HD luận giải tử vi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vì sao gọi là lá số Tử vi, sao không gọi là lá số Thái Dương, Thái Âm,…., hay bất kỳ ngôi sao nào khác? Câu hỏi tức là câu trả lời vì ngôi sao Tử vi rất quan trọng.

  Lá số tử vi là gì?

Vấn đề 1.

.Vô luận đóng ở đâu thì bạn vẫn có một ngôi sao Tử vi riêng của mình. Dẫu không đóng tại mệnh, hay vòng hạn bạn không có được ngôi sao Tử vi tại chính cung (Đại hạn đang xét) thì trong tam hợp thì bạn đã và đang bước vào hạn tử vi, ngôi sao Tử vi của mình. Do vậy, khi nhìn lá số hãy nhìn ngôi sao Tử vi – Nếu trong tam hợp mệnh mà bạn có Tử vi tức mệnh bạn đang có ngôi sao quan trọng này vậy!

Vậy Tử vi nghĩa là gì?

Trước khi bạn trả lời hãy tự hỏi mình Tên thật là gì? Một cái tên không chỉ đơn thuần là một âm thanh phân biệt để gọi và hình thành phản xạ có điều kiện: “A ơi! minh nhờ cái…..” thế là A quay đầu lại!

Một cái tên chưa biết bao sự tình trong đó: vì kỳ vọng, vì yêu thương, vì đánh dấu một sự kiện, một hồi ức cho một cuộc tình đẹp, …, và không loại trừ cả sự thù hận khôn nguôi (….) thì cái tên dẫu sang trọng hay bình dân, thanh cao hay thô lậu, thì cái tên A vẫn hàm chứa ý nghĩa nhất định. Và vô luận một ngôi sao bất kỳ trong lá số đều hàm chứa ý nghĩa luận đoán trong ý nghĩa của tên ngôi sao đó các bạn ạ, ví dụ: Thiên Cơ: có nghĩa là đá, là cơ hội, là số, là ….., Thiên Lương là mái nhà chủ trên cao, là bóng mát, là lương thực……

Vậy Tử vi có ý nghĩa gì? Các bạn thử tìm hiểu nhé! Sách vở đầy rẫy đó nhưng bỏ qua một bên đi, chỉ tìm hiểu ý nghĩa tên Tử vi mà thôi cùng các ngôi sao khác.

Vấn đề 2.

Nhìn lá số Tử vi tức là nhìn người có lá số, nhìn những tác nhân (cũng là người xung quanh). Các bạn có công nhận cùng tôi: không có gì phức tạp bằng con người cả. Một sự kiện, mỗi góc độ có một cái nhìn khác nhau…Khi luận đoán tử vi ở tâm thế một trái tim yêu thương tức là bạn đang sống trong nội tâm người ấy. Và việc này theo tôi rất quan trọng, một lời luận đoán dẫu trúng cũng không thay đổi được số mệnh của người ta. Nhưng một tiếng nói mà phát hiện trong ẩn tàng của lá số, phát hiện và cảm thông lại là nguồn sinh lực giúp người khác thêm vững tin và nghị lực mới là điều cốt yếu.

Lấy ví dụ:

Mệnh lập tại Dậu: từ đây đếm xuôi theo chiều kim đồng hồ bạn xác định được các cung là Phụ, Phúc…..Huynh đệ. Thông thường các bạn khi xét một cung, đó là:

- Mệnh tại Dậu …..> cho nhận xét.
- Phụ tại Mão ……..>Cho nhận xét.
-…….cho tới đủ 12 cung.
Kết luận: là trật lất.

Mà phải là:

- Tổ hợp Mệnh Tài Quan, ở đây là Tỵ Dậu Sửu. Qua đó bạn hiểu lá số này thuộc cách cục gì? Ngũ hành Mệnh cho phép bạn biết Mệnh bạn có xu hướng “ăn” nhiều vào ngôi sao nào trong tổ hợp này (kể cả xung chiếu). Và cần suy xét cẩn thận khi Mệnh Là VCD.
- Xung chiếu của Mệnh là Mão (Cung Di).
- Nhị hợp của mệnh là Ách: Dậu và Thìn.
- Lục xung của Mệnh là Tuất (Phụ Mẫu)

Tương tự các cường cung khác, và bạn cho những nhận xét tổng thể của lá số người đó. Nhưng chưa đủ đâu:

- Đó là Âm Dương: Âm Dương ở đây rất quan trọng cho bạn hiểu lá số về sức khỏe, hôn phối, Cha Mẹ, con gái, con trai…..
- Đó là Tuần: đóng ở đâu thì vị trí đó (2 cung) trở nên quan trọng. Ví dụ: Tuần Âm là trong Nữ, nghiêng về phía Nữ, lợi cho Nữ giới….Hay bạn có Tuần cư Tài: là trọng tiền, Tài chính có xu hướng chỉ vào mà không ra….Tuần cung Di: có xu hướng thích ra ngoài hơn là ở nhà hay ngồi yên một chổ.
- Triệt: là sự xem thường, là hiểu biết, là tấm khiên bảo vệ, là Triệt lộ ra bao điều quý…..Ví dụ: Triệt Dương là xem thường Nam giới, không lợi cho Nam giới….và cả Trí Tuệ: sự thông tuệ nếu ở đây nhiều cát tinh. Hay một ví dụ khác: Triệt cung Nô là bạn không xem trọng bạn bè, ít bạn, …..
- Vậy cả Tuần và Triệt là thế nào?
- Cũng 2 Anh em Tuần và Triệt: xem thử Chính tinh đó thích Triệt hay không? Yêu thích Tuần hay không?

Ngoài ra: Đó là vị trí đóng của cung An Thân và Tứ hóa.

Vấn đề 3. Là xem hạn:

Đại hạn là Gốc, sau đó là Tiểu hạn và kế là hạn tháng, hạn ngày, ….hạn giờ.

Tiểu hạn:

Tùy tam hợp tuổi mà bạn biết khởi hạn bạn trong lá số ở đâu? Ví dụ: Tuổi Thân trong tam hợp Thân Tý Thìn lấy xung của cung Thìn là Tuất bạn ghi khởi hạn tuổi Thân là Thân tại cung Tuất: Dương Nam – Âm Nữ đi thuận (ví dụ Tiểu hạn Năm Canh Dần Ở Thìn) và Dương Nữ Âm Nam đi ngược (Tiểu hạn năm Canh Dần là ở Thìn)

Hạn tháng:

Tháng Giêng khởi từ cung Dần tùy can năm ta có can tháng và mỗi cung 1 tháng đếm Thuận. Ví dụ năm Canh dần khởi tháng Giêng là Mậu Dần, tháng hai là Kỹ Mão,…….Tháng Chạp là Kỷ Sửu.

Vấn đề là biết cách áp dụng ngôi sao di động: như là sự update bản đồ hàng năm của google vào là số tỉnh của bạn. Và quan trọng:

Xem hạm một năm, một tháng, một ngày, đó là không chỉ là tổ hợp (tam hợp và xung chiếu) tại cung bạn đang xét. Mà là:

Muốn tìm hiểu sự chuyển động bạn vẫn phải nhìn cung Di. Con cái năm nay thế nào bạn phải nhìn cung Tử, Hoàn cảnh là việc là có cung Quan, tai nạn ra sao bạn nhìn cung Ách….Tổ hợp Tam hợp của tiểu hạn (Xung chiếu, và lục hại) là tổng quát: bạn tìm hiểu thử xem năm nay tổng quát bạn sẽ có gì? sao di động nhập hạn từ đâu đến? (nguồn gốc của sao đó)….Nhìn một hạn không khác gì xem tổng quát một lá số mà giá trị gói gọn trong một năm, một tháng, một ngày…..

LUẬN GIẢI TỬ VI

Muốn lập thành một lá số Tử Vi cần phải hội đủ 4 yếu tố là Năm-Tháng-Ngày-Giờ sinh theo Âm Lịch. Cách lập thành lá số Tử Vi nói chung có nguyên tắc chỉ dẩn khá rỏ ràng, nhưng về phương cách giải đoán thì còn phải tùy theo trình độ, cơ duyên và kinh nghiệm... của người giải đoán mà sẽ có những lời giải đoán khác nhau.

Để giải đoán được Tử Vi giỏi, đại khái cần phải có 4 điều kiện sau:

Trí nhớ - Tử Vi là một khoa lý số cổ học rất phức tạp nên rất cần có trí nhớ tốt để thuộc các nguyên lý của Âm dương, Ngũ hành, Can Chi và ý nghĩa tính chất của các Sao.

Suy luận - Phải suy luận để phân tích, phối hợp, chế hóa sự sinh khắc của âm dương ngũ hành và xấu tốt của các sao đóng tại mỗi cung số.

Trực giác - Cần phải có trực giác bén nhạy để giúp ích cho những sự suy luận.

Kinh nghiệm - Phải thực hành cho nhiều, đối chiếu phần thực nghiệm với lý thuyết để suy luận ra những lời giải đoán cho súc tích, phong phú và chính xác.

Để giúp các bạn mới bắt đầu tự nghiên cứu Tử Vi được dễ dàng, dễ hiểu và có kết quả, chúng tôi mạo muội xin đưa ra những phương pháp, hướng dẫn cụ thể để các bạn theo thứ tự học hỏi hầu có thể tự giải đoán được lá số của mình.

Vào một trong các trang Web Tử Vi Đẩu Số - VietShare An Sao - Tinh Vân Horoscope hay Kinh Dịch - Tử Vi để lấy và in ra lá số. Mỗi khi điền vào các ô ngày-tháng-năm sinh theo dương lịch, chương trình lấy lá số Tử Vi sẽ tự động chuyển đổi ngày tháng và năm sang âm lịch mà không phải nhờ đến software chuyển đổi hay tra cứu Vạn Niên Lịch.

Xem giải thích cách trình bày và hiểu ý nghĩa của lá số.

Những Nguyên Tắc Căn Bản phải nhớ

Những nguyên tắc căn bản về Âm Dương / Can Chi và Ngũ hành sinh khắc .

Những quy tắc phối chiếu của Tam hợp - Nhị hợp - Xung chiếu giữa các cung trong lá số Tử Vi.

Những Tiến Trình Luận Đoán Số phải theo

Xét sự thuận nghịch về lý âm dương giữa Năm sinh với vị trí cung an Mệnh để biết tổng quát tốt xấu của cung cần giải đoán.

Xét sự sinh khắc ngũ hành của Can Chi Năm sinh

Xét sự tương quan ngũ hành giữa bản Mệnh và Cục

Xem phối hợp hai cung tam hợp với cung an Mệnh-Thân

Xem phối hợp cung nhị hợp với cung an Mệnh-Thân

Xem phối hợp cung xung chiếu với cung an Mệnh-Thân

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Thái Tuế trên lá số

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Lộc Tồn trên lá số

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Tràng Sinh trên lá số

Phải xét qua tất cả các yếu tố trên rồi phối hợp lại để đưa ra lời lý giải tổng quát về những nét đại cương của cuộc đời cho lá số.



Những Đặc Tính của các Sao phải hiểu



Xem tổng hợp bộ cách của Chính tinh và các trung tinh tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an Thân và cung Phúc Đức để biết tổng quát lá số của mình được các cách gì.



Xem ý nghĩa và đặc tính của Chính tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại cung Mệnh và Thân.



Xem ý nghĩa và đặc tính của các Trung tinh và Phụ tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp của cung Mệnh-Thân.



Xét ý nghĩa, đặc tính, vị trí và sự đắc hãm của các Hung Sát tinh trên lá số.



Xem ảnh hưởng của các Hung Sát Bại tinh (nếu có) tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại các cung quan trọng như tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an Thân và cung Phúc Đức.



Xét tới giá trị và ảnh hưởng biến đổi của các sao theo thời gian của mệnh số.



Xem sự liên đới của các sao với nhau, nếu các sao này kết hợp thành cách cục hay bộ cách thì sẽ có tác dụng mạnh mẽ hơn là đóng đơn lẽ hay lạc lỏng.



Nếu muốn xem cung nào thì phải phối hợp ý nghĩa, đặc tính và đặc điểm của các sao tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại cung đó, quân bình số lượng các sao rồi đúc kết các yếu tố lại để đưa ra lời lý giải kết luận về cung muốn xem.



Phải tập xem phần giải đoán qua các lá số mẫu để biết cách lý giải lá số. Phần này có thể xem qua các bài sưu tập về "Vấn đáp Tử Vi < vdap_tv.html&g thienduc thamluan.lysodongphuong.com" của Tướng Số gia Thiên Đức đăng lại trên trang Web này để rút tỉa kinh nghiệm về cách thức giải đoán lá số. Mỗi câu vấn đáp nói trên đều có phần lược giải về Tử Vi cho người đặt ra câu hỏi.



Hiện tại phần "Tính lý các sao" của trang Lý Số Đông Phương chưa được hoàn thành đầy đủ, nên các bạn có thể qua trang Web của Vietshare , sau khi lấy xong lá số thì nhấn nút chuột trên tên của mỗi sao tại cung nào muốn xem thì sẽ có ngay lời giải tóm tắt về đặc tính của sao đó ngay trên màn ảnh.



Những cung cần phải xem



Cùng một cách xem cho cung Mệnh-Thân và Phúc Đức, xét và luận đoán các cung liên hệ đến bản thân mình là Quan lộc - Tài bạch - Tật ách - Thiên di - Điền trạch - Nô bộc.



Cùng một cách xem cho cung Mệnh-Thân và Phúc Đức, xét và luận đoán các cung liên hệ đến lục thân như Phối ngẫu - Tử tức - Phụ mẫu - Huynh đệ



Những Vận Hạn Trong Cuộc Đời phải biết



Cách Giải Đoán Vận Hạn



Xem các Đại vận 10 năm của lá số



Xem Tiểu vận từng năm



Luận về cung tam hợp



Sách số nào cũng chỉ khi xem một cung thì phải xem phối hợp: cung chính, hai cung tam hợp, cung xung chiếu và cung nhị hợp, tất cả là 5 cung cùng một lúc để giải đoán.



Có quan điểm còn đánh giá thứ tự ưu tiên hoặc xếp đặt ra giá trị tỷ lệ cho cung chiùnh là quan trọng nhất, thứ nhì là cung xung chiếu, thứ ba mới đến hai cung tam chiếu với cung chính và sau hết là cung nhị hợp. Sự đánh giá này nhằm phân định được các ảnh hưởng nào là trực tiếp và ảnh hưởng nào là gián tiếp để giúp cho việc giải đoán được cụ thể và đầy đủ hơn.



Riêng theo cụ Thiên Lương thì căn bản chính yếu của một cung chỉ có một cung chính và hai cung tam hợp. Cung nhị hợp (tương sinh) chỉ phụ thêm bổ túc cho cung chính. Còn cung xung chiếu (tương khắc) tuyệt đối chính là đối phương.



Dưới đây là 4 bảng Tam Hợp:



Sở dĩ không có tam hợp hành Thổ vì trong 4 tam hợp trên đều có hành Thổ làm nền tảng để cho Tứ Sinh (Dần-Thân-Tỵ-Hợi) phát nguồn bồi đắp cho Tứ Chính (Tý-Ngọ-Mão-Dậu) được đầy đủ sung túc để trở thành những hành chính trong tam hợp.



Theo Dịch học, hành Thổ là nguồn gốc phát xuất ra các hành khác, rồi tập trung về lại nguồn cội trung ương, hành Thổ phối hợp với 4 hành Kim-Mộc-Thủy-Hỏa thành 4 cục diện, là thế tam hợp căn bản của Tử Vi Đẩu Số.



Nhận xét về bảng Tam Hợp dưới đây sẽ thấy trong mỗi cục diện gồm có 3 hành, tuy khác nhau nhưng cùng liên minh với nhau thành một hành chung, để cùng các cục diện khác tranh đua biến đổi sinh khắc lẫn nhau.



Ngoài ra, theo cụ Việt Viêm Tử thì cần phải phân biệt đến hai chiều thuận nghịch theo quy lý âm dương của tam hợp cục nữa. Lấy ví dụ người có cung mệnh tại Ngọ trong tam hợp cục Dần-Ngọ-Tuất. Nếu là Dương Nam/ Âm Nữ khởi theo chiều thuận đi từ cung Dần đến cung Tuất nên những sao tam hợp đóng tại cung Dần sẽ ảnh hưởng nhiều hơn là những sao cùng tam hợp tại cung Tuất. Còn với người Âm Nam/ Dương Nữ theo chiều nghịch đi ngược lại từ cung Tuất đến cung Dần nên những sao tam hợp tại cung Tuất sẽ ảnh hưởng nặng hơn là những sao tại cung Dần.



Thuyết Âm Dương theo kinh Dịch Chúng tôi xin sơ lược tóm tắt về thuyết Âm Dương:



Theo học thuyết cổ của Trung Hoa, nguồn gốc sơ khởi của vạn vật trong vũ trụ là Thái Cực. Trong thái cực có hai động thể tiềm phục đó là hai khí Âm Dương - gọi là Lưỡng Nghi.



Âm và Dương là hai mặt tương phản đối lập, mâu thuẫn, ức chế lẫn nhau nhưng thống nhất, nương tựa, thúc đẩy lẫn nhau, trong Dương có mầm của Âm và trong Âm có mầm của Dương. Vạn vật được sinh thành và biến hóa nhờ hai khí Âm Dương này phối hợp.



Hai khí Âm Dương giao tiếp tuần hoàn sinh hóa ra vạn vật theo 4 trạng thái phát triễn và suy tàn được gọi là Tứ Tượng (Thiếu Dương - Thái Dương và Thiếu Âm - Thái Âm)



"Khí của trời đất, hợp thì là một, chia thì là Âm và Dương, tách ra làm bốn mùa, bày xếp thành Ngũ hành." (Đổng Trọng Thư)



Tứ tượng nhờ ảnh hưởng của hai khí Âm Dương thúc đẩy và biến hóa khai sinh ra:



4 mùa - Xuân Hạ Thu Đông



5 chất gọi là Ngũ hành : Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ



8 hình dạng khác nhau của vũ trụ được gọi là Bát Quái

Càn chỉ trời, Khảm chỉ nước, Cấn chỉ núi non, Chấn chỉ sấm sét, Tốn chỉ gió, Ly chỉ lửa, Khôn chỉ đất, Đoài chỉ đầm lầy.



Bài đọc thêm nói về thuyết Âm Dương:



Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự biến hóa không ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài).



Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.



Để biểu thị sự biến hóa không ngừng và qui luật của sự biến hóa đó, người xưa đặt ra "thuyết âm dương". Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thế nào mà thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật. nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hóa và phát triển của sự vật. Nói chung, phàm cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng lên, vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương.



Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu hình, lạnh lẽo, đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm. Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con sâu, con bọ, cây cỏ, đều được qui vào âm dương.



Ví dụ về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngày, mùa xuân, hè, đông, nam, phía trên, phía ngoài, nóng, lửa, sáng. Thuộc âm ta có: Mặt trăng, ban đêm, thu, đông, tây, bắc, phía dưới, phía trong, lạnh nước, tối.



Trong con người, dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí , vệ; Âm là mé trong, trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vinh.



Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có mầm mống của dương, trong dương lại có mầm mống của âm...



Hướng Dẫn Giải Đoán Vận Hạn



Muốn giải đoán được vận hạn của đời mình, cần phải theo các nguyên tắc được hướng dẫn sau:



Những Nguyên Tắc Căn Bản



Quan sát gốc Đại hạn 10 năm



Quan sát lưu Đại Vận từng năm



Quan sát lưu niên Tiểu hạn 1 năm



Nhận Định về Hạn



Liên hệ giữa Đại hạn và Tiểu hạn

Đại hạn 10 năm tốt đẹp nhưng bị Tiểu hạn một năm xấu thì cũng không đáng quan ngại vì ảnh hưởng tốt của đại hạn đã giải trừ được những sự xấu của Tiểu hạn. Tiểu hạn (dầu tốt hay xấu) chỉ phụ giúp thêm hay làm giảm bớt 10% ảnh hưởng của Đại vận.

Đại hạn 10 năm xấu nhưng được Tiểu hạn một năm tốt thì sự tốt đẹp của Tiểu hạn cũng bị giảm bớt.



Liên hệ giữa Mệnh-Thân và Hạn

Mệnh Thân và Hạn tốt - Người có cung Mệnh tốt thì chỉ xứng ý toại lòng lúc còn trẻ tuổi, đến tuổi trung niên và hậu vận thì cũng cần phải được cung Thân tốt thì mới được trọn vẹn. Nếu được Hạn tốt nữa thì ví như gấm thêm hoa.

Mệnh Thân tốt gặp Hạn xấu - Mệnh Thân tốt có thể giải trừ được một phần lớn ảnh hưởng xấu của Hạn.

Mệnh Thân xấu được Hạn tốt - Được phát ví như lúa non gặp mưa thuận gió hòa, cây khô gặp mùa Xuân, nhưng không bền.

Mệnh Thân và Hạn xấu - Rất xấu như sinh bất phùng thời.



Ảnh hưởng của Chính tinh là Nam hay Bắc Đẩu Tinh nhập hạn

Nam Đẩu Tinh nhập hạn - Ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoảng nữa phần thời gian sau của Đại và Tiểu vận. Nếu bị Tuần Triệt thì đoán ngược lại.

Các Nam Đẩu Tinh là Thái Dương - Thiên Cơ - Thiên Đồng - Thiên Lương - Thiên Tướng và Thất Sát. Các chính tinh trên hợp với người dương nam và âm nữ, nếu được miếu vượng hay đắc địa thì càng thêm tốt đẹp.

Riêng hai chính tinh Tử Vi và Thiên Phuû là Nam Bắc Tinh

Bắc Đẩu Tinh nhập hạn - Ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoảng nữa phần thời gian đầu của Đại và Tiểu vận.

Các Bắc Đẩu Tinh là Thái Âm - Vũ Khúc - Tham Lang - Liêm Trinh - Phá Quân và Cự Môn. Các chính tinh trên hợp với người âm nam và dương nữ, nếu được miếu vượng hay đắc địa thì càng thêm tốt đẹp.



Ảnh hưởng của Sao nhập hạn



Ảnh hưởng các Sao lưu động mỗi năm



Đại Tiểu Hạn trùng phùng

Cung gốc đại vận 10 năm với lưu niên tiểu vận đồng cung, sự việc tốt xấu hay dở của năm xem hạn tại cung trùng phùng này sẽ gia tăng.

Thí dụ: hạn năm Ngọ 32 tuổi lưu niên chữ Ngọ trùng với cung gốc của đại vận 23-32 tuổi



Yếu tố thiên thời của đại-vận (10 năm)



Mỗi đại-vận là một thiên-thời, đắc được thiên-thời gặp vận hội tốt đời sẽ lên hương, còn mất thiên-thời thì đời sẽ thấy khó-khăn để rồi đi xuống.



Lấy ngũ hành của tam hợp tuổi đem so-sánh với hành tam hợp của cung đại vận nhập hạn:



Tam hợp tuổi tương đồng hành tam hợp vận - đắc vận Thái-tuế (thiên-thời) là đại-vận tốt đẹp nhất trong đời; thêm sao tốt nhập hạn thì được như gấm thêu hoa, nếu gặp ách-nạn thì cũng sẽ được cứu-giải mà qua khỏi.



Trường-hợp bị Hung-sát-tinh phá cách như Không-Kiếp ... thì vẫn được lên nhưng rồi dễ xuống, hay gặp khó-khăn và trở-ngại, vận hội tốt còn hưởng độ 50% mà thôi.



Đại-vận này cần phải được thêm tam-hợp Sinh-Vượng-Mộ hổ trợ thì mới được hưởng vận Thiên-thời một cách chính-đáng, trọn-vẹn và bền-bỉ.



Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Dần-Ngọ-Tuất (đại vận hỏa đồng hành tam-hợp tuổi hỏa)



Tam-hợp-vận sinh-nhập hành tam-hợp-tuổi - được thuận-lợi và sức-khỏe tốt; tuy-nhiên vì nằm trong tam-hợp Thiên-không nên cũng hay dễ xảy ra những sự thất-bại và buồn lòng, nếu đắc Hóa-khoa có thể cứu-giải.



Thí duï: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Hợi-Mão-Mùi (đại vận mộc sinh hành tam-hợp tuổi hỏa)



Tam-hợp-tuổi khắc-xuất hành tam-hợp-vận - bị sa-lầy, nhiều vất-vả (Thiếu-âm), phải gắng công tranh-đấu (Phá-Hư-Mã); có thể nhờ đến phần Nhân-hòa (sao) giúp-đỡ.



Thí duï: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Tỵ-Dậu-Sữu (đại vận kim bị hành tam-hợp tuổi hỏa khắc)



Tam-hợp-vận khắc-nhập hành tam-hợp-tuổi - khắc ngược rất xấu, cần phải có được nhiều sao tốt để cứu giải.



Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Thân-Tý-Thìn (đại vận thủy khắc hành tam-hợp tuổi hỏa)



Yếu tố địa lợi của Đại-vận (10 năm)

Địa-lợi là nơi an thân của bản mệnh tại đại vận. Nếu cung hạn tương sinh tất bản mệnh sẽ được vững chắc an lành. Phần này phải lấy ngũ hành nạp âm của mệnh so-sánh với ngũ hành của cung nhập-hạn :



Tương-Sanh - sức-khỏe dồi-dào và thường gặp may-mắn.

Thí dụ người mệnh hỏa đại vận đến hai cung Dần-Mão thuộc mộc được tương sinh.



Tương-Khắc - sức-khỏe kém, thường gặp nhiều khó-khăn và bất trắc xảy ra.

Thí duï người mệnh hỏa đại vận đến hai cung Hợi-Tý thuộc thủy bị tương khắc.



Nếu hành bản mệnh bị hành của cung đại-vận khắc rất xấu, nhưng được Chính-tinh tại cung đại-vận sinh-nhập lại mệnh (tức cung sinh sao và sao sinh lại mệnh) là cách "tuyệt xứ phùng sinh" rất tốt (ví dụ người mệnh hỏa bị hành của cung đại vận tại Hợi hay Tý thuộc thủy khắc, nhưng lại được chính tinh Thiên Cơ hoặc Thiên Lương tại Hợi-Tý thuộc mộc sinh lại bản mệnh)



Yếu tố nhân hòa của đại-vận (10 năm)



Nhân-hòa là thứ cách quan trọng sau yếu-tố Thiên-thời, nếu được Thiên-thời và Địa-lợi nhưng không được phần "Nhân-hòa" thì dù bản-thân có may-mắn đến đâu thì cũng phải bị nhiều vất-vả mới được thành-công, vì ít được sự trợ-giúp của bên ngoài.



Phần này phải xem bộ Chính tinh Đại-vận có cùng hay khác thế lưỡng-nghi với bộ Chính tinh của tam hợp Mệnh:



Nếu Chính tinh đồng bộ cùng phe phái lưỡng-nghi (như Tử-Phủ-Vũ-Tướng gặp Sát-Phá-Liêm-Tham) thì khi chuyển vận gặp nhau ít thay-đổi, thêm Trung-tinh đắc cách tam-hợp thì được hòa-thuận tốt đẹp.



Bằng như khác phe phái (như Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương gặp Sát-Phá-Liêm-Tham) thì hẳn là có sự đụng-độ và khó-khăn, phần thiệt-hại vẫn là phần của phe yếu thế là Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương; nếu gia thêm Sát-tinh nhập hạn thì sẽ gặp nhiều chuyện không may.



Tư-thế của bốn bộ Chính tinh (Tứ tượng) trên muốn được thêm hoàn-mỹ và thành-công thì cần phải có tối thiểu:



- Bộ T-P-V-T cần nhất là Tả-Hữu, Thai-Tọa

- Bộ S-P-L-T cần nhất là Thai-Cáo và Lục-sát-tinh

- Bộ C-N-Đ-L cần nhất là Xương-Khúc và Khôi-Việt

- Bộ C-N cần nhất là Hồng-Đào, Quang-Quý



* So-sánh hành Sao nhập hạn sinh hay khắc với hành Mệnh, bộ Sát-Phá-Liêm-Tham mỗi khi nhập hạn thường có những cuộc thăng-trầm khá quan-trọng xẩy ra.



Luận về Lưu niên đại hạn



Ngoài cách xem các đại vận 10 năm ra, nếu muốn xem đại vận một cách tường tận hơn thì phải xem cả lưu đại hạn của từng năm một.



Nếu muốn biết xem lưu đại vận từng năm một của mỗi 10 năm đại vận thì phải khởi năm thứ nhất từ con số đầu ghi ở cung gốc đại hạn muốn xem, tính tiếp sang cung xung chiếu của cung gốc hạn là năm thứ hai, sau đó:



Dương Nam - Âm Nữ : Từ năm thứ hai ở cung xung chiếu lùi lại một cung (theo chiều nghịch kim đồng hồ) là năm thứ ba, xong trở thuận lại cung xung chiếu ghi số tiếp năm thứ tư, rồi tiếp tục theo chiều thuận ghi tiếp mỗi cung một số cho các năm kế tiếp cho đến cung gốc của đại hạn sau.



Xem bảng thí dụ cách tính lưu đại vận của 10 năm đại vận từ 22 đến 31 tuổi của tuổi Dương Nam / Thủy Nhị Cục bên trái dưới đây.



Âm Nam - Dương Nữ : Từ số của năm thứ hai ở cung xung chiếu tiến lên một cung (theo chiều thuận kim đồng hồ) ghi số kế tiếp là năm thứ ba, xong trở lùi lại cung xung chiếu ghi số tiếp năm thứ tư, rồi tiếp tục theo chiều nghịch ghi tiếp mỗi cung một số cho các năm kế tiếp cho đến cung gốc của đại hạn sau.



Luận về Lưu niên tiểu vận (1 năm)



Trong lá số Tử Vi, chung quanh phần địa bàn (trung tâm của lá số) kế bên ô mỗi cung đều được ghi 1 địa chi (ví dụ Tý-Sửu-Dần-Mão ...) theo chiều nam thuận nữ nghịch, đó chính là năm tiểu vận tại mỗi cung của đời người - ví dụ năm Kỷ Mão thì xem tiểu vận tại cung có ghi chữ Mão, năm Canh Thìn thì xem tiểu vận tại cung có ghi chữ Thìn ...



Khi xem tiểu vận phải xem phối hợp với cung gốc của 10 năm đại vận của tiểu vận đó. Tiểu hạn (dầu tốt hay xấu) chỉ phụ giúp thêm hay làm giảm bớt 10% ảnh hưởng của Đại vận.



Mỗi tiểu hạn, chúng ta cần phải so sánh đến các tương quan giữa Can Chi của tuổi với Can Chi của năm nhập hạn vaø ngũ hành của các sao nhập hạn, sau đó phải so sánh hành bản mệnh với hành của cung tiểu vận nhập hạn theo bảng dưới đây để biết được tiểu vận đó tốt hay xấu.



So sánh hành Can của tuổi và Can năm nhập hạn (gốc, quan hệ)



So sánh hành Chi của tuổi và Chi năm nhập hạn (ngọn, thứ yếu)



So sánh hành bản mệnh và hành của năm hạn (tính theo nạp âm) để biết mức độ đắc thất.



So sánh Can của tuổi và Hành sao nhập hạn phụ thêm để quyết định.



Phụ luận :



Trong đời người từ nhỏ đến 60 tuổi có 5 lần gặp năm Thiên khắc Địa xung nhưng chỉ có 2 lần xung quan trọng là Năm 43 tuổi (hàng Can bị sinh xuất) và Năm 67 tuổi (hàng Can bị khắc nhập) vừa là giai đoạn gặp Thiên thương hay Thiên sứ.



Còn Năm 49 tuổi thường xấu vì tuy hàng Can của năm được sinh nhập (hưng vượng) nhưng hàng Chi lại nằm ở thế Phá Hư (không đắc ý) nên khiến cho từ chổ thành công mà lại đưa đến chỗ thất bại bất mãn; chẳng khác gì cây bị úng nước, rể phải hư và ngọn bị héo tàn.



Từ 49 đến 50 tuổi, 53 đến 60 tuổi và từ 67 đến 70 tuổi là ba đoạn đường đổ dốc để lượn lên các ngôi sơ thọ (50) - trung thọ (60) và thượng thọ (70) luôn luôn có Thương cung Nô và Sưù cung Ách là hai đồn canh đứng chặn giữa ba đoạn đường đại vận này để kiểm soát suôi ngược.



Người lái xe phải lành nghề (vòng Thái Tuế) vững tay lái, xe không ham chở nặng (Quyền Lộc) thì mới mong được an toàn.



Thương (thổ cung Nô) phụ tá của Thiên Sứ, gây ra tổn hại; có phần nào nhẹ tay hơn Sứ (cho người có đại vận đi xuôi gặêp Thương trước).



Sứ (thủy cung Ách) thi hành lệnh gieo tai ách



Mức độ nặng nhẹ của Thương-Sứ thi hành nhiệm vụ là tùy thuộc vào các Sát tinh nhập cuộc tại cung Nô và Ách như Văn Xương, Kình Dương (cung Tứ chính / các tuổi Giáp Mậu Canh Nhâm), Không Kiếp, Thiên Không, Tang Môn ...



Ngoài ra trong 3 đại vận liên tiếp trên, ít nào cũng năm sáu lần tiểu hạn đụng đầu Đào Hồng gặp Thiên không, Lưu hà và Kiếp Sát rất dễ gây ra sức ép với tuổi già.



Trừ phi Mệnh hay Thân đắc Thọ tinh hợp hành làm nồng cốt và không bị nghiệp báo Hình Riêu, Không Kiếp lũng đoạn.



Trong đời người, cứ mỗi 12 năm thì có 3 năm liên tiếp gặp hạn tam tai, thường thì hạn năm giữa là nặng nhất. Trong các năm nhập hạn tam tai thường gặp nhiều trở ngại, rủi ro hoặc khó khăn trong công việc. Ngoài ra không nên tu tạo hay tậu mãi nhà đất trong những năm hạn này. Còn việc hôn nhân, cưới hỏi thì ít bị ảnh hưởng. Đây chỉ là những dự đoán về hạn xấu chung để mà phòng tránh thôi chứ không chắc hẳn sẽ xảy ra như vậy.



Nếu năm nhập hạn trong lá số Tử Vi tốt thì hạn xấu của năm tam tai sẽ được giảm bớt, ngược lại nếu năm hạn trong lá số xấu mà gặp thêm năm tam tai thì năm hạn xấu sẽ càng xấu thêm.



Sao hạn Cửu Diệu :



Ảnh hưởng của Cửu Diệu tinh



La Hầu - còn gọi là Khẩu thiệt tinh, là sao xấu ảnh hưởng nặng cho Nam giới và người mạng Kim, phái Nữ thì ảnh hưởng nhẹ. Thường gây ra những trở ngại bất trắc, bệnh tật, khẩu thiệt, thị phi miệng tiếng. Hạn sao này cần phải dè dặt cẩn thận. Ảnh hưỡng vào các tháng giêng và tháng 7.



Thổ Tú - còn gọi là Thổ Đức tinh hay Ách tinh chủ gia đạo bất an buồn phiền, bệnh hoạn hay kéo dài, tiểu nhân phá phách, đi xa bất lợi. Hai tháng 4 và 8 bất lợi.



Thủy Diệu - còn gọi là Thủy Đức tinh là Phúc lộc tinh chủ bình an, giải trừ tai nạn, đi xa có lợi, Phụ nữ bất lợi về đường sông biển. Ảnh hưỡng vào các tháng 4 và tháng 8. Người mạng Kim và Mộc hợp với hạn sao này, riêng người mạng Hỏa thì hơi bị khắc kỵ.



Thái Bạch - còn gọi là Kim Đức tinh, là hung tinh chủ về sự bất toại tâm, xuất nhập phòng tiểu nhân, hao tán tiền bạc, bệnh tật nảy sinh. Phòng tháng 5 xấu, nhất là những người mệnh hỏa, kim và mộc.



Thái Dương - Phúc tinh chủ sự hanh thông, cứu giải nạn tai. Với Nữ giới thì công việc vẫn thành công nhưng rất vất vả. Tốt vào các tháng 6 và 10.



Vân Hán - còn gọi là Hỏa Đức tinh là Tai tinh chủ hao tài, khẩu thiệt và tranh chấp, kiện tụng bất lợi. Đề phòng những rủi ro bất ngờ. Tháng 4 và 8 xấu.



Kế Đô - được ví như bà hoàng hậu khắc khe, là sao xấu ảnh hưởng nặng nơi phái Nữ, riêng những người có thai hay sinh đẻ trong hạn sao này thì ít bị ảnh hưởng. Gặp hạn sao này những mưu sự thường gặp khó khăn, thành ít bại nhiều, phòng thị phi, đau ốm hay tai biến bất ngờ. Sao Kế đô dù ít ảnh hưởng tới Nam giới nhưng ít nhiều cũng có tác dụng không thuận lợi. Phòng tháng 3 và tháng 9



Thái Âm - Phúc tinh chuyên cứu giải bình an, tốt cho Nữ số. Sao Thái Âm nhập hạn là tài tinh đem lại nhiều may mắn về tài lộc nhưng mang tính chất bất thường, thời vận hay thăng trầm.



Mộc Đức - Phúc tinh chủ may mắn, gặp thời vận tốt. Sao Mộc đức cũng là một phúc tinh cứu giải nên trong trường hợp dù gặp khó khăn gì vẫn có quý nhân giúp sức vượt qua. Tháng 10 và 12 tốt, riêng người mạng Kim thì bất lợi đôi chút vì không hợp với hạn sao này.



Năm hạn trong lá số Tử Vi tốt mà gặp Cửu Diệu tinh nhập hạn tốt thì lại càng tốt thêm. Nếu gặp hạn sao xấu mà năm nhập hạn trong lá số tốt thì sao hạn xấu sẽ được giảm bớt. Ngược lại nếu năm hạn trong lá số xấu mà gặp thêm Cửu Diệu tinh nhập hạn xấu thì năm hạn xấu sẽ càng xấu thêm.



Luận về Tuần (hỏa) / Triệt (kim)



Tuần Trung Không Vong là cây cầu nối tiếp giữa hai giai-đoạn, kiềm hãm bớt từ từ lại, là trung gian kiềm chế, không cho quá trớn.



"Tứ chính giao phù kỵ nhất Không chi trực phá"



Triệt Lộ Không Vong là bao vây, ngăn cách từ cái xấu đến cái tốt, đã không cho xâm nhập từ ngoài vào (xấu cũng như tốt) , mà còn phá đổ tất cả những gì trong cung bị nó phong tỏa.



"Tam phương xung sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng"

(Không vong định yếu đắc dụng, nhược phùng bại địa chuyên khán phù trì chi diệu, đại hữu kỳ công)



Tuần Triệt chỉ có thể làm giảm sự tốt đẹp của Cát-tinh hay tiêu-tán bớt sự xấu của Hung-tinh, chứ không thể biến đổi tính cách của sao được, như biến Cát-tinh trở thành Hung-tinh và ngược lại.



Tuần-Triệt có thể làm cho bộ SPT thành hiền dịu lại đôi chút, còn đối với CNĐL thì làm cho bộ này trở nên chậm rãi, phấn-đấu hơi khó-khăn chứ không thể biến đổi từ ôn-hòa trở nên hào hùng và khí-phách như bộ SPT được.



Tuần-Triệt cũng không thể thay-đổi tính-cách của vòng Thái-tueá được, nhưng các sao trong tam-hợp Thái-tuế bị Tuần-Triệt phải tùy thuộc vị-trí mà thay-đổi tư-cách.



Trường-hợp những người chẳng may bị đặt để vào những vị-trí bất mãn (tam-hợp Tuế-phá, Thiếu-dương, Thiếu-âm) dễ tự thiêu thân, làm những việc xấu (nếu gặp SPT và Sát-tinh); được Tuần hay Triệt đóng khiến tự hạn-chế những tham-vọng và hành-động của mình mà thuận theo đường lợi-ích, nâng cao tư-cách không kém gì những người tam-hợp Thái-tuế.



Tuần-Triệt đóng giữa 2 cung, nghĩa là chỉ có liên-quan đến 2 cung đó mà thôi.



Dương-Nam / Âm-Nữ = ảnh-hưởng Tuần-Triệt tại cung Dương 70% và tại cung Âm 30%



Âm-Nam / Dương-Nữ = ảnh-hưởng Tuần-Triệt tại cung Dương 80% và tại cung Âm 20%



Mệnh bị Tuần hay Triệt thiếu-niên tân-khổ, luôn gặp trở-ngại lúc đầu thực-hiện công-việc.



Mệnh bị cả Tuần lẫn Triệt thì đời bị vùi xuống đất đen, không phải là Tuần-Triệt phá nhau để cho đương-số được thong-thả.



Tuần-Triệt phá nhau dành cho những người thuận lý âm-dương:



Mệnh hay Thân có một Tuần hay Triệt, đến đại-vận từ 30 tuổi trở đi gặp Tuần hay Triệt hay Triệt thì sẽ được tháo-gỡ cho hanh-thông, dầu chỉ là một vài năm (bất chấp đến vòng Thái-tuế).



Trường-hợp người Dương đóng cung Âm (hoặc ngược lại) mà Mệnh-Thân có một Tuần hay Triệt, khi đến đại-vận gặp Tuần hay Triệt thì thời-vận tốt mở làm hai lần chậm chậm ở 2 cung đại-vận có Tuần hay Triệt đóng (mỗi đại-vận là 5 năm).



Mệnh Tuần Thân Triệt (hoặc ngược lại) không còn gì để tháo-gỡ; ngay cả khi đến đại-vận Thái-tuế, ảnh-hưởng tốt đẹp cũng chỉ thỏa mãn 50% mà thôi.



Trên đây là kinh nghiệm về hai sao Tuần Triệt của học phái Thiên Lương, thật ra vấn đề đặc tính, ngũ hành và tác dụng của Tuần Triệt hiện còn đang là những nghi vấn, đề tài gây ra nhiều tranh luận, tùy theo mỗi người có lối tiếp thu, suy luận và khám phá riêng mà giải đoán.



Luận về Thiên Mã (hỏa)



Thiên Mã trong Tử-vi là một viên ngọc quí, viên ngọc quí này chỉ thấy ở trong hoàn-cảnh trái nghịch mà số đã xếp đặt cho người cung Mệnh hay Thân nằm trong tam-hợp Tuế-phá (bất mãn, đối kháng) của vòng Thái-tuế.



Thiên-mã là nghị-lực và khả-năng để giúp cho những người bất-mãn này đương đầu với những ngang-trái của tâm-thức và cuộc đời mà họ phải chịu. Đây chính là hình bóng một Tống Giang, một Đơn Hùng Tín, anh hùng hào hiệp chỉ phù suy chứ không tơ hào đến người thịnh. Còn tùy theo Thiên-mã có phải là của họ hay không mới là việc thành-bại quyết định.



Thiên Mã chủ tháo vát, tài năng và khéo léo. Ảnh hưởng nhiều đến công danh, sự nghiệp. Ngoài ra Thiên Mã còn chủ về sự di chuyển, thay đổi, đi xa và là phương tiện di chuyển như xe cộ, nếu gặp Sát tinh tùy theo mức độ nặng nhẹ dễ bị xe cộ hay hư hỏng hoặc tai nạn.



Về cơ thể con người Thiên Mã là tứ chi, nếu gặp Sát tinh tùy theo mức độ nặng nhẹ dễ bị thương tật.



Hành chính của Thiên Mã là hỏa, nhưng vì là dịch mã nên Mã đổi ngũ hành tùy theo phương vị Mã đóng, muốn làm chủ được Mã này thì bản mệnh phải đồng hành với cung Mã đóng thì mới có kết-quả được



Mã ngộ Tuần = Tuần là gạch nối liền giữa hai Giáp bắt cầu cho Mã trở nên đắc dụng. Tuy-nhiên Mã phải chùng lại một bước trước khi nhảy thì mới được thành-công, có nghĩa là vào giai đoạn đầu vẫn gặp những khó khăn, trở ngại nhưng rồi sau sẽ được hanh thông, nếu Thiên Mã hợp Mệnh, còn Mã ngộ Triệt là ngựa què ăn hại.



Người dương-nam - âm-nữ đại vận an theo chiều xuôi :



Mã mộc cung Dần gặp Tuần trở thành Mã hỏa



Mã hỏa cung Tỵ vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi



Mã kim cung Thân gặp Tuần trở thành Mã thủy



Mã thủy cung Hợi vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi



Người âm nam - dương nưõ đại vận an theo chiều ngược :



Mã mộc cung Dần vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi



Mã hỏa cung Tỵ gặp Tuần trở thành Mã mộc



Mã kim cung Thân vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi



Mã thủy cung Hợi gặp Tuần trở thành Mã kim



Thí dụ tuổi Kỷ Tỵ (Mệnh mộc) Mã tại cung Hợi ngộ Tuần đóng hai cung Hợi và Tuất. Nếu là người âm nam đại vận theo chiều nghịch thì Mã thủy sẽ theo cầu Tuần về lại cung Thân trở thành Mã kim khắc lại Mệnh mộc xấu. Còn với người âm nữ đại vận theo chiều thuận Tuần đóng sau lưng không thể bắt cầu cho Mã chạy nên Mã thủy sẽ sinh phò cho Mệnh mộc rất tốt.



Những cách tốt của Thiên Mã



Mã đắc Tràng-sinh = là giai-đoạn phát thịnh của tam-hợp Tuế-phá, Mã phải nằm trong tam-hợp Sinh-Vượng-Mộ thì mới được gọi là thanh vân đắc lộ nhưng chỉ hanh-thông trong đại-vận đó mà thôi và còn tùy thuộc vào Hành của Mã phù hay hại Mệnh nữa.



Mã-Khốc-Khách = Mã phải nằm trong tam-hợp Lộc-Tồn dành cho các tuổi Giáp/Thìn-Tý-Thân và Canh/Tuất-Ngọ-Dần. Phần ngoại-lệ này ban phát cho người được nhiều nghị-lực bền bỉ, tùy theo sự sinh-khắc của bản mệnh đối với Mã (xử-dụng và làm lợi).



Những cách xấu của Thiên Mã



Mã kỵ gặp Không Kiếp, Kình-Đà, Thiên-hình và Triệt là ngựa què, ngựa chết dễ bị trở ngại hay tai họa.



Mã ngộ Tuyệt = Người mệnh kim-hỏa và thổ / dương nam hay âm nữ, mệnh có Thiên Mã gặp Tuyệt (sao cuối cùng của vòng Tràng Sinh) tại cung Hợi là cách "Mã cùng đồ" ngựa cùng đường, hết lối chạy chỉ sự bế tắc và thất bại.



Luận về bộ sao Tứ Hóa



Hóa-khoa (thủy) - văn-tinh chủ về phúc-quý, là Đệ Nhất Giải Thần hoán cải được tư-cách SPLT và ngộ chế được Thiên-không, Lục-sát-tinh.



Hóa-quyền (mộc) - trung-lập chủ về uy-quyền và may-mắn, hay vụng tính sinh kiêu vì tự ái nên gặp Sát-tinh dễ bị kết-quả xấu



Hóa-lộc (mộc/thổ) - tài lộc do công khó làm ra, tăng ảnh-hưởng cho Tài-cát-tinh và tốt cho cung Điền-Tài.



Hóa-kỵ (thủy) - ám tinh hay đố kỵ, là sao Kế-đô của nữ mệnh. Giảm sự tốt đẹp của Cát-tinh, tăng ảnh-hưởng xấu của Sát-tinh.



Tam Hóa được áp đặt vào những chính-diệu theo hàng Can tuổi để đem lại sự hảnh-diện và phú quý cho người được hưởng. Giá-trị thật sự của Tam-hóa chỉ là gấm thêu hoa cho những bộ Chính-tinh dắc cách mà thôi chứ không phải là tư-cách, khả-năng và nghị-lực dùng để nâng cao phẩm-giá thực-sự cho người chính phái.



Nhận xét bảng tóm luận trên, các tuổi Ất-Bính-Kỷ-Nhâm-Quý được những sao đầy-đủ tư-cách hiền-lương nhân-hậu hẳn con thuyền khi ra khơi ít gặp phong ba bão lớn. Còn thuận buồm suôi gió hay không tùy thuộc ở hàng Chi (vòng Thái tuế) và giòng nước theo chiều cuộc diện (vòng Tràng-sinh).



Cách Tam hóa liên châu - ba sao đóng liên tiếp ba cung từ cung Dần đến Mùi / đắc vị nhất tại cung Thìn được dành cho 6 tuổi Ất/Tỵ-Dậu-Sửu (Khoa giáp Quyền-Lộc tại vị-trí Thiếu-âm) và Canh/Thân-Tý-Thìn (Quyền giáp Khoa-Lộc tại vị-trí Thái-tuế), còn các tuổi Ất-Canh khác chỉ là vay mượn mà thôi



Thiên Tài & Thiên Thọ (thổ)



Thiên Tài có ý nghĩa là tài năng, đo lường cắt giảm, vì thế nên Tài có đặc tính như Tuần Không là giảm ảnh hưởng xấu của các sao mờ ám và giảm bớt ảnh hưởng tốt của các sao sáng sủa.



Thiên Thọ là Phúc Thọ tinh chủ nhân hậu, từ thiện và gia tăng ảnh hưởng cho các phúc thọ tinh.



Ngoài những tính chất kể trên, Tài Thọ còn tượng trưng cho đạo lý Nhân Quả của đời người. Tài được khởi từ cung Mệnh (định mệnh thừa trừ mà cắt giảm) và Thọ được khởi từ cung an Thân (bản thân tự gây tạo) đến một cung nào đó để mách bảo cho biết là giữa Mệnh Thân và cung mà Tài hay Thọ đến đóng đã có sự hoán cải do luật thừa trừ mình đã gây nên.



Thân (Thiên Thọ / Nhân) = cá nhân tự gây tạo, tùy theo vị trí "Thân" để quyết định hành động theo cung mà Thiên Thọ đóng.



Mệnh (Thiên Tài / Quả) = định mệnh thừa hành mà cắt giảm, chịu ảnh hưởng cân quả do Thọ đã làm ra, tại cung có Thiên Tài đóng.



Nếu như Thân (tam hợp Thái Tuế) có làm ra "Thọ" hay cư xử sao cho "Thọ" được toàn vẹn thì Mệnh mới có đủ "Tài" năng lực hoán cải tạo ra những sự tốt đẹp để đền đáp. Còn như Thân xuất phát chử "Thọ" bị Không-Kiếp hãm thì Mệnh "Tài" kia cũng sẵn sàng đem lại những kết quả là hình thức như tranh vẽ mà thôi.



Người đời nhập thế ở khoảng thời gian nào thì sẽ thấy căn quả của mình phải mang nặng ở ngay phần việc nào như:



Năm Tý (Tài ở Mệnh) căn quả do chính bản thân mình



Năm Sửu (Tài ở Phụ) phải làm sao với Đấng sinh thành



Năm Dần (Tài ở Phúc) căn quả chịu ảnh hưởng nơi dòng họ



Năm Mão (Tài ở Điền) căn quả chịu ảnh hưởng về nhà cửa điền sản



Năm Thìn (Tài ở Quan) căn quả chịu ảnh hưởng với công việc làm



Năm Tỵ (Tài ở Nô) căn quả chịu ảnh hưởng nơi bạn bè, kẻ dưới tay



Năm Ngọ (Tài ở Di) căn quả chịu ảnh hưởng nơi ngoại nhân



Năm Mùi(Tài ở Ách) căn quả chịu ảnh hưởng những hoạn nạn



Năm Thân (Tài ở Tài) căn quả chịu ảnh hưởng do tiền của thâu hoạch



Năm Dậu (Tài ở Tử) căn quả chịu ảnh hưởng nơi con cháu



Năm Tuất (Tài ở Phối) căn quả chịu ảnh hưởng ở vợ chồng



Năm Hợi (Tài ở Bào) căn quả chịu ảnh hưởng nơi anh em



Các cách tốt xấu của Thiên Tài



Thiên Tài + Nhật hay Nguyệt = Thiên Tài khi đồng cung với Nhật hay Nguyệt hãm sẽ gia tăng sức sáng cho Nhật Nguyệt và sẽ làm giảm sự quang huy của Nhật Nguyệt một khi bộ sao này sáng sủa tốt đẹp. Trường hợp Nhật Nguyệt đồng cung thì Thiên Tài sẽ làm cho Nhật Nguyệt thêm rực rỡ tốt đẹp.



Thiên Tài + Nhật hãm = Người không cẩn trọng lời nói, thiếu lòng tín ngưỡng về thần quyền



Thiên Khôi (dương hỏa đới kim)

Thiên Việt (dương hỏa đới mộc)



Nhận xét kỷ sẽ thấy Khôi Việt hoàn toàn gần như đứng nghịch lý âm dương với cung đóng, tức là không bao giờ đứng chung trong tam hợp Thái Tuế hoặc Tuế Phá mà chỉ đứng trong tam hợp Thiếu Dương (Thiên Không) và Thiếu Âm.



Theo nhận xét trên, nếu xét theo ngũ hành thì Thiên Khôi luôn luôn bị khắc nhập, phải sinh xuất hay khắc xuất mà sa lầy bởi cung đóng và bị Triệt làm cho thất thế. Trong khi Khôi đóng vào những hoàn cảnh không được thuận lợi như vậy thì Việt lại được ưu thế vững vàng hơn, nhất là hai tuổi Đinh-Quí / Tỵ-Sửu được đứng chung tam hợp Thái Tuế như có ý là Việt ở ngôi vị thứ "Ất" thay mặt cho Khôi là trưởng "Giáp" mà lo toan mọi việc.



Vậy Khôi Việt chính là Thiên Ất Quý Nhân luôn đóng trong những tam hợp bất đắc ý vì nghịch lý âm dương và bị Sát tinh lủng đoạn hoành hành để giúp đỡ cứu tai giải họa và báo động cho người có số biết suy gẫm và điều chỉnh lại cung cách sống sao cho có ích thiện hơn như hai chữ Tài Thọ đã hướng dẫn.



Ngoài sứ mạng là Phúc tinh chủ về phúc thọ, cứu khổn giải nguy ra, Khôi Việt còn là Văn tinh hổ trợ cho các sao văn chương, nghệ thuật như Xương Khúc và là Quý tinh chủ về khoa giáp và quyền tước khi đứng chung với Khoa-Quyền-Lộc, Lộc Tồn, Thai Tọa...



Các cách tốt của Khôi-Việt



Khôi-Việt + Quý tinh = Gia tăng ảnh hưởng cho bộ Tử-Phủ-Vũ-Tướng và Xương-Khúc, Thai-Cáo, Khoa-Quyền-Lộc ... Người được cách này thường thông minh, có tài thao lược, óc tổ chức và nắm giữ các chức vị cao trong công quyền.



Người được Khôi Việt thủ mệnh thường là con trưởng hoặc đoạt trưởng.



Các cách xấu của Khôi-Việt



Khôi Việt + Triệt hay Ky-Hình = Khôi Việt bị Triệt án ngữ hoặc Sát tinh, nhất là các sao Không là người thường bất đắc chí, công danh trắc trở không lâu bền. Dễ bị những tai họa đao thương hay súng đạn và yểu mệnh.



Thiên Quan Quí Nhân (dương hỏa)

Thiên Phúc Quí Nhân (âm thổ)



Nhận xét kỷ bảng an sao sẽ thấy Quan Phúc được phân công chia đều cho cả hai phía âm dương và có những vị trí hoàn toàn nghịch lý âm dương như Thiên Quan với các tuổi Giáp-Ất-Bính-Đinh-Mậu-Canh-Quý và Thiên Phúc với những tuổi Giáp-Ất-Mậu-Kỷ.



Riêng 5 tuổiGiáp-Ất-Mậu-Tân-Nhâm được Quan Phúc và cả Thiên Ất Quí Nhân (Khôi-Việt) đồng tụ lại đứng chung để ra công giúp đỡ, đem phân tích từng tuổi sẽ thấy:



Tuổi Giáp tại cung Mão của tam hợp Hợi-Mão-Mùi thường xuyên có Thiên Không và Kình Dương lủng đoạn.



Tuổi Ất tại cung Thìn của người âm nam trong tam hợp Thân-Tý-Thìn có Đà La là lưới trời.



Tuổi Mậu tại cung Ngọ có Kình Dương là kiếm treo đầu ngựa bất lợi cho ba tuổi Dần-Ngọ-Tuất và Thiên Không tung hoành tại cung Mão.



Tuổi Tân tại cung Dậu trong tam hợp Tỵ-Dậu-Sửu có Phá Toái phá hoại và cung Tỵ có Triệt chặn đứng, với tuổi Tân Tỵ còn bị thêm Tuần tại Dậu.



Tuổi Nhâm bị mắc lưới tại cung Tuất với Đà La.



Tóm tại, chúng ta nên chú ý tại những cung mà có nhiều Phúc Thiện tinh như Quan Phúc, Khôi Việt, Tứ Đức... tụ chung lại đều là những cung có sự hiểm nghèo vì nghịch lý âm dương và bị Sát tinh lủng đoạn hoành hành để giúp đỡ cứu tai giải họa và báo động cho người có số biết sẽ có những trở ngại và thử thách gay go trong cuộc sống, nhất là với bốn tuổi Mậu-Ất-Tân-Nhâm để đương nhân suy gẫm và điều chỉnh lại cung cách sống sao cho có ích thiện hơn như hai chữ Tài Thọ đã hướng dẫn, có kết quả tốt hay xấu còn tùy ở người có tuân theo mà cải thiện hay là bỏ qua.



Vậy Quan Phúc Quý Nhân chính là những Phúc Thiện tinh chủ về sự đức độ, nhân hậu, thực hiện từ thiện, giải trừ bệnh tật và tai họa...



Thiên Đức (hỏa) Phúc Đức (thổ)

Nguyệt Đức (hỏa) Long Đức (thủy)



" Thiên Nguyệt Đức, Giải Thần tàng,

cùng là Quan Phúc, một đoàn trừ hung"



Thiên Đức và Nguyệt Đức được an theo năm sinh. Còn Phúc Đức và Long Đức là hai sao thuộc vòng Thái Tuế cũng được an theo năm sinh. Bộ sao Tứ Đức là phúc thiện tinh chủ về sự đức độ, nhân hậu, từ thiện và có khả năng giải trừ bệnh tật và tai họa. Tứ Đức có thể chế giải một phần nào ảnh hưởng xấu của các sao hung sát.



Bản chất của Tứ Đức là đức hạnh và đoan chính nên chế ngự được tính dâm đãng hoa nguyệt của Đào Hồng và các dâm tinh.



Nhận xét về Thiên Đức, Phúc Đức và Nguyệt Đức chúng ta sẽ thấy ba sao này luôn đóng trong tam hợp Thiếu Dương của vòng Thái Tuế để khuyên nhủ, chỉ đường và cứu giải cho các tuổi nằm trong tam hợp Thiếu Dương vì quá tinh khôn đứng vượt lên trên Thái Tuế nên bị nghịch lý âm dương và luôn luôn có Thiên Không tác hại. Còn lại một Long Đức trong tam hợp Thiếu Âm để an ủi cho những tuổi bị bạc đãi và thua thiệt.



Chúng ta nên chú ý tại những cung mà có nhiều Phúc Thiện tinh như Quan Phúc, Khôi Việt, Tứ Đức... tụ hợp chung lại đều là những cung có sự hiểm nghèo vì nghịch lý âm dương và bị Sát tinh lủng đoạn hoành hành để giúp đỡ cứu tai giải họa và báo động cho người có số biết sẽ có những trở ngại và thử thách gay go trong cuộc sống, để đương nhân suy gẫm và điều chỉnh lại cung cách sống sao cho có ích, kết quả tốt hay xấu còn tùy ở người có tuân theo mà cải thiện hay là bỏ qua.



Phá Toái (hỏa đới kim)



Phá Toái được an theo năm sinh (tứ chính, tứ sinh và tứ mộ) là hung tinh chủ sự phá tán, gây trở ngại, hao tán tiền của, điền trạch. Gia tăng ảnh hưởng xấu của các sát tinh như Không Kiếp, Hỏa Linh nếu kết hợp.

Phá Toái chỉ đóng tại 3 cung Tỵ-Dậu-Sửu trên địa bàn Tử Vi, tuy chổ đóng bị hạn chế như vậy nhưng ảnh hưởng phá tán của Phá Toái cũng đủ làm ngang trái tư cách của các Chính tinh hiền dịu như Tử-Phủ, Cơ-Lương và tăng thêm sức mạnh cho bộ Sát-Phá-Tham, nhất là Phá Quân.

Nhận xét về sao Phá Quân đóng tại ba cung Tỵ-Dậu-Sửu (vị trí thường trực của Phá Toái) đều hãm địa hết như Vũ-Phá ở Tỵ và Liêm-Phá tại Dậu. Riêng Tử-Phá ở Sửu tuy đắc địa nhưng tư cách xấu không hơn gì Vũ-Phá và Liêm-Phá tại hai cung Tỵ-Dậu.

Mệnh Vũ-Phá tuổi Tý-Ngọ-Mão-Dậu (tuổi Dậu đẹp nhất)

Mệnh Liêm-Phaù tuổi Dần-Thân-Tỵ-Hợi (tuổi Tỵ đẹp nhất)

Mệnh Tử-Phaùù tuổi Thìn-Tuất-Sửu-Mùi (tuổi Sửu đẹp nhất)

PháToái + Phá Quân = tạo thành cách "Toái Quân lưỡng Phá" dũng mãnh và hiển đạt về vỏ nghiệp

Luận về Thiên-không và Hồng-Đào

Cung Dần-Thân-Tỵ-Hợi - vị-trí của Hồng-loan làm chủ, Đào và Không tam hợp, là vị-trí của người thấy xa hiểu rộng, ít tham-vọng, đầy lòng đạo-đức, từ-tâm và cởi mở.

Tuổi Thìn-Tuất-Sửu-Mùi tại các vị-trí Dần-Thân-Hợi có thêm Cô-thần tam hợp nên được lòng cởi mở sáng-suốt, biết thân hiểu phận yếu mềm, dễ khiến sinh ra nhạy-cảm đến yếm-thế.

Riêng tại vị-trí Tỵ có thêm Phá-toái tam-hợp, vì Hồng-loan hơi yếu nên Phá Toái thường gây ra những sự ngang trái và khó-khăn cho mệnh số, như phải chịu ít nhiều những sự thử-thách.

Người của tam-hợp Thiếu-dương tại vị trí này nếu biết ngộ được chữ "không" của đời mình thì sẽ tránh được mọi phiền-não do Thiên-không gây ra.

Cung Tý-Ngọ-Mão-Dậu - vị-trí chính của Đào-hoa, được Hồng Loan tam hợp phát tiết vẻ anh hoa, sức quyến-rũ tạo nên sự mưu-sĩ , quỷ-quyệt và đạo đức giãkhiến phải sớm nở tối tàn vì Thiên-không và Kiếp-sát.

Với tuổi Dương, Đào đắc Thiên-riêu như được một phần nào thanh cao, đỡ sa ngã và đồi trụy hơn các tuổi Âm.

Tuổi Dần-Thân-Tỵ-Hợi tại vị-trí này đầy lòng tự-hào và có tham vọng cao nên rất dễ bị hãm vào vòng di lụy.

Người của tam-hợp Thiếu-dương tại vị trí này thường khôn-ngoan, thích lấn-lướt hơn người; nếu tại Mệnh thì đó là còn trong ý định, còn tại Thân thì lại tỏ ra bằng hành-động.

Cung Thìn-Tuất-Sữu-Mùi - vị-trí của Thiên-không một mình tung-hoành tác-hại và gieo tai-họa, vì thường-xuyên vắng bóng tôi trung là Hồng-loan mà chỉ còn kẻ nịnh là Đào-hoa đưa đẩy.

Tuổi Tý-Ngọ-Mão-Dậu tại vị-trí này rất khẳng-khái, nhiều khi quá cứng-rắn nên thường bị những kết-quả có phần ác liệt hơn các tuổi khác.

Người của tam-hợp Thiếu-dương tại vị-trí này thường hay đạp đổ để xây-dựng lại theo ý mình, dễ bị sa vào đường gây ra tội ác, nếu có thêm Hung-tinh gây bè kết đảng xúi giục.

Nói chung bộ Đào-Hồng-Không dầu gì cũng có tính-cách là vạn sự giai không, những người đạo-đức không màng tưởng đến phú-quý là cái "không" cao cả; kẻ mưu sĩ quỷ quyệt có xoay sở cho lắm rồi cũng lảnh hậu-quả là cái "không" bù trừ. Còn hạng người tàn-ác thường gieo tai-họa rồi ra cũng chỉ còn "không" trơ-trọi.

Chỉ còn người sáng suốt vẫn được sống yên lành là trường-hợp của Hồng Loan.

Thiên Hình (kim)

Thiên Hình là hung tinh chủ sự dũng mãnh, sát phạt phá tan, hình thuơng, gây trở ngại.

Thiên Hình hợp với Thiên Riêu là bộ sao đặc biệt cùng khởi theo tháng sinh từ tam hợp Tỵ-Dậu-Sửu và cùng đắc địa tại các cung Dần-Thân-Mão-Dậu-Tuất. Vì thế cho nên nếu Hình-Riêu đứng cặp với bộ sao nào hợp tình hợp cảnh sẽ gia tăng ý nghĩa cho các sao đó, tùy từng trường hợp. Như Hình Riêu đứng cặp với Xương Khúc là hỷ thần chủ về học thành, công danh hiển đạt...

Ngoài ra, theo học phái Thiên Lương thì Thiên Hình cùng với cung an Thân còn có một liên quan đặc biệt, như chúng ta đã biết Thân là hành động và Thiên Hình chính là sự phán xét, cùng cấu kết với nhau như bóng với hình.

Thân cư Mệnh thì Hình ở Ách (giờ Tý) hoặc Phuï (giờ Ngọ)

Thân cư Quan thì Hình ở Tử (giờ Dần) hoặc Điền (Thân)

Thân cư Tài thì Hình ở Bào (giờ Thìn) hay Nô (giờ Tuất)

Thân cư Di thì Hình ở Phối (giờ Mão) hoặc Quan (giờ Dậu)

Thân cư Phối thì Hình ở Mệnh (Tỵ) hoặc Di (giờ Hợi)

Thân cư Phúc thì Hình ở Tài (giờ Sửu) hay Phúc (giờ Mùi)

Mặc dầu cùng một cung an Thân nhưng nếu khác giờ sinh thì Hình sẽ ở tại cung đối xung để cho người có số biết sự chọn lựa như thế nào giữa hai cung.

Ví dụ Thân cư Quan nhưng nếu sinh giờ Dần thì Hình ở Tử và nếu sinh giờ Thân thì Hình sẽ ở Điền (đối cung với Tử) để giúp ta dự kiến trước khả năng sẽ phải đương đầu (mất con hay phải chịu thiệt hại về nhà đất) để mà tự do chọn lựa cách xử thế trong quá trình làm việc công ích xã hội như Thân cư Quan đã cho biết.

Những Cách tốt của Thiên Hình

Hình + cung Dần = Hình đắc địa tại cung Dần là cách "Hổ hàm kiếm" dũng mãnh và hiển đạt về vỏ nghiệp.

Hình + Binh + Tướng + Ấn = Hình là đại long đao, chủ sự sát phạt, có tài chỉ huy, thao lược và hiển đạt về vỏ nghiệp. Nhất là người Kim cung Mệnh tại Ngọ có Thất Sát và Hình đồng cung.

Hình + Dâm tinh = Bản chất của Thiên Hình là ngay thẳng, đoan chính vì thế nên Thiên Hình chế ngự được tính hoa nguyệt, dâm đãng của Đào Hồng và các dâm tinh khác.

Những Cách xấu của Thiên Hình

Hình hãm địa + Sát tinh = Gia tăng ảnh hưởng cho Sát tinh chủ tai họa, chém giết, hình thương và tù đầy, nhất là khi Hình đồng cung với Tướng hoặc Maõ bị Triệt.

Hình hãm địa + Tù tinh = Hội với các tù tinh như Liêm Trinh, Kình-Kiếp, Thái Tuế... thì hay bị quan tụng, hình ngục khó thoát.

Hình + Riêu + Không + Kiếp = Chủ oan trái nghiệp quả và chịu tai họa tập thể.

Thượng cách:

Tử-Phủ-Vũ-Tướng

Sát-Phá-Liêm-Tham

Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương

Cự-Nhật

Nhật-Nguyệt

Muốn được thượng cách, tuổi và cung Mệnh phải được hội đủ các yếu tố như Âm Dương thuận lý, Mệnh Cục tương sinh.

Cung Mệnh-Thân của lá số phải được 1 trong 5 bộ Chính tinh trên, các sao trong bộ phải đầy đủ và miếu vượng hay đắc địa, sinh hay đồng hành với bản mệnh. Được nhiều Trung tinh như Khoa-Quyền-Lộc, Xương-Khúc, Khôi-Việt, Tả-Hữu, Thai-Tọa, Long-Phượng... đắc địa đồng cung hay hội chiếu và không bị Hung Sát tinh phá cách.

Người được thượng cách thường là sinh phùng thời, đạt được những thành công lớn trong cuộc đời, có tiền tài danh vọng hoặc là các bậc khoa bảng, có chức phận hay quyền tước cao trong xã hội.

Trung Cách

Trung cách là cách không được hoàn toàn như thượng cách, một trong hai yếu tố là tuổi và cung Mệnh âm dương bị nghịch lý hoặc Mệnh Cục khắc nhau.

Ngoài ra bộ cách của Chính tinh tại cung Mệnh-Thân của lá số không hội tụ đầy đủ và có sao bị lạc hãm. Các trợ tinh đồng cung hay hội chiếu như Khoa-Quyền-Lộc, Xương-Khúc, Khôi-Việt, Tả-Hữu, Thai-Tọa... không hội đủ hoặc lạc hãm và có Hung Sát hay Bại tinh xâm phạm.

Người được trung cách cũng đạt được những thành công trong cuộc đời nhưng không hiển hách bằng thượng cách, thường nghề nghiệp trung lưu, có tiền tài hay chức vị nhỏ trong xã hội.

Hạ Cách

Lá số hạ cách một hoặc cả hai yếu tố là tuổi và cung Mệnh âm dương bị nghịch lý hoặc Mệnh Cục khắc nhau.

Ngoài ra bộ cách của Chính tinh tại cung Mệnh-Thân của lá số không hội tụ đầy đủ và có sao bị lạc hãm, khắc nhập lại bản Mệnh. Thiếu nhiều trợ tinh như Khoa-Quyền-Lộc, Xương-Khúc, Khôi-Việt, Tả-Hữu, Thai-Tọa... đồng cung hay hội chiếu và bị nhiều Hung Sát hay Bại tinh phá cách.

Người hạ cách thường suốt đời bị vất vả lận đận, bất như ý trong cuộc sống, nghề nghiệp không nhất định và hay phiêu bạt.

* Ba cách (Thượng-Trung-Hạ) kể trên chỉ ảnh hưởng nhiều đến chính bản thân đương số mà thôi.

Cách đọc và giải nghĩa một lá số tử vi thế nào?

Thông thường khi xem xét cung Mệnh là gốc phải xem hành của cung an mệnh sinh hành của chính tinh thủ mệnh và hành của chính tinh thủ mệnh sinh hành của bản mệnh thì rất ngon lành có nghĩa là độ số rất tốt 

Ngoài ra phải xem vị trí của cung an mệnh ở vị trí sinh , vượng , bại , tuyệt địa để biết tốt hay không . Tương tự khi xem xét về hậu vận thì xem Cục và cung Thân vì tương ứng với thời gian lập thân và hậu vận khi đó hành của cung Thân tương sinh hành của chính tinh cư cung Thân và hành của chính tinh này sinh Cục thì hậu vận tốt lành .

Thường trong Tử vi yếu tố âm dương là quan trọng vì là khởi nguyên của vũ trụ , kế đến xem xét các đặc tính của tinh đẩu và sau đến ngũ hành của cung và sao . Các bậc thánh nhân , tiên hiền đã đưa Tử vi về các cách để dễ luận đoán mệnh vận nhân sinh như : TPVT - SPLT - CNĐL - CN - NHẬT NGUYỆT - VCD nhưng dù ở cách nào thì cũng phải có các bộ trung tinh phò tá sáng sủa mới đắc cách như : Khôi Việt - Xương Khúc - Quang Quý - Tả Hữu - Tam hóa ( Khoa Quyền Lộc ) - Tam minh ( Đào Hồng Hỷ ) - Long Phượng .

Có nhiều lá số tốt tuy vậy đương số hay than thở là lận đận , trắc trở trong cuộc sống là do MỆNH TỐT không bằng THÂN TỐT , THÂN TỐT không bằng HẠN TỐT, điều này rất đúng vì khi xem xét một lá số phải xem Mệnh Thân Phúc và các cung cường để nêu bật các đặc tính cơ bản của cuộc đời tuy nhiên phải xét HẠN hành để thấy được dòng chảy của cuộc đời đương số với những thăng trầm, biến cố , vinh quang , hạnh phúc trong kiếp nhân sinh .
Khi xét về hạn phải xem có sự hợp cách hay không giữa các cách chính tinh ở cung Mệnh và cung Hạn . Thứ đến phải xem hành của cung hạn và hành của bản mệnh tương sinh hay tương khắc , sau đến xem hành của tam hợp tuổi có đồng hành hay tương sinh với hành của tam hợp đại hạn thì ngon lành .

Thường khi xem xét 1 lá số người ta xét :
Mệnh 1 cung , tam hợp 2 cung , xung chiếu 1 cung , nhị hợp 1 cung , giáp 2 cung và dù thuận hay nghịch gì thì cũng từ cung Mệnh mà khởi Đại hạn 10 năm đi theo cục do vậy mỗi Đại hạn đều khác nhau từ lúc chào đời đến lúc quy tiên . Bí quyết của Tử vi nằm ở nhị hợp , tam hợp đã được đặt thành nguyên tắc , hệ thống hóa để sử dụng .
12 cung , tuổi được gom thành tam hợp :
Dần - Ngọ - Tuất hành Hỏa .
Hợi - Mão - Mùi hành Mộc .
Thân - Tý - Thìn hành Thủy .
Tỵ - Dậu - Sửu hành Kim .


Trong 4 thế tam hợp trên thì Tứ mộ hành Thổ ( Thìn Tuất Sửu Mùi ) làm nòng cốt , nền tảng để Tứ sinh , Tứ chính được bồi đắp đầy đủ sung túc .   
Trước hết phải nói đến thế tam hợp vì là căn bản của thế đứng chân vạc của mỗi cung , địa chi liên đới với nhau tạo thành một sức mạnh đứng trong ngũ hành .
Khi xem xét nhị hợp phải biết cung đó trong thế tam hợp nào đối với chính cung . Tình trạng nhị hợp thì chỉ có sinh nhập và sinh xuất .
Ví dụ : Trên địa bàn xem xét cung Thìn ( Thân Tý Thìn là tam hợp Thủy ) nhị hợp là cung Dậu sinh nhập cho cung Thìn có nghĩa là mọi sự may rủi bộc phát .
Nếu xem xét cung Dậu ( Tỵ Dậu Sửu là tam hợp Kim ) nhị hợp là cung Thìn ( Thân Tý Thìn là tam hợp Thủy ) thì Dậu phải sinh xuất cho Thìn do đó mọi sự may rủi phải sút kém , không trông cậy gì được ở nhị hợp .
- Xét vị trí xung ở thế khắc như Dần Ngọ Tuất ( Hỏa ) xung Thân Tý Thìn ( Thủy ) và Tỵ Dậu Sửu ( Kim ) xung Hợi Mão Mùi ( Mộc ) có nghĩa là chỉ có khắc xuất và khắc nhập . Chính cung khắc xuất đối xung thì ví như người thắng cuộc . Trường hợp đối xung khắc nhập chính cung thì làm sao chính cung thu được lợi lộc của cung xung chiếu vì thế coi như là kẻ chiến bại .
Ngoài ra khi xem xét 1 lá số tổng thể , toàn bộ cách cục phải xem xét đến 3 vòng Thái Tuế , Lộc tồn , Tràng sinh vì 3 vòng này rất quan trọng cho thấy được tư cách của đương số , sự thụ hưởng tài lộc và cách xử thế nhân sinh .
Nói túm lại cái quan trọng chính yếu của Tử vi là tam hợp ,là căn bản chính của lý số học . Khi nắm bắt được tam hợp sẽ suy ra nhị hợp và xung chiếu với các sao tọa thủ , cư chiếu ở các cung ở vị trí đắc hãm ,với 3 vòng Tuế , Lộc , Sinh xem như có thể đã biết 7/10 đời sống cá nhân của đương số . Tử vi không chỉ là một khoa tìm hiểu số mệnh con người mà còn tiềm tàng gói ghém phần triết học nhân sinh , một đạo lý cư xử minh triết , tinh tế , trung thực cho hợp với đạo Trời đất , thuận lòng người.   Cách giải đoán lá số tử vi, giải đoán lá số tử vi thế nào?

1. Quan sát và phân tích bố cục của các cung và các sao

+ Thế đứng của các chính tinh: Sao nào đi với sao nào để thành cặp, vị trí của các cặp sao Âm Dương, Tử Phủ, Thất Sát, sao chủ mệnh. Miếu hãm của các sao.

+ Thế đứng của các ngôi: mệnh tài quan nằm ở đâu, phu thê ở đâu...

+ Quan sát bố cục của các trung tinh, phụ tinh:

Trung tinh gồm các sao như: Khôi Việt Tả Hữu Tứ Hoá, Xương Khúc, Thanh Long, Quang Quý, Thiên Hình Thái Tuế, Kiếp sát, Lộc tồn, Lục sát ( Kình Đà Linh Hoả Không Kiếp), Thiên Mã.

Tuy nói là trung tinh, nhưng nhiều khi nó quyết định cục diện của lá số còn mạnh hơn cả chính tinh. 

Kế đó phải kể tới vòng Tràng sinh, rồi Khốc Hư, Tang Hổ, và các sao chỉ bộ phận trong cơ thể để đoán biết về đặc điểm ngoại hình, bệnh tật.

Từ sự quan sát bố cục lá số này, cần phải rút ra được:

- Điểm nổi bật nhất của lá số: Mấu chốt nằm ở cung nào, sao nào, cách cục nào

- Chỗ tốt ở đâu, chỗ xấu ở đâu.( Các ưu điểm và nhược điểm)

- Mức độ tốt xấu của từng yếu tố, ví dụ mức độ thành công về sự nghiệp, mức độ hạnh phúc trong gia đình...Nếu không nhận biết được mức độ thì không thể có kết luận khi giải số.

2. Xem xét riêng lẻ từng cung, từng sao

Về các cung: đầu tiên là cung mệnh, sau đó là cung hạn. Các cung còn lại thì tuỳ vào vấn đề muốn biết mà xem xét kỹ lưỡng hơn: ví dụ muốn hỏi về con cái thì căn cứ chính là cung Mệnh và cung Tử. Nhiều quan niệm coi cung Phúc là quan trọng khi xét bất cứ yếu tố nào của lá số, theo tôi thì không hẳn.

Về các sao: Phải xem chính tinh trước khi xem trung tinh và phụ tinh, nhất là chính tinh thủ trong những cung quan trọng đối với vấn đề cần luận đoán.

Từ chính tinh mà đánh giá tác dụng của trung tinh, cũng như từ sự kết hợp của chính tinh, phụ tinh, cung, ta mới xét đến các tiểu tinh ( phụ tinh).

Ví dụ: Tả Hữu phò tá cho Tử Phủ, Tam Minh phò tá cho Nhật Nguyệt. Tôi giỏi phải gặp vua hiền, mọi thứ phải đặt đúng chỗ của nó thì mới có tác dụng. 

Ở bầu thì tròn ở ống thì dài, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, nên không phải chỉ một sao hay một cung quyết định lá số hay một vấn đề, mà là tương tác phối hợp giữa các sao, các cung. 

Tương tự như vậy, cung mệnh và cung hạn phải được tính làm đầu trong mọi luận giải. 

Nếu không xác định được thứ tự ưu tiên, thứ tự quan trọng thì việc giải đoán tử vi sẽ rơi vào một mớ bòng bong, và dẫn đến mất độ chính xác.

3. Tập trung vào từng câu hỏi, từng vấn đề

Nghĩa là phải xác định được câu hỏi là gì để tập hợp và xử lý dữ liệu. Chỉ một câu hỏi nhưng có khi phải xem xét cả một lá số.

Sự tập trung và dứt khoát trong giải quyết vấn đè sẽ giúp luận giải được chính xác, vi tế hơn.

4. Định giờ sinh

Thực ra đây là thao tác quan trọng hàng đầu trước khi trả lời bất cứ câu hỏi nào đặt ra cho một lá số. Tuy nhiên vì việc làm này không phải dễ, nên tạm thời PC không trình bày trong khuôn khổ cuốn sách.

Với các bạn đọc có trình độ , hoàn toàn các bạn có thể xác định được và nên xác định giờ sinh. Sau khi trải qua ba bước noí trên, thì có thể xác định được tới 70% giờ sinh đã chọn là đúng hay sai.

Thao tác định giờ sinh được dựa chủ yếu trên:

- Hình dáng của đương số

- Đặc trưng về thân nhân

- Các sự kiện quan trọng trong từng niên hạn ( năm), nguyệt hạn (tháng)

Người giải đoán số cần có kinh nghiệm và sự nhạy cảm cần thiết. Có lúc chỉ nhờ có 1 sự kiện, một dấu vết để biết là có đúng giờ đó hay không.

Biểu tượng của các sao

1. Chính tinh

- Âm dương biểu tượng cho đôi mắt, thần thái, khả năng tình dục, sự thể hiện tình cảm và nhân sinh quan.Có cả khả năng điều hoà nữa.

- Tử Phủ biểu hiện dáng người, cân nặng, thế đi đứng, oai phong.Lục phủ ngũ tạng.

- Tham Lang thể hiện nhu cầu vật chất, nhu cầu tình dục, lòng tham. Phần thân dưới, những bộ phận nở nang như mông, ngực.

- Thiên Cơ thể hiện trí tuệ, khả năng tính toán, tổ chức.Tượng là cái trán, phần mày mắt.

- Vũ Khúc: Khả năng nghệ thuật, tài chính. Cái mũi, phần lườn, cánh tay.

- Cự Môn: Khả năng kháng cự, khả năng ngôn ngữ.Miệng, hậu môn, bộ phận dưới.

- Liêm trinh: Lập trường, cá tính, uy nghiêm. Phần xương cốt trên khuôn mặt, thần thái uy nghiêm trên toàn bộ cơ thể.

- Thiên tướng: Khả năng lãnh đạo, sai khiến người khác, năng lực quân sự. Cái đầu.

- Thiên đồng: Lượng mỡ trong người, phần dưới hai gò má ( thịt bao xương quai hàm), cái bụng.

- Thiên Lương: Lương tâm. Cột sống. Nhân trung.

- Thất sát: Tính cương quyết, dám làm dám chịu, có thể trả đũa hay sát phạt. Hàm răng. Xương và tính chất của bàn tay.

- Phá quân: Tính quật cường, làm phản, lập dị. Ấn đường và hai chân mày.

2. Trung tinh, phụ tinh

- Tả Hữu:Khả năng nhường nhịn, vị tha, thích ứng. Đôi vai, đôi tay.

- Hoá Khoa: Tư duy tri thức .Bộ não, sự đầy đặn rộng rãi của trán.

- Hoá Quyền: Khả năng quyết định, làm chủ. Gò má.

- Hoá Lộc: Khả năng buôn bán, kiếm lợi từ thiên hạ.Tóc, râu

- Hoá Kỵ: Tính đố ky, nghi ngờ, đối nghịch. Cái lưỡi, đôi môi.

- Khôi Việt: Vẻ sang trọng. Khu vực đầu mặt.

- Xương Khúc: Tình cảm, năng lực tưởng tượng. Xương, khớp.

- Kình Dương, Mộc dục: Bộ phận sinh sản của nam nữ.

- Thai: Tử cung
......

Một vài cách cục

a. Giàu

- Thái Âm, Vũ Khúc, Tham Lang, Thiên Phủ, Hoá Lộc, Thiên Mã, Lộc tồn được sinh vượng hay đóng tại mệnh mà hợp cách.

- Các sao tài tinh nói trên hội tụ cùng nhau.

- Tham ngộ Hoả Linh

- Tài, Phúc, Điền tốt.

- Riêu Lộc Trù đều vượng và bổ trợ cho mệnh.

b. Sang

- Âm Dương Xương Khúc Khôi Việt Khốc Hư đắc địa, phối hợp.

- Chính tinh hãm mà nhiều phụ tinh mạnh mẽ hỗ trợ, đặc biệt là Tam hoá.

- Vô chính diệu đắc cách: có trụ cột ( triệt tuần hay hung tinh đắc), có cát tinh chầu.

- Thanh Long Lưu hà, Thanh Long Hoá Kỵ, Tứ Linh đắc thời, đắc địa.

- Tử Vi, Phá Quân có nhiều trung tinh phò tá hợp cách.

- Sinh Vượng ở nơi vô chính diệu hay đất thuỷ mộc.

c. Uy quyền

- Thiên Tướng, Vũ Khúc, Thất Sát có khí thế mà ứng với mệnh hay hạn.

- Cô, quả, đẩu quân, thái tuế

- Hoá Quyền.

- Mã Khốc Khách, Hoa cái.

- Khôi Việt vượng và có cặp.

d. Hạnh phúc

- Đào Hồng Hỉ, Thiên Trù, Hoa cái, Thanh Long, Thiên Riêu, Âm Dương, Long Phượng,Thai Toạ, Quang Quý.Những sao này chỉ niềm hạnh phúc trong tâm hồn. Nếu chúng đóng tại cường cung, nếu được sinh vượng và hội cùng nhiều cát tinh thì hạnh phúc được hưởng sẽ rõ nét, ngược laị thì dễ bất hạnh. 

-Cung Mệnh và cung Phúc có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trạng thái tâm lý chính của đương số. Hai cung này tốt thì dù đời có nhiều gian khổ, đương số vẫn cảm nhận được nhiều hạnh phúc.

e. Sức khoẻ, tuổi thọ

- Cách xấu: Xương Khúc với Hoá Kỵ, Cơ với Hoả Linh, Lương Tham với Kình, Nhật Nguyệt với Kình Đà Riêu Kỵ, vô chính diệu mà không có người trông giữ ( triệt tuần, thanh long, lục sát vượng), Tử Phủ với kiếp không thêm sát tinh...

- Cách tốt: Chính tinh miếu địa, sát tinh không khắc với chính tinh và bản mệnh. Vòng tràng sinh tốt. Phúc tinh được vượng và ở cường cung.

- Sao Bệnh, Tuyệt, Kiếp sát và Hoá Kỵ đặc biệt không tốt cho sức khoẻ. Có nó thì tiêu chí bệnh tật tai nạn rõ nét, và dai dẳng.

Bàn về 12 cung

1. Cung mệnh

Mệnh cung là chủ thể của cả lá số tử vi. Phái tử vi phúc tông cho rằng cung Phúc là quan trọng nhất, nhưng không phải vậy. Cung Mệnh mới là cái gốc để xét đoán mọi vấn đề trong lá số. 

Khi quan sát cung Mệnh người ta xét các yếu tố sau:

- Vị trí của cung mệnh trên lá số: nằm ở cung nào trong số 12 cung từ Tí đến Hợi. Nhị hợp, tam hợp, xung chiếu, giáp các cung nào.
- Các sao đóng trong mệnh, chiếu hợp vào mệnh. Có xem xét cả miếu vượng của sao.
- Tương tác giữa các sao có ảnh hưởng, giữa sao với cung mệnh, giữa cung mệnh với bản mệnh ( gồm mệnh nạp âm, can chi tuổi). 

Thông tin có được từ cung Mệnh:

- Cách cục chính của đương số
- Hình dáng, tính cách, tài năng
- Một phần sự thành công trong cuộc đời: về tiền tài địa vị hay hôn nhân, thậm chí cả con cái. 
- Mối tương quan giữa bản thân đương số với thân nhân và với xã hội xung quanh. 

Thế nào là một cung mệnh tốt?

Cung Mệnh tốt là một cung mệnh thể hiện sự cường vượng, nhưng lại có sự hài hoà với các cung khác. Mệnh nam thì cần chỉ huy được các cung khác, thu hút được nguồn lực từ tam phương tứ chính., còn mệnh nữ chủ yếu cần nhu thuận, giúp đỡ cho các cung khác đặc biệt là cung chồng và cung con, tức cung Phu và cung Tử.

Như vậy một cung Mệnh tốt thường sẽ có:

- Chi của cung hoà hợp với bản mệnh: tương sinh hay ngang hoà với mệnh nạp âm. Nếu chi của cung trùng với chi của tuổi, thì rất tốt trong việc hỗ trợ cho những người mệnh yếu. Đây cũng là một chỉ dấu thuộc quý cách.

- Sao chính tinh thủ mệnh được sinh vượng, có ứng hợp với bản mệnh thì càng tốt.

- Cung mệnh hội tụ được các quý cách, phú cách. (Tham khảo các sách tử vi đã xuất bản).

Vì có ảnh hưởng tới nhiều cung trong lá số nên mệnh mà có Thất Sát thì thường có tính khắc với thân nhân.

2. Cung Phúc

Người ta thường coi cung Phúc là nói về họ hàng của đương số, và phúc phần của đương số. 

Tôi trong nghiên cứu thấy rằng ý nghĩa về họ hàng không được chính xác lắm. Vì trong một họ có người giàu người nghèo, người tốt kẻ xấu, chênh lệch đã rất nhiều. Anh em lá số còn khác nhau huống chi cả dòng họ. 

Ý chủ yếu của cung Phúc là thể hiện sự may mắn, được che chở hay không. Nếu một cung Phúc tốt thì đương số dễ gặp thuận lợi, an nhàn, được quý nhân giúp đỡ. Phúc vì tam hợp với Phu Thê nên tất nhiên có ảnh hưởng quan trọng tới người chồng, người vợ. Ngoài ra cung Phúc còn có ý nghĩa hỗ trợ để xem về con cái và bản mệnh thọ yểu của chính đương số.

Những sao đóng trong cung Phúc có ý nghĩa chỉ ra hạnh phúc và phúc đức của đương số phụ thuộc vào điều gì. Như cung Phúc có Đào Hồng sinh vượng thì hạnh phúc có được về tình duyên là rất đáng kể. Nếu Hoá Kỵ ở cung Phúc thì thường phải lao tâm khổ tứ, trắc trở tình duyên.

3. Cung Tài

Cung này chủ tiền bạc và các vấn đề liên quan tới tiền bạc của đương số. Nó không phải là cung duy nhất quyết định giàu nghèo như nhiều người lầm tưởng. 

Nó cũng có thể là một cung chỉ tài năng, năng lực và công việc. Bởi vì những thứ này đều liên quan chặt chẽ tới tiền bạc. Ý nghĩa tài bạch không chỉ là tiền, mà bao hàm cả tài năng, năng khiếu.

Cung Tài tốt thì nên có tài tinh như Vũ Khúc Thái Âm Song Lộc, Trù Riêu, Linh Hoả hợp cách.... Có hung tinh cũng có thể tốt chứ không phải luôn luôn xấu, có điều hung tinh thì kiếm tiền hay dựng nghiệp sẽ vất vả hơn người khác.Thêm các sao có tính tích trữ, che giấu thì thường là tốt hơn, vì lộ ra thì dễ bị tranh cạnh. 

Tài cung toàn sao rực rỡ sáng sủa nhưng lại không có tài tinh, tài tinh trong lá số bị phá hãm, thì chỉ giàu bề ngoài mà thực chất nghèo, hay ít của chìm.

4. Cung Phu hay Thê

Cung này chỉ người hôn phối. lại chỉ cả tính chất, kết quả của mối quan hệ giữa đương số với người khác pháì.

Cho nên một cung Phu Thê quá xấu thì kết hôn mấy lần vẫn chẳng được hài lòng. Còn cung Phu Thê tốt thì tuy vẫn có thể hai lần kết hôn, nhưng đều lấy được người ưng ý, cảm nhận được hạnh phúc và thuận lợi trong hôn nhân.

Cung Phu Thê không thể xem tách biệt mà phải kết hợp cùng cung mệnh, Nhật Nguyệt và các sao tình duyên để đoán.Tuy nhiên cung này đặc biệt có ý nghĩa khi luận hạn, hay xác định các điểm đặc biệt, sự kiện đặc biệt về người hôn phối, như năm kết hôn, v.v....

Hôn nhân ngoài đời rất đa dạng, từ nguyên nhân và hoàn cảnh lấy nhau lẫn đời sống gia đình. Do vậy nếu nhìn một cung Phu Thê xấu cũng chưa đoán quyết được là bỏ nhau, hay sát phu sát thê. Có thể chỉ đơn giản là lúc kết hôn bị nhiều phản đối, chung sống đồng sàng dị mộng.... Người phụ nữ ngoại tình có thể là rất tồi tệ đối với người đàn ông này, nhưng lại là chấp nhận được trong mắt người đàn ông khác.
Cho nên ý nghĩa của cung Phu Thê biến chuyển linh hoạt, tuỳ vào phối hợp trong lá số mà xác quyết .

5. Cung Tử Tức

Tử tức cung không những chỉ về con mà còn nói lên khả năng sinh sản, sinh dục nói chung. Vì lẽ đó mà khi các sao Thiên Hình Kiếp sát xuất hiện, thì người mẹ dễ phải mổ xẻ lúc lâm bồn.

Cung này được phép tốt hơn cung mệnh hay bất cứ cung nào trong lá số, theo đúng tinh thần của câu : "con hơn cha là nhà có phúc". Cung Tử tức tốt có nghĩa là các sao đúng cách cục, thể hiện ý nghĩa thấp nhất là con cái dễ nuôi, có hiếu, cao hơn thì là con cái phú quý làm rạng rỡ tổ tông.

Quan niệm truyền thống thường ưa có quý tinh và phúc tinh trong cung mệnh. Quyền tinh, sát tinh nếu xuất hiện nhiều thì có thể là hoạ, có thể là phúc, vì nó nếu không chỉ việc khó nuôi con, con hư hỏng thì đe doạ đến một cung mệnh yếu đuối: đây là đứa con khắc cha mẹ. 

Quý tinh là gì? Là Nhật Nguyệt sáng sủa, tam hoá, long phượng, cái mã, khôi việt... Phúc tinh thì có Đồng Lương, Thiên phủ, Tứ đức, Quan Phúc, Quang Quý...

6. Cung Điền Trạch

Có câu: An cư thì mới lạc nghiệp. Ấy vậy mà người ta lại cứ đi coi Điền là một nhược cung. 

Cung Điền chỉ nhà cửa, tài sản lớn, sự nghiệp lớn . Thời nào thì thời, quan to tất cái nhà thường cũng phải to, còn người nghèo thì nhà rách vách nát, thậm chí không có nhà . Thế nên cứ ngắm cung Điền thì biết được nhiều việc về sự giàu có hay nghèo hèn. Các ông quan to, giám đốc, lãnh đạo cung Điền phải rất tốt, nếu không thì khó mà tạo dựng được sự nghiệp, có tạo được thì cũng chỉ là danh tiếng suông, không có thực lực.

Cung Điền hay nhất là có tài tinh, có sao chủ sự sang trọng đẹp đẽ như Long Phượng Thai Toạ. Ngoài ra nên có sao chủ sự uy nghiêm,
sự hỗ trợ, sự bảo vệ, như Tả Hữu, Quan Phúc... để ý nghĩa về sự nghiêp được tốt đẹp. 
Người có cung Điền tốt thì trong sự nghiệp có thể có những đầu tư vào lĩnh vực lớn như xe hơi, bất động sản. Cung điền suy yếu thì dù các cung khác có tốt, cũng chỉ nên làm các lĩnh vực gắn với sản phẩm nhỏ . 

7. Cung Quan Lộc

Cung này ý nghĩa chính yếu nhất là nói lên công việc của đương số, những công việc mà đương số có duyên làm, có thể làm. Ngoài ra còn có ý nghĩa chỉ cấp trên, cơ quan. 

Đương nhiên một cung Quan tốt thì công việc dễ dàng, thuận lợi. Có nhiều sao chủ quyền quý tài năng thì chuyên môn cao, có thể có khả năng lãnh đạo. Ý nghĩa quyền chức không thực sự quyết định tại đây. Chính vì vậy ta thấy ngoài đời có nhiều người chẳng giỏi về chuyên môn nhưng vẫn có ghế, có quyền thế đàng hoàng, đó là vì các cung như Điền, Di, Mệnh, Nô phối hợp tốt. Trường hợp Quan tốt và các cung kia cũng tốt thì địa vị có được do thực taì. Quan tốt cũng thường là công chức, làm cho chính quyền, nhà nước. Còn Quan không tốt thì là dân tự do nhiều hơn, và vẫn có thể thành đạt.

Tuỳ vào ngũ hành, tính lý và biểu tượng của các sao trong các cung Mệnh Tài Quan mà quyết định về nghề nghiệp, cung Phu Thê có thể bổ túc thêm với ý nghĩa tạo cách cục, hay chế hoá cho Quan Lộc.

Cung Quan còn thể hiện những gì đương số nhận được từ xã hội, từ người trên, cấp trên, cái này người ta gọi là " được lộc". Chữ Lộc ở đây không chỉ có nghiã hẹp là tiền tài. 

8. Cung Thiên Di

Cung này chỉ khả năng thích ứng với xã hội và hoạt động trong xã hội . Với ý nghĩa đó thì nó sẽ gồm cả: khả năng kết giao bè bạn, lãnh đạo, thích ứng hay chỉ huy hoàn cảnh.... Và như vậy rõ ràng là một cung Di tốt sẽ góp phần quan trọng tạo nên thành công của cuộc đời. Người Di tốt thì khả năng giao tế đa số tốt.

Trong một ý nghĩa nhỏ hơn, nó chỉ chung về các hoạt động di chuyển, di cư của người đó trong đời. Vì vậy có vai trò quan trọng khi điểm hạn và xem có sống xa quê hay không.

Cũng từ các lý luận trên, ta suy ra cung Di tốt là cung Di có nhiều sao chủ sự linh hoạt, bén nhạy, mềm mỏng. Vậy thì Khôi Việt, Nhật Nguyệt, Tấu thư, Xương Khúc, Hoá Khoa ... hẳn nhiên là tốt. Một cung Di quá tốt cho đương số lời khuyên: li hương lập nghiệp. Mã Khốc Khách Lộc Trường Sinh là một cách tốt đặc biệt cho cung Di. 

9. Cung Tật Ách

Có quan điểm cho là Tật ách thể hiện bản chất con người , còn cung Mệnh chỉ là vỏ ngoài. Lý luận này có nhiều điểm mâu thuẫn. 

Rõ ràng có những người thể hiện không khác nhiều với bản chất. 

Do đó cung Tật ách chỉ là chỉ chung về bệnh tật tai ách mà thôi. Ngay cả đám ma thế nào cũng chưa chắc được, cái chết và đám ma không nhất thiết nằm ở cung Tật ách. Tuy cung này không phải là cường cung, nhưng vì bệnh tật và tai ách gây ra nhiều khổ cực, lo lắng cho đương số, nên cung Tật xứng đáng được xem xét kỹ càng.

Trong cung này, quyền tinh quý tinh gì cũng chẳng quan trọng, chỉ quan trọng về các sao biểu tuợng cho bộ phận cơ thể và các phúc thiện tinh. Dĩ nhiên ai cũng muốn khoẻ mạnh và ít tai tật. Vậy thì trong cung này, cần nhất là sự sinh vượng và tránh sát tinh. Chính tinh vượng địa, Quang Quý Quan Phúc Tứ Đức lúc nào cũng được chào đón. Triệt Tuần tại một cung Tật vô chính diệu cũng là cách tốt.

Muốn đoán cụ thể hơn thì từ tượng hình của các sao mà luận, không có gì phức tạp.

Có một vai trò bổ sung khác của cung Tật. Nếu cách của cung Mệnh là người che giấu, hay là người giả dối, thì người ta có thể suy ra tính cách bản năng của anh ta trong cung Tật ách. Nhưng ý nghĩa này rất mờ nhạt, hiếm khi phải sử dụng. 

10. Cung Phụ Mẫu

Phụ mẫu cung chủ yếu chỉ vai trò của cha mẹ trong đời sống của đương số, nói hình tượng hơn là ta nhìn cha mẹ của đương số qua lăng kính của chính đương số . Chứ không nhất thiết là nó có thể cho thấy chính xác cuộc đời của cha mẹ.

Trường hợp cung Phụ mẫu rất đẹp thì thường là cha mẹ khá, tất nhiên phải phối hợp với Nhật Nguyệt . Nhưng khi cung Phụ mẫu xấu thì chưa chắc cha mẹ đã kém, mà chỉ là đương số không nhận được hỗ trợ của cha mẹ, không được hưởng lộc hay tình yêu từ song thân. Còn có ý nghĩa khác: khắc phụ mẫu.

Nằm trong tam hợp Tử Phụ Nô, xung chiếu với Tật ách, Phụ mẫu có tác dụng phối hợp để luận giải những cung này.

11. Cung Huynh Đệ

Huynh đệ cung chỉ số lượng anh em, sơ lược về cuộc đời của anh em và quan hệ của anh em với đương số. Cung này không quan trọng lắm.Nếu có nhiều cát tinh có khi còn là ý nghĩa xấu, bởi như vậy là mất hết tinh hoa của các cung khác.

12. Cung Nô Bộc

Cung này chỉ bạn bè, người dưới quyền, vợ bé. Hoàn toàn không có ý nghĩa: nếu cung Nô vượng cung mệnh suy tức là mình làm tôi tớ cho người khác.

Việc mình làm thuê hay mình hèn kém là do các cung Mệnh Tài Quan Điền Di chi phối, chứ không phải từ cung Nô.

Cung Nô cần nhất là tính hoà thuận, hỗ trợ, nên có Tả Hữu là hợp nhất, không nên gặp hung sát tinh và các sao chỉ bất hoà như Hoá Kỵ, Phá Điếu. Cung này mà nhiều sao tình duyên chứng tỏ đời sống tình ái phong phú, nhiều chi nhiều nhánh, hoặc phóng túng .

Vài sao quan trọng

1. Thái Dương, Thái Âm

Sao Thái Dương chủ về người cha, người chồng, con trai, yếu tố dương trong cơ thể đương số. Ngược lại Thái Âm chủ người mẹ, người vợ, con gái, yếu tố âm.

Âm Dương cả bộ cho biết hệ thần kinh, khả năng điều hoà, thích ứng, mối quan hệ vợ chồng, đồng thời còn là biểu tượng của đôi mắt.

Trong số các chính tinh thì Âm Dương có vẻ ngoài dễ nhìn nhất. Nét đẹp của Âm Dương sáng sủa, thanh tú. Nếu cùng với các cát tinh, đào hoa tinh thì nghiêng nước nghiêng thành.

Hai sao Âm Dương nếu được sinh vượng, hội cùng nhiều cát tinh phò tá là một sự may mắn lớn . Trong trường hợp này thì dù công danh tiền bạc, thân nhân hay hạnh phúc nói chung của cuộc đời đều được thêm phần tốt đẹp. Người có Âm Dương như vậy không bao giờ là kẻ bần cùng, cuộc sống được mức trung bình trở lên.

2. Hoá Khoa

Thật chẳng ngoa khi các nhà nghiên cứu đi trước tôn xưng Khoa tinh là Đệ nhất giải thần. Nhiều sao lúc cát lúc hung, nhưng riêng Hoá Khoa lúc nào cũng ban phúc. Đã có Hoá Khoa ở Quan hay Mệnh, hay Di, thì bất luận phú quý hay không, đều là người có trình độ, có hiểu biết, tính tình không đến nỗi tồi tệ.

Nếu Hoá Khoa được hợp cách, kết hợp cùng các sao tốt và cách cục tốt, thì nó đưa đương số đến tuyệt đỉnh vinh quang. Ý nghĩa của Khoa tinh không thiên về quyền chức, mà thiên về sự sang cả, học vấn, sự thông thái, thuộc hàng quý nhân văn chức trong xã hội. Sự thành công của Hoá Khoa trong trường hợp này là thành công đi kèm với công nhận và nổi tiếng, chứ chẳng thể là trọc phú hay anh hùng áo vải. 

Cũng chính vì vậy mà Khoa tinh không nên bị hãm địa hay gặp Triệt Tuần, để đảm bảo tài năng được thi thố và thừa nhận, thi cử dễ dàng.
Khoa tinh còn biểu thị cho khả năng nghiên cứu chuyên môn, cho người đa tài, hiểu rộng, có tầm ảnh hưởng đến nhiều người.Khi giải hoạ nhờ Hoá Khoa, tai nạn được giải đi do chính nỗ lực hay phúc đức của đương số tạo ra, chứ không phải do tiền bạc, do người thân, v.v...Vì lẽ đó Khoa tinh đồng thời cũng đem lại tính cách tự chủ, có lập trường, có tự trọng mà không phải là ương ngạnh.

>>Xem thên các bài viết khác về lá số tử vi

3. Thanh Long

Tuy thường bị coi là một sao nhỏ nhưng Thanh Long lại khá quan trọng.

Nguyên do là sao này chỉ khả năng linh tính, giác quan thứ 6. Nó đồng thời biểu tượng cho quyền uy của người lãnh đạo, của bậc thần linh, với biểu tượng con rồng. Những phản vi kỳ cách nhiều trường hợp là do Thanh Long, những điểm xấu được giải hoá một cách khó hiểu cũng lại do Thanh Long.

Bạn cứ kiểm lại những lúc mình may mắn do được linh tính, do trực giác, thì sẽ biết tác dụng của Thanh Long hữu ích như thế nào. 

>> Bài viết tham khảo : xem bói tình yêu, xem bói ngày sinh

4. Đào Hồng

Hai sao này luôn phải để ý trong quá trình giải số. Vì tình yêu và hôn nhân quyết định một phần lớn cảm giác hạnh phúc hay bất hạnh trong đời người . Đào Hồng vừa chỉ tình cảm, cách yêu của chính đương số, vừa là hình bóng của người yêu đương số. 

Đào Hồng tốt nhất là tránh xa sát tinh, được sánh cùng cát tinh. Đào Hồng không nên tụ cùng các sao tình ái, tính dục khác vào một chỗ, vì sự thái quá này sẽ gây nên tai hoạ hay dâm dục. Các sao đó là: Mộc dục, Thai, Thiên Hỉ, Thiên Riêu, Tham Lang, Kình dương, chính tinh hãm đặc biệt là Thiên Đồng hãm. Thái Âm hãm, Thất sát hãm. 

5. Quang Quý

Tương đương với Hoá Khoa về tính cứu giải, nhưng Quang Quý hiệu lực khác biệt ở chỗ nó thể hiện bàn tay của đấng linh thiêng, trời phật, thể hiện công đức tích tụ lâu dài mà có, ngoài ra tượng trưng rõ ràng nhất cho thần phật. 

Quang Quý chỉ thực sự tác dụng nếu đi kèm với hình tượng thần phật hay hoạt động tích phúc trong thực tế. Liên hệ tới việc cầu cúng, làm lễ tại chùa để xin lộc, hay giải nạn.

Quang Quý còn mang ý nghĩa ơn huệ, ưu ái, ưu tiên.

6. Hoá Kỵ

Sao này đúng là "đáng gờm" mỗi khi mở số ra. Về mặt xã hội, Hoá Kỵ chủ thị phi miệng tiếng, tai bay vạ gió. Về tình cảm Hoá Kỵ là sự bất hoà, cãi vã, bực dọc ngấm ngầm về nhau. Về sức khoẻ, Hoá Kỵ biểu trưng cho bệnh tật, đau ốm lâu dài, tiêu hoá kém. Nếu cách cục xấu thì còn bị bệnh tật về mắt, phụ nữ kinh nguyệt kém .Về tính cách, Hoá Kỵ phần nhiều đa nghi, thủ đoạn. 

Chỉ được mỗi một cái là nó không tác dụng nhiều lên nhan sắc. Có Hoá Kỵ vẫn có thể xinh đẹp như thường. 

Hoá Kỵ không nên gặp Nhật Nguyệt, Liêm Trinh, Cự Môn. Nên gặp Thiên Tướng, Thanh Long, Lưu Hà, Hoá Khoa thì mới có thể cứu giải. 

Gặp cách tốt thì Hoá Kỵ là người kín đáo, giỏi tính toán hoạch định, biết nghề y dược, có thể có thành tựu lớn trong nghiên cứu, tham mưu, luật pháp.

 TỬ VI - NGUYÊN TẮC LUẬN GIẢI CƠ BẢN

(Trích trong bài giảng của lớp Tử vi sơ cấp)

Nguyên tắc xem xét lá số :

+Xem cung thiên bàn trước : 

Cung thiên bàn là nơi ghi chép những thông số cơ bản của Đương số và của lá số như Ngày tháng năm sinh, Âm Dương, Ngũ hành, bản mệnh v.v… đây là những thông tin tối thiết quan trọng, mà chúng ta cần nắm được. Không ít trường hợp, cầm đến lá số là phán ầm ầm, phán xong mới giật mình khi thấy khổ chủ thỏ thẻ “…dạ.. bẩm thầy… nhà cháu sinh tháng năm âm lịch chứ không phải tháng mười thầy ạ...”

Xem trên cung Thiên Bàn, điều cốt lõi nhất, chúng ta xem xét 3 yếu tố :

Bản mệnh của đương số là gì?

Cục số của đương số là gì? Kết hợp với bản mệnh, để định ta quan hệ sinh khắc của Ngũ Hành giữa bản mệnh và cục số.

Âm Dương thế nào? Âm Nam, hay Dương Nam? Điều này ảnh hưởng đến nhiều đoạn về sau, nhất là luận âm dương và lưu hạn

Những thông tin trên đây, là những thông tin cơ bản nhất cần phải có, tuy nó không phục vụ luận đoán chi tiết, nhưng nó là yếu tố ảnh hưởng mang tính tổng quát, nó có mặt ở mọi công việc về sau. Ví Dụ : Người ÂM NAM là trái cách, Nam thì phải Dương Nam, mà Nữ thì phải Dương Nữ - Âm Nam, hạn đến cung Âm thì tốt mà đến cung Dương thì cái tốt phải giảm đi chút ít…đại loại thế.

+ Xem Cung Mệnh và cung Thân: 

Cung Mệnh là cái bản thể của đương số từ lúc sinh ra cho đến lúc về với cát bụi, ấy chính là mệnh Trời (thiên mệnh) quy định mọi điều hay dở trong đó, Mệnh chi phối đến mọi cung, mọi vấn đề, và ngược lại, tất cả các cung, tất cả mọi vấn đề đều tác động ngược về Mệnh. Vì thế chung cuộc vẫn cứ là Mệnh. Tôi bác bỏ quan điểm cho rằng TRƯỚC 30 TUỔI XEM MÊNH, SAU 30 TUỔI XEM THÂN. Chúng ta phải xem tất, chỉ dùng định nghĩa trên để gia giảm tác dụng thôi. Ví dụ lúc còn bé Khí Tiên Thiên còn mạnh thì ảnh hưởng của Mệnh sẽ RÕ RỆT hơn. Lúc về già, khí Tiên thiên suy yếu, khí Hậu thiên vững vàng, thì lúc ấy ảnh hưởng của Mệnh KÉM ĐI, của Thân RÕ RỆT lên. Nhưng không thể bỏ tuột đi không xem đến.

Cung Thân là cái Hữu Dụng của đương số, tức là nó phản ảnh cái Điều Kiện, Môi trường, Khả năng thực thi của Mệnh. Ấy chính là đạo của Đất (địa đạo) quy định cho mọi điều hay lẽ dở trong đó. Thân cũng tác động đến tất cả các cung, các vấn đề, và ngược lại.

Sách có câu : Đệ nhất thị khán thân mạng, tái tam tế khảo thiên di
(trước nhất là phải xem thân mạng, sau đó xem thật kỹ cung Thiên di).

+ Xem các CƯỜNG CUNG: 

Thế nào là CƯỜNG CUNG? Cường cung là những cung có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời đương số. Tùy theo từng con người, từng hoàn cảnh mà ta định nghĩa Cường cung khác nhau. Thông thường ngoài Mệnh và Thân là hai cung chính, quan trọng nhất, còn lại Nam nhân thì Cường cung là Tài-Quan-Di. Với Nữ Nhân thì là Phu-Tài-Tử. NHỚ KỸ ĐIỀU NÀY! Và hiện tại ngày nay, sau mấy ngàn năm xã hội đã biến đổi đi rồi, thì việc quan tâm đến cung QUAN của Nữ nhân cũng là một yếu tố cần xem xét. Tuy nhiên với Nữ Nhân, chuyện Chồng và Con vẫn là những yếu tố đóng vai trò quan trọng. Nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, Cường cung không mang ý nghĩa như trên nữa, và ta phải định nghĩa lại. Ví dụ xem số những người tu hành, Cường cung sẽ không còn là Tài-Quan, hay Phu-Tử được nữa.

Đặc biệt chú ý cung Thiên Di, nó là Cường Cung, nhưng lại là ÁNH XẠ của Mệnh, bởi vậy trong một số trường hợp nó còn có thể thay thế các tinh diệu trong cung mệnh. Điều này rất quan trọng. Cần phải ghi nhớ.

Quan sát các Cường cung còn mang một ý nghĩa nữa, đó là xem xét sự CÂN BẰNG, xem trong các yếu tố ấy, cuộc đời đương số sẽ thiên về cái gì. Đương nhiên cung nào mạnh sẽ thắng. Ví Dụ : Xem xét Tài-Quan-Di, thấy cung Tài mạnh hơn, kết hợp với một số điều kiện nữa trong luận đoán, ta sẽ kết luận được đương số rất dễ đi theo con đường kiếm tiền, mà sẽ bỏ con đường quan trường v.v…

+ Xem xét các cung khác : 

Các cung còn lại, trước hết là xem xét TƯƠNG QUAN, xem nó tác động xấu tốt thế nào đến Mệnh, Thân, Hạn. Rồi sau mới xem đến tốt xấu tại Bản cung.

(về tính chất, tác dụng của 12 cung, tôi đã có 1 bài giảng rồi, mọi người đọc lại thật kỹ, đây là mấu chốt của vấn đề).

(còn tiếp....)

Nguyên tắc xem xét một cung:

Để xem xét 1 cung, cần nắm được 1 số thuật ngữ sau :

Bản cung : Là cung đang xét

Đối cung (hay đối phương) : là cung xung chiếu với cung đang xét, VD cung đang xét là cung Tử Tức, thì đối cung sẽ là cung Điền Trạch, xét cung Huynh Đệ thì cung Nô Bộc sẽ là Đối Cung.

Hợp cung (hay hợp phương) : Là hai cung nằm trong tam hợp chiếu đến bản cung. VD: Mệnh thì Tài-Quan, Thê thì Di-Phúc, Huynh thì Ách-Điền .v…

Lân cung (hay lân phương) : là hai cung trước sau bản cung, ví dụ Mệnh thì Huynh Đệ và Phụ Mẫu là lân phương, cung Tật Ách thì Tài Bạch và Thiên Di là lân phương.

+ Nguyên tắc xem xét 1 cung :

Lấy bản cung làm trọng, đó là BẢN THỂ. Đối cung làm DỤNG, Hợp cung là Tả Hữu PHÙ TRÌ, và Lân Phương làm tiền hậu ỨNG PHÓ.

Chú ý : Đây là đang nói xem xét quan hệ các CUNG. Còn lại quan hệ của các SAO với nhau thì phải theo quan hệ các cung xung chiếu, tam hợp chiếu, Nhị Hợp chiếu.

Ví Dụ nói về cách Binh-Hình-Tướng-Ấn, tức là tìm kiếm đủ bộ sao trên trong cung xung chiếu, 2 cung tam hợp chiếu và cung nhị hợp chiếu. Nhưng 2 cung trước-sau (lân phương) không được xét đến trong trường hợp này.

2. Nhìn nhận về 12 cung: (đã có bài giảng riêng rồi, đề nghị xem lại)

3. Xem xét về Hạn :

Cuộc đời con người có 3 điều trọng yếu : Mệnh, Thân, Hạn. Cho nên trong Tử vi cần thiết nhất là phải xem HẠN, xem hạn để biết rõ diễn biến thăng trầm của đời người. Từ đó mới biết được tốt xấu. Hạn có Đại hạn là 10 năm, 10 năm ấy lại lưu tại 10 cung khác nhau. Có Tiểu Hạn là 1 năm. Ở mức độ đánh giá tổng quát, chúng ta sẽ xem xét ĐẠI HẠN 10 năm, để đoán định diễn biến cuộc đời. Đây chưa phải là XEM HẠN. Mà đây đang là bước đánh giá về cuộc đời của đương số. Còn Nguyên tắc XEM HẠN chưa phải như thế này.

4. Kết luận sơ bộ về lá số :

Thành quả của chúng ta sau khi xem xét các yếu tố trên, chúng ta phải kết luận được, chỉ cần 1 câu duy nhất :

ĐƯƠNG SỐ LÀ NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO?


Vất vả hay sung sướng? doanh nhân hay quan chức? cô đơn hay đa tình? Nông phu hay sĩ tử v.v… nếu ta kết luận được điều này, coi như ta đã có CHÌA KHÓA để giải mã cuộc đời đương số.
Và bắt đầu từ đây, chúng ta bám sát vào câu trả lời trên để luận đoán về các vấn đề khác.Các yếu tố ảnh hưởng khác cần xem xét :

Với một Con Người, ngoài việc xem xét thật cẩn thận lá số, ta cũng cần quan tâm đến các yếu tố XÃ HỘI khác nữa, như :

Tướng Mạo

Hoàn cảnh gia đình

Nơi sinh sống

Công việc, nghề nghiệp của đương số

Tính tình thể hiện.

Các yếu tố này có ảnh hưởng vô cũng mạnh mẽ đến số mệnh con người. Ví Dụ, đương số học dốt, nhưng có Bố là quan chức, thì cung quan cũng vẫn có cơ cứu vớt, vẫn có chức quyền như thường. v.v…

Ngoài những yếu tố XÃ HỘI trên, một điều tối thiết quan trọng, nhưng lại rất khó khăn, đó là CÂN NHẮC PHÚC ĐỨC của đương số. Phúc đức của 1 con người được tạo nên bới nhiều yếu tố :

Do Hồng Phúc tổ tiên để lại, Ví Dụ: ngày trước cụ tổ mở kho phát chẩn cứu đói cả vùng thì nay con cháu được hưởng chút Dư Phúc.

Do Bản thân đương số tự tạo lấy, VD: Đương số gia ơn cứu người chết đuối, đương số bản tính là người hành thiện, ăn mày vào nhà không bao giờ để đi ra tay không..v.v…

Do Âm Phần kết phát, Điều này liên quan đền Địa Lý Phong Thủy, nếu mồ mả tổ tiên đặt được vào ngôi đất tốt, có thể làm cho con cháu thịnh vượng, cứu khổn phò nguy, gia thêm phúc thọ cho người sống. Đây là 1 yếu tố đáng kể, Tuy nhiên xem xét được nó không phải là dễ. Đoán định lại càng khó hơn. Trước mắt, chúng ta cân nhắc phúc đức của đương số dựa trên LÁ SỐ, bằng vào sự tốt xấu của các tinh diệu, mà kết luận sơ bộ.

Trước tiên ta hãy tìm hiểu những đặc tính cơ bản của môn tử vi. Môn tử vi chắc chắn có nền tảng là thuyết âm dương , ngũ hành, lịch pháp và đặc biệt là Thần sát. Theo tôi Thần sát không phải là những hành tinh đang bay vèo vèo trong vũ trụ, mà xét cho cùng Thần sát cũng là sự kết tinh của nguyên lý Âm dương , Ngũ hành cùng với sự mô phỏng qui luật của tạo hóa theo quan điểm của người xưa. Như vậy môn tử vi dựa trên các nguyên lý âm dương tích hợp ( Thần sát ) và các yếu tố âm dương rời rạc theo toạ độ không gian và thời gian để đoán số mệnh. Người giỏi đoán số chính là giỏi phân tích và phán đoán sự kết hợp và tương tác giữa các yếu tố trên . 
Điều cần lưu ý là trong một lá số tử vi có rất nhiều bài toán chồng chéo, cần phải phân biệt rõ các bài toán đó để định hướng luận đoán !
Bây giờ tôi xin đi sâu phân tích các cung trên lá số, vì người luận giải tử vi phải hiểu rõ ngọn nguồn hình thành các cung số thì mới rộng đường luận đoán .

1/ Cung Mệnh và cung Thân : 
Đầu tiên phải đả phá cách nhìn nhận " Nửa đời trước ứng với Mệnh, nửa đời sau ứng với Thân " ; " Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Hạn tốt " ... Mà chúng ta phải nhìn nhận rằng Mệnh và Thân là một cặp Thể Dụng tương hổ với nhau . Mệnh và thân đều phản ảnh suốt cả cuộc đời con người chứ không có sự phân chia vai trò trước sau. Mệnh là thể, Thân là Dụng . Và bài toán Mệnh Thân là Bài toán đầu tiên và cơ bản nhất. Nếu nhìn nhận và giải quyết rõ ràng, kỹ lưỡng thì chúng ta đã nắm được 80% tính chất số mệnh của con người . Có lẽ đầu tiên người sáng chế ra môn tử vi chỉ để làm bài toán này, còn chuyện vận hạn là nhu cầu phát sinh sau đó .
Do vậy khi đoán cung mệnh tức là đoán tổng quát tính chất của đương số, kết hợp cung Thân để coi cái hay của mệnh có được phát huy hay không phát huy như thế nào ? Sự cộng hưởng của mệnh Thân như thế nào ? Mệnh Thân chỏi nhau như thế nào ? Dưới quan niệm thể dụng chúng ta sẽ suy luận và tiên đoán nhiều vấn đề trong cuộc đời đương số. 
Điều đáng lưu ý là trên lá số có 6 cung dương và 6 cung âm, Mệnh thân đều hoặc là ở cung dương hoặc là ở cung âm . Đó là môi trường để Mệnh và Thân tương hổ với nhau . Trong 6 cung cùng âm hoặc cùng dương thì chia làm hai nhóm : Nhóm thân cư Mệnh , Tài , Quan và nhóm Thân cư Di, Phúc , Phối ( Phu, Thê ). Nhóm thứ nhất do nằm trong thế tam hợp, nếu mệnh có đủ những bộ sao như Cơ Nguyệt đồng Lương, Tử phủ vũ Tướng, Sát phá liêm tham, Cự Nhật ... thì độ cộng hưởng của mệnh và thân rất cao và đương nhiên là thuận lợi , độ số thành công tăng lên rất cao, đặc biệt thân cư Mệnh . Khi nói đến thế tam hợp cần phải nói đến bộ Thái tuế , Quan phù, Bạch hổ, nói một cách khoa học thì đây là bộ sao chỉ trạng thái năng lượng cao, gặp tổ hợp sao xấu thì hoạ càng mạnh, gặp tổ hợp sao tốt thì phúc càng nhiều !( vấn đề vòng thài tuế tôi sẽ bàn sau) Còn nhóm thứ hai thì Mệnh Thân không nằm trong thế tam hợp, đó là yếu tố bất lợi trong việc không liên kết được các bộ sao trong thế tam hợp, mệnh Thân thường đóng ở các bộ sao khác nhau, nhiều khi là chỏi nhau, như vậy là bất lợi, hoạ nhiều hơn phúc !

2/ Cung Thiên Di :
Như đã trình bày ở phần trên Cung mệnh và cung Thân có mối quan hệ thể và Dụng nhưng đây là mối quan hệ nội tại của Mệnh, vẫn còn một Dụng của Mệnh nữa, đó là cung Thiên Di . Thiên Di và Mệnh là mối tương hổ nội ngoại đi kèm với tính chất đối xung của địa chi . Như vậy cung Thiên Di có thể xem là cung Thân thứ hai .
Do vậy cũng nên xoá bỏ quan niệm đơn giản cung Thiên Di là chỉ sự di chuyển ! Phải hiểu rằng cung Thiên Di chính là một cung tương hổ với mệnh, ở cung này cũng đem nguyên lý thể Dụng ra xem xét mà định lượng cát hung, lợi hại . Nếu Thân cư Thiên Di thì ý nghĩa chế hoá tương hổ với cung Mệnh càng tăng . Góc độ nội ngoại , chủ khách nên được đặc biệt xét đến đối với cung thiên di.
Mệnh có Chính tinh, bàng tinh sáng sủa cung thiên Di cũng vậy coi như trong ngoài đều đẹp, độ số tốt tăng cao . Mệnh vô chính Diệu, Thiên di sáng sủa chỉ là tốt bậc thứ, vì như vậy là khách lấn chủ, chủ chỉ "có tiếng mà không có miếng", như vậy thà rằng Mệnh sáng sủa tốt đẹp cung thiên di vô chính Diệu thì đương số gặp nhiều may mắn do tự thân có, ngoài xã hội ít người chống đối mà cũng ít người nâng đỡ . Nếu thân cư Thiên di thì người hướng ngoại, ảnh hưởng xã hội nhiều hơn gia đình, điều này phải quyết đoán chắc chắn . Thân cư Mệnh thì ít ảnh hưởng bởi tác động bên ngoài, chủ động về tư tưởng và hành động, nếu mệnh sáng sủa, cát tinh ứng hợp thì địa vị cao thăng, nếu thêm Cô thần, quả tú , trong mệnh nữa thì thường chuyên quyền , chủ quan. Nếu mệnh tối hảm thì trở thành người tự kỷ, thường hay cam chịu nhưng xem ra vẫn có lập trường...
Ngoài ra còn phải để ý đến thế Sao hay nhóm Sao của mệnh và Di để luận đoán . Ví dụ Mệnh có Phá quân + Tuế phá, Di có Tử vi - Thiên Tướng + Thái tuế thế là không thuận rồi, Dụng quá mạnh lấn áp Thể, cuộc đời có nhiều ức chế, khó thành công lớn, nếu làm chính trị thường hay thất bại ! Chỉ nên an phận làm công nghệ, doanh thương thì tuỳ vào bàng tinh sáng sủa hay không để luận thành đạt hay thất bại .
Sự việc muôn màu muôn vẽ, nhưng cứ bám theo nguyên lý đối đãi của Thể dụng mà luận đoán thì ít khi sai lệch . Như vậy thì cung Thiên di và cung Thân chính là môi trường của Mệnh, cung Di cũng là tượng trưng cho xã hội, là sự di chuyển ...Luận Mệnh ,Thân , Di có thể biết tiền đồ của đương số, phùng thời hay thất thời, hoạ hay phúc tìêm ẩn trong đó, chỉ chờ vận hạn thích hợp là xảy ra. Nghiên cứu kỹ Mệnh,Thân, Di là bước cơ bản để định hướng cho luận giải vận hạn của tương lai !

3/ Cung Phúc đức :
Nhiều sách thường cho rằng xem số thì đầu tiên phải xem cung phúc đức. Nhiều môn phái rất đề cao cung phúc đức, cho rằng cung phúc đức tốt xấu là độ số gia giảm tốt xấu cho lá số. Việc này đúng hay sai? Chúng ta hãy khoan triết lý sâu xa cái đã ! Trước tiên chúng ta hãy giải quyết một vấn đề to bằng cái tủ đứng thường kê vào miệng các bậc cao thủ tử vi ! Đó là thứ tự sắp xếp các cung ! Đây là vấn đề mà tôi thấy cần phải làm rõ trước khi đi sâu vào luận giải các cung.
Gần đây trong một quyển sách của một học giả tiếng tăm đã cố gắng giải thích thứ tự các cung số bằng qui luật của vòng tràng sinh, theo tôi thì lý thuyết này chưa vững và còn nhiều gượng ép ! Trước quyển sách này thì còn một vài quyển của một vài vị tiền bối cũng đã cố gắng giải thích nhưng tôi không muốn nêu ra e rằng gây những cuộc tranh cãi vô bổ !Theo tôi thứ tự các cung số có một cái lý rất hiển nhiên và giản đơn và tôi sẽ trình bày như dưới đây.

Trong lá số tử vi tôi nhận thấy có 3 nhóm người được thể hiện trên các cung số như sau : 
- Mệnh, Phụ mẫu , Phúc đức.
- Huynh đệ, Phu- Thê, Tử tức.
- Thiên Di, Nô bộc.

Trong tử vi thì lấy Mệnh làm chuẩn để xét các cung số khác, đó là nguyên tắc thứ nhất. Nguyên tắc thứ hai đó là áp dụng chiều thuận là chiều từ âm sang dương, trong đó mệnh làm ranh giới giữa âm và dương.( Chắc các bạn cũng có cảm nhận tương tự trong phần giải thích về cách an Tiền Kình hậu Đà mà tôi đã trình bày ).
Nhóm thứ nhất là nhóm người tiền định ắt phải có trước, do đó đặt phía trước mệnh theo chiều thuận.( Trước đây tôi đã dùng giả thiết khí đi theo chiều nghịch để giải thích sự hình thành các cung từ cung phúc đức nhưng tới bây giờ thấy gượng ép và không nhất quán !) Do vậy nên, đầu tiên phải có Mệnh, tiếp theo là Phụ mẫu những người hiển nhiên phải có trước ta, tiếp theo phụ mẫu là cung phúc đức ( ông bà , giòng họ, âm phần ), những người hiển nhiên có trước cha mẹ của ta. Cha mẹ, ông bà là những người mà ta không có quyền lựa chọn, do căn duyên mà ta tự tìm đến , do đó những lực lượng này ứng với phần dương.
Nhóm thứ hai là nhóm người đến sau, một người có thể không có anh em, vợ con cũng được. Những đối tượng do căn duyên giữa họ và ta mà họ tìm đến ta, cũng có thể có , cũng có thể không do đó ứng với phần âm, lần lượt ở phía sau cung mệnh. Một người từ nhỏ lớn lên phải có anh em, sau đó mới lấy vợ, chồng, sau đó mới có con cái. Do vậy sự xếp đặt các đối tượng này theo các cung số như một điều hiển nhiên cơ bản. 
Nhóm thứ ba, nhóm này không đi theo qui luật của nhóm thân nhân của đương số, nhóm này tuân theo nguyên tắc nội ngoại, lấy cung Thiên di làm trung tâm. Như đã nói ở trên, cung thiên di chính là hoàn cảnh xã hội, thể hiện các hoạt động con người bên ngoài của đương số. Cung Nô đối cung huynh đệ, đó là anh em, cộng sự bên ngoài xã hội, do đó có lần tôi đã ví huynh đệ như tỷ kiên còn nô bộc như là kiếp tài trong môn tử bình. Còn cung tật ách thì sao? Cung này đối xung với cung phụ mẫu, nếu phụ mẫu là một đối tượng tích cực đối với ta thì Tật ách mang tính tiêu cực, nó không thể hiện là cha mẹ của ta ở ngoài xã hội, mà là thể hiện những yếu tố mà ta phải gánh chịu như một nghiệp quả - những yếu tố tiêu cực! Như vậy chúng ta có thứ tự sắp xếp cho các cung như sau : Lấy mệnh làm chuẩn, tiến về trước 1 cung là cung phụ mẫu, tiến về trước 1 cung nữa là cung phúc đức ; Cũng lấy mệnh làm chuẩn, lùi về sau 1 cung là cung huynh đệ, lùi thêm cung nữa là cung phối( Phu Thê), lùi thêm một cung nữa là cung tử tức.
Còn các cung Điền trạch, quan lộc và tài bạch nữa nhưng để dành kỳ sau, bây giờ chúng ta quay lại chủ đề cung Phúc đức.
Ý nghĩa sâu xa của cung Phúc đức là gì ? Phúc đức chính là phần âm của mệnh, cung Mệnh chính là phần dương. Cung Phúc đức và Cung Mệnh là một cặp phạm trù âm dương. Trong tướng pháp có phép xem âm chất và dương chất của một con người. Đã có dương tất có âm, âm dương hài hoà tương hổ mới tốt đẹp lâu bền. Đây là quan niệm cơ bản của các môn tướng số, dựa trên thuyết âm dương. Con người chúng ta đang hiển hiện với các hoạt động sống chính là phần dương, như vậy ắt có phần âm tương ứng phối hợp với phần dương thì sự vật mới gọi là sự sống ! Vậy phần âm đó chính là cung Phúc đức của mỗi người. Do đó chúng ta cũng không lạ gì khi có người xem số thì xem cung phúc đức trước, cho rằng cung phúc đức ảnh hưởng độ số của lá số cũng không sai, nhưng cho rằng cung phúc đức quyết định sự tốt xấu của lá số là phiến diện và chưa nhận thức rõ bản chất vấn đề, bởi vì cung phúc đức chỉ thể hiện phần âm của mệnh mà thôi !
Như vậy , ngay trên 12 cung số thôi cũng đã có lắm cặp phạm trù, cặp thể dụng, xác định đúng đối tượng để mà so sánh , phân tích thì chúng ta mới hiểu và luận giải lá số trọn vẹn được.

4/ Cung Tài bạch và cung Quan lộc :
Từ khi con người hình thành cuộc sống cộng đồng, rồi phát triển thành xã hội thì cái khái niệm Tài và Quan mới len lỏi hình thành theo! sự phân chia giai cấp càng mạnh mẽ thì khái niệm Tài Quan càng trở thành đối tượng rõ nét, là tiêu chuẩn đánh giá địa vị xã hội của con người ! Nếu đem tử vi mà chấm cho người nguyên thuỷ thì Tài Quan có nghĩa là gì? Lúc đó người có mệnh Đế vương ắt sẽ làm Tù trưởng của một bộ lạc! Người có cung tài bạch rực rỡ chắc sẽ sở hữu nhiều cái vỏ sò! Còn cung thê Đào hoa mỹ mãn thì sao nhỉ? Lúc đó gặp đâu lấy vợ đó! Chỉ riêng cung Thê thì lúc nào cũng đúng! 
Nói chơi vậy thôi ! Chứ rõ ràng là môn tử vi lấy cái lý của tạo hoá mà diễn ra cái cuộc sống con người của chúng ta, vậy cái lý đó như thế nào? 
Nằm trong thế tam hợp với cung mệnh,Tài bạch và Quan lộc là hoá thân của cung Mệnh, phản ánh hai khía cạnh lớn của cuộc sống, đó là tinh thần và vật chất. Xét theo chiều thuận, cung quan ở trước cung mệnh ứng với phần dương, cung tài bạch ở sau cung mệnh ứng với phần âm. Phần dương thiên về tinh thần, do đó Phần dương ứng với cung quan lộc, phần âm thiên về vật chất do đó ứng với cung tài bạch .
hihi, chỉ đơn giản vậy thôi ! Trở về với bản chất sâu xa của sự việc thì mới thấy mọi hình tướng phức tạp đều do con người tự bày vẽ ra mà thôi !
Người có thân cư tài bạch thì cuộc sống nặng về phần vật chất, thân cư quan thì cuộc sống nặng về tinh thần, sự nghiệp. Lượng định số Sao ở hai cung này, loại Sao gì để đoán định cho chuẩn. Xương Khúc, Tả Hữu, Long Phương, Khoa Quyền ... tại cung quan thì cuộc sống thiên về tinh thần, đầu óc thoáng rộng, các sao này lạc vào cung tài bạch thì không hợp cách . Các Sao Lộc đóng ở cung Tài bạch thì đắc cách, tự nhiên giàu có thường thiên về kinh doanh, buôn bán, hay tính chuyện thiệt hơn, nặng về vật chất !Tuần triệt cung quan lộc thì công danh trắc trở, đời sống tinh thần có nhiều phiền muộn, âu lo ! Tuần triệt cung tài bạch thì vật chất hao tổn, tài sản không nhiều, phúc về vật chất không có bao nhiêu !

Nắm rõ ý nghĩa các cung số thì quí vị tuỳ nghi rộng đường mà tán lá số cho hay ! 

5/ Cung Điền Trạch :
Theo dòng suy luận sự hình thành các cung, chúng ta thấy Mệnh rồi đến phụ mẫu, tiếp theo là Phúc đức, tiếp theo Phúc đức là Điền trạch . Vậy Điền trạch đóng vai trò gì mà nối tiếp sau cung Phúc đức, nối tiếp ở đây có nghĩa là có trước cả cung Phúc đức ? 

Xin trả lời :Cung điền trạch chính là quê hương, bản xứ của đương số, là nơi phát tích của giòng họ . Nghĩa thứ hai của nó mới là nhà cửa, điền sản của đương số ! Người xưa, nhất là người Tàu họ thường quan trọng đất phát tích của giòng họ, nói đến người nào đó là họ thường nói đến quê quán gốc tích, Họ nào thì thường có Quê hương của Họ đó , trong quyển Bách tính có thể hiện rất rõ điều này. Như vậy sự sắp xếp của cung điền trạch kế tiếp theo cung phúc đức là có ý nghĩa rõ ràng : Quê hương rồi mới đến giòng họ, rồi tiếp theo là cha mẹ của ta, rồi mới đến bản thân ta là cung Mệnh . Đó là một trình tự logic mang đậm tính đạo lý và văn hoá.

Tôi , trong quá trình chấm số nhận thấy người nào có cung Điền trạch bị tuần triệt là không được hưởng điền sản của tổ tiên và phải tha hương lập nghiệp . Nếu cung Thiên di bị Tuần triệt nữa thì ý nghĩa đó càng rõ ràng . Nhưng chuyện tha hương lập nghiệp ngày nay đôi khi lại là vinh dự đấy nhé ! 

Như vậy là trên đây tôi đã trình bày vài dòng suy luận về sự hình thành các cung trên lá số và các tính chất đặc trưng của một số cung số . Việc bàn rông hơn về ý nghĩa các cung thì quí vị có thể tham khảo ở rất nhiều sách tử vi đã xuất bản . 

Tôi trình bày đôi điều về Tử vi là nhằm khơi gợi tư duy về môn học này ở một số bạn có tâm nghiên cứu. Vì như chúng ta đã biết, muốn luận giải đúng số tử vi thì phải hiểu rõ ngọn nguồn của tử vi, phải hiểu vì sao có cung Thân, cung Mệnh vì sao từ tháng sinh tính ngược theo giờ là cung Mệnh mà thuận theo giờ là cung an Thân, Vì sao tiểu hạn năm nào không coi tại cung đó mà nhảy sang cung khác để coi...Phải hiểu cho rõ thì mới linh động mà luận số chứ cứ bắt chước theo sách xưa thì cũng có ngày đoán trật !

Có thể nói rằng lý thuyết về tử vi tôi đã tinh thông và hiểu tận ngọn nguồn ! Nhưng tôi chưa trình bày ngay một lúc là vì tôi e rằng đọc giả sẽ có người bội thực ! Và tệ hơn nữa là " Thực bất tri kỳ vị ", các bạn thử tưởng tượng có một người đầu bếp chuẩn bị những món ăn công phu, hấp dẫn nhưng người ăn chẳng biết ngon hay dở, món nào cũng như món nào, nhiều khi lại chê bai này nọ thì có uổng công người đầu bếp kia không ?! 

Tôi xin hứa với các bạn yêu thích tử vi tôi sẽ tìm cách trình bày cho các bạn lĩnh hội được môn tử vi dưới nhiều góc độ khác nhau, nếu các bạn thường xuyên theo dõi ắt cũng được một số tuyệt chiêu ! Sở dĩ tôi hứa với các bạn là vì tôi yêu thích môn tử vi và do đó tôi cũng yêu mến các bạn- những người nghiên cứu tử vi, thế thôi ! 

Chủ đề Tuần Triệt mà tôi đã hứa trình bày với các bạn là một chủ đề rất phức tạp, từ xưa đến nay các sách nói đến rất lờ mờ !

Theo tôi Tuần và triệt là hai con Xúc Xắc chơi trò sấp ngửa - đỏ đen với số mệnh của con người, Mệnh có chính tinh sáng sủa gia thêm tuần triệt thế là hỏng ! Mệnh chính tinh hảm địa , vô chính diệu đóng thêm tuần triệt thế lại hay ! Rồi vận hạn cũng như thế ! 

Vậy cơ chế của tuần và triệt là gì ?Tôi đã có lần viết về chủ đề Tuần và Triệt nếu các bạn đã theo dõi chắc cũng có một vài ý niệm về" Hai con xúc xắc " này. Nhưng Tuần và triệt không đơn giản như một vài sự định nghĩa nôm na trên một số sách ! Và tôi càng ngạc nhiên hơn khi thấy có những môn phái tử vi không quan trọng về Tuần Triệt ! 

Hiện nay có nhiều môn phái ứng dụng Tuần triệt theo những góc độ khác nhau, nổi bật lên đó là hai trường phái : Tuần Triệt cố định và Lưu Tuần Triệt. Tôi dám chắc rằng những người đang sử dụng các phương pháp này vẫn đang lúng túng trong quá trình ứng dụng vì trong thực tế thấy có khi đúng thật đúng, có khi lại sai . Vậy nguyên nhân vì sao ? 

Do vậy một lần nữa tôi đề nghị chúng ta hãy nắm thật rõ cơ chế của Tuần và Triệt trước khi giải đoán lá số . 

Chắc có nhiều bạn thắc mắc tại sao Tôi phải trình bày lý thuyết xong mới giải đoán số , sở dĩ như vậy là vì tôi nhận thấy rằng môn tử vi tồn tại trong một hoàn cảnh thiếu khoa học !!! Thật vậy, tôi đọc các sách từ trước đến giờ, chằng có sách nào trình bày cho ra trò về lý thuyết tử vi, giỏi lắm thì một vài quyển sách cố gắng giải thích nguồn gốc một số sao theo kiểu " lấy thịt lợn nuôi lợn ", gần đây có quyển " Tử vi hoàn toàn khoa học " của Đằng Sơn, mượn lý thuyết của ông Tạ Phồn Trị để giải thích mà cũng chẳng tới đâu ! Người mới học tử vi mà đọc quyển này thì "ngơ ngác như con nai vàng đạp trên lá vàng khô" ! Những lý thuyết được trình bày trong quyển sách này chỉ là sự gượng ép vào những hiện tượng, chỉ thể hiện những bước cuối của một chuỗi vấn đề mà thiếu hẳn sự suy nguyên ngọn nguồn một cách nghiêm túc. Đã vậy còn luôn mồm kêu gọi mọi người biết ơn cái ông Tạ Phồn Trị xa lạ nào đó !!!

Thử hỏi dựa trên một mớ lý thuyết chưa được chứng minh rõ ràng thế kia thì việc ta đoán đúng một lá số sẽ có mấy phần lý thuyết đúng? Có mấy phần ngộ nhận? Trước đây tôi đoán số cho người ta, nhiều trường hợp thấy rất đúng thì tôi cũng chẳng mừng, có nhiều khi đoán sai thì tôi cũng chẳng buồn, đó là vì tôi thấy môn Tử vi còn thiếu một hệ thống phương pháp luận chuẩn xác nên những cái đúng sai lẫn lộn kia chỉ là những hệ quả tất nhiên! Đã vậy có những người đưa lá số của mình ra như là một câu đố để rồi đánh giá vị thầy nào hay, vị nào dở ! Nhưng họ có biết đâu, chính sự thành tâm hợp tác với người đoán số mới là cách làm hay nhất để hiểu biết về số mạng của mình.

Do vậy, trong thời gian gần đây tôi cố gắng nghiên cứu và hệ thống lại lý thuyết môn tử vi. Trên diễn đàn này,Tôi muốn trình bày cho các bạn một hệ thống lý thuyết về môn tử vi mà tôi đã nghiên cứu được, những phần lý thuyết này cũng được trích từ bản thảo của quyển sách mà tôi sẽ xuất bản. Tôi mong rằng khi các bạn hiểu rõ lý thuyết và phương pháp luận tử vi một cách chính xác thì chính các bạn sẽ tự chấm lá số của chính mình, chỉ có các bạn mới tự khám phá ra chính bản thân các bạn, không ai khác có thể làm điều đó cho các bạn! Qua đó môn tử vi mới được các bạn trân trọng đúng mức và có một chổ đứng vững chắc trong xã hội như những ngành khoa học khác. Đó là điều mà những người yêu thích môn tử vi như chúng ta cần phải làm !

Xác định vai trò của Mệnh và Cục :

Tôi trong quá trình nghiên cứu về tử vi đã nhận thấy rằng trong môn tử vi nếu thiếu phương pháp luận về ngũ hành thì việc luận giải sẽ mất phương hướng, muốn luận ngũ hành thì việc đầu tiên phải xác định vai trò của mệnh và cục.sau đây tôi xin định nghĩa ngắn gọn về mệnh cục :

1/Thế nào là mệnh? 
ví dụ : một người sinh năm Bính tuất có mệnh là hành thổ, có nghĩa là năm Bính tuất có Bính và tuất nạp âm là hành thổ, hành khí này bao trùm suốt cả năm, do đó người sinh trong năm này bị ảnh hưởng bởi khí thổ - mệnh thổ.

2/Thế nào là cục? 
ví dụ: Người sinh năm Bính tuất đó có lá số là thổ ngũ cục có nghĩa là vị trí mà cung mệnh đóng có nạp âm là hành thổ. Vị trí này được thể hiện là vị trí của tháng canh tí hoặc tháng tân sửu trong năm Bính tuất đó, nếu cũng là người sinh năm Bính tuất đó mà là mộc cục thì do mệnh đóng tại các tháng dần mão, tuất hợi. 

Như vậy cách xác định hành khí của cục là cụ thể hơn mệnh, và hành khí của mệnh là bao trùm cục. Ta cũng có thể nói nạp âm của năm sinh là Đại Mệnh và hành của cục là Tiểu mệnh .Lúc này ta thấy rằng hành khí của một con người ( theo quan niệm của tử vi) được xác định bởi Mệnh và Cục, nhưng hai vị trí hành khí đó có đặc trưng riêng và không hòa lẫn nhau được. Và điều quan trọng là hành khí của cung mệnh khác hành khí của tháng sinh. Theo tôi người ta có thể so sánh mệnh với tháng sinh để biết được mùa sinh hay không, tháng sinh có khắc mệnh hay không thì được chứ không nên so sánh sinh khắc giữa mệnh và cục vì cục là hành khí có tính chất vi mô, bằng chứng là từ cục ta xác định được các chính tinh, do đó hành khí của cục liên quan đến hành khí của chính tinh thì đúng hơn.
Vì hành khí của mệnh là bao trùm tất cả nên hành khí của mệnh liên quan đến hành khí của các sao là đương nhiên, do đó chúng ta có hai trung tâm điểm về ngũ hành khi luận sự tương tác ngũ hành của các sao, cũng như ảnh hưởng của các sao đến số mạng con người. Hai trung tâm điểm đó là mệnh và cục, độ tương hợp ngũ hành của các Sao với hành của mệnh và Cục là điều rất quan trọng ! Có thể nói nôm na là sự ảnh hưởng của các sao đối với số mạng của đương số giống như một ảnh hưởng thuận nghịch hai chiều, chiều của mệnh và chiều của cục.
Để cho dễ hiểu tôi xin lấy ví dụ : một người Thổ mệnh và Mộc cục, hạn đến các sao hành Thổ đương nhiên là ảnh hưởng đến đương số, khi hạn đến các sao thuộc Mộc , người Thổ mệnh đó có một thời gian ngắn bất ổn sau đó Mộc cục phát huy tác dụng, phản ứng thuận nghịch đổi chiều,các sao mộc vẫn giúp cho đương số thành công. Đây là một trong những trường hợp tôi đã gặp rất nhiều trong thực tế.

Qua những điều trên, tôi có thể nói rằng chuyện cục khắc mệnh không thể gọi là xấu, cục sinh mệnh chưa thể gọi là tốt mà hãy kết luận điều này phối hợp với các sao của mệnh và vận để kết luận. có như vậy mới tránh được những kết luận sai lầm gây ấn tượng xấu cho đương số ! 

3/ Thêm một kinh nghiệm về Mệnh và Cục :
- Dùng nạp âm của tuổi tức là Hành của mệnh ( Đại mệnh) so với Lệnh tháng sinh để biết độ vượng suy của Mệnh . Từ đó so nạp âm của mệnh với nạp âm của các năm hạn, nếu thấy vượng hay suy thì tính chất của vận hạn cũng phức tạp hay đơn giản tương ứng theo. Ví dụ : Mệnh Hỏa , sinh tháng tí thế là Mệnh bị khắc, nếu gặp nạp âm của năm vận là thủy thì Mệnh càng bất lợi, nếu bộ Sao của vận xấu thì độ số xấu càng tăng, nếu gặp Sao tốt thì độ số tốt cũng giảm !

- Dùng hành của Cục để so với lệnh tháng để biết độ ứng của số có thể hiểu nôm na là độ " ăn số" của lá số . Ví dụ : Hành của Cục bị lệnh tháng khắc thì độ ăn số giảm, có nghĩa là gặp bộ sao tốt mà thấy không tốt bao nhiêu, thấy sao xấu nhưng cũng chẳng xấu bao nhiêu !

Trên đây là các kinh nghiệm mà nhiều khi chấm số thấy hạn của đương số trên lá số tốt quá liền phán là đương số đại phát tài, thăng quan tiến chức nhưng thực tế thì chẳng được bao nhiêu ! do đó mà các " Thầy" cũng nên cân nhắc trước khi "phán "!

Hôm nay tôi xin nối tiếp chủ đề Nguyên lý luận giải Lá số bằng một mục rất quan trọng là Vòng Tràng sinh của Cục . Từ trước đến nay có nhiều trường phái về cách an vòng tràng sinh, chính vì nhiều trường phái thì tranh cãi về vấn đề này cũng nhiều ! Xin trình bày vắn tắt một số trường phái đó như sau:

1/ Tràng sinh chỉ khởi từ bốn vị trí Dần , Thân, Tỵ , Hợi Thuận cho Dương nam âm nữ, Nghịch cho âm nam đương nữ. 
2/ Tràng sinh khởi từ dần thân tỵ hợi cho dương nam âm nữ và từ tí ngọ mão dậu cho âm nam dương nữ .
3/ Tràng sinh và đế vượng đồng cung cho trường hợp âm nam dương nữ.

Có thể là còn nhiều cách nữa nhưng chốn giang hồ mênh mông nên chưa thể biết hết được ! Tuy nhiên theo tôi các cách an tràng sinh trên chưa đúng ! Và tôi xin được trình bày cách an vòng tràng sinh mà bản thân tôi đã kiểm chứng nghiệm lý được như sau : 
- Vòng tràng sinh cho các Cục đều khởi thuận.
- Mộc cục khởi tràng sinh từ hợi .
- Hỏa cục khởi tràng sinh từ Dần .
- Kim cục khởi tràng sinh từ tỵ .
- Thủy cục khởi tràng sinh từ Thân.
- Riêng Thổ cục không nên xét theo quan điểm một vòng tràng sinh liên tục mà chỉ xét độ vượng suy : Vượng tại tỵ ngọ, Tướng tại Thìn tuất sửu mùi, Hưu tại thân dậu, Tù tại Hợi tí, Tuyệt tại dần mão. 

Sở dĩ vòng tràng sinh an theo chiều thuận là do hành khí của các Cục là hành khí nạp âm , mà hành khí nạp âm là do tổ hợp số của 4 yếu tố can chi đứng cạnh nhau cấu thành, từ số quí về hành khí, đây là loại hành khí phức tạp khi đã nhìn rõ bản chất của loại hành khí nạp âm thì không có chuyện phân âm dương cho hành khí, cụ thể là hành khí của cục số , chính vì khí nạp âm là một loại khí không thuần nên Vòng tràng sinh của hành khí đặt nặng điểm Sinh, còn mười một vị trí còn lại cứ tự nhiên nối tiếp nhau. An vòng tràng sinh như thế này rất rõ ràng, đơn thuần là xét vị trí vượng hoặc suy của ngũ hành Cục từ đó đánh giá độ số của lá số . Đây cũng là dấu hiệu sử dụng ngũ hành trong tử vi rõ ràng nhất . Tuân thủ đúng nguyên tắc vượng suy của ngũ hành chúng ta sẽ dễ dàng đánh giá sự suy vượng của mệnh và vận đồng thời cũng có phương hướng rõ ràng cho việc Lưu Cục hàng năm khi tính tiểu hạn. 

Vòng tràng sinh ứng với mười hai cung số là nguyên tắc cơ bản của môn tử vi. Chỉ cần đánh giá vị trí cung mệnh đóng nằm ở vị trí nào của vòng tràng sinh và độ vượng suy hành khí của nạp âm tuổi với tháng sinh là đủ đánh giá tổng quát cuộc đời của một con người thuộc cấp bậc nào. Do vậy nhìn nhận đúng đắn về vòng tràng sinh là một điều cơ bản quan trọng của người nghiên cứu tử vi ! 
Đối với những người nghiên cứu tử vi chuyên nghiệp thì bước đầu tiên để luận giải lá số là phán đoán và định hướng lá số này có những tính chất gì phú, quí thọ hay bần hèn yểu...Tìm yếu tố mầm mống trong mệnh thân là những yếu tố nào, điều kiện nào sẽ trở thành hiện thực giống như đã có nhân thì cần phải có duyên rồi mới có quả được. Muốn phán đoán được thì phải tổng quan các cường cung, định tính , định lượng các Sao...Đó là phương pháp chính thống.
Nay tôi xin cung cấp cho các bạn một phép coi ngắn gọn, có thể trả lời sau 5 phút kể từ lúc nhận được thông tin ngày giờ sinh của đương số mà vẫn đảm bảo độ chính xác khả dụng. 
1/ Ngựa chạy về đâu?
Thiên mã trong mệnh tượng trưng cho cái động của con người, động mà có lợi thì có thể đoán là tốt, công việc hanh thông. Động mà bất lợi thì...dĩ nhiên là thất bại, cuộc đời thua thiệt, sự nghiệp ắt có lúc ách tắc.
Thiên mã nghĩa đen là xe cộ, "you are what you drive", đoán xe cộ sang hèn cũng nói lên chuyện giàu nghèo, sang trọng.
Thiên mã gặp hung họa thì đời có tai biến, nghĩa đen gặp nạn giao thông...
Con ngựa lợi hại lắm đó! Coi số là phải tìm con ngựa ngay.
Thiên mã gặp Hóa lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa , Hóa kỵ là dễ thấy nhất. Cứ trên lá số, lưu đại vận, tiểu vận thấy Mã có lợi là chuyện vui đang tới còn Mã gặp hóa kỵ là chuẩn bị mất việc, thất bại rất rõ ràng.
Cái chiêu này là tuyệt chiêu chuyên trị xem vận hạn từng năm. Nếu ai luyện kỹ thì mới thấy hết cái diệu dụng.

Sau khi đã xem ngựa hay dỡ thế nào rồi thì tiếp tục xác định đó thực sự là ngựa của ai?
Xét tổng quan, ngựa nằm bất cứ đâu trong 12 cung số thì rồi cũng có lúc mình phi ngựa thôi, đó là tới vận mượn ngựa mà chạy. Nhưng Ngựa nằm ở Mệnh Thân, Tài. Quan, Di mới là ngựa thật sự của mình.
- Ngựa ở Mệnh và Di là ngựa chạy mạnh nhất.
- Cung Quan, Tài, cung Thân có ngựa thì tính chất di chuyển yếu đi và cần phải phụ luận thêm cung Mệnh như thế nào. Tuy nhiên các cung này có Mã thì luôn thể hiện sự tài năng, sự sinh động theo ý nghĩa từng cung.
Ví dụ: - Mã ở cung Tài thì tiền bạc lưu chuyển tốt, nói lên sự buôn bán.
- Mã ở cung Quan, công việc có tính cách lưu động, thuyên chuyển tùy sự phối hợp các Sao để đoán.
Đó là xem lá số tĩnh. Cần phải xem lá số động, tức là theo dõi đại vận và tiểu vận với Lưu Thiên mã tương ứng.
- Lưu vận, có Thiên mã gặp Thái dương là "ngựa về với chủ" tức gặp được người đở đầu, bậc đàn anh, về làm việc phò tá cho người đó.
- Lưu Thiên mã đại vận còn thấy được bóng dáng sự biến chuyển của cả đại vận. 
Ví dụ: Đại vận tới cung Dần, Lưu Thiên mã đại vận tại cung Thân gặp Tả phù, Hữu Bật chiếu thì đại vận đó được quí nhân giúp đỡ, có bạn hiền phò trợ.
Ví dụ: Thiên mã gặp Thanh long là có cơ chuyển biến cuộc đời, " Ngựa mọc cánh"...
- Thiên mã gặp Hóa Kỵ mới là "ngựa cùng đường" chứ không phải là Mã ở cung Hợi đâu !
Điều quan trọng, nếu ngựa là của mình như đã nói trên thì sự chuyển biến sẽ rất mạnh mẽ và thực sự tác động đến cuộc đời đương số. Nếu các bộ cách của Thiên mã liên quan đến lục thân thì lục thân có biến chuyển. Do vậy việc phân tích Mã của ai rất quan trọng trong luận đoán. Đoán có chính xác hay không cũng tùy vào đó.

Như các phần trên đã nói về Thiên mã, phần động của lá số. Bây giờ nói đến phần tĩnh của lá số. Chú ý đây là phép phán đoán nhanh, chứ phần động và phần tĩnh của lá số không chỉ có vậy.
Sao Thái tuế chính là phần tĩnh của lá số. Thái tuế ví như Hoàng đế, phải yên vị mới tốt, Thái tuế đi với cách cục đầy đủ, vững vàng thì tốt vô cùng, còn Thái tuế gặp cách cục lỏng chỏng, hắc hảm thì báo hiệu vua lưu vong, triều đình tan nát, kết cuộc là bản thân của người có lá số đó bị vạ lây: Nếu mệnh cung sáng sủa thì độ số tốt cũng giảm, nếu mệnh cung xấu thì cầm chắc cuộc đời điêu linh ! 
Ví du 1: Thái tuế đóng tai ngọ, mệnh cũng đóng tại ngọ có Tử vi miếu địa thủ chiếu. Tử vi tại ngọ là chính vị sáng sủa, Thái tuế đóng tại đấy thì Thái tuế đắc chính vị, độ số may mắn của lá số lớn vô cùng! Ví dụ lá số của Lưu Bang tuổi giáp ngọ hoặc một lá số thực tế cũng tuổi giáp ngọ và Tử vi tai ngọ mà tôi biết, người nay ít học, tuổi trẻ gian khổ nhưng tay trắng lập nghiệp, hiên nay rất giàu có, là một tay chơi đồ cổ có số má...
Tính thêm thì thấy tuổi ngọ Thiên mã ở cung Thân gặp Hóa quyền, là ngựa oai phong quyền hành cho nên năng nổ tháo vát và có uy thế.
Ví dụ 2: Lá số của vua Quang Trung, tuổi nhâm thân, Thất sát tại cung thân thủ mệnh. Thiên mã tại cung di gặp Tử vi Hóa quyền nên công danh và địa vị cái thế!
Chính vì vậy xem qua lá số, coi phần tĩnh phải tĩnh, phần động phải động, cách cục sáng sủa là lá số may mắn, gặp thời, có đất dụng võ. Nếu ngược lại thì cầm chắc gian nan, trở ngại !

Đúng là Phần Tĩnh là cung Mệnh, phần Động là cung Di. Nhưng không chỉ có thế, trong là số còn nhiều yếu tố nói lên điều đó, ví dụ như Thái tuế là phầ tĩnh, Thiên mã là phần động. Nhưng tôi đang nói đến vấn đề phán đoán nhanh lá số nên đang bàn về Thiên mã và Thái tuế thôi.
Thiên mã trong mệnh là nói lên tính chất năng động của Mệnh, ở môi trường nào cũng năng động, dĩ nhiên bao gồm ý nghĩa đi xa.
Thiên mã cung di nói lên tính chất giao tiếp, đi ra bên ngoài, sự đi xa ,..nhưng chưa chắc là người hoạt bát năng động!

Nên nhớ cung mệnh là gốc nói lên những thuộc tính của bản thân còn các cung còn lại là những nhân duyên của Mệnh mà thôi !

DỰ ĐOÁN VẬN MỆNH BẰNG TỬ VI ĐẨU SỐ

          LỜI MỞ ĐẦU

Tử vi, theo truyền thuyết dân gian Trung Quốc, nghĩa là hoa tường vi màu đỏ. Từ cổ đại, người Trung Quốc thường dùng hoa tường vi màu đỏ để bói toán. Trần Đoàn (thời Tống) đã sáng tạo ra phương pháp bói toán lấy tên là TỬ VI và đặt “tử vi” làm tên một ngôi sao trong 110 sao để tính toán vận mệnh.

So với các khoa khác, tử vi xuất hiện tương đối chậm, nhưng đã mở đường cho một học thuật riêng bằng lý số theo một hướng đặc thù. Tử vi có khả năng vạch ra và dự báo những bước đường đời của con người và chỉ dẫn con người những cách xử thế tối ưu để thành đạt, hoặc ít ra cũng chủ động trước những hiểm hoạ sắp xảy ra.

Xuất phát từ quan điểm “Thiên nhân tương dữ” trong triết học Trung Quốc, Tử vi quan niệm con người là một phần của thế giới tự nhiên, thống nhất với tự nhiên, “là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ”. Bởi vậy, khi con người sinh ra ở một thời điểm nhất định thì tính cách tương ứng – từ tính cách ấy mà tạo nên số phận. Trần Đoàn đã quy nạp được hầu hết tính cách của con người vào 110 sao, xây dựng một phương pháp nghiên cứu con người và số phận con người. Quy luật của vũ trụ đã được diễn đạt thành quy luật của đời người. Trước đây, Kinh Dịch và Tử vi thường bị người ta quy là mê tín dị đoan. Bởi lẽ, người ta không hiểu được sự phong phú của nó đến nhường nào, thêm vào đó một số người lợi dụng tử vi để kiếm tiền, đã xuyên tạc bản chất của tử vi.

Tử vi đẩu số là phương pháp dự trắc về vận mệnh con người quan trọng nhất trong Mệnh lý học phương Đông. Phương pháp này lấy NĂM, THÁNG, NGÀY và GIỜ SINH để xác định vị trí 12 CUNG, tạo ra LÁ SỐ TỬ VI.

12 CUNG là thuật ngữ thiên văn học để đánh dấu 12 lần gặp gỡ giữa quỹ đạo vận hành của Mặt trời và Mặt trăng trong một năm. 12 Cung cũng nói lên nội dung và nhân tố chính liên quan tới vận mệnh của cuộc đời một con người.

12 CUNG gồm: Mệnh, Huynh đệ (anh em), Phu thê (vợ chồng), Tật ách (bệnh tật), Thiên di (xuất ngoại), Nô bộc, Tài bạch (của cải), Điền trạch (đất đai), Phụ mẫu (cha mẹ), Quan lộc (sự nghiệp),  Phúc đức , Tử nữ (con cái). Ngoài ra còn cung Thân (dự đoán tương lai của đời người), cung này tương phối cùng các Cung khác chứ không có vị trí riêng. Trong đó, MỆNH là Cung quan trọng nhất, vì Mệnh tốt, xấu gần như được phản ánh tại cung này.

Vai trò của Cung Mệnh và cung Thân :
Đầu tiên phải đả phá cách nhìn nhận ” Nửa đời trước ứng với Mệnh, nửa đời sau ứng với Thân ” ; ” Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Hạn tốt ” … Mà chúng ta phải nhìn nhận rằng Mệnh và Thân là một cặp Thể Dụng tương hổ với nhau . Mệnh và thân đều phản ảnh suốt cả cuộc đời con người chứ không có sự phân chia vai trò trước sau. Mệnh là thể, Thân là Dụng . Và bài toán Mệnh Thân là Bài toán đầu tiên và cơ bản nhất. Nếu nhìn nhận và giải quyết rõ ràng, kỹ lưỡng thì chúng ta đã nắm được 80% tính chất số mệnh của con người . Có lẽ đầu tiên người sáng chế ra môn tử vi chỉ để làm bài toán này, còn chuyện vận hạn là nhu cầu phát sinh sau đó .
Do vậy khi đoán cung mệnh tức là đoán tổng quát tính chất của đương số, kết hợp cung Thân để coi cái hay của mệnh có được phát huy hay không phát huy như thế nào ? Sự cộng hưởng của mệnh Thân như thế nào ? Mệnh Thân chỏi nhau như thế nào ? Dưới quan niệm thể dụng chúng ta sẽ suy luận và tiên đoán nhiều vấn đề trong cuộc đời đương số.
Điều đáng lưu ý là trên lá số có 6 cung dương và 6 cung âm, Mệnh thân đều hoặc là ở cung dương hoặc là ở cung âm . Đó là môi trường để Mệnh và Thân tương hổ với nhau . Trong 6 cung cùng âm hoặc cùng dương thì chia làm hai nhóm : Nhóm thân cư Mệnh , Tài , Quan và nhóm Thân cư Di, Phúc , Phối ( Phu, Thê ). Nhóm thứ nhất do nằm trong thế tam hợp, nếu mệnh có đủ những bộ sao như Cơ Nguyệt đồng Lương, Tử phủ vũ Tướng, Sát phá liêm tham, Cự Nhật … thì độ cộng hưởng của mệnh và thân rất cao và đương nhiên là thuận lợi , độ số thành công tăng lên rất cao, đặc biệt thân cư Mệnh . Khi nói đến thế tam hợp cần phải nói đến bộ Thái tuế , Quan phù, Bạch hổ, nói một cách khoa học thì đây là bộ sao chỉ trạng thái năng lượng cao, gặp tổ hợp sao xấu thì hoạ càng mạnh, gặp tổ hợp sao tốt thì phúc càng nhiều !( vấn đề vòng thài tuế tôi sẽ bàn sau) Còn nhóm thứ hai thì Mệnh Thân không nằm trong thế tam hợp, đó là yếu tố bất lợi trong việc không liên kết được các bộ sao trong thế tam hợp, mệnh Thân thường đóng ở các bộ sao khác nhau, nhiều khi là chỏi nhau, như vậy là bất lợi, hoạ nhiều hơn phúc !

Xuất phát điểm của Tử vi đẩu số là Học thuyết Âm Dương Ngũ hành (Mời xem tại chi tiết tại ĐÂY), phép đếm Can Chi và quan điểm hợp nhất Trời Đất và Con Người (“Thiên Địa Nhân hợp nhất”), lấy ĐẶC ĐIỂM VỊ TRÍ của các sao CÁT, HUNG, HÓA trong chùm sao tử vi để suy luận ra vận mệnh con người.

Phương pháp cơ bản của Tử vi đẩu số là căn cứ ngày, tháng, năm và giờ sinh của mỗi người định ra 12 cung và an hệ thống sao lên LÁ SỐ rồi xét sự tương quan vị trí các cung, các sao mà đoán ra địa vị, nhân cách, phúc họa, sang giầu của người đó.

SAO là yếu tố cơ bản của Tử vi đẩu số. Sự phân bổ và tổ hợp của Sao cùng độ SÁNG và độ lành dữ (cát hung) của sao có ảnh hưởng quyết định tới sự luận giải lá số.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1/ LÁ SỐ: Là sơ đố dùng để ghi lạiquỹ đạo, động thái động tĩnh cả đời người. Sơ đồ đó gồm 12 ô gọi là CUNG được đặt tên theo địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi:

Tị(- Hỏa)

Ngọ(+ Hỏa)

Mùi(- Thổ)

Thân(+ Kim)

Thìn(+ Thổ)

Dậu(- Kim)

Mão(- Mộc)

Tuất(+ Thổ)

Dần(+ Mộc)

Sửu(- Thổ)

Tý(+ Thủy)

Hợi(- Thủy)

a/ Thuộc tính âm dương ngũ hành của 12 CHI Cung (xem hình trên):  

 

CHI của 12 Cung

Sửu

Dần

mão

thìn

Tị

Ngọ

mùi

thân

Dậu

Tuất

Hợi

-  / +

+

-

+

-

+

-

+

-

+

-

+

-

Hành

Thủy

Thổ

Mộc

Mộc

Thổ

Hỏa

Hỏa

Thổ

kim

kim

Thổ

Thủy

b/ 12 Cung lần lượt đại diện cho những nội dung chính của đời người và những nhân tố chính về Vận Mệnh. Khi tiến hành lập lá số, tùy theo GIỜ SINH, thường dẫn đến các trường hợp sau:

*/ Sinh giờ Tý, Ngọ: Mệnh và Thân đồng cung (cùng đóng 1 cung): Cả đời không bị ảnh hưởng bởi môi trường sống tức là không dễ gì thay đổi Mệnh..

*/ Sinh giờ Mão, Dậu: Thân và Thiên di đồng cung:

*/  Sinh giờ Thìn, tuất: Thân và Tài bạch đồng cung: Coi trọng tiền bạc.

*/ Sinh giờ Tị, Hợi: Thân và Phu thế đồng cung: Coi trọng cuộc sống gia đình, vợ chồng.

*/ Sinh giờ Dần, Thân: Thân và Quan lộc đồng cung (“Thân cư Quan lộc”): Thích địa vị và coi trọng công việc.

*/ Sinh giờ Sửu, Mùi: Thân và Phúc đức đồng cung: Chịu ảnh hưởng nhiều của phúc đức tổ tiên.

GHI CHÚ: Trước đây khi mạng Internet chưa có, việc LẬP LÁ SỐ là một công việc khá phức tạp và tốn nhiều thời gian. Bây giờ, có rất nhiều trang web sẵn sàng giúp chúng ta thiết lập lá số miễn phí rất nhanh chóng. Vì vậy ở đây chúng ta chỉ cần hiểu được Lá số là gì còn cách lập thì khỏi phải mất công tìm hiểu, phần sau chúng tôi sẽ cung cấp cho Quý vị công cụ hữu hiệu để tự lập Lá số cho mình cũng như cho người thân.

2/ MỖI CUNG CHO TA NHỮNG THÔNG TIN GÌ?

Cung Mệnh: Tương đương bộ não con người ta, là Cung Chính trong 12 Cung.

Cung Huynh đệ: Phán đoán quan hệ bản thân với anh chị em có tốt không.

Cung Phu Thê: Phán đoán tình trạng hôn nhân, đối tượng kết hôn, cuộc sống hôn nhân mỹ mãn hay không.

Cung Tử nữ: Suy đoán về cá tính, tư chất, học hành của con cái.

Cung Tài bạch: Là cung sinh tài (tiền), phán đoán tài vận, khả năng quản lý tài chính và tình hình kinh tế của một người.

Cung Tật ách: Đoán biết tình hình sức khỏe và thể chất của một người.

Cung Thiên di: Phán đoán Vận xuất ngoại, phát huy tài năng, biểu hiện sức sống của bản thân.

Cung Nô bộc: Còn được gọi là cung Thân hữu (bạn bè). Phán đoán mối quan hệ với đối tác, đồng nghiệp, bạn bè.

Cung Quan lộc: Phản ánh thong tin về sự nghiệp, học vấn, địa vị.

Cung Điền trạch: Xét xem có thể thừa kế cơ nghiệp tổ tiên không. Hoàn cảnh sống.

Cung Phúc đức: Phản ảnh điềm lành dữ trong cuộc sống tinh thần như tâm thái, nhân sinh quan, sở thích.

Cung Phụ mẫu: Dự đoán tính cách, hoàn cảnh gia đình, địa vị của cha mẹ, tình thương của cha mẹ.

MỜI ĐỌC PHẦN HƯỚNG DẪN CỦA THÀY NGUYỄN NGUYÊN BẨY:

Cung phương diện Thiên : Tỵ,Ngọ,Mùi,Thân.

Cung phương diện Địa : Dần,Sửu,Tý,Hợi.

Cung phương diện Nhân : Mão,Thìn,Dậu, Tuất.

.ĐỌC CUNG:Gồm cung cố định và cung lập thành.Cung cố định: Tý,Sửu, Dần,Mão,Thìn,Tỵ, Ngọ, Mùi,Thân,Dậu,Tuất,Hợi.Cung lập thành: Mệnh,Bào,Phối,Tử,Tài, Giải,Di, Nô,Quan, Điền, Phúc,Phụ.

ĐỌC CUNG CỐ ĐỊNH

A. Đọc Tam Tài Cung: Cung phương diện Thiên: Tỵ,Ngọ,Mùi,Thân.Cung phương diện Địa: Dần,Sửu,Tý,Hợi.Cung phương diện Nhân: Mão,Thìn,Dậu,Tuất.

Nhấn mạnh: Bất cứ cung số nào,thế tam hợp đều gồm ba cung của ba phương diện Thiên – Địa – Nhân.Ví dụ: Đọc tam hợp Thân,Tý,Thìn phải hiểu là Thân Thiên,Tý Địa,Thìn Nhân.

B. Đọc Tứ Tượng Cung: Đọc cung nào thì cung ấy là cung Toạ.Cung trực xung là cung Tiền Án,hai cung liền kề hai bên là cung Tả,cung Hữu (xem Mộ và xem Thế Nhị Hợp),hai cung trong tam hợp cung,cung Tam Hợp phía tay trái gọi là cung Thanh Long,cung Tam Hợp phía phải gọi là cung Bạch Hổ.Cát đến từ Nhị Hợp,Hung đến từ Hình,Hại và cửa là cung trực chiếu.Ví dụ: Đọc cung Tý thì cung Tý gọi là cung Toạ,cung Ngọ gọi là cung Tiền Án,cung Sửu gọi là cung Hữu,cung Hợi gọi là cung Tả,cung Thìn gọi là cung Thanh Long,cung Thân gọi là cung Bạch Hổ.Cát đến từ cung Sửu.Hung đến từ Mùi và cửa là cung Ngọ.

C. Quan Hệ Giữa Hành Cung Và Hành Mệnh: Đọc cung là để nhận định mối quan hệ giữa hành cung và hành Mệnh.Nguyên tắc hành Cung và hành Mệnh bình hoà là sinh,vượng,các trường hợp Cung sinh Mệnh và khắc Mệnh,Mệnh sinh Cung và khắc Cung đều coi là xấu hãm,phải chế giải vượt qua thế Bại địa,Tuyệt địa.Ví dụ: Người Mệnh Thuỷ,Thổ,cung Mệnh cư tam hợp Thân Tý Thìn (thuỷ) là được bình hoà,sinh vượng.Cư trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu (kim) là thế Cung sinh bản Mệnh là xấu hãm.

Người Mệnh Kim,cung Mệnh cư tam hợp Tỵ Dậu Sửu (kim) là được bình hoà,sinh vượng.Cư trong tam hợp Dần Ngọ Tuất (hoả) là thế cung khắc bản Mệnh là thế Bại địa,Tuyệt địa.Người Mệnh Mộc,cung Mệnh cư Hợi Mão Mùi (mộc) là được bình hoà,sinh vượng.Cư trong tam hợp Thân Tý Thìn (thuỷ) là thế Cung sinh bản Mệnh,là xấu hãm.Người Mệnh Hoả,cung Mệnh cư tam hợp Dần Ngọ Tuất (hoả) là được bình hoà,sinh vượng.Cư trong tam hợp Hợi Mão Mùi (mộc) là thế Cung sinh bản Mệnh,là thế Bại địa,Tuyệt địa.Nhấn mạnh: Cung Mệnh sinh chính diệu toạ chủ,chính diệu toạ chủ sinh bản Mệnh,đó là thuận lý,là thượng cách.

ĐỌC CUNG LẬP THÀNH

A. Nguyên Tắc Lập Thành: Theo Tứ Trụ (Năm,Tháng,Ngày,Giờ sinh),xác lập vị trí cung Mệnh và cung Thân.Từ vị trí cung Mệnh,lập thành mười một cung tiếp theo,cố định,cho số Tử Vi cần đọc.Khởi nghịch theo thứ tự: cung Huynh Đệ,cung Phối Ngẫu,cung Tử Tức,cung Tài Bạch,cung Giải Ách,cung Thiên Di,cung Nô Bộc,cung Quan Lộc,cung Điền Trạch,cung Phúc Đức và cung Phụ Mẫu.

 Ví dụ: Cung Mệnh lập ở Tý,cung Thân lập ở Thìn.Các cung lập thành Huynh Đệ tại Hợi,Phu Quân (hoặc Thê Thiếp) tại Tuất,Tử Tức tại Dậu,Tài Bạch tại Thân,cung Giải Ách tại Mùi,cung Thiên Di tại Ngọ,cung Nô Bộc tại Tỵ,cung Quan Lộc tại Thìn,cũng là cung an Thân nên gọi là Thân cư Quan Lộc,cung Điền Trạch tại Mão,cung Phúc Đức tại Dần,cung Phụ Mẫu tại Sửu.

B. Đọc Nhất: Theo truyền thống,đơn cung được cho là quan trọng theo thứ tự: Nhất Mộ (cung Phúc Đức),Nhị Trạch (cung Điền Trạch),Tam Thân Mệnh (xem trọng cung Thân hơn cung Mệnh).Thân chỉ cư tại sáu cung: Cư cùng với Mệnh gọi là Thân Mệnh đồng cung,cư cung Phúc gọi Thân cư Phúc Đức,cư Quan gọi Thân cư Quan Lộc,cư Tài gọi Thân cư Tài Bạch,cư Phối Ngẫu gọi Thân cư Thê (hay Thân cư Phu),Thân cư Di gọi Thân cư Thiên Di.Phúc Đức thực ra đã bao hàm Điền Trạch,Phụ Mẫu,Huynh Đệ và Giải Ách.Phối Ngẫu bao hàm Tử Tức,Nô Bộc.Cho nên Thân không cư tại sáu cung Điền Trạch,Phụ Mẫu,Huynh Đệ,Tử Tức,Giải Ách,Nô Bộc.

 C. Đọc Nhị: Các Nhị hợp hoá,nhị xung,nhị hình,hại,vô ân,vô lễ.Trong các nhị hợp này,nhị hợp Tý – Sửu và nhị hợp Ngọ – Mùi là Nhị hợp liền kề hay còn gọi là Nhị hợp Nhật Nguyệt được coi là quan trọng nhất.Như ví dụ trên,cung Mệnh an tại Tý,cung Sửu Phụ Mẫu là nhị hợp liền kề hợp hoá thổ,cung Ngọ Thiên Di là Tương Xung,cung Mão Điền Trạch là Tương hình vô lễ,cung Mùi Giải Ách là Tương hình hại.Cung Thân an ở Thìn Quan Lộc,cung Dậu Tử Tức là nhị hợp hoá kim,cung Tuất Thê Thiếp (hoặc Phu Quân) là Tương Xung,cung Mão Điền Trạch là Tương hại.

 D. Đọc Tam: Tam hợp thuộc cục nào và phương tam tài của từng cung trong tam hợp ấy.Như ví dụ trên,cung Mệnh an tại Tý,như vậy Mệnh,Quan,Tài trong tam hợp Thân Tý Thìn thuộc Thuỷ (bản chất là Giao Tiếp).Cung Mệnh an tại Tý là phương diện Địa,cung Tài Bạch an tại Thân là phương diện Thiên,cung Quan Lộc an tại Thìn là phương diện Nhân.

 E. Đọc Tứ: Đọc cung Toạ và các phương xung,chiếu,ảnh hưởng hung cát.Như ví dụ trên,cung Mệnh an tại Tý,gọi là Mệnh toạ tại Tý.Cung bên trái là Sửu Phụ Mẫu,thế Nhị hợp,quan thiết với cung Mệnh hơn cung bên phải Hợi Huynh Đệ.Cung Thanh Long (Quan Lộc) tại Thìn,phương diện Nhân bảo rằng khó khăn vất vả hơn cung Bạch Hổ (Tài Bạch) tại Thân,phương diện Thiên.Hướng hoạ hại đến từ Mùi Giải Ách,và hướng tránh hung đón cát đến từ xung Ngọ Thiên Di.

 Cung Thân an tại Thìn Quan Lộc,phương diện Nhân,nên ba cung Tử Tức (nhị hợp Dậu),Phu Thê (xung Tuất),Điền Trạch (hình,hại),là ba cung quan thiết với cung Thân và mọi chế giải hung cát phụ thuộc nội lực của bản thân đương số.Nhấn mạnh: Đọc cung lập thành cần nhất ý nghĩa thực mà cung lập thành ấy mang tên.Ví dụ: Cung Tài Bạch là vấn đề tiền bạc,cung Tử Tức là vấn đề con cái,cung Phối là vấn đề vợ chồng.Cung Thân cư Quan Lộc,vấn đề của Thân (lập nghiệp).

Nguyễn Nguyên B3/ HỆ THỐNG SAO:

a.     Chính tinh: 14 Sao, chia ra:

Tử vi hệ: 6 Sao: Tử vi, Thiên cơ, Thái dương, Vũ khúc, Thiên đồng, Liêm trinh.

Thiên phủ hệ: 8 sao: Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát.

b.    Cát tinh: 6 sao may mắn: Tả phù, Hữu bật, Văn xương, thiên việt, Thiên khôi, Văn khúc.

c.      Sát tinh: 6 sao không may mắn: Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp.

d.    Tứ hóa: Hóa lộc, Hóa quyền, Hóa kỵ, Hóa khoa.

e.      Lộc tồn: Lộc tồn, Thiên mã.

Mười bốn chính tinh tuân theo một cách tính có sẵn căn cứ vào giờ, ngày tháng, năm sinh mà an vào mỗi cung. Sao nào ở cung nào sẽ tiên đoán việc gì đó sẽ xảy ra cho đời người.

Tỉ dụ: Cung phu thê (vợ chồng), được sao Thái Âm, Thái dương thì người đàn ông hay đàn bà thường sẽ có một hôn nhân tốt. Trái lại, nếu thấy có sao Liêm trinh ở cung phu thê thường là bất lợi cho gia đạo.
Tỉ dụ: Cung tài bạch có sao Vũ Khúc tất tiền bạc dồi dào, nếu cung này gặp sao hung, hẳn nhiên sẽ vất vả nghèo khổ.
Tỉ dụ: Trên trần thế biết bao nhiêu bách triệu phú ông mà vẫn sống trong cảnh u sầu. Tại vì có hung tinh nằm ở cung Phúc Đức.

Tổng kết lại,
- Sao Tử Vi là Bá Ấp, thần của khí chất tôn quí.
- Sao Thiên Cơ là Khương Thượng, thần của trí tuệ, tinh thần.
- Sao Thái Dương là Tỉ Can, thần của quang minh, bác ái.
- Sao Vũ Khúc là Vũ Vương, thần của vũ dũng đại phú.
- Sao Thiên Đồng là Văn Vương, thần của dung hoà, ôn thuận.
- Sao Liêm Trinh là Phí Trọng, thần của tàn ác, lươn lẹo.
- Sao Thiên Phủ là Khương hoàng hậu, thần của tài năng, từ bi.
- Sao Thái Âm là Giả phu nhân, thần của tinh khiết, trinh tháo và sạch sẽ.
- Sao Tham Lang là Đát Kỷ, thần của dục vọng, vật chất.
- Sao Cự Môn là Mã Thiên Kim, thần của thị phi, nghi hoặc.
- Sao Thiên Tướng là Văn Thái Sư, thần của từ ái, trung trinh.
- Sao Thiên Lương là Lý Thiên Vương, thần cai quản, tổ chức, xếp đặt.
- Sao Thất Sát là Hoàng Phi Hổ, thần của uy nghiêm, quyết liệt.
- Sao Phá Quân là Trụ Vương, thần của phá hoại, tiêu hao.

4/ ĐỘ SÁNG CỦA SAO: Thiên thể vận hành tinh cầu do có sự khác biệt về góc độ và khoảng cách nên các sao có mức độ sang tối khác nhau. Có 7 cấp độ:

                        CẤP ĐỘ

MÔ TẢ

Miếu

Sáng rõ nhất, Cát tinh cực cát, Hung tinh hiện cát.

Vượng

Độ sáng không liên tục, Cát tinh đại cát.

Đắc địa

Độ sáng quang minh, Cát tinh vẫn cát, Hung tinh bớt hung.

Lợi ích

Tử vi vẫn sáng, Cát tinh vẫn cát, Hung tinh giảm khí hung.

Bình hòa

Độ sáng nhỏ dần, Cát tinh giảm cát, Hung tinh giảm hung.

Không đắc địa

Chuyển dâm, Cát tinh bất lực, Hung tinh mạnh dần.

Hãm (hiểm)

Chuyển tối đen, Cát tinh bất dụng, Hung tinh cực hung.

3a/ HỆ THỐNG SAO (tiếp):  

f.      Ất cấp: 16 Cát tinh: Hồng loan, Thiên hỷ, Tam đài, Bát tọa, Đài (Thai) phụ, Phong cáo, Giải thần, Ân quang, Thiên quý, Thiên tài, Thiên thọ, Thiên cung, Thiên phúc, Long trì, Phượng các. 15 Hung tinh: Thiên hình, Thiên diêu, Âm sát, Thiên thượng, Thiên sứ, Thiên khốc, Thiên hư, Thiên nguyệt, Cô thần, Quả tú, Phi liêm, Phá toái, Thiên không, Hoa cái, Uy trì.

g.     Bình cấp: Cát tinh:Trường sinh, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Thai, Dưỡng, Bác học, Lực sỹ, Thanh long, Tướng quân, Tấu thư, hỷ thần… Hung tinh: Suy, Tử, Mộ, Mộc dục, Bệnh, Tuyệt, Tiểu hao, Đại hao, Quan phủ, Phi liêm, Bệnh phù, Phục binh, Triệt không, Tuần không…

h.    Đinh cấp: Cát tinh: Tướng tinh, Tuế dịch, Long đức, Thiên đức, Phán an. Hung tinh: Hoa cái, Tuế kiện.

i.       Mậu cấp: Hung tinh: Tính theo năm: Tức thần, Kiếp sát, Tai sát, Thiên sát, Chỉ bội, Nguyệt sát, Vong thần, Hối khí, Tang môn, Quán sách, Quan phù, Tiểu hao, Đại hao, Hàm trì, Điếu khách, Bạch hổ, Bệnh phù…

5/ BẢN CUNG: Cung chủ sự: Xem bản Mệnh thì lấy cung MỆNH làm bản cung. Xem sức khỏe lấy cung TẬT ÁCH… Cung LƯU NIÊN cũng được coi là Bản cung.

6/ ĐỐI CUNG: Cung đối diện Bản cung (Xem hình dưới: Hai cung cùng mầu là Đối cung), có ảnh hưởng lớn đến Bản cung.

7/ TAM PHƯƠNG TỨ CHÍNH: TAM PHƯƠNG: 3 cung TAM HỢP với Bản cung (Hình dưới: 3 cung cùng mầu). Xác định bằng cách: Từ Bản cung lấy là 1, thuận chiều kim đồng hồ, đếm đến cung thứ 5; ngược chiều kim đồng hồ, đếm đến cung thứ 5. Có 2 khái niệm cung Tam hợp:Một là dựa vào tên địa chi của Cung: Dần-Ngọ-Tuất; Tị-Dậu-Sưu; Thân-Tý-thìn; Hợi-Mão-Mùi. Hai là dựa vào Chức danh Cung: Mệnh (Thân)-Tài-Quan; Huynh đệ-Tật ách-Điền trạch; Phu thê-Thiên di-Phúc đức; Tử nữ- Nô bộc-Phụ mẫu.

TỨ CHÍNH: Nếu xét thêm Đối cung của Bản cung thì thành Tứ chính.

8/ HIỆP và HIẾP: HIỆP:Cung Tam hợp gần Cát tinh tương hội chiếu. HIẾP: Cung tam hợp gần Hung tinh tương hội chiếu.

9/ LÂN CUNG: Cung bên cạnh

10/ TỨ SINH: 4 cung Dần – Thân – Tị – Hợi. Sao Thiên mã làm chủ. Mệnh ở đây chủ về sự bôn tẩu, vất vả. Nếu lại gặp các sao động như Thiên mã, Thái dương thì càng vất vả:

Tị(- Hỏa)

Ngọ(+ Hỏa)

Mùi(- Thổ)

Thân(+ Kim)

Thìn(+ Thổ)

Dậu(- Kim)

Mão(- Mộc)

Tuất(+ Thổ)

Dần(+ Mộc)

Sửu(- Thổ)

Tý(+ Thủy)

Hợi(- Thủy)

11/ TỨ BẠI: 4 cung Tý – Ngọ – Mão – Dậu. Mộc dục làm chủ. Chủ về hung hiểm, Nam Nữ đa đoan. Nếu gặp Đào hoa, Hồng loan, Liêm trinh, Tham lang thì càng dễ đổ vỡ tình cảm. Lạc quan nhưng nóng tính. Biết kiếm tiền, có khả năng làm việc lớn:

Tị(- Hỏa)

Ngọ(+ Hỏa)

Mùi(- Thổ)

Thân(+ Kim)

Thìn(+ Thổ)

Dậu(- Kim)

Mão(- Mộc)

Tuất(+ Thổ)

Dần(+ Mộc)

Sửu(- Thổ)

(+ Thủy)

Hợi(- Thủy)

12/ TỨ MỘ (KHỐ): 4 cung Thìn – Tuất – Sửu – Mùi. Sao Cô thần Quả tú làm chủ. Mệnh, Thân tại đây là người bảo thủ, thật thà, thẳng thắn nhưng tương đối vất vả, cô độc ly hương. Mệnh ở Thìn, tuất là ở Thiên la Địa võng, luôn phải cởi bỏ sự trói buộc để bứt phá ra… Thích dựa người khác để đạt mục đích:

Tị(- Hỏa)

Ngọ(+ Hỏa)

Mùi(- Thổ)

Thân(+ Kim)

Thìn(+ Thổ)

Dậu(- Kim)

Mão(- Mộc)

Tuất(+ Thổ)

Dần(+ Mộc)

Sửu(- Thổ)

Tý(+ Thủy)

Hợi(- Thủy)

13/ CÁCH TÍNH VỚI THÁNG NHUẬN (âm lịch): Sinh vào thời gian từ 01 đến 15 tháng nhuận: Coi như sinh THÁNG TRƯỚC tháng nhuận đó. Sinh vào thời gian ewf ngày 16 trở đi: Coi như sinh THÁNG SAU tháng nhuận đó.

***

TRƯỚC KHI ĐỌC TIẾP, MỜI QUÝ VỊ Click vào đây ĐỂ THƯ DÃN MẤY PHÚT

***

14/ ĐẶC TRƯNG CÁC SAO VÒNG TRƯƠNG SINH: Vòng Tràng sinh tượng trưng 12 thời chuyển biến của đời người. Theo ý nghĩa luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác con người do bào thai đúc kết được nuôi dưỡng sinh ra khôn lớn tranh đua với đời đến lúc cực thịnh rồi cũng phải suy tàn bệnh tật, chết đi còn lại nấm mộ rồi cũng tan biến hết.

    Trong 12 thời – Thai dưỡng là lúc ẩn dật chờ xuất thế. Tràng sinh là lúc nhập thế – Mộc dục còn thơ ấu – Quan đới là lúc học hành, thi cử dự bị đón thời, Lâm quan là lúc đấu tranh lập nghiệp, Dế vượng là lúc thịnh thời, Suy bệnh là lúc nhược thời – Tử là tàn thời, Mộ là dư khí thời Mộ khố, là nơi tàng khí nên có dư ít nhiều, Tuyệt là hết thời.

      Trường sinh: Chỉ rơi vào Cung Mã (Dần, Thân, Tị, Hợi). Như người mới sinh. Là giờ khắc đợi bình minh, ứng với giờ Dần. Chủ về thời kì phôi thai có sức sống mãnh liệt. Thọ. Trường sinh nhập Mệnh: tính tình ôn thuận, thong minh, hiên ngang, tài hoa, dễ gây thiện cảm. Thiếu quyết đoán. Mệnh Nữ thích lý luận.

Mộc dục: Giống như Thiếu niên. Thời khắc mặt trời mới lên, ứng giờ Mão. Đầy ắp hy vọng. Chủ về Đào hoa. Mộc dục nhập cung Mệnh: Hào phóng, biến hóa đa dạng, có mới nới cũ, dễ bị ảnh hưởng yếu tố bên ngoài. Mộc dục nhập Phu Thê là hay nhất; thích đồng cung với Không vong vì KV sát yếu tố Đào hoa của Mộc dục.

Quan đới: Tương ứng với Thanh niên. Thời kì khởi đầu xây dựng sự nghiệp. Ứng với giờ Thìn. Khí thế bừng bừng. Nắm giữ niềm vui, sự thăng tiến. Hợp nhất là nhập cung Mệnh, cung Tài bạch, Quan lộc Thiên di và Phúc đức. Đa số có quyền uy. Quan đới nhập Mệnh: Chủ về Lạc quan, độc lập, tự chủ, đầy ắp ý chí và sức sống, luôn đi trước thời đại. Nữ: Có sức sống dồi dào, sôi nổi.

Lâm quan: Tương ứng với giai đoạn30, 40 tuổi, đã có quan lộc. Như mặt trời giờ Tị, tiếp cận với chính giữa bầu trời. Chủ về tin vui. Tốt nhất là nhập các cung Mã (Dần, Thân, Tị, Hợi), nhưng các Cung khác cũng tốt. Lâm quan nhập Mệnh: Tinh lực dồi dào, hoạt bát, tích cực, độc lập tính, tự lường. Mệnh Nữ đa số bạc với chồng.

Đế vượng: Tương ứng 40, 40 tuổi, thời kì đỉnh cao của đời người, đã có danh vọng, như mặt trời giờ Ngọ, ánh sang lên đến đỉnh cao trên bầu trời, chiếu sang rực rỡ, nên chủ về Thịnh vượng. Hợp nhất là nhập các Cung Mệnh, Tài bạch, Quan lộc, Phúc đức. Đế vượng nhập Mệnh: Chính trực, ngoan cường, kiêu ngạo, tích tranh giành, hiếu thắng, không sợ gian nan.

Suy: Tương ứng với tuổi 60, chỉ sự suy bại, như mặt trời giờ Mùi sắp nghiêng về phía Tây, là từ đỉnh cao rớt xuống. Kị nhập Cung Mệnh, Tật ách. Suy ở Mệnh: Ôn hòa, dễ thỏa hiệp, an phận, thích hợp hoạt động kỹ thuật. Nữ: Vợ hiền, đảm đang.

Bệnh: Chỉ nhập Cung Mã. Già, suy nhược. Chủ về Tật ách. Như mặt trời giờ Thân đã lặn dần về phía Tây. Nắm giữ sự bôn ba, lo âu, thân thể suy nhược. Kị nhập Cung Mệnh, Tật ách. Chủ về bệnh tật, lười biếng, thiếu kiên nhẫn. Cần đồng cung với Cát tinh để giúp phấn chấn tâm trí. Bệnh nhập Mệnh: Ủy mị, tiều tụy, quan hệ xã hội tốt.

Tử: Như người chết, ngừng nghỉ, chủ về tang vong, là thời điểm mặt trời lặn hẳn. Kị nhập Mệnh. Mong đồng cung với Cát tinh để thêm sinh lực. Tử nhập Mệnh: Thông minh nhưng do dự, không quyết đoán, thiếu sinh khí, quả cảm. Nên tránh theo đuổi danh lợi.

Mộ: Đã chon. Tương ứng giờ Tuất. Chủ về cất giữ. Hợp nhất là nhập Cung Tài bạch, Điền trạch, Quan lộc.Mộ nhập Phúc đức: Chủ về an hưởng hạnh phúcMộ kị nhập Mệnh: Trì trệ, lập dị, không quan tâm bề ngoài, tiết kiệm, đam mê nghiên cứu, làm việc chắc chắn.

Tuyệt: Phân hủy thể xác. Chủ về hủy diệt, thích nhập Cung Tật ách. Kị nhập Mệnh, Tài bạch, Quan lộc, Điền trạch, Phúc đức, Tử nữ. Mệnh có Tuyêt: Lẳng lơ, đắc ý, chủ quan, đầu voi đuôi chuột. Kinh doanh ăn uống thì tốt.

Thai: Bào thai, đang được nuôi dưỡng trong bụng mẹ, tương ứng giờ Tý-bắt đầu một ngày mới. Đại diện cho sự chuyển hóa, tiến triển. Tốt nhất là nhập Cung Phu Thê, Tử nữ. Kị nhập Cung Tật ách, kị nhập vận trình tuổi già. Thai nhập Mệnh: Tính khoan thai, thích mộng tưởng, làm việc rất chú trọng tới môi trường; hiếu kỳ, ham nghiên cứu, có óc hài hước.

Dưỡng: Thai nhi. Ứng giờ Sửu: Sắp bình minh, tràn đầy hy vọng. Chủ về Phúc. Nhập cung nào cũng Cát lợi, tuy nhiên kị Không vong, Sát tinh. Hợp với Cung Mệnh, thời vân Thiếu niên, trung niên. Dưỡng là cửa của Sinh: Đại diện cho ý nghĩa phát triển. Dưỡng nhập Mệnh: Ngoan cường, chịu được khó khăn, vất vả. Giao tiếp giỏi. 

 

Vòng tràng sinh biến chuyển từ dưỡng đến vượng theo hướng đi lên, từ Suy đến Thai theo hướng đi xuống, cần tỉnh táo trong mọi hành động cương nhu cho hợp với tính con người.

Như vậy trong 12 chỉ có 5 thời là hành khí có sức ảnh hưởng đáng kể là: Sinh – Mộc dục – Lâm Quan – Đế vượng – Mộ.

Vòng tràng sinh chỉ cho biết những nơi tốt xấu thịnh suy của hành mà cục mang cho. Sách cổ viết:
Mệnh hay cục Mộc -> Hạn đến cung Ngọ -> Bị tai ương hoạ hại mặc dầu hạn được tươi sáng
Mệnh hay cục Hoả -> Hạn đến cung dậu -> Bị tai hoạ lớn – khó tránh nguy khốn
Mệnh hay cục Kim -> Hạn đến cung tí -> hạn bị suy bại -. Sức khoẻ kém có thương tích.
Mệnh hay cục Thuỷ -> Hạn đến cung Sửu dần -> Mọi sự bế tắc đình trệ.
Mệnh hay cục Thổ -> Hạn đến cung Mão Thìn Tị -> hạn suy nhược – đau ốm – nhiều bênh tật đáng sợ.

Các chính tinh gặp Cục và các sao của vòng tràng sinh cần được so sánh ngũ hành để biết sự tăng cường hay giảm lực của sao đó với đương số.
Ví dụ: Thuỷ Cục thì Thiên Tương – Phá Quân – Thái Âm – Thiên Đồng – Cự Môn được tăng cường – Nếu các chính tinh này gặp Tràng Sinh – Mộc Dục – Suy thì càng thêm sức mạnh.
Với Cục Mộc thì Liêm Trinh được tăng cương nếu lại gặp Bệnh hay Tử thì càng mạnh và hợp nhau.

Vòng tràng sinh còn có ý nghĩa với các cung Mệnh Thân Đại Hạn, Vì Mệnh Thân Đại hạn liên quan đến Cục.
Hành của Cục So với cung an thân cho biết sự thành công hay thất bại của đương số. Ví dụ: Cung thân an tại Ngọ mà Thuỷ cục thì khó thành công nếu thiếu nhiều trung cát tinh miếu vượng – Vì thuỷ cục khắc hoả cung an Thân – Xem đại hạn cũng vậy! Đại hạn ở Mão mà Kim cục thì du có nhiều sao Miếu vượng, hạn cũng gặp nhiều trắc trở khó khăn.

Luận Tràng sinh Cục và Mệnh – Đại Hạn Phải tuân theo tam hợp và đạt hay không là do chính tinh miếu vượng đắc hãm.
Nếu Vô chính diệu thì xét trung tinh hay hung tinh đắc địa.
Tràng Sinh – Đế Vương – Mộ: đặt công việc lên trên tình cảm
Mệnh Tràng Sinh: Cởi mở hồn nhiên – thích làm việc thiện
Mệnh Đế vượng: Thể hiện hết sức về cuộc sống năng động và hoàn bị
Mệnh có Mộ: Thể hiện cuộc sống phấn đấu từng lãnh vực nhưng có lĩnh vực ứng xử không thích hợp.

Mộc Dục – Suy – Tuyệt: Công việc bấp bênh, chưa vững chắc, thường có sự thay đổi, làm cho đương số lạc hướng, hay mất hướng đi.

Mệnh có Mộc Dục: Khoe khoang, chưng diện cho mình về vật chất
Mệnh có Suy: Mưu lược tính toán, có tư tưởng cao đẹp xây dựng xã hội
Mệnh có Tuyệt: Bon chen, giành giật, ghen ghét, uy quyền
Quan Đới – Bệnh – Thai: Sử dụng tình cảm trong hành động, tuy giận hờn, dễ bị u mê, vướng mắc, tình cảm không đạt được mong muốn.

Mệnh có quan đới: Thường ràng buộc việc này với việc khác, biết làm ăn tính toán việc nhỏ – Việc lớn phải có Lộc tồn hay Thanh Long mới đạt được – Cuộc sống thiên về tình cảm.
Mệnh có Bệnh: Không thích hoạt động – Không thích đông người nếu có cô quả thích làm việc nơi vắng vẻ – Mỗi người mỗi việc, bảo thủ, hay giận hờn.

Mệnh có Thai: Sống theo kiểu bè phái – vây cánh nên phải đi theo quỹ đạo có Triệt thì khó khăn, có Tuần thì máy móc – muốn dứt mà không được.
Lâm quan – Tử – Dưỡng: Tình cảm và lý trí rõ ràng – giận thương không cần biết. Tự lo, tự làm, tự tin. Cuộc sống ổn định vững chắc nhưng cứng nhắc.

Mệnh có Lâm quan: Tự lo – Tự chuẩn bị trước những công việc của mình
Mệnh có tử: Tự tìm hiểu, tự biết, tự lo về tinh thần
Mệnh có Dưỡng: Tự lực – Tự lo cho bản thân mình về cuộc sống
Sinh Vượng Mộ mà Chính tinh hãm -> Bối cảnh thuận lợi dễ dàng nhưng bất chính
Dục Suy Tuyệt mà chính tinh hãm -> Thường làm việc nguy hiểm như buôn lậu
Đới Bệnh Thai mà chính tinh hãm -> Thường mua chuộc lợi dụng tình cảm để làm ăn phi nghĩa.
Lâm Tử Dưỡng mà chính tinh hãm -> Công việc tuy khuôn thược nhưng cũng có bất chính

Mệnh Sinh Vượng Mộ: Chết ở đại hạn Dục Suy Tuyệt
Mệnh Dục Sinh Tuyệt: Chết ở đại hạn Đới Bệnh Thai
Mệnh Đới Bệnh Thai chết ở đại hạn Dục Suy Tuyệt
Mệnh Lâm Tử Dưỡng gặp gian nan ở đại hạn Dục Suy Tuyệt nhưng chết ở đại hạn Đới Bệnh Thai.

*Các cách trên nếu đại hạn có chính tinh sinh mệnh thì cứu được.
15/ 4 Sao triệt không: Tên đầy đủ là TRIỆT LỘ KHÔNG VONG. Thuộc Hỏa. Gồm Thiên không, Địa không (đã nói ở phần trên), Triệt không và Tuần không.

Triệt không:  Không ở đây có nghĩa là thiếu, khuyết, không vong. Trong Lá số kị nhất cung Mệnh, sao Lộc tồn và sao Thiên mã gặp Không vong. Riêng Mệnh Hỏa và Mệnh Kim thì có phúc (“Kim rỗng thì kêu; Hỏa rỗng thì phất”). Nhập Tật ách: Giải trừ bệnh tật.

Tuần không: Chủ về mọi sự đều không. Kị nhập Mênh, Tài và Điền. Nhập Tật ách: Giải trừ bệnh.

D/ Sao Mệnh chủ và Thân chủ: Những tính lý của sao chủ Mệnh và Thân giống như tính lý chúng vốn sẵn có, nhưng mạnh hơn, thể hiện ra ngoài rõ ràng hơn hoặc phát huy mạnh mẻ hơn, vì vậy nên gọi là Mệnh Thân Chủ. Như người tuổi Mùi, có Tử Phủ thủ Mệnh Vũ Khúc ở cung Tài, khi Vận đến cung Tài thì khó tránh cô độc vợ chồng ly tán, gãy đổ. Hoặc người Thân cư Tài thì khi ngoài 36 tuổi (nếu Hỏa Cục) cho dù không qua Vận ở cung Tài, Vũ Khúc ở Thân vẫn khiến hôn nhân gãy đổ, hay sinh ly tử biệt. Nếu các tuổi khác thì có thể chỉ là buồn phiền, không hợp tính thành cô độc, chưa hẳn sẽ gảy đổ hay sinh ly tử biệt, nếu không hội tụ Sát Tinh.

Sao Mệnh chủ : Thuộc chòm Bắc đẩu, nắm giữ vận mệnh trong nửa đầu cuộc đời mỗi người. Xác định dựa vào Địa chi của Cung Mệnh. Đặc điểm của sao Mệnh chủ thể hiện ra bên ngoài nên dễ nhận thấy. Cung Mệnh nếu không có 14 Chính tinh thì phải mượn các Chủ tinh của Cung đối diện để đoán. Tương tự thế nhưng nếu có Lộc tồn, Thiên mã, Lục Cát, Lục Hung thì phải mượn các Cung của Sao Chính để luận:

Mệnh an cung  thì Tham lang là sao chủ Mệnh.

Mệnh an cung Sửu, Hợi thì Cự môn là sao chủ Mệnh.

Mệnh an cung Dần, Tuất thì Lộc tồn là sao chủ Mệnh.

Mệnh an cung Mão, Dậu thì Văn khúc là sao chủ Mệnh.

Mệnh an cung Tị, Mùi thì Vũ khúc là sao chủ Mệnh.

Mệnh an cung Thìn, Thân thì Liêm trinh là sao chủ Mệnh.

Mệnh an cung Ngọ thì Phá quân là sao chủ Mệnh.

Sao Thân chủ: Thuộc chòm Nam đẩu, nắm giữ nửa sau của vận mệnh cuộc đời. Xác định dựa vào Địa chi của Năm sinh. Sao Thân chủ nằm đối cung với sao Chính trong cung Mệnh, có tác dụng điều hòa và hỗ trợ Chủ tinh:

Chi năm sinh là TÝ, NGỌ: Hỏa tinh là sao Thân chủ.

Chi năm sinh là SỬU, MÙI: Thiên tướng là sao Thân chủ.

Chi năm sinh là DẦN, THÂN: Thiên lương là sao Thân chủ.

Chi năm sinh là MÃO, DẬU: Thiên đồng là sao Thân chủ.

Chi năm sinh là THÌN, TUẤT: Văn xương là sao Thân chủ.

Chi năm sinh là TỊ, HỢI: Thiên cơ là sao Thân chủ.

GHI CHÚ: (theo http://www.lyso.vn/portal.php?t=19600&sid=e7ced917ce76e78d1a15a4ad4f7bae26) Thật ra sao Chủ Tinh, sao Mệnh chủ, Thân chủ là dựa vào fái Đạo thuật. Đạo này coi mỗi tuổi chịu chi phối 1 sao nào đó. Cho nên, khi coi Tử Vi thì nên coi trọng sao đó, không fải coi sao đó ở Mệnh, mà coi nó có đắc vượng không, có được những cách cụ tốt không, dù ở đâu bất kể. Đó là chủ yếu. Ngoài ra, coi nó có đóng cung cường không. Bản thân tôi cũng kiểm chứng thấy sao chủ mệnh và sao chủ thân chẳng thấy ăn nhậu gì với mệnh thân vô chính diệu của 1 lá số, chằng thấy đúng gì cả và tôi cũng chẳng theo.(vì thấy có việc như vâỵ nên viết ra cho mọi người tham khảo thôi ) nhưng tôi lại thấy nếu mệnh thân có sao chính tinh hay phụ tinh lại khớp (vô tình có) sao chủ mệnh hay sao chủ thân thì hình như uy lực nó phát mạnh lên đặc biệt hơn số thường.
Cách xem mệnh chủ, thân chủ có rất nhiều học phái; như ông Sở Tinh người Đài Loan, tác giả quyển “Tử Vi hỉ kỵ thần đại đột phá”, cho rằng đây là những “mật mã” cho ta biết những trường hợp nào phải xem trọng ngũ hành trong cách luận tử vi (nghĩa là xem tử vi gần giống hệt như xem bát tự).
Ông Sở Tinh lập ra nguyên một học phái dựa trên cơ sở này và gây sôi nổi một thời, nhưng đến cuối thập niên 90 thì phái này không được mấy ai chú ý nữa.
Tử Vi Việt Nam khi trước (thời lập lá số chữ Nho) không hề ghi sao Mệnh Chủ, Thân chủ vào ô giữa (có bạn gọi Thien bàn, có bạn lại gọi Địa bàn) lá số, mà họ ghi vào cung có sao Mệnh chữ 2 chữ “Mệnh chủ” ghi vào cung có sao Thân chủ 2 chữ “Thân chủ” cũng ngụ ý phải xem trọng thêm 2 cung ấy, như cung Mệnh giả, Thân giả vậy. Nói thế chứ 2 cung này cũng chỉ nên coi trọng thêm chút, chứ còn lâu mới thành cung Mệnh thứ 2, cung Thân thứ 2 được. Đồng thời họ khuyên thêm vào 2 sao ấy để tiện chú ý. Hoàn toàn không ghi vào ô giữa. Đây không fải hình thức trình bày lá số đơn thuần.
Các sao chủ Mệnh thực chất thuộc chòm sao Bắc Đẩu theo Thiên Trung Bắc Đẩu Cổ Phật Tiêu Tai Diên Thọ và Thất Tinh Châu Ngọc Thần Chú, là sao chủ quản (như thần cai quản) trên trái đất. Nó chính là Mặt Trăng, Sao Thủy, Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Kim, Sao Hỏa và Mặt Trời. Vị trí, thứ tự của 7 vì sao này xác định ai là chủ ai là khách, và do đó phân ra ai cai quản năm nào, phản ánh sự phối chiếu của hệ sao Bắc Đẩu lên hệ mặt trời (qua quãng thời gian được sinh ra trên trái đất)…
Ý nghĩa sử dụng:
Từ định nghĩa và cách an, có thể thấy: Sao chủ Mệnh / Thân thực chất là sự ứng hợp của Mệnh / Thân của đương số với địa chi (vì an theo chi năm sinh). Sao chủ Mệnh/Thân có đắc hãm hay không (dựa vào đất cung Mệnh / Thân – nằm tại đâu). Điều này cho biết cùng sao chủ Mệnh (năm sinh), mà tác đông của sao chủ Mệnh / Thân lên Mệnh /Thân số mối người khác nhau vì sự đắc hãm của các sao này.
Sự phối hợp giữa bản Mệnh/Thân, sao chủ Mệnh/Thân, Cục và đất của Mệnh còn xác định xem Mệnh đó là có gốc hay không có gốc, thọ yểu sang hèn. Vì các tầng ảnh hưởng của Địa bàn chính tinh (xoay vòng quanh Thiên Bàn), ngoài tác động lẫn nhau còn tác động lên Mệnh theo các tầng Can, Chi, Mệnh, Cục.

Ví dụ : Người tuổi Hợi, mệnh chủ CỰ MÔN và Thân chủ THIÊN CƠ. Tìm sao CỰ MÔN và THIÊN CƠ đóng đâu, biên chữ Mệnh chủ và Thân chủ vào (ngày nay, các nhà Tử vi thường ghi vào giữa cung trung tâm của Lá số đê dễ theo dõi). Hai sao này can hệ ảnh hưởng rât lớn đối với cuộc đời mình
Sau đó đóan tính chất hai sao đó. CỰ MÔN (chủ tài hoa); THIÊN CƠ (chủ suy tính). Vây hai sao đó có ở Phúc, Mệnh, Tài, Quan, Di không ? Mà có hội với cách tốt không ? Nếu không đóng vào các cung kể trên mà lại đi với sao xấu, tức là Thân-Mệnh không được tốt, chịu ảnh hưởng không hay tới cuộc đời mình. Hoặc người tuổi Hợi, Mệnh lập tại Tý có CỰ MÔN; Thân cư Thiên Di có THIÊN CƠ mà gặp nhiều trung tinh đắc cách thời còn gì đẹp bằng, có thể gọi là Mệnh-Thân có hai CỰ MÔN, hai THIÊN CƠ. Ít người có được hạnh phúc gặp trường hợp này ? Có thể nói là cá nước, mây rồng gặp hội.

E/ Thái tuế: Là Mộc tinh trên Trời. Khi nói “Phạm Thái tuế” có nghĩa là: Địa chi Năm sinh xung khắc với Địa chi của một Năm nào đó hoặc Địa chi năm sinh trùng với địa chi của Lưu niên. Năm Bản mệnh ở phương vị Khảm của con người cũng chính là năm Bản mệnh phạm Tháu tuế. Về Phong thủy: Năm Thái tuế nằm ở phương nào thì chớ động thổ phương đó, động thổ như thế gọi là “Động thổ trên đầu Thái tuế”.

Thái tuế là “Tuế chi quân” (Vua quân) trong một Năm, chue về Cát, Hung của năm đó. Nếu gặp Tử, Phủ, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Thiên khôi , Thiên việt phù trợ: Bớt tai ương. Nhập Thiên di, Quan, Tài: Tốt. Gặp Tử, Phủ, Tả, Hữu, Cơ, Lương, Nhật và Nguyệt: Mếu thì Cát, Hãm thì Hung.

Năm phạm Thái tuế: Người sinh năm Tý chẳng hạn, Thái tuế cũng ở Tý.

Tháng phạm Thái tuế: Người sinh tháng Dần chẳng hạn, Thái tuế ở Dần.

Mệnh rất kị gặp Thái tuế, nếu giáp Hạn nhất điịnh lien quan đên tính mạng. Nếu Lưu niên gặp Thái tuế: Vận hạn trùng trùng. Nếu Thái tuế lâm Mệnh hạn tất chủ bệnh tật, tai ương. Thái tuế gặp Quan phù: Chủ về kiện tụng, thị phi. Gặp Cát tinh thì sẽ hy vọng giảm.

16/ MỆNH VÀ VẬN: 

MỆNH là một loại thế lực mà khả năng con người không thể nào chống cự lại được. MỆNH mang quyền lực của qui luật tự nhiên, rất to lớn bao la vĩnh hằng. Con người mãi mãi vẫn chỉ là một trẻ thơ trung thực của tự nhiên. Nếu định vượt qua hoặc không tuân thủ qui luật tự nhiên thì chỉ chuốc lấy tai họa bi thảm.

VẬN, tức là Vận khí của từng giai đoạn thời gian cụ thể nào đó, sẽ phát sinh thịnh hay suy, thông suốt hay bế tắc. Vui buồn ,sướng khổ, vinh nhục …đều đã được an bài sẵn. Con người chỉ có thể nương theo Vận số, nếu gặp vận thịnh thì tranh thủ khai thác thuận lợi, gặp vận suy thì thủ thường, có biện pháp phòng ngưà hợp lý để giảm bớt rủi ro chứ không sửa số được. Vận được chia ra ĐẠI VẬN, TIỂU VẬN…

a/ Đại Vận: Mỗi Đại Vận là 10 Năm: Khi ta lấy Lá số từ các trang Web, từng Đại Vận đã được ghi ngay trên 12 Cung của Lá số, không còn phải mất công xác định như trước kia.  Một cung đã được ghi đại Vận, tức là vận hạn trong 10 năm phải được xem trong cung đó.

Thí dụ: Hỏa lục cục, bắt đầu ghi số 6 ở cung Mệnh. Như vậy: trong khoảng từ 6 tuổi đến 15 tuổi phải xem vận hạn ở cung Mệnh. Đến năm 16 tuổi, đại hạn mới chuyển sang cung bên cạnh.

b/ Lưu Đại Vận: Ngoài các Cung Đại Vận, việc xác định Vận còn được xét thêm ở một Cung nữa, gọi là Cung Lưu Đại Vận: Cung đã ghi đại Vận, gọi là cung gốc của đại hạn 10 năm. Muốn xem vận hạn tường tận hơn, phải Lưu đại Vận hàng năm. Cách xác định Cung LƯU ĐẠI VẬN như sau:

Sau khi ghi đại hạn 10 năm, cung ghi đại hạn gọi là cung gốc. Muốn tính Cung Lưu Đại Vận thì phải:

1: Đầu tiên, lấy số tuổi (bắt đầu một Đại Vận) ở cung gốcrồi chuyển sang cung xung chiếu tăng lên 1 tuổi.

2: Tiếp đến, căn cứ Mệnh chủ:

DUONG NAM, ÂM NỮ: lùi lại một cung (thêm 1 tuổi) rồi trở lại cung xung chiếu (thêm 1 tuổi nữa), tiến theo chiều thuận, mỗi cung 1 tuổi…đến cung nào đủ sô tuổi bạn muốn tính Lưu Đại Vận thì ngừng lại.

DƯƠNG NỮ, ÂM NAM tiến lên một cung (thêm 1 tuổi) rồi trở lại cung xung chiếu (thêm 1 tuổi nữa), lùi theo chiều nghịch, mỗi cung 1 tuổi…đến cung nào đủ sô tuổi bạn muốn tính Lưu Đại Vận thì ngừng lại.

VD: một lá số dương nữ, hoả lục cục thì dại hạn 10 năm an như sau : 6 ở mệnh ( cung Thân), 16 ở bào ( mùi), 26 ở phu thê( ngọ) , 36 ở tử tức….. Muốn tính Lưu Đại Vận năm 35 tuổi chẳng hạn thì bắt đầu từ cung gốc là cung Phu ở ngọ ( 26 tuổi), đếm xung chiếu sang cung QUAN Ở TÍ là 27 tuổi, TIẾN THEO CHIỀU THUẬN 1 CUNG LÀ CUNG SỬU (28 tuổi), SAU ĐÓ TRỞ VỀ CUNG XUNG CHIẾU LÀ CUNG TÍ (29 tuổi), LÙI THEO CHIỀU NGHỊCH, MỖI CUNG LÀ 1 TUỔI THÌ 30 Ờ Hợi, 31 ở Tuất, 32 ở dậu, 33 ở Thân, 34 ở Mùi, 35 là cung Ngọ. Vậy Lưu Đại Vận của dương nữ trên 35 tuổi là ở cung Ngọ.

CHIỀU THUẬN LÀ ĐI THEO CHIỀU TỪ THÂN,DẬU, TUẤT, HỢI…., CHIỀU NGHỊCH LÀ ĐI THEO CHIỀU TỪ THÂN, MÙI, NGỌ, TỴ…

c/ Tiểu Vận: Tiểu Vận là thời gian 1 năm của 10 năm đại hạn. Nguyệt Hạn là thời gian một tháng của tiểu hạn. Nhật Hạn là thời gian một ngày của nguyệt hạn. Thời Hạn là thời gian 1 giờ Âm Lịch của nhật hạn. Ngoài các loại hạn nêu trên, khoa Tử Vi còn đề cập đến Đồng Hạn, là khoảng thời gian một năm cần xem cho một Lá Số từ 1 tuổi đến 12 tuổi.

Cách Lưu Niên Tiểu vận

NĂM SINH

Khởi năm TÝ tại Cung (Nam đi thuận, Nữ đi nghịch):

Dần – Ngọ – Tuất

THÌN

Thân – Tý – Thìn

TUẤT

Tị – Dậu – Sửu

MÙI

Hợi – Mão – Mùi

SỬU

Thí dụ: A – Con trai sinh năm Tý, vậy phải khởi Tý từ cung Tuất, ghi chữ Tý bên cung Tuất, rồi theo chiều thuận, ghi chữ Sửu bên cung Hợi, chữ Dần bên cung Tý, đoạn lần lượt ghi vào bên những cung liên tiếp thứ tự 12 Chi.

Thí dụ: B – Con gái, sinh năm Ngọ, vậy phải khởi Ngọ từ năm Thìn, ghi chữ Ngọ bên cung Thìn, rồi theo chiều nghịch, ghi chữ Mùi bên cung Mão, chữ Thân bên cung Dần, đoạn lần lượt giang hồ vào bên những cung liên tiếp thứ tự 12 Chi.
d/ Sao Lưu động: Bên cạnh những bộ Sao căn bản, Lá Số Lưu được an thêm 11 Sao lưu động mà vị trí thay đổi theo Căn và Chi của năm hiện tại. Sự luận đoán một Lá Số Lưu được dựa trên Can và Chi của năm, tháng cần xem phối hợp với Can và Chi tuổi của đương số, cùng vị trí và ảnh hưởng của 11 sao Lưu với các sao cố định đã có sẵn trong lá số. Sao Lưu động từng năm cũng đã được các trang web đưa ngay vào Lá số (những Sao có ghi chữ “L” bên cạnh).

          Để chiêm nghiệm một lá số Tử Vi ở mức độ nhật hạn và thời hạn đòi hỏi một trình độ chuyên môn nhất định cùng kinh nghiệm phong phú của nhà nghiên cứu. Chắc có lần chúng ta đã được nghe về giai thoại Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán lá số Tử Vi cho cây quạt của Ngài. Đây chính là một kinh nghiệm về nhật hạn và thời hạn trong việc luận đoán một Lá Số Lưu. Vì những điều kiện khó khăn nêu trên, từ xưa đến nay, ít khi chúng ta nghenói đến lá số Tử Vi Lưu [đặc biệt là với nhật hạn và thời hạn], mà thông thường chỉ biết đến Lá Số căn bản được thiết lập theo năm tháng ngày giờ sinh.

CHÚ Ý XEM XÉT NGŨ HÀNH BẢN MỆNH THEO MÙA:
Xem hạn cần chú ý: điều xấu tốt nên cân nhắc gia giảm một chút trong bối cảnh của Mùa (Mùa Xuân hành Mộc, Hạ hành Hỏa, Thu hành Kim, Đông hành Thuỷ, Tứ Quí hành Thổ). Khi xét thì cũng sử dụng nguyên tác xét sinh khắc ngũ hành giữa Mùa với hành bản Mệnh. Lấy ngũ hành bản Mệnh làm chủ để xét đoán.
Ví dụ Nếu thấy tai họa xãy ra vào mùa Xuân thì nếu là Mệnh hành Kim thì tai họa sẻ xãy ra chắc chắn, nhưng nếu thấy Mệnh hành Mộc thì bản Mệnh cũng có phần được cứu giải một chút.

(XEM PHỤ LỤC VIII)

17/ NGŨ HÀNH CỦA MỆNH và NGŨ HÀNH CỦA CỤC: 

a/Thế nào là NGŨ HÀNH của mệnh (BẢN MỆNH)?
ví dụ : một người sinh năm Bính tuất có mệnh là hành thổ, có nghĩa là năm Bính tuất có Bính và tuất nạp âm là hành thổ, hành khí này bao trùm suốt cả năm, do đó người sinh trong năm này bị ảnh hưởng bởi khí thổ – mệnh thổ.

Dưới đây là Bảng tra NGŨ HÀNH CỦA BẢN MỆNH (theo Năm sinh dương lịch từ 1928 đến 2025):

KIM

MỘC

THỔ

THỦY

HỎA

1932, 1933, 1940, 1941, 1954, 1955, 1962, 1963, 1970, 1971,  1984,19851992, 1993, 2000,2001, 2014,2015, 2022, 2023

1928, 1929, 1942, 1943, 1950, 1951, 1958, 1959, 1972, 1973, 1980, 19811988, 1989, 2002, 2003,  2010, 20112018, 2019

1930, 1931, 1938, 1939, 1946, 19471960, 1961,   1968, 1969, 1976, 1977,  1990, 199119981999, 2006, 2007, 2020, 2021

1936, 1937, 1944, 1945, 1952, 1953, 1966, 1967 1974, 1975, 1982, 1983,   1996, 1997, 2004, 2005, 2012, 20132026, 2027

1934, 1935, 1948, 1949, 1956, 1957, 1964, 1965, 1978, 1979, 1986, 19871994, 1995, 2008, 2009, 2016, 20172024, 2025

* Ngũ Hành của Bản Mệnh liên quan đến vị trí Cung an Mệnh (Xem Bảng dưới):

BẢN MỆNH

CUNG MỆNH

Sinh Địa

Vượng Địa

Bại Địa

Tuyệt Địa

Kim

Tỵ

Dậu

Ngọ

Dần

Mộc

Hợi

Mão

Thân

Hỏa

Dần

Ngọ

Mão

Hợi

Thủy – Thổ

Thân

Dậu

Tỵ

b/Thế nào là NGŨ HÀNH của cục?

Bảng xác định Ngũ Hành của CỤC

CAN NĂM SINH

CHI AN CUNG MỆNH

Tý – Sửu

Dần – Mão

Thìn – Tị

Ngọ – Mùi

Thân – Dậu

Tuất – Hợi

GIÁP_KỶ

THỦY nhị

HỎA lục

MỘC tam

THỔ ngũ

KIM tứ

HỎA lục

ẤT_CANH

HỎA lục

THỔ ngũ

KIM tứ

MỘC tam

THỦY nhị

THỔ ngũ

BÍNH_TÂN

THỔ ngũ

MỘC tam

THỦY nhị

KIM tứ

HỎA lục

MỘC tam

ĐINH_NHÂM

MỘC tam

KIM tứ

HỎA lục

THỦY nhị

THỔ ngũ

KIM tứ

MẬU_QUÝ

KIM tứ

THỦY nhị

THỔ ngũ

HỎA lục

MỘC tam

THỦY nhị

ví dụ: Người sinh năm Bính tuất đó có lá số là thổ ngũ cục có nghĩa là vị trí mà cung mệnh đóng có nạp âm là hành thổ. Vị trí này được thể hiện là vị trí của tháng canh tí hoặc tháng tân sửu trong năm Bính tuất đó, nếu cũng là người sinh năm Bính tuất đó mà là mộc cục thì do mệnh đóng tại các tháng dần mão, tuất hợi.
Như vậy cách xác định hành khí của cục là cụ thể hơn mệnh, và hành khí của mệnh là bao trùm cục. Ta cũng có thể nói nạp âm của năm sinh là Đại Mệnh và hành của cục là Tiểu mệnh .Lúc này ta thấy rằng hành khí của một con người ( theo quan niệm của tử vi) được xác định bởi Mệnh và Cục, nhưng hai vị trí hành khí đó có đặc trưng riêng và không hòa lẫn nhau được.

Vì hành khí của mệnh là bao trùm tất cả nên hành khí của mệnh liên quan đến hành khí của các sao là đương nhiên, do đó chúng ta có hai trung tâm điểm về ngũ hành khi luận sự tương tác ngũ hành của các sao, cũng như ảnh hưởng của các sao đến số mạng con người. Hai trung tâm điểm đó là mệnh và cục, độ tương hợp ngũ hành của các Sao với hành của mệnh và Cục là điều rất quan trọng ! Có thể nói nôm na là sự ảnh hưởng của các sao đối với số mạng của đương số giống như một ảnh hưởng thuận nghịch hai chiều, chiều của mệnh và chiều của cục.

Để cho dễ hiểu tôi xin lấy ví dụ : một người Thổ mệnh và Mộc cục, hạn đến các sao hành Thổ đương nhiên là ảnh hưởng đến đương số, khi hạn đến các sao thuộc Mộc , người Thổ mệnh đó có một thời gian ngắn bất ổn sau đó Mộc cục phát huy tác dụng, phản ứng thuận nghịch đổi chiều,các sao mộc vẫn giúp cho đương số thành công. Đây là một trong những trường hợp tôi đã gặp rất nhiều trong thực tế.

Qua những điều trên, tôi có thể nói rằng chuyện cục khắc mệnh không thể gọi là xấu, cục sinh mệnh chưa thể gọi là tốt mà hãy kết luận điều này phối hợp với các sao của mệnh và vận để kết luận. có như vậy mới tránh được những kết luận sai lầm gây ấn tượng xấu cho đương số !ảy

PHẦN THỰC HÀNH

Trước khi vào phần THỰC HÀNH, chúng ta cùng xem lại một số đánh giá của giới chuyên môn về vai trò của TỬ VI trong dự đoán học:

Cách đây hơn 2.500 năm, đạo Phật khi nghiên cứu về con người cho rằng con người có 9 thức. Trong đó, 6 thức cho biết được con người đang tồn tại, còn 3 thức thuộc về tiềm thức. Với tử vi, Trần Đoàn là người đầu tiên ở phương Đông nghiên cứu về thế giới tiềm thức đầy bí ẩn. Ngay cả cách phân loại con người trong tử vi cũng đem lại cho chúng ta nhiều điều bất ngờ lý thú. Nếu Páp-lốp, dựa trên khí chất đã phân con người làm 4 loại (tính nóng, tính lạnh, tính ưu tư và tính điềm tĩnh), Freud – cha đẻ của thuyết Phân tâm học – phân con người làm 3 loại (loại nghệ sĩ, loại lý trí và loại giữa) dựa theo bản năng sinh dục, thì Trần Đoàn sắp xếp và phân loại con người dựa trên 12 nhóm quan hệ khác nhau (Mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên di, Tật ách, Tài bạch, Tử tức, Phu thê, Huynh đệ). Có lẽ cho đến bây giờ và trong tương lai, không có quan hệ nào của con người nằm ngoài những nhóm quan hệ đó. Cách phân loại dựa trên mối quan hệ trong tử vi là hết sức khoa học.

Khi nghiên cứu tử vi, người ta cũng phát hiện thấy con số 110 sao được chia thành 14 nhóm chính, đặc trưng cho tính cách. 14 nhóm sao chính đó tương ứng với 14 chất chính tạo thành con người (10 nguyên tố đại lượng, 4 nguyên tố vi lượng). Những số sao và nhóm sao ấy cũng trùng hợp với nhóm và các nguyên tố trong Bảng tuần hoàn Men-đê-lê-ép.

Mặc dù không thoát khỏi được tư tưởng của thời đại là thuyết Âm Dương và Ngũ Hành sinh khắc, nhưng tử vi vẫn giữ được nét độc đáo nhờ sự khảo sát khác lạ, có thể xem như là một cuộc cách mạng, hoặc ít ra cũng là một phát minh biệt lập trong phái Tướng số học thời bấy giờ. Với tử vi, hiện nay chỉ có những cá nhân say mê  nghiên cứu, mà chưa có một nước nào đặt thành một môn trong trường học. Gần đây, Nhật Bản ứng dụng tử vi trong việc xem ngày tốt xấu để phân bổ cho các lái xe, nhằm giảm bớt những tai nạn bất ngờ xảy ra. Do còn nhiều thiếu sót nên tử vi chưa được thừa nhận như một khoa học dự báo về con người. Khi nghiên cứu tử vi cần chú ý:

Thứ nhất, không nên coi cuộc đời con người là bất biến. Việc biểu đồ hoá số mệnh con người trong một lá số chỉ là một hướng tiên đoán mang tính định hướng máy móc. Vì lá số, dù tinh vi đến đâu cũng không giải đoán một cách độc lập và biệt lập với những yếu tố bên ngoài như: hoàn cảnh, giai cấp, văn hoá, môi trường sinh hoạt… Vậy nên khi xem tử vi, người xem phải tập hợp được những yếu tố đó.

Thứ hai, khi xem tử vi người ta thường quan tâm nhất đến cung Mệnh. Cung Mệnh có quan hệ chặt chẽ đến cá tính con người. Mệnh và Vận bao giờ cũng đi đôi với nhau, nhưng Vận quyết định Mệnh. Vận có thể sửa đổi được, nếu con người có ý thức. Một người thành đạt, ngoài yếu tố Mệnh ra còn phải hội với yếu tố Vận nữa. Vận có thể được hiểu là sự tao ngộ giữa Mệnh với hoàn cảnh cụ thể. Nói như vậy để thấy rằng vận Mệnh không phải là bất biến mà vận mệnh có thể sửa đổi được.

Thứ ba, cứ theo như cách tính toán trong tử vi thì tối đa cũng chỉ được 512.640 lá số. Trong khi dân số hiện nay trên thế giới hơn 6 tỷ người, nếu tính bình quân sẽ có gần 12.000 người chung nhau 1 lá số. Vậy thì 12.000 người này có cùng chung một số phận hay sao? Câu trả lời chắc chắn sẽ là không. Nhưng, nếu coi tử vi là một thuật toán sắc xuất thì cũng có thể coi 512.640 lá số là những phương trình khung, xem nó như là 512.640 “khung vận mệnh” của con người vậy.

Nói như vậy để thấy rằng, không nên tuyệt đối hoá tử vi, dễ sa vào tình trạng trì trệ, thụ động, dẫn đến sự suy thoái về tinh thần. Nhưng có một điều không thể chối cãi rằng, tử vi là một môn nghiên cứu về con người, là một môn toán xác suất cổ,  xác suất cao hay thấp tuỳ thuộc vào trình độ của người sử dụng. Người giỏi và người trung bình khi tính toán tử vi sẽ ra kết quả khác nhau. Vậy nên, khi xem tử vi, nói chung đạt 70% xác suất đã là giỏi.

Nhưng như Eđison đã từng nói, thiên tài 99% là mồ hôi, nước mắt còn 1% là ngẫu hứng. Vận mệnh con người, từ đó có thể hiểu là do chính con người quyết định chứ không phải nằm trong những lá số chật hẹp này. Sự biết bao giờ cũng mang lại cho con người sức mạnh, quyền lực, bồi dưỡng khả năng, giúp hành động thêm thích ứng. Biết mình, biết người để tránh những sơ suất trong xử thế, phát huy sở trường, hạn chế sở đoản, nhờ đó mà dễ thành công trong cuộc sống.

Có thể nói, tử vi là một trò chơi đầy trí tuệ, đáp ứng được một phần nào sự tò mò của con người. Dùng tử vi để cầu điều may, tránh điều dở, hướng về chân thiện, thận trọng trong hành động và lời nói là một hướng cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc. Mặt khác cũng cần cảnh giác với những người tự nhận là am hiểu tử vi có động cơ loè bịp, doạ dẫm với mục đích xấu.

*****

I/ LẬP LÁ SỐ TỬ VI

Trước đây, việc Lập một Lá số tử vi rất mất thời gian lại dễ không có những sai lệch trong quá trình an các Sao. Ngày nay, công việc này đã được Internet giải quyết giúp, rất nhanh chóng, thuận lợi lại đảm bảo chính xác. Có nhiều trang Web. Giúp ta làm việc này, nhưng theo chúng tôi, trang http://www.lyso.vn/ là phù hợp nhất. Trang Web. này không chỉ lấy Lá số trọn đời mà còn làm luôn việc an sao Lưu niên theo yêu cầu của ta.

Muốn Lấy một Lá số, Quý vi chỉ cần click chuột VÀO ĐÂYsau đó, khi trang Web mở ra, Quý vị lần lượt gõ Tên, Năm, Tháng, Ngày và giờ sinh vào các ô trang Web yêu cầu, rồi gửi đi là xong. Và chỉ trong chớp mắt, Quý vị sẽ nhận ngay Lá số Quý vị vừa yêu cầu lập.

Quý vị hãy làm thử nhiều lần việc dùng trang Web. http://www.lyso.vn/  (Click chuột VÀO ĐÂY)  để lập Lá số cho thông thạo, trước khi chuyển sang phần LUẬN ĐOÁN.

*****

 VÍ DỤ VỀ LẤY LÁ SỐ TỪ TRANG http://www.lyso.vn:

 Bước 1: Click chuột VÀO ĐÂY, trang Lý số Việt Nam mở ra. Ta tiến hành kê khai: Họ tên: Nguyễn Văn Mỗ + Thời gian (ra đời của Ng Văn Mỗ): 12 giờ 30 ngày 16 tháng 6 năm 1976 + Năm xem: Chọn “năm nay” (2011) + Giới tính: Chọn “Nam” (Xem hình dưới):  

 Bước 2: Click chuột vào hàng chữ được đóng khung : “Xem trước lá số”. Lập tức Lá số của Nguyễn Văn Mỗ sẽ hiện ra như dưới đây (Xin Click vào đường Link):  http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/1/123016061976/1/Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20M%E1%BB%97.jpglyso.vn/dichvu/lasotuvi/1/123016061976/1/Nguyễn 

Đó chính là LÁ SỐ ta cần tìm. Nhìn vào ô chính giữa của Lá số, ta có một loạt THÔNG TIN bước đầu về Nguyễn Văn Mỗ như sau:

THÔNG TIN BAN ĐẦU:

1/Ngày giờ tháng năm sinh theo Dương lịch (do ta vừa khai) và đối chiếu với Âm lịch là năm Bính thìn, tháng Giáp ngọ, ngày Kỷ hợi, giờ Canh ngọ. Năm xem là năm Tân mão 2011 (Ng Văn Mỗ ở tuổi 36).

Khi tiến hành lập lá số, tùy theo GIỜ SINH, thường dẫn đến các trường hợp sau:

*/ Sinh giờ Tý, Ngọ: Mệnh và Thân đồng cung (cùng đóng 1 cung): Cả đời không bị ảnh hưởng bởi môi trường sống tức là không dễ gì thay đổi Mệnh..

*/ Sinh giờ Mão, Dậu: Thân và Thiên di đồng cung:

*/  Sinh giờ Thìn, tuất: Thân và Tài bạch đồng cung: Coi trọng tiền bạc.

*/ Sinh giờ Tị, Hợi: Thân và Phu thế đồng cung: Coi trọng cuộc sống gia đình, vợ chồng.

*/ Sinh giờ Dần, Thân: Thân và Quan lộc đồng cung (“Thân cư Quan lộc”): Thích địa vị và coi trọng công việc.

*/ Sinh giờ Sửu, Mùi: Thân và Phúc đức đồng cung: Chịu ảnh hưởng nhiều của phúc đức tổ tiên.

 

2/ Về ÂM DƯƠNG (so sánh giữa mệnh tuổi đương sự với Cung mà Mệnh của đương sự đóng trong Lá số): Ở trường hợp này, đương sự là DƯƠNG NAM, Mệnh đóng tại Cung “TÝ” là được “ÂM DƯƠNG THUẬN LÝ”.

3/ Về quan hệ MỆNH – CỤC: Mệnh: “Sa trung THỔ”; Cục: “THỔ ngũ cục”. Như vậy là quan hệ Ngũ hành giữa Mệnh và Cục là “TỊ HÒA” (cùng là THỔ). 

4/ THÂN và MỆNH ở cùng một CUNG, cung “TÝ”: Thân Mệnh đồng cung.

Đó là những thông tin bước đầu rất quan trọng để ta đi vào LUẬN GIẢI LÁ SỐ sau này.

***** 

 II/ DỰ ĐOÁN VẬN MỆNH

II.1/ VÍ DỤ: Theo hướng dẫn ở mục I trên, ta lấy lá số tử vi cho một người có tên là Phạm Trọng Yêm sinh giờ Sửu, ngày 02 tháng 8 năm Kỷ Sửu (năm dương là 2009), kết quả thu được LÁ SỐ  như dưới đây:


 II.2/ TRÌNH TỰ TIẾN HÀNH:

          Bước 1:

1.1- Xem tuổi và cung an mệnh có thuận lợi hay bất lợi: Dưong cư dương vị, âm cư âm vị là đắc vị thuận tốt. Nghịch vị cuộc đời hay gặp nhiều ngang trái – không được vui vẻ – hay bất mãn, bất đắc chí. Tuy nhiên nghich vị cũng thường giúp đương số nỗ lực vượt bậc để thành công.
1.2- Xét Cung Mệnh: Mệnh đóng tại Cung nào trong 12 Cung của Lá số để biết có được Sinh địa, Vượng địa hay bị Bại địa hoặc Tuyệt địa: Dựa vào Bảng 1

Bảng 1: Ngũ Hành của Bản Mệnh liên quan đến vị trí Cung an Mệnh:

BẢN MỆNH

CUNG MỆNH

Sinh Địa

Vượng Địa

Bại Địa

Tuyệt Địa

Kim

Tỵ

Dậu

Ngọ

Dần

Mộc

Hợi

Mão

Thân

Hỏa

Dần

Ngọ

Mão

Hợi

Thủy – Thổ

Thân

Dậu

Tỵ

Trường hợp Lá số này, Mệnh Hỏa đóng tại Cung Thân: Bình thường, không phải Sinh, Vượng địa cũng không bị Bại, Tuyệt địa. Mệnh tại Thân: Sao CHỦ MỆNH là LIÊM TRINH, Sao chủ Thân là THIÊN TƯỚNG (xem mục số 15, điểm D, ở phần KHÁI NIỆM trên)

          Bước 2: 

2.1- Xét sự thuận nghịch về lý âm dương giữa Năm sinh với vị trí cung an Mệnh để biết tổng quát tốt xấu của cung cần giải đoán. Trường hợp Lá số này, năm sinh Kỷ (- Thổ), Mệnh an cung Thân (+ Kim): Nghịch lý âm dương.

2.2- Xem sinh khắc ngũ hành giữa bản mệnh và cung an mệnh tức là xem địa lợi hay không để biết cuộc đời có được vững vàng hay mong manh, thành đạt dễ dàng hay trắc trở, kết quả lớn hay nhỏ, lâu bền hay ngắn ngủi:
Cung đồng hành hay sinh hành của mệnh là tốt.
Cung được mệnh sinh xuất là số lao đao
Cung bị hành mệnh khắc xuất là số chật vật, phải nỗ lực cố gắng nhiều mới thành đạt được.
Mệnh bị cung khắc nhập là xấu nhất, số bị thất bại gian nan và hoạn nạn.

2.3- Xét sự sinh khắc ngũ hành của Can Chi Năm sinh (Theo Bảng 2):

Bảng 2: ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH CỦA THIÊN CAN VÀ ĐỊA CHI

KIM

MỘC

THỔ

THỦY

HỎA

ÂM

Tân – Dậu

Ất - Mão

Sửu – Kỷ - Mùi -

Quý – Hợi

Đinh – Tị -

DƯƠNG

Canh - Thân

Giáp – Dần

Mậu – Thìn – Tuất

Nhâm – Tý

Bính – Ngọ

Trường hợp Lá số này: Can năm sinh Kỷ (- Thổ) Chi năm sinh Sửu (- Thổ): Tỉ Hòa!
2.4- Xét sự tương quan ngũ hành giữa bản Mệnh và Cục. Lá số đã cho: Mệnh là Hỏa (Tích lịch), Cục là Kim (tứ): Mệnh khắc Cục.

NHẬN ĐỊNH VỀ HÀNH CỦA BẢN MỆNH (MỆNH) VÀ CỤC VÀ TƯƠNG QUAN XUNG KHẮC
Khi tính sinh khắc giữa hành của Bản Mệnh và hành của Cục, thì đương nhiên hành của Mệnh phải được chọn làm gốc, hành Cục là phụ thuộc.
Hành Mệnh và hành Cục đồng hành: cả hai hành đều được hưng vượng lên (Vượng) nên tốt.
Hành Cục sinh hành Mệnh: hành Mệnh được hưng thịnh lên (Tướng) nên tốt.
Hành Mệnh sinh hành Cục: hành Mệnh bị suy yếu (Hưu) trong đó hành Cục được hưng thịnh (Tướng) nên không tốt cho bản Mệnh, xấu.
Hành Mệnh khắc hành Cục: hành Mệnh bị giam cầm bó tay không hoạt động được (Tù) nhưng không có hại, trung bình.
Sự sinh khắc trên đây là sự sinh khắc của ngũ hành chính. Chúng ta nên áp dụng nguyên tắc sinh khắc của Ngũ Hành nạp Âm mới chính xác hơn.

Số đẹp tốt  đến đâu mà người:

Mộc Cục an Mệnh tại Ngọ – Chịu lắm tai ách vì sinh xuất

Hoả Cục an mệnh tại Dậu – Hay bị tai hoạ

Kim cục an mệnh tại Tý – Chịu thương tổn

Thuỷ cục an mệnh tại dần – Hay bị vấp váp trì trệ

Thổ cục an mệnh tại mão – Hay bị bệnh về máu huyết.

Mộc mệnh an ở Thân Dậu – Xấu vì bị khắc nhập

Hoả Mệnh an ở Tuất Hợi – Nhiều tai ách

Kim mệnh an ở Sửu Dần – Nhiều bệnh tật cho cả vợ con

Thuỷ Thổ mệnh an ở Thìn Tỵ – Hay bị tang tóc

2.5- Xem chính tinh miếu vượng đắc hay hãm. Miếu vượng, đắc gặp tuần triệt là xấu. hãm gặp tuần triệt án ngữ là tốt. Hành của chính tinh phải hợp hay sinh Hành bản mệnh vì tương quan giữa các chính tinh và mệnh thân về ngũ hành.

Chính tinh và Mệnh đồng Hành hay chính tinh sinh mệnh -> ảnh hưởng mạnh mẽ nhất.
Mệnh sinh chính tinh ảnh hưởng mạnh nhưng đương số không có lập trường vững vàng hay thay đổi lập trường theo hoàn cảnh.
Mệnh khắc chính tinh: Không bị ảnh hưởng của chính tinh
Chính tinh khắc mệnh -> Bị ảnh hưởng xấu nếu hành động theo tính chất của sao. Ví dụ mệnh hoả bị Phá quân thủ mệnh (thuỷ). Nếu hành động theo tính chất của Phá quân là thủ đoạn, phản phúc, bất trung, bất hiếu thì bị tai hoạ. Nếu ngay thẳng nhưng gặp môi trường thúc đẩy trở thành bất lương ngoài ý muốn thì cũng là bất lương.
Mệnh khắc chính tinh: Thì các trung tinh bàng tinh giữ vai trò quan trọng ví dụ Mệnh Kim có Thiên Cơ (Mộc) thủ mệnh thì Tả, Hữ, Xương, Khúc (nếu có) giữ vai trò quan trọng.
Hành của Chính tinh nên hoà với hành của cung hay được hành của cung sinh hành của chính tinh mói tốt.

Sau đây là  Bảng về HÀNH, VỊ TRÍ và TÍNH NĂNG CỦA CÁC SAO (Muốn biết cụ thể tính chất, tác dụng của sao nào thì Click chuột vào tên sao đó để xem):

Sao

Hành

Vị trí

Diễn giải

CỰ MÔN

Thủy

V:Tí, Ngọ, Mão, Dậu
Đ: Dần, Thân, Hợi
H: Tỵ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi

Am tinh. Tính hay thay đổi, giỏi lý sự, chủ về thị phi và sự giàu có (nhà cửa).

LIÊM TRINH

Thủy

M: Dần, Thân
V: Tý, Ngọ, Thìn, Tuất, Sửu,Mùi.
H: Tỵ, Hợi, Mão, Dậu

Hung tinh (chính trực quan).  nóng nảy cương trực, liêm khiết.

PHÁ QUÂN

Thủy

V: Tí, Ngọ.
Đ:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
H: Mão, Dậu, Dần, Thân, Tỵ, Hợi

Hung tinh, ngỗ ngược, hồ đồ, ưa nịnh hót. Chủ sự cướp phá.

THÁI ÂM

Thủy

V: Tuất, Hợi, Tý,
Đ:Dậu, Thân, Sửu, Mùi
H: từ Dần đến Ngọ

Phúc tinh. thông minh. Chủ điền tài.

THÁI DƯƠNG

Hỏa

V: Dần, Ngọ, Thìn
Đ: Mão, Tỵ, Sửu, Mùi
H: từ Thân đến Tý

Quý tinh. thông minh, khôn ngoan.Chủ quan lộc.

THAM LANG

Mộc

V: Sửu, Mùi.
Đ:Thìn, Tuất, Dần, Thân
H: Tị, Hợi, Tý, Ngọ, Mão, Dậu

Hung tinh. Gian tham

THẤT SÁT

Kim

V:Dần, Thân, Tí, Ngo.
Đ:Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi
H:Thìn, Tuất, Mão, Dậu

Hung tinh (quyền tướng). quyền biến, túc trí đa mưu; hãm thì nóng hay giết chóc. Chủ sự oai vũ.

THIÊN CƠ

Mộc

V:Thìn, Tuất, Mão, Dậu.
Đ: Tỵ, Thân, Mùi, Ngọ, Tý, Sửu
H: Dần, Hợi

Quý tinh, mưu trí tài năng, hiền hậu. Chủ về thời thế và sự biến hóa..

THIÊN ĐỒNG

Thủy

V: Dần, Thân
Đ:Tí, Mão, Tỵ, Hợi
H: Ngọ, Dậu, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi

Quý tinh. hiền vui, ôn hòa, nhu nhược

THIÊN LƯƠNG

Mộc

V: Ngọ, Thìn, Tuất
Đ: Tí, Mão, Dần, Thân,   Sửu, Mùi.
H: Tỵ, Dậu, Hợi

Thiên tinh, hiền lành trung hậu thật thà. Chủ thọ và thiện tâm.

THIÊN PHỦ

Thổ

V: Tí, Ngọ, Dần, Thân
Đ:Thìn, Tuất, Mùi, Hợi
B: Sửu, Mão, Dậu

Quý tinh. thông minh, tiết hạnh. Chủ về tài bạch.

THIÊN TƯỚNG

Thủy

H: Mão Dậu

Quí tinh.  Chủ Quan, Lộc
Tối kỵ gặp Tuần , Triệt.

TỬ VI

Thổ

V: Tý, Ngọ, Dần, Thân
Đ: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Hợi, Tí
B: Mão, Dậu

Phúc quý tinh. chủ sự quyền quý.

VŨ KHÚC

Kim

V: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
Đ: Dần, Thân, Tí, Ngọ, Mão, DậuH: Tỵ, Hợi

Tài tinh. Cương trực, liêm khiết, hiền lành, cần mẫn, chủ về tài.

Ân Quang

Mộc

V: Sửu, Mùi
Đ: Mão Dậu

Quý tinh. Chủ sự ân huệ, giúp đỡ.

Bác sỹ

Thủy

Cát tinh. chủ sự thông đạt, thâm thúy.

Bạch Hổ

Kim

V:Dần, Thân, Mão, Dậu
H: Tuất.

Hại tinh. Chủ sự không lành.

Bát Tọa

Mộc

V: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

Đài các tinh. chủ sự vinh hiển thanh nhàn.

Bệnh

Hỏa

Hung tinh, bệnh tật, khù khờ, nhầm lẫn..

Bệnh Phù

Thổ

Hung tinh.  chủ về bệnh tật.

Cô Thần

Thổ

Hung tinh. Lạnh lùng, khó tính,   chủ sự cô đơn.

Dưỡng

Mộc

Cát tinh. cẩn thận, chủ sự nuôi nấng.

Đà La

Kim

V:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Đ: Tí, Hợi
H: Dần,   Thân

Sát tinh. Nếu Đà la chiếu thì vạ miệng

Đại hao

Hỏa

Đ:Dần, Thân, Mão, Dậu
H: Tý, Ngọ

Hại tinh. lơ đễnh, chủ sự hao tán.

Đào hoa

Mộc

Dâm tinh. chủ về tình và yểu.

Đẩu Quân

Hỏa

Hung tinh. Chủ điền tài.

Đế Vượng

Cát tinh. chủ sự thịnh vượng

Địa Kiếp

Hỏa

Đ:Dần, Thân, Tị, Hợi.
H: Thìn, Tuất.

CUNG MỆNH có Kiếp : gian phi, vô hạnh, mọi việc đều hoàn toàn thất bại.

Địa Không

Đ:Dần, Thân, Tị, Hợi.
H: Thìn, Tuất.

Sát tinh. nghèo cùng, cô độc, hiểm ác. MỆNH có Địa không độc thủ: bần cùng

Địa Võng

Am tinh. chủ sự giam bắt, cản trở. Võng ngộ hung thành cát, ngộ cát thành hung

Điếu Khách

Hỏa

Phóng đãng tinh. khoe khoang khoác lác

Đường phù

Cát tinh, chủ sự thanh tịnh.

Giải Thần

Mộc

Thiện tinh. độ lượng hay giúp đỡ cứu vớt người.

Hoa Cái

Kim

V: Tí

Đài các tinh. ưa sa hoa lộng lẫy, hay làm bộ..

Hóa Kỵ

Thủy

Đ: Thìn, Tuất, Mão, Dậu, Thân.
H: Tí, Sửu, Ngọ, Hợi

Ac tinh. hay ích kỷ, ghen ghét rất ác và thâm hiểm.

Hóa Quyền

Thủy

Đ:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
H: Tí, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi.

Quý tinh. chủ sự có quyền.

Hóa Khoa

Thủy

Đ:  Dần, Thân, Hợi
H: Tý, Dậu

Cát tinh. chủ khoa giáp

Hóa Lộc

Mộc

Đ:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
H: Tý, Ngọ, Thân, Dậu

Tài Tinh. chủ về tài lộc.

Hỏa Tinh

Hỏa

Đ:Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, TuấtH: Tý

Sát tinh. táo bạo nóng nảy lanh lẹ phá phách.

Hữu Bật

Thổ

Đ :  Tị, Hợi, Sửu, Mùi.  Mão, Dậu.

Chủ sự giúp đỡ, ngộ cát phù cát, ngộ hung phù hung.

Hồng Loan

Đ: Tí, Thìn, Ngọ.

Cát tinh, chủ sự mừng và nhân duyên.

Hỷ Thần

Hỏa

Cát tinh. Chủ sự vui mừng và thọ.

Kiếp Sát

Hỏa

Đ:Tí, Hợi, Dần, Thân
H: Mão, Tị, Ngọ.

Ac tinh, nóng nảy, độc ác, bất chính, chủ sự phá hoại.

Kình Dương

Kim

V:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Đ:Tí, Hợi, Dần, Thân.
H: Mão, Tí, Ngọ.

Sát tinh, ác, hùng hổ, lăng nhăng. (Kình tối kỵ Quan, Thê, Tử)

Lâm Quan

Cát tinh, đàng hoàng, chủ sự làm ăn.

Linh Tinh

Hỏa

Đ: Dần … Mùi
H: Tí, Hợi.

Sát tinh

Lộc Tồn

Thổ

V: Tí, Ngọ, Thân, Dần, Mão, Dậu.

Tài tinh. giàu có, hiền lành, đôn hậu. Chủ sự tài lộc

Long Đức

Thủy

Cát tinh

Long Trì

Thủy

Cát tinh. chủ về khoa giáp và hỷ sự.

LN Văn Tinh

Hỏa

Văn tinh. thông thái chủ về văn học.

Lực Sỹ

Hỏa

Võ tinh, chủ về sức mạnh uy quyền.

Lưu Hà

Thủy

Hung tinh. thâm hiểm, chủ thủy tai.

Mộ

Thủy

Hung tinh. chủ sự nghiệp quả.

Mộc Dục

Thủy

Phóng đãng tinh. Chủ sự phong tình.

Nguyệt Đức

Hỏa

Cát tinh. Chủ sự cứu giúp.

Phá Toái

Hỏa

Hung tinh. chủ sự phá hoại

Phi Liêm

Hỏa

Cát tinh. chủ sự mau lẹ, thịnh tiến.

Phong Cáo

Thổ

Cát tinh. Chủ bằng sắc công danh.

Phượng Các

Thổ

V:Sửu, Mùi, Mão, Dậu

Cát tinh. Chủ sự hiển vinh lâu dài.

Phục Binh

Hỏa

Ac tinh. gian ác, hiểm sâu. Chủ sự lừa đảo.

Phúc Đức

Thổ

Cát tinh. thật thà, chất phác, từ thiện.

Quả Tú

Thổ

V: Hợi

Hung tinh. Chủ sự cô đơn.

Quan Phù

Hỏa

H: Tí, Hợi

Gian tinh. Chủ sự hèn hạ.

Quan Phủ

Hỏa

Gian tinh. hèn hạ gian nịnh.

Quốc Ấn

Thổ

Qúy tinh. Chủ sự quyền quý.

Suy

Thủy

Hung tinh. Chủ sự suy bại

Tả Phù

Thổ

V:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Đ: Dần, Thân, Tị, Hợi, Mão, Dậu.

Hộ tinh. Chủ sự giúp đỡ, ngộ cát phù cát, ngộ hung phù hung.

Tam Thai

Hỏa

Đài các tinh. Chủ sự hiển vinh lâu dài.

Tang Môn

Mộc

Hại tinh. Chủ sự tang thương.

Tấu Thư

Kim

Văn tinh. Chủ về văn thư.

Thai

Thổ

Đ: Sửu, Tuất.Thìn.

Cát tinh. chủ sự tái sinh

Thai Phụ

Thổ

Văn tinh. Chủ sự danh vọng.

Thái Tuế

Hỏa

H . Thân, Dậu.

Hung tinh. chủ sự đa đoan, khẩu thiệt.

Thanh Long

V:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi

Quý tinh. chủ sự tiến phát.

Thiên Riêu

Thủy

V:Mão, Dậu, Tuất, Hợi.

Phóng đãng tinh: chơi bời phóng đãng.

Thiên Đức

Hỏa

Phúc tinh. Chủ sự từ bi. Thiên Đức đóng cung nào gieo phúc cho cung đo

Thiên Giải

Hỏa

Thiện tinh. Chủ sự việc giải trừ tai ách.

Thiên Hình

Hỏa

V:Dần, Mão, Dậu, Tuất.

Hung tinh. Chủ sự hình phạt

Thiên Hư

Thủy

Hại tinh. sai ngoa, bất chính

Thiên Hỷ

Thủy

Cát tinh. vui vẻ, ôn hòa, chủ sự mừng.

Thiên Khốc

Thủy

V: Tí, Ngọ.
Đ : Sửu, Thân

Hại tinh. chủ sự đau thương thảm khốc.

Thiên Khôi

Hỏa

Quý tinh. thông minh, chủ về khoa giáp.

Thiên Không

Hỏa

V: Tí, Hợi,Đ : Dần,
H: Thìn, Tuất

Sát tinh. gian hùng mà chẳng nên việc gì. Chủ sự thất bại.

Thiên La

Am tinh. chủ sự giam bắt cản trở.

Thiên Mã

Hỏa

V: Dần (Quý tinh)
Đ: Tỵ, Thân, Hợi

Tài năng hoạt bát. Chủ sự hoạt động.

Thiên QuanThiên Phúc

Hỏa

Phúc tinh: chủ sự phò nguy cứu khổ.
Hai sao này đóng đâu cứu khổ cứu nạn ở đó.

Thiên Quý

Thổ

Quý tinh.  Chủ sự giúp đỡ

Thiên Sứ

Thủy

Hung tinh. chủ sự không may.

Thiên Tài

Hộ tinh. Phù suy không phù thịnh; chế ngự các sao xấu mà ngăn ngừa cả sao tốt.

Thiên Thọ

Thọ tinh. Chủ thọ.

Thiên Thương

Thủy

Hung tinh. Chủ sự đau thương, nguy khốn.

Thiên Trù

Cát tinh. Thiên trù gặp Lộc ở cung Tài : tốt.

Thiên ViệtThiên Khôi

Hỏa

Qúy tinh. Thanh bạch, khoan hòa, thông minh tài giỏi.

Thiên Y

Thủy

Trung tinh. Chủ việc thuốc thang.

Thiếu Âm

Thủy

Cát tinh. Lạnh lùng hơi thông minh.

Thiếu Dương

Hỏa

Cát tinh. Dịu dàng, ôn hòa thông minh

Tiểu Hao

Hỏa

Sát tinh. hoang phí,  chủ sự hao tán

Tràng Sinh

Thủy

Quý tinh. từ thiện, độ lượng, chủ thọ

TRIỆT

Thủy

V:Dần, Thân, Mão, Dậu

Bạo ngược, khắc khe. Chủ sự triệt hại.

Trực Phù

Kim

Gian tinh. gian tà, nhỏ mọn.

TUẦN

Thủy

V:Dần, Thân, Mão, Dậu

Án Tinh

Tuế Pha

Hỏa

Hung tinh. Chủ sự phá hoại.

Tuyệt

Thổ

Hung tinh. Chủ sự hết.

Tử

Hỏa

Hung tinh. Chỉ sự chết.

Tử Phù

Kim

Hung tinh. Chủ sự nguy cùng. biểu hiện sự chết.

Tướng Quân

Mộc

Vũ tinh. Chủ sự binh quyền.

Văn Khúc

Thủy

Văn tinh. văn chương, chủ khoa giáp

Văn Xương

Kim

Văn tinh. Thông minh có tài văn chương; chủ khoa giáp.

 

 

 

   

 

 

2.6- Xem phối hợp cung nhị hợp với cung an Mệnh-Thân.  Nhị hợp (còn gọi là Lục hợp) trong 12 chi. Qui tắc lục hợp được tính theo từng cặp như sau : Ngọ - Mùi ; Tỵ – Thân ; Thìn -Dậu ; Mão – Tuất ; Dần – HợiSửu – Tý

Trong Tử Vi 12 cung Địa bàn cũng tính nhị hợp như nguyên lý trên .
Mệnh an tại Tý, Ngọ thì hợp Phụ Mẫu + Mệnh an tại Tỵ ,Hợi thì hợp Điền Trạch
Mệnh an tại Sửu ,Mùi thì hợp Huynh Đệ  + Mệnh an tại Thìn ,Tuất thì hợp Nô Bộc
Mệnh an tại Mão , Dậu thì hợp với Tật Ách + Mệnh an tại Dần , Thân thì hợp với Tử TứcNhiều nhà nghiên cứu TV cho rằng , mệnh hợp với cung nào thì cả cuộc đời đường số luôn bận tâm suy nghĩ đến cung đó .

Trường hợp Lá số này: Mệnh an Cung Thân: Người này hợp với Tử tức. Cung nhị hợp với cung Thân là cung Tị (cung Tử tức)
2.7- Xem cách cục để biết số thuận cách cục nào tức là xem các sao an mệnh phối hợp với cung xung chiếu (Di) hai cung hợp chiếu (Tài, Quan) hai cung giáp (Phụ, Huynh) và cung nhị hợp.
Xem mệnh và Thân đều như vậy.
Mệnh định số mạng thọ yểu sang hèn.
Thân định sự hưởng thụ của cuộc đời.
 

2.8- Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Thái Tuế trên lá số
2.9- Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Lộc Tồn trên lá số
2.10- Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Tràng Sinh trên lá số
Phải xét qua tất cả các yếu tố trên rồi phối hợp lại để đưa ra lời lý giải tổng quát về những nét đại cương của cuộc đời cho lá số.

          Bước 3: Xét 4 Cung “Tam phương tứ chính” xem có được “CÁCH” gì không? Trường hợp Lá số này “Tam phương tứ chính” gồm các Cung: THÂN – TÝ – THÌN – DẦN. Được CÁT CÁCH “Tử Phủ triều viên” (Sao Tử vi (Thìn) và sao Thiên tướng (Thìn) hợp chiếu Cung Mệnh (Thân):  Đây là lá số của người thanh cao, vừa có phúc vừa được thọ, vật chất đầy đủ, hưởng lộc dồi dào. Lại được thêm các sao Thiên khôi, Thiên việt, Quyền và Lộc hội chiếu, nên rất tốt! Phần PHỤ LỤC cuối tài liệu này sẽ cung cấp cho ta CÁC “CÁT CÁCH”, CÁC “HUNG CÁCH”, CÁC “ÁC CÁCH”… Sau khi tải được Lá số từ trang Web đã nói ở phần trên, chúng ta chỉ việc đối chiếu với những “Cách” nêu cụ thể và chi tiết ở phần PHỤ LỤC này, là sẽ xác định được Lá số đó có được Cách gì không, Cách đó cho ta những thông tin gì về chủ nhân Lá số? Cụ thể ở Lá số của ví dụ này có: Liêm trinh tọa Mệnh tại Thân. Cung “tam hợp” có  Tử vi (ở cung Tài bạch) và Thiên phủ (ở cung Quan lộc), đối chiếu Phụ lục III, được Cát cách “TỬ PHỦ TRIỀU VIÊN” - Cát cách số 2: Người thanh cao, phúc thọ, hưởng lộc dồi dào “Tử Phủ triều viên thực lộc vạn chung“.

          Bước 4: Xem ý nghĩa và đặc tính của Chính tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại cung Mệnh và Thân.

a/Mệnh cần căn cứ sao Tử vi để dự đoán: Tử vi miếu vượng hóa Cát là cực tốt; nếu hãm địa lại cực Hung. Tử vi cần đi kèm Tả phù Hữu bật, Thiên tướng, Khôi, Việt, Thái dương, Thái âm và Lộc tồn (Tử vi có Lộc tồn, Thái dương Thái âm tam hợp chiếu:giầu sang hết chỗ nói). Tử vi thiếu Tả, Hữu (2 đại thần) thành Cô quân. Tử vi gặp nhiều sao Hung thành vua bất nhân.
b/ 
Sao Thiên cơ là Thiện tinh, sao trí tuệ. Thiên cơ giữ Mệnh lại thêm các sao Tốt thì rất dễ thành công, đa mưu túc trí. Với Nữ giới: Mệnh có Thiên cơ thì Hung càng thêm Hung; nếu có Thiên lương nữa thì là người khéo léo, tháo vát, giỏi nội trợ.                                                                                        c/ Thái dương ở Mệnh là Quý khí của con người, có tài văn tài võ. Hội tụ các sao Tốt thì giáng phúc, hội tụ các sao xấu thì uổng công. Thái dương nằm tại Mệnh miếu địa: Công danh rạng rỡ. Cung Quan lộc có Thái dương: Cực tốt. mệnh Nữ có Thái dương thì chồng tốt, thêm Thái âm thì phú quý song toàn.                                                                                                                                                              d/ Vũ khúc chủ tiền bạc ở cung Tài bạch. Chủ về tuổi thọ ở Mệnh. Vũ rất sợ bị chế hãm, rất cần Lộc tồn và ưa sao Thái âm; lấy 2 sao Thiên phủ và Thiên lương làm trợ lực. Gặp Lộc, Mã thì phát tài, gặp Tham lang thì thiếu niên bất lợi, gặp Dương, Đà thì cô khắc, gặp Phá quân thì khó hiển đạt, gặp cùng cung có Thất sát, Hỏa tinh thì vì tiền bạc mà gặp họa. Vũ khúc thủ Mệnh thì người cương cường, quả đoán. Tuổi Giáp, Kỷ: Phúc hậu nếu thêm Tham, Hỏa xung phs thì là Quý cách. Nữ mệnh gặp Cát tinh: bậc quý phụ; gặp Sát xung phá: Cô khắc.                                                                                          đ/ Thiên đồng chủ Cung Phúc đức. Gặp nhiều Cát tinh thêm phúc đức, liêm khiết, nhiều ý chí và bất chấp Thất sát. Gặp Tả, Hữu Xương Lương thì hiển quý. Rất tốt cho người tuổi Nhâm, Ất. Nữ mà có thiên đồng bị Lương, Âm xung phá thì làm lẽ và đi tu.                                                                             e/ Liêm trinh chủ về không trọng lễ nghĩa. An tai Mệnh thì số đào hoa. Đắc địa gặp Lộc tồn thì Phú quý, gặp Văn xương thì lịch thiệp, gặp Thất sát thì phát về Võ. Nếu không được chỗ miếu vượng lại phạm Quan phù thì hóa khí thành tù. Liêm đồng cung Tham ở Tị và Hợi thì dù phát đạt bao nhiêu cũng đổ vỡ.                                                                                                                                                     f/ Thiên phủ chủ về Quyền và Phúc, thọ Mệnh, giải ách. Phò tá cho Tử vi, nắm giữ Tài bạch, Điền trạch. Có khả năng chế phục Kình, Đà, cải hóa Hỏa, Linh. Chủ tướng mạo thanh tú. Hội cùng Thái dương, Xương, Khúc thì dễ khoa bảng; gặp Lộc tồn vũ khúc thì phú quý; Rơi Không vong Tứ sát thì bị cô lập. Mệnh Nữ có Thiên phủ thủ Mệnh: Vui vẻ, vượng chồng ích con; dù gặp xung sát cũng yên.     g/ Thái âm Đắc địa là người Thông minh, hiền lương.Ở Mệnh miếu vượng thì phú quý. Nếu ở cung Dậu là hội nhiều sao Tốt, thêm thái dương ở Mão chiếu sang: Đại phúc. Hãm lại gặp ác sát: nghèo khổ, tàn tật (Rất sợ Dương Đà đồng cung, sợ Liêm phạm Thất sát xung phá dễ bị tàn tật). Thái âm tuy là sao thuần hòa nhưng nếu thiếu ánh sáng sẽ thành Hung tinh.                                                            h/ Tham lang là thần chủ Họa, Phúc. Tại Mệnh ưa phóng đãng, gặp sao tốt thì phú quý, gặp sao xấu thì hư họa, mưu mô. Miếu gặp Hỏa, Linh: Võ chức quyền quý.                                                                 i/ Cự môn ở Mệnh thường chiêu nạp tai tiếng thị phi, ám muội, đa nghi.                                             k/ Thiên tướng ở Mệnh chủ nhiều tiền, dáng cao lớn, nghiêm nghị, dễ thăng chức. Hạn gặp Tướng: hóa dữ thành lành.                                                                                                                                        l/ Thiên lương là sao coi việc thọ, yểu. An Mệnh: tính nghiêm nghị, dáng người đầy đặn, lòng chính trực.                                                                                                                                                                 m/ Thất sát ở Mệnh: Nên làm tăng đạo; Vận hạn xấu thường chết yểu. Tốt nhất khi ở cung Quan lộc.

n/ Phá quân tại số là hao tinh, chủ Hung bạo, xảo trá, khó hợp với ai. Tuổi Giáp, Quý mà hợp cách thì phú quý. Nữ Mệnh bị Phá quân xung phá thì dâm đãng.                                                                   o/ Văn xương chủ về khoa giáp. Lợi ở Thìn, Tị, Ngọ; bất lợi ở Mão, Dậu. Ở Mệnh: Người thanh tú, nho nhã, nhất cử thành danh, phúc thọ song toàn. Gặp Thái dương Thái âm hoặc thêm Quyền, Lộc dễ thành danh.                                                                                                                                                  p/ Văn khúc chủ về khoa giáp văn chương. Ở Mệnh: người hào hoa phong nhã (nhưng nếu đứng một mình thì thành Hung: thành vô danh tiểu tốt) Văn khúc sợ gặp Phá quân, Tham, Sát, Hình, Kị. Hợp nhất là Văn khúc đóng cung Quan. Mệnh Nữ không nên có Văn khúc.                                                   q/ Tả phù thủ Mệnh thì giáng Phúc, dung mạo đôn hậu khảng khái, phong lưu.                                   r/ Hữu bật thủ Mệnh chủ văn bút tinh thông. Tả và Hữu đều cần có Vua để phù tá, không vua thành vô dụng. 2 sao này đứng cạnh Tử vi Thiên phủ thì tước lộc rất lớn.                                                             s/ Thiên khôi Thiên việt: Khôi lâm Mệnh thì Việt cư Thân. Chủ cung Mệnh thì sang quý.                   t/ Lộc tồn là vị tinh tú chân nhân, phò Đế tướng để tăng uy quyền, phò Nhật Nguyệt để tăng độ sáng. Ở Mệnh (Điền và Tài) thì phú quý.                                                                                                       u/ Thiên  lâm Mệnh gọi là Dịch mã, cần có Tử, Phủ, Xương, Khúc thủ chiếu thì mới Cát. Lâm Đại Tiểu hạn gặp Tử Phủ lưu Xương thì càng lợi. Cùng cung với Lộc tồn gọi là Lộc Mã song hành, cùng Tử Phủ: Phù liễn mã, cùng Hình, Sát: Phù thi mã, cùng Hỏa tinh: Chiến mã, cùng cung Đà la: Chiết túc mã, ở cung Tứ Huyệt: Tử mã: Nếu người phạm phải các số trên thì nhiều bệnh tật.     v/ Hóa lộc là sao Phúc đức. Ở đâu tốt đấy.                                                                                                x/ Hóa quyền nắm quyền sinh sát. Ở đâu cũng tốt.                                                                                     y/ Hóa khoa là thần cai quản thi cử, văn chương. Thủ Mệnh gặp Quyền Lộc thì hoạn lộ phú quý.         z/ Hóa kị thủ Mệnh thì một đời bất thuận.                                                                                                 j/ Kình thủ Mệnh: Người thô bạo; Đà thủ Mệnh: Bất chính; Hỏa (đại sát tinh) thủ Mệnh: diện mạo có nhiều đặc điểm, tính cương cường, xuất chúng. Không nên ở các Cung khác, nếu gặp Dương, Đà tuổi nhỏ gian truân; Linh (đại sát tinh) thủ Mệnh: tướng mạo kì dị, nhưng có nét oai nghiêm nếu gặp Tham lang: Công danh hiển đạt. Miếu địa thì rất tốt, Hãm thành kẻ cô hàn; Thiên không, Địa kiếp thủ Mệnh: Gặp Cát tắc Cát, gặp Hung tắc Hung; Thiên hình thủ Mệnh: Nếu không đi tu thì cũng cô độc.

Xem ý nghĩa và đặc tính của các Trung tinh và Phụ tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp của cung Mệnh-Thân. Xét ý nghĩa, đặc tính, vị trí và sự đắc hãm của các Hung Sát tinh trên lá số. Xem ảnh hưởng của các Hung Sát Bại tinh (nếu có) tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại các cung quan trọng như tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an Thân và cung Phúc Đức. 

 Hãm hay đắc của sao thì không liên quan đến hành khí của sao mà chỉ liên quan đến tính chất xấu hay tốt mà sao đem lại. Sao đắc hãm tại các vị trí khắc nhau, và tuỳ theo tính chất đắc vượng miếu hay hãm mà mang ý nghiã khắc nhau. Ý nghiã xấu tốt của sao không thể thay đổi, trừ khi gặp Tuần hay Triệt. Một sao đã hãm địa không thể trở nên đắc địa cho dù hành khí của sao có thay đổi do tương quan sinh khắc giữa sao với các sao khác hay với Mệnh và cung. Còn hành khí của sao có thịnh lên hay giảm xuống thì căn cứ vào tương quan giữa hành sao với các sao khác, hành sao với và hành cung, hành sao và hành Mệnh. Khi hành khí của sao thịnh lên thì ảnh hưỡng tốt xấu của sao được phát huy mạnh mẽ hơn, nhưng bản chất xấu tốt của sao vẫn giữ nguyên vẹn. Khi hành khí của sao bị suy giảm thì ảnh hưỡng xấu tốt của sao sẽ bị suy yếu đi, nhưng tính chất xấu tốt của sao vẫn không thể thay đổi. Tóm lại đắc hãm của sao nói về tính chất của sao, còn hành khí của sao thịnh hay suy nói về cường độ ảnh hưỡng mạnh hay yếu.
Cát tinh sáng sủa thì thường mang tính chất tốt. Càng sáng thì thông thường càng có nhiều tính chất tốt. Cát tinh hãm địa thì mang tính chất xấu. Xấu nhưng không quá xấu vì là cát tinh, là sao chủ yếu mang đến điều tốt lành.
Hung tinh thường mang ý nghiã xấu hung hãn, gây tai họa. Hung tinh đắc địa thì tuy có mang tính chất tốt nhưng không trọn vẹn như cát tinh vì cũng còn có tính chất xấu đi kèm. Hung tinh hãm địa thì ý nghiã xấu càng trở nên mãnh liệt.
Sao an theo năm (theo Can, Chi) thì có tác dụng lâu dài bền bỉ. Sao an theo tháng thì tác dụng cũng ngắn hơn, còn sao an theo giờ thì phát huy nhanh chóng tạm thời.
Khi luận giải, phải lấy hành bản Mệnh làm gốc để luận đoán.
Có bốn nguyên tắc được sắp xếp theo thứ tự quan trọng cần để ý.
NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, xét tương quan giữa hành sao và hành Mệnh. Hành Mệnh là hành của năm, nghiã là lấy hành khí đang cực thịnh của năm làm chủ. Năm Mộc thì khi ấy Mộc phải vượng không thể yếu được. Xét sự sinh khắc giữa hai hành thì căn cứ vào câu phú sau:

Đồng sinh thì Vượng (cùng một hành khi gặp nhau thì Vượng, cả hai hành đều mạnh lên, hưng thịnh lên).
Sinh ngã thì Tướng (gặp hành khắc sinh ra ta (ngã) thì ta Tướng, ta tốt lên nhiều phần).
Ngã sinh thì Hưu (ta sinh cho hành khắc thì không thành, không tăng, không hưng thịnh lên mà lại giảm, bị suy yếu, hao tổn, ta không được lợi gì, vô dụng).
Ngã khắc thì Tù (ta khắc hành khác thì ta tù, nghiã là bị giam cầm, bó tay không hoạt động).
Khắc ngã thì Tử (ta gặp hành khắc ta thì ta chết).
Vận dụng qui luật sinh khắc này vào sự sinh khắc giữa hành sao và hành Mệnh ta có: 

Hành sao sinh hành Mệnh: hành sao bị hao tổn, bị giảm (Hưu) nên ảnh hưỡng xấu tốt của sao bị yếu đi. Mệnh được hưng vượng lên (Tướng) chứng tỏ Mệnh được sao phu sinh, nghiã là sao làm lợi cho Mệnh cho dù là cát tinh hay hưng tinh. Nếu là cát tinh sáng sủa thì đưa đến lợi ích trọn vẹn cho Mệnh. Nếu là cát tinh lạc hãm thì do sao có tính chất xấu nên Mệnh tuy cũng hưỡng lợi ích nhưng không toàn vẹn. Nếu là hung tinh sáng sủa thì các tính chất tốt xấu của nó cũng khiến bản Mệnh hưng thịnh. Nếu là hung tinh lạc hãm thì cũng ít bị nguy hại hơn vì hành sao bị hao tổn nên phát huy yếu ảnh hưỡng xấu của nó, trong khi bản Mệnh lại được hưng thịnh. Cho dù gặp sao xấu hay tốt, bản Mệnh vẫn vững vàng hưng thịnh lên vì bản Mệnh được sinh nhập (Tướng). Do đó người ta thường nói hành sao sinh hành Mệnh thì tốt. Người có hành sao sinh hành Mệnh là người được sao trợ giúp, sao không thể tác họa mạnh đến bản Mệnh.
Hành sao đồng hành với hành Mệnh: cả hai đều được hưng vượng lên (Vượng). Mọi ảnh hưỡng tốt xấu của sao lên Mệnh đều hưỡng trọn vẹn. Cát tinh hay hung tinh vẫn phát huy mạnh mẽ hơn ảnh hưỡng của chúng. Tuy nhiên bản Mệnh vẫn được on có vì hành khí của bản Mệnh được hưng thịnh lên, nghiã là sao đó thuộc về mình, mình hoàn toàn chủ động, Mệnh mang những đặc tính của sao. Do đó hành sao đồng hành với bản Mệnh thì tốt nhất, Mệnh chỉ huy được sao một cách trọn vẹn.
Hành Mệnh sinh hành sao: hành khí của sao hưng thịnh lên (Tướng), trong khi đó bản Mệnh bị hao tổn (Hưu). Hành khí của sao hưng thịnh lên nhưng không có lợi ích gì cho bản Mệnh vì bản Mệnh bị suy tổn. Cho dù cát tinh sáng sủa đi chăng nữa cũng không đem lại lợi ích cho Mệnh mà còn làm cho Mệnh bị hao tổn khi sao phát huy tính chất của nó. Hung tinh lạc hãm khi phát huy tính chất của nó thì còn gây bất lợi cho Mệnh nhiều hơn do các tính chất xấu của nó. Do đó Mệnh không chỉ huy được sao, bị hao tổn do các ảnh hưỡng xấu tốt của sao gây ra.
Hành sao khắc hành Mệnh: hành khí của sao vẫn giữ nguyên, nhưng bị giam cầm bó tay không hoạt động được (Tù). Bản Mệnh bị hao tổn, thiệt hại rất nhiều (Tủ), bị chết, có nghiã là gây nhiều điều bất lợi đến cho bản Mệnh. Cho dù cát tinh miếu vượng thì mọi tính chất tốt đẹp của sao cũng làm cho Mệnh bị mệt mõi, tuy là cát nhưng lại không đem điều gì tốt lành đến Mệnh. Tuy nhiên vì là cát tinh nên điều tai hại mang đến cũng đở lo. Còn nếu là hung tinh thì thật là bất lợi cho Mệnh. Nếu là hung tinh đắc địa thì các tính chất tốt xấu lẫn lộn của nó cũng làm bản Mệnh bị nguy hại. Nếu là hung tinh hãm địa thì tính chất xấu của nó càng làm bản Mệnh càng thêm bị nguy hại. Hung tinh lạc hãm khắc hành bản Mệnh dễ mang lại tai họa cho Mệnh nhất. Do đó hành sao khắc hành Mệnh thì xấu nhất vì sao hoàn toàn chủ động gây bất lợi cho bản Mệnh, cho dù là cát tinh.
Hành Mệnh khắc hành sao: hành sao bị tổn hại suy yếu, bị chết (Tủ) nên cường độ ảnh hưỡng xấu tốt của sao bị giảm rất nhiều trong khi Bản Mệnh bị giam cầm bó tay không hoạt động được (Tù), nghiã là Mệnh không chỉ huy sao, không coi sao đó là thuộc về mình. Nếu là cát tinh sáng sủa thì cũng không mang đến điều lợi cho Mệnh là bao. Nếu là cát tinh hãm địa thì Mệnh cũng ít chịu ảnh hưỡng tính chất xấu của sao. Nếu là hung tinh đắc địa thì tính chất đắc của hung tinh bị suy giảm nhiều nên phát huy tác dụng rất yếu, thành ra Mệnh cũng hưỡng ít tính chất xấu tốt lẫn lộn của sao. Còn nếu là hung tinh lạc hãm thì tính chất xấu của hung tinh bị yếu đi nhiều do đó Mệnh rất ít bị ảnh hưỡng hơn. Do đó hành Mệnh khắc thắng hành sao (khắc xuất) thì ảnh hưỡng xấu tốt của sao lên Mệnh không còn là bao do hành sao bị suy yếu rất nhiều trong khi hành Mệnh bị giam cầm không hoạt động được.
 Vi dụ: 
Vũ Khúc là tài tinh, hành Kim.
Vũ Khúc sáng sủa. Mệnh Kim và Thuỷ thì tiền bạc tốt, mệnh Hỏa thì không hưởng là bao, Mệnh Mộc thì tuy có hưởng tiền bạc nhưng lại khiến cho Mệnh bị mệt mỏi vì tiền bạc, Mệnh Thổ thì tiền bạc chỉ đem tai hại đến bản Mệnh.
Không Kiếp hành Hỏa.
Không Kiếp đắc địa, chủ bạo phát bạo tàn. Mệnh Hỏa bạo phát bạo tàn. Mệnh Thổ phát ít đi nhưng cũng ít suy hơn vì bản Mệnh được hưng thịnh lên. Mệnh Mộc thì phát mạnh nhưng không ích gì cho Mệnh, bạo tàn. Mệnh Kim thì việc phát đem tai họa đến cho Mệnh. Mệnh Thuỷ thì phát ít hơn so với các Mệnh khắc nhưng tai hại đem đến cho Mệnh cũng không có là bao.
Không Kiếp hãm địa, chủ hung họa. Mệnh Hỏa ít bị nguy hại. Mệnh Thổ ít bị nguy hại nhất. Mệnh Mộc thì bị nguy hại. Mệnh Kim bị hung họa nhiều nhất. Mệnh Thuỷ thì ít bị nguy hại nhất.

NGUYÊN TẮC THỨ HAI: xét tương quan giữa hành Mệnh và hành cung để xét đoán Mệnh thịnh hay suy. Mệnh thịnh thì tốt, điều xấu có xãy ra cũng dễ thoát khỏi. Mệnh suy thì xấu, điều xấu xãy ra khó thoát khỏi tai ương họa hại.
Hành cung sinh hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh nên tốt nhất (Tướng).
Hành cung hòa hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh lên nên tốt (Vượng).
Hành cung khắc hành Mệnh: hành bản Mệnh bị suy tổn nên xấu nhất (Tử).
Mệnh khắc hành cung: hành bản Mệnh tuy khắc tháng nhưng bản Mệnh không được lợi ích gì cả, bị giam cầm không hoạt động được (Tù).
Mệnh sinh hành cung: hành bản Mệnh bị tiết khí hao tán nên xấu (Hưu).
Cần chú ý hành Mệnh ta nên đi sau phân biệt là Âm hay Dương. Ví dụ Dương Mộc là hành Mộc đang thịnh, nếu sinh xuất cho cung thì cũng đở xấu hơn Âm Mộc. Hơn nữa, hành cung cũng có Âm Dương. Nếu Mộc Mệnh sinh xuất cho cung Ngọ Dương Hỏa thì Mệnh bị tổn hại nhiều hơn là sinh xuất cho Âm Hỏa.

NGUYÊN TẮC THỨ BA: xét tương quan giữa hành của tam hợp cục của cung an Mệnh (THCM) với hành bản Mệnh. Phải lấy hành bản Mệnh làm gốc.

THCM sinh hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh (Tướng) nên tốt nhất.
THCM hòa hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh lên (Vượng) nên tốt.
THCM khắc hành Mệnh: hành bản Mệnh bị suy tổn nhiều, bị chết (Tủ) nên xấu nhất.
Mệnh khắc hành THCM: hành bản Mệnh tuy khắc thắng nhưng chẳng được lợi ích gì cả vì Mệnh bị bó tay, không hoạt động được (Tù).
Mệnh sinh hành THCM: hành bản Mệnh bị tiết khí hao tán (Hưu) nên xấu.
 Ví dụ: 
Mạng Thuỷ, Mệnh cư Tí có Phá Quân Thuỷ thì hay hơn Mệnh cư Ngọ vì tam hợp Thân Tí Thìn thuộc Thuỷ, còn tam hợp Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa.
Thất Sát Kim miếu tại Dần Thân, Mạng Kim tốt hơn mạng Mộc vì nguyên tắc thứ nhất quan trọng hơn nguyên tắc thứ ba. Mạng Kim thì hành sao đồng hành với Mệnh, nhưng THCM khắc bản Mệnh. Mạnh Mộc thì hành sao khắc Mệnh nhưng được THCM sinh bản Mệnh cũng đở phần nào.
Không Kiếp miếu địa tại Tỵ Hợị Tại Tỵ thì tốt hơn tại Hợi tuy cung miếu địa nhu nhau vì hành cung đồng hành với hành sao. Nếu Mệnh là Thổ hay Hỏa thì hưỡng mạnh nhất nghiã là phát rất nhanh và mạnh, lên nhanh xuống nhanh. Mệnh Kim thì sự phát trợ nên vô dụng vì Hỏa khắc Kim nên bản mệnh bị hao tổn. Hành Mộc thì cũng phát mạnh mẽ nhưng khó tránh sự thăng trầm tai họa vì Mệnh bị tiết khí. Hành Thuỷ thì hưỡng sự phát ít nhưng phá ít đi vì Thuỷ khắc Hỏa.
Thất Sát miếu địa tại Dần bị Tuần, Kim Mệnh, người Dương Nam. Do bị Tuần áp đảo mạnh mẽ đến 80% sau 30 tuổi, sao Kim lại kỵ Tuần nên các ý nghiã tốt của Thất Sát bị đão ý nghiã. Do Mạng Kim đồng hành với hành sao nên người mạng Kim sẻ hưỡng trọn vẹn tính chất xấu của Thất Sát bị Tuần. Nếu là Hỏa Mệnh thì Hỏa Khắc Kim, thì ý nghiã xấu của Thất Sát bị Tuần trợ nên ít đi.
 NGUYÊN TẮC THỨ TƯ: xét tương quan giữa hành cung với hành sao. Nguyên tắc này tương đối không quan trọng, chỉ mạng ý nghiã gia giảm chút đỉnh.
Các sao đắc hãm không phụ thuộc vào ngũ hành của cung mà phụ thuộc vào vị trí của nó trên thiên bàn và sự phối chiếu hay đồng cung với sao khác. Do đó cần xem xét sự tương quan sinh khắc giữa hành sao và hành cung để coi sức phát huy ảnh hưỡng của sao như thể nào. Hành của sao phải thịnh thì ảnh hưỡng tốt hay xấu mới phát huy trọn vẹn. Luôn luôn lấy hành cung làm gốc để luận đoán vì hành cung là dat hay địa thể mà sao lâm vào. Cho dù hành sao có như thế nào cũng không thể làm suy yếu hành cung hay nói khắc đi hành cung là nói hành khí nơi nó vượng nhất, như Dần Mão thuộc Mộc thì cung Dần và Mão là nơi Mộc vượng. Sao Mộc ở đó thì hành khí không bị thay đổi. Khi Mộc Vượng thì Hỏa Tướng, như vậy hành khí sao Hỏa được hưng thịnh. Mộc vượng thì Thuỷ Hưu, sao Thuỷ bị suy yếu ở sinh xuất cho cung. Mộc vượng thì Kim Tử, sao Kim trợ nên vô dụng vì thế Mộc quá thịnh nên Kim không thể khắc nổi, chứng tỏ hành Kim không được mạnh. Mộc vượng thì Thổ Tủ. Sao Thổ không thể hưng thịnh vì bị hành Mộc đang thịnh khắc mạnh. Như vậy:
Hành cung sinh hành sao: hành sao được hưng thịnh (Tướng).
Hành cung đồng hành với sao: hành sao không thay đổi (Vượng).
Hành sao sinh hành cung: hành sao bị hao tổn, tiết khí nên yếu đi (Hưu).
Hành sao khắc hành cung: hành sao tuy khắc thắng nhưng không có lợi gì vì bị giam cầm không hoạt động được (Tử).
Hành cung khắc hành sao: hành sao bị thiệt hại nhiều nhất (Tủ).
Cần chú ý là Dần Mão tuy thuộc Mộc nhưng có khác biệt. Dần là Dương Mộc, Mão là Âm Mộc. Dương chủ thịnh, Âm chủ suy. Dương Mộc là Mộc đang phát triển cực thịnh, còn Âm Mộc là Mộc đã bước vào giai đoạn suy yếu. Như vậy sao Thổ cư cung Dần bị khắc mạnh hơn sao Thổ cư Mão.
 Ví dụ: 
Phá Quân là hao tinh, hãm tại Dần Thân. Tại Dần thì Phá Quân Thuỷ sinh hành cung là Mộc, tại Thân thì Phá Quân Thuỷ được hành cung sinh. Như vậy tại Thân Phá Quân giữ nguyên vẹn ảnh hưỡng hãm địa của nó, còn tại Dần thì bản chất hao tán có bị yếu đi vì sao đó sinh xuất cho cung nên hành khí bị hao tổn.
Tử Phủ miếu tại Dần Thân. Tại Dần thì hành cung khắc hành sao đưa đến hành khí của sao bị hao tổn. Tại Thân thì hành sao sinh hành cung nên hành sao bị tiết khí. Như vậy tại Dần, tính chất miếu địa của Tử Phủ phát huy yếu đi, sao bị không chế khả năng hoạt động, còn tại Thân thì hành sao bị suy tổn làm suy yếu khả năng hoạt động.
Phá Quân miếu địa tại Tí Ngọ. Tại Tí thì hành cung đồng hành với hành sao, tính chất miếu địa của sao hoàn toàn không thay đổi do hành khí của sao vẫn nguyên vẹn. Tại Ngọ thì hành sao sinh hành cung, tính chất miếu địa không phát huy trọn vẹn ảnh hưỡng vì hành sao bị hao tổn.
Phá Quân đắc tại Thìn Tuất, hành cung khắc hành sao, tính chất của sao bị suy giảm do hành sao bị suy yếu.
Vũ Phá đồng cung tại Tỵ Hợi và hãm địa. Tại Tỵ thì Vũ Khúc bị hành cung khắc, Phá Quân thì khắc hành cung, do đó hành của Vũ bị suy đi, còn tại Hợi thì Vũ sinh xuất cho cung, Phá Quân đồng hành. Do Vũ Khúc Kim sinh cho Phá Quân Thuỷ nên hành khí của Phá Quân tại Hợi mạnh hơn Phá Quân tại Tỵ. Ví dụ người Kim mệnh thì hưỡng mạnh sao Kim là Vũ Khúc. Nếu Mệnh cư Hợi thì sẻ bị hao tán tiền bạc bởi vì Vũ khuc là tài tinh, Phá Quân là hao tinh. Kim sanh Thuỷ đưa đến bản chất hao tán của Phá Quân càng tăng thêm. Phá Quân có hành khí mạnh thì sẻ hao nhiều hơn.
Thất Sát miếu tại Dần Thân. Tại Dần và Thân thì hành khí của Thất Sát đều nguyên vẹn. Mệnh Thổ cư Dần thì bị hành cung khắc, đồng thời hành Mệnh lại sinh xuất hành sao, Mệnh bị tiết khí. Như vậy thì Mệnh Thổ tuy vẫn hưỡng tính chất của Thất Sát nhưng không có lợi cho bản Mệnh, và Thất Sát ở đây lại càng thịnh vượng. Tại Thân thì Mệnh Thổ lại càng hao tán do sinh xuất hành cung và hành sao. Do hành khí của Thất Sát được hưng thịnh lên nên tính chất của Thất Sát ở đây phát huy mạnh mẽ hơn nhưng không đem lại ích lợi cho bản Mệnh, làm bản Mệnh tổn hại dễ bị lâm nguy khi vào hạn xấụ Trường hợp Mạng Mộc thì do Kim khắc Mộc, nếu Mệnh cư cung Dần thì ảnh hưỡng của Thất Sát vẫn nguyên vẹn nhưng đưa đến bất lợi cho Mệnh.
Trong tử vi còn có một sự hòa hợp hay đối kháng giữa các sao về tính chất, khác hẳn với sự sinh khắc về ngũ hành. Ví dụ:
Văn tinh thì nên gặp Văn tinh, gặp Võ tinh thì không có lợi. Điều này cũng đúng vì con người nếu thuận một tính, hoặc thuần hậu ôn nhu, hoặc mạnh bạo cương quyết thìdễ thành công hơn người tính tình nữa nạc nữa mỡ. Bởi thể nên các bộ sao Văn tinh như Cơ Nguyệt Đồng Lương thì cần có các sao Văn tinh hổ trợ cho nó như Xương Khúc, Khoa. Bộ Sát Phá Liêm Tham thì cần các sao cứng cỏi mạnh bạo hổ trợ như Lục Sát Tinh đắc địa. Bộ Tử Phủ Vũ Tướng rất kỵ gặp Không Kiếp vì Không Kiếp là sao hung tinh đứng đầu phụ tinh, chủ nóng nãy làm liều, đi với Tử Phủ Vũ Tướng thì chỉ gây ra điều bất lành vì tính của Tử Phủ là thuần hậu ôn nhu. Điểm cần chú ý là sự đối kháng về tính chất thì quan trọng hơn sự sinh khắc về ngũ hành. Không Kiếp hành Hỏa đương nhiên sẻ tương sinh với Tử Phủ hành Thổ, nhưng khi đứng cùng với Tử Phủ lại làm xấu bộ Tử Phủ. Phá Quân sáng sủa nắm được Không Kiếp là do tính chất của nó là hung, đi với sao hung thì có lợi. Phá Quân hành Thuỷ khắc được hành Hỏa của Không Kiếp khiến Không Kiếp bị thu phục. Thất Sát võ tinh mà đi với Xương Khúc văn tinh, hay đi với Đào Hồng thì chẳng ra gì. Ngược lại Nhật Nguyệt gặp Đào Hồng Hỉ Xương Khúc thì lại thêm tốt. Hơn nữa Hóa Khoa là đệ nhất giải thần vì chế hóa được các sao hành Hỏa như Không Kiếp Hỏa Linh, Kình Đà(hành Kim đới Hỏa). Tính tình của con người cũng thay đổi theo đại hạn. Mệnh Sát Phá Liêm Tham mà đại hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì tính tình trở nên mềm yếu, hay thay đổi, thiếu cương quyết thì làm sao mà phát mạnh được. Nếu đại hạn gặp sao Lục Sát Tinh đắc địa thì vì gặp sao cùng phe nên phát mạnh bạo là điều đương nhiên.
        TÓM LẠI: Sách số nào cũng chỉ rằng: khi xem một cung thì phải xem phối hợp: cung chính, hai cung tam hợp, cung xung chiếu và cung nhị hợp, tất cả là 5 cung cùng một lúc để giải đoán.

Có quan điểm còn đánh giá thứ tự ưu tiên hoặc xếp đặt ra giá trị tỷ lệ cho cung chính là quan trọng nhất, thứ nhì là cung xung chiếu, thứ ba mới đến hai cung tam chiếu với cung chính và sau hết là cung nhị hợp. Sự đánh giá này nhằm phân định được các ảnh hưởng nào là trực tiếp và ảnh hưởng nào là gián tiếp để giúp cho việc giải đoán được cụ thể và đầy đủ hơn.
Riêng theo cụ Thiên Lương thì căn bản chính yếu của một cung chỉ có một cung chính và hai cung tam hợp. Cung nhị hợp (tương sinh) chỉ phụ thêm bổ túc cho cung chính. Còn cung xung chiếu (tương khắc) tuyệt đối chính là đối phương.

         

MỜI QUÝ VỊ TẠM NGHỈ, XEM “Màn tập bóng chày của hai cậu bé tuổi teen gây sốt trên trang chia sẻ video trực tuyến Youtube (xem clip)”.

Bước 5: XEM ĐẠI VẬN VÀ TIỂU VẬN:

 I/- ĐẠI VẬN :

Nói chung, khi giải đóan Đại Vận, nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự ) :

- Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của Đại hạn.

- Tương quan giữa ngũ hành của bản Mệnh (hoặc Cục) và ngũ hành của cung nhập Đại hạn,
- Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam Đẩu hoặc Bắc Đẩu tinh

- Phối hợp cung Phúc Đức với Đại hạn.

- Phối hợp cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra trong Đại hạn (nếu cần)

* Ghi chú :

– Nam đẩu tinh gồm có các sao : Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất sát, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ.

– Bắc đẩu tinh gồm có các sao : Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân.
– Riêng Sao Tử-Vi : vừa Nam đẩu tinh & Bắc đẩu tinh

Lẽ tất nhiên qúy bạn phải xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra, vì các sách đã có bàn tới, ngòai những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ cụ thể để qúy bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây :

1- Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao, hoặc nhóm Sao của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết Tử-vi thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH, THÂN.

Ví dụ : như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều trở ngại, mâu thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ? Còn như Mệnh, Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi, với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp.

Ngòai ra còn cần phải xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu đại hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh là Tham Lang.

2- Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục (nếu quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không phải tương hòa, nghĩa là cùng một hành ( có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi nhất), còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập tức là Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả, nhưng mình vẫn khắc phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.

Ví dụ : Mạng của mình là Thủy đi đến Đại hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước. Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ …. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc thì có khi lại khổ về tiền tài.

3- Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam Đẩu Tinh ứng về 05 năm sau của Đại hạn, còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế nào.

Tôi xin cử một Ví dụ : Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái. Đại hạn có Tham Lang, Thiên Riêu, Hồng Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương số sống trong giai đọan rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh ) thì các sao phụ đó lại phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu, mà nhiều sách đã nói tới nhiều rồi …)

4- Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn cần xét đến cung Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ biểu tượng đơn thuần về Âm Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả giòng họ nội của mình, vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị coi như là nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.

Ví dụ như một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái … hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …! , nhưng nếu cung Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn là cùng.

5- Điểm sau chót qúy bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải đóan trong Đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới xét tới, vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .

Ví dụ : Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong Đại hạn đương diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân, Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn, Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa, Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp trường hợp cung Tử-Tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu, thì gặp Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một không chừng !?..

______________________________________
II- TIỂU VẬN

Bàn về Tiểu-Vận (tức là vận hạn trong một năm) qúy bạn sẽ thấy khó khăn, phức tạp hơn Đại-Hạn nhiều, vì phải phối hợp với nhiều yếu tố hơn.

Trên mỗi Lá số, ngoài tên ĐỊA CHI của từng Cung số. còn ghi ĐỊA CHI 12 Cung Tiểu Vận (Tý, Sửu, Dần, Mão ….)

Nếu đặt vấn đề nguyên tắc thì Tiểu-Vận tạm căn cứ vào các điểm sau (mà một vài điểm theo quy tắc đã được các sách đã nêu ra) :

- Tương quan giữa Đại-Hạn và Tiểu-Hạn

- Tương quan giữa Ngũ hành bản Mệnh với các Chính tinh (nếu có) và cung nhập hạn.
- Tương quan giữa Lưu Đại-Hạn, Địa bàn và Thiên Bàn.

- Tương quan giữa Ngũ Hành của năm Nhập Hạn với cung và sao nhập hạn
- Các phi tinh (tức là các sao Lưu như : Lưu Thiên Mã, Lưu Lộc-Tồn, Lưu Kình-Dương, Lưu Đà-La, Lưu Tang-Môn … ) ngòai ý nghĩa xấu tốt của các chính tinh và phụ tinh mà các sách thường nêu ra.

- Khác (như Tứ hành xung, Can Chi của tuổi so với Can Chi của năm hiện hành …)

Dưới đây tôi xin triển khai các điểm ghi trên để qúy bạn đọc hiểu rõ ràng :

1- Khi xét đến tương quan giữa Đại Hạn và Tiểu Hạn là đương nhiên ta đã tìm hiểu kỹ Đại Hạn theo các nguyên tắc mà tôi đã nêu ra ở trên. Tôi có thể nói mối tương quan này tối quan trọng, cũng như mối tương quan giữa Đại & Tiểu Hạn nên không bao giờ ta giải đóan giống nhau, mặc dầu cứ 12 năm lại trở về lại cùng một cung tức là cùng các sao và ngũ hành. Riêng mục (1) này tôi chỉ xin nêu ra nhiều ví dụ vì mục này rất quan trọng.

Ví dụ : Đầu tiên là các sao bao giờ cũng phải có đủ bộ mới làm nên chuyện hoặc mới họat động. Chẳng hạn như Đại Hạn có Thái Tuế, Bạch Hổ, Quan Phù, Không-Kiếp, Khốc-Hư thường chủ về tranh chấp, kiện cáo, khẩu thiệt. Khi gặp Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Kình-Đà, Hình-Linh, Hóa Kị, Phục Binh …. Thì dễ bị tai họa tù tội. Nếu Đại Hạn không có những sao nêu trên thì Tiểu-Hạn dù có những sao đó vẫn chẳng bị tai họa gì, có thể bị đau yếu sơ qua, hoặc bị xa gia đình …

Đó là bàn về chuyện xấu, còn về việc làm ăn thịnh vượng thì nếu :

– Đại Hạn có Vũ-Khúc, Thiên Phủ hợp Mệnh mà Tiểu Hạn có Song Lộc thì đương nhiên làm ăn phát tài, dễ dàng.

– Hoặc như Đại hạn có Tử-vi cư Ngọ (nhất là có Quan Lộc hoặc Tài Bạch đóng ở đó) hợp Mệnh mà Tiểu hạn có Khôi-Việt, Thai-Tọa, Tả-Hữu, Long-Phượng, Đào-Hồng-Hỷ, Xương-Khúc … thì dễ có chức phận lớn, dễ chỉ huy hoặc kinh doanh có tầm quy mô …

Nếu thấy các sao nhập Đại Hạnr & Tiểu-Hạn hợp thành bộ rồi, cần phải xét xem các Chính tinh (không bao giờ xét đến phụ tinh) của Đại-Hạn có phù hợp hoặc đối kháng với các Chính tinh của Tiểu-Hạn hay không.

Nếu Đại-Hạn có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì Tiểu-Hạn cần có Cự-Nhật hoặc Tử Phủ Vũ Tướng chứ không nên có Sát Phá Liêm Tham … Về điểm này qúy bạn nên xem phần Tiểu luận trong sách Tử vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng đầy đủ và dễ hiểu lắm. Vì thế Tiểu-Hạn tốt cũng chưa chắc ăn mấy.r

Nếu chú ý về cá nhân mình, thì cần Đại-Hạn tốt đi vào một trong những cung liên hệ trực tiếp đến mình thời Tiểu-Hạn mới xứng ý (như cung Tài, Quan, Di, Điền, Phúc ).

* Như vậy, muốn đoán Tiểu hạn ta phải xem gốc Đại hạn, Lưu Đại hạn và cung của Tiểu hạn. Ba yếu tố này kết hợp với nhau mà đoán. Như Tiểu hạn mà thật tốt về công danh, nhưng xem các cung Mệnh, Quan Lộc thấy không báo hiệu công danh tốt. Đại hạn không phải là Đại hạn công danh, và Lưu Đại Hạn không báo hiệu công danh, thì công danh trong năm Tiểu hạn cũng khó mà có, hoặc chỉ có công danh nhỏ. Ngược lại, thấy Tiểu hạn xấu, nhưng lại thấy Đại hạn tốt đẹp, thì cũng không có gì đáng phải lo ngại, bởi vì Đại hạn là nền gốc. Xem Tiểu hạn, phải đủ cung chính và 3 cung chiếu, nhị hợp….

Ví dụ : Mình muốn làm ăn, kinh doanh lớn mà Đại-Hạn còn ở cung Phụ-Mẫu hoặc cung Tử-Tức thì dù cho Tiểu-Hạn có tốt cũng vẫn chưa thể phát huy được đúng mức, nhất định là phải chờ Đại-Hạn chuyển sang cung Tài-Bạch (nhưng nếu xui xẻo ! gặp cung Tài-Bạch lại xấu thì kể như vô vọng ?) 

 2- Thường thường đóan Tử-vi ai cũng thích các Chính tinh sinh bản mệnh. Điều này chưa hẳn đã hay hòan tòan. Vì nếu gặp chính tinh như Phá Quân hoặc Tham Lang nhập hạn và Mạng mình có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nên lựa Mạng khắc hai sao này hơn là được hai sao này sinh (Lẽ dĩ nhiên nếu hai sao này khắc Mạng là điều tối kị !) Vì bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương không ưa hai chính tinh này, nên tốt hơn hết là “ mời “ hai sao đó “ đi chơi chỗ khác “ tức là trường hợp mình có Mạng khắc hai sao này. Ngay cả trường hợp Mạng mình có bộ sao chế ngự được Tham-Phá (như bộ Tử-Phủ, Vũ-Tướng chẳng hạn) cũng không nên liên hệ đến hai sao này, vì dù sao chúng cũng chủ về tham vọng, ích kỷ, phá tán, bừa bãi, trừ phi đương số là lọai người thích đi vào con đường đó thì không kể. Còn chính tinh nhập hạn như Tử-Phủ, Đồng-Lương … bao giờ cũng cần sinh bản Mệnh, hoặc ít ra cùng một hành với Mạng, dù cho Đại-Hạn có bộ sao đối kháng với các sao ở Tiểu-Hạn.

Về tương quan giữa Ngũ Hành bản Mệnh với cung Nhập hạn thì bao giờ cũng sinh bản Mệnh là tốt đẹp, thuận lợi hoặc nếu được tương hòa vẫn hay, chỉ ngại nhất cung khắc bản Mệnh, còn như Mạng sinh Cung, hoặc khắc Cung cũng có khi dùng được, tuy không phải là hay.

Ví dụ : Như hạn đến cung Tử-Tức có các sao tốt. Nếu sinh được cung, tức là mình lo được cho con cái thành công, hoặc đầy đủ, chứng tỏ mình có phương tiện, tuy mình phải vất vả một chút vì con cái. Nhưng nếu cung Tử-Tức xấu đương nhiên là minh khổ vì con (hoặc vì chúng đau khắc cung cũng vậy, có khi hay mà cũng có khi dở. Nếu gặp Tiểu-Hạn đi tới cung Nô-Bộc thì lại hay vì mình khắc phục được người dưới quyền hoặc hòan cảnh, còn như Tiểu-Hạn đi tới cung Phụ-Mẫu chẳng hạn thì mình hay bất hòa với cha-mẹ (Nếu cung Phụ-Mẫu xấu qúa có thể mình phải xa cách cha-mẹ khi qua đời … ).Những điểm trên đây qúy bạn cũng có thể áp dụng luôn cho cả Đại hạn (mà phần Đại hạn tôi chưa đề cập tới). 

3/ Mệnh có CHÍNH TINH, Vận tốt tất PHÁT, Vận xấu tất HUNG.

MỜI ĐỌC THÊM VỀ ĐẠI, TIỂU HẠN:

I/- ĐẠI HẠN :

Nếu so sánh với Tiểu hạn thì Đại Hạn dễ giải đóan hơn nhiều. Vì Đại hạn bao trùm chu kỳ 10 năm, do đó tổng quát hơn và nhất là các Đại hạn không bao giờ giống nhau, vì mỗi Đại hạn ở một cung không trùng nhau như Tiểu hạn (vì Tiểu hạn cứ 12 năm lại trở về cung trước). Tuy nhiên khi so sánh với cách giải đóan tổng quát Mệnh, Thân thì Đại hạn vẫn khó tìm hiểu vô cùng.

Nói chung, khi giải đóan Đại hạn qúy bạn nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự ) :

- Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của Đại hạn.
- Tương quan giữa ngũ hành của bản Mệnh (hoặc Cục) và ngũ hành của cung nhập Đại hạn,
- Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam Đẩu hoặc Bắc Đẩu tinh
- Phối hợp cung Phúc Đức với Đại hạn.
- Phối hợp cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra trong Đại hạn (nếu cần)
- Khác ( Nếu có)

* Ghi chú :

– Nam đẩu tinh gồm có các sao : Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất sát, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ.
– Bắc đẩu tinh gồm có các sao : Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân.
– Riêng Sao Tử-Vi : vừa Nam đẩu tinh & Bắc đẩu tinh

Lẽ tất nhiên qúy bạn phải xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra, vì các sách đã có bàn tới, ngòai những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ cụ thể để qúy bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây :

1- Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao, hoặc nhóm Sao của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết Tử-vi thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH, THÂN.

Ví dụ : như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều trở ngại, mâu thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ? Còn như Mệnh, Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi, với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp.

Ngòai ra còn cần phải xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu đại hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh là Tham Lang.

2- Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục (nếu quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không phải tương hòa, nghĩa là cùng một hành ( có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi nhất), còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập tức là Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả, nhưng mình vẫn khắc phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.

Ví dụ : Mạng của mình là Thủy đi đến Đại hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước. Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ …. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc thì có khi lại khổ về tiền tài.

3- Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam Đẩu Tinh ứng về 05 năm sau của Đại hạn, còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế nào.

Tôi xin cử một Ví dụ : Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái. Đại hạn có Tham Lang, Thiên Riêu, Hồng Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương số sống trong giai đọan rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh ) thì các sao phụ đó lại phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu, mà nhiều sách đã nói tới nhiều rồi …)

4- Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn cần xét đến cung Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ biểu tượng đơn thuần về Âm Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả giòng họ nội của mình, vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị coi như là nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.

Ví dụ như một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái … hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …! , nhưng nếu cung Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn là cùng.

5- Điểm sau chót qúy bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải đóan trong Đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới xét tới, vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .

Ví dụ : Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong Đại hạn đương diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân, Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn, Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa, Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp trường hợp cung Tử-Tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu, thì gặp Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một không chừng !?..
6- Lưu Đại hạn hàng năm : Lưu Đại hạn là một cung cho biết cái của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc Đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng Đại hạn giống như cỗ xe, và Lưu Đại hạn giống như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, nhưng cũng còn tuỳ theo người tài xế hay, dở thế nào. Vậy phải nhập cả cung Lưu Đại hạn vào mà đoán. Xem Lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 cung xung chiếu, nhị hợp …
* Như vậy, muốn đoán Tiểu hạn ta phải xem gốc Đại hạn, Lưu Đại hạn và cung của Tiểu hạn. Ba yếu tố này kết hợp với nhau mà đoán.

Nói chung, khi giải đóan Đại hạn qúy bạn nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự ) :

-Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của Đại hạn.
-Tương quan giữa ngũ hành của bản Mệnh (hoặc Cục) và ngũ hành của cung nhập Đại hạn,
-Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam Đẩu hoặc Bắc Đẩu tinh
-Phối hợp cung Phúc Đức với Đại hạn.
-Phối hợp cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra trong Đại hạn (nếu cần)
-Khác ( Nếu có)

Lẽ tất nhiên qúy bạn phải xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra, vì các sách đã có bàn tới, ngòai những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ cụ thể để qúy bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây :1- Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao, hoặc nhóm Sao của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết Tử-vi thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH, THÂN.

Ví dụ : như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều trở ngại, mâu thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ? Còn như Mệnh, Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi, với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp.

Ngòai ra còn cần phải xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu đại hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh là Tham Lang.

2- Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục (nếu quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không phải tương hòa, nghĩa là cùng một hành ( có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi nhất), còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập tức là Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả, nhưng mình vẫn khắc phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.

Ví dụ : Mạng của mình là Thủy đi đến Đại hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước. Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ …. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc thì có khi lại khổ về tiền tài.

3- Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam Đẩu Tinh ứng về 05 năm sau của Đại hạn, còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế nào.Tôi xin cử một Ví dụ : Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa CáiĐại hạn có Tham Lang, Thiên Riêu, Hồng Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương số sống trong giai đọan rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh ) thì các sao phụ đó lại phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu, mà nhiều sách đã nói tới nhiều rồi …)

4- Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn cần xét đến cung Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ biểu tượng đơn thuần về Âm Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả giòng họ nội của mình, vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị coi như là nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.

Ví dụ như một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái … hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …! , nhưng nếu cung Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn là cùng.

5- Điểm sau chót qúy bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải đóan trong Đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới xét tới, vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .Ví dụ : Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong Đại hạn đương diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân, Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn, Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa, Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp trường hợp cung Tử-Tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu, thì gặp Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một không chừng !?..

6- Lưu Đại hạn hàng năm : Lưu Đại hạn là một cung cho biết cái của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc Đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng Đại hạn giống như cỗ xe, và Lưu Đại hạn giống như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, nhưng cũng còn tuỳ theo người tài xế hay, dở thế nào. Vậy phải nhập cả cung Lưu Đại hạn vào mà đoán. Xem Lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 cung xung chiếu, nhị hợp …

* Cách Lưu Đại hạn hàng năm:

Cung đã ghi đại hạn, gọi là cung gốc của đại hạn 10 năm. Muốn xem vận hạn tường tận hơn, phải lưu đại hạn hàng năm.

Muốn lưu đại hạn, phải xem số ghi ở cung gốc, rồi chuyển số ghi liên tiếp sang cung xung chiếu, đoạn:

· Dương nam, âm nữ lùi lại một cung, rồi trở lại cung xung chiếu, tiến lên theo chiều thuận, mỗi cung một năm.
· Dương nữ, âm nam, tiến lên một cung, rồi trở lại cung xung chiếu, lùi xuống chiều nghịch, mỗi cung là một năm.

Thí dụ: A – Dương nam, Mộc tam cục, muốn xem Lưu đại hạn năm 27 tuổi, phải tính cẩn thận trên bản đồ 12 cung như sau đây:

Bắt đầu từ cung gốc của đại hạn từ 23 tuổi đến 32 tuổi, chuyển sang cung xung chiếu 24, lùi lại một cung là 25, trở lại cung xung chiếu là 26, tiến lên một cung theo chiều thuận là 26. Vậy lưu đại hạn năm 27 tuổi ở cung Hợi.

Thí dụ: B – Âm nam, Kim tứ cục, muốn xem lưu đại hạn năm 38 tuổi, phải tính cẩn thận trên bản đồ 12 cung như sau đây:

Bắt đầu từ cung gốc của đại hạn từ 34 tuổi đến 43 tuổi, chuyển sang cung xung chiếu là 35, tiến lên một cung là 36, trở lại cung xung chiếu là 35, tiến lên một cung là 36, trở lại cung xung chiếu là 37, lùi xuống một cung theo chiều nghịch là 38. Vậy lưu đại hạn năm 38 tuổi ở cung Dần.
Có tam sao thất bản.Nhưng nếu tính theo cách của em thì trong trường hợp anh DTTD sẽ đúng, còn theo cách của chị sẽ sai.Chị xem lá số của anh ấy ở page 2 chuyên mục này.Anh ấy lấy vợ năm 24 tuổi, theo cách tính trên của chị thì lưu đại hạn rơi đúng vào cung Mệnh- chẳng có dấu hiệu hôn nhân gì cả.

***

Đến đây, bản blog đã trình bầy xong phần cơ bản của công việc lập và dự đoán một Lá số tử vi. Tiếp theo, xin gửi đến Quý Vị phần PHỤ LỤC. Phần này sẽ cung cấp những dữ liệu làm căn cứ cho việc dự đoán được thuận lợi và nhanh chóng. Không đi vào lý thuyết phức tạp, mà đi thẳng vào cốt lõi của việc dự đoán, nên phần phụ lục này được coi như một thứ cẩm nang rất hữu ích đối với người muốn tiếp cận khoa Tử vi đẩu số.  

PHỤ LỤC

Từ PHỤ LỤC I đến V là những bảng giới thiệu về các “CÁCH” Cát, Hung… phục vụ cho BƯỚC 3 của việc DỰ ĐOÁN lá số (PHẦN THỰC HÀNH). 

Cát cách: Cung Mệnh và Tam phương tứ chính có nhiều sao Miếu Vượng Cát tinh hình thành.

Hung cách: Cung Mệnh và Tam phương tứ chính bị kìm kẹp bởi Sát tinh hoặc bị Sát tinh quấy nhiễu.

Ác cách: Cung Mệnh và Tam phương tứ chính bị Hóa kị kìm kẹp hoặc Kị tinh Sát tinh.

Vô cách: Cung Mệnh và Tam phương tứ chính có sao tạp loạn không thành một Cách cục nào.

Đặc thù cách: Gặp Lộc thành Cát; gặp Kị thành Hung và bị sao Không, Kiếp xung phá. 

Các PHỤ LỤC còn lại phục vụ chung cho việc luận giải toàn bộ Lá số.

TRƯỚC TIÊN MỜI CLICK TRANG WEB SAU:

http://tuvilyso.org/forum/topic/162-cac-dang-cach-cuc-tong-hop/

Tổ hợp các CÁCH

I/ TỔ HỢP “CÁT CÁCH”

Theo lý luận trong Tử vi đẩu số, cung MỆNH nếu (các sao) tổ hợp thành CÁT CÁCH, chủ về giầu sang, tài văn chương, võ nghệ nếu là cách cục THƯỢNG THỪA thì kiêm cả giầu sang, tài năng. Nếu CÁT TINH càng nhiều thì người đó càng được nhiều thành tựu tốt đẹp.

CÁCH CỤC

LÁ SỐ

ƯU ĐIỂM

NHƯỢC ĐIỂM

1. TỬ PHỦ ĐỒNG CUNG

Mệnh an cung Dần, Thân. Tử vi + Thiên phủ đồng cung + Lộc tồn, Khoa, Quyền, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt gia hội.

Đời sống vật chất no đủ trọn đời phú quý phúc lộc

. Chậm kết hôn do 2 Đế tinh đồng tọa.. Nếu gặp Kình dương: Kinh doanh giỏi nhưng tâm địa xấu.

2. TỬ PHỦ TRIỀU VIÊN (chầu về cung Mệnh)

1/Mệnh tọa Dần, Thân:Vũ khúc, Thiên tướng tọa Mệnh+cung Tam hợp có Tử vi hoặc Thiên phủ + Tam phương tứ chính có Cát tinh gia hội.2/Mệnh tọa Dần, Thân: Liêm trinh tọa Mệnh+cung Tam hợp có Tử, Phủ.3/Mệnh tọa Tý, Ngọ: Liêm trinh Thiên tướng tọa Mệnh+cung Tam hợp có Tử, Phủ.4/ Mệnh tọa Sửu Mùi: Thiên tướng tọa Mệnh+cungTam hợp có Thiên phủ, cung đối diện có Tử vi.

Thanh cao, phúc thọ, hưởng lộc dồi dào “Tử Phủ triều viên thực lộc vạn chung“.

 3. THIÊN PHỦ TRIỀU VIÊN

 Mệnh tại Tuất, Thìn, Liêm đồng tọa: hội chiếu có Lộc tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt

  Phú quý song toàn. Là cách cục thượng hảo.

 Sinh năm Giáp, Kỷ tốt nhất, sau đến Đinh (cung Tuất là vị trí quẻ KIỀN, VUA – Thiên phủ làm THẦN).

 4. PHỦ TƯỚNG TRIỀU VIÊN

 1a/Mệnh tại Sửu không có chủ tinh, Tị có Thiên phủ + Dậu có Thiên tướng chầu về1b/ Mệnh tại Mùi không có chủ tinh hoặc an cung Hợi có Thiên phủ + cung Mão có Thiên tướng chầu về.1c/ Mệnh tại Mão không chủ tinh hoặc an cung Hợi có Thiên tướng hoặc nữa an cung Mão có Thiên phủ chầu về1d/ Mệnh an cung Mão không chủ tinh + cung Hợi có Thiên tướng + cung Mùi có Thiên phủ chầu về1e/ Mệnh an cung Dậu không chủ tinh + cung Tị có Thiên tướng + cung Sửu có Thiên phủ chầu về. Không bị Sát tinh xung phá. Phú quý song toàn, phúc lộc dồi dào, mọi người ngưỡng mộ, quan hệ ngoại giao tốt.Cẩn than đời sống tình cảm và hôn nhân (Do Phá quân hoặc Tham lang tọa cung Phu Thê)2/Mệnh tại Sửu(Mùi),Thiên phủ trấn Mệnh: Thiên tướng tại Tị(Hợi). Hoặc Mệnh tại Mão(Dậu),Thiên tướng tại Mùi(Sửu). Hoặc Mệnh tại Tị(Hợi). Thiên tướng tại Dậu(Mão).3/Mệnh tại Dần (Thân) có Liêm: Thiên phủ Thiên tướng tại Ngọ, Tuất (Tý, Thìn).

 Công danh lừng lẫy, đại phú quý.

 

 5. QUÂN THẦN KHÁNH HỘI

 Mệnh có Tử vi đồng cung với Tả phù Hữu bật. Hoặc: Mệnh có Tử + Tam phương tứ chính có Tả, Hữu chiếu. Hoặc: Mệnh có Tử+2cung lân cận kẹp sát cung Mệnh có Tả, Hữu.

 Nhiều quý nhân phù trợ, cả đời phú quý.

 

 6. CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG

 Mệnh tại Dần, Thân:có đủ 4sao Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương “hội kỳ” tại cung Mệnh, Tài bạch, Quan lộc+ Lộc tồn, Khoa, Quyền, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt gia hội.

 Khả năng làm việc và phù tá tốt, thích hợp với ngành nghề giáo dục, văn hóa, kinh doanh. Nếu gặp Sát tinh lại là Phá cách.

 Vì 4 sao trên trấn Mệnh tại cung Dần, Thân: Không có lợi cho tình cảm, tính cách trầm lặng hoặc dễ bị kích động.

 7. CƠ LƯƠNG gia hội

 Mệnh tại Thìn, Tuất; 2sao Thiên cơ và Thiên lương thủ Mệnh+Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Tả, Hữu, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt gia hội.

 Chủ về học hành. Quan tâm chính trị, giữ binh quyền, nếu gặp nhiều cát tinh: đại phú quý.

 Nếu gặp sát tinh: đa số là người sang lập tà giáo.

 8. VĂN LƯƠNG chấn kỷ

 Văn khúc (hoặc Văn xương), Thiên lương đồng cung tại Ngọ, Dần; hoặc Thiên lương tọa Mệnh tại Ngọ, Văn khúc (hay Văn xương) cùng chiếu tại cung Tý.Cung “tam phương” có Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi, Thiên việt gia hội.

 Quyền cao chưc trọng, phúc thọ song toàn

 

 9. CỰ NHẬT đồng cung

 Cự môn, Thái dương thủ Mệnh tại cung Dần, Thân – Dần mạnh hơn Thân.“tam phương, Tứ chính” có Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi, Thiên việt gia hội.

 Đại quý, chủ làm chính trị, coi danh lớn hơn lợi. Sinh năm Canh, Tân, Quý không có sát tinh là thượng cách.

 

10. KIM XÁN quang huy

Thái dương thủ Mệnh nhập cung Ngọ + Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi, Thiên việt gia hội.

Cả đời phúc to, đại phú quý. Tố nhất là người sinh năm canh, Tân, tiếp đến Giáp, Quý, Đinh, Kỷ.

11. NHẬT CHIẾU phù tang (mặt trời mới mọc – lôi môn)

Là người sinh ban ngày. Sao Thái dương, Thiên lương tọa cung Mệnh tại Mão+Lộc tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Khôi, Việt gia hội.

Người sinh năm Ất tốt nhất, tiếp đến Tân, Nhâm.

Nếu gặp sát tinh là phá cách.


12. MINH CHÂU xuất hải

Mệnh an cung Mùi không có chính diệu (sao chính), cung Mão có Thái dương, Thiên lương ; cung Hợi có Thái âm miếu vượng hợp chiếu với cung Mệnh+Tam phương tứ chính có Lộc tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Khôi, Việt, Văn xương Văn khúc gia hội..Người sinh năm Ất, Bính, Tân, Nhâm là thượng cách. Cung Mệnh có Sát tinh trấn Mệnh, không bị sát tinh xung phá: đại Quý.

13. DƯƠNG LƯƠNG XƯƠNG LỘC

Thái dương Thiên lương tọa Mệnh tại Mão + Sinh năm Ất. Cung Mệnh đồng thời có Lộc tồn, Văn xươngHọc thức xuất sắc, thi cử thuwnj lợi, nắm giữ cương vị then chốt của Nhà nước.

14. NGUYỆT LÃNG thiên môn

Người sinh ban đêm. Thái âm thủ mệnh tại cung Hợi + Sinh năm Ất, Bính, Mậu: Tốt nhất, tiếp đến người sinh năm Đinh, Tân, Canh+Lộc tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Khôi, Việt, Xương, Khúc.Không đại quý cũng đại phú. Nếu Thái âm có Xương,Khúc đồng cung càng đẹp.Cung Mệnh có Sát tinh hung phá là PHÁ CÁCH.

15. NHẬT NGUYỆT tịnh minh 1/ Thiên lương tọa Mệnh tại cung Sửu, Thái dương tọa Tị, Thái âm tọa Dậu (cả Nhật Nguyệt đều miếu vượng hợp chiếu cung Mệnh) + Sinh năm Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân.2/ Mệnh tại Ngọ không có chủ tinh, cung Dần có Cự môn, Thái dương; cung Tý có Thái âm, Thiên đồngNếu được thêm Tài tinh nhập cung Tài bạch thì rất cát tường. Có Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi, Thiên việt gia hội. Chủ Phú Quý, công danh vô cùng vinh hiển.

CÁCH CỤC

LÁ SỐ

ƯU ĐIỂM

NHƯỢC ĐIỂM

16. THỌ TINH nhập miếu. “Thiên lương tại Ngọ làm quan thanh hiển”

Thiên lương (Thổ, nắm giữ tuổi thọ) thủ Mệnh tại Ngọ. Sinh năm Đinh là thượng cách, tiếp đến năm Kỷ, Quý+Lộc tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Khôi, Việt.

Vô tư chính trực, tâm tính ổn định, học thức ưu tú, có tài lãnh đạo, sức khỏe tốt và thọ.

 

 17. NGUYỆT SINH thương hải

 1/ Thiên đồng Thái âm tọa Mệnh tại cung Tý2/ Thái âm Thiên đồng thủ cung Điền trạch tại cung Tý.

Dung mạo thanh tú, học vấn uyên thâm, chủ được tài phúc và danh tiếng.

Cung Mệnh và cung “tam phương, Tứ chính” phải có Cát tinh có Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi, Thiên việt gia hội.

 18. ANH TINH nhập miếu

 Phá quân thủ Mệnh tại Tý, Ngọ, Thiên việt + có Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi Thiên việt gia hội. Sinh năm Giáp, Quý tốt nhất; tiếp đến Đinh, Kỷ.

Rời xa quê gặp vận tốt. Phát về Võ hoặc Kinh doanh. Nóng tính, quả quyết, sáng tạo.

Không có Sát tinh hung phá.

 19. THẠCH TRUNG ẩn ngọc

 Cự môn nhập Mệnh cung Tý, Ngọ + có Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi Thiên việt gia hội. Sinh năm Tân Quý, thứ đến Ký, Canh.

Lý tưởng cao, tài hoa xuất chúng, kinh doanh sẽ đại phú. Làm chính trị chức vụ cao. Nhưng phải trải nhiều phong ba.

 

20. THẤT SÁT triều đẩu (chầu về Bắc đâu)VD: Văn Thiên Trường (giờ tý, 02/5/Bính thân – 1236)

Thất sát thủ Mệnh tại Tý, Ngọ, Dần, Thân + có Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi Thiên việt gia hội.

Chủ võ chức hoặc kinh doanh. Cách này mang sát khí, tự mình phát phúc nhưng nhiều người gặp tai ương.

Có Cát tinh gia hội lại gặp Hung tinh là phá cách. Không gặp Cát tinh mà gặp Hung tinh đồng cung gia hội: chủ hung ác.

21. MÃ ĐẦU đới tiễn(Cung Ngọ là mã, Kình là tiễn)

1/ Thiên đồng, Thái âm tọa Mệnh tại Ngọ, sinh năm Bính, Mậu có Kình dương tại Mệnh lại hội chiếu với Cát tinh.2/ Tham lang tọa Ngọ, sinh năm Bính, Mậu có Kình dương đóng cung Mệnh + Cát tinh hội chiếu.Có thêm Hỏa, Linh, Phụ, Bật cùng cung hoặc gia hội càng tốt.

Chủ về nghiệp võ, Kinh doanh. Nhưng phải đi xa, bôn ba nước ngoài mới được. Hợp Mệnh Nam giới. 

 

22. C CƠ đng lâm (đng cung) 

Chỉ có 2 sao Cự môn, Thiên cơ trấn Mệnh tại cung Mão, (Dậu?) +  Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi Thiên việt đồng cung hoặc gia hội.

Học vấn uyên thâm đại phú quý, nổi tiếng khắp nơi. 

 

23. THIÊN T cng mnh 

1/ Thiên khôi Thiên việt một sao trấn cung Mệnh, một trấn cung Thân.2/ Như trên, nhưng một trấn Mệnh, một trấn Thiên di.Tam phương tứ chính cn có Cát tinh.

Có học thức, đoan chính, hay giúp người và được người giúp. Gặp dữ hóa lành, biến họa thành phúc.

 

24. TAM KỲ gia hi 

Tam kỳ là “tam hóa” (H Lộc, H Quyền, H Khoa) hội tụ tại « tam phươngtứchính »(Mệnh-Tài-Quan-Thiên di)Chỉ có người sinh năm Giáp, Đinh và có thể Bính, Tân.

 

Tuổi trẻ khó khănNếu gặp sao Không, Kiếp Sát, Phá hội chiếu, tuy thành công nhưng trải nhiều khó khăn. 

25. QUYN LC tun phùng 

1/Hóa quyền, Hóa lộc cùng trấn tại Mệnh.2/Hóa quyền, Hóa lộc tại cung tam phương tứ chính của Mệnh.Có ở người sinh năm Ất, Đinh, Kỷ,Tân. Tam phương tứ chính nhiều Cát tinh mới tốt.

 

Gặp Sát tinh: Chỉ hư danh! 

26. KHOA QUYN LC giáp 

Ba sao Khoa, Quyền, Lộc có 2 sao trấn cung Mệnh.Tam phương tứ chính nhiều Cát tinh + Sinh năm Giáp, Ất,Bính, Đinh, Kỷ, Canh và Quý.

Đại phú quý.

 

27. SONG LC giáp Mnh 

2 Cung lân cận cung Mệnh có Lộc tồn và Hóa lộc + Sinh năm Giáp, Ất, Mậu, Tân, Quý và Bính.

Phú quý 

 

28. T HU đng cung 

Mệnh nhập Sửu, Mùi: Có Tả phù, Hữu bật đồng cung + Cát tinh khác đồng cung hoặc gia hội.Tam phương tứ chính phải có nhiều Cát tinh, ít Sát tinh.

Đoan chính, giúp người, có khả năng thiết kế. 

 

29. VĂN QU VĂN HOA 

1/Mệnh tại Sửu, Mùi: Văn xương Văn khúc đồng cung.2/ Mệnh tại Sửu, Xương, Khúc tại Mùi hoặc Mệnh tại Mùi Xương Khúc tại Sửu.Hội cùng các Cát tinh khác.

Nho nhã, thong minh hiếu học nhiều tài. 

 

30. THAM VŨ đng hành 

1/ Mệnh tại Sửu, Mùi: Vũ khúc, Tham lang trấn thủ.2/ Tham lang Vũ khúc tại Thìn, Tuất: Một thủ cung Thân, một trấn cung Mệnh.Tam phương tứ chính cần Cát tinh.

Chức vụ cao về Văn, nắm quyền về Võ. Kinh doanh thành công.Đa số tuổi trẻ không thuận lợi. 

 

         

CÁCH CỤC

LÁ SỐ

ƯU ĐIỂM

NHƯỢC ĐIỂM

31. TAM THAI HA LINH (THAM HA TƯƠNG PHÙNG) 

Tham lang trấn Mệnh, gặp Hỏa tinh tại Mệnh (tốt nhất) hoặc tam phương tứ chính hội chiếu.CỰC TỐT nếu Tham lang trấn tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi, Thiên việt gia hội.

Phát về đằng võ, kinh doanh.

 

32. THAM LINH TRIU VIÊN (tương phùng) 

Tham lang trấn Mệnh, Linh tinh cũng ở đấy (tốt nhất) hoặc Linh ở cung tam phương tứ chính hội chiếu.CỰC TỐT nếu Tham lang trấn tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi, Thiên việt gia hội.

Phát về nghiệp võ, kinh doanh 

 

33. QUÝ TINH GIÁP MNH 

1/ Mệnh tại Dần, Thân: Có Tử vi, Thiên phủ bên cạnh + Tam phương tứ chính có Cát tinh.2/ Mệnh tại Sửu, Mùi: Có Thái dương , Thái âm bên cạnh.3/ Mệnh tại Sửu, Mùi: Có Tả phù, Hữu bật bên cạnh.

4/ Mệnh tại Sửu, Mùi: Có Văn xương, Vũ khúc kèm hai bên.Lộc tồn, Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Tả, Hữu, Thiên khôi, Thiên việt gia hội.Giầu sang, làm chính trị tốt.

 Mệnh Nam: Hiển quý, không giầu. Mệnh Nữ: đa tình.Tính tình cứng nhắc, lập nghiệp xa quê.34. LIÊM TRINH VĂN VŨ Liêm tại Dần, Thân nhập Miếu + Văn xương, Vũ khúc hội chiếu Văn võ song toàn, hiển đạt.  35. QUYN LINH (HÙNG TÚ) TRIU VIÊN Liêm trấn Mệnh tại cung Mùi, Thân + không gặp sát tinh.Trẻ đã phát tài, nổi tiếng.Dù có Thất sát cũng không lo. Gặp Sát tinh: Mệnh bình thường. 

36. QUYN SÁT HÓA LC

 

Kình, Đà, Hỏa, Linh trấn Mệnh nhập Miếu + Tam phương tứ chính của Mênh có Thất sát, Hóa lộc, Hóa quyền. Tính cương nghị, trải nhiều phong ba, nên theo nghiệp võ hoặc nghề mạo hiểm.Thêm Sát tinh: Mệnh Bình thường 37. LC HP UYÊN ƯƠNG Lộc tồn và Hóa lộc cùng trấn cung Mệnh. Tài vận hanh thông, đại phúc.Gặp Thiên đồng: Lười biếng. Gặp Thiên lương: Khoác lác.38. SONG LC TRIU VIÊN 1/Cung Tam phương Tứ chính của cung Mệnh có Lộc tồn và Hóa lộc gia hội.2/Lộc tồn, Hóa lộc thủ hoặc Hợp chiếu Cung Phu Thê: Chông giầu vì vợ, vợ giầu vì chồng.Tài đức hơn người, phú quý.Kỵ gặp Không vong 39. LC MÃ bn Lộc tồn hoặc Hóa lộc và Thiên mã, Thiên tướng đồng cung miếu vượng, trấn Mệnh, Tài, Thiên di và Điền. Không có Sát tinh Hung phá. Càng thay đổi môi trường làm việc càng thành công. Phú quý Thích chuyên quyền.  40. LC MÃ giao trì Cung Tam phương Tứ chính của cung Mệnh có Lộc tồn (hoặc Hóa lộc), có Thiên mã gia hội.Hay xuất ngoại, du lịch.Gặp nhiều Cát tinh ắt đại phúc.  41. LC VĂN cng Mnh Lộc  tồn và Văn khúc đồng cung Mệnh + Tam phương tứ chính có Văn xương cùng chiếu.Nhờ tài văn mà giầu có Thêm Sát tinh: Mệnh bình thường. 42. KHOA DANH hi LC Mệnh có Hóa khoa + Tam phương tứ chính có Lộc tồn, Hóa lộc hội chiếu.Tài hoa xuất chúng, nổi danh, làm chức to. Kị gặp Hung, Sát tinh. 43. NH DIU ĐNG LÂM Mệnh tại Sửu + Dương, Âm tại Mùi hoặc Mệnh tại Mùi + Âm, Dương tại Sửu + Tam phương tứ chính có Lộc tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc. Văn võ song toàn  44. ĐAN TRÌ (Thái dương) QU TRÌ (Thái âm) Mệnh ở cung Thìn, Tị có Dương (vượng) hoặc Mệnh ở cung Dậu, Tuất có Âm(vượng) Tuổi nhỏ chí lớn. Kế nghiệp kinh doanh phát đạt.Nhanh thành đạt.  45. CC HƯỚNG LY MINH Mệnh tại Ngọ, Tử vi ở cùng + Tam phương tứ chính không có Sát tinh Quyền uy lẫm liệt.Làm đến công khanh.  46. HÓA TINH PHN QUÝ Người sinh năm Đinh: Thiên đồng trấn Mệnh tại Tuất hoặc người sinh năm Tân: Cự môn trấn Mệnh tại Thìn Phú quýNếu gặp Hỏa-Linh-Không-Kiếp: Phá cách. 47. TƯỚNG TINH ĐC ĐA Mệnh có Vũ khúc miếu vượng + Lộc tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt gia hội Địa vị caoKhông nên thành đạt sớm.  48. NHT NGUYT chiếu bích 1. Mệnh tại Thìn (Tuất) có Phá quân + Dương, Âm tại Mùi (Sửu) trấn Điền.2. Mệnh tại Mùi có Âm, Dương tại Thìn, Tuất chiếu Điền. Nhiều bất động sản, mệnh Phú hào.Cung Thìn tránh nhập Hỏa, Linh – Cung Tuất tránh nhập Văn xương, Văn khúc. Lộc tồn giáp Mệnh ắt có Dương, Đà nhập Mệnh: Chủ gặp tiểu nhân và hình thương.49. TÀI LC giáp Mã Mệnh tại Tị, Hợi có Mã đồng cung + Cung bên cạnh có Vũ khúc, Lộc tồn (hoặc Hóa lộc) giáp Mệnh. Nguồn của cải đa dạng, càng động càng sinh tài. Nếu Dương, Đà cùng trấn Mệnh: Đa số có bệnh về mắt.50. MINH LC ám lc (gm thêu hoa) Mệnh có Hóa lộc (hoặc Lộc tồn), ngầm hợp với Lộc tồn (Hoặc Hóa lộc):1. Sinh năm Giáp, Mệnh an Dần hoặc Hợi: Liêm, Tham tại Hợi – Liêm hóa Lộc.2. Sinh năm Ất, Mệnh tại Tuất hoặc Mão: Cơ, Lương tại Tuất – Cơ hóa Lộc.

3. Sinh năm Bính, Mệnh Thân hoặc Tị: Đồng, Lương tại Thân – Đồng hóa Lộc.

4. Sinh năm Đinh, Mệnh Mùi hoặc Ngọ: Âm, Dương tại Mùi – Âm hóa Lộc.

5. Sinh năm Tuất, Mệnh Mùi, Ngọ: Tham tại Thân – Tham hóa Lộc.

6. Sinh năm Tị, Mệnh Thân, Tị: Vũ, Tham tại Mùi – Vũ khúc hóa Lộc.

7. Sinh năm Canh, Mệnh Thân, Tị: Dương tại Tị – Dương hóa Lộc.

8. Sinh năm Tân, Mệnh Dậu, Thìn: Cự tại Thìn – Cự hóa Lộc.

9. Sinh năm Nhâm, Mệnh Dần, Hợi: Đồng, Lương tại Dần – Lương hóa Lộc.

10. Sinh năm Quý, Mệnh Tý, Sửu: Tử vi Phá quân tại Sửu – Phá quân hóa Lộc

 Tài, Lộc song toàn. Không nên có Không vong. 51. KHOA MINH LC ÁM (minh châu ám lc) Mệnh có Hóa lộc (hoặc Lộc tồn):

Sinh năm Giáp: Vũ khúc Hóa khoa trấn Mệnh tại Hợi – Cung Dần có Lộc tồn ám hợp (LTAH).

Sinh năm Ất: Tử vi Hóa khoa trấn Mệnh tại Tuất – Cung Mão có LTAH.

Sinh Bính: Văn xương Hóa khoa trấn Mệnh tại Thân – Cung Tị có LTAH.

Sinh Đinh: Cơ, Hóa khoa trấn Mệnh tại Mùi – Cung Ngọ có LTAH.

Sinh Mậu: Hữu, Hóa khoa trấn Mệnh tại Thân – Cung Tị có LTAH.

Sinh Kỷ: Lương, Hóa khoa trấn Mệnh tại Mùi – Cung Ngọ có LTAH.

Sinh Canh: Đồng, Hóa khoa trấn Mệnh tại Tị – Cung Mệnh có LTAH.

Sinh Tân: Văn xương, Hóa khoa thủ Mệnh tại Thìn – Cung Dậu có LTAH.

 Sinh Nhâm: Tả, Hóa khoa trấn Mệnh tại – Cung Hợi có LTAH.

Sinh năm Quý: Dương, Hóa khoa trấn Mệnh tại Sửu – Cung Tý có LTAH.

 Khoa Lộc song toàn.Không nên có Không vong. 

II/ TẠP CÁCH 

          1/ PHONG VÂN TẾ HỘI: Nếu Mệnh, Thân suy nhược nhưng Đại, Tiểu Vận có nhiều Cát tinh đủ thay thế, Lộc Mã giao trì, Cúng Tam phương có Cát tinh hội chiếu: Vẫn tốt – nhưng Vận qua lại trở về nghèo khó.

          2/ CẨM THƯỢNG THIÊM HOA: Như Vận Tý không tốt, gặp Vận Sửu tốt, đúng lúc thoát Vận Tý gặp Lộc, Quyền ắt thành công.

3/ LỘC SUY MÃ KHỐN: Lộc suy thì nằm cung Không vong, Kiếp, Hao. Gặp Sát tinh và Thái tuế: Dễ tiêu tan tài sản.

4/ ÁO GẤM VINH QUY: Vũ khúc, Tham, Đồng trấn tại Mộ: Sau tuổi 30 mới phát đạt.

5/ VẬN HẠN LIÊN TỤC: Vận xấu liên tiếp.

6/ VẬN XẤU TỐT XEN KẼ: 1 Vận tốt, 1 Vận xấu.

7/ CÂY KHÔ GẶP XUÂN: Mệnh suy nhưng Vận gặp Cát địa: Đẹp như cây khô gặp Xuân.

8/ SÁU TRƯỜNG HỢP PHÁ CÁCH:

a.     Mệnh có nhiều Cát tinhnhwng gặp Không, Kiếp và 1 số Sát tinh khác: Không viên mãn.

b.    Mệnh có Quý tinh nhưng Cung Lộc gặp Không.

c.      Mệnh có Văn tinh nhưng Đối có Kình, Đà, Không, Kiếp trực xung: Xấu.

d.    Mệnh không có Cát tinh, Tật ách có Âm, Dương kèm Sát tinh: Ắt có bệnh, thương tật.

e.      Mệnh tại Tị, Hợi, Thiên cơ: Nếu có Cát tinh hợp cách cũng chủ về Quý, nhưng gian tính! Nếu không hợp Cách là hạng tiểu nhâ vô liêm xỉ.

f.      Mệnh tại Tuất: Văn khúc trấn Mệnh + Cung Dần có Thái dương, Cự môn hội chiếu: Tình duyên trắc trở, vợ chồng bất hòa.

III/ TỔ HỢP HUNG CÁCH

          1/ Dương Đà giáp Sát (Đà, Hỏa,Linh, Thiên không, Địa kiếp): Cung vị của Sát tinh bị hai sao Kình, Đà ở 2 Cung lân cận áp chế. Như Dương Đà của Lưu niên kìm kẹp Dương nhận của Năm sinh hoặc Dương Dà của Năm sinh kìm kẹp Dương nhận của Lưu niên.

2/ Hỏa Linh giáp Sát (Thiên không, Địa kiếp, Dương nhận, Đà la): Cung vị của Sát tinh bị hai sao Hỏa, Linh ở 2 Cung lân cận áp chế.

3/ Không Kiếp giáp sát (TDương nhận, Đà la, Hỏ hay Linh): Cung vị của Sát tinh bị hai sao Không, Kiếp ở 2 Cung lân cận áp chế.

4/ Song Kị giáp sát (Thiên không, Địa kiếp, Linh tinh, Dương nhận hay Đà là):

          5/ Tam phương giai Sát: Cung Mệnh có Kình hay Đà + Tài, Quan, Di lần lượt có Không, Kiếp, Hỏa: Rất nguy hiểm (Các Cung khác không phải cung Mệnh cũng vậy; nghĩa là nếu Tam phương của Cung đó cũng đều trấn Sát tinh thì cung đó rất nguy).

6/ Thất sát Dương, Đà diệt tịnh (Thất sát, Dương, Đà trùng điệp): 3 Sao ấy đồng cung Mệnh hay Tài; hoặc Hội chiếu; Lưu niên lại gặp Dương, Đà (ở cung Di, Quan) quấy nhiễu: Sẽ có điều không lành.

IV/ TỔ HỢP ÁC CÁCH (Hung cách khi qua Kị tinh tác động chuyển hóa thành Ác tinh)

1/ Dương Đà giáp Kị: Tam đại Kị tinh nhập vị trí của Cung bị Kình, Đà giáp chế.

2/ Hỏa Linh giáp kị: Như trên.

3/ Không Kiếp giáp kị: Như trên.

4/ Song kị giáp kị: Khi tam đại Kị tinh kìm kẹp lẫn nhau.

5/ Tam phương Kị sát: Tam phương đều có Kị Sát.

6/ Hóa kị giáp sát: Khi Kị tinh giáp một trong các tổ hợp Hỏa – Dương, Hỏa – Đà, Dương – Linh, Linh – Đà.

V/ CÁCH CỤC ĐẶC THÙ

CÁC CÁCH CỤC GẶP LỘC THÌ CÁT TƯỜNG; GẶP SÁT THÌ HUNG HẠI

Linh, Xương, Dương (hay Đà), Vũ hội

Đà ở Lưu niên cũng vậy

Cơ, Lương, Dương (hay Đà) hội

Lộ thượng mai thi (vùi xác trên đường)

Liêm, Thất sát, Dương nhận (hay Đà)

Mã đầu đới tiến (Đầu ngựa mang tên)

Mệnh cư Ngọ có Kình + 2 cung lân cận có song Lộc giáp chế

Cự Hỏa Dương

Cự Linh Dương

Sát cách

Do 4 tổ hợp: Hỏa-Dương; Hỏa Đà; Linh-Dương; Linh-Đà hình thành

Giáp sát thành

Tổ hợp của 4 tổ Sát tinh

Không Kiếp xung phá Sát tinh

Hỏa-Dương; Hỏa-Đà; Linh-Dương; Linh-Đà gặp Không, Kiếp xung phá: Lấy song Lộc phò trợ là tốt nhất. Gặp Kị thì luôn ở trạng thái bất an.

VI/ BẢNG THIÊN CAN

BẢNG THIÊN CAN

Can

Giáp

Ất

Bính

Đinh

Mậu

Kỷ

Canh

Tân

Nhâm

Quý

ÂM Dương

Dương

Âm

Dương

Âm

Dương

Âm

Dương

Âm

Dương

Âm

Quái vị

Kiền

Khôn

Cấn

Đoài

Khảm

Ly

Chấn

Tốn

Kiền

Khôn

Phương vị

Đông

Nam

Trung ương

Tây

Bắc

Tứ quý

Xuân

Hạ

Tứ quý

Thu

Đông

Ngũ hành

MỘC

HỎA

THỔ

KIM

THỦY

 VII/ BẢNG ĐỊA CHI

BẢNG ĐỊA CHI

Sửu

Dần

Mão

Thìn

Tị

Ngọ

Mùi

Thân

Dậu

Tuất

Hợi

+;-

+

-

+

-

+

-

+

-

+

-

+

-

hành

Thủy

Thổ

Mộc

Mộc

Thổ

Hỏa

Hỏa

Thổ

kim

kim

Thổ

Thủy

Tứ quý

Đông

Lập xuân

Xuân

Xuân

Lập hạ

Hạ

Hạ

Lập thu

Thu

Thu

Lập đông

Đông

Phương

Bắc

BĐB

ĐB

Đông

ĐĐB

ĐN

NAM

NTN

TN

TÂY

TTB

TB

Quái

Khảm

Cấn

Cấn

Chấn

Tốn

Tốn

Ly

Khôn

Khôn

Đoài

Kiền

Kiền

 *****

VIII. bảng CÁT HUNG TỨ THỜI

 

MÙA XUÂN

MÙA HẠ

MÙA THU

MÙA ĐÔNG

KIM

*Kim mùa Xuân còn bị lạnh, Gặp Hỏa thì Đại Cát.*Nếu có Thổ lại thêm Hỏa sưởi ấm Thổ: Cát. Nếu Thổ nhiều: Hung.*Gặp Thủy, làm Kim lạnh thêm: Đại Hung.*Mộc là Tài tinh của Kim; Xuân Mộc vượng thế, Kim không khắc được Mộc: Hung.

*Kim mùa Hạ nhu nhược nhất(rơi vào Tử thế), nếu gặp Tử, Tuyệt: Đại Hung.*Kim suy gặp Hỏa nhiều tất Hung.*Kim gặp Mộc tất khắc Thổ; lấy Hỏa để khắc Kim: Cát.*Kim gặp Kim thêm mạnh, lại chế Hỏa nhuận Thổ.*Thổ mỏng có thể ngăn cách Hỏa nung Kim: Đại Cát. Thổ dầy: Hung.

*Mùa Thu Kim cực thịnh, nếu được tôi luyện trong Hỏa tất thành vũ khí, công cụ: Đại Cát.*Thổ nhiều, Kim bị chìm: Đại Hung.*Thủy khiến Kim hao tổn: Cát.*Mộc là Tài tinh của Kim, nếu có Thủy nuôi dưỡng Mộc: Cát.*Thêm Kim sẽ mạnh. Nhiều Kim quá: dễ gãy, nếu không có Hỏa hoặc Thủy: Hung.

*Kim bị hao (hưu) do lạnh nếu Mộc nhiều: Hung.*Thủy vượng tất Kim suy: Đại Hung.*Thổ chế Thủy: Cát. Thêm Hỏa càng tốt.*Thêm Kim: Cát.

MỘC

*Mộc muốn tươi tốt phải có nước.*Trời còn lạnh, Hỏa sẽ khiến Mộc ấm áp. *Người sinh cuối Xuân vì gốc rễ khô nên cần nhiều nước.Thổ quá nhiều sẽ tổn hại Mộc. Thổ ít thì Tài nhiều.*Mộc nhiều, có Kim sẽ thành vật dụng hữu ích.*Mệnh cục nhiều Kim, nếu lại gặp Kim: Vận sẽ khắc Mộc, cuộc sống vất vả. Nếu có Thủy chế thì đỡ. Nếu sinh giữa Xuân: Khí quá vượng, gặp Kim lại thêm Thổ, quá tốt.

*Thủy thịnh sinh Mộc: Đại Cát. Hỏa vượng: Đại Hung.*Mùa Hạ Mộc bị hao tổn Khí, Thổ mỏng thì Cát, Thổ dầy, Hung.* Tối kị Kim nhiều, Hung.*Mộc nhiều quá thành rừng, cuối cùng không kết quả.*Lấy Hỏa làm chủ: Tối Hung.

*Mộc bắt đầu tàn úa, người sinh đầu Thu do Hỏa khí vượng, nên có Thủy và Mộc đều Vượng thì Đại Cát.*Sinh giữa Thu quả đã chin, nên có Kim là Tốt.*Sinh cuối Thu, Hỏa vượng là Tốt (khiến Mộc xung mãn).*Sinh sau Sương giáng, Thủy thịnh Mộc xấu. Cần Thổ và Hỏa.*Mộc nhiều là Tốt. Cần Thổ dầy.

*Tinh khí của Mộc tụ ở gốc, Cần Thổ nhiều để bốc lên.*Tránh Thủy nhiều (lạnh) nhưng nếu có Thổ bổ trợ thì Tốt.*Kim giúp xúc tiến việc Mộc phát triển vào mùa sau, nên Cát (kể cả nhiều Kim).*Hỏa nhiều thì đại Cát.*Mộc nhiều giúp chồng gió lanh: Đại Cát.*Gặp đất Tử, Tuyệt là Đại Hung. Gặp Trường sinh Đế vượng: Đại Cát.

THỔ

*Mùa Xuân Thổ rơi vào Tử thế, gặp Hỏa:Cát.*Gặp Mộc: Hung.*Thủy là Tài tinh của Thổ, Thủy nhiều: Đại Hung.*Thổ hài hòa: Cát.*Kim chế Mộc: Cát. Nhưng Kim quá nhiều, Thổ bị thương tổn: Hung.

*Hạ: Thổ Tướng thế, Thổ tính khô khan được Thủy: Đại Cát.*mùa Hạ Hỏa vượng khiến Thổ cháy khô: Hung. Cần Thủy.*Mộc sinh Hỏa: Hung.*Gặp Kim: Cát.*Thêm Thổ: Hung. Cần Mộc giúp.

*Mùa Thu Thổ vượng, Hưu thế; nếu Kim nhiều: Hung.*Mùa Thu Mộc rơi vào Tử thế, lấy Kim chế Mộc khiến Mộc càng không có sức chế Thổ: Hung.*Thêm nhiều Hỏa để trợ giúp Thổ lại chế được sự vượng cuarKim: Đại Cát.*Quá nhiều Thủy khiến Thổ lưu tán: Đại Hung.

*Thổ vào mùa Đông tuy ngoài lạnh nhưng trong ấm.*Thủy là Tài tinh của Thổ, gặp Thủy:Cát.*Kim nhiều: Cát.*Hỏa nhiều, giữ cho Thổ ôn thuận: Danh hiển.*Mộc nhiều: Cát.*Mùa Đông Thổ rất cần Hỏa.

THỦY

*Mùa Xuân Thủy vượng, thêm Thủy tất sinh lụt lội: Hung.*Nếu có Thổ vượng: Cát.*Xuân Mộc vượng, Thủy hao tổn khí, thêm Kim sinh Thủy: Cát. Nhưng nếu Kim quá vượng, Thủy đục: Hung.*Hỏa là Tài tinh của Thủy, Thủy Hỏa cân bằng là tốt nhất: Cát. Nếu Thủy quá mạnh: Hung. Mộc giúp Hỏa sinh Tài cho Thủy: Cát.*Thủy rất cần Thổ để không chảy tràn lan.

*Hạ Thủy tang hình. Gặp Thủy: Cát.*Gặp Kim: Cát.*Gặp Hỏa: Hung.*Gặp Mộc khiến Thổ hao tổn: Hung.*Thổ thịnh: Hung.

*Mùa  Thu được mẹ Kim vượng: Cát.*Thổ vừa phải: Cát. Thổ quá vượng: Hung.*Hỏa là Tài tinh của Thủy. Thủy nhiều: Cát.*Mộc nhiều sẽ hỗ trợ Tài tinh của Thủy những cũng có thể làm Thủy hao tổn khí.*Thủy nhiều thành lụt lội: Đại Hung. Nên dùng Mộc ngăn Thủy, chuyển Hung thành Cát.

*Mùa Đông Thủy vượng. Gặp Hỏa: Đại Cát.*Mộc khắc Thủy nên gặp Mộc vận thế của Thủy chậm lại.*Kim làm Thủy không còn quy củ: Hung.*Mộc làm Thủy bị hao khí: Cát. Nếu thêm Hỏa: Đại Cát.*Thủy gặp Thủy thành lụt lội: Đại Hung. Gặp Mộc tất sẽ Cát. Gặp Thổ quá vượng: ngăn dòng chảy: Hung.

HỎA

*Hỏa Tướng (Mẹ là Mộc Vượng): Mẹ Vượng con Tướng. Có Mộc rất Tốt, nhưng chỉ nên vừa phải.*Có Thủy rất Tốt. Nhưng nếu Thủy nhiều cần có Thổ.*Thổ quá nhiều che lấp Hỏa, không Tốt.*Hỏa quá thịnh cũng Xấu.*Kim là Tài tinh của Hỏa: Kim nhiều Tài vận Tốt.

*Mùa Hạ là lúc Hỏa phát mạnh. Hỏa nhiều có thể tự bốc cháy: chủ Hung! Có Thủy:Cát.*Mộc giúp Hỏa thêm mạnh: chủ Hung.*Kim là Tài tinh của Hỏa, nhưng Hạ thì Kim lại rơi vào Tử, thế suy yếu. Kim nhập lò lửa: thành dụng cụ, Đại Cát.*Thổ là thực thần Thương quan của Hỏa. Thổ kìm hãm Hỏa: Cát.

*Mùa Thu Hỏa thuộc Tù thế. Có Mộc: Đại Cát.*Mùa Thu Thủy vượng lại khắc Hỏa: Đại Hung, rất cần có Mộc.*Thổ nhiều che lấp Hỏa: Đại Hung.*Kim sinh Thủy, Kim quá nhiều sẽ hỗ trợ Thủy chế Hỏa: Hung.*Mộc nhiều: Cát.*Gặp Hỏa vận: Vận thế sang sủa: Cát.

*Mùa Đông Hỏa rơi vào Tử thế, rất suy nhược. Có Mộc: Đại Cát.*Mùa Đông Thủy vượng: Đại Hung.*Thổ chế Thủy: Cát.*Hỏa trợ giúp Hỏa: Cát.*Kim là Tài tinh của Hỏa, Hỏa yếu nên không tôi luyện được Kim: Kim trở thành Tai ách.

*****

IX/  PHẦN CHÚ GIẢI

 * Người tuổi Bính, Đinh, Nhâm, Quý: Nếu Mệnh an tại Thìn, Tuất thêm Khôi, Việt lại gặp Tử vi, Thiên phủ, Nhật, Nguyệt, Khoa, Quyền, Tả, Hữu, Xương, Khúc giáp Mệnh, giáp Thân: Tất sẽ phú quý.

 * Thái âm, Thái dương (hoặc Xương, Khúc) đóng trước và sau cung Mệnh: Không gặp Không, Kiếp, Dương, Linh: tất phú quý.

* Mệnh có Hóa kị: Giáp Không, kiếp (Liêm, Phá quân Vũ khúc thẳng chiếu): Người bần tiện. Giáp Dương, Đà (Liêm, Phá, Vũ khúc thẳng chiếu): đi ăn mày.

* Mệnh ở cung Ngọ có Liêm ở Mùi, Thất sát ở Ngọ: Là Kỳ cách, số quyền quý. Nhưng nếu hãm địa lại gặp Hóa kị: Bần tiện.

*Mệnh ở Tị, Hợi gặp Liêm trinh: bị Hãm. Nếu không có Cát tinh trợ giúp ắt bần hàn.

*Mệnh đóng từ cung Dậu đến Hợi: có Thái âm thủ Mệnh: một đời vui tươi nhà nhã.

* Vũ, Tham cùng nằm cung Mệnh ở Sửu, Mùi: Trước nghèo sau giầu. Nếu có Xương, Khúc, Tả, Hữu củng chiếu thì quyền quý hơn người. Hạn mà gặp Khoa, Quyền, Lộc thì phú quý hơn người.

* Quyền, Lộc đóng cung Mệnh, Tài hoặc Phúc: chủ vinh hoa.

* Thiên không, Địa kiếp đóng Mệnh, Tài hoặc Phúc: chủ bần tiện.

* Mệnh ở Thìn, Tuất, Tị, Hợi, Mão, Dậu: có Xương, Khúc: học rộng và đa tài.

* Người tuổi Giáp, Mệnh an ở Sửu, Tị, Dậu: có Thiên phủ, Thiên tướng đến chầu: Hưởng lộc, lên chức.

* Hóa khoa bị vây hãm trong Không, Kiếp, Dương, Đà; hoặc cung Tuất có Thái dương, cung Mão có Thái âm, Hóa khoa: khoa danh bị hãm.

* Hóa lộc bị hãm bởi Kiếp, Không hoặc ở cung Tý, Ngọ, Thân, Dậu: bị cô bần.

* “Thất sát triều đẩu” (Mệnh an Dần, Thân, Tý, Ngọ gặp Thất sát): có thêm Xương Khhúc Khôi Việt tọa chiếu: tước lộc vinh hoa.

* “Tử, Phủ đồng cung” (Mệnh an ở Dần, Thân): tam phương có Tả, Hữu, Khôi, Việt cùng chiếu: cả đời phú quý, nhất là người tuổi Giáp.

* Người tuổi Giáp, Đinh, Kỷ an Mệnh ở Ngọ, Tử vi ở Ngọ: Phú quý, nếu không có Sát tinh làm đến công khanh.

* Người tuổi Giáp, Kỷ an Mệnh ở Tuất, Thiên phủ ở Tuất; thêm Tả, Hữu, Khôi, Việt, Quyền, Lộc: đại phú quý.

* “Khoa Quyền Lộc hội” (một trong 3 sao Khoa, Quyền, Lộc đóng tại Mệnh, 2 sao kia tại Tài, Quan): công danh hiển hách.

* Mệnh tại Thìn, Tuất (thượng cách); Mệnh tại Sửu, Mùi (thứ cách) gặp Quyền, Lôc, Tả, Hữu, Xương, Khúc: uy danh hiển hách.

* “Khoa minh Lộc ám – trợ” (tuổi Giáp, Mệnh ở Hợi có Hóa khoa, Lộc tồn ở Hợi): danh phận hơn người.

* Người tuổi Bính, Tân: Mệnh tại Dần, Nhật, Nguyệt tại Mùi hoặc Mệnh tại Mùi Nhật, Nguyệt tại Sửu: gặp phúc lớn.

* Mệnh an Tý, Sửu, Mùi, Tuất có Tham lang, Linh tinh đóng: công danh lừng lẫy.

* Mệnh an Dần, Thân, Tị, Hợi có Thiên lộc Thiên mã đồng cung với Mệnh: dễ đỗ đạt (phải không có sát tinh).

* Mệnh an Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có Tham lang, Hỏa tinh; tam phương có Cat tinh hội chiếu (nếu Mệnh an cung Mão và không có Sát tinh: thứ cách) – Nếu thêm Cự, Nhật đồng cung: quan phong tam đại: lừng lẫy uy danh.

* Mệnh an Dần, Ngọ, Thân (hoặc Mệnh an tại Tý, Thìn) có Tử vi, Thiên phủ đến chầu: Làm đến công khanh

* Mệnh có Hóa khoa, Thiêndi, Tài bạch, Quan lộc có Khoa, Quyền: dễ hiển đạt.

* Người tuổi Tân, Ất: Mệnh tại Sửu, Nhật tại Tị, Nguyệt tại Dậu (người tuổi Bính: chủ Quý; người tuổi Đinh chủ Phú): phù tá đế vương nơi ngọc điện (phải không có sát tinh)..

* “Phủ Tướng triều viên” (Tử vi, Thiên phủ đều ở Mệnh hoặc chiếu Mệnh): Cả nhà hưởng lộc.

* Mệnh được đủ 4 sao Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương chiếu (nếu tại Dần, Thân càng tốt): nhất định là văn nhân.

* Mệnh có Khoa, Quyền, Lộc + Tử ở Ngọ, Phủ ở Tuất, Nhật ở Mão, Thìn, Nguyệt ở Dậu, Tuất, Hợi: làm quan đến công hầu.

* Mệnh an Sửu, Mùi; Nhật, Nguyệt, Khoa, Lộc tọa thủ + Cát tinh: Chủ quyền quý đến vương bá.

* Mệnh ở Tị, Hợi, Thân: Thiên lương Hãm đồng cung với Thiên mã, lại bị vây hãm bởi Hỏa, La, Không, Kiếp: Phiêu bạt tha hương.

* Mệnh tại Mão, Mùi, Thân gặp Liêm trinh + không có Tứ Sát: thanh danh lừng lẫy.

* “Nhật chiếu lôi môn” (Mệnh tại Mão, Thái dương trấn Mệnh: Tam phương có Xương, Khúc, Khôi, Việt), Người tuổi Tân,Canh, Ất: Giầu sang vinh hiển.

* “Nguyệt lãng thiên môn” (Người tuổi Bính Đinh được Quý; người tuổi Nhâm Quý được Phú. Mệnh tại Hợi, Thái âm tọa thủ, tam phương Cát tinh củng chiếu): tiến bước phong hầu.

* Người tuổi Giáp, Mệnh tại Dần, Phủ ở Ngọ, Tướng ở Thân HOẶC Mệnh tại Dậu, Phủ tại Sửu, Tướng tại Tị: Chức vị vào hàng nhất phẩm.

* Mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, Tả Hữu tọa thủ HOẶC 3 cung Di, Quan, Tài gặp Tả, Hữu: Phúc, thọ.

* Người tuổi Đinh (thượng cách), tuổi Kỷ, Quý (thứ cách); Mệnh tại Ngọ có Thiên lương tọa thủ: Làm quan thanh hiển.

* Mệnh an Ngọ có Văn khúc, Thiên lương đồng cung tọa thủ (hoặc Thiên lương tại Ngọ, Văn khúc tại Tý): quyền cao chức trọng.

* Mệnh ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (tứ mộ) gặp Dương, Hỏa nhập miếu + Văn khúc song toàn (HOẶC Tham, Vũ khúc gặp Hoả tinh vượng địa): binh quyền vạn dặm.

* Kình dương, Lực sĩ thủ Mệnh: bình thường, nếu có thêm Sát tinh là tối Hung.

* Mệnh có Văn khúc, Liêm trinh thủ Mệnh: chủ may mắn.

* Tuổi Giáp, Canh an Mệnh tại Dần, Thân có Đồng, Lương hóa cát: phú quý.

* Mệnh tại Thìn, Tuất + Cự môn hãm: chủ nhân điên đảo. Thêm Sát:nhiều ác hạn.

* Lộc. Mã ở cung Tuyệt, Không gặp Lưu niên Thái tuế và Kiếp, Không: nhiều tai ách.

* Mệnh có Tử vi thủ chiếu, Đại Tiểu hạn dù suy (không có Cát tinh): đỡ vất vả.

* Sao chủ Mệnh yếu gặp Tài, Quan, Tử nữ Hãm: nên gảm Lộc để Thọ Mệnh.

* Đại Tiểu vận sau có Điếu khách trước có Tang môn; Thái tuế gặp Hung tinh: tai ách liên miên.

* Đại Tiểu vận đến cung Thìn, Tuất gặp Vũ khúc, Tham lang thêm một trong Thái tuế, Tang, Điếu, Bạch hổ, Kiếp, Không, tứ Sát xung chiếu: hạn Hung cực điểm (Khuất Nguyên bị chết chìm).

* Mệnh tại Tị, Hợi có Xương, Khúc và Liêm thủ chiếu, tối kị người tuổi Canh: yểu.

* Đại, Tiểu hạn dù nhiều Cát tinh nhưng nếu gặp Kiếp, Không: bần cùng.

* Mệnh và Vận đều gặp Không: công danh danh dở.

* Mệnh có Thiên không tọa thủ: yểu tướng.

* Mệnh có Địa kiếp tọa thủ: nghèo hèn. Nếu thêm Sát tinh: Hung hiểm.

*Lộc tồn lại gặp Hóa lộc, Thiên mã cùng thủ Mệnh: chuyên quyền.

* Các cung Mệnh, Tài, Quan, Di có Xương, Khúc chiếu lại hội Thái âm, Thiên cơ: dâm ô.

* Nữ an Mệnh ở Dần, Thân, Tị, Hợi gặp Thiên mã tọa thủ, tam phương có Thiên lương hợp chiếu: dâm loạn (giặc cái).

* Nam Mệnh an cung Sửu, Mùi có Thái dương Thái âm + 2 cung trước, sau có Tả, Hữu, xương, Khúc: giầu sang.

* Tử vi thủ Mệnh có Sát tinh: đi theo Phật; nếu gặp Tả, Hữu, Khôi, Việt và không có sát tinh: Sang giầu.

* Liêm trinh thủ Mệnh ở Mão, Dậu: làm sai nha, lính lệ, vệ sĩ.

* Mệnh an Thìn, Tuất có Tả, Phủ tọa thủ; Cát tinh tam phương củng chiếu: phú quý cực phẩm.

* Mệnh ở Tị, Hợi có Liêm, Sát tọa thủ + Hóa kị, Kiếp, Không: cuộc đời truân chuyên.

* Mệnh tai Tý, Đại tiểu Hạn gặp Đại hao: chết đói.

* Hạn gặp Thiên lương: đói.

* Mệnh có 3 sao Cự, Hỏa, Kình dương tọa thủ mà Đại Tiểu vận gặp Sát tinh: tự tử.

* Kình dương thủ Mệnh tại Ngọ, Mão, Dậu HOẶC Đà la thủ Mệnh tại Dần, Thân, Tị, Hợi (trừ người tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi): không chết yểu cúng thương tích.

* 2 cung Tý, Ngọ gặp Phá quân thủ Mệnh, thêm Cát tinh: làm đến tam công.

* Mệnh tại Tị, Hợi có Xương, Tham tọa thủ lại thêm Sát, Hóa kị: chết non thê thảm.

* Thất sát thủ Mệnh ở cung Vượng (Tý, Ngọ, Dần, Thân): chức lớn.

* Mệnh ở Sửu, Mùi có Xương, Khúc thủ Mệnh lại thêm cát tinh: thành danh hiển hách.

* Tài, Quan có Thái dương Thái âm hội cùng Xương, Khúc: giầu có.

* Tài, Quan có Tả, Hữu; Mệnh có Cát tinh: danh vọng.

* Cự, Lương, Tham, Trinh gặp Tam hợp ở cung Mệnh lại thêm Hóa lộc, lộc tồn ở Phu thê: phú quý.

* Tham thủ Mệnh tại Tị thêm Tứ Sát: mệnh yểu.

* Tham (Tham Hãm: làm đồ tể), Khúc thủ Mệnh: đa tài.

* Vũ khúc thủ Mệnh tại Tị, Hợi thêm Tứ Sát: tài nghệ an thân.

* Tham thủ Mệnh tại Tị thêm Tứ Sát: yểu.

* Tuổi Giáp, Mệnh ở Dần (“Thiên lộc triều viên”): vinh hiển.

* Tuổi Bính Mệnh ở Ngọ có tử vi thủ Mệnh lại gặp Xương, Khúc, Khôi, Việt đồng cung: người tuyệt thế.

* Mệnh tại Tuất, Hợi; Vũ khúc thủ Mệnh + tam phương gặp Thái âm, Tham lang, Hóa kị xung sát: xấu.

* Nếu Khúc, Âm, Tham, Hóa lộc cùng chiếu Mệnh lại thêm Cát diệu: rất tốt (trừ trường hợp ở cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi).

* Mệnh tại Tý, Ngọ có Cự tọa thủ + tại Dần, Tuất, Thân, Thìn có Khoa, Lộc hợp chiếu: phú quý.

*Tuổi Giáp, Mệnh tại Hợi có Hóa lộc tọa thủ lại có Lộc tại Dần: phú qúy lại càng phú quý.

* Mệnh tại Thìn, Tuất; gặp Tử vi Phá quân hãm địa: hư danh.

* Mão, Dậu, Thìn, Tuất có Phá quân tọa thủ, dù có Xương, Khúc cũng không toàn mỹ: bần hàn. Nếu Tham, Vũ nhập mộ thì ngoài 30 tuổi mới phát tài.

* Tuổi Đinh an Mệnh tại Ngọ có Thiên đồng ở Tuất: đại phú quý.

* Tuổi Tân có Cự thủ Mệnh tại Thìn, Tuất: phú quý (không được có sát tinh).

* Mệnh ở Dậu có Cơ, Lương tọa thủ: vô lực!

* “Nhật Nguyệt phản bối” (Thái dương tại Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý; Thái âm tại Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ): Dương Âm đều mất ánh sáng: không phú quý. Nếu bản Cung tam hợp có Cát tinh củng chiếu thì khá.

* Xương, Khúc, Lộc, Cơ thủ Mệnh không có Tứ sát: anh hùng lỗi lạc, phú quý song toàn.

* Nhật, Nguyệt, Tả, Hữu tọa Mệnh không có Sát tinh: phú quý.

* Thân, Mệnh tam hợp gặp Vũ, Phá, Liêm, Tham hợp chiếu: phú quý.

* Điếu khách, Tang môn gặp nhau: bệnh tật. Nếu thêm Thất sát: có tang.

* Tham thủ Mệnh: tà dâm.

* Thất sát thủ Mệnh: chết yểu.

*****

 X/ Dự đoán theo Cung an Mệnh 

Cung anMỆNH

CAN năm sinh

Các SAO

DỰ ĐOÁN

          Canh, Tân, Ất, Quý

Tham,Thất sát,Thái âm + Cơ,Lương củng chiếu.

Một đời phú quý.

Sửu

Bính, Mậu

Nhật, Nguyệt thủ chiếu

Phúc lộc. Chính cung bình thường.

Dần

Tị, Canh

Cự, Nhật thủ chiếu

Phú quý. Thêm Thất sát, Thiên lương thì trăm sự thong suốt.

Mão

Tân, Ất

Cơ, Cự, Vũ khúc thủ chiếu cung Mệnh

Nam, Nữ đều hưởng phúc lộc.

Thìn

Thiên lương tọa Mệnh

Suốt đời phú quý.

Tị

Mậu, Tân, Nhâm, Bính

Thiên cơ, Thiên tướng thủ cung Mệnh + Tử, Phủ triều viên

Phú quý cả đời hanh thông.

Ngọ

Giáp, Đinh, Kỷ, Quý

Tử, Phủ, Thái dương thủ Mệnh+Cơ, Lương, Phá quân, Thất sát tương phùng

Một đời phúc lộc phong quang.

Mùi

Tử, Vũ, Liêm trinh thủ cung Mệnh+Nhật, Nguyệt, Cự

Nữ:phúc thọ song toàn-Nam: chức vị quý hiển.

Thân

Giáp, Canh, Quý

Tử vi, Đế tòa, Liêm trinh, Thiên lương cùng thỉ Mệnh+Vũ khúc, Cự môn

Một đời không phú quý cũng anh hung.

Dậu

Tân, Ất

Thái âm thủ chiếu+Cự, Nhật lâm chiếu

Cả đời thụ hưởng phúc lộc.

Tuất

Tử vi đối xung

Phú mà không quý (hư danh).

Hợi

Thái âm

Nam Nữ đều phú quý.

 *****

 XI/ Vòng Tràng Sinh – Lộc tồn – Thái tuế -

Vòng Tràng sinh tượng trưng 12 thời chuyển biến của đời người. Theo ý nghĩa luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác con người do bào thai đúc kết được nuôi dưỡng sinh ra khôn lớn tranh đua với đời đến lúc cực thịnh rồi cũng phải suy tàn bệnh tật, chết đi còn lại nấm mộ rồi cũng tan biến hết.

Vòng tràng sinh biến chuyển từ dưỡng đến vượng theo hướng đi lên, từ Suy đến Thai theo hướng đi xuống, cần tỉnh táo trong mọi hành động cương nhu cho hợp với tính con người.
Trong 12 thời – Thai dưỡng là lúc ẩn dật chờ xuất thế.

Tràng sinh là lúc nhập thế – Mộc dục còn thơ ấu – Quan đới là lúc học hành, thi cử dự bị đón thời, Lâm quan là lúc đấu tranh lập nghiệp, Dế vượng là lúc thịnh thời, Suy bệnh là lúc nhược thời – Tử là tàn thời, Mộ là dư khí thời Mộ khố, là nơi tàng khí nên có dư ít nhiều, Tuyệt là hết thời.

Như vậy trong 12 chỉ có 5 thời là hành khí có sức ảnh hưởng đáng kể là: Sinh – Mộc dục – Lâm Quan – Đế vượng – Mộ.

Vòng tràng sinh chỉ cho biết những nơi tốt xấu thịnh suy của hành mà cục mang cho. Sách cổ viết:
Mệnh hay cục Mộc -> Hạn đến cung Ngọ -> Bị tai ương hoạ hại mặc dầu hạn được tươi sáng
Mệnh hay cục Hoả -> Hạn đến cung dậu -> Bị tai hoạ lớn – khó tránh nguy khốn
Mệnh hay cục Kim -> Hạn đến cung tí -> hạn bị suy bại -. Sức khoẻ kém có thương tích.
Mệnh hay cục Thuỷ -> Hạn đến cung Sửu dần -> Mọi sự bế tắc đình trệ.
Mệnh hay cục Thổ -> Hạn đến cung Mão Thìn Tị -> hạn suy nhược – đau ốm – nhiều bênh tật đáng sợ.

Các chính tinh gặp Cục và các sao của vòng tràng sinh cần được so sánh ngũ hành để biết sự tăng cường hay giảm lực của sao đó với đương số.
Ví dụ: Thuỷ Cục thì Thiên Tương – Phá Quân – Thái Âm – Thiên Đồng – Cự Môn được tăng cường – Nếu các chính tinh này gặp Tràng Sinh – Mộc Dục – Suy thì càng thêm sức mạnh.
Với Cục Mộc thì Liêm Trinh được tăng cương nếu lại gặp Bệnh hay Tử thì càng mạnh và hợp nhau.

Vòng tràng sinh còn có ý nghĩa với các cung Mệnh Thân Đại Hạn, Vì Mệnh Thân Đại hạn liên quan đến Cục.
Hành của Cục So với cung an thân cho biết sự thành công hay thất bại của đương số. Ví dụ: Cung thân an tại Ngọ mà Thuỷ cục thì khó thành công nếu thiếu nhiều trung cát tinh miếu vượng – Vì thuỷ cục khắc hoả cung an Thân – Xem đại hạn cũng vậy! Đại hạn ở Mão mà Kim cục thì du có nhiều sao Miếu vượng, hạn cũng gặp nhiều trắc trở khó khăn.

Luận Tràng sinh Cục và Mệnh – Đại Hạn Phải tuân theo tam hợp và đạt hay không là do chính tinh miếu vượng đắc hãm.
Nếu Vô chính diệu thì xét trung tinh hay hung tinh đắc địa.
Tràng Sinh – Đế Vương – Mộ: đặt công việc lên trên tình cảm
Mệnh Tràng Sinh: Cởi mở hồn nhiên – thích làm việc thiện
Mệnh Tràng Sinh: Cởi mở hồn nhiên – thích làm việc thiện
Mệnh Đế vượng: Thể hiện hết sức về cuộc sống năng động và hoàn bị
Mệnh có Mộ: Thể hiện cuộc sống phấn đấu từng lãnh vực nhưng có lĩnh vực ứng xử không thích hợp.

Mộc Dục – Suy – Tuyệt: Công việc bấp bênh, chưa vững chắc, thường có sự thay đổi, làm cho đương số lạc hướng, hay mất hướng đi.

Mệnh có Mộc Dục: Khoe khoang, chưng diện cho mình về vật chất
Mệnh có Suy: Mưu lược tính toán, có tư tưởng cao đẹp xây dựng xã hội
Mệnh có Tuyệt: Bon chen, giành giật, ghen ghét, uy quyền
Quan Đới – Bệnh – Thai: Sử dụng tình cảm trong hành động, tuy giận hờn, dễ bị u mê, vướng mắc, tình cảm không đạt được mong muốn.

Mệnh có quan đới: Thường ràng buộc việc này với việc khác, biết làm ăn tính toán việc nhỏ – Việc lớn phải có Lộc tồn hay Thanh Long mới đạt được – Cuộc sống thiên về tình cảm.
Mệnh có Bệnh: Không thích hoạt động – Không thích đông người nếu có cô quả thích làm việc nơi vắng vẻ – Mỗi người mỗi việc, bảo thủ, hay giận hờn.

Mệnh có Thai: Sống theo kiểu bè phái – vây cánh nên phải đi theo quỹ đạo có Triệt thì khó khăn, có tuần thì máy móc – muốn dứt mà không được.
Lâm quan – Tử – Dưỡng: Tình cảm và lý trí rõ ràng – giận thương không cần biết. Tự lo, tự làm, tự tin. Cuộc sống ổn định vững chắc nhưng cứng nhắc.

Mệnh có Lâm quan: Tự lo – Tự chuẩn bị trước những công việc của mình
Mệnh có tử: Tự tìm hiểu, tự biết, tự lo về tinh thần
Mệnh có Dưỡng: Tự lực – Tự lo cho bản thân mình về cuộc sống
Sinh Vượng Mộ mà Chính tinh hãm -> Bối cảnh thuận lợi dễ dàng nhưng bất chính
Dục Suy Tuyệt mà chính tinh hãm -> Thường làm việc nguy hiểm như buôn lậu
Đới Bệnh Thai mà chính tinh hãm -> Thường mua chuộc lợi dụng tình cảm để làm ăn phi nghĩa.
Lâm Tử Dưỡng mà chính tinh hãm -> Công việc tuy khuôn thược nhưng cũng có bất chính

Mệnh Sinh Vượng Mộ: Chết ởt đại hạn Dục Suy Tuyệt
Mệnh Dục Sinh Tuyệt: Chết ở đại hạn Đới Bệnh Thai
Mệnh Đới Bệnh Thai chết ở đại hạn Dục Suy Tuyệt
Mệnh Lâm Tử Dưỡng gặp gian nan ở đại hạn Dục Suy Tuyệt nhưng chết ở đại hạn Đới Bệnh Thai.

*Các cách trên nếu đại hạn có chính tinh sinh mệnh thì cứu được.

Vòng Lộc Tồn

Vòng Lộc tồn tượng trưng cho kết quả công việc làm ăn – Tức là cái kho vật chất, tiền bạc, của cải tạo hoá dành cho đương số, có lúc thịnh đạt như Lộc Tồn – Thanh long – Tướng quân, có lúc vui vẻ vì phát đạt như có hỷ thần, có lúc mệt nhoài, lo âu, sinh đau yếu như có bệnh phù, có lúc hao tán như có song hao.

Ghi nhớ: Bệnh của vòng Tràng Sinh chủ về sức khoẻ đau yếu còn bệnh phù của vòng lộc tồn chủ về sự làm ăn không khá – mệt mỏi lo nghĩ mà thôi.
Xem ý nghĩa các sao của vòng lộc tồn cần xem cung sao đó an có hành nào đang vượng – đang có đủ khí để phản ứng với thế thịnh suy của hành mà thiên can ta mang. Nhớ là trừ 4 cung Tí Ngọ Mão Dậu chỉ có 1 hành còn các cung khác đều có hai hành của vụ:
Ví dụ cung Dần vừa là Mộc – Vừa là Hoả- ví dụ: tuổi giáp Dương Mộc có Bác Sỹ (thủy) ở dần là tốt – Thông minh – văn học

Lực sỹ ở Mão là Mộc vượng
Thanh Long ở Thìn (Thanh Long (thuỷ) ở Thìn Thổ nên Giáp mộc khắc nên ta hoá cát – thìn lại là thuỷ giáp mộc nên Thanh Long hoá cát phát tài v.v.

Kình Đà thuộc Kim Giáp Lộc Tồn (Thổ) mang ý nghãi bảo vệ hoặc phá tán tuỳ theo vị trí đắc,
miếu, hãm của nó.
Thiên Khôi, Thiên Việt thuộc hoả là vui buồn thuộc về tâm (tâm thuộc hoả) đây là yếu tố thúc đẩy cho ta tiến hành công việc được trôi chảy, như tâm ta vui ta có nhiệt tâm, làm gì cũng thành, Khôi việt còn là thiên ất quí nhân chỉ dẫn cho ta gánh vác những vai trò then chốt trong gia đình và ngoài xã hội.
Thiên quan, Thiên Phúc là bộ sao giúp trong những hoàn cảnh cần được cứu vớt.

Vòng Thái Tuế

Vòng thái tuế tượng trưng cho sự hanh thông may mắn hay xui sẻo trong công việc làm ăn qua những hành động cử chỉ tác phong phẩm hạnh của đương số trong việc giao tiếp với xã hội.
Vòng Thái tuế có 12 sao nhưng có thêm 20 sao cùng chi tuổi phụ vào diễn tả trạng thái tâm hồn cũng như thể xác: Thiên Không – Thiếu dương là lúc phấn chấn, Tang Môn là lúc buồn rầu, Tử phù là lúc chống chọi với tử thần, điếu khách là lúc chán nản với đời sinh ra chơi bời cờ bạc…
Sao nào của vòng thái tuế an mệnh thì sao đó là thần sát thủ mệnh – là sao hoạ phúc mang điềm lành hay dở may mắn hay xui xẻo đối với mệnh. Với 12 địa chi thì mỗi địa chi đều có hành khí hội cục cùng với âm dương.

Thân Tí Thìn: Thuỷ cục, Dần Ngọ Tuất: Hoả cục, Tỵ Dậu Sửu: Kim cục, Hợi Mão Mùi: Mộc cục. Những hội cục này so với hội cục tuổi về ngũ hành sinh khắc mà tính tốt xấu – Khi mệnh thân an ở hội cục nào hay khi gặp đại tiểu hạn.
Ví dụ: Tuổi Thân Tí Thìn được mệnh an tại Thân Tí Thìn là hợp an ở Tỵ dậu sửu là được sinh nhập độ số tốt.
Tuổi: Dần Ngọ Tuất an tại Tỵ Dậu Sửu là khắc xuất – cuộc đồi phải nỗ lực phấn đấu mới vượt qua được mọi chật vật.
Tuổi: Tỵ Dậu Sửu mà mệnh thân an ở Thân Tý Thìn là sinh xuất thì cuộc đời lao đao, cố gắng làm kết cuộc người khác hưởng.
Tuổi Hợi mão Mùi mà mệnh thân an ở Tỵ Dậu Sửu là khắc nhập, thì cuộc đời thất bại nhiều hơn thắng lợi, tranh đua lắm chỉ thua thiệt mà thôi.
Theo phái Thiên Lương thì những người mệnh an ở:
Thái tuế, quan phù Bạch hổ: Là hạng người đáng kính trọng nhưng chưa hẳn đã đắc ý. Nếu Thân cũng ở tam hợp này thì lúc thiếu thời vất vả, nhưng trung thành với lý tưởng mình đã vạch ra chứ không sống theo kiểu sống vô nghĩa. Nhưng Mệnh Thaâ đồng cung bị Tả hữu Không Kiếp ngăn trở thì đa tài mà bất hữu dụng.
Tuế Phá Điếu Khách Tang Môn: Là hạng người thường gặp điều không hài lòng nếu quật khởi trái với lương tâm thì cũng không thành công như ý mà cứ nếu ngồi phân trần than thân trách phận thì cũng không có kết quả tốt đẹp cho mình, cần có nghị lực và quả cảm để không thua kém ai.
Thiếu dương Thiên Không Tử phù Nguyệt Đức Thiên Đức Phúc Đức -> là hạng người sáng suốt tinh khôn – Nhưng cần phải có ngoan – cần biết lẻ phải quấy đừng hai cho ai vì không qua mặt được lý công bằng của tạo hoá. Không phải chỉ co mình là nhất. Nên theo tứ đức để an hưởng tuổi già.
Thiếu âm Long đức Trực Phù -> Là hạng người chân thật, tưởng ai cũng như mình không phải cứ chịu thiệt thôi mãi mãi, mà cũng có lúc khá giả nhưng cần biết tự an ủi để đời sống được an vui, chịu khó một chút để cuộc sống phong phú (đọc thêm phái Thiên lương)
Mệnh Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ Thân Tuế Phá Điếu Khaác Tang Môn là hạng người vẫn lầm đầy đủ bổn phận trong cuộc sống nhưng hậu vận vẫn cso điều gì cản trở không thi thố được hết tài năng theo ước nguyện.
Thân Tuế Phá Điếu Khách Tang Môn: Nếu có đạt được trong ý muốn thì cũng vì một lý do gì buộc lòng phải theo mà không dám thổ lộ và cũng đành chấp nhận một sự bạc đãi (nếu có) chứ không dám đổ trách nhiệm cho người khác.
Thái Tuê Quan Phù bạch Hổ là chính danh: Làm tròn bổn phận nếu gặp chính tinh hãm thì thiếu tình came hành động ác.
Tuế Phá Điếu Khách Tang Môn: Là chính nghĩa – Làm việc đặt mục đích riêng cho mình thừa thãi mới đến lợi ích chung – nặng về mưu tính, gặp chính tinh hãm thì hành động trái với lẽ thường, khó đặt niềm tin ở hạng người này.
Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức: Là chánh đạo nêu cao đạo lý, thực tâm hay giả dối, Nếu gặp chính tinh hãm thì hành động dã tâm – thừa hành nhiều hơn là chỉ huy.
Thiếu âm Long đức Trực Phù: Là chính đạo chân thành, khờ khạo dễ bị lôi cuốn, gặp chính tinh hãm thì mê tín dị đoan.
Về âm dương khi xem tiểu hạn thì những năm khác loại mang lại điềm lành cho ta như luật âm dương đã định.
Dương đắc âm vi tài (giầu có)
Âm đắc dương vi quan (danh dự)
Các năm đồng loại dương gặp dương – âm gặp âm thường bất lợi vì làm mất quân bình sẵn có (nếu có) khiến phải phản ứng khó nhọc.
Thái Tuế: Thị phi, Khẩu Thiệt, Bực mình
Quan phù: Thù oán, kiện cáo
Bạch hổ: Hại mình
Tuế Phá: Thất bại
Điếu Khách: Bi ai
Tang môn: Tang tóc
Thiếu dương: Điều may, Phấn chấn nhưng đừng tham vọng quá
Tử phù: Êm đềm nhưng phải thận trọng
Phúc đức: Phúc lành
Thiếu âm: Êm đẹp
Long đức: Phúc lành
Trực Phù: Vui tươi

XII/TUẦN và TRIỆT

Tu ần Tri ệt 1

Một vấn nạn lớn trong khoa tử vi, gây nhiều khó khăn trong giải đoán chẳng những đối với người hữu duyên đến với khoa tử vi lần đầu mà còn đối với những người từng mang nghiệp chướng giải đoán tử vi vào mình. Đó là những vấn đề xung quanh hai sao Tuần, Triệt. Thật vậy hai sao này có nhiều tranh cải và mâu thuẩn từ ý nghĩa bản thân của chúng thậm chí cho đến phạm vi tác dụng của hai sao này, Và vấn đề này hiện nay vẫn còn bỏ ngỏ tranh cải tùy theo mỗi tác giả có mỗi ý kiến riêng, và có lối tiếp thu riêng của mình để áp dụng trong giải đoán. Vì thế trong khuôn khổ hạn hẹp của bài báo, người viết cũng tự hạn chế bài viết trong phạm vi những mâu thuẩn nội tại và ngoại lai của hai sao Tuần Triệt để bạn đọc thấy rõ hết các vấn đề, và lời đáp tùy theo sự tiếp nhận thích nghi của ban đọc, chứ người viết không có tham vọng đưa ra một lời đáp chung cuộc để áp dụng chung cho tất cả mọi trường hợp.

1)- Ngũ Hành: Trên lý thuyết mỗi sao trong lá số tử vi đều mang một hành cơ bản, thế nhưng đối với hành của hai sao Tuần Triệt hiện nay còn nhiều tranh cải, có tác giả cho Tuần Triệt thuộc hành Hỏa (Hỏa Không), hành Thủy, thậm chí có người cho là hành Kim (Kim Không), hoặc không có hành nhất định nào cả mà là mang hành của cung tọa thủ, như vậy là có hai hành cung một lúc tùy theo vị trí.

2)- Mức độ ảnh hưởng: Thông thường theo lý thuyết tử vi một phụ tinh tùy theo vị trí đắc địa hay hãm địa ở cung tọa thủ để gây ảnh hưởng đến đương số, như vậy mức độ tốt xấu dựa trên cơ bản ngũ hành của sao đó đối với cung tọa thủ. Riêng trường hợp Tuần Triệt lại khác hẳn, chỉ là những phụ tinh mà lại có tác dụng gặp chính tinh xấu thì biến thành tốt, và trái lại biến sao tốt thành xấu, bất kể chính tinh đó nằm ở cung nào. Như vậy ở đây có nhiều nghịch lý : – Tuần Triệt chỉ là những phụ tinh (sao nhỏ) mà lại có tác dụng ảnh hưởng đổi thay độ tốt xấu của chính tinh (sao lớn), kể cả hai sao Tử Vi Thiên Phủ là hai đế tinh trong khoa tử vi.

Sự ảnh hưởng tốt xấu của hai sao Tuần Triệt lại không dựa trên căn bản ngũ hành của hai sao này, và cũng không dựa trên vị trí trú đóng của cả hai sao. Đây cũng chính là nghi vấn lớn nhiều tranh cải. – Tất cả các sao trong khoa tử vi đều có vị trí đắc địa hay hãm địa, thế nhưng hai sao Tuần Triệt lại không có vị trí đắc hay hãm địa theo cung tọa thủ. Kể cả trường hợp “Tuần cư mộc vị hay Triệt đáo kim cung” cũng không được lý giải theo mức độ đắc hay hãm địa của chúng.

Từ những nghịch lý trên đi vào áp dụng thực tiển của hai sao này cũng gây nhiều tranh cải như sau :
- Trường hợp cung vô chính diệu: là cung không có chính tinh tọa thủ, do đó cần có sự hiện của sao Không mới tốt. Có tác giả cho rằng cung vô chính diệu phải có Tuần hay Triệt trú đóng, và với một số điều kiện nào đó như là là người hỏa mệnh chẳng hạn, mới gọi là Đắc Không, nếu thiếu yếu tố Tuần Triệt tọa thủ chỉ được coi là Kiến Không hay Ngộ Không như vậy vô hình trung đã tạo thêm những đắc tính ưu việt của sao Tuần Triệt để hóa giải cung vô chính diệu, mà lại nằm trong giới hạn cá biệt của người hỏa mệnh mà thôi.

Điều này cũng gây ra sự nghịch lý là có sự phân biệt đối xử trong giải đoán tử vi của người hỏa mệnh và các người mộc mệnh hay thủy mệnh…Ngoài ra còn phân biệt đối xử với sao Thiên không và Địa Không trong trường hợp tọa thủ tại cung vô chính diệu cũng không được tính là ĐẮC KHÔNG.
Trường hợp có chính diệu ở trên cũng là một nghịch lý chưa giải tỏa được vì rằng hai sao Tuần Triệt không có vị trí đắc hay hãm địa, và lại có tác dụng biến đổi chính tinh tọa thủ từ tốt ra xấu hay ngược lại, có nghĩa là chính tinh sau khi chịu ảnh hưởng của cung tọa thủ mà gặp Tuần Triệt thì đổi thay mức độ tốt xấu của mình. Điều này đưa đến nghịch lý là một chính tinh đóng tại một cung nghịch hành của mình mới bị hãm địa, lại gặp Tuần Triệt mang hành của cung đó tức là xung nghịch với chính tinh mà lại có tác dụng biến đổi chính tinh đó từ xấu ra tốt. Ngược lại một chính tinh miếu địa tất nhiên hành của cung tọa thủ hợp với chính tinh, nếu có Tuần Triệt tọa thủ ở đấy tất nhiên mang hành của cung đó hợp với chính tinh, không có gì khắc hãm cả mà lại có kết quả làm cho chính tinh từ tốt biến thành xấu cũng không dựa trên một cơ bản khoa học nào cả. Sự việc này được áp dụng trong giải đoán tử vi mà từ trước đến nay chưa có sự lý giải nào rõ ràng và đầy đủ.

Tóm lại, vấn đề cơ bản nhất là ngũ hành của sao Tuần Triệt đã có nhiều tranh cải, nhưng ngũ hành của hai sao này cũng không áp dụng khi giải đoán tại cung tọa thủ mà lại áp đặt nguyên tắc đảo nghịch tốt thành xấu hay nghịch lại một cách máy móc không dựa trên tính lý của ngũ hành đi ngược lại nguyên lý cơ bản của khoa dịch lý Đông Phương áp dụng vào tử vi. Và cho đến nay vấn đề này vẫn còn bỏ ngõ, người viết hy vọng nêu vấn đề này ra để bạn đọc hâm mộ tử vi tự thân tìm được lời đáp đối với hai sao Tuần Triệt hơn là đi tìm lời đáp chính thống chưa hiện hữu.

TUẦN TRIỆT 2

Triệt: hành Kim đới Thủy
Tuần: hành Hỏa đới Mộc
Ý nghĩa:
Triệt: là chém ra thành từng mảnh
Tuần: là vây hảm, có tác dụng kìm hãm, ngăn chặn, cản trở
Triệt Tuần ảnh hưởng lên các hành của sao:
Nói chung:
Hành Kim, Hỏa và Mộc: bị ảnh hưởng mạnh nhất
(Hành Mộc bị ảnh hưởng của Triệt hơn Tuần,
Hành Kim chịu ảnh hưởng của Tuần hơn Triệt)
Hành Thủy : bị ảnh hưởng ít hơn
Hành Thổ: bị ảnh hưởng yếu nhất
Cường độ ảnh hưởng của Tuần Triệt theo thời gian:
Triệt mạnh ở 30 năm đầu (tùy theo cục, ví dụ Thủy nhị cục thì 32 năm đầu), sau đó yếu đi
Tuần mạnh ở 30 năm sau (tùy theo cục), trước đó thì yếu
Cường độ ảnh hưởng của Triệt Tuần tác dụng lên các cung
Nguyên tắc: người Dương (Dương Nam, Dương N
Nguyên tắc: người Dương (Dương Nam, Dương Nữ) thì cung Dương bị ảnh hưởng hơn cung Âm
người Âm (Âm Nam, Âm Nữ) thì cung Âm chịu ảnh hưởng mạnh hơn cung Dương
Cứ thế ước lượng:
Dương Nam. Dương Nữ: cung Dương chịu 70% , cung Âm 30% cường độ ảnh hưởng
Âm Nam, Âm Nữ: cung Dương chịu 20%, cung Âm 80% cường độ ảnh hưởng

Ảnh hưởng:
Sao đắc vượng miếu gặp Tuần Triệt mất hết ý nghĩa tốt đẹp vì bị khắc chế
Sao hãm địa gặp Tuần Triệt thì lại trở thành tốt, là phản vi kỳ cách (nhưng phải trãi qua gian nan mới tốt được)

Đặc biệt: Thiên Tướng, Tướng Quân (dù đắc hay hãm) rất kỵ Tuần Triệt, kỵ Triệt hơn Tuần.

Thiên Phủ kỵ gặp Tuần

Cự Cơ (Cự Môn, Thiên Cơ) Tí Ngọ rất cần gặp Tuần Triệt

Nhật Nguyệt hãm địa gặp Tuần Triệt thì sáng lên, vượng miếu gặp Tuần Triệt thì tối lại

Tuần Triệt tác đ ộng đến các cung:
Ví dụ Tật Ách rất cần Tuần Triệt
Phúc cung vô chính diệu rất cần Tuần nhưng lại kỵ Triệt
Phu Thê gặp Tuần Triệt la trắc trở tình duyên.
Triệt đóng tại một cung có các sao xấu chiếu về cung đó thì có khả năng cản lại các nguy hiểm do các sao xấu chiếu về (Tam phương xung sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng)
Vai ví dụ
Thiên Cơ (Mộc), Thiên Lương (Mộc) miếu địa rất kỵ Tuần Triệt nhưng nếu hãm địa thì rất cần Tuần Triệt.

Thái Âm sáng sủa gặp Tuần Triệt thì đỡ bị ảnh hưởng hơn so với Thái Dương sáng sủa

Sát Phá Tham hãm địa rất cần Tuần Triệt, đắc vượng miếu kỵ gặp Tuần Triệt, nhất là Sát và Tham (còn Phá Quân thì đỡ bị ảnh hưởng).
Liêm Tham Tỵ Hợi hãm địa thì gặp Tuần Triệt rất tốt
Thiên Đồng (Thủy) đắc vượng miếu cũng không sợ Tuần Triệt lắm, hãm thì lại cần Tuần Triệt

Vũ Khúc (Kim) đắc vượng miếu rất kỵ Tuần Triệt
Các sao Thổ như Tả Hửu, Thiên Quí, Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thiên Phúc, Thiên Qui, Tam Thai ít bị ảnh hưởng của Tuần Triệt nhất
Các sao Thủy như Hóa Khoa, Văn Xương, Hóa Kỵ, Long Trì, Song Hao, Hồng Loan, Bát Tọa ít chịu ảnh hưởng của Tuần Triệth
Các sao Mộc, Kim, Hỏa như Kình Đà, Không Kiếp, Hỏa Linh, Thiên Không, Thiên Hình, Kiếp Sat’ Tang Môn, Bạch hổ , Đào Hoa, Khôi Việt, Hóa Quyền Thiên Mã, Phượng Các, Ân Quang, Cô Quả, Thiên Quan chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Tuần Triệt

Ví dụ Mệnh Tử Vi Thiên Tuóng cư Thin (ở Dương cung) bị Tuần.
Ví dụ là Tuân nên ở 30 năm đầu chưa bị tai họa (tai nạn, bệnh tật…)
Thiên Tướng bị ảnh hưởng mạnh hơn Tử Vi
Dương Nam, Dương Nũ :

Chịu 70% tác động của Tuần, do đó sau 30 tuổi dể bị tai họa lớn
Âm Nam, Âm Nữ:

Chịu 20% tác động của Tuần nên sau 30 tuổi có gặp tai họa cũng không mạnh được
(Chỉ nêu đại cương, còn phải xét Thân, Mệnh, Phúc, Tật và Đại hạn mới quyết định được)
Ví dụ Mệnh Liêm Tham cư Tý (cung Âm) là cách hình ngục nan đào gặp Triệt,

Vì là Triệt nên 30 năm đầu có tác động mạnh cho nên Cả hai sao đều bị ảnh hưởng mạnh của Triệt.
Dương Nam, Dương Nữ:

Chịu 30 % tác động của Triệt. Sau 30 tuổi phải đề phòng tù tội
Âm Nam, Âm Nũ

Chịu 80 % tác động của Triệt nên không có gì xãy ra 30 năm đầu. Sau đó thì đề phòng nhưng mức độ tù tội nhẹ hơn
Ví dụ Thất Sát (Kim) cư Dần (Dương cung) gặp Tuần, Dương Nam thi chịu 70% ảnh hưởng, 30 năm đầu tuy có bị ảnh hưởng nhưng không đến nỗi nào, sau 30 năm thì bị tác động mãnh mẽ, bị tai nạn hoặc bị bệnh tâm thần.

Tuần Triệt 3

(1) Nhận định về căn tính cuả Tuần Triệt
(2) Yếu tố căn bản về Tuần Triệt gỡ (Cách thế được coi là Tuần Triệt gỡ)
(3) Không ph ải lúc naò Tuần Triệt gỡ cũng tốt
(1) Nhận định lại căn tính của Tuần Triệt

Tuần Triệt có phải là Sao (tinh đẩu) không ?
Nếu Tuần Triệt là tinh đẩu thì đương nhiên Tuần Triệt sẽ có khả năng chiếu như các tinh đẩu khác. Nếu TT không phải là tinh đẩu thì Tuần Triệt không có khả năng chiếu.

Nếu Tuần Triệt không chiếu thì lý thuyết Tuần Triệt gỡ từ đâu ra ??
Nếu Tuần Triệt đóng cùng vị trí mà tháo gỡ lẫn nhau thì các sát baị tinh khác đóng cùng vị trí cũng có đặc tính này ??

Tuần Triệt không phải là tinh đẩu mà là 1 cửa ngõ có khả năng bao trùm trên 2 cung và thay đổi đặc tính của các sao toạ thủ trong 2 cung đó. Sự thay đôỉ hay caỉ hóa cuả Tuần Triệt trên các sao chỉ có tính cách tương đôí chứ không tuyệt đôí . Khả năng cuả Tuần Triệt không dừng ở các tinh đẩu mà còn ảnh hưởng trên Âm Dương Ngũ Hành cuả cung bị Tuần Triệt chận đóng.

Thí dụ: Tham Lang hãm điạ tại cung Tí ngộ Triệt sẽ bị cải hoa’ trở thành ngay thẳng chính chuyên chứ TT không co’ khả năng biến Tham Lang trở nên miếu điạ được . Trường hợp ngoại lệ của Tuần Triệt , có 1 số Sao không bị ảnh hưởng và bị caỉ hóa bởi Tuần Triệt , đó là các Phúc Thiện tinh Hoá Khoa, Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân Quang Thiên Quý,vv..vv
(2) Những yếu tố căn bản của cách thế Tuần Triệt gỡ

Mệnh có Tuần hay Triệt, Ðaị Hạn gặp Tuần Triệt thì được coi là cách Tuần Triệt gỡ. Thí dụ: Dương Nam, Mệnh ngộ Tuần, ÐH đến cung Quan có Triệt. Nếu là Âm Nam n hư thí dụ trên, ÐH đi ngược chiều kim đồng hồ không gặp Triệt thì không coi là cách Tuần Triệt gỡ, mặc dù Tuần Triệt ở thế Tam Hợp . Như đã nêu lên ở phiá trên, vì TT không phaỉ là Sao nên không chiêú, do đó không gỡ . Khi TT thaó gỡ thì không tháo gỡ luôn mà chỉ thaó gỡ trong khoảng thời gian hạn định, khoảng thơì gian này có thể là suốt Ðaị Hạn, hay là chỉ có 1 vaì năm hoặc là 1 vaì tháng trong năm .

Khi Tuần Triệt đóng vaò cùng 1 chỗ thì cường độ mạnh mẽ lên chứ không thaó gỡ , thủ tiêu lẫn nhau; Ngoaị trừ trường hợp Tuần Triệt cố định gặp Lưu Tuần hay Lưu Triệt (sẽ bàn sau) … Trường hợp này thì có thaó gỡ nhưng không thaó gỡ hoàn toàn, có nghiã là chỉ thaó gỡ trong 1 khoảng khắc thơì gian ấn định chứ không thaó gỡ suốt vận hạn
(3) Không phaỉ lúc naò Tuần Triệt gỡ cũng tốt

Triệt được an theo Thiên Can (Dương), Tuần an theo Ðiạ Chi (Âm) nên Triệt sẽ có ảnh hưởng mạnh taị các cung Dương và yếu hơn taị các cung Âm; cũng thế Tuần sẽ tác động mạnh taị các cung Âm, và yếu hơn ở các cung Dưong . Theo cùng 1 chiều hướng lập luận đó, khi Tuần Triệt thaó gỡ thì : 2 cung ngộ Triệt sẽ được gỡ mạnh taị cung Dưong và gỡ yếu hơn taị cung Âm; còn 2 cung ngộ Tuần thì cung Âm sẽ được gỡ mạnh hơn taị cung Dương . Ðiều quan trọng là cần phaỉ minh xét cẩn thận các tinh đẩu thủ cung để xem Tuần Triệt gỡ là gỡ tốt hay là gỡ xấu

TUẦN TRIỆT. (4)

Đối với người âm nam âm nữ : người sinh âm thì lấy hướng đi theo chiều nghịch. Cứ theo chiều đó mà xét vị trí của tuần hay triệt. Tuần triệt chặn đầu cung thì ảnh hưởng nặng, vuốt đuôi thì ảnh hưởng nhẹ (nặng 8/10, nhẹ 2/10).

Một cách khác để nhận định cũng đi đến kết quả trên là : người sinh dương thì tuần triệt ảnh hưởng nặng vào cung dương nơi trấn đóng 7/10 và ảnh hưởng nhẹ vào cung âm 3/10. Người sinh âm thì ảnh hưởng tuần triệt mạnh vào cung âm 8/10 và ảnh hưởng nhẹ vào cung dương 2/10.

Ảnh hưởng vào cung xung chiếu và tam hợp chiếu cứ theo các cách tinh của âm dương như vậy mà xét các cung chiếu (1 cung xung chiếu và cung hợp chiếu). Nếu tuần triệt ảnh hưởng nặng vào các cung chính nó đóng thì nó cũng ảnh hưởng nhẹ vào các cung chiếu và tùy theo các cung này cùng âm hay cùng dương với cung chính.

Qua nhưng điều trên người ta nhận thấy rằng âm dương là rất quan trọng trong tử vi. Trong việc giải đoán lý âm dương còn quan trọng ở các trung tinh đi cặp đôi tức là chỉ âm dương thì cặp tinh mới có ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất yếu.

Luật về ngũ hành của tuần triệt và của các chính tinh. Triệt thuộc kim đới thủy, tuần thuộc hỏa đới mộc. Vậy nhưng sao mà hành **ng với hành của tuần triệt và bị khắc chế là nhưng sao bị tuần triệt chế ngự. Hành kim bị hỏa của tuần khắc, hành hỏa bị thủy của triệt khắc, hành mộc bị kim của triệt khắc và cũng bị hành của hỏa tuần khắc.

Các sao có hành thủy và thổ không sợ tuần triệt. Trong bộ sát phá liêm tham thì thất sát là kim nên sợ tuần, tham lang thuộc mộc nên sợ cả triệt lẫn tuần, phá quân thuộc thủy nên không sợ tuần triệt (cũng có ảnh hưởng nhưng ít thôi), liêm trinh thuộc hỏa nên sợ tuần.

Trong bộ tử phủ vũ tướng bị tuần triệt : tử vị thuộc thổ, thiên tướng thuộc thủy, thiên phủ thuộc thổ ít sợ tuần triệt (nhưng ảnh hưởng nhiều lúc cũng sâu đậm) chẳng hạn như thiên tướng ngộ tuần triệt, thiên phủ ngộ tuần, riêng vũ khúc thuộc kim nên sợ tuần triệt.

Cát thành hung hung thành cát là đặc tính của tuần triệt. Ơû các cung có tuần triệt đóng có các chính tinh lạc hãm thì ảnh hưởng nguy hại của các chính tinh lại biến thành ảnh hưởng tốt đẹp. Các chính tinh miếu vượng đắc địa là tốt gặp tuần triệt là bị hỏng cả. Các chính tinh từ 3 cung hợp chiếu về cũng bị cản lại. Hung tinh miếu địa là tốt (cách của những người làm dữ mà thành công) nhưng gặp tuần triệt là hỏng.

Tuần triệt đương đầu thiếu niên tân khổ : đương đầu nghĩa là án ngữ ngay tại mệnh nhưng cũng có người cho rằng tuần triệt ở cung chiếu hay tam hợp chiếu cũng là đương đầu, còn ý nghĩa của câu phú thì đã quá rõ ràng. Nếu chỉ chấp trường hợp tuần triệt án ngữ tại mệnh mới gọi là đương đầu cần phải phân biệt mệnh có chính tinh và vô chính diệu.

Trường hợp có chính tinh bị tuần triệt thì không phải lúc nào cũng tai hại vì chỉ có tử phủ thiên tướng cơ lương vũ khúc là sợ tuần triệt nhất; còn thất sát (nếu hãm địa gặp triệt thì hay hơn gặp tuần) thì lại trở nên hữu hiệu tốt đẹp vô cùng.

Nhưng nếu trái lại thất sát ở miếu địa lại cần tránh tuần triệt mới hay. Còn trường hợp mệnh vô chính diệu trung tinh tốt đẹp tọa thủ hay hay mà phải để ý xem có nhiều trung tinh tốt đẹp tọa thủ hay không. Nếu có thì cần tránh tuần triệt nhất là vì triệt; tuần chỉ bao vây không cho trong ngoài liên lạc với nhau để phát huy khả năng phối hợp; còn triệt thì chặt gãy phá vỡ hẳn mọi sao hay khiến cho mất hẳn yếu tố tốt có sẵn tại mệnh và các sao bên ngoài chiếu vế không cứu vãn nổi.

Trường hợp không có trung tinh tốt thì chỉ kỵ có tuần chứ không sợ triệt vì mệnh xấu mà còn không nhờ cậy được các sao tại cung tam hợp (bị tuần bao kín) sẽ khiến cho đương sự thật sự tân khổ trong khi triệt án ngữ lại thuận lợi vì không những phá vỡ được yếu tố tốt xấu tại mênh mà lại còn không cản trở sự giúp đỡ từ bên ngoài.

Nếu chấp nhận tuần triệt ở cung xung chiếu hoặc tam hợp cũng gọi là đương đầu chắc có nhiều người thắc mắc không hiểu tại sao tuần triệt chiếu cũng gây ảnh hưởng mạnh mẽ như án ngữ. Điều này rất dễ hiểu vì có bao giờ người ta chỉ căn cứ vào nguyên cung mệnh để giải đoán đâu mà phải kết hợp với các sao khác ở cung xung chiếu và tam hợp (nhất là xung chiếu).

Do đó nếu như mệnh có tử phủ (dần thân) rất cần vũ tướng và các bộ trung tinh khác như tả hữu thai tọa khôi việt mới thành các quân thần khánh hội. Nếu các sao này ở ngoài lại bị tuần triệt án ngữ thì làm sao kết hợp được với tử phủ khiến cho 2 sao này bị cô đơn và trở thành vô hiệu lực, thành ra vấn đề tân khổ cũng rất hợp ngay cả mệnh vô chính diệu cũng vậy bất luận có trung tinh tốt tại mệnh hay không cũng cần có sự hỗ trợ bên ngoài, không khác gì một nước chậm tiến cần sự việc trợ từ nước ngoài. Nếu bị tuần triệt ngăn chặn thì làm sao có chỗ nương tựa khiến cho đã xấu lại càng xấu thêm, tai hại hơn cả trường hợp có chính tinh nhiều.

Các dương số mệnh vô chính diệu trong trường hợp này sẽ cảm thấy đương đầu theo cách chiếu cũng hiệu nghiệm vô cùng.

Sau hết tại sao tuần triệt đương đầu tại mệnh hay tại các cung tam hợp chỉ hành hạ lúc thiếu thời chứ lại không gây trở ngại cho tuổi trưởng thành trở đi. Có người cho rằng triệt từ năm 30 tuổi trở đi sẽ yếu đi, nhưng nói đến tuần thì hơi khó trả lời vì tuần ảnh hưởng suốt cả đời hoặc mạnh mẽ từ 30 tuổi trở đi. Lại có lý thuyết cho rằng lúc ít tuổi chịu đại hạn đầu nằm ngay tại mạng, nhưng qua đại hạn kế tiếp tránh được tuần triệt rồi và tuổi còn trẻ sao vẫn tân khổ

(trường hợp tuần triệt án ngữ tại mệnh còn có lý do vì 2 sao đó đè lên 2 cung. Những trường hợp ở các cung xung chiếu thì đâu ảnh hưởng gì cho đại hạn kế tiếp).

TRIỆT, TUẦN 5

Trong khoa Tử Vi chưa có sao nào bị tranh chấp dữ dội như hai sao Tuần Và Triệt. Có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến ngũ hành, thời gian, mức độ, cường độ, ảnh hưởng, sự đồng cung của Tuần, Triệt. lần lượt trình bày những quan điểm tranh chấp và thử nêu ra quan điểm riêng.

Có hai quan điểm về hành của Tuần, Triệt

a) Tuần Triệt không có hành cơ hữu và cố định. An ở cung nào sẽ có hành của cung đó. An ở hai cung có hai hành khác nhau thì Tuần, Triệt cũng sẽ có hai hành, mỗi hành tương ứng với một cung. Như vậy, Tuần Triệt có 5 hành

b) Tuần triệt thuộc hành thủy (có người cho là Hỏa) và có 2 vị trí lợi hay bại địa :
Lợi địa ở Tỵ, Ngọ và Thân, Dậu. Tại Tỵ, Ngọ, Tuần Triệt gọi là Hỏa Không, tại Thân Dậu gọi là Kim Không. Ở Tỵ Ngọ thì phát đạt, ở Thân, Dậu thì tiếng tăm : hạn đến 2 bộ cung này thì tuần triệt không phá hại mà còn trở thành phú trạch.

- Bại địa ở vị trí khác. bấy giờ hai sao này tác họa.

Không rõ tác giả nào đỡ đầu cho quan điểm nào, cho nên không thể biết căn bản của lập luận của 2 quan điểm này. Ngay thái thứ lang cũng không thấy đề cập đến ngũ hành của Tuần Triệt. Theo chúng tôi quan điểm thứ 2 có hai điều đáng nói là sai lầm và mâu thuẫn :

- Sai lầm ở điểm nào cho rằng Tuần Triệt đóng ở Tỵ Ngọ là vị trí không bao giờ có của Tuần hay Triệt. Tuần Và Triệt chỉ đóng ở Thìn, Tỵ, và Ngọ, Mùi. Nếu ở Thìn Tỵ và Ngọ Mùi thì làm sao gọi là Hỏa Không một cách đơn thuần được, vì có lẽ Thìn là Thổ, ở Mùi cũng Thổ.

- Mâu thuẫn ở điểm cho rằng, Hỏa không ở Tỵ Ngọ sẽ gây phát đạt còn ở vị trí khác thì tác họa (như ở hai cung Thổ Thìn và Mùi). Chẳng lẽ Tuần Triệt ở Thìn Tỵ thì phát đạt cho Tỵ (cung Hỏa) mà tác họa cho Thìn (cung Thổ)

Đây là một nghi vấn rất lớn, gây ngộ nhận khác nhau vì thiếu sự giải thích dựa trên một căn bản lý thuyết hay lý tính nào khả chấp.

Tuần, Triệt còn bị dị nghị về thời gian ảnh hưởng.

Thái thứ lang rất rõ ràng khi cho rằng :

Tuần ảnh hưởng mạnh mẽ trong “suốt đời người”

Triệt ảnh hưởng mạnh mẽ “từ lúc cất tiếng chào đời cho đến năm 30 tuổi. Còn từ 30 tuổi trở đi, ảnh hưởng kém dần” (Tử Vi Đẩu Số, trang 345, 346)

Dù vậy có nhiều nhà lý học không đồng ý hoàn toàn về thời điểm 30 tuổi của sao Triệt. Lập luận bài nêu lên 2 lý lẽ có tính cách nghi vấn :

Căn bản nào để ấn định thời điểm 30?

Sau 30, ảnh hưởng “kém dần”, vậy kém đến độ nào, và bao giờ mới dứt?

Thái thứ lang cho rằng cả 2 sao “ảnh hưởng mạnh mẽ” trong khi đó có người cho rằng :

Tuần ảnh hưởng nhẹ

Triệt ảnh hưởng mạnh

Không thấy ấn định cường độ mạnh hay nhẹ, chỉ nói mơ hồ như thế cho nên rất khó lượng giá với các sao chính và phụ, cung cường, cung nhược v.v…

Trong giả thuyết, thời gian ảnh hưởng “mạnh mẽ” ngang nhau, cũng có 2 luận hướng về mức độ :

Tuần hay Triệt biến sao xấu thành tốt, sao tốt thành xấu. Ví như Âm Dương hãm gặp Tuần, Triệt thì sáng sủa, nếu Âm Dương sáng gặp 2 sao này thì tối lại. Tuần hay triệt chỉ làm cho sao xấu bớt xấu chớ không đến nỗi làm cho tốt lên. Luận hướng nào có giá trị?

TUẦN TRIỆT ĐỒNG CUNG

Cũng có 2 hướng luận đoán :

Có người cho Tuần và Triệt đồng cung phối hợp ảnh hưởng với nhau. Nói khác đi, cung nào bị Tuần Triệt đồng cung thì nếu xấu sẽ xấu gấp đôi, tốt gấp đôi.

Có người cho rằng Tuần Triệt đồng cung khắc chế lẫn nhau, nghĩa là Tuần phá Triệt, Triệt phá Tuần. Có người cho rằng đến độ coi như không còn có 2 sao đó nữa.

QUAN ĐIỂM CỦA TÁC GIẢ
NGŨ HÀNH CỦA TUẦN, TRIỆT

Tử Vi học lấy ngũ hành làm gốc triết lý. Sao này cũng bị ngũ hành hóa. Tuần Triệt cũng có hành vậy.

Nhưng, thiển nghĩ, Tuần Triệt có lẽ là 2 sao đặc biệt hơn các sao khác về mặt ngũ hành. Nó không chỉ có một hành duy nhất và cố định và có thể thay đổi hành tùy theo vị trí tọa thủ và có thể có cả 2 hành một lượt, nếu đóng ở cung khác hành

Tính cách lưỡng hành đó làm cho 2 sao này hết sức linh động, có 2 hướng chi phối, mỗi hướng trên một cung.

Thú thật, tôi cũng không có căn bản nào khi đề ra quan điểm này, nhưng tôi cho đó là hợp
lý.

THỜI GIAN ẢNH HƯỞNG

Có thể chấp nhận quan điểm của thái thứ lang về điểm này, tức là :

Tuần ảnh hưởng suốt đời.

Triệt chỉ ảnh hưởng đến khoảng 30 năm đầu, và giảm dần ảnh hưởng từ khoảng 30 năm về
sau

Thiết tưởng chỉ nên nói đến khoảng thời gian, thay vì xác định thời điểm, và thiết tưởng không nên cho tỷ lệ giảm vì lẽ :

Thời gian đó lệ thuộc sự tốt xấu rất phức tạp của Phúc Đức, Mệnh Thân, Đại Tiểu Hạn là những ẩn số chi phối hỗ tương rất chằng chịt và rất linh động tùy mỗi lá số .

CƯỜNG ĐỘ ẢNH HƯỞNG

Chúng tôi không cho rằng 2 sao này đều “ảnh hưởng mạnh mẽ” như Thái Thứ Lang. Thiển nghĩ, theo nguyên nghĩa của chữ Tuần, Triệt, cừơng độ đó đã được quy định rồi :

Tuần ảnh hưởng nhẹ, vừa phải hơn

Triệt ảnh hưởng mạnh, quyết liệt hơn

Không nên và không thể cho tỷ lệ hơn kém rõ rệt vì đây là một lượng theo hàm số của Phúc, Mệnh, Thân, Hạn của lá số, chưa kể sự thẩm định thêm yếu tố phúc đức thực tại, có thể khác với phúc đức lá số (nhất là đối với 2 người trùng giờ sinh).

MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG

Thiển nghĩ rằng, vì quan niệm cường độ ảnh hưởng như trên, cho nên, không thể và không nên nói dứt khoát về mức độ ảnh hưởng. Không thể nói minh thị rằng Tuần hay Triệt biến sao tốt thành xấu hay chỉ làm bớt tốt, hoặc biến sao xấu thành tốt hay bớt xấu. Hiệu lực chế giảm của Tuần Triệt trên các sao khác còn lệ thuộc hàm số của Phúc, Mệnh, Thân, Hạn

Nhưng, có thể nói cụ thể hơn rằng :

Tuần vì ảnh hưởng nhẹ, vừa phải nên làm cho sao xấu bớt xấu chớ không làm thành tốt lên. Ngược lại, Tuần làm cho sao bớt tốt chớ không làm cho xấu hẳn đi

Triệt, vì ảnh hưởng mạnh và quyết liệt hơn nên có thể làm cho sao xấu thành tốt và ngược lại, trong suốt thời gian Triệt có hiệu lực mạnh. Khi Triệt giảm dần hiệu lực, mức độ ảnh hưởng sẽ luận như sao tuần

VẤN ĐỀ TUẦN, TRIỆT ĐỒNG CUNG

Tuần và Triệt tuy khác về cường độ, mức độ, thời gian ảnh hưởng và có ngũ hành linh động nhưng giống nhau về tác dụng : hai sao này chi phối tất cả các sao khác không loại trừ sao nào

Mặt khác, trong khoa Tử Vi, chưa thấy có trường hợp nào hung tinh khắc chế lẫn nhau hay các tinh tác hóa lẫn nhau. Chỉ thấy có sự phối hợp tác họa của các hung tinh chớ không có sự xung đột giữa các hung tinh. Chỉ thấy có sự phối hợp phù thịnh của các các tinh chớ không có sự cạnh tranh giữa cát tinh với. Chỉ thấy có hung tinh khắc các tinh, hay cát tinh chế hung tinh, chớ chưa thấy hung tinh vừa khắc cát tinh vừa “đánh lộn” với nhau. Như vậy, trong ý niệm của người sáng tác khoa Tử Vi, có sự tiềm ẩn sự phân biệt chính và tà thành 2 phe rõ rệt trong khi chia các sao thành 2 lọai cát và hung tinh

Ý niệm chính, tà phân minh như vậy đưa đến ý niệm chính chống tà, tà chống chính. Có thể có sinh khắc về ngũ hành giữa hung tinh (hay cát tinh), chớ không có sự xung đột về “lý tượng” giữa nội bộ hung tinh (hay cát tinh). Ý niệm chính, tà xung đột của người xưa đơn giản như vậy dù sự đơn giản đó không hẳn phản ảnh thực tế của cuộc đời

Trong inh thần đó, khi Tuần và Triệt đồng cung, không có sự đối kháng mà chỉ có sự phối hợp tác hóa. Không có ý niệm Tuần Triệt tương khắc mà chỉ có ý niệm Tuần Triệt tương trợ hay tương hòa. Cụ thể là cung nào bị Tuần Triệt cùng án ngữ, sẽ bị cả 2 ảnh hưởng song hành về hướng tốt cũng như về hướng xấu.

Cách thức phối hợp tác hóa này đã từng có nhiều tiền lệ. Ví dụ : Tả hữu đồng cung, Không Kiếp đồng cung, Tử Phủ đồng cung, Aâm Dương đồng cung .v.v… sẽ làm gia tăng ảnh hửơng (tốt hay xấu) của 2 sao đồng lọai, đồng tác dụng chớ không gỉam trừ ảnh hưởng của 2 sao đồng lọai, đồng tác dụng. Ví dụ : Không kiếp hãm địa thì cả Không lẫn Kiếp cùng nhau tác họa, chớ Không chẳng phá Kiếp mà Kiếp cũng chẳng phá Không.

Tác dụng của Tuần, Triệt có tính toàn diện, không có biệt lệ, tức là hai sao này chi phối tất cả các sao đồng cung và tất cả các cung có Tuần, Triệt án ngữ, không vị nể một sao nào hay một cung nào.

Tuy nhiên, có sự phân biệt ít nhiều ý nghĩa của 2 sao này, từ đó, có ảnh hưởng trên sự luận đoán :

a) Có tác giả cho rằng, và điều này hợp lý, Tuần là Aùm Tinh, Triệt là Không Tinh. Như vậy Tuần tất nhiên nhẹ hơn Triệt. Tuần báo hiệu sự trắc trở, khó khăn còn Triệt báo hiệu sự bế tắc, chướng ngại lớn, sự lụn bại nặng nề.

b) Tuần ảnh hưởng suốt đời, còn Triệt chỉ mạnh cho đến khoảng 30 tuổi, tuổi tam thập nhi lập, tuổi từ đó con người có thể tự lập thân, không còn chịu ảnh hưởng nặng của gia đình.

Trong thời gian 2 sao còn ảnh hưởng, Tuần, Triệt đóng ở bất cứ cung nào đều tiên quyết :

- Gây trở ngại ít hay nhiều cung đó. Mức độ ít hay nhiều tùy thuộc sự tốt, xấu của 2 cung
Phúc mệnh Thân

Điều này có ngoại lệ cho cung Tật sẽ nói đến sau này.

- Tác hóa ít nhiều trên các sao đồng cung. Sự tác hóa này có 2 cường độ : hoặc biến hoàn toàn ý nghĩa của sao(như biến sao xấu thành tốt hay ngược lại) hoặc chỉ giảm ảnh hưởng của các sao (như làm bớt tốt hay bớt xấu).

Tuy nhiên, tác dụng tiên quyết này có 3 ngoại lệ :

a) Nếu chính và phụ tinh tọa thủ vốn xấu mà gặp Tuần hay Triệt thì bớt xấu, có thể trở thành tốt được. Trong trường hợp này, Tuần hay Triệt không hẳn tiên quyết bất lợi cho cung tọa thủ. Dù sao, cần lưu ý rằng ngoại lệ này không tuyệt đối : có thể các sao bị giảm xấu hẳn, có thể chỉ giảm được cái xấu trong một hạn kỳ nào mà thôi, không hẳn tác dụng toàn thời gian.

b) Tuần hay Triệt đóng ở cung Tật rất tốt vì tiên quyết ngăn trở rất nhiều bệnh tật, tai họa lớn cho đường số, bất luận tại cung Tật có sao tốt hay xấu.

c) Tuần, Triệt đóng tại cung vô chính diệu thì lại hay. Nhưng, ảnh hưởng tốt này cũng không tuyệt đối và tùy thuộc mức độ tốt của cung vô chính diệu. Nếu vô chính diệu mà được Tứ Không (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không) thì rất đẹp, đượic Tam Không thì đẹp, được Nhị Không thì tầm thường, còn chỉ Nhất Không thì kém.

Mặt khác, vì Tuần chỉ ảnh hưởng nhẹ và Triệt tuy ảnh hưởng mạnh nhưng ngắn hạn cho nên việc đắc 4,3 hay 2 Không chỉ tốt đẹp trong một thời gian mà Tuần hay Triệt còn hiệu lực, chớ không kéo dài mãi mãi suốt kiếp.

Sau cùng cái tốt nói trên còn lệ thuộc hàm số của Phúc, Mệnh, Thân nên cần phải cân nhắc cẩn thận

Mặc dù Tuần, Triệt chi phối tất cả các sao đồng cung nhưng 2 sao này không phải bất khả xâm phạm : nó vẫn bị các sao kia chi pho61i lại, nhất là chính tính. Có sự ảnh hưởng qua lại 2 chiếu, cho nên kết luận giải đoán chung cuộc chỉ có thể đưa ra sau khi cân nhắc ảnh hưởng 2 chiều đó với hàm số Phúc Mệnh Thân

Cũng vì sự chi phối 2 chiều như vậy cho nên các sao ngộ Triệt Tuần không hòan tòan mất hẳn bản chất và đặc tính mà chỉ biến thể, giảm sút một phần ý nghĩa mà thôi.

XIII/Số giầu có

1. Thiên tướng thủ Mệnh (Điền trạch), Vũ khúc và Thiên lương kề bên.

2. Vũ khúc thủ Mệnh (Tài bạch), Nguyệt ngay bên cạnh.

3. Thiên mã thủ Mệnh, Vũ, Lộc ngay bên. Gặp sinh, vượng càng tốt.

4. Thân cư Điền; Lương và Tướng củng chiếu + không tọa nơi Không vong.

5. Nhật, Nguyệt lâm cung Điền trạch.

6. Thái dương thủ Mệnh tại Ngọ.

7. Nhật Nguyệt giáp Mệnh, không tọa nơi Không vong lại gặp Cát tinh tại bản Cung.

8. “Nhật xuất phù tang”: Nhật Nguyệt thủ Mệnh (Quan lộc) tại cung Mão.

9. Nhật thủ Mệnh tại Hợi.

10.Điền trạch tại Tý, Nguyệt cũng tại đấy.

11. Tử vi thủ Mệnh 2 sao Tả, Hữu giáp bên.

12. “Quần thần khánh hội”: Tử vi, Tả, Hữu cùng thủ Mệnh. Thêm Phủ, Tướng, Vũ, Âm càng tốt.

13. Trước Thiên mã có Lộc tồn, Ấn tinh đồng cung.

14. Khôi Việt tọa Mệnh + Thiên tướng tọa củng.

15. Tham Hỏa thủ Mệnh, cùng cư miếu vượng.

16. Vũ khúc thủ Mệnh tại Mão.

17. 2 sao Quyền, Lộc thủ Mệnh nơi miếu vượng.

18. Tham Hỏa thủ Mệnh cùng cư miếu vượng.

19. Xương, Phúc tương giáp, trong cung Mệnh có Cát tinh + Di, Quan, Tài tam phương Cát tinh củng chiếu.

20. Tử vi thủ Mệnh, trước sau có Nhật, Nguyệt củng chiếu.

*****

 XIV/ Số nghèo khó

8/ Lộc tông, Hóa lộc tọa Mệnh gặp Không, Kiếp.

7/ Tứ sát thủ Mệnh lại thêm Tham, Hình giao hợp và Cát tinh lâm Hãm địa.

6/ Phá quân thủ Mệnh nơi Hãm địa.

5/ Vũ khúc, Liêm trinh cùng thủ cung Mệnh.

4/ Thái dương Thái âm phản bối lại gặp Cự, Âm.

3/ “Mã lạc không vong”: Thiên mã lạc vào Không vong, chủ bôn ba, dù có Lộc tồn xung hợp cũng vô dụng.

2/ “Lộc phùng lưỡng sát”: Lộc tồn tọa Không vong lại gặp Kiếp, Không, Thất sát.

1/ “Sinh bất phùng thời”: Mệnh tọa Không vong gặp Liêm trinh.

 XV/ VẤN ĐỀ GIẢI ĐOÁN VẬN HẠN

Nguyên tắc giải đoán vận hạn

1.Xem sinh khắc giữa cung nhập hạn và chính tinh nhập hạn
Ví dụ: Tử vi (Thổ) an Ngọ (Hoả) – Cự môn (Thuỷ) an Hợi (thuỷ). Cung sinh tinh hay hoà với tinh là được thiên thời.

2.Xem sinh khắc giữa cung nhập hạn và bản mệnh
Ví dụ: Mệnh hoả nhập hạn ở cung dần mão hay tỵ ngọ
Cung sinh mệnh hay hoà với mệnh là được địa lợi.
Nếu mệnh sinh cung như mạng Kim hạn ở Tí là sinh xuất thì mạng bị tiết khí, giảm tốt.
Nếu cung khắc mệnh như mạng mộc hạn đến thân dậu là bị khắc nhập là rất xấu.

3.Xem sinh khắc giữa chính tinh nhập hạn với bản mệnh.
Ví dụ: Mệnh hoả hạn gặp Thái dương hay có Lương là tốt. Vậy tinh sinh mệnh hay hoà với mệnh là được nhân hoà nhưng chính tinh phải miếu vượng và không bị tuần triệt án ngữ. Nếu hãm thì phải có tuần triệt án ngữ mới thành tốt.

Chính tinh tại cung nhập hạn cũng phải phù hợp với chính tinh thủ mệnh nói đơn giản là mệnh ở dương cung hạn đến dương cung mới hợp cách. Tuy nhiên nếu mệnh ở dương, hạn ở âm hay mệnh ở âm hạn ở dương mà chính tinh miếu, vượng, đắc địa và sinh hay hoà với hành của mệnh thì hạn cũng tốt nhưng vẫn phải đề phòng những sự không may, những sự không đắc ý. Ví dụ mệnh hoả cự Tỵ có Thái dương hạn đến cung Tuất có Tham Lang (M) sinh mệnh. Tuy không cùng âm dương, cùng cách nhưng vẫn tốt.

Được cả 3 yếu tố Thiên Thời, Địa lợi, Nhân hoà là đại vận rực rỡ thông thường được hai yếu tố đã phát đạt lắm rồi, nếu được 1 yếu tố đã đủ mãn nguyện. Nếu cả 3 yếu tố đều là vận xấu, đại hạn xấu. Nếu có thêm hung tinh (H) thì là đại hạn thất bại, rủi nhiều hoặc là hạn về với tổ tiên.
Riêng trường hợp không được địa Riêng trường hợp không được địa lợi ta có thể xem cung an thân với hành của cục. Ví dụ: tân tại tí – thuỷ cục là tốt.

4.Sau khi xét chính tinh cần phải xét các trung tinh, hung tinh
Nếu: Nhiều sao đắc cách kể cả hung tinh đắc địa là được hạn tốt. Nếu nhiều sao xấu không đắc cách là hạn xấu. Nếu tốt xấu lẫn lộn thì cân nhắc nếu tốt nhiều hơn, mạnh hơn thì hạn tốt. Nếu xấu nhiều hơn thì hạn xấu. Cần nhớ là các sao chỉ có ảnh hưởng khi đủ bộ, đủ đôi, đủ cách. Nên khi xem đại hạn phải tính sao thủ mệnh để phối hợp với các sao của đại hạn. Ví dụ mệnh có Cơ ở sửu, Đồng ở dậu – hạn đến cung mùi có lương nguyệt ở mão thì có thể đoán theo cách Cơ nguyệt đồng lương. Cần nhớ tính chất các sao về phương diện nào như tử vi có tính cách giải nguy, mang điều may đến, Liêm trinh mang tai nạn đến. Lưu ý đến vai trò Tuần Triệt.

5.Xét các biến cố xẩy ra trong hạn.

Căn cứ vào ý nghĩa các sao trong hạn như phúc tinh thì có quý nhân giúp đỡ, được cứu giải – Quý tinh thì có công danh – Thi cử đậu – tài tinh thì phát đạt tài lộc – Hao tinh thì tán tài. Cần phải xem sự giao lưu của các tinh đẩu có thể tăng giảm sự may rủi.

Hạn ở cung nào các biến cố thường xẩy ra trong phạm vi cung đó. Ví dụ hạn cung phu thê thường là về vấn đề hạnh phúc, ở Tử thì thường liên quan đến con cái, ở điền thường liên quan đến nhà cửa, nơi ăn ỏ…

6.Vai trò các sao nhập hạn

Tử vi là tư tưởng chỉ đạo hành động, Thiên phủ là nền tảng xã hội, Thái âm là nền tảng gia đình, Tham Lang là bản thân
Thiên phủ + Tham Lang + Thiên Không -> nền tảng xã hội đạo đức nhưng có người lợi dụng.
Thái âm (M-V) + Triệt -> Gia đình đảo lộn nhưng vẫn thanh thản
Tham Lang + Tuần -> Sở thích bản thân bị hạn chế
Cự Môn -> Dễ bị ảnh hưởng bên ngoài lôi cuốn
Thiên Tướng – hành động uy nghi dũng mãnh
Thiên Lương – Từ Thiện
Thất Sát – Sát phạt
Phá Quân – Hao tán
Vũ Khúc Cô quản chủ cô đơn lạnh lẽo đơn chiếc nhất là với nữ mệnh, đa sầu đa cảm nhưng với người chưa có chỗ ở thì sao này chủ sắp có nơi ở ổn định do mình tạo lập, lớn hay nhỏ tuỳ theo các trung cát tinh khác hội họp.
Khoa + Quyền Lộc +Tứ Linh rất tốt, nhưng với người thích an nhàn, không cầu danh lợi thì lại vất vả suốt ngày.

Thai Toạ – Tư cách trung hậu, thanh nhà, bề thế, chững chạc nhưng nếu có sao xấu như cô quả kình hình mã hội tụ thì là hạn thanh nhàn nhưng bị xa cách một nơi tức là nằm bệnh viện.
Thai toạ + Tứ linh – Hạn tháo vát rất tốt
Đào Hồng đời sống tình cảm dồi dào, nhiều may mắn trong tình trường nếu không bị xung phá.
Đào Hồng Song hỷ Tả Hữu Khôi Việt – Gạt không hết người yêu
Đào Hồng Thiên Không Hoá Kỵ Không Kiếp Cô Quả Đẩu Quân Thái Tuế Vũ Khúc – Rất vô duyên nên thất bại tình trường
Tử Tham + Tuân hay Triệt + Thiên Không – Hạn không thích tình ái muốn đi tu
Thiên Cơ + Đào Hồng + Thiên Không + Cô Quả – Hạn có thể chết
Khốc Hư chủ bế tắc hiểm ác, Khốc tượng trưng tiếng ồn ào náo nhiệt Hư tượng trưng tâm trạng, không khí thầm lặng u buồn. Khốc Hư chủ hao mòn trong công việc làm ăn.
Thiếu Dương giải được một số tật bệnh tai ách nhỏ có thêm Thái dương (Đ) là tăng thêm sức sáng làm mọi việc hanh thông thuận lợi.
Mệnh có thiếu dương thủ mệnh hoặc tam hợp chiếu là người thông minh, sáng suốt, mềm mỏng, từ thiện nhưng thích được hơn người, lấn át người. Cần có nghị lực cao cả để không vướng vào tội lỗi, không nên khôn ranh quá mà thành thất bại.
Kình Đà – Thân thể
Kình (Đ): Hùng dũng – Kình (H) Tai hoạ
Đà (Đ): Biếu lành – Đà (H): U, biếu có biến chứng gây tổn thương khuôn tật ở bên trong cơ thể, khó trị. Đà (Đ) – u, biếu chữa được.
Hoả Linh – Tinh thần tai hoạ
Không Kiếp – Tinh thần bị u mê, tài sản vật chất mất mát, sức khoẻ suy yếu công danh thăng giáng.

7.Sự liên hệ giữa Mệnh Thân Phúc

Mệnh Thân Tốt, hạn có phát nhẹ, cũng có thể tăng thêm mức phát hơn
Mệnh và Tìa quá kém mà hạn phát tài thì cũng chỉ phát vừa chứ không thể phát lớn được
Mệnh và Phúc quá tốt mà hạn xấu thì chưa phải là hạn yểu vong
Tóm lại Mệnh Thân Phúc Tài Quan gia giảm hạn Tốt xấu.

8.Sự quân bình giữa hạn với mệnh

Mệnh hảo thân hảo hạn hảo: Đáo lão vinh xương
Mệnh suy thân suy hạn suy: Chung thân khất cái (số ăn mày)
Mệnh hảo bất như hạn hảo – Thân hung bất nhược hạn hung
Mệnh bình thường nhưng hạn tốt – như cỏ non gặp mưa
Mệnh xấu, vận xấu: Như cỏ non gặp xương muối – xấu lắm
Mệnh tốt không bằng thân tốt, thân tốt không bằng hạn tốt.
Mệnh tốt thì tiên vận sung sướng, thân tốt thì hậu vận toại nguyện
Mệnh thân cùng tốt mà hạn xấu thì chỉ hạn đó bị vất vả long đong
Mệnh thân cùng xấu mà hạn tốt thì sung sướng đầy đủ nhưng không toàn mỹ – cách “Khô mộc tùng xuân”
Mệnh thân cùng xấu – hạn cũng xấu – Phúc cũng xấu: Hạn xuống dốc không phanh, nhiều tai hoạ, trẻ con người già dễ tử vong.

Lưu ý: Khiđại tiểu hạn rất tốt đẹp và hợp với mệnh thân mà vẫn khốn đốn có khi còn mất mạng nữa chính vì: Mệnh thân quá xấu không đủ sức thâu nhận cái tốt quá mà thành vất vả hoặc chết yểu. Cho nên cái khó của Tử vi là Mệnh Thân và Hạn phải quân bình tương xứng không quá mức.

(Còn tiếp)

9.Sự tương quan giữa các sao ở mệnh thân với các sao ở hạn

Có khi hạn rất tốt mà chẳng ăn thua gì ví dụ: Hạn có Tử phủ vũ tướng, tả hữu, thai toạ, khôi việt, khoa quyền lộc mà vẫn lận đận, bất đắc chí chỉ vì mệnh thân có Phá quân không kiếp kình đà tức những hung sát tinh gian manh, thủ đoạn không thể hoà hợp được với các nhóm sao quí phái quân tử. Trường hợp này nếu hạn có Thất sát, Hoả linh thì dễ thành công hơn vì hai nhóm sao mệnh thân và hạn ngang hàng tương xứng.

Cũng có nhiều trường hợp không cần đến sự ngang hàng tương xứng mà cần các sao thành bộ, thành cách tức là đủ năng lực: Ví dụ mệnh có Long Phương hạn gặp Hổ Cái thành đủ bộ Tứ Linh – Mệnh có Tử phủ Vũ Tướng thì hạn cần có Tả hữu, Xương Khúc Khôi Việt Khoa Quyền Lộc để thành cách “Quân thần khánh hội” Mệnh Sát Phá Liêm Tham” hay Tham Vũ cần hạn có Không Kiếp (M) ở Tỵ Hợi hay Kình Đà (M-V) hỗ trợ mới hay chứ Khôi Việt Thai Toạ lại không hợp cách với nhóm hung tinh nên nhiều khi gặp trở ngại.

Lại có khi hạn có nhiều sao tốt đẹp mà vẫn không hanh thông, chỉ vì sao không đủ bộ nên chưa hoạt động được, ví dụ: Có Khoa Quyền thiếu Lộc, có xương thiếu khúc, có khôi thiếu Việt, Có tả thiếu hữu, Có Phượng thiếu Long… cho nên trong xã hội có người có quý mà không có phú, có người có phú mà không có hạnh phúc chỉ vì nhóm sao hay cách chưa đủ bộ ở mệnh cũng như ở đại tiểu hạn.

Những trường hợp thiếu này ta có thể tìm sao thay thế như Lộc tồn thay Hoá Lộc, Thanh Long thay Long trì, Thiên Không thay Địa không, Kiếp Sát thay địa kiếp.

Tóm lại: Việc giải đoán hạn cần nhận định sự tương ứng để xét đoán tốt, xấu chứ không căn cứ vào đặc tính tốt xấu của sao. Trở lại ví dụ trên hạn có Tử phủ Vũ Tướng nếu mất Khoa quyền Lộc và bị gò bó bởi hai sao Tuần Triệt thì cát tinh tả Hữu Thai Toạ Khôi Việt không đàn áp nổi nhóm hung tinh ở mệnh thân nên đành để chúng hoành hành.

Tử vi tối kỵ tuần triệt nên cách Tử Phủ Vũ Tướng bị Tuần Triệt là xấu nhưng cũng có khi lại tốt, ví dụ: Một người ốm liệt giường chỉ chờ chết nếu đại hạn của người này có Tuần Triệt mà chỉ hơi xấu thì chưa chết được mà phải chờ đến khi hạn cso Quan, Phúc Khôi Việt Tả Hữu Khoa QUyền Lộc Đào Hồng Song Hỷ mới được giải thoát, nhưng nếu bệnh mới đau ít ngày mà gập đại tiểu hạn thật xấu thì có thể hết số.

Mệnh Thân có Tử Phủ Vũ Tướng cách tối kỵ hạn gặp Không Kiếp
Mệnh Thân có Sát Phá Liêm Tham cách tối kỵ hạn gặp Tuần Triệt
Mệnh Thân có Cơ Nguyệt Đồng lương cách tối kỵ hạn gặp Hoả Linh
Mệnh Thân có Nhật Nguyệt cách tối kỵ hạn gặp Kình Đà

Mệnh có Hoả Linh gặp hạn có Việt Hình dễ gặp tai nạn điện lửa sấm sét nguy hiểm hay không còn tuỳ thuộc ở các chính tinh và sao cứu giải.

Mệnh có Mã Tang Hổ gặp hạn ở cung Ách có khốc hư Không Kiếp Hoả Linh dễ bị ho lao hay hen suyễn

Các hung tinh bại tinh phải cân nhắc (M-V-Đ-H) mới phaâ định được tốt xấu.
Hạn gặp Hinh, Hoa, Bại tinh nhiều hơn cát tinh nếu không có Tuần Triệt:

Mệnh VCD – Giảm thọ
Quan VCD – Công danh bất hiển
Tài VCD – Nghèo túng
Phúc VCD – Phúc giảm, kém

Thời gian ứng nghiệm

Mệnh Dương nam Âm nữ hạn gặp nam đẩu tinh – ứng nửa đầu đại hạn hay nửa đầu tiểu hạn.
Mệnh Dương Nữ, Âm nam hạn gặp bắc đẩu tinh – ứng nửa đầu đại hạn hay nửa đầu tiểu hạn.
Mệnh Dương Nam – Âm nữ hạn gặp Bắc đẩu tinh – ứng nửa cuối đại hạn hay nửa cuối tiểu hạn
Mệnh Dương nũ Âm nam gặp hạn Nam đẩu tinh – ứng nửa cuối đại hạn hay nửa cuối tiểu hạn.
Mệnh thân có sẵn hung tinh cư chiếu, hạn gặp thêm hung sát tinh và các sao lưu xấu hội tụ thêm vào hạn thì cần đề phòng những tai ách sắp xẩy ra.

10.Những cung lâm hạn kỵ với chi tuổi:

Tuổi Tí – Hạn xấu ở cung dần thân – nhiều tai ách nặng nề
Tuổi Sửu – Hạn xấu ở cung Sửu Ngọ và cung có Thất Sát – Nhiều nguy hiểm nặng
Tuổi Dần – Mão – Hạn xấu ở cung Tỵ Hợi
Tuổi Thìn – Hạn xấu ở La Võng và cung an thân – tai ách, bệnh tật, nguy hiểm.
Tuổi Tỵ – Hạn xấu ở cung Tỵ và cung an thân – Tai cách, bệnh tật nguy hiểm.
Tuổi Mùi – Hạn xấu ở cung dậu, hợi và cung có Kình Đà
Tuổi Thân – Hnạ xấu ở Ngọ và các cung có Linh Hoả
Tuổi Dậu – hạn xấu ở các cung cso Kình Đà
Tuổi Tuất – xấu ở các cung La Võng, Cung Tỵ, Cung Tỵ, Cung An Thân và cung có Kình Đà, Thiên Không, Địa Không – Hạn rất nặng
Tuổi Hợi – hạn xấu ở cung Tỵ – Cung có Kình Đà, Thiên Không, Địa Không – hạn rất nặng.

Tiểu Hạn

Đại hạn cũng như tiểu hạn đều phải xem

Xem cung chính, xung chiếu, 2 cung tam hợp, nhị hợp
Tiểu hạn là giai đoạn 1 năm của đại hạn nên phải căn cứ vào gốc đại hạn chứ không phải năm Tí nào cũng giống nhau. Gốc đại hạn hướng về công danh thì tiểu hạn cũng hướng về công danh. Gốc đại hạn hướng về tài lộc thì tiểu hạn cũng hướng về tài lộc.

Như vậy tiểu hạn phụ thuộc vào đại hạn và cũng phụ thuộc vào mệnh thân phúc nên một trong những cách đoán tiểu hạn là nhập các sao của tiểu hạn vào đại hạn.
Tiểu hạn ở cung nào ảnh hưởng ngay vào cung đó nhiều

Tiểu hạn vào năm tuổi, tốt thì tốt hơn các năm khác, xấu thì xấu hơn các năm khác nhất là đại tiểu hạn trùng phùng. Thông thường năm tuổi là năm có sự bất mãn.
Xem tiểu hạn cũng phải lưu ý đến CAN CHI của năm hạn so với tuổi có vào năm Thiên khắc địa xung hay xung kỵ hợp phá.

Thông thương phải xem kỹ các sao lưu mỗi năm, các sao này cũng có thời gian hợp với ngũ hành mới hoạt động chứ không hoạt động suốt năm sao thuộc Mộc hợp tháng 1-2; sao thuộc hoả hợp tháng 4-5, sao thuộc kim tháng 7-8, sao thuộc thuỷ hợp tháng 10-11, sao thuộc thổ hợp tháng 3-6-9-12. Cũng cần nhớ so sánh ngũ hành của sao với cung để tìm hiểu cường độ hoạt động của sao. Ví dụ: Ở cung Tí các sao thuỷ và mộc được khởi sắc, các sao kim bị suy nhược, các sao Thổ bị suy nhược, các sao hoả kém hiệu lực.

Cách suy đoán tiểu hạn một năm – Nguyên Lý giải đoán

1.Xem sinh khắc giữa cung mệnh nhập hạn và chính tinh nhập hạn

2.Xem sinh khắc giữa cung nhập hạn và bản mệnh, xem có được địa lợi không? Mệnh khắc cung hạn cũng xấu, cung hạn khắc mệnh thì xấu nhất.

3.Xem sinh khắc giữa chính tinh nhập hạn và mệnh: Chính tinh nhập hạn cùng hành hay sinh hành bản mệnh thì tốt. Mệnh sinh chính tinh nhập hạn thì bình thường, Chính tinh nhập hạn khắc mệnh là xấu nhất. Mệnh khắc chính tinh nhập hạn thì chính tinh nhập hạn không ảnh hưởng gì.
Ví dụ: Mệnh Hoả gặp tiểu hạn có Vũ Khúc (Kim) thì chẳng thể phát tài trường hợp này cũng phải xem các trung tinh, bàng tinh, cùng hành hay sinh mệnh để có những giải đoán tốt.

4.Xem chiín tinh nhập hạn có (M, V, Đ). Nếu (H) thì cần có Tuần Triệt án ngữ, chính tinh phải cùng nhóm với chính tinh thủ mệnh.

Có 3 nhóm:

Nhóm Tử Phủ gồm Tử Phủ, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật
Nhóm Vũ Tướng
Nhóm Sát Phá Liêm Tham và Sát bại tinh
Mệnh và cung tiểu hạn gặp sao sáng sủa cùng một nhóm thì hạn tốt đẹp.

Mệnh có sao sáng sủa nhóm Tử Phủ – Hnạ gặp sao sáng sủa nhóm Sát Phá Tham thì cũng khá tốt nhưng trong cái may lại có cái rủi bất kỳ, ngoại trừ tuổi Kỷ thì không sao.

Mệnh có sao sáng sủa nhóm Sát Phá Liêm Tham hạn gặp sao sáng sủa nhóm Tử Phủ cũng khá tốt nhưng nếu nhóm Tử Phủ mờ xấu làm gì cũng thất bại là chuyện bình thường.
Mệnh có Vũ Tướng tốt đẹp hạn gặp sao sáng sủa của nhóm Tử Phủ hay Sát Phá Tham thì rất đẹp và nếu nhóm Tử Phủ hay Sát Phá Tham có mờ ám xấu cũng không đáng ngại.

Mệnh có nhóm Tử Phủ hay Sát Phá Tham sáng đẹp gặp nhóm Vũ Tướng sáng sủa thì rất tốt đẹp. Còn nếu Vũ Tướng Mờ ám cũng không lo ngại

Hnạ gặp nhóm Sát Phá Tham hãm (H) xấu nhưng nếu có sát bại tinh đắc cách thì cũng tốt vì sát bại tinh phù trợ cho nhóm sát phá tham.

Mệnh Vô chính diệu (VCD) gặp sao sáng đẹp của Sát Phá Tham thị hạn tốt hơn gặp nhóm Tử Phủ.

Mệnh Vô Chính Diệu hạn gặp Vô Chính Diệu thì rất xấu trừ khi có Tuần Triệt án ngữ ở mệnh hay hạn thì lại tốt đẹp.

Nói chung: Chính tinh nhập hạn (M-V) thì may mắn, tài lộc vượng. Chính tinh nhập hạn hãm (H) thì nhiều rủi ro, tài lộc suy yếu.

Nam đẩu tinh hợp dương nam âm nữ, bắc đẩu tinh hợp Âm nam, dương nữ.

5.Xem chính chinh, xem các trung tinh hội tụ tại hạn, nếu đa số tốt đẹp thì là hạn tốt – đa số hãm xấu thì là hạn xấu.

6.Chính tinh và trung tinh, bàng tinh cũng cần được so sánh ngũ hành với hội cục của tiểu hạn. Ví dụ tiểu hạn năm Tỵ Dậu Sửu thuộc hội cục Kim thì Kim khắc Mộc, tiểu hạn năm Thân Tí thìn hội cục Tuỷ thì thuỷ khắc hoả etc.

Những sao bị khắc thì hoá tức là phát động, vùng lên làm cho năm đó (tiểu hạn đó) bị chi phối bởi sự vùng lên của các sao đó rất mạnh. Và những sao bị khắc phải đoán theo tính chất Hoá của nó. Ví dụ Liêm trinh hoá là Tù tinh tức là bị bó buộc không phát được chứ không đoán là liêm khiết. Tham Lang hoá thành đào hoa tinh.

7.Tiểu hạn dù tốt đến đâu mà gặp hạn xung (năm xung) cũng thường xẩy ra những sự chẳng lành như: Thị Phi, Khẩu Thiệt, đau yếu. Nếu lại thêm hung tinh không hợp tuổi thì lại càng nguy hiểm vì có thể xẩy ra hình thương, tang tóc. Tuy vậy nếu có nhiều sao cứu giải thì tai ương được giảm thiểu hoặc có thể tai qua nạn khỏi.

8.Can của năm tiểu hạn có ảnh hưởng đến các Bộ chính tinh như sau:

Năm Giáp kỷ – hạn Tử phủ Vũ Tướng – Tài lộc bột phát
Năm Ất Bính Đinh Nhâm – Hnạ có Cơ Nguyệt Đồng Lương – Nhiều tiến triển tốt
Năm Mậu Quý – Hạn Sát Phá Lieê Tham – Tốt
Năm Canh Tân – Hạn Cự Nhật – Tốt
Năm Đinh Canh- Hạn Nhật Nguyệt – Tốt
Năm Ất Nhâm – Hnạ Cơ Lương – Tốt
Năm Ất Tân – Hnạ Cơ Cự – Tốt

9.Xem hung cát gốc đại hạn 10 năm

Đại hạn là gốc, tiểu hạn dù tốt hay xấu cũng chỉ tăng giảm 10-15%. Đại hạn tốt mà lưu hạn xấu thì tiểu hạn đợưc giảm xấu, không đáng lo ngại. Đại hạn xấu mà tiểu hạn tốt thì tiểu hạn bị giảm tốt chứ không nên mừng nhiều. Như vậy phải cộng những sao tốt và xấu cảu đại hạn gốc vào tiểu hạn. Thấy nhiều tốt là tốt, nhiều xấu là xấu. Nghĩa là có sự bù trừ tốt xấu giữa đại hạn và tiểu hạn.

Nguyên tắc này cũng áp dụng cho xem nhật, nguyệt, thời hạn.

Nếu đại hạn có cát tinh (M, V, Đ) và không bị lục đại sát tinh thì chủ 10 năm được yên tĩnh, an
lành, công danh, tiền bạc mỹ mãn. Nếu đại hạn có sẵn hung sát tinh thì lúc thành lúc bại bất nhất. Nếu đại hạn có những sao chiếu bị lạc hãm như Kình Đà cố định, Kình Đà Lưu, Không Kiếp – Hoả Linh và thêm ác sat tinh hội chiếu tiểu hạn bị hung sát tinh là bị bệnh tật, quan tụng, tai nạn, nặng hơn là tang tóc, tử vong.

Đại hạn có nhiều cát tinh thì không gặp tai ách, nếu ít sao tốt mà lại nhiều sát tinh thì càng nhiều tai ách hại người, hại của.

Đại hạn ở các cung Mão, Dậu – Thìn Tuất Sửu Mùi gặp các ác tinh như Liêm Trinh, Lục sát tinh, Hình Kỵ Thương Sứ chủ về đam mê tửu sắc, phân ly, tán tài, làm ăn thất bại nhưng nếu gặp Tả Hữu Xương Khúc thì công danh thăng tiến, buôn bán làm ăn phát đạt, thêm người thêm của. Nữ mệnh gặp hạn này có hỷ tín.

Đại Tiểu hạn rất sợ gặp Thái Tuế gặp Thương Sứ hay giáp không kiếp – lại cũng sợ đến cung Kình Đà xung chiếu e gặp tai biến nặng nề. Lại cũng sợ Kình Đà không Kiếp thương sứ đều giáp. Các trường hợp này nếu có tuần triệt thì giải cứu được đến 90%. Nếu không có tuần triệt thì cần có thọ tinh ở mệnh như Tử vi Thiên Lương Thiên Đồng Tham Lang có thể cứu giải được. Đại Tiểu hạn rất sợ gặp Thái Tuế gặp Thương Sứ hay giáp không kiếp – lại cũng sợ đến cung Kình Đà xung chiếu e gặp tai biến nặng nề. Lại cũng sợ Kình Đà không Kiếp thương sứ đều giáp. Các trường hợp này nếu có tuần triệt thì giải cứu được đến 90%. Nếu không có tuần triệt thì cần có thọ tinh ở mệnh như Tử vi Thiên Lương Thiên Đồng Tham Lang có thể cứu giải được.

Đại hạn ở các cung Tí Ngọ Dần Thân Tỵ Hợi gặp Tử Vi Thiên Phủ Thiên Đồng Nhật Nguyệt, Xương Khúc Lộc Tồn – Hoá Lộc, cát tinh chủ về tài lộc hưng vượng.

Đại hạn có Thái tuế gặp Thiên Không, Địa Kiếp hay Kình Đà hay đại hạn tại cung Sửu có thương sứ giáp hai bên mà mệnh có Kình Đà rất đáng ngại.

Tiểu hạn gặp nhiều ác sát tinh hoặc có nhật hay nguyệt gặp 1, 2 hung tinh hay bị lục sát gia thêm Hoá Kỵ thì công chức gặp nhiều lủng củng trong công việc. Thường dân thì gặp lôi thôi lui tới công môn, người có bệnh thì trở nên nguy kịch, đàn bà có thai e bị sẩy thai. Nếu ác sát tinh lại lạc hãm thì tai ách đến nhanh như Vũ Bão – Nếu cả đại tiểu hạn đều không có sao cứu giả – Mệnh Thân cũng không có cứu tinh thì mạng như ngọn đèn trước gió.

Thái Tuế gặp Tướng quân – Trực Phù – Thương Sứ – Lục sát tinh – Hình Kỵ chủ hao tán tiền của, bệnh hoạ, làm ăn thất bại, sinh ly tử biệt là triệu chứng hung hại và lo buồn.

Ngoài ra cần nhớ 1 ví dụ sau: Đại hạn có địa không vẫn làm ăn tấn tới, phải chờ đến tiểu hạn có địa kiếp thì năm ấy mới bị lường gạt, trộm cắp, tai hoạ do không kiếp gây ra.

10. Xem lưu đại hạn

Lưu đại hạn giúp khắc chế đại hạn và cho biết ảnh hưởng của vận hạn trong năm đó thế nào. Vậy phải nhập cả cung lưu đại hạn với tiểu hạn mà đoán. Xem Lưu đại hạn cũng xem cung chính và 3 cung xung hợp chiếu.

Lưu đại hạn tác động như sau:

Thuỷ: Nuôi dưỡng Nhu Thuận Kín Đáo
Mộc: Vươn lên, thích học hỏi, cầu tiến, trẻ trung
Kim: Cứng Rắn, Thủ Cựu, Cô đơn, Biển Lận, Sắp suy tàn
Thổ: Khoan hoà đức độ

Hoả: Phát nhanh

Tóm lại: Tiểu hạn cho biết những biến cố trong năm phải tuỳ thuộc vào gốc đại hạn, Lưu đại hạn và các cung mệnh thân quan tài phúc.
Ví dụ: Tiểu hạn thật tốt về công danh nhưng quan lộc không tốt về công danh đại hạn cũng không phải về công danh thì công danh trong năm tiểu hạn cũng khó khăn hay chỉ có công danh nhỏ. Tóm lại: Tiểu hạn xấu nhưng đại hạn tốt, lưu đại hạn cũng tốt thì không có gì phải lo ngại.

11.Sao Lưu và ảnh hưởng:

Ngoài ảnh hưởng của gốc đại hạn, Lưu đại hạn, Tiểu hạn còn chịu ảnh hưởng của những sao lưu động không có ghi trong lá số và vị trí thay đổi mỗi năm của nó.
Các sao lưu gồm có: Các sao vòng Tràng Sinh , Vòng Lộc Tồn và Vòng Thái Tuế. Các sao này có đặc tính đem lại sự may mắn hay gây tai hoạ cuộc đời trong năm bình an hay sáo động do nhóm phi tinh này quyết định ngoài việc đem lại cho đương số sự tốt xấu các sao lưu động cũng thường gây biến cố liên quan đến phạm vi cung nó an trong năm.
Ví dụ: Lưu Kình ở Quan lộc thì có thể mất chức, hỏng công việc. Tai nạn về công vụ, về công việc làm ăn. Nhưng nên nhớ các phi tinh chỉ tính cho tiểu hạn mà thôi. (Các sao lưu đóng trong tiểu hạn)

NÓI THÊ VỀ CÁCH XEM ĐẠI, TIỂU HẠN:

Giải đoán ĐẠI-TIỂU HẠN ! Moi moi ng xem

Người đăng: mannysong8899 00:12, 06/08/11

Trên bước đường nghiên cứu và học hỏi về Tử-Vi, tôi có thể nói rằng việc giải đóan vận hạn (tức là Đại Tiểu Hạn) khó khăn, phức tạp, nhất là vì ta phải cân nhắc và phối hợp qúa nhiều yếu tố, mặc dầu trong nhiều sách số có bàn tới khía cạnh này, nhưng tôi rất tiếc là hơi tổng quát và không được rõ ràng. Thực vậy, nếu cứ tra trong sách thì Đại Tiểu hạn gặp sao này bị hạn, gặp sao kia phát tài, hoặc Đại hạn nhiều sao tốt hơn sao xấu là tốt, hoặc Đại hạn xấu mà Tiểu hạn tốt cũng không hay … như thế chúng ta làm sao có thể đi tới kết luận và như thế cũng qúa giản dị, dễ dàng và thiếu linh họat, uyển chuyển, trái hẳn với tinh thần Tử-vi.Vi vậy tôi cố gằng thử triển khai cách giải đóan Đại Tiểu hạn (trong bài này tôi không đề cập đến Nguyệt và Nhật Hạn vì đi qúa sâu vào chi tiết rất khó khăn, dễ sai lầm và dễ bị thất vọng) nhưng sẽ bỏ qua những nguyên tắc thường được các sách nêu ra để cho khỏi rườm rà.
I/- ĐẠI HẠN :Nếu so sánh với Tiểu hạn thì Đại Hạn dễ giải đóan hơn nhiều. Vì Đại hạn bao trùm chu kỳ 10 năm, do đó tổng quát hơn và nhất là các Đại hạn không bao giờ giống nhau, vì mỗi Đại hạn ở một cung không trùng nhau như Tiểu hạn (vì Tiểu hạn cứ 12 năm lại trở về cung trước). Tuy nhiên khi so sánh với cách giải đóan tổng quát Mệnh, Thân thì Đại hạn vẫn khó tìm hiểu vô cùng.Nói chung, khi giải đóan Đại hạn qúy bạn nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự ) :- Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của Đại hạn.
- Tương quan giữa ngũ hành của bản Mệnh (hoặc Cục) và ngũ hành của cung nhập Đại hạn,
- Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam Đẩu hoặc Bắc Đẩu tinh
- Phối hợp cung Phúc Đức với Đại hạn.
- Phối hợp cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra trong Đại hạn (nếu cần)
- Khác ( Nếu có)* Ghi chú :

– Nam đẩu tinh gồm có các sao : Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất sát, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ.
– Bắc đẩu tinh gồm có các sao : Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân.
– Riêng Sao Tử-Vi : vừa Nam đẩu tinh & Bắc đẩu tinh

Lẽ tất nhiên qúy bạn phải xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra, vì các sách đã có bàn tới, ngòai những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ cụ thể để qúy bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây :

1- Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao, hoặc nhóm Sao của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết Tử-vi thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH, THÂN.

Ví dụ : như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều trở ngại, mâu thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ? Còn như Mệnh, Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi, với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp.

Ngòai ra còn cần phải xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu đại hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh là Tham Lang.

2- Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục (nếu quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không phải tương hòa, nghĩa là cùng một hành ( có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi nhất), còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập tức là Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả, nhưng mình vẫn khắc phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.

Ví dụ : Mạng của mình là Thủy đi đến Đại hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước. Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ …. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc thì có khi lại khổ về tiền tài.

3- Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam Đẩu Tinh ứng về 05 năm sau của Đại hạn, còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế nào.

Tôi xin cử một Ví dụ : Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái. Đại hạn có Tham Lang, Thiên Riêu, Hồng Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương số sống trong giai đọan rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh ) thì các sao phụ đó lại phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu, mà nhiều sách đã nói tới nhiều rồi …)

4- Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn cần xét đến cung Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ biểu tượng đơn thuần về Âm Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả giòng họ nội của mình, vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị coi như là nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.

Ví dụ như một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái … hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …! , nhưng nếu cung Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn là cùng.

5- Điểm sau chót qúy bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải đóan trong Đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới xét tới, vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .

Ví dụ : Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong Đại hạn đương diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân, Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn, Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa, Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp trường hợp cung Tử-Tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu, thì gặp Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một không chừng !?..

6- Lưu Đại hạn hàng năm : Lưu Đại hạn là một cung cho biết cái của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc Đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng Đại hạn giống như cỗ xe, và Lưu Đại hạn giống như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, nhưng cũng còn tuỳ theo người tài xế hay, dở thế nào. Vậy phải nhập cả cung Lưu Đại hạn vào mà đoán. Xem Lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 cung xung chiếu, nhị hợp …

* Cách Lưu Đại hạn hàng năm : Bạn đọc tham khảo các sách Tử vi (tôi không nhắc lại)

* Như vậy, muốn đoán Tiểu hạn ta phải xem gốc Đại hạn, Lưu Đại hạn và cung của Tiểu hạn. Ba yếu tố này kết hợp với nhau mà đoán.

XVI/ MỘT SỐ VẤN ĐỀ DỰ ĐOÁN KHÁC 

1/ Phàm nam, nữ sinh giờ dương (Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất), Mệnh cũng an tại cung dương HOẶC sinh giờ âm, Mệnh cũng an tại cung âm: Tốt lành. Ngược lại thường xấu.

2/ Trẻ sinh giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu: Đầu có 1 khoáy lệch bên TRÁI. Trẻ sinh giờ Dần, Thâ, Tị, Hợi: có 1 khoáy lệch bên PHẢI. Trẻ sinh giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi: có 2 khoáy.

HẾT

Clip tổng hợp 5 màn thể hiện sự nghịch ngợm đến mức dại dột của các chàng trai.

http://farm.vtc.vn/media/vtcnews/resources/swf/flv/flvplayer.swf

Clip tổng hợp 5 gã trai nghịch dại nhất quả đất (tiếp theo).

http://farm.vtc.vn/media/vtcnews/resources/swf/flv/flvplayer.swf

 

***************

MỚI: Trong quá trình nghiên cứu áp dụng khoa Tử vi, mời Quý vị thư dãn đọc bài viết dưới đây và thử kiểm tra tính đúng đắn của bài viết (NQCC sưu tầm):

Tìm hiểu con số định mệnh qua Họ và Tên (1 đến 9)

Các con số 1, 2, 3, 4, 5…. 9 được thể hiện cùng với những chữ cái dưới đây sẽ cho bạn biết ý nghĩa con số định mệnh của bạn.

Đầu tiên là bảng tính (số của từng chữ cái):

1

2

3

4

5

6

7

8

9

A

B

C

D

E

F

G

H

I

J

K

L

M

N

O

P

Q

R

S

T

U

V

W

X

Y

Z

Bây giờ bạn lấy họ và tên mình ghép lại với các con số nhá, cách tính cũng đon giản thôi, tính để ra số có một chữ số 1 -> 9.

VD: Nguyễn Hoàng Bảo Duy, như vậy là: (5+7+3+7+5+5) + (8+6+1+5+7) + (2+1+6) + (4+3+7) = 82. 82 tức là 8+2=10. 10 là 1+0 = 1. Như vậy con số định mệnh của Duy sẽ là số 1.

Và đây là ý nghĩa của các con số sau khi đã tính toán từ họ tên của bạn đó!

SỐ 1:

Số 1 tương đương với viên Phán Quan (The Magiaan) ở bài bói Tarot. Số 1 đồng hóa với Thái Dương Tinh, nguồn gốc của mọi năng lượng. George Washington, Karl Marx, và Napoleon Bonaparte thuộc loại người mang số 1.

Tính tình & nhân cách

Ưa thám sát, mạo hiểm, khám phá, tìm tòi và sáng chế. Cứng đầu, ý chí mạnh mẽ, tự quyết, tự lập, tự hào. Có óc tổ chức, lãnh đạo. Rất khó bị thuyết phục, khó sửa đổi những lầm lỗi, và chỉ huy độc đoán. Bản tính rộng rãi, đại lượng, nhưng vì nhiều tham vọng nên dễ trở thành ích kỷ, tàn nhẫn, bất chấp. Làm việc đúng đường hướng thì kết quả rất tốt vì nhiều nhiệt huyết và cương quyết. Nhưng nếu sai lạc thì rất thảm hại. Con người xuất chúng, tinh thần rất cao.

Thường nổi bật và gây ấn tượng tốt đẹp ngay lúc đầu. Có tài thuyết phục người chung quanh. Thích hoạt động, bận rộn và xê dịch đó đây. Tế nhị và dễ dàng xúc cảm. Được nhiều người mến phục mặc dầu hơi thiếu xã giao. Có nhiều bạn bè và sẵn sàng giúp đỡ họ mà không ngần ngại điều gì. Đối với kẻ thù, người số 1 không bao giờ tha thứ hoặc quên đi dễ dàng một lỗi lầm nhỏ nào. Do đó có thể trở thành rất tàn nhẫn. Rất nặng về tình cảm và rất dễ đau khổ. Thường che giấu cảm nghĩ thầm kín, ít cho mọi người biết tâm trạng mình dù là bạn bè, thân quyến.

Công việc, năng khiếu & tiền bạc

Dễ thành công trong công việc điều khiển và quản trị hơn là trong địa hạt nghệ thuật. Dễ thành công nếu là giám đốc sản xuất, kỹ thuật hơn là tài tử.

Làm chủ báo thích hợp hơn là ký giả. Thành công trong các ngành khoa học, nhất là về khảo cứu, sáng chế, và phát minh. Với óc chỉ huy, tính cương quyết và nhiều tham vọng nên dễ đạt được kết quả trong việc làm. Làm việc có lương tâm nhưng ít thành công. Nếu làm công cho người khác rất dễ có sự va chạm với chủ nhân vì lúc nào cũng nghĩ là mình phải.

Dễ bị người khác ghét và có kẻ thù vì cứng rắn, muốn làm nhanh, làm mạnh. Nếu là chủ nhân dễ gây hứng thú vì cá tính đặc biệt, nhiều sáng kiến và chỉ dẫn hoặc huấn luyện rất hay.

Về tiền bạc, người số 1 dễ giàu mà cũng dễ bị đói rách. Dễ kiếm tiền mà cũng dễ mất tiền. Dễ mắc công nợ vì dám chi tiêu vào bất cứ việc nào cho là hợp lý. Dám đầu tư vào các công việc liều lĩnh: “được ăn cả ngã về không.”

Người mang số 1 cần phải học tính cẩn thận. Rất dễ phiêu lưu trong vấn đề tiền bạc có thể đưa tới sự phá sản.

Những người làm công hoàn toàn vì tiền thôi thì không nên chọn người chủ mang số 1.

Tình duyên
Khi chọn bạn, luôn luôn chọn người mà họ chi phối được. Họ càng gần gũi người nào bao nhiêu thì họ càng có khuynh hướng muốn chỉ huy bấy nhiêu. Rất thụ cảm với tình yêu nhưng cũng lại dễ tiêu tan. Muốn chiếm độc quyền tình cảm và rất cả ghen!

Vì bản tính chinh phục nên thích hợp với người có bản tính hiền dịu của số 2 hoặc số 6. Sau đó là các số 3 và 4.

Có thể sung sướng với số 5 hay 7.

Kết hợp với người số 1 khác hoặc số 8 hay 9 có thể gây bất hòa, sóng gió cho cả đôi bên.

SỐ 2:

Số 2 tượng trưng cho sự hòa nhã, ngọt ngào, sẵn sàng giúp đỡ và xã giao khéo léo. Liên hệ với mặt trăng. Tương đương với High Priestess, ái nữ Thổ Tinh, một thiếu nữ đang ngồi tiêu biểu cho quyền năng thiêng liêng, huyền bí và mọi sự bí mật trong cuộc đời đều chỉ khám phá bằng sự thông minh của trí óc và mọi sự hiểu biết đều có sự hỗ trợ của ý chí cương quyết.

Tính tình & nhân cách

Rất tế nhị trong việc giao thiệp, biết xét đoán những người khác. Cộng tác ngoan ngoãn với người khác hơn là lãnh đạo họ.

Thích sự quen thuộc thân mật yên ổn hơn là muốn ra sao thì ra, hơn là cái gì mới lạ quá. Thường trầm lặng, dè dặt, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi hành động.

Thích sự hòa thuận cộng tác. Không ưa cãi cọ, xích mích. Vì vậy không thể tin tưởng hoàn toàn vào sự thành công của họ. Dễ thất vọng, chán nản, lo nghĩ nếu gặp những chuyện không vui.

Nếu xử dụng đúng chỗ, tính lịch thiệp sẽ đem lại nhiều kết quả không ngờ. Nếu không dùng đúng chỗ có thể xảy ra chuyện bất hòa.

Dễ bị sự chi phối bởi tình cảm hơn là lý trí. Lãng mạn. Dễ xúc cảm. Hòa nhã. Tuy có vẻ thản nhiên trầm lặng bên ngoài, thật ra có nhiều khi “cười bên ngoài mặt, khóc thầm bên trong.”

Khi vui thì thật là vui, khi buồn thật buồn. Rất dễ gây tình bạn, ít đòi hỏi ở người khác, nhưng lại không phải là người ưa sống tập thể. Không thích là trung tâm vũ trụ, không thích làm mọi người chú ý.

Thích là khán giả hơn là làm diễn viên. Chịu khó làm việc hăng hái, vì vậy dễ đem lại thành công cho các việc tổ chức. Ít khi mất bình tĩnh. Khi đau khổ hay giận dữ thường có tính thâm trầm, ngậm đắng nuốt cay hơn là bộc phát.

Ưa hòa bình, thích phục sức trang điểm và sống nhiều về tình cảm.

Công việc, năng khiếu & tiền bạc

Có óc sáng kiến và tưởng tượng nhưng có khả năng nhiều trong công việc người thừa hành hơn là cấp chỉ huy, cộng tác hơn là tranh chấp. Chẳng hạn làm diễn viên giỏi hơn làm đạo diễn, chơi nhạc hay hơn soạn nhạc. Dễ thành công trong những việc đòi hỏi sự tế nhị như giao dịch, nhất là các nghề về tâm lý học, xã hội học, cố vấn, phụ tá, thư ký vì dễ đem lại tình cảm cho những kẻ bị bối rối, đau khổ, bệnh tật.

Các ngành thích hợp khác là dạy học, nghiên cứu y khoa, kế toán. Là nhân viên cộng tác chân thành, đắc lực, tín cẩn, và có lương tâm. Ít gặp sự may mắn trên đường công danh. Ít đòi hỏi, cam phận thủ thường, thiếu tinh thần tranh đấu. Nếu là chủ nhân, rất dễ chịu, ít ra lệnh, ít thúc đẩy thuộc hạ nên không có kết quả mỹ mãn.

Tiêu tiền rất hợp lý và chắc chắn. Ít phung phí trừ trường hợp đối với người yêu. Ghét nợ nần, thường dành dụm từng đồng. Kinh doanh những việc chắc ăn như bắp nhưng ít lời. Không dám liều lĩnh, không có đầu óc đầu cơ. Vì mềm yếu, dễ bị bạn bè lợi dụng, vay mượn, ngược lại rất ngại ngùng khi vay mượn người khác.

Tình duyên

Là bạn đời lý tưởng và nhiều khía cạnh, chan chứa tình thương yêu và sẵn sàng với người yêu. Người vợ số 2 thường tìm đủ mọi cách để đem lại hạnh phúc cho chồng, dù phải hy sinh nhiều, giúp đỡ chồng rất nhiều.

Người chồng số 2 rất hòa nhã, dễ thương, ít đòi hỏi hoặc độc đoán, lại còn có thể bị các bà chi phối vì quá nể nang. Cần phải lưu ý đừng để khuynh hướng lãng mạn chi phối tính tốt bản nhiên vì họ mềm yếu về tình yêu.

Cần phải nhận thức là: thực tế cũng quan trọng như lãng mạn. Kết bạn trăm năm được với các số khác. Tuy nhiên muốn có hạnh phúc lâu dài nên kết hợp với các số 2, 4, hoặc 6.

Tuy bị chi phối, người số 2 vẫn thấy rất thích hợp với người số 1 và 8. Có thể gặp sự quý mến ở người số 3 và 5.

Kết hợp với người số 7 và 9 chỉ đem lại nhiều ưu phiền.

SỐ 3:

Số 3 liên hệ với sao Mộc Tinh (Jupiter). Các nhà bói toán Hy Lạp cho đó là một số hoàn toàn. Số 3 tương đương với Hoàng Hậu (The Empress) ở bài bói Tarot. Tổng Thống Mỹ Bejamin Franklin and Jonh Wayne đều thuộc loại người mang số 3.

Tính tình & nhân cách

Có nhiều khả năng thiên phú và ham thích học hỏi. Lạc quan, dễ say mê, tháo vát và thông minh. Thích sống tập đoàn, yêu đời và làm cho người chung quanh vui theo. Thường công nhận sự rủi ro và cho đó là tự nhiên, không thể tránh được.

Không than thân trách phận. Có tài ứng biến, thích hoạt động nhưng ít cương quyết, dễ bị người khác chi phối và cũng dễ gây ảnh hưởng sang người khác. Có khuynh hướng ích kỷ, thích sống theo lối sống riêng của mình, dễ dãi đối với bản thân.

Rất chú trọng tới đời sống vật chất và tiền bạc, do đó muốn thành công để thụ hưởng chứ không phải quyền hành. Thích thức ăn ngon, quần áo đẹp, xe hơi, nhà lầu.

Xã giao giỏi và đại chúng, thích quen biết, đi nơi này, nơi khác và tiêu khiển về ăn uống. Nói chuyện hay, dễ làm quen với hoàn cảnh mới, làm cho mọi việc thoải mái trừ phi giận dữ bất thường.

Thường có nhiều bạn bè nhưng ít thân vì ưa thích thay đổi và nhìn sự vật một cách dễ dãi. Vui tính, dễ kích thích và làm hứng khởi người khác.

Ít chán nản, bi quan, ít quấy rầy người chung quanh.

Công việc, năng khiếu & tiền bạc

Có óc sáng tạo và tưởng tượng rất mạnh, thêm với nhiều tham vọng, do đó dễ thành công. Nếu được xử dụng đúng khả năng và tìm cách phát triển sẽ đạt được kết quả thật cao xa và thật nhanh chóng.

Các nghề thích hợp thuộc địa hạt văn nghệ như viết văn, nhiếp ảnh, trang hoàng, hội họa, giải trí và các nghề cần tài xã giao. Ít kiên nhẫn với các nghề bác sĩ, luật sư, kế toán, kỹ sư.

Dễ chán nản với công việc cố định và đều đặn. Nếu làm công, thường xuất sắc, được các bạn đồng sự mến chuộng, có nhiều sáng kiến nhưng không kiên nhẫn. Nếu làm chủ thường tạo nên không khí vui vẻ, thích thú, sẵn sàng đón nhận ý kiến của mọi người và luôn luôn khuyến khích, tưởng thưởng nhân viên.

Dễ tiêu hoang phí cho mình, cho gia đình và cho người cộng tác. Không thích tiết kiệm mà thích sắm sửa. Rộng rãi về tiền bạc và quà bánh đối với mọi người.

Quan niệm kiếm ra tiền là để tiêu pha cho sướng. Tóm lại, đó là người kiếm tiền cũng dễ dàng và tiêu pha cũng dễ dàng.

Tiền bạc như chiêm bao, sáng vào tối ra là thường.

Tình duyên

Tình duyên sâu xa, vững bền sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng. Khi chưa kết hôn, thường là người đa tình, hào hoa và thích phiêu lưu tình cảm do đó có thể bị tai tiếng.

Không muốn làm đau khổ kẻ khác, nhưng vô tình lại coi thường tình yêu. Khi lập gia đình rồi, là người rất trung thành, thích cảnh ấm cúng, săn sóc, chiều chuộng gia đình hết mực. Tuy nhiên không vì thế mà rời bỏ các đam mê riêng tư.

SỐ 4:

Số 4 tương đương với The Emperor (Hoàng Đế) của bài Tarot, tiêu biểu cho uy quyền tối thượng, nhưng chỉ trong một đại hạn nào đó.

Tính tình & nhân cách

Làm việc nhiều, bền bỉ, tín cẩn, nhưng không phải là người sáng chế hay phát minh. Là cột trụ của kỹ nghệ và xã hội, tổ chức và kiến thiết giỏi.

Làm việc với suy nghĩ chín chắn, cẩn thận chính xác. Nhiều khi đi sâu vào cả chi tiết vì vậy mà bị lạc khỏi mục tiêu chính. Lương tâm trách nhiệm nếu được dùng đúng chỗ sẽ đem đến kết quả tốt, nếu dùng sai sẽ bị phí thì giờ và mất năng xuất rất nhiều.

Khuynh hướng bảo thủ, ưa chống đối các việc cải cách. Thường tìm hiểu do dự rất lâu rồi mới bắt tay vào việc. Tiền bạc rất quan trọng đối với họ vì lý do muốn đời sống được vững chắc hơn là hưởng lạc thú.

Vì phải làm việc nhiều nên dễ nghi ngờ những sự thành công dễ dàng và phải đổi chủ trương: “thích thú trước việc làm.”

Hành động chín chắn nhưng lại phản ứng nhanh với các hành động bất bình đẳng. Và thường là người đòi hỏi các tổ chức và lãnh đạo các cuộc chống đối có trật tự và áp bức bất công.

Thường trầm lặng, có điều độ, mực thước và ít biểu lộ. Ít có tính hài hước, không mấy tháo vát. Bản tính trung thành, tin cậy. Là những người bạn thật tốt và lâu dài.

Hướng nội hơn là hướng ngoại. Có khuynh hướng trả thù hơn là tha thứ. Kém tế nhị, kém ăn nói. Thật thà. Nghĩ sao nói vậy. Không có tính chỉ huy nhưng rất cứng đầu, khó mà lay chuyển được ý định của họ.

Công việc, năng khiếu & tiền bạc

Rất thích hợp cho các việc cần có sự tập trung và chú ý từng chi tiết.

Các nghề thích ứng: Kỹ sư, kiến trúc sư, thầu khoán, kế toán, thu ngân, quản thủ thư viện, hóa học, dược sĩ, toán học, luật gia hoặc thẩm phán xuất sắc.

Có thể thành công trong các việc khảo cứu khoa học. Phần lớn thiếu óc sáng kiến và tưởng tượng nên không thích hợp với các nghề thương mại, quảng cáo hoặc tuyên truyền.

Là nhân viên rất có tinh thần trách nhiệm, có thể hợp với các công việc buồn tẻ, đều đặn và không chán. Rất tin cẩn, thật thà và ham làm nên thường là nhân viên đắc lực.

Nếu làm chủ thì kém điệu nghệ vì thường hay đòi hỏi người làm cũng phải thích thú công việc như mình. Không biết tha thứ cả những lỗi nhỏ.

Cẩn thận về tiền bạc, biết để dành phòng khi mưa nắng trở trời. Mua bán rất chặt chẽ, không hoang phí. Thường mua đồ cũ hơn là đồ mới. Ít người thích cờ bạc hay đầu tư liều lĩnh. Họ chỉ dám làm các việc có kết quả chắc chắc và kiếm được đồng nào thì giữ chắc đồng đó.

Tình duyên

Không tương tư một cách dễ dàng. Rất cẩn thận, thực tế, tiến bước trên đường tình một cách chậm chạp và chắc chắn.

Rất hiếm người có tình yêu sét đánh, phần đông thường tìm hiểu lâu dài, từ một năm trở lên rồi mới quyết định, sau một năm nữa mới tới hôn nhân. Là một người lý tưởng cho những ai muốn kiếm một người tin cậy, làm việc nhiều và cương quyết.

Thường dè dặt, ít bị chi phối bởi tình cảm nên có hạnh phúc với những người cùng chung mục tiêu. Cần tình yêu nếu không rất dễ bị cô quạnh, khổ sở nhưng lại ít dám tỏ tình.

Rất thích hợp với các số 4, 7, và 9, là những người đồng quan niệm và rất nghiêm nghị. Kết hôn với 2 và 6 thường đem lại nhiều hạnh phúc nếu 2 bớt lãng mạn và 6 bớt lý tưởng. Có thể kết hợp với 1 và 8 nếu các số này bớt tính hợm hĩnh và óc chỉ huy.

Không thích hợp với 3 và 5 vì đó là dầu và lửa.

SỐ 5:

Số 5 tượng trưng với thần đại tư giáo La Mã (The Hierophant). Liên hệ với sao Mercury. Abraham Lincoln và Adolph Hitler thuộc loại người mang số 5.

Tính tình & nhân cách

Sáng trí, hành động mau lẹ. Đặc biệt hơn cả, họ rất quý trọng tự do cá nhân và luôn luôn vận dụng tinh thần, đã thúc đẩy họ không ngừng hoạt động. Phần đông, họ sẵn sàng hy sinh quyền hành, địa vị cho sự họat động và phiêu lưu. Khi xuống tinh thần, họ thường trở nên dễ tức giận, cáu kỉnh và buồn bã.

Thường làm việc một cách trì hoãn. Soạn thảo chương trình, kế hoạch và cuộc sống hàng ngày, không lo tới ngày mai, mặc cho dòng đời lôi cuốn, muốn ra sao thì ra. Có nhiều nghị lực và hứng khởi, và tuy thay đổi tính tình mau chóng, nhưng có sức chịu đựng. Rất ít có việc nào làm chán nản lâu dài.

Bản tính lạc quan giúp cho họ mau lấy lại tinh thần. Thích thay đổi mới lạ bất cứ một việc gì. Không bận tâm cho lắng về vấn đề tình yêu hay tiền tài. Họ tận hưởng những gì mà tiền bạc có thể mang đến, nhưng luôn luôn ham phiêu lưu hơn cả.

Người số 5 rất cương quyết và nhiều nghị lực, ý chí. Ít khi phải ngập ngừng, đắn đo trước một vấn đề nào. Thường cảm nghĩ cũng như hành động đều là tùy hứng. Rất nóng nảy, bộp chộp. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều duyên dáng niềm nở và vồn vã. Thích các buổi họp, thích cười đùa, ca hát và chuyện phiếm.

Dễ đem cái vui đến cho người chung quanh, làm người khác quên nỗi ưu phiền. Bị chi phối rất nhiều bởi tinh thần, có óc sáng kiến và thích đem ra áp dụng.

Thường được người quen biết mến chuộng, nhưng đối với người biết rõ họ hơn thì lại giảm bớt sự mến chuộng vì cái tính quá bất thường của họ. Nhất là khi tức giận thì không thể kìm chế được.

Công việc, năng khiếu & tiền bạc

Thường có bốn đặc tính đem lại thành công: Thông minh, tài ba, nghị lực, và cá nhân tính. Nhưng đối với họ, thành công không phải là đạt được quyền hành hay tiền bạc mà là tận hưởng đời sống luôn luôn có các cuộc gặp gỡ và chinh phục mới.

Không thích sự buồn tẻ với bất cứ giá nào. Vì vậy họ cần phải chọn nghề cẩn thận để khỏi phí phạm các đức tính sẵn có (mà còn phải khéo và không được an bằng). Nếu chọn lựa đúng nghề, họ có thể leo lên tột đỉnh. Chẳng hạn như: Viết báo, sáng tác, hội họa, nhiếp ảnh, luật gia, thể thao gia, phi công v.v…

Thích hợp được với các nghề: Quảng cáo, tuyên truyền hay cần giao tế. Muốn thành công, cần phải có sự hứng thú.

Rất bấp bênh về tiền bạc, có thể thành triệu phú hay trắng tay trong một đêm. Rất rộng rãi về tiền bạc, ít dành dụm. Nên để cho người khác quản trị họ trong vấn đề tiền bạc. Ít lo lắng về tương lai và những khi trở trời.

Tình duyên

Dễ quyến rũ người khác và luôn luôn là kẻ hấp dẫn đối với kẻ khác phái. Thường có bản chất về tình cảm và tình dục rất mạnh.

Hết sức lãng mạn. Yêu cuồng sống vội. Viết thư tình một cách say mê. Đi đến tính ước một cách bất tử. Kết hôn với họ, bạn có thể đi đến thiên đường hoặc đến địa ngục, ít khi là lưng chừng ở giữa.

Thích hợp với họ, phải là người cũng ưa tự do, bay nhảy, hoạt động tùy hứng, hoặc là người khác hẳn, không cần thay đổi gì đến đời sống của họ cả.

Người thích hợp hơn cả là người mang số 5. Hôn nhân có thể có rất nhiều sóng gió. Nhưng đối với họ, trật tự và bình yên không quan hệ lắm, chỉ cần có thích thú và tình dục thỏa mãn.

Có thể hạnh phúc với người mang số 2, 3, và 6 miễn là cũng dám phiêu lưu trong vấn đề tài chính.

Cũng thế và trung bình với 1 và 8 (chỉ cần bớt độc đoán và chỉ huy).

SỐ 6:

Số 6 tượng trưng cho sự hòa hợp thẩm mỹ, ổn định quân bình, nhịp nhàng, hy sinh. Số 6 có ý nghĩa quyến rũ, nhịp nhàng cân nhắc, chọn lọc và tự do.

Số 6 tương đương với thần Ái tình (The Lover) ở bài bói Tarot. Liên hệ với sao Venus.

Tính tình & nhân cách

Cứng cỏi, mạnh mẽ, tin cậy, cao thượng, tế nhị, và rung động sâu xa trước cái đẹp. Bản tính nhân ái và rất chú trọng tới hạnh phúc của kẻ khác.

Tuy có thể hoạt động tích cực ngoài đời nhưng trọng tâm đời sống là gia đình. Hy sinh cho gia đình đến dễ thành chiều chuộng quá mức. Rất có lương tâm và ưa sự chính xác, mẫu mực. Thường hay đảm đang luôn các việc của kẻ khác. Thường quá đi sâu vào chi tiếc cho nên hay bị lo lắng và không an tâm.

Tính điều hòa, mềm mỏng, nhẹ nhàng, nhu mì, trầm lặng và duyên dáng dễ tạo nên cảm tình với người chung quanh. Bởi tính yêu mến thiên nhiên, rất dễ kết bạn và giữ được tình bạn lâu dài.

Được mọi người yêu mến. Rất ít ghét ai trừ khi người nào đe dọa tới hạnh phúc của họ. Khi đó họ có thể thành một con hổ dữ. Thích những cái gì xinh xắn, đẹp đẽ. Nhà ở của họ thường phản ánh sự yêu mỹ thuật.

Thường thích hội họa, âm nhạc, điêu khắc. Là chủ nhà hoặc chiêu đãi viên rất được cảm mến. Thích giải trí, xã giao, hội họp, tiệc tùng và tổ chức rất khéo léo.

Thường khuynh hướng về lý tưởng, nặng về tình cảm. Không ích kỷ, sẵn sàng giúp đỡ bạn bè, không cần phải đợi nhờ vả. Nếu đặt sự rộng l

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro