hd 333333333333333333

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

cháy ấy, những gì còn lại của Thế điện bị dỡ bỏ, để lại một khoảng đất trống. Nàng đã nghe quan quân bàn việc xây một căn nhà thay thế vào đó, nhưng không dành cho người ở. Cùng với việc chiếm lại được Phú Xuân, có lẽ họ không còn ở đây bao lâu nữa.

Khi kết thúc, ta sẽ phải trở về Phú Xuân, em trai nàng đã nói, một năm trước, khi sắp sửa ra đi. Ngài ta, trong những tính toán chiến lược của mình, đã nhận ra rằng thời khắc cuối cùng đã đến. Nhưng nàng, lúc ấy và cho đến tận bây giờ, vẫn không có ý nghĩ rằng mình sẽ rời khỏi Gia Định. Khi Võ Tánh trở về, theo tính khí chàng thì họ sẽ ở lại đây. Dù có đi đâu, họ cũng sẽ trở lại đây, ngôi nhà mà họ đã dựng xây. Hơn hai năm trong thành Bình Định, không biết bộ dạng chàng đã trở thành thế nào? Phú Xuân, nàng đã không còn mơ về nó nữa. Nàng đã đi qua nó, những hồi ức ngọt ngào và đau đớn thời niên thiếu như màn sương chắn cả lối về.

Mưa dần ngớt khi ngày đi qua. Nàng cáo từ Vương hậu, nói rằng phải ghé qua nhà coi việc. Nhờ Vương hậu giữ lại con bé Hồi có vẻ rất phấn khích được trở về nhà – mà nàng biết tỏng rằng nó chỉ muốn đi xem diễu tù, Ngọc Du cũng phải có đôi chút buồn bực. Qủa là đường phố vẫn đông đúc người lại qua, vẫn nghe âm vang tiếng chung choeng của đám diễu hay chỉ là tiếng ăn mừng từ những tửu quán trước tin thắng trận. May mà phủ đệ của nàng nằm sau khu vực của quân đội, nàng tránh không phải đi qua những đám đông ấy. Tuy vậy, các gia nhân trong nhà đều chộn rộn. Khi nàng mở cửa, tiếng gõ nhịp ăn mừng vọng ra không thể lầm lẫn. Nhiều kẻ còn định tới chúc mừng nàng, nhưng trước thái độ của nàng thì phải lùi lại.

Từ khi nàng vào ở trong cung, ngôi nhà đã hoàn toàn giao cho quản gia cùng các gia nhân chăm sóc. Tuy vậy, họ đã làm rất tốt việc của mình, nàng nghĩ khi nhìn quanh. Khu vườn đã được dọn bớt cỏ, những luống hoa được mưa tưới xanh om, sen trong hồ nở bừng rực rỡ. Ngay cả phòng nàng cũng được dọn dẹp đều đặn, không có chút bụi, chỉ đầy hơi lạnh khi không có người ở. Nàng ngồi xuống giường, đưa mắt nhìn quanh. Cô hầu đã đặt những sổ sách chi tiêu lên bàn, nhưng nàng chưa nhìn qua, chỉ bảo cô ta ra ngoài.

Qua cửa sổ mở rộng, nàng nghe hương sen thơm ngát thoảng vào phòng, lẫn với hơi nước của cơn mưa ngòn ngọt. Cành hoa tím lắc lư sau những chấn song. Thấp thoáng gần hàng rào, cả giàn muớp cũng đang trổ hoa vàng rực, bướm chập chờn bay lượn. Tất cả những hương sắc ấy theo gió hòa lẫn với hơi lạnh trong phòng, bỗng dưng khiến nàng phải rùng mình.

Thi thoảng nàng vẫn ghé về nhà. Và mỗi lần về, nàng lại có thể cảm thấy sự sống mất dần trong nó. Từng chút, từng chút một. Dù chỉ mới vài tháng, nhưng nàng đã cảm thấy xa lạ với ngôi nhà này như thể nó không phải là nhà của nàng.

Vị chúa đã xây ngôi nhà này cho nàng như một món qùa hồi môn. Nàng đã dọn về đây sống khi cưới chàng. Hơn mười năm, nàng chưa từng sống trong một ngôi nhà nào lâu đến thế, ngay cả ngôi nhà tại Phú Xuân. Vậy mà, mười năm ấy, dấu tích và hơi thở của nó, chỉ mới vài tháng đã tan đi, cơ hồ như chưa từng hiện diện. Tất cả chỉ còn là gỗ, là vải, là tre. Không phải là căn phòng mà nàng đã sống, không phải là chiếc bàn mà nàng đã ngồi, không phải là chiếc giường mà nàng đã náu mình. Tất cả chỉ còn là những ảnh tượng mà nàng đang cố hình dung lại, cố tìm một cảm giác thân thuộc nào với chúng. Những cảnh tượng ngày cũ vẫn còn đây, hàng hiên nơi đám trẻ đã chập chững những bước đi đầu tiên, khu vườn mà chàng đã chăm sóc, nàng quan sát chúng như quan sát cuộc đời của một kẻ xa lạ.

Cùng với thời gian, cùng với biến động, nàng thấy mình dần dà trở nên lãnh đạm, ngay cả với bản thân, ngay cả với qúa khứ. Nàng không còn xúc động với những sự đổi thay. Nàng chỉ chờ đợi. Tất cả những gì nàng làm trong những tháng ngày này là chờ đợi. Nàng nắm vào sợi dây mỏng mảnh trong ý thức đó như một người đang rơi xuống bờ vực. Khi ấy, nàng không còn cảm thấy đau buồn, chẳng quan tâm cũng như hờn oán. Ngọn lửa từng được đốt lên trong nàng giờ đây dường như đã lụi tắt sau khi nuốt chửng tất cả những cảm xúc, để lại cho nàng một khoảng trống mênh mông. Nàng chờ đợi, nhưng cũng không đau đớn hay tha thiết. Nàng chờ đợi, như đó là điều cuối cùng nàng có thể làm trong đời. Nàng chờ đợi, như trút hết cuộc sống của mình vào đó. Nàng không còn bận tâm đến qúa khứ, không màng đến cả hiện tại, cuộc sống trở thành một thế giới bị đẩy xa khỏi cõi lòng nàng.

Ngôi nhà sau khu dành cho quân đội, khi chiều đang buông, trở nên tịch mịch. Cả những gia nhân cũng dường như biết ý, không huyên náo ăn mừng nữa. Nàng chỉ nghe tiếng lục đục trong bếp. Căn phòng này được xây nơi góc vắng, càng ít thanh âm vọng đến. Trời âm u, gió thổi vào phòng ngày càng lạnh.

Nàng đứng lên, lấy chìa khóa trong thắt lưng mở chiếc tủ góc phòng. Chiếc tủ bốn ngăn thì đã có ba ngăn trống, ngăn còn lại xếp toàn quần áo. Nàng chạm tay vào những xấp vải ấy, mắt mông lung, cuối cùng rút ra một chiếc áo có vẻ qúa khổ so với nàng.

Khi chuyển vào cung, quần áo nàng đã đem theo gần hết. Võ Tánh khi đi cũng đã thu dọn đồ đạc theo, nàng cẩn thận xếp những chiếc áo mới cho chàng, chỉ còn để lại quần áo cũ. Chiếc áo này vẫn còn mờ mờ vệt mồ hôi ngay cổ. Và vì chàng mặc nó đã lâu, dù đã giặt qua mấy lần nước, lưu hương trên đó nàng vẫn còn nhận rõ.

Thở dài, nàng khoác áo lên vai, lấy những sổ sách trên bàn, khoanh chân ngồi lên giường mà đọc. Khi nàng ngẩng lên, trời đã tối, thị nữ đã đem đèn đến. Bóng chiều đem theo chút sa mù của mưa thoáng như sương thổi ngoài cửa. Nàng lại nghe tiếng chiếng trống vọng tới, như thể đám diễu tù đang đi ngang qua khu vực này để về thành. Nàng nghĩ tới cơn mưa lúc xế trưa, chẳng phải đám tù nhân này cứ thế mà đi khi trời đang đổ mưa hay sao?

Ánh đèn lay động, không chiếu sáng được tới giường. Nàng buông cuốn sổ, nhắm mắt dựa vào đầu giường, nghe thanh âm ngoài căn phòng vọng vào. Đám gia nhân đang thổi cơm chiều, người trong làng đang trở về, tiếng bánh xe lộc cộc, tiếng trẻ con đùa giỡn. Gia Định đã vắng người, không còn nghe tiếng đàn ông gọi nhau lúc cuối ngày. Trời lại ầm ì tiếng sấm, như thể sắp đổ mưa lần nữa.

Nàng đứng dậy, tần ngần một lát rồi gấp chiếc áo, cho vào tủ. Ra ngoài dặn dò người quản gia vài việc, nàng gọi người chuẩn bị xe để về thành. Khi nàng ra đến cửa, trời đã tối hẳn. Nhìn qua hàng rào cao, đan bóng cây leo kín, nàng chỉ thấy thấp thoáng tầng mái của khu phủ đệ. Khói đang bốc lên trên mái nhà rơm, đem chút tư vị ấm áp vào khứu giác nàng. Nàng thu mình ngồi trong một góc xe. Đèn đã thắp sáng trong những ngôi nhà nàng đi qua. Nghe tiếng xe, vài con chó, con gà trong sân xao xác. Thuyền trên sông cũng lập lòe ánh lửa, trôi vẩn vơ hay đậu lại trong bến. Vừa qua ngày Đoan ngọ, những vật trang trí trên các quán hàng, hội quán vẫn chưa gỡ xuống. Nhưng Gia Định vắng người vẫn mang vẻ hiu quạnh. Cơn mưa đang đến cùng những xôn xao vừa qua làm nó như một người kiệt sức nằm dài bên sông. Bóng dáng của người Đường và Tây dương bên cảng cũng không làm rộn rã thêm được khung cảnh tịch mịch này.

Nàng nghĩ đến những đồn điền cũng đang thiếu vắng người trong mùa trồng cấy. Đang vào ngày gieo hạt, nhưng đinh tráng của Gia Định đã một lần nữa bị rút đi gần hết. Nếu cuộc chiến còn kéo dài, không khéo Gia Định sẽ rơi vào đói kém. Người Việt và người Phiên vẫn phải chủ yếu dựa vào việc nông tang mà sống, không thể chỉ dùng buôn bán kéo lại được.

Chiếc xe thả nàng xuống sân điện rồi lui ra. Sau vụ cháy, họ đã hạn chế tối đa bất cứ người ngoài nào vào Quy thành. Đèn đuốc trong sân điện vẫn thắp sáng, tụ tập sau những chiếc xe tù. Những người đã đi áp giải tù phạm ban sáng giờ đang ngồi trong hàng hiên của khu canh gác, để mặc ba chiếc xe tù trong sân, dưới bầu trời đỏ rựng đang chuyển mưa, sấm chớp ì ầm. Họ lại đang uống rượu, cười đùa với nhau ầm ĩ. Sau khi vị chúa rời khỏi Gia Định, Phúc Cảnh mất, Phạm Văn Nhân đưa quân đi, lệnh cấm rượu đã bị buông lỏng. Nàng cau mày khi thấy tình trạng trước mặt, nhưng biết rằng không thể quản họ được.

Có lẽ vì tò mò, nàng đã lại gần ba chiếc xe tù. Những thanh thiếu niên trong xe, dưới chiếc gông, vẫn giữ nguyên tư thế như ban sáng. Nàng đưa mắt nhìn xuống đầu gối họ đang qùy lên sàn xe. Vải quần đã tướp ra, để lộ đầu gối trầy trụa rướm máu. Máu đã đổ trên cả đầu, mặt, vai họ. Đã có kẻ nào ném đá, và máu đã tràn nửa khuôn mặt một đứa trẻ, khô lại. Những con ruồi, mặc gió lớn, đang cố sức vo ve quanh đám máu. Đứa khác mặt đầy xây xước. Người thành niên trên vai có một vết thương lớn. Tất cả bọn họ đều bốc mùi xú uế. Những mảnh rau thối, rác rưởi vẫn còn dính quanh xe.

- Cho chúng ăn gì chưa? – Nàng quay sang hỏi tên lính đang ngồi cạnh đó, có vẻ rất bất đắc dĩ mà ngó đám lính trong hiên. Hắn ta giật mình nhìn nàng, vội vã cúi đầu.

- Thưa công nương, chưa ạ. – Hắn vừa nói vừa lấm lét nhìn nàng. Nàng im lặng quay nhìn khu thành một lúc, rồi chỉ tay vào trạm gác bỏ trống dưới lùm cây rậm.

- Đưa chúng vào đó mà tránh mưa. Đem đồ ăn đàng hoàng. Dù sao ta còn cần chúng mấy ngày nữa cho dân các dinh biết, không nên để xảy ra chuyện. – Nàng nói thêm khi thấy ánh mắt tên lính. Hắn chớp mắt, lớn tiếng gọi thêm vài kẻ nữa trong đám ở hàng hiên. Nàng đứng nhìn đám người đưa những chiếc xe đi rồi mới về Hậu điện.

Gió vẫn vần vũ trên tán cây. Bóng tối đã đổ ngập con đường vắng. Nàng nghĩ đến những đứa con, giờ này hẳn chúng đã tề tựu quanh Quốc mẫu ăn tối. Có thể họ đang mở một tiệc nhỏ cho niềm vui đầu tiên sau những ngày u ám.

Nàng vẫn chưa tìm được viên tiểu sai để hỏi tình hình Bình Định. Nhưng nàng biết, nếu có gì nghiêm trọng, hẳn anh ta đã phải tới tìm nàng trước tiên. Vị chúa biết tính tình nàng, ngài ta cũng biết dùng cách nào để đối xử với nàng.

Phải, nếu có chuyện gì, nàng sẽ là người đầu tiên biết được.

69

Lại một đợt công thành nữa trôi qua. Lần này, Trần Quang Diệu đã tấn công từ đầu ngày cho đến nửa đêm. Khi quân Tây Sơn bên ngoài rút về lũy, pháo ngưng bắn, người trên thành gần như đã ngã xuống trong mỏi mệt, bải hoải. Mấy ngày nay, Trần Quang Diệu đã lại áp dụng chiến thuật tại Diên Khánh, phân quân tấn công liên tiếp, quyết làm cho người trong thành gục ngã hoặc phải tự mở cửa đầu hàng.

Mấy ngày nay, từ khi tin Phú Xuân bị tấn công được truyền tới.

Và vài ngày sau nữa, người đưa tin của quân Nguyễn lặn qua đoạn sông chảy vào thành thông báo rằng Phú Xuân đã hoàn toàn nằm trong tay họ. Chỉ có điều, Quang Toản đã trốn thoát.

Những người trong thành vẫn còn chưa biết rằng Lê Văn Duyệt cùng Lê Chất đang trên đường trở lại Bình Định. Nhưng bên ngoài, Trần Quang Diệu đã phái một toán quân năm ngàn người theo đường núi trở về Phú Xuân. Toán quân còn lại, bị chặn đường tại cả hai đầu Quảng Nam và Phú Yên, nhất quyết công phá thành. Hầu như không ngày nào không có đợt tấn công lớn nhỏ, làm người trong thành không còn lúc nào ngơi nghỉ.

Và hôm nay là ngày cuối cùng trước khi lương hết.

Sáng nay Võ Tánh đã phải xuống kho lương đốc thúc quân lính vét từng hạt gạo một còn lại. Nhưng họ chỉ còn một, hai bữa cơm nữa trước khi hết lương. Từ ngày chàng chính thức thông báo về việc quân lương, những bữa cơm đã được độn thêm nhiều loại rau lang mọc trong thành, cố để kéo dài thêm. Nhưng cuối cùng, điều mà họ lo sợ cũng đã tới: Lương hết khi tình hình ngoài thành vẫn chưa có biến chuyển. Ngược lại, những đợt tấn công dồn dập không cho họ có một cơ hội đánh ra, huống hồ đến việc đào thoát. Người đưa tin của Nguyễn Văn Thành gần như bất lực nói với họ rằng quân Tây Sơn thậm chí không đánh ra, tránh đương đầu với quân Nguyễn mà co lại trong vùng Bình Định. Nghe câu nói ấy, chàng hiểu rằng Trần Quang Diệu đã quyết tâm dồn toàn lực hạ thành Bình Định. Và Nguyễn Văn Thành, với tính cách thận trọng có phần thái qúa, khó có thể tạo nên một chuyển biến nơi chiến trường.

Đó là điều chàng không nói ra. Nhưng quân trong thành, sau khi chứng kiến cuộc kiểm tra, vét lại số lương thực ít ỏi sáng này, đã hiểu chuyện gì đang xảy ra với họ.

Sau cuộc thủ thành, họ trầm lặng rút, gần như là buông mình xuống cầu thang dẫn lên thành mà sắp hàng dọc trở về doanh trại, đón lấy bữa ăn gần cuối trộn đầy rau lang. Khi chàng đi qua, những đôi mắt mệt mỏi nhìn lên chàng trên các khuôn mặt còn nguyên dấu khói bụi. Khi chàng ngồi xuống trong đám đông, đón lấy bữa cơm của mình – từ lâu chàng đã có khẩu phần ăn giống hệt như quân lính – cũng chỉ có sự lặng im quanh chàng. Họ đã qúa mệt mỏi để có thể mở miệng ra. Có lẽ, họ cũng không dám hỏi về tương lai, với chàng.

Chàng nuốt vội bữa ăn của mình, không nhìn họ.

Họ thậm chí không còn dám hỏi về tương lai. Mấy ngày trước, mọi chuyện đã hoàn toàn khác. Họ đã hoàn toàn tràn đầy hy vọng vào mấy ngày trước, khi nghe rằng quân Nguyễn đánh Phú Xuân.

Đó là công của Ngô Văn Sở. Khi chàng tập hợp tướng lãnh để thông báo về cuộc tấn công của vị chúa lúc mà có lẽ cuộc tấn công Phú Xuân đã bắt đầu, chàng đã không ngờ được thái độ của Ngô Văn Sở. Anh ta chỉ im lặng, cau mày mà im lặng nghe chàng nói. Và sau đó, khi mọi người xôn xao bàn tán, hoặc phấn khích với kế hoạch của chúa Nguyễn, hoặc lo lắng cho tương lai ngôi thành, anh ta chỉ im lặng nhìn chàng. Đôi mắt anh ta sâu hút trong ánh lửa. Đôi mắt anh ta bập bùng ánh lửa.

- Tham thặng đã định thông báo cho quân lính thế nào chưa? – Cuối cùng, khi sự xôn xao đã lắng lại, Ngô Văn Sở mới mở miệng. Anh ta nhìn chàng y như cách Võ Văn Lượng đã nhìn, trầm mặc và tính toán. Chàng đã không chờ đợi thái độ này của anh ta.

Câu hỏi của Ngô Văn Sở đã nhắc nhở mọi người đến tình hình mà họ đang phải đối mặt. Họ đồng loạt im lặng, nhìn anh ta rồi nhìn lại chàng.

- Đây là phương cách “vây Ngụy cứu Triệu”, phải không? – Đột nhiên Ngô Văn Sở mỉm cười. Giọng anh ta bình thản, có phần là nhẹ nhõm. – Vì không phá được vòng vây Bình Định, chúa công đã quyết định đánh Phú Xuân, thu hút lực lượng Tây Sơn để tìm cách giải vây.

Đúng vậy, những quan tướng đồng loạt gật đầu với câu nói của Ngô Văn Sở. Quân Nguyễn đánh Phú Xuân nhằm giải vây cho Bình Định, “vây Ngụy cứu Triệu” là phương cách đã có từ xưa. Đánh Phú Xuân, nếu bắt được vua Tây Sơn thì cục diện chiến tranh đã hầu như hoàn tất, Tây Sơn sẽ phải tan vỡ. Bình Định sẽ được cứu.

Đó là điều họ đã nói với quân lính, báo cho người trong thành – một ngày trước khi tin Phú Xuân bị tấn công được chuyển tới.

Dù sau này, dù bây giờ, kết qủa đã không như ý họ muốn, Quang Toản đã trốn thoát, Trần Quang Diệu đã không phân đại quân về quyết chiếm lại Phú Xuân, họ đã có lý do để tiếp tục chống giữ nơi này.

Chàng đã không nói, với bất cứ ai trong số họ, về cái quyết định hy sinh của bản thân. Chàng đã không nói rằng mình đã quyết định rằng thành Bình Định sẽ phải hy sinh. Chàng cũng không thể nói rằng, chàng là một trong những người biết được kế hoạch tấn công này sớm nhất. Chàng đã không nói rằng chàng chính là kẻ quyết định tất cả.

Chàng cũng không thể nói rằng mình đã đoán trước được tình hình này khi mọi người vẫn còn tràn đầy hy vọng, mấy ngày trước đây.

Bây giờ, chàng chỉ cắm cúi ăn cho xong bữa, không nhìn lại.

Nhưng cảm giác nặng chình chịch không buông tha chàng, ngay cả khi chàng cố tình không nhận ra không khí trong thành, ngay cả khi chàng đã được lý do mà Ngô Văn Sở nghĩ ra che chắn. Anh ta qủa thật đúng về những kẻ có học – Thế nào họ cũng nói được. Trong khi chàng đang nghĩ đến lúc phải dập đầu tạ tội với anh em quân tướng thì anh ta điềm nhiên cho chàng một lý do, cho việc làm của họ một ý nghĩa. Mặc dù không phải anh ta nói sai, việc tấn công Phú Xuân của chúa Nguyễn qủa là có phần để giải cứu cho Bình Định – Nhưng đem nó vào một hệ thống suy tính và âm mưu, gán cho nó một lý do có hệ thống, có cơ sở, có lý luận, thậm chí có lịch sử bằng cách dùng bốn chữ “vây Ngụy cứu Triệu” như anh ta đã làm, thật là chàng phải âm thầm kinh ngạc. Nhất là khi chàng  đã viết thư cho chúa Nguyễn rằng quyết định hy sinh; khi chàng biết, trong mọi khả năng và điều kiện, thành Bình Định sẽ gặp nguy hiểm lớn lao.

Phải, chính vì thế, tâm trạng chàng mới ngày càng trĩu nặng. Lý do mà Ngô Văn Sở đưa ra có thể xoa dịu người trong thành, nhưng với kẻ biết rõ sự thật, nắm được sự thật như chàng, lại càng làm chàng khó có thể chấp nhận.

Bây giờ, trong vẻ âm thầm chịu đựng và chấp nhận của quân lính – Họ đã đành phải chấp nhận rằng “may mắn” không thuộc về phía họ lần này – chàng chỉ cảm thấy lòng mình tưng tức như mang một hòn đá tảng.

Và chàng phải nghĩ đến phương cách giải quyết tình trạng này. Lương đã hết, thành bị vây chặt, hầu như chẳng còn cách nào khác ngoài việc ra hàng. Nhưng tình hình bây giờ lại không như trước. Cái hy vọng vừa được thắp lên trong thành đã không tắt đi một cách đơn giản như vậy. Chiếm được Phú Xuân, cái tin ấy đã cho họ một hy vọng. Họ vẫn hy vọng thành Bình Định sẽ được giải cứu, bất cứ lúc nào. Bất cứ lúc nào, tình hình chiến trận cũng có thể đổi thay. Và trong những mệt mỏi, uể oải, thất vọng này, họ vẫn còn hy vọng. Hy vọng, giờ đây mang một màu sắc khác, lại bùng cháy lên trong họ.

Chúng ta phải cố mà thủ thành, phải không Tham thặng? – Chính tên lính trẻ người Bình Định táo gan và huyên náo vẫn thường quấn lấy chàng đã nói vào hôm trước, bên đám lửa. Lần này cậu ta nói, không phải những chuyện tầm phào. Tên lính trẻ nhìn thẳng chàng mà nói, cùng với những người bạn xung quanh. Tất cả mọi người cùng lắng nghe cậu ta.

Chúng ta phải cố mà thủ thành. Thế thì chiến tranh mới có thể kết thúc. - Chàng nhìn đôi mắt trong trẻo của người thanh niên, im lặng nghe cậu ta. – Phú Xuân đã thuộc về quân Nguyễn rồi, nếu bây giờ Tây Sơn ở Bình Định bị phá vỡ, chiến tranh sẽ kết thúc. Chúng ta phải cố mà giữ thành, không để quân bên ngoài đoạt lấy. Thế thì chiến tranh mới có thể kết thúc.

Tiếng xôn xao đã lan đi theo lời nói của người lính trẻ. Chàng nhìn đôi mắt cậu ta bừng sáng trong ánh lửa. Chàng nhìn khuôn mặt những người lính bên cạnh, xung quanh cũng sáng lên ánh sắc tương tự. Và trong lòng chàng đã không phải không thoáng chút ngỡ ngàng.

Hòa bình. Chàng hiểu những gì đã thắp sáng thần thái những người lính mệt mỏi đến kiệt quệ này lúc ấy. Chàng nghĩ mình hiểu những gì tên lính trẻ kia đã nói. Điều cao hơn, qúy trọng hơn sự sống của họ. Điều mà họ qúy trọng hơn sự sống của bản thân. Chiến tranh sẽ kết thúc, chàng thấy hy vọng ấy đã sáng lên trong họ, lần đầu tiên trong suốt những năm tháng dài, lần đầu tiên từ khi chàng nhận lãnh khu thành này.

Điều mà họ muốn, không phải là chiến thắng của một bên nào, mà là kết thúc, cuộc chiến này được kết thúc.

Còn chàng thì lại không thể nói với họ điều khác biệt. Chàng không thể nói rằng họ không còn hy vọng hay tình thế sẽ không bất chợt đổi thay. Ngược lại, trong những ngày mà tin tức từ Phú Xuân vẫn còn mơ hồ, tin tức của Quang Toản vẫn chưa được xác định, bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra. Cố mà thủ thành, những người lính ấy đã nhìn ra được tình trạng mong manh của một sự đổi thay đang tới. Và họ đã quyết nắm lấy nó. Họ là những thanh niên trẻ, và qủa thật, có những điều mà họ coi trọng hơn mạng sống của mình.

Nhìn vào mắt họ, chàng lại như thấy hình ảnh của mình ngày ấy. Kiến Hòa quân, đó là giấc mơ của chàng. Hòa bình cho quê hương, chàng có thể cảm thấy ước vọng ấy trong lòng mọi người mọi kẻ. Họ có thể bỏ qua cả các giáo điều, lòng thiên vị, tính chất địa phương và phe phái, để chấp nhận kẻ chiến thắng, vì hòa bình sẽ tới, sẽ tới với quê hương mình. Hòa bình, sau bao nhiêu năm vùng đất trở thành chiến địa.

Chàng đã kể cho họ nghe, trong hơn một năm này, về Gia Định của chàng. Gia Định, vùng đất hoang sơ đầy những điêu tàn, nơi mà con người sống như cỏ dại. Gia Định, vùng đất mà chàng đã lớn lên, đã tự tìm cho mình, tự học cách để tồn tại. Gia Định, nơi tranh chấp của cả Nguyễn, Chân Lạp, Xiêm La. Vùng đất ấy đã chuyển mình thoát ra khỏi đau thương, đã được một bàn tay che chở và bảo bọc nó thoát khỏi các cuộc tranh chiếm liên miên không dứt. Mười năm, Gia Định đã yên ổn, trong mười năm dài. Và chàng đã kể cho họ nghe những gì vị chúa của chàng đã làm để giữ được hòa bình cho Gia Định, con đường mà họ đã đi để đến được kết qủa này. Giờ đây, khi nghĩ lại, chàng thấy qủa thật giống như một giấc mơ.

Những gì chàng kể, quả thật, cũng đã trở thành giấc mơ chung của mọi người mọi kẻ. Khi ở trong Gia Định, chàng đã không để tâm nhận ra rằng cái dòng người từ Quảng Nam, Thuận Hóa đổ xuống chính vì tiếng tăm của vùng đất mới. Vùng đất của những giấc mơ mà chúa Nguyễn đã dựng xây. Gia Định đã không còn là chiến trường của họ Nguyễn, đã không còn là vùng đất độc đầy thú dữ, đã không còn là nơi lưu đày của những con người khốn khổ. Gia Định đã trở thành giấc mơ của mọi người mọi kẻ.

Và vì vậy, chàng nuốt những cay đắng, buồn phiền xuống tận đáy lòng. Cùng với những người lính, chàng học cách hy vọng và chờ đợi.

Chỉ có điều, trong lòng chàng vẫn còn có cảm giác như thể chàng đang lừa dối họ.

Khi họ ăn xong, trời đã tối hẳn. Những con người mệt mỏi, bải hoải bước về doanh trại để ngả vật xuống ngủ. Những người khác trong ca trực thì vẫn còn cố chống chọi để đứng trên thành. Chàng đi qua họ, khuyến khích bọn họ. Khi về đến tướng doanh, chàng cũng đã thấy chân mình bủn rủn.

Những đợt tấn công của Trần Quang Diệu, sớm muộn gì cũng sẽ bào mòn tất cả sức chống đỡ của họ.

Ngô Tùng Châu vẫn đang đợi chàng trong tướng doanh. Chàng ngồi xuống trước anh ta, không thể ngăn được mà gục đầu xuống tay khoanh trên bàn. Chàng đã thấy mệt mỏi đến mức không mở mắt ra được.

- Ngày mai anh đến lán ngựa, chọn ra những con già yếu để thịt. – Chàng nói mà không ngẩng đầu lên. Chàng biết Ngô Tùng Châu đến đây để bàn về việc quân lương. Không thể đánh ra ngoài để lấy lương trong những đợt tấn công dồn dập của Trần Quang Diệu, họ chỉ còn phương cách duy nhất.

- Rồi ngày mai nữa? – Chàng nghe giọng Ngô Tùng Châu trầm lặng hỏi. Thoáng bực bội gợn lên trong chàng.

- Được ngày nào hay ngày ấy. – Chàng trả lời nhát gừng. Quả thật, họ đang chờ đợi từng ngày, một sự biến chuyển nào có thể xảy ra.

Ngô Tùng Châu im lặng.

- Được rồi. – Anh ta nói và đứng dậy, rời khỏi phòng. Ngô Tùng Châu là con người của hành động, lặng lẽ và cứng rắn. Với anh ta, không có câu hỏi cũng như tình cảm dư thừa nào. Chàng cảm thấy biết ơn về thái độ ấy, lúc này.

Vẫn gục mặt xuống bàn, chàng nghe thanh âm bên ngoài lắng lại khi Ngô Tùng Châu đã đóng cửa phòng. Thậm chí không về giường, chàng nằm vật xuống sàn nhà mà ngủ. Nếu may mắn, Trần Quang Diệu sẽ không tấn công tiếp vào ban đêm.

Trăng bên ngoài cũng sắp tròn, chàng nghĩ trong tâm trí mơ màng. Đã vài ngày sau tết Đoan ngọ, đến gần lúc trăng tròn. Thậm chí chàng cũng không thể chắc chắn rằng mình có thể chờ đợi được đến ngày ấy.

Chờ đợi, rốt cuộc chàng đang chờ đợi điều gì?

Chàng biết tại sao Ngô Văn Sở đứng về phía mình lúc này. Anh ta, bằng trí tuệ tỉnh táo của mình, nhận ra rằng chẳng có lợi gì nếu như quân lính trong thành dao động. Anh ta tìm cách để ổn định họ, cũng chính là để tìm một phương cách thoát thân cho mình. Anh ta cũng đang chờ đợi. Nắm lấy từng ngày. Anh ta, bằng trí tuệ khôn ngoan và tỉnh táo, đang chực chờ một cơ hội. Đó là cách khôn ngoan nhất bây giờ.

Họ nắm lấy giấc mơ của mình, từng ngày.

Anh ta nhận ra, hay không nhận ra, rằng chàng đang còn nắm giữ những bí mật không ai hay biết? Những gì chàng đã nghĩ về tình hình thành Bình Định đang trở thành hiện thực lúc này.

Trong cơn mơ màng, dường như chàng đã nghe thấy tiếng chân – đúng hơn là cảm thấy. Tiếng chân rất nhẹ, và chàng chỉ cảm thấy thanh âm truyền trong sàn nhà bằng cảm giác hơn là thính giác. Người đó lại gần chàng. Một chiếc chăn thả xuống trên chàng. Rồi một bàn tay mềm mại, bàn tay của phụ nữ, đặt lên trán chàng, má chàng.

Cô hầu câm, chàng nghĩ mình nhận ra cô ta, người phụ nữ duy nhất trong thành. Chàng lấy làm lạ khi cô ta lại chạm vào mình. Có lẽ là lần đầu tiên trong suốt hơn một năm.

Nhưng chàng không còn đủ sức để mở mắt.

Tại Phú Xuân, năm ngàn quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu phái về tiếp cứu phải đi hơn mười hai ngày mới đến nơi. Lũ trẻ chăn trâu trong vùng thấy động liền về báo với cung Dương Xuân. Lê Văn Duyệt cùng Lê Chất liền được phái đi đánh dẹp. Chỉ huy đoàn quân là Tư khấu Định bỏ chạy chết trong rừng, ba Đô đốc khác bị bắt.

Nhưng chuyển biến tại Nghệ An trở thành bất lợi cho quân Nguyễn. Quang Toản thoát qua vòng vây của các thổ mục, được Nguyễn Quang Thùy đưa quân đến đón về Thăng Long. Hai ngàn quân Tây Sơn thậm chí còn phá qua phòng tuyến cuối cùng của bảy ngàn quân Nguyễn Kế Nhuận tại núi Thần Đầu, làm quân Nguyễn chết hơn phân nửa.

Quang Toản đã thoát. Cái tin ấy báo về Phú Xuân trong những công việc bộn bề, khiến cho cả người đưa tin cũng phải run rẩy.

- Nguyễn Kế Nhuận ra sao? – Chúa Nguyễn chỉ hỏi một câu duy nhất sau khoảng lặng im kéo dài. Người đưa tin thậm chí không ngẩng đầu lên.

- Bẩm chúa công, tướng quân Nguyễn Kế Nhuận bỏ chạy về, đang ở chỗ của tướng quân Nguyễn Văn Trương.

- Làm tướng đã thua trận còn bỏ chạy. Truyền chỉ bảo Nguyễn Văn Trương đem hắn chém đầu! – Chúa Nguyễn nói qua kẽ răng. Cơn giận, dù đã được kềm nén, vẫn cháy bừng trong mắt ngài ta.

Và cái lệnh chém tướng thua trận lần đầu tiên ấy khiến nhiều kẻ phải giật mình.

- Khanh chuẩn bị xong chưa? – Vị chúa hỏi Lê Văn Duyệt ngay khi vừa thấy mặt viên Thống chế này. Đã dẹp xong lực lượng tiếp cứu của Tây Sơn, Phú Xuân đã yên ổn, hầu hết lực lượng chính được cử về ngay Bình Định. Lê Văn Duyệt nhìn vị chúa, không thể không nhận ra sự nôn nóng của ngài ta. Quang Toản trốn thoát sẽ tạo ra một tình thế khó khăn đối với họ. Tây Sơn sẽ quyết bỏ Phú Xuân mà chiếm lấy Bình Định để làm bản doanh phương Nam.

Viên tướng Chánh thống chỉ trầm lặng gật đầu, báo cho vị chúa tình hình chuẩn bị. Lệnh chém tướng được ban làm nhiều người phải thận trọng. Dù rằng, Lê Văn Duyệt biết lệnh truyền này không chỉ vì giận dữ đơn thuần. Nguyễn Kế Nhuận là một hàng tướng của Tây Sơn. Và hai hàng tướng liên tiếp bắt hụt Quang Toản qủa là một việc không thể tha thứ được. Với hàng ngàn cái chết của quân tướng, vị chúa đã không thể tha thứ cho viên tướng này, cũng chẳng thể mạo hiểm với điều tiếng trong quân thêm nữa. Cũng có nghĩa là, vận mệnh của những người như Lê Chất đã trở nên mỏng mảnh hơn lúc nào.

- Nhớ lời ta dặn. – Vị chúa nói sau khi Lê Văn Duyệt đã báo cáo xong. Ánh mắt ngài ta nhìn viên tướng chăm chú, có phần khẩn thiết. – Đem một tên hoàng tử Tây Sơn về, cố gắng bảo toàn thành Bình Định.

Lê Văn Duyệt vẫn chỉ gật đầu. Ở bên chúa Nguyễn bao năm nay, anh ta hiểu vị chúa muốn gì. Bảo toàn thành Bình Định – đúng hơn là những con người trong đó. Quang Toản đã chạy thoát. Lực lượng mỏi mệt của Nguyễn Văn Thành không có hy vọng xuyên phá qua lũy đất dài hàng trăm trượng. Tây Sơn, với chỉ năm ngàn quân tiếp cứu, đã tỏ ý không cố gắng chiếm lại Phú Xuân. Ngài ta quyết định dùng phương cách cuối cùng – Mạng đổi mạng. “Thà mất Bình Định chứ không mất tướng giỏi của ta”, ngài ta đã nói. Thứ duy nhất mà ngài ta quyết cứu ra bằng được trong thành chỉ là vị Tham thặng của mình.

Chúa Nguyễn vẫn nhìn người cận tướng. Họ đang đứng trong sân của nội cung điện Dương Xuân, trên chiếc cầu gỗ bắc qua khe suối nhân tạo dẫn nước từ sông vào. Mùa cạn, nước sông đùng đục, biếng nhác chảy, tạo thành tiếng róc rách khe khẽ.

- Ta tha mạng cho Lê Chất, quyết giữ mạng của Tham thặng, khanh có thấy bất bình không? – Vị chúa chợt hỏi. Viên cận tướng này là người bạn thân thiết bao năm nay, đủ để ngài ta có thể hỏi cả những điều cơ mật nhất.

- Không ai có thể kết tội chỉ vì nghi ngờ, thưa chúa công. – Lê Văn Duyệt thận trọng nói. Trong những ngày qua, anh ta và Lê Chất đã trở nên thân cận với nhau, và vị chúa biết điều đó. Ngài ta không hỏi về quyết định của mình, mà là về Lê Chất. Ngài ta muốn biết điều gì? – Lê Chất có thể là người rất nhiều toan tính, nhưng anh ta không phải kẻ hai lòng.

Ồ, vị chúa dường như mỉm cười trước câu nói của Lê Văn Duyệt. Viên Chánh thống nhíu mày cố tìm cách diễn đạt chính xác.

- Chúa công cũng biết khi ta chiếm lại Quy Nhơn, Lê Chất đã tìm Lê Văn Ứng để báo thù. Anh ta vì Lê Trung là thật lòng thật dạ. Có thể trước đây Lê Chất đã từng có ý muốn chống lại Lê Trung, nhưng thật không có ý làm hại ông ta. Rồi sự việc đó bị Lê Trung phát hiện, ông ta lại chỉ trách mắng mà không truy tội Lê Chất. Thần cho rằng lúc đó trong lòng Lê Chất đã có chuyển biến. Rồi việc toàn gia Lê Trung bị diệt, Lê Trung bị đốt xác phân thây, những người bị giết có anh em bạn bè của Lê Chất rất nhiều, anh ta may mắn mà thoát được, vốn đã mang lòng căm hận. Nhưng Lê Chất là người biết phân biệt thị phi phải trái. Anh ta nhờ Lê Văn Thanh mà sống được thì không báo thù Lê Văn Thanh. Anh ta biết Lê Văn Ứng là kẻ dèm pha chết Lê Trung thì quyết báo thù cho bằng được. Quang Toản là kẻ đã ra lệnh giết Lê Trung, Lê Chất qủa tình khó tha cho hắn được.

Một người có thể có sai lầm. Nhưng quan trọng không phải là sai lầm hay đúng đắn, mà là làm đúng với lương tâm. Lê Chất, nói cho cùng, đã làm theo đúng những gì anh ta cho là phải, theo lương tâm và đạo nghĩa của anh ta. Thần tin rằng con người như thế, chỉ cần chúa công đối xử tốt với anh ta, sẽ làm lợi cho chúa công không biết bao nhiêu mà kể.

- Lương tâm? Khanh nói thật hơi dễ dãi qúa. – Vị chúa mỉm cười. Ngài ta nheo mắt nhìn ánh nắng phản chiếu trên dòng nước. – Ta e rằng những kẻ chỉ biết đến điều mình nghĩ như thế mới hay gây chuyện.

Nhưng vị chúa đột ngột im lặng. Ngài ta cũng đã biết đến hảo cảm của Lê Văn Duyệt với viên hàng tướng mới về đầu quân. Ngài ta biết có những chuyện không nên nói ra với bất cứ ai. Cho nên ngài ta im lặng.

Lê Văn Duyệt đã không nói đến chuyện của vị chúa và Võ Tánh. Bất bình? Không, anh ta đã đi theo vị chúa bao lâu nay, đã hiểu rằng ngài ta đôi lúc có thể xử sự hoàn toàn theo cảm tính. Huống hồ, thành Bình Định khó mà giữ được, không đáng để phải hy sinh một dũng tướng như thế. Nhưng một lần nữa, ngài ta không hỏi về cảm giác của viên cận tướng, mà là dò xét thái độ của những người xung quanh.

Không trả lời, đó có thể là lối trả lời tối ưu nhất với loại câu hỏi và hoàn cảnh này.

- Quang Toản đã ra đến Bắc Hà, cuộc chiến của chúng ta còn phải kéo dài, không nên để mất tướng sĩ, thiệt hại binh lính. – Cuối cùng, Lê Văn Duyệt nói. Vị chúa liếc nhìn anh ta, gật đầu.

Đó cũng là những gì ngài ta đã nói, với kẻ khác.

- Khanh cùng Lê Chất đến Bình Định củng cố phòng thủ cho chặt, không cần phải vội vã đánh vào. – Ngài ta chợt nói. Lê Văn Duyệt đã không phải không có chút ngạc nhiên. – Hàng vạn quân Tây Sơn tập trung ở đó, có đánh vào cũng không được. Khanh tùy thời liệu định, cứ để chúng lấy thành Bình Định cũng được.

Lấy được thành rồi thì chúng sẽ để lại cái lũy đất bên ngoài cho chúng ta. - Ngài ta cười khẽ. – Đúng là một đám thất phu. Thủy quân không còn, đáng lẽ bây giờ chúng nên liệu mà đi sang đường thượng đạo tìm cách hội quân với Bắc Hà, may ra còn có thể bảo toàn lực lượng. Cố đánh vào thành Bình Định để rồi ta khép kín mọi nẻo đường, chúng chỉ còn nước chết trong thành.

- Chúa công… - Lê Văn Duyệt kinh ngạc nhìn theo vị chúa. Ngài ta đã quay lưng đi xuống cầu vào con đường lát đá dẫn vào chính điện. Khi nói, ngài ta cũng không quay lại.

- Ta đã liên lạc lại được với Thống lãnh Thanh Hóa, cử thêm người hội với Vạn Tượng ở Nghệ An, bao vây Bắc Hà. Chiếm được Phú Xuân lần này, thanh thế ta đủ mạnh để khuyến dụ những kẻ còn lưỡng lự. Thành Bình Định tranh chiếm bao nhiêu lâu, đã tàn tạ tiêu điều cạn kiệt cả rồi. Đã thế, phía Bắc là Quảng Nam, phía Nam là Phú Yên đã bị ta bao bọc hoàn toàn, chúng không có thủy quân để mà đào thoát. Không liệu đường trốn đi khi ta chưa thu phục được Nghệ An, lại còn đâm đầu cố chiếm lấy cái thành nát Bình Định, đúng là đem đại quân vào chỗ tự diệt vong. Số quân mệt mỏi ấy liệu có đường nào đánh qua được vòng vây ngoài Bình Định, Quảng Nam rồi Thuận Hóa hay không?

Đến lúc buông thành Bình Định ra thôi. Bẫy đã sập rồi.

Ngoài xa, họ nghe tiếng sấm khan của một cơn mưa chưa đến. Bầu trời Phú Xuân bàng bạc mây. Gió lại thổi mạnh. Lê Văn Duyệt nhìn gió thổi lật tà áo của vị chúa, trong một khoảnh khắc thấy sợ con người trước mặt.

Bẫy đã sập. Khi ngài ta đã vươn tay được đến Nghệ An, đã tung thuộc hạ của mình vào Bắc Hà, cùng lúc với cuộc tháo chạy của Quang Toản.

Và Lê Văn Duyệt nuốt câu hỏi chực chờ trên đầu lưỡi xuống đáy lòng. Thực ra, viên Thống chế này đang muốn hỏi: Thật sự, ngài muốn gì? Tên hoàng tử nhỏ của Tây Sơn được đưa theo vì ngài muốn Tham thặng hay muốn Tây Sơn đánh mạnh vào Bình Định? Hoặc cả hai.

Hoặc ngài ta muốn cả hai điều đó.

70

Những ngày nửa cuối tháng năm năm Tân Dậu, tất cả lực lượng Tây Sơn và Gia Định tập trung tại thành Bình Định.

Vòng ngoài Quảng Nam, Lê Văn Duyệt đến thay thế cho Nguyễn Văn Trương đã di chuyển tới sông Gianh. Lê Chất, Tống Viết Phúc bao vây mạn Bắc Bình Định, trong khi Nguyễn Văn Thành chặn phía Nam. Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng biết tin vua Cảnh Thịnh đã chạy thoát đến Bắc Hà liền ra sức công thành dồn dập.

Thành Bình Định, trong sự sống được kéo dài bằng thịt voi ngựa thay thế cho lương thực, cũng trụ vững hơn nửa tuần trăng.

Nhưng rồi ngay cả số voi ngựa cũng đang cạn dần. Từ những con ngựa già, họ đã hạ đến cả voi chiến. Tận dụng từng chút xương, da của chúng để nấu thành nước uống qua bữa, họ cầm cự.

Cầm cự trong hy vọng đang tắt dần.

Xung quanh họ chỉ có sự lặng im. Ngay cả có đem ống nhòm dõi khắp bốn phía, từng gốc cây ngọn cỏ trong rừng, họ vẫn không thể thấy được dù chỉ một bóng áo đỏ hay cờ vàng của quân Nguyễn. Tất cả những gì họ thấy là đoàn quân Tây Sơn – mà chua chát và giận dữ in hằn trên từng khuôn mặt – nghiến răng nhắm vào thành Bình Định. Trùng trùng điệp điệp rừng núi bao quanh họ. Quân Nguyễn sau núi Một vẫn không tiến lên. Quân Nguyễn tại phía Bắc không qua được Bến Đá. Họ một mình chống đỡ, giữa rừng.

Và trong những dao động, một ngày, quân Tây Sơn ngoài thành chợt nói, vọng lên thành, tin tức về một cuộc thanh trừng của chúa Nguyễn với hoàng tộc Tây Sơn. Tin tức của đoàn quân Nguyễn vừa từ Phú Xuân tới, đem theo một hoàng tử Tây Sơn nhỏ tuổi để đánh đổi với mạng sống Phò mã của chúa Nguyễn.

- Chúa Nguyễn đã bỏ các người. – Kẻ nói trước thành vẫn đang quát vọng lên. Chất giọng của kẻ đã quen nói giữa núi rừng có âm vọng vang xa trong sự lặng yên chợt trùm xuống. – Chúa Nguyễn chỉ lợi dụng các người, như họ Nguyễn đã luôn lợi dụng chúng ta. Bây giờ đã lấy được kinh đô cũ Phú Xuân, hắn đã bỏ các người, chỉ cầu mạng sống cho thân thuộc của hắn. Các người có đáng vì một kẻ như thế mà bỏ mạng không? Các người từ đầu đến cuối chỉ là kẻ bị lợi dụng rồi vứt bỏ. Hãy trở về với chúng ta, kẻ đã đưa các người đến vinh quang, kẻ đã vì các người mà khởi nghĩa chống lại quan quân áp bức.

Chúng không bao giờ đem lại điều gì tốt đẹp cho các người, đừng bị chúng dụ dỗ. Đám quan chúa nhà Nguyễn đã chà đạp chúng ta bao nhiêu lâu, các người có thể tin chúng sao? – Kẻ dưới thành nói, rồi kẻ khác nói tiếp theo. Liên tục, thay vì công thành, quân Tây Sơn thay nhau hét lên những tin tức bên ngoài, quyết định của chúa Nguyễn bỏ rơi thành Bình Định.

Quân lính trên thành im lặng. Những gương mặt như khắc từ gỗ của họ - nhợt nhạt và tái xám trong đợt cầm cự kéo dài, bị sự thiếu ăn hành hạ - bất động. Nhưng khi Võ Tánh đi qua, họ nhìn chàng, ánh mắt có đôi phần ngạc nhiên. Ánh mắt là thứ duy nhất “sống” trên gương mặt họ lúc này. Chàng thấy những câu hỏi trong mắt họ.

- Bọn chúng lại tiếp tục dối trá. – Bên cạnh Võ Tánh, Ngô Tùng Châu nghiến răng nói. Nhưng chàng chỉ lầm lì im lặng, dõi mắt xuống kẻ đang nói bên ngoài.

Như tất cả những người lính trong thành bây giờ, chàng cũng phải nghi ngờ về tính xác thực của những lời cáo buộc kia. Chúa Nguyễn đã đưa một hoàng thất Tây Sơn đến đổi mạng cho chàng, có thật chăng? Trong thâm tâm, chàng nhận ra rằng ngài ta hoàn toàn có khả năng làm điều đó. Cũng như lúc ngài ta bảo chàng bỏ thành mà chạy. Ngài ta cần chàng bảo toàn sự sống của mình, bằng bất cứ giá nào.

Và có phải quân Nguyễn đã hoàn toàn bỏ rơi thành Bình Định? Có thể quân không đánh vào được, như trong suốt hơn cả năm này. Nhưng phải hay không phải, kết qủa đều giống nhau: Thành Bình Định không thể giữ được.

Thành Bình Định không thể giữ được, và chúa Nguyễn đã sử dụng đến cả quân bài cuối cùng, cốt để lưu giữ mạng sống cho chàng.

Nhưng bây giờ, chàng không để tâm đến điều ấy. Chàng nhìn kẻ đang nói, rồi nhìn quanh thành, những người lính của chàng đứng im phăng phắc, gần như là bất động. Áo của họ đã rách mà không được thay thế trong hơn hai năm ròng, làn da họ tái sạm vì đói, vì thiếu thốn, thân hình họ khô đét, mắt họ trũng sâu trong những căng thẳng, khốn khổ của những ngày này. Khi chàng đi qua, họ chỉ nhìn chàng, và trong mắt họ, chàng thấy một câu hỏi duy nhất:

Tham thặng sống, còn chúng tôi thì sao?

Thành Bình Định sẽ không giữ được. Giờ đây, cái sự thật ấy đổ ập lên họ, sau những ngày dài chống chọi. Những suy nghĩ, ước vọng của họ đã tan biến. Và họ hoang mang. Chàng thấy sự hoang mang trong mắt họ. Chàng thấy nỗi đau buồn trong mắt họ. Hoang mang, hoang mang kéo dài trong sự im lặng suốt con đường chàng qua. Dối trá hay không dối trá, những gì mà quân Tây Sơn nói đang trở thành một sự thực. Họ cần có một sự lý giải, trong những thất vọng và hoang mang này.

- Chúng chỉ dối trá. - Ngô Tùng Châu nói, đêm đó, giữa đám quân được tập trung trong sân điện. – Chúng một mặt vây chặt chúng ta, một mặt tung tin làm xao động tinh thần anh em, đó là việc chúng đã làm trong suốt cả năm này.

- Nhưng chúng ta sẽ làm gì đây, Ngô Thượng thư? – Một người hỏi, trong đám đông trĩu nặng. – Quân không vào giải cứu, chúng ta làm gì được đây?

Ngô Tùng Châu nhìn sang Võ Tánh. Chàng cắn môi, trước khi quyết định:

- Chúng ta sẽ liều chết đánh ra. – Chàng nói, đưa mắt nhìn tất cả bọn họ. – Ta sẽ không bao giờ bỏ anh em, sống cùng sống, chết cùng chết.

Tiếng xôn xao ồ lên trong quân. Mọi người nhìn nhau. Chàng thấy đủ mọi trạng thái tình cảm xung quanh mình: quyết tâm, tức giận, sợ hãi, kinh hoảng, hăng hái, cổ súy, bất bình. Nhưng rồi đám đông lặng xuống. Họ biết, không còn con đường nào khác. Hoặc là liều chết đánh ra, hoặc là chịu chết trong thành. Số voi ngựa đã cạn, nếu cứ giữ mọi người lại, sẽ dẫn đến tình trạng lấy thịt nhau mà ăn.

- Nhưng voi ngựa đã mất hết, chúng ta đánh bằng cách nào đây? – Võ Văn Lượng hỏi khi các tướng được tập trung bàn về kế hoạch đánh ra. Voi ngựa hết, số đạn dược cũng đã cạn, người người đã bị đợt thủ thành kéo dài vét đến giọt sức lực cuối cùng. Đánh ra, đối đầu với cái lũy của Tây Sơn với vài vạn người ấy, cầm bằng tự sát.

- Tôi sẽ cầm quân chính thu hút kẻ địch. Còn quân đằng sau thì lựa thế mà chạy đi. – Chàng nói. Những viên tướng nhìn chàng. Chàng nói trước khi họ kịp lên tiếng. – Nếu điều Tây Sơn nói là thật, chúng sẽ không giết tôi đâu.

- Điều anh nghĩ tới, hai kẻ bên ngoài có thể cũng nghĩ tới rồi. – Đứng hơi tách ra khỏi đám tướng lãnh, Ngô Văn Sở chợt lên tiếng. Anh ta khoanh tay, nhìn vào vết cháy đen sạm trên cột trước cửa tướng doanh. – Chúng biết rằng chúng ta sẽ đánh ra.

- Chúng vẫn không biết là ta đã cạn lương. Nếu không biết điều đó, chúng sẽ không nghĩ là ta lại cấp bách đánh ra như vậy. – Chánh cơ Nguyễn Tấn Huyên lắc đầu. Ngô Văn Sở nhìn anh ta, nhướng mày.

- Thật không? – Vừa nói, anh ta vừa lấy từ thắt lưng ra một cái móc câu nhỏ, nối với đoạn dây đã bị cắt đứt. – Tôi vừa bắt được cái này, vùi dưới đất, trong doanh trại của lính. Có một âm mưu đào thoát đang được sắp đặt. Nếu quân lính trong thành trốn ra, hay bị Tây Sơn bắt được, chuyện chúng ta hết lương sẽ bại lộ ngay thôi.

Võ Tánh đón lấy cái móc câu từ tay Ngô Văn Sở, cau mày. Đất vẫn còn dính trên nó. Và nó có vẻ rất chắc chắn, có thể chịu được sức nặng của ít nhất là một người. Vừa nhìn, chàng đã biết kẻ giữ nó định làm gì. Không thể mở cửa thành thoát thân, kẻ này đang định tuột từ trên tường thành xuống.

- Kẻ nào giữ vật này, anh điều tra chưa? – Võ Văn Lượng hỏi Ngô Văn Sở. Nhưng Võ Tánh lắc đầu, lên tiếng trước.

- Không cần điều tra. Tình thế bây giờ không thể gây xáo động thêm nữa. Ta phải tin bọn họ thì mới dựa vào nhau được. Còn kẻ nào muốn trốn thoát thì cứ việc. Dù sao ta cũng đánh ra ngày mai, việc hết lương không thể giữ bí mật mãi.

Đánh ra, nghĩa là sẽ có kẻ bị lọt vào tay Tây Sơn. Từ khi hết lương, họ đã án binh bất động, chính là để tin tức này không lọt ra ngoài. Quyết định đánh ra lần này, họ đã đánh liều với vận mạng của chính mình. Chàng đặt cái móc câu xuống, tiếp tục bàn về việc điều phối quân tướng. Chàng không nhận thấy ánh mắt Ngô Văn Sở nhìn mình.

- Nếu không điều tra, sẽ lại xảy ra tình trạng như lúc cửa thành mở hôm nào. – Anh ta nán lại khi các tướng đã ra về hết, ngồi xuống đối diện với Võ Tánh mà nói. Ánh mắt anh ta săm soi biểu hiện trên khuôn mặt chàng. – Thấy một kẻ làm được, những kẻ khác sẽ bắt chước theo.

- Mặc họ. – Chàng vẫn nhìn bản kế hoạch tấn công đã được thảo, không ngẩng lên. – Tình thế này rồi, giữ những kẻ không muốn ở lại cũng không được gì.

Cả anh nữa, nếu ngày mai chạy được thì anh chạy đi. Sẽ có kẻ sắp xếp cho quân chạy thoát. – Chàng ngần ngừ nói, một lúc sau. Ngô Văn Sở nheo mắt trước cái tin ấy, cũng có thể chính vì thái độ của chàng.

- Anh mặc cảm tội lỗi à, Tham thặng? – Cuối cùng, anh ta chợt cười. Chàng rời mắt khỏi tờ giấy đúng lúc để bắt gặp cái nhìn chế giễu trong mắt anh ta. Ngô Văn Sở hơi nghiêng người trên bàn về phía chàng, nụ cười vẫn trên môi. – Đến lúc anh thấy áy náy về những gì mình làm rồi sao?

- Ta không biết Ngô tướng quân nói gì. – Chàng quay đi. Nhưng Ngô Văn Sở không buông tha chàng dễ dàng như thế. Anh ta nhịp ngón tay lên mặt bàn, hơi nghiêng đầu nhìn ngọn lửa như đang trò chuyện với nó.

- Ban đầu, khi ở lại thành, Tham thặng đã cố tình chọn quân từ đội Ngự lâm, những hàng quân về đầu, quân Gia Định ở đây phần lớn là quân Miên. Nguyễn Văn Tồn kia là người Cao Miên, phải không? Và cả những tướng Thống chế đã mất, hoàn toàn là những hàng tướng. Cả tôi nữa. Tham thặng đã cố tình chọn chúng tôi. Tham thặng đã cố tình chọn những kẻ không cùng phe phía với anh. Trong trường hợp bắt buộc, anh thậm chí chọn cả những người không cùng dòng máu, dân tộc.

Những ngày qua, tôi cứ nghĩ mãi. – Giọng nói Ngô Văn Sở kéo dài, gần như uể oải. – Chúa Nguyễn muốn gì khi đánh Phú Xuân? Giải vây cho tình trạng bế tắc hiện nay, có lẽ. Nhưng đó có phải là một giải pháp nhất thời nghĩ ra để đối phó không? Dựa vào những đợt tấn công trước đây của quân Gia Định, thì có lẽ là không. Vài năm trước, khi quân Nguyễn đã tiến tới cửa Eo, tại sao các anh lại đột ngột rút lui? Đại quân Nguyễn Văn Thành ở đồng Cây Cầy suốt hơn một năm, cố gắng phá qua mặt sau Thị Nại chứ không dồn quân vào con đường La Hai có lẽ là dễ dàng hơn nhiều, có phải mục tiêu của Nguyễn quân ngay từ đầu đã là thủy quân của Tây Sơn? Và tại sao lại là thủy quân của Tây Sơn? Tại sao lại nhắm vào thủy quân của Tây Sơn? Và ngay sau đó, quân Nguyễn chiếm Quảng Nam, lặp lại tiến trình trước kia. Anh có thể nói rằng toàn bộ là vô tình sao, Tham thặng?

Việc anh cố tình chọn những kẻ xa lạ ở lại với mình là vô tình sao, Tham thặng?

Anh đã biết, phải không? – Vẫn độc thoại với ngọn lửa trên bàn, Ngô Văn Sở mỉm cười. – Hoặc là anh không biết. Nhưng ngay từ đầu, anh đã cố tình chọn người vào nơi hiểm địa này để hy sinh. Vì đây là nơi hiểm địa, anh không chọn những người mà anh quan tâm. À không, anh không thể quan tâm đến tất cả quân tướng của mình. Nói sao đây nhỉ - anh chọn những người mà anh không quan tâm nếu họ chết. Người từ những vùng đất xa xôi, địch thủ của anh, kẻ khác dòng tộc, những kẻ khác biệt, đại loại như vậy, cả những viên tướng hạng hai trong quân.

Những người ở lại bây giờ là những kẻ bị anh đẩy vào chỗ chết.

Và anh có biết về kế hoạch của chúa công mình không, Tham thặng? Lúc ấy, anh đã nghĩ gì? Lúc ấy, anh quyết định như thế nào? Rất dễ dàng, phải không – Chiến thắng cuối cùng là quan trọng. Bất cứ vị tướng trên chiến trường nào cũng sẽ quyết định như thế.

- Anh muốn nói gì đây, Ngô tướng quân? – Võ Tánh ngắt lời Ngô Văn Sở. Chàng thấy anh ta chớp mắt, quay nhìn chàng. Trong khoảnh khắc, vẻ giễu cợt biến mất. Đôi mắt Ngô Văn Sở trầm lặng, gần như là cảm thông.

- Không, tôi chỉ muốn nói rằng anh không việc gì phải áy náy hay cắn rứt về những gì mình làm. Cuối cùng, rốt cuộc chúng ta chỉ là công cụ của kẻ khác. Vận mệnh chúng ta nằm trong tay kẻ khác. Ngay cả những kẻ ngoài kia nữa, anh cũng không việc gì phải cắn rứt vì họ. Họ đã quen rồi. Năm nào, Huệ đánh Nhạc, Quy Nhơn hơn bốn vạn người bị giết, quân Huệ cũng chết không biết bao nhiêu mà kể. Anh nghĩ có lý do, có luân lý nào trong đó không? Anh nghĩ con người là gì khi chúng thả chó vào rừng, đâm giáo vào bụi lùng tìm người để sung quân? Anh nghĩ con người là gì khi bị đẩy đi trước trận làm bia đỡ đạn? Đừng qúa lương thiện, Võ Tham thặng. Rốt cuộc, tất cả chúng ta chỉ là công cụ. Anh không thể thương xót tất cả mọi người đâu. Ngay cả nếu anh thoát ra khỏi đây, anh nghĩ mình sẽ ra sao? Anh sẽ lại tiếp tục làm tướng, điều quân đi giết kẻ địch – Mà ranh giới của kẻ địch và không phải kẻ địch là gì? Anh đã biết trong những tháng năm này rồi đó, họ có đáng chết không?

Mỗi một cái cất tay của anh là bao nhiêu người phải chết. Đó là việc của một tướng quân. Anh không có sự lựa chọn, nhưng anh phải lựa chọn. Anh phải lựa chọn, luôn luôn phải lựa chọn.

Đừng qúa áy náy hay xót thương, Võ Tham thặng. Nếu không, anh sẽ chỉ làm hại mình và những người anh muốn bảo vệ. Rốt cuộc, tất cả chúng ta chỉ sống như thế - Bảo vệ điều mình muốn bảo vệ và hy sinh kẻ khác. Chúng ta phải lựa chọn như thế. Anh đã đạp lên ranh giới an toàn rồi.

Ít nhất trong đêm nay anh cũng phải cản kẻ muốn trốn đi chứ. – Ngô Văn Sở cầm cái móc câu vẫn để trên bàn lên, ngắm nghía nó một lát rồi dắt vào thắt lưng. – Nếu chúng biết ta định đánh ra ngày mai, cách nào cũng không ai trong chúng ta thoát được.

Chưa đến lúc cuối cùng thì anh không được buông tay, Tham thặng ạ.

Ngô Văn Sở nói và đứng lên, đi khỏi phòng. Khi anh ta đã đến cửa, chàng đột ngột gọi anh ta.

- Ngày mai, nếu được thì anh trốn đi. – Chàng nói. Ngô Văn Sở nhìn chàng. Bóng của một nụ cười thoáng qua khuôn mặt anh ta.

- Anh chưa từng hỏi tại sao tôi muốn sống thì đừng tự tiện phán quyết như thế, Tham thặng. – Anh ta nhẹ nhàng nói. Chàng nhìn đôi mắt đen thẫm của anh ta.

- Tại sao? – Chàng hỏi. Ngô Văn Sở nghiêng đầu, im lặng một lúc rồi mới trả lời.

- Vì tôi còn một người đợi mình ở Thăng Long. Bị đưa đi đột ngột, tôi vẫn chưa kịp từ giã. Tôi rất muốn được gặp lại người đó.

Ngày mai tôi sẽ ở trong giữ thành cho Tham thặng đánh ra. Dù sao tôi vẫn không muốn chạm mặt những kẻ bên ngoài đâu. – Ngô Văn Sở nói tiếp và quay đi. Cánh cửa tướng doanh khép sau lưng anh ta. Chàng vẫn nhìn vào khoảng trống mà anh ta vừa bỏ lại.

Trong chàng gợn lên sự ngạc nhiên đến gần như là ngơ ngác.

Những gì Ngô Văn Sở nói, không phải chàng không hiểu. Ngược lại, trong suốt những tháng ngày này, trong gần một tháng qua, không lúc nào chàng không nghĩ đến. Đó là những điều đã khiến chàng có thể tiếp tục, có thể chịu đựng. Nhưng đồng thời, cùng với thời gian, nó tạo thành một hòn đá nặng trĩu trong chàng. Trong lời Ngô Văn Sở, trên môi anh ta, nó hóa thành đương nhiên đến như là tự nhiên. Chúng ta sống như thế, anh ta nói. Và không phải không có chút muộn phiền.

Anh có thể làm được gì đây, Tham thặng? Có lẽ anh ta đã muốn hỏi như thế. Rốt cuộc, chàng làm được gì – với muôn vàn con người, muôn vàn số phận này? Ngay cả anh ta, anh ta nữa, cũng có một cuộc đời và số phận, cũng có buồn vui và đau đớn. Nhưng rốt cuộc, họ có thể làm được gì? Với mình, với kẻ khác?

Anh đã đạp lên ranh giới an toàn rồi. Anh ta nói, như thể muốn kéo chàng quay lại. Mỗi người có một ranh giới cho mình, được bảo vệ trong cái ranh giới ấy. Một nhóm người có ranh giới chung cho mình, bảo vệ nhau trong cái ranh giới ấy. Đó là cách mà con người đã sống.

Sống. Cuộc sống. Sự sống. Không thể nói rằng chàng không tiếc nuối nó. Ngược lại, sự sống đang rõ ràng lên từng ngày với chàng, từng ngày, từng giây khắc một. Ánh nắng, ngọn gió, sự lay động của từng chiếc lá, cành cây, ký ức và nỗi nhớ. Không dễ dàng, không dễ dàng để rời xa sự sống, trong thời gian vẫn cứ chậm chạp trôi. Không phải là một quyết định trong thời khắc, nhanh chóng và giản đơn - cái chết cùng cuộc sống trong những ngày tháng này luân phiên đổi chỗ cho nhau trong tâm trí chàng. Thời gian càng kéo dài, chàng càng cảm thấy cõi lòng mình đầy xáo trộn. Thời gian càng kéo dài, ký ức càng tích lại, đầy ứ, tràn ngập tâm trí chàng. Cuộc sống, cuộc sống mà chàng đã có, bên ngoài khu thành, bên kia sông và các ngọn núi. Cuộc sống mà chàng có thể có, bên ngoài khu thành, bên kia sông và các ngọn núi.

Một bên là giấc mơ. Một bên là khao khát. Một bên là ước vọng. Một bên là nuối tiếc khôn nguôi.

Sống. Là tạo một ranh giới và tồn tại trong đó. Anh đã đạp lên ranh giới rồi, Tham thặng. Ngô Văn Sở nói, nhìn chàng bằng đôi mắt đã đi qua sự sống và cái chết, đã hiểu thế nào là sự sống và cái chết. Chàng chưa bao giờ hỏi anh ta, qủa vậy, về cuộc đời của anh ta, về những gì đã khiến anh ta bám giữ sự sống này, về những gì anh ta mong chờ trong sự sống này. Chàng tưởng như mình biết, nhưng rốt cuộc, chàng chưa từng biết, bất cứ gì.

Chàng vẫn còn chưa biết, rất nhiều điều trong cuộc sống này.

Chậm chạp, chàng đứng dậy, mở cửa sổ nhìn ra ngoài. Những người lính đã đi ngủ sớm để chuẩn bị cho ngày mai. Chàng biết, rất nhiều người trong số họ đang trao đổi cho nhau vật làm tin để báo về cho gia đình. Chàng biết tường tận về nhiều người trong số họ, cuộc đời, gia đình mà họ có, bên ngoài tường thành. Tất cả bọn họ đang nép mình trong bóng tối, cố nắm lấy cuộc sống và giấc mơ của mình, trong giấc ngủ. Chỉ còn những đám lửa cháy mãi trong sân, trên các vọng gác, tại các nơi canh gác. Trăng đã qua rằm như phản chiếu qua một tấm gương thành méo mó, chiếu ánh sáng nhạt xuống đất. Khu thành đổ nát im lìm trong đêm. Im lìm trong bóng tối xôn xao. Trong sự xôn xao của bóng tối.

Có người bước vào sau chàng. Chàng nghe tiếng ghế đẩy nhẹ và biết rằng cô hầu câm của chàng đã vào. Chàng lại nghĩ đến cái kế hoạch đánh ra ngày mai. Chàng đã nghĩ đến phương cách cho cả những người không có võ công như cô ta và Ngô Tùng Châu.

- Ngày mai cô đứng ở cửa thành với Ngô Thượng thư. – Chàng nói mà không quay lại. – Nếu mở đường ra được, sẽ có người đưa hai người đi.

Cô gái im lặng sau lưng chàng. Không, phải nói rằng cô ta luôn luôn im lặng. Chàng vẫn nhìn khoảng sân một lúc rồi mới quay lại. Cô gái đang đứng cạnh bàn. Ánh mắt ngạc nhiên của cô ta làm chàng cũng phải lấy làm lạ.

- Đến lúc kết thúc rồi. – Chàng nói với cô ta, đến bên bàn thu dọn giấy bút mà cuộc họp vừa rồi đã bỏ lại. – Những năm vừa rồi làm phiền cô qúa. Cô là phụ nữ, Trần Quang Diệu cũng là kẻ trượng phu, hẳn không làm hại cô đâu. Ta đã chuẩn bị cho cô một số tiền, cô cầm lấy mà đến chỗ quân ta, họ sẽ sắp xếp cho cô cuộc sống đàng hoàng.

Cô gái vẫn đăm đăm nhìn chàng. Một lúc sau, cô ta chỉ vào chàng, ra ý hỏi. Chàng mỉm cười.

- Ta sẽ cố đánh ra. – Chàng chỉ nói như vậy, rồi lại cúi xuống sắp xếp giấy tờ. Chàng không để tâm đến dáng đứng bất động của cô gái bên cạnh. Cô ta luôn luôn như vậy, im lìm và bất động.

Khi đã thu dọn xong, chàng cầm một xấp giấy định bỏ vào trong lửa. Bàn tay cô gái chợt nắm lấy tay chàng.

- Đừng sợ. – Chàng nói khi thấy ánh mắt kinh hoảng của cô. – Ta sẽ cho người bảo vệ cô đàng hoàng. Nếu không chắc chắn, cô sẽ không phải xông qua chiến trận đâu.

Khi nói, chàng lại lờ mờ nhận ra điểm gì đó không hợp lý trong sự sợ hãi của cô gái. Đã bao giờ chàng thấy cô ta sợ cái chết? Cô ta ở đây, vượt qua những sợ hãi ban đầu với tiếng pháo nã vào thành, trở nên điềm nhiên và cứng rắn còn hơn cả lính. Nhưng giờ đây, tay cô ta run rẩy. Chàng nhận rõ sự run rẩy qua lớp vải áo. Càng nói, chàng càng nhận ra rằng sự sợ hãi của cô ta không liên quan đến việc đi xuyên qua chiến trận.

Cô ta sợ cái gì? Chàng nhìn vào mắt cô gái mà tự hỏi. Cô ta lắc đầu, tỏ ý như van xin một điều gì, muốn nói một điều gì. Chàng gỡ tay cô ta ra, thở dài.

- Mọi việc sẽ ổn thôi. – Chàng nói. Đó là câu chàng nói với mọi người mọi kẻ bây giờ. Đó là câu nói dùng được trong mọi tình huống. Cánh tay cô gái xuôi xuống. Nhưng cô ta vẫn nhìn chàng, cắn môi. Chàng thả xấp giấy vào ngọn lửa trên bàn, không nhìn cô.

Không thể không thừa nhận rằng càng lúc chàng càng thấy cô ta giống nàng. Nhất là trong sự sợ hãi bây giờ. Dù biết rằng sự tương đồng ấy chỉ do đặc điểm phái tính, khi chàng chỉ có duy nhất một hình ảnh phụ nữ để mường tượng, nhưng chàng thấy có lỗi với nàng, với ký ức mình. Ký ức, đó là điều duy nhất chàng còn nắm giữ, còn trân quý, để nắm giữ, để trân quý. Trong ngày tháng lẫn cuộc đời vẫn đang trôi đi, trôi đi mà không biết đến khi tận diệt. Chàng đã nắm lấy ký ức về nàng, cất giấu nó trong góc ấm áp nhất của trái tim mình. Nàng là những gì ấm áp nhất đã đến trong cuộc đời chàng, là mái nhà dịu dàng, là mối tình thiết tha, là quê hương ngọt ngào, là gia đình rộn rã. Chàng đã không còn nhớ đến những cay đắng, phiền trách, chỉ nhớ đến hạnh phúc đã từng có, những gì nàng đã làm cho chàng. Hình ảnh nàng trong chàng không còn là một phụ nữ thông thường, mà đã là tất cả những gì ngọt ngào, đẹp đẽ nhất của một người phụ nữ. Ngay cả sự chua chát của nàng cũng trở nên đáng yêu, đáng thương. Ngay cả sự giận dữ của nàng cũng trở thành một điều khiến chàng lưu luyến.

Vì thế, ngay cả khi thấy nhớ nàng thông qua hình ảnh một cô gái xa lạ như bây giờ cũng làm chàng cảm thấy áy náy. Tổn thương, có lẽ. Trong những ngày tháng này, ngay cả cảm xúc cũng trở nên mong manh đến mức trở thành dễ thương tổn. Cảm xúc có thể cắt rất sâu vào trái tim chàng.

Những tờ giấy cuốn mình vào trong lửa, hóa thành từng mảnh than đen.

Cô gái cuối cùng cũng chịu rời đi. Cô ta bước khỏi phòng, đi về phía sau nhà. Đó là nơi cô ta sẽ ngủ, ngay bên cạnh phòng chàng.

Chàng nhìn chiếc bóng cô hắt lại trên sàn, thấy lòng hẫng xuống, dường như là trống trải.

Đã đến lúc kết thúc, chàng nói với cô. Nhưng đến bây giờ thì chàng mới cảm nhận được thực sự sức nặng của những từ ngữ ấy. Kết thúc? Kết thúc điều gì? Kết thúc cuộc thủ thành kéo dài đằng đẵng? Kết thúc sự giằng co này? Hay là, tất cả?

Trong thâm tâm, chàng biết những lời quân Tây Sơn nói ngoài thành có sự xác thực. Vị chúa có thể dùng mọi phương cách để đổi lấy mạng sống cho chàng. Nhưng chàng lại không biết phải nghĩ gì về điều ấy. Chàng không còn là người chỉ hành động theo bản năng khi đột phá xuyên qua vòng vây quân địch để giữ mạng sống cho mình. Chàng cũng không còn là con người ương ngạnh chỉ hành động theo ý mình muốn, mặc kệ hậu quả như năm xưa. Từ lâu, chàng đã đặt vị trí của bản thân xuống dưới – dưới trách nhiệm và nghĩa vụ, dưới yêu cầu và hoàn cảnh, dưới địa vị và danh nghĩa mà bản thân nắm giữ. Với lệnh của chúa Nguyễn, cái yêu cầu cực kỳ vị kỷ của ngài ta, chàng lại hóa hoang mang đến mức không biết phải nghĩ gì.

Và thật lòng, chàng không thể thoát ra một mình khi người trong thành chưa được bảo toàn. Đó không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là điều chàng đã hứa, điều giúp chàng còn có thể sống mà đứng thẳng làm người.

Kết thúc. Kết thúc như thế nào? Nếu may mắn, phần lớn quân sẽ thoát được ra ngoài. Chàng sẽ cố để càng nhiều người thoát ra được càng tốt.

Nhanh nhạy ứng phó với hoàn cảnh, đó là điều mà ngày xưa chúa Nguyễn đã nhận xét về chàng. Chàng mỉm cười khi mắt nhắm lại. Phải, chàng sẽ ứng phó với bất cứ hoàn cảnh nào. Cho đến thời khắc cuối cùng.

Khi trời tờ mờ sáng, cửa thành Bình Định mở, quân trong thành do Võ Tánh dẫn đầu đánh vào nhóm quân canh phòng lũy của Tây Sơn. Tất cả đại bác được họ đưa ra dàn hàng ngang bắn vào lũy. Đại bác trên thành cũng nổ yểm trợ. Một vài con voi còn lại được đưa ra đầu hàng công. Quân trong lũy đáp trả bằng máy bắn đá, tên nỏ và súng. Sau vài đợt xung phong, một người lính đã đốt được bộc phá dưới chân lũy. Bộc phá nổ tung một đoạn lũy, khói bụi mịt mù. Quân Nguyễn chạy vào đoạn lũy vừa phá được, định thoát ra ngoài.

Quân Tây Sơn rất nhanh đã có phản ứng. Từ phía trong lũy, sau núi chắn con đường vào rừng, quân tràn ra ép những người vừa chạy qua ngược trở lại.

Phía sau đoàn quân Nguyễn, dựa vào lúc rối loạn, quân dần tản ra, túa qua cổng mà luồn ra sau thành, tập hợp thành những nhóm nhỏ tìm cách đột nhập qua những đoạn lũy lơi lỏng phòng bị khi Tây Sơn tập trung về phía Võ Tánh. Cửa thành ba hướng còn lại cũng âm thầm mở. Đại bác trên thành không ngừng bắn ra xa yểm trợ cho quân đang cố đánh ra.

Nhưng quân Tây Sơn với hai vị đại tướng và hàng vạn người, nhanh chóng khép chặt thế trận. Đoạn lũy bị phá gần như ngay lập tức được quân hàn kín. Dù vừa qua đêm, quân phòng thủ lũy vẫn giữ cự ly chặt chẽ, không cho quân Nguyễn có cơ hội đột nhập. Quân trong lũy tràn về phía quân Nguyễn từ hai bên, tạo thành thế gọng kìm định vây quân Nguyễn vào giữa. Võ Tánh vội vã cho lệnh thu quân. Trên thành, Ngô Văn Sở lệnh dồn hỏa lực xuống, phá vỡ mũi đột kích của quân Tây Sơn cho quân ngoài thành rút về. Tiếng trống thu quân vang vọng.

Khi những cổng thành khép lại, họ nghe, gần như ngay lập tức, pháo của Tây Sơn đã kéo ra khỏi lũy bắn vào thành. Tiếng nổ làm thành rung chuyển.

- Bao nhiêu người thoát được? – Võ Tánh vội vã chạy lên tường thành ngay khi vừa vào. Ngô Văn Sở im lặng lắc đầu. Theo hướng mắt anh ta, chàng nhìn thấy những thân người rải rác trên đất, phía lũy mà họ định thoát ra. Bên ngoài, quân Tây Sơn đã tụ tập đen đặc, chuẩn bị cho đợt công thành mới.

- Chúng có chuẩn bị. – Ngô Văn Sở nói mà miệng không mở ra. Chân anh ta đá vào một vật dưới nền thành. Nhìn kỹ, chàng nhận ra một mớ móc câu cùng dây nhợ chằng chịt.

- Nếu Tham thặng định hỏi có bao nhiêu kẻ thoát ra được, thì đêm qua quả có rất nhiều tên đào thoát. – Ngô Văn Sở nói qua kẽ răng. – Cả một trạm gác phía Đông âm mưu với nhau. Vì cửa ấy hôm nay ta không dùng đến nên chậm trễ phát hiện ra.

Mà quân Tây Sơn mới có thể phản ứng nhanh đến thế. Võ Tánh nghe lời lầm thầm bực bội của Ngô Văn Sở, nhất thời cũng không biết phải nói gì. Chàng nhìn xuống đoàn quân vừa chạy vào thành, nhuốm đen khói bụi và máu. Theo ước đoán bằng mắt thường, chàng cũng nhận ra không mấy ai thoát ra được lũy. Ngược lại, số người bỏ mạng bên ngoài có lẽ còn nhiều hơn.

- Đừng làm ầm việc này lên. – Chàng nói, một lúc sau, vẫn không nhìn Ngô Văn Sở. – Làm ầm ĩ việc có kẻ đào thoát thì càng nhiều người chọn cách đó mà trốn đi.

- Anh cũng biết chuyện đó rồi à? – Chàng nghe tiếng Ngô Văn Sở cợt nhạo bên tai. Nhưng lúc này, chàng chẳng để tâm đến.

- Thu xếp xong rồi anh đi xuống bàn việc. – Chàng nói với anh ta trước khi vội vã xuống thành. Ngô Tùng Châu cùng cô gái câm vẫn ở trong thành, thất sắc nhưng bình an. Rất nhanh, Ngô Tùng Châu đang đi ủy lạo quân lính, cô gái chăm sóc cho lính bị thương. Chàng đi tìm Nguyễn Tấn Huyên, thì thầm với viên Chánh cơ:

- Anh đi tìm người trông coi đám lính gác trạm phía Đông cho ta hỏi chuyện. Tất cả nhóm gác, còn ai thì gọi cả đến. Cứ từ từ, đừng làm ồn lên.

Viên phó tướng nhìn chàng, biết ý mà gật đầu, luồn vào giữa đám quân đang nhao nhác. Chàng nhìn quanh họ, vừa nói những câu khuyến khích đãi đằng vừa chú ý quan sát gương mặt từng người. Họ thất vọng, chắc chắn. Nhưng có những kẻ thất vọng đến gần như hoảng kinh, hoặc gần như phát cuồng. Sự giận dữ làm khuôn mặt nhiều người méo mó.

Đó là những kẻ sẽ trốn đi, chàng biết. Họ sẽ trốn đi, để bảo toàn sự sống cho mình.

Còn chàng, để bảo toàn sự sống cho những người còn lại, sẽ phải ngăn họ.

Ngày hôm ấy, đoàn xe giải tù cũng vừa trở về Sài Côn sau một vòng diễu qua Gia Định. Ngoài khoảng đất trống cách thành một quãng, pháp trường đã được dựng, hương án đã được bày cho cuộc trảm tù tế lễ. Đoàn xe trở về khi trời đã tối sụp, theo sau còn mang theo một đoàn người khác.

- Bọn gián điệp tại Gia Định. – Nguyễn Văn Nhơn nói với Ngọc Du khi thấy nàng ra ngoài xem xét tình hình. – Đem đoàn tù này đi khắp nơi, đánh động bọn chúng, chúng liền lập mưu định giải cứu. Ta đã có chuẩn bị sẵn, bắt được toàn bộ.

Ồ, nàng thốt khe khẽ trong cổ. Sáng này, nàng cũng đã thấy quan quân lập kế hoạch ngấm ngầm phong tỏa pháp trường, trà trộn vào đám đông để nghe ngóng. Hóa ra, ngay cả chuyến giải tù này cũng là cách họ bắt kẻ thù phải ra mặt.

Đám gián điệp bị đưa vào nhà ngục trong thành, trong khi ba tù nhân chính được đưa vào phòng biệt giam, chuẩn bị cho cuộc xử trảm ngày mai. Ngày mai, có lẽ toàn bộ Sài Côn sẽ đổ ra để xem cuộc xử trảm này.

Cho nên, nàng đã không chờ đợi mẹ mình hỏi đến việc ra pháp trường. Tối hôm ấy, Từ phi vừa thấy nàng đã hỏi:

- Ngày mai ta muốn đi ra pháp trường, có được không?

- Ngoài ấy đông đúc, nguy hiểm lắm. – Ngọc Du nén sự ngạc nhiên của mình mà trả lời. – Quan quân đang có kế hoạch đón lõng bắt những kẻ muốn quấy rối. Mẹ tốt nhất đừng đi.

Từ phi cúi đầu, im lặng. Nàng nhìn bàn tay gầy của mẹ đặt bất động trên bàn, liếc nhìn mấy đứa con đang ăn cơm gần đó. Nàng biết hai đứa lớn đang dỏng tai nghe. Chúng cũng muốn đi xem pháp trường ngày mai, dù không ai trong đám trẻ được phép đi, ngoại trừ Tứ công tử giữ nhiệm vụ đại diện cho hoàng gia có mặt tế lễ cho những người đã chết dưới tay Tây Sơn.

Do đó, nàng hạ giọng mà nói với Từ phi, cốt để đám trẻ không nghe thấy.

- Sao mẹ lại muốn đến pháp trường? – Nàng chưa bao giờ nghĩ mẹ mình lại muốn nhìn thấy cảnh đầu rơi máu chảy. Và cảnh đầu rơi máu chảy của hai đứa trẻ con lại càng không đẹp đẽ.

Từ phi không trả lời nàng. Bà dõi mắt nhìn ra khoảng không mờ mưa ngoài cửa sổ. Một cành cây đang đập vào mái. Mùa hạ đã đến cùng mưa ngày càng lớn, kéo dài giữa những cơn nắng đổ. Họ nghe tiếng gió rào rào ngoài khu vườn.

- Ta vừa mơ thấy anh em của con. – Một lúc sau, Từ phi mới chậm chạp nói. – Thằng Hạo, thằng Mân, con bé Tuyền, cả ba đứa chúng nó. Cả ba đứa đều kêu bảo chúng mất mà thân xác không được chôn cất, lạnh lẽo qúa.

- Do mẹ ban ngày nghĩ nhiều, ban đêm mơ thấy như thế thôi. – Ngọc Du nói, cốt để an ủi mẹ mình. Tuy nhiên, nàng cũng thấy lạ. Trong suốt hàng chục năm, mẹ nàng chưa bao giờ nói đến những chuyện như thế.

- Chết như thế thật là thảm qúa. – Từ phi lặng lẽ nói, không nhìn nàng, có vẻ bà còn không nghe được lời nàng. – Ta sinh ra chúng, nhưng cả thân xác cuối cùng của chúng cũng không chạm vào được, không có được.

Đến lượt nàng lặng im. Anh cả của nàng đã mất trong cuộc rối loạn tại Quảng Nam, đứa em tên Mân đã chết vì bị chặt cầu treo rơi xuống khi giữ đồn Giác Ngư, Tuyền nhảy xuống sông tự sát. Đó chỉ là những điều họ được báo lại, khi tất cả đã mất, mất mà không có một vết dấu nào. Nàng biết, thực lòng thì mẹ nàng đã chờ đợi, chờ đợi một phép lạ hoặc một sự nhầm lẫn nào đã xảy ra, để những đứa con mình trở lại. Nhưng với thời gian trôi qua, sự biến mất trở thành chắc chắn đến mức không thể chối cãi được.

Sự chờ đợi ấy có lẽ còn đáng sợ hơn cả cái chết.

Từ phi thở dài, nhìn xuống bàn tay để trên bàn. Trong ánh lửa, những nếp nhăn trên khuôn mặt bà như sâu thêm. Nàng nghĩ đến thời gian và những gì nó để lại cho bà – những tàn phá khắc sâu vào tâm khảm. Bà đã từng chờ đợi, và giờ thì bà không đợi nữa. Không có phép lạ, cũng chẳng có sự ưu ái của thiên mệnh cho bà. Giờ thì bà cần sự kết thúc. Một điều gì đó để kết thúc, cả một quãng đời đã qua.

- Nếu mẹ muốn đi thăm bọn chúng, con sẽ đưa mẹ đến nhà lao. – Nàng nói, một lúc sau, vẫn hạ giọng để bọn trẻ con không nghe được. Từ phi ngẩng nhìn nàng có vẻ ngạc nhiên. Rồi bà gật đầu.

Nhà lao trong Quy thành không xa lạ với họ, nhưng khu biệt giam là nơi họ chưa bao giờ đặt chân tới. Đầu nhà lao là những căn phòng thoáng đãng sạch sẽ dành cho tù nhân được đặc cách, các vị quan bị chúa Nguyễn ra lệnh tống giam đều ở đây. Phía sau, càng về sau là những phòng giam ngày càng ẩm mốc, dơ bẩn dần, được ngăn cách với nhau bằng các bức tường gỗ dày. Khu biệt giam cách hẳn với nhà lao chính bằng một lớp cửa, phải đi qua phòng tra khảo với đủ các công cụ hình ngục ghê gớm. Những căn phòng ở khu biệt giam không có lớp cửa chấn song bằng gỗ như phòng giam thường, chúng kín mít, bịt bùng sau tường đá, có một cánh cửa dày để lộ một lỗ hình chữ nhật để quan sai đưa cơm hoặc nói chuyện với tù nhân. Người dẫn Ngọc Du và Từ phi đến cẩn thận nhìn qua cái lỗ rồi mới lấy chìa khóa mở cửa. Phòng biệt giam tương đối sạch sẽ, chỉ nồng lên mùi ẩm thấp và mùi đất đá lạnh. Như đã quen với bóng tối, những đôi mắt trong phòng nheo lại, ra vẻ như không nhìn thấy được trong ánh sáng của ngọn đuốc trên tay họ.

Phía trong phòng biệt giam còn có thêm một lớp cửa chấn song bằng gỗ. Những tù nhân không bị gông, chỉ bị xích chân ngồi sau lớp cửa này. Chỉ có quan Lưu trấn thần mới có chìa khóa mở cửa, viên quản ngục nói với Ngọc Du như tạ lỗi. Nàng gật đầu. Nàng cũng chẳng có ý muốn tiếp xúc với những tù nhân, mẹ nàng chỉ nhìn chúng ở khoảng cách này là được.

Những người bị giam đã gầy nhẳng, đen đúa, trên khuôn mặt chỉ nhận rõ đôi mắt trắng dã. Để chuẩn bị cho cuộc hành quyết ngày mai, họ đã được thay bộ quần áo mới sạch sẽ, có thể còn đã được đưa đi tắm rửa. Trước mặt họ là một mâm cơm thịnh soạn dành cho các tử tù trước khi ra pháp trường, nhưng dường như chẳng ai đụng đũa vào.

Đã quen với ánh sáng, vô thức mà ba người nép sát vào nhau, cau mày trước hai vị nữ khách. Hai đứa trẻ qua có mấy ngày mà khuôn mặt như già hơn cả chục tuổi, dài ngoẵng, tóp lại, những nếp nhăn hằn sau mắt chúng. Chúng hoảng sợ. Người thanh niên có vẻ bình tĩnh hơn, chỉ ngồi yên, hướng mắt về phía nàng.

Chậm chạp, Từ phi bước đến gần cái cửa gỗ. Nàng đỡ tay mẹ mà bước theo. Người quản ngục một lần nữa hắng giọng.

- Công nương, đừng tới gần qúa. – Anh ta nói. Và nàng nhận ra một cảm xúc gì đó đã thoáng qua đôi mắt những tù nhân. Công nương, người quản ngục đã gọi, như thể xưng thân phận của nàng và người phụ nữ bên cạnh ra.

- Công nương? Hóa ra là người họ Nguyễn. – Người thanh niên, Phò mã Nguyễn Văn Trị của Tây Sơn, hừ nhẹ. Giọng anh ta, dù mệt mỏi nhưng vẫn tràn ngập cay đắng lẫn thù địch. – Các người nhìn chúng ta chưa đủ à? Sợ ngày mai chúng ta bị giết thì không còn ai để hành hạ à?

- Không, ta chỉ muốn… - Từ phi vội nói, trước khi nàng kịp ngăn lại. Ánh mắt căm hận của Nguyễn Văn Trị hướng về bà như một lưỡi dao.

- Muốn tận hưởng cảm giác vui sướng chứ gì? Muốn xem những kẻ lọt vào tay các người khốn khổ ra sao phải không? – Anh ta hất đầu. Từ phi thở dài.

- Ta cũng có ba đứa con bị chết… - Bà nói, nhưng người tù nhân hung hăng ngắt lời.

- Đáng đời. Những kẻ mang họ Nguyễn Phúc phải bị giết cho bằng hết.

Cái roi trên tay người quản ngục bất thần quất thẳng vào đám tù nhân, để lại một vệt máu đỏ trên má Nguyễn Văn Trị. Nhưng Từ phi đã nghe được lời nói ấy. Cánh tay bà run lên trong tay nàng.

- Mẹ, ta về thôi. – Nàng nói, kéo bà ra ngoài mà không đợi bà đồng ý. Họ đi qua khu biệt giam, qua phòng tra khảo về khu giam giữ cho tù nhân thường rồi ra khỏi nhà lao.

Từ phi vẫn im lặng khi họ đi qua hàng rào thắp sáng đèn đuốc bao quanh nhà lao. Bà vẫn không lên tiếng khi họ đi trên con đường vắng vẻ về Hậu điện. Nhà lao trong Quy thành nằm cạnh cổng dẫn ra đồng Tập Trận, khu vực dành cho quân đội của Sài Côn. Ban đêm, góc thành này im lìm. Sau cơn mưa, chỉ có tiếng nước nhỏ xuống hoặc trôi róc rách trong bóng tối.

Nàng bỗng nhớ đến những hình cụ vẫn còn vệt máu đỏ trong phòng tra khảo. Dường như đã có kẻ gián điệp nào bị đưa vào căn phòng này ngay sau khi đến đây.

- Mẹ thấy không, không cần thương xót chúng làm gì. – Nàng chợt nói, khi họ đã ra khỏi khu nhà lao, đứng đợi người đem xe đến.

Từ phi dường như ngơ ngẩn dõi mắt vào bóng tối chập chờn hình bóng của thành quách, những mái ngói cong cong hắt lên ánh lửa cam vàng qua hàng cây được trồng hai bên đường. Từ đôi mắt già nua của bà, hai dòng lệ chảy xuống. Hai giọt lệ ít ỏi không đủ để chảy xuống cằm, chỉ vương qua gò má bà như những hạt sương.

- Phải, cuối cùng ta cũng biết. – Bà nói, cùng với tiếng thở dài. Giọng nói của người già nghe như tiếng lá khô lạo xạo. Nàng nghe tiếng xe ngựa đang đi về phía họ, chiếc đèn lồng treo trước xe lúc lắc làm ánh sáng chuyển động không ngừng theo tiếng vó ngựa.

Hàng chục năm, mẹ nàng đã đợi. Hàng chục năm, bà đã thất vọng. Hàng chục năm, bà đã nguyện cầu. Hàng chục năm, bà đã đau đớn.

Hàng chục năm, bà vẫn muốn truy tìm một lý lẽ cho sự biến mất của những người con. Biến mất là điều còn gây đau đớn hơn cả cái chết. Biến mất, vào bầu trời, mặt đất và dòng nước phương Nam. Hàng chục năm, bà đã muốn tìm cách nào để lý giải cho nỗi đau của mình.

Nhưng cuối cùng, trong đêm nay, bà đã kết thúc được nó. Hàng chục năm ấy.

Nàng nhìn quầng ánh sáng tròn không ngừng lay động quanh bóng của chiếc xe ngựa đang chạy tới dưới bóng tối của hàng cây. Quầng sáng ngày càng tiến đến gần nàng. Con đường ướt mưa, và ánh sáng loang ra gần như thành màu đỏ tươi rời rợi.

71

Vài ngày sau khi quân Nguyễn ổn định Phú Xuân, một người nông dân đến tìm gặp chúa Nguyễn. Nguyễn Ngọc Huyên ở xã Cư Hóa, ông ta tự xưng danh, là người đang giấu hài cốt của cha vị chúa, Nhị công tử Nguyễn Phúc Luân.

Năm đó chúa công đánh Bình Thuận, thanh thế lớn, Tây Sơn lại đang thua trận ở Vạn Tượng, người người đồn đại rằng các lăng liệt thánh khí tốt nghi ngút, nghiệp đế ở đó. Nguyễn Ngọc Huyên kể. Nguyễn Huệ mới cho người phá lăng mộ liệt thánh. Cả phần mộ của hoàng khảo, Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đến đào vứt xuống sông. Thái trưởng công nương Vân Dương nghe tin liền cho người đến báo cho dân sở tại trong vùng có lăng mộ, nhờ họ lưu giữ. Hạ dân cùng các con cũng lưu tâm canh chừng. Khi Nguyễn Văn Ngũ đến đào mộ hoàng khảo, nhà hắn đột nhiên phát hỏa, hẳn có người bức xúc việc làm vô đạo mà ra tay. Ngũ vội chạy về. Đến đêm, hạ dân cùng hai con Ngọc Hồ, Ngọc Đoài lặn xuống vực mà vớt hài cốt hoàng khảo, đem chôn kín ở một nơi, chờ ngày chúa công trở lại.

Chúa Nguyễn nghe nói, vội cùng với Nguyễn Phúc Thăng, công nương Ngọc Tuyên và các quan đến Cư Hóa, cạnh bờ vực mà Nguyễn Ngọc Huyên cho biết đã chôn hài cốt Nguyễn Phúc Luân. Nấm mộ giả làm mộ người nhà Nguyễn Ngọc Huyên được đào lên, chúa Nguyễn trích máu thử xương. Giọt máu từ tay vị chúa nhỏ lên bộ xương lập tức ngấm vào. Qủa là hài cốt của cha ngài ta.

Vị chúa liền cho người bốc mộ, định ngày để làm lễ cải táng. Ngài ta còn lệnh tìm nền các lăng cũ để xây cao lên. Hương án được bày lại chỉnh tề hơn, đem cỗ quan tốt tới để rước hài cốt cha chúa Nguyễn về cung cúng tế trước khi cải táng.

Trong lúc người được sai làm việc bận rộn lại qua, vị chúa đứng cạnh bên vực nước mà nhìn ra. Nguyễn Ngọc Huyên cùng gia đình đã được ngài ta khen thưởng, cảm tạ. Giờ đây, trong sự chộn rộn của người xung quanh, ngài ta chỉ tư lự nhìn phong cảnh trong vùng núi Thiên An trùng điệp. Khi Nguyễn Phúc Thăng lại gần, ngài ta có vẻ cũng không nhận ra cho đến khi anh ta lên tiếng.

- Chúa công đang nhìn gì vậy? – Nguyễn Phúc Thăng hỏi. Chúa Nguyễn liếc nhìn người Quốc thúc, rồi di chân lên nền đất, hơi cúi xuống.

- Quốc thúc xem, cát ở bờ vực đã bồi hàng chục trượng rồi. Người ta nói “thương hải tang điền”, ruộng dâu hóa biển xanh có lẽ là thế.

Đó không phải là điều ngài đã nghĩ, Nguyễn Phúc Thăng muốn nói. Chúa Nguyễn lại nhìn ra xa, qua những mỏm núi và dòng sông.

- Ngày xưa, khi Thế tử và con cả đều đã mất, Võ vương đã có ý chọn cha ta làm người kế vị, giao cho Nội hữu Trương Văn Hạnh, Lê Cao Kỷ dạy. Sau Trương Phúc Loan ý muốn đoạt ngôi, giết Trương Văn Hạnh, bức tử Lê Cao Kỷ, giam cha ta đến chết. Khi quàn tử cung ở nhà, trong đêm có một nhà sư già đến hỏi “Tìm được nơi chôn cất chưa?”, người nhà ta nói rằng chưa. Nhà sư liền chỉ vào chỗ lõm của núi Cơ Chánh, bảo rằng đó là đất táng, ông ta đã cắm cây sẵn, ngày mai cứ đến tìm. Người nhà ta nghe theo, nên cha ta mới được chôn ở đây.

Đó là chuyện Quốc mẫu kể. – Chúa Nguyễn quay nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của Nguyễn Phúc Thăng, mỉm cười. – Nhưng đó là bí mật trong nhà ta. Trước nay ta vẫn nghĩ Quốc mẫu chỉ bày chuyện nói để khích lệ ta thôi. Ta đối với những thuật phong thủy, địa lý hoàn toàn không có hứng thú, tuy vẫn phải tuân theo. Bao nhiêu thầy phù thủy, địa lý có làm cho Tây Sơn không bại vong hay nhà ta không gặp kiếp nạn đâu. Nhà sư già nọ chỉ nơi này làm mộ cho cha ta, không lẽ đã định trước rằng sẽ có người đến phá – rồi lại có người cứu trợ cho?

Trong cả gia tộc, chỉ có hài cốt cha ta còn nguyên vẹn, qủa cũng là một kỳ tích rồi.

- Trong cả gia tộc… - Nguyễn Phúc Thăng thở dài, nhìn theo ánh mắt vị chúa đến đỉnh núi phía xa. – Lăng tẩm còn có thể xây lại, nhưng hài cốt liệt thánh thì đã nằm sâu dưới đáy nước cả. Đời đời kiếp kiếp, oanh oanh liệt liệt, tạo nên cả cơ đồ này, sao phải chịu một số phận như thế?

- Khi đã sa cơ thất thế thì cả người sống cũng không bảo vệ được, huống hồ là người chết. – Chúa Nguyễn buột ra một tiếng cười khô khan. Tay ngài ta khoanh trước ngực. Ngài ta nhìn Nguyễn Phúc Thăng, nheo mắt. – Quốc thúc đã tìm được bạn cũ ở Phú Xuân chưa?

- Rồi. – Phúc Thăng hơi cúi đầu nhìn dòng nước dưới chân. – Bây giờ thì không ai nợ ai nữa.

Họ nghe tiếng xôn xao của con người trên bờ trong thanh âm của dòng nước trôi chảy giữa núi rừng. Giữa núi rừng, tiếng động vang qua các vách đá, cành cây như quẩn quanh mãi không tan biến.

Chúa Nguyễn đưa tay tháo thanh kiếm bên hông. Ngài ta vốn có hai thanh kiếm, một thanh lưỡi rèn bằng thép của Tây dương, do người Tây dương chế tác tặng cho vị chúa; còn lại là thanh kiếm truyền đời mà Võ vương để lại cho Nguyễn Phúc Luân. Thanh kiếm dùng để chém loạn thần tặc tử. Tương truyền, trước ngày thấy máu, kiếm sẽ tự chuồi khỏi bao. Thấy vị chúa đem theo thanh kiếm này hôm nay, Nguyễn Phúc Thăng đã khẽ giật mình.

- Nó lại chuồi khỏi bao rồi. – Như nhận ra được thái độ của vị Quốc thúc, vị chúa chậm rãi nói. – Nó ngửi thấy mùi máu. Thanh kiếm này vốn rất nhạy mà.

- Kiếm nằm trong tay người. – Nguyễn Phúc Thăng trấn tĩnh, lắc đầu. – Dù kiếm có sát khí thế nào, cũng chỉ có người mới áp chế được nó.

- Hay nói cách khác, sát khí của kiếm là do người ảnh hưởng mà ra. – Vị chúa mỉm cười. – Thời bây giờ, kiếm chỉ là công cụ trang sức cho chúng ta. Quân thì dùng súng, giáo, đao, dao, câu liêm. Người thì dùng dao, giáo dài phòng vệ cho mình. Những vật thế này vốn không có nhiều tác dụng. Ta chỉ dùng nó để chém đầu kẻ địch cho long trọng. Ngay cả thanh Thái A kia, dù tương truyền là kiếm qúy đệ nhất thiên hạ, Tần Thủy Hoàng cũng chỉ dùng nó cắm xuống đất làm thứ trấn sơn chi bảo mà thôi.

Có sự tích trong Liệt Dị truyện của Tào Phi: Can Tương luyện được hai thanh kiếm qúy, tên là Can Tương và Mạc Gia. Can Tương giấu kiếm không cho vua Sở biết, rồi dặn vợ đang mang thai rằng: Nếu việc bại lộ, vua chém đầu tôi, mình sinh con trai thì hãy đến phía Bắc Nam Sơn, phía Đông Bắc Sơn tìm kiếm báo thù. Sau này, con trai của Can Tương là Xích Tỵ chặt hết tùng bách của hai núi ấy đi tìm kiếm mà không thấy, lại phát hiện ra kiếm dưới nền nhà. Vua Sở nghe rằng có người muốn trả thù liền sai lính đi lùng bắt. Xích Tỵ trốn vào núi Chu Hưng, tìm được người muốn giúp mình. Xích Tỵ liền lấy thanh Mạc Gia tự cắt đầu mình, giao cho người bạn để nộp cho vua Sở. Vua Sở đem ném cái đầu vào vạc dầu, nhưng nấu ba ngày đêm vẫn không chìm. Thấy lạ, vua đến vạc dầu xem xét, liền bị người bạn Xích Tỵ cho một kiếm chém bay đầu, ném vào vạc. Rồi anh ta cũng tự chém đầu mình, đầu rơi vào chung chỗ với hai cái đầu trước. Rồi ba cái đầu đều chìm, không phân biệt được ai với ai nữa. Người ta liền chôn chung ba cái đầu một nơi, gọi là mộ ba vua.

Có tích cho rằng thanh Thái A với Mạc Gia cũng chỉ là một thôi. Long Tuyền – Thái A, Can Tương – Mạc Gia, những cặp kiếm trống mái này rất giống nhau.

Kiếm có qúy đến mức nào, cũng không thể giết địch. – Giơ thanh kiếm về trước, nghiêng đầu như ngắm nghía nó, chúa Nguyễn thở ra. – Dù có là Thái A hay Mạc Gia, dù có là Trạm Lư hay Ngư Trường, Tụ Lý, kẻ dùng nó đều phải đổi mạng mới giết được địch nhân, thậm chí như Kinh Kha chưa chạm được vào vua Tần đã chết. Chẳng qua chỉ là thứ để phô bày chút sở trường cá nhân, múa may cho đẹp mắt, đeo bên hông cho oai vệ.

Chỉ là thứ như vậy mà lại hiếu sát đến thế, có xứng đáng không?

Nguyễn Phúc Thăng im lặng. Anh ta có cảm giác mình không nắm được ý nghĩ của vị chúa. Ngài ta đang nghĩ chuyện gì, anh ta cũng không hiểu nổi. Vị chúa hạ tay cầm kiếm, và trong khoảnh khắc, Nguyễn Phúc Thăng đã giật mình như sợ ngài ta ném thanh kiếm xuống vực nước. Nhưng ngài ta chỉ đeo thanh kiếm lại bên hông, quay nhìn đám đông vẫn bận rộn. Đã gần trưa, nắng sau đợt mưa dài oi ả đổ xuống vùng đất, mùi khô hạn thành khen khét trong không khí, trộn lẫn với mùi đất mới được đào và tử khí của mộ phần. Tất cả khiến ngài ta quay đi, nhìn về phía xa. Mây đang dồn lên cuối chân trời xanh ngắt.

- Lần cuối ta dùng thanh kiếm này là ở Long Xuyên. – Chúa Nguyễn lên tiếng. – Khi ấy quan quân đã mất gần hết, mấy đứa em trong nhà cũng chết, ta bắt được một tướng giặc tên là Quán Nguyệt, liền dùng kiếm này giết hắn. Nhưng chuyện đó lại đánh động Tây tặc, chúng liền đến bao vây, ta phải chạy sang Thổ Châu.

Cái thứ vô dụng này chẳng được việc gì cả. – Ngón tay vị chúa gõ nhẹ lên bao kiếm khi ngài ta nói. – Từ ngày ấy, ta biết rằng mình cần thứ có thể địch lại vạn người, chứ không phải dùng để trả thù vụn vặt một hai kẻ. Nếu sa cơ thất thế, đến bản thân còn chẳng giữ nổi, huống hồ người xung quanh. Nếu yếu đuối vô lực, ngay cả người sống còn không bảo vệ được, huống hồ là người chết. Mà để có thể bảo vệ họ, thì ta phải mạnh. Ta phải mạnh hơn bất cứ ai.

Ngày xưa, ta đã từng nghĩ giản đơn rằng mình có thể bảo vệ người khác chỉ bằng lòng nhiệt thành, bằng danh nghĩa, bằng những gì ta có thể đem đến cho họ. Nhưng không phải. Nếu không có sức mạnh, ngay cả bản thân ta còn không giữ được. Bao nhiêu thù oán, đau đớn, bất mãn cũng sẽ chỉ là thứ vô nghĩa lý nếu ta muôn đời không cất được lời lên. Những kẻ mà ta muốn bảo vệ càng nhiều, ta càng phải mạnh, càng phải nắm được nhiều quyền lực. Ta phải nắm được quyền lực cao nhất, để có thể làm được điều ta muốn.

Ta phải đạt được đến vị trí cao nhất có thể. Vị trí tối cao. Võ Trường Toản đã nói với ta, ngay ngày đầu tiên gặp nhau, về Vương đạo và Bá đạo – cũng chỉ là thế. Làm Vương hay làm Bá, ta cũng phải nắm được vị trí tối cao, rồi mới có thể nói đến chuyện khác.

- Tối cao? – Nguyễn Phúc Thăng nhướng mày. Tay anh ta cũng đã khoanh vào trong áo. Nhưng lần này anh ta có thể hiểu vị chúa đang muốn nói gì. Chuyện mà các vị quan đã bàn bạc mấy ngày nay, cùng với những sự phân bổ quân tướng, thậm chí trước nữa, khi còn ở Gia Định. Câu chuyện đã âm thầm được bàn luận mấy năm nay.

Chúa Nguyễn không trả lời. Ngài ta đi về phía đầu nguồn nước, nơi mà hương án đang được lập gần xong. Vân Dương công nương gọi ngài ta bàn bạc về lễ tế. Nguyễn Phúc Thăng nhìn xuống vực nước thăm thẳm xanh. Qủa thật, cát đã bồi lấp vào trong hàng trượng, cả một đoạn dài.

Anh ta nghĩ đến những người mình đã gặp vài hôm trước. Chúng ta đã không ai nợ ai. Câu nói ấy có một sự thật khó mà chối bỏ, không thể thay đổi. Một đoạn đời đã trôi qua, đã được cắt lìa. Sức mạnh. Đó là thứ sức mạnh để trở lại và quyết định lấy cuộc đời mình. Không có sức mạnh, chẳng có gì được hoàn thành.

Qủa thật, cát đã bồi lấp cả đoạn sông dài.

Và anh ta nghĩ đến cuộc nói chuyện đã nghe được vài hôm trước. Bắc Hà, anh ta đã nghe tiếng nói trong hành lang, tiếng của Đặng Đức Siêu cùng những viên quan khác từ Gia Định đến như Phan Văn Triệu, Tống Phúc Chu. Họ đang nói về việc Đặng Trần Thường dâng biểu ngăn chúa Nguyễn thu nhận bọn văn quan Tây Sơn như Lê Văn Lợi, Hồ Văn Diệu. Chúng là bọn không có tư cách, nhờ theo Tây Sơn mà được giàu sang, – Viên Tham tán họ Đặng đã nói – Những người trung nghĩa Bắc Hà phải khuất thân chịu bọn ấy sai khiến, vốn đã bất mãn, mong chờ vương sư đến để đổi lối cũ. Nếu chúa công sợ rằng không thu nhận chúng thì người khác ngờ không dám tới, thì tha cho chúng, nhưng không nên cho giữ binh quyền.

Tờ sớ của Đặng Trần Thường không phải là không có lý. Tuy nhiên, có một câu trong đó lọt ra ngoài khiến người ta không ngờ vực cũng phải cau mày. “Mong chờ vương sư đến để đổi lối cũ”, thế nghĩa là gì? Tống Phúc Chu hỏi. Lối cũ của Bắc Hà là nhà Lê, nhà Trịnh, hay là trật tự cũ? Bắc Hà từ lâu đi vào suy thoái, Trịnh đã không vực dậy nổi, Tây Sơn càng làm mọi thứ rối loạn hơn. Bây giờ, ngoài biên ải phía Bắc có bọn Tàu Ô cướp bóc, ngoài biển bị đám hải tặc Tề Ngôi ngăn đường, các trung tâm kinh tế như Phố Hiến, Vân Đồn, Cao Bằng, Lạng Sơn đã bị Tây Sơn lẫn quân Thanh tàn phá sạch sanh. Từ lần đuổi giết vua Lê Chiêu Thống rồi cuộc chiến năm ấy với quân Thanh, Tây Sơn đã cho đốt tất cả thị thành, làng mạc để thực thi kế “vườn không nhà trống”, rồi cũng chẳng làm gì để phục hồi. Bắc Hà chỉ còn là cái vỏ rỗng. Đã vậy, chưa gì Đặng Trần Thường đã đưa cảnh báo trước. Lối cũ, hay ta phải đón cả vua Lê về lập lên ngôi?

Chúng ta vẫn để niên hiệu Cảnh Hưng. Phan Văn Triệu thận trọng nói. Nhà Lê vẫn là vua của Bắc Hà, chúng ta vẫn là chư hầu của nhà Lê. Nếu người ta hỏi, ta không tránh khỏi mang tiếng cướp ngai vàng.

Không, nhà Lê chỉ là vua của Bắc Hà. Đặng Đức Siêu lên tiếng. Nghe tiếng lạch cạch rất khẽ như ông ta đang đùa nghịch với chiếc quạt trong tay. Năm nào vua Lê bàn việc chia đôi đất nước với Tây Sơn, để Nguyễn Nhạc xưng Thái Đức đế, vốn là đã cắt đứt hoàn toàn liên hệ với miền Nam Hà này. Rồi Huệ đuổi nhà Lê chiếm Bắc Hà, vùng đất ấy đã thành của Tây Sơn rồi. Ta lấy lại được đất cũ của mình vốn không liên quan đến nhà Lê. Nay ta ra Bắc Hà thì cũng là lấy của Tây Sơn chứ nào lấy của Lê.

Vua Lê tận tay dâng Nam Hà cho Tây Sơn, cũng đã là cắt đứt liên hệ với chúng ta rồi. Chúng ta có dùng niên hiệu nhà Lê thì cũng là niên hiệu cũ dùng chung cho Đại Việt. Vua Lê tự mình làm mất nước, để quân thần dân chúng đi cầu cứu chúng ta giải vây ách tàn bạo của Tây Sơn. Đây là người Bắc Hà nhờ ta chứ không phải nhà Lê nhờ ta. Chúng ta chẳng cần phải dựa vào danh nghĩa phù Lê để đến Bắc Hà, cứ giương cao cờ “Thảo phạt bạo Tần” mà đi. Dù có là thiên tử, đấng quân vương Thang – Võ cũng có thể phạt Trụ, huống hồ trừng phạt kẻ tiếm ngôi?

A, tiếng nói kéo dài trong cổ Tống Phúc Chu nửa ngạc nhiên nửa tán thưởng. Bọn họ đi qua nơi Nguyễn Phúc Thăng đứng, tiếng xa dần rồi không nghe rõ. Nhưng cũng đủ để anh ta biết họ đang nói đến chuyện gì.

Họ đang nghĩ đến việc phải ra Bắc Hà với danh nghĩa nào, kêu gọi những ai. Cùng với việc Quang Toản chạy ra Thăng Long, Nguyễn Văn Trương đưa quân đến sông Gianh, Vạn Tượng đánh Nghệ An, chiến trường của họ chuẩn bị tiến về phương Bắc. Đại quân đang đóng tại Bình Định, họ phải dựa vào số quân mới chiêu tập và các tướng có địa vị thấp hơn để đến Bắc Hà. Ngày nào Bình Định chưa yên ổn, họ còn chưa thể tiến về phương Bắc. Tuy nhiên, họ đã phải nghĩ đến một danh nghĩa để kêu gọi cuộc chiến tranh từ lúc này.

Giờ đây, bên bờ vực, Nguyễn Phúc Thăng nghĩ đến câu chuyện ấy và điều vị chúa vừa nói. Địa vị tối cao. Trong đất nước này, không địa vị nào cao hơn Hoàng đế. Trong đất nước manh mún, phân tán và đã có hàng trăm năm phân tranh của hai họ Trịnh – Nguyễn, chỉ có địa vị của Hoàng đế là kẻ duy nhất mà người người phải tôn trọng.

Ngài ta sẽ không để kẻ thù của mình có cơ may trỗi dậy, ngài ta sẽ không để sự phân chia này tiếp tục diễn ra để làm hại mình. Hàng trăm năm phân tranh, thế là qúa đủ. Ngài ta đã hướng đến mục tiêu cao nhất. Đặng Đức Siêu, vị mưu sĩ dưới trướng ngài ta, đã bắt đầu thảo ra một cuộc chinh phạt. Một cuộc chinh phạt không mang danh nghĩa vua Lê, không vì bất cứ ai - ngoại trừ họ Nguyễn, không nhắm vào bất cứ ai - ngoại trừ Tây Sơn. Một chiến lược khôn ngoan khi đặt tất cả mâu thuẫn, tranh giành của lịch sử sang bên. Chỉ có sự việc hôm nay, món nợ hôm nay. Ta lấy của Tây Sơn chứ lấy gì của Lê – câu nói thản nhiên gạch bỏ toàn bộ mối liên hệ với qúa khứ. Và sớm, rất sớm thôi, lá cờ “Thảo phạt bạo Tần” sẽ được giương lên. Chúa Nguyễn điềm nhiên đòi món nợ của mình.

Điềm nhiên, đó là cách mà ngài ta đã đối đãi với những viên tướng mình bắt được, ngay cả khi họ không chịu hàng phục. Ngài ta cũng chẳng cần che giấu điều mình định làm với họ, với hoàng tộc Tây Sơn. Buổi sáng hôm đó, khi Nguyễn Văn Trị cùng hai đứa trẻ khác được đưa xuống thuyền để đem về Gia Định, ngài ta cũng có mặt. Trong cũi, Nguyễn Văn Trị gào thét, nguyền rủa ngay khi có mặt ngài ta. Vị chúa, đứng bên bờ sông, bên những chiếc cũi, chỉ cười.

- Ta trả thù là sai sao, hả? – Vị chúa nhướng mày khi Nguyễn Văn Trị hết hơi để mắng chửi. Ngài ta nhìn thẳng vào mắt người thanh niên này mà nói. – Ta trả thù, có sai không?

Kẻ là Phò mã Tây Sơn im lặng trước câu hỏi. Anh ta im lặng trong một quãng thời gian dài. Vị chúa đưa mắt nhìn quanh, mặt trời đang lên và những đồng lúa rì rào.

- Ít ra, ta giết các ngươi vì trả thù. Các ngươi lúc đuổi tận giết tuyệt chúng ta thì có lý do gì, hả? Các ngươi đòi “Gia Định là mồ chôn họ Nguyễn” thì có lý do gì, hả? Trách ta tàn nhẫn? Nhưng các người khi giết chúng ta thì nhân từ lắm à? – Ngài ta tiếp tục hỏi, với nụ cười miên viễn, lặng lẽ như dòng sông. Những kẻ xung quanh ngài ta, trước ngài ta, tiếp tục im lặng.

Với một cái vẫy tay, vị chúa cho đưa những tù nhân đi. Với sự điềm nhiên, ngài ta xác lập tính chính thống cho cuộc báo phục của mình.

Nắng vẫn chói chang, người vẫn xôn xao. Nguyễn Phúc Thăng nhìn qua bên kia bờ vực. Cát cũng đã bồi lấp trắng xóa phía bên ấy. Trong nắng, màu sắc này khiến cho khoảng trống trên bờ vực như thu hẹp lại.

Đó chỉ là một ảo tượng. Đặng Trần Thường lại một lần nữa gây nghi ngại vì đã nói những điều không cần phải nói. Bắc Hà, vùng đất xa lạ với họ, nơi họ đã ra đi và không nghĩ đến lúc trở lại. Bắc Hà, vùng đất đã trở thành khác biệt với họ. Khác biệt, từ phong tục đến cung cách, lối nghĩ, lối nhìn. Khác biệt, như không thể dung hòa. Tây Sơn là một bằng chứng. Kẻ đi trước là một minh chứng.

Vị chúa cất tiếng gọi Nguyễn Phúc Thăng. Đã đến lúc làm lễ. Anh ta vội vàng đến sau ngài ta. Anh ta nhìn bàn tay vị chúa cầm lấy bó nhang được đưa tới. Và thầm nghĩ, thật ra ngài ta lại chẳng hề tin việc mình đang làm.

Khi ngài ta qùy xuống, thanh kiếm bên hông chạm vào đất một tiếng khô khan. Nguyễn Phúc Thăng đưa mắt nhìn. Không hiểu sao, anh ta rùng mình.

Đêm thanh kiếm chuồi ra khỏi vỏ, ở Bình Định lại xảy ra chuyện. Thêm một đợt công thành, và lần này, Tây Sơn đem đám tù binh bắt được khi quân Nguyễn phá lũy ra giết trước thành.

Nếu các ngươi cứ cố chống lại, kết qủa sẽ là như thế này. Họ nghe tiếng nói vọng lên, và thấy những cái đầu rơi xuống. Những cái đầu rơi xuống, rồi bị đàn voi đạp qua, đoàn người tràn lên che lấp. Biết được rằng thành Bình Định đã cạn kiệt lương thực, quân Tây Sơn không còn cố gắng chiêu hàng nữa, mà là tàn sát.

Hậu qủa mà quân Nguyễn đã phải chịu khi chiêu hàng đám tù nhân bị bắt buộc ở lại trong thành đã có ngay trước mắt. Tây Sơn bây giờ đang bị dồn vào đường cùng, hẳn nhiên không thể đánh cuộc với những tù nhân như vậy.

Đạn pháo nã suốt đêm vào thành, kéo dài đến cả ngày hôm sau. Không còn đường thoát hay lùi, quân giữ thành chỉ cố chống đỡ, chống đỡ. Khi quân Tây Sơn lui đi, chuẩn bị cho đợt tấn công mới, trên thành, một thanh niên qụy xuống và bật khóc. Người khác, điên cuồng vì sợ hãi và thống khổ, buông mình rơi xuống tường thành cao hàng chục trượng. Anh ta rơi như chiếc lá, không một thanh âm.

Những người khác ngơ ngẩn đứng nhìn. Họ ngơ ngẩn nghe tiếng khóc ngàn ngạt, hết hơi, khàn đắng. Người thanh niên ấy đã không còn biết thế nào là thể diện và hùng tâm. Anh ta bật khóc, khi thấy cái chết hiển hiện ngay trước mắt, sau những chống chọi vô vọng và sức lực tiêu tán dần, sau những cái chết kéo dài trong năm tháng này. Họ đã cố chống chọi, đã cố nắm giữ sự sống này, trong khổ cực và thiếu thốn, trong đau đớn và kinh hoàng, trong sợ hãi và hoang mang. Để rồi, cái chết hiển hiện ngay trước mắt.

Những người khác ngơ ngẩn nhìn, vì họ chẳng còn nước mắt nữa để mà khóc.

- Hết cách rồi, chúng ta phải dồn toàn lực trong thành đánh ra thôi. Chúng sẽ giết toàn bộ chúng ta, thế thì sống được ai thì sống. – Võ Văn Lượng lặng lẽ nói, khi tiếng khóc vẫn còn thoi thóp trong bóng chiều tà. – Chúng ta không thể bó tay chịu trói rồi để chúng giết hết tất cả được. Vừa rồi ta đánh ra, thấy rằng lũy có thể dùng bộc phá, hỏa công phá được. Dồn về đó, ai may mắn thì có thể sống. Nếu đường nào cũng chết, thì chết sao cho oanh liệt.

Ngô Tùng Châu gật đầu. Những viên tướng khác im lặng. Họ vẫn còn mặc nguyên áo chiến lấm đầy khói bụi, những vết đen trên mặt không ai buồn lau đi.

- Các anh thấy trong quân ai bơi lội giỏi thì tập hợp lại. – Cuối cùng, Võ Tánh nói. Những viên tướng khác nhìn chàng ngạc nhiên, nhưng chàng chỉ xua tay bảo họ mau mau tản về quân làm việc. Đến lúc xong bữa tối thì các anh phải tập trung được họ.

Đêm nay, chàng sẽ cho quân lính trốn đi qua đường nước dưới chân thành.

Xong bữa tối, qủa thật các tướng đã dẫn một nhóm lính đến bờ sông cạnh tường thành. Võ Tánh cũng không định giữ bí mật thêm nữa. Với lệnh giết tất cả quân Nguyễn từ phía bên kia, chàng không còn sợ bất cứ ai chạy về phía Tây Sơn. Đèn đuốc thắp sáng thành, và quân lính không biết bơi cũng tụ họp. Chàng nhìn quanh. Số người biết bơi rất ít. Trong vùng rừng núi Quy Nhơn, Phú Yên, đây qủa là việc không lạ.

Chàng nói với họ, về cách dùng con đường này thoát ra ngoài. Ta sẽ mở cổng nước lên, do đó không phải lặn xuống qúa sâu mới ra được. Nhưng từ đây đến ngoài lũy đất cách một quãng khá xa, phải dùng toàn lực mà lặn xuống, không thể đem theo người khác cùng đi. Ai muốn thoát thân, phải đi ngay bây giờ.

Chàng nói và nhìn những người lính. Sự ngỡ ngàng của họ, nét bừng sáng của sự sống trên khuôn mặt vài người, sự hoang mang của vài người khác. Có những người lính quay nhìn lại bè bạn, những người không biết bơi đang đứng xung quanh.

- Vì sự an toàn để người khác còn có thể thoát ra, ta yêu cầu không ai liều mạng đem theo bạn. – Võ Tánh nghiêm giọng. – Dù có đồ giữ khí, những người không biết lặn sẽ không thể giữ hơi cho đến khi ra ngoài phạm vi lũy. Đánh động Tây Sơn để chúng phát hiện ra con đường này, nguy hiểm vô cùng.

- Nhưng sao chúng tôi có thể bỏ đi một mình được? – Một người lính cất tiếng hỏi. Rõ ràng, anh ta còn những người bạn phải ở trong thành.

Chàng phác tay.

- Ai muốn thoát thì thoát. Ai muốn ở lại thì ta cũng không thể đẩy xuống nước. – Chàng nói, và bảo Nguyễn Tấn Huyên sắp xếp quân để từng người một lặn đi. Một nhóm nhỏ được xếp thành hàng dọc, đưa cho ống tre để giữ khí. Những người khác có vẻ còn chần chừ, đang nán lại nói chuyện với bạn. Có những cái đẩy vai, lắc đầu để người nắm được cơ hội ra đi. Có những sự ngậm ngùi, và cả những khuôn mặt chấp nhận. Họ lại dúi vào tay nhau những vật làm tin, nhắn nhủ cho nhau lời chuyển về cho thân nhân. Có thêm vài người xếp vào hàng. Nước mắt long lanh trong mắt họ.

Để Nguyễn Tấn Huyên và vài viên Vệ úy ở lại điều phối, Võ Tánh trở vào thành. Ngô Văn Sở đi theo chàng. Vẫn chưa vào đêm, trăng chưa lên khỏi đầu thành. Ngoài đám lính được tập trung tại cổng nước, những nhóm canh gác khác vẫn đứng yên tại chỗ. Tây Sơn sẽ lại tấn công, không biết là lúc nào.

- Anh biết bơi mà, phải không? – Võ Tánh chợt lên tiếng. – Khi họ đi rồi thì anh cũng theo họ đi.

Ngô Văn Sở nhìn chàng. Anh ta không hỏi chàng tại sao lại mặc định rằng anh ta biết bơi, cũng không nói về mệnh lệnh của chàng. Phải, mệnh lệnh, khi chàng nói bằng giọng không để cho người khác có cơ hội tranh cãi. Bây giờ, con đường nào thì họ cũng chết, chàng không muốn phí hoài sinh mạng không đáng.

- Những người còn lại thì sao, Tham thặng? – Sau cùng, anh ta hỏi. – Cho thêm một nhóm lính nữa đi, càng không có cơ hội đánh ra.

Dù anh có hàng bây giờ, cũng đã qúa trễ. – Như đoán được ý nghĩ của chàng, Ngô Văn Sở nói. – Tây Sơn có nhận một đám hàng binh không thuận tòng như thế này không? Thời điểm bây giờ đối với chúng qúa nguy hiểm. Chúng sẽ giết hết hàng binh. Năm nào cả vạn người ở Chợ Quán, chúng cũng giết được, huống hồ là đám lính bệnh tật này.

Bây giờ, nếu ta dồn hỏa lực lại, cũng có thể thoát ra. Lần trước vì còn giữ thành nên ta không dồn hết sức. Bỏ thành liều mạng với chúng một phen, may ra còn đường thoát. Nghe nói năm nào ở Diên Khánh anh cũng chạy ra đốt đồn địch như vậy, phải không?

Chàng im lặng.

- Ta sẽ nghĩ cách. – Chàng nói, một lúc sau. – Bây giờ thì để người biết lặn sơ tán đi đã, lực lượng còn lại bao nhiêu thì ta sẽ tính tiếp.

Không phải tất cả bọn họ đều đi. – Chàng quay nhìn đám lửa ở cạnh cổng nước, buột miệng. Có nhiều lính biết lặn vẫn còn định ở lại. Ngô Văn Sở nhìn theo ánh mắt chàng, khẽ cười.

- Anh phải khuyên họ thôi, Tham thặng. Ở lại cùng chết là một trò vô nghĩa lý. Những thứ như lý tưởng, đạo lý chỉ là trò con người bày đặt ra. Cái gì gọi là lý tưởng? Chẳng phải những kẻ thống trị muốn hướng kẻ khác vào việc làm lợi cho mình mà đặt ra nào là trung thành, nào là cao qúy với chẳng đáng kính? Đó chẳng qua là những kẻ muốn trục lợi từ người khác đi tung hô những gì có lợi cho mình. Còn những kẻ bị lợi dụng thì nhắm mắt lao theo, đến chết vẫn còn si ngốc.

Những câu như “Trung thần không thờ hai vua, liệt nữ không thờ hai chồng” chẳng qua chỉ là trò chơi chữ của bọn đi học. Tất nhiên thờ hai vua thì không gọi là trung, tất nhiên có hai chồng thì không gọi là liệt, nhưng thế thì đã sao? Không là trung thần, không là liệt nữ thì đã sao? Đó chỉ là trò chơi chữ được biến thành chân lý, chẳng qua cũng chỉ vì người ta qúa háo danh mà ra. Họ cứ thích buộc những chữ ấy vào bản thân mà ra.

Nói là cao qúy gì, chẳng qua chỉ là ham mê chút danh nghĩa phù phiếm, tự cho mình cao hơn thiên hạ thôi. Rồi những kẻ lợi dụng lại đem danh xưng phong cho, lại đi ca ngợi những hành động đem lợi cho mình. Hóa thành một đám si cuồng mà ai cũng tưởng thế là thật cả.

- Anh nên đi khuyên họ, Ngô Thống chế. – Chàng nhẹ nhàng nói, nghiêm trang. – Phải, chết thế này thì rất vô nghĩa.

Ngô Văn Sở nhướng mày trước giọng nói của chàng. Rồi anh ta nhún vai, quay về phía cổng nước, nơi các toán quân đang tụ tập cùng nhau. Chàng tiếp tục đi vào thành.

Chàng đi qua những khu điện đài đổ nát, những khoảng đất trống nồng nặc mùi xú uế, những bức tường trơ trọi nghiêng ngả gá vào nhau, đám xương voi ngựa bị thải ra, ném vào góc thành. Khu thành đã đến lúc sức cùng lực kiệt. Chàng cũng không nghĩ về nó nữa. Tất cả những gì chàng bận tâm bây giờ là người trong thành.

Làm sao chàng có thể nói với họ linh cảm của mình về tình hình chiến trận hiện giờ? Quân Nguyễn đã bao vây tứ phía Bình Định, và tình trạng mà chàng đã trải qua sẽ tiếp tục lặp lại với đoàn quân của Trần Quang Diệu. Đây là phương cách tối ưu nhất, khi họ không phải cố đánh, cũng chẳng cần phải hy sinh quân lính để đối đầu với đại quân Tây Sơn. Sẽ ít người chết hơn hẳn – so với nếu họ cứ cố sức đánh. Nếu đánh vào lũy đất này, một trận quyết chiến đẫm máu sẽ xảy ra. Máu sẽ lại nhuộm đỏ thành Bình Định.

Bao vây và tiêu hao quân địch là một phương cách khôn ngoan hơn. Dù cho có nghĩa rằng thành Bình Định sẽ phải hy sinh.

Anh phải chọn lựa, luôn luôn phải chọn lựa. Chàng nhớ đến lời Ngô Văn Sở, và biết rằng cho đến thời khắc này, chàng vẫn đang tiếp tục chọn lựa. Chàng tiếp tục đặt chính mình và họ xuống dưới sự quan trọng mà chàng cảm thấy cần phải làm. Nhưng chàng có hy sinh họ?

Thành Bình Định phải hy sinh. Nhưng còn con người trong nó? Chàng sẽ lựa chọn kết thúc nào cho bọn họ?

Khi đi qua đài Bát Giác, chàng chợt nghe tiếng nói khe khẽ vọng xuống trên đài. Giọng Ngô Tùng Châu. Đài Bát Giác là nơi quan sát rõ nhất toàn bộ khu thành và cảnh vật xung quanh. Những quan tướng vẫn thường lên đài, kể cả Ngô Tùng Châu lúc này.

Trong sự lặng im của khu thành, chàng lắng tai nghe. Ngô Tùng Châu đang ngâm một bài phú. Chàng nghe đoạn được đoạn mất trong bóng tối.

Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà tàn héo;
Hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời.
Cho hay vực thẳm nên cồn;
Khá biết gò cao hoá bể.“

Nhấp nháy ngọn đèn trong kiếng;
Lênh đênh bóng nguyệt dòng sông.
Đường Ngu ấp tổn rượu ba chung, dường say dường tỉnh;
Thang Võ chinh tru cờ một cuộc, thoạt đặng thoạt thua.
Của có không nào khác đóm mây;
Người tan hiệp dường như bọt nước.”

Lao xao cõi trần ai, trường hoan lạc gẫm không mấy lúc;
Thắm thiết cơn mộng ảo, đoạn biệt ly há dễ bao lâu.
Nghìn năm hồn phách Hán anh hùng, hồn phách mất người kia cũng mất;
Muôn dặm nước non Đường thế võ, nước non còn đời ấy đâu còn.”

Luỵ rơi non Lịch, Đại Thuấn từng dời tính hai thân;
Sương lọt áo bô, Tử Khiên lại trọn niềm một thảo.
Tôn khóc măng, Tường nằm giá, nằn nằn lo giữ đạo con;
Tích dấu quít, Cự chôn con, nắm nắm đua đền nghĩa mẹ.
Trước đền Trụ mổ gan một tấm, muôn kiếp còn danh để tạc bia;
Dưới thành Ngô treo mắt đôi tròng, nghìn năm hãy người đều nhởm gáy.
Tám trăm dặm xông pha ải Bắc, thương họ Hàn chói lói lòng dân;
Mười chín năm giữ một niềm Tây, cảm ông Võ phơ phơ đầu bạc.
Cật Võ Mục nhuộm thanh bốn chữ, tấm trung thành đã thấu trời xanh;
Áo Thiên Tường ghi đượm hai câu, phương tựu nghĩa chi phai lòng đỏ.
Trời món đất già danh hỡi rạng, luỵ non Ngưu nghĩ cũng sụt sùi;
Biển khô đá rã tiết nào phai, sử họ Mã chép còn tỏ rõ.”

Bài phú này với chàng qủa thật quen quen. Nghĩ mãi một lúc, chàng mới nhớ ra rằng đây là tác phẩm cuối cùng của Võ Trường Toản – thầy của Ngô Tùng Châu bọn họ. Chàng đã nghe Trịnh Hoài Đức đọc nó trong đám tang của xử sỹ họ Võ, cách đây gần mười năm. Trái ngược với giọng đọc buồn thảm của Trịnh Hoài Đức ngày ấy, Ngô Tùng Châu ngâm từng từ với sự chắc chắn, cứng cỏi và từng trải của một người đã đi qua muôn vàn đau đớn. Những nỗi buồn trong câu chữ của bài phú trở thành điều đương nhiên, chắc chắn trong cuộc đời, lắng lại như hòn đá chìm xuống đáy nước. Những chia ly, thất bại, thống khổ và cái chết trở thành đương nhiên trong sự sống.

Khi đã sống đến một lúc nào đó, con người sẽ không còn đau đớn về những điều đó nữa.

Đã gần mười năm. Và chàng nhớ về đêm ấy, bây giờ. Gió đã rì rào trong những tán cây, xung quanh họ. Cũng ở trong một đêm như thế này, mùa hạ. Cũng nỗi sợ hãi bao vây họ, trong toàn Gia Định căng mình đón chờ cuộc tấn công giáng xuống. Và bài thơ của Võ Trường Toản đã làm những con người sợ hãi có thể đứng dậy, thành điểm tựa cho những học trò ông.

Chàng cũng nhớ những chuyến đi cùng vị chúa đến nơi người xử sỹ dạy học. Họ đã đi trên dòng sông lấp lánh nắng với những cụm bèo trôi rải rác. Họ đã đi qua Sài Côn hoang tàn sau trận chiến để đến hỏi người xử sỹ cách thức để vực dậy vùng đất ấy, quốc gia này. Chàng nhớ đến cả ngón tay đã chạm xuống mặt nước, vẽ thành một vòng cong bởi cánh bèo xanh nhỏ bé.

Ông đã ở đó, người thầy ấy, trong suốt những năm tháng này và sau đó. Người học trò của ông đang ở trên đài Bát Giác, tìm cho mình dũng khí để tiếp tục con đường mà họ đã đi. Ông vẫn sống, qua những người học trò của mình. Môn sinh cao đệ nhất của ngôi trường Võ Trường Toản, hoàn toàn bình thản đón đợi kết cục của mình, đau đớn, thống khổ và cái chết.

Chàng nghĩ rằng mình không thể bảo Ngô Tùng Châu trốn đi.

Sống trong Gia Định, có lẽ Ngô Tùng Châu cũng giỏi bơi lặn. Nhưng anh ta có chịu bơi qua dưới lũy Tây Sơn để cầu sự sống cho mình, bỏ người khác ở lại? Cũng như Võ Văn Lượng, Nguyễn Tấn Huyên, những người qúa tự tôn, cao ngạo để thà chết chứ không cúi đầu. Và thậm chí cả chàng. Nếu phải trốn đi như thế, chàng sẽ không thể tha thứ cho bản thân.

Mặc dù, đúng như Ngô Văn Sở nói, những cái chết như vậy thật là vô ích.

Ngô Văn Sở, anh ta đã nhắc đến nó, cuộc tấn công phá vây ở Diên Khánh năm ấy. Vô tình hay cố ý, anh ta cũng đã dập tắt ý định mở cuộc tấn công ra ngoài trong chàng. Cảnh tượng ở Diên Khánh đã ám ảnh chàng suốt những năm tháng sau này. Đám lửa kéo dài, than khói bay mù mịt, và những bóng hình người nhảy nhót, quay cuồng, hình ảnh ấy vẫn đôi lần trở lại trong giấc mơ. Lửa, lửa đã kéo dài suốt con đường của chàng.

Chàng nghĩ đến tiếng khóc trên tường thành lúc chiều tà. Chàng nghĩ đến con người đã buông mình xuống trong lặng câm tuyệt vọng. Chàng nghĩ đến cả những kẻ đã liều mạng tuột xuống thành trốn đi. Mỗi người một cách để đương đầu với tuyệt vọng của cái chết. Cái chết trong tuyệt vọng. Hai năm trong thành này như đã là cả cuộc đời của họ. Họ đã trải qua tất cả: hy vọng, mừng vui, sung sướng, đoàn kết, đau đớn, ly tán, thống khổ, cuối cùng là tuyệt vọng. Chàng đã mở cổng nước cho họ. Nhưng đã qúa trễ. Kẻ bên ngoài không còn cho họ một cơ hội sống.

Đánh ra lúc này, có thể sẽ có người sống để thoát ra. Nhưng người chết sẽ còn nhiều hơn. Đó cũng là những cái chết hoàn toàn vô ích.

Hàng ngàn cái chết này sẽ là vô ích.

Chàng nhìn mây đang kéo về trên bầu trời rực đỏ. Lại một cơn mưa sẽ tới trong đêm. Mưa sẽ gột sạch dấu tích của trận chiến ban chiều. Mưa ngăn quân Tây Sơn bên ngoài tiến đánh. Trong mưa, những người lính lặn xuống trốn đi sẽ khó bị phát hiện hơn. Ngày mai, chàng đã không nghĩ đến nữa. Chàng đã không còn nghĩ đến ngày mai. Ngày mai, với số quân kiệt quệ này, những người mà ngay cả cơ hội trốn đi cuối cùng này cũng không có, đã chìm vào tuyệt vọng, thành Bình Định có thể sụp đổ bất cứ thời khắc nào.

“Lao xao cõi trần ai, trường hoan lạc ngẫm không mấy lúc. Thắm thiết cơn mộng ảo, đoạn biệt ly há dễ bao lâu.” Chàng thầm nhẩm lại lời của Ngô Tùng Châu, vẫn nhìn lên trời. Bầu trời rực đỏ. Chàng có thể thấy những bóng mây vội vã trôi qua, đổi dạng thay hình, ào theo cơn gió. Chàng nghĩ đến Gia Định và những cơn mưa.

Chàng quay bước về phía tướng doanh, gọi người lính canh cửa.

- Đến nói với Lưu thủ Nguyễn Văn Thanh, bảo ông ấy sáng mai tới gặp ta.

Còn một mình, chàng ngồi xuống sau bàn. Ngẫm nghĩ một lúc, chàng rút khẩu súng ngắn sau lưng ra, đặt lên bàn. Thép bạc ánh lên trong lửa, hằn rõ những đường khắc tinh xảo. Đây là một tặng vật của người Tây dương, phát minh mới của Tây dương mà họ đã rất tự hào đem dâng cho vị chúa. Và ngài ta đã đem nó cho chàng. Từ đó, nó đã ở bên chàng mọi lúc.

Nếu Trần Quang Diệu cần vật làm tin, đây sẽ thứ chứng minh tốt nhất.

72

Khi chàng viết xong lá thư, trời đã đổ mưa.

Mưa ào ạt đổ nước xuống, ầm vang như thiên binh vạn mã đang dày xéo bầu trời. Rồi mưa lặng lại, tạnh dần, chỉ còn tiếng rì rầm. Đôi lần, mưa mạnh lên nhưng không thể như lúc đầu. Cứ thế, mưa rả rích.

Chàng vẫn còn đang nghĩ về Gia Định và những cơn mưa.

Tháng lại tháng, năm lại năm đi qua. Thấm thoắt, chàng đã ở Bình Định hai năm, tính theo số tháng. Vậy mà cứ như chàng đã sống cả cuộc đời cách xa mảnh đất quê hương. Chiến trận, thời gian cứ kéo dài ra mãi như muôn đời muôn kiếp, đã xoá mờ ký ức chàng. Chàng nghĩ về những dòng nước trong Gia Định, mùi đất và hương lúa mới, những cành hoa lan đôi lần vẫn phảng phất hương giữa rừng, như nắm vào những vệt khói hiện hữu nhưng mơ hồ. Càng cố gắng nắm bắt, chàng lại càng thấy nó như một ý nghĩ xa xôi không cách nào trở thành hình hài. Như làn khói, ký ức để lại vết cháy xém trong lòng chàng, âm thầm nhức nhối.

Trong những đêm mưa, trước giấc ngủ, ký ức trở lại, như sương thoáng qua, trôi từng vạt dài.

Lá thư đã viết xong, mực đang khô, nét đen nhánh trong lửa. Khẩu súng được đặt trên bàn vẫn lạnh lùng ánh thép bạc. Không gấp lá thư, chàng chỉ nhìn ra cửa sổ, những hạt mưa vẫn không ngừng rơi loáng thoáng trong ánh lửa. Thanh âm của mưa xôn xao kéo dài, vùi lấp đi những tiếng động khác. Trong đêm, chỉ còn chàng và mưa.

Thật sự, chàng thấy mình đã nhẹ lòng. Cõi lòng chàng nhẹ dần, theo từng tiếng mưa rơi.

Những gì đã trĩu nặng trong chàng năm tháng này không còn nữa. Chàng đã không nhận ra sức nặng khủng khiếp của nó cho đến bây giờ. Sức nặng của sinh mạng vạn con người, sức nặng của bảo vệ khu thành, sức nặng của vị Tổng binh, sức nặng của địa vị Quận công, Tham thặng tướng quân, sức nặng của Tiên phong dinh Chưởng cơ, sức nặng của Tổng nhung Kiến Hoà quân, sức nặng của em trai Võ Nhàn… tất cả đều đã được cất đi, lúc này.

Vậy mà chàng chưa bao giờ nhận ra ảnh hưởng của nó lên bản thân mình. Gánh nặng mà chàng đã mang, nhiệm vụ mà chàng đã gánh vác, kỳ vọng của người khác đối với chàng, tất cả đã lần lượt kéo đến theo năm tháng. Bây giờ, khi tất cả được dứt bỏ, chàng thấy mình nhẹ hẫng.

Đây là điều mà chàng đã mong ước, trong suốt những năm tháng dài của cuộc đời.

Giá được trở lại chèo thuyền trên dòng nước, ngắm mặt trời cùng mặt trăng luân chuyển. Chàng nghĩ, khi nghe tiếng mưa. Giá được trở lại ngôi nhà của chàng, nghe tiếng mưa đập vào mái ngói và những đứa trẻ cãi cọ nhau không ngớt, bếp lửa hồng, hương tóc nàng ngọt dịu như một giấc mơ xưa cũ. Đó là gia đình duy nhất mà chàng có. Giá được trở lại, bây giờ.

Có phải anh đã rất cô đơn? Có lần, nàng hỏi. Lúc ấy, chàng nghĩ mình không trả lời được câu hỏi của nàng. Đó là một cảm giác không được phân định hay hiện hữu trong tâm trí chàng. Chưa từng, cho đến bây giờ. Giờ đây, khi không còn bất cứ gì để ràng buộc, để giữ chàng lại, quả thật chàng thấy mình cô đơn. Cô đơn, đó là khi chàng muốn chạm vào một ai đó mà không thể. Giờ đây, chẳng còn gì để giữ chàng lại, cũng chẳng còn bất cứ ai ở bên chàng. Họ đang ở Gia Định, vùng đất sau ngọn núi và những dòng sông, sau sa mạc và hoang mạc, vùng đất mịt mù như một giấc mơ xa lắc. Chàng thấy lòng mình trôi đi theo cơn mưa.

Ý nghĩ về nàng giờ đây không đau đớn, chỉ muộn phiền. Nỗi buồn ăn sâu vào trong chàng, cùng với mặc cảm tội lỗi ngày càng lớn. Đây là điều nàng đã nói, rất lâu trước đây, rằng chàng sẽ bỏ rơi nàng. Chàng sẽ bỏ nàng lại, trong số phận và cuộc đời của một tướng quân vốn có rất ít sự lựa chọn. Chàng đã luôn bỏ nàng lại, và bây giờ là vĩnh viễn. Chàng đã không nghe lời nàng. Phải, đó không phải vì lệnh của vị chúa, mà là lỗi của chàng. Nếu như chàng đã tự ngăn mình lại, không có cái ý nghĩ muốn chiếm lấy nàng, mọi chuyện đã không xảy ra. Nếu chàng biết dừng lại, cả mười năm ấy cũng sẽ không hiện hữu. Và có thể giờ đây chàng đã hoàn toàn thanh thản lựa chọn con đường cho mình, như Ngô Tùng Châu. Có thể giờ đây nàng đã yên lành giấc mộng cùng với chồng con, trong cuộc đời không liên quan đến chàng.

Nàng là điều khiến chàng hối tiếc nhất, trong cả cuộc đời này.

Giờ đây, khi chẳng còn gì lưu lại trong tâm trí, ngay cả cuộc chiến – Đã chiếm được Phú Xuân, đã vây được đại quân Tây Sơn trong Bình Định, đại cuộc đã nằm trong tay họ - nàng lại là điều cuối cùng khiến chàng day dứt. Nàng và những đứa trẻ. Họ là nỗi nhớ cuối cùng của chàng. Nhưng chàng lo lắng cho nàng còn hơn cả bọn trẻ. Dù thiếu cha, chúng vẫn được chăm sóc chu đáo. Chúng còn nhỏ, rồi nỗi đau cũng sẽ đi qua. Còn nàng, nàng khó mà phục hồi. Nàng không bao giờ chấp nhận, đó luôn luôn là điểm yếu của nàng. Nàng cố chấp, và do đó, nàng chông chênh. Chàng không biết rồi nàng sẽ ra sao, với quyết định này của chàng. Hoặc chàng biết, nhưng chính chàng cũng không thể đối mặt được với nhận biết ấy.

Cái nắm tay của nàng hôm cuối cùng ấy, vết hằn đã tan đi từ rất lâu rồi.

Chàng vẫn ngồi yên, lắng nghe tiếng mưa. Mưa đang rỉ rả. Gió đang rì rào. Thân thể chàng bải hoải sau hai ngày đêm mất ngủ giữ thành. Áo chiến của chàng chưa được cởi. Những vệt khói đen trên khắp thân thể chưa được lau đi. Nhưng chàng không hề cảm thấy buồn ngủ. Chàng chỉ ngồi yên, lắng nghe mưa. Nghe thời gian trôi qua trong tiếng mưa. Tâm trí chàng trống trải dần. Bây giờ, ký ức cũng đã là quá mức. Bây giờ, ký ức cũng đã trở thành qúa nặng nề với tâm trí này, thân thể này, sinh mạng này.

Một lúc sau, chàng đứng dậy, cởi chiến bào. Cởi trần, chàng bước ra ngoài mưa. Chàng muốn gột sạch hơi khói và mùi chiến trận vẫn còn bám trên cơ thể. Trong thành, mưa là nguồn nước trong sạch qúy giá đối với họ. Chàng muốn được gột rửa lúc này, bằng mưa.

Trong bóng tối lấp loáng ánh lửa mơ hồ hắt lại, chàng nhìn những giọt nước không ngừng rơi xuống từ thinh không, lấp lánh từng vệt dài đan xen nhau. Những hạt mưa không ngừng rơi xuống mặt chàng ran rát. Chẳng mấy chốc, thân thể chàng đã ướt đẫm mưa. Tóc chàng rời khỏi búi buộc, rơi xuống lưng. Chàng lại quên cắt tóc.

Lấy chiếc khăn đang vắt trên vai, chàng tỉ mẩn tắm gội, trong mưa.

Trong hàng hiên, chàng lau mình. Nhưng khi vào phòng, chàng gần như vẫn còn ướt lướt thướt. Thay bộ quần áo khác, chàng tìm con dao nhỏ để cạo râu. Mái tóc ướt vẫn còn xõa xuống sau lưng chàng, làm ẩm cả một khoảng áo.

Qúa chăm chú, chàng đã không nhận ra có người vào phòng cho đến khi một bàn tay chạm vào chàng. Hay đúng hơn, bàn tay cầm một chiếc khăn lớn đặt lên tóc chàng.

- Ngọc Du. – Chàng buột miệng trước khi quay lại.

Trước chàng chỉ là cô hầu câm. Cô ta ngạc nhiên nhìn chàng. Có vẻ như cô ta không biết chàng vừa gọi tên ai. Rồi cô ta lúng túng hạ tay xuống, chỉ để chiếc khăn lại trên vai chàng.

Chàng vẫn nhìn cô ta.

Chàng đã không gọi tên nàng, trong suốt cả hai năm này. Chàng chưa bao giờ gọi tên nàng thành tiếng trong suốt khoảng thời gian này. Hồ Dương công nương, đó là cách chàng gọi nàng khi nói chuyện với người khác. Cái tên, chỉ cái tên nàng được thốt lên trong phòng, đã làm chàng giật mình. Chàng đã tưởng rằng nàng ở bên mình, chỉ cần gọi tên, nàng sẽ xuất hiện. Chàng chỉ thốt ra cái tên ấy khi có nàng bên cạnh.

Chàng không thấy cô gái trước mặt. Chàng chỉ thấy khoảng trống.

- Nhờ cô lau tiếp cho ta. – Cuối cùng, chàng nói và quay đi tiếp tục cạo râu. Bàn tay cô gái rụt rè nhấc chiếc khăn lau tóc cho chàng. Cô ta không cất tiếng, không bao giờ cất tiếng.

Anh phải lau khô tóc đi chứ, nàng luôn phiền trách chàng như thế, mỗi khi lau tóc cho chàng. Mỗi khi làm gì, nàng đều tìm được cách để trách chàng một tiếng. Tính cách ấy, sau này nhớ lại luôn làm chàng cảm thấy buồn cười. Cử chỉ của nàng luôn dịu dàng, trái ngược với những lời nàng nói. Âu cũng là một thói quen, một cách biểu lộ tình cảm của nàng.

Bây giờ, bên cạnh chàng chỉ có sự lặng im. Mưa vẫn rơi, rỉ rả và xa xôi, từ xa xôi vọng đến. Cô gái thả từng lọn tóc của chàng xuống. Cử chỉ của cô có sự thận trọng như thể chàng có thể tan vỡ bất cứ lúc nào. Cô nâng từng lọn tóc, lau nó bằng sự tập trung như thể sợ một sợi sẽ rơi đi mất. Chàng lại nhớ đến lúc nàng chụp cả chiếc khăn lên đầu chàng, vò rối tóc chàng trong tiếng cười. Buổi sáng, khi chải tóc cho chàng vào triều, nàng cũng thận trọng, nhưng nếu nói trái ý nàng một lời, nàng sẽ kéo tóc chàng mà giật. Cả lần ấy, lần nàng ôm lấy chàng khi đang lau tóc. Nàng ấm nóng tựa vào lưng chàng, hơi thở nàng phả qua mặt chàng, lời nói nàng thầm thì bên tai chàng.

- Thôi. – Chàng nói, đột ngột. Cô gái vội vã dừng tay. Đặt con dao xuống bàn, chàng úp mặt vào lòng bàn tay. Ký ức cũng trở thành qúa mức. Qúa mức, khiến chàng có cảm giác không thể chịu đựng nổi.

Mưa vẫn rỉ rả rơi trong đêm. Chàng bỗng ước ao cơn mưa này mau tạnh, để ngày mới đến. Chàng ước ao được kết thúc. Chàng đã cố chống chọi, cho đến tận thời khắc này. Nhưng hình phạt nặng nề nhất hóa ra lại nằm trong sự sống, không phải là cái chết.

Thấy sự sống rõ ràng đến mức không thể tin được. Chàng nhớ đến lời vị chúa đã nói bên bờ biển đêm ấy. Tiếng sóng đã rì rào bất tận. Đại dương thẳm xanh và mênh mông. Đại dương cất giấu sự lặng yên vĩnh cửu dưới muôn trùng đáy nước. Đại dương chứa đựng muôn vàn sự sống mà cũng có thể dễ dàng cướp đoạt muôn vàn sự sống. Đại dương, sức mạnh vô biên bao bọc họ trong vòng vây của nó. Chàng thấy hình ảnh ấy, bây giờ, rõ ràng đến không thể tin được. Cái ảo tượng ấy lóe lên như chớp sáng, rõ đến từng chi tiết.

Một bàn tay chạm vào vai chàng. Chàng biết đó là ai. Chàng không cần cô, ngay cả lúc này, nhất là lúc này. Lúc này, chàng chỉ còn có kỷ niệm để đem theo, để cất giữ. Lúc này, chàng cần ôm lấy nỗi đau của mình, một lần và vĩnh viễn. Chàng cần nỗi đau này, cho nàng, cho cả cuộc đời nàng, để có thể đền bù cho nàng. Chàng đã bỏ nàng lại. Chàng đã bỏ nàng. Đó là một sự thật không thể thay đổi.

Nhưng chàng không cử động, cũng chẳng hất tay cô đi. Gục mặt xuống bàn, chàng nghe tiếng mưa đêm rỉ rả cho đến khi cơn mệt mỏi khiến chàng thiếp ngủ. Giấc mơ mỏng manh đi qua trong tiếng mưa không còn lưu dấu khi chàng thức tỉnh vào buổi sáng. Chàng chợt tỉnh khi ánh bình minh vừa hửng. Mưa đang ngớt, chỉ lác đác vài giọt rớt rơi. Ánh sáng xanh đang trải lên vạn vật, không khí nặng trĩu mùi nước lạnh. Cô hầu đã đi, để lại một tấm chăn đắp lên lưng chàng.

Đã đến lúc rồi, chàng nghĩ và vội vã đứng dậy. Theo lời nhắn đêm hôm trước, Lưu thủ Nguyễn Văn Thanh phải đến sớm để gặp chàng. Nhưng đợi chàng ở phòng ngoài không phải là Nguyễn Văn Thanh mà là Ngô Văn Sở. Anh ta đang ngồi trước cửa, trên bậc thềm, tắm mình trong ánh sáng của bình minh, gõ cán dao ngắn xuống nền đá mà hát.

“Nguyệt lung tinh đạm,
Nam phi ô thước,
Ám số thu kỳ thiên thượng.
Cẩm lâu bất đáo dã nhân gia,
Đãn môn ngoại, thanh lưu điệp chướng.

Nhất bôi tương chúc,
Giai nhân hà tại,
Bất kiến nhiễu lương thanh xướng.
Nhân gian bình địa diệc khi khu,
Thán Ngân Hán, hà tằng phong lãng.”

Theo phản ứng, Võ Tánh nhìn về phía bàn viết. Lá thư chàng viết đêm qua vẫn để trên bàn, dưới viên đá chặn giấy và khẩu súng. Thường thì người lính gác cửa thân tín sẽ không cho bất cứ ai đi vào căn phòng này nếu chưa báo với chàng. Nhưng trong sự hỗn loạn hiện giờ và lệnh gọi người đến sớm hôm qua, có lẽ Ngô Văn Sở đã ở trong phòng chàng. Không rõ anh ta đã thấy gì chưa, nhưng chàng cũng không quan tâm nữa. Rồi mọi người cũng đều sẽ biết.

Ngô Văn Sở ngâm lại bài thơ. Giờ thì chàng mới để ý đến ý nghĩa của nó. Anh ta dường như vẫn chưa nhận ra sự xuất hiện của chàng, vẫn chỉ nhìn lơ đãng lên trời. Bầu trời nhàn nhạt xanh, vầng trăng cuối tháng chỉ là một vệt trắng trên nền trời đã tan mây. Đã có vài cánh chim bay qua thành về phía khu rừng.

Trong một lúc, chàng cứ đứng yên.

- Không phải ta bảo anh đi rồi sao, Ngô tướng quân? – Cuối cùng, chàng cất tiếng. Ngô Văn Sở có vẻ hơi giật mình mà quay lại. Chàng nheo mắt nhìn anh ta. – Anh không định nói rằng mình ở lại để cùng chết chứ?

- Không. – Ngô Văn Sở lấy lại vẻ bình thản, nhún vai cười. – Nhưng Tham thặng cũng đâu có bảo tôi phải đi lúc nào. Tham thặng yên tâm, tôi không hề muốn chết.

- Thế thì anh ở đây làm gì? – Võ Tánh nói và đi lại bàn, gấp lá thư đã viết bỏ vào phong bao. Ánh mắt Ngô Văn Sở nhìn xuống bàn tay chàng, nhưng khuôn mặt anh ta vẫn không để lộ chút xúc cảm.

Đúng ra, chàng định hỏi: Anh ở đây chờ đợi cái gì? Đúng, theo những gì chàng biết, con người này sẽ không để bản thân phải chết, nhất là khi đã có lối ra. Nhưng anh ta ở lại, ắt hẳn không phải để “trợ giúp đánh ra” nếu như chàng định phá vây, vì lúc ấy chàng sẽ bỏ thành trống. Anh ta chắc chắn không muốn đánh ra ngoài. Anh ta chẳng còn làm gì được cho chàng – Vậy thì anh ta ở đây đợi cái gì?

- Tham thặng biết không, tôi rất ghét những anh hùng. – Ngô Văn Sở rời mắt khỏi bức thư trên tay chàng, nhìn chàng mà trầm lặng nói. – Kẻ anh hùng trên chiến trận chỉ là kẻ sát nhân hàng loạt tàn bạo nhất. Tôi đã từng ôm ấp ước vọng về nó, và ngay cả bây giờ cũng không thể nói rằng mộng ước ấy đã tan. Nhưng đồng thời tôi cũng căm ghét việc mình làm. Những kẻ giết người được tung hô, và khi thất thế thì bị nguyền rủa. Những kẻ giết người được vinh danh, và rồi bị trừng phạt.

À, chàng lơ đãng nói, ngồi xuống viết lạc khoản lên phong bao. Chàng không có tâm trạng để nghe về tâm trạng của người khác, những ý nghĩ rối rắm của người như Ngô Văn Sở. Lúc này, ngay cả thế giới có ra sao với chàng cũng chẳng còn quan trọng. Chàng đang cố gắng hoàn thành công việc thật nhanh, ít ra để kẻ khác không thể ngăn mình. Bình minh đang lên, chỉ ít thời khắc nữa còn lại cho chàng.

Lời nói của Ngô Văn Sở, do đó, chỉ như gió thoảng qua chàng.

Chàng chỉ ngẩng lên khi một chiếc ly được đặt xuống trước mặt. Ngô Văn Sở đã lấy rượu trong kho ra – vì lệnh cấm rượu trong quân, số rượu mà họ còn lại rất nhiều. Anh ta đặt ly rượu trước mặt chàng, tay kia giơ cao một ly khác.

- Tôi muốn uống cùng Tham thặng một ly. – Anh ta nói. Và chàng cũng cười, cầm ly rượu lên, uống cạn.

Khi chàng bỏ ly rượu xuống, Ngô Văn Sở đã quay mình đi về phía cửa. Khi chân đã chạm đến bậc cửa, anh ta đứng lại, ngẩng nhìn trời, nói mà không quay nhìn.

- Thật ra, cho đến đêm qua, tôi mới biết rằng tôi rất ghét bản thân mình. Rồi tôi đi đổ lỗi cho tất cả những người khác. Thật ra, tất cả là lỗi của tôi. Tôi rất ích kỷ. Chúng tôi rất ích kỷ. Tất cả chỉ muốn thu vén càng nhiều về cho mình càng tốt. Tất cả đấu đá với nhau chỉ vì sự ích kỷ của bản thân. Tôi đã tự hại mình bằng sự ích kỷ của bản thân.

Nhưng tôi đem tất cả đổ lỗi cho người khác. Nhưng tôi đi căm ghét cả thế giới. Vì tôi cho rằng trên đời này mọi người đều như thế. Mọi người đều ích kỷ. Vì tôi cho rằng chỉ có như thế thì tôi mới tồn tại được. Tôi chỉ biết cách sống duy nhất ấy.

Ngô Văn Sở chợt lặng im. Chàng nghe tiếng chim đầu ngày vang lên, vọng vào căn phòng. Màu xanh nhạt của bình minh đang phai.

- Còn sống thì tốt rồi. – Chàng nói, một lúc sau. – Còn sống, anh còn có thể nhận biết được nhiều hơn nữa.

Ngô Văn Sở gật đầu, rồi đi ra. Anh ta không khép cửa, và gió lùa vào phòng đến chỗ chàng mang theo hơi mưa ngọt lạnh.

Thế chỗ cho Ngô Văn Sở là Lưu thủ Nguyễn Văn Thanh. Theo lời chàng nhắn, ông ta đến một mình khi mặt trời chưa hửng. Chàng đưa bức thư cho ông ta. Nguyễn Văn Thanh cau mày trước ba chữ “Gửi Trần tướng quân” trên phong bao.

- Ta nhờ Lưu thủ một việc. – Võ Tánh nghiêng người về phía ông ta, hạ giọng. – Lát nữa ta sẽ mở cửa thành. Ông đến luỹ đưa thư này cho Trần Quang Diệu. Nhờ tài thuyết phục của Lưu thủ mà đưa thư này đến tận tay Trần Quang Diệu, không được để rơi vào tay thuộc hạ hắn. Đây là việc hệ trọng liên quan đến toàn bộ tính mạng anh em. Ông đưa vật làm tin của ta, đòi được vào gặp hắn.

Chàng nói và đưa cho Nguyễn Văn Thanh khẩu súng ngắn. Viên Lưu thủ nhìn chàng, mím môi gật đầu. Ông ta tin chàng. Chàng cho ông ta về chuẩn bị. Rồi chàng cũng đứng dậy, mặc triều phục, bước ra ngoài. Nắng mai đã tràn ngập trong thành, lấp lánh trên cảnh vật còn ướt nước. Trước tướng doanh, đài Bát Giác như một bông hoa vươn cao trong nắng, trên mảng cắt của tường thành và bầu trời còn vương mây trắng.

Ngày thật đẹp. Ánh nắng, ngọn gió, hạt mưa, tiếng rì rào của cây lá. Chàng nghĩ đến ánh nắng đang trải dài trên khoảng rừng vi vút gió, trên những dòng nước trong vắt, trên những ngôi nhà toả làn khói của bếp lửa sớm, trên mặt biển nhấp nhô sóng vỗ bờ. Có lẽ giờ này nàng cũng đã trở dậy, còn đám trẻ vẫn đang lười biếng vùi mình trong chăn. Chàng thật muốn nhìn thấy khung cảnh ấy, khung cảnh trải dài ra, gần như là vô tận dưới nắng. Chàng thật muốn nhìn thấy vùng đất bên kia ngọn núi và những con sông, đi qua cả một sa mạc nhấp nhô cát vàng.

Đài Bát Giác, chàng quan sát nó bây giờ, như lần đầu tiên nhìn thấy. Đây là nơi chàng luôn đến khi vui buồn, cũng như những lần muốn quan sát bên ngoài. Ở vị trí này, bên ngoài cũng có thể thấy được.

Chàng gọi người đến, bảo họ lấy tất cả củi trong kho, chất dưới lầu Bát Giác. Cả thuốc súng nữa, chàng nói sau một lúc suy nghĩ. Đài rất cao, và cần một hoả lực lớn.

Dù cảm thấy mệnh lệnh ấy là lạ lùng, những người lính vẫn tuân theo. Chẳng mấy chốc, việc đã xong. Nhưng sự chộn rộn này đã đánh động đến Ngô Tùng Châu – người trông coi kho của thành. Anh ta đến tìm Võ Tánh, nhướng mày.

- Anh có kế gì vậy, Tham thặng? – Ngô Tùng Châu hỏi, nhìn phần dưới của đài Bát Giác đã ngập trong củi. Những người lính đang ở trên đài để rắc thuốc súng xuống. Chàng nhìn về phía cửa thành hé mở để Nguyễn Văn Thanh đi về hướng quân Tây Sơn. Có lẽ bây giờ anh ta đã tới luỹ.

Chàng chẳng còn phải tiếp tục che giấu với họ.

- Tây Sơn quyết giết tất cả chúng ta vì căm hận việc mất Phú Xuân, hoàng tộc chúng lọt vào tay ta. Nếu bây giờ ta có cách nào để hoá giải thù oán đó, có lẽ người trong thành sẽ được tha. – Chàng chậm rãi nói. Ngô Tùng Châu nhíu mày. – Tôi sẽ nhận lãnh trách nhiệm này. Chỉ có tôi mới có thể hoá giải được thù hận của bọn họ.

Ngô Tùng Châu chớp mắt, nhìn lại đài Bát Giác chất đầy than củi rồi nhìn lại Võ Tánh. Chàng thấy sự nhận biết sáng dần trong đôi mắt anh ta. Khi nói, giọng Ngô Tùng Châu khàn đi.

- Anh không thể làm như thế, Tham thặng… - Anh ta nói, nhưng chàng đã ngắt lời.

- Tôi có thể sống trong khi chúng tàn sát tất cả mọi người quanh tôi sao? Tôi có thể sống khi đã làm mất tất cả quân lính và thành trì được sao? Tôi có thể sống khi tất cả mọi người đều chết sao?

- Nhưng dù anh có chết, cũng đâu chắc chắn rằng chúng sẽ tha cho mọi người. – Ngô Tùng Châu vẫn cố phản kháng. – Chúng là bọn tàn ác vô đạo, không tha cho bất cứ ai. Ngay cả anh em, bạn bè, chúng còn không tha.

- Trần Quang Diệu theo tôi biết thì không phải người như thế. – Chàng nhẹ nhàng nói. – Mà nếu quả có thế thật, thì tôi cũng cùng sống chết với anh em mà Tây tặc bị mang thêm một tiếng vô đạo bất nghĩa, người người nguyền rủa. Khi ấy, nhờ chúa công trả thù rửa hận cho chúng ta vậy. Tôi không thể sống khi mọi người đều chết, không thể.

Ngô Tùng Châu có vẻ như còn định nói gì nhưng rồi anh ta im lặng. Võ Tánh nghĩ đến Nguyễn Văn Thanh đang ở lũy Tây Sơn. Nếu có kết qủa, ông ta sẽ ra hiệu cho chàng. Chàng phải nhanh kết thúc việc chuẩn bị này. Chàng quay gọi người đưa Võ Văn Lượng đến, rồi khoanh tay chờ đợi trong sân. Chàng không để ý đến Ngô Tùng Châu đã vào tướng doanh.

Ngoài xa, tiếng súng chợt vọng lên trong sự yên lặng của buổi sáng sớm. Võ Tánh liền lên đài Bác Giác nhìn về phía tiếng súng. Nguyễn Văn Thành đang đứng trước lũy Tây Sơn, bên cạnh là người mặc tướng phục. Họ đang nhìn về thành chờ đợi.

Võ Văn Lượng đến, leo lên đài bên chàng. Ông ta nhìn quanh đám củi lửa, cũng hỏi một câu gần y như Ngô Tùng Châu.

- Anh định làm gì vậy, Tánh?

- Tôi cho hạ thành. Nhưng tôi không muốn kẻ kia nhìn thấy mặt mình. – Võ Tánh cười mà trả lời. Chàng nói trước khi Võ Văn Lượng kịp lên tiếng. – Mọi việc trong thành phải nhờ anh sắp xếp. Tôi đã nhờ Trần Quang Diệu tha cho anh em, nhưng mọi việc còn rối rắm, nhờ anh sắp xếp cho. Đừng hủy quân dụng trong thành, cố cầu sống cho anh em là đủ.

- Anh nghĩ tôi có thể sống khi có người anh em chết cho mình à? – Võ Văn Lượng cau mày. – Anh không muốn nhìn mặt hắn thì đẩy cho tôi làm kẻ cúi đầu trước hắn sao?

- Vì hàng ngàn vạn người này, anh có thể. – Võ Tánh nhìn vào mắt Võ Văn Lượng. – Và còn nhiều chuyện chúng ta vẫn chưa làm. Kiến Hòa quân, anh nhớ không Lượng? Anh nhớ mình đã nói gì về đội quân của chúng ta?

Đó là giấc mơ cả đời chúng ta. – Chàng nói và nhìn ra ngoài thành. Nắng vẫn đang lên, rực rỡ trên những giọt nước đang tan. Chàng đẩy vai Võ Văn Lượng, bảo rằng ông ta nên đi xuống. Nhưng ông ta vẫn đứng yên mà nhìn chàng.

- Anh có lời gì muốn nhắn cho cô ấy? – Võ Văn Lượng chợt hỏi. Chàng cúi đầu, ngẫm nghĩ một lúc rồi trả lời.

- Có một cái hộp trên bàn tôi, nhờ anh đem về cho cô ấy. – Chàng ngập ngừng nói. Võ Văn Lượng gật đầu. Ông ta đi xuống đài. Tiếng bước chân vang trên những bậc thang xa dần.

Có tiếng xôn xao ở một phía bên đài. Chàng quay nhìn, Thấy Ngô Tùng Châu đã bước ra hiên tướng doanh. Anh ta đang nâng một ly rượu về phía chàng. Nụ cười phảng phất trên gương mặt anh ta. Chiếc ly có vẻ đã bị uống cạn. Từ từ, Ngô Tùng Châu gục xuống trên nền đá. Máu ộc qua miệng anh ta. Cảnh tượng này khiến mọi người đều kinh hoảng. Nhiều người lính đã chạy tới quanh Ngô Tùng Châu và phát hiện cảnh lạ lùng ở lầu Bát Giác.

- Ngô Thượng thư đi trước ta rồi. – Võ Tánh thở dài trên đài. Chàng nhìn Võ Văn Lượng đã xuống đất, nói vọng về phía ông ta. – Nhờ anh khâm liệm thi thể Ngô Thượng thư đàng hoàng.

Lại một tiếng súng nữa vang ngoài thành. Quân Tây Sơn đã tập hợp trước lũy. Lính trong thành nhao nhác, nghĩ một cuộc tấn công nữa lại xảy ra. Võ Tánh vội quay sang gọi người lính đã được chàng sai đi lấy đuốc.

- Châm lửa đi!

Tiếng gọi của chàng khiến tất cả mọi người quanh quay mặt về phía đài Bát Giác. Họ đã hiểu việc gì đang xảy ra. Người lính vẫn đứng yên, môi run run. Ngọn đuốc rơi khỏi tay anh ta, tắt ngấm trên nền đất ẩm. Chàng thở dài, lại nhìn Võ Văn Lượng.

- Anh cho tôi mượn tẩu thuốc của anh nào. – Chàng cười nói. Võ Văn Lượng rút tẩu thuốc sau lưng, châm lửa rồi đưa lên đài cho chàng.

- Anh làm tôi không thể hút thuốc được nữa đấy, chàng trai. – Ông ta nói và quay đi, không để cho chàng kịp nói. Chàng mỉm cười, đưa tẩu thuốc lên môi rít một hơi. Làn khói đắng xộc thẳng vào cổ họng chàng, bồng bềnh trước mắt chàng.

Người bên dưới tụ tập ngày càng đông. Có nhiều tiếng la hét, xin chàng hãy xuống. Nhưng chàng không nghe thấy bất cứ ai trong số họ. Chàng nhìn lại một lần nữa khu rừng, ngọn núi, dòng sông và những đám mây. Phía Bắc là Phú Xuân, nơi chàng đã luôn muốn đến. Quê hương của Ngọc Du. Chàng đã luôn muốn đưa nàng trở về. Phía Nam là Gia Định, nơi chàng đã nhận lấy làm quê hương, nơi có nàng. Chàng đã luôn muốn được trở về.

Với một cái búng tay, tẩu thuốc rơi xuống đám củi bên dưới. Tàn lửa bắt vào thuốc súng, cháy bừng.

- Mở cửa thành! – Chàng hét trong tiếng động bùng lên từ đám người quanh đài. Mở cửa thành, Võ Văn Lượng hét theo chàng. Tiếng trống ra hiệu cho lính canh mở cửa thành vang trong tiếng lửa rít ù ù, tiếng củi lửa cháy lách tách dưới chân chàng.

Võ Tánh khụy gối cúi đầu về phương Bắc. Chúa công, chàng gọi. Nhờ ngài tất cả. Tham thặng tướng quân, ngài nói, ngài đã mong chúng ta có thể đi cùng một con đường. Nhưng bây giờ thì chỉ còn một mình ngài. Con đường của chúng ta. Giấc mơ của chúng ta. Chúng ta có cùng một giấc mơ.

Lưỡi lửa đã bén lên đài, quanh nơi chàng đứng. Chàng nghe tiếng động ầm vang quanh thành khi cửa mở và quân lính đang được tụ họp. Chàng quay người bước vào trong đài. Nơi này, qua những lưỡi lửa, chàng chỉ thấy cảnh vật xung quanh. Khu rừng, ngọn núi và dòng sông. Những đám mây cứ trôi đi. Mùa gió nồm, mây trôi từ Nam ra Bắc.

Khói đã bao vây chàng trong bức màn xám của nó. Khói ngày càng dày, che phủ tầm nhìn của chàng. Nhưng chàng vẫn nhìn mặt trời đang lên. Mặt trời chiếu sáng qua đám mây khói, rực rỡ trong mắt chàng. Ngày vẫn đang lên, tươi sáng và rực rỡ trong ánh nắng mùa hạ.

Chàng lại nghĩ đến Gia Định và những dòng sông. Những dòng sông đan cắt qua nhau, là đà bóng của rặng cây xanh, phản chiếu sắc trời thay đổi. Những con đường mòn nép dưới bóng cây uốn mình khuất trong rừng thẳm. Mùa hạ, hương hoa ngan ngát và tiếng ve kêu ran trong nắng. Mùa hạ, những chuyến đò qua sông và những con thuyền trôi theo dòng nước. Mùa hạ, những vườn trái cây trĩu qủa và những tổ ong đong đầy mật ngọt. Mùa hạ, mái tóc nàng thơm như hương từ một giấc mơ.

Đi qua khu rừng, ngọn núi, những dòng sông và sa mạc. Đi qua đại dương. Đi qua chiến tranh.

Lửa đã bốc lên tận mái, nuốt chửng khu đài Bát Giác. Không còn nhìn thấy xung quanh được nữa, chàng nằm xuống nền đài, đón đợi sự sụp đổ cuối cùng. Thốt nhiên, trong sự ồn ào, chàng nghe thấy tiếng sáo. Tiếng sáo của người Chiêm Thành, sầu thảm và thiết tha. Tiếng sáo của Chiêm Thành, khóc cho một đất nước đã mất và những linh hồn đã tan vào khói bụi. Tiếng sáo bất chợt cất lên, ngân dài như tiếng khóc than ngàn đời vang lại.

Cô gái câm thổi sáo để tiễn đưa chàng. Chàng mỉm cười. Chàng chưa từng nói với cô rằng chàng biết ơn sự có mặt của cô bên cạnh biết bao.

Bên ngoài chợt lặng yên. Đoàn quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu dẫn vào thành lặng yên. Những người lính Nguyễn được tập trung trong thành lặng yên. Tất cả hướng mắt về đài Bát Giác đang bùng cháy như một bông hoa kết bằng lửa giữa bầu trời. Tất cả lắng tai nghe tiếng sáo Chiêm Thành kể về đất nước đã bị lãng quên giữa khu thành kinh đô ngàn năm của nó. Tiếng sáo kể về những linh hồn đã mất, những nỗi đau và những sinh mạng đã bị hủy hoại. Tiếng sáo kể về những giấc mộng ngàn năm đã bị lãng quên. Những giấc mơ đã bị lãng quên, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian.

- Tham thặng! – Tiếng ai đó gào lên, như tiếng vang trong tâm trí mọi người mọi kẻ. Nguyễn Tấn Huyên từ cổng nước trở về, trân trối nhìn ngọn lửa bốc rừng rực, nhìn lại quân Tây Sơn đã vào thành. Không nói không rằng, anh ta lao mình vào trong lửa. Không ai ngăn được anh ta.

Nhưng chàng không biết đến những điều đó. Chàng chỉ nhắm mắt, lắng nghe tiếng sáo hòa cùng thanh âm của lửa, tiếng răng rắc của gỗ cháy. Khói đang bao vây, phủ mờ mọi giác quan của chàng. Hơi nóng đang cào xé da thịt chàng như muôn vạn lưỡi dao đâm đến từ mọi hướng. Chàng vẫn đang nghĩ về Gia Định và những cơn mưa.

Cuộc đời như một hoạt cảnh chầm chậm hiện lên trước mắt chàng. Những ngày thơ ấu tại thôn Phước Tỉnh. Những ngày mải mê trên sông câu cá. Ngày rời Trấn Biên về Phiên Trấn. Cuộc chiến trong đầm Vạn Thắng. Lửa đã bừng sáng, ngày ấy và mãi mãi, cuốn chàng vào vòng xoáy của nó. Lửa đã bừng sáng, ngày ấy và mãi mãi, suốt cả cuộc đời chàng.

Chiến tranh không giải quyết được điều gì cả. Vị chúa đã xuất hiện trước chàng, chỉ để nói câu ấy, ngay lần đầu tiên. Ngài ta, người thanh niên có cặp mắt đóng khép, gần như là u buồn. Đất, đất và những gì sinh sôi trên mặt đất. Câu đố của ngài ta, lời giải của chàng. Ước mơ suốt cả cuộc đời của họ. Điều mà họ kiếm tìm và khao khát. Họ vẫn đang đi tìm lời giải của nó, của cái số phận đã áp đặt lên mảnh đất này, để tạo ra được vận mệnh cho nó. Họ đi vào cơn lốc, cố gắng để tìm ra được lối ra khỏi nó.

Và trong lửa, trong gió xoáy, trong những cuộc chiến kéo dài, tranh đoạt miên miên, chàng đã gặp nàng. Đôi mắt của một linh hồn đã bị tổn thương. Bất an chênh chao trong bóng tối, trên con thuyền đi dưới cơn mưa phương Nam ào ạt. Nơi chốn mà chàng đã luôn khao khát trở về. Những cay đắng khó cất thành lời. Những hối tiếc khôn nguôi. Những lời hứa không bao giờ được thực hiện. Những giấc mộng không còn thực nữa bao giờ. Và nỗi đau, nỗi đau suốt một đời một kiếp.

Xin lỗi, chàng muốn nói. Với nàng, với ngọn lửa. Xin lỗi, đó là tất cả những gì chàng đã nói, nhưng nàng chưa bao giờ cần nghe hay muốn nghe.

Chàng nghe tiếng đổ vỡ quanh mình. Sàn đài rung rinh. Toàn ngôi đài rung lên. Chàng vẫn nhắm mắt. Bụi than lẫn tàn lửa phủ đầy chàng. Nhưng cơn đau vẫn chưa đủ để xóa nhòa đi nỗi đau trong lòng chàng. Những khi ở một mình, chàng cho phép mình đau lòng.

Với một tiếng nổ lớn, đài Bát Giác sụp đổ.

Tiếng ai đó nấc lên. Lần lượt, lính trong thành qùy xuống, dập đầu về phía đài.

Chàng thấy mình rơi, rơi mãi. Lửa đón lấy chàng. Cơn đau cuối cùng bùng cháy trên từng tấc da thịt như một cơn mê khiến chàng mụ mị. Trên trần đài đổ sụp, chàng lại thấy ánh nắng. Ánh nắng của ngày mùa hạ sau đợt mưa dài. Ánh nắng rực rỡ của ngày mùa hạ chiếu lên chàng, lấp lánh phản chiếu trên những giọt nước chưa tan.

Chàng có cảm giác rằng, chỉ một cái chớp mắt, mình sẽ tan đi dưới nắng.

Chàng đang tan đi, dưới nắng.

Võ Văn Lượng đã ở lại khi đám lửa của đài Bát Giác tắt. Cùng vài người lính, ông bới đám tro còn nghi ngút khói nóng rực, cố tìm một dấu vết nào còn lại. Nhưng tất cả những gì họ thấy chỉ là tro than.

- Anh ta đã dùng đến cả thuốc súng. Nóng như vậy, không thể còn lại gì đâu. – Tiếng nói vang lên sau họ. Thiếu phó Trần Quang Diệu của Tây Sơn đang đứng sau họ. Những người lính Nguyễn đã hạ vũ khí đang được tập trung ngoài thành. Trần Quang Diệu đã lệnh thả họ ra, đưa họ khỏi lũy. Thậm chí, ông ta đã cho phép Võ Văn Lượng cùng vài người lính vào tìm thi thể những người đã tự sát tại đài Bát Giác. Ngoài Nguyễn Tấn Huyên, cô gái câm đã tự sát theo đài. Bằng cách nào không rõ, cô ta đã ở trong đài trước khi nổi lửa. Tiếng sáo mà họ đã nghe chính là cô ta thổi trong đài.

Võ Văn Lượng làm ra vẻ không nghe thấy lời nói của Trần Quang Diệu, vẫn cầm cây bồ cào bới những mảnh than đã cháy đen, chạm đến đâu liền nát vụn ra đến đấy. Chiều đã xuống. Hơi nóng từ than vẫn đang bốc ngùn ngụt. Thoáng thấy màu trăng trắng lấp ló sau lớp than, Võ Văn Lượng buông bồ cào, lấy tay không xọc thẳng vào đám than hồng. Hóa ra đó chỉ là hòn đá trang trí trên đỉnh đài. Nghe xèo một tiếng, bàn tay Võ Văn Lượng đã cháy một mảng đen xạm. Ông ta vứt hòn đá đi, lại tiếp tục bới tìm.

- Ta sẽ cho người dọn dẹp khu đài này. Nếu tìm được di thể, ta sẽ an táng họ đàng hoàng. – Trần Quang Diệu tiếp tục nói. – Cả vị Thượng thư trong kia. Ta nghĩ các người không nên đem theo thi thể anh ta mà vùi nơi rừng rú, để thú hoang xâm phạm hay chiến trận tổn hại. Ta sẽ chôn cất anh ta trong thành.

Còn các người nên đi đi. Ta tha mạng cho các người, nhưng không có nghĩa mọi người đều đồng ý. Ở lại đây, các người sẽ gặp nguy hiểm. – Trần Quang Diệu cười khi Võ Văn Lượng quay lại, trước vẻ mặt của người đàn ông đối địch. – Đừng làm sự hy sinh của Võ tướng quân trở nên uổng phí.

- Không. Chắc chắn là không. – Võ Văn Lượng buông bồ cào, thở ra, nhìn lại lớp than đen lần cuối. Rồi ông ta gọi những người lính đi theo. Ngang qua Trần Quang Diệu, Võ Văn Lượng nói qua vai. – Chắc chắn chúng ta sẽ trở lại thành này để lấy hài cốt Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Chắc chắn chúng ta sẽ trở lại, không để họ một mình.

Trần Quang Diệu mỉm cười.

Khi đám người Võ Văn Lượng đã đến cửa, lại bắt gặp Từ Văn Chiêu từ ngoài đi vào. Ném cho viên hàng tướng này một cái nhìn căm ghét, Võ Văn Lượng hầm hầm đi ra. Từ Văn Chiêu đến bên Trần Quang Diệu, hạ giọng.

- Tên Nguyễn Văn Tồn trốn mất rồi, Thiếu phó. Nhân lúc rối loạn, hắn đem tất cả hàng binh của Nguyễn trước kia lẫn các tù nhân của ta, cả vũ khí đạn dược mà trốn đi. Hắn trước nay chỉ giả hàng ta thôi.

Phải đuổi theo mà triệt hạ chúng, Thiếu phó. – Từ Văn Chiêu nói, nhìn theo bóng nhóm Võ Văn Lượng đã khuất sau cửa thành. - Để chúng lẩn lút trong vùng hay về với Nguyễn quân, nguy hiểm vô cùng.

- Không, ta đã hứa rồi. – Trần Quang Diệu nhìn lại đám khói trên nền cũ của đài Bát Giác giờ chỉ còn tro than. Tay ông ta nâng một khẩu súng ngắn, quan sát nó với một nụ cười. – Đưa súng cho ta nhưng không đưa đạn, lý gì vậy chứ? Đến chết vẫn không cho ta nhìn thấy mặt, sao lại có người như thế?

- Bây giờ không phải lúc trầm trồ, Trần Thiếu phó. – Từ Văn Chiêu cau mày. – Đám thuộc hạ ấy lòng mang thù hận sẽ quyết trả thù chúng ta bằng được.

- Thuộc hạ của một tướng quân như thế thì sẽ vậy thôi. – Trần Quang Diệu vẫn cười. – Những người như thế không đáng coi trọng sao, Từ tướng quân? Trong chúng ta có kẻ nào có dũng khí như đám người mà ta vẫn gọi là “nhút nhát” ấy không?

Hay ta đã mất thành này khi cả quân đến tướng kéo nhau ra hàng? – Không nhìn lại mặt Từ Văn Chiêu đang đỏ lên, Trần Quang Diệu quay bước về điện chính trong thành. Ông ta ngẩng nhìn khu điện đài đổ nát mà thở dài. – Khi đã sa cơ thất thế đến mức ấy, còn ai trong chúng ta sẽ sống chết vì kẻ khác cơ chứ? Có ai trong chúng ta dám chọn cái chết? Có ai trong chúng ta sẽ thà chết không hàng? Có ai trong chúng ta sẽ chết vì người khác, sống vì người khác?

Chiều vẫn đang buông. Đàn chim đang kéo nhau về tổ. Tiếng tao tác xôn xao cả khu rừng. Đón nhóm Võ Văn Lượng là toán lính được Nguyễn Văn Tồn phái đến. Anh ta đã đem hết quân trong thành tụ họp dưới một ngọn núi, đem vũ khí cho họ để thay thế đồ đã bị tước. Ngoại trừ những người yếu bệnh được chuyển về nhà, họ vẫn còn vài ngàn người tình nguyện đi theo quân Nguyễn. Trong đám đông tù binh vừa được cứu ra, có cả Nguyễn Văn Hiếu. Sau lần đánh ra đêm Nguyên tiêu ấy, ông bị thương ở tay rồi bị giam giữ trong luỹ. Gặp lại nhau, hai phó tướng Kiến Hoà quân vừa vui mừng vừa ngậm ngùi, cầm tay nhau nghẹn ngào.

- Tôi đã cho người báo với tướng quân Nguyễn Văn Thành. – Nguyễn Văn Tồn nói khi giáp mặt Võ Văn Lượng. – Tướng quân sẽ cho người đến đón chúng ta khi ra khỏi rừng.

- Đừng bỏ quên chúng tôi chứ. – Tiếng nói vang bên họ khi Võ Văn Lượng chưa kịp lên tiếng. Ngô Văn Sở từ bóng tối trong rừng xuất hiện, theo sau anh ta là toán lính đã lặn xuống sông thoát ra đêm trước. Anh ta vẫy tay. – Chúng tôi đi theo các anh.

Anh đã ở đâu thế? Có lẽ đó là điều Võ Văn Lượng định hỏi. Nhưng rồi ông ta hỏi câu hoàn toàn khác.

- Anh định đi theo chúng tôi à? – Dù không thân cận, Võ Văn Lượng cũng biết qua tính cách ơ hờ của viên Vệ úy được Võ Tánh cất nhắc làm Thống chế này. Thật ra, ông không vui khi gặp lại anh ta.

Trước vẻ mặt của Võ Văn Lượng, Ngô Văn Sở mỉm cười.

- Chúng ta chỉ là công cụ thôi mà, chọn phía nào chẳng thế. – Anh ta hạ giọng để những người xung quanh không nghe thấy. Rồi nói tiếp trước cái cau mày của Võ Văn Lượng. – Nhưng công cụ thì cũng có tác dụng của công cụ chứ. Công cụ thì cũng có thể làm được điều gì đó chứ.

- Chúng ta đi ngay thôi, kẻo Tây Sơn đổi ý đuổi theo. – Nguyển Văn Tồn cao giọng nói. Toán lính dạ râm ran đáp lời.

Không ai bảo ai, tất cả cùng quay về phía thành, cúi mình. Trong tâm trí, họ vẫn thấy đám khói bốc lên trên khu đài giờ đã mất hẳn bóng hình.

- Rồi chúng ta sẽ trở lại. – Võ Văn Lượng trầm lặng nói. – Chúng tôi sẽ trở lại. Đợi tôi, Tánh.

Chú thích:

Bài thơ Thước kiều tiên của Tạ Oa, dịch nghĩa:

Trăng mờ sao nhạt,
Quạ bay về nam,
Thầm tính kỳ thu trên bầu trời.
Lầu gấm không đến kẻ thường dân,
Nhưng ngoài cửa, dòng xanh bát ngát.

Chúc nhau một chén,
Giai nhân nơi nào,
Không thấy tiếng hát trong mềm ấy.
Nhân gian đất phẳng cũng gập ghềnh,
Than cho dòng Ngân Hán, ai đã từng phiêu lãng.

(Thước kiều tiên là một điệu từ. Nguyên thủy nó là điệu từ về câu chuyện Ngưu Lang - Chức Nữ, Thước kiều tiên nghĩa là tiên trên cầu Ô Thước).

73

Tháng mười năm Tân Dậu, Nguyễn Văn Thành đánh đồn Chỉ Lư, đuổi quân Tây Sơn đến sông Tân An, phá hơn hai mươi đồn.

Nguyên Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng sau khi lấy được thành Bình Định định đắp lũy tại Vân Thê để chắn lối đến Thị Nại, thông với Phú Yên, tiến đến Hoa An, Hoa Lộc, nên đánh mạnh ở Sơn Chà. Nhưng không qua được đội quân của Nguyễn Văn Thành đóng ở núi Một, Trần Quang Diệu liền tung gần hai vạn quân về phương Bắc. Tại đây, Lê Văn Duyệt, Lê Chất và Tống Viết Phúc đã đánh vào Trà Khúc, bắt hơn ba ngàn người. Tuy nhiên, Tống Viết Phúc lại bị phục binh của Từ Văn Chiêu giết chết, ngăn đường tại Mỹ Á. Từ Văn Chiêu đem hai ngàn quân định đánh úp Lê Văn Duyệt nhưng thất bại. Trong lúc đó, Nguyễn Văn Thành phản công tại Tân An. Trần Quang Diệu cùng Võ Văn Dũng lại phải rút về. Quân bỏ trốn nhiều, kiệt quệ sau ba năm chinh chiến khiến Tây Sơn phải vét dân trong vùng Bình Định chống cự. Lê Văn Duyệt, Lê Chất thừa cơ chiếm được núi Phong Yêu.

Khi ấy, chúa Nguyễn cũng thu được thêm hơn năm vạn quân Tây Sơn cùng quân dân tình nguyện gia nhập.

Nghe tin thắng trận, vị chúa liền truyền dụ cho các tướng: “Phủ Quy Nhơn là dân cũ của ta, từ Tây Sơn tụ hội ở đó, ức hiếp dân phải theo, nhưng dân còn giữ được bản tánh, chưa mất lương tâm. Khi ta duyệt binh năm Qúy Sửu, vây thành năm Ất Vị, dân đều hết sức theo ta, khiến giữ trong thành hơn một năm, nếm đủ mùi cay đắng; cá chậu chim lồng, không đường bay nhảy cho thoát. Bây giờ Tây Sơn lại thải người già, lựa người mạnh, bắt lương dân phải theo vòng tên đạn. Thế dân không biết nên làm sao được, tình rất nên thương. Từ rày về sau gặp quân giặc, mà chư tướng giết tại trận thì không kể; như bắt được tại trận thì không cần tra xét gì, hễ người Quảng Nghĩa trở ra thì cho lưu dụng, người Quy Nhơn trở vào thì cấp tiền gạo cho về. Ấy là nghĩa phải đánh mà nhân thì nên thương vậy. Nếu ai cố ý giết càn, sẽ theo phép quân trị tội.”

Tờ phủ dụ vừa được đưa đi ngày hôm trước, vài hôm sau tin báo quân Tây Sơn đánh lũy Trấn Ninh tại Nghệ An đã báo đến Phú Xuân.

- Ồ, chúng đến rồi à? – Đặng Đức Siêu vừa hỏi vừa cầm lấy tờ sớ báo tin từ Nguyễn Văn Trương chuyển đến. Ông ta nghiêng đầu đọc. – Ba vạn quân vừa tới hợp với quân đã có sẵn ở Nghệ An. Cả đội thuyền nữa, chúng kiếm ở đâu ra vậy?

- Ta để lọt mất một tên chỉ huy của chúng, Trịnh Thất. – Chúa Nguyễn ngả đầu vào bàn tay chống lên tay ghế mà nhìn viên Tham mưu. – Bọn hải tặc lại đang quấy rối nhà Thanh. Tháng rồi chúng vừa đánh Ngô Xuyên, lan đến Thủy Động ở Quảng Đông. Tây Sơn chắc lại đứng sau tất cả những việc này. Chúng đang cần tiền lẫn vũ khí cho chiến tranh. Bọn Tàu Ô mà ta quyến dụ được ở Bắc Hà bảo rằng kẻ nắm quyền điều khiển vùng biển ấy bây giờ là Trịnh Thất. Khi Quang Toản chạy ra Thăng Long, hơn năm mươi thuyền Tề Ngôi cũng chạy theo hắn, giờ chắc đã nhập đoàn cùng với Trịnh Thất rồi. Nhà Thanh không kiểm soát được vùng Quảng Tây, Quảng Đông, ta thì không tiện vào lãnh hải của họ. Đánh tan Tàu Ô ở phương Nam, chúng kéo về tấn công phía Đại Thanh, chiêu tập lực lượng trở lại. Đám u nhọt này mãi vẫn không dứt được.

- Thế thì cũng khá phiền cho ta đây. – Đặng Đức Siêu săm soi tờ sớ như thể đọc thêm được gì sau những hàng chữ. – Chúa công đã cho củng cố lại lũy Trấn Ninh, nhưng mấy chục năm bỏ hoang, lũy hư hại nhiều rồi. Vả lại, năm xưa thủy quân của Trịnh yếu, chúng không vượt qua được lối bị chắn ở sông Nhật Lệ, có lần bị sa vào vũng lầy ở Võ Xá, lần nào tấn công cũng không thành. Nay đại quân ta ở hết tại Bình Định, chỉ có thủy quân của Nguyễn Văn Trương trấn giữ sông Gianh. Tây Sơn lôi kéo được bọn Tề Ngôi trở về, thế trận không biết thế nào.

- Tất nhiên thủy quân của ta sẽ không thua. – Chúa Nguyễn ngả người ra sau, hai tay để trên tay ghế. – Nhưng quân thủ lũy thì thật rất đáng lo. Ta cũng không thể nhờ vào lực lượng tại Nghệ An được nữa. Vừa rồi quân của Lưu Phúc Tường hợp cùng Chiêu Ấn đánh vào La Sơn, Hương Sơn. Tuy phá được quân Tây Sơn ở Tam Thoa, giết được Đô đốc chúng ở thành Lục Niên, huyện Thanh Chương, nhưng Tây Sơn đốt hết nhà dân làm kế đồng không nhà trống, quân Vạn Tượng phải rút về. Lưu Phúc Tường lại phải về sông Gianh rồi.

Các đại tướng của ta đã ở hết tại Bình Định. Chắc hẳn Tây Sơn đánh lần này để bắt ta phân tán lực lượng, chừa đường sống cho Diệu, Dũng. Nhưng ta vừa thu được hơn năm vạn quân, cũng chẳng túng người lắm. Đại tướng thiếu thì ta thân chinh đi vậy.

- Quân Bắc Hà lạ lẫm, ta chưa đối phó bao giờ, chưa biết thế nào, ngài thân chinh e rằng qúa nguy hiểm. – Đặng Đức Siêu thận trọng nói. – Vạn Tượng lẫn các thổ hào, thân tộc nhà Lê đánh vài mươi năm mà vẫn không được, đội quân Bắc Hà cũng không chỉ có hư danh. Ba vạn quân này là tinh nhuệ của ba trấn Bắc Hà. Nay ngài đến lũy Trấn Ninh, lũy tuy chắc chắn, địa thế tuy hiểm trở mà không voi không ngựa, không tướng không soái, chỉ dựa vào đội quân thủ lũy rồi chờ Nguyễn Văn Trương đánh vào – Chúa công, liệu có qúa liều không?

- Quang Toản lẫn Quang Thùy chỉ là bọn trẻ con, ta lại không đối phó được với chúng à? – Chúa Nguyễn cười. – Chúng đến bây giờ chính là hợp ý ta. Chúng cứ tưởng lặp lại được cảnh ta vây Bình Định – chúng xâm Trấn Ninh, thế rồi ta phải hàng. Đó là triều Nguyễn ba mươi năm trước, không phải bây giờ.

- Vậy ngài có đối sách gì, chúa công? – Đặng Đức Siêu kiên nhẫn hỏi. Chúa Nguyễn nhịp ngón tay lên thớ gỗ, ngoảnh nhìn trời. Bầu trời Phú Xuân mùa đông mờ mịt mây mù, lúc nào cũng như có vẻ sắp đổ mưa.

- Trước khi đi, ta quật mộ Nguyễn Huệ lên. – Ngài ta cười với đám mây trời. – Có bao nhiêu lăng mộ của Tây Sơn tại Phú Xuân, quật hết lên.

Ngày đầu tháng mười một năm Tân Dậu, trong mùa nước ngập trắng các đồng thấp tại Phú Xuân, quân Nguyễn lại vác cuốc xẻng về phía núi, đem theo cả thuốc nổ. Chẳng khó khăn để chúa Nguyễn truy ra khu chôn cất hoàng thất Tây Sơn từ những vị quan về hàng. Những chiếc búa tạ nhanh chóng đập nát tường, bia đá, những chiếc xẻng xới tung mặt đất. Những chiếc quan tài gỗ được lôi lên trong lăng Nguyễn Huệ và bà Chính cung Tây Sơn họ Phạm, đưa về cung Dương Xuân. Những lăng mộ sau lúc bị tàn phá liền cho thuốc nổ giật sập thành bình địa.

Trước mặt chúa, người trưởng nhóm cậy đinh đóng nắp quan tài, mở ra. Trái ngược với sự chờ đợi của người xung quanh về mùi mốc của tử khí trong quan, người ta chỉ thấy hương tanh tanh ngai ngái, dường như là trầm hương kết hợp với vài loại thảo mộc nào đó và mùi da thịt ung ủng. Hai thi thể nằm trong quan tài vẫn còn nguyên da thịt, tuy làn da tái xám, bì bì như sáp, có vẻ hơi teo tóp. Cảnh tượng ấy khiến những người mở áo quan trong một thoáng mà thất kinh lùi lại.

- Lại có trò này nữa. – Chúa Nguyễn nghiêng đầu nhìn vào áo quan, cười khẽ. – Ta nghe các giáo sĩ Bắc Hà kể rằng dân chúng phải đi cống nộp trầm hương, vải, sáp, nhựa trám… để ướp xác, hóa ra là thật. Thế càng tiện cho ta. Lôi chúng treo trước chợ để mọi người nhìn cho rõ.

À, ta cũng phải góp một tay chứ. – Vị chúa vừa nói vừa đưa tay cho người bên cạnh. Biết ý, người ấy đưa cho ngài ta một ngọn roi. Trong tiếng rít lạnh người, ngọn roi quật thẳng vào thi thể Nguyễn Huệ, làm rách toác cả bộ long bào trên thi hài. Vài nhát roi nữa được tung ra, cho đến khi trên khuôn mặt lẫn thân thể người chết in hằn dấu roi khắp nơi.

Vị chúa ngừng tay, quan sát thành qủa của mình rồi vứt roi cho người tùy tùng. Được rồi, treo lên đi, ngài ta nói. Cẩn thận, đừng để lớp sáp tróc hết ra, ta còn phải dùng cái xác này lâu dài.

Rồi ngài ta bỏ đi luyện quân.

Khi hai cái xác còn lủng lẳng đầu chợ Phú Xuân, đoàn quân do chúa Nguyễn dẫn đầu xuất phát về phương Bắc. Đầu tháng mười hai, ngài ta đến Đồng Hới, nơi Nguyễn Văn Trương và Đặng Trần Thường đang đóng đồn trấn giữ. Tống Phúc Lương đem thuyền binh đến sau đó. Quân Nguyễn chỉ chăm chú thủ lũy, không tiến đánh.

Đầu năm Nhâm Tuất, Tây Sơn tấn công. Tiết chế Quang Thùy và Tổng quản Siêu đánh lũy Trấn Ninh; Tư lệ Đinh Công Tuyết, Đô đốc Nguyễn Văn Kiên đánh núi Đâu Mâu; Thiếu úy Đặng Văn Đằng và Đô đốc Lực đem một trăm thuyền Tề Ngôi chắn cửa sông Nhật Lệ.

Nguyên hệ thống lũy tại Nghệ An do Đào Duy Từ xây dựng có ba phần: Lũy Trường Dục được xây đầu tiên, từ núi Thần Đình chạy dọc hữu ngạn sông Rào Đá, men theo phía Nam sông Nhật Lệ đến động cát của phá Hạc Hải. Lũy Trường Dục xây theo kiểu chữ Hồi, ngoài có thành bao; trong có doanh trại, công sự, kho tàng xây theo lối chữ Dĩ liên hoàn chặt chẽ với phía ngoài. Lũy dài hai ngàn rưỡi trượng, dày trượng rưỡi, cao một trượng. Rồi sau này, Đào Duy Từ xây thêm lũy Đâu Mâu và Nhật Lệ bao bọc phần chân núi Đâu Mâu và cửa sông Nhật Lệ. Lũy Trường Sa được xây sau cùng khép chặt vùng cát Bảo Ninh. Như vậy, từ sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu dài hàng chục dặm đã bị hàng lũy phong tỏa hoàn toàn.

Chúa Nguyễn để Đặng Trần Thường và Phạm Văn Nhân chia quân đặt súng bắn đá và đại bác trên lũy chống cự, Nguyễn Văn Trương ra cửa Nhật Lệ đánh Tề Ngôi, còn đích thân vị chúa lên núi Đâu Mâu chỉ huy. Ngài ta cho kéo cờ vàng rợp mỏm núi. Núi Đâu Mâu cao hàng trăm trượng, thẳng và nhọn như một ngọn bút, sừng sững giữa bình nguyên núi của dãy Trường Sơn Bắc. Bóng cờ vàng, do đó, nổi bật lên trên nền trời.

Không đánh được lũy Trấn Ninh, quân Tây Sơn liền tập trung về Đâu Mâu. Bùi Thị Xuân hộ giá Quang Toản đốc quân đánh lũy. Dựa vào sự nhanh nhẹn, quân Tây Sơn nhảy tránh những hòn đá lăn hay hướng súng đại bác, áp sát vào tường lũy mà trèo lên. Hết lớp này đến lớp khác lao vào, tường lũy dưới chân núi Đâu Mâu bị quân Tây Sơn tràn qua. Voi phá sập vài đoạn lũy. Đoàn quân này áp sát chân núi, định leo lên. Phía trên, quân Nguyễn lấy đá lăn xuống. Quân Đô đốc Nguyễn Văn Kiên liền tính đi đường vòng qua mặt sau núi.

Nhưng tại đây, tình hình trên mặt nước đã thay đổi. Một trăm thuyền Tề Ngôi bị Nguyễn Văn Trương dễ dàng đánh hạ. Từ cửa Nhật Lệ, thủy quân Nguyễn dàn khắp mặt sông sau lưng Tây Sơn, lấy súng bắn vào. Quân Tây Sơn, trước thì vướng lũy Trấn Ninh, sau thì bị quân Nguyễn vây bọc, nhanh chóng tan vỡ. Quang Toản không đợi Bùi Thị Xuân, vội vã cho lệnh lui binh. Ở sau núi Đâu Mâu, Nguyễn Văn Kiên gặp quân Nguyễn đã phục kích sẵn, phải đầu hàng. Ba vạn quân Tây Sơn chạy tứ tán mà thoát thân. Nguyễn Quang Thùy Và Đinh Công Tuyết đưa quân vòng về phía núi, trong khi Bùi Thị Xuân đưa Quang Toản vượt sông về Đông Cao, khốn đốn để thoát qua vòng vây quân Nguyễn đã giăng đến tận Linh Giang.

Trên đỉnh Đâu Mâu, chúa Nguyễn quan sát cảnh tượng ấy bằng cái nhìn nửa phần thích thú nửa phần trầm lặng. Ngài ta vẫn trầm lặng kể cả khi vị giáo sĩ Tây dương mà ngài ta đem theo bên cạnh là Bissachère lo lắng ra mặt khi quân Tây Sơn định trèo lên núi. Ngài ta nheo mắt về phía xa, nơi mặt trời đã lên rồi đang ngả bóng trượt theo dòng sông. Vừa qúa trưa, quân Tây Sơn đã chạy gần như mất dấu khỏi lũy, chỉ còn những người bị thương và bị bắt. Mặt trận trên sông vẫn còn nhộn nhạo. Tiếng súng vẫn ì ầm cùng tiếng nước động. Những con voi bị bỏ lại đang còn cố vùng khỏi thòng lọng của các tay quản tượng mới.

Vị chúa cũng chỉ gật đầu khi nghe báo cáo đã bắt được Nguyễn Văn Kiên cùng tám ngàn quân. Ngài ta đi lại phía chiếc bàn được bày dưới cái lọng vàng, rót ra một ly trà, đưa cho vị giáo sĩ.

- Hình như đây là đầu tiên ông tham trận? – Vị chúa hỏi ông giáo sĩ với một nụ cười thoáng qua. Với sự lo lắng bối rối đến mức mồ hôi chảy ròng ròng trên khuôn mặt Biassachère, vốn dĩ ngài ta cũng không cần câu trả lời đã qúa rõ ràng.

- Vừa rồi thật là nguy hiểm. – Bissachère đón ly trà, vẫn còn chưa hoàn hồn. Vị chúa mỉm cười.

- Ngày xưa Bá Đa Lộc thủ thành Diên Khánh, đem ba ngàn quân đương đầu với bốn vạn quân mà sắc mặt không hề đổi. – Ngài ta nói với cái thở dài. – Bây giờ chỉ là một bọn phụ nữ trẻ con, có gì đáng sợ?

Ngài nói thế chỉ vì ngài đã thắng, ông giáo sĩ nghĩ thầm nhưng ông ta biết chắc chắn mình không nên nói ra. Như nhận biết cái ý nghĩ ấy trên mặt ông ta, vị chúa vừa đưa ly trà lên môi vừa nghiêng đầu ngắm những dãy núi chập chùng.

- Tôn tử binh pháp nói: Thắng một trận mà thiên hạ gọi là giỏi thì cũng chưa gọi là giỏi trong những người giỏi. Đội quân chiến thắng bao giờ cũng tạo điều kiện để thắng, sau mới giao tranh; đội quân chiến bại thường giao tranh trước, sau mới tìm chiến thắng bằng sự cầu may.

Thế nên bách chiến bách thắng cũng chưa phải cách sáng suốt trong sự sáng suốt. Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt.

Đánh thành là biện pháp bất đắc dĩ. Tướng sốt ruột xua quân đánh thành, thương vong ba phần mất một mà vẫn chưa hạ được.

Ngài ta nói và thủng thẳng cười. Ngồi xuống tảng đá trên đỉnh núi, ngài ta khoanh chân quan sát cảnh tượng sau trận chiến. Quân của ngài ta bây giờ mới đi ra khỏi lũy hay xuống thuyền. Một vài tổn thất xảy ra khi vài đoạn lũy bị phá vỡ. Nhưng trên nền đất chỉ rải đầy xác quân Tây Sơn cùng vô số hỏa pháo, đại bác, súng ống và vũ khí mà đoàn quân chạy loạn vứt lại. Tiếng súng vẫn ầm ì trên các đoạn sông.

- Khi đánh thành thì không nên sốt ruột. – Ngài ta quay lưng về phía người giáo sĩ mà nói. – Khi sốt ruột, người ta sẽ không tính toán đến các khả năng khác, do đó, luôn phạm sai lầm.

Vị giáo sĩ hình như vẫn không hiểu được điều mà vị chúa đang nói. Ngài ta cũng chẳng để tâm. Đang vào cuối mùa đông, gió phương Bắc lạnh buốt thổi như dao cắt trên đỉnh núi. Dưới chân núi, đoàn người của Nguyễn Văn Kiên bị đang đưa ra trước, chờ đợi vị chúa. Ngài ta cũng chẳng để tâm đến họ. Ngài ta nhìn ra dòng sông tràn ánh nắng lạnh như đã biến thành một vệt băng mỏng chia thành hai khúc rồi hợp lại đổ ra biển. Mặt trời mùa đông toả ánh sáng trắng như phủ một làn sương mờ lên cảnh vật. Dải Trường Sơn Bắc hùng vĩ núi non trùng điệp trải dài hút mắt. Vị chúa đi về phía trước, đầu mỏm núi. Những ngọn cỏ mỏng manh còn cố bám trụ cho qua mùa đông lắt lay bên cạnh, vướng vào vạt áo choàng của ngài ta. Gió mạnh đến mức Bissachère trong một thoáng còn định gọi ngài ta trở lại.

- Chúng ta xuống thôi. – Ngài ta nói, một lúc sau. Giọng nói của ngài ta chợt mất đi sự phấn khích ban nãy. Những người lính đã tê cóng trong gió dường như chỉ đợi đến lúc ngài ta ra lệnh để cuốn cờ, dọn dẹp nơi đóng quân. Những quân tướng được bố trí canh phòng tại thân núi đã xuống dưới từ lâu, hợp lực cùng quân mai phục giải giáp đoàn quân mới bắt được. Chỉ trong vài giờ, khu chiến trường vừa vang động đã trở thành một bãi ngổn ngang.

Đặng Trần Thường từ đầu Nhật Lệ phi ngựa lại báo rằng đoàn quân của Nguyễn Quang Thùy đã trốn thoát. Vị chúa gật đầu.

- Để các Man trong vùng lùng tìm, ta không cần phải liều mạng đuổi theo. Vùng rừng núi này, có đuổi cũng không được.

- Còn Quang Toản thế nào rồi, chúa công? - Đặng Trần Thường tuột xuống ngựa, đi theo vị chúa đến trước đám hàng binh.

- Nguyễn Văn Trương đang đuổi theo. – Ngài ta đang chú tâm nhìn đám hàng binh, giọng nói vẫn thoáng ơ hờ. Ngài ta không nhận ra ánh mắt của Đặng Trần Thường. Lại một viên hàng tướng, suýt nữa anh ta đã buột miệng. Tuy Nguyễn Văn Trương là hàng tướng khiêm nhường nhất, lập công lớn nhất, viên Tán lý khe khắt này vẫn cảm thấy không yên tâm.

- Khanh làm tốt lắm. – Vị chúa nói qua vai. Lần này ra quân, ngài ta chỉ có hai viên quan văn kiêm nhiệm quan võ là Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường làm tướng. Lời nói ấy, do đó, có vẻ rất thật lòng. Đặng Trần Thường nở một cái cười nhàn nhạt.

- Chúa công thu hút đại quân chúng về núi Đâu Mâu rồi, việc của chúng thần cũng không phải là quá khó. Nhưng mà… - Anh ta nhìn quanh, quan sát khung cảnh đổ nát của chiến lũy dày hàng trượng. – Chúng công kích mạnh như thể định liều chết hay sao thế?

- Chúng quả thật định liều chết với ta. – Vị chúa bật ra một tiếng cười. Đặng Trần Thường đưa mắt nhìn ngài ta, gần như hiểu ra ngay lập tức ý ngài ta định nói. Giết hai đứa con trai Nguyễn Huệ ở Gia Định, giết cả con tin được đưa đến Bình Định ngay sau khi Bình Định thất thủ. Những cuộc thanh trừng lần lần, chậm chạp hoàng thất Tây Sơn khiến bất cứ kẻ nào thuộc về phía bên kia cũng sẽ phải phát điên. Và trước khi ngài ta đi, hài cốt Nguyễn Huệ cùng vợ bị quật lên, treo trước chợ. Ngài ta quả thật không việc gì không dám làm – Và không làm việc gì vô lý.

Trên đỉnh núi Đâu Mâu cao ngất lại giăng cờ vàng rợp trời, đến cả anh ta đứng ở Nhật Lệ cũng phải thấy thấp thoáng. Sự phô trương quá mức này khiến anh ta cũng phải đâm sợ cho vị chúa trên đỉnh núi. Nhưng hình như điều đó hoàn toàn không cần thiết.

- Phải đến cả ngàn đại bác ngoài kia. – Đặng Trần Thường nói một câu nhận xét thay thế. – Nghe nói rằng chúng tập trung quân của cả ba trấn Bắc Hà đến. Lần này mất hết cả quân lẫn vũ khí như thế, chúng thật nguy to rồi.

- Điều đầu tiên cần nhớ trong dụng binh là đánh cốt để không thua, chứ không cố giành phần thắng. – Vị chúa nhìn theo ánh mắt Đặng Trần Thường đến đám ngổn ngang bên ngoài. Đám đông vẫn ồn ào huyên náo quanh họ, dọp dẹp những gì được bỏ lại. – Nếu muốn làm thanh thế giải vây cho Bình Định, chúng ít ra phải tìm cách đe dọa được ta chứ không phải quyết giết ta cho bằng được. Dồn hết sức vào một trận, dồn hết quân vào một địa điểm, cả vua lẫn quan Tây Sơn thật lú lẫn cả.

Vì ngài ta đã nói bằng giọng hết sức bình thản dửng dưng, Đặng Trần Thường cố gắng để nén một cái cười.

Vị chúa đi về phía đám hàng quân, để anh ta ở lại. Nhìn theo ngài ta, Đặng Trần Thường không khỏi gợn lên trong lòng chút e dè. Khi anh ta đến Gia Định lần đầu, ngài ta không có thái độ này, hoặc là, trạng thái này. Trong suốt những năm tại Gia Định, anh ta chưa bao giờ thấy ngài ta thực sự tàn nghiệt, dù nghiêm khắc. Đối với cả những hàng quân, hàng tướng, ngài ta dường như cực kỳ bất đắc dĩ mới phải trừng trị kẻ phản loạn. Bây giờ cũng vậy, những lệnh truyền tha cho quân dân được ban ra liên tiếp, với từng chặng đường mà quân Nguyễn tràn tới. Không được giết người, dường như ngài ta muốn thực hiện cuộc chiến tranh kỳ quái như vậy. Nhưng đồng thời, cùng lúc với sự khoan dung nọ, là những hình phạt tàn khốc lẫn những hành động không hề nương tay với hoàng tộc Tây Sơn.

Không nương tay, hoặc là, không gì ngài ta không dám làm.

Những oán thù đang được từ từ khơi dậy, cuộn xoáy trong lòng mọi người mọi kẻ. Ngay cả Tây Sơn. Lao vào lũy với máy bắn đá và súng thần công để phá sập cả lũy, kẻ đứng đầu đám quân Tây Sơn này qủa thật đã mờ mắt vì oán hận. Dốc hết quân vào một đoạn lũy, để rồi khi Nguyễn Văn Trương quành lại phía sau bao vây, tất cả đã lọt bẫy đến mức không còn đường lùi, rối loạn đến mức không còn có thể ứng phó nổi.

Lũy Trấn Ninh này, nơi quân Nguyễn từng nhiều lần đánh hạ Trịnh không nhờ vào quân số hay lực lượng mà dựa vào địa hình. Trong vùng thung lũng sông Nhật Lệ, Bắc Trường Sơn, dựa vào thế lũy, thủy quân Nguyễn men theo dòng sông mà dồn ép quân Trịnh lúc thì vào đầm lầy, lúc thì vào bẫy sập. Tây Sơn đáng lẽ nên biết điều đó. Tinh hoa của lũy Trấn Ninh không chỉ là sự vững chắc của nó, mà là ở sự kết hợp phức tạp và tinh tế của lũy với núi, với sông, đầm, cồn cát, hoang mạc, sự kết hợp hoàn hảo của nó với thủy quân. Thủy quân – lực lượng quân đội tinh nhuệ nhất của nhà Nguyễn.

Nguyễn Văn Trương đã được phong Quận công, ngay sau cái chết của Võ Tánh, có thể chính vì sự quan trọng của đội thủy quân. Lúc ấy, mọi người đã nghĩ rằng viên hàng tướng này sẽ thay thế vị trí của Tham thặng tướng quân. Nhưng không, một thời gian ngắn sau đó, chúa Nguyễn đã phong cả Nguyễn Văn Thành lẫn Lê Văn Duyệt làm Quận công. Vậy là ba viên tướng nắm ba mặt trận hiểm yếu nhất đã cùng lúc được vinh danh. Kẻ nắm mặt trận Bắc Hà lúc này là một tướng thủy quân. Để đối phó với Nguyễn Văn Trương, Tây Sơn lại chỉ có một trăm thuyền. Qúa khinh suất, hoặc là qúa thiếu thốn.

Chỉ một trận, ba vạn quân đã bị tiêu diệt. Đặng Trần Thường khoanh tay nhìn đám hàng quân đang được dẫn ra. Viên hàng tướng đã qùy xuống trước chúa Nguyễn quy phục. Môi vị Tán lý họ Đặng khẽ nhếch lên thành một cái cười mai mỉa. Dù đã chứng kiến bao nhiêu lần, anh ta vẫn không thể nào quen được với sự qụy lụy theo thời nhục nhã này.

Vị chúa sẽ tha cho chúng, sẽ thả các hàng binh đi, chỉ giữ lại người Bắc Hà cho quan tướng sai việc, Đặng Trần Thường biết trước những gì ngài ta sẽ làm. Qủa là họ đang cần người Bắc Hà, rất cần. Nguyễn Văn Trương qua nửa năm quần thảo trên vùng sông biển Nghệ An cũng đã quen với vùng này, nhưng xa hơn nữa là đất mà quân miền Nam chưa hề biết tới. Khí hậu này cũng là điều họ chưa hề biết tới. Khí lạnh đã gây ra khá nhiều phiền toái, và miền Nghệ An khắc nghiệt không thể ở lâu.

Trong nửa năm vừa rồi, quân Nguyễn đã tập trung cả ở thành Bình Định, chỉ có nhóm quan Bắc Hà được chuyển về đây để chuẩn bị chiến tranh. Nhưng tất cả còn đang chờ đợi. Đại quân còn ở Bình Định, việc tiến chiếm Bắc Hà còn chưa thể bắt đầu. Dù chúa Nguyễn đã gửi thêm một viên Chiêu thảo sứ nữa đến Thanh Hóa, hợp sức cùng các thổ hào, thổ mục đánh phá, các nhóm chống đối tại Bắc Hà dường như đã kiệt lực sau mấy mươi năm, chỉ có thể tạo thành vài cuộc nổi dậy nhỏ.

Cho nên, không lạ khi câu đầu tiên vị chúa nói khi đến Đồng Hới: “Ta phải tiêu diệt hết đội quân này”. Lúc ấy, trong lòng Đặng Trần Thường đã thoáng gợn lên ý nghĩ rằng ngài ta đã chờ đợi đại quân Bắc Hà đánh xuống hơn là đem quân đến Bắc Hà chinh phạt. Ngài ta còn có vẻ mừng là đại quân Bắc Hà đã chủ động đánh xuống – Đem nộp mình vào bàn cờ lũy Trấn Ninh. Lũy Trấn Ninh, thành trì kiên cố, vững chắc nhất của nhà Nguyễn thời hưng thịnh.

Tiếng lao xao vọng lên từ phía hàng binh. Nguyễn Văn Kiên đã báo cho vị chúa về thuyền lương Tây Sơn đang ở sông Gianh. Ngài ta lập tức phái người đi báo cho đội thuyền đã phục sẵn ở cửa sông, nơi giao nhau của các dòng nước.

Đặng Trần Thường nheo mắt, rồi nhìn về phía mặt trời chiều đang lửng lơ trên đỉnh núi. Mặt trời mùa đông như một quầng sáng bạc không đủ cho người cảm thấy chói mắt. Giờ thì anh ta nghĩ mình có thể gọi chính xác cảm giác mà mình thấy ở vị chúa lúc này. Sự tàn nghiệt của ngài ta lẫn sự khoan dung của ngài ta.

Phải thắng, bằng bất cứ giá nào.

Cuộc chiến này đã kéo qúa dài. Đã gần bốn năm chiến tranh liên tục, nơi nơi đã bị vắt kiệt. Cả Chân Lạp cũng đã trở thành nguồn cung cấp quân lương cho Gia Định. Cuộc chiến này đã qúa dài. Ba mươi năm, hay là hơn hai trăm năm? Bây giờ, đứng ở bờ sông Nhật Lệ nhìn về mảnh đất phương Bắc, vị quan xuất thân Bắc Hà không tránh khỏi bồi hồi.

Nhật Lệ, ánh mặt trời rực rỡ, tên dòng sông đã được đặt khi người Việt vượt qua ranh giới của Chiêm Thành lần đầu. Dòng sông phản chiếu ánh mặt trời, hợp rồi chia tiến về phía biển. Mặt trời mỗi ngày mọc lặn từ phía này sang phía bên kia dòng nước. Ánh rực rỡ như hào quang phát ra từ trong lòng đất. Như một nhát chém, thoáng qua và vĩnh viễn hằn sâu. Từ ngày quân Lý tiến vào cửa biển Nhật Lệ, người Việt đã vĩnh viễn khắc một vết hằn vào lịch sử của mình. Từ ngày nữ tù nhân Chiêm Thành ấy nhảy xuống dòng sông, nước mắt đã chảy trôi suốt một quãng đường dài.

Những người lính đang khiêng súng ống mà Tây Sơn bỏ lại đưa vào lũy. Những người khác đi dọn dẹp xác chết và người bị thương đang nằm trên đất. Tiếng súng thỉnh thoảng vọng lại từ phía xa. Cuộc truy đuổi vẫn còn tiếp tục.

Nghệ An đã hoang tàn sau những cuộc chiến lớn nhỏ kéo dài. Ngoại trừ vùng tranh chấp Trịnh – Nguyễn này, các vùng đất khác cũng đã bị hủy hoại. Hương Sơn, La Sơn đã bị Tây Sơn đốt trụi để ngăn quân Vạn Tượng. Sau lần Nguyễn Huệ đánh Vạn Tượng bắt nộp cống rồi bị Vạn Tượng đánh bại, tranh chấp không bao giờ hết. Châu Vạn Ninh, trấn An Quảng đã trở thành căn cứ địa của Tàu Ô, trộm cướp không giờ ngớt. Vết đổ nát kéo dài, mười năm ấy cho đến bây giờ.

- Đặng Tán lý. – Chúa Nguyễn gọi, lại gần Đặng Trần Thường. – Bây giờ việc ở đây đã tạm ổn, ta thu xếp xong sẽ trở về Phú Xuân ngay. Ta đã đi cả vài tháng rồi, chỉ có Quốc thúc ở lại giữ thành coi việc. Quân của Bắc Hà đã bị đánh bại, ta chắc bọn Diệu, Dũng cũng chẳng còn trụ lâu ở Bình Định được nữa. Ta sẽ để lại hầu hết quân cho Đặng Tán lý cùng các tướng chuyên tâm canh giữ nơi này.

- Vâng, thưa chúa công. – Đặng Trần Thường cúi đầu. Ngẫm nghĩ một lát, anh ta nói. – Sau khi giải quyết xong Bình Định, ta sẽ tiến đánh Bắc Hà chứ?

- Tất nhiên. – Chúa Nguyễn nhìn Đặng Trần Thường ra vẻ khó hiểu với câu hỏi này. – Ta sẽ giải đám tù binh này cho bọn ở Bình Định biết. Vừa mới qua mùa đông, Bình Định không thể kham nổi việc cung cấp lương cho chúng đâu. Ta đánh mạnh vào, chúng không đánh mà tan ngay thôi.

Rồi chúng ta sẽ ra Bắc Hà. – Ngài ta chợt cười. – Ta muốn đến thăm mộ tổ tông một lần. Đặng Tán lý cũng muốn về nhà chứ?

- Không phải chỉ có thế, chúa công. – Đặng Trần Thường vội nói. Nhưng vị chúa vẫn chỉ cười.

- Ta cho rằng người người có thể về nhà khi muốn về, đến nơi nào thì đến, không phải phiêu dạt nữa, ấy là một đất nước đáng mơ ước rồi. – Ngài ta nói, vỗ vai Đặng Trần Thường rồi quay đi. – Ta sẽ đưa các khanh về nhà.

Đặng Trần Thường vẫn nhìn theo vị chúa khi ngài ta gọi người đem ngựa đến để đi xem lũy. Lần này, anh ta lại nghĩ mình đã nhận ra điều gì đã thoáng qua trong mắt ngài ta. Một điều gần như là nỗi buồn.

Chúa Nguyễn cùng đoàn tùy tùng lên ngựa đi dọc theo lũy Trấn Ninh, theo phía dòng sông chảy ra biển. Quân Nguyễn sau trận đánh vẫn còn đang dọn dẹp. Lũy vài chỗ bị vỡ tuy không đáng kể. Vài cuộc vây bắt quân Tây Sơn trốn nấp vẫn đang diễn ra. Vài người tù nhân vẫn còn đang bị trói dựa vào dưới chân lũy. Chiều đang xuống rất nhanh trong khí lạnh mùa đông. Trong lũy, quân lính đã đốt lửa để sưởi ấm. Màu lửa nhạt nhòa trong bóng chiều.

Ngài ta đi ngang qua một toán tù nhân nhỏ. Hai cô gái ngồi lẫn trong đó. Một cô không thể ngăn được mà tấm tức khóc. Cô kia đang quắc mắt nạt.

- Trước mặt kẻ thù sao lại khóc? Sao lại hèn thế? Hèn thế thì chết đi! – Vừa nói, cô ta vừa lấy chân đạp lên chân người bạn khi hai tay đã bị trói. Vị chúa cho ngựa dừng lại.

- Ta cho rằng yêu qúy tính mạng không phải là nhút nhát, còn khinh thường tính mạng cũng không phải là dũng cảm. – Ngài ta chợt cất tiếng, làm nhiều người phải giật mình mà quay nhìn. Ngài ta mỉm cười trước cái nhìn của hai cô gái trẻ. – Nhất là, khinh thường tính mạng của người khác lại càng bất nhân.

Nếu muốn chết, cô nhảy vào lửa mà chết một mình đi, đừng bắt người khác phải chết cùng. – Ngài ta cười với cô gái quắc mắt với mình. – Giết một người như thế thì cũng bẩn kiếm của ta lắm.

Với một cái vẩy nhẹ của cành cây mềm được dùng làm roi ngựa trên tay vị chúa, những người lính bên cạnh nắm vai cô gái, đẩy đến đám lửa lớn đang được đốt trong bãi. Cô ta kinh hoảng nhìn đám lửa, cố vùng ra khỏi tay những người đang giữ. Ngài ta gọi họ dừng lại khi vạt áo của cô ta bắt lửa.

- Cô bảo mình muốn chết cơ mà. Lửa đấy, nhảy vào đi. Nếu cô nhảy, ta sẽ tôn trọng cô không biết chừng. – Vị chúa cười khẽ. – Còn không, thì ta khinh miệt loại đàn bà coi thường tính mạng của người khác.

Cô gái vẫn đứng yên, cắn môi nhìn đám lửa rồi cúi đầu. Chúa Nguyễn giật cương ngựa, tiếp tục đi mà không ngoái lại.

Khi ngài ta đến cửa sông Nhật Lệ, hoàng hôn đã buông. Hoàng hôn mùa đông ánh sắc vàng xen lẫn qua mây hồng. Cửa sông đổ ra biển ồn ào sóng vỗ, vẽ thành một khúc quanh trước khi trải đến mênh mông. Màu hoàng hôn vàng nhạt lạnh phủ trên vạn vật, hòa cùng màu cỏ xanh xám của mùa đông trên triền sông, màu nâu sẫm của núi, sắc bạc của dòng sông cùng màu ngà của mép bờ biển. Trong gió, trong sương, màu sắc ấy như xôn xao lay động. Ngoài vài chiếc thuyền của Nguyễn quân đóng tại bờ sông bên kia, không còn dấu vết của con người nào khác. Dướp mép nước vẫn còn vài mảnh gỗ vụn từ trận đánh hồi chiều bám vào, nhưng nước đã nhanh chóng cuốn hầu hết tàn tích về phía biển.

Vị chúa xuống ngựa, không vội gọi người coi sóc đầu lũy này đến. Tống Phúc Lương đã đi truy đuổi thuyền lương của Tây Sơn, đầu lũy này hoang vắng. Ngài ta biết rằng hoàng hôn mùa đông rất nhanh chóng qua đi.

Ngài ta leo lên một mỏm đá cao dốc thẳng xuống sông, đứng trên thành lũy mà nhìn ra cửa biển Nhật Lệ. Chậm rãi, ngài ta rút khẩu súng ngắn sau lưng, chĩa trên trời, bắn từng phát một. Áo chiến của ngài ta vẫn chưa cởi, phần phật bay trong gió. Những người bên dưới ngơ ngác nhìn lên, nhưng im lặng.

Bắn hết đợt đạn, ngài ta hạ súng, tuy vẫn nắm trên tay. Mắt ngài ta dõi vào ráng chiều đang dần phai cuối chân trời và dòng sông bạc. Ánh mặt trời sau những rặng núi hắt lại không đủ để thắp qua làn sương lù mù phủ trùm lên dòng sông.

- Tham thặng, ta đã tha cho binh lính Bình Định rồi, như vậy được chứ hả? – Ngài ta chợt thì thầm. Giọng nói lạc mất trong gió, ngay khi vừa thoát ra khỏi môi. - Chúng ta đã mơ đến cuộc chiến thiệt hại càng ít sinh mạng càng tốt, như vậy có ngốc nghếch không? Vì ta đã mơ đến điều đó, khanh mới phải chết, phải không?

Tham thặng, sau lần ấy, binh lính kéo về phía ta rất nhiều. Ta có thêm được năm vạn người nữa rồi. Tất cả là nhờ khanh.

Tham thặng, ta đã thắng ở Trấn Ninh, đã bao vây Bình Định. Ta đang đứng ở nơi ngày xưa quân Trịnh tràn qua, nơi bắt đầu cuộc lưu lạc của chúng ta. Rồi mọi việc sẽ kết thúc sớm thôi, Tham thặng. Cuộc chiến này sẽ kết thúc sớm thôi.

Bằng bất cứ giá nào, ta cũng bắt nó phải kết thúc.

Dù có phải trả cái giá nào, ta cũng bắt nó phải kết thúc.

Giọng nói của ngài ta lạc mất trong gió ngay khi được thốt ra. Nạp thêm một loạt đạn nữa, ngài ta lại hướng súng bắn vào bầu trời. Trong khoảnh khắc, bầu trời đổ sụp thành màu xám. Bóng tối thổi đến nơi ngài ta đang đứng, biến dòng sông thành một vùng tối bao la.

Từng tiếng súng nổ đanh trong thanh âm sông cùng biển ầm ào.

Trong trận đánh thuyền lương tại sông Gianh, quân Nguyễn bắt được Thượng thư Nguyễn Thế Trực và Đô đốc Trần Văn Mô của Tây Sơn. Chúa Nguyễn sai giải tất cả tù nhân ra Bình Định cho Tây Sơn biết.

Ngay sau đó, Lê Văn Duyệt hợp cùng Nguyễn Văn Thành dồn dập công thành Bình Định trong bảy ngày. Vùng Thị Nại, từ sông Dinh lên núi Kỳ Sơn bị quét sạch cho đến Vườn Cau. Lê Văn Duyệt, Lê Chất đánh vào Bến Đá. Thủy quân Nguyễn đổ bộ vào Tam Quan, Đề Di.

Ba đạo quân đồng loạt xông vào Bình Định. Tháng ba năm Nhâm Tuất, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng phải bỏ thành, đem ba ngàn quân cùng tám mươi voi chạy sang đường núi.

Nam Hà, từ Nghệ An đến Gia Định, đã hoàn toàn thuộc về nhà Nguyễn.

Chú thích:

Châu Vạn Ninh: Vùng Móng Cái ngày nay.

74

Thu phục được Bình Định, chúa Nguyễn sai người về Gia Định đón gia đình đến Phú Xuân.

Vương hậu đến tìm Ngọc Du trong buổi chiều ngày mà người vị chúa phái về đến cung. Nàng đã không đến nghe bản chỉ dụ của vị chúa, nhưng hẳn Từ phi đã báo cho nàng về ý định của ngài ta. Nàng không có vẻ ngạc nhiên khi nghe Vương hậu báo tin cả nhà sẽ về Phú Xuân. Nàng chỉ nhìn xuống thành. Họ đang ở trên tường thành, trong đài vọng gác khi cơn mưa đầu mùa đột ngột kéo đến. Chiều tối, bến cảng đã bắt đầu thắp đèn. Ánh sáng lọt qua các mái nhà, dưới những chiếc áo tơi của người đi lại, trong bóng tối xanh mờ trông như những con đom đóm màu cam.

- Ở gò Tre có loại bọ gọi là bọ lửa. – Ngọc Du vẫn nhìn theo những đốm lửa trên cảng mà nói, dường như chẳng để tâm đến lời Vương hậu. – Nó bay qua người thì da thịt bị phỏng, phồng rộp lên.

Vương hậu im lặng, chờ đợi. Nhưng nàng cũng không nói nữa. Một lúc sau, cô đành phải cất lời.

- Chị có về với chúng ta không? – Vương hậu hạ giọng, dường như sợ Ngọc Du lại phản ứng. Tính khí thất thường của nàng thì cô cũng biết rõ, và giờ thì càng tệ hơn. Nàng rời mắt khỏi bến cảng, liếc nhìn Vương hậu, hơi nhướng một bên mày.

- Nữ sanh ngoại tộc, ta về cũng có ở trong cung được đâu.

- Chị đừng nói thế. Chị là dòng dõi chúa công, không ai để chị một mình. – Vương hậu vội nói. – Chúng ta sẽ xây nhà cho chị, chu cấp cho tất cả mẹ con.

- Vậy thì ta cũng đâu cần phải về Phú Xuân. – Môi Ngọc Du hơi nhếch lên. Nàng lại nhìn ra màn mưa. – Tự điền cấp cho trung thần tuẫn tiết ở Gia Định này đủ cho mẹ con ta sống cả đời.

Giọng nói của Ngọc Du trầm tĩnh, gần như là bình thản. Nhưng một lần nữa, Vương hậu im lặng.

Đã gần một năm qua đi, những nỗi đau cũng đã lắng xuống, nhưng sự cay đắng còn mãi. Đã gần một năm qua đi, Ngọc Du ở hẳn trong cung, không trở về ngôi nhà cũ lấy một lần, cũng không bước ra khỏi thành. Con bé Hồi phải lấy chìa khóa của mẹ nó mà lo việc trong nhà. Lần nào từ nhà về cung, mắt nó cũng đỏ. Cháu biết tại sao mẹ không muốn về, con bé thút thít với bà ngoại. Lần nào nhìn thấy nhà mình, cháu cũng khóc. Chẳng còn ai hết, bà ơi. Chẳng còn ai hết.

Nhưng chị không thể sống ở đây được, Vương hậu muốn nói với Ngọc Du bây giờ. Không trở về nhà cũ, không bước chân khỏi thành, nàng vẫn còn đang trốn tránh. Và mảnh đất này đã chứa qúa nhiều cay đắng. Không chừng về Phú Xuân lại tốt cho nó hơn, Quốc mẫu nói với Vương hậu khi bà gọi cô đi nói chuyện với Ngọc Du. Chúng ta về Phú Xuân thôi, bà nói. Tất cả chúng ta. Cả Ngọc Tú lẫn Ngọc Du, cả gia đình của Cảnh. Muốn tu hành hay muốn xây nhà gì thì về Phú Xuân tính. Ta đã mất qúa nhiều ở Gia Định này rồi, ta không muốn mất thêm đứa con đứa cháu nào nữa. Ở lại đây, làm sao mà sống nổi?

Ở lại đây, làm sao mà sống nổi? Mảnh đất này đã chứa qúa nhiều cay đắng của họ. Không còn một mục tiêu, một ước vọng để ngóng đợi, trông chờ - khi mà cuộc chiến này đã sắp kết thúc, đã kết thúc với họ, làm sao để có thể chịu đựng ký ức trên mảnh đất này, trong những ngày bình yên? Trong những bình yên, chỉ có trái tim họ rỉ máu, nghe rõ thanh âm rên xiết giữa bóng tối mênh mông. Thậm chí chẳng còn ai để họ căm hận hay oán trách, tất cả những gì họ đối mặt là ký ức và khoảng trống. Từng tấc đất, từng ngọn cỏ, mái nhà đều đánh động đến ký ức, gợi nhớ đến những điều đã vĩnh viễn mất đi. Chẳng còn gì để họ đợi chờ hay hy vọng, qủa thật, điều Quốc mẫu lo sợ cũng có lý do.

Nhưng điều đó thì cô không thể nói ra.

- Còn Từ phi? – Vương hậu nói, một lúc sau. – Mẹ chị sẽ cô đơn lắm.

Chuyển đến ở gần, chị có thể xin cho bà ra ngoài sống với mình. – Cô tiếp tục nói nhanh khi thấy mắt Ngọc Du chớp nhẹ. – Từ phi dạo này rất gắn bó với mấy đứa cháu, nếu phải xa chúng thì chắc buồn lắm. Bà bây giờ ở trong cung cũng hiu quạnh, chị đón bà về ở cùng đi.

Ngọc Du không nói. Nàng ngẩn người nhìn những hạt mưa liên tiếp rơi, lẫn vào bóng chiều và ánh lửa. Họ nghe tiếng trống thu không vọng trong thanh âm của mưa và những xôn xao của bến cảng chiều tà. Họ nghe tiếng xe ngựa và quân lính đổi gác. Mọi thanh âm vẫn như muôn vàn ngày trước và sau đó.

- Được rồi. – Ngọc Du nói, sau cùng. – Có nói lúc nào cải táng không?

- Có, tháng tư này, cùng với truy tặng những công thần khác, sẽ tổ chức tế lễ ở thành Bình Định. Nhưng mà… – Vương hậu ngập ngừng, nhưng cô vẫn quyết định nói. – Người ở Bình Định nói rằng không còn lại gì cả, Trần Quang Diệu chỉ gom góp tro than ở đó để chôn thôi.

Vai Ngọc Du rung động, đầu nàng cúi thấp xuống. Trong khoảnh khắc, Vương hậu tưởng nàng đã khóc. Nhưng không, nàng chỉ ngồi im. Những ngón tay nàng đan vào nhau để trên bàn càng bấu chặt. Nàng cười. Đôi môi nàng nhếch lên thành một nụ cười.

- Thế cũng tốt. – Nàng vừa nói vừa cười. – Biến mất. Biến mất như vậy đó. Đã tự sát mà cái xác cũng không để lại. Hay thật! Cả sống lẫn chết đều không can hệ đến ai, không cần biết đến ai, hay thật.

- Chị à… - Vương hậu vội nói. Nhưng Ngọc Du đã ngẩng lên, hướng ánh mắt băng giá như muốn đâm thẳng vào cô. Cô giật mình trước ánh mắt của nàng. Không chỉ đơn thuần là đau đớn hay cay đắng, ánh mắt nàng ngập đầy thù hận.

- Sao Vương hậu lại có thể cao thượng đến thế? – Nàng nói sau một lúc quan sát cô. Nàng quan sát cô bằng cái nhìn lạnh lẽo ngập tràn bóng tối. – Sao lại có thể cao thượng đến thế? Hết lần này đến lần khác bỏ đi, hết lần này đến lần khác biến mất, ngay cả đứa con duy nhất cũng cướp mất – thế mà sao Vương hậu có thể chấp nhận? Thế mà lần này phu nhân lại còn muốn đến ở cạnh người đó suốt đời còn lại sao? Phu nhân còn gì để mất nữa không? À, còn hai đứa cháu. Nhưng Vương hậu, Vương hậu đáng thương tội nghiệp, cả chúng, chúng nữa, cũng chẳng an toàn đâu. Đến cả chúng nữa, cũng chẳng được gì đâu. Vương hậu còn gì để mất nữa không, để cho đi nữa không? Cả cuộc đời, cả tình cảm, cả máu thịt, người đó lấy hết cả rồi, đã bắt phu nhân hy sinh cả rồi. Phu nhân đã mất sạch rồi. Thế mà vẫn có thể chấp nhận được sao? Thế mà vẫn còn có thể ở bên nhau sao? Chẳng lẽ Vương hậu chưa bao giờ oán hận sao?

- Có. – Nhìn Ngọc Du, Vương hậu điềm tĩnh trả lời. Mắt cô vẫn bình yên, gần như là trống trải. Nếp nhăn sau đuôi mắt cô lẩn dưới lọn tóc rơi xuống trở nên sâu hơn trong bóng tối, làm mắt cô mang dáng vẻ đôi mắt của người già. – Đã có lúc, ta cảm thấy rất oán hận. Đúng hơn, có nhiều lúc, ta oán hận.

Nhưng rồi ta lại không biết mình phải hận điều gì. – Cô nói tiếp, sau một cái cắn môi.

Ngọc Du để buột ra một tiếng cười. Nàng nghiêng đầu nhìn ra khoảng không đã tràn ngập bóng tối. Mưa vẫn rơi, ngày càng lớn, vài hạt hắt vào đầu gối nàng.

- Vì thế, Vương hậu rất cao thượng. Vương hậu luôn nghĩ đến người khác. Hoàn cảnh của người khác, cảm nhận của người khác, sự cần thiết của người khác, sự sống của người khác, ý muốn của người khác. Vì thế, người ta mới có thể lấy đi mọi thứ của Vương hậu. – Giọng nàng kéo dài, nửa chế nhạo nửa thương hại. – Nhưng rốt cuộc thì có đáng không? Phúc Cảnh đi Phú Lang Sa cũng có mượn được quân về không, hay là Bá Đa Lộc cũng phải bỏ tiền mua thuyền tuyển quân ở Ấn Độ? Vất vả bao nhiêu năm, cay đắng bao nhiêu năm, rồi hục hặc bao nhiêu năm sau đó, rốt cuộc là có ích lợi gì chứ? Chuyến đi đó có cần thiết không, hay là để Cảnh trở thành kẻ bị ám ảnh bởi Gia-tô giáo suốt cả đời? Khiến nó không bao giờ còn là người bình thường được nữa? Hay là để Vương hậu vật vã suốt cả đời, không còn làm gì được nữa? Bao nhiêu chuyện nữa, rốt cuộc có đáng không? Có ích lợi gì không? Tất cả hy sinh của Vương hậu, rốt cuộc để được gì? Để làm được gì, phu nhân?

Nếu biết thế này, Vương hậu có nghĩ đến lúc ôm con mà bỏ mặc bọn đàn ông toan tính với nhau không? Thế có lẽ còn tốt hơn. Rốt cuộc thì họ cũng nghĩ ra cách gì đó thôi. Rốt cuộc thì họ cần gì chúng ta? “Tất cả chỉ là ảo tưởng của phụ nữ các nàng”, ha, tại sao ta lại không hiểu được câu nói ấy chứ? Đáng lẽ ta nên hiểu câu nói ấy ngay lúc đó chứ.

Chúng ta tưởng bọn họ cần mình à? Không, họ cần kẻ sinh con cho họ, để họ ôm ấp vui đùa khi muốn. Ngoài ra chẳng là gì hết. Chẳng là gì hết.

Ngay cả ở Phú Xuân kia, ngài ta cũng đã tìm cho mình được một hồng nhan tri kỷ rồi đấy. – Giờ thì sự mỉa mai trong giọng nàng còn mang cả vẻ khinh miệt. – Công chúa nhà Lê, cao sang quý giá làm sao! Nghe nói cô ta còn rất đẹp nữa, phải không? Giờ thì đến lượt Nhị phi. Tình gì nghĩa gì, bôn ba lặn lội hay vất vả lo toan, cuối cùng cũng bị vứt vào xó nhà thôi. Mà ngay cả cô công chúa ấy nữa, ngài ta lấy cô ta vì cái gì? Vì ngài ta đang muốn đánh ra Bắc, vì ngài ta muốn thu phục Bắc Hà. Ha, cuối cùng thì cũng chỉ đến thế.

Chúng ta cứ ảo tưởng rằng mình là trung liệt cao thượng lắm, hóa ra đó chỉ là cái danh hão. Đối với họ, chúng ta chẳng khác một đôi giày vứt đi khi rách. Phải rồi, đôi giày cũng có thể tự hào về sự bền bỉ trung kiên, lao tâm tận lực của mình lắm chứ - nếu như nó biết nói và biết ảo tưởng như con người!

Vương hậu vẫn im lặng. Trong thời gian mà Ngọc Du nói, Vương hậu chỉ nhất mực im lặng. Giọng nàng càng về sau càng gần như thành thù địch. Mắt nàng ráo hoảnh. Ngay cả khi nghe tin dữ, cô cũng chưa bao giờ thấy nàng khóc. Tin đã được đưa đến Quy thành ngay trong đêm, khi một viên quân từ thành Bình Định chạy thẳng về báo. Võ Văn Lượng từ chiến trường chạy thẳng về Gia Định mà không đợi lệnh của vị chúa, đòi vào gặp Hồ Dương công nương. Không biết họ đã nói gì với nhau, nhưng Võ Văn Lượng đã vội vã ra đi ngay sau đó để trở lại chiến trường. Ngọc Du, bằng sự bình tĩnh và giọng nói khô khấc, thông báo cho họ vào hôm sau. Và rồi nàng biến mất, để mặc cho Từ phi cùng những đứa cháu ôm nhau khóc. Khi trở lại, nàng đem theo bọn lính dựng bàn thờ để tế lễ trong cung cùng những cung nhân may áo tang. Hết hạn bốn chín ngày, nàng một lần nữa mất tăm trong điện của mình. Thời gian trôi qua, nàng lại có vẻ bình thường, tuy sự chua chát còn hơn vài bậc so với trước. Nàng trở nên cay nghiệt, sẵn sàng làm tổn thương bất cứ ai bên cạnh và hoàn toàn dửng dưng về việc ấy.

Như bây giờ, nàng quả thật có năng khiếu thốt ra những lời cay độc. Và nàng hoàn toàn dửng dưng. Nàng dửng dưng nói và nhìn lên trời. Bầu trời đêm tối sẫm tràn mưa mù, thoảng qua làn khói từ đám lửa được đốt lên cạnh họ.

Đây là một lý do nữa khiến Quốc mẫu lẫn Từ phi nhất quyết phải đưa Ngọc Du về Phú Xuân. Để nàng một mình ở Gia Định, không biết nàng có thể gây ra việc gì. Khi thoát khỏi trạng thái lẩn trốn này, không biết nàng sẽ phát tác ra sao, sẽ trở thành thế nào. Bây giờ, nàng đang đóng vai một kẻ thù địch cả thế giới.

Tuy vậy, lời nàng nói hoàn toàn không tác động đến Vương hậu. Cô chỉ nhìn nàng bằng cặp mắt an tĩnh, thậm chí thương hại. Nếu là lúc khác, hoặc một thời khác, có lẽ cô đã đau lòng. Nhưng bây giờ thì không.

- Nếu đến Phú Xuân, chị có thể ghé qua Bình Định dự lễ tế. – Cô nói, khi Ngọc Du đã im lặng. Nàng quay nhìn cô, nheo mắt trước khi lại cười.

- Để làm gì? Nhìn lại nơi chết à? Nhìn lại nền nhà cháy để biết người ta đã chết ra sao trong cái đống tro than đá gỗ ấy à? Để tự hào rằng chồng ta đã chết thật là anh dũng, thật là cao quý, thật là hào hùng, phải không? Các người kinh tởm vừa thôi! Các người nhảy vào lửa thử đi mà rồi ca ngợi cái chết như thế!

Hay đến đó để tưởng niệm, tay bắt mặt mừng với những kẻ tri ân? Ha, đến mặt chúng ta còn không muốn nhìn. Ta có quen chúng không? Không, không hề. Mà có quen thì chúng sống hay chết cũng liên quan gì đến ta?

Hay là để thăm lại linh hồn? Linh hồn, rốt cuộc nó là gì thế? Mà ngay cả nếu có đi nữa, giờ thì nó có còn không? Cháy tan đến cả mảnh vụn cũng không còn, thế thì còn cái gì?

- Ta cho là chị nên đến. – Trước thái độ của Ngọc Du, Vương hậu vẫn điềm đạm nói. – Tất nhiên nếu chị không muốn thì không ai ép. Nhưng mà chị nên đến.

- Không. – Ngọc Du nói và ngoảnh đi. – Ta sẽ theo Từ phi về Phú Xuân để chăm sóc cho mẹ ta. Từ nay cho đến hết đời, ta không cần biết chuyện của các người nữa.

Vừa nói, nàng vừa đứng dậy, đi đến cửa vọng gác mà lấy cái ô dựng ở cửa, bước ra ngoài. Trên quãng tường thành hẹp có hai bờ xây cao, mập mờ ánh lửa, sâu hút bóng tối, tà áo trắng của nàng nhạt nhòa lẫn vào mưa. Chỉ còn gần hai tháng nữa là đến giỗ đầu của Võ Tánh, Vương hậu nghĩ thầm khi nhìn theo bóng Ngọc Du. Tang chế cho chồng vợ chỉ có một năm. Và cô có cảm giác nàng sẽ ngay lập tức đốt bỏ tất cả áo tang để khoác vào mình những bộ cánh rực rỡ nhất khi có thể. Đã hơn hai chục năm quen nhau, cô biết người chị chồng này có thể làm những việc như thế, hoàn toàn có thể làm.

Cái chết của Võ Tánh đã để lại cho nàng nỗi oán hận quá sâu cay. Cuối cùng, tất cả nỗ lực kéo Võ tướng quân ra khỏi thành Bình Định đều trở thành vô ích, đã bị chàng chối bỏ. Cuối cùng, tất cả đợi chờ và hy vọng của nàng đã kết thúc, bằng phương cách tàn khốc nhất. Không còn gì, không còn lại gì, không còn gì trở lại. Nàng hồi phục, bằng trách nhiệm và tình thương với Từ phi cùng những đứa con còn nhỏ dại. Bây giờ nàng lại phải đi an ủi người mẹ già. Từ phi gục ngã trước cái chết của người con rể, trước số phận của người con gái cuối cùng. Bà đổ bệnh, Ngọc Du lại phải túc trực coi sóc bà. Bà khỏe lại, nàng trở thành một cái bóng hờ hững và cay nghiệt đến gần như độc địa. Bây giờ Quy thành còn có thể giữ nàng lại, Từ phi còn có thể giữ nàng lại, nhưng ngọn lửa đã không tắt đi trong nàng. Ngọn lửa đã từng cháy ở Bình Định mãi mãi không thể tắt đi trong nàng. Đã không còn là sự giận dữ hay đau đớn đơn thuần, nàng trở thành thù địch. Thù địch điều gì, cô cũng không thể hiểu.

Nàng không oán hận con người, cũng chẳng oán trách ai, nhưng lại như thù địch cả thế giới, cả trời lẫn đất. Có gì đó ở nàng mà cô không hiểu, không xác định được. Cho nên, cô cũng chẳng biết làm cách nào để an ủi nàng. Không ai biết, và họ chỉ có thể vừa canh chừng vừa khuyên nhủ nàng, những điều mà nàng nghe với thái độ lơ đãng rồi ném trả lại bằng sự độc địa khôn cùng. Lâu dần, họ không còn cố gắng nữa, chỉ im lặng để mặc nàng.

Bởi vì cái chết của Võ Tánh quá cay đắng. Vương hậu cau mày tựa trán vào bàn tay chống lên bàn. Mưa vẫn rả rích bên ngoài, nhưng nhỏ lại, tựa như đang dần ngớt. Sao lại có thể chọn cái chết như thế? Sao lại thống khổ như thế? Cô nghĩ, và một giọng nói rất nhỏ trong cô – nghe rất giống giọng Ngọc Du, thì thầm đáp lời – Đó là trả nợ. Những kẻ đang vây ngoài thành là quân của Võ Văn Dũng từ Thị Nại kéo về. Thị Nại, nơi quân Nguyễn thiêu cháy hàng vạn quân Tây Sơn. Đám lửa đã được đốt lên, rồi lan tới cả Bình Định. Đó là trả  nợ. Trả nợ cho oán thù đã gây ra. Nếu không, những kẻ ấy cũng không cho một cái chết yên lành. Nếu không, thù oán sẽ không được bồi trả. Thù oán càng cao, món nợ càng lớn. Trả nợ, như những điều vị chúa đang làm với hoàng tộc Tây Sơn. Có những kẻ phải trả nợ cho oán thù này. Không được lựa chọn, nhưng phải lựa chọn.

Phải, cô biết, đó là điều Ngọc Du nghĩ. Cô biết cách nghĩ trong đầu óc những người như thế, khi cô đã ở bên vị chúa, bên Phúc Cảnh chừng ấy tháng ngày. Thật ra đầu óc những người kiểu ấy rất giản đơn. Đi tìm một liên hệ, một nguyên nhân nằm trên mặt đất, đó là cách lý giải của họ - Và rồi, bằng cách ấy, họ liên tục gây tổn thương cho mình. Càng tìm cách lý giải, họ càng cuốn mình vào bão lốc, vực sâu, mãi mãi không thể thoát ra.

Như Ngọc Du đã rơi bây giờ.

Cuối cùng, những gì họ gieo đã thu được quả. Tất cả. Từ cái chết của Phúc Cảnh cho đến kết cuộc của trận chiến này. Từ thành Bình Định cho đến sự cay nghiệt của Ngọc Du. Phải, tất cả chỉ là kết quả của bấy nhiêu năm tích tụ, của những chờ đợi, trách hờn, những câu hỏi không được đáp lời lẫn những hối tiếc khôn nguôi, của tất cả những gì đã tan vỡ, đã tuyệt diệt. Bấy nhiêu năm, tất cả chỉ chờ đến lúc này để hiện rõ thành hình hài.

Nhìn rõ điều đó, những oán trách lẫn đau đớn trong cô đã không còn nữa. Vương hậu ngoảnh nhìn màn mưa đang dần tạnh bên ngoài, thở dài trước khi đứng dậy. Khi nghe những lời kinh cầu Cảnh hát trong đêm ấy, cô đã hiểu, hoàn toàn hiểu. Tất cả đạo giáo trên đời, từ Phật, Lão cho đến Gia-tô, đều vạch rõ sự phi lý của cuộc đời này. Và tất cả dạy con người cách sống trong sự phi lý ấy, cách chấp nhận sự phi lý ấy. Phúc Cảnh, trong cuộc sống ngắn ngủi và phi lý như một giấc mơ đẹp đến nghẹn ngào, cuối cùng đã nhận ra. Và cô, trong sự nhận rõ nhân quả tuần hoàn, đã cho rằng mình biết cách để tồn tại. Cuối cùng, sự hiện diện của họ chỉ là một thoáng phù du trên mặt đất.

Sự níu kéo và cố chấp, rốt cuộc có đem lại được gì?

Ngọc Du hạ ô khi trời đã ngớt mưa. Nước vẫn còn đang nhỏ xuống từ các mái hiên, cành cây. Nàng nghe tiếng trò chuyện từ bên kia hàng cây vọng đến. Tiếng con bé Hồi và Từ phi. Hẳn nó lại vừa từ nhà đi về. Nàng vẫn chưa hỏi những đứa con về ý định chuyển tới Phú Xuân. Hẳn chúng sẽ luyến tiếc. Nơi này dù sao vẫn là quê hương của chúng.

Vậy đấy, nàng ngẩng đầu nhìn trời mà nhủ thầm. Vậy là những đứa trẻ của nàng, đứa không nhớ mặt cha, đứa phải từ bỏ quê hương. Vậy là nàng cũng chẳng làm cách nào bảo vệ được chúng. Chúng đã lớn lên trong oán hận và giữ mãi mối oán hận, dù cho những kẻ ấy đã vùi xương dưới ba tấc đất. Vậy là cái gia đình nhỏ của nàng cũng không thoát khỏi định mệnh của dòng họ này. Góa phụ, nàng đã chưa từng nghĩ cái tên gọi ấy lại ứng vào mình.

Nàng gác ô bên hiên, bước vào điện. Khu nàng ở vắng vẻ, nàng lại đã cho tất cả các cung nhân không héo lánh đến để nàng được yên lặng. Chỉ có tiếng bước chân nàng vang khẽ trong sự quạnh quẽ của nơi này. Đèn đã được thắp, hắt bóng qua những hàng cột tròn, làm mái nhà thẫm lại, như đè thấp xuống. Nàng lắng tai nghe nước lác đác rơi, và tiếng nước chảy trong các mái xối chậm chạp rì rào như tiếng dòng sông từ thinh không.

Cũng trong một đêm như thế này, khi mưa vừa tạnh trong mùa hạ phương Nam ẩm ướt, Võ Văn Lượng đã bất thần tới tìm nàng. Ông ta ướt từ đầu đến chân, mang làn da tái xám lẫn dáng bộ trơ khấc của người thiếu thốn cuộc sống bình thường lâu ngày. Nhưng đôi mắt của ông ta mới làm cho nàng nhớ mãi. Ngay lúc đi ra gặp ông ta, nhìn thấy đôi mắt ấy, trái tim nàng đã như rơi xuống tận cùng. Khi ông ta chưa nói ra, chỉ nhìn vào đôi mắt ấy, nàng biết điều khủng khiếp nhất đã tới.

Nhưng nàng chỉ im lặng nghe ông ta nói. Đúng hơn, nàng không thốt được ra lời. Nàng chỉ có thể ngồi yên như tượng đá, nghe ông ta bằng đầu óc trống rỗng mông lung. Ông ta kể với nàng về tình hình Bình Định, sự khó khăn của họ, và rồi quyết định của chàng. Ông ta xin lỗi vì không thể tìm được thi thể của chàng dưới lớp tro than. Cả ông ta, ông ta nữa, cũng chẳng hề để tâm đến cảm xúc của nàng. Ông ta mô tả về cái chết của chàng, quyết định của chàng như thể sợ nàng không hình dung được, không hiểu được. Ông ta kể về những lời kêu gọi, của vị chúa cũng như của Nguyễn Văn Thành, bảo chàng trốn ra, cố mà thoát ra, cố mà đánh ra. Nhưng chàng đã không làm.

Rốt cuộc, đến ông ta cũng chẳng hiểu gì về cảm xúc của nàng. Ông ta nghĩ rằng nàng tự hào về những điều đó sao? Ông ta có biết chính nàng là người xin Nguyễn Phúc Thăng bảo chàng trốn đi? Tất nhiên ông ta không biết. Ông ta cũng không biết rằng lúc đó nàng căm ghét sự hiện diện của ông ta đến mức nào. Càng nghe ông ta nói, nàng chỉ càng muốn giết ông ta. Giá trong tay nàng là một thanh kiếm, nàng đã đâm ông ta thật.

Nhưng trong tay nàng trống rỗng. Đầu óc nàng trống rỗng. Nàng chỉ ngồi yên.

Võ Văn Lượng lấy từ tay nải ra một chiếc hộp nhỏ bằng hai bàn tay, đưa cho nàng. Võ Tánh bảo rằng chuyển nó cho công nương, ông ta nói. Nàng đón lấy chiếc hộp. Và từ đó đến giờ, chưa bao giờ mở ra.

Khi Võ Văn Lượng vội vã đứng dậy cáo từ, bảo rằng phải trở về quân đội gấp, hứa với nàng rằng sẽ lấy lại Bình Định hay không làm sự hy sinh của chàng uổng phí, nàng vẫn không lên tiếng, chỉ gật đầu. Nhìn theo bóng ông ta khuất ngoài cửa, trong ánh sáng của một tia chớp chợt lóe lên bên ngoài, nàng vẫn còn có ý muốn được giết chết ông ta.

Chiếc hộp gỗ để trên bàn, trước mặt nàng, chỉ có một cái móc nho nhỏ để giữ nắp hộp. Nhưng nàng chưa bao giờ mở ra, từ ngày ấy cho đến bây giờ.

Mọi thứ đều đã trở thành vô ích, vô nghĩa lý, bây giờ. Dù chàng có nói yêu thương nàng đến hàng trăm, hàng ngàn lần, dù chàng có xin lỗi đến hàng trăm, hàng ngàn lần, cũng chẳng có ý nghĩa gì. Thậm chí, ngược lại, nàng sẽ hận chàng hơn hàng trăm, hàng ngàn lần. Cuối cùng, mặc cho bao lời chàng nói, mặc cho bao năm tháng bên nhau, chàng vẫn quyết định bỏ nàng, quyết liệt và chóng váng. Không ai trong chúng tôi ngờ đến, Võ Văn Lượng đã nói. Tánh đã quyết định mà không cho ai biết. Đó lại chẳng là tính cách của chàng sao, nàng muốn nói. Chàng vốn không bao giờ nghĩ cho cảm nhận của người khác. Và rồi mọi thứ đã trở thành vô nghĩa lý, đối với nàng bây giờ.

Nàng đã quyết định gạt qua một bên, cả chiếc hộp ấy, cả những yêu thương hay hy vọng. Nàng đã quyết định gạt qua một bên, cả những đau đớn. Nàng vẫn còn có mẹ mình, có những đứa con. Nàng đã quen với sự cô đơn, với cuộc sống chỉ có một mình. Nàng đã biết, luôn luôn biết, luôn luôn tự nhủ rằng mình biết – dù có thế nào, chàng cũng không ở lại bên nàng. Dù có thế nào, chàng vẫn không chọn nàng. Giờ thì nàng biết suy nghĩ ấy là đúng đắn. Đau đớn vì một điều đã biết trước thật chẳng để làm gì.

Không có chàng, nàng vẫn sống. Không có chàng, cuộc sống của nàng vốn dĩ cũng chẳng xáo trộn. Từ đầu đến cuối, nàng vẫn luôn chỉ có một mình. Những lúc nàng cần chàng nhất, chàng chẳng bao giờ có mặt. Vậy thì thêm một sự biến mất nữa, hoàn toàn và vĩnh viễn, cũng chẳng tác động được đến cuộc đời nàng.

Bây giờ, khi tuổi đã xế chiều, nàng chỉ cần sự yên tĩnh. Nàng đã qúa mệt mỏi với đau thương hay hy vọng, với trông chờ và thất vọng. Bây giờ, nàng chỉ muốn được yên lặng, một mình.

Nhưng nàng không thể nói mình không oán hận. Vì điều gì, chính nàng cũng không hiểu rõ. Nàng cho rằng mình đủ hiểu biết để không chấp nhất sự chọn lựa của chàng, để nàng không bận tâm đến sự chọn lựa ấy, nhưng nàng vẫn trách hận. Hoặc đây mới thật là tính cách của nàng, mới thật là những gì nàng nghĩ. Nàng chưa bao giờ bao dung hay cao thượng, nàng nghĩ về bản thân hơn hết thảy. Chẳng có gì an ủi được nàng, trong suốt những tháng năm này. Tất cả đã trở thành một giấc mơ. Tất cả đã biến mất như một giấc mơ. Nàng lại thấy mình trở về nơi khởi đầu, khi cuộc đời đã sắp đi qua. Nàng lại thấy những giọt nước mắt của mẹ. Từ phi đã khóc, khóc mãi, cho những giọt nước mắt nàng đã không rơi. Nàng lại ngồi bó gối trong đêm, nghe tiếng dòng sông và dòng nước rì rầm, rì rào như biển. Tiếng khóc văng vẳng trong đêm, trong mùi nhang khói cay cay. Nàng lại uống hết bình rượu này đến bình rượu khác, nghĩ đến cách để trốn đi. Nhưng chẳng còn nơi nào cho nàng trốn lánh, nàng chỉ có thể trốn vào trong chính bản thân mình, giả mù giả điếc. Những ngày tháng ấy đã để lại trong nàng nỗi oán hận thẳm sâu và vĩnh viễn như lòng biển.

Nàng ngồi trong phòng chính đợi con bé Hồi. Một lúc sau, nó dẫn thằng Khánh đi vào. Con bé út đã được đưa đi ăn từ sớm. Hai đứa lớn mắt vẫn còn hơi đỏ. Thấy nàng, con bé vội nhét chùm chìa khóa đeo ở thắt lưng vào sâu trong áo.

Nàng ra vẻ như không nhận thấy, gọi chúng lại, nói về việc chuyển đến Phú Xuân.

- Còn nhà của chúng ta? – Con bé lớn hỏi sau một cái chớp mắt nhẹ. Nàng chợt thấy buồn cười trước câu hỏi ấy.

- Để nó lại, nếu không thì dỡ đi. Nếu có đồ đạc qúy giá thì đem theo. – Nàng bình thản nói. – Ta nghe nói rằng sắp cải táng cho cha con. “Cáo chết ba năm quay đầu về núi”, để mộ cha con ở Gia Định này là tốt nhất. Nếu vậy thì ta để nhà làm nơi thờ tự, cha con chắc cũng muốn vậy.

Con bé lặng lẽ gật đầu. Thằng Khánh vội lên tiếng hỏi.

- Chúng ta sẽ ở lại cho đến khi cải táng chứ mẹ?

- Không. Chúng ta đi theo Quốc mẫu, mà Quốc mẫu được gọi về Kinh gấp. – Nàng lắc đầu, bắt gặp ánh mắt kinh ngạc của hai đứa trẻ. – Đi qua Bình Định, chúng ta sẽ dừng lại. Có một lễ tế dành cho cha con ở đó trước khi bốc mộ chuyển về Gia Định. Con là trưởng nam họ Võ, tất nhiên phải có mặt. Ta nghĩ con sẽ phải đi theo các quan và anh em bạn bè của cha con về Gia Định lần nữa để tế mộ mới. Ta sẽ xem ai tin cậy để nhờ.

Thằng bé nôn nóng gật đầu. Con bé nhìn nàng, có vẻ hơi ngập ngừng trước khi rụt rè cất tiếng.

- Mẹ có dự lễ không? – Nó hỏi, trong mắt hiện lên một tia hy vọng mong manh. Nếu nàng tham dự lễ dựng đền mộ mới, nó sẽ được đi theo, còn không thì chỉ có thằng Khánh. Theo lệ thường, nàng phải dự phần vào tất cả những việc tế lễ này, nhưng nó biết mẹ mình bây giờ thì khó nói trước được điều gì.

- Ta sẽ dừng lại ở Bình Định, rồi đến Phú Xuân. – Nàng nói, quyết định không kể về tình trạng hài cốt của cha bọn trẻ. Chẳng còn gì, ngay cả một mảnh xương. Tất cả những việc này với nàng vô nghĩa đến không thể chịu đựng nổi. Có mặt ở Bình Định, nàng có thể tìm cách để người ta không phơi bày tình trạng ấy với bọn trẻ, trước khi đóng đinh vào chiếc hòm thật chặt, không bao giờ mở ra.

- Mẹ có về nhà không? – Con bé tiếp tục hỏi, giọng càng nhỏ hơn. Nàng ngẫm nghĩ một lát, rồi lắc đầu.

- Con về nhà xem xét, nếu còn đồ đạc gì quan trọng thì đem theo. Nhớ đừng mang đồ lặt vặt qúa. Bàn ghế tủ giường thì ta sẽ đóng lại ở Phú Xuân, chăn đệm cũng vậy.

- Vâng. – Tiếng trả lời của con bé như nén một cái thở dài trong lồng ngực. Nó biết mẹ nó không muốn về nhà. Một khi nàng đã quyết định, khó ai lay chuyển nổi.

Nàng sẽ không bao giờ trở lại nơi ấy. Ngôi nhà mà nàng đã sống hơn mười năm dài. Màu gỗ từ nâu tươi đã chuyển sang sắc sẫm, bóng lên. Khu vườn ban đầu chỉ có mấy cây dừa cùng bụi tre làm hàng rào đã được trồng đủ loại hoa. Hồ sen hiện giờ đang nở rực rỡ. Những êm đềm và đau đớn đã trôi qua. Nàng đã quyết định quay lưng và không bao giờ nhìn lại.

Nàng sẽ rời khỏi Gia Định này. Gia Định của cả một thời tuổi trẻ, những đắng cay và ngọt ngào suốt cuộc đời dài. Nơi mà nàng đã hy vọng mình có thể vĩnh viễn ở lại. Nơi mà nàng đã yêu với tình yêu gần như là máu thịt. Nơi đã chứa đựng giấc mơ của nàng.

Giấc mộng đã tan, giờ thì nàng phải trở về nơi khởi đầu. Đi một vòng tròn lớn, nàng thấy mình lại ở vị trí cũ, ở địa vị mà mẹ nàng đã từng có năm xưa. Nàng lại giống như mẹ, như hầu hết mọi người phụ nữ xung quanh.

Giấc mộng đã tan. Giờ thì nàng không nghĩ đến nó nữa. Nàng đã quyết định rằng không nhớ nhung và luyến tiếc. Nàng sẽ ra đi, ra đi mà không ngoảnh đầu nhìn lại.

Nếu nàng nhìn lại, sẽ thấy sau lưng chỉ là một khoảng trống mênh mông như bầu trời trải trên dòng sông vẫn cuồn cuộn chảy.

Tháng tư năm Nhâm Tuất, cùng với việc thu phục thành Bình Định, mộ phần của những người chôn trong thành cũng được cải. Ngọc Du cùng bọn trẻ đến tế lễ trước khi bốc mộ. Tuy điều kiện khó khăn, Trần Quang Diệu cũng lo cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu được hai chiếc quan đóng vội. Ngọc Du ra hiệu cho người đem áo quan vào nhà quàn trước, tổ chức tế xong rồi nàng mới vào, cẩn thận đóng cửa sau lưng.

Khi đinh đóng được nảy, nắp quan mở ra, trong bóng tối của nhà quàn, nàng đã tưởng áo quan trống trỗng. Nhưng đến gần, nàng thấy một bọc vải lớn được cột lại, bỏ trong quan. Người lo việc cải mả mở bọc vải. Và trong một lúc, nàng ngẩn người nhìn lớp tro đen trong bọc. Chẳng có gì khác, ngoài tro. Dường như Trần Quang Diệu đã đem gom tất cả tro còn ở nền đài đem chôn.

- Tên tướng giặc này định chọc cho ta tức chết đây mà. – Ngọc Du lẩm bẩm. Nàng đã từng chứng kiến tro người khi hỏa thiêu. Nó có màu trắng xám, không phải thứ tro đen kịt này. Thứ tro đen kịt này không biết có mấy phần tro xương thật.

Nàng lấy làm may mắn vì đã dự liệu trước, không cho mẹ lẫn bọn trẻ chứng kiến cảnh tượng này. Nếu không, họ sẽ bị ám ảnh cả đời.

- Nghe nói còn vài người nữa tự thiêu, ai thế? – Nàng hỏi người bên cạnh mà không quay lại, vẫn chăm chú nhìn đám tro.

- Dạ, có Quản binh Nguyễn Tấn Huyên, và… - Anh ta trả lời nàng, tự dưng ngập ngừng. – Và nghe nói có một cô gái nữa. Lúc ấy hỗn loạn, không biết còn ai phẫn uất mà nhảy vào đài lửa nữa không, cũng không kiểm kê được hết.

- À… - Nàng nghiêng đầu, bóng của nụ cười thoáng qua môi. – Vậy là anh cũng đâu có phải cô đơn.

Người bên cạnh nàng ngậm chặt môi, trong một khắc còn không dám thở. Giọng nói của cô công nương, dù bình thản, vẫn ngấm ngầm sự độc địa đến lạnh người. Ánh mắt nàng chợt dịu lại, phảng phất như hờn oán. Nàng nói, lần này như thì thầm.

- Anh đâu có phải cô đơn, đúng không? Anh còn chưa bao giờ biết đó là như thế nào cơ mà.

Chuyển tất cả chỗ này sang quan mới đi. Nàng vẫy tay ra hiệu cho những người lính. Nàng đứng lùi lại, quan sát họ đổ chỗ tro vào một hộp gỗ, rồi lại bỏ cái hộp này vào trong áo quan mới. Nàng quan sát những cái búa đóng đinh xuống, tiếng chát chúa vọng từng nhịp vào tai. Nàng thắp nhang cắm vào lư hương để ở đầu áo quan, sắp xếp điện quàn rồi bước ra ngoài.

Bọn trẻ đang đứng cùng vài vị quan tướng khác ở một nền đất cao giữa sân. Địa điểm ấy có vết đen như đã từng bị cháy. Đài Bát Giác giờ chỉ còn lại một nền đất. Bọn trẻ đang cắm nhang, cúi lạy nền đất ấy. Cả con bé út cũng làm theo anh chị. Nước mắt nhòe nhoẹt trên mặt nó. Trong một lúc, nàng lại nghĩ rằng chẳng biết nó có còn nhớ mặt cha nó hay không?

Nàng quay đi, không muốn để họ phát hiện ra mình. Thuyền của Quốc mẫu đang đợi họ ở Thị Nại. Nàng đã đồng ý cho con bé Hồi cùng thằng Khánh theo đoàn cải táng về Gia Định, còn nàng và bé út tiếp tục đến Phú Xuân. Nàng phải sắp xếp chỗ ở cho cả nhà trước. Nơi này đã có nhiều vị quan của chúa Nguyễn thông thạo việc cúng tế hơn nàng. Nàng bước ra cửa thành, đợi bọn họ xong việc.

Khu thành qua biết bao trận chiến đã sập từng mảng lớn. Dù đã vào thành, quân Nguyễn vẫn chưa dọn dẹp đống đổ nát xung quanh. Gạch đá rải khắp chân thành, lẫn với những đoạn vũ khí rời gãy, cả mảnh lựu đạn vẫn còn vung vãi. Cổng thành in đầy vết đạn lỗ chỗ. Những khẩu pháo xếp hàng dài ngoài khoảng đất trống, dưới chân gò nhô lên như nền cũ của lũy đất. Quân lính vẫn bận rộn lại qua từng đoàn. Nhưng cảnh vật này có sự yên ắng kỳ lạ. Gió từ rừng, trên các ngọn núi thổi lại, đưa mùi thơm của mùa hạ tràn theo. Tiếng chim hót ríu rít, ve kêu râm ran át hẳn thanh âm của con người.

Tất cả đã lặng yên. Nàng gần như ngẩn người mà nghĩ. Tất cả đã lặng yên, vùng đất từ Gia Định đến rìa Nghệ An. Họ đã có thể đi một cách bình thản từ đầu này đến đầu kia Nam Hà. Súng đã không còn nổ nữa.

Có một nhóm chừng trăm người đủ cả người già trẻ con đến thành. Nàng vội nép mình sang bên. Họ dừng lại trước lính canh. Người có vẻ lớn tuổi nhất trong bọn họ nói với viên tướng canh cổng bằng giọng đặc chất Quy Nhơn.

- Chúng tôi nghe nói hôm nay cải táng Võ Tướng quân nên muốn đến viếng ngài. Chúng tôi muốn cảm tạ ngài đã cứu con trai, chồng, cha của bọn trẻ. Đám thanh niên giờ đã theo chúa Nguyễn đến Phú Xuân cả rồi, chúng tôi thay mặt chúng đến tế lễ tướng quân.

- Xin lỗi, các vị không được vào thành. – Người lính nói, sau khi nhìn lại nàng, thấy nàng lắc đầu. – Nhưng linh cữu tướng quân sắp được chuyển ra, các vị có thể lập hương án ở đây tế lễ cũng được.

Người trưởng lão lập cập tuân mệnh. Đám dân chúng rủ nhau lập một hương án nhỏ ngoài cửa thành, bên đường đi. Nàng nhìn bọn họ một lúc, rồi quay vào trong.

Đây là lý do khiến nàng không muốn ra ngoài. Những sự cám ơn của người khác khiến nàng tức giận, hạnh phúc của họ khiến nàng căm ghét. Chàng đã giữ con, giữ cha, giữ chồng cho bọn họ, và lấy đi tất cả của nàng. Nàng mất tất cả, vì bọn họ. Nàng không thể đừng mà tức giận và căm ghét.

Họ cứ làm như thể nàng nên mừng vui và hãnh diện khi có người chồng như thế. Họ cứ làm như thể nên chúc mừng nàng. Trong khi đó, nàng nhìn bọn họ và thầm nghĩ muốn giết tất cả bọn họ đi.

Nàng nhìn quanh thành Bình Định. Thành Bình Định đã lặng yên, đã yên ắng và lặng lẽ sau những biến động dài. Sự lặng lẽ như toát ra từ từng viên đá sỏi, từ những công trình đổ nát, xiêu vẹo. Trong sự chết đi và tàn phai, thành Bình Định lại mang vẻ bình yên như sẵn sàng chìm vào giấc ngủ. Chỉ có khu rừng xanh mãi, những ngọn núi trầm mặc điệp trùng rì rào bài ca của gió.

Đây có thể là một nơi rất đẹp, nàng chợt nghĩ. Ánh nắng mùa hạ đang đổ xuống nàng, chói chang và nóng ấm. Ngọn gió mùa hạ đang thổi qua nàng, mang theo hương thơm của khu rừng và dòng sông. Mặt trời mùa hạ sáng rực sau mây. Ngay cả cỏ trên những ngôi mộ đã xanh rì cũng lay động.

Thành Bình Định lặng yên, sau những tháng năm dài.

Sao đứng nơi đây, nàng lại thấy cô đơn đến thế?

Like

75

Khi họ đến Phú Xuân, Hoàng thành ở bờ Bắc đang được xây đắp. Họ thấy một thành đất cao đã bắt đầu thành hình bên bờ Bắc dòng sông Hương. Trên đồi Thiên Mụ về phía Tây, một công trình nhỏ cũng đang được dựng lên. Phú Xuân, cả bờ Nam và bờ Bắc, ồn ào chộn rộn với các công trình xây dựng hoặc phá dỡ.

- Lại chuyển về Kim Long à? – Trên thuyền, Quốc mẫu quay sang viên quan được phái đi đón gia đình là Hoàng Viết Toản mà hỏi. Ông ta cúi thấp đầu trả lời.

- Vâng, chúa công đã có dự liệu trước, định xây mở rộng thành cũ ở Kim Long thành Hoàng thành mới. Các quan dâng biểu xin chúa công lên ngôi Hoàng đế, lấy quốc bửu vừa đúc “Thảo tội an dân” mà ra Bắc Hà. Việc gấp gáp nhưng cũng cần có một nơi tương xứng cho địa vị ngài. Cung Dương Xuân của Phú Xuân đã đổ nát, hư hại nhiều, địa thế bờ Nam lại khúc khuỷu nhấp nhô, khó mà xây dựng thành lũy. Chúa công thấy đất ở bờ Bắc bằng phẳng vững chắc, lại có thành cũ, nên khảo sát mà xây thành mới.

- Chiến cuộc chưa xong mà sao lại bày vẽ quá thế? – Quốc mẫu lắc đầu lẩm bẩm. – Thế thì dân ở bờ Bắc thế nào?

- Dạ, ngài định cấp tiền, lương cho họ để chuyển đến bờ Nam. Những công trình cũ ở bờ Nam sẽ bị phá dỡ gần hết, ngoại trừ các chùa, để đất cho dân lập nghiệp. Nhưng các chùa trong vùng giờ cũng đã hư hại nhiều lắm rồi. Ngoại trừ chùa Thiên Mụ đã bị san phẳng để Tây tặc lập đàn tế Xã tắc, các chùa Thiền Lâm, Trúc Lâm, Kim Long, Quang Xuân, Hà Trung… đã bị trưng dụng làm nơi ở hay kho chứa của quan lại Tây Sơn. Chùa Thuận An đã mất dấu, có lẽ cũng đã bị phá.

- Chết, sao lại có thể như thế? – Con người mộ đạo trong lòng Quốc mẫu thức dậy ngay lập tức. Cả Ngọc Tú đang đứng gần đó cũng quay lại. – Chùa chiền thì phá để làm gì?

Viên quan im lặng trước câu hỏi. Khó có thể giải thích được rằng triều Tây Sơn với những vị quan thấm đẫm tinh thần Nho học Chu Tử, kết hợp với tín ngưỡng xa lạ của những thầy phù thủy, pháp sư trong quân, đã bày ra các cuộc triệt hạ tôn giáo hàng loạt. Khó có thể giải thích rành mạch với Quốc mẫu về những chuyện còn gây tranh cãi ngay cả trong các quan.

- Chúng là bọn ngu ngốc. – Phúc Đảm chẳng biết đã đứng ở cạnh đó từ bao giờ chợt lên tiếng. Cậu công tử chỉ tay về phía đồi Thiên Mụ phía Tây bờ Bắc sông Hương, nói rành rọt. – Đồi Thiên Mụ là nơi tích tụ khí đế vương của toàn mạch đất Kim Long. Theo truyền thuyết, một thầy phù thủy của Tàu là Cao Biền đến vùng này khi châu Hóa còn của Chiêm Thành, nhận ra sự quan trọng của cuộc đất đó với tương lai nước Việt nên đã đào hào hòng triệt tiêu được cái khí ấy. Chúa Tiên ta lúc còn trấn thủ ở Quảng Trị đã đến vùng này, khi ấy trên đồi có một ngôi chùa cũ đã đổ nát, gọi là chùa Thiên Mỗ. Thấy địa thế tốt, chúa Tiên liền hỏi người trong vùng, họ nói gò này rất thiêng. Ngày trước, họ thấy có một bà già mặc áo đỏ quần xanh ngồi trên gò, nói rằng: “Phải có chân chúa đến đây dựng chùa mà thu góp khí thiêng, giữ gìn long mạch.” Cho nên chúa Tiên mới sửa lại chùa Thiên Mỗ, đổi tên thành Thiên Mụ. Sự nghiệp họ Nguyễn ta bắt đầu từ đó, mà Thiên Mụ cũng mới trở thành “chấn sơn chi bảo” của cả vùng.

- Cháu đã đến đây bao giờ đâu mà rõ thế? – Quốc mẫu cười. Phúc Đảm khoanh tay như thể bất bình với loại câu hỏi này.

- Có nhiều chuyện đâu cần phải đến lúc giáp mặt mới biết. Vả lại, cả quê cha đất tổ mà cũng không rành rẽ thì đi học, biết nhiều để làm gì?

Chuyển về Kim Long lần này là việc tốt. – Cậu bé nói tiếp khi không thấy ai hưởng ứng hoặc phản đối câu nói của mình. – Chúa Nghĩa dời kinh đô từ Kim Long về Phú Xuân để tránh các đợt tấn công nếu có từ các đồi núi. Cung điện Dương Xuân có địa thế phòng thủ rất tốt, nhưng yếu khí thế đế vương, lại lọt thỏm giữa các ngôi chùa. Chúng ta tuy mộ Phật nhưng không si cuồng như nhà Lý, nhà Trần, cũng chẳng cần đến chừng ấy ngôi chùa bao quanh.

- Càng nói càng thấy giống phụ hoàng của cháu. – Quốc mẫu chợt cười. – Hai cha con xa nhiều hơn gần mà sao lại nói giống nhau thế?

Mà chúa công đâu rồi? – Bà quay sang Hoàng Viết Toản hỏi. Thuyền của họ đang đi giữa sông, chuẩn bị cập về phía bờ Nam. Càng lại gần, họ thấy những nhận xét của viên quan về sự xuống cấp của Phú Xuân càng rõ.

- Dạ, chúa công có lẽ đang lo việc xây thành. – Viên quan trả lời, và chỉ về phía chiếc lọng vàng thấp thoáng bên một góc thành đang được xây. Phúc Đảm rướn người nhìn, vội chạy xuống sàn thuyền, gọi người chuẩn bị thuyền nhỏ để cậu vào bờ Bắc.

- Vội gì mà vội thế? – Nhìn theo đứa cháu, Quốc mẫu cau mày. Ngọc Tú trước sau vẫn im lặng giờ mới chợt lên tiếng.

- Từ khi nghe nói về Phú Xuân, nó đã bồn chồn lắm rồi. Dạo này nó suốt ngày đi luyện cưỡi ngựa đánh gươm bắn súng, siêng năng còn hơn cả quân lính.

- Nó định đánh ai? – Quốc mẫu lấy làm khó hiểu mà hỏi. Ngọc Tú nhún vai, không trả lời. Chiếc thuyền nhỏ được thả xuống nước. Phúc Đảm tự tay cầm mái chèo mà chèo về bờ Bắc. Nghe tiếng Nhị phi gọi, cậu ta chỉ vẫy tay. Khi cậu Tứ công tử quay lưng lại, người trên thuyền nhận rõ cậu ta đeo một thanh kiếm bên hông.

Phúc Đảm tìm được vị chúa đúng ở vị trí mà họ đã thấp thoáng thấy bóng lọng vàng. Ngài ta đang ngồi cùng Giám thành Nguyễn Văn Yên cùng một vài sĩ quan Phú Lang Sa, các linh mục Tây dương và vài người nữa thuộc đội kiến trúc mà ngài ta đem từ Gia Định đến. Họ đang châu đầu bàn luận trên một tấm bản đồ lớn. Vị chúa vẫn đang nói, ngón tay ngài ta vạch trên tờ giấy da.

- Ở đây sông Bạch Yến là trở ngại lớn nhất, ta cho rằng nên lấp đi. Sông Kim Long thì ta có thể giữ nguyên, dù nên thay đổi dòng chảy của nó một chút. Thủy khẩu đất bị giới hạn bởi hai dòng Hương Giang và Bạch Yến, giữa có sông Kim Long. Thủy khẩu lúc này là vùng Long Hồ và Tiên Nộn. Ta cải tạo lại sông Kim Long, lấp đi một phần sông Bạch Yến, đào thêm một số đường sông, sẽ tạo ra thế tứ giác nước. Vùng đất này về phía Bắc càng cao hơn, thuận lợi cho xây dựng một hệ thống thoát nước dựa vào dòng chảy của các dòng sông. Đất mà ta định xây dựng Hoàng thành là nơi cao nhất trong cả vùng, địa thế cũng vững chắc nhất. Đây sẽ là trung tâm toàn thành.

- Nhưng nếu định nhận núi Bằng Sơn làm tiền án thì thành sẽ quay hẳn về phía Đông Nam, có hơi phá lệ quá không, chúa công? – Nguyễn Văn Yên thận trọng lên tiếng. Người kiến trúc sư này có vẻ vẫn chưa đồng tình với vị chúa về phương hướng khu thành. – Các thành trì nhà cửa đều nên quay về phía Nam, huống hồ là kinh đô. Đông Nam là quẻ tốn rồi, không còn là quẻ ly nữa.

- Càn – tốn cũng là hướng Nam. – Vị chúa lắc đầu. – Vả lại, xây nhà hướng Nam là thói của người phương Bắc. Họ ở xa mặt trời, thời tiết khí hậu đều khác ta, chọn nhà hướng Nam để đón gió mùa hè, tránh gió mùa đông, rồi họ lại lý giải đó là “vua ở phương Bắc quay mặt về Nam”. Ta đâu phải mọi thứ đều nhất nhất theo họ. Phải không?

- Vâng, - Viên sĩ quan Phú Lang Sa mà vị chúa quay lại hỏi gật đầu. – Địa thế của nơi này gần xích đạo hơn hẳn China, không thể vận dụng luật làm nhà của China ở phương Bắc hoàn toàn được. Càng về phía Nam, phương vị của mặt trời càng chệch đi so với phương Bắc, mặt trời cũng gần hơn. Theo tính toán của chúng tôi, ở vĩ tuyến này, hướng Đông Nam là có lợi nhất để tránh ánh nắng gay gắt mùa hè, đón nắng nhẹ mùa đông. Vả lại, còn cả hướng gió thổi. Nếu xây phía chính Nam, thành sẽ lệch đi so với sông Hương, không đón được gió từ biển thổi vào. Ta lại có dãy Trường Sơn nằm theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, tạo thành luồng gió tự nhiên. Những giáo sĩ trước đây đã từng đi khắp Đàng Trong, Đàng Ngoài nói rằng: Theo hướng gió, từ Phú Xuân trở xuống thì tốt nhất nên xây nhà phía Đông Nam, từ Nghệ An trở lên thì nên xây nhà phía Nam, Tây Nam.

- Nếu xây phía Nam, ta lại không đón được vượng khí của sông Hương. – Vị chúa nói tiếp, khoanh tay trước ngực. - Sông Hương vốn là sông chảy ngược từ Nam ra Bắc “thủy đáo điện tiền”, làm minh đường cho ta. Sông nằm về phía Nam, từ Tây về Đông, bao bọc quanh thành thành thế “cán thủy thành hoàn”. Cồn Hến và Dã Viên đóng vai trò Thanh Long, Bạch Hổ. Núi Bằng Sơn làm tiền án để có thế “lưu cát phong”. Tuy phía Tây có khí núi xung sát, sông uốn khúc thì hành kim vượng, mộc hại, ta có thể xây chùa, miếu ở phía Tây để trấn. Ta đã cho dựng lại chùa Thiên Mụ, thế đất vậy là cân bằng.

Phúc Đảm cười khẽ. Nghe tiếng cười, vị chúa cùng những người khác cùng quay lại. Thấy người con trai đã ba năm không gặp, mắt vị chúa sáng lên. Ngài ta đứng dậy, nói người khác tiếp tục bàn luận rồi đi về phía Phúc Đảm. Cậu ta quỳ xuống chào cha mình. Khi Phúc Đảm đứng dậy, ngài ta vẫn đang nhìn cậu.

- Con lớn hẳn lên rồi. – Ngài ta nhận xét một câu gần như ngạc nhiên. Phúc Đảm một lần nữa bộc lộ ra sự bất mãn. Nhưng cậu ta chỉ cười.

- Con đã mười hai tuổi rồi, phụ hoàng. – Nghe cậu ta nói, có thể tưởng rằng tuổi mười hai là rất lớn. Vị chúa cũng cười, nhìn qua người con đến bờ sông, nơi những chiếc thuyền đang tấp vào phía bờ Nam. Chiều đang xuống, nắng vừa mới nhạt.

- Quốc mẫu cùng mọi người đi đường bình an cả chứ? – Ngài ta hỏi. Phúc Đảm gật đầu. Ngần ngừ một lát, cậu ta chậm chạp nói.

- Phụ hoàng, con nghe nói rằng người sắp lên ngôi. Sau khi lên ngôi, người sẽ thảo phạt Tây tặc ở Bắc Hà, phải không?

- Đúng vậy. – Vị chúa nói, nhìn người con trai như thể muốn biết cậu ta cần gì. Phúc Đảm nhìn thẳng vào mắt cha mình, nói nhanh.

- Con muốn theo quân đến Bắc Hà, phụ hoàng.

- Không được. – Vị chúa lắc đầu, nói sau một cái chớp mắt ngạc nhiên. Ngài ta nhìn lại Phúc Đảm, từ đầu cho đến chân. Cậu bé mới đứng đến gần vai ngài ta. – Con mới mười hai tuổi, theo quân sao được?

- Anh con đã là Nguyên soái khi mới mười bốn, Quốc thúc làm tướng khi mười ba, phụ hoàng cũng vào quân khi mười ba tuổi. – Phúc Đảm cau mày. – Một, hai tuổi cũng đâu chênh lệch gì lắm. Vả lại, con không yêu cầu được làm nguyên soái hay tướng quân, con chỉ muốn được đi theo quân.

- Để làm gì? – Vị chúa chậm rãi buông từng lời. Phúc Đảm vẫn giữ nguyên ánh mắt nghiêm trang mà nói bằng giọng gần giống hệt như cha.

- Con muốn nhìn thấy Tây tặc bị tiêu diệt. Con muốn nhìn thấy bọn chúng. Nhìn thấy, phụ hoàng có hiểu không? Con chưa bao giờ thấy chúng – nghĩa là đội quân gọi là Tây tặc, cái tổng thể đó, không phải là một vài quân tướng đã theo hàng, được đưa về Gia Định, hay là tù nhân của chúng ta. Nếu chúng đã bị tiêu diệt cả rồi mà con chưa bao giờ thấy chúng, thì con làm sao biết kẻ thù của mình có hình dạng thế nào? Con không bao giờ tha thứ cho Tây tặc vì những gì chúng đã làm với gia đình ta. Nhưng con còn cần biết chúng là như thế nào. Con muốn biết chính xác về kẻ thù của chúng ta.

Vị chúa im lặng, nheo mắt nhìn người con. Ngài ta đi về phía đầu thành, gần dòng sông, cách xa tầm nghe của những người khác. Phúc Đảm đi theo ngài ta. Đầu cậu bé mười hai tuổi vẫn chỉ vừa chạm đến vai người cha.

- Sao con lại có ý muốn này? – Vị chúa hỏi, nhìn ra dòng sông mà không nhìn con trai. Chăm chú vào lưng người cha, Tứ công tử trả lời rõ ràng và rành mạch.

- Con muốn biết lý do. Con muốn biết lý do tại sao chúng lại có thể bành trướng để gây nhiều tội ác đến thế. Con muốn biết lý do tại sao chúng ta lại có tình trạng này. Con muốn biết diện mạo của kẻ thù, tất cả kẻ thù, tất cả nguyên nhân và lý do. Con muốn bảo vệ gia đình mình, nên con không thể chỉ ngồi yên thấy kẻ thù đến thì chống mà không biết nguyên nhân của mọi sự. Con muốn bảo vệ đất nước này, thì con phải biết diện mạo thật sự của nó, những gì gây nguy hại đến nó.

Trận chiến này ta đã sắp thắng, nhưng còn bao nhiêu cuộc chiến nữa sẽ tới? Chúng ta đã suýt nữa bị diệt tộc, và trong tương lai có còn lặp lại hay không? Rất nhiều người đã chết, và bao nhiêu người nữa sẽ phải chết? Đất nước này đã tan vỡ, và sẽ còn tan vỡ đến bao giờ?

Phụ hoàng, chúng ta sẽ có một đất nước như thế nào? Thưở lập quốc, vùng sông Hồng có hơn hai trăm dân tộc, và rồi còn lại bao nhiêu? Từ lúc họ Lý ép Chiêm Thành nhượng lại vùng Nghệ An, đời nào mà ta lại không có vụ dân chúng các mường mán ở đó nổi loạn? Từ lúc họ Lý, họ Lê lấn dần về phía Tây, xung đột với Vạn Tượng có bao giờ ngớt? Tàu rối loạn, hết người Tống đến người Tày, Nùng, Thái… của họ đi đến đất ta, thanh thế ngày càng lớn, đất đai ngày càng rộng, tự trị hết cả vùng biên giới phương Bắc. Bây giờ còn bọn Tàu Ô chiếm vùng An Quảng, Hải Dương. Người cũ người mới, danh nghĩa bất phân, xuất thân bất nhất.

Ngày họ ta xuống miền Nam Hà, đã đánh lui dần Chiêm Thành mà lập quốc. Nhưng phụ hoàng nhìn ngay trong Phú Xuân này mà xem có bao nhiêu công trình của người Chiêm, nhiều không đếm xuể. Nhưng ở Quảng Nam kia còn bao nhiêu người Thổ, người Mường; trong vùng núi phía Tây có bao nhiêu giống người mà chính chúng ta cũng không đếm hết? Thuận Thành trấn kia đã mấy lần nổi loạn, không bao giờ chịu tuân phục chúng ta, đến giờ vẫn có chúa riêng quân riêng, là một đất nước nhỏ trong nước ta. Gia Định kia người Cao Miên được phụ hoàng cho tự trị, thuế vùng Ba Thắc được nộp cho Chân Lạp, người Tàu lại có nhóm riêng thuế riêng, thanh thế át cả quyền quan lại. Không chỉ người Minh, bây giờ người Thanh cũng đến trú ở Gia Định; không chỉ người Miên cũ, người Chân Lạp, người Xiêm vẫn tiếp tục tràn sang, tiếp tục lặp lại tình trạng của phương Bắc hay sao?

Ngay cả trong giống người chúng ta, kẻ theo Lê người theo Nguyễn, kẻ có tí quyền lực là bắt đầu mơ đến chuyện mở riêng một cõi, làm chủ một vùng.

Kẻ nào cũng muốn chiếm một vùng đất cho mình, rốt cuộc thì ta sẽ còn lại gì? Đất nước này sẽ biến thành cái gì? Hay sẽ lại tiếp tục như bây giờ - Chỉ cần có cơ hội là tất cả bùng nổ? Kẻ mạnh đánh kẻ yếu, kẻ nào cũng tự cho mình là đúng, kẻ nào cũng có quê hương, có dòng tộc, có gia đình của mình để đòi dẫm đạp lên kẻ khác. Vùng đất nào cũng có lịch sử, và vùng đất nào cũng mang nặng oán thù, chỉ cần khơi lên là không dập xuống được.

Con muốn biết, để con không trở thành ngu ngốc như những kẻ chỉ biết nổi loạn, chiếm lợi ích cho riêng mình mà không hề giải quyết được gì. Bao nhiêu cuộc nổi loạn rồi thì giải quyết được cái gì? Đất nước này sẽ biến thành cái gì?

Con muốn thấy chính mắt, kẻ thù của chúng ta. Con muốn thấy Thanh Hóa và Thăng Long. Con muốn được đi ngược con đường tổ tiên ta đã đi, ngay lần đầu có thể.

Chúa Nguyễn đã quay lại quan sát người con trai mười hai tuổi khi cậu ta đang nói. Không hạ mắt xuống, cũng không lẩn tránh ánh mắt của ngài ta, Phúc Đảm vẫn tiếp tục nói. Khi cậu ta đã im lặng một lúc, vị chúa vẫn chỉ nhìn. Quay lưng về phía dòng sông, nắng chiều đang tối lại sau ngài ta, chỉ thấp thoáng ánh lăn tăn đầu ngọn sóng.

- Con biết điều mình nói là gì chứ? – Vị chúa chợt cười. Nụ cười vừa như chế giễu, vừa như buồn bã. – Ta đã từng nghĩ như con, ở tuổi cũng gần như con bây giờ.

Nhưng con có điểm yếu là qúa dễ mềm lòng. Con có nhớ lúc ta trách phạt em con, định đánh nó, con lại khóc mà qùy xuống xin cho em? Con có nhớ lúc con nằm ngủ bị thằng hầu vẽ lên mặt, khi ta phát hiện ra thì con lại đi nhận tội thay cho nó, bảo rằng con sai nó vẽ? Con có ý muốn bảo vệ gia đình là điều tốt, con có lòng nhân từ là điều tốt. Nhưng bất chấp cần thiết hay không cần thiết, bất chấp thể diện hay danh dự của chính con thì không được. Có những đặc tính này, con không thể đối mặt được với những điều con vừa nói đâu.

- Con sẽ không như thế nữa. – Phúc Đảm nói ngay mà không chớp mắt. – Nếu qúa nhân từ là điểm sai thì con sẽ sửa.

- Ta thích con như thế hơn. – Vị chúa cười. Ngài ta lắc đầu, mắt nhìn mông lung đến những mỏm núi đang lẫn vào trong chiều. – Con vẫn chưa biết mình đang nói gì đâu…

Nhưng nếu con muốn theo ta thì ta sẽ dẫn con đi. Giờ thì ta thu xếp cho xong công việc để còn về đón Quốc mẫu. – Vị chúa nói ngay khi thấy cái cau mày của Phúc Đảm. Ngài ta lại đi vòng qua cậu bé để trở về với đám đông bên cạnh tấm bản đồ. Những quân dân được huy động đắp thành đã ngừng tay, lục tục kéo từng nhóm trở về, đi qua cánh cửa mà hai người lính đứng canh phân phát lương tiền làm việc ngày hôm đó cho họ. Phúc Đảm mím môi rồi đi theo cha. Trong lúc vị chúa nói chuyện với các quan coi việc xây thành, cậu Tứ công tử nhảy lên trên tường thành đang đắp dở, quan sát Phú Xuân trong bóng chiều tím biếc. Tiếng chuông đang đổ từng hồi dài. Mặt trời đang lặn ở đầu bên kia dòng nước, sau rặng núi cao. Hai bên bờ, vài ngọn lửa đã được thắp lên. Những chiếc thuyền đang đậu lại bên sông, tiếng người gọi nhau lao xao trải dài theo dòng sông. Nước sông trong vắt làm cho các đợt sóng đánh qua lại càng sáng lên, như hút lấy tất cả ráng chiều.

- Phú Xuân… - Phúc Đảm lẩm bẩm. Cậu ta nheo mắt, nhìn những công trình điện đài tuy đã xiêu đổ vài phần nhưng vẫn còn vẻ tráng lệ thanh nhã. Vẻ uy nghi của một vùng đất kinh kỳ, không giống như Sài Côn. Sài Côn có sự tấp nập giàu có của các thương nhân, có vẻ bận rộn và hiện đại của các con tàu Tây dương đủ kích cỡ, đủ loại, có các con đường ngăn nắp và sáng sủa. Sài Côn có cả ngôi thành lớn và một cung điện nhỏ được xây trong nó. Nhưng Sài Côn không cổ kính và thanh nhã, Sài Côn không có hàng loạt các công trình cổ tráng lệ và cao quý như nơi này. Một đô thành cổ, đây là lần đầu tiên Phúc Đảm nhìn thấy nó. Và cậu nóng lòng muốn nhìn thấy Thăng Long. Các chúa Nguyễn mới chỉ chỉnh trang nơi này làm đô thành cho Đàng Trong, cho địa vị của một vị chúa. Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, cùng với việc xưng vương, đã chỉnh trang Phú Xuân rộng lớn hơn. Nhưng vẫn chưa phải là kinh đô của một hoàng đế, chưa phải. Phúc Đảm nghĩ mình biết điều đó. Nhưng lúc này, cậu vẫn say mê nhìn Phú Xuân. Đây đã là giấc mơ của mọi người, trong suốt những năm tháng cậu sống, từ lúc cậu ra đời. Đây là nơi cậu đã luôn luôn muốn tới.

Và cũng là nơi mà nhiều người không thể tới. Phúc Cảnh, Phúc Hy, hai người anh cậu đã không thể chờ để trở lại Phú Xuân. Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Đặng Đức Thuật, Nguyễn Long… đã không thể đến Phú Xuân. Họ đã rơi rụng, trong chiều dài của chiến tranh. Đứng nơi này, hít căng lồng ngực làn không khí đẫm hơi nước từ sông thổi vào, cậu bé mười hai tuổi cảm thấy ngậm ngùi. Cậu đã sinh ra, lớn lên cùng cuộc chiến tranh của Gia Định, đã chứng kiến bao con người ra đi rồi không trở lại. Cậu lớn lên với sự phát triển của đội quân nhà Nguyễn. Cậu chưa bao giờ biết đến thất bại của đội quân ấy. Nhưng bây giờ thì cậu biết rằng Gia Định chỉ là một mảnh đất nhỏ bé, quá nhỏ bé so với phần đất mà cậu đã đi qua để đến Phú Xuân này. Cùng với chuyến đi, một ý tưởng nào đã manh nha hình thành trong cậu. Cậu vẫn chưa nắm bắt được nó, nhưng cậu cảm thấy sức nóng của nó cháy bừng trong mình. Khi còn ở Gia Định, cậu đã từng nghĩ đến việc xin cha cho đi theo đến Thăng Long, nhưng lúc ấy, cậu có ý muốn đó vì lòng căm thù, muốn tận tay, tự mình tham gia vào đội quân diệt Tây tặc. Còn bây giờ, sau chuyến hải hành dài trên biển, lần đầu tiên kể từ khi sinh ra, cậu có thể đi dọc bờ biển để ngắm nhìn đất đai Đàng Trong này, khi ngắm nhìn Phú Xuân mà cậu đã bắt người xung quanh phải kể lại đến từng chi tiết về nó trong những ngày xưa, cậu khao khát được đi xa hơn, xa hơn nữa. Cha cậu đã sắp trở thành Hoàng đế. Hoàng đế của cả đất nước này, của cả phần đất phương Bắc xa xôi kia nữa. Họ sẽ đến, phương Bắc xa xôi kia nữa. Ý nghĩ ấy làm từng phần tử của cậu rung động trong nỗi xúc động sâu xa.

Phúc Đảm nhìn lại đồi Thiên Mụ và giàn giáo được dựng lên trên nền chùa cũ đã bị triệt hạ. Câu chuyện về ngọn đồi này vốn được cậu coi là thứ mê tín – Như cha mình, cậu mang rất ít niềm tin về những phương thuật phù thủy, lý số của Đông phương. Nhưng khi nhìn thấy nó, ngọn đồi ấy, cậu đã muốn tin rằng đó là sự thật. Vùng đất này sẽ thay đổi hoàn toàn tương lai nước Việt. Tương lai nước Việt đã thay đổi, từ ngày họ Nguyễn đặt chân đến Phú Xuân, dựng nên cơ đồ của mình. Nước Việt sẽ không còn chỉ là An Nam, là quận Giao Chỉ của phương Bắc. An Nam, cái tên nhục nhã ấy sẽ được xóa bỏ, từ vùng đất này.

Cậu không tin vào truyền thuyết. Nhưng cậu tin rằng con người có thể tạo nên truyền thuyết, biến nó thành sự thật. Sự thật, đó là điều vĩnh viễn tồn tại. Và cậu đang run lên, trong khí trời mùa hạ, với ý nghĩ rằng mình sẽ nắm được nó, cái phần cốt lõi đã hiện diện, khi kết thúc đang đến gần. Cậu đã có thể ở đây, khi rất nhiều người không thể, đó là để cậu tiếp tục con đường của họ.

Đó là một ý tưởng còn chưa thành hình với cậu, nhưng khiến cậu xúc động đến tận đáy lòng.

Khi vị chúa đến nơi Ngọc Du và đứa con gái út đang ở tạm trong cung Dương Xuân, trời đã về khuya, Ngọc Du đã định đi ngủ. Do đó, nàng đón ngài ta với dáng vẻ không hề thiện cảm hay hào hứng.

- Xin lỗi vì ta đến khuya thế này, nhưng ta phải đi thăm hỏi mọi người một vòng. – Vị chúa nói khi Ngọc Du ơ hờ chào. Nàng thậm chí còn không mời ngài ta ngồi. Ngài ta tự ngồi xuống bộ bàn ghế kê giữa phòng, nhìn Ngọc Du đứng tựa vào tường điện. Nàng chỉ khoác một chiếc áo ngoài áo ngủ, tóc cũng đã bỏ xuống. – Chị khỏe chứ?

- Nếu thần sắp chết thì sẽ có người đến báo với chúa công. – Nàng nhếch môi, ra vẻ như không hề nhận thấy cái cau mày của ngài ta. Nàng biết đây là những từ không nên nói ra trong cung cấm, nhưng nàng chẳng cần. – Thế, thần khỏe, nên chúa công không cần phải quan tâm nữa.

Nàng nói như muốn đuổi ngài ta đi. Quả thật, qua cả chặng đường dài và việc sắp xếp trong cung, nàng đã mệt và muốn đi ngủ. Nhưng lần này thì đến lượt ngài ta ra vẻ như không nhận thấy ẩn ý của nàng. Ngài ta chăm chú nhìn nàng với cái nhìn khiến nàng cảm thấy buồn cười.

- Ngài cũng nhìn ai như thế sao, chúa công? – Nàng vừa hỏi vừa cười. – Quốc mẫu mất cả hai đứa cháu, Vương hậu mất đứa con, khi gặp họ thì ngài cũng như vậy sao?

- Ta cũng mất hai đứa con và anh rể. – Nhận ra ý nàng, vị chúa lặng lẽ nói. Nàng cười khẽ, ngồi xuống trước mặt ngài ta, chống tay mà nhìn ngài ta bên kia bàn.

- Ngài đang nói tới đứa con mới bốn tuổi đã bị ngài gửi đi đến Phú Lang Sa, mười bốn tuổi đã được ngài đem ra trận; hay là đứa con mới sống chưa được bao nhiêu năm đã bị ngài đem ra Diên Khánh rồi chết ở đó? Ngài đang nói tới người anh rể cởi áo đổi cho ngài, đóng vai Lê Lai cứu chúa hay người anh rể vì ngài mà chết? Này, ngài không biết mình đã làm gì à? Ai đã nói về quân quân tướng tướng rồi đánh cho Võ Tánh một trận vì tội bỏ quân? Ai đã đem cả Kiến Hòa quân tách ra, ném mỗi người một phương? Ai đã đem chức tước nào là Tham thặng, nào là Quận công phong cho một người đơn giản đến thế? Võ Tánh ngày hôm nay – à, phải nói là trước khi chết mới phải – do chính ngài tạo ra. Ngài đã biến Võ tướng quân trở thành như vậy, ngài vừa lòng chưa, chúa công?

Và cách ngài thương tiếc qủa thật là hay ho. Ngài mất một Quận công, ngài liền phong ngay đến ba Quận công khác thế chỗ. À không, ngài qủa là đã mất ba Quận công thật, Phúc Hội, Phúc Cảnh và Võ Tánh. Nhưng mà, ngài làm sao có thể phong một tên hàng tướng như Lê Chất là Chưởng Hậu quân Bình Tây tướng quân được? Ngài tìm được một kẻ thay thế vị trí thật là xứng đáng! Ngài có định phong Lê Chất làm Quận công luôn không, chúa công? Ngài tìm được một tướng quân thay thế qúa xứng đáng cho những gì Võ Tánh đã làm vì ngài.

Rồi ngài thật là cao thượng làm sao! Ngài không những tha cho binh lính Bình Định, ngài tha cho cả tướng, cả quan của chúng – Những kẻ đã ép Võ Tánh đến chỗ chết! À phải, quân lính bị bắt phải theo thì không có tội, nhưng bọn Đô đốc như Trần Đại Cựu, như Lê Đình Chính, Châu Hữu My kia thì ngài dám nói là không có tội à? Chúng không kiệt lực bị ngài bắt được thì chúng còn đánh ngài, ngài dám nói là chúng không có tội à? Ngài dám nói rằng chúng không can hệ đến việc ép chết anh rể của ngài sao? Thậm chí chúng là một bọn hèn hạ vô lương, đánh không được thì qùy gối xin tha, chửi mắng chủ cũ, đơm đặt đủ điều mà tâng công với ngài. Tên Trần Văn Kỷ kia đã kể cho ngài một câu chuyện thật hay ho về tổ tiên họ Nguyễn đánh chết Nguyễn Huệ, hả? Tên Nguyễn Thiếp kia nịnh ngài rằng “người giỏi làm được, người dở không làm được”, hả? Chúng có tranh nhau dâng địa đồ lăng Nguyễn Huệ cho ngài quật mộ phơi xác không đấy?

À không, ngài chỉ sợ làm mất lòng bọn chúng. Ngài sợ bọn chúng nghi ngại ngài. Ngài cho bọn chúng chầu chực bên mình. Ngài cho một tên hàng tướng hèn hạ kiểu ấy, mới về với ngài chưa đầy ba năm, làm Bình Tây tướng quân. Ngài định xây dựng một triều đình đầy những kẻ như thế đấy à? Ngài định làm Hoàng đế của lũ bất lương vô sỉ ấy à?

- Hậu quân hiện thời là Tả đồn Ngự lâm quân chuyển đổi, không liên quan đến quân của Võ Tánh. – Vị chúa vẫn điềm đạm trả lời nàng. Ngài ta cũng chẳng tỏ vẻ phật lòng trước những gì nàng nói. – Và những chuyện công thì không lấy đời tư ra tùy tiện đánh giá được, cũng không liên quan đến chị. Ta đến đây chỉ để báo cho chị biết là ta định xây nhà cho chị và Từ phi. Chị đã định chọn nơi nào chưa?

- Đồi Thiên Mụ. – Nàng vẫn giữ nụ cười mà trả lời. Sáng nay, khi nghe câu chuyện ở đầu thuyền, nàng đã nảy ra ý định này. - Ở làng Hà Khê còn chùa làng chưa bị phá hoàn toàn, Từ phi có thể đi lễ được.

- Được, vậy mai ta cho người đến làng Hà Khê dựng nhà. – Vị chúa cũng chẳng có lấy một cái chớp mắt với yêu cầu của Ngọc Du. Nàng vẫn cười, hạ giọng mà nhẹ nhàng nói.

- Cám ơn chúa công. Và xin chúa công một ơn huệ nữa: Sau khi xong việc, ngài đừng bao giờ đến nhà thần, được không? Hay tốt nhất là thần không bao giờ phải gặp chúa công nữa.

Bây giờ thì qúa khuya rồi, chúa công ở đây không tiện, xin ngài về cho. – Nàng nói và đứng dậy. Vị chúa đứng lên cùng nàng, nhìn nàng sai cung nhân mở cửa, đưa đèn vào, dẫn ngài ta đi. Một lúc sau, khi người cung nhân đã cầm đèn đứng khép nép ở cửa cung chờ đợi, ngài ta mới chậm chạp nói.

- Chị cứ định sống thế này suốt đời sao?

- Thần muốn sống ra sao là chuyện của thần, không dám làm chúa công bận lòng. Ngài ít quan tâm đến chuyện của người khác thì tốt hơn. À, chúc mừng ngài trở thành Hoàng đế. Địa vị càng cao thì áp lực càng lớn, chính ngài đã nói thế thì hẳn ngài biết cái gì đang chờ mình. Còn thần chỉ là một qủa phụ bé nhỏ, không liên quan đến ai, thần đâu cần phải nhìn mặt người khác mà sống mãi thế.

Vị chúa cau mày. Ngài ta bước về phía cửa điện, gọi người cung nhân. Theo hướng bước, có lẽ ngài ta vẫn chưa về điện của mình mà còn đến chỗ Ngọc Tú. Giờ thì ngài ta phải đi lo đối phó với lời cầu xin được xuất gia của người chị Cả, Ngọc Du nghĩ với cái nhếch môi. Với thái độ tôn trọng nhưng giữ một khoảng cách nhất định với tôn giáo của triều đình, yêu cầu của Ngọc Tú khó mà được chấp thuận. Đường đường là một Trưởng công nương – sắp là Trưởng công chúa – không thể trở thành một ni cô, sớm tối sống khắc khổ trong chùa. Với ơn nghĩa của Lê Phúc Điển, vị chúa không thể để Ngọc Tú sống như vậy. Với địa vị đang có, sự tranh cãi, đấu đá triền miên trong triều, ngài ta không thể để gia đình mình lại trở thành một cái cớ nữa cho quan tướng. Và như mọi khi, người họ Nguyễn phải chịu nhường.

Ngọc Tú có lẽ sẽ khóc lóc, sẽ van xin, nhưng không cách nào lay chuyển được những điều đã xác lập sẵn. Dù có là tâm nguyện cả đời, dù là việc cả đời cô đã quyết, vẫn không thể được thực hiện. Cô đã chờ đợi, rồi cuối cùng có được kết qủa như thế.

Ngọc Du thổi tắt ngọn đèn trên bàn. Nhưng cơn buồn ngủ của nàng đã tan biến. Nàng chỉ cảm thấy mệt mỏi đến bải hoải. Trong căn phòng tối, chỉ có đôi chút ánh đèn treo ngoài hiên lọt vào qua các ô cửa, nàng ngồi thừ người trên trường kỷ mà dõi mắt nhìn những đốm sáng nhạt mờ. Cuối cùng, kết qủa là như thế, nàng nghĩ, với sự trống rỗng đè ập vào tâm trí.

Phú Xuân, cuối cùng, họ đã trở lại. Họ trở lại một Phú Xuân đã trở thành xa lạ, đã đổi thay và xa lạ đến mức không chịu đựng nổi. Sông vẫn đó, núi còn đây, nhưng hầu như đã mất hết hình hài, mất hết những điều thân thương đối với họ. Tất cả trở thành xa lạ, không chỉ vì những con người cũ đã mất đi, không chỉ vì những điện đài, chùa chiền cũ đã bị phá nát, hủy hoại. Tất cả đã không giống như giấc mơ của họ. Phú Xuân trong giấc mơ của họ là những êm đềm và thân thương của một quê hương lâu ngày xa cách. Phú Xuân có lẽ không đổi khác, nhưng họ đã đổi khác. Họ rời khỏi Phú Xuân trong thời niên thiếu, và trở lại khi cuộc đời đã sắp đi qua, khi trái tim đã ắp đầy đau thương cùng mất mát. Phú Xuân, với những đường nét cũ nhưng bị sự hủy hoại phủ trùm lên, với những thân thương đã trở thành xa lạ, với những con người không còn lấy một dấu tích nào ở lại, chỉ làm họ thêm đau đớn khi nhìn lại nó. Cũng như Gia Định, vùng đất này đã chất chứa qúa nhiều mất mát của họ, qúa nhiều những ảo tượng lung linh và cay đắng của một giấc mơ đã trôi qua mà vĩnh viễn không thành hình hài.

Có lẽ, vì vậy mà vị chúa đã quyết định xóa bỏ tất cả, dựng nên một Phú Xuân khác, hoàn toàn khác. Có lẽ cả vì tham vọng của ngài ta. Ngài ta đã trở nên đam mê các ngôi thành Tây dương. Nàng cũng đã nói điều đó khi tiễn ngài ta đi, nhưng không hề nghĩ rằng khi gặp lại, nàng có thể căm hận người em trai mình đến vậy.

Đúng hay không đúng, vô lý hay có lý, thứ tình cảm mà nàng đang cảm thấy? Sự giận dữ mà nàng ném vào ngài ta, sự ghét bỏ mà nàng đã bộc lộ? Nàng không định đem tất cả chuyện qúa khứ ra tính toán vào lúc này, nhưng lời đã buột ra khỏi miệng nàng như chúng đã luôn chực chờ ở đấy, đã luôn nằm trong cõi lòng nàng. Ngài, ngài, chính ngài, nàng đã muốn chỉ tay vào mặt ngài ta mà nói. Võ Tánh không phải con người như thế, Võ Tánh vốn không phải người sẵn sàng làm mọi thứ vì ngài. Võ Tánh là kẻ thù của ngài. Nhưng ngài, sau khi lấy đi anh trai của chàng ta, lấy đi đội quân của chàng ta, chia cách tất cả những anh em, đồng bạn, đã gả nàng cho chàng, kéo chàng về phía mình. Nàng biết con người trước đây của Võ Tánh, người thanh niên sống gần như là bản năng, ngang ngạnh và ương bướng ấy đã không còn nữa. Chàng đã bị ngài ta thay đổi.

Nàng biết suy nghĩ ấy có phần vô lý và vô nghĩa của nó, nhưng nàng không thể ngăn mình lại. Trở lại cung Dương Xuân này, nhìn cung điện cũ mà nàng đã từng vào bao nhiêu lần để thăm người em trai, đưa cho cậu ta từng chén canh bát cháo, nàng thấy lòng cay đắng nhưng không thể tìm lại mình buổi ấy. Tất cả đã đổi thay. Và khi nghĩ đến Ngọc Tú cùng lời khẩn cầu vô vọng của cô, nàng biết mình không thể ở lại nơi đây. Người họ Nguyễn luôn bị đặt xuống dưới, dưới những gì là cần thiết và hệ trọng. Nàng không thể ở lại nơi đây. Và lời yêu cầu vị chúa đừng bao giờ đến tìm nàng là sự thật. Nàng không muốn tiếp tục bị cuốn vào cái vòng xoáy này, nàng không muốn tiếp tục hy sinh và mất mát. Thậm chí, nàng căm ghét sự hy sinh cho những kẻ mà nàng cũng chẳng biết. Vì những kẻ xa lạ mà tổn thương mình, những người yêu thương cạnh mình? Nàng cảm thấy không đáng.

Cuộc đời của nàng là do nàng tự chọn. Nàng sẽ sống theo ý nàng muốn, từ lúc này.

Ngày đầu tháng năm năm Nhâm Tuất, chúa Nguyễn lập đàn tế cáo trời đất, kính cáo tổ tiên,  lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long. Niên hiệu gồm chữ Gia trong Gia Định và chữ Long của Thăng Long, là vị vua đầu tiên của đất nước trải dài từ Thăng Long Bắc Hà đến Gia Định Nam Hà.

Cùng với việc lên ngôi, vua Gia Long cho đoàn sứ thần gồm Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Hoàng Ngọc Uẩn sang Thanh, đem theo “lễ vật” là bọn thủ lĩnh Tề Ngôi Mạc Quan Phù, Phan Văn Canh, Lương Văn Tài cùng các sắc phong của nhà Thanh cho Tây Sơn. Đoàn sứ thần này đi thuyền đến Quảng Đông, đưa thư cho Tổng đốc Quảng Đông Giác La Cát để cầu kiến vua Thanh.

Vua duyệt thủy bộ binh với Tiền quân sáu vạn người, Tả quân gần chín vạn người, Hậu quân năm vạn người, Thủy quân có hơn năm mươi tàu đồng, một ngàn rưỡi ghe thuyền chở năm vạn quân. Hai mươi lăm vạn quân được sức tám điều công chánh để tấn phát ra Bắc với bài “Hịch dụ các người trung nghĩa ngoài Bắc Hà” dẫn đường:

“Trước để sanh hồi miếu xã, sau là chứng cứu sinh linh
Khuyên người trung nghĩa ngoài này, rõ ý khuông phù trong ấy.

“Nghe võ hịch một lòng ứng Hán, giúp cơn dòng lạc thưở trùng hưng.
Dựng can kỳ bốn mặt công thành, từ thưở sơn man thất thế.”

Cờ “Thảo phạt bạo Tần” được dựng lên, trên chiếc xe kéo xác Nguyễn Huệ đi trước quân. Tháng sáu năm Nhâm Tuất, đoàn quân đến dinh Hà Trung, Đồng Hới. Thủy binh đến cửa Hội Thống, đánh lui Nguyễn Văn Thận. Bộ binh đánh vào Nghệ An, bắt được một con trai của Nguyễn Nhạc rồi đánh thẳng đến Diễn Châu. Cả Nghệ An hàng phục. Tiền quân đánh ra Thanh Hóa, Đô đốc trấn Nguyễn Quang Bàn, Nguyễn Văn Thận mở của thành ra hàng.

Dân Nghệ An báo cho quân Nguyễn về toán quân của Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng cũng vừa vượt đường núi tới. Ba ngàn quân thiếu ăn đã rơi rụng gần hết, chỉ còn lại đám hàng tướng về đầu như Từ Văn Chiêu, Phạm Văn Điềm, Lê Công Hưng, Nguyễn Văn Mân. Đám quân này bị dân các Man chặn đường đón đánh, bắt về giao cho quân Nguyễn. Võ Văn Dũng chạy đến Nông Cống lại bị dân bắt về.

Các nhóm chống Tây Sơn ở Nghệ An, Thanh Hóa đến Thăng Long, Kinh Bắc đồng loạt nổi dậy, gia nhập vào đội quân Nguyễn.

Tại Sơn Nam Thượng, Nguyễn Văn Trương đánh tan đội Tề Ngôi còn khoảng bốn mươi thuyền còn đóng giữ, bắt được Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng. Quân Nguyễn bao vây thành Thăng Long chỉ sau gần một tháng hành quân.

Ngày Canh Thân, Thiếu úy Nguyễn Văn Thọ mở cửa thành Thăng Long ra hàng.

Nguyễn Quang Toản tức vua Bửu Hưng bị bắt ở Xương Giang. Nguyễn Quang Thùy tự sát. Đội quân cuối cùng của Tây Sơn đóng ở Cao Bằng cũng bị quân các mường nổi lên đánh tan.

Năm ngày sau, tại điện Kính Thiên, hoàng thành Thăng Long, vua Gia Long bố cáo: Bắc Hà đại định.

76

Tiếng cửa mở kéo dài vang ken két qua đường hầm hẹp dẫn vào địa lao. Ánh sáng từ cửa đổ xuống cầu thang đá rồi mất hút trong bóng tối đặc quánh. Vài bóng người đi qua ánh sáng ấy, rồi cánh cửa khép hờ lại, ánh sáng trong hầm được thay thế bằng lửa từ ngọn đuốc trên tay người vừa vào. Thong thả, người ấy bước xuống từng bậc cầu thang. Tiếng chân vang trong sự lặng im giữa các bức tường, dội qua những bức tường đá và đất. Người đó có vẻ như đang lắng nghe, thưởng thức từng bước chân mình.

Trong bóng tối âm thầm những sự chuyển động. Những kẻ nằm trong hầm ngục nhìn qua song gỗ thấy người đang đến. Ánh đuốc thắp sáng khuôn mặt của một người đàn ông trung niên với những đường nét nhẹ nhõm, gần như là dịu dàng. Sự rung động lan đi trong bóng tối của hầm ngục, khi hơi thở lẫn nhịp tim những kẻ vừa nhìn ra xáo động. Họ nhận ra ai đang đến. Chúa Nguyễn. Vua Gia Long. Người đã là Hoàng đế mới của Đại Việt.

Một tay cầm đuốc, một tay chắp sau lưng, ngài ta có sự thong thả và điềm nhiên như thể đang đi dạo trong một khu vườn đầy nắng hơn là ở hầm ngục dưới Tử Cấm Thành Thăng Long. Cả đôi mắt ngài ta cũng vậy. Ánh nhìn của ngài ta lướt nhanh qua những bức tường, cánh cửa, những hốc phòng giam ngập chìm trong bóng tối, cũng chẳng để tâm đến những thân ảnh đang chuyển động sau song cửa tù. Ngài ta lơ đãng, hoàn toàn lơ đãng. Ngài ta có vẻ như cũng chẳng nghe, hoặc hoàn toàn không màng đến ai đó rít lên qua kẽ răng trước sự xuất hiện của ngài ta.

Hoàng đế, một tay cầm ngọn đuốc, một tay chắp sau lưng, thong thả tiến vào địa lao giam giữ những kẻ đã bị ngài ta bắt được: Các tù nhân Tây Sơn. Họ đã được tập trung toàn bộ về đây, từ những kẻ bị bắt tại Nghệ An hay kẻ cuối cùng bị bắt tại Cao Bằng. Họ đã được đóng cũi đưa đi diễu khắp kinh thành hồi sáng này, chứng minh cho chiến thắng của quân Nguyễn. Chiến thắng thật dễ dàng, trong chưa đầy một tháng xuất quân.

Ngài ta đứng lại trước cánh cửa ngục đầu tiên, hơi nghiêng đầu, nheo mắt nhìn như để xác định kẻ đang bị giam giữ bên trong. Một tiếng hừ khẽ đáp lại ngài ta. Tiếng của một phụ nữ.

Hoàng đế mỉm cười.

- À, ta đã rất muốn gặp ngươi. – Ngài ta nói, nhưng vẫn chẳng đưa cây đuốc của mình dù chỉ một ly về phía trước. Ngài ta chẳng hề có ý muốn nhìn người mà ngài ta đang nói chuyện cùng. – Ta đã nghe rất nhiều chuyện về đội nữ binh của ngươi, cũng như thấy sự lợi hại của các ngươi ở lũy Trấn Ninh. Dù qủa thật là ngươi nghĩ có thể leo lên núi mà bắt ta được sao? Ngọn núi ấy thật là cao. Đào Duy Từ khi xây lũy Trấn Ninh đã sớm biết đó là điểm yếu nhất, đồng thời là điểm lợi hại nhất của lũy. Cứ liều mạng xông lên, nhìn thì hay nhưng có tác dụng gì đâu chứ?

Ngài ta cười khẽ.

- Ta bình sinh rất kính trọng những kẻ trượng võ. Ta bình sinh rất kính trọng những tôi thần biết trung thành với chủ nhân. Nếu ngươi là đàn ông, ta đã rất khâm phục ngươi. Ngươi là đàn bà, ta cũng khâm phục ngươi. Nhưng ngươi là phụ nữ, ta ghê tởm ngươi.

Cái gì là đội tượng binh với chẳng nữ binh? Cái gì là uy phong lẫm lẫm, lợi hại khôn cùng? Chẳng qua là khả năng giết người cao, ra trận thì giết người nhiều vô số. Đã bao nhiêu người chết dưới chân voi của ngươi rồi, nữ tướng? Đã bao nhiêu sinh mạng bị hủy diệt trong tay ngươi, vì cái “bản lãnh” đó của ngươi rồi? Đã có bao nhiêu người phụ nữ phải khóc vì ngươi rồi, nữ tướng? Ngươi tự gọi mình là phụ nữ sao, nữ tướng, khi ngươi thản nhiên giết hại con của người phụ nữ khác? Ngươi tự gọi mình là người mẹ sao, khi ngươi có thể hy sinh cả đứa con mình, khi ngươi không hề biết nghĩ đến những người làm mẹ khác? Ta có thể kính trọng lẫn tha thứ cho bọn phản tặc, đến chừng nào ta có thể. Ta có thể chấp nhận bọn đầu cơ lươn lẹo, gian trá theo thời, vô sỉ vô năng như đám quan thần lâu nhâu ngoài kia. Nhưng ta ghê tởm loại phụ nữ như ngươi. Bọn đàn ông tham lam giành giật sống chết với nhau, độc ác tàn nhẫn thủ đoạn đến vô luân là điều dễ hiểu, vì tính chất si cuồng của chúng là thế - Nhưng phụ nữ mà cũng tranh đua lấy máu xương kẻ khác để lập công thì ta cực kỳ căm ghét.

À phải, ta trước nay vẫn muốn gặp ngươi, để nói với ngươi một điều như thế thôi.

Nhân tiện, ta định thông báo với ngươi rằng đã bắt được con gái ngươi. Triều thần đang nghị luận định làm gì với các ngươi, nhưng ta có thể nói trước rằng ngươi không tránh được tội voi giày, hay ngũ mã phân thây. Ta nghĩ voi thì thích hợp với ngươi hơn. Dù sao, chính các ngươi đã đem một loài vật ù lì như voi vào chiến địa, biến chúng thành vũ khí. Chính ngươi đã dùng voi để dày xéo người khác. Ngươi nên biết mùi vị bị những con vật hôi hám ấy siết chết là thế nào.

Ta cũng muốn ngươi nhìn thấy con gái mình bị voi giày hơn. – Hoàng đế nói, ngưng lại một lát để nghe tiếng nấc nghẹn phát ra trong bóng tối. Bóng tối trong nhà ngục âm u chuyển động theo từng lời nói của ngài ta. Tất cả mọi người mọi kẻ trong nhà ngục đang lắng nghe từng lời nói của ngài ta. – Ngươi có từng nghĩ đến bao giờ chưa, nữ tướng – về những người mẹ có đứa con nát bấy dưới chân voi của ngươi? Phải, ta sẽ sử dụng những con voi của ngươi. Ta muốn ngươi tận mắt nhìn thấy cảnh tượng ấy, từng khoảnh khắc của nó. Ta muốn ngươi biết cảm giác bị chính những vũ khí của mình giết chết – ta muốn ngươi biết cảm giác của những kẻ đã chết trong tay ngươi. Điều này là một ân huệ với những vị tướng mới phải, đúng không? Nhưng ngươi còn là phụ nữ. Ngươi đã bao giờ biết chưa hả, nữ tướng – Nỗi đau của những người phụ nữ khác?

Khi huấn luyện, sử dụng những con voi ấy, dạy cho chúng cách quấn người tung lên không, cách xông vào chà nát kẻ địch, ngươi có nghĩ đến những nạn nhân của mình không? Chúng ta trước nay vẫn coi voi là vũ khí của bọn man di chính vì như thế, vì tính chất tàn bạo của nó. Nhưng chính các ngươi sử dụng những con voi này để giết người, vậy thì các người nên nếm trải cái chết như thế. Công bằng, hả?

Và không biết đã bao nhiêu phụ nữ phải khóc vì ngươi rồi, nữ tướng. Ngươi biết kẻ đối đầu với ngươi là ai không? Ngươi biết những kẻ bị chà nát dưới chân voi của ngươi là ai không? Chúng ta đánh nhau, chúng ta sử dụng những vũ khí giết người, nhưng chúng ta nên biết giới hạn để dừng tay. Ngươi đã bao giờ có cái ý nghĩ đó chưa, nữ tướng? Ta muốn ngươi thưởng thức nghệ thuật giết người của những con voi do chính ngươi huấn luyện, thưởng thức từng khoảnh khắc của nó. Ta muốn ngươi chứng kiến đứa con của mình thành một đám máu thịt bầy nhầy – dưới chân con voi mà ngươi huấn luyện. À phải, ta thừa nhận rằng ta ghét ngươi. Cả đời ta, ta đã phải chứng kiến nước mắt của phụ nữ. Cho nên, ta làm sao mà hiểu được loại phụ nữ chỉ huy cả một đội quân giết người như ngươi; ta làm sao mà hiểu được loại phụ nữ sẵn sàng bỏ con gái mình ở lại như ngươi. Con bé ấy không giống ngươi đâu, nó nhút nhát lắm, ta nghe nói rằng ngày nào ở trong tù nó cũng khóc. Làm sao mà ngươi có thể vứt bỏ nó lại như thế, nữ tướng? Nếu có một người mẹ như vậy, thà nó chết đi còn hơn.

Ngươi chiến đấu vì cái gì vậy, nữ tướng? Khi ngay cả những người thân thương nhất, ngươi cũng có thể hy sinh?

Vậy thì ngày hôm nay, ta sẽ cho ngươi biết cái giá mà mình phải trả, của những gì ngươi đã vứt bỏ lẫn những gì ngươi đã lao theo.

Ngươi gọi mình là mẹ ư – khi chưa từng nghĩ đến nỗi đau của những phụ nữ khác?

Ngươi đã bao giờ biết đến nỗi đau của người làm mẹ chưa?

Hoàng đế ngừng lời cũng đột ngột như khi cất tiếng. Ngài ta bước qua buồng giam bên cạnh, trong sự im lặng nặng nề ngột ngạt của hầm ngục. Ngài ta dừng lại trước cánh cửa, lần này không cần cả nghe ngóng kẻ nào ở bên trong.

- Chào tướng quân. – Ngài ta lại mỉm cười. Chỉ có sự im lặng đáp lời ngài ta. – Chẳng lẽ cho đến cuối cùng, tướng quân cũng không thể thay đổi chủ ý hay sao?

Một khoảng lặng im nữa đến trước khi giọng đàn ông mệt mỏi vọng ra từ bóng tối.

- Một khi đã tuyên phạt như thế với vợ con tôi, ngài còn có thể đặt điều kiện với tôi sao? Tôi bây giờ có sống cũng thành phế nhân, ngài còn muốn tôi giữ mạng để làm gì? Một kẻ như tôi mà còn sống, chẳng phải người trong triều ngài sẽ lấy làm kinh hãi lắm sao?

- Địa vị của tướng quân có cao hơn những kẻ ta đã tha mạng không? – Hoàng đế điềm đạm cười. – Chỉ cần không mang dòng máu của Nhạc, Huệ, ta đều có thể tha. Chỉ cần thuận lòng về theo ta, ta có thể tha. Ta kính trọng tướng quân, điều này ta nghĩ tướng quân đã biết.

Phải, ta mời gọi tướng quân chỉ vì lòng kính trọng của ta. – Ngài ta nói với bóng tối lặng im. – Võ Tham thặng của ta vì tướng quân mà mất, nhưng tướng quân cũng đã tôn trọng di nguyện của anh ta mà không sát hại quân lính, đối xử với di thể những người đã mất đàng hoàng, đó là điều khiến ta tôn trọng tướng quân. Không, ta chẳng nợ nần gì tướng quân cả. Ta cũng có giết một người nào trong đám hàng binh tại Bình Định đâu. Ta sẽ ghi nhớ cho đến chết rằng Võ Tham thặng của ta vì tướng quân mà mất. Phải, ta không bao giờ quên, không bao giờ tha thứ. Nhưng ta tôn trọng nghĩa khí. Tướng quân là người có nghĩa khí trượng phu, nên ta không thể bỏ mặc tướng quân.

- Một người có nghĩa khí thì có thể bỏ chủ cầu an, sống trong khi những thân thuộc đều phải chết không? – Người trong bóng tối nghe như đang cười mà hỏi. – Ngài giết tôi đi, Nguyễn vương, để tôi có thể hoàn thành nghĩa khí với người khác, bảo toàn danh tiết cả đời cho tôi. Vì cái nghĩa khí ấy, nếu có thể, xin ngài tha cho mẹ già của tôi. Nếu cả bà cũng phải chết, tôi sẽ phải mang mối áy náy ấy xuống tuyền đài. Với kẻ làm con, không báo đáp được ơn dưỡng dục thì làm sao là người có nghĩa?

- Được. Ta chấp nhận yêu cầu này của tướng quân. – Hoàng đế gật đầu. Ngài ta nhìn vào bóng tối một lúc nữa rồi mới đi.

Quay người về phía đối diện với nhà tù bên này, ngài ta chậm chạp đến trước cửa phòng giam. Người trong phòng ngồi gần cửa hơn hẳn những nơi ngài ta vừa đi qua. Ánh sáng chiếu vào hình dáng cao lớn của người này, hắt cái bóng trải dài trên nền rơm. Nhưng toàn bộ nhân diện của anh ta vẫn còn lẫn vào bóng tối.

- Ta không định chèo kéo ngươi. – Hoàng đế cười mà nói. – Ngươi là một kiểu người qúa nguy hiểm, ta thì đã có đủ dạng người như ngươi trong quân của ta rồi. Cứng rắn quyết liệt thì có Lê Văn Duyệt, cứng đầu ngạo mạn thì có Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường, khôn ngoan gian trá thì có Lê Chất. Đó là những kẻ sẽ đứng đầu cầm chịch cái triều đình của ta. Đó là những kẻ sẽ tranh giành nhau mà nắm giữ quyền lực trong triều đình của ta. Nhưng ít ra những kẻ ấy còn trung thành với ta, chừng nào ta còn sống. Nhưng ít ra ta biết cách để áp chế những kẻ ấy. Còn ngươi, không phải ta sợ ngươi không trung thành với ta, mà vì ngươi là kẻ thừa dã tâm nhưng lại ít cơ tâm.

Tây Sơn tan hoang vì ngươi, có phải? À, ta biết, bọn giáo sĩ đã truyền tai nhau rằng Ngô Văn Sở định giết cả ba hoàng tử mà đưa họ Bùi lên ngôi, dù ta vẫn nghi ngờ về chuyện đó. Nhưng ta cũng đâu cần biết đến chuyện tranh giành đấu đá lẫn nhau của các người. Các người thật giống như một đám cướp, lấy được của cải rồi ăn chia không đều, dẫn đến đánh nhau sứt đầu mẻ trán.

Đừng cau mày với ta. Cái gì là “Thế thiên hành đạo”, cái gì là “tôn Dương”, là “phù Lê”, là “giúp dân dựng nước”? Cuối cùng, kẻ nào được lợi từ hành động của các người? Hay là người chết đầy đồng, máu chảy thành sông? Kẻ chết đói vẫn chết đói, kẻ nghèo đói vẫn nghèo đói, kẻ giàu có vẫn được các người giao quyền cho? Và những kẻ không may mắn khác thì bị các người cướp đoạt, giết chóc. Và Hội An, thương cảng trăm năm của chúng ta, nát vụn. Và Quảng Nam, Thuận Hoá xương trắng đầy đồng. Và Cù lao Phố, Chợ Lớn máu chảy ngập đường. Và lúc các người đem pháo nã vào Phú Xuân có nghĩ đến sẽ bao nhiêu người chết không hả? Và khi các người gom dân chúng đi đánh cho Nhạc, cho Huệ thì được lợi cho ai? Và khi các người đuổi theo vua Lê mà triệt hạ hết làng này đến làng khác ở Bắc Hà thì có lý do gì? Khi các người vì thù oán mà triệt hạ đến người Tàu cuối cùng ở phố Hiến, Vân Đồn, Lạng Sơn thì các người có nghĩ cho dân Bắc Hà khốn khổ không? Khi các người đem quân Tàu Ô về đổ ngập sông biển nước Việt này thì vì cái gì vậy? Các người trong lúc dân chúng đang chết đói mà bày ra nào là đánh Tàu, đánh Vạn Tượng, vì cái gì vậy?

Cuối cùng, tất cả những gì các người làm thì có lợi cho ai? Cái gì là “triều đình do dân dựng thành”?

Ta chỉ thấy một đám người lợi dụng danh nghĩa của chúng dân, vào nhiệt tình của chúng dân mà cướp nước, trục lợi cho bản thân. Thay bọn cường quyền này bằng bọn cường bạo khác. Thay vì Trương Phúc Loan hay Quận Huy thì giờ ta có Bùi Đắc Tuyên và Võ Văn Dũng một tay che trời, giết chóc lẫn nhau. Thay vì vua Lê chúa Trịnh hay Định vương thì nay có Tây Sơn quan quân lo đánh nhau hơn là lo giữ nước, anh em giết nhau chết hàng vạn người hơn là lo cho nước cho dân. Dân thay vì nộp thuế đi lính cho kẻ này thì nộp thuế đi lính thậm chí nhiều hơn gấp đôi cho kẻ khác. Lấy được nước rồi thì các người tham vọng khôn cùng vẫn không chịu ngồi yên mà tính việc binh đao khắp chốn. Xa hoa phú qúy rồi mà các người vẫn chưa vừa lòng, phải tranh quyền đoạt lợi giết nhau cho bằng được.

- Ngài là người ngoài, không hiểu gì thì đừng nói. – Giọng nói cáu kỉnh trong phòng giam thốt ra khi nghe tiếng cười của Hoàng đế. Ngài ta vẫn cười, hơi nghiêng đầu như chế giễu.

- Thế thì các người hiểu về triều Định vương, triều Lê, triều Trịnh à? Hay là các người chỉ thấy rằng đó là những triều đại tồi tệ và rối loạn – Để rồi các người hô hào lật đổ nó, hô hào giết đến người cuối cùng của nó?

Nạn nhân và hung thủ bao giờ cũng có cái nhìn khác nhau, hả? Nhưng hiện thực mới là bằng chứng, không phải là lời nói; hành động mới là điều có thật, không phải là ý nghĩ. Các người có biết rằng ta và các người cùng xuất phát điểm giống nhau? Phải, ta cũng đã muốn lật đổ Trương Phúc Loan, ta cũng muốn thay đổi cái triều đình đó – giống như bây giờ ta lật đổ các ngươi. Nhưng khi ta thấy cảnh người chết ngập đường, hậu qủa sự tàn phá của các ngươi với Hội An, với Quảng Nam, thì ta biết mình không thể tin tưởng các ngươi.

Ta hỏi Nguyễn Thiếp xem ông ta dạy các ngươi cái gì, ông ta bảo “Người giỏi thì làm được, kẻ dở thì không làm được.” Rốt cuộc mọi việc trên đời thắng thua thành bại chỉ có thế thôi. Hạng Vũ kia thua vì hữu dũng vô mưu, bất nhân tàn bạo, do người chứ nào phải do trời. Chỉ có những kẻ yếu nhược mới than thở, đổ lỗi. Trời có thể để cho ta sống, nhưng trời không cho ta sức mạnh để sống, cũng không chỉ cho ta con đường sống. Các ngươi nắm gần hết nước Việt trong tay mà lại để thua một mảnh đất Gia Định bé tẻo teo, đến trời cũng chẳng có sức lay chuyển đến thế.

Rốt cuộc, các người có biết rằng một đất nước thì cần cái gì không? Các người ngoại trừ vơ vét cho bản thân thì làm được cái gì? Ruộng đồng tan hoang, làng xóm tiêu điều, người chết vô số. Tất cả các nơi buôn bán bị phá hủy, đến các người muốn mua một cân thuốc súng còn không có. Dân chúng phiêu tán, người người sợ hãi. Các người đập chùa phá điện, bức bách sư sãi, đuổi giết giáo sĩ. Thử hỏi, trong cái đất nước này, ngoại trừ bản thân các người ra thì ai được cái lợi gì?

Hay các người định nói về “chính nghĩa” của mình? Các người cho rằng vì mình mà dẫm đạp lên kẻ khác là đúng, thì cũng nên chuẩn bị để cho kẻ khác dẫm đạp lên. Ta không tranh luận với các người, không đâu. Ta chỉ cho các người thấy tất cả những gì các người làm – với kẻ khác. Ta chỉ cho các người nhận lãnh tất cả những gì các người đã làm. Là đúng hay là sai, các người tự mình biết.

Một lần nữa, Hoàng đế đột ngột im lặng như nhận ra mình đã nói qúa nhiều. Ngài ta quay đầu về phía phòng giam bên kia, cất giọng ơ hờ, thậm chí chẳng buồn cất một bước chân.

- Còn các ngươi thì hẳn là không định chờ đợi gì ở ta. Các ngươi đã quay lưng với ta, thì hẳn không chờ đợi ta tha cho các ngươi đến lần thứ hai. Đến ta còn không thể tha thứ cho mình vì đã tha cho các ngươi.

Các ngươi có nhớ những người đã bị các ngươi giết chết hay ép đến chỗ chết chỉ vì họ không theo các ngươi? Lúc ấy, các ngươi đem những lời ngon ngọt xu nịnh nào là “Kẻ biết thời mới là tuấn kiệt”, nào là “Triều đình hủ bại, theo làm gì?” Bây giờ thì sao, các ngươi đang cố sống cố chết vì cái triều đình thế nào vậy? Các ngươi có vị vua thế nào vậy?

Sau một tiếng cười khẽ, ngài ta quay bước. Lần này, ngài ta đến buồng giam nằm sâu tít trong địa lao, dừng bước trước buồng giam cuối cùng. Không khí nơi đây sánh đặc, đầy mùi ẩm mốc đến gần như ngạt thở. Chút lửa trên ngọn đuốc cũng leo lắt đến gần như chực tắt ngấm trong bầu không khí này. Đến mức mà hầu như không hề cảm thấy sự sống của con người trong ngục.

Hoàng đế đứng giữa lối đi trong nhà ngục, không tiến gần cũng chẳng bước lên. Ngài ta nhìn vào khoảng tường cuối lối đi. Khoảng tường trong ánh lửa hiện rõ hình dạng lở loét do ẩm ướt lâu ngày, rêu xanh tràn lên từng cụm dày.

- Ta nên gọi ngươi là gì đây? – Hoàng đế cất tiếng sau một lúc im lặng. – Tên hiệu của ngươi, kẻ đã bị hất khỏi ngai vàng? Tên của một ngụy hoàng đế? Hay cái tên cúng cơm của ngươi, cái tên mà những người Tây dương vẫn gọi ngươi? Thôi được, ta cứ theo cách gọi thông thường đi. Dù gì cũng chẳng có ai ở đây mà sợ. Dù gì ngươi cũng từng là một hoàng đế. Ngươi ở ngôi bao lâu rồi? Chín năm? Hay mười năm?

Ngươi biết không, Định vương cũng đã ở ngôi một thời gian như thế trước khi bị giết. Định vương cũng giống như ngươi, đã lên ngôi khi chỉ là một đứa trẻ. Định vương lúc ấy chỉ là một đứa trẻ, cho đến khi chết, ông ấy vẫn chưa biết gì hết. Ông ấy vùng vẫy, vùng vẫy cho đến lúc cuối cùng, mà vẫn chưa bao giờ biết mình phải làm gì.

Gọi là “ông ấy” vì Định vương là chú của ta. Nhưng thật ra, khi mất thì Định vương mới vừa trạc tuổi ngươi thôi.

Những người anh của ta, rồi em trai ta, khi mất cũng chỉ vừa trạc tuổi ngươi thôi.

Bao nhiêu người khác nữa, ta không đếm được, cũng chỉ vừa trạc tuổi ngươi thôi.

Cả ta nữa, khi trạc tuổi ngươi, ta cũng suýt bị giết, nhưng ta còn sống. Ta đã sống.

Bây giờ hẳn ngươi đau lòng lắm, phải không? Ngươi thấy không đành lòng, phải không? Ngươi thấy phẫn hận, phải không? Rốt cuộc, ngươi đã làm gì sai mà phải chịu kết cuộc này? Rốt cuộc, tại sao ngươi phải chịu kết cuộc này? Ngươi thậm chí đã không lựa chọn, phải không? Có đứa trẻ nào lựa chọn được cái ấn ngọc bị đưa vào tay mình chứ?

Bây giờ, hẳn ngươi còn thấy thương xót cho chính mình nữa. Ngươi đã sống được bao lâu mà phải chết? Ngươi đã biết được cuộc đời là thế nào mà phải chết? Đây chẳng phải là lứa tuổi thanh niên đẹp nhất sao? Đây chẳng phải là lúc cuộc đời mới bắt đầu sao?

Nhưng ngay cả những lời này, lúc ấy cũng đã có ai nói với chúng ta? Với Định vương? Với những người bị các ngươi hô hào giết chết?

Không, ta không đem chuyện này ra để dằn hắt ngươi. Ngươi thì biết cái gì chứ? Lúc ấy thậm chí ngươi còn chưa có mặt trên đời. Ta cũng chẳng cần thanh minh. Ngay cả ngươi có là vua của một đất nước khác như Chân Lạp, Vạn Tượng hay Chiêm Thành, Xiêm La kia, nếu chúng ta là kẻ địch thì tất nhiên ta sẽ giết ngươi. Tất nhiên là ta phải giết ngươi, chẳng cần viện đến thù oán bao lâu nay. Tuyệt đối không cần.

Phải, lý do mà ta giết ngươi, hay cha ngươi giết chúng ta, thật ra thì cũng chỉ là thế thôi.

Mà đã là thế thôi, thì chúng ta cần biết gì đến số phận của ngươi, nỗi đau của ngươi, phẫn hận của ngươi?

Bây giờ ngươi thù hận ta lắm, phải không? Kẻ đã đánh nhau với ngươi bao lâu nay, không để ngươi yên. Kẻ đã phá hoại cuộc sống của ngươi. Kẻ đã giết anh em ngươi. Kẻ đã giết thuộc hạ ngươi. Kẻ đã phá mồ mả cha ngươi. Kẻ đã đem xác cha ngươi đi diễu khắp đất nước. Kẻ đã đuổi tận giết tuyệt ngươi. Ngươi hẳn nhiên thù hận đến mức chỉ muốn phanh thây xẻ thịt ta.

Còn ta, ta nói rằng mình sẽ còn làm nhiều điều khiến ngươi thù hận ta thêm nữa.

Rốt cuộc, sinh mạng ngươi thì có ý nghĩa gì với ta chứ? Ngươi chỉ là một thằng bé, ta chẳng biết ngươi, ngoại trừ một cái tên. Rốt cuộc, sự phẫn hận của ngươi thì có ý nghĩa gì với ta? Ngươi chỉ là một kẻ mà ta hoàn toàn không quan tâm, ngoại trừ cái tên. Ngươi có muốn hỏi câu ấy không?

Ngươi có thấy rằng tất cả mọi chuyện này qúa ư là phi lý không?

Ta, trong hàng chục năm dài, đã nghĩ mãi về chuyện này. Tại sao chúng ta lại phải bị hủy hoại? Tại sao chúng ta lại bị các ngươi đòi hủy hoại cho bằng được? Cuối cùng thì ta cũng biết câu trả lời. Câu trả lời mà ngươi đang thấy bây giờ.

Ngươi hiểu những gì ta định nói chứ, cậu bé?

Không, ta không định thuyết phục ngươi. Ta không quan tâm đến ngươi, chưa bao giờ. Ngươi, giống như tất cả những anh em của mình, chỉ là những kẻ đã ở đây. Ta, giống như cha chú ngươi, không cần quan tâm đến kẻ mà mình phải giết.

Ta không định thuyết phục ngươi chấp nhận số mệnh của mình, không đâu. Ta chỉ muốn ngươi nhìn thấy nó.

Ngươi đã nghe những gì ta nói với thuộc hạ của ngươi chứ?

Ngươi, trong niềm phẫn hận sôi trào và nỗi thương tiếc cuộc sống ngắn ngủi này, đã thấy gì, cậu bé?

Ngươi có thấy những gì đã xảy ra trong hàng chục năm qua, hàng trăm, hàng ngàn năm trước đây hay sau này không?

Dù ta có giết ngươi, tất cả các ngươi bây giờ, thì những kẻ chống đối cũng chẳng lấy làm sợ hãi. Cái chết đâu có đáng sợ đến thế. Nếu sợ chết thì đã không làm.

Dù ta có giết ngươi, cũng chẳng có gì làm bảo đảm cho vương triều của ta đứng vững. Một vương triều vững mạnh cần được xây trên một nền tảng chắc chắn về đủ các phương diện, không phải chỉ dùng áp chế và cầu bình an mà được. Nếu làm như vậy, nội loạn không khởi phát thì kẻ thù bên ngoài cũng đánh vào.

Dù ta có giết ngươi, cũng chẳng có gì làm đảm bảo cho đất nước này không phân rã. Các ngươi vốn chẳng đại diện cho một phần tử nào trong cái đất nước này. Và những kẻ không sợ chết thì vẫn cứ liều lĩnh như thường.

Phải, có thể ta đang tìm cho mình một chút công bằng. Nhưng người chết thì đã chết, người đau khổ thì luôn luôn đau khổ, ta chẳng làm gì được cho họ. Ngươi chẳng biết gì, luôn luôn chẳng biết gì, giống hệt như Định vương của ta, vậy thì ta đâu có công bằng với ngươi – cũng chẳng làm được gì cho ta.

Vậy thì ta giết ngươi để làm gì đây?

Cái chết thật ra không đáng sợ đến thế, không đâu. Ngoại trừ một cơn đau, ngươi sẽ chẳng còn biết gì nữa. Tất cả mọi sinh vật trên đời chết đi như thế. Cả sự bi phẫn này, cuộc sống khốn khổ này, ngươi cũng không phải cảm thấy nữa.

Phải đấy, cuối cùng, cùng với cái chết, mọi sự đau buồn, thống khổ đều không còn nữa.

Tất cả tình cảm của chúng ta cũng vậy.

Có người đã nói với ta, tất cả những gì chúng ta cảm thấy sẽ bị quên đi, quên sạch. Mai này, chỉ còn là sự kiện và thời gian, thậm chí không còn cả sự kiện lẫn thời gian. Sau này, tất cả chỉ là những dòng chữ trên giấy, câu chuyện lúc trà dư tửu hậu. Sau này, cuộc chiến chỉ còn là cuộc chiến giữa chúng ta – họ Nguyễn và Tây Sơn. Kẻ ủng hộ ta, cũng như kẻ ủng hộ các ngươi, sẽ dựa vào đủ thứ lý do để cho rằng mình là đúng.

Phải, sau này, mãi mãi sau này, luôn luôn có kẻ cho rằng mình có quyền hủy hoại người khác. Luôn luôn có kẻ tìm được lý do cho việc giết người. Luôn luôn, con người bây giờ đã đạt đến mức độ tìm được sự hợp lý cho tội ác.

Không khó để tìm một lý do, phải không? Chắc chắn. Dân tộc, đất nước, giai tầng, bất công, đói khổ… Thậm chí, những điều thật là đẹp đẽ như công bằng và hạnh phúc. Ở Tây dương, người ta đang giết nhau vì công bằng và hạnh phúc. Những giấc mơ luôn đẫm máu. Luôn luôn có lý do để kẻ đầy tham vọng tìm cách hủy hoại con người. Đúng hay không đúng, làm gì có phân định? Kẻ thắng là kẻ đúng. Kẻ thắng sau khi hủy hoại là kẻ đúng. Và cái lý do để chà đạp lên con người – cũng trở thành đúng.

Như sau này, con cháu ta sẽ cười nhạo trước cái chết của các ngươi, chà đạp các ngươi. Đừng mất công phẫn uất và phân định. Kẻ thắng là kẻ nắm giữ chân lý.

Tất cả những nỗi đau của chúng ta – Phải, của chúng ta, khi ta đã tạo nên tất cả nỗi đau của ngươi – sẽ trở thành vô ý nghĩa. Tất cả những bất công và vô lý trở thành đúng đắn, thậm chí, cao cả. Người ta sẽ quên. Người ta sẽ cố tình làm như không biết. Và nực cười hơn, người ta sẽ so sánh xem kẻ nào mất mát hơn kẻ nào. Và lố bịch tởm lợm hơn, người ta sẽ che giấu sự thật để tỏ lòng thương xót cho một bên mà họ ủng hộ. Lịch sử luôn được viết ra như thế.

Ta không có tham vọng phân định cái gì đúng và sai trên đời này, không đâu. Như thế thì ta lại rơi vào cái thói của cha chú ngươi, giết chóc thường dân để trả thù cho “kẻ xứng đáng hơn” hay sao? Phải, cho đến giờ ta vẫn ghê tởm hành động thảm sát ấy. Nhưng rốt cuộc thì sẽ có kẻ nói rằng đó là đúng. Ta biết điều đó.

Trong đất nước qúa nhiều phân tranh và manh mún này, có những kẻ không chịu theo ta, phản đối ta. Và hành động của các người sẽ được biện minh, che chở. Dù sao, người chết thì cũng đã chết rồi, và chúng ta cũng sẽ chết. Thế hệ này sẽ chết đi. Nỗi đau chỉ là câu chuyện kể, hoặc sẽ bị quên lãng vĩnh viễn. Không ai bận tâm đến nỗi lòng của kẻ không phải là mình.

Hàng ngàn năm trước hay hàng ngàn năm sau này, con người vẫn cứ sống như thế. Con người vẫn cứ dại dột và tàn bạo lặp lại sai lầm đã từng xảy ra. Con người luôn luôn lặp lại sai lầm, dưới đủ mọi hình dạng.

Các ngươi cũng thế thôi. Và cả ta cũng thế thôi.

Phải, rốt cuộc thì ta chỉ định nói như thế.

Các ngươi đuổi giết chúng ta vì lý do gì? Ta giết các ngươi vì lý do gì?

Rồi sau này, luôn luôn, con người trên vùng đất này sẽ luôn luôn lặp lại chuyện đã từng xảy ra. Ta không phải là thánh thần để tránh được, thậm chí ta cũng chẳng thể biết chuyện gì xảy ra ngay ngày mai.

Hoàng đế nhỏ, ta biết ngươi hận ta, vì tất cả những gì ta đã và sẽ làm. Và những gì ngươi cảm thấy là những gì ta cảm thấy.

Phải, đó là điều ta muốn.

Không, ta không thù hận ngươi. Ta cũng không bận tâm rằng ngươi thù hận ta. Ta chỉ muốn ngươi – Hoàng đế nhỏ - biết những gì ta đã trải qua. Và ta muốn mọi người mọi kẻ biết điều đó.

Khi nhắc đến nỗi đau của một bên – dù là ta hay là ngươi – tất cả phải nhớ rằng đó cũng là điều từng xảy ra với bên đối địch. Khi thù hận một bên – dù là ta hay là ngươi – tất cả phải nhớ rằng bên này đã làm những hành động y hệt như vậy với bên kia. Khi thương tiếc cho một bên – dù là ta hay là ngươi – tất cả phải ghi nhớ rằng nỗi đau mà chúng ta gánh chịu là như nhau.

Phải, trong tất cả những sai lầm và ngu ngốc này, trong tất cả những mù quáng và gian trá này, trong vòng xoay quay cuồng của chém giết và tranh đoạt, ta muốn – đến lúc cuối cùng – cái mà người ta ghi nhớ là nỗi đau. Nỗi đau của cả ta và ngươi. Nỗi đau của chúng ta giống nhau. Mọi kẻ phải ghi nhớ điều đó.

Mọi kẻ phải ghi nhớ, trước khi hủy hoại người khác.

Mọi kẻ phải ghi nhớ, trước khi cho mình một lý do để hủy hoại người khác.

Mọi kẻ phải ghi nhớ, trước khi cho rằng mình có lý do để hủy hoại người khác.

Đất nước của ta, đất nước đầy phân tán, manh mún và rối loạn này, sẽ không bao giờ yên ổn. Thời đại của chúng ta – ta đã biết từ những xung động đến từ phía Tây – sẽ không thôi xáo động. Mảnh đất của ta, mảnh đất còn đầy tranh cãi, bất hòa và thù hận này, sẽ tiếp tục khiến người phải chết. Phải, luôn luôn có những kẻ tìm được lý do cho việc hủy hoại kẻ khác.

Và nhiều khi, luôn luôn, suy nghĩ ấy tạo thành cơn lũ nhấn chìm cả mảnh đất này.

Thù hận đang có dễ dàng tạo thành cơn lũ nhấn chìm cả mảnh đất này. Ta đã cố gắng, luôn luôn cố gắng, nhưng một mình ta thì không làm được. Những nỗi đau cần phải được trả lời. Oán thù cần một sự đáp trả. Ngươi, chính các ngươi, là câu trả lời của ta.

Tất cả mọi kẻ phải nhận lãnh nỗi đau mà mình gây ra với người khác.

Bất công không, vô lý không, với bản thân ngươi? Nhưng những người đã chết cũng có quyền được hỏi như vậy.

Rốt cuộc, ta muốn tất cả mọi người mọi kẻ phải biết đến sự vô lý này. Trước khi hủy hoại người khác.

Ta biết, những nỗi đau của ngươi.

Nhưng ngoài chúng ta ra, ai sẽ cảm thấy điều đó? Ta là họ Nguyễn – và ngươi là Tây Sơn. Đơn giản như vậy, dán cho mỗi người một cái bảng tên, xếp mỗi người vào một nhóm đặc trưng. Và giết. Và hủy hoại. Và tiêu diệt.

Chúng ta hủy hoại người khác, mấy phần vì chính bản thân họ, hay chỉ vì cái bảng tên mà chúng ta đã gắn lên họ?

Hôm nay vì ta là họ Nguyễn và ngươi là Tây Sơn. Trước đây là những nhóm nhà Lê, nhà Trịnh. Sau này, ai biết còn có lý do nào? Dân tộc, đất nước, giống loài, chủng tộc, da trắng, da vàng, kẻ giàu, kẻ nghèo… Luôn luôn có lý do. Vì con người luôn khác biệt, rồi lại đánh nhau vì sự khác biệt đó. Rất dễ dàng để dán bảng tên, xếp người ta vào một nhóm để giết họ.

Chúng ta luôn luôn làm điều đó. Ta cũng đang làm điều đó – với ngươi. Ta đã cố gắng, ngươi biết không? Ta đã cố gắng cứu được bất cứ kẻ nào mà ta có thể. Ta đã cố gắng dứt xé cái bảng tên trên bất cứ kẻ nào mà ta có thể. Nhưng riêng đối với ngươi, ta để ngươi nhận lãnh tất cả tai ác mà ta không thể đổ lên đầu kẻ khác. Ta đã cố gắng tỉnh táo để phân biệt và xóa bỏ sự phân biệt, nhưng ta cần có một nơi cho những mù quáng của con người. Có thể, của chính ta nữa. Phải, ta cũng có phần mù quáng, vì ta là con người.

Ta không nghĩ đến đúng sai nữa, những năm tháng này. Ta đã từ bỏ việc lý luận và gắn bảng tên lên mọi điều trên thế giới.

Ngươi biết không, hoàng đế trẻ, mục đích mà các hình phạt được đặt ra? Cái gì là “giết người đền mạng”, “nợ cha thì con trả”? Chúng ta gọi đó là hệ thống công lý đem lại công bằng. Nhưng ai sẽ sử dụng được hệ thống công lý ấy? Và cái gọi là “công bằng” – chẳng phải là tìm sự thỏa mãn về cảm giác, chỉ là cách nói khác của “báo thù” đấy ư? Sự trừng phạt được đặt ra để người ta phải sợ hãi, nhưng khi đã vượt qua nỗi sợ ấy để phạm tội, những kẻ tội phạm có còn thật sự cảm thấy sợ nữa không? Hay là sự trừng phạt được đặt ra chỉ để thỏa mãn kẻ bị thiệt, thậm chí, thân nhân của kẻ ấy, những kẻ liên quan. Thậm chí, những kẻ không hề liên quan cũng cảm thấy đó là sự an ủi cho lòng “ấm ức” của họ. Chân lý là gì? Là điều được tạo ra. Ngươi biết gì về ta? Ở địa vị ngươi, hẳn ngươi cũng chỉ biết ta là một kẻ đáng ghét của một dòng tộc đáng ghét đáng bị nguyền rủa đời đời. Đó là chân lý mà ngươi, và không ít kẻ nữa, biết. Đó là điều mà ngươi tin.

Chúng ta đang sống trong thế giới của những kẻ mạnh, của những kẻ chiến thắng, của những kẻ đã đạp lên, đã hủy hoại – ít hay nhiều – con người để chiến thắng.

Phải. Ta dám thách thức cái thế giới ấy. Luân lý của cái thế giới ấy. Lẽ phải của cái thế giới ấy. Và cả lương tri của cái thế giới ấy.

Những điều gọi là lẽ phải, là công bằng, là lương tâm, là ước mơ, là công lý, là bình đẳng, là lòng tốt, là tiến bộ, là tình thương - Đã tạo nên thảm trạng này. Các ngươi dựa vào giấc mơ của mình mà hủy hoại chúng ta. Và ta, để bảo vệ những kẻ bị hủy hoại, sẽ trả thù ngươi.

Ngươi có thấy không, những con người hai bên đường đã nguyền rủa ngươi hay thương xót ngươi?

Ta dám, và cho đến chết, ta cũng luôn luôn cười nhạo tất cả những điều đó. Ngươi có cảm thấy nó, sự mỉa mai ấy, trong nỗi đau hiện tại của ngươi không, hoàng đế trẻ?

Trong nỗi đau của mình, ngươi có cảm thấy nỗi xót xa và bất lực ấy không? Ngươi có cảm thấy tình yêu đến bi thương với sự sống này không? Ngươi có cảm thấy nỗi đau của kẻ khác không?

Phải. Điều duy nhất mà ta muốn tất cả đều phải ghi nhớ - Là nỗi đau trong những tháng năm này.

Những kẻ đã chứng kiến nỗi đau của ngươi phải run sợ đến tận tâm can, phải ghi nhớ đến tận tâm can, phải truyền đời lưu dấu. Nỗi đau của ngươi. Và nỗi đau của ta. Kết thúc một lần cho ngươi. Và là vĩnh viễn cho ta.

Ta sẽ đem tất cả ra dưới ánh nắng mặt trời. Ta sẽ trưng tất cả nỗi đau của ngươi trong mắt mọi người mọi kẻ. Họ sẽ ghi nhớ, đời đời ghi nhớ, rằng ta đã giết ngươi. Về mối oán thù giữa hai chúng ta.

Ta muốn mọi người mọi kẻ phải cảm thấy tất cả nỗi đau này, dưới ánh mặt trời.

Ta không muốn thay đổi con người, không đâu. Rốt cuộc, con người vẫn cứ là như thế, ngu muội và ngông cuồng, tàn nhẫn và vô tri. Rốt cuộc, ta chẳng có thể làm gì để thay đổi thế giới này. Ngay cả đất nước này.

Và có thể, nếu ta có linh hồn, ta sẽ lại được quyền cười nhạo chúng sinh thêm nữa. À, ta dám chắc điều đó. Không, ta không chắc về chuyện linh hồn có hay không, ta chỉ chắc về chuyện sẽ có thêm nhiều điều đáng để cười. Những điều mà họ sẽ nói sau này, với những chuyện mà chúng ta đã trải qua. Nhắc về một trong hai chúng ta, chính là hai chúng ta. Nguyền rủa một trong hai chúng ta, chính là hai chúng ta. Thương xót một trong hai chúng ta, chính là hai chúng ta. Chúng ta, không chỉ là ta và ngươi – mà là tất cả những con người đã bị chia cắt thành hai hay nhiều phe phái. Những người đều đã nhận được cái kết quả giống nhau.

Ngay cả bây giờ cũng vậy. Cái lý lẽ và cảm tính ấy chẳng đáng cười sao? Sự vô tri - thậm chí là vô sỉ, sự bất giác - thậm chí là dã man ấy, chẳng đáng cười sao? Ngay cả tình thương hay đạo lý cũng hoá thành giả trá và dã man, chẳng phải là đáng cười sao?

Thôi, ta hãy cứ để mọi điều phơi bày dưới ánh mặt trời. Hãy để trời nhìn ngắm tuyệt tác của mình trong tạo hóa. Hãy để tất cả mọi chuyện kết thúc, bằng nỗi đau.

Sinh mạng, cuối cùng có là gì đâu, ngoài nỗi đau.

Tất cả những chuyện này, thật ra có đem lại gì đâu, ngoài nỗi đau.

Con trai ta đã hỏi rằng, chúng ta sẽ có một đất nước thế nào đây? Đất nước thế nào đây, với chỉ mảnh đất nhỏ bằng bàn tay mà có đến gần trăm tộc người, nhóm người? Đất nước được dựng xây từ giết chóc và hủy hoại. Rồi sẽ lại có những kẻ phản đối ta, trong đám đông này. Chúng ta sẽ phải đối đầu với tương lai biến động nhất trong lịch sử - Từ một đất nước to rộng và phân tán nhất trong lịch sử. Ta cũng không biết phải làm cách nào để ngăn lại dòng chảy này. Nhưng ta muốn, ít nhất, những kẻ có dã tâm lật đổ và phản kháng – có ý thức về những gì mình làm. Nhưng ta muốn con người phải tỉnh táo.

Nếu cảm thấy được nỗi đau của người khác, con người có dừng tay lại không? Không. Nhưng nỗi đau giúp người ta tỉnh táo. Ta biết như thế.

Hoàng đế ngừng lời khi ngọn đuốc chợt lay động. Cánh cửa đột nhiên hé mở, để một luồng gió thổi vào. Ngài ta vẫn nhìn vào bóng tối trong phòng giam, như thể chờ đợi một phản ứng, một tiếng động.

Nhưng không điều gì xảy ra.

Hoàng đế chậm rãi quay lưng. Cử chỉ vẫn thong thả ung dung như khi đến. Tiếng chân vang trong bóng tối, dội giữa các bức tường. Ánh sáng từ ngọn đuốc được đưa về phía trước khiến chiếc bóng trượt dài, phủ trùm lên đằng sau bước chân ngài ta.

Ra đến cửa, ngài ta quay lại, đưa mắt nhìn quanh một lượt nữa. Ngài ta chợt cười.

- Các người có một điều may mắn: Các người không phải sống. Những thống khổ này sẽ qua nhanh thôi. Ta thật cũng không biết phải trừng phạt các người bằng sự sống như thế nào. Đó mới là hình phạt lớn lao nhất, các người có biết? Sống, sau tất cả những thống khổ này.

Ta thật không biết làm cách nào để các người hiểu được sự trừng phạt cho việc huỷ hoại cuộc đời của người khác. Hay thế nào là sống cuộc đời bị huỷ hoại.

Các người, vì thế, hãy cho là mình may mắn đi.

77

Một tháng rưỡi sau khi vua Gia Long vào thành Thăng Long, Hoàng đế mở cuộc truy quét hải tặc Tề Ngôi ở khắp vùng Hải Dương, An Quảng cho tới Giang Bình. Tại châu Vạn Ninh, hàng trăm hải tặc bị bắt giữ. Chỉ huy cuối cùng của nhóm Tề Ngôi được Tây Sơn bảo trợ, Trịnh Thất, bị chém đầu. Cuộc tấn công đã đẩy lui bọn hải tặc khỏi các căn cứ của chúng trong vùng vịnh Bắc hải, khiến hàng trăm thuyền hải tặc phải chạy lui về đảo Hải Nam.

Trong ngày tháng ấy, những cựu thần nhà Lê, Hương cống đang được tập trung tại thành Thăng Long, vua ban ra chỉ dụ: “Lâu nay ngụy tặc trái đạo cương thường, vận hội suy đốn, nhiều người ở ẩn, không chịu ra làm nguịy quan, giữ đức giấu tài để chờ minh chúa. Nay đảng giặc đã bình, việc đinh biền đã xong, buổi này là buổi dấy điều giáo hóa và sửa việc chánh trị. Nhân tài ở đời lẽ nào cả đời bạn cùng cây cỏ? Vậy nên chuyển báo với nhau đến nơi hành tại, trình Tiền quân Nguyễn Văn Thành, Lễ bộ Đặng Đức Siêu, Tán lý Đặng Trần Thường, Tham tri Phạm Như Đăng, Học sĩ Nguyễn Huân đem vào yết kiến. Trẫm sẽ xét lời nói, thử công việc, tùy tài bổ dụng, để cho người hiền kẻ tài có chức vị, hiệp ý bày mưu, giúp nên chánh đạo.”

Khắp Thăng Long lẫn Bắc Hà chộn rộn khi thành cũ được đổi thành phủ Phụng Thiên, hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Đức, đặt An phủ sứ cùng Tuyên phủ sứ. Nhà Thái học ở Văn miếu được chuyển thành nhà Khải Thánh thờ Khổng Tử. Bắc Hà trở thành Bắc thành, gồm năm trấn nội: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Tây và sáu trấn ngoại: Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, An Quảng. Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc thành, quản lý mười một trấn này. Những thân nhân của các trung thần Lê triều cũ được tập trung, người sống được khen thưởng, người chết được ban tuất điển. Con cháu họ Lê là Lê Duy Hoán được phong làm Diên Tự công, trông coi việc tế tự. Họ Lê được phong một vạn mẫu tự điền và một ngàn từ phu, miễn thuế thân cùng binh diêu. Con cháu họ Trịnh cũng được cấp năm trăm mẫu tự điền, miễn thuế và binh diêu cho hai trăm bốn mươi người. Con cháu các Khai quốc công thần cùng Trung hưng công thần nhà Lê dự hàng Nhiêu Ấm. Thuế mùa hè của Bắc Thành, Nghệ An, Thanh Hóa ngoại trấn cũng được miễn.

Ở Đại Thanh, do tình hình tại nước Việt đang chuyển biến, nhà Thanh còn chờ xem tình hình nên đoàn sứ giả vẫn chưa được vào tiếp kiến vua Gia Khánh. Vua Gia Long liền sai giải bọn Tề Ngôi vừa bắt được sang Lưỡng Quảng giao cho quan Tổng đốc; Thiêm sự Lê Chánh Lược, Trần Minh Nghĩa đến Nam Quan ngóng tin tức.

Bận rộn với công việc sắp đặt trong ngoài, chẳng mấy chốc mà đã đến tháng chín. Vua Gia Long định trở về Phú Xuân, liền đặt ba tào Binh, Bộ, Hộ do Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường, Phạm Như Đăng cai quản để phụ việc cho Nguyễn Văn Thành.

Trước khi về, nhà vua truyền lập miếu công thần ở trước đài Bát Giác thờ Võ Tánh, Ngô Tùng Châu cùng 260 người tử trận trong thành, miếu ở núi Độc Sơn cửa Thị Nại thờ Võ Di Nguy, Tống Viết Phúc cùng 619 người tử trận ở Quảng Ngãi, Phú Yên, miếu ở hòn Na cửa Cù Mông thờ Mai Đức Nghị và 526 người tử trận ở Gò Thị.

Ngày đầu tháng mười, vua Gia Long tới Thanh Hóa, viếng mộ tổ ở núi Thiên Tôn. Lần trước khi đi qua Thanh Hóa, vua mới đi ngang qua làng Bố Vệ thăm lăng miếu, tông tộc nhà Lê. Nay vua đến Tống Sơn, vùng núi Thiên Tôn, nơi họ Nguyễn đã bí mật chôn ông bà Thượng sự Thái sư Hưng Quốc công Nguyễn Kim – thân sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng – sau khi ông bị hàng tướng họ Mạc đầu độc trong cuộc trung hưng nhà Lê. Dòng dõi họ Nguyễn, từ công thần thời Bình Ngô vệ quốc Nguyễn Công Duẩn, đã trải qua năm đời cho đến Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng. Làng Gia Miêu ra đón vị vua mới cùng những vị trưởng lão đã lâu không thấy người họ Nguyễn. Hơn hai trăm năm rồi, họ nói, và Hoàng đế mỉm cười.

Ngôi mộ của phu phụ Nguyễn Kim được chôn sâu trong núi để tránh những kẻ hiềm thù. Vua cùng vài người thân tín đi vào núi tế lễ. Khi đi ra, đám đông đầu làng Gia Miêu vẫn đứng đợi họ. Vua Gia Long muốn lên tiếng cáo từ thì trong đám đông có một người phụ nữ vội vã chạy ra, quỳ sụp trước mặt ngài ta. Những người lính vội vàng chạy đến trước che chắn cho chủ nhân, nhưng người phụ nữ vẫn chỉ cúi gằm mặt, vai run rẩy. Mãi một lúc sau, dường như mới tìm lại được tiếng nói của mình, cô ta thì thầm bằng giọng hụt hơi vì sợ hãi.

- Anh… Hoàng huynh…

Cô ta nói rồi im bặt như thể không biết phải tiếp tục thế nào. Nhưng Hoàng đế như nghe một tiếng sét giáng ngang tai. Ngài ta bước lên, đi qua đám quân lính đến trước mặt người phụ nữ. Cô ta mặc áo nâu sồng, chiếc áo có vẻ đã được sửa sang lại cho phù hợp với một dịp long trọng, nhưng giờ thì bám đầy bụi. Đã vào cuối mùa thu, cô ta run rẩy như chiếc lá trong gió vì chiếc áo mỏng của mình.

- Ngươi là ai? – Hoàng đế hỏi. Giọng ngài ta vừa dè chừng vừa không giấu nổi sự hồi hộp. Người phụ nữ từ từ ngẩng đầu. Một khuôn mặt đã được thời gian và vất vả làm cho trở thành tàn úa, nhưng vẫn còn chút nét xuân sắc. Một khuôn mặt rất giống Ngọc Tú lẫn Ngọc Du.

- Em… Thần là Ngọc Uyển. – Lời nói của người phụ nữ vẫn còn vấp vào nhau, nhưng không còn sự bối rối. Cô ta tin chắc vào điều mình nói, những người nghe đều có thể cảm thấy điều đó. Vị vua im lặng chờ đợi cô nói tiếp. – Năm tám tuổi, khi Trịnh đánh vào Phú Xuân hôm hai mươi tám Tết, cả nhà chạy loạn rồi thần bị lạc mất. Hoàng thượng có nhớ không? Hoàng thượng… ngài có nhớ Ngọc Uyển không?

Vừa nhìn vào mắt Hoàng đế, người phụ nữ tự xưng là Ngọc Uyển vừa vội lần tay vào trong thắt lưng, lấy ra gói trầu. Dốc ngược chiếc gói trong tay, cô đưa ra một miếng ngà nho nhỏ màu xanh. Vẫn quỳ, cô dâng miếng ngà bằng hai tay cho vị chúa, ánh mắt đầy van lơn.

- Cái này là hoàng thượng đã đem về cho thần, hoàng thượng có nhớ không? Trước khi Trịnh đánh vào vài hôm, hoàng thượng có ghé qua nhà, đưa cái này cho thần. Ngài còn dùng dao nhỏ khắc lên đó tên của thần. Ngài bảo, cuộc sống của ngài bây giờ rất nguy hiểm, thần nên giữ kỹ quà của ngài, chẳng biết bao giờ mới gặp lại được nhau.

Vua Gia Long cầm miếng ngà, quan sát nó bằng cái nhìn có phần lạ lẫm. Gần ba mươi năm đã qua, ngài ta hẳn nhiên không nhớ được câu chuyện xa xôi đến thế. Nhưng dấu khắc quả là đã gợi nhớ ngài ta đến một ký ức nào. Ngài ta nắm chặt nó trong tay, nhìn trân trân vào người phụ nữ - một người đàn bà nông thôn của miền Bắc Hà. Ngài ta đưa bàn tay kia cho cô, giọng đột nhiên khàn đi.

- Đứng lên đi… Ngọc Uyển.

Người phụ nữ bật khóc. Cô ta khóc như mưa gió, mãi mới chịu đứng dậy. Nếu không có đám đông tò mò và ngạc nhiên đứng vây quanh, có lẽ cô ta đã ôm chầm lấy vị vua. Cô ta không phải người làng này, đám đông nói với nhau, xì xào rì rầm nói với nhau. Cô ta đã tới đây từ sớm, lẫn vào đám đông nghe tiếng vua sắp về làng nên kéo đến. Cô ta đã đứng ở gốc cây đầu làng, lúc thì dân dấn nước mắt, lúc lại mỉm cười, đi đi lại lại, cử chỉ lạ lùng đến nỗi ai cũng phải nhìn. Hóa ra là công chúa thất lạc, em gái của vua Gia Long. Sao một cô công chúa Phú Xuân lại có thể ra đến tận Thanh Hóa này?

- Chồng em dẫn cả nhà đến đây. – Ngọc Uyển kể khi đã lấy lại bình tĩnh. Ngôi nhà lớn trong làng đã được dựng cho vị vua đến cư ngụ giờ lại có thêm một người khách. Ngồi bên kia bàn, Ngọc Uyển đôi lúc lại vặn vẹo bàn tay vào nhau trước ánh mắt của vị vua. – Loạn năm Giáp Ngọ, em may được một nhà dân thương tình cho nương náu vì nghe đến em là người họ Nguyễn. Hoàng huynh cũng biết đấy, lúc đó bất ngờ quá, người họ ta tán loạn khắp nơi. Ai may mắn không bị lọt vào tay quân Trịnh thì cũng mai danh ẩn tích mà trốn lánh. Nhà dân cho em nương nhờ cũng chạy khỏi Phú Xuân về một làng nhỏ nằm ở ngoại thành. Nhưng rồi nạn đói năm ấy làm họ khốn khó lắm. Giá tất cả thực phẩm đều tăng vọt, bán cả gia tài đi không mua được cân gạo, trong khi dân chúng chạy loạn có ai trữ gạo được? Rồi dịch bệnh lan tràn. Đâu đâu cũng có người chết. Nhà nuôi em không còn gì mà ăn, em bảo họ đem bán em đi thì cũng chẳng có ai mua. Quan thì đã chạy mất, thương buôn thì từ sau việc ở Hội An chẳng còn ai ở lại, nhà giàu cũng lao đao trong tình trạng tiền bạc như bùn thế này, ai mua em làm gì. Không biết làm sao, em liền trốn về Phú Xuân, lần tìm xem có ai là người trong triều cũ để nhờ vả. Lúc ấy thì đói cũng chết mà bị chém thì cũng chết. May mà em tìm được một vị quan trong triều ta, ông ấy cho em một khoản tiền. Nhưng lúc em đem về thì nhà ấy đã đi mất rồi. Chắc họ nghĩ em trốn đi nên không tìm. Trong hai năm ấy, Quảng Nam cực kỳ rối loạn, hẳn anh cũng biết. Định vương với Đông cung Dương chạy đến đấy, Nhạc trở mặt với Đông cung Dương rồi hai bên đánh nhau. Trong thời gian chúng ta còn giữ được Quảng Nam, em cũng định đến tìm nhưng một thân một mình sao vượt qua được đường trường? Em còn một mình, vào nhà thờ xin ăn rồi được một bà lão ở Phú Xuân nhận nuôi. Từ đó không ai biết thân phận em nữa. Đến lúc em đủ lớn thì tình hình Gia Định trở xấu, không ai có thể vào Nam được nữa khi đường bị chặn cả.

Rồi em lấy chồng. Chồng em là Tống Phúc Tín, cũng là người Thanh Hóa cùng quê tổ với ta. Ở yên một thời gian, năm đó Nguyễn Huệ lại đánh vào Phú Xuân. Pháo bắn vào thành, người chết vô số. Quan của Trịnh kẻ bị giết người bị bắt chém đầu. Em sợ quá, liền nói thật thân phận của mình với chồng. Chồng em bảo, nơi này không thể ở lại được nữa, liền thu xếp để đi.

Ban đầu chúng em không nghĩ mình sẽ đến Thanh Hóa, nhưng rồi Huệ đánh Trịnh ở Bắc Hà, đi gom dân đinh trong vùng Thuận Quảng, cả sư sãi cũng bắt, đập hết cả chùa chiền nhà thờ để lấy của cải, sắt thép, phụ nữ thì bị bắt ra xây thành đắp lũy. Nhạc thì muốn đắp lũy Trấn Ninh để thủ cho vững ở Nam, Huệ thì muốn đem quân ra mà đánh phía Bắc, thế là dân trong vùng khổ trăm đường. Chúng em may mắn dọn đi sớm đúng lúc Huệ vừa đến, không còn tên trong sổ hộ nữa, lẩn ra ngoài vùng biển mà thoát được đợt bắt lính đó. Lúc ấy em lại vừa có mang đứa thứ hai, đứa đầu mới đi vững. Khốn khó vô cùng.

Anh Tín nói, thôi, chúng ta về quê tổ đi. Cứ thế này, chiến tranh còn lan đi khắp nơi. Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn rồi Lê, chẳng biết còn kẻ nào nữa không. Nghe nói Xiêm La ở Gia Định đã tham chiến, vậy thì phía Tây cũng chẳng yên. Vùng Nghệ An khói lửa triền miên, không phải là nơi ở được, Huệ lại có ý muốn đánh lên phía Bắc, nơi này sẽ là chiến trường. Ven biển thì từ ngày chúa Nguyễn bị đánh đuổi không ai coi sóc, để cướp hoành hành, Tây Sơn lại đang tập hợp bọn cướp, chúng sẽ ngày càng nhiều hơn. Nghe nói cả tàu Bồ Đào Nha đi qua cũng bị quân Tây Sơn nhảy lên cướp, dìm chết cả chủ thuyền. Năm nào người Ô Lan đã chỉ vì xích mích mà đánh nhau với chúa Hiền, chẳng biết có còn lặp lại không. Người Tây dương mà tham chiến thì Nam Hà gay go to rồi. Gia Định xa xôi lại xáo động quá, chúa Nguyễn đã bị đẩy đi thì tình trạng ở đó cũng chẳng hơn ở đây đâu. Thanh Hóa là quê tổ của cả ba dòng họ lớn, kẻ nào thắng thế thì cũng phải tôn trọng vùng này một chút. Thanh Hóa lại ở giữa đồi núi, xa cách với bên ngoài, năm xưa Lê Thái Tổ lẩn trốn ở đây mà dựng nghiệp được. Nay ta trở về, cứ nhận họ hàng mà xin họ một nơi trú ngụ.

Chúng em liền đi theo một chiếc thuyền đánh cá, họ cũng đang chạy loạn vì nghe đâu Nguyễn Huệ sắp đánh ra Bắc Hà. Theo đường biển, chúng em đến Thanh Hóa, rồi lần về Tống Sơn, làng của anh Tín – cũng không xa nơi này lắm đâu. Rồi sau này em mới biết mình may thế nào. Lần ấy không những chúng em tránh được cuộc bắt lính ra Bắc mà còn tránh được cuộc chiến của Nhạc – Huệ, nghe nói chúng bắt lính cả vùng không còn một ai. Rồi vua Lê cũng bắt lính, Trịnh Bồng, Nguyễn Hữu Chỉnh cũng bắt lính, nhưng hầu như không phạm đến Thanh Hóa. Chúng em lại vừa mới tới, chưa được ghi vào sổ đinh. Khi Huệ đánh vua Lê, tất cả sổ sách chẳng còn dùng được nữa. Bắc Hà xáo trộn một thời gian, Cao Bằng, Lạng Sơn, Nghệ An náo động, nghe nói vua Lê đã chạy qua Thanh Hóa nữa, nhưng không tới nơi đây. Người kêu gọi phù Lê cũng nhiều, nhưng chẳng mấy ai tham gia, ai cũng sợ bị bắt đi lính. Huệ đắp thành hay xây dựng gì đó, người lại bị vét đi làm việc, họ trốn càng nhiều. Vậy là nhiều người trốn vào trong núi. Gia đình em càng ẩn sâu hơn. Thậm chí quân Thanh vào Thăng Long, phải cả tháng hơn chúng em mới biết.

Sau chuyện quân Thanh rồi thì cũng tạm yên. Cuối cùng thì ai làm vua hay làm quan cũng thế thôi. Thuế vẫn cứ phải đóng mà có ai cho mình được chén cơm nào? Chắc có vài viên quan trong vùng bị thay, em cũng không rõ nữa. Nhưng cuối năm đó, đầu năm sau lại bắt đầu đói. Khi xung đột với Thanh, nghe nói làng mạc thành thị bị đốt phá nhiều lắm. Người người xiêu tán cả. Lụt lội, hạn hán, mất mùa. Sau đó là đến bệnh dịch. Y hệt như năm Ngọ, năm Mùi ở phía ta. Vừa yên yên được thì lại có lệnh phát tín bài, nghe đâu để bắt quân đánh Thanh hay đánh Gia Định, Vạn Tượng – hoặc là đánh cả ba nơi. Ai nghe cũng sợ. Gia đình em định chuyển đi lần nữa, vào hẳn trong núi cho rồi. Sống như vậy, ai mà sống nổi?

May mà Huệ chết, rồi tín bài bị bãi bỏ, cũng không nghe nói đến chuyện đánh nhau gì nữa. Thỉnh thoảng có chỗ này chỗ kia nổi loạn, nhưng bị quan quân dẹp đi. Chúng em sống trong núi chỉ cần kiếm đủ cái ăn, đâu cần gì nhiều nhặn. Cậu con trai thứ của Huệ ở đây cũng chẳng tham gia nhiều việc bên ngoài, chỉ đóng cửa thành trông coi có ai làm loạn trong vùng không, quân cũng không yêu cầu bắt.

Thỉnh thoảng em cũng nghe ngóng tin từ Gia Định. Nhất là vài năm nay, ai ai cũng đồn là hoàng huynh sẽ ra Bắc. Em chờ mãi nhưng lúc hoàng huynh đi qua Thanh Hóa lần đầu, anh Tín không cho em đi gặp hoàng huynh, bảo rằng đang đánh nhau, không biết tình hình thế nào. Bây giờ thì chúng ta có thể gặp được nhau rồi.

Ngọc Uyển kết thúc câu chuyện của mình bằng một cái chớp mắt và mỉm cười. Từ đầu đến cuối, Hoàng đế chỉ im lặng nghe người em gái nói, bàn tay đan vào nhau trên gối. Ngài ta vẫn nhìn cô, có vẻ hơi lạ lùng, có vẻ như ngài ta vẫn chưa quen với con người này, con người đã thay thế hình ảnh đứa trẻ tám tuổi trong ký ức ngài ta. Ngài ta im lặng nghe câu chuyện đáng lẽ đầy sóng gió và cực nhọc đã được kể bằng giọng nhẹ nhõm và cái thở dài cuối cùng lại mang vẻ như một cái cười.

- Em có vẻ rất hạnh phúc. – Ngài ta nói, đột nhiên. Ngọc Uyển lại chớp mắt, như thể không hiểu ý câu nói ấy, hoặc là, câu hỏi ấy. Hoàng đế lại cười.

- Nghe như em đã có một người chồng tốt. Sao không dẫn anh ta theo cho ta gặp mặt?

- Anh Tín còn phải ở nhà trông bọn trẻ. – Ngọc Uyển bối rối cười. – Năm đứa tụi nó nghịch phá lắm.

À, vị vua thốt khe khẽ trong cổ. Đã gần ba mươi năm rồi, ngài ta tự nhủ. Người em gái này đã hơn ba mươi tuổi, đã trở thành người mẹ của một gia đình đông đúc, một gia đình bình thường và đông đúc. Cô bây giờ trông cũng chỉ như một nông dân, chất phác và hồn hậu. Nét cao sang của dòng máu vẫn còn đâu đó trên đường nét của gương mặt, nhưng đã bị một trạng thái khác lấp đi. Có thể là nét vô tư, sự vô tư của một cuộc sống tuy vất vả, lo toan, khốn khổ nhưng không độc ác. Người em gái này sinh ra sau khi cha họ đã qua đời, luôn luôn, cô đã không biết đến cay đắng và đau buồn.

Hỏi thăm thêm một vài chuyện nữa, Hoàng đế thăm dò:

- Ta định về Phú Xuân sớm, em thu xếp đi cùng ta chứ? Gặp lại em, chắc Quốc mẫu, Từ phi lẫn hai chị Ngọc Tú, Ngọc Du mừng lắm. Lâu nay họ cứ áy náy là đã để lạc mất em.

- Chỉ có hai chị và hai mẹ thôi ạ? – Ngọc Uyển ngơ ngác hỏi. Lần này đến lượt vị vua im lặng.

- Có Quốc thúc Phúc Thăng và con của hoàng thân Phúc Mão nữa. – Một lúc sau, ngài ta nói. – Em còn nhớ không, Phúc Thăng hay đi với anh và Phúc Mão đã chăm sóc chúng ta? Và cô cô Ngọc Tuyên cùng vài cô cô khác, ta nghe nói họ đang lánh ở gần Phú Xuân.

Những người còn lại đã mất cả rồi. – Ngài ta nói trước đôi mắt đầy thắc mắc của em gái. – Hai anh ta, anh Hạo mất ở Quảng Nam, anh Đồng mất cùng với Định vương. Em Mân chết ở đồn Giác Ngư, em Thiển mất ở đảo Diệp Thạch, cả hai đều trong năm Quý Mão. Ngọc Tuyền tự sát khi bị giặc bắt. Ba anh rể của em cũng mất cả rồi.

Ngài ta đã nói thêm câu cuối, một lúc sau đó. Ngọc Uyển chớp mắt. Nước mắt lăn tròn trên má cô. Cô gục đầu, úp mặt vào lòng bàn tay. Cô lặng lẽ khóc.

Hoàng đế đứng dậy, nhìn ra ngoài cửa sổ. Đã vào cuối mùa thu. Lá rừng đã chuyển màu vàng úa. Gió đang thổi một lớp bụi mờ bay qua. Năm nay sương giăng dày ngay trong mùa hạ như thể mây đang che phủ mặt đất.

Bỗng dưng, ngài ta nghĩ tới Gia Định và những cơn mưa. Những cơn mưa cuối mùa thu trong Gia Định. Những cơn trời trở lạnh thoáng qua, dai dẳng kéo dài. Ngài ta nghĩ đến điều đó với một nỗi buồn rầu không biết từ đâu kéo đến.

Giờ thì ngài nhận ra rằng mình sẽ vĩnh viễn không còn trở lại nơi ấy được nữa. Ngài sẽ không còn bao giờ trở về Gia Định. Không bao giờ.

Có lẽ trong những tháng ngày phiêu bạt, Ngọc Uyển đã từng rất nhiều lần mơ đến ngày được đoàn tụ và hội ngộ. Mẹ mất sớm, Ngọc Uyển chỉ biết gia đình toàn mẹ góa con côi của họ. Nhưng giờ thì cái gia đình ấy thậm chí cũng không còn nữa.

Có những điều không thể trở lại được nữa bao giờ.

- Em có muốn đi với ta về Phú Xuân không? – Ngài ta hỏi khi tiếng khóc đã dịu đi. Ngài ta tiếp tục câu hỏi của mình.

- Không. – Ngọc Uyển trả lời nhanh hơn cô tưởng. – Xin lỗi với hai mẹ và hai chị hộ em. Em còn mấy đứa con, không thể bỏ chúng mà đi được.

- Em là công chúa của chúng ta, chúng ta không thể bỏ mặc em. Ta sẽ bảo quan ở đây lo cho gia đình em, chuẩn bị cho em vào Phú Xuân.

- Không, em muốn ở đây. – Ngọc Uyển ngắt lời anh trai mình, lắc đầu rất mạnh. – Em… em sợ cái khung cảnh ấy. Bây giờ “ra ngoài”, em chỉ sợ thấy người ta đánh nhau. Bây giờ đã yên ổn hẳn chưa, hoàng huynh? Có còn đánh nhau nữa không?

- Ta cũng không biết. – Hoàng đế cười. – Nhưng ta hứa là sẽ không để có đánh nhau nữa.

Nếu em không muốn đi thì cũng được. – Ngài ta nói với cái thở dài. – Ta sẽ để người lo lắng chu cấp cho em. Từ giờ em sẽ không phải vất vả nữa.

Ngọc Uyển nhè nhẹ gật đầu. Vẫn đứng ở cạnh cửa sổ, Hoàng đế nhìn người em gái đã trở thành xa lạ. Công chúa của một vương triều đã sống gần cả cuộc đời nơi thôn dã. Một gương mặt rất giống với Ngọc Tú, Ngọc Du và ngay cả ngài, ngài nữa; nhưng cũng đồng thời vô cùng khác biệt.

- Hóa ra, em lại là người hạnh phúc nhất. – Nhà vua nói, như một câu nhận xét tình cờ. Ngài ta nhìn ra bầu trời. Bầu trời mùa thu trên những rặng núi nhấp nhô đang đổi màu, lẫn trong sương mờ.

Ngài ta vẫn đang nghĩ về Gia Định và những cơn mưa. Theo thường lệ, bây giờ là lúc ngài ta giong thuyền trở lại. Những cơn mưa đang đi qua, trên đất phương Nam. Phương Nam của cả một thời tuổi trẻ, của một tình yêu đã gần như là máu thịt.

Ngài ta cho rằng mình hiểu tại sao Ngọc Uyển không muốn trở về. Có những nơi mà họ không thể trở về được nữa, vĩnh viễn.

Và họ cứ ra đi, vĩnh viễn ra đi.

Tháng mười một năm Nhâm Tuất, vua tôi Tây Sơn được đem đến trước nhà Thái miếu làm lễ Hiến phù rồi đưa ra pháp trường xử tội. Từ khi còn ở Thăng Long, nhà vua đã cho các quan truy lục lại luật Hồng Đức để định ra hình phạt. Tội thập ác, họ phán quyết. Tội phản nghịch, bạn nghịch, vô đạo, từ những tội hình nặng nhất cho việc giết vua chúa đến tội sát phạt nhau trong gia đình, làm hại luân thường, tất cả đã được liệt kê. Tất cả, trở thành những án phạt trừng trị tận pháp.

Từ sáng sớm, tiếng voi đã làm rộn một góc Phú Xuân. Pháp trường được đắp ngay trong thành, mở cửa cho mọi người đều có thể vào. Người Phú Xuân vừa sợ hãi vừa hồi hộp chen nhau vào pháp trường quan sát cuộc hành hình những người đã từng là vua quan trên vùng đất này. Tiếng lao xao kéo dài suốt từ sáng sớm rồi bùng nổ theo từng diễn biến xảy ra trong khoảng sân pháp trường. Lần lượt, những cái đầu rơi xuống từ lưỡi đao. Lần lượt, từng con voi to lừng lững, còn mang nguyên bành đai vàng được dẫn ra. Lần lượt, từng người bị đẩy ra trước chúng. “Mẹ ơi, cứu con!” Cô bé mười lăm tuổi hét, trước cặp mắt bất lực của người mẹ. Tiếng hét vang dội trong sân rồi tắt lịm trong tiếng voi gầm, mở đầu cho cuộc hành hình. Những người khác, yên lặng hơn và chấp nhận hơn số phận của mình, hoặc phản kháng đến lúc cuối cùng. Nữ tướng quát voi lùi lại, những cậu thanh niên trẻ măng run rẩy hoặc vẫn cố tỏ ra can đảm. Và nhà vua, nhà vua nhỏ bé trong chiếc áo phong phanh giữa mùa mưa Phú Xuân, được đẩy vào giữa năm con voi to lừng lững sau khi đã chứng kiến cuộc “hành quyết” xác của cha mẹ, của người bác Nguyễn Nhạc. Xác của kẻ đã làm khuynh đảo cả một đất nước, sau một năm trời phơi ngoài sương gió, bị đem đi diễu khắp nơi, đã mục nát, bất chấp sự bảo vệ của lớp sáp ướp phủ ngoài. Nó bị đập nát, bị đem đi lăng nhục một lần cuối trước khi quẳng đến trước mặt vị vua trẻ. Vị vua trẻ đã bị giết bằng năm con voi lớn, vẫn hướng cái nhìn lần cuối về xác cha mẹ.

Tất cả những cảnh tượng ấy làm đám đông sôi trào và lặng phắc. Họ như bị thôi miên bởi nó, bởi sự ác nghiệt của các hình phạt, bởi sự đau đớn của những kẻ bị hành hình, cảnh tượng tàn khốc trước mắt. Mãi sau này, Phú Xuân còn nhắc về nó, cuộc hành hình rõ ràng nhất mà họ đã từng chứng kiến. Trong những tháng năm này, thi thoảng họ vẫn nghe về những cái chết – tàn bạo và dã man. Nguyễn Huệ bắt Nguyễn Văn Duệ cho voi giày, Lê Trung bị phân thây, đốt xác. Nhưng đó là chuyện ở các vùng đất xa xôi, trong những cuộc trừng trị ít người biết tới. Giờ đây, tất cả được trưng ra trước thanh thiên bạch nhật, trước cặp mắt khiếp đảm của mọi người. Trên đài cao, lá cờ và chiếc lọng vàng đánh dấu sự có mặt của nhà vua như một lời tuyên bố cuộc báo thù đã đến ngày đỉnh điểm.

Đứng lẫn trong đám đông, Ngọc Du vẫn còn nhìn xuống sân pháp trường khi những con voi đã được dẫn đi, chỉ còn vài người lính ở lại để thu dọn đống xác chết, lấp đất lên những vạt máu, gom những thủ cấp để đem cắm trước chợ. Người đứng xem tản đi dần, gương mặt họ đờ đẫn, dù là tái nhợt hay đỏ bừng. Nhiều người vẫn còn đứng lại, bàn tán xôn xao về cảnh tượng vừa thấy.

Họ làm như thể vừa xem xong một vở kịch. Ngọc Du thầm nghĩ. Ánh mắt nàng lướt qua khoảng đất đẫm máu đến đài cao. Vị vua đã ra về. Tấn kịch đã xong và diễn viên đã rút. Ngoài bờ sông, nghe văng vẳng tiếng súng vọng đến. Hẳn binh lính phấn khích lại cho nổ súng ăn mừng.

Ngay khi Ngọc Du vừa định quay đi, một người bên cạnh đã khe khẽ gọi nàng. Ngoảnh đầu lại, nàng nhận ra người Tây dương trẻ. Anh ta cũng có mặt torng đám đông, cùng với vài người Tây khác. Thấy nàng, anh ta mỉm cười.

- Công nương, a, công chúa mới phải. – Anh ta nói nhỏ chỉ đủ cho hai người nghe. Nàng gật đầu. Đã lâu rồi nàng không gặp người Tây dương này. Kể từ khi chúa Nguyễn đánh ra Bình Định, họ đã đi theo ngài ta.

Nàng thả bước ra bờ sông, đến bến đò để trở về Kim Long. Người Tây dương vẫn đi theo nàng. Anh ta cũng có vẻ lặng lẽ, như thể anh ta không biết nên nói gì.

- Thế là mọi chuyện kết thúc rồi. – Một lúc sau, người Tây dương cất tiếng. Trời nằng nặng như thể sắp đổ mưa, và gió lồng lộng bên dòng sông. Đò đông khi toán người ở Kim Long đến xem hành hình đang ra về, Ngọc Du khoanh tay đứng đợi bên một gốc cây lớn. Nàng lơ đãng dõi mắt đến rặng núi phía xa. Mùa đông Phú Xuân đang đến, nước đã lên trắng đồng, nàng vẫn chưa quen với khí hậu hiện tại. Mùa đông Phú Xuân lạnh và ẩm ướt, đầy ngập mưa, rỉ rả mưa. Bầu trời cùng mặt đất xám ngoét lại một màu. Nhiều khi nàng không muốn ra khỏi phòng để nhìn thấy khung cảnh xung quanh.

- Kết thúc? Với ai? – Nàng hỏi, dường như lơ đãng, kéo áo sát vào mình để tránh cái lạnh. Người Tây dương nhìn nàng. Anh ta đã biết ý đứng cách nàng một quãng.

- Nên kết thúc, với tất cả. – Anh ta nói, một lúc sau. – Công chúa biết không, ở nước tôi lại sắp có vua rồi. Tên tướng ấy sau khi trừ diệt Đốc chính viện lại lên ngôi vị Tổng tài, nắm cả đất nước trong tay. Hắn sẽ lên làm vua, không lâu nữa đâu, để chống lại lực lượng bảo hoàng tôn phò vua Louis XVIII, như bây giờ hắn đã cho chấp nhận lại đạo Gia-tô để tranh thủ sự ủng hộ của người theo đạo. Thế đấy, chúng tôi đánh nhau để rồi cuối cùng đi về đoạn khởi đầu. Lại là hai ông vua tranh nhau ngai vàng, dòng họ Bourbon và dòng họ Bonaparte.

- Anh đã từng kể rằng kẻ ấy rất hâm mộ các vương quốc phương Đông. Hắn nên đến đất này, có thể hắn sẽ thấy trước kết qủa của mình. – Nàng nói, và người Tây dương bật cười.

- Phương Tây luôn đi sau phương Đông về lịch sử, đúng vậy. Và cuộc chiến trên đất nước chúng tôi sẽ kéo dài, rất dài. Bao nhiêu người đã chết, đã bị lưu đày, đã bị đẩy khỏi đất nước? – Tôi cũng không biết, không ai biết. Vậy nên, tôi cho rằng có thể kết thúc được một cuộc chiến cũng là việc tốt rồi.

- Kết thúc? Không đâu. – Nàng nói, vẫn dửng dưng và lơ đãng. Nàng nhìn ra đầu dòng nuớc. Con đò vẫn chưa sang hết dòng sông.

- Hoàng thượng nói năm sau sẽ tổ chức lập đàn tế ở chùa làng Hà Khê. – Nhận ra thái độ của nàng với chuyện đang nói, người Tây dương chợt đổi đề tài. Như giật mình, Ngọc Du quay nhìn anh ta. – Ngài nói rằng sẽ tổ chức tế lễ ở đó cho những người đã mất.

Hoang đường, nàng muốn nói. Ngài ta qủa thật là không muốn để nàng yên. Chùa Thiên Mụ chưa được xây xong, ngài ta định dùng chùa làng Hà Khê thay thế, thật là một lý do hay ho. Và dù muốn dù không, nàng vẫn phải tham dự vào đó. Nàng đã nói rằng không muốn gặp ngài ta, ngài ta lại bày việc ra tại ngay chỗ nàng ở.

- Khắp nơi người ta đang viết văn tế. – Nhị phi nói với nàng khi cô ghé lại vào một ngày trong cuối mùa đông năm ấy. – Ngay cả ở Bắc thành cũng có nhiều bài văn tế. Nguyễn Văn Thành viết văn tế lễ theo lệnh hoàng thượng không nói, Tri phủ Thường Tín cũng vừa có một bài văn tế được lưu truyền trong các chùa:

“Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gánh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo một đêm một dài.

Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?”

- Thôi! – Ngọc Du ngắt lời Nhị phi. Nàng cau mày. – Không phải có ai bảo Nhị phi đến đây chứ?

- Không. – Nhị phi chớp mắt. Và như thường lệ, nàng không bao giờ biết cô nói thật hay không. – Nhưng lễ ở chùa Hà Khê không phải chỉ là để cho long trọng, đó là tấm lòng của mọi người. Từ phi và những đứa trẻ sẽ đi, chị cũng nên đi chứ?

Ngọc Du im lặng. Nàng chưa từng tin vào thần thánh, chưa từng. Trong những ngày này, khi vừa trở lại Phú Xuân, Quốc mẫu và Ngọc Tú, Vương hậu và Nhị phi đều đã có sẵn ý định quyên góp tiền để tôn tạo, tu sửa chùa chiền, Ngọc Tú thậm chí còn định lập hẳn một tăng đoàn, nàng lại hoàn toàn đứng ngoài những việc ấy. Bài thơ mà Nhị phi vừa đọc có những câu khiến nàng phải run lên, nhưng hoàn toàn ngoài lý do tôn giáo.

Từ pháp trường trở về, nàng đã không còn bước ra khỏi nhà. Khắp nơi người ta đang viết văn tế, Nhị phi đã nói, và nàng biết đó là điều có thật. Ba mươi năm dài, và hòa bình đến với họ bằng những cái giá cay đắng. Họ không tụng ca nó, sự yên bình đầy bất ổn mà không ai tin rằng mình đã nắm được, họ khóc cho những người đã chết. Khắp nơi, người ta đào lên những nấm mộ đắp vội để cải táng. Trong các đình đài, miếu thờ, người ta viết những cái tên thành nhiều trang dài. Binh lính đã được cho ra về, cuộc sống bình thường trở lại trong thấp thỏm và đói kém. Đói kém, khi bốn năm chiến tranh đã vắt kiệt mảnh đất này, ngay cả Gia Định. Đầu năm, chúa Nguyễn đã phải sang Xiêm mua gạo cũng như lấy gạo của Chân Lạp. Rồi thì Gia Định đói trong những ngày giáp hạt, hậu qủa của việc rút hết tráng đinh khỏi các đồng ruộng và tận thu thuế, khiến quan phải mở của kho phát thóc cho dân. Sự bấp bênh này khiến người ta sợ hãi. Tế lễ những người đã khuất, trong lòng họ lại thầm cầu nguyện cho bản thân, cho cái tương lai chưa thành hình trước mắt. Đất nước – Một đất nước thống nhất từ Bắc tới Nam, từ Bắc thành đến Gia Định – là điều gì xa vời như không thật đối với họ. Không kết thúc, nàng nói với người Tây dương, chính vì điều đó. Mọi điều đều mới chỉ bắt đầu. Kết thúc cuộc chiến này, họ sẽ phải đối đầu với một cuộc chiến khác. Ngài ta biết điều đó, nên mới có cuộc hành hình như thế.

- “Trên lầu cao dưới dòng nước chảy. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương?” Tên Tri phủ ấy định khóc cho chúng ta à? – Nàng chợt cười. Đó là gia đình của Quang Toản, nàng chợt nghĩ. Tru di tam tộc, họ cha và họ mẹ cùng gia đình, họ nhà vua Tây Sơn và họ Bùi đằng mẹ. Nhị phi im lặng nhìn nàng. Khi nghe những câu này, mẹ sẽ lại khóc, nàng chợt nghĩ. Nàng đã trở nên mệt mỏi với nước mắt con người, trong những tháng năm này.

Ngày và đêm mùa đông Phú Xuân kéo dài như là mãi mãi trong tiếng rả rích của mưa. Nhiều khi nàng không muốn trở dậy, không muốn tiếp tục đối mặt với những tháng ngày của cuộc đời héo úa đang đến, những tháng ngày héo úa của cuộc đời đang đến. Nhiều khi nàng tự hỏi tại sao mẹ nàng có thể sống được, sau những gì đã xảy ra.

Pháp trường, nàng đã đến, và nàng đã cảm thấy dửng dưng. Những gì nàng đã chứng kiến, đã cảm thấy trong những tháng năm cũ còn hơn thế gấp nhiều lần. Sự hủy hoại sinh mạng chẳng qua chỉ là như thế. Đủ mọi cái chết, đủ mọi hình thức chết, đủ mọi loại người chết. Mọi thống khổ đều đã diễn ra, đã xảy ra, dưới mặt trời. Cho dù là tiếng kêu thét của đứa con gái hay sự bất lực của người mẹ, nỗi căm phẫn và đau đớn của đứa con trước di hài thân thuộc, nàng đều đã chứng kiến, đã trải qua. Đó là những điều đã mãi mãi nằm trong ký ức của họ, qúa khứ của họ, giấc mơ của họ. Họ đã mơ thấy pháp trường ấy, sống trong cái pháp trường ấy, suốt ba mươi năm trong cuộc đời. Tất cả đều là họ, tất cả đều là của họ, ngoại trừ cái chết. Họ vẫn sống, vẫn phải sống, để tiếp tục mang cõi ký ức ấy. Rồi nàng trở nên dửng dưng với sự thống khổ kia. Dửng dưng hoàn toàn.

- Ta không đến. – Nàng nói, cuối cùng. Nàng lại ngoảnh nhìn ra cửa, màn mưa Phú Xuân giăng đầy trời. Nghe tiếng Nhị phi thở dài, nhưng nàng không bận tâm.

Nàng không tin vào thánh thần, nên nàng cũng chẳng cần sự cứu rỗi của họ. Chẳng có gì cứu được nàng, mãi mãi. Từ khi chứng kiến cái pháp trường ấy, nàng nghĩ mình đã biết thế nào là địa ngục. Là những gì hiển hiện ngay trong cuộc sống.

Không ai cứu được họ, những con người sống dưới ánh mặt trời.

Chú thích:

Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du. Lúc này Nguyễn Du đang làm Tri phủ huyện Thường Tín.

78

Tháng hai năm Qúy Hợi, ba viên văn quan của Tây Sơn là Lễ bộ Thượng thư Phan Huy Ích, cựu Binh bộ Thượng thư Ngô Thì Nhậm, Lại bộ Thượng thư Nguyễn Gia Phan bị đưa đến trước Văn Miếu phạt roi. Nguyên quan lại ở Bắc thành khi ba người này ra hàng đã làm sớ tâu lên nhà vua: “Ngụy quan ra thú thời tha, đã có minh chiếu rồi, xin tha cho bọn Ngô Thì Nhậm khỏi giết nhưng phải đánh đòn để cho biết xấu”. Vua liền truyền chỉ cho đem ba Thượng thư này đến Quốc tử giám phủ Phụng Thiên, kể tội mà đánh, nhưng giữ họ lại để lo việc bang giao với nhà Thanh.

Nguyên từ tháng mười năm ngoái, khi nhận được đám hải tặc ở An Quảng, Giang Bình cùng đầu của Trịnh Thất, biết được rằng các căn cứ hải tặc ở đất Việt đã bị phá hủy, vua Gia Khánh mới trả lời thông qua Tổng đốc Lưỡng Quảng rằng: “Nước ta đã thống nhất toàn hạt An Nam, nên làm biểu sai sứ sang cầu phong; còn sứ bộ trước là bọn Trịnh Hoài Đức thời phải sang Quảng Tây ở chờ sứ cầu phong đến, rồi mới vào Yên Kinh một lần.” Lời nói này đã chính thức đồng ý thiết lập quan hệ với nhà Nguyễn, sau những nỗ lực không ngừng nghỉ của vua Gia Long. Nhà vua liền cho Lê Quang Định làm Binh bộ Thượng thư, Thiêm sự Lại bộ Lê Chính Lộ, Đông các Học sĩ Nguyễn Gia Cát làm Giáp Ất Phó sứ, đem thư sang Thanh cầu phong, cùng với thư xin đổi quốc hiệu lại thành Nam Việt. Để chuẩn bị cho việc bang giao này, vua đã triệu cả ba người Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Gia Phan đến Thăng Long. Ba người này với tầng lớp sĩ phu tại Bắc thành vốn đã mang nhiều mắc míu đã lâu, không tránh khỏi người đem chuyện cũ ra kể lại.

Ngồi giữa Văn Miếu trông coi việc xử phạt hôm ấy là Binh bộ Đặng Trần Thường. Khi ba vị cựu Thượng thư được đưa đến trước điện, viên quan họ Đặng nhìn lướt qua từng người trong họ, cất giọng vừa chán chường vừa khinh miệt mà chậm rãi đọc tờ giấy trong tay.

- Nguyễn Gia Phan, tên thật là Nguyễn Thế Lịch, nguyên Thư giám sát Ngự sử, Đô cấp sự trung đạo Sơn Tây của chúa Trịnh Sâm. Được Tây Sơn triệu ra Phú Xuân làm quan vào năm Nhâm Tý, giữ chức Thượng thư Lại bộ.

Phan Huy Ích, Hàn lâm thừa chỉ, Đốc đồng tỉnh Thanh Hóa dưới thời chúa Trịnh Sâm, được vua Lê phong làm Hiến sát sứ Thanh Hóa, thừa mệnh cùng Trịnh Bồng đi đánh dẹp Nguyễn Hữu Chỉnh. Năm Mậu Thân, ra làm quan với Tây Sơn, được phong làm Tả thị lang bộ Hộ, rồi Thị trung Ngự sử. Năm Canh Thân, được phong lên Lễ bộ Thượng thư.

Ngô Thì Nhậm, đậu Tiến sĩ năm Ất Mùi, được chúa Trịnh Sâm vời làm tư giảng dạy cho Thế tử là Trịnh Khải, rồi Đốc đồng xứ Kinh Bắc. Sau năm Canh Tý, được phong lên làm Công bộ Thị lang, nhưng vì Trịnh Khải lên ngôi nên phải trốn về quê. Năm Mậu Thân, ra làm quan Lại bộ Tả thị lang, rồi Binh bộ Thượng thư. Sau khi Nguyễn Huệ chết, về Trúc Lâm thiền tự tu hành.

Một nụ cười thoáng qua đôi môi của Đặng Trần Thường. Anh ta gạt tờ giấy sang bên, ngồi thẳng lên.

- Đó là những gì ta biết. Nhưng còn gì nữa? Các người có cần ta đọc ra?

Nguyễn Gia Phan, con trai của gia đình hành nghề y nổi tiếng trong vùng Yên Lũng nhưng lại theo đòi bút nghiên. Chúa Trịnh Sâm ít con, liền dâng lên cho chúa bộ Phụ nhân thai sản điều lý phương pháp. Sau năm Kỷ Dậu, Bắc Hà bị bệnh dịch hoành hành, liền nghiên cứu y học để điều trị cho nhiều người. Triều đình Tây Sơn nghe tiếng nên triệu đến. Lý ra, làm quan để bảo toàn thân nhân cũng không phải là điều đáng trách. Nhưng học nghề y là cao qúy mà lại dùng nó để thăng quan tiến chức ở những địa phận không liên quan đến nghề nghiệp, cũng nên là sự xấu hổ của kẻ sĩ vậy.

Phan Huy Ích, từ quân thần của chúa Trịnh lại làm quan cho vua Lê, rồi lại làm kẻ sai phái  cho Trịnh Bồng. Đi dẹp loạn Nguyễn Hữu Chỉnh, huênh hoang khoác lác làm một cái chuông đòi nhốt Hữu Chỉnh vào, lại bị Chỉnh bắt được, nhục mạ một phen. Theo anh rể là Ngô Thì Nhậm làm quan cho Tây Sơn, chuyên viết văn làm thơ bồi bút cho kẻ trong triều. Kể ra, lời của Nguyễn Hữu Chỉnh cũng có phần đúng: “Chỉ là loại nhà Nho nói khoác”.

Ngô Thì Nhậm, à, ông bạn cũ. – Nụ cười của Đặng Trần Thường càng mở rộng hơn. – Ta nên kể từ đâu đây nhỉ? Từ ngày tiên sinh còn là Đốc đồng Kinh Bắc, dưới quyền của chúa Trịnh vậy. Khi ấy chúa Trịnh Sâm bệnh nặng, con cả là Trịnh Khải lại không được yêu qúy, không được cho vào thăm, Tuyên phi Đặng Thị Huệ âm mưu với Quận Huy tiếm ngôi chúa cho con là Trịnh Cán. Trịnh Khải liền mật vay của Nội thị Chu Xuân Hán ngàn quan tiền để sắm khí giới đề phòng bất trắc. Những thân tín của Khải như Nguyễn Lệ, Nguyễn Xuân Đĩnh ở Kinh Bắc, Sơn Tây cũng được báo cho biết.

Ngô tiên sinh đây ngày trước vào giảng kinh sách cho Trịnh Khải, rất được Khải yêu qúy. Học trò ông là Hà Như Sơn làm công việc giữ sách cho Khải biết việc mật ấy, liền báo với tiên sinh. Cấp sự trung Nguyễn Huy Bá cho con dâu vào báo cho Đặng Thị Huệ rằng Khải âm mưu với hai viên trấn thủ định làm phản. Chúa Trịnh Sâm liền cho bắt Trấn thủ Sơn Tây Nguyễn Lệ, Trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Khắc Tuân cùng Nguyễn Xuân Đĩnh. Trịnh Khải bị phế truất, bọn Xuân Đĩnh đều bị giết, Nguyễn Lệ và Nguyễn Khắc Tuân bị giam. Khắc Tuân và Chu Xuân Hán uống thuốc độc chết.

Nếu chỉ có vậy thì sao Ngô tiên sinh lại được thăng lên làm Thị lang? Tại sao tiên sinh lại phải chạy trốn về quê vợ ẩn náu sau khi Trịnh Khải lên ngôi? Tại sao cha tiên sinh lại xấu hổ đến mức uống thuốc độc tự tử? Tại sao tiên sinh lại mang cái tên “Sát tứ phụ nhi Thị lang”, Ngô tiên sinh?

Rồi Nguyễn Huệ lật đổ Trịnh Khải, thật là dịp may cho Ngô tiên sinh đây vậy. Ngay sau khi Huệ chiếm Bắc Hà, đuổi vua Lê, kêu gọi quan cũ của nhà Lê ra làm việc, Ngô tiên sinh là người trình diện trước tiên. Chỉ một tháng sau, tiên sinh đã làm biểu suy tôn Huệ lên ngôi hoàng đế, không phải một lần mà những ba lần - Trong lúc vua Lê còn đang lẩn trốn ở Bắc Hà, bị kẻ thù đuổi giết sau lưng, khi người nhà Lê bị tận diệt ở Lạng Sơn, Cao Bằng. Việc đó khiến người người đều phản đối. Tham tụng Bùi Huy Bích bỏ trốn, Thiêm đô Nguyễn Huy Trạc tự sát ở đài Ngự Sử.

Nhưng vinh quang lắm rồi cũng đến lúc tự nhận lấy hậu qủa. Ngô tiên sinh khuyên Nguyễn Huệ phân chia đất nước theo lối nhà Chu, cho mỗi đứa con một vùng. Để rồi, Huệ vừa chết, quan triều đã nhân cớ ấy mà chia mỗi kẻ một vùng cai trị. Thời cuộc nằm trong tay kẻ mạnh, dạng nhà Nho như tiên sinh lại không biết thân phận của mình. Ngô Văn Sở rồi Võ Văn Dũng trở thành quan cai trị ở Bắc Hà, tiên sinh thì bị ném về chùa.

Tiên sinh còn nhớ ngày xưa đã nói gì với ta? “Người quân tử quý ở chỗ biết thông biến mới có thể làm nên công nghiệp, chứ kẻ thất phu chỉ biết tự tin vào mình, rồi có ích gì?” Cuối cùng thì tiên sinh “thông biến” thế nào lại thành ra như thế? Chưa cần đến ta, tiên sinh đã thành kẻ thua cuộc ngay trong chính cái triều đình đó. Tiên sinh đánh đổi cả chủ nhân, cả học trò, cả cha, cả đồng liêu của mình, cuối cùng thì được cái gì?

Tiên sinh nói ta là kẻ thất phu chỉ biết tự tin vào mình? Nhưng rồi ta một tay giúp chủ dựng nên cơ đồ này, tất cả dựa vào tài năng của ta, bản lãnh của ta. Thắng thua thành bại là do chính tài năng, bản lãnh, phẩm chất của con người quyết định – Không phải dựa vào khả năng theo thời dựa thế, bất chấp thủ đoạn, lợi dụng cơ hội để ngoi lên đè đầu cưỡi cổ người khác.

Ngày trước tiên sinh dựa vào cớ gì để mỉa mai ta? Vào cái ghế tiên sinh đã ngồi vững sau khi chạy theo phò ông chủ mới, viết những tờ sớ xu nịnh, những lời tán dương vô liêm sỉ? Tiên sinh đã làm gì để có được chức vụ ấy, địa vị ấy? Tiên sinh nghĩ mình đã làm được gì để có tư cách sỉ nhục ta? Một kẻ như tiên sinh bán cha phản chủ đến nỗi bị đuổi đi, rồi lại là kẻ đầu tiên vào phù triều mới nên được trọng dụng mà có thể so sánh với ta sao? Chẳng phải hôm nay ta là kẻ chiến thắng cuối cùng – còn tiên sinh chỉ là lão già trong tu viện? “Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?”

- “Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế”. – Ngô Thì Nhậm trầm mặc nói, giọng ông ta có vẻ mỏi mệt, ánh mắt ông ta nhìn Đặng Trần Thường cũng có vẻ chán chường. – Đặng tiên sinh vẫn ngông nghênh như thế, nhưng ngài đâu biết một kẻ muốn tồn tại phải biết nhìn cả xung quanh? Thắng thua thành bại đâu thể dùng để đánh giá khả năng của một người. Hôm nay ngài đắc thế, nhưng ai biết ngày mai thế nào – đó là lẽ đời vẫn vậy. Đặng tiên sinh cho rằng chỉ cần tài năng mà sống được thì ngài quả là vẫn quá ngây thơ rồi.

- Thời, cuối cùng thì tiên sinh cũng nhắc đến thời. – Đặng Trần Thường nhếch môi, hơi chồm người về phía trước. Trong mắt anh ta hiện rõ vẻ ghét bỏ sâu cay. – Chẳng trách, trong giới sĩ phu vẫn còn lưu truyền một câu chuyện: Khi tiên sinh được một tuổi, cha tiên sinh định đặt tên cho con liền hỏi tiên sinh muốn có tên thế nào. Tiên sinh liền bảo cha mình viết tên của ông ra, đó là chữ Sĩ. Rồi tiên sinh phết thêm một gạch, trở thành chữ Nhậm. Chỉ có điều, chú của tiên sinh lấy đó làm lo. Theo phép chiết tự, chữ Nhậm ấy trở thành chữ “nhâm nhân” – Kẻ xu nịnh vậy.

Từ chữ Sĩ trở thành “nhâm nhân”, tiên sinh quả là “Sát tứ phụ nhi Thị lang”.

Thời với tiên sinh là gì? Là gió thổi chiều nào theo chiều nấy? Là kẻ nào thắng thế thì xu nịnh kẻ ấy? Là thấy ở đâu được lợi thì nhảy vào? – Bất chấp luân thường, bất chấp đạo đức sĩ diện, bất chấp lương tâm. Tiên sinh tự xưng mình là kẻ đi học mà không biết liêm sỉ của một kẻ sĩ phu?

- Đặng tiên sinh hoặc đánh giá bản thân quá cao, hoặc đánh giá chữ “sĩ phu” quá cao rồi. – Ngô Thì Nhậm vẫn điềm tĩnh trước những lời kết tội của Đặng Trần Thường. – Cuối cùng, những kẻ ăn lộc triều đình như chúng ta, chen vào trường danh lợi để kiếm chút công danh, thật sự là gì? Chẳng qua cũng chỉ là công cụ cho kẻ khác, viết những gì kẻ khác muốn, làm những gì kẻ khác cần. Nói cho hay ho thì là phục vụ đại cuộc – nhưng khi cái đại cuộc đó đổ vỡ thì sẽ thành thế nào, khi cái đại cuộc đó trở thành sai lầm thì thế nào? Thậm chí, có phải lúc nào cũng làm được theo ý mình? Vào luồn ra cúi, cái chức công hầu là dựa vào ý thích của kẻ bề trên ban cho – Cuối cùng thì thành bại của giới sĩ phu trong quan trường thực sự là gì? Chẳng phải chỉ là kẻ làm bề trên vừa ý nhất? Nhưng nào có phải đã xong. Chức tước thì ít, kẻ thèm muốn thì nhiều, nhiều kẻ sẵn sàng đạp lên kẻ khác để tiến thân. Ta không hại người thì người cũng hại ta vậy. Tiên sinh lập nghiệp bằng chiến trận, lúc mà người còn có thể dung người, mọi việc còn được suy xét bằng công tích – Nhưng tiên sinh chưa từng biết thế nào là một triều đình thực sự.

Tiên sinh coi trọng chữ “Sĩ”, nhưng tiên sinh nghĩ rằng chữ sĩ giúp được tiên sinh à? Đáng tiếc, ta phải nói rằng trên đời này những kẻ thông biến theo thời mới là kẻ thắng. Tiên sinh cho mình là kẻ sĩ, nhưng xung quanh tiên sinh mấy người là kẻ sĩ? Loại văn sĩ phục vụ triều đình, quan thần cũng chỉ cách nịnh thần được mấy phân? Phẩm chất tài năng thật sự có giá trị gì nếu tiên sinh không biết làm vừa lòng người khác? Ngay cả bản thân mà cũng không giữ được thì nói gì đến tham vọng ước mơ? Ngay cả chỗ để sử dụng tài năng còn không có thì nói gì đến ước vọng kinh bang tế thế?

Tiên sinh nhìn quanh ngay cả chỗ ngài đang ngồi mà xem. Tiên sinh nhìn ngay cái triều đình ngài góp phần lập ra mà xem. Cái gì là chân tài? Cái gì là sĩ phu lương đống? Cái gì là kẻ sĩ? Quan Lê triều về Nguyễn không kể, nhưng bao nhiêu kẻ theo Trịnh, theo Lê, theo Tây rồi lại theo Nguyễn? Bao nhiêu kẻ hễ thấy ai thắng thì chạy theo? Bao nhiêu kẻ dựa vào thời thế mà leo lên quyền cao chức trọng? Tiên sinh có cản được không? Ta biết, theo tính cách của tiên sinh, tiên sinh đã phải tâu bày cho những kẻ mà tiên sinh thấy ngứa mắt không được sử dụng rồi. Nhưng tiên sinh cản ngăn được không? Hàng thần hàng quan hàng tướng trong triều Nguyễn là bao nhiêu? Ta dám chắc còn hơn cả số kẻ được gọi là trung thần!

Ở trong những kẻ ấy, tiên sinh nghĩ mình có thể theo tiêu chuẩn của riêng mình mà sống được sao? Tiên sinh nghĩ mình có thể dựa vào chút công tích đã lập được mà lấn lướt kẻ khác sao? Trên đời cũng vậy, trong triều đình cũng vậy, trong nhà ngoài ngõ, ở phố thị hay cung cấm, cái gọi là chân chính đạo đức ấy thực chất có thể sống được không? Chính trị là gì? Tiên sinh chỉ biết cho rằng mình là đúng, chỉ biết cao ngạo mà đem tiêu chuẩn của mình phán xét xung quanh – ngài có thể không lý tới việc kẻ khác căm ghét mình nhưng ngài cũng chẳng yên đâu. Ngài nghĩ chỉ cần biết mình mà sống được sao? Ngài nghĩ mình cao hơn người khác à? Ngài hẳn chưa nghe bên ngoài người ta đang nói gì về cái triều đình của ngài.

“Lê triều tiến sĩ nhị thập tứ
Bát chân, bát ngụy, bát chân ngụy
Như kim thoát kiếp triền đầu cân
Vị lãm thùy phi hựu thùy thị.”

Nghe bài thơ, gương mặt Đặng Trần Thường đổi sắc. Bàn tay anh ta nắm lại trên mặt bàn. Khi nói, giọng anh ta rít qua kẽ răng.

- Hay, hay lắm. Hóa ra không chỉ biện minh cho mình, còn có kẻ tự hào về thói xu thời nịnh thế, cho đó là đúng. Ông vẫn cho mình là đúng, Ngô tiên sinh? Cám ơn ông đã nhắc ta rằng hoàng thượng đang định sử dụng lại ông. Ta không thể cản hoàng thượng, nhưng ta có thể cản ông.

Đem ra sân, theo lệ mà đánh! – Đặng Trần Thường quát những người lính xung quanh. – Tận lực chăm sóc Ngô tiên sinh! Đánh cho mạnh vào!

Theo thời, ông nói. – Giọng Đặng Trần Thường nhỏ lại khi anh ta nheo mắt nhìn Ngô Thì Nhậm. -  Ta chút nữa đã đánh giá thấp khả năng theo thời của ông. Ông thua rồi, Ngô tiên sinh.

- Cũng không có nghĩa là anh thắng, Đặng tiên sinh. – Ngô Thì Nhậm nói khi bị lính nắm kéo đi. – Anh mãi vẫn không nhận ra mình đang ở đâu. Ta nhắc lại với anh lần nữa: Kẻ thất phu chỉ biết tự tin vào mình, rồi thì có ích gì?

- Đánh chết hắn đi! – Đặng Trần Thường đã giận run người, chỉ tay mà quát. Lính lệ xung quanh không dám chần chừ một khắc, vội vã lôi cả ba người ra sân. Tiếng roi chẳng mấy chốc đã vang lên. Riêng Ngô Thì Nhậm bị dùng trượng mà đánh. Không dám trái lời quan lớn, những tên lính dùng hết sức đập xuống.

Cái gì mà “gặp thời thế, thế thời phải thế”? – Đặng Trần Thường lầm bầm khi nghe tiếng gậy đánh bồm bộp đệm cùng tiếng kêu của người bị đánh vọng vào. – Ta sẽ không để những kẻ ấy có cơ hội ngoi lên để mà dương dương tự đắc với ta.

Kể cả Lê Chất, anh ta nghĩ thầm. Lê Chất, kẻ mà khi hắn ta nhậm chức Bình Tây tướng quân, Đặng Trần Thường đã mai mỉa “Chất mà bình Tây thì ai bình Chất? Chất mà Quận công thì ta bằng mười Quận công.” Nhưng Lê Chất đã lập công lớn trong trận đánh Bắc Hà, đã bắt được vua Tây Sơn. Dù muốn dù không, công bắt được Quang Toản là của Lê Chất. Tên hàng tướng mới về chưa được ba năm đã lên cao với tốc độ chóng mặt. Và hắn đã nhanh chóng thân thiết với viên cận tướng thân tín của nhà vua là Lê Văn Duyệt, tạo thành một thế lực khó mà hạ bệ. Thậm chí đến Nguyễn Văn Thành còn bị nhắc nhở “không được lấy chức tước mà khinh thường Lê Văn Duyệt” khi cả hai cùng nhận chức Quận công trước đây.

Những kẻ khốn kiếp bao giờ cũng thắng? Đặng Trần Thường không thể ngăn lòng mà tự hỏi, lúc này. Cái triều đình này, Bắc Hà này tràn ngập những kẻ như thế. Cái địa vị mà anh ta đã có được bằng tài năng và công lao gần mười năm, rốt cuộc cũng không hơn những kẻ ấy. Rốt cuộc, dù là Trịnh hay Lê hay Tây Sơn hay Nguyễn, triều đình nào cũng phải tận dụng các Nho sĩ như bọn họ, quanh đi quẩn lại cũng chỉ chừng ấy con người. Quanh đi quẩn lại, triều đại đổi dời đến đâu, thế thời cũng chẳng bao giờ thay đổi.

- Đánh mạnh vào! – Đặng Trần Thường quát, mắt tràn đầy nộ khí. Anh ta đã thực sự cảm thấy tức giận. Không chỉ với Ngô Thì Nhậm, không chỉ với triết lý tùy thời của những kẻ xung quanh, mà là tất cả, tất cả những gì anh ta cũng chưa hiểu hết.

Anh qúa ngạo mạn. Phải, từ cái ngày cha mẹ đều mất, gia cảnh suy sụp, bản thân lang bạt, có lần phải khuất thân vay tiền của bạn mà sống, người con cháu của họ Trần này đã tồn tại bằng lòng tin vào giá trị của bản thân, bằng sự cao ngạo ấy. Dù thời thế có thế nào, anh ta vẫn đứng thẳng, vẫn làm theo điều mà mình muốn, và sẵn sàng chặn bất cứ kẻ nào xâm phạm đến niềm tin của anh ta. Bất cứ kẻ nào.

Cái chết của Ngô Thì Nhậm sau trận đòn đánh dấu sự kết thúc của những ân oán. Rồi những tháng ngày sau đó ruổi qua nhanh. Quốc hiệu Việt Nam được đặt sau những nỗ lực của vua Gia Long trong cuộc đàm phán với Đại Thanh. Ban đầu, vua Gia Khánh cho rằng cái tên Nam Việt trùng với tên cũ của quốc gia cổ từng ngự trị ở cả hai miền Mân, Việt, không cho phép sử dụng. Qua nhiều lần trao đổi thư từ, nhà Thanh đã chấp nhận cái tên Việt Nam thay cho An Nam cũ đã có từ thời Lý.

Tháng hai năm Giáp Tý, Phan Huy Ích viết cho vua Gia Long bản Chiếu tuyên cáo đổi mới quốc hiệu đến cho mọi người:

“Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết:

Trẫm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Nước ta: sao chùa Dực, Chân, cõi Việt hùng cường. Từ lâu đã có tên Văn Lang, Vạn Xuân còn thô kệch. Đến thời Đinh Tiên Hoàng gọi là Đại Cồ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ.

Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài… Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ.

Từ nay trở đi, cõi viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền, ở trong bờ cõi đều hưởng phúc thanh ninh.”

Cùng với cái tên mới, Kinh thành cũng được xây dựng bên bờ Bắc sông Hương, đánh dấu sự xuất hiện của một triều đại mới. Tử Cấm thành và Hoàng thành được xây tiếp nối theo sau. Từ Bắc thành đến Thượng Nam Hà, đất ruộng được xem xét phân cấp lại cho dân. Dân lưu tán lần lượt trở về khi những sắc lệnh miễn thuế, chẩn cấp được ban hành.

Năm Bính Dần, tháng giêng, vua cho đúc kim sách, chuẩn bị lên ngôi Hoàng đế, lập đàn Nam Giao và đàn Xã tắc. Tháng năm, ngày Ất Vị, vua chính thức lên ngôi, lấy sắc vàng làm chủ, ban lệnh ân xá trong nước.

Cuộc sống dần trở lại bình thường. Nhưng trong những tháng ngày ấy, bất chợt có một đợt tấn công của hải tặc đánh vào cửa biển Tư Hiền. Trịnh Nhất, người họ hàng của Trịnh Thất, kẻ đã tập hợp được cả vạn hải tặc sau khi bị đánh lui về đảo Hải Nam, đã quay lại Phú Xuân định đòi món nợ cũ. Quân triều đình do đích thân nhà vua dẫn đầu đã ra cửa biển nghênh chiến.

Để đề phòng bất trắc, Hoàng thái hậu cho người đưa cả nhà Từ phi và Ngọc Du đến Hoàng cung. Ở đó, trong căn vọng lâu xây trên dòng nước nhìn ra cửa sông, Ngọc Du đã gặp nàng công chúa ấy. Công chúa nhà Lê, người con cuối cùng của Hiển Tông hoàng đế, Tam phi của vua Gia Long. Ngay khi nhà vua lên ngôi, cùng với việc phong cho Vương hậu Tống Thị Lan làm Hoàng hậu, Trần Thị Đang làm Nhị phi, Tả cung tần Lê Ngọc Bình cũng được tấn phong làm Tam phi. Tam phi, công chúa nhà Lê, người vợ cũ của vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn. Cô gái lấy con trai của người đã hủy hoại dòng họ mình, rồi lại lấy người đã giết chồng mình. Ngọc Du đã nhìn thấy nàng ta trong vọng lâu, ngồi sát rìa dòng sông, nhìn về phía đầu nguồn, nơi thỉnh thoảng tiếng súng lại vọng đến, nơi thấp thoáng những cánh buồm. Cô gái trẻ ngồi một mình, cách xa bọn họ. Rất ít người trong hoàng cung đến đây để tận mắt nhìn thấy cuộc chiến, do đó, Ngọc Du đã ngạc nhiên khi gặp nàng ta nơi này, dõi mắt lo lắng về phía tiếng súng đầu dòng nước.

Cô gái thậm chí đã không nhận thấy Ngọc Du đến gần cho đến khi bà lên tiếng. Dường như giật mình, nàng ta nhìn sang. Ngọc Du thỉnh thoảng thấy Tam phi trong những đám tiệc, trong những lần người trong cung đi thăm chùa, viếng mộ, nhưng chưa từng gặp nàng ta. Trong lúc bà còn đang nghĩ cách để tự giới thiệu, Tam phi lại cúi mình.

- Ngọc Bình kính chào Nhị Trưởng công chúa. – Cô gái trẻ nói bằng giọng miền Bắc ấm và ngân. Ngọc Du giấu sự ngạc nhiên thoáng qua trong cái gật đầu chào đáp lễ. Trong một lúc, họ trở nên lúng túng. Nhưng tiếng súng chợt nổ đanh ngoài xa cắt ngang câu chuyện của họ. Tam phi lại trông ra ngoài, và Ngọc Du không thể không nhận thấy cái cau mày của cô.

- Ngài ấy đã trải bao nhiêu trận rồi, không đáng lo quá thế. – Ngọc Du nói và ngồi xuống bên hiên vọng lâu. Bà đã đến đây chỉ vì không thích ở trong Hoàng cung, chứ chẳng mấy để tâm tới trận chiến.

- Bọn hải tặc dù ngông cuồng càn rỡ nhưng nếu không có cơ sở chắc chắn thì đã không dám đánh vào tận đây. Từ sau khi bị đẩy khỏi Giang Bình, chúng vẫn quay lại Việt Nam quấy rối, câu kết với những nhóm tàn quân Tây Sơn, Lê, Trịnh. – Tam phi trả lời trong lúc vẫn dõi mắt ra xa. Câu nói và cách nói khiến Ngọc Du phải chăm chú quan sát cô một lúc.

Cô gái rất đẹp. Vẻ đẹp đã trở thành lời xôn xao bàn tán trong khắp kinh thành khi nàng ta được phong làm Tam phi. Tam phi, chỉ đứng sau Hoàng hậu và Nhị phi – Có lẽ vì địa vị của nàng ta, một công chúa Lê triều. Nhưng Lê triều đã không còn nữa, cái chức danh công chúa ấy có sự thực được mấy phần, và có bù lại được cho quá khứ của nàng ta – không những là góa phụ, nàng ta còn là vợ của kẻ thù, là vợ của người bị Hoàng đế đem phân thây, là người trong cái gia đình mà đàn bà con gái đã bị biếm truất làm nô tì theo luật xử tội đại nghịch? Người ta đã xì xào bàn tán với nhau. Ngay cả những đứa trẻ nhà họ Võ cũng nghe thấy những lời ấy để rồi nói lại với Ngọc Du. Bây giờ, nhìn cô gái, dù biết rõ em trai mình, bà vẫn không thể không tự hỏi lời đồn đại ấy mấy phần là sự thực.

- Tam phi có vẻ lo lắng cho hoàng thượng? – Ngọc Du chợt cười. Giọng bà nói khiến cô gái trẻ quay đầu lại. Bà nhìn thấy sự phòng vệ trong cô, cánh cửa đóng khép sau cặp mắt và đôi vai hơi so. Rất nhanh, nàng ta đã nhận ra ẩn ý trong câu hỏi, và lập tức khép kín bản thân.

- Vâng. – Tam phi nhũn nhặn trả lời bằng giọng nói vừa có vẻ dửng dưng, vừa như nói về một sự thật không có gì đáng để tranh cãi. Ngọc Du cười khẽ.

- Nếu ngài ấy có ra sao thì thật là rắc rối. – Bà nói và nhìn vào mắt nàng ta. Đôi mắt đen sáng và trong. Đôi mắt của một cô gái còn rất trẻ. Nhưng bà không thấy gì trong đó. Đôi mắt đen vời vợi như khoảng bóng tối ngập đầy, che giấu tất cả cảm xúc lẫn suy nghĩ, làm người ta trở nên hồ nghi chính bản thân khi nhìn vào nó. Sự chế giễu trong giọng Ngọc Du không hề được che giấu, nhưng cô gái trẻ cũng không phản ứng. Chẳng có lấy một cái giật mình hay bối rối, cũng chẳng tỏ ra bận tâm, cô gái nhìn ra mặt sông. Dòng sông vẫn chầm chậm chảy. Mùa nắng, nước sông trong vắt, màu xanh lục sáng như ngọc.

- Vâng. – Tam phi vẫn giữ giọng nói từ đầu đến giờ để trả lời. Thái độ ấy chợt làm Ngọc Du đâm bực. Im lặng một lát, họ nghe tiếng súng thưa dần.

- Nghe nói ngày khánh tiết cho Hoàng thái hậu, con cháu nhà Lê, Trịnh cũng đến chúc mừng. – Một lần nữa, Ngọc Du lên tiếng. Có điều gì đó ở cô gái này mà bà cảm thấy không hiểu rõ. Nàng ta vây quanh mình một bức tường rào chắc chắn và bà muốn xuyên thấu qua nó, qua cái vẻ lãnh đạm này. – Thật là một chuyện tốt lành. Chúng ta và cựu triều có quan hệ tốt với nhau, bọn muốn làm phản cũng không còn cái cớ gì nữa.

Mà nhà Lê cũng đã quyết định chuyển miếu thờ từ Thăng Long về Thanh Hóa. – Ngọc Du nói khi mắt Tam phi chớp nhẹ. – Mọi việc êm thắm như thế, Tam phi hẳn góp công không ít.

- Không. – Cô gái trẻ mỉm cười. – Họ tự biết thân phận của mình và ơn nghĩa của hoàng thượng với gia tộc nên cũng biết cư xử sao cho phải lẽ.

- Ơn nghĩa? – Ngọc Du nhướng mày. Một lần nữa, Tam phi liếc nhìn bà rồi quay đi. Nàng ta im lặng. Nàng ta hiểu giọng điệu này của bà. Tất nhiên, Ngọc Du biết rằng nhà vua đã đưa vua Lê Chiêu Thống về mai táng, đã đón các quần thần Lê triều cũ ở Thanh về để chăm sóc, sử dụng trong triều, ban tự điền cho họ Lê. Nhưng mọi việc không đơn giản như vậy mà kết thúc. Càng tập trung, càng ổn định, những con người họ Lê cũ lại càng không muốn chấp nhận chỉ làm kẻ đứng ngoài. Bắc thành là một vùng đất xa lạ với họ Nguyễn. Bắc thành cùng những con người đầy tự hào về hàng ngàn năm dựng quốc, với kinh đô ngàn năm của họ, không dễ chịu sự khống chế của vùng đất khác. Dù đó có là người mà họ đã từng coi như ân nhân. Họ Lê đã sống quá lâu trong lòng người Bắc thành, đã trở thành dường như không thể thay thế. Đó là lý do của cuộc hôn nhân giữa cô công chúa này và vua Tây Sơn, Ngọc Du biết điều đó. Và đó cũng là lý do mà nàng ta có mặt nơi đây. Cô công chúa cuối cùng của một triều đại. Luôn luôn, đó là sự gắn kết không thể thiếu vắng. Như Trần Thái Tông đã phải lấy cả hai chị em công chúa nhà Lý, như Hồ Hán Thương đã lấy công chúa nhà Trần. Ngay cả những kẻ lật đổ cũng phải có một sự tiếp nối, một liên hệ với quá khứ để hứa hẹn những chuyển biến tiếp theo.

Do đó, giọng điệu của Ngọc Du đã đầy chế nhạo. Ơn nghĩa? Ngài ta không lấy gì của nhà Lê nhưng cũng chẳng cho lại nhà Lê bất cứ gì. Một vạn mẫu tự điền cũng là gì so với những gì họ Lê đã có? Ngược lại, ngài ta lấy tất cả - đất đai, quyền lực, thần dân, và cả quan lại. Cả những quan lại Lê triều cũng bị ngài ta thu dụng gần hết. Ngài ta đón quan tài vua Lê từ Đại Thanh về - nhưng đó là một việc mang ý nghĩa tâm lý hơn thực chất. Vua Lê Chiêu Thống đã thất bại và lưu vong ngay từ khi còn sống, sự thất bại không thể thay đổi, không thể bào chữa. Và những cuộc nổi loạn đầu tiên tại Sơn Nam Hạ, Hải Dương để tôn Lê vẫn còn chưa được dẹp yên. Những vụ nổi loạn ấy đã dẫn đến cuộc tấn công của bọn hải tặc bây giờ. Người Bắc thành đã phản ứng ngay sau khi nhà Lê về nước, ngay sau khi nhận thấy mình sắp bị một triều đình xa lạ cách rời Thăng Long thống trị. Những kẻ ấy muốn đòi lại đất nước cho nhà Lê.

Và với ngay cả bản thân cô gái này, có thật là ơn nghĩa khi để cho nàng ta sống? Tam phi, địa vị chỉ sau Hoàng hậu và Nhị phi. Tam phi, người đã sinh cho nhà vua một công chúa nhỏ. Địa vị của nàng ta quả thật rất cao, nhưng cũng chỉ làm lời ong tiếng ve thêm dày đặc. Người ngoài đã đặt ra cả câu hát để mỉa mai cô công chúa này, cái vị trí mà nàng ta đang có. Công chúa của một triều đại đã chết, vợ của hai ông vua tranh nhau ngai vàng. Luôn luôn, nàng ta chỉ là một con cờ trên bàn quyền lực. Ơn nghĩa? Nàng ta hẳn đủ thông minh để biết đó thực sự là gì.

Thậm chí, nàng ta còn có vẻ tham gia rất tốt vào ván cờ ấy. Con cháu họ Lê đến chúc mừng ngày khánh tiết của Hoàng thái hậu, con cháu họ Lê dời miếu thờ về Thanh Hóa, con cháu họ Lê dâng biểu xin nhà vua lên ngôi Hoàng đế, tất cả mọi việc không phải tự dưng mà có. Mối quan hệ của triều đình họ Nguyễn với Bắc thành đang được xác lập, thông qua danh phận họ ngoại của nhà Lê.

Tiếng súng lại chợt ồn lên, rồi lặng xuống. Một cuộc tấn công nữa đi qua. Họ lại đưa mắt về phía đầu dòng nước. Mặt trời đang nghiêng chếch khi đã vào lúc xế chiều. Thi thoảng họ thấy vài chiếc thuyền nhỏ của quân đội đem theo người bị thương hay truyền lệnh cho đội quân phòng vệ trong thành. Cái cau mày của cô gái trẻ ngày càng rõ.

- Chúng tự dẫn xác tới đây cũng tốt. – Một lần nữa, Ngọc Du lên tiếng. – Trừ được đại quân của chúng, những nhóm lẻ tẻ khác sẽ tan vỡ thôi.

Bao giờ cũng vậy. – Bà nói thêm. Và vai cô gái trẻ giật nhẹ. Nàng ta là một người nhạy cảm, giờ thì bà đã nhận ra. Nhưng nàng ta che giấu tất cả bằng khuôn mặt dửng dưng và đôi mắt an tĩnh đến dường như chẳng bao giờ thay đổi. Nàng ta nhìn bà, bây giờ, với sự tổn thương và câu hỏi không có hình hài, không được biểu lộ. Bà chỉ cảm thấy điều đó, sự tổn thương và lời thắc mắc về thái độ của bà, sự tấn công rõ ràng mà bà đang nhắm vào nàng ta.

- Vâng. – Tam phi lại nói, lần này giọng nàng ta chìm xuống, nhỏ nhẹ và xa xôi, nhưng không yếu ớt. Ngược lại, dường như nàng ta đang muốn thách thức bà. Nàng ta nhận biết sự tấn công đang nhắm vào mình, và như một kẻ mang dòng máu vương giả, sẵn sàng đón đợi. Ngọc Du chờ đợi, và quả nhiên cô gái trẻ nói tiếp một lúc sau. – Không nên tiếp tục loạn lạc nữa.

Ngọc Du mỉm cười. Đó là điều mọi người đều nói, trong những tháng năm này. Trong những năm này, sau cuộc chiến với Tây Sơn, họ lại đang phải đối đầu với đói kém, rối loạn, trộm cướp suốt từ Quảng Ngãi đến Bắc thành. Sau chiến tranh, nhiều thôn làng chỉ còn là đất hoang. Các nhóm tàn quân vẫn còn rải rác không ngừng kích động dân chúng “tái lập nhà Lê”. Đám hải tặc họ hàng của Trịnh Thất, kẻ đã bị quân Nguyễn chém đầu, không bỏ ý định báo thù, vẫn lẩn lút ở An Quảng, Hải Dương mà tiếp tế cho các nhóm nổi loạn. Và nhà vua xây dựng Hoàng thành, phá dỡ khu điện đài nơi bờ Nam, chuyển thành trì ở tỉnh Nghệ, Thanh, đắp lại thành Thăng Long khiến người người cực nhọc. Bắc thành vừa vỡ đê. Người Vạn Tượng ở Trấn Ninh vừa xáo trộn. Tất cả tựa một mớ chỉ rối.

Đó là điều mọi người luôn nói. Nhưng trong giọng nói của cô gái trẻ đã có điều gì khiến Ngọc Du khẽ giật mình. Điều gì đó đã nhắc bà đến một quá khứ xa xôi khác. Cũng từng có người đã nói một điều gần như thế, bằng giọng nói chứa đầy sự tin tưởng trong suốt đến ngây thơ. Người đó không bao giờ được nhìn thấy giấc mơ mà mình mong ước.

Ký ức thường làm cho bà thương tâm. Và từ thương tâm thành ra giận dữ.

- Cho nên vì thế mà việc gì cũng có thể làm. – Ngọc Du nói, bằng cái cười nhẹ bẫng. Cô gái trẻ không còn giật mình nữa. Cô hướng mắt về phía những ngọn núi và cánh đồng và bình nguyên nhấp nhô bên bờ Nam. Nơi những điện đài đã bị phá hủy, đã được cày xới lên để phá hủy. Đã vào chiều, tiếng tụng kinh vang rải rác đó đây. Ngọc Tú đang ở phía ấy. Vân Dương ni cô cũng đang ở phía ấy. Trong những tiếng kinh cầu cho ngàn đời ngàn kiếp.

- “Nếu ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục đây?” – Tam phi nhẹ nhàng nói, như một tiếng thở dài. Nhưng nàng ta không nói với Ngọc Du, chỉ như tự nhủ với chính mình. Nàng ta dường như không còn quan tâm nữa, những gì người xung quanh nói và nghĩ.

Một lần nữa, Ngọc Du mỉm cười. Đó là một câu trong kinh Phật. Ngọn gió ngày cuối mùa xuân thổi qua họ còn hơi lạnh của nước và mưa phùn. Trong nắng chiếu xiên ngang, sương lẫn mây trời dồn lên như xây một ngôi thành bằng khói. Bao quanh vùng đất này. Bao quanh thế giới này.

- Dù cũng phải nói rằng, nếu không có gì thay đổi thì cũng chẳng tốt đẹp đâu. – Ngọc Du nói và quan sát cô gái trẻ. – Nàng không hận những người hủy hoại gia tộc mình sao? Nếu họ không chết, nàng cũng sẽ hận họ cả đời thôi.

Hàng mi dài của cô gái lại chớp. Đôi mắt điềm tĩnh ấy có chút xôn xao như sóng trên mặt nước.

- Vâng. – Tam phi trả lời, rất khẽ. Nàng ta thừa nhận. Ngọc Du im lặng. Bà đã nghe thấy sự tổn thương trong giọng nói của cô gái trẻ, và không muốn tiếp tục nữa.

Cùng với thời gian, sự cay đắng cũng đã dịu lại dần, trở thành đông cứng và lạnh lẽo. Những đứa trẻ đã lớn lên, con bé lớn của bà đã sắp lấy chồng. Khi nghĩ về chuyện cũ, Ngọc Du đã không còn hờn oán, duy chỉ là một nỗi giận dữ âm thầm thường bộc phát để thay thế cho sự thương tâm. Từ ngày ấy, bà đã không còn gặp lại em trai mình, Hoàng đế, ngay cả trong lễ cầu siêu cho người tử trận tại làng Hà Khê năm ấy. Trong nhà, Ngọc Du cũng nghe được tiếng kinh cầu, tiếng đọc văn tế. Rất nhiều bài văn tế đã được đọc. Văn tế Châu Văn Tiếp, văn tế Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, văn tế trận vong tướng sĩ. Và tiếng khóc, rất nhiều tiếng khóc. Trong mùa hạ lặng yên và tràn đầy nắng ấy, trước ngày giỗ của Võ Tánh, Ngọc Du đã chỉ lặng yên trước bàn thờ đốt từng cụm giấy tiền, nghe tiếng của đám tế lễ từ đầu làng vọng lại. Rồi đêm lại nối qua ngày, những xao động sau trận chiến cũng đến lúc lắng lại, chuẩn bị cho những lo toan khác. Vô vàn những lo toan khác.

Có tiếng reo hò ngoài cửa sông. Rồi họ thấy những cánh buồm tiến vào. Tam phi đứng bật dậy, thở ra khi thấy lá cờ vàng trên cột buồm cùng với cờ hiệu của nhà vua. Họ đã thắng. Thậm chí đoàn thuyền còn kéo theo sau vài thuyền hải tặc có cánh buồm tơi tả. Tiếng reo lan trong kinh thành, trong Hoàng cung. Mọi người đang dùng hết sức của mình để reo mừng.

Phía đầu thuyền, người cận vệ của nhà vua, một người Tây dương, giơ súng bắn vào bầu trời báo tin chiến thắng. Ngọc Du quay bước về thành để đón bọn trẻ ra về. Bà không muốn tham gia vào sự náo loạn này. Tam phi đi theo bà. Họ bước trên con đường vắng, dưới tán cây râm ran tiếng ve kêu, trong bóng chiều đang dần tắt, trở thành sắc vàng nhàn nhạt.

Ngày lại ngày trôi qua, và rồi tất cả héo úa đi như thế, Ngọc Du chợt nghĩ. Ngay cả cô gái trẻ bên cạnh, trong nàng ta cũng có một nơi nào đã héo tàn, đã rã cánh, đã lay lắt rụng rơi rời rã. Nàng ta không hỏi bà tại sao lại không chờ nhà vua, chỉ nhìn bà nói với bọn trẻ chuẩn bị về, bất chấp sự phật ý của chúng muốn được ở lại. Nàng ta chỉ đứng đó, nhìn bà, đứng đợi xe ngựa cùng bà.

- Hoàng thượng rất muốn gặp Trưởng công chúa. – Bất chợt, Tam phi nói. Ngọc Du nhìn nàng ta, thoáng ngạc nhiên. Rồi bà quay đi mà cười khẽ.

- Hoàng thượng nói thế với Tam phi? – Ngọc Du hỏi với ít nhiều giễu cợt. Cô gái trẻ này thì hiểu được cái gì?

- Vâng. – Vẫn câu trả lời như là đương nhiên dễ làm người khác bực mình ấy. Đôi mắt đen mênh mang của cô gái nhìn Ngọc Du với sự dịu dàng đột nhiên làm bà nghĩ tới người em mình.

Và một lần nữa, bà quay đi.

Tiếng súng mừng thắng trận và tiếng reo hò trong Hoàng thành vừa được dựng xây như đẩy mũi chiếc gai qúa khứ đâm thẳng vào lòng người ở lại.

Chú thích:

Bài thơ của dân chúng Bắc Hà về việc các tiến sĩ nhà Lê đón vua Gia Long:

Lê triều hai mươi bốn tiến sĩ
Tám thật, tám ngụy, tám thật ngụy
Nếu như cởi bỏ khăn trùm đầu
Vị tất đã nhận ra ai với ai.

Sát tứ phụ nhi Thị lang: Giết bốn người cha để làm Thị lang. Cha của Ngô Thì Nhậm là Ngô Thì Sĩ uống thuốc độc tự sát, chủ là Trịnh Khải bị phế, hai người tiền bối là Nguyễn Khắc Tuân và Chu Xuân Hán bị giết, tổng cộng là bốn người.

79

Viên Thượng thư họ Đặng tỉnh dậy trong tiếng lạch cạnh khe khẽ vang. Ánh nến trong phòng leo lắt, chỉ soi rõ vài cái bóng hắt lên tường. Sau mấy lần chớp mắt, ông nhận ra sự hiện hiện của một người nữa trong phòng. Hoàng đế. Ngài ta đang ngồi cạnh cái bàn thấp dùng để đánh cờ kê gần giường. Tiếng lạch cạnh ấy do ngài ta gây ra khi sắp xếp các quân cờ trên chiếc bàn gỗ.

Nghe tiếng ông trở mình, ngài ta ngước lên, nhìn ông khó nhọc ngồi dậy, cúi người chào. Đặt một ngón tay lên môi, ngài ta ra hiệu cho ông giữ im lặng và ngồi yên chỗ cũ. Từ vị trí của mình, ông quan sát được bàn cờ mà ngài ta đã gần xếp hoàn thành.

- Đây là… - Ông nói. Hoàng đế đặt quân cờ cuối cùng vào chỗ, mỉm cười.

- Ván cờ đầu tiên mà chúng ta đã đánh, và khanh đã bỏ dở. – Ngài ta trả lời. – Ta đã về ghi lại nó, sau đó.

Im lặng. Ông nghe tiếng lửa cháy trên bấc nến, vang như tiếng cháy từ thinh không.

- Lúc ấy Đặng tiên sinh chỉ nói thế thôi, phải không? – Hoàng đế nói tiếp, vẫn bằng giọng trầm lặng, có cảm giác như không thể vang ra ngoài được chỗ hai người. – Khanh không phải dừng lại vì chịu thua. Ta biết rằng tài đánh cờ của ta không qua được khanh.

- Nhưng ngày ấy hoàng thượng đến chỗ thần cũng đâu phải để nói chuyện cờ. – Đặng Thượng thư cười nhẹ. Ông thấy tức ngực. – Ván cờ của ngài vốn đâu phải để tranh thắng thua với thần. Chỉ là từ những quân Tốt của ngài, thần nhận ra rằng toàn thể bàn cờ ấy chính là điều ngài muốn thần thấy. Những Xe, Pháo, Mã, Tượng ấy chỉ là công cụ, còn trận chiến, trận chiến thật sự là của những con Tốt. Đó là trận chiến của những quân Tốt. Còn quân Tướng – à mà thôi, ta cứ gọi đích danh đó là quân vua - chỉ có một việc là ngồi yên một chỗ.

- Phải. Vai trò của vua là ngồi ở đó, là ở đó. – Hoàng đế nhìn xuống bàn cờ, cười khẽ. – Cả quân Sĩ cũng vậy, nhiệm vụ của ông ta là ngồi trong cung, bên cạnh vua. Trong cả bàn cờ xáo động, nhiệm vụ của vua là ở đó, chỉ ở đó.

- Vì thế, thần đã đi theo hoàng thượng. – Thượng thư họ Đặng ngả người ra sau, dựa lưng vào cái gối kê cao. – Nhiệm vụ của vua là xuất hiện ở đó. Rốt cuộc chỉ là như vậy.

- Có gì để cay đắng đâu, Đặng tiên sinh. – Hoàng đế nhìn ông, mỉm cười. Ông không trả lời ngài ta, chỉ gật đầu. Ngài ta vẫn gọi ông như ngày ấy. Ngày ấy, khi ông phải giã từ người vợ thương yêu để vào Gia Định trốn lánh mà không hề có chút ước muốn nào với cuộc đời. Ông đã đi theo ngài ta chỉ sau một ván cờ. Ngài ta đã kéo ông đi theo mình chỉ với một ván cờ.

Nhưng từ lúc đó cho đến tận bây giờ, ông vẫn không thể lý giải nổi ván cờ ấy, điều ông đã thấy trong nó. Cũng như ông không thể làm tách bạch rõ ràng chuyện gì đã diễn ra, đã xảy ra. Mười năm đã qua, gần mười năm đã qua kể từ ngày họ đặt chân vào Phú Xuân này, kể từ khi trận chiến đã có kết quả. Rồi mọi việc đã chìm sâu dưới đáy biển thời gian, đã bị vùi lấp bằng muôn vàn sự kiện khác.

Quân vua ngồi ở đó. Nhà vua nhắc. Và ông nhận ra rằng ngay từ lúc đó, ngài ta đã biết. Điều đó lý giải được cho tất cả, cho cảm giác lấn cấn vướng mắc mà ông đã thấy bao nhiêu năm qua. Lý giải được cho cuộc đời ông và bao nhiêu kẻ khác. Ngài ta biết, luôn luôn biết. Ông đã từng nghi ngờ, nhưng giờ thì ông hiểu rõ.

Khanh nghỉ đi. Ngài ta đứng dậy, rời khỏi phòng. Bàn cờ vẫn để nguyên chỗ cũ. Ông nằm xuống, nhắm mắt lại.

Ba ngày sau, Đặng Thượng thư qua đời.

Quan Trấn thủ Thanh Hoa ngoại Ngô Văn Sở thả cương ngựa lững thững đi dọc bờ sông Thạch Hãn. Mùa đông gió bấc thổi từng đợt rào rạt tê buốt qua mặt, cuốn theo cả những bụi cỏ khô và cát, nhưng ông dường như không hề nhận thấy. Đăm chiêu, ông đưa mắt nhìn ra dòng nước xanh xám cuộn sóng. Những tùy tùng đi theo bên cạnh cũng không biết phải nói gì.

Quan Trấn thủ vừa bị gọi vào triều. Vừa bị, bởi vì đó là cuộc gặp không hề dễ chịu, và dẫn đến kết quả là Ngô đại nhân đã bị tước toàn bộ quan tước, buộc phải trả ấn tín về cho triều đình. Ngay cả người con rể là Tứ hoàng tử Phúc Kiểu cũng không thể làm được gì cho ông trước quyết định ấy. Nhất là người con rể, Tứ hoàng tử, đã phải im lặng hoàn toàn, trước tình cảnh đã diễn ra.

Chưởng cơ Ngô Văn Sở vừa được bổ nhiệm làm Trấn thủ Thanh Hoa ngoại, dựa theo lý lịch mà ông đã khai khi làm giấy tờ. Các quan xuất thân tại Bắc thành được ưu tiên trấn nhậm các vùng miền phương Bắc, nên ông đã được nhận chức Trấn thủ Thanh Hoa ngoại. Chỉ có điều, ở vùng đất đó, những người cũ còn lại quá nhiều. Chẳng mấy chốc mà có người nhận ra Chưởng cơ Ngô Văn Sở của Nguyễn triều chính là Đại tư mã Ngô Văn Sở bị đồn đại rằng đã chết của Tây Sơn. Tin đồn lan nhanh và cuối cùng trở thành nghiêm trọng đến mức một cuộc dò xét giấy tờ lớn đã diễn ra. Cuối cùng, vua Gia Long gọi người thông gia vào triều. Phi tử của Tứ hoàng tử đã hạ sinh một con trai, và tình thế trở thành vô cùng bối rối đối với họ.

Tại sao lại không nói với ta? Nhà vua hỏi, bằng sự phật ý rõ rệt. Ngô Văn Sở làm một cái nhún vai mơ hồ. Thần không định để mọi việc trở thành thế này, ông ta nói. Khi trốn đi, thần chỉ cầu sống. Nhưng rồi thần đang trong tuổi đinh, ở đâu thì cũng bị bắt vào quân, rồi tình thế đưa đẩy trở thành một Vệ úy nho nhỏ. Từ lúc ở thành Bình Định, được Võ Quốc công tin cậy giao quyền cho, cứ thế mà trở thành người trong triều. Thần cũng chỉ định sống hết đời này làm một tôi thần của hoàng thượng, coi như Ngô Văn Sở ngày xưa không còn nữa. Không ngờ cuối cùng việc lại bị phát hiện ra.

Phải, bây giờ đã có người nói rằng khanh mai danh ẩn tánh nhằm mục đích chen vào triều ta phá hoại. Hoàng đế nói qua kẽ răng. Ngô phi con gái khanh là sủng phi của con trai ta, người mà ta đang nhắm làm Thái tử - người sắp là vua của Việt Nam này.

Thần biết người ta đang nói thần cố tình dùng con gái mình để làm hại triều đình. Việc này thì có mười cái miệng cũng không thanh minh được. Ngô Văn Sở nói và thở ra. Ngài định xử trí thần thế nào đây, hoàng thượng? Thần có bị buộc phải tự sát không? Hay chém đầu thị chúng can tội làm gián điệp cho ngụy tặc?

Vì giọng nói nhẹ nhàng của Ngô Văn Sở, Hoàng đế nhìn ông ta như thể đang đánh giá một trò đùa. Cuối cùng, ngài ta lắc đầu.

Khanh có công với chúng ta, lại là ông ngoại của cháu ta, ta cũng không thể tuyệt tình với khanh đến vậy. Nhưng từ nay về sau, khanh không được can dự vào việc trong triều. Ngay cả con gái khanh. Tứ hoàng tử yêu thương con bé ấy, ta không muốn chia cắt chúng nó. Vì con gái mình, khanh nên biết cư xử sao cho phải.

Ngô Văn Sở mỉm cười trước dòng sông khi nhớ lại câu chuyện ấy, cuộc nói chuyện diễn ra chỉ vài giờ trước đây. Vài giờ trước, ông còn là quan Nhị phẩm, bây giờ thì ông đã trở thành bạch đinh tay trắng. Vì con gái mình, ông biết câu nói ấy nghĩa là gì. Cuộc dàn xếp trong cung cấm đã cứu con bé Ngô Thị Chính của ông khỏi phải bị gửi trả về nhà vì tội mà ông đã phạm. Nhưng ông thì không thể ở lại. Nếu ông ở lại, dù chỉ là quan Bát phẩm, chỉ là giúp việc trong triều kiểu như Phan Huy Ích, cũng sẽ gây điều ong tiếng ve không ít. Và khi quan triều còn đang ngấm ngầm tranh giành đấu đá nhau quanh việc lập Thái tử, không cần thêm một người cha vợ như ông, một phi tử mang dòng máu “phản tặc” như con gái ông làm địa vị của Tứ hoàng tử lung lay thêm nữa.

Vì tất cả những lý do ấy, ông biết rằng mình nên rút lui. Rút lui hoàn toàn.

Đó là cách khôn ngoan nhất. Ông đã trải qua qúa nhiều để biết rằng khi nào nên buông tay.

Mà tất cả cũng chẳng quan trọng đến thế, ông nheo mắt nhìn dòng sông mà thầm nhủ. Ngàn vạn đợt sóng vẫn trôi đi, xô lấp, đẩy lùi mọi chuyện vào qúa vãng. Những ngày thanh niên hăng hái đến mức bạo liệt, những ngày lẩn trốn đầy chán chường, rồi những ngày này, lên cao dần trong triều đình họ Nguyễn. Cuộc đời đã hầu như luôn không theo ý ông muốn. Bao giờ cũng vậy, cuộc đời luôn bày ra những khúc quanh hoàn toàn ngược ý ông. Để rồi, cuối cùng thì tất cả những gì ông đang nắm được trong tay chỉ là hư vô. Cuối cùng, ông lại thấy mình ở đoạn khởi đầu.

Ông thừa nhận, không phải ngọn lửa tham vọng trong ông đã nguội tắt. Khi con bé Ngô Thị Chính của ông được Tứ hoàng tử Phúc Kiểu chọn làm phi tử, trở thành sủng phi được yêu qúy nhất của vị hoàng tử đầy tài năng và tham vọng ấy, ông đã nghĩ rằng cuối cùng mình cũng đạt được một điều gì đó. Không phải ông chưa từng mơ mộng. Nhưng rồi ông đã nhận lãnh được kết qủa của trò chơi quyền lực, như luôn luôn là thế. Càng lên cao, càng nguy hiểm. Càng lên cao, càng chông chênh. Giờ thì ông thấy mệt mỏi.

Chọn lựa dứt bỏ tất cả và quay lưng lại là cách tốt nhất. Đáng lẽ ông nên làm điều này từ lâu rồi. Ông đã biết điều này từ khi còn ở thành Bình Định. Tất cả hóa ra chẳng quan trọng đến thế. Ông nghe tiếng gió thổi ầm ù trên bãi cỏ rối bời bời mà thầm nghĩ. Hóa ra, đó là những gì cuộc đời đã dành cho ông. Ông đã không còn vùng vẫy, đối chọi với nó nữa, cái định mệnh này.

Con bé không có lỗi gì, đừng hắt hủi nó. Ông đã nói với người con rể hoàng tử khi gặp cậu ta. Có một lúc nào đó, ông thấy buồn cười. Tứ hoàng tử, con người đầy tài năng và tham vọng, mang nặng thù oán và ghét bỏ sâu cay đối với Tây Sơn, cuối cùng lại lấy con gái của một Đại tư mã ngụy triều. Và khi hết buồn cười, ông thấy buồn. Vậy là mối liên hệ giữa ông và người con gái này đã bị cắt đứt, đứt lìa. Ông sẽ không còn cơ hội nào gặp lại nó nữa. Không bao giờ.

Gió thổi bời bời trên bãi sông.

Vó ngựa của ông vẫn đi chầm chậm. Từ dòng Thạch Hãn, ông đi đến địa phận xã An Tiêm và Xuân An, nơi con sông Vĩnh Định vừa được đào tới để tạo thế cho vùng đất nông tang ở thượng nguồn. Vùng đất giữa hai con sông nhìn ra biển vẫn còn hoang vu, không có lấy một dấu vết sự sống của con người, ngoại trừ dòng sông vừa được đào đang ầm ào sủi bọt.

Ngô Văn Sở cho dừng ngựa, quan sát xung quanh.

Dòng sông Vĩnh Định vừa được đào, chia bớt nước của dòng Thạch Hãn chảy về phá Hạt Hải. Một thế đất mới được lập nên. Một khu đất nằm giữa hai con sông và nhìn ra biển, đầy tràn gió và màu xanh của nước. Dòng thủy lưu bát ngát chảy đến tận chân trời. Dòng xanh bát ngát chạm tới chân trời. Dòng sông được lưu truyền câu ngạn ngữ “Bất vi xạ não, diệc thị trầm đàn; bất vi quỳnh tương, diệc thị cam lễ”. Dòng nước từ núi đổ xuống như nước cam lộ được trời phát ban.

- Ta ở đây đi. – Ngô Văn Sở chợt nói to. Những tùy tùng đằng sau ông dừng lại, ngơ ngác nhìn người chủ, hầu như không hiểu được thái độ của ông. Sau một khoảng thời gian trầm mặc, bây giờ ông lại có vẻ vui sướng, thậm chí, phấn khởi. Ông nhìn bọn họ, dang rộng đôi tay trong khi vẫn ngồi trên yên ngựa.

- Đất này rất tốt, chúng ta đến đây lập nghiệp được. – Ông nói. Vui sướng và phấn khởi. Như thể ông đã hoàn toàn quên câu chuyện mới vài giờ trước.

Không còn nữa, ông nghĩ. Đại tư mã Ngô Văn Sở. Chưởng cơ Ngô Văn Sở. Trấn thủ Ngô Văn Sở. Tất cả đều không còn nữa. Ông vẫn còn ngọn lửa muốn được xây dựng và làm chủ một cõi cho riêng mình. Nhưng giờ thì ông không còn cần phải chạm đến thanh đao khẩu súng. Ông sẽ dựng xây vùng đất này, cho tất cả mọi người.

Trăm năm sau, tại vùng đất giữa hai dòng sông Vĩnh Định và Thạch Hãn nhìn ra phá Tam Giang, người ta sẽ nhắc mãi đến người mở đất, dựng xây nên vùng Thuận Nhơn này. Nhưng không ai biết về ông ngoài cái tên Ngô Văn Sở. Mộ bia và đền miếu của ông không có một chữ. Không có một chữ nào, về cuộc đời ông.

Ông không để lại một dòng chữ nào về cuộc đời mình, trên bia mộ. Bia mộ ông trống không. Gia phả của họ Ngô, vì thế, để trắng.

Chỉ có vùng đất giữa hai dòng nước rì rào. Tiếng vang từ muôn đời xa thẳm.

Quan Trấn thủ Sơn Nam hạ Nguyễn Văn Hiếu đi theo sau vua Gia Long vào vọng lâu được xây gần cầu Kim Long. Khu Nam Châu cạnh Hoàng thành này là nơi ở của các quan có xuất thân từ Gia Định. Cùng với cuộc đi chuyển của mình, họ đem theo hầu như tất cả các phong tục ở nơi cũ và kéo theo người xung quanh. Dù ở giữa kinh thành, các quán hàng bán đồ Gia Định đã tụ họp về. Ánh mắt nhà vua đang nhìn lướt qua chúng với sự vui thích lặng thầm. Nguyễn Văn Hiếu không lấy làm lạ. Thi thoảng ông vẫn gặp người trong cung đến khu vực này để dạo chơi, mua bán. Hàng chục năm ở phương Nam đã ảnh hưởng tới cuộc sống lẫn thói quen của họ.

Nhưng nhà vua cho gọi ông đến đây không phải để dạo chơi. Mãn tang mẹ trở về nhậm chức trong triều, ông đã nhận được lệnh gọi đến Sơn Nam hạ. Sơn Nam hạ, vùng thôn quê nghèo đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề, dẫn đến trộm cướp liên miên. Với địa thế nhìn ra sông biển và từ lâu đã bị nạn hải tặc hoành hành, vùng Sơn Nam hạ đang là mối lo của triều đình. Trịnh Thất bị chém đầu rồi Trịnh Nhất bị giết trong cuộc tấn công vào kinh thành năm ấy, Tề Ngôi lại có một thủ lĩnh mới là Trương Bảo Tử - con nuôi của Trịnh Nhất. Tuy nhiên, Trương Bảo Tử cùng vợ Trịnh Nhất đã quy hàng Thanh triều vài năm trước, để lại đám cướp biển nhỏ lẻ vẫn lẩn lút khắp nơi. Sơn Nam hạ rộng lớn với bãi biển dài, hoang vu làm cuộc tiễu trừ càng thêm khó khăn gấp bội. Mấy năm nay, từ khi vua Gia Long tước quyền cai trị Hà Tiên của người họ Mạc là Mạc Công Du, nước Xiêm lấy làm phật ý vẫn thường gây sự với Chân Lạp. Có lúc, tình hình căng thẳng đến mức vua Chân Lạp phải chạy sang Gia Định khi người Xiêm tuyên chiến, toàn Gia Định cũng phải chuẩn bị sẵn sàng nghênh chiến – mà chỉ có cuộc tấn công của Miến Điện mới khiến vua Xiêm bãi bỏ ý định. Nhưng sự tập trung đã được chuyển về phương Nam càng khiến cho phòng thủ phương Bắc trở nên lơi lỏng. Nguyễn Văn Hiếu – Phó tướng Hữu quân được cử làm quan Trấn thủ Sơn Nam hạ, chính vì tình hình nhạy cảm lúc này.

- Hoàng thượng, tình hình Chân Lạp thế nào rồi? – Nguyễn Văn Hiếu lại là người cất tiếng hỏi. – Nghe nói Xiêm lại gây sự?

- Phải, - Nhà vua vẫn không quay lại, gật đầu mà trả lời. Họ đang đi vào quãng nhà được xây trên sông, nhà vua ngồi xuống bộ bàn ghế kê giữa nhà, ra hiệu cho Nguyễn Văn Hiếu ngồi. – Trước em vua Phiên là Nặc Nguyên được người Xiêm giúp đỡ, đuổi vua Nặc Chân đến Gia Định. Ý Xiêm muốn lấy Chân Lạp rồi, trong khi ta phải giữ Chân Lạp để che chắn cho Gia Định. Lê Văn Duyệt bảo rằng thành La Bích nhỏ, khó giữ, xin xây thêm thành Nam Vang và Lô Yêm, đóng quân ở đó. Ta cho Nguyễn Văn Thoại lãnh chức Bảo hộ mà trông coi. Người Thổ ở Nghệ An lại nổi lên, ta cho rằng do Xiêm xúi bẩy Vạn Tượng gây ra.

Xiêm vừa mới gửi thư cho ta trách rằng không để Nặc Chân triều cống nước ấy, không định trả Nặc Nguyên. Lời trong thư là cố ý gây sự. Nguyễn Văn Thành nổi nóng với sứ Xiêm mà Lê Văn Duyệt cũng mật báo cho Nguyễn Đức Xuyên tình hình Gia Định không ổn. Xuyên báo với ta, ý các tướng muốn đánh một trận.

- Đánh Xiêm? – Nguyễn Văn Hiếu thoáng thất sắc mà hỏi. Vua Gia Long nhìn ông, cười nhẹ trước khi vén tay áo rót trà ra ly.

- Không. Ta bảo các tướng rằng chúng muốn nói gì thì mặc, chúng dung túng cho em giết anh, tôi phản chúa là chúng sai trước. Chúng ta vừa mới chiến tranh xong, người người đều muốn nghỉ ngơi, không nên làm nhọc tướng sĩ thêm nữa. Đất Chân Lạp tiếp giáp với Xiêm, Vạn Tượng, chiếm dễ giữ khó. Người Xiêm lại càng không chịu để yên. Được một đất Chân Lạp mà để mối lo cho muôn đời sau, nghĩ không đáng. Xiêm La chỉ đang khích ta nóng giận mà bày binh tại Chân Lạp, quân Xiêm được cớ vào nước này, ta lại mắc bẫy của họ hay sao? Nguyễn Văn Thoại ở Chân Lạp đã làm vua Nặc Chân ca thán việc tiếm quyền, ta lại bắt dân họ làm đường cho ta, ngày nay nếu thêm một cái cớ nào nữa đều là để Xiêm danh chính ngôn thuận khởi binh, bất lợi cho ta lắm.

- Nhưng Xiêm cũng không chịu để yên như thế, hoàng thượng. – Nguyễn Văn Hiếu cau mày. – Chúng thấy ta đã lấy Hà Tiên thì nhất quyết chiếm Chân Lạp cho bằng được. Dù ta không khởi binh, chúng cũng sẽ cướp lấy thôi. Các tướng nói rằng nên chiếm Chân Lạp là đi trước một bước.

- Để làm gì? – Nụ cười trên môi nhà vua vẫn thản nhiên. – Bây giờ ta không chiếm Chân Lạp nhưng kiểm soát hoàn toàn Chân Lạp, cần gì phải cực nhọc giữ đất đai ấy? Chân Lạp là tấm bình phong cho ta giữ Gia Định.

Nguyễn Văn Hiếu im lặng. Gia Định, rồi sau này là Hà Tiên và hai đạo Kiên Giang, Long Xuyên đã thuộc quyền kiểm soát của họ, không lúc nào tránh được mối hiềm khích với Xiêm La. Từ hơn năm mươi năm trước, quân Xiêm đã nhiều lần dòm ngó mảnh đất Hà Tiên, kết quả là trận chiến với Mạc Thiên Tứ, quân Xiêm lấn cả vào Long Hồ. Việc vừa rồi hẳn không chỉ là vài lời nói của sứ Xiêm. Các quan tướng, từ Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Xuyên đến Nguyễn Văn Thành đều lên tiếng xin đánh hẳn không phải chỉ vì vài lời nói.

Nhưng quả thật họ nên thận trọng. Dù cuộc chiến với Tây Sơn đã chấm dứt, họ vẫn còn muôn vàn mối lo toan khác. Cướp biển và thổ phỉ ở Sơn Nam hạ, vùng đất trấn thủ của ông, là một ví dụ. Rồi mọi Vách Đá ở Quảng Ngãi, các thổ tù trong vùng Trấn Ninh, Ninh Biên vẫn thường sang quấy nhiễu. Thêm một cuộc chiến nữa lúc này thật là việc chẳng đặng đừng.

“Tấm bình phong” Chân Lạp sẽ giữ được bao lâu, ông không thể ngăn lòng mà tự hỏi. Nhưng thời gian là thứ họ cần, hoặc là thứ họ thiếu. Các viên tướng, với lòng nhiệt thành của mình, hẳn đã nhận ra rằng đó là cuộc chiến không thể tránh, định xác lập chủ quyền một lần cho vùng đất tranh chấp kia. Nhưng nhà vua đã ngăn lại. Luôn luôn, ngài ta tìm cách tránh chiến tranh bất cứ khi nào có thể. Đến bất cứ khi nào có thể.

Gia Định đã có hơn hai mươi năm bình yên. Ông chợt nhớ về nó, vùng đất quê hương đã phải xa cách lâu ngày. Ông vẫn nhớ về nó, với những hồi ức đầy lưu luyến. Ông không muốn nó phải tổn thương lần nữa. Cho nên, ông cũng lặng im. Nói cho cùng, họ muốn gây chiến để bảo vệ cho Gia Định chứ không phải vì Chân Lạp, vậy thì tìm được một cách không phải đụng đến binh đao có lẽ là tốt hơn.

- Ta đã nghe nói về việc đánh thổ phỉ của khanh. – Nhà vua chợt chuyển đề tài. Ngài ta nhìn Nguyễn Văn Hiếu với một khuôn mặt khó đọc được thái độ nào trên đó. – Ta nghe nói khanh đi đến đâu thì đám thổ phỉ cũng tự động tránh đường, bảo rằng quan Trấn thủ nhân từ, đó là Phật sống, không nên đụng độ.

Nguyễn Văn Hiếu nghe tiếng cười của Hoàng đế, trong một lúc lại không biết nên nói sao. Ngài ta lắc đầu nhè nhẹ.

- Nhưng như vậy thì đám thổ phỉ cũng không bị tiêu diệt, chúng chỉ tránh đi nơi khác. Giống như bọn hải tặc, dằng dai làm rối chúng ta. – Ngài ta nói, nheo mắt nhìn ông. Nguyễn Văn Hiếu cũng lắc đầu.

- Bọn thổ phỉ vì cuộc sống bức bách mà làm loạn, đi cướp bóc để nuôi sống bản thân. Sinh ra ai cũng là người, ai mà muốn đi vào cuộc sống như thế? Chúng biết tránh thần là chúng còn có lương tâm bổn tánh, nghĩ ra cũng rất đáng thương. Chúng ta dùng hình phạt để ngăn người phạm tội chứ không phải để trừng trị người cho thỏa. Nếu cuộc sống ổn định, người người ấm no thì tin rằng loạn cũng bớt đi. Thần vẫn đang cố gắng xử trí mọi việc từ gốc.

- Bắc thành rối loạn hơn ta đã nghĩ. – Hoàng đế thở dài. – Sau thời Tây Sơn, chẳng cái gì ra cái gì. Tiền đúc thì chất lượng kém, hỏng hàng loạt; đê điều thì thi nhau vỡ; ngay cả những trạm thu thuế ngoài cửa ải Thái Nguyên, Cao Bằng cũng bị chúng lập thêm để lấy thuế của dân buôn. Trước thì phải xây đê điều, đắp đập, đào sông, làm cống đã. Sơn Nam hạ rộng mà hoang vắng, ta vẫn chưa có người đáng tin đi xem xét tình hình để khai khẩn. Khanh ở đó ráng sức lo lắng cho ta vậy.

Mà ngay cả khanh cũng có đủ sống không? – Nhà vua chợt hỏi. Ngài ta nhìn Nguyễn Văn Hiếu với vẻ quan tâm thực lòng. – Ta nghe nói trong nhà khanh không dư dả, thứ gì cũng đơn sơ, phu nhân khanh lo toan khó khăn lắm.

- Bổng lộc của nhà nước đã có lệ, sao thần có thể ca thán được ạ? – Sau một lúc bối rối, Nguyễn Văn Hiếu hơi cúi mình mà trả lời. – Là do nội thị ở nhà không tốt, việc trong nhà lo toan không được rồi nói ra ngoài, thần rất lấy làm xấu hổ. Thần vẫn thường nhắc vợ lúc còn phát cỏ làm thuê phải đổi áo cho nhau mà mặc, mặt trời lặn mới được ăn, nay cuộc sống đã hơn xưa nhiều lần thì cũng nên biết thế nào là đủ, sao lại ham cách làm giàu bất nghĩa? Làm như vậy sung sướng được hơn là bao mà thân danh cả đời ô uế, nỗi nhục làm sao mà rửa sạch.

- Phải đổi áo mà mặc, mặt trời lặn mới được ăn… - Nhà vua nhắc lại câu nói, nhìn mông lung ra dòng nước đang chảy dưới chân đài thủy tạ. – Khi gặp khanh lần đầu, ta không biết khanh lại có cuộc sống khổ cực đến thế.

- Ngày ấy thì ai cũng như nhau. – Nguyễn Văn Hiếu trả lời giản đơn, nhìn theo ánh mắt Hoàng đế. Ông biết ngài ta đang nghĩ đến điều gì.

Gia Định. Quá khứ của ông, của họ. Lần đầu họ gặp nhau là khi ông cùng Võ Tánh đến Long Hồ ra mắt vị chúa còn trẻ măng. Võ Tánh, người đã kéo ông ra khỏi đồng cỏ, đã kéo ông vào trận chiến, vào Kiến Hòa quân. Kiến Hòa, giấc mơ suốt một cuộc đời của họ. Ông vẫn còn mang giấc mơ ấy, cho đến tận lúc này và mãi mãi. Những người còn sống trong số họ vẫn mang theo giấc mơ ấy, lúc này và mãi mãi.

Võ Văn Lượng, Phó tướng Tả quân, đang cùng Lê Văn Duyệt đóng tại Gia Định để đón chờ mọi động thái từ phía Tây, tiếp tục cuộc chiến của mình để bảo vệ quê hương họ. Ông đang ở nơi đây, dựng xây cho một cuộc sống mới. Cuộc sống mới mà Võ Tánh đã ước mơ, đã đổi cả sinh mạng mình cho nó. Trong số họ, có lẽ ông là người may mắn nhất. May mắn, vì ông đã được sống, đã có thể thực hiện giấc mơ của họ. Chỉ nội vì điều ấy thôi, ông cảm thấy đã không cần yêu cầu thêm gì nữa trong đời.

Ông không ngây thơ đến mức cho rằng mình có thể đổi thay con người hay đất nước, nhưng ông vẫn đang làm hết sức mình bảo vệ cho tất cả mọi người mọi kẻ xung quanh. Như cách Võ Tánh đã sống và đã chết.

Nói cho cùng, cuộc sống và thân phận của họ mỏng manh đến thế, sao có thể yêu cầu quá nhiều? Nói cho cùng, càng ngày ông càng thấy mình nhỏ bé và vô lực trước những chuyển biến không ngừng của thời cuộc và những xáo động suốt chiều dài một đất nước vừa mới được dựng xây.

Chỉ là họ vẫn mang theo giấc mơ ấy, ngọn lửa đã được đốt lên và cháy mãi trong họ.

Khi Nguyễn Văn Hiếu đã ra về, Hoàng đế vẫn đứng trong hàng hiên thủy tạ nhìn xuống dòng sông xanh màu ngọc bích. Ven bờ, những cụm sen đang vào lúc nở rộ, màu hồng màu trắng bừng trên tầng tầng lá xanh. Trên phố thị, người vẫn đi qua, những quán hàng vẫn mở, thanh âm phương Nam chen trong thanh âm Phú Xuân. Nam Châu phố đang được hình thành, đem cả một góc Gia Định vào cạnh kinh thành Phú Xuân.

Những người hầu lên tiếng khi người Tây dương bước vào thủy tạ. Người Cai cơ Tây dương được phong tước hầu và mang họ nhà vua cũng mặc quần áo đỏ như lính trong thành, khoác ngoài là áo chẽn của họ, cột tóc chứ không đội mũ. Họ được đặc quyền không phải qùy lạy nên người Tây dương chỉ cúi đầu chào Hoàng đế. Ngài ta gật đầu.

- Chuyến đi tốt chứ? – Ngài ta hỏi. Người Tây dương này mới được lệnh lái tàu đưa đoàn sứ giả sang Thanh rồi quay về Gia Định nhân khi người Xiêm có ý hiềm khích. Người Tây dương hiểu nhà vua không chỉ nói đến chuyến đi.

- Xiêm La nghi ngờ ta sắp đem quân sang đánh nên đã bắt nhiều người buôn bán của ta đang ở Xiêm, cho rằng họ làm gián điệp. – Người Tây dương trả lời, thấy cái cau mày của nhà vua. – Quân đội của họ cũng đang được chuẩn bị, tăng cường thêm. Người Xiêm đã chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh bất cứ lúc nào.

- Còn ta thì không muốn đánh nhau với chúng. – Nhà vua nhếch môi. – Tình hình biển Bắc thế nào?

- Nói chung đã ổn định hơn rồi, thưa hoàng thượng. Sau khi ta dốc toàn lực truy quét, China lại lên tiếng chiêu hàng, phong quan tước cho bọn hải tặc, chúng đã về quy thuận nhà Thanh. Số hải tặc còn lại vẫn tập trung ở Quảng Tây, câu kết cùng các nhóm phản Thanh hay nhóm buôn nha phiến. Nhưng bờ biển của ta tạm thời ổn định cho tàu thuyền đi lại, chỉ còn vài nhóm lẩn lút tại những vùng hoang vu phía Sơn Nam hạ.

Nhưng sau lần ấy, chúng đã phải rút hầu hết khỏi đất ta. – Người Tây dương nói thêm, một lúc sau. Hoàng đế nhìn ông ta, khẽ gật đầu.

Lần ấy, người Tây dương đang nói đến chiến dịch truy quét hải tặc mà Hoàng đế đã ban ra sau khi đánh lui đợt tấn công của hải tặc vào kinh đô, sau khi những cuộc nổi loạn đòi phục hồi nhà Lê tại Sơn Nam hạ, Hải Dương được dẹp yên sau nỗ lực vừa đánh vừa thuyết phục của Nguyễn Văn Thành. Đoàn thuyền của họ được tung vào một chiến dịch thanh trừng hải tặc trên suốt bờ biển Bắc, đến tận Đại Thanh. Cuộc chiến đã kéo dài cả vài năm, và đã gây cho họ không ít thiệt hại trước khi kết thúc bằng trận đánh lớn phối hợp với quân Thanh tại An Quảng. Jean Marie Dayot, De Forant tử trận tại vịnh Bắc là thiệt hại lớn nhất của thủy quân nhà Nguyễn.

Nối tiếp theo sau cái chết của De Puymanel Olivier, Laurent Barizy vì bệnh, Jean Baptiste Guillon trở về Phú Lang Sa, chỉ còn lại hai người Cai cơ Tây dương trong triều Nguyễn, bên cạnh những giáo sĩ và vài thầy thuốc được nhà vua lưu giữ bên cạnh.

- Khanh đã nghe chuyện ở Phú Lang Sa? – Nhà vua chợt hỏi. Theo dòng suy nghĩ của họ, người Tây dương biết ngài ta sẽ nói đến việc này. Ông ta gật đầu.

Napoleon đã bị hạ bệ, bắt đi đày sau cuộc đảo chính của lực lượng bảo hoàng đưa vua Louis XVIII lên ngôi, sau thời gian cầm quyền hơn mười năm.

- Đó chỉ là một cuộc đảo chính, và Napoleon Bonaparte vẫn chưa bị giết, lực lượng của hắn vẫn còn nguyên vẹn. Mọi việc vẫn chưa kết thúc. – Người Tây dương nói, thận trọng. Nhà vua khẽ cười.

- Dù sao thì cũng có khác gì đâu. Napoleon chẳng phải đã tái lập tất cả, từ đạo Gia-tô đến chế độ nô lệ, từ vương triều cho đến chiến tranh? Và cả tình trạng khủng hoảng triền miên kia, hắn phải bán đất Bắc Mỹ cho Hoa Kỳ để có tiền trả phí tổn trong nước. Nước Phú Lang Sa chẳng phải đã đánh đông đánh tây hòng cướp cái ăn sao?

Người Tây dương im lặng trước giọng điệu của nhà vua. Dù ở phương Đông xa xôi này, họ vẫn biết những gì xảy ra trong châu Âu do các thuyền buôn kể lại. Napoleon đã thiết lập chế độ độc tài trên vương quốc Phú Lang Sa, tiến hành liên tiếp nhiều cuộc chiến tranh trong suốt thời kỳ cai trị của mình để bù đắp cho nền kinh tế suy sụp, quốc khố trống rỗng, rối loạn triền miên trong nước. Sau chiến thắng tại Austerlitz với liên quân Áo-Nga, nỗ lực của người Phú Lang Sa chống lại ảnh hưởng của Anh vẫn tiếp tục, bất chấp chiến dịch thất bại tại Ai cập. Napoleon liên kết với vương quốc Ottoman chống lại Nga và Anh. Đánh thắng quân Phổ, quân Phú Lang Sa tràn vào Nga qua lối Ba Lan, buộc Nga phải ký hiệp ước giải hòa sau trận đánh đẫm máu khiến hơn ba vạn người chết tại Eylau. Từ đây, Napoleon định thiết lập một chính sách kinh tế toàn châu Âu chống lại Anh Cát Lợi nhưng thất bại.

Với chiến tranh ngày càng leo thang, khi Bồ Đào Nha chống lại chính sách kinh tế mới, Napoleon đã đem quân tấn công nước này, lấn chiếm cả đồng minh Tây Ba Nha của mình. Tại Saragossan, hơn năm vạn người đã bị quân Phú Lang Sa giết hại.

Phong trào chống Phú Lang Sa lan khắp toàn châu Âu. Áo tách khỏi liên minh bắt buộc, đứng về phía Anh Cát Lợi – lực lượng mà Napoleon vẫn tránh phải trực diện đối đầu. Một lần nữa, Giáo hoàng Gia-tô giáo Pius VII bị bắt giam khi định chống lại Napoleon, bị giải đi khắp các vùng đất mà Phú Lang Sa chiếm được. Giáo hoàng không đồng tình ký một giáo ước mới với chính phủ Napoleon, và hoàng đế Nga Alexander cũng xóa bỏ giao ước với Phú Lang Sa. Trận đánh tại Borodino, ngoại ô Mạc Tư Khoa đã khiến tám vạn người Nga và Phú Lang Sa chết lẫn bị thương. Mạc Tư Khoa bị đốt cháy. Quân Nga mất mười lăm vạn người trong chiến trận và hàng chục vạn dân thường. Nhưng quân Phú Lang Sa cũng buộc phải rút lui vì không chịu đựng nổi mùa đông phương Bắc khắc nghiệt. Từ đội quân bốn mươi vạn người vào đất Nga, Phú Lang Sa chỉ còn bốn vạn người rút về nước.

Liên minh Áo, Phổ, Nga, Thụy Điển, Tây Ba Nha, Bồ Đào Nha, Anh Cát Lợi đồng loạt tấn công Phú Lang Sa. Trận chiến tại Leipzig khiến chín vạn người thiệt mạng đánh dấu bước thất bại đầu tiên của đội quân Napoleon. Paris bị quân đồng minh bao vây, và Napoleon buộc phải thoái vị, nhường ngôi cho vua Louis XVIII trước khi bị lưu đày. Chính phủ của Louis XVIII được lập nên trên cái nền chông chênh của một đất nước Phú Lang Sa quân phiệt, tan rã và thất bại, nhục nhã dưới sự khống chế của liên quân đồng minh. Khắp nơi, châu Âu tan tác, khóc thương trên những đống đổ nát của các trận chiến tàn khốc. Hàng triệu người đã chết, dưới tham vọng của Napoleon và ba chục triệu người Phú Lang Sa.

Giọng điệu của nhà vua, do vậy, đầy giễu cợt. Ngài ta vẫn nhớ những gì đã xảy ra. Từ cuộc cách mạng năm ấy giơ cao lá cờ Tự do – Bình đẳng – Bác ái đến cuộc chiến ngày hôm nay, hiện trạng ngày hôm nay. Để rồi hôm nay Phú Lang Sa lại có một nhà vua thuộc họ Bourbon, lại ở trong tình trạng kiệt quệ và trống rỗng, bị tàn phá nặng nề, lại ở trong nỗi nhục nhã của kẻ thua trận và bị khống chế. Hàng chục năm đã qua đi, và họ lại trở về đoạn khởi đầu, thậm chí, còn tệ hơn đoạn khởi đầu. Vậy mà biến loạn này vẫn chưa thể kết thúc. Biến loạn này vẫn còn tiếp diễn, không biết đến ngày nào.

- Cũng tốt. – Nhà vua chợt mỉm cười. – Thế thì các khanh còn ở lại đây. Guillon đã trở về Phú Lang Sa ngay khi thấy Giáo hội được thiết lập trở lại, thật làm ta thất vọng. Không biết bây giờ anh ta ra sao rồi?

Để ta cho khanh một lời khuyên: Hãy chỉ trở về khi kẻ ấy đã chết. – Hoàng đế nói tiếp khi thấy người Tây dương vẫn im lặng. – Chỉ khi kẻ ấy đã chết, vầng hào quang tham vọng xung quanh hắn lẫn cái ảo tưởng quyền lực kia mới tắt đi. Chừng ấy, đất nước của khanh mới được yên ổn.

Hắn có thể là tội nhân của toàn châu Âu, nhưng hắn là niềm tự hào của Phú Lang Sa, có phải? – Hoàng đế cười, nhẹ lắc đầu. – Người ta sẵn sàng sống chết cho những điều như thế, cho những cuộc chiến của hắn, đến ngày cuối cùng và người cuối cùng. Phú Lang Sa, đất nước đã phải sống dưới cái bóng của Anh Cát Lợi quá lâu, đã bị lọt thỏm vào giữa những đế quốc hùng mạnh của Âu châu, đã làm một kẻ yếu nhược quá lâu. Bá Đa Lộc từng nói với ta như thế. Và cả cái tiêu chuẩn của các khanh, à không, các người.

Của cải và vật chất, các người coi trọng điều đó hơn hết thảy. Đúng thôi, chúng ta phải sống, và không thể chỉ dùng không khí mà sống được. Tất cả các cuộc chiến đều vì quyền lợi của bản thân. Nhưng các người coi trọng của cải đến mức đặt tất cả tiêu chuẩn lên nó, đó là điều không nên làm. Đó là một tiêu chuẩn méo mó và nghiêng lệch. Giấc mơ của các người, do đó, cũng méo mó và nghiêng lệch. Giấc mơ, từ cái giấc mơ Tự do – Bình đẳng đến cái giấc mơ quyền lực, thống trị và danh dự của các người. Tất cả đã sai lầm, ngay từ tiêu chuẩn đầu tiên.

Khanh có biết người ở đây coi trọng nhất điều gì? Phương Đông này, dù là theo Nho học hay Phật giáo, hay bất cứ đạo giáo xa lạ nào ở Ấn Độ, ở các vương quốc trên đảo xa, cũng chỉ tôn trọng một điều: Phẩm cách của con người.

Phải, trong những phân tầng và bất công, trong những chênh lệch và giáo điều, chúng ta thật sự lại biết điều gì mới thật sự là có giá trị. Chúng ta phân biệt con người bằng phẩm cách, bằng cái nội tại bên trong tạo thành con người, chứ không phải những điều kiện bên ngoài khoác lên họ. Chúng ta nhìn thẳng vào cái cốt lõi, yêu cầu cái cốt lõi. Có khi, điều đó làm cho chúng ta suy yếu – vì quả thật con người không thể chỉ sống nhờ vào đạo đức, và chiến tranh đang được lấy làm thước đo cho sự lớn mạnh của một quốc gia. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta sai.

Con người luôn luôn chênh lệch, và điều duy nhất có giá trị về con người, đủ để lấy làm thước đo - chỉ là bản thân họ. Không nhận ra điều đó, các người sẽ mãi loay hoay với đủ thứ tiêu chuẩn và phân tầng. Và các người sẽ luôn mù quáng tin vào những thứ bề ngoài của những kẻ trưng diện bề ngoài. Các người sẽ luôn luôn sai lầm và luôn có những niềm tin mù quáng.

Thật là tiếc, ta vẫn luôn yêu thích khoa học và những phát minh mới của các người.

Hoàng đế nói và mỉm cười với dòng sông. Dòng nước màu xanh lục chảy qua hai bờ đá, mất hút sau khúc quanh tràn hoa sen đang mùa nở rộ. Ánh nắng lấp lánh trên nó, chói chang và tỏa sáng. Người Tây dương nghĩ tới đất nước bên kia đại dương, nơi mà ông ta đã cách xa từ hàng chục năm về trước. Châu Âu tiêu điều, rời rã sau những cuộc chiến dài. Ông ta chỉ là một chiến binh đánh thuê, ông ta không hiểu hết những gì mà nhà vua nói.

Ông chỉ cảm thấy nó, mơ hồ, nỗi buồn trong lời nói đang trôi đi như dòng sông.

Đất nước phương Đông này, nơi ông ta và những người bạn thủy thủ đã đến để tìm kiếm vận may cho mình gần ba chục năm về trước, chỉ còn lại vài người Tây dương. Tất cả đã bỏ đi, những người còn lại đã chết, đã ra đi. Hoàng đế đã từng có ước vọng xây dựng một đội tàu y hệt như Tây dương để đi trên biển, ngài ta muốn làm theo người Anh Cát Lợi, và quả thật ngài ta có năng khiếu – xưởng đóng tàu ở Gia Định luôn là niềm tự hào mà ông hãnh diện với khách ngoại quốc. Nhưng trong đất nước này, giấc mơ ấy đang bị hoãn lại. Hoãn lại, không biết đến ngày nào. Ông ta chỉ là một chiến binh đánh thuê, ông không hiểu được nội tình của mảnh đất này. Ông chỉ cảm thấy nỗi buồn trong lời Hoàng đế.

Nhưng thôi vậy, cuối cùng thì người Tây dương nghĩ, khi nhìn bóng nhà vua đứng một mình dưới lan can lợp ngói xanh, trên dòng nước tràn nắng vẫn chảy trôi như không bao giờ kết thúc. Cái thật sự có giá trị trong con người là bản thân họ, Hoàng đế đã nói. Và khi nói điều ấy, ngài ta hẳn cũng đã nhận ra có những giấc mơ mà họ không nắm được bao giờ.

Ông lại nghĩ đến mảnh đất bên kia đại dương, và biết rằng thực sự mình vẫn rất muốn được trở về.

Chú thích:

“Bất vi xạ não, diệc thị trầm đàn; bất vi quỳnh tương, diệc thị cam lễ”: Chẳng phải xạ hương long não thì cũng là đàn hương trầm hương; chẳng phải quỳnh tương thì cũng là cam lễ.

Hạt Hải: Tên cũ của phá Tam Giang.

80

Tất cả mọi chuyện đều có khởi đầu của nó, sau này thì Ngọc Du nghĩ. Khởi đầu, một dấu hiệu, hoặc một sự kiện để bắt đầu, những điều đại loại như thế.

Sau này, trong những cái chết và sự ra đi, bà nghĩ về điều đó và cho rằng mình có thể hiểu được cách mà mọi việc diễn tiến. Nhưng đó là rất lâu sau này. Rất lâu sau này, khi những đau đớn đã dần trở nên khô kiệt như vết thương đã liền miệng, khi những oán trách đã không còn chỗ để nhắm vào và khi cuộc đời đã trôi về cõi hư vô thì bà mới hiểu. Còn quãng thời gian khác thì bà vẫn chưa làm được điều đó. Suốt cuộc đời, bà đã không hiểu được. Suốt cuộc đời, kể cả những năm tháng sau này, chứng kiến hàng loạt sự ra đi.

Hàng loạt sự ra đi đã xảy ra cùng với sự lớn lên của vương triều. Ngay sau khi những vụ rối loạn tôn Lê ở Bắc thành được tạm yên, ngay sau khi đám hải tặc Tề Ngôi đã bị đánh lùi khỏi biển Việt Nam, hàng loạt người đã lần lượt chết. Bắt đầu là mẹ Ngọc Du, Từ phi – Bà đã là người khởi đầu cho hàng loạt cái chết tiếp theo. Trong cung nội họ Nguyễn, theo sau Từ phi là Vân Dương ni cô, là Ngọc Uyển mất khi mới bốn mươi lăm tuổi, là Hoàng thái hậu, là Hoàng hậu, là Nguyễn Phúc Thăng và cả Tam phi còn trẻ măng, và cả Tam hoàng tử đã mất ngay sau khi bước vào Phú Xuân. Rồi các quan lại cũng lần lượt qua đời. Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Trương, Phạm Văn Nhân, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh… chết đi, rồi Đặng Trần Thường bị Lê Chất dồn vào tội chết, Nguyễn Văn Thành bị Lê Văn Duyệt ép phải tự sát. Trong hai mươi năm đầu của một vương triều và hai mươi năm cuối của đời người, Ngọc Du đã chứng kiến chừng ấy cái chết. Chừng ấy người chết.

Người của một thế hệ đã dần rụng rơi. Có thể đó chỉ là một quy luật tất nhiên của cuộc sống, nhưng không hiểu sao, Ngọc Du cứ nghĩ rằng có một sự khởi đầu cho tất cả. Có lẽ, bắt đầu bằng cái chết của Từ phi. Bà đã nằm xuống khi những rối loạn qua đi, trong năm đầu tiên mà họ không còn nghe đến tin biến động từ nơi nơi đổ tới. Bà đã nằm xuống khi miếu thờ xây cho những đứa con vừa được khởi công. Miếu Trung hưng công thần thờ Võ Tánh và Nguyễn Phúc Mân con trai bà đứng đầu. Một buổi sáng, Ngọc Du tìm thấy mẹ mình trên tràng kỷ nhìn ra vườn, lặng im và lạnh cứng, chỉ có đôi mắt vẫn mở hờ nhìn ra bầu trời trên những ngọn núi xa đang lẫn vào sương mờ. Phú Xuân ngày ấy mưa mù. Có giọt nước nào vẫn còn đọng trên mặt bà, mỏng như khói thoảng. Bà không từ biệt Ngọc Du, không từ biệt bất cứ ai. Bà chỉ ra đi, hoặc trở lại. Bà đi tìm những người mà bà mong nhớ suốt cả cuộc đời.

Do đó, khi nghĩ về cái chết của mẹ, Ngọc Du không cảm thấy đau buồn. Bà đã qua tuổi thất thập cổ lai hy, đã sống cả cuộc đời dài quay quắt và đau đớn. Bà đã đợi, đợi đến khoảnh khắc cuối cùng ấy, bên khung cửa mở rộng của một buổi đêm đang tàn phai. Bà đã đợi, đợi đến ngày này, khi tin tức biến loạn dần lặng xuống trên toàn đất nước. Cuối cùng, có lẽ bà cảm thấy mình đã chạm đến được điều gì đó, hoặc là, đã có được điều gì đó. Dù đã bước vào Phú Xuân, dù đã xây dựng Hoàng thành, cung điện, dù vua Gia Long đã lên ngôi Hoàng đế, họ vẫn phập phồng sợ hãi. Họ không cảm thấy tin tưởng và không dám cho mình hy vọng. Tây Sơn kia chẳng phải cũng đã làm tất cả những gì họ đã làm, chẳng phải cũng đã từng là kẻ khiến người người khiếp sợ - Nhưng rồi cái thế lực ấy đã đổ vỡ, đã bị hủy hoại hoàn toàn. Họ đã phập phồng lo sợ, trong suốt quãng thời gian ấy. Và rồi, khi sự bình yên đến, họ lần lượt ra đi. Từ phi đã ra đi trong một buổi sáng lặng yên chỉ có gió thổi trên những đỉnh núi cao và mưa rơi trên suốt quãng sông dài. Thậm chí, Ngọc Du đã nhẹ lòng khi thấy bà được ra đi bình yên như thế. Bà không còn phải tiếp tục đợi chờ.

Và rồi, đó như một dấu hiệu bắt đầu. Có thể những người khác đã coi đó là một dấu hiệu bắt đầu cho họ, cho cuộc đời của họ. Hoặc là tất cả đều đã cảm thấy được nó, sự bình yên đến sau cơn sóng gió. Hoặc là tất cả cảm thấy rằng cuộc đời mình đã đến một bến bờ, đến giới hạn, hoặc mục đích của nó. Từ những người đã già như Hoàng thái hậu, như Vân Dương ni cô, những người đã trải qua bao thăng trầm như Ngọc Uyển đến những kẻ có thể coi đã trả xong món nợ một đời như Tam phi, như Hoàng hậu, như cả những Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Thành kia. Số người chết nhiều đến mức họ thấy hoang mang. Những người còn sống hoang mang.

Nhiều lúc sáng dậy mở mắt mà tự hỏi: Tại sao mình còn sống? Có lần, Ngọc Tú buột miệng. Bà đã nói điều đó sau đám tang Hoàng hậu, có lẽ, khi mà một đợt dịch bệnh chợt bùng lên trong nước khiến nhiều người phải chết. Ngọc Du nhìn chị bằng cái nhìn vẫn như mọi khi, chứa đựng rất nhiều giễu cợt. Chị bao giờ cũng sợ, Ngọc Du muốn nói, nhưng lặng im. Năm ấy, trong dịch bệnh đang hoành hành khắp nơi, người ta lại bày hương án cúng tế, lại tổ chức những lễ cầu siêu, lại viết những bài văn tế khóc thương cho các oan hồn. Quá nhiều âm hồn trên đất này, Ngọc Du đã có lần nghe một vị quan nói. Âm khí nặng nề nên sinh ra dịch bệnh. Bà đã nghe với một cái cười nhẹ bẫng. Năm ấy, Hà Tiên được sáp nhập hoàn toàn vào Gia Định.

Càng sống lâu, bà càng cảm thấy cuộc đời này có sự phi lý nào đó không thể chịu đựng được. Rồi ngay cả cái chết cũng không làm bà buồn đau hay sợ hãi. Rồi ngay cả sự sống cũng không khiến bà bận tâm.

Rốt cuộc, người ta vẫn sống và chết như thế. Rốt cuộc, trong hơn năm mươi năm dài của cuộc đời, bà đã chứng kiến biết bao nhiêu việc, bao nhiêu con người sống và chết. Bà đã không còn mơ nữa về sự sống và cái chết, cũng không lấy làm bận tâm. Ở ngôi làng Hà Khê này, nơi bà từng nghĩ có thể trốn lánh cho đoạn cuối đời, mỗi ngày, mỗi sáng, mỗi chiều, tiếng chuông chùa lại vọng tới, như kêu gọi, như thúc giục. Mỗi một ngày trôi đi, bà thấy cuộc sống của mình được đánh dấu bằng tiếng chuông chùa. Mỗi một ngày trôi đi, bà dần thấy bị bị nhấn chìm trong tiếng chuông chùa. Sự sống, lúc ấy, lý ra phải thanh thản và điềm nhiên để đón đợi ngày kết thúc, lại trở thành nặng nề đến ngạt thở.

Mỗi một ngày trôi đi, bà thấy mình ngày càng chìm sâu.

Gần hai mươi năm đã trôi qua, kể từ khi bà đến Phú Xuân này. Gần hai mươi năm chứng kiến con người lần lượt chết. Lần lượt. Gần hai mươi năm nghe tiếng chuông gọi khỏi cơn mơ buổi sáng và nhắc nhớ lúc chiều tà. Rồi sau đó là lệnh của nhà vua cho nổ súng vào mỗi lúc mở đóng cửa thành. Mỗi cửa thành là hai phát súng. Cửa thành đóng mở mỗi buổi sáng và chiều tối, ngay sau tiếng chuông. Như thể một cái gì đó cắt ngang, chặn lại dòng chảy đang trôi, đóng cánh cửa tuyệt vọng vĩnh viễn không bao giờ khai mở, nhấn thẳng mũi nhọn vào một tiềm thức sâu kín. Phú Xuân vẫn thế, vẫn muôn đời lặng lẽ. Vẻ lặng lẽ như chìm sâu trong đá, trong núi và trên dòng sông, mặc cho kinh thành mới được dựng xây, quan lại tụ họp về cùng với biết bao nhiêu ngày lễ, ngày hội, cả những cuộc thao diễn võ thuật, tập trận hay đấu trường nơi thú dữ được thả cho đấu với nhau. Khi những ồn ào qua đi, trong giờ khắc giữa hai tiếng chuông chùa và tiếng súng, Phú Xuân lại chìm vào yên lặng. Nắng cũng nực nồng và mưa thì lõng sõng, tất cả bị đẩy đến giới hạn quá mức. Một giới hạn có thể nhấn chìm con người.

Hai mươi năm trong ngôi làng ở Hà Khê, bà đã đón đợi đoạn cuối của cuộc đời mình, hoặc là, một điều gì đó. Một điều gì đó giữ cho bà còn sống. Bà biết, thực ra cuộc sống có thể được buông bỏ rất dễ dàng. Khi không còn cảm thấy cần thiết phải sống nữa, người ta sẽ chết. Nhất là họ chỉ còn những hình hài già cỗi, bám víu lấy mặt đất bằng linh hồn mỏi mệt. Tất cả đã ra đi. Từ phi đã ra đi, và gánh nặng của Ngọc Du đã được trút xuống. Những đứa trẻ cũng ra đi. Hai đứa con gái của bà lấy chồng, thỉnh thoảng mới ghé về thăm nhà. Thằng Khánh cũng đã có vợ. Tất cả chúng đã có cuộc sống riêng. Giờ đây, còn lại một mình, bà chờ đợi.

Hai mươi năm, rồi mười năm sau ngày Từ phi mất, Ngọc Du đã sống bằng sự chờ đợi ấy. Trong tiếng chuông chùa đếm ngày trôi qua.

Sau này, bà biết rằng con người sống và chết chỉ là một sự biến mất không chớp sáng của thời gian.

Sau này, bà biết rằng người ta có thể sống bằng hy vọng, nhưng thứ giữ được sự sống lâu nhất cho con người lại là nỗi ẩn ức sợ hãi niềm tuyệt vọng.

Sau này, mãi mãi sau này, khoảng thời gian vượt ra ngoài sự hiện diện trên mặt đất, bà biết điều đó.

Nhận biết ấy là một khối đá nằm sâu dưới tầng tầng lớp lớp tâm thức bà, nhưng bà chưa bao giờ nhận ra. Bà chưa bao giờ nhận ra để gọi đúng được nó. Nó, thứ đã sinh ra cùng với bà. Người gọi tên nó lại là Hoàng đế, em trai bà, trong cuộc gặp cuối cùng của họ.

- Tuyệt vọng, chị giống như được sinh ra cùng với nó. – Ngài ta nói, trong chiếc giường của mình. Mùa đông Phú Xuân tràn ngập mưa. Họ nghe tiếng mưa rỉ rả, rơi rớt, lạc giữa các tầng thông, các cành cây và lá khô. Ngọc Du thấy hơi nước ẩm ở cổ tay áo, cổ chân thấm vào người, gờn gợn lạnh. Nghe tin nhà vua bị bệnh, bà đã tới. Nhị phi đã cho gọi bà tới, và như mọi lần, bà không biết đây thực sự là lệnh của ai. Em trai bà rất ít khi bệnh tật, và một căn bệnh với nhà vua lúc này, khi ngài ta sắp bước vào tuổi sáu mươi, thật sự đáng báo động. Hơn nữa, tin đồn đang lan đi trong kinh thành về tiếng sấm rền vang trên bầu trời Phú Yên cũng đáng để nhắc tới. Tiếng sấm rền, có thể là âm vọng của một cơn bão, có thể là tiếng đất lở, nhưng người ta đã kinh sợ nó – Và với căn bệnh của nhà vua, người ta tin chắc rằng đó là một điềm báo. Vì tất cả điều đó, Ngọc Du đã tới ngay khi nhận được lệnh cho gọi.

Đã gần hai mươi năm bà không nói chuyện với người em trai. Ngay cả trong đám tang Từ phi, khi ngài ta đến viếng, cũng chỉ có Võ Khánh ra mặt đại diện cho người nhà. Bà đã quay mặt về phía bài vị, đáp lại lời chia buồn của ngài ta bằng cái cúi mình. Giờ đây, bà mới thực sự nhìn thấy ngài ta, và lấy làm giật mình về những gì thời gian đã ghi khắc lên con người ấy. Gần sáu mươi tuổi, Hoàng đế đang già đi, đã trở thành một ông già. Những đường nét trên khuôn mặt, dáng hình ngài ta sắt lại như thể vết khắc trên cành cây lớn. Nửa nằm nửa ngồi trong giường, dưới những lớp chăn dày trong mùa đông se sắt buốt lạnh, ngài ta trông như chỉ còn lại cái vỏ khô của chính bản thân mình. Duy chỉ có đôi mắt ngài ta vẫn như xưa, như một linh hồn vẫn còn cháy sáng. Chúng nhìn thấu qua bà. Và ngài ta đã thốt lên, trong câu chuyện của họ, giữa câu chuyện của họ, câu nói ấy.

Câu nói đã làm Ngọc Du giật mình. Sau này thì bà không nhớ được hoàn cảnh nào đã đưa đến nó, trong câu chuyện ít nhiều khách sáo và gần như xa lạ của họ. Gần hai mươi năm đã qua, và họ đã gần như trở thành hai người xa lạ. Ngài ta đã hỏi bà bằng lối nói chuyện y hệt như với các vị quan, thân nhân của các vị quan, những người mà ngài ta chỉ có liên hệ bằng danh vị và không hề bận tâm đến những gì đang được nói đến. Có thể nhà vua đã hỏi bà về cuộc sống, đúng như cái lối của những người xa cách lâu ngày. Có thể bà cũng dùng cách nói tương tự như vậy mà trả lời. Bà thậm chí cũng chẳng buồn chế giễu, như ngày xưa có thể bà đã chế giễu: Có gì để hỏi về cuộc sống của một quả phụ? Có thể bà vẫn giữ sự chế nhạo ấy, đâu đó sau những câu nói, khiến cho cuối cùng nhà vua đã im lặng, một lúc sau, ngài ta đưa ra lời nhận xét kia.

Chị như được sinh ra cùng với niềm tuyệt vọng.

Ngọc Du chớp mắt, nhìn người em trai. Bây giờ, sau bấy nhiêu tháng năm, ngài ta vẫn giữ ánh mắt như thế để nhìn bà. Ánh mắt mà bà đã luôn thấy trong những giấc mơ. Cậu bé đứng bên kia đường, dưới bóng là đà của những tán cây, khuất sau dòng người tuôn chảy không ngừng trên con đường mù bụi. Cậu ta nhìn bà, bằng đôi mắt của những ngày quá vãng, như thể cậu ta có thể nhìn thấu suốt qua cả cuộc đời bà. Cuộc đời họ.

- Chị tưởng rằng mình không tin tưởng, chứ thật ra là chị chẳng bao giờ hy vọng. – Ngài ta nói tiếp, một lúc sau, khi thấy Ngọc Du không lên tiếng. Trong phòng chỉ có họ. Và dù đang ở giữa buổi sáng, đèn nến vẫn được thắp khắp nơi. Ngọn lửa trong lò sưởi làm ấm lại sắc diện của người bệnh, nhưng không xua đi được không khí nặng nề lơ lửng trong phòng, giữa những lời họ nói, trong cuộc gặp gỡ của hai người đã lâu ngày xa cách.

Nhà vua nói và nhìn Ngọc Du, như thể chờ đợi bà phản ứng. Nhưng sau bấy nhiêu năm, bà cũng đã đủ cả kiên nhẫn lẫn mệt mỏi để không phản ứng. Bà nhìn ra cửa sổ xám màu mưa. Cây lá nghiêng đổ trong bóng mưa nhàn nhạt. Tiếng xào xạc vọng vào phòng nghe như từ xa xăm vang đến.

- Có lẽ thế. – Bà nói, sau một khoảng thời gian dài nghe tiếng mưa. Trong niềm ngạc nhiên âm thầm. Chị chưa bao giờ hy vọng, chưa bao giờ dám hy vọng. Do đó, không bao giờ tin tưởng và thực sự hạnh phúc. Do đó, đón nhận cuộc đời với vô số chuyện phi lý, ngang trái và đau đớn như tất nhiên phải thế, như chẳng bao giờ khác được. Do đó, có thể tiếp tục sống trong những tháng ngày như thể đang chìm sâu dưới lòng nước biển mà không hề muốn được cứu vớt.

Bà nghe tiếng Hoàng đế khẽ cười, quay lại để nhìn thấy ngài ta đã nằm xuống giường, đưa mắt nhìn lên trần màn.

- Trong những năm vừa rồi, chị sống rất tệ. – Ngài ta nói, giọng khẽ khàng và bình thản. Như thể đang nói với tấm màn trên đầu. – Ta cho nhà họ Võ tự điền và dân phu, nhưng chị thì muốn gì làm nấy, muốn gì thì phải có nấy. Bọn người trong nhà chị cũng ỷ thế đi bắt nạt dân quanh vùng. Chị có biết chuyện đó không?

Mà nếu biết thì chị cũng có quan tâm đến không? – Nhà vua vẫn giữ cái giọng không sắc thái ấy để nói và cười. – Thôi nào, chúng ta sẽ không nhắc đến cái gì là thể diện hoàng gia, cái gì là đạo cao nghĩa cả, thậm chí, cái gì là danh tiếng của Võ Quận công và đức hy sinh của anh ta. Ta biết, tất cả chẳng có mấy ý nghĩa đối với chị. Ta cũng chẳng tính toán với chị làm gì. Tất cả những gì ta đã làm, chẳng qua cũng chỉ để đạt được một điều gì đó. Tất cả những gì ta đã làm, đã mất, nếu như ngay cả một người trong nhà ta mà cũng phải không được sống như ý mình, thì thật là vô nghĩa.

- Ngài thật là cao cả. – Không đừng được, Ngọc Du buột miệng. Những gì Hoàng đế nói lại chợt làm bà nổi giận. Không phải vì ngài ta nói về cách bà sống, cũng không phải lối ngài ta phê phán nó, mà ngài ta nói như thể đang trả nợ cho bà. Trả nợ, nợ gì? Bây giờ thì bà muốn hỏi. Nếu như tất cả được coi như một món nợ. Nếu như tất cả được coi rằng có thể trả.

Nụ cười của Hoàng đế vẫn bình yên.

- Ta cho rằng người ta được phép sai lầm. Có những điều mà ta cho rằng mình chấp nhận được. Nhưng ta lại đang đánh giá mình quá cao. Dù đã ở vị trí này, ta cũng không thể kiểm soát được tất cả. Ngay cả sự sống của ta cũng có giới hạn. Ta chỉ muốn nói với chị như thế thôi.

Chị có cuộc đời của chị, nhưng cứ cố chấp như thế để rồi được gì?

- Thế ra ngài đang bảo vệ thần đấy à? – Ngọc Du nhướng mày. – Ngài không cần phải cố gắng quá. Gia đình của một công thần bậc nhất thì phải được đối xử như thế thôi, có quá đáng đâu. Chẳng ai dám nói gì ngài đâu.

- Chúng ta lại như thế rồi. – Nhà vua nói, sau khoảng im lặng ngắn. – Cuối cùng cũng vì Võ Tánh, phải không?

Ngọc Du khẽ rùng mình. Cái tên được thốt ra sau chừng ấy tháng năm trên miệng của một người đã chừng ấy thời gian không gặp như thể tiếng từ quá khứ dội về.

- Chừng ấy thời gian, ta đã đợi. Ta đã đợi chị nguôi đi giận dữ cũng như oán hận. – Tiếng nói của nhà vua chỉ lớn hơn tiếng thì thầm. – Ta đã đợi, và ta đã nghĩ mình có thể làm bất cứ điều gì cho chị. Nhưng ta chỉ gặp được chị lúc này, khi mà ta đã không làm được gì cho chị nữa.

Ta cho rằng chị được quyền cố chấp. Thậm chí, ta đã tin rằng chị tốt nhất cứ như thế. Chị cứ sống theo ý mình muốn, không cần phải cố sức thấu hiểu và chấp nhận. Vậy thì rất mệt mỏi.

Nhưng rốt cuộc, cho đến tận lúc này, chúng ta vẫn cứ tranh cãi vì con người đã thành cát bụi hàng chục năm ấy sao?

Cát bụi. – Ngài ta nói trước khi Ngọc Du kịp lên tiếng, khi môi bà vừa mím lại. – Đúng là cát bụi, tàn tro hay bất cứ gì đại loại như vậy, thế thôi. Rốt cuộc, tất cả mọi người đều ra đi như thế thôi, có khác gì đâu. Dù đã chết hay đã sống như thế nào, rốt cuộc đều như nhau. Ngay cả ta, chúng ta, cũng sắp tiến đến cái giới hạn ấy. Vì thế mà chị mới đến gặp ta. Khi chúng ta, tất cả chúng ta, sắp thành cát bụi cả, thì tại sao chúng ta vẫn cứ đau lòng vì cái chết của người khác? Tại sao chị cứ phải cố chấp như vậy? Khi nằm ở đây, ta đã nghĩ mãi. Rồi cuối cùng, ta hiểu rằng chị không cố chấp, mà là chị thất vọng. Chị tuyệt vọng, nhưng chị hy vọng, rồi chị thất vọng. Ta biết chị tuyệt vọng như một khuyết tật cố hữu, ta chỉ không biết rằng chị đã thất vọng. Khi nhận ra điều đó, ta đã hiểu tất cả. Cả sự oán hận của chị đối với ta.

Võ Tánh đã là niềm hy vọng của chị. Cuối cùng thì ta hiểu ra điều đó. Ta vẫn biết chị yêu anh ta, nhưng ta chưa từng biết rằng chị có thể yêu người khác ngoài miền đất của niềm tuyệt vọng. Ta đã nghĩ rằng tốt nhất chị nên cứ ở yên trong đó. Trong thời đại này, ai mà chẳng giữ cho mình một ít niềm tuyệt vọng? Hoặc rất nhiều tuyệt vọng. Chúng ta không phải là kẻ mang quá nhiều niềm tin, chúng ta chưa bao giờ tin. Do đó, chúng ta tuyệt vọng. Chúng ta tưởng đó là đau đớn, nhưng sự thực là chúng ta tuyệt vọng. Thứ mà chúng ta tưởng là vết thương, hóa ra lại là vực thẳm. Thứ mà chúng ta tưởng là nước mắt, hóa ra là biển khơi. Đó lại là điều khiến chúng ta sống được trong thế giới đầy biển nước và vực sâu này. Ta đã nghĩ, ta vẫn luôn nghĩ, tốt nhất là cứ để chị một mình, cùng với nó, cùng với sự oán thù nhắm vào ta, nếu như điều đó giúp cho chị sống được. Có quan trọng gì đâu, cách thức mà người ta sống trên mặt đất. Ta đã thấy quá nhiều, đã biết quá nhiều, phải chăng – cách mà con người sống? Mỗi nơi lại đặt ra một tiêu chuẩn, và cái gọi là hạnh phúc lẫn niềm vui chỉ là cách hiểu giá trị của mỗi người. Cũng như đau khổ, không ai có thể phán xét hạnh phúc của người khác. Hạnh phúc hay niềm vui cũng không giống nhau, không đâu. Có người cần điều này, có người lại cần điều khác. Những kẻ khuyên răn vốn chỉ đặt ra các tiêu chuẩn tối thiểu để hạnh phúc, dựa theo tiêu chuẩn của riêng mình. Con người cần nhiều hơn thế. Có những người cần nhiều hơn thế. Với những kẻ tuyệt vọng, cứ để họ ở lại trong thế giới thiếu vắng niềm tin của chính mình. Ở đó, họ tìm thấy sức mạnh, nghị lực và ý thức chính xác về thế giới. Chính xác, vì cái thế giới của niềm tin có là gì đâu ngoài những giáo điều và những gì người ta xác lập, vì cái thế giới của con người bên ngoài có là gì đâu ngoại trừ những kẻ vùng vẫy trong chính những tiêu chuẩn của mình đặt ra. Đứng ở bên ngoài, nhìn thế giới bằng cặp mắt ở bên ngoài bờ biển, bên kia đại dương, cặp mắt của Đấng sáng thế - À, ta cho rằng Đấng sáng thế - nếu có thật – hẳn là một trong những kẻ sáng tạo nên khoa học của người Âu châu. Những phát minh ngày càng đạt đến độ tinh xảo vi diệu và ngày càng vuột khỏi tầm tay con người. Người ta tưởng rằng mình nắm được nó, tạo ra nó, trong khi họ đang vuột tay khỏi nó. Cái thứ mà họ tạo ra luôn luôn tồn tại theo một cách khác hẳn với ý thức của họ. Ngay cả cái gọi là triết học và đạo lý mà họ tìm tòi, phát hiện ra bây giờ, chúng chỉ là bản vẽ của đứa trẻ lên ba về thế giới.

Nhưng mà rồi có quan trọng gì đâu, quá khứ của chúng ta, cuộc đời của chúng ta, cách chúng ta sống, khi chúng ta sắp trở thành cát bụi, tan biến đi vĩnh viễn. Cái đã trôi qua, cái đã tưởng như có thể trở thành sự thật, cái đã khiến chúng ta đau đớn, thống khổ hay mừng vui, đều chỉ là cát bụi và tro tàn. Thậm chí, còn không bằng cát bụi hay tro tàn – vì chẳng có gì trong số chúng còn hiện diện. Thậm chí, cái mà chúng ta đã dựng xây, đã tạo ra, cũng chẳng có gì khác hơn phát minh của người Âu châu hay Đấng sáng thế - chúng ta chẳng bao giờ thực sự nắm được nó. Ngay cả những đứa con mà chúng ta đã tạo ra bằng máu thịt của mình, cuối cùng chúng cũng là cá thể hoàn toàn độc lập, chẳng bao giờ thực sự đúng như ý ta muốn. Chúng ta, người phương Đông này, đã luôn luôn muốn kiểm soát tất cả, chỉ vì chúng ta có ý thức về mối nguy hiểm của sự sáng tạo và vuột tay đối với thế giới này. Nhưng như mọi khi, như luôn luôn, chúng ta tuyệt vọng. Chúng ta noi theo người tin tưởng rằng trên thế giới này chẳng có điều gì khác ngoài quy luật và con người tồn tại theo nhiều cách thức khác nhau, sinh vật tồn tại theo cách riêng của mình. Do đó mà chúng ta tuyệt vọng. Ta đã nhận ra điều đó, trong thuyết lý, tất cả thuyết lý của chúng ta dạy cách sống trong niềm tuyệt vọng.

Người Tây dương thì khác, họ nói về tình yêu, về hy vọng và thứ tha, về niềm tin và sự cứu chuộc. Tất cả lại chẳng phải là điều xa lạ đối với chúng ta. Ồ, người Tây dương tưởng rằng mình văn minh khi nói về những điều đó, về tình yêu và tự do, về cá nhân và hoang đàng. Họ không biết rằng các chủng tộc man di của chúng ta cũng giống y như thế. Chúng ta thời cổ cũng giống y như thế. Thậm chí, những kẻ ít được học hành trong chúng ta, sống và chết như cỏ dại, cũng giống y như thế. Tất cả chỉ là bản năng của con người, là những gì người ta muốn có được, trong giai đoạn đầu sơ khai của một cuộc đời hay một ý thức. Tất cả chúng ta đều khởi đầu giống y như thế. Dĩ nhiên, ai cũng có những giấc mơ. Và như hạnh phúc, ta cũng chẳng cho mình cái quyền đánh giá giấc mơ của người khác. Ta chỉ muốn nói rằng, khi trưởng thành, những giấc mơ sẽ qua đi, sẽ trở thành khác biệt. Khi hiểu ra sự tận diệt của thế giới, sẽ chẳng ai còn mơ được nữa.

Chúng ta có thể yêu được chăng, khi không có những giấc mơ? Ta đã tự hỏi điều đó, do vậy, ta đã không hiểu được chị. Võ Tánh đã không hiểu chị, hoặc anh ta không hiểu theo cách ta đã hiểu. Người ta chỉ yêu chính cái hình tượng trong lòng mình, ta đã nói với anh ta, rồi ta cũng mắc cái lỗi giống như thế. Ta đã không hiểu rằng, hy vọng cũng có nhiều dạng hình, nhiều cách thức biểu hiện và tồn tại. Ngay cả hy vọng vào niềm tuyệt vọng cũng là một cách. Người ta yêu trong niềm tuyệt vọng cũng là một cách. Chúng ta biết rằng chẳng đi đến đâu. Chúng ta tự nhủ rằng mình không nghĩ đến ngày mai. Nhưng chúng ta vẫn cố sức giữ lấy những gì đang có trong tay. Chúng ta cố gắng làm tất cả những gì mình có thể. Chúng ta có thể đánh đổi cả cuộc đời mình. Chúng ta sống như những ngọn nến cháy.

Như những ngọn nến cháy, tất cả chúng ta, cả qúa khứ và những gì đã từng có thể thành hình, cũng sẽ lụi tàn. Chúng ta biết điều đó.

Chỉ có điều, với chị, ngọn lửa ấy đã lụi tắt trước khi nến cháy hết. Ta nói điều này chị có thể hiểu được chăng? Vì thế mà chị thất vọng. Vì thế mà chị quyết định quay lưng. Ta đã từng cho rằng chị hận ta vì cái chết của Võ Tánh, nhưng không phải.

Đúng ra, ta phải nhận thấy rằng chị đã hận ta ngay từ lúc ta cho phép chị cưới Võ Tánh.

Đúng ra, ta phải nhận thấy rằng chị đã hận ta trong suốt những năm tháng ấy. Ta đem Võ Tánh đến cho chị, rồi cũng chính ta cướp anh ta đi. Mối quan hệ bạn bè và tình nhân vốn ít khi dung thứ được cho nhau. Trong sự không tin tưởng và không đợi chờ của mình, chị lại muốn có được nhiều, rất nhiều. Càng muốn có, chị càng nhận rõ rằng chị không bao giờ có được điều mình muốn.

Đúng ra, ta phải nhận thấy rằng ngay từ khi khởi đầu, mối quan hệ của chị và ta đã là như thế. Chị và ta, sinh cùng tháng cùng năm, cùng được đặt tên dựa vào ánh sáng. Nhưng chúng ta đã hoàn toàn bị tách rời, ngay sau lúc khởi đầu. Ta đã không bảo vệ được chị. Ta đã không bảo vệ được bất cứ ai, trong những người mà ta yêu thương. Ta có thể cho chị mọi thứ, ngoại trừ những gì chị cần. Chúng ta đã mất đi tất cả giấc mơ, ngay sau lúc khởi đầu.

Điều đó, Võ Tánh lại đem được tới cho chị.

Hai người đã có thể hạnh phúc.

Nhưng vì chị luôn muốn có được qúa nhiều, đồng thời lại tuyệt vọng qúa nhiều, chị mới thất vọng đến thế, cố chấp đến thế. Chị đã chọn cho mình, hoặc là đã bị buộc phải chọn cho mình, một chỗ dựa qúa bấp bênh ở một con người chỉ bằng xương thịt. Tất cả những con người bằng xương thịt đều tan thành cát bụi. Con người ấy đã biến mất, đã không còn nữa, gần hai mươi năm về trước. Chị có được anh ta bao nhiêu năm tháng trong đời? Mười năm, có là gì so với khoảng thời gian sáu mươi năm đã qua của chúng ta? Là gì so với năm mươi năm còn lại của chúng ta? Là gì so với quãng thời gian còn lại của chúng ta? Khi nghĩ về những điều đó, chẳng phải là chúng ta đều cảm thấy thất vọng qúa ư?

Ngay cả ta, ta nữa. Tất cả những gì ta đã làm, những gì ta đã đổ cả cuộc đời vào đó, rốt cuộc sẽ dẫn đến đâu? Đặng Trần Thường, Nguyễn Văn Thành bị Lê Chất, Lê Văn Duyệt ép đến chỗ chết, ta không thể bảo vệ họ. Ta cũng không thể cho mình bảo vệ họ. Nguyễn Văn Thành níu áo ta ngoài cửa điện kêu oan, ta phải cho đình thần đi nghị tội ông ta. Ta đã ép ông ấy đến chỗ chết, phải, chính ta nữa. Ta phải bảo vệ cái triều đình này, ngay bằng những xáo động và phân chia của nó. Nhưng sau khi ta chết, chuyện gì sẽ xảy ra? Phúc Kiểu đã được ta đưa lên ngôi Thái tử bằng quyết định được thông báo ngay giữa triều đình, bắt quan chép vào sổ ngay giữa triều đình, bất chấp hầu hết quan lại muốn lập Hoàng tôn lên ngôi. Ta tin vào Phúc Kiểu, nhưng ta cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu như nó không khống chế nổi cái triều đình này, cái đại cuộc phân tán và rối rắm này. Vì sự sống của bản thân, vì giấc mơ của mình, chúng ta đã chiến đấu, nhưng chúng ta lại không thể tồn tại trong chiến thắng này, có cay đắng qúa không? Và đất nước này, vương triều này có thể tan vỡ bất cứ lúc nào, có cay đắng qúa không? Chúng ta đã biết, luôn luôn biết, từ đất nước Đại Thanh phương Bắc đến những tiểu quốc như Xiêm La, Vạn Tượng, Chân Lạp, thậm chí Chiêm Thành – rằng chiến tranh sẽ lại bùng phát. Luôn luôn, những trận chiến xảy ra với đủ mọi lý do, trong các đất nước, giữa các đất nước. Ta bảo vệ cái gì? Ta xây dựng cái gì? Ta muốn làm được điều gì? Không ít lần ta đã tự hỏi điều đó. Và không ít lần, ta rùng mình khi nghĩ đến những đất nước đã tiêu vong, những gì đã phải tuyệt diệt trên mặt đất. Ta biết, những gì ta có thể làm chỉ giới hạn trong cuộc sống của ta. Và thời gian ấy có là gì so với dòng chảy không ngừng.

Khi nghĩ đến tất cả điều đó, chẳng phải là thất vọng qúa ư?

Những giấc mơ chưa thành hình hài đã tiêu tan, đã biến mất, đã tuyệt diệt, chẳng phải đáng thương cảm qúa ư?

Ta không bảo chị chấp nhận. Có những điều mà ta biết rằng khuyên nhủ cũng không ích lợi gì. Mỗi người có một tính cách và một lối đối xử, phản ứng khác nhau. Nếu chị cảm thấy không sẵn sàng để đối mặt và chấp nhận thì không cần phải cố gắng. Ta đã bảo rằng ta có thể cho chị mọi thứ, mọi thứ mà ta có thể. Ta đã đợi, và hai mươi năm, à, chính xác là mười tám năm đã qua rồi. Ngay cả thời gian cũng không buông tha, chờ đợi ta nữa. Ta muốn gặp chị để nói rằng chị chỉ thất vọng thôi. Ngay cả điều này có ý nghĩa gì hay không đối với chị.

Chúng ta đã bất hòa với nhau qúa lâu rồi, vì một con người đã thành cát bụi.

Khi Hoàng đế nói, cơn mưa bên ngoài vẫn rả rích rơi qua các tầng lá. Những ngọn thông reo rì rào. Gió vẫn đang thổi trên bầu trời dày đặc mây xám. Ngọc Du nhìn ngài ta, người đàn ông gần sáu mươi tuổi, bề ngoài đã héo úa không chứa đựng nổi một linh hồn vẫn đang cháy sáng. Những ngọn nến, ngài ta nói, bằng giọng trầm lắng của người đã ở dưới đáy biển sâu. Ngọc Du không ngắt lời ngài ta, bà cũng không biết phải trả lời thế nào, về những gì ngài ta nói. Dường như ngài ta đã chờ đợi, bao nhiêu năm nay, để nói với bà điều đó, điều đang được nói ra một lần và vĩnh viễn – Để kết thúc. Dường như ngài ta đã chờ đợi để nói với bà về một con người đã tan thành cát bụi. Không, tro tàn. Chính mắt bà đã thấy đám tro tàn ấy. Chính tay bà đã chạm vào nó. Con người, những gì còn lại của một con người chỉ là như thế. Lúc ấy bà không cảm thấy đau buồn. Thất vọng, hay tuyệt vọng, đó có lẽ là một mô tả chính xác hơn. Khi nhìn thấy đám tro ấy, bà tuyệt vọng.

Con người và tro tàn. Họ đã đợi bấy nhiêu năm để có thể thốt ra, nhìn thẳng vào câu hỏi ấy, chấp nhận nó. Hai mươi năm đã qua đi, và đúng như Ngọc Du đã lo sợ, ký ức phai tàn dần trong bà như chiếc lá úa. Ký ức mất đi màu sắc và hương vị, cảm giác, chỉ còn lại khô cong và dễ gãy vỡ, chạm đến đâu là gãy vỡ đến đấy. Bà đã không thể nào nhớ được nữa, sự kiện và thời gian. Chỉ còn lại vương vấn trong ký ức mùi vị của đất phương Nam, sắc xanh của bóng cây ngả trên dòng nước. Bà không còn nhớ được nữa, Võ Tánh của ngày xa xưa ấy. Chỉ còn lại trong bà hồi ức mỏng tang như thể cuộc đời của một kiếp sống khác. Những gì tưởng sẽ vĩnh viễn ở lại rồi cũng trôi qua. Dù có níu kéo, vẫn biến mất. Cuối cùng, điều bà còn lại chỉ là tro tàn. Bây giờ, bà nghe lời Hoàng đế nói như nghe tiếng chuông chùa vọng đếm thời gian.

- Ngài chỉ muốn nói thế thôi, hoàng thượng? – Sau cùng, bà hỏi. Người nằm trong giường khẽ chớp mắt. Bà chỉ thấy làn mi của ngài ta cử động. Rồi bà cười. – Đúng thôi. Mọi chuyện cuối cùng thì có còn lại gì đâu.

Ngài ta không trả lời bà. Vốn dĩ ngài ta không cần nói. Và bà cũng không cần nói. Có những điều tốt hơn không nên được nói ra.

Bà đã ở lại để đón đợi cái chết của ngài ta như muôn vàn cái chết khác, như muôn vàn con người khác đã đi qua trong cuộc đời bà. Bên cạnh bà là Nhị phi, một trong những người cuối cùng còn lại của những ngày xa xưa ấy. Bên cạnh ngài ta là Phúc Kiểu, Tứ hoàng tử, Đông cung Thái tử lãnh di chiếu của ngài ta để lên ngôi. Ngài ta đón nhận cái chết của mình thản nhiên và quyết liệt. Không có chút lưu luyến nào từ ngài ta với cuộc đời. Chỉ có tiếng khóc của những kẻ xung quanh. Mùa đông Phú Xuân vần vũ mây mù. Và ở khoảng sân bên ngoài, Ngọc Du đã chợt nghĩ đến phương Nam mùa này những cơn mưa đã ngớt và nắng không ngừng bừng cháy trên những dòng sông ầm ào trôi chảy.

Hai mươi năm đã qua đi, bà nghĩ. Tiếng chuông chùa vang và tiếng báo hiệu nhà vua băng hà vang động toàn thành. Hoàng cung bận rộn phát tang như đã quên bẵng những con người đau buồn trong điện.

Tiếng chuông vang mãi, vang mãi trong những tháng ngày còn lại của bà.

Và niềm tuyệt vọng được gọi tên đã trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi sau đám tang mùa đông ấy. Nhà vua được đưa tới núi Thiên Thọ, nơi mà ngài ta đã tự xây sẵn lăng mộ cho chính mình, được chôn bên cạnh Hoàng hậu đã mất sáu năm trước. Hai ngôi mộ nhỏ nằm cạnh nhau, dưới tầng mái che như hình ảnh một ngôi nhà. Trở về nhà, cuối cùng họ đã trở về nhà. Khi đến nơi ấy, nhìn hai ngôi mộ nhỏ bé kia, Ngọc Du đã không khỏi cảm thấy thương cảm đến rơi nước mắt. “Đông chi dạ. Hạ chi nhật. Bách niên chi hậu. Quy vu kỳ cư.” Cuối cùng, Hoàng hậu đã đạt được điều mình muốn. Hoàng đế đã trở về, đã ở lại, lần này là mãi mãi. Ngài ta đã dùng phương thức đồng táng để xây lăng – Ngài ta là Hoàng đế duy nhất ở Đông phương dùng phương thức này để hợp táng cùng vợ mình. Ngay cả những Hoàng đế ở phương Tây cũng không làm thế, người Tây dương nói. Và Ngọc Du đã có khoảnh khắc muốn gào lên, một lần và vĩnh viễn, cơn đau trong lồng ngực.

Tàn tro, đó là điều cuối cùng ngài ta nói với bà. Cuối cùng tất cả những gì bà còn lại chỉ là tro tàn. Tro tàn trong huyệt mộ tận Gia Định xa xôi, trộn lẫn hai ba linh hồn khác. Tro tàn đã bay theo gió, đã tuyệt diệt từ những tháng ngày ấy. Bách niên chi hậu. Vĩnh viễn và mãi mãi. Vĩnh viễn không được ở bên nhau.

Bà đã không chịu nhìn vào cơn đau ấy, cho rằng mình không muốn nhìn thấy nó, đã thay thế nó bằng nỗi giận dữ của niềm tuyệt vọng. Võ Tánh đã là hy vọng của chị, ngài ta nói, nhìn thẳng vào bà. Và trong khoảnh khắc đó, bà nhận ra rằng cả ngài ta, ngài ta nữa, đã cảm thấy những gì bà cảm thấy. Một niềm cảm thương đã lan đi giữa họ, sau những tháng ngày oán hận và mệt mỏi vì oán hận.

Mùa đông năm ấy mưa kéo dài qua mùa xuân, kéo dài qua lễ lên ngôi của Hoàng đế mới, vua Minh Mạng. Một trong những việc đầu tiên mà nhà vua mới làm là gọi Võ Khánh đến cung vì chuyện kiện cáo của người làng Hà Khê với gia nhân trong phủ. Từ lâu, phủ điện của Ngọc Du với địa vị của nó đã trở thành nơi mà các gia nhân dựa thế hiếp đáp người quanh vùng. Ngọc Du chưa bao giờ quan tâm đến lời mách bảo hay kiện tụng của họ. Nhưng không như vua cha, Hoàng đế mới với thanh danh và thể diện của hoàng gia phải lên tiếng chấn chỉnh. Ngươi phải khuyên mẹ mình chứ, ngài ta nói với Võ Khánh – viên Đô úy chỉ được tập tước chứ không được tham gia công việc trong triều. Mẹ ngươi lớn lên trong chiến tranh, không được học hành, khi hòa bình thì đã lớn tuổi, làm sao học được nữa. Ngươi là con, phải biết khuyên bảo mẹ mình. Nếu mẹ ngươi không nghe thì ngươi có tội. Nhà vua mới lên ngôi nói, cố tình cho mọi người mọi kẻ đều nghe thấy.

Võ Khánh đem những lời ấy kể với Ngọc Du. Bà chỉ lặng lẽ ngồi ngẩn người, nhìn mông lung ra ngoài khung cửa lớn. Xuân đang qua và mùa hạ đã tới, nắng oi ả trên màu xanh trải dài khắp núi đồi. Ngoài khu vườn rộng, con đường dẫn về sau khu đồi cao khuất dưới bóng cây. Tiếng ve kêu râm ran.

Ta sẽ không thể bảo vệ chị được nữa. Hóa ra, đây là những gì ngài ta muốn nói. Hai mươi năm, ngài ta đã chờ đợi, đã bỏ qua mọi điều tiếng tai ác mà bà đã tạo ra. Hai mươi năm, mọi oán hận của bà bây giờ cũng đã thành tro tàn. Ngài ta biết điều đó, việc đang xảy ra này, để gọi bà tới, nói với bà một lần để kết thúc.

Ngài ta đã không còn nữa. Mọi người đều đã không còn nữa. Tất cả đều đã ra đi. Tất cả đã hóa thành tro tàn.

Con đuổi tất cả đám gia nhân gây chuyện đi. Bà nói với Võ Khánh, một lúc sau. Như thở dài nhẹ nhõm, người con trai cúi đầu chào bà, vội vã ra ngoài làm theo lệnh của Hoàng đế mới.

Tất cả còn có ích gì đâu chứ. Bà nghĩ khi nhìn theo bóng người con. Hai mươi năm, bà đã lưu giữ oán giận này, thù hằn này, đem nó trút vào tất cả người xung quanh, đem nó làm thứ thách thức em trai mình. Nhưng rồi chẳng có ích gì. Ta có thể cho chị mọi thứ, ngài ta đã  nói, đã thách thức lại bà.

Cuối cùng, bà là người thua cuộc.

Sau này, mãi mãi sau này, trong khoảng thời gian vượt ra ngoài sự tồn tại trên mặt đất, bà hiểu ra rằng mọi điều đều có khởi đầu và kết thúc. Mọi điều, tất cả những gì tồn tại hay không tồn tại.

Và mãi mãi, những gì không bao giờ được nói ra sẽ chìm trong đáy biển sâu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro