng đã nói gì, “Thế thiên hành đạo”? Đạo nào cho phụ nữ bị vứt trôi sông, trẻ em bị phanh thây, người vô tội bị nướng chín? Đạo nào chứng giám cho các chị, các bà khản cả cổ, khô cả máu mà cầu với chả nguyện khi chồng con họ giết nhau ngoài chiến trận? Đạo nào cho người ta phải giết nhau để sống? Chị gọi đó là báo ứng ư? Hay cao siêu mù mịt hơn nữa là “một sự sắp xếp của đất trời”? Người ta có thể nhân danh hiền lương, đạo đức để tiêu diệt kẻ khác ư? Phải, dù ông thần ông Phật có hay không có, tồn tại hay không tồn tại, cả Chúa của người Gia-tô kia nữa, thì ta cũng quyết đi ngược lại giáo điều của các vị ấy đấy. Tất cả bọn họ đều dạy ta chấp nhận, nhưng ta không bao giờ chấp nhận một thứ vô lý đến như thế. Phủ phục và chấp nhận là việc của phụ nữ các chị, của mẹ, không phải cho ta.

- Ngài cũng nói như vậy với Nguyên phi, chúa công? – Ngọc Du hỏi sau một lúc im lặng. Vị chúa bước đến cửa sổ, nhìn ra ngoài. Bầu trời phương Nam mùa hạn xanh trong đến nhức mắt.

- Ngài nói như vậy với một người ngoài đợi chờ và chấp nhận thì không còn lựa chọn nào khác? – Ngọc Du lặng lẽ hỏi. Vị chúa hơi cau mày.

- Việc nhà của ta không cần chị quan tâm. Ngay cả chuyện cúng đường, lễ lạt của Quốc mẫu cũng vậy, nếu muốn cứ tránh mặt ta mà làm. Dù sao ta cũng chẳng ở nhà mấy đâu mà phải lo.

- Vâng. Dù sao thì từ nay ngài cũng có nhiều cô hầu đi theo trên đường chiến trận. – Ngọc Du chế nhạo. Trước khi vị chúa lên tiếng, nàng đã đứng dậy, cúi đầu. – Việc thông báo của thần đã xong, xin chúa công cho lui. Quốc mẫu đang nóng lòng đợi tin ngài, chúa công.

Nàng ra khỏi phòng mà không cần sự cho phép của chúa Nguyễn. Gió nóng bên ngoài chỉ làm cơn giận của nàng sôi sục.

Nàng đang nổi giận vì lý do gì, Ngọc Du lại tự hỏi mình. Vì sự chế giễu của người em trai? Cậu ta nhạo báng bất cứ thứ gì trên đời này, ngay cả bản thân mình, vậy thì nàng có ý nghĩa nào?

Không chấp nhận. Và buông mình vào ngọn gió, chống lại ngọn gió, trở thành ngọn gió cuốn phăng tất cả những gì cản đường. Trở thành tất cả những gì mình chế nhạo.

Chấp nhận. Và trở thành kẻ đứng bên ngoài, bị bỏ lại trên đường đi của gió. Trở thành kẻ đi ngược chiều của gió.

Võ Tánh cũng còn lâu mới trở về, nàng nghĩ với cái thở dài không thể cưỡng lại. Quãng đời làm vợ của nàng cũng đã bắt đầu như vậy đấy. Những ngày tháng chờ đợi dài thăm thẳm.

Có lẽ vì thế mà nàng đã nổi nóng. Ngoài chấp nhận ra, nàng còn có thể làm gì?

23

Tháng ba năm Kỷ Dậu, Thái bảo Phạm Văn Sâm sau một thời gian bị truy bức trong rừng Ba Thắc đã phải mang gông ra hàng. Ổn định được toàn bộ Gia Định, chúa Nguyễn cho phủ binh giữ các đồn trở về nhà, chỉ giữ lại tinh binh trong quân.

Khi Võ Tánh và Lê Văn Quân được gọi trở về Sài Côn, mùa hạ cũng đã đến. Nắng trên các cánh đồng đã đến lúc gay gắt nhất. Bầu trời đôi lúc nặng trĩu mây nhưng cũng không một giọt mưa nào rơi xuống mặt đất. Không khí oi bức đến khó thở. Đứng trong sân chờ vị chúa cho gọi rồi được báo rằng phải đợi thêm một canh giờ nữa, Võ Tánh cũng phải lánh vào căn nhà của các văn quan trong lũy. Chàng thấy khát khô cả cổ trong thời tiết này, sau một chuyến đi dài.

Đi qua căn phòng nhỏ của Hàn lâm viện, chàng nghe thấy tiếng cười nói. Bọn Trịnh Hoài Đức, Ngô Tùng Châu, Lê Quang Định như lệ thường vẫn có mặt đầy đủ, có thêm Đặng Đức Thuật – viên Hàn lâm viện Thị giảng Giám nghị được tôn xưng là người đứng đầu “Đặng gia sử phái” của Gia Định đã đến ra mắt chúa Nguyễn năm ngoái. Bọn họ vẫn vừa truy lục hồ sơ vừa nói chuyện. Chàng gõ tay vào cánh cửa mở, cười mà nói:

- Tôi mới đi xa về, xin Hàn lâm viện chút trà để đỡ cơn khát được không?

- Vào đây thì muốn uống bao nhiêu cũng được. – Trịnh Hoài Đức cười. Cậu ta đang ngồi trên ghế, lại ngả lưng ra sau làm hai chân ghế trước vênh lên, tay cầm cây bút mà đầu mực đã khô. Võ Tánh vào phòng tự lấy ly rót trà cho mình, uống liền ba ly rồi mới ngẩng lên.

- Các anh đang bàn chuyện gì mà huyên náo thế? – Chàng hỏi. Ngô Tùng Châu vẫn không ngẩng lên khỏi trang giấy đang miệt mài viết, trả lời chàng bằng giọng ơ hờ.

- Bọn họ nghe lỏm người ta báo việc Bắc Hà cho chúa công rồi đem về đây tranh cãi. Nghe đâu ở ngoài đấy có một người tên là La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp bày cho Nguyễn Huệ cải cách giáo dục gì đó.

- Bọn chúng lại học đòi theo Chu Tử, thói Tống Nho đấy mà. – Trịnh Hoài Đức ngả người ra sau, chắp tay sau đầu mà vươn vai, nói leo Ngô Tùng Châu. Cậu ta như lệ thường vẫn là người có vẻ hăng hái nhất.

- Chu Tử với Tống Nho là thế nào? – Võ Tánh hỏi. Đặng Đức Thuật đến bên chàng lấy một ly trà, đáp lời thay cho Trịnh Hoài Đức.

- Nho học khởi nguyên từ Khổng phu tử cũng đã qua nhiều lần thay đổi. Ban đầu khi Khổng phu tử cùng học trò đi khắp nơi thuyết giáo, chính trong thời đại Chiến quốc nhiễu nhương, luân lý suy đồi. Ngài đề cao chữ “Nhân” có sẵn trong bản tính con người, từ đó mà có chữ “Ái” và “Hiếu”. Tiêu chuẩn của “Nhân” là “Trung” và “Thứ”. “Trung” là tận tình với lòng mình, thể hiện bằng hành động. “Thứ” là đem lòng mình ra soi xét thiên hạ, xem thiên hạ như bản thân, đối với người bằng lòng quảng đại. Với cá nhân, phải hành động kiêm thiện thiên hạ, tạo phúc cho quảng đại quần chúng. Trong chính trị, ngài kêu gọi “Vi chính dĩ Đức”, trị nước bằng Đức. Tư tưởng ấy gọi là “Nhân chính”, từ người trong gia đình yêu thương nhau đến quân vương yêu thần dân, người trên yêu kẻ dưới. Tất cả dùng lễ nghĩa nhân ái mà đối xử với nhau. Ngài thậm chí không coi trọng từ chương, dùi mài sách vở. "Sự phụ mẫu năng kiệt kỳ lực, sự quân năng ta kỳ thân, dữ bằng hữu giao ngôn nhi hữu tín, tuy viết vị học, ngô tất vị chi học di". Người nào mà phụng sự cha mẹ hết sức, thờ chúa hết mình, chơi với bạn giữ lời hứa, tuy chưa học, ta nhất định coi như người đã có học rồi.

Đến Mạnh phu tử lại coi trọng chữ “Nghĩa”. "Trắc ẩn chi tâm, nhân giã; tu ác chi tâm, nghĩa giã; cung kính chi tâm, lễ giã; thị phi chi tâm, trí giã. Nhân, nghĩa, lễ, trí, phi do ngoại thước ngã giã, ngã cố hữu chi giã". Lòng trắc ẩn đó là nhân, lòng thẹn ác đó là nghĩa, lòng cung kính đó là lễ, lòng thị phi đó là trí. Nhân, nghĩa, lễ, trí, không do bên ngoài hun đúc ta, mà là vốn đã có sẵn trong lòng ta. "Sinh diệc ngã sở dục giã, nghĩa diệc ngã sở dục giã, nhị giả bất khả đắc kiêm, xá sinh nhi thủ nghĩa giả giã". Sống ta vốn muốn mà nghĩa ta cũng cần. Khi không thể trọn lẽ đôi bề, thì xá sinh mà giữ lấy nghĩa vậy.

Tuân Tử đề cao “Lễ”, dùng Lễ để giáo hóa con người. Lễ, Nghĩa là nền tảng chính trị quốc gia, chẳng những là pháp chế để thống ngự thần dân, đồng thời còn là then chốt của cuộc trị loạn, hưng vong của một nước.

Nhân giả, giàu tình thương, có lòng thành khẩn và tâm hồn quảng đạt; Nghĩa giả, cương trực tiết tháo, thị phi phân minh, biểu lộ khí phách hiên ngang, độc lập; Trí giả, nhận xét sự vật bằng lý tính, phải là phải, trái là trái, không bị ảnh hưởng bởi tình cảm.

Trong thời Chu – Tần còn có nhiều nhà Nho học khác, nhưng thảy đều đề cao chữ Đức mà Khổng Tử đã định. Họ coi dân quan trọng hơn vua, nhân quan trọng hơn quyền, nghĩa quan trọng hơn mạng sống. Tuân Tử nói “Thiên chi sinh dân, phi vi quân giã; thiên chi lập quân, dĩ vi dân giã". Trời sinh ra dân chẳng phải vì vua; trời lập ra vua ấy là vì dân. Mạnh Tử nói "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" cũng có ý nghĩa như vậy.

Khổng Tử san định sáu bộ kinh là Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.

Đến thời Hán, Hán Vũ Đế theo lời Đổng Trọng Thư mà dùng Nho học làm phép trị nước, chủ trương “dương Đức, âm Pháp”, hình thức Nhân trị mà thực ra là Pháp trị. Lễ trị được đề cao. Tam cương, Ngũ thường ra đời từ các nguyên lý Hình nhi thượng của thiên nhiên hữu cơ định sẵn cũng như từ nguyên lý của sự hài hoà. Đức tính Trung do nguyên lý “Thiên mệnh” sản sinh, đức tính Hiếu do nguyên lý “Nguyên” mà thành. Các quy luật đạo đức gắn chặt với các quy luật tự nhiên.

Thời Bắc Tống, hai anh em Trình Hạo, Trình Di đưa Hình di thượng học lên một mức nữa: Thiên lý hoặc lý là nguyên lý, là quy luật tự nhiên, từ đó khơi nguồn cho tất cả những nguyên lý khác.

Đến Chu Hy thời Nam Tống đem sách Đại học trong Lễ ký ghép với Luận ngữ, Mạnh Tử và Trung Dung thành một bộ Tứ thư, lại giảng Nho học theo lối hoàn toàn mới, gọi là Tân Khổng giáo. Nguyễn Thiếp dạy “Học cho rộng, rồi ước lược cho gọn, theo điều học biết mà làm” chính là lời của Chu Tử: “Từ khi phép học để nên thánh hiền không truyền tụng, các học giả không biết lý do của sự học mà học chỉ học từ chương, học chú thích, học thuộc lòng. Do đó sách vở ngày một nhiều mà nghĩa lý ngày một mờ tối, học hành ngày một vất vả mà tâm hồn ngày một phóng túng, văn chương ngày một hay, nghị luận ngày một cao, mà thực hành trau dồi đức độ thì ngày một hết.”

Chu Tử chủ trương Lý học. “Lý ở lòng người, ấy gọi là tính. Lòng, là cái chỗ thần minh hội hiệp, làm chủ tể cả một thân người ta. Tính, tức là bao nhiêu đạo lý ta nhận được ở trời mà đủ ở trong lòng”. Muôn vật đều có cái lý, cái lý đều cùng nẩy sinh từ một nguồn gốc “Vạn sự giai hữu lý, lý giai đồng xuất nhất nguyên”. Nhưng nếu không cùng một vị trí thì cái dụng của lý không là một, như làm vua phải nhân, làm tôi phải kính, làm con phải hiếu, làm cha phải từ, vật nào vật ấy đều đủ cái lý của nó, nên vật nào vật ấy mới khác nhau ở cái dụng của nó “Đãn sơ cư chi vị bất đồng, tắc kỳ lý chi dụng bất nhất. Như vi quân tu nhân, vi thần tu kính, vi tử tu hiếu, vi phụ tu tử, vật vật các cụ kỳ lý, nhi vật vật các dị kỳ dụng.” Nhân dục là cái trái với thiên lý, nên muốn tồn thiên lý thì phải khử nhân dục.

Tư tưởng Chu Tử hiện đang được Mạc Phủ sử dụng ở Nhật Bản. Chu Tử học ở Nhật Bản phân ra làm hàng chục phái. Mọi người mọi kẻ thay vào lao vào sáng tác văn chương thì lại lao vào giải thích Tứ thư Ngũ kinh.

- Phải, phải, cũng theo đúng như Chu Tử vẫn bảo: Chỉ có rèn luyện đạo đức mới quan trọng, còn thơ văn chỉ là chuyện bên lề của người đi học. – Trịnh Hoài Đức cười lớn. – Học cho rộng rồi ngẫm cho kỹ, chẳng qua cũng chỉ là mấy bộ sách mục. Tưởng sao chứ đám nho sĩ Bắc Hà không đi ngâm vịnh thì lại đâm đầu vào lối Chu Tử, chẳng biết đường nào hay hơn đường nào. “Trước hết phải đọc cho thuộc, khiến những lời trong sách đều như là ở tự miệng mình nói ra, rồi nghĩ cho kỹ, khiến các cái ý đều như là ở tâm mình mà ra”, thế hóa ra bây giờ ta không học thuộc sách, ta lại thành con mọt ăn sách à? Lại như Ngô Sĩ Liên “Từ khi sinh dân tới nay thì không ai nổi tiếng hơn Khổng Tử. Chu Tử đã theo thì không thể nghi ngờ gì cả. Người sau chỉ tô chuốt cho bóng thêm, không được chê bai bàn cãi gì cả”. Chẳng hiểu sao Nguyễn Huệ hành sự lỗ mãng, Nguyễn Thiếp lánh đời dạy học để làm gì mà lại “nhất định theo Chu Tử”?

- Một kẻ thì đến giờ mới biết tôn ti, tất nhiên phải bám lấy tôn ti để giữ vững chỗ cho mình. Một kẻ thì dùng sách thánh hiền dạy người trong thâm sơn cùng cốc, tất nhiên tưởng lời trong sách thánh hiền đã là cạn lẽ. – Đặng Đức Thuật trầm tĩnh nói. - Trau dồi đức độ, nói thì hay nhưng cũng chỉ đến thế. Nho gia nước ta, dù ở Bắc Hà trước giờ vẫn không theo Chu Tử mà học lối Nhị Trình. Nhị Trình bảo “thiên lý” là đạo trời vốn có trước, khí là thứ bao trùm trong trời đất, con người là khí của trời đất, cùng đất trời là một. Chu Tử lại nói rằng lý có trước khí, trước khi có trời đất đã có lý. So với Nhị Trình qủa dục, cư kính, tập nghĩa, cùng lý, Chu Tử lại càng nghiêm khắc, thượng lễ, cố chấp, câu thúc lắm. "Những việc làm, lời nói của thánh nhân không có việc gì là không làm phép tắc cho đời sau. Ai thuận theo là quân tử mà cát, ai không thuận theo là tiểu nhân mà hung".

- Nguyễn Thiếp là một ông già, thấy được cũng chỉ thế thôi. – Cậu trai trẻ Trịnh Hoài Đức tiếp tục xen vào. - Bắc Hà có vua lại có chúa, phong hóa suy đồi có cả kiêu binh, trên không ra trên, dưới không ra dưới – Thế là ông ta đem đạo đức Lý học ra dạy để ai về chỗ nấy. Bắc Hà kẻ sĩ chỉ học từ chương để thi cử như con vẹt – Thế là ông ta bảo đọc sách phải hiểu cho sâu. Chúng ta chỉ là hạng học đòi chữ nghĩa, làm sao mà theo được? Tôi thà viết văn làm thơ, đem sở học ra chơi đùa còn hơn vùi đầu vào học lời vàng chữ ngọc kiểu ấy. Từ cuối thời Minh đến giờ, đã có bao nhiêu kẻ đả phá Chu Tử? Ở ta thì gần đây các nhà nho Bắc Hà ngày càng sa đà vào Lý học Chu Tử. Lê Qúy Đôn có cả chương biện luận lý-khí trong Vân đài loại ngữ, viết cả Dịch kinh phi thuyết. Phạm Nguyễn Du viết cả một cuốn sách về Chu Tử. Từ khi vua Lê Thánh Tông định khoa thi, cái học đã lưu tâm vào Chu dịch, Lễ ký, Xuân Thu. Nhà nhà theo học lối Trình Di, nghiên cứu Kinh Dịch, giờ đây lại nghiêng về sở học Chu Tử.

- Thế thì các anh học cái gì? – Có thể là do trời nóng, Võ Tánh đã cảm thấy nhức đầu. Họ càng nói càng say sưa, hầu như không để ý đến sự có mặt của chàng.

- Thầy Võ chuyên dạy cho thấu nghĩa “tri ngôn, dưỡng khí”, - Lê Quang Định nói từ đầu bàn bên kia. – Nhưng chúng tôi được gọi là loại “phong sĩ nho cổ”, xuất thân thương buôn chỉ học để làm việc. Từ thời Minh, các thương buôn ở Tàu rất trọng Nho học vì nó giúp ích cho công việc. Chúng tôi vốn cũng không học để thi cử. Nên sở học của chúng tôi nghiêng về địa chí, kinh tài. Thầy Đặng đây giỏi về đạo học, chúng tôi còn phải học tập nhiều.

- Ồi, thầy ta nói: “Sách Đại học một nghìn bảy trăm chữ, tan ra gồm vô số sự vật, tóm lại còn hai chữ cũng không”. – Trịnh Hoài Đức cuối cùng cũng bỏ cây bút đã khô cứng mực xuống bàn. - Thầy đem đạo nghĩa dạy cho chúng ta chỉ để chúng ta thành người, sở học dùng để học một mà biết mười, tri lý, tri khí. Nho học vào nước Việt ta vốn không giống như ở Tàu, trọng về thực dụng, dạy về nghĩa lý tôn ti, quản trị đất nước con người, không đặt nặng phần tâm linh huyền ảo. Chúng ta vốn cũng chẳng có trường phái Nho học nào giống như Tàu, Cao Ly, Nhật Bản. Các chúa Nguyễn trước kia mở khoa thi cũng là để chọn người làm được việc chứ không trọng thứ học vấn cao siêu. Đem Chu Tử vào độc tôn thì qúa khắt khe giáo điều.

- Bắc Hà không giống như nơi đây. – Ngô Tùng Châu đột ngột lên tiếng bên kia bàn. – Khi đạo Nhị Trình không thể quản lý được nữa thì người ta mới viện đến Chu Tử. Phong hóa từ đám sĩ phu mà ra, đám sĩ phu hỏng thì phải thắt chặt giáo hóa lại. Nam Hà ta tuy đất mới, tộc người phức tạp nhưng thuần hậu, dễ đem lễ nghĩa đơn giản mà dạy dỗ. Trời sinh ra dân, chẳng phải vì vua. Trời sinh ra vua, chính là vì dân. Đạo học cũng vậy, không phải đạo lý sinh ra con người, mà con người sinh ra đạo lý.

- Như vậy thì trước tiên phải chỉnh đốn lại phong hóa, không phải chỉnh đốn cách học. Do phong hóa suy đồi, triều chính rối loạn, xã hội mất hết cương thường mà sinh ra con người như thế. Người dưới nhìn người trên chỉ thấy xấu xa, con cái nhìn cha mẹ chỉ thấy khinh rẻ, dân chúng nhìn quan chức chỉ thấy căm ghét, quần thần nhìn vua chúa chỉ thấy vô tài bất đức, thế thì người ta mới bỏ hết đạo cương thường, chỉ chăm chăm theo cách học trục lợi bất chấp lòng tự trọng. Cách học ấy do xã hội suy đồi mà sinh ra, do đạo lý không được coi trọng mà thành. Người ta bảo “Nhà dột từ nóc”. Thay vì đem đạo nghĩa giáo huấn thiên hạ, lấy gương mình cho kẻ khác soi chung, chỉnh đốn quan trường, thắt chặt luật pháp, lại đi cải cách học vấn thì giống như chỉ chỉnh trang cái ngọn. Dù có học đến bao nhiêu đi nữa, người ta cảm thấy không cần thiết phải hiểu, phải biết đạo nghĩa thì dạy cách nào cũng là vô ích. Ngược lại, kẻ có học vấn lại đắm chìm vào sách vở tìm những lối giải thích cao siêu cho tình trạng hiện tại, đó cũng là một lối thức giả bế tắc lánh đời. Nhìn Tàu thời Minh rồi đến hiện tại, bao nhiêu trường phái Nho học đã ra đời, thuận có nghịch có, rồi giải quyết được gì? Mạnh phu tử ghét bỏ Dương, Mặc đâu phải vì cho rằng người ta không được yêu thương bản thân, không nên có lòng kiêm ái với mọi hạng người. Chẳng qua kẻ sĩ phu vốn phải nhận ra được vị trí của mình trong thiên hạ, lập thân mà từ đó giúp được cho đời. Không có ý thức trách nhiệm của bản thân với thiên hạ mới sinh ra thói tham lam, vơ vét hưởng lợi lẫn sa đà vào những tình cảm vô ích phù phiếm. Không có lương tri, không trọng tiết tháo thì mới có loại người tầm chương trích cú tìm kiếm hư vinh cho mình. Kẻ không biết nhục mới đi bán rẻ danh dự bản thân vì lợi, xu quyền phụ thế. Một xã hội trọng phù hoa bề ngoài mới bỏ qua thực chất mà chạy theo thành tích. Nho học từ Khổng mà nên, nhìn Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang mà làm mục tiêu cho mình, vốn là lấy Đức làm nền tảng, đem Nhân, Nghĩa, Trí rèn luyện người đời. Đạo lý vốn có sẵn, Lễ chỉ là thứ bọc ngoài. Củng cố lễ nghi có thể làm cho tôn ti trật tự vững vàng, nhưng không làm cho con người biết qúy trọng đạo đức, huống hồ gì đến lời lẽ thánh hiền. Cho nên tôi mới bảo đem Chu Tử độc tôn, làm thứ luân lý duy nhất bắt phải học là rất giáo điều.

Trịnh Hoài Đức nói càng lúc càng hăng, dường như muốn cướp hết lời người khác. Ngô Tùng Châu rời mắt khỏi trang sách, nhìn lên cười nhẹ.

- Anh phải ở nơi ấy mới có thể biết được. Phong hóa cũng là do con người tạo thành, mà vua quan thế nào cũng là do ảnh hưởng của cả cái phong hóa ấy. Phải quản lý các anh ngày trước trong trường, tôi cũng hiểu thế nào là cai quản một đám người tài giỏi cao ngạo. Chúa công giao tôi hướng dẫn cho Nguyễn Đình Đắc, kể cũng biết nhiều chuyện. Ở đó không giống như Gia Định này, người người chỉ bám chặt vào họ hàng, làng xã, thôn xóm của mình, có thể nói là kiêu ngạo khinh bạc với kẻ bên ngoài cũng được. Làng xã nhỏ hẹp, lại không đi xa, đi nhiều, không quan hệ với nhiều loại người, họ chỉ biết quanh nơi mình sống. Những kẻ sĩ phu thì lại càng mục hạ vô nhân, chuộng cái hư danh, trọng cái cũ kỹ, yêu cái đẹp đẽ màu mè. Chính anh đã nói Ngô Sĩ Liên, Lê Qúy Đôn, Phạm Nguyễn Du coi trọng Chu Tử thế nào, những sách vở nghiên cứu Trình Chu nhiều ra sao, vậy thì đó là mong muốn, chí hướng của các Nho gia ngoài đó, có thể thay đổi được ư? Nguyễn Thiếp chỉ là một phần trong bọn họ, và ông ta đáp ứng ý muốn của bọn họ. Ngay cả nếu anh được cai quản xứ ấy, anh nghĩ mình có thể thuyết phục họ bỏ kinh sách ư? Anh nghĩ mình có thể thay đổi được cả Tính ư? Chu Tử nói Lý là Tính có cái nghĩa của ông ấy. Trời sinh ra đất đai phân biệt, người ở mỗi nơi cũng khác, phong hóa là do chính họ tự tạo ra, tự chọn lấy, cũng là gắn với Thiên, Địa. Đã cho Nhân đứng cùng với Thiên Địa, cho người và trời cùng hợp nhất, con người là một bản thể do trời đất tạo thành, thì phải xét con người trong bối cảnh xung quanh. Cũng theo Chu Tử, nhưng nhà Tống khác với Nhật Bản, lại càng khác với Cao Ly. Con người vốn chủ động tiếp nhận những thứ gì họ cho là cần, là đúng, có thể đi ngược lại được sao? Dùng thứ Nho học lễ nghi bậc nhất để kêu gọi người đi học, Nguyễn Huệ hay Nguyễn Thiếp định dùng nó khắc chế, chèo kéo đám sĩ phu. Quân tử tập Lễ mà tu thân, không toàn diện thì cũng có ích lợi.

Họ vừa nói đến đấy, lính đã đến gọi Võ Tánh đến gặp chúa Nguyễn. Vị chúa vừa mới từ bến cảng về, ống quần còn âm ẩm nước. Ngài ta gật đầu đáp lễ cái chào của chàng, ra hiệu cho chàng ngồi và gọi người đem trà ra. Nhìn gần, chàng thấy vị chúa có vẻ mệt mỏi. Ngài ta cũng uống nước giống hệt như chàng hồi nãy.

- Nghe nói khanh mới từ chỗ Hàn lâm viện về? – Võ Tánh thấy lạ. Vị chúa không hỏi chàng về công việc ở Ba Thắc. Có lẽ ngài ta đã gặp Lê Văn Quân trước. Chàng gật đầu xác nhận. Chúa Nguyễn lại mỉm cười.

- Ta nghe nói mấy hôm nay bọn họ vẫn còn bàn cãi về sở học. Trong khi công việc ta giao cho họ làm thì lại chẳng đến đâu.

- Họ vẫn làm việc rất chăm chỉ, chúa công. – Võ Tánh tỏ ý phản đối ngay lập tức. Trong thời tiết bức bối này, bọn họ vẫn ở trong căn phòng chồng chất giấy tờ ngột ngạt đến không thể thở nổi. Việc bọn họ bàn cãi với nhau một chuyện gì đó đâu phải là tội lỗi.

- Ta không nói đến công việc bàn giấy của họ. – Nụ cười trên môi chúa Nguyễn vẫn giữ nguyên. – Ta kể với họ về tình hình Bắc Hà, có nhắc đến cả vụ mùa tháng năm thất bát kéo theo sau vụ lúa thu đông tồi tệ năm ngoái vì trận lụt ở Đàng Ngoài. Thế mà bọn họ chỉ bận lo tranh cãi về sở học, chữ nghĩa. Ta cho họ làm quan đâu phải để cai quản những việc vô ích như thế.

- Chúa công miễn binh, miễn xâu cho học trò là để khuyến khích học hành, chẳng lẽ bây giờ lại cho rằng học hành không quan trọng?

- Học hành quan trọng. Nhưng nói đến chuyện chữ nghĩa khi dân chúng đang chết đói là hạng vô lương, Võ tướng quân ạ. Ông bà ta đã dạy “Có thực mới vực được đạo”. Các chúa ta cả hai trăm năm cũng không trọng thi cử hàn lâm, chỉ lựa người làm được việc. Lê Qúy Đôn đến còn tỏ ý chê bai, thế mà cũng phải công nhận rằng nhân tài phương Nam ta không thiếu. Tài học có ai qua được Đào Duy Từ, kinh luân có ai bằng Nguyễn Hữu Cảnh? Lũy nào vững chắc bằng lũy Trấn Ninh? Đất nào mở rộng nhanh bằng Gia Định? Thương cảng nào lớn bằng Hội An? Bọn sĩ phu Bắc Hà chê cười chúng ta thực dụng, và qủa thật là chúng ta thực dụng. Học hành đối với chúng ta chỉ là để biết, để giữ vững cương thường đạo lý, để làm những gì có lợi cho mình cho người. Sa đà vào những thứ không có lợi về mặt thực chất thì để làm gì?

Võ Tánh im lặng. Có vẻ như khí nóng cũng đã làm vị chúa trở nên cáu gắt. Ngài ta ngả lưng về sau, nhắm mắt một lúc rồi mới chậm rãi nói.

- Lê Văn Quân đã báo với ta về tình hình ở Ba Thắc. Người Phiên vẫn có những đợt chống đối nho nhỏ, phải không? Họ vẫn nhất định không chịu sự quản lý của ta. Ta sẽ cử Giáp-tri-giáp đến vậy. Ông ta là người Phiên, để bọn họ tự trị là hơn, dần dần sẽ đưa họ vào chính quyền ta. Trà Vinh thì giao cho Ốc nha Chích. Ta cũng đang bổ quan đi các nơi lo công việc. Hà Tiên có Mạc Tử Thiêm, anh ta vốn được người Xiêm nuôi nấng, Phật vương Xiêm không có lý do gây hấn với ta. Ta cũng vừa đưa hai trăm xe gạo sang Xiêm cứu đói cho họ, biên giới phía Tây có lẽ sẽ vô sự trong khoảng thời gian này. Ta mới đặt chức quan Điền tuấn, để bọn Hàn lâm Chế cáo của ta lo vậy.

- Quan Điền tuấn? – Võ Tánh hỏi lại, không thể không nhận thấy nụ cười phớt trên môi vị chúa.

- Cho bọn họ đi chăm lo đốc suất dân cày ruộng để hiểu làm quan phải thế nào. Ruộng đất ta bỏ hoang nhiều, dân lại chỉ dựa vào đất đai trù phú, thương buôn đông đúc, nhộn nhịp mà làm những việc không ích lợi; bọn đồng bóng, phù thủy không lo làm ăn chỉ đi lừa gạt người khác thật càng đáng ghét. Đến ruộng, họ liệu mà dùng tài học của mình quản lý cho có hiệu qủa, sử dụng ba tấc lưỡi mà thuyết phục quảng đại chúng dân, không phải nói thánh nói tướng trong phòng kín. Chữ nghĩa chỉ vuốt ve lòng tự cao của đám học hành, ra làm việc đi thì mới biết sai hay đúng. Nho gia mà không nghĩ đến “thứ, phú, giáo” hay sao? Trước phải làm cho dân đông, sau phải làm cho dân giàu, cuối mới là việc giáo dục. Bọn họ dù sống trong đám dân nghèo ngày trước, vẫn là những anh học trò, làm quan của dân khác với làm dân, lại càng khác với cái nhìn của đám học trò.

Cho nên ngài đem quan văn của mình về coi việc cày ruộng, Võ Tánh nghĩ thầm, nhớ đến cái nóng gay gắt cháy bỏng trên đất phương Nam. Năm nay lại hạn hán, mãi vẫn chưa thấy mưa xuống. Tháng này mới đến mùa gieo trồng, họ phải coi sóc ruộng đồng suốt từ lúc gieo hạt đến khi cấy lúa. Nhận ra cái nhìn của chàng, chúa Nguyễn cười lớn.

- Ta cũng đã phải cày ruộng bốn năm ở Xiêm La. Phật vương cho ta một cái làng với khu đất nhỏ, tự làm lấy mà ăn. Quân tướng ta việc cày cấy rất thạo. Nước Xiêm cũng giống như Chân Lạp, việc học hành chểnh mảng, không theo Nho học, lại cũng vừa qua chiến tranh, mọi người mọi kẻ chỉ lo làm kiếm cái ăn. Vọng Các tàu thuyền qua lại luôn luôn, đông đúc nhộn nhịp, rất có màu sắc phồn hoa đô hội. Bị Miến Điện cướp phá gần hết, thế mà họ xây lại nhà bạc nhà vàng. Bọn họ làm được, chẳng lẽ ta không làm được?

- Không. Ta sẽ hơn bọn họ. – Võ Tánh mỉm cười. Trong nụ cười của chúa Nguyễn, không hiểu sao chàng vẫn cảm thấy vẻ mệt mỏi. Hay buồn bã, có lẽ.

Không chỉ là do trời nóng, chàng nghĩ khi trở về nhà lúc trời đã ngả tối. Chúa Nguyễn để chàng ở lại Sài Côn lần này để tuyển chọn, rèn luyện đám tinh binh còn lại sau khi cho phủ binh về. Huỳnh Đức cũng đã từ Xiêm La trở về trong sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, sau cuộc hành trình qua núi kéo dài suốt một năm ròng. Để Huỳnh Đức làm Giám quân Trung dinh, vị chúa có một vài đổi thay nho nhỏ trong quân đội. Cùng với những chính sách nông nghiệp đang ráo riết tiến hành, ngay cả những võ quan cũng phải đi lo việc tại các công đường. Lê Văn Quân đã ngay lập tức được sai ra giữ Bà Rịa, Nguyễn Văn Thành đi tuần tiễu các cửa biển. Thành Vàm Cỏ, Cá Trê được xây lại. Tưởng như mỗi ngày, mỗi giờ, Gia Định đều có đổi thay.

Khu Cầu Sơn vắng vẻ khi chàng đi ngang qua, vang tiếng vó ngựa trên đường. Dân buôn đã lại chuyển về Chợ Lớn bên sông Tân Bình, để Cầu Sơn thành nơi đồn trú hoàn toàn của quân tướng. Trong chuyến di cư này, họ để lại dấu vết kéo dài bên dòng sông.

Trước phải làm cho dân đông, sau phải làm cho dân giàu. Vị chúa đang tuần tự tiến hành công việc của mình. Những người từ bốn phương được gọi đến, mở rộng tay chào đón. Gia Định đang đổi thay, chàng nhận ra điều đó khi nhìn ánh lửa kéo dài trong những ngôi nhà bên bờ sông. Ánh sáng từ bến cảng Chợ Lớn vẫn còn hắt lại qua những lùm cây, phản chiếu trên dòng nước. Nửa năm ở Ba Thắc hoang vắng cùng rừng núi và người Cao Miên, chàng đã ngỡ ngàng khi trở lại Sài Côn.

Sau khi Phó vương Cao Miên lui khỏi Sài Côn, nơi này chỉ còn lại rừng và một vài làng nhỏ, chủ yếu là đồn lũy quân đội. Chỉ từ khi chúa công đến, thương buôn chạy loạn Cù lao Phố xuôi theo sông Tân Bình tập trung về, Sài Côn mới trở thành một bến cảng. Trịnh Hoài Đức đã từng nói với chàng trong một buổi chiều đi dọc dòng sông. Sài Côn này tồn vong theo chúa công, mà cũng có thể nói chúa công chính là người khai mở nó.

Ta sẽ hơn bọn họ. Chàng lại nghĩ đến lời nói của mình, nụ cười của vị chúa. Sài Côn sẽ vượt trên Vọng Các, trên cả Hội An, Đà Nẵng, Cù lao Phố xa xưa, cả Cao Ly, Nhật Bản, Hạ Châu. Chúng ta sẽ xây dựng lại Gia Định, hơn bất cứ những gì ngày xưa từng đạt được, lời nói ấy chàng lại như có thể nghe thấy bây giờ.

Ngọc Du sắp sẵn đồ ăn trên bàn đợi chàng, hẳn nàng đã nghe người báo quân của chàng về. Sau nửa năm không gặp, khi nàng ngẩng lên nhìn chàng vào phòng, chàng lại thấy phảng phất trong mắt nàng ánh nhìn của vị chúa. Đã có chuyện gì xảy ra, chàng lại tự hỏi. Nàng không kể gì với chàng trong thư gửi tới Ba Thắc.

- Cảnh sắp về. – Ngọc Du trả lời khi chàng không đừng được, cất tiếng hỏi bên bàn ăn. Câu trả lời có vẻ như rất vô lý. Đó đáng lẽ là một tin vui.

- Hồ Văn Nghị đi trước báo tin rằng Bá Đa Lộc đã đưa Cảnh về. Ông ấy không thuyết phục được vị Toàn quyền Phú Lang Sa ở Ấn Độ, chỉ đem về được hai chiếc thuyền với hơn trăm người Tây dương phụ tá. – Đó vẫn không phải lý do để buồn phiền, nhận ra câu hỏi ấy trong mắt chàng, Ngọc Du nhún vai. – Thời gian lâu như thế, người ta không khỏi có chút… xáo động.

Hoặc là hoang mang, có lẽ. Chàng nghĩ mình đã gọi chính xác ánh nhìn trong mắt Ngọc Du và cả người em trai nàng, có thể nhiều người khác nữa.

Đã qúa lâu, khiến người ta phải hoang mang trước tình cảm của chính mình, trước thời gian và sự đổi thay.

Họ lại im lặng. Ngọc Du chỉ lặng lẽ nhìn chàng cắm cúi ăn. Lạ, nàng nghĩ, nàng không cảm thấy vui mừng khi chàng trở lại, chỉ là nhẹ nhõm. Nàng đã sống một mình qúa lâu rồi, và chỉ nửa tháng làm vợ ngắn ngủi không xáo trộn được thói quen của nàng, cả sự cô độc của nàng. Cuộc sống trong Sài Côn yên ắng này ngày lại ngày trôi qua. Những cuộc gặp gỡ, trò chuyện đến rồi đi. Công việc thu xếp trong ngoài nhà đến rồi đi. Cuộc sống của nàng chẳng hề đổi thay so với ngày trước.

Hoặc là, nàng đã cố giữ cho mình không nhớ nhung, cho nên chẳng cảm thấy vui mừng. Nếu lúc này nàng vui mừng, những ngày khác nàng sẽ bị nỗi buồn hành hạ. Nàng đã biết điều đó, rất lâu trước đây. Những ngày ngóng đợi và cuối cùng bị đánh gục trong thất vọng.

Chàng đã đi khỏi nhà ngay trong ngày Tết, khi nhận được lệnh của vị chúa, chỉ kịp nói với nàng giữ gìn sức khỏe. Chàng trở về, cởi áo và ngồi xuống bàn ăn như vừa mới đi từ hôm qua.

Bất cứ sự đợi chờ nào cũng có cái giá của nó, nàng nghĩ.

Đợi chàng ăn xong, nàng gọi người dọn dẹp, chuẩn bị nước tắm và đốt hương trong phòng. Khi chàng tắm xong trở lại, nàng vẫn còn đang đứng bên cửa sổ. Trăng hạ huyền, từ trong phòng sáng ánh lửa nhìn ra chỉ thấy sao lấp lánh. Nàng không quay lại kể cả khi chàng ôm nàng từ phía sau.

- Ta nhớ nàng. – Chàng nói. Nàng mỉm cười. Nụ cười không vui không buồn.

- Lần này ta hẳn ở lại lâu. – Chàng nói như thể có lỗi. – Bây giờ chúng ta lo việc củng cố Gia Định, rèn luyện binh lính. Phía Bắc quân Tây Sơn cũng bận nhiều việc, khó có thể đánh xuống.

- Hiểu mà. – Nàng nhẹ nhàng nói, gỡ tay chàng trên vai mình mà quay lại nhìn chàng. – Chẳng qua là vắng vẻ đã lâu, tính tình cũng trầm lặng theo thôi.

- Vậy chúng ta sẽ có một đứa con nhé. Để nàng khỏi cô đơn. – Chàng cười, chờ đợi nàng đỏ mặt. Nhưng nàng chỉ nghiêng đầu nhìn chàng. Nàng có vẻ như suy nghĩ điều gì, rồi gật nhẹ.

- Phải đấy. – Lời nàng nói giống hệt như khi nàng tính toán công việc trước đây.

Và khi ôm lấy nàng, chàng không thể không cảm thấy có một phần nào đó trong nàng đã trở nên xa lạ. Càng ngày càng xa.

Tháng sáu năm Kỷ Dậu, công tử Nguyễn Phúc Cảnh trở về Vũng Tàu. Ở đây, Nguyễn Phúc Hội đón rước đoàn người vào Bến Nghé. Viên thuyền trưởng tàu la Medusé cho bắn mười lăm phát súng hiệu tiễn chào. Hai bên bờ sông Tân Bình, tiếng chiêng trống rộn vang khi thuyền vào bến. Trên cảng, chúa Nguyễn cùng gia quyến đứng chờ đợi từ sớm dưới những chiếc lọng. Người trong dinh Sài Côn đổ ra nườm nượp nhìn đoàn thuyền của Nguyễn Phúc Hội đi trước, dẫn theo sau hai chiếc thuyền Tây dương.

Quốc mẫu gần như ngả hẳn vào người Nguyên phi khi chiếc thang trên thuyền thả xuống. Nguyễn Phúc Hội ra trước, đưa tay cho người trong thuyền.

- Ôi! – Đứng bên cạnh Nhị phi, Ngọc Du nghe thấy tiếng kêu của cô dù rất nhỏ. Khuôn mặt Nguyên phi vừa mới đỏ lên đã tái xanh.

Cậu bé Nguyễn Phúc Cảnh không còn là đứa bé nhỏ xíu trong trí nhớ của nàng, của tất cả mọi người sáu năm về trước. Mười tuổi, cao so với trẻ cùng lứa, đẹp đẽ thanh tú với làn da hồng lên trong nắng, cậu bé phủ lên mình bộ quần áo Tây dương theo kiểu thủy thủ với cổ hồ cứng, hàng khuy bạc sáng lấp lánh. Cả chiếc mũ cậu bé đội cũng theo kiểu thủy thủ gắn lông vũ trắng. Được Nguyễn Phúc Hội đưa xuống thuyền đến trước mặt chúa Nguyễn, cậu bé tròn mắt nhìn người cha. Nguyễn Phúc Hội vỗ tay lên vai cậu, ra dấu qùy lạy, cậu cũng chỉ cúi đầu.

- Cha. – Cậu bé gọi. Thanh âm trượt đi một quãng, như thể đã từ lâu cậu không quen nói. Từ phía sau, Bá Đa Lộc vội vã tiến lên thi lễ với chúa Nguyễn. Cậu bé nhìn vị giáo sĩ Tây dương như thể dò hỏi. Từ đầu đến cuối, cậu không hề nhìn đến đám phụ nữ sau lưng vị chúa.

Chúa Nguyễn nhìn Bá Đa Lộc, lại nhìn sang đứa con trai, gật đầu rồi quay lại đưa tay cho Quốc mẫu cùng Nguyên phi.

- Con sang chào Quốc mẫu và mẫu hậu đi.

Cậu bé nhìn người cha, nhìn sang bà lão cùng người phụ nữ, gương mặt nhỏ nhắn hơi cau lại. Rồi cậu lại quay nhìn Bá Đa Lộc.

- Quốc mẫu và mẫu hậu là ai? – Giọng cậu vẫn có sự khó khăn vất vả ấy. Đôi mắt cậu hoang mang như thể không hiểu mình nói gì.

- Công tử quên mất cả tiếng nói rồi. – Bên cạnh Ngọc Du, Nhị phi khe khẽ thì thầm hoảng sợ. Nàng thấy cái hoảng sợ ấy trên đôi vai run lên không cưỡng lại được của Nguyên phi, cả Quốc mẫu nữa.

Thậm chí thằng bé còn không nhớ cả cha mẹ mình, nàng nghĩ. Nó như một đứa trẻ đi lạc, xa lạ hoàn toàn với xung quanh, cố gắng xích lại gần Bá Đa Lộc, dùng ánh mắt cầu cứu Bá Đa Lộc. Ông ta lại gần cậu công tử, bảo cậu cúi đầu, bảo chào, bảo thi lễ.

Nguyên phi không nén được, bật lên một tiếng nức nở. Tiếng nấc khô khốc, ngắn ngủi trong cổ họng cô chỉ có người xung quanh nghe được. Nguyễn Phúc Cảnh ngẩng nhìn. Ánh mắt dành cho một người xa lạ. Có lẽ nó còn không biết ai được gọi là “mẫu hậu” trong đám đông này, Ngọc Du thầm nhủ.

Quốc mẫu ra trước, cầm lấy tay Cảnh dắt đến cho Nguyên phi. Để lại đứa con cho mẹ và vợ, chúa Nguyễn tiếp tục nghi thức đón đoàn người Tây dương được Bá Đa Lộc dẫn đến chào. Những nghi lễ lê thê kéo dài cho đến gần trưa, Cảnh mới được dẫn về nhà – ngôi nhà mới của cậu. Từ đầu đến cuối, Nguyên phi chỉ nắm lấy tay con như thể làm nó hoảng sợ. Cậu công tử nhỏ qủa thật sợ hãi khi phải cách rời Bá Đa Lộc. Nhìn theo ông giáo sĩ một lúc lâu, cậu mới đi theo bà nội và mẹ. Chúa Nguyễn ở lại tiếp đoàn người vừa tới.

Thứ gì đối với cậu bé cũng lạ lùng. Dọc đường, cậu nhìn quanh, chỉ trỏ, hỏi tất cả mọi người. Đã quen, cậu bé cũng nói nhiều hơn, tuy hơi lắp bắp. Trong đoàn phụ nữ, cậu trở lại với dáng vẻ tự tin của một ông hoàng con. Đến sân nhà, thấy bức tượng Phật để trong góc vườn, cậu bé chạy lại, hoa tay.

- Ông Phật này! – Cậu bé làm một dấu chữ thập trên mình, đập tay lên tượng Phật theo dấu chữ thập ấy.

- Cháu làm gì vậy? – Quốc mẫu hỏi. Cậu bé hãnh diện quay lại cười.

- Ông Phật này cũng vừa từ Ấn Độ tới. Đi qua biển gặp nhau thì nên chào.

- Con không được vô lễ với thần Phật. – Nguyên phi cau mày, bước tới nắm tay đứa con kéo lại. Cậu vùng ra, nhăn mặt.

- Đây không phải thần mà là mê tín dị đoan. – Cậu bé giơ ngón tay, trịnh trọng nói. - Ở một nơi nọ, con thấy người ta trét phân bò lên tượng dị giáo, mẹ làm thế đi để trừ tà, gìn giữ linh hồn trong sạch.

Bốp! Cái tát của Nguyên phi cắt ngang lời Cảnh. Khuôn mặt trắng nhợt, cô mím môi nhìn đứa con ôm má, vừa sợ vừa ngơ ngác không hiểu mình đã phạm tội lỗi gì. Quốc mẫu vội vã chạy đến, đưa tay cản Nguyên phi như thể cô sẽ cho đứa bé một cái tát nữa.

- Có gì lạ đâu con, thằng bé mới về chưa nhận được chút giáo dục phong tục của ta nào, thấy toàn những điều trái lại thì nó nghe theo thế thôi. – Quốc mẫu nói, hạ giọng mềm mỏng. – Nó đi từ lúc còn nhỏ, đâu phải là lỗi của nó. Dù sao nó vẫn là con của con mà.

Nguyên phi vẫn đứng yên, tay nắm lại. Đứa trẻ hết nhìn mẹ rồi nhìn bà, môi run run nhưng không hề rơi lệ. Nó chớp mắt, nhìn xuống, lưng vẫn thẳng. Nó đã đứng cao đến ngực Nguyên phi.

Chẳng bù khi mới ra đi, đứa trẻ chỉ đứng đến gối nàng, Ngọc Du thầm nghĩ. Nó đã níu lấy tay mẹ mà khóc, vừa gọi mẹ vừa gọi bà.

- Nó là con của con mà. – Quốc mẫu nhắc lại, gần như nài nỉ.

Nguyên phi chớp mắt. Tay cô chậm chạp chạm đến má đứa trẻ, gỡ tay nó ra nhìn vết đỏ còn chưa mờ. Tiếng nức nở bật ra khi cô khụy xuống, ôm lấy đứa con mà khóc. Vùi mặt vào vai đứa con, cô khóc như chưa bao giờ được khóc.

Phía sau lưng, Ngọc Du thấy thằng bé cau mày nhìn mẹ đang ôm nó, rồi nhìn nàng, đám người xung quanh nàng. Trong mắt nó là một sự xa lạ đến thể chừng trống rỗng.

Chú thích:

Hạ Châu: Indonesia.

24

Cậu bé Nguyễn Phúc Cảnh vẫn liên tục gây đau đầu cho những người bên cạnh. Từ trong triều trở về, Võ Tánh kể lại cho Ngọc Du nghe về lễ ra mắt tổ tiên của Cảnh mà nàng không được tham dự vì là nữ giới. Mặc cho bao nhiêu người xung quanh vừa năn nỉ vừa ép buộc, dọa dẫm, cậu công tử nhỏ nhất định không chịu qùy xuống lạy bài vị ông bà. “Người chết rồi làm sao trở về được?”, cậu nói, thậm chí gọi linh hồn là “những con qủy sứ”. Cuối cùng, chúa Nguyễn phải ra lạy thay con.

- Nó theo Bá Đa Lộc nhận đạo Gia-tô. – Ngọc Du nói, lặng lẽ. – Quốc mẫu kể đêm nào nó cũng cầu kinh trước khi ngủ, cám ơn Chúa mỗi bữa ăn. Nó không biết dùng đũa, chê tất cả các món ăn của ta là qúa mặn, qúa hôi.

- Thế vẫn còn tốt. Công tử không muốn ở đây. Cậu ta cho rằng nước Phú Lang Sa đẹp, to lớn và văn minh hơn nhiều. Nơi này chỉ là một vùng đất hoang dại, mọi rợ mà cậu ta có ý định giáo hóa cho “trở lại đạo”. Công tử nói, không vì ý tưởng cao đẹp đó thì cậu ta đã trở lại Phú Lang Sa ngay lập tức. Cậu ta đã nói thế ngay giữa triều đình.

Võ Tánh cười. Nhưng khuôn mặt Ngọc Du càng tối sầm xuống. Lần này trở về, Nguyên phi hẳn lại đánh thằng bé, nàng nghĩ. Những ngày đợi chờ dằng dặc không được chuyển hóa thành những ôm ấp yêu thương mà là các trận đòn, cái tát không khoan nhượng. Thành nước mắt và nỗi bất lực sâu cay. Thậm chí, nàng cho rằng nếu không có bà nội, thằng bé đã bị mẹ nó đánh cho thừa sống thiếu chết. Mà điều đó chỉ hun đúc thêm lòng tin của thằng bé vào “sứ mệnh cao cả” mà nó phải mang để cải hóa những “con người man di nhận được ân phước của Đức Chúa Trời”. Nó trân mình chịu những cái tát, những trận đòn, cả những lời trách mắng bằng thái độ lầm lì, thậm chí là ghét bỏ, khinh khi.

Nó đã quen rồi, Quốc mẫu nói riêng với nàng khi nàng ghé lại. Từ nhỏ nó đã quen với ý nghĩ nó có sứ mệnh cứu giúp đất nước này, lại được Bá Đa Lộc nhồi nhét cho rằng Phú Lang Sa quê hương ông ta là tốt đẹp nhất, là cứu tinh, là giải pháp duy nhất. Ngay cả đạo Gia-tô cũng được truyền dạy theo cách ấy. Nó không coi trọng cả phụ hoàng của nó, cho rằng cha nó không có quyền lực bằng Chúa Trời để biến ra hai ngàn con voi chống lại ba trăm con voi của Tây Sơn nên mới thua trận. Chính chúng ta đã đặt lên vai nó cái trách nhiệm qúa mức ấy, lại giao nó cho một kẻ như Bá Đa Lộc, bây giờ đánh nó nữa thì thật đáng thương.

Mẹ nó cũng thế, ức chế lâu ngày thành ra không kiềm chế được mình, cứ giận lên là đánh, đánh xong rồi lại khóc. Quốc mẫu nói tiếp sau một lúc im lặng. Ngày xưa ta cũng phải để con cho người khác nuôi, thấy nó dần dần xa mình mà đau lắm chứ. May mà chúa công lớn lên biết trách nhiệm, lý lẽ, hiếu đễ, chứ thành như Cảnh bây giờ thì ta cũng chỉ muốn giết con rồi giết mình đi cho xong, làm sao mà chịu đựng nổi?

Làm sao mà chịu đựng nổi? Nàng lại nghĩ đến câu nói ấy. Phải để con ra đi, và nó trở về, gọi tất cả tổ tiên của mình là “đồ qủy sứ”. Mỗi ngày, mỗi đêm chỉ có thể cầu nguyện để nó trở về, rồi cuối cùng nó thản nhiên đạp lên điều đã từng đem lại hy vọng cho mình. Mà có phải thằng bé hư hỏng, xấu xa gì cho đáng tội? Ngoại trừ những lúc ngang ngạnh chỉ trích mọi điều “dị giáo” xung quanh, nó là một đứa bé dễ thương, rất có ý thức với mọi người. Thậm chí, như Quốc mẫu đã nói, tất cả những gì nó biết là “trách nhiệm”. Nó nhận biết bản thân mình là một kẻ kế thừa của đất nước, và theo tất cả hiểu biết của mình, nó đang làm đúng như thế. Như nó đã say sưa kể cho nàng và tất cả mọi người bên bàn ăn về bài thơ mà người Phú Lang Sa làm về nó in trong một tờ thông cáo ở đất nước ấy:

“Ta hãy bắt đầu bằng hài đồng nổi tiếng

Mà số phận đáng cho ta lưu ý:

Sinh ra để đội mũ miện

Nay lại ngồi chung với chúng ta.

Hoàng tử bé bỏng ơi, hãy vui lên

Một ngày kia Hoàng tử sẽ lên ngôi,

Bá Đa Lộc rất thương yêu Hoàng tử.”

Không nhận ra khuôn mặt tái xanh của mẹ, thằng bé tiếp tục kể về hoàng hậu nước Phú Lang Sa mà nó gọi là Ma-ri An-toa-net “đẹp như một nữ thần”, về những lâu đài và thành quách xây bằng đá có chóp nhọn cao hàng trăm thước, những quảng trường lát đá, những bến cảng có đến hàng ngàn tàu thuyền đậu san sát nhau, những buổi lễ mà người người đều khoác lên mình bộ quần áo đẹp nhất, nam nữ ôm nhau xoay vòng trong tiếng nhạc. Đến khi nó kể về những trang phục phụ nữ hở cả nửa ngực và quay sang phê bình những chiếc áo dài “ngột ngạt”, một lần nữa mẹ nó lên tiếng bắt phải im.

Ở đó thật vui vẻ, không giống như nơi đây, Cảnh nói với nàng khi nàng bắt gặp nó ngồi một mình trong sân đêm ấy. Ở đây đi một bước phải lạy một bước, nói năng gì cũng phải canh chừng, thậm chí kiêng nhắc đến cả tên người. Quần áo thì xấu xí, nhà cửa thì tồi tàn, ruộng đồng thì hôi hám nhếch nhác.

Không phải thế, nàng nói. Đây là một vùng đất mới nên không có thành quách, nhà dân cũng chỉ vừa mới được xây dựng nên không đẹp. Ngày xưa chúng ta có một kinh thành tráng lệ, gác cao sân rộng, lát mái lưu ly, lát nền đá qúy. Ngày xưa ở đây cũng đã từng có các khu phố đẹp đẽ phồn hoa, nhà cao cửa rộng. Chiến tranh xảy ra, chúng ta mất kinh thành, các khu phố cũng bị phá hủy. Ở phương Bắc chúng ta cũng có những cánh đồng cao trên núi khô ráo, đó là thủy thổ mỗi nơi mỗi khác. Cháu cũng chỉ đến cung điện, phố xá của họ chứ có lại gần đồng ruộng của họ sao mà biết họ sống thế nào?

Vả lại, nàng tiếp tục nhỏ nhẹ với thằng bé, dù sao của cải cũng chỉ là vật ngoài thân, những gì chúng ta muốn thì hẳn chúng ta sẽ làm được, xây được. Nhưng mẹ cháu sống chỉ để chờ cháu về, bây giờ nhượng bộ mẹ cháu một chút cho mẹ con vui vẻ với nhau có mất gì? Cháu đi xa bấy nhiêu năm, lại chưa bao giờ nhớ mẹ hay sao?

Không. Cảnh trả lời nàng ngay lập tức. Nam nhi phải cứng rắn thực hiện nghĩa vụ của mình, không được yếu đuối. Đó là lời phụ hoàng nói khi đưa cháu lên tàu. Bá Đa Lộc cũng nói, nhớ nhung khóc lóc thì làm được gì, sao thành đàn ông được? Cô cô không nhìn bọn thủy thủ đó sao, bọn họ cả đời sống trên biển làm nên những chiến công lừng lẫy. Những Đức Cha như Bá Đa Lộc bỏ qua cả bản thân, không cần đến gia đình, tình nguyện đến những nơi man di nhất để thực hiện sứ mệnh truyền đạo cao cả. Đàn ông khi sinh ra đã được Chúa Trời ban cho nghĩa vụ lớn để thực hiện trong cuộc đời, loại lụy tình trong xó nhà thì làm được gì?

Nghe thằng bé nói, Ngọc Du cũng phải dở khóc dở cười. Ý tưởng sơ khai cha nó dạy đã kết hợp hoàn hảo với quan niệm khắc khổ của một giáo sĩ như Bá Đa Lộc, lại được cuộc sống phiêu lưu của bọn thủy thủ trên tàu, trên các bến cảng cổ vũ khiến nó mang suy nghĩ “không cần đến gia đình”. Cho nên, khi nghe đến chuyện Cảnh đòi về Phú Lang Sa ngay lập tức, nàng cũng chẳng ngạc nhiên. Nó đối đãi với tất cả mọi người thân thiện cởi mở, nhưng chẳng lưu luyến bất cứ ai. Trái tim nó đã bị biển cướp mất, đã để lại ở bên kia bờ biển.

Không trách mẹ nó đã phải phát điên, nàng thở ra.

- Các quan cũng lo lắng lắm. – Võ Tánh nói. – Họ xin với chúa công tách rời Bá Đa Lộc và công tử ra để dạy dỗ. Chứ một người đã tuyên bố “không muốn làm vua”, coi thường cả ông bà thì làm sao cai quản được người?

- Bá Đa Lộc đã muốn chúa công theo đạo lâu rồi, nhưng chúa công không nghe. – Ngọc Du lắc đầu. – Bây giờ ông ấy lại quay sang quyến dụ một đứa trẻ con. Thử tưởng tượng một vị chúa lên ngôi mà quay sang phá bỏ tất cả các đình thờ, chùa chiền, quay lưng lại với ông bà tổ tiên thì sẽ tệ hại thế nào? Cho nên phải nói rằng đạo Gia-tô thật là lạ. Các đạo giáo khác vào nước ta, kể cả đạo giáo của người Thượng, người Chăm cũng đâu có thói bài bác, khinh miệt đạo khác, ai thờ thần nấy. Sao cứ phải nhất định cho rằng mình đúng?

- Chúa công bảo rằng đó là do căn bản khác nhau. Chúng ta tin rằng thế giới người sống và thế giới người chết đan xen nhau, mọi vật đều có linh hồn, các linh hồn có thể trở về dương gian, tác động được đến cuộc sống của chúng ta. Còn Tây dương thì cho rằng chết là hết, linh hồn sẽ lên thiên giới hoặc xuống địa ngục chịu phán xử, những gì còn ở dương gian họ đều cho là ma qủy hại người, thờ cúng linh hồn là thói mê tín. Chúng ta cho rằng trên trời ngoài thần còn có Phật, có rất nhiều các loại thần khác, họ lại cho rằng chỉ có duy nhất một Chúa.

- Ngày xưa chúa công nói khác kia. Ngài bảo, từ khi còn ở Phú Xuân, ngài đã thấy Định vương và các quan không thích đạo Gia-tô. Họ nghe các thương buôn Ô Lan, Anh Cát Lợi kể rằng: Ngày xưa, Tây dương cũng có nhiều đạo giáo. Nhưng người La Mã nhân khi chinh phục các nước mà truyền đạo Gia-tô. Rồi đến lượt đạo Gia-tô phát triển ngày càng mạnh, lập thành đội quân gọi là Thập Tự chinh đánh phá toàn bộ Tây dương, ép tất cả mọi người theo đạo. Tất cả các nước đều phải nghe theo các thầy tu trong nhà thờ, dưới quyền Giáo hội ở La Mã. Rồi Giáo hội La Mã ấy, nhân khi tàu buôn đến đất của chúng ta, tự tiện phân chia chúng ta thành đất truyền giáo của Bồ Đào Nha. Người Ô Lan, Anh Cát Lợi rất ghét giáo sĩ Gia-tô. Họ bảo, đó chỉ là công cụ của người Tây dương để lôi kéo sự ủng hộ nơi dân chúng vùng đất bị đưa vào tầm ngắm. Họ dùng nó để phá bỏ tín ngưỡng dân gian, để người chấp nhận sự cai trị của Thiên Chúa. Chừng hai mươi năm trước, chúng ta cũng có đợt cấm đạo ở Gia Định này vì lẽ ấy.

Võ Tánh im lặng. Một lúc sau, chàng cười.

- Vậy thì chúa công đã trở nên khôn khéo hơn rồi. Nếu bây giờ ngài mà nói điều đó, hẳn cả Bá Đa Lộc lẫn các thủy thủ đều bỏ đi.

- Thật ra quan điểm của chúa công vốn rất gần với bọn họ. – Ngọc Du thở dài. – Ngài ấy tin gì Phật, gì thần? Đã ra lệnh cấm đồng bóng, phù thủy, bói toán, chúa công tin gì ở linh hồn lẫn thiên đàng địa ngục? Nho học vốn cũng chỉ đặt trọng tâm ở người, không tin gì cả thần lẫn Phật, trời đất cũng chỉ là nguyên lý tạo thành thế thôi. Cho nên cả Bá Đa Lộc cũng chẳng thuyết phục được chúa công tin vào Thiên Chúa. Nhưng bản thân không tin không có nghĩa là cấm người khác, lại càng không có nghĩa đả phá đi phong tục, truyền thống ngàn đời để con người bày tỏ lòng thành kính với nguồn gốc của mình. Cảnh là một đứa bé, nó không hiểu điều đó, chỉ chăm chăm theo gì mình cho là đúng.

Ồ phải, Võ Tánh nghĩ thầm, đó là những gì vị chúa đã nói khi đến gặp Bá Đa Lộc. Ngay sau buổi lễ trình diện tổ tiên của Cảnh, chúa Nguyễn đã gọi chàng cùng Lê Văn Duyệt hộ tống đến nơi Bá Đa Lộc đang ở. Vị giáo sĩ này dường như đã chuẩn bị sẵn tinh thần đón vị chúa, thậm chí chàng nghĩ rằng ông ta đã tỏ ra vui mừng khi nghe kể lại chuyện Cảnh chống đối trong buổi lễ.

- Đạo Gia-tô dạy cho con người quên tổ tiên nguồn cội, bất kính thế sao, thầy Cả? – Chúa Nguyễn hỏi, cũng nhận thấy mắt người giáo sĩ sáng lên. Tránh ánh mắt vị chúa, Bá Đa Lộc cười.

- Họ nhớ về tổ tiên thật trong các buổi lễ ấy ư, chúa công? – Ông giáo sĩ nói, lắc đầu. – Hay là họ chỉ thờ cúng ông bà vì tin rằng ông bà nhận lạy, ăn cỗ rồi thì sẽ phù hộ họ sống lâu, giàu có? Đó chỉ là lợi dụng danh nghĩa nhớ ơn mà thỏa mãn lòng tham của bản thân, dựa vào mê tín mà trục lợi. Lòng nhớ ơn đâu phải thể hiện ở mâm cao cỗ đầy, lễ này tiệc nọ. Trong những năm sống ở xứ này, tôi đã chứng kiến bao nhiêu buổi tế lễ mà người ta giành giật nhau từng mảnh hương thừa, lộc vụn đem về chứ có nghĩ đến kẻ được thờ lạy trên cao kia là ai. Thấy miếu đình bên đường là ai nấy qùy sụp xuống lạy chứ có cần biết đến miếu đình thờ phụng gì. Thậm chí, chỉ cần kẻ tự xưng là thần này phật nọ, chẳng cần biết thuộc đạo nào giáo nào, người người đã đổ xô đến khấn vái tung hô. Họ chẳng cần biết mình thờ phụng ai, thờ phụng cái gì, kẻ đó như thế nào. Chỉ cần họ tin rằng kẻ được thờ phụng kia có thể đem lại lợi ích, may mắn cho họ thì họ sẽ thờ cúng, sẽ thành tâm kính cẩn cả. Đó lại là thái độ khinh rẻ, chà đạp tổ tiên bậc nhất, biến tổ tiên thành kẻ trục lợi, buôn thần bán thánh chứ kính trọng gì. Cái lệ như thế nên bỏ đi thì hơn.

- Vậy thì dân chúng không theo đạo Gia-tô vì tin Chúa Trời đem lại hạnh phúc cho họ sao, thầy Cả? – Chúa Nguyễn nhướng mày. - Ồ, bao nhiêu năm ở cạnh thầy, ta cũng biết các thầy truyền đạo như thế nào. Đối với người dân nghèo, các thầy hứa hẹn một thiên đường hạnh phúc, đối với người giàu, các thầy hứa hẹn một sự giải thoát khỏi địa ngục. Các thầy đem địa ngục ra đe dọa và đưa thiên đường để mồi chài. Mọi sự đau khổ trên thế gian đều do tội lỗi của con người, và lòng thành tâm kính Chúa sẽ đem lại hạnh phúc. Người ta đến nhà thờ không để cầu xin hạnh phúc, an bình, may mắn sao? Xin lỗi thầy, trong các giáo dân của thầy, có phải toàn bộ bọn họ đều hiểu được triết lý cao siêu của sống và chết, thiên đàng địa ngục, những luân lý của đức Chúa Trời lẫn câu chuyện của vô số vị thánh quanh đó? Thầy nghĩ rằng nếu có kẻ mượn danh tôi thần của Chúa, người ta lại không tin tưởng vái lạy thành kính? Thầy nghĩ rằng người ta sẽ không bon chen xây nhà thờ thật cao thật rộng thật đẹp để thỏa mãn sự phù phiếm của mình? Thầy nghĩ rằng người ta đóng góp cho các thầy không phải vì chờ đợi được đáp trả? Sự tin tưởng của dân chúng, bất cứ lúc nào, ở đâu - một ngàn năm trước hay một ngàn năm sau, ở quê hương thầy hay hoang đảo ngoài biển – cũng đều mang tính chất như vậy. Họ không tin tưởng vô điều kiện, họ chỉ vì thỏa mãn nhu cầu trong tâm chính mình.

Đạo thờ ông bà cũng vậy. Không phải như thời Tần Thủy Hoàng xa xưa kia xây lăng mộ thật lớn cho mình vì tin rằng mình có thể sống lại ở thế giới bên này hay bên kia, chôn theo cả người để hầu hạ. Lễ tế là để tưởng nhớ. Khi ta ở trong các lễ tế ấy, ta nghĩ rằng nếu tổ tiên ta còn sống, ta sẽ báo đáp công ơn của họ thế nào. Để chứng tỏ ý nghĩ ấy là chân thành, ta ngay lập tức muốn làm những điều cho họ như thể họ vẫn còn sống. Khi ta tin rằng họ còn tồn tại, ta có động lực để cố gắng. Tất nhiên, ta biết rằng họ không còn nữa và những gì ta làm không có ích lợi gì cho họ cũng như cho ta. Nhưng ta muốn tỏ ra cho mọi người biết rằng ta không quên họ. Ta vẫn nhớ rằng họ đã sống và đã chết như thế nào, tấm lòng của ta đối với họ.

- Thế lễ cúng cuối năm đón linh hồn về trần gian gọi là gì, chúa công? – Bá Đa Lộc vẫn không chịu thua. – Tục lệ đốt vàng mã, thờ tất cả mọi loại thần cỏ cây, núi sông, kể cả hồn ma vất vưởng thì có lợi cho ai, tưởng nhớ cái gì? Hay là chỉ thỏa mãn lòng tin dị đoan, khiến cái ý nghĩ tôn thờ sợ hãi mọi thứ trên đời khiến người dân càng mê tín thêm?

- Ta đã cấm phù thuỷ, thiên văn, đã coi đạo thần tượng là xấu và sai. Nhưng những gì đã thuộc về tục lệ ngàn năm thì khi bỏ đi sẽ gây loạn. Người ta không hiểu tại sao và lại cho rằng ta khinh nhờn, áp bức, chà đạp họ chứ không phải thần của họ. Ta có thể dựa vào lý lẽ bọn bói toán, phù thủy lừa gạt người mà cấm, chứ không thể ngay lập tức phủi bỏ sạch tín ngưỡng của người dân. Ngàn năm, thầy Cả, những phong tục này đã có từ ngàn năm, đã trở thành một phần của văn hóa xứ sở này. Lòng tưởng nhớ tổ tiên là căn bản của giáo dục xứ sở ta. Nhờ nó mà dân tộc, đất nước có thể tồn tại. Hủ tục ta có thể từ từ kiềm chế, nhưng không vì thế mà hủy hoại văn hóa của chính mình.

Người dân nhìn vào nền tảng văn hóa ấy để đánh giá chính quyền. – Chúa Nguyễn nói sau một khoảng im lặng ngắn. – Họ làm sao có thể tin được người dẫm đạp, khinh nhờn chính tổ tiên, ông bà mình? Ta phải giữ lại đạo thờ ông bà, vì đó là căn bản văn hóa xứ ta, như ta đã nói. Những người bên cạnh ta cũng vậy. Thầy có thể lựa lời khuyên nhủ các tùy tướng theo đạo Gia-tô bên cạnh để họ tham dự các buổi lễ, tránh lời đàm tiếu?

- Chúa công đánh giá tôi qúa cao. – Bá Đa Lộc chỉ lặng lẽ cười. – Làm sao mà tôi có thể đánh đổ niềm tin của bọn họ? Ngày xưa tôi đã xin ngài cải đạo để làm gương cho các tôi thần, cho thần dân cả xứ sở cũng vì lẽ ấy. Tôi biết một mình tôi thì không thể tác động được đến ai, lời nói của tôi có ai chịu nghe theo? Ngày nay điều mà những người Gia-tô giáo ấy tin là Đức Chúa, là đạo, không phải tôi. Tôi e rằng mình không thể làm gì.

Họ im lặng nghe tiếng sấm của một cơn mưa đang tới gần. Chúa Nguyễn mím môi nhưng không nói. Chàng nhận ra vị chúa đang cố kềm nén cơn giận của mình. Không trách cứ, không dồn ép, chỉ yêu cầu để mọi người nói chung, Phúc Cảnh nói riêng, bày tỏ lòng thành với tổ tiên, vị chúa cũng bị từ chối. Nắm giữ trong tay đoàn người Tây dương và cơ sở vật chất đầu tiên để củng cố quân đội, Bá Đa Lộc biết mình đã chiếm thế thượng phong.

- Cũng được. – Cuối cùng, chúa Nguyễn lại mỉm cười. Nụ cười đông cứng trên khuôn mặt điềm tĩnh. – Ta cứ để thuận theo tự nhiên vậy. Cảnh theo thầy đã lâu, nhờ thầy coi sóc, ơn nghĩa ấy ta không cách nào đền đáp, nay chỉ xin đưa Cảnh về cho mẹ và bà đỡ nhớ nhung. Khi nào muốn gặp Cảnh, thầy cứ báo để ta gọi nó đến.

Nói rồi vị chúa đứng dậy ra về. Bá Đa Lộc cung kính cúi chào nhưng ánh mắt vẫn lấp lánh sáng. Ngay cả Lê Văn Duyệt cũng thấy giận. Khi ra ngoài, anh ta bước đến bên chúa Nguyễn, giọng nói đã kềm xuống mà vẫn nghe phẫn nộ.

- Chúa công, ông ta ngày càng qúa quắt. Đã khiến công tử trở thành như thế lại không chịu đích thân uốn nắn thì ai làm được? Sao chúa công lại chịu để yên? Điều này ảnh hưởng đến cả danh dự của chúa công.

- Thế ta phải làm gì? – Chúa Nguyễn nhếch môi. – Làm bọn giáo sĩ bất mãn bây giờ, họ sẽ đem tất cả những gì đang cho ta đổ về kẻ thù của ta. Bá Đa Lộc cũng vậy. Ông ta có cảm tình với ta, nhưng vẫn là một giáo sĩ đặt đạo của mình lên trên hết. Ông ta đem tất cả những thứ này về cho ta được thì cũng có thể đem cho kẻ thù của ta. Bá Đa Lộc là kẻ trí trá, nhưng có thể sai khiến được. Cứ để ông ta đắc thắng lúc này, con ta thì ta biết phải dạy nó thế nào. Việc gì phải đi đôi co ăn thua tranh luận?

Chúa Nguyễn định làm gì Cảnh? Giờ đây Võ Tánh lại nghĩ. Nguyên phi đã tỏ rõ sự bất lực của mình trước đứa con trơ trơ như gỗ đá. Chỉ còn Quốc mẫu vẫn điềm đạm khuyên nhủ “Để yên rồi lâu ý tưởng nó cũng giống như chúng ta”.

- Công tử vẫn sống trong nhà à? – Chàng hỏi. Ngọc Du lấy áo cho chàng thay, nhún vai.

- Nguyễn Thái Nguyên đến phụ đạo mỗi ngày. Ông ấy trước nay rất gần gũi với chúa công và gia đình. Chúa công giận Nguyên phi cũng phải ông ấy khuyên nhủ mới nguôi. Rảnh rỗi thì các quan cũng được gọi tới. Còn nếu đi ra ngoài thì chúa công đem nó theo.

Vậy là vị chúa gần như kiểm soát đứa con. Dứt đứa trẻ khỏi những thầy tu Gia-tô, đưa trở về với triều đình, với địa vị của một công tử kế thừa, vị chúa muốn hướng Cảnh đến những điều thân phận cậu cần phải đạt đến. Nhưng còn tâm thức cậu?

- Chúng ta không thể can thiệp được, phải không? – Chàng thở dài. Ngọc Du nhìn chàng, không nói. Từ bên kia chiếc bàn tròn, nàng chỉ chống tay quan sát chàng.

- Nhưng những gì Cảnh tin có sai không? – Nàng hỏi, tiếng nhỏ đến dường như chỉ mình nàng nghe thấy.

Cháu không thương mẹ sao? Đêm ấy, nàng đã hỏi sau mọi nỗ lực thuyết phục đều thất bại. Cháu không thấy mẹ cháu rất buồn sao?

Bởi vì cha không thương mẹ. Cậu bé trả lời, nhìn nàng không chớp mắt. Nếu cháu làm cha giận, mẹ cũng sẽ bị vạ lây. Cha có nhiều vợ khác, đó là không công bằng. Gia-tô giáo chỉ cho mỗi người có một vợ. Chúa sinh ra số đàn ông và phụ nữ bằng nhau. Có nhiều vợ là trái với tự nhiên. Bởi vì cha có nhiều vợ, nhiều em khác, nên mẹ bao giờ cũng sợ cháu bị bỏ rơi nếu cứ làm cha giận. Nhưng cháu không muốn làm vua, cháu không cần. Nếu trở lại Phú Lang Sa, cháu sẽ mang mẹ theo.

Mẹ sợ bị bỏ rơi. Đó có phải thật là nguyên nhân sự giận dữ của Nguyên phi? Có nhiều vợ là trái với tự nhiên, nàng lại như có thể thấy được nụ cười của người em trai năm mười chín tuổi khi nghe Bá Đa Lộc thuyết phục cải đạo. Thế nào là tự nhiên, thầy Cả? Cậu ta cười mà nói. Các thủy thủ Tây dương đến xứ sở này cũng là tín đồ Gia-tô giáo, họ chỉ có một vợ đấy – nhưng họ tìm đến các ngõ phố tối đèn ngay khi vừa đặt chân xuống bất cứ bến cảng nào. Đó có phải là trái với tự nhiên không, hay chính các thầy chối bỏ dục vọng của mình mới là sai trái? Có ý nghĩa gì khi đặt ra quy định nhưng không ai có thể tuân theo, khi người người đều vi phạm? Dục vọng của đàn ông lớn hơn phụ nữ rất nhiều lần. Đạo giáo nào, kể cả Nho học, cũng đề ra “thanh tâm diệt dục”, nhưng không cứng nhắc đến thế. Mọi điều tự do con người quyết định, nếu họ không thể theo được thì mọi quy định đều là vô ích.

Chúa công nói như vậy là thừa nhận mình đam mê sắc dục? Ông giáo sĩ hỏi, không thể không giận dữ trước thái độ của vị chúa trẻ. Thất bại trong nỗ lực cải đạo vị chúa ông đã từng cứu sống chỉ vì tính xấu của ngài ta, ông không thể chấp nhận được.

Thầy chưa từng có khắc xao lòng à? Thầy chưa từng phải đấu tranh với bản thân mình ư? Đáp lại, chúa Nguyễn năm mười chín tuổi chỉ dửng dưng cười. Ngay cả bọn thái giám cũng phải tìm cách giải thoát dục vọng của mình. Thầy đừng gọi “sắc dục” một cách khinh miệt như thế. Những nhà sư cũng kiêng cữ sắc dục, nhưng họ thừa nhận nó và đề ra những cách giải phóng khỏi xác thịt bằng tu luyện thực sự chứ không kiêng cữ giáo điều. Thầy yêu cầu gì được ở những con người trần tục? Thầy giải thích thế nào về nhà tu kín cho phụ nữ mà các trinh nữ đều tự xưng mình là vợ của Chúa? Cách nói đó không phải là khao khát của họ đấy sao?

Ngài qúa vô lễ, chúa công! Mặt vị giáo sĩ đỏ bầm vì giận. Sau khi đe dọa linh hồn vị chúa sẽ đời đời không đến được với thiên đàng, ông ta bỏ đi. Ta trêu ông ấy đấy mà, em trai nàng nhún vai nói sau đó. Cho thấy cậu ta chưa bao giờ cho rằng cải đạo là ý nghĩ nghiêm túc.

Nhưng nàng đang nghĩ đến câu chuyện ấy bây giờ, với ý nghĩa hoàn toàn khác. Điều gì mới là tự nhiên, dục vọng của con người hay nỗi đau của Nguyên phi? Điều gì mới là đúng, bắt buộc hay thả lỏng? Có ý nghĩa gì khi đặt ra quy định nhưng không ai có thể tuân theo, khi người người đều vi phạm, cậu em nàng đã nói. Ngay cả những thủy thủ Gia-tô giáo kia, họ tìm đến những khu phố đèn mờ ngay khi vừa đặt chân xuống cảng, ngay giữa ban ngày, thản nhiên và tự nhiên như thể tìm thức ăn nước uống. Mỗi người đàn ông đều có nhiều phụ nữ, trước đó hay sau này, cấm hay không cấm cũng thế thôi, nàng đã nhận ra điều đó khi trưởng thành. Mặc nhiên thừa nhận nó. Lòng chung thủy không phải là điều có thể ép buộc.

Hay chỉ có thể giải thích đơn giản như Cảnh: Trời sinh đàn ông và phụ nữ bằng nhau? Dùng đạo lý thắt chặt nó như đã từng thắt chặt bao nhiêu điều khác, thành công hoặc không thành công.

Ngọc Du thở dài, không biết đã lần thứ bao nhiêu. Chớp mắt, nàng nhận ra Võ Tánh đã ngồi cạnh nàng không biết từ lúc nào. Nghiêng đầu nhìn vào mắt nàng, chàng hỏi:

- Nàng đang nghĩ chuyện gì vậy?

- Không, chỉ là… - Nàng ngập ngừng. – Chúa công sẽ quản lý được Cảnh, chắc chắn.

Vì ngài ta là kẻ thực tế hơn bất cứ ai. Nhìn thẳng vào bất cứ ai, ngay cả chính mình, thừa nhận tất cả những điều mà kẻ khác tránh né.

Còn nàng thì lại đang sợ hãi, đang tránh né.

Nàng sợ phải thừa nhận rằng đang nghĩ đến bản thân mình, đến người thanh niên bên cạnh. Chồng nàng. Mọi điều đã đều đơn giản cho đến bây giờ. Cuộc hôn nhân của họ. Cuộc sống của họ. Cả quãng thời gian chia ly. Nàng đã có thể ngăn mình rơi vào những tình cảm u sầu. Nhưng nếu nàng để mất chàng? Trong những cuộc chia ly. Trong những quãng thời gian dằng dặc. Như Nguyên phi đã dần dần vuột mất chồng mình. Những gì đã nứt đôi, đã tan vỡ, rồi không thể hàn gắn lại.

Tất cả đã đều đơn giản. Cho đến khi nhìn thẳng vào nó.

Nàng nhìn chàng. Đưa tay vuốt sợi tóc rơi xuống má chàng. Ngoài hiên, ánh nắng cũng chỉ vừa mới tắt. Hoàng hôn đỏ ối của ngày mùa hạ vừa tàn đi sau khi bùng cháy, để lại những áng mây tím than tản mác phía chân trời. Nàng quan sát chàng, trong ánh nhập nhoạng của ngày tàn, trong bóng tối đang phủ lên căn phòng. Một nửa là hoàng hôn. Một nửa là bóng tối. Con người đã chung chăn gối với nàng. Con người mà nàng đã quen thuộc. Nhưng chưa bao giờ muốn lại gần, gần hơn nữa.

Nàng vốn không biết yêu qúy bất cứ thứ gì, đó là lời chàng đã nói. Và cả sự tin tưởng kiêu hãnh buồn cười của chàng. Nàng cần chàng, có thể. Ngay cả nỗi sợ này cũng có thể vì thế. Nhưng yêu? Thế nào mới là yêu? Rồi tình yêu ấy có thể làm được gì?

Ngay cả nếu như yêu, nàng có thể giữ chàng lại?

Nàng cũng sợ bị bỏ rơi. Hẳn vậy. Chắc chắn. Nhất là chẳng vì lý do gì, chỉ thấy mình tuột lại, rơi lại trong một hành trình dài. Đó là một cảm giác khủng khiếp. Kinh khủng. Tồi tệ. U buồn. Sự bỏ rơi ấy lại hiển nhiên, tự nhiên và chắc chắn đến như thể không còn cách nào khác được. Không cách nào khác được, ngay cả nếu có lật lại thời gian cũng chẳng gì có thể đổi thay. Như hoàng hôn tàn đi và ngày mất. Như con người lớn lên, già đi và hủy hoại. Như những gì đã có biến thành như chưa từng có.

Có lẽ đã từng có, những gì nàng mong muốn chúng hiện diện bây giờ. Nhưng rồi chúng đã mất đi mà chẳng ai nhận ra ngay cả sự mất đi của chúng.

Dựa trán vào vai chàng, nàng nuốt ngược lại tiếng thở dài. Dạo gần đây nàng trở thành dễ xúc động. Công việc quanh quẩn và bó hẹp làm tâm tính nàng thay đổi. Võ Tánh chỉ về nhà khi đêm xuống, nhiều ngày ở lại hẳn trong doanh trại. Gia Định đã yên ổn, nhưng sự yên ổn này lại càng làm nàng thấy chông chênh hơn lúc nào. Nàng đang muốn gì, bản thân nàng cũng không biết, không hiểu. Khi chàng nói đến một đứa con, nàng đã nghĩ ngay rằng nó cần thiết cho nàng, cho cả chàng nữa. Cho cuộc hôn nhân này.

Bàn tay chàng vuốt tóc nàng, vuốt dọc trên sống lưng. Lại cảm giác ấy, cái phần nào đó trong nàng mà chàng tưởng như không bao giờ chạm đến được. Nắng đã tắt hoàn toàn, để ánh trăng mờ phủ xuống khoảng sân nhỏ. Chàng đã nghe thấy tiếng bước chân của cô hầu gái từ đầu nhà bên kia lại, hẳn là đến thắp đèn.

- Lại đây với ta một lúc. – Chàng cúi xuống thì thầm bên tai nàng, đứng dậy kéo nàng theo. Họ bước ra sân, lặng lẽ đến bên hồ nước trong vườn. Cái hồ nhỏ này vẫn được thả vài cụm bèo cho vui mắt. Trong bóng trăng chiều, theo tay chàng chỉ, nàng thấy vài bóng đen lập lờ dưới lớp bèo.

- Khi từ Ba Thắc về, ta có đem theo túi hạt giống sen. Ngày trước ta nói nhà ta sẽ có một cái hồ, bây giờ đến lúc ta thực hiện nó rồi. Chỉ vài hôm nữa, vào giữa mùa hạ, sen sẽ mọc kín hồ cho nàng xem.

Nàng nhìn chàng cười rạng rỡ, mỉm cười theo.

- Bây giờ anh bắt đầu dựng lại vườn hoa lúc trước à? – Nàng hỏi. Chàng gật đầu ra chiều suy nghĩ.

- Có thể chứ. Bây giờ chúng ta đã có một khoảng đất yên bình rồi. Khi con ta lớn lên, ta sẽ cho nó một gia tài là vườn đầy hoa thơm cỏ lạ.

- Đến lúc đó, nó lại quay sang trách ta bắt nó phải đi chăm cây. – Nàng cười. Tay chàng ôm vai nàng sát lại. Ngồi bên hồ, họ lặng lẽ ngắm trăng đang lên phía sau hàng cây. Khói vẫn còn bốc lên trên căn nhà nào đó, sợi mảnh tang như chỉ tơ. Đã có cơn mưa thoảng qua lúc chiều, khí trời dịu lại, se se. Đàn ếch nhái, côn trùng đã bắt đầu cho bài ca đêm mùa hạ của chúng.

- Ta lại nhớ đến những đêm chúng ta gặp nhau khi trước. – Chàng nói bên nàng. – Lúc ấy ta chưa bao giờ nghĩ mình lại có thể như thế này.

Đừng nói đến chúa công, nàng muốn chặn chàng lại trước. Nhưng chàng chỉ cúi xuống hôn nàng. Ngọn gió mơn man trên lưng nàng bị bàn tay chàng xua đuổi.

Nhưng nó cũng vừa kịp làm cho nàng run rẩy.

Khát khao này, nàng nghĩ khi buông mình vào vòng tay chàng, thật khiến người ta sợ đến phát khóc lên được.

Em bao giờ cũng buồn. Chàng nói khi tất cả đã dịu lại. Tóc nàng xõa trên ngực chàng. Ngón tay chàng vẽ trên vai nàng những vòng tròn nhỏ.

Em, chàng gọi như thế khi chỉ có hai người, khi chàng cảm thấy gần gũi, thân mật nhất. Nàng thích tiếng gọi ấy, nó mang âm hưởng trìu mến như với một người thân.

Có đôi lần em thức dậy trong đêm. Chàng tiếp tục nói khi nàng im lặng. Em ngồi lên và nhìn vào bóng tối, rồi lại nằm xuống.

Đó là những lúc tự nhiên tỉnh giấc và thấy hoang mang, nàng nói, vẫn nhắm mắt. Bao giờ cũng có chuyện khiến cho cảm thấy hoang mang. Ví dụ như mẹ bây giờ chỉ có một mình, vậy mà không thể đưa đến sống cùng với ta được. Ví dụ như Ngọc Tuyền đã mất từ dạo ấy mà không tìm thấy thi thể, chỉ thỉnh thoảng giật mình nhác thấy bóng dáng trong đêm, mái tóc ướt đẫm. Ví dụ như tự nhiên nghĩ đến chuyện con chúng ta sau này sẽ ra sao, hay lại phải đưa nó ra chiến trận, lại phải để nó lưu lạc, chạy trốn như chúng ta từ khi nó còn chưa biết gì. Những lúc ấy thấy rất sợ. Có qúa nhiều chuyện để buồn.

Khi ấy em lại co người nằm sát phía mép giường.

Họ im lặng nghe cơn mưa ầm ào chuyển mình. Mùa gió nồm, nàng nói. Mùa gió đến cùng với những cơn mưa.

Họ nghĩ đến dòng sông và bầu trời trên khu rừng. Bầu trời màu đồng đỏ. Bóng của cành cây lung lay ngoài cửa. Mặt trăng khuất sau mây mù.

Phải, gió thổi từ Nam ra Bắc, rồi lại từ Bắc vào Nam. Chàng bảo.

Trong lúc phủ chúa nhốn nháo vì cậu công tử nhỏ, bên ngoài cả quan lẫn dân cũng đều bị xáo trộn bởi một chuyện liên quan đến chuyến trở về của cậu: Sự xuất hiện của những thủy thủ Tây dương.

Không phải ở Gia Định chưa từng có người Tây dương, thậm chí ngược lại. Thậm chí, chúa Nguyễn trước đây đã có chiến thuyền do người Tây dương điều khiển. Có khác chăng là đoàn quân mà người ta đã đồn đại, chờ đợi lại ít hơn hẳn dự kiến. Chỉ có trên dưới hai trăm người Tây dương, và họ cũng chẳng có dáng vẻ của các chiến binh mà những giáo sĩ từng hãnh diện khoe khoang. Họ mặc đủ mọi loại quần áo, cả những thứ tưởng như giẻ lau quấn trên người, đeo dao găm và một vài người có súng ngắn ở thắt lưng, dáng vẻ tuy nghênh ngang nhưng cũng chẳng oai vệ. Được dành cho một khu nhà riêng bên đồn lũy, từ sớm họ đã tỏa vào trong phố chợ xem xét, mua sắm và tìm nhà thổ như bao đoàn thủy thủ khác. Dân Sài Côn đón họ như thương buôn người Tây dương trở lại. Người Tây dương chẳng khác gì nhau, người ta nói. Hai trăm người Tây dương thì cũng chỉ giống như đón vài chiếc thuyền. Người Tây dương trở lại là những chiếc thuyền buôn bán với Hạ Châu, Nam Dương, Ấn Độ… cùng trở lại, đem đến những món lợi lớn cho đội ngũ thương buôn tại Chợ Lớn. Nhưng với các quan, cả văn lẫn võ, sự tình không đơn giản là như thế.

- Họ sẽ làm gì ở đây? – Tống Viết Phúc lên tiếng đầu tiên trong lần họ chờ đợi trước một cuộc họp. – Chỉ có hơn hai trăm người thì đánh đấm gì?

- Tây dương mạnh về chiến thuyền. – Nguyễn Văn Trương nói. – Kể ra, về súng thì Tây dương không hơn ta, nhưng thuốc nổ của họ tốt. Chiến thuyền của họ cũng vững chắc, thiết kế để chống chọi bão trên biển hàng mấy chục năm, lại gắn nhiều súng lớn. Từ lâu họ hoành hành trên biển không ai có thể địch lại.

- Họ cũng chỉ đem tới có hai chiếc thuyền. – Tống Viết Phúc vẫn nhăn mặt. Tống Phúc Đạm mỉm cười.

- Có tiền thì ta sẽ mua được nhiều hơn. Chỉ cần họ có mặt ở đây thì lo gì?

- Trước đây chúa công cũng đã từng học nhiều kỹ thuật của họ. – Nguyễn Phúc Huy lên tiếng xen vào. – Chế tạo thước đo, địa đồ, sử dụng ống kính để nhìn xa… Ngài rất thích những thứ ấy, bao giờ có người Tây dương cập cảng, ngài đều đến xem họ có gì mới không.

- Nhưng những thứ ấy mà đem đi đánh nhau được à? – Một lần nữa, Tống Viết Phúc vặn hỏi. Trên gương mặt anh ta thể hiện sự nghi ngờ sâu sắc. Nguyễn Phúc Huy chỉ nhún vai.

Khi gọi họ vào, chúa Nguyễn vẫn còn đang xem xét một khẩu súng ngắn bọc đồng. Bên cạnh ngài ta là Nguyễn Đình Đắc. Đặt khẩu súng xuống bàn, vị chúa cũng nhận ra cái nhìn của các quan. Ngài ta mỉm cười.

- Thứ này nhìn thì đẹp, cầm thì tiện nhưng không thể dùng đánh trận được. Ta đành phải quay lại với súng điểu thương của mình thôi.

- Giống như bọn người Tây dương. – Tống Viết Phúc lẩm bẩm. Chúa Nguyễn nhướng mày khi câu nói ấy lọt vào tai.

- Bá Đa Lộc đem đám người Tây dương về có đáng với những gì ta bỏ ra cho ông ấy không, chúa công? – Tống Viết Phúc đã đến lúc bùng nổ. Anh ta đập tay xuống bàn, nói sang sảng. - Trừ những chiếc thuyền, những thứ đồ chơi lặt vặt thì chúng giúp ích được gì cho chúng ta?

- Phải, về bộ binh thì họ không bằng ta. – Chúa Nguyễn gật đầu. – Nhưng ta cần họ chính ở những chiếc thuyền, phải không, Đình Đắc?

- Tây dương chỉ mạnh về thuyền. – Nguyễn Đình Đắc chờ chúa Nguyễn nói mới mở miệng. – Về súng ống, theo những khẩu súng điểu thương của người Thanh do Bồ Đào Nha làm ra bán cho Tàu và súng ta mua được ở Ấn Độ, Thái Châu, súng của ta tốt hơn, chất nhẹ hơn, chống rỉ sét lâu hơn và nhạy hơn. Chính chúng ta là người chế tạo ra súng ống, không phải Tây dương bọn họ, chúng ta cũng đã có quân bộ binh dùng súng trước bọn họ. Khi quân Minh đánh chiếm nước ta, chúng đã đem Hồ Nguyên Trừng về nước Tàu. Ở đây, ông đã chế tạo ra một loại binh khí mà sử gọi là Thần cơ pháo pháp, tiền thân của súng điểu thương bây giờ. Minh Thái Tổ đặt ra Thần cơ doanh là đội quân dùng súng đầu tiên trên thế giới. Tây dương học tập được kỹ thuật làm súng lại chuyển giao cho Nhật Bản, Cao Ly. Kỹ thuật dùng súng điểu thương thì chúng ta cũng có kinh nghiệm lâu đời, ngay từ trong cuộc kháng Minh ngày trước, trong cuộc chiến Trịnh – Nguyễn thì càng thành thạo lắm, tuy không phải nói quân chúng ta rèn luyện ngay mà thành được. Dù vậy, người Tây dương bước xuống thuyền không phải là đối thủ của ta.

Nói như vậy cũng nghĩa là người Tây dương làm chủ được mặt biển chính vì có những chiếc thuyền của họ. Kỹ thuật chế tạo vũ khí của họ cũng để phục vụ việc đi biển như ống nhòm nhìn xa, thước đo, la bàn… kể cả những vũ khí cận chiến cá nhân như súng ngắn. Những khẩu pháo của họ đặc biệt tốt hơn ta. Đặc điểm này lại rất có lợi cho chúng ta. Nước Việt ta địa thế dài hẹp, tranh chiếm thường xảy ra ở các đồng bằng ven biển, trong các trận đánh lớn thường dùng thủy bộ quân hỗn hợp theo thuyền đến trận địa. Từ thời Lê, cha ông ta đã chú ý đến thủy quân. Đằng Trong có đội thủy quân càng phát triển lắm. Tuy vậy, những chiếc thuyền của ta chỉ có thể đi gần sát bờ biển, cùng với sự phát triển của đại pháo thì càng trở nên mỏng manh, không chắc chắn. Chúng ta lại theo thói quen cứ thích đem chất nhiều đại pháo lên, càng khiến cho thuyền chậm chạp, khó giao chiến. Thuyền Tây dương vừa nhanh vừa chắc chắn, thiết kế đại pháo để hạ tàu thuyền địch ở tầm xa.

- Tàu Tây dương tuy vậy rất khó xoay sở trong điều kiện sông nước và cách thủy chiến của ta. – Chúa Nguyễn lên tiếng. - Xưa tàu Mãn Noài về với ta rồi bị tiêu diệt cũng trong tình trạng như tàu Ô Lan ngày trước bại dưới tay chúa Hiền, kẻ địch dựa vào số đông cứ xua thuyền nhỏ tràn đến áp sát leo lên mạn thuyền cận chiến là không thể chống nổi. Pháo của thuyền Tây dương chỉ có tác dụng tầm xa, khi ở khoảng cách qúa gần họ cũng hoặc là thả thuyền con xuống hoặc lại gần hẳn để nhảy lên boong giáp chiến. Như vậy, thuyền Tây dương trong chiến trận chỉ có thể đóng vai trò của pháo binh, thành trì trên biển hoặc yểm trợ cho bộ binh trên bờ, là một phần hỗ trợ cho đội quân của ta. Ngày trước ta chỉ yêu cầu hai ngàn lính Tây dương và sáu chiếc thuyền trong Hiệp ước Phòng thủ Nam Hà cũng vì thế. Quân Tây Sơn đánh Sài Côn phải đi đường cửa biển vào sông Tân Bình, muốn xâm nhập Gia Định phải qua vô vàn các đường thủy lớn nhỏ khác. Một chiếc thuyền của Mãn Noài thì không hiệu qủa, nhưng nếu có một lượng thuyền vừa đủ để hỗ trợ cho đội thuyền nhỏ của ta chắn cửa biển, cửa sông, không ai có thể đánh vào.

Mảnh đất mà ta muốn tấn công là Thượng Nam Hà. – Chúa Nguyễn chỉ tấm địa đồ cho họ. – Dải đất rất hẹp. Bên biên giới phía Tây là Chân Lạp cùng đất của Phiên dân, chỉ cần giao hảo tốt với họ thì họ có thể giúp cho chúng ta. Phía Đông là biển, các cảng, thành trì cũng tập trung ở bên này. Phía Tây hoàn toàn là rừng rậm núi cao, người Phiên coi giữ, rất khó khăn để di chuyển. Chiến trường của chúng ta là dải đất ven biển này. Do đó, kẻ kiểm soát được biển, đủ hỏa lực để tấn công đất liền sẽ giành phần chủ động trong các cuộc tiến quân. Thắng bại được quyết định trên bờ, nhưng thế trận được xác định trên biển.

Tàu thuyền vũ khí là thứ có thể mua được, nhưng chiến thuật thủy chiến của Tây dương và kỹ thuật điều khiển hàng hải của họ thì không ai ở đây từng biết. Làm thế nào để kiểm soát mặt biển? Làm thế nào để dồn ép đối phương trên bờ, không chỉ đơn thuần là để đối phó với thủy quân của đối phương như trước? Họ chỉ có hơn hai trăm người, nhưng điểm tốt của họ là gồm toàn những tay thủy thủ lão luyện đã kinh qua nhiều năm trên biển, không chỉ là lính nghĩa vụ đơn thuần. Nguyễn Văn Trương, khi tập trận với họ sau này, khanh chú ý học hỏi họ.

- Ngài nói pháo trên thuyền Tây dương tốt hơn của ta? – Nguyễn Phúc Hội chợt hỏi. Chúa Nguyễn nhìn về phía ông ta, cười nhẹ.

- Đó là do họ nói. Nhưng ta nghĩ là phải. Đất đai Nam Hà có rất ít mỏ sắt, mỏ đồng, phải đi mua lại kim loại của các thương buôn Tàu hoặc Tây dương. Thép cũng phải mua lại của Tàu chứ không đâu có. Rối loạn tiền kẽm năm nọ chính vì ta mua phải loại kẽm xấu của Tàu, dẫn đến tiền hỏng hàng loạt, lạm phát tăng vọt. Vũ khí của ta hầu hết phải đi mua, hoặc là thành phẩm, hoặc là nguyên liệu về rèn, đúc. Loạn ở Bắc Hà mấy năm trước, cả Tây Sơn những năm này, đều phải lấy tượng, lấy chuông để đúc vũ khí chính vì hoặc thiếu tiền, hoặc không thể mua được đồng, sắt, thép. Pháo của ta do eo hẹp về nguyên liệu nên khá nhỏ. Như vậy, sức công phá không thể bằng pháo lớn. Nhưng đặc điểm này ta nghĩ có thể khắc phục được.

- Vậy người Tây đánh nhau trên bộ như thế nào, chúa công? – Võ Tánh hỏi. – Pháo của họ sức công phá mạnh hơn thì thành trì chắc không thể dễ phá hơn của chúng ta?

- Phải. – Một lần nữa, chúa Nguyễn mỉm cười. – Ngay cả con ta cũng nói về những thành trì ấy. Về cơ bản, họ cũng phân ra đoàn bộ binh, kỵ binh, pháo binh như chúng ta, không có voi. Họ chủ yếu công thành bằng pháo, do đó thành trì của họ được thiết kế để chống chọi với hỏa lực mạnh nhất có thể. Ngày trước Ô Lan cũng đã giúp cho Trịnh xây công sự phòng thủ. Ta đã bảo Trần Văn Học hỏi trong những người ấy ai có khả năng, hiểu biết về xây thành, nghiên cứu kiến thức của họ. Đây cũng là việc ta muốn làm lâu rồi. Muốn tấn công, trước tiên chúng ta phải phòng thủ cho vững chắc đã. Sài Côn chỉ có đồn, lũy đắp đất cho quân đội trú ngụ, bị tấn công thì dân thường phải lãnh hiểm họa trước tiên. Ta sẽ xây thành phòng thủ Sài Côn, càng sớm càng tốt.

Hãy xem những người Tây dương ấy như đồng bạn. - Chúa Nguyễn nói với bọn họ sau đó. – Họ là những thủy thủ tự do đến đây vì muốn đóng góp cho ta.

- Nhưng Bá Đa Lộc đâu có nghĩ như thế. – Vừa ra ngoài, Tống Viết Phúc đã nói, đủ để người trong phòng không nghe thấy. – Đem được đám người này về, lão ta tưởng mình đã thành Khương Tử Nha giúp Võ vương đến nơi. Đám giáo sĩ của lão cũng nghếch mặt lên trời, đi truyền thứ tà đạo nghênh ngang giữa ban ngày. Thủy bộ viện binh Giám mục Thượng sư cái gì? Ta mà lại đi gọi một lão giáo sĩ là Thượng sư à?

- Ông ấy đã từng vào sinh ra tử với chúng ta, kể là một trong bọn ta cũng được. – Nguyễn Văn Nhơn lại phải đi hạ hỏa cho viên tướng nóng nảy này. – Từ Côn Đảo đến Phú Quốc, Xiêm La, Thổ Châu, nơi nào ông ấy cũng sẵn sàng đến vì chúng ta.

- Vì chúng ta hay là vì Chúa của ông ta? – Tống Viết Phúc cười khì qua mũi. – Mỗi lần giúp là mỗi lần ông ta đặt điều kiện. Là mỗi lần đám giáo sĩ dưới quyền ông ta lên mặt. Có nhớ lần ông ta đứng về phía Đỗ Thanh Nhơn chơi trò nước đôi, để mặc Nhơn chèn ép chúa công? Có nhớ bao nhiêu lần ông ta ngăn cản chúa công tiếp xúc với người Bồ Đào Nha, Anh Cát Lợi, khăng khăng nói rằng chỉ có Phú Lang Sa của ông ta giúp được? Trong khi tất cả những gì ta cần là sáu chiếc thuyền! Rồi bây giờ chính vua của ông ta còn đang phải khốn đốn ở đất nước qủy quái đó, một tên quân cũng không có.

- Thì ông ấy cũng đã bỏ cả gia tài của mình mua thuyền, mộ người cho ta. – Tống Phúc Đạm lắc đầu. – Một người chỉ lỡ tay làm phúc, mình cũng phải nhớ ơn. Dù ông ấy thế nào đi chăng nữa, việc ông ấy đã làm cho chúng ta là có thật. Chúa công luôn nói, mỗi người có một mục đích khác nhau. Nên tôn trọng nhau chừng nào họ không làm hại mình, so đo làm gì?

- Mỗi người có một mục đích khác nhau. – Tống Viết Phúc chống tay cười nhạt. – Nên đám hàng tướng của Tây Sơn ngày càng đông. Cả tên Phạm Văn Sâm mà ta hao binh tổn tướng mất bao nhiêu người mới hạ được cũng thu về. Rồi hắn lại phản ta lần nữa mới đem đi giết. Loại đã phản chúa rồi còn phản chủ ấy mà cũng có thể tin à?

Mọi người im lặng. Ở cạnh bên, Huỳnh Đức bấm nhẹ tay Tống Viết Phúc. Sự có mặt của Nguyễn Văn Trương làm không khí trở nên khó xử. Tống Viết Phúc cũng vừa nhận ra mình lỡ lời, tai lẫn mặt đỏ lên. Nguyễn Văn Trương chỉ cười nhẹ. Không biết nói sao, vị tướng họ Tống lúng túng bỏ đi. Nguyễn Văn Trương cáo từ họ sau đó. Huỳnh Đức cũng đi theo ông ta. Dù đã bỏ đội quân của Nguyễn Huệ trở về, hẳn anh ta vẫn còn thấy ngượng ngùng.

Nhìn theo bóng hai người rồi nhìn lại về phía cửa lũy, Nguyễn Phúc Huy nhún vai ngâm nga:

- Đã có quan còn có giặc, đã có Phật còn có Chúa, đã có trung còn có phản, đã có Trong lại có Ngoài, đã có Nguyễn lại có Lê, đã có ta còn có Tây. Không hiểu chúng ta đang biến thành cái gì?

Chú thích:

Ô Lan: Hà Lan. Thời chúa Hiền còn chưa lên ngôi, công ty Đông Ấn của Hà Lan nhân một xung đột đã đánh vào Đàng Trong, chúa Hiền đã lãnh đạo thủy quân đánh bại đợt tấn công này.

Cao Ly: Triều Tiên.

Nam Dương: Philipine.

25

Những tháng giữa năm Kỷ Dậu, công việc của ai nấy cũng đều bộn bề khi tàu Tây dương đã ghé bến, các cựu thần lưu lạc cũng đang dần trở về. Trần Văn Học vào trình diện chúa Nguyễn sau cuộc hành trình kéo dài hai năm lênh đênh trên biển, đi qua hầu hết các bến cảng Á châu. Sau khi rời khỏi Ấn Độ, để Phúc Cảnh ở lại cùng Bá Đa Lộc, con tàu của Trần Văn Học bị bão dạt vào bến cảng lạ, rồi ông cứ thế ở lại Ấn Độ, rồi Nam Dương, Hạ Châu… đến bây giờ mới có thể trở về. Ngay lập tức, ông được chúa Nguyễn giao cho việc thông ngôn với các sĩ quan Tây dương, dịch sách kỹ thuật và phác họa địa đồ khu thành sắp được xây dựng. Từ đó, ông theo sát chúa Nguyễn trong mọi cuộc liên lạc với bên ngoài.

Ngọc Du cũng không ngạc nhiên khi thấy Trần Văn Học ở bên chúa Nguyễn ngay cả ban đêm tại ngôi nhà của vị chúa, trong phòng chính. Cả hai đang châu đầu bên bàn, tay cầm bút than vạch lên giấy những hình vẽ kỳ lạ, xung quanh là bề bộn sách vở Tây dương lẫn giấy tờ. Nghe tiếng chào của nàng, người em trai cũng vẽ xong một vòng tròn ở góc tờ giấy rồi mới ngẩng lên. Trong khi Trần Văn Học cúi chào nàng, vị chúa chỉ nhướng mày như thể hỏi “Chị ở đây à?”. Nhưng nàng vừa định chào ra về, ngài ta gọi nàng lại.

- Sáng mai chị có rảnh không? – Vị chúa hỏi, rồi nói tiếp khi nàng chưa trả lời. – Nhờ chị đưa Cảnh đi chơi, mua lồng đèn hay bánh trung thu cho nó. Mai là Trung thu, hay là cho nó sang chơi ở nhà chị vậy.

Ngọc Du định hỏi tại sao rồi chợt nghĩ ra. Vị chúa còn phải tổ chức lễ cho thuộc tướng, quân sĩ. Những phụ nữ lại bận lo lễ cúng rằm – một việc mà Cảnh hoàn toàn phản đối. Để giữ yên không khí trong nhà, người em trai định nhờ nàng trông chừng đứa con.

- Vâng, chúa công. – Nàng cười. – Nhờ ngài nói với Từ phi bao giờ cúng xong thì sang nhà thần ăn cỗ.

Vị chúa nhướng mày, gật đầu. Đó là một yêu cầu nho nhỏ của nàng, đổi lại.

Nhưng Phúc Cảnh cũng không chịu thua, nó có riêng yêu cầu của nó. Buổi sáng, khi đi trong phố chợ mua sắm cùng nàng, nó bấm tay nàng mà nhỏ giọng.

- Cô cô, tối nay mời Cha Cả đến ăn tiệc đi. Lâu qúa không gặp Cha rồi.

Ngọc Du im lặng. Thằng bé này thật cứng đầu, nàng nghĩ thầm. Dù đã dần dà chịu hành lễ theo đúng bổn phận, nó cũng chỉ chờ dịp để xổng ra. Nàng đã nói với nó rằng lễ Trung thu là một lễ mừng cho mùa màng vào lúc thu hoạch, thằng bé mới vui vẻ mà tham dự, thậm chí thích thú với những chiếc bánh, hàng trăm chiếc đèn lồng trong khu phố người Đường. Những đứa trẻ đều thích lễ lạc. Nhưng niềm vui của nó còn thiếu một người nữa mới hoàn toàn.

Thằng bé lại kéo tay nàng. Ngọc Du thở ra, gật đầu.

- Được rồi, ta sẽ cho gọi ông ấy đến.

Dù sao cũng chẳng ảnh hưởng lắm khi chỉ gặp trong một buổi lễ. Biết đâu Bá Đa Lộc chẳng từ chối tham dự lễ Trung thu trong phủ một công nương.

Nhưng ông ta qủa là không từ một cơ hội nào để gặp Cảnh. Người báo tin đi về nói với nàng rằng Bá Đa Lộc đồng ý ngay lập tức. Nàng báo với Võ Tánh, chờ đợi chàng phản ứng. Võ Tánh chỉ cười.

- Nhà ta ít người, càng đông càng vui chứ có sao. – Chàng nói.

Vậy là đêm Trung thu đã được tổ chức với hai chiếc bàn nhỏ đặt trong sân, một bàn cho vợ chồng nàng, một bàn cho thầy trò Bá Đa Lộc. Từ phi đến vào giữa buổi tối rồi cáo từ đi nghỉ sớm do tuổi già, chỉ còn mấy người lớn ngồi uống rượu với nhau ngắm trăng lên. Bá Đa Lộc lấy trà thay rượu ngồi uống chậm rãi, một tay kia vuốt tóc Cảnh. Thằng bé đã thiu thiu gục đầu ngủ mất trong gió đêm thổi mát rượi. Ngọc Du vào nhà lấy thêm một cái áo đắp cho nó. Ông giáo sĩ cẩn thận diềm mép áo xuống dưới cùi chỏ của Cảnh để không hơi lạnh nào có thể lọt vào.

- Thượng sư thương thằng bé qúa. – Ngồi ở bàn bên kia, Võ Tánh nói, chân thành. Bá Đa Lộc nhìn chàng, cười nhẹ.

- Nó đã ở bên tôi chừng ấy năm, lênh đênh cùng nhau, tất nhiên phải yêu thương nó.

- Phải, nó là đứa bé đáng thương. Đáng lẽ giờ này nó được ở bên gia đình ăn cỗ đón trăng, cha nó lại phải nhờ ta giữ giùm nó vì sợ gây rối. – Ngọc Du ngồi xuống bên chồng, nói mát. Ông giáo sĩ nhận ra ẩn ý của nàng, vẫn chỉ cười.

- Chính mọi người mới không để tâm đến tình cảm của nó. Bao giờ cũng cho nó là lạ lùng, chứ có bao giờ nghĩ rằng Chúa có địa vị gì với nó? Có ai biết rằng khi phải xa cha xa mẹ ở chừng ấy tuổi, nó đã đau buồn thế nào? Lênh đênh trên biển, khi gió bão, khi gặp địch quân, nó đã phải sợ hãi thế nào? Những khi ấy, tôi chỉ có thể bảo với nó rằng hãy cầu Chúa, Chúa sẽ giúp nó an toàn, sẽ đưa nó hoàn thành nhiệm vụ và về nhà, Chúa sẽ luôn ở bên nó. Tất cả mọi người đã ném nó đi, nó chỉ còn có thể trông cậy ở Chúa. Nó đã yêu Đức Chúa bằng tất cả tình yêu mà nó không thể đem cho ai. Nó không có cha mẹ, không biết quê hương, chỉ có Đức Chúa và biển. Tôi đã đem Đức Chúa đến bên nó, nhưng nó đã ôm Ngài vào lòng bởi trái tim của chính mình.

Họ im lặng. Bàn tay to bè của Bá Đa Lộc vẫn vuốt nhẹ trên mái tóc mềm của Cảnh. Ánh mắt ông ta nhìn nó âu yếm. Âu yếm như thể một người cha, Ngọc Du nghĩ.

- Nhưng nếu đã yêu thương nó như thế, ông không thể vì hạnh phúc của nó mà khuyên nhủ nó nhượng bộ được sao? – Nàng lên tiếng. – Chúa công đâu có bắt nó phải bỏ đạo, chỉ là làm lễ với tổ tiên, nào có mất gì. Các đạo giáo ở bất cứ nơi đâu cũng phải hòa nhập với giáo dục xứ sở ấy. Phật, Lão, Nho trong đất nước này sống cùng nhau, cùng với đạo thờ ông bà, đâu có xung đột lớn lao. Lễ chỉ là hình thức, nào có làm suy giảm tấm lòng.

Ông giáo sĩ không trả lời. Phải thôi, nàng nghĩ. Làm sao ông ta có thể nói với nàng rằng sự chống đối của Cảnh khuyến khích cho các giáo sĩ dưới quyền trong xứ sở này, cho thấy sức mạnh của đạo Gia-tô có thể phá vỡ cả con người được tin rằng mang mệnh trời cai trị. Làm sao ông ta có thể nói với nàng rằng dù có yêu thương con người bé nhỏ này đến thế nào, ông ta vẫn có những điều mình coi trọng hơn hết thảy.

- Ngày xưa công nương cũng ở đấy khi tôi thuyết phục chúa công cải đạo, phải không? – Bá Đa Lộc chợt nói sau một lúc lâu làm thinh. – Khi ấy, tôi cũng nói như vậy với chúa công, tôi biết bổn phận của ngài ấy thế nào, chỉ bảo ngài ấy nhận theo đạo. Nhưng ngài ấy đã thậm chí không thèm nghĩ tới lời nói của tôi.

- Tại sao Thượng sư lại cho rằng chúa công có thể cải đạo? – Võ Tánh tò mò hỏi. Khác với Cảnh chỉ là một đứa trẻ, chúa Nguyễn khi gặp Bá Đa Lộc đã đến tuổi trưởng thành. Một người không tin bất cứ thần phật nào như vị chúa ấy, có thể thấy cũng chẳng thể nào tin vào Chúa. Sự thuyết phục của Bá Đa Lộc ngay từ đầu phải chăng đã là vô tác dụng? Cứ nhất định ép buộc ngài ta, ngay cả dùng đến đứa con trai, ông giáo sĩ này phải chăng qúa tin vào ơn nghĩa của mình? Các quan đã tỏ thái độ bất bình, vì vị chúa cũng như vì niềm tin của họ.

- Tôi đã từng viết thư cho Giáo hội rằng: Nếu vị chúa này lên ngôi, đạo ta sẽ ít bị đàn áp hơn các dòng họ khác. – Bá Đa Lộc mỉm cười. – Tôi đã tin ngài ấy đến như vậy đấy. Tôi tin vào chính bản thân ngài ấy chứ không phải vào dòng họ ngài ấy. Dòng họ ngài ấy mới hai mươi năm trước đã làm một cuộc tàn sát đạo lớn ở Gia Định này chứ có hơn gì ai? Một dòng tộc đã ra lệnh cấm đạo Gia-tô bằng cách bắt người theo đạo phải mang vòng sắt ở cổ khắc chữ “Tả đạo”, phải đi cắt cỏ cho voi ăn! Tôi đã sống hàng chục năm ở phương Đông, đã tham dự vào bao cuộc thay vua đổi chúa, đã từng bị giam giữ, tôi biết mình có thể trông chờ gì ở các vị chúa phương Đông. Họ bao giờ cũng bám lấy đạo giáo của mình, Phật vương ở Xiêm La cũng vậy, Mạc Phủ ở Nhật Bản, hoàng đế ở Mãn Thanh, vua chúa ở đất Việt này, tất cả đều giống nhau. Khi thấy bất lợi cho mình, họ sẽ phủ nhận đạo ta hoàn toàn.

Nhưng tôi đã tin rằng chúa công sẽ không làm như thế. Trong tất cả các kẻ đang muốn làm vua làm chúa trên mảnh đất này, tôi đã chọn chúa công. Tôi đã đi theo ngài ấy từ khi mười lăm tuổi cho đến bây giờ vì niềm tin ấy. Tôi đã chọn hậu duệ của dòng họ vừa mới thảm sát đạo ở Gia Định chứ không phải những kẻ kia, dù biết rằng, trong cuộc chiến này, để nắm được quyền lực, kẻ nào cũng sẽ phải nhượng bộ, o bế đạo của tôi. Kẻ nào cũng có thể làm thế, không chỉ riêng gì ngài ấy. Khi Tây Sơn vừa mới nổi lên, họ cũng đã từng giải thoát một giáo sĩ bị bắt đeo vòng tả đạo, và tôi đã gặp chúa công trong lúc mà giáo sĩ Jumilla viết thư kể khắp nơi “Giờ phán xét của Thượng đế đã điểm với chúa Nguyễn và bề tôi”, kể rằng Tây Sơn đã cho tự do giảng đạo, dung thứ cho giáo dân. Giáo dân đã từng ủng hộ họ đến nỗi ép được Định vương phải ra lệnh ân xá cho đạo giáo. Chúng tôi đã có hàng trăm năm tại phương Đông đủ để biết rằng không thể tin bất cứ ai, tất cả chỉ là những thủ đoạn chính trị và nên chọn phía nào có lợi cho mình.

Tôi đã tin ngài ấy, ngay cả khi ngài ấy bị đánh dạt ra biển đảo, không có một hy vọng nào để chiến thắng. Nếu muốn, tôi có thể chọn một bên tham chiến có lợi hơn nhiều. Tất cả còn đang hỗn loạn, tất cả còn đang chùng chình, chưa ai có thể kết thúc. Tôi có thể chọn một bên có tương lai hơn, mạnh hơn, đưa tài lực giúp cho kẻ ấy rồi sẽ thành công thật dễ dàng. Có hy vọng gì ở một triều đình lụn bại như thế?

Ngay cả Bá tước De Conway cũng chế giễu tôi như vậy. Việc gì chúng ta phải tham chiến trong hoàn cảnh bất lợi như thế, để được gì? Ông ta bảo rằng tôi điên rồi, tôi là một lão giáo sĩ lẩm cẩm. Ngay cả trước khi rối loạn xảy ra ở Phú Lang Sa, ông ta đã từ chối, đã cười nhạo tôi. Chiến thắng ư, kẻ ấy mà có thể chiến thắng? Ông ta đã hỏi tôi. Sau chuyến tàu đi xem xét Gia Định trở về, ông ta đã ném bản Hiệp ước vào mặt tôi mà cười nhạo. Một đội quân ô hợp đến súng còn thiếu, phải chạy vạy khắp nơi mà mua. Một vùng đất hoang vu tiêu điều, rời rã, rối loạn. Ông hãy nhìn xem miền Bắc bọn họ có gì. Hàng chục vạn người, bao nhiêu tiền của chất chứa hàng trăm năm, giàu có thịnh vượng, một quân đội đã có cả chục năm rèn luyện, đánh thắng cả Đại Thanh. Ông bị sao thế, giáo sĩ? Ông cho rằng vị chúa của một triều đình lụn bại mà thậm chí có cầu xin thuyền Bồ Đào Nha chở sang Ma Cao họ cũng không thèm nhìn, ở một vùng đất như vậy, mà cũng có thể chiến thắng ư? Đem hai ngàn quân với sáu chiếc thuyền đến đó để làm mồi cho kẻ khác ư? Hiệp ước này đúng là một trò đùa!

- Ông không phải trung thành với chúa công. – Ngọc Du lặng lẽ nói. – Ông chỉ trung thành với duy nhất Chúa của ông.

- Hạt phải gieo đất tốt mới có thể lớn mạnh. Như đã nói, tôi tin ngài ấy có thể giúp cho đạo của tôi. Điều đó nằm ở chính bản thân ngài ấy. Thậm chí, tôi đã từng tin rằng có thể giúp cho ngài ấy cải đạo. Ngài ấy rất gần với một con chiên của Chúa. Tôi đã nghĩ chỉ cần một bước nữa là có thể cải đạo được ngài ấy, nhưng phương Đông ma qủy này đã làm hỏng ngài ấy.

“Phương Đông ma qủy”, họ nhướng mày khi nghe những chữ ấy. Bá Đa Lộc nhìn họ rồi lại ngẩng nhìn mặt trăng đang treo lơ lửng trên đầu họ. Quầng sáng tròn vành vạnh, ánh rực rỡ như mảnh tách rời của mặt trời.

- Lần đầu tiên tôi gặp chúa công khi ngài ấy mới mười bốn tuổi, đang chạy trốn. – Mỉm cười, Bá Đa Lộc nhìn trăng mà nói. – Lúc ấy, tôi không kịp nhìn rõ, chỉ đưa ngài ấy giấu đi, bảo Hồ Văn Nghị đem cơm cho mỗi bữa. Ồ, tôi rất có kinh nghiệm che giấu kẻ khác, ở Xiêm La tôi cũng đã từng giấu vương tử của họ. Khi quân địch rút, tôi mới gọi ngài ấy ra. Đó cũng là một đêm trăng như thế này, tôi vẫn còn nhớ vì lần đầu tiên tôi mới thấy chúa công rõ ràng trong ánh sáng ấy. Đó không phải là một hình ảnh đẹp đẽ gì đâu, chắc chắn. Cậu bé mười bốn tuổi mà mặt mày, quần áo còn đầy vết máu khô lẫn bùn lầy, còn đầy những vết thương do rừng cắt vào thì không thể đẹp. Nhưng có cái gì đó ở cậu ta đã khiến tôi xúc động. Có thể là đôi mắt, có thể là gương mặt, có thể là toàn bộ cậu ta.

Cũng giống như đứa trẻ này. – Bá Đa Lộc vò rối tóc Cảnh trong tay. – Các vị biết không, đứa trẻ này đã làm cả triều đình nước Phú Lang Sa chú ý ngay khi nó vừa mới bước vào. Vẻ đẹp của nó khiến mọi người xúc động. Vua xúc động. Hoàng hậu, người đàn bà đẹp nhất châu Âu, xúc động. Cả những người quanh đó. Họ làm thơ, vẽ tranh cho thằng bé. Hoàng hậu thậm chí làm mọi cách để triều đình đồng ý giúp đỡ nó.

Có những vẻ đẹp như vậy đấy. Vẻ đẹp của các hài đồng. Vẻ đẹp của các hài đồng bị hủy hoại. Không phải là thứ đang hiện hữu tác động đến người nhìn thấy, mà là những gì đã mất đi. Mất đi, hủy hoại, chôn vùi.

Khi nhìn thấy cậu bé mười bốn tuổi lấm lem bước ra từ chỗ trốn, tôi đã thấy xúc động. Tôi muốn bảo vệ cậu ta. Tôi muốn giúp đỡ cậu ta. Như tôi đã từng giúp vương tử Xiêm La. Khi ấy, tôi biết nhà Nguyễn đã tiêu vong, Định vương, Tân Chính vương đã bị giết ở Gia Định, hầu như toàn bộ dòng chính của họ Nguyễn đã chết. Khi ấy, tôi chưa hề có cái ý nghĩ rằng dòng họ này có thể khôi phục. Tôi chỉ muốn giúp cậu bé mà tôi nhìn thấy.

Tôi đã cho cậu ấy tắm rửa, thay áo, ăn uống, nghỉ ngơi trong nhà thờ. Tôi nói với cậu ấy rằng tất cả người nhà họ Nguyễn đã chết rồi, bọn họ cho rằng cậu cũng đã chết trong rừng thiêng nước độc, mà cậu chỉ là một hoàng thân nhỏ bé, không thể đe dọa được họ nên họ quyết định không lùng tìm nữa. Tôi đã nói với cậu bé điều ấy, quan sát thái độ của cậu. Bên đám lửa trong khu vườn của nhà thờ, cậu chỉ ngẩng nhìn trời, không thốt ra tiếng nào. Đến cuối cùng, mãi sau đó, không thể chờ đợi được, tôi phải hỏi cậu định sau này sẽ ra sao.

“Tây Sơn rút rồi phải không? Tôi sẽ trở về Gia Định.” Cậu ta nói, lần đầu tiên trong đêm đó. Câu nói làm tôi hơi giật mình.

“Trở về?” Tôi hỏi. “ Để làm gì?”

“Họ Nguyễn chỉ còn một mình tôi.” Cậu ta trả lời. “Qúa nhiều người đã chết, những người còn lại hẳn đang chờ đợi tôi trở về.”

“Nếu cậu trở về, sẽ tiếp tục có rất nhiều người nữa phải chết.” Tôi nói, quan sát cậu ta. Trên khuôn mặt trẻ con ấy lại có một nụ cười thật là lạ. Phảng phất như sự chế nhạo sâu cay của cả cuộc đời. Cả cuộc đời dài. Dài đến mức không biết là đã bao nhiêu tháng năm.

“Có cuộc chiến nào mà nguyên nhân chỉ vì một người à?” Cậu ta cười. Khiến tôi cũng cười theo.

“Có một cuộc chiến như thế trong thần thoại Hy Lạp.” Tôi nói. “Nhưng bây giờ thì tôi nghĩ ngay cả các vị thần cũng có lý do của mình. Tuy vậy, cậu nghĩ cậu có thể làm gì? Cậu bao nhiêu tuổi rồi? Mười bốn?”

“Có hay không có tôi, bọn họ cũng sẽ không chịu thua. Không ai có thể để bản thân bị tiêu diệt dễ dàng như thế. Có hay không có tôi, cuộc chiến này vẫn sẽ tiếp tục. Nếu không có lý do chính đáng, họ cũng sẽ tự tạo ra nó. Tôi sẽ cho họ một lý do, để nếu có bị tiêu diệt hoàn toàn, họ có thể biết rằng cuộc đời họ không vô nghĩa. Nếu họ bị tiêu diệt hoàn toàn, tôi cũng sẽ bị tiêu diệt cùng với họ. Nếu họ bị nguyền rủa, tôi sẽ là người chịu thay cho tất cả bọn họ.”

Thinh lặng.

Lời nói của cậu bé ấy ngấm sâu vào tôi như khí lạnh của trời sương giá, lướt trên làn da mà có thể khiến cho bao tử cồn cào. Tại sao? Tôi muốn hỏi. Một đứa trẻ như cậu không đáng phải làm như vậy.

“Tôi không muốn họ chết.” Cậu ta lại nói. Lần này tôi rùng mình vì nỗi buồn thương. Nếu có gì để so sánh, lời nói ấy giống như cái thở hắt ra cuối cùng của thủ cấp vừa rơi xuống dưới máy chém. Cậu ta đã thở hắt ra như vậy. Đau buồn như vậy.

“Tôi không muốn họ chết.” Cậu ta nhắc lại, sau đó. Cậu ta ngồi bên đám lửa, dõi mắt vào nó. “Ông tôi là Võ vương, ông có mười tám người con trai. Người con cả, rồi người được chỉ định làm Thái tử không may mất sớm, để lại người con là Đông cung Dương. Cha tôi là con thứ hai, có khả năng làm chúa, nhưng ông đã bị Trương Phúc Loan giam giữ cho đến chết. Trương Phúc Loan lập người con thứ mười sáu làm Định vương. Từ khi bốn tuổi, tôi đã được đưa đến cho một người họ hàng xa, rồi Định vương đưa vào trong cung. Trong nhà, trước tôi còn có hai người anh, cũng làm việc trong triều. Định vương chỉ hơn tôi tám tuổi, lên ngôi chúa năm mười hai tuổi còn chưa biết gì, mọi việc giao vào tay Trương Phúc Loan, chỉ lo đàn địch ăn chơi. Trương Phúc Loan lại chuyên quyền dung túng cho đám người dưới làm xằng làm bậy. Nơi nào cũng thấy người dân ca thán. Trong triều, những người bất mãn bị giết, bị tù đày, đe dọa. Ngay cả khi chống Tây Sơn, Trương Phúc Loan vẫn còn giết người trong dòng tộc tôi. Còn tôi, chưa bao giờ tôi quên rằng hắn là kẻ giết cha tôi.”

“Cho nên, tôi đã vui mừng khi nghe Tây Sơn nổi loạn.” Cậu ta nói, nhỏ đến mức tôi khó khăn lắm mới nghe thấy. “Tôi đã vui mừng khi họ muốn lật đổ Định vương, triệt hạ Trương Phúc Loan. Họ Nguyễn của tôi đã phải chịu bao nhiêu ô nhục vì hai người này. Tôi đã vui mừng khi dưới áp lực của quân Trịnh, quần thần đã ép được Định vương giao Trương Phúc Loan ra giết. Thù cha của tôi đã được trả.

Nhưng rồi, mọi chuyện đã không như tôi nghĩ.

Kẻ nào cũng chỉ muốn trục lợi cho mình. Trịnh phá bỏ lời hứa, đánh vào Phú Xuân, tôi phải theo Định vương đến Quảng Nam. Quân đi vội vã, xuyên rừng xuyên núi mà không có bất cứ thứ gì có thể bỏ bụng. Hai bên đường chỉ có đồng hoang, người chết. Người chết khắp nơi. Họ chết vì đói. Họ chết vì cướp. Họ chết vì chiến tranh. Chúng tôi may mắn tìm được một rừng qủa dâu da mới có thể sống sót. Nhưng cảnh tượng của Quảng Nam, Hội An rồi Thuận Hóa trong những năm ấy thật khủng khiếp. Hội An bị đoàn quân nổi dậy phá nát. Hạn hán làm vùng Thăng Bình, Điện Bàn mất mùa đến cỏ cũng không có mà ăn. Đã vậy, không ai giúp cho họ. Mọi kẻ chỉ lao vào đánh nhau. Mọi ngả đường đều bị phong tỏa. Mọi dòng sông chỉ đầy thuyền chiến. Không ai giúp cho đám người chết đói ấy. Trịnh chiếm Phú Xuân, rồi bị dịch bệnh làm chết cả nửa đội quân. Tây Sơn chiếm được vùng Thuận Hóa rồi lo đánh ra Quảng Nam bắt lại Đông cung Dương. Chúng tôi lại phải chạy về Gia Định. Trong lúc ấy, mọi người vẫn tiếp tục chết.

Khi ấy, lần đầu tiên tôi biết đến cái đói. Trên đường chạy trốn, tôi phải chạy trốn cả cái đói. Bao giờ cũng đói. Chết vì đói là một cái chết khủng khiếp đến thế nào? Thấy mình lả đi dần dần, kiệt cùng, bất lực và tuyệt vọng. Mùa hạn năm ấy, trời đã xanh đến mức nào, ông có biết? Những con người chết đói ngửa mặt nhìn trời. Mọi thứ quanh họ đều cháy khô. Cả những hy vọng của tôi. Cả những gì đã khiến tôi vui sướng.

Tôi chưa bao giờ thật sự yêu qúy Định vương. Thật sự. Đó là một người qúa vô ưu, ngay cả trước những gì mình gây ra. Ông ấy đã lên ngôi trước cái chết của cha tôi, của mọi người xung quanh, đã nắm lấy cái ngôi ấy bằng bàn tay của Trương Phúc Loan triệt hạ tất cả kẻ chống đối, đã ngồi trên cái ngôi ấy mà không hề biết mình phải làm gì. Nhưng có thể trông chờ gì ở một đứa bé mười hai tuổi? Ông ấy luôn luôn là một đứa trẻ, bao giờ cũng sợ hãi, nhu nhược, dễ bị người ta lôi kéo, ép buộc, cả thói sa đà ham chơi nữa. Vậy mà, người chú ấy, khi đi cùng tôi trên đường gặp quân địch, ông ấy đã bảo tôi chạy trước, không phải lo cho ông ấy.

Ông ấy bảo tôi chạy đi, không phải lo cho ông ấy. Vừa rồi cũng vậy. Nhờ thế mà tôi còn sống.”

Ngọn lửa giật cháy lách tách trong gió cuộn mình xoay chuyển. Đăm đăm nhìn vào ngọn lửa, cậu ta nuốt khan rồi mới tiếp tục nói, vẫn bằng giọng thầm thì.

“Thế nào là người tốt kẻ xấu, thầy Cả? Đức Chúa của ông bảo rằng nên yêu thương tất cả mọi người, Khổng Tử cũng dạy như thế. Nhưng ai mà chẳng biết yêu thương và căm ghét? Ai mà chẳng có một tâm hồn, có cuộc đời? Họ lầm lỗi và họ bị trừng phạt, nhưng ai tự cho mình có quyền trừng phạt họ? Ai tự cho mình cái quyền tiêu diệt kẻ khác?

Ai là kẻ sẽ chết nhiều hơn? Những kẻ có tội hay vô tội?

Những kẻ vô tội bao giờ cũng là người phải chết.

Họ nằm đó, dọc con đường tôi đi. Họ nằm trong đất, trôi trên sông. Họ bị dẫm đạp nát bấy trong bùn. Chỉ những kẻ yếu đuối phải chết. Vì họ không chạy được. Vì họ không chống lại được. Vì họ chẳng có gì.

Họ lao vào đánh nhau, những con người yếu đuối ấy. Họ giết nhau vì niềm tin của mình. Niềm tin. Tôi đã từng vui mừng khi Trương Phúc Loan cùng thuộc hạ bị tiêu diệt. Tôi đã từng vui mừng khi nghe rằng Định vương sắp bị lật đổ. Nhưng tôi đã sống cạnh bên những con người ấy, những con người đã từng chia sẻ với tôi từng chén cơm hẩm, từng nửa trái dâu da chua xót cả ruột, những con người cũng biết đau đớn, yêu thương. Những vị quan có lòng trung thành của mình, con cái họ, thuộc hạ của chúng tôi, những người lính… Niềm tin? Thật có một điều được gọi là niềm tin ư? Thật có một điều được gọi là lý tưởng ư?

Vì Trương Phúc Loan? Không. Ông ta chỉ là một tác nhân, không phải là lý do. Cái chết của ông ta không đem lại được gì.

Vì Định vương? Không. Tân Chính vương định thay thế ông ấy, nhưng cuối cùng đến lượt anh ta cũng bị lật đổ, phản bội. Ngay cả nếu thay thế Định vương bằng bất cứ ai cũng chẳng thay đổi được gì.

Vì họ Nguyễn? Không. Họ Nguyễn bị đẩy ra khỏi Phú Xuân rồi dân chúng vẫn tiếp tục chết. Chiến tranh vẫn tiếp tục xảy ra.

Vì những kẻ phiến loạn? Cũng không. Mà họ là ai, họ muốn gì? Ban đầu là để sống, sau đó là tôn phò Tân Chính vương để lật đổ Định vương, sau đó là đưa chính kẻ cầm đầu của họ lên ngôi. Sau đó là đánh giết nhau, tan rã. Ban đầu, có thể họ cũng như tôi, cũng đã từng hy vọng và vui mừng. Ban đầu, tôi cũng giống họ. Nhưng tôi không ở bên họ, tôi ở bên những người đối địch với họ, với cả tôi.

Tất cả những người ấy, tôi không muốn họ bị tiêu diệt.

Vì cái gì khi người ta chết mà không có ai cứu giúp? Nhân danh cái gì khi xác người rải dưới vó ngựa?

Làm gì có cuộc chiến nào chỉ vì một con người, thậm chí, một dòng họ. Chiến tranh là tiêu diệt. Tiêu diệt hoàn toàn phía đối địch, kể cả mầm sống của nó, có tội hay vô tội. Khi ấy, niềm tin có ý nghĩa gì? Niềm tin có một ý nghĩa nào? Vì ai, vì cái gì mà đánh nhau cũng có ý nghĩa nào khi người vô tội phải chết, khi dấn sâu vào chiến tranh là đi ngược lại tất cả những gì đã từng là tốt đẹp?

Mà thật ra, người ta có lỗi vì đã sinh ra, có lỗi vì niềm tin của mình hay sao?

Tôi cũng đã từng căm ghét, cũng đã từng hận thù, cũng đã từng muốn phá bỏ, lật đổ. Nhưng tôi cho rằng có những người không đáng phải chết. Tôi cho rằng không cần phải tiêu diệt đến mức kiệt cùng, không cần phải đại khai sát giới một cách vô độ.

Có thịnh phải có suy, có thành phải có bại. Nếu bị tiêu diệt, tôi cũng sẽ không oán thán. Nếu đã đến lúc chúng tôi phải bị tiêu diệt thì đành vậy. Nhưng tôi sẽ bảo vệ họ, chừng nào họ cần có tôi, chừng nào họ còn tồn tại. Chừng nào họ còn tồn tại, tôi tồn tại.”

“Vì tôi mang họ Nguyễn.” Cậu ta nói thêm, một lúc sau đó.

- Từ ấy, tôi đã tin. – Bá Đa Lộc nhắm mắt, khe khẽ nói. – Đã có qúa nhiều cái chết, qúa nhiều người phải chết. Ở qúa nhiều nơi. Tôi đã tin một người coi trọng sự tồn tại của kẻ khác. Tôi đã cho rằng con người ấy hiểu được Đức Chúa Trời, gần với Ngài. Nhưng phương Đông này đã hủy hoại con người ấy. Ngài ấy đã quay lưng lại với Đức Chúa, đã giết chóc và tàn sát như bao kẻ khác. Ngài ấy tranh đoạt và tính toán, mù quáng và căm hận như bao kẻ khác. Ngài ấy làm mọi cách để giữ được quyền lực như bao kẻ khác.

- Chúa công luôn nói, mỗi người có một mục đích của mình. – Võ Tánh lên tiếng. Giọng chàng trầm xuống, bàng bạc trong đêm và ánh trăng. – Ngài chấp nhận tất cả mọi người, kể cả ông. Chấp nhận, chừng nào còn có thể. Chiến tranh là tiêu diệt, đúng như vậy. Cai trị cũng thế. Chỉ có thể tìm cách để dung hòa, cho mình có thể tồn tại mà không nhiều người khác phải chết.

- Chỉ vì tôi quá ngây thơ. – Bá Đa Lộc cười. – Ngây thơ và cố chấp như một lão già. Thật ra người già rất ngây thơ. Họ không thể tiếp thu được những gì khác với điều họ đã tin. Nhất là ở một vùng đất như phương Đông, người ta có qúa nhiều thứ để tin mà cũng chẳng biết tin cái gì. Quá nhiều thần thánh, ở phương Đông, nhưng người ta lại đánh nhau không phải vì thần thánh. Thần thánh không khiến người ta phục tùng, cũng chẳng khiến người ta run sợ. Thần thánh không là gì ngoài những giáo điều đạo đức, không phải là niềm tin. Người ở đây tin vào hư vô, nghĩa là chẳng hề tin điều gì.

- Nên tốt nhất là không tin bất cứ gì. – Ngọc Du nói như thở dài.

Cảnh trở mình, chiếc áo rơi xuống đất. Nó dụi mắt ngồi dậy và họ quyết định đưa nó vào trong nằm nghỉ.

Khi đã tiễn Bá Đa Lộc ra về, dọn dẹp bàn tiệc và đóng cửa, trăng cũng vừa lên đỉnh đầu họ. Tiếng trẻ con cười hát trong làng cũng đã vắng. Võ Tánh tựa vai vào cột đầu hiên nhìn ra làng. Xa xa, họ nghe tiếng gió thổi qua cánh đồng và rừng cây.

- Chúa công nói như thế năm mười lăm tuổi. – Lại gần chàng, ngồi xuống chiếc ghế dài kê ngoài hiên sau lưng chàng, nàng nói mà không cần phải hỏi điều chàng đang nghĩ.

- Có điều gì thay đổi à? – Chàng hỏi, không quay lại.

- Có. Ngài ấy nhận ra rằng mình không thể bảo vệ được ai cả. – Ngọc Du nói và nhìn chàng. Chàng vẫn nhìn bóng trăng.

- Lần trước, Đặng Đức Thuật đã giảng cho ta rằng: Chữ Trung nghĩa là trung thành với chính lòng mình. Nhưng lòng mình nghĩa là gì? Tấm lòng tham lam, tàn ác, mù quáng cũng là thật đấy thôi. Nhưng tấm lòng tham lam, tàn ác, mù quáng, ích kỷ đi nữa thì cũng có hại đến ai nếu không làm gì? Có ai trên đời này là trong sạch? Ai cũng có quyền tồn tại, phải không? Mỗi người có một mục đích của mình.

- Chừng nào còn không làm hại đến ta. – Ngọc Du nói, nhìn chàng quay lại.

- Nàng có vẻ rất chua cay với chúa công. – Chàng nói. Nàng chỉ cười.

- Không phải. Chỉ vì không nên tin bất cứ gì trên đời. Ngài ấy cũng thế, anh tưởng ngài ấy tin vào những gì mình nói ư?

- Ta tin. – Chàng nói. Nhìn nàng chớp mắt quay đi.

Thế giới này thật là điên rồ, nàng thầm nhủ. Cũng thật là đáng thương.

Cuối năm Kỷ Dậu, bản vẽ thành Bát Quái đã ban đầu được hoàn thành. Cùng với Trần Văn Học và chúa Nguyễn, viên kỹ sư người Pháp tên Theodore Lebrun đã phác họa nên họa đồ của ngôi thành hình hoa sen tám cạnh. Thành dự kiến sẽ được xây tại đồn lũy quân lính đang đóng quân. Nơi này phù hợp với việc xây dựng một tòa thành, chúa Nguyễn nói với các quan trong buổi họp. Dân chúng đã được dời về khu thượng lưu sông Bình Dương, Tân Bình. Ta đã cho củng cố lũy Bán Bích bao quanh Sài Côn. Trần Văn Học đã phác họa phố xá và phân bố đường. Ba tuyến đường chính đi phương Bắc, miền Tây và Cao Miên sẽ được lần lượt được củng cố, mở rộng.

Vauban là một lãnh chúa và Thống chế của Phú Lang Sa, Trần Văn Học nói với họ. Ông ấy đã cho xây một hệ thống phòng thủ dọc biên giới nước Phú Lang Sa bằng những tòa thành kiên cố. Ông ấy đã mất năm mươi năm trước, nhưng các ý tưởng xây dựng của ông ấy vẫn được sử dụng đến nay.

Thành cổ nước ta thường được xây bằng đá trát đất theo kiểu của Tàu. Ở Tây dương, cùng với sự phát triển của vũ khí, các tòa thành cũ không thể chống lại được sự tấn công của quân đội vũ trang. Tường thành và pháo đài bằng đá sụp đổ dưới đạn pháo. Súng trở nên vô dụng không thể dùng trong thành. Trăm năm trước, để đối phó với súng thần công, Đào Duy Từ đã thiết kế nên hệ thống lũy mà ta thường dùng cho đến hiện tại, gồm nhiều lớp tường đắp đất nối tiếp nhau. Hệ thống này hữu hiệu với việc chống súng thần công nhưng lại hạn chế sức tấn công của người trong lũy. Tòa thành mới của chúng ta, tuy tuân theo các chuẩn mực phong thủy, nhưng thích ứng với điều kiện chiến tranh mới. Trước đây, thành thường được xây dốc đứng để chống quân địch trèo lên. Nay thành có một bờ dốc bao quanh để nâng kẻ địch vào đúng tầm bắn của quân phòng vệ trong thành. Ngoại trừ bốn lối ra vào chính còn có nhiều cổng nhỏ mở trực tiếp vào các hào giao thông để quân tấn công xông ra nhanh nhất. Các tường thành được xây gấp khúc để quan sát địch từ mọi hướng. Người trong thành có thể dùng súng thần công gắn trong tường lũy bắn ra ngoài, quân lính có thể dùng súng hạ địch qua các kẽ tường. Tường lũy thành được xây cao để khống chế khoảng đất bao quanh.

Xây thành cần một lượng nhân công và vật liệu rất lớn. Chúng ta nên chuẩn bị ngay từ bây giờ. Chúa Nguyễn nói với các quan, chậm rãi. Ta sẽ bắt đầu công việc vào năm mới, mong rằng có thể trước khi mùa xuân kết thúc.

Trước khi mùa xuân kết thúc. Trước mọi cuộc tấn công có thể đến từ phía Bắc. Vị chúa bao giờ cũng qúa lo xa, họ nghĩ. Nguyễn Nhạc không còn sức để tấn công. Nguyễn Huệ đã bị rối loạn ở Bắc Hà cuốn vào. Nạn đói ở phương Bắc mà họ chỉ được nghe kể qua những lá thư cũng mang đầy đủ sắc màu khủng khiếp. Mùa màng đã bị lụt lội rồi hạn hán phá hoại, sau khi những mảnh đất canh tác vắng người trong các cuộc chiến dài. Nạn đói hoành hành ở khắp mọi nơi, nhiều vùng sạch không một bóng người.

Như năm Canh Ngọ, Tân Mùi ở đất chúng ta, có nhiều người buột miệng khi nghe tin. Cả một vùng Thuận Hóa, Quảng Nam chết đói. Thăng Bình, Điện Bàn hầu như không còn ai. Ở cửa Đà Nẵng không còn một con heo, con vịt. Có người phải ăn thịt con. Cả quan lại, qúy tộc cũng phải đi ăn mày. Dịch bệnh lây lan, quân Trịnh cũng chết qúa nửa, không thể tiếp tục tiến đánh.

Ngày nay, họ kể lại những ngày tháng ấy cho nhau nghe và rùng mình. Ngồi ở đầu bàn, sau chiếc bàn gỗ, chúa Nguyễn chỉ chống cằm lên tay im lặng. Rất nhiều người đã chết trên đường. Ở Quảng Nam, nếu không bị giặc giết lúc ấy thì chúng ta cũng đã có thể chết vì đói, Nguyễn Phúc Hội nhìn vị chúa mà nói. Ngài ta vẫn chỉ lặng im.

Chúng ta đã từng suýt chết vì đói. Nguyễn Phúc Huy vẫn tiếp tục kể. May mà tìm được một rừng cây dâu da, thứ trái chua đến độ tê cả răng ấy lại giúp chúng ta sống sót. Qua khỏi trận đói ấy, tất cả những vất vả ở Gia Định này, những lần chạy trốn, những biến loạn, đều trở thành không là gì.

Vị chúa vẫn không lên tiếng.

Trước khi mùa xuân kết thúc, vị chúa nói, bây giờ. Một năm qua chúng ta đã có thành tựu thật đáng kể. Các quan Điền tuấn của ta đã chứng tỏ năng lực của mình. Ngoài đất đai sẵn có, các khu đồn điền đã được sửa chữa hoặc mở mới. Lượng gạo đã dồi dào. Nhưng gạo chỉ buôn bán được với người Thanh. Người Tây dương cần đường, muối và sản vật qúy. Ta đã cho mở lại các khu trồng mía đường ở Trấn Biên, phát trước tiền mua đường để đẩy mạnh sản xuất. Trấn Biên có cả dâu tằm để làm loại vải lãnh tốt nhất nước. Trầu không rất được các đảo ngoài biển ưa chuộng. Khu rừng tràm cần đẩy mạnh khai thác gỗ để từ đó có thể điều chế hắc ín, nhựa đường, chất dẻo. Đó là những mặt hàng cần thiết đầu tiên đã.

Các quan Điền tuấn của ta, trong số họ chỉ có Trịnh Hoài Đức và Lê Công Định đến chầu do được bổ về dinh Phiên Trấn. Từ ngay sau khi Phúc Cảnh về, mười hai vị quan Hàn lâm Chế cáo đã được chia đi bốn dinh Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Định, Vĩnh Trấn để làm việc. Ngoài việc khuyên dân chúng làm ruộng, họ còn tập hợp những người ở ngoài đến Gia Định làm điền tốt, cấp cho ruộng hoang, trâu cày và công cụ, không có ăn thì cho vay, mùa sau trả nợ. Vào mùa, ai cấy được một trăm thúng thóc ở ruộng đồng, bảy mươi thúng thóc ở ruộng núi thì miễn dao dịch, tòng chinh cả năm.

Lần này lại cho cả tinh binh hai phiên về, một phiên ứng trực, thực hiện “ngụ binh ư nông” thì công việc của chúng tôi càng bù đầu. Trịnh Hoài Đức nói nhỏ với chàng khi đã tan chầu. Chúa công biết tính chúng tôi hiếu thắng, thích chứng tỏ, nên bắt về coi ruộng xem ai giỏi hơn ai. Ba người mỗi dinh, sổ sách đã lập, ruộng đất đã kiểm, cứ thế mà làm.

- Làm quan chẳng phải là như thế? - Chàng nói khi họ đã ngồi trong quán rượu bên sông. Trịnh Hoài Đức bật cười.

- Phải, đó là học cách sử dụng quyền lực và cả khả năng của mình. Trong dân có đủ mọi hạng người. Nông dân thì dễ, chỉ cần chăm lo cho họ đủ dụng cụ, không để họ giết trâu, lúa gạo làm ra nhiều thì họ hưởng chứ ai, miễn xâu, miễn binh thì họ sung sướng chứ ai. Nhưng mà những kẻ lang bạt kỳ hồ mới là khó đối phó. Dọa ghi vào sổ đi làm phủ binh thì chúng trốn sang nơi khác. Bắt vào đồn điền làm thì chúng quấy qúa cho qua, lấy lương thực cho vay sẵn ăn chơi bằng hết. Vậy là đâu thể ép buộc được, chỉ có ngọt nhạt khuyên nhủ, khuyến khích.

Vả lại, đi rồi mới biết trước đây mình rất cứng nhắc. – Trịnh Hoài Đức nâng ly rượu lên môi, nhìn ra mặt sông. – Như với chính sách nông nghiệp đang thực hiện ở phương Bắc, trước đây tôi có thể nói ngay: Đó là một chính sách không hiệu qủa. Do chiến tranh, đói kém, loạn lạc mà dân lưu tán. Vậy mà không giải quyết nguồn gốc, chỉ sử dụng vũ lực, quyền lực, pháp luật để ép buộc người ta trở về nguyên quán. Vừa địa phương bảo thủ vừa cứng nhắc, người ta thà bỏ vào rừng còn hơn là trở về, mà có trở về cũng không ai hăng hái làm việc. Sử dụng tín bài chỉ có tác dụng tích cực trong một vùng đất ít biến động, nếu không thì chỉ gây rối loạn nhiều hơn. Ngay cả chúng ta khi làm sổ đinh cũng có nhiều tiêu cực, gian dối, huống hồ gì vùng đất thiếu quan lại, đầy thù ghét đó. Không kiểm soát được dân, chỉ tạo áp lực lên với các địa chủ địa phương, dọa đánh dọa giết để người ta phải hoàn thành chỉ tiêu, vậy là trút gánh nặng lên đám người không may đã lọt vào vòng kiểm soát. Ở Gia Định này qua mấy đận chiến tranh liên tục, người cũng tản mát, xáo trộn rất nhiều, làm sao mà bắt người ta trở về được? Người muốn đến đâu là do họ tự chọn, thấy nơi nào tốt cho họ nhất thì họ dừng lại, ta có lập sổ đinh thì chỉ nên ghi nhận con người ở nơi ấy. Người ta làm việc vì lợi ích của mình trước tiên, dân chúng lại càng nghĩ ngắn, thấy cái lợi trước mắt là chủ yếu, vậy thì nên khuyến khích cho họ làm.

Nhưng bây giờ thì tôi biết xét đến những điều kiện khác. Ngô Tùng Châu nói đúng, Bắc Hà không giống như nơi đây. Những gì đã thành trật tự qúa lâu sẽ ảnh hưởng đến con người. Họ không muốn thay đổi, thậm chí thù ghét những gì xa lạ, trái ngược lại với những điều họ tin. Họ mang trong lòng thứ tự cao của địa phương, của dòng máu đến mức không thể dung hòa. Ở Bắc Hà đang xảy ra loạn ở khắp mọi nơi. Tín bài là cách để kiểm soát kẻ phiến loạn trong dân, để hạn chế sự đi lại. Với phong tục nơi ấy, người lạ khó có thể hòa nhập vào nơi ở mới, nên chính quyền định bắt họ quay lại quê quán. Thế ra, tôi cũng hiểu được một phần nguyên do của họ, tuy vẫn không thể đồng tình. Đất đai miền Bắc vẫn chưa khai thác hết, nhất là vùng ven biển vẫn thường bị quấy phá bởi bọn Tàu Ô. Những vùng đồng bằng ven biển bao giờ cũng rất trù phú, ngoài thủy sản lại có muối là thứ vô cùng đắt giá bây giờ, vậy mà họ không chịu khai thác. Vùng biên giới phía Bắc là nơi tranh chấp nhưng gồm toàn các mỏ than, mỏ đồng, sắt, kim loại qúy; cả Thanh Hóa, Thái Nguyên cũng có rất nhiều mỏ lại đi giao cho người Tàu khai thác. Vùng biên giới phía Tây Bắc cũng giàu có vô cùng. Vậy mà tất cả những nơi ấy không có Tàu Ô thì có thổ phỉ, dân chúng không thể đến lập nghiệp. Bọn họ không biết khai thác và sáng tạo, chỉ chăm chăm đi vắt kiệt những thứ có sẵn. Như vùng Nghệ An nghèo đói khốn khổ kia, trước đây Trịnh chỉ bắt đi lính chứ không bắt nộp thuế, nay Tây Sơn bắt dân phải chịu cả thuế thì còn gì để mà ăn? Kêu gọi phát triển thủ công nhưng lại không chú ý đến khai thác nguyên liệu trong vùng để hạ giá thành thì làm sao thành công? Các làng nghề nước ta thường theo kiểu tập trung nhỏ lẻ, phương thức làm việc bí truyền trong dòng họ, địa phương, rất khó để mở rộng. Nếu muốn, vua có thể tập trung thợ giỏi lại thành một khu chế tạo riêng để họ học tập nhau, đó mới là cách tốt hơn.

Các khu ruộng ở Bắc Hà từ lâu đã được chia, và cũng đã phần lớn thuộc về các địa chủ trong vùng. Ngày nay lấy địa chủ giàu nhất làm kẻ cai quản làng xã ấy, tuy trong tình trạng cần kíp thì không phải không có lý, nhưng để lâu sẽ sinh ra nạn chuyên quyền. Địa chủ thế lực đã nhiều, nay có cả quyền lực, lại không sử dụng nó để ức hiếp kẻ khác hay sao, nhất là trong tình trạng rối loạn này? Tầng lớp quan lại và địa chủ phải tách nhau ra. Tuy kẻ có quyền và kẻ có tiền thường hay câu kết với nhau, nhưng hạn chế được chừng nào hay chừng nấy, không có kiểu gộp chung lại. Quan là người phân xử, không thể giao cho người có lợi ích trực tiếp. Quan lại là người ăn lộc triều đình trông coi chứ không tham dự vào việc lấy lợi nhuận trong vùng. Loạn ở Bắc Hà mấy chục năm nay chính vì không kiểm soát được quan hệ của địa chủ và quan lại, số quan lại địa phương dựa vào quyền lực của mình trở thành địa chủ, gây ra mất cân bằng, hỏng luật pháp mà dân chúng bất mãn. Loạn Trương Phúc Loan ở Nam Hà cũng vậy, không kiểm soát được quan lại khiến cho họ trục lợi ở thuế vụ, buôn bán, đất đai.

Cả tín bài cũng thế, tuy cần thiết nhưng không cần phải qúa khắc nghiệt. Muốn kiểm soát, họ có thể làm bằng cách bắt dân phải kê khai nguyên quán, tôi cũng đang định trình chúa công cách này để nắm bắt tốt hơn tình hình dân lẫn lính trong Gia Định. Đến lúc nào đó chúng ta cũng phải lập tín bài mới được, nhưng bây giờ phải ổn định đời sống dân chúng đã.

Một việc có thể làm với nơi này nhưng không thể làm với nơi khác. Một việc có thể có ích với nơi này nhưng lại hoàn toàn không phù hợp với nơi khác. Chữ nghĩa phải theo hoàn cảnh mà thay đổi. Chính sách phải theo đời sống mà thay đổi, cả tốt hơn hoặc xấu hơn cũng phải đổi, vì mục tiêu chính của chính sách là ổn định và dung hòa, sau đó mới có thể phát triển. Khổng Tử ngày xưa cũng đã nói: “Quan ư hương nhi tri vương đạo chi dịch dịch”. Hãy nhìn vào làng xã để biết chính trị vương đạo uyển chuyển nhường nào. Dịch dịch nghĩa là thay đổi uyển chuyển cho phù hợp. Một chính sách đúng là một chính sách phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, mỗi người đều cảm thấy thoải mái thì mới được.

- Anh vẫn hăng hái như thường. – Võ Tánh nói khi Trịnh Hoài Đức đã im lặng. Cậu ta cười khì.

- Nói được làm được là hai chuyện khác nhau. Chứ tôi e rằng không phải tất cả mọi người đều đồng ý với chúng ta. Cuộc sống ở Gia Định này vốn thoải mái, nay ta lại bắt mọi người vào khuôn phép, phải làm việc, phải xây dựng, phải đi lính, đóng góp đủ kiểu thì không chừng lại đi vào lối của Thương Ưởng khiến người ta oán ghét. Dân chúng là như thế, họ chỉ cần biết họ muốn gì chứ đâu biết đến sâu xa. Ta tuy có mục đích của mình, cho là cần thiết đi chăng nữa thì cũng nên lúc rắn lúc buông. Gia Định này lòng người rất dao động, rất khó kiểm soát, cho nên chúa công mới cho chúng ta về làm việc với dân để hiểu họ chứ không thể cứ làm theo thói trên ban lệnh, dưới thi hành. Chiến tranh còn lâu dài, dân Gia Định còn phải chịu khổ, làm sao để dung hòa? Đó là việc mà ai cũng biết, nhưng làm được mới là khó.

- Chiến tranh chẳng bao giờ là tốt đẹp cả. – Võ Tánh trầm ngâm, buột miệng nói. Trịnh Hoài Đức nhìn chàng, trong ánh mắt đã có sự già dặn mà chàng chưa thấy trước đây.

- Ngay cả với chúng ta. – Cậu ta nói, ngắn gọn khác với lối dông dài thường lệ.

Tự dưng, chàng cảm thấy muộn phiền khi nhớ đến ánh mắt trong sáng đã từng có của người thanh niên trẻ trước mặt.

Chú thích:

Bá tước De Conway: Toàn quyền Á châu đại diện cho Pháp tại Ấn Độ.

Thương Ưởng: Nhà chính trị chủ trương Pháp trị đời Tần. Tần theo đường lối của ông trở nên hùng mạnh nhưng ông lại bị dân chúng căm ghét. Khi Thương Ưởng thất thế, ông bị dân Tần giết chết.

26

Tháng hai năm Canh Tuất, thành Gia Định được khởi công xây dựng trên nền đất cũ của đồn lũy tại làng Tân Khai. Những tuyến đường chính trong Sài Côn cũng được căng dây chỉnh lại, phân bổ các phố phường theo quy hoạch của Trần Văn Học. Khu thành có bề ngang dài 131 trượng 2 thước, chu vi 794 trượng, có hào rộng 10 trượng 5 thước, sâu 14 thước, tường cao 13 thước, dày 7 trượng 5 thước. Các cửa thành đều xây bằng đá ong. Những con đường ngang dọc phố phường được trồng thêm cây xanh cho bóng mát, gọi là đường thiên lý. Những khung cột đầu tiên đã được dựng trong khu thành, các đoàn người xe lũ lượt luân chuyển trong sự điều động của Victor Olivier de Puymanel, viên quan người Pháp trẻ măng mới hơn hai mươi tuổi.

Đứng cạnh bên chúa Nguyễn, Phúc Cảnh nhìn cuộc xây dựng này với cặp mắt thán phục. Nó đã được cha nó chỉ cho họa đồ của khu thành và đường phố. Chúng ta sẽ có các khu phố và thành trì giống như Phú Lang Sa? Nó hỏi, đầy háo hức.

Không, không hoàn toàn giống đâu. Cha nó mỉm cười khi thấy mặt nó hơi tối lại. Chúng ta có một nền kiến trúc của riêng chúng ta, nên chắt lọc những gì tốt của nước ngoài, bỏ đi những cái lạc hậu của ta để có kết qủa tốt nhất chứ không nên sao chép hoàn toàn. Và còn phải xem hình thế đất đai nữa. Trước đây Lebrun cũng đã đưa cho ta một họa đồ thành trì hình ngôi sao hoàn toàn theo kiểu Tây dương, nhưng nó không phù hợp với chúng ta. Chúng ta là một dân tộc có văn hóa riêng của mình, có thể nào khu hành chính tượng trưng cho chúng ta lại có thể hoàn toàn theo kiểu Tây dương mà không có chút gì của chúng ta? Vả lại, khu đất có ba mặt là sông nước, đã có nền cũ của đồn lũy trên gò cao, hình tứ giác là thích hợp nhất trong địa thế này. Tuy số tháp canh lớn bị hạn chế ở bốn góc, ta có sáu tháp canh nhỏ khác ngoài thành, tác dụng tương tự với thiết kế đa giác của Vauban. Trong tường thành tứ giác, ta lại có thiết kế hình sao để phối hợp phòng thủ.

Cha biết kiến trúc? Thằng bé hỏi, rời mắt khỏi tấm họa đồ. Một lần nữa, vị chúa cười.

Ta chỉ cố gắng học theo những gì họ đưa đến. Con cũng vậy, đừng có mải ngước nhìn người ta, cho là cái gì của người ta cũng hơn mình rồi e dè sợ hãi. Nếu muốn, chúng ta hoàn toàn có thể làm được như họ.

Ngay cả hai ngàn con voi cũng vậy. Vị chúa nói thêm, một lúc sau đó. Chúng ta sẽ có voi, không phải bây giờ nhưng rồi chúng ta sẽ có. Đó là sức mạnh của con người, con người có thể làm được những gì mình muốn. Phương Đông cho rằng con người tạo ra thế giới, không phải thần linh, vì chúng ta tin ở sức mạnh của mình. Những gì chúng ta muốn, tự tay chúng ta sẽ xây dựng nên, chúng ta sẽ làm được. Chúa Trời có quyền năng, nhưng người không thể thỏa mãn mọi ước muốn trên đời này. Nếu muốn điều gì thì con phải biết cách làm được nó, trước khi cầu nguyện đến Chúa.

Phương Đông tin rằng con người có khả năng thay đổi tất cả, lời nói ấy dường như đã tác động sâu sắc đến Cảnh. Nó gần gũi với các thầy giáo của mình hơn, thậm chí đã bảo Nguyễn Cửu Thống giảng sách cho. Thượng cổ có truyện bà Nữ Oa đội đá vá trời, làm cho thiên địa cách biệt, ông nói. Trời đất có trước rồi sinh ra con người. Thiên, Địa, Nhân là tam giác trong vũ trụ, con người ngang hàng với trời đất, hấp thụ khí thiêng của đất trời mà tạo thành. Trời có quy luật vận hành của trời, đất có tính chất riêng của đất, nắm bắt được thiên mệnh là phải hiểu được các quy luật thịnh suy thành bại để quyết định hành động. Vòng quay thành bại đều có quy luật của nó. Muốn thành công thì phải đạt được cả ba điều kiện “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, mất đi một điều đều là gãy vỡ. Trời là một quy luật, một thế lực, không phải thần cũng không phải thánh. Thiên là “thiên lý”. Chúng ta gọi “thiên tử” là con của trời, nghĩa là người ấy được sinh ra phù hợp với thiên mệnh, thực hiện thiên đạo, chứ không có nghĩa đó là con của thần linh. Cách hiểu ấy chỉ có khi đạo Nho đến trong dân gian, họ lại nghĩ theo cách của Phật, của Lão, của các đạo thần tượng, gán cho vua chúa danh phận của thần linh. Nho giáo không có thần linh, chỉ coi trọng chủ thể con người, đặt trọng tâm vào con người. Nhân đứng cùng với Thiên, Địa, nhận chân được lẽ trời, đáp ứng được thế bình hòa của đất mà hành động.

Thế thì tại sao phải cúng trời? Cậu bé hỏi.

Người do trời đất sinh ra, sống trong trời đất thì phải biết ơn. Mảnh đất ta đang đứng, những gì ta đang có là do thiên nhiên trao tặng, ta tác động vào thiên thiên mà tạo thành cái của ta. Cúng tế trời đất là biểu hiện tấm lòng biết ơn của ta. Thiên tử là người đại diện cho dân chúng thực hiện thiên lý. Khi xảy ra việc xấu, các vua thường nhận do mình trái đạo cũng vì lẽ ấy. Trái đạo nghĩa là làm trái với thiên lý, phản tự nhiên thì sẽ gây ra xáo trộn. Lòng người bao quản cả trời đất, muốn cai quản thiên hạ thì phải giữ yên được lòng người.

Nguyễn Cửu Thống chỉ nói như vậy rồi để cho cậu bé chìm vào suy tư. Đừng ép buộc nó, vị chúa đã nói với viên cựu quan Thị học của Thái tử Chương thời Võ vương đã vào Gia Định dạy học cho chúa Nguyễn ngày xưa. Giờ đây, ở bên người cha, cậu bé Phúc Cảnh nhìn đoàn ba vạn dân công khởi công đắp thành bằng vẻ say mê pha lẫn kinh sợ. Chúng ta sẽ hoàn thành trong mười ngày, vị chúa đã hẹn với hai sĩ quan người Pháp. Lượng công việc khổng lồ ấy đang được xúc tiến ráo riết theo lối của các công trường châu Âu.

Nhưng các quan tướng thì chẳng có thời gian để chiêm ngưỡng. Ta sẽ có voi, trong lời nói của chúa Nguyễn, Võ Tánh đã thấy cả ý định của ngài ta. Họ đã hoạch định một cuộc tấn công vào trấn Thuận Thành. Vùng đất ven biển với tài nguyên ăm ắp, cá dưới nước, muối trên cát, rừng rậm đầy gỗ qúy, và cả voi. Hai năm trước, khi quân Nguyễn vừa trở lại Gia Định, người thừa kế của dòng họ Phiên vương Chiêm đã đem quân đến triệt hạ quân vừa tới, cản đường tiến của họ.

- Phía Tây, phía Nam là Cao Miên, phía Đông Bắc là Chiêm. – Nguyễn Văn Thành thở ra trong cuộc họp. Vừa từ chuyến thị sát vùng biển trở về, vị tướng này đã nhận được tin chuẩn bị tiến đánh Thuận Thành. – Bọn họ sớm đầu tối đánh, bao nhiêu năm rồi cũng vậy.

- Không thể khác được… - Nguyễn Phúc Hội buông một câu lửng lơ mà không ai không hiểu ý nghĩa.

Trong suốt hai trăm năm, các chúa Nguyễn đã đẩy người Chiêm từ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên xuống Bình Thuận. Sau lần nổi dậy giết chết quan lính triều Nguyễn, người Chiêm đã giành được quyền tự trị tại Thuận Thành trấn. Ngay khi Tây Sơn vừa khởi đầu, nữ chúa Thị Hỏa của Thạch Thành đã tham gia vào đoàn quân nổi loạn, rồi bị Tống Phúc Hiệp giết chết.

- Người Chiêm tập trung đông nhất tại hai địa điểm: Thạch Thành ở Phú Yên và Thuận Thành trấn. – Chúa Nguyễn nói, làm ra vẻ như không nghe thấy câu nói của hai vị tướng. - Ở Thạch Thành thì từ sau Thị Hỏa ta đã có Nguyễn Long trấn giữ đường Thượng đạo. Chà Rang là nơi hội quân của Châu Văn Tiếp trước kia, từ sau khi Lê Văn Quân sang Xiêm La, Nguyễn Long đã đóng lại nơi ấy cản Tây Sơn. Nhờ có ông ấy, Tây Sơn chưa bao giờ sử dụng được đường Thượng đạo đến đánh Gia Định. Thuận Thành trấn ở sát liền với Gia Định, trước sau ta cũng phải thu phục.

- Dù Tá đã ra mặt chống đối, hắn vẫn chưa tấn công chúng ta thì việc gì phải vội vàng, chúa công? – Nguyễn Văn Thành lắc đầu. – Họ chỉ muốn tự trị thì cho họ muốn làm gì thì làm lúc này, ta đỡ một mối lo. Ngài nói Nguyễn Long đã cản đường Thượng đạo từ Phú Yên xuống Gia Định, vậy thì ta chỉ cần chú tâm đến đường thủy là chính, cần gì Thuận Thành? Đánh với người Chiêm lúc này, họ lại qúa gần ta, rối loạn liên miên thì ta phải phân tâm đi dẹp mà Gia Định cũng chẳng yên. Thuận Thành chiếm dễ giữ khó, ta nên tránh chuyện phiền phức thì hơn.

- Thuận Thành trấn thủy sản dồi dào, địa thế thuận lợi để thông thương, nhờ được cái lợi cá muối. – Vị chúa nói, điềm nhiên. – Muối là thứ ta cần, gạo lúa là thứ họ thiếu. Gia Định chỉ có lúa gạo, vốn chỉ đủ buôn bán trong vùng hay đổi lấy vật dụng của người Tàu. Trấn Biên có đường cát nhưng chưa được khai thác hết, chiến tranh làm cho các cơ sở suy sụp. Thuận Thành bãi biển dài, khí hậu khô, điều kiện lý tưởng để làm muối lại không có nơi tiêu thụ sau khi Tây Sơn làm các thương nhân ngoại quốc xa lánh. Do được Tây Sơn cho hưởng quyền tự trị nên vương tộc Chiêm Thành theo với Quy Nhơn, nguồn voi của Tây Sơn cũng là do họ cung cấp, huấn luyện. Thu phục được họ là cắt đứt nguồn bổ sung tượng binh, đội quân đáng sợ nhất của Tây Sơn. Điểm tập trung người Chiêm ở Thạch Thành đã ổn, nay ta thu phục thêm được Thuận Thành thì người Chiêm, người Thượng sẽ dần mà theo về với ta.

Tượng binh, viên Chưởng Trung quân đang phản đối cũng im lặng trước câu nói ấy. Việc hoạch định cuộc tấn công cũng nhanh chóng được thông qua sau đó. Như lệ thường, Tiên phong và Tiền quân đi trước, có thêm Trung quân của Nguyễn Văn Thành hỗ trợ. Lê Văn Quân lầm lì khi nghe lệnh, như ông ta đã chẳng vui vẻ gì khi phải ở Ba Thắc suốt mấy tháng trời cùng Võ Tánh.

Chúng ta sẽ xuất quân vào tháng tư, mùa gió nồm, chúa Nguyễn nói. Mùa gió bấc năm nay không có một cuộc tấn công nào đến từ phía Bắc. Nhưng tin tức họ nhận được cũng không tốt lành: Nhà Thanh đã chính thức phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương.

Chỉ có chúa Nguyễn vẫn bình thản khi nghe tin ấy. Từ giữa năm ngoái, khi người Tây dương vừa đến, chúa công đã nhờ các thủy thủ liên hệ với bạn bè họ thám thính tình hình quân Thanh. Bá Đa Lộc nói, không giấu được vẻ bất mãn. Chỉ xem tình hình quân Thanh thôi, Olivier kể thế. Chúa công muốn biết có gì đã xảy ra trong trận đánh ấy, lực lượng quân Thanh thế nào, ý định của họ ra sao.

Bá Đa Lộc bất mãn vì chúa Nguyễn đã vượt mặt ông, sử dụng ngay đám người Tây dương vào công việc mà ông nghĩ mình có thể đảm trách. Nhưng chúa công muốn biết về người Tàu cơ mà, Ngọc Du chỉnh lại lời ông. Viết thư cho một linh mục ở Ma Cao hiểu biết về người Tàu, chúa công chú ý đến thái độ của nhà Thanh hơn là lực lượng của Tây Sơn, cần thông tin chính xác hơn là những lời đồn thổi, như vậy thì người ở Đàng Ngoài không giúp được.

Cho nên, chúa Nguyễn vẫn điềm tĩnh khi nghe chuyện. Trái với những lời huênh hoang đe dọa của Tôn Sĩ Nghị khi vào Thăng Long, nhà Thanh không có ý định mở rộng chiến tranh ở Đại Việt. Hoàng đế Càn Long bảo, nếu thấy nước Việt rối loạn thì thừa cơ chiếm lấy, nhưng đừng để triều đình Thanh biết chuyện xuất quân. Quân Thanh được tập trung ở Lưỡng Quảng, rồi kêu gọi người Tàu trong nước Việt giúp sức. Đã gặp khủng hoảng ở Miến Điện, lại sợ rắc rối khi xung đột với bọn Thiên Địa hội, Bạch Liên giáo cùng vô số tổ chức chống đối nằm ở Lưỡng Quảng, nhà Thanh sẽ vẫn phải duy trì chính sách hòa bình với An Nam. Vị chúa nói với các quan điều đó khi nhận được thư các giáo sĩ Tây dương.

Như vậy thì rất dễ xử cho ta, vị chúa nói thêm với một nụ cười.

Trong lúc họ chuẩn bị cho trận đánh Thuận Thành, lại có chuyện xảy ra. Cuối ngày thứ mười, gần hoàn tất việc đắp thành, dân công nổi loạn rượt đuổi hai vị quan Phú Lang Sa Lebrun và Olivier đòi giết. Hai viên sĩ quan Pháp phải chạy đến trốn ở chỗ của Bá Đa Lộc. Nghe tin, chúa Nguyễn vội cho quân về khu thành đang xây dẹp loạn.

- Bọn họ cho rằng vì hai người Tây dương bày vẽ chuyện ra nên họ phải đóng thuế, đi phu để xây “một thứ đồ của ma qủy”. – Bá Đa Lộc nói khi gặp chúa Nguyễn. Đám dân nổi loạn đã được đẩy lui về nơi ở của họ. Olivier và Lebrun cũng vừa ra khỏi nơi ẩn nấp, đang trò chuyện với nhau bằng tiếng mẹ đẻ. – Cũng vì hai người này quen thói làm việc của Tây, sắp đặt người vào chỗ rồi như cái máy cứ thế mà làm. Dân ta không quen chịu sự sai phái của người Tây nên nổi giận.

- “Một thứ đồ của ma qủy” nghĩa là thế nào? – Chúa Nguyễn cau mày hỏi. Ở bên cạnh Bá Đa Lộc, Nguyễn Phúc Hội cười khẽ.

- Họ bảo ta đang xây đền thờ cho qủy Tây dương. Trước giờ người Tây dương có nhúng tay gì vào công việc của chúng ta được, vậy mà nay chúa công bảo họ coi việc đắp thành trì, cung điện cho mình. Công việc thì lại vất vả, thế là dân chúng bảo rằng hai con qủy Tây dương này mê hoặc chúa công gây họa cho người dân, phải giết đi. Chúa công, dù người Tây dương có những thứ tốt thế nào, ngài cũng nên hạn chế cho họ quyền chỉ huy, điều khiển. Nếu không, sự bất mãn của dân ta lại nhắm vào ngài không chừng.

Bá Đa Lộc nhìn Nguyễn Phúc Hội với vẻ khó chịu ra mặt. Chúa Nguyễn gật đầu, thở ra rồi quay lại bảo với Tống Phúc Đạm đằng sau.

- An ủi dân chúng, cho họ về đi. Thưởng cho quân dân bảy ngàn quan tiền để cám ơn họ công khó nhọc.

Việc xây thành nói chung đã xong, các công trình trong thành ta sẽ từ từ làm sau. Vị chúa nói sau đó. Ta còn phải chuẩn bị đánh Thuận Thành, không thể quản cả những rối loạn có thể xảy ra được. Ngài ta nói như an ủi Bá Đa Lộc. Vị giáo sĩ này dường như vẫn còn ấm ức vì lời nói của Nguyễn Phúc Hội lẫn thái độ của dân nổi loạn.

Chỉ còn một lượng nhân công nhỏ để xây nhà, trồng cây trong thành. Quân lính được phân bổ khắp nơi làm quen với khu thành mới. Trên đường dẫn quân đi, Võ Tánh lại gặp ngay Lê Văn Quân. Quân ông ta ở cạnh chàng. Lê Văn Quân đang quan sát đám lửa từ những nhân công đang đốt lên trong trại gần đó. Thấy chàng, ông ta nhếch mép trong một ánh nhìn bực tức mà chàng không hiểu tại sao.

- Việc quân vẫn ổn chứ, Phò mã? – Lê Văn Quân hỏi, cách gọi của ông ta lại khiến chàng khó chịu. – Lần này lại phải ra trận cùng nhau, mong Võ tướng quân chuẩn bị cho tốt.

- Đó là chuyện tất nhiên, Lê tướng quân. – Võ Tánh nói, tự hỏi câu chuyện này sẽ dẫn đến đâu. Lê Văn Quân chống tay nhìn đám nhân công một lúc rồi lại quay nhìn tòa thành vừa đắp còn nguyên mùi đất mới.

- Vừa xây thành vừa thúc quân ra trận, chúa công qủa là biết tận dụng người khác. Làm tướng thời này thật là khốn khổ. Lương đã chẳng được bao nhiêu, chúa công cứ có việc cần là thu thuế chúng ta trước tiên, trong khi quân dụng thiếu thì chúng ta phải tự bỏ tiền ra mua, quân lính thiếu thốn thì chúng ta phải tự bỏ tiền ra cho họ.

Võ Tánh im lặng, lờ mờ nhận ra ý của Lê Văn Quân. Chẳng phải ông ta đang than thở, ông ta chỉ muốn khích bác chàng. Hẳn Lê Văn Quân cho rằng trong lúc mọi vị quan bị đánh thuế để xây thành, Phò mã như chàng lại được ưu tiên. Và khi Tiền quân vừa ở Ba Thắc về đã bị điều động đến Bà Rịa, Trung quân phải đi tuần tiễu ven biển, Hậu quân phải lo xây đắp công trình, Tiên phong quân lại được ở Sài Côn. Điều đó không phải không có lý, Ngọc Du có khoản tiền tháng dành cho các công nương. Chúa Nguyễn chỉ dành Tiên phong quân cho việc tấn công, làm họ có gần một năm không phải đánh trận. Cuối năm ngoái, khi luận công ban thưởng trong việc khôi phục Gia Định, quân công của chàng và Lê Văn Quân cũng ngang bằng nhau, lại càng làm Lê Văn Quân tức giận. Ta vất vả theo chúa công bấy nhiêu năm, từ khi về Gia Định này đã đánh bao nhiêu trận, sao lại coi ta bằng với kẻ nhảy ngang vào lãnh công như thế? Chàng đã nghe ông ta nói với tướng lĩnh, cố tình để chàng nhận biết.

Thấy chàng không trả lời, Lê Văn Quân nheo mắt cười nhạt rồi bỏ đi. Từ lâu đã quen với cung cách ấy, chàng chỉ có thể nén giận mà tiếp tục làm việc. Tuy vậy, cho đến tận khi về đến nhà, chàng vẫn không thể dứt bỏ được cảm giác khó chịu dai dẳng. Sự ưu ái của chúa Nguyễn, vô tình hay cố ý, đã làm chàng không thể ăn nói được với người ngoài. Cả những gì Ngọc Du đem lại cho chàng với vị thế của một công nương cũng gây ra xáo trộn trong lòng quân lính của chính chàng. Họ không còn coi chàng là người bạn như ngày xưa, trong thái độ của họ đã có sự cung kính giữ kẽ mà chàng không thể quen được.

Quan trường là như thế, Võ Văn Lượng luôn nói. Nhưng cả ông cũng cảm thấy bức bối với những lễ nghi, lề luật. Họ vẫn nhớ tiếc bâng khuâng những tháng ngày vô tư lự ở gò Tre. Chỉ có Nguyễn Văn Hiếu hòa nhập nhanh chóng, anh ta phù hợp với loại công việc này, Võ Văn Lượng nhún vai.

Khi đã bước qua cửa nhà, chàng vẫn còn nhớ tới những lời nói ấy, không nhận ra Ngọc Du đã ngồi bên bàn cơm chờ đợi. Chàng lại về trễ vì vụ rối loạn ở thành, trễ đến mức đã nửa khuya. Bình thường giờ này Ngọc Du đã dọn dẹp đi nghỉ. Thấy nàng vẫn ngồi bên bàn ăn, lồng bàn chưa lật, chàng phải ngạc nhiên. Đã thế, mặt nàng có vẻ căng thẳng, thậm chí như là sợ hãi.

- Có chuyện gì vậy? – Chàng bước đến trước nàng hỏi, thậm chí chưa cởi áo khoác. Ngọc Du mím môi rồi mới nhìn lên chàng.

- Sáng nay mẹ thấy xanh xao nên dẫn đi bắt mạch. – Lời nói của nàng vấp vào nhau. – Chúng ta sắp có con rồi.

Câu nói cuối, nàng nói nhanh đến mức chàng mất một lúc để hiểu được. Khi đã hiểu, chàng nghiêng hẳn người xuống mà ôm lấy vai nàng cười lớn. Trước vẻ rạng rỡ của chàng, nàng gượng gạo cười.

- Anh sắp làm cha rồi. – Nàng nói, giọng mông lung không rõ buồn vui. Chàng gật đầu bên vai nàng, không thể nhận thấy đôi mắt nàng vẫn không mất đi vẻ sợ hãi.

Chuyện gì thế này, nàng tự hỏi, suốt từ lúc được thầy thuốc báo tin cho đến bây giờ. Hôm trước chàng vừa báo sẽ đánh Thuận Thành, hôm sau nàng nhận được cái tin này. Đứa trẻ mà cả hai trông đợi lại đến vào lúc này, nàng đã lường trước nhưng không thể không cảm thấy sợ.

Chỉ có một mình, sự chờ đợi của nàng sẽ nhẹ nhõm hơn nhiều, sẽ giản đơn hơn nhiều. Một đứa con, sẽ ra sao nếu cha nó không trở về? Một đứa trẻ sẽ ra sao trong thời đại này? Nàng sẽ trải qua những tháng ngày thai nghén đầu tiên trong đời chỉ có một mình, sự cô độc đến bây giờ lại trở thành nỗi sợ.

- Ta nhất định sẽ trở về. – Chàng nói, nhưng chẳng làm nàng bớt sợ. Ngược lại, sự thông hiểu của chàng chỉ làm nàng chua xót. Bàn tay chàng vỗ nhẹ lên lưng nàng, cử chỉ an ủi làm nàng thấy như thể mình mắc lỗi.

Đó không phải là lỗi của chúng ta, đúng không? Nàng muốn hỏi, câu hỏi đã lởn vởn trong nàng suốt cả buổi tối này.

Nàng đã sợ, luôn luôn sợ. Những lần thức giấc trong đêm, buồn hoang mang như thể đã trút lòng mình trống rỗng. Những lần ngơ ngác nhìn mọi thứ đổi thay như đã trải qua một kiếp sống dài. Tháng ngày qua, chàng đã ở bên cạnh nàng, ôm lấy nàng trong đêm vắng, trở thành những gì nàng nghĩ đến khi buồn bã hay vắng vẻ. Tháng ngày qua, chàng cũng đã trở thành một thói quen của nàng. Thói quen, đến mức không thể dứt bỏ được.

Trở về, nàng muốn nói với chàng, cầu xin chàng nếu có thể. Nhưng nàng biết dù có nói gì, làm gì cũng đều vô ích. Nàng im lặng.

Trở về, nàng muốn yêu cầu chàng điều đó nên đã báo với chàng. Nhưng một khi chàng đã hứa, nàng lại thấy chua xót hơn cả khi chàng không nói. Lời nói của chàng chẳng có tác dụng gì.

Không dưng nàng lại cảm thấy hối hận. Một đứa con, nàng đã trông chờ nó rồi lại cảm thấy sợ hãi khi có nó. Sẽ ra sao đây, đứa trẻ và nàng? Nàng muốn bảo chàng ở lại, bảo chàng vứt bỏ tất cả mà ở lại, như nàng đã từng nói với người em đến hoang đảo mà sống. Phải, hoang đảo. Nàng chẳng cần biết thế giới này như thế nào, chỉ cần giữ được họ. Vậy mà không, chẳng ai, nàng biết sẽ chẳng ai nghe lời nói của nàng.

Mùa gió nồm, nàng nghĩ khi nghe tiếng cây lá lao xao bên ngoài. Bên ngoài, rộng lớn đến tưởng chừng như vô tận. Mùa gió đến cùng với những cơn mưa. Chàng sẽ ra đi khi những cơn mưa đến.

- Anh sắp làm cha rồi. – Nàng nhắc lại, vô thức. Nàng sắp làm mẹ. Nàng đang làm mẹ. Cùng với đứa con, nàng sẽ chờ đợi. Đến bao giờ, nàng không biết.

Mùa gió. Cuộc tấn công đầu tiên của họ sẽ bắt đầu cùng những cơn mưa.

Tháng tư năm Canh Tuất, quân Nguyễn đánh vào dinh Bình Thuận, trấn Thuận Thành.

Lê Văn Quân được cử làm Tiết chế thống lĩnh sáu ngàn binh cùng Tiên phong Võ Tánh và Phó tướng Nguyễn Văn Thành, vị quan dòng dõi vua Chăm là Nguyễn Văn Chiêu đi theo hỗ trợ. Chỉ một trận đánh, Đô đốc Tây Sơn Đào Văn Hổ phải cùng Chưởng cơ Tá rút lui, nửa đường bị người Chiêm theo quân Nguyễn trở cờ giết chết. Quân Gia Định dễ dàng vào chiếm cứ dinh Bình Thuận, kiểm soát trấn Thuận Thành.

Tháng tư, Bình Thuận vẫn khô rang cát dưới chân họ khi Võ Tánh cùng Nguyễn Văn Thành vội vã đến đồn lũy chính. Lê Văn Quân đã tức tốc gọi họ ngay khi vừa đuổi được tàn quân cuối cùng của Tây Sơn trong vùng. Trong doanh trại, giữa đám lửa cháy phừng phừng, sau lưng là đám quân người Chiêm đang lấy kèn trống ăn mừng với nhau, Lê Văn Quân dường như cũng đã ngà ngà say. Ông ta vẫy tay gọi họ tới, giọng sang sảng vang trong quân lính tụ họp đông đảo xung quanh.

- Thừa thắng tiến lên, đã chiếm được Phan Rí, ta sẽ đánh lấy Diên Khánh, dứt điểm một lần tất cả thành trì của Tây tặc ở miền Nam. Phó tướng, anh theo ta đánh Diên Khánh, Võ Tiên phong đóng ở Ba Ngòi tiếp ứng. – Lê Văn Quân vung tay mà nói. Võ Tánh nhướng mày, nhưng Nguyễn Văn Thành còn lên tiếng trước cả chàng.

- Không được, Lê Tiết chế. Diên Khánh qúa xa Gia Định rồi. Chúng ta đi lần này lại chỉ có bộ binh, không có thủy quân theo hỗ trợ, tiến thoái khó khăn. Chỉ cho bộ binh đi, chúa công cũng không muốn chúng ta đánh xa đến thế.

- Thủy quân? – Lê Văn Quân quắc mắt, nói như muốn nhổ ra khỏi miệng. – Anh muốn nói đến đám người Tây dương trắng bệch như xác chết, hay là tên tướng Tây Sơn họ Nguyễn? Chúng ta mà lại cần đám ấy mới có thể thắng à? Ngày xưa ta cùng Châu Văn Tiếp chiếm cứ cả vùng từ Phan Rí đến Trấn Biên, có cần đám người nào trợ giúp?

- Xưa và nay khác nhau. – Nguyễn Văn Thành cũng không chịu nhượng bộ. – Chúng ta chỉ có sáu ngàn quân, lại dàn trải qúa dài như vậy, nếu Tây Sơn kéo xuống thì chống sao được? Nhiệm vụ của chúng ta chỉ là chiếm Bình Thuận, nay đã xong thì lo ổn định đã.

- Nguyễn Nhạc nhu nhược hèn yếu dám thò mặt ra khỏi Quy Nhơn à? Ta nói đánh được là được. – Lê Văn Quân đâm giận trước thái độ của Nguyễn Văn Thành. - Ta là chỉ huy ở đây, tướng quân lại muốn chống đối ta? Trái lệnh thì chém!

- Chúa công khi đi đã giao cho tôi trách nhiệm ngang với Lê Tiết chế. – Nguyễn Văn Thành càng cứng rắn trước thái độ của Lê Văn Quân. – Thành bại thế nào tôi cũng phải chịu trách nhiệm. Xin lỗi, tôi không thể liều mạng ba quân chỉ với một phán đoán vu vơ rằng Nguyễn Nhạc sẽ đánh hay không đánh. Có chết cũng không dám tuân lệnh.

Mắt Lê Văn Quân hằn đỏ trong ánh lửa. Không biết nói sao, ông ta quay về phía Võ Tánh vẫn đứng cạnh Nguyễn Văn Thành, hỏi bằng giọng cáu gắt.

- Võ Chưởng Tiên phong, anh tính sao?

- Tôi cho rằng Chưởng Trung quân nói đúng. – Võ Tánh thận trọng đáp. – Diên Khánh qúa xa, nên có lực lượng lớn hơn.

- Phải, rất xa nên Phò mã sợ không về với vợ cho nhanh được. – Lê Văn Quân gần như bật ra ngay lập tức câu mỉa. Có tiếng cười trong đám người vẫn đứng quanh đó. Võ Tánh thấy tai mình nóng lên. Mỉa mai nhau ở chốn riêng tư là một chuyện, đem chàng hạ nhục ngay giữa chốn ba quân là chuyện khác.

Trước khi Võ Tánh phản ứng, Nguyễn Văn Thành đã đưa tay giữ cánh tay chàng lại, nghiêm giọng mà nói với Lê Văn Quân.

- Đang bàn chuyện công thì không nên xen chuyện tư vào. Lê Tiết chế, anh định thế nào đây?

- Không kẻ nhát gan nào chịu đi thì ta đánh Diên Khánh một mình. – Lê Văn Quân nói như quát. Tay ông ta vung bình rượu đập xuống đất vỡ tan. – Phó tướng, anh giữ chợ Mai! Phò mã, nhờ anh đi giữ Phan Rí!

Võ Tánh ném lại phía Lê Văn Quân một cái nhìn rồi quay lưng đi. Nguyễn Văn Thành cũng theo chàng, cười nhẹ.

- Anh ta thô lỗ như thế nhưng cũng là kẻ có tài, đừng chấp làm gì. – Nguyễn Văn Thành nói để xoa dịu, nhưng ngược lại chỉ đẩy cơn giận của chàng tăng lên.

- Phải, có tài thì đi chống Tây Sơn một mình, có chuyện đừng cầu cứu! – Chàng nói, thấy hơi nóng bốc ra rừng rực. Chàng bỏ đi mà không cần nhìn đến cả Nguyễn Văn Thành.

Nhưng lời chàng nói chỉ một tháng sau đã thành sự thật. Ở Phan Rang, Lê Văn Quân chưa kịp dẫn quân đến Diên Khánh thì Đô đốc Hồ Văn Tự đã đem chín ngàn thủy bộ quân Tây Sơn ở Quy Nhơn kéo xuống. Lê Văn Quân phải rút lui về Ỷ Na, đem thư cáo cấp báo về.

Khi ấy, quân Nguyễn ở Bình Thuận cũng vừa được chúa Nguyễn gọi về Gia Định. Đang đi trên đường, họ nhận được tin của Lê Văn Quân.

- Y như rằng, - Nguyễn Văn Thành lắc đầu mà nói, đưa thư cho Võ Tánh. – Ta quay lại cứu anh ta thôi.

- Đã bảo có việc thì đừng cầu cứu đến tôi. Phải nhờ đến kẻ hèn nhát này, anh ta sống không nổi đâu. – Không nhìn đến bức thư, chàng vẫn giục ngựa đi trước. Có tiếng Nguyễn Văn Thành gọi, nhưng chàng không thèm nghe đến nữa.

Khi chàng về đến Trấn Biên, đội thủy quân của chúa Nguyễn đang đợi họ ở Bà Rịa. Thấy thư cấp báo, chúa Nguyễn vội vã để Phạm Văn Nhân ở lại đón đoàn quân, tự mình đích thân đem thủy quân đến cứu Lê Văn Quân.

Ở Gia Định, nghe tin báo về, Huỳnh Đức vội vã huy động Trung quân dinh cùng Nguyễn Văn Trương đem thủy quân đến tiếp cứu. Họ đi qua chàng mà không nhìn lại.

- Anh thấy hối hận chưa? – Võ Văn Lượng chợt lên tiếng. Ông ta vẫn đi theo chàng từ Phan Rí trở về. Giờ đây, ông ta nheo mắt nhìn chàng, rồi nhìn sang quân Gia Định đang rối lên. – Chúa công phải tự mình đem quân đi cứu bọn họ mà không chờ tiếp viện, lỡ có chuyện gì thì sao đây?

- Anh ở đây nói sao chưa đi cứu đi? – Võ Tánh lầm bầm. Võ Văn Lượng bật cười.

- Võ Tổng nhung, nếu bây giờ anh quay lại cứu họ thì mọi chuyện sẽ êm đẹp. – Ông ta lại gọi chàng bằng cái tên ở doanh trại Kiến Hòa. Nhưng lời nói ấy khiến chàng nhớ đến thái độ của Lê Văn Quân, cơn giận lại trào lên.

- Anh đem Tiên phong dinh đi cứu họ, không cần đến tôi. – Chàng nói, ném thẻ bài Chưởng cơ cho Võ Văn Lượng. Dường như ông ta nhún vai rồi quay ngựa trở lại, lên tiếng gọi binh sĩ.

Còn một mình, chàng ở lại Trấn Biên, không trở về.

Một tháng sau, chúa Nguyễn mới về Gia Định. Đoàn quân tiếp viện đã đẩy lùi được Tây Sơn khỏi Thuận Thành trấn. Lê Văn Quân được gọi về giữ Phước Hưng. Không nhìn đến Võ Tánh, vị chúa thúc ngựa vào thành, đến giữa sân trước Sở Công đồng rồi mới gọi tên chàng. Áo chiến vẫn chưa cởi, ngài ta trông có vẻ giận dữ đến đáng sợ. Đoàn quân vừa mới về tụ tập quanh họ thậm chí không ai dám lên tiếng.

- Khanh biết mình có lỗi gì chưa? – Chúa Nguyễn hỏi, từ trên bậc thang Sở Công đồng nhìn chàng đứng dưới sân.

- Thần biết. – Chàng nói, không nhìn vị chúa, không nhìn thẳng vào mắt ngài ta, cặp mắt hiện chắc đang mang cơn giận lôi đình.

- Tội gì? – Vị chúa nói qua kẽ răng.

- Vì chuyện riêng phạm đến việc công. – Chàng nói, nghe chúa Nguyễn cười gằn.

- Chỉ có thế thôi à? Khanh có biết chúng ta đã mất bao nhiêu người ở Phan Rang? Khanh là tướng quân, nghĩa vụ của khanh là bảo toàn cho binh lính, khanh lại có thể bỏ mặc họ bị giết vì xung đột của khanh? Quân ta thua trận, mất đất là khanh không hoàn thành trách nhiệm với người trên, mất người là khanh không có nhân với kẻ dưới. Khanh có tư cách làm tướng quân không, hả?

Tiếng nói cuối, vị chúa gằn giọng. Võ Tánh im lặng. Tất cả ánh mắt trên sân dõi vào chàng. Vẻ chê trách của họ làm chàng chỉ muốn được chết ngay lập tức.

- Ta đã từng nói, nếu khanh phạm lỗi thì ta sẽ xử khanh như kẻ khác. – Chúa Nguyễn nói sau một khoảng im lặng nặng nề. – Nay giáng Võ Chưởng cơ xuống Cai cơ. Phạt ba trăm roi, thi hành ngay lập tức!

Lính bên cạnh chàng vâng lệnh đem roi đến, đẩy chàng nằm xuống sân. Từ trong đám quan văn đang đứng quan sát, Nguyễn Thái Nguyên vội bước ra, vòng tay mà nói:

- Chúa công đánh roi là có dạ thể tất cho bề tôi mà không có lễ đãi bề tôi. Đánh roi ở đại đình không phải là lễ tôn người tôn, qúy kẻ qúy. Xin chúa công dùng hình phạt thì dùng cho thích hợp với người.

- Phải. – Chúa Nguyễn ngồi xuống chiếc ghế trước sân điện, gật đầu. – Đem gậy ra, đánh Võ Cai cơ năm trăm gậy!

27

Chàng lơ mơ tỉnh dậy với tiếng mưa đổ trên mái ngói, trên bậc thềm, gió đánh cánh cửa sập vào. Hương thơm quen thuộc của chiếc giường kê sát bức tường gỗ, bên ngoài là vườn hoa đang vào mùa cùng với vị hăng hăng là lạ len vào khứu giác làm chàng nhận ra mình đang ở đâu. Một bàn tay đang xoa nhẹ lên lưng chàng, từng cái đụng chạm đều gây ra cảm giác rát bỏng như dí một miếng cời sắt vào da thịt.

- Anh dậy rồi. – Tiếng Ngọc Du vang lên trên chàng. Nàng ngưng tay xoa thuốc, thứ thuốc có mùi hăng hăng mà chàng đã ngửi thấy. – Anh thấy sao rồi?

Chàng cử động, nhưng chỉ làm cái lưng thêm nhức nhối. Tất cả những gì chàng làm được là ngoái nhìn Ngọc Du đang ngồi trên giường cạnh chàng. Qủa thật trời đang mưa, cơn mưa đêm tầm tã làm gió len qua những khe cửa hẹp cũng mang vị âm ẩm lành lạnh. Nàng ngồi một chân thả xuống giường, một chân khoanh lại. Dưới chiếc áo rộng, chàng đã thấy đường nét mờ mờ của cái bụng đang lớn lên. Nàng nhướng mày khi thấy ánh mắt chàng, đứng dậy lại bên bàn rót cho chàng một ly nước.

Chàng đón lấy chén nước, uống cạn rồi đặt nó sang bên, vòng tay ôm ngang lưng nàng. Đầu chàng áp vào chiếc bụng đã căng tròn. Nàng cũng không đẩy chàng ra, chỉ thở dài.

- Không ngờ lại về nhà trong tình trạng thế này. – Chàng cười khẽ khi cơn đau vẫn dội lên từ những vết thương. Hai người phó tướng đã xốc chàng dậy, đưa về nhà vào buổi sáng và chàng đã chỉ có thể nằm vật xuống giường mà ngủ. Giờ đây chàng nhận ra quần áo mình đã được thay, tay chân đã được rửa sạch. Nỗi hối hận lại tràn lên trong chàng, khiến chàng không thể nhìn thẳng vào nàng.

Ngọc Du lùa tay vào tóc chàng vuốt nhẹ. Nàng cũng cười.

- Từ khi nghe chuyện ở Bình Thuận thì đã biết thế nào cũng như vậy, chỉ là tình trạng này tệ hơn một chút so với tưởng tượng. Nhờ Nguyễn Thái Nguyên mà chúa công thay roi bằng gậy phải không? Lão già ấy thật đáng chết mà.

Vậy là nàng đã biết chuyện từ khi chàng còn đang ở Trấn Biên, Võ Tánh nghĩ thầm. Cảm giác có lỗi khiến chàng một lúc lâu mới có thể mở miệng.

- Không đâu, ông ấy có ý tốt cho ta đấy. Nếu bị đánh roi trong sân đình thì ta còn mặt mũi nào nhìn người khác. Phạt ta thật nặng thì mới xoa dịu được sự giận dữ của người xung quanh, ta đáng phải chịu mà.

Nàng im lặng, bàn tay vẫn vò rối tóc chàng.

- Đã nói với anh từ lâu rồi, phải không? Anh nên bớt kiêu căng ngạo mạn ương ngạnh đi. Đã biết là có lỗi mà cứ làm. Thậm chí không về nhà, anh định nếu bọn họ có chuyện thì anh sẽ nhảy xuống biển luôn phải không?

- Không. Ta sẽ về nhà thăm nàng trước khi nhảy xuống biển chứ. – Chàng cười. Nhưng nàng chẳng cho đó là một câu đùa vui vẻ gì.

- Anh sắp làm cha rồi mà không hề nghĩ cho con mình à? – Nàng hất tay chàng, đứng dậy lấy chén nước để lại trên bàn. Chàng nhìn theo nàng, bước chân nàng đã nặng nề. Gần ánh lửa, mắt nàng có quầng thâm. Nàng có vẻ mệt mỏi hốc hác đi nhiều. Những tháng đầu của phụ nữ mang thai con so có vẻ đã rút kiệt nàng. Nàng đã một mình chịu đựng, và đón chàng trở về với một bộ dạng tả tơi không vì một lý do vinh quang nào, thậm chí là ngược lại. Chính vì lý do ấy mà chàng không thể về nhà để gặp nàng. Chàng sợ phải gặp nàng.

Hay thật ra là chàng không biết phải làm gì. Chàng đã đẩy mình vào thế cùng chỉ vì tính khí ương ngạnh. Chàng thậm chí đã không suy nghĩ thấu đáo chỉ vì cơn nóng nảy nhất thời. Dù có ra sao, Lê Văn Quân cũng là người đồng đội của chàng, mảnh đất ấy vẫn là nơi mà họ phải đổ máu xương mới lấy được, vậy mà chàng đã bỏ mặc họ qúa dễ dàng. Trước mặt vị chúa, với từng nhịp đập xuống của chiếc gậy, chàng qủa thật đã cảm thấy nhục nhã. Nỗi ô nhục chàng chưa bao giờ cảm thấy trong đời mà chỉ có cơn đau xé da xé thịt này mới có thể xoa dịu được. Nếu không bị đánh đến như thế, chàng không thể nào tiếp tục sống mà ngẩng mặt nhìn kẻ khác.

Nhưng lại một lần nữa, chàng đã không nghĩ cho nàng và đứa trẻ.

Khi vừa mới lấy nàng, chàng đã biết, đã chấp nhận những gì mình phải đối mặt. Giờ đây nàng cũng đã biết chuyện, biết lý do mà chàng cự cãi với Lê Văn Quân, biết lý do mà chàng không trở về. Không trở về, khi nàng vật vã trong những cơn ốm nghén vượt cạn một mình. Chàng có thể nói gì đây?

Nàng đứng bên bàn một lúc rồi quay lại giường xoa thuốc cho chàng, việc nàng đang làm trước khi chàng thức dậy. Da chàng rung nhẹ dưới ngón tay nàng. Những vệt bầm đỏ đang tím đen lại.

Hắn không làm hại chị thì chị cũng làm hại hắn, nàng lại nghĩ đến câu nói ấy lúc này, như trong suốt một tháng dài chờ đợi. Nàng không ngạc nhiên khi thấy tình trạng của chàng. Nàng tin rằng chàng cũng đã biết hậu qủa này, nhưng chàng vẫn làm. Nàng không biết có nên oán trách chàng vì điều đó hay là nàng nên oán trách chính mình. Ngay từ đầu nàng đã biết cuộc hôn nhân này chỉ đem lại rắc rối.

Những rắc rối này do nàng đem lại cho chàng.

Nhưng nàng không thể ngăn mình tức giận. Chàng đã không liên lạc về, ngay cả lúc đang ở Trấn Biên. Không phải nàng không hiểu tâm trạng của chàng, nhưng nàng cũng có tình cảm, tâm trạng của mình – mà lại một lần nữa, chàng đã không hề nghĩ cho nàng. Nàng cần gì? Chỉ một lời thăm hỏi của chàng. Vậy mà cũng không hề có.

Bàn tay nàng nhấn mạnh vào những vết thương trên lưng chàng. Chàng không kêu, thậm chí không nhăn mặt, chỉ quay lại nắm lấy tay nàng.

- Xin lỗi. – Chàng nói. Nhưng chỉ làm một nụ cười chua chát đến trên môi nàng.

- Anh cứ làm sai rồi xin lỗi thế à? – Nàng nhướng mày. Chàng im lặng.

- Ta sẽ không bao giờ làm thế nữa. – Cuối cùng, chàng nói.

Trong mắt chàng là nỗi buồn. Nỗi buồn mà cả nàng cũng không sao hiểu nổi. Đó là một điều gì đó thẳm sâu hơn cả buồn thương, hơn cả niềm hối hận. Một điều gì đã mất đi, mất đi. Khiến nàng bỗng dưng lại thấy hối hận, lại ước như giá mà chàng đừng hứa.

- Nằm xuống đi, thuốc rơi xuống hết rồi. – Nàng nói. Bôi thuốc xong, nàng lấy áo khoác lên cho chàng. Thở dài, nàng nghiêng người ôm lấy chàng từ phía sau, vùi mặt vào vai chàng.

- Sau này làm chuyện gì cũng phải nghĩ đến người khác. – Nàng chỉ nói như thế. Có qúa nhiều điều nàng muốn nói với chàng nhưng lại không biết phải nói như thế nào. Cuối cùng, nàng đã nói một câu mà chính nàng còn không chắc chắn về tính chính xác của nó.

Chàng vẫn dõi mắt vào khoảng tường chập chờn ánh lửa trước mặt. Chàng muốn nói với nàng một điều nhưng không biết phải nói như thế nào. Đó có phải là điều nên nói ra?

Vừa nghe tin của Võ Tánh, Từ phi và Quốc mẫu đã gọi Ngọc Du tới hỏi chuyện. Tranh thủ đi lúc Võ Tánh còn đang ngủ, nàng tới thành Bát Quái khi trời vừa hửng sáng. Ngoài cửa thành, nàng đã gặp ngay chúa Nguyễn cùng đoàn quân có cả vài người Tây dương – có vẻ như đang định tới Trường súng vừa được xây gần đó để tập bắn. Thấy chị gái, vị chúa lên tiếng gọi.

- Võ Tánh sao rồi? – Em trai nàng hỏi. Câu hỏi khiến nàng cười khẽ.

- Nhờ phúc đức của chúa công, chưa gãy cái xương nào. Nghe đâu ngày hôm qua phải ba lần thay gậy, ngài đối với kẻ khác thật không biết nương tay.

- Nếu ta nương tay, hắn chỉ có biến mất khỏi đất này. – Vị chúa thản nhiên cười. Thái độ ấy làm Ngọc Du đâm giận.

- Ngài qủa thật biết cách đổ lỗi cho người khác, chúa công. – Nàng nói, chua chát. – Trong việc rối loạn vừa rồi, ba vị tướng đều có lỗi, lỗi nặng nhất đáng lẽ phải thuộc về kẻ đã khinh địch mà đưa cả đoàn quân vào nơi nguy hiểm. Ngài chỉ phạt một mình Võ Tánh, liệu có công bằng?

- Nếu thua trận mà giết tướng thì ta phải giết gần hết tướng của ta rồi, trưởng công nương. Võ Tánh không phải bị phạt vì vụ rối loạn, mà vì thái độ. Quân ta còn tồn tại được đến ngày nay vì lẽ gì? Ta để yên cho một kẻ bỏ mặc đồng đội của mình, chị nghĩ kẻ ấy có còn sống được trong quân ta nữa không? Võ Tánh đã biết nhận lỗi, người khác cũng không để bụng. Chị đừng quên hắn chỉ vừa mới về với ta, kẻ khác đối với hắn vẫn còn chưa tin tưởng, giờ lại xảy ra chuyện này.

- Ngài nói thì thật là hay, nhưng ngài chỉ đang giết gà dọa khỉ đấy thôi. – Ngọc Du nhếch môi. – Chắc ngài vẫn chưa quên binh lính ngài từng đánh nhau thế nào. Ngày nay thì Lê Văn Quân công lao qúa cao, dù có một trận thua này thì ngài cũng khó phạt ông ta để kiềm chế tính kiêu căng khinh suất lại; Nguyễn Văn Thành khó nhọc đã lâu, ngài không thể dùng uy thế của mình để anh ta bớt ngang ngạnh đi; binh lính ngài xáo trộn đủ mọi thành phần, ngài không thể nhất thời mà bảo ban họ được. Thế là nhân dịp này ngài đem anh rể mình ra đánh để mọi người biết thế nào là quyền uy của chúa.

- Dù là thế thì cũng có gì sai? – Chúa Nguyễn bật cười. Nhưng Ngọc Du quắc mắt nhìn người em trai. Nàng thật sự đã nổi giận.

- Chúa công, ngài đã đủ chưa? Hai người anh em rể đã chết vì ngài, ngài còn chưa vừa lòng? Ngài đem Võ Tánh hạ nhục trước ba quân, sau này kẻ ngốc đó chỉ có thể lao đầu vào trả nợ cho ngài, ngài biết thế, phải không? Ngài rất giỏi khiến kẻ khác phải chết vì mình, chúa công ạ.

Vị chúa im lặng trước lời nàng nói. Một lúc sau, ngài ta lại ngoảnh đầu nhìn nắng đang ửng lên từ phía chân trời mà cười.

- Chị coi trọng hắn hơn ta?

Đến lượt Ngọc Du không trả lời. Vị chúa lại leo lên ngựa, nói xuống nàng một câu mà nàng không hiểu ý nghĩa.

- Chị đến gặp Quốc mẫu và chị Ngọc Tú thì an ủi họ cho ta.

Ngọc Du mím môi quay đi mà không cả cúi chào, ngài ta cũng không gọi nàng lại. Nghe tiếng thúc ngựa khi vị chúa dẫn đoàn quân ra cổng.

Nàng hiểu câu nói của người em ngay khi vừa đến Hậu điện, nơi ở của Quốc mẫu. Hầu như cả gia đình vị chúa đều tụ tập nơi ấy, khuôn mặt ai nấy đều tái xanh. Quốc mẫu ngả người trên trường kỷ mà khóc, Từ phi đứng bên cạnh ôm vai bà, mắt long lanh hằn đỏ. Ngọc Tú đứng cạnh cửa sổ, làn da tái nhợt, môi mím lại. Nguyên Phi, Nhị phi cùng các phi tử khác mang khuôn mặt vừa căng thẳng vừa sợ hãi lạ lùng. Phúc Cảnh ngồi trong góc phòng, nắm chặt lấy cánh tay mẹ nó, đôi mắt đanh lại.

Thấy nàng, Quốc mẫu lại òa ra khóc lớn hơn. Bảo những cô hầu gái đỡ nàng lại, bà cầm lấy tay nàng, bật lên nức nở.

- Con ơi, chúng phá nát mộ cha con rồi. – Bà nói trong tiếng khóc mà mất một lúc Ngọc Du mới hiểu. Nàng nhìn mẹ, Từ phi gật đầu.

- Đêm qua có người đến báo với chúa công… Ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã cho đào hết cả mồ mả tổ tiên ta, đem hài cốt bỏ xuống sông. Cả mộ cha con cũng bị xâm hại.

Từ phi nói khó khăn như phải chọn lựa từng từ. Ngọc Du chớp mắt nhìn bà, chết điếng. Ngọc Tú vội vàng lại gần đỡ nàng ngồi xuống. Mãi một lúc sau, nàng mới có thể mở miệng.

- Tại sao? – Nàng hỏi. Mọi chuyện như không thể tin được. Cả thái độ của vị chúa. Em trai nàng đã bình thản biết bao khi gặp nàng ở ngoài cửa thành. Tại sao một chuyện như thế có thể xảy ra?

- Tên giặc đó được phong hoàng đế, lại thấy ta đang lớn mạnh ở Gia Định nên làm trò hèn hạ ấy. – Ngọc Tú nghiến răng nói. Giọng cô chất chứa nỗi oán hận lạnh lùng. – Hắn cố tình hạ nhục chúa công. Cha ta làm gì hắn, làm gì ai?

- Ông ấy sống còn chưa đủ khổ hay sao mà chết cũng không được yên? – Quốc mẫu mếu máo vừa nói vừa khóc.

Ngọc Du run rẩy tựa lưng vào ghế. Phải thôi, trong cõi rối bời của tâm trí nàng, ý nghĩ ấy lại bật ra. Như Lý Tự Thành phá lăng mộ nhà Minh. Nhưng em trai nàng không phải Sùng Trinh để suy sụp. Chỉ có nỗi cay đắng này làm tê dại đi toàn bộ thân thể nàng. Tiếng khóc của Quốc mẫu vang trong căn phòng lặng yên dội vào trong tai nàng. Họ đã làm gì, cha đã làm gì? Nàng tự hỏi, câu hỏi lặp đi lặp lại. Cha đã làm gì? Người cha mà nàng còn không nhớ mặt, chỉ có ký ức về chút hơi ấm xa xôi trong qúa khứ. Người cha đã bị giam giữ cho đến chết.

- Bà đừng khóc. Cháu sẽ trả thù cho họ. – Phúc Cảnh chợt bật ra tiếng nói. Nó vẫn ngồi bên Nguyên phi, nắm lấy cánh tay mẹ. Mắt nó hằn đỏ giống hệt như mắt Ngọc Tú, nỗi oán hận khiến cả Ngọc Du cũng cảm thấy sợ. Nó lặp lại, lưng cứng đơ trong dáng ngồi bất động.

- Cháu sẽ trả thù cho họ.

Trong ánh mắt Nguyên phi, Ngọc Du thấy niềm hoang mang ngơ ngác, cả sợ hãi nữa. Cô nhìn đứa con, đứa bé mười hai tuổi, làn da càng tái nhợt lại. Ngọc Du run run đứng dậy, bảo cô hầu gái đỡ ra ngoài.

Chị an ủi họ cho ta, em trai nàng đã bảo. Nhưng nàng không thể làm được. Không thể nhìn họ mà không cảm thấy cõi lòng tan nát. Không thể nghe một đứa trẻ nói đến thù hận mà không cảm thấy đau thương. Họ biết tin từ đêm qua, qủa thật không lạ khi em trai nàng đã bỏ đi ngay từ sáng chưa hửng mặt trời.

Ra gần đến cửa, nàng còn kịp nghe Ngọc Tú thì thầm bên cạnh:

- Chúa công bảo giữ bí mật việc này trong nhà chúng ta thôi, đợi thời cơ thuận tiện hãy báo ra ngoài.

Ngọc Du gật đầu. Chỉ khi về đến nhà, nàng mới rơi nước mắt.

Nước mắt ầng ậc đổ xuống khi nàng vừa bước vào phòng. Võ Tánh đã dậy, đang ngồi trên giường mặc áo. Thấy nàng, chàng kinh ngạc.

- Có chuyện gì thế? – Chàng hỏi. Câu nói chưa dứt, nàng đã ôm lấy chàng mà nức nở khóc như đứa trẻ bị đòn.

- Sao thế? – Chàng vừa vỗ lưng nàng vừa hỏi. Đến lượt chàng cũng thấy sợ. Chàng chưa bao giờ thấy nàng mất kiểm soát bản thân đến mức này. Ngón tay nàng bấu vào những vết thương trên lưng chàng mà nàng vẫn không nhận ra. Chàng đành để mặc cho nàng khóc. Khi cơn xúc động đi qua, nàng dụi mắt, ngồi xuống chân giường, không ngẩng nhìn chàng. Ánh mắt trống rỗng của nàng dõi vào khoảng sân qua cánh cửa mở. Mùa hạ sắp đi qua, nắng chói chang sau những cơn mưa dài. Nắng làm nổi rõ gò má hốc hác của nàng, chợt làm nàng già đi hơn mấy tuổi.

- Tại sao? – Nàng chợt nói khi chàng định hỏi nàng lần nữa. Giọng nàng khàn khàn. – Sao lại thế? Sao lại có thể như thế? Sao lại có thể làm như vậy với ông ấy? Sao lại có thể làm như vậy với chúng tôi? Ông ấy đã làm gì? Chúng tôi đã làm gì? Họ đã làm gì?

Chàng vẫn không thể hiểu những gì nàng nói. Nàng nuốt khan, đôi mắt bất động vẫn ngập đầy ánh nắng. Nước mắt trên má nàng đang khô dần, để lại khuôn mặt ráo kiệt mọi cảm xúc.

- Ông ấy có lỗi vì sinh ra chúa công ư? – Nàng tiếp tục độc thoại với ánh nắng. – Ông ấy có lỗi vì đã chết ư? Vì ông ấy đã chết, Định vương mới có thể lên ngôi. Vì ông ấy đã chết, nhà ta mới phải tan đàn sẻ nghé. Vì ông ấy đã chết, những đứa con trai mới không được ai bảo vệ, lần lượt bị giết. Vì ông ấy đã chết, vì tất cả bọn họ đã chết, chúa công mới có thể lên ngôi. Ông ấy chỉ có một ngôi mộ vùi xuống đất hoang, nào có là gì, nào có làm hại đến ai. Vậy mà tại sao nắm xương tàn của ông ấy cũng không được yên? Ông ấy đã làm gì bọn chúng?

Chúng muốn hạ nhục chúa công ư, chúng muốn ngài ấy tổn thương à? Chúng nghĩ chúa công là ai? – Nàng nhếch mép cười khẽ. – Bao nhiêu người trong họ này đã chết mất xác? Chúng còn có thể làm tổn thương ai thêm được nữa? Chúng còn có thể giết được ai nhiều lần hơn nữa? Chúng cần gì đến những người đã chết, chúng chỉ muốn hủy hoại kẻ đang sống. Hủy hoại, chúng luôn luôn hủy hoại. Chúng phải chà đạp chúng tôi đến mức nào, phải hủy hoại chúng tôi đến mức nào?

Võ Tánh lặng im. Một lúc sau, chàng nghiêng người đỡ nàng lên giường, để nàng nằm xuống.

- Mấy hôm nay nàng vất vả rồi, nghỉ ngơi đi. – Chàng chỉ nói thế, tay vuốt những sợi tóc dính bết bên má nàng. – Đừng nghĩ nhiều, nàng còn phải lo cho con nữa.

Nàng vẫn chỉ nhìn chàng. Ngón tay chàng chạm vào mắt nằng, khiến mi mắt nàng nhắm lại. Chàng nằm xuống bên nàng, ôm nàng cho đến khi hơi thở nàng dịu lại. Khi nàng đã ngủ, chàng đứng dậy thay quần áo, bảo cô hầu gái coi sóc Ngọc Du rồi đi ra ngoài.

Nắng chói chang của mùa hạ phương Nam chan trên con đường đến thành. Khu thành sừng sững chắn một góc trời, che khuất cả ánh nắng dưới chân nó. Lính canh cửa nhận ra chàng, vội vã cúi chào. Chúa Nguyễn cũng vừa mới trở về, đang ở trong Phương điện. Nghe thấy chàng đang ở ngoài, vị chúa gọi vào. Ngài ta đang đứng bên bàn, tự rót cho mình một ly trà.

- Khanh xem bộ khỏe rồi, vậy mà sáng nay chị ta trông có vẻ giận lắm. – Chúa Nguyễn nói, cười nhẹ.

- Đã có chuyện gì, chúa công? – Võ Tánh hỏi, không quan tâm đến câu nói của vị chúa. Ngài ta nhìn chàng, nâng ly trà uống cạn rồi mới ngồi xuống chiếc ghế kê cạnh cửa sổ, trông ra khoảng sân vừa mới được trồng cây xanh.

- Chị ta thật là… đã bảo đừng làm ầm lên. – Chúa Nguyễn Phúc Ánh thở ra. – Thôi được, khanh cũng là một người trong gia đình ta thì nên cho khanh biết. Tất cả lăng mộ tổ tiên ta ở Phú Xuân, cả cha ta nữa, đã bị Tây tặc đào lên vứt đi rồi.

Giọng nói điềm tĩnh của chúa Nguyễn, trái ngược hoàn toàn với nội dung của nó, khiến chàng phải cảm thấy ngạc nhiên. Từ những lời nói của Ngọc Du, chàng đã lờ mờ đoán ra, nhưng không thể nghĩ đến thái độ của vị chúa lại có thể như vậy. Nhận ra ánh mắt chàng, ngài ta lại cười.

- Khóc lóc là việc của phụ nữ, không phải cho ta. Đây là việc liên hệ đến cả danh dự của chúng ta, khóc lóc nổi nóng thì được ích lợi gì?

- Nhưng ngài thì qủa thật qúa bình tĩnh, chúa công.

- Ta đã từng nói với Bá Đa Lộc: “Ta biết họ không trở về nữa, dù ta có làm gì thì cũng chẳng ích lợi cho họ lẫn cho ta”. – Chúa Nguyễn hơi nghiêng đầu nhìn chàng. – Cả những gì bọn chúng làm cũng chẳng có hại gì cho người chết được. Những người đã chết thì còn gì làm hại họ được nữa? Cái đám vô thần vô thánh ấy cũng biết thế thôi. Chúng muốn hạ nhục ta, lăng mạ ta. Chúng muốn đám dân kia biết rằng họ Nguyễn đã bị trốc tất cả gốc rễ ra khỏi mảnh đất này rồi, chúng đã phá hoại tất cả những linh khí phù hộ cho ta rồi, để họ đừng mong đợi nữa. Ồ, chúng làm hơi qúa tay, hẳn vậy. Cha ta thì quan hệ gì đến chuyện này? Triệt hạ phần mộ của cha ta, chúng chủ tâm nhắm vào ta, gia đình ta. Chúng muốn ta đau lòng, thật là buồn cười. Thật là buồn nôn nữa, sự hèn hạ của chúng. Chúng không thể giết được ta, thế là chúng hành hạ nắm xương tàn của một người vô tội. Bọn vô đạo ấy, chúng cho mình quyền chà đạp kẻ khác đến như vậy đấy.

Giờ thì chàng nghe trong lời nói của vị chúa ẩn chứa một sự giận dữ lạnh lùng như cơn bão dưới đáy nước. Ngài ta đã thực sự nổi giận. Nhưng ngài ta vừa đem lý lẽ để cố thuyết phục mình bình tĩnh, vừa cố gắng để bản thân không bị cuốn phăng đi. Nhìn lại về tấm họa đồ gắn trên tường, mẫu vẽ một tòa thành nào đó còn nguyên dấu chú giải, những vết than chì, có lẽ do viên quan Phú Lang Sa dùng để hướng dẫn kỹ thuật xây thành, chúa Nguyễn nói trong khi khuôn mặt đanh lại.

- Bọn vô đạo, phải, bọn chúng chỉ đến thế. Đập phá lăng mộ chúng ta để dọa nạt đám dân mê tín ngu ngốc, chúng chứng tỏ được gì? Ta đã cho Nguyễn Đình Đắc vượt biển trở lại Bắc Hà thăm dò tin tức vua Lê và chiêu dụ người ở đó. Chúng muốn triệt hạ linh khí của tổ tiên ta, nhưng ngược lại chỉ làm tiếng tăm ta lừng lẫy thêm, ta đã biến thành kẻ thù chính của chúng. Nhà Lê đã không làm gì được chúng, nhà Thanh đã phong cho chúng làm quốc vương thay thế, vậy thì đám người Bắc Hà không chịu theo bọn chúng sẽ chỉ còn một lựa chọn. Đập phá lăng mộ dòng họ ta, chúng chỉ đẩy đám người đang hoang mang do dự ấy về phía ta.

- Ngài định kêu gọi đám người ở Bắc Hà? – Võ Tánh hỏi. Đôi môi vị chúa nhếch lên trong một nụ cười.

- Phải, Bắc Hà. Chúng đã chứng tỏ rằng không thể đội trời chung với ta. Thế thì ta sẽ diệt tất cả bọn chúng, hoàn toàn. Ta sẽ đánh đến Bắc Hà, thậm chí cả Đại Thanh nếu chúng chạy qua nơi ấy. Ta không bao giờ tha thứ cho chúng.

Khoảng lặng im nặng ngàn cân rơi xuống trong căn phòng. Câu nói của vị chúa khiến Võ Tánh cũng phải khẽ giật mình. Chúa Nguyễn đứng dậy, lại rót trà ra ly, đưa cho chàng.

- Chị ta không sao chứ? – Ngài ta hỏi. Võ Tánh gật đầu rồi lại lắc đầu.

- Cô ấy đang mang thai nên càng dễ xúc động. – Chàng nói. Vị chúa thở ra.

- Ai nghe chuyện này cũng phải chấn động. Vì thế ta đang còn phải cân nhắc. Nếu không khéo, đám tướng lãnh lỗ mãng của ta lại đùng đùng đòi đánh nhau thì chúng ta chỉ đem quân đi nướng ở chiến trường. Cũng may bây giờ là mùa gió bấc, ta có thể mượn cớ gió ngược không tiện vận chuyển để không xuất quân.

- Việc lớn đến vậy, đám thương buôn người Đường, Tây dương sẽ đem lan truyền khắp Gia Định sớm thôi, chúa công. – Chàng nói. Chúa Nguyễn gật đầu.

- Ta cứ để cho bọn họ nghe tin đồn rồi chứng minh sau. Như vậy, từ lúc nghe chuyện cho đến khi chứng thực, họ có thời gian để dịu lại. Mà tin này càng lan rộng thì càng có lợi cho ta. Các chúa ta với Gia Định đâu phải như Định vương, Tân Chính vương; ơn nghĩa của họ nhiều không kể xiết. Đụng đến lăng mộ của họ, Tây tặc đã tuyên chiến với cả Gia Định này.

Nét cười thoáng trên môi vị chúa nhưng không chạm tới được mắt. Chàng lại thấy cảm giác ấy, cảm giác khi nhìn bầu trời trên mặt biển, như thể chẳng gì có thể chạm tới ngài ta, ngay cả nỗi đau và cái chết. Đã qúa nhiều nỗi đau và cái chết. Để giờ đây tất cả những điều đó lại trở thành vũ khí của vị chúa, để ngài ta sử dụng chúng, điều khiển chúng. Ngay cả những giọt nước mắt của nàng. Ngay cả nỗi đau mà họ cảm thấy. Nỗi đau không thể giết người, nhưng có thể khiến giết người.

Chàng vẫn nghĩ tới nụ cười của vị chúa khi trở về, thấy Ngọc Du vẫn cuộn mình ngủ trên giường, tay ôm ngang bụng. Nàng mở mắt khi tay chàng chạm vào tóc nàng. Nhìn chàng, nàng cau mày.

- Anh lại ra ngoài à? – Nàng hỏi, chàng gật đầu.

- Ta đến gặp chúa công. – Chàng nói. Nàng lăn mình nằm nhìn lên trần màn, cười nhẹ.

- Ngài ấy có bảo, anh về an ủi chị ta đi không? – Giọng nàng đầy vẻ chế nhạo nhưng không có chút nào vui vẻ.

- Có. – Chàng cười. – Ngài ấy bảo, anh bị đánh là đáng đời, nhưng ta còn bao nhiêu việc phải làm. Trước hết anh phải coi sóc chị ta để sinh ra một đứa bé khỏe mạnh đã.

- Sau đó là chứng minh, sau đó là phục thù. – Nàng ngắt lời chàng. – Chứng minh mình xứng đáng, mình là một tướng quân đúng nghĩa. Phục thù những gì kẻ khác đã làm với mình. Ngài ấy rất giỏi điều khiển kẻ khác.

Nàng nói và nhắm mắt lại. Ánh nắng trưa cũng làm đôi mắt khô lệ của nàng rát bỏng. Chàng nhìn nàng, rồi lại nhìn ra khoảng sân.

- Không, ngài ấy bảo, đừng khiến cho chị của ta phải khóc nữa. – Chàng nói với ánh nắng.

Ngọc Du cũng chỉ mỉm cười. Nụ cười đông cứng trên khuôn mặt nàng.

Giá như nàng vẫn còn ngây thơ và tin tưởng, có lẽ nàng sẽ xúc động, sẽ tin. Giá như nàng đã không trải qua những tháng ngày ấy, khi bao hy vọng lần lượt trôi qua kẽ tay, biến mất, tàn diệt. Giờ đây, ôm lấy sự sống của một sinh linh khác trong lòng mình, nàng chỉ cảm thấy đau buồn. Những lời họ nói ra, mộng ước và khát khao, tất cả đều chẳng có một ý nghĩa nào.

Nàng đã khóc vì thương người cha mà nàng không nhớ mặt. Nhưng nàng cũng khóc vì họ, họ nữa, những ký ức bị chà đạp, những thơ ngây bị hủy hoại. Chỉ còn lại ở nơi ấy, ký ức của họ, quê hương của họ, là ngôi mộ của một người đã chia sẻ cùng họ một phần xương thịt. Sợi dây kết nối ấy cũng đã đứt, đứt lìa. Được thay thế bằng nỗi đau và niềm căm hận. Trong đôi mắt đứa trẻ chưa hề biết tới quê hương.

Tất cả đã bị hủy hoại. Liên tiếp bị hủy hoại. Như những vòng sóng nước lan ra, lan ra xa mãi. Những giọt nước mắt của nàng còn có ý nghĩa gì? Hay chỉ đánh động thêm người bên cạnh.

Người em trai thật ra chỉ đang bảo nàng: Đừng khóc.

27

Cái tin về lăng mộ các chúa Nguyễn bị tàn phá chẳng mấy chốc đã lan khắp Sài Côn, rồi Gia Định. Trong một buổi chầu, chúa Nguyễn thông báo cho các quan, điều mà họ đã nghe, bằng giọng nói lặng lẽ. Sáng hôm đó, người ta đã thấy Quốc mẫu dẫn các phi tử và công nương đi đến chùa làm lễ tế, bà khóc ngất trong tay các cô hầu. Hình ảnh ấy khiến cả những người nóng nảy nhất cũng phải lặng đi. Họ im lặng nhìn vị chúa, vị chúa nhìn họ.

- Ta sẽ xây lại nhà Thái miếu ở Gia Định này. – Chúa Nguyễn Phúc Ánh nói. Lời của vị chúa chưa dứt, Tống Viết Phúc đã nói vọng lên như quát.

- Nếu muốn xây thì chúng ta sẽ xây lại ở Phú Xuân, phải đào mồ Tây tặc ném cho chó ăn mới bù đắp được cho anh linh các chúa ta!

- Phải, ta sẽ làm như thế, nhưng không phải bây giờ. – Chúa Nguyễn mỉm cười. Nụ cười đến trên gương mặt lạnh ngắt. – Vừa rồi mọi người đã thấy Tây tặc Nguyễn Nhạc phản công ở Phan Rang. Chúng vẫn cố bám lấy phần đất chiếm được. Chúng ta vừa mới tập hợp người, các công việc cũng chỉ vừa mới được bắt đầu, không thể ngay lập tức tiến đánh.

- Đợi, đợi đến bao giờ? – Vẫn Tống Viết Phúc nóng nảy hỏi. – Chúng ta đã mất bao nhiêu năm…

Rầm! Tiếng đập bàn của vị chúa cắt ngang lời nói của viên tướng. Ngài ta đã đứng dậy, cau mày nhìn xuống Tống Viết Phúc. Cái nhìn khiến cả vị dũng tướng này cũng phải lùi lại.

- Đó là tổ tiên của ta. Đó là cha ta. – Chúa Nguyễn nói qua kẽ răng. – Người muốn băm vằm Tây tặc trước tiên ở đây phải là ta. Nhưng để làm được điều đó thì phải chiến thắng. Chiến thắng! Tiêu diệt bọn chúng hoàn toàn! Chứ không phải giành được một hai miếng đất, một hai trận thắng. Bọn chúng đã chiếm được cả một nửa Nam Hà, toàn bộ Bắc Hà, các người nghĩ chúng ta bây giờ có thể một trận tiêu diệt được chúng à? Dồn hết sức lực vào một cuộc chiến, rồi sau đó chúng phản công thì lại bỏ chạy phải không? Tiêu diệt hoàn toàn Tây tặc. Ta muốn tiêu diệt chúng, hoàn toàn, các ngươi có nghe rõ không, hả?

Vị chúa đưa mắt nhìn quanh điện chầu lặng ngắt. Hai hàng quan văn võ nhìn lại người chủ của mình, khuôn mặt ai nấy đều đanh sắt.

- Đã đủ cho các trò tranh công tranh tài, gằm ghè với nhau rồi! Đã đủ cho các thói lười biếng nhu nhược rồi! Đã đủ cả cho thói nóng nảy không suy nghĩ rồi! Chúng ta muốn giành lại Phú Xuân, chúng ta muốn tiêu diệt Tây tặc, vậy thì nhất quyết phải làm cách nào thực hiện được. Chúng đã dẫm đạp lên phần mộ tổ tiên ta, đã chà đạp ký ức, niềm tự hào của chúng ta, mối thù này không trả thì làm sao có thể làm người? Bây giờ là lúc chúng ta phải đoàn kết một lòng, phải suy tính kỹ lưỡng để đạt được kết qủa, phải làm sao để ta mạnh hơn bọn chúng, phải làm sao để tiêu diệt chúng. Tiêu diệt Tây tặc, các người có hiểu không?

Các chúa ta đã làm gì để bị chúng đối xử như thế? Mảnh đất chúng đang đứng là do các chúa ta mở mang, xây dựng. Gia sản chúng đang thừa kế là do các chúa ta tạo thành. Chúng dẫm đạp lên phần mộ của những tiền nhân mở cõi. Với người chết chúng còn làm như thế, với người sống thì thế nào, ai ở đây cũng đều đã biết. Chúng đã căm hận ta đến nỗi làm một việc vô đạo như thế, có tưởng tượng được nếu chiếm lại Gia Định này, cuộc tắm máu mà chúng sẽ làm còn kinh khủng thế nào? Gia Định này lẽ nào lại bị đám người vô luân ấy thống trị, chà đạp? Trên vì tổ tông, dưới vì chúng sinh thiên hạ, dù mất cả đời này, ta cũng phải tiêu diệt Tây tặc. Con đường ấy, dù dài dù khó đến thế nào, chúng ta cũng nhất định phải làm được.

Những tiếng cuối cùng của vị chúa rơi vào trong sự lặng yên của căn phòng rộng. Hất chiếc bàn sang lên, vị chúa đi xuống giữa hai hàng quan lại, ánh mắt ngài ta lướt qua từng người. Ngài ta nhìn từng người, dõi thẳng vào mắt họ.

- Nhiều người ở đây có tổ tiên dòng họ trên đất Phú Xuân. Nhiều người ở đây có người thân bị Tây tặc giết chết. Có những người khác tận mắt thấy sự tàn ngược của Tây tặc, căm giận mà theo ta. Có những người khác theo ta vì sự sống của bản thân mình. Các người ở đây, có kẻ đang nghiến răng căm giận cùng ta, có kẻ lại thấy hoàn toàn dửng dưng trước việc mà ta đang phải chịu. Ta không thể bảo rằng các người cùng phải thù hận giống như ta, nhưng các người nên thấy mình đang phải đối đầu với kẻ thù như thế nào. Kẻ có thể hủy hoại tất cả những gì cản đường hắn, tất cả chúng ta. Là một vị chúa, ta hứng chịu tất cả sự trừng phạt của đất trời này. Nhưng liệu có phải chỉ một mình ta? Cả một họ Lê đã bị đuổi giết chỉ còn một phần năm. Cả một vùng Thuận Hóa, Quảng Nam chết đói không còn một bóng người. Cả một Cù lao Phố ra tro, cả một Chợ Quán thành sông máu. Cả Bắc Hà chết đói vì trận chiến của Tây tặc.

Kẻ đã sẵn sàng dẫm đạp lên người khác để đạt được vinh quang cho mình thì sẽ không bao giờ dừng lại.

Nỗi đau này là của riêng ta, dòng tộc ta. Nhưng tổ tiên ta đã từng là niềm kiêu hãnh, niềm tin, ánh sáng của mọi người sống trên mảnh đất này, tổ tiên ta là những người lãnh đạo khai phá mảnh đất này, gìn giữ nó, bảo vệ nó. Có Lê Ngọa Triều thì Lý Thái Tổ cũng không đi phá lăng mộ Lê Hoàn, có giết cả dòng họ Lý thì Trần Thủ Độ cũng không phá lăng mộ Lý Thái Tổ. Kẻ biết chút ít lý lẽ, chút ít liêm sỉ nào hành động như vậy? Mảnh đất chúng đang sống là do tổ tiên ta xây dựng nên. Cơ ngơi chúng đang có là do chúng ta đổ máu và nước mắt tạo thành. Kẻ vô ơn quên nghĩa thì còn có thể tin được ư? Hay như hắn đã luôn luôn phản bội, cả anh hắn, cả vua hắn, cả những kẻ đã từng giúp đỡ hắn?

Luật pháp của chúng ta nói “Nợ cha con trả”, chứ không có chuyện ngược lại. Nay vì ta mà cả nắm xương tàn của cha ta cũng bị xâm hại. Nếu là kẻ khác đứng ở vị trí của ta giờ đây cũng như vậy thôi. Tất cả chúng ta nơi đây. Tất cả những người trước đó và sau này.

Nỗi đau này là của riêng ta. Nhưng những người đã chết là ký ức, là niềm tự hào, là qúa khứ của tất cả chúng ta, là những gì chúng ta kính trọng, tôn thờ.

Đối với kẻ sẵn sàng dẫm đạp kẻ khác đến kiệt cùng như thế, chí có một cách duy nhất để chúng ta tồn tại: Tiêu diệt bọn chúng hoàn toàn. Để làm được điều đó, chúng ta phải kiên nhẫn. Nhưng các người có thể tin chắc rằng: Ta sẽ không bao giờ quên mối thù này.

Ta sẽ dẫn các người vào Phú Xuân, ra Bắc Hà, quét sạch Tây tặc.

Ta thề điều đó với linh hồn tổ tông ta.

Lời nói của vị chúa vang vọng trong điện chầu, trên Gia Định, được nhắc đi nhắc lại trên môi mọi người mọi kẻ. Tiêu diệt Tây tặc, cuộc chiến của Gia Định đã trở thành trận quyết chiến mà họ không còn đường lùi. Rất nhanh, Gia Định đã được huy động toàn lực vào chiến tranh. Trại Đồn điền được thiết lập tại Thảo Mộc Câu dành cho quân lính khẩn ruộng. Các quan văn võ đều được cử đi mộ người lập đội đồn điền. Lúa giống, trâu cày, dụng cụ đều được cung cấp. Một vạn đấu lúa giống đã được phân phát khắp Gia Định. Hai dinh Trấn Biên, Phiên Trấn lập các nậu biệt nạp làm dầu rái cá, dầu tràm, đèn nến, lá, dây mây… Cục Chế tạo được xây dựng ở một góc thành, Xưởng Chu sư nằm ở ngoài cửa Khôn Trinh, Xưởng thuyền nằm ở bờ Đông sông Tân Bình, tập trung những thợ giỏi nhất của Gia Định. Cả đám thương buôn cũng được vị chúa huy động vào Nội viện. Những nhà buôn lớn nhất Gia Định được cử đi khắp nơi buôn bán, mua hàng hóa, súng đạn, sách vở… Cả những người Miên, người Đường cũng được huy động mộ dân lập đồn, lập ấp.

Không ai có thể đứng ngoài cuộc chiến này, chàng nghĩ khi đi dọc bờ sông Tân Bình. Nắng sớm chiếu lấp lóa trên những chiếc thuyền lớn kiểu Tây dương đậu san sát bên bờ sông. Họ đã có được mười chiếc thuyền như thế, nhưng vị chúa còn chưa vừa ý. Chúng chỉ là thuyền buôn được cải tạo lại, ngài ta nói. Tuy hiệu năng trên chiến trường cũng không khác mấy, nhưng nhược điểm của tàu thuyền Tây dương cũng rõ lắm. Ta phải cải tạo lại chúng.

Giờ đây, vị chúa đang cho rã một chiếc thuyền Tây dương cũ bên bờ sông. Mảnh xác thuyền còn trơ khung xương và vài cột buồm nổi bập bềnh bên Xưởng thuyền. Ngồi trên đất cùng các thợ mộc, chúa Nguyễn đang vạch những hình vẽ xuống nền cát. Người thợ cả vừa gật vừa lắc đầu, ngón tay trỏ chỉ lên không khí những hình vẽ nào đó. Đủ cả mọi loại người ở Xưởng thuyền, người Việt, người Tàu, người Tây dương, cả dân Ấn Độ với làn da nâu đen. Đứng đằng xa, Phúc Cảnh cũng đang nghịch ngợm với thanh bào trên miếng ván nhỏ, làm rớt xuống đất những cuộn gỗ tròn quăn tít.

Nghe tiếng chàng gọi, vị chúa quay lại. Thậm chí đã cởi mũ ra, chỉ mặc một chiếc áo cánh ngắn, ngài ta trông chẳng khác những người thợ xung quanh.

- Có chuyện gì? – Chúa Nguyễn hỏi và đứng dậy. Nhìn gần, chàng thấy một vết đỏ chạy dọc theo cánh tay ngài ta, như thể một cạnh sắc đã cứa vào.

- Lê Văn Quân ở Phan Rí có tin cáo cấp báo về. Tây Sơn lại tấn công. Ông ấy xin thêm viện binh.

- Khanh có định đi không? – Vị chúa vừa cười vừa hỏi.

- Nếu chúa công thấy cần thiết thì cứ cử thần đi. – Chàng nói, nhìn về phía trước. Nghe như vị chúa vẫn cười.

- Trung quân hiện đang phải làm ruộng, vả lại còn bao nhiêu việc khác. Khanh đang chỉ mang chức Cai cơ, tuy được giữ lại quản Tiên phong dinh nhưng chức vụ ấy khó bảo được người. Đến Phan Rí lỡ Lê Văn Quân lại khó dễ thì phiền.

- Sẽ không như vậy nữa, chúa công. – Chàng ngắt lời vị chúa. - Nếu đó là việc của Tiên phong dinh phải làm thì thần xin làm.

- Còn chị ta? – Chúa Nguyễn hỏi. Chàng im lặng.

Có lẽ chỉ mấy ngày nữa Ngọc Du sẽ sinh. Bà mụ đã được mời đến nhà canh chừng. Họ đã đặt tìm cả nhũ mẫu.

- Thần sẽ cố gắng hoàn thành công việc. – Cuối cùng, chàng nói. Chúa Nguyễn để thoát ra một tiếng cười không rõ buồn hay vui.

- Nếu khanh đã thấy cần làm như vậy thì ta không cản. Việc này cần thiết cho khanh, hẳn thế. Phải, việc này cần cho khanh. Vậy thì chuẩn bị đi Phan Rí đi. Nhân tiện thử nghiệm thuốc nổ mới của chúng ta.

- Thuốc nổ mới? – Chàng hỏi. Xưởng Chu sư đã bắt đầu đi vào hoạt động. Hẳn  vị chúa đang nói tới sản phẩm của phòng chế tạo này.

- Khanh có biết tại sao thuốc nổ của Tàu lại kém hơn Tây dương? Thuốc nổ của chúng ta gồm bột than củi, lưu huỳnh và diêm sinh. Quan trọng nhất là diêm sinh. Chất này thường được người Tàu tạo ra bằng cách hòa lẫn phân dơi với nước, cô đặc rồi sấy khô. Loại thuốc nổ này có nhiều tạp chất nên rất tồi. Trước đây tuy chúng ta có súng nhưng vẫn phải dựa vào hỏa hổ là chủ yếu một phần bởi vì thuốc nổ Tàu không đủ mạnh. Tây dương có mỏ diêm sinh rất tốt, do đó thuốc nổ của họ cháy mạnh hơn, độ nóng cao hơn. Năm rồi ta cho người đến Hạ Châu mua lưu huỳnh, diêm sinh để thử chế tạo thuốc nổ theo cách của người Tây dương. Khanh dùng thử, kết qủa thế nào báo cho ta biết. Diêm sinh mua của Tây dương vẫn đắt, hẳn ta phải tự tìm xem quanh đây có mỏ nào không.

Không nên phụ thuộc vào Tây dương, cũng như bất cứ ai. Vị chúa nói, chống tay nhìn ra bến cảng chen chúc tàu thuyền. Qủa thật Tây dương có những thứ rất tốt, nhưng ta nên tìm hiểu để tự mình làm được tất cả.

Phải tự mình làm được tất cả. Chàng cũng hiểu đó nghĩa là gì. Để chàng đến Bình Thuận lần này, chúa Nguyễn muốn cải thiện hình ảnh chàng trong mắt mọi người. Đây là cơ hội để chàng chuộc lại sai lầm lúc trước. Cơ hội ấy, chàng phải nắm giữ lấy nó.

Ngay cả Ngọc Du cũng hiểu điều đó. Nàng chỉ nhìn chàng, lặng im, rồi bảo cô hầu gái sửa soạn đồ đạc cho chàng. Ngồi trên giường, nàng quay mặt ra phía cửa sổ để mở. Màn đêm đã lại bao phủ bầu trời cùng mặt đất. Mùa thu, nàng chợt nghĩ. Ở Phú Xuân giờ này hẳn nước đã lên trắng đồng.

- Ta sẽ cố gắng về sớm. – Chàng nói. Nhưng nàng chỉ ơ hờ đáp.

- Thế thì tốt.

Kéo chăn lên ngang bụng, nàng nằm xuống nhắm mắt ngủ. Chàng lại về khi trời đã khuya, chỉ để báo rằng ngày mai sẽ ra đi sớm. Nghe như chàng thay áo, rửa mặt rồi khép cửa. Nằm bên nàng, chàng vòng tay định ôm lấy nàng, nhưng nàng đã dịch ra phía mép giường.

- Nàng giận à? – Chàng thì thầm. Nàng vẫn không mở mắt.

- Trời nóng qúa. Anh ngủ đi mai còn đi sớm. Đã bảo cô hầu nấu cơm gói sẵn cho rồi, cầm lấy đem theo.

Nghe như chàng thở ra. Một lúc sau, đã thấy hơi thở chàng đều đặn bên cạnh. Ngọc Du lại mở mắt, dõi nhìn vào bóng tối.

Vậy đấy, nàng nghĩ, tự cười mình. ‘Anh phải chăm sóc chị ta’ cái gì? Cả hai người bọn họ chỉ nói là hay. Mà nàng có lý do gì để nổi giận? Nàng có thể nổi giận? Từ khi biết mình mang thai, nàng cũng đã chuẩn bị sẵn tinh thần để vượt cạn một mình.

Những hy vọng mà bọn họ đem lại cho nàng thật ngu ngốc!

Tất cả những mong chờ và hy vọng đều là ngu ngốc. Nàng sẽ chẳng chờ đợi nữa. Bọn họ muốn đi đâu, muốn làm gì cũng được. Nàng sẽ không quan tâm đến nữa. Nàng đã có đứa con của mình, nàng chỉ cần có thế.

Còn bọn họ, cả chàng nữa, biến mất hẳn cũng chẳng sao.

Không phải là nàng ghét bỏ gì chàng, nhưng nàng đã mệt mỏi. Tất cả đã làm nàng mệt mỏi. Cả chàng. Cả cuộc chiến này. Cả những gì đã làm nàng đau khổ tột cùng vừa qua. Cả những lời hứa của họ. Giờ nàng chỉ thấy lòng mình trống rỗng. Nàng chỉ mong chờ đứa con, từng ngày. Như thể nó có thể cứu được nàng.

Một nơi nào đó trong nàng đang bục ra, rơi vỡ. Nàng thấy điều đó trong bóng đêm. Giờ khắc của thời gian trôi qua trong bóng tối. Dòng chảy, thứ dòng chảy vẫn mải miết trôi. Tiếng động lao xao trong bóng tối. Sự hiện hữu của những điều vô hình hoặc hữu hình.  Tưởng như chẳng còn điều gì có thể làm cho nàng đau khổ hay tuyệt vọng. Chỉ còn sự chuyển động, chảy trôi. Tất cả đang chuyển động đến một nơi nào đó. Một lỗ hổng, một vết nứt, một khoảng trống.

Nàng thấy mình rơi vào nơi nứt vỡ ấy, ngày càng chìm sâu.

Mùa thu năm Canh Tuất, công nương Ngọc Du hạ sinh một bé gái.

Cơn đau đã đến với nàng vào giữa đêm. Người tì nữ và bà đỡ đã chuyển vào ở trong phòng nàng vội vàng sắp đặt những vật mà họ đã chuẩn bị. Bên ngoài, cô hầu mà mẹ nàng gửi tới cho người báo tin về cung. Mắt mờ vì những cơn đau, nàng ngất đi khi tiếng trẻ con khóc vang trong ánh sáng ngày chiếu qua những mảnh gỗ ghép vào căn phòng đóng kín.

Khi nàng tỉnh dậy, trời đã chuyển sang chiều. Có tiếng người nói trong phòng. Tiếng đàn ông, nàng lơ mơ nghĩ. Rất nhiều tiếng nói trong phòng. Tiếng mẹ nàng ngay bên cạnh:

- Con dậy rồi. – Giọng bà mừng rỡ. Sự mừng vui mà nàng đã cảm thấy lạ.

Chớp mắt, nàng nhìn quanh. Từ phi ngồi trên giường cạnh nàng. Cô hầu gái và bà đỡ ôm đứa trẻ bọc trong tấm lụa đỏ đứng sau bà. Trên chiếc bàn giữa phòng, em trai nàng đang ngồi. Nàng nhướng mày trước cảnh tượng ấy, rồi quay lại với đứa con, đưa tay ra hiệu cho họ ẵm nó lại gần.

Đứa trẻ nhẹ bỗng trong tay nàng, thật khác hẳn với sức nặng mà nàng phải trong trong mình mấy tháng ròng, nàng thầm nghĩ. Làn da sơ sinh nhăn nheo nhưng hồng đỏ. Nàng đã thấy nó có đôi môi giống nàng, có thể là cả chiếc mũi nữa. Mắt nó vẫn nhắm, say ngủ. Thấy hơi ấm quen, đứa trẻ cọ má vào tay nàng, miệng chóp chép trong giấc mơ.

- Con bé xinh qúa. – Mẹ nàng cười. Nàng chỉ gật đầu, say sưa nhìn đứa trẻ.

Mất một lúc lâu nàng mới ngẩng lên, đưa đứa con cho bà đỡ đặt lại chỗ nằm. Khi ấy, em trai nàng chợt lên tiếng.

- Chị định đặt tên nó thế nào? – Vị chúa hỏi từ chỗ ngồi lặng im của ngài ta. Nàng nằm xuống, thấy cơn đau dội lên từ khắp thân thể, trong từng tấc da thịt. Bếp lửa để dưới gầm giường phả hơi nóng cùng mùi than sực vào khứu giác khiến nàng muốn ho. Nhắm mắt một lúc, nàng mới mở miệng, nghe giọng nói mình khàn đi.

- Là con gái thì đặt tên là Hoài. – Nàng cười.

- Cái tên ấy không hay. – Em trai nàng nói. Nàng mở mắt nhìn cậu ta.

- Thế nào là không hay, chúa công? – Nàng hỏi. Vị chúa im lặng.

Nàng cười nhạt.

- Chúa công bận thế mà cũng đến đây sao? – Nàng hỏi. Trong cơn đau và khí hậu bức bối khó chịu này, nàng đâm cáu bẳn. Ồ, khói, khói ở khắp mọi nơi. Thanh củi ngu ngốc gài ở ngoài cửa hướng vào phòng. Bếp than dưới giường. Cả một nồi nước đang được đun sôi ở góc phòng. Trong khí trời ngày hạn, trong căn phòng đóng kín cửa, mùi khói làm nàng thấy khó thở.

- Lần đầu tiên được làm cậu, tất nhiên ta phải đi thăm cháu mình. – Người em trai nàng cười. Dường như cậu ta muốn xoa dịu nàng, nhưng nàng chỉ càng thấy nóng nảy.

- Phải, vì hai người trước đã vì ngài mà mất mạng sớm qúa, thật đáng tiếc!

Nàng nghe Từ phi hoảng hốt thở ra, đập nhẹ vào tay nàng. Vị chúa quay sang nhìn nàng, rồi đứng dậy cười.

- Chị ấy mới sinh tâm trạng không ổn định, ta nên ra ngoài vậy.

- Phải, và ngài không cần trở lại đâu, chúa công. – Nàng nói theo bóng người em. Vị chúa cũng không đứng lại. Nàng hướng mắt về phía trần màn, thở dồn. Từ phi vội đưa khăn lau mồ hôi cho nàng.

- Có gì thì cứ bình tĩnh đã, con. – Kinh nghiệm bao nhiêu năm làm mẹ, bà biết nên dỗ dành nàng. Ngọc Du cau mày, nhắm mắt lại. Thẳm sâu, nơi nào đó trong nàng, ước mong được chết trỗi dậy. Ngay tại nơi đây, ngay lúc này. Tại sao, như thế nào mà nàng lại có ý nghĩ ấy, nàng không thể hiểu được. Nàng nắm lấy tay người mẹ, bấu chặt, như thể bà có thể kéo nàng lại.

- Ta đã xin phép chúa công ở đây chăm con và cháu. – Như thể hiểu ý nàng, Từ phi vỗ về. Bàn tay nàng buông lỏng khỏi cổ tay bà.

- Con xấu xa qúa, phải không mẹ? – Nàng nói, đứt quãng. Cơn cồn cào trào lên ngang ngực nàng, nặng trĩu, nhưng không thể thoát ra ngoài. – Chồng con đi đánh trận vì con, chính con đã kéo anh ấy về với đội quân này, vậy thì con oán trách ai được? Con của con chỉ vừa mới sinh, thế mà con lại chỉ muốn chết. Con chỉ muốn chết, ngay lúc này. Như là chỉ cần ngủ đi là kết thúc tất cả. Như là con không thể chịu đựng được sống thêm một ngày nào nữa, thế là sao hả mẹ?

- Các sản phụ thường bị một thời gian trầm uất sau khi sinh, con không phải lo lắng dằn vặt qúa như vậy. – Từ phi vẫn nhẹ nhàng từ tốn nói với nàng. Bàn tay bà âm ấm trên trán nàng. -  Nếu thấy buồn thì cứ gọi người vào chơi đùa, nếu thấy cô độc thì ôm con vào lòng, con sẽ dịu lại thôi. Đây là tâm trạng bình thường của sản phụ, qua rồi là không sao cả. Có mẹ ở đây, mẹ sẽ lo cho con. Con gái của con nữa, nó cần con lắm. Chỉ cần nghĩ như vậy, con sẽ qua thôi.

- Tại sao lại phải sinh nó ra? – Tâm trí nàng đang chìm vào một vũng cuộn xoáy, xáo trộn. Nàng nghe giọng mình từ xa dội lại, mông lung. – Tại sao lại phải sinh ra thêm một đứa trẻ nữa? Nếu là con trai, nó sẽ phải đi đánh trận, sẽ phải lênh đênh phiêu bạt. Nếu là con gái, nó còn khốn khổ hơn gấp nhiều lần. Tại sao phải sinh ra thêm một con người nữa? Tại sao phải thêm một khổ mệnh nữa? Bao nhiêu người đã chết vẫn chưa đủ ư? Bao nhiêu người sẽ chết vẫn chưa đủ ư? Tất cả mọi sinh mạng đều uổng phí cả thôi. Con người. Con người là cái gì chứ? Con người đáng là cái gì chứ? Chỉ cần một ngọn gió lướt qua, chỉ cần một cái chớp mắt, bao nhiêu người đã chết, chết hết. Chẳng còn gì hết. Chúng ta ngay cả phần mộ tổ tiên, cha chú cũng chẳng còn. Chúng ta chẳng còn gì hết. Con sẽ nuôi nó ra sao đây? Nó sẽ thành cái gì đây hả mẹ? Đời nó sẽ thành cái gì đây? Tại sao con lại sinh nó ra cơ chứ?

Nàng nói mà không biết mình đang nói gì. Hoặc là nàng biết. Đó là những gì nàng nghĩ đến khi chợt tỉnh trong đêm, một mình trong bóng tối lắng nghe nhịp đập của một sinh linh trong thân thể. Đó là những gì nàng nghĩ đến trong những ngày dài, nắng qua, mưa cũng qua. Sự sống trở nên phi lý đến không thể chịu đựng được. Không thể chịu đựng được.

Từ phi chỉ nắm lấy tay Ngọc Du cho đến khi nàng dịu lại. Bóng tối đắng ngắt, nặng trĩu tràn mùi khói lại từ từ phủ trùm, xâm chiếm nàng. Nàng lịm thiếp đi.

Khi Từ phi ra phòng ngoài, chúa Nguyễn vẫn đứng bên cửa, cúi đầu đọc một bức thư vừa được gửi tới. Thấy bà, vị chúa cười.

- Vừa nhận được tin Võ Tánh. Bọn họ đã đánh đuổi quân Tây Sơn đến tận Phan Rang rồi. Chúng sẽ không dám đến quấy phá nữa đâu.

Cuốn chiếc khăn lại trong tay, Từ phi không trả lời. Bà chỉ nhìn bóng nắng đang trượt dài sau hàng cây được trồng quanh nhà.

- Phải bao lâu nữa, chúa công? – Cuối cùng, bà nói, vẫn không nhìn vị chúa. – Phải bao lâu nữa? Ngài đã nghe chị ngài nói gì rồi, phải không?

- Nếu có thể trả lời, ta đã là Chúa Trời, kẻ sáng thế rồi. – Chúa Nguyễn bật cười. – Không phải lo cho chị ta, chị ấy mạnh mẽ hơn thế. Chỉ là xáo trộn của sản phụ đấy thôi, Từ phi cũng đã nói thế mà.

- Chị ngài qúa cô đơn, chúa công. – Từ phi nói, nhưng chúa Nguyễn ngắt lời bà. Đứng thẳng lưng khỏi bức tường đang dựa vào, vị chúa đi về phía cửa.

- Rất nhiều người như vậy, nhưng không ai chết. Chỉ khi sống được thì mới có thể nói đến những gì tiếp theo. Sức mạnh ngày xưa của chị ấy đâu rồi? Hiểu biết ngày xưa của chị ấy đâu rồi? Phải sống, trước khi đòi hỏi qúa nhiều. Tình cảm chỉ đang làm chị ấy mềm yếu đi đấy thôi.

Khi Võ Tánh trở lại Sài Côn, đã qua tiết lập đông, sắp đến tiết tiểu tuyết. Trời phương Nam lại xanh ngắt không một gợn mây. Bên kia bờ sông, chàng thấy bóng một chiếc thuyền lạ có phần trên khá giống thuyền Tây dương, cả cột buồm hình vuông và gắn súng thần công, nhưng kết cấu phần đuôi và đầu lại giống như chiến hạm kiểu Tàu. Thành tích của vị chúa, chàng thầm nghĩ. Kiến thức ít ỏi trên những chiếc ghe cũng làm chàng hiểu được ngài ta đã cải tiến phần trên của loại chiến hạm mới theo kiểu Tây dương để đương đầu với sóng to gió lớn trên các vùng biển xa và sâu, trên một nền tảng kết cấu của tàu Hoa Nam để nhẹ nhàng xoay chuyển trên các vùng nước cạn. Không bằng lòng với những gì có được, ngài ta đem tất cả kiến thức phối hợp lại với nhau, quyết đạt được điều mình muốn.

- Ta phải đối đầu cả với những hải tặc Thiên Địa hội, vậy thì không thể chỉ dựa hoàn toàn vào hỏa lực được. – Đón chàng trước cổng thành, nhận thấy ánh mắt chàng nhìn những con tàu, chúa Nguyễn nói. – Tàu hải tặc rất nhanh, lại đông đảo, nếu không đối phó được thì sẽ bị chúng nuốt chửng trên biển. Rất nhiều tàu Tây dương đã bị hải tặc Tàu, Nhật Bản tấn công suốt hàng trăm năm qua. Tàu Tây dương vẫn chưa phải là đối sách tuyệt hảo.

Nhưng ta gọi khanh về Gia Định không phải để ngắm tàu. – Vị chúa vừa nói vừa dẫn chàng vào điện. Quân của chàng đang được các phó tướng đưa đi. – Xiêm La lại hiềm khích với ta, ta phải chủ động phòng thủ trước. Ta đã gọi Lê Văn Quân, nhưng ông ấy cáo bệnh ở lại Phước Hưng.

- Đầu năm nay ta cho Xiêm La gạo cứu đói, thần tưởng mọi việc đã ổn? – Võ Tánh hỏi khi bước vào Phương điện. Chúa Nguyễn lắc đầu.

- Phụ chính của Chân Lạp là Chiêu Chủy Biện oán ta giữ Ba Thắc, dèm pha với Xiêm vương rằng ta ngày càng lớn mạnh, sẽ đánh cả Xiêm lẫn Chân Lạp trả thù xưa. Thế là Xiêm vương nghe lời Chiêu Chủy Biện, định tiên hạ thủ vi cường, diệt ta từ trong trứng nước. Ta đã cho sứ thần sang Xiêm trần tình, nhưng cũng phải sửa soạn phòng thủ trước.

Khanh có chuyện gì với Lê Văn Quân? – Vị chúa chợt hỏi. Chàng lắc đầu.

- Không có gì. Khi thần đến giải vây, ông ấy có vẻ không vui nhưng cũng không gây sự nữa.

- Lê Văn Quân qúa cao ngạo, lần này lại để khanh tiếp cứu, ông ta không thể chịu được đâu. – Vị chúa thở dài. – Lần này ông ta cũng không chịu về, ta đành phải đem quân của ông ta chia ra lo việc vậy. Tiền quân quan trọng đến thế, sao Lê Văn Quân lại có thể khinh suất đến vậy?

- Lê Văn Quân không chịu về chỉ vì không thích thần ư, chúa công? – Trong lời của vị chúa, chàng vẫn thấy điểm kỳ lạ. Chúa Nguyễn nhìn chàng cân nhắc rồi mới trả lời:

- Ông ấy gửi thư cho ta, bảo rằng quan quân tiếp cứu Bình Thuận lại đi cướp bóc của dân, ta nên truy cứu. Thế là ta trách ông ấy sao cứ để bụng chuyện cũ, không mau về mà đối phó tình trạng cấp bách, kẻ thù đứng ngoài ngõ không lo mà cứ hiềm khích nhau. Cùng với trận thua trước, ông ấy chắc sợ ta truy tội nên không dám trở về. Ta đánh khanh có lẽ hơi qúa tay, cả Lê Văn Quân cũng đã biết sợ rồi.

Câu nói cuối được kết thúc với một tiếng cười ngắn. Chúa Nguyễn ngồi xuống sau bàn, đưa cho Võ Tánh một bản chỉ sai được viết sẵn.

- Khanh gọi tất cả phủ binh của Tiên phong dinh trở lại tập dượt, chuẩn bị đối phó với Xiêm La.

Đối phó với Xiêm La. Một lần nữa, Gia Định được đặt dưới tình trạng chiến tranh. Đội quân Tiên phong dinh được gọi về từ Kiến Hoà  lên tới hơn vạn người. Dù đã cố gắng thu xếp nhanh công việc, chàng cũng chỉ trở về nhà khi đã nửa khuya. Mâm cơm vẫn đậy lồng để trên bàn, có lẽ Ngọc Du nghe tin chàng về đã chuẩn bị sẵn. Ngọn đèn đã cháy gần hết. Trên giường, nàng ôm con nằm ngủ, bàn tay con bé đặt lên má nàng. Nghe tiếng động, nàng choàng tỉnh, nhưng không ngồi dậy. Cầm tay đứa bé đặt xuống, nàng nhìn chàng bước đến, qùy bên giường, vén tấm màn lên.

- Đừng làm động nó. – Nàng nói khi chàng chạm tay vào má con. Có ánh nhìn e ngại nào trong mắt nàng mà chàng không hiểu được. Ánh lửa chập chờn không soi tỏ đôi mắt nàng tràn bóng tối.

Chậm chạp, nàng ngồi lên, vấn tóc, sửa lại áo. Diềm chăn cho con kỹ càng, nàng đứng dậy đến mở lồng bàn của bữa ăn đã nguội lạnh.

- Có bánh trôi nước mừng đầy tháng của con, sáng nay mới làm. Anh ăn đi coi như mừng lễ. – Nàng nói, múc chè ra chén. Trong lời nói của nàng, chàng nghe như có vẻ châm chọc. Tuy vậy, chàng vẫn ngồi xuống ăn hết chén chè lạnh chỉ còn thơm thơm mùi gừng. Nàng lại ngồi xuống giường, quan sát chàng bằng đôi mắt đượm chút tò mò.

- Bao giờ anh đi? – Nàng hỏi khi chàng vừa ăn xong. Vẫn là cảm giác giễu cợt lạnh lùng trong câu nói.

- Không rõ. Phải xem tình hình sứ thần qua Xiêm La có thuyết phục được Phật vương không. – Chàng trả lời, đứng dậy cởi áo khoác ngoài và giày. Cả chậu nước cũng đã được để sẵn cạnh giường. Khi chàng vào giường, nàng cũng chỉ ngồi dựa lưng vào đầu giường, nhìn vào đâu đó khoảng nơi tiếp giáp của trần nhà và tường.

- Khi trước Xiêm La đã giết cả nhà Mạc Thiên Tứ, đày tất cả những đứa con nhỏ của ông ấy ra biên ải. Chân Lạp đã giết cả đoàn của Nguyễn Hữu Thụy. – Nàng nói, đều đều. Chàng chống tay nằm xuống, vuốt má đứa con nhè nhẹ. Nó ngọ nguậy nắm tay tí xíu trong chăn. Chàng cười với nó. Khi nhận thư của Từ phi báo tin, chàng đã không ngờ đứa trẻ lại xinh xắn đến thế.

- Nó giống nàng. – Chàng nói. Nàng quay lại. Một nụ cười mệt mỏi đến trên môi nàng.

Phải, đó là điều mọi người đều nói, khi đứa trẻ nhắm mắt. Nó có đôi mắt của chàng. Ánh trong sáng mà nàng không bao giờ hiểu nổi.

Khi nãy, khi chàng chạm vào đứa trẻ, nàng đã muốn gạt bàn tay ấy đi. Bàn tay vừa trở về từ chiến trận, vừa chạm vào những vũ khí mang đầy sát khí. Nhưng nàng đã kịp ngăn mình lại. Đó là cha của con gái nàng. Như mọi người mọi kẻ, mọi thanh niên trên vùng đất này bị cuốn vào chiến tranh. Như một thực tế không thể nào tránh được. Bàn tay đang vuốt ve làn da non tơ của đứa trẻ sơ sinh, đôi mắt ngời sáng và khuôn mặt đầy hạnh phúc ấy thuộc về một người chỉ huy tàn sát trăm ngàn người. Đó là một thực tế không thể nào tránh được.

Rời mắt khỏi đứa trẻ, chàng nhìn nàng. Trong mắt nàng vẫn là sự tò mò, cả xa lạ nữa, như thể chàng là người khách trong chính ngôi nhà mình. Đã bao lâu rồi, chàng tự hỏi. Chỉ vài tháng. Nhưng đó là những tháng quan trọng nhất trong đời nàng cho đến hiện tại. Nàng là một cô gái rất nhiều chông chênh. Vậy mà chàng đã không có mặt để giữ nàng lại. Ngoài những lời trong thư nhắn nàng giữ gìn sức khỏe, chàng chẳng biết viết gì.

Thấy ánh mắt chàng, nàng ngoảnh đi. Sau những cơn xúc động khi vừa sinh, nàng đã dịu xuống. Nó vì con mà ra trận, mẹ nàng nói, và nàng đã luôn biết điều đó. Vì nàng, vì niềm tin của mình, vì điều tất cả mọi người đang theo đuổi, chính nghĩa của họ. Nàng có thể ích kỷ đến thế? Có thể cố chấp đến thế?

Giá mà nàng đủ ích kỷ để giữ được chàng cho riêng mình.

Phải, giá như.

Những khao khát không được hồi đáp, những nguyện vọng không thành sự thật được dồn nén, tích tụ qúa lâu đã trở thành các con sóng cảm xúc trồi sụt liên tiếp trong nàng. Khi chàng trở về, nàng thấy mình mủi lòng, thấy thương chàng lẫn đứa trẻ. Nhưng khi còn lại một mình, nàng sợ, sợ tất cả mọi điều, cả tương lai lẫn qúa khứ.

Nàng không thích cảm giác này. Không một chút nào. Nhưng như mọi khi, như luôn luôn xảy ra, nàng đã không thể thay đổi được.

Chàng nắm lấy tay nàng. Thở dài, nàng nằm xuống. Chàng hôn lên tóc nàng, nghe như cười.

- Nàng thơm như trẻ con.

Nàng bật cười.

- Không phải là mùi nghệ à? Mẹ cho uống nghệ, xức nghệ, ăn nghệ đến nỗi giờ chắc khắp người tỏa ra mùi nghệ rồi.

- Phải, cả chút cay cay đăng đắng nữa.

Nàng ngẩng nhìn chàng. Ôm lấy vai nàng, chàng nhìn qua nàng đến sinh linh bé nhỏ bên cạnh họ.

- Ta rất biết ơn nàng. – Chàng nói. Sau tất cả những gì định nói ra, đây là điều duy nhất chàng có thể thốt lên.

Chàng có mùi của nắng và cát, nàng muốn nói. Những gì đã bị thiêu cháy, phai tàn. Cả trong chàng nữa, nàng cũng thấy sự chông chênh. Trong dòng chảy của bóng tối, nàng thấy mình, cả chàng nữa, đang trôi dạt. Trôi dạt.

Nàng nghe thấy nó, dòng chảy trong bóng đêm.

29

Giữa năm Tân Hợi, Nguyễn Đình Đắc từ Bắc Hà trở lại, mang theo “món qùa” qúy cho chúa Nguyễn: Bức thư của hoàng cô Nguyễn Ngọc Tuyên, hiệu là Vân Dương ni cô tại Phú Xuân. Cử người thân tín vào theo Đình Đắc, hoàng cô đã gửi một bức thư trình bày toàn bộ tình hình Tây Sơn ở phía Bắc, ngay chính trong lòng nội bộ Phú Xuân, kèm theo đó là bản Hoài Nam khúc của Hoàng Quang ẩn sĩ, một sĩ phu lánh thế cuộc ở Phú Xuân. Nghe xong Nguyễn Đình Đắc báo cáo, chúa Nguyễn mới mở bài thơ ra đọc. Một lúc sau, vị chúa cho gọi hai vị Hàn lâm Chế cáo Trịnh Hoài Đức và Ngô Tùng Châu vào, đưa bài thơ cho họ.

- Chúa công, đây là… - Đọc xong, Ngô Tùng Châu ngẩng lên, ngập ngừng. Chúa Nguyễn cười.

- Bài thơ này được làm vào khoảng năm Giáp Ngọ, Tân Mùi. “Bên giềng Bắc đói quên liêm sỉ, em vặn cánh tay anh mà ăn cướp cũng đành. Chốn làng Đông đói hết nghĩa nhân, mẹ cắt miếng thịt con mà đặng ăn nào quản.” chính là những lời đồn đại đã truyền khắp vùng Thuận Hóa. Các khanh khó tưởng tượng được, phải không?

Hai vị Hàn lâm Chế cáo không trả lời, vị chúa ngả người ra lưng ghế, nhìn Trịnh Hoài Đức mà hỏi:

- Bên ngoài nghe tình hình không thuận?

- Vâng, chúa công. – Trịnh Hoài Đức thoáng bối rối. – Mấy tháng qua Gia Định có qúa nhiều xáo trộn. Nghe tin Xiêm sắp sang, Giáp Tri Giáp bị Chiêu Chủy Biện rút về Chân Lạp, Phiên dân ở Ba Thắc lại nổi dậy đánh lũy Trấn Di. Tuy ta đã trấn áp được, nhưng hậu qủa thật là nặng nề. Rất nhiều ruộng và nhà cửa bị đốt cháy, may mà có Thượng sư Bá Đa Lộc can thiệp, nếu không quan quân đã giết cả các tù binh người Phiên. Huy động quân tập trung chuẩn bị đối phó với Xiêm La, lại mua thêm nhiều vũ khí, thuyền chiến, tuy bây giờ Xiêm vương đã rút lại ý định thì số thiệt hại của ta vẫn nhiều. Người Gia Định trước đây phong tục thuần hậu, thuế má dao dịch đều nhẹ nhàng, nay ta bắt họ phải làm việc, phải đóng thêm nhiều thuế nữa, lại thêm chỉnh đốn phong tục, nghiêm cấm đồng bóng, hạn chế con hát, đời sống xáo trộn thì lòng người sẽ sinh bất mãn. Năm nay hạn hán kéo dài, mùa màng không tốt, lại có kẻ bảo rằng do ta trái ý trời. Cùng với Thuận Thành trấn đã thuộc quyền kiểm soát của ta nhưng người Chiêm khó thuận, dư luận đã có nhiều bất lợi.

- Thậm chí có kẻ bảo thà theo Tây Sơn còn hơn. – Chúa Nguyễn cười. – Họ nghĩ rằng thà đánh một trận là xong, hết chiến tranh thì hết khổ, phải không? Ồ, mới chỉ chuẩn bị đánh Xiêm La mà đã như vậy, sau này còn phải đánh nhiều trận khác, không biết họ còn than thở đến mức nào. Cũng vì chúng ta còn qúa yếu nhược nên mới phải qụy lụy Xiêm La, nhượng bộ Chân Lạp đến thế.

- Chúa công, thần nghĩ chúng ta cần một thời gian để ổn định tình hình Gia Định đã. – Ngô Tùng Châu cất lời. – Dục tốc bất đạt, nhất là khi chúng ta có qúa nhiều thành phần dân chúng khác nhau. Gia Định tuy đã dồi dào giàu có hơn trước nhưng chưa đủ cân bằng giữa nhu cầu chiến tranh và đời sống dân thường. Dân chúng chỉ cần trái ý là họ đã có thể nổi loạn.

- Ta biết. – Ngồi thẳng lưng lên, vị chúa đưa tay chỉ về mảnh giấy chép bài thơ mà Trịnh Hoài Đức đang cầm. – Và cũng phải cho dân chúng biết rằng họ nên lựa chọn ai. Đem bài thơ này chép thành nhiều bản, đọc cho các dinh quân trước, sau đó là truyền bá ra ngoài. Nhắc chuyện xưa để nghĩ chuyện nay không bao giờ là thừa cả.

Đó là những gì Trịnh Hoài Đức kể cho Võ Tánh khi đến Tiên phong dinh đem bản Hoài Nam khúc đọc cho quân sĩ nghe. Gật đầu, chàng gọi người tập hợp binh lính đến sân luyện võ. Đứng trên bục cao, Trịnh Hoài Đức đưa mắt nhìn xuống hàng quân lính phía dưới, cất giọng vang vang:

- Xưa đức thánh chúa ta dựng nghiệp ở cõi Nam, trải qua hơn hai trăm năm an bình thịnh trị, nào đâu chỉ vì gian thần lộng hành, triều chính rối loạn trong một lúc mà dẫn tới nhà tan nước mất. Tây tặc lộng hành, người trong Gia Định này đều biết. Nhưng ngày nay lại có người vì chút việc công khó nhọc mà than oán, tặc lưỡi cho rằng chỉ một chút cướp bóc thì thời nào chẳng thế, mồ mả tổ tiên chúa bị quật lên nào có can hệ đến ta, người Minh Hương bị giết chứ nào có quan hệ gì đến ta, thật là thói tham vàng bỏ ngãi, suy nghĩ nông cạn, chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà không nghĩ đến việc sau này, chỉ biết mơ tưởng xa xôi mà không có trí óc suy xét những gì đã từng ở ngay trước mắt. Gia Định với Phú Xuân xa xôi cách trở, việc mọi người chỉ thấy chuyện trước mắt để có suy nghĩ như thế, ta cũng không thể trách. Nay có bài thơ do một xử sĩ vùng kinh đô làm ra, chuyện tuy đã cách mười năm mà vẫn đúng ngay trước mắt, ta muốn cho mọi người cùng đọc. Bao nỗi gian nan, dòng chúa truân chuyên, lòng dân điêu tán, thảm cảnh trong thiên hạ, dưới gầm trời này đều ở trong đó cả. Mong rằng người nghe biết nghĩ về chuyện trước, tưởng đến sau này, ngậm ngùi than cho những gì đã qua mà biết nghĩ cho hiện tại. Chút lòng tưởng nhớ, chúa công muốn chia sẻ cùng muôn dân để thấu tâm can người trên chín bệ.

Nghĩ cơ đồ chúa Nguyễn từ khi vào hai châu Ô, Hóa, dốc lòng lo cho nước cho dân, Bắc cản Trịnh chuyên quyền, Nam mở đường mở cõi. Ngoài biên thu phục Chân Lạp, trấn áp Xiêm La, trong cõi sửa sang phong hóa, đón dân tứ xứ đổ về làm ăn giàu có. Những việc như vậy, đã có mấy đức vương làm được?

“Ăn cơm mới, nói chuyện cũ,

Tưởng cơ đồ chúa Nguyễn thêm thương!

Ngùi ngùi nhớ đức tiên vương,

Công phu chỉ ngõ mở đường vào đây.

Phân cương từ chốn lũy Thầy,

Bắc Nam tương giới nào lay ngọn cờ.

Để phòng chẳng chút vi sơ,

Đã hâm ao nóng lại hơ thành vàng.

Tượng vì trên chúa Đào Đường,

Dưới tôi lại có những trang Cao, Quỳ.

Thang non bè biển đều về,

Có nhân trời đất cũng vì nữa ai.

Dây dưa truyền đã bảy đời

Kiệm cần còn hãy đội trời Thang, Văn

Tám truyền mới đến tiên quân,

Đai cân mới đổi, áo quần mới thay.

Một trường lễ nhạc xum vầy,

Tranh treo thế giới gấm xây cung thành.

Đâu đâu hòa chẳng đua tranh,

Cửa quyền tía đỏ, lều tranh ỷ - là

Ngậm cơm vỗ bụng đều ca,

Nhìn xem Nam Việt ngỡ là Đường Ngu.

Âu vàng vững đặt mấy thu.

Ở ăn nào có lo âu sự nghèo.”

Vậy mà,

“Trách vì quốc phó họ Trương.

Chánh quân khéo khéo chẳng nhường Y Châu.

Của dân muôn một mình thâu.

Như sành còn hãy rán dầu cho khô.

Muôn chung ăn tưởng chửa no.

Cùng loài hãy muốn lên gò cho cao.

Một đoàn phú quí xôn xao.

Trâm anh còn bú, đài bào còn mem.

Trong triều hòa những con em.

Có ai mà lại nghi hiềm dạ ai.

Đua nhau ăn uổng cơm trời.

Cạn đường thịt chạy nhuận vời thây đi.

Cho hay Thuấn đã qua kỳ.

Tài dầu chẳng sánh Cao Quì cũng dâng.

Của tiền thì đặng trí thân.

Thiếu tiểu tu cần, dầu học chí nên.

Mãn triều chân tử vẻ vang.

Đều những đọc tiền, nào thấy đọc thơ!

Học trò là báu nước nhà,

Non cao hang thẳm tiếc đà bỏ rơi.

Há rằng chẳng có bảng trời.

Thi tiền thì đỗ, thi tài thì bay.

Anh hùng khó chịu chau mày.

Nhà giàu con trẻ lướt mây thè lè.

Có ai bưng bít chẳng nghe.

Đã chăn sao để trâu dê gầy mòn.

Nỡ tàn cỗi nước chẳng vun.

Ngọc vàng con hát. Lấm bùn thằng dân.

Ăn chơi cho sướng cái thân.

Béo mình những tưởng, ốm dân chi sờn.

Lấy ai cứu chúng lầm than ?

Nóng nuốn thêm nóng, sâu càng thêm sâu.

Hãy còn hối lộ tham cầu.

Trút hờn dưới thẳm, chồng sầu trên xanh.

Có phen Bạt quỉ hiện hình.

Ba đông rực rỡ trên nhành trổ lam.

Có phen chan chứa nguồn tham.

Lụt dẫy hàn đàm, nước đục dòng Xuân.”

“Trách vì phụ tá chẳng hiền.

Lợi tai vui mắt, lại quên sự nghèo

Rõ ràng lỗ miệng khéo thêu.

Áo che việc dữ, bia treo sự lành.

Khiến trên ngăn lấp thánh minh.

Ấu sung nào biết bất bình lẽ chi.

Đua nhau quấy rối triều nghi,

Kiếm đồ ngoạn bảo dị kỳ dâng lên.

Nào hay thuốc độc bề trên.

Mê tâm không tưởng nước nên sự nghèo.”

Tây tặc lấy cớ ấy mà nổi dậy, binh triều không đánh đã thua.

“Kể từ Ất Dậu lâm triều.

Rồi qua Quí Tỵ chúc nghèo chín năm.

Giặc dân nổi dậy xứ Chiêm.

Tây Sơn Biện Nhạc nghĩ cầm Võ Thang

“Phù minh diệt ám” tiếng vang

Đã liều búa sắt, gươm vàng quản chi.

Trong non khói lửa đen xì

Cờ thì treo áo, binh thì rút cây.

Rủ nhau chuột lũ cáo bầy

Vuốt nanh khách khứa, cánh vai buôn bè.

Nực cười châu chấu chống xe

Những ngờ chấu ngã, ai dè xe nghiêng.

Lớn oai sao nó chẳng kiêng

Đầu còn chó gặm, sau liền kình ăn.

Tới đâu ngọc thạch câu phần

Than rằng Thăng, Điện ấy dân tội gì?

Triều đình xa dễ chẳng nghe,

Đã đành đuổi cáo muôn què nhọc khua.

Há không lương sĩ cù cù

Bởi vì ngọng miệng xôi chùa tham ăn.

Há không lúa thóc đầy căn

Ba quân đánh giặc phải ăn cơm nhà.

Há rằng chẳng sắc can qua

Can qua sắc nữa, ai hòa đánh cho.

Chẳng nài trăm trận đều thua

Miễn là đắc thắng đầy kho bạc vàng.

Tinh binh đồn thủ Phấn Dương

Đem binh lão nhược lót đường Tây Sơn.

Ải ngoài sai chúng khó khăn

Góc nhà đồn thủ về phần cháu con.

Trận bày dưới biển trên non

Vầy dân tiền của đắp đồn miễn hơn.

Khéo là đành dạ bất nhân,

Một mình muốn sống, muôn dân nỡ hoài.”

“Sinh loạn vì ai trước mượn tay,

Kinh doanh gã Nhạc có tài hay

Thả mồi tặc tử câu binh Bắc

Mượn lưới Hoàng tôn bủa cõi Tây.

Nếm mật ba dinh thù hãy đắng

Ăn gừng hai xứ oán còn cay.

Bạo tàn sao chẳng soi gương Hạng

Nước đỏ Ô giang khó vớt thây.”

Bắc Hà quân Trịnh lựa thế Đàng Trong rối loạn mà lựa chiều “Ngư ông đắc lợi”. Chúa phải rời khỏi Phú Xuân, bỏ lại cơ đồ liệt thánh, tấm lòng quan hoài tưởng sao cho xiết.

“Thơ thôi chạnh tưởng bơ vơ,

Một mình thân chúa ấu thơ biết gì,

Ải Vân thăm thẳm ra đi

Biết ngày nào lại trở về kinh đô?

Nỡ tham chốn khác quê mô

Xui cho chim Việt ngựa Hồ sao nên.

Giang sơn một gánh xuống thuyền

Cơ đồ để lại giữa miền Phú Xuân.

Kêu sầu mấy tiếng trống quân,

Nào còn nhạc rối đòi lần như xưa.

Cấm cung là chốn vua ta

Kìa gươm ai dựng nọ cờ ai treo?

Của kho lấy hết bao nhiêu,

Ấy rơm thay bạc, ấy rêu thay tiền,

Than rằng gác phụng đài tiên,

Chớ nào hương xạ bỗng liền tanh hôi.

Bốn bề nhạc ngựa, chuồng voi

Kìa cung đế tử, nọ chòi chinh phu.

Lạnh lùng tám cảnh năm lầu,

Phòng hương đóng thảm, rèm châu rủ hờn.”

Muôn dân khổ chiến tranh, ngoài thì Trịnh, trong thì Tây tặc đương đầu, mùa hạn năm ấy tình cảnh thê lương khôn tả. Thăng Bình, Điện Bàn người chết đầy nội, thây chất thành non.

“Cơ hàn cực nỗi muôn dân

Gạo mua bạc nén, cá cân tiền đồng.

Một ngày ví bẵng ba đông.

Muôn ngàn cũng hết tay không thế nào?

Gạo ăn cũng ví trời cao,

Một tiền một cáp gạo sao cho đầy.

Nghĩ nào ăn đắng nuốt cay

Năm tiền chưa đặng đơm đầy bát cơm.

Hương hoa hưởng lấy mùi thơm,

Ước ăn no dạ biết làm chi ra?

Bao nhiêu súc tích của nhà,

Ngàn vàng mua sống miễn qua một ngày.”

“Cách sông hờn thảm mấy thôn,

Khói tiêu trăm bếp bụi hun muôn nồi.

Vực cồn dễ khiến xa bồi

Bèo tan thân thế, thuyền trôi ân tình.

Kêu tường luống thấy yếu anh,

Cỏ loạn thị thành rêu lấp thôn gia.

Đường đi nào thấy người ta,

Chim là trăm họ, cỏ là muôn dân.

Cơm chan nước mắt mà ăn.

Thân người nào khác ví thân muông mèo.

Lỡ đời tấm mẳn làm yêu

Khi mua đứng bóng xế chiều đặng đâu.

Lọ là củi quế, gạo châu,

Ấy khoai là bạc, ấy rau là vàng.

Thiết thân đói khát trăm đàng.

Nào ai có biết hổ hang lẽ gì.

Cha con cũng bỏ nhau đi,

Vợ chồng nào tưởng xướng tùy là đâu!

Há rằng tình chẳng thương nhau,

Nhất chiêu bất thực có câu vô nghì.

Kẻ nào gắng đặng thì đi

Vong hương thất thổ quản gì tấm thân.

Kẻ nào già yếu lỡ lần,

Đã đành thác trẻ ngã lăn rãnh ngòi .

Đói lâu nhọc cốt, nặng hài.

Người ăn thịt người trời đất thấu chăng!

Sinh dân ví chẳng đạo hằng

Lộn đời súc vật, thì rằng cho hay.

Ai làm nên nỗi nước nầy

Non xương chất thảm, dòng thây trôi hờn.”

“Có ai hầu lại quách quan?

Dưới phần bụng cá, trên tan mỏ diều.

Thác thì ra đất đã liều,

Sống gẫm nhiều điều thực khó nói năng.

Thác yên, sống đã thuận chăng?

Vì ai nên nỗi bất bằng hỡi ai?”

“Hỡi ôi!

Sống thác đã hay rằng phận, ưng thà ưng cho hết thửa nhân tình;

Cơ hàn cực nỗi thiết tha, trách bấy trách lầm khi loạn lạc.

Nhớ chúng cô hồn xưa:

Trăm thợ trổ tràng;

Ngàn năm xây tạc.

Quảng Nam trời đất rộng, dễ ai dành phong nguyệt sinh nhai;

Thuận Hóa nước non thanh, mặc vui thú giang sơn đồ mạc.

Trời xuân đã thấu lên đài;

Cõi thọ đều mừng đến vực.

Những tưởng nghèo cho yên phận nghèo, khó cho yên phận khó, ngõ nhờ bốn thú làm ăn;

Chẳng may vận khéo xui rối vận, thời khéo xui rối thời, đoái thấy bốn bề nổi giặc.

Cám thương không xiết nỗi thương;

Đến thác chẳng yên phận thác.

Hoặc ở chiến trường mà nằm trong kiếp lược, thảm chưa tàn ngọn lửa Tây Sơn;

Hoặc sa trận thế mà lụy phải tồi tàn, sầu còn dọi lưỡi gươm Bắc tặc.

Hoặc chịu cơ hàn mà cả trách trời xanh;

Hoặc đã muối dưa mà chẳng qua ngày bạc.

Trôi gành tấp bãi, thây oan khắp bến lênh đênh;

Bỏ quán nằm cầu, xương trắng đầy đường ngan ngát.

Hồn còn chôn bụng cá, lòng sông;

Phách hãy dọi chân diều, mỏ ác.

Cốt hài rơi hãy đó, luống đeo sầu ngọn cỏ, hạt sương;

Thân thích đoái còn ai hầu phỉ đặng vò hương bát nước.

Phải ta đặng cầm cờ Cấp Ảm, thà chịu tội kiểu chiếu mà phát kho;

Phải ta đặng phò giá Võ vương, cũng tán của Lộc Đài mà làm phước.

Kẻo chịu gió tối phất phơ.

Kẻo chịu mưa mai lác đác.

Ôi! Một thủa đổi dời;

Nghìn năm chếch mác.

Thang bắt loạn kham trách họ Trương.

Cờ xướng nghĩa ngậm hờn thằng Nhạc.

Đau lòng không ráo mắt, thấy xương da bỏ chốn rãnh ngòi.

Ngưng trán đổ mồ hôi, không quan quách phải dùng bó vác.

Đất một thỏi, đem vầy phong táng, lõa lồ kia kẻo thấy chẳng đành;

Rượu ba tuần, rầy tạm tế nghi, anh linh nữa xin nguyền thỏa chước.

Nay cáo.”

Tình cảnh ấy, chỉ trong mấy câu mà thấy được:

“Thương đời loạn, thương đời loạn.

Chẳng qua thiên ý đành xui;

Hay nỗi nhân mưu thất toán.

Năm Quí Tị tháng chín, tai mới nghe Tây giáp lộng trì;

Sang Giáp Ngọ tháng năm, tờ lại thấy Bắc Hà phản gián.

Ngỡ như năm trước, nói vậy lại qua;

Ai ngờ phen này, tưởng thôi hóa hẳn.

Cửa lũy Thầy sắt mà mọt; hai mươi mốt tháng chín, bỗng đà binh pháp thẳng xông.

Thành Phú  Xuân vàng mà phai; hai mươi tám tháng chạp, phút thấy điện đài vi soán.

Cám thương sự nghiệp sinh sơ;

Xiết nỗi chúa tôi ly tán.

Mồng bốn tháng giêng mới chạy, quân bỏ thuyền, đều lấy bạc vàng

Nghìn ngày nợ nước bỏ quên, tôi bỏ chúa, lánh vòng tên đạn.

Tưởng nhiều người hưởng thủa thái bình;

Đặng mấy kẻ cùng khi hoạn nạn

Ăn cây nào rào cây nấy chẳng thấy ngoan dân nhà Châu;

Đặng buồng nọ bỏ buồng kia, đều những Đinh công nhà Hán.

Ắt khéo là kinh thảo thủa tật phong;

Ắt khéo là thành thần khi bản đảng?

Kia Điền thị đem về Tề địa, thế đã nghiêng hơn bảy mươi thành;

Nọ Doãn Công bền giữ Tấn Dương, thành chẳng lụt còn ba tấm ván?

Huống chi bảy phủ hãy còn;

Trách bấy một người chẳng dạng.

Son nỡ để cho phai thơ;

Thiết nỡ xui cho mục khoán.

Cám cảnh thay!

Ao lệch vạc nghiêng, thành xiêu ngói tán.

Chốn Tiêu Tương tám cảnh, chẳng còn nghe dõi ca phụng, nổi thuyền rồng;

Miền cung cấm chín trùng, luống những thấy phất cờ lau, bày trận nhạn.

Đoái chếch mác ghê đàng;

Tưởng xót xa đòi đoạn!

Nhà tôn miếu tan tành đồ trọng khí, chếch vò hương, nghiêng bát nước đổ bàn thờ;

Chốn phủ tàng thâu góp của danh lam, những xanh vạc, lại đồ đồng thôi rổn rảng.

Ấy xã tắc xiết chi là khưu khư.

Ấy sinh dân xiết chi là đồ thán!

Gẫm lẽ thiệt “hoán chủ giàn, tan con nghé” ai ngờ ta không thửa mẹ cha,

Tủi thân hư “như con cá bỏ giỏ đơm” ai ngờ ta khác chưng thổ sản.

Chỉ huy cờ đã về tay;

Sinh sát đao cầm đằng cán.

Mõ thâu đêm mấy đoàn kẻ cướp, thương hỡi thương, giàu súc tích chẳng đặng ăn.

Gạo năm tiền một chén hẩm hiu, thảm bấy thảm, bạc tiền đồng thời mới bán.

Lấy chi dưỡng sức cầm hơi;

Luống những ngóng đầu chau trán.

Nhà ở cùng cây cỏ ở, chốn thị thành bỗng hóa rừng xanh;

Người ăn như chó mèo ăn, vật tấm mẳn xem bằng vàng gián.

Nếu nói ra thì nước mắt nhỏ sa;

Nếu kể đến thì lòng thương khôn giãn.

Nhà nuôi bữa, kể hồn không kể xác, khổ não thay! Cá lượng vảy, thuốc lượng điếu, củi bán cân;

Chợ mua tiền, thấy tốn chẳng thấy ăn; tha thiết bấy! Bánh bán lá, khoai bán xâu, cơm đóng oản.

Nghĩ nào uống khát ăn thèm;

Khôn bấy nằm cầu ở quán.

Kẻ già yếu, thác lăn ngòi rãnh, xương trắng quận Hà Đông;

Người thất thơ, đi bỏ quê hương, cỏ xanh miền Nam Giản.

Nỗi ái ưu đã rối dạ rối lòng. Niềm cốt nhục cũng hết ngoan hết ngoãn.

Bên giềng Bắc đói quên liêm sỉ, em vặn cánh tay anh mà ăn cướp cũng đành;

Chốn làng Đông đói hết nghĩa nhân, mẹ cắt miếng thịt con mà đặng ăn nào quản.

Cỏ rau trăm họ sắc xanh lè;

Vượn hót muôn dân hình quái đản.

Giữa chợ đói nằm thắt thẻo, người rằng: ông ngày trước mới thấy dù, võng, xiêm, đai;

Bên đường rách chịu xơ vơ, kẻ rằng: bà ngày xưa mới thấy xuyến, hoa, hột, noãn.

Dân đời loạn lạc, từng nghe chép để trường biên;

Sinh thủa hiểm nghèo, so lại hơn trong truyện vãn.

Cơm cháo đắng, lấy cỏ rau làm ngọt, bòn non, non đã trọc tròi;

Mắm muối không, lấy nước mặn làm ngon, múc biển, biển đà quá cạn.

Thủa bình thường đói chịu đã cam;

Ngày tết nhất “no” thêm quá ngán.

Cửa rước chúa xuân buồn dược dược; nào cây nêu, cây mía, những tiếng pháo tiếng đu;

Bàn thờ ông vải chạnh khuâng khuâng; nào miếng bánh, miếng nem, những cơm lương cơm phạn.

Chúa xa xôi có thấu chăng là;

Dân loạn lạc no nao đặng chán!

Nắng đã trưa, mà mù còn tối, ấy là người phải đao thương mà khô cốt sầu bi;

Trời chẳng động, mà sấm cứ kêu, ấy là kẻ chịu sống cơ hàn mà u hồn ai oán.

Kể sao cùng muôn việc thảm thương;

Trông cho đặng mặt trời bảo noãn.”

Giọng Trịnh Hoài Đức không cất cao, chỉ vừa đủ vang trên khoảng sân rộng. Giọng đọc này cũng giống như khi anh ta đọc thơ bên bờ sông Tân Bình đêm nọ, mang sức cuốn hút kỳ lạ của nỗi bi thương. Ngồi xuống bục cao để tầm mắt vừa với quân lính đứng trên sân, anh ta chậm rãi đọc từng câu, nhấn nhá từng đoạn. Đọc hết đoạn thơ, vị Hàn lâm Chế cáo này dừng lại nhìn khắp cả mọi người.

Gấp cuộn giấy vào trong tay, Trịnh Hoài Đức đứng lên, cao giọng:

“Gẫm xem thiên mệnh nhân tâm,

Chuyển hoàn sự ấy, há lầm ngưu ngư.

Làm chi nên nỗi ngất ngơ

Vì dân thì phải khu trừ loài gian.

Tấm lòng hương lửa chưa tàn,

Lạy trời chớ phụ, xin ban mười nguyền.

Một nguyền các đạo tương liên,

Ba ngàn đồng đức hiệp miền Mạnh Tân.

Hai nguyền ứng thiên, thuận nhân.

Ngôi chánh bắc thần trước lập Hoàng Tôn.

Ba nguyền sĩ tuyển tài khôn.

Can nghe, kế dụng, chớ mòn tấc phân.

Bốn nguyền cờ dựng nghĩa nhân.

Đến đâu chớ phạm của dân thu hào.

Năm nguyền nghịch đảng rủ nhau,

Bạo tàn thì chết theo sau thì đừng.

Sáu nguyền an nghỉ Điện, Thăng.

Chiêu về trăm họ, nghiệp hằng đặng lo.

Bảy nguyền khử chúng tham ô,

Chớ còn nổi giặc để thù muôn dân.

Tám nguyền rộng bủa lưới nhân.

Khắp thâu hào kiệt trong trần chớ rơi.

Chín nguyền quan ải trùng khai,

Mở đường thương lữ trong ngoài chầu vua.

Mười nguyền đem lại đế đô,

Xe thơ một mối cơ đồ muôn năm.”

- Một nguyền tập hợp con em đất Bái. Hai nguyền lập chúa thánh minh. Ba nguyền mưu sĩ phu tử hợp về. Bốn nguyền dựng cờ nghĩa nhân mà thu phục thiên hạ. Bảy nguyền chỉnh đốn triều cương. Chín nguyền thương buôn khắp thiên hạ đổ về. Chúng ta đã làm được những điều đó. Nhưng người đã chết có được an nghỉ hay không, nghịch đảng tàn bạo có bị tiêu diệt hay không thì phải trông chờ ở các hào kiệt trong thiên hạ đồng lòng chung sức. Cơ đồ muôn năm phải do chính chúng ta xây dựng. Tình cảnh khắp nơi loạn lạc ấy tưởng mọi người đã nghe đã hiểu. Trước cảnh tượng ấy, chúa ta lòng đau khôn tả mà quyết chống Tây tặc đến cùng, không phải chỉ vì chút danh lợi cho riêng mình mà gian khổ bao phen. Tấm lòng người với lê dân chỉ có đất trời thấu hiểu. Chúng ta sinh ra trên đời cũng đường đường là một đấng nam nhi, lấy nghĩa làm trọng, lấy giang sơn làm chí hướng, nay chẳng lẽ thấy bạo tàn không ra tay nghĩa hiệp, thấy nước loạn không góp phần chỉnh đốn?

Việc xưa nhắc lại, muôn nỗi thảm thương. Việc nay nghĩ về, thêm phần quyết đoán. Huống chi kẻ bạo tàn kia có chịu nghỉ ngơi, miền biển Bắc tập hợp đám Tàu Ô thổ phỉ quấy nhiễu dân gian, phía biên Tây đem quân cướp phá kết hờn Vạn Tượng. Điêu linh mấy nỗi, chiến tranh dai dẳng, đem thây trăm họ làm công một người. Tình cảnh ngày xưa mà đến nay vẫn mới. Thời loạn muôn dân chịu khổ, chỉ khác chúa ta có lòng thương trăm họ mà nhẫn nại lo lắng cho đầy kho thóc muôn dân, phải đâu kẻ tham sự chiến tranh vắt kiệt cùng sức lực người người, dẫm đạp lên mạng người mà cố đánh. Vần thơ xúc động tâm can, chuyện đã hơn chục năm mà nhắc lại vẫn còn nghẹn ngào muôn nỗi. Đem cho mọi người ngẫm ngợi để hiểu được chúng ta chiến đấu vì lẽ gì.

Thù nhà nợ nước, vì lê dân trăm họ mà khu trừ loạn đảng, vì oan hồn đã mất của lương dân hiền thánh mà báo thù. Đâu phải vì ham sự chiến tranh, đâu phải vì say uống máu người. Cực nhọc của muôn dân lẽ nào chín bệ rồng không hay biết, nhưng bản thân cũng sớm khuya cực khổ, nếm mật nằm gai có dám kêu ai? Thân tướng lĩnh liều mình nơi đạn lửa lẽ nào chúa không thấy tiếc thương, nhưng bản thân cũng mấy lần thoát chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc, đồng cam cộng khổ lẽ nào người không thấy? Mấy chục năm loạn liên miên không dứt, nước thì chiến trường khắp chốn, huyện thành thì trộm cướp khắp nơi, cuộc sống yên bình lẽ nào không ai từng mơ mộng?

Dân vi qúy, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Dân là qúy nhất, xã tắc chỉ đứng thứ hai, vua chúa là phụ. Loạn lạc liên miên, sinh dân đồ thán, bậc anh hùng phải ra tay dẹp loạn, đem hạnh phúc cho lê dân. Quân tướng một lòng, chúa tôi cộng sức, ngày thái bình mới mở ra trước mắt. Mà thảm cảnh ngày cũ mới không có nguy cơ tái hiện.

Đứng chếch đằng sau Trịnh Hoài Đức ở góc bục cao, Võ Tánh lặng lẽ quan sát chàng thanh niên này diễn thuyết trước đám đông quân lính lặng phắc ngồi ở dưới sân. Sức hút, anh ta có một sức hút kỳ lạ mà chàng chưa từng thấy trước đây. Hơn hai năm trong quan trường, lăn lộn trong những xóm làng phương Nam với đủ mọi loại người đã rèn dũa anh ta trưởng thành. Đem ba tấc lưỡi thu phục thiên hạ, vị chúa từng bảo họ. Ngài ta đã rèn luyện các thư sinh này thành như hiện tại.

Tốt hơn hay xấu hơn, chàng không biết.

- Anh có vẻ vất vả qúa. – Chàng nói khi họ đã ngồi trong quán rượu bên sông quen thuộc. Trịnh Hoài Đức ngả người dựa vào tấm ván gỗ sau lưng, nhắm mắt mà bật cười.

“Giải lan vị vấn anh trần khách,

Ngũ đẩu như hà tửu nhất chung?”

- Mấy tháng vừa rồi thật là loạn. Chỉ một tên Chiêu Chủy Biện mà làm rối loạn cả Gia Định. May mà Tây Sơn hồ đồ không biết lượng tình thế, đưa quân sang cướp phá Vạn Tượng rồi bị đẩy lui, Vạn Tượng bắt được tù binh của chúng gửi sang cho Xiêm vương, Xiêm vương mới nghĩ lại. Dù gì kẻ thù của Xiêm vẫn là bọn Tây Sơn. Đến Gia Định thì chúng đánh Chân Lạp, đến Bắc Hà thì chúng quấy nhiễu Vạn Tượng, Xiêm vương thấy ta dù sao cũng có thể hòa hoãn hơn chúng. Nhưng loạn từ người Miên lan ra, quân tướng các anh lại chẳng biết xử lý tình thế, suýt chút nữa thì hỏng cả.

- Nguyễn Phúc Hội và Nguyễn Văn Trương đến tiếp viện cho Trương Phúc Khoa. – Võ Tánh nói. – Nguyễn Phúc Hội vì việc lăng mộ các chúa mà qủa có hơi nóng nảy.

- May mà có Thượng sư. – Trịnh Hoài Đức cười. – Ông giáo sĩ ngoại quốc ấy lại hết lòng vì chúng ta, nghĩ cũng hay. Nhưng ông ấy đúng là người Tây dương, kiêu căng ngạo mạn khinh suất qúa lắm. Ba lần bốn lượt ông ấy thúc chúa công ra quân. Nhưng chiến tranh lúc này chẳng có lợi gì cho ta. Ngoài thì Xiêm La chờ chực, chỉ cần ta phát lệnh tiến quân là nhảy vào ăn hôi. Trong thì Gia Định bất an, đám người đói kém ở Thuận Hóa đổ vào sinh sống tuy có tăng lao động nhưng cũng đầy bọn trà trộn. Anh có nghe chuyện bọn gián điệp của Nguyễn Nhạc giả bị người Tây dương phù phép mà hô hoán mê hoặc dân chúng chứ? Chúng định biến người Tây dương thành “bọn qủy trắng” trong mắt người dân, và những gì chúa công đang làm là phù phép của qủy. Với đám dân mê tín của ta, thật chẳng biết phải làm thế nào để bọn họ tỉnh ra.

- Tôi lại nghĩ bắt được bọn gián điệp ấy thì tốt. Cho người Tây dương thấy rằng đám người ở phía Bắc chẳng dung nạp họ, họ chỉ có thể được chúa công ưu đãi.

- Chỉ được chúa công ưu đãi mà thôi. – Trịnh Hoài Đức nhếch mép. – Cả xứ sở này chắc chỉ có vài người như chúa công, trừ người Gia-tô giáo. Mà cả các giáo sĩ Gia-tô cũng ghét đám thủy thủ này, họ gọi đám thủy thủ là “đồ đệ của Vôn-te”, sống qúa thác loạn. Có phải vì thân cận với Bá Đa Lộc từ nhỏ mà chúa công có biệt nhãn với đám người này chăng? Xưa nay người Tây dương qua lại nước ta luôn luôn, nhưng ngoại trừ việc mua bán kiếm lợi, không ai muốn thân cận với họ. Bây giờ thì chúa công đi đâu cũng có họ bên cạnh, lại khuyến khích họ cưới vợ Việt. Ngài ấy đọc sách của họ, học theo họ, thậm chí mua vải vóc đồ dùng của họ, thanh gươm ngài ấy mang cũng là thép của Tây dương, thuốc ngài ấy uống cũng là thuốc Tây dương. Chẳng trách Tây tặc rêu rao lên là ngài bị đám qủy Tây dương mê hoặc.

- Nói một cách nào đó cũng là “mê hoặc” thật chứ. – Võ Tánh bật cười. – Ngài ấy từng nói muốn hướng cả Nam Việt ra biển, sẽ đóng những chiếc thuyền hoàn toàn theo mẫu Tây dương để hướng ra biển. Chúa công nói hãy nhìn gương Trần Văn Học, ông ấy lênh đênh vài năm ở ngoài biển rồi học được đủ mọi thứ, đo đạc địa đồ, thiết kế công trình, tiếng La-tinh. Cả Sài Côn này cũng được sắp xếp theo lối đường phố Tây dương.

- Phải, đó là điểm kẻ thù dựa vào để rêu rao bêu xấu chúng ta, mà đám dân chúng cũng bất mãn. Ngay cả không như thế, qúa thân cận với những kẻ ngoại quốc, nhất là ở địa vị của ngài ấy, cũng không tốt. Những kẻ ngoại quốc, dù là Chân Lạp hay Xiêm La, Hồng Mao hay Lang-sa, cũng đều như nhau. Họ có Tổ quốc của mình, có quyền lợi riêng của mình và có cả tham vọng riêng của mình. Việc can thiệp vào văn hóa sẽ dẫn đến can thiệp về ý thức, rồi chính trị. Anh có biết lý do tại sao Bá Đa Lộc vất vả như vậy để ký được hiệp ước rồi không được thi hành? Vì Phú Lang Sa không muốn đưa quân đến đây, khi mà Anh Cát Lợi, Ô Lan đã chiếm cứ Mũi Hảo Vọng, Hạ Châu và Ấn Độ, kiểm soát con đường đến Á châu chúng ta. Phú Lang Sa sợ đưa quân đến thì khi có chuyện không thể rút về. Nhưng điều đó cũng cho thấy, nếu đặt được chân lên nước ta, chúng ta sẽ biến thành địa điểm chiến lược của Phú Lang Sa, một Ấn Độ của biển Đông. Mà Ấn Độ thì đã bị Anh Cát Lợi kiểm soát hoàn toàn, Pháp chia một phần, Ô Lan chiếm thêm phần nữa. Các đảo quốc ngoài biển đã bị Tây dương chiếm giữ, chúng ta đi đâu cũng thấy họ, anh có thấy? Chúa công học hỏi họ thì học, đừng nên thân cận. Nhìn Bá Đa Lộc đã làm gì với công tử Cảnh thì biết. Người Tây dương tham vọng khôn cùng, giao triều chính vào tay họ thì nguy.

- Anh cũng nói với chúa công như thế?

- Tôi bảo, đất nước này có Thiên tử chứ không có Phật vương, vì trời bao gồm vạn vật mà thánh thần thì chỉ có một. Ngay cả vua Lý, Trần thờ Phật đem làm quốc giáo cũng không thể bắt ép người khác phải theo. Chúa công đại diện cho muôn dân thì nên tìm sự ủng hộ của số đông, nhìn thái độ của người khác. Dân ta dân trí không cao, lý trí không vững, chỉ tìm sự an ủi, trốn tránh nơi thần thánh, phung phí thời gian, tiền bạc trong những tập tục mê tín vô tích sự, mà những kẻ lười biếng cũng dựa vào lòng tin ấy trục lợi cho mình. Tuy vậy, vua chúa cũng nên uốn mình mà đáp ứng họ, từ đó cải tạo lại tất cả từ từ. Bỏ Phật, Lão để rồi theo Thiên Chúa thì cũng như nhau. Không trừ dứt được căn bệnh nhu nhược, tín điều, thần thánh hóa mọi sự trong dân gian thì người dân chẳng bao giờ khá lên được.

- Vua chúa phải uốn mình theo dân, anh nói thế thật à? – Võ Tánh cười. Trịnh Hoài Đức nhìn chàng, rồi mỉm cười mà nhìn theo cành cây trôi trên dòng nước, vướng vào đám rau muống xanh ngắt bên bờ sông.

- Người ta thường lầm lẫn rất nhiều về những kẻ lãnh đạo mình. Họ cứ mong chờ ai đó hiểu được họ, vì họ mà làm việc, đại diện cho họ mà đưa ra yêu sách, nghĩ tới họ mà làm lợi. Thế là họ nghĩ rằng có ai đó giống họ, ai đó xuất thân cân bằng với họ, ai đó yếu nhược như họ thì tốt. Phải, đó là suy nghĩ của kẻ yếu nhược, kẻ bị mặc cảm về xuất thân và thân thế, vị trí hành hạ, làm tầm nhìn bó hẹp lại. Họ không nghĩ ra rằng địa vị không bắt nguồn từ thân thế, vạn sự khởi đầu đều từ một gốc. Họ không nghĩ ra rằng những kẻ khi đứng ở vị trí khác họ thì cũng trở nên khác họ. Họ không nghĩ ra rằng chẳng có ai đại diện cho họ cả, chẳng có ai đại diện cho kẻ khác được, không ai. Họ cứ giữ cái suy nghĩ như với thần thánh, như với những gì họ thần tượng, suy tôn. Đó là cái hại của thói thần tượng, cái hại của Dương, Mặc. Họ cứ đòi hỏi thứ không thể có, thứ chỉ có trong lý tưởng, trong tình trạng tuyệt vọng của những kẻ yếu nhược. Họ cứ mong chờ một ông thần, ông thánh nào đó xuống cứu họ.

Do đó, họ chẳng bao giờ thỏa mãn. Mà những kẻ lãnh đạo họ cũng cực chết người đi được. – Trịnh Hoài Đức cười khẽ. – Do đó loạn lạc xảy ra mà chẳng giải quyết được bất cứ cái gì. Những kẻ lên thay thế những người trước rồi cũng y như thế, hoặc còn tệ hại hơn. Chẳng giải quyết được bất cứ cái gì. Những ngày ở trong dân chúng dạy tôi một điều: Dân chúng chỉ có thể bắt kẻ lãnh đạo làm lợi được cho họ khi họ làm kẻ bên trên phải sợ họ, phải để ý đến phản ứng của họ, phải biết cách tạo áp lực lên quan, lên chúa của mình. Còn không, họ muôn đời chỉ là con sâu cái kiến.

Chẳng có kẻ nào thực hiện đúng như lời mình nói. Tất cả đều chỉ là những lời phục vụ cho mục đích của riêng hắn. Lã Bất Vi kia nói “Thiên hạ giả, phi nhất nhân chi thiên hạ, thiên hạ chi thiên hạ dã. Âm dương chi hòa, bất tưởng nhất loại, cam lộ thời vũ, bất tư nhất vật; vạn dân chi chủ, bất a nhất nhân”, rồi thì sao? Có thật: Thiên hạ không phải của riêng ai, mà là thiên hạ của mọi người; khi âm dương kết hợp với nhau một cách tự nhiên thì những vật phẩm được sinh ra từ sự kết hợp đó sẽ không phải chỉ có duy nhất một loại; khí hậu mưa thuận gió hòa thì những sinh vật được hưởng những ưu đãi này cũng không phải chỉ có một loài: chủ của muôn dân cũng không phải chỉ có một người? Có phải ông ta cũng trăm mưu ngàn kế để con mình được làm vua, để mình giữ chức chấp chính, để Tần quốc làm chủ thiên hạ? Cái kẻ nói ra “Thiên hạ không phải của riêng ai” thì khi chiếm được thiên hạ cũng sẽ giữ rịt riêng cho hắn, cho dòng họ hắn, sẽ làm mọi cách để giữ cho bằng được chứ có hơn gì ai.

Nhưng họ lại không hiểu điều đó, họ chỉ biết nhìn cái trước mắt, tin tưởng những điều đẹp đẽ hão huyền, cả tính khí an phận nhu nhược nữa. Họ biết bản thân mình muốn gì, nhưng không biết mình cần gì. Đến lượt họ kéo trì những kẻ lãnh đạo của họ xuống, băng hoại những kẻ lãnh đạo của họ trong thứ quyền lực qúa lớn, sức mạnh qúa nhiều được giao vào tay người cầm quyền. Mà những người muốn thu phục họ lại phải uốn mình theo họ, làm vừa lòng cái ước nguyện ngắn tầm của họ. Nếu mạnh tay, nếu làm trái ý họ, đến lượt những kẻ lãnh đạo sẽ tiêu vong, chẳng cần biết đúng hay sai.

Rồi họ lại chỉ biết trách cứ những kẻ đã chịu trách nhiệm cho họ mà không bao giờ chịu nhìn lại mình, không bao giờ thừa nhận một thứ khuyết tật nằm trong tất cả mọi người. Không thể trách Khổng phu tử cả ngàn năm trước đã qúy trọng dân, đã đặt nặng sức mạnh của dân đến thế mà cũng phải nói rằng dân chúng vốn không thể giáo hóa được, không thể thuyết phục được, chỉ có thể đặt ra rồi bắt họ theo, thay đổi từ từ.

Dân chúng của ta có thói suy tôn cảm tính đến mức buồn cười. Họ không có một chút lý tính nào. Khi tôi nói với chúa công về Thiên tử và Phật vương, anh có biết chúa công nói gì? Từ thưở lập quốc đến hiện tại, chẳng phải chúng ta luôn phải dựa vào một ông thần ông thánh nào đó, phải lấy một thứ đạo nào đó để làm chỗ dựa cho mình? Và cả thói thần tượng, thần thánh hóa mọi thứ nữa. Chỉ cần nâng một kẻ lên tầm thần thánh, anh hùng, kẻ đó sẽ trở thành bất khả xâm phạm, sẽ không bao giờ có sai lầm và xấu xa, và kẻ đó sẽ bảo vệ được cho tất cả những gì đằng sau hắn, do hắn đại diện. Không có một chút suy nghĩ duy lý nào trong sự lựa chọn của chúng dân, thậm chí, lòng trung thành của họ cũng chẳng phải vì một chính thể, một triều đại nào, mà vì ký ức, vì những bóng ma thần thánh, vì những gì họ tin hơn là những gì có thật. Thiên tử không quan trọng, Phật vương cũng không quan trọng, mà phải biến thành Thiên tử, thành Phật vương.

- Cho nên ngài ấy mới làm những việc như vừa qua? – Võ Tánh nhướng mày. Trịnh Hoài Đức nhìn lại chàng.

- Anh vẫn chưa quên việc xảy ra với Võ Văn Lượng?

Võ Tánh im lặng. Sau khi xây điện Triêu Dương để các quan đến chầu, vị chúa đã phong Nguyên phi làm Vương hậu. Từ đó, mỗi khi xuất trận các quan đều phải đến lạy chúa Nguyễn và Vương hậu. Võ Văn Lượng, với thói cao ngạo của mình, đã ngay lập tức phản ứng. “Thân làm tướng sao phải lạy đàn bà?” ông ta nói. Khi nghe được, chúa Nguyễn hạ lệnh tống giam phó tướng của chàng một đêm rồi thả ra, giáng xuống Cai đội.

Có thể đúng là vị chúa đang củng cố địa vị của mình ở Gia Định. Lăng miếu các chúa Nguyễn bị tàn phá đã cho ngài ta một cái cớ hoàn hảo để chuyển toàn bộ vương quyền về thành Bát Quái. Điện Triêu Dương được dựng, ban hành lịch của riêng mình và lấy sinh nhật mình làm ngày lễ Vạn Thọ, vị chúa đang khiến cho cả người dân ở Gia Định xa xôi, xáo trộn này phải biết đến địa vị chủ nhân của mình. Thậm chí thần thánh, có lẽ.

Nhưng chàng còn nghĩ đến một khả năng khác, riêng với bản thân mình. Một lần nữa, vị chúa đang nhắm vào Tiên phong dinh, sau cái chết của Lê Văn Quân. Cái chết của Lê Văn Quân, ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, chàng cũng can dự vào.

Đầu năm, sau khi giao hiếu với Xiêm La đã ổn, chúa Nguyễn lại cho gọi Lê Văn Quân trở về. Tức giận vì thái độ của ông ta, vị chúa cho đình thần nghị tội. Tội chết, người người đều nói. Nhưng vị chúa chỉ cho cách chức Lê Văn Quân. Giận dữ, hổ thẹn, Lê Văn Quân đã uống thuốc độc tự sát.

Cho đến bây giờ, chàng vẫn chưa quên cảm giác ngỡ ngàng khi nghe chuyện, và không thể đừng, cảm thấy đó là lỗi lầm của mình. Lỗi lầm của cả hai, có lẽ. Nhưng sự hiện diện của chàng, chỉ nội sự tồn tại của chàng, đã đẩy Lê Văn Quân đến cái chết. Vừa giận vừa thương tiếc, vị chúa cho đánh quan tài Lê Văn Quân một trăm roi rồi cho tám người phu coi mộ, nuôi dưỡng mẹ cùng con của ông ta đến hết đời. Và một lần nữa, người trong dinh Tiên phong phải chịu trách phạt, vì một chuyện có lẽ là không đâu.

Võ Văn Lượng trở về cũng chỉ cười, nhưng trong mắt ông ta chàng đã cảm thấy nỗi buồn thăm thẳm. Sau này công thành việc xong, ta sẽ thoái lui về đồng ruộng, ông nói với chàng trong một đêm trực. Chúng ta đến nơi đây đâu phải vì tham danh tham lợi, đâu phải để mưu cầu chức vị công danh, sao phải cúi đầu luồn cúi với ai? Cai đội cũng được mà lính quèn cũng chẳng sao, ta càng đỡ phải vào chầu.

Và một lần nữa, chàng thấy lòng mình trĩu nặng.

- Danh lợi hỏi xem khách phàm trần khi tan cuộc, năm đấu có bằng một chén rượu chăng? – Trịnh Hoài Đức nhắc lại câu thơ của mình. Tiếng anh ta tan trong bóng chiều.

Họ đã chẳng đến nơi đây vì danh vị, có lẽ cả những kẻ đã đi theo chúa Nguyễn từ mười năm trước, trải bao gian khổ, hiểm nguy. Họ đã chọn con đường khó khăn này, con đường không rõ ngày mai, không biết tương lai. Để rồi, chính bản thân họ có khi lại chẳng nhận được bất cứ điều gì.

Lê Văn Quân cũng vậy. Trong những khó chịu và bất mãn mà ông ta gây ra, chàng vẫn phần nào kính trọng ông ta. Thà chết chứ không chấp nhận nhục nhã. Chàng hiểu được cảm giác của ông ta, cảm giác mà chàng đã trải qua khi bị đánh ở sân điện. Tưởng như chỉ có cái chết mới có thể xóa bỏ được vết nhơ này.

Chỉ có cái chết. Có khi nhẹ tựa lông hồng, có khi lại nặng ngàn cân.

Sao đã sáng lấp lánh trên bầu trời trải dài thăm thẳm bao bọc con đường chàng trở về nhà. Chợ Bến Thành được mở trước Quy thành, cạnh dòng sông tấp nập thuyền ghe, sáng trưng ánh lửa. Thậm chí, chàng nghe cả tiếng nhạc Tây dương từ một chiếc tàu Bồ Đào Nha. Phố chợ Sài Côn đã tan, các cửa hàng đang cuốn màn xuống, đóng cánh cửa gỗ cài then cẩn thận. Sắp đến ngày rằm, các hội quán của cả người Tàu và Việt đã treo đèn đặt án chuẩn bị cho lễ hội. Ghé vào một quán ăn mở muộn mua vài cái kẹo rồi chàng mới giục ngựa đi nhanh về.

Nghe tiếng cửa lớn mở, con bé con bò ra cửa phòng, vẫy tay rối tít.

- Ba, ba. – Nó gọi. Chàng đi vào, bế nó lên. Con bé bá cổ chàng, mái tóc mềm cọ vào má chàng nhột nhạt. Trong phòng, Ngọc Du vẫn ngồi trên chiếu, chỉ lắc đầu.

- Như con chó con. Vào đây rửa tay đi nào.

Con bé bĩu môi, hôn lên má cha nó một cái rồi mới để cho nhũ mẫu bế đi. Chơi, nó còn ngoái lại bập bẹ thêm vài từ nữa. Lát nữa ba sẽ chơi với con, chàng nói khi ngồi xuống bên Ngọc Du, thuận tay lấy tập giấy đặt ngoài chiếu. Liếc nhìn qua, chàng nhận ra đây là bản Hoài Nam khúc vừa được nghe sáng này.

Thấy chàng cầm tập giấy, Ngọc Du cười khẽ.

- Nghe nói hôm nay họ tản đi đọc cho các dinh quân, anh cũng nghe rồi chứ?

- Có. Trịnh Hoài Đức khoe cậu ta đã làm cho một số người rơi lệ. – Chàng nói, đặt tập giấy xuống. – Chẳng mấy chốc mà ta sẽ nghe cả Gia Định ca bài này, không cần đọc làm gì.

- Vì có những việc mà đến bây giờ mới biết. Khi ấy còn nhỏ, lại ở nơi hẻo lánh, nào có để tâm đến chuyện bên ngoài.

- Cho nên chúa công mới đem bản này đọc cho tất cả mọi người. – Chàng nói. Nàng quay nhìn chàng, nhưng rồi im lặng.

Nhũ mẫu đã bế con bé ra, đặt nó xuống chiếu. Con bé ngay lập tức lăn vào lòng chàng. Chàng lấy mấy cái kẹo trong ngực áo ra cho nó, bất chấp cặp mắt phê phán của Ngọc Du bên cạnh.

- Nó ăn kẹo rồi không chịu ăn uống gì nữa. Anh đã ít về nhà lại toàn chiều chuộng nó như thế, chẳng trách nó thấy ba về là mừng rối lên. – Nàng cau mày, lựa cách lấy kẹo ra khỏi nắm tay con bé, nhưng nó giằng khỏi tay nàng, càng rúc sâu vào lòng chàng.

- Mẹ… hư... – Con bé dẩu môi. Chàng bật cười. Ngọc Du lắc đầu nhìn hai cha con rồi đứng dậy sắp bàn ăn.

- Chúa công vẫn chưa có động thái nào chuẩn bị tiến công phải không? – Nàng hỏi, không quay lại. Lấy con gà nặn bằng đất ra khỏi tay con bé, chàng mới trả lời.

- Chưa. Bây giờ ngài ấy còn chuẩn bị khoa thi, chắc chẳng đánh đấm gì đâu.

- Bá Đa Lộc sốt ruột lắm rồi. Ông ấy giục mãi, cứ sợ đám người Tây dương sẽ bỏ đi mất. Bọn họ đến đây tưởng để đánh nhau làm quan làm tướng gì, ai ngờ chúa công chẳng đánh chẳng rằng, cứ giữ họ lại xây thành, làm thuyền, đúc súng, chế thuốc nổ, biến họ thành thầy dạy học cả mà chẳng có ưu đãi.

- Bọn họ được đưa thuyền đi mua bán đấy thôi.

- Thế thì chẳng cần phải ở đây phục vụ cho chúa công, họ cũng làm được. Mà vui thì thôi, buồn thì chúa công lôi họ ra trách tội buôn lậu.

- Bây giờ cũng chưa phải lúc đánh nhau. Gia Định trông có vẻ nhộn nhịp hiện tại, nhưng còn lâu mới so sánh được với lực lượng ở Bắc Hà, tiền của nhân lực đều không bằng. Bắc Hà đã phát triển cả ngàn năm, dù có suy yếu thì chúng ta chẳng qua cũng như Chiêm Thành, Vạn Tượng, đánh vài trận thì được chứ chiếm giữ thì không đủ sức. Chúa công đặt ra mục tiêu qúa cao, vậy thì phải chuẩn bị cho kỹ. Bá Đa Lộc cố giữ bọn người Tây dương đồng hương với ông ấy, chứ người Tây dương nếu cần thì ta cũng có thể dùng tiền thuê được, đâu cần phải lụy bọn họ.

- Chỉ e Bắc Hà người đông thế mạnh, đi một bước bằng ta tiến ba bước. Bọn họ nào có thiếu thốn như ta. Ruộng lúa phải gấp mười lần ta, các mỏ đầy núi, vàng bạc đầy thành, dù chúa công đã lôi kéo người Tây dương, người Tàu về với mình nhưng làm sao hết được.

- Vậy thì như Lê Văn Duyệt nói “Tây tặc bất nghĩa vô đạo, không cần đánh sẽ tự bại”. – Chàng cười. Con bé nằm ngửa ra, đạp vào tay chàng. Đầu nó quẹt qua tập giấy chép bản Hoài Nam khúc, làm những tờ giấy bay tứ tán.

- Đó là điều mà mọi người cùng tin. – Nhìn theo những mảnh giấy quăn góc, nhăn nhúm lại, chàng nói.

Chú thích:

Hồng Mao: Chỉ chung Anh quốc, Pháp, Hà Lan – là giống dân tóc không phải màu đen như Bồ Đào Nha hay Tây Ba Nha.

30

Thật ra, có những điều mà Ngọc Du không nói với Võ Tánh. Buổi sáng, cùng với bản Hoài Nam khúc, nàng đã nhận được một tin quan trọng: Khi lăng mộ các chúa Nguyễn bị phá, cô cô Ngọc Tuyên đã cử tất cả thân tín của mình đến canh chừng. Hài cốt bị vứt xuống sông của cha nàng đã được vớt lên vào ban đêm.

- Chúa công bảo, để giữ an toàn cho Tuyên cô cô, không nên lộ việc này ra. – Ngọc Tú nói. Cô nghiêng người trên bục cửa sổ, nhìn ra ngoài trời. Quốc mẫu đã lại cúng tế khấn nguyện lầm rầm trong nhà. Đức Phật đã nghe thấu lòng chúng ta, bà vừa khóc vừa nói. Khuôn mặt Ngọc Tú vẫn lạnh lùng không chút xúc cảm. Nắng chiếu qua khuôn mắt cô hơi nheo lại, hằn rõ vết nhăn nơi cuối mắt.

- Ta cũng nghe ngài ấy nói sẽ làm gì đó với Võ Tánh. – Ngọc Tú chợt bảo. – Kể cũng vô tình thôi, ta đợi ở ngoài cung, nghe ngài ấy nói chuyện với Nguyễn Phúc Hội về việc Lê Văn Quân đã mất, Tiền quân dinh đang thiếu người. Hẳn là sắp bổ dụng lại các vị trí trong quân.

- Tiên phong dinh đã ổn, sao lại phải xáo trộn? – Ngọc Du cau mày. – Họ là những quân tướng đã sống với nhau lâu ngày, gắn bó với nhau…

- Có còn nhớ Đỗ Thanh Nhơn? – Ngọc Tú ngắt lời nàng. – Ngay cả nếu không vì thế, Lê Văn Quân trong quân ta có công trạng thế nào, gắn bó với chúng ta ra sao từ những ngày đầu chúa công lập thành quân đội, mấy lần lấy lại Gia Định. Nay Lê Văn Quân tức giận uống thuốc độc tự sát, căn cơ nguồn gốc cũng vì tranh cãi với Võ Tánh mà ra. Võ Tánh có người anh như vậy, lại mới về mà đã gây qúa nhiều rắc rối, người xung quanh chẳng bàn tán? Thêm thuộc hạ của cậu ta ngạo mạn vô lễ, một lời nói ra giữa toàn quân khác nào phủ nhận quyền uy của chúa công, không coi ai ra gì. Họ vẫn quen thói giang hồ rừng sâu nước thẳm, đội quân ấy vẫn còn chưa thể thuần hóa, người ta vẫn còn nói ra nói vào mà chúa công cũng chưa thể yên tâm.

Ta nói với em cũng là để em biết mà liệu định sẵn. – Ngọc Tú thở ra, quay lại nhìn nàng. – Việc sắp xếp mới này có thể làm chồng em không vui đâu.

Khi cáo từ Quốc mẫu ra về, Ngọc Du cũng đã định đến gặp người em trai hỏi chuyện nhưng nghĩ lại. Từ sau lần ngài ta đến thăm nàng khi vừa sinh, nàng đã chưa bao giờ thực sự nói chuyện với người em trai. Nàng thấy khó xử vì những lời nói khi đau đớn của mình, có lẽ ngài ta cũng cảm thấy thế. Lần này lại đến hỏi về tin tức của Võ Tánh, vị chúa sẽ chẳng vui vẻ gì mà tiếp chuyện nàng.

Từ bao giờ, nàng tự hỏi, khoảng cách của hai chị em đã càng ngày càng xa. Dẫu nàng đã có chồng, không thể thân thiết như trước, nhưng mỗi lần gặp chỉ có cãi cọ là lẽ gì? Dẫu rằng, phần nhiều là do nàng khơi chuyện…

Lần này cũng vậy, nếu nàng đến, chắc chắc lại xảy ra cãi cọ, chẳng có lợi gì cho Võ Tánh hay cho bất cứ ai.

Khi ra đến cửa thành, Ngọc Du thấy lính đang dẫn một phụ nữ và một đứa bé gái đi vào. Cả hai đều đeo khăn tang. Nàng nhận ra Chu Muội Nương, em gái Châu Văn Tiếp, vợ của Lê Văn Quân, người mà nàng đã gặp vài lần trong những buổi tiệc. Đứa trẻ cô dẫn theo hẳn là con gái duy nhất của Lê Văn Quân, đứa con được sinh ra ở Xiêm La. Thấy nàng, Chu Muội Nương ngoảnh đi, không chào.

Chỉ có nàng nhìn theo mãi hai mẹ con trong nắng trưa đứng bóng.

Nàng vẫn còn nghĩ về họ trong buổi tối hôm ấy. Hẳn vị chúa đã gọi hai mẹ con vào để bàn về sự chu cấp cho họ. Nhưng có gì bù lại được ánh nhìn của Chu Muội Nương đã thoáng qua nàng trong một khoảnh khắc: Không ghét bỏ, không đau đớn, chỉ có một sự trống rỗng như thể toàn bộ sự sống đã không còn trong người phụ nữ ấy.

Cô đã không giữ được chồng mình. Dù đã đồng cam cộng khổ bao ngày tháng. Dù đã từng đến tận Xiêm La phiêu dạt cùng nhau. Dù đã có bao nhiêu ân tình. Lê Văn Quân, trong một lúc căm phẫn, đã vứt bỏ tất cả, không màng đến bất cứ ai. Cả người vợ, cả đứa con, cũng không giữ được người đàn ông ấy. Cái chết đối với ông ta sao qúa nhẹ nhàng.

Có lẽ, với kẻ đã mang thân ra sa trường, cái chết thực sự không còn bất cứ ý nghĩa nào. Nhưng với người còn đang sống?

Nàng lặng lẽ ngắm nhìn Võ Tánh chơi đùa với đứa bé. Chuyện mà vị chúa sắp làm, nàng biết là không thể thay đổi. Chàng sẽ phản ứng thế nào đây, sẽ cảm thấy thế nào đây? Một lần nữa, nàng lại thấy cảm giác tội lỗi nhoi nhói trong tim. Nếu như… Có qúa nhiều điều phải nếu như, và tất cả chẳng có ý nghĩa nào. Nàng thậm chí không dám nghĩ đến một điều: Liệu nàng và đứa trẻ có thể giữ chàng lại?

Một lần nữa, nàng biết mình đang băn khoăn vì một câu hỏi vốn đã có sự trả lời.

Chơi mệt, con bé gối đầu lên chân cha nó mà ngủ. Nàng cho nhũ mẫu bế nó về giường. Chàng vươn vai, nằm xuống chiếu mà nhìn trần nhà. Sắp xếp xong chăn màn, nàng quay lại định gọi thì thấy chàng đã nhắm mắt.

- Này. – Nàng qùy xuống lay vai chàng. Tay chàng vòng qua eo nàng, kéo nàng xuống. Hương trầm từ lò hương trong góc phòng phả vào khứu giác nàng khi ngã xuống bên chàng.

- Anh vẫn cái thói ấy. – Đấm nhẹ vào vai chàng, nàng cười. Vẫn không mở mắt, chàng chỉ nói khe khẽ.

- Nếu sau này không còn đánh nhau, mình nhất định tìm một mảnh đất nào đó, làm ruộng mà ăn, không liên quan đến thế sự nữa.

Nàng im lặng. Dù chỉ phảng phất, nét buồn bã trong giọng chàng nàng vẫn nghe được. Từ sau khi nghe chuyện của Lê Văn Quân, chàng đã trở nên trầm lặng. Hoặc là trước đó, trước nữa, khi chàng bị đánh ở sân điện, khi chàng đến tìm nàng trước lễ ra mắt Quốc mẫu. Chàng thanh niên ngang tàng bướng bỉnh ngày xưa đã dần dần mất đi, chìm khuất sau cái vẻ đĩnh đạc của một tướng quân mà chính nàng cũng không cảm thấy quen thuộc.

Nàng ngẩng lên, chạm tay vào đuôi mắt chàng. Đó là một cảm giác chua xót khó gọi thành tên, dai dẳng như một vết thương lên mủ. Tay nàng cọ vào má chàng, lòng bàn tay ram ráp.

- Anh để râu à? – Nàng vừa cười vừa hỏi. Chàng mở mắt, cũng cười.

- Tam thập nhi lập, đã đến tuổi thành người rồi. Chúa công kỷ niệm ba mươi tuổi bằng cách đem sinh nhật làm lễ Vạn Thọ, ta cũng phải trông có vẻ anh rể một chút.

- Đùa đấy. – Chàng nói khi nàng không lên tiếng, chỉ lặng lẽ nhìn chàng. – Năm ngày ta không về nhà, nàng nghĩ có ai lo khăn lược cho ta?

- Nghĩa là anh muốn có người đi theo lo khăn lược cho nên đem bộ dạng này về chứ gì? – Nàng nhướng mày. – Ngày mai đến xin chúa công một thái giám nhé.

Chàng cười. Chàng cười lớn, vùi mặt vào cổ nàng, nơi mái tóc đã đổ xuống lưng, thơm thơm mùi bồ kết và sả.

- Ta nhớ nàng. – Chàng thì thầm. Giọng nói chàng như đi xuyên qua nàng, vẳng qua như tiếng thở.

Và cảm giác chua xót dần rõ lên trong nàng. Dù có cần nàng đến bao nhiêu, chàng cũng sẽ không ở lại.

Trong năm Tân Hợi, một lần nữa, chúa Nguyễn lại cho sắp xếp lại các dinh quân. Nguyễn Văn Thành về làm Chưởng Tiên phong dinh, Nguyễn Phúc Hội làm Chưởng Tiền quân, Nguyễn Văn Trương làm Chưởng Trung quân, Huỳnh Đức quản Hữu quân dinh, Nguyễn Phúc Huy vẫn là Chưởng Tả quân, Võ Tánh về quản Hậu quân dinh.

Khi nghe tin ấy, quân tướng Tiên phong dinh ngơ ngác. Họ nhìn nhau, rồi nhìn lại vị chủ tướng – đã không còn là chủ tướng của họ. Tại sao, câu hỏi trong mắt họ, trong mắt chàng. Chàng không thể tin được vào tai mình.

- Tại sao? – Chàng hỏi vị chúa khi đến tìm ngài ta trong điện. Chúa Nguyễn vẫn phê duyệt các chỉ sai để trên bàn, không ngẩng lên nhìn chàng.

- Khanh biết lý do tại sao. – Vị chúa trả lời hờ hững.

- Vì Lê Văn Quân? – Chàng nói, thấy vị đắng trong miệng. Chàng đã nghĩ về điều đó trong suốt quãng đường đến thành. Vị chúa ngẩng lên rồi lại cúi xuống viết.

- Phải, nhưng không phải như khanh nghĩ. Lê Văn Quân bạo dạn dũng mãnh, đi với khanh thành một cặp tiến công hoàn hảo của ta. Đáng tiếc, ông ấy mất đi rồi, ta không còn kẻ phù hợp để hỗ trợ cho khanh, Tiên phong dinh và đội quân phía sau tạo ra một khoảng trống, khó có thể hòa hợp được. Vả lại ta nghĩ cũng nên thay đổi cách tấn công của mình. Qua khỏi Thuận Thành trấn là đất địch, chỉ cần đến Phan Rang là chúng ta đã gặp kháng cự. Trong khi đó, khanh thủy thổ chưa quen, địa thế không biết, ưu điểm của khanh cũng giảm đi nhiều. Nguyễn Văn Thành mưu tính thận trọng, để anh ta dẫn đường cho quân đội thì hơn. Nguyễn Phúc Hội có tầm bao quát tốt, để ông ấy lãnh quân tấn công chủ lực sẽ hạn chế bớt thương vong. Trung quân là đội quân nhiều việc nhất, bao gồm cả thủy, bộ, pháo, giao cho người có thể lãnh đạo cả thủy lẫn bộ như Nguyễn Văn Trương để ông ấy quản lý. Hữu quân chuyên công việc biên ải, Huỳnh Đức vốn thông thuộc quen biết với Phiên dân, anh ta lo việc liên lạc với họ. Tả quân là cánh tay phải dưới quyền ta lo việc trong ngoài, cần người thân thuộc tâm phúc.

Còn Hậu quân, đó là đội quân của ta. – Chúa Nguyễn nói sau một khoảnh khắc im lặng ngắn. – Khi ta thân chinh, đó là đội quân đi cùng với ta. Khi ta cần lo việc, đó là đội quân thay mặt cho ta. Nếu bị tấn công, đó là đội quân bảo vệ cho ta cùng thân tộc. Việc của lũy Trấn Di vừa rồi, Nguyễn Phúc Hội đã suýt nữa gây họa lớn, hẳn khanh cũng biết. Ông ấy dù sao cũng là hoàng thân quốc thích, với người trong Gia Định này vẫn có cách biệt. Gia Định lòng người phức tạp, khanh có uy tín sẵn để thu phục được người, ta cũng tin là khanh biết đối xử với người dân thế nào cho phải lẽ. Quân đội dành cho những việc quản lý, trấn áp nữa, nhưng cũng phải làm sao để hợp lòng người. Ta không muốn tiếp tục xảy ra sự việc ở Ba Thắc.

Ta cũng biết là khanh không nỡ chia tay quân sĩ của mình, nhưng họ vào đội quân của ta đã lâu, trở thành một phần tử của chúng ta, ba quân đều như nhau. Trương Tấn Bửu đi theo Nguyễn Phúc Hội quản Tiền quân dinh, ta cho Võ Văn Lượng đi theo khanh vậy.

Họ đã trở thành một phần tử của ta. Cả chàng cũng đã trở thành một người thuộc đội quân của vị chúa, và ngài ta có những lý do mà chàng không thể tranh cãi được.

- Nhớ ngày xưa năm người chúng ta vui vẻ biết bao. – Võ Văn Lượng thở dài khi họ đang ở quán rượu trong buổi tiệc chia tay. – Ngày nay mỗi người một nơi, chẳng biết ngày sau thế nào.

- Chúng ta vẫn ở trong Gia Định, có xa cách lắm đâu. – Nguyễn Văn Hiếu cười. – Giá sau này thắng Tây tặc, chúng ta cũng sẽ lại có cuộc sống riêng của mình, nào có thể ở bên nhau mãi được. Có hợp phải có tan, buổi tiệc nào cũng có lúc tàn. Chúng ta còn cùng chung chí hướng thì làm sao nói đến phân ly được.

- Chí hướng của chúng ta cũng phải có lúc phân ly thôi. – Võ Văn Lượng cười. – Anh hẳn định tiếp tục con đường hoạn lộ, dù gì anh cũng là một Nho tướng, dòng dõi cha anh là Cẩm y vệ. Tánh đây đã trở thành Phò mã, đã vào thì không thể ra. Chỉ sợ nếu đến lúc các anh trở thành quan tham, tôi lại phải đến lấy đầu đồng đội cũ.

- Nếu cha tôi là loại quan tham, tôi đã không nghèo đến nỗi phải đi cắt cỏ thuê cho người khác. – Nguyễn Văn Hiếu cau mày, câu đùa của Võ Văn Lượng với ông không có chút ý vui vẻ nào. – Tôi lẽ nào làm nhục vong hồn cha mẹ tổ tiên. Chúng ta sinh phải thời loạn lạc, đã thấu hiểu thế nào là khốn khổ đau thương, sao lại để mình tiếp tục tái diễn thảm cảnh ấy? Thế ra bao nhiêu máu xương của chúng ta, của các anh em đều uổng phí cả hay sao?

- Tôi không hợp với quan trường, không có nghĩa là tôi cho rằng mọi vị quan đều đáng chém. – Võ Văn Lượng cười xòa. – Dù sau này có ra sao, mong mọi người hãy nhớ đến ngày hôm nay, những gian nan vất vả của chúng ta ở gò Tre, vậy là đủ.

Chúng ta đến nơi đây, đó là con đường chúng ta đã chọn. Hay là không. Thời thế đã chọn chúng ta. Sau này, nhiều năm sau này, có lẽ một số trong bọn họ sẽ nhớ lại tất cả những ngày hôm nay để tiếp tục sống. Sau này, nhiều năm sau này, rất nhiều năm tháng sau này, khi xương thịt chúng ta đã thành cát bụi, sẽ có ai biết rằng chúng ta đã từng sống như thế nào? Ước mơ của chúng ta. Tình yêu của chúng ta. Cuộc đời của chúng ta. Ngồi bên nhau, họ nhớ lại những tháng ngày trong mênh mông rừng thẳm Định Tường, những tháng ngày tự do và đau đớn trong sự tự do ấy. Ước vọng, họ đã từng ước vọng và luôn luôn giữ ước vọng ấy trong tim mình. Đó là điều còn lại, sẽ luôn luôn còn lại, đi theo họ suốt cuộc đời.

Khi chàng trở về thì trời đã về khuya, Ngọc Du vẫn đợi chàng ngoài cửa. Thấy chàng, nàng đứng dậy. Chàng thấy ánh lo lắng trong mắt nàng. Hẳn nàng cũng đã nghe về sự thuyên chuyển sáng này. Giơ bình rượu đang còn cầm trên tay lên, chàng cười.

- Nàng uống với ta chứ?

Và lặng lẽ, nàng ngồi xuống bên chàng, nhìn chàng rót rượu ra hai chiếc chén nhỏ. Lặng lẽ, họ cùng nhớ đến buổi tối trên doanh trại Kiến Hòa năm nọ đã chợt hóa ra xa lăng lắc. Trời lại chuyển mưa, đất trời phương Nam luân chuyển giữa nắng và mưa, ngày và đêm. Họ nhớ tới tiếng của dòng sông và tiếng chim kêu đầu nguồn nước. Họ nghĩ tới cánh rừng và những lán trại hẳn đã bị rừng bao phủ, trùm lên nó màu xanh ngắt như chưa từng có dấu vết con người. Như thể chưa từng có họ. Họ nghĩ tới những cành hoa hẳn đã lụi tàn rồi bung nở, những con người chưa từng, không còn có thể trở về nơi ấy.

Thanh xuân đã qua đi cùng những giấc mơ. Sự ngây thơ và những giấc mơ.

Nâng ly rượu lên môi, nàng uống. Đã lâu rồi nàng không uống rượu, có lẽ vì vậy mà nàng cảm thấy chuếnh choáng như say.

- Chúa công bảo, Hậu quân là đội quân của ngài ấy. – Cuối cùng, chàng nói. – Nếu có việc hệ trọng xảy ra, đó sẽ là đội quân bảo vệ cung quyến và thành trì này. Ngài ấy đang sợ, phải không? Năm sau, mùa gió bấc, nàng có nghĩ chúng sẽ đánh xuống?

- Hậu quân là đội quân do chúa công trực tiếp chỉ huy. – Nàng nói, không trả lời câu hỏi của chàng.

Chàng chỉ cười.

Dùng Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Phúc Hội đi trước, chúa Nguyễn đã bày tỏ sự thận trọng. Đưa một tướng thủy quân như Nguyễn Văn Trương cai quản dinh mạnh nhất Trung quân, ngài ta đang dồn sự tập trung về phía biển. Và đưa chàng chuyển sang Hậu quân, có lẽ ngài ta đang chuẩn bị cho một cuộc phòng thủ đi kèm với đột kích, phải chăng?

Bắc Hà đang dần ổn định lại trong tất cả những sự xáo trộn của nó. Mất mát về thương nghiệp đã được sự dồi dào về nhân lực, vật lực bù đắp. Lượng vũ khí khổng lồ của Trịnh, Nguyễn, Thanh để lại mà họ không mơ thấy được. Để đối phó với thủy quân của họ, Nguyễn Huệ đã chiêu tập ngày càng nhiều bọn hải tặc Tề Ngôi. Chúng thậm chí còn chất súng thần công lên thuyền Tề Ngôi, Nguyễn Đình Đắc kể. Hẳn chúng đã nghe nói về những chiếc thuyền Tây dương của ta và định dùng thuyền lớn kiểu Hải Nam đối phó.

Nghe tin ấy, chỉ có bọn thủy thủ Tây dương tỏ ra vui mừng. Máu phiêu lưu của họ hẳn đã bùng cháy trước thử thách mới sau khi bị giam cầm qúa lâu trong những khu xưởng thợ.

Nhưng đưa chàng về Hậu quân, phải chăng vị chúa còn có ý khác nữa? Người Miên, ngài ta đã hé lộ ra. Người Miên và Xiêm. Huỳnh Đức, dũng tướng thân tín nhất của vị chúa, người đã từng ở Xiêm La, được đưa về Hữu quân phải chăng để đối phó với bất kỳ động thái nào ở biên ải phía Tây? Chiêu Chủy Biện luôn luôn tỏ thái độ chống đối họ. Xiêm La chỉ chờ cơ hội để nhảy vào cuộc chiến của họ bất cứ lúc nào.

Đầu năm, khi Mạc Tử Sanh không may mất sớm, Xiêm vương đã đưa Mạc Công Bính trở về. Chúa Nguyễn cho Mạc Công Bính giữ đạo Long Xuyên nhưng Xiêm vương ngay lập tức gửi thư qưở trách, bắt Mạc Công Bính phải trấn thủ Hà Tiên. Dù trong lòng sợ hãi, người cháu nhỏ tuổi của Mạc Thiên Tứ vẫn phải đến trấn nhậm vùng đất tranh chấp còn đầy dấu vết chinh chiến.

Gia Định bốn mặt địch quân, phía Bắc là Tây Sơn, phía Nam là người Miên, phía Tây Xiêm La, phía Đông là bọn Tề Ngôi sắp đến.

Đã vậy, năm nay hạn hán kéo dài, mùa màng không bằng mọi năm, đã có những tin đồn bất lợi cho vị chúa cũng như đoàn quân, cái triều đình ngài ta đang cố gắng xây dựng.

Sự bình an của họ mong manh biết nhường nào.

- Ân oán của chúng ta với người Xiêm thật dai dẳng. – Chàng nói khi đã cạn gần hết bình rượu. Ngọc Du cười.

- Từ khi Mạc Cửu đưa Hà Tiên đến thần phục chúa ta, Xiêm đã ngấm ngầm bất mãn. Nhưng việc trong nước họ cũng rối loạn, Phong vương bị diệt rồi bị Miến Điện cướp phá, chẳng lo được việc Hà Tiên. Chỉ có tên Trịnh Quốc Anh xuất thân kẻ cướp kia là nghênh ngang tàn bạo, đánh vào Hà Tiên rồi lấn sang cả đất ta. Cũng vì mảnh đất từ Cà Mau đến Long Xuyên mà Mạc Thiên Tứ được Chân Lạp tặng cho, cùng với Ba Thắc, Trà Vinh, Tầm Phong Long của ta lấy được mà người Xiêm nóng mắt. Người Chân Lạp cũng vì cớ ấy mà nói rằng ta giữ đất này là định đánh sang Xiêm. Xiêm vương cố gắng thu phục con cháu họ Mạc đâu phải chỉ vì mỗi Hà Tiên, mà còn vì đạo Long Xuyên, Kiên Giang họ Mạc giữ danh nghĩa cai quản.

Phải, Xiêm vương nuôi nấng con cháu nhà họ Mạc vì thế. – Ngọc Du nói sau một khoảng im lặng ngắn. – Nhưng mục tiêu chính của Xiêm là Chân Lạp, Vạn Tượng. Họ Nguyễn giữ quyền bảo hộ Chân Lạp, Xiêm vương chắc có ý bất bình. Nhiều đời nay Chân Lạp và Xiêm đánh nhau qua lại. Ngày nay Xiêm chấn chỉnh, lại có vua người Triều Châu mang tham vọng Đại Hán, muốn kiểm soát hết tất cả những vùng đất xung quanh, mới xảy ra cuộc chiến hai mươi năm trước. Từ ấy tranh chấp của ta và họ thường diễn ra luôn, có bằng mặt cũng không bằng lòng.

Khi Tây Sơn vào cướp Hà Tiên, Mạc Thiên Tứ đưa gia quyến chạy sang Xiêm rồi bị Trịnh Quốc Anh giết hết cả nhà, những đứa trẻ nhỏ hoặc bị đưa đi đày, hoặc bị giam giữ dù trước đó Trịnh Quốc Anh đã ký kết hòa ước với họ Mạc. Lần ấy may chúa công tấn binh sớm giữ lại Hà Tiên, nếu không đã bị bọn ở ngoài thừa nước đục thả câu rồi.

Năm Tân Sửu, Xiêm xâm lấn Chân Lạp, vua họ sang ta cầu cứu. May sao trong nước Xiêm lại có biến, Trịnh Quốc Anh bị lật đổ, Phật vương và Nhị vương đang có chiến tranh với Nguyễn Hữu Thụy cũng hòa ước với nhau. Có lẽ vì vậy mà Nguyễn Hữu Thụy sau này bị người Chân Lạp giết chết. Vì hòa ước của Nguyễn Hữu Thụy mà chúa công sai người sang giải hòa với Phật vương, không muốn bận lòng biên ải phía Tây nữa.

Khi chúa công thua trận năm Qúy Mão, Chân Văn Tiếp bơ vơ chạy sang Xiêm cầu cứu, chính vì ông ấy không hiểu được quan hệ của ta và Xiêm La bao năm nay. Tây Sơn sang cướp phá Nam Vang, Xiêm vương mới ngả về phía chúng ta để diệt Tây tặc. Vì lời của Châu Văn Tiếp mà chúa công từ Thổ Châu trở lại Long Xuyên rồi bị quân Xiêm bắt đưa về Vọng Các. Xiêm vương vẫn giữ chúa công lại sau đó cũng như bọn Mạc Thiên Tích, Mạc Công Bính bây giờ. Miệng nói là ơn nghĩa, nhưng thực ra ai cũng hiểu lòng nhau cả.

Mục tiêu của Xiêm bây giờ là Vạn Tượng, mà như thế phải đi qua Chân Lạp. Ảnh hưởng của ta ở Chân Lạp là trở ngại của người Xiêm.

Vừa rồi Xiêm vương nghe lời Chiêu Chủy Biện vì việc ở Ba Thắc, nay lại sai Mạc Công Bính về giữ Hà Tiên, vốn là để đề phòng ta. Đạo Long Xuyên, Kiên Giang trên danh nghĩa thuộc Hà Tiên nhưng ta đã quản lý cả. Chúa công cấm thuyền bè đi qua các đạo này vào Chân Lạp cũng là để hạn chế nguy cơ xâm nhập.

- Mọi việc thật là phức tạp. – Chàng nói. Ngọc Du đặt chén rượu đã cạn xuống, hơi nghiêng đầu.

- Nếu chỉ cần đánh trận mà giữ được đất thì Chiêm Thành, Cao Miên đã không như bây giờ. Những đội quân của họ đã từng hùng mạnh nhất, những vương quốc ấy đã từng rực rỡ đến chừng nào.

Chàng chợt nghĩ đến buổi nói chuyện với Võ Trường Toản xưa, khi Trịnh Hoài Đức kể cho họ nghe lịch sử vùng đất này. Những kết nối giăng mắc quanh nó, vùng đất còn đầy biến loạn. Họ đang nỗ lực giữ lấy nó, với những kẻ thù cũ và mới, những nguy cơ hữu hình và vô hình. Sức nặng ấy đè lên vai họ. Từ bốn phương.

Nàng dựa lưng vào thành giường, nhìn ra khoảng không giăng mắc mưa ngoài ô cửa khép hờ. Ồ, nàng nhớ biết bao nhiêu những ngày con gái tự do tự tại và đau đớn trong sự tự do ấy. Nàng yêu con mình, yêu hơn cả mạng sống, nhưng nàng vẫn chưa biết mình muốn gì, cần gì. Trong những đêm thế này, nàng thấy lòng chùng xuống, mênh mông, không rõ vì điều gì. Những cơn hoang mang giữa đêm, đến trong đêm thâu. Như thể nàng đã đánh mất điều gì mà không thể lấy lại.

Bên ngoài, trời vẫn mưa. Tiếng nước đập rầm rào. Mưa phương Nam ào ạt, ẩm ướt, nồng hơi đất.

Vậy là Hậu quân, nàng nghĩ. Vị chúa đã giữ Võ Tánh ở bên mình, để làm việc mà ngài ta cần hay để kiềm chế chàng? Ồ, người em trai nàng đã đưa được Kiến Hòa quân về rồi xé nhỏ nó ra, làm nó biến mất. Nó phải biến mất. Kinh nghiệm với những đội quân Đông Sơn, Hòa Nghĩa đã dạy ngài ta điều đó.

Một người không có tâm cơ như Võ Tánh có nhận ra được hay không?

Không có tâm cơ. Phải, chàng thì cần gì tước vị lẫn vinh hoa. Mà chàng có cơ hội gì để mơ ước đến nó? Chỉ cần một chút sai phạm, vị chúa đã sẵn sàng giáng người anh rể xuống Cai cơ. Chỉ cần một chút ương ngạnh, ngài ta đã sẵn sàng cho thuộc hạ của mình biết vị trí của họ ở đâu. Mà ngài ta làm điều đó mới có lý làm sao!

Nàng nghĩ và bật ra tiếng cười khẽ.

Bỏ qua ánh mắt chàng, nàng chầm chậm rót số rượu còn lại ra chén. Một bình rượu vẫn không thể đủ, nàng nghĩ đến chuyện gọi cô hầu đưa ra thêm rượu trong bếp. Phải, rượu do chính tay nàng đã ủ để chờ chàng về, trong một lúc vui vẻ nào đó. Nhưng khi chàng về, nàng đã quên mất, nhiều lần quên mất.

Nhưng đã khuya rồi, ngày mai chàng còn phải đến nhận nhiệm vụ mới ở Hậu quân. Nàng thở ra, thôi vậy.

Tiếng con bé lăn mình trên giường, đập tay xuống tấm gỗ. Chàng đứng dậy đến bên giường nó, diềm lại tấm màn. Nàng thu dọn ly chén để lại trên bàn. Ngoài trời mưa vẫn rơi.

- Cuối cùng thì chỉ còn nàng và con là người thân duy nhất của ta. – Chàng nói, vẫn nhìn đứa trẻ đang say ngủ.

Nàng nghe thấy một điều gì thăm thẳm rơi trong đêm đen.

Đầu năm Nhâm Tý, hai chiếc thuyền chiến hoàn chỉnh theo kiểu mới đã hoàn thành, được đặt tên là Huỳnh Long và Xích Nhạn.

Lễ hạ thủy của hai chiếc thuyền được tổ chức nửa theo kiểu Tây dương, nửa theo kiểu Á Đông. Một người đứng ở đầu thuyền đập chai rượu vào mũi lan can khi lễ nhạc rộn ràng quanh họ. Ba quân tướng lãnh được tập họp trong khu đất rộng. Chúa Nguyễn đứng trước họ, sau lưng là hai chiếc thuyền do chính vị chúa chỉ huy đóng, khi nói, giọng ngài ta vang sang sảng trên bến sông.

- Năm vừa qua ta lo việc chấn chỉnh Gia Định, củng cố sức dân, rèn luyện quân đội, tạo thêm vũ khí, mọi việc đã tiến triển tốt đẹp, gạo ăn đã nhiều, quân binh đã mạnh. Nay ta nghĩ đến việc tiến công, đề ra phương cách đánh trận theo mùa gió: Đến mùa gió Nam đem quân đi đánh; gió thuận ra đi, gió trái trở về. Khi đi nhóm họp quân lính, khi về cho quân lính ở nhà làm ăn. Như vậy binh lính không mệt mỏi sự chiến tranh mà cũng không ngồi không thành tắc trách, trong lúc Tây Sơn phải chạy lo ứng cứu đầu này đầu nọ, không rảnh tí nào.

Như vậy gọi là quấy phá, bên dưới, Tống Viết Phúc lẩm bẩm và ai nấy cố nén cười. Chiến lược này đã được họ bàn bạc sẵn trước khi vị chúa thông báo ra. Gia Định người ít việc nhiều, không thể dồn người chỉ để lo đánh trận, vả lại quân lính tập trung lâu ngày nhớ nhà nhớ quê cũng không phải là cách tốt. Giặc thì phải đánh, nhưng không thể dồn sức trong một lúc. Tây Sơn Nguyễn Huệ phía Bắc đang bị cựu thần nhà Lê nổi dậy khắp nơi, Lê Duy Chỉ ngày càng mạnh, Nghệ An không lúc nào yên; phía Tây Vạn Tượng bất mãn vì cuộc cướp phá dạo nọ, cũng thường đưa quân quấy nhiễu. Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn vừa phải phân tâm đề phòng Nguyễn Huệ, vừa phải lo đối phó với quân Thượng của Nguyễn Long gần ngay sát nách, ta đưa quân đến lấn dần thì sức đâu để ứng phó với ta.

Vả lại đội quân thủy của ta ngày càng lớn mạnh. Gió thuận là một lợi điểm lớn cho chúng ta tấn công nhanh. Khi giặc đến cứu viện thì chúng ta đã rút về. Từ từ mà tiến. Bại vong không phải nằm trong một vài trận chiến, mà là vì rối loạn trong chính thể chế. Bị đặt trong nguy cơ chiến tranh luôn luôn, quân mệt mỏi, tướng xung đột, ruộng đồng không có người cày cấy, việc không ai làm, đất nước ấy sẽ tự suy tự bại.

Vị chúa đã giải thích cho họ những điều mà ai trong số họ cũng đều thấm thía. Thậm chí, ngài ta đã gửi thư cho Chiêu Chủy Biện hỏi cách liên lạc với Vạn Tượng. Nhưng còn một điều khác mà Võ Tánh biết ngài ta vẫn không nói ra, chỉ là Ngọc Du kể lại, lệnh tiến quân này còn vì sức ép của Bá Đa Lộc.

Bá Đa Lộc, vì sợ đám thủy thủ Tây dương chán nản bỏ đi, đã ba lần bốn lượt thúc chúa Nguyễn tấn công. Đổi lại, chúa Nguyễn đã từng dọa sẽ đuổi hết đám thủy thủ nếu cứ tiếp tục trái lời. Đỉnh điểm của mâu thuẫn, Bá Đa Lộc đã dọa trở về Tây dương. Để giữ ông ta lại, chúa Nguyễn đưa ra một lời hứa tiến quân còn chưa biết đến lúc nào.

Đám gián điệp mà Nguyễn Nhạc đưa từ Quy Nhơn vào đã có tác dụng ngược với chủ đích của Tây Sơn. Giả bệnh rồi đổ lỗi cho người Tây dương phù phép, chúng bị chúa Nguyễn cho dẫn đến trước đám người Tây dương để làm ví dụ cho việc “bài trừ Tây dương” của chính quyền Tây Sơn. Những chiếc thuyền Anh Cát Lợi cập bến Đà Nẵng cũng làm người Phú Lang Sa e ngại. Cứ nhìn những người Tàu đã giúp đỡ chúng rồi bị chúng tàn sát thì biết, vị chúa nói với họ. Và ngài ta, trong vòng hai năm, đã cho mình cái quyền dọa đuổi tất cả đám người Tây dương đi mà không cần phải sợ hãi bọn họ sẽ chạy về phía thù địch. Chẳng có nơi nào dung thứ cho người Tây dương ngoài vị chúa Nam Hà, lời nói đã được truyền đi khắp các bến cảng Á châu.

Học hỏi được các kỹ thuật của Tây dương, vị chúa từ cuối năm ngoái đã cho thăng những thợ thuyền trực thuộc các Ty cục của Tri Đồ gia thành Cai đội, Cai quan, Ty quan, Thủ hợp, tổ chức các ty cục này như trại lính để làm việc theo phiên. Các kỹ thuật làm thuyền, kiến trúc, đúc súng, làm thuốc nổ, nhuộm và cả may mặc được đưa ra để chỉ dạy những người thợ Việt.

Tuy vậy, đám người Tây dương, nhân khi không còn việc để làm, lại đòi được ra trận.

Đánh giặc mùa, vị chúa đề ra phương cách ấy cho họ.

Trong buổi lễ hạ thủy hai chiếc chiến thuyền kiểu mới, vị chúa đã nhân đó thông báo cho tất cả mọi người. Một kế hoạch mà chàng tự hỏi không biết đến bao giờ mới được thực hiện.

31

Trước khi chúa Nguyễn có động thái nào chuẩn bị tấn công, họ đã nhận được tin dữ: Nguyễn Huệ phía Bắc định kéo quân vào.

Người trông coi mạng lưới gián điệp ngay tại Phú Xuân, Ngọc Tuyên thái trưởng công nương, đã chuyển cho chúa Nguyễn toàn bộ kế hoạch tấn công của Tây Sơn: Hai đến ba mươi vạn quân đang được tập trung chuẩn bị cho một trận đánh ồ ạt. Bộ binh đánh đường Thượng đạo từ Vạn Tượng đến Nam Vang. Thủy binh sẽ vào Côn Lôn, vòng qua phá Hà Tiên, theo đường Long Xuyên, Kiên Giang đến phối hợp với quân bộ đánh cả hai mặt Sài Côn.

Cùng lúc ấy, Xiêm vương đưa thư thông báo rằng Tây Sơn đang đánh Vạn Tượng, định tràn vào Chân Lạp.

- Có vẻ như chúng định làm thật. – Nguyễn Phúc Hội nói khi chúa Nguyễn báo tin tức này với họ. – Nhưng đi đường Thượng đạo, vòng qua đất Phiên dân? Trừ phi chúng diệt cả Vạn Tượng để sử dụng đường đi của họ, chứ đường núi của chúng ta thì Huỳnh Đức đã phải mất hơn một năm mới có thể sang Xiêm.

- Anh nghĩ bọn chúng không dám diệt Vạn Tượng à? – Nguyễn Phúc Huy cười khẽ. – Muốn đánh đến Nam Vang thì chúng cũng phải diệt cả Chân Lạp. Bọn chúng đánh thắng được đội quân lén lút của ông già Càn Long lại tưởng mình sắp thành Đại Mông Cổ, Tần Thủy Hoàng, đi đến đâu thì cỏ không mọc được.

- Xiêm vương cũng không thể để yên. – Chúa Nguyễn chậm rãi nói. – Hai đạo quân Xiêm đã được đưa đến Vạn Tượng, hàng chục vạn quân khác đang được tập trung chuẩn bị. Lần này Tây Sơn không phải chỉ đối đầu với ta, mà là cả Vạn Tượng, Xiêm, Chân Lạp.

- Đó là nếu như chúng phải đi đường vòng tránh Nguyễn Nhạc. – Nguyễn Văn Thành lên tiếng. – Nếu bọn chúng hòa giải với nhau, Nguyễn Long không thể chống lại một đội quân lớn đến thế. Chiếm được đường Thượng đạo, chúng sẽ tràn vào Gia Định này như chỗ không người. Mà chúng ta có thể để cho quân Xiêm vào đất của ta lần nữa?

- Chúng ta có cho hay không cũng được sao? Tình hình rối loạn, chỉ cần Tây Sơn đặt chân lên Gia Định thì Xiêm vương sẽ đổ quân vào, cũng chẳng ai có thể cản được. – Chúa Nguyễn cau mày. – Ta đã nói Xiêm chắc chắn sẽ không để yên. Chúng ta không thể để quân Xiêm vào Gia Định, nhưng cũng không thể để đội quân ấy chờ chực ngoài biên. Chi bằng nhân cơ hội này sử dụng Xiêm binh làm quân biên ải, cùng Vạn Tượng đánh vào Nghệ An phân tâm lực lượng địch. Nhân mùa gió nồm, thủy binh ta tranh thủ đánh tiêu hao. Xiêm chặn đường phía Bắc, ta lo phòng thủ phía Nam. Phải xem tình hình Nguyễn Nhạc thế nào.

Dù gì thì cũng phải đánh. Họ hiểu điều đó, những quân tướng đã qua hai lần đối đầu với cái thua trước mắt. Kẻ thù không phải chỉ có Tây Sơn, chúa Nguyễn nói riêng với Võ Tánh khi ra ngoài, Xiêm vương bảo ta cho Mạc Công Bính giữ hai đạo Long Xuyên, Kiên Giang, cho Chiêu Chủy Biện đất Ba Thắc là định nhân dịp này lấn chiếm. Ta đã từ chối Xiêm vương, nhưng nếu chiến tranh xảy ra ở Gia Định, Xiêm chắc chắn sẽ đưa quân vào những vùng đất ấy. Bọn Tây Sơn quan tâm gì đến Gia Định, huống hồ những khu đất hoang kia, như chúng đã bỏ rơi Hà Tiên bao nhiêu lần trước. Mạc Công Bính nhỏ tuổi nhút nhát, làm sao giữ được Hà Tiên?

Lần này ta nhất định phải ra tay trước. Vị chúa nói, trước khi cùng chàng đến tìm Bá Đa Lộc.

Vị Giám mục Thượng sư đón chúa Nguyễn ở Cục Chế tạo với dáng vẻ của kẻ chiến thắng. Ta sắp trở về Phú Lang Sa, Bá Đa Lộc chỉ vào đám hành lý đã gói sẵn mà nói. Chúa công đã không dung chúng ta, ở lại cũng vô ích.

- Ta đã làm gì mà thầy Cả nói như vậy? – Chúa Nguyễn nhướng mày, vẫn tiếp tục trò chơi của Bá Đa Lộc. Ông giáo sĩ mỉm cười.

- Phải, chúa công không làm gì. Chúa công đã không hề làm gì. Ngài không hề muốn đánh Tây Sơn, phải không? Ngài dọa sẽ đuổi cả đám Dayot đi chỉ vì chúng tiêu tiền qúa nhiều khi đi buôn bán cho ngài. Khi nghe rằng Nguyễn Huệ ở phía Bắc năm ngoái bắt giáo dân phải nộp một vạn quan tiền mỗi người, ngài cho rằng mình đã thắng. Ngài cho rằng tất cả giáo dân trên đất nước này chỉ còn có thể hy vọng ở ngài sự khoan dung nên chúng tôi không còn con đường nào khác. Kẻ kia miệng thì nói nhân nghĩa, dung tha cho đạo giáo, tay thì vơ vét bóc lột giáo dân tàn tệ. Phải, chúa công chỉ chờ đợi cơ hội, chờ đợi kẻ kia sơ sẩy. Nhưng ngài không nghĩ rằng Gia Định này chỉ là một mảnh đất cỏn con mà người ta có thể xóa sổ bất cứ lúc nào hay sao?

- Nếu tấn công thì được gì, thầy Cả? Nguyễn Nhạc còn đó, chúng còn hiềm khích nhau, thì ta đỡ được một mối lo về đường bộ. Gia Định này chỉ là một mảnh đất cỏn con, hoang vu, tiêu điều, chỉ có kinh tế và khoa học mới có thể đem lại sức mạnh cho nó, đó là những gì thầy đã dạy cho ta từ nhỏ, thầy đã quên rồi sao? Trong lúc ta đang xây dựng nó, thầy cứ thúc ta tiến công là nghĩa gì? Mà thầy đừng làm ra vẻ không thấy trong năm vừa rồi, chuyện gì đã xảy ra ở Gia Định. Xây thành, dân quân rượt đánh hai viên thuỷ thủ. Đóng tàu thuyền, mua vũ khí, trời lại hạn hán, mùa màng thất bát. Trong tình cảnh như vậy mà tính đến việc đao binh, không chỉ là bất nhân với dân chúng mà còn thất lợi cho ta. Thầy oán trách ta không dung đám thuỷ thủ của thầy, nhưng thầy không cho thời gian để người khác chấp nhận họ, thầy nghĩ cả đất nước này chỉ có một mình ta à? Thầy đốc thúc ta ra trận, nhưng lực lượng của ta mới chỉ có vài chiếc thuyền, làm được gì?

- Khoa học được sử dụng để lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Hai trăm thủy thủ Tây dương đủ để điều khiển đoàn thủy quân của ngài đi bất cứ đâu. Ngài định dựa vào tình thế phân chia của Tây Sơn, nhưng giờ ngài lại sợ bọn chúng bắt tay nhau trước nguy cơ là ngài. Tôi đưa đoàn thuỷ thủ đến cho ngài, tin tức đã xôn xao cả vùng biển Đông, cả Ma Cao, Nam Dương cũng nghe tiếng, Tây tặc phải cảnh giác. Ngài không thừa cơ tiến đánh, tạo dựng thanh thế cho mình, chiếm lấy cái lợi thế trước, để bây giờ Tây tặc kéo xuống, ngài vẫn chỉ có mảnh đất Gia Định bé tẹo teo hoang vu này.

- Thầy không hiểu hay thầy đang cố tình lập lờ, thầy Cả? Việc quân lúc đánh lúc lui, tùy thời mà liệu định. Đánh vào Quy Nhơn hay Phú Xuân lúc trước là chui đầu vào rọ, khác hẳn với tình thế bây giờ. Tây tặc dù có cảnh giác, chúng cũng đã từng đụng trận với tàu của Mãn Noài khi xưa, cướp phá tàu Bồ Đào Nha đi qua vùng biển của chúng, chúng đã biết cách đối phó với tàu Tây dương. Vả lại, Huệ cũng đang làm đại hiệu thuyền, tuy không nhanh bằng tàu Tây dương nhưng hoả lực không kém cạnh. Hai trăm người – dù có hai trăm chiếc thuyền đi nữa cũng khó mà chống lại, huống hồ ta chỉ có vài chiếc. Chiếm được đất, rồi thì sao? Ngày xưa chúng ta cũng lấn lên đến tận Phú Yên, nhưng thuỷ quân Tây Sơn vòng xuống đánh Gia Định, quân Lương Sơn tá quốc của Châu Văn Tiếp trở tay không kịp – tình thế cũng giống như bây giờ. Làm thế ta còn hao phí lương thực, phí tổn lực lượng, phân bố nhỏ đội quân mình càng yếu ớt hơn.

- Vậy thì chúa công cứ lo công việc chiến tranh theo ý ngài, tôi chỉ là một giáo sĩ không hiểu chuyện. Giáo hội vốn đã cấm các giáo sĩ không được can dự vào chuyện chính trị, thế mà tôi đã giúp ngài qúa nhiều, đến lúc tôi phải rút lui rồi.

Chúa Nguyễn cau mày im lặng.

Bá Đa Lộc đang chiếm thế thượng phong. Ông ta biết điều đó, bất cứ ai cũng biết điều đó. Ông ta bỏ đi lúc này, các giáo sĩ dưới quyền ông ta khắp Gia Định và cả ở miền Bắc sẽ rối loạn theo. Các chiếc thuyền Tây dương do họ gọi đến Gia Định cũng sẽ lánh xa, công lao của vị chúa suốt hơn ba năm sẽ như muối bỏ bể. Vị chúa có thể đe dọa đuổi bọn thủy thủ Tây dương năm trước, nhưng cũng lại cần đến họ để điều khiển những chiếc thuyền kiểu mới mà các thủy thủ Việt chỉ có mấy tháng luyện tập vẫn chưa thuần thục. Vị chúa vẫn cần đến những đoàn thuyền Tây dương đến buôn bán mà chỉ nội sự hiện diện của họ đã đuổi được đoàn thuyền Tề Ngôi của Nguyễn Huệ quấy phá Bình Thuận. Chỉ nội sự hiện diện của một vị giáo sĩ bên cạnh chúa Nguyễn đã bảo đảm sự tin tưởng cho người Tây dương bị các đế vương của phương Đông xa lánh, cho người Gia-tô giáo bị đuổi giết khắp nơi ở phương Đông. Ông ta bỏ đi lúc này, những gì vị chúa đang làm hoặc đang có ý định làm đều sụp đổ.

- Ta đến đây định bàn với thầy về một cuộc tiến công, nhưng thầy có vẻ như không định nghe ta nói. – Cuối cùng, chúa Nguyễn thở ra. – Nếu thầy định vứt bỏ tất cả bây giờ, ta cũng không thể cản được. Nhưng những gì thầy theo đuổi giờ ở ngay trước mắt, thầy cần gì phải cố chấp đến vậy?

Đến lượt Bá Đa Lộc im lặng. Bá Đa Lộc là kẻ trí trá, nhưng có thể sai khiến được. Đứng sau lưng vị chúa, chàng lại nhớ đến lời nói của ngài ta lúc trước. Cứ để ông ta đắc ý lúc này, chừng nào ông ta còn làm lợi cho ta, chàng có thể đọc được suy nghĩ trong đầu vị chúa. Đã hướng quân Xiêm đánh đường bộ biên giới Nghệ An, định cuộc tấn công theo đường thủy vào địa phận địch, đám thủy thủ Tây dương chắc chắn sẽ ra quân. Nhưng Bá Đa Lộc sẽ định giá thế nào?

- Ta định sẽ phong Tín làm Vệ úy Thần sách quân tham gia đoàn quân chúng ta. – Chúa Nguyễn gọi Olivier theo cái tên tiếng Việt do chính ngài ta đặt. – Công lao vất vả bao lâu nay, thầy định đem đổ sông đổ biển hay sao?

Ánh mắt chiến thắng, chàng đã thấy nó trên gương mặt Bá Đa Lộc.

- Phong người Tây dương làm quan có qúa đáng không, chúa công? – Chàng hỏi khi họ đã ra khỏi phòng Bá Đa Lộc trong Chế tạo cục. Chàng có thể tưởng tượng thấy phản ứng của các quan khi nghe chuyện. Đã có một Bá Đa Lộc làm Thượng sư, giờ đây lại đến đám thủy thủ tiếng nói bản xứ còn không biết. Chúa Nguyễn nghe như bật ra một tiếng cười.

- Ta đã phong người Miên, người Chiêm, người Minh Hương làm quan được thì sao lại không thể phong cho Tây dương? Thần sách là quân cận vệ của ta, chẳng thể làm gì được nếu không có lệnh ta.

- Vì là quân cận vệ của ngài nên e rằng mới lắm chuyện, chúa công. – Chàng hơi ngập ngừng. Bá Đa Lộc làm Thượng sư, Olivier làm cận vệ, Phạm Văn Nhân làm Vệ úy quân Thuộc nội, Trần Văn Học làm phiên dịch, bao quanh chúa Nguyễn là những người hoặc Tây dương hoặc theo Gia-tô giáo, thân cận với Bá Đa Lộc. Chưa kể đến đội ngũ linh mục của Bá Đa Lộc đi theo quân khắp mọi ngả đường, đã hầu như ngay lập tức tràn đến Bình Thuận truyền giáo. Khắp nơi trong Gia Định đã rộ lên tin đồn người Tây dương khoét mắt người để phù phép, thậm chí một viên quan đã cam đoan thấy điều đó ở nhà thờ. Tin đồn ấy cũng vì sự huênh hoang của giáo sĩ đem các thứ “đồ chơi” của Tây dương đi hù dọa đám dân chúng mà ra. Thêm vài viên quan Tây dương trong triều đình, chẳng cần phải nghĩ cũng biết ngoài kia sẽ nói gì.

Họ đang có một vị chúa bắn súng giỏi hơn dùng gươm, bơi lội giỏi hơn cưỡi ngựa, lăn lộn cả ngày trong xưởng thuyền, xưởng thợ tham gia vào “trò phù thủy” của các linh mục. Từ năm mười chín tuổi, ngài ta đã chế ra loại thuyền hai tầng bắt chước Tây dương, tầng trên để lính đánh trận, tầng dưới để chèo, người ta kể lại với nhau. Từ đó ngài ta đã thu nhận bên mình vài người Tây dương, nhưng không nhiều như bây giờ. Bây giờ, xung quanh ngài ta toàn là người Tây!

Vị chúa hơi quay về phía chàng, nhưng không trả lời. Im lặng, họ đi đến cổng thành, nhìn ra cảng biển. Cảng biển, nơi hai chiếc thuyền buồm lớn và mười lăm chiếc thuyền buồm hạng trung theo kiểu Tây dương, chưa kể đến các chiến hạm hai tầng mà vị chúa vẫn cho tái tạo, đang neo đậu.

- Kia là mẫu thuyền mới nhất mà người Phú Lang Sa sáng tạo ra. – Chúa Nguyễn chỉ về phía chiếc thuyền buồm hạng trung gắn mười bốn khẩu súng, có ba cột buồm. – Họ gọi nó là phơ-ri-gây. Nó có ba tầng, tầng giữa để gắn súng, tầng dưới cùng để chèo. Còn mẫu thuyền hai tầng, có một buồm mà ta làm năm mười chín tuổi đã có ở Tây dương vài trăm năm trước, thậm chí vào thời cổ đại của họ, gọi là ga-lây. Thuyền buồm lớn - đại hiệu thuyền - ta đang cố bắt chước mới đích thực là chiến thuyền. Nó có bốn tầng, hai tầng gắn súng, lên đến vài chục khẩu. Khanh có nhìn thấy hệ thống cột và dây buồm của nó, khác hẳn với kiểu mẫu đơn giản của hải tặc Hoa Nam. Một chiếc thuyền lớn không có nghĩa là phóng lớn bản mẫu của thuyền nhỏ. Người Tây dương, với hàng ngàn năm đi trên biển, đã tạo ra đủ các loại thuyền thiện chiến đến đáng sợ. Nếu không học hỏi họ, ta sẽ bị họ nuốt chửng. Đừng lầm lẫn, ta có thể ghét người Tây dương tùy ý, cấm họ vào đất nước này cũng được, nhưng không thể không lưu tâm học lấy cái hay của họ. Dân của ta bao giờ cũng đặt cảm tính qúa cao, cả thói mê tín kia nữa, thấy cái gì lạ là tránh xa thay vì tìm hiểu, thấy cái lợi thì chỉ cố lợi dụng được nó chứ không hề muốn tự tạo ra nó. Ta thường bảo con phải cố mà học lấy cái hay của Tây dương, nhưng làm sao mà dạy được tất cả người trong thiên hạ?

Chàng không nói, lại nhớ về cuộc nói chuyện của vị chúa và Phúc Cảnh vài tháng trước khi chàng đến điện của ngài ta. Phúc Cảnh từ đâu đã chạy vào, hồ hởi khoe về việc Bá Đa Lộc tạo ra một loại chiến xa để kéo các khẩu pháo. Cha Cả thật là giỏi, nó nói. Chúa phù hộ cho ông ấy.

Thiên Chúa giáo có phải là một điều tốt cho Âu châu không? Vị chúa nói sau một thoáng im lặng ngắn. Phúc Cảnh nhìn cha nó, một lúc sau mới trả lời.

Thiên Chúa không xấu, nhưng những kẻ lợi dụng đạo giáo đều xấu. Phật, Lão không xấu, nhưng những kẻ lợi dụng Phật, Lão thì xấu.

Ta chỉ muốn hỏi đó có phải là một điều tốt cho Âu châu không. Vị chúa nhắc lại.

Con nghe các thủy thủ kể rằng, ở Phú Lang Sa, ngoài đức vua còn có Nhà thờ, ngoài tòa án của vua còn có tòa án của Giáo hội. Quyết định việc trong ngoài, vua phải hỏi ý của Giáo hội. Phúc Cảnh nói, giọng không chùng xuống, không xao động. Đã có thời mà họ gọi là Thời đại tăm tối, khi Nhà thờ kiểm soát hết tất cả, cấm cả người ta làm thơ, vẽ tranh, nghiên cứu thiên văn, cấm tất cả mọi sự sáng tạo, coi đó là phù thủy.

Giống như những gì đám dân của ta tin tưởng bây giờ. Chúa Nguyễn mỉm cười. Ta không ghét Thiên Chúa, ta không ghét Phật, Lão, nhưng ta ghét bọn đồng bóng, ghét đám sư sãi chỉ dựa vào cái miệng cầu được mấy câu kinh mà vơ vét của dân. Ta không ghét các giáo sĩ, nhưng con nghĩ sao nếu bên cạnh chúng ta có sự quản lý của một đám người từ bên kia bờ biển đến, không hiểu gì về chúng ta, khác máu tanh lòng? Ta không cấm con tin Thiên Chúa, cũng như ta không thể cấm mẹ con, bà con tin vào Phật, nếu đó là thứ con thấy cần cho bản thân mình. Nhưng lòng tin vào thần thánh, vào những điều tốt đẹp của đạo giáo chỉ dạy, khác với sự mê tín, và nhất là cần tỉnh táo phân biệt được đâu là đúng là sai. Trong những cuốn sách của Tây dương, con có thấy người ta treo cổ, thiêu cháy hàng ngàn người bị gọi là phù thủy chỉ vì làm những điều vượt ra ngoài khả năng tối thiểu của con người? Thiên Chúa giáo không xấu, nhưng những kẻ dựa vào nó đã kéo lùi cả châu Âu xuống. Hầu như không có đạo nào xấu, nhưng còn phải xem nó vào tay ai. Không có thứ lý thuyết nào tồi tệ, nếu không nó đã không thể tồn tại, nhưng phải xem người ta sử dụng nó thế nào.

Tây dương rất mạnh, họ có những thứ rất tốt, nhưng không phải vì thế mà ta cho rằng mọi thứ của họ đều tốt. Thu nhặt một thứ đã lỗi thời, đã bị chính người ta chối bỏ về làm của mình là thói học theo rởm đời của những kẻ ngu ngốc.

Nhưng Cha Cả thực sự rất giỏi. Cảnh ngập ngừng. Cha Cả không chỉ biết mọi điều về khoa học, chế tạo mà còn rành cả văn hoá xứ ta. Ông ấy đang làm một bộ từ điển lớn để mọi người cùng học hỏi cái hay, cái tốt. Ông ấy chịu khó học hỏi, không bài xích hay câu nệ. Giáo hội có những người như ông ấy, có thể họ đã thay đổi.

Con hãy bảo các thủy thủ Tây dương kể cho nghe nhiều câu chuyện nữa về Tây dương, từ ngàn xưa. Chúng ta học lịch sử để biết căn nguyên của tất cả mọi việc, không phải để ngâm vịnh với nhau. Người Tây dương sống trong rừng, trên những vùng đất hoặc khô cằn sỏi đá, hoặc thời tiết khắc nghiệt. Họ có truyền thuyết rất xa xưa về một dân tộc thông minh và hùng cường. Họ từ ngàn xưa đã phát triển các môn hình học, giải phẫu, làm toán, chế tạo. Họ đi trên biển, trên các thảo nguyên, do đó bầu trời của họ mở rộng, lịch của họ được làm theo chu kỳ của mặt trời và các vì sao. Họ tính toán để xây được những tòa nhà bằng đá thật vững chãi, những chiếc thuyền thật chắc chắn. Những gì họ có hiện tại là kết qủa của cuộc sống của họ, kết lũy từ hàng ngàn năm. Còn chúng ta, tổ tiên chúng ta sinh sống trên những đồng bằng trù phú, quây lại thành từng cụm, từng làng. Lịch của chúng ta là theo mặt trăng, theo chu kỳ sinh sôi của những gì sống trên đất. Chúng ta chỉ lưu tâm đến chuyện phải chia phần thế nào, đối xử người với người ra sao. Chúng ta cũng sáng tạo, người Tàu cũng sáng tạo, nhưng đó là kết qủa của kỹ năng. Chúng ta tạo ra giấy, nhưng người Tây dương làm ra loại giấy trắng nhất. Chúng ta tạo ra thuốc nổ, nhưng người Tây dương làm ra loại thuốc nổ mạnh nhất. Chúng ta tạo ra súng, nhưng người Tây dương cải tiến nó thành đủ loại, đủ kiểu. Một khi có điều gì đáp ứng cái trước mắt của chúng ta, chúng ta dừng lại.

Tây dương mới thực sự phát triển từ trăm năm đổ lại. Nhưng đó là khi họ đã cởi được ràng buộc của mê tín. Còn dân trí chúng ta thì bằng họ hàng mấy trăm năm trước.

Trần Văn Học đã từng hỏi ta, dạy những luân lý Nho học để làm gì? Ta bảo, đó là môn học để quản lý xã hội, để rèn luyện đạo đức, không phải là khoa học. Ta không phải là nhà khoa học, chỉ có thể chỉ bảo để người dân bớt mê tín. Kinh sách không có hại, nhưng miên man trong kinh sách thì có hại là chỉ thấy những điều ghi trong sách, không thấy trong thực tế, rồi cuối cùng lại đổ lỗi cho kinh sách. Trong lúc dân ta chìm trong Phật, Lão, Thần, thì phải bài trừ đi dần dần, lấy tôn vinh bản thể trong Nho học mà khắc chế bớt, lấy lý tính mà truyền bá cho quần chúng. Vậy mà, đám sĩ phu, một là chỉ cầu danh cầu lợi học như con vẹt, hai là vùi đầu trong sách mà ngẫm nghĩ chuyện cao siêu không thực tế. Mở miệng là trích lời kinh sách, chẳng cần biết đúng sai, không có một lời nào của mình. Người xưa bảo rằng đúng thì hùa theo rằng đúng, sai thì gật đầu theo bảo sai. Thà có quan điểm của mình đã đành một nhẽ, đằng này chỉ đọc qua mấy lời sách vở, không cần suy nghĩ cũng học theo, lấy tiếng tăm làm căn cứ, lấy danh vị làm chỗ dựa. Học hành như thế, có học cũng chỉ để đếm ruộng thu khoán sống qua ngày, chẳng làm được gì.

Bá Đa Lộc giỏi không phải vì ông ấy là giáo sĩ. Vấn đề không phải là đạo Phật, Lão, Thần, Thiên Chúa hay Nho. Sự giàu mạnh, chỉ cần so nước này với nước kia, ta với Tàu, ta với Xiêm, ta với Tây dương, các nước Tây dương với nhau, cũng nhận ra rằng nó nằm ở một nguyên do khác. Còn không, cứ cho rằng mặc quần áo như Tây dương, nói tiếng Tây dương, làm như Tây dương rồi nghĩ mình giống như họ, được như họ thì chỉ là ảo tưởng.

Một chiếc thuyền lớn không phải là bản phóng lớn của một chiếc thuyền nhỏ. Ngài ta nói, trước bến cảng bây giờ. Trước cơn bão đang kéo tới. Như người thuyền trưởng chuẩn bị đương đầu với gió bão, dùng mọi phương cách để bảo toàn cho thuyền, và là người sẽ sống chết cùng chiếc thuyền của mình, không bỏ chạy.

Mùa hạ năm Nhâm Tý, cuộc tập trận lớn của các thủy thủ Tây dương cùng gần ba trăm chiếc thuyền đã diễn ra ngoài biển Vũng Tàu. Đến vũng Diên, bắt được thuyền tuần tra của Tây Sơn, biết được rằng Nguyễn Nhạc làm thuyền rất nhiều ở cửa Thị Nại nhưng triều đình lại đang đi săn bắn trên núi, chúa Nguyễn ngay lập tức đưa tin về Sài Côn cho Nguyễn Phúc Huy chuẩn bị quân tiến công. Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành và Phạm Văn Nhân đi trước, Trung quân Nguyễn Văn Trương hộ vệ, Nguyễn Kế Nhuận bọc hậu. Các đoàn quân còn lại lưu ở Gia Định phòng thủ.

Từ khi vị chúa đưa thuyền đi tập trận đến lúc đoàn quân tấn công vượt khỏi lũy Bán Bích, mọi việc nhanh chóng đến mức mọi người còn chưa hết ngỡ ngàng. Trong khi đó, ở Quy thành, người vội đến Hàn lâm viện báo cho bọn Trịnh Hoài Đức rằng thầy Võ Trường Toản của họ ốm nặng. Gác lại mọi công việc, các Hàn lâm Chế cáo đến ngay trường học của người xử sĩ Gia Định. Biết được tin, Võ Tánh cũng vội đến nơi, nhưng không còn kịp nữa. Võ Trường Toản đã ra đi vào ngày đầu tháng sáu năm Nhâm Tý.

Khu khuôn viên trường đông chật người. Các học trò, người đầu đã điểm bạc, đứa trẻ tóc còn để chỏm đều đứng lặng phắc trong nỗi tiếc thương. Vải trắng đã được treo ngoài cửa.  Bàn thờ giữa nhà đã lập, nghi ngút khói hương. Vào nhà viếng tang, chàng nhận ra rằng bọn Ngô Tùng Châu đứng làm chủ tế cho thầy.

- Thầy cả đời dạy học, không gia đình, con cái. – Ngô Tùng Châu nói với chàng trong đêm anh ta ở lại coi quan. Những học trò khác đã chia nhau phân công làm việc, người lo lễ, người lo quan. Câu đối liễn đã được họ viết treo hai bên linh cữu:

“Sinh tiên giáo huấn đắc nhân, vô tử nhi hữu tử.

Một hậu thịnh danh tại thế, tuy vong giả bất vong."

Tiếng thở dài của Ngô Tùng Châu lan vào đêm.

- Chúng tôi việc quan vướng bận, không thể chăm sóc cho thầy, thật là có lỗi. Vậy mà lúc lâm chung thầy không hề trách cứ, chỉ bảo các con phải làm tròn chữ trung hiếu trong đời. Thầy chỉ để lại bài phú Hiếu trung hoài cổ, viết trước khi mất.

“Lao xao cõi trần ai, trường hoan lạc gẫm không mấy lúc;

Thắm thiết cơn mộng ảo, đoạn biệt ly há dễ bao lâu.

Nghìn năm hồn phách Hán anh hùng, hồn phách mất người kia cũng mất;

Muôn dặm nước non Đường thế võ, nước non còn đời ấy đâu còn.”

Họ lặng im nghe tiếng nước nhỏ trên mái nhà từ cơn mưa chiều vừa tạnh, gió nam thổi ào ào qua ngàn cây nội cỏ. Gió nam, chàng lại nghĩ đến đoàn quân chúa Nguyễn đang xuất trận. Một đoàn quân khổng lồ khác đang chuẩn bị đánh úp xuống họ từ miền Bắc, như con sóng đang trùm lên, có thể nuốt chửng họ bất cứ lúc nào.

Nỗi sợ hãi đã lan khắp Gia Định như làn gió đang thổi mạnh, như cơn mưa đều đặn sầm sập đổ xuống. Những thảm cảnh trong Hoài Nam khúc được hát đi hát lại trên đường phố, ngõ sông. Người người đã chuẩn bị củng cố thêm những chiếc thuyền của họ để trốn đi nhanh nhất. Ngay cả các giáo sĩ cũng thì thầm với nhau chuyện bỏ chạy, rằng “tên giặc phía Bắc sẽ bóp chết chúa”. Họ chẳng còn chờ đợi gì ở phương Bắc, sau những cởi mở lúc ban đầu với đạo giáo của họ, Nguyễn Huệ đã bắt mỗi giáo dân phải nộp một vạn quan tiền. Giống hệt như người anh của hắn, họ nói. Ban đầu là vơ vét của giáo dân, sau đó là tàn sát và ngăn cấm. Đó là một vòng quay đều đặn của các vua chúa trong chiến tranh mà ai nấy đều biết qúa rõ ràng.

Một vạn quan tiền mỗi người hoặc là phải bỏ đạo, số tiền ấy bằng cả gia đình năm đời mới kiếm được.

Chúa Nguyễn đã từng dựa vào thông tin ấy để ép Bá Đa Lộc, nhưng đến lượt mình, vị chúa cũng phải nhượng bộ. Một động thái bất lợi, bất cứ động thái bất lợi nào trong thời điểm này cũng kích động nỗi sợ hãi phập phồng kia bùng nổ. Từ đám giáo sĩ đến các giáo dân, rồi sẽ truyền vào dân chúng. Nếu ngay cả Bá Đa Lộc cũng bỏ đi lúc này, sẽ chẳng ai còn ở lại.

Trong bóng tối, chàng như nghe thấy trái tim của muôn vạn con người phập phồng thở. Ở bờ biển Bắc, hẳn đoàn quân đã qua Thuận Thành trấn. Sự ra đi của họ, hai đoàn quân chỉ gồm toàn tinh binh, thậm chí nhiều người Gia Định vẫn không hề hay biết. Tinh binh của Tiên phong dinh, những quân sĩ anh em của chàng. Những người thanh niên đầy nhiệt huyết đã tình nguyện đến với chàng từ ngày còn trong núi rừng Định Tường. Trong nỗi sợ hãi này, họ vẫn tiếp tục tiến bước.

“Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà tàn héo;

Hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời.

Cho hay vực thẳm nên cồn;

Khá biết gò cao hoá bể.

Quán âm dương rước khách xưa nay, đã mấy mươi năm;

Đò tạo hoá đưa người qua lại, biết bao nhiêu chuyến.”

Giọng Trịnh Hoài Đức chợt vang lên ngoài sân. Họ nhìn ra khoảng sân vẫn sáng ánh lửa của những học trò giữ linh cữu thầy còn ngồi lại hầu như đông đủ. Trải chiếu ngồi trước hiên nhà, Trịnh Hoài Đức quay mặt về phía đám đông, ngâm nga khẽ nhưng tiếng nói trong đêm lan xa đến tất cả mọi người.

“Nhấp nháy ngọn đèn trong kiếng;

Lênh đênh bóng nguyệt dòng sông.

Đường Ngu ấp tổn rượu ba chung, dường say dường tỉnh;

Thang Võ chinh tru cờ một cuộc, thoạt đặng thoạt thua.

Của có không nào khác đóm mây;

Người tan hiệp dường như bọt nước.

Lánh non Thú cam bề ngã tử, hai con Cô Trúc đã về đâu?

Luyện linh đan lo chước trường sinh, bốn lão Thương san đà bặt dấu!

Mộng tàn nửa gối, bướm Trang Chu giấc hởi mơ màng;

Xuân lụn mấy canh, quyên Thục đế tiếng còn khắc khoải.

Tha thiết bấy một gò hoàng nhưỡng, ngọc lấp hương chôn;

Ảo não thay mấy cụm bạch vân, mưa sầu gió thảm.

Ngựa trên ải một may một rủi;

Hươu dưới Tần bên có bên không.

Hán Võ ngọc đường người ngọc nọ xưa đà theo gió;

Thạch Sùng kim ốc của tiền xưa nay đã lấp sương.

Lao xao cõi trần ai, trường hoan lạc gẫm không mấy lúc;

Thắm thiết cơn mộng ảo, đoạn biệt ly há dễ bao lâu.

Nghìn năm hồn phách Hán anh hùng, hồn phách mất người kia cũng mất;

Muôn dặm nước non Đường thế võ, nước non còn đời ấy đâu còn.

Thương hỡi thương! Huyền quản cung Tần, chim làm tổ tiếng kêu văng vẳng;

Tiếc ỷ tiếc! Y quan đời Tấn, biển nên cồn cỏ mọc xanh xanh.

Cung Tuỳ xưa chim nói líu lo, mấy độ xuân về hoa sái luỵ;

Đài Ngô trước hươu nằm ngả ngớn, đòi ngàn sương ngọn cỏ đeo sầu.

Ô giang đêm thẳm hé trăng mành, quạnh quẽ vó chùng họ Hạng;

Cai Hạ ngày chiều hiu gió mát, phất phơ ngọn cỏ nàng Ngu.

Đài vắng Nghiêm lăng, mấy khúc quanh co sông chảy tuyết;

Thuyền không Phạm Lãi, năm hồ lai láng nước ken mù.”

“Cho hay dời đổi ấy lẽ thường;

Mới biết thảo ngay là nghĩa cả.

Luỵ rơi non Lịch, Đại Thuấn từng dời tính hai thân;

Sương lọt áo bô, Tử Khiên lại trọn niềm một thảo.

Tôn khóc măng, Tường nằm giá, nằn nằn lo giữ đạo con;

Tích dấu quít, Cự chôn con, nắm nắm đua đền nghĩa mẹ.

Trước đền Trụ mổ gan một tấm, muôn kiếp còn danh để tạc bia;

Dưới thành Ngô treo mắt đôi tròng, nghìn năm hãy người đều nhởm gáy.

Tám trăm dặm xông pha ải Bắc, thương họ Hàn chói lói lòng dân;

Mười chín năm giữ một niềm Tây, cảm ông Võ phơ phơ đầu bạc.

Cật Võ Mục nhuộm thanh bốn chữ, tấm trung thành đã thấu trời xanh;

Áo Thiên Tường ghi đượm hai câu, phương tựu nghĩa chi phai lòng đỏ.

Trời món đất già danh hỡi rạng, luỵ non Ngưu nghĩ cũng sụt sùi;

Biển khô đá rã tiết nào phai, sử họ Mã chép còn tỏ rõ.”

- Đó là điều cuối cùng thầy còn để lại cho chúng ta. – Vị quan họ Trịnh chỉ nói một câu sau đó.

Vẫn chỉ có sự lặng yên bao trùm ngôi trường nằm giữa lũy tre rì rào trong gió đêm.

Ngoài kia là Gia Định đầy xáo động. Ngoài kia là trận chiến đang gào thét. Ngoài kia là tương lai còn đầy nỗi gian nguy. Dời đổi lẽ thường, thịnh suy thành bại luân phiên thay đổi. Họ nghĩ về những điều đó, bây giờ. Nhưng cái chết đã không còn đáng sợ nữa.

- Đó là điều cuối cùng thầy để lại. – Trong nhà, Ngô Tùng Châu thầm thì nhắc lại, nhìn về phía linh cữu lung linh ánh nến. Trong mắt anh ta, lệ đang chầm chậm dâng lên.

Chỉ hơn một tháng sau ngày ra đi, đội quân của chúa Nguyễn trở về Gia Định báo tin thắng trận Thị Nại. Họ còn kéo theo cả năm chiếc đại hiệu thuyền cùng hàng chục tàu thuyền khác lấy được của Nguyễn Nhạc.

Ta đốt sạch tàu thuyền địch, Nguyễn Văn Thành hồ hởi kể. Chúa công còn để lại cho Nguyễn Nhạc một chiếc xuồng ghi mấy chữ “Chúa Nam Hà tặng cho  Nguyễn Nhạc để đi câu”.

Chỉ một mình Nguyễn Văn Trí đã hạ được hầu hết hệ thống phòng thủ của Tây Sơn, chúa Nguyễn nói riêng với Nguyễn Văn Trương khi vãn người, dùng cái tên Việt của Dayot. Khanh có thấy cách anh ta sử dụng thuyền Tây dương? Khi bắn hết loạt đạn bên này, cách anh ta cho nghiêng thuyền lại để tiếp tục khai hỏa phía bên kia, không để khoảng thời gian kéo dài cho đối thủ có cơ hội tấn công? Một chiếc thuyền lớn như vậy mà anh ta sử dụng như thể nắm được nó trong tay mình. Khanh và các thủy thủ dưới quyền hãy chú tâm lưu ý học.

Có thuyền Tề Ngôi trong đội thuyền của Nhạc, vị chúa nói với các quan trong buổi họp sau đó. Khoảng chừng vài chục chiếc thuyền, nhưng chúng đã kịp bỏ chạy, ta chỉ bắt được ba chiếc. Từ khi Tây tặc đánh vào Gia Định mười năm trước, ta đã thấy chúng sử dụng hải tặc Tàu Ô, giờ Huệ phía Bắc móc nối với bọn ở Lưỡng Quảng đông đúc thêm. Bọn Tề Ngôi của Nhạc không rõ có liên hệ với đội hải tặc đã vào cướp phá Bình Thuận hay không. Đội thuyền của Nhạc đặc biệt đông đúc, hắn đang chuẩn bị đối phó với ta. Nhưng Nhạc già nua thận trọng, chắc không dám tấn công một mình. Ta e rằng chúng đã ngấm ngầm đạt đến thỏa ước nào đó.

- Không có dấu vết nào của bọn Huệ trong quân, chúa công. – Nguyễn Văn Thành lắc đầu. – Khi đốt trại giặc, thần thấy quân của chúng chỉ là quân Quy Nhơn.

- Nhạc sẽ cho Huệ vào lãnh địa của mình hay sao? – Chúa Nguyễn nhếch môi. – Quân của Huệ đã tới nhưng chỉ ở ngoài biên Quy Nhơn là đủ hiểu. Qúa lắm thì Nhạc sẽ chỉ mở đường cho quân Huệ đi qua hoặc góp vài đạo quân. Huệ đã phải tấn công Vạn Tượng để mở đường nhưng lại bị Xiêm đẩy lui, vậy thì dù muốn dù không sẽ phải cầu đến Nhạc. Chúng vẫn còn dè chừng nhau. Ta phải xem tình hình thế nào.

Trước mắt là báo tin cho Xiêm để Xiêm vương chú tâm vào Vạn Tượng, không còn lý do để đòi Long Xuyên mãi. Đang mùa gió nồm, bọn Tây Sơn có muốn cũng khó có thể tấn công, ta nhân lúc này củng cố thủy quân. Đường bộ đã có Xiêm, ta tập trung phòng thủ đường thủy.

Quân bộ Tây Sơn đáng sợ chỉ ở đội voi. Ngựa thấy voi là chạy. Súng đạn không có tác dụng với lớp da dày của chúng. Ta tuy đã có voi nhưng mới chỉ là công cụ đi lại, chưa phải là đội quân. Nay cho người đi bắt thêm voi về Trường đà huấn luyện.

Còn các đội quân ngoài binh trực phiên thì cho lính về. Câu nói cuối của vị chúa khiến vài người ngơ ngác.

Huấn luyện nữa chứ huấn luyện mãi cũng chẳng để làm gì. Qua hai năm thì lính đã nắm được cơ bản, giữ họ ở lại trong quân thì lúc nào cũng phập phồng lo sự chiến tranh, hại cho thần trí, chỉ sợ lúc ra trận lại chạy mất. Cứ theo thường lệ mà làm, ta không thấy sợ thì người mới yên lòng được. Chúa Nguyễn giải thích cho họ, sau đó. Nhạc mất thủy quân hẳn đang khiếp hãi, Huệ nghe chuyện cũng tức giận, ta phải đâu không đoán được. Nhưng chiến tranh trước sau gì cũng xảy ra thì phải vững lòng mà đối đầu.

Khi các tướng đã ra về hết, chàng mới báo cho chúa Nguyễn về việc Võ Trường Toản. Vị chúa chớp mắt, cho gọi bọn Ngô Tùng Châu vào. Bọn họ đều mặc áo tang như với người thân. Việc tang chế của xử sĩ họ Võ đã xong. Họ kể về căn bệnh của thầy và cả bài phú cuối cùng cho vị chúa. Chúa Nguyễn nghe chuyện, chầm chậm gật đầu.

- Ban cho tiên sinh hiệu là Sùng Đức, bia mộ “Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh”.

Bọn Ngô Tùng Châu lãnh chỉ cúi đầu cảm tạ, chúa Nguyễn cho người đi thảo chỉ sai và văn tế. Còn lại một mình, vị chúa nhắm mắt, ngả đầu trên cánh tay chống lên tay ghế. Trước khi chàng định cáo từ lui ra, vị chúa thở dài.

- Sùng Đức tiên sinh dạy ta về chữ Đức, nhưng cuối cùng tiên sinh sao lại chỉ có thể nhớ gương người xưa mà thốt ra những lời u sầu đến vậy?

32

Gia Định những tháng gần cuối năm Nhâm Tý chìm trong bầu không khí có phần kỳ lạ. Trong nỗi sợ hãi về một cuộc chiến tranh mới sắp xảy ra, mọi người lại càng cố sinh sống như bình thường. Đã cho binh lính không đến phiên của các dinh về hết, chúa Nguyễn chỉ giữ lại một số tinh binh mà sự hiện diện của họ không làm cho Sài Côn có một dáng vẻ của nơi sắp đón chiến tranh. Người ta chỉ thỉnh thoảng nhắc về nó, trong sự kiềm chế mà ai cũng tự cảm thấy là nghĩa vụ của mình. Khu phố chợ Sài Gòn vẫn đông đúc sớm chiều. Các hội quán vẫn mở những buổi lễ mừng ngày rằm, mùng một. Ngay cả khu vực của Phiên dân cũng bình an trở lại sau khi chúa Nguyễn phân quyền ra rõ ràng để người Đường quản người Đường, người Miên quản người Miên, cấm dân Việt xâm phạm đất đai Phiên dân. Tàu thuyền Tây dương đến lại ngày càng nhiều hơn, khi chúa Nguyễn đã chính thức phong một thủy thủ Tây dương làm quan cận vệ của mình. Nhiều thủy thủ trên các con thuyền ấy đã ở lại Gia Định, muốn được tham gia vào cuộc chiến với máu phiêu lưu ưa thích những nơi hiểm nguy của mình. Hoạt động của Cục Chế tạo được đẩy mạnh, bến sông đông chật tàu thuyền. Các con voi vừa mới được đưa về đều đặn mỗi buổi làm náo động một góc Sài Côn trong buổi luyện tập của chúng.

Một số trong những thủy thủ vừa tới, có cả người Ái Nhĩ Lan, Bồ Đào Nha, đã kể về cuộc chính biến đang diễn ra tại Phú Lang Sa. Nhà vua cùng gia đình đã bị bắt cuối năm ngoái khi định trốn khỏi đất nước. Liên quân Áo – Phổ đang dàn trận trước biên giới Phú Lang Sa. Trong khi đó, trong nước Phú Lang Sa, “Cuộc tàn sát tháng chín” xảy ra khi dân chúng bị kích động về một cuộc tấn công của quân ngoại quốc đã tràn vào Paris đòi diệt tất cả những “kẻ thù của cách mạng”. 1400 người, cả các giáo sĩ Gia-tô, bị lôi ra hành quyết.

Hiện tại ở nước Phú Lang Sa có hai nhóm chính, các thủy thủ kể. Hầu tước De Lafayette, người đã được phong làm Tổng tư lệnh các lực lượng cảnh vệ, người đã đi theo cuộc cách mạng từ những ngày đầu phá ngục Bastille, một trong những người soạn ra “Bản tuyên ngôn nhân quyền”, chủ trương theo đường lối bảo hoàng ôn hòa, thành lập nhà nước quân chủ lập hiến. Ý định này không thành, người anh hùng cũ bị xem là kẻ phản bội phải trốn khỏi đất nước. Còn lại là hai đảng Girondin có hơn hai ngàn đảng viên thuộc tầng lớp trung lưu, đảng Jacobin có thành viên là nông dân và công nhân. Đảng Girondin chủ trương cải tiến xã hội trong khi đảng Jacobin chủ trương mở rộng chiến tranh tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối, bao gồm cả các qúy tộc đã trốn khỏi đất nước. Đảng Girondin có thủ lãnh là George Danton, đảng Jacobin có thủ lãnh là Maximilien Robespierre.

Sau “Cuộc tàn sát tháng chín”, cuộc bầu cử được triệu tập nhưng số người bỏ phiếu chỉ chiếm một phần mười. Nền Cộng hòa được thành lập. Quốc hội mới cũng bao gồm hai đảng phái này, mỗi bên chia một nửa phòng họp.

Họ tịch thu tất cả đất đai của Nhà thờ, nhưng chỉ bán ra cho những người có chứng khoán do chính phủ phát hành. Họ đem mỗi lô đất mênh mông này ra bán đấu giá, và tất nhiên nông dân không thể mua nổi vì họ không có chứng khoán, cũng không có đủ tiền. Các phường thợ cũng bị giải tán. Công dân được chia làm hai hạng, chỉ đàn ông có đóng thuế mới được quyền bầu cử. Đảng Girondin còn hạn chế hoạt động của phụ nữ tại Quốc hội. Trong khi đó, vật giá tiếp tục tăng cao, tiền tiếp tục mất giá.

Ở Anh Cát Lợi, Edmund Burke đã cho xuất bản một cuốn sách tên “Những suy nghĩ về cuộc cách mạng Phú Lang Sa”, trong đó ông tiên đoán nước này sẽ gặp tình trạng vô chính phủ và nguy cơ chế độ độc tài, ông cũng chống lại sự bạo động, man rợ và bạo lực của cuộc cách mạng này.

Hai đảng Girondin và Jacobin tuy ngoài mặt nhượng bộ nhưng bên trong kình chống nhau, chẳng mấy chốc mà sẽ lại xảy ra chính biến. Không ai trong số những kẻ cầm quyền khống chế được sự bạo động của người dân, khắp nơi xảy ra các vụ giết chóc, thảm sát. Những thủy thủ Ái Nhĩ Lan nói. Trong khi đó, những người nhiệt tâm với cách mạng từ những ngày đầu, kẻ bị đưa lên máy chém, người phải chạy trốn. Tất cả đang phân rã, tất cả đang rối mù. Tuyên chiến với Áo và Phổ rồi phải tiến hành chiến tranh trong lúc dân chúng đói kém, thêm vào nếu hành quyết vua và hoàng hậu bây giờ thì tất cả các nước lân cận sẽ không thể ngồi yên. Tiên đoán của Burke đang dần trở thành sự thật.

Tin tức mà nhóm thủy thủ mới đem tới đã làm rúng động những kẻ thân thuộc với Tây dương ở bến cảng Sài Côn. Các giáo sĩ Phú Lang Sa vừa khóc than cho đồng đạo, cho Nhà thờ của họ vừa sợ hãi cho tương lai mình. Các giáo dân biết tiếng La-tinh cau mày. Các thủy thủ Phú Lang Sa ngẩn ngơ.

- Họ sẽ giết hoàng hậu sao? – Phúc Cảnh hỏi Bá Đa Lộc đứng nín lặng trong cảng trước chợ Bến Thành. Nó vẫn còn nhớ người phụ nữ đã nhiệt tình an ủi, giúp đỡ mình. Bá Đa Lộc không trả lời nó, ông chạm tay vào cây thánh giá đeo trên ngực, cúi đầu lầm rầm cầu nguyện.

Đừng kể với chúa công, Bá Đa Lộc muốn nói với đứa trẻ, nhưng biết là vô ích. Vị chúa đã đánh bạn với những tên thủy thủ “đồ đệ của Voltaire” thân thiết đến nỗi họ sẽ nói bất cứ điều gì. Và những tên thương buôn Bồ Đào Nha, Anh Cát Lợi chỉ muốn lật đổ vị trí của người Phú Lang Sa ở cạnh vị chúa sẽ chẳng bỏ qua cơ hội để kể cho ngài ta nghe về những gì xảy ra ở “đất nước hùng cường” kia cũng giống hệt như những gì đang xảy ra trên đất nước ngài!

Các tăng lữ bị thảm sát khắp trên đất Pháp, ông vẫn còn nghe tiếng nói ấy vang bên tai mình. “Cuộc thảm sát tháng chín” tắm máu Paris, và tất cả sẽ không dừng lại. Đất nước ấy là của ông, ông biết rõ nó như thế nào. Phần lớn dân chúng mù chữ, thất học trong khi giới qúy tộc suy đồi, yếu nhược. Giới tư sản, bao gồm cả những thương nhân đã đóng góp tiền bạc của cải để ông mộ đám quân đến Gia Định này, chỉ quan tâm đến một điều duy nhất: Lợi ích. Phải, chính họ chứ không ai khác, không phải đám chúng dân cuồng tín kia, những kẻ dễ dàng bị kích động bởi hận thù bị dồn nén lâu ngày, cũng không phải đám người tự xưng là qúy tộc cấp tiến kia cùng sự ngây thơ tưởng có thể hòa hoãn xây dựng lại tất cả từ đầu. Rồi đến lượt họ lại đi kình chống nhau, đả phá nhau. Cướp ruộng đất của Nhà thờ rồi bán cho người giữ cổ phiếu, cấm độc quyền sản xuất, còn ai có thể vào đây nữa?

Trong nỗi đau đớn, ông vẫn còn đủ tỉnh táo để đánh giá sự việc. Nếu tin tức này đến tai chúa Nguyễn, vị chúa sẽ nghĩ gì? Nhà thờ của ông đang là một nạn nhân, ông không lo sợ vị chúa sẽ nghi ngờ mình. Đám thủy thủ thì chỉ có Dayot là con cháu của Toàn quyền Ấn Độ, còn lại xuất thân từ giới trung lưu và nghèo, đúng những kẻ đang làm mưa làm gió ở Paris.

Bên cạnh Bá Đa Lộc, Phúc Cảnh đã cau mày im lặng. An ủi thằng bé mấy câu, Bá Đa Lộc vội vã tìm chúa Nguyễn. Ngài ta đã lại dong thuyền đi đâu đó mất, chỉ trở về khi trời đã chuyển sang trưa. Ngồi ăn cùng các thợ thuyền ở xưởng mộc, vị chúa hơi nhướng mày khi thấy vị Giám mục bước tới.

- Thầy Cả ăn trưa chưa? – Chúa Nguyễn Phúc Ánh hỏi khi ông giáo sĩ cúi chào. Hiểu câu nói ấy như lời cho phép ngồi, Bá Đa Lộc chọn chỗ thấp hơn vị chúa một bậc ngồi xuống. Đưa mắt nhìn quanh, ông thấy đám thủy thủ đã lại tụ tập nhau uống rượu Tây vừa mới được đưa xuống từ những chiếc tàu.

- Trong những tay mới đến, kẻ tên là Le Fèbre khá lắm. – Thấy ánh mắt của Bá Đa Lộc, chúa Nguyễn nói. – Hắn là cháu của thầy, phải không? Thầy có cháu là trung úy của quân đội Phú Lang Sa, hẳn cũng không phải một gia đình tầm thường.

Khẽ giật mình, vị giáo sĩ nhìn vào mắt chúa Nguyễn. Đổi lại, vị chúa chỉ cười, gắp miếng cá nhỏ để trong đĩa vào chén. Bữa ăn của vị chúa đạm bạc chỉ có vài miếng cá và rau, thêm bình trà bên cạnh.

- Cháu của thầy cũng phải chạy đến đây vì vụ nổi loạn trong nước, nghe đâu cả Âu châu rối loạn. Nhưng thầy có đánh cuộc với ta không, thầy Cả? Kết thúc vụ nổi loạn này, một vị vua mới sẽ lên ngôi, đó là chắc chắn. Thậm chí, đó sẽ là vị vua của triều đại cũ.

Khi nói, nụ cười vẫn phảng phất trên môi vị chúa. Bá Đa Lộc im lặng một lúc lâu rồi mới mở miệng.

- Sao chúa công lại có thể tiên đoán như vậy?

- Vì những kẻ tham gia nổi loạn rốt cuộc lại quên mất mình nổi loạn vì cái gì, hoặc là đích thực hắn chẳng vì điều đó mà nổi loạn. Ban đầu, dân nghèo vì miếng ăn, vì bị đè nén, cướp đoạt. Ban đầu, thương nhân vì tranh chấp quyền lợi với qúy tộc. Ban đầu, những kẻ có chút ít học hành nghĩ rằng mình có thể bày ra phương cách thay đổi tốt đẹp hơn. Nhưng đến giờ thì mọi thứ là một mớ rối bòng bong. Nông dân vẫn chưa có cái ăn đã phải nộp thuế để lo chiến tranh. Thợ thuyền thì mất nơi làm việc. Thành thị giá cả tăng vọt, ruộng đồng xáo trộn chẳng thể làm ăn. Việc buôn bán chẳng còn làm được nữa, huống hồ là kiếm lợi. Kẻ nào cũng vì mục đích riêng của mình mà nổi loạn, cuối cùng thì miếng bánh cũng chẳng đủ chia đều, lại lao vào chém giết nhau. Con người có một thứ gọi là lòng tham, là sự vị kỷ, thế mà những kẻ tự xưng vì con người, vì nhân loại lại chẳng hề nghĩ đến điều đó, thật viển vông. Các kẻ dốt nát thì lại bị những lời ngon ngọt dẫn đường, bị cái mặc cảm thân phận biến thành mù quáng. Họ cứ nghiêng bên này, nghiêng bên kia, lúc thì ồ ạt xông lên, lúc thì hăng hái đả đảo, rốt cuộc thì họ chỉ là con rối để người ta giật dây. Mà cuối cùng, những thứ mà vì nó họ nổi loạn thì họ lại chẳng nhận được. Mệt mỏi rồi, thất vọng rồi, họ lại thấy chẳng có cái gì tốt đẹp hơn cái gì, họ lại thấy những thứ quy củ ngày xưa thật là yên bình, họ lại quay về với thứ họ đã quen.

Thầy cũng chẳng phải lo đâu, thầy Cả. Sẽ đến một ngày mà người ta tôn xưng lại đạo giáo của thầy như đỉnh cao của thế giới, cứu rỗi loài người khỏi đám rối loạn trầm luân.

Tiếng cười khẽ và ngắn kết thúc câu nói của chúa Nguyễn. Ăn xong bữa cơm, vị chúa ngả lưng ra chiếc bục gỗ đằng sau, nheo mắt nhìn khoảng sân của xưởng thuyền còn đầy những mảnh gỗ lớn nhỏ chồng chất. Để nguyên áo chùng, Bá Đa Lộc ngồi xuống đất duỗi chân khoanh đã mỏi, tự rót cho mình một chén trà.

- Chúa công vì chuyện của đất nước này mà có suy nghĩ ấy sao? – Cuối cùng, ông hỏi. Chúa Nguyễn nhắm mắt, gác đầu lên tay như thể muốn ngủ.

- Không hẳn, vì mọi chuyện ở ngay trước mắt, chỉ có người ta không chịu thấy đấy thôi. Đất đai khởi đầu đâu phải của riêng ai, chỉ có con người lần hồi đến khoanh vùng sinh sống. Rồi kẻ mạnh lên, người yếu đi, kẻ mạnh lấy của kẻ yếu, cứ thế mà lớn lên dần dần. Rồi những kẻ mạnh ấy cũng phải liên kết với nhau, hoặc là chống lại kẻ này, hoặc là nhắm đến mục đích kia, hoặc là để những kẻ yếu không thể lấy lại được thứ của họ đã mất. Mọi sự rốt cuộc chỉ là như thế, dù là quan, là địa chủ, là thương buôn, trong bất cứ lĩnh vực nào. Quyền lực và tiền bạc luôn đi song song với nhau, dưới mọi hình thức. Nhìn vào trong một gia đình, một mảnh ruộng, một khu làng, một vùng đất, từ mênh mông như Mãn Thanh đến bé nhỏ như người Thượng, đều có thể thấy được. Rồi kẻ mạnh phải tìm cách để giữ được ngôi vị của mình. Cái gì cũng có nguyên do của nó, không phải chặt phăng cái gốc đi để chỉ nhìn tình trạng hiện tại mà nói được.

Thầy có biết rằng ở chúng ta vốn không có nông nô giống như đất nước thầy? Ruộng đất vốn được chia cho dân, ai muốn cày thì cày. Thế mà cuối cùng lại có địa chủ, ở đâu cũng có. Ngày xưa, chúng ta đã từng có phân tầng, nhất là thời Trần, Lý, những kẻ bạch đinh thì không được tiến thân cao hơn. Nhưng rồi chúng ta đã thay đổi, chúng ta cho mọi kẻ cơ hội, chỉ cần chăm chỉ học hành, có tài năng thì mọi kẻ đều có thể tiến thân. Chúng ta vốn chỉ giữ lại một số ruộng đất của nhà nước, còn lại chia cho dân, thậm chí còn cấm lấn chiếm trong một số trường hợp. Chúng ta có tá điền làm thuê, nhưng không cho phép kẻ khác phạm đến thân thể, quyền lợi của họ, dù là quan hay là vương. Trong pháp luật của chúng ta, mọi người mọi kẻ đều bình đẳng, có thân phận ngang nhau. Vậy mà mọi sự vẫn xảy ra như đương nhiên phải thế. Thầy có hiểu là tại sao không?

Bình đẳng? Đáng tiếc, con người không bình đẳng. Ngay cả làng này làng nọ, quốc gia này với quốc gia kia. Hôm nay nếu ta chia ruộng đất cho mọi kẻ đều đặn, ngày mai sẽ có kẻ lấy được miếng đất của người khác vì đủ mọi lý do, rồi cứ thế lặp lại vòng quay của muôn vàn năm trước. Ngay cả các thương buôn của đất nước thầy cũng vậy, kẻ giàu có hơn sẽ đè bẹp kẻ nghèo, biến họ thành phục vụ cho mình, rồi kẻ giàu ấy phải phục vụ kẻ giàu hơn nữa, theo một cách nào đó. Không thể đánh đồng một kẻ lười biếng khốn kiếp với người chăm chỉ thông minh, không thể bắt người hay phải ở cùng hạng với kẻ dở, vậy thì làm gì có thể phân chia công bằng? Ngay cả nếu không thế, con cái của một ông bố say sưa không thể so bì với một gia đình ba đời làm lụng chăm chỉ, chưa kể đến vận may, đến khả năng, đến mọi sự khác làm cho sự chênh lệch tăng lên.

Người ta chỉ đòi hỏi thứ không thể có. Ngay cả có sắp xếp lại, cướp hết tất cả, đẩy tất cả vào cát bụi cho mọi người thành “không có” giống như nhau, rồi cũng sẽ có kẻ tham lam mà vơ vét phần nhiều cho mình.

Đã nói đến việc bất bình đẳng tự nhiên mà còn yêu cầu phải đối xử bình đẳng với sự bất bình đẳng ư? Thật là trái khoáy.

Mọi đạo giáo đều hiểu nguyên do của mọi sự rối loạn trên đời này. Phật tóm tắt bằng ba chữ “tham, sân, si”. Thiên Chúa tiết chế dục vọng. Lão chủ trương lánh đời. Nhưng con người đâu phải thánh nhân, nếu chỉ kêu gọi suông mà được thì cả mấy ngàn năm nay đâu có người phải chết. Cả những người đại diện cho thần phật như thầy nữa, cũng đâu phải là thần phật. Những thứ qúa cao cả thì chỉ có thể đem trưng bày, không thể tin được đâu.

Ồ, những người tranh đấu vì công bằng, chống áp bức, nhưng đến lượt họ lại đang giết chóc, tước đoạt của kẻ khác, lại đang dẫm đạp lên nhau kia kìa!

Dưới đôi mắt nhắm, nụ cười nửa miệng của vị chúa vẫn mang vẻ ngạo nghễ khiến cả Bá Đa Lộc cũng thấy chờn chợn. Không còn nữa, cậu bé mà ông đã gặp gần hai chục năm về trước, nhưng vẫn còn đâu đó bóng hình phảng phất của nụ cười kỳ lạ trên khuôn mặt trẻ con ngày xưa. Ông đến đây để tìm hiểu ý nghĩ của vị chúa với những thủy thủ Tây dương, và bây giờ ông hầu như đã đoán được.

Cáo từ vị chúa ra về, ông vẫn còn nhìn theo đám thủy thủ đang say sưa ngoài cảng, luôn miệng văng tục, tuôn ra những lời chối tai. Đám đệ tử của Voltaire, trụy lạc trác táng như các giáo sĩ vẫn gọi, kể cả người cháu của ông.

Giáo sĩ Boisserand bước lại khi thấy Bá Đa Lộc ra khỏi thành. Hẳn tin tức cũng đã tới tai ông ta, trên mặt vị giáo sĩ dưới quyền ông nặng nề một đám mây che phủ.

- Chúa Nguyễn đã biết chuyện? – Boisserand hỏi. Không cần Bá Đa Lộc trả lời, ông ta cau có. – Chắc lại là lũ Bồ Đào Nha. Chúa công nói gì, cha Adran?

- Ngài ấy bảo ta không cần phải lo, rồi nước ta lại có vua thôi. – Bá Đa Lộc cười khẽ. Vẻ nhẹ nhõm trên gương mặt Boisserand bị ông chặn lại bằng cái lắc đầu. – Sẽ rất khó khăn cho chúng ta đấy.

- Tại sao? – Boisserand không hiểu ý ông.

- Thứ nhất, chúng ta đã mất vị thế Nhà thờ, chẳng còn làm gì ảnh hưởng được đến đức vua, nhưng còn phải xem tình hình thế nào đã. Thứ hai, nghiêm trọng hơn, chúa Nguyễn đã nhận ra điểm yếu của chúng ta. Không phải Voltaire mà là Rousseau, bọn thương buôn của chúng ta không chỉ chống Nhà thờ mà còn chống cả nhà vua, cho rằng chúng có thể tự quản lý được. Rồi thì sao, cái mớ hỗn độn mà chúng đẩy nước Pháp vào bây giờ? Chẳng sớm thì muộn, cha Boisserand ạ, chúa công của chúng ta sẽ biết Rousseau là ai, hắn nói gì để xảy ra tình trạng hiện tại. Ồ, mà có khi ngài ấy đã biết rồi, lý luận về bất công và bình đẳng của ngài ấy! Bất bình đẳng tự nhiên và bất bình đẳng xã hội, còn ai nói điều đó vào đây ngoài Rousseau!

- Nhưng thế thì liên quan gì đến người ở đây, cha Adran? Ý tôi muốn nói là, đám thủy thủ, dù có là đệ tử của Rousseau hay Voltaire, chúng cũng chẳng làm gì được ở đất này. Tiếng nói chúng cũng không biết, ngoài một vài phiên dịch ra thì chúng cũng chẳng thân với ai.

- Nhưng còn bọn người Bồ Đào Nha, Anh Cát Lợi đang cạnh tranh với chúng ta? Chúng lại chẳng khấp khởi tung cái tin nước Pháp đang có chuyện gì cho mọi người cùng biết? Tôi đã nói là bất lợi cho chúng ta, chỉ chúng ta mà thôi. Chúa công thân cận với chúng ta đã gặp qúa nhiều bàn tán rồi, thêm một việc này nữa, ngài ấy không tự động tránh xa chúng ta à? Ngài ấy gọi bọn đang đánh nhau với mình là giặc, rồi ngài ấy quan hệ với một đoàn giặc khác, những kẻ được miễn phải lạy. Cha Boisserand, cha biết vua chúa trên đất nước này được đặt ở vị trí tối cao thế nào.

Họ im lặng đi qua bến sông. Gió thổi trên con đường phủ xanh bóng cây. Những con thuyền uể oải nằm dài trong nắng trưa gay gắt. Họ lại nghĩ về thành phố bên bờ sông Seine hẳn đã bắt đầu đổ tuyết.

- Cha nghĩ cuộc nổi loạn này sẽ ra sao? – Boisserand cuối cùng cất tiếng hỏi.

- Để trị một cuộc rối loạn toàn diện thì sẽ có một tên độc tài. Chúng ta sẽ có một nhà độc tài, cha Boisserand ạ. Những kẻ tìm kiếm tự do vô lối thì sẽ tìm được một tên độc tài. “Omnes enim et habentur et ducultur tyrani qui protestate utuntur perpetua in ea civitate quoe libertate usa est.” – Bá Đa Lộc trả lời, nheo mắt nhìn nắng.

Khi Võ Tánh đến tìm vị chúa, ngài ta vẫn đang nhìn ra bến cảng đầu sông ở chỗ ngồi tựa vào tấm gỗ lớn. Đã qúa giờ trưa mà vị chúa đáng lẽ phải trở về cung lo công việc. Nghe chàng chào, ngài ta gật đầu. Ánh mắt ngài ta hướng về đám thủy thủ Tây dương nằm ngồi la liệt trên bến giữa ban ngày, chai rượu Tây vứt lăn lóc.

- Có chuyện gì? – Vị chúa hỏi. Nguyễn Phúc Huy, người em con chú của chúa Nguyễn, đột ngột bị bệnh qua đời vài tháng trước, để lại dinh Tả quân trống chủ. Hậu quân của chàng cũng được giao đảm trách một phần công việc của Tả quân.

- Người được chúa công giao đến Bắc Hà thám thính đã trở về. – Chàng nói. Vị chúa cũng chỉ gật đầu. Nhìn theo ánh mắt ngài ta, chàng tự hỏi ngài ta có phải đang nghĩ đến chuyện mà sáng nay Phúc Cảnh chạy sang kể với Ngọc Du về vụ nổi loạn ở Phú Lang Sa. Hoàng hậu bị tống giam, tin tức ấy dường như tác động tới cậu bé một cách sâu sắc.

- Trước đây ta vẫn nghĩ họ thật thú vị. – Vị chúa chợt nói. – Ta muốn biết họ nghĩ gì.

Ngài ta đứng dậy, đi cùng với chàng qua con đường ra khỏi xưởng thuyền. Ngang qua đám thủy thủ Tây dương, có kẻ giơ chai rượu lên mà nhe răng cười với vị chúa.

- Chua cong. – Hắn gọi.

Vị chúa cười khẽ.

- Nghe nói ở Phú Lang Sa sắp có vua mới? – Chàng hỏi. Vị chúa lắc đầu.

- Không, những kẻ nổi loạn quyết định rằng không có vua nữa. Chúng định quay về thể chế của Tây dương mấy ngàn năm trước, những quốc gia cổ đại của Tây dương. Ở những nước cổ đại đó, mỗi người tự chọn ra kẻ đại diện cho mình, giống như các quan của ta, rồi bọn họ sẽ nhóm họp để quyết định các công việc.

- Như vậy thì dân chúng sẽ đánh nhau trước khi chọn được bất cứ kẻ nào. – Chàng nói, và chúa Nguyễn bật ra tiếng cười.

- Thế đã tốt, với dân của ta thì ta e rằng bọn họ còn chẳng biết phải chọn ai. Ở Phú Lang Sa hiện tại, người ta còn phải chọn ra kẻ nào được quyền chọn lựa. Dân nô lệ không được tham gia vào bất cứ chuyện gì, chỉ có nam thanh niên có đóng thuế, giống như dân đinh của chúng ta được chọn. Rồi cứ một trăm người lại lựa ra một người để người đó thay mặt họ chọn trong đám đại biểu được đưa sẵn. Như vậy đấy, chọn trong đám người đã được chọn sẵn. Giống như giờ đây ta đưa khanh và Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Trương ra bảo chọn ai làm chủ tướng, ồ, hãy tưởng tượng người ta sẽ chọn thế nào. Khanh sẽ có ưu thế rất cao, vì khanh là người Gia Định, mặc kệ mọi lý do khác.

Nhưng mà, đến lượt người ta lại phải tự hỏi xem cái kẻ được chọn để người ta lựa làm quan ấy, có tiêu chuẩn nào để được chọn? Hắn có tiêu chuẩn gì để được đưa vào danh sách cho người dân chọn làm quan lại? Như ở Phú Lang Sa thì đó là những kẻ thuộc phe này phái nọ, là những kẻ có ảnh hưởng lớn. Những kẻ có lý lịch nghe thật hay ho để thuyết phục người ta chọn hắn.

Rốt cuộc thì, cái mà người ta chọn chỉ là niềm tin của bản thân vào những điều được hứa hẹn. Nhưng một khi đã lên được chức vị mong muốn, kẻ nào còn bận tâm đến ý kiến của những người đã chọn hắn? Trong khi tất cả quyền lực, quyết định, sức mạnh, luật pháp đã lọt vào tay hắn. Ngoài cái quyền hy vọng, mơ mộng ra, người ta còn được cái gì? Người ta thay đổi được cái gì?

Lúc ấy lại chẳng có thứ quyền lực tối cao nào để trừng phạt, để thay đổi, để người ta đổ tội, trong khi những kẻ cùng phe cùng phái thì đi bao che cho nhau, những kẻ có cùng quyền lợi sẽ liên kết với nhau.

Những kẻ yếu đuối thì muôn đời vẫn sẽ chỉ đến thế, chỉ là công cụ để người khác đạp lên, lợi dụng. Họ cứ chờ chực ai đó sẽ vì họ, cho họ. Người Tây dương rất khéo léo, rất lý tính, họ bao giờ cũng phân tích cặn kẽ mọi thứ, nhưng rồi chính họ bị sự chi li tính toán của mình làm hại. Họ chỉ tính toán cơ cấu mà không nhìn đến những điều không thấy bằng mắt thường được. Sẽ đến lúc họ lại phải quay về với thứ mà họ đã bỏ qua, không thèm để ý đến.

- Những kẻ “có cặp mắt xanh của con rắn”, “xác chết trôi từ biển Bắc dạt xuống”. – Chúa Nguyễn cười khẽ khi họ đã bước vào Phương điện. – Nguyễn Huệ nói những lời như vậy, chẳng trách đám người Tây dương đổ xô về phía ta. Nhưng cả Vạn Tượng cũng đã yên, hẳn hắn đã điều đình được với Nguyễn Nhạc rồi?

- Không hẳn thế, chúa công. Người báo tin nói rằng có chuyện lớn đã xảy ra.

Nghe Võ Tánh nói, chúa Nguyễn nhướng mày. Người thám báo của họ đang chờ trong phòng họp kín của Phương điện. Chúa Nguyễn để Võ Tánh ra ngoài, một lúc sau mới gọi chàng và phát lệnh khẩn cho các quan tướng khác trở về điện.

- Nguyễn Huệ đã chết. - Vị chúa thông báo khi mọi người đã có mặt đông đủ, bằng giọng nói đều đều. – Nghe nói từ mấy tháng trước nhưng đến giờ này Tây Sơn mới chính thức phát tang. Huệ chết trong cung Dương Xuân, đột tử.

- Tại sao? – Nguyễn Phúc Hội hỏi lại như thể không tin vào tai mình. Không ai trong phòng, ngoại trừ vị chúa, cũng có thể là cả vị chúa, tin vào những gì mình được nghe.

- Ở Bắc Hà đã bãi bỏ tín bài, giải tán số quân tập trung cho chiến dịch đánh Thanh. Bọn Tàu Ô cướp phá Lưỡng Quảng cũng đã giảm bớt hoạt động. Một số lớn quan lại Tây Sơn ở Bắc Hà đã được gọi về Phú Xuân. Tin tức từ Phú Xuân của ta đã bị nghẽn, hẳn chúng đang tăng cường giám sát. Ta còn cần một thời gian nữa để xác minh tin này, nhưng hoạt động của Tây Sơn đã gần như ngưng trệ, hẳn là biến cố lớn thực sự đã xảy ra.

Im lặng bao trùm căn phòng. Rồi Tống Viết Phúc, như thường lệ, lại là người phản ứng đầu tiên. Anh ta chống tay vào hông, ngửa mặt lên trời cười sằng sặc. Một vài người cười theo anh ta. Một vài người nhẹ nhõm thở ra. Một vài người cẩn trọng khác vẫn còn nghi ngờ hỏi nhau “Đây có phải kế nghi binh của Tây Sơn để ta lơ là phòng bị?”. Một việc lớn xảy ra đột ngột như thế, họ vẫn không thể tin được. Cuộc chiến đã đè nặng xuống Gia Định này, ám ảnh Gia Định này trong suốt những tháng qua, lại có thể được hóa giải thần kỳ đến thế. Phải, thần kỳ.

- Tôi vốn không tin có Trời, nhưng giờ thì tôi phải tin rồi. – Tống Phúc Đạm lẩm bẩm. Chúa Nguyễn nhìn ông ta, đôi mắt lạnh lẽo hơi nheo lại.

Dứt cơn cười, Tống Viết Phúc lại dậm chân xuống đất, đấm vào cây cột bên cạnh.

- Khốn kiếp, thật là khốn kiếp mà! – Anh ta nói như quát. – Ta chỉ muốn phanh thây hắn, giờ hắn lại chết yên bình như thế. Hắn chết yên bình như thế thì những người bị hắn giết làm sao mà nhắm mắt?

- Hắn chết thì chúng ta không phải lo về ba mươi vạn quân. – Chúa Nguyễn chặn lời Tống Viết Phúc, giọng vẫn đều đều uể oải. – Hay khanh thích hắn đem quân xuống san phẳng Gia Định thành bình địa?

- Lúc ấy chúng ta sẽ cho hắn biết thế nào là người Gia Định. – Võ Văn Lượng xen vào. – Cái gì “Gia Định là mồ chôn họ Nguyễn”, “Đám dân Gia Định  nhút nhát bây giờ nổi lên”?

Ông ta lại đang nhắc đến lời chiếu của Nguyễn Huệ chuẩn bị chiến tranh mà họ được báo cho. Từ đám thủy thủ Tây dương đến cả quân lính, ai nấy đã nghiến răng giận dữ. Chúa Nguyễn có vẻ định nói điều gì đó, nhưng cuối cùng lắc đầu.

- Dù sao thì hắn cũng đã chết rồi. Đó là một thuận lợi cho ta. Khoảng thời gian lập vua mới bao giờ cũng đầy xáo trộn, ta cần nhân dịp này mà tấn công. Cứ chuẩn bị kỹ càng cho cuộc tấn công năm sau. Thủy quân của Nguyễn Nhạc đã bị tiêu diệt, quân lực của Quy Nhơn sau khi đánh nhau với Nguyễn Huệ đã suy giảm. Nếu đánh mạnh, ta có thể tiến rất sâu.

Cơ hội lấy lại kinh đô cũ đã mở ra. Vị chúa nói, hướng sự phấn khích của đám quân sĩ vào những công việc cụ thể trước mắt. Nhưng tin này còn cần phải cẩn trọng, ngài ta nhắc. Không được lơi là phòng thủ.

Khi ra ngoài sau cuộc họp, Tống Phúc Đạm vẫn còn có vẻ như ngẩn ngơ. Trời giúp ta, ông ta nói, nhắc đi nhắc lại. Và không chỉ một mình ông ta có ý nghĩ ấy. Tất cả đều đang cảm thấy nó, một điều gì đó lớn lao đến vô tận mà họ không thể lý giải được, đang phủ trùm lên họ.

- Rồi Quốc mẫu sẽ lập đàn chay lớn cho xem. – Ngọc Du nói khi nghe chàng kể lại. Tin tức vẫn chưa được truyền đi trong Gia Định. – Thật có một điều được gọi là số trời à?

- Không rõ, nhưng trong dân gian vẫn có câu nói thế này: Nếu anh gặp nguy hiểm mà thoát được, thì trời đã để cho anh sống để thực hiện một sứ mạng nào đó. Vì thế người người mới bảo rằng chúa công là “chân mệnh thiên tử”. – Chàng nói, nằm xuống chiếu ngửa mặt nhìn lên trần nhà mờ mờ ánh lửa. Con bé con đang ngoan ngoãn được nhũ mẫu đút cho ăn. Hồi, họ đã quyết định đó là cái tên lúc còn nhỏ cho con bé.

Ngọc Du thở ra, rồi lại thở ra lần nữa. Nàng biết em trai nàng đã chuẩn bị cho gia đình về lại Phú Quốc nếu có chiến tranh xảy ra trong Gia Định. Bây giờ, gánh nặng đã được cất đi. Cất đi. Nàng muốn bật cười, cười lớn, nhưng tự dưng cũng cảm thấy xót xa, không rõ vì lẽ gì.

Kết thúc rồi, nàng nghĩ. Kết thúc những ngày chạy trốn. Con nàng sẽ không phải chịu như nàng, hẳn vậy. Hẳn vậy, nó may mắn hơn những người đã chết. Những người đã chết, nàng nghĩ về điều đó và thấy xót xa, cho mình, cho họ, cho cái tương lai còn mờ nhạt của họ. Kẻ đáng sợ nhất đã chết, nhưng tất cả những gì hắn dựng xây vẫn còn đó. Họ còn phải tiếp tục. Với người em trai nàng và sự thận trọng của ngài ta hiện tại, nàng biết rằng mọi sự còn phải kéo dài.

- Cảnh sao rồi? – Chàng chợt hỏi. Đứa bé đã đến tìm Ngọc Du hồi sáng với vẻ buồn bã như thể mất một người tình – nếu như nó đã đến tuổi ấy. Vội phải đến thành, chàng đã không ngồi lại.

- Nó kể rằng, theo lời các thủy thủ Tây dương thì bà ấy bị kết tội ăn chơi phung phí qúa nhiều, làm cạn kiệt công qũy. Rồi sau đó bà ấy định chạy về phía người anh trai, hoàng đế nước Áo. Nó không biết những chuyện đó, nó chỉ biết rằng khi gặp nó, bà ấy có một đứa con trai nhỏ bị bệnh, bà ấy lo cho đứa bé nhất mực. Khi ấy, nó đã nghĩ bà ấy giống như mẹ nó. - Ngọc Du nói và thở dài. Im lặng một lúc, nàng mới tiếp tục. – Nó bảo, phụ nữ ở Tây dương thật ra cũng chẳng có quyền hành gì cả, ngoài một số người được tôn làm nữ hoàng. Những người đàn ông ở đâu khi bà ấy phung phí tiền của, khi bà ấy mải lo cho bản thân? Những người đàn ông ở đâu khi xung quanh bà ấy chỉ là bọn chẳng ra gì? Những người đàn ông ở đâu khi bà ấy ngày càng lún sâu? Những người đàn ông ở đâu khi chiến tranh ở Bắc Mỹ xảy ra, Phú Lang Sa thua trận rồi kiệt quệ? Hay là tất cả, tất cả đều muốn vơ vét, hưởng thụ cho bản thân mình, rồi để bà ấy hứng chịu mọi tội lỗi? Nó bảo, một đất nước mà đem tất cả tội lỗi đổ cho một người đàn bà thì đất nước ấy hỏng rồi.

Đất nước ấy hỏng rồi. Đó đã từng là giấc mơ tuổi thơ của nó. Chàng nghĩ. Người phụ nữ ấy đã từng là giấc mơ tuổi thơ của nó. Tất cả đã tan vỡ, đã phơi bày những khía cạnh xấu xa. Phúc Cảnh, đến lượt thằng bé, đã lớn lên bằng cách ném đi giấc mơ của mình.

Chàng nghĩ đến đất nước xa lạ ấy, đất nước của những con người có dáng hình kỳ quặc. Trên đường, chàng đã thấy những giáo sĩ cầu nguyện cho đồng đạo của họ, những người đã chết trong cuộc thảm sát vừa xảy ra tại thủ đô đất nước ấy. Không mấy ai trong Gia Định này bận tâm đến quốc gia xa lạ của những người Tây dương, ngay cả trong quân đội. Họ không biết rằng cậu hoàng trẻ tuổi mà họ gọi là cậu Cả đang thay đổi. Thiên Chúa đã mất đi quyền năng với cậu, bây giờ và mãi mãi. Chỉ còn có con người, con người với đầy đủ khía cạnh phức tạp và đa đoan, xấu xa và tốt đẹp, sáng suốt và dại khờ. Cậu vứt bỏ đi giấc mơ của riêng mình để nhìn con người đuổi theo giấc mơ của họ.

Con bé ăn xong, nó tuột khỏi tay nhũ mẫu đến sà vào lòng chàng. Ôm lấy nó, chàng lại nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt. Thật là may, nó còn có một tuổi thơ để ước mơ.

Ngọc Du vẫn ngồi nhìn vào ngọn đèn trên bàn. Ngọn lửa lay động, lay động. Đêm lặng yên trong điệu nhạc của thiên nhiên rền rã.

Ngày cuối năm Nhâm Tý, những cuộc chiến trên đất nước này đã lắng xuống, dừng lại. Những chiếc thuyền Tàu Ô trên bờ biển Bắc trở về Giang Bình; những chiếc tín bài để tuyển quân được ném đi; đoàn quân ở Vạn Tượng trở về; và ở Phú Xuân, có lẽ đội quân đang tập trung cũng đã được giải tán.

Tất cả đang chờ đợi cơn bão sắp đến. Nàng nghĩ. Trận chiến chỉ có thể kết thúc khi một bên bị tiêu diệt hoàn toàn. Đó là bài học mà người em nàng đã phải trả bằng máu.

Tự dưng, nàng lại hỏi, trong cung điện Dương Xuân hiện tại có một đứa trẻ nào hay không?

Ngày đầu năm Qúy Sửu, tin tức ở Phú Xuân được chính thức xác nhận với đoàn thuyền của tướng Tây Sơn vượt biển vào hàng cùng một trăm người khác. Đi theo thuyền còn có một bất ngờ lớn với chúa Nguyễn: Nguyễn Phúc Thăng, người con trai út thứ mười tám của Võ vương, chú của chúa Nguyễn Phúc Ánh, đem theo con trai của chú vị chúa Nguyễn Phúc Mão là Nguyễn Phúc Liêm trốn vào Gia Định.

Từ sau khi quân triều bị đánh lùi khỏi Quy Nhơn năm Giáp Ngọ, tôi bị Tây Sơn bắt. Nguyễn Phúc Thăng kể. May mà có một tướng Tây Sơn là Nguyễn Chân muốn gả con gái cho tôi nên đem giấu khỏi bị giết hại nhưng cấm đi xa. Mười mấy năm nay tôi phải ở làng quê hẻo lánh câu cá sống qua ngày. Nhân gặp Tây Sơn rối loạn, một lần đi câu thấy xác đàn ông nổi lên, tôi liền cho thây ma mặc quần áo của mình mà trốn đi. Gặp viên Đô ty này, hai chú cháu mới có cơ thoát.

Chúa Nguyễn bước đến nhìn tận mặt người chú thậm chí còn nhỏ hơn mình mười tháng tuổi, như thể vẫn không tin là thật. Đằng sau, Nguyễn Phúc Hội cũng vội vàng đi theo vị chúa.

- Ngày xưa ở trong cung cùng học với nhau, khi ta lần đầu tiên vào lớp, thầy đang dạy gì? – Chúa Nguyễn chợt hỏi. Đã hai mươi năm không gặp, họ không nhận ra nhau được nữa. Nguyễn Phúc Thăng mỉm cười.

- Thầy đang giảng sách Trung Dung, chương mười. Chỗ ngồi của chúa công ngay sau lưng thần.

Chúa Nguyễn cau mày, rồi bật cười. Vị chúa ôm lấy người chú, người bạn từ thưở nhỏ mà bật cười.

- Nói thật rằng ta không nhớ lúc ấy thầy dạy gì. – Vị chúa thì thầm. Nguyễn Phúc Thăng cũng cười mà nói bằng giọng nhỏ tương tự.

- Từ năm mười hai tuổi, tất cả cuộc sống của thần chỉ là hồi tưởng lại ngày cũ, có quên được điều gì?

- Vận nước phải nhiều tai ách, người thân thích chịu lắm cảnh ngang trái, nào ngờ ngày nay còn gặp nhau, há chẳng do điều hay còn sót lại của các bậc tiên vương để khiến nguy mà thành phúc, nạn mà an toàn hay sao? – Chúa Nguyễn nói lớn. Cầm tay thăm hỏi Nguyễn Phúc Thăng và Nguyễn Phúc Liêm, truyền bày tiệc thiết đãi họ, vị chúa mới quay về phía viên Đô đốc Tây Sơn. Ông ta tự xưng là Hoàng Văn Thành, người Quy Nhơn.

Phú Xuân đang rối loạn. Ông ta kể. Nguyễn Huệ có một người con trai của thứ thiếp, tên gọi Quang Thùy, năm nay mười lăm tuổi, lớn nhất trong các hoàng tử. Nhưng Thái tử của Tây Sơn là con trai của Hoàng hậu - tên Quang Toản, năm nay mới mười tuổi. Nguyễn Huệ đột ngột mất, Quang Toản lại còn nhỏ, thế là các quan tranh cãi với nhau về ngôi Thái tử. Quang Thùy tuổi đã lớn, lại được Nguyễn Huệ phong làm người cai quản Bắc Hà, được các quan Bắc Hà và những quan lại vốn theo Tây Sơn ngày sau ủng hộ. Trong lúc đó, thân thích của Quang Toản gồm cả Thái sư Bùi Đắc Tuyên và tướng Trần Quang Diệu lại muốn giữ nguyên ngôi cho con cháu mình. Lúc Nguyễn Huệ vừa mất, quan trong triều giấu tin không báo ra ngoài, lại ngấm ngầm triệt hạ nhau để giữ ngôi cho người mình muốn lập. Cuối cùng Thái sư Bùi Đắc Tuyên thắng thế, lập Quang Toản thành vua Cảnh Thịnh. Ngay sau đó phe phái của Quang Thùy bày tỏ thái độ chống đối, không chịu sự sai phái của Bùi Đắc Tuyên. Người Bắc Hà cao ngạo khinh mạn, Thăng Long là kinh đô của họ, nay lại phải dời đô, bị kẻ khác khống chế thì ngấm ngầm bất mãn, chỉ chờ dịp này để đòi được độc lập. Ngô Thì Nhậm đã khuyên Nguyễn Huệ theo phân phong kiểu nhà Chu vốn là để Bắc Hà có quyền quyết định lớn hơn, nhưng giờ thì họ đòi hẳn tự trị theo ý mình. Hai hoàng tử đều còn nhỏ, chỉ là mục tiêu để trong triều giành giật. Rất nhiều người đã bị giết, hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm. Và họ sẽ còn tiếp tục đánh giết nhau lâu nữa.

Trước khi mất, Nguyễn Huệ qủa có thoả ước với anh trai, nhưng giờ thì Quang Toản vẫn còn nghi ngờ. Nghe báo tin Huệ chết, Nhạc đến viếng nhưng bị chặn lại ở Quảng Ngãi. Cũng vì hai năm trước đó, hoàng hậu của Nguyễn Huệ mất mà Nhạc lại tưởng là Huệ nên đem quân đến định tiếp quản Phú Xuân, nửa đường biết nhầm mà quay lại. Bây giờ Huệ không còn, Phú Xuân lại càng phải đề phòng Quy Nhơn lắm.

Phú Xuân nội tình rối loạn, phía Bắc mất hẳn sự tiếp tế của Bắc Hà, phía Nam phải trông chừng Quy Nhơn, Tây Sơn suy vi là chuyện thấy ngay trước mắt.

Nên lão lựa thời trốn vào đây, phía sau, Tống Viết Phúc nói nhỏ cho vị chúa không nghe thấy. Chúa Nguyễn dường như vẫn còn mừng rỡ vì gặp lại người thân, cũng vui mừng mà an ủi những tướng Tây Sơn đến hàng, phong ngay cho họ chức Vệ úy. Khi đi ra, Tống Viết Phúc vẫn còn tỏ rõ thái độ ấm ức.

- Trung quân của chúng ta đang biến thành cái ổ của hàng quân Tây Sơn. – Anh ta nói khi vắng Nguyễn Văn Trương. – Chưởng Trung quân là Nguyễn Văn Trương, phó là Nguyễn Kế Nhuận, bây giờ lại thêm hai người này nữa.

- Chúa công làm thế là tâm lý, cho Nguyễn Văn Trương quản họ thì dễ làm việc hơn. – Nguyễn Phúc Hội nói. – Giờ việc Phú Xuân qủa như Hoàng Văn Thành nói thì chúng ta sẽ lấy lại được đất cũ nay mai, số hàng tướng ngày càng nhiều hơn. Anh cũng phải tập mà quen đi.

Tống Viết Phúc lẩm bẩm điều gì đó không nghe rõ. Cho nên chúa công chẳng bao giờ cho anh ta quản hàng tướng cả, Nguyễn Văn Thành nói riêng với Võ Tánh. Anh ta ghét Tây Sơn từ con kiến sống trong Quy Nhơn trở đi.

Qủa đúng như chúa công bảo, việc kế ngôi bao giờ cũng gây ra rối loạn, anh ta trầm ngâm tiếp. Bây giờ lại có Nguyễn Phúc Thăng. Tuy thân thuộc còn sống thì qúy, nhưng đó là con trai của Võ vương. Xét về thế bậc, phải anh ta kế ngôi rồi mới đến lượt chúa công. Nếu không cẩn thận, chúng ta cũng sẽ gặp rắc rối chẳng kém gì Đông cung Dương và Định vương lúc trước, Nguyễn Nhạc với Quang Toản bây giờ.

Chú thích:

Những kẻ tự xưng và bị gọi là độc tài là kẻ cố tình nắm quyền trong nước mãi mãi để hứng thú tự do cho mình - Coocneli Nepot, bài số 8.

33

Khi tin tức từ miền Bắc được truyền đi, khắp nơi trong Gia Định đã diễn ra những buổi tiệc tùng lớn nhỏ. Ngay cả những nhà bàng quan nhất với cuộc chiến cũng ăn mừng bình yên, ngay cả những chiếc xuồng buôn bán trên sông cũng treo đèn chẳng vì ngày lễ nào. Các hội quán đông chật người đến chúc mừng nhau. Đình chùa không còn chỗ chen chân cho người đến cúng bái. Trong lúc đó, chúa Nguyễn lại đã kế hoạch mới. Tháng ba năm Qúy Sửu, vị chúa cho tập hợp tất cả tướng sĩ các dinh để sắp xếp lại đội quân mà sự qua đời của Nguyễn Phúc Huy đã để lại một khoảng trống.

- Như mọi người đã biết, ngụy hoàng đế Nguyễn Huệ đã chết, Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn đã bị ta thiêu hủy toàn bộ chiến thuyền năm trước, thế cô sức yếu. Đây là cơ hội để chúng ta đòi lại món nợ cũ. Nay ta quyết định toàn lực tấn công, thẳng tiến đến Quy Nhơn!

Phong Chưởng Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành làm Khâm sai Bình Tây Tiền tướng quân.

Phong Chưởng Tiên quân dinh Nguyễn Phúc Hội làm Khâm sai Bình Tây Đại tướng quân.

Phong Chưởng Trung quân dinh Nguyễn Văn Trương làm Khâm sai Chưởng Trung quân Bình Tây Đại tướng quân.

Phong quản Hữu quân dinh Huỳnh Công Đức làm Khâm sai Chưởng Hữu quân Bình Tây Phó tướng quân.

Phong quản Hậu quân dinh Võ Tánh làm Khâm sai Chưởng Hậu quân Bình Tây Tham thặng tướng quân.

Phong Nguyễn Phúc Cảnh làm Đông cung, chức Nguyên soái Quận công, lãnh Tả quân dinh.

Lời vị chúa vừa dứt, tiếng xôn xao đã lan truyền khắp khoảng sân rộng. Mọi ánh mắt đều hướng về phía cậu bé mười bốn tuổi đang đứng cạnh các tướng, cũng mặc triều phục, đeo gươm, đội mũ trận. Vị chúa phong con trai cả của mình làm Đông cung là chuyện mà mọi người có thể đoán được, nhưng Nguyên soái lãnh cả một dinh quân – Đã có ai ở tuổi ấy đạt được đến chức vị này? Có phải là qúa sức đối với một cậu bé mười bốn tuổi?

Đợi tiếng xôn xao lắng xuống, chúa Nguyễn mới tiếp tục nói:

- Đông cung tuổi còn trẻ, tất cần được gắn công rèn luyện. Ta nay đặt ra nhà Thái học làm nơi học hành của Đông cung cùng tám Quốc tử giám Thị học, phong Ngô Tùng Châu làm Phụ đạo; Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định làm Thị giảng.

Ba vị quan văn thông thuộc sử sách nhất trong triều được đưa đến dạy Đông cung. Tiếng xôn xao dần dịu lại. Tả quân là đội quân thân cận của chúa Nguyễn, do những người thân thuộc nhất đảm nhậm. Dứt Cảnh ra khỏi ảnh hưởng của Bá Đa Lộc, chúa Nguyễn cũng đã tạo ra sự tin tưởng cho mọi người.

Đó là những gì họ nghĩ.

Người trong gia đình chúa Nguyễn đã được báo trước ý định này, và cả Bá Đa Lộc cũng đã được báo. Cùng với việc xây dựng Thái học đường cùng cung Thái tử ngay bên cạnh cung của vị chúa, ngài ta đã dẫn con đến gặp Bá Đa Lộc.

- Thượng sư có ân nghĩa rất nhiều với con. Hãy đối đãi với ông ấy như bậc sư phó. Thầy còn hơn cả cha. – Vị chúa nói, và bảo Cảnh lạy Bá Đa Lộc bốn lạy. Khuôn mặt Bá Đa Lộc sắt lại lầm lì tuy ông ta vẫn gắng gượng mỉm cười.

Để Cảnh ra về trước, Bá Đa Lộc mới quay sang chúa Nguyễn.

- Đây là lời bái biệt của công tử đối với tôi? – Ông giáo sĩ già hỏi. Chúa Nguyễn vừa cười vừa lắc đầu.

- Sao thầy Cả lại có cái ý nghĩ ấy? Ta bảo thầy là sư phó của thằng bé rất thật tâm. Ta chưa bao giờ quên những gì thầy đã dạy cho ta. Chữ nghĩa thì thằng bé vẫn phải học, nhưng những điều còn lại chỉ có thầy dạy cho nó được.

Bá Đa Lộc lặng im. Cuối cùng, ông thở dài.

- Nếu là ngày xưa, công tử sẽ không bao giờ chịu lạy tôi. Công tử biết tôi không bao giờ muốn nhận lạy, mà chúng tôi cũng không có thói quen lạy người sống.

Chúa Nguyễn không trả lời, chỉ mỉm cười. Bá Đa Lộc nhìn vị chúa chăm chú. Nhưng trước khi ông nói, vị chúa đã lên tiếng.

- Cảnh trước kia thỉnh thoảng vẫn trốn khỏi nhà đến xem lễ ở chỗ thầy. Thầy nghĩ ta không biết? Nhưng nó là con ta, là kẻ sẽ kế tục đất nước này, nó là một con người có địa vị, trách nhiệm của mình. Nó biết mình phải làm gì và nên làm gì. Tình cảm với Thiên Chúa của nó rất trong sáng, do đó nó không phải câu nệ về hình thức lẫn nghi lễ. Các thầy qúa câu nệ và giáo điều, các thầy không nhận ra à? Các thầy luôn trách người khác tại sao lại kỳ thị mình, nhưng không hề có ý nghĩ phải hòa đồng với người khác. Đất nước này không phải là Phú Lang Sa, phương Đông không phải là Tây dương. Chúa không bảo người ta phải lạy hay không lạy, chỉ có con người mới đặt ra đủ thứ nghi lễ, cấm đoán để bảo đảm ngôi vị độc tôn của mình.

- Các nghi lễ trong triều đình Gia Định này cũng chẳng phải là để duy trì sự độc tôn của chúa công? – Bá Đa Lộc nói, nhưng chúa Nguyễn ngắt lời ông.

- Các thầy đã qúa quen với cách đánh giá ở Tây dương các thầy, nơi mà người ta chỉ muốn lật đổ các thầy xuống, để mà lúc nào cũng đổ tội cho chúng tôi là tranh giành quyền lợi với các thầy. Các thầy không nhận ra các thầy chẳng có địa vị ở phương Đông này như các thầy tưởng để đe dọa được ai, bây giờ và mãi mãi? Thầy Cả, thầy luôn biết điều đó, nên thầy mới phải cố gắng truyền đạo, thầy mới nghĩ rằng có một vị vua theo Gia-tô giáo là tốt. Nếu không có quyền lực làm chỗ dựa, đạo giáo của các thầy khó mà phát triển được. Đáng tiếc, nơi chúng ta đang đứng là đất nước đã có từ ngàn xưa, nơi người ta liên kết với nhau chẳng phải vì niềm tin tôn giáo. Nơi mà người ta đã có những niềm tin khác. Cho nên các thầy mới phải đánh nhau với đám rừng rậm chằng chịt dây leo này, các thầy mới phải đả phá hết tất cả các niềm tin khác, không để lại một dấu vết nào. Nhưng cẩn thận, khi các thầy dấn sâu vào rừng, mải tiến lên trước, cây sau lưng các thầy lại mọc dày rồi.

Phải, các vua chúa bao giờ cũng cảnh giác với Thiên Chúa giáo các thầy, vì không có một đạo giáo nào lại kết hội lập đoàn một cách riêng lẻ như vậy, không có đạo giáo nào mà chúng ta từng biết lại bảo dân chúng trung thành với một Nhà thờ nằm ở tận Tây dương. Các thầy nhân danh Chúa để rao giảng lời dạy của Chúa, rồi bảo lời của các thầy là lời Chúa dạy, rồi lại bảo người ta phải trung thành với các thầy. Các đạo quân mang trên buồm hình thánh giá đã càn quét khắp thế giới, đã tàn sát đến người da đỏ cuối cùng ở châu Mỹ, đã phá tan hàng trăm vương quốc ở khắp Á, Phi, bắt người bản xứ làm nô lệ cho mình. Chúng ta đề phòng con người chứ đề phòng gì các thánh thần trên trời cao ấy? Là một kẻ kế ngôi, con ta biết có những điều quan trọng hơn niềm tin của bản thân, và nó cũng biết phân biệt thế nào là Đức Chúa, thế nào là những kẻ nhân danh Chúa.

Thầy đừng làm ra vẻ không biết rằng trong đất nước của các thầy, Nhà thờ là một phần gắn liền với nhà nước, quyền lợi của Nhà thờ gắn liền với lợi ích quốc gia. Lợi ích quốc gia của đất nước các thầy đến từ những đất nước bị xâm chiếm, từ những nô lệ khắp nơi trên thế giới. Thầy có thể nói rằng những gì đã nuôi sống thầy, đã nuôi sống Nhà thờ của thầy lại không phải đến từ đó ư? Và thầy đã hiểu lý do tại sao người ta cảnh giác với các thầy chưa?

- Chúa công đã lang thang qúa nhiều với bọn vô đạo. – Bá Đa Lộc lặng lẽ nói. Chúa Nguyễn đan hai bàn tay vào nhau, cười nhẹ.

- Phải, nên ta đã biết những chuyện mà thầy không nói với ta khi khuyên ta cầu viện sự giúp đỡ của Phú Lang Sa năm xưa. Ta đã thật ngây thơ. Nhưng Phúc Cảnh thì không như ta, nó đã đi từ Đông sang Tây, đã thấy và đã hiểu. Tuy vậy, chúng ta vốn phân biệt rất rạch ròi. Điều gì tốt cho ta, điều gì có lợi cho cả hai bên thì không tội gì không làm. Cấm đoán chẳng được tích sự gì, lại làm cho người ta bất mãn. Nhưng chỉ cần người ta nhớ rằng dù có mang đạo nào, Phật, Lão hay Gia-tô, thì họ vẫn là thần dân của đất nước này, thế là đủ. Như con ta biết nó là ai.

Vậy đây là con đường hoàn hảo cho cả hai chúng ta. Thầy chỉ cần truyền đạo của thầy, thế là đủ.

Dù gì thì Nhà thờ của thầy đã bị bứng gốc khỏi Phú Lang Sa, Bá Đa Lộc có thể nhận ra ý nghĩ ấy trong mắt vị chúa hơi nheo lại. Và còn điều gì đó mà ông không cắt nghĩa được, điều gì đó đã hiện diện trong đầu óc ông hoàng này. Ngài ta vốn không tin bất cứ ai, và ông cũng hiểu rằng mình không thể tin tất cả những gì ngài ta nói.

Ông cũng hiểu rằng mình đã dần tuột tay khỏi cậu công tử nhỏ. Ngay từ rất nhiều tháng trước. Nghi ngờ, đó là tội lỗi lớn nhất của các con chiên. Và bọn họ chỉ cần gieo vào đầu đứa trẻ sự nghi ngờ - nghi ngờ tất cả mọi điều đã được tin và được dạy, mà điều đó thật dễ dàng làm sao, trong thời đại này. Cậu công tử không còn đến xem lễ, tuy vẫn kính cẩn đối đãi với ông, sự kính cẩn mà ông biết rằng không xuất phát từ lòng mộ đạo. Bọn họ đã làm hỏng linh hồn đứa trẻ, ông nghĩ trong u buồn. Nó đã là một đứa trẻ lương thiện biết bao.

Ném đứa trẻ vào trận chiến, linh hồn nó sẽ bị hủy hoại, ông muốn nói điều đó, nhưng biết rằng vô ích. Ông vẫn muốn bảo vệ nó, như năm xưa, như khi ông ôm lấy đứa bé rong ruổi khắp vùng biển phương Đông. Nhưng vô ích. Đó là số phận của nó, định mệnh của nó, hoàng tử của một đất nước phương Đông. Những đứa trẻ hoàng gia bước vào trận chiến ngay khi vừa mới nắm vững thanh kiếm. Những đứa trẻ bước vào đời bằng cách đạp lên núi xương biển máu. Từ bỏ cả niềm tin, từ bỏ cả Thiên Chúa, nó sẽ chẳng còn lại gì, chẳng còn gì. Linh hồn nó sẽ chìm vào địa ngục ngay cả khi còn đang sống, ngay trong cuộc sống.

Chẳng còn thiên đàng để ước mơ, cũng chẳng có địa ngục để e sợ, chỉ có mặt đất đầy mùi khói và xác chết. Như người cha của nó. Kẻ đã tự mình bước chân vào địa ngục trần gian, vào lúc bằng tuổi với Cảnh bây giờ.

Và ngài ta vẫn không dừng lại. Ngọc Du thấy mình được gọi tới điện của chúa Nguyễn, nơi vị chúa và Vương hậu đang chờ đợi. Trên gương mặt Vương hậu, sự tức giận lẫn cay đắng in hằn. Nguyễn Thái Nguyên đứng cạnh họ, cầm một tờ giấy thường dùng để viết chỉ sai.

- Vương hậu định nhờ chị làm chứng cho bản cam kết của ta và hậu nhận Tứ công tử làm con nuôi Vương hậu. – Vị chúa nói, nàng nhướng mày.

Tứ công tử của chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Đảm, con trai của Nhị phi vừa được ba tuổi. Vừa mới phong Cảnh làm Đông cung, vị chúa đã cho con trai Nhị phi làm con nuôi Vương hậu – nàng có thể hiểu được thái độ của Vương hậu bây giờ. Nhưng việc họ đã quyết, nàng chỉ đồng ý làm chứng cho bản cam kết mà vị chúa cũng phải lăn tay và lấy ấn tín in vào.

- Chúa công sao lại chọn Tứ công tử? – Khi đã ra ngoài, chỉ còn nàng và người em trai, nàng mới hỏi. Trước Đảm còn hai người anh khác, đều khỏe mạnh.

- Địa vị của Nhị phi chỉ kém Vương hậu. – Chúa Nguyễn miễn cưỡng trả lời nàng. Nàng im lặng một lúc, rồi mới lại cất tiếng.

- Ngài thật là qúa cẩn thận, chúa công. Đem Cảnh làm Nguyên soái, lại phòng ngừa bất trắc đến độ phải lập cả người thay thế. Vì sự xuất hiện của Hoàng thúc, phải không?

Vị chúa không trả lời. Nàng coi đó là một lời thừa nhận. Dòng đích của Vương hậu chỉ có một mình Cảnh, nếu không may có bất trắc thì rắc rối sẽ xảy ra với việc chọn lựa người kế vị giữa dòng của Nguyễn Phúc Thăng và vị chúa. Dù Nguyễn Phúc Thăng có nghiêm cẩn, ý tứ đến thế nào, không tránh khỏi những việc phát sinh mà người ta không liệu định được.

Trên trời đâu có hai mặt nhật, thần Thăng này đâu dám làm vậy. Nguyễn Phúc Thăng đã nói điều đó ngay khi chúa Nguyễn mời người chú này ngồi cùng mâm cơm với mình. Bao giờ cũng giữ lễ quân thần, nghiêm trang kính cẩn, anh ta đã lấy được lòng của mọi người, từ các quan Nội thuộc đến cả Quốc mẫu. Và nàng biết đó không phải là làm ra vẻ. Nguyễn Phúc Thăng đã là một người yên phận, đã bị những tháng ngày dài đằng đẵng trên những dòng sông rút đi kể cả ước vọng. Anh ta giống như một khoảng trống, mà cũng không hẳn, giống như một ẩn sĩ không còn khao khát gì ở cuộc đời. Trốn về với dòng họ mình chỉ là một cách để anh ta tìm tự do, rồi nàng có cảm giác như anh ta không biết phải làm gì với sự tự do ấy.

Yến tiệc mừng Nguyễn Phúc Thăng và Nguyễn Phúc Liêm đến Gia Định, nàng cũng được mời dự. Thoáng một chút lúng túng khi thi lễ, nhưng Nguyễn Phúc Thăng đã hoàn toàn đặt mình xuống bậc quần thần. Anh ta vẫn ghi nhớ các nghi lễ trong triều, cử chỉ chính xác và thanh lịch như thể mới rời khỏi cung điện ngày hôm qua. Cốt cách Phúc Thăng thanh tú và cao sang, nàng nghĩ mình không thấy lạ khi cả một tướng Tây Sơn cũng muốn gả con gái cho cậu bé mới mười ba tuổi năm xưa.

Nguyễn Phúc Thăng chỉ cười khi nàng nói đùa câu ấy lúc gặp người chú này sau buổi tiệc. Dù mang thế bậc chú cháu, anh ta cũng chỉ trạc tuổi nàng, khiến nàng cảm thấy thoải mái như với một người bạn cũ. Ngày xưa nàng vẫn gặp Nguyễn Phúc Thăng bên cạnh người em trai, hai cậu bé đồng tuổi này có lẽ đã đánh bạn rất nhanh.

- Không phải thế đâu. – Nguyễn Phúc Thăng nói, nhìn ra xa. Chiều đã về trên khu thành, hắt những bóng mây tím sẫm qua tường thành cao vút. Gió lồng lộng thổi giữa các hàng cây đã cao. – Ông ta đích thực cũng là người giống như Châu Văn Tiếp, vì nghe lời tôn phù Đông cung Dương của Nguyễn Nhạc mà đi theo, cuối cùng không thể thoát ra được nữa, rồi cứ thế tặc lưỡi mà đến đâu thì đến. Giấu ta trong nhà, sợ ta phẫn uất qúa làm liều, ông ta liền viện cớ muốn gả con gái cho để chứng tỏ lòng thành của mình.

- Đã thế sao chú không đưa ông ta theo? – Ngọc Du hỏi. Nụ cười là lạ thoáng qua gương mặt Nguyễn Phúc Thăng.

- Đã bao nhiêu năm rồi? Gần hai mươi năm, đủ để người ta quen và chấp nhận. Thật ra thì lòng trung thành của hạng người cùng khổ không mạnh như ta vẫn nghĩ. Khi phải chấp nhận, người ta liền tự trấn an mình rằng cũng chẳng có gì tồi tệ, cũng chỉ là như thế, không hơn. Và rồi còn bao mối liên hệ, bao cơ hội thăng tiến, bao liên kết gắn liền cuộc sống của họ vào triều đại mới. Rồi cuộc sống của những người quanh họ. Ông ấy vẫn để ta sống đến hôm nay là vẫn còn tự trọng, không lấy việc giao nộp chúng ta để thăng quan tiến chức. Nếu ông ấy giao nộp, ta chắc chắn đã bị giết rồi.

- Còn người con gái của ông ấy? – Nàng hỏi. Đôi mắt Nguyễn Phúc Thăng nhìn lên bầu trời man mác mây tối lại cùng với bóng hoàng hôn.

- Ta mà lại chịu lấy con gái của một kẻ phản nghịch hay sao? Nhưng mà… cô ấy lấy chồng gần đó, thỉnh thoảng vẫn ghé lại tiếp thêm thức ăn cho ta.

Đã có một khoảnh khắc ngập ngừng giữa các lời nói. Ngọc Du cũng không hỏi thêm. Có những điều Nguyễn Phúc Thăng không nói ra, với nàng cũng như bất cứ ai, nàng hiểu điều đó trong khoảnh khắc im lặng ấy. Có điều gì như xót xa, như tiếc nuối, mà cũng như nhẹ nhõm. Khi nắm bắt lấy cơ hội để trốn đi, để họ coi như mình đã chết, Nguyễn Phúc Thăng đã rũ bỏ những ngày tháng cũ. Gần hai mươi năm đã qua. Gần hai mươi năm thả câu trên những dòng sông mải miết chảy, đổi thay từng ngày, từng mùa. Gần hai mươi năm người phụ nữ vẫn quay lại để gặp cậu bé năm xưa, chỉ để biết rằng anh ta còn sống. Giết chết cuộc sống ấy bằng thây ma trôi theo dòng sông, Nguyễn Phúc Thăng đã rũ bỏ, hoàn toàn và vĩnh viễn, những gì vốn đã không hiện diện.

Gió vẫn luồn lách trên con đường rộng trong thành, giữa các khu nhà đang thắp sáng đèn. Buổi tiệc có lẽ sẽ kéo dài, khi tin Nguyễn Huệ mất đã chính thức được xác nhận. Nhưng cuộc chiến vẫn không kết thúc, không thể kết thúc bây giờ. Nàng nghĩ đến điều đó, với cảm giác nặng trĩu trong ngực. Lặng lẽ, họ đi đến cổng thành. Võ Tánh đã hứa đến đón nàng về nhà nhưng chàng chưa xuất hiện. Nguyễn Phúc Thăng đứng lại bên nàng. Họ lại nhớ đến những ngày xa xôi trước cung điện Dương Xuân, cung điện thật to lớn so với sự nhỏ bé của họ. Vùng đất ấy hẳn vẫn còn rỉ rích những cơn mưa.

- Nếu trở về Phú Xuân, gặp lại những người ấy, chú sẽ làm gì? – Nàng chợt nói. Nguyễn Phúc Thăng nhìn nàng, trong mắt lại thoáng vẻ dịu dàng.

- Ta không muốn họ chết. – Câu trả lời có lẽ nghe thật lạ lùng. Nhưng nàng chỉ gật đầu, nhìn ra xa.

Giờ đây nàng lại nghĩ rằng, có một lúc nào đó, người con trai út của Võ vương cũng lưu luyến nơi anh ta đã bỏ ra đi, con người ở đó, người phụ nữ ở đó. Mặc cho những gì đã mất. Mặc cho những gì không thể bước qua. Mặc cho những gì vĩnh viễn không còn có thể hoàn thành. Mặc cho những gì có thể là vô lý và vô nghĩa. Gần hai mươi năm, tất cả hẳn phải để lại dấu ấn trong cuộc đời anh ta. Dấu ấn khiến anh ta trở nên lặng lẽ, lặng lẽ như một cái cây. Khiến anh ta chẳng còn bất cứ ham muốn nào với cuộc đời. Dù chúa Nguyễn đã ban ngay cho người chú làm Quốc thúc Chưởng cơ Quận công, dù ngoài mặt lễ tạ, Nguyễn Phúc Thăng vẫn tỏ ra ơ hờ. Những điều đã mất đi, vô hình và hữu hình, vĩnh viễn không thể lấy lại được.

- Họ ta qủa thật chỉ còn có mình chúa công. – Nguyễn Phúc Thăng chợt lên tiếng. – Ta vẫn tưởng khi vào Gia Định sẽ gặp được nhiều người khác.

Không còn nữa, ngay cả các cô cô Ngọc Đảo, Ngọc Thụ, Ngọc Quận. Kẻ bị loạn quân giết chết, kẻ bị Tây Sơn bắt thả trôi sông. Chỉ còn có họ, số người mang họ Nguyễn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chẳng trách vị chúa đã vui mừng đến thế khi gặp được người bạn cũ.

Nhưng họ không còn là hai cậu bé con năm xưa, không còn nữa. Trong những ngày tháng ấy, hẳn không ai trong số họ từng nghĩ đến ngày mình lại có thể trở thành ứng viên cho ngôi chúa. Nguyễn Phúc Thăng thậm chí không dám ngồi cùng với chúa Nguyễn, còn vị chúa không thể không nghĩ đến phương thức đề phòng tất cả mọi khả năng dù là nhỏ nhất. Ngày xưa, khi cả Thái tử của Võ vương và con cả mất sớm, một cuộc rối loạn đã nổ ra để tranh ngôi chúa. Họ không thể điều đó xảy ra lần thứ hai.

Và Vương hậu cũng không thể không đề phòng, ngay cả với chồng mình, nhất là với chồng mình. Phúc Cảnh dù đã thay đổi vẫn còn là một đứa trẻ qúa nhiều vấn đề, khiến cho những viên quan chỉ có thể nhẹ nhõm khi vị chúa cho đến ba vị sư phó đến dạy, rồi họ lại cau mày khi Bá Đa Lộc cũng được coi như thầy của Cảnh. Vị chúa vẫn đang chơi trò chơi thăng bằng với mọi người mọi kẻ xung quanh mình. Dù đã phong Cảnh làm Đông cung, ngài ta lại đặt ra một thách thức ngay bên cạnh. Luôn luôn, họ luôn luôn phải dè chừng và kiểm soát chính bản thân mình.

Giờ đây, nàng lại thấy mênh mang buồn tiếc. Tuổi thơ, những gì đã trôi qua, những cô đơn khó cất thành lời và nỗi đau của nó lặng lờ trong màn sương của đô thành Phú Xuân những năm tháng đầy xáo trộn. Họ đã kể cho nhau nghe những gì xảy ra và cùng nghiến răng căm tức Trương Phúc Loan. Họ đã ở bên nhau sẻ chia nỗi buồn và niềm vui. Giờ đây, họ không thể nhìn vào mắt nhau mà không thể đừng tự hỏi rằng kẻ kia đang nghĩ gì, đang muốn gì. Họ không thể không đề phòng, không thể không dè chừng, không thể không cẩn trọng.

- Chị trông có vẻ buồn. – Người em trai nàng chợt nói, không quay lại. Ngọc Du không trả lời.

- Chị đã biết Võ Tánh được phong chức Tham thặng? – Chúa Nguyễn nói tiếp, một lúc sau.

- Đã có Tiền tướng quân, Đại tướng quân thì có cả Tham thặng tướng quân, chứ chẳng lẽ ngài lại gọi là Hậu tướng quân? – Ngọc Du cười nhẹ. – Đó chẳng phải điều ngài đã nói khi đưa Võ Tánh về Hậu quân – “Đó là đội quân của ta”?

- Ta chỉ định nói với chị là chúng ta sẽ sắp tiến quân. Tất cả sẽ tiến quân. – Vị chúa lắc đầu. Một lần nữa, Ngọc Du im lặng. Tham thặng, người ngồi cùng xe với vua, nghĩa là Võ Tánh sẽ theo sát vị chúa, trong bất cứ cuộc chiến nào. – Ta định để Cảnh ở lại giữ Gia Định. Tuy những việc nhỏ sẽ do các đại thần quyết định, nhưng người xung quanh cũng để ý giúp nó.

- Mục tiêu lần này là Quy Nhơn, phải không? – Ngọc Du khoanh tay, nhìn ra ngoài hiên. – Nếu diệt được Nguyễn Nhạc rồi thì sao, chúa công?

- Ý chị là gì? – Chúa Nguyễn vẫn đều đặn bước. Ngọc Du mỉm cười.

- Chúng ta vẫn nhớ những gì bọn Nhạc, Huệ đã làm. Nhưng Huệ đã chết rồi, Nhạc cũng sắp bị tiêu diệt, trong khi đó Phú Xuân hiện tại lại do một đứa trẻ cai quản. Ngài lại vẫn có thể kể tội “tàn bạo, bất nhân” cho một đứa trẻ được sao? Trong khi ngài vẫn luôn miệng nói “Chỉ có bọn lợi dụng người khác là đáng tội, còn những kẻ đi theo thì không có tội”, ngài định trừng trị ai, trừng trị cái gì ở đó bây giờ đây, chúa công?

- Chị có biết ngay sau khi Huệ chết, loạn đã bùng nổ ở Bắc Hà? Cái gì tồn tại được thì nó sẽ tồn tại, còn cái gì không thể tồn tại thì sẽ bị tiêu diệt. Ta không diệt người thì người sẽ diệt ta. Đứa trẻ? Ta cũng trạc tuổi nó khi loạn bắt đầu.

Và ngài đã sống. Ngọc Du thầm nghĩ. Rốt cuộc tất cả chỉ là như thế, phải chăng? Kẻ còn tồn tại, đủ sức để tồn tại thì sẽ sống. Thật ra, tất cả chỉ là như thế.

- Chị biết không, khi nghe chuyện về các nước Tây dương cổ đại, ta có một câu hỏi: Tại sao ở các đất nước ấy lại bắt đầu mà không có vua, trong khi chúng ta từ thời cổ đại, thời thượng cổ đã có một ông vua, luôn luôn có một ông vua? – Vị chúa chợt nói. – Thậm chí, chúng ta sẽ không thể tin được rằng có đất nước mà lại không có vua. Đất nước không thể một ngày không có vua, chúng ta nói. Bởi vì đám đông này sẽ không biết đi đâu nếu không có kẻ dẫn đường, kẻ mà người ta có thể đặt lòng trung thành của mình vào. Kẻ để thờ phụng và trọng thị. Kẻ để sợ hãi và cúi đầu. Dù cho đó là một bóng ma, một ảo tưởng.

Cũng có nghĩa là, nếu đặt tất cả ngang bằng với nhau, họ sẽ đánh giết nhau, không thể nào mà như người Tây dương kia bàn bạc với nhau được đâu. Phải có một thế lực kiềm giữ họ lại, nếu không tất cả sẽ vỡ nát. Họ sẽ sát phạt nhau đến tận diệt cả người cuối cùng. “Bạo ngược tất thua” không phải là một câu nói suông, mà nó là kết qủa của sự tan vỡ trật tự trong chính lòng thể chế. Đập vỡ những điều được coi là chính thống và tốt đẹp thì đừng hy vọng sẽ lại dựng xây được chúng. Mà không có những điều đó, không thể tồn tại được.

Thiên mệnh mà chúng ta gọi, là thiên lý, là quy luật, Đông hay Tây, xưa hay nay, quy luật cũng sẽ không thay đổi.

Đó không phải là câu trả lời cho điều nàng muốn hỏi, nhưng Ngọc Du cũng không nói nữa. So với một điều mênh mông và lớn lao như bầu trời bao phủ họ, họ nào có là gì? Và nàng có thể mong chờ ngài ta trả lời cho mình được gì?

Gió lại thổi, và nàng có thể tưởng thấy hơi mằn mặn của nước. Mùa gió đến cùng với những cơn mưa.

Họ sẽ ra đi theo những cơn mưa đến.

Tháng tư năm Qúy Sửu, chiến dịch tấn công Quy Nhơn của Nguyễn quân bắt đầu.

Chỉ trong hai tháng, quân Nguyễn chiếm toàn bộ đất từ Bình Thuận đến Phú Yên, đổ bộ vào Quy Nhơn. Ở cửa Thị Nại, họ gặp đoàn voi của Tây Sơn do Thái tử của Nguyễn Nhạc là Quang Bảo làm chủ tướng chặn đường, đắp lũy từ Thổ Sơn đến Trường Úc ngăn giữ. Chúa Nguyễn mật sai Nguyễn Phúc Hội, Nguyễn Văn Thành vòng qua núi Kỳ Sơn vào ban đêm để đánh vào sau lưng lũy. Ở Trường Úc, Võ Văn Lượng lẻn đến đốt trại, họp cùng Lê Văn Duyệt phá lũy. Quân Tây Sơn đạp lên nhau bỏ chạy. Nguyễn Quang Bảo và Đào Văn Hổ phải bỏ chạy về Quy Nhơn.

Đi đến đâu, chúa Nguyễn cho thu phục quan quân Tây Sơn đến đấy, đặt người coi giữ. Phá được lũy Thổ Sơn, họ lại tiếp tục tính đường đến Quy Nhơn. Dân Quảng Ngãi nghe quân Nguyễn đến, dâng biểu tình nguyện đi theo đánh Tây Sơn.

Phá được lũy núi Kho, quân Nguyễn tràn đến bao vây thành Quy Nhơn. Thành Đồ Bàn cổ vừa rộng vừa được Nguyễn Nhạc đã cho đắp ngày càng vững, súng thần công bình thường không phá đổ được. Sau gần một tháng vây thành, toán binh Tây dương đã tỏ ra mất kiên nhẫn.

- Họ đề nghị sử dụng “phóng diên lưu hỏa pháp”. – Trần Văn Học nói, người đại diện của binh lính Tây dương có cả Olivier sau lưng anh ta. – Đó là khinh khí cầu lửa. Thả khinh khí cầu vào thành, lửa đốt đến khi đứt dây rơi xuống, chất dẫn lửa cùng đạn sẽ thiêu cháy toàn bộ Quy Nhơn. Thêm tấn công dồn dập bên ngoài, tin rằng chưa đầy mười ngày, thành sẽ bị hạ.

Các tướng xung quanh cau mày. Khinh khí cầu, họ đã thấy giáo sĩ Boisserand sử dụng nó một vài lần. Phát minh mới nhất của Tây dương, ông ta khoe. Người ta thậm chí có thể dùng nó để bay trên bầu trời.

- Giống như trăm năm trước Trịnh đã dùng diều thả vào sau lũy Trấn Ninh. – Chúa Nguyễn lặng lẽ nói. – Không được, cách ấy không được. Dân trú trong thành sẽ chết hết, ngay cả với quân , giết họ như vậy thì qúa tàn ác.

- Đây là chiến tranh. – Trần Văn Học dịch lại lời nói của lính Tây dương, dù cũng đã ngập ngừng. Chúa Nguyễn cau mày.

- Đừng đánh đồng ta với Tây tặc giết chóc thường dân để thắng! Cứ vây thành cho chặt. Thành bị vây lâu ngày tất sẽ loạn, quân sẽ tự chạy ra.

Những người lính Tây dương đưa mắt nhìn nhau. Biểu của dân Quảng Ngãi muốn theo về dâng đến, cùng dân chúng tự nguyện đi theo ở Phú Yên, Thuận Hóa đã làm cho vị chúa tin chắc rằng mình sẽ thắng. Đây là lần đầu tiên trong cả mười năm, quân Nguyễn đánh được đến Quy Nhơn, và sự xuất hiện của họ đã làm dân chúng xáo trộn không ít. Sau cuộc chiến của Nhạc – Huệ, sự ra đi của Nguyễn Huệ cùng những biến động trong triều đình Tây Sơn, những lời hứa giảm thuế hay miễn binh dao không được thực hiện, hy vọng đối với nhà Tây Sơn đã suy giảm nghiêm trọng. Chúa Nguyễn, với Gia Định được vực dậy và một nền kinh tế bắt đầu khởi sắc, đã cuốn hút không ít người. Ngài ta lại lo chuyển sự chú ý của mình đến Quảng Ngãi, đúng như đã hứa “đến cứu phủ các ngươi”. Quân ở Quy Nhơn còn lại tiếp tục đánh lũy Gò Đê, bắt được Đào Văn Hổ. Các cỗ hỏa xa đại pháo, phát minh của Bá Đa Lộc, đã chứng tỏ uy lực của chúng khi luồn lách qua đường rừng, hẻm núi đến bất cứ nơi đâu.

Nhưng đến tháng tám, quân tiếp viện cho Nguyễn Nhạc ở Phú Xuân đã kéo đến. Mười bảy ngàn quân bộ binh do Ngô Văn Sở, Lê Trung, Nguyễn Văn Huấn, Phạm Văn Hưng dẫn đầu đánh xuống Trà Khúc. Trong lúc bối rối, chúa Nguyễn lại nhận được tin khẩn từ Gia Định báo tới: Nhị vương nước Xiêm đưa năm vạn quân đóng ở Nam Vang, năm trăm thuyền chiến vào Hà Tiên “giúp quân đánh Tây Sơn”. Vị chúa trả lời sứ giả Xiêm La rồi vội vã cho lệnh thu quân, rút về Phú Yên.

- Khanh đem hết bệnh binh, hàng binh về Gia Định. – Chúa Nguyễn nói với Võ Tánh khi đang ra lệnh xây lũy Gò Xoài ở Bình Khang chống giữ. – Ta đã nói với Nhị vương Xiêm rằng sắp hết mùa gió nồm, thủy quân không tiện, nhưng quân Xiêm đang đóng ngay tại Hà Tiên, hẳn không muốn về tay không. Đông cung tuổi còn nhỏ, gặp việc khó lo liệu được. Ta đã nói với Lưu trấn thần Gia Định, nếu chúng mua một con gà mà không trả tiền thì cũng giết sạch, chỉ cho một người về Vạn Thành báo tin.

- Chúng ta rút quân sao, chúa công? – Chàng hỏi. Sau hơn ba tháng vây thành rồi vội vã rút về, không phải không có người thất vọng. Họ lại nhắc đến lời đề nghị của quân Tây dương lúc trước, cơ hội đã bị bỏ qua.

- Không chiếm được thành thì ta xây thành. – Chúa Nguyễn nói. – Ta đã tiến đến tận nơi này, nhất quyết không thể để Tây Sơn có cơ hội chiếm lại đất. Phú Xuân đã đưa quân giúp Nhạc, chúng hoặc liên kết với nhau, hoặc trừ diệt nhau không bao lâu nữa. Gia Định cần có tiền đồn phòng thủ.

Khanh về Gia Định lo liệu việc Xiêm La, chúa Nguyễn nói, trước khi để Nguyễn Văn Trương ở lại Cầu Hin, bản thân về Diên Khánh. Ba ngàn người được nhanh chóng tập hợp cho vị chúa xây thành. Kỹ thuật kiến trúc mới học hỏi của Tây dương được vị chúa đem áp dụng ngay lập tức.

Khi Võ Tánh về đến Gia Định, quân Xiêm cũng vừa mới rút khỏi Hà Tiên. Họ nghe chúa công đã lui quân nên không đánh nữa, Phúc Cảnh nói, thở ra. Nhị vương thân chinh đến, nếu họ vào Gia Định thì không biết phải đối xử thế nào. Quốc thúc tới Hà Tiên bàn việc với quân Xiêm, họ mới rút về.

Nguyễn Phúc Thăng trở lại khi chúa Nguyễn cũng vừa về. Thành Diên Khánh đã được xây xong, để Nguyễn Văn Thành coi sóc. Nhưng đám lính Tây dương vừa hoàn thành công việc không có vẻ vui mừng. Ngược lại, trở về bến cảng Sài Côn, họ nhận được cái tin sét đánh từ tổ quốc: Công xã Paris được thành lập, và triều đại của Robespierre đã bắt đầu những cuộc thanh trừng toàn diện trên khắp đất nước.

Ban đầu là đảng Jacobin hợp tác với tầng lớp bình dân vây bắt đảng Girondin, giành độc quyền thống trị trong Quốc hội. Sau đó là loạn khắp nơi trong nước Pháp. Nông dân ở Vendée lại nổi dậy chống bắt lính. Các thành viên Girondin từ Paris chạy về Marseilles, Lyons, Bordeaux đã thành lập các đội quân chống đối. Cả phụ nữ cũng tổ chức đảng phái biểu tình vì hàng hóa tăng giá và thiếu hụt thực phẩm. Loạn khắp nơi trong nước. Hàng ngàn tổ chức chính trị, quân sự được lập ra, kẻ cánh hữu người cánh tả, kẻ chống đối người bảo hoàng. Đối phó với tình trạng ấy, Hội nghị Quốc ước đã thành lập Ủy ban An toàn Công cộng, hoạt động như một nội các chiến tranh.

Đó là một nhóm độc tài tập thể. Người thủy thủ mới đến cảng Sài Côn Laurent Barizy kể bằng giọng căm phẫn. Họ thành lập một nhóm cảnh sát gọi là Ủy ban An ninh Tổng quát, có quyền giam bất cứ ai mà họ cảm thấy bất lợi cho chính phủ.

Rồi chúng bắt đầu tàn sát. Bất cứ ai. Ngày này qua ngày khác, máy chém không lúc nào ngơi nghỉ. Ở Nantes, hai ngàn người chống đối bị đưa ra nhận chìm ngoài khơi.

Hàng ngàn người đã bị Toà án Cách mạng kết án xử tử. Một số lớn hơn, bị đánh cho đến chết. Những người bị kết án được giải đến máy chém trong cái cũi bằng gỗ, bị đám đông đấu tố và xỉ vả trước khi đem ra chém đầu.

Trước khi tôi ra đi, bà Marie-Jeanne Roland, vợ của một nhà cách mạng phái Girondin, bị đưa lên máy chém. Trước khi bị chặt đầu, bà đã cúi chào bức tượng Tự do mà nói: “Tự do, người ta đã nhân danh mi mà thực hiện bao nhiêu là tội ác!”

Câu nói của Barizy chìm vào sự lặng im của Xưởng thuyền. Sự lặng yên bức bối trên bến cảng Sài Côn. Ngay cả những người Bồ Đào Nha cũng không cảm thấy đây là điều đáng vui. Trong một Gia Định rộn rã đón mừng người ra trận trở về, đau thương đón nhận những tin báo tử, sự lặng yên của đoàn lính Tây dương như thể một hòn đá rơi xuống đáy nước.

- Họ muốn trở về Phú Lang Sa. – Trần Văn Học cúi đầu nói khi ông đưa đoàn quân này đến gặp chúa Nguyễn. – Các cuộc thảm sát đang xảy ra tại Phú Lang Sa, họ không yên lòng về người ở quê nhà.

Chúa Nguyễn lặng im nhìn những người lính Tây dương. Bọn họ không chờ đợi sự cho phép của ngài ta, gươm và súng đã được họ giắt vào thắt lưng, áo thủy thủ đã được khoác vào. Và ngoài kia, có lẽ những chiếc tàu đi biển lớn đã được chuẩn bị.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro